TẠNG LUẬT
LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH
SỐ 1452 - CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ NI ĐÀ NA-MỤC ĐẮC CA
Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Nghĩa Tịnh đời Đường-TQ
Việt dịch: Ban phiên dịch chùa Pháp Bảo, HT Thích Tịnh Hạnh giám tu-năm 2005
Hiệu đính và nhuận văn: NS Thích nữ Như Lộc tại chùa Phổ Minh-năm 2010
A. TỔNG NHIẾP TỤNG ĐẠI MÔN NI ĐÀ LA:
I. TỔNG NHIẾP TỤNG CỦA BIỆT MÔN THỨ NHẤT:
1. Nhiếp tụng thứ nhất trong Biệt môn thứ nhất:
2. Nhiếp tụng thứ hai trong Biệt môn thứ nhất:
3. Nhiếp tụng thứ ba trong Biệt môn thứ nhất:
4. Nhiếp tụng thứ tư trong Biệt môn thứ nhất:
5. Nhiếp tụng thứ năm trong Biệt môn thứ nhất:
6. Nhiếp tụng thứ sáu trong Biệt môn thứ nhất:
7. Nhiếp tụng thứ bảy trong Biệt môn thứ nhất:
8. Nhiếp tụng thứ tám trong Biệt môn thứ nhất:
9. Nhiếp tụng thứ chín trong Biệt môn thứ nhất:
10. Nhiếp tụng thứ mười trong Biệt môn thứ nhất:
II. TỔNG NHIẾP TỤNG CỦA BIỆT MÔN THỨ HAI:
1. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ hai:
2. Nhiếp tụng thứ hai trong Biệt môn thứ hai:
3. Nhiếp tụng thứ ba trong Biệt môn thứ hai:
4. Nhiếp tụng thứ tư trong Biệt môn thứ hai:
5. Nhiếp tụng thứ năm trong Biệt môn thứ hai:
6. Nhiếp tụng thứ sáu trong Biệt môn thứ hai:
7. Nhiếp tụng thứ bảy trong Biệt môn thứ hai:
8. Nhiếp tụng thứ tám trong Biệt môn thứ hai:
9. Nhiếp tụng thứ chín trong Biệt môn thứ hai:
10. Nhiếp tụng thứ mười trong Biệt môn thứ hai:
III. TỔNG NHIẾP CỦA BIỆT MÔN THỨ BA:
1. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ ba:
2. Nhiếp tụng thứ hai trong Biệt môn thứ ba:
3. Nhiếp tụng thứ ba trong Biệt môn thứ ba:
4. Nhiếp tụng thứ tư trong Biệt môn thứ ba:
5. Nhiếp tụng thứ năm trong Biệt môn thứ ba:
6. Nhiếp tụng thứ sáu trong Biệt môn thứ ba:
7. Nhiếp tụng thứ bảy trong Biệt môn thứ ba:
8. Nhiếp tụng thứ tám trong Biệt môn thứ ba:
9. Nhiếp tụng thứ chín trong Biệt môn thứ ba:
10. Nhiếp tụng thứ mười trong Biệt môn thứ ba:
IV. TỔNG NHIẾP TỤNG CỦA BIỆT MÔN THỨ TƯ:
1. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ tư:
2. Nhiếp tụng thứ hai trong Biệt môn thứ tư:
3. Nhiếp tụng thứ ba trong Biệt môn thứ tư:
4. Nhiếp tụng thứ tư trong Biệt môn thứ tư:
5. Nhiếp tụng thứ năm trong Biệt môn thứ tư:
6. Nhiếp tụng thứ sáu trong Biệt môn thứ tư:
7. Nhiếp tụng thứ bảy trong Biệt môn thứ tư:
8. Nhiếp tụng thứ tám trong Biệt môn thứ tư:
9. Nhiếp tụng thứ chín trong Biệt môn thứ tư:
10. Nhiếp tụng thứ mười trong Biệt môn thứ tư:
V. TỔNG NHIẾP TỤNG CỦA BIỆT MÔN THỨ NĂM:
1. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ năm:
2. Nhiếp tụng thứ hai trong Biệt môn thứ năm:
3. Nhiếp tụng thứ ba trong Biệt môn thứ năm:
4. Nhiếp tụng thứ tư trong Biệt môn thứ năm:
5. Nhiếp tụng thứ năm trong Biệt môn thứ năm:
6. Nhiếp tụng thứ sáu trong Biệt môn thứ năm:
B. TỔNG NHIẾP TỤNG ĐẠI MÔN MỤC ĐẮC CA:
I. TỔNG NHIẾP TỤNG CỦA BIỆT MÔN THỨ NHẤT:
1. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ nhất:
2. Nhiếp tụng thứ hai trong Biệt môn thứ nhất:
3. Nhiếp tụng thứ ba trong Biệt môn thứ nhất:
4. Nhiếp tụng thứ tư trong Biệt môn thứ nhất:
5. Nhiếp tụng thứ năm trong Biệt môn thứ nhất:
6. Nhiếp tụng thứ sáu trong Biệt môn thứ nhất:
7. Nhiếp tụng thứ bảy trong Biệt môn thứ nhất:
8. Nhiếp tụng thứ tám trong Biệt môn thứ nhất:
9. Nhiếp tụng thứ chín trong Biệt môn thứ nhất:
10. Nhiếp tụng thứ mười trong Biệt môn thứ nhất:
II. TỔNG NHIẾP TỤNG CỦA BIỆT MÔN THỨ HAI:
1. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ hai:
2. Nhiếp tụng thứ hai trong Biệt môn thứ hai:
3. Nhiếp tụng thứ ba trong Biệt môn thứ hai:
4. Nhiếp tụng thứ tư trong Biệt môn thứ hai:
4. Nhiếp tụng thứ tư-Thất lợi cấp đa (tiếp theo):
5. Nhiếp tụng thứ năm trong Biệt môn thứ hai:
6. Nhiếp tụng thứ sáu trong Biệt môn thứ hai:
7. Nhiếp tụng thứ bảy trong Biệt môn thứ hai:
8. Nhiếp tụng thứ tám trong Biệt môn thứ hai:
9. Nhiếp tụng thứ chín trong Biệt môn thứ hai:
10. Nhiếp tụng thứ mười trong Biệt môn thứ hai:
III. TỔNG NHIẾP TỤNG CỦA BIỆT MÔN THỨ BA:
1. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ ba:
2. Nhiếp tụng thứ hai trong Biệt môn thứ ba:
3. Nhiếp tụng thứ ba trong Biệt môn thứ ba:
4. Nhiếp tụng thứ tư trong Biệt môn thứ ba:
5. Nhiếp tụng thứ năm trong Biệt môn thứ ba:
6. Nhiếp tụng thứ sáu trong Biệt môn thứ ba:
7. Nhiếp tụng thứ bảy trong Biệt môn thứ ba:
8. Nhiếp tụng thứ tám trong Biệt môn thứ ba:
9. Nhiếp tụng thứ chín trong Biệt môn thứ ba:
10. Nhiếp tụng thứ mười trong Biệt môn thứ ba:
IV. TỔNG NHIẾP TỤNG CỦA BIỆT MÔN THỨ TƯ:
1. Nhiếp tụng thứ nhất trong Biệt môn thứ tư:
1. Nhiếp tụng thứ nhất trong Biệt môn thứ tư (tiếp theo):
2. Nhiếp tụng thứ hai trong Biệt môn thứ tư:
3. Nhiếp tụng thứ ba trong Biệt môn thứ tư:
4. Nhiếp tụng thứ tư trong Biệt môn thứ tư:
5. Nhiếp tụng thứ năm trong Biệt môn thư tư:
6. Nhiếp tụng thứ sáu trong Biệt môn thứ tư:
7. Nhiếp tụng thứ bảy trong Biệt môn thứ tư:
8. Nhiếp tụng thứ tám trong Biệt môn thứ tư:
9. Nhiếp tụng thứ chín trong Biệt môn thứ tư:
10. Nhiếp tụng thứ mười trong Biệt môn thứ tư:
Ban đầu thọ Cận viên,
Kế chia vật người chết,
Sàn tròn và khóa cửa,
Năm môn tượng Bồ-tát.
Cận viên biết số ngày,
Giới khác, không nhập, địa,
Giới, năm chúng an cư,
Không cắt, da, thịt sống.
Cận viên tướng nam nữ,
Thầy không phải cận viên,
Các nạn, mười, không thầy,
Không truyền giới, bảy tuổi.
Bạc-già-phạm ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng Thệ đa, thành Thất-la-phiệt, lúc đó cụ thọ Ưu-baly đến chỗ Phật đảnh lễ rồi ngồi một bên chắp tay bạch Phật: "Thế tôn, nếu Bí-sô cho người thọ Cận viên, người ấy lại chuyển căn thì có được gọi là thiện thọ không?", Phật nói: "người này thọ Cận viên nhưng nên chuyển đưa họ qua ở chỗ Bí-sô ni", lại hỏi: "nếu Bí-sô đã cho người nam thọ Cận viên, người nam này lại nói tiếng như người nữ, ý muốn như người nữ, hình dáng và pháp thức đều như người nữ thì người này có được gọi là thọ Cận viên không?", Phật nói: "người này thọ Cận viên nhưng các Bí-sô phạm tội Việt pháp", lại hỏi: "nếu Bí-sô ni đã cho người nữ thọ Cận viên, người nữ này lại nói tiếng như người nam, ý muốn như người nam, hình dáng và pháp thức đều như người nam thì người này có được gọi là thọ Cận viên không?", Phật nói: "người này thọ Cận viên nhưng các Bí-sô ni phạm tội Việt pháp", lại hỏi: "nếu người cầu người không thọ Cận viên làm Thân giáo sư thì người này có được gọi là thọ Cận viên không?", Phật nói: "người này thọ Cận viên nhưng các Bí-sô phạm tội Việt pháp", lại hỏi: "nếu người có nạn sự, tự nói là có nạn sự, các Bí-sô lại cho họ thọ Cận viên thì người này có được gọi là thọ Cận viên không?", Phật nói: "người này không được gọi là thọ Cận viên và các Bí-sô phạm tội Việt pháp", lại hỏi: "nếu người không có nạn sự, tự nói là có nạn sự, các Bí-sô lại cho họ thọ Cận viên thì người này có được gọi là thọ Cận viên không?", Phật nói: "người này thọ Cận viên nhưng các Bí-sô phạm tội Việt pháp", lại hỏi: "nếu người thật có nạn sự, tự nói là không có nạn sự, các Bí-sô lại cho họ thọ Cận viên thì người này có được gọi là thọ Cận viên không?", Phật nói: "người này không gọi là thọ Cận viên nhưng các Bí-sô không phạm", lại hỏi: "nếu người thật không có nạn sự, tự nói là không có nạn sự, các Bí-sô lại cho họ thọ Cận viên thì người này có được gọi là thọ Cận viên không?", Phật nói: "người này gọi là thiện thọ Cận viên", lại hỏi: "Bí-sô cho người xuất gia, chưa cho thọ mười giới liền cho thọ Cận viên thì người này có được gọi là thọ Cận viên không?", Phật nói: "người này thọ Cận viên nhưng các Bí-sô phạm tội Việt pháp", lại hỏi: "nếu người khi thọ Cận viên mà Thân giáo sư không hiện tiền, các Bí-sô lại cho thọ Cận viên thì người này có được gọi là thọ Cận viên không?", Phật nói: "người này thọ Cận viên nhưng các Bí-sô phạm tội Việt pháp", lại hỏi: "nếu người khi thọ Cận viên tự nói rằng: "đừng truyền Cận viên cho tôi", các Bí-sô vẫn cho họ thọ Cận viên thì người này có được gọi là thọ Cận viên không?", Phật nói: "người này không gọi là thọ Cận viên và các Bí-sô phạm tội Việt pháp", lại hỏi: "như Phật đã chế đồng tử đủ bảy tuổi có thể đuổi được chim quạ thì nên cho xuất gia. Nếu đồng tử sáu tuổi có thể đuổi được chim quạ thì có nên cho xuất gia không?", Phật nói: "chỉ nên cho đồng tử bảy tuổi xuất gia, nhỏ hơn không được", lại hỏi: "nếu đủ bảy tuổi nhưng không đuổi được chim quạ thì có nên cho xuất gia không?", Phật nói: "nếu không đuổi được chim quạ thì không nên cho xuất gia".
Cần phải biết số ngày,
Cáo bạch, đêm nên giảm,
Sáu ngày, mười tám ngày,
Thuyết giới, không tính luôn.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có Bà-lamôn cư sĩ gặp Bí-sô hỏi hôm nay là ngày mấy, đáp là không biết, họ nói: "các ngoại đạo đều biết lịch số và thiên văn, các thầy cũng nên biết, vì sao các thầy không biết mà lại được xuất gia?", Bí-sô im lặng, bạch Phật, Phật nói: "từ nay các Bí-sô nên biết số ngày", các Bí-sô đều học pháp tính số ngày nên bỏ phế việc tu thiện nghiệp, Phật nói: "nên cử một người học pháp tính số ngày", các Bí-sô không biết nên cử ai, Phật nói: "nên cử Thượng tòa thủ chúng". Lúc đó có Thượng tòa quên mất số ngày, hỏi vị tri sự, vị này cũng không nhớ, Phật nói: "nên làm mười lăm viên đất tròn hay thẻ tre, mỗi ngày dời một viên", khi làm như vậy bị gió thổi làm loạn hết thứ tự, Phật nói: "nên làm mười lăm thẻ tre, dài khoảng bốn hay năm ngón tay, một đầu dùi lỗ rồi xỏ xâu treo lên vách, nơi mọi người thường qua lại, mỗi ngày dời một cái", lúc đó cả chúng đều dời thẻ, Phật nói: "chỉ có Thượng tòa và tri sự mới được dời thẻ". Lại có Bà-la-môn cư sĩ gặp Bí-sô hỏi hôm nay là ngày mấy, đáp: "các vị nên hỏi Thượng tòa và vị tri sự", họ nói: "các thầy cũng có thể tính biết, sao lại chỉ người khác?", Bí-sô im lặng, bạch Phật, Phật nói: "nên tác bạch cho đại chúng biết", các Bí-sô gặp nhau ở đâu cũng cáo bạch, Phật nói: "không nên như vậy, nên vào lúc đại chúng nhóm họp ở trước Thượng tòa cáo bạch: "đại chúng nên biết, hôm nay là ngày __________ tháng __________ “, có cư sĩ nghe rồi liền hỏi: "các thầy không có nói nửa tháng thuộc Hắc hay Bạch nguyệt sao?", đáp là không có nói, Phật nói: "nên nói phần tháng thuộc Hắc hay Bạch nguyệt, nên vào lúc đại chúng nhóm họp, một Bí-sô ở trước Thượng tòa chắp tay bạch rằng: "Đại đức tăng lắng nghe, hôm nay ngày mồng một thuộc Hắc nguyệt, các thầy nên vì thí chủ tạo chùa và chư thiên hộ chùa cùng thiên thần cựu trụ tụng diệu kệ thanh tịnh trong kinh". Các Bí-sô tuy ngày nào cũng cáo bạch như vậy nhưng không nói tên thí chủ tạo chùa, Phật nói: "nên nói tên thí chủ tạo chùa, cũng nên nói tên thí chủ thiết thực cúng dường cho họ được mãn nguyện và phước thiện càng tăng; nếu có thí chủ khác cũng nói như vậy, cũng nên nói tên của Thiên chúng bát bộ, sư tăng và cha mẹ cho đến khắp tất cả chúng sanh, cho họ được tăng trưởng phước lợi", các Bí-sô vâng lời Phật dạy đều nói kệ thanh tịnh bố thí:
"Người đã làm bố thí,
Chắc chắn được nghĩa lợi.
Nếu vì vui nên thí,
Sau sẽ được an lạc,
Phước báo của Bồ-tát,
Vô tận như hư không,
Thí được quả như vậy,
Tăng trưởng không thôi dứt".
Lại có thí chủ thỉnh các Bí-sô thọ thực, tuy biết nhưng các Bí-sô không nói tên và chỗ ở của thí chủ cho đại chúng biết, Phật nói: "nên báo trước cho đại chúng biết, nên nói: ngày mai có thí chủ tên __________ thỉnh đại chúng đến nhà tại __________ thọ thực". Lại có Bà-la-môn cư sĩ gặp Bí-sô hỏi hôm nay là ngày mấy, đáp là ngày thứ mười lăm, họ nói: "mọi người đều nói hôm nay là ngày thứ mười bốn, các thầy lại nói là ngày thứ mười lăm, không lẽ các thầy không biết tính giảm đêm hay sao?", đáp là không tính, Phật nói nên tính giảm đêm. Các Bí-sô vào nửa tháng nào cũng tính giảm đêm, có Bà-la-môn cư sĩ gặp Bí-sô hỏi hôm nay là ngày mấy, đáp là ngày thứ mười bốn, họ nói: "mọi người đều nói hôm nay là ngày thứ mười lăm, không lẽ nửa tháng nào các thầy cũng tính giảm đêm hay sao?", bạch Phật, Phật nói: "không nên như vậy, nên tính vào thời nào qua nửa tháng mới giảm đêm, trong một năm có tổng cộng sáu ngày là ngày thứ mười bốn (tháng thiếu) và sáu ngày là ngày thứ mười lăm (tháng đủ). Lại có Bà-la-môn cư sĩ gặp Bí-sô hỏi hôm nay là tháng mấy, đáp là tháng Thất la mạt noa (tức là khoảng 16 tháng 5 đến 15 tháng 6), họ nói: "mọi người đều nói là tháng A sa trà (khoảng 16 tháng 4 đến 15 tháng 5), các thầy lại nói là tháng Thất la mạt noa, không lẽ các thầy không tính tháng nhuần hay sao?", đáp là không tính, mọi người đều cười chê, bạch Phật, Phật nói nên tính tháng nhuần. Các Bí-sô năm nào cũng tính thêm tháng nhuần, có Bà-lamôn cư sĩ gặp Bí-sô hỏi hôm nay là tháng mấy, đáp là tháng A sa trà, họ nói: "mọi người đều nói là tháng Thất la mạt noa, các thầy lại nói là tháng A sa trà, không lẽ năm nào các thầy cũng tính thêm tháng nhuần hay sao?", đáp là phải, mọi người đều cười chê, Phật nói: "không nên như vậy, phải cách sáu năm mới có một tháng nhuần". Lúc đó có vua quy định cách hai năm rưỡi có một tháng nhuần, các Bí-sô không tính theo vua nên bị cười chê, Phật nói: "nên theo vương pháp mà tính tháng nhuần, nếu quỹ đạo hành tinh có sai khác thì nên theo quỹ đạo đó mà tính tháng nhuần cho đồng với thế tục. Vì vậy các thầy nên biết lịch số thiên văn, chớ để cho ngoại đạo được dịp tìm lỗi của các thầy".
Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật: "Thế tôn, Bí-sô tại trú xứ là người thọ học (Học hối Sa di) có được thuyết giới không?", Phật nói không được.
Giới khác không nói tịnh,
Cũng không làm yết ma,
Trên không không thọ dục,
Giải cũ mới kết mới.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật.
Hỏi: người ở trong giới có được nói thanh tịnh với người ở ngoài giới không?, Phật nói không được.
Lại hỏi: người ở ngoài giới có được nói thanh tịnh với người ở trong giới không?, Phật nói không được.
Lại hỏi: người ở trong giới có được tác pháp yết ma cho người ở ngoài giới không?, Phật nói không được.
Lại hỏi: người ở ngoài giới có được tác pháp yết ma cho người ở trong giới không?, Phật nói không được.
Lại hỏi: người thọ dục rồi đi trên hư không, có thành thọ dục hay không?
Phật đáp: không thành, nên lấy dục lại. Lại hỏi: nếu chưa giải giới cũ, có được kết giới mới không?
Phật đáp: không được, nên bạch nhị yết ma giải giới cũ rồi mới kết lại giới mới.
Không nhập giới, xả giới, Giới cây, có Thế tôn, Không vượt, có thể vượt, Vị yết ma qua đời.
Tôn giả Ưu-ba-ly lại hỏi: có được lấy giới này nhập chung với giới khác hay không?, Phật nói không được.
Lại hỏi: có mấy loại giới không được nhập chung với nhau? Phật đáp: có bốn đó là tiểu giới tràng và chỗ nước đọng, giới của Bí-sô và giới của Bí-sô ni. Bốn loại giới này không được nhập chung với nhau. Lại hỏi: chỗ đã kết giới từ trước có mấy trường hợp xả? Phật đáp: có năm trường hợp: một là đại chúng đều hoàn tục, hai là đại chúng đồng thời chuyển căn, ba là đại chúng quyết tâm bỏ đi, bốn là đại chúng đồng thời qua đời và năm là tác pháp yết ma giải giới.
Lại hỏi: có được lấy một cây là tiêu tướng cho hai giới không?
Phật đáp: ở một góc của hai giới, cho đến ba bốn giới có thể lấy cây làm tiêu tướng, nếu lượng biết giới hạn thì được thành tựu.
Phật từ nước ca thi du hành trong nhân gian đến một trú xứ, Phật bỗng mỉm cười, từ trong miệng phóng ra hào quang năm sắc xanh vàng đỏ trắng hồng, chiếu xuống hay chiếu lên. Nếu chiếu xuống thì chiếu đến ngục Vô gián và các ngục khác khiến cho chúng sanh trong đây đang bị đốt nóng liền được mát mẻ, đang bị lạnh cóng liền được ấm áp. Họ cảm thấy an lạc liền suy nghĩ: "ta và mọi người từ cảnh khổ địa ngục chết đi, được sanh vào cõi khác chăng?". Thế Tôn sau khi làm cho các hữu tình kia sanh tín tâm liền hiện nhiều tướng khác nữa, thấy những tướng này họ liền suy nghĩ: "chúng ta không phải chết ở đây sanh về cõi kia, mà là do sức oai thần của Đại thánh đã khiến thân tâm chúng ta hiện được an lạc". Đã sanh tín kính thì có thể diệt các khổ, ở cõi nhơn thiên được thọ thân thắng diệu, thành chơn pháp khí thấy được lý chơn đế. Nếu hào quang chiếu lên thì đến cõi trời Sắc cứu cánh, trong hào quang diễn nói các pháp khổ, không, vô thường, vô ngã... và nói kệ:
"Người phải nghe Phật dạy
Dốc cầu đạo xuất ly
Phá được quân sanh tử
Như voi phá nhà tranh.
Ở trong pháp luật Phật
Dũng tiến thường tu học
Xa lìa đường sanh tử
Bờ mé khổ không còn".
Hào quang này sau khi chiếu khắp ba ngàn Đại thiên thế giới liền trở về chỗ Phật, nếu Thế Tôn nói việc quá khứ thì hào quang trở vào phía sau lưng, nếu nói việc vị lai thì hào quang trở vào phía trước ngực, nếu nói việc địa ngục thì hào quang trở vào phía dưới chân, nếu nói việc bàng sanh thì hào quang trở vào phía gót chân, nếu nói việc ngạ quỷ thì hào quang trở vào phía ngón chân, nếu nói việc loài người thì hào quang trở vào đầu gối, nếu việc của Lực luân vương thì hào quang trở vào lòng bàn tay trái, nếu nói việc của Chuyển luân vương thì hào quang trở vào lòng bàn tay phải, nếu nói việc cõi trời thì hào quang trở vào rốn, nếu nói việc của Thanh văn thì hào quang trở vào miệng, nếu nói việc của Độc giác thì hào quang trở vào phía giữa hai chân mày, nếu nói việc của đạo quả Chánh đẳng chánh giác thì hào quang trở vào phía trên đảnh đầu. Lúc đó hào quang xoay quanh Phật ba vòng rồi trở vào trên đảnh đầu, cụ thọ A-nan Đà bạch Phật: "Thế Tôn Như Lai Ứng chánh đẳng giác vui vẻ mỉm cười chẳng phải là không có nhơn duyên", liền nói kệ thỉnh Phật:
"Từ miệng Phật phóng hào quang vi diệu,
Chiếu khắp Đại thiên không phải một tướng,
Chiếu khắp cả 10 phương các quốc độ,
Như mặt trời chiếu sáng khắp hư không.
Phật là nhân tối thắng của chúng sanh,
Có thể trừ kiêu mạn và lo buồn.
Không nhân duyên, kim khẩu không mở lời,
Miệng mỉm cười ắt nói việc kỳ lạ.
Con lặng lẽ quan sát đấng Mâu Ni,
Ai muốn nghe, Phật nói cho nghe,
Như sư tử vương rống tiếng vi diệu,
Cúi xin Phật quyết nghi cho chúng con,
Phật như Diệu sơn vương trong biển cả,
Nếu không nhân duyên, Phật không dao động,
Tự tại từ bi, miệng Phật hiện mỉm cười,
Nói nhân duyên cho người đang khao khát".
Thế Tôn bảo A-nan Đà: "Đúng vậy A-nan Đà, không phải không có nhân duyên mà Như Lai Ứng chánh đẳng giác miệng hiện mỉm cười. Này A-nan, chỗ đất này là nơi mà Phật Ca-diếp-ba quá khứ đã thuyết pháp cho các đệ tử Thanh văn", A-nan nghe rồi liền lấy y Uất Đa-la tăng xếp làm tư rồi thỉnh Phật ngồi lên, bạch rằng: "Thế tôn, con mong chỗ đất này là chỗ thọ dụng của hai bậc Chánh giác, đó là Phật Ca-diếp-ba và Thế tôn hiện nay", Phật ngồi xuống rồi nói: "lành thay, ta không nói nhưng thầy lại biết thời. Này A-nan, chỗ này là chùa của Phật Ca-diếp-ba ở, chỗ kia là nơi kinh hành, chỗ kia là nơi rửa chân, chỗ kia là nhà tắm, chỗ kia là tịnh trù".
Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật: như Phật đã nói về tịnh và bất tịnh, như thế nào gọi là tịnh và bất tịnh? Phật đáp: chánh pháp trụ thế có tịnh và bất tịnh, nếu chánh pháp hoại diệt thì đều là bất tịnh.
Lại hỏi: như thế nào gọi là chánh pháp trụ thế, như thế nào là hoại diệt?
Phật đáp: cho đến khi nào còn có tác pháp yết ma, như thuyết hành trì thì gọi là chánh pháp trụ thế; ngược lại nếu không còn tác pháp yết ma, không như thuyết hành trì thì gọi là hoại diệt.
Lại hỏi: nếu bậc Vô thượng đại sư ở ngoài giới thì các Bí-sô có được tác pháp yết ma không? Phật nói không được.
Lại hỏi: nếu Đại sư ở trong giới thì các Bí-sô có được tác pháp yết ma không?, Phật nói được. Lại hỏi: có được kể Thế tôn vào túc số Tăng hay không?
Phật đáp: không được vì Phật bảo và Tăng bảo, thể vốn sai khác. Lại hỏi: nơi giới không thể vượt qua, có được vượt qua không?, Phật nói không được.
Lại hỏi: có mấy loại giới không thể vượt qua?
Phật đáp: có năm loại giới, đó là giới Bí-sô, giới Bí-sô ni, tiểu đàn tràng, chỗ nước đọng và khoảng giữa hai giới.
Lại hỏi: nếu hào sâu, sông khe suối là giới không thể vượt qua thì có được vượt qua không? Phật đáp: nếu thường có cầu thì vượt qua không lỗi.
Lại hỏi: nếu cầu hư thì trong bao lâu giới không bị mất?
Phật đáp: chừng bảy đêm, đây là dựa trên có tâm tu sửa cầu, nếu không có tâm tu sửa thì tùy cầu hư lúc nào, giới bị mất lúc đó.
Lại hỏi: nếu khi đang kết giới, vị tác pháp yết ma bỗng qua đời thì có thành kết giới không?
Phật đáp: nếu các Bí-sô biết tiêu tướng, vị tác pháp yết ma đã bỉnh bạch hơn phân nửa thì tuy qua đời vẫn thành kết kết giới. Ngược lại nếu chưa biết tiêu tướng, vị tác pháp yết ma chưa được phân nửa mà qua đời thì không thành kết giới. Trường hợp Bí-sô ni kết giới cũng giống như vậy.
Đất, tường... tác yết ma,
Kết giới không gởi dục,
Chỉ ngồi ở một chỗ,
Được làm bốn yết ma.
Lại hỏi: người trên đất cùng người trên đất tác pháp yết ma từ xa thì có thành tựu yết ma không?
Phật nói: không thành, nếu gởi dục thì thành.
Lại hỏi: người trên đất cùng người trên đầu tường tác pháp yết ma thì có thành tựu yết ma không? Phật nói: không thành.
Lại hỏi: người trên đất cùng người trên cây tác pháp yết ma thì có thành tựu yết ma không?
Phật nói: không thành.
Lại hỏi: người trên đất cùng người trên không tác pháp yết ma thì có thành tựu yết ma không?
Phật nói: không thành, nên biết nêu ba trường hợp trên cây, trên tường và trên không trước để nói thì cũng có bốn câu như trên.
Lại hỏi: như Thế tôn nói có 101 pháp yết ma, vậy có bao nhiêu pháp cho gởi dục, mấy pháp không cho gởi dục?
Phật đáp: chỉ trừ pháp kết giới, tất cả pháp khác đều cho gởi dục.
Lại hỏi: nếu dùng thần biến hay huyễn thuật tạo ra tiêu tướng thì có thành tiêu tướng không? Phật đáp: không được, vì thần lực hay huyễn thuật đều là không thật.
Lại hỏi: nếu lấy mặt trời, mặt trăng làm tiêu tướng thì có thành tiêu tướng không?
Phật đáp: không được, vì mặt trời mặt trăng không cố định một chỗ.
Lại hỏi: nếu lấy sóng nước làm tiêu tướng thì có thành tiêu tướng không?
Phật đáp: không được, vì sóng nước luôn dời đổi.
Lại hỏi: người thọ dục thanh tịnh của người khác rồi đi trên hư không, có thành thọ dục thanh tịnh không?
Phật đáp: không thành, nên lấy dục thanh tịnh lại.
Lại hỏi: có trường hợp một Bí-sô tác pháp yết ma tại bốn trú xứ mà đều được thành tựu không?
Phật đáp: được, nếu mỗi giới đều có đủ bốn người và việc hiện tiền, tức là ở mỗi giới có ba người ngồi, người thứ tư tác pháp yết ma ngồi trên giường, phản hay chiếu trải đè trên ranh giới của bốn giới thì tác pháp được thành tựu. Có thể được làm bảy yết ma là yết ma Khu tẫn, yết ma Linh bố, yết ma Chiết phục, yết ma cầu tạ, yết ma không thấy tội, yết ma không như pháp sám hối tội và yết ma không xả ác tà kiến.
Đại giới hai trạm rưỡi,
Dưới nước và trên núi,
Dị kiến, mặt trời mọc,
Năm chúng thọ bảy ngày.
Lại hỏi: như Phật dạy nên kết đại giới, vậy phạm vi đại giới là chừng bao nhiêu?
Phật đáp: phạm vi đại giới khoảng chừng hai Du thiện na rưỡi (một Du thiện na là chừng 30 dặm, tức là một dịch trạm).
Lại hỏi: nếu phạm vi lớn hơn hai Du thiện na rưỡi thì có gọi là đại giới không?
Phật đáp: không gọi là đại giới.
Lại hỏi: phạm vi ít hơn bao nhiêu thì được gọi là đại giới? Phạm vi đến chỗ có nước được gọi là đại giới.
Lại hỏi: phạm vi ngoài hai Du thiện na rưỡi mới đến chỗ có nước, chỗ dư có được gọi là phần của đại giới không?
Phật đáp: không gọi là phần của đại giới. Lại hỏi: lên cao chừng bao nhiêu là đại giới?
Phật đáp: lên cao bằng ngọn cây hay đầu tường được gọi là đại giới.
Lại hỏi: nếu ngoài hai Du thiện na rưỡi mới đến ngọn cây hay đầu tường thì chỗ dư có được gọi là phần của đại giới không?
Phật đáp: không gọi là phần của đại giới. Lại hỏi: ở trên núi chừng bao nhiêu là phạm vi của đại giới? Phật đáp: phạm vi đến chỗ có nước.
Lại hỏi: nếu ngoài hai Du thiện na rưỡi mới đến chỗ có nước thì chỗ dư có được gọi là phần của đại giới không?
Phật đáp: không được gọi là phần của đại giới.
Lại hỏi: nếu trong hạ an cư Tăng bị phá, có Bí- sô từ thân hữu như pháp đến với thân hữu phi pháp thì vị ấy được gọi là phá hạ hay không phá hạ?
Phật đáp: nếu Bí-sô ấy ưa thích dị kiến nên đến với thân hữu phi pháp, qua hôm sau khi mặt trời mọc liền thành phá hạ. Ngược lại nếu không ưa thích dị kiến tuy đến chỗ thân hữu xấu ác, cho đến qua hôm sau mặt trời mọc vẫn không gọi là phá hạ.
Lại hỏi: như Phật đã dạy trong hạ an cư có duyên sự phải ra ngoài thì nên thọ pháp bảy ngày, vậy ai được thọ?
Phật đáp: năm chúng nên thọ, đó là Bí-sô, Bí-sô ni, Chánh học nữa, Cầu tịch và Cầu tịch nữ.
Lại hỏi: nên thọ pháp này ở đâu?
Phật đáp: nên thọ pháp này ở trong giới, đối trước một Bí-sô chắp tay bạch rằng: "cụ thọ nhớ nghĩ, tôi Bí-sô __________ ở tại trú xứ này tiền an cư ba tháng, nay vì việc Tăng xin thọ pháp bảy ngày xuất giới, nếu không có nạn duyên sẽ trở về lại trong trú xứ này an cư" (ba lần). Nếu có duyên sự phải đi trong sáu ngày cho đến một ngày đều dựa theo pháp thọ bảy ngày mà tác pháp thọ.
Năm chúng thọ an cư,
Thân tộc... thỉnh được đi,
Nơi kinh có nghi vấn,
Người cầu hiểu được đi.
Lại hỏi: như Phật đã dạy nên hạ an cư, vậy những ai nên an cư?
Phật đáp: năm chúng nên hạ an cư, đó là Bí-sô, Bí-sô ni, Chánh học nữ, Cầu tịch và Cầu tịch nữ. Nên đối trước một Bí-sô bạch rằng: "cụ thọ nhớ nghĩ, hôm nay là ngày 16 tháng 5, Tăng già tác pháp tiền hạ an cư. Tôi Bí-sô tên __________ cũng vào ngày 16 tháng 5 tiền hạ an cư trong đại giới của trú xứ này, __________ là thí chủ, __________ là người doanh sự, __________ là người khán bịnh. Nếu trú xứ này có hư dột, tôi sẽ tu sửa lại". (ba lần) Hậu an cư cũng theo pháp tiền an cư mà làm, Bí-sô ni đối trước Bí-sô ni tác pháp an cư cũng giống như Bí-sô, Cầu tịch nên đối trước Bí-sô tác pháp an cư, Chánh học nữa và Cầu tịch nữ nên đối trước Bí-sô ni tác pháp an cư. Lại hỏi: như Phật đã dạy trong hạ an cư nếu Bí-sô có duyên sự do Ô-ba-sách-ca thỉnh thì nên thọ pháp xuất giới bảy ngày. Nếu có duyên sự do ngoại đạo hay thân tộc thỉnh thì có được thọ pháp xuất giới không?, Phật nói được.
Lại hỏi: nếu trong ba tạng có nghi muốn thỉnh hỏi thì có được thọ pháp xuất giới không?, Phật nói được.
Lại hỏi: nếu Bí-sô chưa hiểu cầu hiểu, chưa đắc cầu đắc, chưa chứng cầu chứng hoặc có nghi muốn cầu giải nghi thì có được thọ pháp xuất giới không?, Phật nói được, nếu đi một ngày... cũng theo đây mà tác pháp thọ.
Dù y không cắt rọc,
Có nạn duyên được mặc,
Y may theo thân lượng,
Nếu thiếu may hạ y.
Tôn giả Ưu-ba-ly lại hỏi: y không cắt rọc có được thọ trì không? Phật đáp: không được, nếu có nạn duyên thì được.
Lại hỏi: y không cắt rọc có được mặc đi vào tụ lạc hoặc nhà thế tục hoặc trú xứ của ngoại đạo không? Phật đáp: không được, nếu có nạn duyên thì được.
Lại hỏi: y không cắt rọc có được mặc vào trong nhà ngoại đạo ngồi không?
Phật đáp: không được, nếu ngoại đạo không có ở nhà thì được ngồi không phạm.
Lại hỏi: như Phật đã dạy y nên may đúng theo kích lượng Phật đã chế mới được thọ trì, nếu người có thân lượng to lớn mà kích lượng Phật đã chế lại ngắn thì có nên y theo kích lượng Phật đã chế để may y không?
Phật nói: nên y theo thân lượng của người này mà may y.
Lại hỏi: nếu y theo thân lượng của người này để may y mà vải không đủ thì phải như thế nào?
Phật đáp: nên may thành y Quyết tô lạc ca (tức là hạ y: váy hay quần) để thọ trì.
Không chứa năm loại da,
Do vì có lỗi lầm,
Khai cho được thọ dụng,
Vừa đủ thân ngồi nằm.
Lại hỏi: như Phật đã dạy không được dùng da của voi chúa làm giày, vậy da của các loài voi khác có được dùng làm giày không?
Phật đáp: không được, vì các loài voi khác cũng có sức mạnh của ngà.
Lại hỏi: như Phật đã dạy không được dùng da của Trí mã làm giày, vậy da của các loài ngựa khác có được dùng làm giày không?
Phật đáp: không được, vì các loại ngựa khác cũng có sức mạnh khỏe để chạy.
Lại hỏi: như Phật đã dạy không được dùng da của sư tử, cọp, báo làm giày, vậy da của các loài thú khác có được dùng làm giày không?
Phật đáp: không được, vì các loài thú khác cũng có sức mạnh của móng vuốt.
Lại hỏi: như Phật đã dạy không nên ngồi trên da của các loài thú kể trên, còn da của các loài thú khác thì được, vậy nên dùng kích lượng là bao nhiêu? Phật đáp: nên dùng kích lượng vừa bằng chỗ ngồi.
Lại hỏi: nếu dùng để lót nằm thì nên dùng kích lượng là bao nhiêu?
Phật đáp: nên dùng kích lượng vừa bằng chỗ nằm.
Thịt sống, các loại giấm,
Có năm loại không dùng,
Bịnh trĩ không cắt bỏ,
Hồi thí, biết mong cầu.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, Ưu-ba-ly hỏi Phật:
Lại hỏi: như Phật đã khai cho Bí-sô Tây yết da vì bịnh được ăn thịt sống, thịt sống này nên thọ lấy từ đâu?
Phật đáp: thọ lấy từ năm hạng đồ tễ, đó là kẻ giết đêm gà, heo, kẻ bắt chim và thợ săn.
Lại hỏi: nên sai ai đến thọ lấy?
