TẠNG LUẬT
LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH
SỐ 1462 - LUẬT THIỆN KIẾN TỲ BÀ SA
(GIẢI THÍCH LUẬT TỨ PHẦN THEO NAM TRUYỀN)
Hán dịch: Tam tạng Tăng già Bạt đà la-đời Tiêu tề
Việt dịch: Ban phiên dịch chùa Pháp Bảo, HT Thích Tịnh Hạnh giám tu-năm 2006
Hiệu đính và nhuận văn: NS Thích nữ Như Lộc tại chùa Phổ Minh-năm 2010; dịch năm 1993
II-PHẨM BẠT XÀ TỬ KẾT TẬP PHÁP TẠNG LẦN THỨ HAI
III-PHẨM VUA A DỤC KẾT TẬP PHÁP TẠNG LẦN THỨ BA
PHẨM NÓI VỀ NHÂN DUYÊN TẠI TỲ LAN NHÃ:
Dù trong trăm ức kiếp,
Thời không thể nghĩ bàn,
Vì tất cả chúng sanh,
Nhọc mệt đến tận nơi,
Để tế độ thế gian.
Kính lễ Đại từ bi,
Do giáo pháp khó biết,
Từ nhiều đời thế gian,
Cúi đầu xin đảnh lễ,
Pháp sâu xa vi diệu,
Phá tan tiêu hoại hết,
Lưới vô minh phiền não.
Người đủ giới định huệ,
Giải thoát hạnh tròn đầy,
Siêng tu các công đức,
Tăng chúng ruộng phước lành,
Con nhất tâm quy ngưỡng,
Gieo năm vóc kính lễ.
Quy kính Tam bảo rồi,
Xin diễn nghĩa Tỳ ni,
Mong chánh pháp trường tồn,
Lợi ích các chúng sanh.
Nguyện đem công đức này,
Tiêu trứ các ác nạn,
Ai ưa thích trì giới,
Trì giới lìa các khổ.
Nói Luật bổn được kết tập đầu tiên là do tôn giả Ưu ba ly ở trong chúng năm trăm Tỳ-kheo đầu tiên kết tập tạng luật. Vì sao, vì từ khi Phật mới thành đạo đầu tiên chuyển pháp luân Tứ đế tại vườn Lộc dã, cho đến cuối cùng thuyết pháp độ Tu bạt đà la, những việc nên làm Phật đã làm xong, Phật liền nhập niết bàn vô dư vào rạng sáng ngày 15 tháng 2 nơi Ta la song thọ, thành Câu thi na thuộc nước của vua Mạt la. Bảy ngày sau, tôn giả Đại Ca Diếp từ nước Diệp ba cùng năm trăm Tỳ-kheo đi đến thành Câu thi na, giữa đường gặp một đạo sĩ liền hỏi thăm về Đại sư, đạo sĩ đáp: "Sa môn Cù Đàm đã nhập niết bàn bảy ngày rồi, trời người đều đến cúng dường, tôi được hoa trời Mạn đà la này từ chỗ đó", Đại Ca Diếp cùng các Tỳ-kheo nghe tin Phật đã nhập niết bàn, thảy đều đau buồn ngất xỉu ngã xuống đất. Lúc đó có một Tỳ-kheo Ma-ha-la nói: "thôi đừng có đau buồn nữa, khi đại Sa môn còn tại thế đã chế ngăn việc này là tịnh, việc này là bất tịnh; việc này nên làm, việc này không nên làm. Nay đã nhập niết bàn, ta được tùy ý thích muốn làm gì thì làm", Đại Ca Diếp nghe rồi liền im lặng suy nghĩ: "khi ác pháp chưa sanh khởi, ta nên kết tập pháp tạng để chánh pháp được trụ lâu ở đời, làm lợi ích chúng sanh", lại nghĩ: "khi Phật còn tại thế đã trao ca sa cho ta và nói với các Tỳ-kheo rằng: khi ta nhập định thứ nhất, Đại Ca Diếp cũng nhập định ấy. Đó là Phật đã khen ngợi ta, ta được Thánh lợi đầy đủ không khác gì Phật, giống như vua cha cởi áo giáp đang mặc trao cho con để người con này thủ hộ chủng tộc; Như lai trao ca sa cho ta là muốn sau khi Phật nhập niết bàn, ta sẽ thủ hộ chánh pháp của Như lai". Sau đó tôn giả Đại Ca Diếp nhóm Tỳ-kheo tăng nói: "trước đây tôi nghe được một Tỳ-kheo Ma-ha-la nói rằng: khi Đại Sa môn còn tại thế đã chế ngăn việc này là tịnh, việc này là bất tịnh; việc này nên làm, việc này không nên làm. Nay đã nhập niết bàn, ta được tùy thích muốn làm gì thì làm. Các trưởng lão, chúng ta nên kết tập pháp tạng và tỳ ni tạng", các Tỳ-kheo nói: "đại đức, nên lựa chọn các Tỳ-kheo thông suốt chín bộ loại pháp Phật, tuy các học nhân Tu đà hoàn, Tư đà hàm và Tỳ-kheo Ái tận không phải chỉ có trăm ngàn vị; nhưng người thông hiểu ba tạng, được bốn vô ngại biện, có đại thần lực, chứng ba Đạt trí được Phật khen ngợi, lại là Ái tận Tỳ-kheo thì chỉ có bốn trăm chín chín vị". Lúc đó Đại Ca Diếp chọn được năm trăm nhưng thiếu một vị, vì trưởng lão A-nan còn ở Hữu học vị, Đại Ca Diếp không chọn lấy Anan vì muốn đoạn dứt phỉ báng, nhưng nếu không có A-nan thì không có người kết tập pháp. Các Tỳ-kheo nói: "A-nan tuy ở Hữu học vị nhưng đã đích thân lãnh thọ Tu đa la, Kỳ dạ từ Phật, lại là bậc kỳ lão và cũng là em chú bác trong thân tộc Thích ca của Như lai; đại đức nên chọn lấy A-nan cho đủ số năm trăm vị kết tập", nhưng đó chỉ là ý kiến của Thánh chúng. Lúc đó các Tỳ-kheo suy nghĩ: "nên kết tập pháp tạng ở đâu, ở thành Vương xá có đầy đủ các thứ cần dùng, chúng ta nên đến đó an cư ba tháng để kết tập pháp tạng, nhưng không nên để các Tỳ-kheo khác an cư ở đó, vì sao, vì sợ họ không tùy thuận", tôn giả Đại Ca Diếp liền bạch nhị yết ma... như trong phẩm Tăng kỳ đã nói rõ. Sau khi cúng dường xá lợi Phật xong, còn một tháng rưỡi nữa là tới hạ an cư, tôn giả Đại Ca Diếp nói với các Tỳ-kheo: "đã đến lúc chúng ta đi đến thành Vương xá", các Tỳ-kheo liền chia thành hai nhóm lên đường, nhóm thứ nhất do tôn giả Đại Ca Diếp dẫn hai trăm năm mươi Tỳ-kheo, nhóm thứ hai do tôn giả A nậu lâu đà dẫn hai trăm năm mươi Tỳ-kheo. Lúc đó tôn giả A-nan cùng các Tỳ-kheo khác trở về nước Xá vệ, dân chúng thấy A-nan liền gào khóc như lúc Như lai mới nhập niết bàn, A-nan nói pháp vô thường để giáo hóa họ rồi đến trong vườn Kỳ thọ, mở phòng của Phật quét dọn sạch sẽ và lau chùi giường tòa... giống như hồi Phật còn tại thế. Sau đó có một Bà la môn tên Tu-bà-na đến thỉnh A-nan ngày mai đến nhà thọ thực, sáng hôm sau A-nan dẫn theo một Tỳ-kheo đến nhà Tu-bà-na thọ thỉnh thực, Tu-bà-na nhân đây liền hỏi nghĩa kinh, do việc này nên trong phẩm thứ mười của kinh A hàm gọi là kinh Tu-bà-na. A-nan ở tại Kỳ viên cho đến gần ngày an cư mới đi đến thành Vương xá, lúc đó tôn giả Đại Ca Diếp cùng năm trăm Tỳ-kheo đều đã đến thành Vương xá, thấy cả mười tám chùa lớn nơi đây đều đã hư hoại vì các Tỳ-kheo khi hay tin Phật nhập niết bàn đều đã bỏ đi hết. Các Thánh chúng như lời Phật dạy, lo tu bổ lại phòng xá vì nếu không tu bổ lại, ngoại đạo sẽ phỉ báng rằng khi Sa môn Cù Đàm còn tại thế thì các Tỳ-kheo tu bổ phòng xá, sau khi nhập niết bàn thì lại bỏ đi hết. Tôn giả Đại Ca Diếp đến gặp vua A Xà Thế, vua vừa thấy tôn giả liền đảnh lễ và hỏi cần gì, tôn giả nói: "cả mười tám chùa lớn đều hư hoại, nay muốn tu bổ lại, xin đại vương biết cho", vua nói lành thay rồi cho người đến tu bổ và cung cấp đầy đủ những vật cần dùng. Sau khi tu bổ xong, tôn giả đến bạch vua: "nay chúng tôi muốn kết tập pháp tạng và tỳ ni tạng, xin vua biết cho", vua nói: "lành thay, con sẽ chuyển bánh xe oai lực của vua để giúp cho các đại đức kết tập bánh xe pháp vô thượng, con sẽ tuân theo sự sai khiến của chúng tăng", tôn giả nói: "trước tiên nên xây cất một giảng đường trên sườn núi Để bàn na ba la, vì nơi ấy rất yên tĩnh", vua nói lành thay. Nhờ oai lực của vua, không bao lâu sau giảng đường được hoàn thành như kỹ xảo của trời Tỳ xá ở cõi trời Đao lợi, trong giảng đường có năm trăm tòa ngồi day về hướng Bắc, lại có một tòa cao đặt day về hướng Đông dành cho vị kết tập pháp. Lúc đó các Tỳ-kheo bảo A-nan: "ngày mai chúng tăng sẽ kết tập pháp tạng, thầy hãy tinh tấn chớ buông lung", A-nan liền suy nghĩ: "ngày mai Thánh chúng kết tập pháp tạng, ta còn ở Hữu học vị làm sao vào dự được", nghĩ rồi liền vào đầu đêm tinh tấn thiền quán, qua đến nửa đêm cũng chưa chứng đắc được gì, A-nan suy nghĩ: "trước kia Phật đã từng nói ta nếu nhập thiền định thì sẽ mau chứng A-la-hán, lời Phật dạy là chắc thật, chỉ vì ta tinh tấn thái quá nên không thể chứng được gì, ta nay nên thuận theo trung đạo", nghĩ rồi liền đi rửa chân sạch rồi vào phòng, lên giường muốn nằm nghỉ một lát, trong lúc thân vừa nghiêng xuống giường, chân vừa hổng đất, đầu chưa đụng gối thì A-nan bỗng ngộ đạo, chứng quả A-la-hán. Nếu có ai hỏi trong Phật pháp, vị nào không ở trong bốn tư thế đi đứng nằm ngồi mà đắc đạo thì vị ấy chính là tôn giả A-nan.
Lúc đó vào ngày mười bảy tháng sau, sau khi thọ trai và thu xếp y bát xong, tôn giả Đại Ca Diếp nhóm tăng ở trong giảng đường, theo thứ lớp ngồi yên và chừa một chỗ trống dành cho A-nan, khi các hạ tòa đến kính lễ Thượng tòa thấy chỗ trống này liền hỏi chỗ này dành cho ai, đáp là dành cho Anan, lại hỏi A-nan đang ở đâu. A-nan biết tâm niệm của chúng tăng nên hiện thần túc, muốn biểu hiện sự chứng đắc cho chúng tăng biết, hiện thân ngồi vào chỗ ngồi. Tôn giả Đại Ca Diếp hỏi: "các trưởng lão, nên kết tập pháp tạng trước hay tỳ ni tạng trước?", đáp: "đại đức, Tỳ ni tạng là thọ mạng của Phật pháp, Tỳ ni tạng còn thì Phật pháp còn, nên kết tập Tỳ ni tạng trước", lại hỏi ai làm pháp sư, đáp: " nên cử trưởng lão Ưu ba ly, vì khi Phật còn tại thế, đã thường khen ngợi trưởng lão Ưu ba ly là Trì luật đệ nhật trong các đệ tử Thanh văn", Đại Ca Diếp liền tác bạch: "Đại đức tăng lắng nghe, nếu tăng già đúng thời đến nghe, Tăng già nên chấp thuận cho tôi hỏi trưởng lão Ưu ba ly những việc trong Tỳ ni pháp. Bạch như vậy", trưởng lão Ưu ba ly cũng tác bạch: "Đại đức tăng lắng nghe, nếu tăng già đúng thời đến nghe, Tăng già nên chấp thuận cho tôi đáp những việc trong pháp Tỳ ni mà đại đức Đại Ca Diếp hỏi. Bạch như vậy". Tác bạch xong, Ưu ba ly chỉnh đốn lại y phục đảnh lễ chúng tăng rồi bước lên tòa cao ngồi, Đại Ca Diếp cũng trổi về chỗ ngồi của mình rồi hỏi Ưu ba ly: "trưởng lão, giới Ba la di thứ nhất được chế ở nơi đâu và do ai sanh khởi?", đáp là được chế tại Tỳ xá ly, do Tu đề na Ca lan đà tử sanh khởi, lại hỏi là phạm tội gì, đáp là phạm tội bất tịnh hạnh. Đại Ca Diếp kế hỏi về tội, về duyên phạm, về kết giới, tùy kết giới... cứ như vậy hỏi về nhân duyên bổn khởi của các pháp Ba la di thứ hai, thứ ba, thứ tư và gọi là phẩm bốn Ba la di. Tuần tự như thế hỏi về mười ba pháp Tăng già bà thi sa, hai pháp Bất định, ba mươi pháp Ni tát kỳ ba dật đề, chín mươi hai pháp Ba dật đề, bốn pháp Ba la đề đề xá ni, bảy mươi lăm Chúng học pháp và bảy pháp Diệt tránh. Kết tập xong phần Ba la đề mộc xoa của Tỳ-kheo tăng, kế kết tập phần Ba la đề mộc xoa của Tỳ-kheo-ni gồm có tám pháp Ba la di, mười bảy pháp Tăng già bà thi sa, ba mươi pháp Ni tát kỳ ba dật đề, một trăm sáu mươi sáu pháp Ba dật đề, tám pháp Ba la đề đề xá ni, bảy mươi lăm Chúng học pháp và bảy pháp Diệt tránh; kế kết tập về phần Kiền độ (tạp sự) đến Ba lợi bà la... cho đến hết tạng Luật, kỳ kết tập này gọi là Năm trăm A-la-hán kết tập Tỳ ni tạng. Trưởng lão Ưu ba ly bước xuống tòa đảnh lễ Tăng rồi trở về chỗ ngồi của mình, tôn giả Đại Ca Diếp lại hỏi: "đã kết tập xong tạng luật, nay kết tập Pháp tạng, vị nào làm pháp sư?", các Tỳ-kheo đề cử trưởng lão A-nan, Đại Ca Diếp liền tác bạch: "Đại đức tăng lắng nghe, nếu tăng già đúng thời đến nghe, Tăng già nên chấp thuận cho tôi hỏi trưởng lão A-nan về pháp tạng. Bạch như vậy", trưởng lão A-nan cũng tác bạch: "Đại đức tăng lắng nghe, nếu tăng già đúng thời đến nghe, Tăng già nên chấp thuận cho tôi đáp về pháp tạng mà đại đức Đại Ca Diếp hỏi. Bạch như vậy". Tác bạch xong, trưởng lão A-nan chỉnh đốn y phục đảnh lễ tăng rồi bước lên ngồi trên tòa cao, Đại Ca Diếp hỏi: "kinh Phạm võng trong pháp tạng được thuyết tại đâu?", đáp: "kinh này được thuyết tại vườn Am một la của vua, ở giữa hai thành Vương xá và Na lan đà", lại hỏi do ai làm duyên khởi, đáp là do Tu bi dạ ba lợi bà xà ca và Bà la môn Kiền đa. Sau khi hỏi xong nhân duyên bổn khởi của kinh Phạm võng, Đại Ca Diếp hỏi: "kinh Sa môn quả được thuyết tại đâu?", đáp là tại Kỳ viên thành Vương xá, lại hỏi do ai làm duyên khởi, đáp là vua A Xà Thế. Hỏi xong nhân duyên bổn khởi của kinh Sa môn quả, kế hỏi về năm bộ kinh, đáp: "năm bộ kinh gồm có kinh Trường A hàm, kinh Trung A hàm, kinh Tăng thuật đa, kinh Ương quật đa la và kinh Khuất đà ca", lại hỏi: "sao gọi là kinh Khuất đà ca?", đáp: "trừ bốn bộ A hàm ra, những pháp khác đều xếp vào trong kinh Khuất đà ca". Pháp do Phật nói ra chỉ có một vị, do phân biệt đầu, giữa và cuối và dựa trên giới định huệ mà thành ba tạng; nếu phân bộ thì có năm bộ kinh, nếu phân loại thì thành chín bộ kinh, tổng cộng có tám vạn pháp tạng.
Lại hỏi: sao gọi là nhất vị?
Đáp: từ khi Phật chứng quả A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, cho đến khi nhập niết bàn, trong bốn mươi lăm năm này, Phật thuyết pháp cho các loài rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, người và phi nhân... chỉ thuần một vị giải thoát nên gọi là nhất vị.
Hỏi: sao gọi là hai?
Đáp: đó là pháp tạng và tỳ ni tạng. Hỏi: sao gọi là đầu giữa cuối?
Đáp: do phân biệt pháp Phật thành ba giai đoạn, như kệ nói:
"Lưu chuyển vô số kiếp, Đi mãi không ngừng nghỉ, Chỉ tìm nhà để ở, Tái sanh nhiều kiếp khổ, Nay đã thấy nhà rồi, Không còn làm nhà nữa, Tất cả rường cột nhà, Nát vụn không tái sanh, Tâm giải thoát phiền não, Ái tận đến niết bàn".
Kệ Ưu đà na này là pháp đầu do khi Phật vừa chứng Nhất thiết trí, vui mừng vì quán nhân duyên sanh pháp thành tựu mà nói. Trong Kiền đà ca nói khi Phật sắp niết bàn bảo các Tỳ-kheo rằng: "các thầy ở trong pháp của ta cẩn thận chớ lười biếng", đây là pháp sau cùng, pháp nói ra ở khoảng giữa của hai pháp này là pháp giữa.
Hỏi: những gì là ba tạng?
Đáp: là tạng tỳ ni, tạng Tu đa la và tạng A tỳ đàm. Hỏi: những gì là tạng tỳ ni?
Đáp: là hai bộ Ba la đề mộc xoa, hai mươi ba Kiền đà và Ba lợi bà la.
Hỏi: những gì là tạng Tu đa la?
Đáp: kinh đầu tiên là Phạm võng, tổng cộng bốn mươi bốn kinh xếp vào bộ kinh Trường A hàm; kinh đầu tiên là Căn mâu la ba lị đa, tổng cộng hai trăm năm mươi hai kinh xếp vào bộ kinh Trung A hàm; kinh đầu tiên là Ô già đa la bà đà na, tổng cộng bảy ngàn bảy trăm sáu mươi hai kinh xếp vào bộ kinh Tăng thuật đa; kinh đầu tiên là Chiết đa ba lợi da đà na Tu đa la, tổng cộng chín ngàn năm trăm năm mươi bảy kinh xếp vào bộ kinh Ương quật đa la; Pháp cú dụ, Khu đà na, Y đế Phật, Đa già ni ba đa, Tỳ ma na, Tỷ đa, Thế lợi già đà, Bổn sanh, Ni thế bà, Ba trí tham tỳ đà, Phật chủng tánh kinh... đều xếp vào bộ kinh Khuất đà ca.
Hỏi: sao gọi là tạng A tỳ đàm?
Đáp: là pháp Tăng già tỳ băng già đà suất ca tha da ma ca bát xoa bức già la bộn na kỳ ca tha bạt du.
Hỏi: những gì là tạng tỳ ni? Đáp: như kệ nói:
"Đem đến nhiều việc thiện,
Điều phục thân ngữ ý,
Người biết nghĩa tỳ ni,
Nói nghĩa tỳ ni này".
Hỏi: năm thiên của Ba la đề mộc xoa là gì?
Đáp: thiên đầu là Ba la di, năm thiên bảy tụ tội là mẹ của các loại giới, dẫn thành hạnh kiên cố rộng làm phương tiện tùy kết, từ thân ngữ ý bất thiện tạo tác thành nghiệp nên gọi là Tỳ nại da.
Hỏi: Tu đa la nghĩa là gì? Đáp: như kệ nói:
"Đủ loại nghĩa khai phát,
Lời thiện như lúa trổ,
Ngang dọc như suối trào,
Ngay thẳng xâu kết lại,
Gọi là Tu đa la,
Nghĩa sâu xa vi diệu".
Hỏi: nghĩa khai phát là như thế nào?
Đáp: nghĩa tự phát có thể phát ra nghĩa khác.
Hỏi: sao gọi là lời thiện?
Đáp: trước nên xét tâm người rồi mới nói lời thiện.
Hỏi: sao gọi là như lúa trổ?
Đáp: lúa nếp mà trổ thì sẽ kết hạt.
Hỏi: sao gọi là kinh vĩ?
Đáp: dùng chỉ dệt thành sợi ngang sợi dọc.
Hỏi: sao gọi là như suối trào?
Đáp: như nguồn nước nhiều, chảy không cùng tận.
Hỏi: sao gọi là thằng mặc?
Đáp: như dây mực đo có thể loại bỏ gỗ cong.
Hỏi: sao gọi là diên?
Đáp: như hoa rơi tứ tán, dùng chỉ xỏ xâu lại dù có bị gió thổi cũng không bay tứ tán; Tu đa la cũng vậy, xâu kết các pháp tướng lại không cho phân tán.
Hỏi: A tỳ đàm nghĩa là gì?
Đáp: như kệ nói:
"Có người ý thức pháp,
Khen ngợi, đoạn tiệt nói,
Tăng trưởng pháp nên nói,
Gọi là A tỳ đàm".
Hỏi: sao gọi là ý?
Đáp: có câu kinh nói ý mau lẹ biết bao, đây là nghĩa của chữ ý trong A tỳ đàm.
Hỏi: sao gọi là thức?
Đáp: có câu kinh nói đêm ngày phân biệt, đây là nghĩa của chữ thức trong A tỳ đàm.
Hỏi: sao gọi là tán thán?
Đáp: là vua trong các vương luận, đây là nghĩa của chữ tán thán trong A tỳ đàm.
Hỏi: sao gọi là đoạn tiệt?
Đáp: là nói A tỳ đàm có đủ các năng lực.
Hỏi: sao gọi là trưởng?
Đáp: là nói nhiều. Có thuyết nói: sanh lên cõi Sắc giới, tâm từ quán khắp một phương là nghĩa của ý; biết sắc, thanh cho đến xúc là nghĩa của thức; khen ngợi pháp hữu học, vô học là pháp vô thượng ở thế gian là nghĩa của tán thán; tiếp xúc pháp thành Học là nghĩa của đoạn tiệt; đại pháp không thể tính lường, pháp vô thượng là nghĩa của trưởng.
Hỏi: tạng nghĩa là gì?
Đáp: như kệ nói:
"Trí tạng chứa nghĩa vị,
Theo nghĩa khí cụ học,
Nay ta nói hợp một,
Thầy tự biết nghĩa Tạng,
Đây là nghĩa chữ Tạng".
Hỏi: pháp tạng nghĩa là gì?
Đáp: đây là gọi chung ba tạng, tất cả nhân duyên chỉ dạy phật pháp trong ba tạng, ngữ ngôn phân biệt-học để trừ tướng sâu xa, để phá tướng ly hợp... Trong A tỳ đàm, chữ A tỳ gồm có các nghĩa ý, thức, tán thán, đoạn tiệt, vượt qua, rộng, lớn và vô thượng; ý là nhớ giữ; thức là phân biệt; tán thán là được bậc Thánh khen ngợi; đoạn tiệt là phân biệt kệ kinh; vượt qua là vượt qua các pháp khác; rộng là pháp rộng nhất trong các pháp; lớn là pháp lớn nhất trong các pháp; vô thượng là không có pháp nào hơn. Chữ đàm gồm có các nghĩa cử, thừa và hộ; cử là đặt để chúng sanh vào đường lành; thừa là đón nhận chúng sanh không cho sa vào ba đường ác; hộ là ủng hộ chúng sanh khiến được an vui. Tạng là khí cụ chứa, có thể chứa nhiều.
Hỏi: tạng và A tỳ đàm là đồng hay khác nghĩa?
Đáp: đồng.
Hỏi: nếu đồng thì chỉ cần nói A tỳ đàm, đâu cần nói thêm chữ tạng?
Đáp: Thánh nhân thuyết pháp muốn cho câu văn đầy đủ nên nói thêm chữ tạng, nghĩa của ba tạng cũng vậy. Lại nữa, vì chỉ dạy, vì giáo thọ, vì phân biệt, vì hệ thuộc, vì xả bỏ, vì tướng sâu xa, vì ly hợp... Tỳ-kheo tùy đến đâu đều nên hiển hiện tất cả nghĩa như vậy. Cho nên ba tạng tùy thứ lớp oai đức mà hiển hiện chánh nghĩa, tùy tội lỗi, tùy loại so sánh, tùy giáo pháp, tùy kiến chấp trói buộc danh sắc sai khác. Nếu người nào hành trì theo Tỳ ni thì được nhập định, đắc định liền có đủ ba Đạt trí, nên giới là gốc của hạnh, nhờ chánh định mà được sáu thông. Nếu người nào tu học A tỳ đàm thì có thể sanh Thật trí, thật trí đã sanh thì có đủ bốn biện tài; người nào tùy thuận giới luật thì được thế gian lạc. Sao gọi là thế gian lạc?-Người có tịnh giới thì được trời người khen ngợi, thường thọ thế gian cúng dường tứ sự, thế gian lạc sẽ trừ dục lạc như trong kinh nói: Phật nói ta đã biết, không nên ở tại gia, nên xuất gia để chứng đắc đạo quả. Người đắc đạo quả có đủ giới định huệ lực, người làm điều ác là không có trí huệ, do không có trí huệ nên hiểu sai lời Phật dạy, do hiểu sai nên phỉ báng Phật, tự tạo nghiệp ác, tự hại mình hại người; từ nhân uyên này rộng sanh tà kiến, do học dốt về A tỳ đàm nên bắt ép tâm suy nghĩ, khiến tâm phát cuồng, như trong kinh nói: các Tỳ-kheo, có bốn pháp không nên suy nghĩ mà cứ suy nghĩ thì sẽ làm cho tâm phát cuồng. Như thế đã tuần tự nói về phá giới, tà kiến, loạn tâm, thiện và bất thiện, như kệ nói:
"Đầy đủ, không đầy đủ,
Tùy hành trì mà được,
Tỳ-kheo ưa thích học,
Sẽ ái trọng pháp này".
Nghĩa của chữ tạng là tất cả lời Phật dạy.
Hỏi: A hàm có những gì?
Đáp: năm bộ kinh A hàm gồm có kinh Trường A hàm, kinh Trung A hàm, kinh Tăng thuật đa, kinh Ương quật đa la và kinh Khuất đà ca.
Hỏi: Trường A hàm có những kinh gì?
Đáp: kinh đầu tiên là Phạm võng, tổng cộng bốn mươi bốn kinh xếp vào ba phẩm trong kinh Trường A hàm.
Hỏi: sao gọi là trường và A hàm nghĩa là gì?
Đáp: do tập hợp các pháp nhiều và dài nên gọi là trường. A hàm nghĩa là dung thọ tích tập, như trong kinh nói: Phật bảo các Tỳ-kheo rằng ta ở trong ba cõi, không thấy kinh nào như Trường A hàm, thuần là nơi chúng sanh tụ tập. Trung A hàm cũng vậy, do pháp không dài không ngắn nên gọi là trung, có mười lăm phần, kinh đầu tiên là kinh Căn học, tổng cộng có một trăm năm mươi hai kinh.
Lúc đó vào tháng bảy, tôn giả Đại Ca Diếp kết tập thành tựu pháp của đấng Thập lực xong, mọi người trên đại địa đều vui mừng khen lành thay, đất chấn động sáu cách và xuất hiện nhiều tướng tốt lành kỳ lạ, đây là lần kết tập pháp tạng đầu tiên gồm năm trăm vị A-la-hán, như kệ nói:
"Năm trăm A-la-hán,
Kết tập pháp đời này,
Gọi Ngũ bách kết tập,
Chư Hiền đều cùng biết".
Hỏi: nguồn gốc của tạng luật này hiện nay ai thọ trì và người thọ trì ở đâu?
Đáp: nguồn gốc của tạng luật bắt đầu từ Phật tại Tỳ-lan-nhã, trưởng lão Ưu ba ly ở trước Phật thọ trì, khi Phật chưa nhập niết bàn, có đến ngàn vạn vị A-la-hán chứng lục thông thọ trì luật từ trưởng lão Ưu ba ly. Sau khi Phật nhập niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp cùng đại chúng năm trăm vị từ bi kết tập pháp tạng tại cõi Diêm phù đề, người thọ trì đầu tiên là trưởng lão Ưu ba ly... năm vị Luật sư theo thứ lớp truyền trì cho đến các đại đức trong đại chúng thứ ba. Năm vị đó là Ưu ba ly, Đại tượng câu, Tô na câu, Tất già phù và Mục kiền liên đế tu, nối tiếp nhau truyền trì tạng luật không gián đoạn, cho đến các luật sư trong đại chúng thứ ba cũng phát xuất từ Ưu ba ly. Ưu ba ly được nghe giới luật từ kim khẩu của Phật, ghi nhớ trong tâm rồi truyền trao lại cho người khác, trong số đó các bậc Hữu học, Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm là không thể tính kể; Tỳ-kheo Ái tận có đến một ngàn. Đại tượng câu là đệ tử của Ưu ba ly, thọ học luật từ thầy, tự hiểu hết lý sâu xa; các bậc Hữu học thọ học nhiều vô số, còn Ái tận Tỳ-kheo là một ngàn. Tô na câu là đệ tử của Đại tượng câu cũng thọ học luật từ thầy, tự thông hiểu luật; các bậc Hữu học thọ học nhiều vô số, còn Ái tận Tỳ-kheo là một ngàn. Tất già phù là đệ tử của Tô na câu cũng thọ học luật từ thầy, trong số một ngàn vị A-la-hán là người có căn tánh tối thắng, tự thông hiểu luật, các bậc Hữu học thọ học nhiều vô số, còn Ái tận Tỳ-kheo là trăm ngàn. Vị luật sư thứ năm là Mục kiền liên đế tu dùng thần lực nhóm họp vô số Tỳ-kheo trong cõi Diêm phù đề, trong đại chúng thứ ba kết tập pháp tạng.
Hỏi: sao gọi là đại chúng thứ ba?
Đáp: tức là các đại đức dùng trí huệ kết tập pháp tạng lần thứ ba làm cho diệu pháp được rạng ngời.
Có kệ:
"Thọ mạng trụ thế gian,
Năm trăm vị trí huệ,
Đại đức Đại Ca Diếp,
Đứng đầu năm trăm vị,
Cũng như đèn hết dầu,
Nhập niết bàn vô dư".
Lúc đó theo thời gian, các Thánh chúng lần lượt đều nhập niết bàn, Phật nhập niết bàn trải qua một trăm năm sau, trong nhóm Tỳ-kheo Bạt xà tử tại thành Tỳ xá ly phát sinh mười điều phi pháp: một là diêm tịnh, hai là nhị chỉ tịnh, ba là tụ lạc gian tịnh, bốn là trú xứ tịnh, năm là tùy ý tịnh, sáu là cựu trú tịnh, bảy là sanh hòa hợp tịnh, tám là thủy tịnh, chín là bất ích lũ Ni sư đàn tịnh, mười là kim ngân tịnh. Lúc đó có người con của Tu na ca dòng Bạt xà tử tên là A tu, sau khi lên ngôi vua đã ủng hộ phe nhóm Bạt xà tử. Lại có trưởng lão Da tu câu ca là con của Ca kiền đà nghe biết tại thành Tỳ xá ly phát sanh mười điều phi pháp này, liền suy nghĩ: "ta không nên ở nơi mà làm cho pháp bị hoại, ta nên tìm phương tiện diệt ác pháp này", nghĩ rồi liền đi đến thành Tỳ xá ly, trụ trong giảng đường Cưu trá già la, rừng Sa la.
Lúc đó vào ngày thuyết giới, các Tỳ-kheo Bạt xà tử ở trong Tỳ-kheo tăng để bát đựng đầy nước, khi thấy các Ưu bà tắc ở thành Tỳ xá ly đến liền bảo họ tùy ý cúng tiền bỏ vào trong bát nước này, hoặc một tiền, nửa tiền để cho Tăng may y phục..., đây là nghĩa của việc kết tập Tỳ ni. Lần kết tập pháp tạng lần thứ hai này đủ số bảy trăm Tỳ-kheo nên gọi là Bảy trăm Tỳ-kheo kết tập nghĩa Tỳ ni, trưởng lão Da tư na phát khởi việc này. Lúc đó trong chúng Tỳ-kheo Bạt xà tử, trưởng lão Ly bà đa hỏi, trưởng lão Tát bà đa đáp để quyết đoán mười việc phi pháp và diệt trừ tránh pháp. Trong lần kết tập này, bảy trăm Tỳ-kheo đều là những vị thông suốt ba tạng và chứng ba đạt trí, cùng nhóm họp trong vườn Bà lợi ca tại thành Tỳ xá ly để kết tập pháp tạng, giống như lần đầu kết tập không khác, khiến cho tất cả cấu bẩn trong Phật pháp đều được loại trừ. Tất cả đều y cứ nơi tạng, nơi A hàm, nơi các pháp tụ để hỏi để kết tập Pháp tạng và Tỳ ni tạng, như thế cho đến tháng tám thì kết tập xong, như kệ khen:
"Bảy trăm vị trong đời, Gọi Thất bách kết tập, Giống như trước đã nói, Các vị tự nên biết". Trong số bảy trăm, trưởng lão Tát bà ca my, Tôi mị, Ly bà đa, Quật xà tu tỳ đa, Da tu, Bà na tham phục đa đều là đệ tử của tôn giả A-nan; hai vị Tu Ma Nậu bà và Ta già mi là đệ tử của tôn giả A nậu lâu đà. Kệ nói:
"Lần thứ hai nhóm họp,
Đại chúng kết tập pháp,
Nói lại tất cả pháp,
Việc nên làm-làm xong,
Các Tỳ-kheo ái tận,
Kết tập pháp lần hai".
Lúc đó các Tỳ-kheo suy nghĩ: "đương lai, trong pháp của Đại sư có khởi lên cấu uế như vậy nữa không", liền quán thấy đương lai sẽ có phi pháp cấu uế như thế khởi lên, tức là khoảng một trăm năm sau, vào năm thứ mười tám, tại nước Ba trá lợi phất có vua A Dục ra đời, vì tín kính Phật pháp nên phát tâm đại cúng dường; các ngoại đạo thấy vậy bèn lạm nhập vào trong Phật pháp, tuy làm Sa môn nhưng vẫn theo pháp ngoại đạo và dùng pháp ngoại đạo giáo hóa nhân dân, khiến cho cấu uế sắp thành trong phật pháp. Các Tỳ-kheo quán biết việc này rồi lại quán biết mình không sống đến lúc ấy, liền quán xem ai sẽ truyền bá được Phật pháp trong đương lai. Quán khắp trong cõi Dục không thấy có ai, lại quán đến cõi Phạm thiên, liền thấy có một thiên tử tên là Đế tu sắp mãn tuổi thọ, đã từng thiền quán pháp tướng. Lúc đó các Tỳ-kheo suy nghĩ: "ta nên đến thỉnh thiên tử này thác sanh vào nhà của Bà la môn Mục kiền liên, sau đó sẽ độ cho xuất gia và giáo thọ khiến cho thông đạt tất cả pháp Phật, chứng được ba đạt trí để phá ngoại đạo, quyết đoán tránh pháp, chỉnh trì lại Phật pháp", nghĩ rồi liền đến gặp thiên tử Đế tu nói rằng: "khoảng một trăm năm sau, vào năm thứ mười tám sẽ có cấu uế sanh khởi trong Phật pháp, chúng tôi quán khắp cõi Dục không thấy có ai có thể chỉnh trì Phật pháp lúc đó, khi quán ở cõi Phạm thiên liền thấy chỉ có mình thiên tử. Lành thay thiện nhân, hãy thác sanh trong nhà Bà la môn Mục kiền liên để chỉnh trì Phật pháp trong đương lai", thiên tử Đế tu nghe rồi hết sức vui mừng nhận lấy trọng trách này, các Tỳ-kheo liền rời khỏi cõi Phạm thiên. Lúc đó trong đại chúng có hai trưởng lão Hòa già bà và Chiên-đàbạt-xà đều là Ái tận A-la-hán, thông suốt ba tạng và chứng ba đạt trí, nhưng so với đại chúng thì ít tuổi hơn nhiều, vì vậy không có dự trong kỳ kết tập pháp tạng lần thứ hai. Các Tỳ-kheo nói với hai trưởng lão này rằng: "đương lai có vị Phạm thiên tên là Đế tu sẽ thác sanh trong nhà Bà la môn Mục kiền liên, hai vị nên chia nhau, một người đến đó hóa độ cho xuất gia, một người giáo thọ Phật pháp để vị này có thể chỉnh trì Phật pháp trong đương lai", các Tỳ-kheo dặn dò xong, tùy theo tuổi thọ dài ngắn lần lượt nhập niết bàn, như kệ nói:
"Bảy trăm chúng thứ hai,
Hòa hợp diệt phi pháp,
Muốn giáo pháp vị lai,
Được trụ lâu thế gian.
Bậc ái tận tự tại,
Chứng được ba đạt trí,
Thần thông lực tự tại,
Không thoát khỏi vô thường,
Muốn cho vị lai biết,
Đời sống là vô thường,
Biết rõ khó sống còn,
Nếu muốn được trụ lâu,
Phải chuyên cần tinh tấn".
Lúc đó Phạm thiên Đế tu từ cõi Phạm thiên thác sanh vào nhà Bà la môn Mục kiền liên, trưởng lão Hòa già bà quán thấy Đế tu đã thác sanh rồi nên hằng ngày đi đến nhà Bà la môn này khất thực vì nhân duyên hóa độ Đế tu, như vậy ròng rã trải qua bảy năm nhưng không khất thực được gì. Hôm đó khi vừa thấy trưởng lão, gia nhân liền nói: "xin đại đức hãy đến nhà khác, trong nhà đã ăn xong rồi", trưởng lão nghe rồi liền bỏ đi qua nhà khác khất thực, vừa lúc đó Bà la môn từ chỗ khác trở về nhà, thấy trưởng lão liền nói: "này người xuất gia, vừa từ nhà tôi đi ra, có khất thực được gì không?", đáp là được, Bà la môn nghe rồi liền vào nhà hỏi gia nhân đã cho Tỳ-kheo món gì, gia nhân đáp là không cho gì cả, Bà la môn nói: "Tỳ-kheo kia nói dối, nếu ngày mai đến nữa, ta sẽ hỏi cho rõ". Sáng hôm sau, Bà la môn ngồi chờ trước cửa, vừa thấy trưởng lão Hòa già bà đến liền hỏi: "hôm qua thầy nói có khất thực được, nhưng thật sự là không được gì cả, vì sao lại nói dối, pháp của Tỳ-kheo có được nói dối không?", đáp: "tôi đến nhà ông khất thực ròng rã đã bảy năm đều không khất thực được gì, nhưng hôm qua gia nhân của ông bảo tôi hãy đến nhà khác, nên tôi nói là được", Bà la môn liền suy nghĩ: "chỉ nghe được một câu nói mà nói là có khất thực được, lành thay đây chính là người biết đủ, nếu được thức ăn uống chắc là rất hoan hỉ", nghĩ rồi liền vào nhà lấy phần thức ăn của mình dâng cúng và nói: "từ nay về sau, hằng ngày thầy cứ đến nhận phần thức ăn". Sau đó, Bà la môn thấy trưởng lão Hòa già bà có đầy đủ oai nghi nên sanh tâm hoan hỉ, nói với trưởng lão: "từ nay về sau, đại đức đừng đến khất thực nhà khác nữa, hãy đến đây thọ thỉnh thực luôn", trưởng lão im lặng thọ thỉnh. Từ ngày đó, hằng ngày sau khi thọ thực xong, trưởng lão dần dần chỉ dạy Phật pháp cho Bà la môn, nhưng vẫn chưa đủ duyên hóa độ Đế tu. Lúc đó Đế tu đã được mười sáu tuổi, đã học xong ba bộ Vệ đà của pháp Bà la môn, vốn từ cõi Phạm thiên thác sanh nên tánh ưa thích tịnh khiết, ghế của mình ngồi thì không muốn cho ai ngồi nên khi sắp đến chỗ thầy học, liền treo chiếc ghế này lên cất rồi mới đi. Trưởng lão Hòa già bà biết đã đến lúc có thể hóa độ Đế tu, nên khi vào nhà thọ thực liền dùng thần lực khiến cho Bà la môn không thấy các ghế khác trong nhà, chỉ thấy chiếc ghế treo cất của con trai. Bà la môn thấy trưởng lão đến, tìm không thấy ghế nào khác, đành phải lấy chiếc ghế treo cất của con mình xuống để mời trưởng lão ngồi. Khi Đế tu trở về, thấy trưởng lão Hòa già bà ngồi trên chiếc ghế của mình, trong lòng rất tức giận liền hỏi gia nhân là ai đã lấy ghế đó cho Sa môn ngồi, nhưng đến khi trưởng lão thọ thực xong thì Đế tu cũng nguôi giận. Trưởng lão nhân dịp này liền hỏi Đế tu đã học biết được những gì, Đế tu hỏi lại: "Sa môn có biết pháp Vệ đà không?", trưởng lão nói là không những thông đạt ba bộ Vệ đà; mà cho đến Càn thư, khải thư, y để ha tả... tất cả văn tự thảy đều phân biệt được. Đế tu liền đem những pháp còn ngờ, chưa thông hiểu ra hỏi và được trưởng lão giải thích tường tận. Giải thích xong, trưởng lão nói với Đế tu: "nảy giờ con đã hỏi nhiều rồi, đến lượt ta hỏi lại con một việc, con hãy trả lời", Đế tu đáp lành thay, trưởng lão liền hỏi về hai tâm sanh diệt: "tâm của ai đã sanh khởi mà không diệt, tâm của ai đã diệt mà không sanh khởi, tâm của ai khi diệt thì liền diệt, tâm của ai khi sanh khởi thì liền khởi?", Đế tu nghe rồi liền ngẩng nhìn lên trời lại cúi nhìn dưới đất mà không biết phải trả lời như thế nào, nên hỏi lại: "xin hỏi Sa môn, đây là nghĩa gì?", trưởng lão đáp: "đây là Vệ đà của Phật", Đế tu hỏi: "Sa môn có thể dạy cho con học được không?", đáp: "nếu con xuất gia thì có thể dạy cho con học được". Đế tu nghe rồi vui mừng đến nói với cha: "vị Sa môn ấy biết Vệ đà của Phật, con muốn học nhưng với hình thức thế tục thì Sa môn không chịu dạy, nếu xuất gia thì mới dạy cho con học", người cha suy nghĩ rồi mới nói với con: "lành thay cho con xuất gia, nhưng học xong rồi hãy mau trở về nhà", Đế tu cũng suy nghĩ: "ta học xong Vệ đà rồi sẽ trở về nhà". Trưởng lão Hòa già bà dẫn Đế tu về độ cho làm Sa di và dạy pháp hành thiền, chỉ trong thời gian ngắn, Sa di này liền đắc quả Tu đà hoàn. Trưởng lão suy nghĩ: "Sa di đã thấy được vết đạo thì không còn thích trở về nhà nữa, như hạt giống đã rang cháy thì không thể nẩy mầm được nữa, Sa di này cũng vậy. Nhưng nếu ta dạy thêm pháp thiền định sâu xa thì người này sẽ chứng quả A-la-hán và thích sống tịch tĩnh, không chịu học phật pháp nữa. Đã đến lúc ta đưa đến cho trưởng lão Chiên-đà-bạt-xà dạy học Phật pháp", nghĩ rồi liền bảo Sa di: "lành thay, con hãy đến chỗ trưởng lão Chiên-đà-bạt-xà để học Phật pháp, đến nơi con hãy bạch rằng: đại đức, thầy con sai con đến đây để học Phật pháp". Sau đó trưởng lão Chiên-đàbạt-xà dạy cho Đế tu học tất cả Phật pháp, trừ tạng luật; dạy xong mới cho thọ giới cụ túc, chưa đầy một năm Đế tu đã thông suốt tạng luật. Sau khi thông suốt hết ba tạng, Hòa thượng và A-xà-lê đem Phật pháp giao phó cho Đế tu rồi lần lượt nhập niết bàn; Đế tu chuyên tu thiền định, không bao lâu sau chứng quả A-la-hán và đem Phật pháp giáo hóa mọi người.
Lúc đó vua Tân Đầu Sa La có trăm người con, sau khi vua băng hà, trong vòng bốn năm, vua A Dục đã giết hết các anh em khác, chỉ còn một người em cùng mẹ sống sót; qua bốn năm, vua mới tự xưng vương, lúc đó là khoảng hai trăm mười tám năm từ sau khi Phật nhập niết bàn. Sau khi lên ngôi vua A Dục thống lĩnh bốn binh chinh phạt các nước ở cõi Diêm phù đề, oai thần của vua bao trùm đại địa lên tới hư không trong phạm vi một do tuần. Hằng ngày các quỷ thần ở ao A nậu đạt gánh đến mười sáu chum nước dâng cho vua, vua vì tín kính Phật pháp nên dâng cúng tám chum nước cho Tỳ-kheo tăng, hai chum cho vị thông ba tạng, hai chum cho phu nhân của vua, còn vua tự dùng bốn chum nước. Hằng ngày quỷ thần ở núi Tuyết đem dương chi mềm tên La đa dâng vua, vua ban dương chi này cho phu nhân cùng các thể nữ trong cung, cả thảy một vạn sáu ngàn người và sáu vạn Tỳ-kheo trong chùa. Lại có quỷ thần núi Tuyết dâng vua loại trái A ma lặc và Ha lê lặc có màu vàng ròng, hương vị rất hiếm có; lại có quỷ thần dâng vua trái Am một la chín; lại có quỷ thần dâng vua năm loại y phục màu vàng ròng, khăn tay, hương thoa và nước mật Hiền thánh; vua Hải long vương dâng vua thuốc trị mắt. Bên ao A nậu đạt có lúa thơm tự nhiên đã được chuột bóc sạch vỏ, lấy ra hạt gạo trắng sạch; hằng ngày chim Anh vũ mang gạo này đến dâng vua; ong mật làm tổ trong cung, hằng ngày dâng mật ong cho vua; lại có chim Ca lăng tần già thường bay đến cất tiếng hót hòa nhã làm vui lòng vua, vua có đầy đủ oai thần như vậy.
Một hôm vua mời Hải long vương đến, do rồng này sống thọ một kiếp nên trong quá khứ đã từng gặp bốn Phật; khi vua rồng đến, vua mời ngồi tòa sư tử có lọng trắng che phía trên với hương hoa cúng dường; vua lại cởi chuỗi ngọc đang đeo tặng cho vua rồng rồi nói với vua rồng:
"ta từng nghe Như lai có ba mươi hai tướng tốt nên rất muốn được nhìn thấy, vua rồng có thể hóa hiện thân Phật cho ta thấy được không?", vua rồng nghe rồi liền dùng thần lực biến hóa thành thân Như lai với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp và được trang nghiêm bằng các công đức vi diệu, có ánh hào quang chiếu xa một tầm như núi vàng rực rỡ, khiến cho tất cả mọi người đều nhìn không chán. Do nhìn thấy thân tướng Như lai nên vua phát lòng tín kính Phật pháp, bởi vì trong suốt ba năm từ khi lên ngôi, vua vì noi theo tín ngưỡng của vua cha là phụng sự ngoại đạo. Một hôm vua cúng dường các Bà la môn, thấy họ đang thọ thực mà cứ nhìn ngó hai bên, không giữ pháp dụng nên vua suy nghĩ: "ta sẽ tìm chọn những vị có đủ oai nghi pháp dụng để cúng dường", nghĩ rồi liền bảo các đại thần: "các khanh thấy có Sa môn, Bà la môn nào đáng cúng dường thì hãy thỉnh vào cung, ta sẽ cúng dường", các đại thần liền thỉnh các ngoại đạo Ni kiền tử... đến, vua cho sắp xếp chỗ ngồi cao thấp, đẹp xấu không giống nhau và mời họ ngồi, các ngoại đạo tùy theo sở thích của mình mà tìm chỗ ngồi, vua nhìn thấy rồi biết họ không đáng cúng dường nên sau khi họ thọ thực xong, vua không lưu giữ lại. Một hôm, vua đứng bên cửa sổ cung điện nhìn xuống thấy một Sa di đi ngang qua trước điện với oai nghi đỉnh đạc, vua liền hỏi cận thận là Sa di nào, cận thần đáp: "đó là Sa di Tân Cù Đà, cũng là con của Tu Ma Na, con trưởng của tiên vương".
Như trên đã nói sau khi vua Tân Đầu Sa La băng hà, vua A Dục từ nước Uất chi được vua cha phong trở về nước giết thái tử Tu Ma Na, cai quản nội cung, nắm giữ triều chính. Lúc đó vợ của Tu Ma Na đang mang thai được mười tháng, thay đổi y phục bỏ trốn ra ngoài, khi đến gần thôn Chiên đà la cách thành không xa, có thần cây đại thọ Nê của đà bảo thái tử phi đến gần, thọ thần hóa ra một cái nhà bảo bà vào trong đó ở, ngay trong đêm đó bà sanh hạ một trai và đặt tên cho con là Tân Cù Đà. Chủ thôn nhân việc này sanh cung kính và cung cấp cho bà mọi thứ như nô tỳ đối với chủ, thái tử phi ở nơi đây được bảy năm và Tân Cù Đà được bảy tuổi. Lúc đó có một vị A-la-hán tên Bà lưu na quán thấy Tân Cù Đà có duyên và đến lúc được hóa độ nên đến gặp thái tử phi xin cho Tân Cù Đà xuất gia, vương phi chấp thuận. Tôn giả dẫn về thế độ, khi tóc chưa rơi hết xuống đất, Tân Cù Đà đã chứng A-la-hán. Hôm đó Sa di sau khi cúng dường thầy xong, đắp y mang bát đi đến chỗ mẹ, vào cửa thành Nam, ngang qua trước cung điện để ra cửa thành Đông thì vua A Dục nhìn thấy.
Lúc đó vua suy nghĩ: "Sa di này oai nghi đĩnh đạc, ắt là có pháp lợi của bậc Thánh", nghĩ rồi sanh tín kính và khởi tâm từ bi, do trong đời quá khứ, Sa di này là anh của vua đã cùng vua tu công đức, như kệ nói:
"Do nhân duyên đời trước,
Đời này thấy hoan hỉ,
Như hoa Ưu bát la,
Trong nước liền nở hoa"
Vua liền bảo cận thần đi gọi Sa di đến, khi Sa di đến vua bảo tùy ý ngồi, Sa di ngồi vào tòa cao và đưa bát cho vua, vua sớt thức ăn dâng cho Sa di, đợi Sa di thọ thực xong, vua hỏi: "Sa di có biết hết lời thầy dạy hay không?", đáp là chỉ biết phần ít, vua nói: "lành thay, hãy nói cho tôi nghe", Sa di liền nói nửa bài kệ và chú nguyện cho vua:
"Sống không lười biếng là niết bàn,
Ai sống lười biếng là sanh tử".
Vua nói: "hằng ngày tôi sẽ cúng dường tám phần ăn", Sa di nói: "lành thay, tôi xin dâng cúng lại cho thầy", vua hỏi: "thầy của Sa di là ai?", đáp: "người không thấy có tội, nếu thấy có tội liền quở trách, đó là thầy tôi", vua nói: "vậy tôi cúng thêm tám phần ăn nữa", đáp: "lành thay, tôi xin dâng cúng lại cho A-xà-lê", vua hỏi A-xà-lê là ai, đáp: "người cùng ở trong thiện pháp, giáo thọ cho tôi biết, đó là A-xà-lê của tôi", vua nói: "lành thay, vậy tôi cúng thêm tám phần ăn nữa", đáp: "tôi xin dâng cúng lại cho Tỳ-kheo tăng", vua hỏi Tỳ-kheo tăng là ai, đáp: "là những vị mà thầy tôi, A-xà-lê của tôi và tôi y chỉ để được giới cụ túc", vua nghe rồi càng hoan hỉ nói: "nếu như vậy, tôi xin cúng thêm tám phần ăn nữa", đáp: "lành thay, tôi xin thọ hết". Sáng hôm sau, Sa di cùng ba mươi hai Tỳ-kheo tăng đến trong cung vua thọ thực, đợi thọ thực xong vua hỏi Sa di: "còn có Tỳ-kheo nào khác nữa không?", đáp là còn, vua nói: "nếu còn thì đưa thêm ba mươi hai vị nữa đến"; cứ như vậy số lượng Tỳ-kheo tăng dần cho đến sáu vạn vị, khiến cho các ngoại đạo mất sự cúng dường. Sau đó đại đức Tân Cù Đà giáo hóa khiến cho vua cùng nội cung và các quan đều thọ Tam quy ngũ giới, vua và mọi người càng tín kính gấp bội, không có thối chuyển. Một hôm, sau khi cúng dường tứ sự cho sáu vạn Tỳ-kheo tăng xong, vua hỏi: "các đại đức, pháp của Phật gồm bao nhiêu loại?", đáp: "có chín phần pháp, tổng cộng có đến tám vạn bốn ngàn pháp tụ", vua nghe rồi liền cho xây cất chùa lớn tên là A Dục để cho Tỳ-kheo tăng ở và hằng ngày cúng dường sáu vạn vị, lại bỏ ra chín mươi sáu ức ngân tiền, sai sứ đem đến đưa cho tám vạn bốn ngàn vua của các nước thần phục, bảo mỗi nước xây một chùa và một tháp để cúng dường pháp tụ. Lúc đó Tỳ-kheo tăng biết vua muốn xây chùa lớn A Dục nên sai một Tỳ-kheo tên Nhân đà quật đa, là bậc A-la-hán lậu tận có đại thần lực làm tổng tri sự trông coi việc xây cất chùa, vị này thấy chùa xây chỗ nào còn khiếm khuyết liền dùng thần lực của mình làm cho thêm hoàn hảo. Với kinh phí của vua và với thần lực của vị A-la-hán, sau ba năm ngôi chùa hoàn thành; các nước khác sau khi xây chùa xong cùng đến báo cho vị tễ tướng biết, tễ tướng tâu vua, vua nghe rồi khen lành thay và ra lịnh đánh trông tuyên bố bảy ngày sau sẽ mở hội đại thí, dân chúng trong ngoài nước đều nên thọ bát quan trai giới cho thân tâm trong sạch. Đến ngày thứ bảy, dân chúng tề tựu đến dự hội, chúng tăng có đến tám ức, Tỳ-kheo-ni có đến chín mươi sau vạn, lúc đó trong chúng có một vạn A-la-hán, các Tỳ-kheo suy nghĩ: "chúng ta nên dùng thần lực làm cho vua thấy được công đức mà mình đã làm, vua thấy rồi sẽ làm cho Phật pháp được hưng thịnh", nghĩ rồi các Tỳ-kheo đồng loạt dùng thần lực làm cho vua thấy được tất cả các chùa tháp đã tạo và thấy tất cả công đức do bố thí cúng dường của vua, vua nhìn thấy rồi trong lòng hoan hỉ liền hỏi chúng tăng: "Trẫm nay mở hội đại thí cúng dường với lòng hoan hỉ như vậy, xin hỏi có ai được như con không?", Mục kiền liên đế tu đáp: "khi Phật còn tại thế cũng không có ai bố thí cúng dường hơn vua", vua nghe rồi rất hoan hỉ liền suy nghĩ: "trong Phật pháp, bố thí cúng dường cũng không có ai hơn ta, ta nên hộ trì Phật pháp như con yêu mến cha", nghĩ rồi liền hỏi chúng tăng: "Trẫm làm công đức như thế, xin hỏi đã vào được trong Phật pháp chưa?", Mục kiền liên đế tu nghe vua hỏi, bỗng nhìn thấy vương tử Ma hê đà đứng bên cạnh vua, quán thấy đã đủ nhân duyên liền suy nghĩ: "nếu vương tử này xuất gia thì sẽ làm cho Phật pháp hưng thạnh", nghĩ rồi liền đáp lời vua: "tuy đại vương làm được công đức như thế nhưng vẫn chưa vào được trong Phật pháp, vì sao, vì dù có người đem bảy báu chất cao lên đến cõi Phạm thiên để bố thí, cũng vẫn chưa vào được trong Phật pháp", vua hỏi: "làm thế nào để được pháp phần?", đáp: "người dù giàu hay nghèo, nếu cho con ruột của mình xuất gia thì sẽ được vào trong Phật pháp", vua nghe rồi suy nghĩ: "em ta là Đế tu đã xuất gia, con ta Ma hê đà nên lập làm thái tử, nhưng lập con ta làm thái tử là tốt hay cho xuất gia là tốt", nghĩ rồi liền hỏi Ma hê đà: "con có thích xuất gia không?", Ma hê đà khi thấy chú mình là Đế tu đã xuất gia, cũng muốn xuất gia, nay nghe vua cha hỏi như vậy rất vui mừng tâu với vua rằng: "con rất muốn, nếu con xuất gia, đại vương sẽ được pháp phần trong Phật pháp", vua lại hỏi vương nữ đang đứng cạnh Ma hê đà, tên Tăng già mật đa rằng: "con có thích xuất gia không?", đáp là muốn, vua nói: "nếu con thích thì tốt lắm", biết tâm ý của hai con rồi, vua bạch Tăng: "xin các đại đức độ cho hai con của Trẫm xuất gia, để Trẫm được pháp phần trong Phật pháp".
Lúc đó chúng tăng cử Mục kiền liên đế tu làm Hòa thượng, Ma ha Đề ba làm A-xà-lê để truyền thọ mười giới, Mạt xiển đề làm A-xà-lê để truyền thọ giới cụ túc cho Ma hê đà, ngay trên đàn giới Ma hê đà được lậu tận chứng quả A-la-hán, đầy đủ ba đạt trí và sáu thần thông. Hòa thượng của Tăng già mật đa là Đàm ma ba la, A-xà-lê là A do ba la để truyền trao sáu pháp cho Tăng già mật đa. Khi học kinh luật với thầy, Ma hê đà thảy đều tổng trì tất cả Phật pháp trong ba tạng, đứng đầu trong một ngàn bạn đồng học.
Vua A Dục lên ngôi được chín năm, lúc đó có Tỳ-kheo Đế tu Câu đa tử bịnh nặng, mang bát đi xin thuốc nhưng chỉ được một miếng bơ nên bịnh càng nặng thêm, khi sắp qua đời, vị này nhắn nhủ các Tỳ-kheo: "sống trong ba cõi, cẩn thận chớ lười biếng", nói xong liền bay lên không trung, tự hóa ra lửa thiêu thân mà nhập niết bàn. Vua nghe được tin này liền suy nghĩ: "ở trong nước của ta mà Tỳ-kheo lại không xin được thuốc", nghĩ rồi vua liền cho lập những kho chứa dược liệu để cấp thuốc tại bốn cửa thành. Ở bốn hướng cửa thành thuộc nước Ba tra lợi phất có bốn ngàn nhà khách, hằng ngày đem nộp cho vua năm ngàn tiền; vua dùng một ngàn cúng cho đại đức Ni cù đà dùng để cúng dường hương hoa cho chùa tháp, một ngàn cung cấp cho pháp đường, một ngàn cúng cho các luật sư, một ngàn cúng cho chúng tăng, và một ngàn cho bốn kho thuốc ở bốn cửa thành. Lúc đó Phật pháp hưng thạnh, ngoại đạo suy vi và mất lợi dưỡng nên họ lạm nhập vào trong Phật pháp làm Sa môn, vẫn giữ theo pháp của ngoại đạo để giáo hóa mọi người, cho đó là pháp là luật muốn làm hoại Phật pháp; do không theo pháp luật của Phật nên oai nghi tấn chỉ của họ thảy đều không đúng pháp, đến ngày bố tát mới đến nhóm họp, nhưng các thiện Tỳ-kheo không chịu cùng họ làm bố tát, kéo dài như thế cho đến bảy năm. Mục kiền liên đế tu thấy việc này rồi liền suy nghĩ: "tránh pháp đã phát sanh, không bao lâu nữa sẽ lớn mạnh, nếu ta ở trong Tăng thì sẽ không diệt được tránh pháp này", nghĩ rồi liền giao phó các đệ tử cho Ma hê đà, một mình vào trong núi A hô đà để sống ẩn cư. Lúc đó vua A Dục nghe biết việc này liền sai đại thần đến trong chùa A Dục khuyên chúng tăng nên diệt trừ tránh pháp để hòa hợp thuyết giới, đại thần tuân lịnh vua đến trong chùa khuyên nhưng chúng tăng không ai thuận theo. Đại thần trở về hỏi ý kiến vị cận thần, vị này nói: "tôi thấy khi vua đi chinh phục các nước, nếu ai không thuận theo thì giết chết, việc này Ngài cũng nên làm như thế", đại thần nghe rồi liền đến trong chùa khuyên lần nữa, Thượng tòa trong Tăng nói: "các thiện Tỳ-kheo không chịu bố tát cùng các Tỳ-kheo ngoại đạo, chớ không phải không tùy thuận lịnh vua", đại thần nghe rồi liền giết hết từ Thượng tòa trở xuống, đến Tỳ-kheo Đế tu là em của vua thì ngừng giết.
Trước khi xuất gia Đế tu được vua A Dục lập làm thái tử, một hôm vào rừng du ngoạn nhìn thấy các con Nai giao hợp với nhau liền suy nghĩ: "các con Nai này ăn cỏ uống nước lã mà còn như vậy, huống chi các Tỳ-kheo ở trong chùa được cúng dường đầy đủ, sao lại không có việc này", nghĩ rồi liền trở về tâu vua biết ý nghĩ của mình, vua nghe rồi liền suy nghĩ: "điều không nên nghi ngờ mà lại nghi ngờ". Một hôm thái tử Đế tu vô ý xúc phạm vua khiến vua nổi giận nói rằng: "Trẫm cho khanh lên ngôi vua trong bảy ngày rồi sẽ giết chết", trong bảy ngày làm vua, tuy hưởng thụ đầy đủ ngũ dục lạc nhưng tâm trạng thái tử không lúc nào an nên thân thể tiều tụy vì lo sợ. Sau bảy ngày, vua hỏi Đế tu vì sao tiều tụy như thế, liền đáp: "thần luôn sống trong lo sợ bị cái chết bức bách nên mới như thế", vua nói: "khanh biết bảy ngày nữa mới chết mà con lo sợ như vậy, huống chi các Tỳ-kheo luôn lo sợ vô thường trong từng hơi thở thì tâm ý đâu còn dính mắc gì", Đế tu nghe rồi liền phát sinh lòng tin đối với Phật pháp. Một hôm thái tử Đế tu đi săn đến nơi A lan nhã, thấy có một Tỳ-kheo tên Đàm vô đức đang ngồi, có con voi dùng vòi bẻ một nhánh cây để quạt cho Tỳ-kheo này; thái tử thầy rồi liền suy nghĩ: "đến bao giờ ta mới được như Tỳ-kheo kia". Tỳ-kheo Đàm vô đức biết được tâm niệm của thái tử nên dùng thần lực bay lên không trung làm cho thái tử nhìn thấy, kế hạ thân xuống ngồi trên mặt nước ao trong chùa A Dục, thái tử thấy việc này rồi liền phát tâm xuất gia. Trở về cung liền xin vua cho xuất gia, vua nghe rồi kinh ngạc nói: "trong cung có mỹ nữ với đầy đủ các món ăn trăm vị thơm ngon, vì sao khanh lại muốn xuất gia?", vua đủ cách khuyên ngăn nhưng thái tử đã quyết ý không thay đổi, nói rằng: "hưởng thọ ngũ dục lạc trong cung chỉ là tạm thời, có hội họp ắt sẽ chia ly", vua khen lành thay rồi ra lịnh quét dọn trang hoàng đường sá để dưa tiễn thái tử đến chùa xuất gia. Lúc đó chúng tăng thấy thái tử xuất gia thảy đều vui mừng, có người chuẩn bị sẵn ba y và bát cho thái tử, thái tử vào chùa đến thiền phòng của Tỳ-kheo Đàm vô đức cầu xin xuất gia. Lúc đó có một ngàn đồng tử con nhà hào quý thấy thái tử xuất gia cũng xuất gia theo, dân chúng thấy việc này rồi liền suy nghĩ: "thái tử tôn quý như thế mà còn bỏ ngôi vua để xuất gia tu đạo, chúng ta nghèo hèn thì có gì phải lưu luyến", do nghĩ như vậy nên có vô số người cũng xin xuất gia theo. Cháu ngoại của vua tên là A kỳ thấy thái tử xuất gia cũng đến xin vua cho xuất gia theo, vua khen ngợi và cho được xuất gia cùng ngày với thái tử, do có nhiều người thuộc dòng Sát đế lỵ xuất gia nên Phật pháp lúc đó rất hưng thạnh.
Lúc đó Tỳ-kheo Đế tu nói với quan đại thần: "do quan hiểu sai ý của vua nên đã giết oan các Tỳ-kheo", quan đại thần liền trở về tâu lại vua: "thần phụng mệnh vua đến trong chùa khuyên các Tỳ-kheo nên hòa hợp thuyết giới nhưng họ không thuận theo, y cứ theo tội này nên thần đã giết chết hết, nhưng đến Tỳ-kheo Đế tu là em của vua nên ngừng giết, vậy xin hỏi vua có nên giết luôn cả Tỳ-kheo Đế tu không?", vua vừa nghe lời này liền kinh hãi ngã ngất xỉu, sau khi được rưới nước tỉnh lại, vua nói: "than ôi, ta sai khanh đến trong chùa khuyên chúng tăng hòa hợp thuyết giới, sao khanh lại tự tiện giết chết họ?". Sau đó vua đích thân đến chùa bạch Tăng: "trước đây Trẫm có sai một vị quan đến khuyên chư Tăng hòa hợp thuyết giới, vị quan này hiểu sai ý Trẫm nên đã tự tiện giết oan các Tỳ-kheo, không biết tội này thuộc về ai?", một Tỳ-kheo nói: "do vua sai nên tội thuộc về vua", một vị nói cả hai đều có tội, lại có một vị hỏi vua: "khi vua sai đi khuyên, vua có tâm giết không?", vua nói: "khi Trẫm sai đi khuyên là có tâm làm công đức, không có tâm giết", vị kia nói: "vậy thì vua không có tội mà người giết có tội", vua nghe rồi sanh tâm nghi nên hỏi các Tỳ-kheo: "ai có thể nghi hối cho Trẫm, nếu người nào trừ được nghi hối của Trẫm, Trẫm sẽ kiến lập lại Phật pháp", các Tỳ-kheo đáp là có đại đức Mục kiền liên đế tu. Vua liền phái bốn pháp sư, mỗi vị có một ngàn Tỳ-kheo tùy tùng; lại sai bốn đại thần, mỗi vị có một ngàn tùy tùng cùng đi đến núi A hô hà thỉnh đại đức Mục kiền liên đế tu. Đến nơi, họ nói là vua cho gọi Đế tu nên Đế tu không đi; vua lại phái thêm hai đoàn người nữa đến thỉnh, đến nơi họ cũng nói vua cho gọi nên Đế tu không đi. Vua chờ đợi lâu ngày không thấy nên hỏi các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo nói: "sợ người đến thỉnh nói sai ý của vua nên vị ấy không chịu đi", vua hỏi: "vậy nên thỉnh như thế nào mới chịu đi", đáp: "nên nói là Phật pháp đã bị mai một, xin đại đức chiếu cố đến gặp vua để cùng kiến lập lại Phật pháp", vua nghe rồi liền phái mười sáu pháp sư cùng mười sáu đại thần cùng tùy tùng đến thỉnh lần nữa, lại hỏi chư Tăng vị ấy già hay trẻ, đáp là già, lại hỏi nên đón bằng kiệu hay bằng thuyền, đáp là nên đón bằng thuyền. Phái đoàn đến thỉnh và nói lại lời thỉnh trên, Đế tu nghe rồi liền nói: "tôi xuất gia là vì Phật pháp, nay đã đúng thời", nói rồi thu xếp hành lý để cùng lên đường. Đêm đó vua A Dục nằm mộng thấy có voi trắng đến, dùng voi chạm vào đầu vua, kéo lấy tay vua. Vua tỉnh dậy liền hỏi các tướng sư là điềm lành hay dữ, một tướng sư nói: "là điềm lành, người nắm tay vua là bậc long tượng Sa môn", lúc đó vua liền được tin báo là Sa môn Đế tu đã đến, vua ra ngoài thành nghinh đón, vua đích thân lội xuống nước ngập đến đầu gối và đưa tay đón đại đức lên bờ, Đế tu liền đưa tay nắm tay vua; cận thần của vua muốn rút gươm chém, vì theo vương pháp của vua, ai chạm vào người của vua sẽ bị chém đầu. Lúc đó vua thấy bóng kiếm trong nước nên quay đầu lại nói: "than ôi, trước đây ta sai đại thần đến khuyên chúng tăng hòa hợp thuyết giới, vì hiểu sai ý của ta nên giết oan các Tỳ-kheo, nay lại muốn gây tội cho ta nữa hay sao?", vua thỉnh Đế tu đến ở tại một trú xứ trong vườn, đích thân cung phụng và suy nghĩ: "nếu vị này trừ được nghi hối cho ta thì cũng trừ được pháp tránh để kiến lập lại Phật pháp", nghĩ rồi liền nói với Đế tu: "Trẫm muốn được thấy thần thông lực của đại đức", Đế tu hỏi vua muốn thấy điều gì, đáp là muốn thấy mặt đất chấn động, lại hỏi: "vua muốn thấy chấn động một bên hay chấn động tất cả?", vua hỏi làm điều nào khó hơn, Đế tu nói: "ví như cái mâm đồng đựng đầy nước, có người lay động mâm, cả mâm nước lay động là khó hay phân nửa động là khó?, vua đáp phân nữa động là khó và muốn thấy phân nửa mặt đất chấn động, Đế tu nói: "trong phạm vi bốn do tuần, phương Đông để xe, phương Nam để ngựa, phương Tây để người, phương Bắc để mâm nước sao cho người, ngựa xe và mâm nước ở nửa trong nửa ngoài trên bốn ranh giới", vua nghe rồi liền cho làm theo lời, Đế tu nhập thiền thứ tư rồi xuất thiền dùng thần lực làm cho bên ngoài bốn ranh giới đều chấn động nhưng bên trong bốn ranh giới đều không có chấn động. Vua thấy việc này rồi trong lòng rất hoan hỉ liền hỏi Đế tu: "trước đây Trẫm có sai đại thần đến chùa khuyên chư Tăng hòa hợp thuyết giới, chư Tăng không thuận theo lời nên đại thần đã giết các Tỳ-kheo, tội này thuộc về ai?", Đế tu hỏi vua có tâm giết không, vua đáp là không có tâm giết, Đế tu nói: "nếu không có tâm giết thì vua không có tội", Đế tu liền nói kinh Bổn sanh cho vua nghe: "trong kinh Phật bảo các Tỳ-kheo rằng phải có tâm toan tính trước mới tạo thành nghiệp, tất cả nghiệp đã làm đều do tâm. Thuở xưa có một con chim Giá cô bị bắt nhốt trong lồng, nó lo sợ nên kêu cứu, đồng loại của nó nghe đều tụ đến để cứu và đều bị giết. Giá cô hỏi đạo sĩ là mình có tội không, đạo sĩ hỏi khi kêu cứu có tâm muốn giết đồng loại của mình không, Giá cô đáp là không có, đạo sĩ nói nếu không có tâm giết thì không có tội và nói kệ:
"Làm nhưng không thành nghiệp,
Thành nghiệp ắt do tâm,
Người thiện nhiếp giữ tâm,
Nên không có phạm tội."
Đế tu dùng nhiều phương tiện giải thích cho vua hiểu rồi ở lại trong vườn bảy ngày để chỉ dạy cho vua phân biệt thế nào là luật, là phi luật; thế nào là pháp, là phi pháp; thế nào là như lời Phật dạy và không phải là lời Phật dạy. Sau bảy ngày vua cho làm ngăn che nhiều nơi, những người đồng kiến đều tập trung vào một nơi, những người dị kiến tập trung vào một nơi khác; trong mỗi nơi tuần tự một Tỳ-kheo đi ra gặp vua để vua gạn hỏi Phật pháp là gì, nếu đáp là thường hoặc là đoạn, hoặc là phi tưởng, hoặc là phi phi tưởng... thì vua biết họ không phải là chân thật Tỳ-kheo, mà là ngoại đạo Tỳ-kheo. Sau khi biết rồi, vua liền bắt họ hoàn tục mặc lại y phục trắng của thế tục; nếu đáp là pháp mà Phật phân biệt thuyết giảng thì mới là chân thật Tỳ-kheo và vua yêu cầu những Tỳ-kheo thanh tịnh đồng kiến này nên hòa hợp thuyết giới bố tát rồi ra về. Sau khi vua ra về, sáu vạn Tỳ-kheo thanh tịnh đồng kiến với Mục kiền liên đế tu là Thượng tòa chọn ra một ngàn Tỳ-kheo thông ba tạng, chứng ba đạt trí để kết tập lại pháp tạng, giống như tôn giả Đại Ca Diếp cùng năm trăm Tỳ-kheo trong lân kết tập thứ nhất và tôn giả Tu na câu cùng bảy trăm Tỳ-kheo trong lần kết tập thứ hai. Lần kết tập pháp tạng lần thứ ba với một ngàn Tỳ-kheo được hoàn mãn vào tháng chín, lúc đó mặt đất chấn động sáu cách.
Hỏi: trong ba lần kết tập pháp tạng, ai là luật sư trong cõi Diêm phù đề này?
Đáp: có tất cả năm luật sư truyền trì Luật tạng cho nhau; đó là Ưu ba ly, Đà tả câu, Tu na câu, Tất già bà và Mục kiền liên đế tu. Mục kiền liên đế tu sắp nhập niết bàn truyền trì tạng Luật cho đệ tử là Ma hê đà, con trai của vua A Dục; Ma hê đà... tất cả năm luật sư cùng đi đến trong nước Sư tử truyền bá luật tạng. Năm luật sư gồm có Ma hê đà, Nhất địa du, Uất đế du, Tham bà lầu và Bạt đà sa; Ma hê đà khi sắp nhập niết bàn truyền trao lại cho đệ tử là A lật tra. Từ A lật tra tuần tự truyền trì Luật tạng cho nhau tại nước Sư tử, có tất cả là mười bảy vị luật sư đều là bậc Lậu tận A-la-hán, trí huệ thần thông vô ngại và chứng ba đạt trí: một là Đế tu đạt đa, hai là Già la tu mạt na, ba là Địa già na, bốn là Tu mạt na, năm là Già la tu mạt na, sáu là Đàm vô đức, bảy là Đế tu, tám là Đế bà, chín là Tu mạt na, mười là Chuyên na già, mười một là Đàm vô bà ly, mười hai là Xí ma, mười ba là Ưu ba đế tu, mười bốn là pháp phả, mười lăm là A bà da, mười sáu là Đế bà, mười bảy là Tư bà.
Lúc đó, tôn giả Mục kiền liên đế tu suy nghĩ: "trong đương lai, Phật pháp sẽ trụ lâu ở nơi đâu?", nghĩ rồi liền dùng thần thông lực quán thấy Phật pháp sẽ hưng thịnh ở nơi biên địa. Quán biết rồi liền nhóm tăng bảo các Tỳ-kheo: "các vị hãy đem Phật pháp truyền bá ở các nơi biên địa", nói rồi liền sai chín phái đoàn, mỗi đoàn có năm vị làm quyến thuộc cùng đi đến các nơi biên địa để truyền bá Phật pháp:
-Phái đoàn của đại đức Mạt xiển đề đi đến nước Kế tân Kiền đà la tra.
-Phái đoàn của đại đức Ma ha Đề bà đi đến nước Ma ê bà mạt đà la.
-Phái đoàn của đại đức Lặc khí đa đi đến nước Ba na bà tu.
-Phái đoàn của đại đức Đàm vô đức đi đến nước A ba lan đa ca.
-Phái đoàn của đại đức Ma ha Đàm vô đức đi đến nước Ma-ha-lặc tra.
-Phái đoàn của đại đức Ma-ha-lặc khí đa đi đến thế giới Dược xoa na.
-Phái đoàn của đại đức Mạt thị ma đi đến nước bên núi Tuyết sơn.
-Phái đoàn của đại đức Tu na ca, Uất đa ca.. đi đến nước Kim địa.
-Phái đoàn của đại đức Ma hê đà, Uất đế du... đi đến nước Sư tử.
Lúc đó tại nước Kế tân, có long vương A la bà lầu làm mưa lớn khiến cho tất cả ruộng lúa đang kết hạt trong nước này bị ngập nước và trôi ra biển. Phái đoàn của đại đức Mạt xiển đề từ nước Ba tra lợi phất, phải nương hư không đi đến Tuyết sơn rồi dùng thần lực đi đứng nằm ngồi trên ao A la bà lầu. Quyến thuộc của long vương vào tâu, long vương nghe rồi liền tức giận ra khỏi cung rồng, ở trên không trung hiện đủ loại thần biến để làm cho các Tỳ-kheo này phải sợ hãi; như là gió bão, sấm chớp, mưa to làm cho cây cối ngã nghiêng, núi đá sụp lở. Quyến thuộc của Long vương cũng phun khói lửa và mưa đá... nhưng vẫn không hàng phục được các Tỳ-kheo này. Lúc đó đại đức Mạt xiển đề cùng các Tỳ-kheo dùng thần lực trấn áp được các rồng rồi nói: "này Long vương, dù cho người có dùng đủ loại thần biến và tập họp tất cả quyến thuộc lại cũng không xâm phạm được ta", long vương nghe rồi biết là không làm gì được nên đứng yên, Mạt xiển đề biết tâm niệm của vua rồng liền đem pháp cam lồ ra giáo hóa làm cho vua rồng và tám vạn quyến thuộc thảy đều thuần phục và thọ Tam quy ngũ giới; cho đến các loài Dược xoa, Cưu bàn trà... ở Tuyết sơn cũng đều thọ Tam quy ngũ giới. Mạt xiển đề lại khuyên vua rồng và các loài Dược xoa... từ nay trở đi chớ nổi giận phá hại mùa màng, nên khởi tâm từ bi làm cho chúng sanh được an vui; vua rồng vâng theo lời dạy và mở hội cúng dường. Lúc đó dân chúng trong nước Kế tân nghe biết tin này đều tụ đến đảnh lễ các Tỳ-kheo, Mạt xiển đề thuyết giảng kinh Tục thí dụ khiến cho trong pháp hội có tám vạn chúng sanh đắc đạo quả và ngàn người xuất gia, từ đó về sau trong nước Kế tân sáng rực màu ca sa, như kệ nói:
"Nước Kế tân kiền đà, Tôn giả Mạt xiển đề... Giáo hóa vua rồng dữ, Thọ Tam quy ngũ giới, Và làm cho nhiều người,
Được thoát khỏi triền phược, Tám vạn được Pháp nhãn, Và ngàn người xuất gia".
Tại nước Ma ê bà mạt đà la, phái đoàn của đại đức Ma ha Đề bà thuyết giảng kinh Thiên sứ khiến cho bốn vạn người đắc đạo và đều xuất gia, như kệ nói:
"Ma ha Đề bà... Có
thần thông lực, Chứng ba
đạt trí, Thuyết kinh Thiên
sứ, Độ thoát chúng sanh,
Bốn vạn được Pháp nhãn".
Tại nước Bà na ba tư, phái đoàn của đại đức Lặc khí đa dùng thần lực ở trên không trung thuyết kinh Vô thỉ khiến cho sáu vạn người được Pháp nhãn, bảy vạn người xuất gia và kiến lập được năm trăm ngôi chùa ở trong nước này, như kệ nói:
"Đại đức Lặc khí đa...
Có đại thần thông lực,
Đến Ba na ba tư,
Ngồi ở trên không trung,
Thuyết giảng kinh Vô thỉ,
Sáu vạn được Pháp nhãn,
Bảy ngàn người xuất gia,
Kiến lập năm trăm chùa".
Tại nước A ba lan đa, phái đoàn của đại đức Đàm vô đức thuyết kinh Hỏa tụ dụ khiến cho sáu vạn người được Pháp nhãn, được vị cam lồ, thanh thiếu nữ dòng Sát đế lợi xuất gia đến ngàn người, như kệ nói:
"Đại đức Đàm vô đức...
Có đại thần thông lực,
Đến A bà lan đa,
Thuyết kinh Hỏa tụ dụ,
Sáu vạn được Pháp nhãn,
Được pháp vị cam lồ,
Độ ngàn Tỳ-kheo tăng,
Và ngàn Tỳ-kheo-ni".
Tại nước Ma-ha-lặc tra, phái đoàn của đại đức Ma ha Đàm vô đức thuyết kinh Ma ha na la đà Ca Diếp bổn sanh, khiến cho tám vạn bốn ngàn người được đạo quả, ba ngàn người xuất gia, như kệ nói:
"Đại đức Ma ha Đàm...
Có đại thần thông lực,
Đến Ma-ha-lặc tra,
Thuyết Ca Diếp bổn sanh,
Hơn tám vạn đắc đạo,
Ba ngàn người xuất gia".
Tại nước Du na thế giới, phái đoàn của đại đức Ma-ha-lặc khí đa thuyết kinh Ca la ma, khiến cho bảy vạn ba ngàn đắc đạo, một ngàn người xuất gia, như kệ nói:
"Ma-ha-lặc khí đa...
Có đại thần thông lực,
Đến trong nước Du na,
Thuyết kinh Ca la ma,
Hơn bảy vạn đắc đạo,
Một ngàn người xuất gia".
