TẠNG LUẬT
LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH
Hán dịch: Mất tên người dịch, nay xếp vào dịch phẩm đời Tần
Nay nói nghĩa chữ "Mẫu" Các vị hãy lắng nghe: Văn này tuy tóm lược Gom hết nghĩa Tỳ-ni.
Diễn nói theo việc đầu Người có trí nên biết Cốt tủy tất cả kinh Đều nằm ở trong đây.
Các nghĩa ngoài tạng Luật Trong kinh Mẫu có đủ Nghĩa luật vào kinh này Như các sông vào biển. Các nghĩa ngoài Tỳ-ni Đều tìm được nơi đây Nghĩa tất cả các kinh Theo ý đó mà hiểu. Luật dẹp sạch nghi ngờ Như các kinh đã nói Các giới Phật đã chế Đều ở trong kinh này.
Hỏi:-Vì sao gọi là kinh Mẫu?
Bậc trí nói:-Kinh này có thể diệt trừ kiêu mạn, mở dây trói phiền não, làm cho chúng sanh dứt sạch các khổ, đạt được Niết-bàn rốt-ráo. Cho nên gọi là Kinh Mẫu.
Tỳ-ni là vì diệt trừ các pháp ác nên gọi là Tỳ-ni.
Nay nói về nghĩa của kinh Mẫu. Kinh Mẫu: Có thể định nghĩa chính xác, không ngược với những điều các kinh đã nói, thì gọi là kinh Mẫu.
Trong đây giải thích hai loại kinh: Một là kinh Tỳ-kheo, hai là kinh Tỳ-kheo-ni. Tất cả các Tụ sẽ được giảng rõ về sau. Mười tám nhân duyên chế giới trong kinh Tăng Nhất đều được đưa vào kinh này. Nhờ nhân duyên đầu tiên nên biết được việc đầu tiên là đoạn trừ tâm nghi ngờ của mọi người và không nhầm lẫn nghĩa trong các kinh. Tỳ-kheo nào nắm vững những chú giải trong kinh Tỳ Ni Mẫu thì có thể mau hết sanh tử và thắng được giặc phạm giới.
Nay nói về việc thọ Cụ túc.
Vì sao gọi là thọ Cụ túc?-Bậc có trí tuệ đã thọ Cụ túc thì không vi phạm giới đã thọ. Do thành tựu sự cầu mong nên gọi là thọ Cụ túc. Do việc đó có thể làm cho thành tựu nên gọi là thọ Cụ túc. Vì thế, thành tựu các việc lành gọi là thọ Cụ túc.
Lại nữa, có thể chuyên tâm giữ giới nên gọi là thọ Cụ túc. Có thể làm cho thành tánh Sa-môn nên gọi là thọ Cụ túc. Do có thể làm cho thành tựu pháp thanh lọc ý nên gọi là thọ Cụ túc. Có thể thành tựu pháp tịch diệt nên gọi là thọ Cụ túc. Có thể thành tựu pháp Tỳ-kheo nên gọi là thọ Cụ túc. Có thể hiểu biết thông suốt bộ luật này nên gọi là thọ Cụ túc. Có thể thành tựu hạnh Tỳ-kheo bằng năm cách thọ Cụ túc, nên gọi là thọ Cụ túc.
Năm cách đó là gì?-Một là: Gọi "Thiện lai Tỳ-kheo!", liền được thọ Cụ túc. Hai là: Tự nói ba lần: "Con xin quy y Phật, Pháp, Tăng", liền được thọ Cụ túc. Ba là: Bạch Tứ yết-ma để thọ giới, gọi là thọ Cụ túc. Bốn là Phật ra lệnh cho phép thọ Cụ túc, liền được thọ Cụ túc. Năm là: Cách thọ Cụ túc bậc cao nhất. Thế nào là cách thọ Cụ túc bậc cao nhất?-Khi Phật còn tại thế, có những người chưa thọ giới, chỉ ở bên cạnh Phật, nghe pháp liền đắc quả A-la-hán, gọi là cách thọ Cụ túc bậc cao nhất. Đó là năm cách thọ Cụ túc của Tỳ-kheo.
Tỳ-kheo-ni cũng thọ Cụ túc bằng năm cách: Một là, làm đúng theo lời dạy của thầy, gọi là thọ Cụ túc. Hai là, bạch Tứ yết-ma mà được thọ Cụ túc. Ba là, nhờ người thay thế mình mà được thọ Cụ túc. Bốn là, được gọi: "Thiện lai!", liền được thọ Cụ túc. Năm là, thọ Cụ túc bậc thượng.
Có thể thành tựu việc không làm tất cả các điều ác, gọi là được thọ Cụ túc.
Lại nữa, do có thể xác định việc đúng sai trong tạng Tỳ-ni và tận tín thực hành, gọi là được thọ Cụ túc.
Có thể đoạn trừ hoàn toàn Năm Triền cái (năm thứ buộc che) gọi là được thọ Cụ túc.
Có thể trừ bỏ các giác, quán, gọi là được thọ Cụ túc.
Có thể xả bỏ tâm tham đắm, vào thiền định cũng gọi là được thọ Cụ túc.
Do có thể đoạn trừ hết khổ, lạc, ưu, hỷ nên gọi là được thọ Cụ túc.
Có thể vượt qua bốn định Vô sắc, gọi là được thọ Cụ túc. Có thể biết được sự hoại diệt của các tướng cũng gọi là được thọ Cụ túc.
Lại nữa, thọ Tam quy, Ngũ giới cũng gọi là được thọ Cụ túc. Thọ tám pháp trai giới cũng gọi là được thọ Cụ túc.
Thọ mười giới Sa-di cũng gọi là được thọ Cụ túc.
Lại nữa, thọ giới từng phần cũng gọi là được thọ Cụ túc. Có thể quán sát nghiệp thiện cũng gọi là được thọ Cụ túc.
Do thành tựu chủng tánh địa nên gọi là được thọ Cụ túc. Chủng tánh địa là gì?-Có người ở bên cạnh Phật, nghe pháp, thân tâm không biếng nhác, thành tựu trong từng niệm, nhờ tâm này nên đột nhiên tự ngộ, được quả Tu-đà-hoàn. Tu-đà-hoàn, chính là chủng tánh pháp lành.
Đạt được bốn hướng, bốn quả, địa thứ tám, địa Kiến đế, địa Bạc, địa Ly dục, địa Dĩ tác, cho đến địa Độc giác Vô sư đều gọi là được thọ Cụ túc. Thành tựu Sáu độ cũng gọi là được thọ Cụ túc. Nói lời thiện cũng gọi là được thọ Cụ túc.
Từ việc thọ Cụ túc với trí tuệ cho đến thọ Cụ túc với nói lời thiện, đều gọi là được thọ Cụ túc.
Lại nữa, cần nói thêm: Những người nào đáng được thọ Cụ túc?
-Thiện nam, thiện nữ nào thanh tịnh, không bị chướng ngại đều được thọ Cụ túc. Có ba loại chướng ngại, đó là: nghiệp chướng, báo chướng và phiền não chướng. Người nào thanh tịnh thì cho phép họ xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục, thọ Tam quy y, mười giới, cho đến bạch Tứ yết-ma thọ giới Cụ túc. Phải cho người xuất gia biết bốn pháp Ba-la-di không được vi phạm. Suốt đời phải thực hành Pháp tứ y (y phấn tảo, thường khất thực, ngủ nơi gốc cây và dùng thuốc dễ kiếm), cho đến giữ gìn phạm hạnh, đắc pháp xuất gia, đắc pháp, chứng quả, cảm nhận pháp lạc, thành tựu công đức lớn. Các việc khác nên hỏi Hòa thượng, A-xà-lê. Hòa thượng, A-xà-lê phải dạy việc nên làm và không nên làm ở trong Luật, lại phải khuyến khích các đồng học, đồng nghiệp cùng thực hành tất cả pháp lành, chớ có làm trái ngược.
Vì sao cho thọ giới Cụ túc?-Đó là do muốn làm cho hành giả đạt được an vui năm thần thông, thấy khổ không sợ, ít muốn, biết đủ và đạt được sự giác ngộ của bậc đại nhân.
