TẠNG LUẬT
LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH
SỐ 1458 - CĂN BẢN TÁT BÀ ĐA BỘ LUẬT NHIẾP
Nguyên tác: Tôn giả Thắng Hữu. Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Nghĩa Tịnh đời Đường. TQ
Việt dịch: Ban phiên dịch chùa Pháp Bảo, HT Thích Tịnh Hạnh giám tu-năm 2005
-Hiệu đính và nhuận văn: NS Thích nữ Như Lộc tại chùa Phổ Minh. Năm 2010.
2. Quở trách không đến nhóm họp hết:
3. Không đến nhóm họp tùy thuận nghe:
7. Không răn nhắc thì lỗi sanh:
10. Nói rõ đồ chúng thanh tịnh:
4. Vọng nói chứng pháp thượng nhân:
II. 13 PHÁP TĂNG GIÀ BÀ THI SA:
3. Nói lời thô tục tương ưng với dâm dục:
9. Lấy phần việc khác vu báng:
10. Phá hòa hợp Tăng trái can:
11. Trợ giúp phá Tăng trái can:
IV. BA MƯƠI PHÁP NI TÁT KỲ BA DẬT ĐỀ:
4. Nhờ Bí-sô ni không phải bà con giặt y cũ:
5. Thọ y từ Bí-sô ni không phải bà con:
6. Xin y từ cư sĩ và vợ cư sĩ không phải bà con:
8. Biết cư sĩ mua y cúng liền đến xin:
9. Khuyên hùn chung mua y cúng:
12. Dùng lông dê thuần đen làm phu cụ:
13. Dùng lông dê quá phần số làm phu cụ mới:
14. Chưa đủ sáu năm mà làm phu cụ mới:
16. Tự gánh lông dê đi quá ba Du thiện na:
17. Nhờ Bí-sô ni không phải bà con chải lông dê:
21. Chứa bát dư quá mười ngày:
23. Tự xin chỉ sợi rồi nhờ thợ dệt không phải bà con dệt y:
24. Bảo thợ dệt không phải bà con dệt y cho tốt:
26. Cất chứa y cấp thí quá hạn:
27. Nơi A-lan-nhã lìa y quá sáu đêm:
28. Xin y tắm mưa sớm và cất chứa quá lâu:
29. Hồi chuyển vật Tăng về cho mình:
30. Thọ dụng thuốc quá bảy ngày:
4. Phát khởi lại yết ma dứt tránh:
5. Thuyết pháp cho người nữ quá 5, 6 lời:
6. Cùng người chưa thọ Cận viên đọc tụng:
7. Nói tội Thô của người khác cho người chưa thọ Cận viên nghe:
8. Thật được pháp của bậc thượng nhân nói cho người chưa thọ Cận viên nghe biết:
9. Vu báng hồi chuyển lợi vật của chúng:
13. Chống trái lời dạy xúc não:
15. Không thu dọn phu cụ cỏ trong phòng:
16. Kéo người ra khỏi phòng Tăng:
17. Gắng gượng xúc não người khác:
18. Cố ý buông thân ngồi nằm trên giường sút chân:
20. Làm chùa lớn quá hạn cho mau xong:
21. Tăng không sai giáo thọ Ni:
22. Giáo thọ cho Ni đến chiều tối:
23. Chê trách Bí-sô vì ăn uống nên giáo thọ Ni:
24. Đem y cho Ni không phải bà con:
25. May y cho Ni không phải là bà con:
26. Hẹn đi chung đường với Bí-sô ni:
27. Đi chung thuyền với Bí-sô ni:
28. Một mình ngồi ở chỗ khuất với người nữ:
29. Một mình ngồi với Bí-sô ni ở chỗ khuất:
30. Biết thức ăn do Ni khen ngợi mà ăn:
32. Chỗ thí một bữa ăn mà thọ quá:
35. Khuyên người đã no đủ ăn nữa:
42. Gượng ngồi nán lại trong nhà ăn:
43. Đứng núp ở chỗ khuất trong nhà ăn:
44. Cho nam nữ ngoại đạo lõa hình thức ăn:
46. Ở trong quân trận quá hai đêm:
50. Che giấu tội thô của Bí-sô khác:
51. Rủ cùng đến nhà thế tục mà không cho ăn:
54. Ngủ chung phòng với người chưa thọ Cận viên quá hai đêm:
55. Không bỏ ác kiến trái can:
56. Tùy thuận người bị xả trí:
57. Nhiếp thọ Cầu tịch ác kiến:
63. Dùng tay chọc lét người khác:
65. Ngủ chung một nhà với người nữ:
67. Giấu y bát của Bí-sô khác:
68. Mặc y của người khác gởi mà không hỏi chủ:
69. Đem tội Chúng giáo không căn cứ vu báng:
70. Đi chung đường với người nữ:
72. Cho người chưa đủ tuổi thọ Cận viên:
74. Qua bốn tháng còn đòi hỏi thức ăn:
77. Không gởi dục im lặng bỏ đi:
80. Phi thời vào tụ lạc mà không dặn lại Bí-sô:
81. Trước giờ ăn, sau giờ ăn đến nhà khác:
83. Không lắng tai nghe giới lại nói là không biết:
84. Làm ống kim bằng ngà, sừng:
88. May y che phủ ghẻ quá lượng:
90. May y bằng lượng y của Phật:
1. Thọ thức ăn từ Ni không bà con:
2. Thọ thức ăn do Ni chỉ trao:
Lễ bậc Điều phục trừ phiền não,
Diệt hoặc cho chúng sanh. nhân chánh.
Như mặt trời chiếu. lợi cùng khắp,
Có thể phá hết các tối tăm.
Nay giải thích rộng việc Phật nói,
Ni đà na và Mục đắc ca,
Tăng nhất cho đến tăng mười sáu.
Tôn giả Ưu-ba-ly thỉnh hỏi,
Ma nạp Tỳ ca giải thiết yếu,
Tỳ ni đắc ca và Bản mẫu.
Tôi theo thứ lớp nhiếp luật văn,
Khiến người thích gọn mau tỏ ngộ.
Biệt giải thoát kinh khó được nghe
Trải qua vô lượng trăm ngàn kiếp
Đọc tụng thọ trì cũng như vậy
Như thuyết hành trì càng khó gặp.
Bốn câu đầu của Tựa giới kinh nói rõ giáo hành khó được. Biệt giải thoát: nương nơi kinh Biệt giải thoát, như thuyết tu hành thì đối với chín phẩm Hoặc như hạ hạ phẩm... sẽ lần lượt đoạn trừ, vĩnh viễn không thối chuyển. Do ngay nơi phiền não mà được giải thoát nên gọi là Biệt giải thoát; lại do ở địa vị Kiến đạo và Tu đạo, ngay nơi mỗi mỗi phẩm Hoặc có thể xa lìa nên gọi là Biệt giải thoát. Hữu tình do các phẩm Hoặc này nên chìm đắm trong ba cõi, vì thế phải siêng cầu giải thoát trước.
Kinh: là lời Phật dạy, lựa khác với giáo pháp của ngoại đạo. Văn nghĩa mà người khác thuyết giảng, người nghe dùng nhĩ thức lãnh hội rồi dùng tâm quyết đoán để hiểu.
Khó được: khi Phật ra đời mới được gặp một lần, lại rất khó sanh vào cõi thiện.
Vô lượng vô số kiếp: tức là đại kiếp, tuy trải qua nhiều vô lượng, nhưng giới pháp khó gặp. Nói vô lượng vô số là hiển chỗ cùng tột của sự khó gặp.
Đọc tụng: văn hoặc nghĩa và dùng huệ lãnh thọ.
Thọ trì: đối với văn và nghĩa luôn nhớ giữ trong thời gian dài mà không quên, do niệm tụng nên tương ưng với Cần.
Như thuyết tu hành: do thân ngữ nghiệp tạo tác, tâm thuận theo lời Phật dạy không trái phạm.
Càng khó gặp: nghe, đọc tụng, thọ trì còn dễ, nếu như lời Phật dạy tu hành thì càng khó gặp hơn, phải dõng mãnh tinh tấn mới toàn giới hạnh, không phải hạng có tâm thấp kém mà làm được. Nói càng là hiển chỗ cùng tột của khó được, khó gặp, đó là giáo và hành. Nghe, đọc tụng, thọ trì là Giáo; tuân phụng tu tập là Hành.
Phật thị hiện ở đời là vui Diễn nói pháp vi diệu là vui
Tăng nhất tâm đồng kiến là vui Hòa hợp cùng tu tiến là vui.
Ý của bốn câu này là nói Tam bảo hưng thịnh ở đời, các sự nghiệp đã có đều là nhân của lạc.
Phật thị hiện ở đời là vui: từ khi Phật nhập thai, đản sanh thì gọi là Phật thị hiện ở đời, đây là dựa trên lý sắp thành tựu nên tuy là Bồ-tát mà vẫn được gọi là Phật. Đến khi thành chánh giác, dựa trên Nhất-thiết-trí đã thành tựu nên gọi là Phật, đây là nhân hỉ lạc của diệu giải thoát.
Diễn nói chánh pháp vi diệu là vui: chánh pháp là chỉ cho mười hai phần giáo như khế kinh...
Tăng già nhất tâm đồng kiến: chỉ cho tám bậc đại nhân đối với giới, oai nghi, chánh mạng là đồng kiến nên nhất tâm tuân hành thì khó thể hoại là vui.
Hòa hợp cùng tu tiến: đối với tịnh giới siêng tu, tâm dõng mãnh sách tấn để đoạn dứt phiền não, tâm không thối chuyển là nhân của vui.
Gặp Thánh nhơn hiện hữu là vui. Được cùng ở chúng cũng là vui. Nếu không gặp những người ngu si. Đó mới gọi là thường thọ lạc.
Ý của bốn câu này nói thân gần bạn lành, xa lìa bạn ác là nhân của lạc.
Thánh nhân: chỉ cho bậc đã dứt tội ác có đức thắng thiện, nếu được gặp cùng ở chung đều được an lạc trụ. Ngược lại người không biết tu phẩm thiện, tạo nhiều ác hạnh, mê nơi chánh lý thì gọi là kẻ ngu si, không nên gần, phải mau xa lìa. Gặp người trì giới đủ là vui Nếu gặp Đa văn cũng là vui Gặp A-la-hán chân thật vui Vì đời sau không còn tái sanh.
Ý của bốn câu này nói sự sai biệt của bạn lành, vì Thánh nhân có hai hạng: một là thế tục, hai là thắng nghĩa. Thế tục lại có hai hạng: một là trụ nơi định, hai là trụ nơi huệ. Hai câu đầu chỉ cho bậc Thánh nhân thế tục, nói người có đầy đủ thi la là chỉ cho bậc trụ nơi định, vì nhân giới sanh định; nói người đa văn là chỉ cho bậc trụ nơi huệ, vì từ định sanh huệ. Hai câu sau chỉ cho bậc Thánh nhân thắng nghĩa do định huệ cùng vận hành, trụ đến chỗ rốt ráo là chân thật thiện tri thức, vì bậc
A-la-hán tuy ở trong lưu chuyển nhưng đã chứng pháp vô sanh; tuy ở trong các khổ phiền não nhưng đã hoàn toàn giải thoát.
Đến thềm diệu bờ sông kia vui
Dùng pháp hàng địch chiến thắng vui Khi chứng đắc sanh chánh huệ quả Tận trừ được ngã mạn là vui.
Hai câu đầu nói nhân dưa đến an lạc, hai câu sau nói Huệ sanh sẽ đoạn được Hoặc.
Bờ sông: chỉ cho ra khỏi sông sanh tử, lìa lỗi chấp hai bên, bát chánh đạo là thềm diệu là nhân đưa đến an lạc giải thoát. Dùng pháp hàng địch: pháp chỉ cho chánh hạnh là công cụ chống địch, hàng phục ma quân phiền não khiến không sanh khởi nữa nên gọi là là chiến thắng vui. Hai câu sau nói dùng kiếm trí huệ chặt đứt ngã mạn mà được an lạc.
Nếu có thể làm quyết định ý Khéo điều căn. dục đủ đa văn Từ trẻ đến già ở trong rừng Lan nhã nhàn cư, tịch tĩnh vui.
Bốn câu này ý nói nhờ tu chánh hạnh nên cùng hạnh đầu đà tương ưng là nhân của lạc.
Ý quyết định: chỉ cho tâm thanh tịnh ban đầu, cũng là hạnh tri túc, sách tấn siêng tu không mong cầu danh lợi, thúc liễm thân tâm để phòng hộ ngoại cảnh, nhân đây thành tựu thắng quả giải thoát.
Khéo hàng phục căn. dục đủ đa văn: đây là trợ bạn thanh tịnh cùng đi với giới, nhưng muốn được quả thắng thượng phải có đủ đa văn, vì trí có thể đoạn phiền não, không phải kẻ ngu si trụ nơi A-lan-nhã có thể làm được. Nếu không có đủ đa văn, chỉ hiểu rành giới tướng với tâm quyết định thì vẫn có thể trụ nơi A-lan-nhã, xa lìa chốn ồn náo tạp loạn mà được an lạc trụ.
Tựa giới kinh tổng khai làm mười nghĩa: một là nói rõ lời Phật dạy, hai là quở trách không nhóm hết, ba là không đến nhóm họp tùy thuận nghe, bốn là pháp thức cúng dường, năm là chính thức răn nhắc, sáu là lợi ích của răn nhắc, bảy là không răn nhắc thì lỗi sanh, tám là chính thức tác bạch, chín là khuyên chí tâm lắng nghe và mười là khiến đồ chúng thanh tịnh.
Các Đại đức, bốn tháng mùa Xuân (hoặc Hạ, Đông) nửa tháng (hoặc một tháng...) đã qua, còn lại ba tháng rưỡi (hoặc ba tháng...), già chết tới gần, mạng sống giảm dần. Các Đại đức nên tinh tấn tỉnh giác chớ có buông lung, do không buông lung nên chắc chắn chứng quả Phật, huống chi các giác phẩm thiện pháp khác vì các đệ tử Thanh văn của Phật thì ít cầu ít việc.
Người chưa thọ Cận viên đã ra ngoài chưa?
Các Bí-sô không đến có gởi dục thanh tịnh không?
Có ai sai Bí-sô ni đến thỉnh giáo thọ không?
Nói bốn tháng mùa xuân, nửa tháng đã qua, còn lại ba tháng rưỡi: ý nói trong ba mùa xuân hạ đông, khi thuyết Ba-la-đề-mộc-xoa tùy đang ở trong mùa nào thì nói mùa đó và tùy theo số ngày đã thuyết và chưa thuyết mà nói ra.
Già chết tới gần: ý nói già chết thường hiện tiền, trong mười hai chi chỉ nói chi này là vì dối với ưu bi khổ não thì tác dụng của chi lão tử là mạnh nhất. Nói già chết tới gần là nhân khiến hạnh mất viên mãn, vì già chết là sở y, do già chết bức bách, mạng căn dần đoạn hoại thì không thể đạt đến viên mãn. Thế tôn đại bi giáo hóa hữu tình nói ra mười hai phần giáo, hễ là người có duyên thảy đều được hóa độ, nhưng giáo pháp nay không bao lâu nữa cũng sẽ diệt, do pháp diệt nên hạnh cũng thối thất. Đây là hai nhân làm cho hạnh mất viên mãn.
Chớ có phóng dật: không phóng dật là hạnh tối thắng trong các phẩm thiện; tâm không phóng dật, dõng mãnh tiến tu mới làm sáng tỏ Thánh giáo, có thể làm y chỉ cho Thánh đạo xuất thế, chỉ quan song tu sẽ được Thánh đạo.
Do không phóng dật ắt sẽ chứng đắc: ý Phật muốn cho người xuất gia cầu giải thoát được chứng quả nên chế ra các học xứ.
Như thật tri: ý nói Phật hiểu rõ mọi việc như thật.
Ứng: ý nói đối với các hữu tình, Phật xứng đáng thọ sự cúng dường.
Chánh đẳng giác: ý nói Phật hiểu biết tường tận cùng khắp không có điên đảo.
Huống chi giác phẩm thiện pháp khác: ý nói do không phóng dật có thể chứng quả bồ đề, các thiện pháp đã có đều gọi là giác phẩm thiện pháp.
Đại đức, Tăng già làm trước việc gì?: ý nói nên đến tập họp, trước nên rưới nước quét dọn chỗ làm trưởng tịnh sạch sẽ trang nghiêm đèn hoa....
Chúng Thanh văn của Phật ít cầu ít việc: ít cầu là nghĩa của thiểu dục thuộc ý nghiệp, ít việc là nghĩa của tri túc thuộc thân ngữ nghiệp. Thanh văn là nghe từ người khác, nói chúng là ý nói đồng tâm đến nhóm họp thì không gì có thể hoại được.
Không đến là khi trưởng tịnh không đến nhóm. Nói Đại đức là lời tôn kính, như Phật đã dạy, các Bí-sô dù trẻ hay già đều không được gọi nhau bằng tên họ, nên gọi là cụ thọ hay Đại đức, Phật Thế tôn nên gọi bằng đức hiệu, nếu làm trái thì phạm tội Việt pháp.
Gởi dục thanh tịnh: nếu Bí-sô có bịnh hoặc đang tu phẩm thiện không thể đến nhóm thì nên gởi dục thanh tịnh, Bí-sô muốn gởi dục thanh tịnh, nên đủ oai nghi đối trước một Bí-sô bạch rằng: Cụ thọ nhớ nghĩ, hôm nay là ngày thứ mười bốn, Tăng làm trưởng tịnh, tôi Bí-sô vào ngày thứ mười bốn cũng làm trưởng tịnh, tôi Bí-sô tự nói thanh tịnh, không có các chướng pháp, vì nhân duyên bịnh, Tăng sự như pháp, xin gởi dục thanh tịnh (ba lần).
Nếu Bí-sô bịnh nặng, không thể gởi dục được thì nên dìu đỡ đến trong Tăng, nếu cũng không thể thì Tăng nên đến chỗ người bịnh làm trưởng tịnh, nếu không như vậy thì tác pháp không thành, phạm tội Việt pháp.
Nếu không phải làm trưởng tịnh mà là làm yết ma khác thì chỉ nói gởi dục, không nói thanh tịnh. Vị trì dục tịnh nên đối trước một Bí-sô trong Tăng bạch rằng:
Đại đức nhớ nghĩ, trong liêu phòng có Bí-sô __________ bịnh, hôm nay là ngày thứ mười bốn, Tăng làm trưởng tịnh, Bí-sô vào ngày thứ mười bốn cũng làm trưởng tịnh, Bí-sô __________ tự nói thanh tịnh, không có các chướng pháp, vì nhân duyên bịnh, Tăng sự như pháp, xin gởi dục thanh tịnh.
Nếu có nhân duyên khác thì tùy sự việc nêu ra, sở dĩ chỉ đối trước một Bí-sô trong Tăng mà không ở trong Tăng bạch là vì ngăn việc kéo dài thời gian khiến Tăng mỏi mệt... Nếu Bí-sô vì lười biếng và xem thường pháp mà gởi dục thì phạm Đột sắc ngật lý ca. Nếu vị yết ma đà na có bịnh hoặc sợ bịnh phát sanh hoặc bịnh vừa mới bớt, hoặc vì khán bịnh hoặc vì mỏi mệt, hoặc vì lạnh nóng hoặc vì bẩm tánh hay ngủ gật nên tu phẩm thiện khác nên trừ bịnh hôn trầm, hoặc ở trong phòng tự tụng giới bổn, hoặc ở chỗ khác nghe thọ nghĩa của giới, hoặc từ câu văn hệ tâm suy tư nghĩa lý sợ quên mất, hoặc mới tu được diệu quán hiện tiền để chế ngự tâm, hoặc muốn cho giác phần thiện phẩm không có xen tạp, nếu xen tạp duyên khác thì mất chánh niệm, hoặc được Kiến đế... thì gởi dục không phạm. Người thọ dục mang đến trong Tăng nếu đi mau hoặc nhảy qua hố hoặc ở nơi cao nguy hiểm hoặc ở trên hư không hoặc ở ngoài giới... hoặc ngủ quên hoặc nhập định hoặc chết hoặc hoàn tục hoặc nói tôi là Cầu tịch thì không thành trì dục, nên lấy dục tịnh lại. Nếu một người lấy dục của nhiều người thì tùy nhớ mà nói, nếu người ở dưới đất gởi dục cho người ở trên không và ngược lại thì gởi dục không thành. Người thọ học (học hối Sa di) được gởi dục nhưng không được thọ dục của người khác, người ở trong giới nên gởi dục cho người trong giới, khác với đây thì không thành gởi dục.
Giới có phân đại giới và tiểu giới, ở trong đại giới nên chọn chỗ không có chướng ngại kết làm tiểu giới tràng, trước nên xem xét các tiêu tướng ở bốn phía của tiểu giới, như tiêu tướng phía Đông là cây hoặc là hàng rào, mô đất, trụ đá, trụ sắt, trụ cây...; tiêu tướng ở ba phía kia theo đó mà nhận biết. Sau khi xem thấy các tiêu tướng rồi nên đánh kiền chùy nhóm tất cả các Bí-sô cựu trụ lại, tác tiền phương tiện rồi xướng tiêu tướng ở bốn phía của tiểu giới, sau đó một Bí-sô bạch nhị yết ma kết như sau:
Đại đức Tăng lắng nghe, nay tại trú xứ này, các Bí-sô cựu trụ đã cùng xem xét các tiêu tướng ở bốn phía của tiểu giới, như tiêu tướng phía Đông là cây hoặc là hàng rào, mô đất, trụ đá, trụ sắt, trụ cây...; tiêu tướng phía Nam là __________ , tiêu tướng phái Tây là __________ , tiêu tướng phía Bắc là __________ . Nếu tăng già đúng thời đến nghe, Tăng già nên chấp thuận, Tăng nay trong phạm vi các tiêu tướng này kết làm tiểu giới tràng. Bạch như vậy.
Đại đức Tăng lắng nghe, nay tại trú xứ này, các Bí-sô cựu trụ nên cùng xem xét các tiêu tướng ở bốn phía của tiểu giới, như tiêu tướng phía Đông là cây hoặc là hàng rào, mô đất, trụ đá, trụ sắt, trụ cây...; tiêu tướng phía Nam là __________ , tiêu tướng phía Tây là __________ , tiêu tướng phía Bắc là __________ . Tăng nay ở trong phạm vi các tiêu tướng này kết làm tiểu giới tràng. Các Bí-sô chấp thuận ở trong phạm vi các tiêu tướng này kết làm tiểu giới tràng thì im lặng, ai không chấp thuận thì nói.
Tăng đã chấp thuận ở trong phạm vi các tiêu tướng này kết làm tiểu giới tràng xong rồi. Tăng chấp thuận vì im lặng, việc này xin nhớ giữ như vậy.
Kế kết đại giới, phạm vi của đại giới tối Đa-là hai Du thiện na rưỡi, xuống dưới thấp chỗ không có nước chảy cũng vậy, nếu có sông nước thì ngang bằng mặt nước này là giới. Nếu trong giới có cây cao hay núi thì giới cũng tùy theo cây và núi, lên trên cao đến chỗ có nước là giới. Sau khi xem thấy các tiêu tướng rồi nên đánh kiền chùy nhóm tất cả các Bí-sô cựu trụ lại, tác tiền phương tiện rồi xướng tiêu tướng ở bốn phía của đại giới, sau đó một Bí-sô bạch nhị yết ma kết như sau:
Đại đức Tăng lắng nghe, nay tại trú xứ này, các Bí-sô cựu trụ đã cùng xem xét các tiêu tướng ở bốn phía của đại giới, như tiêu tướng phía Đông là cây hoặc là hàng rào, mô đất, trụ đá, trụ sắt, trụ cây...; tiêu tướng phía Nam là __________ , tiêu tướng phía Tây là __________ , tiêu tướng phía Bắc là __________ . Nếu tăng già đúng thời đến nghe, Tăng già nên chấp thuận, Tăng nay ở trong phạm vi các tiêu tướng này kết làm đại giới của Tăng, từ A-lan-nhã cho đến trú xứ này, đồng một trú xứ làm Bao-sái-đà, trừ thôn và thế phần của thôn. Bạch như vậy.
Đại đức Tăng lắng nghe, nay tại trú xứ này, các Bí-sô cựu trụ đã cùng xem xét các tiêu tướng ở bốn phía của đại giới, như tiêu tướng phía Đông là cây hoặc là hàng rào, mô đất, trụ đá, trụ sắt, trụ cây...; tiêu tướng phía Nam là __________ , tiêu tướng phía Tây là __________ , tiêu tướng phía Bắc là __________ . Tăng nay trong phạm vi các tiêu tướng này kết làm đại giới của Tăng, từ A-lan-nhã cho đến trú xứ này, đồng một trú xứ làm Bao-sái-đà, trừ thôn và thế phần của thôn. Các Bí-sô chấp thuận ở trong phạm vi các tiêu tướng này kết làm đại giới của Tăng, từ A-lan-nhã cho đến trú xứ này, đồng một trú xứ làm Bao-sái-đà, trừ thôn và thế phần của thôn thì im lặng, ai không chấp thuận thì nói.
Tăng đã chấp thuận ở trong các tiêu tướng này kết làm đại giới của Tăng, từ A-lan-nhã cho đến trú xứ này, đồng một trú xứ làm Bao-sái-đà, trừ thôn và thế phần của thôn xong rồi. Tăng chấp thuận vì im lặng, việc này xin nhớ giữ như vậy.
Sau khi Tăng đã kết đại giới xong thì ở trong trú xứ này có bao nhiêu Bí-sô đều phải tập họp lại một chỗ để làm Bao-sái-đà và việc Tùy ý, tất cả các pháp đơn bạch yết ma, bạch nhị yết ma, bạch tứ yết ma đều nên làm. Nếu khi tác pháp mà Tăng không như pháp nhóm họp thì tác pháp không thành, Tăng phạm tội Việt pháp. Nếu muốn ở trong đại giới này kết giới không mất y thì nên nương theo tướng của đại giới mà kết, Tăng nên tác tiền phương tiện rồi sai một Bí-sô bạch nhị yết ma kết như sau:
Đại đức Tăng lắng nghe, Tăng ở trong trú xứ này trước đã hòa hợp kết làm đại giới của Tăng, từ A-lan-nhã cho đến trú xứ này, đồng một trú xứ làm Bao-sái-đà, trừ thôn và thế phần của thôn. Nếu tăng già đúng thời đến nghe, Tăng già nên chấp thuận, Tăng nên trên đại giới này kết giới Bí-sô không mất y. Bạch như vậy.
Đại đức Tăng lắng nghe, Tăng ở trong trú xứ này trước đã hòa hợp kết làm đại giới của Tăng, từ A-lan-nhã cho đến trú xứ này, đồng một trú xứ làm Bao-sái-đà, trừ thôn và thế phần của thôn. Tăng nay trên đại giới này kết giới Bí-sô không mất y, các Bí-sô chấp thuận ở trên đại giới này kết giới Bí-sô không mất y thì im lặng, ai không chấp thuận thì nói. Tăng đã chấp thuận ở trên đại giới này kết giới Bí-sô không mất y xong rồi. Tăng chấp thuận vì im lặng, việc này xin nhớ giữ như vậy.
Tăng kết giới không mất y xong rồi thì các Bí-sô khi đi lại trong giới chỉ cần mang hai y thượng hạ, không có lỗi lìa y. Khi có duyên sự cần giải đại tiểu giới thì nên bạch tứ để giải, nên giải tiểu giới tràng trước, muốn giải tiểu giới tràng, Tăng phải ở trong tiểu giới tràng, ít nhất bốn Bí-sô tác tiền phương tiện rồi bạch tứ yết ma giải như sau:
Đại đức Tăng lắng nghe, Tăng ở trong trú xứ này trước đã hòa hợp kết làm tiểu giới tràng. Nếu tăng già đúng thời đến nghe, Tăng già nên chấp thuận, Tăng nay giải tiểu giới tràng này. Bạch như vậy.
Đại đức Tăng lắng nghe, Tăng ở trong trú xứ này trước đã hòa hợp kết làm tiểu giới tràng. Tăng nay giải tiểu giới tràng này, các Bí-sô chấp thuận giải tiểu giới tràng này thì im lặng, ai không chấp thuận thì nói. Đây là yết ma lần thứ nhất (lần thứ hai, lần thứ ba)
Tăng đã chấp thuận giải tiểu giới tràng này xong rồi, Tăng chấp thuận vì im lạng, việc này xin nhớ giữ như vậy.
Trường hợp trước đã kết đại giới nhưng chưa kết tiểu giới tràng, nay muốn kết tiểu giới tràng thì nên bạch tứ yết ma giải đại giới cũ như sau:
Đại đức Tăng lắng nghe, Tăng ở trong trú xứ này trước đã hòa hợp kết làm đại giới của Tăng, đồng một trú xứ làm Bao-sái-đà, trừ thôn và thế phần của thôn. Nếu tăng già đúng thời đến nghe, Tăng già nên chấp thuận, Tăng nay giải đại giới này. Bạch như vậy.
Đại đức Tăng lắng nghe, Tăng ở trong trú xứ này trước đã hòa hợp kết làm đại giới của Tăng, đồng một trú xứ làm Bao-sái-đà, trừ thôn và thế phần của thôn. Tăng nay giải đại giới này, các Bí-sô chấp thuận giải đại giới này thì im lặng, ai không chấp thuận thì nói. Đây là yết ma lần thứ nhất (lần thứ hai, lần thứ ba)
Tăng đã chấp thuận giải đại giới này xong rồi, Tăng chấp thuận vì im lặng, việc này xin nhớ giữ như vậy.
Giải giới cũ xong mới kết lại giới mới, nên kết tiểu giới tràng trước, kết đại giới và giới không mất y sau, làm giống như trên. Nếu không giải đại giới cũ mà kết đại giới mới chồng lên thì giới kết sau không thành lại phạm tội Ác tác. Nếu muốn một người tác yết ma cho cả hai giới thì nên bạch nhị đồng thời kết và dùng bạch tứ đồng thời giải, vị này nên ngồi ở trên mé của hai giới tập Tăng mà tác yết ma, khi kết thì kết tiểu giới trước, khi giải thì giải tiểu giới sau.
Giới khác không được dùng giới vượt qua có năm loại: đó là giới Bí-sô, giới Bí-sô ni, tiểu đàn tràng, chỗ nước đọng và khoảng giữa hai giới; vì vậy khi giải giới này, không phải giới khác cũng được giải. Nếu tiêu tướng là đại thọ cũng được xem là tiêu tướng của nhiều giới, nếu dùng huyễn thuật hay thần thông lực để tạo ra tiêu tướng để kết giới thì không thành kết; cũng không được lấy sóng nước, trăng, sao... làm tiêu tướng. Nếu Bí-sô khách đến một trú xứ không có người ở nên ở qua bảy tám ngày, đợi không có cựu trụ đến mới được kết giới, nếu vừa đến ở liền kết giới thì phạm tội Ác tác.
Trường hợp có sông ngăn cách, nếu có cầu thì được thông giới, không có cầu thì không được; nếu cầu hư, có tâm tu sửa thì được trải qua bảy tám ngày, đến đêm thứ tám thì giới mất; nếu không có tâm tu sửa thì tùy cầu hư lúc nào thì giới cũng mất theo. Có năm trường hợp làm cho giới mất:
Tất cả Tăng đều chuyển căn.
Tất cả Tăng quyết định bỏ đi.
Tất cả Tăng đều hoàn tục.
Tất cả Tăng đều qua đời.
Tất cả Tăng tác pháp giải.
Nếu nơi A-lan-nhã và trong thôn xóm không phải là giới tác pháp thì phạm vi của giới là bao nhiêu?: Nếu là A-lan-nhã thì phạm vi là một Câu lô xá, nếu là thôn xóm thì phạm vi đến có tường, rào và thế phần bên ngoài. Ở trong phạm vi của hai giới này, các Bí-sô nên tập họp lại một chỗ, nơi mà tay chạm đến nhau được, tùy ý tác yết ma; nếu làm trái thì phạm tội Việt pháp.
Chắp hai tay cung kính Lễ Thích Ca Sư tử, Biệt giải thoát điều phục Tôi nói các vị nghe.
Chắp hai tay cung kính: là hiện tướng cung kính, cúng dường Đại sư có hai cách: một là kính lễ, hai là tán thán. Chắp tay cung kính là kính lễ, xưng Thích ca Sư tử là tán thán đức; xưng Thích ca là ý nói khi còn ở thế tục thuộc dòng tộc tôn quý, không phải giai cấp thấp hèn; xưng Sư tử là ý nói sau khi xuất gia chứng được Vô sở úy khiến các ngoại đạo đều khiếp sợ.
Biệt giải thoát điều phục: là kính pháp, lúc khởi phương tiện có thể giải thoát phiền não hoặc, do có đức thù thắng nên gọi là Biệt giải thoát; hữu tình cụ phược bị phiền não trói buộc có thể điều phục được nên gọi là điều phục.
Tôi nói các vị nghe: là khuyên nên nghe pháp.
Nghe rồi phải chánh hành
Như lời Đại tiên dạy
Ở trong các tội nhỏ
Dõng mãnh siêng phòng hộ
Tâm như ngựa khó kìm
Liên tục quyết chí trừ
Hàm thiết Biệt giải thoát
Có trăm kim cực bén.
Nghe rồi phải chánh hành: ý nói nghe rồi hành trì sẽ không điên đảo, không biếng nhác, tâm dõng mãnh tinh cần là khuyên người tu hành nên xa lìa phi pháp.
Như lời Đại tiên dạy: Đại tiên là chỉ cho Bạcgià-phạm là bậc tối thắng trong thế gian, lại là bậc tối thắng trong các tiên của hàng Thanh văn Duyên giác nên gọi là đại tiên.
Tội nhỏ: là chỉ cho giá tội, không phải là tánh tội, đối với tội nhỏ còn dõng mãnh phòng hộ huống chi là tánh tội; tội là pháp bất thiện bị người trí chê trách, siêng phòng hộ là ở trong thiện pháp khởi tinh tấn. Nói dõng mãnh là vì nếu tham đắm các cảnh sẽ như ngựa không cương phóng nhanh rất là đáng sợ. Nói liên tục là ý nói không ngừng tiếp cận ngoại cảnh thì rất khó ngừng dứt, vì tâm là chủ tể rất khó chế ngự nên phải điều phục tâm, chỉ khéo điều phục thân ngữ thì chưa đủ vì tâm là cội gốc sanh khởi phiền não. Muốn quyết chí trừ sạch cho được hoàn toàn thanh tịnh thì phải thường quán lý vô thường vô ngã; nếu chấp là thường là ngã như hư không, thể không biến đổi thì sẽ không tương ưng với lý đoạn hoặc. Hàm thiết: dùng để điều phục thuận theo lý, xa lìa chấp hai bên; nói có trăm kim cực bén là chỉ cho người phá giới ở trong hiện pháp bị hối hận bức bách.
Nếu người nào trái pháp Nghe dạy phải dừng ngay Đại sĩ như ngựa giỏi Xông ra trận phiền não. Trái pháp: tức là trái học xứ, nói nghe dạy liền dừng ngay là ý nói không do dao gậy... mà chế ngăn được.
Đại sĩ: chỉ cho người cận viên, như ngựa giỏi là chỉ bậc hiền thiện giống như Trí mã.
Xông ra trận phiền não: do phiền não khó dứt trừ nên dụ như quân trận, bậc đại sĩ muốn thoát khỏi sanh tử phải sách tu tịnh giới xông ra trận phiền não.
Người thiếu hàm thiết này Chưa từng có hỉ lạc Chết trong trận phiền não Mê chuyển trong sanh tử.
Nói thiếu hàm thiết là chỉ cho các ngoại đạo dong ruổi theo cảnh tà và đam mê dục lạc; nói chưa từng có hỉ lạc là ý nói không có tánh Niết-bàn, đối với lý viên tịch tâm không ưa thích. Nói chết trong trận phiền não ý nói nhân nơi tà pháp chiến đấu với phiền não, tức là không có hàm thiết Biệt giải thoát, sẽ bị thua trận và chết. Do không có hàm thiết này nên theo nghiệp lưu chuyển mãi trong năm đường, không được cứu độ.
Đại đức Tăng lắng nghe, hôm nay là ngày thứ mười bốn không trăng, Tăng làm trưởng tịnh. Nếu tăng già đúng thời đến nghe, Tăng già nên chấp thuận, Tăng nay làm trưởng tịnh, thuyết Giới kinh Ba-la-đề-mộc-xoa. Bạch như vậy.
Nói Tăng lắng nghe là ý nói chớ sanh niệm tưởng khác, nên lắng nghe, nghe rồi nên nhớ giữ. Nói Tăng là chỉ cho năm loại túc số Tăng tác pháp yết ma:
Là túc số Tăng bốn người được làm các pháp yết ma, chỉ trừ làm Tùy ý, thọ Cận viên và xuất tội Tăng tàn.
Là túc số Tăng năm người được làm các pháp yết ma, chỉ trừ thọ Cận viên tại Tăng và xuất tội Tăng tàn.
Là túc số Tăng mười người được làm tất cả các pháp yết ma, chỉ trừ xuất tội Tăng tàn.
4 & 5. Là túc số Tăng hai mươi người và hai mươi người trở lên, được làm tất cả các pháp yết ma.
Nói ngày thứ 14 là thời gian làm Bao-sái-đà, tùy trong bốn tháng của ba mùa xuân hạ đông mà nói ra, trong một năm có sáu lần nửa tháng là ngày thứ 14, mười tám lần nửa tháng là ngày thứ 15. Nói tháng có trăng hay không trăng là tính số ngày để bạch cho chúng biết, hoặc bạch với Thượng tòa hay vị thọ sự trong chúng. Nên bạch như sau:
Các Đại đức, hôm nay là ngày thứ thuộc tháng có trăng hay không trăng, các vị hãy vì thí chủ xây chùa, các thiên thần hộ chùa cùng Tứ ân mà tụng kệ phước thí.
Sở dĩ phải cáo bạch là muốn cho biết thời gian làm Bao-sái-đà và ngăn người tục đến hỏi. Tính biết số ngày hoặc là dựa theo sự vận hành của sao hoặc dựa theo vương pháp để biết tháng thiếu hay tháng đủ.
Bao-sái-đà: bao sái dịch nghĩa là trưởng dưỡng, đà dịch nghĩa là giữ, do đại chúng nhóm họp thuyết giới nên có thể nuôi lớn thiện pháp. Đà cũng dịch nghĩa là tịnh trừ, ý nói thuyết giới có thể nuôi lớn thiện pháp, tịnh trừ bất thiện pháp.
Nói đúng thời đến là chỉ cho lúc làm Bao-sáiđà không có trở ngại nào khác; nói lắng nghe là lúc đang hỏi, đại chúng nơi tòa ngồi nên lắng nghe và chấp thuận làm trưởng tịnh; nói bạch như vậy là bạch cho chúng biết việc đang làm. Sở dĩ chỉ cử một người thuyết giới là vì không thể cả chúng đều tụng giới, trong chúng cũng có người không thuộc hết giới, lại do người nghe pháp trên lý thì không nên như thế. Lại không ở trong phòng riêng thuyết giới vì ở trong phòng riêng không phải là đại chúng làm Bao-sái-đà, vì thế cùng nhóm lại một chỗ thì lợi ích nhiều hơn; nếu thuyết riêng lẻ trong phòng riêng thì có lỗi không nghe pháp. Hễ vào ngày thuyết giới có thiện Bí-sô tụng được giới thì không nên sai người thọ học tụng; ở trú xứ chỉ có bốn người thì phải cùng nhóm họp thuyết giới, không được ở riêng, cũng không được lấy dục. Nếu ở nơi tháp miếu ồn náo hoặc chỗ có người tục hoặc chỗ hiển lộ hoặc chỗ bất tịnh mà làm Baosái-đà thì phạm tội Ác tác; nếu không có nơi nào khác thì làm không phạm nhưng không nên đối trước người tục mà làm. Lại nữa vào lúc ngủ, lúc nhập định, lúc khất thực, lúc nghỉ ngơi, lúc cúng dường mà làm trưởng tịnh thì phạm tội Ác tác; nếu vào thời khác gặp có trở ngại thì làm không phạm. Nếu vào ngày trưởng tịnh, Bí-sô ở trong giới bị quan bắt, không thể đến cùng nhóm họp làm trưởng tịnh thì phạm tội biệt trụ, không thành trưởng tịnh; các Bí-sô khác nên đến chỗ quan xin thả Bí-sô ấy ra, nếu không làm như thế thì phạm tội Ác tác. Nếu Bí-sô bị điên cuồng, Tang nên cho yết ma điên cuồng để ngăn ngừa biệt trụ.
Đến ngày trưởng tịnh, tất cả Bí-sô nên quán tự thân là trong nửa tháng qua, ta không có phạm tội chăng, nếu nhớ có phạm thì nên phát lồ. Nên đối trước vị thanh tịnh với đầy đủ oai nghi nói tội như sau:
Đại đức nhớ nghĩ, tôi Bí-sô __________ đã phạm tội __________ , nay đối trước cụ thọ phát lồ sám hối không dám che giấu, do phát lồ nên được an lạc, không phát lồ thì không được an lạc. (ba lần)
Bí-sô thọ sám hỏi: thầy có thấy tội không? Bí-sô đối sám đáp: thấy.
Lại hỏi: sau này thầy có khéo hộ trì các giới không? Đáp: sẽ cẩn thận hộ trì. Bí-sô thọ sám nói: tốt. Đáp: lành thay.
Nếu nơi tội có nghi thì nên đến chỗ vị trì luật để quyết nghi, sau đó phát lồ sám hối. Nên đối trước Bí-sô phát lồ, không nên đối trước Bí-sô ni, nếu đối trước Bí-sô ni phát lồ thì phạm tội Việt pháp. Cũng không nên đối trước người phạm tội đồng phần mà phát lồ; nói phạm tội đồng phần là tội Ba la thị ca đối với tội Ba la thị ca, như thế cho đến tội Đột sắc ngật lý ca đối với tội Đột sắc ngật lý ca gọi là đồng phần, tức là tương tợ. Nếu khi đang ở trong chúng làm trưởng tịnh mà nhớ tội đã phạm thì Bí-sô này nên đối với tội ấy tâm niệm thủ trì như sau:
Hôm nay ngày thứ mười lăm, Tăng đang trưởng tịnh, con Bí-sô __________ cũng đang trưởng tịnh. Con Bí-sô __________ đang ở trong Tăng bỗng nhớ tội đã phạm, con Bí-sô __________ đối với tội đã phạm tự tâm niệm thủ trì, sau khi Tăng trưởng tịnh xong, con sẽ đối trước Bí-sô thanh tịnh sám hối trừ tội ấy.
Nơi tội có nghi cũng dựa theo đây mà biết, người tụng giới nếu nhớ có tội hay nghi cũng tâm niệm thủ trì như thế. Nếu đến ngày trưởng tịnh, tất cả Tăng đều có tội, Tăng nên sai một thiện Bí-sô đến trú xứ khác để đối trước Bí-sô thanh tịnh như pháp sám hối, sau đó trở về trong trú xứ này cho chúng tăng đối trước vị này sám hối trừ tội rồi mới trưởng tịnh. Nếu không thể làm được việc này thì chúng tăng nên tác Đơn bạch để trưởng tịnh, sau đó đến trú xứ khác đối trước Bí-sô thanh tịnh sám hối trừ tội. Đơn bạch như sau:
Đại đức Tăng lắng nghe, hôm nay là ngày thứ mười bốn trưởng tịnh, ở trong trú xứ này, tất cả Tăng đều có tội nhưng không có ai đến trú xứ khác để đối trước Bí-sô thanh tịnh như pháp sám hối rồi trở về trong trú xứ này cho chúng tăng đối trước vị này sám hối trừ tội. Nếu Tăng già đúng thời đến nghe, Tăng già nên chấp thuận, Tăng nay tác Đơn bạch để trưởng tịnh, sau đó đến trú xứ khác đối trước Bí-sô thanh tịnh như pháp sám hối trừ tội. Bạch như vậy.
Nếu trong chúng có một Bí-sô thanh tịnh không phạm thì Bí-sô này nên đến chỗ Bí-sô đồng ý với tâm thiện khiến Bí-sô kia nhớ nghĩ rồi đối trước các Bí-sô nói tội đã phạm, muốn cho chúng nhơn thảy đều nghe biết và cũng nói ra tội của mình, ai không đồng ý thì im lặng. Nếu biết Bí-sô kia không đồng ý mà cưỡng ép gạn hỏi khiến nhớ nghĩ thì Bí-sô này phạm tội Việt pháp. Nếu không biết Bí-sô kia trước đây có tội hay không tội, cho là thanh tịnh mà đến nói tội thì không thành nói tội; nếu tưởng biệt trụ và nghi mà làm trưởng tịnh thì phạm tội Việt pháp ; nếu khởi tâm phá hoại mà làm trưởng tịnh, đó là phương tiện phá Tăng, phạm Tốt-thổ-la để, phải nhất tâm hòa hợp mới làm trưởng tịnh.
Vào ngày trưởng tịnh, Bí-sô cựu trụ đã làm trưởng tịnh, nếu Bí-sô khách đến với số lượng ít hơn thì phải ân cần thỉnh chúng hòa hợp để làm trưởng tịnh lại; nếu không chịu thì Bí-sô khách nên đến trong tiểu giới tràng tự làm trưởng tịnh. Nếu số khách đến bằng hoặc đông hơn thì Bí-sô cựu trụ nên cùng hòa hợp làm trưởng tịnh lại. An cư xong làm tùy ý tức là trưởng tịnh, không cần trưởng tịnh nữa. Nói trú xứ có nghĩa là nơi đó có người biết làm yết ma, nói trú xứ không có nghĩa là nơi đó không có người biết làm yết ma. Nếu trú xứ Bí-sô là nơi có thể cùng ở thì ngày trưởng tịnh nên đến để làm trưởng tịnh, nếu nơi đó có đấu tranh mà đến thì phạm tội Ác tác, nếu nơi đó không có Bí-sô mà có người đồng hạnh được lạc trụ thì tùy ý đến không phạm, nếu nạn sự sắp đến thì được tùy tình bỏ đi. Đến ngày trưởng tịnh, không nên cho các môn nhân đệ tử tùy tình đi đến trú xứ khác; nếu trú xứ này không có người thuyết giới thì cho đến chỗ người thuyết giới ở trú xứ khác để làm trưởng tịnh, nếu không đi thì phạm tội Việt pháp. Nếu tại trú xứ tiền an cư không có người thuyết giới thì không nên ở qua trưởng tịnh lần thứ hai, nên đến chỗ có người thuyết giới nhưng không được ở trước người tục thuyết giới.
Khi an cư nên làm trưởng tịnh cùng Bí-sô đồng ý thanh tịnh đồng kiến, nếu cùng Bí-sô bị điếc hoặc không hiểu biết tại một chỗ làm trưởng tịnh cũng thành túc số. Đến ngày trưởng tịnh, Bí-sô một mình nơi A-lan-nhã nên quét dọn sạch sẽ trú xứ, trải tòa rồi tụng vài bài kinh, sau đó lên chỗ cao nhìn ngó bốn phía nếu thấy có Bí-sô nào đến, nên chào hỏi và nói: "cụ thọ, hôm nay là ngày trưởng tịnh, thầy nên cùng tôi làm trưởng tịnh". Nếu thấy không có ai đến thì Bí-sô này nên ở trong trú xứ của mình tâm niệm miệng nói rằng: Hôm nay là ngày thứ mười bốn, Tăng trưởng tịnh, con Bí-sô __________ cũng trưởng tịnh, con Bí-sô đối với các chướng pháp tự nói thanh tịnh. Nay con tạm làm trưởng tịnh, sau này gặp chúng tăng hòa hợp, con sẽ làm trưởng tịnh với đầy đủ các giới tụ (ba lần).
Nếu có một hay hai người đến thì nên làm đối thú trưởng tịnh, dựa theo pháp một mình tâm niệm mà làm. Nếu Bí-sô đi đường khi đến nơi có thôn phường hoặc vào trong thôn hoặc ở ngoài thôn, đến ngày trưởng tịnh nên làm trưởng tịnh đầy đủ theo thứ lớp. Nếu trong thôn thì trong thế phần của thôn không được ở riêng, nếu ngoài thôn thì ngoài thế phần của thôn nên làm trưởng tịnh. Nếu tháp tùng theo đoàn thương buôn, họ không hiềm trách thì tùy đi hay đứng nên làm trưởng tịnh, nếu họ hiềm trách thì nên nên tâm niệm trưởng tịnh. Có sáu việc khai cho làm tâm niệm: một là thủ trì ba y, hai là xả ba y, ba là phân biệt y dư, bốn là xả biệt thỉnh, năm là làm trưởng tịnh, sáu là tác Tùy ý. Nên làm trưởng tịnh mà không làm thì phạm tội Việt pháp, không nên làm trưởng tịnh mà liền làm cũng phạm tội Việt pháp, trừ cát tường trưởng tịnh. Như chúng bị phá mà được hòa hợp lại nên đại chúng hoan hỉ làm trưởng tịnh; hoặc có Bí-sô trước đó bị Tăng cho yết ma xả trí, khi được giải yết ma này, Bí-sô kia thỉnh đại chúng xin làm trưởng tịnh biệt thời.
Có năm trường hợp thuyết Ba-la-đề-mộc-xoa:
Là thuyết tựa giới kinh, các pháp còn lại như Tăng đã thường nghe.
Là thuyết tựa giới kinh và bốn pháp Ba la thị ca, các pháp còn lại như Tăng đã thường nghe.
Là thuyết tựa giới kinh cho đến mười ba pháp Tăng già bà thi sa, các pháp còn lại như Tăng thường nghe.
Là thuyết tựa giới kinh cho đến hai pháp Bất định...
Là thuyết tựa giới kinh cho đến hết.
Ai nên thuyết Ba-la-đề-mộc-xoa?: tức là Thượng tòa trong chúng, nếu Thượng tòa không thuyết được thì nên sai vị thứ hai, thứ ba hoặc sai theo thứ lớp, hoặc thỉnh riêng trước một người. Nếu Thượng tòa chỉ tụng được Tựa giới kinh thì vị thứ hai nên tụng tiếp bốn pháp Ba la thị ca...; nếu người điên cuồng có thể thuyết giới được thì cũng thành thuyết giới.
Các Đại đức, tôi sắp nói giới kinh Ba-la-đềmộc-xoa, các vị hãy lắng nghe, suy nghĩ kỹ, nếu nhớ có phạm nên phát lồ, không phạm thì im lặng, do im lặng nên biết các Đại đức thanh tịnh. Nếu khi nghe hỏi, các vị nên đáp như thật, ở trong chúng thù thắng này, tôi sẽ hỏi ba lần, các vị nên đáp như thật, nếu Bí-sô nào tự biết có phạm mà không phát lồ thì phạm tội vọng ngữ. Các Đại đức, Phật dạy cố ý vọng ngữ là pháp chướng đạo, nếu Bí-sô mong cầu thanh tịnh thì nên phát lồ, phát lồ thì được an lạc, không phát lồ thì không an lạc.
Các Đại đức, tôi đã nói tựa của giới kinh xong rồi, nay xin hỏi các Đại đức, trong chúng này có thanh tịnh không? (ba lần). Các Đại đức, trong chúng này thanh tịnh vì im lặng, tôi xin nhớ giữ như thế.
Nói tôi sắp nói giới kinh là thời nói giới kinh sắp đến, nếu người nghe không kính ngưỡng thì nước pháp sẽ không thấm nhuần, nên khuyên phải nhiếp tâm chớ có tán loạn.
Nói lắng nghe là tổng khuyên nên dụng tâm.
Nói khéo suy nghĩ là muốn nêu ba hạng người dụ như ba khí vật, nếu kính ngưỡng thì dụ như khí vật hoàn toàn thanh tịnh có thể chứa dùng; nếu che giấu thì dụ như khí vật bị rỉ chảy và dơ bẩn không thể chứa dùng; hạng thứ ba theo đó nên biết.
Nói nếu có phạm là trước đó đã có phạm nay im lặng không nói ra thì chiêu thêm tội, như trong thời khác có người khác hỏi nên đáp thật thì bây giờ cũng vậy.
Nói tôi nay ở trong chúng Bí-sô thanh tịnh này là khen ngợi đồ chúng đang nghe giới.
Nói nhớ biết là nếu phạm mà không nhớ biết, im lặng không nói cũng là phạm vọng ngữ vì ngữ nghiệp biểu hiện nơi thân tướng. Có thuyết nói đây là tội thuộc ý nghiệp.
Nói là pháp chướng ngại, tức là trong hai thời đều bị chướng ngại: một là đời hiện tại chướng ngại thiện pháp, hai là đời vị lai chướng ngại sanh cõi thiện.
Nói muốn cầu thanh tịnh tức là cầu Niết-bàn, vì cầu Niết-bàn nên không sợ bị cật cấn hay trị phạt mới nói ra tội.
Nói phát lồ liền được an lạc có năm tướng: một là do siêng năng sách tấn đối trị giãi đãi, hai là do không tội đối trị các tội, ba là do kính trọng đối trị kiêu mạn, bốn là do không hối đối trí Ác tác, năm là do tịch định đối trị tán loạn.
Tựa giới kinh: là phần giải nghĩa sơ lược, trình bày giới tướng sơ lược, không giải rộng. Khi thuyết giới nói Tựa giới kinh trước làm đầu mối cho các phần sau sanh khởi. Sở dĩ chỉ hỏi ba lần là để lìa hai bên: một là quá sơ lược, hai là quá nhiều; nếu quá sơ lược thì người ngu tối khó biết, nếu quá nhiều thì kéo dài thời gian khiến đại chúng mỏi mệt.
Giải thích mỗi học xứ đều có 21 môn:
Duyên xứ phạm tội: tức là tại thành ấy nước ấy chế học xứ ấy.
Người phạm tội: tức là do có người phạm tội mà chế ra học xứ.
Tội đã phạm: tức là tội do thân ngữ tạo tác.
Cảnh và việc đã phạm: có hai loại tình và phi tình, tùy trong mỗi giới mà nhận biết, nói tóm có 65 việc:
Mười việc thứ nhất: dâm nhiễm, nhiếp thủ, bất nhẫn, cầu lợi, trú xứ, đồng phạm hạnh, Tăng già, thọ dụng thức ăn, thọ dụng pháp và Ô-ba-tưca.
Mười việc thứ hai: y dư, lìa y, mong đủ, nhân cầu, thọ tài vật bất tịnh, ngọa cụ, đi đường, chứa bát, cầu tốt, giữ y.
Mười việc thứ ba: thọ y, cất y, hồi vật của người khác, bịnh cần thuốc, trái với tâm, xuất gia, môn đồ, khởi tránh, thuyết pháp.
Mười việc thứ tư: chưa là cận viên, giới kinh, hoại chủng tử, quỷ thần thôn, khinh hủy, chống trái xúc não, dùng nước, ni, ăn uống, đến nhà thế tục.
Mười việc thứ năm: ngoại đạo, xem quân, kết bạn, dùng lửa, gởi dục, ngủ nghỉ, không khéo quán sát, nhuộm y, theo ý thích của mình, bàng sanh.
Mười việc thứ sáu: cười đùa, người nữ, cận viên, hoại đất, thỉnh lại, khinh thường học xứ, luận nghĩa, đấu tranh, thọ thỉnh, vào tụ lạc.
Năm việc sau cùng: ống đựng kim, kích lượng giường nằm, kích lượng y, pháp thức và cật vấn.
Do nơi phiền não: phiền não có hai: một là câu sanh, hai là duyên phát, tùy tâm tạo nghiệp nhiều loại không đồng, ở trong các học xứ tùy việc mà nói ra, tóm có 27 loại phiền não là tham, sân, si, dâm, nhiếp thủ, bất nhẫn, cầu lợi dưỡng, tranh hận, trú xứ, nghiệp thô bỉ, trí tà, xẻn về nhà, cầu tự tại, quá phần hạn, bỏ sót, đợi duyên, chê trách, che giấu, nhiếp thu ba môn đồ, mạn pháp, không thương xót, khinh chế, khinh thường, không thu cất, không tịch tĩnh, không kính, bất nhẫn khi bị cật vấn.
Lợi ích của chế giới: Phật quán mười lợi nên chế học xứ.
Có phạm không phạm: nếu cố tâm phạm thì gọi là có phạm, khác với trên là không phạm.
Đủ chi thành phạm: tùy theo mỗi học xứ có đủ mấy chi duyên mới thành phạm.
Nhân sanh ra tội: có sáu nhân là do thân, do ngữ, do tâm, do thân tâm, do ngữ tâm và do thân ngữ tâm.
Giải thích tên tội: tên tội không đồng như Ba la thị ca...
Thể của tội: tạo tội đều do nơi thân ngữ nên Tư là thể của tội.
Có thể xử trị và không thể xử trị: có thể trị là như trường hợp người thọ học (Sa di học hối), không thể trị là những người không có hổ thẹn.
Tội có tánh giá: tánh tội là tội từ bản tánh, giá tội là tội do chế giới mà phạm. Có thuyết nói tánh tội là tội do tâm nhiễm, giá tội là tôi bao gồm nhiễm và không nhiễm.
Làm và không làm: làm là do thân ngữ tạo tác, không làm là do quên mà việc thành.
Phương tiện có không: cố tâm làm gọi là có phương tiện, vô tâm phạm gọi là không phương tiện.
Tội trọng: phân biệt có sáu tướng:
Do chế: do Phật chế học xứ nên có tội trọng này.
Do việc: như giết bàng sanh phạm Ba-dật- đề, dù là việc thuộc tội chúng giáo cũng không thể nặng hơn.
Do phiền não: do không kính giáo, phiền não sanh khởi nên tội nặng.
Do thường phạm: nên tội nặng.
Do người: do người không trồng thiện căn, bẩm tánh ngu độn nên tội bèn nặng.
Do thời gian: do che giấu thời gian lâu nên tội thành nặng.
Tội khinh: ngược với sáu tướng trên là tội nhẹ.
Cộng tướng không khác: học xứ dù tánh hay giá đều lấy thân ngữ tâm làm cộng tướng.
Nêu tội có khác: có bốn sai khác.
do trị phạt cực nặng mới được xuất tội, tức là tội Ba la thị ca.
do ở trong Tăng trị phạt, tức là tội Tăng già bà thi sa.
do trị phạt nhẹ (hạ), tức là tội Ni-tát-kỳ-ba- dật-đề.
không do trị phạt tức là các tội còn lại.
Có nhiễm không nhiễm: nếu lấy tham... làm nhân gọi là có nhiễm, ngược với đây gọi là không nhiễm. Nguyên do phạm tội: có năm
do tánh không hổ thẹn.
do tâm không kính pháp.
do trong tâm phóng dật.
do bẩm tánh si độn.
do quên mất chánh niệm.
Nhiếp tụng:
Nếu làm hạnh bất tịnh,
Trộm cắp và giết người,
Vọng nói pháp thượng nhân,
Đều không được ở chung.
Hạnh bất tịnh: trong mười hai năm đầu, trong Tăng chưa phát sanh việc ác; vào năm thứ mười ba, đức Bạc-già-phạm tại thôn Yết lan đạc ca, nước Phật lật thị, con trai của Yết lan đạc ca là Tô trận na do bà mẹ dạy bảo để có cháu nối dòng, lại do phiền não dâm nên làm việc dâm. Phật quán mười lợi nên chế học xứ này.
1. Nhiếp thủ Tăng: ở trong bốn giai cấp Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, Phệ xá, Thủ đà la nếu có thiện nam, thiện nữ nào sanh tín kính xuất gia trong chánh pháp làm Bí-sô... gọi là nhiếp thủ Tăng.
2. Tăng cực thiện: ở trong pháp luật thiện thuyết có thể làm cho thiện pháp tăng thạnh cùng tột.
Khiến Tăng được an lạc trụ: nương nơi thiện pháp này để trả nợ của tín thí.
Khiến người không tin được tịnh tín: sanh chánh tín
Khiến người đã tin được tăng trưởng: khéo hộ tự tâm.
Chiết phục người ác: người phạm trọng do không hộ trì giới phẩm thì tăng tác pháp chiết phục mà đuổi đi.
Khiến người có hổ thẹn được lạc trụ: người cực thuần thiện trong hàng Dị sanh khiến không có đấu tranh mà được an lạc trụ.
Đoạn phiền não lậu hoặc đời này.
Đoạn phiền não lậu hoặc đời sau.
Khiến phạm hạnh trụ lâu ở đời.
Nếu lại có Bí-sô cùng các Bí-sô đồng được học xứ, không xả học xứ, học xứ không suy kém, không tự nói ra mà làm hạnh bất tịnh, hai thân giao hội cho đến với loài bàng sanh thì Bí-sô này phạm Ba la thị ca, không được ở chung.
Nếu lại có Bí-sô: chỉ cho người phạm tội. Có năm loại Bí-sô:
1. Danh tự Bí-sô: tên gọi là Bí-sô, như người thế gian đặt tên cho con trai, con gái để gọi.
Tự xưng Bí-sô: thật không phải là Bí-sô mà tự xưng là Bí-sô thanh tịnh.
Khất cầu Bí-sô: Bí-sô do khất cầu để tự nuôi sống.
Phá trừ phiền não Bí-sô: Bí-sô đã đoạn trừ phiền não.
Bạch tứ yết ma thọ Cận viên Bí-sô: trong đây gọi Bí-sô là chỉ cho hàng Bí-sô thứ năm này.
Lại dựa vào bảy thanh để làm rõ nghĩa Bí-sô:
Tác giả thanh: ai là Bí-sô, tức là người thọ Cận viên.
Tác nghiệp thanh: tạo nghiệp gì, tức là đồng học giới.
Sở do thanh: do đâu mà được, tức là do ba nghiệp.
Sở vi thanh: làm việc gì, tức là cầu Niết-bàn.
Sở tùng thanh: từ đâu mà được, tức là từ thầy...
Thuộc chủ thanh: pháp của ai, pháp của Thế tôn.
Sở y thanh: nương vào đâu, tức là dục giới và pháp luật thiện thuyết.
Nếu thêm âm thanh kêu gọi thì thành tám thanh, ba lần chuyển thành hai mươi bốn thanh sai khác.
Lại dựa vào 11 việc để giải nghĩa Bí-sô:
Bí-sô quá khứ: đã xả học xứ.
Bí-sô chưa đến: chưa thọ học xứ.
Bí-sô hiện tại: không xả học xứ.
Nội: tức là bên trong đoạn trừ phiền não.
Ngoại: tức là tướng bên ngoài nhiếp trì.
Thô: chỉ cho bốn loại Bí-sô danh tự... phải đợi người khác răn nhắc.
Tế: chỉ cho Bí-sô phá trừ phiền não có thể tự điều phục tâm.
Hạ liệt: chỉ cho người phá các giới nhỏ, tâm không thường hằng cũng không kiên cố.
Thù thắng: trái ngược với hạ liệt trên.
Xa: người có thể xuất gia mới ưa thích học giới.
Gần: người đang thọ Cận viên.
Cùng các Bí-sô đồng được học xứ: cùng với các học xứ đã có của Bí-sô tương tự nên nói là đồng được, cho dù đã thọ Cận viên trước đủ một trăm năm thì các việc nên học cùng với người mới thọ không khác nên nói là đồng được.
Không xả học xứ: không đối trước người khác tác pháp xả. Nếu đối trước người không hiểu lời mình nói như người ở trung phương đối trước người ở biên phương và ngược lại, hoặc đối trước người người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại, ngu si, câm, điếc, ngủ say, nhập định, phi nhân, trời, bàng sanh biến hóa và các hình tượng để xả học xứ thì không thành xả.
Đồng được học xứ, không xả học xứ có bốn câu: một là Bí-sô ái trọng học xứ; hai là đến chỗ sáu chúng, người thọ học và ngoại đạo xả học xứ; ba là Bí-sô không ái trọng học xứ; bốn là trừ ba trường hợp trên.
Học xứ suy kém, không nói ra cũng có bốn câu: một là xả học xứ nhưng không phải học xứ suy kém; hai là muốn xả học xứ nhưng khi đối xả chỉ nói là học xứ khó hành trì mà không nói là xả học xứ; ba là hai trường hợp trên cùng làm; bốn là cả hai trường hợp trên đều không làm.
Bí-sô muốn xả học xứ nên đối trước người có trí nói rằng: "Cụ thọ nhớ nghĩ, tôi là Bí-sô __________ nay xả học xứ", đây gọi là xả học xứ. Hoặc nói: "Tôi xả Phật đà, Đạt ma, Tăng già", hoặc nói: "Tôi xả Tố đát la, Tỳ-nại-da, Ma sất lý ca", hoặc nói: "Tôi xả Ô ba đa da, A giá lợi gia", hoặc nói: "biết Tôi là người tục, biết Tôi là Cầu tịch, là Phiến tra bán trạch ca, làm ô nhục Bí-sô ni, giết cha, hại mẹ, giết A-la-hán, phá hòa hợp tăng, tâm ác làm Phật bị thương chảy máu, là ngoại đạo, là người hướng về ngoại đạo, là tặc trụ, là người biệt trụ, bất cọng trụ", cho đến nói: "Tôi với người đồng pháp, đồng phạm hạnh như các vị không phải là bạn bè". Đây đều gọi là xả học xứ.
Làm hạnh bất tịnh, hai thân giao hội: có Bí-sô xả học xứ, học xứ suy kém nhưng không làm hạnh bất tịnh, hai thân giao hội, cũng có bốn câu:
1. Là đối với hạnh khất thực, ăn thức ăn thô, hạnh thu nhiếp do không kham nổi nên xả học xứ, nhưng có thọ trì học xứ không làm hạnh bật tịnh.
2. Là không xả học xứ vì tâm không sợ hại, trộm cắp nhưng làm hạnh bất tịnh.
Là làm hạnh bất tịnh và khéo xả học xứ.
Là Bí-sô được lạc trụ.
Cho đến cùng với loài bàng sanh: tức là cùng khỉ vượn... Ba la thị ca: nghĩa là cực xấu xa, lại có nghĩa là tha thắng, tức là vừa phạm tội này liền bị bậc tịnh hạnh khác vượt lên, lại bị các phiền não chiết phục lấn lướt. Người xuất gia thọ Cận viên đáng lẽ phải đoạn trừ phiền não, nay do phá giới nên trở lại bị phiền não chiết phục.
Không được ở chung: người phạm tội này đối với pháp và thực vĩnh viễn không có phần, ví như thây chết nên gọi là không được ở chung. Bí-sô phạm Ba la thị ca nhưng không phải là Bất cọng trụ cũng có bốn câu:
Là người được quả Bất hoàn đã hàng phục được phiền não đã có, được thắng.
Là người bị Tăng cho yết ma xả trí trị phạt.
Là hạng người xấu ác phạm pháp đọa lạc.
Là trụ bổn Bí-sô.
Lại có Bí-sô: người làm đầu tiên không phạm, người làm kế sau đó mới phạm nên nói là lại có Bí-sô. Nếu người khi thọ Cận viên không có các chướng pháp, Tăng và giới cho đến tác yết ma không có lỗi thì được gọi là thiện thọ Cận viên, là chân thật Bí-sô. Có trường hợp Bí-sô làm hạnh bất tịnh nhưng không phạm Ba la thị ca hay không?: có thuyết cho là người trước khi xuất gia. Nói lại có Bí-sô tức là không phải Bí-sô ni, nếu Bí-sô ni chuyển căn thì liền thành Bí-sô. Nói học là chỉ cho ba môn học tăng thượng Giới tâm và huệ, trong đây là chỉ cho Giới học. Nói không xả học xứ tức là do có bốn duyên mới thành xả: nói xả, hai hình sanh, mạng chung và đoạn thiện căn. Nếu trước xả sau thọ lại thì cũng gọi là đồng được, phân biệt khác với người phạm. Nói học xứ suy kém, không tự nói ra là đối với học xứ không có sức hộ trì nên gọi là suy kém, trong lòng buồn phiền không nói nên gọi là không tự nói ra. Nếu hạnh thanh tịnh mới có thể chứng hội Niết-bàn, làm hạnh bất tịnh tức là làm trái ngược điều trên. Nói hai thân giao hội tức là hai căn giao hội, có thuyết nói ngoài hai căn, nơi thân phần khác gọi là hai thân giao hội. Nói Bí-sô này là chỉ cho người phạm tội. Nói phạm Ba la thị ca là người phạm tội này bị quân phi pháp hàng phục, thua trận mất chỗ tôn quý của mình, không còn là Sa môn, là Thích ca tử nữa. Tướng phạm trong giới này: nếu Bí-sô ở nơi ba đường hành dâm là miệng và đường đại tiểu tiện, tùy lúc vào nếu là đường đại tiểu tiện, vào qua màng da đỏ; nếu là miệng, vào qua răng mà khởi thọ lạc liền phạm bổn tội. Đối tượng là người, hai hình hay bán trạch ca, chết hay sống, ngủ hay thức hoặc nhập định, cuồng si... nếu Bí-sô nơi ba chỗ là chỗ đại tiểu tiện và miệng hành dâm, vừa vào ba chỗ này cùng giao hội liền phạm Ba la thị ca. Nếu Bí-sô cùng ba hạng người làm hạnh bất tịnh phạm Ba la thị ca, đó là nam, nữ và bán trạch ca. Bí-sô nơi ba chỗ hành dâm chưa hư hoại của người nữ còn sống để làm việc dâm dục, có y phục hành dâm với người có y phục hay không có y phục, hoặc không có y phục hành dâm với người không có y phục, vừa vào ba chỗ hành dâm này cùng giao hội liền phạm Ba la thị ca. Bí-sô nơi ba chỗ tổn hoại của người nữ còn sống làm việc dâm dục, có y phục hay không có y phục như trên, vừa vào ba chỗ hành dâm này liền phạm Tốt-thổ-la để. Bí-sô nơi ba chỗ không hư hoại của người nữ đã chết làm việc dâm dục, có y phục hay không có y phục như trên, vừa vào ba chỗ hành dâm này liền phạm Ba la thị ca; nếu nơi ba chỗ tổn hoại của người nữ đã chết làm việc dâm có y phục hay không có y phục như trên, vừa vào ba chỗ hành dâm này liền phạm Tốt-thổ-la để. Đối với phi nhơn nữ hay bàng sanh cái sống hay chết, ba chỗ tổn hoại hay không tổn hoại, có cách hay không cách, phạm tội nặng nhẹ như trên có thể biết. Nếu Bí-sô hay Bí-sô ni đang ngủ hoặc bị kẻ khác dụ uống rượu say rồi cưỡng bức hành dâm, trong ba thời: lúc đầu biết, giữa và sau không biết thì không phạm, nhưng người hành dâm phạm tội căn bản; nếu ban đầu và giữa biết, sau lại không biết cũng không phạm, nhưng người hành dâm phạm tội căn bản; nếu cả ba thời đều biết mà tâm không thọ lạc cũng không phạm, nhưng người hành dâm phạm tội căn bản; nếu cả ba thời tâm đều biết với tâm thọ lạc thì cả hai đều phạm tội căn bản. Nếu Bí-sô dùng chú thuật chuyển biến tự thân thành thân bàng sanh hoặc biến thân người khác để cùng hành dâm, nếu tưởng là Bí-sô thì phạm Ba la thị ca, nếu không tưởng thì phạm tội thô. Đối tượng là người bị chém ngang lưng hay chặt đầu nếu hành dâm nơi hai đường đều phạm trọng, nếu nơi miệng thì phạm tội thô, nơi thân phần khác cũng tội thô. Nếu thân bị cắt đứt nối cho hợp dính lại mà thấy rõ đường nối thì phạm tội thô, nếu không thấy thì phạm trọng. Nếu khi cùng làm việc phi pháp mà có tâm sợ hãi hay hổ thẹn thì chỉ phạm tội thô không phạm bổn tội, vì nếu có tâm sợ hãi hay hổ thẹn thì tâm nhiễm không sanh. Nếu ở trong phòng hay ở ngoài thôn, khi ngủ bị người đến cưỡng bức hành dâm, tâm không thọ lạc thì không phạm; vì vậy Bí-sô khi ngủ nên đóng cửa hoặc nhờ Bí-sô khác canh chừng. Như nơi A-lan-nhã có Bí-sô đã đắc định, người nữ kiếm củi nhìn thấy nam căn nơi thân Bí-sô sanh khởi nên dục sanh liền cùng Bí-sô hành dục, do Bí-sô không có tâm nhiễm nên không phạm; vì vậy Bí-sô nơi A-lan-nhã nên dùng tre làm hàng rào bao quanh chỗ ở của mình. Người không ly dục có năm nhân duyên khiến sanh chi sanh khởi: một và hai là bị đại tiểu tiện bức bách, ba là gió làm lay động, bốn là dùng tay gãi nơi trùng cắn, năm là do tâm nhiễm; nếu người đã lìa dục thì chỉ có bốn nhân duyên trên. Nếu Bí-sô bị thiên nữ âm nhạc bắt đưa lên cung điện của mình để cưỡng bức hành dâm, Bí-sô do mất bản tâm nên không phạm; vì thế Bí-sô không nên dừng ở nhưng nơi có nạn khủng bố như thế. Nếu đúng là đường hành dâm, tưởng là đường hành dâm và nghi mà vào quá phần hạn đã chế thì phạm Ba la thị ca; nếu tưởng không phải và nghi thì chỉ phạm Tốt-thổ-la để; nếu khởi tâm dục muốn làm hạnh bất tịnh thì chỉ phạm tội trách tâm Ác tác; nếu khởi phương tiện sửa soạn đi đến, cho đến khi hai thân chưa xúc chạm thì phạm đối thuyết Ác tác; sắp làm phi pháp cho đến khi chưa vào quá phần hạn đã chế thì phạm Tốt-thổ-la để; vào quá phần hạn đã chế thì phạm bổn tội. Nếu xúc chạm tóc cho đến các thân phần khác của người nữ mà không có tâm thọ lạc thì phạm Tốt-thổ-la để; nếu có tâm thọ lạc thì phạm tội Chúng giáo. Nếu Bí-sô dùng minh chú cùng các tạp dược hoặc dùng huyễn thuật tạo ra các hình tượng để hành dâm thì phạm Tốt-thổla để. Nếu Bí-sô phạm tội trọng này, không có hai tâm ác là không sợ hãi và tặc tâm, chỉ vì bị phiền não bức bách nên làm việc phi pháp thì đến Bí-sô khác phát lồ, Tăng nên bạch tứ yết ma cho thọ học; người thọ học hành pháp này cũng giống như người hành biệt trụ, chỉ khác là cho đến khi nào còn sống thì phải trao thức ăn cho người, cũng được thọ thức ăn để ăn, khi nào chứng được quả A-la-hán thì đồng như thiện Bí-sô, ngồi vào chỗ ngồi trước đây. Có thuyết nói phải sáu tháng hầu cận các Thượng tòa trong Tăng, coi giữ y bát và làm các sự nghiệp như pháp đã có trong Tăng, nếu có thể làm Tăng vừa ý và tự điều phục theo hướng thiện, lúc đó Tăng sẽ cho ngừng hành pháp trị phạt, đây gọi là từ tội mà đứng dậy.