Phật đáp: nên sai người có tín tâm.
Lại hỏi: thọ rồi nên đưa lại cho ai?
Phật đáp: nên đưa lại cho người có tín tâm.
Lúc đó trong thành có một Bí-sô mắc bịnh tiêu khát, đến thầy thuốc yêu cầu điều trị, thầy thuốc bảo nên dùng Tô, Bí-sô nói Phật chưa khai cho dùng, thầy thuốc nói: "Thế tôn đại bi ắt sẽ khai cho", Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "nếu thầy thuốc bảo dùng Tô mới hết bịnh thì được dùng". Bí-sô này dùng Tô rồi vẫn bị bịnh bức bách, thầy thuốc nói: "nếu dùng Tô không hết bịnh thì nên dùng các loại rượu giấm", Bí-sô nói Phật chưa khai cho dùng, thầy thuốc nói: "Thế tôn đại bi ắt sẽ khai cho", Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "nếu thầy thuốc bảo nên dùng rượu giấm thì ta khai cho được dùng", Bí-sô không biết nên dùng các loại rượu giấm nào, Phật nói: "có sáu loại dấm đều có thể dùng, đó là đại rượu giấm, rượu giấm từ gạo, rượu giấm thuốc, rượu giấm nhạt, lạc tương và lạc tương khuấy. Đại rượu giấm là dùng đường cát với nước trộn vào trong các loại trái cây như nho... để ủ lâu ngày thành rượu giấm. Rượu giấm từ gạo là xay gạo nếp cùng các tạp vật khác rồi ủ lâu ngày thành rượu giấm. Rượu giấm thuốc là dùng rễ cành... của các loại cây thuốc cùng táo chua... ủ lâu ngày thành rượu giấm thuốc. Rượu giấm nhạt là nấu cơm chắt lấy nước rồi pha nước vào cho loãng để dùng. Lạc tương là nước uống chế biến từ Lạc. Lạc tương khuấy là khuấy Lạc thành Tô rồi chế biến thành nước uống, tất cả các loại nước uống khác đều gọi là Tương. Tất cả loại nước uống này khi thọ dụng nên pha vào một ít nước để tác tịnh, dùng vải dày lượt rồi để lắng trong như màu nước tre, dù là thời hay phi thời, bịnh hay không bịnh đều được dùng không phạm".
Lúc đó trong thành có một Bí-sô bị bịnh Trĩ, đầu Trĩ lòi ra ngoài nên Bí-sô dùng móng tay ngắt bỏ, đau đớn chịu không nổi liền suy nghĩ: "ta bịnh khổ không thể chịu nổi, vì sao Thế tôn không thương xót". Phật do đại bi dẫn dắt nên đi đến chỗ Bí-sô bịnh hỏi: "thầy mắc bịnh khổ gì?", Bí-sô nghe Phật hỏi liền thương cảm nghẹn ngào rơi lệ liền nói rõ bịnh tình của mình, Phật nghe rồi nói rằng: "trước đây ta có chế ngăn nếu mắc bịnh Trĩ không được cắt bỏ", đáp là Phật đã chế ngăn, Phật hỏi: "nếu biết đã chế ngăn vì sao thầy còn làm?", đáp là do bịnh khổ bức bách, Phật nói: "nếu do bịnh khổ bức bách thì không phạm, từ nay dù bị bịnh bức bách thế nào cũng không được cắt bỏ. Trị bịnh Trĩ này có hai cách là dùng thuốc hoặc dùng cấm chú, Bí-sô mắc bịnh khổ này không được tự cắt bỏ hay bảo người khác cắt bỏ giùm, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp", Phật lại bảo các Bí-sô: "ở chỗ khác trước đây ta đã nói cấm chú trị bịnh Trĩ này rồi, nhưng nay ta sẽ nói lại, nếu ai tụng trì ắt sẽ được lành bịnh, nếu tụng trì cho đến trọn đời thì sẽ không bị bịnh Trĩ này bức não, cũng được Túc mạng trí có thể nhớ biết việc trong bảy đời quá khứ", Phật nói chú:
Đát điệt tha, a lỗ ni mạt lỗ ni tỷ ni, câu lê bà tỳ thế sa bà tỳ, tam bà tỳ, sa ha.
Này các Bí-sô, khi tụng chú nên nói lời này: "ở phương Bắc trong Đại tuyết sơn vương có đại thọ tên Tiết địa đa nở ra ba loại hoa: một tên là Tương tục, hai tên là Nhu nhuyến, ba tên là Càn khô. Như hoa Càn khô thì đến mùa khô sẽ rơi rụng, bịnh Trĩ này của ta hoặc là bịnh Trĩ phong hay Trĩ nóng, Trĩ đàm ấm, Trĩ huyết, Trĩ phân và các loại Trĩ khác cũng đều sẽ khô rụng, không chảy máu mũ khiến cho đau đớn nữa, thảy đều khô rụng hết, sa ha", Phật lại nói chú:
Đát điệt tha, chiêm mê, chiêm mạt nê khứ, sa ha. Các Bí-sô nghe Phật nói rồi đều hoan hỉ phụng hành.
Phật tại tụ lạc thương buôn Na trĩ thuộc trú xứ Thích ca, trong tụ lạc này có một trưởng giả tín tâm và hỷ xả đã xây dựng một trú xứ cúng cho tôn giả La hỗ la. Tôn giả ở chưa được bao lâu, vì có duyên sự nên đắp y mang bát du hành trong nhan gian, trưởng giả nghe tin không biết tôn giả có trở về lại không, nên đem trú xứ này hồi thí cho Tăng.
Sau một thời gian du hóa trở về lại trú xứ, La hỗ la mới biết trưởng giả đã đem hồi thí cho Tăng, liền đến chỗ Phật đảnh lễ bạch rằng: "Thế tôn, trong tụ lạc này có một trưởng giả tín tâm và hỷ xả đã xây dựng một trú xứ cúng cho con. Con ở chưa được bao lâu, vì có duyên sự nên đắp y mang bát du hành trong nhan gian, trưởng giả nghe tin không biết con có trở về lại không, nên đem trú xứ này hồi thí cho Tăng. Giờ con phải làm sao?", Phật bảo La hỗ la: "con nên đến nói với trưởng giả rằng: "nơi thân ngữ ý của tôi, ông có từng sanh chút tâm chán ghét hay không?", La hỗ la vâng lời Phật dạy đến hỏi trưởng giả như thế, trưởng giả đáp là chưa từng có ý tưởng chán ghét, La hỗ la trở về bạch lại lời của trưởng giả, Phật nghe rồi liền bảo A-nan: "thầy hãy đến tụ lạc Na trĩ thông báo cho các Bí-sô trú ở đó đến tập họp trong giảng đường", A-nan vâng lời Phật dạy đi thông báo, khi các Bí-sô tập họp đông đủ, A-nan đến bạch Phật biết thời. Phật cùng các Bí-sô và La hỗ la đến trong giảng đường ngồi trước các Bí-sô nói rằng: "các thầy nên biết, nếu có thí chủ đem vật mà mình đã thí riêng cho một người, sau đó hồi thí lại cho người khác thì người thí là phi pháp, người thọ cũng phi pháp, gọi là thọ dụng bất tịnh. Cũng vậy, đem vật mà mình đã cho rồi hồi thí lại cho hai, ba người hoặc Tăng thì người thí và người cho đều không như pháp, thọ dụng đều bất tịnh. Này các Bí-sô, nếu có thí chủ đem vật mà mình đã thí riêng cho hai người hoặc ba người, sau đó hồi thí lại cho người khác thì người thí là phi pháp, người thọ cũng phi pháp, gọi là thọ dụng bất tịnh. Cũng vậy, đem vật mà mình đã cho rồi hồi thí lại cho hai, ba người hoặc Tăng thì người thí và người cho đều không như pháp, thọ dụng đều bất tịnh. Này các Bí-sô, nếu có thí chủ đem vật mà mình đã thí cho Tăng già, sau đó hồi thí lại cho người khác thì người thí là phi pháp, người thọ cũng phi pháp, gọi là thọ dụng bất tịnh. Cũng vậy, đem vật mà mình đã cho rồi hồi thí lại cho hai, ba người hoặc Bí-sô Tăng già khác, hoặc Bí-sô ni tăng già thì người thí và người cho đều không như pháp, thọ dụng đều bất tịnh. Vì sao, vì thí trước là thật thì, thí sau là phi pháp thí. Ngược lại, nếu có thí chủ đem vật mà mình đã thí riêng cho một người rồi, sau đó không hồi thí lại cho người khác thì người thí là như pháp, người thọ cũng như pháp, gọi là thọ dụng thanh tịnh. Cũng vậy, đem vật mà mình đã cho rồi, không hồi thí lại cho hai, ba người hoặc Tăng hoặc Ni tăng thì người thí và người cho đều là như pháp, thọ dụng đều thanh tịnh. Này các Bí-sô, đất đai thuộc của vua, vật dụng thuộc của thí chủ; phòng xá ngọa cụ thì thí chủ là chủ, y bát tư cụ thì Bí-sô là chủ. Những tài vật đã cúng cho chùa, nếu có hư hoại thì thí chủ tự sẽ tu bổ nhưng không được tự lấy đem hồi thí cho người khác, vì thí trước là như pháp, thì sau là phi pháp. Cho nên các Bí-sô nên trả lại trú xứ trước đã thí cho La hỗ la, từ nay Bí-sô đem vật mà mình đã cho người này hồi thí lại cho người kia thì phạm tội Việt pháp, trừ nạn duyên", các Bí-sô vâng lời Phật dạy trả lại trú xứ trước đã thí cho La hỗ la.
Như Phật đã dạy năm hay sáu năm nên mở hội Đảnh kế một lần, lúc đó có các Bà-la-môn, trưởng giả tín tâm đem đủ loại bánh trái và rất nhiều thức ăn đến cúng cho Tăng, các Bí-sô ăn không hết nên đem thức ăn dư đó cho các Cầu tịch. Sáng hôm sau, các Cầu tịch đem thức ăn đó cho lại các Bí-sô, các Bí-sô hỏi thức ăn này được từ đâu, đáp là của các thầy cho hôm qua, các Bí-sô suy nghĩ: "đây là thức ăn dư của ta, hôm nay ăn lại, theo luật chế là phạm", nghĩ rồi liền bạch Phật, Phật nói: "nếu có tâm mong cầu cho để được ăn lại thì khi cho phạm Ác tác, khi ăn liền phạm Đọa; nếu cho với tâm không mong cầu nhưng có tâm mong cầu được ăn lại thì khi cho không phạm, khi ăn liền phạm Đọa; nếu cho với tâm có mong cầu nhưng không có tâm mong cầu được ăn lại thì khi cho phạm Ác tác, ăn không phạm".
Chia y và xướng dắt,
Trương y, người thọ học,
Làm lại, thâu nhiếp, đuổi,
Cầu tịch đồng trên tường.
Chia y vật người chết,
Cùng lấy vật lẫn nhau,
Thấy đánh nên can gián,
Xử phân theo đầu day.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có một trưởng giả sanh được một trai, sau khi lớn lên xuất gia thọ Cận viên trong Phật pháp, thời gian sau không may bị bịnh nặng qua đời, các Bí-sô đem y bát táng theo tử thi, người tục thấy liền nói: "chúng tôi có con cháu nên muốn gì cũng dễ được, vậy mà vật của người chết cũng không táng theo hết; còn các thầy không có con cháu, các tư tài đã có phải khổ cầu mới được, vì sao không giữ lại vật của người chết để dùng?", các Bí-sô nói: "Phật chưa cho giữ lại vật của người chết để dùng", bạch Phật, Phật nói: "y bát của Bí-sô qua đời không nên bỏ". Sau đó có Bí-sô bịnh qua đời, các Bí-sô lột lấy y để tử thi thân trần mà táng, người tục thấy liền chê trách, Phật nói: "không nên để tử thi thân trần, nên mặc y phục và phủ tấm vải trên người mà đem táng", các Bí-sô lại mặc y phục tốt đẹp cho người chết rồi đem táng, Phật nói không nên như thế, các Bí-sô lại mặc y phục rách nát cho người chết rồi đem táng, Phật nói: "cũng không nên, nên dùng loại y phục không tốt lắm cũng không xấu lắm mặc cho người chết rồi đem táng". Lúc đó các Bí-sô bạch Phật: "y bát của người chết để lại nên xử phân như thế nào?", Phật nói: "nên đem cho Bí-sô nào nghèo thiếu", Lục chúng Bí-sô liền làm ra vẻ nghèo thiếu để được cho, Phật nói: "không nên đem cho Lục chúng Bí-sô, nên cho theo thứ tự từ Thượng tòa trở xuống", khi làm như vậy các Bí-sô nhỏ lại không được cho, Phật nói: "nên tập họp chúng rồi tác bạch, nếu chúng tăng hòa hợp chấp thuận lấy y bát đó đem bán rồi cùng chia".
Duyên xứ như trên, lúc đó có một Bí-sô bịnh qua đời, y bát gởi tại trú xứ ni, sau khi được các Bí-sô ni tống táng xong, các Bí-sô mới hay biết liền đến trú xứ ni đòi lấy y bát của người đã chết, Bí-sô ni nói: "nếu vị ấy chết ở chùa tăng thì y bát thuộc về các thầy, nay vị ấy chết tại chùa ni lại là huynh đệ đồng pháp của tôi nên y bát của vị ấy nên thuộc về tôi", Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "ni nên đưa lại cho Bí-sô".
Duyên xứ như trên, lúc đó có một Bí-sô ni bịnh qua đời, y bát gởi tại trú xứ của Bí-sô, các Bí-sô ni đến chỗ Bí-sô xin lại y bát của ni đã chết, Bí-sô nói: "vị ni ấy là tỷ muội đồng pháp của tôi nên y bát của vị ấy nên thuộc về tôi", Phật nói nên đưa lại cho Bí-sô ni.
Duyên xứ như trên, lúc đó có một Bí-sô du hành trong nhân gian, đến nhà một cư sĩ trong một tụ lạc, bỗng mắc bịnh qua đời, chủ nhà tống táng rồi cất giữ y bát của Bí-sô. Sau đó có các Bí-sô ni du hành đến tụ lạc đó, vị cư sĩ ấy nói với Bí-sô ni: "Thánh giả, trước đây có một Bí-sô qua đời tại nhà tôi, tôi đang cất giữ y bát của vị ấy, các vị hãy lấy mang đi", Bí-sô ni nói: "y bát của Bí-sô qua đời, ni không được thọ lấy", các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "ở chỗ không có Bí-sô thì Bí-sô ni nên thọ lấy".
Duyên xứ như trên, lúc đó có một Bí-sô ni du hành trong nhân gian, đến nhà một cư sĩ trong một tụ lạc, bỗng mắc bịnh qua đời, chủ nhà tống táng rồi cất giữ y bát của Bí-sô ni. Sau đó có các Bí-sô du hành đến tụ lạc đó, vị cư sĩ ấy nói với Bí-sô: "Thánh giả, trước đây có một Bí-sô ni qua đời tại nhà tôi, tôi đang cất giữ y bát của vị ấy, các vị hãy lấy mang đi", Bí-sô nói: "y bát của Bí-sô ni qua đời, tôi không được thọ lấy", các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "ở chỗ không có Bí-sô ni thì Bí-sô nên thọ lấy".
Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật: "Thế tôn, nếu Bí-sô qua đời trong nhà thế tục, y bát của vị ấy ai được thọ lãnh?", Phật nói: "ai đến trước thì được thọ lãnh", lại hỏi: "nếu hai người cùng đến một lượt thì ai được thọ lãnh?", Phật nói: "ai hỏi trước thì được", lại hỏi: "nếu hai người cùng hỏi một lượt thì ai được?", Phật nói: "cả hai đều được, hoặc tùy tâm của người tục thích đưa cho ai thì người đó được".
Duyên xứ như trên, lúc đó có hai Bí-sô cùng đấu tranh, các Bí-sô thấy họ đấu tranh mà không can ngăn, người tục thấy vậy liền nói: "người tục chúng tôi khi thấy người khác cùng đấu tranh liền can ngăn hòa giải, tại sao các thầy thấy vậy mà lại khoanh tay đứng nhìn?", đáp: "họ thích đấu tranh thì ai có thể can ngăn được", bạch Phật, Phật nói: "nên can, không được đứng nhìn". Sau đó các Bí-sô can nhưng họ không dừng lại, Phật nói: "nếu can mà không dừng lại thì các Bí-sô nên tác yết ma Xả trí cho họ". Sau đó có hai Bí-sô luận nghị cốt lõi phải trái nên sanh tranh cãi, các Bí-sô liền tác yết ma Xả trí họ, hai Bí-sô này nói: "chúng tôi luận nghị phải trái, vì sao các thầy lại tác yết ma Xả trí chúng tôi?", các Bí-sô nói: "Phật bảo thấy những người tranh cãi không ngừng thì nên tác yết ma Xả trí cho họ, nên chúng tôi mới tác yết ma", bạch Phật, Phật nói: "không nên thấy tranh cãi liền tác yết ma Xả trí, nếu họ còn hai thầy thì nên nhờ hai thầy can ngăn; nếu họ đủ mười hạ, đã lìa y chỉ thì các Bí-sô nên can ngăn, khi nào họ không chịu dứt tranh thì lúc đó mới tác yết ma Xả trí cho họ". Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật: "nếu Bí-sô qua đời ở giữa hai giới thì y bát của vị ấy, bên nào được thọ lãnh?", Phật nói: "đầu day về phía nào thì phía ấy được thọ lãnh", lại hỏi: "nếu đầu day về phía giới chung của hai trú xứ thì như thế nào?", Phật nói: "cả hai trú xứ đều được".
Người xướng ngôn đi xe,
Được y nên cất giữ,
Tăng già được y lợi,
Thánh phàm đều đồng chia.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó trong thành có nhiều ngoại đạo cư trú, từ khi Phật đến đây, thế lực của họ suy yếu nên lợi dưỡng cũng ít theo, những người tục còn tín ngưỡng ngoại đạo liền đi xin lợi vật để cúng cho họ. Mỗi sáng sớm trưởng giả Cấp-cô-độc đều đến chỗ Phật, trên đường đi, các đồ chúng của ngoại đạo theo ông xin tài vật để cúng cho thầy họ, trưởng giả liền suy nghĩ: "tà chúng của ngoại đạo mà còn biết đi xin tài vật để cúng cho thầy mình. Như Thế tôn đã dạy là nếu người chưa tin nên làm cho khởi lòng tin và điều phục họ trụ trong chánh pháp. Nếu Đại sư chấp thuận, ta sẽ vận động mọi người cúng dường phước điền này", nghĩ rồi liền đến bạch Phật, Phật nói tùy ý. Sau đó trưởng giả đi khắp nơi vận động; các cư sĩ, Bà-la-môn nói: "nếu Thánh chúng cùng đến hóa duyên thì phước lợi càng tăng nhiều", trưởng giả bạch Phật, Phật bảo các Bí-sô theo hổ trợ trưởng giả, các Bí-sô vâng lời Phật dạy cùng trưởng giả đi hóa duyên, mọi người nói: "xin xướng tên họ của chúng tôi cho mọi người đều biết", các Bí-sô nói: "lành thay, như Phật đã dạy nếu có thí chủ cúng dường, nên ghi tên họ của họ để chú nguyện rồi mới thọ", mọi người nói: "xin hãy xướng tên họ của chúng tôi để phước được tăng thêm", Phật nói nên xướng tên họ của thí chủ. Sau đó có thí chủ mang tài vật đến chùa cúng dường, Phật nói: "nếu có thí chủ đến chùa cúng, cũng nên ghi tên họ, chú nguyện cho họ rồi mới thọ".
Khi Bí-sô xướng ngôn vừa xướng tên, mọi người chen chúc tụ đến nên không thể đi tới trước được, Phật bảo nên đi xe hay ngồi trên kiệu; gặp trời nắng nóng hay mưa gió, Phật bảo nên che dù. Lúc đó cửa chùa chỉ mở có một cửa, mọi người vào quá đông nên nghẽn tắt lối đi, Phật nói nên mở cả bốn cửa và sắp đặt bốn người xướng ngôn.
Khi trưởng giả vận động được nhiều bạch điệp tốt và tài vật có đến trăm ngàn vạn ức, liền suy nghĩ: "đã khuyến hóa được nhiều tài vật, ta nên mở hội đại thí cúng dường Phật và Tăng, nên để tài vật này trước đại chúng để cúng dường một lần", nghĩ rồi liền ở trong rừng Thệ đa sắp xếp các tài vật đã khuyến hóa được, cho người coi giữ rồi đến bạch Phật: "Thế tôn, ngày mai con muốn mở hội đại thí cúng dường Phật và Tăng", Phật im lặng nhận lời. Trưởng giả ngay trong đêm đó lo liệu đầy đủ các món ăn thượng diệu, sáng hôm sau trải tòa ngồi rồi đến bạch Phật đã đến giờ thọ thực.
Sau khi Phật và Tăng thọ thực xong, trưởng giả bạch Phật: "Thế tôn, trong nhân gian có mấy loại phước điền?", Phật nói: "có hai, đó là bậc Hữu học và bậc Vô học. Bậc Hữu học sai biệt có mười tám hạng, bậc Vô học sai biệt có chín hạng, đều là phước điền có thể tiêu được lợi vật cúng dường. Mười tám bậc Hữu học là Dự lưu hướng, Dự lưu quả; Nhất lai hướng, Nhất lai quả; Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả; A-la-hán hướng, A-la-hán quả; Tùy tín hành, Tùy pháp hành, Tín giải, Kiến trí, Gia gia, Nhất gia, Trung sanh, Hữu hành, Vô hành và Thượng lưu. Chín bậc Vô học là Thối pháp, Tư pháp, Hô pháp, Trú pháp, Kham đạt pháp, Bất động pháp, Bất thối pháp, Tuệ giải thoát và Cầu giải thoát". Phật nói kệ:
"Bậc học, vô học trên thế gian,
Là bậc đáng cung kính cúng dường,
Thân khẩu ngay thẳng, tâm thanh tịnh,
Cúng phước điền này được phước lớn".
Lúc đó trưởng giả ở trước vị Thượng tòa thỉnh Bí-sô xướng ngôn: "xin Thánh giả bạch với đại chúng rằng: "các đệ tử Thanh văn của Thế tôn, ai là bậc phước điền vô thượng đáng được cung kính lễ bái, xứng đáng được thế gian cúng dường thì xin hãy đến thọ lấy y vật này, tùy ý thọ dụng"", Bí-sô xướng ngôn liền tác bạch theo lời của trưởng giả, đại chúng nghe rồi, các bậc A-la-hán đã viễn ly tham sân si suy nghĩ: "ta là bậc đã chứng quả vô thượng ở trong Tăng xứng đáng được thọ lợi vật này, nhưng như Phật đã dạy: "nếu tự mình có thắng thiện thì phải giấu kín bên trong, nếu có lỗi thô thì nên phát lồ, nay ta há vì lợi vật này mà lại hiển dương đức của mình cho mọi người biết ta là bậc Ly dục vô thương", nghĩ như thế rồi nên ngồi im lặng. Các bậc hữu học chưa trừ hết các hoặc cũng suy nghĩ: "các bậc phước điền vô thượng mới xứng đáng thọ lợi vật này, ta chưa hết các lậu hoặc thì không nên thọ", nghĩ như thế rồi nên cũng ngồi im lặng. Các hàng dị sanh còn đầy đủ triền phược cũng suy nghĩ: "bậc phước điền vô thượng mới xứng đáng thọ lợi vật này, còn ta còn đầy đủ triền phược thì không có phần". Do nghĩ như thế nên trong đại chúng, không có ai đến thọ lấy lợi vật cúng dường của trưởng giả, trưởng giả suy nghĩ: "có phải ta đã khiến cho Thánh phàm tăng này làm việc úp bát cho ta không?", nghĩ rồi thần sắc liền biến đổi thành tiều tụy, đến bạch Phật, Phật tuy biết nguyên do nhưng vẫn hỏi A-nan: "vì sao trưởng giả cúng dường nhiều y vật cho đại chúng mà không ai đến thọ lấy vậy?", A-nan đáp: "do trưởng giả tác bạch rằng: các đệ tử Thanh văn của Thế tôn, ai là bậc phước điền vô thượng đáng được cung kính lễ bái, xứng đáng được thế gian cúng dường thì xin hãy đến thọ lấy y vật này, tùy ý thọ dụng. Đại chúng nghe bạch như thế rồi đều im lặng, không ai đến thọ lấy cả", Phật bảo A-nan: "thầy đi thông báo cho các Bí-sô đang ở trong thành Thất-la-phiệt và các nơi khác đến đều tập họp trong giảng đường", A-nan vâng lời Phật dạy đi thông báo, khi các Bí-sô đều tập họp đông đủ, A-nan bạch Phật biết thời, Phật đến trong giảng đường ngồi trước các Bí-sô nói rằng: "trưởng giả Cấp-cô-độc cùng dường nhiều y vật, vì sao các thầy không ai chịu thọ?", các Bí-sô im lặng, Phật tuy biết nguyên do nhưng vẫn hỏi A-nan, A-nan liền nói rõ nguyên do, Phật nói: "chẳng phải ban đầu các thầy do lòng tin mà đến trong giáo pháp của ta xuất gia cầu giải thoát hay sao?", đáp là phải, Phật nói: "nếu các thầy do lòng tin mà xuất gia trong Phật pháp để cầu giải thoát thì dù y phục đang mặc trị giá một ức tiền vàng, phòng xá đang ở trị giá năm trăm tiền vàng, thức ăn uống đủ trăm vị ngon, ta vẫn khai cho các thầy thọ, vì các thầy có thể tiêu hóa được. Nhưng nếu có Bí-sô nào phá giới thì ngay trong trú xứ cũng không tiêu hóa nổi miếng thức ăn, đất của Tăng già lam cũng không thể để chân vào, vì sao, vì người phá giới có mười lỗi:
Tự biết mình là người phá giới, người khác cũng biết mình là người phá giới.
Thiên thần không thân gần hộ trì nữa.
Đồng phạm hạnh khinh chê.
Người thiện biết pháp khinh chê.
Tiếng xấu lan truyền, bốn phương đều biết.
Người chưa chứng ngộ không thể chứng ngộ.
Người đã chứng ngộ sẽ thối thất.
Những pháp đã thấy nghe thảy đều quên.
Khi sắp chết tâm sầu não.
Sau khi chết bị đọa địa ngục.
-Lại nữa này các Bí-sô, thọ dụng có năm, đó là:
Chủ thọ dụng: chỉ cho bậc A-la-hán đã vĩnh viễn trừ hết ba độc.
Cha mẹ thọ dụng: chỉ cho bậc Học nhân còn có dư hoặc.
Khai cho thọ dụng: chỉ cho bậc dị sanh thuần thiện, giới thanh tịnh, siêng tu thiền tụng, không có tâm giãi đãi.
Mắc nợ thọ dụng: chỉ cho người tuy có trì giới nhưng không siêng tu giác phẩm thiện pháp.
Trộm cắp thọ dụng: chỉ cho người phạm một trong bốn trọng.
Vì thế các thầy nên tinh tấn tu học, đối với những y vật và lợi vật khác của trưởng giả này cúng dường, đại chúng nên bình đẳng phân chia".
Có trương, có không trương,
Có xuất, có không xuất,
Nếu người ở ngoài giới,
Nghe sanh tâm tùy hỉ.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật:
Hỏi: có trường hợp khi Tăng cùng trương y Yết-sỉ-na, Bí-sô ở trong chúng mà lại không trương y hay không?
Phật đáp: có, nếu khi Tăng cùng trương y, Bí-sô ở trong chúng không gởi dục cho người khác mà ngủ hay nhập định thì không gọi là cùng trương y, nhưng đại chúng vẫn được gọi là thiện trương y.
Lại hỏi: có trường hợp khi Tăng cùng trương y Yết-sỉ-na, Bí-sô ở trong chúng tuy không thọ mà vẫn thành trương y hay không?
Phật đáp: có, nếu khi Tăng cùng trương y, Bí-sô ở trong chúng gởi dục cho người khác rồi ngủ hay nhập định thì tuy không thọ vẫn gọi là cùng trương y.
Lại hỏi: có trường hợp khi Tăng cùng xuất y Yết-sỉ-na, Bí-sô ở trong chúng mà lại không cùng xuất y hay không?
Phật đáp: có, nếu khi Tăng cùng xuất y, Bí-sô ở trong chúng không gởi dục cho người khác mà ngủ hay nhập định thì không gọi là cùng xuất y, nhưng Tăng vẫn thành xuất y.
Lại hỏi: có trường hợp khi Tăng cùng xuất y Yết-sỉ-na, Bí-sô ở trong chúng tuy không thọ mà vẫn thành xuất y hay không?
Phật đáp: có, nếu khi Tăng cùng xuất y, Bí-sô ở trong chúng gởi dục cho người khác rồi ngủ hay nhập định thì vẫn gọi là cùng xuất y. nếu có Bí-sô ở ngoài giới nghe Tăng xuất y Yết-sỉ-na mà phát tâm tùy hỉ, cũng thành xuất y.
Thọ học không tác pháp,
Tác pháp không thành quở,
Mười hai hạng thành quở,
Bất tịnh: phạm căn bản.
Lại hỏi: người thọ học có được tác pháp yết ma không?, Phật nói không được.
Lại hỏi: người thuộc loại Bán trách ca và có các chướng nạn thì có được tác pháp yết ma không?, Phật nói không được. Lại hỏi: người thọ học có được hành trù không?, Phật nói không được. Lại hỏi: người phạm tứ trọng có được hành trù không?, Phật nói không được.
Lại hỏi: như Phật đã dạy vì người khác làm yết ma như pháp thì người đó quở không thành quở, vậy nếu làm yết ma phi pháp thì người đó quở có thành quở không?
Phật đáp: người đó quở thì thành quở.
Lại hỏi: nếu mười hai hạng người khi chúng tác pháp sai, liền nói là không cần sai tôi, thì những hạng người này quở có thành quở không?
Phật đáp: những người này quở thì thành quở, nhưng phải dựa vào hai việc, khi ta mật ý nói quở không thành quở tức là chỉ người không thanh tịnh và yết ma như pháp.
Lại hỏi: vậy như thế nào là người không thanh tịnh?
Phật đáp: tức là người phạm một trong bốn tội Tha thắng.
Càng nên tác pháp lại,
Chớ bảo Cầu tịch ra,
Khéo dụng tâm thủ hộ,
Ở chỗ thấy không nghe.
Duyên xứ như trên, tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật: "người thọ học vì người khác tác pháp yết ma, tác pháp xong thì có thành yết ma không?", Phật nói: "không thành, nên tác pháp lại; người phạm tứ trọng cũng vậy". Lúc đó có một Cầu tịch sắp thọ Cận viên, Thân giáo sư đã sắm đủ y bát, khi tam sư và thất chứng đang tác pháp có bảo Cầu tịch ra ngoài giới đợi. Thân tộc của Cầu tịch này không muốn cho thọ Cận viên nên khi tìm thấy Cầu tịch đứng ở ngoài giới liền dẫn đi, do việc này nên không thể thọ Cận viên và mất thắng nghiệp. Các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "như con trưởng của Chuyển luân thánh vương đã được thọ quán đảnh sắp lên ngôi vua thì phải ngày đêm thủ hộ, Cầu tịch cũng vậy, sắp thọ Cận viên cần phải thủ hộ, không nên bảo ra ngoài giới, nên bảo đứng hướng về Tăng ở chỗ thấy mà không nghe đợi".
Thu nhiếp ở trong giới,
Trong chúng tâm hàng phục,
Chặt bỏ cột, khung cửa,
Ni... cũng đồng đuổi đi.
Duyên xứ như trên, tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật:
Hỏi: như Phật đã dạy nếu vì người kia tác yết ma Linh bố, người kia về sau nếu được thâu nhiếp ở trong chúng mới vì giải yết ma. Vậy người kia phải đủ mấy pháp mới được thu nhiếp?
Phật đáp: phải đủ năm pháp mới được thu nhiếp: một là có tâm vui mừng, hai là tùy thuận phục tùng chúng tăng, ba là xin diệt trừ tội đã phạm, bốn là tự thân biểu hiện sự cung kính, năm là từ bỏ các duyên đấu tranh.
Lại hỏi: nên tác pháp giải yết ma ở đâu, đáp là ở trong giới.
Lại hỏi: như Phật đã dạy nên tác yết ma linh bố cho các Bí-sô đấu tranh, nếu lúc đang tác pháp họ hiện tướng không phục tùng thì phải như thế nào?
Phật đáp: nên đưa y bát cho họ rồi đuổi ra ngoài giới, nếu họ không chịu đi ôm lấy cột trụ thì chặt bỏ cột trụ, nếu ôm chặt khung cửa thì chặt bỏ khung cửa.
Lại hỏi: cột trụ và khung cửa bị chặt hư thì ai đứng ra tu bổ lại? Phật đáp: đại chúng nên quyên hóa rồi cùng cư sĩ tu bổ lại.
Lại hỏi: nếu Bí-sô ni hợp tác đấu tranh thì làm thế nào?. Phật đáp: cũng tác pháp khu tẫn giống như Bí-sô, ba chúng dưới cũng vậy. Nếu bị đuổi mà không đi cũng làm giống như trên.
Lại hỏi: nếu Bí-sô hay Bí-sô ni làm hạnh xấu, nhơ nhà người, có nên tác pháp yết ma Khu tẫn họ không?
Phật đáp: nên làm, ba chúng dưới cũng vậy.
Phá giới nên đuổi đi,
Níu núp cũng như trên,
Xúc não tục cầu tạ,
Các chúng khác cũng vậy.
Lại hỏi: như Phật đã dạy nên khu tẫn Bí-sô phá giới, vậy ai nên khu tẫn?
Phật đáp: nếu họ không phục tùng, Tăng nên đưa y bát cho họ rồi đuổi đi, nếu họ ôm cột trụ không chịu đi thì nên làm giống như trên.
Lại hỏi: như Phật đã dạy nếu Bí-sô cùng cư sĩ khinh hủy nhau thì nên vì họ tác pháp yết ma Cầu tạ, nếu Bí-sô cùng Bí-sô khinh hủy nhau thì có nên vì họ tác pháp yết ma Cầu tạ không?, Phật nói nên làm.
Lại hỏi: nếu Bí-sô cùng Bí-sô ni cho đến ba chúng dưới khinh hủy nhau thì có nên vì họ tác yết ma Cầu tạ không?
Phật đáp: nên làm, nếu Bí-sô ni cùng ba chúng dưới xúc não nhau cũng nên làm như vậy.
Cho Cầu tịch linh bố (yết ma),
Vì thành thọ Cận viên,
Khi năm pháp thành tựu,
Năm hạ lìa y chỉ.
Lại hỏi: Nếu Tăng vì Cầu tịch tác yết ma Linh bố, sau đó lại cho thọ Cận viên thì có thành thọ không?
Phật đáp: thành thọ Cận viên nhưng người truyền giới mắc tội, trước đó nên tác pháp giải yết ma cho người này.
Lại hỏi: như Phật đã dạy thành tựu năm pháp và đủ năm tuổi hạ thì được lìa y chỉ, tùy ý du hành, cho đến mười hạ khi đi đến đâu cũng phải cầu y chỉ. Nếu chỉ đủ bốn hạ nhưng thành tựu năm pháp thì có được tùy ý du hành hay không?
Phật đáp: không được, phải đủ năm hạ.
Lại hỏi: nếu đủ năm hạ nhưng chưa đủ năm pháp thì có được lìa y chỉ hay không?
Phật đáp: không được vì chưa thành tựu năm pháp (biết phạm, biết không phạm, biết tội trọng, biết tội khinh và thông hiểu luật tạng).
Lại hỏi: nếu chỉ đủ ba hạ nhưng thông hiểu ba tạng, đủ tam minh, trừ hết ba cấu thì có được lìa y chỉ không?
Phật đáp: vẫn phải cần y chỉ vì giáo pháp đã chế định như thế.
Lại hỏi: đủ năm hạ, thành tựu năm pháp mới được du hành, nếu khi đi đến một nơi nào đó thì được trong mấy ngày không có y chỉ?
Phật đáp: được đến năm đêm, đây là dựa trên có tâm cầu y chỉ, nếu không có tâm cầu y chỉ thì dù một đêm cũng không được, ở trong Tăng thọ dụng thức ăn uống... đều không nên cho.
Đồng phần, chẳng đồng phần,
Tội hữu hạn, vô hạn,
Che giấu, không che giấu,
Một tên, chủng loại khác.
Lại hỏi: như thế nào là tội đồng phần và tội phi đồng phần? Phật đáp: tội đồng phần là tội Ba la thị ca và vọng về Ba la thị ca, nếu vọng về các thiên (bộ) khác thì gọi là phi đồng phần; bốn thiên dưới cũng vậy.
Lại hỏi: như thế nào là tội hữu hạn và tội vô hạn?
Phật đáp: nếu Bí-sô không nhớ rõ tội và số đêm đã phạm thì gọi là vô hạn, nếu nhớ rõ thì gọi là hữu hạn.
Lại hỏi: như thế nào là có phú tàng và không phú tàng? Phật đáp: phú tàng có hai là số đêm che giấu và tâm che giấu, nếu Bí-sô không có tâm che giấu tuy trải qua đêm cũng không gọi là che giấu, nếu có tâm cố ý che giấu mới gọi là che giấu.
Lại hỏi: đối với các tội xứ nói có danh chủng, như thế nào là danh và chủng?
Phật đáp: như Ba la thị ca là danh, cụ thể từng sự việc đã làm là chủng, danh và chủng của bốn thiên sau cũng vậy.
Không hành pháp trên tường,
Không ở chỗ một... ba,
Không đối người phá giới,
Không lấy dục (của) Thọ học.
Duyên xứ như trên, như Phật đã dạy nếu có Bí-sô muốn hành pháp Ba lợi bà sa và Ma-na-đỏa thì nên cho họ hành pháp đó. Lúc đó Lục chúng Bí-sô ra ngoài giới ở trên tường hành pháp ấy, các Bí-sô hỏi muốn làm gì, đáp là muốn hành pháp Ba lợi bà sa, các Bí-sô nói: "đây chính là ẩn nấp, làm sao thành hành pháp được", bạch Phật, Phật nói: "các thầy không được hành pháp ấy ở trên tường, cũng không được ở nơi chỉ có một, hai, ba Bí-sô, nên ở trong chúng đủ bốn Bí-sô trở lên mới được hành pháp này", Lục chúng Bí-sô sau đó lại ở tại trú xứ của bốn người Thọ học để hành pháp ấy, Phật nói: "không được ở nơi có bốn người thọ học cho đến nơi có bốn người phạm Ba la thị ca hoặc nơi có bốn người đang hành pháp Ba lợi bà sa mà hành pháp này. Cũng không được ở nơi có ba người phạm trọng và thêm một người thanh tịnh, cho đến thêm hai hay ba người thanh tịnh. Nên ở trong chúng thanh tịnh đồng kiến mà hành pháp phú tàng; cho đến cho hành sáu đêm và xuất tội, chúng tăng đều phải thanh tịnh".
Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật: "người thọ học có được gởi dục không?", Phật nói không được, lại hỏi: "người này có được lấy dục không?", Phật nói được vì đó là Bí-sô.
Sàn tròn, rớt bể bát,
Khăn, ống khói, chén thuốc,
Vồ sắt, tóc và cửa,
Không nên làm bằng sắt.
Sàn tròn, miếu thờ trời,
Hai trạm rưỡi y chỉ,
Không độ người không bát,
Không ghi tên lên bát.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó các Bí-sô tùy tiện rửa chân, rửa bát làm cho chỗ đất đó sanh nhiều ruồi muỗi. Các Bà-la-môn, cư sĩ thấy liền hỏi Bí-sô: "đây có phải là chỗ các thầy tiểu tiện hay không?", đáp: "không phải, đó là chỗ rửa bát, rửa chân", họ nghe rồi liền chê trách: "các Bí-sô không sạch sẽ, rửa bát, rửa chân tùy tiện, không chọn chỗ nơi", bạch Phật, Phật nói: "không nên rửa bát, rửa chân bừa bãi, nên làm sàn nước để rửa bát, rửa chân". Lúc đó các Bí-sô làm sàn nước tròn, cư sĩ thấy cho là Bí-sô muốn thờ mặt trời, Phật nói không nên làm tròn; các Bí-sô lại làm sàn nước hình bán nguyệt, cư sĩ lại cho là muốn thờ mặt trăng, Phật nói: "nên làm theo hình mũi mác hay hình ống theo chiều nước chảy, nếu làm sàn nước tròn hay bán nguyệt thì phạm Ác tác; nếu vì tam bảo thì làm hình gì cũng không phạm". Lúc đó Phật vì đại thần Hành vũ nước Ma-kiệt-đà lược nói pháp yếu:
"Bậc trượng phu chánh tín,
Cúng dường chúng chư thiên,
Thuận theo lời Phật dạy,
Được chư Phật ngợi khen".
Lúc đó Lục chúng Bí-sô tự ý thờ cúng vị trời Yết thát bố đản na và Ha đăng già cù lợi ca, các cư sĩ thấy liền chê trách: "các thầy đã xuất gia trong thiện pháp luật, vì sao lại thờ cúng thiên thần?", bạch Phật, Phật nói: "đây là ta vì người tục mật ý nói, không phải là việc mà Bí-sô nên làm, vì vậy các thầy không nên thờ cúng thiên thần". Các Bí-sô trở lại đối với các thiên thần sanh tâm khinh chê, thiên thần nói: "chúng tôi đối với các vị có lỗi gì mà bị khinh chê như vậy?", bạch Phật, Phật nói: "từ nay đối với thiên thần, các thầy không nên thờ cúng cũng không nên sanh tâm khinh chê". Sau đó có Bí-sô đến nơi khác thấy tượng của vị trời Yết thát bố đản na và Ha đăng già cù lợi ca liền đập phá, các cư sĩ thầy liền chê trách: "tượng của thiên thần không có tâm thức, vì sao lại đập phá?", các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "từ nay Bí-sô không được đập phá tượng thiên thần". Lại có Bí-sô khi du hành trong nhân giàn, vì thuận đường đi nên nhiễu phải miếu thờ trời, Phật nói: "Bí-sô không được nhiễu phải miếu thờ trời", Bí-sô vâng lời Phật dạy nên tránh đi theo đường cũ, đi đường khác gặp gai góc làm bị thương, Phật nói: "nếu vì thuận đường đi mà phải hữu nhiễu miếu thờ trời thì khi đi nên đọc tụng Thánh kệ, tằng hắng hay khảy móng tay để họ cảnh giác".
Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật: "phạm vị của đại giới là hai trạm rưỡi, Phật chế các đệ tử một ngày ba lần nên đến kính lễ hai thầy, nếu các đệ tử ở cách xa chỗ ở của hai thầy đến hai trạm rưỡi, không thể một ngày đến ba lần được thì phải làm sao?", Phật nói: "nếu ở cách xa chỗ thầy khoảng năm Câu lô xá thì nửa tháng nên đến kính lễ một lần, nếu cách xa chỗ thầy một Câu lô xá thì nên khoảng bảy tám ngày đến kính lễ một lần, nếu ở gần chỗ thầy thì một ngày nên đến kính lễ một lần, nếu ở chung với thầy thì một ngày ba lần nên đến kính lễ. Ai làm trái thì phạm tội Việt pháp".
Lúc đó Ô-ba-nan-đà cho người không có bát xuất gia thọ Cận viên, khi các Bí-sô rửa bát xong xếp cất vào chỗ để bát rồi thỉnh hai thầy đi nhiễu tháp, Bí-sô không có bát này liền đến cạnh bát của tôn giả Kiều trần như muốn lấy để dùng, tôn giả ngăn không cho lấy nói là bát của tôi, lần lượt đến lấy bát của các vị khác cũng bị ngăn như thế. Lúc đó các Bí-sô hỏi là đệ tử của ai, đáp là của Ô-bA-nan-đà, các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "không nên độ người không có bát cho xuất gia thọ Cận viên, ai độ thì phạm tội Ác tác. Nếu muốn độ cho xuất gia thì nên cho họ bát, bát nhỏ cho đến chén đồng... không để cho họ thiếu thốn".
Tôn giả A-ni-lư-đà có một đệ tử thường giữ bát cho thầy, vì bát của hai thầy trò giống nhau, khó phân biệt được nên đệ tử này ghi tên dưới đáy bát. Lúc đó có một trưởng giả thỉnh Phật và Tăng ngày mai đến nhà thọ thực, trưởng giả này trước đó có cùng với một dâm nữ tư thông nên bảo dâm nữ ngày mai đến dâng cúng thức ăn cho Phật và Tăng, nhưng dâm nữ có việc không thể đến được. Phật và Tăng sau khi đến nhà thọ thỉnh thực xong, Phật nói kệ chú nguyện rồi ra về, lúc đó đệ tử của tôn giả A-ni-lư-đà chưa ra khỏi nhà, trưởng giả hỏi mượn vị ấy cái bát, Bí-sô này liền đưa bát của thầy cho trưởng giả, trưởng giả đựng đầy thức ăn ngon vào bát rồi gửi cho dâm nữ, dâm nữ nhận rồi sớt thức ăn qua chén bát của mình, bỗng nhìn thấy tên của tôn giả ở dưới đáy bát, liền suy nghĩ: "đây là bát của bậc mô phạm đáng được trời người cúng dường, ta không nên đưa trả lại suông sẽ mất phước lợi", nghĩ rồi liền lau chùi bát rồi dùng nước thơm rửa ba lần, thoa bột thơm, đặt vòng hoa lên rồi để trên tòa cao, hữu nhiễu rồi lại để xuống đất đốt hương xông cúng dường. Lúc đó có một Bà-la-môn vốn có quen biết dâm nữ, vừa đến nhà thấy dâm nữ làm việc cúng dường này liền hỏi: "hiền thủ làm gì vậy?", đáp: "đây là bát của tôn giả Ani-lư-đà, là bậc mà trời người đều kính trọng nên tôi tự thân cúng dường bát này", Bà-la-môn nói:
"nàng đem dâm nhiễm nhiếp hết mọi người, nay đối với Sa môn Thích tử cũng chẳng bỏ qua". Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "do Bí-sô ghi tên vào vật riêng của mình nên có lỗi này, từ nay không nên viết tên lên vật dụng", các Bí-sô không biết không được viết tên lên những vật gì, Phật nói: "có năm thứ không nên viết tên lên: một là Giới kinh biệt giải thoát, hai là Quảng thích biệt giải thoát, ba là các vật, bốn là Nghĩa tương ưng với Luật giáo, năm là vật riêng của mình không nên ghi tên, chỉ nên làm dấu riêng để nhận biết", Ưu-ba-ly bạch Phật: "Thế tôn, nếu không được viết luật giáo thì các Bí-sô vị lai sẽ không thể nhớ giữ, phần nhiều quên mất; đối với duyên khởi còn không thể nhớ thì phải làm sao?", Phật nói: "nếu vậy nên ghe trên giấy, trên lá cây để thọ trì".
Cầu tịch rớt bể bát,
Khai cho người chánh niệm,
Hai loại lồng nung bát,
Vật cần dùng theo lồng.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có một Bí-sô nuôi một Cầu tịch thường sai giữ bát, sau đó Cầu tịch lở tay làm rớt bể bát khiến thầy bị thiếu bát, các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "không nên sai Cầu tịch rửa bát". Tôn giả Xá-lợi-phất có một Cầu tịch tên là Chuẩn đà cũng thường sai giữ bát, khi Chuẩn đà đến lấy bát của thầy đem rửa, tôn giả nói: "Phật đã chế học xứ không nên sai Cầu tịch rửa bát", Chuẩn đà bạch: "con há lại làm lỗi như thế hay sao?", các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "nếu biết rõ Cầu tịch có thể giữ bát cẩn thận thì nên cho họ rửa bát". Lúc đó có một Bí-sô dùng bát sắt, chất dơ làm cho bát sắt này bị lủng nhiều chỗ, bạch Phật, Phật nói: "nên dùng bát gốm nung chín", các Bí-sô liền chất nhiều củi để nung bát khiến bát bị hư, Phật nói: "không nên làm như thế, nên để bát trong cái lồng rồi mới nung ", các Bí-sô không biết làm cái lồng như thế nào, Phật nói: "lồng có hai loại: một là tự làm, hai là thợ làm. Thợ làm là đưa cho thợ gốm làm, tự làm là dùng cái vò hay cái chum cắt ra dùng", các Bí-sô để cái vò trên đất đập làm vò bị bể, Phật nói: "nên đổ tro vào đầy chum rồi dùng đinh đục từ từ từng lỗ để cắt thành hai miếng", các Bí-sô không biết lấy vật gì đắp bên ngoài, Phật nói nên dùng cỏ hay trấu làm bùn đắp bên ngoài; lại không biết lấy vật gì thoa bên trong, Phật nói nên dùng cặn dầu mè thoa bên trong rồi đợi cho khô mới nung bát. Khi nung bát xong thấy không có màu sắc, Phật bảo để trấu bên trong rồi khép hai miếng lồng lại, lấy bùn đắp bên ngoài rồi nung. Các Bí-sô để bát trên đất để nung, Phật bảo nên kê lên không thấp quá cũng không cao quá rồi mới nung, nung xong cũng không có màu sắc, Phật bảo nên nhiều lần rửa sạch khói rồi nung lại, thấy khói từ trong lồng bay ra, Phật bảo nên lấy đá vôi bít lại. Lúc đó các Bồ đề chất phân bò thành đống lớn để đốt nung làm cho bát bị hư, Phật bảo nên xếp thành từng lớp rồi đốt lửa ở trên; lại không biết sai ai canh chừng lửa, Phật bảo Bí-sô nên tự trong coi, nếu có việc riêng nên nhờ Bí-sô khác trông coi rồi mới đi. Lúc đó đốt nung bát trên đất làm chết nhiều côn trùng, Phật nói: "nếu rưới nước quét sạch, từ nay cho các Bí-sô được cất giữ lồng nung bát và các vật dụng theo với lồng để dùng không phạm".
Không lau chung một khăn,
Khi tắm ngăn người vào,
Không cạo tóc trên nệm,
Tùy bịnh mà uống ăn.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có một thí chủ xây nhà tắm cúng cho Tăng, khi các Bí-sô đang tắm, người tục đi vào thấy Lục chúng Bí-sô dùng chung một khăn tắm lau cho nhau liền chê trách: "đại sư của họ có tàm quý, sao họ lại không biết tàm quý gì cả", các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "từ nay Bí-sô không nên dùng chung một khăn tắm lau cho nhau, ai làm trái thì phạm tội Ác tác". Sau đó khi Bí-sô đang tắm, cư sĩ đi vào thấy Bí-sô dùng tay kỳ cọ chân rồi lại xoa trên đầu liền chê trách: "Sa môn Thích tử dơ bẩn không sạch, dùng tay kỳ cọ chân rồi lại xoa trên đầu", bạch Phật, Phật nói: "khi Bí-sô đang tắm, nếu không phải là cư sĩ tín tâm thì đừng cho vào và sai làm việc, ai làm trái thì phạm Ác tác". Sau đó khi các Bí-sô đang tắm, không có ai giữ cửa nên có cư sĩ đi vào, họ thấy các Bí-sô dùng tay rửa chân rồi lại rửa mặt liền chê trách như trên, Phật nói: "khi Bí-sô đang tắm nên sai người giữ cửa, chớ để cư sĩ vào". Sau đó trưởng giả Cấp-côđộc dẫn một Bà-la-môn tín kính đến trong rừng Thệ đa, Bí-sô nói chớ dẫn vào nhà tắm, Bà-la-môn nghe rồi liền nói: "tôi có lỗi gì mà ngăn không cho vào?", bạch Phật, Phật nói: "nếu biết là người tịnh tín thì nên cho vào". Lúc đó có Bà-la-môn khác thấy Bà-la-môn kia được vào liền nói: "người kia được vào sao lại ngăn tôi", Bí-sô nói: "vì họ là người đã quy y và thọ học xứ", Bà-la-môn này nói:
"hãy cho tôi vào, tôi sẽ quy y và thọ học xứ", Bí-sô liền cho vào, Bà-la-môn này đi vào thấy Bí-sô lau hạ phần rồi lại lau trên đầu liền chê trách như trên, Phật nói: "biết người nào tín tâm đã lâu mới cho vào, nếu mới có tín tâm thì chớ cho vào".
Duyên xứ như trên, lúc đó có một trưởng giả thỉnh Phật và Tăng vào nhà tắm để tắm rửa, khi Phật và các Bí-sô đến, thấy có một Bí-sô đang lau và kỳ cọ cho một Bí-sô khác liền bảo các Bí-sô: "các thầy có thấy Bí-sô đang kỳ cọ cho Bí-sô kia không?", đáp là có thấy, Phật nói: "Bí-sô đang kỳ cọ là bậc A-la-hán đã dứt hết các lậu hoặc, Bí-sô được kỳ cọ là người phá giới ác hạnh, các thầy nên biết, sư tử không nên hầu hạ dã can".
Duyên xứ như trên, lúc đó có một trưởng giả cưới vợ chưa bao lâu, vợ sanh được một trai, người con này lớn lên xuất gia trong pháp luật thiện thuyết, thường tìm người hơn mình để học hỏi nghĩa lý nên đi đến các phương để được học rộng nghe nhiều. Thời gian sau trở về thành Thấtla-phiệt, người cha nghe tin liền đến thăm con, Bí-sô này nói sơ lược pháp yếu cho cha nghe và khuyên cha nên quy y Tam bảo và thọ trì học xứ. Vào thời khác, Bí-sô lại nói về công đức của bảy phước nghiệp hữu sự, người cha nghe rồi sanh tâm tín kính nói với con: "nay cha cũng muốn làm công đức của bảy phước nghiệp hữu sự", Bí-sô nói tùy ý, người cha hỏi nên làm gì, Bí-sô nói nên làm nhà tắm cho Tăng, người cha liền trở về nhà lo liệu mọi việc xong rồi đến nói với con: "thầy hãy nhân danh tôi thỉnh Phật và Tăng đến trong nhà tắm tắm rửa", Bí-sô liền nhân danh người cha thỉnh Phật và Tăng đến trong nhà tắm để tắm rửa. Lúc đó người cha tự tay dùng bột tắm kỳ cọ thoa dầu cho Bí-sô, sau đó bảo Bí-sô kỳ cọ cho mình, Bí-sô nói: "Phật đã chế học xứ", người cha hỏi chế như thế nào, Bí-sô nói: "Phật chế không cho sư tử hầu hạ dã can, nên con không thể", người cha hỏi: "ai là sư tử, ai là dã can?", Bí-sô nói: "con là sư tử, cha là dã can", người cha nói: "thật là việc diệu kỳ, tôi là dã can lại có thể sanh con là sư tử". Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "tất cả bậc làm cha mẹ đối với con mình có thể làm những việc khó làm, gánh vác nhiều khổ nhọc, cho dù cha mẹ là người cực phá giới, phận làm con cũng nên cung cấp hầu hạ. Tư nay ta khai cho đối với năm hạng người dù là cực phá giới cũng nên cung cấp, đó là cha mẹ, Thân giáo sư, Quỹ phạm sư và người bịnh".
Phật tại thành Thất-la-phiệt, có một trưởng giả xây cất một căn nhà nơi A-lan-nhã cho các Bí-sô tùy duyên khất thực nương ở. Lúc đó có Bí-sô khất thực với râu tóc dài đến, trưởng giả thấy liền hỏi: "vì sao Thánh giả để râu tóc dài như vậy?", đáp là vì không có người cạo, trưởng giả nói: "để tôi sai người đến cạo cho Thánh giả", khi người thợ cạo tóc đến, Bí-sô nằm trên nệm cho người ấy cạo tóc. Trưởng giả không biết Bí-sô có cạo tóc hay chưa nên đến trú xứ xem thử, đến nơi liền ngồi trên nệm, không ngờ tóc mới cạo rớt xuống dính trên nệm làm dính dơ y phục của trưởng giả. Khi vế đến nhà, vợ trưởng giả thấy liền hỏi: "ông có việc gì đến nhà thợ cạo làm cho tóc dính dơ hết quần áo vậy?", trưởng giả suy nghĩ: "không lẽ Bí-sô nằm trên nệm để cạo tóc", nghĩ rồi liền quay trở lại trú xứ thì thấy trên nệm quả có tóc mới cạo, ông nói với Bí-sô: "thầy nên cạo tóc ở chỗ khác, không nên nằm trên nệm cạo tóc làm dơ hết nệm". Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "từ nay không được nằm trên nệm cạo tóc, nên cạo ở ngoài đất trống, chỗ đất Tăng già đã rưới quét sạch sẽ cũng không được ở chỗ đó cạo tóc. Ai làm trái thì phạm tội Ác tác". Sau đó có Bí-sô bịnh, không thể ra ngoài cạo tóc vì sợ gió mưa, bạch Phật, Phật nói: "nếu bịnh không có sức thì có thể tùy chỗ cạo tóc, nhưng phải quét dọn sạch sẽ ở chỗ ấy. Ai làm trái thì phạm tội Ác tác". Lúc đó có Bí-sô cắt móng tay móng chân vất bỏ bừa bãi, Phật nói: "nếu cắt móng tay móng chân vất bỏ nơi đất sạch của tăng thì phạm tội Ác tác".
Duyên xứ như trên, lúc đó có Bí-sô bị bịnh khổ bức bạch nên đến yêu cầu thầy thuốc chữa trị, thầy thuốc nói: "nên lấy bột lúa mạch khuấy với nước dùng làm thuốc uống phi thời", Bí-sô nói Phật chưa khai cho, thầy thuốc nói: "Thế tôn đại bi ắt sẽ khai cho", Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "nếu thầy thuốc bảo thế thì nên lấy loại lúc mạch mà bò không răng đã ăn rồi thải ra còn nguyên để làm bột khuấy với nước dùng làm thuốc uống phi thời", Bí-sô dùng xong vẫn không hết bịnh, thầy thuốc hỏi rõ nguyên do rồi nói: "bột đó không phải thuốc, phải dùng bột sống", bạch Phật, Phật nói: "nên khuấy nhiều nước, lượt rồi mới uống dùng", bịnh vẫn không hết, thầy thuốc nói phải dùng lúc chưa lượt, bạch Phật, Phật nói: "thầy thuốc cho toa thuốc bảo dùng bột khuấy uống, khuấy đặc hay vò thành viên đều được tùy ý dùng".
Duyên xứ như trên, lúc đó lại có Bí-sô bịnh đến thầy thuốc yêu cầu chữa trị, thầy thuốc nói: "nên dùng miếng thịt lợn nấu lấy nước uống phi thời", Bí-sô nói Phật chưa khai cho, thầy thuốc nói: "Thế tôn đại bi ắt sẽ khai cho", Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "nếu thầy thuốc bảo thế thì nên lấy thịt mà loại thú tên Sài đã ăn, do trong bụng nó có ruột thẳng nên sau khi ăn thịt xong thải ra ngoài còn nguyên tính chất, lấy thịt này nấu lấy nước uống phi thời", Bí-sô dùng xong vẫn không hết bịnh, thầy thuốc hỏi rõ nguyên do rồi nói: "thịt đó là vật cũ không thể dùng làn thuốc được, nên lấy thịt tươi sống", bạch Phật, Phật nói: "nên lượt rồi mới uống", bịnh vẫn không hết, thầy thuốc nói nên uống lúc chưa lượt, bạch Phật, Phật nói: "tùy thầy thuốc bảo thế nào hoặc khô hay ướt và có khí vị thì tùy ý dùng như thế ấy để trị bịnh". Phật bảo các Bí-sô: "tất cả những gì ta khai cho người bịnh được dùng phi thời, sau khi hết bịnh không được dùng nữa, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp".
Ống khói, y hoại sắc,
Ống mũi, ly uống nước,
Ống kim trừ vật báu,
Que chấm thuốc nhỏ mắt.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật:
Hỏi: như Phật đã khai cho Bí-sô được cất dùng ống khói, vật này nên làm bằng gì?, Phật nói trừ vật báu ra, làm bằng các vật khác đều được cất chứa để dùng.
Lại hỏi: như Phật đã khai cho Bí-sô mặc y hoại sắc, y này nên làm bằng gì?
Phật đáp: nên dùng bảy loại chỉ sợi để may rồi tùy ý cất chứa để dùng.
Lại hỏi: Phật khai cho Bí-sô cất dùng ống nhỏ mũi, vật này nên làm bằng gì?, Phật nói trừ vật báu.
Lại hỏi: Phật khai cho Bí-sô cất dùng ly uống nước, vật này nên làm bằng gì?, Phật nói trừ vật báu.
Lại hỏi: Phật khai cho Bí-sô cất dùng que chấm thuốc để nhỏ mắt, vật này nên làm bằng gì?, Phật nói trừ vật báu.
Vật đựng thuốc, nệm, thảm,
Kê chân khô, thuốc xổ,
Bí-sô không nên làm,
Nên chọn y người chết.
Tôn giả Ưu-ba-ly lại hỏi: "Phật khai cho Bí-sô cất dùng vật đựng thuốc, vật này nên làm bằng gì?", Phật nói trừ vật báu, lại hỏi: "Phật khai cho Bí-sô cất dùng nệm, thảm; nệm này nên làm bằng gì?", Phật nói: "được dùng bảy loại chỉ sợi để dệt thành và tùy ý cất dùng", lại hỏi: "Phật khai cho Bí-sô được dùng vật kê chân cho khô, vật này nên làm bằng gì?", Phật nói trừ vật báu.
Duyên xứ như trên, lúc đó có một trưởng giả bịnh đến thầy thuốc yêu cầu chữa trị, thầy thuốc nói: "nên ăn thức ăn có chất dầu mở để động bịnh rồi uống thuốc xổ", trưởng giả liền ăn thức ăn có dầu mở. Có một Bí-sô thường tới lui nhà này nên khi nghe trưởng giả bịnh liền đến thăm hỏi, trưởng giả nói: "tôi bị bịnh khó tiêu, thầy thuốc bảo ăn thức ăn có dầu mở rồi uống thuốc xổ", Bí-sô nghe rồi liền nói: "tôi giỏi về thuốc, hay là ông đưa tiền mua thuốc cho tôi, tôi sẽ đưa lại cho ông thuốc xổ", trưởng giả bằng lòng đưa tiền lấy thuốc. Sau khi uống thuốc xổ này rồi không ngời do thuốc mạnh nên xổ mãi không cầm lại được, vội sai người đến hỏi thầy thuốc, thầy thuốc hỏi ống thuốc của ai đưa, đáp là của Bí-sô đưa, thầy thuốc bảo đến hỏi Bí-sô đã đưa thuốc gì cho uống, khi người này đến hỏi Bí-sô thì trưởng giả đã mạng chung. Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "từ nay Bí-sô không được bán thuốc, nếu Bí-sô giỏi về thuốc nên khởi tâm từ bi tùy bịnh cho thuốc, nhưng không nên đưa thuốc xong rồi lại bỏ đi, nên xem xét thuốc có dùng quá độ hay không. Nếu có việc phải đi thì nên bảo người khác ở lại chăm sóc rối mới đi, khi đi nên dặn lại rằng nếu thấy thuốc công phạt mạnh thì nên lấy thuốc __________ để giải. Nếu Bí-sô nhận tiền rồi đưa thuốc hay thuê người khác làm thì đều phạm Ác tác".
Duyên xứ như trên, có một người mắc nợ trưởng giả kia tiền, đã hẹn lại qua bảy ngày sau sẽ trả, hạn trả nợ gần kề mà vẫn không có tiền trả nên người mắc nợ này suy nghĩ: "ta không có tiền trả, nên bỏ trốn là hơn, nhưng bỏ nhà trốn đi cũng khó, nên giết chết ông chủ nợ là tốt nhất", nghĩ rồi liền rình đợi trưởng giả kia đi đến gần rừng Thệ đa liền giết chết, bỏ đó rồi đi. Lúc đó Lục chúng Bí-sô đi đến thấy y phục thượng hạng trên xác của trưởng giả liền nói với nhau: "được y phấn tảo này rất tốt", nói rồi liền lột lấy y phục này, vừa lúc đó thân tộc của trưởng giả đi đến nhìn thấy liền quở mắng: "các vị mặc y phục của bậc đại tiên, vì sao lại làm việc phi pháp này", Lục chúng Bí-sô nói: "người nay không phải do tôi giết, chắc là có oán thù với ai nên mới bị giết như thế, chúng tôi chỉ là lấy y phấn tảo mà thôi". Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "từ nay Bí-sô không nên vội lấy y phấn tảo như thế, nếu mọi người đều biết đó là vật bỏ thì mới được lấy, ai làm trái thì phạm tội Ác tác".
Nồi sắt và vá muỗng,
Tự thân không mang vác,
Vật thực giúp cha mẹ,
Không mặc y lông dài.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật: "như Phật đã khai cho Bí-sô cất chứa nồi sắt để nấu nước nóng, vật này nên làm bằng gì?", Phật nói trừ vật báu, lại hỏi: "Phật khai cho Bí-sô được cất chứa chén và muỗng để uống thuốc, vật này nên làm bằng gì?", Phật nói trừ vật báu.
Duyên xứ như trên, lúc đó Lục chúng Bí-sô tự mang vác vật nặng, các cư sĩ thấy liền chê trách: "người tục chúng tôi vì cha mẹ vợ con nên tự thân phải mang vác nặng nhọc để tìm cầu y thực, các thầy vì ai mà phải mang vác vật nặng như thế", bạch Phật, Phật nói: "từ nay Bí-sô không nên mang vác vật nặng trên đầu, trên vai hay trên lưng. Ai làm trái thì phạm tội Ác tác".
Duyên xứ như trên, lúc đó có một cư sĩ cưới vợ chưa bao lâu thì vợ sanh được một trai, dung mạo đoan nghiêm ai thấy cũng yêu mến, người cha mở tiệc ăn mừng rồi giao đứa bé cho nhũ mẫu chăm sóc. Đến tuổi trưởng thành, người con này xuất gia theo Phật, ngày đầu tiên đắp y mang bát vào thành khất thực gặp cha, người cha nói: "đối với ta có công ơn sanh thành dưỡng dục, không ngờ nay con lớn khôn lại xuất gia, không giúp đỡ được gì cho ta", Bí-sô nói: "nay con đã xuất gia không thể làm việc của tục gia được". Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "cha mẹ vì con đã làm những việc khó làm, gánh vác nhiều nhọc nhằn; con dù có xuất gia cũng nên cung cấp cho cha mẹ", Bí-sô không biết lấy gì cung cấp cho cha mẹ, Phật nói: "trừ y bát ra, các tài vật khác đều có thể cung cấp; nếu không có tài vật khác thì có thể tùy thời xin thí chủ; nếu xin khó được thì nên lấy lợi dưỡng thường được chia từ Tăng, cung cấp cho cha mẹ; nếu không có lợi vật thì nên lấy phần thức ăn được chia từ Tăng, bớt phân nửa cung cấp cho cha mẹ; nếu thường khất thực thì tùy được cho bao nhiêu, lấy phần mình vừa đủ no, phần còn lại cung cấp cho cha mẹ".
Duyên xứ như trên, lúc đó có một thí chủ xây dựng một trú xứ ngay trong tụ lạc cúng cho Tăng, có một Bí-sô già sống tại trú xứ này, sau đó vì muốn lễ tháp nên đi đến rừng Thệ đa. Lục chúng Bí-sô vì tham lợi dưỡng nên cùng lập chế mỗi ngày luân phiên cho một người đứng ở trước cửa cổng, hôm đó đến phiên của Ô-ba-nan-đà, từ xa thấy một Bí-sô già đang đi đến, Ô-ba-nan-đà không biết là Thượng tòa nào nên đi tới trước chào hỏi thiện lai, Bí-sô già này liền đáp lại: "xin kính lễ A-giá-lợi-da", Ô-ba-nan-đà vừa nghe liền biết đây là một Mô ha la nên nói: "thiện lai lão phụ", rồi đưa vào trong giải lao và nghỉ ngơi, sau đó Bí-sô già nói là muốn đi, hỏi là muốn đi làm việc gì, đáp là muốn lễ tháp rồi trở về, Ô-ba-nan-đà khuyên ở lại, liền đáp: "vì trước khi đi, tôi không có định ở lại nên không mang theo ba y, nay muốn lễ tháp rồi trở về trú xứ". Lúc đó đến giờ lễ tháp, Tăng đánh kiền chùy tập họp, Bí-sô già muốn đi theo lễ tháp, Ô-ba-nan-đà nói: "ông không có ba y làm sao lễ tháp, ở đây tôi có ba y sẽ đưa cho ông tạm mặc", nói rồi liền đưa cho Bí-sô già ba cái mền lông dùng làm ba y: một cái quấn làm hạ y rồi dùng dây thô cột làm dây lưng, quấn một cái khác day lông hướng ra ngoài làm y Uất Đa-la tăng, lại quấn thêm cái khác cũng day lông hướng ra ngoài làm y Tăng-già-lê. Xong xuôi rồi liền bảo Bí-sô gia này đi lễ tháp, các Bí-sô thấy liền hỏi: "này Mô ha la, ông ở đâu mà lại mặc y đùa giỡn kiểu này?", đáp: "ba y mà tôi mặc đều đúng như Phật đã chế, sao lại nói là đùa giỡn", lại hỏi: "ai đã đưa cho ông ba y này thọ trì?", đáp là Đại đức Ôba-nan-đà, các Bí-sô nói: "trừ nhóm đó ra, ai lại làm việc xấu xa như vậy", bạch Phật, Phật nói: "do mặc y phục có lông dài nên có lỗi này, từ nay tất cả loại vải có lông dài đều không được dùng làm ba y. Ai làm trái thì phạm tội Ác tác". Sau đó có các cư sĩ tịnh tín đem Giạ nỉ lông đến cúng cho Tăng, Bí-sô không thọ nên các cư sĩ nói: "khi Phật chưa ra đời, chúng tôi xem ngoại đạo là chỗ tu phước; nay Phật ra đời, chúng tôi xem các vị là đại phước điền. Vì sao các vị không thọ vật của chúng tôi cúng, há không phải khiến chúng tôi bỏ tư lương tốt thú hướng cho đời sau hay sao?", bạch Phật, Phật nói: "nên thọ nhưng khi thọ dụng khởi tưởng là vật của họ, nếu là Giạ nỉ có lông ngắn thì lấy làm y dư để thọ trì, nếu là Giạ nỉ dày lớn có lông dài thì khi thọ dụng nên tưởng là vật của thí chủ".
Xây tháp thờ tóc, móng,
Nên sơn màu trắng sáng,
Tùy ý trang trí đèn,
Làm mái hiên cao lên.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó trưởng giả Cấp-cô-độc đến bạch Phật: "con muốn xây tháp thờ tóc, móng tay của Phật, xin Phật chấp thuận", Phật nói tùy ý, lại xin Phật cho sơn màu trắng sáng và thắp đèn thành hàng trên tháp, Phật nói tùy ý. Trưởng giả trang trí đèn trên bậc thềm, dầu chảy xuống làm dơ tháp, Phật bảo nên để dưới bậc thềm, lại bị chó đến đụng làm ngã hư đèn, trưởng giả xin Phật cho làm chân đèn, Phật nói tùy ý, lại bị bò đến húc ngã, trưởng giả lại xin Phật cho làm giá đèn, Phật nói nên làm. Lúc đó bốn phía tuy có để đèn nhưng nhìn ra xa không rõ, trưởng giả lại xin Phật cho làm mái hiên trên cao, Phật nói tùy ý.
Cửa tháp và mái che,
Xây thêm nền dưới tháp,
Dùng đá đỏ, bột tía tô
Phật cho tùy ý làm.
Lúc đó trưởng giả lại xin Phật cho làm cửa tháp, mái che nơi hành lang và lát nền tháp bằng đá đỏ, dùng bột tía tô vẽ các đồ hình, Phật nói tùy ý làm.
Không được dùng đinh đóng,
Và leo lên trên tháp,
Cúng hoa bằng vàng bạc,
Làm mái che trên tháp.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó các Bí-sô muốn treo vòng hoa cúng dường tháp nên leo lên tháp đóng đinh để treo, các cư sĩ chê trách: "Đại sư đã bỏ gai góc từ lâu, vì sao các thầy lại dùng đinh đóng lên", bạch Phật, Phật nói: "từ nay không nên dùng đinh đóng trên tháp, ai làm trái thì phạm tội Ác tác. Khi mới xây tháp nên làm thêm cọc ngà voi ở bên ngoài để treo". Các Bí-sô lại leo lên đỉnh tháp để đèn, Phật nói: "không nên để đèn trên đỉnh tháp cao, ai làm trái thì phạm tội Ác tác". Lúc đó các cư sĩ thấy Bí-sô lên tháp treo phan lọng và các vật cúng dường liền chê trách, Phật nói: "nên bảo tịnh nhân làm, nếu không có tịnh nhân thì bảo Cầu tịch, nếu không có Cầu tịch thì Bí-sô nên rửa chân sạch bằng nước thơm và tác ý muốn cúng dường đại sư rồi mới lên tháp. Ai làm trái thì phạm tội Ác tác. Nếu tháp quá cao nên dùng dây cột từ trên xuống dưới rồi nắm dây leo lên". Lúc đó các cư sĩ khi đến tháp đều mang theo vòng hoa để cúng dường, những hoa đã cúng trước khô héo không ai vất bỏ nên tháp không sạch sẽ, Phật bảo nên vất bỏ. Trưởng giả Cấp-cô-độc liền xin Phật cho dùng vòng hoa bằng vàng bạc để cúng dường tháp, Phật nói tùy ý. Trên tháp có chim đậu phóng uế khiến tháp không sạch, trưởng giả xin Phật cho làm mái che trên tháp, Phật nói tùy ý. Do tháp không làm cửa nên bên trong tối tăm, Phật bảo nên làm thêm cửa.
Dùng sắt xây dựng tháp,
Cho đến dùng bảy báu,
Lại cho cúng cờ phướn,
Cho đến dùng dầu thơm.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó trưởng giả Cấp-cô-độc xin Phật cho dùng sắt để xây tháp, cho đến dùng bảy báu như vàng bạc..., Phật đều cho làm. Lại xin Phật cho dùng cờ phướn và lụa nhiều màu để tráng hoàng tháp, Phật nói tùy ý, không biết làm cờ phướn như thế nào, Phật nói: "có bốn loại cờ phướn: cờ hình Sư tử, cờ hình Trâu, cờ hình Kim súy điểu và cờ hình rồng", lại xin Phật cho dùng dầu thơm thoa cho đến dùng bột tía, nước chiên đàn trầm thủy để chùi rửa tháp, Phật đều cho tùy ý làm.
Khóa cửa, tùy chỗ dùng,
Thấm y, đại tiểu tiện,
Nhuộm y, lạm nhận y,
Mua chịu, trái, bất tịnh.
Khóa cửa, gối dựa, lưới,
Nhận gạo cho chúng dùng,
Làm phòng riêng trong chùa,
Người ở được thọ dụng.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật: "Phật cho làm vòng khoen khóa cửa, vật này nên làm bằng gì?", Phật nói: "trừ vật báu, các vật khác đều được làm", lại hỏi: "Phật cho làm gối dựa, vật này nên làm bằng gì?", Phật nói: "trong bảy loại chỉ sợi, tùy lấy dùng một loại để làm", lại hỏi: "Phật cho làm lưới, lưới nên làm bằng gì?", Phật nói: "cỏ tranh, cỏ cói, dây gai... đều có thể dùng để làm", lại hỏi: "Phật cho làm song cửa lưới, nên dùng vật gì làm?", Phật nói: "trừ vật báu, các vật khác đều được làm".
Duyên xứ như trên, trong thành có một trưởng giả kính tín Tam bảo, tâm ý thuần thành, ưa thích hiền thiện hằng ngày thỉnh Tăng đến nhà thọ thực. Sau đó ông cưới vợ là tín đồ của ngoại đạo lõa hình nên bảo vợ: "Đấng vô thượng từ phụ là đại sư của ta và Tăng già là phước điền thắng thượng, nàng nên cúng dường y thực cho các vị ấy", một hôm có việc phải đi qua thôn khác, trước khi đi ông dặn vợ: "trong thời gian ta vắng nhà, nàng phải thường cúng dường Phật và Tăng không để thiếu thốn như lúc ta ở nhà", người vợ nhận lời. Trưởng giả lại đến bạch Tăng: "nay con có việc phải vắng nhà ít hôm, cúi xin Tăng già vẫn như trước đến nhà con thọ thỉnh thực", các Bí-sô nhận lời rồi nói với nhau: "vợ của trưởng giả vốn không có tín tâm, ai đến phiên thọ thỉnh thực nên đến đó sớm". Sáng hôm sau, các Bí-sô đến nhà thọ thỉnh thực sớm, vợ trưởng giả thấy đến sớm liền trách: "tôi chưa làm thức ăn xong, cũng chưa trải tòa ngồi, tại sao các vị lại đến sớm như thế", các Bí-sô nghe rồi nói với nhau: "hôm nay đến sớm lại bị giận trách, vậy ngày mai vào giờ ngọ chúng ta mới đến thọ thỉnh thực". Qua ngày mai, vợ của trưởng giả nấu thức ăn và trải tòa ngồi sớm nhưng mãi đến giờ ngọ các Bí-sô mới đến, bà liền trách: "các Thánh giả, đâu phải tôi rảnh rỗi để làm mỗi việc này, từ sáng sớm tôi đã dọn thức ăn lên và trải tòa ngồi, vì sao mãi đến giờ ngọ các vị mới đến", các Bí-sô nghe rồi nói với nhau: "đến sớm thì giận trách, đến trưa cũng giận trách, từ ngày mai chúng ta như thường lệ theo thứ lớp khất thực, không đến nhà này thọ thỉnh thực nữa". Sau khi lo liệu công việc xong, trưởng giả trở về nhà và hỏi vợ các Thánh giả có đến thọ thỉnh thực không, người vợ nói: "hai ngày đầu có đến, sau đó không thấy đến nữa", trưởng giả nghe rồi liền biết là do vợ mình bỏn xẻn nên mới như thế, sau đó gặp các Bí-sô khất thực liền hỏi nguyên do, Bí-sô đáp: "chúng tôi theo thứ lớp khất thực cũng được no đủ", trưởng giả nói: "con biết là do vợ con bỏn xẻn, nhưng ruộng lúa của con vừa mới chín, xin dâng cúng cho các thầy mang về trong chùa", Bí-sô nói Phật chưa cho thọ, bạch Phật, Phật nói: "nên thọ, khởi tưởng là vật của người, nhận mang về cho Tăng thì không phạm".