Thế nào là đạt được sự giác ngộ lớn?-Do thực hành Tỳ-ni đúng như Phật đã truyền trao nên gọi là giác ngộ lớn.
Thế nào là Dục?-Cố gắng vươn lên không mệt mỏi để được như Phật, gọi là Dục. Lại nữa, Dục sáng suốt là giữ niệm trước mặt, tỉnh giác như Phật, vì thế gọi là Dục.
Thế nào là Xúc?-Do đắc định nên gọi là Xúc. Đắc thiện, đắc ác cũng gọi là Xúc
Thế nào gọi là Chứng?-Do không buông lung nên gọi là Chứng.
Nói cho rõ nghĩa thì Chứng giống như sự giác ngộ của Phật.
Ở trong đây ai đã thọ Cụ túc bằng cách gọi "Thiện lai Tỳ-kheo"?
Đó là tôn giả A-nhã Kiều-trần-như.
Lúc ấy, đức Thế Tôn du hành ở Ba-la-nại, tôn giả A-nhã Kiều-trần-như thấy pháp, đắc pháp, chứng pháp, hiểu rõ pháp tánh, liền rời khỏi chỗ ngồi, sửa y, bày vai phải, quỳ gối phải sát đất, chấp tay bạch Phật:
Cúi xin Như Lai cho phép con xuất gia tu phạm hạnh. Đức Thế Tôn bảo:
Thiện lai Tỳ-kheo! Cho phép ông ở trong giáo pháp của Ta, tu các phạm hạnh, dứt sạch khổ đau.
A-nhã Kiều-trần-như liền được xuất gia, đắc giới Cụ túc. Sau khi Như Lai nói xong, râu tóc vị ấy tự rụng, y phục của Bà-la-môn đang mặc trên thân liền thành pháp phục của Sa-môn, oai nghi đĩnh đạc, tay ôm bình bát, giống như Tỳ-kheo đã học pháp hai chục năm.
Tôn giả A-bát-kỳ-bà, Phạm-bạt-đề-già, Ma-ha-nam... cũng giống như A-nhã Kiều-trần-như: Nhóm Da-tu-đà gồm bốn người, nhóm Tỳ-ma-la, Tu-bà-hầu, Phú-na-già, Kiều-phạm-bạt-đề, Da-xá gồm năm mươi thiếu niên, nhóm Di-đê cùng gồm năm mươi người, nhóm Na-la-đà, Ma-na-bà, Bạtđà, Bạt-kỳ gồm năm mươi người, nhóm Ưu-lâu-tần-loa-ca-diếp, Na-đề-ca-diếp, Già-da-ca-diếp gồm một ngàn người, nhóm Ưu-ba-đề-xá do Câuluật-đà dẫn đầu gồm hai trăm năm mươi người, tất cả những người ấy đều hết sức giàu có, hoặc vốn là những người xuất gia theo ngoại đạo. Sau khi Phật xuất thế, khi giờ giác ngộ đến, các vị ấy đều đến gặp Phật cầu xin xuất gia. Người cuối cùng là Tu-bạt-đà-la. Đó là những vị đã thọ Cụ túc bằng cách gọi "Thiện lai Tỳ-kheo!". Quả vị họ đạt được đều là quả Vô học với thân cuối cùng. Vì sao vậy?-Do chính kim khẩu của Như Lai nói nên được như vậy, còn những người khác thì không thể được như thế.
Hỏi:-Vì sao đức Thế Tôn không ban thần lực gia hộ cho Bà-la-già, cho đến Bà-lê-già, Phú-giàla, Bà-lợi-già để họ được xuất gia bằng cách gọi "Thiện lai"?
Đáp:-Đó là do Bà-Ê bị nghiệp làm chướng ngại đạo nên không được xuất gia bằng cách gọi "Thiện lai". Phú-già-la, Ba-lợi-già thì ngay đời này không có nhân duyên Vô học nên không được xuất gia bằng cách gọi "Thiện lai". Vì lý do đó, tuy đều ở cạnh Phật nhưng không phải tất cả đều xuất gia bằng cách gọi "Thiện lai".
Nói quy y Phật, Pháp, Tăng ba lần thì được thọ Cụ túc là: Lúc ấy, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
Ta đã thoát khỏi mạng lưới trói buộc của trời người, các vị cũng đã thoát khỏi mạng lưới này.
Nghe Phật nói lời này, ác ma liền nói với Phật:-Ông chưa được giải thoát khỏi mạng lưới ràng buộc nơi trời, người. Các Tỳ-kheo cũng chưa được giải thoát.
Phật liền nói kệ đáp:
Người đời nơi năm dục. Ý thức thứ sáu nhận Ta đã lìa các dục Ác ma ngươi tự đọa
Sau khi nghe lời này, biết Phật đã thấy rõ mình chưa ly dục, ác ma buồn bã, xấu hổ liền biến mất. Phật bảo các Tỳ-kheo:
Các ông đi mỗi nhóm hai người, đến các địa phương để giáo hóa, chớ có đi một mình.
Các Tỳ-kheo liền lên đường. Nghe Tỳ-kheo thuyết pháp xong, những người ở nơi ấy liền đến gặp Phật, giữa đường có người hối hận bèn quay về nhà. Các Tỳ-kheo đem việc này đến bạch với Thế Tôn, Phật liền dạy cho họ pháp thọ giới bằng cách nói ba lần.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
Các vị hãy quay lại đó. Nếu có ai ở nơi ấy xin xuất gia thì hãy cho họ cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục và cho họ thọ giới bằng cách nói ba lần: "Con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác là thầy của con".
Đó là pháp thọ giới bằng cách nói ba lần. Lúc ấy, các Tỳ-kheo thắc mắc: "Vì sao nói ba lần liền được xuất gia và thọ Cụ túc?".
Phật nói: "Quy y Phật, quy y Pháp, Quy y Tăng tức là xuất gia. Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng lần thứ hai xong tức là thọ Cụ túc. Vì lý do này nên hoàn tất việc xuất gia thọ Cụ túc".
Có người lại thắc mắc: "Vì sao Ưu-bà-tắc thọ Tam quy y, Sa-di cho đến tám giới đều thọ Tam quy y mà lại không gọi là thọ Cụ túc?" Phật nói: "Ý nghĩa của hai việc này khác nhau. Ưu-bà-tắc không dừng ở Tam quy y mà còn thêm năm giới mới được gọi là Ưu-bà-tắc. Sa-di cho đến tám giới cũng lại như vậy".
Người thọ Cụ túc bằng cách nói Tam quy y thì chỉ theo đó là đủ, chứ không thêm gì cả, vì thế gọi là thọ Cụ túc. Lý do không thêm gì khác là vì Tam quy y có hai loại:
Một là, vì thọ năm giới, mười giới, tám trai giới, cho đến thọ hai trăm năm mươi giới, nên thọ Tam quy y.
Hai là, thọ hẳn Tam quy y một cách trực tiếp. Vì sao vậy?-Vì vào lúc ấy Phật chưa chế hai trăm năm mươi giới cho đến tám trai giới. Vì thế nói Tam quy y một cách trực tiếp thì được thọ Cụ túc.
Sau khi Phật quyết định không cho thọ giới bằng cách nói Tam quy y thì tuy có nói ba lần cũng không thành tựu việc thọ giới Cụ túc. Nguyên nhân về sau Phật bỏ pháp thọ giới bằng cách nói Tam quy y là do một Tỳ-kheo bệnh mà ra.
Lúc ấy, A-nhã Kiều-trần-như rời khỏi chỗ ngồi, sửa y, bày vai phải, quỳ gối phải sát đất, chấp tay hướng về Phật, bạch:
Bạch đức Thế Tôn! Làm sao chúng con biết được pháp thọ Cụ túc bằng cách nói Tam quy y?
Đức Phật bảo Kiều-trần-như:
Người nào xin xuất gia thì hãy cạo râu tóc và bảo họ nói: "Trọn đời con xin quy y Phật, Pháp, Tăng". Cho đến nói: "Nay con xuất gia theo Phật, đấng Bà-già-bà (Đức Thế Tôn) là thầy của con".