Tại nước ở bên Tuyết sơn, phái đoàn của đại đức Mạt thị ma, Ca Diếp, Đề bà... thuyết kinh Sơ chuyển pháp luân, khiến cho tám ức người đắc đạo, năm ngàn người xuất gia, như kệ nói:
"Đại đức Mạt thị ca...,
Có đại thần thông lực,
Đến nước bên Tuyết sơn,
Thuyết Sơ Chuyển pháp luân,
Tám ức người đắc đạo,
Năm ngàn người xuất gia".
Tại nước Kim địa, khi phái đoàn của đại đức Tu na ca đến thì trong nước đã có một Dược xoa nữ từ trong biển hiện đến trong vương cung, nếu phu nhân của vua sanh con thì Dược xoa nữ này sẽ bắt đứa trẻ ấy ăn thịt. Lúc đó phu nhân vừa sanh một bé trai nên vừa thấy các Tỳ-kheo đến liền rất sợ hãi, cho là bạn của Dược xoa nữ nên sai quân binh đến vây đánh; Tu na ca hỏi rõ nguyên do rồi đáp: "ta không phải là bạn của Dược xoa nữ, chúng tôi là Sa môn đã từ bỏ việc giết hại, tu mười thiện nghiệp dõng mãnh tinh tấn". Lúc đó Dược xoa nữ nghe tin phu nhân của vua đã sanh con nên cùng tùy túng đến trong cung, thấy họ đến, người trong cung liền báo cho Tu na ca biết, Tu na ca liền hóa một số đông Dược xoa khác gấp đôi đến bao vây bọn Dược xoa nữ, các Dược xoa nữ cho là bọn Dược xoa này đã chiếm nước, muốn vây bắt chúng nên sợ hãi vội bỏ chạy, số hóa Dược xoa rượt đuổi theo cho khi chúng khuất bóng mới dừng lại. Tu na ca lại tụng kinh chú nguyện để phòng hộ đất nước này, không cho bọn Dược xoa nữ đến xâm phạm và thuyết kinh Phạm võng khiến cho sáu vạn người đắc đạo và rất nhiều người thọ Tam quy ngũ giới; ba ngàn năm trăm người xuất gia làm Tỳ-kheo tăng và một ngàn năm trăm làm Tỳ-kheo-ni, như kệ nói:
"Đại đức Tu na ca,
Tỳ-kheo Uất đa ca...
Có đại thần thông lực,
Đi đến nước Kim địa,
Thuyết giảng kinh Phạm võng,
Sáu vạn người đắc đạo,
Ba ngàn năm trăm Tăng,
Một ngàn năm trăm Ni".
Khi đại đức Ma hê đà được Tăng sai đến nước Sư tử liền suy nghĩ có nên đi vào lúc này hay không; sau khi nhập định quán sát liền biết vua nước A nậu la đà là Văn trà tư ba đã già yếu, không thể tiếp nhận sự giáo hóa, nếu đến vào lúc này thì Phật pháp không thể trụ lâu. Quán biết rồi liền không đi ngay, đợi đến khi thái tử lên ngôi mới đến đó truyền bá Phật pháp; trong khoảng thời gian đó
Ma hê đà muốn về quê ngoại để thăm viếng mẹ.
Sau khi đến đảnh lễ bổn sư, phái đoàn của đại đức Ma hê đà đi đến nước của mẹ Ma hê đà trước rồi sau đó mới đến nước Sư tử. Do trước kia, khi vua A Dục được phong ở nước Uất chi, trên đường đi đến nước đó có ghé qua thôn Tỳ đề tả dưới chân núi Nam sơn, được một trưởng giả đem con gái gả cho vua làm vợ và sanh được một trai là Ma hê đà; khi Ma hê đà lên mười bốn tuổi, vua A Dục trở về nước của cha và lên ngôi vua ở đó, vợ còn ở tại thôn Tỳ đề tả nước Uất chi. Mẹ của Ma hê đà nghe tin liền ra nghinh đón, thỉnh thọ thực và lập một ngôi chùa lớn tên Tỳ địa tả cho các Tỳ-kheo trụ. Một thời gian sau, Ma hê đà lại suy nghĩ: "hãy đợi đến khi vua A Dục sai sứ đến nước Sư tử sắc phong cho thái tử Thiên ái Đế tu lên ngôi và đợi đến khi vua này xuất du đến núi Mi sa già, ta mới gặp vua", đến ngày 15 tháng tư sau khi thuyết giới bố tát xong, phái đoàn của đại đức Ma hê đà lên đường đến nước Sư tử, như kệ nói:
"Đại đức Ma hê đà,
Đại đức Uất địa du,
Đại đức Uất đế du,
Đại đức Bạt đà da,
Đại đức Tham bà lầu,
Sa di Tu Ma Na,
Đều chứng ba đạt trí.
Thiện nam Bàn đầu ca,
Đã thấy được vết đạo (kiến đế),
Đây là các đại sĩ".
Khi vua Văn trà tư bà qua đời, thái tử Thiến ái Đế tu lên nối ngôi, vua trời Đế thích liền hiện đến báo cho Ma hê đà biết và nói: "khi Phật còn tại thế có dự ký sau này có Tỳ-kheo Ma hê đà sẽ làm cho Phật pháp được hưng thạnh tại nước Sư tử. Nay đã đúng lúc nên lên đường", lúc đó phái đoàn của đại đức Ma hê đà từ núi Voi ở Tỳ địa tả nương hư không đi đến nước Sư tử, khi đến núi My sa ca thì hiện xuống nên núi này cũng được gọi là núi Voi, như kệ nói:
"Tại thôn Tỳ địa tả,
Dừng trụ ba mươi ngày,
Đã đến lúc lên đường,
Đi đến nước Sư tử.
Từ cõi Diêm phù đề,
Nương hư không mà đi,
Như nhạn bay trên không,
Thẳng hàng theo thứ lớp.
Các đại đức như thế,
Khởi nhân duyên căn bản,
Núi My sa phương Đông,
Như mây đen bao phủ,
Bay đến trên đỉnh núi,
Họ nhẹ nhàng hiện xuống".
Lúc phái đoàn của đại đức Ma hê đà đến nước Sư tử là vào khoảng hai trăm ba mươi sáu năm sau
Phật nhập niết bàn. Khi Phật nhập niết bàn thì vua A Xà Thế lên ngôi được tám năm, còn đồng tử Sư tử vừa lên ngôi ở nước Sư tử; khi đồng tử Tỳ xà na đến nước Sư tử kiến lập chỗ ở an ổn cho dân chúng thì vua Uất đà da bạt đà la lên ngôi vua được mười bốn năm tại cõi Diêm phù đề, qua năm sau thì Tỳ xà na qua đời; tại nước Sư tử Bán đầu đề tu đề bà lên ngôi vua thì tại cõi Diêm phù đề, Nan đà ca trục tả ca lên ngôi vua; sau khi vua Bán đầu đề tu đề bà qua đời thì A bà na lên nối ngôi, tại cõi Diêm phù đề vua Tu tu phật na ca làm vua được mười bảy năm; A bà na làm vua được hai mươi năm thì Bà quân trà ca bà da khởi binh đánh chiếm và lên ngôi vua trị vì được mười tám năm thì tại cõi Diêm phù đề, vua Ca A Dục trị vì cũng được mười sáu năm; khi vua Bà quân trà ca bà da qua đời và Văn trà tư ba lên nối ngôi thì tại cõi Diêm phù đề, vua Chiên đà quật đa trị vì được mười bốn năm; khi vua Văn trà tư ba qua đời và Thiên ái Đế tu lên nối ngôi thì tại cõi Diêm phù đề, vua A Dục trị vì được mười bảy năm. Sau khi Phật nhập niết bàn, vua A nậu lâu đà và vua Mẫn trù tại vị được tám năm, vuanan đà ca đãi bà ca tại vị được mười bốn năm, vua Tu tu phật na ca tại vị được mười tám năm, con là A Dục lên ngôi tại vị được mười tám năm, mười người con của vua A Dục lần lượt lên ngôi vua trong hai mươi năm. Sau đó vua Mân nan đà tại vị trong hai mươi năm, vua Chiên đà quật đa tại vị hai mươi tám năm, vua Tân Đầu Sa La tại vị trong hai mươi tám năm, vua A Dục lên nối ngôi được mười tám năm thì con vua là Ma hê đà đi đến nước Sư tử truyền pháp.
Lúc đó vua Thiên ái đế tu muốn tránh sao hạn xấu nên bảo đánh trống báo cho dân biết vua sắp ra khỏi thành đến núi My sa ca cùng bốn vạn tùy tùng. Khi vua săn bắn, có thần cây trong núi muốn cho vua gặp đại đức Ma hê đà nên hóa làm con nai đứng ăn cỏ gần đó, thấy nai vua giương cung lắp tên muốn bắn thì nai quay mình chạy về hướng Xà bà đà la, vua đuổi rượt theo, khi gần đến chỗ Ma hê đà thì hóa nai biến mất. Lúc đó Ma hê đà suy nghĩ: "ta nên dùng thần lực khiến cho vua chỉ thấy ta mà không thấy được người khác", nghĩ rồi liền gọi: "Đế tu, hãy đến đây"; nghe gọi vua suy nghĩ: "trong nước ai lại dám gọi tên ta, người mặc y phục hoại sắc cắt rọc này là ai mà lại gọi tên ta", nghĩ rồi liền hỏi là người, thần hay quỷ; Ma hê đà đáp: "chúng tôi là Sa môn Thích tử, vì thương tưởng đại vương nên từ cõi Diêm phù đề đến đây". Trước đó vua Thiên ái đế tu có giao lưu với vua A Dục, trong nước Sư tử ở bên núi Xa đa ca có một rừng tre mọc lên ba loại tre tên là Đằng trượng, Hoa trượng và Điểu trượng; Đằng trượng có màu trắng như bạc với dây vàng quấn quanh; Hoa trượng có đủ loại hoa vàng, đỏ, xanh biếc, đen và trắng xen kẻ nhau như chuỗi ngọc; Điểu trượng có các loài chim Ưng, chim Điêu, chim Kỳ bà, chim Thị tỳ ca... sinh sống, như kệ nói:
"Bên núi Xa đa ca,
Có một rừng tre rậm,
Mọc lên ba loại tre,
Hoặc sắc trắng như bạc,
Hoặc vàng đỏ trắng đen...
Với dây vàng quấn quanh,
Và các loài chim thú,
Nhiều loại hoa xen tạp".
Trong biển lại sản sanh nhiều vật báu như San hô, Ma ni, vàng bạc... và có tám loại ngọc quý là Mã châu, Tượng châu, Xa châu, Bà la ca châu, Bà la da châu, Triền chỉ châu, Ca cưu đà bà la châu và Thế gian châu. Vua Thiên ái đế tu đem các vật quý hiếm đã có ở nước mình hiến dâng cho vua A Dục, vua A Dục vui mừng đáp tạ lại bằng năm loại vương phục là lọng, phất, kiếm, mão và giày bảy báu cùng vô số bảo vật như tù và, bát vàng đựng đầy nước sông Hằng, hoa tai, bình vàng... và phong vương cho vị vua này, như kệ nói:
"Mão vua, phất, lọng, kiếm,
Giày da bằng bảy báu,
Bình vàng với tù và,
Bát vàng đựng đầy nước,
Ao A nậu-sông Hằng,
Chiên đàn xanh vô giá,
Khăn tay và đất trắng,
Thuốc trị mắt của rồng,
Am ma, A lê lặc,
Thuốc cam lồ vô thượng,
Với năm trăm gánh gạo,
Đều là những diệu vật,
Công đức vua A Dục".
Vua A Dục đưa thư nói: "ta đã quy y Phật, Pháp Tăng làm Ưu bà tắc; đây là pháp của thích tử đối với Tam bảo, vua nên chí tâm tín thọ Phật pháp", vua Thiên ái đế tu thọ vương vị vào ngày rằm tháng ba, một tháng sau thì phái đoàn của Ma hê đà đến nước này.
Lúc đó vua Thiên ái đế tu nghe Ma hê đà tự xưng là Thích tử liền nhớ lại lời vua A Dục nói trong thư, nên vất bỏ cung tên ngồi xuống một bên thăm hỏi, như kệ nói:
"Vất bỏ cung tên, Ngồi
xuống một bên, Đại vương
thăm hỏi, Sa môn Thích
tử, Bốn vạn tùy tùng,
Cũng cùng vây quanh".
Lúc đó Ma hê đà thu hồi thần lực khiến cho mọi người thấy đủ phái đoán sáu người, vua liền hỏi là đến từ lúc nào, đáp là cùng đến một lượt, vua lại hỏi: "cõi Diêm phù đề có các Sa môn như thế này hay không?", đáp: "tại xứ tôi, rất đông Sa môn nên màu y sáng rực trong nước, họ đều là bậc lậu tận A-la-hán, chứng ba đạt trí, thần thông vô ngại...", vua lại hỏi đến đây bằng gì, đáp: "chúng tôi không đến bằng đường thủy hay đường bộ", vua suy nghĩ: "như vậy là họ nương hư không mà đi". Lúc đó Ma hê đà suy nghĩ: "ta hãy thử xem vua này có trí huệ hay không", nghĩ rồi liền thấy vua đang ngồi gần cây xoài nên hỏi vua: "đây là cây xoài phải không?", đáp là cây xoài, lại hỏi: "hãy để cây xoài này một bên thì còn có cây khác không?", đáp là còn có cây khác, lại hỏi: "hãy để cây khác đó một bên thì còn có cây khác nữa không?", đáp là còn có, lại hỏi: "hãy để các cây khác đó một bên thì còn có cây khác nữa hay không?", vua nói: "đây là cây xoài phải không?", Ma hê đà khen: "lành thay vua có đại trí huệ", lại hỏi vua có thân tộc không, đáp là có, lại hỏi: "hãy để thân tộc của vua một bên thì còn có thân tộc của người khác không?", đáp là rất nhiều, lại hỏi: "hãy để thân tộc của vua và của người khác một bên thì còn có ai nữa không?", vua đáp là còn có Trẫm, Ma hê đà khen: "lành thay, vua thông minh tự biết thân mình không phải là thân tộc của mình và của người khác". Biết vị vua này có thể kiến lập phật pháp nên Ma hê đà thuyết kinh Chú la ha tượng thí dụ khiến cho vua và bốn vạn tùy tùng cùng thọ Tam quy một lượt. Sau khi nghe pháp xong, vua sai người trở về cung mang thức ăn đến, khi thức ăn mang đến, vua suy nghĩ: "giờ này là phi thời chắc các Sa môn không thọ thực", nghĩ rồi liền hỏi: "giờ này các đại đức có thọ thực hay không?", đáp: "giờ này không phải giờ của Sa môn chúng tội thọ thực", vua lại hỏi: "giờ nào thọ thực mới là tịnh pháp?", đáp: "từ sáng sớm đến giữa trưa thọ thực là tịnh pháp", vua thỉnh các đại đức cùng vua trở về cung, đáp là không được, vua lại nòi: "nếu các đại đức không đi, xin thỉnh đồng tử cùng đi", đáp: "đồng tử này đã đắc đạo, thông hiểu Phật pháp, sắp xuất gia", vua nói: "nếu vậy, sáng mai Trẫm sẽ cho xe đến đón", nói xong liền đảnh lễ từ giã. Vua đi chưa bao lâu, Ma hê đà bảo Sa di Tu Ma Na: "đúng lúc nên thuyết pháp, con hãy thông báo cho khắp nước Sư tử biết sắp chuyển pháp luân", Tu Ma Na nói lành thay rồi nhập thiền thứ tư, sau khi xuất định cất tiếng thông báo cho dân chúng trong nước Sư tử biết sắp chuyển pháp luân đến ba lần. Vua nghe âm thanh này liền cho người đến hỏi nguyên do, mới biết là sắp thuyết pháp Phật; lúc đó địa thần vui mừng thông báo cho hư không thần, cứ như thế truyền lên đến tận cõi Phạm thiên. Đại đức Ma hê đà thuyết kinh Bình đẳng tâm khiến cho vô số chư thiên được vết đạo (kiến đế), các quỷ thần như Ma hầu la già... đều thọ Tam quy; giống như thời Phật, tôn giả Xá lợi phất khi thuyết kinh Bình đẳng tâm đã khiến cho vô số người đắc đạo thì ngày nay đại đức Ma hê đà thuyết kinh này xong, kết quả cũng như vậy. Sáng hôm sau, vua cho người đánh xe đến đón các đại đức về cung, liền đáp: "chúng tôi không đi xe, các vị về trước, chúng tôi sẽ theo sau", nói rồi liền nương hư không đến phía Đông thành của nước A nậu la, là chỗ ở xưa kia của Phật; đây là trú xứ đầu tiên mà các đại đức đặt chân đến. Vua sai sắp đặt phòng xá cho các đại đức dừng nghỉ, vua suy nghĩ: "pháp của Sa môn là không ngồi nằm giường cao rộng lớn"; khi các sứ giả về đến cửa thành đã thấy các đại đức có mặt trước ở phía Đông thành rồi nên vào tâu vua biết, vua hỏi: "các đại đức đi xe phải không?", sứ giả liền nói rõ nguyên do, vua nghe rồi liền bảo trải chỗ ngồi bằng nệm dày trên mặt đất; các tướng sư thấy việc này rồi liền suy nghĩ: "các Sa môn sẽ trụ nơi đây vĩnh viễn không dời đổi". Vua ra nghinh đón, đảnh lễ rồi thỉnh các đại đức vào trong cung, khi nhìn thấy nệm trải trên đất các đại đức suy nghĩ: "Phật pháp sẽ trụ lâu nơi đây không dời đổi". Sau khi các đại đức theo thứ lớp ngồi rồi, vua dâng các món ăn thơm ngon cúng dường; đại phu nhân của vua tên là A dật la cùng năm trăm phu nhân cũng mang hương hoa ra cúng dường rồi ngồi một bên. Đại đức Ma hê đà thuyết kinh Ngạ quỷ bổn sanh, Cung điện bổn sanh và pháp Tứ đế cho đại chúng nghe, sau thời pháp cả năm trăm phu nhân đều đắc đạo. Lúc đó dân chúng xa gần lũ lượt kéo đến muốn nghe pháp nhưng không thể vào trong được nên kêu la vang dậy, vua hỏi nguyên do rồi bảo quét dọn nhà để đại tượng, rải cát trắng lên và treo màn, kế thỉnh các đại đức đến ngồi trong đó thuyết kinh cho tất cả mọi người được nghe. Các đại đức thuyết kinh Thiên sứ khiến cho ngàn người đắc đạo, số lượng người lại tăng thêm nên pháp hội lần nữa phải dời đến trong vườn Nan đà ở ngoài cửa thành Nam. Tại đây các đại đức thuyết kinh Độc dụ khiến cho ngàn người đắc đạo, từ ngày thứ nhất đến ngày thứ ba có đến hai ngàn năm trăm người được vết đạo (kiến đế). Sau khi thuyết pháp xong, các đại đức đứng dậy định đi, các quan hỏi định đi đâu, đáp là muốn trở về trú xứ, các quan tâu vua, vua nói: "trời đã tối làm sao đi được, các đại đức hãy ở lại đây", đáp là không thể, vua nói: "tiên vương có khu vườn tên là My già, không quá gần cũng không quá xa nơi này, xin thỉnh các đại đức đến đó dừng nghỉ", các đại đức đến đó trụ theo lời thỉnh của vua. Sáng hôm sau vua liền đến thăm hỏi và hỏi các đại đức có thể ở lại trong vườn này không, đáp là được và nói Phật cho các Tỳ-kheo được ở trong vườn, vua nghe rồi vui mừng cầm bình vàng đựng nước rót lên tay của đại đức Ma hê đà. Lúc đó khắp đất nước chấn động, vua kinh sợ hỏi nguyên do, Ma hê đà nói: "đại vương đừng kinh sợ, do Phật pháp sẽ hưng thịnh ở đất nước này và chùa lớn sẽ được kiến lập nên mặt đất chấn động báo trước điềm lành này", vua nghe rồi vui mừng và thỉnh các đại đức vào cung thọ thực, thọ thực xong trở về trong vườn Nan đà.
Lúc đó các đại đức thuyết kinh Vô thỉ giới cho dân chúng nghe, hôm sau thuyết kinh Hỏa tụ, cứ như thế cho đến bảy ngày khiến cho tám ngàn năm trăm đắc đạo, tại vườn này Phật pháp được lưu bố rạng ngời nên có tên là vườn Quang minh. Sau bảy ngày, các đại đức đến trong cung thuyết kinh Không biếng nhác rồi đi đến núi Chi đế da, lúc đó vua nói với các đại thần: "các đại đức này đã giáo hóa làm cho chúng ta được tín tâm kiên cố trong Phật pháp", bỗng nghe tâu là các đại đức đã đi, vua cùng hai phu nhân đi xe báu với ngàn vạn tùy tùng đuổi theo cho đến núi Chi đế da. Ma hê đà thấy vua hào hển đi đến bèn hỏi nguyên do, vua nói: "các đại đức đã giáo hòa làm cho chúng con được tín tâm kiên cố trong Phật pháp, thấy các vị ra đi nên mới đuổi theo sau", Ma hê đà nói: "chúng tôi không ra đi, chỉ là muốn tìm chỗ an cư ba tháng", vua hỏi thế nào là an cư ba tháng, đáp: "theo pháp Sa môn phải an cư ba tháng, đại vương biết cho, ngày an cư sắp đến nhưng chúng tôi không có chỗ ở". Lúc đó có năm mươi lăm anh em trong đoàn tùy tùng của vua, người anh tên A lật trừu xin vua cho xuất gia theo các đại đức, vua nói lành thay. Ma hê đà độ cho họ xuất gia, tóc chưa rụng xuống hết, họ đã chứng quả A-la-hán. Vua cho xây sáu mươi tám phòng ở trên núi Chi đế da, để các đại đức an cư ba tháng rồi trở về cung; sau ba tháng an cư, đến ngày 15 tháng 7 tự tứ, các đại đức tâu vua: "chúng tôi ở đây đã lâu, nay muốn trở về cõi Diêm phù đề để thăm viếng Sư trưởng", vua nói: "trước đây các đại đức nói Phật đã nhập niết bàn, nay lại nói còn có thầy", đáp: "Phật tuy nhập niết bàn nhưng vẫn còn xá lợi", vua nói: "các đại đức muốn Trẫm xây tháp thờ xá lợi, xin các vị chọn chỗ, chỗ tuy có thể chọn nhưng làm sao có xá lợi?", Ma hê đà nói: "vua hãy bàn với Sa di Tu Ma Na", vua liền đến gặp Tu Ma Na hỏi làm thế nào để thỉnh được xá lợi Phật. Tu Ma Na nói: "đại vương hãy cho quét dọn sạch sẽ đường sá, treo phan phướn, rải hoa đốt hương; vua cùng các quyến thuộc nên thọ tám trai giới, kế dùng các loại kỹ nhạc cùng voi của vua được trang nghiêm bằng chuỗi ngọc và được che lọng trắng để đi đến vườn Ma ha na già thì sẽ thỉnh được xá lợi Phật", vua nói lành thay và làm theo như lời chỉ dạy. Lúc đó Ma hê đà bảo Tu Ma Na: "con hãy đi đến cõi Diêm phù đề gặp tổ phụ của con là vua A Dục, bạch rằng: vua Thiên ái đế tu ở nước Sư tử đã tín kính Phật pháp, đang muốn xây tháp thờ xá lợi Phật, Đại vương có xá lợi nên ban tặng vào dịp này. Sau đó con lên cõi trời Đao lợi nói với vua trời Đế thích: thiên vương có hai xá lợi, răng phải xá lợi thờ ở cõi trời, còn xương vai phải xá lợi xin cho mang về nước Sư tử để thờ", Tu Ma Na nói lành thay rồi đắp y mang bát nương hư không đi đến nước Ba tra lợi phất ở cõi Diêm phù đề, gặp vua A Dục liền nói: "đại đức Ma hê đà sai con đến", vua nghe nói rõ sự việc rồi vui mừng đón lấy bát của Sa di, dùng dầu thơm lau sạch rồi mở tháp bảy báu lấy viên xá lợi trắng sáng như chân châu bỏ vào bát trao cho Sa di. Tu Ma Na lên cõi trời Đao lợi, vua trời Đế thích nghe rõ sự việc rồi liền mở tháp bảy báu cao rông một do tuần, lấy xá lợi trao cho Tu Ma Na. Tu Ma Na nhận xá lợi rồi trở về núi Chi đế da, Ma hê đà để xá lợi của vua A Dục ban cho tại núi Chi đế da, còn xá lợi của vua trời Đế thích thì đưa đến vườn Ma ha na cho vua Thiên ái đế tu xây tháp thờ. Lúc đó vua Thiên ái đế tu cỡi voi đến vườn Ma ha na thỉnh được xá lợi rồi suy nghĩ: "nếu đây thật là xá lợi Phật thì voi sẽ tự quỳ xuống, lọng trắng tự hạ và khiến cho xá lợi ở trên đầu ta", vua vừa suy nghĩ thì voi liền quỳ xuống, lọng trắng tự hạ và xá lợi Phật ở trên đầu vua, vua liền cảm thấy thân tâm khoan khoái như được uống cam lồ. Vua hỏi Ma hê đà: "xá lợi Phật ở trên đầu Trẫm, Trẫm phải làm sao?", đáp là nên để trên đầu voi, voi được đội xá lợi Phật rất vui mừng liền cất tiếng rống lớn như để cúng dường xá lợi; lúc đó trên không trung nổi mây mưa và mặt đất chấn động đến thủy biên. Trời rồng quỷ thần thấy xá lợi Phật đã đến biên địa đều vui mừng nói kệ:
"Xá lợi của Như lai,
Từ cõi trời Đao lợi,
Như mặt trăng tròn sáng,
Đã đến nơi biên địa,
Đang ở trên đầu voi,
Voi rống lớn cúng dường".
Lúc đó các loại kỹ nhạc đồng tấu lên để cúng dường xá lợi, vội quay lưng về hướng Đông, quay mặt về Tây đi đến cửa thành liền vào thành; dân chúng trong thành đi theo vội ra khỏi cửa thành Nam, vòng theo hướng tây để đến trong vườn ở chỗ xây tháp thờ xá lợi Phật, vội đứng quay lại về hướng Đông; trong vườn tháp này, quá khứ đã từng là nơi xây tháp thờ xá lợi của ba vị Phật. Vào thời Phật Câu lưu tôn, nước Sư tử có tên là Âu xà, quốc hiệu là Vô úy, vua cũng hiệu là Vô úy, núi Chi đế da có tên là Đề bà cưu thát, vườn tháp có tên là vườn Ba lợi da. Đệ tử Thanh văn của vị Phật này tên là Ma ha Đề bà cùng một ngàn Tỳ-kheo đến núi Đề bà cưu thát cư trú, giống như Ma hê đà ngày nay. Lúc đó dân chúng nơi đây bị khổ vì nhiễm bịnh, Phật Câu lưu tôn dùng thiên nhãn quán sát thấy biết việc này rồi liền cùng bảy vạn Tỳ-kheo đến đây diệt trừ các tật bịnh và nói pháp khiến cho dân chúng nơi đây có tám vạn bốn ngàn người đắc đạo. Phật lưu lại bình lượt nước rồi trở về chốn cũ, dân chúng xây tháp thờ bình lượt nước này và gọi tháp là Ba lợi da; Ma ha Đề bà cùng dân chúng rải hoa cúng dường. Vào thời Phật Câu na hàm Mâu ni, nước Sư tử tên là Bà la, quốc hiệu là Bạt xà ma, vua hiệu là Sa diệt địa, núi Chi đế da tên là Kim đỉnh. Lúc đó dân chúng bị khổ về hạn hán mất mùa đói kém, Phật Câu na hàm mâu ni dùng thiên nhãn quán sát thấy biết việc này rồi liền cùng ngàn Tỳ-kheo đến dây; nhờ thần lực của Phật, trời đổ mưa, ngũ cốc được mùa, Phật lại vì nói pháp khiến cho tám vạn bốn ngàn người đắc đạo. Phật lưu lại Tỳ-kheo Tu Ma Na cùng ngàn Tỳ-kheo và dây thắt lưng rồi trở về chốn cũ, dân chúng xây tháp thờ dây thắt lưng của Phật. Vào thời Phật Ca Diếp, nước Sư tử tên là Mạn đà, quốc hiệu là Tỳ sa la, vua tên là Chi diễn na, núi Chi đế da tên là Tu bà cưu tra. Lúc đó dân chúng khổ não vì chiến tranh, Phật dùng thiên nhãn quán sát thấy biết việc này rồi liền cùng hai vạn Tỳ-kheo đến đây; nhờ thần lực của Phật, chiến tranh chấm dứt, Phật lại vì nói pháp khiến cho tám vạn bốn ngàn người được thấy vết đạo. Phật lưu lại Tỳ-kheo Tát bà Nan đà cúng ngàn Tỳ-kheo và chiếc y tắm rồi trở về chốn cũ, dân chúng xây tháp thờ chiếc y tắm của Phật. Vào thời ba vị Phật quá khư, nơi đây đều được chọn để xây tháp, nhưng ba cõi vô thường, nay chỉ còn là bãi đất trống; ngay trên nền tháp cũ, chư thiên trồng nhiều cây gai để ngăn nhơ uế.
Lúc đó voi lớn đội xá lợi đi đến trên nền tháp cũ, vua cùng dân chúng chặt phá cây gai làm cho bằng phẳng; voi lại đi đến phía bắc của nền tháp là chỗ trồng cây Bồ đề đứng hướng về phía tháp. Vua muốn lấy xá lợi xuống nhưng voi không chịu, vua hỏi Ma hê đà phải làm sao, đáp: "vua không thể lấy xuống ngay bây giờ, phải xây nền tháp trước, cao bằng đầu voi thì mới lấy xuống được", mọi người cùng nhau đắp nền móng tháp, trong suốt ba bốn ngày, voi vẫn đội xá lợi đứng yên. Vua lại hỏi Ma hê đà tháp hình gì, đáp là hình như đống lúa; vua cho xây một tháp nhỏ trên nền tháp rồi chuẩn bị lấy xá lợi xuống, dân chúng trổi kỹ nhạc và rải hương hoa để cúng dường xá lợi. Lúc đó xá lợi từ trên đỉnh đầu voi bỗng bay lên không trung, cao bảy cây Đa la và hiện nhiều biến hóa, không khác thần lực của Phật đã biến hóa khi Phật còn tại thế ở dưới cây Kiền tra am; không phải do thần lực của Ma hê đà và chư thiên làm ra như thế, như kệ nói: "Phật không thể nghĩ bàn, Pháp cũng không nghĩ bàn, Nếu ai có lòng tin,
Công đức không nghĩ bàn".
Phật Thích ca Mâu ni đến nước Sư tử này cả thảy ba lần: lần thứ nhất giáo hóa Dược xoa, Phật có nói sau khi ta nhập niết bàn, xá lợi của ta sẽ trụ lâu nơi này; lần thứ hai giáo hóa long vương và cháu trai, hai lần này Phật đều đi một mình; lần thứ ba, Phật cùng một trăm Tỳ-kheo đến núi Chi đế da, nơi gốc cây Bồ đề ở vườn tháp, phía Đông Già na địa Già bà tỳ căn na la ni, để nhập định; lần thứ tư là xá lợi đến sau khi Phật nhập niết bàn. Lúc đó dân chúng nhờ nước do thần lực của xá lợi tuôn ra nên không bị đói khát, sau đó xá lợi lại hiện xuống ở trên đầu vua, vua suy nghĩ: "ta đã được tín tâm kiên cố", nghĩ rồi liền cúng dường và đặt xá lợi vào tháp thờ, lúc đó mặt đất chấn động sáu cách. Em của vua tên là Vô úy cùng ngàn người đều cầu xuất gia, lại có năm trăm đồng tử trong thành và năm trăm đồng tử trong nước cũng đều cầu xuất gia, cứ như thế số lượng tăng dần cho đến ba vạn người xuất gia. Tháp xây xong, đại phu nhân cùng em gái vua và trời rồng quỷ thần đều cùng cúng dường; đại phu nhân nhân tên A nậu la lại muốn xuất gia, vua buồn bã bạch Ma hê đà tế độ cho phu nhân, Ma hê đà nói: "chúng tôi không được độ người nữ, nhưng tôi có em gái tên Tăng già mật đa đã xuất gia tại nước Ba tra lợi phất, vua hãy cho người sang đó thỉnh đến tế độ cho phu nhân và xin một cây Bồ đề về để trồng tại nơi đây". Vua nghe rồi liền hỏi cháu trai tên là A phiêu xoa: "cháu có thể đến nước Ba tra lợi phất ở cõi Diêm phù đề để thỉnh ni Tăng già mật da và xin cây Bồ đề về đây được không?", A phiêu xoa nói: "con sẽ đi nhưng đại vương hứa với con là cho con xuất gia", vua nói: "lành thay, nếu ni Tăng già mật đa và cây Bồ đề về đến đây, ta sẽ cho con xuất gia". Lúc đó Ma hê đà dùng thần lực làm cho A phiêu xoa chỉ tong một ngày đến được bến cảng Câu la ở cõi Diêm phù đề, sau đó đi thuyền đến nước Ba tra lợi phất. Phu nhân A nậu la cùng năm trăm đồng nữ và năm trăm cung nữ đều được thọ mười giới, đắp ca sa và ở riêng trong một trú xứ bên ngoài thành. A phiêu xoa đến gặp vua A Dục tâu rằng: "đại đức Ma hê đà bảo thần đến đây tâu với vua rằng: vua Thiên ái đế tu ở nước Sư tử có phu nhân tên A nậu la muốn xuất gia, nhưng không có thầy tế độ nên xin thỉnh ni Tăng già mật đa sang đó tế độ và xin cây Bồ đề mang về trồng tại nước Sư tử", vua cho thỉnh ni Tăng già mật đa đến nói rằng: "anh con và cháu Tu Ma Na đều đã ra đi, ta như người bị chặt mất tay chân, đã lâu không gặp họ, ta rất buồn nhớ nhưng còn gặp con, ta cũng tạm vui; nay con lại ra đi chắc là ta buồn chết mất, hay là con đừng đi", Tăng già mật đa nói: "việc anh con bảo làm, con không thể không làm, vì vậy con phải đi", vua nói: "nếu vậy thì con nên đi cùng với cây Bồ đề", Tăng già mật đa hỏi cây Bồ đề ở đâu, vua đáp là ở tại A lan nhã. Lúc đó vua muốn chiết cây Bồ đề nhưng không thể dùng dao chặt được nên hỏi đại thần Đề bà, Đề bà nói nên hỏi các Tỳ-kheo, vua thỉnh chư Tăng thọ thực rồi hỏi: "có thể chiết cây Bồ đề đưa sáng nước Sư tử trồng được không?", tôn giả Mục kiền liên Đế tu đáp: "được, vì sao, vì khi Phật sắp nhập niết bàn có dặn dò năm việc: một là đời vị lai có vua A Dục chiết cây Bồ đề đưa sang nước Sư tử thì nên lấy cành Bồ đề ở hướng Nam mang đi, không cần dùng dao chặt mà cành tự nhiên đứt ra, lấy để trong chậu bằng vàng; hai là nếu cây Bồ đề thật của ta thì cây sẽ rời khỏi chậu bay lên hư không và đi trong mây; ba là bảy ngày sau cây tự hiện xuống trở lại trong chậu, sanh trưởng tươi tốt đầy lá và kết trái, trái màu vàng ròng với nhiều thần biến không thể nói hết; bốn là cây Bồ đề đưa sang nước Sư tử, khi bắt đầu trồng sẽ có nhiều thần biến hiện ra; năm là một đấu xá lợi của ta mang đến nước Sư tử sẽ hiện đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp sáng hơn cả nhật nguyệt, như ta còn tại thế", vua nghe rồi liền đi bộ đến chỗ cây Bồ đề. Lúc đó có thợ khéo của vua trời Đế thích tên là Tỳ xá hóa thành thợ rèn ở trước vua, vua đưa vàng bảo làm thành chậu vàng, thợ hỏi làm chậu cỡ nào, vua nói hãy tự biết, thợ trời dùng thần thông lực nặn thành cái chậu rộng chín khuỷu tay, cao năm khuỷu tay dày tám tấc, miệng chậu viền tròn như vòi voi chúa. Vua A Dục cùng đoàn tùy tùng với ngàn xe ngàn ngựa dài bảy do tuần, rộng ba do tuần, cờ xí rợp trời và các Tỳ-kheo cùng đi đến chỗ cây Bồ đề. Đến nơi mọi người chiêm ngưỡng cây Bồ đề, cây bỗng hiện thần lực làm cho cả cây biến mất, chỉ còn một cành dài bốn khuỷu tay; vua vui mừng lễ bái cúng dường rồi bạch Tăng: "nếu Trẫm được phép lấy cành Bồ đề này đưa sang nước Sư tử thì cây Bồ đề sẽ hiện trở lại như cũ", vua phát nguyện xong, cây hiện lại như cũ. Vua cho làm tòa sư tử rồi đặt chậu vàng lên tòa và nguyện: "nếu cây Bồ đề chấp thuận đưa sang nước Sư tử với lòng thành tín của con, thì cành Bồ đề kia tự rơi vào trong chậu vàng này", vua vừa nguyện xong, cành Bồ đề tự rơi vào trong chậu vàng, vua cầm bút vẽ với bột đá hùng hoàng vẽ mười nét lên chỗ cong của cành cây, chín nét vẽ rễ mọc ra, nét thứ mười vẽ cành cây rời ra. Rễ cây liền dài ra bốn tấc và có nhiều rễ con đan vào nhau như mạng lưới; cành lớn dài mười khuỷu tay có năm nhánh đều dài bốn khuỷu tay và có năm trái. Mọi người đều vui mừng ca ngợi, địa thần không thần cũng vui mừng truyền tin lên đến tận trời Phạm thiên, Phạm thiên vương vui mừng làm sấm chớp vang khắp hư không; dưới đất chim thú đều cất tiếng kêu vang. Lúc đó trái Bồ đề phát ra ánh sáng sáu màu, chiếu sáng cả thế giới Ta bà, cây Bồ đề bỗng bay lên đứng trên không trung bảy ngày, đại chúng chỉ thấy ánh sáng chứ không thấy cây; sau bảy ngày cây hiện xuống trở lại trong chậu vàng, thấy cây trở lại vua vui mừng cúng dường suốt bảy ngày, cúng dường xong vua nói với Tăng già mật đa là đã đến lúc lên đường. Vua cùng tám bộ quỷ thần, tám vị đại thần, tám vị Bà la môn, tám vị cư sĩ, tám vị Cụ ba già, tám vị Lộc la xa, tám vị Ca lăng già đưa cây Bồ đề đến bến cảng Đa ma tiêu; lại đưa theo tám vò vàng, tám vò bạc đựng nước để tưới cây Bồ đề. Vua đích thân bưng cây Bồ đề bước xuống nước, nước ngập đến cổ mới trao lại cho Tăng già mật đa ở trên thuyền rồi nói với A phiêu xoa: "này A phiêu xoa, tại nước này ta đã ba lần cúng dường cây Bồ đề, đích thân ta bưng cây bước xuống nước đến cổ mới đưa cây lên thuyền. Khi về đến quý quốc, khanh hãy tâu lại vua của khanh cũng phải đích thân lội xuống nước đến tận cổ để đón nhận cây Bồ đề và cúng dường như ta đã làm", nói xong cho thuyền rời bến và nhìn theo. Thần biển hiện nhiều loại hoa theo sau thuyền để cúng dường, lúc đó long vương muốn đoạt cây Bồ đề mang xuống long cung, Tăng già mật đa hóa làm vua chim Kim súy, long vương thấy vậy liền hiện thân đảnh lễ bạch rằng: "xin cho con thỉnh đại đức và cây Bồ đề xuống long cung cúng dường bảy ngày", bảy ngày sau Long vương đích thân đưa đại chúng và cây Bồ đề đến bến cảng Diêm phù câu na vệ chỉ trong một ngày. Lúc đó tại nước Sư tử, từ cửa thành phía Bắc ra đến bến cảng Câu na vệ đều được quét dọn sạch sẽ để chờ đón cây Bồ đề; Tăng già mật đa dùng thần lực làm cho vua ở trong thành thấy cây Bồ đề sắp đến, vua cùng đoàn tùy tùng rải hoa, tấu kỹ nhạc ra đến bến cảng nghinh đón; vua cũng lội xuống nước đến cổ để đón nhận cây Bồ đề và suy nghĩ: "cây Bồ đề của Phật đã đến nước ta rồi", vừa nghĩ xong, cây Bồ đề phóng ra ánh sáng sáu màu, vua vui mừng đội cây Bồ đề lên đầu; lên bờ có mười sáu vị kỳ cựu quý tộc thay vua đội cây Bồ đề đưa đến trong vườn tháp. Khi vừa đặt xuống, cây liền bay lên hư không cao tám mươi khuỷu tay và chiếu ánh sáng sáu màu, mọi người thấy thần biến của cây như vậy, đều rất vui mừng cùng phát tâm niệm Phật, âm thanh vang lên tận cõi trời Phạm. Đến khi mặt trời lặn, cây Bồ đề như sao chổi từ trên hư không hiện lại xuống đất làm cho mặt đất chấn động mạnh. Mọi người đều tập trung đến cây Bồ đề, lúc đó ở cành cây phía bắc có một trái chín đang rời khỏi cành, mọi người đón lấy dâng cho Ma hê đà, Ma hê đà lấy hạt đưa cho vua trồng, vua đặt hạt vào trong chậu vàng phủ đất tốt và bột thơm lên, trong khoảnh khắc hạt mọc ra tám cây con cao bốn khủy tay. Vua vui mừng lễ bái cúng dường rồi đem một cây trồng ở bến cảng Diêm phù câu na vệ, một cây trồng ở trong thôn Bà la môn Bạc câu la, một cay trống ở cửa Thu tiêu, một cây trồng ở trong vườn tháp, một cây trồng ở chùa Ma hê thủ la, một cây trồng ở giữa núi Chi đế da, một cây trồng ở thôn Lâu ê na, một cây trồng ở thôn Giai la. Bốn trái còn lại trên cây tuần tự chín và rụng xuống mọc lên cây con đầy khắp trong vườn tháp. Cây Bồ đề không bao lâu sau được trồng trong khắp đất nước Sư tử, nhờ thần lực của cây nên dân chúng đất nước này được an ổn không có tai họa.
Lúc đó phu nhân A nậu la cùng ngàn người nữ được Tăng già mật đa tế độ thành Tỳ-kheo-ni, không bao lâu sau đều chứng quả A-la-hán; A phiêu xoa, cháu của vua cùng năm trăm người xuất gia cũng tuần tự chứng quả A-la-hán. Một hôm, vua cùng Ma hê đà đến chỗ cây Bồ đề, vừa đến thiết điện, dân chúng dâng hoa cho vua, vua đem cúng dường Ma hê đà, Ma hê đà dâng hoa cúng dường thiết điện, lúc đó mặt đất bỗng chấn động, vua liền hỏi nguyên do, Ma hê đà nói: "vị lai sẽ có Tăng chúng thuyết giới tại thiết điện này nên mặt đất hiện điềm lành này". Khi đến vườn xoài, có người dâng vua xoài chín thơm ngon, vua đem cúng dường Ma hê đà, Ma hê đà dùng xong đưa hạt cho vua bảo đem trồng, vua vừa gieo xuống đất tưới nước, mặt đất liền chấn động, vua hỏi nguyên do, Ma hê đà nói: "vị lai sẽ có Tăng chúng tập trung ở đây nên mặt đất hiện điềm lành này". Khi đến núi Chi đế da, có người dâng hoa Chiêm bặc cho vua, vua đem cúng dường Ma hê đà và làm lễ, mặt đất lại chấn động, vua hỏi nguyên do, Ma hê đà nói: "vị lại tại nơi đây sẽ kiến lập tháp thờ Như lai nên mặt đất hiện điềm lành này", vua nói: "trẫm sẽ xây tháp", Ma hê đà nói: "vua không phải xây, vị lai sẽ có cháu vua tên là Mộc xoa già ma ni A bà da sẽ xây", vua nói: "cháu của trẫm xây tháp thì trẫm có được phần công đức hay không?", đáp là không được, vua liền làm phương tiện để được công đức là dựng một cột trụ cao mười hai trượng và khắc lên câu: vị lai, cháu của ta tên Mộc xoa già ma na A bà da sẽ xây tháp tại đây. Vua lại hỏi: "Phật pháp hiện nay đã đâm rễ vững chắc tại nước Sư tử chưa?", đáp là chưa, lại hỏi bao giờ, đáp: "nếu người dân nước Sư tử xuất gia, cha mẹ cũng là người nước Sư tử, không lai người nước khác và sau khi xuất gia, họ thọ trì tạng luật, từ đó về sau, Phật pháp mới đâm rễ vững chắc tại nước này", vua lại hỏi thêm cho rõ, Ma hê đà nói: "cháu của vua là A phiêu xoa xuất gia ở trong Phật pháp rất dõng mãnh tinh tấn, vua nên xây giảng đường cho chúng tăng tập họp". Vua có đại thần tên Di già bàn trà, ở trong trú xứ của vị này, vua cho xây một giảng đường lớn giống như cung điện của vua A Xà Thế, nhờ oai lực của vua, không bao lâu sau được hoàn tất. Lúc đó vua suy nghĩ: "ta nên đến xem Phật pháp đâm rễ tại đất nước này", nghĩ rồi cùng đoàn tùy tùng trăm ngàn người đi đến trong vườn tháp.
Lúc đó ở trong vườn tháp, Ma hê đà cùng sáu mươi tám Tỳ-kheo Ái tận ngồi trên tọa cụ day về hướng Nam, A phiêu xoa ngồi trên tọa cụ day về hướng Bắc; Ma hê đà thỉnh A phiêu xoa làm pháp sư, A phiêu xoa làm theo nghi thức mà tôn giả Ưu ba ly ngày xưa đã làm. A phiêu xoa nói về công đức của Như lai: trước kia Phật nói tựa luật ở dưới cây Mạn đà la, bến bãi Nan đà lân la, thôn Tỳ-lan-nhã...; vì thương xót chúng sanh có ba nghiệp bất thiện nên Phật mới chế giới luật để chế phục ba nghiệp thân khẩu ý; khi Phật còn tại thế vì chúng đệ tử Thanh văn nên mới chế giới luật, chế tạng luật xong mới nhập niết bàn vô dư. Lúc đó trên không trung, chư thiên khen ngợi lành thay và làm sấm chớp phi thời cùng các thần biến khác. Tỳ-kheo Mạt đa bà da là em vua cùng năm trăm Tỳ-kheo muốn học luật đều ngồi vây quanh pháp tòa, các Tỳ-kheo khác và vua đều ngồi theo thứ lớp, như kệ nói:
"Tất cả biệt chúng trụ, Sáu mươi tám đại đức, Đều hiểu rõ tạng luật,
Chúng Thanh văn Pháp vương, Ái tận được tự tại,
Thần thông, ba đạt trí, Đem trí huệ vô thượng, Giáo hóa vua, dân chúng, Chiếu sáng nước Sư tử, Khắp nơi đều được thấy, Cũng như đống lửa lớn, Hết củi nhập niết bàn"
Sau khi các đại đức này nhập niết bàn, quyến thuộc của đại đức A phiêu xoa là Đế tu đạt đa, Ca la Tu Ma Na, Tỳ già Tu Ma Na nối nhau truyền thừa mãi cho đến ngày nay.
Hỏi: ai truyền tạng luật đến nước Sư tử?
Đáp: là Ma hê đà, kế là A phiêu xoa và các đệ tử của A phiêu xoa nối nhau truyền trì, như bình lưu ly đựng đầy nước, trong ngoài đều trong suốt và không có rỉ chảy; các đại đức truyền trì tạng luật cũng như vậy mãi cho đến ngày nay. Nếu người nào có lòng tin, biết hổ thẹn, ưa thích học giới luật thì Phật pháp được trụ lâu; vì vậy người nào muốn Phật pháp trụ lâu thì nên học tạng luật trước, vì sao, vì đem đến lợi ích cho người tu hành. Lợi ích như thế nào? Nếu người nào hảo tâm xuất gia thì tạng luật là cha mẹ, vì tạng luật làm cho người xuất gia được đầy đủ giáo học oai nghi; nếu nương theo tạng luật tự thân trì giới thì đoạn dứt nghi cho người khác, khi vào trong Tăng không có gì sợ hãi, ai có phạm tội thì dựa vào luật xử đoán làm cho phật pháp được trụ lâu. Như Phật bảo các Tỳ-kheo: "ai thọ trì luật này sẽ có năm lợi ích: một là tụ thân trì giới, hai là dứt nghi cho người khác, ba là vào trong Tăng không sợ hãi, bốn là kiến lập được Phật pháp và năm là làm cho chánh pháp được trụ lâu. Thọ trì luật là nguồn gốc của các công đức, nhờ vào nguồn gốc này mà nhiếp thọ các pháp". Phật chế giới luật là muốn dứt nhân ác, dứt ác thì không sanh tâm hối, do không sanh tâm hối nên được hoan hỉ, do hoan hỉ nên được an lạc, do an lạc nên được chánh định, do chánh định nên được tuệ nhãn, do tuệ nhãn nên sanh nhàm lìa, do nhàm lìa nên được ly dục, do ly dục nên được giải thoát, do giải thoát nên được giải thoát trí, do giải thoát trí nên thứ lớp nhập niết bàn. Vì muốn nói, vì muốn thuyết, vì y chỉ, vì muốn nghe, theo thứ lớp như thế thì tâm được giải thoát, vì vậy phải ân cần học Luật, như kệ nói:
"Người nào thường trì luật,
Người ấy trụ lan nhã".
Dưới dây giải thích về tựa Luật:
Nhĩ thời có nghĩa là ban đầu hoặc là phát khởi hoặc là nhân khởi, không phải một. Như trong Luật nói lúc đó Phật tại Tỳ-lan-nhã hoặc lúc đó tôn giả
Xá lợi phất xuất định liền thỉnh Phật chế giới luật.
Chữ nhĩ có nghĩa là phát khởi, chữ thời là nói việc ấy. Như trong Luật nói lúc đó Tu đề na cùng vợ cũ làm việc bất tịnh hạnh, Phật nhân nơi Tu đề na mà chế giới cho các Thanh văn; hoặc lúc đó Tỳ-kheo Đạt ni ca trộm gỗ của vua tại thành Vương xá, Phật nhân việc này mà chế giới... Phật sẽ giải thích ở phía sau, trụ là đi đứng nằm ngồi, Tỳ-lan-nhã là tên một nước, Na lân la là tên của Dược xoa, do Dược xoa nương ở nơi cây này nên thành tên, Mạn đà la là rừng cây luyện, dưới cây là dưới bóng râm của cây vào giữa trưa, là chỗ lá rụng xuống đất khi không có gió.
Hỏi: vì sao Phật ở dưới cây này?
Đáp: vì cây này xum xuê nhất trong rừng, cách thành không xa, đi lại thuận tiện.
Hỏi: vì sao nói Như lai ở Tỳ-lan-nhã, lại còn nói ở dưới cây, Như lai không thể ở hai chỗ?
Đáp: chớ gạn hỏi như vậy, Tỳ-lan-nhã là chỗ đi lại, dưới cây là chỗ ở.
Hỏi: vì sao Ưu ba ly nói là Tỳ-lan-nhã? Đáp: vì thương tưởng bạch y.
Hỏi: vì sao lại nói ở dưới cây?
Đáp: vì các đệ tử thuận theo pháp xuất gia để trừ tham dục. Hỏi: vì sao phải ở trong nước gần người?
Đáp: vì bốn đại. Câu trước là vì thuyết pháp, câu sau là Như lai muốn nhập tịch tĩnh; câu trước do từ bi dẫn dắt, câu sau là từ khổ ban cho vui; câu trước là làm cho chúng sanh an vui, câu sau là làm cho mình an vui; câu trước là bố thí pháp cho chúng sanh, câu sau là vì trời người; câu trước là đồng với chúng sanh, câu sau là không đồng với chúng sanh; câu trước là Phật độc tôn trong ba cõi, chúng sanh nương theo Phật mà được đại an lạc nên nói là một-câu sau là nhân Phật được đản sanh trong vườn nên ưa thích ở dưới cây.
Dữ đại Tỳ-kheo tăng câu: chữ đại là đối với tiểu mà nói, do công đức của Tỳ-kheo tăng rất lớn, vị nhỏ nhất cũng chứng được quả Tu đà hoàn; nhưng trong đây là chỉ cho đại chúng năm trăm vị nên nói là đại. Tăng là chỉ cho đồng giới, đồng kiến, đồng trí huệ và đồng chúng; chữ câu nghĩa là cùng tụ lại một chỗ; nói năm trăm Tỳ-kheo là chỉ cho số lượng; Bà la môn Tỳ-lan-nhã: Bà la môn nghĩa là tịnh hạnh, là người hiểu biết kinh sách Vệ đà của ngoại đạo, do sống ở tại Tỳ-lan-nhã nên lấy tên nước làm tên người. Trong kinh nói Bà la môn là người có thể nghe người khác nói mà biết được pháp, có thể diệt trừ phiền não. Sa môn là diệt ác pháp, Cù Đàm là họ, Thích ca là thuộc dòng họ lớn, nói từ bỏ dòng họ Thích ca xuất gia là ý nói phát sanh lòng tin mà xuất gia. Thế gian có người vì mắc nợ mà xuất gia, có người vì nước mất mà xuất gia, có người vì nghèo khổ mà xuất gia, có người vì trốn sưu dịch của vua mà xuất gia..., Như lai thì không như thế; nói có đủ danh văn như thế là được tiếng ngợi khen, mọi người đều biết; Bà già bà là hiệu đầu trong mười hiệu Phật.
A-la-hán: chữ A la là chỉ cho căm xe của ba cõi, chữ Hán là phá tan căm xe này, do Như lai phá tan căm xe của ba cõi nên được gọi là A-la-hán; lại có nghĩa là sát tặc, do Như lai giết giặc phiền não nên được gọi là A-la-hán. Vô minh và ái duyên hành là căm xe, lão tử là vành xe, thọ sanh là trục xe, do các phiền não nên từ vô thỉ đã lưu chuyển mãi không ngừng. Phật lấy giới làm đất bằng, lấy tinh tấn làm chân, lấy chí thành làm tay, lấy trí huệ làm búa rìu để chặt gảy căm xe của ba cõi. Lại có thuyết nói thế giới từ vô thỉ là chiếc xe, vô minh là ổ trục xe, lão tử là vàng xe, mười chi còn lại là căm xe; do vô minh không biết pháp khổ, nếu sanh ở cõi Dục lại do vô minh mà tạo nghiệp, nếu sanh lên cõi Sắc thì tạo nghiệp cõi Sắc, nếu sanh lên cõi Vô sắc thì tạo nghiệp cõi Vô sắc. Ở trong cõi Dục, duyên vô minh nên thọ thức; trong cõi Sắc cũng như vậy. Vô minh ở trong cõi Vô sắc duyên với Danh sắc trong cõi Dục; Lục nhập trong cõi Dục duyên với Vô minh và Danh sắc trong cõi Dục; ba nhập trong cõi Sắc duyên với Vô minh trong cõi Vô sắc; một nhập trong cõi Sắc duyên với lục nhập trong cõi Dục; sáu xúc trong cõi Dục duyên với ba nhập trong cõi Sắc; ba xúc trong cõi Sắc duyên với một nhập trong cõi Vô sắc; một thọ trong cõi Vô sắc duyên với sáu xúc trong cõi Dục; sáu lạc trong cõi Dục duyên với ba xúc trong cõi Sắc; ba lạc trong cõi Sắc duyên với một xúc trong cõi Vô sắc; một lạc trong cõi Vô sắc duyên với sáu lạc trong cõi dục. Sáu lạc trong cõi Dục sanh sáu ái duyên với ba lạc trong cõi Sắc; ba ái trong cõi sắc duyên với một lạc trong cõi Vô sắc; một ái trong cõi Vô sắc duyên với xứ xứ ái và sanh ở trong sanh. Nếu người nào ở trong năm dục nghĩ rằng ta muốn hành dục, tự thọ dục, thân ngữ ý bất thiện đầy đủ thì đọa vào địa ngục; ở trong địa ngục, nhân nghiệp thọ sanh rồi lại thọ sanh, đây là nghiệp sanh; nhân nghiệp sanh năm ấm rồi năm ấm già, già tức là chín; năm ấm hoại tức là chết. Nếu người nào ở trong ba cõi nghĩ rằng ta muốn lên trời hành dục, khởi lập thiện hạnh hoặc nhẫn nhục, nhân thiện hạnh nên sanh lên cõi trời, đây là nhân thiện nghiệp mà sanh nữa. Nếu người nào nói ta muốn thọ lạc ở cõi trời Phạm, nhân lạc thọ mà nhớ nghĩ bốn pháp từ bi hỷ xả, khi nhớ nghĩ đầy đủ liền được sanh lên cõi trời Phạm, sanh lên cõi trời Phạm nhờ nghiệp, đây là nghiệp sanh, Nếu người nào nói ta muốn sanh lên cõi Vô sắc, kế sanh lên cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng, thường tự nhập định tư duy liền sanh lên cõi ấy, đây là nhờ nghiệp mà được sanh; những nghiệp sanh khác cứ theo thứ lớp như trên mà tự biết.
Từ quá khứ đến vị lai, cả ba đời đều từ Vô minh duyên hành: Vô minh duyên hành là một phẩm; sáu thức, danh sắc, sáu nhập, sáu xúc, sáu lạc là một phẩm; ái, thủ, hữu, sanh là một phẩm; lão, tử là một phẩm. Phẩm đầu thuộc về quá khứ, hai phẩm giữa thuộc về hiện tại, phẩm sau cùng thuộc về vị lại. Vô minh duyên hành liên triền với ái, thủ, hữu không thể rời nhau, nên năm pháp này thuộc về quá khứ; năm pháp ở phẩm giữa từ sáu thức đến sáu lạc là quả báo. Nếu lấy ái thủ liên triền với vô minh tạo nghiệp trong đời hiện tại và già chết thì năm pháp kia từ danh sắc đến sáu thọ đều xếp vào đời vị lai. Nếu phân biệt thuyết thì có hai mươi bốn loại: hành duyên sáu thức là một phẩm; thọ, ái là một phẩm; thủ, hữu là một phẩm họp thành ba phẩm bốn đoạn; nhân nơi phẩm mà thành hai mươi loại nhân duyên bổn khởi. Như lai quán thấy rõ lý nhân duyên này bằng trí huệ chân thật nên được gọi là như thật tri, do như thật tri nên sanh nhàm lìa, do nhàm lìa nên được ly dục và được giải thoát nên Phật được gọi là A-la-hán.
A-la-hán còn có nghĩa là Ứng cúng, tức là xứng đáng thọ trời người cúng dường. Lại do thuở xưa, Phạm vương đem vật báu nhiều như núi Tu di cúng dường cho Thế tôn nên Phật được gọi là Ứng cúng; lại do khi Phật còn tại thế đã thọ các vua như vua Bình sa... cúng dường nên được gọi là Ứng cúng; lại do sau khi Phật nhập niết bàn, vua A Dục đem chín mươi sáu ức tiền vàng xây dựng tám vạn bốn ngàn bảo tháp và mở hội đại thí nên Phật được gọi là Ứng cúng; các đại chúng khác cúng dường Phật thì không thể nào kể hết. A-la-hán còn có nghĩa là không che giấu, người thế gian hễ tạo tội thì thường che giấu, Phật thì không như vậy.
Tam miệu tam Phật đà là biết tất cả pháp, biết nên biết pháp cần biết, biết nên bỏ pháp cần bỏ, biết nên xuất ly pháp cần xuất ly nên gọi là Phật đà. Lại có nghĩa khác là Phật dùng tuệ nhãn thấy rõ Khổ, tập, diệt, đạo đế theo thứ lớp; đối với các pháp như sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp; nhãn nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức; nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thọ; nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý niệm; nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý ái; nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý tư; cho đến năm uẩn, mươi pháp quán, mười tư, mười niệm, mười hai nhập, mười tám giới, bốn thiền, chín định, bốn tâm vô lượng, mười hai nhân duyên nghịch quán từ già chết ưu bi khổ não cho đến vô minh; hoặc thuận quán từ vô minh cho đến già chết ưu bi khổ não. Già bịnh là khổ đế, hữu là tập đế, thoát khỏi khổ tập là diệt đế, biết phương tiện diệt khổ là đạo đế. Như lai đều biết rõ nên được gọi là Tam miệu tam Phật đà.
Minh hạnh túc: minh gồm có ba biết và tám biết, ba biết như trong kinh Tam giới có nói nên biết; tám biết như trong kinh Am la thọ nói là tam muội tri, thần thông tri và sáu thông tri. Hạnh túc là giữ giới, phòng hộ sáu thức, biết đủ về ăn uống, tỉnh giác trong sự ngủ nghỉ, đủ bảy Thánh tài và bốn thiền; do đủ các pháp hạnh này nên Phật được gọi là Minh hạnh túc, cũng do pháp hạnh này mà Phật đạt đến niết bàn nên Phật được gọi là Minh hạnh túc; không phải chỉ riêng có Phật mà các Thanh văn cũng vậy.
Thiện thệ: Phật biết rõ các chúng sanh do tập nên khổ não, do tâm đại từ bi Phật khéo thuyết pháp khiến cho chúng sanh thoát khổ được vui nên được gọi là Thiện thệ; không những ngôn thiện thệ mà hành cũng thiện thệ, không phải ác thiện thệ mà là thiện thiện thệ; lại do Phật bước đi ngay thẳng, đầy đủ oai nghi, không có lỗi lầm nên được gọi là Thiện thệ. Từ khi được Phật Định quang thọ ký, Phật thương xót chúng sanh muốn khiến chúng sanh được an vui, cho đến khi thành đạo dưới cội Bồ đề, Phật đều khéo hành thiện hạnh như thế nên được gọi là Thiện thệ. Phật không theo đoạn kiến, cũng không theo thường kiến, lìa khổ hạnh ép xác, không chấp thường và đoạn nên được gọi là Thiện thệ. Phật thuyết pháp cho tất cả chúng sanh, thường ứng thời mà thuyết; chúng sanh không thích nghe thì không thuyết, thích nghe mới thuyết nên được gọi là Thiện thệ. Pháp Phật đã noi đều là chân thật nghĩa, không phải là hư vọng nghĩa, khiến cho chúng sanh nghe rồi đều được hoan hỉ; Phật không nói lời vô nghĩa, lời nói ra đều có nghĩa lợi ích nên được gọi là Thiện thệ. Thế gian giải: Phật biết tất cả pháp thế gian, biết rõ Tập đế, diệt đế và phương pháp đưa đến diệt đế nên được gọi là Thế gian giải. Như trong kinh Phật bảo các Tỳ-kheo: "nếu ta chưa đến chỗ tận cùng thế gian thì ta không tuyên nói khổ tận. Này các Tỳ-kheo, trong cái thân một tầm được gọi là Sa môn này có Tập đế thế gian, diệt đế thế gian và phương pháp đưa đến diệt đế thế gian, nếu ta không đi mà đến được chỗ tận cùng thế gian, được thoát khổ thì không có lý đó". Thế gian có ba loại: hành thế gian, chúng sanh thế gian và xứ thế gian. Hỏi: sao gọi là hành thế gian?
Đáp: là tất cả chúng sanh nhờ ăn uống mà được sống.
Hỏi: sao gọi là chúng sanh thế gian?
Đáp: là thế gian thường hay vô thường.
Hỏi: xứ thế gian là gì?
Đáp: Nhật nguyệt vận hành,
Chiếu soi thế gian,
Ánh sáng vô cùng, Không gì chướng ngại.
Lại nói về một thế gian, hai ba bốn năm sáu bảy tám chín mười cho đến mười tám thế gian.
Hỏi: sao gọi là một thế gian?
Đáp: là chúng sanh nhờ ăn uống mà sống.
Hỏi: sao gọi là hai thế gian?
Đáp: là danh sắc.
Hỏi: sao gọi là ba thế gian?
Đáp: là khổ, vui và không khổ không vui.
Hỏi: sao gọi là bốn thế gian?
Đáp: là bốn loại thực.
Hỏi: sao gọi là năm thế gian? Đáp: là năm ấm. Hỏi: sao gọi là sáu thế gian? Đáp: là sáu nhập.
Hỏi: sao gọi là bảy thế gian? Đáp: là bảy thức. Hỏi: sao gọi là tám thế gian? Đáp: là tám pháp thế gian.
Hỏi: sao gọi là chín thế gian? Đáp: là chín chỗ ở của chúng sanh Hỏi: sao gọi là mười thế gian? Đáp: là mười nhập.
Hỏi: sao gọi là mười hai thế gian? Đáp: là mười hai nhập.
Hỏi: sao gọi là mười tám thế gian? Đáp: là mười tám giới.
Như lai biết tất cả hành thế gian này nên gọi là Thế gian giải; lại biết rõ phiền não, đại tiểu phiền não của chúng sanh; cũng biết người thông minh, kẻ ngu độn; cũng biết người có thiện duyên hay ác duyên; cũng biết người dễ giáo hóa và người khó giáo hóa. Như lai biết tất cả chúng sanh thế gian này nên gọi là Thế gian giải; lại biết xứ thế gian có núi Thiết vi ngang dọc hai vạn ba ngàn bốn trăm năm mươi do tuần, chu vi ba mươi bảy vạn ba trăm năm mươi do tuần, nền đất dày bốn na do tha hai vạn do tuần. Ở trên nước, nước sâu tám na do tha bốn vạn do tuần; ở trên gió, gió dày sáu mươi chín vạn do tuần. Lại nữa, chân núi Tu di chìm sâu vào biển đến tám vạn bốn ngàn do tuần, núi Tu di cũng cao như thế và có bảy vòng núi bằng bảy báu bao quanh, như kệ nói:
"Do kiền đà la,
Y sa đà la,
Ca la tỳ câu,
Tu đà tô na,
Ni thị đà na,
Tỳ na đa ca,
A sa thiên na,
Là bảy núi lớn,
Bao quanh Tu di,
Bốn Thiên vương trụ,
Trời Dạ ma trụ,
Cao trăm do tuần,
Núi lớn tuyết tụ,
Rộng ngàn do tuần,
Cao rộng bằng nhau,
Đỉnh có tám vạn,
Bốn ngàn ngọn nữa,
Dùng để nghiêm sức.
Có cây Diêm phù,
Cao hai ngàn dặm,
Chu vi hai trăm,
Tàng cây rậm rạp,
Che trăm do tuần,
Vì có cây này,
Gọi cõi Diêm phù.
Núi đại Thiết vi,
Chân chìm trong biển,
Sâu đến tám vạn,
Hai ngàn do tuần,
Cao cũng như vậy,
Thường trụ không hoại,
Vây khắp thế gian.
Trăng-vua các sao,
Đường kính bốn mươi,
Lẻ chín do tuần;
Mặt trời tròn chiếu,
Năm mươi do tuần".
Cung điện của vua trời Đế thích ngang dọc vạn do tuần, cung điện của A tu la, địa ngục A tỳ và mặt đất cõi Diêm phù đề cũng vậy. Cõi tây Câu da ni ngang dọc bảy ngàn do tuần, cõi đông Phất vu đãi cũng vậy, cõi bắc Uất đơn việt ngang dọc tám ngàn do tuần; mỗi châu đều có năm trăm châu nhỏ vây quanh, khoảng giữa của bên ngoài núi Thiết vi đều là địa ngục Thiết vi, vô lượng thế giới cũng vậy. Phật dùng tuệ nhãn quán thấy biết tất cả nên được gọi là Thế gian giải. Vô thượng sĩ: Phật có công đức hơn hẳn trời người nên được gọi là Vô thượng sĩ; lại do giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến đầy đủ, là bậc vô thượng nên được gọi là Vô thượng sĩ. Như Phật bảo các Tỳ-kheo: "ta không thấy có Ma, Phạm, Sa môn, Bà la môn nào trong thế gian mà có giới định huệ ngang bằng với ta, và cũng không có ai là thầy ta", nên Phật được gọi là Vô thượng sĩ.
Điều ngự trượng phu: Phật điều phục người đáng được điều phục, ví như voi ngựa ngang bướng thì dùng roi đánh rồi mới điều phục, Phật cũng vậy, có thể điều phục tất cả chúng sanh nên được gọi là Điều ngự. Như ngày xưa Phật đã hàng phục được Long vương tên A ba la lưu, voi Thuần chữ, Ma hủ đà bỉ, A kỳ tử, Khu thu ma tử khu tử, Khu đà na... Phật dùng thiện pháp điều phục khiến chúng vào trong chánh pháp, thọ Tam quy ngũ giới. Lại điều phục người nam tên Xà bạt con của Ni kiền đà, Bà la môn Bốc kha la bà, Ương quật ma la...; lại điều phục các Dược xoa A la bà ca, Tu chí lệ, Ma kha la... cho đến vô số chư thiên như Thích đề hoàn nhơn đều được Phật dùng chánh pháp điều phục. Như trong kinh Phật bảo Kỳ tu (Hán dịch là người điều luyện voi): "ta là bậc Điều ngự trượng phu, dùng pháp nhu hòa giáo hóa chúng sanh, nếu chúng sanh không tùy thuận thì ta dùng pháp cứng rắn để giáo hóa; nếu cũng không tùy thuận thì ta dùng pháp vừa mềm vừa cứng để giáo hóa; nếu cũng không tùy thuận thì ta không cùng hòa hợp".
Thiên nhân sư: ví như đoàn thương nhân có một thương chủ biết rõ những hiểm nạn nên gọi là sư.
Hỏi: những hiểm nạn gì?
Đáp: một là nạn giặc, hai là nạn cọp sói sư tử, ba là nạn đói, bốn là nạn thiếu nước; đối với các nạn này, vị thương chủ dẫn dắt vượt qua để đến chỗ an lạc. Như lai cũng vậy, dẫn dắt chúng sanh vượt qua các hiểm nạn của sanh già bịnh chết để đến chỗ an lạc, nên được gọi là Thiên nhân sư.
Hỏi: vì sao gọi Phật là thầy của trời người?-khi Phật còn tại thế, tuy có thuyết pháp cho súc sanh nhưng vẫn gọi là Thiên nhân sư. Như trong kinh nói Phật lúc đó ở bên bờ ao Ca la thành Chiêm bà, đang thuyết pháp cho người Chiêm bà. Trong ao có một con ếch nghe tiếng Phật thuyết pháp, vui mừng ra khỏi ao bò đến bụi cỏ, gần chỗ thuyết pháp. Lúc đó có một mục đồng thấy mọi người vây quanh Phật nghe pháp nên cũng đi đến để nghe, khi nó chống gậy đứng nghe trúng vào đầu con ếch khiến ếch chết. Ếch thác sanh lên cõi trời Đao lợi, ở trong cung điện cao rộng mười hai do tuần, chung quanh có các thiên nữ và các kỹ nhạc, thiên tử Ếch liền suy nghĩ: "trước kia ta là súc sanh, nhờ đâu mà được sanh lên cõi trời này?", liền dùng thiên nhãn quán thấy nhờ nghe Phật thuyết pháp nên mới được quả báo này. Thiên tử Ếch liền hiện thân đến chỗ Phật đảnh lễ, Phật tuy biết rõ nhưng vẫn hỏi: "người là ai mà có thần thông, ánh sáng và tướng hảo không ai sánh bằng, lại đến đảnh lễ ta?", thiên tử Ếch nói kệ:
"Xưa con mang thân Ếch,
Kiếm ăn trong ao nước,
Nghe tiếng Phật thuyết pháp,
Nên bò đến bụi cỏ,
Bỗng có một mục đồng,
Chống gậy đứng nghe pháp,
Trúng vào đầu của con,
Mạng chung sanh lên trời"
Phật đem việc của Ếch thuyết cho bốn chúng nghe khiến trong chúng có tám vạn bốn ngàn người được thấy vết đạo và thiên tử Ếch chứng quả Tu đà hoàn, chứng quả rồi hoan hỉ trở về thiên cung.
Phật-Bà già bà: do Phật tự giác ngộ và giác ngộ cho người khác; lại là bậc biết rõ như thật, chứng ba đạt trí để giác ngộ thế gian nên được gọi là Phật. Bà già bà có bốn nghĩa: lợi ích, vô thượng, cung kính và tôn trọng nên xứng đáng được thế gian tôn kính. Thế gian có bốn cách gọi tên là tùy, chí, nhân và hiệu; tùy là như người đời gọi con bò con là Nghé, hơi lớn thì gọi là bò tơ, lớn hơn nữa thì gọi là bò già, do tùy thời mà gọi tên khác nhau; chí là như người cầm du, lọng thì được gọi là người có dù, có lọng; nhân là như người nghèo nhờ làm nô tỳ mà được vật báu; hiệu như hiệu Bà già bà không phải do vua Tịnh-phạn đặt cho, cũng chẳng phải do tám vạn quyến thuộc đặt cho, cũng chẳng phải do chư thiên, Ma, Phạm đặt cho. Như trong kinh Phật bảo Xá lợi phất: "danh hiệu của ta không phải do cha mẹ, quyến thuộc, vua trời Đế thích, Ma, Phạm... đặt cho ta; mà là do ta quán lý chân thật, chứng được Nhất thiết trí ở dưới cây Bồ đề nên được gọi là Bà già bà", do Phật tự quán thân Phật có oai đức và trí huệ, muốn cho chúng sanh biết nên tự nói danh hiệu là Bà già bà. Lại do tham sân si, tâm điên đảo, không biết xấu hổ, tật đố, gian dối, che giấu, kiêu ngạo, ngã mạn, lười biếng, khát ái, ác căn bất thiện, bốn điên đảo, bộc lưu, kiết sử, năm Cái, khát ái tụ, tà kiến, mười ác pháp, sáu mươi hai kiến, một trăm lẻ tám phiền não... Như lai đều đã diệt trừ hết, nên gọi là Bà già bà; lại do Như lai có ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp của bậc đại nhân, xa lìa các phiền não, trời người đều muốn đến gặp, Phật quán tâm ưa thích của họ mà thuyết pháp nên được gọi là Bà già bà. Bà già bà có sáu nghĩa: thống lĩnh, pháp, danh tiếng, vi diệu, mong muốn và nhớ nghĩ.
Hỏi: sao gọi là thống lĩnh?-là tự thống lĩnh tâm mình-sao gọi là pháp?-là pháp thân Như lai có đầy đủ tất cả-sao gọi là danh tiếng?-là danh tiếng thanh tịnh của Phật truyền khắp nơi-sao gọi là vi diệu?-là thân Phật có đủ tướng vi diệu, nhìn không thấy chán-sao gọi là mong muốn?-là Phật muốn gì tùy tâm mà được, như muốn lợi mình lợi người.
-Sao gọi là nhớ nghĩ?-là tất cả chúng sanh dùng tâm niệm cúng dường Phật.
Bà già bà còn có nghĩa phân biệt-là phân biệt các pháp như năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới, bốn đế, sáu thức, mười hai nhân duyên; lại phân biệt biết mỗi mỗi pháp như Khổ đế là bức bách dời đổi, Tập đế là chấp trước không xả bỏ, Diệt đế là diệt khổ thọ, Đạo đế là nhân duyên được thoát khổ. Bà già bà lại có nghĩa Phật đã trừ bỏ phiền não của ba cõi. Nói thế gian là chỉ cho trời người, Phạm, Ma, Sa môn, Bà la môn; trời người là chỉ cho trời người trong cõi Dục, ma là chỉ cho thiên ma, Phạm là Phạm thiên, Sa môn và Bà la môn là chỉ cho bốn bộ chúng ở thế gian. Phật thu lấy trên dưới đều vào công đức của Như lai, thông đạt tất cả cảnh giới ấy. Nói tự thuyết pháp là Phật tự biết dùng phương tiện, tự dùng tuệ nhãn thấy biết, hoặc biết rõ nghĩa không có chướng ngại nên nói pháp cho chúng sanh nghe.
Hỏi: vì sao Phật lại thuyết pháp cho chúng sanh?
Đáp: vì Phật sanh tâm từ bi đối với chúng sanh, muốn ban vui cho chúng sanh nên mới thuyết pháp, hoặc một bài kệ hoặc nhiều hơn hay ít hơn, đầu giữa sau đều là thiện, nghĩa hay đẹp thuần nhất không tạp, tất cả đều là một vị. Có thuyết nói phẩm đầu là sơ thiện, phẩm giữa là trung thiện, phẩm sau cùng là hậu thiện; hoặc giới là sơ thiện, định đắc đạo là trung thiện, niết bàn là hậu thiện; hoặc giới định là sơ thiện, thiền định và đạo là trung thiện, niết bàn là hậu thiện; hoặc Phật là sơ thiện, pháp tức thiện pháp là trung thiện, Tăng thiện tùy là hậu thiện.
Hỏi: vì sao nói Tăng là hậu thiện?
Đáp: vị nào nghe pháp rồi mà không bị dao động, được Thánh lợi thì được gọi là hậu thiện. Lại nữa Phật Bồ đề là sơ thiện, Bích chi Bồ đề là trung thiện, Thanh văn Bồ đề là hậu thiện. Lại nữa hạng vừa nghe được thiện pháp liền thoát ly năm triền cái gọi là sơ thiện, hạng nghe rồi tùy thuận gọi là trung thiện, hạng tùy hành rồi dần dần đắc đạo gọi là hậu thiện. Dù Như lai thuyết pháp nhiều hay ít đều có đủ sơ trung hậu thiện, nói thiện là thiện về nghĩa và văn tự; nói thiện về nghĩa là Phật thuyết pháp về pháp phạm hạnh, đạo phạm hạnh, dùng nhiều cách để khai thị cho chúng sanh hiểu nên gọi là nghĩa thiện. Lại nữa thiện về nghĩa là câu đủ, cũng gọi là khai thị, cũng gọi là phân biệt, cũng gọi là không che giấu, các câu nối tiếp nhau không dứt; thiện về chữ là có thể trì nghĩa sâu xa, chỉ bày nghĩa sâu xa. Lại nữa thiện về nghĩa và chữ là có đủ tứ biện: pháp biện, nghĩa biện, từ biện và nhạo thuyết biện; chỉ có người trí mới hiểu được nghĩa sâu xa, kẻ phàm ngu không hiểu được; nói câu đủ là nghĩa đã đủ, không vay mượn; nói chỉ bày phạm hạnh là
Phạm thiên hành trì pháp này, người nghe rồi hoan hỉ hành theo. Cho nên chỉ bày phạm hạnh là sơ thiện, có nhân duyên là trung thiện, nghĩa không điên đảo là hậu thiện.
Hỏi: như thế nào là mỹ mãn?-giới đứng đầu năm pháp tụ nên gọi là mỹ mãn, nghĩa của nó thuần nhất nên gọi là tịnh. Như lai thuyết pháp cho chúng sanh không vì tham được cúng dường nên gọi là tịnh hạnh; sở hành của Phật, Phật Bích chi và Thanh văn đều gọi là phạm hạnh. Lành thay, hành tướng như vậy nên đến thăm hỏi.
Hỏi: như thế nào là lành thay?-tức là đưa đến vạn thiện, cũng nói là đưa đến an vui, đây là câu đủ. Hành tướng là có sở hành hơn người và tướng mạo đầy đủ; nên đến thăm hỏi là nên đến gặp Phật. Lúc đó Bà la môn Tỳ-lan-nhã khởi niệm tư duy rồi đến gặp Phật cung kính thăm hỏi: "tứ đại có kham nhẫn không, các đệ tử Thanh văn có ít bịnh, ít não, tứ đại có khinh an và có được an lạc trụ không?", Phật cũng thăm hỏi như thế, sau khi thăm hỏi rồi Bà la môn ngồi lui một bên. Người trí đến gặp bậc tôn đức, khi muốn ngồi không nên phạm vào sáu lỗi là quá xa, quá gần, trên gió, chỗ cao, ngay trước mặt và sau lưng.
Hỏi: ngồi quá xa có lỗi gì?-khi cùng nói chuyện sẽ không nghe rõ tiếng-quá gần có lỗi gì?-sẽ tiếp xúc vô lễ-trên gió có lỗi gì?-có mùi hôi trên thân bay xuống-ngồi chỗ cao có lỗi gì?-không cung kính-ngồi ngay trước mặt có lỗi gì?-có nạn nhìn ngó-ngồi sau lưng có lỗi gì?-khi cùng nói chuyện, bậc tôn đức phải quay đầu lại.