Các học xứ sau giải thích cũng giống như giới này nên không giải thích lại nữa, những người phạm đầu tiên tuy không phạm bổn tội nhưng có tội Đột sắc ngật lý ca trách tâm. Không phạm là người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại... Học xứ này đủ tám duyên mới thành phạm: một là đại Bí-sô, hai là cảnh có thể hành dâm, ba là chỗ hành dâm không hư hoại, bốn là căn môn của tự thân nguyên vẹn, năm là khởi phương tiện, sáu là vào quá phần hạn đã chế, bảy là có tâm thọ lạc, tám là có đủ hai tâm không sợ hãi và tặc tâm. Đủ tám duyên này thì phạm Ba la thị ca không thể cứu, vì có thể hại phẩm thiện khiến tiêu diệt và sanh khởi tội trong ba đường. Nếu với tặc tâm cố ý phạm tội này thì không thể cứu, ngược với trên thì có thể cứu bằng cách cho thọ học, trọn đời mới được xuất tội. Nếu phạm tội phương tiện trọng Tốt-thổ-la để thì phải đối trong Tăng sám trừ, nếu là khinh Tốtthổ-la để thì nên đối trước bốn người ở ngoài giới sám. Ba tội Tha thắng sau cũng giống như đây nên biết.
Phật tại thành Vương xá, do Bí-sô Đạt ni ca trộm cây gỗ tốt của vua A xà thế, bị bắt giữ và bị vua mắng là đáng tội chết nên các Bí-sô bạch Phật, Phật bảo A-nan đi hỏi pháp quan để biết theo vương pháp phạm tội trộm tới mức độ nào mới xử tội chết, pháp quan nói là trộm vật trị giá năm Ma sái trở lên sẽ xử tội chết. Phật nhân việc này dựa theo vương pháp chế Bí-sô nếu trộm đủ năm Ma sái thì bị tẫn và chế học xứ như sau:
Nếu lại có Bí-sô ở trong tụ lạc hay ở chỗ nhàn tỉnh vắng lặng, lấy vật mà người khác không cho với tâm trộm cắp, khi lấy như vậy nếu vua hay đại thần bắt hoặc giết hoặc trói hoặc đuổi ra khỏi nước, mắng rằng: này sa môn, thầy chính là giặc, ngu si không biết chi nên mới lấy cắp như vậy. Khi lấy cắp như thế thì Bí-sô này phạm Ba la thị ca không cùng ở chung.
Ở trong tụ lạc là bên trong tường rào, chỗ nhàn tĩnh vắng vẻ là bên ngoài tường rào; nói người khác không cho là chỉ cho nam nữ, bán trạch ca... không quen biết, không tin tưởng nhau, không tự tay đưa vật cho. Tâm trộm cắp là ý nói biết vật của người khác mà khởi tâm trộm lấy, nghĩ là không trả lại. Lấy là tự lấy hay bảo người lấy và tưởng thuộc về mình. Năm Ma sái là chế hạn để kết tội trọng, theo vương pháp thời ấy thì một Ca lợi sa ba noa có 20 Ma sái. Vua là người đứng đầu một nước, đại thần là phụ tướng của vua, giúp vua lo việc nước. Bắt là bắt giữ, giết là xử tội chết, trói là bị gông cùm xiềng xích, đuổi là đuổi ra khỏi nước. Các trường hợp trên là vua và đại thần bất tín, nếu vua quan có tín tâm thì chỉ quở mắng và tỏ thái độ khinh thường. Mắng là giặc là tổng nêu; mắng là ngu si là biệt nêu vì do ngu si mới làm việc trộm cắp, không sợ hiện pháp cũng không sợ quả báo đời sau. Tướng phạm trong giới này: nếu Bí-sô tự làm hay bảo người làm, có tâm trộm cắp và khởi phương tiện, biết là vật của người khác và vật tính đủ năm Ma sái, khi nhấc rời khỏi chỗ cũ tưởng thuộc về mình liền phạm bổn tội. Nếu vừa móng tâm thì phạm tội Ác tác trách tâm; Bí-sô có tâm lấy cắp khởi phương tiện cho đến chưa chạm đồ vật thì phạm đối thuyết Ác tác; nếu đã xúc chạm nhưng chưa nhấc rời khỏi chỗ thì phạm Tốt-thổ-la để, nếu đã nhấc rời khỏi chỗ tính theo thời giá định tội như trên. Nếu làm một phương tiện lấy đủ năm Ma sái thì phạm bổn tội, nếu làm nhiều phương tiện nhiều lần mới lấy đủ thì mỗi lần lấy là mỗi phạm Tốt-thổ-la để, lần cuối tuy tính đủ năm Ma sái nhưng không thành bổn tội.
Chỗ để vật hoặc trên đất, hoặc trong rương tráp, tủ, hoặc trên tường, trên giá, trên cọc ngà voi, trên giường tòa, hoặc sau cánh cửa... Nếu trên mặt đất bằng phẳng trơn tru thì gọi là một chỗ, nếu gồ ghề hay có sụp lở, đắp vá hoặc có ghi chữ hay tô vẽ thì gọi là khác chỗ. Nếu trên bàn hay mâm bằng phẳng thì gọi là một chỗ, nếu có bể móp hay tô vẽ thì gọi là khác chỗ. Nếu trên chiếu thảm đồng một màu sắc thì gọi là một chỗ, nếu nhiều màu sắc khác nhau thì gọi là khác chỗ; nếu ở trong hang, hầm ngang bằng với cửa một màu sắc thì gọi là một chỗ, nếu không ngang bằng và chất cao thấp không bằng hoặc có vách ngăn thì gọi là khác chỗ. Nếu trên yên ngựa dùng tấm trải một màu sắc thì gọi là một chỗ, nếu là tạp sắc thì gọi là khác chỗ; trên thớt voi, trên xe cũng vậy; nếu thân voi mập mạp da thịt tròn đầy thì gọi là một chỗ, nếu ốm gầy thấy xương sườn xương sống... thì tùy mỗi chỗ gọi là khác chỗ.
Nếu Bí-sô thấy thuyền đã cột neo, khởi tâm lấy cắp đi đến làm thuyền dao động thì phạm Ác tác; nếu mở dây neo làm cho thuyền trôi theo dòng nước, mắt vẫn còn trông thấy thuyền thì phạm Tốtthổ-la để, khi thuyền khuất khỏi tầm mắt thấy liền phạm bổn tội; nếu chèo thuyền đi ngược dòng nước ở trong phạm vi tương tợ bề rộng của con sông thì phạm tội Căn bản.
Nếu đệ tử giữ y cho hai thầy, khởi tâm trộm cắp mang từ phòng ra đến ngoài hiên hoặc từ hiên ra đến cửa chùa, ra khỏi chùa; hoặc mang từ chỗ cao xuống chỗ thấp hoặc từ chỗ thấp lên chỗ cao..., hoặc đi phía sau thì bước chầm chậm, hoặc đi phía rước thì rảo bước nhanh, khi đi đến chỗ mắt không nhìn thấy thì đều phạm bổn tội.
Nếu có tâm trộm cắp kinh sách cho đến cây thuốc, cây hoa... đều tính giá của vật mà kết phạm; nếu trộm xá lợi Phật có người coi giữ, ý muốn cúng dường thì phạm tội Ác tác, nếu muốn mua bán để cầu tài lợi thì phạm bổn tội. Trong miếu thờ trời, trong tháp Phật lấy trộm các vật thờ cúng mà có người coi giữ, tính giá đủ thì phạm bổn tội; nếu phi nhân coi giữ thì phạm tội thô. Nếu trộm cắp vật của bàng sanh tính giá đủ thì phạm Thô tội, không đủ thì Ác tác; nếu là vật của người bị bàng sanh trộm lấy, Bí-sô tưởng của người mà trộm lấy vật ấy tính giá đủ cũng phạm bổn tội, nếu tưởng của bàng sanh thì phạm Thô tội.
Nếu Bí-sô trộm cắp các loài vật không chân, hai chân, bốn chân hoặc nhiều chân, tính giá đủ thì phạm bổn tội như trên. Loài không chân như rắn... do người nuôi dưỡng để cầu lợi. Loài hai chân như chim hay người, nếu bắt cóc người thì khi đến chỗ hẹn liền phạm bổn tội; nếu bắt chim thì có hai trường hợp: nếu tự tay bắt rời khỏi chỗ nó đang ở liền phạm, hoặc chim đang bay đuổi bắt, khi nó rơi xuống bắt được liền phạm. Nếu đệ tử hay môn nhân bị giặc bắt cóc, đã thuộc về họ hay chưa thuộc về họ, đoạt lại từ giặc, phạm hay không phạm như trong luật đã nói; nếu tự thân trốn thoát thì không phạm. Loài bốn chân như voi, ngựa, trâu, dê... trộm lấy từ trong bấy, đàn hoặc trộm từ chỗ nó bị cột giữ, khi đi đến chỗ không nhìn thấy được liền phạm bổn tội. Loài nhiều chân như rít, bò cạp, ong... do ba hạng người nuôi dưỡng là quan cai ngục, đại thần và các thương nhân, trộm lấy tính giá đủ thì phạm bổn tội như trên.
Nếu trộm phục tàng có chủ muốn dùng chú lực để mang đi, khi chưa thấy dược phục tàng thì phạm Thô tội, khi đã thấy liền phạm bổn tội; nếu trộm phục tàng không chủ muốn dùng chú lực mang đi, khi chưa thấy phục tàng thì phạm tội Ác tác, khi đã thấy liền phạm Thô tội.
Nếu trời nắng hạn, khơi cho nước chảy vào ruộng của mình, ý muốn cho ruộng mình được tốt còn ruộng người không được tốt. Kết quả ruộng mình tốt, ruộng người bị thiệt hại, tùy thiệt hại bao nhiêu tính theo thời giá định tội. Hoặc lúc mưa to ngập lụt, khơi cho nước chảy vào ruộng của người, tùy ruộng người bị thiệt hại bao nhiêu, tính theo thời giá mà định tội như trên. Những nơi nước khan hiếm, nếu trộm nước của người cũng tính theo giá mà định tội, nếu trộm của phi nhân thì phạm Thô tội.
Nếu Bí-sô thấy thợ săn bủa lưới giăng bắt chúng sanh hoặc trâu, bò, ngựa bị cột; khởi tâm trộm lấy đến mở dây dẫn nó đi thì tính giá định tội như trên, nếu khởi tâm từ bi mà thả thì chỉ phạm Ác tác. Nếu Bí-sô lúc trộm nghĩ rằng: "lấy được vật rồi liền hủy hoại khiến cho kẻ kia mất tài vật, chứ không lấy làm của riêng mình", thì phạm Tốtthổ-la để. Thợ săn đuổi theo Nai chạy vào chùa, tùy bị thương hay không bị thương, Bí-sô không trả lại cho thợ săn thì không phạm; nếu nai bị bắn tên chạy vào chùa rồi chết thì Bí-sô nên trả lại cho thợ săn, không nên làm trở ngại.
Nếu ruộng đất, vườn, quán xá của người khác, cho là của Tăng già nên nói lời phi lý để giành lấy, khi đưa tới quan xử, quan xử cho Bí-sô thắng, nếu tâm của người kia chưa xả thì Bí-sô phạm Thô tội, khi tâm người kia xả thì Bí-sô phạm bổn tội; nếu quan xử không cho Bí-sô thắng thì Bí-sô cũng phạm Thô tội. Nếu là vua xử, vua xử cho Bí-sô thắng thì Bí-sô phạm trọng, do trong việc xử đoán, vua là trên hết; nếu quan khác xử đoán thì đợi khi tâm người kia xả, tội của Bí-sô mới thành trọng. Nếu Bí-sô dùng hàng rào rào quanh, khi chưa rào giáp khắp thì phạm Tốt-thổ-la để, khi rào giáp khắp thì tính giá định tội.
Nếu Bí-sô đồng tâm với giặc chỉ chỗ cho đi cướp, sau đó được chia phần, tùy được bao nhiêu mà kết tội; nếu sau khi chỉ chỗ cho giặc đi cướp rồi hối hận, Bí-sô đến chỗ đó bảo họ đề phòng giặc cướp chớ để bị cướp; hoặc sau khi kết bạn với giặc, hối hận không đi theo, dù chỉ có giặc đi cướp, Bí-sô cũng phạm tội phương tiện, sau đó tuy không nhận phần cũng phạm Thô tội. Nếu cùng đi với giặc muốn làm việc trộm cướp, giữa đường hối quay trở lại thì phạm tội Ác tác; nếu đồng tâm với giặc làm người canh chừng, khi chia vật tùy nhận mà kết phạm; nếu vì sợ giặc nên đi theo nhưng không có tâm trộm cướp, giặc tuy trộm được nhưng Bí-sô không phạm. Nếu không làm khế ước, hễ được liền thuộc về mình, do có hạn cuộc nên khi được liền phạm; nếu khác với đây thì tùy được chia bao nhiêu mà định tội.
Nếu Bí-sô mang vật của mình hay vật của người khác mà nói là muốn trốn thuế thì phạm tội Việt pháp, nếu chỉ cho người trốn thuế đi đường khác thì phạm tội Ác tác. Nếu khởi tặc tâm chỉ cho người trốn thuế đi đường khác, khỏi phải đóng thuế thì phạm Thô tội. Mang vật của người khác qua chỗ thu thế mà không có tâm lấy phần thì phạm Thô tội; nếu chưa qua chỗ thu thuế mà nhận lấy nửa phần hay toàn phần đều phạm Thô tội; nếu đã qua chỗ thu thuế tính giá đủ số thì phạm bổn tội. Nếu mang vật của mình đến chỗ thu thuế rồi nhờ người khác mang qua, tính giá đủ số cũng phạm bổn tội. Nếu là tài vật của mình, quyết tâm hồi chuyển cho cha mẹ anh em nên nói với người thu thuế là không phải vật của tôi; hoặc đi trên hư không, hoặc ngậm trong miệng, hoặc giấu trong áo, hoặc đi tránh đường khác thì đều phạm Thô tội. Nếu đã trộm được vật, rẻ hay đắc chưa biết được giá, khi biết được giá, nếu rẻ thì phạm Thô tội, nếu đắc thì phạm bổn tội.
Nếu thương nhân nhét vật phải đóng thuế vào trong đãy y của Bí-sô mà Bí-sô không hay biết, khi mang qua khỏi chỗ thu thuế thì không phạm. Cho nên các Bí-sô khi đi đường, những y vật đã có nên cử người coi giữ, những người đi khất thực được trở về nên chia phần cho người coi giữ này. Nếu không cho các thương nhân để vật phải đóng thuế vào trong đãy y mà họ vẫn gượng nhét vào, nếu không có tịnh nhân thì Bí-sô nên tự lấy vật đó bỏ ra rồi nói với họ: "vật của các ông hãy tự lấy lại". Nếu Bí-sô một mình tháp tùng những người đồng hành để đi xa, khi cần đi khất thực nên làm dấu trên y vật của mình rồi mới đi, khi trở về nên xem kỹ lại. Nếu vì công việc của Tam bảo hay của cha mẹ phải mang các vật đóng thuế qua chỗ thu thuế, Bí-sô nên nói pháp cho vị quan thu thuế hoặc tán thán Tam bảo hoặc nói công ơn của cha mẹ..., nếu họ nghe rồi không thu thuế thì không phạm, nếu họ vẫn bảo đóng thuế thì nên đóng thuế. Khi mang tài vật của Tam bảo qua chỗ thu thuế nên lấy một phần để đóng thuế, sau đó chia đều, chớ nên thiên vị chia nhiều ít. Nếu đi với bạn nên hỏi bạn rồi mới mang vật qua giùm, không nên mang vật phải đóng thuế qua chỗ thu thuế. Nếu vật là vải mới nên nhuộm cho hoại sắc rồi mang đi không phạm, nếu là y đổi thuốc thì không nên nhuộm, vì để đổi thuốc trị bịnh nên mang qua không phạm. Khi nhờ người nhuộm y nên hỏi người ấy đã từng nhuộm y chưa, nếu không hỏi thì phạm tội Ác tác. Nếu Bí-sô không chịu mang vật giúp cho người trốn thuế, lại đưa vật đó cho quan thu thuế thì phạm tội Ác tác.
Nếu người chồng không có nói cho mà Bí-sô dối nói với người vợ để được vật thì tùy được vật mà định tội nặng hay nhẹ. Nếu nhiều người cùng trộm một y, tùy khi nhận phần mà định tội; nếu ban đầu trộm lấy đãy y định lựa lấy y, khi dời đãy y thì phạm Thô tội, khi lựa lấy được y liền phạm bổn tội. Nếu y vật của người khác treo trên cọc ngà voi hay trên sào tre, Bí-sô trộm lấy cả cọc hay sào mang đi thì phạm Thô tội, khi lấy y rời khỏi cọc hay sào thì tùy việc kết phạm. Nếu sai Bí-sô này đến lấy y, Bí-sô này khởi tặc tâm trộm lấy, khi lấy được tùy việc kết phạm. Nếu Bí-sô không được sai bảo, vì người ấy mà đi trộm vật, khi lấy được thì phạm Thô tội.
Bảo người khác đi lấy trộm có bốn câu:
Là người đã thọ Cận viên bảo người khác không phải là cận viên đi lấy trộm, được vật thì phạm Thô tội.
Là người không phải cận viên bảo người đã thọ Cận viên đi lấy trộm, được vật cũng phạm Thô tội.
Là người đã thọ Cận viên bảo người đã thọ Cận viên đi lấy trộm, được vật thì phạm bổn tội.
Là người không phải cận viên bảo người không phải cận viên đi lấy trộm, được vật thì phạm tội Ác tác.
Trường hợp người đang thọ cận viên cũng có bốn câu như trên, hai trường hợp có bốn câu này thông các học xứ, tùy việc nên suy xét. Trộm cắp có năm cách: một là đối mặt cưỡng đoạt lấy, hai là lén trộm lấy, ba là giỡn lấy, bốn là nhận của người khác gởi rồi lấy luôn, năm là cho rồi đoạt lấy lại. Năm cách lấy trên nếu dựa theo pháp luật để lấy thì không phạm, nếu là tặc tâm lấy thì phạm. Nếu lấy trộm trái trên cây của người, dùng cây đập cho trái rụng xuống để lấy, nếu đập một lần mà tính giá đủ số thì phạm bổn tội, nếu tính giá không đủ số thì tùy số lần đập mà kết Thô tội.
Nếu Bí-sô ở nơi hai châu Đông và Tây thì căn cứ theo tiền tệ lưu hành của nơi ấy mà định tội nặng hay nhẹ, riêng ở Bắc Câu lô châu do không có tưởng sở hữu cũng không có việc không cho mà lấy nên không có tội trộm cắp. Nếu có phương xứ lấy sắt... làm tiền tệ, Bí-sô trộm vật bằng sắt tính giá mà định tội. Nếu Bí-sô trộm bối xỉ nhiều lần tính đến vạn ức, nhưng mỗi lần lấy trộm chỉ lấy có bốn Ma sái thì không phạm bổn tội mà phạm nhiều tội Tốt-thổ-la để.
Nếu tưởng vật của người khác nên khởi phương tiện lấy trộm, sau đó mới biết là vật của mình thì phạm Thô tội; nếu là đống lúa lớn, phá ra để trộm lấy mang đi, nếu một lần lấy tính giá đủ số thì phạm bổn tội, ngoài ra giống như trên.
Nếu trộm lấy vật báu rồi đem chôn giấu, ý muốn làm cho hoại thì phạm Thô tội; nếu thí chủ đem vật đến cúng, biết không phải phần mình mà nói là mình có phần thì phạm Thô tội, khi nhận phần tính theo giá mà định tội. Nếu người khác không thọ thỉnh thực mà đến thọ thực thì Bí-sô phạm tội Ác tác, nếu bổn sư có việc đi đến nơi khác, thọ lợi dưỡng giùm thầy thì không phạm, nhưng khi lấy phần nên nói cho mọi người biết, nếu không nói mà lấy phần của người khác thì phạm. Nếu người khác nhờ mang y vật đến cho người bịnh, nếu nghe tin người bịnh qua đời thì nên đem y vật đó trả lại cho chủ; nếu khi mang đến, người bịnh còn sống, sau đó mới qua đời thì y vật này thành vật của người chết để lại. Nếu người giữ kho khởi tặc tâm trộm lấy vật đem cúng cho Bí-sô, Bí-sô cho là vật thí, nhận thì không phạm. Nếu giặc trộm cướp vật của người khác vì sợ bị bắt nên đem cúng cho Bí-sô, Bí-sô biết thì không nên nhận, nếu khởi tâm nhận rồi sau đó trả lại cho chủ mà nhận thì không phạm; nếu chúa giặc cúng, Bí-sô nên nhận, nhận rồi nên cắt nhuộm làm cho hoại sắc rồi cất giữ, nếu người chủ của vật đến đòi thì nên trả lại. Nếu khởi phương tiện muốn trộm tài vật của người khác, sau khi xúc chạm rồi mới theo chủ của vật xin, nếu người chủ cho thì Bí-sô mắc tội Thô trước. Nếu ban đầu vay mượn, sau đó không muốn trả lại, khi quyết định không trả lại thì phạm bổn tội. Nếu vật của người khác gởi, khởi tâm lấy nên đem dời để chỗ khác thì phạm Thô tội và cả bổn tội; nếu dời di rồi mới quyết tâm lấy, không trả lại cho chủ thì phạm bổn tội. Ý muốn lấy vật này nhưng lấy nhầm vật kia, do trái với bổn tâm nên chỉ phạm Thô tội, nếu ban đầu trộm đãy y xấu, không ngờ bên trong có y quý giá, khi xem thấy thì tính giá mà kết tội.
Nếu là vật của chùa này, Bí-sô có tâm trộm lấy dời đến trong chùa khác thì phạm tội Ác tác. Nếu chuột tha vật của mình, khi thấy được lấy lại, nếu nó đã tha về hang là vật của nó thì không nên lấy lại; nếu chuột tha vật tới cho thì chuột là thí chủ, tưởng vật của nó nên nhận. Nếu Bí-sô bịnh nhờ người khán bịnh đem vật cúng dường Tăng già để cầu phước lợi, người khán bịnh không làm theo lời người bịnh mà tùy ý xử phân thì phạm Tốt-thổ-la để. Vật của Bí-sô chết để lại, đệ tử Phật đều được chia nhưng nếu chúng tăng đã tác pháp rồi mà trộm lấy thì tính giá đủ số liền phạm trọng. Người trông coi việc xây cất nếu vì chúng tăng vay mượn, chẳng may qua đời thì nên lấy vật của chúng tăng trả cho chủ nợ; khi vay mượn, vị thọ sự này nên báo cho vị trưởng lão trong Tăng biết và làm giấy tờ rõ ràng để theo đó mà trả cho chủ nợ.
Khi bị giặc cướp vật, nếu Bí-sô khởi tâm xả, sau đó đoạt lấy lại thì tính giá đủ số kết trọng; vì khi khởi tâm xả thì vật bị cướp đã thuộc về người kia, Bí-sô không được đoạt lại. Cho nên khi bị giặc cướp, Bí-sô không nên vội vàng khởi tâm xả, nếu sau đó thấy thì được lấy lại không phạm. Nếu thấy giặc đến cướp, Bí-sô nên hiện tướng sân để giặc bỏ đi, nếu bắt được giặc không nên giao cho quan liền, nên nói pháp để họ trả lại vật đã cướp; nếu họ không chịu trả lại thì nên đưa cho họ nửa giá cho đến đủ giá để chuộc lại, vì y bát đã thành rốt cuộc rất khó được.
Nếu Bí-sô thấy tử thi chưa hoại mà tự làm cho hoại hay bảo người làm cho hoại để lấy y phấn tảo của tử thi thì phạm tội Ác tác; khi nào tử thi bị trùng kiến làm cho hoại thì mới được lấy y phấn tảo này. Nếu ở trong rừng thây chết có người coi giữ thì không nên lấy y phấn tảo của người chết, nếu lấy thì phạm Thô tội.
Nếu giặc đánh cướp tài vật, không thể mang đi hết thì Bí-sô không nên lấy những vật giặc đã bỏ lại, nếu có người nói tùy ý lấy thì lấy không phạm.
Nếu giặc trộm lấy thức ăn như mía... của người rồi bỏ lại, Bí-sô đối trước đông người mới được lượm lấy. Nếu lượm được y phấn tảo dơ uế bất tịnh thì không nên cất giữ, nên giặt sạch nhuộm rồi mới cất dùng; nếu là y phấn tảo của tử thi nên giặt nhuộm phơi trên sào chừng bảy tám ngày mới được cất dùng. Nếu là vải liệm phủ người chết, người thân mang đến chùa cúng, sau đó đến xin lại thì nên đưa lại cho họ, không đưa lại thì phạm tội; sau đó họ lại mang đến trả cho chùa, Bí-sô cũng nên nhận, không nên không nhận.
Có Bí-sô khách đến ở trong phòng, chủ nên hỏi để biết nếu có người khác đến lấy y vật thì có cho lấy không, nếu đáp là cho lấy thì bị mất vật không phải đền; nếu khách nói chớ cho lấy mà chủ lại để cho lấy thì vật bị mất phải đền lại cho khách. Lại nữa Bí-sô khách vốn không quen biết thì khi mới đến, chủ chỉ nên thăm hỏi có khỏe không, không nên chỉ chỗ cho nghỉ ngơi liền; nếu khách ở lại, những vật cần dùng như nước tắm, xà bông, cây đánh răng... đã có nên hỏi chủ rồi mới được lấy dùng, không hỏi mà lấy dùng thì mắc tội. Nếu là khách đã quen biết, chủ nên chỉ chỗ cho nghỉ ngơi, những vật cần dùng như nước tắm, xà bông... được tùy ý lấy dùng, không cần hỏi chủ.
Nếu ở trên thuyền nơi bến sông, trao và nhận vật nên cẩn thận, người trao vật không nên vội buông tay khiến cho vật tổn thất, nếu vật bị tổn thất thì phải tính giá đền lại; khác với trên thì không phạm.
Hễ là Bí-sô thọ sự thì khi đóng cửa chùa có năm việc sai khác: trên dưới chuyền gọi nhau khóa cửa, khóa cửa trong cửa ngoài và cài then. Nếu không làm như thế, kẻ trộm lẻn vào lấy hết tài vật thì tùy việc phải tính giá đền lại; nếu làm thiếu một việc thì đền một phần, nếu cả năm việc không làm thì phải đền lại hoàn toàn.
Nếu bản tâm của thí chủ lập chùa và cúng dường vật cần dùng cho người ở trong chùa này, nếu Bí-sô lấy thức ăn đem cho người khác thì tính giá đền trả lại. Nếu Bí-sô nhặt được của rơi nên để ở chỗ hiển lộ, nếu có người đến nhận thì nên đưa lại cho họ. Nếu đi tìm thuốc cho người bịnh, nên hỏi người bịnh là tìm ở đâu rồi theo lời của người bịnh mà tìm.
Bí-sô có duyên sự nhờ Bí-sô làm giúp và hứa sẽ cho bát nhỏ, Bí-sô kia theo lời đã hứa nên tự lấy dùng, tưởng là của mình thì không phạm; nhưng các Bí-sô không nên nhận lời làm thuê, nếu thay đổi tác nghiệp hay khởi tâm làm phước thì không phạm.
Lúc đó con trai của trưởng giả Cấp-cô-độc bị giặc bắt cóc, tôn giả Đại Mục-kiền-liên tìm được và mang về cho trưởng giả; tôn giả Tất-lân-già-bà-ta lấy lại cháu ngoại bị giặc bắt và vì thương xót các tịnh nhân giữ chùa nên hiện thần lực và dùng chú thuật để lấy lại thì đều không phạm.
Vật của người khác, tưởng của người khác và nghi mà trộm lấy thì phạm bổn tội; vật không phải của người khác, tưởng của người khác và nghi mà trộm lấy thì phạm Thô tội; vật có chủ, tưởng không chủ hoặc tưởng vật của mình, hoặc lấy tạm dùng, hoặc báo cho người khác biết, hoặc cho là bạn thân nên lấy dùng thì không phạm. Bạn thân có thể nhờ cậy gởi gắm có ba bậc thượng trung và hạ, nên theo thứ lớp ấy mà nhờ cậy, nếu không theo thứ lớp ấy thì phạm tội Việt pháp.
Nếu Bí-sô biết vật của người khác, vật có chủ mà khởi tâm trộm, dùng một phương tiện mà lấy đủ năm Ma sái, dời khỏi chỗ cũ, tưởng là vật của mình thì phạm bổn tội; nếu không đủ thì phạm Thô tội, nếu không có tâm trộm cắp thì không phạm. Lại nữa không phạm là trường hợp người phạm đầu tiên, người người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại...
Phật tại nước Phật lật thị, lúc đó các Bí-sô nghe Phật thuyết pháp quán Bất tịnh, sau khi tu tập pháp quán này liền sanh tâm nhàm lìa thân bất tịnh này và nhờ một Sa môn ngoại đạo là Lộc trượng cầm dao giết mình và cùng nhau tự sát, Phật nhân việc này nên chế học xứ:
Nếu lại có Bí-sô đối với người hoặc thai người, cố ý tự tay mình giết chết, hoặc cầm dao đưa cho người, hoặc tự sát, hoặc tìm người cầm dao, hoặc khuyên chết hoặc khen ngợi chết rằng: này nam tử, mang cái thân tội lụy bất tịnh ác này sống làm chi, thà chết còn hơn sống. Tùy tâm mình mà dùng những lời khuyên, khen khiến cho họ cầu chết thì Bí-sô này phạm Ba la thị ca, không cùng ở chung. Đây là cảnh người và có tâm giết, tưởng là người và dùng phương tiện để giết mà thành phạm. Cảnh trong giới này là người và thai người, nói người là sáu căn đã đủ, nói thai người là nương vào thai mẹ có thân mạng và ý căn nên thuộc đồng phần; nam hay nữ, Bán trách ca dù thể trạng đủ hay không đủ đều thành cảnh giết. Nói cố ý là không phải do nhầm lẫn, phương tiện giết có hai là dùng thân và lời nói; dùng thân là dùng tay chân... để giết, hoặc cầm dao đưa cho người, hoặc tự cầm dao; dùng lời nói là khuyến dụ hay khen ngợi, nếu người kia không muốn chết thì khuyến dụ, nếu người kia muốn chết thì khen ngợi. Nói mang cái thân tội lụy này sống làm chi là khen ngợi chết được phước nhiều, nói thà chết còn hơn sống là khuyến khích nên chết. Nói tùy tâm niệm mình... cho đến người kia nhân đây mà chết là ý nói không do việc gì khác, chỉ do khuyến khích khen ngợi chết nên người kia mới chết thì Bí-sô này phạm Ba la thị ca, nếu người kia không chết thì phạm Tốt-thổ-la để.
Tướng phạm trong giới này: nếu Bí-sô dùng nội thân như tay chân... hoặc dùng vật bên ngoài như gạch đá, dao..., hoặc dùng cả hai như tay cầm dao..., hoặc dùng thuốc độc, đào hầm hố, hoặc dùng rượu cho đến các loại thuốc cho người kia uống sanh tâm loạn, hoặc dùng bùa chú làm cho người kia mê muội, hoặc đặt bẩy rập, hoặc xô người kia từ trên cao nguy hiểm như sườn núi... rơi xuống đất, hoặc vào đêm lạnh buốt bắt người kia ở ngoài đất trống cho chết cóng... nếu nhân đây mà chết thì phạm Ba la thị ca, không chết thì phạm
Tốt-thổ-la để. Nếu Bí-sô sai khiến tử thi đứng dậy đi giết người thì tùy cảnh mà kết tội; nếu tử thi quay trở lại hại Bí-sô thì Bí-sô do làm phương tiện trước nên phạm Tốt-thổ-la để, Bí-sô hại tử thi cho đến thân biến hóa đều phạm Thô tội.
Nếu đối với người mẹ không có tâm giết, nhưng có tâm giết thai nhi nên đạp bụng người mẹ, nếu thai nhi chết thì phạm Ba la thị ca, nếu người mẹ chết thì phạm Thô tội, nếu cả hai cùng chết thì phạm Ba la thị ca, nếu cả hai không chết thì phạm Tốt-thổ-la để. Nếu đối với người mẹ có tâm giết nhưng không có tâm giết thai nhi thì ngược với trên nên biết.
Nếu biết người nữ mang thai là bàng sanh hay phi nhân nên cố ý làm cho sẩy thai thì phạm Thô tội, nếu biết bàng sanh mang thai người hoặc biết người biến hòa làm bàng sanh mà cố ý giết thì phạm bổn tội; nếu biến thân mình thành bàng sanh để giết người khác mà tự biết mình là Bí-sô thì cũng phạm bổn tội. Muốn giết người khác mà giết lầm cha mẹ hay A-la-hán thì phạm Thô tội, vì đối với ba hạng người này không có tâm giết. Nếu không phải là A-la-hán, tưởng là A-la-hán hoặc là A-la-hán tưởng không phải là A-la-hán; cha mẹ cũng vậy. Nếu đối với cha mẹ làm phương tiện giết hại mà cha mẹ tự chết trước thì Bí-sô phạm Thô tội. Nếu người nữ bỏ thai nhi, người nữ khác đem về nuôi lớn, nếu người con này muốn xuất gia thì nên hỏi ý người mẹ sau, nếu giết người mẹ sau thì không phạm tội nghịch.
Nếu là người, tưởng là người và nghi mà giết thì phạm bổn tội; nếu là phi nhân, tưởng là người và nghi mà giết thì phạm Thô tội; nếu là người, tưởng là bàng sanh mà giết thì phạm tội Ác tác, tưởng là phi nhân mà giết cũng Ác tác. Hữu tình bị rượt đuổi, Bí-sô trông thấy có tâm hại nên báo cho mọi người biết, tùy việc thành phạm; nếu đối trước nhiều người, có tâm giết người này mà giết lầm người kia thì phạm Tốt-thổ-la để, nếu là tâm vô ký thì phạm tội Ác tác; nếu khi chơi đùa đánh tát lại khiến người kia chết thì phạm tội Ác tác. Khi chưa thọ Cận viên và khi đã thọ Cận viên, hai trường hợp bốn câu giống như giới trước nên biết. Nếu thấy hữu tình bị nước cuốn trôi hay bị lửa thiêu đốt hoặc bị đói khát bức bách mà không cứu giúp, thấy họ sắp chết tuy có thể cứu giúp mà khởi tâm xả không cứu giúp, tuy không mong họ chết nhưng nếu họ chết cũng phạm tội Ác tác. Nếu thấy người bị giết, chắc chắn sẽ mạng chung mà nghe lời người này ra tay giết để người này được chết mau thì phạm Tốt-thổ-la để; nếu người kia không chắc chắn sẽ chết mà giết để cho chết mau thì phạm bổn tội.
Nếu có nạn gấp xảy đến, bỏ chạy để tránh nạn nên xô đẩy người phía trước, tuy không có tâm hại họ, nhưng nhân xô đẩy mà họ chết thì Bí-sô phạm Thô tội, không chết thì phạm tội Ác tác; nếu có tâm hại họ thì phạm bổn tội. Nếu kính pháp mà xuất gia thì nên giữ gìn thân mạng để cầu giải thoát, nếu tự sát liền phạm Thô tội. Nếu do chuyển dời hoặc không nghe theo lời yêu cầu mà bắt ép chữa trị, nhân đây người bịnh chết thì không phạm. Nếu đối với người bịnh tuy không có tâm sát hại, nhưng nói ra lời khiến họ muốn chết hay để dao, dây... gần bên người bịnh thì phạm tội Ác tác. Cho nên không được sai người vô trí làm người khán bịnh, nếu có việc gấp phải đi nhờ người vô trí khán bịnh thì nên dặn dò kỹ lưỡng rồi mới đi. Nếu người bịnh nói đừng đỡ tôi dậy mà cưỡng ép dở ngồi dậy, người bịnh nhân đây mà chết thì Bí-sô phạm Thô tội; các oai nghi khác dựa theo đây nên biết. Nếu Bí-sô nuôi bịnh mỏi mệt hay khởi ác ý muốn có được tài vật của người bịnh nên nói rằng: "ông chết đi cho rồi, tôi không nuôi bịnh cho ông nữa", người bịnh nhân đây mà chết thì phạm Thô tội. Nếu Bí-sô khán bịnh cho ăn thức ăn không nên ăn hoặc không cho ăn thức ăn nên ăn, người bịnh nhân đây mà chết thì phạm Thô tội; nếu không phân biệt được thức ăn thì không phạm. Nếu mụt nhọt chưa muồi mà đè nặn, người bịnh nhân đây chết thì phạm Thô tội, đã muồi thì không phạm; nếu dùng kim chích thì không phạm, nhưng nếu trước chưa hỏi thầy thuốc giỏi thì không được dùng kim chích. Bịnh trĩ không được dùng dao cắt, nên dùng thuốc và trì chú cho tiêu.
Khi muốn trị bịnh nên hỏi thầy thuốc, nếu không có thầy thuốc nên hỏi Bí-sô biết về thuốc, nếu cũng không có thì nên hỏi người đã từng bị bịnh này, nếu cũng không có thì nên hỏi người từng trải, nếu vội cho thuốc uống thì phạm tội Việt pháp. Nếu là Bí-sô hiểu y thuật, có người đến hỏi nên khởi bi tâm cho họ phương thuốc, không vì cầu lợi thì không phạm, nếu vì cầu lợi là không nên. Nếu băng bó cho người bị thương thì nên làm ở chỗ khuất, chớ cho người tục nhìn thấy; nếu cho người khác uống thuốc tả chớ bỏ đi liền, nên chỉ dẫn kỹ điều nên làm rồi mới đi thì không phạm.
Nếu thấy Bí-sô bịnh sắp qua đời liền suy nghĩ: "nếu Bí-sô bịnh qua đới thì y bát và tài vật đã có, ta sẽ được", đấy là ý nghĩ của kẻ Chiên-đà-la nên phạm tội Việt pháp. Nếu thấy người cho người nữ có thai uống thuốc phá thai mà không ngăn chận thì phạm tội Việt pháp. Nếu Bí-sô cùng người bịnh đi trên đường, không nên thúc đẩy đi nhanh, nên thường dừng nghỉ và nên mang giúp hành lý. Nếu thấy sắp đến giờ ăn, nếu đến kịp thì nên đi, nếu thấy không đến kịp thì đi trước; đến nơi ăn rồi nên vì thỉnh thực mang về cho người bịnh, nếu không làm thế thì phạm tội Ác tác. Nếu thấy người bị mắc nghẹn nên vỗ đập, nhân đây họ chết thì không phạm, vì thế khi vỗ đập nên cẩn thận.
Khi làm công việc xây cất, Bí-sô quăng gạch cho nhau, trúng phải đầu Bí-sô khác, nhân đây mà chết thì không phạm; nhưng khi chuyền gạch nên chuyền trao qua tay, không nên quăng ném; nếu khi đang chuyền, gạch rớt bể nên báo cho biết rồi mới chuyền tiếp. Khi leo lên thang hay ở trên cao làm việc thì Bí-sô nên cột chặt hạ quần chớ để người phía dưới thấy lộ thân. Khi làm việc xây cất, các Bí-sô nên giúp đỡ lẫn nhau và nên làm trong một thời gian, không nên làm cả ngày; nếu là mùa xuân thì nên làm trước giờ ngọ, nếu là mùa đông thì nên làm sau giờ ngọ. Bí-sô thọ sự nên xem giờ giấc cho họ ngừng nghỉ, rửa tay chân rồi thọ ngọ thực; nếu là Bí-sô khất thực thì Bí-sô thọ sư nên làm thêm thức ăn ngon cung cấp cho họ được no đủ, gọi là Duyệt ý thực.
Nếu Tăng già thiếu thốn, Bí-sô thọ sư nên khuyến hóa người khác tùy thời cúng dường, hoặc tiểu thực hoặc nước uống phi thời..., nếu không làm thế thì phạm tội Ác tác. Nếu Bí-sô khuân vác vật nặng, đuối sức nên buông xuống trúng phải người thợ nhân đây mà chết, Bí-sô tuy không phạm nhưng không nên khuân vác nặng. Nếu cần khiên đời nên nhờ người khiên giúp, Bí-sô và Bí-sô ni không nên khuân vác vật nặng, trên đấu, trên vai, trên lưng..., nếu làm thế thì phạm tội Ác tác. Nếu muốn bỏ vật xuống nên báo cho kẻ khác biết để tránh xa, trúng phải họ tuy không phạm, nhưng không báo trước mà liền buông bỏ xuống thì phạm tội Ác tác. Nếu tránh con bò, bỏ chạy làm té ngã đứa bé nhân đấy mà chết, do không cố ý nên không phạm, nhưng lúc tránh con bò nên khéo dụng tâm. Nếu dùng dây cột trói người rồi báo quan xử chặt tay chân của họ thì phạm Thô tội. Nếu ở chỗ có cọp sói, rủ người khác đến ở chung nhân dây nên bị thương hay bị cọp giết thì Bí-sô không phạm nhưng ở đâu phải xem kỹ nơi đó có nạn hay không nạn mới được ở. Có Bí-sô tự đánh sanh chi, Phật nói: "cái nên đánh lại không đánh, cái không nên đánh lại đánh, đó là người vô trí phạm tội Ác tác". Ô-đà-di vào nhà bạch y không xem kỹ chỗ ngồi liền buông thân ngồi xuống, đè chết đứa con nhỏ của chủ nhà, nếu ngồi mà không xem kỹ thì phạm tội Ác tác.
Phật tại nước Phệ xá ly, bên sông Bạt lũ mạt để, lúc đó các Bí-sô vì ăn uống nên đối trước thân tộc lần nhau khen ngợi là đã chứng được pháp Thượng nhân, để mong cầu lợi dưỡng nên Phật chế học xứ này:
Nếu lại có Bí-sô thật sự không biết, không biết gì hết, tự biết mình không chứng đắc pháp Thượng nhân, là pháp mà bậc Thánh giả tịch tịnh chứng ngộ thù thắng, trụ trong Trí kiến an lạc mà nói là ta biết ta thấy. Bí-sô này vào thời gian khác hoặc có người hỏi hay không có người hỏi, vì muốn được thanh tịnh nên nói rằng: này các cụ thọ, thật sự tôi không biết, không thấy mà vọng nói là có biết có thấy thì Bí-sô này phạm Ba la thị ca, không nên cùng ở chung, trừ bậc Tăng thượng mạn.
Nói không biết là đối với cảnh nên biết như vô thường... cho đến nên nhàm lìa và đối với pháp Thượng nhân đều không hiểu rõ. Nói không biết gì hết là đối với cảnh trên không biết như thật, có hay chẳng phải có cho đến các pháp như năm uẩn đều không thật biết, vọng sanh tà giải nên nói phi pháp. Nói tự biết mình không chứng được pháp Thượng nhân tức là tự biết chưa chứng các pháp thắng thượng của bậc Thánh. Nói tịch tĩnh là tối diệu, cũng tức là Niết-bàn; nói Thánh nhân là chỉ cho bậc đã lìa tội ác; nói chứng ngộ thù thắng là ý nói không phải do sắc lực cho đến thông minh mà có thể chứng ngộ được, tức là bốn quả Thánh. Nói tri kiến là chỉ cho Khổ pháp nhẫn và Khổ pháp trí..., hoặc tri là biết rõ khổ không vô thường..., kiến là thấy được trời rồng... Nói an lạc trụ là an trụ trong các địa định và các công đức đã có.
Nếu trước đã đại vọng ngữ, dù không tự nói ra, há không phạm tội Tha thắng hay sao, đâu cần nói thêm vào thời khác có người hỏi hay không có người hỏi mới nói ra?: sở dĩ phải nói thêm câu này là vì người phạm giới nếu tự không nói ra mình đã phạm bổn tội thì người khác sẽ khởi nghi cho là chưa phạm sao lại cho Bất cọng trụ. Nói hư dối là lời nói ra không thật nghĩa, do cầu ăn uống mà nói như thế.
Tướng phạm trong đây là nếu Bí-sô nói tôi thấy Trời, rồng, dạ xoa, Yết lộ đồ, Kiền đạt bà, Khẩn na la, Cưu bàn trà, Yết tra bố đơn na, quỷ Tất xá già…; hoặc nói tôi đến chỗ họ, nghe tiếng họ nói; hoặc họ đến chỗ tôi cùng tôi nói chuyện; nếu người nghe hiểu được thì Bí-sô này phạm Ba la thị ca. Nếu Bí-sô nói tôi chứng được hai mươi pháp Tưởng như tưởng vô thường, tưởng khổ vô thường, tưởng khổ không, tưởng không vô ngã, tưởng nhàm lìa ẩm thực, tưởng không ưa thích tất cả thế gian, tưởng hoạn nạn, tưởng đoạn trừ, tưởng lìa dục, tưởng chấm dứt, tưởng chết chóc, tưởng bất tịnh, tưởng bầm xanh, tưởng phình trướng, tưởng máu mủ chảy ra, tưởng trùng vòi ăn, tưởng máu huyết đầy khắp, tưởng tan rã, tưởng xương trắng, tưởng quán không, đều phạm bổn tội.
Nếu Bí-sô nói tôi chứng được bốn định, bốn không, bốn vô lương tâm, sáu thần thông; hoặc nói: "Bí-sô A-lan-nhã không bị phi nhân xúc não tức là Thánh nhân, tôi ở nơi đó cũng không bị xúc não"; hoặc nói: "ở trong nhà kia nếu ai là Thánh nhân mới được ngồi trên tòa thắng diệu, tôi ở nơi đó đã được ngồi trên tòa thắng diệu"; hoặc nói: "khi tôi chánh niệm, tôi được pháp tự tướng, hàng phục phiền não", thì đều phạm bổn tội.
Nếu Bí-sô nói: "tôi đối với ba quả chưa được mà thối chuyển hoặc đã được mà thối chuyển"; hoặc mật ý nói: "tôi là học nhân, học Tỳ-nại-da; tôi là vô học đã học ba tạng; tôi được vô sở hữu, không có y bát dư; thân này của tôi là thân sau cùng; tôi là dư lưu, đã đắc quả đọc tụng; tôi đã lìa ba thứ sợ hãi, đã đoạn trừ phiền não; điều mà các đệ tử Thanh văn của Phật nên được thì tôi đều đã được; tôi là đệ tử Thanh văn của Phật Tý bà thi, ở bên chư Phật quy y... " thì đều phạm Thô tội. Nếu không mật ý nói mà nói thẳng là tôi đã chứng pháp Thượng nhân thì phạm bổn tội.
Nếu Bí-sô nói: "ai ở trong nhà ấy đều là Thánh nhân, tôi tuy ở trong nhà ấy nhưng không phải là thánh nhân", hoặc nói: "người khác nói tôi chứng quả Dự lưu, nhưng tôi thật không có đắc; cho đến ba quả còn lại cũng như vậy"; hoặc nói: "hôm nay tôi không nhập được định thế tục, diệu định siêu việt hơn cũng chưa nhập được"; hoặc nói: "tôi ở chỗ đó được Sơ định nhưng không tương ưng với Giác phần"..., thì đều phạm Thô tội. Tùy dùng phương tiện biểu hiện mình có đủ đức huệ thù thắng, nhưng không tự nói là tôi chính là người ấy thì đều phạm Thô tội; lúc đang nói thì phạm tội Ác tác, người nghe hiểu hay không hiểu mà định tội nặng hay nhẹ.
Nếu thí chủ nói: "ai là Thánh nhân thì đến ngồi tòa này", Bí-sô im lặng thọ; hoặc thí chủ nói: "ai là A-la-hán thì hãy đến thọ thỉnh thực", Bí-sô im lặng thọ thì đều phạm Thô tội. Đối diện người nói thật là người, tưởng là người và nghi thì khi người nghe hiểu liền phạm bổn tội; đối diện người nói thật là phi nhân mà tưởng là người và nghi thì phạm Thô tội. Không có người mà tưởng có người, hoặc đối diện người nói là người đang nhập định hay ngủ say hay là kẻ vô tri, hoặc người nghe mà không hiểu... thì đều phạm Thô tội.
Trường hợp không phạm là như tôn giả Đại Mục-kiền-liên dự đoán người nước Phệ xá ly chiến thắng, dự đoán trời mưa cho đến sanh con trai; hoặc nhập định Vô sở hữu nghe được tiếng của voi chúa...
Trong bốn tội Tha thắng, sở dĩ nói việc dâm trước là do duyên phạm có trước sau, lại do việc trước dẫn sanh việc sau mà làm thứ lớp, tức là do làm hạnh bất tịnh nên làm hạnh trộm cắp, do trộm cắp nên hại oan gia, nếu có người hỏi liền vọng ngữ; lại do phiền não dấy khởi mạnh nhất chính là dâm nên chế trước.
Tướng của bốn tội Tha thắng là không nhàm lìa, không nhẫn và không chứng; tướng không nhàm lìa mạnh nhất nên chế hai giới đầu để ngăn tâm tham dâm và tham tài; tướng không nhẫn kế nên chế giới Sát; tướng không chứng nên chế giới Vọng.
Các Đại đức, tôi đã nói bốn pháp Ba la thị ca, nếu Bí-sô phạm mỗi một pháp nào thì không được ở chung, không được cùng làm việc. Như trước (trước khi xuất gia thọ giới), sau (sau khi phạm Ba la thị ca) cũng như vậy, Bí-sô phạm Ba la thị ca thì không được ở chung và cùng làm việc. Nay xin hỏi các Đại đức, trong đây có thanh tịnh không? (3 lần). Các Đại đức, trong đây thanh tịnh vì im lặng. Việc này xin nhớ giữ như vậy.
Hỏi: trước khi xuất gia là người tục không có phần Bí-sô, sau khi phạm Ba la thị ca thì cùng với người tục trước, thể có khác biệt không?
Đáp: khi còn là tục gia không phải là Bí-sô, sau khi phạm tội này thì cùng với trước không có khác, nên trong văn giới nói như trước khi xuất gia thọ giới, sau khi phạm Ba la thị ca cũng như vậy.
Nhiếp tụng:
Tiết, xúc, bỉ, cúng, môi,
(Tiết tinh, xúc chạm, nói thô bỉ, cúng dường, mai mối)
Tiểu phòng, đại tự, báng,
(Xây phòng nhỏ, chùa lớn, vu báng)
Phiến tợ, phá tăng sự,
(Chút tương tợ, việc phá tăng)
Tùy tùng, ô, mạn ngữ.
(Tùy tùng, ô gia và nói khinh mạn).
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó Bí-sô Ôđà-di do tâm nhiễm tự làm đọng sanh chi nên tiết ra chất bất tịnh, Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu lại có Bí-sô cố ý làm tiết tinh, trừ trong mộng, phạm Tăng già phạt thi sa.
Trong học xứ này, cảnh và việc không có người nữ khác với ba học xứ sau, nhưng có thọ lạc; hai học xứ kế do thân ngữ làm phương tiện, học xứ thứ tư giả lập phương tiện để mong cầu dục lạc. Tinh có năm loại: tinh của Chuyển luân thánh vương và Thái tử quán đảnh có sắc xanh, tinh của các vương tử khác sắc vàng, tinh của luân ấn đại thần sắc đỏ, tinh của người thường sắc trắng...
Trừ trong mộng không phạm, vì trong mộng tuy có tình thức nhưng việc không có định thật để cầu nên không thể dựa vào việc trong mộng để định tội. Dù cho khi tỉnh thức có tâm muốn làm xuất tinh, khi nằm mộng tinh mới xuất thì cũng không phạm bổn tội.
Tăng già bà thi sa có hai nghĩa: một là do chúng trị tội, cũng do chúng trừ tội; hai là thể hữu dư khác với bốn tội đầu là vô dư; cũng gọi là tội Chúng giáo, tức do do vâng lời chúng dạy mà tội được dứt trừ.
Tướng phạm trong đây: nếu Bí-sô ưa thích hoặc do thuốc hoặc muốn thử sức nơi nội thân hay với hữu tình bên ngoài mà tiết tinh thì phạm tội
Chúng giáo. Nếu vật bên ngoài không phải là hữu tình, cố ý tiết tinh cũng phạm bổn tội; nếu làm phương tiện như cầm nắm, xúc chạm... tâm thọ lạc muốn xuất tinh, nếu tinh chảy ra thì phạm bổn tội, không chảy ra thì phạm Thô tội. Nếu lúc tỉnh thức làm phương tiện, trong mộng xuất tinh hoặc khi làm phương tiện, tinh sắp động (sắp chảy ra) liền nhiếp niệm thì đều phạm Thô tội. Nếu Nếu cố ý nhảy múa theo tiếng nhạc, hoặc thoa thuốc nơi chỗ ngứa, hoặc đứng ngược dòng nước chảy làm động căn, hoặc do va chạm... làm cho tinh xuất đều phạm Thô tội; nếu tinh không xuất thì phạm tội Ác tác. Nếu cầm nắm sanh chi của người khác hay của mình nên tinh xuất, đều phạm Thô tội; nếu có tâm nhiễm nhìn sanh chi của mình thì phạm tội Ác tác. Không phạm là do cào gãi chỗ ghẻ ngứa hoặc nhảy qua hầm hố hoặc đi mau, hoặc chạm vào đùi hoặc nhớ vợ cũ, hoặc lúc tắm kỳ cọ; hoặc do va chạm người nữ, tâm phiền não hừng thạnh nên tinh xuất thì đều không phạm. Nếu là người đa dục, Phật khai cho chứa bao da để bọc sanh chi lại, nên dùng da dê hay dai nai, thuộc da cho mềm, rửa sạch phơi khô chớ để có mùi hôi sẽ bị hoại, nên cột nơi thắt lưng, không nên mang vào trong chúng và nơi tháp Phật, chỗ kính lễ.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có nhiều người nữ đến trong tinh xá tham quan, Bí-sô Ôđà-di dẫn đi đến xem các phòng rồi thuyết pháp cho họ nghe, nhân đây sanh dục nhiễm xúc chạm thân họ để thọ lạc. Phật nhân việc này chế học xứ: Nếu lại có Bí-sô, do tâm nhiễm ô xúc chạm thân người nữ, hoặc nắm tay, hoặc nắm cánh tay hoặc vuốt tóc cho đến xúc chạm bất cứ thân phần nào để khởi tâm thọ lạc thì phạm Tăng già phạt thi sa.
Tâm nhiễm: tâm nhiễm bị dính mắc có bốn trường hợp: 1. Là có tâm nhiễm nhưng không dính mắc; 2. Là tâm có dính mắc nhưng không có tâm nhiễm; 3. Là có cả hai; 4. Là không có cả hai.
Người nữ: chỉ cho người có thể cùng giao hội, nơi thân phần của họ không có thương tổn. Tay là phần trước của cổ tay, Cánh tay là phần sau của cổ tay, tóc là đầu tóc và khăn cột tóc. Tướng phạm trong đây: tâm nhiễm xúc chạm nếu đủ chín việc thì thành phạm:
Xúc: tay vừa xúc chạm.
Cực xúc: thường xúc chạm nhau.
Dựa: hai thân dựa nhau.
Cầm nắm: đưa tay cầm nắm.
Khiên: từ xa kéo lại gần.
Duệ: ở chỗ gần kéo giữ lấy.
Thượng: nhấc từ dưới lên.
Hạ: từ trên cao để xuống.
Ôm: ôm nhau.
Nếu thân nữ hoại hoặc cả hai thân đều hoại hoặc thân có ghẻ lở, hoặc muốn xúc chạm người này lại chạm nhằm người kia, hoặc sanh nghi không biết là người nay hay người kia, hoặc xúc chạm Bí-sô nhập Diệt tận định, hoặc xúc chạm thân sình trướng cho đến bộ xương thì đều phạm Thô tội.
Nếu Bí-sô có tâm nhiễm xúc chạm người nữ, người nữ này chuyển thành nam hoặc bản thân tự chuyển hoặc cả hai đều chuyển thì phạm Thô tội hoặc Ba la thị ca. Bí-sô xúc chạm người nam, người nam này chuyển thành nữ thì phạm bổn tội, tự chuyển hay cả hai đều chuyển thì phạm Thô tội hoặc Ba la thị ca. Trường hợp Bí-sô ni cũng giống như vậy nên biết. Nếu xúc chạm người nữ nhỏ tuổi không thể hành dâm, người nam và Bán trạch ca thì phạm Thô tội.
Người nữ tưởng là người nữ và nghi, tâm nhiễm xúc chạm thì phạm bổn tội; người nữ tưởng là phi nhân nữ và nghi thì phạm Thô tội; phi nhân nữ tưởng là người nữ và nghi thì phạm tội Ác tác. Nếu đối tượng là mẹ hay chị em, khi chạm thân họ có tâm thọ lạc thì phạm Thô tội, vì có tâm hổ thẹn thì tâm nhiễm không sanh; nếu không có tâm hổ thẹn thì phạm bổn tội. Bí-sô không nên vẽ hình tượng người nữ, nếu vẽ thì phạm tội Ác tác. Không phạm là vẽ bộ xương trắng, đầu lâu hoặc xúc chạm mẹ hay chị em mà không có tâm nhiễm; hoặc xúc chạm người nữ mà tưởng là mẹ... hoặc tuy xúc chạm nhưng giống như chạm vào đất; hoặc có tâm tốt sờ xem nóng hay lạnh; hoặc thấy người nữ sa vào trong lửa, thấy uống thuốc độc, thấp cầm dao tự cắt, thấy bị nước cuốn trôi... khởi tâm cứu vớt. Nếu thấy người nữ bị nước cuốn trôi, nếu biết mình có khả năng thì nên xuống nước vớt họ lên, nhưng không nên sanh tâm nhiễm, nên khởi tưởng là mẹ mình. Nếu người nữ kia không cử động được thì nên đặt họ nằm trên đất và chăm sóc họ chớ có bỏ đi, nhưng không được ở gần sát bên họ; nếu có việc gấp cần phải đi thì nên nhờ người chăm sóc, việc xong nên trở lại xem họ sống chết thế nào.
Có năm loại bàng sanh có thể cỡi qua sông, đó là voi, ngựa, bò, trâu và mao ngưu; nếu là bàng sanh cái thì không nên cỡi; nếu dùng phao thì không nên sơn vẽ nhiều màu trên đó. Nếu mẹ hay con gái đến ôm hoặc bỗng té ngã lên người nữ hoặc nơi đường hẹp chạm phải vai người nữ thì đều không phạm, vì vậy khi đi vào trong thôn xóm khất thực nên khéo dụng tâm. Nếu có người nữ với tâm nhiễm đến xin nước uống, Bí-sô không nên liên tục rót nước cho uống, đợi uống gần hết mới rót thêm, nếu làm trái thì phạm tội Ác tác; nếu người nữ không có tâm nhiễm thì rót liên tục không phạm.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó Bí-sô Ôđà-di thấy nhiều người nữ vào chùa, khi dẫn họ đi tham quan các nơi, do tâm nhiễm nên đối trước họ nói ra những lời thô tục tương ưng với dâm dục. Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu lại có Bí-sô do tâm nhiễm dính mắc nói lời thô tục (lời yêu đương trăng gió) với người nữ, tương ưng với dâm dục như lời hai vợ chồng nói với nhau thì phạm Tăng già phạt thi sa.
Tâm nhiễm: giải thích như trên, người nữ: chỉ cho người hiểu được tốt xấu. Trong giới này hiển rõ bốn việc:
Lỗi lầm: tức là nói lời thô tục, tự thể và nhân đều là tạp nhiễm.
Cọng tướng: nói lời phi pháp.
Tự tướng: lời tương ưng với dâm dục.
Ví dụ: như vợ chồng nói với nhau.
Tướng phạm trong đây: có chín trường hợp nói đều thành bổn tội là nói đẹp, nói xấu, nói thẳng, nói quanh co, hỏi thẳng, hỏi quanh co, dẫn việc, khen ngợi, giận mắng; nếu người nghe không hiểu thì Bí-sô phạm Thô tội. Nói đẹp là nói cô rất đẹp, rất đáng yêu; nói xấu là nói cô không đẹp, không đáng yêu; nói thẳng là nói hãy đến cùng tôi làm việc như thế như thế; nói quanh co là nói nếu cô yêu tôi thì tôi cũng yêu cô; hỏi thẳng là nói nếu người nữ nào làm việc như thế thì sẽ được người nam yêu, cô có thể làm việc như thế không; hỏi quanh co là nói nếu người nữ làm việc như thế thì được người nam yêu, cô đâu có làm việc như thế phải không; nói dẫn việc là nói trước đây có người nữ tên __________ đã cùng tôi làm việc như thế, cô cũng nên cùng tôi làm việc như thế; nói khen ngợi: là nói nếu cô cùng tôi làm việc như thế thì sẽ được phước lạc ở cõi trời; nói giận trách là nói lời giận hờn trách móc. Nếu còn cách nói nào khác tương ưng với dâm dục thì đều phạm bổn tội, như nói với người nữ: "hãy cho tôi nước", đáp là không có nước, liền nói: "cô chính là nước"; hoặc người nữ hỏi vì sao không vui, Bí-sô đáp là vì muốn được cô. Nếu người có tánh ưa nói lời thô chọc ghẹo hoặc đối trước người nam, Bán trạch ca, hoặc có người nữ mà tưởng là không có người nữ mà nói ra những lời thô tục này thì đều phạm Thô tội. Nếu đối trước bé trai hay Bán trạch ca nhỏ tuổi hoặc bàng sanh hoặc không có người nữ, tưởng là có mà nói thì đều phạm tội Ác tác. Nếu không khởi tâm hạn cuộc thì tùy đối trước người nữ nói lời thô tục tương ưng với dâm dục đều phạm bổn tội; nếu khởi tâm hạn cuộc là đối trước người nữ này mới nói, người nữ khác không nói nhưng khi nói lại có người nữ khác thì chỉ phạm Thô tội. Lời nói thô tục nhưng tưởng là không thô tục mà nói thì không phạm; nếu lời thô tục tưởng là lời thô tục và nghi mà nói, hoặc người nghe là người nữ, tưởng là người nữ và nghi mà nói thì đều phạm bổn tội. Nếu người nghe là phi nhân nữ, tưởng là người nữ và nghi mà nói thì phạm Thô tội; nếu phi nhân nữ tưởng là phi nhân nữ thì phạm tội Ác tác.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó Bí-sô Ôđà-di đến chỗ người nữ đòi hỏi cúng dường thân nên Phật chế học xứ:
Nếu lại có Bí-sô do tâm nhiễm dính mắc, ở trước người nữ tự khen ngợi mình rằng: này các vị, nếu Bí-sô nào tương tợ như tôi đầy đủ thi la, có pháp thắng thiện, tu phạm hạnh thì hãy đem pháp dâm dục cúng dường. Nếu Bí-sô nói lời như vậy thì phạm Tăng già phạt thi sa.
Nói đầy đủ thi la là giới uẩn viên mãn, nói có pháp thắng thiện là định uẩn đầy đủ, nói tu phạm hạnh là tương ưng với tuệ uẩn. Có mười tám tướng phạm là tối, thắng, thù, diệu, hiền, thiện, ứng cúng, khả ái, quảng bác; cực tối, cực thắng, cực thù, cực diệu, cực hiền, cực thiện, cực ứng cúng, cực khả ái, cực quảng bác, đều là tự khen ngợi mình có thiện pháp viên mãn. Nếu có tâm nhiễm tự khen ngợi mình như thế để mong cầu cúng dường thân, người nghe hiểu được thì phạm bổn tội.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó Bí-sô Ca lô mật lật già la tử làm việc mai mối khiến cho các cư sĩ có người khen, có người chê và bị các ngoại đạo chê cười nên Phật chế học xứ: Nếu lại có Bí-sô làm việc mai mối, đem ý của người nam nói với người nữ, đem ý của người nữ nói với người nam hoặc để tác thành chồng vợ hoặc việc tư thông dù chỉ trong chốc lát, phạm Tăng già phạt thi sa.
Trong học xứ này hiển rõ làm đủ ba việc liền thành phạm:
Chủ định: là Bí-sô đem ý của người nam đến nói với người nữ, đem ý của người nữ đến nói với người nam.
Sự định: mai mối cho hai bên nam nữ để thành việc vợ chồng hay tư thông.
Thời định: cho đến trong chốc lát.
Có bảy loại vợ là vợ thủy thọ, vợ tài sính, vợ vương kỳ, vợ tự nhạo, vợ y thực, vợ cộng hoạt và vợ tu du. Vợ thủy thọ là cha mẹ đưa nước cho chàng rễ để giao phó con gái; vợ tài sính là cha mẹ nhận sính lễ rồi mới gả con gái; vợ vương kỳ là vua đi chinh phạt nước khác hoặc chúa giặc đánh cướp thôn xóm bắt được phụ nữ đem về làm thê thiếp; vợ tự nhạo là người nữ này mong muốn được làm vợ người kia; vợ y thực là người nữ này vì cầu y thực mà đến làm vợ người kia; vợ cộng hoạt: là cả hai đều có tài sản riêng cùng giao ước ở chung nhau kết làm vợ chồng; vợ tu du là làm vợ chồng không lâu dài, chỉ trong thời gian ngắn, cũng gọi là vô tạp phụ, tức là người vợ này giữ pháp thanh cư, tới lui với chồng khác với người thường.
Về tư thông có mười loại người nữ đã được bảo hộ, đó là cha bảo hộ, mẹ bảo hộ, anh em bảo hộ, chị em bảo hộ, đại công bảo hộ, đại gia bảo hộ, người thân bảo hộ, chủng tộc bảo hộ, dòng họ bảo hộ và vương pháp bảo hộ. Nếu Bí-sô nơi bảy loại vợ và mười loại người nữ được bảo hộ mà làm mai mối, nhận lời của người này, đến nói với người kia và trở về báo lại tổng cộng ba lần, hoặc tự đi hoặc bảo người khác đi, hoặc sai chuyền đi đủ cả ba lần, việc thành thì phạm bổn tội. Nếu tự làm một lần, sai người khác làm hai lần; hoặc tự làm hai lần, sai người khác làm một lần, việc thành cũng phạm bổn tội; nếu việc không thành thì phạm Thô tội. Lại nữa nếu mai mối cho cả hai bên đều là Tôn
(giàu có, tôn quý) đủ ba lần và việc thành thì phạm bổn tội; nếu một bên là Tôn, một bên là Ti (nghèo, giai cấp thấp hèn ), nhận lời bên Tôn đến nói với bên Ti, hoặc nhận lời bên Ti đến nói với bên Tôn thì phạm Thô tội. Lại có ba việc tuy không trở về báo lại cũng thành phạm, đó là:
Hen chỗ: như nói nếu thấy tôi đứng ở chỗ __________ thì biết việc đã thành.
Định thời: như nói nếu vào giờ đó thấy tôi đi ra thì biết việc đã thành.
Hiện tướng: như nói nếu thấy tôi mang bát hay đắp y mới đi ra thì biết việc đã thành.
Lại có ba cách làm mai mối: nói, đưa thư và in dấu tay, tùy dùng một cách đủ ba lần: nhận lời, đến kia nói và trở về báo lại thì đều phạm bổn tội. Lại có bảy cách chia tay, Bí-sô mai mối làm cho hòa hợp trở lại:
Đang lúc tranh cãi liền chia tay.
Tranh cãi xong liền chia tay.
Bẻ cỏ làm tướng chia tay.
Ném ngói gạch làm tướng chia tay.
Đối chứng nói chia tay.
Nói người này không phải vợ tôi.
Báo cho mọi người biết hai vợ chồng đã ly hôn.
Ba loại vợ đầu trong bảy loại vợ chia tay với chồng theo ba cách đầu, Bí-sô mai mối làm cho hòa hợp lại thì phạm tội Ác tác, chia tay theo ba cách kế mà làm cho hòa hợp lại thì phạm Thô tội, đã ly hôn mà làm cho hòa hợp trở lại thì phạm bổn tội. Bốn loại vợ sau và mười loại người nữ được bảo hộ trong trường hợp tư thông, tùy chia tay theo cách nào trong bảy cách trên mà làm cho hòa hợp lại thì phạm bổn tội.
Nếu chỉ bụng mai mối mà một người sanh trai, một người sanh gái hoặc cả hai đều sanh trai hay cả hai đều sanh gái; hoặc làm mai cho phi nhân, hoặc làm mai cho Bí-sô hay Bí-sô ni hay người phạm hạnh, hoặc tự làm mai cho mình, đều phạm Thô tội. Khi làm mai mối, nếu một bên chuyển hình hoặc cả hai bên đều chuyển hình, hoặc bị tâm loạn... đều phạm Thô tội. Nếu có người đến yêu cầu chúng tăng làm mai mối, chúng tăng hòa hợp sai một người làm, việc thành thì chúng tăng đều phạm bổn tội; nếu một người tự ý làm việc này không đợi Tăng sai, việc thành thì chỉ một người này phạm bổn tội. Nếu làm mai xong mà cha mẹ đổi ý hoặc người nam hay người nữ kia qua đời, hoặc mắc bịnh... do thiếu duyên nên việc không thành thì Bí-sô chỉ phạm Thô tội. Nếu nói với người nữ sao không lấy chồng, hay nói với người nam sao không lấy vợ thì phạm tội Ác tác. Nếu nói nhà kia có con gái sao không đến cầu hôn, do có ý làm mai nên phạm Thô tội. Nếu người nữ hay người nam nhờ Bí-sô đưa tin, Bí-sô hiểu ý làm theo lời thì phạm Thô tội, không hiểu ý thì không phạm.
Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó các Bí-sô vì làm phòng ốc cho mình, nhiều việc lo toan nên bỏ phế việc tu phẩm thiện; lại do thường lui tới nhà thí chủ khất cầu nên xúc não họ, Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu lại có Bí-sô tự khất cầu để xây cất phòng nhỏ, không có thí chủ, vì mình mà làm thì phải làm đúng lượng là dài mười hai gang tay của Phật và rộng bảy gang tay của Phật. Bí-sô này phải đưa các Bí-sô đến xem xét chỗ xây cất, các Bí-sô kia phải xem xét chỗ xây cất nay có phải là chỗ tịnh, đúng pháp không, chỗ có tranh chấp không, chỗ có tiến thú không. Nếu Bí-sô ở chỗ không tịnh, không đúng pháp, có tranh chấp, không có tiến thú mà tự khất cầu để xây cất phòng nhỏ, không có thí chủ, vì mình mà làm, không đưa các Bí-sô đến xem xét chỗ xây cất, lại xây cất quá lượng đã chế thì phạm Tăng già phạt thi sa.