Đức Phật bảo Kiều-trần-như:
Thọ giới bằng cách nói Tam quy y là như Ta đã giảng giải.
Sau khi nghe Phật giảng về việc thọ giới bằng cách nói Tam quy y, Kiều-trần-như được thông suốt, lui lại đảnh lễ Phật rồi ra đi.
Tôn giả A-nhã Kiều-trần-như du hành tới nước Tỳ-lê-kỳ, dần dần đến Tỳ-xá-ly. Tại Tỳ-xá-ly có những người Tỳ-lê-kỳ, là con của hai dòng họ thuộc hai nước đang ở chung một chỗ. Người thứ nhất tên Yết-yết-đới-già, hai là Yết-luân-già, ba là Tỳ-cân-đới-già, bốn là Yết-trì-già, năm là Già-lạigià, sáu là Tỳ-đà-bạt-già, bảy là Bạt-đà, tám là Tubạt-đà-già, chín là...... (bản gốc thiếu), mười là Daxa, mười một là Di-tu-đa-la, mười hai là A-lê-da. Những người này đều nghĩ: "A-nhã Kiều-trần-như xuất gia thực hành phạm hạnh trong giáo pháp của Đại Sa môn. Đó là người có trí tuệ lớn, ai mà theo học ắt được diệu pháp. Vì sao chúng ta không đến chỗ vị ấy để xuất gia học diệu pháp? Vị ấy tu pháp gì, chúng ta cũng tu hành theo".
Sau khi bàn luận xong, những người ấy liền dẫn nhau đến chỗ Kiều-trần-như đảnh lễ sát chân Tôn giả rồi đứng qua một phía, bạch với tôn giả:-Cúi xin Đại đức cho phép chúng con được xuất gia, tu phạm hạnh trong giáo pháp của Như Lai.
A-nhã Kiều-trần-như liền nhận lời, cho phép họ xuất gia, thọ giới bằng cách nói ba lần quy y Phật, Pháp, Tăng. Thọ giới xong, họ liền cùng nhau đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật rồi đứng qua một phía. Tôn giả Kiều-trần-như bạch Phật:
Các thiện nam này cầu xin xuất gia, con đã cho họ thọ giới bằng cách nói Tam quy y Phật, Pháp, Tăng. Như vậy có đắc giới không?
Đức Phật bảo:
Những người này thọ giới bằng cách nói Tam quy y, như vậy là đã hoàn toàn thành tựu và đắc trọn vẹn giới Cụ túc. Vì sao vậy?-Chư Phật quá khứ đã từng cho thọ giới bằng cách nói Tam quy y như vậy. Chư Phật vị lai cũng sẽ cho thọ giới bằng cách nói Tam quy y như vậy. Hiện nay Ta cũng làm như vậy. Vì thế, có pháp thọ giới bằng cách nói Tam quy y như thế.
Pháp bạch Tứ yết-ma:
Vì sao phải bạch Tứ yết-ma ngay trong hiện tại để thọ Cụ túc? Đáp:-Vào lúc ấy, Phật ở tại thành Vương Xá, thầy trò Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp đã xuất gia, có một Tỳ-kheo bệnh không được ai chăm sóc nuôi bệnh nên bệnh ngày càng nặng, liền qua đời.
Các Tỳ-kheo thấy Tỳ-kheo ấy bị bệnh nặng và qua đời, do không có người nuôi bệnh và không có đệ tử nên thầy ấy bị khổ não như vậy. Các Tỳ-kheo liền đem việc ấy bạch với Thế Tôn. Phật liền tập hợp chúng Tăng lại và dạy:
Từ nay trở đi hãy bỏ pháp yết-ma tam ngữ và phải bạch Tứ yết-ma ở trong Tăng gồm mười vị để thọ Cụ túc. Cần biết, hai pháp thọ giới này đều được nói rõ như trên.
Lúc ấy, có một Tỳ-kheo ác độ người xuất gia. Người xuất gia ấy liền nghi ngờ thầy mình nên đến bạch với Thế Tôn. Thế Tôn hỏi:
Trước khi thọ giới, ông có nghi ngờ gì không?
Đáp:-Dạ không.
Đức Phật nói:
Vậy ông đã đắc giới Cụ túc.
Lại có một người cầu thầy xuất gia thọ giới Cụ túc. Sau khi thọ giới xong, ông ấy nghi ngờ thầy không thanh tịnh và không biết mình có đắc giới không, nên đến bạch với Thế Tôn. Thế Tôn hỏi:
Trước đây ông có biết thầy không thanh tịnh không? Người thọ giới nói:
Dạ không biết. Lại hỏi:
Trước đây ông có biết thọ giới với vị thầy không thanh tịnh thì không đắc giới không?
Đáp:-Dạ không biết. Đức Phật nói:
Vậy là ông đã đắc giới Cụ túc.
Lại có người cầu thầy xuất gia, thầy liền cho thọ Cụ túc. Về sau, người ấy nghi ngờ nên đến bạch Thế Tôn. Thế Tôn hỏi:
Ông có biết trước là thầy ông phá giới không? Đáp:-Dạ biết.
Lại hỏi:
Ông có biết trước là thọ giới với vị thầy không thanh tịnh thì không đắc giới không?
Đáp:-Dạ biết. Lại hỏi:
Trước kia, thầy ông thọ giới có đắc giới hay không, ông có biết không?
Đáp:-Dạ không biết. Đức Phật nói:
Vậy ông đã đắc giới Cụ túc.
Lại có một người cầu thầy xuất gia, thầy liền cho thọ Cụ túc. Sau đó người ấy nghi ngờ, đến bạch Thế Tôn. Thế Tôn hỏi:
Ông có biết trước là thọ giới với vị thầy không thanh tịnh thì không đắc giới không?
Đáp:-Dạ có biết trước. Lại hỏi:
Ông có biết trước là thọ giới với thầy ông thì không đắc giới không?
Đáp:-Dạ biết. Đức Phật nói:
Ba việc đều biết, vậy thọ giới không đắc giới. Vì lý do này nên gọi là bạch Tứ yết-ma.
Thế nào là ra lệnh cho phép liền được thọ Cụ túc?
Lúc ấy, tại giảng đường ở vườn Lộc mẫu Tỳxá-khư, thuộc nước Xá Vệ. Đức Phật hỏi Sa-di Tôđà-da về nghĩa lý. Tô-đà-da giải nghĩa đúng như đức Phật đã giảng giải, làm Như Lai vừa ý. Phật liền bảo:
Từ nay trở đi, nếu ông có thắc mắc gì thì được phép đến hỏi Như lai, và đức Phật cho vị ấy giới để lập tức đắc Cụ túc.
Đó gọi là ra lệnh cho phép, liền được thọ Cụ túc. Thế nào là thọ Cụ túc bậc thượng?
Như có một người đã đoạn trừ hết các lậu, chưa đủ hai mươi tuổi đã thọ Cụ túc, liền tự sanh nghi ngờ: Không biết mình đã đắc giới Tỳ-kheo chưa?
Biết vị ấy nghi ngờ, các Tỳ-kheo ở cùng trụ xứ đến bạch với Thế Tôn về việc ấy. Thế Tôn hỏi Tỳ-kheo đã dứt hết các lậu ấy:
Ông hãy tính luôn năm ở trong thai và những tháng nhuần, xem có đủ tuổi không?
Đáp:-Dạ không đủ.
Đức Phật liền hỏi các Tỳ-kheo:
Tỳ-kheo này đã đắc A-la-hán phải không?
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
Dạ đã đắc A-la-hán. Đức Phật nói:
Đó là thọ Cụ túc bậc thượng. Đức Phật lại bảo tiếp:
Những người thọ giới sau này được phép tính luôn tuổi trong thai.
Thế nào là năm pháp thọ Cụ túc của Tỳ-kheo-ni?-Thực hành theo lời dạy của thầy là cách thọ Cụ túc thứ nhất của Tỳ-kheo-ni. Lúc ấy, Phật ở trong vườn của dòng họ Thích. Ma-ha-ba-xà-ba-đề cùng năm trăm người nữ dòng họ Thích đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, bạch với Phật:
Bạch đức Thế Tôn! Người nữ chúng con có được xuất gia trong giáo pháp của Phật không?