Lúc đó có một trưởng giả xây cất một phòng đặc biệt trong rừng Thệ đa có đầy đủ giường nệm và các lợi vật, các Bí-sô luân phiên theo thứ lớp đến ở, có người đem lợi vật trong phòng này để xen lẫn vào lợi vật của Tăng, bạch Phật, Phật nói: "lợi vật trong phòng đặc biệt, tùy ai ở trong đó thì được thọ dụng".
Tùy ở được thọ dụng,
Người xây cất cần dùng,
Khí cụ và đèn dầu...,
Dùng theo ý thí chủ.
Duyên xứ như trên, khi các Bí-sô lấy lợi vật trong phòng đặc biệt để xen lẫn vào lợi vật của Tăng, Phật nói: "tùy người nào được ở trong phòng đó thì được thọ dụng, không nên lấy lợi vật đã có để xen lẫn vào lợi vật của Tăng", lúc đó khi phân chia lợi vật cho chúng tăng, vị thọ sự không chịu chia cho người đang ở trong phòng đặc biệt này, Phật nói: "tuy ở trong phòng đặc biệt nhưng vẫn được chia lợi vật của chúng tăng". Sau đó khi yết ma sai làm người thọ sự, Tăng không sai người đang ở trong phòng đặc biệt này, Phật nói nếu luân phiên đến thứ lớp thì nên sai.
Lúc đó trong thành có một Bí-sô khất thực, giáo hóa được một thí chủ quy y Tam bảo và thọ trì năm học xứ; sau đó lại nói về công đức của bảy phước nghiệp hữu sự, thí chủ nghe rồi liền muốn tu phước nghiệp nên hỏi Bí-sô làm việc gì, Bí-sô bảo nên xây cất trú xứ cho Tăng, thí chủ nói: "con có tài vật nhưng không có người coi giúp", Bí-sô nói: "ông mang tài vật đến, tôi sẽ coi giúp cho ông", thí chủ liền mang tài vật đến đưa cho Bí-sô, Bí-sô nhận rồi để ở trong phòng mình. Sau đó thí chủ muốn biết việc xây cất trú xứ đến đâu rồi nên đến xem thử, không ngờ đến nơi thấy chưa làm gì hết liền hỏi Bí-sô nguyên do, Bí-sô nói: "cái tôi cần dùng là khí cụ và vật liệu xây dựng nhưng lại không có nên không thể khởi công được", thí chủ nói: "tài vật tôi đưa sao không đem ra dùng đổi lấy khí cụ và vật liệu xây dựng?", Bí-sô nói: "tài vật ấy thuộc Tứ phương tăng nên tôi không dám lấy dùng", bạch Phật, Phật nói: "nếu là ý của thí chủ thì Bí-sô nên lấy tài vật ấy ra đổi lấy khí cụ và vật liệu xây dựng". Sau đó, thí chủ thấy Bí-sô này lại theo thứ lớp khất thực liền hỏi: "thầy đi khất thực như vậy thì ai trông coi việc xây cất?", đáp: "không lẽ tôi nhịn đói để trông coi hay sao?", thí chủ nói: "tài vật tôi đưa sao không trích lấy ra dùng vào việc ăn uống?", đáp: "Phật chưa cho lấy dùng tài vật thuộc Tứ phương tăng", bạch Phật, Phật nói: "nếu là ý của thí chủ thì Bí-sô nên trích lấy dùng cho việc ăn uống". Bí-sô dùng toàn là thức ăn thượng diệu nên Phật nói: "không nên như vậy, chỉ nên ăn loại thức ăn thường", Bí-sô ăn toàn là thức ăn thô dỡ nên không đủ sức để trông coi công việc xây cất, Phạt nói: "Bí-sô nên ăn loại thức ăn như Tăng ăn hằng ngày". Lúc đó Bí-sô để khí cụ và vật liệu xây dựng trong phòng, vì trong phòng tối nên cần có đèn dầu phải đi xin, thí chủ thấy xin dầu liền hỏi xin dầu làm gì, Bí-sô nói rõ nguyên do, thí chủ nói: "vì sao không trích lấy tài vật ra đổi?", bạch Phật, Phật nói: "nếu là ý của thí chủ thì Bí-sô nên trích lấy ra dùng không phạm". Bí-sô để đèn sáng suốt đêm, Phật nói: "không nên đốt đèn suốt đêm, thu cất khí cụ xong nên tắt đèn. Như vậy nên biết từ khăn lau chân cho đến các duyên xây dựng đều theo đây mà thọ dụng".
Để mưa thấm vật Tăng,
Nửa đêm chia ngọa cụ,
Giường nhỏ chia theo tuổi,
Chiếu mền cũng như vậy.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó Lục chúng Bí-sô đem ngọa cụ đã bỏ ra không dùng để nơi đất trống, bị mưa thấm ướt làm hư hoại. Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "không nên để ngọa cụ của Tăng ngoài đất trống suốt mùa hạ, bị mưa thấm ướt làm hư hoại. Ai không thu cất thì phạm tội Ác tác".
Lúc đó các Bí-sô mặc y Tăng-già-lê giặt, nhuộm y và làm bát khiến y bị hư hoại, Phật nói: "nếu mặc y Tăng-già-lê giặt, nhuộm y và làm bát thì phạm tội Ác tác".
Lúc đó Lục chúng Bí-sô du hành trong nhân gian, khi đến một trú xứ Tăng trong một tụ lạc thì đã nửa đêm, chúng tăng trong trú xứ đều đã ngủ. Họ kêu dậy nói: "này các cụ thọ, chánh pháp của Đại sư còn ở đời sao các vị không phụng hành theo, đừng để sau này phải hối hận. Các vị hãy thức dậy chia ngọa cụ dựa theo tuổi hạ cho chúng tôi", các Bí-sô cựu trụ đều thức dậy tập họp các ngọa cụ của Tăng lại để chia cho Lục chúng Bí-sô, họ nhận ngọa cụ rồi tìm chỗ ngủ, chúng tăng thu xếp xong thì trời vừa sáng. Lục chúng Bí-sô thức dậy, muốn ra đi nên bảo Bí-sô cựu trú thu cất ngọa cụ, Bí-sô cựu trụ nói: "Thượng tòa chỉ an thân có một đêm mà làm cho chúng tăng phải mệt nhọc sanh bịnh". Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "Bí-sô cựu trụ không nên chia ngọa cụ vào ban đêm, nếu khách Bí-sô chỉ ngủ lại một đêm thì nên ngủ tạm ở chỗ thân hữu; nếu ở lại lâu thêm thì mới chia ngọa cụ theo tuổi hạ cho khách. Ai làm trái thì phạm tội Ác tác".
Lúc đó Lục chúng Bí-sô cùng các Bí-sô du hành trong nhân gian, đến trong một trú xứ Tăng thấy giường nệm trải sẵn của các Bí-sô cựu trụ, liền chiếm lấy giường nệm lớn và tốt mà nằm. Do họ cũng là bậc Thượng tòa nên không ai bảo họ qua chỗ khác nằm, các Bí-sô kỳ túc khác đành phải nằm ngủ dưới đất. Khi các Bí-sô này đi đến rừng Thệ đa, các Bí-sô cựu trụ chào thiện lai và thăm hỏi có được an lạc không, đáp là không an lạc rồi kể lại việc trên, các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "nếu là giường nệm lớn tốt thì nên theo thứ lớp từ bậc Thượng tòa mà chia cho nhau".
Ở chỗ đại tiểu tiện,
Kinh hành không não người.
Rửa chân, vải lau giày,
Nồi, sạn... không đoạt dùng.
Duyên xứ như trên, lúc đó Lục chúng Bí-sô ở chỗ đại tiểu tiện thường qua lại kinh hành hoặc nói chuyện, đọc tụng..., hễ thấy có Bí-sô nào muốn vào nhà xí thì liền ngăn lại nói rằng: "khoan hãy vào, ta lớn hơn nên vào trước", mục đích là xúc não các Bí-sô. Các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "không được ở chỗ đại tiểu tiện kinh hành xúc não người khác, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp".
Lục chúng Bí-sô ở chỗ rửa chân, đuổi người khác đang rửa chân bên lu nước đứng dậy đi để cho họ rửa chân, Phật nói: "ở chỗ rửa chân, người khác chưa rửa xong, không được cưỡng ép họ đứng dậy để cho mình rửa. Ai đến trước thì rửa trước, không tính theo tuổi hạ lớn nhỏ, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp". Lúc đó có Bí-sô đang lau giày, Lục chúng Bí-sô đoạt lấy khăn lau nói rằng: "ta lớn hơn nên lau trước", Phật nói: "nếu người khác lau chưa xong mà đoạt lấy dùng thì phạm tội Việt pháp, trong việc làm này không tính theo tuổi hạ lớn nhỏ". Lại có Bí-sô đang nấu thuốc chưa xong, Lục chúng Bí-sô đoạt lấy nồi cho đến lấy cái sạn để dùng trước bị Phật quở trách như trường hợp trên.
Nồi, bình dùng nhuộm y,
Bát của Tăng, ly tách,
Dao nhíp, kéo cắt móng,
Kê giường không tính tuổi.
Duyên xứ như trên, lúc đó các Bí-sô dùng nồi, thau, bình nước... của Tăng để nhuộm y, đang nấu nước nhuộm chưa xong thì Lục chúng Bí-sô đoạt lấy để dùng trước bị Phật quở trách cũng như các trường hợp trên. Lại có Bí-sô dùng bát cho đến ly uống nước của Tăng, đang dùng chưa xong thì Lục chúng Bí-sô đoạt lấy để dùng trước bị Phật quở trách giống như trên. Lại có Bí-sô đang cạo tóc chưa xong, Lục chúng Bí-sô đoạt lấy dao để cạo tóc trước; cho đến đá mài dao, kéo cắt móng tay và vật kê chân giường... đoạt lấy lúc người khác chưa làm xong đều bị Phật quở trách như các trường hợp trên.
Đo cắt Yết-sỉ-na,
Kim chỉ lúc đang may,
Nước nhuộm... các vật dụng,
Đang dùng không được đoạt.
Duyên xứ như trên, lúc đó một Bí-sô đang dùng thước đo vải của Tăng để đo vải cắt may y Yết-sỉ-na thì Lục chúng Bí-sô đến đoạt lấy để dùng trước, cho đến kim chỉ lúc người khác đang may, nước nhuộm y... các vật dụng lúc người khác đang dùng chưa xong mà đoạt lấy đều bị Phật quở trách giống như các trường hợp ở trên.
Ngoại đạo lạm nhận y,
Ký hiệu, khi chết cho,
Có năm loại thân hữu,
Tác pháp xin được đi.
Phật tại Trúc lâm, thành Vương xá, lúc đó vua Ảnh Thắng nước Ma-kiệt-đà sau khi nghe Phật thuyết diệu pháp được kiến đế, cùng tám vạn chư thiên và các trưởng giả, cư sĩ, Bà-la-môn trong nước Ma-kiệt-đà có hơn trăm ngàn người. Ở trong đại chúng này vua lập chế nghiêm và thông báo cho nhân dân trong nước đều biết là cấm ngặt không được trộm cướp, nếu ai trái phạm sẽ bị đuổi ra khỏi nước và tịch thu hết tài sản của kẻ cướp để bồi thường cho người bị cướp. Lúc đó Phật cũng thuyết kinh Thiếu niên cho vua Thắng quang nước Kiều-tát-la, vua được điều phục rồi cũng lập chế nghiêm cho nhân dân trong nước mình là cấm ngặt không được trộm cướp, ai trái phạm sẽ bị xử tử và tịch thu hết tài sản của kẻ cướp để bồi thường cho người bị cướp. Do đó bọn giặc cướp phải rút đi đến ở nơi biên giới của hai nước này, lúc đó có đoàn thương nhân từ nước Ma-kiệt-đà đến nước Kiều-tát-la buôn bán, khi đến biên giới nước Kiềutát-la, họ cho những người theo hộ vệ trở về, không ngờ ngay chỗ biên giới lại gặp giặc cướp cướp hết tài vật, họ chạy thoát đến gặp vua Thắng quang tâu rằng: "đại vương biết cho, ở trong quốc giới này trước đây có nhiều giao dịch mua bán, nhưng nay có cướp ắt là các thương nhân sẽ không đến nữa", vua nghe rồi liền ra lịnh cho đại tướng quân Tỳ lư trạch ca thống lĩnh bốn binh đến biên giới bắt giặc cướp. Lúc đại tướng quân đem quân đến bao vây bốn phía khu rừng, chỗ bọn cướp đang trú ẩn thì chúng đang phân chia tài vật đã cướp được. Khi nghe tiếng trống, chúng kinh hoàng bỏ chạy nhưng cuối cùng cũng bị bắt hết, địa tướng quân thu hết tài vật và áp giải bọn cướp đến chỗ vua, vua bảo các thương nhân: "hãy xem kỹ số tài vật này, tài vật nào của các người thì cứ lấy mang đi", các thương nhân đến nhận lại tài vật của mình rồi mang đi, các ngoại đạo cũng đến nhận lại tài vật của mình và lấy luôn y bát của các Bí-sô mang đi. Khi các Bí-sô đến tìm không thấy có y bát của mình nên tâu lại vua, vua nói: "nếu không có y bát của các thầy trong đây thì hãy gọi các ngoại đạo trở lại xét xem có lấy lầm không", khi các ngoại đạo trở lại đưa ra tài vật mà mình vừa lấy thì các Bí-sô liền nói: "đây là Tăng-già-lê của tôi, đây là Tăng khước kỳ của tôi, đây là bát của tôi", vua trách ngoại đạo: "giặc cướp kia là giặc nhỏ, các thầy mới là giặc lớn, vì sao lại cố ý lấy y vật của người khác?", ngoại đạo liền im lặng. Vua nói với các Bí-sô: "các thầy nên ghi ký hiệu trên y vật để có thể phân biệt được đây là vật của ngoại đạo, đây là vật của Bí-sô", Bí-sô nói Phật chưa cho làm ký hiệu, sau đó bạch Phật, Phật nói nên làm ký hiệu, các Bí-sô không biết làm ký hiệu như thế nào, Phật nói: "nên kết nút hay điểm tịnh bằng mực và các cách ghi ký hiệu khác rồi mới thọ trì".
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có một trưởng giả cưới vợ chưa bao lâu, vợ liền sanh con trai, không lâu sau đó người vợ chết, trưởng giả cưới thêm vợ hai và có thêm một con trai. Người con trai thứ hai này đến tuổi trưởng thành xuất gia trong pháp luật thiện thuyết, khi vị này đang du hành trong nhân gian thì người cha bịnh nặng sắp chết. Trước khi qua đời ông bảo người con trưởng chia tài sản đã có làm ba phần và dặn dò như sau: "một phần cho con để lo liệu gia nghiệp, một phần để lo hậu sự cho cha, phần còn lại cho người em xuất gia của con", ông nói kệ:
"Tích tụ đều tiêu tán,
Cao ngất ắt rơi rớt,
Hội họp ắt biệt ly,
Có mạng đều phải chết".
Nói xong thì qua đời, người con xuất gia nghe tin cha mất liền trở về nhà, hai anh em gặp nhau đau buồn than thở, người anh nói: "lúc cha sắp mất có di chúc để lại cho em một phần gia tài, em hãy nhận lấy", Bí-sô này suy nghĩ: "như Phật đã dạy khi chết mới cho là vật phi pháp, không nên nhận", bạch Phật, Phật nói: "người tại gia có tâm thân ái buộc ràng nên khi lâm chung di chúc cho tài vật thì nên nhận, nhận rồi có thể đem cúng dường Tam bảo. Còn người xuất gia không còn tâm luyến ái nên khi lâm chung mà di chúc cho thì không nên nhận".
Duyên xứ như trên, lúc đó có hai Bí-sô là bạn thân rất hợp ý nhau nên cùng ở chung một chỗ, sau đó một Bí-sô du hành trong nhân gian và để lại ở trong phòng các vật cần dùng như y vật, tăm xỉa răng, bột tẩy.... Bí-sô kia thu dọn lấy cất rồi sanh tâm nghi nên bạch Phật, Phật nói: "lấy cất không phạm, vì thân hữu có năm loại: một là yêu mến nhau, hai là tâm hoan hỉ, ba là sư trưởng, bốn là hợp ý nhau, năm là nếu nghe biết ta dùng vật của họ thì sanh tâm vui mừng. Vật dụng của năm hạng thân hữu này được lấy dùng không phạm".
Duyên xứ như trên, lúc đó có một trưởng giả cưới vợ chưa bao lâu, vợ sanh được một gái.
Người con gái này lớn lên xuất gia trong pháp luật thiện thuyết, gặp lúc thời thế mất mùa đói kém, khất thực khó được, khi theo thứ lớp khất thực lần lượt đến trước nhà mình, người cha thấy con liền hỏi: "hiện nay con sống như thế nào?", Bí-sô ni nói: "nay gặp lúc thời buổi đói kém, khất thực khó được, vất vả khất thực mà không đủ no, lửa đói thiêu đốt rất khó chịu", người cha nói: "từ nay về sau, hằng ngày con có thể đến nhà thọ thực", Bí-sô ni nhận lời. Hôm sau, Bí-sô ni dẫn thêm một ni khác đến nhà thọ thực, người cha nói: "cha không đủ khả năng cung cấp cho hai người, con nên đến một mình", Bí-sô ni nói: "Phật chế ni không được đi một mình, nếu Phật khai cho thì con không gặp khổ này", bạch Phật, Phật nói: "gặp lúc thời buổi đói kém, khất thực khó được, ta khai cho Bí-sô ni theo chúng xin yết ma tới lui và dừng ở bên nhà cha mẹ, tác pháp xin như sau: Bí-sô ni nên trải tòa rồi đánh kiền chùy tập Ni tăng, khi Ni tăng nhóm nên lễ Ni tăng rồi ở trước vị Thượng tòa cung kính chắp tay bạch rằng:
Đại đức Ni tăng lắng nghe, con là Bí-sô ni __________ nay gặp lúc thời buổi đói kém, khất thực khó được, không đủ no nên nay con theo Ni tăng xin yết ma tới lui và dừng ở bên nhà cha mẹ. Cúi xin Ni tăng cho con tên __________ yết ma tới lui và dừng ở bên nhà cha mẹ, xin thương xót (ba lần).
Ni tăng bạch nhị yết ma cho, khi Ni tăng tác pháp cho yết ma rồi thì Bí-sô ni được lui tới và dừng ở bên nhà cha mẹ một mình và tùy ý thọ thực không phạm. Sau khi thời thế được mùa sung túc trở lại thì không được một mình đến thọ thực nữa, nếu còn đến một mình thì phạm tội Việt pháp".
Mua chịu y người khác,
Đoán giá y cho người,
Không trả giá thấp cao,
Nên trả hai ba giá.
Duyên xứ như trên, lúc đó có Bí-sô mua chịu vải của cư sĩ mang về chùa, không bao lâu thì qua đời, cư sĩ này hay tin liền đến trong chùa đòi tiền thiếu chịu, các Bí-sô nói: "Bí-sô ấy đã qua đời, hiện đang ở trong Thi lâm, ông đến đó mà đòi", cư sĩ này nói: "y bát của người chết để lại, các thầy đã cùng chia, nay bảo tôi đến Thi lâm đòi tiền người chết, tại sao Thích tử lại khi dối người như vậy", các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "nên lấy y bát của Bí-sô qua đời trả lại tiền đã mua chịu".
Lại có một Bí-sô mua chịu vải quý giá nơi nhà một cư sĩ không chịu trả mãi đến khi qua đời, cư sĩ này hay tin liền đến trong chùa đòi tiền đã thiếu chịu, các Bí-sô liền đem y của người chết để lại đưa cho cư sĩ coi như là trả tiền thiếu chịu, cư sĩ này nói: "trước đây vị ấy mua là vải mới quý giá, nay đưa lại cho tôi y cũ rách này coi như là trả tiền thiếu chịu hay sao?", các Bí-sô không biết làm sao, bạch Phật, Phật nói: "nên lấy những vật hiện còn của vị ấy để lại bù đắp thêm vào tiền đã thiếu chịu, nói với chủ nợ rằng: người ấy qua đời, tài vật để lại chỉ có bao nhiêu đây, chúng tôi đưa hết để trả tiền vị ấy đã thiếu chịu, ông nên hoan hỉ".
Có hai cư sĩ đang giao dịch mua bán, người mua hỏi vải này giá bao nhiêu, người bán nói là hai mươi Ca lợi sa ba noa, người mua trả giá mười Ca lợi sa ba noa. Vừa lúc ấy có Ô-ba-nan-đà đi đến, hai cư sĩ này suy nghĩ: "Bí-sô nói lới quyết định, ta nên nhờ vị ấy đoán giá", nghĩ rồi mỗi người đến hỏi Ô-ba-nan-đà: "Đại đức, vải này trị giá chừng bao nhiêu?", Ô-ba-nan-đà hỏi lại: "vải này ông định mua hay bán?", đáp là mua, Ô-bA-nan-đà nói trị giá chừng hai mươi Ca lợi sa ba noa. Sau đó cũng hỏi lại người thứ hai là muốn mua hay bán, đáp là muốn bán, Ô-ba-nan-đà nói trị giá đến bốn mươi Ca lợi sa ba noa. Hỏi xong người bán liền lên giá vải này là bốn mươi, người mua nói hồi nảy bán là hai mươi sao giờ lại lên giá bốn mươi, nhân đây hai bên cãi cọ nhau. Sau đó người bán nói: "do người đoán giá nói vải này trị giá đến bốn mươi nên tôi mới lên giá", người mua hỏi ra mới biết người đoán giá chính là Ô-ba-nan-đà muốn não loạn hai người nên làm thế. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "Bí-sô không nên đoán giá cho người thế tục, cũng không được ở trong chợ luận về giá cả cao thấp cho người mua bán ở chợ. Ai làm trái thì phạm tội Ác tác".
Lại có Bí-sô khi mua vải trả giá thấp cao, người bán nói: "tôi là người mua bán nhỏ, các vị là người mua bán lớn", các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "Bí-sô không nên trả giá thấp cao, nếu muốn mua y nên nhờ cư sĩ trả giá hộ, nếu không có cư sĩ thì tự mình được trả chừng hai ba giá, nếu trả nhiều giá hơn thì phạm tội Ác tác".
Sai chăm sóc cây trái,
Bốn loại không nên chia,
Trái chín hiền tiền chia,
Xem sâu chớ ồn náo.
Phật tại thành Vương xá, lúc đó vua Tần-tỳ-Sa-la cúng cho Tăng vườn Am-một-la ngàn cây trái xum xuê, các Bí-sô hái trái ăn hết rồi không sai người chăm sóc nên vườn cây Am-một-la trở nên xơ xác. Vua Tần-tỳ-sa-la khi thấy nhìn thấy vườn cây này không nhận ra là vườn của mình đã cúng nên hỏi thị vệ là vườn cây của ai, thị vệ nói rõ nguyên do sự việc, vua nghe rồi chê trách. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "đối với sản nghiệp của chùa không được bỏ phế, Tăng nên sai người chăm sóc vườn cây Am-mộtla", Tăng liền sai người chăm sóc vườn cây, người này dựng rào dậu và tính số cây trái để chia, ở dưới gốc cây các Bí-sô đánh răng súc miệng, rửa chân tay... như để tưới nước cho cây nên không bao lâu sau vườn cây Am-một-la xum xuê trở lại và cho ra nhiều trái chín. Lúc đó có nhiều khách Bí-sô đến, thấy có nhiều trái chín ngon nên xin, người coi vườn nói: "tôi đã phân chia hết rồi nên không thể đem cho các vị được, đây là phần của Thân giáo sư, đây là phần của Quỹ phạm sư, đây là phần của đồng Thân giáo sư, đây là phần của đồng Quỹ phạm sư...". Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "có bốn loại không nên chia: một là vật của Tứ phương tăng, hai là vật của tháp, ba là thuốc trị bịnh cho Tăng và bốn là tài sản của chùa. Ai làm trái thì phạm tội Ác tác, từ nay tất cả trái cây trong vườn này nên đem chia đều hết cho Tăng". Lúc đó có kẻ trộm đến hái trái, Phật bảo nên cắt đặt người coi giữ, người coi giữ vườn lo trông coi nên không thể đi thọ thực được, Phật bảo nên cắt đặt thêm một người nữa, người này thọ thực trước rồi đến thay cho người kia đi thọ thực. Lúc đó người giữ vườn hái trái xong đem chia đều cho Tăng nhưng có người gặp phải trái có sâu,
Phật nói: "nên xem kỹ trái nào có sâu nên lựa bỏ ra, trái cây hái xuống nên tác tịnh trước rồi mới phân chia". Sau đó các Bí-sô xem xét trái nào có sâu, nói chuyện ồn ào, nước miếng văng ra làm dơ trái cây, Phật nói: "không được làm ồn náo, nên im lặng như bậc Thánh để xem xét, nếu ai làm ồn náo thì phạm tội Ác tác".
Không tịnh nhơn, tự đưa,
Không được tự lấy ăn,
Không được lựa, trừ bịnh,
Kết giới, ra làm chứng.
Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật: "như Phật đã dạy nên chia trái cây đến cho Tăng, vậy người nào nên đưa?", Phật nói: "nên sai tịnh nhơn đưa, nếu không có tịnh nhơn nên sai Cầu tịch, nếu không có Cầu tịch thì nên tác tịnh trước rồi Bí-sô mới lấy đưa đến cho Tăng", lại hỏi: "như Phật dạy nên sai người coi giữ vườn, nếu sau khi tịnh nhơn hay Cầu tịch vừa đi, có chim chóc bay đến mổ làm hư trái cây thì phải làm sao?", Phật nói: "nên lấy lá cây đậy trái cây lại, đợi tịnh nhơn hay Cầu tịch làm xong việc trở về sẽ chỉ cho họ thấy".
Lúc đó Lục chúng Bí-sô tới phiên giữ vườn, họ liền lựa lấy những trái ngon mang về trú xứ mình tác pháp thọ rồi ăn, các Bí-sô nói với nhau: "đã lâu không thấy đưa trái ngon đến", có người nói: "trái ngon đã bị Lục chúng Bí-sô lựa lấy mang về trú xứ, bảo người khác trao cho, thọ lấy rồi ăn", bạch Phật, Phật nói: "không được tự lấy ăn, nếu làm như vậy thì phạm tội Ác tác". Sau đó Lục chúng Bí-sô lựa trước trái ngon rồi bảo người khác trao, thọ lấy rồi ăn; do đưa người này, đưa người kia nên làm náo loạn, Phật nói: "không được tự lựa rồi lấy ăn, ai làm thế thì phạm tội Ác tác; không phạm là ai sức lực yếu thì được ăn trái chín ngọt, ai sức lực mạnh thì ăn trái sống chua".
Duyên xứ như trên, lúc đó có các Bí-sô du hành trong nhân gian, đi đến một trú xứ Tăng trong một tụ lạc, nhưng lại không thấy có Bí-sô cựu trụ nào cả, họ nói với nhau: "trong chùa này không có ai, không lẽ chúng ta lại ở nơi không có kết giới, chúng ta nên kết giới", nói rồi cùng kết tiểu giới trước. Lúc đó các Bí-sô cựu trụ về đến, các Bí-sô khách tưởng họ là khách mới đến nên chào hỏi rồi muốn sắp xếp chỗ cho họ nghỉ ngơi, Bí-sô cựu trụ nói: "vì sao các vị lại sắp xếp chỗ cho chúng tôi nghỉ ngơi, trú xứ này là của chúng tôi, ban ngày chúng tôi tạm đi đến chỗ nhàn tịnh thiền tư", Bí-sô khách nói: "chúng tôi cho trú xứ này chưa kết giới nên muốn kết giới và đã kết tiểu giới trước rồi", Bí-sô cựu trụ nói: "nơi đây chúng tôi đã kết giới rồi". Lúc đó các Bí-sô đều sanh nghi không biết nên lấy giới đã kết trước hay lấy giới mới kết sau, bạch Phật, Phật nói: "nên lấy giới đã kết trước, giới kết sau không thành kết. Tất cả Bí-sô khách khi đến trú xứ nào, nên ở tạm bảy tám ngày nếu không thấy có người đến, lúc đó mới cùng kết giới, ai làm trái thì phạm tội Ác tác".
Duyên xứ như trên, lúc đó có một Bí-sô ở nơi A-lan-nhã thấy có hai nông dân tránh cãi nhau một hồi rồi đánh nhau, cả hai đều nói Bí-sô là người làm chứng. Khi họ đến chỗ vua kiện cáo, nói Bí-sô là người làm chứng nên vua cho gọi Bí-sô đến rồi hỏi sự việc xảy ra như thế nào, Bí-sô nói: "nếu vua có thể tự giao ước là sẽ xử đoán việc như Chuyển luân thánh vương thì tôi sẽ nói rõ sự việc", vua bằng lòng giao ước, Bí-sô nói: "hai người này tranh cãi nhau một hồi rồi đánh nhau", vua nghe rồi liền xử cả hai đều có tội, Bí-sô nói: "vì sao vua lại xử phạt họ như thế, vua đã giao ước là sẽ xử như Chuyển luân thánh vương giáo hóa ở đời?", vua hỏi Luân vương hành hóa như thế nào, Bí-sô nói: "hễ là Luân vương thì nên ngăn dứt việc vô ích và làm việc hữu ích", vua nghe rồi liền xử cả hai đều có tội nhưng phạt nhẹ rồi thả đi, do đây cả hai nông dân đều giận Bí-sô. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "nếu thấy người khác đánh nhau, Bí-sô không nên đứng một bên xem, nên mau bỏ đi, nếu không làm thế thì phạm tội Ác tác".
Cúng dường tượng Bồ-tát,
Kiết tường, đại chúng ăn,
Đại hội, ngồi tòa cỏ,
Nhóm tăng đánh trống lớn.
Cho làm tượng Bồ-tát,
Và làm năm loại cờ,
Làm tòa để tôn nghi,
Tùy ý làm trụ sắt.
Duyên xứ như trên, lúc đó nếu Phật có mặt ở trong chúng làm Thượng tòa thì do oai đức của Phật nên chúng tăng đều nghiêm túc; nếu Phật không có mặt ở trong chúng thì sẽ không như thế. Cho nên trưởng giả Cấp-cô-độc đến xin Phật cho ông làm hình tượng Phật, Bồ-tát (Thiệm bộ), Phật nói tùy ý; ông lại muốn trang hoàng phướn lọng, Phật cũng cho làm, ông không biết làm loại phướn gì, Phật nói: "có năm loại phướn: một là phướn hình Sư tử, hai là phướn hình Một yết la, ba là phướn hình Rồng, bốn là phướn hình Yết lộ trà và năm là phướn hình Ngưu vương". Trưởng giả lại muốn làm tòa cho hình tượng Bồ-tát, Phật cũng cho làm, lại muốn làm trụ sắt để treo phướn, Phật đều cho làm.
Cúng dường tượng Bồ-tát,
Cho làm các chuỗi ngọc,
Hương thoa cùng xe, kiệu,
Dù lọng và cờ phướn.
Duyên xứ như trên, trưởng giả Cấp-cô-độc lại hỏi Phật: "có phải khi Phật còn làm Bồ-tát thường cúng dường rộng lớn hay không?", Phật nói phải, trưởng giả xin Phật cho ông làm hình tượng Bồtát để tùy ý cúng dường, Phật cho làm; lại hỏi: "có phải khi Phật còn làm Bồ-tát thường đeo các chuỗi ngọc hay không?", Phật nói phải, trưởng giả xin Phật cho ông làm các chuỗi ngọc cho hình tượng Bồ-tát, Phật nói: "trừ vòng đeo chân và vòng đeo tai ra, tất cả đều cho làm". Trưởng giả lại muốn làm hương thoa, hương bột để lau tay chân cho hình tượng Bồ-tát, Phật đều cho làm; lại bạch Phật: "Phật khi còn làm Bồ-tát thường đi kiệu ra vào hoặc đi xe, nay con muốn làm xe kiệu", Phật cho làm; lại bạch Phật: "khi Phật còn là Bồ-tát thường có tàng lọng che và cờ phướn đi theo, nay con muốn làm tàng lọng và cờ phướn cho hình tượng Bồ-tát", Phật cho làm; lại bạch Phật: "Phật khi còn là Bồ-tát thường trang nghiêm thân bằng vòng hoa chuỗi ngọc, nay con muốn làm các vật ấy để trang nghiêm cho hình tượng Bồ-tát", Phật đều cho làm.
Kiết tường và cúng dường,
Vòng hoa, hương tổng hợp,
Khi mọi người tập họp,
Ngày mở cửa, đêm đóng.
Lúc đó trưởng giả Cấp-cô-độc bạch Phật: "khi Phật còn là Bồ-tát, đại chúng thường đem việc kiết tường cung kính cúng dường, xin Phật cho con làm việc kiết tường thiết cúng tượng Bồ-tát", Phật cho làm; lại muốn làm vòng hoa trang nghiêm trên đầu hình tượng Bồ-tát và dùng các loại hương tổng hợp để cúng dường, Phật đều cho làm. Trưởng giả lại muốn vì tượng Bồ-tát mà trang nghiêm trong chùa, họa vẽ nhiều màu sắc và dùng hương hoa..., tấu các loại kỹ nhạc để cúng dường, Phật đều cho làm. Dân chúng thấy chùa trang nghiêm nên sanh tâm hi hữu cùng kéo đến chiêm ngưỡng rất đông nên làm ồn náo, các Bí-sô thấy vậy liền đóng cửa cả ngày đêm, dân chúng thấy vậy liền chê trách là ngăn chận sanh thiện, Phật nói: "ban ngày nên mở cửa cho họ đến chiêm ngưỡng cúng dường, ban đêm đóng lại".
Đại chúng nhóm thọ thực,
Sanh tháng Tiết xá khư,
Hương đài, năm sáu năm,
Nên thiết lập đại hội.
Khi trưởng giả Cấp-cô-độc thiết lễ cùng dường, nhiều Bí-sô cùng bảy chúng đều đến dự khiến trưởng giả sanh tâm hoan hỉ, suy nghĩ: "như Phật đã dạy có năm loại thời thí (bố thí đúng thời):
Cấp thí cho Bí-sô mới đến hay sắp đi xa.
Cấp thí cho Bí-sô bịnh và người khán bịnh.
Cấp thí vào những năm mất mùa đói kém và tại đường hiểm trở.
Khi thu hoạch ngũ cốc và hoa quả mới, vào những ngày lễ trong năm nên cấp thí cho Bí-sô trì giới có đức trước rồi mình mới tự dùng.
Vào thời tiết gió mưa hay tuyết lạnh nên đem bánh, cháo... và các loại nước uống đến cúng dường chúng tăng, đừng để các Thánh tăng phải đi khất thực cực khổ, họ thọ thức ăn uống này của ta sẽ được an lạc trụ.
Nay ta thấy bảy chúng từ xa đến, đi đường mệt nhọc, nếu Phật cho, ta sẽ mở đại hội cúng dường", nghĩ rồi liền đến xin Phật cho mở đại hội vô già cúng dường, Phật nói tùy ý làm. Sau đó trưởng giả hỏi Phật: "Bồ-tát đản sanh vào ngày tháng mấy?", Phật nói là vào ngày trăng tròn của tháng Tiết xá khư, trưởng giả xin Phật cho mở đại hội mừng sanh nhật Phật, Phật cho làm. Lại xin Phật cho vì hình tượng Bồ-tát làm hương đài, Phật cho làm; lại hỏi Phật: "khi Phật còn là Bồ-tát trải qua mấy năm mới cắt búi tóc trên đỉnh đầu?", Phật nói năm năm, trưởng giả xin Phật cho làm đại hội Đảnh kế năm năm, Phật cho làm; lại hỏi Phật: "Bồ-tát mấy năm mới mọc lại búi tóc?", Phật nói sáu năm, trưởng giả xin Phật cho làm đại hội Phật đà, Phật cho làm.
Đại hội làm tòa cỏ,
Không nên ngồi tạp loạn,
Nên đánh kiền chùy, trống,
Thông báo cho biết hết.
Khi trưởng giả Cấp-cô-độc thiết lập đại hội, dân chúng trong sáu thành lớn đều tụ đến dự, các Bí-sô cũng rất đông nên không đủ chỗ ngồi, Phật bảo nên làm tòa cỏ để tùy thời thọ thực. Các Bí-sô thọ thực xong không thu cất tòa cỏ liền bỏ đi, Phật nói: "khi thọ thực xong nên thu cất tòa cỏ để một bên rồi mới tùy ý đi, đợi khi đại hội Phật đà xong mới đem vất bỏ". Lúc đó khi thọ thực, các Bí-sô không ngồi theo thứ lớp tuổi hạ mà ngồi tạp loạn khiến cho người dọn đưa thức ăn phải kéo dài thời gian, hoặc khi dọn ăn xong lại có người khác đến phải dọn ăn nữa, nên mất nhiều thời gian. Phật nói nên báo giờ để họ biết đến đúng giờ, khi báo giờ vì ồn nào nên nhiều người không nghe biết, Phật bảo nên đánh kiền chùy, vẫn còn có người không nghe, Phật bảo nên thổi ốc hay đánh trống, vẫn không nghe khắp hết, Phật nói: "nên đánh trống lớn, trước đánh ba hồi rồi đánh một hồi dài". Lúc đó người bịnh và người thọ sự thiếu phần thức ăn, Phật nói: "nên chờ người bịnh nhận được phần ăn và người thọ sự ăn xong mới đánh hồi dài, nếu không làm như thế thì phạm tội Việt pháp".
Nhóm Tăng đánh trống lớn,
Cúng xong tháo cờ phướn,
Nếu được nhiều trân bảo,
Tùy lớn nhỏ chia đều.