Nói tự khất cầu tùy theo sở thích của mình để xây cất phòng nhỏ cho mình, hoặc tự làm hoặc nhờ người làm, không phải làm cho Tăng. Nói phải làm đúng lượng vì nếu làm quá lớn thì nhiều việc bỏ phế chánh nghiệp, nếu quá nhỏ thì sợ có tai họa đến bất chợt. Nói Bí-sô phải đưa các Bí-sô đến xem chỗ muốn xây cất là để phòng ngừa ba việc: một là không đúng lượng, hai là nếu nơi đó có hang chuột, rắn hay rít... thì gọi là không thanh tịnh,, ba là nếu nơi đó gần cung vua, hoặc nhà trưởng giả, nhà ngoại đạo, chùa ni hoặc phải đốn bỏ đại thọ thì gọi là có tranh chấp; hoặc chung quanh nơi đó trong vòng một tầm có giếng nước, có vách núi cheo leo thì gọi là không có tiến thú. Nếu đủ ba việc này thì Tăng không nên cho xây, Bí-sô được sai đến xem xong, nếu thấy không có các trở ngại kể trên thì khi trở về nên bạch trước chúng tăng:
Đại đức tăng lắng nghe, tôi Bí-sô đã xem xét chỗ đất kia xong, thấy nơi đó như pháp, thanh tịnh, không có tranh chấp, xin hãy biết thời.
Tăng nên tác pháp yết ma cho phép xây, nếu có đủ ba việc trên, làm phòng xong, có thể ở được thì phạm bổn tội; nếu một việc trong ba việc trên, hoặc làm quá lượng nhưng nửa chừng ngừng làm, hoặc bị người khác cướp đoạt, hoặc vừa mới khởi công liền qua đời hoặc hoàn tục làm bạch y hoặc thối xuống làm Sa di, hoặc dùng vật liệu của mình mà làm thì đều phạm Thô tội. Nếu Bí-sô nói với Bí-sô khác: "hãy giúp tôi làm phòng nhưng chớ làm quá lượng", nếu Bí-sô kia làm quá lượng thì Bí-sô kia phạm tội; nếu bảo người khác làm phòng và nói là nơi đấy như pháp, thanh tịnh nhưng thật sự là không thanh tịnh như pháp thì cả hai đều phạm tội. Nếu mười người cùng khởi phương tiện làm một phòng thì cả mười người đều phạm tội. Không phạm là được phòng đã làm xong trước rồi hay phòng cũ đã có người thọ dụng rồi.
Phật tại nước Kiều-thiểm-tỳ, lúc đó Lục chúng Bí-sô chặt cây đại thọ để xây cất chùa lớn, tuy làm cho Tăng nhưng vì ngăn ngừa lỗi bị cơ hiềm nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô có thí chủ, muốn làm chùa lớn, Bí-sô này nên yêu cầu các Bí-sô chỉ chỗ làm chùa không có nạn và không tranh chấp và dễ tiến tu, các Bí-sô nên chỉ chỗ làm chùa không có nạn và không có tranh chấp và dễ tiến tu. Nếu Bí-sô có thí chủ, vì mình nên làm chùa lớn mà làm ở chỗ có nạn và có tranh chấp và khó tiến tu, cũng không yêu cầu các Bí-sô chỉ chỗ để làm thì Bí-sô này phạm Tăng già bà thi sa.
Nói lớn là vật thí lớn và hình lượng lớn, nói chùa lớn là nơi mà chư Phật và chúng Thanh văn quá khứ đều thọ dụng, Phật cũng cho người có tâm tín kính xây cất trú xứ lớn phụng cúng cho Tăng. Nếu Bí-sô làm chùa lớn, tối Đa-là ba tầng, Phật điện năm tầng, Phật đã chỉ cho trưởng giả Cấp-côđộc cách thức xây chùa, trưởng giả đã mua khu vườn của Thái tử Kỳ đà bằng cách lót vàng khắp hết đất trong vườn để xây cất tịnh xá, xây xong dâng cúng Phật và Tăng. Nếu có thí chủ xây chùa cúng cho Tăng, sau đó lại có thí chủ muốn xây phòng đặc biệt cúng riêng cho người nào đó thì phải hỏi thí chủ xây chùa rồi mới được làm.
Trước khi an cư hay vào ngày an cư, Bí-sô thọ sự nên chia phòng xá ngọa cụ cho Tăng, nên thông báo trước cho đại chúng biết: "trong các phòng đã có lợi vật, đại chúng nên theo thứ bậc đến nhận phòng". Nếu lúc đó không đến nhận phòng thứ nhất, khi chia đến phòng thứ ba mới phương tiện theo đòi, đòi lần thứ nhất và thứ hai thì không nên cho, đến lần thứ ba mới cho nhưng người đòi phải sám tội Ác tác. Nếu phòng ít thì nên đếm số người trước rồi mới chia, nên chừa lại một phòng để dành cho khách Bí-sô đến; nếu có Bí-sô từ trú xứ khác đến và người hậu an cư cũng nên theo thứ bậc chia cho phòng, nhưng không nên chia cho người không kịp hậu an cư, người này nên đến chỗ người thân quen ở nhờ. Y thực lợi nên chia đều, có năm hạng người không nên sai làm người chia y vật, đó là người thông hiểu Tu Đa-la, Tỳ-nại-da, Ma trất lý ca, Thượng tòa trong Tăng và người đọc tụng cho chúng. Nếu trú xứ có nhiều phòng nên tùy số người lúc đó nhiều hay ít mà chia, hoặc chia cho một người hoặc hai người hoặc ba người, ở trong phòng nào thì được tùy ý thọ dụng lợi vật ở trong phòng đó. Nếu vật dụng của Tăng có hư hoại nên khuyến hóa bạch y tu bổ, không nên bỏ mặc khiến cho tổn hoại. Nếu trú xứ chật hẹp phải ở chung thì nên chia đều ngọa cụ cho đủ chớ để thiếu thốn, những chỗ như chỗ để bình nước, bình thuốc..., chỗ mọi người qua lại, trước hiên, hành lang, thềm thang lên xuống lầu gác và kho lẫm đều không nên chia.
Nếu thí chủ xây phòng đặc biệt cúng riêng cho người nào thì người ở trong phòng ấy được thọ dụng mọi lợi vật đã có trong đó; tuy được lợi riêng nhưng khi đại chúng chia lợi vật cũng phải chia đều. Nếu vị thọ sự vì việc của chúng mà phải ra ngoài giới thì khi chia phòng xá và lợi vật, nên dành phần cho vị ấy. Nếu ở A-lan-nhã, tất cả đều đi khất thực thì nên cử một hay hai người ở lại coi giữ, khi khất thực trở về nên chia phần cho họ cùng ăn. Nếu vì phòng hộ chùa cũng được nuôi chó, những chỗ như bên tháp hay trong phòng viện nếu bị chó cào xới hay phóng uế bừa bãi thì người nuôi chó nên sửa sang lại và thu dọn sạch sẽ, nếu không làm thế thì phạm tội Ác tác.
Bí-sô không được an cư hai nơi, nếu ở hai nơi an cư thì cũng chỉ được lấy một phần y vật vì người xuất gia đối với lợi dượng không nên tham cầu mà lấy quá phần. Nếu nghe có người đấu tranh sắp đến thì nên chia phòng xá trước, khi họ đến đòi chia phòng thì vị thọ sự nên nói là đã chia hết rồi, đợi khi họ bỏ đi, vị thọ sự nên theo pháp chia phòng lại.
Nếu Bí-sô làm hạn cuộc chia như nhật phân, tức là nói hôm nay ở phòng này, mai ở phòng kia; hoặc thời phân, tức là nói tiểu thực ở chỗ này, đại thực ở chỗ kia; hoặc tôn phân, tức là nói phòng này của A-giá-lợi-da, phòng kia của Ô-ba-đà-da, thì phạm tội Ác tác. Nếu Bí-sô có bịnh thích ở phòng cũ thì không cần theo thứ bậc chia phòng, nhưng Bí-sô không nên không có bịnh mà dối nói là có bịnh.
Nếu sau khi chia phòng xong, người đến sau không được ỷ tuổi hạ cao mà đoạt phòng của người khác; nếu đến vào ban đêm hoặc chỉ nghỉ tạm một đêm thì không nên đòi chia phòng và ngọa cụ mà xúc não người khác, nên đến chỗ người thân quen ở nhờ. Lúc đó trưởng giả Cấp-cô-độc xây nhà nghỉ cho các Bí-sô khất thực, Lục chúng Bí-sô tụ đến đó cùng chia phòng, làm thế thì phạm tội Ác tác.
Nếu có nhân duyên đến chùa khác vào đúng giờ thọ thực thì không cần tính theo thứ bậc mà giành chỗ ngồi, nên tùy nghi mà ngồi thọ thực. Nếu có người bên ngoài mang thức ăn đến cúng dường cho người ở trú xứ này, nếu người và thức ăn không có hạn cuộc thì khách được tùy ý ăn; nếu người và thức ăn có hạn cuộc thì khách không được ăn.
Sai phân chia y vật có mười hai hạng người: một là người chia cơm, hai là người chia cháo, ba là người chia bánh trái, bốn là người chia ngọa cụ, năm là người chia các tạp vật, sáu là người cất giữ khí vật, bảy là người cất giữ y, tám là người chia y, chín là người cất giữ y tắm mưa, mười là người chia y tắm mưa, mười một là người cắt sai làm việc lặt vặt, mười hai là người xem xét phòng xá. Cũng như chia phòng xá, ngọa cụ của tăng nên gom lại một chỗ để phân chia theo thứ bậc từ Thượng tòa, nếu còn dư nên chia cho Bí-sô hay Bí-sô ni khách đến. Nếu là ngọa cụ của Tăng thì khi thọ dụng, Bí-sô không được đem ngọa cụ nhỏ, mỏng, dơ xấu thay thế; nếu làm thế thì phạm tội Ác tác và chiêu quả báo lưng đen sạm.
Bí-sô thọ sự nên mỗi nửa tháng đi xem xét phòng xá ngọa cụ, nếu thấy có Bí-sô nào đem ngọa cụ mỏng, hư rách để đổi ngọa cụ của Tăng, nếu Bí-sô này là người lớn thì nên bạch cho Tăng biết rồi thu lại ngọa cụ của Tăng; nếu là người nhỏ thì nên nói cho hai thầy biết rồi thu lại ngọa cụ của Tăng. Nếu thấy dưới mái hiên có tổ chim làm ồn náo thì nên xem xét, tổ chim nào không có trứng hay chim non thì nên phá bỏ, nếu thấy có trứng hay chim non thì chờ đến khi chúng bỏ đi mới được phá tổ. Nếu thấy có tổ ong nên xem xét tổ nào không có trứng và ong con thì khua đọng cho bầy ong bỏ tổ bay đi, nếu có trứng và ong con thì dùng dây tơ cột tổ lại cho chúng không phát triển. Nếu thí chủ xây chùa cúng cho Tăng rồi, sau đó có việc đi đến nơi khác, thời gian lâu không trở về thì Bí-sô ở chùa đó không nên vì thiếu vật thực mà bỏ đi hết, nên tự khất thực để nuôi sống. Đợi đến năm năm mà thí chủ vẫn chưa trở về thì Bí-sô ở trú xứ này nên cùng Bí-sô ở trú xứ gần bên kết giới đồng lợi dưỡng nhưng Thuyết giới bố tát riêng.
Nếu chùa hư hoại cần tu sửa thì nên làm bằng hoặc lớn hơn không nên làm nhỏ hơn, nếu sức thí chủ không thể thì được làm tùy nghi nhưng tháp thì nên làm lớn hơn, không nên làm nhỏ hơn. Nếu tôn dung, tranh vẽ hay phù điêu hư hoại nên cạo bỏ rồi cho tô vẽ mới lại giống như trước; kinh Phật hư rách hoặc mờ mất chữ cũng nên tu sửa hoặc cạo bỏ lớp mực cũ để viết lại mới.
Trong chùa nên làm tịnh trù, có năm loại tịnh trù:
Sanh tâm tác: Bí-sô trông coi việc xây cất hoặc người thế tục ban đầu tạo phòng, khi xây nền móng liền nghĩ rằng: "tại chỗ này sẽ làm tịnh trù cho Tăng".
Cọng ấn trì: Bí-sô trông coi việc xây cất, khi hưng công làm nền móng liền nói với các Bí-sô ở chung rằng: "các thầy nên biết, tại chỗ này sẽ làm tịnh trù cho Tăng".
Như ngưu ngọa: phòng không có định chuẩn.
Cố phế xứ (chỗ bỏ phế, hư cũ)
Bỉnh pháp tác: chỗ do Tăng bạch nhị yết ma kết làm tịnh trù, là chỗ không có chướng ngại ở tận cùng trong giới và thế phần bên ngoài chừng một tầm.
Khi Tăng đã chấp thuận chọn chỗ này làm tịnh trù thì ở tại chỗ này trải tòa, đánh kiền chùy... sai một Bí-sô tác pháp yết ma kết làm tịnh trù, đây là căn cứ theo chùa lớn, nếu là chùa nhỏ thì có thể làm tịnh trù trong chùa như chọn lấy 1 phòng nhỏ hay nhà nhỏ nào đó kết làm tịnh trù. Khi Tăng kết tịnh trù xong thì ngay tại chỗ này được hai lợi lạc: một là ngoài giới được chứa, trong giới được nấu; hai là trong giới được chứa, ngoài giới được nấu đều không lỗi. Lại có mười nơi không được nấu thức ăn, nếu nấu thì phạm tội Ác tác: một là nơi đất trống, hai là nơi cửa phòng, ba là trước hiên, bốn là trong nhà ấm, năm là trong nhà tắm, sáu là nhà quan, bảy là bên tháp, tám là nhà ngoại đạo, chín là nhà thế tục và mười là trong chùa ni.
Trong học xứ này nói nên đưa các Bí-sô đến xem chỗ xây cất là chỉ cho chúng tăng, ít nhất là bốn người, tướng phạm trong đây chỉ trừ quá lượng ra, những duyên trở ngại khác đều giống như học xứ trên.
Phật tại thành Vương xá, lúc đó hai Bí-sô Mậtđát-la và Bộ nhị ca do đời trước có oán thù với Bí-sô Thật-lực-tử nên bảo em gái là Bí-sô ni Mật-đátla vu báng Bí-sô Thật-lực-tử phạm Ba la thị ca, hai người sẽ đứng ra làm chứng, Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô vì sân giận không vui đem tội Ba la thị ca không căn cứ vu báng Bí-sô thanh tịnh không phạm tội, muốn phá hạnh thanh tịnh của Bí-sô kia. Thời gian sau, có người hỏi hay không có người hỏi, Bí-sô này biết là việc không căn cứ, chỉ do sân giận mà vu báng, nên nói với các Bí-sô rằng: "tôi vì sân giận nên nói như thế", thì Bí-sô này phạm Tăng già bà thi sa
Nói Bí-sô sân giận không vui là lòng sân chưa dứt, nói đem tội Ba la thị ca không căn cứ là muốn gây bất lợi cho người nên đem tội trong không có căn cứ thấy nghe nghi để vu báng. Nói tôi vì sân giận nên nói như thế là biết việc đó không thật, vì sân hận nên ác báng.
Cảnh vu báng có bốn: một là người thanh tịnh, hai là người tuy thanh tịnh nhưng tợ không thanh tịnh, ba là người không thanh tịnh, bốn là người không thanh tịnh nhưng tợ thanh tịnh. Nếu vu báng hai hạng người trên thì có mười việc thành phạm, năm việc không thành phạm:
Mười việc thành phạm có bốn trường hợp: trường hợp một có ba việc là không thấy, không nghe, không nghi mà dối nói là có thấy, nghe, nghi; trường hợp hai có hai việc là nghe nhưng quên và nghi nhưng quên mà nói là tôi nghe và nghi như thế; trường hợp ba có hai việc là nghe rồi tin và nghe nhưng không tin mà nói là tôi thấy; trường hợp bốn có ba việc là nghe rồi nghi và nghe nhưng không nghi hoặc tự nghi mà nói là tôi thấy. Khi nói không thật như vậy thì phạm bổn tội.
Năm việc không phạm có hai trường hợp: trường hợp một có ba việc là không thấy, không nghe, không nghi nhưng tưởng có thấy, nghe nghi nên nói là tôi thấy, nghe, nghi ; trường hợp hai có hai việc là nghe nhưng quên và nghi nhưng quên lại tưởng là có nghe và nghi nên nói là tôi nghe, nghi thì đều không phạm.
Vu báng hai hạng người dưới có mười một việc thành phạm và sáu việc không phạm; mười việc thành phạm ở trường hợp trên thêm một việc thấy nhưng quên là mười một việc; năm việc không phạm ở trường hợp trên thêm một việc thấy nhưng quên là sáu việc. Hai hạng người trên vốn là người thanh tịnh nên không có việc thấy nhưng quên.
Nếu Bí-sô đưa thư hoặc sai sứ hoặc in dấu tay để vu báng, hoặc đối trước người cuồng si, người ngủ, người nhập định; hoặc người trước đã phạm, người thọ học để vu bàng người khác nhưng không nói tên thì phạm Tốt-thổ-la để; vu báng Bí-sô ni cũng phạm bổn tội, vu báng Thức xoa ma na phạm Thô tội; nếu đem năm tội nghịch vu báng thì phạm bổn tội. Nếu Ô-ba-sách-ca vu báng Bí-sô thì Tăng nên cho yết ma phú bát, các Bí-sô không nên đến nhà họ thọ cúng dường và cũng không nói pháp cho họ; nếu người kia biết lỗi theo Tăng xin giải yết ma thì Tăng nên cho yết ma ngưỡng bát. Nếu người của tà bộ vào trong bộ chánh để làm yết ma phú bát thì không thành tác pháp; nếu đối người có thiện tâm mà cho yết ma phú bát cũng không thành tác pháp.
Duyên xứ giống như học xứ trên, chỉ khác là hai Bí-sô kia củng thấy hai con nai rừng giao phối, liền lấy việc tương tự này để vu báng Bí-sô Thậtlực-tử, Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô vì sân giận không vui, trong phần việc khác lấy một chút tội hay tội tương tợ Ba la thị ca, để vu báng Bí-sô thanh tịnh không phạm tội, muốn phá hạnh thanh tịnh của Bí-sô kia. Thời gian sau, có người hỏi hay không có người hỏi, Bí-sô này biết là trong phần việc khác lấy chút tội hay tội tương tợ Ba la thị ca, chỉ do sân giận mà vu báng, nên nói với các Bí-sô rằng: "tôi vì sân giận nên nói như thế", thì Bí-sô này phạm Tăng già bà thi sa.
Nếu Bí-sô khi thấy Bí-sô khác phạm Ba la thị ca mà tưởng là không phạm hoặc tưởng phạm tội khác rồi vu báng nói là phạm tội Ba la thị ca thì phạm bổn tội. Nếu đối với tội Chúng giáo tưởng là không phạm hoặc tưởng phạm tội khác, cho đến tội Đột sắc ngật lý ca cũng vậy, tùy việc vu báng mà kết phạm, khi vu báng, người nghe hiểu được liền phạm bổn tội. Không phạm là thật thấy người kia phạm tội Tha thắng.
Phật tại thành Vương xá, lúc đó Đề-bà-đạt-da vì tham lợi dưỡng nên sau khi chứng được thần thông liền giáo hóa vua A xà thế tin theo mình. Sau đó đến chỗ Phật xin cho lãnh đạo đồ chúng, Phật không chấp thuận liền ôm lòng oán giận cùng bốn bạn đảng phá hòa hợp tăng, khi Tăng can ngăn không chịu xả bỏ, Phật nhân việc này chế học xứ: Nếu Bí-sô muốn phá hòa hợp Tăng, tìm cầu phương tiện thọ trì việc phá Tăng thì các Bí-sô nên can ngăn Bí-sô này rằng: "thầy chớ phá hòa hợp Tăng, chớ tìm cầu phương tiện thọ trì việc phá Tăng, phải cùng Tăng hòa hợp, hòa hợp thì an lạc không tranh, nhất tâm cùng học như nước hòa với sữa, được an lạc trụ. Thầy nên bỏ việc phá Tăng này". Khi các Bí-sô can ngăn như thế mà không chịu bỏ việc này thì nên can ngăn hai, ba lần cho bỏ việc này, chịu bỏ thì tốt, nếu không chịu bỏ thì Bí-sô này phạm Tăng già bà thi sa.
Nói hòa hợp là đồng một vị, có sáu loại hòa hợp là hình tướng, tác nghiệp, giới, kiến, oai nghi và sinh sống.
Nói Tăng già là chỉ cho chín loại Tăng: Tăng vô sỉ (không có hổ thẹn), Tăng hữu sỉ (có hổ thẹn), Tăng sỉ vô sỉ (có và không có hổ thẹn), Tăng thuận lý, Tăng phi lý, Tăng lý phi lý, Tăng vị thoát (chưa giải thoát), Tăng dĩ thoát (đã giải thoát), Tăng thoát vị thoát (giải thoát và chưa giải thoát). Trừ loại Tăng đầu và hai loại tăng cuối, các loại Tăng khác đều có thể phá được, vì sao, vì loại Tăng không có hổ thẹn thì khi phạm bốn trọng thì việc phá đã thành, không cần phá nữa; hai loại Tăng cuối là Thánh chúng thì không thể phá được. Nói muốn phá là chỉ cho Đề-bà-đạt-da do ngu si sanh tâm dị kiến muốn phá Tăng, tự đặt ra năm pháp khuyên những người trẻ, ngu muội tập hành theo năm pháp tà này, đó là: trọn đời thọ mặc nạp y, trọn đời thọ pháp khất thực, trọn đời thọ pháp ăn một bữa, trọn đời thọ pháp ngồi nơi đất trống, trọn đời thọ pháp đoạn nhục. Tỳ kheo nào thọ trì năm pháp này sẽ mau được Niết-bàn.
Nói đối với việc phá Tăng chấp chặt không bỏ là muốn phá Tăng nên dẫn dắt môn đồ, tự chấp thủ tà tông, kết nhiều ác đảng. Nói chớ có phá hòa hợp Tăng là ý nói nếu phá thiện chúng thì sẽ chiêu nghiệp Vô gián. Nói thầy nên cùng Tăng hòa hợp là lời của nhiều người can riêng hoặc người được tăng sai đến can bỏ ác kiến. Nói ở chung là đồng thọ dụng y thực và lợi dưỡng. Nói hoan hỉ là pháp lành thêm lớn thì mọi người đều vui, nói không tranh là đồng kiến nên không có tranh tụng. Nói nhất tâm là ý nói nếu tâm tán loạn thì nên định tĩnh lại, nếu được định tĩnh rồi thì nên siêng cầu giải thoát. Nói một lời là ý nói thể của mười hai phần giáo không có sai khác, cũng la nghĩa nên dạy bảo lẫn nhau. Nói như nước hòa với sữa là hành và lý thuận một tướng không sai khác. Nói an lạc trụ là nương nơi bốn Thánh chủng được hiện pháp lạc trụ và chứng được thắng quả.
Do các bạn đảng trợ giúp Đề-bà-đạt-da phá Tăng nên Phật chế học xứ:
Nếu có Bí-sô muốn phá hòa hợp Tăng, có Bí-sô khác đồng ý trợ giúp, một hay nhiều người nói với các Bí-sô rằng: "các thầy chớ can ngăn Bí-sô này trong việc này, vì sao, vì Bí-sô này nói đúng pháp, đúng luật không phải là nói phi pháp phi luật, Bí-sô này nói điều gì chúng tôi đều vui thích. Đó là biết mới nói không phải không biết mà nói, Bí-sô này nói điều gì chúng tôi đều chấp nhận". Lúc đó các Bí-sô nên can ngăn các Bí-sô trợ giúp việc phá tăng rằng: "thầy chớ nói rằng Bí-sô này nói đúng pháp đúng luật, Bí-sô này nói điều gì chúng tôi đều vui thích. Đó là biết mới nói không phải không biết mà nói, Bí-sô này nói điều gì chúng tôi đều chấp nhận. Các thầy chớ trợ giúp việc phá Tăng, phải vui giúp Tăng hòa hợp; Tăng hòa hợp thì hoan hỉ không tranh, nhất tâm cùng học như nước hòa với sữa, được an lạc trụ". Khi các Bí-sô can ngăn như thế mà vẫn chấp chặt không chịu bỏ thì các Bí-sô nên can ngăn ba lần cho bỏ việc này, nếu chịu bỏ thì tốt, nếu không chịu bỏ thì phạm Tăng già bà thi sa.
Nói tốt là chỉ cho việc có lợi ích, xấu là việc không lợi ích, nói pháp ngữ là nói lời trọn vẹn đầy đủ, có thể dẫn thật nghĩa cũng gọi là pháp ngữ. Nói luật ngữ là nói lời hợp lý không sai, nói lời dịu dàng cũng gọi là luật ngữ; nói không hư dối là hiểu rõ việc kia rồi mới nói. Nói chớ nói như vậy là lời khuyên các bạn đảng lìa xa nhóm tà.
Tướng phạm trong đây là nếu mới tùy thuận muốn phá Tăng thì phạm tội Ác tác, được nhiều người can ngăn mà không chịu bỏ thì phạm Thô tội, từ tác bạch cho đến yết ma lần thứ hai xong mà không chịu bỏ thì đều phạm Thô tội, yết ma lần thứ ba xong, như pháp như luật như lời Phật dạy chánh can mà vẫn không bỏ thì phạm bổn tội. Nếu là yết ma phi pháp biệt chúng, phi pháp hòa hợp chúng, tợ pháp biệt chúng, tợ pháp hòa hợp chúng, như pháp biệt chúng, như pháp hòa hợp chúng thì không bỏ không phạm. Có thuyết nói tuy lời nói không đồng nhưng có tâm muốn phá Tăng thì phạm Thô tội, tuy lời nói đồng nhưng không khởi tâm muốn phá Tăng hoặc không đồng với việc làm của họ thì không phạm.
Nếu tự có chủ tâm muốn phá Tăng mà không làm náo loạn thì có bốn câu, náo loạn là bắt đầu từ việc nhóm họp để phá Tăng; hoặc phá Tăng nhưng không chỗ cũng có bốn câu, khác chỗ tức là khác giới; hoặc phá Tăng nhưng không lập bộ riêng cũng có bốn câu, bộ riêng là đủ chín người thanh tịnh ở riêng, trong đó có một người là chủ, tám người còn lại là trợ giúp. Chừng mức độ nào thì gọi là phá?: khi Đề-bà-đạt-da cùng bốn bạn đảng hành trù xong thì gọi là thành phá Tăng, nếu người thọ học, người không giới làm người hành trù thì không thành phá Tăng. Nếu tăng bị phá, có người thuộc bộ khác đang ở trong giới thì không nên làm Bố tát, vì chúng kia không đến nhóm liền thành biệt trụ. Nếu cả hai bộ như pháp và phi pháp cùng ở trong một trú xứ, bọ như pháp giải giới thì thành giải, bọ phi pháp giải giới thì không thành giải, những người trung lập không thuộc hai bộ trên nên theo bộ như pháp ra ngoài giới bố tát, không nên theo bộ phi pháp. Bí-sô trong bộ như pháp nên giáo thọ Bí-sô ni, nếu không có người thì người trung lập nên giáo thọ ni. Nếu ni chúng bị phá thì không nên đến giáo thọ, nên nói với họ: "các cô phải hòa hợp trước rồi mới đến cầu giáo thọ"; nếu Ni chúng không hỏi Bí-sô mà tự ý lập quy chế và tụ tập đồ chúng riêng thì phạm Thô tội. Nếu Bí-sô đối với việc phi pháp, tưởng là phi pháp, đến khi chánh thức phá Tăng vẫn tưởng là phi pháp thì sẽ sanh tội Vô gián và thành nghiệp Vô gián; nếu lúc phá Tăng không khởi tưởng là phi pháp thì chỉ sanh tội Vô gián mà không thành nghiệp Vô gián. Tổng cộng có mười tám trường hợp nặng nhẹ, sáu trường hợp đầu nặng và mười hai trường hợp sau nhẹ:
Phi pháp phi pháp phi pháp
Phi pháp phi pháp pháp
Phi pháp phi pháp nghi.
Phi pháp pháp phi pháp
Phi pháp pháp pháp
Phi pháp pháp nghi.
Pháp phi pháp phi pháp
Pháp phi pháp pháp
Pháp phi pháp nghi
Pháp pháp phi pháp
Pháp pháp pháp
Pháp pháp nghi
Phi pháp nghi phi pháp
Phi pháp nghi pháp
Phi pháp nghi nghi
Pháp nghi phi pháp
Pháp nghi pháp
Pháp nghi nghi.
Phật tại thành Thất-la-phiệt bảo các Bí-sô rằng: "nếu có Bí-sô, Bí-sô ni làm nhơ nhà người thì Tăng nên bạch tứ cho yết ma khu tẫn, đuổi ra khỏi trú xứ. Nếu có người đấu tranh, Tăng nên cho yết ma linh bố và nói với người ấy rằng: "nếu thầy không chịu sửa đổi thì Tăng sẽ trị phạt nặng hơn", vì muốn làm cho người kia sợ mà sửa đổi nên gọi là linh bố. Nếu thấy môn đồ tranh cãi thì Quỹ phạm sư nên ngăn dứt, nếu Bí-sô thường thường phạm tội thì Tăng nên cho yết ma chiết phục, nếu họ vẫn không ngừng dứt thì Tăng nên bảo họ y chỉ nơi bậc có đức để điều phục họ. Nếu Bí-sô xúc não trưởng giả hay Bí-sô khác thì Tăng nên bảo Bí-sô đó đến sám tạ vị đó, nếu không chịu đi thì Tăng nên cho yết ma cầu tạ và bảo đến sám tạ vị đó. Nếu Bí-sô không thấy tội, không như pháp sám tội và không xả ác tà kiến thì Tăng nên cho yết ma xả trí, do xả bỏ không đồng với chúng pháp nên gọi là xả trí. Nếu người bị xả trí này có nhiều bạn đảng nương cậy thì Tăng nên lượng xét sao cho thích nghi, không để việc đấu tranh xảy ra, đối với tội đã pháp như pháp mà trừ diệt. Nếu người ấy vẫn không chịu nhận tội thì không nên cố gạn hỏi, cũng không nên cưỡng ép nhớ nghĩ; nếu cưỡng ép và làm pháp xả trí thì Tăng phạm tội. Nếu những người đấu tranh ôm lòng oán hận tuy đã trải qua nhiều ngày vẫn không thể trừ diệt, lại là người trì kinh, trì luật, trì luận, đa văn được nhiều người biết đến, có đủ phước đức và có nhiều môn đồ thì Tăng nên diệt tránh giúp họ. Nếu người đấu tranh đến nhà người tục thì nên bảo người trung lập ngăn cách họ, nếu là ở cùng trong giới tranh cãi thì người trung lập nên ra ngoài giới làm trưởng tịnh, nếu cùng bộ khác làm trưởng tịnh thì không thành tác pháp và phạm tội Ác tác. Lại nữa, khi vì người khác tác yết ma mà không gạn hỏi, không cho ức niệm; hoặc người đó thật không phạm, hoặc có phạm nhưng nói không thật, hoặc vì làm yết ma phi pháp thì Tăng phạm tội Ác tác và tác pháp không thành. Lại nữa, khi Tăng đã tác pháp yết ma rồi thì người bị trị phạt phải thuận hành theo những hành pháp đã có như không được cho người xuất gia thọ Cận viên, không được làm y chỉ, không được chứa nuôi Cầu tịch, không được thọ sai làm người giáo thọ ni chúng... Nếu người có hai mươi pháp thì Tăng không nên cho giải yết ma:
& 2. Ở trong chúng không hiện tướng cung kính, không siêng năng.
& 3. Ở trong chúng không có tâm khiêm hạ, trừ bỏ kiêu mạn.
Không tùy thuận hành pháp trị phạt.
Ở trong chúng chống trái hành pháp kính.
5 & 6. Ở trong giới không cầu giải phóng tội, không chịu sám hối.
7 & 8. Dựa thế lực vua hay quan xử đoán.
9 & 10. Nương tựa ngoại đạo cho đến người khác.
11. Không nương tựa chúng.
12 & 13. Mặc y phục thế tục và của ngoại đạo.
14 & 15. Phụng sự ngoại đạo và làm những việc không nên làm.
16. Không tu tập học xứ của Bí-sô
17 & 18. Mắng Bí-sô hoặc khi sân hận hay quát mắng người khác.
19 & 20. Khiến chúng mất lợi và không muốn ở chung.
Phật dạy những điều trên xong liền bảo tôn giả A-nan cùng các Bí-sô Thượng tòa đến núi Chỉ trá, khi đến giữa đường nên sai người đủ năm đức đến đó gạn hỏi A thấp bạc ca bổ nại phạt tố... rồi mới làm yết ma khu tẫn. Lúc đó những người đồng tội là Bán đậu lô khấu đắc ca... nghe được tin này liền trốn đến thành Thất-la-phiệt, đối trong Tăng như pháp sám hối trừ tội. A thấp bạc ca bổ nại phạt tố... sau khi đến rừng Thệ đa biết được việc này liền nói: "chúng tôi đồng tội mà có người bị đuổi, có người không bị đuổi, các vị tùy ái, tùy sân, tùy si...", các Bí-sô can ngăn rồi mới tác yết ma quở trách, Phật nhân việc này chế học xứ: Nếu Bí-sô nương ở nơi tụ lạc mà làm hạnh xấu, làm nhơ nhà người, ai cũng thấy nghe hay biết thì các Bí-sô nên quở: "thầy đã làm hạnh xấu, làm nhơ nhà người, ai cũng thấy nghe hay biết, các thầy hãy đi đi, không nên ở đây nữa". Bí-sô này nói với các Bí-sô: "các thầy tùy dục hành sân sợ si, vì sao, vì có Bí-sô đồng tội như vậy, mà có người bị đuổi có người không bị đuổi". Các Bí-sô nên nói với Bí-sô này: "thầy chớ nói các Bí-sô tùy dục hành sân sợ si, vì sao, vì các Bí-sô không có tùy dục hành sân sợ si. Các thầy làm hạnh xấu, làm nhơ nhà người, ai cũng thấy nghe hay biết, các thầy hãy bỏ câu nói tùy dục hành sân sợ si này đi. Các thầy hãy đi đi, không nên ở đây nữa". Khi nói như thế nếu không chịu bỏ lời nói này thì nên khuyên can đến ba lần cho bỏ nói lời nói này, nếu chịu bỏ thì tốt, nếu không chịu bỏ thì phạm Tăng già bà thi sa.
Làm nhơ nhà người là ở chung và thọ dụng chung với người tục như ngồi chung giường với người tục, ăn chung mâm, uống chung một ly...
Làm hạnh xấu là dùng pháp thô ác hủy báng người khác hoặc dựa trên giới, kiến... nói người khác hủy phạm.
Ai cũng thấy nghe hay biết: thấy là thuộc nhãn thức, nghe là thuộc nhĩ thức, hay biết là thuộc các thức khác.
Thầy hãy đi đi là lời đuổi đi.
Nói tùy ái... là người đồng phạm mà có người không bị đuổi, có người đuổi là tùy sân, Tăng không phân biệt rõ là tùy si, không trị phạt những người đồng phạm kia là tùy bố.
Nếu khi mới nói Tăng tùy ái... thì phạm tội Ác tác, được nhiều người can ngăn mà không chịu bỏ thì phạm Thô tội, từ khi Tăng tác bạch cho đến yết ma lần thứ hai xong mà không chịu bỏ thì đều phạm Thô tội, yết ma lần thứ ba xong, như pháp như luật như lời Phật dạy chánh can mà vẫn không bỏ thì phạm bổn tội.
Nếu tăng thật có tùy ái, tùy sân, tưởng không tùy ái... và nghi mà nói thì phạm Thô tội; nếu tưởng có tùy ái... mà nói thì không phạm; nếu tăng thật không có tùy ái..., tưởng có tùy ái... mà nói thì phạm bổn tội. Khi Tăng chưa tác yết ma khu tẫn mà nói Tăng có tùy ái... thì phạm tội Ác tác vì hủy báng chúng tăng.
Phật nước Kiều-thiểm-tỳ, lúc đó Bí-sô Xiển đà không chịu nghe lời khuyên can như pháp lại còn chống trái, xúc não chúng tăng nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô tánh ác khó cùng nói chuyện khi các Bí-sô như pháp như thiện, nói tội mà vị này đã phạm trong giới thì Bí-sô này không chấp nhận còn nói với các Bí-sô rằng: "các thầy chớ nói tôi tốt hay xấu, tôi cũng không nói các thầy tốt hay xấu". Các Bí-sô nên khuyên rằng: "các Bí-sô như pháp như thiện nói tội mà thầy đã phạm trong giới, thầy đừng nên không chấp nhận, thầy nên chấp nhận. Các Bí-sô như pháp như luật khuyên can thầy, thầy cũng sẽ như pháp như luật khuyên can các Bí-sô, vì sao, vì làm như thế chúng đệ tử của Như lai mới được tăng trưởng lợi ích, vì cùng khuyên can nhắc nhở và xuất tội cho nhau. Thầy hãy bỏ nghiệp không chấp nhận này đi". Khi các Bí-sô khuyên can như thế mà không chịu bỏ, thì nên khuyên can đến ba lần cho bỏ việc này, nếu chịu bỏ thì tốt, nếu không chịu bỏ thì phạm Tăng già bà thi sa.
Nói những lời Phật dạy trong giới kinh là những học xứ mà phật đã chế, nói như pháp là có căn cứ thấy nghe nghi, nói như luật là đúng sự thật và tương ưng với lý, nói lời dịu dàng. Nói tốt xấu là lợi và không lợi, nói chớ nói là ngăn không cho khuyên can, không chịu nghe lời khuyên can. Nói nên khuyên can lẫn nhau là khi muốn can nên càu thính trước, nếu người kia đồng ý mới nên can, nếu người kia không đồng ý thì không nên cưỡng ép gạn hỏi. Khi gạn hỏi cũng chớ dùng thiên nhãn, thiên nhĩ để thấy nghe; nếu người kia không nhớ nên cho ức niệm, khi nhớ ra rồi mà nổi sân thì nên cầu thính, nếu chấp thuận thì tốt, nếu không chấp thuận thì nên bỏ mặc, không cùng nói chuyện. Nếu người kia dựa vào thế lục vua quan... thì Tăng không nên cùng bố tát, an cư, tự tứ; vào ngày bố tát nên ở trong chúng bạch rằng: "tôi Bí-sô __________ ngăn Bí-sô __________ làm các việc như bố tát...; nếu Bí-sô ấy vào trong chúng thì không nên ở trước người ấy làm bố tát...". Nếu dựa trên tội đã phạm là Hữu dư hay Vô dư không có định thật mà liền ngăn người khác trưởng tịnh... thì không thành ngăn; nếu dùng thiên nhãn, thiên nhĩ hoặc người điếc, mù, vô tri, ở trên đất hay ở trên không... ngăn cũng không thành ngăn. Nếu dựa trên tội đã phạm là thật thì ngăn thành ngăn, nhưng nếu dựa trên thấy nghe nghi không chính xác mà liền ngăn thì phạm tội Ác tác. Nếu trong giới có nhiều trú xứ, khi một trú xứ ngăn thì các trú xứ khác cũng nên ngăn.
Nếu người có đủ năm pháp được Tăng sai làm người gạn hỏi nên từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch bày vai hữu chắp tay đứng một bên rồi tự xét lượng mình có năm pháp: một là ta có trì giới hay không, hai là ta có hổ thẹn hay không, ba là ta có truy hối hay không, bốn là ta có thu nhiếp các căn hay không, năm là ta có ưa thích giới hay không. Xét lượng mình xong mới hỏi người phạm: "nay tôi muốn gạn hỏi thầy, thấy có chấp thuận không?", người phạm kia hỏi lại: "thầy muốn gạn hỏi việc gì?", đáp: "muốn gạn hỏi về tội", người phạm khi bị gạn hỏi nên đối với năm bộ học xứ (năm thiên giới) tự xét lại mình, người gạn hỏi nên cho nhớ nghĩ: "thầy hãy nhớ lại đã phạm tội đó ở đâu?...", người phạm nên đáp như thật, chớ đáp hư dối không thật. Gạn hỏi xong nên nói với người phạm: "Tăng sai tôi làm người gạn hỏi, thầy đã đáp như thật xong, Tăng sẽ tác yết ma cho thầy, thầy nên suy nghĩ kỹ chớ có tự hại mình, cũng chớ đùa cợt với người thanh tịnh và người ưa học giới; cũng chớ khinh mạn các bậc kỳ túc".
Tướng phạm trong đây: khi được nhiều người can ngăn mà không chịu nghe thì phạm Thô tội, từ khi Tăng tác bạch cho đến yết ma lần thứ hai xong mà không chịu bỏ thì đều phạm Thô tội, yết ma lần thứ ba xong, như pháp như luật như lời Phật dạy chánh can mà vẫn không bỏ thì phạm bổn tội. Các Đại đức, tôi đã nói mười ba pháp Tăng già bà thi sa, chín giới trước vừa làm liền phạm, bốn giới sau cho đến can ba lần mới kết thành tội. Nếu Bí-sô biết mình phạm tội mà vẫn cố ý che giấu, tùy che giấu bao lâu thì buộc họ phải hành Ba lợi bà sa bấy nhiêu. Hành Ba lợi bà sa xong, Tỳ kheo này nên ở trong Tăng hành sáu đêm Ma-na-đỏa; hành Ma-na-đỏa xong mới cho pháp A phù ha na.
Như pháp sám xong, các Bí-sô hoan hỉ, nên ở trong hai mươi vị Bí-sô cho xuất tội, nếu thiếu một vị không đủ hai mươi mà cho xuất tội thì tội của Bí-sô kia không được xuất, mà các Bí-sô cũng bị quở trách. Đúng pháp nên làm như thế. Nay xin hỏi các Đại đức, trong đây có thanh tịnh không? (3 lần). Các Đại đức, trong đây thanh tịnh vì im lặng. Việc này xin nhớ giữ như vậy.
Nếu Bí-sô tùy mỗi việc đã phạm trong đây muốn được trừ tội thì phải hội đủ năm duyên:
Tùy tội đã phạm.
Phạm rồi che giấu.
Tùy số ngày che giấu mà Tăng cho hành biệt trụ.
Hành biệt trụ xong, Tăng cho hành Ý hỉ.
Hành Ý hỉ xong, Tăng đủ hai mươi người cho yết ma Xuất tội.
Trường hợp che giấu có hai: phú dạ (che giấu qua đêm) và phú tâm (có tâm che giấu), nếu có tâm che giấu tội cho đến sáng hôm sau thì gọi là phú dạ, nếu không biết, không nhớ và không có tâm che giấu thì tuy đã trải qua đêm, cũng không phạm tội che giấu. Nếu sau đó nhớ lại, biết có tội liền phát lồ thì Tăng không cần tác yết ma cho người này hành biệt trụ, nên cho phát lồ sám hối các tội Ác tác. Nếu phạm hai tội, che giấu cả hai hoặc che giấu một tội, phát lồ một tội, hoặc phát lồ cả hai tội; hoặc nhớ phạm hai tội, hoặc chỉ nhớ một, quên một, hoặc quên cả hai tội...; hoặc đối với số ngày che giấu nhớ biết số ngày hoặc không nhớ biết..., pháp trị tội theo đó thành sai khác rất nhiều, đầy đủ như trong văn luật. Lại có bốn hạng người nên cho hành biệt trụ: một là người nhớ biết số tội nhưng không nhớ biết số đêm, hai là người nhớ biết số đêm nhưng không nhớ biết số tội, ba là người không nhớ biết cả hai, bốn là người đều nhớ biết cả hai. Lại nữa, khi đang hành biệt trụ lại tái phạm tội đồng tội trước, Tăng nên cho hành Bổn nhật trị biệt trụ để điều phục, tức là bỏ hết pháp biệt trụ đã làm và làm lại từ đầu; nếu khi đang hành Bổn nhật trị lại tái phạm tội đồng tội trước thì Tăng nên cho Trùng thu, tức là bỏ hết pháp Bổn nhật trị đã làm và làm lại từ đầu. Tóm lại pháp mà người hành biệt trụ đã làm có trắng đen sai khác, phân biệt có sáu:
Thuần đen: các ngày đã hành biệt trụ đều phi pháp vì tái phạm.
Phần nhiều đen: trừ những ngày hành biệt trụ như pháp ra, các ngày khác đều là phi pháp.
Hơn phân nửa đen: trừ những ngày hành Bổn nhật trị như pháp ra, các ngày khác đều là phi pháp.
Không tới phân nửa đen: trừ những ngày hành Trùng thu như pháp ra, các ngày khác đều là phi pháp.
Phần ít đen: trừ những ngày hành Ý hỉ như pháp ra, các ngày khác đều là phi pháp.
Thuần trắng: hành Ý hỉ xong được xuất tội được gọi là khéo xuất tội.
Nếu người hành biệt trụ như pháp xong thì tăng nên cho hành sáu đêm Ma-na-đỏa, nếu không có che giấu tội cũng nên cho hành pháp Ý hỉ rồi cho xuất tội. Nếu khi đang hành Ý hỉ lại tái phạm tội đồng tội trước thì Tăng nên cho Bổn nhật trị Ý hỉ, tức là bỏ pháp Ý hỉ đã hành và làm lại từ đầu. Nếu khi đang hành Bổn nhật trị Ý hỉ lại tái phạm tội đồng tội trước thì Tăng nên cho Trùng thu, tức là bỏ pháp Bổn nhật trị đã hành và làm lại từ đầu. Nói tội đồng loại là tội giống tội đã phạm trước đó, như phạm tội cố ý tiết tinh, sau đó tái phạm tội này, không phải tội khác, nếu không phải phạm tội đồng loại thì không hoại pháp đã làm. Nếu người phạm tội Chúng giáo thứ nhất che giấu một đêm, cho đến phạm cả mười ba pháp Tăng già bà thi sa che giấu mười ba ngày, muốn phát lồ phải dựa trên tâm mãnh liệt; nếu người có phiền não nặng thì nên cho hành biệt trụ và Ý hỉ trước, người bị trị phạt phải thuận hành theo những hành pháp đã có như không được thọ thiện Bí-sô kính lễ, cũng không được ngồi chung tòa, cùng đi ngang hàng, phải đi sau; không được cho người xuất gia thọ Cận viên, không được làm y chỉ, không được chứa nuôi Cầu tịch, không được thọ sai làm người giáo thọ ni chúng... Phải làm những việc như mở cửa, đốt đèn, quét dọn trong chùa và trong nhà vệ sinh cho sạch sẽ...; khi lễ Phật thì phải đứng dưới tất cả Cận viên, phải thu dọn ngọa cụ của Tăng và của các Thượng tòa... Khi hành pháp này không được ở chung với người đang hành biệt trụ, Ý hỉ hay người thọ học; không được ở trong chùa không có người, cũng không được ở trong chùa chỉ có hai, ba người; nên ở chung với bốn người thanh tịnh đồng kiến mà hành pháp này. Khi đang hành pháp nếu nghe có người đấu tranh sắp đến trú xứ này, nên đối trước một thiện Bí-sô xả hành pháp này, đợi khi người đấu tranh kia bỏ đi mới đến chỗ thiện Bí-sô thọ lại hành pháp. Nếu chưa hành biệt trụ mà cho hành Ý hỉ, hoặc hành biệt trụ mà không hành ý hỉ thì Tăng không nên cho xuất tội, nếu khéo hành cả hai pháp mới cho xuất tội. Có sáu hạng Bí-sô nếu phạm tội Chúng giáo được đối trước một Bí-sô sám hối trừ tội liền được thanh tịnh:
Là Bí-sô trì hết kinh tạng.
Là Bí-sô trì hết luật tạng.
Là Bí-sô trì hết luận tạng.
Là Bí-sô có tánh hổ thẹn, nếu phát lồ tội và phải hành pháp trị phạt thì sẽ hổ thẹn mà chết.
Là Thượng tòa lớn tuổi hạ nhất trong chúng.
Là Bí-sô có phước đức lớn.
Sở dĩ sáu hạng Bí-sô này cho dễ dàng được sám hối trừ tội vì tội diệt do tâm, không do nơi trị phạt; nếu đối với tội đã phạm, quyết tâm đoạn trừ thề không tái phạm thì tội liền tiêu diệt. Lại nữa, các bậc Thượng tòa kỳ đức thọ trì ba tạng nếu hành pháp trị phạt mà người khác thấy được sẽ chê bai, mất lòng tín kính nên Phật khai cho được đối trước một thiện Bí-sô sám hối trừ diệt.
Nhiếp tụng:
Nếu ở chỗ che khuất
Chỗ có thể hành dâm
Và chỗ không che khuất
Không có người thứ ba.
Phật tại vườn Cấp-cô-độc, rừng Thệ đa, thành Thất-la-phiệt, lúc đó Bí-sô Ô-đà-di ngồi kề sát người nữ tên Cấp đa ở chỗ khuất mà nói pháp. Ôba-tư-ca Tỳ-xá-khư thấy việc này rồi, trong lòng không nhẫn chịu được liền đến bạch Phật, Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô một mình cùng người nữ ngồi ở chỗ khuất, ở bên trong có thể hành dâm; nếu Ô-ba-tưca đáng tin nói Bí-sô này ở trong ba pháp hoặc là Ba la thị ca hoặc là Tăng già bà thi sa hoặc là Ba-dật-đề, tùy nói một việc nào; nếu Bí-sô này tự nói là tôi có ngồi ở chỗ như thế, thì trong ba pháp tùy Bí-sô nói là pháp gì, Tăng nên trị phạt tội đó hoặc là Ba la thị ca hoặc là Tăng già bà thi sa hoặc là Ba-dật-đề; hoặc tùy Ô-ba-tư-ca đáng tin nói là việc gì thì Tăng nên trị phạt tội đó. Đây là pháp bất định thứ nhất.
Trong pháp này có bốn việc là sự, xứ, tình và chứng làm thể. Nói sự là Bí-sô ngồi một mình với người nữ, nói xứ là ngồi ở chỗ khuất, nói tình là có thể cùng hành dâm, nói chứng là Ô-ba-tư-ca chánh tín tùy nói phạm một pháp trong ba pháp.
Bí-sô là người đã thọ Cận viên, trong giới này là người có tâm dục nhiễm hiện tiền; nói một mình là không có Bí-sô hay người nam nào khác, cũng không có Bí-sô ni hay người nữ nào khác; nói người nữ là chỉ cho người có thể làm việc dâm; nói chỗ khuất là chỗ có ngăn che có thể cùng hành dâm, trong phạm vi một tầm ngồi cạnh nhau cho đến nằm chung, hai thân xúc chạm.
Ô-ba-tư-ca chánh tín là chỉ cho người đã Kiến đế, tuy chưa Kiến đế nhưng nếu là hàng Dị sanh trung tín, lời nói đi đôi với việc làm thì Tăng nên tin lời người này, tùy nói Bí-sô phạm một pháp nào trong ba pháp Ba la thị ca, Tăng già bà thi sa và Ba-dật-đề mà trị phát Bí-sô ấy.
Bí-sô tự nói là như thật nói ra việc đã làm hoặc là Thô tội hoặc là tội Ác tác; sở dĩ nói là bất định là vì thể của tội này không có tướng xác định mà bao gồm nhiều tội.
Tướng phạm trong đây: tùy Bí-sô kia tự nói tội ra mà xử trị, nếu không tự nói thì Tăng nên bạch tứ yết ma cho cầu tự tánh tội, khi Tăng đã tác pháp rồi thì người bị trị phạt phải thuận hành theo những hành pháp đã có như không được cho người xuất gia thọ Cận viên, không được làm y chỉ, không được chứa nuôi Cầu tịch, không được thọ sai làm người giáo thọ ni chúng...; nếu không tuân hành theo thì phạm tội Ác tác. Tăng cũng nên hỏi Ô-ba-tư-ca kia: Bí-sô ngồi chung với người nữ có hình dáng, tướng mạo như thế nào và ở nơi đâu...; nếu có người thứ hai nhìn thấy việc này cũng nên hỏi như thế, nếu cả hai nói tương đương thì như lời của hai người nói mà trị phạt Bí-sô; nếu cả hai nói không tương đương thì nên theo lời Bí-sô tự nói mà xử trị.
Trong pháp bất định thứ hai khác với pháp thứ nhất ở chỗ là duyên khởi ở thành Vương xá, Bí-sô Thất lợi ca ngồi chung một chỗ với người nữ tên Tô đỗ đà. Ô-ba-tư-ca Ô Bao-sái-đà thấy và nói là ngồi ở chỗ không có che khuất, không thể cùng hành dâm nên không thể phạm tội Ba la thị ca. Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô một mình cùng người nữ ngồi chỗ trống vắng là chỗ không thể hành dâm. Nếu có Ôba-tư-ca đáng tin nói Bí-sô ở trong hai pháp hoặc Tăng già bà thi sa hoặc Ba-dật-đề, tùy nói một việc nào; nếu Bí-sô này tự nói là tôi có ngồi chỗ đó thì theo lời nói đó mà trị hoặc Tăng già bà thi sa hoặc Ba-dật-đề; hoặc theo lời của Ô-ba-tư-ca đáng tin nói mà trị. Đây là pháp Bất định thứ hai.
Các Đại đức, tôi đã nói xong hai pháp Bất định, nay xin hỏi các Đại đức, trong đây có thanh tịnh không? (3 lần). Các Đại đức, trong đây thanh tịnh vì im lặng. Việc này xin nhớ giữ như vậy.
Nhiếp tụng thứ nhất:
Giữ, lìa, chứa, giặt y,
Lấy y, xin, thọ quá,
Đồng giá và khác chủ,
Sai sứ đưa giá y.
Phật tại vườn Cấp-cô-độc, thành Thất-la-phiệt, lúc đó các Bí-sô do chứa nhiều y nên phế bỏ việc tu phẩm thiện, Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô đã may y xong, thời y Yết-sỉ-na đã hết, được cất chứa y dư cho đến mười ngày, nếu chứa quá mười ngày mà không làm pháp phân biệt thì phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề.
Nói may y đã xong là do đại y vương Thị phược ca cúng y cho Tăng nên Phật cho các Bí-sô cất chứa y, lúc đó Phật suy nghĩ: "thân ta mềm mại chỉ cất chứa ba y mà vẫn chống đỡ được trời lạnh, huống chi các Bí-sô thân cường tráng, cất chứa ba y lại không chống đỡ được khí lạnh hay sao". Do nghĩ như thế nên Phật chế các Bí-sô chỉ được thọ trì ba y, không được chứa dư; tuy vậy Phật vẫn khai cho cất chứa mười loại y, ngoài mười loại y này ra, các loại khác không như pháp thì không được cất chứa, đó là loại vải gai trắng, vải gai đỏ, Sô ma, Súy di la, Khâm bà la, Kiếp bối, Kiều thi da.... Nếu lộ hình hay bện tóc là hình nghi của ngoại đạo, không phải hình nghi của người xuất gia, ai làm theo thì phạm Thô tội; nếu mặc y phục của ngoại đạo thì phạm tội Ác tác. Nếu mặc y phục của người thế tục hay làm theo hình nghi của Bà-la-môn thì phạm tội Ác tác.
Tùy trường hợp thọ dụng ba y có sai khác, như khi làm việc ở trong chùa thì nên mặc y năm điều; nếu khi làm lễ hay thọ thực thì nên mặc y bảy điều; nếu vào tụ lạc khất thực hay vì chống rét lạnh thì nên mặc đại y. Trong ba y, hai y sau nên cắt rọc, nếu là người nghèo thì y sau nên cắt rọc để mặc khi vào tụ lạc. Vì sao không mặc y cắt rọc thì không được vào tụ lạc, vì y của Bí-sô khác với y phục thế tục ở hai điều: màu sắc và kiểu mẫu. Y phục của người tục toàn trắng và không cắt rọc, còn y phục của người xuất gia là hoại sắc và cắt rọc. Nếu được vải mới nên may y Tăng-già-lê và Ni-sư-đàn hai lớp, y Uất Đa-la tăng và y An-đà-hội một lớp; nếu y trước đã may ba lớp thì hai y sau may hai lớp cũng được. Nếu dùng vải chưa làm phân biệt để may thiếp lên y thì phạm tội Ác tác, đến ngày thứ mười một liền phạm Xả đọa. Nếu suy nghĩ muốn xin thêm vải để may thiếp lên y cho thành nhiều lớp nên tháo bỏ lớp thứ hai thì phạm tội Ác tác, đến ngày thứ mười một liền phạm Xả đọa; nếu suy nghĩ sau khi giặt nhuộm xong sẽ đem lớp vải tháo ra này may thiếp lên y tài này lại như cũ thì không phạm, nhưng đến ngày thứ mười một mà không may thiếp lên lại thì phạm Xả đọa. Nếu được vải cũ thì nên may y Tăng-già-lê và Ni-sư-đàn bốn lớp, y Uất Đa-la tăng và y An-đà-hội hai lớp; nếu là y phấn tảo hay y cũ rách thì được may nhiều lớp.
Cách thức may số điều và đàn cách của y: y An-đà-hội có một đàn cách dài và một đàn cách ngắn, y Uất Đa-la tăng có hai đàn cách dài và một đàn cách ngắn, đối với hai loại y này, nếu là người nghèo y tài không đủ để may cắt rọc thì Phật khai cho may thiếp lá, nếu tâm nghĩ là sau sẽ cắt rọc thì dù là y man điều cũng được thọ trì. Y Tăng-già-lê có chín loại đó là y 9 điều, 11 điều, 13 điều, 15 điều, 17 điều, 19 điều, 21 điều, 23 điều và 25 điều. Này ô Ba Ly, ba loại y thứ nhất có hai đàn cách dài, một đàn cách ngắn; ba loại y kế có ba đàn cách dài, một đàn cách ngắn; ba loại y sau cùng có bốn đàn cách dài, một đàn cách ngắn, nên may nên thọ trì, quá điều lượng này thành phá nạp. Y Tăng già chi có ba phẩm thượng trung và hạ, phẩm thượng bề đứng ba khuỷu tay, bề ngang năm khuỷu tay; phẩm hạ bề đứng hai khuỷu tay rưỡi, bề ngang bốn khuỷu tay rưỡi; ở giữa hai phẩm trên là phẩm trung. Y Ốt đát la tăng già và y An đát bà ta cũng có ba phẩm thượng trung hạ như Tăng già chi. Có hai loại An đát bà ta: một là bề đứng hai khuỷu tay, bề ngang năm khuỷu tay; hai là bề đứng hai khuỷu tay, bề ngang bốn khuỷu tay. Y trùm ba luân là lượng y nhỏ nhất để thọ trì, nếu người có thân to lớn mà khuỷu tay ngắn thì nên theo kích lượng của thân mà may y, ngoài trường hợp này ra, nếu may y quá lượng hay không đủ lương như đã chế định thì phạm tội Ác tác.
Cách thức giặt y: Bí-sô không nên bảo người giặt y thuê cho đến những nhà chuyên giặt y để giặt y, vì sợ làm hoại y. Bí-sô nên tự giặt y của mình, cho nước tro (xà bông) vào chậu giặt rồi dùng tay hay chân vò đạp từ từ và tẩy những chỗ dính dơ.
Cách nhuộm y: trước tiên lấy vỏ cây nhuộm đập nát rồi phơi khô, sau đó nấu thành ba lần nước nhuộm đựng trong ba chấu khác nhau. Khi sắp nhuộm nên cho ít nước nhuộm vào chậu rồi mới bỏ y vào từ từ để thử xem màu nhuộm như thế nào, không nên bỏ tất cả y vào một lượt, cũng không được vắt mạnh làm cho y tổn hoại, vắt xong nên rủ nhẹ vài lần rồi đem phơi.
Cách phơi y: khi phơi nên đưa thành viền của y lên trên rồi dùng dây cột hay dùng kẹp kẹp lại, nếu nước nhuộm đọng ở thành viền của y thì nên lật ngược lên, chớ để cho nhỏ giọt xuống và nên thường xuyên trông chừng. Nếu y quá nặng nên phơi trên cây khô và nên thường lật trở cho mau khô; nếu nhuộm y mới nên dùng nước nhuộm mới và phơi dưới ánh mặt trời; nếu là y cũ nhuộm lại thì dùng nước nhuộm cũ và phơi nơi thoáng mát. Đợi y khô rưới lên ít nước thấm đều cho y mềm và cũng để cho màu nhuộm được tươi, không phai. Ở trong chùa nhuộm y nếu làm dơ đất thì nên quét dọn sạch sẽ.
Cách cắt may y: nên cắt rọc và may y theo hình thửa ruộng, lá y day về hai bên, không nên chỉ day về một bên. Lá y có ba bậc thượng trung và hạ, lá y thượng rộng bốn lóng tay may như chân chim, lá y hạ chừng hai lóng tay, giữa hai lượng này là lá y trung. Cắt may đàn cách ngắn nên bằng phân nữa của đàn cách dài và day về phía đàn cách dài, sau khi may xong một điều nên xem đường chìm, đường nổi của y sao cho tương xứng nhau, nếu may khác là phi pháp. Thành viền bốn phía của y nên may hơi hẹp, cách thành viền bốn lóng tay ngay chỗ cạnh vai nên đặt cái bàn bà may thành ba lớp, trên đó làm dây khuy hay tra nút, nút có thể lớn như hạt Anh áo hoặc như hạt Quỳ hoặc như hạt Đường lê. Có năm loại không nên cắt rọc, đó là mền nệm, cao nhiếp bà, mền lông, mền dày và vải bá nạp (tấm vải may thành từ vải vụn). Nếu muốn cắt rọc y nên trải chiếu ở dưới đất, nếu không có chiếu nên rưới quét đất cho sạch rồi mới trải vài trên đất để cắt.
Có năm loại y: một là y có thí chủ (biết thí chủ cúng), hai là y không thí chủ (không biết thí chủ cúng là ai), ba là y vãng hoàn (y liệm người chết, người nhà lấy về mang đến cúng chùa ), bốn là y Thâm ma xá na (y vất bỏ trong Thi lâm), năm là y phấn tảo. Có năm loại y phấn tảo: một là y vất bỏ trên đường, hai là y vất bỏ ở bờ sông, ba là y vất bỏ nơi đồng hoang, bốn là y vất bỏ nơi đống phân và năm là y cũ rách. Lại có năm loại y phấn tảo: một là y bị bò nhai, hai là y bị chuột gặm, ba là y bị kiến đục, bốn là y bị cháy, năm là y của phụ nữ mới sanh vất bỏ. Do thể và xuất xứ của y phấn tảo này sai khác nên phân có mười loại như vậy, nói chung có bảy loại y là y lông, y sô ma, y Xa-nạchca, y Yết bá tử ca, y Độc cô lạc ca, y Cao thêm bạc ca và y A bàn lan đắc gia.
Cách duỗi và trương y Yết-sỉ-na:
Vào ngày 14 tháng 8, Bí-sô thọ sự bạch Tăng:
"các Đại đức, ngày mai chúng tăng hòa hợp cùng trương y Yết-sỉ-na", sáng ngày 15 chúng tăng hoà hợp nhóm tác bạch nhị yết ma sai người có đủ năm đức làm người trương y Yết-sỉ-na rồi bạch nhị giao y cho vị này, vị này thọ y rồi cùng các Bí-sô giặt nhuộm cho đến cắt may y tài này, cho đến chỉ may ba mũi kim cũng phải cùng làm. Người may y nên khởi ba tâm: "y này ta và Tăng sẽ trương (đang trương và đã trương) làm y Yết-sỉ-na", trong ba tâm này, chỉ cần làm theo hai tâm sau thì cũng thành tác pháp, nếu không khởi ba tâm này thì phạm tội Ác tác; nếu người an cư chỗ khác đến trú xứ này làm người trương y thì cũng thành trương y. Vào ngày 15, người trương y nên bạch chúng tăng: "ngày mai tôi sẽ vì Tăng trương y Yết-sỉ-na, các Đại đức nên xả ba y củ mình rồi mang đến trong Tăng". Sáng hôm sau, vị trương y để y Yếtsỉ-na trên cái mâm sạch rồi dùng hương bột và các loại hoa thơm cúng dường, mang đến trước vị Thượng tòa thủ chúng bạch:
Đại đức tăng lắng nghe, y này Tăng đã chấp thuận trương làm y Yết-sỉ-na, Tăng đã sai tôi là Bí-sô __________ làm người trương y Yết-sỉ-na, nay tôi đem y này vì Tăng trương làm y Yết-sỉ-na. Bạch như vậy (ba lần).
Bạch rồi liền ở trước Thượng tòa duỗi trương y ra, Thượng tòa nói: "lành thay trương y, trong đây có lợi dưỡng cho đến có lợi ích gì, tôi đều sẽ được thọ", làm như vậy cho đến người cuối cùng. Người trương y không được mang y Yết-sỉ-na đến trong nhà xí, nhà bếp và cũng không được mang y ra khỏi giới, nếu có duyên sự cần đi cũng không được ở qua đêm. Nếu Tăng bị phá thì chúng như pháp nên trương y, nếu cả hai chúng đều cùng trương y thì những lợi dưỡng có được, chúng như pháp đều được thọ. Nếu trong hạ an cư được nhiều y tài, nên chọn lấy một y để làm y Yết-sỉ-na, những y còn lại tùy ý chia. Y được chọn làm y Yết-sỉ-na phải là y mới đã giặt nhuộm, chưa từng đắp mặc và cũng không phải là y cấp thí, tùy trong ba y phải may thành một y, nếu may chưa xong thì không cho duỗi trương làm y Yết-sỉ-na. Y như pháp đúng lượng là dài năm khuỷu tay, nếu thể y thưa mỏng hoặc thuộc loại y vãng hoàn hoặc y Man điều thiếp lá, hoặc đã từng mặc rồi hoặc là y phạm Xả đọa hoặc là cũ rách thì không được trương làm y Yết-sỉ-na. Nếu vào ngày 15 được y đã may xong cũng được lấy làm y Yết-sỉ-na, những người cùng ở trong giới và là thiện Bí-sô đều được cùng trương y Yết-sỉ-na. Có mười hạng người không cho đồng thọ y Yết-sỉ-na: một là người chưa có tuổi hạ, hai là người phá hạ, ba là người hậu an cư, bốn là người an cư ở trú xứ khác, năm là người vắng mặt trong lúc trương y, sáu là người đang hành biệt trụ, bảy là người đã hành biệt trụ xong, tám là người đang hành ý hỉ, chín là người đã hành Ý hỉ xong, mười là người thọ học. Lại có năm hạng người không được thọ lợi dưỡng và các lợi ích, đó là ba hạng người bị xả trí, người an cư ở trú xứ khác và bạn đảng trợ giúp phá tăng. Thọ y Yết-sỉ-na có mười lợi ích:
Là được chứa y dư quá mười ngày.
Là được chứa y dư hơn một tháng.
Là được lìa y ngủ đêm.
Là được mặc hay y thượng hạ tùy ý du hành.
Là được chứa nhiều ba y.
Là được ăn riêng chúng.
Là được thường thường ăn.
Là không thọ thỉnh, được tự đến thọ thực.
Là được phi thời vào tụ lạc mà không cần dặn lại.
Là được tùy ý đến nhà học gia đắc pháp thọ thực.
Xuất y Yết-sỉ-na: đến ngày 15 tháng giêng, người trương y nên bạch chúng tăng: "các Đại đức, ngày mai Tăng cùng xuất y Yết-sỉ-na, mọi người phải thủ trì y của mình", sáng hôm sau, Tăng nhóm hòa hợp bạch nhị xuất y; nếu nghe có giặc đến sợ bị cướp nên tuy chưa đến giờ cũng được xuất y, nếu có lợi vật cũng cùng chia luôn. Có tám trường hợp xuất y Yết-sỉ-na như nhiếp tụng nói:
Quyết đi không nhất định, Quyết định đi, mất y, Nghe xuất, xuất giới, nghi, Mong dứt, đồng tâm xuất.
Quyết đi không nhất định: như có Bí-sô không thích ở trú xứ này, muốn đi đến nơi khác, không định trở lại nhưng ý quyết ra khỏi giới là không nhất định.
Quyết định đi: như có Bí-sô ra ngoài giới xin y, chưa may hoặc may được phân nửa, đối với lợi vật cho đến trú xứ có tâm muốn trở lại hoặc không muốn trở lại, hoặc muốn hoặc không muốn hoặc muốn trở lại may y tiếp, hoặc khởi nghi niệm nhưng quyết ý đi thì liền mất y.
Mất y: khác với trường hợp trên ở chỗ bỏ đi không muốn trở lại, cũng không muốn may y tiếp nữa thì liền mất y.
Nghe xuất: như có Bí-sô ra ngoài giới may y, vừa may liền nghe xuất y, lúc đó liền mất y.
Xuất giới: như có Bí-sô ra ngoài giới xin y, từ xa nghe đại chúng xuất y, sanh tâm tùy hỉ liền mất y.
Nghi: như có Bí-sô suy nghĩ: "nếu y may không xong sẽ trở lại hoặc không trở lại", nghĩ rồi bỏ đi, ra khỏi giới liền mất y.
Mong dứt: như có Bí-sô bổn tâm ra ngoài giới rồi sẽ trở lại, nhưng khi đến trú xứ kia không xin được y, dứt hy vọng liền mất y.
Đồng tâm xuất y: như có Bí-sô ra ngoài giới xin y, sau đó trở lại trong giới cùng chúng tăng xuất y.
Nếu Tăng bị phá thì bộ chúng nào trương y nên trở về bộ chúng ấy để hòa hợp xuất y, bộ chúng nào trương y thì được lợi ích trong năm tháng, bộ chúng nào không trương y thì chỉ được lợi ích trong một tháng.
Đứng trên nghĩa chắc thật và tinh diệu mà có tên gọi là Yết-sỉ-na, do đại chúng thọ y nên y có công năng gánh vác khiến không trái phạm nên có nghĩa là chắc thật và do thể của y này tinh diệu.
Nói y dư là ngoài ba y thọ trì, những y khác đều gọi là y dư, nhưng nếu thể của các y dư này là thanh tịnh như pháp thì khai cho làm phân biệt để cất chứa thọ dụng. Bí-sô được cất chứa mười ba tư cụ y: một là Tăng-già-lê, hai là Uất Đa-la tăng, ba là An-đà-hội, bốn là Ni-sư-đàn, năm là quần, sáu là phó quần (quần thứ hai để thay đổi), bảy là Tăng khước kỳ, tám là phó Tăng khước kỳ (cái thứ hai để thay đổi), chín là khăn lau mặt, mười là khăn lau mình, mười một vải băng bó ghẻ (vết thương), mười hai là khăn cạo tóc, mười ba là vải đổi thuốc. Đối với mười ba tư cụ y này, Bí-sô nên thọ trì từng loại, nên đối trước một Bí-sô nói tên ra để tác pháp thọ trì, như y Tăng-già-lê nên nói như sau:
Đại đức nhớ nghĩ, tôi là Bí-sô __________ , y Tăng-già-lê này từ nay tôi xin thọ trì, đã cắt rọc thành y là vật mà tôi thọ dụng (ba lần)
Những y khác đều dựa theo đây mà tác pháp thọ trì, nếu là y tài chưa giặt nhuộm, chưa cắt rọc may thành y, tạm thời sung vào số ba y để thọ trì thì nên bạch như sau:
Đại đức nhớ nghĩ, tôi là Bí-sô __________ , y tài này nay tôi xin thọ trì, sẽ cắt rọc may thành y Tăng-già-lê chín điều, hai đàn cách dài, một đàn cách ngắn, là y tôi thọ dụng (ba lần).
Nếu có duyên sự phải xả ba y, nên đối trước một Bí-sô bạch như sau:
Đại đức nhớ nghĩ, tôi là Bí-sô __________ , y Tăng-già-lê này trước đã thọ trì nay xin xả (ba lần).
Hai y kia cũng nói như vậy, nếu là tấm giạ lông dài hay lớn nặng thì không được thọ trì, nhưng nếu khởi tâm ký gởi cho người khác thì có thể thọ dụng, nên tâm nghĩ miệng nói như sau: "đây là vật của thí chủ tên __________ , tôi cất giữ giùm và thọ dụng", không cần làm phân biệt, vì Phật khai cho cất chứa để ngăn lạnh rét; nếu để ngăn nóng, Phật khai cho cất chứa các loại y vật thưa mỏng tùy thời thọ dụng.
Cách may đãy y: chiều dài ba khuỷu tay, chiều rộng một khuỷu tay rưỡi, gấp chiều dài làm hai lớp may đính hai đầu, chừa miệng đãy ở giữa, để y bên trong; nơi miệng đãy y nên may thêm dây kéo để côn trùng không chui vào bên trong. Khi để y nên để theo thứ tự ba y ở trên các y vật khác, nên giữ ba y như giữ da trên thân: một là khiến thí chủ được thêm phước, hai là khiến người thọ dụng không bị thiếu thốn.
Cách may áo gối: chiều dài bốn khuỷu tay, chiều rộng hai khuỷu tay gấp lại may dính, chừa một khoảng để dồn bông hay lông dê vào bên trong rồi mới may dính lại, khi nằm dùng để gối đầu.
Cách may mùng: chu vi mười hai khuỷu tay, bên trên có nóc, tùy thân hình lớn nhỏ hay cao thấp mà bốn góc dựng bốn cây cột rồi dùng dây cột vào. Mỗi người chỉ được chứa ba y, những y dư khác đã may thành hay chưa may thành đều phải làm phân biệt, nên bạch với Thân giáo sư và Quỹ phạm sư rồi đến trước người đồng phạm hạnh, hoặc người trì giới đa văn có đức hạnh để tác pháp ký gởi phân biệt thọ trì như sau:
Đại đức nhớ nghĩ, tôi Bí-sô tên __________ có y dư này chưa tác pháp phân biệt, nay đối trước Đại đức phân biệt để thọ trì. (ba lần).