Đức Phật nói:
Ta không muốn cho người nữ xuất gia.
Sau khi nghe lời này, các cô ấy gục đầu khóc như mưa rồi ra về. Sau đó, Thế Tôn đi từ khu vườn dòng họ Thích đến Tịnh xá Kỳ-Hoàn, thuộc nước Xá-Vệ. Nghe tin Phật đang đi đến Tịnh xá KỳHoàn, Kiều-đàm-di và năm trăm người nữ ấy buồn rầu, tự than thân trách phận vì không được xuất gia trong Phật pháp. đều tự cạo đầu, mặc pháp phục, đi theo sau Phật, đến đứng ngoài cổng Tịnh xá KỳHoàn và gặp tôn giả A-nan. Tôn giả A-nan liền hỏi mẹ và các người nữ:
Vì sao các tín nữ tự cạo tóc, mặc pháp phục, nhan sắc tiều tụy không vui vậy?
Người mẹ và các người nữ liền đáp:
Lý do chúng tôi không vui là do đức Thế Tôn không cho người nữ xuất gia, vì thế chúng tôi buồn rầu.
A-nan bảo:
Hãy đợi một lát, tôi sẽ vì các vị vào bạch đức Thế Tôn. A-nan liền đi vào, bạch với Thế Tôn:
Các tín nữ ấy cầu xin xuất gia, kính mong đức Thế Tôn chấp nhận.
Đức Phật bảo A-nan:
Lý do Ta không cho phép người nữ xuất gia là vì: như gia đình người đời nào con trai ít, con gái đông thì gia nghiệp ắt sẽ bị tan rã. Cũng vậy, trong pháp xuất gia nếu có người nữ thì chánh pháp ắt sẽ bị hư hoại, không tồn tại lâu dài được.
A-nan lại bạch Phật:
Người nữ tu phạm hạnh ở trong Phật pháp có chứng đắc bốn quả không? Đức Phật bảo A-nan:
Nếu người nữ nào có thể tu phạm hạnh không ngừng nghỉ, không thối lui, thì cũng có thể đạt được.
A-nan lại bạch Phật:
Cúi xin Thế Tôn cho phép người nữ được xuất gia trong Phật pháp.
Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:
Người nữ nào có thể thực hành Bát kỉnh pháp thì được phép xuất gia. Người nào không thể thực hành Bát kỉnh pháp thì không được ở trong đạo. Lý do Ta chế Bát kỉnh pháp cho người nữ là vì: như người muốn vượt qua sông, trước hết phải tạo cầu, thuyền; về sau tuy có nước lớn thì vẫn có thể qua được. Bát kỉnh pháp cũng như vậy, vì sợ về sau họ phá hoại chánh pháp nên phải chế cho họ như vậy. Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:
Ông cầu xin Ta cho người nữ xuất gia, làm cho sau này chánh pháp sẽ bị giảm năm trăm năm.
Nghe lời này, A-nan buồn rầu không vui, liền ra ngoài hỏi các tín nữ:
Phật nói Bát kỉnh pháp, các vị có thể phụng hành không?
Nghe lời này, các cô ấy đều vui mừng, liền nhờ A-nan vào bạch với Thế Tôn: "Hôm nay chúng con được Thế Tôn bố thí pháp, chúng con xin phụng hành. Giống như có người tắm gội bằng nước thơm và trang sức xong, lại có người đến đặt vòng hoa trang sức lên đảnh đầu mình, hôm nay chúng con cũng giống như vậy".
Tôn giả A-nan liền đem lời này vào bạch với Thế Tôn. Thế Tôn nói:-Các cô ấy đã được thọ Cụ túc.
Đó chính là pháp thọ Cụ túc do làm theo lời dạy của thầy.
Pháp thọ Cụ túc bằng cách bạch Tứ yết-ma thì giống như trong kinh Tỳ-kheo bệnh ở trên đã nói.
Pháp thọ Cụ túc bằng cách nhờ người thay thế cũng giống như trong kinh Tỳ-kheo-ni đã nói. Thế nào là pháp thọ Cụ túc bằng cách gọi: "Thiện lai Tỳ-kheo ni"?
Lúc ấy, Thế Tôn ở tại nước Xá Vệ, cô Mađăng-kỳ đến chỗ Phật, đầu mặt sát đất đảnh lễ chân Thế Tôn rồi ngồi qua một phía. Đức Phật liền giảng pháp cho cô ấy nghe. Nghe xong, cô ấy hiểu thấu đáo pháp tánh, đắc quả Tu-đà-hoàn và xin Phật xuất gia.
Đức Thế Tôn bảo:
-Cho phép con khéo tu phạm hạnh ở trong giáo pháp của Ta để dứt sạch khổ đau.
Sau khi Phật nói xong, tóc trên đầu cô ấy tự rụng; pháp phục, bình bát đột nhiên hiện trên thân, oai nghi đĩnh đạc như người tu tập đã lâu. Vì thế, gọi là thọ Cụ túc bằng cách gọi "Thiện lai!".
Pháp thọ Cụ túc bậc thượng, dứt sạch các hữu lậu, thành A-la-hán là: Như vị Sa-di nói trên, tuy chưa đủ hai mươi tuổi đã đắc A-la-hán nên gọi là thọ Cụ túc bậc thượng. Tỳ-kheo-ni này cũng như vậy. Đó gọi là thọ Cụ túc bậc thượng.
Năm pháp thọ Cụ túc của Tỳ-kheo-ni đã được trình bày xong.
Việc lập ra pháp thọ Cụ túc bậc thượng cho người có thiện căn:
Bấy giờ, trong thành Vương Xá có Bà la môn tên Ni-câu-đà, có rất nhiều tiền của, châu báu. Vợ người Bà-la-môn này sanh một người con tên Tấtba-la-duyên. Dòng họ của cha mẹ trong sạch. Đứa trẻ này thông đạt tất cả sách vở, kinh điển của Bà la môn cho đến biết rõ các tướng của bậc đại nhân. Sau khi cha chết, trong nhà cậu thanh niên Tất-bàla-duyên này có chín mươi sáu đấu vàng ròng, tám mươi ức mười vạn Lặc-sa tiền, người hầu, đầy tớ gồm có cả ngàn thôn. Vợ cậu ấy tên Bạt-đà, nhan sắc xinh đẹp, trên đời không ai sánh bằng. Vậy mà cậu ấy có thể dứt trừ, đoạn trừ tham, bỏ cô ấy để ra đi. Cậu ấy suy nghĩ: "Nếu thế gian có bậc A-la-hán chân thật thì ta sẽ xuất gia với vị ấy. Ta cần đến rừng tiên nhân tu khổ hạnh để tu phạm hạnh". Sau khi suy nghĩ xong, cậu ấy liền cắt ái từ thân, dứt trừ tham dục, từ bỏ vợ mà đi, đến rừng tiên nhân khổ hạnh, ăn rau và lá cây, uống nước suối trong, tu phạm hạnh suốt mười hai năm, đắc các tâm thiền, thành tựu năm thông.
Khi ấy, Thế Tôn đã xuất hiện ở đời, chuyển pháp luân lần đầu ở vườn Lộc-dã. Lúc này, Tăng bảo đã được thành lập, gồm một ngàn vị Tỳ-kheo. Những vị này đều là bậc kỳ cựu, được cả nước kính trọng, các căn tịch tĩnh, đều là bậc đã giải thoát, dứt sạch các lậu hoặc. Thế Tôn cùng các Tỳ-kheo lần lượt du hành đến nước Ma-kiệt-đề, vào rừng Nhược Trí và dừng chân bên đại thọ Ni-câu.
Lúc này, đức Thế Tôn dùng Phật nhãn quan sát thế gian để xem thử những chúng sanh nào sanh ở đời mà ít phiền não, có uy lực lớn, có thể lãnh thọ pháp của Ta giảng. Như Lai quán sát thấy thanh niên Tất-bà-la-duyên đang ở rừng Ưu-tra, liền nghĩ: "Người này có thể thọ nhận chánh pháp của Ta". Lúc ấy, vì muốn độ thanh niên Tất-bà-laduyên nên Thế Tôn cùng với một ngàn Tỳ-kheo đi từ nước Ma-kiệt-đề đến tháp Đa Tử. Khi đã đến đó, các vị dừng nghỉ bên gốc cây.