Bà la môn này khi ngồi đã tránh được sáu lỗi này, theo thế gian Bà la môn là người mà cả cha mẹ đều cùng đẳng cấp Bà la môn; trưởng giả là người có thân cao lớn và lớn tuổi, hoặc là người có oai đức và giàu có; già là đầu tóc bạc và đã có con cháu chắt; già nua là da dẻ khô nhăn; cao tuổi là đã sống trải qua nhiều đời vua; tuổi thọ cao là đã sống hơn trăm tuổi. Sa môn là hàng phục phiền não, diệt trừ phiền não hoặc là đã dứt tâm. Bà la môn bày khi đến gặp Phật thấy Phật không đứng dậy chào hỏi và không trải tòa ngồi mời ngồi nên nói với Phật: "Sa môn Cù Đàm sao lại như vậy, đúng như tôi đã được nghe, nay mới thấy Ngài đề cao mình và xem thường người khác", Phật khởi tâm từ bi đáp: "từ khi Như lai đản sanh trong vườn cây, xuống đất bước đi bảy bước về hướng bắc đã quán thấy trong trời người, Ma, Phạm, Sa môn, Bà la môn, không có ai để ta phải làm lễ cả; lúc đó Như lai một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất nói rằng: trên trời dưới trời chỉ có ta là độc tôn. Khi ta nói lời này, Phạm thiên liền chắp tay nói: trong ba cõi, Bồ tát là độc tôn, không có ai hơn. Này Bà la môn, khi Như lai chưa đắc đạo đã tự xưng là độc tôn trong ba cõi, huống chi nay Như lai đã thành chánh giác. Nếu người nào muốn Như lai lễ bái thì đầu người đầu sẽ bị vỡ làm bảy phần", Bà la môn nói: "nếu như thế thì chỉ có sắc, không có thật vị", Phật nói: "đúng như lời ông nói là không có thật vị, vì sao, như người đời lấy sắc thanh hương vị xúc làm vị; Như lai đã đoạn trừ các vị này như cây Đa la bị chặt ngọn, không thể sanh trưởng được nữa", Bà la môn nói: "Ngài thật là cao ngạo, nếu như vậy thì Ngài không làm gì cả sao?", Phật nói: "đúng như lời ông nói là ta thật không làm, ta không làm các việc như dâm dục, trộm cắp, sát sanh, vọng ngữ... là những nghiệp ác của thân ngữ ý", Bà la môn nói: "nếu như vậy là tự đoạn chủng hay sao?", Phật nói: "do ta đã đoạn hết các phiền não của ba cõi nên gọi là đoạn chủng", Bà la môn nói: "người đoạn chủng là đáng khinh, không trong sạch", Phật nói: "theo ý ta thì người nào buông lung thân ngữ ý làm ác, người ấy là đáng khinh, không trong sạch", Bà la môn nói: "Ngài nghe lời ta nói rồi theo đó mà phá diệt, đối với hàng người này không thể cùng nói chuyện", Phật nói: "ta cũng không nói chuyện với hạng người ngu si, đáng thương xót, thường làm các nghiệp ác, không nghĩ đến tu thiện", Bà la môn nói: "ngài sẽ bị thức suốt ngày đêm suy nghĩ tìm cầu văn chương để làm khốn khó người thế gian", Phật nói: "ta quả thật đã không ngủ khi nhập thai và lúc còn ở trên cõi trời cũng đã không ngủ". Lúc đó Phật khởi tâm từ bi thuyết pháp muốn ban cho Bà la môn pháp vị cam lồ, Bà la môn sau khi nghe pháp, tâm liền thanh tịnh như hư không không bị mây che, như ánh sáng mặt trời mặt trăng phá tan bóng tối. Phật nói: "ông nay tuổi đã già suy gần kề cái chết, nhờ đến gặp ta nên được quả lợi này, ví như gà ấp trứng hoặc tám, mười hay mười hai trứng. Khi gà mẹ ấp, tùy lúc hồi chuyển, nó dùng hai cánh phủ lên trứng để ấp cho đến khi trứng sắp nở; khi thấy ánh sáng, gà con liền dùng mỏ mổ vỏ trứng để chui ra, ra ngoài rồi nó xòa cánh kêu lên. Này Bà la môn, gà con ra khỏi vỏ trước là lớn hay nhỏ?", Bà la môn đáp: "con ra trước là lớn", Phật nói: "ta cũng vậy, vì vỏ vô minh che kín ba cõi, ta đã dùng mỏ trí huệ mổ vỡ vỏ vô minh, thoát ra ba cõi trước, vậy thì ai lớn ai nhỏ?", Bà la môn đáp: "Sa môn Cù Đàm là lớn".
Nói độc nhất trong thế gian là không có người thứ hai, Tam miệu tam bồ đề là vô thượng Bồ đề. Hỏi: như thế nào là vô thượng Bồ đề?-nếu người đang ở đạo Tu đà hoàn mà hỏi về quả Tu đà hoàn, cho đến đang ở đạo A-la-hán mà hỏi về quả A-la-hán hoặc đạo bích chi và Phật đạo, Phật đều giải đáp được thì gọi là Vô thượng Bồ đề. Lại nữa, khi Phật ngồi dưới cây Bồ đề quán pháp tứ đế khổ không vô thường, Phật đã chứng quả vị tối thượng do nơi chánh cần tinh tấn, không phải do nơi buông lung biếng nhác; bốn pháp chánh cần tinh tấn là ngay thẳng, không gấp, không chậm và không để qua một bên.
Nói không nhu nhược là không trụ, nói khởi tâm là hành theo pháp quán, không lui sụt là không mệt mỏi, tâm định là được nhất tâm. Do khéo trụ tâm nơi định nên thành tựu nhất tâm mà chứng được sơ thiền, từ sơ thiền tuần tự chứng được ba đạt trí, nhờ thoát dục mà Phật chứng được pháp vô thượng, như trong luật nói: Phật đối với dục đã thanh tịnh, đối với ác cũng thanh tịnh.
Hỏi: dục là gì?-dục gồm có tham dục dục, dục tham dục và dục tư dục-ác pháp là gì?-là dục và hồ nghi, Như lai đối với hai ác pháp này đều được tịch tĩnh.-thế nào là thanh tịnh trong đục?-ly dục cũng gọi là bỏ dục, vì sao, vì vô minh là bạn của Dục, dục là oan gia của thiền định, người mới nhập sơ thiền lìa bỏ dục, lìa Dục và lìa ác thì thiền định hiện tiền; diệt dục, diệt ác thì thiền định liền khởi; lại có ba tịnh là thân tịnh, tâm tịnh và xả ly tịnh, nghĩa của ba tịnh này nên tự hiểu. Dục có hai loại là xứ dục và phiền não dục, xứ dục là tâm dính mắc sắc trần, phiền não dục là khiến người đến chỗ dục. Câu đầu là lìa bỏ dục lạc, câu sau là thoát khỏi phiền não dục, tâm được thanh tịnh; lại nữa, câu đầu là trừ xứ dục, câu sau là trừ phiền não dục; câu đầu là trừ bỏ nhân duyên dao động, câu sau là trừ bỏ tướng si mê; câu đầu là hiển rõ thanh tịnh, câu sau là dứt dục, thứ lớp như vậy nên biết. Hỏi: nói tham dục thì tham là dục hay tham khác, dục khác?-cùng quy về một chỗ, vì sao, vì theo lý thì tất cả pháp đều quy về một chỗ, nhưng phân biệt thì có khác nhau. Trong luật nói tham là phiền não, dục là dục xứ; tham dục là oan gia của thiền định, hoan hỉ là oan gia của sân hận, tư là oan gia của thùy miên, an lạc là oan gia của dao động hoài nghi, tư là oan gia của hồ nghi. Tham dục là oan gia của sơ thiền, tham dục thuộc về năm triền cái, các pháp ác cũng thuộc về năm triền cái. Năm triền cái là gốc của ba độc, là năm dục, năm trần, là tà kiến tham đắm. Câu đầu là dục lưu, dục trước, dục tuyền, dục thủ, tâm sát hại, kết dục; câu sau là chấp thủ tham đắm; câu đầu là các ái, câu sau là vô minh; câu đầu là tham... tám tâm thọ; câu sau là bốn tâm bất thiện khởi. Như vậy trong dục thanh tịnh, ác cũng thanh tịnh.
Hỏi: niệm tư là gì?-niệm là động chuyển, chú tâm nơi cảnh quán; tư là người hành thiền chú tâm vào cảnh quán, chú tâm quán chiếu và liên tục. Như tiếng chuông, ban đầu lớn sau nhỏ dần; ban đầu tiếng lớn là niệm, sau nhỏ dần là tư; ví như chim bay, ban đầu cánh chuyển động, sau đó ổn định; chuyển động là niệm, ổn định là tư; ví như ong tìm hoa, mới đến hoa là niệm, chọn được hoa là tư. Sơ thiền có năm chi là niệm, tư, hỷ, lạc và định; giống như cây có hoa và trái, sơ thiền cũng vậy có niệm và tư đều từ tĩnh sanh khởi.
Hỏi: thế nào là tĩnh?-là lìa năm triền cái. Hỷ là đầy, thân tâm tràn đầy vui vẻ gọi là hỷ; lạc là thân tâm hết hẳn khổ, lạc cũng là dính mắc vào vị tưởng. Hỏi: thế nào là hỷ?-tâm tràn đầy ý tưởng hay gọi là hỷ, lạc là cảm thọ về hỷ; hai pháp này không rời nhau, có hỷ thì có lạc và ngược lại. Hỷ thuộc về hành ấm, lạc thuộc về thọ ấm, như người đi đường đang khát nước nghe có nước liền sanh tâm vui mừng, đó là hỷ; đến chỗ có nước được uống nước và tắm rửa, đó là lạc. Định sơ thiền là khéo đốt cháy, cũng là pháp mà thiền sư phải quán.
Hỏi: thế nào là khéo đốt cháy?-tức là có thể đốt cháy hết triền cái, cũng gọi là đoạn trừ phiền não, cũng gọi là thấy. Thấy là quán thấy pháp tướng của tám loại thiền định, vì sao, vì quán tướng là quán vô thường, nhờ quán nên đắc đạo, gọi là quả kiến đạo, dùng quả này để quán diệt đế, thế nên gọi thiền định là quán tướng.
Hỏi: thế nào là sơ thiền?-khi năm chi niệm, tư, hỷ, lạc và định hiện tiền thì gọi là sơ thiền. Ví như người có tài sản, có quyến thuộc; nếu bỏ tài sản và quyến thuộc thì không còn có tên gọi ấy. Ví như gọi quân là có đủ người, binh lính, voi ngựa và chiến cụ; nếu bỏ hết người, binh lính... thì không còn gọi là quân. Sơ thiền cũng vậy, nếu bỏ hết niệm, tư, hỷ, lạc và định thì không còn gọi là sơ thiền; nói nhập thiền là đạt đến, cũng gọi là thành tựu; nói trụ thiền là ngồi dưới cội Bồ đề trụ trong thiền định.
Hỏi: Phật ngồi dưới cội Bồ đề quán những gì?-quán hơi thở ra vào
-Có quán gì khác nữa không?-cũng có, thiền định theo như trong kinh Tịnh đạo, ý nghĩa rất sâu xa, nên tự nghiên cứu trong A tỳ đàm-Tỳ bà sa; trên đây giải thích sơ thiền là dựa theo chánh luận Tỳ ni Tỳ bà sa, lược nói các phẩm khác. Hết phẩm Sơ thiền.
Tư và niệm diệt thì nhập nhị thiền, khi nhị thiền khởi thì hai pháp trên liền diệt, vì sao, vì trong nhị thiền không có pháp của sơ thiền, như trong luật nói: diệt hết niệm và tư thì nhập thiền thứ hai, nội pháp liền hiện.
Hỏi: thế nào là hiện?-hiện là từ thân phát sanh, thanh tịnh là không nhơ bẩn, thiền cũng gọi là tịnh, vì sao, như cái áo có màu xanh nên gọi là áo xanh; thiền cũng vậy, do có pháp thanh tịnh nên gọi là thanh tịnh thiền.
Hỏi: thế nào là định thanh tịnh?-niệm và tư là gốc của dao động, niệm và tư đã diệt liền được thanh tịnh. Một tướng là một pháp sanh khởi.
Hỏi: thế nào là một pháp sanh khởi?-không để ý đến niệm, tư gọi là tướng của một pháp, cũng gọi là vô thượng, cũng gọi là một tướng; niệm và tư đã lìa tức là không hai, tướng không hai là một tướng. Hỏi: thế nào là tướng của một pháp?-tức là chánh định-thế nào là chánh định?-là nhất tâm không hai, cũng gọi là định, cũng gọi là bất động, đây là một tướng trong thiền thứ hai.-thế nào là danh?-là chẳng phải ngã cũng không phải là sanh khí-Sơ thiền không có thanh tịnh sao?-có-nếu có thì sơ thiền cũng gọi là một tướng, vì sao chỉ riêng nhị thiền mới gọi là một tường?-vì niệm và tư dao động như nước nổi sóng nên soi không thấy mặt; sơ thiền cũng vậy, do niệm và tư dao động nên tâm không thanh tịnh nên không gọi là một tướng, vì chánh định không hiển.
Hỏi: vì sao trong nhị thiền, định mới hiển?-vì tâm tịnh, từ định sanh hỷ lạc là từ định của sơ thiền sanh hỷ lạc là thiền thứ hai. Sơ thiền có năm chi, nhị thiền có bốn chi là thanh tịnh, hỷ, lạc và nhất tâm.
Hỏi: khi nào ba chi hỷ lạc và nhất tâm cùng phát sanh?-khi tâm thanh tịnh. Hết phẩm nhị thiền. Ly hỷ nhập thiền thứ ba.
Hỏi: thế nào là ly hỷ?-tức là làm cạn mỏng hỷ, vượt qua hỷ, cũng gọi là diệt hỷ; vì hỷ sanh khởi lại nên niệm và tư diệt.-Trong nhị thiền, niệm và tư diệt liền sanh hỷ, vì sao nói là hỷ sanh khởi lại?-vì muốn khen ngợi tam thiền nên nói như vậy, do đường vào tam thiền, tà kiến chưa diệt, phải đắc đạo Tu đà hoàn thì tà kiến mới diệt, nên trong tam thiền nói hỷ sanh khởi lại, cũng như nói xả mà trụ. Hỏi: thế nào là xả?-xả là thấy bình đẳng không thiên lệch, không bè đảng, mạnh mẽ xả là thiền thứ ba. Xả có mười loại: một là ba lãng cầu xả, hai là Phạm Ma cầu xả, ba là Bồ đề đẳng xả, bốn là tỳ lê cầu xả, năm là hành cầu xả, sáu là xúc cầu xả, bảy là quán cầu xả, tám là mạt xà cầu xả, chín là trí cầu xả, mười là thanh tịnh cầu xả. Mười xả này nhân nơi một tướng quán tâm người khác ở khắp nơi, trong đây chỉ nói sơ lược, nên tìm hiểu rõ trong Sa lợi da, Đàm ma tăng già ha ni da và trong đạo tịnh đạo.
Hỏi: mười xả này lấy loại xả nào?-lấy mạt xà cầu xả-thế nào là mạt xà cầu xả?-là không quan tâm đến việc khác do hỷ phát sanh-trong hai thiền trên có loại xả này không?-trong hai thiền trước cũng có xả này nhưng hãy còn nhỏ nhiệm, không hiển rõ, vì sao, vì bị niệm tư và hỷ che; trong tam thiền do lìa niệm, tư và hỷ nên xả mới hiển rõ. Do có chánh tư tri.
Hỏi: thế nào là tư?-là tâm sanh nhiều tưởng, tri là biết thông suốt, chánh tư là không quên, cũng gọi là thức hoặc là khởi tướng biết, chánh tư tri là lựa chọn gom lại, đây là nói lược.-Sơ thiền có tư tri không?-Có
Nếu có thì sao trong Sơ thiền không có tư tri hiện?-vì quá thô, như mài dao trước cùn sau bén, tư tri cũng vậy, trong Sơ thiền còn thô nên không hiện; như người lấy sữa đuổi con nghé đi, không bao lâu sau nó quay trở lại, cũng vậy trong Tam thiền ly hỷ không xa nếu không có tư tri giữ thì nó liền hợp với hỷ, nhờ tư tri mạnh mẽ giữ nên mới ly được hỷ. Lạc này là vô thượng lạc, là cực lạc-tự thân biết lạc.
Hỏi: thế nào là thân?-tức là danh sắc, nhờ thân danh sắc nên mới biết lạc, lạc kết hợp với thân danh sắc, hai lý tương hợp cùng cực là mỹ vị, như bậc thiện nhân nói: có xả có tư trụ lạc.-thiện nhân là ai?-là Phật, Phật Bích chi, các Thanh văn và người đác Tam thiền nói nhân duyên của thiền định này.-Nói là chỉ cho thấy hoặc phân biệt hoặc khen ngợi-vì sao nói là có xả có tư trụ lạc?-vì muốn nhập Tam thiền
Nhập như thế nào?-trong Tam thiền vì có xả nên hỷ không sanh gọi là có tư, vì niệm và lạc của bậc thiện nhân là lạc thuần nhất không tạp nên được thiện nhân khen ngợi. Nhập tam thiền cũng như nhập sơ thiền và nhị thiền, chỉ khác là sơ thiền có đủ năm chi, nhị thiền có bốn chi còn tam thiền chỉ có hai chi-đó là hai chi nào?-đó là lạc và nhất tâm. Hết phẩm tam thiền.
Hỏi: nghĩa như thế nào?-trong tứ thiền không còn tâm khổ và lạc, xả cả tên khổ và lạc-khi nào không còn tâm khổ lạc?-khi vừa nhập tứ thiền-ở đâu không còn khổ về thân?-như trong kinh, Phật bảo các Tỳ-kheo: ly dục được thanh tịnh liền nhập sơ thiền, nơi đây diệt hết khổ về thân-ở đâu diệt hết tâm khổ lạc?-trong sự tu tập tròn đầy, như Phật bảo các Tỳ-kheo: "trong tứ thiền, khổ lạc diệt tận, vừa nhập tứ thiền, hỷ liền diệt tận, vì sao, vì trong sơ thiền, niệm và tư chưa diệt nên có tâm khổ, niệm và tư diệt hết thì khổ cũng diệt. Cũng vậy, trong nhị thiền, tam thiền và tứ thiền theo thứ lớp diệt các chi, trước tiên là chi niệm, khi nhập tứ thiền thì hỷ diệt, lạc trong tứ thiền do trụ xả nên lạc không sanh, khổ cũng diệt tận nên nói là không khổ không lạc. Pháp xả này nhỏ nhiệm, không thể dùng ý hiểu đến được, như có con bò dữ, người chăn bò không bắt giữ được nên làm chuồng để lùa hết cả bầy vào, sau đó kéo dắt từng con ra, cuối cùng bắt giữ được con bò dữ. Phật cũng vậy, trước tiên giữ lạc để vào tất cả pháp, sau đó loại dần ra, cuối cùng là không khổ không lạc".
Hỏi: không khổ không lạc này có thể giữ được không?-không thể giữ được-vì sao ở trên nói giữ được?-nhờ tên mà biết tướng, cũng như giữ được; như trong kinh nói vị trưởng giả nhờ bốn duyên không khổ không lạc mà trưởng giả được tên giải thoát; nhờ nhập định không còn khổ lạc nên trụ tứ thiền. Cũng như ở tam thiền, tà kiến... là các pháp được diệt trước tiên, đây là khen ngợi tam thiền.-các pháp ấy như thế nào?-đó là sân giận, ngu si...; như trong tứ thiền, bắt đầu bằng tâm khổ lạc, nhân lạc sanh khởi dục, nhân khổ sanh khởi sân hận, tứ thiền trụ xả nên không khổ không lạc-tướng của không khổ không lạc như thế nào?-là xả-vị của nó thế nào?-do xả vị khổ lạc nên không có vị.
Nói xả thức thanh tịnh là như thế nào?-tức là xả cho thức được thanh tịnh, trong thiền thứ tư, thức thanh tịnh, do thanh tịnh nên xả hết ba thức đã có, đây là do xả làm, không phải do pháp nào khác. Như trong luật bổn nói: xả thức thanh tịnh như mây tan hết, ánh trăng chiếu sáng; trong đây cũng vậy, lìa hết tư lạc thì thức liền thanh tịnh.
Hỏi: trong ba thiền trước có xả thức thanh tịnh không?-có-nếu có vì sao không hiển ra?-do bị tư che lấp nên không hiển ra, lại nữa xả trong tứ thiền như mặt trăng tròn sáng ban đêm, lý hợp thì ánh trăng ngời sáng. Trong sơ thiền có năm chi, trong tứ thiền chỉ có ba chi là xả, thức và nhất tâm hoặc chỉ có hai là xả và nhất tâm-khi nào phát sanh xả và nhất tâm?-khi nhập tứ thiền. Hết phẩm tứ thiền. Bốn thiền định này, có người muốn khởi Quán địa, có người muốn nhất tâm, có người muốn được Thông địa, có người muốn Diệt đế địa, có người muốn nhập Sanh địa, người ái tận thì cầu nhất tâm. Hỏi: vì sao nhập thiền định liền được nhất tâm?-nếu người nào nghĩ: ta trụ an lạc một ngày, nghĩ rồi liền tu pháp Ca tư na, sẽ phát sinh tám loại định, sau khi xuất định mà vẫn nhất tâm đế quán thì gọi là được Quán địa. Người nào thành tựu tám loại định rồi, nhập thông các thiền địa rồi, sau khi xuất định liền hiện thần thông hoặc từ một thân hóa ngàn vạn thân..., nên biết người này nhờ thiền mà được Thông địa. Người nào được tám loại định rồi, nhập diệt đế tam muội, bảy ngày nhập Diệt tận định, thế gian gọi là niết bàn, nghĩ rằng: ta muốn trụ an lạc bảy ngày thì gọi là được Diệt đế địa. Người nào nơi tám loại định, tâm không ưa thích muốn sanh lên cõi trời Phạm thì gọi là nhập Sanh địa. Phật ngời dưới cây Bồ đề nhập tứ thiền, sau khi xuất định, thiền quán địa của Như lai cũng gọi là Thông địa, cũng gọi là nhập Diệt đế địa, nhập tất cả pháp, thế gian pháp và Thánh lợi pháp.
Nói người nhập tứ thiền được nhất tâm nên gọi là tịnh, như trong luật bổn nói là xả thức thanh tịnh.
Hỏi: thế nào là tịnh?-trắng sạch không đen, cũng gọi là quang minh, nhờ lạc nên ly dục và lìa hết các phiền não, tâm liền thanh tịnh được tùy tâm ứng dụng. Vì sao, vì tâm được giáo thọ khiến được nhu nhuyến cùng cực, như trong kinh nói nếu tâm nhu nhuyến thì được tùy tâm ứng dụng; như quặng vàng thứ lớp đào luyện cho mềm rồi mới có thể tùy làm ra các món đồ trang sức, tâm cũng vậy, được tùy tâm ứng dụng. Trong kinh Phật bảo các Tỳ-kheo: "ta không thấy một pháp nào như tâm, điều phục nhiều lần làm cho nhu nhuyến rồi mới có thể tùy tâm ứng dụng, trụ chỗ cực tịnh rồi được gọi là bất động, tinh tấn không biếng nhác, nhất tâm không dao động trạo cử, dùng trí huệ nhiếp rồi thì không bị vô minh che lấp nữa, không bị thức nhiếp nữa, cũng không bị thất niệm làm nhơ, quang minh sáng suốt không bị phiền não ngăn che nữa. Nhờ sáu pháp này nhiếp mà nhập tứ thiền được nhất tâm, được nhất tâm rồi thì lìa các triền cái, vượt qua niệm tư, tâm được thanh tịnh phát sanh trí huệ. Tất cả triền cái không thể che lấp tâm, được vô niệm nên được bất động, trừ hết phiền não cũng gọi là được bất động".
Túc mạng trí được phát sanh từ Thông địa, túc là ấm đời quá khứ sanh ở nhà này nhà kia, chết ở nhà này nhà kia hoặc tùy vào nhà này nhà kia, rời khỏi nhà này lại sanh vào nhà kia..., dùng trí huệ của mình mỗi mỗi phân biệt biết rõ thì gọi là Túc mạng trí. Như trong luật bổn nói: túc mạng trí phân biệt biết được chỗ ở của các thân đời trước, biết chỗ thọ sanh hoặc một đời, hai đời... nhiều đời luân chuyển như vậy đều phân biệt biết rõ. Phật đã đến bờ kia, không còn phải điều phục tâm nên tâm tâm đều phân biệt biết rõ; còn người mới tu học phải điều phục tâm rồi mới phân biệt biết được.
Hỏi: thế nào là một đời?-từ khi vào thai cho đến khi chết gọi là một đời, tuần tự như vậy cho đến vô số đời.
Tam bạt kiếp, Hán dịch là kiếp hoại-sao gọi là kiếp hoại?-là kiếp thứ lớp diệt dần. Tỳ bạt di kiếp, Hán dịch là kiếp thành-sao gọi là kiếp thành?-là kiếp thứ lớp thành tựu dần. Do hoại dần nên kiếp hoại đưa đến kiếp không, từ kiếp không, kiếp dần dần thành tựu đưa đến kiếp thành, thành tựu hoàn toàn là kiếp trụ, đối với những kiếp này Phật đều phân biệt biết rõ. Như trong kinh Phật bảo các Tỳ-kheo: "có bốn A tăng kỳ kiếp là hoại, không, thành và trụ; kiếp hoại có ba là hoả hoại, thủy hoại và phong hoại làm cho ba cõi trời bị hoại là A ba sa la thiên, Tu bà khẩn na thiên và Ty hiếp phá la thiên. Khi kiếp hỏa hoại xuất hiện thì từ cõi trời A ba sa la thiên trở xuống đều bị đốt cháy hết, khi kiếp thủy xuất hiện thì từ cõi trời Tu bà khẩn na thiên trở xuống đều bị chìm trong nước lớn, khi kiếp phong hoại xuất hiện thì từ cõi trời Tỳ hiếp phá la thiên trở xuống đều bị gió thổi bay hết".
Rộng đến một cảnh giới Phật-sao gọi là cảnh giới Phật?-có ba là cảnh giới Sanh, cảnh giới oai lực và cảnh giới tri. Cảnh giới sanh là trong mười ngàn thế giới, hễ có Phật đản sanh thì cả mười ngàn thế giới đều chấn động; cảnh giới oai lực là oai đức của Phật trùm khắp trăm ức thế giới, hễ Phật thuyết kinh chú gì, như bảo chú, tụ chú, tha xà chú, A tra chú, vô lượng chú... ai nghe mà không thuận theo thì bị gió thổi bay ra ngoài trăm ức thế giới này; cảnh giới tri là cảnh giới mà Phật biết là không thể đo lường được. Trong ba cảnh giới này thì hai cảnh giới trên đều bị hoại, nếu thạnh thì được thành lập, như trong Thanh tịnh đạo Tỳ bà sa có nói. Như vậy Phật ở dưới cây Bồ đề chứng Nhất thiết trí, không phải chỉ một kiếp, hai kiếp mà cho đến kiếp hoại thảy đều biết rõ.
Hỏi: nếu được sanh thì như thế nào?-khi kiếp hoại xảy ra, hữu tình hoặc sinh lên trời hay sanh trong cõi người hoặc hóa sanh hay thai sanh, thấp sanh... Phật đều biết rõ: đây là họ của ta, đây là tên cha mẹ của ta, đây là tên ta, hoặc thuộc dòng Sát đế lợi, hoặc dòng Bà la môn với khổ vui và có hình sắc như vậy, ăn uống với thức ăn thức uống như vậy, thân ngữ ý tạo nghiệp như vậy, có tuổi thọ dài ngắn như vậy...; từ cõi người lên đến cõi trời thứ nhất cho đến cõi trời Phạm thứ lớp luân chuyển thọ sanh như vậy. Cuối cùng sanh lên cõi trời Đâu suất ở giai vị nhất sanh bổ xứ, đồng họ với chư thiên, tên là Tư đa khai da, Hán dịch là Bạch kỳ thiên, thân sắc vàng ròng, ăn uống cam lồ, hưởng thọ phước lạc cõi trời, sống lâu đến năm mươi bảy ức sáu vạn tuổi thế gian. Từ cung trời Phật thác sanh vào thai của phu nhân Ma da...
Hỏi: chỉ có Phật mới biết như thế hay các bậc Thánh khác cũng biết?-không phải chỉ có Phật biết; Phật Bích chi, Thanh văn cho đến ngoại đạo đều có thể phân biệt biết được, nhưng ngoại đạo chỉ biết được trong khoảng bốn mươi kiếp, vì trí huệ của họ cạn hẹp không thể biết xa hơn, cũng chỉ biết việc thọ sanh, việc khác không thể biết. Có tam mươi bậc đại A-la-hán biết được trong mười ngàn kiếp, có hai bậc trên A-la-hán biết được trong một A tăng kỳ kiếp và mười ngàn kiếp, Phật Bích chi biết được trong một A tăng kỳ kiếp và mười ngàn kiếp. Những vị này tùy năng lực của mình mà biết, còn Phật thì biết vô cùng tận; ngoại đạo có thể biết sự nối tiếp các uẩn, nếu muốn biết vượt hơn thì không thể được, như người mù bước đi phải từng bước; Thanh văn và Duyên giác biết được hai đầu; Phật tùy theo ý muốn biết được hết sự thọ sanh lên xuống qua lại trong vô số kiếp.
Lúc đó Phật bảo Bà la môn Tỳ-lan-nhã: "ta ở dưới cây Bồ đề chứng được trí huệ vô thượng, nhờ đâu mà diệt hết vô minh chứng được trí huệ này?-Tất cả đều nhờ tinh tấn không tiếc thân mạng mà được, như gà con dùng mỏ phá vỏ trứng chui ra.
Túc mạng trí là mỏ, vô minh che lấp nhiều đời là vỏ, ta dùng mỏ Trí này phá vỡ vỏ Vô minh mà được giải thoát, nên được gọi là Vô thượng trí. Túc mạng trí này cũng biết được sự Sanh và đọa của chúng sanh, ta dùng Thánh nhãn với đầy đủ Ba la mật nên vừa quán liền biết; còn những bậc Thánh khác muốn biết phải tu tập".
Hỏi: thế nào là Thánh nhãn?-Thánh nhãn không lìa mắt thịt, các bậc Thánh do tu các thiện pháp mà thành tựu được, do lìa các trần cấu nên thấy rất xa. Như trong luật bổn nói quán bằng Thánh nhãn, do tinh tấn được tuệ nhãn cũng không khác Thánh nhãn, vì sao, vì chứng được Thánh quả mới được tuệ nhãn, nên tuệ nhãn cũng được gọi là Thánh nhãn, do tâm thanh tịnh sáng suốt nên thấy rất xa. Với tuệ nhãn thanh tịnh này có thể quán thấy sự thọ sanh và đọa của chúng sanh; ngoại đạo chỉ thấy sự thọ sanh, không thấy dự đọa nên chấp thường kiến; Phật quán thấy cả sanh và đọa của chúng sanh nên lìa hai chấp thường và đoạn kiến.
Nói cực tịnh là Phật không còn mười một phiền não, như trong kinh Phật bảo A nậu lâu đà: "hồ nghi là phiền não, không nhiếp tâm là phiền não, ngủ mê, mừng, sợ, quá tinh tấn, quá yếu mềm... đều là phiền não. Như lai do chuyên cần tinh tấn đã lìa hết các phiền não này nên được Thánh nhãn thanh tịnh, có thế quán thấy sự sanh và đọa của chúng sanh".
Hỏi: thế nào là hèn (tiện)?-ngu si làm ác bị người khinh ghét gọi là hèn-thế nào là sang (quý)?-thọ sanh bằng trí huệ gọi là sang. Lại nữa, sanh vào thiện đạo là sang, sanh vào ác đạo là hèn. Khi Phật dùng Thánh nhãn quán biết hành nghiệp của chúng sanh, thấy chúng sanh thọ khổ trong địa ngục liền suy nghĩ: "chúng sanh này tạo tội gì mà phải chịu khổ trong địa ngục", liền quán biết do tạo nghiệp ác nên chịu khổ báo ấy; lại quán thấy chư thiên trên các cõi trời thọ phước lạc liền suy nghĩ: "chúng sanh này đã tạo nghiệp gì mà được thọ phước lạc như thế", liền biết do tạo nghiệp lành nên được như thế. Đây là Phật dùng Thánh nhãn quán biết nghiệp trong hiện tại và quả báo trong vị lai của chúng sanh.
Nói tạo thân nghiệp ác là nghiệp tạp uế bất tịnh, ngữ ý cũng như vậy. Nói hủy báng bậc thiện nhân là hủy báng Phật, Phật Bích chi, các Thanh văn cho đến bạch y chứng quả Tu đà hoàn...; như nói pháp thiện không phải là chánh pháp, không có pháp thiền, không có niết bàn, không có đạo quả... khi nói lời hủy báng như thế là đã đóng cửa trời, mở cửa địa ngục. Thuở xưa có hai Tỳ-kheo già và trẻ cùng đi vào thôn khất thực, vị già khất thực được bát cháo lỏng liền suy nghĩ: "ta bị trúng gió nếu ăn cháo lỏng này sẽ hết bịnh", nghĩ rồi liền ngồi lên một khúc cây gỗ để húp cháo; Tỳ-kheo trẻ nhìn thấy liền chê trách: "thầy già cả ngu độn làm cho tôi hổ thẹn". Sau khi trở về chùa, Tỳ-kheo già hỏi Tỳ-kheo trẻ: "trong Phật pháp, thầy đã đạt được gì chưa?", đáp là đã chứng quả Tu đà hoàn, Tỳ-kheo già nói: "nếu vậy thì đừng mong tiến lên quả khác nữa, vì sao, vì thầy đã hủy báng vị Tỳ-kheo ái tận", Tỳ-kheo trẻ liền cầu sám hối: "con đã làm pháp bất thiện, xin đại đức cho con sám hối", được vị kia cho sám hối rồi, vị này vui mừng ra đi. Như trong luật nói nếu là đại Tỳ-kheo nên đối sám như sau: "xin trưởng lão chấp thuận cho tôi sám hối", nếu nhỏ hạ hơn thì nên đảnh lễ, quỳ gối chắp tay đối sám như sau: "con đã làm pháp bất thiên, cúi xin đại đức chấp thuận cho con sám hối", nếu vị kia không chấp thuận thọ sám thì vị này nên đối trước Tỳ-kheo khác sám hối tội này; nếu vị kia niết bàn, vị này phải đến chỗ vị kia niết bàn mà sám hối, sám hồi rồi thì cửa trời và cửa niết bàn sẽ rộng mở như khi chưa phạm lỗi.
Hỏi: thế nào là tà kiến?-là thấy điên đảo, tự thọ tà kiến lại còn dạy cho người khác, ý làm nghiệp ác và nói lời hủy báng Thánh nhân là nghiệp tội lớn, tạo tội nghịch. Như trong kinh Phật bảo Xá lợi phất: "Tỳ-kheo trì giới đầy đủ, có định huệ đầy đủ là thân chánh kiến, chuyển dạy cho người khác cũng vậy. Ngược lại tà kiến cũng không lìa thân ngữ ý, như người cầm cục đất quăng ném cũng không lìa khỏi đất, gây nghiệp ác tà kiến thì không thoát khỏi địa ngục; vì trong các nghiệp ác không gì hơn tà kiến, tạo tội rất lớn".
Hỏi: nếu chết thì như thế nào?-thì cùng với tội đã tạo đọa vào địa ngục, không có ngày thoát ra. Cửa địa ngục mở thì đóng cửa cõi trời và cửa giải thoát, nói cõi trời là sắc thanh hương vị thảy đều tối thắng. Hết phẩm Thánh nhãn.
Nói Lậu tận trí là nơi đạo A-la-hán, dùng trí diệt hết các lậu hoặc; trí này biết rõ tướng mạo và vị của khổ đế, lại quán khổ đế từ tập đế sanh khởi, lại quán khổ diệt là diệt đế, lại quán phương pháp đưa đến diệt khổ là đạo đế, như Phật nói: đối với bốn đế, ta thấy như thật và biết như thật. Nói từ dục lâu được giải thoát là chỉ bày quả, ở trong quả nói là được giải thoát và không còn tái sanh.
Hỏi: nói không sanh nữa là quá khứ không sanh hay hiện tại không sanh, vị lai không sanh? Nếu nói quá khứ không sanh thì quá khứ sanh đã diệt, nếu nói hiện tại sanh thì hiện tại đã sanh, nếu nói vị lai sanh thì vị lai chưa sanh thì có gì là sanh nữa?-vì đoạn nhân nên nói là không sanh nữa.
Nói trụ phạm hạnh là bậc thiện nhân cùng ở chung với bảy bậc Học, đây là Phật chỉ người xuất gia; nói việc làm đã làm xong là đối với bốn đế, bốn đạo đã làm xong.
Hỏi: như thế nào là không làm gì nữa?-tức là các lậu hoặc phiền não đã diệt trừ nên không cần phải nổ lực tinh tấn để diệt trừ nữa, nên gọi là Lậu tận trí tức là chứng ba đạt trí biết rõ về quá khứ, hiện tại và vị lai.
Lúc đó Bà la môn Tỳ-lan-nhã nghe Phật dạy rồi liền vui mừng và khen ngợi: "Sa môn Cù Đàm có đầy đủ Thánh lợi như vậy, trước kia con thật không biết Sa môn là bậc có đầy đủ công đức như vậy. Lành thay, Sa môn đã ban cho con pháp vị", liền nói kệ khen:
"Diệt được sân vội khen,
Ân cần và mừng sợ,
Tín kính và hối hận,
Nên khen ngợi lành thay"
Lại nói: "con như cái bát úp, nay được nghe Phật pháp như bát được ngửa lên đón nhận cam lồ; lại như châu báu bị người dùng cỏ che phủ lên, nay có người chỉ cho thấy; lại như người lạc đường được người nắm tay chỉ cho đường ra; lại như người ở trong bóng tối, được người đưa cho đèn đuốc mà thấy được đường đi. Từ nay con xin quy y Sa môn-Cù Đàm, quy y Pháp và tăng".
Quy y Phật là nương nhờ Phật mà diệt được phiền não, quy y pháp là nương nhờ giáo pháp, tùy thuận thọ trì sẽ không bị đọa trong ba ác đạo, chứng được Thánh đạo, niết bàn. Như Phật bảo các Tỳ-kheo: "pháp vô lậu là tám chi Thánh đạo, là pháp vô thượng". Lại có Bà la môn tên Xa đa ma na bà nói kệ khen Phật:
"Ly dục được bất đông,
Không còn pháp sầu lo,
Mỹ vị không ngược dòng,
Thật khéo phân biệt biết,
Tối thượng trong các pháp.
Hãy nên thọ quy y,
Bố thí bậc tứ hướng,
Phân biệt có tám bậc,
Tối thượng trong Tăng già,
Sẽ được quả báo lớn,
Tự quy y nơi này,
Là chân Ưu bà tắc"
Lúc đó Bà la môn Tỳ-lan-nhã bạch Phật: "xin Sa môn Cù Đàm biết cho, từ nay con là Ưu bà tắc cho đến trọn đời, con không nương theo vị đạo sư khác. Nếu có người nào cầm dao chặt đầu con bảo con không nương theo Phật pháp tăng, dù đầu rơi xuống đất con cũng không nói lời này. Nay con đem cả thân mạng tùy thuận Như lai, muốn tự cúng dường, cúi xin Như lai thọ con thỉnh tiền an cư ba tháng hạ tại nước Tỳ-lan-nhã cùng với các Tỳ-kheo. Con là Ưu bà tắc, xin Như lai thương xót thọ con thỉnh an cư tại nước Tỳ-lan-nhã", Phật im lặng nhận lời. H o i : vì sao Phật không trả lời mà im lặng?-người thế gian trả lời bằng thân ngữ, Phật chấp thuận bằng tâm nên im lặng-vì sao biết Phật đã nhận lời?-nếu không nhận lời thì Phật sẽ dùng thân ngữ đáp lại, nếu im lặng với sắc mặt vui vẻ thì biết là Phật đã nhận lời.
Lúc đó Bà la môn đứng dậy nhiễu quanh Phật ba vòng, làm lễ bốn hướng rồi chắp tay trên đầu, đi lùi cho đến khi không nhìn thấy Như lai, làm lễ lần nữa rồi mới quay về phía trước mà đi. Đúng vào lúc Phật đến nước Tỳ-lan-nhã an cư ba tháng trước thì nơi nơi bị mất mùa đói kém, nói đói kém là thức ăn uống khó được, dù là người có lòng tin thanh tịnh cũng có thể không cho. Lúc đó các Tỳ-kheo khởi hai tâm nghi: một là nghi trong ba tháng ha an cư có khất thực được không, hai là nghi có sống được hay không; vì sao, vì ở ngoài đường người chết đói, xương trắng ngổn ngang; hoặc do ngũ cốc mất mùa, không trổ hoa kết hạt nên bạc trắng như xương, thân và gốc thẳng cứng như cây thẻ; hoặc do người đi mua gạo phải lấy thẻ sắp hàng mới mua được, nhưng cũng không được nhiều. Lúc đó có đoàn thương nhân dẫn năm trăm con ngựa từ phương bắc xuống phương nam để bán cầu được lợi gấp hai, ba; sau khi đi trải qua các nước, họ dừng lại ở ngoài thành của nước Tỳ-lan-nhã, lập trại ngựa và làm nhà để ở trong bốn tháng hạ vì trong thời gian này mưa nhiều, đường ngựa đi không thông. Khi vào tụ lạc, họ thấy các Tỳ-kheo khất thực trở về với bát không nên suy nghĩ: "các Tỳ-kheo khất thực cực khổ mà không được gì, nếu chúng ta cung cấp phần ăn thì chúng ta sẽ bị thiếu hụt, nhưng nếu giảm phần ăn của ngựa để cho mỗi Tỳ-kheo năm thăng thì có thể giúp cho các Tỳ-kheo mà ngựa của chúng ta cũng không tổn hại gì", nghĩ rồi liền đến bạch các Tỳ-kheo: "nếu các đại đức không chê thì xin nhận phần lúa ngựa của chúng con, mỗi ngày mỗi vị được năm thăng và các thực phẩm tạp khác có thể làm thức ăn", như trong luật nói mỗi ngày vào sáng sớm, các Tỳ-kheo đắp y mang bát khất thực lúa về rồi tự giã hoặc nhiều vị cùng giã rồi chia nhau nấu dùng; A-nan nhận lấy phần của Phật và của mình cũng tự giã và nhờ chất cam lồ của chư thiên làm thành thức ăn thơm ngon dâng Phật, Phật nhờ ăn thức ăn này mà nhập chánh định. Từ khi rời khỏi cội Bồ đề, trong khoảng hai mươi năm, thị giả của Phật không phải chỉ có một, hoặc là đại đức Na già hoặc đại đức Na kỳ da hoặc đại đức Di kỳ da hoặc Ưu bà già hoặc Sa già da..., các vị này tùy ý thích làm thị giả, vui thì đến hầu, không vui thì không đến; chỉ có đại đức A-nan làm thị giả cho đến khi Phật nhập niết bàn.
Hỏi: các thương nhân cho các Tỳ-kheo lúa ngựa là do lòng tin phải không?-là do lòng tin-tuy nước mất màu đói kém nhưng vì sao lại không có một ai làm công đức, bớt chút phần ăn để cúng dường; vả lại Bà la môn thỉnh Phật và Tăng tiền an cư vì sao lại không cúng dường?-vì thiên ma Ba tuần che chướng trong phạm vi một do tuần, khiến cho không một ai có tâm muốn cúng dường-Phật không biết điều này hay sao?-biết nhưng Phật muốn nhân việc này chế giới thuyết pháp. Như trong kinh Phật bảo A-nan: bậc thiện nhân các thầy đã làm được việc thù thắng. Nói thù thắng là vào thời buổi mất mùa đói kém, khất thực khó được mà các Tỳ-kheo vẫn biết tri túc, điều phục tâm tham, không bỏ Phật để đi đến những nơi sung túc khác, khất thực dễ được; cũng không khởi tâm sân oán trách: tại sao Thế tôn không đi đến nơi sung túc khác an cư mà lại ở nơi đây, tại sao Bà la môn kia thỉnh chúng ta đến đây an cư mà lại không cúng dường...; do các Tỳ-kheo im lặng, nhất tâm nương theo Phật mà trụ nên nói là thù thắng.
Hỏi: các Tỳ-kheo có biết ma Ba tuần che chướng không?-biết-vì sao Phật không đến an cư ở thành Vương xá hay nơi khác mà cứ ở lại nơi đó?-dù có đến đâu an cư cũng bị ma Ba tuần che chướng, vì định nghiệp của Phật và Phật cũng đã quán biết an cư tại Tỳ-lan-nhã có thể nương nơi đoàn người buôn ngựa-vì sao ma vương không che chướng cả đoàn người buôn ngựa?-vì ma vương bỏ đi rồi đoàn người buôn ngựa mới đến, vả lại ma vương cũng không thể che chướng khắp hết. Có bốn trường hợp Ma không thể che chướng: một là cúng dường vào buổi sáng, hai là thuốc thang không thiếu, ba là tuổi thọ của Như lai, bốn là ánh sáng của Như lai.
Lúc đó Phật nghe tiếng giã gạo, tuy biết nhưng Phật vẫn hỏi A-nan, có trường hợp biết mà không hỏi là Như lai biết không phải thời nên hỏi thì không hỏi; có trường hợp biết mà vẫn hỏi là biết đúng thời nên hỏi thì liền hỏi; hoặc biết có nhân duyên, có lợi ích cho chúng sanh mới hỏi, ngược lại không có nhân duyên, không có lợi ích cho chúng sanh thì không hỏi. Có hai nhân duyên mới hỏi là vì muốn thuyết pháp hoặc muốn chế giới cho các đệ tử Thanh văn. Phật hỏi A-nan là tiếng động gì, đáp là tiếng giã gạo của các Tỳ-kheo, Phật liền khen lành thay và bảo A-nan: "các thầy đã làm thắng duyên thiện pháp cho các Tỳ-kheo trong đời vị lai, khiến cho họ ở đời vị lai dễ được thức ăn uống, dù ngon hay dỡ cũng không khởi ý tham hay bỏ. Bởi vì khi Phật còn tại thế, Phật và các bậc đại A-la-hán còn phải ăn lúa ngựa, huống chi chúng ta ngày nay dễ được thức ăn uống như thế này mà còn chê trách ngon dỡ hay sao".
Lúc đó tôn giả đại Mục kiền liên là bậc có thần thông trí huệ bậc nhất trong chúng Thanh văn đến bạch Phật.
Hỏi: vì sao đến bạch Phật?-vì đại Mục kiền liên sau khi chứng được Ba la mật của Thanh văn và được Thế tôn khen ngợi là thần thông bậc nhất trong chúng Thanh văn, lúc đó suy nghĩ rằng: "nước Tỳ-lan-nhã đang mất mùa đói kém, khất thực khó được; ta nên lật ngược đất lên để lấy vị bổ dưỡng cúng dường chư Tăng, nhưng nếu ta không bạch Phật tức là ta muốn sánh ngang bằng thần lực của Phật là điều không nên", nghĩ rồi liền đến bạch Phật biết ý nghĩ của mình, Phật vì thương xót chúng sanh, không muốn Mục kiền liên làm như vậy nên hỏi: "tất cả chúng sanh và thành ấp đều nương ở trên mặt đất, nếu thầy làm như vậy thì họ sẽ ra sao?", đáp: "con sẽ dùng một tay hóa ra mặt đất để đỡ lấy chúng sanh và thành ấp, tay kia lật ngược đất lên để lấy vị bổ dưỡng cúng Tăng", Phật liền nói: "thôi đi Mục kiền liên". Sở dĩ Phật không cho Mục kiền liên làm như vậy vì thương xót chúng sanh đời vị lai, thời thế mất mùa đói kém không phải chỉ có một lần và không phải Tỳ-kheo nào cũng có thể làm được việc đó giống như Mục kiền liên đã làm; Tỳ-kheo đời vị lai ít có ai được thần thông lực, khi các vị này vào thôn khất thực, chúng sanh thấy sẽ nói rằng: "khi Phật còn tại thế, đệ tử Thanh văn do trì giới đầy đủ nên có thần thông lực, lúc thời thế mất mùa đói kém có thể lật ngược đất lên để lấy vị bổ dưỡng cúng Tăng; ngày nay các Tỳ-kheo trì giới không đầy đủ nên không có được thần thông lực như thế", do đây chúng sanh sẽ sanh tà kiến chê bai và khinh mạn chúng tăng, do tâm chê bai khinh mạn nên họ bị đọa vào địa ngục. Mục kiền liên xin làm việc này không được, lại xin làm việc khác, Phật thảy đều không cho vì những nguyên nhân giống như trên.
Lúc đó tôn giả Xá lợi phất ở chỗ tịch tĩnh suy nghĩ rồi đến bạch Phật.
Hỏi: như thế nào là tịch tĩnh?-là không có tiếng động, cũng là nhất tâm tịch tĩnh-vì sao tôn giả Xá lợi phất không dùng thần lực của mình để quán biết mà lại đến hỏi Phật?-tôn giả Xá lợi phất có thể dùng thần lực quán biết pháp của chư Phật trụ lâu hay không trụ lâu, nhưng nếu muốn phân biệt nhân duyên của chư Phật thì không thể hiểu thông hết được; lại đo muốn y chỉ Phật, xem Phật là bậc tối thượng nên đến hỏi. Chư Phật thuyết pháp cho một hay hai, ba người cho đến tất cả chúng sanh trong ba ngàn đại thiên thế giới, đều không có tâm niệm sai khác như thấy chúng sanh ít liền nói sơ lược, hoặc thấy chúng sanh đông nên nói rộng nhiều, cũng không thuyết pháp có cao thấp mà là bình đẳng thuyết pháp cho tất cả. Như Sư tử vương bảy ngày đi kiếm ăn một lần, khi sắp bắt chúng sanh dù lớn hay nhỏ đều rống lên rồi mới bắt; Phật cũng vậy, dù chúng sanh nhiều hay ít, lớn hay nhỏ đều bình đẳng thuyết pháp vì tôn trọng pháp. Pháp mà chư Phật thuyết ra chỉ có một vị là giải thoát, như nước trong biển lớn chỉ có một vị mặn.
Hỏi: vì sao chư Phật quá khứ không chế giới cho các đệ tử Thanh văn?-vì các đệ tử Thanh văn không có phạm lỗi nên Phật quá khứ không kết giới, cũng không thuyết giới mỗi nửa tháng mãi cho đến sáu năm. Quá khứ, Phật Tỳ bà thi trụ tại Bàn đầu ma đề trong vườn Kiều ma lộc dã, thành Vương xá, cõi Diêm phù đề. Thuở đó trong cõi Diêm phù đề có tám vạn bốn ngàn chùa, mỗi chùa có đến mười vạn hoặc hai mươi vạn Tỳ-kheo, nhưng đều sống trong tịch tĩnh không có ồn náo. Phật nhóm Tăng thuyết giới sáu năm một lần, lúc đó Tỳ-kheo nào có thần lực thì tự đến, ai không có thần lực thì được chư thiên báo cho biết và họ nương theo thần lực của chư thiền để đến chỗ Phật nghe thuyết giới. Khi chúng tăng đã tập họp đông đủ, Phật chỉ thuyết một bài kệ giáo thọ Ba la đề mộc xoa như sau:
"Nhẫn nhục-đệ nhất đạo,
Niết bàn Phật tối thắng,
Xuất gia não hại người,
Không gọi là Sa môn.
Tất cả ác chớ làm,
Làm đầy đủ pháp thiện,
Tự tịnh tâm ý mình,
Là lời chư Phật dạy.
Không xúc não, nói lỗi,
Không phá hoại việc người,
Làm như giới đã thuyết,
Ăn uống biết vừa đủ,
Ít muốn với tất cả,
Thường thích nơi tịch tĩnh,
Là lời chư Phật dạy".
Tùy tuổi thọ của chư Phật dài ngắn mà giáo thọ Ba la đề mộc xoa cũng dài ngắn theo; Phật Thích ca Mâu ni từ khi thành đạo dưới cội Bồ đề, trong hai mươi năm đều tự giáo thọ Ba la đề mộc xoa, cho đến lần thuyết giới tại Mi già la mẫu trong Tăng già lam Phú bà, Phật bảo các Tỳ-kheo: "từ nay ta sẽ không thuyết giới, không giáo thọ Ba la đề mộc xoa nữa, các thầy nên tự thuyết, vì sao, vì Như lai không ở trong chúng không thanh tịnh mà thuyết giới bố tát". Như trong luật Phật bảo Xá lợi phất: "chư Phật quá khứ không kết giới mà chỉ giáo thọ Ba la đề mộc xoa, sau khi Phật và các Thanh văn nhập niết bàn, các đệ tử cuối cùng do khác nhau về dòng họ, chủng tộc với giai cấp khác nhau, hoặc sang hay hèn, giàu hay nghèo nên sau khi xuất gia tu phạm hạnh, họ không truyền thừa Phật pháp cho nhau và không hộ trì pháp tạng, nên khiến Phật pháp không trụ lâu ở đời", ví như hoa không được dùng chỉ xỏ xâu lại, khi bị gió thổi sẽ bay tứ tán, Phật pháp cũng như vậy. Chư Phật quá khứ sở dĩ không kết giới vì quán tâm các Thanh văn trước rồi mới giáo giới nên vừa nghe liền ngộ, chư Phật không cần nói rộng nhiều, như Phật bảo các Tỳ-kheo: "các thầy hãy nên suy nghĩ ba điều, xuất gia là thứ nhất; không nên suy nghĩ ba ác pháp, tư dục là thứ nhất. Các thầy thường nên ghi nhớ trong tâm lý vô thường khổ không vô ngã; chớ nên suy nghĩ vô thường cho là thường, bất tịnh cho là tịnh. Các thầy nên từ bỏ các ác pháp, nên tu tập các pháp thiện và làm cho được tăng trưởng, từ đó phiền não không sanh khởi và tâm được giải thoát", các Tỳ-kheo nghe rồi đều chứng quả A-la-hán, như hoa sen đồng loạt nở rộ khi mặt trời vừa mọc.
Rừng khủng bố: theo truyền thuyết, người nào chưa ly dục mà vào trong rừng này liền sanh sợ hãi, do rừng có oai tướng nên đều dựng tóc gáy.
Nói pháp của ba Phật quá khứ không trụ lâu là như Phật Tỳ bà thi thọ tám vạn năm, chúng Thanh văn cũng vậy; từ khi Phật ra đời cho đến vị Thanh văn cuối cùng, pháp của Phật trụ ở đời là một trăm ngàn sáu vạn năm. Phật Thi khí thọ bảy vạn năm, chúng Thanh văn cũng vậy; Phật Duy vệ thọ sáu vạn năm, chúng Thanh văn cũng vậy. Nếu tính đến vị Thanh văn cuối cùng thì pháp của hai đức Phật này trụ ở đời là một trăm ngàn bốn mươi hai vạn năm, theo thứ lớp giảm dần nên Phật pháp không trụ lâu. Lúc đó tôn giả Xá lợi phất nghe rồi, ý muốn hỏi lại pháp của đức Phật nào trụ lâu nên bạch Phật: "do nhân duyên gì pháp của Phật trụ lâu hơn tuổi thọ của Phật?", Phật nói: "Phật Câu na vệ thọ bốn vạn năm, Phật Câu na hàm Mâu ni thọ ba vạn năm, Phật Ca Diếp thọ hai vạn năm, Phật Thích ca Mâu ni thọ một trăm năm; chúng Thanh văn cũng như vậy. Nếu như ta lấy nửa tuổi thọ của Phật Ca Diếp là một vạn năm để xuất thế thì lúc đó căn cơ chúng sanh chưa thuần thục; hoặc tuổi thọ là năm ngàn năm cho đến tuổi thọ là năm trăm năm để ra đời, lúc đó căn cơ chúng sanh vẫn chưa thuần thục; mãi đến lúc tuổi thọ là một trăm năm, căn cơ chúng sanh mới có thể độ được. Vì thế ta ra đời vào lúc tuổi thọ ngắn ngủi và chúng Thanh văn cũng vậy, hưng pháp của Phật vẫn trụ lâu. Pháp của ba vị Phật trước diệt theo tuổi thọ nên gọi là không trụ lâu; pháp của ba vị Phật sau, dù Phật đã diệt độ vẫn còn trụ ở đời nên gọi là trụ lâu", Xá lợi phất nghe rồi, ý muốn pháp Phật trụ lâu ở đời nên bạch Phật: "cúi xin Thế tôn chế giới cho các Thanh văn", Phật nói: "thôi đi, chưa phải lúc", tôn giả lại bạch lần thứ hai, Phật nói: "đây không phải là cảnh giới mà Thanh văn, Duyên giác có thể biết được, chỉ có Phật với Phật mới biết được, vì cấu nhiễm chưa sanh nên chưa thể chế giới".
Hỏi: cấu nhiễm là gì, vì sao cấu nhiễm chưa sanh thì chưa thể chế giới?-cấu nhiễm là pháp hữu lậu, tức là sanh khởi lỗi lầm. Nếu chưa sanh hữu lậu mà Phật chế giới thì chúng sanh sẽ phỉ báng là vì sao các đệ tử của Phật đều thuộc giai cấp quý tộc, vương giả đã bỏ tất cả tài sản, quyến thuộc xuất gia, không tiếc thân mạng cũng không mong cầu gì ở thế gian, Phật lại chế giới, dùng Ba la đề mộc xoa để trói buộc họ; hoặc không sanh tâm kính trọng Phật pháp nữa. Ví như thầy thuốc chưa giỏi, thấy người sắp mọc ung nhọt hoặc ung nhọt chưa mùi liền mổ phá nó khiến cho máu ra nhiều, chịu nhiều đau đớn, phải dùng thuốc đắp lên cho vết thương được lành rồi đòi tiền chữa bịnh; người bịnh nói: "ông là thầy thuốc ngu si, nếu ta thật có ung nhọt hoặc ung nhọt đã mùi, thì ông nên mổ phá; nhưng ung nhọt chưa sanh, hoặc đã sanh nhưng chưa mùi mà ông đã mổ phá khiến máu ra nhiều, làm cho ta đau đớn rồi còn đòi tiền chữa bịnh, há chẳng phải là ngông cuồng hay sao?". Các đệ tử Thanh văn cũng vậy, nếu chưa sanh cấu nhiễm mà ta chế giới trước sẽ chê trách rằng: ta tự thấy không có tội mà đã chế giới cấm ngăn; cho nên Phật không chế giới trước. Nếu khi nào trong Tăng phát sanh hữu lậu, lúc đó Phật sẽ chế giới giáo thọ Ba la đề mộc xoa; ví như thầy thuốc giỏi, ứng bịnh cho thuốc khiến bịnh được lành, vừa được thưởng ban, lại được khen ngợi là thầy thuốc giỏi. Phật cũng vậy, tùy phạm tùy chế khiến cho các đệ tử hoan hỉ thọ trì, không có lời oán trách. Như trong Luật bổn Phật bảo Xá lợi phất: "khi nào pháp hữu lậu phát sanh, lúc đó Như lai sẽ chế giới".
Trong Phật pháp, ai độ đệ tử cho xuất gia trước, đó là Ưu ba tư na; nhân Ưu ba tư na mới hai tuổi hạ mà đã có đệ tử một tuổi hạ nên Phật chế giới: "này các Tỳ-kheo, từ nay về sau, ai chưa đủ mười tuổi hạ mà cho người xuất gia thọ giới cụ túc thì phạm Đột kiết la". Sau đó có Tỳ-kheo đã đủ mười hay hơn mười tuổi hạ, nhưng ngu si không có trí huệ lại cho người xuất gia thọ giới cụ túc; Phật nhân việc này chế bổ sung giới đã chế trước: "dù đã đủ mười hạ hay hơn mười hạ, nhưng ngu si không có trí huệ mà cho người xuất gia thọ giới cụ túc thì phạm Đột kiết la". Sau đó, các Thanh văn độ đệ tử ngày một đông, do số lượng chúng tăng đông nên sanh pháp hữu lậu, Phật nhân đây chế giới: "Tỳ-kheo nào cùng người chưa thọ giới cụ túc ngủ chúng phòng quá hai đêm thì phạm Ba dật đề", hoặc "nếu Tỳ-kheo năm nào cũng độ đệ tử thì phạm Ba dật đề; nếu Tỳ-kheo-ni năm nào cũng độ đệ tử thì phạm Ba dật đề".
Nói khi nào trong Tăng được nhiều lợi dưỡng liền phát sanh pháp hữu lậu, lúc đó Như lai sẽ chế giới như giới: "nếu Tỳ-kheo tự tay đưa thức ăn cho nam nữ ngoại đạo lõa hình thì phạm Ba dật đề". Nói khi nào trong Tăng có Tỳ-kheo đa văn và phát sanh pháp hữu lậu, tức là Tỳ-kheo đọc tụng thông suốt một bộ A hàm cho đến năm bộ A hàm, nhưng với tâm không chân chánh giảng nói nghĩa điên đảo, phi luật nói là luật, phi pháp nói là pháp; lúc đó Như lai sẽ chế giới, như giới: "nếu Tỳ-kheo nào nói: tôi biết pháp mà Phật đã nói Dâm dục không phải là pháp chướng đạo... thì phạm Ba dật đề", đối với Sa di cũng chế giới như vậy. Đó là Phật nhân có pháp hữu lậu mà chế giới cho các đệ tử.
Hỏi: sao gọi là lậu?-tức là giặc cướp-sao gọi là giặc cướp?-là chỉ cho kẻ phạm giới trong Phật pháp, không phải là Sa môn mà tự xưng là Sa môn, cướp vật dụng của bốn chúng. Người không phạm giới là người không bị pháp đen nhiễm; là người thanh tịnh, rất quang minh trụ trên đất chân thật. Người nào có đủ giới, định, huệ, giải thoát và giải thoát tri kiến; người ấy trụ trên đất chân thật.
Nói trong số năm trăm Tỳ-kheo an cư với Phật tại Tỳ-lan-nhã, người nhỏ nhất cũng chứng quả Tu đà hoàn.
Hỏi: sao gọi là Tu đà hoàn?-dịch nghĩa là Nhập lưu, tức là vào dòng Thánh, như trong kinh Phật hỏi Xá lợi phất: "sao gọi là Tu đà hoàn?", Xá lợi phất đáp: "là người thông hiểu tám chi Thánh đạo là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định. Người ấy sẽ đi đến thiện đạo, không còn đọa trong ba đường ác nữa nên được gọi là Tu đà hoàn".
Phật cùng Tăng an cư ba tháng tại Tỳ-lan-nhã và tự tứ xong, muốn đi đến các nước khác nên bảo A-nan: "... thầy nên biết trong Phật đã có pháp này từ lâu, đó là người nào thọ người khác biệt thỉnh xong thì được tùy ý đi", Phật vì thương xót chúng sanh nên muốn đi đến nước khác.
Hỏi: cảnh giới Phật đi đến có mấy?-có ba: cảnh giới lớn có phạm vi rộng chín trăm do tuần, cảnh giới vừa có phạm vi rộng sáu trăm do tuần, cảnh giới nhỏ co phạm vi một trăm do tuần. Nếu Phật muốn đi đến cảnh giới lớn thì sau khi an cư xong, vào ngày mồng một tháng 9, Phật cùng các Tỳ-kheo tuần tự đi đến các tụ lạc để thuyết pháp giáo hóa, người đáng được hóa độ liền được hóa độ, người chưa đáng được hóa hộ thì được phước lợi. Sau chín tháng du hành, đến ba tháng hạ an cư, nếu có nhiều Tỳ-kheo chưa hành pháp thiền định xong thì Như lai không làm tự tứ, đợi đến ngày 15 tháng 9 mới tự tứ. Nếu Phật đi đến cảnh giới vừa thì mất khoảng tám tháng; nếu Phật đi đến cảnh giới nhỏ thì Phật quán trước, nếu quán thấy có chúng sanh căn cơ thuần thục thì ở lại để hóa độ, nếu không có thì vào ngày mồng một tháng 11 cùng các Tỳ-kheo du hành trong bảy tháng. Như người hái hoa đi khắp nơi trong núi, nếu thấy có hoa nở tươi tốt liền hái mang đi; Như lai cũng vậy, sáng sớm nhập định quán khắp mười phương, nếu thấy ai đáng được hóa độ liền đến để hóa độ hoặc quán việc nhân duyên để chế giới cho các Thanh văn, đây là pháp thường của chư Phật.
Hỏi: thế nào là pháp của Thanh văn?-khi Phật còn tại thế, có hai lần họp chúng: một là sau ngày đầu vào hạ để chọn lấy pháp tu, hai là sau ngày mãn hạ để trình chứng đắc; đây là pháp của Thanh văn.
Lúc đó Phật bảo A-nan: "hãy cùng đi đến nhà
Bà la môn biệt thỉnh, báo cho họ biết chúng ta đã an cư xong, muốn đi đến nước khác", Phật đắp y mang bát cùng A-nan vào thành để đến nhà Bà la môn Tỳ-lan-nhã, khi vào thành Phật phóng ánh sáng chiếu soi khắp nơi trong thành; thấy ánh sáng chiếu đến, người nhà của Bà la môn liền báo cho Bà la môn biết là Sa môn Cù Đàm đã đến. Bà la môn nghe rồi liền tỉnh ngộ nhớ ra, liền đứng dậy trải nệm tòa rồi ra ngoài nghinh đón mời vào nhà ngồi, Phật ngồi xong, Bà la môn đứng một bên bạch Phật: "Thế tôn, con chưa làm điều đáng nên làm, trước đây con có thỉnh Thế tôn đến đây an cư và cúng dường trong ba tháng, vì ngu si lại vì công việc khiến con quên mất, không cúng dường Phật và Tăng được ngày nào. Cúi xin Phật thương xót thọ con cúng dường vào ngày mai", ý của Bà la môn muốn đem hết phẩm vật dự định cúng dường trong ba tháng để cúng dường vào ngày mai, Phật suy nghĩ: "nếu ta không thọ thỉnh thì Bà la môn này sẽ sanh ác tâm nghĩ rằng Sa môn Cù Đàm vì không được thỉnh thực trong ba tháng nên nay oán hận không thọ ta thỉnh thực nữa. Ông ta sẽ phỉ báng Như lai không phải là bậc Nhất thiết trí hoặc nói những lời tương tự như vậy để phỉ báng và ông ta sẽ chịu khổ báo. Vì nhân duyên này ta nên thọ Bà la môn thỉnh thực vào ngày mai".
Phật suy nghĩ rồi liền im lặng thọ thỉnh, sau đó bảo Bà la môn: "ông chớ quá ràng buộc vào gia nghiệp", nói rồi quán căn cơ của Bà la môn mà thuyết pháp rồi đứng dậy trở về trú xứ. Lúc đó Bà la môn nhóm con cháu lại nói rằng: "trước đây ta có thỉnh Phật đến đây an cư để cúng dường trong ba tháng, nhưng lại không cúng dường được ngày nào. Ngày mai ta sẽ đem tất cả phẩm vật dự định cúng trong ba tháng để cúng dường hết vào ngày mai", nói rồi ngay trong đêm đó lo liệu mọi thứ đầy đủ. Sáng hôm sau cho quét dọn trong ngoài sạch sẽ, đốt hương thơm và trang hoàng mọi thứ xong rồi liền đến bạch Phật là đã đến giờ thọ thỉnh thực; như trong luật nói Phật đắp y mang bát cùng chúng tăng đến nhà Bà la môn ngồi vào chỗ ngồi rồi, Bà la môn tự tay dâng cúng các món ăn thơm ngon khiến cho tất cả đều được no đủ. Sau đó Bà la môn dâng cúng Phật ba y trị giá ba ngàn tiền vàng, dâng cúng mỗi vị Tỳ-kheo hai xấp bạch điệp, tổng trị giá năm mươi vạn tiền vàng; lại cúng thêm một tấm
Giạ dày và một tấm lụa. Phật bảo các Tỳ-kheo cắt tấm Giạ phân chia cho Tăng làm dây thiền và đãy đựng bát; lại cắt chia tấm lụa cho Tăng làm dây lưng và đãy lượt nước. Bà la môn lại cúng thêm một bình thuốc cao đã được nấu cất trăm lần trị giá ngàn tiền vàng cho Tăng dùng để thoa thân. Cúng dường xong, Bà la môn cùng quyến thuộc đảnh lễ Phật và Tăng rồi ngồi một bên muốn nghe pháp; Phật suy nghĩ: "Bà la môn bị ma quấy nhiễu trong ba tháng nên chưa được nghe giáo pháp, nay ta nên thuyết pháp khiến cho ông ta và quyến thuộc được hưởng pháp vị cam lồ", nghĩ rồi liền thuyết pháp, thuyết pháp xong liền từ giã để di đến nước khác. Bà la môn và quyến thuộc khóc ân cần xin Phật ở lại, Phật quán thấy các Tỳ-kheo trong chín mươi ngày qua chỉ ăn lúa ngựa nên thân thể gầy ốm, không thể ra đi ngay nên ở lại Tỳ-lan-nhã ba ngày.
Sau đó mới lên đường đến nước Tu ly rồi đến xứ Ba dạ bà, vượt qua sông Hằng đến thành Bà la nê tư rồi đến thành Tỳ xá ly, trú tại tinh xá Ma ha Cú trá la. Hết phẩm nói về nhân duyên tại Tỳ-lan-nhã.
Bộ Tỳ bà sa này đầy đủ nghĩa vị, không xen tạp pháp khác, phân biệt rõ giới tướng, như kệ nói: "Pháp vương trong thế gian, Vì thương xót chúng sanh, Nên nói Tỳ ni tạng,
Để điều phục chúng sanh, Cũng đem các thiện hạnh, Diệt trừ các ác pháp".
Lúc đó tại thành Tỳ xá ly, vua cùng các thể nữ vào núi du ngoạn, khi vua mệt mỏi nằm ngủ dưới một gốc cây, các thể nữ cũng bỏ vua đi dạo khắp nơi. Gần chỗ vua ngủ có hang của con rắn độc, do nghe mùi rượu của vua nên bò ra muốn cắn vua; lúc đó trên cây có con sóc nhìn thấy rắn, liền sà xuống kêu gọi vua tỉnh dậy, rắn liền cuộn mình lại, vua thức rồi ngủ lại, rắn lại bò ra muốn cắn vua, sóc lại kêu gọi vua tỉnh dậy, lúc đó vua mới thấy có rắn ở trong hang gần đó, trong lòng kinh hãi nhìn quanh tìm các thể nữ thì không thấy có ai. Vua biết sóc đã cứu mạng mình nên muốn báo ân, dưới chân núi có một thôn, vua ra lịnh trong thôn từ nay trở đi đem phần ban thưởng của vua để nuôi dưỡng các con sóc trên núi. Ca lan đà là tên của con sóc nên vua đạt tên cho thôn này là thôn Ca lan đà, trong thôn có một trưởng giả, tài sản có đến bốn mươi ức tiền vàng nên được vua ban tước hiệu gọi theo tên thôn là trưởng giả Ca lan đà.
Ca lan đà tử: con của trưởng giả Ca lan đà tên là Tu đề na có nhiều bạn, khổ vui cùng hưởng. Lúc đó do có nhân duyên tìm người thiếu nợ nên Tu đề na đến thành Tỳ xá ly, đến nơi thấy có nhiều người cầm hương hoa đi ra khỏi thành, liền hỏi đi đâu, họ đáp: "đi đến chỗ Phật cúng dường và nghe pháp", Tu đề na khen lành thay rồi đi theo họ đến chỗ Phật, thấy Phật đang thuyết pháp cho bốn chúng.
Tu đề na tìm cách chen dần vào đứng bên đại chúng, nghe được pháp nói về giới định huệ, liền suy nghĩ: "ta hiểu được pháp mà Phật đã phân biệt thuyết là thuần nhất một vị. Nếu ta ở tại gia, muốn tu tập giới định huệ dù là một ngày cũng khó làm được, cũng giống như người mài giũa ngọc. Ta nên cạo bỏ râu tóc xuất gia, tu phạm hạnh, từ nhà hữu vi vào nhà vô vi".
Hỏi: thế nào là nhà hữu vi, nhà vô vi?-nhà hữu vi là cày ruộng, trồng trọt, mua bán... làm các sự nghiệp thế gian; nhà vô vi là không làm các sự nghiệp trên, tịch tĩnh vô dục. Nói Tu đề na cùng mọi người rời khỏi chỗ ngồi đi chưa bao lâu, liền quay trở lại gặp Phật là sau khi nghe pháp xong, Tu đề na suy nghĩ: "nếu bây giờ ta cầu xuất gia thì các thân hữu sẽ ngăn trở và nói rằng: cha mẹ chỉ có mình bạn là con, nếu bạn xuất gia thì ai sẽ cấp dưỡng cha mẹ. Họ sẽ tìm cách đưa ta trở về nhà, không để cho ta xuất gia", do nghĩ như vậy nên Tu đề na cùng mọi người đứng dậy ra về, nhưng sau đó tìm cách quay trở lại gặp Phật và cầu xuất gia. Lúc đó Phật đã chế nếu cha mẹ chưa cho phép thì không được xuất gia thọ giới, nên Phật hỏi Tu đề na: "cha mẹ có cho phép con xuất gia không?, do tâm ý muốn xuất gia nên Tu đề na không màng đi đến nhưng nơi vui chơi giải trí, cũng không nghĩ đến việc có đòi nợ được hay không, liền vội vàng trở về nhà để xin phép cha mẹ cho xuất gia. Cha mẹ nói: "cha mẹ chỉ có một mình con, từ nhỏ đến lớn con sống sung sướng chưa từng chịu khổ nhọc, ăn ngon mặc đẹp, lên xe xuống ngựa, chân không đụng đất; cha mẹ đang còn sống, làm sao nở xa lìa mà cho con xuất gia?", Tu đề na nhịn ăn nằm trên đất để thuyết phục cha mẹ cho phép xuất gia, cha mẹ đủ cách khuyên can đến ba lần nhưng Tu đề na vẫn không chuyển ý. Lúc đó cha mẹ Tu đề na nói với các bạn của Tu đề na: "các con là bạn thân của nó, nay nó nhịn ăn nằm trên đất, ta đã khuyên can đến ba lần mà nó vẫn không chuyển ý, các con hãy khuyên nó chớ xuất gia", các bạn Tu đề na nghe rồi liền đến khuyên can: "cha mẹ bạn chỉ có một mình bạn, nếu bạn xuất gia thì cha mẹ bạn biết trông cậy vào ai, họ sẽ buồn rầu mà chết thì có lợi gì. Nếu bạn xuất gia sẽ phải ôm bát khất thực, có khi được, có khi không được hoặc thức ăn dỡ khó ăn, một ngày chỉ ăn một bữa và đơn độc một mình tu phạm hạnh, thật là khó đối với người như bạn", như thế khuyên can đến ba lần, Tu đề na vẫn không chuyển ý, các bạn đành phải trở lại khuyên cha mẹ Tu đề na nên cho Tu đề na xuất gia, cha mẹ nghe rồi miễn cưỡng cho phép Tu đề na xuất gia. Các bạn liền đến nói cho Tu đề na biết, Tu đề na nghe rồi vui mừng hớn hở ngồi dậy và bắt đầu ăn uống trở lại, sau ba bốn ngày sức khỏe mới hồi phục. Sau đó rơi lễ làm lễ từ giã cha mẹ đi đến chỗ Phật cầu xuất gia, Phật bảo các Tỳ-kheo độ cho Tu đề na xuất gia và thọ giới cụ túc, như trong Luật bổn nói: Tu đề na được xuất gia trong Phật pháp, được thọ giới cụ túc và tu hạnh đầu đà. Nói tu hạnh đầu đà là trừ sạch trần cấu phiền não; sống nơi A lan nhã, cách xa thành ấp thôn xóm; thọ pháp khất thực theo thứ lớp, không thọ nhiều lợi dưỡng và từ bỏ mười bốn loại thức ăn ngon; thọ y phấn tảo, không thọ y đàn việt thí.
Phật thành đạo mười hai năm sau, Tu đề na mới xuất gia, trải qua tám năm sau mới trở về lại thôn Ca lan đà, theo thứ lớp khất thực đến trước cửa nhà của mình trước kia. Lúc đó nữ tỳ đem thức ăn dư để cách đêm ra ngoài đổ bỏ, Tu đề na nói: "chị hãy đổ vào bát cho tôi", do xa cách tám năm nên người nữ tỳ không nhận ra, nhưng nghe tiếng nói thì liền nhận ra là giọng nói của Tu đề na, vội vào trong nhà báo cho chủ biết. Pháp thường trong thôn này đều có làm nhà nhỏ chứa nước ở bên ngoài tường để cho người khất thực ngồi nghỉ và tùy ý lấy nước dùng. Người cha nghe tỳ nữ báo liền ra xem, thấy Tu đề na đang ngồi ăn cơm dư cách đêm ở bên nhà nhỏ này liền nói: "tại sao con lại ăn thức ăn dư cách đêm như thế, khi con còn ở nhà, ăn những món thơm ngon có khi còn chê bai nói là ăn không vừa miệng. Nay con lại ăn thức ăn dư cách đêm này mà không một lời oán trách", nói rồi nắm tay con cùng vào nhà thỉnh thọ thực
Hỏi: vì sao Tu đề na lại để người tục nắm tay?-vì Tu đề na là con chí hiếu nên người cha nắm tay mới không kháng cự-vì sao Tu đề na thọ pháp khất thực mà còn thọ cha thỉnh thực?-vì Tu đề na suy nghĩ: xa nhà đã lâu, nếu không thọ thỉnh thực, người cha sẽ ưu sầu; vì thương xót cha nên mới thọ thỉnh thực. Lúc đó người cha đem vàng bạc vật báu... chất đống trước Tu đề na nói rằng: "đây là vật sính lễ của ta hỏi cưới mẹ con và của hồi môn mẹ con mang theo khi về với ta, đến nay vẫn còn nguyên, đây là vật của tổ phụ con để lại cho cha, đến nay vẫn còn nguyên. Tất cả đều thuộc về con, con nên hoàn tục để hưởng thọ năm dục; con xuất gia không phải vì sợ lịnh vua, cũng không phải vì mắc nợ, vì vậy con nên hoàn tục", Tu đề na nói: "con không thể hoàn tục, con vốn thích đời phạm hạnh, không có tâm tham luyến thế tục, xin cha chớ phiền trách. Đống vàng bạc vật báu này cha nên bỏ vào một bao lớn cột chặt lại rồi đem quăng xuống chỗ sâu nhất trong sông lớn, vì sao, vì nó sẽ sanh nhiều phiền não và các nạn như vua, giặc cướp, nước, lửa đều từ nó mà ra", người cha nghe rồi, lông tóc đều dựng đứng. Sau đó cha mẹ của Tu đề na cho gọi người vợ trẻ của Tu đề na đến nói rằng: "này con, trước đây hai con thương yêu nhau, nay con hãy làm cho Tu đề na đổi ý, vì sao, vì tiền tài không làm đổi ý nhưng sắc dục có thể", người vợ trẻ hỏi Tu đề na có phải vì cầu được thiên nữ nên mới tu phạm hạnh, đáp là không phải vì cầu được thiên nữ. Lúc đó người mẹ của Tu đề na nói: "con hãy để lại đứa con nối dòng, đừng để tài sản này không có người cai quản, sau khi cha mẹ chết, tài sản này ắt sẽ bị sung vào kho tàng của vua", Tu đề na suy nghĩ: "nếu ta không để lại đứa con nối dòng thì cha mẹ sẽ xúc não ta, không để yên cho ta tu phạm hạnh", nghĩ rồi liền bằng lòng để lại đứa con nối dòng nên nắm tay người vợ cũ vào chỗ khuất kín để cùng hành dục.
Kinh nguyệt của người nữ gọi là nguyệt hoa, khi người nữ muốn mang thai, trong dạ con sanh một cục máu, sau bảy ngày chảy ra. Nếu máu này chảy ra không ngừng thì tinh của người nam không trụ lại được mà theo máu chảy ra; nếu máu ngừng chảy, tinh người nam mới đọng lại chỗ đó, sáu mới thành thai. Như ruộng sau khi cày bừa gieo giống rồi, nếu cho nước vào ruộng quá nhiều thì hạt giống sẽ nổi trôi bốn phía, không bám xuống đất được để mọc rễ nẩy mầm. Do sau khi Phật thành đạo trong hai mươi năm đầu chưa kết giới cho các đệ tử nên Tu đề na không biết tội tướng, cho là làm việc này không tội; sau khi cùng vợ làm việc bất tịnh trải qua ba lần thì người vợ mang thai. Có bảy trường hợp khiến người nữ mang thai: một là hai thân giao hội, hai là lấy y phục, ba là tinh chảy xuống, bốn là xoa dưới rốn, năm là thấy, sáu là nghe tiếng, bảy là nghe mùi. Nói hai thân giao hội là người nữ sau khi sanh thủy nguyệt thì ham muốn người nam, nếu người nam xúc chạm mỗi mỗi thân phần thì sanh tâm tham dục và sẽ mang thai. Nói lấy y phục là như Tỳ-kheo Ô đà di và vợ cùng xuất gia, thời gian sau gặp lại nhau sanh tâm luyến ái nên tinh xuất làm dơ y. Ô đà di đưa cho Tỳ-kheo-ni này đem về giặt, Tỳ-kheo-ni này để tinh này vào trong nữ căn và trong miệng liền có thai. Nói tinh chảy xuống là như Lộc tử mẫu, xưa có con nai cái đi đến chỗ ở của một đạo sĩ, khi đạo sĩ này tiểu tiện, tinh chảy theo ra; nai cái này ngửi mùi nước tiểu, sanh tâm dục nên liếm và có thai sanh ra lộc tử. Nói xoa dưới rốn là như cha mẹ của Bồ tát Thiểm sắp mù, vua trời Đế thích hiện xuống bảo họ nên cùng giao hợp thì sẽ sanh con; do họ đã xuất gia tu đạo nên không làm theo lời nay, Đế thích nói: nếu không cùng giao hợp thì hãy xoa dưới rốn, họ làm theo và người vợ mang thai sanh ra Bồ tát Thiểm. Nói thấy là như trường hợp người nữ sau khi sanh thủy nguyệt, nếu tâm dục hừng thạnh mà không được cùng người nam giao hợp, chỉ cần nhìn thấy người nam liền có thể mang thai. Nói nghe tiếng là như loài cò trắng, chỉ có con mái không có con trống; đến mùa xuân khí trời ấm áp bắt đầu có tiếng sấm, cò nghe tiếng sấm liền có thai. Loài gà cũng có lúc như thế, hoặc chỉ cần nghe tiếng gà trống cũng có thai. Nói nghe mùi là như trường hợp trâu cái, chỉ cần ngửi mùi trâu đực liền có thai. Tu đề na cùng vợ giao hợp, địa thần thấy liền kêu lên là pháp ác đã sanh, thần hộ thân cũng kêu lên như thế, các thần lần lượt kêu lên như thế vang lên đến tận cõi trời Phạm, tất cả đều biết là pháp ác đã sanh. Vợ Tu đề na sanh con trai đặt tên là Tục chủng, khi Tục chủng lên tám tuổi, cùng mẹ xuất gia thân cận các thiện tri thức, lần lượt đều được chứng quả A-la-hán.