Nếu người ký gởi đang ở nơi xa, từ xa làm pháp ký gởi cũng không phạm, khi làm pháp phân biệt không nên đối trước người ký gởi mà nên đối trước một người khác, người ký gởi cũng không nên lấy y vật làm phân biệt của người kia, vì tác pháp ký gởi này không phải là thật thí. Nếu người ký gởi qua đời, Bí-sô nếu chưa nghe tin thì pháp làm phân biệt vẫn thành, nhưng khi nghe tin rồi thì phải nói tên người khác làm người ký gởi mà không phải nói cho người đó biết. Sở dĩ Phật khai cho làm pháp phân biệt là để ngăn hai lỗi: một là được cất chứa y dư mà không phạm, hai là không bị thiếu thốn; nhưng người cất chứa y dư nên biết năm điều: một là biết hạng người nào được cất chứa, hai là biết thọ từ đâu, ba là biết tránh điều gì và nên làm điều gì, bốn là biết xả bỏ, năm là biết thọ dụng.
Hạng người được cất chứa y dư: là người ít tài lợi hoặc bẩm tánh ưa thích hoặc theo ý thích mà từ cõi trời đọa xuống nhân gian, hoặc thân có bịnh khổ, dơ bẩn, nhiều rận hoặc ở chỗ quá nóng hay quá lạnh, hoặc là người trông coi việc xây cất. Do những người này có thể nhiếp niệm nên Phật khai cho cất chứa y dư.
Thọ từ đâu: từ người xuất gia hay từ tại gia, nhưng nếu đó là người nghèo khổ, tuy họ có tâm bố thí thì Bí-sô cũng không nên đến xin, dù họ mang đến cúng cũng không nên thọ, vì sợ họ bị thiếu thốn khổ sở; cũng không thọ từ người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại, cho đến những hạng người như giặc cướp, đồ tễ, Chiên-đà-la... mang đến cúng cũng không nên thọ. Nhưng Bí-sô được thọ những loại y vật nào: nếu là Giạ lông quý giá, y lông cừu cho đến y vật làm bằng da thú thì không nên thọ. Tuy nhiên Phật khai cho các Bí-sô ở nơi biên địa được mang giày da một lớp, gọi biên địa là từ phía Đông trở ra đến rừng Bôn đồ, phía Tây trở ra đến thôn Nhị tốt thổ nô, phía Nam trở ra đến sông Nhiếp phạt la phạt để, phía Bắc trở ra đến núi Ốt thi la, như nhiếp tụng:
Đông đến rừng Bôn đồ, Tây. thôn Nhị thổ nô, Nam đến sông Phạt để, Bắc. núi Ốt thi la.
Nếu thợ săn cúng da gấu thì thọ không phạm, dùng làm tọa cụ hay vật lau chân có thể trị được bịnh Trĩ và làm cho mắt sáng. Nếu đến trong nhà cư sĩ, có thể ngồi trên ngọa cụ bằng da nhưng chỉ được ngồi không được nằm, vì muốn làm lợi ích cho thí chủ. Đầu tiên Phật vì Bí-sô Ức nhĩ mà khai cho người ở Trung phương được mang giày da một lớp, sau đó vì Bí-sô Mạc ha la nên Phật chế ngăn lại, nhưng sau đó khai cho dùng trở lại. Nếu là giày da nhiều lớp thì nên nhờ người tục mang đi vài bước rồi mới thọ dụng, nhưng nếu là loại giày có đế khi đi phát ra tiếng hoặc có kiểu dáng như sừng dê hoặc có thêu hoa văn nhiều màu sắc thì dứt khoát không được dùng. Giày làm bằng da gân của năm loại thú như voi, ngựa, sư tử, hổ và báo cũng không được dùng. Nếu là nơi lạnh rét, nước ở đó đóng băng thì Bí-sô được mang giày ủng, mang bao tay... để chống rét. Nếu ở trong chùa, khi vào nhà xí được mang guốc gỗ nhưng giày đan bằng cỏ gai... thì không nên mang; nếu Bí-sô có bịnh máu nóng nơi chân thì được mang giày cỏ. Nếu Bí-sô có thể tự may vá giày thì nên làm ở chỗ khuất, chớ để người tục thấy, được cất chứa các dụng cụ như dùi, dao... không phạm.
Tránh điều gì và nên làm điều gì: phải cẩn thận giữ gìn ba y và các y vật khác, không nên để ở những nơi có trùng kiến đục khoét hay có chuột gặm, hoặc đất sạt lở, nước thấm làm tổn hoại. Nếu Bí-sô ở nơi A-lan-nhã thì không nên cất chứa y vật quý giá, nên ký gởi ở trong thôn; cũng không nên ngủ nghỉ ở nơi không có Bí-sô và không có cửa nẻo, khi đi du hành phải mang theo đại y, nhưng có năm trường hợp có thể không mang theo đại y: một là đến chỗ có Bí-sô ở và có cửa nẻo, hai là nghi sẽ có mưa lớn, ba là phải lội qua sông suối, bốn là trong thời thọ y Yết-sỉ-na, năm là được Tăng tác pháp cho lìa y. Khi mặc đại y nên tránh ngồi chỗ đất cứng, thô rít..., nên trải tọa cụ rồi mới ngồi; khi du hành gặp gai góc nên vén y lên đi, đừng để rủ xuống bị gai móc rách; nếu y bị rách nên vá khâu lại, dơ nên giặt; nếu nên giặt, nhuộm, may vá mà không giặt nhuộm hay may vá thì phạm tội Ác tác. Khi làm việc nhọc không nên mặc y Tăng-già-lê, khi đi đường cũng không được dùng lót ngồi hay trải nằm; nếu không có vật khác thì dùng để lót ngồi năm cũng không phạm, nhưng khi nằm phải thức nhiều ngủ ít, cũng không nên bạ đâu nằm đó tùy tiện...
Biết xả bỏ: nếu người có bẩm tánh ưa phục sức nên chứa nhiều y thì nên xả bỏ để đối trị tham dục, nên mặc y phấn tảo. Người mặc y phấn tảo và người thường ở nơi Thi lâm thì không nên thọ y vật quý giá của Tăng như nệm lông, Giạ lông quý giá. Người mặc y của tử thi ở nơi Thi lâm thì không nên vào trong chùa lễ tháp, nếu muốn lễ tháp phải cách xa khoảng một tầm, cũng không được ngồi trên ngọa cụ của Tăng, không được vào trong chúng và cũng không được thuyết pháp cho cư sĩ. Nếu có việc phải đến nhà cư sĩ thì nên đứng ngoài cửa, nếu chủ nhà mời vào thì nên vào nhưng không nên ngồi.
Biết thọ dụng: khi cất chứa y vật thọ dụng nên khởi niệm: "y vật này do thí chủ cúng, cất chứa thọ dụng là để hộ thân và làm trợ duyên cho việc tu phẩm thiện, vì lợi mình lợi người mà thọ dụng", nếu không khởi niệm như vậy mà cất chứa thọ dụng thì phạm tội Ác tác.
Tướng phạm trong đây là được cất chứa y dư trong mười ngày không phạm, nếu không làm phân biệt thì qua đến ngày thứ mười một, khi mặt trời mọc liền phạm Xả đọa; Xả đọa là y này nên xả, tội này nên sám. Nếu từ ngày mồng một được một y hay nhiều y, trong vòng mười ngày nên làm pháp phân biệt, nên thủ trì hay nên xả; nếu không làm như thế thì đến ngày thứ mười một, khi mặt trời mọc liền phạm Xả đọa. Nếu vào ngày mồng một được y, ngày mồng hai lại được y, cho đến ngày mồng mười cũng được y; y được trong ngày mồng một và những ngày tiếp sau đó nếu không làm phân biệt thì qua ngày thứ mười một liền phạm Xả đọa, vì y được trong ngày trước tương tục lây nhiễm nên phạm; y phạm Xả đọa có kích thước nhỏ nhất là dài rộng một khuỷu tay.
Nếu đã làm phân biệt, tưởng chưa làm phân biệt thì chỉ phạm Đọa, vì không có vật cần xả; nếu vì Tam bảo cất y thì không phạm. Nếu khi thí chủ cúng y nói rằng: "đây là vật của tôi, thầy hãy thọ dụng", thì tuy không làm pháp phân biệt, thọ dụng không phạm. Nếu khởi niệm: "y này đến ngày __________ , tôi sẽ làm pháp phân biệt, hoặc đến ngày thứ mười sẽ làm pháp phân biệt", thì trong khoảng mười ngày đó cất chứa không phạm. Nếu không khởi niệm này thì mỗi ngày trôi qua đều phạm tội Ác tác, không nhớ thì không phạm. Nếu người nhiều tham nhiễm trói buộc, hoặc vì ngu si, hôn trầm, phóng dật mà không lam pháp phân biệt thì phạm bổn tội. Nếu y phạm Xả đọa là loại bị trùng cắn, kiến đục, chuột gặm... thì chỉ cần sám tội, không cần xả vật; nếu cất chứa trong mười ngày mà y bị tổn thất thì không phạm. Nếu cất chứa y được năm ngày bỗng điên cuồng thì sau khi trở lại được bổn tâm, khai cho cất chứa thêm năm ngày nữa; những nghĩa thông bít khác tùy việc suy ra nên biết.
Phật tại vườn Cấp-cô-độc, thành Thất-la-phiệt, lúc đó có Bí-sô gởi y cho người rồi mặc hai y thượng hạ du hành trong nhân gian; người nhận y ký gởi phải coi giữ vất vả, Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô đã may y xong, thời y Yết-sỉ-na đã hết, nếu trong ba y, lìa một y nào ra ngoài giới ngủ dù chỉ một đêm thì phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề, trừ Tăng yết ma cho.
Lìa một trong ba y này sở dĩ kết phạm là dựa trên thọ trì rồi mà lìa, những y vật khác tuy đã thọ trì nhưng lìa ngủ đêm lại không phạm. Riêng Ni-sư-đàn nếu không mang theo thì không được ở lại qua đêm nơi chùa khác, nếu có trở duyên không về được, phải ở lại đêm thì nên mượn tạm thọ dụng; nếu ban ngày đến chỗ tịch tĩnh thiền tọa hay đi khất thực, định về trong ngày nhưng không trở về kịp, phải ở lại đến sáng hôm sau thì không phạm. Có ba trường hợp lìa y: một là do chỗ cất, hai là do thất niệm, ba là do thọ dụng.
Do chỗ cất là cất y nơi chỗ có chướng nạn nên không thể đến xem, hoặc do đây y bị thất lạc.
Do thất niệm là không nhớ chỗ đã cất y. Do thọ dụng là vừa cất y bỗng gặp trở duyên nên không thể thọ dụng.
Trong ba trường hợp này tuy lìa y nhưng từ lúc lìa y cho đến khi mặt trời chưa mọc mà trở về kịp bên y thì không phạm. Nói trừ Tăng tác pháp cho lìa y là như trường hợp tôn giả Xá-lợi-phất và Đại Cadiếp; hoặc người già bịnh không đủ sức mang theo, xả bỏ thì không phạm.
Về chỗ phạm bao gồm một thôn nhà, tức là người ở núi rừng cùng xây một dãy nhà ở chung, trong ngoài phạm vi của dãy nhà khoảng một tầm là thế phần của nhà; nhiều thôn nhà là nhà xây rải rác ở cách xa nhau nên có thế phần riêng biệt. Tường vách thôn có thế phần ngang đến chỗ mà sáu con bò kéo xe chở tre quay đầu lại được, hoặc chỗ mà con gà bay đáp xuống; hàng rào thôn có thế phần ngang đến chỗ mà bò dê in dấu chân khi vào thôn, hoặc đến chỗ mà người có hổ thẹn đi đại tiểu tiện. Hào thành thôn có thế phần ngang đến chỗ mà mười hai cái thang bắt ngang được, hoặc chỗ mà khi đổ rác văng tới được. Nếu Bí-sô ở trong thế phần của thôn và y để trong thôn hoặc ngược lại thì không phạm lìa y, nếu khác với đây thì phạm tội lìa y. Lại có trường hợp một thôn có một thế phần như thôn này có một vườn rừng và một nhà để dân chúng tụ họp và một miếu thờ trời; nhiều thôn có một thế phần thì giống như trên. Lại có trường hợp một thôn có nhiều thế phần la chỗ ở chung có nhiều vườn cây và nhiều cửa ngỏ; nhiều thôn có nhiều thế phần thì giống như trên, cho đến mười hai chỗ như nhà, cửa hàng, quán, lầu, sân, sảnh đường, nhà ngoại đạo, nhà kỷ nhạc, xe, thuyền, rừng, cây như trong văn luật có nói rõ. Trong đây nếu nhà chỉ có một chủ hoặc anh em ở chung thì chỉ có một thế phần, khác với đây thì có nhiều thế phần; chỗ cây giao nhau là một thế phần, khác với đây là có nhiều thế phần... Nếu Bí-sô thân ở trong thế phần này, y để trong thế phần khác thì phạm tội lìa y, nếu khi đang kết giới y, thân và y ở hai chỗ khác nhau, hoặc thân ở trên không trung, y ở trong giới thì phạm tội lìa y, nếu không có kết giới y thì trú xứ của Bí-sô có thế phần ngang tới tường rào, nếu trên đường đi thì thế phần là trong khoảng bốn mươi chín tầm, chỗ ngồi nằm có thế phần là một tầm.
Phật tại vườn Cấp-cô-độc, rừng Thệ đa, thành Thất-la-phiệt, lúc đó các Bí-sô cất chứa y dư phi thời trải qua một tháng hoặc hơn nên phế bỏ chánh nghiệp, Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô đã may y xong, thời y Yết-sỉ-na đã hết, nếu được vải phi thời, Bí-sô cần y thì được tự tay thọ, thọ rồi nên mau may thành y. Nếu đủ vải thì tốt, nếu không đủ mà biết còn có thể được thêm cho đủ thì Bí-sô này được cất chứa trong vòng một tháng để được thêm cho đủ. Nếu cất chứa quá một tháng thì phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề.
Nói được vải phi thời là ngoài thời y năm tháng hoặc một tháng ra đều gọi là phi thời; nếu là thời y, được cất chứa y dư không làm phân biệt thì không phạm; nếu là phi thời mà được y, do không đủ vải để may, lại có chỗ mong cầu cho đủ thì được cất chứa trong vòng một tháng để chờ cho đủ.
Nói có chỗ mong cầu cho đủ là từ nơi thân hữu hoặc từ A-giá-lợi-da hoặc gặp đại hội năm năm...; nếu dứt hy vọng thì chỉ được chứa trong mười ngày, qua ngày thứ mười một phạm Xả đọa; nếu còn hy vọng thì được chứa trong một tháng chờ xin thêm cho đủ, quá một tháng mà không làm phân biệt thì phạm Xả đọa.
Phật tại vườn Cấp-cô-độc, thành Thất-la-phiệt, lúc đó Bí-sô Ô-đà-di bị xuất tinh làm dơ quần nên đưa cho Bí-sô ni Cấp đa vốn là vợ cũ trước kia giặt giùm. Bí-sô ni này lấy chất bất tịnh này để vào trong nữ căn và trong miệng nên có thai... như trong quảng luật có nói rõ. Phật nhân việc này chế học xứ: Nếu Bí-sô nhờ Bí-sô ni không phải là bà con giặt, nhuộm, đập y cũ thì phạm Ni-tát-kỳ-Ba-dật-đề.
Thân tộc là trong bảy đời từ ông bà cha mẹ trở lại có quan hệ về huyết thống thì gọi là thân tộc, khác với đây thì gọi là không phải thân tộc. Nói y cũ là y đã từng mặc qua và thể của y là đã thọ trì thanh tịnh như pháp thì mới phạm; nếu đối tượng được sai là môn đồ thì không phạm, nếu sai giặt chăn nệm thì phạm tội Ác tác. Nói giặt là ít nhất đem ngâm trong nước, nhuộm là ít nhất nhúng vào trong nước thuốc nhuộm, đập là ít nhất dùng tay đập một cái.
Thật không phải là thân tộc, tưởng không phải thân tộc và nghi mà sai giặt, nhuộm đập thì phạm Xả đọa; thật là thân tộc, tưởng không phải thân tộc và nghi mà sai giặt nhuộm đập thì phạm tội Ác tác. Nếu khi đưa y cho giặt mà Bí-sô ni chuyển căn hay hoàn tục thì Bí-sô phạm phương tiện tội; không phạm là nhờ Bí-sô ni là bà con hoặc tự giặt. Về giặt nhuộm đập có bốn trường hợp: không giặt (nhuộm đập), giặt (nhuộm đập) sơ sơ, giặt (nhuộm đập) kỹ và quá kỹ; tùy trường hợp mà phạm có nặng nhẹ sai khác. Nhuộm có hai loại màu sắc phi pháp: một là tám màu sắc chính và hai là màu đỏ đậm hay lợt, như bài tụng:
Tử khoáng, hồng lam, uất kim hương,
Chu sa, xanh đậm và đỏ hồng,
Vàng, đan tô là tám sắc chính.
Đỏ đậm hay nhạt đều không nhuộm.
Nếu có thí chủ đem y có màu sắc chính đến cúng, Bí-sô thọ rồi nên nhuộm cho hoại sắc rồi mới mặc, khi mặc y nên xả ba tâm và khởi năm tâm. Nói ba tâm là tâm ưa thích phục sức, tâm khinh tiện thọ dụng (không quý tiếc); tâm cầu danh là như giả dối mặc y cũ rách để người khác biết mình có đức hạnh, mong được danh dự và lợi dưỡng. Vì thế, Bí-sô nên xả ba tâm này, mặc y hoại sắc cốt để che thân, thuận theo lời Phật dạy, siêng tu phẩm thiện. Nói năm tâm là biết lượng, biết gián cách, biết suy xét, biết thời và biết số. Biết lượng là khi thọ dụng y nên biết lượng độ cũ mới mà dùng; biết gián cách là không nên mặc hoài một y sẽ khiến y hôi và mau rách, nên mặc thay đổi; biết suy xét là nên xét nghĩ đến công lao của người làm ra nó và của thí chủ mang đến cúng là khó được mà nghĩ báo ân, khi thọ dụng chớ làm điều phi pháp; biết thời là tùy thời lạnh nóng mà mặc cho thích hợp, nếu mặc trái thời sẽ tổn mình và người, tổn mình là không lợi cho bản thân, tổn người là phước thí không tăng; biết số là ngoài ba y còn có mười ba tư cụ giúp thân, nếu chứa nhiều sẽ tăng tham nhiễm, phế bỏ chánh nghiệp như nhiếp tụng:
Biết lượng, biết gián cách,
Suy xét và biết thời,
Biết số thọ dụng y,
Mình người đều được lợi.
Nếu cần giặt y thì nên tự giặt hoặc bảo môn đồ giặt, hoặc người đáng tin giặt. Giặt y có năm lợi: một là tẩy trừ mùi hôi, hai là rận không sanh, ba là thân không ghẻ ngứa, bốn là giữ màu nhuộm được lâu, năm là thọ dụng được lâu. Mặc y hoại sắc cũng có năm lợi: một là thuận theo hình nghi của Phật, hai là khiến lìa kiêu mạn, ba là không bị trần cấu, bốn là không sanh rận, năm là xúc chạm mềm mại dễ mang theo. Giặt y quá kỹ lại có năm lỗi: một là làm y mau rách, hai là thọ dụng không lâu, ba là không yên tâm, bốn là không lợi ích, năm là chướng ngại tu thiện phẩm. Nhuộm y màu sắc đẹp lại có năm lỗi: một là tăng trưởng kiêu mạn, hai là khiến người khác tật đố, ba là người khác thấy cho là mình thích đẹp, bốn là khi cần xin y rất khó được, năm là chướng ngại tu phẩm thiện. Nhuộm quá kỹ và đập quá kỹ cũng vậy, đều khiến thọ dụng không lâu; nếu được thí chủ cúng y cực đả ( y dày chắc ) có màu sắc tươi sáng thì nên làm cho hoại sắc rồi mới dùng.
Phật tại vườn Cấp-cô-độc, thành Thất-la-phiệt, lúc đó Bí-sô Ô-ba-nan-đà từ Bí-sô ni Ốt bát la thọ y mà chúa giặc đã cúng cho cô... Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô thọ y từ Bí-sô ni không phải bà con thì phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề, trừ trao đổi.
Nếu thọ y từ Bí-sô ni không phải bà con thì chỉ biết thọ mà không đoái hoài đến người kia có đủ y hay không, ngược lại nếu là bà con thì sẽ đoái hoài đến, vì thế Phật chế không cho thọ từ chỗ không quen biết. Nói trừ trao đổi là lấy y đổi y hoặc đồng thể hay khác thể, hoặc đổi bằng giá hoặc đổi bằng nửa giá, hoặc ít hơn hay nhiều hơn, hoặc xấu hơn hay tốt hơn, hoặc tương tợ hoặc đổi theo ý người chủ y, hoặc quán biết ý người kia vì thương xót mà thọ nhận, hoặc vì báo ân... đều không phạm. Nếu đổi với tâm dối trá, khinh mạn thì phạm tội
Ác tác; nếu không có hai y thượng hạ thì được thọ, nếu thọ quá thì phạm Xả đọa; cảnh tưởng và nghi đều giống như giới trước. Không phạm là do nghe diệu pháp sanh tâm kính trong mà cho, hoặc cho lúc đang thọ Cận viên, hoặc trả lại bằng giá, hoặc biết ni kia là người nhiều phước đức, hoặc người kia đem y đến để trước mặt Bí-sô nói rằng: "đây là y dư của tôi, tôi không có thiếu thốn, hãy vì tôi thọ dụng y này", nói rồi bỏ đi, Bí-sô thọ lấy không phạm; hoặc khởi tưởng là thân hữu, hoặc nghĩ là tạm dùng đều không phạm.
Phật tại vườn Cấp-cô-độc, thành Thất-la-phiệt, lúc đó Bí-sô Ô-ba-nan-đà là người khéo hay thuyết pháp, người nghe sanh tâm tín kính và hứa sẽ cúng y. Ô-ba-nan-đà nghe rồi liền tìm đến nhà đòi hỏi..., Phật nhân việc này chế học xứ: Nếu Bí-sô đến cư sĩ hay vợ cư sĩ không phải bà con xin y, được y thì phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề, trừ nhân duyên. Nhân duyên là y bị cướp, bị mất, bị cháy, bị trôi.
Đối tượng là cư sĩ và vợ cư sĩ mới phạm, nếu là huỳnh môn, người hai căn, ngoại đạo thì chỉ phạm tội Ác tác. Xin là tự xin hay nhờ người xin giùm; y bị cướp là bị giặc cướp hay người cho rồi sau đó đoạt lấy lại; y bị mất là bị thất lạc hay bỏ quên hay bị trùng cắn chuột gặm làm hư hoại. Nói y là bao gồm giá tiền, màu sắc và kích lượng; giá tiền là như trị giá năm Ca lợi sa ba noa; màu sắc là xanh, vàng, đỏ...; kích lượng là chiều dài năm khuỷu tay...
Tướng phạm trong đây là khi mới xin thì phạm tội Ác tác, xin được vào tay liền phạm Xả đọa; cảnh tưởng và nghi giống như giới trước; nếu hiện thân tướng ân cần cầu xin hay đưa thư sai sứ đến... đều phạm tội Ác tác. Không phạm là y bị mất... hoặc không xin mà tự được, hoặc xin miếng vải nhỏ mà được cả tấm... thì không phạm.
Phật tại vườn Cấp-cô-độc, thành Thất-la-phiệt, lúc đó Lục chúng Bí-sô bị giặc cướp y liền nhân việc này xin y quá phần... nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô, y bị cướp hoặc bị mất, bị cháy, bị trôi nên đến cư sĩ, vợ cư sĩ không phải là ba con xin y; nếu cư sĩ, vợ cư sĩ không phải bà con cúng cho nhiều vải, Bí-sô được thọ cho đến hai y thượng hạ. Nếu thọ quá thì phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề.
Nói cúng là bao gồm thường cúng, ân cần cúng, chân thật cúng, cúng với tâm dối trá, cúng với tâm thù thắng, cúng với tâm mong cầu, cúng với tâm hoan hỉ... trong đây trừ cúng với tâm dối trá thì khi được y phạm tội Ác tác, các trường hợp khác khi được y đều phạm bổn tội.
Nói được thọ hai y thượng hạ là bao gồm của
Bí-sô và của người thế tục, nếu là y thượng hạ của Bí-sô thì thượng là y Tăng-già-lê rộng năm khuỷu tay, dài ba khuỷu tay; hạ là quần và Tăng khước kỳ. Nếu là y thượng hạ của người thế tục thì thượng có chiều dài mười một khuỷu tay, rộng ba khuỷu tay; hạ có chiều dài bảy khuỷu tay, rộng hai khuỷu tay. Nếu xin đúng lượng thì không phạm, nếu xin quá lượng thì khi xin phạm tội Ác tác, được y vào tay thì phạm Xả đọa; nếu xin được y thượng hạ của người thế tục thì dù thiếu cũng không được xin thêm, xin thêm thì phạm, ngược lại nếu dư thì không cần trả lại. Nếu xin y thượng hạ của Bí-sô thì nếu thiếu được xin thêm, nếu dư nên trả lại, không trả lại thị phạm Xả đọa.
Phật tại vườn Cấp-cô-độc, thành Thất-la-phiệt, lúc đó Bí-sô Ô-ba-nan-đà biết cư sĩ muốn mua y cúng cho mình liền đến nhà đòi hỏi... nên Phật chế học xứ:
Nếu vì Bí-sô nên cư sĩ, vợ cư sĩ không phải bà con lo liệu số tiền mua y, nghĩ rằng: "ta đem số tiền này mua y như thế như thế... cúng cho Bí-sô __________ ". Bí-sô này vốn không được thỉnh tùy ý trước, liền khởi tưởng đồng ý đi đến chỗ cư sĩ nói rằng: "cư sĩ đã lo liệu số tiền mua y như thế cho tôi thì nên mua loại vải như thế như thế...". Vì muốn tốt, nếu được y thì Bí-sô này phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề.
Nói tiền mua y là dùng vàng bạc, bối xỉ...; mua là không phải do xin mà được; nói nên mua y như thế như thế là giá y bằng năm Ca lợi sa ba noa cho đến năm mươi Ca lợi sa ba noa, hoặc màu xanh, vàng... hoặc dài năm khuỷu tay cho đến năm mươi khuỷu tay, thể là thanh tịnh. Nói vì muốn tốt là giá tiền y, sắc y và lượng y đều tinh diệu; khi xin phạm tội Ác tác, khi được y vào tay liền phạm Xả đọa; không phạm là xin từ chư thiên... hoặc không xin mà tự được...
Nếu Bí-sô có hai cư sĩ và vợ cư sĩ không phải bà con, vì Bí-sô nên mỗi người để dành tiền mua y, nghĩ rằng: "ta để dành tiền này, mỗi người sẽ mua y như thế như thế cúng cho Bí-sô ", Bí-sô này vốn không được thỉnh tùy ý trước, khởi tưởng đồng ý nên đến chỗ các cư sĩ nói rằng: "các vị mỗi người để dành tiền mua y, nên hùn chung lại mua một y như thế như thế cúng cho tôi". Vì muốn tốt, nếu được y thì Bí-sô này phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề.
Duyên xứ như giới trên, chỉ khác là mỗi người muốn xuất tiền mua riêng y cúng, Bí-sô khuyên hùn chung lại mua y tinh diệu để cúng cho mình.
Phật tại vườn Cấp-cô-độc, thành Thất-la-phiệt, lúc đó ở thành Vương xá có một đại thần tên Bột lý sa ca la gởi tiền may y cho một thương nhân chuyển đưa cho Bí-sô Ô-ba-nan-đà. Ô-ba-nan-đà nghe tin liền đến chỗ thương nhân lấy tiền này rồi đem gởi cho một tiểu thương trong chợ, sau đó đến đòi lấy lại. Các tiểu thương trong chợ có chế định phải đến họp đúng giờ, ai đến trễ thì phải nộp phạt sáu mươi Ca lợi sa ba noa; người này muốn đến họp đúng giờ nên không thể lấy tiền đưa lại cho Ô-ba-nan-đà nhưng Ô-ba-nan-đà nhất định đòi phải đưa ngay, người này do lấy tiền đưa cho Ôba-nan-đà và chờ đếm lại có đủ không, nên đến trễ giờ họp và phải nộp phạt, do đó bất mãn chê trách.
Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu vì Bí-sô nên vua hoặc đại thần, Bà-lamôn, cư sĩ sai sứ đưa giá tiền y đến, vị sứ này đến nói với Bí-sô: "Đại đức, vua hoặc đại thần, Bà-lamôn, cư sĩ __________ đưa giá tiền y này cho thầy, xin hãy nhận lấy". Bí-sô nên nói: "pháp của Bí-sô chúng tôi là không được thọ tiền, khi nào cần y, được vải thanh tịnh tôi sẽ nhận để may thành y thọ trì", vị sứ này nói với Bí-sô: "Đại đức có người chấp sự có thể lo liệu mọi việc cho Bí-sô không?", Bí-sô nên chỉ người chấp sự là người làm việc trong chùa hay là Ô-ba-sách-ca cho vị sứ biết. Vị sứ đến nói với người chấp sự: "lành thay, ông hãy cất giữ số tiền này rồi mua vải như thế như thế cho Bí-sô __________ , khi nào Bí-sô này cần y thì đưa cho vị ấy may thành y thọ trì", nói xong vị sứ trở lại nói với Bí-sô: "tôi đã đưa tiền cho người chấp sự, Đại đức khi nào cần y thì đến đó lấy". Khi Bí-sô này cần y thì nên đến chỗ người chấp sự nói là tôi cần y, như thế đến hai, ba lần; nếu đòi được y thì tốt, nếu không được thì nên đến trước người chấp sự đứng yên lặng nhắc, như thế đến bốn, năm, sáu lần; nếu đòi được y thì tốt, nếu không được y mà cố nài cho được y thì phạm Ni-tát-kỳba-dật-đề. Nếu không đòi được đi nên tự đi hay sai sứ đến chỗ người trước kia đưa tiền y đến nói rằng: "số tiền y mà ông đưa cho người chấp sự trước kia, tôi không lấy được y, ông nên tự biết đòi lại tiến, chớ để cho mất". Việc này đúng pháp nên làm như thế.
Vua là người đã thọ lễ quán đảnh, đại thần là người giúp vua lo về chính sự. Nói tiền may y này tôi không thể nhận là vì pháp của Bí-sô không được thọ vàng bạc... cho đến ruộng vườn đất đai, nhưng Tăng được thọ rồi sai tịnh nhân hay thuê người canh tác, sau khi thu hoạch chia phần cho họ xong, phần còn lại thuộc của Tăng. Cho đến những khí vật bằng đồng, Bí-sô cũng không được cất chứa nhưng Tăng được cất chứa rồi sai người coi giữ, Bí-sô chỉ được cất chứa tư cụ và những vật cần dùng trong sinh hoạt cá nhân mà thôi. Bí-sô khi đến đòi tiền y nên đứng ở bốn chỗ là chỗ làm việc của họ như lò gốm..., nhà ở riêng, trong ruộng vườn là nơi họ đang canh tác và nơi cửa hàng là chỗ họ mua bán. Nếu người giữ tiền y thấy Bí-sô hỏi đến vì việc gì, hoặc mời ngồi, mời uống nước, mời ăn bánh... thì Bí-sô nên nói là tôi cần y, vì tiền may y mà đến, để nhắc họ nhớ. Chế hạn trong giới này là được nói ba lần để nhắc họ nhớ, họ nhớ và được y thì tốt; nếu họ không nhớ và không được y thì Bí-sô được đến chỗ họ thêm ba lần, đứng im lặng để nhắc, tổng cộng là sáu lần mà vẫn không được y thì không nên đến đòi nữa, nên báo lại cho người cúng tiền y biết; nếu quá sáu lần vẫn đến đòi, được y thì phạm Xả đọa. Nếu qua sáu lần đòi, người chấp sự kia mới đem y đến đưa cho Bí-sô thì Bí-sô nên nói: "tiền y này tôi đã xả, ông nên đưa lại cho chủ của nó", nếu người kia nói: "thầy hãy lấy y, tôi sẽ nói lại với chủ y sau", lúc đó Bí-sô nhận y không phạm. Nếu ở chỗ phi nhân đòi y quá hạn thì phạm tội Ác tác, vì người và phi nhân có tám câu kết phạm nặng nhẹ khác nhau, như nhiếp tụng:
Ba chỗ-người là một, Ba câu-người đều hai, Ba-phi nhân là một, Hai câu. hai phi nhân, Theo nghĩa có thể biết, Tông cộng có tám câu, Y giáo thì không phạm, Đòi quá hạn, tội sanh.
Không phạm là không quá số hạn đòi được y hoặc dùng phương tiện khéo léo mà đòi được.
Nhiếp tụng thứ hai:
Cao thế da (tơ tằm), toàn đen, Phần, sáu (năm), Ni-sư-đàn, Gánh lông, giặt, vàng bạc, Nạp chất và mua bán.
Phật tại vườn Cấp-cô-độc, thành Thất-la-phiệt, lúc đó các Bí-sô dùng kén tơ để làm phu cụ nên sát sanh nhiều, lại do làm phu cụ nên bỏ phế chánh nghiệp, Phật nhân việc này chế học xứ: Nếu Bí-sô dùng Cao thế da (kén tơ) để làm phu cụ mới thì phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề.
Mới có hai là mới làm và mới được, trong giới này là làm mới; làm là tự làm hay bảo người khác làm, khi mới bắt đầu làm thì phạm tội Ác tác, làm xong thì phạm Xả đọa; là Cao thế da, tưởng Cao thế da và nghi thì phạm Xả đọa; không phải Cao thế da, tưởng là Cao thế da và nghi thì chỉ phạm Đọa vì không có vật để xả; không phải Cao thế da, tưởng không phải Cao thế da thì không phạm. Nếu được cái đã thành hay cái cũ đã dùng qua hoặc sửa lại cái cũ, hoặc có người cúng cao thế da rồi bảo người làm phu cụ cho mình hay dùng Cao thế da này để đổi lấy phu cụ đã làm thành thì không phạm.
Duyên xứ như giới trên, lúc đó các Bí-sô xin được nhiều lông dê đen dùng để làm phu cụ mới, do việc này phế bỏ chánh nghiệp nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô dùng lông dê thuần đen để làm phu cụ mới thì phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề.
Nếu Bí-sô muốn làm phu cụ mới nên dùng hai phần lông dê thuần đen, một phần lông dê trắng và một phần lông dê tạp xấu. Nếu Bí-sô không dùng hai phần lông dê thuần đen, một phần lông dê trắng và một phần lông dê tạp xấu để làm phu cụ mới thì phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề.
Lông dê trắng là lông ở hai bên sườn, lông cổ và lông trên sống lưng; lông dê tạp xấu là lông ở trên đầu, chân và dưới bụng, vì những chỗ này là nơi thường xúc chạm, hoạt động nên lông thô xấu. Như làm phu cụ mới cần có mười cân lông dê thì trong đây nên dùng năm cân lông dê thuần đen, hai cân rưỡi lông trắng và hai cân rưỡi lông thô tạp. Nếu không làm như thế, chỉ dùng toàn lông dê đen thì khi khởi phương tiện, phạm tội Ác tác; làm xong liền phạm Xả đọa. Không phạm là nếu không vì mình mà làm hoặc được cái đã làm thành, hoặc vào thời buổi lông dê đen dễ được, loại lông khác khó tìm được thì tùy tăng giảm phần lượng không phạm.
Duyên xứ như giới trước.
Nếu Bí-sô muốn làm phu cụ mới thì phu cụ cũ phải dùng đủ sáu năm, nếu phu cụ cũ dùng chưa đủ sáu năm dù đem bỏ hay không đem bỏ mà may phu cụ mới thì phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề, trừ Tăng yết ma cho.
Nói dùng đủ sáu năm là như năm nay làm phu cụ, năm sau làm thêm phu cụ nữa, như thế đến năm thứ năm lại làm thêm phu cụ nữa. Khi bắt đầu làm cái thứ hai thì phạm tội Ác tác, làm xong liền phạm Xả đọa, vì thể là phi pháp nên phạm. Nói Tăng yết ma cho là như Bí-sô thọ sự dùng phu cụ chưa đủ sáu năm, muốn làm phu cụ mới thì nên theo Tăng xin yết ma, Tăng phải xét xem phu cụ của người đó, không nên thuận theo sở thích của người đó mà liền tác pháp cho, nếu thấy quá mỏng và đều hư rách thì nên bạch nhị yết ma cho làm phu cụ mới.
Duyên xứ như trên, lúc đó có Bí-sô già theo các thương nhân phương Bắc xin tấm giạ lông để làm Ni-sư-đàn mới và được họ cúng cho năm trăm tấm giạ lông. Do làm Ni-sư-đàn mới nên vất bỏ bừa bãi cái cũ, không có tâm quý tiếc nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô muốn làm Ni-sư-đàn mới, bốn bên thành viền của Ni-sư-đàn cũ, mỗi bên nên lấy chừng một gang tay của Phật để may chồng lên Ni-sư-đàn mới làm cho hoại sắc. Nếu Bí-sô bốn bên thành viền của Ni-sư-đàn cũ, mỗi bên không lấy chừng một gang tay của Phật để may chồng lên Ni-sư-đàn mới làm cho hoại sắc, vì muốn tốt thì phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề.
Nói nên lấy miếng cũ chừng một gang tay của Phật để may thiếp lên cái mới để làm cho hoại sắc, mục đích thọ dụng được lâu hơn, nếu kích lượng nhỏ hơn kích lượng này thì không như pháp, liền phạm Xả đọa. Nếu cái cũ hoàn toàn hư rách không thể lấy được một gang tay để may thiếp lên thì không phạm. Ni-sư-đàn nên may hai lớp, màu nên hoại sắc, không nên tạp sắc.
Duyên xứ như trên, lúc đó Lục chúng Bí-sô trên đường đi đến nước Nê ba la, gặp xe chở lông dê bị gảy trục nên theo người chủ xin lông dê rồi mỗi người tự gánh đi và bị người tục chê trách, Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô khi đi đường được lông dê muốn thọ thì Bí-sô này được tự mang đi cho đến ba Du thiện na, nếu không có ai mang giùm mà đi quá ba Du thiện na thì phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề.
Nói không có người mang giùm là không có tịnh nhân. Nói Du thiện na là bảy cực vi thành một vi trần, bảy vi trần thành một thủy trần, bảy thủy trần thành một kim trần, bảy kim trần thành một Thố mao trần, bảy Thố mao trần thành một Dương mao trần, bảy Dương mao trần thành một Ngưu mao trần, bảy Ngưu mao trần thành một Khích du trần, bảy Khích du trần thành một con kiến, bảy con kiến thành một con rận, bảy con rận thành một hạt lúa mạch, bảy hạt lúa mạch thành một ngón tay, hai mươi bốn ngón tay thành một khuỷu tay, bốn khuỷu tay thành một cung, năm trăm cung thành một Câu lô xá, đây là thế phần của A-lan-nhã. Nếu Bí-sô ở nơi không có thôn xóm, tự gánh lông dê đi quá ba Du thiện na thì phạm Xả đọa. Nếu trên đường đi có thôn xóm thì khoảng cách giữa mỗi thôn là một Câu lô xá, nếu Bí-sô đi trong thôn được nửa thôn thì phạm tội Ác tác, đi qua một thôn thì phạm Xả đọa.
Nếu cần lông dê để làm mũ hay giày phú la, dây lưng nên gánh về thì không phạm, nhưng pháp của Bí-sô là không nên gánh vác nặng.
Duyên xứ như trên, lúc đó Bí-sô Ô-ba-nan-đà sau khi gánh lông dê về chùa xong liền nhờ Đại thế chủ Cù đàm di giặt nhuộm và chải lông dê, khiến chư ni bỏ phế việc tu thiện phẩm, Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô nhờ Bí-sô ni không phải bà con giặt nhuộm và chải lông dê thì phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề.
Về cảnh tưởng nghi, phạm và không phạm đều giống như trong giới nhờ Bí-sô ni giặt y cũ.
Phật tại Trúc lâm, thành Vương xá, lúc đó các Bí-sô cầm giữ vàng bạc, vật báu nên bị người thế tục cơ hiềm: "Sa môn Thích tử được cầm giữ vàng bạc thì đối với năm dục lạc thế gian sao lại không hưởng thụ chứ?", Phật bảo các Bí-sô: "nếu Bí-sô cần củi thì xin củi..., không nên xin vàng bạc...". Lại do Lục chúng Bí-sô ở thành Thất-la-phiệt tự cất giữ vàng bạc hoặc bảo người cất giữ khiến người thế tục và ngoại đạo chê trách, nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô tự cầm giữ vàng bạc, tiền... hoặc bảo người cầm giữ thì phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề.
Nếu là vàng bạc, vật báu... của người khác hoặc nhận của người khác gởi, hoặc nhặt được thì chỉ phạm Đọa, vì không cần xả tài vật. Nếu là tài vật của mình, không làm pháp tịnh mà cầm giữ hoặc bảo người cầm giữ đều phạm Xả đọa. Nếu có người cúng vàng bạc tiền, tuy khởi tâm thọ nhưng khi chưa cầm vào tay thi không phải bổn tội; nếu bảo người cầm giữ thì có mười tám câu thành phạm, tức bảo người kia rằng: "nên lấy vật này, nên lấy ở chỗ này, nên lấy ngần này; nên cầm vật này, nên cầm để ở chỗ này, nên cầm ngần này; nên mang vật này, nên mang để ở chỗ này, nên mang ngần này", chín câu này đều là bảo người cầm lấy vật ở gần, nếu bảo người cầm lấy vật ở xa thì trong chín câu này đổi chữ thử (này) thành chữ bỉ (kia) liền thành mười tám câu. Nếu ở chỗ có thể lấy được vật, khi bảo người cầm lấy thì phạm tội Ác tác, cầm lấy vào tay thì phạm bổn tội; nếu ở chỗ không thể cầm lấy được vật mà bảo người cầm lấy thì cả hai đều phạm tội Ác tác. Nếu là vàng bạc vật báu, thành hay chưa thành, vừa chạm vào để cầm liền phạm Xả đọa; nếu là loại tiền đang lưu hành, vừa cầm liền phạm tội Ác tác. Nếu trên đường đi nhặt được của rơi, nên để ở chỗ hiển lộ để chủ của vật đến nhận lại; nếu là phục tàng không có chủ nên lấy để vào kho của Tam bảo, tùy dùng vào việc lợi ích; nếu là phục tàng có chủ thì nên nói cho chủ của vật biết, nên hỏi ký hiệu, nếu đáp đúng thì đưa lại cho chủ của vật, nếu đáp không đúng thì để vào kho của Tam bảo.
Thật là vàng, khởi tưởng là vàng và nghi mà cầm giữ thì phạm Xả đọa; không phải vàng, khởi tưởng là vàng mà cầm giữ thì phạm Đọa vì không có vật để xả, nghi mà cầm thì phạm tội Ác tác; không phải vàng, tưởng không phải vàng mà cầm thì không phạm. Bạc và vật báu khác cũng vậy, nếu là Thâu thạch, đồng, sắt, chì, thiết thì câm không phạm. Nếu là tài vật của mình, khi nghe có nạn sự sắp đến, không có tịnh nhân thì được tự cầm giữ không phạm; nếu là tài vật của Tăng, của Tam bảo thì nên đào hố chôn giấu kỹ rồi bỏ đi, thời gian sau trở lại đào lên trả lại chỗ cũ, nếu không có nạn sự xảy đến mà làm thế thì đều phạm bổn tội.
Trong hạ an cư nếu thí chủ đem tiền may y đến cúng, Bí-sô nên khởi tâm ký gởi cho thí chủ rồi thọ, nên chọn ai làm tịnh thí chủ, nên chọn người có tâm tín kính hoặc tịnh nhân trong chùa làm tịnh thí chủ. Chọn được tịnh thí chủ rồi thì khi thọ tài vật bất tịnh nên khởi tưởng là của thí chủ này thì cầm giữ không phạm. Nếu đi xa được tài vật bất tịnh, cũng có thể từ xa khởi tưởng là vật của thí chủ rồi cầm giữ, cho đến khi nào thí chủ còn sống thì cầm giữ đều không phạm. Nếu không tìm được tịnh thí chủ thì Bí-sô nên mang tài vật bất tịnh này đến trước một Bí-sô bạch rằng: "cụ thọ nhớ nghĩ, tôi là Bí-sô __________ được tài vật bất tịnh này, tạm cất giữ sau sẽ đem tài vật bất tịnh này đổi lấy tịnh tài" (ba lần), bạch như vậy rồi có thể tự cất giữ hoặc bảo người cất giữ.
Phật tại vườn Cấp-cô-độc, thành Thất-la-phiệt, lúc đó Bí-sô Ô-ba-nan-đà giao dịch với ngoại đạo, đem tấm giạ thô của mình để đổi lấy tấm giạ tốt nên bị chê trách, Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô đủ cách kinh doanh cầu lợi thì phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề.
Nói đủ cách đưa ra thu vào để sanh lợi là như dùng vàng bạc bảy báu cho đến tơ lụa, lúa thóc... để giao dịch cầu lợi, hoặc dùng vật đã thành để đổi vật đã thành... có bốn câu; khi chưa thu vào thì phạm tội Ác tác, khi thu vào rồi liền phạm Xả đọa. Nếu có người đem vật của Bí-sô đổi chác để cầu lợi mà Bí-sô im lặng không ngăn lại thì khi được lợi liền phạm bổn tội. Nếu vì Tam bảo mà đưa ra thu vào hay thí chủ làm kho vô tận cho Tăng thì dù có dong ruổi cầu lợi cũng không phạm, nhưng cùng người giao dịch phải làm giấy tờ bảo chứng rõ ràng, đến cuối năm kết sổ sách trình cho vị Thượng tòa thủ chúng và vị thọ sự đều biết. Nếu những tài lợi do kinh doanh có được là như pháp thì khi Bí-sô muốn xả, nên xả cho Bí-sô đáng tin; nếu là tài vật bất tịnh thì nên xả cho cư sĩ tín tâm, nhưng đây chỉ là hình thức tác pháp, không phải là thật thí nên tác pháp xong phải giao trả lại, nếu không giao trả lại thì nên cưỡng đoạt lấy lại.
Duyên xứ như trên, lúc đó Lục chúng Bí-sô đủ cách mua bán cầu lợi nên Phật chế học xứ: Nếu Bí-sô đủ cách mua bán cầu lợi thì phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề.
Nói đủ cách mua bán cầu lợi là mua hàng hóa ở chỗ bán ra với giá rẽ, mang đến bán ở chỗ bán với giá cao và lúc thời giá xuống thì mua vào nhiều để tích trữ, đợi đến lúc thời giá cao thì đem ra bán; hoặc xem thiên văn để dự đoán là được mùa hay mất mùa để mua hay bán đúng lúc cho được lời nhiều. Những mặt hàng mua bán bao gồm vàng bạc bảy báu, tơ lụa cho đến lúa gạo, đường sữa...; nếu khi mua vào vì lợi thì phạm khinh, khi bán ra không cầu lợi thì không phạm; nếu mua vào không vì lợi nhưng khi bán ra có tâm cầu lợi thì trước không phạm, sau phạm Xả đọa; nếu trước sau đều vì cầu lợi thì trước phạm khinh, sau phạm bổn tội; nếu trước sau đều không có tâm cầu lợi thì không phạm.
Nếu trong lúc mua bán nói không thật, dùng cân non đấu thiếu để gạt người thì thuộc tội vọng ngữ, được tài lợi thì thuộc tội trộm. Khi Bí-sô giao dịch với người tục ở chợ, không nên tự trả giá, nên nhờ người có tín tâm trả giá; nếu phải tự trả giá thì chỉ được trả hai ba giá, không được quá.
Nếu muốn bán đấu giá vật của Hiện tiền tăng thì Thượng tòa nên định giá trước, nên đợi người nói giá cao nhất sau cùng mới bán. Nếu thật tâm không muốn mua mà dối nói tăng giá để tranh mua thì phạm tội Ác tác; nếu nói tăng giá tranh mua được rồi, chưa đưa tiền mà liền lấy y vật thì phạm tội Ác tác. Nếu thí chủ có tín tâm đem vợ con đến thí để Tăng bán đấu giá rồi mua lại thì Tăng nên tùy ý của thí chủ mà nói giá bán, nhưng Bí-sô không nên nói tăng giá, nếu nói tăng giá thì phạm tội Ác tác; tuy nói giá bán nhưng tùy thí chủ đưa bao nhiêu thì lấy bấy nhiêu. Nếu cha mẹ có tín tâm đem con đến thì cho Tăng, Bí-sô nên nhận nuôi, khi họ đến đòi con thì nên trả lại; nếu họ trả tiền công nuôi dưỡng thì được thọ không phạm. Tiểu đồng tử ở với Bí-sô, Bí-sô nên dùng một miếng ca sa cột nơi cổ và tùy thời coi ngó chăm sóc; đến khi trưởng thành, chúng muốn báo ân nên mang phẩm vật đến cúng dường thì nên nhận.
Nhiếp tụng thứ ba:
Hai bát, hai thợ dệt,
Đoạt y và Cấp thí,
Lan nhã, Y tắm mưa,
Hồi tăng, thuốc bảy ngày.
Phật tại vườn Cấp-cô-độc, thành Thất-la-phiệt, lúc đó Bí-sô Ô-ba-nan-đà vì ham muốn bát mới nên đến chỗ sáu mươi người khuyến hóa và được mỗi người cúng cho sáu mươi Ca lợi sa ba noa. Lại do Lục chúng Bí-sô đi khắp nơi xin được nhiều bát tốt, do tâm tham cất chứa nhưng lại không thọ dụng, cũng không đem cho người nên chiêu cơ hiềm, Phật nhân việc này chế học xứ: Nếu Bí-sô cất chứa bát dư quá mười ngày mà không làm phân biệt thì phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề. Nói bát dư là ngoài bát đang thọ dụng, cất chứa thêm bát khác nữa; nếu không làm phân biệt thì mỗi ngày phạm một tội Ác tác, qua mười ngày phạm Xả đọa. Nếu hiện tại không có bát, sau đó được bát thì không gọi là dư, nhưng nếu không thủ trì thì mỗi ngày cũng phạm một tội Ác tác. Bát có hai loại nên thọ dụng là bát gốm và bát sắt, bốn loại bát bằng vàng bạc, lưu ly và thủy tinh nếu chưa thọ thì không nên thọ, nếu thọ rồi nên bỏ; bốn loại bát bằng thâu thạch, đồng đỏ, đồng trắng và bằng gỗ nếu chưa thọ thì không nên thọ, nếu thọ rồi nên dùng làm chén đựng thuốc. Nếu là bát như pháp nên đối trước một Bí-sô tác pháp thủ trì, để bát lên tay trái rồi đưa tay phải đè lên miệng bát và bạch rằng:
Cụ thọ nhớ nghĩ, tôi là Bí-sô __________ , Bát Đa-la này là khí vật của bậc Đại tiên dùng để khất thực, nay xin thọ trì thường dùng để thọ thực (ba lần).
Cách xả bát cũng giống như cách xả y, nếu có hai bát thì nên chọn cái tốt hơn, bát dư nên làm phân biệt; bát nhỏ của Bí-sô bằng bát lớn của Bí-sô ni. Nếu bát không đủ lượng hoặc quá lượng, hoặc chứa bát dư để cho người xuất gia thọ Cận viên, tuy không làm phân biệt nhưng không phạm. Được cất chứa hai bát nhỏ để đựng canh hay dùng để uống nước hoặc dùng đựng muối... đều không phạm. Bát nhỏ nên đựng trong bát lớn, tùy chỗ cần dùng được chứa nhiều không phạm, cũng được chứa thêm một bát lớn để dùng khi cần thiết. Vì thế, tuy Phật chế chỉ được cất chứa một bát, không phải nhiều nhưng cũng không phải ít, mà là hợp với lý trung đạo, giúp thân tu chánh nghiệp. Có trường hợp Bí-sô chứa bát qua một đêm mà phạm Xả đọa hay không?. có, tức là khi Bí-sô được bát liền chuyển căn thành ni thì chứa bát qua một đêm phạm Xả đọa.
Pháp hộ trì bát: Bí-sô không nên sai người chưa thọ Cận viên rửa bát, nếu người có thể giữ tốt thì cho rửa. Không được ghi tên lên bát, nếu ghi tên thì phạm tội Ác tác; nếu làm dấu riêng thì không phạm. Nếu có người mang vật đến cúng cho Tam bảo thì nên ghi tên của họ trên vật cúng. Khi để bát vào trong đãy hay lấy bát ra khỏi đãy hoặc rửa hay phơi đều không nên đứng; không nên để bát trên đất mà nên để trên vật lót, cũng không nên để ở chỗ dơ; nếu bát còn ẩm chưa khô thì không nên cất vào đãy, cũng không nên phơi bát quá lâu ngoài nắng; nên biết lượng thọ dụng bát như giữ tròng con mắt. Có ba loại đãy: đãy đựng bát, đãy đựng thuốc và đãy đựng tạp vật; khi đi nên máng trên vai, cũng không được máng cả ba loại đãy này ở một bên khiến cho phồng lên và ló ra ngoài như cái trống. Nếu ở trong chùa nên làm cái tủ kệ để cất bát, nếu ở A-lan-nhã thì nên đan tre làm thành giỏ để đựng bát nhưng khi muốn đi đến nơi khác, không nên xách mang giỏ tre đựng bát này theo.
Phật tại vườn Cấp-cô-độc, thành Thất-la-phiệt, lúc đó Bí-sô Ô-ba-nan-đà đi khất thực đến chỗ thương nhân xin được cái bát tốt, nên có đến hai bát. Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô, bát đã dùng chưa bị răng nứt đến năm lằn mà xin bát mới, vì muốn tốt thì phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề. Bí-sô này phải đem bát mới này vào trong Tăng xả, Tăng sẽ lấy bát của người cuối cùng đưa lại cho Bí-sô này và nói rằng: "thầy hãy thọ bát này cho đến khi bể". Việc này đúng pháp nên làm như thế.
Nói chưa đến năm lằn nứt là chưa trám đến năm chỗ, nếu trám đến năm chỗ hay hơn năm chỗ thì được xin bát mới. Có năm loại nấu chảy không được trám bát, đó là đường đen, sáp vàng, chì, thiếc và tử khoáng. Có năm cách trám bát sắt:
Là dùng đinh nhỏ trám vào lỗ hổng.
Là dùng miếng sắt nhỏ để vào lỗ hổng rồi gõ cho thất chắc.
Là khâu lại giống như răng cá, trong ngoài giáp nhau sẽ không vỡ ra.
Là dùng miếng sắt lớn để lên lỗ hổng rồi đóng đinh chung quanh.
Là dùng mạt vụn. Mạt vụn có hai là sắt vụn hay đá vụn, nếu dùng mạt vụn trám bát thì nên trộn mạt vụn với dầu, kế cho vào chén sắt dùng chày sắt giả nhuyễn rồi mới trét vào chỗ nứt, kế dùng lửa đốt cho khô chắc; nếu bát thô rít thì nên dùng dầu thoa rồi y theo cách nung bát mà nung.
Bát như pháp có bốn viên mãn:
Là thể viên mãn, tức là bát tốt.
Là tướng viên mãn, tức là bền chắc, không có lỗ hổng, không răng nứt và không dơ bẩn.
Là lượng viên mãn, tức là bát đúng lượng.
Là chỗ được viên mãn, tức là được Tăng chia hay thí chủ cúng hoặc là bát cũ nhưng còn tốt.
Bí-sô có bát đủ bốn viên mãn này mà còn xin bát mới thì phạm Xả đọa. Bí-sô có bát phạm Xả đọa nên ở trong Tăng xả bát dư này, Tăng nên sai người hành bát có phạm này, nếu người có đủ năm đức thì nên sai, đã sai rồi thì nên làm. Nên sai như sau: đánh kiền chùy nhóm tăng, trước hỏi vị nào có thể vì Tăng già hành bát có phạm, nếu có người đáp là có thể thì một Bí-sô trong Tăng tác pháp sai như sau:
Đại đức tăng lắng nghe, Bí-sô này có thể vì Tăng làm người hành bát có phạm. Nếu tăng già đúng thời đến nghe, Tăng già nên chấp thuận, Tăng nay sai Bí-sô __________ làm người hành bát có phạm. Bạch như vậy.
Văn yết ma dựa theo văn tác bạch mà làm.
Phật nói: "Ta chế hành pháp cho Bí-sô hành bát có phạm như sau: Bí-sô ấy nên ở trong chúng hòa hợp cáo bạch: "Kính bạch Đại đức tăng, tôi Bí-sô tên __________ sẽ hành bát có phạm. Sáng ngày mai các cụ thọ mỗi vị mang bát của mình đến trong Tăng". Sáng hôm sau Bí-sô hành bát nên mang bát có phạm đến trước vị thượng tòa khen ngợi bát đó như sau: "bát này thanh tịnh viên mãn, có thể thọ dụng, nếu thượng tọa cần xin hãy tùy ý nhận". Nếu thượng tòa nhận bát ấy thì Bí-sô hành bát nên lấy chiếc bát cũ của thượng tọa thứ nhất chuyển trao cho vị thượng tọa thứ hai, thượng tọa thứ hai không nhận thì chuyển trao cho vị thượng tọa thứ ba. Khi thượng tọa thứ ba lấy mà thượng tọa thứ hai đòi lấy thì đòi lần thứ nhất không đưa, lần thứ hai cũng không đưa, lần thứ ba nên đưa, nhưng vị thượng tọa này mắc tội Việt pháp phải như pháp sám hối. Hành pháp xả bát như vậy cho đến vị cuối cùng nhỏ nhất trong Tăng, Bí-sô hành bát nên lấy bát của vị nhỏ nhất cuối cùng này đưa lại cho Bí-sô phạm và nói rằng: "Bát này không nên giữ yên đó, không nên phân biệt, cũng không nên cho ai, mà phải cẩn thận như pháp thọ dụng từ từ cho đến khi bể". Đây là pháp hành bát, Bí-sô hành bát nếu không y theo pháp này mà hành thì phạm tội Việt pháp.
Ta chế thêm hành pháp cho Bí-sô phạm như sau: Bí-sô phạm được bát này rồi phải sắm hai cái đãy đựng bát, đãy tốt đựng bát dư, đãy không tốt đựng bát cũ. Khi khất thực phải mang cả hai bát theo, thức ăn khô thì đựng trong bát dư, thức ăn ướt thì đựng trong bát cũ. Trở về trú xứ thọ thực thì nên ăn thức ăn trong bát cũ trước, ăn xong khi rửa nên rửa bát dư trước, rửa xong hong phơi cũng phải phơi bát dư trước, khi cất thì cất bát dư ở chỗ tốt. Khi đi đường có thể nhờ người mang giùm bát cũ, còn bát dư phải tự mang, không có ai mang giùm thì bên vai phải mang bát dư, bên vai trái mang bát cũ. Bí-sô phạm được bát đối với hành pháp này nếu không hành theo thì phạm tội Việt pháp. Đây là pháp trị phạt cho đến trọn đời hoặc cẩn thận thọ dụng cho đến khi bể.".
Nói đây là bát của thầy nhưng thầy không được thủ trì... là vì bát này là bát có phạm Xả đọa, Tăng vì trị phạt nên cho cất chứa nhưng không tác pháp thủ trì, không được làm phân biết và cũng không được cho ai, cũng không được cố ý làm cho bể, nếu cố ý làm bể thì phạm tội Việt pháp.
Nếu bát nứt hay lủng chưa tới năm chỗ, còn thọ dụng được, vì muốn tốt nên xin bát mới thì khi xin phạm tội Ác tác, khi được bát phạm Xả đọa. Không phải bát tốt, tưởng bát tốt thì chỉ phạm Đọa; bát không tốt, tưởng bát không tốt thì không phạm; nếu dùng tiền mua hay do đổi được cũng không phạm. Nếu xin cho người khác hay hai người cùng xin thì phạm tội Ác tác.
Phật tại vườn Cấp-cô-độc, thành Thất-la-phiệt, lúc đó Bí-sô Ô-ba-nan-đà đến chỗ người kéo sợi xin chỉ sợi rồi nhờ thợ dệt tên là Thật ngạch dệt y cho mình, người thọ dệt này không chịu làm nên Bí-sô nhờ cậy vua quan bắt thợ dệt phải dệt, thợ dệt bị xúc não nên chê trách. Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô tự xin chỉ sợi rồi nhờ thợ dệt không phải bà con dệt thành y cho mình, được y thì phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề.
Nói tự xin chỉ sợi là xin nửa lạng hay hơn một lạng, là sợi Kiếp bối hoặc sợi Cao thế da hoặc lông hoặc Xa-nạch-ca hoặc sô ma... Nếu xin từ bà con hoặc không phải bà con, hoặc tự mua được hay đổi được rồi nhờ thợ dệt không phải bà con, hoặc nhờ nhiều người dệt giúp hay nhờ bà con dệt giúp hay tự mình dệt giúp thợ dệt thì đều phạm Xả đọa. Nếu xin từ bà con rồi nhờ thợ dệt là bà con dệt, hoặc thí chủ có tín tâm bảo thợ dệt dệt rồi trả tiền công thì không phạm; cảnh tưởng và nghi như trên. Nếu có tâm dối gạt, nói mình có đức, khi xin được chỉ sợi thì phạm tội Ác tác; cho đến bảo thợ dệt dệt y mà được cả hai, nếu thật sự có đức thì phạm tội Ác tác và tội Đọa. Nếu thợ dệt là bà con mà nhờ dệt không đúng thời làm xúc não họ hoặc họ hiện tướng khác thì phạm tội Ác tác. Nếu chỉ sợi hay lông là bất tịnh xen tạp hoặc bảo dệt cho người khác thì đều phạm tội Ác tác.
Duyên xứ như trên, lúc đó Bí-sô Ô-ba-nan-đà bảo thợ dệt dệt cho mình tấm giạ lớn đẹp rồi mang đến cho thợ dệt đầy bát thức ăn ngon để trả công... Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô, có cư sĩ và vợ cư sĩ không phải bà con bảo thợ dệt dệt y cho Bí-sô __________ , Bí-sô này không được tùy ý thỉnh trước, vì muốn y tốt nên làm chút nhân duyên là đến chỗ thợ dệt nói rằng: "này ông, y này là dệt cho tôi, ông nên dệt cho đẹp, rộng dài và bền chắc, tôi sẽ đưa thêm ít vật cho ông". Bí-sô này tự khuyến dụ hay bảo người khuyến dụ thợ dệt này, sau đó đưa thêm cho thợ dệt ít vật cho đến một bữa ăn hay đáng giá bằng một bữa ăn, vì muốn y tốt, được y thì phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề.
Nói không được tùy ý thỉnh trước là không thỉnh Bí-sô tùy ý đến lấy y, trong giới này có bốn việc thành phạm: một là bảo thợ dệt dệt cho đẹp, hai là trắng sạch, ba là rộng dài, bốn là bền chắc. Nói đầy bát thức ăn là hoặc thuộc năm loại Khư đà ni hoặc thuộc năm loại Bồ xà ni, cho đến đưa thêm tài vật bằng giá tiền một bữa ăn. Từ khi đến khuyến dụ cho đến khi y chưa vào tay đều phạm tội Ác tác, khi nhận được y vào tay liền phạm Xả đọa.
Duyên xứ như trên, lúc đó Bí-sô Nan đà cho Bí-sô Đạt ma y Tăng-già-lê, sau đó giận trách liền đoạt lại... Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô cho Bí-sô khác y rồi, sau vì sân giận không vui nên tự đoạt lại hay bảo người đoạt lại, nói rằng: "hãy trả y lại tôi tôi, tôi không cho thầy nữa", nếu lấy y rời khỏi thân của Bí-sô kia thì Bí-sô này phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề.
Nói cho y là tổng nêu, khi cho người kia y nên hỏi: "thầy có thể làm việc mà tôi sai bảo làm hay không?", nếu không hỏi như thế mà đoạt y lại thì phạm Xả đọa. Nói sau đó là vào thời khác, nói sân giận không vui... là hiện tướng sân hận và làm việc tổn hại xúc não. Tướng phạm trong đây là nếu Bí-sô dùng thân hay ngữ hay cả hai hoặc tự mình hay bảo người khác đoạt y lại, khi y chưa rời khỏi thân người kia thì phạm tội Ác tác, khi y rời khỏi thân người kia thì phạm Xả đọa. Cảnh tưởng giống như trên, nếu biết người kia tánh không cẩn thận, đối với y vật cần dùng của Sa môn sợ làm mất nên có lòng tốt đoạt lại đem cất thì không phạm.
Duyên xứ như trên, lúc đó Lục chúng Bí-sô trong an cư cùng chia y lợi..., lại do nhân duyên tướng quân của vua Thắng quang cúng y cấp thí cho Tăng trước khi ra trận nên Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô còn mười ngày nữa mới đến tự tứ mà được y cúng gấp, Bí-sô cần thì được tự tay thọ và được cất chứa cho đến Thời y, nếu cất chứa quá thì phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề.
Lúc đó ở biên thùy có phản loạn, vua Thắng quang sai đại tướng quân Thiện Kiếm thống lãnh bốn binh đi thảo phạt, trước khi di vị tướng quân này đem y đến cúng cho Tăng, bạch rằng: "khi hai binh giao chiến sợ thân mạng khó giữ nên tôi muốn cúng y", các Bí-sô không dám thọ, tướng quân bèn để y lại đó rồi đi, các Bí-sô cất y ở một nơi, do không coi ngó nên bị trùng kiến cắn rách, bạch Phật, Phật nói: "nên thọ, thọ rồi nên bạch nhị yết ma sai người có đủ năm đức cất giữ y".
Nói còn mười ngày nữa... mà được y cúng gấp có năm trường hợp: một là do bịnh mà thí, hai là vì người khác bịnh mà thí, ba là sắp chết mà thí, bốn là vì người khác sắp chết mà thí, năm là sắp đi xa mà thí. Cũng có thuyết nói y cúng gấp là y phi thời; nói được cất chứa đến thời y tức là nếu có trương y Yết-sỉ-na thì thời y là năm tháng, nếu không trương y Yết-sỉ-na thì thời y là một tháng; nếu qua thời y này mà vẫn còn cất chứa thì phạm Xả đọa. Khi được năm loại y cấp thí này thì được tùy thọ rồi chia, nếu thí chủ khi cúng y cấp thí nói rằng: "xin hãy cất giữ y này đợi ngày tôi trở về sẽ tự tay dâng cúng", thì y này không nên chia.
Duyên xứ như trên, lúc đó Bí-sô ở A-lan-nhã bị giặc đến cướp đoạt, Phật khai cho các Bí-sô này, trong ba y tùy ý gởi một y trong thôn xóm, tuy thân ở A-lan-nhã nhưng không có lỗi lìa y. Nếu vì việc Tam bảo hoặc việc riêng của mình hay của người khác nên cần đi đến trú xứ khác, thì được lìa y sáu đêm không được quá; nhưng Lục chúng Bí-sô lại lìa y đến bảy đêm nên Phật chế học xứ: Nếu Bí-sô qua ba tháng hạ, có tháng nhuần chưa hết tháng tám, nếu Bí-sô ở nơi A-lan-nhã vắng vẻ có nghi sợ, các nạn nên gởi lại một trong ba y ở trong tụ lạc. Nếu có nhân duyên xuất giới thì được lìa y ngủ đêm cho đến sáu đêm, nếu quá sáu đêm thì phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề.
A-lan-nhã là nơi cách thôn xóm một Câu lô xá, nói có nghi sợ là sợ có giặc cướp, nói các nạn là nạn sư tử hoặc cọp sói, phi nhân... cho đến muỗi mòng, rắn rít hoặc quá nóng, quá lạnh... Nói trong ba y là y đã tác pháp thủ trì, được lìa sáu đếm, đến đêm thứ bảy khi mặt trời chưa mọc thì phạm tội Ác tác, mặt trời mọc liền phạm Xả đọa; có thuyết nói nếu bổn tấm chỉ tạm ra ngoài định sẽ về ngay, nhưng vì trở duyên nên không thể về kịp đến chỗ cất y thì không phạm. Không phạm là một trong tám nạn duyên khởi hoặc được Tăng yết ma cho lìa y...
Duyên xứ như trên, lúc đó Lục chúng Bí-sô vì tham nên xin y tắm mưa sớm và cất chứa thọ dụng quá lâu... Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô còn một tháng nữa là hết mùa xuân thì được xin áo tắm mưa và được cất chứa nửa tháng, nếu còn một tháng nữa là hết mùa xuân, Bí-sô xin áo tắm mưa cất chứa quá nửa tháng thì phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề.
Nói còn một tháng nữa là hết mùa xuân tức là từ ngày 16 tháng 4 đến ngày 15 tháng 5, trong một tháng cuối xuân này nên xin y tắm mưa, không được xin trước và khi đã vào hạ an cư thì không được xin nữa. Trong an cư có những việc cần nên làm là:
Vào ngày 15 tháng 5, Bí-sô thọ sự nên quét dọn phòng xá sạch sẽ rồi ở trong chúng cáo bạch: "các Đại đức, ngày mai Tăng sẽ tác yết ma an cư". Cáo bạch rồi đi kiểm tra có bao nhiêu người an cư để làm thẻ, không được làm thẻ quá thô xấu hay cong vẹo, nên rửa sạch bằng nước thơm, để trên cái mâm sạch, rắc hoa tươi lên và dùng tấm vải sạch phủ lên. Kế đánh kiền chùy nhóm Tăng rồi để mâm thẻ này ở trước vị Thượng tòa. Bí-sô thọ sư nên tuyên cáo chế lịnh của Tăng trong an cư như trong luật đã nói. Vị Thượng tòa trong Tăng tác Đơn bạch thọ thẻ như sau:
Đại đức Tăng lắng nghe, hôm nay là ngày 15 tháng 5, Tăng muốn hạ an cư. Nếu tăng già đúng thời đến nghe, Tăng già nên chấp thuận, Tăng hôm nay thọ thẻ, ngày mai tác pháp an cư. Bạch như vậy.
Bí-sô thọ sư bưng mâm thẻ để phát đi trước, người bưng mâm không để thu thẻ đi sau. Trước đến chỗ Đại sư giáo chủ bỏ xuống một thẻ, kế đến trước vị Thượng tòa, Thượng tòa với đủ oai nghi thọ lấy một thẻ rồi để trên mâm không, cứ như thế phát thẻ và thu thẻ từ vị Thượng tòa cho đến vị cuối cùng. Nếu có Cầu tịch thì Ô-ba-đà-da hay Agiá-lợi-da nên lấy thẻ cho họ, cuối cùng là thẻ của vị thiên thần hộ chùa. Sau đó gom số thẻ đã thu lại để đếm biết số người an cư rồi ở trong Tăng cáo bạch: "số người hiện diện thọ thẻ trong đây gồm có __________ Bí-sô và __________ Cầu tịch".
Người được sai chia phòng xá ngọa cụ cho Tăng an cư nên đi xem xét họ thọ dụng cho như pháp không, nếu ai thọ dụng không như pháp thì trị phạt như trong Luật đã nói. Đến ngày 15 tháng 5, Bí-sô thọ sư nên ở trong Tăng cáo bạch: "các cụ thọ, số người an cư trong trú xứ này tổng cộng là __________ , ngày mai tất cả sẽ nương theo thí chủ tên __________ , nương vào thôn phường __________ để khất thực, nương theo __________ làm người cung cấp, nương theo __________ làm người khán bịnh để hạ an cư". Sau đó các Bí-sô nên tự đi xem xét chỗ khất thực gần thôn phường, xem xét rồi nên suy nghĩ: "ta nên cùng các vị đồng phạm hạnh ở tại trú xứ này an cư để phiền não không sanh, nếu đã phát sanh sẽ khiến mau trừ diệt, nếu an lạc chưa sanh sẽ khiến cho phát sanh, đã phát sanh sẽ khiến cho tăng trưởng. Ở gần thôn phường này khất thực sẽ không gặp khổ nhọc và nếu có bịnh sẽ có người khán bịnh và người cung cấp cho đầy đủ thuốc thang và các vật cần dùng".
Qua ngày 16 tháng 5, Bí-sô nên với oai nghi đầy đủ đối trước một Bí-sô bạch an cư như sau: Đại đức nhớ nghĩ, hôm nay là ngày 16 tháng 5, Tăng tác pháp hạ an cư, con Bí-sô vào ngày 16 tháng 5 cũng tác pháp hạ an cư. Con Bí-sô __________ ở trong đại giới của trú xứ này tiền an cư ba tháng, nương theo thí chủ tên __________ , vị thọ sự tên __________ , vị khán bịnh tên __________ . Trong an cư nếu phòng xá có hư dột con sẽ tu sửa lại, con ở trong đây hạ an cư (ba lần).