Một ngày nọ, ở trong khu rừng này, do thần lực của Phật, ánh sáng chiếu rực rỡ, rừng cây sáng chói. Giống như trăng thu hay mặt trời không bị mây che, ánh sáng của Như Lai cũng như vậy.
Sau mười hai năm tu khổ hạnh, thanh niên ấy chợt muốn đến tháp Đa Tử nên vượt qua các hang núi, rừng rậm hiểm trở để đến tháp Đa Tử. Lúc đến nơi, thấy trong rừng ấy có ánh sáng kỳ lạ, hơn hẳn ánh sáng thường, cậu ấy liền suy nghĩ: "Trong đây chắc có chư Thiên, Thích, Phạm, thần tiên có sức mạnh hoặc sư tử chúa, vì thế khu rừng này có hiện tượng kỳ lạ, tốt đẹp như vậy.
Thanh niên Tất-bà-la-duyên đi dần về phía trước, thấy dấu chân Như Lai có tướng bánh xe ngàn nan hoa đầy đủ, rõ sáng, liền theo dấu chân đi tới. Từ xa trông thấy Như Lai có các căn thanh tịnh, dung mạo thù thắng đặc biệt, đầy đủ các tướng tốt, đang ngồi nghiêm trang, cậu ấy bất chợt rợn tóc gáy, phát sanh lòng tin, tự suy nghĩ: "Điều ta mong ước khi mới xuất gia chính là đây". Chư Thiên liền bảo:
Không nên nghi ngờ.
Cậu ấy lại thấy các Tỳ-kheo chánh niệm ngồi thiền, liền nghĩ: "Điều ta mong cầu trước đây, nay đã được gặp". Cậu ấy liền tiến đến chỗ Phật, đảnh lễ sát đất, đưa hai tay vuốt chân Phật, miệng nói:
Con họ là Ca-diếp, tên Tất-bà-la-duyên. Cậu ấy tự xưng ba lần như vậy.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
Nếu ai có phiền não, nội kết, lậu hoặc chưa dứt trừ, chẳng phải là Nhất thiết trí, cũng chẳng phải thầy của loài người, thì khi nhận sự lễ lạy của người đã thành tựu pháp lành, đầu kẻ ấy sẽ bị vỡ thành bảy phần. Ta thật sự là người đã chấm dứt lậu hoặc phiền não, là ruộng phước của tất cả mọi người, là người thương xót chúng sanh, là bậc Nhất thiết trí, cho nên, Ta nhận sự đảnh lễ của thanh niên này.
Khi đó, đức Thế Tôn bảo thanh niên ấy:
Ông đã cúng dường đầy đủ, đã thành tựu lòng tin. Hãy ngồi qua một phía.
Nghe lời Phật dạy, thanh niên ấy liền lạy sát chân Phật rồi ngồi qua một phía. Lúc ấy Thế Tôn nói đủ các pháp, chỉ dạy sự lợi ích an vui cho thanh niên ấy nghe. Nghe xong, thanh niên ấy liền chứng ngộ pháp, đắc quả Tu-đà-hoàn, liền đứng dậy, chắp tay đảnh lễ, bạch Phật:
Thế Tôn là thầy của con. Con là đệ tử Thanhvăn. Đức Phật liền giảng cho thanh niên ấy:
Phải thân cận, tu hành bốn niệm xứ, giảng nói cho đến tám Thánh đạo cũng như vậy. Đức Phật bảo thanh niên:
Khi vào làng của các thiện nam, thiện nữ, ông đừng để tâm tham đắm, giống như mặt trăng không bị dính vào đâu khi chiếu xuống thế gian. Khi ông vào các xóm làng, tâm không có vướng mắc cũng lại như vậy. Như con ong lấy hoa, việc vào xóm làng cũng phải như vậy. Này thiện nam! Ví như thiện nam Chơn-đà-la phải xả bỏ tâm ỷ lại vào dòng họ, của cải, phước đức, cần phải khiêm nhường khi đi vào làng xóm, giống như con bò lớn nhất trong đàn bò tự ỷ lại vào cặp sừng bén nhọn nên ngạo mạn đối với các con khác, về sau sừng bị chặt gãy thì tâm kiêu mạn bị chấm dứt Khi vào làng xóm, tâm ông không được tham đắm cũng nên như vậy.
Đức Phật bảo thiện nam:
Sáu căn chớ có nắm giữ ý tưởng, làm tâm bị trói buộc. Sáu trần cho đến sáu thức cũng như vậy. Sắc ấm cũng không nên dính mắc, nắm giữ vọng tưởng, cho đến thức ấm cũng lại như vậy. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý và sáu trần, các giác quán, ý quán cũng lại như vậy, không được nắm giữ vọng tưởng. Giống như từng giọt nước nối nhau ở trong hư không, không bị ngăn ngại, quán mười tám giới, mười hai nhập, năm ấm không có nắm giữ, tâm không bị ngăn ngại cũng lại như vậy. Này thiện nam, ông nên học như vậy. Thanh niên ấy bạch Phật:
Con xin vâng lời Thế Tôn.
Sau khi nghe Thế Tôn đưa ra các ví dụ, giảng pháp đủ cách, thanh niên ấy liền hiểu và ghi nhớ. Sau khi đã thọ nhận giáo pháp, vị ấy rời khỏi chỗ ngồi, nhiễu quanh Phật ba vòng, đảnh lễ Phật rồi ra đi, đến một gốc cây ngồi ngay thẳng, nhớ lại giáo pháp Phật đã dạy suốt bảy ngày bảy đêm, đến sáng ngày thứ tám thì các lậu được dứt sạch, đạt được ba minh, sáu thông, đầy đủ tám giải thoát, chứng quả A-la-hán.
Sau khi đắc quả A-la-hán, vị ấy đến chỗ Phật đảnh lễ sát chân Phật rồi ngồi lui qua một phía, bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Suốt bảy ngày bảy đêm, con đã quán chiếu pháp mà trước đây Như Lai đã giảng. Đến sáng ngày thứ tám thì các lậu đã được dứt trừ, tâm được giải thoát, đạt được ba minh, sáu thần thông, đắc quả A-la-hán. Giống như có người nói: có một con voi lớn cao bảy khuỷu tay, lại có một cây cao sáu khuỷu tay rưỡi mà cho cây này có thể phủ kín con voi thì thật phi lý. Nếu có người nào đắc quả A-la-hán, đạt được ba minh, sáu thần thông, đủ tám giải thoát, mà có thể hơn con thì không thể có được.
Đức Phật bảo Ca-diếp:
Lành thay! Lành thay! Ca-diếp, như lời ông nói, dựa vào các thí dụ trong pháp Ta đã giảng, ông đã chứng ngộ được lý Vô sanh, đắc quả A-la-hán, tức là đã thọ giới Cụ túc.
Lúc ấy, nhân việc này, Thế Tôn tập hợp các Tỳ-kheo, bảo:-Ta đã nói pháp như vậy cho Ca-diếp nghe.
Hôm nay các vị đều phải tu hành pháp ấy.
Đức Phật lại bảo các Tỳ-kheo:
Từ nay trở đi cho phép các vị lập ra pháp thọ Cụ túc bậc thượng đối với những người có căn lành.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
Chư Phật quá khứ và vị lai đều lập ra pháp thọ Cụ túc bậc thượng đối với người có căn lành. Nay Ta cũng lại như vậy. Đó là lập ra pháp thọ Cụ túc thượng cho người có căn lành.
Lúc ấy, tôn giả Ca-diếp liền rời khỏi chỗ ngồi, sửa áo bày vai phải, quỳ gối phải sát đất, chấp tay lễ Phật và bạch:
Bạch Thế Tôn! Ở trong pháp Như Lai, chúng con an trụ vào những pháp gì? Tu những pháp gì?