Sau khi cùng vợ làm việc bất tịnh hạnh rồi, Tu đề na sanh tâm hối hận suy nghĩ: "nơi lợi ích ta lại không được lợi, ở trong Phật pháp xuất gia tu phạm hạnh là để được ba đạt trí, ta không được lợi này lại được ác lợi, tức là người khác xuất gia thì được thiện lợi, còn ta không được thiện lợi lại được ác lợi vì tu phạm hạnh là tổng trì giới định huệ, ta lại không tổng trì", do hối hận nên ăn uống không ngon, thân thể tiều tụy biến sắc, như lá cây héo úa sắp rụng; ở trong chúng xấu hổ cúi đầu. Lúc đó các Tỳ-kheo thấy vậy liền hỏi: "trước đây sắc mặt Hiền giả rất tươi vui, thân tướng đoan chánh, vì sao nay lại tiều tụy như vậy; hay là Hiền giả ở trong phạm hạnh có lo buồn hối hận điều gì?", Tu đề na nói: "không phải tôi không thích đời sống phạm hạnh, tôi rất siêng tu chỉ vì tôi đã làm pháp ác, hằng thấy nó hiện trước mắt", các Tỳ-kheo nói: "lời thầy nói đáng hồ nghi", Tu đề na nói: "vì sao hồ nghi?", các Tỳ-kheo nói: "nếu ở trong pháp thanh tịnh đã làm hạnh bất tịnh mà sanh nghi hối thì không thể nào tu phạm hạnh được nữa. Phật đã dùng đủ phương tiện nói pháp ly dục hoặc nói lỗi của năm dục. Lời tuy khác nhưng nghĩa là đồng, ly dục hoặc diệt ái mới không còn luân hồi trong ba cõi, ái tận là niết bàn, vì sao thầy lại cùng vợ cũ làm hạnh bất tịnh như thế. Việc mà thầy đã làm khiến cho người không tin sẽ càng không tin, người đã tin sẽ thối chuyển mất lòng tin", các Tỳ-kheo quở trách rồi đem việc này bạch Phật: "pháp nhơ uế đã sanh, cúi xin Thế tôn chế giới cho các đệ tử Thanh văn", Phật nhân việc này nhóm Tỳ-kheo tăng, quở trách Tu đề na... Trong Tăng nếu người nào làm pháp ác, đáng quở trách thì Phật liền quở trách; người nào tinh tấn trì giới, đáng khen ngợi thì Phật liền khen ngợi. Như trong luật bổn, Phật quở Tu đề na rằng: "thầy là người ngu si, do nhân duyên gì thầy lại cùng vợ cũ làm hạnh bất tịnh như thế. Ta đã dùng đủ phương tiện nói pháp ly dục... cho đến câu thà đưa nam căn vào miệng rắn độc, không nên đưa vào nữ căn"
Hỏi: vì sao Phật lại quở trách như vậy?-vì Tu đề na là người đầu tiên làm pháp ác, làm cho pháp nhơ phát sanh trong pháp thanh tịnh này. Nói khó nuôi dưỡng là được che chở trong giáo pháp mà lại không thể tự hộ thân; nói không biết đủ là dù được tài bảo nhiều như núi Tu di cùng chưa vừa ý; nói dễ nuôi dưỡng là người ít muốn biết đủ mới có thể chế ngự sáu tình, không chạy theo sáu trần; nói dễ sinh sống là đối với bốn món cúng dường biết đủ thọ dụng, không chê ngon dỡ, tốt xấu và không tham cầu; nói tịnh là ít muốn biết đủ, đã thanh tịnh thì không nhiễm trần cấu, giũ sạch được trần cấu, ba nghiệp thanh tịnh trừ ba nghiệp bất thiện, không bị người hủy báng. Giới mà Phật chế cho các Tỳ-kheo, nếu là thiện Tỳ-kheo mới tín thọ làm theo, nếu là người ít muốn biết đủ mới có thể thọ trì; ví như hoa năm màu được tuần tự xâu kết lại, như hạt ngọc bảy báu được tuần tự xỏ xâu lại. Nói Phật thuyết giảng quả báo đời này đời sau khiến cho sợ hãi là nếu người nào ưa thích học và trụ nơi Học địa thì sẽ chứng được các quả A-la-hán, Tư đà hàm, A na hàm, Tu đà hoàn; nếu người không đủ nhân duyên chứng được các quả như vậy thì cũng được sanh lên cõi trời.
Hỏi: sao gọi là học địa?-là pháp thiền định tam muội. Nói học là Phật nhân mười pháp (mười công đức lợi) mà chế giới khiến Tăng được an ổn, được an lạc trụ; như trong luật bổn, Phật nói: việc làm này không có phạm, việc làm này có phạm hoặc điều này nên làm, điều này không nên làm. Nói Phật chế giới cho Tỳ-kheo biết hổ thẹn, không chế giới cho Tỳ-kheo không biết hổ thẹn là để ngăn Tỳ-kheo không biết hổ thẹn không được cùng Tăng bố tát tự tứ, muốn khiến cho Tỳ-kheo biết hổ thẹn được an lạc vì không bị Tỳ-kheo không biết hổ thẹn xúc não nữa. Nói đoạn hữu lậu trong hiện tại là nếu dứt năm tình thì trong hiện đời không còn khổ não và được giải thoát. Nói điều phục người khó điều phục là người phạm giới, phá giới, không biết hổ thẹn nếu khi bị quở trách liền xúc não chúng tăng, thì Tăng đem pháp Tỳ ni ra trị phạt như xả trí hay khu tẫn... Nói đoạn hữu lậu vị lai là nếu không dứt năm tịnh buông lung làm pháp ác thì thân sau sẽ bị đọa vào ác đạo, chịu khổ báo không phải chỉ một đời mà là vô số kiếp. Nói khiến người chưa tin được tin là nếu thiện Tỳ-kheo tùy thuận giới luật, oai nghi đầy đủ sẽ khiến cho người thấy liền sanh tín kính nói rằng: Sa môn Thích tử này đã làm được việc khó làm, đáng được tôn trọng. Ngoại đạo nếu thấy tạng Tỳ ni sẽ cho là Phật pháp cũng có sách Vệ đà giống như họ nên họ sanh tâm tôn trọng. Nói khiến người đã tin được tăng trưởng là nếu người đã sanh tâm tín kính, thấy các Tỳ-kheo tu phạm hạnh, làm được việc khó làm thì càng thêm tín kính. Nói khiến chánh pháp được trụ lâu là phân biệt có ba:
-Học-chánh pháp trụ lâu là học thông ba tạng khiến cho những lời Phật dạy được trụ lâu.
-Tín thọ-chánh pháp trụ lâu là hành mười hai hạnh đầu đà, mười bốn oai nghi, tám mươi đại oai nghi, giới, thiền định tam muội đã được kết tập trong ba tạng sẽ khiến cho chánh pháp được trụ lâu. 3-Đắc đạo-chánh pháp trụ lâu là chứng bốn quả Sa môn và niết bàn tịch tĩnh sẽ khiến cho chánh pháp trụ lâu.
Trong ba loại này thì học giới luật đứng đầu trong loại Học thứ nhất, vì thế Phật mới chế giới để các Tỳ-kheo tùy thuận học, người nào tùy thuận giới thì được Thánh lợi đầy đủ nên các Tỳ-kheo phải tôn trọng tạng Tỳ ni. Như trong luật bổn, Phật bảo các Tỳ-kheo: "ta đã chế giới, các thầy nên học, nên thọ trì và dạy lại cho người khác. Giới này nên nói như sau: nếu Tỳ-kheo nào hành pháp dâm dục thì phạm Ba la di, không được ở chung". Hết phẩm Kết giới.
Lúc đó ở trong rừng, do có nhiều Tỳ-kheo tu quán tâm từ bi nên các loài cầm thú như chương, nai, vượn, khỉ, công... qua lại chỗ các Tỳ-kheo mà không e sợ nữa. Có một Tỳ-kheo thấy trong bầy vượn có một con vượn cái mập mạp đáng yêu nên đưa thức ăn dụ nó để cùng làm việc bất tịnh. Khi Tỳ-kheo này đi khất thực, có các Tỳ-kheo từ nơi khác đến thăm, con vượn này thấy các Tỳ-kheo cho là cũng giống như Tỳ-kheo kia nên chạy đến gần hiện tướng dâm dục. Các Tỳ-kheo thấy việc này rồi sanh tâm nghi nên nấp ở chỗ khuất rình xem thật hư như thế nào, khi thấy biết rồi liền gạn hỏi: "trưởng lão thật không làm việc như vậy phải không?", Tỳ-kheo này nói Phật chỉ chế ngăn với người nữ, không chế ngăn với súc sanh, các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật. Phật nhân việc này tùy chế thêm: cho đến cùng với súc sanh cũng phạm Ba la di, không được ở chung.
Nói tùy chế, tùy kết thêm để giới được kiên cố, vì phạm tội có hai loại: một là tội do phạm pháp trong thế gian, hai là tội do trái phạm giới Phật chế mà những giới Phật chế cũng tùy pháp thế gian mà chế, mục đích để đoạn trừ phiền não. Nói trừ trong mộng là trong mộng không phạm. Hết phẩm con vượn.
Như trong luật bổn nói nhóm Bạt xà tử do ăn nhiều, ngủ nhiều nên sanh ý dục, không xả giới mà làm việc dâm dục nên sau đó quyến thuộc bại hoại, bản thân bị bịnh khổ bức bách mới bạch với tôn giả A-nan: "chúng tôi không có hủy báng Như lai, cũng không hủy báng Tăng mà là tự hủy hoại mình nên không còn oai đức. Từ nay chúng tôi sẽ tu theo chánh pháp, nơi bốn mươi tám pháp quán, chúng tôi sẽ theo thứ lớp tu quán; nhân tu tập đạo A-lahán này mà trí huệ được tăng trưởng. Chúng tôi sẽ từ bỏ pháp thế tục, trụ nơi thanh vắng không làm pháp ác nữa", A-nan nghĩ nếu họ làm được như vậy thì rất tốt nên khen lành thay. Nói không có lý đó là Phật quán thấy nhóm Bạt xà tử không có nhân duyên, dù có cho họ thọ giới cụ túc, họ cũng sẽ phá giới phạm Ba la di không được ở chung, nên mới nói là chớ cho họ thọ giới cụ túc vì thương xót họ. Có bốn Tỳ ni: một là bản, hai là tùy bản, ba là lời pháp sư, bốn là tự ý. Nói bản là chỉ cho tạng luật; nói tùy bản là chỉ cho bốn việc, như Phật bảo các Tỳ-kheo: "nếu ta nói việc này là bất tịnh mà không chế giới, việc này lại tùy nhiếp vào bất tịnh, không nhiếp vào tịnh thì gọi là bất tịnh; nếu ta nói việc này là bất tịnh mà không chế giới, việc này lại tùy nhiếp vào tịnh thì gọi là tịnh; nếu ta nói việc này là tịnh nhưng việc này lại tùy nhiếp vào bất tịnh, không nhiếp vào tịnh, thì đối với các thầy, nó nhiếp vào bất tịnh; nếu việc này là tịnh, việc này tùy nhiếp vào tịnh thì đối với các thầy, nó nhiếp vào tịnh". Lời pháp sư là chỉ cho đại chúng năm trăm A-la-hán kết tập, rộng phân biệt lưu thông luật bản mà Phật đã thuyết; nói tự ý là để luật bản, tùy luật bản và lời pháp sư qua một bên, theo ý mình hoặc dùng phương tiện hoặc dẫn kinh luật luận và lời pháp sư để rộng giải thích. Trước xem xét phần căn bản, kế đến xem nghĩa câu, phân biệt xét nét kỹ, sau đó xem xét lời pháp sư nếu cùng văn nghĩa tương ưng thì chấp nhận, nếu không tương ưng thì bỏ. Nếu từ lời pháp sư xét thấy tương ưng với văn nghĩa trong tùy bản thì chấp nhận, không tương ưng thì bỏ; nếu từ bản và tùy bản xét thấy không thể thay đổi thì chúng tăng như pháp yết ma cũng như Phật còn tại thế không khác; nếu xem tùy bản mà không hiểu thì nên xem nghĩa sớ, nếu thấy cùng tương ưng thì chấp nhận, không tương ưng thì bỏ. Nếu có hai Tỳ-kheo luận bàn pháp nghĩa, một người nói là tịnh, người kia nói là bất tịnh; lúc đó nên xem xét trong bản và tùy bản, nếu trong đó đều nói là tịnh thì chấp nhận, nếu trong đó nói là bất tịnh thì không chấp nhận. Nếu người này xem trong bản và tùy bản thấy nói là tịnh, lại còn dẫn nhiều văn nghĩa để dẫn chứng; còn người kia không có văn nghĩa dẫn chứng thì nên chấp nhận lời của người này, không nên nghe theo lời của người kia. Nếu cả hai đều dẫn chứng văn nghĩa như nhau thì nên suy nghĩ và xét nét kỹ nghĩa của bản để quyết định nên chấp nhận hay không nên chấp nhận.
Lại có đủ ba pháp mới thành tựu luật sư: một là đọc tụng và hiểu thông suốt ý nghĩa văn tự của luật bản, hai là ở trong luật bản kiên trì không tạp, ba là theo thầy thứ lớp học và thọ trì không quên. Nói đọc tụng thông suốt là nếu có người hỏi không theo thứ lớp của câu thì vẫn có thể đáp theo câu hỏi, không cần suy nghĩ. Nói hiểu rõ ý nghĩa văn tự là có thể giải thích ý nghĩa câu văn trong bản, tùy bản và chú giải. Nói kiên trì không tạp là chỉ cho người biết hổ thẹn, vì người không biết hổ thẹn thì dù có học rộng hiểu nhiều, được nhiều người kính trọng nhưng không nương theo pháp luật thì người đó là gai góc trong Phật pháp, vì có thể phá hòa hợp Tăng và xúc não chúng tăng. Người biết hổ thẹn thì ngược lại, dù có mất mạng cũng không vì muốn được cúng dường mà phá chánh pháp. Nói không tạp là nếu có người hỏi ý nghĩa của luật bản và nghĩa sớ thì có thể tùy đáp, nếu đáp điên đảo thì cũng như người đi trong gai, khó thể vượt qua. Nếu người hỏi điên đảo thì nên đáp lại bằng chính câu hỏi của họ; nếu bị người có hiểu biết vấn nạn thì nên đáp theo câu hỏi, chớ đáp lạc đề, như dùng chen vàng đựng mở sư tử thì không bị chảy. Nói theo thầy học và thọ trì không quên là như tôn giả Ưu ba ly thọ trì tạng luật từ Phật, Đà tả câu thọ tì từ Ưu ba ly, Tu đề na câu thọ trì từ Đà tả câu, Tất già bà thọ trì từ Tu đề na câu, Mục kiền liên Đế tu thọ trì từ Tất già bà...như vậy các sư nối tiếp truyền thừa cho nhau mãi đến ngày nay.
Nếu ở trong Tăng xử đoán việc đấu tranh thì vị luật sư nên xem xét kỹ sáu pháp rồi mới quyết đoán: một là xem trú xứ, hai là xem luật bản, ba là xem câu văn, bốn là xem ba đoạn, năm là xem xét tội trung gian, sáu là xét vô tội. Nói xem xét trú xứ là như trong luật nói nếu vào chùa phải che thân kín đáo, nếu không che thân kín đáo thì phạm Đột kiết la; sau khi xét tội tướng rồi dẫn văn trong luật bản làm chứng để diệt tránh. Nói xem xét luật bản là như trong luật nói cố ý vọng ngữ phạm Ba dật đề là tội thuộc năm thiên, nên xét tánh tội trong mỗi thiên rồi dẫn văn trong luật bản làm chứng để diệt tránh. Nói xem xét câu văn là như trong văn luật nói hành dâm với tử thi chưa hoại thì phạm Thâu lan giá là tội thuộc trong bảy tụ, nên xét tánh tội trong mỗi tụ rồi dẫn văn trong luật bản làm chứng để diệt tránh. Nói xem xét ba đoạn là trong Tăng già bà thi sa có ba đoạn, trong Ba dật đề có ba đoạn, nên xem xét ba đoạn này rồi dẫn văn trong luật bản làm chứng để diệt tránh. Nói xem xét tội trung gian là như đốt lửa phạm Đột kiết la, nên xét tội trung gian này trong luật bản rồi dẫn văn trong luật bản làm chứng để diệt tránh. Nói xét vô tội là như trong luật bản nói nếu không có tâm thọ lạc, không có tâm trộm, không có tâm giết hại, không cố ý nói dối... thì nên xem xét từng trường hợp, không thấy có tướng tội thì nên dẫn văn trong luật bản làm chứng để diệt tránh.
Nếu Tỳ-kheo nào biết rõ bốn pháp Tỳ ni, thông suốt ba pháp và sáu pháp kể trên thì diệt tránh thành tựu; nếu diệt tránh thành tựu rồi mà việc tranh cãi không phát sanh trở lại thì người ấy không khác gì Phật còn tại thế. Nếu Tỳ-kheo nào phạm giới sanh nghi hối thì nên đến chỗ luật sư cầu quyết nghi, luật sư này trước phải xem xét kỹ, nếu thấy có tội thì nên đáp có, nếu thấy không tội thì nên đáp không; thấy nên sám hối thì bào họ sám hối, thấy đáng trị phạt thì nên cho pháp trị phạt, thấy nên cho xuất tội thì nên cho xuất tội. Nếu thấy có tội tướng của Ba la di thì không nên nói thẳng là phạm Ba la di, vì sao, vì trong thiên Ba la di, tội phạm dâm và vọng ngữ có tướng trạng dễ nhận biết, còn tội giết người và trộm cướp có tướng trạng khó nhận biết, phải tùy việc vi tế mà giải thích, không nên nói thẳng với người đang nghi hối là đã phạm Ba la di. Nếu người này có thầy thì nên bảo trở về hỏi thầy, nếu vị thầy kia nói là trị được thì luật sư nên nói: lành thay, hãy làm theo lời dạy ấy. Nếu người này không có thầy thì luật sư nên bảo hỏi các vị đồng phạm hạnh, đồng học; nếu họ nói là trị được thì luật sư nên nói lành thay như trên. Nếu người này cũng không có bạn đồng học thì luật sư nên nói với người này rằng: "khó gặp Phật ra đời, được xuất gia là khó, thọ đắc giới cụ túc càng khó hơn", nói rồi liền bảo người này vào trong thiền phòng thiền định một ngày, quán một trong ba mươi pháp thiền định. Nếu người này thật không khuyết giới phạm giới thì pháp thiền sẽ hiện đến với người đang quán và liền nhập định; ngược lại thì không thể nào nhập định mà sẽ cảm thấy như ngồi trên gai, vì bị lửa nghi hối thiêu đốt và họ sẽ đứng dậy bỏ đi. Lúc đó luật sư nên nói: "hễ phạm tội thì không nên che giấu, vì vừa phạm thì thần hộ thân đã biết trước rồi". Hết phẩm luật sư.
Chữ danh (gọi là) trong luật văn là không phải chỉ tùy người mà kết mà bao gồm thân người, tu tập, thọ sanh, tên, họ, giới, chùa, hành nghiệp, tuổi tác... Nói thân người là người đó cao hay thấp, trắng hay đen, mập hay ốm...; nói tu tập là tu thiền hay tu học giáo pháp; nói thọ sanh là sanh vào nhà Sát đế lợi hay vào nhà Bà la môn...; nói tên là có tên Phật đà lặc cật đa hay có tên Đam vô lặc cật đa...; nói họ là có họ Ca chiên diên hay họ Bà tư xoa...; nói giới là tùy theo giới đã thọ mà nói; nói chùa là tùy theo chùa đã cư trú mà nói; nói hành nghiệp là tùy hành nghiệp đã làm mà nói; nói tuổi tác là năm, mười, hai, ba mươi tuổi. Nếu người có hạnh Tỳ-kheo thì được gọi là Tỳ-kheo, dịch nghĩa là khất sĩ thì dù có xin được hay không vẫn gọi là khất sĩ. Hành pháp khất thực là hạnh của bậc thiện nhân; Phật, Phật Bích chi và các Thanh văn đều hành pháp khất thực; người thế gian dù giàu hay nghèo, nếu từ bỏ tài sản, nhà cửa ruộng vườn... để xuất gia học đạo, hành pháp khất thực, dù tư sanh có hay không đều lấy bốn biển làm nhà thì người đó gọi là Tỳ-kheo. Nói Tỳ-kheo mặc y cắt rọc là dù y trị giá ngàn vạn, Tỳ-kheo được rồi liền phải cắt rọc để làm mất giá trị của y; lại dùng kim chỉ ráp lại làm cho mất vẻ đẹp của y; lại dùng vỏ cây nhuộm làm cho mất màu tươi sáng của y, khiến trở thành y hoại sắc; người mặc y như thế được gọi là Tỳ-kheo. Sa di có khi cũng được gọi là Tỳ-kheo, như có đàn việt đến thỉnh Tỳ-kheo, Sa di tuy chưa thọ giới cụ túc nhưng vẫn được vào trong số Tỳ-kheo thọ thỉnh, đây gọi là danh tự Tỳ-kheo. Giả danh Tỳ-kheo là mượn danh nghĩa Tỳ-kheo, không phải là chân thật Tỳ-kheo như trưởng lão A-nan ban đêm thấy một người liền hỏi là ai, kia đáp tôi là Tỳ-kheo. Thiện lai Tỳ-kheo là như có bạch y đến chỗ Thế tôn cầu xuất gia, Phật quán căn cơ nếu thấy đủ nhân duyên hóa độ liền gọi: thiện lai Tỳ-kheo, hãy tu phạm hạnh; người này râu tóc tự rụng, ca sa hiện trên thân liền trở thành Tỳ-kheo.
Hỏi: từ khi Phật thành đạo cho đến khi nhập niết bàn, có bao nhiêu vị thiện lai Tỳ-kheo?-có một ngàn ba trăm bốn mươi mốt vị, trong đó nhóm A nhã Kiều-trần-như năm vị, con trưởng giả Da thu và năm mươi bạn thân, nhóm Bạt quần ba mươi vị, nhóm Xà trí la một ngàn vị, hai đại Thanh văn với hai trăm năm mươi vị và Ương quật ma la, như kệ nói:
"Một ngàn ba trăm,
Bốn mươi mốt người,
Có lòng tin sâu,
Cầu Phật xuất gia,
Như lai từ bi,
Dùng Phạm âm gọi,
Thiện lai Tỳ-kheo,
Hãy tu phạm hạnh.
Liền đủ y bát,
Trở thành Tỳ-kheo".
Không phải chỉ các Tỳ-kheo trên mới là thiện lai Tỳ-kheo, mà những bậc đại trí huệ cũng được gọi là thiện lai Tỳ-kheo như nhóm Tư lâu Bà la môn ba trăm người, nhóm Ma ha Kiếp tân na một ngàn người, một vạn người ở nước Ca tỳ la vệ và một vạn sáu ngàn người cùng xuất gia với Bà la môn Ba dạ la ni. Nói do tam quy đắc giới cụ túc là nói ba lần tam quy liền đắc giới cụ túc; nói do giáo thọ đắc giới cụ túc là như Phật bảo Đại Ca Diếp: "ta đối với các bậc thượng trung hạ tòa đều khởi tâm hổ thẹn, thầy cũng nên học như thế; từ nay thầy nên lắng nghe cho kỹ tất cả thiện pháp, ghi khắc vào tâm với ý nghĩ là tôi đang lắng tai nghe pháp. Thầy nên học như vậy, nên nhớ nghĩ như vậy". Nói do vấn đáp đắc giới cụ túc là như Phật kinh hành trong chùa Phú bà la di đã hỏi Sa di Tu ba ca về tên phồng trướng và tên của sắc là đồng nhất hay khác nhau; Tu ba ca tùy đáp theo câu hỏi và được Phật khen ngợi: "lành thay, con đã đáp lời của bậc Nhất thiết trí với chánh tâm, nay ta cho con thọ giới cụ túc". Nói thọ trong pháp đắc giới cụ túc là như Tỳ-kheo-ni Ma ha ba xà ba đề lãnh thọ tám trọng pháp mà đắc giới cụ túc; Sai sứ thọ đắc giới cụ túc là như trường hợp của ni Ban thi ca; do tám lần nói đắc giới cụ túc là trường hợp ni thọ giới cụ túc, ở bên Ni tăng bạch tứ yết ma rồi, kế qua Tỳ-kheo tăng bạch tứ yết ma lần nữa mới đắc giới cụ túc; nói bạch tứ yết ma đắc giới cụ túc là trường hợp bên Tăng cho Sa di thọ giới cụ túc.
Nói thiện nhân là chỉ cho phàm phu từ khi tu thiện pháp cho đến khi chứng quả A-la-hán có đủ giới, định, huệ, giải thoát và giải thoát tri kiến. Nói chân Tỳ-kheo là sau khi thọ đắc giới liền y theo giới hành trì, diệt trừ hết phiền não chứng Lậu tận A-la-hán; ví như bạch điệp nhuộm màu xanh thì được gọi là vải xanh. Nói Hữu học là chỉ cho bảy hạng học nhân, phàm phu đang học ba học cũng gọi là Hữu học; Vô học là bậc đã qua giai vị Hữu học, trụ ở giai vị trên không còn gì phải học nữa vì đã diệt hết các lậu hoặc. Nói tập Tăng là ít nhất năm Tỳ-kheo; nói nên lấy dục là lấy dục trong hiện tại; khi Tăng đã hòa hợp, không có người quở thì nên tác pháp yết ma. Bạch tứ yết ma là một lần bạch, ba lần yết ma; do bạch tứ yết ma đắc giới cụ túc liền được tướng Tỳ-kheo. Nói ba học là thượng giới, thượng tâm và thượng huệ; nói học là chỉ cho năm giới, mười giới; dù Phật có ra đời hay không thì giới này vẫn thường có trong thế gian, khi Phật chưa ra đời thì Phật Bích chi và các Sa môn, Bà la môn cho đến Chuyển luân thánh vương đã đem giới pháp này giáo hóa mọi người; khi Phật ra đời, Phật và các Thanh văn đem giới pháp này giáo hóa người khác. Người nào thọ trì giới pháp này, sau khi qua đời được sanh lên cõi trời hay cõi người thọ hưởng phước lạc. Thượng giới là chỉ cho Ba la đề mộc xoa, cũng gọi là Vô đẳng học; ví như trong các loại ánh sáng thì ánh sáng mặt trời là sáng nhất, trong các núi thì núi Tu di là cao nhất, trong các môn học thế gian thì Ba la đề mộc xoa là tối thắng. Vì sao, vì Phật ra đời mới có pháp này, Phật chế giới thuyết Ba la đề mộc xoa để điều phục ba nghiệp thân ngữ ý, ai thọ trì Vô đẳng học này đều đồng vào đạo quả nên gọi là thượng giới. Nói thượng tâm là tâm đạo quả, vượt qua tâm thế gian như lục dục, tám tâm công đức và tám tâm định thế gian, ai được tâm này thì không làm pháp bất tịnh nữa nên gọi là thượng tâm. Nói thượng huệ là dùng huệ biết nghiệp là nhân, báo là quả; dù Phật có ra đời hay không, pháp nhân quả này vẫn thường có; khi Phật chưa ra đời thì Phật Bích chi cho đến Chuyển luân thánh vương dùng pháp này giáo hóa mọi người; khi Phật ra đời, Phật và các Thanh văn dùng pháp này giáo hóa người khác. So với hai pháp trên thì thượng tuệ là tối thắng vì thượng tuệ là tuệ của đạo quả, hiểu rõ ba tướng: khổ, không và vô ngã. Nói ở chung là các Tỳ-kheo khác nhau về chủng tộc, quốc gia, quê quán, tên họ nhưng sau khi xuất gia thọ giới đồng thọ trì học giới và ở chung một chỗ; nếu phạm Ba la di thì không được ở chung nữa. Nói giới suy kém không nói ra là giới tướng suy kém mà không nói ra, cũng không xả giới như đối với học giới khởi tâm ưu sầu, không muốn thọ trì nữa nên thường than thở, tâm tán loạn không chuyên nhất. Có mười bốn câu biểu hiện giới suy kém như nói tôi muốn bỏ Phật, bỏ pháp, bỏ Tăng, bỏ Ba la đề mộc xoa...; lại có tám câu biểu hiện giới suy kém như nói tôi muốn làm bạch y, làm Ưu bà tắc, làm tịnh nhân... Nếu từ hai mươi hai câu này hợp lại thì thành một trăm mười câu biểu hiện giới suy kém, trong đó có mười bảy câu như nói tôi nhớ mẹ, nhớ cha, nhớ nhà...; kế có mười sáu câu như nói tôi còn có mẹ cần phải về phụng dưỡng...; kế có tám câu như nói tu phạm hạnh, ngày ăn một bữa rất khó làm...; kế có năm mươi câu như nói tôi không làm nổi, không chịu đựng nổi, tôi không vui... Nói xả giới là nói ra lời, người nghe hiểu được liền thành xả giới; có mười bốn câu như nói tôi bỏ Phật, bỏ Pháp, bỏ Tăng, bỏ Ba la đề mộc xoa...; nếu sai sứ, viết thư hay đóng dấu thì không thành xả giới, phải đối trước người khác nói ra lời, người nghe hiểu được mới thành xả giới; nếu người nghe không hiểu, bên cạnh có người khác hiểu thì không thành xả giới; nếu nói với hai người, cả hai nghe hiểu hoặc một người nghe hiểu, một người nghe không hiểu cũng thành xả giới; hoặc đối trước số đông người nói xả giới, trong đó có một người nghe hiểu cũng thành xả giới. Người xả giới từ pháp Như lai rơi xuống làm người thế tục thì cũng giống như Đế thích, Phạm thiên vương bị đọa. Nếu Tỳ-kheo bị dâm dục xúc não, muốn nói với bạn đồng học nhưng e ngại nên ở chỗ khuất nói lớn tiếng là tôi nay bỏ Phật; tùy có người hiểu là như gần đó bỗng có người nghe hiểu được Tỳ-kheo này muốn xả giới thì thành xả giới, nếu lúc đó họ nghe chưa hiểu, sau đó suy nghĩ mới hiểu thì không thành xả giới. Nếu nói bóng gió hoặc nói lúc đang tức giận đều không thành xả giới, nếu lúc đang nói có người để ý nghe và hiểu thì người nói mắc tội; như Phật bảo các Tỳ-kheo: "đối với người mà giới đã suy kém, nếu cố ý nói những lời như trên thì đều thành xả giới". Phật có trăm danh hiệu, pháp cũng vậy; nếu nói tôi bỏ Phật, bỏ bậc Chánh đẳng chánh giác, bỏ bậc Vô lượng ý, bỏ bậc Bồ đề trí, bỏ bậc Nhất thiết trí... nói rõ từng danh hiệu Phật như vậy thì đều thành xả giới. Nếu nói bỏ pháp, như nói tôi bỏ pháp mà Phật khéo phân biệt thuyết giảng, bỏ pháp đến để mà thấy, bỏ pháp ly dục... cho đến bỏ tám vạn bốn ngàn pháp tụ, nói rõ từng pháp như vậy thì đều thành xả giới. Nếu nói bỏ Tăng, như nói tôi bỏ Tăng hòa hợp, bỏ Tăng tùy chánh hạnh, bỏ Tăng tùy như lý hạnh... bỏ vô thượng phước điền thì đều thành xả giới. Nếu nói xả giới, như nói tôi xả giới Tỳ-kheo, xả giới Tỳ-kheo-ni, xả thượng học, thượng tâm, thượng huệ, xả Ba la đề mộc xoa thì đều thành xả giới. Nếu nói tôi xả Hòa thượng, xả đồng Hòa thượng, xả A-xà-lê, xả đồng A-xà-lê, xả đệ tử, xả các vị đồng học giới, xả các vị đồng phạm hạnh... đều thành xả giới. Nếu nói tôi nay làm bạch y hoặc nói tôi muốn trở lại đời sống trước kia, làm thương nhân hoặc cày ruộng, chăn nuôi, hưởng thọ ngũ dục... thì đều thành xả giới; cho đến nói tôi không phải là Sa môn Thích tử nữa liền thành xả giới. Nói tóm lại do nhân này, với biểu hiện này và dùng phương tiện này nói ra lời rõ ràng đều thành xả giới. Trên đây là tướng xả giới và việc xả giới, kế nói về không thành xả giới; như Tỳ-kheo mắc bịnh điên cuồng tâm loạn, tùy tâm điên cuồng mà nói xả giới thì không thành xả giới; hoặc đối trước người điên cuồng tâm loạn mà nói xả giới, người kia nghe không hiểu cũng không thành xả giới. Nếu Tỳ-kheo mắc bịnh khổ, bị khổ bức bách mà nói xả giới thì không thành xả giới; hoặc đối trước người đang bịnh khổ mà nói xả giới, do họ bị bịnh khổ bức bách nên nghe không hiểu thì không thành xả giới. Nếu đối trước thiên thần, phi nhơn như các loài rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, cho đến đối trước các loài súc sanh nói xả giới thì đều không thành xả giới. Nếu đối trước người ở trong nước, dùng ngôn ngữ của biên địa để nói xả giới; hoặc đối trước người ở biên địa, dùng ngôn ngữ ở trung phương để nói xả giới, do người nghe không hiểu được tiếng nói của nhau nên không thành xả giới. Nếu khi đối trước người nói xả giới mà nói mau, nói cà lăm, nói lộn... thì không thành xả giới. Hỏi: sao gọi là pháp bất tịnh, sao gọi là làm việc bất tịnh?-đây là pháp bất thiện, pháp ác, không phải là pháp của bậc thiện nhân. Nói làm việc bất tịnh là ở chỗ khuất chỉ có hai người, cả hai đều thích muốn thọ dục nên xúc chạm nhau, hai thân giao hội, vừa vào (nam căn vào nữ căn) thì phạm Ba la di; nếu thọ lạc thì phạm Ba la di, không thọ lạc thì phạm Đột kiết la, đây gọi là làm việc bất tịnh. Như trong luật nói cho đến cùng với súc sanh đều phạm Ba la di, là lời nói tột cùng, đối với loài lớn có thể cùng hành dâm được thì phạm Ba la di, loài nhỏ không thể hành dâm được thì phạm Đột kiết la. Nói Ba la di nghĩa là thối đọa, không như ý, từ pháp Như lai bị rơi xuống, không còn gọi là Thích tử nữa, ở trong pháp Tỳ-kheo không còn được như ý nữa, không được xếp vào tăng số và không được ở chung với Tăng nữa, như kệ nói: " T a thuyết Ba la di,
Thầy hãy chú ý nghe, Đọa lạc, không như ý, Trái ngược với chánh pháp, Không được cùng ở chung, Nên gọi Ba la di ".
Nói không được ở chung là không được cùng Tăng hòa hợp tác pháp yết ma làm các Tăng sự và mỗi nửa tháng cùng thuyết Ba la đề mộc xoa, như trong luật bổn nói không được cùng bố tát và làm các pháp yết ma.
Nói người nữ có ba loại, mỗi loại có ba đường hành dâm, huỳnh môn có ba loại, mỗi loại có hai đường hành dâm, nam cũng có ba loại. Nói ba loại nữ là người nữ, phi nhân nữ và súc sanh cái, tổng cộng là chín căn (chín đường hành dâm); ba loại huỳnh môn là người huỳnh môn, phi nhân huỳnh môn và súc sanh huỳnh môn, tổng cộng là sáu căn; ba loại nam là người nam, phi nhân nam và súc sánh đực, tổng cộng là sáu căn. Nếu với tâm dâm, hai căn xúc chạm nhau để làm việc bất tịnh, vừa vào liền phạm Ba la di; nếu bản thân không chủ động làm, người kia chủ động làm mà bản thân thọ lạc thì cũng phạm Ba la di; nếu bị cưỡng bức làm việc bất tịnh, ban đầu tâm không thọ lạc, nhất tâm hộ giới thì không phạm, sau đó khởi tâm thọ lạc thì phạm Ba la di. Nếu oan gia đưa người nữ đến chỗ Tỳ-kheo khuyến dụ làm việc bất tịnh, muốn hoại Tỳ-kheo; hoặc nửa đêm đưa người nữ đến, gọi Tỳ-kheo thức dậy để cùng làm việc bất tịnh, nếu trong ba thời đều thọ lạc thì phạm Ba la di, dù tinh có xuất hay không đều phạm, chớ nói là vì oan gia bức bách nên không phạm. Nói ba thời là khi mới vào (nam căn vào nữ căn), khi dừng trụ (nam căn đã vào trong nữ căn), khi ra (nam căn ra khỏi nữ căn).
Nếu khi mới vào không thọ lạc, khi dừng trụ và khi ra thọ lạc thì phạm Ba la di; khi mới vào và khi dừng trụ không thọ lạc nhưng khi ra thì thọ lạc cũng phạm Ba la di; cả ba thời không thọ lạc thì không phạm. Nói không thọ lạc là như đưa vào miệng rắn độc, như chạm vào lửa; nếu Tỳ-kheo quán khổ không vô ngã, không kể đến thân mạng, bị người nữ bức bách như chạm vào lửa, như chạm dao bén thì không phạm.
Trường hợp oan gia đưa người nữ đến hoặc người nữ không ngủ hoặc là người say, hay bị điên cuồng hoặc là thây chết chưa hoại; nói chưa hoại là ba đường hành dâm chưa hoại hoặc hoại phần nhiều hoặc hoại phần ít. Mỗi loại đều có ba đường hành dâm và bốn trường hợp, tổng cộng có hai mươi bảy; phi nhân nữ và súc sanh cái cũng vậy, tổng cộng là tám mươi mốt; huỳnh môn hai căn cũng có tám mươi mốt; huỳnh môn và người nam tổng cộng có năm mươi bốn; phi nhân nam và súc sanh đực cũng có năm mươi bốn; như vậy tất cả là hai trăm bảy mươi.
Tại nước Sư tử có hai luật sư cùng học với một A-xà-lê, một tên là Ưu ba đế tả, hai tên là Tả tả đề bà; Ưu ba đế tả có hai đệ tử rất trí huệ, một tên là Ma ha Ba đầu ma, hai tên là Ma ha Tu ma. Cả hai đều học luật với thầy qua chín lượt, nhưng Ma ha Ba đầu ma tự học thêm chín lượt nữa nên rất thông suốt Luật tạng. Sau đó Ma ha Tu ma rời thầy qua sông ở riêng, Ma ha Ba đầu ma nghe việc này rồi suy nghĩ: "thầy ấy rất dõng mãnh, bổn sư hiện còn mà đã ra ở riêng; ta thì mỗi năm sẽ đến chỗ thầy nghe luật và các nghĩa sớ luật, không phải chỉ học một lần mà học cho đến khi nào thông suốt luật, như thế mới gọi là luật sư cung kính luật". Sau đó, khi Ưu ba đế tả đang dạy luật cho năm trăm đệ tử mà Ma ha Ba đầu ma đứng đầu, có một đệ tử hỏi: "nói căn hoại phần ít, hơn phân nửa chưa hoại mà hành dâm thì phạm Ba la di; căn hoại phần nhiều, còn ít phần chưa hoại mà hành dâm thì phạm Thâu lan giá; nếu còn nửa phần chưa hoại mà hành dâm thì phạm tội gì?", Ưu ba đế tả đáp: "Phật kết Ba la di là kết chung, nếu hành dâm nơi ba đường mà kết tội Ba la di thì đó là tội thuộc thế gian, không tội do Phật kết; nếu nơi căn còn nửa phần chưa hoại mà hành dâm, phạm Ba la di là tội do Phật kết. Nói không thấy bóng Ba la di mà thấy bóng Thâu lan giá là đối với tử thi, nơi căn chưa hoại hay hơn phân nửa chưa hoại mà hành dâm thì Phật kết tội Ba la di; nơi căn còn ít phần chưa hoại mà hành dâm thì phạm Thâu lan giá, vì không thấy bóng Ba la di mà thấy bóng Thâu lan giá. Nếu phần thịt nơi căn chưa hoại, da gân vẫn còn thì kết phạm Ba la di; hoặc phần thịt đã hoại nhưng vẫn còn hình dạng, có thể đưa nam căn vào để hành dâm thì cũng phạm Ba la di; nếu căn đã hoại không còn hình dạng, bằng phẳng như vết thương thì phạm Thâu lan giá; nếu bị thú ăn mất căn, chỉ còn chỗ thịt mà hành dâm vào chỗ ấy thì phạm Đột kiết la. Nếu tử thi chưa thối rửa hay đã thối rửa, hành dâm vào chỗ Ba la di thì phạm Thâu lan giá, hành dâm vào chỗ Thâu lan giá thì phạm Đột kiết la, hành dâm vào chỗ Đột kiết la thì cũng phạm Đột kiết la. Nếu Tỳ-kheo khởi tâm dâm sờ chạm nơi ba đường của người nữ thì phạm Thâu lan giá, nếu vì muốn thọ lạc mà môi chạm môi, đưa nam căn chạm bên ngoài nữ căn thì phạm Tăng già bà thi sa; chạm bên ngoài căn của súc sanh cái thì phạm Thâu lan giá, sờ mó để thọ lạc thì phạm Đột kiết la. Phật vì hộ người thuận trì giới và vì hộ chánh pháp không muốn các ác Tỳ-kheo đời vị lai phạm nên nói ra hai trăm bảy mươi chỗ phạm này". Nói bốn loại cách là có cách vào không cách, không cách vào có cách, không cách vào không cách và có cách vào có cách. Có cách là có y phục bên ngoài ngăn cách, ngược lại là không cách; nếu cả hai đều có cách mà có tâm dục hành dâm vào chỗ Ba la di thì phạm Ba la di, vào chỗ Thâu lan giá thì phạm Thâu lan giá, vào chỗ Đột kiết la thì phạm Đột kiết la. Nói không phạm là không hay biết và không thọ lạc, như Tỳ-kheo ngủ say không hay biết như người nhập định thì không phạm, nếu tỉnh thức có hay biết nhưng không thọ lạc cũng không phạm. Nếu Tỳ-kheo bị điên cuồng tâm loạn, không biết khinh trọng, sạch dơ; thuốc không trị hết được thì không kết phạm; nếu trở lại bổn tâm mà làm việc bất tịnh thì kết phạm. Người phạm đầu tiên khi Phật chưa kết giới như Tu đề na thì không kết phạm, những người phạm sau như Tỳ-kheo phạm dâm với di hầu và Tỳ-kheo Bạt xà tử thì kết phạm Ba la di.
Nói phân biệt câu trong văn giới là khi làm việc gì mà có ý thức thì sẽ phát khởi tội thế gian hay nghiệp công đức tóm hết tất cả giới bổn. Có giới nhân sáu loại khởi tội, có giới nhân bốn loại khởi tội, có giới nhân ba loại khởi tội, có giới nhân y Ca hi na khởi tội, có giới nhân lông dê khởi tội, có giới nhân tâm xả khởi tội. Trong đây hoặc nhân làm mà khởi tội, hoặc nhân không làm mà khởi tội, hoặc do làm và không làm mà khởi tội; lại có trường hợp do biết nên được thoát tội, hoặc biết mà không được thoát tội; lại có giới vô tâm, có giới hữu tâm; lại có tánh tội và chế tội.
Hỏi: Sao gọi là giới hữu tâm?-là có tâm làm nên kết tội-Nói chế tội có hai là tội thuộc thân nghiệp và tội thuộc khẩu nghiệp, tội thuộc thân nghiệp là do thân làm mà kết phạm, tội thuộc khẩu nghiệp là do khẩu làm mà kết phạm. Lại có giới thiện và giới bất thiện, lại có ba mươi hai tâm bất thiện và không phải bất thiện khởi tội. Dục giới có tám tâm thiện, mười hai tâm bất thiện và mười tâm vô ký; từ tâm thiện và tâm vô ký có hai tâm tri. Lại có giới ba thọ, có giới hai thọ, có giới một thọ; nếu nhân ba thọ mà khởi tội thì gọi là giới ba thọ; nếu nhân nơi lạc thọ và xả thọ mà khởi tội thì gọi là giới hai thọ; nếu nhân nơi khổ thọ mà khởi tôi thì gọi là giới một thọ. Tôn giả Ưu ba ly muốn cho các luật sư đời sau dễ nhớ việc tùy chế nên nói kệ:
"Di hầu, Bạt xà tử,
Lão xuất gia và Nai"
Nói bạch y là mặc y phục bạch y hành dâm, áo cỏ là ngoại đạo kết cỏ làm y phục, áo vỏ cây là dùng vỏ cây làm y phục, phát Khâm bà la là dùng tóc dệt làm y phục, mao Khâm bà la là dùng lông đuôi con Mao ngưu dệt làm y phục, y da nai là dùng da nai làm y phục...
Nói Tỳ-kheo-ni Ưu bát la vốn là trưởng giả nữ ở thành Xá vệ, do trong quá khứ trăm ngàn kiếp làm các việc thiện nên nay được sắc đẹp như hoa Ưu bát la nên thành tên gọi. Tỳ-kheo-ni này đã ly dục, dứt hết phiền não; sau khi khất thực ăn xong trở về phòng nằm ngủ thì bị một Bà la môn lẻn vào trong phòng trước đó cưỡng bức. Do đã ly dục nên cô không có thọ lạc mà cảm thấy như sắt nóng chạm vào thân, Phật nói không thọ lạc thì không phạm và nói kệ:
"Như hoa sen trong nước,
Hạt cải đặt đầu kim,
Nơi dục không tâm nhiễm,
Ta gọi Bà la môn".
Nói chuyển căn là như có Tỳ-kheo vào nửa đêm ngủ say bỗng chuyển căn thành nữ, Phật bảo các Tỳ-kheo đưa đến trong Ni tăng và vẫn giữ tuổi hạ cũ, không phải thọ giới cụ túc lại. Khi đưa vị này đến trong chùa ni, các Tỳ-kheo nên nói rõ nguyên do và nhờ Ni chúng gi-úp đỡ, vị chuyển căn này nên tùy thuận ni chúng đọc tụng kinh pháp và thuận hành theo giới pháp Tỳ-kheo-ni. Nếu vị này không có tâm hổ thẹn và không tùy thuận Ni chúng chùa này thì có thể đi đến chùa khác cầu thầy y chỉ khác, cũng được độ đệ tử và thọ người khác y chỉ; các Tỳ-kheo-ni không được cơ hiềm và sanh tâm kia đây. Nếu vị này trước đã có độ Sa di thì nên giao lại cho các Tỳ-kheo khác; y bát trước kia đã mất pháp thọ, phải đối trước Tỳ-kheo-ni tác pháp thọ lại bát và năm y; y vật dư trước kia cũng được thuyết tịnh để dùng; đối với Thất nhật dược đã thọ trước kia cũng phải tác pháp thọ lại, dù trước kia đã thọ đủ bảy ngày cũng được thọ lại bảy ngày. Cho đến những vật dụng riêng của mình trước kia, sau khi chuyển căn vẫn được mang theo để dùng, trừ vật của Tăng thì giao trả lại cho Tăng. Nếu Tỳ-kheo khi chưa chuyển căn phạm Tăng tàn, hành Ma na đỏa chưa xong, sau khi chuyển căn nên hành lại nửa tháng Ma na đỏa rồi cho xuất tội; nếu đã hành Ma na đỏa xong thì sau khi chuyển căn nên cho xuất tội. Ngược lại nếu là Tỳ-kheo-ni khi chưa chuyển căn, hành Ma na đỏa chưa xong thì sau khi chuyển căn thành Tỳ-kheo nên cho hành lại sáu đêm Ma na đỏa rồi cho xuất tội; nếu đã hành Ma na đỏa xong thì sau khi chuyển căn nên cho xuất tội.
Nói nhược yêu là Tỳ-kheo này trước kia là vũ công nên sống lưng mềm dẻo, nói trường căn là Tỳ-kheo này có nam căn dài. Nói vẽ hình khắc tượng là vẽ hình và khắc tượng người nữ hoặc bằng vàng, bạc, đồng... gỗ thì phạm Đột kiết la; vuốt ve tượng người nữ cũng Đột kiết la. Nói đoan chánh là Tỳ-kheo này là người thành Vương xá, có tướng mạo đoan chánh, tín tâm xuất gia nên được gọi là đoan chánh; một người nữ thấy Tỳ-kheo này đoan chánh nên sanh dục tâm ôm hôn, Tỳ-kheo này là bậc A na hàm nên không có thọ lạc. Nếu hành dâm ở miệng vào qua răng thì phạm Ba la di, lưỡi chạm lưỡi thì Thâu lan giá. Nếu hành dâm với phi nhân như long nữ hoặc Khẩn na la nữ hóa hình người nữ đều phạm Ba la di, cho đến các loài quỷ thần khác nếu hiện thân sờ nắm được thì đều phạm Ba la di, không hiện thân sờ nắm được thì không phạm. Nếu Tỳ-kheo muốn cùng người nữ hành dâm, khi nam căn sắp vào nữ căn liền sanh tâm hối thì phạm Đột kiết la, vào liền phạm trọng. Nói ngủ nên đóng cửa là như Phật bảo các Tỳ-kheo: "nếu ban ngày muốn nhập định nên đóng cửa rồi mới nhập định, nếu không đóng cửa thì phạm Đột kiết la". Nói đóng cửa là có loại cửa đóng được, có loại không đóng được; nếu khung cửa làm bằng cây hay tre, dưới cánh cửa có chốt, trên có then cài thì đóng được; nếu chỉ là tấm màn che thì không đóng được. Nếu Tỳ-kheo nhập định ban ngày, đối với loại cửa đóng được mà không đóng thì phạm, loại không đóng được nên không đóng thì không phạm. Khi đóng nên cài then chốt, nếu không có then chốt thì khi khép lại nên dùng vật chắn ngang cửa, dù có khe hở mà đầu người không chui qua được thì cũng không phạm. Nếu bên ngoài có nhiều người hoặc Tỳ-kheo hay Sa di đang kinh hành hay đang làm việc, Tỳ-kheo bên trong nghĩ là họ sẽ coi ngó nên nhập định hay ngủ đều không phạm. Nếu Tỳ-kheo ở trong phòng trên lầu gác, không đóng cửa ngủ thì nên cất thang, nếu không cất thang thì nên đóng cửa dưới rồi mới ngủ thì không phạm; nếu ở lầu ba tầng, Thượng tòa ở tầng dưới, Tỳ-kheo ở tầng giữa và tầng trên, khi ngủ không đóng cửa nghĩ là đã có Thượng tòa ở tầng dưới thì không phạm. Nếu Tỳ-kheo đi đường xa mệt ngủ quên không đóng cửa thì không phạm, nếu đã thức dậy rồi nằm xuống ngủ lại thì phạm.…, như kệ nói:
"Khéo thấy tất cả tướng,
Luật bản không che giấu,
Phật giáo hóa chúng sanh,
Đầu, giữa, sau đều thiện,
Nên nói tất cả thiện.
Phật thương xót chúng sanh,
Nên nói Tỳ ni tạng,
Tỳ ni là tối thượng,
Lời Phật nói không hai,
Đọa lạc, không như ý,
Gọi là Ba la di,
Rộng nói khiến cho biết,
Trừ người phạm đầu tiên,
Phật nói không có phạm".
-(Hết phẩm Ba la di thứ 1)
Lúc đó Phật ở trên núi Kỳ xà quật, thành Vương xá...
Hỏi: vì sao gọi là thành Vương xá?-do vào thời kiếp sơ, có hai vị Thánh vương tên Mạn tha đa và Cù bần đà xây dựng nhà cửa tại đây; có thuyết cho là khi Phật ra đời, có Chuyển luân thánh vương ra đời lập quốc tại đây, nếu không có Thánh vương ra đời thì Dược xoa sẽ làm chủ nơi này.
Hỏi: sao gọi là núi Kỳ xà quật?-Kỳ xà là tên của loài chim Thứu, quật là đỉnh núi; loài chim này sau khi ăn xong thì bay trở về đậu trên đỉnh núi nên thành tên gọi; lại có thuyết nói trên đỉnh núi có hình tảng đá tợ như chim Thứu nên thành tên gọi.
Nói chúng là ba người, nói Tăng là ba người trở lên; nói thân hữu là quen biết nhưng không thân; nói kỳ cựu là bạn rất thân, đồng y thực; nói ở bên núi Y tư kỳ lê là do thuở xưa có năm trăm vị Phật Bích chi đi đến nước Ca tư câu sa la, sau khi khất thực xong đã lên núi này nhập định, mọi người thấy các vị này lên núi rồi mãi không thấy trở xuống nên cho là núi đã ăn mất người xuất gia, núi này được gọi là Y tư kỳ lê từ đó. Nói có năm trăm Tỳ-kheo làm nhà cỏ tranh ở bên núi này để hạ an cư là như Phật bảo các Tỳ-kheo: "Tỳ-kheo muốn hạ an cư, trước nên tu sửa phòng xá, nếu không có phòng xá mà hạ an cư thì phạm Đột kiết la", nếu có phòng xá sẵn thì tốt, nếu không có nên tự làm hoặc nhờ người khác làm, nếu không có phòng xá thì không được hạ an cư.
Nói Đàn ni ca là người đầu tiên phạm Ba la di thứ hai là vị này làm một nhà tranh ở A lan nhã để an cư, sau khi mãn hạ liền tháo dỡ nhà tránh này ra từng phần rồi bó lại cột treo trên cây, vì sao, vì sau đó nếu muốn ở nữa thì lấy xuống làm nhà lại, hoặc Tỳ-kheo nào cần thì tùy ý lấy xuống làm nhà để ở. Sở dĩ phải tháo dỡ bó lại cột treo trên cây là vì hạ an cư xong, Tỳ-kheo sẽ ra đi tùy ý du hóa, nhà không ai ở coi giữ sẽ hư mục. Lúc đó có người đi lượm củi nhìn thấy liền lấy mang đi, Đàn ni ca đến hạ an cư lần sau trở lại thì không có bó cây gỗ và cỏ tranh để làm nhà nữa. Đàn ni ca vốn là con của người thợ gốm nên trộn bùn làm nhà, làm xong dùng màu đỏ sơn phết rồi dùng cỏ và phân bò nung căn nhà như nung đồ gốm; sau khi nung chín, căn nhà bằng đất có màu đỏ sáng đẹp như lửa, khi gõ vào phát ra tiếng vang như tiếng chuông và gió thổi vào cửa sổ nghe như tiếng nhạc. Sau đó, Phật nhìn thấy căn nhà này, tuy biết nhưng vẫn hỏi các Tỳ-kheo là nhà của ai để nhân việc này chế giới. Sau khi nghe biết căn nhà này là do con của người thợ gốm tên Đàn ni ca làm, Phật liền dùng đủ phương tiện quở trách rằng: "tại sao kẻ ngu si này lại không có tâm từ bi tàn hại chúng sanh như thế, chúng sanh đời vị lai sẽ nói hồi Phật còn tại thế, Tỳ-kheo tàn hại chúng sanh mà vẫn không kết tội, vì thế chớ khiến chúng sanh khởi tâm như thế", nói rồi liền bảo các Tỳ-kheo dỡ phá căn nhà đó.
Luận về tâm từ là hộ trước, tâm bi do thấy chúng sanh khổ nên xúc động sau; nói tàn hại chúng sanh là đào đất trộn bùn kế dùng lửa nung căn nhà sẽ làm chết nhiều chúng sanh. Do việc này Phật chế Tỳ-kheo nào trộn bùn làm hồ xây nhà thì phạm Đột kiết la, nếu trộn bùn với cỏ tranh thì không phạm. Lúc đó Đàn ni ca nhập định bên cạnh nhà, nghe tiếng đập phá liền xuất định hỏi vì sao, các Tỳ-kheo đáp là Phật bảo đập, Đàn ni ca nghe rồi đáp: "nếu Phật bảo đập phá thì được". Đàn ni ca tuy dùng vật liệu của chính mình để xây cất nhà này, sở dĩ Phật bảo đập phá vì cách làm nhà phi pháp bất tịnh, nói phi pháp là cách làm nhà theo ngoại đạo, nói bất tịnh là tàn hại chúng sanh, Tỳ-kheo chủ nhà thấy nhà bị đập phá cũng không được đòi bồi thường. Như trong luật nói pháp làm dù lọng không được dùng ngũ sắc hoặc kết dây tua sặc sỡ, cán dù cũng không được chạm khắc hay vẽ hình cầm thú như người thế gian thường làm. Pháp may ca sa phải cắt rọc, nên may đường may lùi và không được thêu hoa văn, làm dây khuy và nút không được làm hình cái chùy hay hình voi...; khi nhuộm y không được dùng nước thơm, nhuộm xong không được dùng nước hồ để hồ ca sa cho láng bóng; khi nhuộm giặt đập không được dùng chân đạp, nên dùng tay vò nhẹ... Pháp làm bát cũng không được chạm khắc trong ngoài, nung bát không được có màu ma ni, nắp bát và bên hông bát cũng không được chạm khắc hình kỳ lạ. Pháp làm dây đai lưng cũng không được dệt có hình hoa văn và kết tua ngũ sắc...; pháp làm ống đựng thuốc cũng không được chạm khắc hình nam nữ hay chúng sanh, chày giã thuốc cũng vậy; đãy đựng cũng không được dùng nhiều màu; ống khóa cho đến dao cạo tóc, dao cắt móng tay, vật lấy lửa, dao chẻ cây xỉa răng... và đãy đựng cũng vậy, đều không được chạm khắc hình nam nữ, cầm thú và hoa văn sặc sỡ.
Nói làm phòng chỗ có nạn là làm ở chỗ vua có thế lực hoặc trong giới tràng của người khác, các Tỳ-kheo thấy làm nên ngăn lại nói rằng: "không nên làm phòng ở đây, sẽ trở ngại chúng tôi bố tát, tự tứ", nếu ngăn ba lần mà vẫn cố làm thì các Tỳ-kheo nên phá dỡ, phá dỡ rồi nên đưa lại vật liệu như cây gỗ và cỏ tranh cho người chủ phòng, chủ phòng không được đòi bồi thường. Sau khi căn nhà đất nung đỏ bị phá dỡ, Đàn ni ca muốn làm lại căn nhà khác nên tìm đến người giữ cây gỗ trong thành là Bà la môn Bà sa ca la, người giữ cây gỗ này nói: ' đây là vật của vua, cất dự phòng khi trong thành có nạn gấp như hỏa hoạn... làm hư hoại, không thể đưa cho được", Đàn ni ca tuy nghe Bà la môn này nói như vậy, vẫn tự ý lấy cây gỗ cưa ra từng khúc mang đi. Lúc đó vị đại thần nước Ma kiệt đà là Bà na đi tuần tra trong thành nhìn thấy Đàn ni ca mang gỗ đã cưa ra từng khúc ra khỏi thành, liền cho người bắt trói người giữ cây gỗ rồi đến hỏi vua có hạ lịnh đưa gỗ cho Tỳ-kheo Đàn ni ca không, vua đáp là không, vị đại thần này liền đưa người giữ cây gỗ đến chỗ vua xử tội. Người giữ cây gỗ này đưa tin đến Đàn ni ca: "khi tôi chưa bị xử tử, xin đại đức hãy đến cứu tôi, nếu đợi tôi bị giết rồi mới đến thì muốn cứu cũng vô ích", Đàn ni ca đến chỗ vua tâu rằng: "khi vua mới lên ngôi có nói Sa môn, Bà la môn nào cần cỏ cây và nước thì cứ tùy ý lấy dùng, vì thế nên tôi mới đến lấy cây gỗ của vua", vua nói: "trước đây ta có nói lời này là vì các Sa môn, Bà la môn có tàm quý mà nói, không phải vì người không có tàm quý như thầy. Vả lại ta nói được tùy ý lấy là lấy vật vô chủ nơi A lan nhã, không phải là vật có chủ và có người coi giữ".
Nói nhờ ca sa nên thoát chết là người xuất gia mặc ca sa, như có người muốn ăn thịt cừu nhưng không muốn giết cừu nên chọn lấy nhưng con cừu có bộ lông đẹp rồi ghi dấu trên đầu chúng là sẽ đem giết. Mọi người thấy dấu ghi này, vì tham tiếc bộ lông cừu đẹp nên đem thịt đến đổi, nhờ vậy mà cừu được thoát chết, Tỳ-kheo Đàn ni ca cũng vậy, nhờ ca sa nên thoát chết. Mọi người nghe biết việc này rồi liền chê trách Tỳ-kheo Đàn ni ca: "thầy không phải là Sa môn, không phải là Thích tử". Lúc đó Phật hỏi một Tỳ-kheo vốn là cựu thần hiểu rành luật pháp của vua: "theo luật pháp của vua Bình sa, trộm cắp đến bao nhiêu mới bị bắt trói, đuổi ra khỏi nước hoặc giết chết?"
Hỏi: Phật là bậc Nhất thiết trí đã biết rõ tội tướng nặng nhẹ mà chư Phật quá khứ đã kết, vì sao còn phải hỏi cựu thần của vua?-sở dĩ Phật hỏi là vì nếu không hỏi mà liền kết tội Ba la di thì người đời sẽ chê trách là công đức trì giới của Tỳ-kheo là vô lượng cũng như hư không, như mặt đất không thể tính lường, vì sao vừa phạm liền kết tội trọng. Phật dùng trí huệ quán muốn cho giới được trụ lâu và muốn mọi người đều công nhận nên hỏi cựu thần trước rồi mới dựa theo pháp thế gian mà kết giới.
Nói năm Ma bà ca là tại thành Vương xá, hai mươi Ma bà ca là một phần Ca lợi sa bàn, một phần tư Ca lợi sa bàn là năm Ma bà ca. Chư Phật quá khứ cũng lấy một phần này để kết tội Ba la di, chư Phật vị lai cũng vậy, tất cả chư Phật đều kết giới Ba la di có bốn pháp không khác nhau. Sau khi quở trách Đàn ni ca xong, Phật kết giới Ba la di thứ hai không cho mà lấy, sau đó do Lục quần Tỳ-kheo kết thêm thì gọi là tùy kết. Lúc đó tại chỗ giặt y, những người thợ giặt giặt và phơi khô xong, thu gom lại rồi cột thành bó để trở về trong thành; khi vào thành do vội vàng và đông người nên bị Lục quần Tỳ-kheo lấy trộm một bó vải.
Nói tụ lạc là thành ấp hay thôn xóm có nhiều nhà hoặc nơi có một hay hai ba nhà, cho đến chỗ dừng ở tạm của các thương nhân cũng gọi là tụ lạc, đều có hai cửa cổng: cửa cổng trước nhà và cửa cổng của thôn, ấp hay thành; bên trong hai cổng này là giới của tụ lạc, bên ngoài cổng thứ hai trở đi là giới của A lan nhã. Nói giới nhà là từ hàng rào nhà, người bình thường không mạnh quá hay yếu quá cầm đá quăng đến được tới đâu thì trong phạm vi đó là giới của nhà; nếu không có hàng rào thì đứng ngay nơi chỗ nước từ trên mái nhà rơi xuống, cầm đá quăng được tới đâu thì trong phạm vi đó là giới nhà; hoặc đứng ngay nơi cửa nhà quăng rác hay cái chày giã đến được tới đâu thì đó là giới của nhà. Giới A lan nhã tính từ cổng làng trở ra, trong phạm vi năm trăm cung là giới nhỏ nhất. Trong phạm vi của các giới này, nếu là vật có chủ mà có tâm trộm cắp lấy năm Ma bà ca thì phạm Ba la di; nói không cho mà lấy là vật của người khác như y thực..., nếu họ không dùng thân hay ngữ để cho mà khởi tâm trộm cắp lấy; nói không xả là tâm của người chủ không xả vật. Nói trộm cắp bao gồm năm trường hợp: chiếm đoạt, mang đi, đem cất, bước chân đi, lấy rời khỏi chỗ cũ và cùng giao hẹn. Nói chiếm đoạt là như Tỳ-kheo chiếm đoạt vườn rừng của người, khi đang tranh chấp thì Tỳ-kheo phạm Đột kiết la, khi người chủ vườn kia hồ nghi thì Tỳ-kheo phạm Thâu lan giá, khi người chủ vườn kia khởi tâm xả tức là quyết định mất vườn thì Tỳ-kheo phạm Ba la di. Nói mang đi là như Tỳ-kheo mang vật của người khác đi, khi khởi tâm trộm sờ chạm vật thì phạm Đột kiết la, khi dùng tay động chuyển vật thì phạm Thâu lan giá, khi mang vật đi thì phạm Ba la di. Nói đem cất là như Tỳ-kheo nhận vật của người khác gởi rồi đem cất, sau đó khi người chủ đến lấy lại vật thì Tỳ-kheo nói là không có nhận vật gởi; khi nói xong câu này liền phạm Đột kiết la, khi người chủ hồ nghi thì Tỳ-kheo phạm Thâu lan giá, khi người chủ khởi tâm xả vật thì Tỳ-kheo phạm Ba la di. Nói bước chân đi là nếu Tỳ-kheo trộm vật tự mang đi, bước chân đi thứ nhất phạm Thâu lan giá, bước chân thứ hai liền phạm Ba la di. Nói lấy rời khỏi chỗ cũ là khi Tỳ-kheo khởi tâm muốn trộm lấy vật thì phạm Đột kiết la, tay động chuyển vật thì phạm Thâu lan giá, lấy rời khỏi chỗ cũ liền phạm Ba la di. Nói cùng giao hẹn là như Tỳ-kheo nói tôi sẽ đến chỗ lấy vật mang về đây, khi Tỳ-kheo đến đó lấy được vật mang đi, một chân bước ra ngoài giới, một chân còn ở trong giới thì phạm Thâu lan giá, cả hai chân đều bước ra ngoài giới liền phạm Ba la di. Nói qua chỗ thu thuế là nếu Tỳ-kheo mang vật qua chỗ thu thuế mà không nộp thuế, một chân bước ra ngoài, một chân còn ở bên trong chỗ thu thuế thì phạm Thâu lan giá, hai chân đều bước ra khỏi chỗ thu thuế thì phạm Ba la di. Sáu trường hợp kể trên nếu phân biệt thì có đến hai mươi lăm câu như sau: như trường hợp một là lấy đủ loại vật có năm câu hoặc năm duyên như trong luật đã nói, trường hợp hai là lấy một loại vật cũng có năm, trường hợp ba là tự tay lấy cũng có năm, trường hợp bốn là phương tiện đầu tiên cũng có năm, trường hợp năm là trộm lấy cũng có năm. Hai trường hợp đầu có năm câu như đã nói ở trên, trong trường hợp ba là tự tay lấy cũng có năm câu: một là tự tay lấy, hai là bảo người khác lấy, ba là ném, bốn là lấy được, năm là chủ vật có tâm xả vật.
Nói tự tay lấy là tự tay đoạt lấy vật từ người khác, sai bảo lấy là như bảo người khác rằng hãy đoạt lấy vật ấy cho ta; ném là như ở trong chỗ thu thuế lén ném vật trốn thuế ra ngoài, nếu vật này là vật quý trọng thì phạm Ba la di; nói lấy được là như bảo người rằng: đối với vật ấy nếu có thể lấy được thì cứ lấy, nếu không thể lấy được thì thôi, người được sai vâng lời đi lấy, nếu trộm lấy được vật ấy thì người sai phạm Ba la di, người được sai tùy lúc lấy được liền phạm; nói chủ có tâm xả vật là đối với vật bị mất khởi tâm xả.
Trong trường hợp bốn phương tiện ban đầu cũng có năm câu: một là phương tiện ban đầu, hai là tùy phương tiện, ba là kết phương tiện, bốn là hẹn làm, năm là ghi nhớ biết, như trong luật đã nói rõ.
Trong trường hợp năm trộm lấy cũng có năm câu: một là trộm lấy, hai là cướp lấy, ba là đòi lấy, bốn là giấu để lấy, năm là đổi thẻ lấy. Nói đổi thẻ lấy là như có một Tỳ-kheo chi y cho Tăng, có tâm trộm nên đổi thẻ để lấy y tốt của người khác về cho mình. Như vậy năm trường hợp trên đều có năm câu, tổng cộng thành hai mươi lăm câu, luật sư có trí huệ khi xử đoán việc tranh cãi, phải quán xem năm trường hợp trước rồi mới xử đoán, như kệ nói:
"Nếu nói việc đã qua,
Đúng thời dùng năm pháp,
Quán xem năm chỗ rồi,
Bậc trí biết xử đoán".
Nói dùng năm pháp quán: một là quán xứ như Tỳ-kheo lấy trộm vật rồi phạm tội, luật sư nên xét xem vật này là có chủ hay không có chủ, nếu có chủ thì chủ vật có tâm xả hay không có tâm xả vật; nếu chủ vật chưa có tâm xả thì nên định tội người lấy trộm như trong luật đã nói; nếu chủ vật đã khởi tâm xả thì người lấy trộm đủ số như trong luật chế thì kết phạm Ba la di và trả vật lại cho chủ. Thuở xưa có vua Bà đế da cúng dường đại tháp, có một Tỳ-kheo từ phương nam đến trong chùa làm lễ, trên vai có đặt chiếc y vàng bảy khuỷu tay. Lúc đó vua và đại chúng vào chùa nên xua mọi người ra ngoài, mọi người bị dồn qua một bên nên chen lấn nhau, trong lúc chen lấn, chiếc y trên vai của Tỳ-kheo rơi mất. Khi ra bên ngoài, Tỳ-kheo cho là không thể tìm lại được y nên khởi tâm xả rồi bỏ đi. Sau đó có một Tỳ-kheo khác đến chùa thấy chiếc y này trên đất, khởi tâm trộm lấy, lấy rồi nghi hối nên tìm đến một luật sư tên Châu la Tu Ma Na là vị thông suốt luật tướng trong các luật sư để quyết nghi. Luật sư nghe biết sự việc rồi liền nói: "thầy có thể đưa chủ y đến đây không?", đáp là không biết, luật sư bảo đi tìm; vị này đến trong năm chùa lớn hỏi thăm, vẫn không tìm ra được chủ chiếc y nên trở lại chỗ luật sư. Luật sư hỏi: "có nhiều Tỳ-kheo từ phương nào đến đây?", đáp là từ phương nam, luật sư nói: "thầy nên cầm y đã lấy mang đến từng chùa hỏi ai là chủ của y", Tỳ-kheo vâng lời cầm y đến trong từng chùa hỏi và tìm được chủ y đứa đến gặp luật sư, luật sư hỏi Tỳ-kheo chủ y: "đây là y của thầy phải không?", đáp là phải, lại hỏi mất tại đâu, liền kể lại việc trên, luật sư hỏi: "thầy đã khởi tâm xả y chưa?", đáp là đã xả, luật sư lại hỏi Tỳ-kheo lấy y đã lấy y ở đâu, liền kể lại việc trên, luật sư nói: "nếu khi thầy lượm lấy y này với tâm không trộm cắp thì không có tội, nếu lượm lấy với tâm trộm thì phạm Đột kiết la, nên đối sám mới trừ được tội", lại bảo Tỳ-kheo chủ y: "thầy với tâm đã xả y nên đem y này cho Tỳ-kheo này", Tỳ-kheo lấy y sau khi được quyết nghi, thân tâm vui mừng như được vị cam lồ. Đây gọi là quán xứ.
Nói quán thời là xét lúc lấy được y mà định tội theo thời giá là mắc hay rẽ. Như có một Tỳ-kheo ở giữa biển vớt được một trái dừa liền gọt cắt thành cái gáo rất xinh khiến ai cũng thích và dùng gáo này để uống nước. Sau đó để cái gáo này lại trong chùa ở trên đảo rồi đi đến núi Chi đế da, có một Tỳ-kheo khác đến trong chùa này thấy cái gáo xinh nên trộm lấy và mang theo đi đến núi Chi đế da. Tỳ-kheo chủ cái gáo thấy Tỳ-kheo này dùng cái gáo để ăn cháo liền nhận ra là cái gáo của mình nên đến hỏi: "thầy được cái gáo này từ đâu?", đáp là ở trong chùa trên đảo, Tỳ-kheo kia nói: "cái gáo này là của tôi, thầy đã lấy trộm nó", nói rồi liền dẫn đến trong Tăng xin phân xử nhưng không ai giải quyết được, liền dẫn đến chỗ luật sư tên Cù đàn đa, luật sư hỏi Tỳ-kheo lấy gáo: "thầy lấy cái gáo này ở đâu?", đáp là ở trên đảo, lại hỏi: "vật này ở trên đảo trị giá bao nhiêu?", đáp: "ở nơi ấy sau khi uống nước dừa và ăn dừa xong liền vất bỏ hoặc phơi khô làm củi đốt, không đáng giá gì", luật sư lại hỏi Tỳ-kheo chủ cái gáo: "thầy làm thành cái gáo trị giá bao nhiêu?", đáp: "trị giá chừng một Ma sa ca", luật sư nói: "chưa đủ năm Ma sa ca thì không phạm trọng", đại chúng nghe luật sư xử đoán như vậy rồi đều khen lành thay. Lúc đó vua Bà đế da đến trong chùa lễ bái nghe biết việc này cũng khen lành thay và ra lịnh đánh trống thông báo khắp nơi: "từ nay về sau, tất cả những người xuất gia nếu có nghi việc gì hãy đến chỗ luật sư Cù đàn đa để quyết nghi, vì luật sư này xử đoán như luật pháp". Đó gọi là xét theo thời giá mà định tội, cũng nên xét vật mới hay cũ để định giá, như cái bát mới nguyên không bị lủng thì giá cao, cũ và bị lủng thì không đáng giá. Nói mới cũ là như vật chưa dùng qua thì gọi là mới, đã dùng qua rồi thì gọi là cũ; như cái rìu đã dùng chẻ củi qua rồi liền thành vật cũ hoặc vải đã mặc qua một lần, giặt một lần liền gọi là cũ... Do đó khi xử đoán nên hỏi rõ để kết tội nặng hay nhẹ. Hết phẩm đoạt lấy.
Nói qua chỗ ước hẹn là dựa theo câu văn trong giới, tùy tướng trạng của nó mà thứ lớp phân biệt; nói tùy sắc gọi là sắc tức là tùy nơi chốn mà gọi, hoặc gọi là một phần hoặc trị giá một phần hay hơn một phần. Vì sao, vì một Ca lợi sa bàn có bốn phần, một phần là năm Ma sa ca, nếu lấy trộm một phần thì phạm Ba la di; nói trị giá một phần hay hơn một phần là dù vật là tịnh hay bất tịnh trị giá bằng một phần hay hơn một phần, lấy trộm đều kết phạm Ba la di. Nói chủ đất là như Chuyển luân thánh vương là vua cả bốn thiên hạ, vua của một thiên hạ như vua A Dục, vua một xứ như vua Bình sa, cho đến vua nơi biên địa hoặc chủ một hay hai thôn đều gọi là chủ đất. Nói điển pháp là y theo quốc pháp mà trị tội nặng nhẹ như cắt tai, xẻo mũi, chặt tay chặt chân hoặc giết; đại thần hay thái tử và vua nơi biên địa đều có quyền xử những tội này. Nói giết là giết chết hay đánh cho chết, nói đuổi là đuổi ra khỏi nước, nói giặc là kẻ trộm vật của người dù nhiều hay ít.
Nói lấy vật ở trong đất và trên đất là như phục tàng hay vật báu của người được chốn giấu trong đất. Nếu Tỳ-kheo dùng phương tiện muốn lấy trộm vật báu được chốn giấu này thì phạm Đột kiết la. Nói phương tiện là như Tỳ-kheo muốn lấy trộm vật báu, khi sắp đi lấy liền suy nghĩ: "một mình ta không thể lấy trộm được vật báu chôn giấu này, ta nên tìm thêm đồng bạn", khi nghĩ như vậy liền phạm Đột kiết la, nghĩ rồi liền đến chỗ Tỳ-kheo bạn nói rằng: "ở chỗ __________ có chôn giấu vật báu, thầy hãy cùng tôi đến đó lấy, nếu lấy được chúng ta cùng chia, thọ dụng sẽ không thiếu thốn nữa", khi vị này chấp thuận cùng đi thì Tỳ-kheo kia phạm thêm một Đột kiết la; tìm được đồng bạn rồi tìm cuốc xẻng, nếu tự có thì lấy dùng, nếu không có thì đi hỏi mượn. Nếu chủ cây cuốc hỏi mượn để làm gì, đáp là làm việc thì phạm Đột kiết la, nếu dối nói là làm việc gì đó thì phạm Ba dật đề; có thuyết cho là cũng phạm Đột kiết la vì là phương tiện của tội trộm. Nếu cuốc không cán nên chặt cây để làm cán liền phạm thêm tội Đột kiết la, vì đây cũng là phương tiện của tội trộm... như thế có đến tám tội phương tiện Đột kiết la; đó là phương tiện Đột kiết la, cộng tướng Đột kiết la, cầm vật quý trọng Đột kiết la, phi tiền Đột kiết la, tỳ ni Đột kiết la, tri Đột kiết la, bạch Đột kiết la và văn Đột kiết la. Nói phương tiện Đột kiết la là tội thuộc phương tiện như tìm đồng bọn, tìm cuốc xẻng để trộm lấy phục tàng. Nói cộng tướng Đột kiết la là như đào đất, chặt phá cây cỏ để tìm phục tàng, tuy tội thuộc Ba dật đề nhưng là phương tiện của tội trộm nên gọi là cộng tướng Đột kiết la. Nói cầm vật quý trong Đột kiết la là như đào thấy phục tàng, đưa tay sờ chạm các vật báu như vàng bạc...; nói phi tiền Đột kiết la là sờ chạm cầm vật không phải quý trọng hay tiền bạc. Nói tỳ ni Đột kiết la là như Tỳ-kheo vào thôn khất thực, bụi hay vật khác rơi vào bát, không thọ lại mà ăn thì phạm tội này; nói tri Đột kiết la là biết mình có tội mà che giấu, không nói ra hoặc việc trước làm chưa thành, giữa chừng sanh hối nên dừng lại thì gọi là tri Đột kiết la; nói bạch Đột kiết la là khi tác pháp yết ma, nghe tác bạch xong mà không bỏ thì phạm tội này; nói văn Đột kiết la là khi thuyết giới nghe hỏi ba lần, biết mình có tội hay nghi mà im lặng không nói ra.
Hỏi: tội Đột kiết la và Thâu lan giá trong đây sai khác như thế nào?-Đột kiết la nghĩa là ác tác, tức là không làm theo lời Phật dạy, như kệ nói:
"Thầy hãy lắng nghe nghĩa, Của tội Đột kiết la, Ác tác hay lầm lỗi, Như người đời làm ác, Tội dù ẩn hay hiện, Đều gọi Đột kiết la, Các thầy nên tự biết".
Thâu lan giá nghĩa là chướng ngăn đường thiện, phải đọa trong ba đường ác; trong các tội đối trước một người sám thì tội này là lớn nhất, như kệ nói:
"Thầy hãy lắng nghe nghĩa,
Của tội Thâu lan giá,
Là chướng ngăn đường thiện,
Sám hối trước một người,
Người thọ sám cũng một,
Thì tội này lớn nhất".
Như đào lấy trộm phục tàng, khi tay sờ chạm vật báu thì phạm Đột kiết la, động chuyển vật báu nhưng chưa nhấc lên thì phạm Thâu lan giá, nhấc lên khỏi chỗ cũ lấy mang đi thì phạm Ba la di; hoặc như khi tác pháp yết ma, đơn bạch xong không bỏ thì phạm Đột kiết la; yết ma lần thứ nhất xong cho đến lần thứ ba chưa xong thì phạm ba tội Thâu lan giá. Nói lấy vật rời khỏi chỗ cũ là như đào lấy hủ vàng chôn dưới đất, đang nhích qua nhích lại để nhấc lên thì phạm Thâu lan giá, nhấc lên được rời khỏi chỗ cũ thì phạm Ba la di. Nói nội khí (bên trong khí vật)là như hủ vàng chôn dưới đất quá nặng không thể nhấc lên nổi, mở nắp để lấy vật báu trong hủ ra khỏi miệng hủ, nếu tính giá đủ một phần (năm Ma bà sa) thì phạm Ba la di; nếu lấy không ra được khỏi miệng hủ, còn dính nửa trong nửa ngoài thì phạm Thâu lan giá; hoặc lấy chưa ra khỏi miệng hủ liền rớt trở lại trong hủ cũng phạm Thâu lan giá. Trường hợp lấy trộm dầu, bơ... trong bình cũng kết phạm giống như trên, chỉ khác là nếu chủ biết được đòi đền lại tiền thì Tỳ-kheo nên đền lại tiền; trường hợp lấy trộm vật trên đất cũng như trên có thể suy ra biết.
Nói trộm lấy vật trên không trung là như bắt trộm chim công trên không trung, tay chạm thân chim thì phạm Đột kiết la, bắt được chim mang đi, bước chân thứ nhất phạm Thâu lan giá, bước chân thứ hai liền phạm Ba la di; nếu chim đậu trên mặt đất, bắt được chưa nhấc lên khỏi đất thì phạm Thâu lan giá, nhấc chim lên khỏi đất mang đi thì phạm Ba la di. Nếu chim công bị nhốt trong lồng, Tỳ-kheo có tâm trộm mang cả lồng chim đi thì cũng tùy theo đó kết tội như trên; nếu chim ở trong vườn, phương tiện xua chim ra ngoài để bắt trộm, tùy kết phạm cũng như trên. Nếu y của người khác thổi bay trong không trung, Tỳ-kheo có tâm trộm đưa tay nắm lấy, tùy kết tội cũng như trên.
Nói trộm lấy vật rơi là người khác dùng vật báu trang sức, đánh rơi mà không hay biết; nếu Tỳ-kheo từ xa nhìn thấy khởi tâm trộm đến lượm lấy, cầm lên khỏi đất liền phạm Ba la di. Nói lấy trộm vật trên giường, trên giá, trên cọc... như có tâm trộm lấy y treo trên giá hoặc mang cả giá y, rời khỏi chỗ cũ liền phạm Ba la di; nếu lấy rồi hối hận để trở lại thì phạm Thâu lan giá hoặc lấy y rời khỏi giá lại bị rơi xuống đất cũng phạm Thâu lan giá, nếu nhặt lên lại và mang đi thì phạm Ba la di. Cho đến lấy trộm vật treo trên cây cũng vậy, tính giá đủ năm Ma bà ca liền kết phạm Ba la di, không đủ thì phạm Thâu lan giá.
Nói lấy trộm vật trong nước như ao hồ... là khi vào nước mò tìm thì phạm Đột kiết la, tay chạm vào vật… đều kết phạm như trên đã nói. Nói vật ở trong ao như sen, củ sen...Tỳ-kheo hái trộm sen hay đào lấy củ sen, mang lên khỏi mặt nước, tính giá đủ năm Ma bà ca thì phạm Ba la di, không đủ hoặc chưa lên khỏi nước thì phạm Thâu lan giá. Như cá trong ao có chủ, Tỳ-kheo có tâm trộm câu hay đặt lờ, cá chưa mắc câu thì phạm Đột kiết la, cá đã mắc câu nhưng chưa nhấc lên khỏi mặt nước thì phạm Thâu lan giá, nhấc lên khỏi mặt nước tính giá đủ số thì phạm Ba la di; nếu chủ đòi đền tiền, Tỳ-kheo nên trả.