Như Phật dạy nhóm Tăng nên đánh kiền chùy nhưng không nghe khắp hết, Phật bảo nên đánh trống lớn cho khắp nơi đều nghe thấy. Khi mở đại hội, xa gần đều tụ đến nhưng khi đại hội hoàn mãn, mọi người vẫn chưa giải tán, Phật bảo nên tháo cờ phướn xuống, mọi người thấy sẽ tự nhiên giải tán. Sau đại hội này các Bí-sô được cúng dường nhiều tài vật, trân bảo không biết phải làm sao, Phật nói: "nên tập họp tài vật lại một chỗ rồi theo thứ lớp từ Thượng tòa cho đến người nhỏ nhất, tùy lớn nhỏ y theo pháp mà chia đều", lúc đó các Bí-sô vẫn còn lăng xăng vì số người quá đông nên khó chia, Phật nói: "nếu chúng quá đông nên chia một phần cho nhóm một ngàn người để họ tự chia; nếu ít hơn thì chia một phần cho nhóm một trăm người hoặc hai mươi người cho đến mười người để họ tự chia". Lúc đó tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật: "nếu trong nhóm mười người có một người chết thì phần của người chết ai được thọ?", Phật nói: "nếu trong nhóm mười người đã chia phần xong rồi thì phần của người chết sẽ đưa vào trong Tăng già; nếu chưa chia thì hợp vào phần của chín người được chia. Nhiều người hơn cũng căn cứ theo đây mà chia".
Môn đầu tiên sám hối,
Thứ hai định thuộc vật,
Thứ ba tư cụ, y,
Tổng tụng Mục đắc ca.
Sám hối, bãi cỏ êm,
Đáng miễn, vua Ảnh Thắng,
Thịt chó, chén nhỏ, mía,
Cho dùng đường, tô, củ...
Sám hối, phi Cận viên,
Xem tướng mạo Cầu tịch,
Pháp Bí-sô và Ni,
Lẫn nhau bỉnh pháp thành.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó các Bí-sô chia thành từng nhóm hai người cùng quyết trạch nghĩa lý, sau đó tranh cãi với nhau, vị nhỏ quở rách vị lớn, vị lớn trong lòng tức giận trở về phòng tự nghĩ: "tại sao nhỏ hạ hơn mà dám xúc phạm đến ta như thế", càng nghĩ càng tức, do bị lửa sân thiêu đốt nên vị này qua đời thác sanh trong loài rắn độc. Sau đó Bí-sô nhỏ truy hối: "ta đã làm điều bất thiện, ta đâu thể sân trách bậc Thượng tòa như thế, ta nên đến sám hối", nghĩ rồi liền cùng các Bí-sô đến phòng của Bí-sô lớn kia để sám hối nhưng thấy cửa đóng. Sau khi mở cửa vào trong phòng, vừa muốn đảnh lễ bạch xin tha thứ thì liền thấy con rắn độc trên giường phùng mang giận dữ. Lúc đó Phật do sức từ bi dẫn dắt đi đến chỗ đó bảo Bí-sô này đảnh lễ rắn xin sám hối, Bí-sô nói: "vì sao bảo con đảnh lễ rắn?", Phật nói: "thầy nên khởi tưởng là thân trước của Bí-sô kia mà kính lễ", Bí-sô vâng lời Phật đảnh lễ rắn, Phật bảo rắn: "Hiền thủ nên khoan thứ", kế nói ba câu pháp cho rắn nghe: "thầy đã tu tịnh hạnh ở chỗ ta, đáng lẽ được sanh lên cõi trời, chỉ vì lửa sân thiêu đốt nên phải thác sanh vào loài rắn. Hiền thủ nên biết:
Các hành đều vô thường, Các pháp đều vô ngã, Niết-bàn tịch tĩnh vui.
Thầy nên khởi tâm tịnh tín đối với ta, nhờ công đức này sẽ xả bỏ thân bàng sanh được sanh vào cõi lành", rắn nghe rồi suy nghĩ: "nếu nay ta không được đích thân nghe Phật nói ba câu pháp thì ta sẽ chỉ tham ăn uống để nuôi dưỡng thân vô ích này". Đối với bàng sanh thì lửa đói là mạnh nhất, do nhịn ăn nên rắn độc mạng chung, nhờ khởi tâm tịnh tín đối với Phật nên sau khi xả thân mạng được sanh lên cõi trời. Tất cả hữu tình dù nam hay nữ khi sanh lên cõi trời đều khởi ba niệm: một là ta từ đâu sanh đến đây, hai là nay ta đang ở đâu, ba là ta do nghiệp duyên gì mà sanh lên đây. Liền quán biết mình nhờ khởi tâm tịnh tín đối với Phật mà được xả bỏ thân bàng sanh, sanh lên cõi trời này. Thiên tử suy nghĩ: "nếu ta không đến kính lễ Thế tôn trước là bất kính", nghĩ rồi liền dùng chuỗi anh lạc trang nghiêm thân, dùng y kích đựng đầy các loại hoa trời như hoa Ưu bát la, Bát đầu ma... qua đầu đêm đến chỗ Phật, rải hoa cúng dường, đảnh lễ rồi ngồi một bên nghe Phật thuyết diệu pháp. Thân quang của vị thiên tử này chiếu sáng khắp cả rừng Thệ đa, Phật quán biết căn tánh tùy miên của thiên tử này, nói pháp Tứ đế khiến cho được khai ngộ và chứng quả Dự lưu. Sau khi chứng quả, thiên tử này bạch Phật: "Thế tôn, nhờ Phật khai ngộ khiến con ở trong các nạn mà được giải thoát, điều này không phải do cha mẹ... cho đến sa môn, Bà-la-môn có thể làm được. Thế tôn là bậc đại thiện tri thức đã cứu vớt con ra khỏi ba cõi, đặt để con vào cõi trời người, hết khổ sanh tử, được đạo Niết-bàn, làm cạn biển máu, vượt khỏi núi xương, núi thân kiến từ vô thỉ đến nay đều bị phá tan bằng chày trí Kim cang, chứng được Sơ quả. Nay con xin quy y Tam bảo, từ hôm nay cho đến trọn đời thọ trì năm học xứ, cúi xin Thế tôn chứng biết con là Ô-ba-sách-ca", bạch xong đảnh lễ Phật hữu nhiễu ba vòng rồi biến mất, trở về lại thiên cung. Lúc đó các Bí-sô vào đầu đêm và cuối đêm tĩnh thức siêng tu thiền tọa, bỗng thấy rừng Thệ đa sáng rực đều cho là Phạm Thích chư thiên hay Tứ thiên vương có oai lực lớn đến kính lễ Thế tôn. Sáng hôm sau đến đảnh lễ Phật bạch hỏi việc trên, Phật nói: "vị ấy không phải là Phạm thiên vương hay là Đế thích chư thiên... có oai lực lớn đến kính lễ ta.
Các thầy còn nhớ con rắn độc mà ta đã nói ba câu pháp cho nó nghe hay không?", đáp là nhớ,
Phật nói: "rắn đó sau khi chết được sanh thiên, sau khi được sanh thiên liền đến kính lễ ta, nghe ta thuyết pháp được tỏ ngộ chân lý và đã trở lại thiên cung, do nhân duyên này nên rừng Thệ đa sáng rực như thế. Này các Bí-sô, do không nhẫn nhịn được nên có lỗi này, từ nay các thầy nếu có tức giận nhau thì phải mau sám hối tạ lỗi, cùng tha thứ cho nhau, đừng để sau này chiêu lấy lỗi lầm như vậy". Sau đó có một Bí-sô vừa bị quở trách liền đến xin sám hối, làm cho vị kia càng thêm tức giận nói rằng: "hãy xem người này đến xúc não tôi", Phật nói: "không nên vừa bị quở trách liền đến sám hối, chờ họ bớt giận rồi hãy đến xin dung thứ".
Lúc đó trong thành có hai Bí-sô khi cùng luận bàn pháp nghĩa bèn sanh sân giận, vị nhỏ quở trách vị lớn, vị lớn ôm lòng tức giận trở về phòng, sau đó mạng chung sanh vào loài rắn độc. Phật quán biết việc này nên bảo A-nan: "thầy hãy đến chỗ rắn độc đang phùng mang giận dữ kia đem lời thăm hỏi của ta đến nói với nó và nói rằng: Hiền thủ đã xuất gia trong chánh pháp luật của ta, trong bốn quả Sa môn nên tùy chứng một quả. Do thầy quá sân hận nên phải đọa sanh vào loài rắn, thầy nên buông xả tha thứ cho vị kia", A-nan vâng lời Phật dạy đến nói y như thế, nhưng rắn độc vẫn phì phò tỏ vẻ không chịu nghe. Phật lại bảo Đại Mụckiền-liên đến nói như trên, rắn nghe rồi ở chỗ khe cửa thò đầu ra rồi lại thụt vào. Phật lại bảo tôn giả Xá-lợi-phất đến nói như trên, rắn nghe rồi ló nửa thân ra cửa, còn nửa thân ở trong phòng. Lúc đó Phật đích thân đến bảo rắn giống như trên, rắn nghe rồi liền bò ra khỏi phòng đến trước Thế tôn, Phật bảo Bí-sô này đảnh lễ rắn xin sám hối, Bí-sô nói: "Thế tôn, vị ấy đã đọa sanh loài bàng sanh, vì sao lại bảo con đảnh lễ rắn?", Phật nói: "thầy nên khởi tưởng là thân trước của Bí-sô kia mà kính lễ", Bí-sô vâng lời Phật đảnh lễ rắn, rắn dùng đầu phủ lên đảnh của Bí-sô như pháp sám tạ, Phật nói: "do sân giận nên có lỗi này, từ nay Bí-sô nếu có sân hận nhau thì nên mau sám hối, nếu chiều giận thì sáng hôm sau đến sám hối". Sau đó có một Bí-sô khi được đến sám tạ càng thêm tức giận, Phật nói: "nên thăm hỏi trước rồi mới sám tạ", nhưng vị kia vẫn không chịu thọ sám, Phật bảo nên thọ sám. Sau đó khi gặp nhau cũng không thọ sự lễ kính, Phật nói: "nên thọ sự lễ kính và đáp lại là vô bịnh, nếu ai không làm thế thì cả hai đều mắc tội". Lại có hai Bí-sô khi luận bàn pháp nghĩa liền sanh tức giận, vị nhỏ quở trách vị lớn rồi liền biết mình phi lý nên đảnh lễ sám tạ, vị lớn đứng im lặng, vị nhỏ suy nghĩ: "vị này vẫn còn giận nên không dung thứ cho ta, chờ khi bớt giận ta sẽ đến sám tạ", vị lớn ôm lọng giận trở về phòng. Sau đó vị nhỏ đến phòng đảnh lễ cầu sám hối nhưng làm cho vị kia càng thêm tức giận nói rằng: "hãy xem người này đến xúc não tôi", vị nhỏ suy nghĩ: "như Phật đã dạy ta nên đảnh lễ sám tạ với tâm từ bi, tâm lợi ích mà tự an trụ, nhưng vị này thấy ta đến sám tạ lại không sanh tâm hoan hỉ, ta cần gì phải sám tạ nữa", nghĩ vậy rồi vị này không đến sám tạ nữa. Sau đó khi Bí-sô lớn cùng các Bí-sô khác đi kinh hành, Bí-sô nhỏ này đến kính lễ các Bí-sô kia mà không kính lễ Bí-sô lớn này, họ hỏi Bí-sô lớn: "người đó giới tịnh vì sao tôn giả lại không cho sám hối?", Bí-sô lớn đáp: "thầy ấy đến kính lễ các thấy với ác tâm là muốn xúc não tôi", các Bí-sô hỏi Bí-sô nhỏ: "tôn giả đó giới tịnh, vì sao thầy lại không đến kính lễ", Bí-sô nhỏ kể lại việc trên, các Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật nói: "những người có xích mích nhau khi gặp nhau cũng nên kính lễ, vị kia nên đáp lại là vô bịnh, nếu ai làm trái thì phạm tội Ác tác, vị nhỏ nên chắp tay kính lễ vị lớn".
Lúc đó tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật: "khi đăng đàn thọ giới, giới tử bỗng nói đừng cho tôi thọ Cận viên, các Bí-sô vẫn cưỡng ép vị ấy thọ thì người này có thành thọ hay không?", Phật nói: "người này không thành thọ, khi nói ra lời này liền gọi là xả giới, huống chi tiếp tục thọ mà lại gọi là thiện thọ hay sao?". Như Phật đã dạy Cầu tịch phải đủ hai mươi mới được thọ Cận viên, lúc đó có Cầu tịch không biết tuổi của mình, các Bí-sô nghi nên không cho thọ Cận viên, nhưng Cầu tịch vẫn muốn được thọ giới, các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "nên xem xét thân tướng", các Bí-sô muốn Cầu tịch lộ hình để xem xét khiến Cầu tịch xấu hổ, Phật nói: "ở trên cọc ngà voi hay trên sào tre có treo dãy bát và y vật khác, nên bảo Cầu tịch lấy mang đến, khi Cầu tịch vói tay lấy thì nên nhìn xem dưới nách lông dài hay ngắn".
Tôn giả Ưu-ba-ly lại hỏi: "khi Cầu tịch thọ Cận viên, các Bí-sô dùng pháp yết ma của Bí-sô ni để cho thọ Cận viên thì Cầu tịch có thành thọ không?", Phật nói: "thành thọ Cận viên nhưng các Bí-sô phạm tội Việt pháp".
Bãi cỏ, thôn, lược nói,
Khởi tâm làm Trưởng tịnh,
Giặc trói, tội không đồng,
Khai sáu, dạy sám hối.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có các Bí-sô tháp tùng đoàn thương nhân để du hóa trong nhân gian, đến ngày Bao-sái-đà, các Bí-sô thấy có bãi cỏ mềm yên tĩnh nên nói với nhau: "chúng ta nên làm Bao-sái-đà ở trên bãi cỏ êm này", nói rồi cùng ngồi trên bãi cỏ làm Trưởng tịnh, làm xong thì đoàn thương nhân đã đi hết rồi, các Bí-sô này đi sau không may gặp giặc cướp hết các vật dụng. Đến trong rừng Thệ đa, các Bí-sô cựu trụ thăm hỏi đi đường có an lạc không, các Bí-sô này liền kể lại việc trên, các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "không nên tham luyến bãi cỏ êm rồi ngồi làm Trưởng tịnh, nên theo người đồng hành đến trong tụ lạc mới làm trưởng tịnh". Sau đó các Bí-sô đợi đi đến tụ lạc mới làm Trưởng tịnh nhưng lúc đó một nửa đã vào trong tụ lạc, một nửa còn ở bên ngoài tụ lạc nên không biết có nên làm Trưởng tịnh hay không, bạch Phật, Phật nói: "những Bí-sô đã vào trong tụ lạc nên nhóm lại một chỗ làm Trưởng tịnh, những vị ở ngoài thôn tức là ngoài thế phần của thôn cũng nên nhóm lại một chỗ để làm Trưởng tịnh, nếu ai chưa đến thì không nên làm Trưởng tịnh, ai không đến nhóm thì phạm tội Việt pháp".
Lại có các Bí-sô tháp tùng theo các thương nhân khi đến ngày Trưởng tịnh nói với các thương nhân: "Hiền thủ, xin hãy tạm dừng lại chốc lát cho chúng tôi làm Trưởng tịnh", thương nhân nói: "vùng này có giặc cướp, chúng ta phải mau đi qua, không nên dừng lại", các Bí-sô nói với nhau: "chúng ta nên ở lại", nói rồi cùng ở lại đến sáng hôm sau, Phật nói: "không được đến ngày Trưởng tịnh mà không trưởng tịnh, nên vừa đi đường vừa trưởng tịnh". Sau đó các Bí-sô vừa đi đường vừa làm Trưởng tịnh, các thương nhân chê trách: "chúng tôi sợ giặc cướp nên im lặng, các thầy vì sao lại lớn tiếng như thế", bạch Phật, Phật nói: "không nên thuyết đầy đủ, nên thuyết tóm lược". Khi thuyết tóm lược, các thương nhân vẫn phàn nàn, Phật nói: "có sáu loại tâm niệm thủ trì: một là xả ba y, hai là phân biệt ba y (tác tịnh), ba là xả y dư, bốn là xả biệt thỉnh, năm là làm trưởng tịnh, sáu là làm Tùy ý (tự tứ). Nên nói như sau:
Hôm nay là ngày thứ 14, Tăng già trưởng tịnh; con Bí-sô __________ cũng trưởng tịnh, đối với các pháp chướng ngại con đều thanh tịnh, nay con tạm làm pháp thủ trì trưởng tịnh, sau này nếu gặp chúng tăng hòa hợp, con sẽ cùng chúng hòa hợp làm trưởng tịnh, đầy đủ các giới tụ. (Ba lần). Nếu đến đúng ngày nên làm trưởng tịnh mà không làm thì phạm tội Ác tác".
Lúc đó các Bí-sô du hành trong nhân gian bị giặc bắt, chúng nói với nhau là muốn trừ hết các Bí-sô, các Bí-sô biết ý bọn giặc muốn giết hại mình nên nói với họ: "vì sao các vị muốn giết hại chúng tôi?", giặc nói: "các thầy quen biết với vua quan, đại thần, trưởng giả; họ lại rất kính trọng các thầy, nếu thả các thầy, các thầy sẽ nói lại việc này và họ sẽ làm việc không lợi ích cho chúng tôi, vì thế chúng tôi muốn trừ hết hậu hoạn". Lúc đó trong nhóm có một Bí-sô phạm tội nói dối liền suy nghĩ: "nếu ta bị giết chết khi thân đang mang tội thì ta sẽ sanh vào đường ác", nghĩ rồi liền kêu Bí-sô đến chỗ khuất để phát lồ sám hối. Giặc thấy liền kêu lại hỏi muốn đi đâu, đáp là muốn làm pháp sự của Bí-sô, giặc nói: "muốn làm thì làm ngay đây không được đi chỗ khác, muốn trốn phải không?", hai Bí-sô đành phải làm đối thú sám hối ở trước bọn giặc, Bí-sô phạm bạch rằng: "xin Đại đức nhớ nghĩ, tôi Bí-sô __________ phạm tội
__________, đối với tội đã phạm nay đối trước Đại đức thành tâm phát lồ không dám che giấu, do phát lồ nên được an lạc, không phát lồ thì không được an lạc (ba lần). Giặc nghe Bí-sô nói tội xong liền hỏi: "các thầy không được nói dối phải không?", đáp phải, giặc nói: "vậy các thầy có thể tùy ý đi nhưng không được nói cho ai biết chúng tôi ở đây". Sau đó các Bí-sô sanh nghi hối vì mình đã ở trước người tục nói tội đã phạm nên bạch Phật, Phật nói: "bọn giặc ấy chính là quý nhân ở chỗ nguy hiểm, thầy đối thuyết sám hối như vậy là thiện thuyết". Lại có các Bí-sô du hành trong nhân gian bị giặc bắt, chúng nói với nhau là muốn trừ hết các Bí-sô, các Bí-sô biết ý bọn giặc muốn giết hại mình nên nói với họ: "vì sao các vị muốn giết hại chúng tôi?", giặc nói giống như trên, Bí-sô nói: "hãy thả chúng tôi, chúng tôi hứa sẽ không nói cho ai biết các vị ở đây", giặc nói: "các thầy hãy giao ước rồi chúng tôi sẽ thả, vào ngày thứ mười lăm các thầy tụ họp tuyên thuyết điều gì, hãy tuyên thuyết lại cho chúng tôi nghe rồi sẽ thả các thầy ra". Một Bí-sô trong nhóm tụng giới thông lợi liền tuyên thuyết lại giới kinh cho bọn giặc nghe, bọn giặc nghe rồi liền nói: "các thầy nên đi đi, ai ở đâu thì trở về nơi ấy nhưng cẩn thận chớ nói chúng tôi ở đây", Bí-sô được thả ra rồi sanh nghi hối vì mình đã nói giới kinh cho bọn giặc nghe nên bạch Phật, Phật nói: "giặc là chủ nhân trong rừng hiểm vắng, các thầy thuyết giới cho họ nghe như vậy là thiện thuyết".
Duyên xứ như trên, lúc đó có các Bí-sô nước Bạt ta du hành trong nhân gian bị giặc bắt, chúng muốn giết hết để trừ hậu hoạn. Trong bọn giặc có một tên trước đây sống gần chùa biết pháp của Bí-sô nên nói: "cần gì giết họ, chỉ cần lấy cỏ tranh trói họ lại, họ cũng bị đói khát mà chết", bọn giặc liền lấy cỏ tranh trói các Bí-sô lại rồi bỏ đi. Lúc đó vua nước Bạt ta tên là Ô-đà-diên đi săn bắn ngang qua chỗ các Bí-sô bị trói liền hỏi tùy tùng: "đó là nai gấu phải không?", họ thúc ngựa đến xem rồi trở lại tâu vua, vua hỏi là ai, đáp là Sa môn Thích tử, vua lại hỏi vì sao ở đây, đáp là bị giặc bắt trói, vua lại hỏi vì sao không bứt đứt dây ra, đáp: "Phật chế học xứ không cho hoại cây cỏ tươi", vua nghe rồi liền xuống ngựa tự tay cởi dây trói, dâng cúng ba y cho các Bí-sô rồi đi. Lúc đó Bí-sô sanh nghi hối vì mình đã nói tội tướng cho vua nghe nên bạch Phật, Phật nói: "các thầy nói tội tướng cho vua quán đảnh dòng Sát-đế-lỵ nghe như vậy là thiện thuyết".
Bí-sô lại bạch Phật: "Thế tôn, có được đối thú phát lồ với người phạm tội không?", Phật nói: "không được đối trước người phạm tội phát lồ tội của mình, nếu gặp nạn duyên thì đối thuyết không phạm, nhưng nếu là người cùng phạm một tội với mình thì không được đối thuyết sám hối".
Duyên xứ như trên, có một Bí-sô tâm gìn hổ thẹn, kiên trì giới cấm, ưa thích các học xứ, bỗng nhất thời phạm tội Chúng giáo thứ nhất nên sanh ưu sầu hối hận khiến thân thể vàng vỏ thành bịnh. Các Bí-sô khác đến thăm hỏi: "Đại đức vì sao thân thể vàng vỏ, có bịnh gì chăng?", vị này im lặng, sau đó một Bí-sô thân thiết đến hỏi, vị này kể lại việc trên, Bí-sô bạn nói: "nếu thật như vậy thì tôi sẽ bạch các Bí-sô giúp cho cụ thọ", vị này nói: "nếu thầy nói ra thì tôi sẽ tự sát, thà đến nước khác ở trong chúng khác, tôi sẽ phát lồ tội này", Bí-sô bạn cùng vị này đi sang nước khác, không ngờ mới nửa đường thì vị này qua đời, Bí-sô bạn suy nghĩ: "bạn ta chưa kịp phát lồ sám hối thì đã qua đời, ta không nên ở đây nữa", nghĩ rồi trở về lại trú xứ. Các Bí-sô thấy Bí-sô này trở về liền hỏi thăm đi đường có an lạc không và hỏi về người bạn cùng đi, Bí-sô này nghe rồi liền bật khóc nói: "vị ấy đã chết rồi, tuy biết các pháp đều vô thường nhưng vị ấy chết khi còn đang phạm tội, sợ bị đọa vào địa ngục không biết bao giờ ra khỏi, nghĩ đến điều này tôi thương cảm vô cùng", các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "Bí-sô kia đã thoát tội, này các Bí-sô, tội do tâm tạo nên có thể thoát tội, không do trị phạt, từ nay ta khai cho người có tâm nhiều hổ thẹn như vậy nên đối thú phát lồ trước một người khác". Trong chúng Bí-sô có người thông hiểu kinh, có người thông hiểu luật, có người thông hiểu luận nhưng lại phạm tội Chúng giáo, khi người này đến trong Tăng phát lồ tội, người khác thấy liền nói: "các vị này là thềm đạo vi diệu mà còn phạm tội đến trong Tăng sám như thế, các Bí-sô khác nếu trái phạm thì phải làm sao?", bạch Phật, Phật nói: "nên đến trú xứ khác để phát lồ sám hối". Khi họ đến trú xứ khác để phát lồ sám hối, giữa đường lại qua đời như trường hợp trên, Phật nói: "nếu có vị nào phước đức lớn hay là bậc Thượng tòa thủ chúng thì nên đối trước vị ấy để phát lồ sám tội".
Người đáng miễn nên miễn,
Đào mương, sai chúng đi,
Một ngày đến bốn tuần,
Da thịt đều bất tịnh.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, hôm đó đến phiên tôn giả A-nan trực nhật, vua Thắng quang nước Kiều-tát-la đến chỗ tôn giả A-nan đảnh lễ rồi ngồi một bên muốn nghe pháp, tôn giả nói lược về Thánh giáo cho vua nghe, vua nói: "hiện giờ tôi không bận gì cả, xin tôn giả hãy giảng rộng thêm", tôn giả vẫn nói lược như trước, vua lặp lại lời trên đến lần thứ ba, tôn giả nói: "đại vương tuy rảnh rỗi nhưng nay tôi lại bận việc", vua hỏi bận việc gì, đáp: "hôm nay đến phiên tôi trực nhật nên tôi phải xem xét mọi việc trong ngoài", vua suy nghĩ: "đây là việc ta nên làm", nghĩ rồi liền đảnh lễ từ giã tôn giả A-nan rồi đi đến chỗ Phật, đảnh lễ rồi bạch Phật: "Thế tôn, tuy con là vua quán đảnh dòng Sát-đế-lỵ nhưng nếu Tam bảo cần làm gì, con sẽ làm ngay; nếu cần hoàng hậu, Thái tử cho đến quân đội làm cho Tam bảo, con cũng sẽ bảo họ làm. Thế tôn là Pháp vương vô thượng, xin Thế tôn cho người đáng miễn được miễn làm việc Tăng, xin thương xót", Phật im lặng nhận lời, vua Thắng quang đảnh lễ từ giã ra về. Sau đó Phật bảo các Bí-sô: "các thầy nên biết, nay ta khai cho người đáng miễn được miễn, Tăng không nên sai họ làm tri sự cho Tăng nữa", các Bí-sô không biết ai là người đáng miễn, Phật nói: "những người thông hiểu kinh, luật, luận được miễn". Lúc đó Lục chúng Bí-sô vừa tụng được hai ba phẩm kinh liền tuyên bố: "tôi là người trì kinh đáng được miễn làm tri sự cho Tăng", Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "thọ trì hết Kinh bộ mới được miễn làm tri sự"; lại có người vừa thọ trì một hai Ba la thị ca liền tuyên bố: "tôi là người trì luật đáng được miễn làm trị sự cho Tăng", Phật nói: "thọ trì hết Luật bộ mới được miễn làm tri sự"; lại có người vừa đọc tụng hai ba bộ luận nhỏ liền tuyên bố: "tôi là người trì luận đáng được miễn làm tri sự", Phật nói: "thọ trì hết Luận bộ mới được miễn làm tri sự".
Duyên xứ như trên, lúc đó ở biên giới nước Kiều-tát-la của vua Thắng quang có phản nghịch, vua sai một vị tướng cầm quân đi thảo phạt nhưng đều bị thua trận phải quay trở về như vậy đến ba lần. Vị đại thần chấp chánh tâu vua: "bọn phản nghịch thế mạnh, binh của ta thế yếu, nếu đại vương không thân chinh thì không do đâu hàng phục được bọn phản nghịch này", vua liền ra thông báo chiêu mộ trai tráng trong nước tòng quân rồi tự thống lĩnh bốn binh thân chinh thảo phạt. Bọn phản nghịch không chịu thần phục vẫn cố thủ chống lại, do thành lũy của họ kiên cố hiểm trở nên vua không thể hạ được thành ngay. Lúc đó đại thần tâu vua: "trưởng giả Cấp-cô-độc có phước đức lớn, được thiên thần ủng hộ, nếu gọi ông ấy đến ắt sẽ khiến bọn phản nghịch quy hàng", vua liền sai sứ mời trưởng giả đến trong quân, trưởng giả vâng lịnh vua đến trong quân nhưng vẫn không làm cho bọn phản nghịch quy hàng, vua hỏi trưởng giả có nhớ nhà không, trưởng giả đáp: "thần không có tâm hệ thuộc gia đình, chỉ nhớ đến chúng tăng", vua liền ra lịnh quan trấn thủ: "khanh hãy đến chỗ Thánh chúng, không được ra lịnh mà nên thỉnh và dùng phương tiện đưa các vị ấy đến trong quân", quan trấn thủ nghe rồi suy nghĩ: "ta nên làm phương tiện gì để không cần ra lịnh mà Thánh giả tự đến gặp vua", một lão thần nói: "tôi có phương kế có thể khiến các Thánh chúng tự đến chỗ vua mà chúng ta không cần ra lịnh. Cách đây không xa có vườn vua nhưng nay đã hoang phế, ta nên phương tiện nói là đào mương nước xuyên qua chùa để dẫn nước đến sửa sang lại khu vườn của vua, như vậy họ sẽ tự đến gặp vua". Quan trấn thủ liền dẫn tùy tùng đến trong rừng Thệ đa đo đạt nói là muốn đào mương dẫn nước, các Bí-sô liền hỏi nguyên do, quan trấn thủ nói: "vua ra lịnh chúng tôi sửa sang lại khu vườn của vua, chúng tôi muốn đào mương dẫn nước qua đó", các Bí-sô nói:
"không lẽ các vị muốn hoại tháp thờ tóc và móng tay của Phật hay sao?", đáp: "lịnh vua ban ra chúng tôi biết làm sao, chúng tôi đâu có hai đầu mà dám chống lại", các Bí-sô nói: "các vị tạm thời dừng lại để chúng tôi gặp vua bàn bạc lại việc này", lại hỏi: "từ đây đến chỗ vua có thể trở về ngay trong ngày được không?", đáp: "không được, e đến bảy ngày cũng không trở về được". Các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "nếu vì việc Tăng, ta khai cho thọ trì pháp xuất giới trong bốn mươi ngày đêm", các Bí-sô không biết thọ trì như thế nào, Phật nói: "nên trải tòa đánh kiền chùy nhóm tăng, một Bí-sô trong Tăng nên hỏi vị muốn đi: "thầy có thể vì việc Tăng thọ trì pháp xuất giới trong bốn mươi ngày đêm không?", vị này nên đáp là có thể, một Bí-sô trong Tăng bạch nhị yết ma cho thọ trì rồi xuất giới đi". Lúc đó tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật: "có được thọ trì pháp xuất giới một ngày đêm không?", Phật nói được, lại hỏi: "có được thọ trì pháp xuất giới hai ngày đêm cho đến bốn mươi ngày đêm không?", Phật nói được, lại hỏi: "có được thọ trì pháp xuất giới hơn bốn mươi ngày đêm không?", Phật nói: "không được, trong ba tháng an cư thời gian ở trong giới phải nhiều hơn thời gian ở ngoài giới", lại hỏi: "như Phật khai cho thọ trì pháp xuất giới một ngày đêm, vậy nên đối trước ai tác pháp?", Phật nói: "nên đối trước một người, cho đến xuất giới bảy ngày cũng đối trước một người tác pháp, nếu nhiều hơn bảy ngày thì phải ở trong Tăng tác pháp xin", lại hỏi: "nếu da bất tịnh thì thịt có bất tịnh không?", Phật nói: "nếu da bất tịnh thì thịt cũng bất tịnh cho đến gân cốt đều bất tịnh".
Thí giường vua Ảnh Thắng,
Vật của mẹ cúng Tăng,
Quạ, cò, hạc, kên kên,
Bí-sô không được ăn.
Tại thành Vương xá nước Ma-kiệt-đà, vua Vị sanh oán con vua Ảnh Thắng bị ác tri thức là Đềbà-đạt-da phá hoại nên đã giết oan phu hoàng là Thánh vương trị nước như pháp. Sau đó vua Vị sanh oán hối hận, hễ nhìn thấy giường ngồi của vua cha liền rơi lệ. Đại thần tâu: "trước kia tiên vương tín ngưỡng Thánh chúng, vua nên đem giường ngồi này thí cho Tăng", vua sai sứ mang giường ngồi này thí cho Tăng, các Bí-sô để giường ngồi này ngay nơi cửa. Một hôm vua đến trong trú xứ Tăng vừa bước vào nhìn thấy giường ngồi này lại nhớ nghĩ đến cha nên đau buồn, đại thần nói với các Bí-sô: "vua hễ nhìn thấy giường ngồi này liền nhớ đến vua cha, trong lòng càng đau buồn nên mới đem thí cho Tăng, các thầy để ngay nơi cửa khiến vua nhìn thấy nên đau buồn", Bí-sô bạch Phật, Phật nói không nên để ngay nơi cửa, các Bí-sô khiên để dưới mái hiên, sự việc cũng xảy ra giống như lần trước, Phật nói không nên để dưới mái hiên. Các Bí-sô lại khiên để trong phòng, những người bất tín không thấy giường liền bàn tán: "Bí-sô bán giường của tiên vương để dùng vào việc ăn uống", Phật nói: "vào ngày mồng tám hay ngày mười lăm nên khiên giường ra để dưới mái hiên", những người bất tín lại bàn tán: "đây không phải là giường của vua, giường của vua Bí-sô đã đem bán để dùng vào việc ăn uống rồi", Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "ở trên giường nên ghi hàng chữ: đây là giường được thí của vua Tần-tỳsa-la ". Trường hợp vua Thắng quang đem vật của mẹ cúng cho Tăng cũng giống như vậy.
Duyên xứ như trên, đêm đó trời mưa đá làm cho cầm thú bị thương chết rất nhiều, mọi người chạy ra lượm lấy loài cầm thú ăn được mang về nhà. Sáng sớm Lục chúng Bí-sô theo thói quen sau khi thức dậy nhìn khắp bốn phía xem nhà nào có khói bốc lên hay ngoài đồng trống có chim bay từng đàn đáp xuống thì tìm đến những nơi ấy. Lúc đó Lục chúng Bí-sô thấy nhiều kên kên từ trên không bay xuống liền tìm đến chỗ đó, thấy có nhiều loại chim như quạ, cò, hạc, kên kên đã chết liền nhặt lấy xỏ xâu mang về. Các cư sĩ thấy hỏi nhặt lấy những con vật này làm gì, đáp là để ăn, họ nói: "vì sao các thầy lại ăn những con vật không nên ăn?", đáp: "những con vật nên ăn tìm không thấy, vì sao lại không nên ăn những con vật này?", nhân đây bị chê trách. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "Bí-sô không nên ăn các loại chim như quạ, cò, hạc, kên kên. Ai ăn thì phạm tội Việt pháp".
Không được ăn thịt chó,
Loài chim thú ăn thây,
Ngựa và loài có móng,
Cũng không ăn thịt vượn.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó vào thời buổi mất mùa đói kém nên nhiều người tục ăn thịt chó. Lục chúng Bí-sô sáng sớm đắp y mang bát vào thành khất thực, đi đến đâu đều nghe nói là hãy đi đi, chúng tôi không có gì để cúng. Cuối cùng đến một nhà thấy trong nhà đang nấu thức ăn liền hỏi nấu món gì, đáp là thịt chó, Lục chúng Bí-sô nói: "chúng tôi dựa vào các vị để sống, các vi đang ăn món gì thì cúng cho chúng tôi món đó", họ nghe vậy liền sớt thịt chó vào bát. Lục chúng Bí-sô đi đến đâu, bầy chó nghe mùi đều chạy theo sủa ầm lên, các cư sĩ hỏi nguyên do rồi nói: "các thầy cũng ăn thịt chó nữa sao?", đáp phải, vì thế bị chê trách. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "Bí-sô không được ăn thịt chó, cho đến các loại chim thú ăn thây chết như kên kên đều không được ăn. Ai ăn thì phạm tội Ác tác".
Duyên xứ như trên, lúc đó có kẻ trộm vào chuồng ngựa trộm lấy ngựa của vua Thắng quang nước Kiều-tát-la, dẫn vào trong rừng giết lấy thịt mang đi rồi bỏ đầu đuôi và móng lại. Sáng hôm đó Lục chúng Bí-sô sau khi thức dậy nhìn thấy từ xa có kên kên từ trên không bay xuống liền tìm đến chỗ đó, thấy đầu đuôi và móng ngựa liền nói với nhau: "hôm nay chúng ta được dồi dào vật phấn tảo, hãy cùng nhặt lấy mang về". Lúc đó người giữ ngựa theo dấu tìm đến thấy vậy liền nói: "các vị mặc y phục đại tiên vì sao lại làm việc xấu xa này?", Lục chúng Bí-sô hỏi là đã làm việc xấu xa gì, đáp là trộm ngựa của vua rồi đem giết, Lục chúng Bí-sô nói: "không phải chúng tôi mà là kẻ trộm ngựa dẫn đến đây giết rồi bỏ lại đầu đuôi, chúng tôi cho là vật phấn tảo nên nhặt lấy", người giữ ngựa nói: "đây thật là vật phấn tảo đáng ưa thích". Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "Bí-sô không được ăn thịt ngựa cho đến loài chồn, nếu ai ăn thì phạm tội Ác tác".
Lúc đó có một con vượn đang chuyền cây, do khoảng cách xa nên nó hụt tay rơi xuống đất và chết, Lục chúng Bí-sô mang về nấu ăn. Vừa lúc đó có một thiếu phụ lạc mất con đang đi tìm, khi đến trong rừng Thệ đa thấy Lục chúng Bí-sô đang nấu con vượn trong nồi liền gào lên nói là con tôi đang bị nấu trong nồi. Lục chúng Bí-sô gắp tay vượn lên, bà ta lại gào lên nói là tay của con tôi; lại gắp đùi vượn lên, bà ta lại gào lên nói là đùi của con tôi; lại gắp cái đầu lên, bà ta lại gào lên nói là đầu con tôi; cuối cùng gắp cái đuôi vượn lên và hỏi: "con bà cũng có đuôi sao?", bà ta hỏi: "các thầy ăn thịt vượn hay sao?", đáp: "không phải là con bà, ta ăn thì có lỗi gì?", nhân đây bị chê trách. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "hình dáng của khỉ vượn giống như người, vì thế Bí-sô không được ăn thịt khỉ vượn, ai ăn thì phạm tội Ác tác".
Chén nhỏ và chéo y,
Da, lá đều có lỗi,
Trừ một loại bằng sắt,
Vật khác tùy ý làm.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có một Bí-sô bị bịnh khổ bức bách, đến thầy thuốc yêu cầu điều trị, thầy thuốc nói: "dùng thuốc rửa bên dưới thân thì bịnh sẽ mau lành", Bí-sô nói Phật chưa khai cho, thầy thuốc nói: "Thế tôn đại bi ắt sẽ khai cho", Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "nếu thầy thuốc bảo như thế thì được tùy ý dùng". Bí-sô dùng chén nhỏ đựng thuốc để rót rửa lại làm đổ hết thuốc, Phật nói không nên dùng chén nhỏ; lại dùng chéo y đựng thuốc để rót rửa vẫn làm đổ hết thuốc, Phật nói không nên dùng chéo y; lại dùng tấm da đựng thuốc để rót rửa vẫn làm đổ hết thuốc, Phật nói không nên dùng tấm da; lại dùng lá cuộn lại để đựng thuốc, Phật nói đều không nên, nên làm cái ống. Bí-sô lấy ống làm bằng sắt đựng thuốc thì thuốc nóng và cứng, Phật nói: "chỉ trừ một loại sắt ra, các loại khác như thủy tinh, đồng... đều được làm".