Nếu là hậu an cư cũng theo như văn trên mà bạch, tiền an cư là từ ngày 16 tháng 5 đến ngày 15 tháng 8, hậu an cư từ ngày 16 tháng 6 đến ngày 15 tháng 9. Nếu bốn trú xứ có giới tiếp cận nhau, một Bí-sô muốn tác pháp an cư cho cả bốn trú xứ này thì nên dùng giường hay phản đè trên mép của bốn giới rồi ngồi trên đó tác pháp, lợi dưỡng có được của bốn trú xứ nên chia đều. Trong hạ an cư, Bí-sô không nên ra ngoài giới nhưng nếu có những việc liên quan tới Ô-ba-sách-ca, Ô-ba-tư-ca, Bí-sô, Bí-sô ni, Thức xoa ma na, Cầu tịch nam, Cầu tịch nữ, hoặc thân tộc thỉnh hoặc vì trừ ác kiến cho ngoại đạo, hoặc đối với tam tạng có nghi cần thỉnh hỏi, hoặc trong sự tu điều chưa đắc cầu đắc, điều chưa chứng cầu chứng, điều chưa hiểu cầu hiểu... thì Phật khai cho thọ pháp bảy ngày xuất giới. Bí-sô thọ nhật xuất giới nên đối trước một Bí-sô chắp tay bạch rằng: "cụ thọ nhớ nghĩ, tôi Bí-sô __________ ở tại trú xứ này tiền (hậu) an cư ba tháng, tôi Bí-sô __________ nay vì việc Tăng xin thọ pháp bảy ngày xuất giới, nếu không có nạn duyên sẽ trở về lại trong trú xứ này an cư" (ba lần). Nếu có duyên sự phải đi trong sáu ngày cho đến một ngày đều dựa theo pháp thọ bảy ngày mà tác pháp thọ. Cầu tịch thọ nhật xuất giới nên đối trước Bí-sô xin; Chánh học nữ và Cầu tịch nữ thọ nhật xuất giới nên đối trước Bí-sô ni xin. Nếu bảy ngày thấy việc làm không xong thì xin tám ngày... như thế cho đến bốn mươi ngày. Muốn thọ pháp bốn mươi đếm xuất giới thì nên theo Tăng xin, nên đánh kiền chùy tập Tăng, một Bí-sô trong Tăng bạch nhị yết ma cho thọ nhật xuất giới như sau:
Đại đức Tăng lắng nghe, Bí-sô __________ ở trong giới của trú xứ này tiền (hậu) an cư ba tháng.
Bí-sô __________ nay vì việc Tăng xin thọ pháp bốn mươi đêm xuất giới, việc xong trở về đây an cư. Nếu tăng già đúng thời đến nghe, Tăng già nên chấp thuận, Tăng nay cho Bí-sô __________ thọ pháp bốn mươi đêm xuất giới, việc xong trở về đây an cư. Bạch như vậy.
Đại đức Tăng lắng nghe, Bí-sô __________ ở trong giới của trú xứ này tiền (hậu) an cư ba tháng. Bí-sô __________ nay vì việc Tăng xin thọ pháp bốn mươi đêm xuất giới, việc xong trở về đây an cư. Tăng nay cho Bí-sô __________ thọ pháp bốn mươi đêm xuất giới, việc xong trở về đây an cư.
Các Bí-sô chấp thuận cho Bí-sô thọ pháp bốn mươi đêm xuất giới, việc xong trở về dây an cư thì im lặng, ai không chấp thuận thì nói.
Tăng đã chấp thuận cho Bí-sô thọ pháp bốn mươi đêm xuất giới, việc xong trở về đây an cư xong rồi. Tăng chấp thuận vì im lặng, việc này xin nhớ giữ như vậy.
Nếu tác pháp cho hai hay ba người cũng theo như văn trên mà làm, thọ nhật xuất giới tối Đa-là bốn mươi đêm vì như Phật nói: "trong ba tháng an cư thời gian ở trong giới phải nhiều hơn thời gian ở ngoài giới".
Nếu khi xuất giới gặp mạng nạn... không thể trở về lại bổn xứ an cư thì cũng không gọi là phá hạ. Nếu trong hạ an cư thấy các việc như khất thực, bịnh cần thuốc và người khán bịnh... thiếu thốn thì được tùy ý bỏ đi không phạm; hoặc trong hạ an cư có nam, nữ, huỳnh môn... đến hiện tướng phi pháp quấy nhiễu, cũng được tùy ý bỏ đi không phạm; hoặc có một trong tám nạn khởi lên như nạn vua, nạn giặc, nhân hay phi nhân khủng bố, nạn thú dữ, rồng độc, nạn nước, nạn lửa làm cho kinh sợ; cho đến chỗ an cư có phòng ốc hư sụp làm tổn não... cũng được bỏ đi không phạm. Nhưng nếu đang an cư trong bộ chúng như pháp mà bỏ sang ở với bộ chúng phi pháp cho đến sáng hôm sau, khi mặt trời mọc liền mất an cư. Nếu nghe có Bí-sô đồng ý muốn phá tăng thì nên thọ nhật bảy ngày đi đến chỗ Bí-sô đó để can ngăn, nếu hết hạn bảy ngày mà vẫn chưa về kịp cũng không phạm; nếu không đến đó can ngăn thì phạm tội Việt pháp. Ở chỗ an cư, các Bí-sô nên thường rưới quét cho sạch sẽ, nếu không làm thế thì phạm tội Ác tác vì khiến cho phước của thí chủ không tăng trưởng. Trong hạ an cư có ba việc nên làm là tu sửa, chia y và thọ y Yết-sỉ-na; vị Thượng tòa thủ chúng nên biết khen ngợi khích lệ người trông coi việc tu sửa trong chùa.
Y tắm mưa tuy dùng để tắm mưa nhưng cũng được mặc tâm ở bên giếng hay nơi sông ao suối. Nên xin y này từ bà con, nếu người không phải bà con tự cho thì cũng được thọ hoặc dùng tiền của mình mua hay đổi được đều không phạm, nhưng nếu theo xin người không phải bà con thì phạm Xả đọa. Nếu chưa đến thời xin mà có người đem đến cúng trước, nên thọ rồi làm phân biệt để cất chứa, đợi đến ngày 16 tháng 4 tác pháp thủ trì.
Đến ngày 15 tháng 8 Tăng cùng tác pháp Tùy ý, trước ngày tác pháp Tùy ý khoảng bảy tám ngày, các Bí-sô cựu trụ đến các thôn xóm lân cận thông báo cho các Bí-sô già trẻ và những người chưa thọ cận viên biết để cùng góp phần vào việc cúng dường. Đến ngày 14 tháng 8, các Bí-sô nên sắp đặt việc cúng dường và trang hoàng nơi Phật điện, bên tháp treo cờ phướn, quét dọn sạch sẽ… Sáng ngày 15 đến giờ tác pháp Tùy ý, Tăng nên sai một vị có đủ năm đức làm người thọ Tùy ý cho Tăng, hoặc hai, ba hay nhiều người nhưng phải là người có đủ năm đức: không thương, không giận, không sợ, không si, khéo hay phân biệt các việc tùy ý. Nếu trái với năm đức trên thì không được sai, nếu trước đó chúng tăng chưa hòa hợp thì phải làm cho hòa hợp; nếu đã hòa hợp thì phải làm cho được an lạc trụ. Nên sai như sau: trải tòa, đánh kiền chùy tập Tăng, Tăng nhóm xong trước nên hỏi vị đủ năm đức: "thầy có thể làm người thọ tùy ý cho tăng già thỉnh nói ba việc thấy nghe nghi để tác pháp tùy ý không?". Nếu đáp là có thể thì một Bí-sô trong Tăng tác bạch yết ma sai như sau:
Đại đức Tăng già lắng nghe, Bí-sô tên __________ nay làm người thọ Tùy ý cho tăng già hạ an cư. Nếu tăng già đúng thời đến nghe, Tăng già nên chấp thuận, Tăng nay sai Bí-sô tên __________ làm người thọ Tùy ý cho tăng già hạ an cư. Bạch như thế.
Đại đức Tăng già lắng nghe, Bí-sô tên __________ nay làm người thọ tùy ý cho Tăng già hạ an cư. Tăng nay sai Bí-sô tên __________ làm người thọ tùy ý, Bí-sô này tên __________ sẽ làm người thọ tùy ý cho Tăng già hạ an cư. Nếu các cụ thọ nào chấp thuận Bí-sô tên __________ làm người thọ Tùy ý cho Tăng già hạ an cư thì im lặng, ai không chấp thuận thì nói. Tăng già đã chấp thuận Bí-sô tên __________ làm người thọ Tùy ý cho tăng già hạ an cư xong rồi. Tăng chấp thuận vì im lặng, việc này xin nhớ giữ như vậy. Hành pháp của Bí-sô thọ Tùy ý là Bí-sô thọ Tùy ý nên trao cỏ tranh cho các Bí-sô, nếu chỉ có một người thọ Tùy ý thì từ Thượng tọa cho đến hạ tòa đều phải làm Tùy ý; nếu là hai người thọ Tùy ý thì một người thọ Tùy ý từ Thượng tòa, một người thọ tùy tùy từ nửa số chúng còn lại cho đến người cuối cùng; nếu là ba người thọ tùy ý thì nên bố trí ba chỗ ngồi và chuẩn theo như trên mà làm Tùy ý. Thượng tòa lúc đó nên tác bạch:
Đại đức Tăng già lắng nghe, hôm nay ngày 15 Tăng già tác pháp Tùy ý. Nếu tăng già đúng thời đến nghe, Tăng già nên chấp thuận, Tăng nay tác pháp Tùy ý, bạch như vậy.
Lúc đó từ Thượng tòa cho đến hạ tòa đều đến trước Bí-sô thọ Tùy ý làm Tùy ý như sau: Cụ thọ nhớ nghĩ, hôm nay ngày 15 Tăng già làm tùy ý, tôi Bí-sô tên __________ cũng làm Tùy ý. Tôi Bí-sô tên __________ ở trong Tăng đối trước Cụ thọ thỉnh nói ba việc thấy nghe nghi để làm tùy ý. Đại đức tăng già nên nhiếp thọ chỉ bảo cho tôi, xin thương xót làm lợi ích cho tôi, nếu tôi thấy biết có tội, tôi sẽ như luật sám hối. (3 lần).
Bí-sô thọ tùy ý nói: Áo tỉ ca (thiện).
Bí-sô làm tùy ý nói: sa độ (nhĩ).
Cứ như thế cho đến vị hạ tòa, Bí-sô thọ tùy ý nếu là hai, ba người thì nên đối nhau tác pháp, nếu là một người thì nên tâm niệm tác pháp. Bí-sô tác pháp xong, kế đến Bí-sô ni từng người đến tác pháp cũng giống như Bí-sô. Sau đó là Thức xoa ma na, Cầu tịch, Cầu tịch nữ cũng tác pháp giống như trên. Tác pháp xong, Bí-sô thọ Tùy ý đến trước vị Thượng tòa bạch: "hai bộ Tăng già đã làm tùy ý xong". Lúc đó hai bộ tăng già cùng xướng: "Lành thay, đã tác pháp tùy ý xong". Nếu cùng xướng lên như thế thì tốt, nếu không xướng thì phạm Ác tác.
Bí-sô thọ Tùy ý cầm dao nhỏ hoặc kim chỉ hoặc các tư cụ tạp vật của Sa môn ở trước Thượng tòa bạch: "Đại đức, các vật thí này có nên trao cho người đã an cư xong làm vật thí Tùy ý không? Nếu trú xứ này được các lợi vật khác, Tăng già nên hòa hợp chia hay không?", đại chúng cùng đáp nên chia. Nếu làm khác thì Bí-sô thọ Tùy ý và đại chúng đều phạm tội Việt pháp.
Nếu trú xứ chỉ có một Bí-sô thì làm pháp tâm niệm tùy ý giống như tâm niệm trưởng tịnh; nếu có hai, ba người thì nên làm đối thú tùy ý; nếu có bốn người cũng nên làm đối thú tùy ý, không được sai người thọ Tùy ý; nếu đủ túc số năm người trở lên mới được làm Chúng pháp yết ma và không được thọ dục. Có bốn cách nói Tùy ý, đó là nói một lần, nói hai lần, nói ba lần cho đến chúng làm. Nói Tùy ý một lần là như bị bịnh trĩ không thể ngồi lâu hoặc phơi chăn mền mà thấy trời sắp mưa hoặc thí chủ đến cúng dường hoặc vì nghe pháp, hoặc vì dứt tránh hoặc phần đêm sắp qua hết, hoặc một trong tám nạn khởi lên; nếu nạn hãy còn xa thì nên nói Tùy ý hai lần, nếu không có việc gì thì nên nói Tùy ý ba lần. Nếu nạn khủng bố sắp đến phải nói Tùy ý một lần thì từng hai người làm đối thú Tùy ý rồi đi, nên nói như sau:
Cụ thọ nhớ nghĩ, hôm nay ngày 15, Tăng tác pháp Tùy ý nhưng nạn khủng bố sắp xảy đến, Tăng không kịp hòa hợp làm Tùy ý. Sau này nếu có chúng hòa hợp sẽ cùng chúng hòa hợp ấy làm Tùy ý.
Nếu trong Tăng có người phạm Ba la thị ca thì nên tẫn trước rồi mới làm Tùy ý; nếu phạm các tội khác nên đối trước người thanh tịnh đồng kiến, như pháp sám hối rồi mới làm Tùy ý. Thanh tịnh đồng kiến nghĩa là đối với những việc mà Phật đã chế hay khai, đều đồng kiến giải.
Duyên xứ như trên, lúc đó có thí chủ đem tấm giạ quý đến cúng cho Tăng, Bí-sô Ô-ba-nan-đà hồi chuyển về cho mình..., Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô biết thí chủ đem lợi đến cúng cho Tăng mà tự hồi chuyển về cho mình thì phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề.
Nói biết là tự biết hay do người khác nói mà biết. Tăng có năm loại:
Vô sỉ tăng là chỉ cho người phá giới.
Á dương tăng là chỉ cho người không thông hiểu ba tạng.
Hòa hợp tăng là chỉ cho người tác pháp yết ma.
Thế tục tăng là chỉ cho hàng Dị sanh thuần thiện.
Thắng nghĩa tăng là chỉ cho bậc Hữu học và Vô học. Có hai loại lợi vật là y lợi và thực lợi, đều do thí chủ cúng mà có được.
Tướng phạm trong đây là nếu biết lợi vật đó thí cho Tăng, khi khởi phương tiền hồi chuyển về cho mình thì phạm tội Ác tác, khi được lợi vật, khởi tưởng thuộc của mình thì phạm Xả đọa. Nếu biết lợi vật đem đến thí cho một người mà hồi chuyển về cho mình thì phạm tội Ác tác; nếu hồi chuyển về cho một người khác hay hai ba người hay cho Tăng cũng phạm tội Ác tác. Nếu biết lợi vật đem đến thí cho hai người, nhiều người hay cho Tăng mà hồi chuyển cho người khác, cũng phạm tội Ác tác, vì không phải hồi chuyển về cho mình. Nếu biết lợi vật đem đến cúng cho Tăng trú xứ này mà hồi chuyển cho Tăng trú xứ khác, hoặc cúng cho Ni tăng trú xứ này mà hồi chuyển cho Ni tăng trú xứ khác, hoặc cúng cho hai chúng mà hồi chuyển cho một chúng hoặc ngược lại, hoặc Tăng bị phá, đem lợi vật cúng cho chúng như pháp hồi chuyển cho chúng phi pháp và ngược lại thì đều phạm tội Ác tác. Nếu lợi vật đem đến cúng cho làm phòng xá mà hồi chuyển dùng vào việc khác, làm trái bổn ý của thí chủ cũng phạm tội Ác tác. Nếu vật cúng làm tháp, thuộc về tháp mà đem dùng lẫn lộn cũng phạm tội Ác tác, nếu hỏi ý thí chủ mà thí chủ chấp thuận cho làm như thế thì không phạm. Nếu đem thức ăn định thí cho người nghèo khổ, đói rét hoặc cho bàng sanh này mà lại hồi chuyển cho người khác, bàng sanh khác; do trái bổn tâm nên phạm tội Ác tác.
Thật đã hồi chuyển, tưởng đã hồi chuyển và nghi thì phạm Xả đọa; không hồi chuyển mà tưởng là hồi chuyển và nghi thì phạm tội Ác tác; không hồi chuyển, tưởng không hồi chuyển thì không phạm. Nếu biết vật đem cúng cho Tăng mà hồi chuyển về cho mình, dưới cho đến chỉ là một miếng vải để vá y cũng phải xả; nếu là y vật của cha mẹ định cúng cho Tăng mà hồi chuyển về cho mình thì phạm tội Ác tác. Nếu thí chủ cúng y vật cho Hiện tiền tăng thì nên bạch trước rồi đánh kiền chùy nhóm Tăng, đếm số người mà chia đều. Nếu người an cư có duyên sư ra ngoài giới, khi đi có nhắn lấy giùm phần lợi vật thì nên lấy giùm, nếu không nhắn lấy giùm thì không được lấy; nếu người được nhắn gởi mà không lấy phần giùm thì phải lấy phần của mình đền trả lại.
Có tám loại lợi dưỡng:
Giới sở đắc lợi: ở trong một giới hoặc hai hay nhiều giới tùy được lợi dưỡng gì, các vị cựu trụ trong giới này được cùng chia.
Lập chế sở đắc lợi: các Bí-sô chia thành nhóm hay không chia thành nhóm cùng lập chế rằng: "chúng ta an cư trong tụ lạc này, lợi dưỡng từ các nhà thí chủ trên đường thì thuộc về chúng tôi, lợi dưỡng từ các nhà thí chủ trên đường thì thuộc về các vị". Khi được lợi dưỡng liền theo như lập chế mà thọ rồi cùng chia.
Y chỉ sở đắc lợi: tùy nương ở đâu và nương vào ai để an cư mà được lợi dưỡng.
An cư sở đắc lợi: lợi dưỡng có được trong hạ an cư thì tùy thí chủ xử phân.
Tăng già sở đắc lợi: lợi vật đem đến cúng cho Tăng tuy đã quyết định nhưng không hạn cuộc là Tăng an cư hay Tăng hiện tiền thì nên hỏi lại thí chủ.
Bí-sô sở đắc lợi: lợi vật cúng cho Bí-sô được hạn cuộc là Bí-sô ở trong phòng viện này được thọ dụng.
Đối diện sở đắc lợi: lợi vật thọ trực tiếp từ thí chủ.
Định xứ sở đắc lợi: trong một đời hành hóa của Phật, tổng cộng có tám nơi được xây tháp:
Nơi Phật đản sanh tại vườn Lâm tỳ ni, thành Kiếp-tỷ-la.
Nơi Phật thành đạo tại tòa kim cang dưới cội Bồ đề, A-lan-nhã thuộc nước Ma-kiệt-đà.
Nơi Phật chuyển pháp luân tại vườn Thi lộc, chỗ Tiên nhơn đọa xứ thuộc thành Bà-la-nê-tư.
Nơi Phật nhập Niết-bàn tại Sa la song thọ, thành Câu-thi-na.
Tại Trúc lâm, đỉnh núi Thứu, thành Vương xá.
Trong giảng đường Cao các bên ờ hồ Di hầu, thành Quảng nghiêm.
Tại vườn Cấp-cô-độc, rừng Thệ đa, thành Thất-la-phiệt.
Tại tụ lạc Bình lâm, nơi Phật từ cõi trời trở xuống nhân gian.
Bốn nơi trên là định xứ, bốn nơi dưới là bất định xứ, nếu thí chủ muốn cúng dường nơi Phật đản sanh thì nên đem cúng cho chỗ ấy, không được chuyển đem cúng chỗ khác; nếu thí chủ muốn cúng cho bốn định xứ mà sức không thể mang đến cúng cho ba chỗ kia thì tùy cúng cho một chỗ.
Nếu trong hạ an cư Tăng bị phá thì nên chia lợi vật cho người như pháp, không nên chia cho người phi pháp. Nếu Bí-sô qua đời, thực lợi và y lợi của người chết, Tăng nên chia; nếu là y quý giá thì không nên cắt ra chia, nên bán lấy tiền rồi cùng chia. Nếu hai bộ Tăng ni cùng được lợi vật thì nên chia đều, nếu là y vật thì Cầu tịch và Cầu tịch nữ được một phần ba, Chánh học nữ và người sắp thọ Cận viên được một phần hai; nếu là thực lợi thì nên chia đều. Nếu chúng Bí-sô đông, chúng Bí-sô ni ít hơn thì nên đếm số người mà chia; nếu chúng Bí-sô ít hơn thì nên chia một nửa; nếu trong đại hội năm năm... được nhiều lợi vật thì năm chúng xuất gia nên cùng chia.
Phật tại vườn Cấp-cô-độc, thành Thất-la-phiệt, lúc đó Bí-sô Ô-ba-nan-đà qua đời, y vật và các tạp vật khác để lại trị giá đến ba ức kim tiền nên các Bí-sô từ sáu thành lớn đều tụ đến đòi chia phần, các Bí-sô cựu trú không biết làm sao, đem việc này bạch Phật, Phật nói: "Bí-sô nào đến kịp vào năm thời thì được chia phần: một là khi nghe đánh kiền chùy đến tập họp, hai là khi tụng kinh Tam khải đến, ba là khi lễ chế để đến, bốn là khi hành trù đến, năm là khi tác bạch đến. Tăng nên đơn bạch thủ trì tài vật của người chết, trước khi đơn bạch nên hỏi người khán bịnh và người cọng trụ là người chết có mắc nợ ai không và có ai mắc nợ người chết không. Đơn bạch như sau:
Đại đức tăng lắng nghe, Bí-sô Ô-ba-nan-đà qua đời tại đây, đã để lại nhiều tài vật hiện có và không hiện có cùng nhiều y tài và tạp vật khác, Tăng nay tạm thủ trì. Nếu tăng già đúng thời đến nghe, Tăng già nên chấp thuận, Tăng nay thủ trì những tài vật hiện có và không hiện có cùng những y tài và tạp vật khác của Bí-sô Ô-ba-nan-đà chết để lại. Bạch như vậy.
Sau khi tác bạch xong, các Bí-sô hiện tiền trong giới đều được chia phần, nếu không tác bạch thì tất cả chúng đệ tử Thanh văn của Phật trụ trong châu Thiệm bộ hoặc trú xứ đều được chia phần, đây là nghi thức chia tài vật của Bí-sô qua đời để lại. Nếu gặp tranh chấp, chúng tăng khó nhóm để tác bạch thì khai cho làm pháp đầu và cuối, tức là lấy tiền của người chết để lại chừng hai bối xỉ đưa cho vị Thượng tòa thủ chúng và vị nhỏ nhất trong chúng để làm định ký.
Nhiếp tụng:
Kiền chùy, tụng Tam khải,
Khi kính lễ tháp Phật,
Cho đến khi phát thẻ,
Hoặc khi chúng tác bạch.
Nếu đại chúng khó nhóm,
Nên làm pháp trước sau,
Lấy ít vật người chết,
Đưa cho người đầu, cuối.
Những vật nên chia, khinh trọng như thế nào thì như tụng nói:
Ruộng, nhà, quán, ngọa cụ,
Đồng, sắt, các loại da,
Dao cạo, bình, các y...
Can tre lớn, tạp vật,
Thức ăn uống và thuốc,
Giường tòa và khế ước.
Ba báu như vàng bạc,
Thành, chưa thành không đồng,
Đủ các thứ như thế,
Nên chia, không nên chia,
Tùy phân biệt nên biết,
Thế tôn dạy như thế.
Nếu là nhà cửa, ruộng vườn, quán xá, ngọa cụ, các loại da và các vật dụng bằng đồng sắt, đều không nên chia. Nếu là các vật cần dùng của Bí-sô như bát sắt, bát nhỏ, chén đồng, ống khóa, dùi, kim, thìa sắt hoặc bát gốm sứ, bát nhỏ..., đều nên chia, các thứ khác thì không nên chia. Những vật dụng bằng tre cây, ngọa cụ bằng da, đồ cạo râu tóc cho đến các loại vật thực như lúa gạo... nên sung vào trong vật của Tứ phương tăng, cất vào trong tịnh khố để cho Tăng tứ phương thọ dụng. Nếu là nhà cửa, ruộng vườn... thuộc bất động sản cũng sung vào trong vật của Tứ phương tăng, không nên chia; nếu là y vật nhuộm hay chưa nhuộm, giày dép thì Hiện tiền tăng nên chia; nếu là can tre lớn thì dùng để treo phan lọng ở chỗ thờ tượng Bồ-tát, can tre nhỏ thì cho Bí-sô làm tích trượng. Những loài vật đã có như voi ngựa, xe thì đem cho Vương gia; bò dê thì sung vào trong vật của Tứ phương tăng, không nên chia. Lưới dùng làm cửa sổ lưới, những vật có màu thượng sắc thì cho vào trong Phật đường dùng để vẽ tượng; những vật có màu xanh nhạt và đất trắng, đất đỏ thì chia cho Hiền tiền tăng. Nếu rượu chư biến đổi thì đem chôn dưới đất, đợi đến khi thành giấm để cho Tăng thọ dụng; nếu rượu chưa hoại nên đổ bỏ phần cỏ thuốc xen tạp rồi cất vào trong tịnh khố để cho người bịnh dùng. Trân bảo, vàng bạc... đã thành hay chưa thành nên chia làm ba phần: phần của Phật dùng để tu sửa Phật đường và tháp Phật, phần cho Pháp dùng để chép kinh và sửa sang tòa sư tử, phần cho Tăng nên chia cho Hiện tiền tăng. Nếu là vật làm bằng báu như giường chõng... nên bán lấy tiền chia cho Tăng, vật làm bằng gỗ nên sung vào vật của Tứ phương tăng; kinh luật luận đã có nên cất vào Tàng kinh các cho Tứ phương tăng đọc, không được chia; nếu là ngoại điển nên đem bán lấy tiền chia cho Tăng; nếu là khế ước có thể đòi được thì Tăng nên chia, nếu chưa thể đòi được thì cất vào tịnh khố, đợi khi đòi được thì sung vào vật của Tứ phương tăng. Nếu Bí-sô qua đời ở nhà thế tục thì các y vật để lại nên chia cho người đến trước, nếu đến cùng một lượt thì nên cho người nào xin trước, nếu xin cùng một lượt thì tùy người thế tục muốn cho ai thì người đó được lấy. Nếu chỗ Bí-sô qua đời có Bí-sô ni thì không nên chia, ngược lại chỗ Bí-sô ni qua đời có Bí-sô cũng không nên chia; nếu đều không có ai thì thu cất. Nếu người chết ở giữa hai giới thì đầu day về hướng nào thì trú xứ ở hướng đó được phần; nếu người chết nằm trên hai giới thì hai trú xứ cùng chia. Nếu trú xứ quá đông thì khi chia nên chia cho từng nhóm mười người, trong nhóm sẽ tự chia; nếu trong nhóm chưa kịp chia mà có người chết thì phần của người chết này trong nhóm nên chia; nếu trong nhóm đã chia phần rồi thì phần của người chết này, đại chúng nên chia. Nếu người bị xả trí ở chung với người thanh tịnh mà chết thì người thanh tịnh nên chia, nếu không có ở chung với người thanh tịnh thì người đồng bị trị phạt cùng chia. Nếu Bí-sô và Cầu tịch không theo phe nhóm ở trong trú xứ theo phe nhóm mà chết thì y vật để lại nên chia cho người theo phe nhóm, nếu người theo phe nhóm không lấy thì nên xả cho Tăng, đây gọi là thiện xả, Tăng nên chia. Nói theo phe nhóm hay không theo phe nhóm là Đề-bà-đạt-da xướng năm tà pháp, những người tùy thuận theo thì gọi là theo phe nhóm; những người thuận theo Thế tôn gọi là không theo phe nhóm.
Bí-sô bịnh chết, nếu người khán bịnh là năm chúng xuất gia hay là người thế tục thì trong số y vật của người chết nên lấy sáu vật thưởng cho người khán bịnh để báo ân. Sáu vật gồm có ba y, bát, tọa cụ và đãy lượt nước; nếu Bí-sô bịnh khi sắp chết di chúc rằng: "sau khi tôi chết nên đem y vật này cho người kia", đây là pháp của người thế tục, không phải là pháp của người xuất gia nên không thành di chúc, y vật của người chết Tăng nên chia; nhưng nếu người bịnh đối diện dưa cho thì thành cho. Nếu chia y vật của người chết thì phải đợi sau khi làm lễ tang cho người chết xong mới được chia, nếu làm trái thì phạm tội Ác tác; nếu người chết gởi y vật ở trú xứ Tăng nào thì trú xứ Tăng đó được cùng chia. Nếu Bí-sô thọ sự chết, y vật để lại xen lẫn với vật của Tam bảo, không thể biện biệt được thì những y vật đó Tăng được cùng chia.
Nếu người ở trong giới, tưởng là ở ngoài giới và nghi mà cùng chia y vật thì phạm tội Việt pháp. Nếu trú xứ chỉ có một Bí-sô được lợi vật an cư nên thọ, thọ rồi nên tâm niệm thủ trì như sau: "y vật an cư này, Hiện tiền tăng nên chia, nhưng trong đây không có Tăng, y vật này tôi nay xin thủ trì"; nếu không làm pháp thủ trì này thì khi có Bí-sô đến nên cùng chia, nếu không chia thì phạm tội Ác tác. Nếu trong hạ an cư được lợi vật thì không nên chia cho người phá hạ; nếu là Thời y hoặc đối diện cúng tì người chưa có tuổi hạ cũng được phần. Nếu hai bộ tăng cũng thọ thực xong, có thí chủ đem y vật tới cúng, nếu không để trước chỗ Thượng tòa thì nên hỏi ý thí chủ rồi mới chia; nếu để trước chỗ Thượng tòa thì y vật đó nên chia làm hai phần cho hai bộ Tăng. Nếu Bí-sô trong hạ an cư vì việc Tăng mà xuất giới chưa về kịp thì khi chia lợi vật an cư nên để dành phần cho vị ấy. Dù là tiền an cư hay hậu an cư, nếu tọa hạ hơn nửa hạ (số ngày ở trong hạ nhiều hơn số ngày xuất giới) thì lợi vật an cư đều nên chia cho.
Thượng tòa thủ chúng có hành pháp là khi thấy người dọn đưa thức ăn cúng cho Tăng, nên bảo người ấy quỳ gối chắp tay bạch Tăng: "bình đẳng cúng, đã đến giờ", Thượng tòa cũng nên nói: "nên cúng bình đẳng". Nếu Thượng tòa thứ nhất không nói thì vị thứ hai nên nói, nếu không có ai nói thì các Thượng tòa đều phạm tội Việt pháp.
Nếu thí chủ mở hội cúng dường Tăng, dùng lụa nhiều màu treo trên cây để trang trí, sau khi hội tan, Tăng nên thu cất đợi đến tiết hội sau đem ra treo lên chỗ ấy để trang trí lại, hoặc treo ở chỗ khác. Nếu thí chủ treo ở trên tường thì vật cúng đó dùng để vẽ tường; nếu để trong nhà ấm thì vật cúng đó dùng để cung cấp vật cần dùng cho nhà ấm; nếu để bên giếng hay ao thì vật cúng dùng để cung cấp nước uống cho Thời và phi thời; nếu để trong nhà nuôi bịnh thì vật cúng đó dùng để cung cấp thức ăn ngon cho người bịnh; nếu để nơi phòng Tăng ở trước cửa hay nơi hành lang thì vật cùng đó nên chia cho Hiện tiền Tăng; nếu để ở ngoài sân thì vật cúng đó thuộc về tứ phương tăng thọ dụng, không được chia. Có năm loại vật, thể của vật không nên chia: một là vật của Tứ phương tăng, hai là vật của tháp, ba là vật trong nhà nuôi bịnh, bốn là
Nếu trong vườn cây Am-một-la có nhiều trái nên chia đều cho Tăng để tự thọ dụng, khi hái trái nên giữ im lặng không nên làm ồn náo, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp; khi sắp chia nên xem kỹ trái nào có sâu, gom những trái không có sâu lại làm thọ tịnh rồi mới chia; nếu lúc đó không có tịnh nhân trao thì Bí-sô tự thọ rồi đem đi chia, không phạm. Nếu ở nơi tháp của đệ tử Thanh văn được cúng nhiều lợi vật thì nên dùng để tu bổ lại tháp, nếu có dư thì Hiện tiền tăng nên chia.
Nếu làm tháp thờ xá lợi Phật thì nên xây viên mãn; nếu làm tháp thờ Duyên giác, Độc giác thì trên đỉnh tháp không có bình báu; nếu làm tháp thờ A-la-hán thì trên tháp có bốn luân tướng; nếu làm tháp thờ ba quả vị dưới thì theo thứ lớp giảm bớt 1 luân tướng; nếu làm tháp thờ hàng Dị sanh thuần thiện thì không có luân tướng, gọi là tháp bằng đầu.
Nếu thí chủ cúng tiền xây chùa cho Tăng, tùy tâm thí chủ có thể trích dùng tiền ấy cho việc mua sắm dụng cụ xây dựng và thức ăn uống cho người trông coi việc xây cất, cho đến mua sắm các tạp vật cần dùng khác như dầu đèn...
Nếu có thí chủ xây cất trú xứ, trước đã dâng cúng cho một người, sau đó lại hồi chuyển cúng cho một người khác hoặc cúng cho hai người, ba người hoặc Tăng thì gọi là phi pháp thì và người thọ dụng là bất tịnh. Như thế cho đến đã cúng cho Tăng trú xứ này, hoặc cho Ni tăng trú xứ này, sau đó lại hồi chuyển cúng cho Tăng hay Ni tăng trú xứ khác... thì thí trước là như pháp thí, thí sau là phi pháp thí, người thí và người thọ đều thành phi pháp.
Nếu có thí chủ ngay nơi trú xứ mà mình xây cất cúng dường đầy đủ nhưng vật cần dùng như ngọa cụ... thì Tăng trong trú xứ này được thọ dụng, không được chuyển đem cho trú xứ khác.
Có năm loại thọ dụng, đó là:
Chủ thọ dụng: chỉ cho bậc A-la-hán đã vĩnh viễn trừ hết ba độc.
Cha mẹ thọ dụng: chỉ cho bậc Học nhân còn có dư hoặc.
Khai cho thọ dụng: chỉ cho bậc dị sanh thuần thiện, giới thanh tịnh, siêng tu thiền tụng, không có tâm giãi đãi.
Mắc nợ thọ dụng: chỉ cho người tuy có trì giới nhưng không siêng tu giác phẩm thiện pháp.
Trộm cắp thọ dụng: chỉ cho người phạm một trong bốn trọng. Đối với loại loại Bí-sô phá giới này thì ta không cho thọ dụng một hạt cơm và cũng không cho bước chân vào chùa. Nếu làm trái thì phạm tội Việt pháp.
Phật tại Trúc lâm, thành Vương xá, lúc đó đệ tử của tôn giả Tất-lân-già-bà-ta thọ ác xúc, để thuốc và thức ăn xen tạp nhau hoặc tự loại cùng nhiễm; lại không biết loại thuốc nào nên xả, loại thuốc nào không nên xả, là Thời hay là Phi thời nên tùy ý thọ dụng... Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô bị bịnh, Phật cho được dùng bốn loại dược hàm tiêu là tô, dầu, mật và thạch mật. Bí-sô này được cất chứa trong vòng bảy ngày để dùng, nếu cất chứa quá bảy ngày thì phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề.
Bịnh có hai loại là chủ bịnh và khách bịnh, cho nên Bí-sô khi thọ thực nên khởi tưởng trị bịnh rồi mới ăn. Nhân đây nói về hành pháp của Bí-sô khán bịnh. Đối với người bịnh, Ô-ba-đà-da hoặc A-giálợi-da hoặc đệ tử thân giáo, đệ tử y chỉ, hoặc đồng Ô-ba-đà-da, đồng A-giá-lợi-da và thân hữu tri thức nên khởi thiện tâm thăm nuôi. Nếu người bịnh không nơi nương tựa thì cả chúng nên đến thăm nuôi, hoặc luân phiên mỗi ngày ba lần nên đến thăm. Người khán bịnh nên để ghế ngồi ở chỗ người bịnh cho người đến thăm bịnh ngồi, nhưng không nên ở lâu. Nếu người bịnh nghèo không có tiền mua thuốc thì thầy bạn nên lo giúp, hoặc đến thí chủ xin, hoặc mượn vật của Tăng, của tháp đem bán lấy tiền để mua thuốc cho người bịnh, đợi khi bịnh lành sẽ trả lại sau, nếu không thể trả được cũng không phạm. Bí-sô khán bịnh cung cấp cho người bịnh, trừ Tánh tội ra, tất cả đều nên làm; nếu người bịnh sắp chết, người nuôi bịnh nên dời người bịnh đặt nằm trên ngọa cụ khác, khéo làm phương tiện chớ để người bịnh sân não; nếu chết phải lo tang sự cho chu đáo. Nếu người khán bịnh thấy người bịnh khốn khổ vì bịnh nên khuyên đem y bát cúng Tăng, Tăng thọ nhưng không nên chia liền, nên vào ngày khác hỏi thăm bịnh có khá hơn hay không; nếu người bịnh đòi thì nên trả lại, nếu người bịnh nói không lấy lại nữa thì Tăng mới nên chia. Nếu ai không làm theo hành pháp này thì phạm tội Ác tác.
Phật khai cho các Bí-sô được dùng bốn loại dược: một là Thời dược, hai là Cánh dược, ba là Thất nhật dược, bốn là Tận thọ dược.
Thời dược: như bún (miến, mì, nui...), bánh bột, ngũ cốc (xôi, bắp...), thịt (cá), cơm. Những món ăn này đều là đúng thời mới ăn.
Cánh dược (phi thời dược): có tám loại nước uống, đó là:
Chiêu giả tương: Chiêu giả là tên của bốn loại cây ở Ấn độ, cũng gọi là Điên trớ lê, trái giống như trái bồ kết nhung có mùi vị như trái mơ, lớn chừng hai ngón tay, dài khoảng ba, bốn tấc, người đương thời ép lấy nước uống.
Mao giả tương: tức là nước ép từ trái chuối với 1 ít bột hồ tiêu.
Cô lạc ca tương: nước ép từ trái Cô lạc ca, mùi vị như nước trái táo chua.
A thuyết tha tương: nước ép từ trái A thuyết tha.
Ô đàm bạt la tương: giống như trái mận, ép lấy nước dùng.
Bát lỗ sái tương: giống như trái anh áo, ép lấy nước dùng.
Miệt lật trụy tương: giống như trái nho, ép lấy nước dùng.
Khát thọ la tương: cấy giống như cây Lâu lư, trái giống như trái tào nhỏ, ép lấy nước dùng.
Trừ tám loại nước này ra, nước ép từ các loại trái cây khác như cam, quýt, mía... đều được uống dùng.
Thất nhật dược: là bốn loại dược hàm tiêu gồm có tô, dầu, mật và thạch mật.
Tận hình thọ dược: có năm loại từ củ rễ, thân cành, lá, hoa và quả. Củ như củ Xương bồ, củ gừng, củ sen...; thân như cây Ngưu đầu chiên đàn...; lá như lá xoan... ; hoa như hoa sen...; quả như Ha lê lặc, Am ma lạc ca...
Lại có năm loại thuốc cao như A ngụy, đường đen, tử khoáng, sáp vàng và các loại cao khác; lại có năm loại thuốc tro như tro Khúc mạch, tro Khúc mạch mang, tro Dược xoa ma căn, tro Ngưu tất thảo và các loại tro khác; lại có năm loại thuốc muối như Tiên đà bà, Tỳ đăng già, Tao bạt chiết la, Cốt lộ ma và Tam một đạt la; lại có năm loại thuốc sáp như Am ma lạc ca, Cuống bà, Chiêm bộ, Thất lợi sai và Cao thiêm bạc ca.
Nếu là Thời dược thì nên dùng đúng thời, không được dùng phi thời; Bí-sô bịnh khốn, thầy thuốc bảo nên ăn phi thời thì nên ở chỗ khuất mà ăn, không phạm. Bốn loại dược này nếu hòa lẫn xen tạp nhau thì nên tùy thế lực của loại dược nào mạnh hơn mà dụng, tức là càng về trước thì càng mạnh, càng về sau thì càng yếu, thời gian dài là yếu, thời gian ngắn là mạnh; ba loại dược sau nếu hòa lẫn xen tạp nhau cũng giống như vậy, nếu quá thời hạn của dược thì không được dùng.
Nếu thịt của các loài chim thú như kên kên, diều hâu, cú mèo, voi, ngựa, rồng, khỉ, chó... Bí-sô đều không nên ăn; nếu da là bất tịnh thì thịt, gân xương cũng đều bất tịnh; cũng không nên ăn thịt dư của hổ ăn và thịt người. Nếu thấy Bí-sô ăn thịt, Thượng tòa nên hỏi là thịt gì để biết là loại thịt nên ăn hay không nên ăn; nếu Thượng tòa không hỏi thì Thứ tòa nên hỏi, nếu không hỏi thì phạm tội Ác tác. Lại có ba loại thịt không nên ăn là thấy nghe nghi, nếu biết vì mình mà chúng bị giết hại thì phạm tội Việt pháp. Nếu Bí-sô bịnh, thầy thuốc bảo nên ăn thịt sống, nếu Bí-sô bịnh vừa thấy thịt sống liền ói mửa thì nên bịt mắt người bịnh lại rồi mới cho ăn, sau đó để thức ăn ngon khác ở trước mặt người bịnh rồi mới mở khăn bịt mắt ra. Có năm hạng người khai cho trong bữa tiểu thực được ăn năm loại thức ăn chính, đó là người bịnh, người khán bịnh, khách mới đến, người sắp đi xa và người giữ chùa.
Nếu trong chùa không có kết tịnh trù mà cùng thức ăn đồng phòng ngủ (nội túc), hoặc bên trong nấu (nội chữ) hoặc tự nấu thì Bí-sô không nên ăn, trừ vào lúc thời thế mất mùa đói kém. Nếu có thí chủ khi cúng y thực cho các Bí-sô mà xưng danh Tam bảo thì Bí-sô nên hỏi: "xưng Phật đà tức là bậc Lưỡng túc tôn phải không?", nếu đáp phải thì Bí-sô không nên thọ, nếu đáp: "thầy chính là Phật của con" thì được thọ; Đạt ma và Tăng già cũng hỏi dựa theo đây. Nếu thí chủ thỉnh Tăng thọ thực, đã dọn thức ăn ra ở trên bàn, tuy tâm thí đã thành nhưng vì có việc gấp phải đi ngay, không kịp dâng cúng cho Bí-sô, lúc đó Bí-sô nên khởi tưởng đang ở Bắc Câu lô châu, tự lấy ăn không phạm.
Về Cánh dược có sáu loại giấm là:
Đại giấm: đem các tạp quả như nho... ngâm trong nước đường cát, ủ thời gian lâu thành giấm (rượu nho...)
Giấm lúa mạch: xay giã gạo, lúa mạch rồi đem ủ một thời gian cho thành giấm (rượu nếp...)
Giấm thuốc: dùng các loại cây cỏ thuốc ủ một thời gian co thành giấm (rượu thuốc)
Tiểu giấm: chắt lấy nước cơm để làm giấm gạo, dùng lâu không hư.
Lạc tương: nước uống chế biến từ Lạc.
Toản lạc tương: chỉ chung các loại nước uống chế biến khác.
Khi dùng loại nước uống này nên nhỏ vào ít nước để tác tịnh, dùng lượt lượt rồi để lắng trong, vào Thời hay Phi thời dù bịnh hay không bịnh đều được tùy ý uống dùng.
Về Thất nhật dược, sau khi thọ rồi nên đối trước người tác pháp thủ trì, được cất dùng trong bảy ngày không phạm. Có năm hạng người được thủ trì Thất nhật dược: một là người đi đường, hai là người đoạn thực, ba là người bịnh, bốn là người giữ chùa, năm là người trông coi việc xây cất. Pháp làm đường phèn có pha bột trong đó, nhưng chỗ làm là tịnh, khi đi đường phi thời được ăn; nếu đường dính gạo thì phải phủi bỏ gạo ra rồi mới ăn, nếu dính bột thì nên rửa rồi ăn không phạm, hoặc bỏ vào trong nước sạch cho tan rồi lượt, phi thời được uống. Đường phèn này vào Thời hay Phi thời dù bịnh hay không bịnh, ăn đều không phạm. Lại có năm loại mỡ, trong Thời nấu chín rồi lượt, sau khi thọ rồi đối trước người tác pháp thủ trì, cất chứa trong bảy ngày uống dùng cho đến khi lành bịnh, sau khi bịnh lành cũng nên cất chứa để cho người khác khi họ cần; hoặc để trong nhà nuôi bịnh để cho người bịnh khác uống dùng, nếu không làm thế thì phạm tội Ác tác; loại mỡ không như pháp thì không được cất chứa dùng, nếu dùng để thoa thân, nhỏ mũi hay lau chân thì không phạm. Nhưng nếu là mở của năm loại vật có trí như khỉ, ngựa, voi, sư tử, hổ báo, dù dùng thoa chân cũng phạm tội Ác tác. Nếu Bí-sô phi thời thọ mía, lạc, dầu mè, thịt; phi thời chế biến dù có lượt và tác pháp thủ trì cũng không được dùng; nhưng nếu là mật thì chỉ cần nhỏ chút nước vào làm tịnh, dù Thời hay Phi thời đều được tùy ý thọ dụng.
Về Tận hình thọ dược, nếu bị bịnh ghẻ nên dùng năm loại thuốc sáp phơi ở chỗ râm mát, sau đó đem giã rồi nấu với nước dùng để thoa rửa chỗ ghẻ lở cho đến khi lành. Nếu bị bịnh mắt, thầy thuốc bảo dùng năm loại An thiện na nhỏ mắt thì được dùng không phạm; đó là hoa An thiện na, nhựa An thiện na, bột An thiện na, viên An thiện na và Tao tỳ la An thiện na, tùy loại mà cất giữ cho thích hợp, nhưng không nên vì làm đẹp mà nhỏ mắt.
Ở trong sân chùa phơi thuốc, có loại nên phơi nơi chỗ râm mát, có loại nên phơi ngoài nắng; nếu thấy trời sắp mưa mà không có tịnh nhân hay người chưa thọ Cận viên ở đó thì Bí-sô tự thu cất không phạm. Nếu có bịnh duyên, thầy thuốc bảo dùng một trong bốn loại thuốc như phẩn tiểu của con bò mới sinh hoặc tro cây Quật lộ đà, tro cây Bồ đề, tro cây Ô đàm bạt la hoặc thoa hoặc uống để tiêu độc thì Bí-sô nên nhờ người có tín tâm tìm lấy giùm.
Nếu Bí-sô không bịnh thì không được dùng các thứ cay nồng như tỏi, hành; bịnh dùng thì không phạm nhưng người ăn tỏi hành để trị bịnh không được vào trong chúng, không được lễ tôn tượng, nhiễu tháp, cũng không được thuyết pháp cho người tục, dù được thỉnh cũng không nên đi; nên ở phòng bên cho đến khi lành bịnh, dù bịnh lành cũng phải đợi bảy ngày sau, nếu ăn hành thì đợi ba ngày sau cho hơi hôi tiêu tán, tắm rửa giặt giũ sạch sẽ cho đến tẩy rửa chỗ ở cho sạch rồi mới được trở vào trong chúng.
Muối Tiên đà bà nên đựng trong sừng và đậy lại để muối không chảy nước. Mía có thể dùng làm bốn loại dược, thể của mía là Thời dược, nước mía là Cánh dược, đường mía là Thất nhật dược, tro của mía là Tận hình thọ dược. Bốn loại dược này nếu không thọ, không thủ trì, hoặc thọ mà không thủ trì, hoặc thủ trì mà không thọ thì đều không nên dùng; thọ rồi tác pháp thủ trì thì được dùng.
Ở trong giới chùa, cây trái trên đất bất tịnh thì không nên ăn; tuy ở trên đất tịnh nhưng trái rơi trên đất bất tịnh, trải qua đêm cũng không nên ăn; nếu cây trái trên tịnh địa, trái rơi trên tịnh địa tuy trải qua đêm vẫn được ăn. Những việc đã chế và khai ở trên, nếu không hành theo thì tùy mỗi việc phạm tội Ác tác. Những khí cụ cần dùng theo thuốc như ống hít khói dài mười hai ngón tay, làm bằng sắt dùng để hít khói vào mũi, có thể trị được các bịnh; hoặc chén đồng dùng để uống thuốc, khí vật cất giữ thuốc đều không được làm bằng vật báu. Được cất chứa chùy sắt dùng làm nước thuốc nóng, bằng cách nung nóng rồi nhúng vào trong bồn nước thuốc, người bịnh ngâm mình trong bồn nước thuốc nóng này để trị bịnh; hoặc nồi đồng, nồi sắt để nấu thuốc cho đến cái đục, cái liềm, con dao... đều được chứa dùng; nhưng khí vật có ba loại: lớn là một sao, nhỏ là nửa sao, giữa hai loại này là loại vừa. Người thuộc tạp loại sau khi xuất gia rồi không nên trổ tài nghề trước kia của mình, cũng không được cất chứa đồ nghề; nhưng nếu là thầy thuốc thì được.
Bí-sô được cầm dù đi để che mưa nắng, dù nên đan bằng tre trúc, may bằng lá hay bằng vải; không được dùng dù toàn trắng như vua quan, cũng không được tô vẽ hay trang sức bằng lông Khổng tước. Nếu không có mưa hay nắng thì không nên cầm dù, cán dù không nên làm bằng vật báu và chạm trổ trên đó; khi đi khất thực có thể cầm dù, nhưng khi vào thôn nên gởi ở nhà thế tục, đợi khi khất thực xong trở về mới lấy để che mưa nắng. Bí-sô cũng được mang giày hay guốc cho đến mũ và giày phú la, nơi chỗ có gai góc nên làm đế giày hai lớp để chân không bị đau. Nơi xứ lạnh được tùy ý mặc y Lập bá và áo choàng dày; nơi xứ nóng hay vào mùa nóng cũng được dùng quạt làm bằng lá cây Đa-la, cán quạt cũng không được làm bằng vật báu, cũng không được chạm trổ hoặc dùng châu ngọc đính vào; cũng cho dùng cây phất để xua đuổi ruồi muỗi, tua phất nên dùng sợi gai hay bạch điệp, không được dùng lông đuôi ngựa làm tua phất.
Có hai hạng người được đi xe, đó là người già yếu và người bịnh khổ; nếu người bịnh có dùng các loại hương xông, hương thoa thân thì không nên vào trong chúng... giống như trường hợp ăn tỏi, sau khi lành bịnh nên tắm rửa giặt giũ cho hết mùi hương này mới được trở vào trong chúng. Nếu người tục tín tâm đem hương hoa đến cúng, Bí-sô nên thọ rồi để nơi đầu giường hoặc treo trên tường, ngửi mùi hương hoa này có thể làm cho mắt sáng. Khi thí chủ thỉnh thọ thực, dùng bột hương thoa trên chân Bí-sô thì nên thọ chớ nên ngăn, sau khi thọ thực xong trở về rửa.
Nói bốn loại dược là tổng nêu, trong học xứ này chỉ nói đến Thất nhật dược gồm có tô, dầu, mật và thạch mật. Tô là như sữa bò, sữa dê... cho đến sanh tô, thục tô; dầu là như dầu mè, dầu phọng... và bao gồm năm loại mỡ như pháp lượt dùng; mật là mật ong; đường là đường mía, đường cát, đường phèn. Nhưng bịnh duyên không ngoài ba loại là bịnh phong, bịnh nhiệt và bịnh đàm ấm; nếu là bịnh phong nên dùng dầu, bịnh nhiệt nên dùng tô và thạch mật, bịnh đàm ấm nên dùng mật và đường, nước đường cát cũng có thể trừ cả ba bịnh. Nói bảy ngày là nói thời gian lâu nhất, ở khoảng giữa tùy ý dùng trong mấy ngày thì dùng.
Nói ở trong Thời sau khi thọ rồi nên đối trước một Bí-sô tác pháp thủ trì như sau:
Đại đức nhớ nghĩ, tôi là Bí-sô có bịnh duyên, loại dược thanh tịnh này nay xin được thọ trì trong vòng bảy ngày tự lấy dùng. (ba lần)
Nói xúc chạm lấy dùng trong đêm là được xúc chạm và để loại thuốc này ở trong phòng cùng ngủ đêm, để trong đếm cần lấy dùng mà không phải thọ lại. Nói Thời là khoảng thời gian từ sáng sớm cho đến giữa trưa, nói Phi thời là từ xế trưa cho đến sáng hôm sau khi mặt trời chưa mọc. Thời hạn cất chứ là bảy ngày, nếu gần hết thời hạn mà còn dư thì nên đem cho tịnh nhân hoặc Cầu tịch; nếu không đem cho để qua ngày thứ tám khi mặt trời mọc liền phạm Xả đọa. Bí-sô sau khi tác pháp thủ trì xong nên khởi niệm: "loại Thất nhật dược này ta nay nên thọ dụng", nếu không khởi niệm này thì khi uống dùng, vừa qua cổ họng liền phạm tội Ác tác.
Đủ bảy ngày, tưởng đã đủ bảy ngày và nghi mà dùng thì phạm Xả đọa; không đủ, tưởng đủ và nghi thì phạm tội Ác tác; không đủ, tưởng không đủ và đủ tưởng không đủ thì không phạm. Nếu vì muốn đẹp hoặc vì tham mùi vị hoặc vì muốn được mập mạnh với tâm dối thọ dụng thì phạm tội Ác tác. Bí-sô sau khi thọ trì được một ngày, nên đối trước vị đồng phạm hạnh nói rằng: "tôi đã thọ dùng loại dược này được một ngày, còn sáu ngày nữa", cứ như thế cho đến ngày thứ bảy nên biết.
Trong ba mươi pháp Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề này, Bí-sô tùy phạm một pháp nào, nên xả vật phạm rồi sám tội Đọa; nếu không xả vật phạm, không để cách đêm hoàn vật, không sám tội hoặc thiếu một trong ba điều này thì khi được thêm vật khác hoặc đồng loại hoặc khác loại, vừa vào tay liền phạm Xả đọa, vì do thế lực của tội trước lây nhiễm. Nói xả vật là đem vật phạm đối trước Bí-sô thanh tịnh để xả; nói cách đêm là ngày nay xả y, ngày mốt mới hoàn vật, ở giữa gián cách một ngày đêm. Trừ bát dư có phạm phải ở trong chúng hành bát, tất cả vật phạm khác đều nên đối trước một Bí-sô xả, riêng vàng bạc vật báu thì nên xả cho người chưa thọ Cận viên và người tục; nếu là y đoạt lại của người khác thì sau khi xả nên trả y lại cho người bị đoạt. Có bốn hạng người sở đối để xả vật: một là người đáng tin nhưng không hiểu luật tạng, hai là tuy hiểu luật tạng nhưng không đáng tin, ba là có cả hai, bốn là không phải cả hai. Trong bốn hạng người này nên đem vật phạm đối trước hạng người thứ tư mà làm pháp xả như sau: "Đại đức nhớ nghĩ, vật phạm Xả đọa này nay con xả cho Đại đức, tùy Đại đức định đoạt", xả rồi để các đêm mới hoàn lại vật cho Bí-sô phạm và nói rằng: "vật này thầy có thể tùy ý dùng". Bí-sô phạm nên đối trước vị thanh tịnh với đầy đủ oai nghi nói tội như sau:
Đại đức nhớ nghĩ, tôi Bí-sô chứa y dư phạm Xả đọa và tội Ba-dật-đề không kính giáo cùng các tội phương tiện Đột sắc ngật lý ca, nay đối trước cụ thọ phát lồ sám hối không dám che giấu, do phát lồ nên được an lạc, không phát lồ thì không được an lạc. (ba lần)
Bí-sô thọ sám hỏi: thầy có thấy tội không? Bí-sô đối sám đáp: thấy.
Lại hỏi: sau này thầy có khéo hộ trì các giới không?
Đáp: sẽ cẩn thận hộ trì.
Bí-sô thọ sám nói: tốt. Đáp: Lành thay.
Tổng nhiếp tụng:
Vọng ngữ và chủng tử,
Không sai cùng thường ăn,
Nước trùng, bảo bạn đi,
Bàng sanh, đám giặc, ăn.
Biệt tụng thứ 1:
Vọng, hủy và ly gián,
Phát khởi, đồng thanh tụng,
Nói tội, thật đắc quả,
Theo bà con, khinh hủy.
Phật tại Trúc lâm, thành Vương xá, lúc đó cụ thọ La hỗ la khi có ai đến hỏi Phật đang ở đâu liền vọng nói phương xứ để xúc não người đó; lại do Bí-sô Pháp thủ ở thành Thất-la-phiệt dối hẹn ngày luận nghĩa với Luận nghĩa sư từ phương Nam đến mà không đến nên bị chê trách. Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô cố ý vọng ngữ thì phạm Ba-dật-đề.
Nói cố ý là tâm đã quyết định, không có lầm lỡ; vọng ngữ là nói trái với tâm, nói hư dối. Trong giới này, vọng ngữ từ hai loại tăng dần đến chín loại, nói chín là gồm năm bộ tội và bốn phá hạnh; nói tám là gồm ba căn cứ và năm bộ tội; nói bảy là gồm ba căn cứ và bốn phá hạnh; nói sáu là gồm ba thời và ba căn cứ; nói năm là năm bộ tội; nói bốn là bốn phá hạnh; nói ba là ba căn cứ, lại có ba là người vọng ngữ nghĩ rằng: "ta sẽ vọng ngữ, đang vọng ngữ và đã vọng ngữ"; nói hai là đang vọng ngữ và đã vọng ngữ, vọng ngữ chỉ có hai vì không có một mà thành vọng ngữ. Vọng ngữ thuộc tội Ba la thị ca là tự nói mình được pháp hơn người; vọng ngữ thuộc tội Tăng già bà thi sa là đem tội trọng không căn cứ vu báng muốn phá hạnh thanh tịnh của người khác; vọng ngữ thuộc tội Tốt-thổ-la để là ở trong chúng, phi pháp nói là pháp; vọng ngữ thuộc tội Đột sắc ngật lý ca là khi thuyết giới biết mình có phạm mà im lặng che giấu; trừ bốn loại vọng ngữ trên, các loại vọng ngữ khác đều thuộc tội Ba-dật-đề, do việc vọng ngữ có sai khác nên thành năm bộ tội.
Nói Ba-dật-đề là đốt nấu, đọa lạc; các học xứ ở phương tiện vị đều có tội Ba-dật-đề không kính Thánh giáo. Trong học xứ này, nếu thật không thấy, nghe, hay biết mà nói là thấy nghe hay biết thì đều phạm Đọa; quên hay không quên, nghi hay không nghi, không thấy mà tưởng có thấy hoặc thấy mà tưởng không thấy; hoặc trong bốn việc thấy nghe hay biết lại nói lẫn lộn nhau, hoặc chỉ quên một việc còn việc khác không quên, hoặc nghi một việc còn việc khác không nghi, khi trái tâm mà nói như thế cho đến người nghe chưa hiểu thì phạm tội Ác tác đối thuyết, nếu khởi tâm muốn vọng ngữ thì phạm tội trách tâm.
Thật thấy, tưởng thấy mà nói không thấy thì phạm bổn tội; thật thấy nhưng nghi mà nói là tôi thấy hoặc nói không thấy thì phạm tội Ác tác; thật không thấy mà tưởng là thấy nên nói thấy thì không phạm; nếu thật không thấy, nghi mà nói là tôi thấy thì phạm tội Ác tác, do tưởng có sai khác mà phạm tội có nặng nhẹ.
Nếu Bí-sô mặc áo thế tục hay áo ngoại đạo, có người hỏi: "ông thuộc loại người nào?", đáp là người tục hay ngoại đạo thì phạm Ba-dật-đề; nếu mặc áo ngoại đạo và làm hình tướng thế tục thì phạm tội Ác tác; nếu làm nghi dung ngoại đạo lõa hình thì phạm Tốt-thổ-la để, nhưng không do việc này mà xả học xứ. Không phạm là nói có căn cứ thấy nghe nghi và nương theo tưởng mà nói. Tội vọng ngữ có bốn chi thành phạm: một là Bí-sô, hai là có tâm vọng, ba là nói rõ ràng, bốn là người nghe hiểu rõ. Lại nữa, đệ tử Phật thường nên nói thật, càng không nên thề thốt để tự minh oan vì người khác không tin, dù bị vu báng cũng không nên thề.
Phật vườn Cấp-cô-độc, thành Thất-la-phiệt, lúc đó Lục chúng Bí-sô chê bai mắng nhiếc Bí-sô khác là què thọt, Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô chê bai mắng nhiếc Bí-sô khác thì phạm Ba-dật-đề.
Nói chê bai mắng nhiếc là do sân hận hay do ngạo mạn, khi chê bai mắng nhiếc như thế, dù người nghe hổ thẹn hay không, đều phạm bổn tội. Có tám việc: một là tộc họ, hai là nghề thợ, ba là hình tướng, bốn là tật bịnh, năm là phá giới, sáu là phiền não, bảy là không giới, tám là phi loại.
Nói tộc họ là bốn giai cấp: Sát-đế-lỵ, Bà-lamôn, Phệ xá, Thủ đà la; như nói thầy thuộc dòng Sát-đế-lỵ hoặc Bà-la-môn thì phạm tội Ác tác, do có tâm chê bai; hoặc nói dòng Sát-đế-lỵ, Bà-lamôn có nghề gì thì thầy nên học, cũng phạm tội Ác tác; nếu nói với tâm chê bai hai giai cấp dưới là hạ tiện thì phạm bổn tội.
Nói nghề thợ là bao gồm các nghề như chài lưới, thợ may, thợ sắt, thợ mộc, thợ hồ, thợ cạo... nếu nói với tâm chê bai các nghề này là thấp hèn và nói thầy nên học nghề này thì đều phạm bổn tội.
Nói hình tướng là như nói què, thọt, lùn... Nói tật bịnh là như nói bịnh hủi, ung thư...
Nói phá giới là nói tội đã phạm thuộc trong năm bộ tội. Nói phiền não là nói sân hận, tật đố...
Nói không giới là nói trước kia đã phạm trọng, hoặc khi làm Cầu tịch và sau khi thọ Cận viên lại phạm tội trọng, hoặc tuy thọ Cận viên nhưng chúng không hòa hợp hoặc người có các chướng pháp như là tặc trú, Bán trạch ca, hoặc làm ô nhục Bí-sô ni, phi nhân hoặc người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại...
Nói phi loại là như nói thầy là Bí-sô ni, Thức xoa ma na... thì phạm tội Ác tác, chê bai Bí-sô ni và ba chúng dưới cũng phạm tội Ác tác. Bí-sô ni chê bai mắng nhiếc Bí-sô ni cũng phạm Đọa, chê bai Bí-sô và ba chúng dưới đều phạm tội Ác tác. Nếu đối với người Trung phương mà nói ngôn ngữ của biên địa hay ngược lại, người nghe nhận hiểu thì phạm bổn tội, không hiểu thì phạm tội Ác tác. Việc này tưởng việc này, trong sáu câu có bốn phạm và hai không phạm; không phạm là trong dòng tộc nêu tên mà nói, hoặc không có tâm chê bai, nói lở lời hoặc có ý dạy bảo hoặc muốn làm lợi ích.
Duyên xứ như trên, lúc đó Lục chúng Bí-sô vì việc nuôi chúng mà nói lời ly gián nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô nói lời ly gián thì phạm Ba-dật-đề.
Nói ly gián là khởi ác tâm nói ly gián để mong cầu vật tư sanh hoặc muốn làm việc không lợi ích hoặc do tật đố, hoặc muốn làm phước nghiệp như đọc tụng, y chỉ... Nếu Bí-sô nơi một người nói ly gián một người hoặc hai người cho đến nhiều người hay một chúng... việc có nặng nhẹ nhưng tên tội không khác, khi vừa đến nói ly gián thì phạm tội Ác tác, người kia nghe hiểu thì phạm bổn tội. Thân ở trên hư không đối trước người ở dưới đất nói ly gián hoặc ngược lại; thân ở trong giới đối trước người ở ngoài giới nói ly gián và ngược lại; hoặc cả hai người đều ở trong giới hoặc đều ở ngoài giới thì đều phạm bổn tội. Nếu đối trước người thọ học nói ly gián thiện Bí-sô hoặc đối trước Cầu tịch nói ly gián Bí-sô và ngược lại thì đều phạm tội Ác tác. Khi nói ly gián, người nghe chưa hiểu thì phạm tội Ác tác, cảnh tưởng, phạm và không phạm đều giống như trên.
Duyên xứ như trên, lúc đó Tăng đã như pháp yết ma dứt tránh, Lục chúng Bí-sô phát khởi trở lại nên Phật chế học xứ: Nếu Bí-sô biết Tăng hòa hợp đã như pháp đã xử đoán việc tranh cãi xong rồi, sau đó nơi yết ma phát khởi trở lại thì phạm Ba-dật-đề.
Nói biết là biết việc yết ma đã xử đoán như pháp, hoặc tự biết hoặc do người khác nói cho biết; nói hòa hợp là không phải biệt chúng, tức là các Bí-sô ở trong giới hòa hợp hiện tiền tác pháp, người nên gởi dục thì gởi dục, người nên quở thì không quở. Có mười bốn hạng người không nên quở:
Người ngu là người ý suy nghĩ điều ác, miệng nói lời ác, thân làm việc ác và cố chấp việc đã làm.
Người si là người không trì kinh, luật, luận.
Người không phân minh là người không hiểu rõ giáo văn trong ba tạng.
Người không thiện xảo là người không hiểu rành giáo lý trong ba tạng.
Người không tàm quý là người phạm một trong bốn tội Tha thắng.
Người có lỗi lầm là người mới tranh cãi hay trước đó đã có lời oán trách
Người ở ngoài giới hoặc ở trong giới nhưng ở chỗ lìa thấy nghe.
Người ở chỗ khác tức là ở trong giới nhưng lại ở trên hư không.
Người bị Tăng bạch tứ yết ma xả khí.
Người nói không có thứ tự là người nói dối, nói ly gián, nói thô ác và tạp loạn.
Người xả oai nghi là người rời khỏi chỗ ngồi.
Người mất bản tánh là người làm việc không nên làm, không tu tập các học xứ.
Người thọ học là người phạm tội Ba la thị ca nhưng không che giấu, Tăng bạch tứ yết ma cho học lại giới trọn đời ( học hối Sa di ).
Tăng yết ma như pháp.
Nói người nên quở trách là người thanh tịnh, lời nói có phép tắc, ở trong chúng không xả oai nghi.
Người trụ bổn tánh là người thấy Tăng bỉnh yết ma phi pháp nếu quở thì thành quở, hoặc thấy người bỉnh yết ma tuy như pháp nhưng không thích muốn quở thì cũng thành quở; hoặc như yết ma sai mười hai hạng người hay như Cầu tịch và Chánh học nữ thọ Cận viên, hoặc Cầu tịch nữ thọ sáu học pháp, hoặc cho yết ma Biệt trụ cho đến cho yết ma Xuất tội, nếu vị này hiểu rõ sự việc mà quở thì cũng thành quở.
Tăng đủ túc số là bốn người trở lên, nếu thiếu một người thì không gọi là Tăng; nếu đưa người thọ học vào cho đủ túc số, hoặc đưa người tục, người trước đã phạm tội, ô nhục Ni, người tạo tội Vô gián, hoặc ngoại đạo, tặc trú, người phạm Bất cọng trụ, người đang hành Biệt trụ, người điếc... vào cho đủ túc số thì tác pháp không thành, phạm tội Ác tác. Nếu Tăng vì Tăng mà tác yết ma thì phạm Tốt-thổ-la để, vì làm phương tiện phá Tăng. Nói như pháp là như lời Phật dạy, hòa hợp tác pháp thì gọi là như pháp, khác với đây là phi pháp. Có năm loại yết ma phi pháp, đó là phi pháp biệt chúng, phi pháp hòa hợp chúng, tợ pháp biệt chúng, tợ pháp hòa hợp chúng, như pháp biệt chúng. Phi pháp trong đây là không cho giải mà giải; hoặc bạch nhị, bạch tứ không tác bạch mà liền tác yết ma hoặc ngược lại. Tợ pháp trong đây là không cho làm yết ma mà làm yết ma, hoặc yết ma trước, tác bạch sau. Túc số trong đây là số người nhiều hơn bốn người thì tác yết ma thành tựu, nếu ít hơn bốn người thì không thành; lại nữa nếu sai người thọ học hành trù thì tác yết ma không thành. Khi tác yết ma xả trí, tuy ngủ nhưng nghe tác bạch thì cũng thành xả trí; hoặc nghe tác bạch rồi ngủ hay nhập định cũng thành xả trí, hoặc nghe tác bạch rồi chúng đều ngủ cũng thành xả trí, nhưng nếu chúng ngủ trong lúc đang tác bạch thì không thành xả trí; nếu khi tác bạch có một trong tám nạn sự khởi lên, dù chỉ có một người nghe cũng thành xả trí.
Nói tránh sự có bốn: một là bình luận tránh (ngôn tránh), hai là phi ngôn tránh, ba là phạm tội tránh, bốn là sự tránh. Nói như pháp dứt tránh là việc tranh cãi đã dứt diệt, nói phát khởi lại là đối với việc tranh cãi đã dứt diệt, do tâm ác nên phát khởi lại.
Tướng phạm trong đây là nếu biết việc tranh cãi thuộc một trong bốn loại kể trên đã như pháp dứt diệt rồi, khởi tưởng đã dứt diệt rồi và nghi mà còn phát khởi trở lại thì phạm Ba-dật-đề; không như pháp dứt diệt, khởi tưởng là như pháp và nghi thì phạm tội Ác tác; pháp và phi pháp, khởi tưởng là phi pháp thì không phạm. Có năm hạng người được phát khởi yết ma:
Chủ nhân là người đối với yết ma đã bỉnh, đầu giữa sau đều biết rõ.
Người bỉnh pháp là người ở trong chúng, lúc đó đang bỉnh yết ma.
Người gởi dục là người có duyên sự không đến nhóm họp.
Người trình bày tình kiến là người trình bày ý kiến của mình về việc tranh cãi.
Khách là người đối với việc tranh cãi, đầu giữa sau đều không biết rõ.
Trong năm hạng người này, ba hạng người trước nếu phát khởi yết ma trở lại thì phạm bổn tội, hai hạng người sau thì phạm tội Ác tác.
Lại có năm hạng người phi pháp trình bày ý kiến của mình, lời nói ra đều không đúng pháp: một là người trụ bộ khác, hai là người chưa thọ Cận viên, ba là người bị trị phạt, bốn là người được pháp gia bị, năm là người phạm trọng.
Duyên xứ như trên, lúc đó Bí-sô Ô-đà-di giỏi về tướng số, đối trước người nữ này nói tướng lạ ở chỗ kín của người nữ kia nên chiêu lấy cơ hiềm, Phật liền chế ngăn việc thuyết pháp cho người nữ. Sau đó quán lợi ích nên khai cho nói pháp chừng năm sáu câu, Lục chúng Bí-sô cố ý nói tăng thêm bảy câu, lại xem khỉ vượn bên cạnh là người nam có trí để nói pháp cho người nữ, nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô nói pháp cho người nữ quá năm, sáu câu thì phạm Ba-dật-đề, trừ có người nam hiểu biết bên cạnh.
Nói người nữ là người hiểu biết được nghĩa thiện ác của lời nói; nói năm câu là nói năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều là vô thường; nói sáu câu là nói sáu căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý đều là vô thường. Trong đây nếu nói quá năm đến sáu câu hoặc nói quá sáu đến bảy câu thì thành phạm. Không phạm là có người nam hiểu biết nghĩa thiện ác của lời nói ở bên cạnh, có thuyết nói có người nữ hiểu biết khác bên cạnh cũng không phạm; hoặc ở trên lầu nói năm câu, xuống tầng giữa nói thêm thành sáu câu, xuống tới dưới đất nói thêm thành bảy câu, do khác chỗ nên không phạm. Cảnh tưởng và nghi về người nam hiểu biết hoặc về số câu giống như trên, suy ra mà biết; nếu người bên cạnh là người không hiểu biết hoặc là người biên địa hoặc ngủ say, nhập định... thì phạm tội Ác tác.