Nói lấy trộm thuyền là khi mở dây cột thuyền thì phạm Đột kiết la, dây rời thuyền thì phạm Thâu lan giá, thuyền rời khỏi chỗ cũ pha-m Ba la di... cho đến chủ thuyền đòi đền, Tỳ-kheo nên trả như trên. Trường hợp lấy trộm xe và vật dụng trên xe, tùy phạm nặng nhẹ đều giống như trên; trường hợp lấy trộm vật trong vườn như hoa trái cũng tùy phạm nặng nhẹ như trên. Nói tranh đoạt vườn cây là như Tỳ-kheo có tâm muốn đoạt vườn cây của người thì phạm Đột kiết la, phương tiện làm cho kia hồ nghi thì phạm Thâu lan giá, khi chủ vườn kia khởi tâm xả thì Tỳ-kheo phạm Ba la di; nếu chủ vườn chưa khởi tâm xả kiện lên quan, Tỳ-kheo khởi tưởng quyết định đoạt cũng phạm Ba la di, quan xử Tỳ-kheo thắng kiện, Tỳ-kheo cũng phạm Ba la di; nếu chủ vườn kia vào trong Tăng yêu cầu phân xử, Tăng cố ý xử trái lý thì người phán quyết phạm Ba la di; nếu tăng xử đúng lý thì Tỳ-kheo tranh đoạt phạm Thâu lan giá.
Nói lấy trộm vật trong chùa là như phòng xá lớn nhỏ đã cúng cho Tăng bốn phương, Tỳ-kheo tuy có ý tranh đoạt về cho mình nhưng không thành tội trọng vì vật không có chủ cụ thể; nếu thí chủ cúng cho một người hay một chúng mà khởi tâm tranh đoạt, khởi tưởng quyết định đoạt, người kia khởi tâm xả thì kết phạm giống như trên.
Nói lấy vật trong ruộng là gồm cả trong hai loại ruộng: một là loại ruộng Phú bàn na trồng lúa, hai là loại ruộng A ba lan nhã trồng đậu mía; nếu Tỳ-kheo lấy trộm lúa, đậu...mang đi, tính giá đủ năm Ma bà sa thì phạm trọng...; cho đến tranh đoạt, lấn chiếm ruộng của người khác cũng kết phạm giống như trên. Nếu ruộng của người đã đóng hai cọc làm ranh giới, Tỳ-kheo nhổ một cọc phạm Thâu lan giá, nhổ cọc thứ hai phạm Ba la di; nếu nhiều cọc thì nhổ cọc thứ nhất phạm Đột kiết la, nhổ cọc thứ hai, thứ ba phạm Thâu lan giá, nhổ cọc cuối cùng phạm Ba la di. Nếu Tỳ-kheo dùng dây đo đất lấn qua đất của người, vừa đặt đầu dây xuống thì phạm Thâu lan giá, đo xong liền phạm Ba la di; cho đến chủ đất khởi tâm xả, Tỳ-kheo phạm Ba la di.
Hỏi: sao gọi là đất A lan nhã có chủ và không chủ?-như cây cối trong rừng dù là không đáng giá cũng không được lấy là có chủ, nếu được chặt lấy tùy ý mà không có ai cấm đoán thì gọi là vô chủ. Tỳ-kheo trộm lấy vật trên đất A lan nhã có chủ thì tùy theo thời giá mà định tội, nếu lượm lấy vật đã vất bỏ thì không phạm. Nếu đất A lan nhã tuy có chủ nhưng đã lâu không có ai coi giữ, Tỳ-kheo lấy cây gỗ hay tạp vật dùng, sau đó chủ biết đến đòi thì Tỳ-kheo nên trả lại hoặc trả theo thời giá. Nếu Tỳ-kheo nói với người coi giữ: "hãy đưa cho tôi cây gỗ đó, tôi sẽ theo thời giá đưa lại tiền", nếu người coi giữ đồng ý thì Tỳ-kheo lấy không phạm; nếu chủ rừng bảo người coi giữ đừng lấy tiền của Tỳ-kheo mà người coi giữ vẫn đòi thì Tỳ-kheo nên đưa; nếu người coi giữ rừng không đồng ý cho lấy mà Tỳ-kheo trộm lấy, khi mang ra khỏi rừng, tính theo thời giá mà định tội.
Trường hợp trộm lấy nước trong lu hoặc tô dầu trong bình, tùy lấy nhiều ít tính giá mà kết tội như trên; nếu đào mương dẫn nước của người vào trong ruộng của mình hoặc ngăn lấp ngòi rãnh để nước chảy vào ruộng mình, không chảy vào ruộng của người thì tùy tổn thất, tính giá mà kết tội. Nói chặt lấy trộm cây là như Tỳ-kheo có tâm trộm dùng búa cưa để chặt hay cưa trộm cây, chưa đứt rời ra thì phạm Thâu lan giá, đứt rời thì phạm Ba la di... cho đến đòi đền tiền, Tỳ-kheo nên đền tiền lại theo thời giá.
Nói triển chuyển trộm đoạt lại là kẻ trộm đã trộm lấy vật đi, Tỳ-kheo đoạt lấy lại, vật đã rời khỏi thân kẻ trộm, kẻ trộm dùng sức mạnh đoạt lấy lại và bỏ chạy, do nơi tâm quyết định đoạt lại và đã lấy vật rời khỏi chỗ cũ nên tuy không đoạt lại được vật, Tỳ-kheo vẫn phạm trọng. Nếu khi đoạt lấy lại làm y vật bị hư rách thì tính theo giá mà kết phạm, nếu đoạt lại được và mang đi thì bước thứ nhất phạm Thâu lan giá, bước thứ hai phạm trọng; nếu khi rượt theo đoạt lấy lại, kẻ kia vất y vật lại, Tỳ-kheo khởi nghĩ: kia đã vất bỏ lại, ta nên lượm lấy, thì không phạm trọng, chỉ phạm Đột kiết la.
Nói lấy vật của người gởi là người gởi vật cho Tỳ-kheo khi đến lấy lại, Tỳ-kheo nói: "tôi không có nhận vật của ông gởi", thì phạm Ba dật đề cố vọng ngữ, nhưng thuộc phương tiện của tội trộm nên kết phạm Đột kiết la; nếu Tỳ-kheo suy nghĩ: "người này gởi vật cho ta không có ai biết, ta nên đưa lại hay không", thì phạm Thâu lan giá, khi khởi tâm quyết định lấy, chủ vật khởi tâm xả thì Tỳ-kheo phạm Ba la di. Nếu sau khi nhận vật của người gởi, Tỳ-kheo có tâm trộm dời chuyển đến cất nơi khác thì phạm Đột kiết la, sau đó đem đổi hay bán và tiêu xài hết, khi chủ đến đòi thì Tỳ-kheo phạm Đột kiết la, không đưa lại cũng không đền tiền thì phạm trọng. Nếu bát của Tăng gởi cất ở chỗ Thượng tòa, Tỳ-kheo thấy bát của người khác tốt đẹp hơn nên khi đến lấy bát, chỉ bát tốt đẹp nói là của mình, Thượng tòa đưa, Tỳ-kheo cầm vào tay thì phạm trọng; nếu Thượng tòa lấy lộn bát của mình đưa thì Tỳ-kheo này chỉ phạm Đột kiết la, hoặc lấy chính cái bát của Tỳ-kheo này đưa thì Tỳ-kheo này cũng phạm Đột kiết la. Nếu Thượng tòa đưa y vật cho Tỳ-kheo trẻ cầm để cùng đi đến chỗ kia, Tỳ-kheo trẻ này khởi tâm trộm nên mang y vật này lén bỏ đi, bước chân thứ nhất phạm Thâu lan giá, bước thứ hai phạm trọng. Nếu Thượng tòa đưa y cho Tỳ-kheo trẻ đem giặt nhuộm, Tỳ-kheo này khởi tâm trộm cắp lấy mang đi... cho đến đem y bán đổi lấy thức ăn hay tiêu xài hết đều kết phạm giống như trên. Nếu Thượng tòa gởi y vật ở nhà thí chủ, Tỳ-kheo trẻ khởi tâm trộm đến nhà họ dối nói là Thượng tòa sai đến lấy, chồng hay vợ lấy đưa, Tỳ-kheo cầm vào tay liền phạm Ba la di. Nếu thí chủ thỉnh hai Tỳ-kheo an cư, mãn hạ hứa cúng mỗi người một xấp vải, Thượng tòa sai Tỳ-kheo trẻ đến lấy; khi đưa vải cho Tỳ-kheo, thí chủ nói: "xấp vải quý giá cúng cho Thượng tòa, xấp vải thường cúng cho thầy", Tỳ-kheo này mang về đưa xấp vải thường cho Thượng tòa, còn mình lấy xấp vải quý giá thì phạm Ba la di. Nếu Tỳ-kheo khách đến ở tạm trong chùa, khi đi nghĩ là cựu Tỳ-kheo sẽ coi giữ y bát nên không dặn gởi, y bát có mất thì Tỳ-kheo khách không được đòi đền vì không có nói gởi. Nếu có nói gởi mà cựu Tỳ-kheo không hiểu, Tỳ-kheo khách tưởng là hiểu nên bỏ đi, y bát có bị mất cũng không được đòi đền; nếu khi nói gởi mà cựu Tỳ-kheo hiểu và nói lành thay, y bát bị mất thì cựu Tỳ-kheo phải đền. Nếu Tỳ-kheo coi giữ kho chứa bát, khi xuất nhập bát của các Tỳ-kheo xong, quên đóng cửa kho khiến mất bát thì Tỳ-kheo này phải đền; nếu đã đóng cửa kho nhưng giặc khoét vách vào lấy trộm bát thì không phải đền; nếu giặc cướp đến bắt phải mở kho, nếu không mở sẽ giết, vì hộ thân mạng nên mở kho, giặc lấy hết bát mang đi thì Tỳ-kheo giữ kho cũng không phải đền. Nếu Tỳ-kheo coi giữ kho của Tăng, khi Tăng xuất nạp vật trong kho để làm đại hội, do mọi người không để ý nên bị mất vật thì Tỳ-kheo coi kho không phải đền. Nếu Tỳ-kheo hành đầu đà tuy ở trong chùa nhưng không ở phòng của tăng, cũng không ăn thức ăn của Tăng thì Tăng không được sai làm tri sự; nếu Tỳ-kheo nhờ đọc tụng thuyết pháp mà được lợi dưỡng cho mình và cho Tăng thì Tăng cũng không được sai làm tri sự, khi được lợi dưỡng nên chia vật tốt cho vị này trước. Nếu Tỳ-kheo ở phòng của Tăng, thọ dụng vật của Tăng mà làm hư hao hay mất thì phải bồi thường, nếu Tăng sai trông coi vật cúng dường mà làm mất cũng phải bồi thường.
Nói vật phải đóng thuế mà không đóng, lén đem qua chỗ thu thuế, tay chạm vật thì phạm Đột kiết la, lén giấu thì phạm Thâu lan giá, qua khỏi chỗ thu thuế thì phạm trọng. Nếu quăng vật ra ngoài chỗ thu thuế cũng Ba la di, vật rơi ở bên trong chỗ thu thuế thì phạm Thâu lan giá. Nếu ở chỗ thu thuế có cầu, đầu bên này nằm trong chỗ thu thuế, đầu bên kia nằm ngoài chỗ thu thuế, Tỳ-kheo có tâm trộm lén đưa vật qua cầu, khi chưa qua thì phạm Thâu lan giá, qua khỏi cầu thì Ba la di. Nếu Tỳ-kheo đến chỗ thu thuế, một người bảo nộp thuế, một người nói thôi, Tỳ-kheo không nộp thuế thì không phạm; hoặc người thu thuế nói khỏi phải nộp thuế, Tỳ-kheo mang vật qua thì không phạm; hoặc khi đến chỗ thu thuế, những người thu thuế đang chơi cờ bạc, gọi ba lần mà họ không trả lời, Tỳ-kheo mang vật qua thì không phạm; hoặc lúc đó có nạn như nước lửa khởi lên, họ bỏ chạy tứ tán, Tỳ-kheo mang vật qua không phạm.
Nói trộm người mà vô tội là như trẻ con lưu lạc hoặc bị cha mẹ bỏ hoặc mất cha mẹ, Tỳ-kheo dẫn đi không phạm. Nói người sanh trong nhà hoặc do cướp hay đánh phá mà được hoặc do mua được là như trẻ do nô tỳ trong nhà sanh hoặc do mua hay đem vật đổi lấy được..., Tỳ-kheo trộm dẫn đi thì phạm, bước thứ nhất phạm Thâu lan giá, bước thứ hai phạm Ba la di. Nếu Tỳ-kheo nói với nô tỳ của người rằng: "ngươi ở đây quá khổ, sao không bỏ đi nơi khác để được sung sướng hơn?", nô tỳ nghe rồi khởi tâm muốn bỏ đi thì Tỳ-kheo phạm Đột kiết la, bước ra khỏi nhà thì Tỳ-kheo phạm Ba la di; nếu Tỳ-kheo chỉ đường cho chạy trốn cũng phạm Ba la di; nô tỳ đi chậm, Tỳ-kheo nói: "đi chậm như vậy, chủ sẽ bắt lại được", nô tỳ nghe rồi liền chạy nhanh thì Tỳ-kheo cũng phạm trọng. Nếu Tỳ-kheo nói: "ở chỗ này khổ cực, ở chỗ kia sung sướng hơn", nô tỳ nghe rồi tự bỏ đi, do không xúi bảo nên Tỳ-kheo không phạm.
Nói trộm loại không chân như rắn là người nuôi rắn sai khiến rắn làm trò để kiếm tiền, Tỳ-kheo dụ hay nhử để bắt rắn mang đi thì tùy tính giá định tội. Cho đến trộm loại hai chân như chim, gà...; loài bốn chân như voi, ngựa...; loại nhiều chân như rít, trùng trăm chân cũng vậy, tùy tính giá kết tội. Nếu voi, ngựa... đang ở trong chuồng, Tỳ-kheo mở cửa hoặc mở dây xua ra ngoài, kết phạm cũng như trên, cho đến chủ đòi nên giao trả lại hoặc đền lại theo thời giá.
Nói bảo lấy là nếu Tỳ-kheo vì giặc đến nhà người xem xét nơi để vật rồi trở về báo cho giặc biết, giặc nghe rồi đến đó lấy được vật thì Tỳ-kheo phạm. Nếu nhiều Tỳ-kheo sai một Tỳ-kheo đi lấy trộm, một Tỳ-kheo khác nói để tôi đi, nếu lấy được vật thì Tỳ-kheo này phạm, người sai không phạm. Nếu nhiều Tỳ-kheo đi lấy trộm được vật và bảo một Tỳ-kheo coi giữ, Tỳ-kheo này khởi tâm trộm chọn lấy vật tốt trước thì tính theo giá mà định tội. Nếu cả nhóm quyết định cùng đi lấy trộm, chỉ cần một người lấy được vật rời khỏi chỗ cũ thì cả nhóm đều phạm; nếu có bốn Tỳ-kheo muốn lấy trộm sáu Ma bà ca, thầy nói: "các con mỗi người lấy một, ta lấy ba", thầy tự lấy ba tiền phạm Thâu lan giá, bảo đệ tử lấy ba tiền cũng phạm Thâu lan giá; nếu một đệ tử nói: "thầy lấy ba, con lấy một và bảo hai đệ cũng lấy một", thì đệ tử này phạm trọng vì bảo người khác lấy tính đủ năm tiền. Nói lấy một loại vật để một nơi là như một người cất năm tiền ở một nơi, nhiều Tỳ-kheo sai một người đến lấy trộm, lấy được thì cả chúng đều phạm trọng. Nói lấy một loại vật cất ở nhiều nơi là nếu người kia cất năm tiền ở năm nơi, mỗi nơi một tiền; nhiều Tỳ-kheo sai một người đến cả năm nơi lấy trộm, lấy đủ mới phạm trọng. Nói lấy nhiều loại vật cất ở một nơi là nhiều loại tính chung đủ năm tiền hay hơn năm tiền và trường hợp lấy nhiều loại vật cất ở nhiều nơi, sai đến lấy rời khỏi chỗ cũ, kết phạm cũng giống như trên.
Nói cùng hẹn là hẹn với nhau vào giờ đó, ngày đó hoặc sáng hoặc chiều..., nếu đúng hẹn cùng lấy trộm được, kết phạm cũng giống như trên. Nếu không đúng hẹn như hẹn đến buổi sáng mà đến lấy buổi chiều, hoặc hẹn đầu đêm mà đến lấy trộm vào giữa hay cuối đêm mà lấy được rời khỏi chỗ thì người hẹn phạm khinh, người sai hẹn lấy được vật phạm trọng.
Nói hiện tướng bảo lấy có năm là bằng mắt, bằng tay, bằng chân, lắc đầu và động thân, nếu lấy trộm được rời khỏi chỗ cũ kết phạm cũng giống như trên. Nếu bảo lấy trộm vật này mà lấy đúng thì cả hai đều phạm, nếu lấy trộm đúng vật mà được sai bảo thì người sai phạm khinh, người lấy phạm trọng. Nói chuyền sai bảo là như một thầy có ba đệ tử, một tên Phật đà lặc khí đa, hai tên Đàm ma lặc khí đa, ba tên Tăng già lặc khí đa; thầy bảo Phật đà lặc khí đa: "con đến bảo Đàm ma lặc khí đa và Tăng già lặc khí đa đi lấy trộm vật kia", thì thầy phạm Đột kiết la, hai đệ tử kia được sai vâng lời đi lấy trộm thì thầy phạm Thâu lan giá, đến lấy được vật rời khỏi chỗ cũ thì cả bốn thầy trò đều phạm trọng. Nếu Phật đà lặc khí đa được thầy sai tìm không gặp Đàm ma nên đến bảo Tăng già lặc khí đa đi lấy trộm; nếu lấy trộm được vật rời khỏi chỗ cũ thì thầy phạm Đột kiết la, hai người đệ tử này phạm trọng, Đàm ma không tội. Nếu Tăng già lặc khí đa đến lấy trộm nhưng lấy được vật vì có người coi giữ, trở về báo lại thầy, thầy bảo hãy tìm cách lấy thì thầy phạm Đột kiết la, khi lấy được vật thì cả hai thầy trò này đều phạm trọng; nếu thầy bảo hãy lấy cho được, đây là lời quyết định trộm giống như ném vật trên không ắt phải rơi xuống đất thì thầy liền phạm Ba la di; nếu thầy bảo trộm, trộm chưa được thì thầy qua đời hay hoàn tục, sau đó đệ tử mới lấy trộm được thì đệ tử phạm trọng, thầy không phạm; nếu thầy bảo trộm, trải qua một thời gian vẫn chưa lấy trộm được thì đệ tử bịnh điếc, thầy không biết, do hối hận nên bảo đệ tử đừng lấy trộm nữa, vì điếc không nghe được nên đệ tử vẫn tiếp tục tìm cách lấy trộm, khi trộm được vật thì cả hai thầy trò đều phạm trọng; nếu đệ tử không điếc, nghe lời thầy không lấy trộm nữa thì cả hai chỉ phạm Đột kiết la.
Trong giới trộm phải hội đủ năm duyên mới thành tội trọng: một là vật có chủ, hai là tưởng vật có chủ, ba là vật quý trọng, bốn là có tâm trộm, năm là lấy vật rời khỏi chỗ cũ; nếu chỉ có một, hai duyên thì chỉ phạm Đột kiết la hay Thâu lan giá. Lại có sáu duyên khác: một là không phải tưởng của mình, hai là không phải tưởng của thân hữu, ba là không phải tưởng mượn dùng tạm, bốn là vật quý trọng, năm là có tâm trộm, sáu là lấy rời khỏi chỗ cũ. Nói không có chủ là không có người coi giữ, tưởng không có chủ, tưởng của mình, tưởng lấy tạm dùng, không có tâm trộm mà lấy vật của người khác thì không kết phạm; nếu chủ đòi nên trả lại, không trả lại thì phạm trọng. Nói tưởng của thân hữu là như Phật nói có năm loại thân hữu được lấy: một là bạn rất thân thiết, hai là bạn cùng ăn chung, ba là bạn nói lời thiện, bốn là bạn cùng ở chung, năm là bạn thấy mình lấy dùng thì hoan hỉ. Năm loại thân hữu này đối với mình không có tâm xẻn thì lấy dùng không phạm. Lại có ba loại thân hữu: một là cùng ở chung rất thân thiết, hai là cùng ăn chung, ba là cùng thọ dụng; do rất thân thiết nên lấy dùng của nhau đều hoan hỉ thì không phạm. Nếu đã là thân hữu, khi lấy dùng rất hoan hỉ, sau đó vì nhân duyên gì đó nên sanh tâm hối thì cũng không được đoạt lấy lại; hoặc tuy là thân hữu, tâm không muốn cho nhưng chưa nói ra lời là cho hay không cho, khi thấy lấy dùng dù có chê trách cũng không được đoạt lấy lại. Nếu thân hữu nói: "khi nào bạn cần cứ đến lấy dùng, khi nào tôi cần tôi sẽ đến lấy lại", sau đó nếu có hiềm khích, đến đòi lại thì không phạm.
Nói mượn tạm dùng là dùng xong nên trả lại, nếu khi trả lại chủ nói khỏi phải trả lại thì cất giữ luôn không phạm. Nói lấy vật của quỷ thần là như của các loài rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, cho đến trời Tứthiên-vương hay vua trời Đế thích, nếu Tỳ-kheo dùng thiên nhãn biết là vật của quỷ thần biến hóa ra thì lấy không phạm. Nói lấy vật của súc sanh là như thịt nai... của cọp, sói đang ăn thì Tỳ-kheo không được lấy, vì nếu lấy, chúng nổi giận sẽ giết chết Tỳ-kheo, nếu chúng ăn xong bỏ đi thì lấy không phạm. Nếu là vật phấn tảo lượm lấy thì không phạm, hoặc thấy vật treo trên cây không có người giữ, lấy cũng không phạm, nhưng nếu có chủ đến đòi thì nên trả lại, không trả thì kết phạm. Tội trộm kết phạm từ tâm, do tâm trộm nên tạo nghiệp nơi thân khẩu thành tội thế gian và nghiệp ác bất thiện; nếu phát khởi từ thân ý nghiệp là tự trộm lấy, nếu chỉ phát khởi từ khẩu nghiệp là bảo người lấy trộm, nếu phát khởi từ ba nghiệp là bao gồm tự trộm và bảo người trộm. Do tâm phàm phu thương duyên với dục, nếu Thánh nhân bỏ thân khẩu nghiệp chỉ kết tội từ tâm thì không ai có thể thoát được tội; do đó trong trong luật nói nếu không có tâm trộm thì không phạm, nếu vừa khởi tâm trộm mà chưa khởi ra nơi thân khẩu, biết tự khắc trách trở lại tâm tốt ban đầu thì cũng không kết phạm Nói lấy vật của tử thi là Tỳ-kheo lấy y phủ liệm tử thi, nói quỷ nhập là ngạ quỷ thấy y liệm quý giá nên nhập vào tử thi; khi Tỳ-kheo lấy y này, ngạ quỷ nói đừng lấy y của tôi, Tỳ-kheo vẫn lột lấy mang đi nên tử thi đứng dậy chạy theo đòi lại, Tỳ-kheo này chạy vào trong chùa gần Thi lâm rồi đóng cửa lại, tử thi không vào trong đòi y được, ngạ quỷ xuất khỏi thân nên tử thi ngã xuống đất. Do việc này nên trong luật Phật chế ngăn các Tỳ-kheo không được lột lấy y của người mới chết, nếu lấy thì phạm Đột kiết la, nếu lấy nơi tử thi đã thối rửa thì không phạm. Nói thối rả là ít nhất bị chim kên kên... dùng mỏ hay móng vuốt cào xé rách da thịt, nếu da thịt chưa bị rách thì không cho lấy; nếu muốn lấy y của người mới chết thì nên nhờ người coi giữ Thi lâm lấy đưa cho mình, nếu người này lấy đưa cho thì Tỳ-kheo thọ không phạm.
Nói đổi thẻ là chúng tăng phát thẻ chia y, Tỳ-kheo có tâm trộm muốn đổi lấy y tốt của người khác nên đổi thẻ... kết phạm giống như trước đã nói. Kẻ trộm lén vào nhà trộm lấy vật là giặc nhỏ, nếu có tâm trộm dối gạt người để lấy thì gọi là giặc lớn. Nếu dùng sức mạnh hay dựa vào thế lực áp bức người khác để đoạt lấy vật hoặc làm cân nặng đấu lớn để gạt lấy... kết phạm đều giống như trong luật đã nói.
Nói thề lấy có hai: một là vật thề, như Tỳ-kheo muốn lấy trộm y thề là nếu được y như thế như thế mới lấy, không lấy vật khác; hai là chỗ thề, như Tỳ-kheo mang vật giùm cho người khác, muốn lấy trộm vật này nên thề là khi mang đến chỗ đó sẽ lấy. Nói trộm lấy thức ăn là như Tỳ-kheo đi đến chùa hoang, thấy cây ăn trái muốn lấy ăn thì phải đánh kiền chùy hoặc vỗ tay ba tiếng rồi lấy ăn thì không phạm, không làm như vậy mà lấy ăn thì phạm tội trộm. Nếu Tỳ-kheo bị nạn giặc hay ác thú bỏ chạy vào chùa trong làng, thấy có thức ăn nấu sẵn và trái cây, nếu lấy trộm ăn thì tính giá tiền mà định tội.
Nếu Tỳ-kheo thấy thợ săn giăng bẩy bắt heo rừng, nếu có tâm trộm mở bẩy thả heo ra thì tính giá tiền mà định tội, nếu vì từ bi mà thả heo thì không phạm, nếu chù đòi bồi thường thì nên bồi thường; nếu khi thấy Tỳ-kheo đi đến, heo tự vùng đứt dây chạy thoát thì Tỳ-kheo không phạm. Nếu chủ dẫn chó săn rượt bắt heo rừng, Tỳ-kheo khởi tâm từ xua đuổi chó cho heo chạy thoát thì không phạm, chủ đòi bồi thường thì Tỳ-kheo nên bồi thường... như thế cho đến trường hợp gở bẩy thả nai, mở nôm thả cá... giống như trên suy ra nên biết.
Nếu Tỳ-kheo lấy trộm dầu bơ... tính giá chưa đủ một phần (năm tiền) rồi khởi tâm hối, sau đó lại khởi tâm trộm đến lấy thêm nữa, tính giá cũng chưa đủ năm tiền, hối hận rồi lại lấy trộm nữa, nhiều lần như vậy tính tổng cộng có thể hơn năm tiền nhưng không phạm trọng, chỉ phạm Thâu lan giá là vì ở khoảng giữa có tâm hối; nếu ở khoảng giữa không có tâm hối thì phạm trọng.
Nếu khách Tỳ-kheo đến chùa, cựu Tỳ-kheo nên chia đều thức ăn cho khách cùng ăn, nếu có trái cây không chia, đợi khách đi rồi cựu Tỳ-kheo mới chia để ăn thì phạm tội trộm; nếu cựu Tỳ-kheo không chia cho trái cây, khách nên hỏi tịnh nhân rồi đánh kiền chùy tự chia đều rồi cùng ăn, không phạm. Nếu cựu Tỳ-kheo có vườn cây ăn trái dùng cho bốn việc cần dùng trong chùa thì khách Tỳ-kheo không được tự ý đánh kiền chùy chia lấy trái cây này. Nếu thí chủ cúng vườn cây ăn trái cho Tăng dùng vào bốn việc cần dùng như y thực, thuốc thang... thì Tăng không được lấy chia để ăn, nếu có tâm trộm lấy chia để ăn thì tính giá mà định tội. Nếu thí chủ cúng tiền hay vật báu dùng để làm phòng cho Tăng, Tăng lại hồi chuyển dùng cho việc ăn uống thì phạm Thâu lan giá và phải bồi thường lại; cho đến trường hợp cúng để may y cũng vậy. Nếu gặp thời buổi mất mùa đói kém, thức ăn uống khó được, Tăng muốn hồi chuyển tiền này dùng cho việc ăn uống để được an lạc trụ thì phải tác bạch yết ma, Tăng hòa hợp cùng thọ dụng thức ăn uống này thì không phạm. Nếu không có thí chủ tu sửa phòng xá, trong chùa có nhiều phòng thì nên giữ lại phòng tốt, phòng hư cũ nên phá dỡ ra đem bán để dùng cho việc ăn uống vì để thủ hộ trú xứ. Nếu thí chủ cúng vườn cây có nhiều cây ăn trái cho Tăng để dùng mua hoa hương đèn cúng Phật, tháp Phật và tu sửa phòng Tăng, Tăng được trích lấy một phần tiền này để thuê người coi giữ vườn; người giữ vườn được trích lấy một phần trái cây cúng Tăng, Tăng được thọ dùng trong phần lượng ấy, không được thọ quá. Nếu vườn không có hoa lợi thì Tăng được trích lấy tiền cúng tháp Phật hay tiền cúng Tăng trả công cho người coi giữ vườn. Nói lấy cây gỗ của Tăng là chỉ chung vật liệu bằng gỗ mà Tăng muốn dùng để làm nhà thuyết giới hay nhà ăn...,
Tỳ-kheo cần muốn mượn dùng thì phải bạch Tăng trước rồi mới được lấy, nhưng khi Tăng cần làm, đòi thì nên trả hoặc bồi hoàn theo giá. Nói lấy nước của Tăng là ở chỗ khan hiếm nước, Tăng phải đi đến nơi xa lấy nước về dùng hoặc nửa hay một, hai do tuần; do nước quý hiếm nên Tỳ-kheo lấy trộm dùng riêng thì tính theo giá mà định tội. Nếu trong chùa có ba cái ao nước: một ao dùng cho việc ăn uống, một ao dùng để tắm, một ao dùng cho các việc tạp khác; nếu trong Tăng lập chế không được dùng lẫn lộn thì khách Tỳ-kheo phải tuân theo chế định này, không được dùng lẫn lộn. Nếu tăng vận chuyển đất dùng để tu sửa phòng xá, điện Phật, Tỳ-kheo lấy trộm dùng riêng thì phạm trọng; nếu cần dùng thì phải đợi Tăng làm việc tu sửa xong, bạch Tăng rồi mới được lấy dùng; cho đến đá, than và cỏ tranh cũng vậy. Nếu Tăng có ruộng cỏ tranh dùng để lợp nhà mà không có người coi giữ, Tỳ-kheo nào phát tâm coi giữ thì được lấy dùng, nếu khi bỏ đi mà ruộng bị cháy thì Tăng cũng không trách hỏi. Nếu Tỳ-kheo coi giữ này đến xin Tăng chia cho phần ruộng cỏ tranh, Tăng nên chia cho; nếu sau khi chia phần lại xin thêm, Tăng cũng nên chia cho thêm; nếu sau khi chia phần cho để coi giữ ruộng cỏ tranh, sau đó Tăng muốn lấy lại thì nên nói với người coi giữ: "thầy không cần phải coi giữ nữa, Tăng sẽ coi giữ". Nếu Tỳ-kheo lấy trộm giường... các loại vật nặng trong chùa; cho đến trong thiền phòng không có người coi giữ bị hư hoại, Tỳ-kheo lấy trộm cây gỗ... đều tính theo giá mà định tội, vì là vật của Tăng dù có Tăng ở hay không có Tăng ở. Nếu chùa ở nơi hoang dã, có nạn giặc nên Tỳ-kheo bỏ chùa đi tránh nạn, Tỳ-kheo khác sau đó đến lấy vật của Tăng mượn dùng thì không phạm, nhưng nếu bỏ đi thì phải hoàn trả lại. Nếu ở trong chùa mượn dùng vật của Tăng như giường chiếu... mà làm hư hoại hay mất thì phải bồi thường.
Nói dùng thần thông lực đoạt lại người là tại nước Ba la nại có giặc đến cướp đoạt và bắt cóc trẻ con, Tỳ-kheo quán thấy đứa con của thí chủ bị bắt liền dùng thần thông lực đoạt lại mang về cho thí chủ thì không phạm. Hết phẩm nói về Ba la di thứ hai. Về Ba la di thứ ba như kệ nói:
"Thứ ba nói ba tịnh,
Phật khéo phân biệt nói,
Gọi là Ba la di,
Sẽ nói rõ dưới đây"
Lúc đó Phật ở trong giảng đường Cao các, rừng Đại lâm, thành Tỳ xá ly. Tỳ xá ly là tên nước, dân cư đông đúc đã ba lần mở rộng, sở dĩ có tên này là do thuở xưa, đại phu nhân của vua nước Ba la nại có thai, báo cho vua biết, vua liền cho người hầu hạ tùy theo ý thích của bà. Đến ngày sanh, nếu là người có phước đức thì được sanh ra vào buổi sáng, sáng hôm đó bà sanh ra một cục thịt đỏ như hoa cẩn mộc; phu nhân khác của vua lại sanh được một trai tướng mạo đoan chánh và có sắc như vàng ròng. Đại phu nhân liền suy nghĩ: "phu nhân khác sanh con đoan chánh, ta lại sanh ra một cục thịt không có tay chân, vua thấy sẽ khinh ghét", nghĩ rồi bà đem bỏ cục thịt này vào trong một cái bồn, dùng tấm vàng mỏng đậy lên rồi dùng chu sa ghi chữ lên: đây là vật do đại phu nhân của vua nước Ba la nại sanh ra, lấy ấn của vua đóng vào rồi sai người đem thả xuống sông. Cái bồn này được quỷ thần thủ hộ nên không bị sóng gió làm chìm, lúc đó có một đạo sĩ sống nương người chăn bò ở ven sông, vào sáng sớm khi ra sông tắm rửa nhìn thấy cái bồn liền vớt lấy và nhìn thấy dòng chữ ghi trên ấy cùng dấu ấn của vua nên mở ra xem, thấy bên trong có cục thịt liền suy nghĩ: "cục thịt này đã lâu mà không hôi thối, ắt có sự lạ", nghĩ rồi liền đem về chỗ ở và cẩn thận để một nơi. Nửa tháng sau, cục thịt này tách thành hai mảnh, nửa tháng sau hai mảnh này lại sanh ra năm bào, nửa tháng sau một mảnh thịt trở thành bé trai màu vàng ròng, mảnh kia trở thành bé gái màu bạc. Đạo sĩ yêu mến xem như con, do năng lực của tâm từ nên từ hai ngón tay cái của đạo sĩ chảy ra sữa, một ngón cho bé trai, ngón kia cho bé gái, sữa chảy vào bụng hai trẻ như nước trong chảy vào ngọc ma ni, trong ngoài đều trong suốt. Đạo sĩ đặt tên cho hai trẻ là Ly xa tử, vì nuôi hai trẻ nên đạo sĩ rất cực khổ, hằng ngày vào thôn khất thực cho mình và cho hai trẻ đến xế chiều mới về. Thấy đạo sĩ quá khổ cực vì hai đứa trẻ nên người chăn bò đến nói với đại sĩ: "người xuất gia chỉ nên hành đạo, vì sao lại vì hai đứa bé này mà bỏ phế việc tu tập, Ngài nên giao chúng cho chúng tôi nuôi", đạo sĩ nói lành thay. Sáng hôm sau, người chăn bò cùng các bạn đi đến chỗ đạo sĩ đón hai trẻ về nhà nuôi, khi giao hai trẻ, đạo sĩ căn dặn: "hai trẻ này có phước đức lớn, các vị nên chăm sóc và nuôi bằng năm thứ là sữa, lạc, sanh tô, thục tô và đề hồ. Đến khi chúng khôn lớn cho chúng lấy nhau rồi tìm đến nơi rộng rãi tốt đẹp mà định cư, tôn bé trai làm vua, bé gái làm phu nhân", những người chăn bò đem hai đứa trẻ về nhà nuôi dưỡng cho đến năm chúng được mười sáu tuổi thì tìm đến một nơi rộng rãi tốt đẹp để định cư và cho hai trẻ lấy nhau như lời đạo sĩ đã dặn bảo. Họ tôn lên làm vua và phu nhân, sau đó phu nhân này sanh đôi nhiều lần, số vương tử càng đông nên họ xây dựng thêm nhà cửa và mở rộng đất đai dần dần thành một nước gọi là Tỳ xá ly.
Nói giảng đường Cao các trong Đại lâm là giảng đường được xây trong Đại lâm với đầy đủ tiện nghi cúng cho Phật và Tăng; cây trong rừng này mọc tự nhiên kéo dài từ nước Ca tỳ la vệ cho đến Tuyết sơn nên rừng được gọi là Đại lâm. Nói Phật dùng các phương tiện khen ngợi pháp quán bất tịnh và quán thân bất tịnh là quán từ tóc, da thịt gân xương... từ bảy lỗ trong thân đều chảy ra chất bất tịnh. Nói quán bất tịnh là quán thây chết sình trướng và quán nội ngoại thân đều là bất tịnh; nếu tư duy quán chiếu được đầy đủ mười tướng thì chứng được Sơ thiền, tâm được điều phục và khởi quán về khổ không vô ngã, đoạn trừ các phiền não chứng quả A-la-hán. Nói đầy đủ mười tướng: một là tâm lìa phiền não, hai là nhập chánh định, ba là tâm không xao động rất thanh tịnh, bốn là hoàn toàn tịch tĩnh, năm là nhất tâm không sanh các pháp khác, sáu là thuần nhất một vị, bảy là năm căn vui vẻ, tám là tinh tấn chuyên nhất vào một cảnh, chín là tăng tiến, mười là thành tựu hoàn toàn. Mười tướng này gọi là sơ thiện trong thiền thứ nhất, cực tĩnh trong Sơ thiền lại có ba tướng: một là lìa phiền não nên tâm tịnh, hai là do tâm tịnh nên nhập thiền, ba là an trụ tam muội. Trung thiện trong Sơ thiền là xả có ba tướng: một là tâm tịnh buông xả, hai là nhập trụ tịch tĩnh, ba là trụ vào một chỗ. Hậu thiện trong Sơ thiền là hỷ lạc có bốn tướng: một là không vượt qua các pháp đồng sanh; hai là hợp thành nhất vị, năm căn vui vẻ; ba là đủ tinh cần liền sanh tâm hỷ lạc và làm cho hỷ lạc tăng trưởng; bốn là tăng tiến. Tỳ-kheo nhờ quán pháp bất tịnh này, tâm sẽ ly dục, xả dục; ví như cái lông gà để gần lửa sẽ bị cháy thun lại, không thể duỗi ngay ra.
Lúc đó Phật bảo các Tỳ-kheo: "ta muốn tịch tĩnh một mình trong nửa tháng, ngoại trừ người đưa thức ăn đến, tất cả Tỳ-kheo và bạch y đều không được đến quấy rầy vì người thích tu tập phước đức thì không thích nói chuyện nhiều", do Phật dùng thiên nhãn quán thấy nghiệp báo của năm trăm Tỳ-kheo đã đến, Phật không thể cứu được định nghiệp này nên phải nhập thất tịch tĩnh trong nửa tháng. Trong số năm trăm Tỳ-kheo này, có vị còn là phàm phu, có vị đã chứng Tu đà hoàn hoặc Tư đà hàm hoặc A na hàm, A-la-hán; đối với các Thánh chúng thì gần chấm dứt sanh tử, nhưng đối với phàm phu thì vẫn còn chịu luân hồi. Do nguyên nhân này nên Phật dạy quán pháp bất tịnh để sanh tâm nhàm lìa ái dục, sau khi qua đời được sanh vào cõi tốt lành.
Tỳ-kheo sau khi quán thân bất tịnh thấy thân này ô uế không sạch sẽ sanh tâm nhàm lìa, giống như thanh thiếu nữ ưa thích sạch sẽ, sau khi tắm rửa sạch sẽ, trang nghiêm thân bằng hương thơm với y phục đẹp, lại bị xác rắn quấn vào người sẽ sanh nhờm gớm muốn vất bỏ. Tỳ-kheo cũng vậy, do sanh tâm nhàm lìa thân bất tịnh này, muốn vất bỏ nó nên bảo Sa môn Lộc trượng cầm dao giết mình. Lộc trượng sau khi giết các Tỳ-kheo, máu đính nơi tay chân và dao, trong lòng nghi hối tự trách mình đã làm điều không thiện lợi, liền suy nghĩ: "ta nên đến sông Bà cầu để rửa sạch tội lỗi", vì thế gian cho rằng nước sông Bà cầu có thể rửa sạch mọi tội lỗi. Lúc đó có một địa thần tà kiến vốn là bè đảng của ma vương, dùng thần thông lực đi trên nước đến trước Lộc trượng khen ngợi: "này lộc trượng, việc ông đã làm là rất tốt, ông đã độ những người chưa được độ", Lộc trượng nghe rồi liền suy nghĩ: "vị thần này có thần lực lớn, đến nói lời này thì việc ta làm là thiện lợi, không phải là ác lợi". Do nghĩ như vậy nên sau khi rửa sạch dao xong liền trở vào chùa đi đến từng phòng nói to rằng: "ai muốn được độ, tôi sẽ độ cho", do nguyên nhân này mà Lộc trượng lần lượt giết chết tất cả năm trăm Tỳ-kheo. Phật sau khi xuất định, tuy biết nguyên nhân khiến cho năm trăm Tỳ-kheo giết chết, nhưng vẫn hỏi A-nan nguyên do, vì muốn thuyết pháp cho các Tỳ-kheo. A-nan không biết đây là nghiệp báo của năm trăm Tỳ-kheo nên đáp: "lành thay Thế tôn, xin Phật hãy dạy cho các Tỳ-kheo pháp quán khác để chứng được quả A-la-hán. Như biển lớn có nhiều sông nhỏ, pháp Phật cũng vậy, có nhiều pháp môn phương tiện như mười niệm, mười biến xứ...; cúi xin Thế tôn dạy cho các Tỳ-kheo pháp môn tu khác", Phật bảo A-nan: "thầy hãy đi thông báo cho các Tỳ-kheo trụ tại thành Tỳ xá ly hoặc trong phạm vi một Già phù đà, hoặc nửa do tuần, một do tuần... đến tập họp trong giảng đường", A-nan vâng lời Phật dạy đi thông báo, trong thời gian ngắn các Tỳ-kheo đều đến tập họp đông đủ, A-nan bạch Phật biết thời, Phật bảo các
Tỳ-kheo: "ngoài pháp quán bất tịnh có thể chứng quả A-la-hán, còn có pháp A na ban na niệm là pháp thiền vô thượng có thể diệt trừ phiền não, các thầy hãy lắng nghe".
Nói A na ban na niệm là pháp quán hơi thở ra vào, khiến tâm không còn loạn động, không giống như pháp quán bất tịnh thường làm cho tâm loạn vì sanh nhàm lìa; như trong luật nói pháp quán này tịch tĩnh vi diệu, khi mới phát tâm tu tập đã không có não loạn nên được Phật khen ngợi, chánh niệm hiện tiền sẽ được an lạc trụ, diệt trừ phiền não tùy chứng bốn đạo quả. Ví như vào giữa mùa xuân, nửa tháng không mưa, voi ngựa... sải bước làm cho bụi bay đầy trên không trung; vào tháng năm đầu hạ, mưa to gió lớn thổi bay hết bụi. Pháp quán A na ban na niệm cũng vậy, diệt trừ phiền não như mưa gió làm tan hết bụi; Tỳ-kheo với thiện tâm xuất gia vì đạo nên ở nơi tịch tĩnh, dưới gốc cây nơi núi rừng tu tập pháp quán này, tâm sẽ được an tịnh.
Nói nơi tịch tĩnh là nơi xa lìa ồn náo; ví như người chăn bò muốn lấy sữa nơi bò mẹ, phải cột bò nghé vào cột trụ, bò nghé nhớ sữa nên dậm chân và kéo dây liên tục, do dây chắc, cột cứng nên bò nghé không thoát ra được, đứng dựa cột mà thở. Tỳ-kheo cũng như người chăn bò, bò mẹ là tụ lạc, tâm là bò nghé, sữa là năm dục, cột trụ là nơi A lan nhã, dây cột là pháp quán A na ban na niệm. Nếu Tỳ-kheo không xa lìa tụ lạc ồn náo thì khó tu tập pháp quán A na ban na niệm, phải trụ nơi tịch tĩnh tu tập mới được thành tựu và chứng nhập đệ tứ thiền, kế khởi quán về khổ không vô ngã, nếu thành tựu sẽ chứng quả A-la-hán. Ví như thầy địa lý biết phân biệt tướng tốt xấu của vùng đất nào có thể xây dựng thành ấp, nếu vua nghe theo lời thầy địa lý thì sẽ được thiện lợi. Phật cũng vậy, biết phân biệt cảnh giới thiền và nơi nào thích hợp có thể nhập thiền để chứng được đạo quả. Ví như sư tử ẩn thân trong rừng rậm để rình bắt cầm thú, Tỳ-kheo cũng vậy, trụ nơi A lan nhã quán hơi thở để được chứng quả, như kệ nói:
"Ví như sư tử vương, Ẩn nấp trong núi rừng, Rình bắt thú đến gần, Tỳ-kheo cũng như vậy, Ẩn cư A lan nhã,
Tu pháp quán vô thượng, Để chứng quả Sa môn"
Nói dưới gốc cây là ngồi hay kinh hành dưới gốc cây, nói chỗ tịch tĩnh là trừ dưới gốc cây và A lan nhã, những nơi yên tĩnh khác thích nghi cho việc tu tập pháp quán A na ban na niệm. Nói ngồi ngay thẳng là mười tám đốt xương sống ngay thẳng, nếu ngồi mà giãi đãi thì mau nhọc mệt và thối thiền; nói hệ niệm trước mặt là chánh niệm hiện tiền. Nói quán hơi thở ra vào là chánh niệm quán biết hơi thở dài hay ngắn, nhờ đó tâm được định, không còn động loạn; ví như voi, rắn... vì thân to dài nên hơi thở cũng dài, ếch vì thân ngăn nên hơi thở cũng ngắn. Tỳ-kheo thiền quán cũng vậy, chánh niệm biết hơi thở dài ngắn nên tâm an lạc, nhờ an lạc nên hơi thở nhẹ nhàng, càng an lạc thì hơi thở càng nhẹ nhàng, càng nhẹ nhàng khó phân biệt thì sanh tâm xả. Kế quán biết ta thở ra toàn thân, quán biết ta thở vào toàn thân, quán biết hơi thở ra vào toàn thân hoặc dài hoặc ngắn trước, giữa và sau thảy đều hiện tiền. Khi mới tu quán, thấy hơi thở ra ban đầu thì không thấy hơi thở giữa và sau, muốn thấy cũng không thấy kịp; khi thấy hơi thở ra giữa thì không thấy hơi thở trước và sau; khi thấy hơi thở ra sau thì không thấy hơi thở trước và giữa. Nếu thấy hơi thở cả trước giữa và sau thì tâm không còn mệt mỏi, được như vậy thì gọi là khéo quán hơi thở ra vào. Nếu quán hơi thở không dừng nghỉ thì hộ trì được ba nghiệp, gọi là học giới định huệ; được tâm định là định học, quán biết rõ giới định là huệ học, khi hệ niệm nơi ba học này được liên tục thì hơi thở ra vào diệt, tức là diệt hơi thở ra vào thô. Nói thô là khi mới nhập thiền, thân tâm mỏi mệt nên hơi thở thô, khi thân tâm an lạc thì hơi thở sẽ nhẹ nhàng dần dần, đến nỗi sanh hồ nghi không biết ta có còn thở ra vào hay không. Như người leo núi cao, thân tâm mỏi mệt nên hơi thở nặng nề, khi trở xuống núi đến chỗ bằng phẳng cáo ao nước và cây lớn, liền xuống ao tắm rồi đến ngồi nghỉ dưới gốc cây, thân tâm sảng khoái nên hơi thở cũng nhẹ nhàng. Tỳ-kheo tu thiền quán cũng vậy, khi thân tâm chưa điều phục thì hơi thở ra vào thô, khi chánh niệm hiện tiền thì hơi thở nhẹ nhàng dần dần, như kệ nói:
"Thân tâm quá mệt nhọc, Thở ra vào cũng thô" Thiền thứ nhất thô, thiền thứ hai tế, thiền thứ ba tế hơn, thiền thứ tư là định; nếu thiền thứ ba thô thì thiền thứ tư tế, đây là chỗ tột cùng của hơi thở ra vào. Nếu không nhiếp niệm thì hơi thở ra vào thô, nếu nhiếp niệm thì hơi thở ra vào tế, khi nhập đệ tứ thiền thì hơi thở ra vào diệt, đây gọi là pháp quán Xa ma tha (chỉ). Nói Tỳ bà xá na là không nhiếp niệm thì hơi thở ra vào thô, nếu quán bốn đại thì thành tế; lại quán Ưu ba đà na sắc tế thì bốn đại thành thô; lại quán tất cả sắc tế thì sắc bốn đại thành thô; lại quán vô sắc tế thì tất cả sắc thành thô; lại quán sắc và vô sắc tế thì vô sắc thành thô; lại quán nhân duyên tế thì sắc và vô sắc thành thô; lại quán nhân và danh sắc tế thì nhân duyên thành thô; lại quán tướng quán Tỳ bà xá na tế thì nhân và danh sắc thành thô; quán tiểu Tỳ bà xá na tế thì tướng quán Tỳ bà xá na thành thô; quán đại Tỳ bà xá na tế thì tiểu Tỳ bà xá na thành thô... cứ như thế trước tế sau thô, thô tế Ba tát đề đã được nói trong Tam bạt đà.
Hỏi: thế nào là học hơi thở ra vào diệt?-quán niệm hơi thở ra vào và học hơi thở ra vào diệt thì thân tâm không nghiêng ngã dao động; tịch tĩnh rất vi tế như không còn thân thì gọi là học hơi thở ra vào diệt, như gió đứng yên. Nếu chưa thành tựu A na ban na niệm thì cũng chưa thành tựu pháp quán, người chưa được trí huệ thì chưa nhập được định này và cũng chưa xuất định này. Nếu học thành tựu hơi thở ra vào diệt thì như gió đứng yên không động, trí huệ liền khai phát, nếu nhập được pháp quán này thì cũng xuất được pháp quán này; ví như đánh vào đồ đồng, ban đầu phát ra tiếng lớn rồi nhỏ dần mất hẳn. Quán hơi thở ra vào cũng vậy, trước thô sau tế, nhẹ dần rồi mất hẳn nhưng vẫn còn ghi nhớ trong tâm thì tâm được định, tâm định là thành tựu pháp quán A na ban na niệm; người trí nhập được định này thì cũng xuất được định này. Như trong luật nói: hơi thở ra vào diệt rồi thì có thể theo niệm khởi lại gọi là tùy quán, quán biết hơi thở ra vào không phải là tùy niệm, tùy niệm cũng không phải là hơi thở ra vào, khởi quán thấy biết như thế thì có thể tuần tự chứng đạo quả. Người tu tập thiền quán phải thiện tâm trì giới thanh tịnh, nói trì giới thanh tịnh có ba: một là không phạm, hai là nếu có phạm liền sám hối trừ diệt, ba là không bị phiền não hoại; có thanh tịnh trì giới thì mới thành tựu chánh niệm. Kế phải khéo hành trì giới như xây cất tu sửa điện Phật, phòng Tăng, nhà thuyết giới...thì giới được đầy đủ, như kệ nói:
"Chỗ tịch tĩnh, lợi dưỡng,
Các nghiệp đủ là năm,
Lìa thân thuộc... các bịnh,
Thêm đọc tụng là mười"
Nếu lìa được mười pháp luyến mộ này thì mới có thể nhập định. Có hai pháp quán: một là nhất thiết quán, hai là nhiếp quán. Nói quán tất cả là trước khởi tâm từ quán Tỳ-kheo tăng, kế quán trời người, đại trưởng giả, người thường và tất cả chúng sanh; cuối cùng quán bất tịnh và chết. Nói quán Tỳ-kheo tăng trước là nếu tâm từ bao phủ trong Tăng thì được an lạc trụ; nói quán trời người, đại trưởng giả là nếu tâm từ bao phủ thì họ sẽ hành theo pháp thiện; nói khởi tâm từ quán người thường là vì đồng pháp hạnh nên không não hại nhau; nói tâm từ quán tất cả chúng sanh là muốn họ không có khổ nạn. Nói quán chết là để tăng lòng bi mẫn, không có biếng nhác; nói quán bất tịnh để lìa Dục và tất cả ác pháp. Đây gọi là quán tất cả; nói nhiếp quán là tùy ý tu tập ba mươi tám pháp quán cho liên tục. Nếu trì giới thanh tịnh và xa lìa các duyên sự thì có thể nhập định A na ban na, nhờ đây nhập được đệ tứ thiền, kế quán khổ không vô ngã. Tu quan như vậy rồi đến hỏi vị A-la-hán, không có A-la-hán thì đến hỏi vị A na hàm... như thế cho đến vị đã đắc thiền định. Sở dĩ nên đến hỏi là vì muốn được họ chỉ dạy, như noi theo dấu chân voi thì sẽ tìm ra đường đi, không bị lạc lối. Vị này với tâm bi mẫn sẽ lấy năm phẩm chỉ dạy, đó là thủ, vấn, khởi, trước và tướng; nói thủ là lấy pháp thiền định, nói vấn là hỏi theo thứ lớp, nói khởi là khởi pháp thiền định, nói trước là trụ nơi pháp thiền định, nói tướng là phân biệt tướng mạo của pháp thiền định. Khi nương thầy tu tập theo năm phẩm này, người tu thiền chớ xúc não thầy, đối với thầy nếu thấy thiện thì ở lại, nếu thấy bất thiện thì dời đi nơi khác, người không có trí huệ thì ở cách thầy một do tuần, người có trí huệ thì được ở xa hơn, nên ở năm chỗ thiện và lánh xa mười tám chỗ bất thiện. Người tu thiền nên dứt bỏ các duyên sự nhỏ nhặt, hằng ghi nhớ pháp A na ban na niệm này trong tâm tuần tự theo bảy giai đoạn:
-Sổ: tức là đếm hơi thở từ một đến năm thì không được chỉ đếm đến ba bốn; hoặc từ một đến mười thì không được chỉ đếm đến tám chín.
-Tùy: tức là theo dõi hơi thở ra vào.
Xúc: tức là nơi hơi thở ra vào.
4-An trí: tức là để tâm nơi hơi thở ra vào để quán.
5-Quán hoàn: tức là quán đếm hơi thở trở lại
-Tịnh: tức là tâm thanh tịnh
-Lịch quán: quán thấy tướng thiền.
Hỏi: nếu chỉ đếm đến ba hay bốn thì có gì là không tốt?-nếu đếm như vậy, hơi thở bị thúc ép, tâm khó điều phục; ví như trong chuồng có quá nhiều bò chen chúc lấn ép nhau thì chúng sẽ phá chuồng để ra ngoài. Cũng vậy nếu đếm hơi thở từ một đến mười thì trong tâm cảm thấy thung dung, ví như chuồng bò rộng rãi thì bò dễ nuôi dưỡng.
Hỏi: nếu chỉ đếm đến tám chín thì có gì là không tốt?-nếu đếm như thế tâm sanh hồ nghi không biết ta có được thiền vị hay không, liền sanh mê hoặc. Khi đếm hơi thở nên đếm từ từ như người đong lúa đợi đầy lúa mới đếm một, đong lại đầy mới đếm hai; nếu đếm nhanh thì giống như mục đồng đếm bò, tức là mục đồng có trí tay cầm roi đứng ngay nơi cửa chuồng, lùa từng con ra ngoài và đếm. Tỳ-kheo quán A na ban na niệm cũng như vậy, khi bốn đại không điều hòa, hơi thở ra vào nhanh thì nên tùy hơi thở mà đếm nhanh, nhờ theo dõi hơi thở ra vào mà tâm được định. Ví như người lái thuyền đi ngược dòng phải dùng cây sào chống để giữ vững thuyền, tâm người tu thiền quán là chiếc thuyền, hơi thở ra vào là cây sào chống, tâm chạy theo năm dục dùng pháp quán hơi thở để chế ngự làm cho tâm được định. Nếu hơi thở vào mà tâm theo vào, nếu hơi thở ra mà tâm theo ra thì ở trong pháp quán là trở ngại lớn nhất khiến tâm khó điều phục. Trừ hai pháp này, người tu pháp quán này nên trụ tâm nơi hơi thở ra vào mà đếm hơi thở thì sẽ dễ dược định; nên trong luật bổn nói không nên đếm hơi thở ở trong hay ở ngoài.
Hỏi: đếm hơi thở bao giờ mới nhưng lại?-khi tâm được bất loạn, quán biết hơi thở ra vào thì không cần đếm nữa mà nên tùy niệm, tức là theo dõi hơi thở ra vào ba chỗ. Nếu hơi thở ra thì bắt đầu từ rốn, kế là tim và cuối cùng là chóp mũi; nếu hơi thở vào thì bắt đầu từ chóp mũi, kế là tim và cuối cùng là rốn. Nếu tâm theo hơi thở ra thì tâm không định, do tâm không định nên thân dao động, tâm theo hơi thở vào cũng vậy; cho nên chỉ chú tâm nơi chóp mũi là nơi hơi thở ra vào để đếm. Lại nữa có ba pháp khiến tâm được định: một là thích nhập định, hai là phương tiện, ba là lên chỗ cao tột. Như cây gỗ lớn trên đất, có người muốn cưa xẻ cây này trước phải xem xét lõi cây rồi mới dùng cưa để cưa xẻ; khi cưa tâm chăm chú nhìn vào chỗ cưa làm cho nó đi thẳng đường mà không nhìn lưỡi cưa qua lại. Quán hơi thở ra vào cũng vậy, đang tư duy pháp thiền và lập phương tiện là như cây gỗ ở trên đất, xem xét lõi cây là tâm khéo tư duy, hơi thở ra vào là lưỡi cưa qua lại, chú tâm nơi chóp mũi là như chăm chú nhìn vào chỗ cưa, cứ quán như vậy thì đạt đến chỗ cao tột.
Nói thiền định là thân tâm tinh tấn điều nhu thành tựu, nói lập phương tiện là do dõng mãnh tinh tấn diệt trừ phiền não và đoạn diệt tư; nói đến chỗ cao tột là dõng mãnh tinh tấn diệt trừ kiết sử. Ba pháp này phải nhất tâm quán mới được thành tựu, phải biết ba pháp thì tâm không dao động và pháp thiền định hiện tiền, lập phương tiện đến chỗ cao tột, kế chú tâm vào pháp quán A na ban na niệm, nếu thành tựu sẽ như mặt trăng ra khỏi mây chiếu sang khắp thế gian. Pháp thiền quán này có người mới tu tập liền có tướng lành hiện, có người nhờ đếm hơi thở ra vào mới hiện tướng lành. Nói tướng lành là như Tỳ-kheo ngồi dưới đất hay trên giường, dù không có tọa cụ đều cảm thấy như ngồi trên bông mềm mại, vì nhờ đếm hơi thở ra vào mà thân được khinh an thơ thới, theo thứ lớp hơi thở ra vào thô diệt, thân tâm càng khinh an, hơi thở ra càng nhẹ hơn như có như không, giống như tiếng khánh trước lớn sau nhỏ dần.
Pháp quán hơi thở này khác với pháp thiền quán khác, các pháp thiền khác thì trước tế sau thô, pháp thiền này trước thô sau tế. Tỳ-kheo nhập thiền quán này mà tướng thiền không hiện thì không nên đứng dậy, nên ngồi ngay thẳng tư duy: "hơi thở ra vào này, nơi nào có nơi nào không, ai có, ai không có. Người đang ở trong thai mẹ, người đang lặn trong nước, chư thiên cõi Trường thọ, người nhập thiền thứ tư, người chết, người ở cõi Vô sắc và người nhập Diệt tận định thảy đều không có thở ra vào", nghĩ rồi liền tự trách: "ta là người trí huệ không phải đang ở trong thai mẹ, không phải đang lặn trong nước, không phải chư thiên cõi Trường thọ, không phải người nhập thiền thứ tư, không phải người chết, không phải người ở cõi Vô sắc và cũng không phải người nhập Diệt tận định; ta đang thở ra vào rất nhẹ nhàng mà không thể biết được, ta nên chú tâm lại", nếu là người có mũi dài thì nên chú tâm trên chóp mũi, nếu là người mũi ngắn thì chú tâm trên đầu môi trên. Như trong kinh Phật bảo các Tỳ-kheo: "người nào hay quên không để để tâm phía trước thì không thể nhập pháp A na ban na niệm, cho đến các pháp thiền quán khác cũng vậy; nhưng nếu chánh niệm thì thiền định liền hiện", chư Phật, Phật Bích chi cho đến các A-la-hán đều xem pháp A na ban na niệm là pháp môn căn bản để chứng đạo quả, tùy niệm sẽ được cực tĩnh. Như may trên tấm vải mỏng thì phải dùng kim nhỏ, tùy niệm ví như kim, sợi chỉ là trí huệ liên kết nhau không gián đoạn; nhờ hai pháp tùy niệm và tuệ này mà không mất pháp quán hơi thở. Ví như người cày ruộng mệt và bò cũng mệt thì nên thả cho bò nghỉ ngơi, nghỉ ngơi rồi lại đi tìm bò, không cần tìm theo dấu chân bò, chỉ cần đi thẳng đến nơi bò đang uống nước, chờ nó uống nước xong dắt nó trở lại chỗ cày ruộng. Tỳ-kheo cũng vậy, khi quán hơi thở ra vào nếu mệt nên nghỉ ngơi, không theo dõi hơi thở ra vào nữa, chỉ cần chú tâm nơi chóp mũi để đếm hơi thở ra vào, chú tâm như vậy không bao lâu tướng thiền sẽ hiện, thân cảm thấy khinh an thơ thới. Nói tướng thiện hiện là có người thấy như chạm vào hoa Kiếp bối, có người thấy như chạm phải luồng gió mạnh, có người thấy như các vì sao, có người thấy như chuỗi ngọc, có người thấy như ngọc trắng, có người thấy như sợi dây, có người thấy như chạm gì cũng đều cứng, có người thấy như ánh lửa, có người thấy như mây nổi...; giống như trong kinh nói các Tỳ-kheo tập họp tụng kinh nhưng mỗi người thấy có tướng lành khác nhau, có người thấy như núi hoặc như sông hoặc như rừng là vì sao?-là từ tâm tưởng mà có, do tâm tưởng của mỗi người khác nhau nên thấy cũng khác nhau. Khi thấy tướng thiền này hiện, Tỳ-kheo nên đến hỏi thầy, thầy nói là thấy tướng nhưng không nói là tướng thiền, cũng không nói không phải là tướng thiền, chỉ bảo nên tinh tấn thêm là vì sao?-vì nếu phân biệt nói là tướng thiền thì vị này sẽ sanh biếng nhác giãi đãi, nếu nói không phải tướng thiền thì vị này sẽ thối tâm ban đầu, do đó chỉ nói hãy tinh tấn thêm thì tướng thiền tự hiện, như kệ nói:
"Sau khi quán chú tâm,
Sẽ hiện ra nhiều tướng,
Nếu người có trí huệ,
Chú tâm đếm hơi thở,
Nơi hơi thở ra vào,
Tinh tấn không tán loạn".
Khi tướng thiền hiện thì các triền cái tự lặng, các phiền não tự dứt. Nhờ hai pháp tùy niệm và tuệ mà tâm được an trụ và thành tựu tam muội, được địa thứ nhất hoặc được địa trừ phiền não, hoặc nhờ các thiền chi hiện mà được địa thứ nhất; đây gọi là đang được địa thứ nhất tam muội.
Hỏi: trụ tam muội và sơ định khác nhau hay giống nhau?-khác nhau, sơ định là thiện hành nhập tâm Bà bàn già; trụ tam muội là trong cảnh giới này cả ngày hằng nhập thiện hành, tâm suy yếu, tâm ngủ không tùy thuộc Bà bàn già. Khi tướng thiền đã hiện, do quán sắc hoặc quán tướng mạo sẽ được tăng trưởng; như Chuyển luân thánh vương còn ở trong thai đã được cha mẹ thủ hộ, ở nơi khí hậu điều hòa và ăn uống thích hợp, nếu khéo nuôi dưỡng thì sẽ thành kết quả. Tỳ-kheo thủ hộ tướng thiền cũng vậy, phải ở trú xứ thiện, nơi đi lại thiện, thân cận người thiện, ăn uống thích hợp, ở nơi có khí hậu điều hòa, chỗ kinh hành hay đứng ngồi đều tốt và tránh xa nơi ồn náo thì tướng thiền sẽ được hộ vững chắc. Khi tướng thiền tăng trưởng thì các căn thanh tịnh điều nhu, đối với tâm nếu muốn đều có thể giữ lại hay buông thả, sanh khởi hay điều phục, hoan hỉ hay xả một cách dễ dàng. Nên gần gũi người đắc tướng thiền và xa lánh người chưa đắc tướng thiền, chú tâm thiền quán và biết tướng thiền này. Người trí khéo chú tâm nơi mười pháp này, tinh tấn tu tập không biếng nhác và suy nghĩ: "ta hãy trụ nơi định, xả tâm Bà bàn già, khởi Đế tâm", tâm này trụ trong một sát na rồi diệt, lại khởi bốn hay năm tâm Xà bà na là tâm tác, tâm học, tâm tùy thuận, tâm trung gian và tâm trụ; nếu hợp hai tâm đầu làm một tâm thì thành bốn tâm, tâm cuối là tâm thứ tư cũng là tâm thứ năm thuộc tâm sắc giới. Nhờ tâm này diệt năm triền cái sanh khởi năm thiền chi, được đầy đủ mười tướng và ba thiện, đắc Sơ thiền. Lại ở trong pháp quán này diệt tư niệm đắc thiền thứ hai, khi tướng diệt cũng diệt thì đắc thiền thứ ba, thứ tư cho đến chỗ cao tột, như trong kinh Thanh tịnh đạo đã nói rõ.
Sau khi đắc thiền thứ tư, hãy khéo ghi nhớ và làm cho tăng trưởng, muốn đạt đến chỗ chân thật phải hội đủ năm điều: một là chú tâm, hai là nhập, ba là trụ, bốn là xuất, năm là quán trở lại. Khi quán thông pháp thiền này rồi nên quán sắc vô sắc, kế tu tập thêm pháp Tỳ bà xá na như sau: sau khi xuất thiền thứ tư nên giữ lấy thiền chi trong tâm, nương bốn đại để quán thân tứ đại, bắt đầu từ phi sắc xứ, do hai pháp sắc và phi sắc mà thấy tâm thức cùng các pháp sắc phi sắc. Nếu xuất định, thở ra thở vào thì thân tâm là nhân của nó, tức là nhờ thân tâm mà thở ra thở vào được; như người thợ rèn dùng ống bệ thổi lửa, nhờ thổi nên có hơi gió vào. Tỳ-kheo sau khi quán thấy danh sắc rồi lại quán nhân duyên của nó, ở trong ba đới do danh sắc liên tục không ngừng nên sanh hồ nghi; sau khi dứt nghi nên quán ba tướng của danh sắc là khổ, vô thường, vô ngã; quán ba tướng rồi lại quán sự khởi diệt. Khi quán sự khởi diệt, trước tiên thấy ánh sáng và xa lìa mười phiền não thuộc Tỳ bà xá na và phát sanh Đạo trí và Diệt trí; lúc đó người tu thiền sẽ sanh tâm nhàm lìa ba cõi, theo thứ lớp đắc bốn đạo quả. Khi chứng quả A-la-hán có đủ mười chín trí quán biết cùng tận các pháp; đối với Ma, Phạm, Sa môn, Bà la môn ở trong ba cõi, vị này phước điền vô thượng.
Nói hiện giác ly hỷ là khi đang thở ra thở vào là đang hỷ nhờ hai việc, đó là dùng quán và không mê. Nói dùng quán mà được giác hỷ là khi nhập nhị thiền có hỷ, muốn được trí huệ phải dùng quán mới được giác hỷ; như trong kinh Tam tỳ bà nói: do thở ra thở vào mà được nhất tâm, tâm không tán loạn nên sanh tri thức và liền được giác hỷ; lại do thở ra dài, thở vào ngắn nên giác biết toàn thân.... Sau đó quán ngược lại để tâm định, chú tâm tinh tấn với trí huệ để biết điều nên biết, để xả điều nên xả, để quán điều nên quán, để hiện tướng nên hiện mà thành giác hỷ. Trong tam thiền có giác lạc, trong tứ thiền có giác tâm Tăng ha la (tâm hành), tâm hành chỉ cho hai ấm thọ và tưởng, lạc trong giác lạc có hai là thân lạc và tâm lạc. Trong kinh Tam tỳ bà nói: diệt tâm hành tức là diệt tâm hành thô, cũng gọi là định chỉ, như trong phẩm thân hành đã nói rõ; hỷ trong giác hỷ cũng nhiếp trong đây. Nói tâm hành tức là thọ tưởng tâm sở vì hai pháp này không rời tâm, nếu lấy tâm hành thì thọ tưởng cũng nhiếp trong đó. Nói giác tâm là giác biết tâm hoan hỉ, tâm thiện hoan hỉ và cực hoan hỉ, nhờ định và tuệ quán nên khi thở ra thở vào liền được hai hoại hoan hỉ này. Nói nhờ định là khi nhập định có hỷ, trụ trong định cũng có hỷ trong mỗi sát na; nói nhờ tuệ quán là khi nhập nhị thiền có hỷ, xuất thiền nhờ tiêu diệt pháp mà tiếp xúc với thiền hỷ, trong sát na quán Tỳ bà xá na xem thiền hỷ là quán, khéo trụ tâm ở trong quán xứ, nhờ hiện quán trong một sát na tâm định vượt qua tưởng gọi là nhất tâm định; quán hơi thở ra vào như thế thì tâm giải thoát. Nói tâm giải thoát là lìa phiền não, lìa tư và niệm ở thiền thứ hai, lìa hỷ ở thiền thứ ba, lìa khổ lạc ở thiền thứ tư, theo thứ lớp được giải thoát như vậy. Khi quán Tỳ bà xá na thấy vô thường liền xả tưởng về thường, thấy khổ liền xả tưởng về lạc, thấy vô ngã liền xả tưởng về ngã, tâm không còn đắm trước. Do không đắm trước nên ly dục,, từ dục quán diệt tưởng, từ khởi tưởng quán xả chấp thủ mà được tâm giải thoát, nên trong luật mới nói quán hơi thở ra vào như thế thì tâm được giải thoát.
Nói quán vô thường là quán năm ấm vô thường, nói năm ấm vô thường vì chúng là pháp sanh diệt, nói sanh diệt là pháp biến tướng, do biến tướng nên trong mỗi sát na sanh pháp vô tướng; khi quán vô thường nên quán sắc là vô thường trước, tức là hằng quán hơi thở ra vào của thân tứ đại. Nói quán ly dục có hai: một là quán tiêu trừ được ly dục, tức là tất cả pháp tướng diệt trong từng sát na; hai là quán không còn sót được ly dục, tức là niết bàn. Nhờ hai pháp này mà được thấy đạo, nhờ thấy đạo mà được pháp tịch diệt, được tịch diệt rồi liền quán xả ly, dùng tuệ quán xả ly phiền não, chuyển nhập niết bàn.
Lúc đó Thế tôn nhóm Tỳ-kheo tăng quở trách các Tỳ-kheo: "vì sao các thầy lại tự sát, giúp đỡ nhau tự sát và nhờ Sa môn Lộc trượng giết mình chết như thế?", quở trách rồi liền kết giới thứ ba cho các Tỳ-kheo, đây là căn bản kết giới sau đó tùy việc kết thêm thì gọi là tùy kết. Nói khen ngợi chết là như nói: "ông sống trên đời gặp nhiều khổ não... nhưng ông đã làm nhiều điều thiện thì khi chết sẽ sanh lên cõi trời"; nói không làm các ác nghiệp... là không sát sanh, không trộm cắp, không nói dối...nhưng nay bị bịnh khổ bức bách thì sống làm chi, thà chết còn hơn... thì gọi là khuyên bảo chết.
Nếu người bịnh nghe lời mà tự sát thì Tỳ-kheo phạm tội sát. Nói biết đó là chúng sanh là Tỳ-kheo có tâm quyết định muốn khiến kia chết, chúng sanh trong đây là chỉ cho người, từ khi thọ vào thai cho đến khi già chết. Khi mới thọ vào thai gọi là sắc ca la la, nơi sắc Ca la la này nếu là nam hay nữ thì có ba mươi sắc, nếu là huỳnh môn thì có hai mươi sắc. Nói sắc Ca la la của nam nữ là khi Ca la la mới được thành giống như giọt dầu trong suốt trên đầu sợi lông dê, như kệ nói:
"Như giọt dầu rất nhỏ,
Trong suốt không có cặn,
Ca la la mới thành,
Màu sắc cũng như vậy"
Sắc ban đầu của người rất nhỏ như vậy, con người thời quá khứ có tuổi thọ hai ngàn năm thì Ca la la theo thứ lớp trưởng thành cũng như vậy cho đến khi già chết. Nói đoạn mạng Ca la la là dùng tay đập vỗ vào thai hoặc dùng thuốc với nhiều phương tiện làm cho thai không thể sanh ra được. Nói sanh có hai là sanh cõi sắc và cõi Vô sắc, trong các sắc sanh cõi Vô sắc thì không thể bị giết, sanh cõi sắc thì có thể bị giết, nhưng sắc bị giết thì vô sắc cũng bị giết vì vô sắc nương tựa vào sắc.
Hỏi: nói giết sắc là giết sắc ở quá khứ, hiện tại hay vị lai?-như kệ nói:
"Sắc quá khứ không phải hiện tại,
Sắc vị lai không phải hiện tại,
Sắc hiện tại tương tục sanh mãi,
Lấy sắc hiện tại, bỏ khứ lai,
Giết sắc hiện tại là sát sanh"
Nói hiện tại sanh là một sát na tương tục không diệt, nói sát na vừa sanh liền diệt; nói giết sắc hiện tại là sát sanh là vì quá khứ tương tục đến hiện tại không ngừng dứt là nhân của tương lai sanh, nếu làm cho ngừng dứt thì gọi là sát sanh. Nói nên biết chúng sanh là biết thế gian gọi chúng sanh chỉ là giả danh, nếu luận kỹ thì nên gọi là sanh khí; nói nên biết đoạn mạng chúng sanh là đoạn dứt sanh khí không cho sống nữa; nói nên biết phương tiện giết là có sáu phương tiện:
-Tự giết là tự tay giết.
-Bảo người giết là bảo người khác: hãy giết.
-Quăng ném... giết là dùng các khí cụ như cung nỏ, gạch đá... bắn, ném để giết.
-Đặt để là đặt bẩy, đào hầm, đào hố hoặc cho thuốc độc vào thức ăn... để giết.
-Dùng chú thuật để giết có hai: một là A tháp bà ni da, tức là nước địch hay giặc dùng chú thuật trù ếm làm cho đau đầu, đau bụng... các chứng bịnh khác khiến cho chết; hai là số, tức là đọc câu chú cho đến mười hoặc hai mươi biến... khiến cho chết. 6-Dùng thần lực là dùng thần thông lực như các loài rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la già... tùy dùng năng lực thần thông của mình để giết khiến cho chết. Như rồng phun độc, phun lửa...; Ca lầu la có thể mổ giết trong phạm vi một tầm...
Nói đưa khí vật cho người bịnh là như đưa dao hoặc để dây hay thuốc độc gần bên người bịnh cho họ dùng tự sát; nói xúi dục cho chết là như bảo người nhảy xuống vực ở giữa ghềnh đá.... Dùng các phương tiện trên để giết hay khiến người tự sát thì Tỳ-kheo phạm Ba la di, nếu người ngay lúc đó không chết, sau đó mới chết cũng phạm Ba la di.
Như trường hợp tự giết, nếu Tỳ-kheo thấy dê đang ngủ tại một nơi liền khởi nghĩ đợi đến đêm sẽ đến giết nó, giết được dê thì phạm Ba dật đề. Nếu sau đó dê bỏ đi đến chỗ khác ngủ, có cha hoặc mẹ của Tỳ-kheo hoặc A-la-hán bỗng đến chỗ đó nằm ngủ, Tỳ-kheo ban đêm không nhận biết nên giết. Nếu tâm ban đầu là muốn giết dê, nhưng khi hạ dao khởi tâm quyết định giết dù là dê hay người thì Tỳ-kheo phạm Ba la di; nếu biết là cha hay mẹ hay A-la-hán mà có tâm muốn giết thì phạm nghịch tội Ba la di; nếu biết là Dược xoa, quỷ thần mà có tâm muốn giết thì phạm Thâu lan giá; nếu biết có cha hay mẹ ở trong quân đội mà vẫn bắn vào trong quân, trúng cha hay mẹ chết thì phạm nghịch tội Ba la di, bắn trúng người khác chết thì chỉ phạm Ba la di.
Như trường hợp bảo người giết, nếu bảo giết người cao mà giết người thấp, bảo giết người này lại giết người kia thì người sai bảo không phạm trọng, người giết phạm trọng; nếu người sai bảo nói gặp ai cũng giết thì bất cứ ai chết, người sai đều phạm Ba la di. Nếu người sai bảo hôm nay giết, người được sai ngày mai mới giết... thì người giết phạm trọng, người sai không phạm trọng; nếu người sai nói lúc nào giết cũng được thì khi giết xong, người sai phạm trọng; nếu người bảo bảo giết, người được sai giết đúng người muốn giết thì cả hai đều phạm trọng; như thế cho đến sai chuyền nhiều người giết, kết phạm cũng giống như trên. Nếu sai giết Tỳ-kheo là người chưa đắc đạo, nhưng khi sắp giết người này lại đắc quả A-la-hán thì người sai và người giết đều phạm tội nghịch Ba la di.
Như trường hợp trù rủa cho chết là có Tỳ-kheo oan gia ở trong số các Tỳ-kheo đến thọ thỉnh thực, do ngồi khuất phía sau nên không thấy, cho là oan gia không đến nên lớn tiếng nói: "Tỳ-kheo tên sao không bị giặc giết chết hoặc rắn độc cắn chết hoặc bị người thuốc cho chết cho rồi, nếu chết thì tôi rất vui vẻ"; hoặc biết Tỳ-kheo oan gia có đến, cố ý nói lớn như trên cho vị này nghe, không ngờ vị này đã bỏ đi trước mà không biết thì cả hai trường hợp này đều phạm Đột kiết la.
Trường hợp khen ngợi chết, khuyên bảo khiến cho chết như trên đã nói, nếu người nghe hiểu được thì người nói phạm Đột kiết la, nếu người nghe làm theo lời khuyên bảo đó mà tự sát mà không chết thì người nói kia phạm Thâu lan giá, nếu chết thì người nói phạm Ba la di. Nếu người đối diện nghe không hiểu, người bên cạnh nghe hiểu và làm theo lời tự sát thì người nói kia không phạm trọng; nếu người nói nhắm vào cả hai để khuyên bảo chết thì dù ai chết, người nói cũng phạm Ba la di. Nếu sai người đến chỗ người kia khen ngợi chết hay khuyên bảo khiến cho chết thì khi thốt ra lời liền phạm Đột kiết la, người được sai đến kia nói, người kia nghe rồi tự sát mà không chết thì người sai và người giết đều phạm Thâu lan giá, nếu chết thì cả hai đều phạm Ba la di. Nếu người được sai không đến chỗ người kia mà lại đến chỗ người khác nói, nếu chết thì người được sai phạm Ba la di, người sai chỉ phạm Đột kiết la. Trường hợp viết thư hay viết sách khen ngợi chết như thế sẽ sanh lên cõi trời, người đọc thư hay sách này làm theo lời khen ngợi này mà tự sát thì người viết thư hay sách phạm Ba la di; nếu viết thư hay sách xong khởi tâm hối đốt bỏ thì phạm Đột kiết la.
Trường hợp đào hầm hố... làm cho người chết là nếu Tỳ-kheo có tâm muốn giết người này nên đào hầm thì khi đào phạm Đột kiết la, người này rơi xuống hầm mà không chết thì Tỳ-kheo phạm Thâu lan giá, nếu chết thì phạm Ba la di; nếu người khác rơi xuống hầm này mà chết thì Tỳ-kheo không phạm trọng; nếu đào hầm mục đích để hại người thì bất cứ ai rơi xuống hầm chết, Tỳ-kheo đều phạm Ba la di; nếu sau khi rơi xuống hầm không chết ngay, sau đó mới chết thì Tỳ-kheo cũng phạm Ba la di; trường hợp sai người đào hầm, kết phạm cũng như trên đã nói.
Trường hợp thuyết pháp cho người bịnh nghe về khổ không vô thường vô ngã, người bịnh nghe pháp này mà tự sát thì Tỳ-kheo không phạm. Nếu Tỳ-kheo thấy người bịnh nặng, bị khổ bức bách nên khởi tâm từ bi nói: "thầy giữ giới đầy đủ sao lại chịu khổ bức bách như thế này, nếu chết nhất định sẽ sanh thiên", người bịnh nghe lời này liền bỏ ăn mà chết thì Tỳ-kheo phạm Ba la di. Vì thế Tỳ-kheo có trí huệ khi đến thăm người bịnh, cẩn thận chớ khen ngợi chết mà nên khuyên rằng: "thầy giữ giới đầy đủ, chớ sanh tâm luyến tiếc trú xứ, y vật cho đến thân quyến bạn bè..., hãy nên nhớ nghĩ Tam bảo và quán thân bất tịnh; sống trong ba cõi dù thọ hay yểu cũng chớ nên biếng nhác", người bịnh nghe lời khuyên như pháp này mà chết thì Tỳ-kheo không phạm.
Trường hợp không phạm là như có hai cha con xuất gia, người con thúc đẩy người cha đi nhanh khiến cho người cha chết, có hai câu: nếu người con nói với cha rằng: "đừng để chúng tăng đợi, chúng ta hãy đi mau", nói rồi đẩy người cha đi nhanh khiến người cha té ngã xuống đất mà chết thì người con không tội, vì không cố ý; nếu cả hai đến trong Tăng, Tăng hỏi: "thầy là con của Tỳ-kheo Ma-ha-la này hả?", Tỳ-kheo này nghe rồi sanh tâm hổ thẹn đẩy người cha té xuống đất, nhân đây mà chết thì Tỳ-kheo này phạm Ba la di, vì cố ý; nếu người cha không chết thì phạm Thâu lan giá. Nếu Tỳ-kheo khất thực được thức ăn mang về chia cho bạn đồng học hoặc cho Thượng trung hạ tòa ăn trước, kia vì ăn thức ăn này mà chết, Tỳ-kheo khất thực này do không có tâm giết nên không phạm. Lại có Tỳ-kheo do tâm dục hừng thạnh làm cho tâm loạn, muốn chế ngự mà không thể chế ngự được nên lên sườn núi cao nhảy xuống tự sát, không ngờ dưới chân núi có người đang chặt cây, Tỳ-kheo rơi xuống đè lên trên người này, người này nhân đây mà chết thì Tỳ-kheo không phạm vì không cố ý. Do nhân duyên này Phật chế ngăn Tỳ-kheo tự sát cho đến đoạn thực đều phạm Đột kiết la.