Mía, lạc, thịt và mè,
Dược có bốn loại khác,
Gai, cải Mạn thanh, cháo,
Củ... nấu cháo được ăn.
Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật: "Thất nhật dược dùng làm Tận hình thọ dược được không?", Phật nói: "được, như Mía thể của nó là Thời dược, nước mía là Phi thời dược, đường là Thất nhật dược, than là Tận hình thọ dược. Lại nữa, Lạc là thời dược, nước Lạc là Phi thời dược, Tô là Thất nhật dược, đốt Lạc thành than là Tận hình thọ dược. Lại nữa, thịt là Thời dược, mỡ là Thất nhật dược, đốt thịt thành than là Tận hình thọ dược, tùy việc nên dùng".
Có một Bí-sô bịnh đến thầy thuốc yêu cầu điều trị, thầy thuốc nói: "nên ăn cháo Đại ma (hạt gai)", Bí-sô nói Phật chưa khai cho, thầy thuốc nói: "Thế tôn đại bi ắt sẽ khai cho", Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "nếu thầy thuốc bảo nấu cháo Đại ma hay cháo cải mạn thanh cho đến dùng các loại củ, cọng, hoa lá quả để nấu cháo ăn trị bịnh đều được dùng".
Cho uống nước đường cát,
Được làm Thất nhật dược.
Tâm niệm làm năm việc,
Lợi vật nên cùng chia.
Phật du hành trong nhân gian đến một tụ lạc, trong tụ lạc này có một trưởng giả do túc duyên đáng được Phật hóa độ. Lúc đó Phật quán biết thời tiết hóa độ trưởng giả đã đến nên đến nhà trưởng giả, trưởng giả trải tòa mời Phật ngồi, đảnh lễ Phật rồi ngồi một bên, Phật quán biết căn tánh tùy miên của trưởng giả, nói pháp Tứ đế khiến cho trưởng giả được khai ngộ và chứng quả Dự lưu. Sau khi chứng quả, trưởng giả bạch Phật: "Thế tôn, nhờ Phật khai ngộ khiến con ở trong các nạn mà được giải thoát, điều này không phải do cha mẹ... cho đến sa môn, Bà-la-môn có thể làm được. Thế tôn là bậc đại thiện tri thức đã cứu vớt con ra khỏi ba cõi, đặt để con vào cõi trời người, hết khổ sanh tử, được đạo Niết-bàn, làm cạn biển máu, vượt khỏi núi xương, núi thân kiến từ vô thỉ đến nay đều bị phá tan bằng chày trí Kim cang, chứng được Sơ quả. Nay con xin quy y Tam bảo, từ hôm nay cho đến trọn đời thọ trì năm học xứ, cúi xin Thế tôn chứng biết con là Ô-ba-sách-ca". Phật nói pháp yếu cho trưởng giả nghe qua khỏi giờ ngọ nên Phật và đại chúng đều nhịn ăn, trưởng giả xin Phật cho dâng nước uống phi thời, Phật nói tùy ý. Trưởng giả đem nước đường cát và các loại nước uống khác dâng cúng Phật và Tăng, các Bí-sô thấy nước uống quá ngọt nên không uống nhiều, Phật nói: "các loại trái cây như nho, thạch lựu, cam, quýt... ép rồi lượt để lắng trong, không nên đắc sệt và đục thì được uống dùng", tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật: "nước đường cát có dược dùng làm Thất nhật dược không?", Phật nói: "được, nước ép trái cây lượt để lắng rong chưa lên men, tính chất chưa thay đổi thì được tùy ý uống dùng".
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có một trưởng giả thỉnh tôn giả A-nan đến nhà thọ thực, vừa lúc đó nghe tin trưởng giả Cấp-cô-độc bịnh nặng, Phật cùng A-nan đến thăm rồi nói pháp yếu cho trưởng giả nghe. Khi định ra về thì trưởng giả thỉnh Phật và A-nan ở lại thọ thực, Phật im lặng nhận lời, A-nan bạch Phật: "con đã thọ một trưởng giả thỉnh thực rồi", Phật nói: "nên xả lần thỉnh thực trước cho Bí-sô khác. Có năm việc được tâm niệm làm, đó là phân biệt y, thọ trì y, Bao-sái-đà, việc Tùy ý (tự tứ) và thọ người thỉnh".
Duyên xứ như trên, lúc đó vào thời buổi mất mùa đói kém khất thực khó được, có Bà-la-môn và cư sĩ tín kính thỉnh Bí-sô trưởng lão đến nhà thọ thực, do Bí-sô chỉ thọ một lần thỉnh không thọ thêm chỗ khác thỉnh nên Phật nói: "gặp lúc đói kém khất thực khó được, tùy được thỉnh thọ thực nên thọ, tự mình ăn rồi nên mang về cho các Bí-sô khác cùng ăn". Lúc đó có vị không được thỉnh cũng đến thọ thực, chủ nhà nói không phải là người được thỉnh nên không dọn cho ăn, Phật nói: "nếu như thế thì người được thỉnh thọ thực nên ăn trước hai ba miếng rồi nói với thí chủ: do các Bí-sô khất thực khó được, thí chủ cho tôi mang thức ăn này về chia chó họ cùng ăn, xin tùy hỉ. Tùy mang được thức ăn về bao nhiêu đều chia cho các vị khác, cho đến vị nhỏ nhất cũng được cùng ăn".
Thầy thuốc bảo dùng Tô,
Dầu, thực phẩm tàn xúc,
Cho dùng Dược thích hợp,
Tịnh trù trừ mười nơi.
Lúc đó có Bí-sô bịnh đến thầy thuốc yêu cầu điều trị, thầy thuốc bảo nên dùng Tô, Bí-sô nói Phật chưa khai cho, thầy thuốc nói: "Thế tôn đại bi ắt sẽ khai cho", Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "nếu thầy thuốc bảo thế thì được tùy ý dùng". Vào nửa đêm, Bí-sô bịnh muốn dùng Tô nhưng không có người trao cho, Phật nói: "được tự lấy dùng, nếu khó tìm được Tô thì nên dùng dầu", lúc đó dầu cũng khó có được. Một Bí-sô khác có Tô dầu tàn xúc (để cách đêm và đã xúc chạm) nói với Bí-sô bịnh rằng: "tôi có Tô dầu nhưng là tàn xúc, nếu Phật khai cho dùng thì thầy tùy ý lấy dùng", bạch Phật, Phật nói: "nếu là người bịnh nghèo thì thực phẩm tàn xúc cũng được dùng không phạm". Lúc đó tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật: "như Phật đã khai cho Bí-sô cất chứa Dược thích hợp để dùng là như thế nào?", Phật nói: "trừ bốn vật báu ra, các vật khác đều được cất chứa để dùng".
Phật tại thành Tỳ-xá-ly, Phật bảo các Bí-sô:
"có mười nơi không được kết làm tịnh trù: một là đất trống, hai là phòng nhỏ bên cửa, ba là trước hiên, bốn là nhà ấm, năm là nhà tắm, sáu nhà quan nhân, bảy là bên tháp, tám là nhà ngoại đạo, chín là nhà thế tục và mười là chùa ni. Nếu nấu thức ăn trong mười chỗ đó thì phạm tội Ác tác", tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật: "nếu kết một phòng làm tịnh trù, đã tác pháp rồi thì phía trên dưới và bốn bên có thành tịnh không?", Phật nói: "nếu đại chúng cùng chấp thuận kết phòng này làm tịnh trù thì phía trên dưới và bốn bên, bên trong của thế phần thảy đều thành tịnh".
Củ, cọng, lá, hoa, quả,
Đều cho ngâm trong rượu,
Khuấy với nước để uống,
Cho dùng thức uống khác.
Sau khi Phật độ cho các Thích tử xuất gia, do họ khi còn tại gia quen uống rượu, sau khi xuất gia phải đoạn rượu nên thân thể họ gầy ốm, bạch Phật, Phật nói: "có thể dùng củ, cọng, lá, hoa, quả giã nát rồi bọc trong tấm vải trắng đem ngâm trong rượu nhẹ không làm say, không nên đổ đầy và đậy kín miệng bình, sau đó rót ra khuấy với nước uống. Hoặc dùng men, vỏ cây và các hương liệu giã nát rồi bọc trong tấm vải lụa, cột vào cây ngang treo trong thùng rượu đã cất, nhưng không cho dính rượu trải qua hai đêm rồi rót ra khuấy với nước uống. Hai loại nước này thới hay phi thời đều được tùy ý uống dùng không phạm, như vậy sẽ có thể khiến dần dần dứt rượu. Này các Bí-sô, các thầy đã tôn ta làm thầy thì không nên uống rượu, không mời cũng không thọ, cho đến dùng cọng cỏ tranh chấm rượu để nhỏ vào trong miệng". Lại hỏi: "như Phật đã nói Bí-sô Sa để được uống các loại khác là những loại nào?", Phật nói: "như nước tiểu của con bò đực mới sanh và tro cây Quật lạc đà, một là tro cây Bồ đề, hai là Kiếp tất tha, ba là A thuyết tha, bốn là tro cây Ô đàm bạt la, năm là nhược quật lộ hòa với nhau rồi khuấy với nước uống dùng trị bịnh", lại hỏi: "không biết người nào nên lấy?", Phật nói: "nên bảo người tín kính lấy rồi đưa lại cho người tín kính, sau đó trao cho Bí-sô dùng".
Định vật, nơi có chủ,
Nên hỏi, Kiều-tát-la,
Theo tượng, báo trước, sai,
Giảm bớt tầng, Ni chúng.
Định vật không nên dời,
Chớ lượm vật giặc bỏ,
Ở Thi lâm cũng vậy,
Cho thì tùy ý lấy.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có một trưởng giả giàu có xây cất một trú xứ cúng cho Tăng với đầy đủ ngọa cụ và các vật cần dùng. Các Bí-sô cựu trụ nói với nhau: "ngọa cụ và các vật cần dùng quá dồi dào, nếu đem cất để đó sợ sẽ hư hoại, chúng ta thọ vừa đủ dùng thôi, còn dư bao nhiêu đem chia cho Tăng trú xứ gần bên", bàn xong liền đem ngọa cụ dư chia cho trú xứ Tăng gần bên. Sau đó có các Bí-sô khất thực du hành đến trú xứ này, Bí-sô cựu trụ thu xếp chỗ nghỉ cho khách, khách hỏi: "không có ngọa cụ dư sao?", đáp là không có dư, khách Bí-sô này phải nằm ngủ trên giường hư không có ngọa cụ nên không ngủ được. Đến sáng hôm sau họ khóa cửa rồi đi đến nhà trưởng giả thí chủ, ngồi vào chỗ ngồi rồi nói pháp yếu và tán thán bảy loại phước nghiệp hữu sự, trưởng giả nghe rồi liền nói: "phước nghiệp này tôi đã làm rồi", khách Bí-sô nói: "trú xứ mà ông đã xây cất cúng cho Tăng thiếu ngọa cụ, đêm qua tôi đã không ngủ được", trưởng giả nói: "tôi đã cúng rất nhiều ngọa cụ, tư cụ cho Tăng, không lẽ các Bí-sô cựu trú đã đem chia bớt cho trú xứ gần bên", nói rồi cùng với khách Bí-sô đến trong trú xứ xem xét, xem xét xong liền hỏi các Bí-sô cựu trú: "trước đây tôi đã cúng rất nhiều ngọa cụ và tư cụ, nay chúng ở đâu?", các Bí-sô cựu trụ kể lại việc trên, trưởng giả nghe rồi nói: "các thầy hãy lấy về lại vì bổn ý của tôi là cúng cho trú xứ này". Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "không được đem vật của trú xứ này đưa cho trú xứ khác, vật cúng ở đâu thì nơi ấy được thọ dụng. Nếu cho riêng tư thì phải đền trả lại toàn bộ, nếu không trả thì phạm tội Việt pháp nặng".
Duyên xứ như trên, lúc đó Lục chúng Bí-sô tháp tùng theo các thương nhân du hành trong nhân gian, nhưng lại đi phía sau. Các thương nhân đi trước chẳng may gặp giặc cướp, do không thể mang hết tài vật đã cướp được nên chúng bỏ lại một số rồi đi. Lục chúng Bí-sô ở phía sau đi đến thấy các tài vật này liền nói với nhau: "tài vật phấn tảo dồi dào này hãy cùng lượm lấy mang đi", các thương nhân thấy bọn cướp đi hết liền quay trở lại thấy Lục chúng Bí-sô đang mang tài vật của mình liền nói: "tài vật của chúng tôi giặc đã không lấy sao các thầy lại lấy, các thầy mặc y phục đại tiên vì sao lại làm hạnh xấu này?", Lục chúng Bí-sô hỏi chúng tôi làm hạnh xấu gì, đáp là lấy tài vật của chúng tôi, Lục chúng Bí-sô nói: "giặc cướp tài vật của các vị rồi vất bỏ lại mấy thứ này, chúng tôi tưởng là phấn tảo nên lượm lấy thì có lỗi gì". Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "tài vật mà giặc đã cướp của thương nhân vất bỏ lại thì Bí-sô không được lượm lấy, ai lượm lấy thì phạm tội Ác tác". Sau đó có các thương nhân bị cướp, tài vật đã cướp chúng mang không hết nên vất bỏ lại một số, các cư sĩ bảo các Bí-sô lượm lấy dùng, Bí-sô không lấy, Phật nói: "nếu cho thì được lượm lấy".
Phật tại thành Vương xá, lúc đó Lục chúng Bí-sô vào trong Thi lâm thấy có y vật, lọng, củi đốt liền cùng đến lấy mang đi; sau đó các Chiên-đà-la giữ Thi lâm đến thấy mất các y vật này mà không biết là ai đã lấy. Bảy tám ngày sau, Lục chúng Bí-sô lại đến trong Thi lâm tìm kiếm y vật nữa và bị các Chiên-đà-la ngăn lại và nói rằng: "các tạp dịch khó nhọc đều xuất phát từ trong Thi lâm, vì sao các thầy lại trộm lấy y vật mà người khác coi giữ?". Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "y vật trong Thi lâm có người coi giữ thì Bí-sô không được lấy, ai lấy thì phạm tội Việt pháp nặng". Sau đó người coi giữ trong Thi lâm tín kính bảo các Bí-sô lượm lấy y vật đó về dùng, Bí-sô không dám lấy, Phật nói: "nếu cho thì được lượm lấy".
Vật thiên miếu có chủ,
Bí-sô không nên lấy,
Người khán bịnh không nên,
Khuyên người bịnh xả y.
Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng Thệ đa, thành Thất-la-phiệt, lúc đó Lục chúng Bí-sô tháp tùng theo xe của đoàn thương nhân đi đến giữa đường thì trục xe bị gãy, họ vất trục gãy thay trục mới rồi tiếp tục lên đường. Lục chúng Bí-sô lấy cái trục gãy đó cắm ở nơi ngã tư đường rồi ghi lên đó hàng chữ Xa trục Thiên tôn. Thời gian sau có một trưởng giả đem thức ăn đến chỗ này cúng tế, lại có nhiều người đến đây cầu khấn: "nếu con được như sở nguyện thì con sẽ xây miếu thờ Thiên tôn và hằng ngày sẽ có một trăm lẻ tám Bà-la-môn đến cúng tế", không ngờ họ được như sở nguyện nên họ xây một cái miếu thờ Thiên tôn ngay tại đó. Các thương nhân đi ngang qua đây đều đem y vật cúng cho Thiên tôn, Lục chúng Bí-sô thấy nơi đây trở thành nơi được cúng tế dồi dào như vậy liền nói với nhau: "xa trục Thiên tôn được cúng nhiều y vật, chúng ta nên đến lấy", nói rồi liền vào lấy y vật cúng mang đi, người giữ miếu nói: "tôi coi giữ miếu này, vì sao các thầy lại tự tiện lấy y vật cúng cho thần tượng trong miếu mang đi?", Lục chúng Bí-sô nói: "ngươi ở đâu mà được thiên miếu này, miếu này đầu tiên là do chúng tôi sáng lập, chúng tôi đã lấy trục xe gãy cắm xuống đây và đề là Trục xa Thiên tôn, ngươi không biết nguồn gốc nên mới khinh mạn bỏn xẻn như thế", nói rồi liền dùng tay nhổ lên cái trục xe cho mọi người thấy, mọi người nói: "cho dù tôn giả hay người nào khác đã sáng lập nhưng nay đã có người coi giữ, vì sao các thầy lại đến đoạt lấy y vật đã cúng". Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "Bí-sô không nên lấy y vật đã cúng trong Thiên miếu, ai lấy thì phạm tội Việt pháp nặng". Sau đó có người giữ thiên miếu khác tín kính bảo các Bí-sô lấy về dùng, Bí-sô không dám lấy, Phật nói: "nếu cho thì được lấy".
Duyên xứ như trên, lúc đó có Bí-sô bịnh, như Phật đã dạy các Bí-sô bịnh nên tu phước nghiệp nơi Tăng, vì thế vị khán bịnh nói với Bí-sô bịnh: "thầy nên cúng dường chút ít cho Tăng điền", Bí-sô bịnh nói: "tôi không có gì cả, nay đem ba y thí cho Tăng điền", vị khán bịnh đem ba y cúng cho Tăng, Tăng đem bán rồi cùng chia. Thời gian sau
Bí-sô này hết bịnh lại không còn ba y thọ trì, bạch Phật, Phật nói: "Bí-sô khán bịnh không được khuyên Bí-sô bịnh thí ba y cho người khác, ai làm thế thì phạm tội Việt pháp. Tăng cũng không được thọ ba y này, nếu thọ cũng không được phân chia liền, sau đó nếu thấy họ thiếu y nên đem trả lại, ai chia y này cũng bị tội Việt pháp".
Hỏi thí chủ vật cúng,
Lợi vật nên chia đều,
Hai chúng lớn chia đều,
Chúng khác nên gia giảm.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có một trưởng giả thỉnh hai bộ Tăng thọ thực rồi đem tài vật cúng dường cho cả hai bộ, các Bí-sô không biết nên chia như thế nào, bạch Phật, Phật nói: "nên hỏi thí chủ và chia theo lời của họ".
Duyên xứ như trên, lúc đó có sáu mươi Bí-sô du hành trong nhân gian đến một tụ lạc, trong đây có một trưởng giả chánh tín thỉnh các Bí-sô đến nhà thọ thực và muốn cúng cho mỗi vị một y. Lúc các Bí-sô đang thọ thực, có sáu mươi Bí-sô ni đang khất thực, mọi người chỉ đến nhà trưởng giả thọ cúng dường, các ni đến và cũng được thỉnh thọ thực. Trưởng giả suy nghĩ: "ta làm sao cúng y đủ cho tất cả, vậy nên tùy trưởng lão phân chia", nghĩ rồi liền đem sáu mươi xấp vải để trước Thượng tòa, các Bí-sô không biết nên chia như thế nào, bạch Phật, Phật nói: "đây là lợi vật cúng cho hai chúng, nên chia đều". Sau đó lại có một trưởng giả thỉnh hai chúng thọ thực và cúng dường tài vật, Bí-sô và Cầu tịch được chia phần bằng nhau, Bí-sô liền phàn nàn: "chúng tôi cần ba y còn Cầu tịch chỉ cần có hai y thượng hạ, tại sao lại chia bằng nhau", bạch Phật, Phật nói: "Bí-sô và Bí-sô ni chia phần bằng nhau, Cầu tịch và Cầu tịch nữ được một phần ba, Thức xoa ma na được một phần hai, người sắp thọ Cận viên cũng được chia một phần hai, nên chia như vậy".
Giạ trắng Kiều-tát-la,
Nhân con Phật, ăn mì,
Duyên Thất lợi cấp đa,
Nói rộng việc xây cất.
Phật tại nước Kiều-tát-la cùng một ngàn hai trăm năm mươi Bí-sô du hành trong nhân gian đến một tụ lạc, trong đây có một trưởng giả thỉnh Phật và Tăng cùng đồ chúng đến nhà thọ thực. Lúc đó lại có sáu mươi Bí-sô ni du hành đến tụ lạc này, theo thứ lớp khất thực đến trước nhà trưởng giả cũng được thỉnh thọ thực. Trưởng giả cúng dường xong, đem một ngàn hai trăm năm mươi xấp bạch điệp để trước Thượng tòa, các Bí-sô không biết nên chia như thế nào, các Bí-sô ni nói: "lần trước chúng tôi được chia một nửa vật thí, lần này cũng nên chia cho một nửa", các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "nên tính số người của Bí-sô và Bí-sô ni mà phân chia, không được chia một nửa". Lại có một trưởng giả thỉnh Phật và Tăng đến nhà thọ thực, các Bí-sô đều đi phó thực, chỉ có Phật ở lại chùa không đi vì có năm nhân duyên nên bảo thị giả mang phần ăn về, lần này là vì muốn chế học xứ cho các Bí-sô. Lúc đó tại nhà trưởng giả, vì kính các bậc kỳ túc nên trưởng giả dâng cúng Tô và bánh nấu với Tô; dâng cúng bậc Trung tòa dầu và bánh chiên dầu; dâng cúng bậc hạ tòa cặn dầu mè và bánh chiên cặn dầu mè. Cụ thọ La hỗ la ăn xong mang phần thức ăn về cho Phật, thường pháp của chư Phật là hỏi thăm người mang thức ăn về: "các Bí-sô ăn có được no đủ không?", đáp là no đủ, Phật lại hỏi: "vì sao thầy lại gầy ốm như thế?".
La hỗ la nói kệ:
"Ăn dầu có sức lực,
Ăn Tô sắc tươi sáng,
Ăn cặn dầu mè, rau,
Làm sao có sắc lực?"
Phật nói: "ta hỏi vì sao gầy ốm, sao lại nói về việc ăn uống?", La hỗ la kể lại việc trên, Phật hỏi: "vị nào là Thượng tòa trong Tăng?", đáp: "là bổn sư của con", Phật nói: "Xá-lợi-phất, thầy của con gọi là Ô thực, không gọi là Thiện thực, vì sao không coi ngó phần ăn của trung hạ tòa", Phật bảo các Bí-sô: "nay ta chế hành pháp của bậc Thượng tòa trong Tăng như sau: hễ là bậc Thượng tòa khi thấy người dọn đưa thức ăn liền nên bảo họ quỳ chắp tay nói câu "Tam bát la khứ đa" và bảo họ nên dọn đưa thức ăn đồng đều". Sau đó vị Thượng tòa hễ thấy người dọn đưa bánh, rau... đều mỗi mỗi nói như trên khiến cho dọn đưa thiếu thức ăn, Phật nói: "khi bắt đầu dọn đưa thức ăn thì bảo họ dọn đưa đồng đều, không cần mỗi mỗi nói như thế, ai làm trái thì phạm tội Ác tác". Lúc đó tôn giả Xálợi-phất nghe Phật nói mình không gọi là Thiện thực liền dùng ngón tay móc họng cho ói ra thức ăn, tôn giả Ưu-ba-ly bạch Phật: "tôn giả Xá-lợiphất ói thức ăn đã ăn ra", Phật nói: "không phải chỉ ngày nay khi nghe ta chê trách, thầy ấy liền ói thức ăn ra, mà trong quá khứ cũng như vậy. Các thầy lắng nghe:
Quá khứ có một Bà-la-môn thích tán tụng cùng với một Bà-la-môn trẻ du hành trong nhân gian đến một tụ lạc, vị lớn bảo vị trẻ ngồi ở bên bờ ao ngoài tụ lạc chờ để vị ấy vào trong tụ lạc khất thực. Lúc đó có một Chiên-đà-la đến bên ao múc nước để ăn mì, vị trẻ theo Chiên-đà-la xin ít mì, Chiênđà-la bảo lấy lá kết lại để đựng, vị trẻ làm theo để thọ lấy mì, thọ xong liền thấy trong mì có cáu bẩn liền hỏi Chiên-đà-la tại sao, đáp là mì đựng trong bát dơ nên dơ, vị trẻ ăn xong thì vị lớn trở lại bảo vị trẻ cùng vào tụ lạc lấy bánh, đáp là đã ăn mì rồi, vị lớn hỏi là thọ từ đâu, đáp là từ Chiên-đà-la, vị lớn trách: "kia là người xấu ác bất tịnh, vì sao lại thọ mì của họ ăn", vị trẻ thấy vị lớn khinh tiện liền ói ra số mì đã ăn.
Này các Bí-sô, Bà-la-môn lớn thuở xưa chính là thân ta ngày nay, Bà-la-môn trẻ chính là Xá-lợiphất ngày nay. Xưa do ta quở trách nên ói thức ăn đã ăn, nay cũng vậy".
Phật ở bên ao Yết lan đạc ca trong Trúc lâm, thành Vương xá, lúc đó trong thành có một trưởng giả tên là Thất lợi cấp đa vốn là tín đồ của ngoại đạo lõa hình, là em rễ của Tụ để sắc ca. Tụ để sắc ca vốn tín kính Tam bảo nên suy nghĩ: "ta nên khuyên Thất lợi cấp đa cúng dường phước điền vô thượng là Phật và Tăng", nghĩ rồi liền nói với Thất lợi cấp đa: "em thiết thực cúng dường Phật và Tăng sẽ được vô lượng phước", Thất lợi cấp đa nói: "nếu em cúng dường Phật và Tăng thì anh cũng nên cúng dường Bộ thích noa và các đệ tử của vị ấy", Tụ để sắc ca suy nghĩ: "nếu ta không nhận lời thì người em rễ này sẽ mất quả lợi đối với thắng phước điền, ta bố thí cùng khắp thì ngại gì việc này", nghĩ rồi liền nhận lời, Thất lợi cấp đa suy nghĩ: "nếu ta thỉnh Sa môn Kiều-đáp-ma đến nhà thọ thực trước thì Tụ để sắc ca sẽ không chịu thỉnh Bộ thích noa và các đệ tử đến cúng dường", nghĩ rồi liền nói: "anh nên thỉnh Bộ thích noa đến nhà thọ thực trước, em sẽ thỉnh Phật và Tăng đến nhà thọ thực sau", Tụ để sắc ca bằng lòng liền đến chỗ Bộ thích noa thăm hỏi rồi thỉnh Bộ thích noa và các đệ tử ngày mai đến nhà thọ thực, Bộ thích noa suy nghĩ: "có lẽ người này thấy Sa môn Kiềuđáp-ma có lỗi lầm gì nên không sanh tâm tin ưa nữa, quay sang tín kính ta, như vậy là ta được lợi ích lớn. Tổ tiên của người này vốn là thí chủ của ta, nay quay về với ta cũng là hợp lý", nghĩ rồi liền thọ thỉnh. Tụ để sắc ca trở về nhà, ngay trong đêm ấy lo liệu đầy đủ các món ăn ngon, sáng sớm trải tòa để nước rồi sai sứ đến bạch đã đến giờ thọ thực. Lúc đó Thất lợi cấp đa đến nói với Bộ thích noa: "Thánh giả biết không, Sa môn Kiều-đáp-ma khi đến nhà người tục thọ thỉnh, khi đến nhà, chân phải vừa đặt lên ngưỡng cửa liền mỉm cười. Thị giả A-nan quỳ xuống chắp tay bạch rằng: "Như lai không phải không nhân duyên mà miệng mỉm cười", Kiều-đáp-ma nói: "đúng vậy, Như lai không phải không nhân duyên mà miệng mỉm cười, những chỗ Phật đến đều là vì thọ ký khiến cho đại chúng khởi tâm tín kính". Vì vậy các vị khi đến nhà của Tụ để sắc ca nên làm y như vậy để làm cho họ sanh tín kính", Bộ thích noa cùng các đệ tử đi đến nhà của Tụ để sắc ca, vừa bước chân lên ngạch cửa Bộ thích noa liền cười to lên, đệ tử liền quỳ xuống bạch rằng: "không phải không nhân duyên mà bậc Thắng nhân lại cười lớn như thế", đáp: "đúng vậy, không phải không nhân duyên mà ta lại cười lớn. Ta vừa dùng thiên nhãn xem thấy bên bờ ao Vô túy có con vượn đực chạy theo con vượn cái, hụt chân té từ trên cây xuống đất mà chết. Ta nghĩ loài súc vật không có nhận thức nhưng có tình cảm này vì tham dục mà phải chịu khổ não", Tụ để sắc ca nghe rồi suy nghĩ: "đây gọi là tìm kim trong bọc mà muốn bán kim, ta nên chiết phục khiến cho ngoại đạo này sửa đổi lại". Lúc đó Tụ để sắc ca trải tòa tốt đẹp, để thức ăn thượng diệu vào trong bát đồng rồi để bánh lên trên, đem dâng cúng cho Bộ thích noa và các đệ tử. Bộ thích noa chỉ thấy dâng bánh liền suy nghĩ: "ta là giáo chủ phải dâng cúng thức ăn ngon, vì sao chỉ dâng có bánh", Tụ để sắc ca hỏi: "vì sao thầy không ăn?", đáp: "vì sao chỉ có bánh mà không có thức ăn tạp vị?", Tụ để sắc ca nói kệ:
"Điều đáng thấy lại không thấy được,
Điều không thấy dối nói là thấy,
Còn thấy vượn chết bên bờ ao,
Sao không thấy cơm ngon trong bát?"
Nói kệ rồi liền chỉ thức ăn tạp vị dưới lớp bánh, Bộ thích noa hổ thẹn suy nghĩ: "ta đã bị chiết phục rồi, lát nữa ăn xong ta sẽ chú nguyện cho trong hiện tại và tương lai, các phước nghiệp đã làm sẽ không có quả báo lợi ích", sau khi ăn xong, Bộ thích noa chú nguyện nói kệ:
"Người nào khi làm chút bố thí,
Cho đến khi thiết thực cúng dường,
Dùng lời cật vấn để chê trách,
Thiện phước đã làm không quả báo".
Tụ để sắc ca có người giữ cửa nghe lời chú nguyện này rồi liền suy nghĩ: "kẻ vô trí này ăn cơm của chủ ta lại chú nguyện cho không có quả báo, ta nên phương tiện làm cho hắn té trật khớp xương", nghĩ rồi liền nghiêng đổ bình nước dơ nơi cửa và kéo then cửa cho ló ra phân nửa, khi Bộ thích noa đi ra tới cửa bị nước dơ trơn trợt nên té ngã, đập đầu vào then cửa bể đầu chảy máu. Người giữ cửa liền nói kệ:
"Ngay khi then cửa kéo ló ra,
Và khi nghiêng đổ bình nước dơ,
Khi té bể đầu chảy máu ra,
Lúc ấy thiện phước không quả báo".
Bộ thích noa ôm đầu đi đến chỗ Thất lợi cấp đa kể lại việc trên, Thất lợi cấp đa nói: "thầy may mắn còn mạng sống trở về, tôi sẽ lập kế làm cho Sa môn Kiều-đáp-ma và chúng tăng vào nhà tôi rồi sẽ không còn sống trở về". Lúc đó Thất lợi cấp đa suy nghĩ: "ta nên đến thỉnh Sa môn Kiều-đápma đến nhà thọ thực, nếu ông ta là Nhất-thiết-trí thì sẽ không thọ thỉnh, nếu không phải là Nhấtthiết-trí thì sẽ nhận lời", nghĩ rồi liền đến chỗ Phật thăm hỏi và thỉnh Phật cùng chúng tăng ngày mai đến nhà thọ thực.
Lúc đó Phật suy nghĩ: "Thất lợi cấp đa sẽ từ nơi ta mà được Kiến đế, nay tâm ý đang loạn muốn làm các hạnh ác. Nếu ta không thọ thỉnh thì sẽ chướng ngăn ông ta Kiến đế, vì vậy ta nên thọ thỉnh", nghĩ rồi Phật im lặng nhận lời, Thất lợi cấp đa suy nghĩ: "Kiều-đáp-ma không phải là bậc Nhất-thiết-trí, đây là oan gia mà ta phải báo thù". Sau khi về đến nhà, ngay trong đêm đó ông cho đào một cái hố lớn giữa nhà, bên dưới đốt than nóng đỏ rồi lấy vật gác lên trên, dùng cỏ tranh phủ rồi rải lên một lớp đất mỏng và bỏ thuốc độc vào trong thức ăn đã nấu chín. Lúc đó em gái của Tụ để sắc ca là vợ của Thất lợi cấp đa thấy vậy liền hỏi muốn làm gì, đáp là muốn giết oan gia, lại hỏi oan gia là ai, đáp là Sa môn Kiều-đáp-ma, người vợ nói: "nếu Đại sư là oan gia thì ai là bạn thân?",
Thất lợi cấp đa suy nghĩ: "người vợ này của ta cùng với người anh thân sanh đều kính trọng Sa môn Kiều-đáp-ma, há không tiết lộ việc riêng của ta hay sao", nghĩ rồi liền nhốt vợ vào trong phòng tối và khóa cửa lại. Sau đó đến nói với Bộ thích noa: "các thầy hãy đến xem tôi giết hại oan gia, tôi đã cho đào một hố than lửa và bỏ thuốc độc vào trong thức ăn", các ngoại đạo lên gác ngồi chờ xem và nói với nhau: "chúng ta ngồi đây chờ xem Kiều-đáp-ma bị thiêu đốt và ăn phải thức ăn độc ngã ra bất tỉnh thì chúng ta mới khoái chí". Sáng hôm sau trải tòa, để nước và tăm xỉa răng xong, Thất lợi cấp đa sai sứ đến chỗ Phật bạch là đã đến giờ thọ thực, sứ vâng lời đến chỗ Phật đảnh lễ rồi bạch Phật là đã đến giờ. Phật bảo A-nan: "thầy hãy thông báo cho các Bí-sô không ai được tự tiện vào nhà Thất lợi cấp đa trước, đợi Như lai vào trước rồi mới vào theo", A-nan vâng lời Phật đi thông báo. Khi Phật đắp y mang bát cùng các Bí-sô sắp đi, các thiên thần cựu trụ ở Trúc lâm hiện ra bạch Phật: "cúi xin Thế tôn đừng đến nhà Thất lợi cấp đa thọ thực, vì ông ta có ý ác muốn hại Như lai nên đã làm việc nghịch hại và tạo các nghiệp tội", Phật nói: "ta đã đoạn trừ tất cả việc vô ích, làm sao ông ta có thể làm việc nghịch hại ta được", thiên thần nói: "ông ta đã đào một hố lớn chất đầy than đốt cháy đỏ", Phật nói: "tất cả lửa tham dục, sân hận, ngu si ta đều đã dùng nước trí huệ dập tắt hết rồi, lửa thế gian làm sao hại được", thiên thần nói: "ông ta đã bỏ thuốc độc vào trong thức ăn", Phật nói: "đối với ba độc tham sân si ta đều đã dùng thuốc trí huệ A yết đa trừ hết cả rồi, tất cả độc khác làm sao hại được". Khi Phật vào thành Vương xá, thiên thần thủ hộ thành này cũng hiện ra bạch Phật như trên và Phật cũng đáp như trên. Khi Phật đến nhà Thất lợi cấp đa, vừa đến cổng, thiên thần cựu trụ trong đất nhà này cũng hiện ra bạch Phật như trên và Phật cũng đáp như trên. Lúc đó vợ của Thất lợi cấp đa bị nhốt trong phòng tối suy nghĩ: "giờ này chắc Phật đã đến cửa thứ nhất... giờ này chắc Phật đã đến cửa thứ hai... bây giờ chắc Phật đã sa vào trong hố lửa than...", lẩm bẩm như thế rồi mê ngất đi. Khi Phật đến ngưỡng cửa của nhà chính sắp bước chân vào thì từ dưới hố lửa mọc lên hoa Ba đầu ma, Phật an tường bước lên hoa Ba đầu ma để vào trong nhà ngồi. Thất lợi cấp đa thấy việc này rồi sanh tâm hi hữu nói với Bộ thích noa: "thầy hãy nhìn xem thần thông biến hiện của Thế tôn", Bộ thích noa nói: "ông đã bị thu phục bởi huyễn thuật của Kiều-đáp-ma rồi sao?", đáp: "dù là huyễn thuật thì thầy tự xưng là Nhất-thiết-trí há có thể làm được hay sao?", Bộ thích noa và các ngoại đạo hổ thẹn cúi đầu lặng lẽ rời khỏi nhà. Lúc đó Thất lợi cấp đa hổ thẹn không dám đến gặp Phật liền đến chỗ nhốt vợ nói với vợ rằng: "nàng hãy mau ra đảnh lễ Thế tôn", người vợ nói: "làm gì có Thế tôn, ông đã cùng người ác giết hại Như lai rồi", Thất lợi cấp đa nói: "ai có thể làm hại được Như lai, tôi vì quá hổ thẹn nên không dám đến gặp Phật", người vợ nghe rồi liền ra khỏi phòng cùng chồng đi đến chỗ Phật đảnh lễ, Thất lợi cấp đa phủ phục sát đất không dám ngẩng đầu lên, người vợ nói: "chồng con không còn mặt mũi nào dám nhìn Thế tôn, cúi xin Thế tôn từ bi tha thứ tội cực nặng phải đọa vào địa ngục Vô gián của chồng con", Phật nói: "hãy đứng dậy đi, ta đã tha thứ rồi", Thất lợi cấp đa hết lời tán thán: "Như lai Ứng chánh đẳng giác thật không có trái thuận", vui mừng đứng dậy như người chết được sống lại bạch Phật rằng: "cúi xin Phật đợi trong giây lát, con sẽ cho làm lại các món ăn", Phật nói: "chẳng phải ông đã sai sứ đến báo là giờ thọ thực đã đến rồi hay sao?", đáp: "quả là con có sai sứ đến bạch như thế, nhưng con đã làm việc bất lợi cho Phật và Tăng", Phật nói: "ta đã đoạn hết việc bất lợi, ông làm sao có thể làm việc bất lợi cho ta được", đáp: "con đã bỏ thuốc độc vào trong thức ăn đã nấu chín", Phật nói: "đối với ba độc tham sân si ta đều đã trừ sạch thì các độc khác không cần phải nói. Nay thức ăn đã nấu chín hết rồi, ông nên dọn lên", Phật liền bảo A-nan: "thầy hãy thông báo cho các Bí-sô cho đến khi chưa xướng câu Tam bát la khứ đa thì các Bí-sô không ai được ăn trước", A-nan vâng lời Phật thông báo cho các Bí-sô biết. Thức ăn dọn lên, Phật bảo một người đến trước Thượng tòa xướng câu Tam bát la khứ đa, nhờ uy lực của câu mật chú này mà chất độc trong thức ăn đều tiêu tan hết. Thất lợi cấp đa tự tay dâng cúng thức ăn từ Thượng tòa cho đến vị hạ tòa thấy tất cả đều không ai trúng độc, càng sanh tâm thâm tín. Phật và Tăng ăn xong, hai vợ chồng lấy chiếc ghế thấp ngồi trước Phật muốn nghe pháp, Phật quán biết căn tánh tùy miên của họ nói pháp Tứ đế khiến cho họ được khai ngộ và chứng quả Dự lưu. Sau khi chứng quả, Thất lợi cấp đa bạch Phật: "Thế tôn, con nay nhờ Phật khai ngộ được chứng sơ quả... như trên cho đến câu thọ Tam quy ngũ giới. Từ nay trở đi, đối với tất cả nam nữ ngoại đạo con đều đóng cửa vĩnh viễn; còn đối với Phật và Tăng cùng các Ô-ba-sách-ca và Ô-ba-tư-ca, con sẽ luôn luôn mở cửa", Phật sau khi làm cho Thất lợi cấp đa được Kiến đế rồi liền trở về trú xứ. Về đến trú xứ, Phật bảo các Bí-sô: "nay ta chế hành pháp của Thượng tòa trong Tăng như sau: hễ là bậc Thượng tòa thủ chúng khi thấy thí chù dâng cúng thức ăn, trước nên bảo một người đến trước Thượng tòa xướng câu Tam bạt la khứ đa. Khi chưa xướng câu này thì đại chúng chưa được thọ thực, nên biết câu mật chú này có uy lực lớn, nếu làm trái hành pháp này thì phạm tội Ác tác". (Tam bát la khứ đa dịch là Chánh chí hay thời chí là câu mật chú có công năng trừ độc).