Duyên xứ như trên, lúc đó Lục chúng Bí-sô cùng những người chưa thọ Cận viên đồng thanh đọc tụng làm ồn náo như pháp của Bà-la-môn, Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô cùng người chưa thọ Cận viên đồng câu đọc tụng và dạy pháp thì phạm Ba-dật-đề. Nói người là giả không phải thật, vì do bốn nghĩa giả nhưng thuận theo thế tục mà gọi là người, nếu nói khác họ sẽ kinh sợ. Nói đồng câu là hoặc đồng câu hoặc trước câu, hoặc đồng chữ, trước chữ; nếu đọc tụng cùng một lúc thì gọi là đồng câu, nếu A-giá-lợi-da chưa đọc xong, đệ tử liền đọc theo thì gọi là trước câu; nói dạy pháp là dạy mười hai phần giáo, có thuyết nói pháp trong đây là pháp tương ưng với Tỳ-nại-da; chế ngăn người chưa thọ cụ, nếu thọ cụ thì không phạm. Nếu Bí-sô dạy pháp cho người thật chưa thọ Cận viên, khởi tưởng chưa thọ Cận viên và nghi mà đọc tụng đồng câu hoặc trước câu, đồng chữ hay trước chữ thì phạm Ba-dật-đề; nếu đối tượng là phi nhân, bàng sanh hay người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại... thì phạm tội Ác tác. Nếu người tục vì tìm lỗi hoặc có tâm trộm pháp, hoặc không tín kính, không hiểu biết gì hoặc là ngoại đạo mà nói lời tương ưng với luật cho họ nghe thì phạm Đọa. Nếu chúa giặc hoặc vua hoặc người tín kính muốn nghe giới kinh, nói cho họ nghe thì không phạm. Có năm hạng người không nên nói Tỳ-nại-da cho họ nghe: một là người tánh không hiểu biết gì mà gắng gượng hỏi, hai là người không phải vì trừ nghi mà hỏi, ba là người hỏi để thử, bốn là người muốn xúc não nên hỏi, năm là người hỏi để tìm lỗi; ngược với năm hạng người trên thì nói cho họ nghe không phạm. Không phạm là nói cà lăm, tánh hấp tấp hoặc đồng tụng câu chánh văn, hoặc trước khi dạy pháp có bảo người kia không được đồng đọc tụng.
Người thọ pháp phải đủ oai nghi, không nên khi thọ pháp mà ngủ gật; hễ là đệ tử thì dù già hay trẻ, khi đến chỗ thầy thỉnh hỏi đều nên cung kính chắp tay, trước thăm hỏi thầy có an không, kế thỉnh thầy quyết nghi, thầy dạy nên nhất tâm lãnh thọ không để cho quên mất, thọ pháp xong đảnh lễ thầy rồi lui ra. Nếu thầy ra ngoài có việc phải đi theo thì nên đi sau thầy, thầy ngồi mình nên đứng một bên hoặc ngồi ở ghế thấp. Thầy đối với đệ tử nên quý trọng chớ nên khinh miệt và dạy bảo với tâm hư dối, cũng không nên có tâm xẻn pháp, có nhẫn có thương, không khởi sân giận để người thọ pháp không sanh phiền não. Đối với người thường hầu hạ, thầy nên thường dạy bảo; đối với người bẩm tánh ngu độ cũng nên dạy riêng. Nếu khi thuyết pháp, dạy pháp bằng giọng ca vịnh thì phạm tội Ác tác, tụng kinh thì không phạm; không nên đọc tụng kinh sách ngoại đạo, nếu muốn hàng phục ngoại đạo, tự biết mình có khả năng thì mỗi ngày ba thời nên dành hơn hai thời phần để học Phật pháp, thời phần còn lại mới nghiên cứu ngoại thư. Không nên chia năm tháng làm thời phần, nên chia ngày đêm ba thời, đầu đêm sau đêm tu định, giữa đêm ngủ nghỉ. Nếu đọc tụng kinh theo tiết đoạn va âm vận của Bà-la-môn thì phạm tội Việt pháp; dù là phương ngôn hay quốc ngữ, tùy thời ngâm vịnh để xướng dắt, cũng không phạm. Bí-sô nên học luật của Bí-sô ni để khi ni thỉnh giáo thọ, như pháp mà giáo thọ hoặc có nghi thì giải nghi cho họ. Nếu khi thuyết giảng mà quên nhân duyên, chỗ ở, phương xứ thì tại sáu thành lớn là nơi Như lai trú lâu nhất ở trong đại Chế để, nói ra những nơi ấy thì không phạm. Nếu quên hiệu của các vua thì nói vua Thắng quang, nếu quên trưởng giả thì nói trưởng giả Cấp-cô-độc, nếu quên Ô-ba-tư-ca thì nói Tỳ-xá-khư... nên biết như vậy. Đối với nơi khác thì tùy theo vua hay trưởng giả ở nơi đó mà nói. Nếu nói về nhân duyên sự việc đời trước thì tùy thời mà nói, như nói thành Bà-la-nê-tư thì có vua hiệu Phạm thọ, có trưởng giả tên Tương tục, có Ô-ba-tư-ca tên Trưởng tịnh. Lại nữa vào ngày mồng tám, mười bốn mỗi tháng, Bí-sô ở trú xứ vào bữa tiểu thực nên đánh kiền chùy nhóm chúng để thuyết kinh pháp, nếu ngoại đạo đến thì nên phương tiện bảo họ đi ra. Nên thỉnh bậc kỳ túc thuyết kinh pháp, người thuyết pháp không nên cầu lợi để nuôi mạng sống; nếu người thuyết pháp nói phi pháp thì Thượng tòa nên ngăn lại; người thuyết pháp cũng không nên dẫn nhiều đồ đệ làm thị tùng, nếu họ tự nguyện đi theo thì không phạm. Người thuyết pháp nên ngồi tòa cao và nếu người khác không thỉnh mà liền vì nói thì phạm tội Việt pháp.
Duyên xứ như trên, lúc đó trong Lục chúng Bí-sô có một Bí-sô già phạm tội Tăng già bà thi sa, bị tăng trị phạt; các Bí-sô khác nói cho người chưa thọ Cận viên nghe, khiến họ khinh miệt Bí-sô già kia, Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô biết Bí-sô khác có tội thô mà nói cho người chưa thọ Cận viên nghe thì Bí-sô này phạm Ba-dật-đề, trừ Tăng yết ma cho nói.
Tội thô là tội thuộc hai bộ giới đầu và tội phương tiện; nói trừ Tăng yết ma là như trường hợp của Bí-sô Quảng Ngạch và Bí-sô ni Tùng thọ, Phật bảo các Bí-sô tác yết ma sai người đi nói tội của họ cho người tục biết; nếu một mình vị này không thể làm được thì Tăng nên tác đơn bạch cho cả chùng cùng nói, do một người đi nói thì dễ bị hại nên cho nhiều người nói, mục đích để ngăn Bí-sô ác làm tổn giảm Tam bảo và ngăn bè nhóm ác phá giới tăng thêm, muốn khiến họ bỏ bạn ác gần bạn lành; lại cũng muốn hộ tâm mọi người, chớ để họ cho là Tăng đồng ác hạnh và cho là các Bí-sô phần đông là phạm giới hạnh, che giấu cho nhau; cũng ngăn Bí-sô ác đến nhà bạch y làm điều không lợi ích.
Nếu người tục trước không biết Bí-sô kia có tội Thô, Bí-sô tưởng không biết và nghi mà nói tội Thô của Bí-sô kia cho nghe thì phạm Ba-dật-đề; nếu nói tội Thô của mình, hoặc khi nói tội Thô của người khác, người nghe không hiểu thì phạm tội Ác tác. Tuy được Tăng yết ma cho nói, nhưng nếu nói cho người chưa biết có tâm phẩn nộ riêng tư thì cũng phạm tội Ác tác. Không phạm là tội của người đó, mọi người trong thành ấp thả đều nghe biết, nếu có chưa biết, tưởng là biết mà nói, hoặc nói cho người Kiến đế nghe thì không phạm.
Phật tại thành Phệ xá ly, bên sông Bạt lũ mạt để, lúc đó các Bí-sô trước kia chưa thật được pháp của bậc thượng nhân, nay đã được nên đem nói cho người chưa thọ Cận viên biết. Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô ở trước người chưa thọ Cận viên nói tôi được pháp hơn người, nếu là thật thấy biết nên nói là thấy biết như vậy, thì Bí-sô này phạm Ba-dật-đề.
Giới này khác với giới đại vọng ngữ ở chỗ giới kia là hư, giới này là thật; giới kia phạm trọng, giới này phạm khinh; giới kia tội phương tiện là Tốtthổ-la để, giới này tội phương tiện là Ác tác. Tướng phạm trong giới này là nếu Bí-sô thật được pháp của bậc thượng nhân, nói cho người chưa thọ Cận viên nghe biết thì phạm Đọa; nếu đối trước phi nhân, người điên cuồng... thì phạm tội Ác tác. Nếu trong tay Bí-sô đang cầm quả, có người hỏi thầy được quả phải không, nếu ý ở nơi quả trong tay mà đáp là được thì phạm tội Ác tác; nếu ý ở nơi quả Thánh mà đáp là được thì phạm Đọa; đối trước người tục hiện thần thông cũng phạm tội Ác tác; Bí-sô ni đối trước Phật mà hiện thần thông cũng phạm tội Ác tác. Không phạm là vì muốn cho Thánh giáo được hiển hiện nên hiện các thần biến hoặc tự hiển bày đức của mình, hoặc muốn tâm hữu tình kia được giáo hóa điều phục nên nói không phạm.
Phật tại thành Vương xá, lúc đó Bí-sô Thậtlực-tử làm việc chúng nặng nhọc nên ba y đều hư rách, Phật bảo các Bí-sô tác yết ma cho Thật-lựctử y. Trong chúng có hai anh em Mật-đát-la và Bộnhĩ-ca do đời trước có oán thù với Thật-lực-tử nên nhân việc này vu báng để xúc não Thật-lực-tử, các Bí-sô cũng vì việc này sanh tranh cãi. Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô trước đã hoan hỉ cho, sau lại nói rằng: "các Bí-sô tùy thuận người quen biết nên hồi chuyển vật của Tăng đem cho", thì Bí-sô này phạm Ba-dật-đề.
Nói đã hoan hỉ cho là tâm hòa đồng với việc mà Tăng đã làm; nói tùy thuận người quen biết tức là A-giá-lợi-da, Ô-ba-đà-da và các môn nhân ở chung; nói lợi vật là dựa trên duyên khởi mà nói, bao gồm y lợi và thực lợi.
Trong đây phạm là không hồi chuyển, khởi tưởng không hồi chuyển và nghi thì phạm Ba-dật-đề; hồi chuyển, khởi tưởng không hồi chuyển thì phạm tội Ác tác; không phạm là hồi chuyển hay không hồi chuyển mà khởi tưởng là hồi chuyển.
Phật tại vườn Cấp-cô-độc, thành Thất-la-phiệt, lúc đó Lục chúng Bí-sô mỗi nửa tháng nghe thuyết Ba-la-đề-mộc-xoa; khi nghe thuyết Ba la thị ca thì im lặng, nghe thuyết đến Tăng già bà thi sa... liền sanh bất nhẫn nói ra lời khinh chê học xứ nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô khi thuyết giới nói rằng: "cụ thọ sao lại nói những giới vụn vặt ấy làm chi, mỗi nửa tháng từ trong Giới kinh nói những giới này làm cho Bí-sô khác tâm sanh hối, tâm hoại, tâm phiền não, áy náy, ưu sầu không vui", nói lời khinh chê giới như vậy thì Bí-sô này phạm Ba-dật-đề.
Nói thuyết giới là bắt đầu từ lời tựa giới, bốn pháp Ba la thị ca cho đến hết bảy pháp Diệt tránh, tổng nhiếp các việc và nhưng học xứ vụn vặt đã có. Do Lục chúng Bí-sô thường hay phạm tội nên khi nghe đến những giới này, tâm tình không vui nên nói ra lời chê trách, khinh chê học xứ như thế. Nói vụn vặt là chỉ cho ba bộ giới dưới. Nói tâm sanh hối... là đối với điều mình ưa thích lại không ưa thích, điều nên làm lại không làm; do hối nên phiền não, ưu sầu không vui, khi nói ra lời khinh chê này liền phạm Đọa. Nếu đối với mười bảy việc trong Ni đà na. Mục đắc ca, tăng năm, tăng sáu cho đến tăng mười sáu... và các kinh khác tương ưng với Tỳ-nại-da mà khinh chế đều phạm Ba-dật-đề; không tương ưng với Tỳ-nại-da thì phạm tội Ác tác. Cảnh tưởng và nghi giống như trên.
Duyên xứ như trên, lúc đó có Bí-sô trước kia là thợ xây dựng, vì muốn làm chùa nên đốn chặt cây đại thọ thù thắng gần miếu thờ trời, thần cây ngay trong đêm đó đến chỗ Phật bạch lại việc trên. Phật an ủi thần cây rồi bảo các Bí-sô: "các thầy không nên đốn chặt cây cối, nếu vì muốn làm chùa cần đốn chặt cây thì trước đó khoảng bảy tám ngày, ở nơi gốc cây đó làm Mạn đà la, đọc kinh ba lần xong liền nói bố thí chú nguyện, kế nói mười nghiệp bất thiện là nhân của đọa lạc và khuyên tu mười thiện nghiệp để được quả giải thoát", kế nói rằng: "nếu trên cây này có thần nương ở, nay nên đi chỗ khác; tôi vì tăng làm chùa hay tháp", nói như thế xong mới đốn chặt. Nếu khi chặt có hiện tướng lạ thì nên ca ngợi phước bố thí, chê trách bỏn xẻn; nếu vẫn hiện tướng lạ thì không nên chặt. Do Lục chúng Bí-sô tự tay chặt cỏ cây, ngoại đạo và người tục thấy liền chê trách là không có tâm từ mẫn, làm tổn hại chỗ ở của chúng sanh và thôn xóm của quỷ thần, nên Phật chế học xứ: Nếu Bí-sô tự hoại chủng tử sống là thôn xóm của hữu tình, hoặc bảo người khác làm thì phạm Ba-dật-đề.
Chủng tử có năm loại:
Căn chủng: loại sinh từ củ, từ gốc như hương phụ tử, gừng, khoai...
Hành chủng: loại sinh từ thân cành như cây Bồ đề, thạch lựu...
Tiết chủng: loại sinh từ lóng đốt như mía, tre...
Khai liệt chủng: loại sinh từ hạt nứt tét ra, nẩy mầm và tăng trưởng như hạt đào, hạt đậu...
Dị tử chủng: loại sinh từ hột khác loại như từ lông dê mà sanh cỏ Đề xanh, từ phân bò sanh hoa sen xanh; lúa bắp... vừa là dị tử chủng vừa là khai liệt chủng, vì cũng do nứt hạt mà nẩy mầm, cũng gọi là Tử tử chủng.
Nói quỷ thần thôn là cây cối trong rừng đều là nơi nương ở của cầm thú và quỷ thần, giống như thôn xóm của người; nói hoại là bao gồm bẻ, nhổ, đốn chặt... Nếu Bí-sô nơi chủng tử, cây cỏ sống, khởi tưởng chủng tử cây cỏ sống và nghi mà dùng dao, cưa để đốn chặt, hoặc dùng móng tay ngắt, dùng tay bẻ... làm tổn hại khiến cho chúng khô chết, hoặc ở chỗ kinh hành giẫm đạp cỏ tươi, tự làm hay bảo người làm đều phạm bổn tội, nếu chúng không thương tổn thì phạm tội Ác tác. Nếu làm tổn hoại riêng từng loài thì tùy tổn hoại bao nhiêu phạm Đọa bấy nhiêu, nếu dùng nhiều phương tiện thì đều phạm tội Ác tác, nếu dùng một phương tiện làm tổn hoại nhiều loài thì phạm một tội Ác tác và nhiều tội Đọa. Trong các học xứ khác, vọng về cảnh và tâm mà luận tội nhân quả; còn trong học xứ này, nếu cây cỏ mới mọc, lúa hoặc trái đã chín, hoa đã nở... mà làm cho rơi rụng thì đều phạm tội Ác tác; nếu là cây cỏ sống, trái xanh, hoa chưa nở... làm rụng thì phạm Đọa; khuấy động bèo, rêu nổi trên mặt nước thì phạm tội Ác tác, vớt ra khỏi mặt nước thì phạm Đọa.
Tổ chim hay ong nếu chưa đẻ trứng hoặc đã đẻ trứng nhưng trứng hư thì trừ bỏ không phạm, nếu muốn dời tổ của chúng đi chỗ khác thì nên cẩn thận chớ làm tổn thương chúng; nếu khi quét dọn... vô tình làm tổn thương chúng thì không phạm. Các loại rau củ nếu thọ nên tác tịnh rồi mới được ăn, có năm cách tác tịnh là hỏa tịnh, đao tịnh, tiến tịnh, điểu tịnh và chỉ giáp (móng tay) tịnh; lại có năm cách tác tịnh là rơi rụng hư, nhổ lên, vặn đứt, bửa ra và không phải hạt giống. Hỏa tịnh là như có nhiều trái cây nên nhóm lại một đống rồi dùng lửa châm vào ba bốn chỗ để làm tịnh; nếu tác tịnh riêng thì dùng dao hay móng tay bấm vào; nếu là hạt giống sống mà có chỗ tổn cũng gọi là tịnh; loại không phải hạt giống tức là giống hư không thể nẩy mầm, nấu ăn không phạm. Nếu Bí-sô tự cầm dao tác tịnh thì khi ăn không phạm, nhưng khi tác tịnh phạm Đọa; nếu tự dùng hỏa tịnh thì có lỗi tự nấu, ở chỗ không phải là tịnh địa nấu thì có lỗi bên trong nấu, đều không nên ăn; nếu đi đường hiểm không có tịnh nhân hay người chưa thọ Cận viên hoặc vào thời buổi mất mùa đói kém thì tự tác tịnh không phạm.
Phật tại thành Vương xá, lúc đó Bí-sô Thậtlực-tử được Tăng sai làm người phân chia ngọa cụ và thức ăn, hai anh em Mật-đát-la và Bộ-nhĩ-ca do có oán thù đời trước nên thường phỉ báng Thậtlực-tử. Tăng đã tác pháp quở trách nhưng vẫn đối trước mặt Thật-lực-tử nói lời chê bai khinh hủy, nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô chê bai khinh hủy Bí-sô khác thì phạm Ba-dật-đề.
Chê bai hủy bàng có hai: trước mặt và ở chỗ khuất, trong học xứ này là đối trước mặt hủy báng người được Tăng sai. Đối với mười hai hạng người được Tăng sai, người đã bị Tăng tác pháp quở trách dù đối trước mặt hay ở sau lưng chê bai khinh hủy đều phạm Đọa; nếu Tăng chưa tác pháp quở trách thì phạm tội Ác tác; nếu đó thật là ngước ác, khởi tưởng ngước ác mà hủy báng thì không phạm; nếu là người ác, khởi tưởng không phải là người ác và nghi mà hủy báng thì phạm tội Ác tác; nếu là người thiện, khởi tưởng người thiện và nghi mà hủy báng thì phạm Đọa; người thiện mà tưởng là người ác, hủy báng thì không phạm.
Phật tại vườn Cù sư la, nước Kiều-thiểm-tỳ, lúc đó Bí-sô Xiển đà đã phạm tội rồi, các Bí-sô khuyên nên cải hối, Xiển đà nói lời lạ để xúc não, Phật bảo các Bí-sô tác yết ma quở trách, Xiển đà lại im lặng xúc não, các Bí-sô lại tác pháp quở trách. Xiển đà tuy bị quở trách vẫn không cải hối, hoặc nói hoặc nín để xúc não nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô chống trái lời dạy xúc não thì phạm Ba-dật-đề.
Nói chống trái xúc não là khi các Bí-sô như pháp dạy bảo: điều này nên làm, điều này không nên làm; nghe rồi liền chống trái nói ra lời bất nhẫn hoặc im lặng không đáp.
Nói lời lạ là như có Bí-sô hỏi Bí-sô: "thầy có thấy Bí-sô hoặc nam nữ thế tục có tướng mạo như thế như thế hay không?", Bí-sô này khởi tâm xúc não nên đáp: "người như vậy tôi chưa từng thấy, chỉ thấy có hai chân đi từ chỗ này", hoặc im lặng không đáp, thì đều phạm Đọa; như vậy cho đến đối với Tăng hay Bí-sô thanh tịnh, nếu có tâm xúc não khi dối hoặc nói lời lạ hoặc im lặng để chống trái xúc não thì đều phạm Đọa. Nếu khi có người khác hỏi, trước đáp sau nín thì phạm tội Ác tác; nếu đối với Tăng hay bậc tôn túc xứng lý dạy bảo, khởi tâm cấu uế xúc não cũng phạm Đọa; nếu dạy bảo không xứng lý, nói lời chống trái xúc não thì phạm tội Ác tác; khi Tăng dạy bảo nên làm việc này mà lại làm việc kia, cũng phạm Đọa. Lời dạy bảo xứng lý, khởi tưởng xứng lý và nghi mà chống trái xúc não thì phạm Đọa; lời dạy không xứng lý, khởi tưởng xứng lý và nghi thì phạm tội Ác tác; lời dạy xứng lý, khởi tưởng không xứng lý mà chống trái thì không phạm. Nếu giặc đến A-lan-nhã khủng bố bắt Bí-sô làm thức ăn cho bọn giặc ăn; Phật bảo nên làm theo, nếu thấy không thể thì nên bỏ trốn đi, nếu ở lại thì phạm tội Ác tác.
Về lời dạy bảo có năm trường hợp:
Nếu lời dạy phi lý hư dối thì nên chống trái.
Nếu lời dạy phi lý và có ý sân thì nên xả.
Nếu lời dạy phi lý nhưng không có ý sân cũng không nên nghe theo.
Nếu lời dạy bảo nên như thuyết hành trì, tức là hễ có phạm nên cải hối thì phải nghe theo.
Nếu lời dạy bảo khuyên nên trì giới, cũng phải nghe theo.
Nếu Tăng sai làm việc chúng, khởi tâm cấu uế, việc nên làm lại không chịu làm, việc không nên làm lại làm thì đều phạm Đọa; không khởi tâm cấu uế thì phạm tội Ác tác. Nếu miệng tuy không nói lời chống trái nhưng thân lại hiện tướng xúc não như sai đi mà không đi, không sai đi lại đi; hoặc gọi đến mà không đến, không gọi đến lại đến; có tâm cấu uế hay không có tấm cấu uế đều kết phạm giống như trên.
Không phạm là khi Bí-sô thấy thợ săn đuổi theo con nai, nếu thợ săn hỏi Bí-sô có thấy con nai chạy qua đây không, nếu trời lạnh thì Bí-sô nên nói hãy vào hơ lửa, nếu trời nóng nên nói hãy vào uống nước; nếu thợ săn cứ hỏi nữa thì Bí-sô nhìn vào móng tay rồi đáp là nặc khư bát xà nhĩ, hoặc nhìn lên hư không rồi đáp như trên; hoặc nhìn bốn phía suy nghĩ tất cả hành là vô ngã, không có hữu tình, nghĩ như vậy rồi đáp là không thấy có hữu tình nào chạy qua đây, thì không phạm. Nếu miệng đau đang ngậm thuốc, không đáp được thì không phạm.
Phật tại vườn Cấp-cô-độc, thành Thất-la-phiệt, lúc đó các Bí-sô trải phu cụ của tăng nơi đất trống ngồi rồi bỏ đi không thu cất. Thế tôn thấy trời sắp mưa nên tự tay thu cất, thấy các Bí-sô không biết quý tiếc khi thọ dụng ngọa cụ nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô đem ngọa cụ, đồ ngồi nằm của Tăng để nơi chỗ đất trống, tự trải hay bảo người trải để ngồi nằm; khi đi không tự dẹp cất, cũng không bảo người khác dẹp cất thì Bí-sô này phạm Ba-dật-đề. Có sáu loại Tăng: một là Tăng bốn người, hai là Tăng bốn người trở lên, ba là Tăng hiện tiền, bốn là Tăng bốn phương, năm là Tăng cựu trụ (chủ), sáu là Khách tăng. Trong học xứ này nói Tăng là chỉ cho Tăng bốn phương.
Nói phu cụ là bao gồm giường tòa, mền nệm... Giường có nhiều loại, hoặc giường cây có chân tròn, chân nhọn, hoặc giường dây; nếu là giường tòa cao lớn phi pháp thì Bí-sô không nên thọ dụng, nếu nằm ngồi thì phạm tội Ác tác; nếu ở nhà thí chủ, vì thương xót nên ngồi nằm thì không phạm. Nệm nằm có chiếu dài khoảng bốn gang tay, rộng hai khuỷu tay, bốn bên may kín, bên trong dồn lông hay bông hoặc kiếp bối, vải vụn...; nệm nhỏ dùng để ngồi.
Nói chỗ đất trống là chỗ không có bóng che; nói không dặn cất là nếu có Bí-sô thì nhờ cất giùm, nếu không có Bí-sô thì nhờ Cầu tịch, nếu cũng không có thì nhờ thí chủ ở gần, nếu cũng không có thì nên nhìn bốn phía rồi thu cất để trong phòng khóa lại; khi đi đến giữa đường nếu gặp Bí-sô thì nên chỉ chỗ cất chìa khóa. Có năm hạng người không nên dặn hoặc nhờ: một là người không biết hổ thẹn, hai là người có hiềm khích với mình, ba là người già yếu, bốn là người bịnh, năm là người chưa thọ Cận viên.
Tướng phạm trong đây là nếu trải phu cụ của Tăng ở chỗ đất trống hoặc do có duyên khác, hoặc do tâm khinh mạn không quý tiếc, hoặc quên nên bỏ đi không cất; khi chưa ra khỏi thế phần thì phạm tội Ác tác, ra khỏi thế phần (49 tầm) thì phạm Đọa. Nếu quên, đi đến giữa đường mới nhớ thì nên tâm nghĩ miệng nói: "ta sẽ không tái phạm như thế nữa", hoặc nghĩ: "vị đồng phạm hạnh trong chùa thấy ta đi, ắt sẽ cất giùm"; nếu không nghĩ như thế thì phạm tội Ác tác. Nếu giữa đường gặp Bí-sô nên ân cần nhờ cất giùm, Bí-sô nhận lời nhưng khi về đến chùa lại quên thu cất, cho đến sáng hôm sau khi mặt trời mọc mới nhớ thu cất, nếu không hư tổn gì thì phạm tội Ác tác, nếu có hư tổn thì phạm Đọa; nói hư tổn là hoặc do gió thổi làm tổn, hoặc do mưa làm ướt trong ngoài. Nếu phu cụ là bất tịnh như được dồn bằng lông lạc đà, lông xen tạp..., hoặc giường cao quá tám ngón tay của Phật..., hoặc không ở trong chùa mà ở chỗ Sa môn, Bà-la-môn khác... không thu cất thì phạm tội Ác tác.
Nếu giường tòa hai người cùng ngồi thì người đứng lên sau nên thu cất, nếu cả hai cùng đứng lên một lượt thì người nhỏ nên thu cất, nếu bằng tuổi hạ thì cả hai cùng cất. Cảnh tưởng có sáu câu: hai câu đầu phạm trọng, hai câu kế phạm khinh, hai câu sau không phạm. Nếu trải phu cụ rồi có một trong tám nạn duyên xảy đến thì nên dặn thu cất rồi mới đi; nếu nạn duyên đến sát bên, liền bỏ đi thì không phạm. Nếu mền nệm có thêu vẽ nhiều màu thì Bí-sô không nên cất chứa ngồi nằm, nếu là ngọa của của Tăng thì không được lấy vật khác thay thế, nếu làm thế thì không cho thọ dụng. Nếu dùng ngọa cụ của Tăng, lở làm hư hoại thì không nên im lặng bỏ đó mà không khâu vá lại; nếu quá mục không thể khâu vá lại được thì nên cắt nhỏ dùng làm tim đèn hoặc làm giẻ lau...để thì chủ được phước.
Môn nhân đệ tử thường nên vào ngày mồng tám, mười lăm, hai mươi ba, ba mươi, xem xét ngọa cụ của thầy hoặc phủi quét hong phơi hoặc giặt giũ, nếu không làm thì phạm tội Ác tác; nếu không có môn nhân thì Bí-sô phải tự lo liệu. Nếu có giặc đến khủng bố thì y vật của Tăng già không nên bỏ lại, vật gì có thể thọ dụng được thì nên mang theo, người nào mang theo thì được tự dùng; sau khi nạn khủng bố hết, trở về chùa thì nên trả lại y vật này về chỗ cũ, không được tự dùng nữa.
Nếu Bí-sô nhỏ hạ dùng vật dụng của Tăng để nhuộm y, Bí-sô lớn hạ hơn không được đến giành lấy dùng, cũng không được bảo đứng dậy; cho đến ở chỗ thọ thực, người khác đến trước đã ngồi thọ thục rồi, mình đến sau cũng không được bảo đứng dậy. Ở chỗ ngồi thiền, nếu đứng dậy đi kinh hành thì nên để Tăng khước kỳ hoặc dây lưng trên chỗ ngồi của mình, để người khác không đến giành chỗ. Khi đến nghe pháp, Cầu tịch hoặc Bí-sô ni không được ngồi trên tòa ngồi tốt của Tăng, nếu là người lìa dục, có dụng tâm thì được ngồi. Bí-sô cũng không nên ngồi chung tòa ngồi với Cầu tịch, người thế tục và người thọ học, nếu có nạn duyên thì không phạm. Bí-sô không có tuổi hạ không nên ngồi chung tòa với Bí-sô ba tuổi hạ, Bí-sô một tuổi hạ không nên ngồi chung tòa với Bí-sô bốn tuổi hạ, Bí-sô hai tuổi hạ trở lên được ngồi chung tòa với Bí-sô ba tuổi hạ trở lên; nếu ở nhà bạch y chật hẹp thì được ngồi chung tòa với Ô-ba-đà-da không phạm. Nếu đi đường mượn được ngọa cụ thì nên chia đều để thọ dụng, không nên một mình thọ dụng, nếu nhiều ngọa cụ thì chia riêng cho từng người, nếu không đủ thì dùng chung, không được giành thọ dụng một mình. Không nên hai người nằm chung một giường, nếu người có hổ thẹn thì không phạm, nếu chỉ có một giường lớn phải nằm chung thì nên dùng y ngăn ở giữa. Nếu thí chủ có tâm tín kính trải vải trên đất thỉnh chúng tăng bước lên, Bí-sô nên thương xót thí chủ và khởi tưởng vô thường để bước lên thì không phạm.
Nếu thí chủ thỉnh Tăng thọ thực, cần nhiều ngọa cụ để trải nên đến chùa hỏi mượn, Tăng nên cho mượn, nếu họ tự mang đến trả lại thì tốt, nếu họ không nhớ mang đến trả thì Tăng nên đánh kiền chùy, bảo các Bí-sô đến đó lấy lại. Nếu thí chủ ở A-lan-nhã làm chùa cho Tăng, thiết lễ cúng dường cần ngọa cụ cũng nên cho mượn, nếu khi mang đi gặp trời mưa nên để dưới gốc cây dùng y cũ phủ che lên; thiết lễ xong mà không đem trả lại thì nên đến cưỡng đoạt lại chớ để cho mất. Nếu để tượng Bồ-tát ở ngoài đất trống, gặp trời mưa không có tịnh nhân hay người chưa thọ Cận viên thì Bí-sô nên khởi tưởng Đại sư, tự khiên vào trong. Nếu Quỹ phạm sư hay Thân giáo sư ngồi thiền ở trong rừng hay ở chỗ yên tĩnh, môn nhân đệ tử nên cầm tọa cụ mang về cho thầy; nếu thấy thầy tự may vá hay quét dọn, môn nhân đệ tử nên bạch thầy xin làm thay; nếu thầy vì cầu phước nên tự làm hoặc được Tăng sai làm người may y Yết-sỉ-na, đệ tử không làm thay thì không phạm. Nếu Bí-sô tụng kinh riêng thì nên ở chỗ lìa nghe để không làm náo loạn người bên cạnh, nếu muốn tập tu định thì tùy chọn một chỗ yên tĩnh để tự tư duy.
Khi có thí chủ thỉnh thực, Tăng nên đánh kiền chùy báo giờ để đến đúng giờ, Thượng tòa dẫn môn nhân đệ tử đi nên kiểm soát họ, cũng nên hỏi khách Bí-sô có cùng đi hay không. Bí-sô vô sự không nên đoạn thực, nếu tự đoạn thực thì phạm tội Ác tác; nếu mang phu cụ của tăng đến chỗ thọ thực thì nên để bên vách hoặc dưới gốc cây rồi nhờ người coi giữ, thọ thực xong nhớ mang về. Nếu người tục mượn ngọa cụ mang đến trong chùa trả, bỏ đó rồi ra về, Bí-sô thấy thì nên thu cất, nếu không thể thu cất được thì nên báo cho vị thọ sự biết để thu cất. Nếu trong chùa phơi ngọa cụ nhiều, có nạn duyên đến nên đánh kiền chùy để cả chúng cùng thu cất; nếu chùa bị hỏa hoạn, Bí-sô nên đem y bát của mình ra trước, kế mang y vật của-tăngkỳ ra rồi sai người coi giữ, vì y bát của mình nếu cháy mất thì sẽ bị thiếu thốn, còn vật của Tăng thì không như vậy. Nếu Bí-sô không làm theo hành pháp trên đây thì phạm tội Ác tác.
Duyên xứ như trên, lúc đó có hai Bí-sô từ phương Nam đến trong chùa xin ngủ đêm, họ trải phu cụ cỏ trong phòng để nằm ngủ, sáng hôm sau ra đi không thu dọn phu cụ cỏ này để đến nổi phòng xá bị tổn hoại. Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô ở trong phòng Tăng, tự trải phu cụ cỏ hay bảo người trải để ngồi nằm; khi đi không tự thu dọn, cũng không nhờ người khác thu dọn thì Bí-sô này phạm Ba-dật-đề, trừ có duyên khác.
Trong phòng Tăng là phòng xá của Tăng bốn phương, nếu trong phòng riêng thì phạm tội Ác tác, phu cụ cỏ là dùng cỏ hay lá để làm phu cụ. Nếu đến trong chùa hoặc trong nhà bạch y nào thường dùng ngọa cụ bằng cỏ mềm cho khách tăng dùng, khách tăng khi đi nên hỏi chủ, nếu chủ ngăn không cho đem bỏ thì không được đem bỏ, nếu làm trái ý chủ thì phạm tội Ác tác. Loại phu cụ cỏ này do hai thứ làm hư hoại là gió thổi và trùng kiến cắn; nếu ở chỗ kinh hành dùng cỏ trải đất, không thể mỗi ngày thu dọn thì khi đi nên cột bó lại treo trên cây. Trong đại hội nếu phải trải tòa cỏ cho các Bí-sô ngồi, ngồi xong nên thu dọn lại để một bên, đợi khi đại hội xong mới đem bỏ.
Duyên xứ như trên, lúc đó Bí-sô Ô-đà-di ở trong trú xứ của Tăng bốn phương, vì sân giận nên ban đêm kéo môn nhân ra ngoài... Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô ở trong phòng Tăng vì sân giận không vui, tự lôi kéo Bí-sô khác ra hay bảo người khác lôi kéo ra, nói rằng: "hãy đi đi, thầy không nên ở trong phòng này nữa", vì nhân duyên này không phải vì duyên gì khác thì Bí-sô này phạm Ba-dật-đề.
Nói duyên khác là nếu phòng sắp sụp đổ, lôi kéo người bịnh ra ngoài thì không phạm; nếu Bí-sô kia là người hay tranh cãi, trước không có việc tranh cãi cũng sẽ sanh tranh cãi, hoặc đã có tranh cãi thì sẽ chuyển tăng thêm không dứt diệt, hoặc giới kiến oai nghi đều có khuyết nên lôi kéo ra thì không phạm, nhưng nếu không có tâm thiện thì cũng phạm tội Ác tác. Trong đây phạm là nếu vì tài vật hoặc trả thù hoặc vì lợi dưỡng mà sanh tật đố mà tự kéo lôi ra hay bảo người khác kéo lôi ra thì đều phạm Đọa; nếu nắm y bát kéo lôi ra thì phạm tội Ác tác. Nếu ở trú xứ Ni hoặc chỗ người thọ học, chỗ phi nhân, chỗ ngoại đạo... lôi kéo Bí-sô thanh tịnh ra thì phạm tội Ác tác. Trú xứ Tăng tưởng trú xứ Tăng có sáu câu cảnh tưởng: hai câu đầu phạm Đọa, bốn câu sau phạm tội Ác tác; Bí-sô không lỗi, khởi tưởng không lỗi cũng có sáu câu cảnh tưởng: hai câu đầu phạm trọng, hai câu kế phạm khinh, hai câu cuối không phạm. Nếu là người phá giới, đại chúng nên đuổi ra; nếu sợ có đấu tranh và họp sức nên mang y bát của người này ra ngoài; nếu người này ôm cột hoặc níu khung cửa thì nên chặt phá chỗ đó để kéo ra, việc dứt thì chỗ bị phá đó Tăng nên sửa chữa. Nếu đối với môn đồ hay người khác mà có ý muốn quở trách trừng trị nên kéo lôi ra khỏi phòng thì không phạm, nhưng không được đuổi ra khỏi trú xứ.
Có năm cách quở trách môn đồ: một là không nói đến, hai là không cùng thọ dụng, ba là không cho thừa sự, bốn là ngăn phẩm thiện, năm là xả y chỉ. Môn đồ nếu có năm lỗi mới được quở trách: một là không có tín tâm, hai là biếng nhác, ba là nói lời thô, bốn là gần bạn ác, năm là không cung kính. Nếu môn đồ đáng quở trách mà không quở trách hoặc không đáng quở trách lại quở trách thì thầy phạm tội Ác tác; nếu môn đồ không có phá giới, chỉ là khó cùng nói chuyện thì nên dùng pháp kéo dây cương để chiết phục, nên nhờ người có trí đến can ngăn khiến môn đồ bỏ việc ác và đến sám tạ thầy; thầy nếu thấy môn đồ biết cải hối thì nên tha thứ, nếu không đáng tha thứ mà tha thứ hoặc đáng tha thứ mà không tha thứ thì thầy phạm tội Ác tác.
Nếu người đã thọ Cận viên mà không hành cung kính, không thể giáo hối thì nên cho sáu vật rồi đuổi đi; nếu là Cầu tịch cũng nên cho hai y thượng hạ rồi đuổi đi. Nếu có rồng rắn đến trú xứ, Bí-sô nên khảy móng tay bảo rồng rắn bỏ đi, đừng có não loạn các Bí-sô; nếu rồng rắn không đi nên phương tiện lùa bắt bỏ vào trong túi lưới mềm rồi đem ra chỗ bụi cỏ, nhẹ nhàng thả nó ra, chớ làm nó tổn thương, đợi nó bò vào hang mới được bỏ đi; nếu là rận rệp nên bỏ trên miếng vải cũ, hoặc bỏ trong lỗ hổng của tường vách để nó tự sống. Nếu làm trái hành pháp trên thì phạm tội Ác tác.
Phật tại vườn Cấp-cô-độc, thành Thất-la-phiệt, lúc đó Bí-sô Ô-đà-di vì muốn xúc não người khác nên ở bên ngoài đứng nói chuyện lâu với người, đợi đến tối mới kêu cửa, khi vào phòng lại giành chỗ nằm... Phật nhân việc này chế học xứ: Nếu Bí-sô ở trong phòng Bí-sô, biết các Bí-sô đã trải ngọa cụ ở trước rồi, mình đến sau, gắng gượng ở trong đó tự trải ngọa cụ hay bảo người trải, nghĩ rằng: "nếu không thích thì tự đi khỏi đây", vì nhân duyên này không phải vì duyên gì khác thì Bí-sô này phạm Ba-dật-đề
Nói biết các Bí-sô đã trải ngọa cụ trước là tự biết hoặc được người khác nói cho biết, gắng gượng chen vào nằm là cố ý xúc não nên phạm bổn tội, nếu không cố ý xúc não nhưng khi chen vào giành nằm cũng phạm tội Ác tác; nếu có nạn duyên thì không phạm.
Tướng phạm trong đây là người đã trải ngọa cụ trước, khởi tưởng đã trải ngọa cụ trước và nghi, cố ý xúc não thì phạm Đọa; người không có trải ngọa cụ trước, khởi tưởng đã trải trước và nghi hoặc người đã trải trước, khởi tưởng không có trải trước và nghi nhưng cố ý xúc não thì phạm tội Ác tác. Nếu bảo người chưa thọ Cận viên cố ý xúc não cũng phạm tội Ác tác, ở trú xứ Ni cố ý xúc não người khác cũng phạm tội Ác tác. Ô-đà-di còn có nhiều trường hợp cố ý xúc não người khác như: khi thấy Bí-sô khác ăn thức ăn thô dỡ không no đủ liền bảo ngồi tụng kinh suốt đêm để xúc não; hoặc khi thấy Bí-sô khác được thức ăn ngon no đủ liền bảo suốt ngày ngồi thiền hệ niệm để xúc não; hoặc vào trời lạnh lại bảo Bí-sô khác ngồi suốt đêm ngoài trời đội sương chịu lạnh để xúc não; hoặc vào trời nóng bức lại bảo Bí-sô khác ngồi trong phòng kín, trùm tấm mền lông ở gần lò lửa để xúc não; hoặc ở trong trú xứ không có chỗ đại tiểu tiện, các Bí-sô đặt bô bên ngoài để đến đêm đi tiện lợi, Ô-đà-di liền đập bể bô khiến họ đến đêm bị đại tiểu tiện bức bách đành phải tiện lợi ở chỗ ống thoát nước, sáng hôm sau Ô-đà-di đem việc này nói cho các bạch y đều biết để xúc não họ. Ô-đà-di thậm chí còn cố ý uống thuốc tả đi tiêu chảy rồi nằm trên giường dối hiện tướng bịnh, để người khác đến thăm bịnh đứng lâu mỏi mệt, mục đích để xúc não họ; hoặc ở chỗ các Bí-sô đang thiền tư đọc tụng, làm khủng bố để họ phải đứng dậy bỏ lở việc tiến tu, mục đích để xúc não; hoặc tại trú xứ nghe có nạn khủng bố sắp đến, Ô-đà-di liền ngăn không cho họ đóng cửa để họ kinh sợ suốt đêm không ngủ được. Vì vậy hễ có tâm cố ý xúc não người khác đều phạm Đọa, cũng không nên ở chỗ đại tiểu tiện kinh hành để ngăn trở người khác, cũng không nên dựa vào tuổi hạ lớn nhỏ để xúc não người khác, ai đến trước thì vào trước; tiện lợi xong cũng không được cố ý ở lâu trong đó để ngăn trở người khác. Cho đến các vật dụng của Tăng như nồi nấu thuốc nhuộm..., nếu người khác đang dùng thì không được dựa vào tuổi hạ lớn nhỏ mà đoạt lấy dùng; nếu lấy dao cạo của Tăng dùng xong nên để lại chỗ cũ cho người khác lấy dùng, không được cất giữ để mình lần sau dùng nữa. Nếu ai làm trái hành pháp kể trên đầu phạm tội Ác tác.
Duyên xứ như trên, lúc đó Ô-ba-nan-đà do ôm lòng giận nên ở trong phòng trên gác, cố ý buông thân ngồi nằm trên giường sút chân, để chân giường này sút ra rơi xuống đánh trúng Bí-sô nằm dưới gác bị thương. Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô ở trên tầng gác của Bí-sô mà dùng sức để ngồi nằm trên giường ngồi hay giường nằm sút chân thì Bí-sô này phạm Ba-dật-đề.
Vì đây là trên tầng gác của nhà lá nên không kiên cố, nếu là nhà kiên cố thì không phạm, lại do cố ý buông thân nên phạm Đọa, nếu không cố ý thì không phạm. Nói giường sút chân là chân giường nhỏ được tra vào lỗ mộng đã lung lay, sắp sút ra, nếu chắc chắn thì không phạm. Về cảnh tưởng của giường sút chân có sáu câu: hai câu đầu phạm Đọa, hai câu kế phạm tội Ác tác, hai câu cuối không phạm; nếu là gác ván hoặc chân giường đã được thay hoặc giường đã lật ngửa lên thì không phạm.
Phật tại nước Kiều-thiểm-tỳ, lúc đó Bí-sô Xiển đà dùng nước có trùng để trộn hồ (cỏ với bùn đất) nên bị chê trách, Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô biết nước có trùng mà tự tay dùng tưới lên cỏ hay lên bùn đất để trộn hồ; hoặc bảo người tưới thì Bí-sô này phạm Ba-dật-đề.
Nói biết là nếu không biết nước có trùng thì không phạm, nói có trùng là tự thấy có trùng hay người khác thấy có trùng; thấy trùng có hai trường hợp: một là mắt thấy, hai là dùng lượt lượt nước thấy. Nếu lấy nước chỗ không có trùng hay có người đáng tin nói nước này không trùng thì dùng không phạm. Nước có trùng, khởi tưởng có trùng và nghi... về cảnh tưởng có sáu câu: hai câu đầu phạm Đọa, hai câu kế phạm khinh, hai câu sau không phạm.
Nên dùng gạch nung lát làm chỗ tắm và chỗ rửa chân gần bên giếng, chung quanh xây cao chừng một khuỷu tay, bên trong lát gạch, ở giữa hơi cao giống như dấu chân voi và có chỗ thoát nước xây theo thế của dòng nước chảy. Sàn nước không nên xây vuông hay tròn, nếu xây vuông hay tròn thì phạm tội Ác tác. Những vật dụng cần dùng của Tăng nên để ở chỗ mà mọi người đều thấy, nếu là vật dụng riêng thì nên cất sau cánh cửa hoặc dưới gầm giường...
Duyên xứ như trên, lúc đó Lục chúng Bí-sô xây chùa lớn cao ba tầng chỉ trong một ngày hoàn tất, nhưng không làm ống thoát nước lại không có cửa sổ nên sau một tận mưa lớn, nước ngập úng nước nên chùa bị sụp đổ... Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô muốn làm chùa lớn, các phòng xá nên có cửa cái, cửa sổ, từ đất bằng theo thứ lớp xây lên hai hay ba tầng cho kiên cố và có chỗ thoát nước, nếu xây quá ba tầng thì phạm Ba-dật-đề
Nói lớn là hình lượng lớn hoặc vật thí lớn, trong đây là hình lượng lớn và có thí chủ, nếu thí chủ thúc làm gấp cho mau xong thì Bí-sô không phạm; hoặc ông thầu xây dựng nói với Bí-sô: "tôi biết cách thức xây dựng cho kiên cố, dù cao lớn cũng không sụp đổ", Bí-sô tin, giao cho ông thầu này làm thì không phạm.
Nhiếp tụng thứ 3:
Không sai, đến chiều tối,
Vì ăn, hai loại y,
Cùng đường và chung thuyền,
Chỗ khuất, giáo hóa ăn.
Phật tại vườn Cấp-cô-độc, thành Thất-la-phiệt, lúc đó Lục chúng Bí-sô tự ý ra ngoài giới tác pháp sai lẫn nhau đến giáo thọ Bí-sô ni... Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô không được Tăng sai mà tự ý đến giáo thọ Bí-sô ni thì phạm Ba-dật-đề, trừ người được thắng pháp.
Nói không được Tăng sai là Tăng không bạch nhị yết ma sai, có bốn lỗi sai không thành sai là giới, ngày, chúng và người. Nói giới là ở ngoài giới tác pháp sai, nói ngày là không phải ngày bố tát, nói chúng là không phải Tăng nhóm họp, nói người là người thiếu bảy đức: đó là trì giới, đa văn, là bậc kỳ túc, rành ngôn ngữ đô thành, không từng làm nhơ nhiễm Bí-sô ni, khéo hay phân biệt tám pháp Tha thắng và khéo hay giải thích tám pháp tôn trọng. Nói tám pháp Tha thắng là bốn pháp đầu đồng với Bí-sô, bốn pháp sau khác: một là xúc chạm, tức là cùng người nam có tâm nhiễm xúc chạm nhau để thọ lạc; hai là tâm nhiễm cùng người nam làm tám việc; ba là che giấu tội trọng của Bí-sô ni khác; bốn là tùy thuận Bí-sô bị Tăng tẫn.
Nhiếp tụng:
Ni có tám Tha thắng,
Bốn pháp đồng Bí-sô,
Xúc chạm, làm tám việc,
Giấu, thuận Tăng bị đuổi.
Nói tám kỉnh pháp là
Bí-sô ni phải đến trong Bí-sô Tăng cầu thọ Cận viên, thành tánh Bí-sô ni.
Bí-sô ni nên mỗi nửa tháng đến trong Bí-sô Tăng cầu thỉnh người giáo thọ ni.
Bí-sô ni không được an cư nơi chỗ không có các Bí-sô.
Bí-sô ni thấy Bí-sô phạm lỗi, không được gạn trách.
Bí-sô ni không được sân mắng Bí-sô.
Bí-sô ni dù cao tuổi hạ cũng nên kính lễ Bí-sô nhỏ tuổi.
Bí-sô ni phạm tội Tăng tàn, nên ở trong hai bộ Tăng hành nửa tháng Ma-na-đỏa.
Bí-sô ni an cư xong nên đến trong Bí-sô Tăng làm việc Tùy ý (tự tứ).
Nhiếp tụng:
Theo Tăng thọ Cận viên,
Nửa tháng cầu giáo thọ,
Nương Bí-sô an cư,
Thấy lỗi không gạn trách,
Không sân mắng, kính nhỏ,
Trong hai chúng-Ý hỉ,
Đến Bí-sô-Tùy ý.
Đây là tám kỉnh pháp.
Nếu Tăng sai người thiếu bảy đức đến giáo thọ Ni thì Tăng phạm tội Ác tác, dù có tác pháp cũng không thành. Nói Tăng tác pháp sai là một vị, tình không trái lìa. Nếu trong trú xứ Tăng không có ai chịu đến giáo thọ Ni thì Thượng tòa thủ chúng nên hỏi chúng ni có hòa hợp không, kế lại hỏi trong nửa tháng qua trong chúng Ni có lỗi lầm không, kế lại nói: "này các cô, trong chúng tăng tại trú xứ này không có Bí-sô nào đến giáo thọ ni chúng, nhưng có hai loại giáo thọ là rộng và lược, nay Tăng lược giáo thọ cho Ni là các cô nên tự siêng tu, chớ có buông lung".
Nói trừ người được thắng pháp là như Bí-sô Châu đồ bán thát ca khi chứng quả A-la-hán có thể thuyết pháp khiến người sanh tín kính, dù không được Tăng sai mà đến giáo thọ cho Ni vẫn không phạm. Về cảnh tưởng có sáu câu: hai câu đầu phạm Đọa, hai câu kế phạm tội Ác tác, hai câu cuối không phạm. Nếu giáo thọ cho Ni là người trước đã phạm giới hoặc Ni thọ học hoặc Ni không phải phe nhóm ( tùy thuận trợ giúp Đề-bà-đạt-da phá Tăng ) thì Bí-sô phạm tội Ác tác; giáo thọ cho người không hiểu biết gì cũng phạm tội Ác tác.
Duyên xứ như trên, lúc đó Bí-sô Nan đà trong phi thời thuyết pháp giáo thọ cho Ni ở ngoài thành đến chiều tối, cửa thành đã đóng nên không thể vào thành được, phải ngủ đêm ở ngoài thành đến sáng hôm sau, cửa thành mở mới vào thành. Người tục thấy liền cơ hiềm: "Sa môn Thích tử ở xen tạp chung một chỗ thì làm gì có tịnh hạnh", Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô được Tăng sai giáo thọ Ni chúng mà giáo thọ đến chiều tối, mặt trời đã lặn thì phạm Ba-dật-đề.
Nói mặt trời lặn là phi thời, dù là đúng thời giáo giới mà trong Ni chúng người đứng người ngồi, hoặc đang làm việc nhọc chưa dừng nghỉ, hoặc thân có trở ngại mà Bí-sô vẫn thuyết pháp giáo thọ thì vẫn gọi là phi thời ( trái thời ). Về cảnh tưởng có sáu câu: hai câu đầu phạm Đọa, hai câu kế phạm tội Ác tác, hai câu sau không phạm. Nếu thí chủ bổn ý thỉnh Bí-sô thuyết pháp đến đêm, hoặc trú xứ Ni gần cửa thành hoặc cửa thành ban đêm không đóng, hoặc trú xứ Ni trong thành hoặc Ni chúng ở nhà bạch y... thì Bí-sô không phạm. Nếu vị giáo thọ cho Ni được Tăng sai trọn đời thì không cần tác pháp sai lại nữa.
Duyên xứ như trên, lúc đó Lục chúng Bí-sô thấy các Bí-sô làm nhiều món thức ăn ngon cúng dường vị Giáo thọ sư liền sanh tâm tật đố, nói ra lời chê trách vị Giáo thọ sư nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô nói lời chê trách Bí-sô khác rằng: thầy vì ăn uống, vì sự cúng dường mà đến giáo thọ Bí-sô ni, thì Bí-sô này phạm Ba-dật-đề
Nói ăn uống là chỉ cho năm loại Khư đà ni và năm loại Bồ xà ni; cảnh tưởng giống như trên; nếu không có tâm tật đố mà nói vì ăn uống nên giáo thọ Ni thì phạm tội Ác tác.
Duyên xứ như trên, lúc đó có một Bí-sô đem y của mình cho Ni là vợ cũ trước kia của mình..., Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô đem y cho Bí-sô ni không phải là bà con thì phạm Ba-dật-đề, trừ trao đổi.
Vì nếu Ni không phải là bà con thì phần nhiều sẽ không xét xem Bí-sô này có đủ ba y hay không, ngược lại nếu là bà con thì sẽ đoái hoài, sau đó mới thọ nhận. Như Phật dạy: "nếu cha mẹ nghèo không có đủ thức ăn uống, Bí-sô còn phải tự bớt nửa phần ăn của mình, hoặc khuyến hóa thí chủ để cung cấp cho cha mẹ". Nói y là chỉ cho y đúng pháp thọ trì, về cảnh tưởng có sáu câu như trên; nếu Ni bị giặc cướp mất y đang thiếu thốn thì dù không phải là bà con, Bí-sô đem y cho thì không phạm.
Duyên xứ như trên, lúc đó Bí-sô Ô-đà-di may y cho Ni Cấp đa vốn là vợ cũ trước kia, khi may y xong, dùng chỉ ngũ sắc thêu hình nam nữ ôm nhau rồi đưa cho Ni này... Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô may y cho Bí-sô ni không phải là bà con thì phạm Ba-dật-đề.
Nói may y là cắt may giặt nhuộm, cảnh tưởng có sáu câu như trên.
Duyên xứ như trên, lúc đó Lục chúng Bí-sô hẹn đi chung đường với nhóm Thập nhị Bí-sô ni, người tục nhìn thấy liền cơ hiềm: "nam là chồng, nữ là vợ, họ cũng có cặp đôi, giống như chúng ta có khác gì"... Phật nhân việc này chế học xứ: Nếu Bí-sô ước hẹn đi chung đường với Bí-sô ni cho đến một tụ lạc thì phạm Ba-dật-đề, trừ nhân duyên. Nhân duyên là có nhiều người làm bạn cùng đi hay nghi có sợ hãi.
Nếu Bí-sô và Bí-sô ni sắp đi cùng nhau, nên bạch hai thầy trước một ngày: "chúng con có việc cùng đi đến thôn kia", thầy nếu không cho đi cũng không nên trái nghịch. Nếu không có hai thầy nên bạch với Thượng tòa thủ chúng, giao cất ngọa cụ rồi báo cho những người cùng đi biết. Khi ra đến cửa nên nhắc lẫn nhau là có quên gì không, các thương nhân mà họ sắp tháp tùng là thiện hay ác... Khi đi chung nên quan tâm cho nhau, nếu có người bịnh không nên bỏ ở lại mà đi trước, cũng không nên đi chung với người có hiềm khích với mình, nếu phải đi chung thì nên sám tạ trước, họ có hoan hỉ mới cùng đi chung. Trên đường đi, nếu có nói chuyện nên nói pháp ngữ, không nên nói lời phi pháp hoặc im lặng như bậc Thánh, chớ để tâm tán loạn. Nếu phải đi quanh qua miếu thờ thiên thần, nên tụng kệ Phật và khảy mong tay cho họ biết rồi mới đi qua vì Bí-sô không nên hữu nhiễu thiên thần. Nếu tạm dừng nghỉ ở bên đường hoặc đến bên ao suối múc nước, đều phải tụng kệ chú, nghỉ đêm ở nơi nào nên tụng kinh Tam khải. Cũng nên mang theo dây gàu để múc nước giếng, có ba loại dây: dây dài là khoảng một trăm năm mươi khuỷu tay, dây ngắn là khoảng một trăm khuỷu tay, giữa hai loại này là dây vừa; tùy muốn đi đến nơi nào, lượng xét thời nghi mà mang theo loại dây gàu nào.
Khi đi đến một trú xứ nào, ở bên ngoài chùa nên giũ bụi áo, rửa mặt rửa chân cho sạch rồi múc nước thêm vào lại cho đầy bình, kế dùng giẻ lau giày, không nên cầm giày đập vào cột chùa, sau đó sửa sang lại y phục và dung nghi rồi mới vào trong chùa. Vào bên trong chùa chào hỏi Bí-sô cựu trụ, Bí-sô cựu trụ cũng chào hỏi thiện lai, nếu chưa từng quen biết thì nên hỏi tuổi hạ để biết lớn nhỏ để kính nể lẫn nhau. Bí-sô khách mới đến nên kính lễ Thượng tòa thủ chúng trước, Thượng tòa cũng nên chào hỏi thiện lai. Bí-sô cựu trụ thấy khách đến nên xét xem có đủ ngọa cụ để cung cấp cho khách không, nếu đủ nên tùy thời cung cấp. Ai không làm theo hành pháp này thì phạm tội Ác tác.
Khi đi chung trên đường, nếu có Bí-sô bịnh nặng nên cõng hoặc cùng khiên đi, nếu ít người thì Ni cũng nên khiên phụ nhưng chỉ nên khiên phía trên đầu, không nên khiên phía dưới chân. Khi đến trong tụ lạc, tùy bịnh mà tìm thầy lo thang thuốc, nếu phải đi khất thực thì nhờ người chăm sóc. Tướng phạm trong đây là cùng đi chung nửa Câu lô xá thì phạm tội Ác tác, đủ một Câu lô xá thì phạm Đọa. Cảnh tưởng có sáu câu như trên.
Duyên xứ như trên, lúc đó Lục chúng Bí-sô hẹn đi chung thuyền với các Bí-sô ni, bị cơ hiềm như trên nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô ước hẹn đi chung thuyền với Bí-sô ni, ngược dòng hay xuôi dòng thì phạm Ba-dật-đề, trừ đi đò ngang thẳng qua sông.
Nói đi đò ngang thẳng qua sông là do lúc đó có thí chủ thiết trai hội thỉnh hai bộ Tăng, các Bí-sô không dám đi chung thuyền với các Bí-sô ni nên bỏ mất thọ thỉnh thực này, nên Phật khai cho cùng đi đò ngang thẳng qua sông. Tướng phạm và cảnh tưởng giống như giới trên, nếu nam đã thọ Cận viên đi cùng với nữ chưa thọ Cận viên hoặc nam chưa thọ Cận viên đi cùng với nữ đã thọ Cận viên hoặc cả hai đều chưa thọ Cận viên thì phạm tội Ác tác; nếu có một trong tám nạn khởi lên ở trên bờ hay dưới nước, đi chung thì không phạm.
Duyên xứ như trên, lúc đó Bí-sô Ô-đà-di một mình ngồi với người nữ Cấp đa ở chỗ khuất... nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô một mình ngồi với người nữ ở chỗ khuất thì phạm Ba-dật-đề.
Nói người nữ là người có thể cùng hành dâm, nói một mình là không có người thứ hai nào khác, nói chỗ khuất là chỗ có thể làm việc phi pháp, nói ngồi ở chỗ khuất là ngồi chung trong phạm vi một tầm thì phạm Đọa. Về cảnh tưởng có sáu câu: hai câu đầu phạm Đọa, hai câu kế phạm tội Ác tác, hai câu sau không phạm. Nếu đối tượng là thiên nữ, long nữ... hoặc bé gái hoặc người ngu đần thì phạm tội Ác tác; tuy là thiên nữ nhưng nếu có thể nắm giữ được cũng phạm Đọa. Nếu ngồi cạnh người nữ để sắc thuốc... ở bên cửa, cửa không đóng hoặc có nhiều người qua lại thì không phạm.
Duyên xứ như trên, lúc đó Bí-sô Ô-đà-di ngồi với ni Cấp đa vốn là vợ cũ trước kia ở chỗ khuất... nên Phật chế học xứ: Nếu Bí-sô một mình ngồi với Bí-sô ni ở chỗ khuất thì phạm Ba-dật-đề. Tướng phạm và cảnh tưởng giống như giới trên.
Duyên xứ như trên, lúc đó ni Thổ-la-nan-đà biết thí chủ thiết thực cúng dường tôn giả Kiều trần như, cô liền ca ngợi Lục chúng Bí-sô để hồi chuyển thức ăn này về cho họ... Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô biết do Bí-sô ni khen ngợi mà được thức ăn, nếu ăn thì phạm Ba-dật-đề, trừ nhân duyên là bạch y thỉnh trước.
Nói khen ngợi có hai hoặc là trì giới hoặc là đa văn, trong đây là quá phần khen ngợi để người nghe tín kính; nói thức ăn là năm loại Bồ thiện ni và năm loại Khư đà ni. Nói trừ thí chủ thỉnh trước là thí chủ trước đã có ý muốn cúng dường cho vị đó rồi, sau đó dù có khen ngợi cũng không phạm.
Tướng phạm trong đây là Bí-sô ni đến trong nhà thí chủ hỏi làm thức ăn ngon hay dỡ, nếu nghe làm thức ăn dỡ thì khuyên làm thức ăn ngon để cúng cho Bí-sô tên là người đã chứng Tứ quả, hiểu rõ ba tạng... sẽ chiêu cảm thắng phước; Bí-sô nếu biết thức ăn này do khen ngợi mà được, ăn thì phạm Đọa. Về cảnh tưởng có sáu câu: hai câu đầu phạm Đọa, hai câu kế khinh, hai câu sau không phạm; lại nữa, không phạm là dựa vào thật đức mà khen, không có giả dối, hoặc đó nhà chánh tín hay nhà bà con thì dù biết có khen ngợi cũng không phạm.
Nhiếp tụng thứ 4:
Thường ăn, chỗ ngủ một đêm, Thọ ba bát không cho người khác, Ăn đủ, riêng chúng, phi thời, Xúc chạm, không thọ, diệu thực.
(Xúc chạm thức ăn, không thọ mà ăn, đòi thức ăn ngon)
Phật tại Phệ xá ly, lúc đó Lục chúng Bí-sô trước đã thọ trưởng giả Oai nghiêm thỉnh thực nhưng trước giờ ăn lại ghé qua nhà bà con ăn trái Am-một-la và các loại bánh khác no nê rồi mới đến nhà trưởng giả thọ thực, vì thế không thể ăn được nữa. Trưởng giả thấy việc cùng dường này luống uổng nên chê trách, Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô thường thường ăn thì phạm Ba-dật-đề, trừ thời khác là khi bịnh, khi làm việc, khi đi đường, khi thí y.
Nói thường thường ăn là ở nhà này ăn no rồi lại đến nhà khác ăn nữa; nói khi bịnh là do thân bịnh nên ăn một lần không được lạc trụ, hoặc tánh người này hay đói nên khai cho thường thường ăn. Khi làm việc là tùy thời quét dọn trong chùa hay bên tháp, cho đến chỉ quét dọn chỗ bằng một con bò nằm; khi đi đường là đi khoảng một trạm ngựa hoặc nửa trạm và trở về; khi thí y là khi thí chủ thí y vật.
Nếu Bí-sô trước đã thọ thỉnh chỗ có y và thức ăn, sau đó thọ thỉnh chỗ có y hoặc không có y hoặc có tiền y hoặc không có tiền y (trường hợp thứ nhất); hoặc trước thọ thỉnh chỗ có thức ăn không có y hoặc có tiền y, chỗ thọ thỉnh sau có y... (trường hợp thứ hai); hoặc chỗ thọ thỉnh trước có thức ăn có y, có tiền y, chỗ thọ thỉnh sau có y... (trường hợp thứ ba); hoặc chỗ thọ thỉnh trước không có y cũng không có tiền y, chỗ thọ thỉnh sau có y... Nếu chỗ thọ thỉnh trước có thức ăn, có y và có tiền y mà bỏ để thọ chỗ thỉnh sau thì phạm tội Ác tác, khi ăn phạm Đọa. Nếu muốn thọ chỗ thỉnh sau thì nên tâm niệm xả chỗ thỉnh trước mới không phạm. Nếu trong bữa ăn chánh, Bí-sô đang ăn mà có khách Bí-sô đến, nên hỏi thí chủ có thể cúng dường luôn cho khách được không, được thì tốt, nếu không được thì Bí-sô nên bớt phần ăn của mình chia cho khách cùng ăn. Nếu gặp thời buổi đói kém mà Bí-sô được nhiều chỗ thỉnh thực, nên tùy lượng thức ăn nhiều ít chia đều cho các vị đồng phạm hạnh cùng ăn. Nếu ở trong chùa hay ở nơi A-lan-nhã vì cầu mập mạnh hay vì ưa thích ăn ngon nên thường thường ăn thì phạm tội Ác tác. Về cảnh tưởng có sáu câu: hai câu đầu phạm Đọa, hai câu kế khinh, hai câu sau không phạm.
Duyên xứ như trên, lúc đó có trú xứ ngoại đạo thường cung cấp thức ăn và cho các Sa môn, Bà-la-môn ngoại đạo ở lại ngủ một đêm. Lục chúng Bí-sô đến ở đây đã lâu, nhân lúc chủ nhà đi vắng liền buông lung thân ngữ, nói lời phi pháp với người nữ dọn thức ăn, chủ nhà rình nghe biết được liền cho Lục chúng Bí-sô ăn thức ăn thô dỡ để tự bỏ đi, trước khi ra đi Lục chúng Bí-sô còn đánh nhau với ngoại đạo... Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô tại nhà thí chủ theo ngoại đạo chỉ được nghỉ một đêm, họ cúng một bữa ăn, Bí-sô không bịnh nên ăn một bữa, nếu ăn quá một bữa thì phạm Ba-dật-đề.
Nếu ngủ quá một đêm thì phạm tội Ác tác, ăn thêm một bữa thì phạm Đọa; nếu ngủ ở đây mà ăn chỗ khác thì phạm tội Ác tác; nếu ngủ chỗ khác mà ăn ở đây thì phạm Đọa. Về cảnh tưởng có sáu câu: hai câu đầu phạm Đọa, hai câu kế khinh, hai câu sau không phạm. Nói trừ bịnh là do tôn giả Xá-lợi-phất bịnh nên Phật khai cho không phạm; lại nữa nếu nhà thí chủ là bà con ân cần giữ lại cho ăn hoặc là miếu thờ trời thì không phạm.
Duyên xứ như trên, lúc đó Lục chúng Bí-sô ở nhà thí chủ ăn no đủ rồi lại còn đựng đầy bát thức ăn mang về; lại do ở nhà của người nữ sắp về nhà chồng, Lục chúng Bí-sô đến khất thực đã xin hết thức ăn cùng bánh trái mang về trú xứ khiến cho họ thiếu thức ăn... Phật nhân việc này chế học xứ: Nếu Bí-sô đến nhà cư sĩ được tùy ý cúng cho nhiều bánh bún..., Bí-sô cần thì được thọ hai, ba bát, nếu thọ quá thì phạm Ba-dật-đề. Thọ hai, ba bát rồi mang về nên chia cho các Bí-sô khác ăn, việc này đúng pháp nên làm như vậy.
Bí-sô đến nhà thế tục khất thực có hành pháp như sau: nên rung cây tích trượng ra tiếng để báo trước rồi mới vào nhà, nếu ở chỗ có nhiều phòng nhà phức tạp nên ghi ký hiệu để nhớ. Có năm chỗ Bí-sô không nên đến khất thực: một là nhà kỷ nữ, hai là nhà dâm nữ, ba là quán rượu, bốn là trong cung vua, năm là nhà của Chiên-đà-la.
Bát có ba loại: bát thượng là bát thọ được ba bát cơm (hai thăng gạo), một bát canh và nửa bát canh thức ăn khác; bát hạ là bát thọ được một bát cơm, nửa bát canh, nửa bát canh thức ăn khác; bậc giữa của hai loại bát này là bát trung; nếu lớn hơn bát thượng và nhỏ hơn bát hạ thì không gọi là bát.
Nói thọ quá ba bát là ba bát lớn hoặc hai bát lớn thêm một bát trung hoặc hai bát lớn thêm một bát nhỏ hoặc một bát lớn thêm hai bát trung. Tóm lại là không thọ quá bốn thăng rưỡi cơm, nếu thọ thì phạm tội Ác tác, ăn thì phạm Đọa; nếu lấy một bát lớn, một bát trung và một bát nho, hoặc chỉ hai bát lớn, hoặc một bát lớn hai bát nhỏ, hoặc hai bát trung một bát nhỏ, hoặc một bát trung hai bát nhỏ, hoặc ba bát nhỏ thì đều không phạm. Thọ rồi mang về nên chia cho các Bí-sô trong trú xứ cùng ăn, nếu không chia thì phạm tội Ác tác. Nếu ở chỗ trời rồng... hoặc chỗ ngoại đạo xuất gia, hoặc ở chỗ Bí-sô không phải phe nhóm thọ quá thì phạm tội Ác tác; nếu thí chủ hoan hỉ cho tùy ý mang đi thì không phạm.
Có ba hạng người làm tổn tín thí:
Là thí chủ có tín tâm biết Bí-sô này là người trì giới nên bớt phần ăn của mình để bố thí, nhưng Bí-sô thọ rồi lại đem cho người phá giới ăn.
Là thí chủ biết Bí-sô này là người chánh kiến nên tín tâm cúng dường, Bí-sô thọ rồi lại đem cho người tà kiến ăn.
Là thọ quá nên không thể ăn hết.
Duyên xứ như trên, lúc đó Phật bảo các Bí-sô: "ta do ngồi ăn một lần nên có thể sanh các công đức như thiểu dục..., vì vậy các thầy nên ngồi ăn một lần", các Bí-sô vâng lời Phật dạy thọ pháp ngồi ăn một lần, nhưng khi thấy tôn giả đến liền đứng dậy, cho là đủ rồi nên không dám ngồi xuống ăn nữa. Phật nói: "nên ăn no đủ, khi đang ăn dù thấy tôn giả đến cũng không nên đứng dậy", sau đó lại nhân Lục chúng Bí-sô ăn no đủ rồi lại ăn thêm nữa nên Phật chế học xứ: Nếu Bí-sô ăn no đủ rồi, không tác pháp dư thực mà ăn nữa thì phạm Ba-dật-đề.
Nói ăn no đủ rồi là nếu đã no nên nói đủ rồi chớ sớt thêm thức ăn nữa, hoặc đưa tay ngăn vì đã sanh tâm xả; nếu tâm chưa xả mà lở nói đủ rồi để ngăn thì chưa thành ngăn, ăn nữa thì chỉ phạm tội Ác tác; nếu tâm đã xả và nói đủ rồi để ngăn thì thành ngăn. Có đủ năm chi mới thành ngăn: một là biết thức ăn này là thuộc năm món ăn chánh; hai là biết có người trao đưa, hoặc là nam, nữ hay bán trạch ca; ba là biết đã đưa thức ăn vào tay và thọ; bốn là biết đã ăn no đủ rồi; năm là đứng dậy đi mà còn ăn nữa thì phạm Đọa. Nếu ăn các thức ăn tạp, ăn vặt cũng không thành no đủ.
Nói thức ăn là bao gồm năm món Bồ thiện ni : cơm, đậu, bún (mì), thịt cá và bánh; năm món Khư đà ni thuộc củ, cọng, lá, hoa, quả. Nếu ăn năm món ăn sau cùng với sữa lạc hay rau cải rồi mới ăn năm món ăn chánh thì không phạm; nếu ăn năm món ăn chánh no rồi, sau đó lại ăn thêm năm món ăn sau cùng sữa lạc, rau cải thì phạm.
Lại có năm cách nói liền thành ngăn, đó là khi thấy người dọn đưa thức ăn đến, nếu chưa cần liền... thì nên nói hãy đợi, hãy đi chút nữa trở lại, hãy đợi tôi ăn món này xong... gồm nhiều tiếng đợi như vậy thì chưa thành ngăn; nếu không dùng từ hãy thì thành ngăn; nếu ý chưa muốn ngăn mà lỡ lời nói ngăn thì cũng không thành ngăn nhưng phạm tội Ác tác.