Người thực hành pháp có gì khác nhau? Đức Phật bảo:
Lành thay! Lành thay! Ca-diếp, điều ông hỏi rất tốt. Như suối tuôn chảy không bao giờ hết, cũng vậy, việc ông hỏi về cách tu, cách an trụ, cho đến sự sai khác, lời lẽ, nghĩa lý không bị ngăn trệ.
Đức Phật bảo Ca-diếp:
Bốn Thánh chủng là chỗ ở, mười hai đầu đà là pháp thực hành, dứt các hữu lậu gọi là sai khác.
Tôn giả Ca-diếp bạch Phật:
Bốn Thánh chủng, mười hai đầu đà cho đến lậu tận, giải thoát sẽ được con cung kính thực hành. Giống như trưởng giả hoặc con trưởng giả tắm gội bằng nước thơm rồi trang điểm bằng y phục đẹp nhất, lại có người đến dùng vòng hoa đẹp đội lên trên đảnh họ, trên đảnh chúng con được đội giáo pháp mà Như Lai dạy cũng lại như vậy.
Đức Phật bảo Ca-diếp:
Ông an trụ trong bốn Thánh chủng như thế nào? Tôn giả Ca-diếp bạch Phật:
Một là có ý tưởng vừa đủ đối với y phấn tảo đã có sẵn. Hai là thấy y phấn tảo mà người đối diện đang mặc thì phải khen ngợi. Ba là thấy người khác mặc y phấn tảo thì không được tự ỷ lại mà chê họ. Bốn là biết đủ khi được đồ ăn uống, cho đến thuốc chữa bệnh dù nhiều hay ít. Lại nữa, không được tự ỷ lại mà chê người khác. Đối với người khác, không được sanh ý nghĩ người ấy hơn ta, người ấy không bằng ta. Lại không nghĩ: người kia giống ta, người này không giống ta. Không sanh tâm: người này thấp hèn hơn ta, người kia không thấp hèn hơn ta. Lại không nghĩ: người kia tốt hơn ta, người nọ không tốt bằng ta, người đời đều trái ngược với pháp trên, còn ta làm đúng pháp ấy.
Đức Phật bảo Ca-diếp:
Việc an trụ vào bốn Thánh chủng cần phải học như vậy. Ca-diếp, ông thực hành mười hai đầu đà như thế nào?
Tôn giả Ca-diếp bạch Phật:
Một là thường kinh hành ở nơi yên tĩnh, vắng vẻ và ca ngợi nơi yên tĩnh ấy. Hai là khất thực. Ba là mặc y phấn tảo. Bốn là nếu có tâm sân thì lập tức chấm dứt, không được ăn vừa xong lại ăn nữa. Năm là mỗi ngày chỉ ngồi ăn một lần vào giờ ngọ. Sáu là nhận thức ăn một lần (ăn hết thì thôi, không nhận thêm). Bảy là luôn ở nơi nghĩa địa. Tám là thường ngồi nơi đất trống. Chín là ngồi dưới gốc cây. Mười là thường ngồi không nằm. Mười một là không lựa chọn vật dụng trải ngồi. Mười hai là chỉ dùng ba y. Các pháp như vậy đều đáng ca ngợi, không được tự ỷ lại mà chê bai người khác, cho đến ít muốn, biết đủ, chỉ bày cho người khác các thứ đồ dùng.
Đức Phật bảo:
Ca-diếp! Lành thay, lành thay! Như lời ông nói, thực hành mười hai hạnh đầu đà đúng là như vậy.
Đức Phật lại bảo Ca-diếp:
Ông hãy theo Ta đi kinh hành trong rừng. Tôn giả Ca-diếp đáp:
Con xin vâng lời Thế Tôn.
Đức Phật đứng dậy bước đi. Ca-diếp nắm tọa cụ vắt lên vai rồi đi theo sau Thế Tôn. Ca-diếp đi theo Phật như sư tử con đi theo sư tử lớn. Lúc ấy, Thế Tôn đi theo con đường, đến một gốc cây và bảo Ca-diếp:
Ông hãy trải tọa cụ bên gốc cây này cho Ta.
Tôn giả Ca-diếp vâng lời, xếp Tăng-già-lê thành bốn lớp rồi trải xuống làm chỗ ngồi, Như Lai liền ngồi xuống đó. Ca-diếp đảnh lễ sát chân Phật. Thế Tôn dùng tay phải đè xuống tọa cụ và bảo Cadiếp:
Cái tọa cụ này rất mềm mại. Tôn giả Ca-diếp nói:
Bạch Thế Tôn! Tọa cụ này rất mềm mại. Y này là y của đệ tử lúc mới xuất gia. Lúc còn mới, y này trị giá bằng một nước Ca-thi, nay giá đã giảm xuống còn nửa nước. Cúi xin Thế Tôn thọ nhận tấm y này.
Đức Phật bảo Ca-diếp:
Vì thương tưởng ông nên Ta nhận y này. Ông sẽ dùng những thứ gì?
Tôn giả Ca-diếp liền bạch với Phật:
Con sẽ tìm loại y phấn tảo bằng cỏ Ca-thi-ca loại xấu nhất để dùng.
Đức Phật bảo Ca-diếp:
Lành thay! Lành thay! Ông dùng loại y phấn tảo làm bằng cỏ Ca-thi-ca thì được nhiều lợi ích, nhiều an ổn.
Bấy giờ, đức Thế Tôn cùng với chúng Tỳ-kheo gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị lần lượt du hành đến nước Ma-kiệt-đề và ngồi nghỉ bên gốc đại thọ Ma-câu-đà ở trong rừng. Lúc ấy, nhóm sáu Tỳ-kheo cùng bàn luận ở trong phòng vắng: "Cadiếp không bằng A-nhã Kiều-trần-như... được thọ Cụ túc bằng cách gọi ' Thiện lai '; cũng không bằng ở Tỳ-xá-ly, Tỳ-kheo Bạt-kỳ được thọ Cụ túc bằng cách nói quy y Phật, Pháp, Tăng ba lần; cũng không bằng Tỳ-kheo Bà-lô-ba-tư-na thọ Cụ túc bằng cách bạch Tứ yết-ma. Ông ấy chẳng phải là người đã thọ Cụ túc, tại sao lại được phép cùng bốtát, yết-ma với các Tỳ-kheo?"
Khi đó, Thế Tôn ở bên gốc cây, bằng thiên nhĩ nghe những lời bàn luận ở chỗ vắng của các Tỳ-kheo. Phật bảo Ca-diếp:
Hãy đi lấy nước cho Ta.
Ca-diếp liền ôm bát đến ao lấy nước. Thấy Cadiếp đến, nhóm sáu Tỳ-kheo liền nói những lời xấc xược:
Ông chẳng phải như năm anh em Kiều-trầnnhư được thọ Cụ túc bằng cách gọi "Thiện lai", cũng không giống những người ở Tỳ-xá-ly thọ Cụ túc bằng cách nói ba quy y; cũng không giống Bàlô-ba-tư-na thọ Cụ túc bằng cách bạch Tứ yết-ma. Ông chưa thọ Cụ túc, làm sao cùng các Tỳ-kheo bố-tát, yết-ma được?
Tôn giả Ca-diếp liền đáp lời các Tỳ-kheo:-Thế Tôn đã vì tôi mà kiến lập pháp thọ Cụ túc bậc thượng cho những người có căn lành ở tại tháp Đa Tử.
Nói xong, Tôn giả đem bát nước đến dâng cho Như Lai. Sau khi uống xong, Phật đưa nước còn dư cho Ca-diếp. Ca-diếp nhận lấy bát nước rồi sửa y phục, bày vai phải, đảnh lễ sát chân Phật và chấp tay thưa:
Lúc nảy, nhóm sáu Tỳ-kheo đã nói với con:
"Ông chẳng phải thọ Cụ túc bằng cách gọi "Thiện lai!"; lại chẳng phải thọ Cụ túc bằng hình thức nói ba lần quy y Tam bảo; cũng chẳng phải thọ Cụ túc bằng cách bạch Tứ yết-ma thì làm sao được cùng chúng Tăng làm các pháp sự?". Con đã trả lời các Tỳ-kheo ấy: "Thế Tôn đã vì tôi lập ra pháp thọ Cụ túc thượng dành cho người có căn lành. Các thầy hãy đến gặp Phật thưa hỏi, để xác định là tôi đã đắc giới hay chưa và hãy theo lời Phật dạy mà thực hành".