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có một trưởng giả xây cất trú xứ cúng Tăng nhưng xây nửa chừng thì qua đời, con của trưởng giả thừa kế gia nghiệp nên các Bí-sô đến nhà nói với người con rằng: "cha của hiền thủ cất chùa, công quả được một nửa thì qua đời, công đức còn lại hiền thủ nên làm tiếp cho xong", người con nói: "chùa cất quá lớn nên tôi không đủ sức làm tiếp, nếu Phật cho làm nhỏ lại thì tôi sẽ làm tiếp". Các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "không thể làm lớn thì cho họ được làm nhỏ lại". Lại có cư sĩ xây cất trú xứ cúng Tăng, công việc nửa chừng thì qua đời giống như trường hợp trên, chỉ khác là người con nói: "chùa đó xây quá nhỏ, tôi muốn làm lớn hơn, nếu Phật cho làm lớn hơn thì tôi sẽ làm", Phật nói tùy ý cho làm lớn hơn. Lại có một trưởng giả xây tháp nhỏ, công việc nửa chừng thì qua đời... giống như trường hợp trên cho đến câu người con nói: "tháp đó quá nhỏ, tôi thích làm cao lớn hơn, nếu Phật cho làm cao lớn hơn thì tôi sẽ làm", Phật nói tùy ý làm lớn hơn. Lại có một trưởng giả xây tháp lớn, công việc nửa chừng thì qua đời giống như trường hợp trên, chỉ khác là người con nói: "tôi nghèo nên không thể xây tiếp cho xong tháp lớn như thế, nếu Phật cho làm nhỏ lại thì tôi sẽ làm", Phật nói tùy ý làm nhỏ lại.
Về việc xây tháp nếu nhỏ thì được làm lớn hơn, nếu lớn thì không nên làm nhỏ lại. Nếu cư sĩ có khả năng làm lớn thì tốt, nếu không thể thì các Bí-sô nên quyên góp để xây tiếp cho xong, nếu luân tướng của tháp lâu ngày hư hoại thì nên sửa sang lại. Có người phá bỏ luân tướng cũ để làm cái mới nhưng lâu ngày vẫn chưa làm xong, Phật nói: "không nên phá cái cũ trước, nên làm cái mới xong rồi mới hạ cái cũ xuống". Lúc đó tượng Phật bằng đất bùn bị hư hoại, Bí-sô nghi sợ nên không dám tu sửa lại, Phật nói: "nên làm lớn hơn hay tương tợ tùy ý". Lúc đó những hình vẽ trên tường phai mờ không thấy rõ, Bí-sô nghi ngại không dám vẽ lại, Phật nói nên xóa sạch rồi vẽ mới lại. Lúc đó kinh Phật viết trên giấy lá bị hư, Bí-sô nghi ngại không dám viết lại, Phật nói nên xóa cái cũ rồi viết mới lại.
Đưa tượng vào trong thành,
Thọ kiết tường, vật cúng,
Tùy tình trổi trống nhạc,
Bí-sô không nên làm.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó trưởng giả Cấp-cô-độc bạch Phật: "con muốn thỉnh tượng Bồ-tát vào thành để thi thiết cúng dường", Phật nói làm đúng lúc. Các Bí-sô không biết ai nên đi theo đưa tượng vào thành, Phật nói: "Bí-sô nhỏ tuổi nên đi theo", Bí-sô nhỏ quá ít nên không đủ số, Phật bảo năm chúng xuất gia nên đi theo. Lúc đó các cư sĩ, Bà-la-môn tịnh tín dùng bình báu đựng nước kiết tường rót vào tay Bí-sô rồi trao vật cùng dường nhưng không ai dám thọ, Phật nói: "các trưởng lão kỳ túc nên đưa tay phải ra thọ nước kiết tường và vật cúng dường". Các Bí-sô đưa tượng vào thành không có đánh trống nhạc, Phật nói nên đánh trống nhạc, tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật: "Phật bảo nên đánh trống nhạc, vậy ai nên làm?", Phật nói người tục nên làm, lại hỏi: "Bí-sô có được làm không?", Phật nói không nên trừ khi thiết hội cúng dường, lại bảo người tấu nhạc: "các vị tấu nhạc là để cúng dường Đại sư, không nên vô cớ tấu nhạc, nếu vô cớ tấu thì phạm tội Ác tác".
Cần phải thông báo trước,
Năm chúng theo vào thành,
Nên sai người giữ vật,
Ni không luân pháp riêng (tách ra riêng).
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó Phật cho đưa tượng vào thành trong ngày đại hội, các cư sĩ nói với Bí-sô: "A-giá-lợi-da, đưa tượng vào thành mà chúng tôi không được biết, Thánh giả nên báo trước cho chúng tôi biết để chúng tôi tùy sức mình đem hương hoa thượng diệu cúng dường tượng và quét dọn trang hoàng lại đường sá...", Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "trước đó bảy tám ngày nên vào thành thông báo cho mọi người biết vào ngày giờ đó sẽ mở pháp hội, các vị tùy sức mình đem hương hoa đến cúng dường". Lúc đó tuy thông báo tại ngã tư đường nhưng vẫn có nhiều người chưa nghe biết, Phật nói nên viết bố cáo trên giấy hay vải rồi treo trên xe, đến các ngã đường để phổ biến. Đến ngày đưa tượng vào thành không có nhiều người đi theo, Phật bảo năm chúng nên đi theo, lúc đó các cư sĩ đem nhiều tài vật đến cúng dường, Bí-sô không biết ai nên thọ cất, Phật bảo trưởng lão kỳ túc nên thọ cất. Các vị này thọ rồi phải tự mang đi nên rất nhọc mệt, Phật bảo Bí-sô trẻ nên mang, khi mang về chùa, họ để đó thành đống lớn mà không coi giữ nên bị kẻ trộm lấy đi, Phật nói: "nên sai người coi giữ, tác pháp sai như sau: một Bí-sô trong Tăng nên hỏi người được sai: "thầy có thể vì Tăng làm người coi giữ y vật hay không?", nếu đáp là có thể thì Tăng nên bạch nhị yết ma sai như sau:
Đại đức tăng lắng nghe, Bí-sô tên __________ hoan hỉ làm người coi giữ y vật cho Tăng. Nếu tăng già đúng thời đến nghe, Tăng già nên chấp thuận, Tăng nay sai Bí-sô tên __________ làm người coi giữ y vật cho Tăng. Bạch như vậy.
Văn yết ma căn cứ theo văn tác bạch mà làm".
Lúc đó các Bí-sô ni thấy các Bí-sô được cúng nhiều y vật liền nói: "các Đại đức được cúng nhiều y vật nên chia cho chúng tôi, nếu không chia thì chúng tôi sẽ tách ra riêng", Bí-sô nghe rồi liền ngăn không cho tách ra riêng. Thời gian sau, Ni chúng cũng tách ra riêng, các cư sĩ thấy vậy liền hỏi các Bí-sô: "các ni hành đạo là đồng hay khác với các thầy?", đáp là không đồng, các cư sĩ chê trách: "Đại sư còn hiện tiền mà đã phá Tăng luân, không nương tựa lẫn nhau, tự tách ra riêng", lúc đó các ni cũng được tài lợi, các Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật nói: "Bí-sô ni không được làm luân pháp riêng, nếu ai làm thế tức là phương tiện phá Tăng, phạm tội Tốt-thổ-la để. Các Bí-sô được cúng nhiều tài vật nên chia cho Bí-sô ni, nếu không chia thì phạm tội Việt pháp".
Nên sai người chia vật,
Thượng tòa nên định giá,
Không được liền trả giá,
Bị đòi giá, trả y.
Đại hội xong, các Bí-sô được cúng nhiều tài vật, không biết nên chia như thế nào, Phật nói: "nên sai người chia vật, tác pháp sai như sau: một Bí-sô trong Tăng nên hỏi người được sai: "thầy có thể vì Tăng làm người chia y vật hay không?", nếu đáp là có thể thì Tăng nên bạch nhị yết ma sai như sau:
Đại đức tăng lắng nghe, Bí-sô tên __________ hoan hỉ làm người chia y vật cho Tăng. Nếu tăng già đúng thời đến nghe, Tăng già nên chấp thuận, Tăng nay sai Bí-sô tên __________ làm người chia y vật cho Tăng. Bạch như vậy.
Văn yết ma căn cứ theo văn tác bạch mà làm". Lúc đó người chia y trải tòa ngồi rồi đánh kiền chùy nhóm tăng để bán đấu giá số y vật được cúng, nhưng không biết ai nên định giá để bán đấu giá, Phật nói Thượng tòa trong Tăng nên định giá. Thượng tòa định giá quá cao nên không ai nói giá cao hơn để mua, Phật nói: "nên định giá ở mức trung bình, không quá cao cũng không quá thấp". Định giá xong, có người vừa nói giá cao hơn một chút liền đưa y ngay, Phật nói nên đợi ai nói giá cao nhất mới đưa y. Lúc đó Lục chúng Bí-sô thấy không có người nói giá cao hơn, liền cố ý nói giá cao hơn, đến khi được đưa y thì họ không chịu lấy nói rằng: "tôi không muốn mua y, chỉ vì đại chúng nên mới nói giá cao hơn", Phật nói: "nếu trong chúng không có ai nói giá cao hơn để mua thì không nên cố ý nói giá cao hơn, ai cố ý nói giá cao hơn thì phạm tội Ác tác". Khi Lục chúng Bí-sô nói ra giá cao hơn, được đưa y liền lấy mặc, bị đòi tiền liền trả lại y, Phật nói: "chưa đưa tiền y thì không được lấy mặc, nếu chưa đưa tiền y mà lấy mặc thì phạm tội Ác tác".
Chùa lớn giảm bớt tầng,
Người mang y được dùng,
Nạn khủng bố nếu dứt,
Nên theo quy định trước.
Phật dạy Bí-sô làm chùa nên làm năm tầng, đài hương nên bảy tầng, cửa lầu cũng bảy tầng; Bí-sô ni làm chùa nên ba tầng, đài hương và cửa lầu nên năm tầng. Lúc đó các Bí-sô làm chùa nhiều tầng nên hư sụp, Phật nói nên bỏ tầng trên, vẫn còn hư sụp, cứ như vậy giảm dần cho đến tầng còn lại có thể chịu đựng được.
Từ khi Phật hiện đại thần thông hàng phục ngoại đạo, người tín kính trong thành, ngoài thành cho đến chốn biên phương đều xây cất chùa cúng cho Tăng ở. Lúc đó các Bí-sô trụ chùa ở chốn biên phương gặp nạn khủng bố liền bỏ chạy trốn, giặc vào chùa lấy hết y bát và ngọa cụ của Tăng khiến họ bị thiếu y, bạch Phật, Phật nói: "ngọa cụ của Tăng không nên để cho mất, khi đi nên mang theo". Sau đó có nạn khủng bố, có Bí-sô mang ngọa cụ của A-tăng-kỳ theo rồi cùng các Bí-sô chạy trốn, đến chiều tối Bí-sô trưởng lão nói với Bí-sô này: "này cụ thọ, luận về tuổi tác thì tôi được dùng ngọa cụ của A-tăng-kỳ này, thầy nên đưa cho tôi", Bí-sô này đưa, vị trưởng lão này lấy lót năm ngủ đến sáng hôm sau đưa lại bảo Bí-sô này mang đi, Bí-sô này nói: "khi cần ngọa cụ thì đem tuổi tác ra nói, khi có nạn khủng bố phải mang theo thì sao không nói đến tuổi tác, ngọa cụ này trưởng lão nên tự mang theo". Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "người mang ngọa cụ đi được dùng", sau khi nạn duyên dứt, các Bí-sô thấy vị kia vẫn dùng ngọa cụ của Tăng nên nói: "đây là vật của Tăng, vì sao lấy dùng một mình?", đáp là Phật cho dùng, Phật nói: "lúc đó có nạn khủng bố nên ta khai cho người mang ngọa cụ của Tăng theo thì được dùng. Nay nạn duyên đã hết thì nên theo pháp thức đã định trước kia".
Nếu có pháp hội lớn,
Đánh trống nhóm chúng tăng,
Chúng đông hành thực riêng,
Người kiểm tra ăn trước.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, trưởng giả Cấpcô-độc xin Phật cho mở pháp hội lớn ở trong rừng Thệ đa, Phật nói là đúng lúc. Đến ngày đại hội, các Bí-sô khắp bốn phương đều tụ về, do chúng đông nên trễ mất giờ ăn, Phật bảo nên đánh kiền chùy, do quá ồn nên đánh kiền chùy vẫn không nghe được hết, Phật bảo: "nên đánh trống lớn, Bí-sô nghe tiếng trống nên tụ tập tại nhà ăn và ngồi theo thứ lớp". Lúc đó do quá đông nên người dọn đưa thức ăn chưa đưa đến hàng cuối cùng thì qua giờ ngọ, vì thế nhiều Bí-sô phải nhịn đói; Phật nói: "nếu số người quá đông nên cho hành thực riêng từng nhóm, hãy để thức ăn ở trước mỗi Thượng tòa để có thể dọn đưa một lần". Lúc đó cư sĩ dọn đưa bánh trái không đồng đều, Phật bảo nên cử một Bí-sô trông coi việc dọn ăn; Bí-sô được sai này do coi ngó việc dọn ăn cho chu đáo, đến khi chúng ăn xong thì qua giờ ngọ và Bí-sô nay phải nhịn đói; Phật nói: "người trông coi việc dọn ăn nên lấy phần ăn của mình rồi ăn trước, ăn như vậy không có lỗi".
Trên chỗ Thủ chúng ni,
Nên để một chỗ trống,
Cho Bí-sô khác đến,
Cô khổ chớ tăng giá.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có nhiều Bí-sô ni du hành trong nhân gian đến một tụ lạc, trong đây có một trưởng giả tín kính thỉnh các Bí-sô ni đến nhà thọ thực, trong các Bí-sô ni này, ni Thổ-la-nan-đà là Thượng tọa. Lại có một Bí-sô tháp tùng theo các thương nhân du hành cũng đến tụ lạc này, khi theo thứ lớp khất thực, có người nói: "có các Bí-sô ni đang thọ thỉnh thực tại nhà trưởng giả, thầy hãy đến đó cùng thọ thực", Bí-sô liền đi đến nhà trưởng giả. Bí-sô ni nói: "Đại đức, nếu khi đại chúng ăn xong, thầy có thể chú nguyện và thuyết pháp được cho thí chủ thì hãy ngồi trên tòa trên; nếu không thể thì hãy ngồi một bên, ăn xong rồi đi", Bí-sô nghe rồi suy nghĩ: "nếu ta chờ ăn xong thuyết pháp rồi mới đi thì các thương nhân sẽ bỏ ta đi trước", nghĩ rồi liền ngồi một bên ăn xong rồi đi. Khi đến trong rừng Thệ đa, thành Thất-la-phiệt, các Bí-sô cựu trú thăm hỏi đi đường có được an lạc không, Bí-sô này đáp: "không an lạc vì bị Bí-sô ni ác ý làm nhục", nói rồi liền kể lại việc trên, các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "nếu chỉ có một Bí-sô và một Bí-sô ni thì Bí-sô nên ngồi trên và thọ thức ăn trước; nếu có hai ba hay nhiều Bí-sô ni mà chỉ có một Bí-sô thì Bí-sô này vẫn ngồi trên và thọ thức ăn trước. Từ nay Bí-sô ni đi đến đâu thọ thỉnh thực, nên chừa một chỗ trống dành cho Bí-sô nào đến sau, nếu là Cầu tịch đến sau cũng được ngồi vào chỗ ngồi này vì Cầu tịch thuộc chúng trên. Bí-sô ni làm trái thì phạm tội Việt pháp".
Lúc đó trưởng giả Cấp-cô-độc khi thiết lập pháp hội liền đem tất cả vợ con nam nữ trong nhà xả thí cho Tăng, các Bí-sô không biết làm sao, bạch Phật, Phật bảo hỏi trưởng giả, trưởng giả nói: "các thầy định giá rồi bán đấu giá, tôi sẽ mua lại", Bí-sô vừa định giá, Lục chúng Bí-sô tranh nhau nói giá cao hơn. Trong số đó có một người nữ cô khổ thấy Lục chúng Bí-sô nói giá càng cao, sợ trưởng giả mua lại không được nên nói với trưởng giả: "số tôi cô khổ, xin trưởng giả đừng bỏ tôi", Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "đối với người nữ cô khổ hay ưu sầu lo sợ thì Bí-sô không nên nói giá cao hơn, ai nói giá cao hơn thì phạm tội Ác tác. Nên tùy thí chủ tín kính tính mua với giá bao nhiêu thì nhận lấy bấy nhiêu".
Tư cụ y, ngu si,
Sai, không dùng, người tục,
Đang làm, trưởng giả cúng,
Dao cạo, trang hoàng tháp,
Cơm, lạc, lá, múc nước,
Và các việc rửa bát...
Mười hai bài tụng này,
Tổng nhiếp cần nên biết.
Mười ba tư cụ y,
Ghi tên cất giữ dùng,
Nếu có y dư khác,
Ký gởi nên phân biệt.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó Phật cùng các Bí-sô du hóa trong nhân gian, một Bí-sô bịnh vì thiếu thuốc uống nên qua đời, bạch Phật, Phật nói: "từ nay cho các Bí-sô được cất chứa vải đổi thuốc, khi có bịnh duyên nên lấy vải này bán để mua thuốc uống". Sau đó có Bí-sô sau khi được vải đổi thuốc này liền đem giặt nhuộm, tác pháp thọ trì rồi cất giữ, đến khi bịnh đem vải này bán để mua lại thuốc thì bán không được giá, bạch Phật, Phật nói: "vải đổi thuốc không nên giặt nhuộm, nên giữ nguyên màu sắc ban đầu". Cụ thọ Ưu-baly hỏi Phật: "Phật chế các Bí-sô nên thọ trì ba y, lại khai cho cất chứa vải đổi thuốc là như thế nào?", Phật nói: "từ nay các Bí-sô được cất chứa mười ba tư cụ y: một là Tăng-già-lê, hai là Uất Đa-la tăng, ba là An-đà-hội, bốn là Ni-sư-đàn, năm là quần, sáu là phó quần (quần thứ hai để thay đổi), bảy là Tăng khước kỳ, tám là phó Tăng khước kỳ (cái thứ hai để thay đổi), chín là khăn lau mặt, mười là khăn lau mình, mười một vải băng bó ghẻ (vết thương), mười hai là khăn cạo tóc, mười ba là vải đổi thuốc", lại hỏi: "Bí-sô nên thọ trì mười ba tư cụ y này như thế nào?", Phật nói: "nên thọ trì từng loại, đối trước một Bí-sô nói tên ra để tác pháp thọ trì, như y Tăng-già-lê nên nói như sau:
Đại đức nhớ nghĩ, đây là y Tăng-già-lê, từ nay tôi xin thọ trì, đã cắt rọc thành y là vật mà tôi thọ dụng.
Nói ba lần, những y khác đều dựa theo đây mà tác pháp thọ trì, chỉ có vải đổi thuốc là dùng khi có bịnh duyên", lại hỏi: "ngoài mười ba tư cụ y này ra, nếu có y dư khác thì phải làm sao?", Phật nói: "nên bạch với Thân giáo sư và Quỹ phạm sư rồi tác pháp ký gởi phân biệt thọ trì, đối trước một Bí-sô phân biệt thọ trì như sau:
Đại đức nhớ nghĩ, tôi Bí-sô tên __________ có y dư này chưa tác pháp phân biệt, nay đối trước Đại đức phân biệt để thọ trì. (ba lần)
Si không hiểu ba tạng,
Mười hai hạng người này,
Khi mất tánh hồi phục lại,
Quở trách nên ghi nhận.
Cụ thọ Ưu-ba ly hỏi Phật:
Hỏi: có mấy hạng người không được quở trách và lời nói không được ghi nhận?
Phật đáp: có mười hai hạng người:
Người ngu là người ý suy nghĩ điều ác, miệng nói lời ác, thân làm việc ác và cố chấp việc đã làm.
Người si là người không trì kinh, luật, luận.
Người không phân minh là người không hiểu rõ giáo văn trong ba tạng.
Người không thiện xảo là người không hiểu rành giáo lý trong ba tạng.
Người không tàm quý là người phạm một trong bốn tội Tha thắng.
Người có lỗi lầm là người mới tranh cãi hay trước đó đã có lời oán trách
Người ở ngoài giới
Người bị Tăng bạch tứ yết ma xả khí.
Người nói không có thứ tự là người nói dối, nói ly gián, nói thô ác và tạp loạn.
Người xả oai nghi là người rời khỏi chỗ ngồi.
Người mất bản tánh là người làm việc không nên làm, không tu tập các học xứ.
Người thọ học là người phạm tội Ba la thị ca nhưng không che giấu, Tăng bạch tứ yết ma cho học lại giới (học hối Sa di).
Lại hỏi: có mấy hạng người được quở trách? Phật đáp: có ba, đó là người trụ nơi bản tánh, người nói có thứ tự và người không xả oai nghi.
Lại hỏi: người mất bản tánh khi quở trách yết ma, không được ghi nhận thì quở không thành quở, nếu người này hồi phục bản tánh thì quở có thành quở không?, Phật nói thành quở.
Sai mười hai hạng người,
Nói thì thành pháp quở,
Khi thọ nói là tục,
Thì không thành Cận viên.
Lại hỏi: khi tác pháp yết ma sai mười hai hạng người, nếu họ nói rằng: "các Đại đức đừng sai tôi" thì lời này có được ghi nhận không?
Phật đáp: được ghi nhận nhưng không thành quở, thành quở là khi vì người nào tác pháp yết ma trị phạt.
Lại hỏi: khi người đang thọ Cận viên nói tôi là người tục thì người này có thành thọ Cận viên không?
Phật đáp: nếu người ấy thọ Cận viên rồi tự nói mình là người tục thì người ấy vẫn mất Cận viên, huống chi là đang thọ. Đây là dựa trên có tâm xả giới mà nói.
Không dùng năm loại mỡ,
Tùy trường hợp nói giới,
Nhân Ức nhĩ ăn cháo,
Chúng nên thọ ruộng vua.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, như Phật dạy có năm loại giày da bất tịnh không nên dùng, lúc đó Lục chúng Bí-sô dùng mỡ voi trong năm loại mỡ bất tịnh thoa lên giày da rồi đứng phía trên hướng gió, khiến cho voi của vua Thắng quang nghe thấy mùi này kinh hãi bỏ chạy. Lục chúng Bí-sô hỏi người giữ voi sao không giữ voi lại, đáp là không thể giữ được, Lục chúng Bí-sô nói là có thể giữ được, người giữ voi nói: "nếu các vị giữ voi lại giúp tôi thì tôi sẽ đền đáp bằng giá tiền bánh trái". Lục chúng Bí-sô nhận lời rồi xuống đứng dưới hướng gió, voi hết nghe mùi liền đứng lại, người giữ voi nói: "các vị có thần chú hay sao, voi kinh sợ bỏ chạy tôi giữ lại không được nhưng các vị lại làm cho nó đứng lại được", Lục chúng Bí-sô nói:
"không có thần chú gì cả, chỉ là tôi dùng mỡ voi thoa lên giày da...", người giữ voi chê trách: "nếu voi của vua bị thương tổn thì há chẳng phải các vị đã làm việc không lợi ích rồi hay sao". Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "Bí-sô không được dùng mỡ voi thoa lên giày da, ai làm thế thì phạm tội Ác tác. Mỡ voi đã như thế thì các loại mỡ ngựa, sư tử, hổ, báo đều không được dùng".
Phật tại thành Vương xá, lúc đó vua Tần-tỳ-Sa-la đến chỗ tôn giả A-nan đảnh lễ rồi hỏi: "Đại đức, hôm nay không phải là ngày nghe pháp mà là ngày trưởng tịnh, tôi có được nghe không?", đáp: "đại vương, việc trưởng tịnh là việc mà các Bí-sô cùng làm, người thế tục không được nghe", vua nghe rồi liền đứng dậy đi. Phật tuy biết nhưng vẫn hỏi
A-nan nguyên do, A-nan kể lại việc trên, Phật nói: "thầy có lỗi lớn, nếu lúc nảy vua được nghe Ba-la-đề-mộc-xoa này thì vua ắt sẽ sanh lòng tin sâu và cung kính gấp bội. Từ nay nếu vua cho đến đại thần có tín tâm, ưa thích nghe giới thì Bí-sô nên vì họ nói. Nếu có người tuy tôn quý nhưng không có tâm tín kính mà muốn nghe cũng nên vì họ nói. Nếu có người nghèo tín tâm muốn nghe cũng nên vì họ nói, nhưng nếu không có tín tâm mà muốn nghe thì Bí-sô không nên nói".
Phật tại thành Vương xá, lúc đó cụ thọ Thuyết lung noa Nhị thập ức từ nhỏ đã được nuôi dưỡng bằng cháo, sau khi xuất gia không được ăn cháo nữa nên thân thể ốm gầy vàng vỏ không có sức lực. Phật tuy biết nhưng vẫn hỏi A-nan nguyên do, A-nan bạch Phật rõ nguyên do, Phật nói: "từ nay ta khai cho Bí-sô Ức nhĩ được tùy ý ăn cháo", cụ thọ A-nan đến nói lại lời Phật cho Ức nhĩ nghe, Ức nhĩ hỏi: "Phật khai cho tất cả đại chúng hay chỉ riêng cho tôi?", đáp là khai riêng cho thầy, Ức nhĩ nói: "do nhân duyên các vị đồng phạm hạnh sẽ chê cười tôi là Ức nhĩ vốn con nhà giàu có ở thành Chiêm ba, đã bỏ cả bảy voi chúa để xuất gia, nay lại cầu được ăn cháo hay sao. Nếu Phật vì tôi mà khai cho tất cả đại chúng được ăn cháo thì tôi sẽ theo chúng ăn", A-nan trở về bạch lại Phật, Phật nói: "ta nhân việc này vì Ức nhĩ khai cho đại chúng được ăn cháo". Lúc đó các cư sĩ, Bà-la-môn tịnh tín đem nhiều loại cháo ngon đến cúng cho đại chúng, vua Ảnh Thắng nghe biết việc này liền đem ngàn mẫu ruộng tốt cúng cho Tăng, các Bí-sô không dám thọ, bạch Phật, Phật nói: "vì Tăng nên thọ, quả trái thu hoạch được đại chúng cùng thọ dụng".
Người tục và Cầu tịch,
Không được cùng ngồi chung,
Trừ khi có nạn duyên,
Ngồi chung không thành lỗi.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, cụ thọ Ưu-ba-ly hỏi Phật: "Bí-sô nghe pháp có được cùng ngồi chung với người tục không?", Phật nói: "không được, trừ nạn duyên không phạm", lại hỏi có được cùng Cầu tịch ngồi chung không, Phật nói: "không được, cho đến không được ngồi cùng tòa với người nhỏ tuổi, huỳnh môn, người ô nhục Bí-sô ni, người phạm ngũ nghịch, ngoại đạo, người hướng đến ngoại đạo, tặc trụ, người hành Biệt trụ, người phạm Bất cọng trụ, trừ có nạn duyên không phạm", lại hỏi có được ngồi chung với người thọ học không, Phật nói không được như trên, không được ngồi chung một giường cây cũng giống như vậy.
Đang làm đừng bảo dậy,
Ngồi theo tuổi, chậu nhuộm,
Nên cùng giữ vườn Tăng,
Đừng đốt gỗ xây dựng.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó các Bí-sô đang ngồi trên ghế làm các việc như giặt, nhuộm, may... Lục chúng Bí-sô đến bảo họ đứng dậy để mình ngồi làm khiến họ bỏ dở công việc. Các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "khi Bí-sô đang giặt, nhuộm... thì không được bảo họ đứng dậy, ai làm trái thì phạm tội Ác tác". Lục chúng Bí-sô tự ỷ mình là bậc Thượng tòa nên đi đến đâu cũng bảo người khác đứng dậy để mình ngồi, có Bí-sô không chịu đứng dậy, Phật nói: "nên ngồi theo thứ lớp tuổi hạ". Sau đó khi các Bí-sô đang ăn, Lục chúng Bí-sô đến sau liền bảo họ đứng dậy, Phật nói: "khi Bí-sô đang ăn, Thượng tòa đến sau không được bảo người nhỏ hơn đứng dậy, ai làm thế thì phạm tội Ác tác, nên tùy chỗ mà ngồi ăn". Lúc đó cụ thọ Ưu-ba-ly hỏi Phật: "Phật nói khi Bí-sô đang ăn không được bảo đứng dậy, như thế nào là đang ăn?", Phật nói: "dưới cho đến thọ muối, thọ lá cây dựng thức ăn đều không được bảo đứng dậy". Sau đó Lục chúng Bí-sô đến chỗ ngồi của bậc Thượng tòa cố ý thọ thực trước để không bị bảo đứng dậy, Phật nói: "không được đến ngồi chỗ của bậc Thượng tòa cố ý thọ thực trước, ai làm thế thì phạm tội Ác tác, Bí-sô nên biết ngồi theo thứ lớp".
Trong Tăng có thùng chứa nước thuốc nhuộm và thau chậu dùng để nhuộm, một Bí-sô lấy các vật dụng này dùng để nhuộm y trước, Lục chúng Bí-sô đến sau giành lấy dùng trước khiến Bí-sô kia phải bỏ dở công việc đang làm. Phật nói: "nếu là vật của Tăng, người khác lấy trước đang dùng thì không được đoạt lấy, chờ làm xong mới lấy, chưa xong mà đoạt lấy thì phạm tội Ác tác". Sau đó Lục chúng Bí-sô chỉ nhuộm có một miếng vải nhỏ mà cố ý ngâm mãi trong chậu nước nhuộm, không để cho người khác lấy dùng, Phật nói: "nếu nhuộm cả tấm vải mới gọi là nhuộm, không được vì nhuộm một miếng vải nhỏ mà ngăn không cho người khác dùng, ai làm thế thì phạm tội Ác tác".
Duyên xứ như trên, lúc đó trưởng giả Cấp-côđộc làm hàng rào cây chung quanh rừng Thệ đa, có người tục phá để lấy gỗ mang đi, bạch Phật, Phật nói nên sai người ngăn giữ. Khi sai người ngăn giữ, kẻ trộm vất lại gỗ bỏ chạy, không ai nhặt lại nên các cây gỗ này bị hư mục, bạch Phật, Phật nói: "cây nào hư mục thì đưa vào nhà trù làm củi đun, cây gỗ nào còn dùng được thì đưa cho người trông coi việc xây dựng". Lúc đó Lục chúng Bí-sô lấy những cây gỗ còn dùng xây dựng được chẻ làm củi đun nấu nước nhuộm, bạch Phật, Phật nói: "Bí-sô không được đốt cây gỗ còn dùng xây dựng được, ai làm thế thì phạm tội Ác tác".
Vật trưởng giả đã thí,
Hỏi rồi nên cất giữ,
Đừng chiếm chỗ người khác,
Rửa sạch mới vào chùa.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó trưởng giả Cấp-cô-độc xin Phật cho cúng Tăng ở trong rừng Thệ đa, Phật nói tùy ý. Trong rừng Thệ đa có bao nhiêu cây, cây mang tên giống đực thì trưởng giả dùng y phục người nam trang hoàng, cây mang tên giống cái thì trưởng giả dùng y phục người nữ trang hoàng. Như thế trang hoàng khắp nơi từ trong sân chùa, chỗ kinh hành... cho đến trong nhà ăn rồi xả thí cho Tăng, các Bí-sô không biết phải làm sao nên bạch Phật, Phật bảo nên hỏi trưởng giả, hỏi thì trưởng giả nói là vật cúng ở đâu thì thuộc của nơi đó. Phật nói: "những y phục trang hoàng trên các cây cho đến các nơi khác nên cất vào trong rương, đợi khi có đại hội trong rừng Thệ đa thì đem ra trang hoàng trở lại. Trên tường thì nên họa vẽ, trong nhà ấm thì nên mua củi đun, trong nhà tắm thì nên mua các vật dùng cần dùng, trong nhà chứa nước thì nên chứa nước cho đủ cung cấp nước uống đúng thời và phi thời cho đại chúng, trong nhà nuôi người bịnh nên cung cấp thức ăn ngon. Những vật gần Tăng phòng, trước hiên, chỗ kinh hành thì Hiện tiền tăng được chia; những vật ở trong sân, trong chùa thì Tứ phương tăng được thọ dụng".
Lúc đó các Bí-sô ở trong thiền đường tu thiện pháp để đoạn hoặc, Lục chúng Bí-sô đến bảo người khác đứng dậy cho họ ngồi, Phật nói: "những chỗ đó không nên dựa vào tuổi hạ làm cho các Bí-sô xao động, nếu ai làm thế thì phạm tội Việt pháp". Có Bí-sô tạm xuất thiền đứng dậy kinh hành một lát, Lục chúng Bí-sô liền ngồi vào chỗ đó làm cho Bí-sô bỏ dở việc ngồi thiền, Phật nói: "chỗ mà người khác đã ngồi trước thì không nên giành ngồi. Bí-sô khi muốn kinh hành nên lấy gối hay Tăng khước kỳ để trên chỗ ngồi rồi mới đi".
Lúc đó có Bí-sô khách đến chùa đập giũ giày da vào cột trụ trước hiên, Bí-sô cựu trụ thấy liền chê trách, bạch Phật, Phật nói: "nay ta chế pháp thức cho Bí-sô đi đường như sau: Bí-sô đi đường khi muốn vào trong chùa nào hãy tìm chỗ để nước, để bát một bên, đập giũ y rồi rửa tay chân sạch sẽ cho không còn bụi đất, kế đổ nước sạch vào bình, dùng giẻ lau giày da xong, đắp y cho tề chỉnh rồi mới thung dung vào trong chùa".
Dao và nhíp của Tăng,
Dùng xong không giữ luôn,
Khi tiểu tiện xong rồi,
Không ở lâu trong đó.
Phật cho cất chứa dao cạo và nhíp, lúc đó Lục chúng Bí-sô lấy dao cạo và cái nhíp của Tăng dùng xong rồi cất giữ luôn, không đem trả lại nói là để sau này dùng nữa. Các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "Bí-sô dùng dao của Tăng xong không được cất giữ luôn, cho đến các vật dụng khác như nhíp, đá mài... cũng như vậy".
Lúc đó Lục chúng Bí-sô vào tiểu tiện xong cứ
ở mãi trong đó để ngăn ngại người khác, cố ý xúc não họ khiến họ chê trách bạch Phật, Phật nói: "tiểu tiện xong không được ở mãi trong đó, nếu cố ý làm vậy thì phạm tội Ác tác, cố ý xúc não người khác cũng phạm như vậy".
Trang hoàng chung quanh tháp,
Bài trí các Thánh tích,
Nước đục tùy uống dùng,
Nước mặn phân biệt biết.
Lúc đó trưởng giả Cấp-cô-độc muốn trang hoàng tháp thờ móng tay của Phật và bài trí các Thanh tích nhưng không biết làm như thế nào,
Phật nói: "bắt đầu từ hình tượng Bồ-tát từ cõi trời Đổ-sử-đa hạ sanh để hóa đạo hữu tình cho đến khi nhập Niết-bàn, các Thánh tích trong bổn sanh được tùy ý làm".
Lúc đó các Bí-sô đi đường gặp nước đục, nghi ngại nên không dám múc nước uống, Phật nói: "nước soi thấy mặt đều có thể uống dùng, nếu soi không thấy mặt thì cần có người trao cho mới uống. Nếu quá đục thì nên bỏ trái Yết đắc ca hay trái Bồ đào chờ lắng trong mới uống, hoặc bỏ bột vào", có Bí-sô bỏ nắm bột vào nước, bột tan hết trong nước, Phật nói nên thấm nước vò thành viên rồi mới bỏ vào. Lại có Bí-sô gặp nước mặn, nghi ngại không dám uống, Phật nói: "nước mặn làm muối được thì nên thọ rồi mới dùng, nước mặn không làm muối được thì tùy ý lấy dùng, chớ nghi ngại".
Cơm, lạc... không phải dơ,
Nước trong lu cũng vậy,
Rửa chân, năm loại bình,
Thế nào gọi là sạch?,
Lá, tay bụm nước uống,
Đa nghi, rót vào bát,
Mang lương thực qua sông,
Dù chạm không thành lỗi,
Rửa bát nên dụng tâm,
Người chạm, hỏi mới thọ,
Đổi thức ăn, lương thực,
Hết nạn ngăn trở lại.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có số đông Bà-la-môn, cư sĩ mở yến tiệc trong vườn hoa gần rừng Thệ đa, tiệc xong, họ đổ bỏ thức ăn dư vào trong giếng nước. Khi các Bí-sô múc nước giếng, dùng lượt lượt nước thì thấy có hạt cơm và thức ăn thừa nên nghi ngại, cho đến nước trong lu cũng không dám dùng. Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "không phải vì có thức ăn thừa mà nước thành bất tịnh, lượt rồi thì thành tịnh, không nên đổ bỏ nước". Lại có Bí-sô đến múc nước trong ao, thấy có người đang rửa bình đựng Tô dầu và bình đựng Lạc, cũng có Bí-sô đang rửa bát, chất dơ nổi trên mặt nước và cặn của Lạc trong bình từng miếng chìm xuống nước. Bí-sô thấy rồi sanh nghi không dám dùng nước này, Phật nói: "không phải do có các vật đó mà nước thành bất tịnh, lượt rồi thì thành tịnh, dùng không phạm".