Trường hợp giết thai nhi là như người vợ có chồng đi xa, gian dâm với người khác nên có thai, khi thai lớn đến chỗ Tỳ-kheo xin thuốc trục thai, Tỳ-kheo nói: "tự đè bụng thì thai sẽ chết và ra ngoài", người nữ này nghe rồi tự đè bụng làm cho thai nhi chết thì Tỳ-kheo phạm trọng, nếu dùng cách khác để trục thai thì Tỳ-kheo không phạm. Lại như người nữ không con là người này khi mới thọ thai, do có nghiệp tội đời trước nên chúng sanh vào thai chỉ trong chốc lát liền chết; hoặc do bốn đại không điều hòa, bị phong động nên thai nhi chết, hoặc thai nằm ở chỗ có trùng ăn nên chết. Tỳ-kheo không biết nguyên nhân này nên cho uống thuốc giữ thai khiến người nữ này chết thì phạm Đột kiết la vì cho uống không đúng thuốc, không phạm trọng vì không có tâm giết. Vì thế Phật chế ngăn Tỳ-kheo không được làm thầy thuốc điều chế thuốc cho người thế tục, nếu làm thì phạm Đột kiết la; nếu vì người xuất gia điều chế thuốc thì không phạm. Nếu những vị đồng học có sẵn thuốc thì tốt, nếu không có mà mình có cũng nên cho, nếu mình cũng không có thì nên đến xin thí chủ; có năm nơi được đến xin thuốc, đó là cha, mẹ, người nuôi dưỡng cha mẹ, tịnh nhân của mình và Bạn đầu ba la sa (cận trụ nam hay nữ nương ở trong chùa, sắp xuất gia). Nếu cha mẹ giàu, có đủ thuốc hay thì Tỳ-kheo không cần điều chế thuốc cho; nếu cha mẹ nghèo có bịnh, Tỳ-kheo nên điều chế thuốc cho hoặc đưa vào chùa chăm sóc cho đến khi lành bịnh. Nếu là tịnh nhân của mình có bịnh cũng nên cho họ thuốc, có mười hạng người Tỳ-kheo nên cho thuốc, đó là anh em, chị em, cô dì, chú bác, cậu... cho đến bảy đời; nếu họ có sẵn thuốc thì Tỳ-kheo nên điều chế, nếu không có thì nên cho, sau này họ hoàn trả lại thì tốt, không hoàn trả cũng không nên đòi. Nếu không phải là mười hạng người trên mà là người khác hoặc giặc hoặc quân binh có bịnh vào chùa xin thuốc, Tỳ-kheo nếu có thuốc cho thì tốt, nếu không có nên xin thuốc từ thân quyến hoặc từ thí chủ rồi đưa cho họ cũng là tốt. Nếu thí chủ tín tâm cúng dường xem Tăng như cha mẹ mà có bịnh, Tăng khéo dùng phương tiện chỉ họ cách điều trị. Như thí chủ đến hỏi Tỳ-kheo: "mẹ con mắc bịnh , nên dùng thuốc gì và chữa trị như thế nào?", Tỳ-kheo khéo dùng phương tiện hỏi Tỳ-kheo bên cạnh: "Tỳ-kheo tên trước đây cũng mắc bịnh này đã dùng thuốc gì để trị?", đáp là đã dùng loại thuốc nên được lành bịnh; thí chủ nghe rồi liền y theo lời Tỳ-kheo nói mà mua thuốc cho mẹ mình. Như trường hợp phu nhân của vua Bà sa bà bị bịnh, sai cung nữ đến hỏi đại đức Ba đầu ma cách điều trị, đại đức cũng khéo dùng phương tiện như trên để chỉ dẫn, cung nữ nghe rồi trở về cung, y theo lới Tỳ-kheo nói mà mua thuốc cho phu nhân uống.
Sau khi lành bịnh, phu nhân cho mang nhiều y vật đến cúng dường đại đức, Tỳ-kheo khéo dùng phương tiện như thế có thể làm lợi ích chúng sanh mà bản thân cũng không phạm trái lời Phật dạy. Nếu thí chủ có bịnh sai người đến thỉnh Tỳ-kheo chú nguyện thì Tỳ-kheo nên tụng kinh cầu an cho họ, hoặc đến chỗ người bịnh thuyết pháp hay truyền giới. Tỳ-kheo khất thực được thức ăn, nếu là cha mẹ thì Tỳ-kheo được đem thức ăn này cho, nếu là người khác thì không được đem cho. Nếu có người đến xin hoặc giặc đến đòi cung cấp, Tỳ-kheo được lấy vật riêng của mình đưa cho, nếu là vật của Tăng thì phải bạch Tăng trước, Tăng hòa hợp cho mới được lấy cho. Nếu người có quyền thế đến chùa đòi lấy vật, vị tri sự vì hộ chùa nên lấy đưa cho thì tăng không nên quở trách là đã tùy ý lấy vật đem cho.
Nói trị quỷ là có Dược xoa hay bắt người ăn thịt, Tỳ-kheo tụng chú bảo nó đi, nó không đi, Tỳ-kheo nói nếu không đi sẽ giết, Dược xoa cũng không đi nên Tỳ-kheo dùng đất nặn thành tượng Dược xoa rồi tụng chú trên hình tượng này làm cho tượng gảy tay chân thì Dược xoa cũng bị gảy tay chân, làm cho đứt dầu thì Dược xoa cũng bị đứt đầu mà chết thì Tỳ-kheo phạm Thâu lan giá. Nếu Tỳ-kheo không biết trong phòng có Dược xoa ác hoặc có rắn độc hay thú dữ hại người mà bảo Tỳ-kheo kia vào, Tỳ-kheo kia vào bị Dược xoa... hại chết thì Tỳ-kheo này không phạm; nếu biết có Dược xoa ác hay rắn độc... trong phòng và có tâm muốn giết hại Tỳ-kheo kia nên bảo vào phòng, Tỳ-kheo kia bị hại chết thì Tỳ-kheo này phạm Ba la di, nếu bị hại mà không chết thì Tỳ-kheo này phạm Thâu lan giá. Nếu Tỳ-kheo biết chỗ kia là hiểm nạn mà sai Tỳ-kheo kia đi đến đó khiến người kia chết thì Tỳ-kheo phạm trọng, không chết thì phạm Thâu lan giá; nếu không biết là hiểm nạn nên sai đi thì không phạm.
Nói tưởng nghi mà giết là như có Tỳ-kheo muốn giết Tỳ-kheo oan gia nên suy nghĩ: "nếu ta giết ban ngày thì mọi người sẽ biết, nên đợi đến đêm hãy giết", nghĩ rồi đợi ban đêm đến giết Tỳ-kheo oan gia kia, trong số nhiều người, nếu tưởng và nghi Tỳ-kheo này là Tỳ-kheo oan gia mà giết chết thì phạm Ba la di. Nói giết phi nhân là như có Tỳ-kheo bị quỷ nhập, muốn cho quỷ xuất ra nên dùng cây đánh Tỳ-kheo này, không may làm cho Tỳ-kheo này chết thì không phạm trọng. Vì vậy muốn quỷ xuất ra không nên đánh, chỉ nên dùng lá cây Đa la hay vải lụa cột tay chân Tỳ-kheo bị quỷ nhập rồi tụng kinh trì chủ bảo quỷ xuất ra rằng: "ngươi không được quấy nhiễu người trì giới, hay đi đi", hoặc thuyết pháp khiến cho nó bỏ đi. Lại có Tỳ-kheo bị cây ngã đè thà giữ giới mà chết chứ không dùng búa rìu chặt cây, nếu có người đến chặt cây cứu mình ra thì tốt. Nếu có người đốt lửa, lửa cháy lan gần đến chùa, vì hộ trú xứ Tỳ-kheo khéo dùng phương tiện để dập tắt lửa đều không phạm. Hết giới Ba la di thứ ba.
"Thế tôn biết bốn đế,
Khéo nói trọng thứ tư,
Nay phân biệt giải thích,
Gọi là Ba la di".
Lúc đó Phật tại nước Tỳ xá ly..., nói bị bạch y sai khiến là cày ruộng hay làm vườn... cho bạch y, đều là những việc mà Tỳ-kheo không nên làm, việc Tỳ-kheo nên làm là giáo thọ bạch y, như trong luật đã nói. Nói sứ giả là làm sứ cho bạch y, nói hành pháp Thánh lợi là pháp vô thượng của bậc Thánh, cũng gọi là pháp hơn người, cũng gọi là pháp niết bàn. Nói đắc thiền thứ nhất... là các Tỳ-kheo ở sông Bà cầu toan tính với nhau rồi đến nói với các bạch y rằng: "có Tỳ-kheo tên chứng được Sơ thiền, Tỳ-kheo tên chứng được nhị thiền... cho đến chứng được ba đạt trí, được lậu tận A-la-hán", dù bạch y có hỏi hay không hỏi, các Tỳ-kheo này cũng khen ngợi lẫn nhau như thế để mong được các bạch y cúng dường, nhờ đó nhan sắc tươi tắn, khí lực dồi dào; do được cúng dường quá đầy đủ nên sanh phóng dật, lười biếng tọa thiền. Khi các Tỳ-kheo này đến chỗ Phật, Phật hỏi trụ chỉ có được an lạc không..., sau khi nghe biết việc này Phật liền quở trách: "các thầy làm hạnh ác này là đại giặc trong Phật pháp", quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: "có năm loại đại tặc:
1-Đại tặc ở thế gian, như có nhiều người tụ tập hoặc hai trăm cho đến năm trăm làm giặc cướp vào thôn xóm, thành ấp để đánh cướp của người. Tỳ-kheo cũng vậy, nếu phạm tội Đột kiết la hoặc Ba dật đề cho đến Ba la di, lại còn thọ người khác cúng dường tôn trọng, ngợi khen, lễ bái... Các Tỳ-kheo ác này từ bỏ thầy bạn đồng tu để kinh doanh kiếm lợi dưỡng, được lợi dưỡng rồi buông lung ăn uống nên thân thể mập mạnh, khí lực dồi dào; do đây sanh phóng dật hoặc bàn luận về thức ăn ngon hoặc về dâm dục... hoặc nói những lời thô tục, buông lung tâm ý không biết chế ngự nên đưa đến chỗ phá giới. Thật không phải là Thích tử mà xưng là Thích tử, không phải phạm hạnh mà xưng là phạm hạnh, đây là loại đại giặc thứ nhất".
-Đại tặc thứ hai là như có thiện Tỳ-kheo biết tạng kinh, hoặc giải tạng luật, tạng luận, không mong cầu được thức ăn ngon, chỉ cốt nuôi thân, trì giới thanh tịnh, thuyết pháp cho người, đầy đủ oai nghi, vân du khắp nơi để hóa độ chúng sanh, được mọi người kính trọng làm cho Phật pháp được hưng thịnh. Lại có ác Tỳ-kheo theo thiện Tỳ-kheo này thọ học, sau đó đem điều đã học thuyết giảng cho người với ngôn từ hòa nhã, khiến mọi người thích nghe và khen ngợi là người thuyết pháp hay, lại hỏi học từ ai, đáp là tự biết chứ không học từ ai.
Phật trải qua ba A tăng kỳ kiếp tu tập đủ các pháp Ba la mật, chuyên cần khổ nhọc như vậy mới chứng được diệu pháp này. Nếu Tỳ-kheo tự khen mình là không học từ ai, tức là trộm pháp và dựa vào đó để mong cầu lợi dưỡng thì gọi là đại tặc thứ hai.
-Đại tặc thứ ba là như có Tỳ-kheo tinh tấn trì giới đầy đủ, chứng được quả Tu đà hoàn... cho đến quả A-la-hán; có Tỳ-kheo phàm phu khác tự xưng mình thanh tịnh và vì ganh ghét nên đem pháp Ba la di không căn cứ vu báng vị Tỳ-kheo thanh tịnh này, thì gọi là đại tặc thứ ba.
-Đại tặc thứ tư là như Phật bảo các Tỳ-kheo:
"có năm loại trọng vật không được đem cho người, cũng không được phân chia, dù đó là Tăng hay chúng hay một người; ai cho hay phân chia thì phạm Thâu lan giá. Năm trọng vật gồm có vườn ruộng, đất đai, vật bằng gỗ, vật bằng sắt, vật bằng đất hay gốm sứ", nếu Tỳ-kheo đem loại vật trọng này cho để lấy lòng bạch y, mong họ chỉ cúng dường mình, không cúng dường người khác thì phạm Ô tha gia, gọi là đại tặc thứ tư.
-Đại tặc thứ năm là nếu Tỳ-kheo lấy vật của Tăng xem như là của mình hoặc hồi chuyển về cho mình, thọ dụng rồi đem cho người thì phạm Thâu lan giá, gọi là đại tặc thứ năm; nếu lấy với tâm trộm thì tính theo thời giá mà kết tội.
Nói pháp Thánh lợi là tự mình không có pháp Thánh lợi mà nói là có chứng có đắc pháp Thánh lợi thì gọi là đại tặc, vì vàng bạc vật báu có thể trộm được, chứ pháp này rất vi tế không thể trộm được. Sở dĩ gọi đại tặc là vì nói hư dối không thật để được nhiều lợi dưỡng, tức là trộm thức ăn của tín thí; như thợ săn muốn đến gần bắt giết nai, phương tiện dùng cây cỏ quấn thân, nai nhìn thấy cho là cây cỏ nên đến gần và bị bắt. Tỳ-kheo ác cũng vậy, không phải A-la-hán mà dối xưng là A-la-hán, hiện tướng A-la-hán; thí chủ có tín tâm cho là thật A-la-hán nên cúng dường, nếu thọ lấy thức ăn này là trộm của tín thí, như kệ nói:
"Ngoài mặc y ca sa, Trong hành pháp bất tịnh, Người đã hành ác pháp, Chết đọa vào địa ngục, Thà nuốt hoàn sắt nóng, Cháy ruột gan mà chết, Nếu đã phá giới rồi, Không thọ của tín thí".
Sau khi quở trách các Tỳ-kheo ở sông Bà cầu xong, Phật kết giới căn bản Ba la di thứ tư cho các Tỳ-kheo, sau đó tùy kết thêm câu trừ Tăng thượng mạn. Nói tăng thương mạn là người tu thiền, nhờ lực của Xa ma tha và Tỳ bà xá na mà phiền não tạm dừng, do phiền não tạm dừng, tưởng mình đã chứng đã đắc pháp Thánh lợi nên sanh mạn, gọi là hạng tăng thượng mạn.
Hỏi: đối với hạng người nào thì khởi mạn, đối với hạng người nào thì không khởi mạn?-đối với bậc Thanh văn A-la-hán thì không khởi mạn vì đã đắc quả, tất cả phiền não đã diệt trừ, dùng tuệ quán biết việc nên làm mình đã làm xong. Đối với người còn hồ nghi không biết mình đã thật chứng bốn đạo quả chưa thì không khởi mạn; đối với người phá giới cũng không khởi mạn vì tự biết mình không được pháp phần, như người ngồi thiền mà thích ngủ thì không thể khởi mạn. Người khởi mạn là người thanh tịnh trì giới tu thiền định, khi nhập thiền được đủ ba tưởng, nhờ lực của hai pháp tu Xa ma tha và Tỳ bà xá na mà phiền não không khởi, tưởng mình chứng quả nên sanh tăng thượng mạn, nói ta là A-la-hán; lời nói này không phải là hư dối không thật nên Phật nói trừ tăng thượng mạn. Hỏi: nói tuệ nhãn thì tuệ và nhãn là một hay là khác?-là một, tuệ tức là nhãn, nhãn tức là tuệ.
Nói mình được pháp hơn người là như nói tôi thấy như vậy, biết như vậy... bắt đầu từ việc đắc pháp thiền, nếu người nghe hiểu được thì liền phạm trọng. Nói dù có người hỏi hay không có người hỏi là như có người gạn hỏi: "thầy đắc pháp thiền định tam muội giải thoát này vào lúc nào, tại đâu?", hoặc hỏi: "thầy được ba tưởng vế khổ không vô ngã là nhờ tam muội hay nhờ tuệ quán, nhờ sắc hay vô sắc, nhờ nội sắc hay ngoại sắc?", hoặc hỏi: "thầy nói đã diệt trừ phiền não là đã diệt được mấy phiền não, còn lại mấy phiền não; thầy đã dùng đạo gì để diệt, dùng đạo Tu đà hoàn hay Tư đà hàm?", nếu Tỳ-kheo thật đã chứng được pháp hơn người với tuệ nhãn sẽ thấy pháp mà mình thật chứng rõ như lòng bàn tay, thì sẽ trả lời được những câu hỏi trên; người chưa thật chứng thì mê loạn trước câu hỏi nên không trả lời được. Đối với người thật chứng A-la-hán được ái tận, do trụ lâu trong giới định huệ, không có giãi đãi, tinh tân không thối chuyển, không còn nhiễm đắm nơi bốn việc cúng dường, xem chúng như hư không, thì những câu gạn hỏi trên không thể nào khủng bố họ được. Người không có thật chứng muốn cho người khác biết mình có chứng mới nói lời hư dối hoặc hiện tướng, sau đó muốn mình được thanh tịnh nên nói là tôi thật không biết, không thấy... là tự biết mình phạm Ba la di sẽ bị đọa địa ngục, như kệ nói: "Sa môn không trì giới, Chết phải đọa địa ngục"
Vì vậy nếu Tỳ-kheo tự thấy mình không thể trì giới đầy đủ thì hoàn tục làm bạch y, thà làm cư sĩ giữ năm giới mà thanh tịnh thì đối với niết bàn giải thoát sẽ không có chướng ngại; ngược lại nếu đã phạm Ba la di thì đối với việc sanh lên cõi trời còn khó, huống chi là chứng đắc niết bàn.
Nói hư dối chứng được pháp thiền là như nói chứng được Sơ thiền... cho đến tứ thiền, hoặc nói chứng pháp quán bất tịnh, pháp A na ban na niệm..., hoặc nói tôi đã lìa phiền não, đã ly dục, hoặc nói chứng ba đạt trí, lục thần thông, được biện tài vô ngại thì đều phạm trọng Ba la di. Nếu nói chứng Diệt tận định thì không phạm trọng vì định này không phải định của Thánh nhân, cũng không phải định của phàm phu. Nếu nói tôi đắc quả Tu đà hoàn từ thời Phật Ca Diếp thì không phạm trọng, vì Phật kết giới ở đời này không phải đời quá khứ. Nói hư dối có đủ ba tướng mới phạm trọng: một là khi khởi nghĩ muốn nói dối; hai là nghĩ rồi nói ra lời, người nghe nhận hiểu; ba là sau khi nói rồi tự biết là mình nói dối. Nếu trong ý nghĩ muốn nói dối nhưng khi nói ra lời lại nói thật thì không thành nói dối, vì chỉ mới khởi tâm mà tâm niệm thì khởi diệt từng sát na, niệm trước không phải là niệm sau, niệm sau không phải niệm trước. Tuy nói đủ ba tướng mới phạm trọng nhưng trong ba tướng thì tướng đầu tiên là nhân chính để kết tội. Như khởi tâm muốn nói dối mình chứng đắc Sơ thiền, nhưng khi nói ra lời lại nói là đắc nhị thiền... cho đến tứ thiền, tứ quả; người nghe hiểu được thì đều phạm trọng, nếu không hiểu thì phạm Thâu lan giá.
Nói phương tiện chuyển là như nói với bạch y rằng: "người thọ đàn việt tên __________ cúng dường y thực, phòng xá... đều là người đã chứng quả A-la-hán; tôi đã thọ đàn việt ấy cúng dường", do không tự nói tên mình nên phạm Thâu lan giá, nếu thí chủ không hiểu thì phạm Đột kiết la. Trường hợp không phạm là trừ hạng tăng thượng mạn, nếu là lỡ lời không cố ý nói dối cũng không phạm, nếu thật có chứng đắc nói với người đồng ý thì cũng không phạm, người phạm đầu tiên do Phật chưa kết giới nên không phạm và những người điên cuồng tâm loạn đều không phạm. Nhân duyên bổn khởi của giới này là từ thân, khẩu ý thuộc tánh tội.
Nếu Tỳ-kheo khởi nghĩ: "nếu ta nói ta đến ở nơi A lan nhã, họ sẽ tưởng là ta chứng được Tu đà hoàn cho đến A-la-hán, ta sẽ được nhiều lợi dưỡng", vừa khởi nghĩ như vậy liền phạm Đột kiết la, bước chân đến A lan nhã mỗi bước đều phạm Đột kiết la, sau đó có người tưởng như vậy hay không và có được lợi dưỡng hay không đều phạm Đột kiết la. Nếu Tỳ-kheo hành pháp đầu đà suy nghĩ: "ta không nên ở trong tụ lạc, nên ở nơi A lan nhã là nơi thanh tịnh, ta mới chứng được đạo quả; nếu đến A lan nhã rồi mà không chứng được A-lahán thì ta sẽ không rời khỏi chỗ ấy", hoặc nghĩ: "Phật khen ngợi Tỳ-kheo sống nơi A lan nhã, các bạn đồng học thấy ta trụ nơi A lan nhã cũng sẽ thích trụ", nghĩ như vậy thì không phạm. Nếu Tỳ-kheo suy nghĩ: "ta muốn vào tụ lạc khất thực, hiện tướng đã được pháp Thánh lợi..." thì phạm Đột kiết la, nhưng nếu suy nghĩ: "ta muốn vào tụ lạc khất thực, các bạn đồng học thấy ta mang bát khất thực sẽ khen ngợi đây là pháp chân thật của Như lai, nếu không hành theo thì rất hổ thẹn", thì không phạm. Nếu Tỳ-kheo ở chỗ vắng vẻ không người tự nói ta chứng A-la-hán thì phạm Đột kiết la; nếu Tỳ-kheo bịnh khổ nói rằng: "người khác không thể chịu đựng được nhưng tôi có thể chịu đựng được bịnh khổ này" thì không phạm, nhưng nếu nói: "kẻ phàm phu không thể chịu đựng được, chỉ có tôi mới chịu đựng được bịnh khổ này" thì phạm Thâu lan giá. Nếu Bà la môn tín tâm gặp Tỳ-kheo chào hỏi: "thiện lai A-la-hán", khi đem thức ăn ra cúng dường cũng nói: "lành thay A-la-hán", do tín tâm nên gọi Tỳ-kheo là A-la-hán, Tỳ-kheo thọ sự cung kính cúng dường này không phạm, nhưng trong kinh Phật nhắc nhở các Tỳ-kheo: "khi thọ sự cung kính cúng dường như vậy nên sanh tâm hổ thẹn, siêng năng hành đạo để cầu chứng quả A-la-hán". Nếu Tỳ-kheo nói: "tôi đã dứt pháp thế tục", hoặc nói: "tôi đã xa lìa pháp bạch y", do không phải tự khen nên không phạm. Nếu trong Tăng lập chế người nào ra khỏi chùa trước tiên, người ấy là A-la-hán; nếu Tỳ-kheo muốn cho người khác tưởng mình là A-la-hán nên cố ý đi ra khỏi chùa trước thì phạm Ba la di; nếu có duyên sự liên quan tới thầy hay cha mẹ hoặc do Tăng sai nên ra khỏi chùa trước thì không phạm; nếu là Ái tận Tỳ-kheo vì có duyên sự gấp khi ra khỏi chùa hiện tướng A-la-hán hoặc dùng thần lực để đi đều không phạm. Nếu Tỳ-kheo ở A lan nhã lập chế người nào ngồi dưới gốc cây này hoặc kinh hành nơi này, người ấy là A-lahán; nếu Tỳ-kheo muốn người khác tưởng mình là A-la-hán nên đến ngồi dưới gốc cây đó hoặc kinh hành nơi đó thì phạm Ba la di. Nếu trong Tăng lập chế trong ba tháng hạ an cư không được cùng nói chuyện, không được ngủ nghỉ và không thọ thí chủ cúng dường thì lập chế này là phi pháp, Tỳ-kheo không tuân hành theo không phạm.
Lúc đó tôn giả Mục kiền liên xuất gia được bảy ngày thì đắc đạo quả, bỗng mỉm cười; trưởng lão Lặc khư dật có thân tướng như Phạm vương, cùng một ngàn Phạm chí khác đồng là thiện lai xuất gia đắc giới cụ túc, nhờ nghe kinh Kim quang minh mà chứng quả A-la-hán, khi thấy Mục kiền liên mỉm cười liền hỏi nguyên do, Mục kiền liên nói là đã nhìn thấy các chúng sanh có thân hình như bộ xương không có da thịt..., các Tỳ-kheo nghe rồi liền quở trách Mục kiền liên là nói hư dối không thật, Mục kiền liên nói: "nếu trưởng lão muốn biết xin hãy hỏi Phật trước", Phật nói Mục kiền liên đã thấy bằng tuệ nhãn.
Hỏi: vì sao tôn giả Mục kiền liên thấy các ngạ quỷ chịu khổ báo như vậy, không khởi tâm từ bi mà lại mỉm cười?-vì lúc đó tôn giả suy nghĩ: "nhờ thần lực của Phật và với tuệ nhãn, ta mới thấy được chúng sanh vi tế như thế, như khổ báo của các ngạ quỷ này, ta đã được thoát khỏi, ta được thiện lợi, nhân duyên quả báo thật không thể nghĩ bàn", do nghĩ về mình nên mới mỉm cười. Lúc đó Phật bảo các Tỳ-kheo: "ta đã từng thấy các chúng sanh như vậy, khi ngồi dưới cội Bồ đề chứng được Nhất thiết trí, ta đã thấy có vô lượng vô biên chúng sanh ở những trú xứ không thể nghĩ bàn trên thế giới, như nhìn trái xoài trong lòng bàn tay". Nói ngạ quỷ có thân hình như bộ xương, không có da thịt bị chim mỏ sắt rượt đuổi mổ cắn nên kêu gào... là do trong quá khứ làm người giết bò hoặc giết nai, heo..., giết rồi lóc thịt đem bán, còn lại bộ xương đem treo trên móc; hoặc xẻ thịt làm thịt khô treo trên móc... do làm nghiệp ác này nên sau khi chết đọa vào địa ngục chịu khổ báo, do dư nghiệp chưa hết nên sau khi ra khỏi địa ngục phải thọ thân ngạ quỷ này. Nói ngạ quỷ có âm tàng lớn như cái lu là do đời trước làm trưởng thôn xử đoán việc không lương thiện, nhận tài vật đúc lót thì che giấu tội cho họ, không được đúc lót thì vô tội cũng xử thành có tội; sau khi chết đọa vào địa ngục chịu khổ báo, do dư nghiệp chưa hết nên sau khi ra khỏi địa ngục phải thọ thân ngạ quỷ này. Như thế cho đến các ngạ quỷ có thân hình hôi hám, lở loét, không có da thịt... đều là do dư nghiệp chưa hết nên sau khi ra khỏi địa ngục phải thọ thân ngạ quỷ như thế.
Trường hợp Mục kiền liên nói suối nước nóng bắt nguồn từ núi Tỳ bà la, bị các Tỳ-kheo quở trách là nói hư vọng không thật, được Phật giải thích là do nước sông này chảy ngang qua hai địa ngục nóng tên là Hoạch thang, hơi nóng từ địa ngục này bốc lên làm cho nước sông sôi sục thành suối nước nóng như thế. Như thế cho đến các trường hợp Mục kiền liên nói vua Bình sa đánh nhau với các Ly xa tử bị thua trận và trong thiền định nghe tiếng voi rống, như trong luật bổn đã nói đều là do tuệ nhãn thấy biết được mà nói nên không phạm. Có hai loại tiếng voi rống: một là voi nhỏ muốn qua sông thấy nước sâu nên kinh sợ rống lên, hai là voi lớn được xuống nước nên sung sướng rống lên. Trường hợp Tỳ-kheo Nghiêm hảo nhớ được năm trăm kiếp của quá khứ, đây là một đời nối tiếp nhau nhưng không nhớ biết lúc chuyển sanh, được Phật ngợi khen là bậc nhất nhớ về quá khứ. Vị này trong quá khứ chứng được thiền thứ tư của ngoại đạo, sau khi qua đời sanh lên cõi Vô sắc, hết tuổi thọ lại từ cõi này sanh xuống cõi người, xuất gia trong Phật pháp, chứng ba đạt trí và nhớ được năm trăm kiếp trong quá khứ của mình mà nói ra nên không phạm.
Trong Ba la di có tất cả hai mươi bốn loại: Tỳ-kheo có bốn, Tỳ-kheo-ni có tám trong đó có bốn pháp đồng và bốn pháp không đồng với Tỳ-kheo, lại thêm mười một hạng người không đắc giới: một là huỳnh môn, hai là phi nhân, ba là người hai căn, ba hạng người này không chướng ngại việc sanh thiên, nhưng chướng ngại việc chứng đạo quả nên gọi là Ba la di (Bất cọng trụ); bốn là tặc trụ, năm là phá nội ngoại đạo, sáu là giết cha, bảy là giết mẹ, tám là giết A-la-hán, chín là hoại tịnh hạnh Tỳ-kheo-ni, mười là làm thân Phật chảy máu, mười một là phá hòa hợp Tăng; trong đây ba hạng tặc trụ, phá nội ngoại đạo, hoại tịnh hạnh ni đều không chướng ngại việc sanh thiên nhưng chướng ngại chứng đạo quả; năm hạng giết cha...cho đến phá hòa hợp Tăng, do phạm tội nghịch nên chướng cả hai việc sanh thiên và chứng đạo quả. Nói Bất cọng trụ là không được ở chung cùng thuyết giới bố tát, tự tứ và làm các yết ma khác. Hết phẩm Ba la di
"Hết phẩm Ba la di,
Kế đến mười ba pháp,
Các vị hãy lắng nghe,
Nghĩa của mười ba pháp"
Lúc đó Phật du hành đến thành Xá vệ, nói lúc đó là chỉ cho lúc Phật kết giới, nói du hành là bao gồm bốn oai nghi đi đứng nằm ngồi. Xá vệ là tên của đạo sĩ, thuở xưa có một đạo sĩ trụ nơi đây, có một vị vua thấy được sự tốt đẹp của vùng đất này nên đến xin đạo sĩ cho kiến lập thành ấp để lập quốc nơi đây và lấy tên đạo sĩ làm tên thành. Xá vệ còn có nghĩa là nhiều, do trong nước này quy tụ hết những vật quý hiếm của các nước khác, như kệ nói:
"Thành Xá vệ rất đẹp,
Người ngắm không biết chán,
Đủ mười loại âm nhạc,
Có tiếng mời ăn uống,
Phồn thịnh, nhiều vật quý,
Như cung trời Đế thích"
Tỳ-kheo Ca lưu đà di do tâm dục hừng thạnh, nhan sắc tiều tụy, thân thể hao gầy nên cố ý xuất tinh. Nói tâm loạn ngủ nghỉ là khi ngủ không chánh niệm, như trong kinh Phật bảo các Tỳ-kheo nếu muốn ngủ trước phải nhớ nghĩ bây giờ là lúc nào và khi nào sẽ thức dậy, nên niệm Phật và nhớ nghĩ đến một trong mười thiện pháp rồi mới ngủ. Nói trừ trong mộng là vì Phật kết giới dựa trên thân nghiệp, không dựa trên ý nghiệp. Nói tinh có bảy loại, giải thích rộng ra thì có mười là xanh, vàng, đỏ trắng, màu vỏ cây, màu sữa...; nói xuất là rời khỏi chỗ cũ, tức là nơi eo lưng, nếu tinh rời khỏi chỗ cũ đi đến đường tiểu tiện và xuất ra thì Tỳ-kheo phạm Tăng tàn; nếu do trời nóng, làm việc, đi lại hay bịnh tật mà tinh tự xuất thì không phạm. Có bốn trường hợp mộng:
-Mộng do bốn đại không điều hòa, như mộng thấy núi lở hoặc bay lên không trung, hoặc bị cọp sói... rượt, đều là cảnh hư vọng không thật.
-Mộng do việc đã gặp trước đó, như ban ngày gặp nam nữ... nên ban đêm nằm ngủ mộng thấy, cũng là cảnh hư vọng không thật.
-Mộng thấy thiên nhân, nếu mộng thấy thiện tri thức thiên nhân thì gọi là mộng điềm lành, nếu mộng thấy ác tri thức thiên nhân thì gọi là ác mộng 4-Mộng tưởng là do tiền thân của người này nếu có phước đức thì mộng thấy điềm lành, như mẹ của Bồ tát mộng thấy voi trắng sáu ngà nhập vào hông bên phải mà thọ thai; nếu có tội nghiệp thì mộng thấy là ác mộng.
Hỏi: mộng tưởng này lúc đang mộng mà có thể phân biệt được thì không phải là mộng tưởng phải không?-cũng không ngủ, không thức; nếu nói ngủ mà thấy mộng thì trái với A tỳ đàm, nếu nói thức mà thấy mộng đang hành dục thì trái với luật-sao nói là trái?-nếu mộng thấy hành dục mà kết tội thì không có ai thoát tội cả, nên trong luật nói trừ trong mộng-nếu như vậy thì mộng này không thật?-không phải là không thật, vì như con khỉ ngủ nên có mộng-mộng là thiện, bất thiện hay vô ký?-cũng thiện, cũng bất thiện, cũng vô ký; như mộng thấy Phật nghe pháp là thiện, mộng thấy hành dục hay sát sanh là bất thiện, mộng thấy sắc xanh vàng... là vô ký-thấy mông như vậy thì có thọ quả báo không?-không thọ quả báo, vì sao, vì tâm nghiệp yếu không đủ sức chiêu cảm quả báo, nên trong luật nói trừ trong mộng. Nói Tăng già bà thi sa nghĩa là Tăng tàn, tức là Tỳ-kheo phạm tội này nếu muốn được thanh tịnh phải đến trong Tăng xin cho pháp biệt trú, hành biệt trú xong lại xin cho hành pháp sáu đêm Ma na đỏa, hành Ma na đỏa xong mới xin Tăng cho xuất tội. Phạm tội này chỉ có Tăng mới trị được, không phải một, hai ba người có thể trị được nên gọi là Tăng già bà thi sa. Nói nên biết phương tiện là biết ta đang xuất tinh là xuất nội sắc hay ngoại sắc hay cả nội ngoại sắc hay là trong hư không làm động. Nói thời khởi là có năm thời: một là khi dục khởi, hai là khi đại tiện khởi, ba là khi tiểu tiện khởi, bốn là khi gió động khởi và năm là khi trúng xúc chạm liền khởi. Nói khi dục khởi là khi tâm dục khởi thì nam căn cứng muốn thọ lạc nên xuất tinh, bốn thời kia cũng vậy; nếu cố ý làm xuất tịnh thì phạm Tăng già bà thi sa, nếu cố ý làm mà tinh không xuất thì phạm Thâu lan giá, nếu không cố ý mà tinh tự xuất thì không phạm. Có mười một trường hợp xuất tinh:
-Muốn thọ dục lạc nên xuất tinh là khi tâm dục khởi lên, muốn thọ lạc nên cố ý làm cho xuất tinh, nếu tinh xuất thì phạm Tăng già bà thi sa, nếu tinh không xuất thì phạm Thâu lan giá. Tỳ-kheo khi nằm ngủ tâm tưởng dục nên làm phương tiện để thọ lạc thì phạm, vì vậy khi dục khởi nên quán bất tịnh để diệt dục, nếu ngủ với tâm thanh tịnh mà trong mộng xuất tinh thì không phạm.
-Khi đang xuất tinh thọ lạc là do trong mộng thấy hành dục nên xuất tinh, nếu liền tỉnh thức mà không động căn thì không phạm; nếu động căn để thọ lạc thì phạm.
-Sau khi xuất tinh thọ lạc là sau khi xuất tinh muốn thọ lạc nên tiếp tục động căn thì phạm.
-Dâm dục thọ lạc nên tinh xuất là khi tâm dục khởi xúc chạm người nữ để thọ lạc nên tinh xuất thì phạm.
-Xúc chạm thọ lạc nên xuất tinh là do 2 trường hợp nội xúc và ngoại xúc, nội xúc là sờ nắn căn để thọ lạc thì phạm; ngoại xúc là xúc chạm thân người nữ để thọ lạc thì phạm.
-Do gãi ngứa thọ lạc nên xuất tinh là do bị ngứa nên nam căn khởi, dùng tay gãi nên xuất tinh thì không phạm, nếu khi gãi động căn để thọ lạc thì phạm.
-Do thấy nên xuất tinh là do thấy thân người nữ, căn khởi nên xuất tinh thì không phạm, nếu động căn để thọ lạc thì phạm.
-Do ngồi nên xuất tinh là do ngồi nói chuyện với người nữ nơi khuất kín, tâm dục khởi nên xuất tinh thì phạm.
-Do nói chuyện nên xuất tinh là do ngồi với người nữ nơi chỗ khuất kín và nói những lời trăng gió thô tục nên xuất tinh thì phạm.
-Do tình thân nên xuất tinh là Tỳ-kheo về nhà thăm cha mẹ anh chị em, khi xúc chạm không có thọ lạc mà xuất tinh thì không phạm trọng, nếu cố ý xúc chạm để thọ lạc mà xuất tinh thì phạm.
-Do bẻ cây tặng nên xuất tinh là như trai gái thế gian đưa hoa tặng biểu đạt tình ý, nếu Tỳ-kheo do tâm dục khởi đưa vật tặng cho người nữ để biểu đạt tình ý, nhân dây xuất tinh thì phạm.
Nói không phạm là trừ trong mộng, người phạm đầu tiên khi Phật chưa kết giới và người điên cuồng tâm loạn. Hết pháp Tăng già bà thi sa thứ nhất.
Lúc đó Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng Thệ đa, thành Xá vệ...; nói do dâm dục biến tâm là tâm khởi dục nên sanh nhiễm dục, chạy theo ý dục, không có hổ thẹn như voi bị lún bùn không thể ra khỏi nên xúc chạm thân người nữ để thọ lạc, trước là nắm tay, sờ tóc... cho đến mỗi mỗi thân phần của người nữ, tưởng biết là nữ thì Tỳ-kheo phạm Tăng tàn. Như thế cho đến nắm kéo, xô đẩy, ôm... người nữ, tưởng biết là người nữ thì phạm Tăng tàn, nghi thì phạm Thâu lan giá; nếu tưởng là huỳnh môn hoặc người nam hoặc phi nhân thì phạm Thâu lan giá, nghi thì phạm Đột kiết la. Tùy xúc chạm bao nhiêu thân người nữ thì phạm Tăng tàn bấy nhiêu, xúc chạm y phục thì phạm Thâu lan giá, như kệ nói:
"Xứ tưởng và xúc dục,
Chân thật không hồ nghi,
Như trong luật đã nói,
Tội trọng thầy nên biết".
Xứ là chỉ cho người nữ, tưởng là tưởng biết người nữ, xúc là xúc chạm, dục là tâm khởi dục nên xúc chạm, đủ bốn yếu tố này thì phạm Tăng tàn; nếu thiếu một yếu tố thì phạm Thâu lan giá. Nếu biết thật là người nữ, tâm khởi dục nên xúc chạm thì phạm Tăng tàn; nếu tưởng không phải là người nữ mà xúc chạm thì phạm Đột kiết la. Nếu người nữ ngồi gần Tỳ-kheo, do tâm dục khởi xúc chạm, Tỳ-kheo có tâm dục động thân thì phạm Tăng tàn; nếu không động thân thì không phạm, nếu hiện tướng như đưa mắt nhìn thì phạm Đột kiết la; nếu đưa tay đẩy người nữ ra để gìn phạm hạnh thì không phạm; không cố ý xúc chạm nên không phạm; bị người nữ xúc chạm mà không thọ lạc thì không phạm. Người phạm đầu tiên khi Phật chưa kết giới và người điên cuồng tâm loạn đều không phạm. Hết Tăng già bà thi sa thứ hai.
Giới xúc chạm này từ thân và tâm phát sanh cảm thọ khổ và lạc; nếu vì nhớ thương mẹ hoặc chị em gái mà xúc chạm thì phạm Đột kiết la; sờ chạm y phục đồ dùng của người nữ đều phạm Đột kiết la; sờ chạm tượng người nữ bằng gỗ hay đất hay gốm sứ hay tranh vẽ đều phạm Đột kiết la. Đối với mười loại vật báu như chân châu, ma ni châu, xa cừ, mã não... cho đến những vật dụng làm bằng vàng bạc, lưu ly bảy thứ báu, Tỳ-kheo đều không được cầm; được ngồi trên tòa báu để thuyết pháp; cho đến các loại binh khí, nhạc khí Tỳ-kheo cũng không được cầm.
Đối với phi nhân nữ như thiên nữ, long nữ, Dược xoa nữ... Tỳ-kheo đều không được chạm hay nắm, nếu chạm hay nắm thì phạm Đột kiết la. Nếu cùng người nữ qua cầu ván hay cầu tre, Tỳ-kheo khởi tâm dục làm cho cầu rung thì phạm Đột kiết la; cùng đi thuyền bè cũng vậy. Thấy người nữ leo lên cây, Tỳ-kheo khởi tâm dục rung cây cũng phạm Đột kiết la; Tỳ-kheo nắm đầu dây bên này, người nữ nắm đầu dây bên kia, Tỳ-kheo khởi tâm dục kéo động dây, dây động thì phạm Thâu lan giá, dây không động thì phạm Đột kiết la. Hết phần tùy kết của Tăng già bà thi sa thứ hai.
Lúc đó Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng Thệ đa, thành Xá vệ... Tỳ-kheo Ô đà di khi dạy bảo hay thuyết pháp, do tâm khởi dục nên nói lời thô tục với người nữ. Nói lời thô tục là như trai gái thế gian nói lời có tình ý, có ý dâm hoặc khen người nữ đẹp xấu...; hoặc hỏi về mối quan hệ vợ chồng của người nữ, hoặc tư vấn chuyên yêu đương của nam nữ... trong lời nói có tình ý với người nữ thì Tỳ-kheo phạm Tăng tàn. Tỳ-kheo khi thuyết pháp cho Tỳ-kheo-ni, khởi tâm dục nói lời thô tục cũng phạm Tăng tàn. Trường hợp không phạm là người phạm đầu tiên, người điên cuồng tâm loạn.
Giới nói lời thô tục này do tâm khởi dục nên miệng mới nói ra lời thô tục thuộc tánh tội, tạo nghiệp nơi thân khẩu; nếu Tỳ-kheo khởi tâm dục, làm phương tiện mượn sự vật nói bóng gió để biểu lộ tình ý, người nữ nghe hiểu thì Tỳ-kheo phạm Đột kiết la; người nữ nghe mà không hiểu thì Tỳ-kheo không phạm. Hết Tăng già bà thi sa thứ ba.
Phật tại nước Xá vệ, lúc đó Tỳ-kheo Ô đà di quen biết nhiều nên thường lui tới nhà họ để được họ cúng dường tứ sự, do tâm khởi dục nên đối trước người nữ khen ngợi việc cúng dường thân (làm việc dâm dục) là bậc nhất trong các sự cúng dường. Phật nhân việc này kết giới khen ngợi cúng dường thân, như nói: "cô thuộc dòng Sát đế lợi, tôi cũng thuộc dòng Sát đế lợi, cô hãy cùng tôi làm việc dâm dục", thì Tỳ-kheo phạm Tăng tàn. Trường hợp không phạm là người phạm đầu tiên, người điên cuồng tâm loạn. Hết Tăng già bà thi sa thứ tư.
Phật tại nước Xá vệ kết giới làm mai mối.
Nói người có trí huệ là người thông minh, hiểu rõ mọi việc và biết lo liệu việc nhà, không biếng nhác và có hổ thẹn. Nói mai mối là nói với đồng nữ: "chàng trai này tốt, cô nên lấy làm chồng", sau đó đến nói với chàng trai: "cô gái ấy làm việc rất giỏi giang, trung thực không dối trá, không tà vạy, cậu nên cưới làm vợ", hoặc khi mai mối đàn việt nói: "đại đức, chúng tôi không biết rõ người này, chưa biết tốt xấu, là con nhà ai, tên họ là gì, làm sao dám gả con gái cho họ; nhưng nếu đại đức làm mai thì tôi sẽ gả, hôn nhân đại sự của con gái tôi xin ủy thác cho đại đức", hoặc sau khi mai mối thành rồi, cô gái về nhà chồng được một tháng thì bên nhà chồng đã giao phó việc nhà, làm việc nặng nhọc xem như tỳ nữ, Ô đà di thấy vậy nên khuyên can, đàn việt nói: "đại đức là người xuất gia chỉ nên biết pháp xuất gia, đừng quan tâm tới việc thế tục, nếu quan tâm tới việc nhà của thế tục thì người đó không phải là Sa môn", Ô đà di nghe rồi im lặng. Nếu Tỳ-kheo nhận lời bên này đến nói với bên kia rồi trở về báo lại thì phạm Tăng già bà thi sa.
Người nữ có mười loại bảo hộ: cha, mẹ bảo hộ, anh em, chị em bảo hộ, tông thân bảo hộ, tộc họ bảo hộ, đồng pháp hộ, vương pháp hộ. Lại có nhiều loại vợ:
-Vợ do dùng vật mua, chuộc hay đổi mà được.
-Vợ do thích ở chung nên đến làm vợ.
-Vợ do cầu y thực nên chịu làm vợ. 4-Vợ do dùng nước rưới mà được.
-Vợ do thảy vòng mà được
-Vợ vốn là tỳ nữ giúp việc trong nhà, hoặc người làm thuê, sau trở thành vợ.
-Vợ do dựng cờ mà được, tức là đem binh đánh phá nước khác, bắt được phụ nữ đem về làm vợ.
Làm mai mối có đủ sáu việc thì thành phạm: một là gật đầu, hai là ấn dấu tay, ba là miệng nhận lời, bốn là thân động, năm là nhận thư, sáu là đủ năm việc trên. Giới này thuộc chế tội, không phải tánh tội; trường hợp không phạm là người phạm đầu tiên, người điên cuồng tâm loạn. Hết giới Tăng già bà thi sa thứ năm.
Lúc đó Phật tại vườn Trúc Ca lan đà, thành Vương xá; Tỳ-kheo A la tỳ ca do sanh trong tụ lạc A la tỳ ca nên được đặt tên này, vị này muốn xây cất phòng cho mình do không có thí chủ nên tự mình đi khắp nơi cầu xin vật liệu hoặc hỏi mượn khí cụ... mà phế bỏ việc chánh tu. Tỳ-kheo có thể đến khí cụ cuốc xẻng nơi người làm ruộng, có thể đến xin vật liệu hoặc tiền bạc nơi thợ đục đá, thợ mộc, thợ gốm... nhưng không được đến xin thợ săn và người bắt cá vì sợ nhân việc này, họ tăng cường việc săn bắt. Có thể sai khiến những người sống nhờ vào thức ăn dư của Tăng trong việc xây cất, nên cho họ thức ăn, không nên cho tiền bạc. Nếu vì việc xây cất mà phi thời vào tụ lạc khất thực thì nên đậy bát lại, nếu thí chủ hỏi cần gì, nên đáp là xin dầu (cơm, thức ăn...) cho người làm việc xây cất phòng xá. Tỳ-kheo làm phòng nên làm đúng lượng, tức là chiều dài mười hai gang tay của Phật, rộng bảy gang tay, một gang tay của Phật bằng ba gang tay người thường; nếu làm quá lượng thì phạm, bắt đầu từ lúc khởi công cho đến khi còn hai ky đất nữa là hoàn thành thì phạm Đột kiết la, còn một ky đất thì phạm Thâu lan giá, đắp hết ky đất cuối cùng thì phạm Tăng già bà thi sa. Tỳ-kheo muốn làm phòng nên đến trong Tăng bạch ba lần xin, Tăng nên đến xem xét chỗ muốn xây, nếu Tăng không đến thì Tăng nên sai một Tỳ-kheo có trí huệ đến đó xem xét chỗ muốn xây phòng có nạn hay chướng ngại gì không rồi mới cho xây. Nói nạn xứ là chỗ đó có các nạn như cọp, sói, sư tử... cho đến kiến mối, nếu trong chỗ đó có tổ kiến hay tổ mối thì không được xây, nếu chỉ là trên đường đi kiếm mồi của chúng thì nên đuổi chúng đi rồi mới được xây; đây là Phật vì thương xót chúng sanh và Tỳ-kheo nên khai cho xây. Nói phương xứ là chỗ có chướng ngại như là vườn ruộng của người hoặc gần chỗ oan gia, chỗ giặc cướp, gần Thi lâm, gần nhà ở của vua... thì không được xây. Nếu Tỳ-kheo xây nhà gạch quá lượng thì tùy số gạch nhiều ít mà kết phạm bấy nhiêu tội Đột kiết la, đến hai viên cuối cùng thì phạm Thâu lan giá, xây xong viên cuối cùng thì phạm Tăng già bà thi sa. Nếu Tỳ-kheo không có thí chủ, làm phòng cho mình ở chỗ có nạn hay có chướng ngại, không thỉnh Tăng đến xem xét chỉ chỗ và làm quá lượng thì phạm Tăng già bà thi sa; nếu làm nhà thuyết giới, nhà ăn... cho Tăng, không phải cho mình ở thì không phạm. Giới này có đủ sáu duyên thì thành phạm: một là tự làm, hai là bảo người làm, ba là không thỉnh Tăng chỉ chỗ, bốn là làm quá lượng, năm là chỗ có nạn, sáu là chỗ có chướng ngại. Hết Tăng già bà thi sa thứ sáu.
Lúc đó Phật tại vườn Cù tư đa nước Câu tham tỳ (Kiều thiểm tỳ), Cù tư đa vốn là tên của một trưởng giả tử đến nói với Tỳ-kheo Xiển na: "đại đức hãy chỉ chỗ, tôi sẽ xây cất chùa cho đại đức", Xiển na chỉ chỗ có chướng ngại là nơi có đại thọ vốn là chỗ ở của quỷ thần, được dân chúng thờ cúng nên Phật chế giới này. Giới này khác giới trên ở chỗ có thí chủ và làm chùa lớn, ngoài ra đều giống như giới trên.
Lúc đó Phật vườn Trúc lâm, thành Vương xá, vườn này có rừng tre bao bọc chung quanh, tre cao mười tám khuỷu tay, nhìn xa mù mịt như mây đen, còn gọi là vườn Ca lan đà. Tỳ-kheo Đạp bà ma la tử vốn là vương tử xuất gia năm bảy tuổi, lúc cạo tóc, tóc vừa rụng xuống đất liền chứng quả A-lahán, đắc ba đạt trí, đủ sáu thần thông, bốn vô ngại biện, là bậc nhất thông đạt tất cả sự hiểu biết của Thanh văn. Vị này ở nơi yên tĩnh nhập thiền định, sau khi xuất định tự nghĩ: "ta tu thiện pháp đã hoàn mãn, nay nên làm người chia phòng xá và thức ăn uống cho Tăng", vì đây là thân sau cùng và cũng là do nguyện lực đời trước nên Đạp bà ma la tử muốn làm việc này; lại do thấy các Tỳ-kheo từ phương xa đến viếng thăm Thế tôn mà không có phòng ở và thấy các Tỳ-kheo nhỏ tuổi vì cung kính các bậc cao đức nên không dám thọ thỉnh trước, ăn uống thiếu thốn nên thân thể suy nhược. Do những nguyên nhân này nên Tỳ-kheo Đạp bà ma la tử muốn làm người phân chia phòng xá ngọa cụ và thức ăn bình đẳng cho Tăng, muốn Tăng được trụ chỉ an lạc. Nói nguyện lực đời trước là quá khứ có Phật hiệu là Ba đầu vật đa la, Đạp bà ma la tử sanh trong nhà một cư sĩ, lúc đó trong nước có đại hội, dân chúng thỉnh Phật và Tăng cúng dường suốt trong bảy ngày. Lúc đó có một Tỳ-kheo La hán dùng thần lực của mình để phân chia phòng xá ngọa cụ và thức ăn uống cho sáu vạn tám ngàn Tỳ-kheo tăng trong đại hội. Đạp bà ma la tử nhìn thấy việc này sanh tâm hoan hỉ, đến chỗ Phật đảnh lễ rồi phát nguyện: "con nguyện vào thời Phật ở đời vị lai, con được xuất gia học đạo và mau chứng quả A-la-hán, con sẽ làm người phân chia phòng xá ngọa cụ và thức ăn uống cho Tăng, giống như vị A-la-hán trong đại hội này", Phật liền dùng thiên nhãn quán ở đời vị lai, nguyện lực của thiện nam tử này có được thành tựu không; quán biết rồi mới nói với Đạp bà ma la tử: "vị lai trăm ngàn kiếp sau, có Phật ra đời hiệu là Thích ca Mâu ni, con sẽ được xuất gia vào năm bảy tuổi, tóc cạo vừa rơi xuống đất liền chứng được quả A-la-hán, có đủ sáu thần thông và nguyện lực này được thành tựu". Từ đó về sau Đạp bà ma la tử bố thí trì giới và được sanh thiên, từ cõi trời qua đời sanh xuống nhơn gian, cứ như thế cho đến khi Phật Thích ca Mâu ni ra đời, mới từ cõi trời hạ sanh làm người, bảy tuổi xuất gia... như trên. Vị này sau khi suy nghĩ như thế rồi liền đến chỗ Phật đảnh lễ bạch rằng: "cúi xin Thế tôn cho con hai nguyện: một là phân chia phòng xá ngọa cụ cho Tăng, hai là phân chia thức ăn và sai phó hội", Phật nói lành thay rồi bảo các Tỳ-kheo tác yết ma sai Đạp bà ma la tử làm người phân chia phòng xá ngọa cụ, phân chia thức ăn và sai phó hội (cắt đặt người đi thọ thỉnh thực). Khi phân chia phòng xá, Đạp bà ma la tử sắp xếp cho người đồng học một pháp ở chung phòng với nhau, người học kinh ở chung phòng với nhau, người học luật ở chung phòng với nhau, người học luận ở chung phòng với nhau, người thuyết pháp ở chung phòng với nhau...là muốn cho họ được trụ chỉ an lạc. Nói dùng thần lực phân chia ngọa cụ là Đạp bà ma la tử nhập Hỏa quang tam muội, khi xuất định từ đầu ngón tay thứ hai của tay phải phóng ra ánh sáng để phân chia nên không bao lâu tiếng tăm vang khắp cõi Diêm phù đề.
Có thí chủ thường đến trong chùa thỉnh Tăng về nhà thọ thực, hôm đó đến hỏi Đạp bà ma la tử: "hôm nay đến lượt ai thọ con thỉnh thực?", đáp là đến lượt Tỳ-kheo Từ địa thọ thỉnh thực. Thí chủ này nghe rồi trong lòng không vui, về đến nhà bảo gia nhân: "ngày mai đến lượt Tỳ-kheo Từ địa thọ thỉnh thực, chớ làm thức ăn giống như bữa trước và trải tòa ngồi ở bên ngoài để thọ thực", gia nhân làm theo như lời chủ dặn. Tỳ-kheo Từ địa khi được sai đi thọ thỉnh thực, thường gặp thức ăn thô dỡ nên trong lòng vốn đã không vui, nay lại gặp thức ăn dỡ nữa nên trở về nói với đồng bạn: "hôm qua thí chủ này có đến gặp Đạp bà ma la tử, chắc là Đạp bà ma la tử đã bảo dọn thức ăn thô dỡ và trải tòa bên ngoài cho tôi ngồi thọ thực", do nguyên nhân này khởi tâm sân giận nên xúi bảo Tỳ-kheo-ni Từ địa đem pháp Ba la di vu báng Đạp bà ma la tử. Lúc đó Phật hỏi Đạp bà ma la tử: "thầy nhớ có làm việc này không?", đáp: "Thế tôn là bậc Nhất thiết trí biết rõ con, con là Lậu tận A-la-hán", Phật nói: "thầy không nên nói như thế, nếu thầy có làm việc này thì ở trong chúng nói là có, nếu không làm thì ở trong chúng nói là không", đáp: "con thật không có làm việc này, cho dù trong mộng cũng không có làm". Sở dĩ Phật bảo Đạp bà ma la tử nói ở trước chúng tăng là để ngăn Tỳ-kheo không có hổ thẹn phỉ báng Phật là tùy ái, tùy sân mà tạo nghiệp đọa địa ngục. Nói diệt tẫn Tỳ-kheo-ni Từ địa là Phật bảo các Tỳ-kheo-ni tác pháp diệt tẫn vì Tỳ-kheo-ni này tự nói phạm Ba la di. Diệt tẫn có ba trường hợp:
-Diệt tẫn hay diệt thân là bị đuổi về việc mà mình đã làm là tội Ba la di.
-Diệt không cho ở chung là trường hợp phạm tội không chịu sám hối hoặc không chịu bỏ ác tà kiến.
-Diệt phạt là trường hợp bị Tăng trị phạt tẫn (xả trí). Trong ba trường hợp trên thì Tỳ-kheo-ni Từ địa bị tẫn ở trường hợp thứ nhất. Tỳ-kheo-ni vốn là người thanh tịnh, do nghe lời xúi bảo của Tỳ-kheo Từ địa nên mới đem pháp Ba la di không căn cứ vu báng Đạp bà ma la tử là đã cùng mình làm hạnh bất tịnh, do tự nói mình làm hạnh bất tịnh phạm Ba la di nên bị tẫn, không phải do tội vu báng mà bị tẫn. Nói Ba la di không căn cứ là tội Ba la di này không thật có, nói vu báng là không thấy nghe nghi. Nói nghi là do thấy mà nghi như thấy Tỳ-kheo đi vào bụi cỏ ở ngoài thôn, lại thấy một cô gái cũng đi vào bụi cỏ, sau đó thấy Tỳ-kheo đi ra trước, cô gái đi ra sau nên sanh tâm nghi không biết hai người có làm việc phi pháp không; nói do nghe mà nghi là như nghe tiếng nói của Tỳ-kheo và người trong bóng tối nên sanh nghi. Nói cố ý vu báng là có tâm muốn làm cho Tỳ-kheo kia bị thối đọa nơi hạnh thanh tịnh. Nếu Tỳ-kheo cố ý đem pháp Ba la di không căn cứ vu báng cho Tỳ-kheo thanh tịnh thì phạm Tăng già bà thi sa, sai bảo người khác vu báng cũng phạm Tăng già bà thi sa. Có bốn loại vu báng:
-Giới báng tức là đem mỗi một pháp trong bốn pháp Ba la di hay mười ba Tăng già bà thi sa để vu báng.
-Oai nghi báng tức là đem mỗi một pháp trong ba thiên giới sau để vu báng.
-Tà kiến báng tức là vu báng người kia có tà kiến.
-Ác hoạt báng tức là vu báng người kia dựa vào trì giới hay giáo giới để cầu lợi dưỡng.
Lại có bốn loại vu báng khác:
-Hiện xứ như nói thầy cùng người nữ làm việc dâm.
-Hiện tội như nói thầy phạm tội trọng.
-Bất đồng trú như nói không cùng thầy ở chung.
-Bất cộng pháp sự như nói không cùng thầy bố tát, kết giới, tự tứ và các yết ma khác.
Nếu người vu báng đến trong Tăng cử tội và yêu cầu Tăng phân xử, Tăng nên nói: "đợi sau khi thầy lễ Phật tụng kinh xong, Tăng sẽ phân xử", đến tối Tăng lại nói hãy đợi đến sáng mai, khất lần như vậy đến lần thứ ba để cho tâm người vu báng nguôi ngoai rồi mới phân xử; nếu đến lần thứ ba tâm người kia vẫn cương cường nóng nảy thì Tăng nên nói: "trong đây không có luật sư nên không phân xử được, thầy hãy đến chùa khác thỉnh luật sư cầu phân xử", người vu báng đến chùa khác, Tăng nơi đó nên hỏi đã cầu luật sư ở đâu chưa, nếu đáp đã cầu thì Tăng nên nói: "trong đây cũng không có luật sư, xin hãy đến chùa khác thỉnh", cứ như thế đi đến nhiều nơi đều cầu không được nên tâm trở nên nguôi ngoai, trở về chỗ ban đầu yêu cầu Tăng phân xử, Tăng nên như pháp như luật xử đoán để dứt việc tranh cãi này.
Nếu người không có hổ thẹn vu báng người có hổ thẹn hoặc người không có trí huệ vu báng người có trí huệ, Tăng nên gạn hỏi cho rõ tận cùng sự việc rồi nói với Tỳ-kheo ngu si: "thầy vốn không hiểu biết gì, vì sao lại vu báng cho người, hãy cùng nhau hòa hợp, từ nay chớ nêu ra việc này nữa". Nếu người vu báng có trí huệ, đem tội có căn cứ thấy nghe nghi để cử tội thì Tăng cũng nên gạn hỏi người bị cử, nếu thật có tội thì Tăng nên trị phạt, nếu thật không có tội thì bảo cả hai nên hòa hợp. Nếu người vu báng là người có hổ thẹn nhưng ngu si, cử tội người không có hổ thẹn, Tăng nên phương tiện hỏi cử tội về phạm giới hay về oai nghi. Sở dĩ tăng nên hỏi lại như thế là để chiết phục người không hổ thẹn và làm cho người có hổ thẹn được an lạc trụ; nếu người không có hổ thẹn có thế lực sẽ tăng trưởng ác pháp, khiến cho người có hổ thẹn mà không có thế lực sẽ không được an lạc trụ. Nếu cả hai đều là người có hổ thẹn thì Tăng nên ôn hòa thuyết pháp giáo hóa, nếu có xúc phạm lẫn nhau thì nên sám tạ nhau để hòa hợp trở lại. Nếu khuyên giải như thế mà hai bên vẫn không hòa hợp, Tăng nên khuyên can ba lần, nếu cũng không từ bỏ việc tranh cãi thì Tăng tác pháp yết ma như pháp như luật xử đoán.
Hỏi: pháp trị vu báng là đầu, giữa hay cuối?-trước tiên là cầu thính, kế đến trong Tăng cử tội, Tăng như pháp như luật dứt diệt là cuối
-Pháp trị vu báng có mấy căn, mấy địa?-có hai căn, ba xứ và năm địa. Nói hai căn là có căn cứ và không căn cứ; ba xứ là thấy nghe và nghi; năm địa là đúng thời, chơn thật không hư, vì thương xót không vì tức giận, có nghĩa và không tùy ái sân. Nói dù có người hỏi hay không có người hỏi là đem pháp Ba la di không căn cứ vu báng rồi sau đó Tăng gạn hỏi hoặc nhiều người gạn hỏi hoặc một người, người vu báng này tự nói là vì sân giận nên vu báng thì phạm Tăng già bà thi sa. Có bốn loại tránh: một là tương ngôn tránh thuộc thiện hay bất thiện hay vô ký?-cũng thiện, cũng bất thiện và cũng vô ký; nếu luận bàn về pháp sanh tranh cãi là thiện; nếu luận bàn về phi pháp sanh tranh cãi là bất thiện; không thuộc cả hai trường hợp trên thì gọi là vô ký. Nếu Tỳ-kheo đem pháp Ba la di không căn cứ vu báng thì phạm Tăng tàn, đem pháp Tăng già bà thi sa không căn cứ vu báng thì phạm Ba dật đề, đem pháp oai nghi vu báng thì phạm Đột kiết la. Trường hợp không phạm là người phạm đầu tiên, người điên cuồng tâm loạn. Giới này thuộc tánh tội, từ cả ba nghiệp khởi tội. Hết Tăng già bà thi sa thứ tám.
Phật tại vườn trúc Ca lan đà, thành Vương xá; lúc đó Tỳ-kheo Từ địa từ trên núi Kỳ xà quật đi xuống, thấy hai con dê đang hành dâm liền nói với các đồng bạn: "con dê đực này là Đạp bà ma la tử, con dê cái là Tỳ-kheo-ni Từ địa, ta đem việc này vu báng nhất định Đạp bà ma la tử không thể không thua", nói rồi vui mừng đi đến trong Tăng bạch việc trên, Tăng nghe lời này rồi liền nhóm Tăng gạn hỏi Tỳ-kheo Từ địa: "thầy thấy Tỳ-kheo Đạp bà ma la tử cùng Tỳ-kheo-ni Từ địa làm việc dâm dục ở đâu và vào lúc nào?", đáp là hồi sáng trên đường từ núi Kỳ xà quật đi xuống nhìn thấy, Tăng lại hỏi Đạp bà lúc đó đang ở đâu, đáp là đang ở trong Trúc lâm, lại hỏi làm gì, đáp là đang phân chia thức ăn cho Tăng, lại hỏi ai thấy ai biết, đáp là các Tỳ-kheo thấy biết, Tăng lại hỏi các Tỳ-kheo có thật thấy như vậy không, các Tỳ-kheo đều đáp là thật thấy như vậy, Tăng nên quở trách Tỳ-kheo Từ địa: "lời thầy nói không tương ưng, vì sao lại đem phần việc khác vu báng cho Đạp bà ma la tử?". Nói đem phần việc khác vu báng là như đem việc hai con dê hành dâm gán cho Đạp bà ma la tử và Tỳ-kheo-ni Từ địa; như trường hợp hai Tỳ-kheo cùng dòng họ Sát đế lợi hoặc cùng tên, tướng mạo tương tợ, thấy Tỳ-kheo này hành dâm lại vu báng cho Tỳ-kheo kia thì phạm Tăng già bà thi sa. Trường hợp không phạm là người phạm đầu tiên, người điên cuồng tâm loạn-Hết Tăng già bà thi sa thứ chín.
Phật tại tinh xá Trúc lâm thành Vương xá, lúc đó Đề bà đạt đa đến nói với bốn đồng bạn là Cô ca lị ca...: "các thầy hãy trợ giúp tôi phá hòa hợp Tăng và oai đức của Như lai, chúng ta sẽ chế ra năm pháp như trọn đời sống nơi A lan nhã... để cho mọi người biết chúng ta đều là những người thiểu dục tri túc và sẽ tùy thuận chúng ta", bốn đồng bạn đáp lành thay. Nói trọn đời không ăn cá thịt là vì Phật có bảo các Tỳ-kheo: "có ba loại bất tịnh nhục là thấy nghe nghi thì không được ăn; nói thấy là thấy người giết con vật lấy thịt cho mình ăn thì không được ăn; nói nghe là nghe tiếng con vật kêu la vì bị giết thì không được ăn; nói nghi là nghi người vì mình mà giết con vật thì không được ăn; như thế cho đến thấy mà nghi, nghe mà nghi cũng đều không được ăn", Nói thấy mà nghi là như Tỳ-kheo từ A lan nhã vào thôn khất thực, thấy có nhiều bạch y vào rừng săn bắn. Sáng hôm sau trong thôn mở hội cúng dường Tỳ-kheo có thịt, Tỳ-kheo nghi thịt này là có được từ cuộc săn bắn hôm qua thì không được ăn. Nếu thí chủ nói tôi đi săn cho vua chớ không phải cho Tỳ-kheo thì được ăn không phạm. Nói nghe mà nghi là như Tỳ-kheo ở nơi A lan nhã nghe nói người trong thôn săn bắn để ngày mai mở hội, hôm sau được thí chủ cúng thịt, Tỳ-kheo sanh nghi thì không được ăn. Nếu thí chủ nói tôi đi săn cho mình chứ không phải cho Tỳ-kheo thì được ăn không phạm. Nếu Tỳ-kheo không thấy, không nghe, không nghi con vật vì mình mà bị giết thì được ăn thịt này không phạm. Khi được thịt Tỳ-kheo nên hỏi rõ để phân biệt là tịnh nhục hay là bất tịnh nhục rồi mới ăn, lại có nhiều loại thịt giống nhau như thịt heo và thịt gấu, tuy giống nhưng loại thịt gấu Phật chế không được ăn. Đề bà đạt đa muốn phá pháp này của Phật nên chế trọn đời không ăn cá thịt. Phật nghe biết Đề bà đạt đa chế năm tà pháp muốn phá hòa hợp Tăng nên bảo Đề bà đạt đa: "thầy chớ ưa thích pháp này, phá hòa hợp Tăng là tội nặng; nếu Tăng hòa hợp như nước với sữa thì được an lạc hạnh. Ai phá hòa hợp Tăng thì sẽ chịu khổ một kiếp trong địa ngục A tỳ; nếu Tăng bị phá mà làm cho hòa hợp lại thì người này được thọ phước lạc trên cõi trời một kiếp", lúc đó các Tỳ-kheo dùng nhiều phương tiện khuyên can Đề bà đạt đa chớ phá hòa họp Tăng, nên tâm đồng thân đồng cùng Tăng hòa hợp, như nước hòa với sữa. Nói tâm đồng là tâm đồng một pháp, nói thân đồng là thân cùng hòa hợp một chỗ bố tát, nói thân không đồng là tuy cùng ở chung một chỗ nhưng tâm hành pháp khác. Khi được các Tỳ-kheo can ngăn ba lần, Đề bà đạt đa không chịu bỏ thì phạm Đột kiết la; Tăng tác yết ma can ngăn, tác bạch xong không bỏ cũng Đột kiết la, yết ma lần thứ nhất xong mà không bỏ thì phạm Thâu lan giá, yết ma lần thứ hai xong mà không bỏ cũng Thâu lan giá, yết ma lần thứ ba xong không bỏ mới phạm Tăng già bà thi sa.
Hỏi: các giới khác, người phạm đầu tiên không tội, vì sao giới này Đề bà đạt đa phạm đầu tiên lại kết phạm?-giới này do can ba lần mà không chịu bỏ mới kết phạm. Hết Tăng già bà thi sa thứ mười. Phật tại tinh xá trúc lâm thành Vương xá, lúc đó đồng bạn trợ giúp Đề bà đạt đa phá Tăng nên biệt chúng, các Tỳ-kheo khuyên can giống như giới trên, chỉ khác ở chỗ là các thầy chớ trợ giúp việc phá Tăng, nên trợ giúp Tăng hòa hợp, Tăng hòa hợp được an lạc không tranh, như nước với sữa. Hết Tăng già bà thi sa thứ mười một.
Phật tại vườn Cù tư đa nước Kiều thiểm tỳ, lúc đó Xiển na tánh hung dữ, không nghe lời khuyên bảo của các Tỳ-kheo mà còn nói rằng: "các thầy chớ dạy bảo tôi, tôi nên dạy bảo các thầy, vì sao, vì Phật là Phật của gia tộc tôi, tôi và ngựa Kiền trắc đã đưa Phật vào núi xuất gia tu đạo. Lúc đó không có người nào trong các thầy hầu hạ Phật, sau khi Phật thành đạo chuyển pháp luân, các thầy mới đến cầu xuất gia, vì thế tôi nên dạy bảo các thầy, không phải các thầy dạy bảo tôi", nói rồi tự thân không nói chuyện với các Tỳ-kheo. Nói không phải thiện hạnh là thân khẩu nghiệp làm hạnh bất thiện; nói nên cùng nói chuyện là nơi Ba la đề mộc xoa nên cùng thuyết giới, cùng xuất tội nhờ vậy mà ở trong Phật pháp được tăng trưởng...Hết Tăng già bà thi sa thứ mười hai.
Phật tại tinh xá trong vườn Cấp cô độc, thành Xá vệ; lúc đó có hai Tỳ-kheo tên Mã sư và Mãn túc cùng trụ trên núi Kê tra làm hạnh xấu, nhơ nhà người. Cả hai đều là bậc Thượng tòa trong Lục quần Tỳ-kheo vốn là nông phu, do làm ruộng quá cực khổ nên xuất gia trong Phật pháp để mưu cầu y thực. Cả hai được tôn giả Xá lợi phất và Mục kiền liên độ cho xuất gia thọ giới cụ túc, đủ năm tuổi hạ liền kết bạn với Tỳ-kheo Hoàng xích và Tỳ-kheo Từ địa. Cả bốn người bàn với nhau rằng: "thành Xá vệ này tuy sung túc nhưng có lúc cũng mất mùa đói kém, chúng ta không nên tụ tập một nơi, nên phân ra đến ở các nước khác", ba người hỏi Hoàng xích thích ở đâu, đáp: "tôi thích ở thành Xá vệ, trong thành có năm mươi bảy vạn hộ dân, ngoài thành lại có tám vạn tụ lạc, chu vi rộng một trăm do tuần. Nếu ở nơi đây trồng nhiều loại cây ăn trái như xoài... nhiều loại hoa như hoa Chiêm bặc..., sau đó hái hoa trái này khuyến dụ các bạch y, nếu họ muốn xuất gia thì độ họ xuất gia, như thế chúng ta sẽ tăng thêm quyến thuộc", lại hỏi Từ địa thích ở đâu, đáp: "tôi thích ở thành Vương xá, trong thành có tám ức vạn hộ dân, ngoài thành có tạm vạn tụ lạc, chu vi rộng ba trăm do tuần. Nếu nơi đây trồng... như trên đã nói", lại hỏi Mã sư thích ở đâu, đáp thích ở Hắc sơn, lại hỏi Mãn túc thích ở đâu, đáp là thích ở chung với Mã sư. Do nguyên nhân này, mỗi người có đến năm trăm quyến thuộc, tổng cộng là một ngàn năm trăm quyến thuộc, trong số này có những người biết hổ thẹn tuy hộ trì giới Phật đã chế nhưng lại phạm những việc không nên làm; có những người không biết hổ thẹn phạm những giới Phật đã chế và làm những việc không nên làm. Nói trồng hoa làm vườn là tự trồng hay bảo người khác trồng, một loại hay nhiều loại, tự tưới cây hay bảo người tưới; tự đào đất làm ao hay bảo người khác đào để chứa nước dùng. Nếu trồng cây, làm vườn, đào ao cho Tăng đều phải nói tịnh, nói tịnh là bảo tịnh nhân rằng: ông hãy chăm sóc cây này, tịnh nhân nghe rồi tùy liệu lý. Tỳ-kheo không được kết vòng hoa cho bạch y, trừ cúng dường Tam bảo; cũng không được ca múa, trừ tán tụng, chú nguyện. Nếu Tỳ-kheo bịnh không có thuốc thang, được hái lấy hoa quả dùng để đổi lấy thuốc thang thì không phạm. Tỳ-kheo phạm Tăng già bà thi sa nếu có che giấu, sau khi hành Ba lợi bà sa rồi mới cho hành sáu đêm Ma na đỏa, Hán dịch là chiết phục cống cao, cũng gọi là Hạ ý, tức là thừa sự chúng tăng. Hành Ma na đỏa xong mới ở trong Tăng đủ số hai mươi vị cho xuất tội, A phù ha na dịch là hoán nhập, tức là gọi vào để cùng làm pháp sự; cũng dịch là bạt tội hay xuất tội, tức là hết tội được thanh tịnh nên cho gọi vào để cùng Tăng thuyết giới bố tát, tự tứ và làm các yết ma khác. Hết mười ba pháp Tăng già bà thi sa.
Phật tại tinh xá trong vườn Cấp cô độc, rừng Thệ đa, thành Xá vệ; lúc đó có Ưu bà di Tỳ xá khư mẫu nhìn thấy Tỳ-kheo ngồi với người nữ nơi chỗ khuất kín; hoặc người nữ ngủ, Tỳ-kheo ngồi hoặc Tỳ-kheo ngủ, người nữ ngồi hoặc cả hai cùng ngủ hoặc cùng ngồi, là nơi có thể làm việc dâm dục nên đến bạch Tăng. Nói chỗ khuất kín là khuất mắt khuất tai, khuất mắt là mắt không nhìn thấy hoặc đối trước người mù, khuất tai là tai không nghe thấy hoặc đối trước người điếc; nói Tỳ xá khư mẫu là Ưu bà di đáng tin đã đắc quả Thánh. Nếu Tỳ-kheo tự nói tội thì nên tùy theo lời Tỳ-kheo đã nói mà trị phạt, không nên nghe theo lời của Ưu bà di vì có thể thấy nghe không rõ. Như có Tỳ-kheo ái tận đến trong nhà thí chủ ngồi, vị Ưu bà di đứng dựa ghế ở phía trước Tỳ-kheo, một Tỳ-kheo đến trước nhà này khất thực nhìn thấy cảnh này cho là hai người ngồi chung một ghế, sau khi trở về trú xứ liền muốn cử tội Tỳ-kheo ái tận kia nên đến phòng cầu thính, gõ cửa muốn vào phòng, Tỳ-kheo ái tận liền dùng thần lực ra khỏi phòng và ngồi trên không trung, Tỳ-kheo này thấy vậy liền nói: "đại đức có thần lực như vậy vì sao lại một mình vào trong nhà bạch y ngồi chung một ghế với người nữ?", Tỳ-kheo ái tận đáp: "tôi chỉ phạm tội một mình vào trong nhà bạch y, không phạm tội kia". Nếu Tỳ-kheo muốn đến chỗ khuất ngồi với người nữ thì khi đắp y đi thì phạm Đột kiết la, mỗi bước đi đến cũng phạm Đột kiết la, đến chỗ khuất ngồi với người nữ thì phạm Ba dật đề, đứng dậy rồi ngồi xuống hay bước ra rồi trở vào ngồi lại thì đều phạm Ba dật đề; nếu ngồi chung với nhiều người nữ thì phạm nhiều tội Ba dật đề; nếu Tỳ-kheo ngồi ở chỗ khuất trước, người nữ đến sau lễ bái han hỏi thì không phạm. Đây là pháp bất định thứ nhất, pháp bất định thứ hai chỉ khác ở chỗ là ngồi nơi trống trải không thể làm việc dâm. Trường hợp không phạm là người phạm đầu tiên, người điên cuồng tâm loạn. Hết hai pháp bất định.
Phật ở trong miếu Cù Đàm, thành Tỳ xá ly, lúc đó Phật cho các Tỳ-kheo thọ trì ba y là An đà hội, Uất đa la tăng và Tăng già lê; riêng y Tăng già lê có ba phẩm chín bậc. Do trưởng lão A-nan khởi nghĩ trong các đệ tử Thanh văn không có ai bằng Xá lợi phất nên khi được cúng y, để dành cái y tốt cúng lại cho Xá lợi phất; khi được cúng thức ăn đúng thời cũng để dành món ngon cúng lại cho Xá lợi phất; như thế cho đến loại Thất nhật dược, Phi thời dược, Tận hình thọ dược cũng dành món ngon cúng lại cho Xá lợi phất; thậm chí nếu có con của trưởng giả nào muốn xuất gia, A-nan cũng bảo họ đến cầu Xá lợi phất làm Hòa thượng hoặc A-xà-lê. Tôn giả Xá lợi phất cũng rất quý trọng A-nan vì A-nan đã làm hết những việc mà tôn giả muốn làm là thừa sự Phật. Lúc đó A-nan được tấm y tốt muốn cúng lại cho Xá lợi phất, nhưng Xá lợi phất du hành đến nước khác chưa về, không biết làm sao nên bạch Phật, Phật hỏi A-nan: "khoảng bao lâu nữa thì Xá lợi phất trở về?", đáp là khoảng chín mười ngày, Phật nhân việc này chế được chứa y dư trong mười ngày.
Nói ba y đã xong là tùy được y đã may xong, nói xong là đã cắt may nhuộm... thành y, nói mất y là y bị đoạt, bị cháy, bị trôi... hoặc hết một tháng Ca đề hoặc đã xả y công đức. Có tám trường hợp xả y công đức là đi, đã may y xong, đã dứt, y đã mất, nghe xả, không còn hy vọng được y nữa, ra ngoài giới và cùng làm yết ma xả, như trong Kiền đà ca đã nói rõ. Nói y là bao gồm sáu loại y: một là khu ma, hai là cổ bối, ba là Kiều xa da, bốn là Khâm bà la, năm là sa na, sáu là bà hưng già. Nếu được một trong sáu loại y này dài hai gang tay, rộng một gang tay thì trong mười ngày phải thuyết tịnh, không thuyết tịnh thì quá mười ngày sẽ phạm Xả đọa, y này nên xả và nên sám tội Ba dật đề. Nếu có nhiều y cột thành bó để một chỗ quá mười ngày thì chỉ phạm một tội, nếu không cột thành bó thì tùy y nhiều ít mà kết phạm. Nói xả là Tỳ-kheo chỉnh y trịch bày vai hữu đến trong Tăng chắp tay bạch rằng: "đại đức nhớ nghĩ, con Tỳ-kheo chứa y dư này quá mười ngày phạm Xả đọa, nay xin xả", một Tỳ-kheo biết pháp trong Tăng nên tác bạch thọ Tỳ-kheo phạm này sám tội Ba dật đề:
Đại đức tăng lắng nghe, Tỳ-kheo này tên chứa y dư quá mười ngày phạm Xả đọa, nay thấy tội đến trong Tăng phát lồ sám hối. Nếu tăng già đúng thời đến nghe, Tăng già nên chấp thuận, tôi nay thọ Tỳ-kheo sám hối. Bạch như vậy.
Bạch rồi nên hỏi Tỳ-kheo phạm có thấy tội không, đáp là đã thấy, nên nói chớ tái phạm nữa, đáp xin vâng rồi đối sám tội Ba dật đề. Nếu không đủ túc số Tăng, đối trước chúng hai ba người thì nên nói: "đại đức nhớ nghĩ, con Tỳ-kheo chứa y dư quá mười ngày phạm Xả đọa, nay xin xả", một người biết pháp nói với hai người kia: "các trưởng lão nhớ nghĩ, tôi nay thọ Tỳ-kheo __________ sám tội Ba dật đề, xin liễu tri", nói rồi hỏi Tỳ-kheo phạm có thấy tội không... giống như trên. Xả và sám rồi, qua hôm sau Tăng nên tác pháp hoàn lại y cho Tỳ-kheo này, nếu không hoàn trả lại thì Tăng phạm Đột kiết la. Nếu y phạm Xả đọa không xả, không sám mà đắp mặc thì tùy mặc bao nhiêu phạm Đột kiết la bấy nhiêu. Lúc đó các Tỳ-kheo không biết các y dư khác ngoài ba y có cần phải thuyết tịnh hay không nên bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: "ba y thọ trì thì không cần thuyết tịnh; y tắm mưa thọ trì trong bốn tháng mưa, qua bốn tháng phải thuyết tịnh; Ni sư đàn thọ trì không cần thuyết tịnh; y che phủ ghẻ cũng không cần thuyết tịnh, nhưng hết ghẻ phải thuyết tịnh; khăn mặt, khăn tay, khăn lau... đều không cần thuyết tịnh". Nói thọ trì ba y là sau khi may xong đúng lượng, giặt nhuộm thiếp tịnh rồi tác pháp thọ trì. Nói đúng lượng là y Tăng già lê và y Uất đa la tăng phẩm thượng thì nhỏ hơn y của Phật, phẩm hạ dài bốn khuỷu tay rưỡi, rộng hai khuỷu tay rưỡi; y An đà hội dài bốn khuỷu tay rưỡi, rộng hai khuỷu tay, có thể tùy theo thân lượng mà gia giảm. Nếu muốn xả Tăng già lê cũ để thọ trì cái mới thì nên cầm y mới này đến trước một Tỳ-kheo tác pháp thọ trì, nếu không có đối tác pháp thì cầm y tâm niệm thọ trì. Nếu lấy ba y cũ đã xả làm khăn lau cũng phải thuyết tịnh rồi mới thọ trì; giường mền nệm...đều là vật dụng thuộc phòng ở nên không cần thuyết tịnh.