Không tác pháp dư thực nghĩa là nếu thức ăn dư của người bịnh thì dù không tác pháp, được ăn không phạm; nếu là thức ăn dư khác thì phải tác pháp dư thực thì tự thân mới được lạc trụ và thí chủ cũng được phước. Khi muốn tác pháp, trước phải rửa tay sạch, thọ thức ăn rồi đến trước một Bí-sô đang ăn chưa no, hoặc đã ăn no nhưng chưa đứng dậy, chắp tay bạch rằng: "Đại đức nhớ nghĩ, tôi Bí-sô __________ đã ăn no đủ rồi, nay lại được món ăn này muốn ăn nữa, xin cho tôi tác pháp dư thực", Bí-sô kia nếu chưa ăn no đủ thì nên gắp lấy ăn hai ba miếng rồi nói: "thức ăn này của thầy, thầy cứ tùy ý ăn nữa", nếu Bí-sô kia đã ăn no đủ rồi thì không nên gắp thức ăn ăn, chỉ nên dùng ngón tay chạm vào thức ăn và nói: "thức ăn này của thầy, thầy cứ tùy ý ăn nữa".
Lại có năm cách không thành tác pháp dư thực: một là thân ở trong giới nhưng lại đối trước người ở ngoài giới; hai là ở chỗ không với tới nhau được; ba là ở một bên; bốn là ở sau lưng; năm là Bí-sô kia đã đứng dậy. Trái với năm cách trên thì thành tác pháp, nếu có người đã tác pháp dư thực rồi mà người khác ăn cũng không phạm. Về cảnh tưởng có sáu câu: hai câu đầu phạm Đọa, hai câu kế phạm khinh, hai câu cuối không phạm. Nếu là trái cây của phương Bắc hay ngó sen của trời đều là thức ăn hiếm có hoặc gặp năm mất mùa đói kém, thức ăn khó được, không tác pháp dư thực cũng không phạm. Cháo đã nấu chín nếu dựng cái muỗng đứng mà không ngã hoặc khuấy bột chín dùng ngón tay vẽ thấy dấu thì thành no đủ, lỏng thì không thành no đủ.
Duyên xứ như trên, lúc đó có Bí-sô già thường phạm tội, bị thấy quở trách nên sanh tâm bất nhẫn, muốn làm cho thầy phạm tội nên vào ngày khác bạch thầy rằng: "Thức ăn ngon này con đã tác pháp dư thực, thầy hãy ăn", đợi thầy ăn rồi mới nói là chưa tác pháp dư thực, mục đích xúc não thầy nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô biết Bí-sô khác đã ăn xong, không thọ pháp thức ăn dư mà đưa thức ăn, gắng gượng khuyên Bí-sô kia ăn nữa, nói rằng: "thầy hãy ăn thức ăn này", vì muốn xúc não Bí-sô kia, nghĩ rằng: "khiến cho Bí-sô này phiền não cho đến trong chốc lát", vì nhân duyên này không phải vì duyên gì khác thì Bí-sô này phạm Ba-dật-đề.
Nếu không có tâm muốn xúc não thì dù khuyên ăn cũng không phạm, về cảnh tưởng có sáu câu: hai câu đầu phạm Đọa, hai câu kế khinh, hai câu sau không phạm.
Phật tại thành Vương xá, lúc đó Đề-bà-đạt-da và phe nhóm ăn riêng chúng nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô ăn riêng chúng thì phạm Ba-dật-đề, trừ nhân duyên. Nhân duyên là khi bịnh, khi may y, khi đi đường, khi đi thuyền, khi đại hội, khi Sa môn ngoại đạo thí thực.
Nói riêng chúng là ăn không đồng chỗ, nếu có bốn Bí-sô trong giới ăn mà có một người không cùng ăn thì gọi là ăn biệt chúng. Nếu là ăn bữa ăn chánh mới phạm, tiểu thực hay ăn vặt thì không phạm; các trường hợp như khi bịnh... giống như giới trước. Nói khi đại hội là đại hội đảnh kế Thế tôn, hoặc đại hội năm năm, đại hội sáu năm, do thí chủ thiết thực cúng dường nhiều nơi nên các Bí-sô chia nhau đến thọ thực, tuy chỗ ăn không đồng nhưng không phạm. Nói Sa môn thí thực là ngoại đạo thỉnh thực cũng khai cho ăn riêng chúng. Nếu ở trong giới, khởi trưởng trong giới và nghi mà ăn riêng chúng thì phạm Đọa; ở ngoài giới và ở trong giới mà tưởng ở trong giới thì không phạm.
Xứ có hai là trú xứ đại viện và phòng bên, nếu trong đại viện có bốn người trở lên thọ thực, nên hỏi người ở phòng bên có đến đồng ăn không, nếu không hỏi và người phòng bên không đến thì gọi là ăn riêng chúng, phạm Đọa. Nếu trong bốn người có một người khai duyên hoặc một Cầu tịch và ba Cận viên... hoặc thí chủ bổn tâm chỉ muốn cúng cho người ở trong phòng này, hoặc người dùng thần thông lực ở trên hư không hoặc ăn một mình thì không phạm.
Phật tại vườn Cấp-cô-độc, thành Thất-la-phiệt, lúc đó nhóm Thập thất Bí-sô gặp duyên đoạn thực, phi thời thấy đói nên đến chỗ người thế tục xin thức ăn mà ăn. Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô ăn phi thời thì phạm Ba-dật-đề. Nói phi thời là sau giờ ngọ trở đi cho đến sáng hôm sau khi mặt trời chưa mọc. Sở dĩ phạm là vì phi thời mà ăn thức ăn thuộc loại thời dược; nếu phi thời, khởi tưởng phi thời và nghi mà ăn thì phạm tội Ác tác; thời và phi thời mà tưởng là thời thì không phạm. Nếu có bịnh duyên, thầy thuốc bảo nên ăn cơm, thịt phi thời thì Phật khai cho ăn ở chỗ khuất. Người ở châu Thiệm bộ đến trong ba châu khác hoặc lên cõi trời đều nên y theo giờ giấc của nơi đó mà ăn; có trường hợp Bí-sô không bịnh ở châu Thiệm bộ, ăn phi thời mà không phạm hay không?. có, đó là trường hợp Bí-sô ở hai châu Đông tây đến châu này nhưng lại y theo giờ giấc của hai châu đó mà ăn thì không phạm.
Nếu đại chúng quá đông không biết được giờ ăn chính xác là lúc nào thì khi đến giờ ăn nên đánh kiền chùy báo cho biết để cùng đến thọ thực; nếu không nghe được khắp hết thì nên đánh trống lớn hoặc thổi tù; Bí-sô bịnh và Bí-sô thọ sự có thể ăn trước đại chúng. Có năm cách đánh kiền chùy:
Nếu thường nhóm chúng thì đánh ba hồi dài và đánh lớn ba tiếng sau.
Nếu báo làm việc nhọc trong chúng thì đánh ba hồi dài và đánh lớn hai tiếng sau.
Nếu có Bí-sô qua đời thì đánh một hồi dài và nhỏ dần rồi dứt.
Nếu là ngồi thiền thì rung cây tích trượng để nhắc.
Nếu có giặc đến, báo cho đại chúng biết thì mặc tình đánh nhiều ít.
Nếu khi thọ thực, sợ người dọn đưa thức ăn không đồng đều thì Bí-sô thọ sự nên đi quan sát; nếu người dọn đưa thức ăn ít thì Bí-sô thọ sự củng nên phụ giúp. Nếu khi đi đường, không có nhiều vật đựng thì hai người ăn chung không phạm, cũng được ăn chung với Cầu tịch. Nếu bà con không ngày mới gặp lại nhau, muốn cùng ăn chung thì nên ăn ở chỗ khuất. Khí vật bằng vàng bạc vật báu đựng thức ăn, Bí-sô không nên thọ dụng; nếu ở trên cõi trời, long cung thì được thọ dụng không phạm. Nếu đến giờ ăn, mọi người đã ngồi vào chỗ ổn định, nếu không có ai xướng thời đáo thì không được dọn đưa thức ăn, nếu dọn đưa cũng không được thọ, thọ thì phạm tội Việt pháp. Nếu người dọn đưa thức ăn không biết pháp thức thì Thượng tòa nên bảo họ xướng, Thượng tòa quên thì Thứ tòa nên bảo. Khi đang thọ thực, không được đòi hỏi món này món nọ; nếu người ốm yếu thì được đòi trái chín, người khỏe mạnh không nên đòi, nếu cần thì gọi nói nhỏ. Khi thọ thực nên đoan thân chánh niệm, khởi tưởng nhàm lìa, không trạo cử tạp loạn; nếu không như thế thì phạm tội Việt pháp. Thọ thực xong còn thức dư nên đem cho người tục đến xin, khi cho nên tự đề phòng tâm, nếu có bàng sanh cũng nên thí cho. Nếu ăn loại thức ăn giòn cứng thì không nên cắn phát ra tiếng, cháo hay canh cũng không được húp ra tiếng. Thượng tòa ăn xong, súc miệng rồi nên đọc kệ thí chú nguyện cho thí chủ; khi đang thọ thực Thượng tòa cũng nên quan sát trong đại chúng, chớ để họ hốt hoảng mà ăn không no. Nếu thí chủ đến chùa thỉnh Tăng thọ thực, Bí-sô thọ sự nên báo cho thí chủ biết số người; nếu sắp đến giờ ăn mà có khách Bí-sô đến, hoặc có người trong chúng ra đi, cũng nên báo lại cho thí chủ biết. Nếu đã tới giờ ăn thì người muốn ra đi cũng nên ở lại đợi thọ thực xong rồi mới đi; nếu khách Bí-sô đông mà thức ăn ít thì Thượng tòa nên bảo thí chủ chia đều để cùng ăn; nếu thức ăn nhiều thì tùy ý thí chủ dọn đưa cúng dường. Đại chúng ăn xong, Thượng tòa đọc kệ thí rồi nên ở lại thêm một chút để xem thí chủ có muốn nghe pháp không, nếu muốn nghe thì nên nói pháp, nếu không muốn nghe thì tùy ý đi. Nếu ai không làm theo hành pháp kể trên thì phạm tội Ác tác.
Duyên xứ như trên, lúc đó Bí-sô Ca la khất thực được thức ăn, ăn xong, phần thức ăn dư đem phơi khô; khi gặp trời mưa gió không thể khất thực được thì đem thức ăn phơi khô này ra rửa sạch rồi ăn. Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô ăn thức ăn đã từng xúc chạm thì phạm Ba-dật-đề.
Nói đã từng xúc chạm là tự tay đã từng cầm hoặc cất giữ cách đêm, thức ăn đã từng xúc chạm này hoặc thọ vào trước giờ ngọ hoặc thọ sau giờ ngọ; nếu qua thời phần mà ăn thì phạm Đọa, nếu trong thời phần thì phạm tội Ác tác. Về cảnh tưởng có sáu câu: hai câu đầu phạm Đọa, hai câu kế khinh, hai câu sau không phạm. Ở Bắc Câu lô châu thì không phạm, vì người ở cõi đó đối với vật thực không có tâm bỉ ngã; còn ở cõi này, Bí-sô đối với Tăng, Bí-sô và người thọ học thì có lỗi từng xúc chạm; Bí-sô ni thêm đối với Thức xoa ma na là bốn. Đối với hai hạng người là người không hổ thẹn không sợ tội và người có hổ thẹn nhưng mất chánh niệm, thì không có lỗi từng xúc chạm. Riêng đối với Cầu tịch, nếu có tâm mong cầu nên đưa thức ăn cho Cầu tịch để mong được ăn lại thì phạm tội Ác tác, ăn thì phạm Đọa; khi cho không có tâm mong cầu nhưng khi ăn lại có tâm mong cầu, ăn thì phạm Đọa; khi cho và khi ăn đều không có tâm mong cầu thì ăn không phạm. Trên đường đi vác theo lương thực, nếu Cầu tịch không thể vác nổi thì lấy dây cột vào bao lương thực, đưa cho Cầu tịch cầm rồi Bí-sô nâng vác phụ; hoặc Cầu tịch muốn tạm dừng nghỉ, Bí-sô phụ đỡ bao lương thực xuống, đều không phạm. Nếu gặp giặc khủng bố, Cầu tịch bỏ chạy để lại bao lương thực, Bí-sô nên tự lấy mang đi; nếu lội qua khe suối, Cầu tịch vác lội qua không nổi, Bí-sô cũng nên vác phụ, đều không phạm. Lúa gạo của Tăng dùng xe chở về chùa, nếu xe muốn nghiêng đổ thì Bí-sô nên phụ đỡ lại cho ngay; nếu Bí-sô bịnh muốn đi theo xe hay thuyền thì nên tránh chỗ chỗ tay lái. Nếu lúa gạo phơi ngoài sân chùa, nếu có nạn duyên đến mà không có ai thì Bí-sô nên tự thu cất; nếu đi đường hết lương thực, thấy có cây ăn trái mà không có người trao đưa, có thể tự leo lên cây rung cho rụng xuống, dù không tác tịnh, không thọ đều được ăn không phạm. Những việc trên đều do có nạn duyên mà khai cho làm, nếu không có nạn duyên thì không được làm. Nếu cần bình đựng Tô mà cầm nhầm bình đựng thuốc nhuộm, dù có xúc chạm cũng không phạm; nếu muốn cầm lên lầu, đi chưa được nửa lầu thì để lại dưới đất; nếu đã đi quá nửa lầu thì phải cầm luôn lên lầu. Nếu trong bát có khe hở hay răng nứt thì phải rửa hai ba lần cho sạch mới được dùng; nếu đựng thức ăn nóng có váng dầu mỡ nổi lên cũng không phạm; nếu có hạt cơm dính nơi khe nứt nên khều ra rồi rửa lại hai ba lần cho sạch. Thức ăn dư của Bí-sô, Bí-sô ni được dùng; thức ăn dư của Bí-sô ni, Bí-sô được dùng, lẫn nhau làm tịnh nên dùng không phạm; về cảnh tưởng có sáu câu như trên.
Duyên xứ như trên, lúc đó Bí-sô Ca la phần nhiều trụ nơi Thâm ma xá na, nếu thấy người đời cúng tế tiên linh thì Bí-sô liền tự lấy thức ăn cúng này mà ăn, đến nỗi bị mang tiếng là Bí-sô ăn thịt người, làm xấu hổ Pháp chúng nên Phật chế khi có người trao đưa mới được ăn, vì có người trao đưa mới có minh chứng; lại do Lục chúng Bí-sô dù có người trao đưa hay không, đều tự lấy mà ăn nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô không thọ mà ăn nhai thì phạm Ba-dật-đề, trừ nước và tăm xỉa răng.
Nói không thọ là không thọ từ người khác, nếu khỉ gấu có trí trao dưa thức ăn thì cũng thành thọ. Về cách thọ có bốn: một là cần tác ý, hai là có người trao, ba là tự tay thọ, bốn là để trên bàn hay dưới đất, năm là tay đỡ một bên. Lại có năm cách trao đưa: một là thân đưa thân thọ, hai là dùng vật đưa thân thọ, ba là thân đưa dùng vật thọ, bốn là dùng vật đưa dùng vật thọ; năm là để dưới đất đưa mà thọ: đây là trường hợp ở quốc độ ghét bỏ Bí-sô nên để dưới đất đưa, hoặc Bí-sô làm Mạn trà la rồi để bát lên trên, họ từ xa thảy vào bát, cũng gọi là thọ. Có năm trường hợp không thành thọ: một là ở ngoài giới, hai là ở chỗ quá xa, ba là ở một bên, bốn là ở sau lưng, năm là khi chắp tay; ngược với trên thì thành thọ.
Nếu thí chủ đem thức ăn dọn ra trước đại chúng để cúng dường, chưa kịp dâng cúng thì thấy trong nhà bị cháy, vội bỏ chạy đi cứu lửa. Giờ ăn sắp qua mà không có người trao đưa, Phật bảo nên khởi tưởng đang ở Bắc Câu lô châu mà tự lấy ăn. Nếu khi thọ thức ăn, bỗng có thức ăn không thọ rớt vào thì nên bảo tịnh nhân trao đưa lại, nếu không có tịnh nhân thì sớt bỏ ra rồi ăn; nếu thọ rồi mà có trẻ con đến xúc chạm thì phải thọ lại mới được ăn.
Có năm loại trần: một là xúc trần, hai là phi xúc trần, ba là tịnh trần, bốn bất tịnh trần, năm là vi trần; lại có năm loại trần là thức ăn, thức uống, y, hoa và quả, đều cần phải thọ mới được ăn. Khi thọ thực nên dụng tâm, nếu người trao đưa thức ăn để đại trên mâm thì phải tổng thọ lại, không nên tự lấy đưa cho tịnh nhân rồi bảo họ trao lại; nếu là người bịnh không có người trao đưa thức ăn thì không thọ mà ăn vẫn không phạm; người nuôi bịnh nên biết người bịnh ăn được thức ăn gì, không ăn được thức ăn gì mà tùy nghi cho ăn.
Nói trừ nước và tăm xỉa răng là nếu nước đục nên bỏ Bồ đào hay Anh áo vào nước để làm cho nước trong rồi mới uống dùng; nếu nước mặn hay nước muối biền có thể làm thành muối thì cần phải thọ. Nếu trong nước ao, nước sông có lợn cợn hột cơm hay lá rau, nên lượt sạch rồi dùng; hoặc có váng dầu mỡ hay lạc nổi trên mặt nước, cũng nên lượt sạch rồi dùng. Nếu có chim bay đến mổ lấy cơm trong bát, Bí-sô nên sớt bỏ chung quanh chỗ chim mổ rồi tùy ý ăn. Lu hay bình đựng nước uống dùng cần phải có nắp đậy, chớ để cho trùng, bụi đất bay vào.
Sáng sớm thức dậy đánh răng có năm lợi: một là trừ bịnh nóng, hai là trừ bịnh lạnh và bịnh đàm ấm, ba là sạch miệng, bốn là ưa muốn ăn uống, năm là có thể sáng mắt. Có ba loại tăm xỉa răng, cây đánh răng: loại dài chừng mười hai ngón tay, loại ngắn chừng tám ngón, giữa hai loại này là loại vừa. Đánh răng nạo lưỡi xong nên rửa cây nạo lưỡi rồi mới bỏ ở chỗ khuất, vì có Bí-sô đời trước là rắn độc, nên đời này trong răng vẫn còn độc, khi quăng bỏ cây nạo lưỡi, trùng kiến bu đến đều bị trúng độc mà chết. Người nhỏ không được ở trước người già xỉa răng, có ba việc nên làm ở chỗ khuất, đó là đại tiểu tiện và xỉa răng. Cây nạo lưỡi không nên bén sẽ làm lưỡi bị thương.
Về cảnh tưởng có sáu câu: hai câu đầu phạm Đọa, hai câu kế khinh, hai câu sau không phạm. Nếu khi trao đưa trái cây, lỡ rơi xuống đất nếu ở chỗ có thế voi tay tới được thì nên tự lấy, cũng thành thọ; nếu ở xa không vói tới được thì phải thọ lại.
Phật tại nước Kiếp-tỷ-la, lúc đó Lục chúng Bí-sô thọ thí chủ Đại danh thỉnh thực, khi đến thọ thực thấy thức ăn không ngon, liền đi đến nhà khác xin các thức ăn ngon rồi mang trở lại nhà thí chủ để ăn... nên bị thí chủ chê trách. Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô trong nhà thí chủ xin thức ăn ngon như sữa, lạc, sanh tô, thục tô, dầu, cá, thịt, nem; Bí-sô không bịnh, vì mình mà xin thức ăn ngon như vậy thì phạm Ba-dật-đề.
Không bịnh đi xin, không bịnh mà ăn thì phạm Đọa; có bịnh đi xin, không bịnh mà ăn thì khi xin không phạm, ăn thì phạm Đọa; không bịnh đi xin, có bịnh mới ăn thì khi xin phạm tội Ác tác, khi ăn không phạm. Khi khất thực, người mang cơm ra cho, nếu muốn xin vật khác thì nên nói: "tôi đã ăn cơm no rồi", nếu người cho hỏi cần gì cứ nói, thì tùy ý hỏi xin không phạm; nếu đến chỗ trời rồng... hỏi xin thì không phạm.
Nhiếp tụng thứ năm:
Nước có trùng, hai nhà ăn, Không y, đến xem hành quân, Hai đêm, nhiễu loạn quân binh, Đánh, dọa, che dấu tội thô.
Phật tại nước Kiều-thiểm-tỳ, lúc đó Bí-sô Xiển đà thọ dụng nước có trùng làm chết nhiều chúng sanh, nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô biết nước có trùng mà còn thọ dụng thì phạm Ba-dật-đề.
Nói thọ dụng có hai trường hợp: một là nội thọ dụng là cung cấp cho trong thân, hai là ngoại thọ dụng như các việc tắm rửa giặt giũ...; giới trước là dùng nước vào việc xây cất, giới này là uống dùng. Nếu Bí-sô vì sân hận, hay vì quên niệm hay vì đói khát bức bách mà thọ dụng nước có trùng, không luận nhiều ít, có xem hay không xem, khởi tưởng có trùng mà không lượt nước, liền uống dùng thì phạm Đọa; khi khởi tâm muốn lấy nước này thì phạm tội trách tâm Ác tác, khi làm phương tiện lấy nước này thì phạm tội đối thuyết Ác tác. Về cảnh tưởng cũng có sáu câu: hai câu đầu phạm Đọa, hai câu kế phạm khinh, hai câu sau không phạm.
Có năm loại mắt không nên xem nước: một là mắt bịnh, hai là mắt lòa, ba là mắt loạn, bốn là mắt người già, năm là thiên nhãn. Xem nước trong khoảng thời gian bao lâu?. trong khoảng thời gian xe có sáu con bò kéo chạy vụt qua, hoặc tâm tịnh xem thấy nước không trùng, dù không lượt mà uống cũng không phạm. Có năm loại đãy lượt nước: một là lượt vuông, hi là pháp bình, ba là quân trì, bốn là chước thủy la, năm là chéo y. Nếu Bí-sô không mang theo đãy lượt nước thì không được đi đến thôn khác hay chùa khác cách xa ba Câu lô xá; nếu biết chỗ đến thường có nước sạch, không có thiếu nước nên không mang theo thì không phạm. Nếu có bạn cùng đi đường, khi đi nên hỏi người mang theo đãy lượt nước: "thầy có cho dùng chung đãy lượt nước hay không, khi đi đến đường rẽ hoặc thầy quay trở về, có thể để lại đãy lượt nước cho tôi dùng được không?", nếu đáp được thì cùng đi chung, nếu đáp là không thì không nên cùng đi chung, nếu không hỏi như thế mà cùng đi thì phạm tội Ác tác. Nếu đi thuyền, thuận dòng sông thì chứng năm Câu lô xá, ngược dòng thì chừng ba Câu lô xá, không mang đãy lượt nước theo, không phạm; nếu thuận dòng thì chừng một Câu lô xá xem nước một lần, không trùng thì tùy ý uống dùng, nhưng giữa chừng phải không có dòng nước khác chảy vào sông; nếu ngược dòng thì chừng một tầm xem nước một lần, không trùng thì tùy ý uống dùng.
Có năm loại nước sạch: một là nước sạch của Tăng, hai là nước sạch của người khác, ba là nước sạch do tự lượt, bốn là nước suối phun sạch, năm là nước giếng sạch. Nếu biết Bí-sô kia là người trì giới thường hộ sanh mạng, uống nước của vị này dù không xem cũng không phạm; nếu sáng sớm xem nước lượt rồi chứa để đến sáng hôm sau khi mặt trời chưa mọc được tùy ý uống dùng. Nếu lấy nước từ trong giếng hay trong sông, sau khi lượt nước, có trùng trong đãy lượt nên đem thả lại trong giếng hay trong sông để cho trùng được sống. Những lu nước dùng để uống dùng trong chùa nên để ở chỗ thuận tiện sạch sẽ, nên thường chà rửa lu cho sạch, nếu lu có mùi hôi nên đem phơi, tay không sạch không nên chạm vào lu nước. Trong chùa có nhiều bình chứa nước uống dùng, nếu người tục đến mượn nên cho mượn cái cũ, không nên cho mượn cái mới.
Phật tại vườn Cấp-cô-độc, thành Thất-la-phiệt, lúc đó Bí-sô Ô-đà-di nhìn tướng đoán biết tình người, ở trong nhà ăn biết người chồng muốn cùng vợ làm việc phi pháp, liền cố ý nói pháp cho người vợ nghe để xúc não họ... Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô gượng ngồi nán lại trong nhà ăn thì phạm Ba-dật-đề.
Nói nhà ăn là đối với người nam thì người nữ là thức ăn, ngược lại đối với người nữ thì người nam là thức ăn, trong nhà có nam nữ muốn làm việc hành dâm thì gọi là nhà ăn. Nói gượng ngồi nán lại là tự buông lung tâm mình mà ngồi lại dù biết chủ nhà không thích. Nếu biết nam nữ kia có ý muốn hành dâm mà gượng ngồi nán lại để xúc não họ khiến họ nổi sân thì phạm Đọa. Cảnh tưởng có sáu câu như trên, nếu bị giặc đuổi, chạy lánh nạn nên gượng ngồi nán lại mà không có tâm nhiễm thì không phạm.
Duyên xứ như trên, chỉ khác ở chỗ là đứng núp sau cánh cửa trong nhà ăn, chủ nhà nhìn thấy liền chê trách nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô đứng núp ở chỗ khuất trong nhà ăn thì phạm Ba-dật-đề.
Giới trước nói chỗ khuất là chỗ chỉ có hai người, dù khuất hay hiển lộ đều là oai nghi ngồi; còn giới này là oai nghi đứng, dù chỉ trong chốc lát cũng phạm Đọa.
Duyên xứ như trên, lúc đó tôn giả A-nan cầm bánh đưa cho hai người nữ ngoại đạo lõa hình: người già được một cái, còn người trẻ được cái bánh dính hai nên người già nói với người trẻ là A-nan có ý... Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô tự tay cho nam nữ ngoại đạo lõa hình và ngoại đạo khác thức ăn thì phạm Ba-dật-đề.
Nếu Bí-sô đối trước ngoại đạo tự tay đưa cho thức ăn, hoặc để vào tay hoặc để trong vật đựng, khi chưa rơi xuống thì phạm tội Ác tác, rơi xuống tay hay trong vật đựng của họ thì phạm Đọa. Cảnh tưởng có sáu câu như trên, nếu đó là bà con hay người bịnh khổ thì cho không phạm.
Duyên xứ như trên, lúc đó vua Thắng quang chỉnh đốn quân binh để đi thảo phạt phản loạn, Lục chúng Bí-sô liền đến xem... Phật nhân việc này chế học xứ: Nếu Bí-sô đến xem chỉnh đốn quân binh thì phạm Ba-dật-đề.
Nói chỉnh đốn quân binh là sắp sửa ra trận chiến đấu, quân binh có bốn là tương binh, mã binh, xa binh và bộ binh. Nếu Bí-sô đến xem chỉnh đốn quân binh, vừa nhìn thấy liền phạm Đọa, làm phương tiện để đến xem thì phạm tội Ác tác. Cảnh tưởng cũng có sáu câu, không phạm là nếu giặc sắp đến, muốn đến xem để biết giặc ở xa hay gần, hoặc khi khất thực gặp quân binh hoặc quân binh đến trong chùa, dù nhìn thấy cũng không phạm.
Duyên xứ như trên, lúc đó Lục chúng Bí-sô có nhân duyên đến ở trong quân trận được hai đêm, nghe vua Thắng quang ra lịnh chỉnh đốn quân binh liền ở nán lại để xem... nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô có nhân duyên đến trong quân trận, được ở lại hai đêm, nếu ở quá hai đêm thì phạm Ba-dật-đề
Nếu Bí-sô ở trong quân trận qua đến đêm thứ ba, khi mặt trời vừa mọc liền phạm Đọa, làm phương tiện để ở nán lại thì phạm tội Ác tác; không phạm là bị vua bắt giữ hoặc có nạn duyên.
Duyên xứ như trên, lúc đó Lục chúng Bí-sô ở trong quân trận thấy quân binh đang tập trận liền não loạn họ... nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô ở trong quân trận hai đêm thấy quân binh đang bày binh bố trận và các đội kỳ binh đi trước thì phạm Ba-dật-đề.
Kỳ binh có bốn là Sư tử kỳ, Đại ngưu kỳ, Kình ngư kỳ và Kim súy điểu kỳ. Nói bày binh bố trận có bốn loại là thế trận mũi đao, thế trận càng xe, thế trận hình bán nguyệt và thế trận hình cánh chim Bằng. Cảnh tưởng như trên, phạm và không phạm như trên.
Duyên xứ như trên, lúc đó Bí-sô Ô-đà-di thấy nhóm Thập thất Bí-sô không chịu nghe lời nên đánh họ... Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô vì sân giận không vui mà đánh Bí-sô khác thì phạm Ba-dật-đề.
Nói đánh là dùng tay hoặc dùng chân đánh đá hoặc dùng ngoại vật như cây, gạch, đá... tùy trúng bao nhiêu thì phạm Đọa bấy nhiêu, không trúng thì phạm tội Ác tác, nếu có tâm sát mà đánh thì phạm Tốt-thổ-la để. Nói Bí-sô là bao gốm trì giới và phá giới, có tướng Bí-sô, khởi tưởng Bí-sô và nghi thì phạm Đọa; không phải Bí-sô, khởi tưởng Bí-sô và nghi thì phạm tội Ác tác; không phạm là không vì sân giận mà vì làm lợi ích.
Duyên xứ như trên, chỉ khác ở chỗ là giơ tay dọa đánh chứ chưa đánh nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô vì sân giận không vui, giơ tay dọa đánh Bí-sô khác thì phạm Ba-dật-đề.
Vừa giơ tay dọa liền phạm Đọa, nếu một lần giơ tay dọa đánh nhiều Bí-sô thì tùy có bao nhiêu Bí-sô thì phạm bấy nhiêu tội Đọa. Nếu Bí-sô nhỏ làm cho Bí-sô lớn giận thì nên đến sám tạ, nếu Bí-sô lớn tâm sân chưa dứt thì không nên liền đến sám tạ, nhưng Bí-sô không nên cố chấp mà không chịu tha thứ cho nhau; nếu Bí-sô lớn vẫn cố chấp thì Bí-sô nhỏ cầu sám tạ nên nhờ người trí làm phương tiện hòa giải giùm. Bí-sô nhỏ nên đến bên Bí-sô lớn kính lễ sám tạ, Bí-sô lớn nên nói không bịnh. Khi thấy các Bí-sô tranh cãi nên dùng tâm không phe nhóm để hòa giải; nếu thấy người tục đang cãi nhau, Bí-sô không nên đứng nhìn, sợ họ sẽ nhờ làm chứng... Ai không tuân theo hành pháp kể trên thì phạm tội Ác tác.
Duyên xứ như trên, lúc đó Bí-sô Đạt ma thấy Bí-sô Ô-ba-nan-đà phạm tội Tăng già bà thi sa, Ôba-nan-đà sợ Đạt ma nói cho người khác biết nên nói rằng: "Thân giáo sư của thầy tuy tôi biết có phạm tội nhưng tôi vẫn không nói với ai, vì vậy dù thầy thấy tôi phi lý cũng nên che giấu", Đạt ma nghe rồi liền đem việc này nói cho các Bí-sô biết. Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô biết Bí-sô khác có tội thô ác mà che giấu thì phạm Ba-dật-đề.
Nói biết là tự biết hay nghe người khác nói, tội Thô là tội thuộc hai bộ giới đầu và tội phương tiện. Nếu Bí-sô che giấu tội Thô của Bí-sô khác cho đến sáng hôm sau, khi mặt trời vừa mọc liền phạm Đọa, che giấu các tội trong bộ giới khác thì phạm tội Ác tác; nếu đối trước người phá giới phát lồ thì không thành phát lồ. Không phạm là nếu khi nói với người khác sẽ khiến mình không được an, hoặc mạng nạn hoặc sẽ có nhân duyên phá Tăng nên phải che giấu thì không phạm.
Nhiếp tụng thứ sáu:
Làm buồn, đốt lửa, dục,
Cùng ngủ, pháp không chướng,
Chưa bỏ, Cầu tịch, nhuộm,
Cầm vật báu, quá nóng.
Duyên xứ như trên, lúc đó Bí-sô Ô-ba-nan-đà do trước có hiềm khích với Bí-sô Đạt ma, muốn xúc não Đạt ma nên vào một ngày khác dùng lời dịu ngọt rủ Đạt ma cùng đi đến nhà thế tục thọ thỉnh thực, nhưng lập bày phương tiện không cho Đạt ma ăn, khiến Đạt ma phải đoạn thực. Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô nói với Bí-sô khác: "thầy hãy cùng tôi đến các nhà kia, tôi sẽ bảo họ cúng thức ăn ngon", đến nơi lại không bảo cúng cho thức ăn, mà còn nói rằng: "thầy hãy đi đi, tôi cùng thầy cùng ngồi, cùng nói chuyện không vui; tôi ngồi một mình, nói chuyện một mình vui hơn", vì muốn xúc não Bí-sô kia, nghĩ rằng: "khiến cho Bí-sô này phiền não cho đến trong chốc lát", vì nhân duyên này không phải vì duyên gì khác thì Bí-sô này phạm Ba-dật-đề.
Nếu có tướng Bí-sô, khởi tưởng Bí-sô mà xúc não, người kia nhận hiểu thì phạm Đọa, xúc não người thọ học và chúng khác thì phạm tội Ác tác; nếu ở chùa Ni hay miếu thờ trời, nhà ngoại đạo mà xúc não thì phạm tội Ác tác.
Phật tại thành Vương xá, nhân việc đốt cây hơ lửa làm cho rắn độc trong bọng cây bò ra, khiến các Bí-sô hoảng sợ bỏ chạy; lại nhân việc cầm cây lửa quay vòng đùa giỡn nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô không bịnh, đốt lửa sưởi ấm nơi đất trống, dùng cây cỏ hay phân trâu để đốt hay bảo người khác đốt thì phạm Ba-dật-đề.
Nói không bịnh là nếu có duyên bịnh thì không phạm, tất cả việc xúc chạm lửa không ở trong thời mà đốt hay tắt, thổi lửa, khêu lửa... đều phạm Đọa; nếu trở lửa than để nướng bánh, tuy ở trong thời mà không có tâm thủ trì đều phạm tội Ác tác, nếu có tâm thủ trì thì không phạm. Nói trong thời là vì Tam bảo hay vì Ô-ba-đà-da, A-giá-lợi-da hoặc vị đồng phạm hạnh hoặc vì mình mà xông bát, nấu thức ăn... thì xúc chạm lửa không phạm. Nói có tâm thủ trì là khi xúc chạm lửa khởi tâm niệm: "ta vì vị đồng phạm hạnh cần làm việc như vậy nên phải xúc chạm lửa", khi tắt lửa cũng khởi tâm vì xong việc nên tắt lửa. Về cảnh tưởng có sáu câu: hai câu đầu phạm Đọa, hai câu kế khinh, hai câu sau không phạm; nếu phóng hỏa đốt đồng nội thì phạm Tốt-thổ-la để, cũng không được ở trên nền đốt lửa, nên lót gạch đá ở dưới; nếu đốt lửa ở ngoài sân chùa, đợi cho khói bay hết rồi mới đem vào phòng. Ban đêm tụng kinh nên đốt đèn, cây đèn nên làm một tầng, nếu là vật của Tăng thì được làm nhiều tầng.
Phật tại vườn Cấp-cô-độc, thành Thất-la-phiệt, lúc đó Ô-ba-nan-đà bị Tăng cho yết ma xả trí, Nan đà biết được nên nói với các Bí-sô: "tôi trước gởi dục không phải là thiện gởi"... Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô gởi dục rồi sau đó hối, nói rằng: "hãy trả dục lại cho tôi, tôi không gởi dục nữa", thì Bí-sô này phạm Ba-dật-đề.
Nói gởi dục là khi Tăng làm pháp sự, trước đã cùng chấp thuận, nhưng sau đó hối nên đòi dục lại. Giới này khác với giới trước ở chỗ không biết trước việc yết ma, gởi dục rồi mới biết nên hối, vừa nói ra lời đòi dục liền phạm Đọa.
Duyên xứ như trên, như Phật đã dạy vào ngày mồng tám, mười lăm mỗi tháng nên nhóm chúng để nghe kinh pháp. Hôm đó vào nửa đêm, có Bí-sô già đốt đèn nằm ngủ, mộng thấy cùng vợ cũ hành dâm nên nói mớ, khiến mọi người đều nghe thấy liền chê trách. Phật nhân việc này chế không cho cùng người chưa thọ Cận viên ngủ chung một phòng, cũng không được đốt đèn nằm ngủ, nếu có ánh trăng chiếu sáng thì không phạm. Lại do La hỗ la chưa thọ Cận viên bị đuổi ra khỏi phòng và Bí-sô bịnh, nên Phật khai cho được cùng ngủ chung phòng hai đêm, đến đêm thứ ba thì đến phòng khác ngủ; nếu không có phòng để cùng ngủ, sợ có Bí-sô ác phá giới dụ dỗ nên khởi tâm phòng hộ, cho cùng ngủ chung phòng trong ba tháng an cư thì không phạm. Lại do hai Cầu tịch tên Lợi thích và Trưởng đại cùng ngủ chung với người tục một chỗ nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô cùng người chưa thọ Cận viên ngủ chung phòng quá hai đêm thì phạm Ba-dật-đề.
Nói quá hai đêm là đến đêm thứ ba cùng ngủ đến khi mặt trời mọc thì phạm Đọa; nói cùng phòng nhà có bốn: một là trên lợp và chung quanh ngăn khắp hết; hai là trên lớp khắp hết nhưng chung quanh chỉ ngăn phần lớn, không khắp hết; ba là trên lợp không khắp hết nhưng chung quanh ngăn khắp hết; bốn là trên lợp và chung quanh ngăn đều không khắp hết. Về cảnh tưởng có sáu câu: hai câu đầu phạm Đọa, hai câu kế khinh, hai câu sau không phạm.
Khi ngủ nếu có nạn duyên hoặc không có giường chiếu khác thì nên xếp y Uất Đa-la tăng làm bốn lớp lót nằm, xếp y Tăng-già-lê làm bốn lớp gối đầu và dùng y An-đà-hội đắp. Nằm nên nghiêng bên hông phải, hai gót chân chồng lên nhau, khởi tưởng ánh quang minh, trụ chánh niệm mà ngủ, nhớ nghĩ sẽ dậy sớm; đầu đêm sau đêm nên tu phẩm thiện, đây là cách ngủ của Sa môn. Nếu không bịnh thì ban ngày không nên nằm, khi nghỉ ngơi nếu có người đến xúc não thì nên bỏ đi đến chỗ khác.
Duyên xứ như trên, lúc đó Bí-sô Vô tướng sanh ác kiến nên Tăng bạch tứ yết ma can ngăn cho bỏ ác kiến này, nhưng Vô tướng vẫn cố chấp không chịu bỏ nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô nói rằng: "tôi hiểu nghĩa của pháp Phật là hành pháp chướng đạo không thể chướng đạo", các Bí-sô nên can ngăn Bí-sô này: "thầy chớ nói là tôi hiểu nghĩa của pháp Phật là hành pháp chướng đạo không thể chướng đạo. Thầy chớ hủy báng Phật, hủy báng Phật là không tốt; Phật không nói lời này, Phật dùng đủ nhân duyên nói hành pháp chướng đạo thật là chướng đạo; thầy nên bỏ ác tà kiến này đi". Khi các Bí-sô can ngăn như thế mà không chịu bỏ việc này thì nên can ngăn hai, ba lần cho bỏ việc này, chịu bỏ thì tốt, nếu không chịu bỏ thì Bí-sô này phạm Ba-dật-đề.
Nói pháp chướng ngại là năm bộ tội, nói không chướng ngại là không chướng ngại chứng Thánh quả. Nếu Bí-sô sanh ác kiến mà cho là chánh kiến nên nói điều tôi hiểu là thù thắng, khi được Bí-sô can riêng mà không chịu bỏ thì phạm tội Ác tác ; khi Tăng bạch tứ yết ma can, từ tác bạch cho đến yết ma lần thứ hai cũng không chịu bỏ thì đều phạm tội Ác tác, yết ma lần thứ ba xong không bỏ thì phạm Đọa.
Duyên xứ như trên, lúc đó Bí-sô Vô tướng bị Tăng cho yết ma xả trí, Bí-sô Ô-ba-nan-đà lại cho ở chung nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô biết Bí-sô kia nói lời như thế, không như pháp sám hối cũng không chịu bỏ ác tà kiến nên bị tẫn mà lại chứa nuôi cùng làm việc, cùng nói chuyện, cùng ngủ thì Bí-sô này phạm Ba-dật-đề.
Do Bí-sô kia bị xả trí chưa tùy thuận Tăng, cũng không bỏ ác kiến, tâm không cải hối nên cùng ở chung đến sáng hôm sau, khi mặt trời vừa mọc liền phạm Đọa; nếu chưa tùy thuận mà bỏ ác kiến thì dù cùng ở chung chỉ phạm tội Ác tác. Nếu không biết Bí-sô kia bị xả trí hoặc thân có bịnh hoặc muốn làm cho Bí-sô kia bỏ ác kiến nên cùng ở chung thì không phạm.
Duyên xứ như trên, lúc đó hai Cầu tịch tên Lợi thích và Trưởng đại thường làm ác hạnh, tâm không hổ thẹn, khi thấy các bạn thân trước kia đều đắc A-la-hán liền khởi niệm: "họ trước kia đã cùng ta làm việc phi pháp mà nay lại đắc quả A-la-hán, chứng tỏ phạm tội không chướng ngại chứng Thánh quả". Tăng nên bạch tứ yết ma can ngăn Cầu tịch bỏ ác kiến này, nên bảo đứng ở chỗ chỉ thấy mà không nghe, mỗi lần tác bạch, yết ma đều đến báo cho Cầu tịch biết để bỏ ác kiến, đến yết ma lần thứ ba vẫn cố chấp không bỏ thì Tăng nên tẫn, không cho ở chung. Bí-sô Ô-ba-nan-đà liền nhiếp thọ Cầu tịch cho ở chung nên Phật chế học xứ:
Nếu có Cầu tịch nói rằng: "tôi hiểu nghĩa của pháp Phật là hành pháp chướng đạo không thể chướng đạo", các Bí-sô nên can ngăn Cầu tịch này: "chú chớ nói là tôi hiểu nghĩa của pháp Phật là hành pháp chướng đạo không thể chướng đạo. Chú chớ hủy báng Phật, hủy báng Phật là không tốt; Phật không nói lời này, Phật dùng đủ nhân duyên nói hành pháp chướng đạo thật là chướng đạo; chú nên bỏ ác tà kiến này đi". Khi các Bí-sô can ngăn như thế mà không chịu bỏ việc này thì nên can ngăn hai, ba lần cho bỏ việc này, chịu bỏ thì tốt, nếu không chịu bỏ thì các Bí-sô nên nói rằng: "này Cầu tịch, từ nay chú không được nói Phật là thầy, cũng không được đi theo sau các Bí-sô, không được cùng ngủ chung phòng với các Bí-sô cho đến hai đêm. Chú hãy đi khỏi nơi đây, không được ở đây nữa". Nếu Bí-sô biết Cầu tịch bị tẫn mà lại chứa nuôi, cùng nói chuyện, cùng ngủ chung thì phạm Ba-dật-đề.
Nói nhiếp thọ là cho y chỉ và cung cấp y thực hoặc dạy pháp, nếu cùng nhà ngủ quá hai đêm thì phạm một tội Đọa, nếu qua đêm thứ ba thì phạm hai tội Đọa.
Phật tại Trúc lâm, thành Vương xá, lúc đó nhằm ngày tiết hội kỳ lợi bạt lũ sơn, các nam nữ từ các thành ấp xa gần đều tụ đến dự, các nhạc công với đủ loại nhạc khi cũng tụ hội và nói với nhau: "các màn vũ nhạc của chúng ta, mọi người đều đã xem biết, không còn đặc biệt nữa; chúng ta nên sửa đổi cho khác lạ mới thu hút được nhiều người đến xem", nói rồi bèn đưa hình tượng Lục chúng Bí-sô vào trong vũ nhạc, do mới lạ nên mọi người đều tụ đến xem, nhờ đó các nhạc công thu được rất nhiều tiền và trân bảo. Lục chúng Bí-sô nghe biết việc này liền nói với nhau: "các nhạc công đưa hình tượng của chúng ta vào trong vũ nhạc mà còn thu được nhiều tiền và trân bảo như thế, nếu chúng ta tự làm há lại không thu được tài vật hay sao?", nói rồi liền ở trong đại hội mặc áo thế tục tự ca múa vũ nhạc, mọi người đều tụ đến xem khiến cho các nhạc công kia phải nghỉ trình diễn. Lúc đó họ bàn với nhau: "chúng ta chỉ đưa hình tượng họ vào vũ nhạc mà còn thu được nhiều tiền, huống chi là họ tự biểu diễn, chúng ta sẽ không được gì", bàn xong liền đem trân bảo tiền tài đã kiếm được biếu tạng cho Lục chúng Bí-sô để họ thương xót, không trình diễn nữa. Phật nhân việc này chế không cho Bí-sô tự ca múa vũ nhạc và đến xem nghe, đồng thời chế học xứ:
Nếu Bí-sô được y mới nên dùng một trong ba màu hoặc xanh, hoặc bùn đen hoặc vỏ cây Mộc lan nhuộm làm cho hoại sắc. Nếu Bí-sô không dùng một trong ba màu hoặc xanh, hoặc bùn đen hoặc vỏ cây Mộc lan nhuộm y mới làm cho hoại sắc thì phạm Ba-dật-đề.
Nói y mới là thể của nó mới, không phải là mới được; nói màu xanh là lấy trái Ha lê lặc nghiền giã rồi hòa với nước, để trong chậu sắt một đêm, sau đó hòa với nước nóng để thành màu nhuộm có sắc xanh nhưng không phải là màu xanh đậm; nói nhuộm màu bùn đen là dùng đá đỏ nhuộm, hoặc dùng vỏ cây, rễ, cành lá hoa quả nấu thành nước nhuộm hoại sắc. Nếu không nhuộm cho hoại sắc mà mặc thì phạm Đọa, làm phương tiện để mặc thì phạm tội Ác tác; cho đến các vật dụng như khăn lau bát, lau chân, đãy y, đãy bát, dây lưng... cũng đều nên nhuộm cho hoại sắc, điểm tịnh rồi thọ dụng. Nếu thể của y, sợi ngang sợi dọc... đều là vật bất tịnh, không nhuộm cho hoại sắc mà mặc thì phạm tội Ác tác. Về cảnh tưởng có sáu câu nên biết.
Phật tại núi Thứu, thành Vương xá, lúc đó vào sáng sớm Phật đắp y mang bát vào thành khất thực, tôn giả A-nan đi theo sau. Do trời mưa lớn nên phục tàng của người thời kiếp sơ bị lộ ra, Phật thấy liền bảo A-nan: "A-nan hãy nhìn xem, đây là rắn độc hại", A-nan đáp: "Thế tôn, quả thật là rắn độc hại đáng sợ". Cách đó không xa có người lượm trái rụng nghe thấy lời này liền suy nghĩ và tò mò muốn biết rắn độc hại đó hình trạng như thế nào. Khi đến xem mới biết là phục tàng, liền suy nghĩ: "ta nguyện cho rắn độc hại này thường cắn cha mẹ vợ con quyến thuộc của ta, ta cũng không từ đau đớn", nghĩ rồi liền lấy lá phủ kín và từ từ mang về nhà, cùng bà con tùy ý thọ dụng. Lúc đó vua Vị sanh oán thấy người nghèo này bỗng nhiên trở nên giàu có liền sai sứ đến dò xét gạn hỏi: "ông tìm thấy phục tàng của vua ở đâu?", liền chối là không từng thấy, sứ bắt giải đến chỗ vua, vua gạn hỏi cũng chối là không thấy, vua hỏi các quan: "trái lịnh vua thì khép vào tội gì?", đáp là tội chết, vua nói: "người này trái lịnh vua nên y theo quốc pháp xử tội chết và bắt hết thân quyến giam vào ngục". Khi dẫn ra pháp trường xử tử, người kia khóc lớn và nói: "A-nan, đây là rắn độc hại", vua có dặn đao phủ, nếu nghe người kia nói lời gì thì tâu lại nên khi nghe được lời này liền tâu vua biết, vua nghe rồi nói: "lời nói không tương đương, ắt là có ý nghĩa gì, khanh hãy dẫn hắn đến đây để ta gạn hỏi", người kia được dẫn đến trước vua liền kể lại mọi việc. Vua đối với Tam vừa sanh tín tâm, nghe việc này rồi liền rơi nước mắt nói với người kia rằng: "người nhờ Thế tôn mà được vật báu này, tội tuy đáng chết nhưng ta tha cho ngươi và các quyến thuộc được tự do, hãy đem vật báu này cúng dường Phật và Tăng", người kia nghe rồi vui mừng sắm sửa lễ vật mang đến cúng dường Phật và Tăng, sau khi nghe Phật thuyết pháp liền chứng được Sơ quả. Phật do việc này nên chế ngăn Bí-sô không được cầm vật báu; lại do Ô-ba-nan-đà đến chỗ dạy bắn, sau đó đến phường nhạc làm cho họ khiếp sợ rồi bắt họ giao nộp tiền, họ phải bán hết cung tên, nhạc cụ để đưa, do đây trở nên nghèo cùng; lại do Ô-ba-nan-đà lấy chuỗi ngọc của một đồng tử... nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô tự tay cầm lấy vật báu hay tợ vật báu, hoặc bảo người khác cầm lấy thì phạm Ba-dật-đề, trừ ở trong tăng phòng hay ở trong trú xứ. Nếu vật báu hay tợ vật báu ở trong Tăng phòng hay ở trong trú xứ, khi cầm lấy nên nghĩ rằng: "ai là chủ của chúng đến nhận, sẽ giao lại". Việc này đúng pháp nên làm như thế.
Nói vật báu là bảy báu: vàng bạc... cho đến ngọc Nhật quang, Nguyệt quang; nói tợ vật báu là các loại binh khí, nhạc cụ; nói trừ ở trong trú xứ là nhân nơi Lộc tử mẫu mà Phật khai. Hành pháp của Bí-sô là khi nhặt được vật rơi hay bỏ quên, nếu chủ của vật đến đòi, Bí-sô nên hỏi lại, nếu đáp trúng thì nên đưa trả lại, nếu đáp không trúng thì không nên đưa trả lại. Nếu ở ngoài chùa thấy vật rơi nên lấy lá cỏ phủ kín lại, đợi không có chủ đến lấy mới đem về trú xứ, tự cất giữ qua bảy tám ngày, nếu không có ai đến đòi thì cất vào trong kho của Tăng, qua năm sáu tháng cũng không có ai đến đòi nên đem bán để mua các khí cụ cần dùng khác cho Tăng. Thời gian sau nếu có chủ đến đòi nên khuyên họ cúng cho Tăng, nếu không chịu thì Tăng nên trả lại đúng giá tiền của vật; nếu họ đòi tiền lời nên nói: "do Phật chế giới nên mới đưa trả lại cho ông, nếu còn đòi tiền lời thì không nên". Nếu là đồ trang sức bằng vật báu như chuỗi anh lạc, vòng xuyến... cho đến các loại binh khí nhạc cụ hoặc trong thân tượng có xá lợi Phật mà tự cầm hay bảo người cầm thì đều phạm Đọa; nếu là giả vật báu... cho đến thân tượng không có xá lợi Phật, tự cầm hay bảo người cầm đều phạm tội Ác tác. Nếu tượng có xá lợi Phật hay không có xá lợi Phật, khởi tưởng Đại sư mà cầm thì không phạm; nếu là ngọc Nhật quang hay Nguyệt quang dùng để lấy lửa hay nước thì được cất giữ không phạm, nhưng không nên chỉ cho giặc biết chỗ cất. Bảy báu của Chuyển luân thánh vương, nếu xúc chạm nữ báu thì phạm tội Chúng giáo, xúc chạm binh khí và phục tàng báu thì phạm hai tội Đọa, xúc chạm bốn báu sau thì không phạm.
Phật tại Trúc lâm, thành Vương xá, lúc đó Lục chúng Bí-sô tắm trong suối nước nóng của vua làm ngăn ngại vua tắm rửa nên Phật chế không cho tắm. Do không tắm nên thân hôi hám bị người tục chê trách nên Phật khai cho nửa tháng tắm một lần và gặp các duyên trong thời được tắm như sau:
Nếu Bí-sô chưa tới nửa tháng mà tắm thì phạm Ba-dật-đề, trừ nhân duyên. Nhân duyên là vào một tháng rưỡi của cuối mùa xuân và một tháng đầu của mùa hạ, hai tháng rưỡi này khí trời rất nóng hoặc khi bịnh, khi gió, khi mưa, khi làm việc, khi đi đường.
Nói khi trời nóng là vào một tháng rưỡi của cuối mùa xuân, tức là từ đầu tháng tư đến ngày 15 tháng 5 và một tháng đầu của mùa hạ, tức là từ ngày 16 tháng 5 đến ngày 15 tháng 6, trong hai tháng rưỡi này khí trời rất nóng. Nói khi bịnh là nếu không tắm rửa thì thân không an; nói khi làm việc là như đã giải thích ở giới trên; nói khi gió là cho đến có gió nhẹ thổi lay động chéo y; nói khi mưa là cho đến mưa lâm râm hoặc có cả gió và mưa, đều cho tắm tùy ý.
Bí-sô khi tắm rửa, tâm nên thủ trì, nếu vào ao sông hoặc chỗ nước lạnh, nước nóng mà vua quán đảnh tắm, nước cao quá rốn thì phạm Đọa. Nếu có duyên phải lội qua sông hoặc qua cầu đê trợt chân té xuống nước, hoặc chết giấc, người khác rưới nước cho tỉnh lại, hoặc học bơi ở ao sông hoặc gặp trời mưa đều không phạm.
Trú xứ của Bí-sô cần phải quét dọn cho sạch, nếu quá rộng lớn không thể quét dọn khắp hết thì nên lau quét chỗ cần yếu. Vào ngày mồng tám, rằm mỗi tháng nên đánh kiền chùy cho cả chúng cùng quét dọn; khi chúng nhóm nên nói ra lời pháp, hoặc im lặng như bậc thánh; quét dọn xong nên tắm, đất đã quét sạch, muốn đạp lên nên tụng chú; nơi Phật điện, tháp và cây phướn, nếu cần đạp bóng đi qua, cũng nên tụng chú. Nếu chạm vào tử thi cũng nên tắm rửa, nếu Bí-sô chết đã lâu, trong thân không sinh trùng mới được hỏa thiêu hoặc chôn trong đất; nếu thân sinh trùng và trời mưa thì nên dùng xe bò chở tử thi bỏ vào trong rừng thây chết, nằm xây đầu về hướng bắc và nên tụng kinh vô thường. Ai khiên tử thi thì nên tắm rửa, nếu không xúc chạm thì chỉ rửa tay chân. Nên cạo tóc ở trong Thời, cạo tóc nên cạo hết nhưng không nên để chỏm trên đầu, cũng không được cạo lông nơi ba chỗ kín. Bí-sô ở nơi A-lan-nhã được để tóc dài chừng hai lóng tay, không được dài quá; khi cạo tóc không nên mặc ba pháp y, nên cất chứa riêng y cạo tóc, nếu không có y này thì có thể mặc Tăng khước kỳ; nếu không có người cạo tóc cho thì Bí-sô nên ở chỗ khuất tự cạo. Dao cạo tóc của Tăng, Bí-sô cần thì được lấy dùng, cạo tóc xong nên quét dọn sạch sẽ rồi tắm rửa, khi tắm nên quán hợp thể này là không. Không nên như sư tử tắm cho dã can, tức là người trì giới tắm cho người phá giới; nếu cha mẹ, Ô-ba-đà-da và A-giá-lợi-da dù là người phá giới cũng nên cúng dường, chớ có tâm khinh mạn. Khi Tăng đang tắm, không nên cho người không tin và mới tin vào trong nhà tắm, khi tắm cũng nên tâm niệm thủ trì, không được dùng gạch đá kỳ cọ bắp đùi, cũng không nên lộ hình tắm, nên mặc quần tắm chiều dài bốn năm khuỷu tay, rộng một khuỷu tay rưỡi; nếu tắm ở ao sông cũng nên xem nước có trùng hay không rồi mới tắm.
Nhiếp tụng thứ bảy:
Giết bàng sanh, cố xúc não,
Chọc lét, giỡn nước, đồng ngủ,
Khủng bố, giấu vật, đòi y,
Vô căn, cùng nữ đồng đi.
Phật tại vườn Cấp-cô-độc, thành Thất-la-phiệt, lúc đó Bí-sô Ô-đà-di đến nhà dạy bắn cung, tự hiến tài nghề của mình bằng năm cách bắn tên, xem thường mọi người, nhân đó giết chết chim đang bay... Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô cố ý đoạn mạng bàng sanh thì phạm Ba-dật-đề.
Nói cố ý mà khởi tưởng bàng sanh mà vẫn giết, nếu Bí-sô khởi tâm giết, tự tay cầm cung tên, gạch đá, dao gậy... để bắn ném, đánh chém... làm cho nó chết hoặc sau đó mới chết thì đều phạm Đọa, không chết thì phạm tội Ác tác ; nếu sai người điên cuồng giết thì người cuồng không phạm mà người sai giết phạm Đọa. Cảnh tưởng có sáu câu nên biết, từ tâm mà kết trọng, nếu đã cố ý giết thì dù giết lầm vẫn phạm tội Ác tác, vô tâm thì không phạm.
Duyên xứ như trên, lúc đó Bí-sô Ô-đà-di thấy chúng Thập thất Bí-sô đã thọ Cận viên, muốn xúc não nên nói: "các thầy tuy được tác pháp thọ giới, nhưng thật không đắc giới, cần gì phải nhọc tâm cầu học nghiệp?"... nên Phật chế:
Nếu Bí-sô cố ý làm cho Bí-sô khác sanh tâm nghi, nghĩ rằng: "khiến cho Bí-sô này phiền não cho đến trong chốc lát", vì nhân duyên này không phải vì duyên gì khác thì Bí-sô này phạm Ba-dật-đề.
Khi nói làm cho người khác nghi hối, dù lời nói có xứng lý hay không, người kia nghe rồi có sanh phiền não hay không, nói rõ ràng thì phạm Đọa. Trừ nói về việc thọ Cận viên và Ba la thị ca ra, nói các việc khác cố ý xúc não thì phạm tội Ác tác; nếu xúc não người thọ học và người không hiểu được lời nói thì phạm tội Ác tác. Nếu vì làm lợi ích nên thuận giáo luật dùng lý khai dẫn thì không phạm; về cảnh tưởng có sáu câu nên biết.
Duyên xứ như trên, lúc đó trong nhóm Thập thất Bí-sô có một người buồn phiền không vui nên mười sáu người kia đến an ủi, dùng tay chọc lét để người này cười; do cười quá độ nên người này qua đời. Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô dùng tay chọc lét Bí-sô khác thì phạm Ba-dật-đề. Dùng một ngón tay hay cho đến cả mười ngón tay đều phạm Đọa, về cảnh tưởng có sáu câu nên biết.
Duyên xứ như trên, lúc đó chúng thập thất Bí-sô tắm trong sông A thị la bạt để và cùng nhau đùa giỡn trong nước, vua Thắng quang nhìn thấy liền chê trách nên Phật chế học xứ: Nếu Bí-sô đùa giỡn trong nước thì phạm Ba-dật-đề.
Giỡn trong nước có chín việc thành phạm: một là tự vui chơi, hai là cùng người khác vui chơi, ba là tự nhảy, bốn là cùng người khác nhảy, năm là tự đùa giỡn, sáu là cùng người khác đùa giỡn, bảy là trạo cử, tám là giỡn với bóng, chín là thân đánh vỗ nhau. Nếu Bí-sô ở trong nước nổi hay lặn, bơi qua hay bơi lại hoặc vỗ nước làm trống, tự làm hay cùng người khác làm, hoặc lấy nước tạt nhau để đùa giỡn thì đều phạm Đọa; nếu khởi tưởng lướt sóng cho mát hoặc lội qua sông hoặc học bơi thì không phạm; về cảnh tưởng có sáu câu nên biết.
Duyên xứ như trên, lúc đó Bí-sô A ni lô đà ở nơi không có người nam, cùng ngủ chung nhà với người nữ, người nữ này có tâm nhiễm nửa đêm muốn cùng Bí-sô làm việc phi pháp... nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô ngủ chung một nhà với người nữ thì phạm Ba-dật-đề.
Nói người nữ là người có thể cùng hành dâm, nhà có bốn loại như trong giới trên. Nếu Bí-sô ngủ chung nhà với người nữ cho đến sáng hôm sau, khi mặt trời vừa mọc liền phạm Đọa. Nếu người nữ trên lầu, Bí-sô nên ở tầng dưới hoặc ngược lại; hoặc đóng chặt cửa hoặc khóa cửa để dứt qua lại thì không phạm; nếu người nữ là trời rồng hay loài bàng sanh có thể biến hình thì phạm tội Ác tác. Về cảnh tưởng có sáu câu nên biết, nếu Bí-sô nằm ngủ trước, người nữ đến sau, Bí-sô không biết cũng phạm; nếu người nữ có cha mẹ hay chồng là người bảo hộ thì cùng ngủ chung một nhà không phạm.
Duyên xứ như trên, lúc đó Bí-sô Ô-đà-di trùm cái mền lông dài giả ma quỷ để dọa nhát nhóm thập thất Bí-sô, khiến họ sợ hãi nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô tự khủng bố hay bảo người khủng bố Bí-sô khác, cho đến đùa giỡn thì phạm Ba-dật-đề.
Nói đùa giỡn nhưng bổn tâm là muốn xúc não làm cho sợ hãi, nếu Bí-sô dùng những việc đáng sợ thuộc về sắc thanh hương vị xúc để khủng bố người kia, dù người kia có kinh sợ hay không thì đều phạm Đọa; nếu dùng những việc đáng ưa để khủng bố thì phạm tội Ác tác. Nếu nói ba đường ác để giáo hóa dẫn dắt, dù người kia có sợ cũng không phạm; về cảnh tưởng có sáu câu nên biết.
Duyên xứ như trên, lúc đó nhóm thập thất Bí-sô cùng với Lục chúng Bí-sô tắm trong sông, khi nhóm thập thất Bí-sô lặn sâu dưới nước chưa nổi lên thì Lục chúng Bí-sô lên bờ lấy y bát của họ giấu vào bụi cỏ rồi đi... Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô đối với các vật cần dùng trong sinh hoạt của Bí-sô, Bí-sô ni, Chánh học nữ, Cầu tịch, Cầu tịch nữ như y bát, ống kim, khóa cửa, giày dép... tự lấy giấu hay bảo người giấu, cho đến đùa giỡn thì phạm Ba-dật-đề.
Nói Chánh học nữ là nếu người nữ đã từng gả thì tuổi đủ hai mươi, nếu là đồng nữ thì tuổi đủ mười tám, Ni tăng bạch nhị cho học sáu pháp và sáu tùy pháp, sáu pháp là:
Không được đi đường một mình.
Không được lội qua sông một mình.
Không được xúc chạm thân người nam.
Không được ngủ đêm cùng nhà với người nam.
Không được làm việc mai môi.
Không được che giấu tội trọng của ni. Nhiếp tụng:
Không đi đường một mình,
Không qua sông một mình,
Không xúc chạm người nam,
Không ngủ cùng nhà nam,
Không làm việc mai môi,
Không giấu tội trọng ni.
-Và sáu tùy pháp là:
Không được cất chứa vàng bạc
Không được cạo lông chỗ kín
Không được đào đất sống,
Không được chặt phá cây cỏ sống
Không được ăn thức ăn không thọ
Không được ăn thức ăn từng xúc chạm. Nhiếp tụng:
Không cầm giữ vàng bạc,
Không cạo lông chỗ kín,
Không được đào đất sống,
Không chặt phá cây cỏ,
Không ăn vật không thọ,
Không ăn vật xúc chạm.
Nói y là y đúng lượng như pháp, bát cũng đúng lượng như pháp có thể thủ trì và các vật cần dùng khác như đãy đựng bát làm bằng vải hay bằng lưới dệt, chén đồng uống nước, dây lưng..., nếu cất giấu thì đều phạm Đọa. Nếu Bí-sô cất giấu với tâm cố ý xúc não, dù người kia có phiền não hay không đều phạm Đọa; nếu là y vật bất tịnh hoặc bát phạm Xả đọa, hoặc y vật của người thọ học hoặc của Sa môn Bà-la-môn khác thì phạm tội Ác tác.
Duyên xứ như trên, lúc đó Bí-sô Ô-ba-nan-đà đem ba y của mình cho đệ tử y chỉ, người này thọ rồi đem giặt nhuộm sạch sẽ, khởi tưởng là vật của mình đem ký gởi lại cho thầy vì có việc phải đi xa. Ô-ba-nan-đà lấy mặc làm cho hôi dơ rồi trả lại chỗ cũ, khi người đệ tử làm xong việc trở về, thọ lại y của mình thấy hôi dơ như thế liền sanh phiền não. Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô thọ y của người khác ký gởi, không hỏi chủ mà tự ý lấy mặc thì phạm Ba-dật-đề.
Nói không hỏi chủ là không theo chủ hỏi mượn dùng, nếu đã cho người khác y, không hỏi chủ mượn mà tự ý lấy mặc thì phạm Đọa; nếu là y của người thọ học hoặc y bất tịnh, không hỏi mà tự ý lấy mặc thì phạm tội Ác tác; nếu khởi tưởng là thân hữu thì không phạm. Về cảnh tưởng có sáu câu: hai câu đầu phạm Đọa, hai câu kế khinh, hai câu sau không phạm.
Phật tại trúc lâm, thành Vương xá, lúc đó hai Bí-sô Mật-đát-la và Bộ-nhĩ-ca thấy Bí-sô Thậtlực-tử đắp y phất qua đầu của Bí-sô ni Liên hoa sắc, liền vu báng là phạm tội Chúng giáo nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô vì sân giận đem tội Tăng già bà thi sa không căn cứ vu báng cho Bí-sô thanh tịnh thì phạm Ba-dật-đề.
Nói không có căn cứ là không thấy nghe nghi, nói đem tội Tăng già bà thi sa là tùy đem một trong mười ba việc để vu báng. Nếu vu báng Bí-sô không thanh tịnh thì có mười một việc thành phạm và sáu việc không phạm; nếu vu báng Bí-sô thanh tịnh thì có mười việc thành phạm và năm việc không phạm như trong bộ tội Tăng già bà thi sa có nói rõ. Nếu đem tội Tăng già bà thi sa vu báng thì phạm Đọa, đem tội Tốt-thổ-la để vu báng hoặc vu báng người thọ học thì phạm tội Ác tác; người kia không hiểu được lời nói thì phạm tội Ác tác.
Phật tại vườn Cấp-cô-độc, thành Thất-la-phiệt, lúc đó có Bí-sô từ thành Vương xá đi đến thành Thất-la-phiệt; lại do có người thợ dệt cãi nhau với vợ, người vợ liền bỏ nhà đi, gặp Bí-sô này liền tháp tùng để cùng đi. Khi người thợ dệt chạy theo tìm vợ, thấy Bí-sô đi với vợ mình liền cho là Bí-sô dụ dỗ nên đánh Bí-sô suýt chết. Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô đi chung đường với người nữ mà không có người nam khác, cho đến một thôn thì phạm Ba-dật-đề.
Nói một thôn là một Câu lô xá, cùng đi được nửa Câu lô xá thì phạm tội Ác tác, cùng đi được một Câu lô xá thì phạm Đọa; nếu đi chung đường với người nữ là thiên nữ, long nữ... thì phạm tội Ác tác; nếu đi qua đường hiểm nhờ người nữ chỉ đường hay giúp đỡ thì không phạm; về cảnh tưởng có sáu câu nên biết.
Nhiếp tụng thứ tám:
Cùng giặc đi, tuổi chưa đủ,
Đào đất, đòi hỏi, trái giáo,
Nghe lén, làm thinh bỏ đi,
Không kính, uống rượu, phi thời.
Duyên xứ như trên, lúc đó có Bí-sô đi chung đường với người buôn lậu trốn thuế... nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô đi chung đường với thương nhân là giặc, cho đến một thôn thì phạm Ba-dật-đề.
Nói giặc là trộm cắp hay cưỡng đoạt hoặc buôn lậu trốn thuế, một thôn như giới trên, nếu Bí-sô bỏ giặc đi trước một mình hoặc là người bịnh cuồng thì không phạm; về cảnh tưởng có sáu câu nên biết.
Phật tại vườn Cấp-cô-độc, thành Thất-la-phiệt, lúc đó tôn giả Đại Mục-kiền-liên cho nhóm mười bảy thiếu niên xuất gia thọ Cận viên, sau đó do không chịu nổi đói khát nên họ kêu khóc... Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô biết người chưa đủ hai mươi tuổi mà cho thọ Cận viên, thành tánh Bí-sô thì phạm Ba-dật-đề. Người này không phải Cận viên và các Bí-sô cũng phạm tội.
Nói thọ Cận viên là bao gồm người truyền trao, người thọ giới, oai nghi tiến chỉ và các hành pháp đã có.
Người truyền trao gồm có Ô-ba-đà-da, A-giálợi-da và các Bí-sô tôn chứng. Ô-ba-đà-da có hai hạng: một là vị thầy cho ta cạo tóc, xuất gia và thọ mười học xứ, hai là vị cho ta thọ Cận viên; phải đủ mười hạ và thành tựu năm pháp: một là biết phạm, hai là biết không phạm, ba là biết khinh, bốn là biết trọng và năm là có thể khai giải kinh Biệt giải thoát; đối với các học xứ Phật chế đầu tiên hay tùy khai hay gặp nạn duyên khéo biết thông bít, thường tụng giới bổn có thể quyết nghi cho người, giới kiến đa văn, tự tha đều lợi, oai nghi hành pháp đều không trái phạm, đầy đủ các đức có thể dạy pháp xuất ly cho người, nên được gọi là Thân giáo sư. Nếu Bí-sô đối với các học xứ không biết khinh trọng thì dù tuổi đời tám mươi, tuổi hạ sáu mươi vẫn phải y chỉ bậc minh đức, nếu thầy nhỏ tuổi hơn thì trừ việc lễ bái ra, các việc khác đều nên làm và không được cho người xuất gia thọ Cận viên, vị này được gọi là lão tiểu Bí-sô. Có năm hạng A-giá-lợi-da:
Thập giới A-giá-lợi-da là vị truyền trao pháp Tam quy và mười học xứ.
Bình giáo (giáo thọ) A-giá-lợi-da là vị ở chỗ khuất gạn hỏi các chướng pháp ( già nạn ).
Yết ma A-giá-lợi-da là vị tác pháp bạch tứ yết ma.
Y chỉ A-giá-lợi-da là vị cho y chỉ ít nhất là ở lại một đêm.
Giáo độc (thọ kinh) A-giá-lợi-da là vị dạy đọc tụng ít nhất là bốn câu kệ pháp.
Năm hạng này đều có thể dạy pháp tắc cho đệ tử nên được gọi là Quỹ phạm sư. Túc số Tăng truyền giới có hai: túc số Tăng ở Trung phương là mười người và túc số Tăng ở biên địa là năm người; nếu ở chỗ có được mười người mà chỉ lấy túc số năm người thì cũng gọi là thiện thọ, nhưng chúng tăng phạm tội Việt pháp ; nếu ở chỗ chỉ có được năm người thì gọi là thiện thọ. Nếu túc số không đủ thì không được xếp Phật vào túc số vì Phật bảo và Tăng bảo khác biệt; nếu xếp người cuồng, điếc hay bộ chúng của thiên thọ vào túc số thì không thành thọ Cận viên.
Người thọ giới có nhiều loại: một là ý tổn hoại, hai là sở y tổn hoại, ba là trượng phu tổn hoại, bốn là bạch pháp tổn hoại, năm là hệ thuộc người khác, sáu là tướng xấu ác không đoan nghiêm. Nói ý tổn hoại là khi sắp chết hoặc sợ có kẻ áp bức, vì mạng sống nên cầu xuất gia; sở y tổn hoại là thân mang bịnh nan y, muốn nương Tam bảo để được trị lành; trượng phu tổn hoại là Bán trạch ca có năm loại: một là Sanh Bán trạch ca ( Phiến xá ), tức là vừa sanh ra đã không phải là nam; hai là Bán nguyệt Bán trạch ca, tức là nửa tháng là nam, nửa tháng là nữ; ba là Xúc bảo Bán trạch ca, tức là khi có xúc chạm và ôm thì sanh chi liền khởi; bốn là Tật đố Bán trạch ca, tức là khi thấy người khác hành dâm sanh tâm tật đố thì căn liền khởi; năm là Bị hại Bán trạch ca, tức là bị bịnh nên căn thương tổn hoặc bị thiến. Năm loại này xuất gia thọ giới thì gọi là phi phần, loại thứ năm không nhất định, vì nếu đã thọ Cận viên rồi căn mới bị thương tổn thì nên xét tánh hạnh, nếu không biến đổi thì vẫn ở địa vị cũ, nếu biến đổi thì nên diệt tẫn. Nói bạch pháp tổn hoại có mười loại:
Một là các ngoại đạo tôn sùng tà giáo không có chánh tín, trừ ngoại đạo thờ lửa ra, các ngoại đạo khác nếu muốn xuất gia nên cho ở chung bốn tháng, ăn thức ăn của Tăng, mặc áo của Thân giáo sư, cung cấp thừa sự và làm việc giống như Cầu tịch, nếu xét thấy không bỏ kiến chấp cũ thì nên đuổi đi; nếu bỏ kiến chấp thì cho xuất gia.