Khi ấy, vì muốn đoạn trừ tâm hủy báng của các Tỳ-kheo trong đời vị lai, Thế Tôn bảo A-nan:
Ông hãy đến thành Vương Xá và mời tất cả các Tỳ-kheo ở thành ấy tập hợp tại tinh xá lớn nhất. Theo lời Phật dạy, A-nan liền đến thành ấy mời các Tỳ-kheo tập hợp tại tinh xá lớn. Sau khi chúng Tăng đã tập hợp, A-nan liền đến bạch Phật:
Tăng đã tập hợp xong, xin Đức Thế Tôn biết cho.
Thế Tôn liền đến tinh xá ấy, thong thả nằm nghiêng về bên phải, giống như con voi chúa, quán sát kỹ lưỡng Ca-diếp. Lúc này, Ca-diếp liền rời khỏi chỗ ngồi, quỳ gối phải sát đất, đảnh lễ sát chân Phật rồi quỳ xuống, chấp tay bạch Phật:
Ngày xưa, lúc còn tại gia, sau khi cha qua đời, gia tài của con gồm có chín mươi sáu đấu vàng ròng, tám mươi ức lặc-sa tiền vàng. Vợ con có nhan sắc rất xinh đẹp, quý phái, trên đời không ai sánh bằng. Thế mà con đã suy nghĩ: "Nếu có vị A-la-hán chân chánh thì ta sẽ xuất gia với vị ấy". Sau khi suy nghĩ xong, con liền xả bỏ ái ân, dứt trừ tham dục, xuất gia cầu đạo và nguyện: "Trên thế gian này chỉ có Phật mới là thầy của con". Vậy mà, vì sao nhóm sáu Tỳ-kheo lại phỉ báng rằng con chưa thọ Cụ túc?
Tôn giả Ca-diếp lại nói tiếp:
Nếu thế gian có sắc đẹp kỳ lạ và của báu quý giá thì cũng không ngoài những gì con đã có, nên con đâu còn tham tài sản và thích nhìn sắc đẹp nữa, mà đã xả bỏ chúng từ lâu. Vì sao nay lại bị phỉ báng? Từ khi đã xuất gia, con đến khu rừng ấy tu tập suốt mười hai năm, đạt được tứ thiền cho đến năm thần thông, chưa bao giờ có một niệm rối loạn. Vì sao vậy?-Vì thấy các hành trong đường sanh tử thật đáng sợ.
Tôn giả lại nói tiếp:
Khi cha con còn sống, người đã dùng hai mươi ức tiền vàng cưới vợ cho con, mỗi ngày ba lần thay y phục theo thời tiết, chưa hề bị thiếu thốn; cho đến thuốc chữa bệnh cũng vậy. Thế nhưng khi thực hành tám pháp ly thế gian, tâm con chưa hề nghĩ đến dòng dõi cao sang của mình. Tuy cưới vợ nhưng cả hai đều tu phạm hạnh, chưa từng hủy hoại.
Tôn giả Ca-diếp lại bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Ngày xưa, nhờ đem thức ăn cúng dường cho vị Bích-chi Phật nên từ đó đến nay con thường ưa thích xuất gia cầu Niết-bàn giải thoát như Phật đã biết rõ. Vì sao?-Trong tâm con thường lo sợ bị sanh tử, lưu chuyển trong năm đường.
Bạch Thế Tôn! Khi mới đến khu rừng gần tháp Đa Tử, trông thấy Như Lai, con liền có ý nghĩ này: "Đây chính là vị thầy mà ta mong cầu lúc mới xuất gia". Vì sao?-Vì lòng tin mà con phát sanh đối với chư Phật quá khứ và lòng tin mà con phát sanh khi trông thấy Thế Tôn nay không có sai khác. Lúc ấy, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
Nếu ai có phiền não, lậu hoặc chưa dứt sạch, chẳng phải là bậc Nhất thiết trí, chẳng phải là thầy của loài người mà thọ nhận sự đảnh lễ của vị đại sĩ đã thành tựu này, thì đầu người ấy sẽ vỡ làm bảy phần. Bản thân Ta đã thực sự hết phiền não, lậu hoặc, vô minh đều đã được dứt sạch hẳn. Ta biết hết thảy pháp, là thầy của loài người, vì thế Ta nhận sự đảnh lễ của người này.
Lúc ấy, Ca-diếp lại bạch Phật:
Tuy các Tỳ-kheo phỉ báng như vậy, nhưng con không có buồn rầu. Nay tuy được Thế Tôn dùng nhiều lời khen ngợi nhưng con cũng không vui mừng. Vì sao vậy?-Con quán thấy người khen và người được khen, cả hai đều không. Vì sao?-Vì con đã thấy được tất cả các pháp không có ta, không có người, do quán tất cả đều rỗng lặng. Từ khi được nghe Thế Tôn nói ví dụ ánh sáng mặt trăng và ví dụ giọt nước ở tại tháp Đa Tử đến nay, tâm con luôn nghĩ đến pháp ấy chứ không nghĩ gì khác. Vì thế, con thường để tâm vào pháp lành chứ không nghĩ gì khác.
Bạch Thế Tôn! Khi chưa gặp Phật, suốt mười hai năm con thường quán đất-nước-gió-lửa cùng với ba cõi đều rỗng không, huống gì ngày nay đã được nghe Thế Tôn thuyết pháp mà có ý tưởng khác sao? Con cũng không có thấy, nghe hay biết đối với ba đời, lẽ nào lại sanh ý niệm khác đối với nhóm sáu Tỳ-kheo?
Từ khi Thế Tôn nói bốn Thánh chủng cho con nghe, đến giờ con không có nắm giữ các tưởng về vị, xúc, thấy thân năm ấm này giống như bốn con rắn độc. Khi hành động theo bốn oai nghi, tâm không hề vướng mắc. Vì sao?-Từ lâu con đã biết đó là gốc của lầm lỗi. Con quán thấy năm ấm này sanh diệt trong từng niệm, như năm tên giặc cầm đao. Con thấy sự tập hợp của sắc và sự hoại diệt của sắc, sự tập hợp của thọ, tưởng, hành, thức và sự hoại diệt của thọ, tưởng, hành, thức. Quán thấy sáu nhập giống như năm tên giặc cầm đao ở trong làng hoang vắng, nên quán là vô ngã.
Bạch Thế Tôn! Con quán thấy thân này như cái bình đựng đồ dơ bẩn đang tuôn chảy ra ngoài là quán thân dựa trên thân.
Bạch Thế Tôn! Con quán thấy tâm này vô thường, mau lẹ như sóng nắng, như gió lốc, là quán tâm dựa trên tâm.
Con quán thấy thọ đau khổ, sanh diệt thay đổi như ngọn lửa trên dòng nước, là quán thọ dựa trên thọ.
Con quán thấy pháp vô ngã, là thuộc vào các nhân duyên, là quán pháp dựa trên pháp.
Bạch Thế Tôn! Con không có lầm lẫn đối với pháp Như Lai đã giảng và con sẽ hết sức thực hành. Bạch Thế Tôn! Lúc nọ ở thành Vương Xá, giữa một ngàn hai trăm năm mươi vị Tăng, chúng Tăng phát thẻ thông báo: "Ai đúng là bậc Ứng cúng thì hãy nhận thẻ này". Lúc đó, con liền rút chiếc thẻ ấy. Nếu không gặp Như Lai xuất thế con sẽ chứng đắc quả Bích-chi Phật mà nhập Niết-bàn. Vì sao?-Từ lâu con đã từng gieo trồng căn lành đối với các vị Phật.
Một lúc nọ, ở trong hang đá Tất-ba-la, con bỗng nhiên mắc bệnh. Thế Tôn đến thăm bệnh nhưng hang nhỏ mà thân Ngài lớn, con liền dùng tay nâng hang đá ấy rộng ra. Thế Tôn liền bước vào, nói pháp khổ-không cho con nghe.