Hỏi: ba y đã thọ trì khi nào bị mất thọ trì?-khi đem xả cho người hoặc bị đoạt, bị mất hoặc người thọ trì hoàn tục hoặc chết hoặc chuyển căn hoặc lìa y ngủ đêm hoặc y bị rách-rách như thế nào mới mất thọ trì?-bị lủng một lỗ lớn như móng tay, nếu giữa lỗ thủng con sợi chỉ nằm ngang thì cũng không mất thọ trì. Đối với Tăng già lê và Uất đa la tăng nếu từ chiều rộng biên trở vào khoảng tám ngón tay bị rách hoặc từ chiều dài biên trở vào khoảng một gang bị rách thì cũng chưa mất thọ trì; đối với An đà hội từ chiều rộng biên trở vào khoảng bốn ngón tay bị rách hoặc chiều dài biên trở vào khoảng một gang tay bị rách thì chưa mất thọ trì. Nếu y mất thọ trì mà cất giữ quá mười ngày thì phạm Xả đọa; nếu muốn không mất thọ trì thì nên vá lại chỗ lủng rách, nếu y hai lớp có một lớp bị rách, một lớp không rách thì cũng không mất thọ trì. Nếu y quá rộng, thu nhỏ lại hoặc quá chật phải nới thêm ra, cho đến giặt bị phai màu...cũng không mất pháp thọ trì. Nói thuyết tịnh có hai là đối diện tịnh và triển chuyển tịnh; Tỳ-kheo muốn đối diện tịnh nên cầm y đến trước một Tỳ-kheo bạch rằng: "đại đức nhớ nghĩ, tôi có y dư này vì làm tịnh nên đem thí cho đại đức", nếu nói như vậy thì người nhận chỉ được cất giữ giùm chứ không được thọ dụng; nếu nói: "đây là y của tôi nay xả cho đại đức tùy ý thọ dụng", thì người nhận được tùy ý thọ dụng vì là chân thật tịnh thí. Nói triển chuyển tịnh là Trưởng lão nên chọn một người trong năm chúng xuất gia làm thí chủ rồi mới cầm y dư này đến trước một Tỳ-kheo khác để thuyết tịnh: "đại đức nhớ nghĩ, tôi Tỳ-kheo __________ có y dư này chưa tác tịnh, nay làm triển chuyển tịnh nên đem thí cho đại đức", vị nhận y nên hỏi: "thí chủ của thầy là ai?", liền nói tên thí chủ ra, vị nhận y nói: "đại đức có y dư này vì tác tịnh nên đem thí cho tôi, tôi đã thọ, đây là vật của Tỳ-kheo thí chủ tên , thầy nên cất giữ cho Tỳ-kheo thí chủ đó tùy thời tùy ý thọ dụng, không cần hỏi chủ". Đây là phương tiện thí để được cất giữ thọ dụng nên người được thỉnh làm thí chủ không nên không thọ, người được thí không nên thọ rồi mà không trả lại, nếu không trả lại thì phạm Đột kiết la. Hết Ni tát kỳ ba dật đề thứ nhất.
Lúc đó có Tỳ-kheo mang y Uất đa la tăng và An đà hội đi du hành, để lại y Tăng già lê ở trong phòng, lâu ngày không xem nên bị hư hoại. Phật nhân việc này chế không được lìa y ngủ đêm, trừ Tăng yết ma cho. Nói trừ Tăng yết ma cho là nếu Tỳ-kheo già bịnh theo Tăng xin được lìa y, Tăng yết ma cho thì được lìa y ngủ chỗ khác cho đến khi hết bịnh. Nếu Tỳ-kheo bịnh du hành, trên đường trở về gặp hiểm nạn nếu khởi ý muốn trở về chỗ y thì dù đã hết bịnh cũng không phạm lỗi lìa y; nếu quyết định không trở về thì mất y. Nếu Tỳ-kheo bịnh du hành đến chỗ khác thì hết bịnh, trở về chỗ y thì bịnh lại tái phát, muốn đi nữa thì được nương theo yết ma cho lìa y trước đó mà đi, không cần xin lại yết ma.
Nói tụ lạc có một giới là tụ lạc chỉ có một tộc họ cùng ở chung cùng thọ dụng y thực, nếu Tỳ-kheo để y trong dây mà thân ở nơi A lan nhã, khi mặt trời chưa mọc mà vào trong giới tụ lạc này thì không bị mất y. Nếu tụ lạc có giới khác là tụ lạc có nhiều tộc họ ở riêng biệt với nhau, Tỳ-kheo để y trong nhà này mà thân ngủ trong nhà khác đến khi mặt trời mọc thì bị mất y, nhưng nếu y cách thân trong phạm vi mười lăm khuỷu tay thì không bị mất y; nếu y để dưới đất mà người ở trên không trung thì bị mất y. Nói lầu gác có một giới là lầu gác này thuộc của một chủ thì không bị mất y giống như trên; nếu là giới khác tức là thuộc của nhiều chủ (như chung cư), y để tầng trên, Tỳ-kheo ở tầng dưới hoặc y để trong nhà này, thân ngủ ở nhà kia thì trước khi mặt trời mọc phải đến chỗ y, nếu không đến thì bị mất y. Nói giới xe là nếu y ở trên xe, Tỳ-kheo ở cách xe trong phạm vi mười lăm khuỷu tay thì không bị mất y, ngoài phạm vi này thì khi mặt trời mọc liền bị mất y. Nói giới cây là dưới bóng râm của cây lúc giữa trưa, nếu y để ở chỗ không có bóng râm, Tỳ-kheo ở chỗ có bóng râm thì bị mất y. Nói giới A lan nhã là nếu y và thân ở trong phạm vi mười bốn khuỷu tay thì không bị mất y, nếu có người lai vãng hoặc dừng ở thì không được tính phạm vi này mà y phải tùy thân, nếu y không tùy thân thì bị mất y. Nếu Tỳ-kheo có y phạm Xả đọa, trên đường đến trong Tăng xả y này và đối trước Tỳ-kheo sám tội, nếu bị giặc cướp mất y này thì chỉ sám tội Ba dật đề. Nếu Tỳ-kheo bảo Sa di cầm y đi theo sau, nếu Sa di này lạc đường hay ngủ quên đến khi mặt trời mọc thì Tỳ-kheo bị mất y nên xả. Nếu Sa di mang y đi trước, vào trong giới không mất y rồi, Tỳ-kheo tuy đã vào trong giới này nhưng lại cho là còn ở ngoài giới, khi mặt trời mọc tưởng là mất y nhưng lại không mất. Về việc y chỉ cũng vậy, nếu đệ tử chưa đủ năm hạ cầm y của thầy đi sau thầy, giữa đường gặp người thuyết pháp, vì nghe pháp nên ở lại cho đến mặt trời mọc thì không phạm lỗi lìa y chỉ, vì tâm không cố ý nhưng thầy phạm lỗi lìa y. Hết Ni tát kỳ ba dật đề thứ hai.
Lúc đó có một Tỳ-kheo được y phi thời, muốn may y nhưng không đủ vải, vị này rưới nước đem phơi rồi kéo cho vải dài ra. Phật khi đi tuần phòng nhìn thấy liền hỏi nguyên do rồi nhân việc này chế được cất chứa y phi thời trong một tháng để được cúng thêm cho đủ. Nói y phi thời là trừ một tháng cuối mùa hạ và bốn tháng Đông được y thì gọi là Thời y, bảy tháng còn lại được y đều gọi là phi thời y. Nói được là từ Tăng chia theo thứ lớp được hoặc từ chúng hoặc được cúng riêng. Nói không đủ là ít không đủ may thành y, được cất trong một tháng để mong được cúng thêm cho đủ hoặc từ trong Tăng hay trong chúng hay từ thân hữu, bà con..., nếu chứa quá một tháng thì phạm Ni tát kỳ ba dật đề. Nếu trong vòng hai mươi chín ngày được đủ vải nhưng lại có hai loại mỏng và dày thì nên thuyết tịnh loại vải mỏng đã thọ trước, cất giữ loại vải dày thọ sau trong một tháng để mong được loại vải dày thêm cho đủ may y. Cứ như thế thuyết tịnh loại không thích, cất giữ loại mình thích để mong được thêm cho đủ trong vòng một tháng kể từ ngày thọ được y này, nếu cất chứa quá một tháng thì phạm. Nếu đến ngày thứ hai mươi chín được đủ vải như mong muốn thì ngay ngày đó nên may thành y thọ trì hoặc thuyết tịnh, nếu không thọ trì, không thuyết tịnh thì đến sáng hôm sau, mặt trời vừa mọc liền phạm Xả đọa. Hết Ni tát kỳ ba dật đề thứ ba. Phật tại tinh xá trong vườn Cấp cô độc, rừng Thệ đa, thành Xá vệ; lúc đó Tỳ-kheo Ô đà di nhờ vợ cũ giặt y dơ...Nói bà con là họ hàng nối tiếp nhau trong bảy đời hoặc bên cha hoặc bên mẹ, ngoài bảy đời này ra thì gọi là không phải bà con. Tỳ-kheo-ni là người từ hai bộ tăng bạch tứ yết ma thọ đắc giới cụ túc; nói y dơ là ít nhất mặc qua một lần. Nếu Tỳ-kheo nhờ Tỳ-kheo-ni giặt y cũ, khi Tỳ-kheo-ni này nhúm lửa, nấu nước để giặt nhuộm thì Tỳ-kheo phạm Đột kiết la, giặt xong thì phạm Ni tát kỳ; nếu nói chưa sạch phải giặt lại thì Tỳ-kheo lại phạm thêm tội Đột kiết la. Nếu Tỳ-kheo-ni không phải là bà con, tưởng không phải là bà con mà nhờ giặt nhuộm thì Tỳ-kheo phạm Ni tát kỳ ba dật đề; nếu Tỳ-kheo-ni tự ý lấy giặt thì Tỳ-kheo không phạm. Nếu sai Sa di ni, Thức xoa ma na giặt, họ chưa làm liền, sau khi thọ giới cụ túc xong mới làm thì Tỳ-kheo phạm Ni tát kỳ ba dật đề; trường hợp chuyển căn cũng như vậy; nếu sai nhiều Tỳ-kheo-ni không phải bà con giặt y thì phạm nhiều tội Ni tát kỳ ba dật đề. Nếu nhờ giặt dãy bát, đãy y... thì không phạm. Hết Ni tát kỳ ba dật đề thứ tư.
Phật tại tinh xá Trúc lâm, thành Vương xá; lúc đó Tỳ-kheo-ni Liên hoa sắc sáng sớm đắp y mang bát vào thành Xá vệ khất thực, sau đó vào trong rừng An đà ngồi nhập định, do Phật chưa chế giới Tỳ-kheo-ni không được đi một mình nên Tỳ-kheo-ni này mới vào trong rừng một mình ngồi nhập định. Sau đó có bọn giặc vào trong rừng này, gọi là giặc vì những người này đã hành pháp giặc, tức là hành nghề trộm cướp, chúa giặc vốn quen biết Tỳ-kheo-ni này, sợ đồng bọn xâm phạm nên bảo đồng bọn tránh đi, sau khi để lại y thực cho Tỳ-kheo-ni, chúa giặc cũng bỏ đi. Tỳ-kheo-ni xuất định thấy y thực này nghĩ là để lại cho mình nên lấy mang đi đến trong chùa Tăng, muốn cúng phần thức ăn này cho Tăng. Lúc đó Ô đà di tới phiên giữ chùa thấy Tỳ-kheo-ni có tấm y đẹp nên xin, Tỳ-kheo-ni cúng luôn tấm y cho Ô đà di rồi trở về chùa mình. Sau đó Phật nhân việc này chế giới không được xin y từ Tỳ-kheo-ni không phải bà con, trừ trao đổi; nói trao đổi là năm chúng đồng pháp được cùng trao đổi; nói đồng pháp là đồng thầy, đồng giới và đồng kiến cùng ở chung. Khi sắp lấy y thì phạm Đột kiết la, y vào tay liền phạm Ni tát kỳ ba dật đề; nếu là bà con thì không phạm; nếu Tỳ-kheo thuyết pháp, Tỳ-kheo-ni hoan hỉ dâng cúng thì không phạm; nếu là y vất bỏ thì không phạm. Hết Ni tát kỳ ba dật đề thứ năm.
Phật tại tinh xá trong vườn Cấp cô độc, lúc đó có các Tỳ-kheo từ nước Sa kỳ đa đi đến thành Xá vệ, giữa đường bị giặc cướp đoạt lấy y phục nên lõa hình đi đến tinh xá, các Tỳ-kheo gạn hỏi, đáp là Sa môn Thích tử, không phải là ngoại đạo. Ưu ba ly gạn hỏi: "nếu là Sa môn Thích tử thì bao nhiêu tuổi hạ, thọ giới lúc nào, thầy là ai, thọ trì ba y như thế nào?, mỗi mỗi đều đáp đúng rồi mới cho vào chùa và lấy y phục của Tăng cho mặc tạm, sau đó được thí chủ cúng y thì đem trả lại cho Tăng. Ô ba-nan đà là người thuộc dòng họ Thích xuất gia, tuy là người bộp chộp nhưng rất thông minh và thuyết pháp hay, nhân việc này liền đi đến các nhà xin y cho các Tỳ-kheo bị đoạt y này và xin được rất nhiều y. Phật nhân việc này chế giới không được theo cư sĩ không phải bà con xin y, trừ y bị cướp, bị mất... Tỳ-kheo bị mất y được xin y từ cư sĩ không phải bà con, được tự xin hay nhờ người khác xin đều không phạm, nhưng không được xin vàng bạc tiền. Hết Ni tát kỳ ba dật đề thứ sáu.
Phật tại tinh xá trong vườn Cấp cô độc..., lúc đó các thí chủ nghe các Tỳ-kheo bị đoạt y nên mang nhiều y đến cúng, Phật nhân việc này chế giới nếu Tỳ-kheo bị cướp y, mất y... được xin y từ cư sĩ không phải bà con, được cúng nhiều y thì chỉ được thọ hai y thượng hạ, không được quá; nói thỉnh tùy ý là thí chủ nói với Tỳ-kheo nếu cần thì tùy ý lấy dùng; nói chỉ lấy hai y thượng hạ là nếu mất ba y thì được thọ hai y thượng hạ, nếu mất hai y thì được thọ một y. Tỳ-kheo-ni nếu mất năm y thì được thọ hai y, mất bốn y được thọ một y; nếu là thân hữu hay được thí chủ thỉnh tùy ý thì được tùy ý thọ không phạm. Hết Ni tát kỳ ba dật đề thứ bảy.
Phật tại tinh xá trong vườn Cấp cô độc..., lúc đó có cư sĩ và vợ cư sĩ đem tài vật muốn mua y cúng dường cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo nghe biết tin này liền đến nhà họ khuyên họ nên mua y quý giá như thế, như thế... Phật nhân việc này chế giới không được xin y từ cư sĩ và vợ cư sĩ không phải bà con, nếu xin được vào tay thì phạm; nếu là bà con hay thí chủ thỉnh tùy ý thì Tỳ-kheo không phạm. Nói giá tiền y là vàng bạc hay tiền. Hết Ni tát kỳ ba dật đề thứ tám.
Duyên khởi của giới này cũng là xin y từ cư sĩ không phải bà con, chỉ khác ở chỗ là từ nhiều cư sĩ và khuyên họ hùn tiền y lại để mua một y quý giá cúng cho Tỳ-kheo; nói giá tiền y là vàng bạc hay tiền. Hết Ni tát kỳ ba dật đề thứ chín.
Phật tại tinh xá trong vườn Cấp cô độc..., lúc đó có vị đại thần sai sứ đem giá tiền y đưa cho Tỳ-kheo __________ như trong luật đã nói. Nói bị phạt năm mươi Ca lợi sa bàn là Tỳ-kheo gởi giá tiền y này ở nhà một thương buôn, khi đến lấy thương buôn này nói: "hôm nay có có việc gấp phải đi, xin đại đức hãy chờ qua ngày mai đến lấy", Tỳ-kheo nhất định đòi lấy ngay, thương buôn vì nhân duyên này nên đến trễ và bị phạt năm mươi tiền. Phật nhân việc này nên chế giới không được đến đòi tiền y quá sáu lần, nói lấy tịnh vật là được tịnh vật mới thọ, tịnh vật là y phục, thuốc thang... các vật cần dùng; nói đã đưa giá tiền y cho người chấp sự là người làm việc cho Tăng là lời sứ giả đến nói lại cho Tỳ-kheo biết để khi nào cần Tỳ-kheo đến đó lấy y. Nói tôi cần y là lời của Tỳ-kheo nói với người chấp sự, tùy hiểu mà mua y đưa cho Tỳ-kheo, nếu không hiểu thì được đến đòi ba lần, được y thì tốt, nếu không được y thì lần thứ tư, thứ năm, thứ sáu, đến đứng trước họ im lặng nhắc, họ có mời ăn uống cũng không được thọ, thỉnh thuyết pháp chú nguyện cũng không thọ thỉnh. Nếu cũng không được y thì Tỳ-kheo nên đến chỗ sứ giả đưa giá tiền y nói rằng: "tài vật mà ông đã đưa rốt cuộc tôi không thọ được, ông nên tự biết, chớ để cho mất" hoặc nói với chủ y. Có hai hạng người chấp sự: một là chỉ thị, hai là không chỉ thị; trong chỉ thị lại có hai:
-do sứ giả chỉ thị: như sứ giả hỏi Tỳ-kheo có người chấp sự không, Tỳ-kheo đáp là không có, sứ giả tự tìm người chấp sự, được rồi liền dẫn đến chỗ Tỳ-kheo nói: "người này có thể làm người chấp sự cho đại đức", nói rồi ở trước Tỳ-kheo đưa giá tiền y cho người chấp sự này nói: "khi nào Tỳ-kheo cần thì ông hãy lấy tiền này mua y cho Tỳ-kheo".
-do Tỳ-kheo chỉ thị: như sứ giả hỏi Tỳ-kheo có người chấp sự không, Tỳ-kheo nói: "có, người ấy đang ở tại thôn tên là __________", sứ giả đến gặp người đưa giá tiền y và nói: "ông hãy cất giữ tiền này, khi nào Tỳ-kheo cần thì ông lấy mua y đưa cho Tỳ-kheo tên __________", giao tiền rồi trở lại nói với Tỳ-kheo: "tôi đã đưa tiền cho người chấp sự mà thầy đã chỉ, khi nào thầy cần y thì đến đó lấy".
Trong không chỉ thị cũng có hai: một là mình không hiện tiền, hai là người kia không hiện tiền, tổng cộng là bốn hạng người chấp sự. Nếu sứ giả giao tiền y cho người chấp sự rồi mà không trở lại báo cho Tỳ-kheo biết thì Tỳ-kheo không được đến đó đòi y, nếu đòi được y thì phạm Đột kiết la. Nếu cư sĩ đem vàng bạc vật báu đến đưa cho Tỳ-kheo để làm Tăng già lam hay nhà ăn... cho đến làm thức ăn uống... cho Tăng thì Tỳ-kheo không được thọ, nếu thọ thì phạm Đột kiết la. Tỳ-kheo biết luật nên bảo cư sĩ đưa cho tịnh nhân cất giữ rồi sau đó tùy ý liệu lý. Nếu cư sĩ đem tài vật cúng để dùng vào việc gì thì Tỳ-kheo không được hồi chuyển đem dùng vào việc khác; nếu cúng để tu sửa phòng xá, do thức ăn thiếu thốn nên Tăng muốn bỏ đi thì được trích lấy một phần tài vật này dùng cho việc ăn uống để Tăng không bỏ đi thì không phạm, vì gìn trú xứ. Nếu cư sĩ cúng ruộng vườn, ao nước cho cá nhân Tỳ-kheo thì Tỳ-kheo không được thọ, cúng cho Tăng thì Tăng được thọ; nếu cư sĩ đem tịnh vật như y phục, thức ăn... thì Tỳ-kheo được thọ, nhưng không được vì mình mà bảo cư sĩ nên làm món này món kia cho mình, nếu họ hiểu ý làm mang đến thì Tỳ-kheo cũng không được ăn. Như có một Tỳ-kheo tại núi Chất đa la muốn ăn bánh, thấy các cư sĩ ở trước hiên liền vẽ trên đất hình cái bánh, cư sĩ hiểu ý ngày mai làm bánh mang đến cúng Tăng, Thượng tòa sau khi hiểu được nguyên do không thọ bánh này nên Tỳ-kheo cũng không dám thọ. Nếu cư sĩ bố thí nô tỳ cho Tăng thì Tăng không được thọ, nếu họ nói bố thí tịnh nhân hay người chấp sự thì được thọ. Nếu tịnh nhân buổi sáng làm việc cho Tăng, buổi chiều làm việc riêng của mình thì Tăng nên cho họ ăn bữa trưa, sau bữa trưa không được cho. Nếu cư sĩ cúng bò dê... Tỳ-kheo không được thọ, nếu họ nói cúng sữa, lạc... thì được thọ. Hết Ni tát kỳ ba dật đề thứ mười.
Phật tại thành A la tỳ... do các Tỳ-kheo làm phu cụ Kiều xa da, tức là bằng tơ tằm nên Phật chế giới này. (giới 11) Phật tại giảng đường Cao các, thành Tỳ xá ly... do các Tỳ-kheo dùng lông dê thuần đen làm phu cụ nên Phật chế giới này. (giới 12)
Phật tại tinh xá trong vườn Cấp cô độc... do Phật không cho các Tỳ-kheo dùng thuần lông dê làm phu cụ nên chế muốn làm phu cụ mới nên dùng hai phần lông dê đen, một phần lông dê trắng và một phần lông dê tạp xấu. Nếu không dùng theo phần lượng như thế để làm phu cụ thì phạm Ni tát kỳ ba dật đề. (giới 13)
Phật tại tinh xá trong vườn Cấp cô độc...do các Tỳ-kheo thích mới bỏ cũ nên Phật chế phu cụ chưa dùng đủ sáu năm thì không được làm phu cụ mới, trừ Tăng yết ma cho. Nói Tăng yết ma cho là nếu phu cụ dùng chưa đủ sáu năm mà quá hư rách, không thể khâu vá được nữa thì theo Tăng xin cho may phu cụ mới, Tăng xét thấy đúng như vậy thì tác yết ma cho làm cái mới. (giới 14)
Phật tại tinh xá trong vườn Cấp cô độc..., lúc đó Phật muốn yên tĩnh trong ba tháng nên các Tỳ-kheo lập chế không ai được đến gặp Thế tôn. Do trưởng lão Ưu ba tư na Bằng kiền đà tử không biết Tăng lập chế này nên dẫn các đệ tử đến chỗ Phật. Trưởng lão này thọ pháp đầu đà khéo dạy các đệ tử thọ pháp đầu đà nên được Phật khen ngợi lành thay. Sau đó Phật đi xem xét các phòng thấy nhiều phu cụ cũ bỏ bừa bãi nên bảo các Tỳ-kheo: "thí chủ tín tâm bố thí là muốn được thọ dụng, vì vậy chớ làm cho tổn thất", nói rồi liền chế Tỳ-kheo muốn làm phu cụ mới thì phải lấy một miếng vải trên phu cụ cũ, dài rộng bằng một gang tay của Phật, may thiếp lên thành viền của phu cụ mới làm cho hoại sắc rồi mới thọ trì. Hết Ni tát kỳ ba dật đề thứ mười lăm.
Phật tại tinh xá trong vườn Cấp cô độc..., lúc đó các cư sĩ thấy Lục quần Tỳ-kheo vác lông dê đi trên đường nên đùa cợt hỏi: "thầy vác lông dê này đi đâu, đến đâu bán và bán bao nhiêu?", Tỳ-kheo nghe rồi khi vác về đến trong chùa tức giận ném xuống đất, các Tỳ-kheo hỏi nguyên do rồi bạch Phật nên Phật chế Tỳ-kheo không được vác lông dê đi quá ba do tuần. Nói quá ba do tuần là nếu tự mình vác lông dê đi quá ba do tuần, không người vác thế thì phạm Ni tát kỳ ba dật đề; nếu đi được ba do tuần bỏ xuống đất dùng cây đẩy hay dùng chân đá để lăn chuyển đi, qua ba do tuần cũng phạm. Hết Ni tát kỳ ba dật đề thứ mười sáu.
Phật tại vườn Ni câu luật, nước Ca tỳ la vệ... do Lục quần Tỳ-kheo nhờ các Tỳ-kheo-ni chải nhuộm lông dê, các Tỳ-kheo-ni vì việc này mà bỏ phế việc tọa thiền tụng kinh. Phật nhân việc này chế Tỳ-kheo không được nhờ Tỳ-kheo-ni không phải bà con chải nhuộm lông dê. Hết Ni tát kỳ ba dật đề thứ mười bảy.
Phật tại núi Kỳ xà quật, thành Vương xá... do Lục quần Tỳ-kheo cầm giữ vàng bạc, vật báu là tài vật bất tịnh nên Phật chế giới này. Nói vàng bạc vật báu là bao gồm vật đã thành và chưa thành, cho đến các loại tiền lưu hành trong nước thảy đều không được tự cầm giữ, cũng không được bảo người khác cầm giữ. Nếu có cư sĩ mang vàng bạc vật báu đến cúng, Tỳ-kheo nên nói pháp của Tỳ-kheo không thọ vật bất tịnh này, nếu cư sĩ hiểu biết pháp lấy tài vật này đổi thành tịnh vật như y phục thức ăn uống... mang đến cúng thì Tỳ-kheo được thọ. Thọ dụng của tín thí có bốn loại:
-Kẻ trộm thọ dụng là như Tỳ-kheo phạm giới, phá giới mà ở trong Tăng theo thứ lớp thọ tín thí cúng dường.
-Mắc nợ thọ dụng là Tỳ-kheo khi thọ dụng y thực, ngọa cụ, trú xứ...của tín thí cúng dường trước nên chánh niệm quán tưởng rồi như pháp tu hành mới tiêu hóa được; nếu không quán tưởng và không như pháp tu hành thì khó tiêu được của tín thí và như vậy gọi là mắc nợ thọ dụng.
-Thân hữu thọ dụng là chỉ cho bảy bậc Thánh hữu học thọ dụng của tín thí cúng dường cũng như của thân hữu, như con thọ của cha.
-Chủ thọ dụng là chỉ cho bậc vô học A-lahán.
Lại có bốn loại thọ dụng khác:
-Biết hổ thẹn thọ dụng là như người không biết hổ thẹn thân cận và tùy thuận người biết hổ thẹn, sẽ bỏ ác theo thiện thì thọ dụng của tín thí không tội.
-Không biết hổ thẹn thọ dụng là như người biết hổ thẹn thân cận và tùy thuận người không biết hổ thẹn, sẽ bỏ thiện theo ác thì thọ dụng của tín thí có tội.
-Có pháp thọ dụng là người biết hổ thẹn như pháp được vật mà thọ dụng.
-Không có pháp thọ dụng là ngươi không biết hổ thẹn phi pháp được vật, nếu thọ dụng sẽ như độc dược. Hết Ni tát kỳ ba dật đề thứ mười tám.
Phật tại tinh xá trong vườn Cấp cô độc... do Lục quần Tỳ-kheo xuất thu vàng bạc vật báu để cầu lợi nên Phật chế giới này. Nói đủ loại là không phải một, tức là lấy vật đã thành đổi lấy vật chưa thành, hoặc lấy vật chưa thành đổi lấy vật đã thành, hoặc lấy vật đã thành đổi lấy vật đã thành, hoặc lấy vật chưa thành đổi lấy vật chưa thành. Nói vật đã thành là như vòng vàng xoa xuyến... các vật trang sức, khi vật chưa vào tay thì phạm tội Ác tác, vật vào tay thì phạm Xả đọa.
Hỏi: như thế nào là đem tội Ác tác đổi lấy tội Xả đọa?-như đem tiền đồng đổi lấy tiền vàng; ngược lại nếu đem tiền vàng đổi lấy tiền đồng là đem tội Xả đọa đổi lấy tội Ác tác. Hết Ni tát kỳ ba dật đề thứ mười chín.
Phật tại tinh xá trong vườn Cấp cô độc... do Lục quần Tỳ-kheo mua bán đủ loại để cầu lợi nên Phật chế giới này. Nói mua bán cầu lợi là mua vào rẻ bán ra mắc, đầu cơ tích trữ để cầu lợi...Hết Ni tát kỳ ba dật đề thứ hai mươi.
Phật tại tinh xá trong vườn Cấp cô độc... do Lục quần Tỳ-kheo chứa nhiều bát dư nên Phật chế giới này, nếu chứa bát dư quá mười ngày mà không thuyết tịnh hay thọ trì thì phạm Ni tát kỳ ba dật đề. Hỏi: bát mới phải nung mấy lần mới được thọ trì?-nếu là bát sắt thì nung năm lần, bát gốm thì nung hai lần. Nếu mua bát từ người khác mà chưa trả tiền thì không được thọ trì; nếu họ nói cứ lấy dùng, trả tiền sau cũng được thì Tỳ-kheo được lấy nhưng chưa được thọ trì, đợi trả tiền xong mới thọ trì. Nếu đã trả tiền xong mà Tỳ-kheo không đến lấy bát để thọ trì thì qua mười ngày phạm Xả đọa. Nói mất thọ trì là nếu Tỳ-kheo hoàn tục, hoặc chết hoặc chuyển căn hoặc xả bát, bát bị lủng...; nếu bát bị lủng một lỗ bằng hạt lúa thì mất thọ trì, nhưng nếu dùng sắt vụn vá lại được thì không mất thọ trì. Hết Ni tát kỳ ba dật đề thứ hai mươi mốt.
Phật tại tinh xá trong vườn Cấp cô độc... do Tỳ-kheo Ô ba-nan đà xin thêm bát tốt nên Phật chế bát chưa tới năm lằn nứt, còn dùng được mà xin bát mới thì phạm Ni tát kỳ ba dật đề. Bát này nên xả trong Tăng và ở trong Tăng hành bát, chuyển đổi bát từ vị Thượng tòa cho đến hạ tòa rồi lấy bát của vị cuối cùng trong Tăng đưa lại cho Tỳ-kheo phạm cất giữ thọ trì cho đến khi bể, không được thuyết tịnh cũng không được cho người khác. (Hết giới 22)
Phật tại vườn Cấp cô độc... do Tỳ-kheo Ô banan đà tử xin chỉ sợi rồi đưa đến chỗ người thợ dệt không phải bà con bảo dệt thành y... nên Phật chế giới này. Không phạm là xin chỉ sợi từ bà con và bảo thợ dệt là bà con dệt y. (giới 23)
Phật tại vườn Cấp cô độc...do cư sĩ và vợ cư sĩ bảo thợ dệt dệt y để cúng cho Tỳ-kheo Ô ba-nan đà, Tỳ-kheo này liền đến chỗ thợ dệt này bảo dệt cho dài rộng, bền chắc và thật đẹp theo ý của mình rồi sẽ trả thêm tiền công...nên Phật chế giới này. Nếu thí chủ bảo dệt y rộng lớn, Tỳ-kheo bảo dệt nhỏ lại hoặc thí chủ bảo dệt y quý giá, Tỳ-kheo bảo dệt y thường thì không phạm; nếu thí chủ thỉnh tùy ý và thợ dệt là bà con thì không phạm. (giới 24)
Phật tại vườn Cấp cô độc... do Tỳ-kheo Nan đà sau khi cho đệ tử y rồi, vì tức giận nên đoạt lấy lại, Phật nhân việc này kết giới nếu đã cho Tỳ-kheo khác y rồi, sau vì sân giận nên đoạt lấy lại hoặc bảo người khác đoạt lại, y rời khỏi thân người kia vào tay mình thì phạm Ni tát kỳ ba dật đề. (hết giới 25) Phật tại vườn Cấp cô độc...do còn mười ngày nữa mới tự tứ mà được y cấp thí nên Phật chế giới này. Nói cấp thí là vì mình bịnh nên thí, vì người khác bịnh nên thí, vì mình sắp chết nên thí, vì người khác chết nên thí, vì sắp đi xa nên thí. Nói nên thọ là nếu không thọ, qua nạn gấp này thì không được thí nữa. (giới 26)
Phật tại vườn Cấp cô độc... do các Tỳ-kheo trụ nơi A lan nhã bị giặc cướp nên khai cho các Tỳ-kheo này được gởi một trong ba y ở nơi tụ lạc và được lìa y trong sáu đêm. Tỳ-kheo ở A lan nhã có hai loại: một là ở lâu dài, hai là ở trong ba tháng; nói giặc cướp là giặc nổi lên cướp phá vào mùa thu trong tháng Ca đề; nếu ở A lan nhã có chúng tăng đông và phòng nhà kiên cố thì không cần gởi y trong tụ lạc, nếu gởi thì đêm thứ sáu phải đến chỗ y, nếu không đến, qua đêm thứ bảy khi mặt trời mọc liền phạm Xả đọa. (giới 27)
Phật tại nước Xá vệ, lúc đó nhân Tỳ xá khư mẫu nên Phật khai cho các Tỳ-kheo cất chứa y tắm mưa.
Nói còn một tháng nữa mới đến mùa hạ nên làm y tắm mưa, tức là từ 16 tháng 4 đến ngày 15 tháng 5, nhưng chưa được dùng. Nói nửa tháng sau được dùng là còn nửa tháng nữa mới vào hạ an cư, tức là từ ngày mồng 1 tháng 5 được dùng cho đến hết mùa hạ. Nếu trong một tháng cuối của mùa xuân mà chưa có được y tắm mưa, đến đầu hạ mới có thì được thọ trì ngay; nếu đã có y tắm mưa mà không dùng, lõa hình tắm mưa thì phạm Đột kiết la. (giới 28)
Phật tại nước Xá vệ... Phật khai cho các Tỳ-kheo bịnh được cất chứa loại Thất nhật dược gồm có sanh tô, thục tô, dầu, mật và đường phèn, tác pháp thọ trì được dùng trong bảy ngày, qua ngày thứ tám thì phạm Xả đọa. Nếu có ruồi hay kiến rơi vào trong, nên lượt bỏ rồi dùng; nếu đến ngày thứ bảy mất pháp thọ đem cho Sa di hay tịnh nhân, nếu sau đó được họ cho trở lại thì được dùng không phạm; nếu chưa đủ bảy ngày mà đem cho Sa di, sau đó cần dùng, được đến Sa di xin lại dùng không phạm. (giới 29)
Phật tại vườn Cấp cô độc... do có thí chủ cúng y cho Tăng, Tỳ-kheo Ô ba-nan đà hồi chuyển về cho mình nên Phật chế giới này, phương tiện khuyến hóa để hồi chuyển về cho mình thì phạm Đột kiết la, khi vật vào tay thì phạm Xả đọa; nếu biết cúng cho Tăng trú xứ này đem hồi chuyển cho Tăng trú xứ khác, hoặc biết cúng cho người này mà hồi chuyển cho người khác... đều phạm Đột kiết la. (giới 30)Hết 30 pháp Ni tát kỳ ba dật đề.
Trong 90 pháp Ba dật đề, trong giới vọng ngữ thứ nhất, do Tỳ-kheo Ha đa thuộc dòng họ Thích xuất gia, tánh thích luận nghị, nhưng khi cùng ngoại đạo luận nghị biết mình đuối lý liền nói ngược lại lời đã nói; hoặc khi ngoại đạo nói hay liền nói ngược lại là lời của mình, nếu lý đó không đúng liền nói ngược lại là lời của ngoại đạo. Lúc đó Ha đa hẹn với ngoại đạo sau buổi trưa sẽ cùng luận nghị nhưng lại đến trước buổi trưa, lên tòa ngồi rồi nói với mọi người rằng: "ngoại đạo không đến ắt là sợ ta", nói rồi xuống tòa bỏ đi; đến xế trưa ngoại đạo đến không thấy Tỳ-kheo, sau khi biết rõ nguyên do liền chê trách: "Sa môn Thích tử nói biết chánh pháp mà lại cố ý vọng ngữ". Phật nhân việc này chế Tỳ-kheo cố ý vọng ngữ thì phạm Ba dật đề. Nói vọng ngữ là lời nói và ý nghĩ trái nhau, cũng gọi là lời nói suông, thuộc tánh tội.
Nói hủy tử ngữ là nói lời chê bai hủy nhục, muốn người kia nghe rồi sanh xấu hổ, thuộc tánh tội.
Nói hai lưỡi là đến bên này nói xấu bên kia, đến bên kia nói xấu bên này, khiến cho hai bên bất hòa tranh cãi nhau, đối tượng là Tỳ-kheo hay Tỳ-kheo-ni thì phạm Ba dật đề; nếu là ba chúng dưới thì phạm Đột kiết la, đối tượng là bạch y cũng Đột kiết la. Giới này thuộc tánh tội.
Nói đồng tụng theo câu có bốn: một là câu, tức là mỗi câu trong bài kệ tụng; hai là tùy câu, tức là hai câu kế tiếp nhau; ba là tùy chữ, bốn là tùy nghĩa vị. Như dạy người chưa thọ giới cụ túc câu chớ làm điều ác, họ đồng thanh tụng theo thì Tỳ-kheo phạm Ba dật đề; hoặc thầy nói chớ làm điều ác, những người chưa thọ giới cụ túc đọc nối theo nên làm việc lành thì Tỳ-kheo cũng phạm Ba dật đề. Nói lời Phật dạy là cả ba tạng kinh luật luận đều là lời Phật dạy; nói lời Thanh văn là như kinh A năng già na chánh kiến, kinh A nậu ma na, kinh Châu la tỳ đà la... đều là lời của Thanh văn nói; nói lời Phạm chí là như một phẩm nói về ngoại đạo Phạm chí; nói lời của trời người, ma, Phạm... dù đồng tụng đều không phạm.
Như Phật đã dạy trước khi ngủ nên chánh niệm một trong sáu pháp: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thiện và niệm vô thường. Do có Tỳ-kheo không chánh niệm trước khi ngủ nên tâm loạn nói mớ hoặc lộ thân hoặc ngáy to tiếng, khiến các cư sĩ chê trách nên Phật chế Tỳ-kheo không được ngủ chung với người chưa thọ giới cụ túc Lúc đó La hầu la nghe Phật chế giới này rồi liền vào trong nhà xí của Phật ngủ, trời chưa sáng Phật lên nhà xí thấy La hầu la ngủ đêm trong đó, vì La hầu la và vì các Sa di khác nên Phật khai cho được ngủ chung phòng với Tỳ-kheo hai đêm, quá hai đêm thì Tỳ-kheo phạm Ba dật đề; nếu đến đêm thứ ba, tùy Tỳ-kheo hay Sa di thức rồi ngủ trở lại cho đến sáng thì Tỳ-kheo phạm Ba dật đề.
Giới cùng người nữ ngủ đêm chung một nhà là nếu nhà rộng lớn, nhiều phòng nối tiếp nhau mà đi chung một cửa thì Tỳ-kheo phạm Ba dật đề; nếu mỗi phòng có cửa riêng mà không đóng cửa thì Tỳ-kheo cũng phạm Ba dật đề; nếu đóng cửa thì không phạm.
Nói thuyết pháp cho người nữ chỉ được năm sáu lời (câu), quá năm sáu câu mà nối tiếp nhau không gián đoạn thì Tỳ-kheo phạm một Ba dật đề; nếu có gián đoạn thì tùy gián đoạn bao nhiêu phạm Ba dật đề bấy nhiêu. Nếu giải thích một câu kinh văn và năm câu sớ giải thành sáu câu thì không phạm, quá thì phạm; nếu khi thuyết pháp, tùy người nữ hỏi, Tỳ-kheo đáp, do tùy hỏi đáp nên không phạm. Nói trừ người nam có trí bên cạnh thì dù nói quá năm sáu câu đều không phạm.
Trong giới này, khác với giới vọng nói được pháp hơn người trong thiên Ba la di ở chỗ là Tỳ-kheo thật được pháp hơn người, nhưng nếu đối trước người chưa thọ giới cụ túc mà nói thì phạm Ba dật đề.
Nói tội thô là tội thuộc trong Ba la di và Tăng già bà thi sa, nếu đối trước người chưa thọ giới cụ túc nói tội thô của Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni khác thì
Tỳ-kheo phạm Ba dật đề. Nói trừ Tăng yết ma là nếu Tăng yết ma cho đến trong thôn hay thành ấp nào đó nói tội thô của Tỳ-kheo tên , Tỳ-kheo không làm đúng như Tăng đã yết ma cho nói thì Tỳ-kheo phạm Ba dật đề. Trừ hai thiên tội trên, nói tội trong ba thiên sau thì phạm Đột kiết la.
Trong giới đào đất, nên phân biệt đất sống và đất không sống. Nói đất sống là đất không có xen lẫn cát đá sạn..., ngược lại là đất không sống, đất bị cháy cũng gọi là đất không sống. Nếu đất không sống trải qua bốn tháng mùa mưa cũng gọi là đất sống, nếu Tỳ-kheo đào đất sống thì phạm Ba dật đề. Nếu Tỳ-kheo bảo tịnh nhân đào đất chặt cây giùm cho Tăng thì không phạm, nhưng nếu chỉ vẻ nên đào như thế nào, chặt cây như thế nào thì phạm Ba dật đề.
Trong giới hoại sanh chủng, do Tỳ-kheo chặt cây đại thọ làm cho vị thọ thần mất chỗ ở, đến bạch Phật nên Phật chế Tỳ-kheo chặt phá cây cỏ sống thì phạm Ba dật đề. Để an ủi thọ thần, Phật nói kệ:
"Người nào đang nổi giận,
Như xe đang chạy nhanh,
Mà ngừng xe lại được,
Việc này không khó lắm,
Dừng được cơn tức giận,
Việc này mới thật khó"
Thọ thần nghe kệ này xong liền chứng quả Tu đà hoàn, Phật dùng thiên nhãn quán để tìm cây không có chủ rồi bảo vị thọ thần này đến đó nương ở. Nói cây cỏ sống có năm loại là củ, thân, cành lá, hoa và quả. Loại củ như củ gừng, củ nghệ (A lê đà); hương phu tử (Ưu thi la); tước đầu hương (Chất tha trí trá); củ hoàng liên (Lư kiền)…. Loại cây có cành lá to rộng như cây Bồ đề (Xá ma), cây bối đa (Bà hê la)...Loại cây hoa như hoa Tô ma na, hoa Mạt lợi... Những cây này đều mọc và sống trên đất, loại cây mọc và sống dưới nước như hoa sen, hoa súng, san hô, lục bình... nếu Tỳ-kheo lấy ra khỏi nước thì phạm Ba dật đề. Loại cây ăn trái, nếu Tỳ-kheo cần ăn trái, được kéo cánh cây xuống bảo tịnh nhân hái, nhưng không được làm gảy cành; nếu tịnh nhân hái không tới, Tỳ-kheo có thể đỡ lên cho hái-không phạm.
Trong giới nói lời lạ xúc não, Tỳ-kheo Xiển na đã làm hạnh xấu, điều không nên làm lại làm, từ thân khẩu khởi tội nên bị các Tỳ-kheo cử tội, Xiển na hỏi: "ai phạm tội?", các Tỳ-kheo nói: "thầy phạm tội", lại hỏi: "tôi phạm tội gì?", có người đáp là tội Ba dật đề, có người đáp là tội Đột kiết la, Xiển na hỏi: "tôi phạm vào lúc nào?", đáp là vào lúc, lại hỏi về việc gì, đáp là về việc , Xiên na hỏi trở lại: "các thầy nói gì vậy?", hoặc im lặng không nói. Phật nhân việc này nên chế Tỳ-kheo biết mình là phi pháp mà dùng lời lạ, trả lời quanh co để xúc não Tăng thì phạm Ba dật đề. Nếu nghi mà trả lời quanh co cũng phạm Ba dật đề, hoặc thật biết mà đáp là không biết cũng phạm Ba dật đề.
Trong giới chê trách người được Tăng sai, do hiềm khích hay tật đố mà chê trách đều phạm Ba dật đề, nếu chê trách Tỳ-kheo khác thì phạm Đột kiết la.
Trong giới trải phu cụ của Tăng nơi đất trống, nếu vào tháng lạnh, trải phu cụ của Tăng nơi đất trống ngồi nằm để sưởi nắng, khi đi không tự cất, không bảo người cất thì phạm Ba dật đề. Nếu Tỳ-kheo thọ pháp đầu đà bậc thượng, chỉ ở dưới gốc cây hay nơi đất trống thì không được lấy ca sa giăng làm màn che, cũng không được lấy ngọa cụ của Tăng trải dùng; nếu thọ pháp đầu đà bậc trung thì lúc trời không mưa ở ngoài đất trống, khi trời mưa được ở dưới hiên chùa, nếu vào trong chùa thì được dùng ngọa cụ của Tăng. Nếu Tỳ-kheo thọ dùng ngọa cụ của Tăng thì khi đi nên giao lại cho Tỳ-kheo khác cất giữ, nếu không có ai để giao lại thì nên gợi cho trú xứ gần đó, nếu cũng không có trú xứ gần thì xếp để trong phòng khóa lại, hoặc cột treo dưới cây có tàng lá dày kín. Nếu treo như vậy thì khi đi nên khởi nghĩ sẽ quay trở lại ngay, nếu trở lại ngay thì không phạm; nếu gặp nạn duyên không trở lại được thì nên nhắn gởi ai đó cất giùm thì không phạm. Nói giường có bốn loại:
-Chân giường Ba ma gia la là lỗ bệ nhỏ tra vào chân giường-chân giường nhọn.
-Chân giường văn đề là chân giường có hình như móng chân ngựa, chân dê...
-Chân giường Câu lợi ca là loại chân giường không có tra lỗ bệ.
-Chân giường A kiệt gia là chân giường tra vào lỗ bệ lớn.
Nói trải giường nơi đất trống là ở ngoài phạm vi mà người trung bình ném đá tới. Nếu Thượng tòa bảo hạ tòa trải ngọa cụ, Thượng tòa ngồi rồi, Hạ tòa bỏ đi không phạm; nếu Thượng tòa chưa ngồi có Tỳ-kheo khác đến ngồi, Hạ tòa muốn bỏ đi nên dặn lại Tỳ-kheo này thu cất. Như thế cho đến lấy dùng vật của Tăng như nồi nhuộm y..., dùng xong nên cất lại chỗ cũ, nếu không cất thì phạm Đột kiết la; mượn dùng vật của người khác cũng vậy.
Giới này khác với giới trên ở chỗ là trải ngọa cụ của tăng trong phòng, khi đi không thu xếp, không bảo người thu xếp, vừa bước chân ra ngoài giới liền phạm Ba dật đề.
Nếu Tỳ-kheo biết Tỳ-kheo khác đến trước đã trải ngọa cụ nằm nghỉ rồi, mình đến sau vì muốn xúc não nên giành chỗ thì phạm Ba dật đề.
Trong giới ở trên lầu gác nằm ngồi giường sút chân là nếu không phải lầu gác thì không phạm.
Trong giới lợp nhà quá lượng là nếu lợp một lớp thì không phạm, nếu lợp ngói quá ba lớp thì tùy ngói nhiều ít tùy kết phạm, lợp cỏ tranh cũng vậy.
Trong giới dùng nước có trùng, nếu tùy nhân duyên biết trong nước có trùng mà tự lấy dùng hay bảo người khác dùng đều phạm Ba dật đề-thuộc tánh tội.
Trong giới không được Tăng sai mà đến giáo giới Tỳ-kheo-ni, do Lục quần Tỳ-kheo thấy các Tỳ-kheo khác đến giáo giới Tỳ-kheo-ni được nhiều lợi dưỡng nên tự đến giáo giới Tỳ-kheo-ni, thuyết pháp được một lát liền nói việc thế gian như chính sự quốc gia, năm nay được mùa hay mất mùa... Phật nhân việc này chế Tỳ-kheo phải đủ tám pháp mới được giáo giới Tỳ-kheo-ni:
-Trì giới tức là thân có giới, trì giới không phạm.
-Thủ hộ Ba la đề mộc xoa, tức là hộ thân khẩu ý, hành trì pháp vô thượng đầy đủ.
-Đầy đủ oai nghi là không tà mạng để tự nuôi sống, không đến năm nhà: một là nhà dâm nữ, hai là nhà góa phụ, ba là chùa ni, bốn là nhà đồng nữ, năm là nhà huỳnh môn; cũng không đến nhà Ưu bà di tín tâm.
-Thấy tội nhỏ sanh tâm sợ hãi, không dám phạm. 5-Kiên trì không phạm là không thối tâm trì giới. 6-Đa văn là thông hiểu một hoặc hai bộ A hàm.
-Đa văn kiên cố là thông hiểu kinh luật luận không quên sót.
-Phân biệt thuyết pháp đầu, giữa và sau đều thiện, thuần nhất không tạp, đầy đủ phạm hạnh, chánh kiến không tà kiến, tung thông suốt hai bộ giới bổn, văn nghĩa rõ ràng, âm thanh lưu loát, được Tỳ-kheo-ni cung kính tôn trọng, khéo tùy thuận thuyết pháp và đủ hai mươi tuổi hạ.
Nếu Tỳ-kheo đến giáo giới Tỳ-kheo-ni, không được thuyết pháp trong phòng; nếu hạ an cư, trú xứ ni nên cách trú xứ Tăng trong khoảng nửa do tuần, để mỗi nửa tháng vào ngày thuyết giới bố tát đến trong Tăng cầu giáo giới. Lúc đó tất cả ni chúng đều đến trong Tăng cầu giáo giới bị thế gian chê trách nên Phật chế chỉ nên năm người đại diện đến, cũng lại bị thế gian chê trách nên Phật chế hai ba người dại diện đến. Tỳ-kheo-ni nên tác pháp yết ma sai hai ba Tỳ-kheo-ni đến trong Tăng cầu giáo giới, cho đến Tỳ-kheo A lan nhã cũng được giáo giới Tỳ-kheo-ni. Khi đến giáo giới, nếu Tỳ-kheo không nói pháp bát kỉnh trước thì phạm Đột kiết la, nói pháp bát kỉnh rồi nói pháp khác thì không phạm.
Trong giới này nói về nhân duyên của Bàn đà, Bàn đà nghĩa là sanh bên vệ đường, do mẹ của Bàn đà vốn là con gái của đại trưởng giả, trưởng giả này xây lầu bảy tầng cho con gái ở và sai một nô bộc cung cấp vật cần dùng. Nô bộc này lớn lên cùng con gái của trưởng giả tư thông nên cô muốn cùng nô bộc này trốn sang nước khác, nô bộc nói không đi được, cô gái nói: "nếu không đi, cha mẹ biết được sẽ giết anh", nô bộc nói: "tôi nghèo không có tiền của, đến nước khác làm sao sinh sống?", cô gái nói: "nếu vậy em sẽ trộm lấy ít vật báu mang đi", nô bộc bằng lòng cùng trốn đi. Cô gái sau khi trộm được ít vật báu liền cùng nô bộc này trốn sang nước khác, một năm sau cô có thai, lúc sắp sinh liền suy nghĩ: "nếu sanh ở đây thì không có ai giúp đỡ", nghĩ rồi muốn trở về nhà mẹ đẻ nên nói với chồng, người chồng nói: "chúng ta đã bỏ trốn đi thì làm sao về được", người vợ nói: "mẹ tuy giận dữ nhưng không thể giết con, em muốn về nhà mẹ để sanh", người chồng nói: "cha mẹ không giết em nhưng sẽ giết anh". Người vợ đợi lúc người chồng vào núi lượm củi liền bỏ đi, người chồng trở về không thấy vợ nên đi tìm, đi đến nửa đường gặp vợ đã sanh được một trai, người chồng nói: "em định về nhà mẹ đẻ sanh nhưng nay đã sanh thì cần gì về nữa", người vợ nghe rồi cùng chồng trở về, không về nhà mẹ nữa. Một năm sau, người vợ lại mang thai, khi sắp sanh lại muốn về nhà mẹ đẻ nhưng đến nửa đường thì sanh một trai nữa; cả hai anh em đều sanh bên vệ đường nên được gọi là Bàn đà anh, Bàn đà em. Lớn lên cùng chơi với các bạn thường bị chúng trêu chọc là không có bà con thân thích, chúng nghe rồi khóc chạy về hỏi mẹ, người mẹ im lặng không nói, chúng lại khóc và không chịu ăn cơm, người mẹ thấy vậy nên kể rõ mọi việc cho hai con nghe, chúng nghe rồi muốn trở về nhà ngoại, không muốn ở lại nơi đây nữa. Hai vợ chồng sau khi bàn bạc xong liền dẫn hai con trở về nhà cha mẹ, về đến trước cửa bảo gia nhân vào thông báo, cha mẹ nghe báo liền bảo gia nhân: "cho hai đứa trẻ vào, còn hai vợ chồng kia thì không cần gặp chúng ta nữa". Trưởng giả cho hai cháu tắm rửa bằng nước thơm, cho mặc y phục đẹp và trang nghiêm bằng chuỗi anh lạc rồi bồng hai cháu lên hỏi: "mẹ cháu ở nơi ấy sống như thế nào, không có nghèo thiếu chứ?", đáp là rất nghèo thiếu phải kiếm củi bán để sống. Trưởng giả nghe rồi sanh lòng thương liền mở kho lấy đầy túi vàng, sai người mang đến cho con gái và bảo rằng: "hãy để hai cháu ở lại, hai vợ chồng mang số vàng này trở về chỗ cũ tìm kế sanh nhai, không cần đến gặp lại cha mẹ nữa", trưởng giả nuôi hai cháu cho đến trưởng thành, giao lại tài sản cho hai cháu rồi qua đời.
Lúc đó Phật đang thuyết pháp cho bốn chúng, Bàn đà anh đến nghe pháp, nghe xong liền muốn xuất gia nên trở về nhà nói với em: "anh muốn xuất gia, gia nghiệp này giao hết lại cho em", người em nghe rồi liền ba lần cầu xin anh ở lại, nhưng người anh đã quyết tâm nên giao hết gia nghiệp lại cho em rồi xuất gia, xuất gia không bao lâu sau liền chứng quả A-la-hán. Thời gian lâu sau, người em cũng nhàm lìa thế sự muốn xuất gia nên tìm gặp anh xin xuất gia, người anh độ cho xuất gia thọ giới cụ túc và dạy kinh pháp cho em, nhưng người em này học một bài kệ đến bốn tháng vẫn chưa thuộc được. Ma ha Bàn đà suy nghĩ: "Châu la Bàn đà không có duyên với Phật pháp, nên đuổi trở về nhà", nghĩ rồi liền bảo Bàn đà nên hoàn tục và đuổi ra cửa, Bàn đà không muốn hoàn tục nên đứng trước cửa khóc. Lúc đó Thế tôn dùng thiên nhãn quán thấy Châu la Bàn đà có thể hóa độ được nên đi đến trước Bàn đà hỏi vì sao đứng khóc, Bàn đà kể rõ nguyên do, Phật nói: "có thể chỉ có ta mới hóa độ được con, con hãy theo ta", sau đó Phật theo căn cơ, dạy Bàn đà học thuộc hai chữ lau bụi và dạy quán ý nghĩa của nó; thời gian sau, khi quán thấy Bàn đà sắp tỏ ngộ, Phật liền nói kệ:
"Bậc tịch tịnh hoan hỉ,
Thấy pháp được an lạc,
Không sân, an lạc nhất.
Không làm hai chúng sanh,
Thế gian không dục lạc,
Ai thoát ly ái dục,
Điều phục được ngã mạn,
Là an lạc bậc nhất"
Châu la Bàn đà từ xa nghe được bài kệ này liền chứng quả A-la-hán.
Hỏi: có Tỳ-kheo nào đến giáo giới Tỳ-kheo-ni, nói bát kỉnh pháp mà lại phạm Ba dật đề hay không?-có, nếu Tỳ-kheo không được Tăng sai, tự đến chùa ni giáo giới và giáo giới đến mặt trời lặn thì phạm Ba dật đề.
Trong giới này, nói ăn biệt chúng có hai trường hợp là thỉnh và xin; nói thỉnh là như có Ưu bà tắc đến thỉnh bốn Tỳ-kheo đến nhà thọ thực, nếu bốn Tỳ-kheo này thọ thỉnh thì gọi là thỉnh biệt chúng, cùng đến thọ thỉnh thực thì gọi là ăn biệt chúng. Nói xin là như có bốn Tỳ-kheo khất thực đến nhà một Ưu bà tắc khất thực được thức ăn rồi cùng đến một nơi thọ thực thì gọi là ăn biệt chúng. Nói trừ bịnh là cho đến chân bị trầy xước đi không được; nói trừ khi may y là cắt rọc hoặc may, cho đến đang làm khuy nút; nói trừ đi đường, đi thuyền là ít nhất đi khoảng nửa do tuần; nói trừ khi thời buổi mất mùa đói kém là bốn người ăn không đủ no; nói trừ khi Sa môn thí thực là Sa môn đồng pháp hay Sa môn ngoại đạo thí thực thì được ăn biệt chúng không phạm.
Có năm trường hợp ăn biệt chúng không phạm:
-Không thỉnh đủ bốn vị là nếu thí chủ thỉnh bốn vị, một người biết pháp sẽ không đến, chỉ có ba vị đến thọ thỉnh thực; khi dọn thức ăn lên, thí chủ thấy có Tỳ-kheo khác đến liền thỉnh cùng thọ thực, tuy đủ bốn người ăn nhưng không phạm ăn biệt chúng.
-Khất thực đủ bốn vị là ba vị thọ thỉnh thực cùng một Tỳ-kheo khất thực tuy đủ bốn nhưng không phạm ăn biệt chúng.
-Đủ bốn người chưa thọ giới cụ túc là ba đạo nhân cùng một Sa di thọ thỉnh thực thì không phạm.
-Thêm một bát đủ bốn là ba đạo nhân thọ thỉnh thỉnh và thêm một bát cho Tỳ-kheo khất thực thì không phạm.
-Thêm người bịnh đủ bốn là ba đạo nhân thọ thỉnh thực và thêm một Tỳ-kheo bịnh thành bốn thì không phạm.
Nếu thí chủ thỉnh bốn Tỳ-kheo thọ thực, một Tỳ-kheo biết luật nên phương tiện dùng tay ngăn không cho thí chủ sớt thức ăn vào trong bát mình và nói: "xin sớt cho ba vị kia ăn trước, tôi muốn chú nguyện", đợi ba vị kia ăn xong, mình ăn sau thì không phạm ăn biệt chúng.
Nếu Tỳ-kheo thọ thỉnh rồi, trước giờ thỉnh thực được cúng thức ăn, ăn rồi sau đó đến chỗ thọ thỉnh thực ăn nữa thì gọi là triển chuyển thực.
Trong giới thọ quá ba bát là do Tỳ-kheo thọ thức ăn mang theo đi đường của thương nhân và của cô dâu sắp về nhà chồng quá ba bát nên Phật chế giới này. Nếu Tỳ-kheo thọ lấy một bát thì được tùy ý ăn hoặc cho người; nếu thọ lấy hai bát thì một bát tự ăn, bát còn lại cúng cho Tỳ-kheo tăng; nếu thọ lấy ba bát thì một bát tự ăn, hai bát còn lại cúng cho Tỳ-kheo tăng, không được đem cho bạch y quen biết hoặc bà con. Nếu thí chủ thỉnh tùy ý thì cũng không được thọ quá ba bát.
Trong giới ăn no đủ, nói năm loại chánh thực là cơm gạo lúa canh hoặc gạo lúa tế, hoặc gạo lúa tẻ, hoặc gạo lúa canh đỏ hoặc gạo lúa mạch; nếu cháo nấu từ năm loại gạo này, vừa mới chín mà dùng ngón tay vẽ trên cháo thành chữ được thì phải thọ pháp dư thực; cháo nấu với rau củ cũng vậy; cháo thịt hay cháo cá nếu cá thịt lớn như hạt cải thì phải thọ pháp dư thực; nếu cháo loảng nhiều nước thì không cần làm pháp dư thực. Nói cơm khô là loại thực phẩm làm từ năm loại gạo trên được phơi khô như bún khô, miến khô, mì, phở, nui... nấu làm thức ăn thuộc loại chánh thực thì phải làm pháp dư thực; nếu làm từ ngũ cốc như đậu thì không cần làm pháp dư thực. Nói cốm là loại thực phẩm cũng được làm từ năm loại gạo trên có hai: một là cốm rời; hai là bánh cốm, tức là cốm rời được trộn với đường mật làm cho dính lại rồi vò thành bánh để mang theo ăn khi đi đường. Nếu Tỳ-kheo đang thọ chánh thực, trong bát còn thức ăn, nếu có người mang thêm thức ăn đến, ở trong tầm tay mình thì ngăn thành ngăn; nếu ngoài tầm tay mình thì ngăn không thành ngăn. Nói trong tầm tay là cách thân khoảng hai khuỷu tay rưỡi, ngoài tầm tay là hơn hai khuỷu tay. Nói ngăn là hoặc dùng thân ngăn hoặc dùng miệng ngăn; dùng thân ngăn là đưa tay ngăn không cho sớt thêm thức ăn vào bát hoặc lắc đầu hoặc dùng tay đậy miệng bát; dùng miệng ngăn là nói thôi đủ rồi.
Trong giới phi thời thực, đối với năm loại thức ăn từ củ (rễ), thân cành, lá, hoa và quả có thể dùng làm thời thực hoặc dùng làm phi thời thực, hoặc dùng làm Tận hình thọ dược.
Nếu Tỳ-kheo không bịnh mà xin loại thức ăn ngon như sữa, lạc, cá, thịt thì phạm Ba dật đề, xin cho người bịnh thì không phạm.
Trong giới không thọ mà ăn, nếu chư thiên, quỷ thần cho đến súc sanh trao thức ăn cho Tỳ-kheo đều thành thọ; nếu người đội thức ăn trên đầu hay vác trên vai mang đến cho Tỳ-kheo bảo tự lấy ăn thì không thành thọ, nếu để thức ăn vào tay Tỳ-kheo thì thành thọ. Nếu người gánh thức ăn mang đến cúng cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo thọ thức ăn ở một đầu gánh thì thức ăn ở đầu gánh kia cũng thành thọ. Nếu khất thực được thức ăn gặp mưa gió thổi bụi bay vào bát, Tỳ-kheo đưa cho Sa di rồi thọ lại ăn không phạm. Nếu trên thuyền hay xe có chở thức ăn, Tỳ-kheo phụ kéo thuyền hay đẩy xe, tuy động thức ăn nhưng được ăn thức ăn này không phạm. Nếu nhiều Tỳ-kheo tự mang lương thực đi đường, đến khi thọ thực đổi thức ăn cho nhau rồi ăn thì không phạm. Nếu các loại củ trái sau khi hỏa tịnh rồi lại nẩy mầm thì chỗ nẩy mầm nên tác tịnh lại; muối sau khi tác pháp thọ rồi chảy thành nước cũng không mất pháp thọ.
Trong giới ngồi cùng người nữ nơi chỗ khuất, nếu ngồi chung một ghế, cùng nói chuyện và hiểu nhau, ngồi gần nhau trong tầm tay thì phạm Ba dật đề, ngoài tầm tay thì phạm Đột kiết la.
Thích Ma ha nam là em con chú của Phật, sinh trước Phật một tháng và đã đắc quả Tu đà hoàn, vị này cúng dường cho Tăng bốn tháng thuốc, Tỳ-kheo nào qua bốn tháng mà đến đòi hỏi nữa thì phạm Ba dật đề; nếu cho dầu mà đòi sữa lạc thì phạm Đột kiết la.
Nói binh voi là trên lưng voi có bốn người, dưới có tám người; binh ngựa là trên lưng ngựa có một người, dưới có hai người; binh xe là trên xe có bốn người; binh bộ là một đội bốn người đi cùng nhau.
Nếu dùng rượu nấu ăn hay làm thuốc mà còn mùi rượu, vị rượu, ăn thì phạm Đột kiết la; nếu không còn mùi rượu, vị rượu thì ăn không phạm.
Nếu nước sâu đến bắp chân mà đùa giỡn thì phạm Ba dật đề, lay thuyền đùa giỡn nước thì phạm Đột kiết la.
Nói ba màu hoại sắc là màu xanh lam, màu mộc lan (xanh đen), màu xám tro, nếu không dùng một trong ba màu này để làm cho hoại sắc thì phạm Ba dật đề.
Nếu biết nước có trùng mà uống dùng thì phạm Ba dật đề, nếu dùng nước có trùng nấu nước nóng cũng vậy,
Nếu biết Tỳ-kheo khác phạm tội Thô mà che giấu, như thế cho đến nhiều Tỳ-kheo che giấu cho nhau đều phạm Ba dật đề-thuộc tánh tội.
Nếu muốn cho người chưa đủ hai mươi tuổi thọ giới cụ túc thì nên tính luôn cả số tháng trong thai, hoặc tính cả tháng nhuần; đến ngày thứ mười bốn bố tát mà đủ hai mươi tuổi thì được cho thọ giới cụ túc.
Nếu hẹn với bọn người trốn thuế đi chung đường thì phạm Ba dật đề; hẹn với Tỳ-kheo-ni đi chung đường cũng phạm Ba dật đề.
Do Tỳ-kheo A lật tra sanh ác tà kiến cho hành dâm không chướng ngăn đường sanh thiên, không chướng ngăn giải thoát nên Phật chế giới này.
Nói trì luật có năm đức, sáu đức... mười một đức. Năm đức là:
1-Tự thân giữ giới thanh tịnh, không thiếu sót, nếu đủ sáu pháp thì thanh tịnh không phạm:
-Bất vô thú: nếu biết mà cố ý làm hoặc biết mà che giấu hoặc chỗ không nên đến mà đến thì gọi là vô thú.
-Bất vô tri: vô tri là không biết giới tướng, muốn làm gì thì làm nên phạm tội.
-Bất hồ nghi: tâm sanh nghi mà vẫn làm nên phạm tội.
-Bất tịnh nói là tịnh: như thịt gấu là bất tịnh mà nói là thịt heo tịnh, hoặc thịt cọp mà nói là thịt nai, hoặc phi thời thực mà nói là thời thực nên phạm.
-Tịnh nói là bất tịnh: như thịt nai cho là thịt cọp hoặc thời thực mà cho là phi thời thực nên phạm.
-Bất hôn mê: hôn mê là như cùng người chưa thọ giới cụ túc ngủ quá hai đêm mà không biết, hoặc không phân biệt được thời và phi thời hoặc lìa y ngủ đêm mà không biết nên phạm.
-Dứt nghi cho người khác là nếu có Tỳ-kheo khác phạm tội sanh nghi, không quyết đoán được nên đến hỏi, liền có thể như pháp như luật quyết nghi cho họ.
-Vào trong chúng không sợ là do biết luật nên như pháp như luật mà làm việc nên khi vào trong chúng không sợ.
-Điều phục được oan gia là như các Ly xa tử lập ra mười điều phi pháp, có thể như pháp như luật trừ diệt được phi pháp này thì gọi là điều phục được oan gia.
-Làm cho chánh pháp được trụ lâu là tự thân tùy thuận pháp và có thể làm cho người khác đắc pháp. Nhờ đắc pháp nên chánh tâm trì luật, nhờ trì luật nên đắc định, nhờ đắc định nên chứng quả. Như trong luật Phật bảo A-nan: "sau khi ta diệt độ, giới luật là đại sư của các thầy, nếu ở đời còn có ít nhất năm Tỳ-kheo hiểu luật thì chánh pháp trụ lâu. Nếu ở Trung Thiên trúc, Phạt pháp bị diệt mà ở biên địa còn năm Tỳ-kheo hiểu luật truyền giới cụ túc cho năm người khác, đủ túc số mười người đến Trung Thiên trúc truyền giới cụ túc cho người khác, như thế cho đến đủ túc số hai mươi người để xuất tội Tăng tàn thì chánh pháp được trụ lâu".
Nói trì luật có sáu đức: một là thông hiểu Ba la đề mộc xoa, hai là biết bố tát, ba là biết tự tứ, bốn là biết pháp truyền giới cụ túc cho người, năm là được thọ người khác y chỉ, sáu là được nuôi Sa di.
Thông hiểu Ba la đề mộc xoa là:
-Biết bố tát vào ngày thứ mươi bốn.
-Biết bố tát vào ngày thứ mươi lăm.
-Biết hòa hợp bố tát.
-Biết pháp của Tăng bố tát
-Biết pháp của chúng bố tát.
-Biết pháp của một người bố tát.
Biết thuyết Ba la đề mộc xoa
Biết tịnh bố tát.
Biết sắc bố tát.
-Nói biết tự tứ là:
-Biết tự tứ vào ngày thứ mười bốn.
-Biết tự tứ vào ngày thứ mười lăm.
-Biết hòa hợp tự tứ.
-Biết pháp của Tăng tự tứ.
Biết pháp của chúng tự tứ
-Biết pháp của một người tự tứ.
-Biết trường hợp tự tứ nói ba lần.
-Biết trường hợp tự tứ nói một lần.
-Biết pháp đồng tuổi tự tứ.
-Nói Tăng nên biết bốn pháp là:
-Biết pháp bạch Tăng
-Biết pháp đơn bạch yết ma
Biết pháp bạch nhị yết ma
Biết pháp bạch tứ yết ma.
Bốn pháp này chỉ có luật sư mới biết, không phải kinh sư hay luận sư có thể biết được. Tỳ-kheo nếu không thông hiểu luật, chỉ biết kinh luận thì không được độ Sa di, không được thọ người khác y chỉ. Nếu hợp đủ năm đức và sáu đức trên thì thành mười một đức trì luật, nhờ có luật sư trì luật nên Phật pháp có thể trụ lâu ở đời năm ngàn năm.
Nếu đối trước Tỳ-kheo nói lời khinh chê giới là vụn vặt thì phạm Ba dật đề, nếu đối trước người chưa thọ giới cụ túc mà nói thì phạm Đột kiết la.
Trong giới đánh và dọa đánh Tỳ-kheo là do Lục quần Tỳ-kheo sai bảo Thập thất quần Tỳ-kheo mà không chịu nghe theo nên đánh, sau khi Phật chế không được đánh liền dọa đánh. Nếu giận đánh cho chết thì phạm Ba la di, giận đánh làm cho bị thương thì phạm Ba dật đề, giận đánh người chưa thọ giới cụ túc cho đến đánh súc sanh thì phạm Đột kiết la; nếu với tâm dâm dục mà đánh người nữ thì phạm Tăng tàn; nếu gặp các nạn cọp sói... và nạn phạm hạnh, dùng tay đánh hay chân đá để cầu thoát thì không phạm.
Nói rình nghe lén là rình ở chỗ khuất hay đứng sau vách hay núp trong tối để nghe lén, khi bước chân đi thì phạm Đột kiết la, đến đứng chỗ nghe được thì phạm Ba dật đề.
Trong giới vào cửa cung vua, Phật nói có mười lỗi:
-Khi vua cùng phu nhân ngồi chung một nơi, phu nhân thấy Tỳ-kheo mà cười hoặc Tỳ-kheo thấy phu nhân mà cười thì vua sẽ sanh nghi cho là Tỳ-kheo tư thông với phu nhân.
-Nếu vua cùng thể nữ ở trong cung giao hội rồi mà quên, sau đó thể nữ này có thai sanh con, vua sẽ sanh nghi cho là do Tỳ-kheo làm.
-Nếu trong cung mất vật báu mà tìm không được, vua sẽ sanh nghi cho là Tỳ-kheo lấy.
-Nếu những lời bí mật riêng tư trong cung truyền ra ngoài, vua sẽ sanh nghi cho là do Tỳ-kheo nói.
-Nếu vua có giáng chức ai hay thăng chức cho ai thì mọi người sẽ nghi là do Tỳ-kheo tâu vua.
-Nếu vua truất phế đại thần thì mọi người sẽ nghi là do Tỳ-kheo tâu vua.
-Nếu vua tước bỏ tước vị trưởng giả của người cha và cho con lên thay thì mọi người sẽ sanh nghi là do Tỳ-kheo tâu vua.
-Nếu vua phi thời xuất binh thì mọi người sẽ sanh nghi là do Tỳ-kheo tâu vua.
-Nếu vua đến giữa đường, phi thời lui quân trở về thì mọi người sẽ sanh nghi là do Tỳ-kheo tâu vua.
-Nếu vua phi thời xa giá xuất cung du hành thì mọi người sẽ sanh nghi là do Tỳ-kheo tâu vua.
Trong giới cầm vật báu, nếu vì Tăng cầm lấy vật báu và cất giữ thì phạm Đột kiết la. Nếu trong phòng Tăng hay trú xứ Tăng thấy vật báu đánh rơi, lượm cất với ý nghĩ chủ vật đến hỏi thì sẽ đưa lại thì không phạm. Nếu muốn bỏ đi nơi khác nên giao vật báu này cho vị tri sự và dặn nếu chủ vật đến hỏi thì đưa lại cho họ. Nếu trải qua thời gian lâu, chủ vật không đến, Tăng được lấy dùng vào việc tu sửa phòng xá hay làm ao làm giếng nước cho Tăng dùng, không được lấy dùng riêng. Nếu lúc đó chủ đến đòi thì dẫn họ đến xem phòng xá đã tu sửa hoặc giếng hay ao đã làm để yêu cầu họ bố thí, nếu họ bố thí không đòi nữa thì tốt, nếu vẫn muốn đòi lại thì Tăng nên khuyến hóa các nơi để trả lại cho họ.
Những giới còn lại trong nguyên bổn không có giải thích. Trong giới Học gia của Ba la đề đề xá ni, nếu cả hai vợ chồng đều đắc quả Tu đà hoàn thì dù có trăm lượng vàng cũng đem cúng dường hết, vì đã đắc đạo nên không có tâm xẻn tiếc tài sản. Do bố thí cúng dường quá lượng nên trở nên nghèo nàn, Phật nhân việc này chế giới không cho Tăng đến nhà Học gia này thọ cúng dường nữa.
Trong thiên Chúng học pháp là nói những điều cần nên học, như việc đổ nước rửa bát trong nhà thế tục, nếu đã vớt hết cơm cặn để bố thí cho chúng sanh thì đổ nước rửa này không phạm. Những việc nói về tháp như không được ngủ đêm và giấu cất tạp vật trong tháp Phật, không được mang giày dép da và tay cầm giày dép vào tháp Phật, không được mang giày ủng vào tháp Phật, không được khiêng tử thi và giường tử thi ngang qua tháp Phật, không được tử thi ở dưới tháp Phật hoặc ở bốn phía tháp Phật; không được đại tiểu tiện dưới tháp Phật hoặc bốn phía tháp Phật, không được mang tượng Phật đến chỗ đại tiểu tiện; không được đứng xỉa răng dưới tháp Phật hoặc ở bốn phía tháp Phật; không được khạc nhổ dưới tháp Phật hoặc ở bốn phía tháp Phật; không được ngồi duỗi chân về tháp Phật; không được để tượng Phật ở phòng dưới, mình ở phòng trên. Những việc này trong nguyên bản Pali không có.
Lúc đó Phật quở trách Lục quần Tỳ-kheo: "vì sao các thầy ngồi ở phía dưới thấp lại thuyết pháp cho người ngồi ở trên cao?", quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo:
Thuở xưa tại nước Ba la nại, có một cư sĩ tên Xa ba gia, vợ có thai thèm muốn ăn xoài nên bảo chồng tìm xoài cho mình ăn, người chồng nói: ' lúc này không phải là mùa xoài, ở đâu tìm được xoài ', người vợ nói nếu không được ăn xoài sẽ chết. Người chồng suy nghĩ chỉ có trong vườn xoài của vua mới có xoài trái mùa, nên ban đêm lẻn vào vườn của vua để hái trộm, chưa tìm thấy trái để hái thì trời sáng, không thể ra khỏi vườn được nên anh leo lên cây ẩn nấp. Lúc đó vua cùng Bà la môn vào vườn, vua ngồi trên cao, Bà la môn ngồi ở dưới thấp thuyết pháp cho vua nghe. Người trộm xoài núp trên cây thấy việc này rồi suy nghĩ: ' ta ăn trộm xoài tội đáng chết, nhân việc này mà được thoát, vì sao, ta vì vợ ăn trộm xoài là không đúng pháp, vua ngồi ở trên cao nghe pháp là kiêu mạn không đúng pháp, Bà la môn ngồi ở dưới thấp thuyết pháp cho vua ngồi trên cao nghe, vì tham lợi dưỡng là không đúng pháp. Cả ba đều không đúng pháp nên ta được thoát tội", nghĩ rồi liền leo xuống đến trước vua nói kệ:
"Ba người không đúng pháp,
Hai người không thấy pháp,
Người dạy không y pháp,
Người nghe không hiểu pháp,
Vì được ăn gạo ngon,
Và thức ăn thượng diệu,
Chỉ vì ăn và uống,
Nói pháp không đúng pháp,
Chỉ vì danh và lợi,
Hủy hoại pháp nhà ông"
Người trộm xoài thuở xưa chính là tiền thân của ta ngày nay, khi ta còn là phàm phu, thấy người ngồi ở dưới thấp nói pháp cho người ngồi ở trên cao còn nói là phi pháp, huống chi các đệ tử của ta ngày nay, ngồi ở dưới thấp mà lại thuyết pháp cho người ngồi ở trên cao nghe".
Bảy pháp diệt tránh sẽ nói rõ trong Kiền đà ca.
Trong giới của Tỳ-kheo-ni về giới xúc chạm Ba la di, nếu Tỳ-kheo-ni bị xúc chạm từ bờ vai trở xuống, từ bắp đùi trở lên thì phạm Ba la di; nếu Tỳ-kheo-ni sờ chạm Tỳ-kheo, Tỳ-kheo tuy thọ lạc mà thân không động thì không phạm; ngược lại nếu
Tỳ-kheo xúc chạm Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo-ni tuy thân không động nhưng thọ lạc thì tuy chỗ bị xúc chạm mà kết phạm. Trong thiên Tăng già bà thi sa về giới kiện thưa cư sĩ, nếu Tỳ-kheo-ni kiện thưa người khác, cùng họ đến chỗ quan, Tỳ-kheo-ni bảo cư sĩ nói lý trước, khi cư sĩ nói lý của mình thì Tỳ-kheo-ni phạm Đột kiết la; đến lượt Tỳ-kheo-ni nói lý của mình thì phạm Thâu lan giá, sau đó quan xử Tỳ-kheo-ni được thắng kiện hay không, Tỳ-kheo-ni đều phạm Tăng tàn. Nếu cư sĩ kiện thưa Tỳ-kheo-ni cùng đến chỗ quan, quan nói: "Tỳ-kheo-ni hãy trở về, quan tự sẽ phán xét", sau đó dù quan xử Tỳ-kheo-ni được thắng kiện hay không, Tỳ-kheo-ni đều không phạm. Nếu Tỳ-kheo-ni đến quan kiện thưa người khác, quan hỏi tên, Tỳ-kheo-ni không nói tên mình thì không phạm, nhưng nếu bảo quan phạt tiền người kia thì tùy quan phạt người kia bao nhiêu tiền, Tỳ-kheo-ni nên bồi thường lại. Nếu không bảo bảo phạt tiền, tự quan điều tra biết được rồi phạt tiền thì Tỳ-kheo-ni không phạm. Nếu có người trộm y của Tỳ-kheo-ni bị bắt, Tỳ-kheo-ni không nên nói đó là kẻ trộm, chỉ nên nói người này lấy y của tôi đi. Nếu có người xâm phạm Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo-ni được đến chỗ vua yêu cầu bảo hộ nhưng không được nói tên mình ra, vua nghe rồi ra lịnh ai xâm phạm Tỳ-kheo-ni thì bị trị phạt theo pháp luật; sau đó nếu có người xâm phạm Tỳ-kheo-ni, bị vua trị phạt thì Tỳ-kheo-ni không phạm. Những giới còn lại khác không có giải thích.
Ba mươi pháp Xả đọa cũng không có giải thích.
Trong thiên Ba dật đề về giới ăn tỏi, nếu Tỳ-kheo-ni ăn củ tỏi lớn thì phạm Ba dật đề, dùng tỏi nhỏ, hành nhỏ khử mùi trong thức ăn thì không phạm. Trong giới tẩy tịnh, chỉ nên dùng hai ngón tay, mỗi ngón một lóng đốt để tẩy tịnh thì không phạm, quá thì phạm Ba dật đề. Trong giới xin lúa bắp sống, nếu vì làm phòng xá mà xin thì không phạm, xin rau đậu cũng không phạm. Nếu Tỳ-kheo-ni đại tiểu tiện trên cây cỏ rau tươi và hạt giống mới nẩy mầm thì phạm Ba dật đề; đại tiểu tiện trên cây cỏ rau khô héo và hạt giống chưa nẩy mầm thì phạm Đột kiết la. Những giới còn lại khác không có giải thích. Tám pháp Ba la đề đề xá ni cũng không có giải thích. Dưới dây giải thích về Kiền đà ca:
Kiền đà ca, Hán dịch là tạp kiền độ, tạp sự.