Hai là ô nhục Bí-sô ni, ni này phải là người không phạm tám Tha thắng, nếu ni này làm hạnh bất tịnh hoặc cả hai đều có tâm nhiễm, trước xúc chạm rồi cùng làm hạnh bất tịnh thì không gọi là làm ô nhục Ni.
Ba là tạc trụ, tức là người không nương theo thầy mà tự xuất gia rồi cùng các Bí-sô thanh tịnh khác trải qua hai ba lần trưởng tịnh, cho đến cùng tác pháp yết ma. bốn là quy ngoại đạo, tức là ngoại đạo nương trong Phật pháp, tuy mặc pháp y nhưng không bỏ kiến chấp cũ nên trở về với ngoại đạo mà không xả học xứ cho đến khi mặt trời mọc.
Năm loại kế là giết hại cha mẹ, giết A-la-hán, phá Tăng, ác tâm làm Phật bị thương chảy máu.
Mười là người trước đã phạm giới, tức là đã phá giới trọng trong năm giới, mười giới hoặc trong bốn pháp Tha thắng. Lại có hai loại dị trụ, tức là người từ trong nhóm Pháp đến với nhóm Phi pháp và người bị Tăng xả trí hoặc hoàn tục.
Nói hệ thuộc người khác là chỉ cho nô tỳ, người mắc nợ, đại tướng của vua hoặc người mà cha mẹ không cho.
Nói tướng xấu ác không đoan nghiêm là chỉ cho phi nhân hoặc bàng sanh có thể biến hình người đến xuất gia thọ giới, hoặc hình dạng khác với người như thân nhiều lông, đầu giống đầu bò hoặc đầu voi, đầu ngựa... hoặc quá cao, quá lùn, gù lưng, người bị chặt tay chân...
Truyền thọ Cận viên xong nên vì nói kệ:
"Người trong pháp tối thắng,
Đầy đủ thọ Thi la,
Chí tâm thường phụng trì,
Khó được thân không chướng,
Thân đoan nghiêm xuất gia,
Thanh tịnh thọ Cận viên,
Nói ra lời chân thật,
Tri kiến đấng chánh giác".
Nói oai nghi tấn chỉ là người muốn xuất gia nên tìm đến một Bí-sô, Bí-sô này nên hỏi các chướng pháp, nếu hoàn toàn thanh tịnh thì được tùy ý nhiếp thọ. Khi đã nhiếp thọ rồi nên truyền trao cho họ pháp Tam quy và năm học xứ, kế dạy thỉnh Thân giáo sư và thỉnh một Bí-sô làm người bạch Tăng, vị này nên hỏi bổn sư đã hỏi các chướng pháp chưa, nếu không hỏi thì phạm tội Ác tác. Nếu chúng nhóm nên bạch Tăng, nếu chúng không đến nhóm thì nên dẫn đến từng phòng bạch, nếu không bạch thì phạm tội Ác tác. Bạch rồi nên cho cạo tóc, nên chừa lại một ít tóc trên đầu rồi hỏi giới tử có chịu cạo sạch tóc trên đầu không, nếu đáp là không thì cho họ tùy ý trở về nhà, nếu đáp là chịu thì nên cạo sạch rồi cho họ tắm rửa sạch sẽ. Nếu trời lạnh thì nên cho nước nóng tắm, nếu trời nóng nên cho nước lạnh tắm, sau đó cho mặc y phục của người xuất gia. Khi họ mặc y phục nên xem xét họ có phải là người hai căn hoặc không căn hoặc căn không đầy đủ, xem xét rồi mới cho thọ y Man điều đắp mặc. Khi tuổi đủ hai mươi thầy nên vì lo liệu cho đủ y bát... sáu vật, mới cho thọ Cận viên, trước thỉnh thập sư vào trong đàn tràng, Giáo thọ sư dạy thỉnh Ô-ba-đà-da rồi bảo đưa bát trình cho đại chúng thấy, vì sợ bát quá nhỏ hay quá lớn hay màu sắc không như pháp; nếu là bát tốt như pháp thì đại chúng nên nói là bát như pháp, nếu không nói thì phạm tội Việt pháp. Cho thọ trì y bát xong nên bảo người thọ giới đến đứng ở chỗ mắt thấy tai không nghe, hướng về đại chúng. Sau đó Giáo thọ sư ở chỗ khuất hỏi các chướng pháp rồi gọi vào trong Tăng, dạy quỳ gối chắp tay ở trước Yết ma sư nhất tâm lãnh thọ giới pháp. Tác pháp xong, Yết ma sư lấy thước đo bóng mặt trời ở dưới chân ngắn hay dài bao nhiêu, đo xong nên bảo giới tử: "con thọ Cận viên vào trước giờ ăn hay sau giờ ăn, bóng mặt trời đo dưới chân là một ngón tay hay hai ngón tay cho đến bằng thân người ", nếu thọ vào ban đêm thì nên nói là vào nửa đêm hay giữa đêm. Kế nói rõ thời tiết thọ giới là vào mùa đông hay mùa xuân, mùa mưa, cuối mùa mưa hay mùa hạ dài (mùa Đông có bốn tháng từ ngày 16 tháng 9 đến ngày 15 tháng 1, mùa xuân có bốn tháng từ ngày 16 tháng 1 đến ngày 15 tháng 5, mùa mưa có một tháng từ ngày 16 tháng 5 đến ngày 15 tháng 6, cuối mùa mưa có một ngày đêm là ngày 16 tháng 6; mùa hạ dài có ba tháng từ ngày 17 tháng 6 đến ngày 15 tháng 9). Kế nói bốn pháp Tha thắng, pháp tứ y và bốn pháp nên làm của Sa môn.
Có năm việc không thành thọ Cận viên: một là không xưng tên Ô-ba-đà-da, hai là không xưng tên mình, ba là không bạch Tăng, bốn là Tăng không tác pháp yết ma, năm là yết ma thiếu. Ngược với năm việc trên gọi là thiện thọ, nếu khi thọ Cận viên mà chuyển căn thành nữ thì cũng thành thọ, nên đưa sang chùa ni; nếu nữ chuyển căn thành nam thì đưa sang chùa Tăng, mỗi người tự nương theo giới của mình. Nếu hai bộ Tăng bỉnh yết ma mà không hỏi chướng pháp hoặc không có Thân giáo sư, hoặc có mà không thỉnh, hoặc chưa thọ mười giới mà cho thọ Cận viên thì đều không thành thọ. Nếu biết Thân giáo sư là người phá giới thì không thành thọ, nếu không biết thì thành thọ. Thật có chướng pháp mà tự nói là không có thì không thành thọ, chúng tăng không phạm; thật không có chướng pháp mà nói là có thì tuy được thọ giới nhưng chúng tăng phạm tội Việt pháp. Nếu khi thọ giới tự nói tôi không muốn thọ thì không thành thọ; hoặc khi đang tác pháp, Tăng chuyển căn thành ni, nếu tác bạch rồi mới chuyển thì thành thọ, chuyển trước khi tác bạch thì không thành.
Nếu trong một giới được truyền giới cho một lượt ba người, cho đến bốn giới, mỗi giới một lượt ba người, cũng thành thọ Cận viên. Có mười loại thọ đắc giới: một là không thầy, đó là Phật Thế tôn; hai là chứng trí, đó là năm Bí-sô; ba là han hỏi, đó là Ô-đà-di; bốn là quy y, đó là Đại Ca-diếp; năm là biên quốc năm người truyền giới; sáu là trung phương mười người truyền giới; bảy là thọ bát kỉnh pháp, đó là Đại thế chủ; tám là sai sứ thọ giới, đó là Đạt ma trần na; chín là hai bộ Tăng tác pháp yết ma; mười là thiện lai, tức là Thế tôn đích thân gọi vì đời này là thân sau cùng. Khi Thế tôn khai cho tác pháp yết ma rồi thì các pháp khác đều dừng, trừ trường hợp thiện lai.
Hành pháp đã có sau khi thọ giới: Bí-sô nhỏ nên lễ Bí-sô lớn, nếu mới gặp nhau chưa quen biết thì nên hỏi tuổi hạ để biết lễ kính nhau. Có bốn hạng người nên lễ kính: một là Như lai, tất cả trời người nên kính lễ; hai là người xuất gia không lễ kính người tục mà được người tục lễ kính lại; ba là Bí-sô thọ Cận viên sau nên kính lễ Bí-sô thọ Cận viên trước, trừ Ni chúng; trong Ni chúng cũng như vậy; bốn là người chưa thọ Cận viên nên kính lễ người đã thọ Cận viên. Lại có mười hạng người không nên kính lễ, đó là bốn hạng người hạnh biệt trụ, ba hạng người thọ học, người bị xả trí, người tại gia và người chưa thọ Cận viên. Nếu một yết ma truyền trao giới cho một lượt ba người thì không phân biệt lớn nhỏ, không nên kính lễ nhau. Nghi lễ kính có hai: một là năm vóc gieo sát đất, hai là quỳ gối chắp tay, miệng nói kính lễ; nếu đối trước vị đồng phạm hạnh thì chỉ cần cúi đầu chắp tay miệng nói kính lễ. Nếu biết thân người khác có xúc chạm dơ mà kính lễ hoặc tự thân có xúc chạm dơ mà kính lễ người khác thì đều phạm tội Ác tác. Có hai loại xúc chạm dơ: một là ăn xong chưa súc miệng mà xúc chạm; hai là tiện lợi xong chưa rửa tay mà xúc chạm.
Bí-sô không nên ôm hận trong lòng, nếu có hiềm khích thì vị nhỏ nên đến bên vị lớn sám tạ kính lễ, vị lớn nên đáp lại là vô bịnh; nếu cả hai không nói như thế thì phạm tội Ác tác. Nếu Bí-sô chỉ mặc quần, không có áo trên thì không nên kính lễ người khác, cũng không nên thọ người khác kính lễ, ai làm trái thì phạm tội Ác tác.
Bí-sô được năm tuổi hạ trở lại nên ở bên Thân giáo sư học Luật tạng và các kinh luận khác, nếu Thân giáo sư không thể dạy được thì nên gởi đệ tử cho bậc minh đức khác, y chỉ tu học. Nếu muốn thọ y chỉ thì vị thầy nên xét người kia, tánh hạnh có ôn nhu cung kính, có hổ thẹn và ưa thích tu phẩm thiện hay không, mới cho y chỉ. Khi thỉnh Y chỉ sư, nên đầy đủ oai nghi bạch rằng: "Đại đức nhớ nghĩ, con tên __________ nay xin thỉnh Đại đức làm Y chỉ sư, xin Đại đức cho con y chỉ, con xin nương ở nơi Đại đức để tu học" (ba lần). Nếu không có thầy y chỉ thì không được du hành đến những nơi khác; nếu đủ năm hạ và thành tựu năm pháp: một là biết phạm, hai là biết không phạm, ba là biết khinh, bốn là biết trọng và năm là đối với kinh Biệt giải thoát khéo biết thông bít, thì được lìa bổn sư và thầy y chỉ để du phương cầu học. Lại có năm pháp không cho y chỉ: một là không có tâm tín kính, hai là nói lời thô ác, ba là thân gần bạn ác, bốn là tánh thường biếng nhác, năm là tâm không cung kính; ngược với năm pháp trên thì nên cho. Lại có năm việc xả y chỉ: một là quyết bỏ đi ra khỏi giới, hai là hoàn tục, ba là Thân giáo sư đến, bốn là từ phe nhóm này bỏ qua phe nhóm khác, năm là xả y chỉ. Nếu tại trú xứ, thầy y chỉ qua đời, không có ai để cầu y chỉ thì không nên ở đó nữa; nếu trong an cư thầy qua đời, đệ tử nên tự phòng tâm mà ở, qua hai tháng thì không nên ở đó nữa. Nếu đệ tử ở trú xứ cách xa chỗ ở của hai thầy hai Du thiện na rưỡi, thì mỗi nửa tháng nên đến kính lễ; nếu cách một Câu lô xá thì thì khoảng sáu bảy ngày nên đến kính lễ; nếu cách năm dặm thì mỗi ngày nên đến kính lễ; nếu ở trong cùng một giới thì mỗi ngày ba thời nên đến kính lễ. Đối với hai thầy, đệ tử đều phải như pháp hầu hạ, nếu thầy y chỉ và thầy giáo thọ đều bịnh thì nên thăm nuôi cả hai nếu đủ sức, nếu không đủ sức thì nên thăm nuôi thầy y chỉ, vì nếu không có thầy y chỉ thì không được dừng ở. Đệ tử muốn làm việc gì đều phải nên bạch hỏi hai thầy, trừ năm việc là uống nước, ăn cơm, xỉa răng và đại tiểu tiện. Thầy nên lượng nghi mà cho làm, nhưng đệ tử cũng nên tự xét nét lại mình, không được buông lung tình mạn như ngựa không cương, nên siêng tu phẩm hạnh; thầy cũng nên thường răn nhắc đệ tử, nếu không nghe theo thì nên tùy việc quở trách, nếu thấy không thể dạy bảo được thì nên đuổi đi.
Tướng phạm trong học xứ này là nếu người chưa đủ hai mươi, tưởng không đủ và nghi thì không thành thọ Cận viên, khi hỏi nên nói thật; nếu tuổi chưa đủ hai mươi, tưởng là đã đủ và nghi, khi hỏi im lặng không đáp thì không thành thọ Cận viên; nếu người này cùng Bí-sô thanh tịnh trải qua hai ba lần trưởng tịnh thì gọi là tặc trụ. Nếu người đã đủ hai mươi nhưng tướng mạo không đủ, xét tướng mạo có bốn: đó là hình dáng, tiếng nói, sự tướng và tướng thành thục. Nếu hình dáng và tiếng nói không còn là trẻ con, sự tướng là dưới nách và các chỗ khác đã mọc lông, tướng thành thục là ý nghĩ và tánh hạnh không phải là trẻ con thì gọi là tướng mạo đủ. Trong bốn tướng này, nếu tướng đầu và tướng thứ ba không đủ thì không phạm; nếu tướng thứ hai và tướng thứ tư không đủ thì phạm. Nếu nghi tuổi không đủ nên âm thầm kiểm tra tướng ẩn, nếu người cỡ tuổi mười lăm thì nên độ cho xuất gia làm Cầu tịch; cho đến bảy tuổi có thể đuổi chim quạ, giữ lúa thóc cho Tăng cũng được độ cho xuất gia làm Cầu tịch ; nếu tám tuổi mà không thể đuổi được chim quạ hoặc sáu tuổi mà có thể đuổi được chim quạ đều không được độ. Bí-sô không nên nuôi một lượt hai Cầu tịch, nếu biết người kia có thể thuận giáo thì cho xuất gia thọ mười giới rồi giao cho y chỉ người khác, vị thầy y chỉ muốn cho thọ Cận viên cũng phải hỏi Thân giáo sư.
Duyên xứ như trên, lúc đó Lục chúng Bí-sô trộn hồ và đào đất sống... nên Phật chế học xứ: Nếu Bí-sô tự tay đào đất hay bảo người khác đào thì phạm Ba-dật-đề.
Đất có hai loại là đất sống và không phải đất sống, đất sống là đất chưa từng đào hoặc đã từng đào nhưng bị nước mưa thấm ướt hoặc nước khác thấm qua ba tháng; nếu không có nước mưa và nước khác thấm ướt thì qua sáu tháng cũng gọi là đất sống. Nếu Bí-sô biết là đất sống, chưa từng đào xới cũng không bị lửa đốt mà tự tay đào hay bảo người khác đào đều phạm Đọa; nếu đất xốp, đào thì phạm tội Ác tác. Về cảnh tưởng có sau câu nên biết, không phạm là chỗ thuần là cát đá, hoặc định làm nền móng, giăng dây đóng cọc sâu chừng bốn tấc không phạm.
Phật tại thành Kiếp-tỷ-la, trong vườn cây Đa căn, lúc đó Lục chúng Bí-sô thọ Ma ha nam thỉnh cúng dường bốn tháng, qua bốn tháng rồi lại đòi hỏi nữa nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô, có người thỉnh bốn tháng Dược, cần thì được thọ, nếu thọ quá thì phạm Ba-dật-đề, trừ thời khác. Thời khác là biệt thỉnh, cánh thỉnh, ân cần thỉnh và thường thỉnh.
Nói biệt thỉnh là riêng từng thí chủ thỉnh riêng Bí-sô như tôn giả Tất-lân-già-bà-ta nhận lời vua thỉnh thực, sau đó lại nhận lời thỉnh của em rể vua. Cánh thỉnh là do hết hạn nên các Bí-sô đến chỗ vua thỉnh không dám thọ thực, vua hỏi nguyên do rồi thỉnh lại. Ân cần thỉnh là như có khách Bí-sô đến nói: "vua có nhiều việc, ta nên khất thực", vua biết rồi liền ân cần thỉnh thực. Thường thỉnh là các Bí-sô thọ thỉnh bốn tháng dược đã đủ liền đi khất thực giống như trước kia, vua thấy vậy liền nói: "không hạn cuộc thời tiết, thường thỉnh". Nếu bốn tháng chưa đủ, thấy họ cúng thức ăn thô dỡ liền đòi hỏi thức ăn ngon thì phạm tội Ác tác, ăn qua cổ thì phạm Đọa; nếu cúng thức ăn ngon lại đòi thức ăn dơ, thì khi đòi phạm tội Ác tác, khi ăn không phạm.
Phật tại Trúc lâm, thành Vương xá, khi Phật muốn chế học xứ chung cho hai bộ Tăng thì hai bộ Tăng đều phải tập họp, nhưng khi chế giới qua bốn tháng còn đòi hỏi thức ăn thì Ni chúng không hiện tiền, Phật mới bảo A-nan sai Bí-sô Bán thác ca đến nói lại cho Ni chúng biết. Khi Bán thác ca vâng lời Phật đi thì gặp Lục chúng Bí-sô hỏi, Bán thác ca nói rõ mọi việc, Lục chúng Bí-sô liền nói ra lời thô để ngăn cản... Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô khi nghe thuyết giới nói rằng: "tôi nay chưa học giới này, nhưng thầy là người ngu không hiểu rõ, cũng không khéo giải thích, tôi sẽ hỏi các Bí-sô đọc tụng kinh luật luận", thì phạm Ba-dật-đề.
Bí-sô muốn được pháp lợi thì nên học Giới kinh, cũng nên hỏi các Bí-sô đọc tụng kinh luật luận, hỏi rằng: "Đại đức, lời này có ý nghĩa gì?", việc này đúng pháp nên làm như thế. Khi nói Bí-sô khác ngu... liền phạm Đọa, nếu thật như thế thì không phạm.
Phật tại vườn Cấp-cô-độc, thành Thất-la-phiệt, lúc đó nhóm thập thất Bí-sô muốn tác pháp xả trí cho Bí-sô Ô-ba-nan-đà, nên cùng nhau bàn bạc. Lục chúng Bí-sô đến chỗ khuất rình nghe họ bàn bạc nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô biết các Bí-sô khác đang bàn bạc, muốn cầu lỗi lăng xăng nên lặng lẽ đến rình nghe, nghĩ rằng: "ta nghe rồi sẽ khiến họ tranh cãi nhau", do duyên này không gì khác thì phạm Ba-dật-đề.
Nói lặng lẽ đến rình nghe là nghe trộm họ bàn bạc, nói khiến họ tranh cãi nhau là việc nhỏ mới phát sinh thì sẽ khiến thành việc tranh cãi lớn, lăng xăng không dứt diệt được. Nếu biết các Bí-sô đang bàn bạc, muốn đến nên khảy móng tay hoặc tằng hắng thì không phạm; nếu lặng lẽ đến rình nghe, vừa nghe được tiếng thì phạm tội Ác tác, hiểu được nghĩa thì phạm Đọa; nếu không có ý đến rình nghe mà ngẫu nhiên nghe được hoặc nghe rồi muốn khiến đứt tranh thì không phạm; về cảnh tưởng có sáu câu nên biết.
Duyên xứ như trên, lúc đó nhóm thập thất Bí-sô tác pháp yết ma xả trí cho Bí-sô Ô-ba-nan-đà, Bí-sô Nan đà tự biết mình không đủ sức ngăn lại sợ bị trị phạt nên cuộn cái mền lông để trên chỗ ngồi rồi lặng lẽ bỏ đi... Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô biết chúng tăng như pháp tác pháp yết ma mà lặng lẽ rời tòa đứng dậy bỏ đi, có Bí-sô khác mà không dặn lại thì phạm Ba-dật-đề, trừ duyên khác.
Nói lặng lẽ bỏ đi là đi đến chỗ không nghe, nói trừ duyên khác là có duyên sự cần đi thì nên gởi dục, nếu không gởi dục mà bỏ đi đến chỗ chưa lìa nghe thì phạm tội Ác tác, đến chỗ lìa nghe thì phạm Đọa; nếu đi tiện lợi xong rồi trở lại hoặc đến chỗ không lìa nghe hoặc chúng tăng tác pháp yết ma phi pháp nên lặng lẽ bỏ đi thì không phạm. Cảnh tưởng có sáu câu nên biết.
Phật tại Trúc lâm, thành Vương xá, lúc đó Bí-sô Chất Đa-la ở trong chúng, thấy Bí-sô kia như pháp dứt tránh liền sanh tâm trái nghịch không chịu tùy thuận, nên Phật chế học xứ: Nếu Bí-sô không cung kính thì phạm Ba-dật-đề.
Nói không cung kính có hai: một là không kính Tăng, hai là không kính bậc tôn đức như Ô-ba-đàda, A-giá-lợi-da. Nếu Bí-sô ở trong Tăng, Tăng sai đứng hoặc đi... mà không làm theo thì phạm Đọa; nếu hai thầy dạy bảo mà không nghe theo thì phạm tội Ác tác, nếu không chỉ dạy không thuận lý, phi pháp, không nghe theo thì không phạm. Không cung kính bao gồm các việc như việc Pháp, việc Phật, việc của tôn đức, việc của đệ tử hoặc vua quan hoặc người thế tục... đều dựa vào việc khinh hay trọng mà kết phạm.
Nói việc Pháp là trước nên quán tự thân: giới có thanh tịnh không; hoặc việc đọc tụng, giáo thọ, thí pháp nghĩa cho người... có tương ưng với như lý tác ý tĩnh lự không; đối với việc nên làm mà không vâng làm, tâm thường biếng nhác, không tu phẩm thiện, không kính giới, nói lời vô ích vô nghĩa... thì phạm Đọa. Nói việc Phật là không siêng năng kính lễ tôn tượng, không lau quét tháp, hoặc thấy bị hư hoại tuy có khả năng tu bổ mà không làm thì phạm Đọa. Nói việc của tôn đức là đi đứng ngồi trước chư tôn đức không cung kính, dạy không chịu lắng nghe, không bảo ngồi liền ngồi, không bảo nói liền nói, khi bậc tôn đức đang nói liền ngắt lời... thì đều phạm Đọa. Nói việc của đệ tử là phi thời phi xứ quở trách, có phạm lỗi nhỏ cũng không khoan dung tha thứ, không khích lệ, không khéo khai dắt, đệ tử có nghi cũng không thể quyết nghi, tâm không thương xót, nói ra lời độc hại, không dùng pháp và thực để nhiếp thọ... thì đều phạm Đọa. Nói việc của vua quan là vua quan ra lịnh bảo làm gì đều không nghe theo, do nhân duyên này vua quan sanh tâm bất tín hoặc giết hại hoặc làm việc không lợi ích, nên phạm Đọa. Nói việc của người thế tục là do tự ý làm theo ý mình nên bị người tục chê trách như đi đại tiểu tiện ở đường đi..., cũng không nên tranh cãi với người tục. Cảnh tưởng có sáu câu: hai câu đầu phạm Đọa, bốn câu sau phạm tội Ác tác.
Phật tại vườn Cấp-cô-độc, thành Thất-la-phiệt, lúc đó Bí-sô Sa yết đà ở nhà người tục được mời uống nước phi thời có pha với rượu nên say, té ngã ngoài đường. Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô uống rượu thì phạm Ba-dật-đề.
Rượu do dùng gạo nếp nấu chín rồi ủ với men rượu cất thành, hoặc dùng các loại tạp như củ rễ, cọng, lá, hoa và quả ủ với chút men rượu cất thành. Nếu có sắc, hương vị rượu có thể làm cho người say, uống thì phạm Đọa; nếu thể không phải là rượu mà có sắc rượu, tuy uống cũng không phạm. Cảnh tưởng có sáu câu: hai câu đầu phạm Đọa, hai câu kế khinh, hai câu cuối không phạm. Phật bảo các Bí-sô: "nếu các thầy nương theo ta xuất gia thì không nên uống rượu, cũng không cất chứa, cho đến dùng cọng cỏ tranh nhỏ rượu vào trong miệng". Không phạm là rượu đem chưng nấu mất tính chất làm say, hoặc miệng có bịnh thầy thuốc bảo nên ngậm rượu hoặc dùng rượu thuốc thoa thân, hoặc rượu đã biến thành giấm, uống không làm say, dùng lượt lượt rồi để lắng trong, tác tịnh rồi uống dùng đều không phạm. Nếu Bí-sô trước kia là người ghiền rượu, do không được uống rượu nên gầy yếu không sức lực; Phật khai cho lấy ít men rượu hòa trộn với hương dược, giã thành bột bọc trong túi vải, cột vào một cái cây treo bên trong nồi rượu mới nấu, nhưng không cho rượu thấm vào, trải qua hai ba đêm cho có mùi rượu rồi lấy ra hòa với nước, thời hay phi thời uống dùng đều không phạm.
Duyên xứ như trên, lúc đó Bí-sô Ô-đà-di phi thời vào tụ lạc, bị giặc giết chết... nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô phi thời vào tụ lạc mà không dặn lại Bí-sô khác thì phạm Ba-dật-đề, trừ duyên khác.
Nói phi thời là sau giờ ngọ cho đến sáng hôm sau khi mặt trời chưa mọc; nói tụ lạc là chỗ ở của người thế tục; nói có Bí-sô khác là nếu không có Bí-sô thì không phạm. Nói trừ duyên khác là thân có bịnh hoặc gởi y bát trong tụ lạc, nghe nhà đó bị cháy nên phải đến xem, hoặc bị mạng nạn, phạm hạnh nạn... đều không phạm. Cảnh tưởng có sáu câu: hai câu đầu phạm Đọa, hai câu kế khinh, hai câu sau không phạm; nêu Bí-sô ở A-lan-nhã cần vào tụ lạc hoặc đường đi băng qua tụ lạc, hoặc đường đi ở giữa hai tụ lạc, hoặc nương hư không mà đi hoặc không có Bí-sô nên dặn lại người tục thì đều không phạm.
Nhiếp tụng thứ chín:
Ăn, minh tướng nay biết,
Ống kim, lượng chân giường,
Dồn bông và tọa cụ,
Ghẻ, mưa, y Đại sư.
Duyên xứ như trên, lúc đó Bí-sô Ô-ba-nan-đà có người bạn bạch y tín kính Tam bảo, muốn thiết thực cúng Phật và Tăng tại nhà nên nhờ Ô-ba-nanđà thỉnh giùm. Ô-ba-nan-đà thỉnh rồi, sáng sớm hôm đó đến nói với thân hữu: "tôi có duyên sự cần đến nhà kia trước, hãy đợi tôi về mới dọn thức ăn dâng cúng", vị thí chủ này vì chờ đợi Ô-ba-nan-đà nên không dọn thức ăn lên dâng cúng, mãi cho đến qua giờ ngọ nên đại chúng phần đông không được ăn. Phật nhân việc này chế học xứ: Nếu Bí-sô đã thọ người thế tục thỉnh thực rồi, trước giờ ăn và sau giờ ăn đến nhà khác mà không dặn lại thì phạm Ba-dật-đề.
Nếu trước giờ ăn không dặn lại mà đi quá hai nhà thì phạm Đọa; sau giờ ăn đi quá ba nhà cũng phạm Đọa. Nếu nói với thí chủ: nếu tôi không về kịp thì hãy dâng cúng Tăng cho no đủ, chớ để thiếu thốn; hoặc thí chủ không vì người này mà thiết cúng Tăng thì người này có bỏ đi cũng không phạm.
Duyên xứ như trên, lúc đó Bí-sô Ô-đà-di có duyên giáo thọ, mới sáng sớm đã đến chỗ của phu nhân Mạt lợi, phu nhân chưa ngủ dậy, nghe Ô-đà-di đến nên giật mình thức giấc, mặc áo thưa mỏng thường mặc trong cung ra tiếp đón... Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô, mặt trời chưa mọc, vua dòng Sát-đế-lỵ quán đảnh chưa cất của báu, loại tợ báu mà bước qua ngạch cửa cung thì phạm Ba-dật-đề, trừ duyên khác.
Nói vua dòng Sát-đế-lỵ là nêu không phải thuộc dòng Sát-đế-lỵ nhưng được quán đảnh cũng gọi là vua; nói ngạch cửa cung có ba: một là ngạch cửa thành, hai là ngạch cửa cung vua, ba là ngạch cửa nội cung. Bí-sô qua hai ngạch cửa đầu thì phạm tội Ác tác, qua ngạch cửa nội cung thì phạm Đọa; nếu vào ngạch cửa cung của vua trời Tứ thiên vương... thì phạm tội Ác tác. Bí-sô thường vào cung vua có mười lỗi: một là nếu phu nhân thấy Bí-sô cười, vua sẽ nghi Bí-sô; hai là nếu cung nữ có thai, vua cũng nghi Bí-sô; ba là trong cung mất vật báu, vua cũng nghi Bí-sô; bốn là vua có điều gì hay lời gì bí mật, nếu lọt ra ngoài vua sẽ nghi Bí-sô; năm là Thái tử có tổn; sáu là vua có tổn; bảy là tướng quốc bị cách chức; tám là đại thần được đề cử; chín là vua đi chinh phạt nước khác và mười là cử tướng soái. Năm việc đầu vua nghi Bí-sô, năm việc sau mọi người đều nghi Bí-sô; vì vậy Bí-sô không nên thường vào trong cung vua.
Duyên xứ như trên, lúc đó Lục chúng Bí-sô mỗi nửa tháng nghe thuyết giới, không lắng tai nghe lại còn nói rằng: "tôi nay mới biết pháp này là do Thiện thệ nói"... Phật nhân việc này chế học xứ:
Nếu Bí-sô khi thuyết giới nói rằng: "tôi nay mới biết pháp này mỗi nửa tháng thường tụng, rút ra từ trong Giới kinh", các Bí-sô biết Bí-sô này đã ngồi trong chỗ thuyết giới hai, ba lần huống chi là nhiều lần. Bí-sô này không phải vì không biết mà được thoát tội, tùy theo tội đã phạm nên như pháp mà trị, nên quở trách rằng: "thầy đã mất lợi, không lợi, không tốt; khi thuyết giới thầy đã không kính giới, không nhất tâm nhớ nghĩ, không lắng tai nghe pháp", do việc này nên phạm Ba-dật-đề.
Trong đây hiển bày sáu lỗi: một là lỗi không tín tâm, hai là lỗi không cung kính, ba là lỗi không ưa muốn nghe giới, bốn là lỗi duyên ngoại cảnh, năm là lỗi hôn trầm, sáu là lỗi sanh mỏi mệt. Nếu Bí-sô đã từng hai ba lần nghe thuyết giới mà nói là không biết, hoặc do phiền não, hoặc do quên niệm hoặc ngủ gật hoặc loạn tâm... thì đều phạm Đọa. Nếu nghe giới bất cọng của Ni mà nói lời này thì phạm tội Ác tác, nếu là cọng giới với Bí-sô thì phạm Đọa. Nếu già yếu không hiểu biết, như thật mà nói thì không phạm; vào ngày thuyết giới nên cử người làu thông giới kinh lên thuyết giới, trước khi lên nghe thuyết giới, các Bí-sô nên tự xét nếu nhớ có tội nên như pháp sám hối rồi mới được nghe giới.
Duyên xứ như trên, lúc đó có người thợ tiện tên Đạt ma giỏi tiện ngà sừng làm thành đồ vật tinh xảo, ông nói với các Bí-sô: "nếu quý thầy cần làm ống kim bằng ngà sừng thì con sẽ cúng". Do các Bí-sô lần lượt nhờ làm ống kim bằng ngà sừng nên không bao lâu sau, người thợ tiện này trở nên nghèo khó... Phật nhân việc này chế học xứ: Nếu Bí-sô làm ống kim bằng ngà sừng thì phạm Ba-dật-đề, làm thành rồi thì nên đập bỏ.
Nói làm là tự làm hay bảo người khác làm, có hai loại ống kim Phật khai cho cất chứa, đó là bằng tre hay bằng đồng; lại có bốn loại ống kim được cất chứa là bằng đồng, bằng sắt, bằng du thạch và bằng đồng đỏ; không được dùng bảy báu làm ống kim như vàng bạc...; nếu cất kim, dao... bị rỉ sét, nên dùng sáp bọc lại. Nói không được làm ống kim bằng ngà, sừng, nếu làm thành rồi nên đập bỏ thì đối với các tư cụ khác, chuẩn theo đây nên biết. Bí-sô được cất chứa con dao và con dấu; dao có ba loại hình như cánh gà cong hoặc như cánh chim: dao bậc thượng dài sáu ngón tay, rộng một ngón, dao bậc hạ dài bốn ngón tay, giữa hai loại này là bậc trung; con dấu được làm bằng đồng trắng, đồng đỏ hoặc bằng gỗ, không được làm bằng vật báu. Nếu là con dấu của Tăng thì nên khắc tên chủ chùa, trên có luân tướng, tùy chức vụ lớn nhỏ mà làm; nếu là con dấu của cá nhân thì trên nên khắc đầu lâu hoặc bộ xương để quán bất tịnh. Về cảnh tưởng có sáu câu nên biết.
Duyên xứ như trên, lúc đó Lục chúng Bí-sô làm giường cao mười hai khuỷu tay và đặt thang để lên xuống nên phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô muốn làm tòa ngồi hay giường nằm, chân giường nên cao bằng tám ngón tay của Như lai, trừ chỗ tra vào lỗ bệ, nếu cao quá tám ngón tay thì phạm Ba-dật-đề.
Nói làm giường là tự làm hay bảo người khác làm, nếu làm chân giường cao quá lượng thì nên cắt bỏ, nếu chân giường nhọn sợ làm tổn đất thì nên dùng vật kê đỡ hoặc là bao vỏ trấu hoặc miếng gạch, miếng cây...
Duyên xứ như trên, lúc đó Bí-sô Ô-ba-nan-đà dùng bông Đâu la miên dồn làm nệm nằm, khi có Bí-sô đến nằm, trên người đều dính bông trắng nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô dùng bông của cỏ cây như Đâu la miên dồn làm nệm nằm thì phạm Ba-dật-đề, làm thành rồi thì nên bỏ.
Nói bông của cỏ cây có năm: một là thảo miên ( bông cỏ ), hai là mộc miên ( bông cây ), ba là kiếp bối, bốn là lông dê, năm là các loại bông tạp khác. Nếu dùng tơ hay vải sạch dồn làm thì khi mới làm phạm tội Ác tác, làm thành thì phạm Đọa; nếu dùng các loại bông tạp bất tịnh để dồn thì phạm tội Ác tác; loại bông mà Bí-sô được dùng làm thì gọi là tịnh, loại bông mà Bí-sô không được làm thì gọi là bất tịnh.
Duyên xứ như trên, lúc đó các Bí-sô làm Ni-sư-đàn quá lượng... nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô muốn may Ni-sư-đàn nên liệu lượng, lượng trong đây là dài hai gang tay của Phật, rộng một gang rưỡi, nếu thân lớn thì may thêm một gang tay nữa. Nếu may quá lượng này thì phạm Ba-dật-đề.
Duyên xứ như trên, lúc đó các Bí-sô mặc bịnh ghẻ nên Phật cho cất chứa y che phủ ghẻ, do các Bí-sô may y này quá lượng nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô muốn may áo che thân, nên liệu lượng, lượng trong đây là dài bốn gang tay của Phật, rộng hai gang rưỡi, nếu may quá lượng này thì phạm Ba-dật-đề.
Duyên xứ như trên, lúc đó các Bí-sô lộ hình tắm mưa, Phật nhân nơi Tỳ-xá-khư lộc tử mẫu nên cho các Bí-sô cất chứa y tắm mưa, do các Bí-sô may y này quá lượng nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô muốn may áo tắm mưa, nên liệu lượng, lượng trong đây là dài sáu gang tay của Phật, rộng hai gang rưỡi, nếu may quá lượng này thì phạm Ba-dật-đề.
Duyên xứ như trên, lúc đó Bí-sô Nan đà may y Tăng-già-lê bằng lượng y của Phật, khi đắp y này, phần dư dồn lại phía bên vai... nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô may y bằng lượng y của Phật hoặc hơn thì phạm Ba-dật-đề. Lượng y của Phật là chiều dài mười gang tay, chiều rộng sáu gang tay..
Nhiếp tụng:
Thọ của ni chẳng thân thích,
Trong nhà xử phân thức ăn,
Không thỉnh mà đến Học gia,
Thọ thức ăn bên ngoài chùa.
Phật tại Trúc lâm, thành Vương xá, lúc đó Bí-sô ni Liên hoa sắc tự phát nguyện: "khi tôi khất thực được đầy bát thứ nhất, tôi sẽ dâng cúng cho Tăng; bát thứ hai tôi mới tự ăn". Sau đó, khất thực được bát thứ hai định ăn thì gặp một Bí-sô đói nên đem dâng cúng, do duyên này nên đoạn thực; sáng hôm sau, khất thực được bát thứ nhất đem cúng cho Tăng, khất thực được bát thứ hai định ăn thì Bí-sô Ô-ba-nan-đà theo xin nên đem dâng cúng. Do sức yếu lại thêm nhịn đói hai ngày nên cô ngất xỉu giữa đường, các cư sĩ thấy vậy liền chê trách các Bí-sô nên Phật chế học xứ:
Nếu Bí-sô không bịnh, ở trong nhà bạch y tự tay thọ thức ăn từ Bí-sô ni không phải bà con; Bí-sô này khi trở về trú xứ nên đến bên Bí-sô khác nói tội rằng: "Đại đức, tôi phạm pháp đáng quở trách, là việc không nên làm, nay đến bên Đại đức nói tội". Đây là pháp Ba la đề đề xá ni thứ nhất.
Nói không bà con ý nói nếu Ni là bà con theo thọ thức ăn thì không phạm; hoặc ở trú xứ Ni, Ni là thí chủ thiết cúng, thức ăn không phải do khất thực mà được, theo thọ thì không phạm; hoặc Ni sai người đưa thức ăn đến, thọ thì không phạm. Nói thức ăn là năm loại Khư đà ni và năm loại Bồ thiện ni, nếu thọ thì phạm Đọa. Các tội khác đều đối trước người khác sám hối, vì sao chỉ riêng bộ tội này được gọi là đối thuyết?. vì phạm tội trong bộ tội này, ở trong trú xứ hễ có Bí-sô đều phải biệt đối để nói tội, không giống như bộ tội khác nên mới có tên gọi này; lại nữa phạm tội này rồi không được để lâu sẽ biến thành tội khác. Cảnh tưởng có sáu câu: hai câu đầu phạm bổn tội, hai câu kế phạm tội Ác tác, hai câu sau không phạm.
Phật tại vườn Cấp-cô-độc, thành Thất-la-phiệt, lúc đó Lục chúng Bí-sô nói với ni Thổ-la-nan-đà: "nếu chỗ nào có thí chủ thỉnh Tăng thọ thực, cô hãy đến đó khuyến hóa họ cúng thức ăn ngon cho chúng tôi", Thổ-la-nan-đà vâng lời đến những chỗ thỉnh Tăng khuyến hoa để đem thức ăn ngon về cho Lục chúng Bí-sô, khiến không đủ thức ăn cúng cho các Bí-sô khác... nên Phật chế học xứ:
Có các Bí-sô đến nhà bạch y thọ thỉnh thực, trong nhà này có một Bí-sô ni chỉ bảo bạch y đưa cơm cho Bí-sô này, đưa canh cho Bí-sô kia. Các Bí-sô nên nói với Bí-sô ni này rằng: "cô hãy thôi đi, hãy đợi các Bí-sô dùng cơm xong", nếu trong các Bí-sô không có ai nói với Bí-sô ni này như vậy thì các Bí-sô này khi trở về trú xứ nên đến bên Bí-sô khác nói tội rằng: "Đại đức, tôi phạm pháp đáng quở trách, là việc không nên làm, nay đến bên Đại đức nói tội". Đây là pháp Ba la đề đề xá ni thứ hai. Nói đến nhà bạch y là nếu đến trong chùa Ni thì không phạm; nếu trong nhà bạch y thấy có Bí-sô ni nên ngăn rằng: cô hãy đợi một chút, nếu có một người nói ngăn thì cả chúng không phạm. Khi vào nhà bạch y nên hỏi chủ nhà có Bí-sô ni chỉ trao thức ăn hay không, nếu không hỏi thì phạm tội Ác tác; nếu thấy có Ni ra vào nhà cũng nên hỏi như trên, nếu ni là bà con hoặc ni thiết thực cúng Tăng nên chỉ trao thức ăn thì không phạm.
Phật tại thành Quảng nghiêm, lúc đó tướng quân Tăng ha kiến đế nên sanh chánh tín, thường cúng Tăng nên không bao lâu sau khánh tận. Thế tôn bảo các Bí-sô bạch nhị yết ma ngăn không cho các Bí-sô đến nhà kia thọ thực nữa; lúc đó tôn giả Xá-lợi-phất và Đại Mục-kiền-liên trước đã thọ tướng quân thỉnh thực nên mới đến nhà thọ thực, Lục chúng Bí-sô thấy vậy liền suy nghĩ: "người này khi mới kiến đế cũng đã thỉnh ta thọ thực", nghĩ rồi liền đến nhà đó thọ thực, thọ thực xong liền thấy nam nữ trẻ con trong nhà kêu khóc vì đói... Phật nhân việc này chế học xứ:
Có nhà của Học gia, chư Tăng đã tác pháp yết ma Học gia; nếu Bí-sô biết Tăng đã tác pháp yết ma Học gia, Bí-sô này trước không được tùy ý thỉnh mà đến trong nhà Học gia này tự tay thọ thức ăn, Bí-sô này khi trở về trú xứ nên đến bên Bí-sô khác nói tội rằng: "Đại đức, tôi phạm pháp đáng quở trách, là việc không nên làm, nay đến bên Đại đức nói tội". Đây là pháp Ba la đề đề xá ni thứ ba. Nói học gia là người đã chứng được quả Dự lưu cho đến quả Bất hoàn, là học nhân tại gia chứ không phải Vô học; nói yết ma Học gia là Tăng tác pháp thành tựu, nếu trước đã thọ thỉnh hoặc vị này được giải yết ma thì thọ thực không phạm. Nói giải yết ma là nếu học gia kia trở lại sung túc như trước kia, Tăng tác pháp yết ma giải để xả pháp ngăn trước.
Phật tại thành Kiếp-tỷ-la, lúc đó Lục chúng Bí-sô ở nơi A-lan-nhã, tuy trong rừng này có giặc cướp tụ tập nhưng người có tín tâm vẫn đem thức ăn đến cúng Tăng. Khi Lục chúng Bí-sô đến đón nhận thức ăn thì thấy các người nữ mang thức ăn đến bị giặc cướp lột hết y phục, lõa hình núp trong bụi cỏ; vậy mà vẫn gắng gượng kêu họ ra trao thức ăn cho mình. Người nhà của các người nữ này đến sau hỏi biết rõ sự việc rồi liền mất tín tâm và chê trách các Bí-sô. Phật nhân việc này chế học xứ:
Có trú xứ A-lan-nhã là nơi có nghi sợ, nếu Bí-sô biết trước trú xứ A-lan-nhã này là nơi có nghi sợ, Tăng cũng chưa tác pháp yết ma cho mà lại ở ngoài tinh xá thọ thức ăn, Bí-sô này khi trở về trú xứ nên đến bên Bí-sô khác nói tội rằng: "Đại đức, tôi phạm pháp đáng quở trách, là việc không nên làm, nay đến bên Đại đức nói tội". Đây là pháp Ba la đề đề xá ni thứ tư.
A-lan-nhã là nơi cách thôn một Câu lô xá, nhưng Bí-sô không nên ở những nơi có ác ma hay Dược xoa đáng sợ và thú dữ. Nếu ở chỗ có hiểm nạn, Tăng nên sai Bí-sô có đủ năm pháp đến xem xét, nếu thấy có giặc thì nên đốt lửa có khói bốc lên để báo hiệu hoặc treo cây phương trên cao để cho người ở xa nhìn thấy mà cảnh giác, hoặc sai người ra đón tiếp. Bí-sô được sai này được ăn trước giờ ăn chánh mà không phạm, về cảnh tưởng có sáu câu như trên. Bí-sô ở A-lan-nhã nên biết rõ đường đi nơi đó, nếu thấy có người lui tới nên chào hỏi thiện lại và tùy sức cung cấp thức ăn và nước; nên tươi cười trước khi nói, không nên nhăn nhó; nếu gặp người nữ nên dựa trên tuổi tác mà khởi tưởng như mẹ hoặc chị em gái mà đối xử.
Tổng nhiếp tụng:
Ăn mặc thân tề chỉnh,
Nhà tục giữ dung nghi,
Giữ bát trừ người bịnh,
Cỏ nước, leo quá đầu.
Nói chúng học pháp là những tội ác tác, ác thuyết đều nhiếp trong bộ tội chúng học pháp này; chẳng hạn như các Bí-sô không được đánh trống nhạc, hoặc khi cúng dường không được bảo nhạc công: "hãy trổi nhạc", mà nên nói: "hãy cúng dường Đại sư". Bí-sô không được dùng ba ngón tay chấm than vẽ ba vạch trên trán, cũng không được soi gương hay soi nước xem mình có đẹp hay không. Nếu khi xem nước nhìn thấy mặt, hoặc xem mụn trên mặt hoặc xem tóc bạc, da mặt nhăn để khởi tưởng nhàm lìa thì không phạm. Nếu vì chúng tăng trông cây ăn trái, chưa có hoa quả thì không nên bỏ đi xa, nếu đi nên dặn người coi giữ thì không phạm.… Khi rước tượng Bồ-tát vào trong thành ấp, năm chúng nên đi theo vây quanh tượng, người tuổi trẻ có sức lực nên phụ giúp khiên tượng... những việc như trên gọi chung là chúng học pháp.
Lúc đó Phật suy nghĩ: "chư Phật quá khứ dạy chúng Thanh văn mặc y phục như thế nào?", chư thiên liền hiện ra bạch Phật: "chúng Thanh văn quá khư mặc y phục như chư thiên cõi trời Tịnh cư", Phật liền dùng thiên nhãn quán biết đúng như lời chư thiên nói không khác, sau đó chế pháp y cho các Bí-sô. Nói tề chỉnh là lìa lỗi đắp y không tề chỉnh, nói không quá cao là không cao quá gối, nói không quá thấp là không phết đất. Nếu Bí-sô không như lời Phật dạy, phi pháp trương y ra thì phạm tội trách tâm Ác tác, nếu đắp lên người thì phạm tội đối thuyết Ác tác. Nếu Bí-sô có tâm thuận hành nhưng lại không như pháp đắp y hoặc do quên niệm, hoặc không biết mặc như vậy là phi pháp thì cũng phạm tội Ác tác trách tâm. Nói không giống vòi voi là không xoắn cái chéo y như cái vòi voi rủ xuống eo lưng; nói không giống đầu rắn là không lật ngược chéo y cuộn vào trong eo lưng; nói không như lá cây Đa-la là trên tụ lại dưới xòe ra; nói không như hình hột đậu là không vo tròn chéo y nhét vào eo lưng; nói đắp y kín đáo là không để cho lộ hình; nói ít lời là không nói nhiều lời với người tục; nói không kêu lớn là nếu kêu mà người kia không nghe thì nên nhờ người tục kêu lớn; nói không nhìn cao là không ngước nhìn lên, nên nhìn về phía trước chừng một Du già địa, lượng của một Du già là dài bốn khuỷu tay; nói không nhìn một bên cũng không nhìn ngoái lại là nên nhìn thẳng về phía trước mà đi. Nếu gặp bò, chó... nên xem xét, không nên đi quá gần sẽ bị nó làm tổn thương. Bí-sô không nên trùm đầu như cô dâu mới, cũng không được vén y để lộ hình thể. Khi đi thân không dao động uốn éo, tay không nên đánh xàng xa, đầu cũng không nên nghiêng qua nghiêng lại, không chạm vai người khác cũng không nắm tay nhau đi trên đường. Vào nhà bạch y, nếu họ chưa mời ngồi thì không nên liền ngồi là Phật tại thành Thất-la-phiệt, do nơi Ô-ba-nanđà mà chế học xứ này. Khi buông thân ngồi nên khéo quán sát là Phật tại thành Thất-la-phiệt, do nơi Ô-đà-di mà chế học xứ này. Nói không ngồi tréo chân là hoặc bắp chân này chồng lên bắp chân kia, hoặc gót chân này tréo qua gót chân kia. Nói cung kính thọ thực là khi thọ thực nên nhiếp niệm, không nên thọ cơm thức ăn đầy bát, vì nếu thọ thêm canh rau sẽ đầy tràn ra ngoài. Người dọn đưa thức ăn chưa đến thì không nên vẫy gọi, khi họ đến dâng cúng thức ăn, chớ khởi tâm tham, nếu đưa bát ra trước chờ đón thức ăn là biểu hiện của tâm tham. Nói khi thọ thực nên khéo dụng tâm là tay vắt lấy miếng cơm ăn không nhiều cũng không ít, sao cho vừa miệng để ăn; nếu há miệng đợi thức ăn là hiện tướng tham ăn. Trong miệng đang có thức ăn thì không nên nói chuyện, nếu nói chuyện thì giống như bạch y. Canh cơm không nên phủ lên nhau, ý muốn được sớt đưa thêm là tăng thêm lòng tham, nên khởi tưởng nhàm lìa đối với thức ăn, giữ niệm thiểu dục là việc nên làm của người xuất gia. Nếu thức ăn quá ngọt, không nên chắt lưỡi dối hiện tướng là chua, nếu thức ăn quá chua cũng không nên suýt xoa dối hiện tướng là ngọt, nếu thức ăn quá nóng cũng không nên hít hà dối hiện tướng là lạnh, nếu thức ăn quá lạnh cũng không nên thổi phù phù dối hiện tướng là nóng, mục đích là để đùa cợt trêu chọc thí chủ. Khi ăn không dùng tay bươi xới thức ăn, cũng không cắn một nửa để nửa kia rơi trong bát, cũng không le lưỡi ra liếm hai môi hiện tướng thèm ăn; cũng không lấy bánh bột nặn thành hình cái tháp, để miếng củ cải lên trên làm luân tướng rồi nói đây là tháp của ngoại đạo Bộ thích noa ở trong địa ngục. Khi ăn tay dính thức ăn cũng không nên le lưỡi liếm; tay dính nước cũng không nên rảy văng trúng người khác, nên hệ tâm quán tưởng ăn để no thân mà tu đạo nghiệp. Tay dính thức ăn dơ không nên cầm bình nước sạch, phải rửa tay sạch rồi mới được cầm và ăn hay uống. Nếu có người tục đến xin nước trong bát cho là nước kiết tường có thể trị lành bịnh, Phật do nhân duyên Ô-ba-nan-đà nên chế pháp trao nước bát như sau: nên rửa bát ba lần cho thật sạch rồi mới đựng đầy nước sạch, tụng kệ chú ba biến rồi mới trao nước bát này cho người tục. Trên đất không có vật kê lót thì không nên để bát, nếu dùng lá cây lót thì không phạm; cũng không đứng rửa bát và để bát ở những nơi nguy hiểm dễ rớt bể. Người nghe pháp phải có tâm thành kính, nếu ôm lòng kiêu mạn thì nước pháp không thấm vào tâm, phải cung kính mới thọ lãnh được đạo mầu; lại phải lìa tướng kiêu mạn và các binh khí trên tay mới nên vì nói pháp, nếu bịnh thì không phạm. Trên cỏ xanh, dưới cây tươi tốt, cây có hoa quả xum xuê và chỗ người thường qua lại đều không được đại tiểu tiện, nếu ở bụi gai thì không phạm. Làm nhà xí nên làm ở chỗ khuất kín phía Đông bắc của chùa và nên làm riêng chỗ đại tiểu; khi đi đại tiện nên cầm theo bình nước đến nhà xí, khi sắp vào nhà xí nên cởi y treo trên sào, kế lấy mười lăm cục đất để bên ngoài gần chỗ rửa, cầm ba cục đất cùng vật lau thân và bình nước rửa vào trong nhà xí rồi đóng cửa lại. Khi đại tiện xong, lau thân dưới xong, tẩy tịnh bằng ba cục đất rồi rửa sạch tay trái ba lần, kẹp bình dưới nách trái, dùng tay phải đẩy cửa rồi cầm bình nước kẹp dưới nách trái đi đến chỗ rửa. Kế dùng bảy cục đất để tẩy tịnh tay trái rồi dùng những cục còn lại để tẩy tịnh cả hai tay, cục đất cuối cùng dùng để chùi bình nước rửa, sau đó đến chỗ rửa rửa sạch tay chân rồi cầm lấy y trở về phòng lấy nước sạch súc miệng ba lần xong mới được làm việc khác. Pháp tẩy tịnh này do tôn giả Xá-lợi-phất làm mà điều phục được ngoại đạo Bà-la-môn; Phật nhân việc này mà chế các Bí-sô nếu không làm theo pháp này thì phạm tội Ác tác. Khi thấy nhà xí dơ nên quét dọn cho sạch chớ để hôi dơ, nếu có đóng bùn đất cũng nên khơi thông; nếu người bịnh không thể tự đi đến nhà xí được thì nên xoi lỗ nơi giường nằm, phía dưới giường để bô, cũng nên cất chứa hai cái bô để thay đổi khi đem bô rửa phơi. Khi vào nhà xí đại tiểu tiện chỉ nên mặc Tăng khước kỳ và quần, nếu đại tiểu tiện xong, chưa tẩy tịnh và súc miệng sạch thì không nên thọ người khác lễ kính, cũng không được lễ kính người khác, không ngồi trên giường tòa và cầm lấy thức ăn ăn. Ai làm trái thì phạm tội Ác tác. Nếu bị bịnh tiêu chảy lâu không dứt thì không nên dùng nước rửa, đợi khi bịnh dứt mới y pháp mà tẩy tịnh cho sạch. Nếu cảm thấy chưa muốn đại tiểu tiện thì không nên đi, cũng không nên cố rặn ra tiếng; nếu muốn đại tiểu tiện thì nên đi liền, chớ để quá bức bách mới đi, việc xong không nên ở lâu trong nhà xí làm trở ngại người đi sau. Ở trước Thượng tòa hay nơi đất sạch hay trước người đang ăn, không nên khạc nhổ hỉ mũi ra tiếng; nếu bịnh thì nên dùng ống nhổ, nếu dùng ống nhổ thì nên thường xuyên rửa sạch chớ để bốc mùi hôi. Nói không được leo lên cây cao quá đầu người là do nhóm thập thất Bí-sô sợ giờ ngọ qua nên leo lên cây cao trông ngong người đưa thức ăn đến, mà Phật chế học xứ này; nếu có nạn duyên như hổ báo, leo lên cây cao tránh nạn thì không phạm.
Nhiếp tụng:
Hiện tiền và ức niệm,
Bất si và cầu tội,
Đa nhơn ngữ, tự ngôn,
Cỏ phủ trừ các tránh.
1-Đáng cho Hiện tiền Tỳ-nại-da thì nên cho Hiện tiền Tỳ-nại-da.
-Đáng cho Ức niệm Tỳ-nại-da thì nên cho ức niệm Tỳ-nại-da.
-Đáng cho Bất si Tỳ-nại-da thì nên cho bất si Tỳ-nại-da.
-Đáng cho Cầu tội tự tánh Tỳ-nại-da thì nên cho Cầu tội tự tánh Tỳ-nại-da.
5-Đáng cho Đa nhơn ngữ Tỳ-nại-da thì nên cho Đa nhơn ngữ Tỳ-nại-da.
-Đáng cho Tự ngôn Tỳ-nại-da thì nên cho Tự ngôn Tỳ-nại-da.
-Đáng cho cỏ phủ Tỳ-nại-da thì nên cho Cỏ phủ Tỳ-nại-da.
Nếu có việc tranh cải khởi lên nên dùng bảy pháp này thuận theo lời Phật dạy như pháp như luật dứt diệt. Nói bảy pháp diệt tránh là dùng bảy pháp này có thể diệt được bốn tránh; nói bốn tránh là bình luận tránh, phi ngôn tránh, phạm tội tránh và tác sự tránh. Nói bình luận tránh là như có người nói: "hễ khi nói pháp mà được lợi dưỡng thì lợi dưỡng này nên đưa cho người nói pháp", lại có người nói không được; do đây sanh tranh cãi, đây là hạn cục nơi chúng tăng. Nếu vọng về người khác mà nói thì cội gốc của việc tranh cãi ( tránh căn ) có sáu, nếu duyên sai khác thì thành mười bốn. Nói sáu là phẫn hận, phú não, tật xan, siểm cuống, vô tàm vô quý và ác dục tà kiến. Nói mười bốn là pháp, phi pháp, điều phục, phi điều phục, có phạm, không phạm, trọng, khinh, hữu dư, vô dư, tội trách tâm, tội Ác tác, tội Ác thuyết và tội Việt pháp. Lại có ba pháp là thiện, bất thiện và vô ký cũng là tránh căn. Lại có bốn câu: một là có bình luận nhưng không phải tranh cãi, hai là có tranh cãi mà không phải là bình luận, ba là có cả hai, bốn là cả hai đều không. Ba loại tránh sau, mỗi tránh đều có bốn câu, chuẩn theo loại tránh này nên biết.
Nói phi ngôn tránh là nếu người kia thiện thì không nên gạn hỏi, nếu gạn hỏi thì gọi là phi ngôn tránh. Phi nghĩa là xấu ác, đem pháp xấu ác gạn hỏi là ý nói người kia xấu ác, như đối với Bí-sô Thật-lực-tử đem việc phi pháp gạn hỏi mới sanh tranh cãi, đây là cội gốc của việc tranh cãi.
Nói phạm tội tránh là chỉ cho năm bộ tội, do tranh cãi về phạm tội, cội gốc của việc tranh cãi là từ thân ngữ tâm có phạm. Chỉ có thân phạm tội là như Bí-sô ngủ chung phòng với người chưa thọ Cận viên quá hai đêm, hoặc Bí-sô nằm ngủ trước rồi người nữ mới đến, hoặc lúc đang ngủ có người bế để nằm trên giường cao rộng lớn... Chỉ có ngữ phạm tội là như Bí-sô nói pháp cho người nữ quá năm sáu lời; chỉ có tâm phạm tội là như khi nghe thuyết giới có tâm che giấu tội; thân tâm đều có phạm là như sát sanh, uống rượu; ngữ tâm đều có phạm là như nói pháp cho người nữ, cố tâm nói quá năm sáu lời; thân ngữ tâm đều có phạm là như sát sanh, uống rượu, nói lời khen ngợi, đều là do ba nghiệp phạm tội có sai khác. Nói tác sự tránh là làm đơn bạch... các pháp yết ma, cội gốc của việc tranh cãi là từ việc đã làm mà sanh tranh cãi.
Nếu là bình luận tránh thì nên dùng hai pháp: hiện tiền và đa nhân ngữ để diệt tránh; nếu là phi ngôn tránh thì nên dùng ba pháp: hiện tiền, ức niệm và bất si để diệt tránh; nếu là phạm tội tránh thì nên dùng bốn pháp: hiện tiền, tự ngôn, cầu tội tự tánh và như cỏ phủ để diệt tránh; nếu là tác sự tránh thì nên hòa hợp Tăng để diệt tránh. Nói hiện tiền là có hai: nhân và pháp, nhân là năng diệt tránh, pháp là sở diệt tránh; nghĩa là như pháp như luật diệt tránh. Nói đa nhân ngữ là nếu việc tranh cãi khó dứt diệt thì nên phát thẻ, dựa trên thẻ như pháp nhiều mà diệt tránh. Phát thẻ có bốn cách: một là mật kín, hai là hiển lộ, ba là kề tai, bốn là nói. Nói ức niệm là như Bí-sô Thật-lực-tử bị Bí-sô khác đem việc phi pháp gạn hỏi nên tâm sanh hổ thẹn, Tăng nên bạch tứ yết ma cho pháp ức niệm để hiển rõ Thật-lực-tử là không phạm. Nói bất si là như Bí-sô Tây yết đa khi cuồng si đã làm nhiều việc phi pháp, phạm nhiều tội; sau trở lại được bổn tâm bị các Bí-sô khác gạn hỏi, Tăng nên bạch tứ yết ma cho pháp bất si. Nói tự ngôn là như Bí-sô phạm tội dù có gạn hỏi hay không gạn hỏi, dù cho ức niệm hay không cho ức niệm, vẫn đối trước Bí-sô như pháp nói tội. Nói cầu tội tự tánh là ở trong chúng ban đầu nói phạm, sau nói không phạm..., Tăng nên cho yết ma cầu tội tự tánh. Nói như cỏ phủ là hai phe nhóm tranh cãi không hòa hợp, bậc tôn túc trong hai phe nên ở trong phe nhóm của mình, dùng lý khai giải để cùng làm pháp sám hối tội mà mình đã phạm, để cầu được hòa hợp. Có ba hạng người: một là người cử tội, hai là người bị cử tội, ba là người trung gian; hai hạng người trên đều có mười sáu pháp, người trung gian có tám pháp. Đối với Bí-sô, diệt trừ tranh cãi cốt yếu là hàng phục phiền não vì do phiền não mà sanh ra phạm: xa là do quên mất chánh niệm nên tạo nghiệp tội, gần là phiền não bỗng nhiên khởi nên hiện tiền tạo nghiệp. Khi Bí-sô biết nguyên nhân rồi thì nên xa lìa, thuận lý tác ý khiến cho nhân không khởi nữa; nếu sức mình không thể diệt trừ phiền não kia thì nên đến chỗ bậc tôn túc giỏi ba tạng là người có đức hạnh để thỉnh hỏi pháp đối trị. Nếu tác ý trừ diệt không được thì nên ngày đêm đọc tụng tư duy, quyết trạch nghĩa lý để phiền não không hiện hành; nếu vẫn không diệt trừ được thì nên đến trong rừng thây chết tu pháp quán bất tịnh, khởi tưởng vô thường... Nếu cũng không diệt trừ được thì nên hổ thẹn suy nghĩ: "đối với giới pháp thanh tịnh, ta không thể mỗi mỗi như pháp hộ trì mà lại thọ thí chủ cúng dường tứ sự. Phật và Thánh chúng cùng các thiện thần dùng thiên nhãn thấy biết ta phá giới; vì vậy ta phải tự khác trách tâm mình, như cứu lửa cháy đầu, đối trước Bí-sô thanh tịnh phát lồ tội đã phạm, chớ để sau này phải hối hận". Nếu làm nhiều hạnh đối trị như thế mà vẫn không diệt trừ hết phiền não thì dù thọ tín thí cúng dường vẫn không phạm. Nếu xét thấy mình nhiều phiền não, không thể tự kiềm chế thì nên xả giới hoàn tục, vì nếu tạo nghiệp tội nhất định sẽ chiêu cảm quả dị thục ở đời sau.
Nếu có những việc mà Phật không chế ngăn cũng không tùy khai thì Bí-sô ở đời vị lại phải hành như thế nào?. Như trong luật phần Tạp sự có nói, nếu việc trái với không thanh tịnh, thuận với thanh tịnh thì việc này là tịnh nên làm theo; nếu việc trái với thanh tịnh, thuận với bất tịnh thì việc này là bất tịnh, không nên làm theo. Phật chế lược giáo có hai ý: một là ngăn ngoại đạo phỉ báng Phật không phải là Nhất-thiết-trí, hai là khiến cho các đệ tử ở đời vị lai được an lạc trụ.
Trong giáo pháp của Phật Tỳ bà thi, chúng Thanh văn phần nhiều thích tu khổ hạnh cho là chánh hạnh. Lại có các tà sư nói ra tà pháp, cho rằng chỉ có khổ hạnh mới chiêu cảm quả an vui như sau: "nghiệp ác đã tạo đời trước đều do tu khổ hạnh mà được trừ diệt, quả khổ không sanh nên phá được sanh tử không còn luân chuyển nữa và được thường lạc, như thế mới gọi là Sa môn", Phật Tỳ bà thi muốn đối trị tà pháp này nên nói lược giáo như sau:
"Trong cần, nhẫn là trên,
Hay được quả Niết-bàn,
Xuất gia xúc não người,
Không gọi là Sa môn"
Hai câu đầu của bài tụng này ý muốn đối trị pháp tu khổ hạnh nên nói nhẫn là tối thượng trong tinh cần, không phải do khổ hạnh mà được Niết-bàn thù thắng. Nhẫn trong đây nói chính là Đế sát pháp nhẫn. Hai câu sau là ngăn các ngoại đạo tà kiến xuất gia vọng nói dị pháp khiến cho mình người đều bị não hại, không được quả lợi ích.
Trong giáo pháp của Phật Thi khí, chúng Thanh văn phần nhiều tu phạm hạnh để được sanh thiên, thọ diệu lạc ở cõi trời. Phật muốn đối trị họ nên nói lược giáo như sau:
"Mắt sáng tránh đường hiểm,
Đến được chỗ an ổn,
Người trí trong Sanh giới,
Xa lìa được các ác".
Mắt sáng trong đây là chỉ cho mắt tuệ, tương ưng với tuệ; nói đường hiểm là chỉ cho hai nơi: một là sanh thiên, hai là đọa ba đường ác, vì sanh cõi trời tuy thọ được diệu lạc thù thắng nhưng khi phước báo hết vẫn bị đọa trong ba đường ác. Nói chỗ an ổn là chỉ cho Niết-bàn thường trụ an ổn, người trí ở trong ba cõi biết dùng thiện phương tiện tu nhân xa lìa các ác, tu hạnh xuất ly.
Trong giáo pháp của Phật Tỳ xá phù, chúng Thanh văn phần nhiều đối với trì giới, tâm sanh hỉ túc nên không tu thắng hạnh; lại thường hay nói lỗi của người, để đối trị nên Phật nói lược giáo như sau:
"Không báng cũng không hại,
Khéo hộ trì giới kinh,
Ăn uống biết vừa đủ,
Thọ dụng ngọa cụ xấu,
Siêng tu Định tăng thượng,
Là lời chư Phật dạy".
Hai câu tụng đầu ngăn lỗi nơi khẩu nghiệp và ý nghiệp, khuyên hộ trì giới kinh; bốn câu kế khuyên lìa lỗi chấp hai bên mới khế hợp lý trung đạo và siêng tu định tăng thượng.
Trong giáo pháp của Phật Câu lưu tôn, chúng Thanh văn phần nhiều mong cầu lợi dưỡng, xem nhẹ việc tu phẩm thiện, để đối trị nên Phật nói lược giáo như sau:
"Ví như ong hút mật,
Không hoại sắc và hương,
Chỉ hút lấy hương vị,
Như Bí-sô vào thôn".
Bài tụng này ý khuyên các Bí-sô khi vào thôn khất thực, không nên làm hoại tâm tín kính của thí chủ, ví như ong hút nhụy hoa không làm tổn sắc hương.
Trong giáo pháp của vị Phật này, chúng Thanh văn phần nhiều tự cho mình là thù thăng nên hay chê bai người khác; để đối trị nên Phật nói lược giáo như sau:
"Không chống trái việc người,
Không xem làm, không làm,
Chỉ xem lại hạnh mình,
Là chánh hay không chánh".
Bài tụng này ý khuyên Bí-sô trì giới thấy người phá giới không nên vạch tìm lỗi của họ, khiến tâm mình tán loạn không thể chứng giải; chỉ nên xét lại hạnh thiện ác của mình.
Trong giáo pháp của vị Phật này, chúng Thanh văn phần nhiều ưa tu thiền định, đắm trước thiền vị nên không thể tiến tu; để đối trị nên Phật nói lược giáo như sau:
"Chớ đắm nơi tâm định,
Siêng tu chỗ vắng lặng,
Người nên cứu không lo,
Thường khiến niệm không mất.
Nếu người hay huệ thí,
Phước thêm, oán tự dứt,
Hành thiện trừ các ác,
Dứt hoặc đến Niết-bàn".
Bài tụng này ý khuyên chớ buông lung, đắm trước vị định; cũng khuyên siêng tu để mau được kiến đế, vì có kiến đế mới sinh khởi diệu Niết-bàn, cũng do kiến đế mà không còn phiền não. Tuy đắc định, tạm thời không phiền não nhưng định không đoạn được phiền não, đời sau sẽ lo buồn trở lại; nếu được kiến đế thì không còn lui sụt, các phiền não khác sẽ lần lượt đoạn trừ và siêng tu hạnh bố thí thì phước tăng trưởng, oán tránh cũng tự dứt.
Trong giáo pháp của Phật Thích ca, chúng Thanh văn tánh nhiều phiền não, buông lung không tu phẩm thiện, vừa làm chút thiện liền sanh hỉ túc; nhưng trong mười hai năm đầu Tăng già không có tỳ vết nên Phật lược nói giáo giới như sau:
"Tất cả ác chớ làm,
Tất cả thiện nên tu,
Điều phục khắp tự tâm,
Là lời chư Phật dạy.
Lành thay, hộ thân nghiệp,
Lành thay, hộ ngữ nghiệp,
Lành thay, hộ ý nghiệp,
Hộ ba nghiệp tối thiện,
Bí-sô hộ tất cả,
Giải thoát mọi khổ đau.
Khéo hộ nơi miệng nói,
Cũng khéo hộ nơi ý,
Thân không làm các ác,
Ba nghiệp thường thanh tịnh,
Đây là tùy thuận theo,
Đạo Đại tiên đã hành".
Bài tụng này ý các ác không làm, các thiện vâng làm, điều phục tự tâm và hộ trì ba nghiệp, do khéo hộ trì nên chứng được thường lạc. Bí-sô nào ba nghiệp thường thanh tịnh mới gọi là thiện Bí-sô, mới có thể làm rạng rỡ Thánh giáo. Bảy vị Phật này vào ngày Bao-sái-đà, tùy cơ nói giáo nhiều ít không đồng, vị Phật đầu tiên chế sáu tháng làm trưởng tịnh một lần và lược nói giáo giới; các vị Phật kế chế năm tháng làm trưởng tịnh một lần và cũng lược nói giáo giới; nhưng đến Phật Thích ca thì chế mỗi nửa tháng làm trưởng tịnh và nói Ba-la-đề-mộc-xoa.
"Tỳ bà thi, Thức khí,
Tỳ xá, Câu lưu tôn,
Yết nặc ca mâu ni,
Ca-diếp, Thích ca tôn,
Đều là Trời trong trời,
Vô thượng điều ngự sư,
Bảy Phật đều hùng mãnh,
Hay cứu hộ thế gian,
Đầy đủ đại danh xưng,
Đều nói Giới kinh này.
Chư Phật và đệ tử,
Đều cùng tôn kính giới,
Do cung kính Giới kinh,
Chứng được quả vô thượng.
Người nên cầu xuất ly,
Siêng tu lời Phật dạy,
Hàng phục quân sanh tử,
Như voi xô nhà cỏ,
Ở trong pháp luật này,
Nên tu không phóng dật,
Khô được biển phiền não,
Dứt hết bờ mé khổ.
Đã vì nói giới kinh,
Hòa hợp làm trưởng tịnh,
Phải cùng tôn trọng giới,
Như mao ngưu tiếc đuôi.
Tôi đã nói giới kinh,
Chúng tăng trưởng tịnh rồi,
Phước lợi thí hữu tình,
Đều cùng thành Phật đạo".
Nói bảy đức Phật đều là thiên trung thiên vì đã tự chứng quả vô thượng, riêng Phật Thích ca thị hiện trong cõi ác năm trược này, điều phục những người khó điều phục, tùy cơ giáo hóa khiến cho đều được giải thoát nên gọi là thiên trung thiên. Bảy vị đều nói ra giới pháp này nên chúng đệ tử Thanh văn có tôn trọng giới kinh mới chứng được quả vô thương. Kế khuyên chúng đệ tử nên cầu xuất ly, siêng tu lời Phật dạy là được kiến đạo; hàng phục quân sanh tử là được tu đạo; ở trong pháp luật không buông lung... là được chứng đạo. Cuối cùng khuyên nên hòa hợp làm trưởng tịnh, đem phước lợi hồi thí cho các hữu tình, đều cùng thành Phật đạo.