Có các Bí-sô đi đường khó tìm được nước, đến bên xe nước muốn lấy nước nhưng nghi là không sạch, do đó thiếu nước rất khốn khổ mới về đến chùa, bạch Phật, Phật nói: "nên lấy nước bên xe nước, trước nên dùng súc miệng rồi mới uống dùng", gặp lúc phi thời, Bí-sô không dám uống, Phật nói phi thời vẫn uống được. Lại có Bí-sô không dám trữ nước trong bình, Phật nói nên trữ; lại có Bí-sô đi đường không tìm được nước, gặp nước suối không dám uống, Phật nói nên xem kỹ rồi uống, uống rồi không dám múc nước thêm vào bình, Phật nói nên múc thêm. Lại có Bí-sô thấy nước đục không dám uống, Phật nói nên xem kỹ rồi uống; gặp phi thời không dám uống, Phật nói: "thời hay phi thời uống dùng không phạm, trữ nước thêm vào bình cũng không phạm". Lại có Bí-sô đi đường, thấy trong túi da đựng nước uống có miếng Lạc (phô mai) nên nghi không dám uống, Phật nói: "thời hay phi thời đều được uống dùng, trên đây đều là khai cho uống dùng khi gặp các nạn duyên, nếu hết nạn duyên thì chế ngăn trở lại, ai tiếp tục uống dùng như thế thì phạm tội Ác tác".
Có các Bí-sô du hành đến chỗ nuôi bò, tìm nước rửa chân không có, chủ trại bò đưa nước Lạc lượt rồi cho rửa chân, Bí-sô không dám dùng, bạch Phật, Phật nói: "nếu gặp nơi không có nước, được nước Lạc lượt rồi thì nên dùng". Lại có Bí-sô đến chỗ người chăn bò mượn bình lấy nước, họ đưa bình đựng Tô dầu, Bí-sô không dám dùng, Phật nói: "có năm loại bình, đó là bình đại tiện, bình tiểu tiện, bình đựng rượu, bình đựng dầu, bình đựng lạc. Ba loại bình trên không được dùng chứa nước uống dùng, nếu lở đựng thì bỏ đi; hai loại sau phải dùng muối, đất, phân bò, nước tẩy tẩy sạch rồi mới được đựng nước, thời hay phi thời tùy ý uống dùng".
Có một Bí-sô uống nước phi thời bỗng ợ lên mùi thức ăn nên lo sợ, Phật nói: "nên rửa tay sạch rồi súc miệng, súc miệng sạch rồi mới uống nước", cụ thọ Ưu-ba-ly hỏi Phật: "Phật bảo nên súc miệng sạch, như thế nào gọi là sạch?", Phật nói: "khi ăn uống đúng thời hay phi thời xong đều nên súc miệng bằng nước sạch hai ba lần, để trừ mùi hôi của thức ăn dính trong răng miệng. Ai không làm như vậy thì phạm tội Ác tác". Có một Bí-sô cầm bình nước đưa lên miệng uống phi thời, muỗi có trong bình bay ra chích, Phật nói: "không nên cầm bình đưa thẳng lên miệng uống, nên rót ra ly hay tách để uống". Có Bí-sô muốn làm bình quân trì để lượt nước nhưng không biết làm sao, Phật nói: "nên dùng miếng cây hay miếng gạch để bên trong ngăn không cho trùng lọt vào được". lúc đó có Bí-sô đi đường muốn uống nước, Phật bảo lấy lá cây đựng nước uống, Bí-sô thấy có lá xanh nhưng không có người hái trao cho, Phật nói nên nhặt lá vàng rơi, nếu không có lá vàng rơi thì tự hái lá trên cành, nếu hái không được thì đến chỗ khuất súc miệng rồi đưa bình lên miệng uống. Trường hợp khai khi có nạn duyên và chế ngăn trở lại đều giống như trên. Trong Tăng có Bí-sô tên Hiệt ly bạt đề tâm hay đa nghi, lúc đó Bí-sô này thấy nước trong bình chảy xuống đất liền nghi có ai sang nước vào bát tức là ác xúc (chạm vào thành bất tịnh gọi là ác xúc) nên không uống dùng. Phật nói: "Các chất lỏng đều phải chảy xuống không thể chảy ngược lên, nên uống dùng chớ nghi ngại. Các loại nước khác như sữa, lạc, nước ép trái cây... cũng như vậy nên biết".
Có Bí-sô tháp tùng theo các thương nhân đi đường, Cầu tịch mang lương thực đi phía sau, lúc đó thương nhân tạm dừng nghỉ xong muốn đi tiếp nói với Bí-sô: "hãy đỡ hàng hóa lên giúp tôi", Bí-sô không dám đỡ lên, Phật nói nên đỡ lên giúp họ; sau đó họ lại nhờ đỡ xuống, Bí-sô không dám đỡ xuống, Phật nói nên đỡ xuống giúp họ. Khi Cầu tịch mang lương thực đi đến, do vác nặng rất nhọc mệt nên nói với Bí-sô: "thầy tạm mang giúp, cho tôi được nghỉ một lát", Bí-sô không chịu mang giúp, Phật nói: "nên dùng dây cột bao lương thực lại rồi bảo Cầu tịch cầm dây, Bí-sô vác bao lương thực cho Cầu tịch được nghỉ một lát"; sau đó Bí-sô nghi ngại không dám ăn lương thực này, Phật nói ăn không phạm. Lại có các Bí-sô tháp tùng theo các thương nhân đi đường gặp giặc cướp hết hàng hóa, Cầu tịch cũng vất hết lương thực để bỏ chạy, Bí-sô không lượm lấy lại cũng bỏ chạy luôn. Sau đó Bí-sô bảo Cầu tịch trở lại lượm lấy lương thực, Cầu tịch nói: "thầy muốn giặc giết tôi hay sao, thầy muốn lấy thì tự đi lấy", Bí-sô không dám trở lại lấy, Phật nói nên tự đi lấy, Bí-sô sau khi trở lại lấy lương thực mang về lại không dám ăn, Phật nói ăn không phạm. Lại có một Bí-sô bảo Cầu tịch vác lương thực, muốn qua sông không biết phải làm sao, Phật nói: "nên hỏi Cầu tịch có thể vác lương thực qua sông được không; nếu đáp là chỉ có thể qua một mình, không thể vác theo lương thực thì Bí-sô phải mang giúp qua sông. Nếu Cầu tịch nói không đủ sức qua sông huống chi là vác thêm lương thực, Bí-sô nếu có thể vừa đỡ Cầu tịch vừa vác lương thực để qua sông được thì tốt; nếu không thể thì vác lương thực qua sông trước rồi đỡ Cầu tịch qua sau", vác lương thực qua sông rồi Bí-sô không dám ăn, Phật nói ăn không phạm.
Có một Bí-sô khi rửa bát thấy có vết nứt, Phật nói: "nên dụng tâm rửa hai ba lần, dù có vết nứt dùng cũng không phạm"; lại có Bí-sô khi rửa bát thấy trong kẻ nứt có hạt cơm, nghi ngại không dám dùng, Phật nói: "dùng cọng cỏ khều ra rồi rửa sạch lại hai ba lần, được tùy ý thọ dụng". Lại có Bí-sô dùng bát cũ đựng nước nóng, chất dơ nổi lên trên mặt nước nên nghi ngại không dám uống, Phật nói: "nên vớt bỏ váng bẩn đó rồi uống"; lại có Bí-sô rửa bát xong đem cất, đến ngày thứ ba lấy ra rửa lại để dùng thì bát bể, Phật nói rửa rồi nên dùng để ăn ngay.
Có một Bí-sô khất thực xong trở về trú xứ để đó rồi đi, một Bí-sô khác khất thực trở về để bát của mình lên trên bát của vị kia, Bí-sô kia nghi ngại không dám ăn, Phật nói: "nếu có người trao cho, thọ rồi mới ăn, nếu không có người trao thì sớt bỏ phần thức ăn ở bên trên rồi ăn không phạm". Lại có Bí-sô khất thực trở về để bát đó rồi đi, một người tục đến chạm vào bát, Bí-sô thấy liền nên hỏi: "ông muốn ăn thức ăn này phải không?", nếu đáp là do thấy ruồi bu hay cỏ lá rơi vào nên lượm bỏ ra thì Bí-sô nên thọ rồi mới ăn; nếu đáp là muốn ăn thức ăn này thì Bí-sô nên sớt bớt thức ăn cho họ rồi mới ăn. Lại có Bí-sô khất thực trở về để bát đó rồi đi, Cầu tịch khất thực về sau liền để bát của mình lên bát của Bí-sô, Bí-sô nghi ngại không dám ăn, Phật nói: "nên sớt bỏ phần cơm bên trên rồi tùy ý ăn". Có Bí-sô đi đường, không có người tục hay Cầu tịch mang lương thực giúp, Phật nói: "nên nói với thí chủ, nếu không có thí chủ thì phải tự mang, sau đó gặp người tục đổi thức ăn để ăn; nếu không đổi được thì nên chia thức ăn làm hai phần, đưa cho người tục một phần, khi họ cầm liền xin đổi lẫn nhau rồi mới ăn. Nếu cũng không được thì ngày thứ nhất nên nhịn ăn, qua hôm sau nếu có người trao thì thọ lấy rồi ăn; nếu không có người trao thì Bí-sô nên lấy thức ăn vừa bằng nắm tay để ăn; qua ngày thứ ba cũng không có người trao thì Bí-sô nên lấy thức ăn vừa bằng hai nắm tay để ăn; qua ngày thứ tư cũng không có người trao thì Bí-sô được tùy ý ăn no không phạm". Có Bí-sô đi đường hết lương thực, thấy có trái chín rụng trên đất, Phật nói: "nên lượm tác tịnh, thọ rồi ăn; nếu không có tịnh nhơn, không có tác tịnh, thọ rồi cũng có thể ăn. Nếu không có người trao, nên tự lấy rồi khởi tưởng đang ở Bắc Câu lô châu thì được ăn; nếu trái chín trên cây chưa rụng xuống, nên leo lên rung cây cho rụng xuống rồi tự lượm lấy ăn. Tất cả việc trên đều là khai cho khi gặp nạn duyên, khi hết nạn duyên thì chế ngăn trở lại, ai làm khác thì phạm tội Ác tác".
Cho phần ruộng, không nên,
Ở trần, định vật cho,
Y Tăng, y vãng hoàn,
Mía, quả, cho ở, quần.
Cho phần ruộng giúp nhau,
Xe, thuyền và nước sôi,
Quạ mổ, ruồi, không thẹn,
Cúng tháp, tin thiểu dục.
Phật ở trong Trúc lâm, thành Vương xá, lúc đó vua Ảnh Thắng đem ruộng một ngàn mẫu cúng cho Tăng, các Bí-sô thu hoạch rồi lại bỏ bê không chăm sóc khiến cho ruộng tốt trở thành bãi cỏ hoang. Khi vua nhìn thấy không nhận ra là ruộng của mình nên hỏi đại thần là ruộng của ai, đại thần nói rõ nguyên do, vua nói: "vì sao Tăng không chia phần cho người khác?", các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "nên chia phần cho cư sĩ canh tác". Sau đó hoa mầu thu hoạch được các Bí-sô không lấy phần mà cho người canh tác hết, Phật nói nên lấy phần, những người canh tác sau khi lấy phần của mình xong, bỏ lại phần của Tăng ở đó rồi đi, Phật nói nên cho chở về chùa, khi chở về đến chùa lại bị trộm cắp, Phật bảo nên coi giữ. Lúc đó xe chở phần lúa của Tăng về chùa, do nặng nên muốn nghiêng đổ, người đánh xe gọi Bí-sô đỡ xe giúp họ, Bí-sô không dám chạm vào xe lúa, Phật nói nên đỡ xe giúp họ. Có Bí-sô bịnh đi trên đường, người đánh bảo Bí-sô lên xe ngồi, Bí-sô nghi ngại không dám lên xe, Phật nói: "chỉ tránh ngồi chỗ lái xe, ngồi chỗ khác không phạm".
Trường hợp thuyền chở vật thực của Tăng bị mắc cạn, người lái thuyền nhờ Bí-sô đẩy giúp họ, Bí-sô không dám chạm vào thuyền chở vật thực, Phật nói nên đẩy giúp họ. Lại có Bí-sô đi đường bộ nhọc mệt, người lái thuyền bảo Bí-sô lên thuyền, Bí-sô nghi ngai không dám lên thuyền, Phật nói như trên. Trường hợp người vác phần lúa của Tăng về chùa muốn dừng nghỉ một lát nên nhờ Bí-sô đỡ xuống giúp, Bí-sô nghi ngại không dám đỡ, Phật nói nên đỡ giúp họ. Lại có người vác nặng quá mệt nên nhờ Bí-sô vác hộ cho họ được nghỉ một lát, Bí-sô nghi ngại không dám vác, Phật nói: "nên dùng dây cột bao vật thực lại rồi bảo người đó cầm dây, Bí-sô vác giúp họ không phạm". Có trường hợp vác vật thực đi giữa đường gặp giặc liền bỏ lại vật thực chạy, giặc đến lấy vật thực mang đi, Phật nói: "đừng bỏ vật thực lại, nếu không có người tục thì bảo Cầu tịch mang, Cầu tịch cũng không có thì Bí-sô tự mang", Bí-sô tự mang vật thực nên không dám ăn, Phật nói ăn không phạm. Lúc đó trong nhà trù, Tăng đang nấu Tô lạc, do lửa cháy mạnh nên sôi trào ra ngoài, nếu không có tịnh nhơn ở đó thì nồi Tô này bị hư. Phật nói: "khi đang nấu không nên bảo tịnh nhơn đi ra ngoài, nếu có việc phải bảo ra ngoài thì Bí-sô nên rút bớt củi ra, nếu thấy còn sôi thì lấy cái vá khuấy đều cho lắng xuống. Trường hợp nấu thuốc sôi trào ra ngoài cũng như trên, các trường hợp trên đều vì có nạn duyên mà khai, khi hết nạn thì chế ngăn trở lại, ai vi phạm thì phạm tội Ác tác".
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có nhiều thương nhân thỉnh Phật và Tăng đến trong viên lâm thiết trai cúng dường, họ dọn lên đầy đủ các món ăn ngon nhưng chưa kịp dâng cúng thì nghe tin hàng hóa bị cháy, liền bỏ chạy về cứu hỏa. Lúc đó đã đến giờ ăn nhưng không có người trao cho, Bí-sô không biết phải làm sao, Phật nói: "tâm xả của thí chủ đã thành, các thầy nên khởi tưởng đang ở Bắc Câu lô châu mà tự lấy ăn, chớ nên nghi ngại".
Lúc đó có quạ bay đến trong nhà bếp mổ lấy thức ăn, Bí-sô nghi ngại không dám ăn, Phật nói bỏ chung quanh chỗ bị mổ rồi ăn không lỗi. Bí-sô chưa kịp ăn, quạ lại bay đến mổ thức ăn, họ nghi ngại không dám ăn, Phật nói như trên.
Bí-sô Hiệt ly bạt đề vào nhà xí thấy ruồi đậu chỗ bất tịnh rồi lại bay đến trong nhà bếp, liền nói với các Bí-sô: "tôi vừa thấy ruồi này trong nhà xí, nay lại bay đến trong nhà bếp, thức ăn thành bất tịnh không nên ăn", Phật nói: "loài ruồi nhặng bay đến đậu những nơi dù là xứ hay phi xứ thì thức ăn đó cũng không thành bất tịnh, ăn không phạm".
Có Bí-sô muốn nhuộm y, thấy vò đựng tô dầu của tăng cho là vò đựng nước nhuộm nên lấy mang đi, sau xem lại mới biết là lấy nhầm liền vất một bên. Phật nói: "nếu mang lên gác, chưa đi được nửa đường thì nên đem trở xuống để trên đất; nếu đã đi hơn nửa đường thì nên đem lên gác để ở chỗ bằng phẳng". Có Bí-sô không xem kỹ chỗ để khiến bình nghiêng làm đổ dầu ra ngoài, Phật nói: "nên lấy vật kê, đừng để nghiêng đổ". Lại có Bí-sô vô ý chạm vào thức ăn nên Bí-sô này không dám ăn, Phật nói: "thức ăn này tịnh nên ăn, có hai loại thức ăn từng xúc chạm qua nhưng ăn không có lỗi: một là bị người không có tàm quý xúc chạm, hai là người có tàm quý vô ý xúc chạm. Cả hai loại này đều tịnh, ăn không phạm".
Lúc đó có nhiều Bí-sô đi khắp bốn phương để lễ tháp, các cư sĩ đem hương hoa, hương bột, hương đốt, vải lụa... gởi cho các Bí-sô cúng dường tháp. Bí-sô có ngoại duyên nên không đem những vật gởi này đến cúng dường tháp theo bổn ý của họ, không biết phải làm sao nên bạch Phật, Phật nói: "có bốn tháp lớn cố định: một là nơi Bồ-tát đản sanh, hai là nơi Bồ-tát thành chánh giác, ba là nơi Phật chuyển pháp luân và bốn là nơi Phật nhập Niết-bàn. Nếu bổn ý của thí chủ muốn cúng dường tháp khác, dù Bí-sô đem cúng vào bốn tháp này cũng không làm trái bổn ý của họ. Nếu họ muốn cúng vào bốn tháp này, vì có ngoại duyên thì chỉ cần cúng một trong bốn tháp cũng được vì chúng tương thông nhau, không cần phải đem đến các tháp khác cúng nữa".
Cụ thọ Ưu-ba-ly hỏi Phật: "có hai Bí-sô hiềm khích nhau nên dùng những lời trái nhau để hủy báng thì trong hai người này, người nào đáng tin, người nào không đáng tin?", Phật nói: "nên tin người trì giới, nếu cả hai cùng trì giới thì nên tin người đa văn, nếu cả hai đều đa văn thì nên tin người thiểu dục, nếu cả hai đều thiểu dục thì nên tin người thiểu dục nhất", lại hỏi: "nếu cả hai đều là thiểu dục nhất thì nên tin ai?", Phật nói: "nếu cả hai đều là thiểu dục nhất mà lại hiềm khích nhau, dùng lời trái nhau để hủy báng thì không có lý đó".
Không nên bảo tặc trụ,
Huỳnh môn... các hạng người,
Cho đến người thọ học,
Hành trù phá tăng chúng.
Cụ thọ Ưu-ba-ly hỏi Phật: "nếu sai kẻ tặc trụ hành trù thì có thành phá Tăng không?", Phật nói không thành, lại hỏi: "nếu sai huỳnh môn cho đến người hành Biệt trụ hành trù thì có thành phá Tăng không?", Phật nói không thành, lại hỏi: "nếu sai người phạm tứ trọng hành trù thì có thành phá Tăng không?", Phật nói không thành, lại hỏi: "nếu sai người thọ học hành trù thì có thành phá tăng không?", Phật nói không thành.
Không ở trần, khoác y,
Dầm mưa, vào nhà trù,
Tiện lợi, nên khâu vá,
Trộn hồ, phước tăng trưởng.
Lúc đó Lục chúng Bí-sô ở trần nằm ngủ trên ngọa cụ của Tăng, vung tay đáp chân làm cho rách, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "không nên ở trần nằm ngủ trên ngọa cụ của Tăng, ai làm thế thì phạm tội Ác tác, ngọa cụ của Tăng nên dùng vật bọc lại". Lục chúng Bí-sô lại khoác y của Tăng ra chỗ trống trải kinh hành, gặp mưa làm thấm ướt nên hư hoại, Phật nói: "không nên khoác y của Tăng ra chỗ sương gió, đội mưa kinh hành, ai làm thế thì phạm tội Ác tác". Lục chúng Bí-sô lại khoác y của Tăng vào trong nhà trù bị khói bám làm cho hư hoại, Phật nói: "không nên... cho đến ai làm thế thì phạm tội Ác tác". Lại khoác y của Tăng vào chỗ tiện lợi, Phật nói không nên cho đến ai làm thế thì phạm tội Ác tác.
Lúc đó các Bí-sô thấy ngọa cụ của Tăng hư hoại nên đem vất bỏ, Phật nói: "không nên vất bỏ, nếu thấy sắp rách thì dùng chỉ dài khâu lại, nếu thấy có lỗ thủng thì dùng miếng vải vá lại, nếu bên trong cũ mục thì nên may hai lớp, nếu quá cũ mục thì dùng làm tim đèn hoặc băm nhỏ ra trộn với phân bò, bùn làm hồ để trét vào lỗ cột hay tô vách tường. Làm như vậy sẽ khiến cho thí chủ đã cúng vật vào phước điền được tăng trưởng phước đức".
Định vật cúng nơi này,
Không đem cho nơi khác,
Nếu đã mang đem cho,
Tính giá đền trả lại.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có trưởng giả xây cất một trú xứ cúng cho Tăng với đầy đủ vật cần dùng, lại thỉnh thêm một Bí-sô khác đến làm người coi ngó công việc. Vị này có nhiều đệ tử ở các nơi khác đến để kính lễ, kính lễ rồi muốn đi, vị này nói: "trưởng giả chủ chùa thỉnh ta làm tri sự, các thầy đợi ăn rồi hãy đi", các đệ tử nói: "Ô-ba-đà-da, nếu có thức ăn thì cho chúng con mang về trú xứ cùng ăn", đáp là tùy ý. Các đệ tử liền tùy ý lấy thức ăn, dầu đèn, giày da, củi cho đến rau cải hoa quả đều mang đi khiến cho các vật dụng trong chùa gần hết sạch. Các Bí-sô cựu trụ thấy việc này rồi đến nói với thí chủ: "trưởng giả biết không, các vật dụng mà ông đã cúng cho chùa này gần hết sạch rồi", trưởng giả nói: "trong chùa không có nhiều Bí-sô, vì sao các vật dụng đã cúng chưa dùng bao lâu mà lại gần hết sạch?", các Bí-sô kể lại việc trên, trưởng giả nghe rồi chê trách, bạch Phật, Phật nói: "Bí-sô ở trú xứ khác không được lấy thức ăn cho đến các vật dụng trong chùa này mang về trú xứ mình, cũng không được đem vật dụng trong chùa này cho chỗ khác. Bổn ý của thí chủ cúng thức ăn và các vật dụng cho người ở trong chùa này thì không được đem cho người ở chùa khác, nếu đã đem cho thì nên tính giá của các vật đó mà đền trả lại".
Y Tăng đề thí chủ,
Y mình làm dấu riêng,
Giạ-cá nhân được nhận,
Hạ-ni nên tu sửa.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có hai anh em xuất gia, Bí-sô tri sự mang y của Tăng đến gởi cho Bí-sô anh rồi đi, sau đó Bí-sô em đến chỗ anh để y của mình gần bên y của Tăng đã gởi, khi ra về cầm lộn y của Tăng cho là y của mình mang đi. Sau đó Bí-sô tri sự trở về thấy có y khác cho là Tăng được nhiều lợi vật, Bí-sô anh nói không có, Bí-sô tri sự liền hỏi y này của ai, đáp là y của thầy đã gởi, Bí-sô tri sự nói: "y của Tăng to lớn, y này nhỏ hẹp, chắc có ai đó đến đây cầm lộn y của Tăng mang đi rồi". Bí-sô anh liền đến chỗ Bí-sô em để hỏi có lấy lộn không thì thấy có y của Tăng nên trách Bí-sô em, Bí-sô em nói: "em không cố ý lấy, nếu là y của Tăng thì anh cứ lấy mang đi", Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật nói: "y của Tăng nên làm dấu", Bí-sô không biết làm dấu như thế nào, Phật nói: "nếu là y vật của Tăng thì nên ghi tên thí chủ cúng, nếu là y riêng thì nên làm dấu riêng".
Lúc đó có người đem giạ lông và nệm nhỏ cúng cho Tăng, Phật nói Tăng nên thọ và cá nhân cũng được thọ; lại có người đem giường lớn, chân giường tiện tròn đến cúng cho Tăng, Phật nói: "Tăng được thọ nhưng cá nhân không được".
Như Phật đã dạy ni trong an cư, nếu có duyên sự thì được du hành trong nhân gian, lúc đó các ni an cư xong không tu sửa lại trú xứ liền bỏ đi khiến cho trú xứ này bị hư hoại. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "Bí-sô ni an cư xong nên tu sửa trú xứ, ai không tu sửa thì phạm tội Ác tác".
Y vãng hoàn người chết,
Đem trả lại nên nhận,
Vì chúng mượn tài vật,
Đem vật chúng trả lại.
Lúc đó có người qua đời, thân thuộc đem vào trong Thi lâm táng, họ mang y vật của người chết về nhà rồi hồi thí cho Tăng, Bí-sô không dám nhận, Phật nói nên nhận. Sau đó do họ nghèo nên đến hỏi mượn lại các vật ấy, Phật nói nên cho mượn; khi họ đem trả lại, Bí-sô không chịu nhận, Phật nói nếu đem trả lại thì nên nhận.
Lúc đó có Bí-sô thọ sự vay mượn tài vật của người để lo việc xây cất cho Tăng, không may qua đời. Chủ nợ hay tin liền đến trong chùa đòi nợ, Bí-sô nói: "Bí-sô ấy đã qua đời, hiện đang ở trong Thi lâm, ông đến đó mà đòi", cư sĩ này nói: "Bí-sô kia vay mượn tài vật để lo việc xây cất cho Tăng thì Tăng nên trả nợ ấy cho tôi", Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "nếu biết Bí-sô kia vay mượn tài vật để lo việc xây cất cho Tăng thì Tăng nên đem tài vật của Tăng trả nợ đã vay của họ. Nay ta chế hành pháp cho Bí-sô trông coi việc xây cất cho Tăng như sau: Bí-sô tri sư này phải báo cho vị trưởng lão trong chùa biết rồi mới được vay mượn của người, nên làm giấy tờ vay mượn cho rõ ràng, ai không tuân theo hành pháp này thì phạm tội Ác tác".
Mía... thức ăn chia đều,
Không nên chia miệng bụng,
Bốn vật thực không chia,
Đêm không chia ngọa cụ.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó Tăng được cúng nhiều mía, như Phật đã dạy Cầu tịch được chia một phần ba nên các Bí-sô chia cho Cầu tịch một phần ba số mía. La hỗ la ngồi ở hàng cuối ăn mía xong liền nhìn Phật, Phật thấy liền hỏi ăn mía xong chưa, đáp đã ăn xong, lại hỏi muốn ăn nữa không, đáp là muốn, lại hỏi được chia bao nhiêu, đáp là được một phần ba. Phật bảo các Bí-sô: "dựa trên y lợi nên ta chế định chia cho Cầu tịch một phần ba, không phải dựa trên thực lợi. Nếu là thực lợi thì nên chia đều, ai không chia đều thì phạm tội Ác tác", sau đó lại được cúng nhiều mía, Bí-sô nghi ngai không dám chia, Phật nói nên chia đều.
Duyên xứ như trên, có một cư sĩ xây cất trú xứ cúng cho Tăng và cung cấp đầy đủ tiền thức ăn uống cho Tăng hằng ngày. Lúc đó các Bí-sô nói với nhau: "chúng ta không gặp khó khăn về ăn uống nhưng lại thiếu thốn y phục, chúng ta nên lấy tiền lo thức ăn uống này đổi lấy y phục rồi mỗi người chúng ta khất thực lại như cũ", bàn xong họ lấy tiền đó đổi lấy y phục và đi khất thực. Khi thí chủ thấy họ đi khất thực liền hỏi nguyên do, các Bí-sô nói rõ sự việc, thí chủ nghe rồi liền chê trách: "đại chúng lấy phần tiền ăn lo cho miệng bụng cùng chia hết rồi sao?". Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "có bốn loại không nên chia: một là vật của Tứ phương tăng, hai là vật của tháp, ba là thuốc trị bịnh cho Tăng và bốn là phần tiền ăn lo cho miệng bụng.
Ai làm trái thì phạm tội Ác tác".
Lúc đó Lục chúng Bí-sô u hành trong nhân gian đi đến một trú vào lúc nửa đêm đòi chia ngọa cụ... cho đến câu Bí-sô cựu trụ nói: "Thượng tòa chỉ an thân có một đêm mà làm cho chúng tăng phải mệt nhọc sanh bịnh". Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "Bí-sô cựu trụ không nên chia ngọa cụ vào ban đêm, nếu khách Bí-sô chỉ ngủ lại một đêm thì nên ngủ tạm ở chỗ thân hữu; nếu ở lại lâu thêm thì mới chia ngọa cụ theo tuổi hạ cho khách. Ai làm trái thì phạm tội Ác tác".
Quả do Dược xoa cúng,
Tác tịnh rồi thọ ăn,
Còn dư làm nước uống,
Không đốt đất, đài đèn.
Phật tại nước Thắng quân du hành đến thôn Xích sắc, tạm nghỉ trong miếu của Đại lực Dược xoa, Dược xoa này hiện thân đến trước Phật đảnh lễ rồi bạch Phật: "cúi xin Thế tôn và các Bí-sô thọ con thỉnh nghỉ qua đêm trong miếu này", Phật im lặng nhận lời. Dược xoa biết Phật đã nhận lời liền hóa hiện ra năm trăm căn phòng với đầy đủ giường nệm và năm trăm lò sưởi than không có khói.
Dược xoa chọn phòng bậc nhất cho Phật nghỉ rồi sắp xếp cho mỗi Bí-sô một phòng, sau đó bạch Phật: "cúi xin Phật và các Bí-sô vào ngày mai thọ con thỉnh thực", Phật im lặng nhận lời. Dược xoa này có một Dược xoa thân hữu tên là Đạt để ca ở nước Ca thấp di la, liền sai sứ đến nói với Dược xoa kia rằng: "tôi đã thỉnh Phật và Tăng ngày mai thọ thực, ở phương Bác có trái cây ngon gì xin hãy cho mang đến, giúp tôi thành tựu công đức này", Dược xoa kia nghe rồi liền sai sứ mang giỏ trái cây với đủ loại trái như Bồ đào, Thạch lựu... đến cúng dường. Lúc đó các Bí-sô thấy các loại trái cây này rồi liền bạch Phật, Phật bảo làm hỏa tịnh rồi ăn, các Bí-sô hỏa tịnh từng trái, Phật nói: "nên gom lại một đống rồi ở trên đó hỏa tịnh ba bốn chỗ, ăn không phạm". Chia cho chúng ăn xong vẫn còn dư, Phật bảo nên ép làm nước phi thời tùy ý uống; vẫn còn dư, Phật bảo nấu nước này rồi đổ vào trong hủ để hôm sau uống.
Lúc đó vào tháng lạnh, các Bí-sô đốt lửa trên nền gạch để sưởi làm gạch bị hư, Phật nói: "không nên đốt lửa trên nền gạch, nên lấy ngói lót ở dưới", vẫn bị hơi nóng làm tổn, Phật bảo nên làm lò lửa, Bí-sô làm lò lửa trong phòng, phòng bị khói làm hư hoại, Phật bảo nên làm lò lửa ngoài cửa, khói lại bay vào làm cay mắt, Phật bảo đợi hết khói rồi đem vào phòng. Lúc đó có người đem cúng cây đèn một tầng, Phật nói:
"Tăng nên thọ, cá nhân cũng được thọ", lại có người cúng cây đèn hai tầng cho đến nhiều tầng, Phật nói: "Tăng nên cất chứa, cá nhân cũng được thọ không phạm".
Khách chủ nên biết rõ,
Đưa và nhận cẩn thận,
Đóng cửa chùa năm việc,
Khuỷu tay ngắn, tùy thân.
Lúc đó có nhiều khách Bí-sô vào chùa, Bí-sô cựu trú dọn chỗ cho họ nghỉ, họ trộm cắp tài vật rồi đi, bạch Phật, Phật nói: "nếu là người quen biết mới dọn chỗ cho nghỉ, nếu chưa từng quen biết thì không nên". Sau đó có khách Bí-sô quen biết đến, dọn chỗ cho nghỉ rồi lại có khách Bí-sô không quen đến, Bí-sô cựu trụ tưởng người đến sau là bạn của người đến nên chỉ phòng cho vào, lúc đó người đến trước có việc tạm ra khỏi phòng, người đến sau này vào phòng lấy y bát của người đến trước rồi bỏ đi. Khi người đến trước trở vào phòng thì không còn thấy y bát của mình liền hỏi Bí-sô cựu trụ, đáp là bạn của thấy đã lấy đi rồi, khách nói: "tôi không có đồng bạn", Bí-sô cựu trụ hỏi: "người đến sau không phải là bạn của thầy ư?", khách đòi Bí-sô cựu trụ bồi thường. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "chủ chùa thấy khách đến trước sau nên hỏi người đến trước: "người này có phải là bạn của thầy không?, nếu họ lấy y bát thì có cho họ mang đi không?". Nếu người đến trước nói đừng cho lấy mà tự ý để họ mang đi thì chủ chùa phải bồi thường; nếu người đến trước nói cho lấy thì chủ chùa không phải đền".
Có trường hợp Bí-sô khách quen biết đến, Bí-sô cựu trụ dọn chỗ cho nghỉ rồi lại có khách Bí-sô quen biết đến nữa, Bí-sô cựu trụ cũng dọn chỗ cho nghỉ. Khi Bí-sô cựu trụ tạm ra khỏi phòng, vị khách đến sau vào phòng của Bí-sô cựu trụ lấy y bát rồi đi, vị khách đến trước tưởng là người ở chung phòng với Bí-sô cựu trú nên không ngăn lại. Khi Bí-sô cựu trụ trở vào phòng thấy mất y bát liền hỏi vị khách đến trước, đáp là người ở cùng phòng với thầy đã mang đi rồi, Bí-sô cựu trụ bắt khách phải đền cho mình. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "khi khách Bí-sô đến tạm ở nên hỏi Bí-sô cựu trụ: "nếu có người đến lấy y bát của thầy thì có nên cho họ mang đi không?", nếu đáp là đừng cho mang đi mà khách lại để cho mang đi thì khách phải đền; nếu nói để họ mang đi thì khách không phải đền".
Có trường hợp Bí-sô khách gởi y cho Bí-sô cựu trụ, khi có việc phải đi dặn Bí-sô cựu trụ rằng: "nếu có Bí-sô nhỏ đến hỏi thì đưa y này cho vị ấy", không lâu sau đó có Bí-sô nhỏ đến, Bí-sô cưu trụ liền đưa y này và vị ấy mang đi luôn. Phật nói: "nếu Bí-sô khách dặn đưa cho người nào, dù người ấy có lấy luôn thì Bí-sô cựu trụ cũng không phải đền, nhưng gạn hỏi cho kỹ rồi mới đưa thì tốt hơn". Lại có trường hợp khách Bí-sô dặn ở chỗ hiển lộ có người nghe thấy, họ liền đến gạt lấy y vật mang đi mất. Phật nói: "nên dặn ở chỗ khuất, khi có người đến lấy nên gạn hỏi, nếu nói đúng ký hiệu trên vật gởi thì mới đưa".
Lúc đó có Bí-sô đi đến bến sông xuống thuyền sắp đi nên bảo bạn đưa đãy y, Bí-sô bạn liền đưa cho. Do người đưa và người nhận không cẩn thận nên y rớt xuống sông, Bí-sô trên thuyền đòi Bí-sô trên bờ đền, Bí-sô trên bờ không chịu đền. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "khi người kia chưa cầm thì không nên buông tay ra, nếu chưa cầm mà đã buông tay thì phải đền. Trường hợp đưa bát cũng giống như vậy".
Lúc đó tuy có người giữ chùa vẫn bị ăn trộm vào chùa lấy trộm, đại chúng nói với nhau: "phải bắt người giữ chùa bồi thường những tài vật đã bị mất cắp", liền đem việc này bạch Phật, Phật nói: "các thầy nên biết, hễ là người thọ sự khi đóng cửa chùa có năm giai đoạn: một là trên dưới chuyền gọi nhau, hai là khóa cửa, ba là khóa cửa thứ hai, bốn là đóng cửa, năm là cài then. Nếu không đóng cửa để cho kẻ trộm vào lấy hết tài vật thì tính theo giá mà bồi thường, bị mất cắp một phần thì bồi thường một phần, nếu bị mất cắp hết thì bồi thường toàn bộ. Ngược lại nếu người giữ chùa đã có ý giữ gìn, làm năm giai đoạn trên không thiếu sót thì dù bị trộm lấy hết tài vật cũng không phải bồi thường".
Lúc đó cụ thọ Ưu-ba-ly hỏi Phật: "như Phật đã dạy Bí-sô y theo kích lượng khuỷu tay mà Phật đã chế định để may y, nếu có người thân lượng cao lớn, khuỷu tay ngắn hơn so với thân lượng thì có nên y theo khuỷu tay mà may y không?", Phật nói nên y theo thân lượng, không nên y theo kích lượng khuỷu tay mà may y.
Quần và Tăng khước kỳ,
Bùn thơm dơ y-giặt,
Lượm-bỏ bớt rồi ăn,
Nên biết mười loại bụi.
Lúc đó quần của Bí-sô dính dầu dơ nên bốc mùi hôi, bạch Phật, Phật nói nên cất chứa thêm cái thứ hai để thay đổi (phó quần). Tăng khước kỳ lại dơ làm dơ cả đại y, Phật nói nên cất chứa thêm cái thứ hai để thay đổi (phó Tăng khước kỳ). Khi thiết hội cúng dường, các loại hương dầu, hương bột... cho đến dầu đèn dính dơ làm hoại y phục; Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "nếu dính hương bột thì chỉ cần giũ sạch rồi mặc, nếu dính hương dầu, hương bùn thì phải giặt sạch rồi mới mặc; dính các loại dầu trên phải dùng tháo dậu (xà bông) và nước tẩy để tẩy sạch rồi mới mặc".
Lúc đó Bí-sô đang thọ thực, chưa kịp thọ thì thức ăn rơi xuống đất, muốn thọ lại nhưng không có người trao, Phật nói: "nên tự lượm lên, bỏ bớt phần dính đất rồi ăn". Lúc đó thức ăn không rơi xuống đất mà rơi vào trong canh, Phật nói nên vớt ra bỏ bớt phần dính thức ăn khác rồi ăn. Lúc đó Bí-sô theo thứ lớp khất thực, bỗng bị gió thổi bụi bay vào trong bát, Bí-sô nghi ngại không dám ăn; lại có trường hợp khi đang ăn, gió thổi bụi bay vào bát, Phật nói: "có năm loại trần (bụi): một là xúc trần, hai là phi xúc trần, ba là tịnh trần, bốn là bất tịnh trần, năm là vi trần. Nếu là xúc trần rơi dính trên y thì phải giặt sạch, nếu rơi vào bát phải bỏ bớt phần dính bụi này rồi mới ăn. Lại có năm loại trần: một là thực trần, hai là ẩm trần, ba là y trần, bốn là hoa trần và năm là quả trần. Các loại trần này nếu mắt thấy được thì thọ rồi mới ăn, nếu không thấy được thì tùy ý ăn".