Phật sau khi thành đạo được bảy ngày liền xuất định, vua trời Đế thích dâng cúng trái Ha lê lặc và tăm xỉa răng cho Phật. Lúc đó có hai anh em thương nhân chuyên chở hàng hóa từ thôn Ưu già la muốn đến Trung phương buôn bán, khi gần đến cây Bồ đề, xe hàng bỗng nhiên dừng lại không thể đi tiếp được nữa. Hai anh em cho là điềm xấu nên bày biện đồ cúng tế quỷ thần, thần cây hiện ra nói: "xe hàng của ngươi không đi được nữa là do ta giữ lại, các ngươi nên biết, con vua Tịnh-phạn sau khi xuất gia tu đạo, đã thành đạo đang ngồi dưới cội Bồ đề, bảy ngày nay chưa ăn gì, các ngươi nên dâng bánh mật cúng Phật, sẽ được lợi ích an lạc lâu dài", hai anh em nghe rồi liền đem bánh mật dâng cúng Phật và là người thọ pháp tam quy đầu tiên. Hỏi: cái bát mà Phật đã thọ cháo sữa trước đây đâu rồi, vì sao Phật lại thọ bát của trời Tứ-thiênvương cúng?-Bát mà Phật đã thọ cháo sữa trước đây bị rơi xuống sông Ni liên thiền, Long vương đã lấy cất để cúng dường, cho nên nay phải thọ bát của trời Tứ-thiên-vương cúng.
Nếu người muốn xuất gia thì phải được cha mẹ cho phép, không có các thứ bịnh cũng không có các chướng nạn, kế đến trong Tăng bạch, nếu Tăng không nhóm thì phải đi đến từng người bạch, sau khi bạch tăng xong, tắm rửa sạch sẽ rồi sau đó cho cạo tóc. Hòa thượng độ đệ tử nên tưởng như con, không nên xem thường, vì nếu đối xử với họ như con thì họ sẽ xem mình như cha không khác. Khi sắp cạo tóc, Thượng tòa nên dạy họ quán năm pháp bất tịnh là tóc, lông, móng, răng và da, vì sao, vì có người tiền thân đã từng quán pháp này, nay quán lại nên nghiệp lành đời trước phát khởi, tóc chưa rơi hết xuống đất liền chứng quả A-la-hán; như mụt ghẻ đã muồi phải chích mới vỡ ra, như hoa sen phải đợi mặt trời mọc mới nở tung ra. Khi cạo tóc nên chừa ba chỏm tóc trên đầu, gội sạch bằng nước thơm để tẩy mùi thế tục rồi dẫn đến chỗ Hòa thượng, Hòa thượng nên hỏi: "con có chịu cạo sạch hết tóc trên đầu không?", đáp chịu thì Hòa thượng sẽ cạo hết tóc còn lại trên đầu. Cạo tóc xong, Hòa thượng trao cho ca sa, đệ tử nhận đội trên đầu rồi đợi Hòa thượng khoác ca sa lên người chứ không được tự lấy đắp. Sau đó Hòa thượng đưa đệ tử đến đảnh lễ A-xà-lê, vị này sẽ dạy pháp xin thọ tam quy và mười giới. Nói thọ Tam quy có hai trường hợp:
1-Thọ riêng là như nói quy y Phật, quy y Phật rồi; quy y Pháp, quy y Pháp rồi; quy y Tăng, quy y Tăng rồi.
2-Thọ chung là như nói quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng; quy y Phật rồi, quy y Pháp rồi, quy y Tăng rồi.
Thứ lớp của tam quy không được nói đảo ngược, nếu thầy dạy nói thọ tam quy mà không nói ra lời, hoặc nói không đầy đủ thì không thành thọ. Thọ mười giới cũng có hai trường hợp: một là thọ riêng từng giới; hai là thọ chung một lần cả mười giới, từ giới thứ nhất không sát sanh cho đến giới thứ mười là không cầm giữ sanh tượng; nói sanh tượng là vàng bạc và vật báu. Nếu ngôn ngữ không đồng, không hiểu nhau thì phải nói nghĩa cho họ hiểu như vậy gọi là không sát sanh...; nếu là người độn căn, không biết cách đắp y, không biết bưng bát... thì không được lìa thầy, mỗi mỗi phải theo thầy học tập, Hòa thượng nên xem đệ tử như con.
Đệ tử nên dậy sớm, sau khi đánh răng súc miệng rửa mặt xong nên đến chỗ Hòa thượng, đưa cho thầy ba loại cây đánh răng lớn vừa và nhỏ để thầy tùy ý lựa dùng, kế đem hai loại nước ấm và lạnh để thầy tùy ý dùng rửa mặt. Khi thầy vào nhà vệ sinh, đệ tử nên quét dọn phòng thầy cho sạch sẽ; nếu thấy muốn đưa ra ngoài nên trao y Tăng già lê cho thầy và mang bát đi theo sau, không được đi quá gần thầy cũng không được đi quá xa. Thầy nên dạy đệ tử trì giới, nếu lở có phạm nên bảo sám hối; nếu đệ tử thiếu bát hay vật cần dùng, thầy có dư nên cho; đệ tử bịnh thầy nên chăm sóc. Nếu thầy có nhiều đệ tử thì một người phụng sự, những người khác tùy ý tu học.
Lúc đó có Bà la môn cầu xuất gia, các Tỳ-kheo không cho nên buồn khóc, Phật hỏi rõ nguyên do rồi hỏi các Tỳ-kheo: "vị nào có thọ ân Bà la môn này?", tôn giả Xá lợi phất đáp: "tại thành Vương xá, con từng được Bà la môn này thí thực", Phật nói: "vậy thầy nên độ Bà la môn này", Xá lợi phất hỏi nên độ như thế nào, Phật bảo nên bạch tứ yết ma truyền trao giới cụ túc, nói rồi liền bảo các Tỳ-kheo: "từ nay chấm dứt pháp nói ba lần thọ đắc giới, Tỳ-kheo hiểu luật trong Tăng nên bạch tứ yết ma truyền trao giới". Sau đó có Tỳ-kheo sau khi thọ giới xong làm nhiều hạnh xấu, không giữ oai nghi bị các Tỳ-kheo thiểu dục tri túc quở trách, liền nói: "ai thỉnh đại đức truyền giới, ai thỉnh đại đức làm Hòa thượng?", các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật nhân việc này chế giới: "người nào không thỉnh Hòa thượng, không xin giới thì Tăng không được truyền trao giới cụ túc cho người đó; nếu truyền giới thì phạm Đột kiết la". Sau đó, các Tỳ-kheo hoặc hai hoặc ba người bạch tứ yết ma truyền trao giới cụ túc, các Tỳ-kheo thiểu dục tri túc quở trách rồi bạch Phật, Phật nhân việc này nhóm Tỳ-kheo tăng chế giới: "từ nay phải đủ túc số mười vị mới được bạch tứ yết ma truyền trao giới cụ túc cho người, nếu không đủ túc số mà truyền giới thì phạm Đột kiết la". Sau đó có Tỳ-kheo mới một hoặc hai tuổi hạ đã độ người cho xuất gia và thọ giới cụ túc, không biết dạy bảo nên đệ tử không biết giữ oai nghi. Khi dẫn đệ tử đến đảnh lễ Phật, Phật thăm hỏi qua loa rồi hỏi: "Tỳ-kheo này là đệ tử của ai?", đáp là đệ tử của con, Phật lại hỏi thầy mấy tuổi hạ, đáp là hai tuổi hạ, Phật lại hỏi đệ tử mấy tuổi hạ, đáp là một tuổi hạ, Phật liền quở trách: "thầy như người chưa dứt sữa mẹ, vì sao lại liền độ người?", quở trách rồi nhóm Tỳ-kheo tăng chế giới: "từ nay, Tỳ-kheo nào chưa đủ mười tuổi hạ thì không được độ người xuất gia và cho thọ giới cụ túc; nếu đủ mười tuổi hạ mà ngu si không có trí huệ thì cũng không được độ người".
Nếu đệ tử cùng thầy y chỉ đi trên đường mà gặp lại Hòa thượng thì liền mất y chỉ; nếu gặp Hòa thượng mà tưởng là không phải Hòa thượng thì không mất y chỉ; nếu Hòa thượng vào trong giới mà đệ tử không biết thì không mất y chỉ, nếu biết thì mất y chỉ; nếu nghe tiếng nói mà không thấy hình dáng cũng mất y chỉ; nếu nghe tiếng mà tưởng không phải là tiếng của Hòa thượng thì không mất y chỉ.
Nếu ngoại đạo cầu xuất gia trong Phật pháp thì Tăng nên cho họ bốn tháng biệt trú để xem xét, trong bốn tháng này nếu họ thích đến những nơi không nên đến, hoặc lười biếng không chịu học Phật pháp, hoặc vui mừng khi nghe ai phỉ báng Phật pháp, hoặc tức giận khi nghe ai phỉ bàng ngoại đạo thì Tăng không được cho người này thọ giới cụ túc. Dù ngoại đạo này đã chứng được tứ thiền, có thể bay lên hư không cũng không được cho thọ giới cụ túc liền, phải cho họ bốn tháng biệt trú. Nếu ngoại đạo khi nghe pháp chứng được quả Tu đà hoàn, cầu xuất gia thì được cho họ thọ giới cụ túc liền, không cần phải trải qua bốn tháng. Đối với ngoại đạo búi tóc hay thờ lửa thì không cần cho họ bốn tháng biệt trú, vì hai hạng ngoại đạo này đều tin nhân quả, Phật khi còn là Bồ tát đã từng theo họ tu học.
Nói bịnh không được thọ giới cụ túc là như bịnh hủi, bạch lại, ung thư, bướu độc...; nếu những bịnh trên nổi lên ở những chỗ hiển lộ dù phát triển hay không phát triển đều không được cho thọ giới; nếu mọc ở chỗ kín mà có phát triển cũng không cho thọ giới, không phát triển thì được thọ giới.
Nói không độ người của vua cho xuất gia thọ giới là như Tỳ-kheo độ chiến tướng của vua, khi trong nước có giặc nổi lên, vua cần chiến tướng không có, mới biết là Tỳ-kheo đã độ cho xuất gia. Vua là người đã đắc quả Tu đà hoàn nên đến bạch Phật: "từ nay xin Phật chế Tỳ-kheo không được độ người của vua cho xuất gia thọ giới, vì trong vị lai, nêu gặp vua không tin tam bảo thì Tỳ-kheo độ người của vua sẽ bị xử theo pháp luật". Nói người của vua là các quan cho đến người không còn làm quan nhưng được hưởng bỗng lộc; nếu cha hưởng lộc vua, con không có thì không được độ người cha xuất gia, được độ người con xuất gia; người hưởng lộc vua chưa hết hạn cũng không được độ, ăn hết lộc vua mới được độ; nếu là người của vua quyết chí xuất gia, vua cho phép mới được độ. Nói không được độ giặc cho xuất gia thọ giới là nếu biết rõ kẻ giặc đó từng trộm cắp hay cướp đoạt của người thì không được độ; nếu kẻ giặc này đã bỏ ác tâm, cầu xuất gia thì được độ, vì có thể trừ họa cho nước cho dân; nếu giặc bỏ nghiệp ác đầu hàng vua, vua cho phép thì được độ. Nếu người phạm vương pháp bị xử in dấu trên trán thì không được độ; nếu người mắc nợ hoặc ông bà cha mẹ... mắc nợ mà mình gánh thì Tỳ-kheo không được độ, nếu họ trả hết nợ rồi mới được độ. Nói nô tỳ có bốn loại: một là sanh trong nhà, hai là do chủ mua được, ba là do đánh phá mà được, bốn là tự nguyện làm nô tỳ. Nếu nô tỳ muốn xuất gia mà người chủ nói: "nếu nô tỳ có đạo tâm thì cho xuất gia, nếu không có đạo tâm thì trở lại làm nô tỳ", thì Tỳ-kheo không được độ.
Lúc đó tại nhà một cư sĩ phát sanh bịnh dịch, ban đầu làm chết côn trùng, kế làm chết các loài gia cầm, gia súc như gà vịt, heo bò...; sau cùng lây lan làm chết nhiều người. Khi bịnh dịch lây lan, mọi người không ai dám ra khỏi nhà bằng cửa trước, nếu đi thì lén đi cửa hông, khi ra khỏi nhà phải đi thẳng không được ngó ngoái lại, nếu ngoái lại sẽ bị chết, nếu không chết ngay, khi đến nơi khác cũng bị chết. Lúc đó ba cha con cư sĩ này đi ra khỏi nhà từ cửa hông và đi thẳng không ngó ngoái lại nên được sống; khi đến nước khác không thể tự kiếm sống nên đến chỗ các Tỳ-kheo cầu xuất gia và được độ. Sau khi xuất gia không bao lâu, người cha cùng hai con đắp y mang bát vào thành khất thực.
Lúc đó tại nước Ca tỳ la vệ, đại vương Du đầu đàn na (vua Tịnh-phạn) nhớ nghĩ: "con ta vào ngày xuất gia có nói khi nào thành Phật sẽ trở về đây", sau đó vua nghe tin con mình sau thời gian tu khổ hạnh đã thành đạo dưới cội Bồ đề, kế đến nước Ba la nại chuyển pháp luân Tứ đế, độ năm anh em Kiều-trần-như xuất gia, hiện nay đang ở tại nước Ma kiệt đà, vua liền gọi đại thần đến bảo: "ta nghe tin thái tử đã thành Phật, hiện đang ở tại nước Ma kiệt đà, khanh hãy dẫn một ngàn người đến nước đón nghinh đón thái tử trở về đây và nói rằng: vua cha đã già, đang lúc còn sống muốn gặp lại con". Đại thần vâng lịnh vua dẫn một ngàn người đi đến nước Ma kiệt đà, gặp Phật đảnh lễ rồi ngồi một bên, Phật quán tâm ý của họ nói pháp, sau khi nghe pháp họ đều chứng quả A-la-hán và cầu xuất gia, Phật gọi thiện lai Tỳ-kheo, họ liền đắc giới cụ túc. Một ngàn Tỳ-kheo này sau khi chứng quả liền nhập định thọ giải thoát lạc nên không trở về báo lại cho vua biết. Vua chờ tin mãi không thấy trở về, cũng không có tin tức gì bèn sai đại thần khác, lần lượt sai như thế đến tám đại thần, khi đến chỗ Phật nghe pháp cầu xuất gia và chứng quả giống như đoàn người đầu tiên, cũng không ai trở về báo lại cho vua biết. Lúc đó có đại thần tên là Ca lưu đà di sanh cùng ngày với Bồ tát, vua liền sai Ca lưu đà di, Ca lưu đà di tâu vua: "nếu đại vương cho thần xuất gia, thần nhất định sẽ nghinh đón được Phật trở về", vua bằng lòng. Ca lưu đà di cùng một ngàn người khi đến chỗ cũng giống như những đoàn trước đó, đều được xuất gia và chứng quả. Lúc đó Ca lưu đà di thấy bên đường lúa đã kết hạt, hoa nở rộ, khí hậu điều hòa nên nói sáu mươi bài kệ tụng ca ngợi phong cảnh đẹp trên đường. Phật biết nhưng vẫn hỏi nguyên do, Ca lưu đà di nói: "đại vương nói ta đã già, lúc đang còn sống muốn gặp lại con, nên sai con đến nghinh đón Phật trở về, xin Phật thương xót đại vương mà trở về nước", Phật nói: "thầy hãy đi thông báo các Tỳ-kheo: Phật muốn du hành, các Tỳ-kheo hãy chuẩn bị lên đường". Lúc đó Phật cùng hai vạn Tỳ-kheo từ nước Ma kiệt đà tuần tự du hành đi đến nước Ca tỳ la vệ, nước Ma kiệt đà cách nước Ca tỳ la vệ sáu mươi do tuần, Phật du hành trải qua sáu mươi ngày mới đến nơi, thức ăn Phật dùng hằng ngày trên đường đi đều do phu vương cúng dường, đó là do Ca lưu đà di khi tới giờ thọ thực liền dùng thần lực bay lên không trung đến chỗ vua lấy thức ăn mang về cho Phật. Ca lưu đà di nhân dịp này ca ngợi công đức Phật khiến cho vua và các Thích tử càng tăng thêm lòng tin Phật, các Thích tử bàn với nhau: "Phật không ưa thích chỗ ồn ào, chúng ta nên tìm nơi yên tĩnh xây cất tinh xá để khi Phật trở về đây có chỗ ở", bàn xong họ cùng xuất tài vật ra để xây tinh xá. Lúc đó Thích tử Di cù đà có một khu vườn không xa thành, rất yên tĩnh có thể xây cất tinh xá. Không bao lâu sau tinh xá hoàn thành, vua Tịnh-phạn cùng các Thích tử mang hương hoa nghinh đón Phật đến ở trong tinh xá này. Lúc đó vua và các Thích tử lớn hơn Phật thì không làm lễ, chỉ những người nhỏ hơn Phật mới làm lễ, Phật thấy việc này rồi liền biết tâm ý của những người này nên dùng thần lực bay lên hư không hiện ra mười tám món thần biến để điều phục tâm ý của họ, giống như dùng thần lực hàng phục ngoại đạo không khác. Vua và các Thích tử thấy Phật hiện thần lực, tự nhiên cúi mình làm lễ Phật, vua Tịnh-phạn nói: "đây là lần thứ ba Trẫm làm lễ Phật". Nói đây là lần thứ ba làm lễ là lần thứ nhất lúc Phật mới đản sanh, tướng sư A tư đà nói: "nếu thái tử ở tại gia thì sẽ làm Chuyển luân thánh vương, nếu xuất gia thì sẽ thành Phật", lúc đó mặt đất chấn động, vua thấy thần lực này nên làm lễ Bồ tát; lần thứ hai lúc vua Tịnh-phạn dự lễ tịch điền, thấy Bồ tát ngồi dưới gốc cây Diêm phù, mặt trời tuy đã xế bóng nhưng bóng cây vẫn đứng yên không nghiêng bóng để che mát cho Bồ tát, vua thấy thần lực này nên làm lễ Bồ tát; hôm nay thấy Phật hiện thần biến mà làm lễ là lần thứ ba. Các Thích tử thấy vua đảnh lễ Phật cũng đảnh lễ theo, Phật hiện trở xuống ngồi trên tòa sư tử, vua và các Thích tử cũng đều an tọa, lúc đó trời mưa sắc đỏ làm sạch bụi đất, không khí mát mẻ khiến mọi người đều hoan hỉ. Phật quán căn cơ thuyết pháp, vua và các Thích tử sau khi nghe pháp xong, có người chứng quả Tu đà hoàn, có người chứng quả Tư đà hàm, cùng đứng dậy đành lễ Phật hữu nhiễu rồi ra về, không một ai nghĩ đến việc thỉnh Phật ngày mai thọ thực. Sáng hôm sau Phật đắp y mang bát cùng hai vạn Tỳ-kheo trước sau nôi nhau vào thành khất thực. Khi đến cửa thành Phật dùng thiên nhãn quán chư Phật quá khứ vào thôn của quyến thuộc khất thực như thế nào, liền quán biết chư Phật quá khứ theo thứ lớp khất thực từng nhà, không có lựa chọn. Phật lại nghĩ đến các đệ tử Thanh văn đời vị lai, muốn họ y theo pháp Phật nên vào thành theo thứ lớp khất thực từng nhà. Lúc đó các Thích nữ nghe Phật cùng chúng tăng theo thứ lớp khất thực từng nhà nên vén rèm ra nhìn, mẹ của La hầu la đang ở trên lầu cao nghe biết tin này liền suy nghĩ: "khi còn là thái tử, trên đầu đội mão thiên quan, trên thân trang sức chuỗi ngọc, đi xe bảy báu, ra vào đều có ngàn xe vạn mã hộ vệ trước sau. Nay thái tử cạo bỏ râu tóc xuất gia, đắp ca sa mang bát khất thực thì như thế nào", nghĩ rồi liền vén rèm ra nhìn, thấy Phật bước đi có ánh sáng năm màu chiếu tỏa trên mặt đất như dung kim (vàng ròng nấu chảy), Da du đà la vội chạy vào tâu vua: "con của đại vương đang vào thành khất thực". Vua nghe rồi liền đến chỗ Phật nói rằng: "đại đức khất thực làm cho Trẫm xấu hổ, Trẫm có thể cung cấp cho Phật và chúng tăng, cần gì phải khất thực", Phật nói: "đây là pháp của dòng họ Như lai", vua nói: "dòng họ Sát đế lợi của ta không có khất thực", Phật nói: "dòng họ của Như lai không phải là Sát đế lợi mà là chư Phật quá khứ", Phật liền nói kệ:
"Khởi tâm không biếng nhác,
Thường tự làm pháp thiện,
Hành thiện được ngủ yên,
Đời này và đời sau"
Vua nghe kệ xong liền đắc quả Tu đà hoàn,
Phật lại nói kệ:
"Hành tất cả thiện pháp,
Không làm các pháp ác,
Hành thiện được ngủ yên,
Đời này và đời sau"
Vua nghe kệ thứ hai xong liền chứng quả Tư đà hàm, vua thỉnh bát từ tay Phật rồi Phật và chúng tăng trở về cung để cúng dường. Các thể nữ trong cung nghe Phật đã thọ thực xong liền nói với Da du đà la: "chúng ta hãy đến đảnh lễ Thế tôn", Da du đà la nói: "nếu Phật thương xót ta thì tự sẽ đến thăm ta, ta không thể đi", các thể nữ mang hương hoa đến đảnh lễ Phật, sau khi các thể nữ đi rồi, Da du đà la suy nghĩ: "nếu Phật đến đây, ta sẽ đảnh lễ". Lúc đó Phật đưa bát cho vua cha rồi cùng hai đệ tử A-la-hán có thần túc đi đến chỗ Da du đà la và bảo họ rằng: "nếu mẹ của La hầu la đến đảnh lễ thì đừng ngăn trở", Phật trải tọa cụ ngồi xong, Da du đà la liền cúi mình đưa tay chạm vào chân Phật và đặt đầu trên đó để làm lễ. Phật nói: "không những đời này Da du đà la tôn trong ta, mà trong quá khứ cũng đã tôn trọng như vậy", Phật liền thuyết kinh Khẩn na la bổn sanh. Lúc đó vua Tịnhphạn muốn làm năm pháp để đưa vương tử Nan đà lên ngôi: một là kết tóc, hai là khoác y, ba là trang nghiêm cung điện, bốn là cưới vợ, năm là dựng lọng riêng. Do Phật dùng thiên nhãn quán biết túc duyên của-nan đà, đời này có thể chứng quả A-lahán nên đưa bát cho Nan đà cầm, muốn làm phương tiện để hóa độ, vì tôn trong Phật nên Nan đà cầm bát đi theo sau Phật về đến chùa, Nan đà vốn không muốn xuất gia nhưng Phật vẫn cưỡng ép xuất gia. Nói hóa độ La hầu la là khi Phật vào thành khất thực, Da du đà la từ cửa sổ chỉ Phật và bảo với La hầu la rằng: "người đó chính là cha của con", sau đó bà dùng chuỗi ngọc trang nghiêm cho La hầu la rồi bảo: "khi con đến chỗ cha, con hãy xin cha cho con trân bảo và nói rằng: con muốn dựng lọng làm vua chuyển luân, xin cha ban cho con trân bảo", La hầu la vâng lời mẹ đến chỗ Phật, khi bước vào bóng của Phật, La hầu la nói: "bóng của cha thật mát mẻ an lạc", nói rồi liền xin cha ban cho trân bảo, Phật không đáp và đứng dậy đi, La hầu la liền đi theo sau và về đến chỗ Phật ở, Phật trải tọa cụ ngồi rồi bảo La hầu la: "dưới cội Bồ-đề ta đã được trân bảo này, trong tất cả các trân bảo thì trân bảo này là quý báu bậc nhất, con có muốn được nó không?", đáp là muốn, Phật liền bảo Xá lợi phất độ cho La hầu la xuất gia. Vua Tịnhphạn nghe tin Phật đã độ cho La hầu la xuất gia, trong lòng rất đau buồn nên đến nói với Phật: "từ nay, xin Phật chế ngăn nếu cha mẹ chưa cho thì không được độ cho xuất gia", Phật nhận lời nên trong luật nói nếu có người cầu xuất gia nên hỏi trước cha mẹ có cho phép không, nếu đáp là chưa cho thì không nên độ; nếu là người từ phương khác hay nước khác đến cầu xuất gia thì không cần hỏi. Sa di nếu làm mười điều ác thì nên diệt tẫn: một là giết hại, hai là trộm cắp, ba là hành dâm, bốn là nói dối, năm là uống rượu, sáu là hủy báng Phật, bảy là hủy báng Pháp, tám là hủy báng Tăng, chín là tà kiền, mười là hoại tịnh hạnh Tỳ-kheo-ni. Trừ trường hợp thứ mười thì vĩnh viễn không được xuất gia lại, chín trường hợp trên nếu biết cải hối, không tái phạm thì được xuất gia lại.
Nói xuất gia có ba loại trộm là:
1-Trộm hình dạng: là người không có thầy mà tự xuất gia, không có tuổi hạ Tỳ-kheo, không theo thứ lớp để thọ lễ bái cúng dường, cũng không dự vào pháp sự của Tăng.
2-Trộm hòa hợp: là người tuy có thầy độ cho xuất gia nhưng chưa thọ giới cụ túc, khi đi đến nơi khác tự nói mình có mười hạ hoặc hai mươi hạ để theo thứ bậc thọ sự lễ bái cúng dường, cũng không dự vào các pháp sự của Tăng.
3-Trộm cả hình dạng và hòa hợp: là người có đủ những yếu tố trong hai trường hợp trên.
Đối với loại người trộm hình dạng, nếu muốn xuất gia và thọ giới lại thì được cho; nếu vì lánh nạn hay nghèo đói mà xuất gia nhưng không dự vào pháp sự của Tăng, qua nạn hay hết nghèo đói mà muốn xuất gia thọ giới lại thì được cho. Nếu Tỳ-kheo thật không có tuổi hạ mà dối nói tuổi hạ để dựa vào tuổi hạ này để thọ lợi dưỡng, thì tính theo giá mà kết tội. Nếu Tỳ-kheo biến tâm muốn đến với ngoại đạo, cất bước chân đi thì phạm Đột kiết la, giữa đường hối hận quay về cũng Đột kiết la và được cho ở lại trong Tăng; nếu đã đến chỗ ngoại đạo nghe thuyết pháp, nhưng không chấp nhận, hối hận trở về thì nên sám tội Đột kiết la và được cho ở lại trong Tăng; nhưng nếu chấp nhận thuyết của ngoại đạo và ưa thích thì sau đó dù có hối hận quay về, Tăng nên diệt tẫn.
Nói không được độ cho rồng xuất gia vì rồng không thể đắc thiền định và chứng quả. Rồng lại có năm việc không bỏ được thân rồng: một là khi hành dâm, hai là khi thọ sanh, ba là khi thay da, bốn là khi ngủ, năm là khi chết. Các loài quỷ thần khác như Ca lầu la cho đến vua trời Đế thích cũng không được độ cho xuất gia thọ giới cụ túc.
Người giết cha mẹ cũng không được độ cho xuất gia thọ giới cụ túc, nếu thật là cha mẹ, khởi tưởng là không phải cha mẹ mà giết cũng không được cho xuất gia. Người giết A-la-hán cũng vậy, nếu giết lầm thì tuy không chướng ngại cho việc xuất gia thọ giới nhưng vì nghiệp chướng nặng nên không được độ. Người hoại tịnh hạnh Tỳ-kheo-ni tức là cưỡng dâm thì không được cho xuất gia thọ giới, nếu chỉ là xúc chạm Tỳ-kheo-ni thì không phải là chướng pháp. Người phá hòa hợp Tăng hay trợ giúp việc phá Tăng đều không được cho xuất gia thọ giới. Nói người hai căn có ba trường hợp: một là tự thọ thai và có thể làm cho người khác thọ thai; hai là tự thọ thai nhưng không thể làm cho người khác thọ thai; ba là không thể tự thọ thai, cũng không thể làm cho người khác thọ thai. Cả ba hạng người hai căn này đều không được cho xuất gia thọ giới cụ túc, nếu đã cho thì nên diệt tẫn. Người không có Hòa thượng thì không được cho thọ giới cụ túc, nếu cho thì người thọ tuy đắc giới nhưng Tăng phạm Đột kiết la; người không có y bát cũng vậy. Được truyền trao giới cụ túc cho hai, ba người một lần; nếu đồng Hòa thượng thì cũng được yết ma truyền trao giới cụ túc cho hai, ba người một lần, đồng một giới lạp thì không lễ bái nhau. Hòa thượng dịch nghĩa là biết tội hay không tội, Hòa thượng cho thọ giới rồi nên đo bóng để tính giờ khắc thọ giới, tức là đứng thẳng tính bóng từ gót chân rồi tùy theo thân mà tính bóng dài ngắn. Kế dạy cho người thọ giới biết về thời tiết thọ giới, tức là vào mùa đông hay mùa hạ, mùa xuân; kế dạy cho biết về ngày tháng thọ giới, tức là tháng có trăng hay không trăng; kế dạy cho biết về túc số Tăng truyền giới rồi mới truyền trao pháp tứ y, tứ trọng.
Lúc đó Phật tại thành La duyệt (thành Vương xá) nước Ma kiệt đà, nói về việc kết giới. Nói tiêu tướng có nhiều loại: nếu lấy núi làm tiêu tướng thì lớn như núi Tu di, nhỏ như tướng con voi; nếu lấy đá làm tiêu tướng thì lớn như tướng con bò, nhỏ thì nặng chứng ba mươi cân, đa tản mạn không được lấy làm tiêu tướng. Nếu lấy rừng cây làm tiêu tướng thì không được lấy rừng tre, rừng cỏ lau vì rỗng ruột; nên lấy rừng cây có lõi cứng, lớn thì được rộng đến trăm do tuần, nhỏ nhất là bốn cây mọc liên tiếp nhau; cây cao thì như cây Diêm phù, cây nhỏ nhất phải cao chừng tám tấc, nếu không có cây mọc tự nhiên thì được lấy loại cây trồng để làm giới tướng. Nếu lấy đường đi làm tiêu tướng thì như đường đi vào ruộng, đường đi đến giếng lấy nước... nhưng không được lấy đường cùng làm tiêu tướng; đường lớn hay đường nhỏ hẹp đều được. Nếu lấy tổ mối làm tiêu tướng thì lớn như núi, nhỏ phải cao chừng tám tấc; nếu lấy sông ao làm tiêu tướng thì phải là sông ao tự nhiên, dù bốn tháng không mưa, nước vẫn chảy và sâu hai thước; nếu là kênh rạch dẫn nước thông vào ruộng thì không được. Tướng của đại giới có năm hoặc hình tròn, hình vuông, hình cái trồng, hình bán nguyệt hay hình tam giác đều được. Nếu đã kết đại giới rồi, sau đó tiêu tướng mất nhưng giới không mất; sau khi kết giới xong, nếu nước ngập thành ao có nước chảy, nếu nhớ biết tướng giới thì dựng cột làm gác, ở trên đó tác pháp vẫn thành tựu; nếu nước soi mòn thành hang cũng không mất tướng giới, nếu Tỳ-kheo ở trên không trung hay ở trong hang dưới mặt đất thì không được riêng làm pháp sự. Kết đại giới được rộng nhất là ba do tuần, không được lớn hơn, khi kết nên nói trừ thôn và giới ngoài thôn tức là trong tầm ném đá của người trung bình. Tỳ-kheo kết đại giới có thể kết chồng lên giới của Tỳ-kheo-ni hay không phải giới của Tỳ-kheo-ni mà giới của Tỳ-kheo-ni vẫn không mất; Tỳ-kheo-ni cũng vậy, được kết đại giới chồng lên giới của Tỳ-kheo tăng mà giới của Tỳ-kheo tăng vẫn không mất. Giới A lan nhã nhỏ nhất là bảy Bàn đà la, một Bàn đà la bằng hai mươi tám khuỷu tay; người không đồng ý có thể ở ngoài phạm vi hai mươi tám khuỷu tay này làm pháp sự riêng. Nói thủy giới là như Tỳ-kheo ngồi trên thuyền, từ chỗ ngồi tạt nước hay quăng đá văng tới chỗ nào thì đó là giới nước; khi bố tát nên neo thuyền lại, không được cột dây vào bờ hoặc cột vào cây mọc trên bờ, vì cột tức là giới đất và giới nước nối liền nhau.
Nói phi pháp biệt chúng là bốn Tỳ-kheo ở chung một chỗ, một người gởi dục, ba người còn lại thuyết Ba la đề mộc xoa; chỉ có ba người mà một người gởi dục, hai người còn lại thuyết Ba la đề mộc xoa thì gọi là phi pháp, cũng gọi là biệt chúng. Nói phi pháp hòa hợp chúng là bốn Tỳ-kheo ở chung một chỗ, đủ túc số nên thuyết Ba la đề mộc xoa mà lại tác pháp theo chúng ba người hay đối thú thuyết giới. Nói như pháp biệt chúng là bốn Tỳ-kheo ở chung một chỗ, một người gởi dục, ba người còn lại đối thú thuyết giới; hoặc ba Tỳ-kheo mà một người gởi dục, hai người còn lại đối thú thuyết giới. Nói như pháp hòa hợp chúng là bốn Tỳ-kheo ở chung một nơi cùng hòa hợp thuyết Ba la đề mộc xoa, hoặc chỉ có ba Tỳ-kheo hòa hợp nói ba lần bố tát.
Trong ba tháng an cư, nếu có nhân duyên phải dời đi thì không phạm nhưng không thành an cư, không được an cư nơi đất trống hoặc dưới gốc cây. Nói dưới chân của Thủ lung na có lông dài màu biếc là quả báo của nghiệp đời trước, do quá khứ vị này ở chung với tám vạn người con của Trưởng giả, cùng phát tâm dựng căn nhà cỏ và thỉnh vị Phật Bích chi đến đây an cư ba tháng hạ. Thủ lung na lại đem tấm thảm Khâm bà la bằng lông dê trải trước nhà cho vị Phật Bích chi này lau chân. Nhờ nghiệp báo này nên nay dưới chân có mọc lông dài, sau khi xuất gia, Phật vì Thủ lung na nên khai cho mang giày da một lớp. Giày da có nhiều loại, theo hình dáng mà đặt tên như giày Na la phú la, giày da hình sừng nai, giày da A la lê, giày da Phú la bạt đà la, giày da Chơn thệ lê, giày da hình lông công... Nói Kỳ bà y sư vốn là con của một kỹ nữ nổi tiếng tại thành Vương xá tên là Bà la bạt đề, pháp của kỹ nữ là nếu sanh con gái thì nuôi lớn rồi dạy cho làm kỹ nữ, nhưng nếu là con trai thì vất bỏ. Do nguyên nhân này Kỳ bà bị vất bỏ bên đường, vương tử Vô úy sáng sớm cỡi ngựa đi đến chỗ vua, trên đường thấy đứa bà bị bỏ rơi này nên dừng ngựa lại hỏi tùy tùng là đã chết hay còn sống, tùy tùng đáp là còn sống, do đây Kỳ bà được dịch nghĩa là Hoạt đồng tử; vương tử Vô úy liền mang về nuôi nấng cho đến trưởng thành và nhận làm con. Vì sao Kỳ bà chỉ học nghề thuốc không học kỹ thuật khác?-do túc nghiệp, quá khứ có Phật ra đời hiệu là Liên hoa, lúc đó có một thầy thuốc thường thăm bịnh và cúng dường thuốc cho Phật, Kỳ bà thấy vậy liền cúng dường Phật trong bảy ngày rồi phát nguyện: "nguyện cho con trong đời vị lai được làm thầy thuốc giỏi thăm bịnh cho Phật và cúng dường thuốc giống như vị thầy thuốc này đang cúng dường Phật không khác", do thiện nghiệp này nên sau khi qua đời, Kỳ bà được sanh lên cõi trời, hết phước trở xuống làm người, cứ luân chuyển như vậy cho đến khi Phật Thích ca Mâu ni ra đời, theo túc nguyện chỉ học nghề thuốc trở thành Đại y vương để cúng dường Phật và Tăng. Kỳ bà học bảy năm thì thành tựu nghề y, thầy dạy nghề y cho Kỳ bà suy nghĩ: "Kỳ bà là con của vương tử Vô úy, tài vật không thiếu, nếu trở về nước sẽ không còn nhớ ân thầy dạy học", do nghĩ như vậy nên vị thầy này khi tiễn đưa, chỉ đưa cho Kỳ bà y phục mà không đưa lương thực đi đường. Kỳ bà đi đến giữa đường thì đói bụng, không có lương thực nên vào trong thôn hỏi thăm trong thôn có ai bị bịnh không, đáp có và chỉ chỗ, Kỳ bà đến đó trị bịnh và được thưởng trọng hậu, Kỳ bà suy nghĩ: "ta trị bịnh cho một người mà được thưởng trọng hậu như vậy, nếu trị cho nhiều người thì tiền thưởng ắt là vô số, ta nên nhớ ân thầy dạy".
Có mười lăm giới được thọ cúng dường:
1-Giới của giới tràng như đã giải ở trên.
-Giới của cảnh giới: như trong giảng đường hay trong nhà ăn đang chia y, trong tầm ném đá của người khỏe mạnh, tùy giới lớn hay nhỏ đều có tầm ném đá này, Tỳ-kheo vào trong giới này thì được chia y.
-Giới đồng bố tát: nếu Tỳ-kheo vào trong giới đồng bố tát thì được chia y.
-Giới không mất y: nếu Tỳ-kheo vào trong giới này thì được chia y.
-Giới La bà: do vua hay đại thần làm chỗ dừng nghỉ cho Tỳ-kheo trong phạm vi mười do tuần; khi dựng trụ làm tiêu tướng, các Tỳ-kheo lập chế: trong tiêu tướng này nếu có lợi dưỡng gì đều thuộc về chúng ta.
-Giới tụ lạc: có chợ
-Giới thôn: không có chợ.
-Giới quốc độ: có thành ấp.
-Giới A bàn đà la tức là giới A lan nhã.
-Giới tạt nước đến: Tỳ-kheo ở trên thuyền tạt nước đến đâu thì trong phạm vi này là giới.
-Giới dân cư: phía đông tây thành là giới dân cư.
-Giới La na tức là giới quốc độ.
13-Giới A la xà là giới của vua thống lãnh.
14-Giới đảo tức là đảo trong biển.
15-Giới núi Thiết vi.
Nếu thí chủ nói thí cho Tăng trong giới tràng thì Tăng trong giới bố tát không được thọ; nếu nói thí cho Tăng trong giới cảnh giới thì Tăng trong giới này đều được thọ; nếu nói thí cho Tăng trong giới không mất y thì Tăng trong giới bố tát đều được chia phần, trừ giới tụ lạc nằm trong giới bố tát; cứ như thế tùy thí cho Tăng trong giới nào trong mười lăm giới trên thì chỉ Tăng trong giới được thọ và chia phần. Nếu nói thí cho Tăng trên hai đảo thì Tăng trên mỗi đảo dù nhiều ít khác nhau vẫn phải chia đều làm hai phần. Nói biệt trú xứ đồng lợi dưỡng là tùy trú xứ nào được lợi dưỡng đều cùng chia. Nếu nói thí cho Tăng thì khi đánh kiền chùy nhóm Tăng, ai đến thì được chia. Nếu thí chủ đem một y đến đưa cho một Tỳ-kheo mà nói là thí cho Tăng, Tỳ-kheo này thọ rồi nói là tôi đáng được thọ thì gọi là ác thọ; nếu đánh kiền chùy nhóm Tăng, từ Thượng tòa cho đến hạ tòa ai cũng không chịu thọ thì Tỳ-kheo này được thọ, gọi là thiện thọ. Nếu trú xứ chỉ có một Tỳ-kheo, thí chủ đem y đến nói thí cho Tăng, Tỳ-kheo này nên tâm niệm miệng nói: "y này thí chủ cúng cho Tăng, trú xứ này không có Tăng, y này nay thuộc về tôi", tâm niệm miệng nói như thế rồi được thọ không phạm. Nếu thí chủ nói thí y cho Tăng thì Tỳ-kheo tu hạnh đầu đà thọ y phấn tảo không được lấy; nếu thí đãy đựng bát, đựng dép hoặc đãy lượt nước, kim... thì được lấy. Nếu thí chủ nói thí y cho Tăng, sau khi đánh kiền chùy, Tăng tụ đến đứng nối tiếp nhau trong tầm tay kéo dài đến trăm do tuần, thì chỉ cần vị đứng đầu vào được trong giới thì người cuối cùng ở ngoài giới vẫn được chia phần. Nếu nói thí cho hai bộ tăng thì mỗi bộ dù số người nhiều ít khác nhau vẫn phải chia đều hai phần. Nếu thí chủ nói thí cho Tăng tiền an cư thì Tăng hậu an cư và người phá hạ không được thọ; nếu nói thí cho Tăng an cư xong thì Tăng tiền và hậu an cư đều được thọ, người phá hạ không được thọ; nếu chỉ nói thí cho Tăng an cư thì dù tiền hay hậu an cư và người phá hạ đều được thọ; nếu nói thí cho Tăng hậu an cư thì Tăng tiền an cư không được thọ; nếu chỉ định thí cho Tỳ-kheo ở phòng nào thì nên theo lời thí chủ mà đưa; nếu thí chủ nói vị nào được tôi thỉnh thực thì được cúng y, nếu không được tôi thỉnh thực thì không được cúng y, thì tùy thí chủ thỉnh vị nào, vị ấy được y.
Trong kiền độ Dược, nói cơm Câu bạt đà la là cơm gạo lúa tẻ, Tu bộ là canh đậu, Kiết la là măng tre, Khư đà ni là chỉ cho các loại trái cây; Ha lê lặc là loại trái lớn như trái đại táo, có vị chua đắng; Tỳ ê lặc là loại trái giống như trái đào có vị ngọt; A ma lặc là trái Dư cam tử, Bà lợi bà bà là hạt cải, Đà bà xà là thuốc hút, Đà bà xà đà bà là thuốc nhỏ mắt, Xà na là loại cây mọc trên đất, Kỳ la xà na là loại cây mọc dưới nước và nhiều loại cây trái khác chỉ có ở nước ngoài, ở Trung quốc không có. Tỳ-kheo không được ăn năm loại thịt là thịt sư tử, thịt voi, thịt ngựa, thịt rồng rắn và thịt chó; da lông cũng không được dùng. Khi được thịt nên hỏi là thịt gì rồi mới thọ ăn, nếu không hỏi thì phạm Đột kiết la. Nói kết tịnh trù là chọn lấy một phòng bên kết làm tịnh trù, khi khởi công bắt đầu dựng cột trụ, các Tỳ-kheo nên đứng chung quanh nâng cột trụ lên và nói ba lần: "nơi này làm tịnh trù cho Tăng", cột trụ thứ hai, thứ ba cũng nói như thế. Kế nên tác tịnh, gọi thí chủ đến nói: "nơi này chưa làm tịnh, ông hãy vì tăng tác tịnh", thí chủ nói: "nơi này làm tịnh trù cho Tăng tùy ý thọ dụng"; nếu không có thí chủ nên gọi một vị kỳ túc trong thôn đến dạy ông cách tác tịnh, nói lời giống như trên. Kết tịnh trù thành rồi thì Tăng được tùy ý ở trong đó cất chứa thức ăn và nấu thức ăn cho Tăng mà không có lỗi nội túc, nội chữ (ngủ chung với thức ăn và nấu thức ăn trong giới). Trái Diêm phù là loại trái lớn như trái táo hồng, Xá lầu ca là nước ngó sen, dùng ngó sen ép giã rồi lượt lấy nước uống phi thời; Bà lầu sư là loại trái giống như trái xoài. Tất cả loại trái cây đều có thể dùng làm nước uống phi thời, trừ bảy loại mễ cốc, tất cả loại lá cũng đều được dùng làm nước uống phi thời trừ rau khoai nước, tất cả loại hoa cũng được dùng làm nước uống phi thời trừ hoa Ma đầu, tất cả loại trái đều được ép làm nước uống phi thời trừ sáu loại trái, đó là trái La đa, trái dừa, trái Ba la nại, trái bầu, trái dưa, trái mướp; tất cả loại đậu không được xay giã làm nước phi thời (vì đó là loại thời dược). Vật dụng chứa nước được dùng làm bằng gỗ, bằng gốm sành hoặc sắt, không được dùng loại khác. Nếu tự có hạt giống gieo trồng trên đất của chúng tăng thì khi thu hoạch nên chia cho Tăng một nửa; nếu Tăng có hạt giống gieo trồng trên đất riêng của mình thì khi thu hoạch cũng chia cho Tăng một nửa.
Trong kiền độ y Ca hi na, phải ít nhất là năm người tiền an cư mới được thọ y Ca hi na; người phá an cư, người hậu an cư và những người từ nơi khác đến đều không được thọ. Nếu tại trú xứ không đủ năm người, được thỉnh Tăng ở nơi khác đến cho đủ túc số để thọ nhưng Tỳ-kheo khách này không được thọ. Nếu trú xứ có bốn Tỳ-kheo và một Sa di, an cư sắp xong, cho Sa di thọ giới cụ túc để đủ túc số năm người thọ y Ca hi na thì tân Tỳ-kheo này cũng được thọ; trường hợp một Tỳ-kheo và bốn Sa di cũng vậy. Nếu trú xứ có đủ túc số Tăng nhưng không biết pháp thọ y Ca hi na thì được thỉnh một Tỳ-kheo biết pháp từ nơi khác đến tác pháp yết ma để thọ nhưng vị Tỳ-kheo khách này không được thọ, cũng không được chia phần y.
Hỏi: người nào được thí y cho Tăng làm y Ca hi na?-cả bảy chúng và chư thiên đều có thể cúng y cho Tăng làm y Ca hi na. Nếu có người không hiểu cách may y Ca hi na đến hỏi, thì Tỳ-kheo nên chỉ, tùy trong ba y hoặc Tăng già lê, hoặc Uất đa la tăng hoặc An đà hội đều được thọ làm y Ca hi na. Tự tứ xong vào ngày mươi sáu, khi mặt trời vừa mọc, thí chủ nên đem vải đến trong Tăng, Tăng nên nói số lượng kim chỉ cần để may y, thí chủ nên cúng dường đầy đủ kể cả thức ăn uống cho các Tỳ-kheo may y Ca hi na. Người thọ trì y Ca hi na phải biết pháp thọ, vải này phải do nhiều Tỳ-kheo cùng nhau cắt rọc và may thành, ngay trong ngày đó nhuộm và điểm tịnh rồi mới thọ trì. Nếu có nhiều người mang vải đến để làm y Ca hi na thì chỉ nên chọn cái tốt nhất, những cái còn lại Tăng được chia.
Hỏi: y Ca hi na nên giao cho ai thọ trì?-nên giao cho vị có y rách, nếu Tỳ-kheo có y rách nhiều thì nên chọn vị già có tuổi hạ cao nhất, không được giao cho người có tâm xẻn tham. Phật sở dĩ khen ngợi việc thọ y Ca hi na là vì chư Phật quá khứ cũng khen ngợi, như quá khứ vào thời Phật Liên hoa, có vị đệ tử Thanh văn tên là Tu xà đa, do trong một ngày may y Ca hi na không kịp nên Phật bảo một vạn sáu ngàn Tỳ-kheo tập trung đến cùng phụ giúp để may cho xong.
Sau khi may xong y, Tỳ-kheo thọ trì y Ca hi na nên xả y Tăng già lê mà mình đang thọ trì rồi cầm y Ca hi na ở trong Tăng nói ba lần: "y Ca hi na này, nay tôi xin thọ trì", nói rồi đắp y trịch bày vai hữu đến trước Thượng tòa trong Tăng bạch rằng: "đại đức, con nay như pháp thọ trì y Ca hi na của Tăng, xin Tăng tùy hỉ", Thượng tòa đứng dậy đưa tay sờ vào y này rồi nói: "trưởng lão như pháp thọ trì y Ca hi na của Tăng, tôi xin tùy hỉ", như thế lần lượt cho đến vị hạ tòa. Không phải Tăng, cũng không phải chúng thọ trì y Ca hi na, chỉ một người thọ trì y Ca hi na này, Tăng hay chúng đều tùy hỉ mới thành thọ. Nếu thí chủ đem ba y đến trong Tăng nói cúng cho người thọ trì y Ca hi na thì phải theo như lời của thí chủ, đưa cho người thọ trì y Ca hi na, người khác không được thọ. y Ca hi na có công đức nhiếp Tăng để Tăng được lợi thí, khinh vật được chia cho người thọ y Ca hi na, còn trọng vật thì thuộc về Tăng bốn phương. Nếu trong đồng giới bố tát mà có nhiều trú xứ thì không được thọ y Ca hi na riêng, nên hòa hợp lại một chỗ như pháp thọ một y Ca hi na.
Nói mang vải đã có chưa may thành y ra ngoài giới là Tỳ-kheo thọ y mang vải này ra ngoài giới đến trú xứ khác, thấy có phòng ở tốt đẹp hoặc có người quen biết nên không muốn trở về thì mất chỗ ở trước, mất y công đức sau. Nếu khởi niệm: "ta sẽ không may y, cũng không trở về", thì cả chỗ ở và y công đức đều mất. Nói khi may y mất là khi may y khởi niệm không muốn trở về thì mất chỗ ở trước, mất y công đức sau. Nói khi nghe mất là khi nghe xả y thì mất y công đức trước, mất chỗ ở sau.
Nói khi hết hy vọng thì mất là khi hết hy vọng được cúng vải thì mất trú xứ trước, mất y công đức sau...
Trong kiền độ Câu diệm di, nếu người đang hành biệt trụ có người thỉnh hay truyền giới cho người thì được tạm ngưng hành pháp, việc xong trở về mới hành tiếp. Khi xả hành pháp nên đối trước một Tỳ-kheo nói ba lần: "đại đức, tôi nay xin xả hành pháp Ba lợi bà sa". Khi đang hành pháp biệt trú hay hành Ma na đỏa, trong trú xứ các Tỳ-kheo đều đi hết, không có ai để bạch pháp hành, thì Tỳ-kheo hành pháp này nên tâm niệm: "nếu có Tỳ-kheo nào đến, ta sẽ bạch", nếu trong sáu ngày hành Ma na đỏa không có ai để bạch thì Tỳ-kheo hành pháp này cũng được cho xuất tội. Nếu trong trú xứ có nhiều Tỳ-kheo đến và đi, khó thể bạch hết thì ban ngày được xả hành pháp, khi mặt trời chưa mọc nên cùng bốn hay năm Tỳ-kheo ra ngoài giới, người đang hành pháp sẽ đối trước các Tỳ-kheo này bạch pháp hành như sau: "con Tỳ-kheo đã hành pháp được ngày, còn lại ngày chưa hành"; nếu trong giới có Tỳ-kheo nào đi ra đến chỗ đó thì Tỳ-kheo hành pháp này cũng phải bạch như thế, nếu không bạch thì bị mất đêm.
Lúc đó tại nước Câu diệm di, trong một trú xứ có hai Tỳ-kheo: một là luật sư, hai là kinh sư. Vị kinh sư khi vào nhà xí, sau khi dùng nước tẩy tịnh xong, không đổ bỏ nước đó và úp chậu xuống; vị luật sư vào sau thấy chậu nước rửa còn nước liền hỏi: "ai vào nhà xí rửa xong, không đổ bỏ nước đã rửa và úp chậu xuống?", vị kinh sư nói là tôi, luật sư hỏi: "thầy biết tướng tội không?", kinh sư đáp là thật không biết tướng tội, luật sư nói: "thầy phạm tội Đột kiết la", kinh sư nói: ' nếu phạm Đột kiết la thì tôi sẽ sám hối", luật sư nói: "thầy có cố ý làm không?", đáp là không cố ý, luật sư nói: "nếu không cố ý thì không phạm", kinh sư nghe nói không phạm nên không sám hối. Luật sư trở về phòng nói với đệ tử của mình: "vị kinh sư kia không biết phạm hay không phạm", đệ tử này nghe rồi liền đến nói với đệ tử của kinh sư rằng: "thầy tôi nói thầy của thầy không biết phạm hay không phạm", người đệ tử này nghe rồi về nói lại cho thầy nghe, vị kinh sư nghe rồi liền nói: "luật sư này trước nói là ta không phạm, sao nay lại nói là có phạm, luật sư này nói dối", đệ tử này nghe rồi liền đến nói với đệ tử của luật sư: "thầy tôi nói thầy của thầy nói dối", người đệ tử này nghe rồi về nói lại cho thầy nghe. Cứ như thế làm cho việc lan rộng ra và trở thành việc tranh cãi lớn, sau đó vị luật sư rình tìm lỗi của kinh sư rồi ở trong Tăng cử tội vị này. Lúc đó Phật đứng dậy dùng thần thông lực đi đến nước Xá vệ mà không nói cho các Tỳ-kheo ở nước Câu diệm di biết, vì sao, vì nếu Phật ở trong Tăng làm người xử đoán việc tranh cãi này, người được thắng sẽ vui vẻ, người thua sẽ nói là Phật thiên vị và phỉ báng Phật là tùy ái, tùy sân. Do phỉ báng Phật, người ấy sẽ bị đọa địa ngục nên Phật mới bỏ đi, không muốn làm người xử đoán.
Trong bảy pháp diệt tránh, nếu là tương ngôn tránh thì nên dùng hai pháp Tỳ ni là Hiện tiền tỳ ni và Đa mích tỳ ni để dứt diệt. Ức niệm tỳ ni chỉ được dùng đối với bậc Tỳ-kheo ái tận, dưới cho đến bậc A na hàm, không phải đối với hàng phàm phu. Đa mích tỳ ni là đi khắp nơi tìm các Tỳ-kheo biết pháp để như pháp quyết đoán việc tranh cãi. Ma di là hai bộ Ba la đề mộc xoa. Khi hành xá la, nếu thấy thẻ phi pháp nhiều hơn thẻ như pháp thì nên thu thẻ lại và nói: "ngày mai sẽ hành thẻ lại", sau đó đi tìm thêm những người như pháp, sáng mai khi phát thẻ nếu thấy Thượng tòa lấy thẻ phi pháp thì nên nói nhỏ: "vì sao Thượng tòa lại lấy thẻ phi pháp, nên lấy thẻ như pháp".
Trong kiền độ về Tỳ-kheo-ni, sở dĩ Phật không cho người nữ xuất gia vì kính pháp. Nếu cho người nữ xuất gia trong thiện pháp luật thì chánh pháp chỉ trụ được năm trăm năm, Phật chế bát kỉnh pháp là muốn cho chánh pháp được tồn tại một ngàn năm. Hỏi: nếu vậy, sau một ngàn năm Phật pháp diệt tận hay sao?-không phải là diệt tận mà là diệt dần; trong ngàn năm đầu có người đắc Tam đạt trí, trong một ngàn năm kế tiếp có người đắc ái tận A-la-hán nhưng không đắc Tam đạt trí; trong một ngàn năm kế chỉ đắc A na hàm, trong một ngàn năm kế nữa chỉ đắc Tư đà hàm, trong một ngàn năm kế nữa chỉ đắc Tu đà hoàn; trong năm ngàn kế nữa chỉ có học pháp không có tu chứng, trong một vạn năm sau cùng tất cả kinh sách đã có dần dần tiêu diệt, chỉ còn hình thức cạo tóc mặc pháp phục mà thôi.
Trong kiền độ Pháp, nói vật trọng thuộc bất động sản đều không được phân chia, như ruộng vườn, phòng xá, ao giếng trong chùa thuộc Tăng, cho đến ngọa cụ giường ghế bàn... của Tăng đều không được bán, cũng không được chia, trừ trao đổi. Những khinh vật (những vật cần dùng trong sinh hoạt) như kim chỉ, dao, khóa cửa, tích trượng, ống đựng dầu, ống đựng thuốc... đều được chia; những khí cụ khác như nồi nêu xoong chảo... thì không được chia, cho đến những khí cụ trong Tăng phòng cũng không được chia.
Trong phẩm tôn giả Xá lợi phất dùng kệ hỏi tôn giả Ưu ba ly (giải thích theo số chú thích ở trong văn phía sau):
Hỏi: Thân nghiệp có mấy tội, Khẩu nghiệp có mấy tội, Che giấu có mấy tội, Xúc chạm có mấy tội?
Đáp: Thân nghiệp có sáu tội (1), Khẩu nghiệp cũng có sáu (2), Che giấu có ba tội (3), Xúc chạm có năm tội (4).
Hỏi: Đến trời sáng mấy tội, Ba lần hỏi mấy tội, Có mấy giới tám việc, Tất cả tụ có mấy?
Đáp: Đến trời sáng ba tội (5), Ba lần hỏi hai tội (6), Tám việc có một giới (7), Tất cả tụ có một (8).
Hỏi: Như lai phân biệt thuyết, Tỳ ni có mấy tướng, Tỳ ni trọng có mấy, Có mấy tội thô ác?
Đáp: Như lai phân biệt thuyết, Tỳ ni có hai tướng (9), Tỳ ni trọng có hai (10), Thô ác cũng có hai (11). Hỏi: Trong tụ lạc mấy tội, Qua sông có mấy tội, Mấy loại thịt-Thâu lan, Mấy loại thịt-Kiết la?
Đáp: Trong tụ lạc bốn tội (12), Qua sông cũng có bốn (13), Một loại thịt-Thâu lan (14), Chín loại-Đột kiết la (15).
Hỏi: Đêm nói có mấy tội, Ngày nói có mấy tội, Đem cho có mấy tội, Nhận lấy có mấy tội? Đáp: Đêm nói có hai tội (16), Ngày nói cũng hai tội (17), Đem cho có ba tội (18), Nhận lấy có bốn tội (19).
Hỏi: Mấy tội có thể sám, Mấy tội phải yết ma, Mấy tội không thể sám, Như lai phân biệt thuyết?
Đáp: Năm tội được sám hối (20), Tội thứ sáu yết ma (21), Một tội không thể sám (22), Như lai phân biệt thuyết.
Hỏi: Tỳ ni trọng có mấy, Thân khẩu nghiệp có mấy, Nước phi thời mấy vị, Mấy bạch tứ yết ma?
Đáp: Tỳ ni trọng có hai (23), Thân khẩu nghiệp cũng vậy, Nước phi thời một vị (24), Một bạch tứ yết ma (25).
Hỏi: Ba la di có mấy, Mấy đất đồng hòa hợp, Lại có mấy mất đêm, Kết hai ngón mấy giới?
Đáp: Ba la di có hai (26), Đất hòa hợp có hai (27), Mất đêm cũng có hai (28), Hai giới kết hai ngón (29).
Hỏi: Tự đánh mình mấy tôi, Mấy nguyên nhân phá Tăng, Vừa làm có mấy tội, Tác bạch lại có mấy?
Đáp: Tự đánh mình hai tôi (30), Hai nguyên nhân phá Tăng (31), Vừa làm có hai tội (32), Tác bạch cũng có hai (33).
Hỏi: Sát sanh có mấy tội, Nói mấy tội trọng, Trách mắng có mấy tội, Mai mối có mấy tội?
Đáp: Sát sanh có ba tội (34), Nói có ba tội trọng(35), Trách mắng cũng có ba (36), Mai mối cũng có ba (37). Hỏi: Không được thọ mấy người, Tụ làm có mấy tội, Diệt tẫn lại có mấy, Nói một lần có mấy?
Đáp: Không được thọ-ba người (38), Tụ làm lại có ba (39), Diệt tẫn cũng có ba (40), Nói một lần có ba (41).
Hỏi: Giới trộm có mấy tội, Giới dâm có mấy tội, Đang giết có mấy tội, Nhân quăng bỏ mấy tội?
Đáp: Giới trộm có ba tội (42), Giới dâm có bốn tội (43), Đang giết có ba tội (44), Nhân quăng bỏ hai tội (45).
Hỏi: Giáo giới Tỳ-kheo-ni, Mấy Ba dật, kiết la, Tin lời Phật có mấy, Cho y mấy loại tội?
Đáp: Trong phẩm giáo giới ni, Có Ba dật, kiết la (46), Tin lời Phật có bốn (47), Cho y hai loại tội (48).
Hỏi: Phật nói Tỳ-kheo-ni, Có mấy Ba la di, Xin giống sống có mấy, Ba dật đề, kiết la?
Đáp: Phật nói Tỳ-kheo-ni, Có tám Ba la di(49), Do xin hạt giống sống, Có Ba dật, Kiết la (50)
Hỏi: Khi đi có mấy tội, Khi đứng có mấy tội, Khi ngồi có mấy tội, Khi ngủ có mấy tội?
Đáp: Khi đi có bốn tội (51), Khi đứng có bốn tội (52), Khi ngồi có bốn tội, Khi ngủ có bốn tội.
Hỏi: Có mấy Ba dật đề, Tất cả không cùng loại, Không phải trước hay sau, Phạm tội cùng một lúc?
Đáp: Có năm Ba dật đề (53), Không phải cùng một loại, Không phải trước hay sau, Phạm tội cùng một lúc.
Hỏi: Có mấy Ba dật đề, Không phải cùng một loại, Không phải trước hay sau, Phạm tội cùng một lúc?
Đáp: Có chín Ba dật đề (54), Không phải cùng một loại, Không phải trước hay sau, Phạm tội cùng một lúc.
Hỏi: Có mấy Ba dật đề, Không phải cùng một loại, Dùng thân khẩu sám hối, Như lai phân biệt thuyết?
Đáp: Có năm Ba dật đề (55), Không phải cùng một loại, Dùng thân khẩu sám hối, Như lai phân biệt thuyết.
Hỏi: Có mấy Ba dật đề, Không phải cùng một loại, Khẩu nghiệp sám có mấy, Như lai phân biệt thuyết?
Đáp: Có chín Ba dật đề (56), Không phải cùng một loại, Khẩu nghiệp sám có một, Như lai phân biệt thuyết.
Hỏi: Có mấy Ba dật đề, Không phải cùng một loại, Miệng nói thành sám hối, Như lai phân biệt thuyết?
Đáp: Có năm Ba dật đề (57), Không phải cùng một loại, Miệng nói tên sám hối, Như lai phân biệt thuyết.
Hỏi: Có mấy Ba dật đề, Không phải cùng một loại, Tụ tánh thành sám hối, Như lai phân biệt thuyết?
Đáp: Có chín Ba dật đề (58), Không phải cùng một loại, Tụ tánh thành sám hối, Như lai phân biệt thuyết.
Hỏi: Can lần ba mấy tội, Do ăn có mấy tội, Khi ăn có mấy tội, Do mấy loại ăn-phạm?
Đáp: Can lần ba ba tội (59), Do ăn có sáu tội (60), Khi ăn có ba tội (61), Do năm loại ăn-phạm (62)
Hỏi: Tất cả quá ba lần, Chỗ phạm có mấy tội, Hỏi tội lại có mấy, Tránh sự lại có mấy?
Đáp: Tất cả quá ba lần (63), Chỗ phạm có năm tội (64), Khéo đáp tội có năm (65), Tránh sự cũng có năm (66).
Hỏi: Luận sự lại có mấy, Dùng mấy pháp để diệt, Thanh tịnh có mấy loại, Có mấy chỗ thành thiện?
Đáp: Luận sự lại có năm (67), Dùng năm pháp để diệt (68), Có năm loại thanh tịnh (69), Trong ba chỗ thành thiện (70).
Hỏi: Thân nghiệp-đêm mấy tội, Thân nghiệp-ngày mấy tội, Khi thấy phạm mấy tội, Khất thực phạm mấy tội?
Đáp: Thân nghiệp-đêm hai tội (71), Thân nghiệp-ngày hai tội (72), Khi thấy phạm một tội (73), Khất thực phạm một tội (74).
Hỏi: Thấy ân có mấy loại, Nương người thành sám hối, Đuổi ra lại có mấy, Khéo hành bao nhiêu pháp?
Đáp: Thấy ân có tám loại (75), Nương người thành sám hối (76) Đuổi ra có ba hạng (77) Khéo hành bốn mươi ba (78).
Hỏi: Vọng ngữ có mấy chỗ, Bảy ngày lại có mấy, Mấy pháp Đề xá ni, Sám hối có mấy loại? Đáp: Vọng ngữ có năm chỗ (79), Pháp bảy ngày có hai (80) Mười hai Đề xá ni (81) Sám hối lại có bốn (82)
Hỏi: Nói dối có mấy quán, Bố tát có mấy quán, Sứ giả có mấy quán, Ngoại đạo có mấy pháp?
Đáp: Nói dối có tám quán (83) Bố tát cũng có tám (84) Sứ giả cũng có tám (85) Ngoại đạo có tám pháp (86)
Hỏi: Thọ đại giới mấy lời, Khởi kính lại có mấy, Mấy người được dự tòa, Giáo giới ni mấy đức?
Đáp: Thọ đại giới tám lời (87) Khởi kính cũng có tám (88) Tám người được dự tòa (89) Giáo giới ni-tám đức (90)
Hỏi: Mấy hạng người không lạy, Cũng không chắp tay chào, Có mấy Đột kiết la, Dùng y có mấy loại?
Đáp: Mười hạng người không lạy (91) Cũng không chắp tay chào. Có mười Đột kiết la (92) Dùng y cũng có mười (93).
Hỏi: Mấy yết ma phi pháp, Như lai phân biệt thuyết, Trong kiền độ Chiêm ba, Tất cả đều phi pháp?
Đáp: Có mười hai yết ma (94) Như lai phân biệt thuyết, Trong kiền độ Chiêm ba, Tất cả đều phi pháp. Tôn giả Ưu ba ly nói với tôn giả Xá lợi phất:
Tùy câu đại đức hỏi, Tôi đã tùy ý đáp, Tôn giả Xá lợi phất nói với tôn giả Ưu ba ly: Đã đáp theo câu hỏi,
Không còn chút nghi ngờ. Giải thích theo số chú thích ở trên:
-Nơi ba nghiệp có sáu phạm là thân phạm, khẩu phạm, thân khẩu phạm, thân tâm phạm, khẩu tâm phạm và thân khẩu tâm phạm.
-Thân nghiệp phạm có sáu tội là dâm, nộ...; khẩu nghiệp phạm có sáu tội là hư dối vọng ngữ...
-Che giấu có ba tội: một là Tỳ-kheo-ni che giấu tội trọng phạm Ba la di, hai là Tỳ-kheo che giấu tội trọng của người khác phạm Ba dật đề, ba là Tỳ-kheo che giấu tội trọng của mình phạm Đột kiết la.
-Xúc chạm có năm tội: một là Tỳ-kheo-ni xúc chạm người nam phạm Ba la di, hai là Tỳ-kheo xúc chạm người nữ phạm Tăng tàn, ba là Tỳ-kheo dùng thân chạm y của người nữ phạm Thâu lan giá, bốn là Tỳ-kheo dùng y chạm người nữ phạm Đột kiết la, năm là Tỳ-kheo dùng tay chọc lét Tỳ-kheo khác phạm Ba dật đề.
-Đến trời sáng có ba tội: một là chứa y dư quá mười ngày và quá một tháng, khi mặt trời mọc phạm Ni tát kỳ ba dật đề; hai là Tỳ-kheo-ni ngủ lại đêm một mình, khi mặt trời mọc phạm Tăng tàn; ba là Tỳ-kheo tự che giấu tội, khi mặt trời mọc phạm Đột kiết la.
-Ba lần hỏi có hai loại tội là Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni, khi thuyết giới nghe hỏi ba lần, biết có tội mà không phát lồ thì phạm Đột kiết la.
-Một giới tám việc là tội Ba la di của Tỳ-kheo-ni
-Tất cả tụ có một là trong phần tựa giới có nói nhớ có tội phải phát lồ (cả năm thiên giới)
-Như lai phân biệt nói giới tướng trọng khinh, tỳ ni tướng có hai là thân và khẩu.
-Tỳ ni trọng có hai là Ba la di và Tăng tàn
-Tội thô cũng có hai là Ba la di và Tăng tàn
-Trong tụ lạc có bốn tội là Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni hẹn đi chung, Tỳ-kheo vừa bước đi thì phạm Đột kiết la, đến giới tụ lạc thì phạm Ba dật đề; Tỳ-kheo-ni một mình vào tụ lạc, một chân vào giới tụ lạc, một chân còn bên ngoài thì phạm Thâu lan giá, cả hai chân vào giới tụ lạc thì phạm Tăng tàn.
-Qua sông có bốn tội là Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni hẹn đi chung thuyền, Tỳ-kheo vừa bước đi thì phạm Đột kiết la, bước lên thuyền thì phạm Ba dật đề; Tỳ-kheo-ni một mình qua sông, một chân bước lên bờ thì phạm Thâu lan giá, hai chân bước lên bờ thì phạm Tăng tàn.
-Ăn thịt người phạm Thâu lan giá
-Ăn thịt voi, ngựa, chó... phạm Đột kiết la
-Đêm nói có hai tội là Tỳ-kheo-ni cùng người nam vào phòng tối, đứng gần nhau nói chuyện trong phạm vi hai khuỷu tay thì phạm Ba dật đề, ngoài hai khuỷu tay thì phạm Đột kiết la.
Ngày nói có hai tội là Tỳ-kheo-ni cùng người nam đứng ở chỗ khuất nói chuyện, trong phạm vi hai khuỷu tay rưỡi thì phạm Ba dật đề, ngoài hai khuỷu tay rưỡi thì phạm Đột kiết la.
-Đem cho có ba tội là Tỳ-kheo đưa thuốc độc để giết người chết thì phạm Ba la di, giết phi nhân chết thì phạm Thâu lan giá, giết súc sanh chết thì phạm Ba dật đề.
-Nhận lấy có bốn tội: một là người nữ đưa tay, Tỳ-kheo nắm lấy thì phạm Tăng tàn, hai là người nữ đem thân cúng dường, Tỳ-kheo thọ hành dâm dục thì phạm Ba la di, ba là Tỳ-kheo lấy y từ Tỳ-kheo-ni không phải bà con thì phạm Ni tát kỳ ba dật đề, bốn là Tỳ-kheo-ni biết người nam có tâm nhiễm mà thọ thức ăn của họ thì phạm Thâu lan giá.
-Năm tội có thể sám hối là Thâu lan giá, Ba dật đề, Ba la đề đề xá ni, Đột kiết la và Ác thuyết.
-Tội thứ sáu phải yết ma là Tăng già bà thi sa
-Một tội không thể sám là Ba la di
-Tỳ ni trọng là Ba la di và Tăng tàn, thân khẩu cũng như vậy là Phật chế giới kết tội dựa trên thân khẩu
-Nước phi thời một vị ngon là nước Tô tỳ diêm
-Một bạch tứ yết ma là sai người giáo giới Tỳ-kheo-ni
-Ba la di có hai loại là Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni
-Đất hòa hợp có hai là về thân và về pháp.
-Mất đêm có hai là hành biệt trú và Ma na đỏa
-Kết giới hai ngón tay có hai là Tỳ-kheo-ni tẩy tịnh và để tóc dài, cả hai đều không được quá hai ngón tay.
-Tự đánh mình có hai tội là Tỳ-kheo-ni tự đánh phạm Đột kiết la, gào khóc thì phạm Ba dật đề
-Hai nguyên nhân phá Tăng là yết ma và lấy thẻ.
-Vừa làm liền phạm có hai: một là Tỳ-kheo có 9 pháp đầu vừa làm liền phạm Tăng tàn; hai là Tỳ-kheo-ni cũng có 9 pháp đầu vừa làm liền phạm Tăng tàn
-Tác bạch có hai là bạch và đơn bạch yết ma
-Sát sanh có ba tội là giết người phạm Ba la di, giết phi nhân phạm Thâu lan giá, giết súc sanh phạm Ba dật đề
-Nói có ba tội trọng là bảo người trộm, khuyên bảo người chết và vọng nói mình được pháp hơn người.
-Trách mắng có ba tội là Tỳ-kheo có tâm dâm trách mắng người nữ về hai đường hành dâm thì phạm hai Tăng tàn, trách măng về thân phần khác thì phạm Đột kiết la
-Mai mối có ba tội là khi nhận lời phạm Đột kiết la, đến kia nói phạm Thâu lan giá, trở về báo lại phạm Tăng tàn
-Ba hạng người không được thọ giới: một là người ở chỗ xa không nghe, hai là người có thân phần không đầy đủ (bao gồm không có y bát), ba là người không có căn đầy đủ (bao gồm mười ba già nạn).
-Tụ làm có ba là biệt chúng, bạch không thành tựu và yết ma không thành tựu.
-Diệt tẫn có ba: một là Tỳ-kheo-ni đem thân mình vu báng người khác như Tỳ-kheo-ni Từ địa, hai là Sa di hành dâm Sa di, ba là khởi tà kiến nói hành dâm dục không phải là pháp chướng đạo.
-Một lần nói yết ma cả ba người đồng thời đắc giới
-Giới trộm có ba tội là trộm năm tiền phạm Ba la di, trộm bốn tiền phạm Thâu lan giá và dưới ba tiền phạm Đột kiết la
-Giới dâm có bốn tội; một là nơi căn của người nữ phạm Ba la di, hai là nơi căn của người nữ chết đã hoại phân nửa thì phạm Thâu lan giá, ba là nơi căn đã hoại hoàn toàn thì phạm Đột kiết la, bốn là Tỳ-kheo-ni làm nam căn đưa vào trong căn của mình thì phạm Ba dật đề
-Chành đoạn có ba tội là đoạn mạng người phạm Ba la di, đoạn cây cối phạm Ba dật đề, đoạn nam căn phạm Thâu lan giá
-Quăng bỏ có ba tội là có tâm giết nên bỏ thuốc độc vào thức ăn, nếu người chết thì phạm Ba la di, phi nhân chết thì phạm Thâu lan giá, súc sanh chết thì phạm Ba dật đề. Lại có ba loại quăng bỏ khác: một là Tỳ-kheo xuất tinh thì phạm Tăng tàn, đại tiểu tiện trên cây cỏ tươi thì phạm Ba dật đề, đại tiểu tiện trong nước sạch thì phạm Đột kiết la; khạc nhổ cũng như vậy.
-Giáo giới Tỳ-kheo-ni đến chiều tối thì phạm Ba dật đề, thuyết pháp trước rồi mới nói bát kỉnh pháp thì phạm Đột kiết la
-Tin lời Phật dạy có bốn là phòng xá, giới, làm như pháp và làm không như pháp.
-Cho y có hai tội: một là đem y cho Tỳ-kheo-ni có đầy đủ giới không phải bà con thì phạm Ba dật đề, cho Tỳ-kheo-ni không đầy đủ giới (thọ giới cụ túc không đủ hai bộ tăng) thì phạm Đột kiết la
-Tỳ-kheo-ni có tám Ba la đề đề xá ni
-Tỳ-kheo-ni xin giống sống thì phạm Ba dật đề, ăn thì phạm Đột kiết la
-Đi có bốn tội là Tỳ-kheo hẹn người nữ đi chung, vừa đi thì phạm Đột kiết la, đến thôn thì phạm Ba dật đề; Tỳ-kheo-ni đi một mình, khi đi phạm Thâu lan giá, đến thôn thì phạm Tăng tàn
Đứng có bốn tội là Tỳ-kheo-ni cùng người đứng ở chỗ khuất thì phạm Ba dật đề, cách xa ngoài tầm tay thì phạm Đột kiết la; Tỳ-kheo-ni khi trời sáng mà không đi cùng với bạn, đứng cách xa trong tầm tay thì phạm Thâu lan giá, ngoài tầm tay thì phạm Tăng tàn; ngồi và ngủ cũng vậy.
-Ba dật đề có năm là tô, dầu, mật, thạch mật và mỡ đựng riêng từng lọ, thọ quá bảy ngày thì phạm năm tội Ba dật đề.
Chín Ba dật đề là nhũ, lạc, sanh tô, thục tô, dầu, mật, thách mật, thịt và cá, xin chín món ăn ngon này mà ăn thì phạm chín tội Ba dật đề.
-Năm tội Ba dật đề trên sám hối bằng khẩu nghiệp.
-Chín tội Ba dật đề trên cũng sám hối bằng khẩu nghiệp
-Năm tội Ba dật đề trên khi sám hối nêu tên từng món.
-Chín tội Ba dật đề trên khi sám hối cũng nêu tên từng món.
-Can đến lần thứ ba có ba tội: một là Tỳ-kheo-ni tùy thuận người bị cử tội, được can ba lần không bỏ thì phạm Ba la di; hai là Tỳ-kheo ác tánh được can ba lần không bỏ thì phạm Tăng tàn; ba là Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni ác kiến được can ba lần không bỏ thì phạm Ba dật đề
-Vì ăn có sáu tội: một là vì ăn uống mà tự nói mình được pháp hơn người phạm Ba la di; hai là vì ăn uống nên mai mối phạm Tăng tàn; ba là vì ăn uống nên nói người nào thọ thỉnh thực ở nhà đó là A-la-hán mà không nói tên mình ra thì phạm Thâu lan giá; bốn là Tỳ-kheo vì ăn uống nên không bịnh mà xin thức ăn ngon phạm Ba dật đề; năm là Tỳ-kheo-ni vì ăn uống nên không bịnh mà xin thức ăn ngon thì phạm Ba la đề đề xá ni; sáu là Tỳ-kheo không bịnh mà xin cơm thì phạm Đột kiết la.
-Khi ăn có ba tội là khi ăn thịt người phạm Thâu lan giá, khi ăn thịt voi... thì phạm Đột kiết la; Tỳ-kheo-ni khi ăn tỏi thì phạm Ba dật đề
-Do năm loại thức ăn mà phạm là Tỳ-kheo-ni thọ thức ăn từ người nam có tâm nhiễm ô thì phạm Tăng tàn, ăn thịt người phạm Thâu lan giá, ăn tỏi phạm Ba dật đề, xin thức ăn ngon mà ăn thì phạm Ba la đề đề xá ni, ăn thịt voi... thì phạm Đột kiết la
-Quá ba lần là Tỳ-kheo-ni tùy thuận người bị cử tội, tác bạch can mà không bỏ phạm Đột kiết la, yết ma lần thứ nhất mà không bỏ thì phạm Thâu lan giá, yết ma lần thứ ba mà không bỏ thì phạm Ba la di
-Năm chỗ phạm tội là Tỳ-kheo-ni tùy thuận người bị cử tội, tác bạch xong mà không bỏ thì phạm Đột kiết la; yết ma lần thứ nhất xong mà không bỏ thì phạm Thâu lan giá; yết ma lần thứ ba xong mà không bỏ thì phạm Ba la di; trợ giúp phá
Tăng can ba lần không bỏ thì phạm Tăng tàn; khởi ác kiến can ba lần không bỏ thì phạm Ba dật đề
-Khéo đáp tội có năm là năm chúng xuất gia can ba lần mà không bỏ đều có tội
-Tránh sự cũng có năm là năm chúng đều có bốn tránh sự
-Luận sự cũng có năm là bàn luận việc tranh cãi của năm chúng
-Dùng năm pháp để diệt là năm chúng diệt việc tranh cãi của năm chúng
-Thanh tịnh có năm là năm chúng phạm tội biết sám hối thì trở lại thanh tịnh
-Trong ba chỗ thành thiện là chỗ của tăng, chỗ của chúng và chỗ của bạch y nếu không có việc tranh cãi thì gọi là thiện
-Thân nghiệp-đêm có hai tội là Tỳ-kheo-ni cùng người nam vào phòng tối gần nhau trong tầm tay thì phạm Ba dật đề, ngoài tầm tay thì phạm Đột kiết la
-Thân nghiệp-ngày có hai tội là Tỳ-kheo-ni cùng người nam ở chỗ khuất, gần trong tầm tay thì phạm Ba dật đề, ngoài tầm tay thì phạm Đột kiết la
-Khi thấy có một tội là Tỳ-kheo thấy nữ căn thì phạm Đột kiết la
-Xin thức ăn một tội là Tỳ-kheo không bịnh mà xin cơm thì phạm Đột kiết la
-Thấy ân có tám là như trong kiền độ Câu diệm di có nói
-Nương người khác sám hối là năm chúng đều nương người khác để sám hối
-Đuổi ra có ba tội là che giấu, không chịu sám hối và ác kiến
-Khéo hành bốn mươi ba pháp là người bị tẫn phải hành bốn mươi ba pháp mới được vào trong chúng, nếu không hành thì không được vào
-Nói dối có năm tội là Ba la di, Tăng tàn, Thâu lan giá, Ba dật đề và Đột kiết la
-Pháp bảy ngày có hai là Thất nhật dược và thọ pháp bảy ngày ra ngoài giới
-Tỳ-kheo-ni có tám Ba la đề đề xá ni, Tỳ-kheo có bốn, tổng cộng là mười hai
-Sám hối có bốn là bốn người đến chỗ Phật sám hối: một là người hại Phật do Đề bà đạt đa sai, Ưu bà di cúng dường A nậu lâu đà,
Ly xa tử bị Tăng cho yết ma úp bát và bốn là Tỳ-kheo Sa bà già
-Nói dối có tám quán là khởi tâm muốn nói dối, miệng nói ra lời, nói dối xong, biết là nói dối, che giấu điều mình biết, vọng nói việc khác, người nghe hiểu được, tà tâm
-Bố tát có tám là tám trai giới
-Sứ giả có tám là Đề bà đạt đa muốn phá Tăng, Tăng sai người đủ tám đức đi thông báo việc làm của Đề bà đạt đa không phải của Phật Pháp Tăng, mà là của Đề bà đạt đa
-Ngoại đạo có tám pháp là ngoại đạo muốn xuất gia phải hành tám pháp biệt trú: không đi đến năm nơi không nên đến, nghe khen ngợi Phật pháp tăng thì hoan hỉ
-Tỳ-kheo-ni ở trong hai bộ tăng bạch tứ yết ma thọ giới cụ túc
-Tỳ-kheo-ni có tám pháp kính
-Khi đại chúng nhóm họp, tám vị Thượng tòa ngồi theo thứ lớp, nhưng vị khác tùy ngồi,
-Tỳ-kheo đủ tám đức mới được giáo giới
Tỳ-kheo-ni,
-Không nên lễ bái mười hạng người là Tỳ-kheo-ni, Thức xoa ma na, Sa di, Sa di ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, người phạm giới, người ngủ, người đang ăn, người đang đại tiểu tiện, người đang xỉa răng; không chắp tay chào cũng vậy,
-Nếu lễ bái mười hạng người trên thì phạm mười tội Đột kiết la.
-Có mười loại y được thọ dụng,
-Mươi hai yết ma phi pháp là trong Đơn bạch yết ma có bốn phi pháp: bạch không đúng, phi pháp biệt chúng, phi pháp hòa hợp chúng và pháp biệt chúng; trong bạch nhị yết ma cũng có bốn phi pháp, trong bạch tứ yết ma cũng có bốn phi pháp, tổng cộng là mười hai phi pháp.