Một lúc nọ, con đang nhập tam muội Hỏa quang trong hang Tất-ba-la, trời Đế thích, Phạm vương đến đảnh lễ sát chân con. Lại có một người khác cầm dao định giết con. Khi xuất định, con quán thấy hai người này bình đẳng không khác.
Tôn giả Ca-diếp lại nói:
Khi ở giữa đại chúng và khi ở phòng riêng, oai nghi của con không có khác nhau. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
Oai nghi đi đứng phải như Ca-diếp. Tôn giả Ca-diếp lại nói:
Tuy nghe lời khen này nhưng con không lấy làm vui mừng. Khi đi kinh hành vào ban đêm và khi đi khất thực vào ban ngày, trong tâm con nghĩ: "Ngày đêm sao ngắn quá", nên con ngước mắt nhìn mặt trời, mặt trăng thì thấy đều đứng yên không chuyển động. Chư thiên biến ra hình người, vây xung quanh con để cúng dường. Vào lúc ấy, con hoàn toàn không có vui mừng đối với việc này và trong tâm cũng không cho là kỳ lạ.
Ở trong thành Vương Xá, con cùng một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ-kheo tập hợp lại một chỗ để tiến hành phát thẻ và nói: "Sau khi Như Lai diệt độ, ai có thể giữ gìn Phật pháp thì hãy nhận thẻ". Lúc ấy, con liền rút thẻ. Vì sao?-Vì con có tài biện luận, không ai có thể chế ngự được, vì thế nên con rút thẻ. Nếu có người hỏi: "Ai không bị nhiễm năm dục trở lại?", thì hãy nói đó chính là con. Vì sao?-Vì con đã hoàn toàn giải thoát khỏi ba cõi.
Nếu có người hỏi: "Ai có thể thành tựu năm căn, năm lực, bảy giác chi và tám chánh đạo?", thì con có thể gầm lên tiếng sư tử ở trong đó. Vì sao?-Bởi vì, đối với tất cả khổ-tập-diệt-đạo và xuất ly, con đã biết mùi vị và lỗi lầm của nó, thấy nó đúng như thật. Dục lạc giống như hố lửa, cho đến giống mũi giáo nhọn. Tai họa của dục cũng lại như vậy. Con không có tham ái, đã vĩnh viễn dứt sạch tham ái, tâm duyên với Niết-bàn, giải thoát mau lẹ như nước chảy trên đỉnh núi xuống, xả bỏ hữu lậu như nhổ đờm dãi.
Con đã tu tập đầy đủ bốn niệm xứ cho đến tám Thánh đạo, có thể ra vào tùy ý đối với định tám giải thoát. Đối với thần thông, con cũng đã tự tại, vô ngại.
Bạch Thế Tôn, đối với các loại tâm hữu lậu, vô lậu của các chúng sanh, con đều có thể thấu rõ. Con biết được vô lượng đời trong quá khứ của các chúng sanh.
Bạch Thế Tôn, con dùng thiên nhãn hơn hẳn mắt người thường, thấy chúng sanh chết nơi nay, sanh nơi kia rất rõ ràng. Con đã dứt sạch các hữu lậu, tâm được giải thoát, tuệ được giải thoát.
Tôn giả Ca-diếp nói:
Chư Tỳ-kheo và nhóm sáu đại đức, xin chớ có cho con tự ca ngợi đức hạnh của mình. Tất cả các công đức đã có, con đều xả bỏ, huống chi danh vọng giả dối khác. Sở dĩ con nói ra là vì muốn làm lợi ích lâu dài cho chúng sanh. Đức Phật bảo Ca-diếp:
Lành thay! Lành thay! Ca-diếp, việc làm lợi ích của ông, trừ Ta ra, các Thanh văn khác không ai theo kịp. Ông hãy thương xót sự si mê của nhóm sáu Tỳ-kheo mà cho họ sám hối.
Lúc ấy, Tôn giả Ưu-ba-ly rời khỏi chỗ ngồi, sửa y, bày vai phải, quỳ gối phải sát đất, chấp tay lễ Phật, hỏi Thế Tôn:
Tất cả chư Phật đều lập ra pháp thọ Cụ túc bậc thượng cho người có căn lành, phải không thưa Thế Tôn?
Đức Phật bảo Tôn giả Ưu-ba-ly:
Chẳng phải tất cả chư Phật đều lập ra pháp ấy, lý do lập pháp ấy là vì chúng sanh đời năm trược mà lập. Năm trược là: kiếp trược, mạng trược, chúng sanh trược, nghiệp trược, phiền não trược. Chư Phật quá khứ, vị lai cũng như vậy. Nay gặp đời ác năm trược cho nên Ta chế ra pháp ấy.
Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật:
Có bao nhiêu chỗ được lập ra pháp lành thọ Cụ túc bậc thượng trọn vẹn?
Đức Phật bảo Ưu-ba-ly:
Có năm trường hợp được trọn vẹn, đó là: 1-Thân cuối cùng.
Bà-ê-phá-la-già-chí-bà-lặc-già, là người đã đắc quả Tu-đà-hoàn trước.
Thuận cho Tô-đà-di đã dứt sạch các lậu, tâm được giải thoát.
Đứa bé chăn bò Nan-đà.
5-Ca-diếp.
Như Lai đã truyền giới Cụ túc cho họ chứ chẳng phải cho Thanh văn khác. Này Ưu-ba-ly! Đó là năm trường hợp thành lập pháp lành, thọ Cụ túc bậc thượng được trọn vẹn. Ưu-ba-ly thưa:
Bạch Thế Tôn! Có bao nhiêu điều kiện để việc bạch Tứ yết-ma thọ Cụ túc được viên mãn?
Đức Phật bảo:
Có năm điều kiện để được viên mãn:
Hòa thượng như pháp.
Hai vị A-xà-lê như pháp.
Bảy vị Tăng thanh tịnh.
Yết-ma thành tựu.
Chúng Tăng hòa hợp, gởi dục.
Ưu-ba-ly! Không đủ năm điều kiện này thì việc ấy không được viên mãn. Trong đây có bốn pháp thọ Cụ túc từ "Thiện lai" cho đến bạch Tứ yết-ma.
-Tỳ-kheo-ni cũng có bốn cách thọ Cụ túc:
1-Như cô Ma-đăng-kỳ.
2-Làm đúng theo lời dạy của thầy.
3-Nhờ sứ giả thọ giới thay.
4-Bạch Tứ yết-ma.
Pháp thọ Cụ túc bằng cách ra lệnh, cho phép và pháp thọ Cụ túc bậc thượng đều thành lập ra pháp thọ Cụ túc bậc thượng dành cho người có căn lành. Việc thọ Cụ túc bậc thượng cho Tỳ-kheo-ni cũng lập ra pháp thọ Cụ túc bậc thượng cho người có căn lành.
Đó gọi là thọ Cụ túc. Không thọ Cụ túc là: khác với pháp thọ Cụ túc ở trên, gọi là không thọ Cụ túc. Nếu Thanh văn dùng lời: "Thiện lai" truyền giới cho người thì không thành thọ Cụ túc. Dùng "ba lời quy y" để truyền giới cho người cũng không đắc giới. "Bạch Tứ yết-ma" không thành tựu cũng không đắc giới Cụ túc. Tăng phi pháp truyền giới cũng không đắc giới Cụ túc.
Thế nào là Tăng phi pháp?-Đó là không tập trung đến giới trường, yết-ma trước bạch sau, hoặc lại làm các yết-ma khác, đều gọi là Tăng phi pháp. Lìa Phật, lìa Pháp, lìa Luật thọ Cụ túc cũng không đắc Cụ túc. Tuổi chưa đủ hai mươi cũng không được thọ Cụ túc, nếu thọ cũng không đắc Cụ túc. Nếu không có Hòa thượng hoặc có hai Hòa thượng, hoặc ba Hòa thượng cho đến nhiều Hòa thượng cũng không được thọ Cụ túc.
Nếu người thọ giới hoặc Hòa thượng vắng mặt không hiện diện cũng không được thọ Cụ túc. Chúng Tăng phải đủ mười vị, nếu một vị vắng mặt không hiện diện, hoặc người thọ giới không có mặt cũng không được thọ Cụ túc giới. Nếu không kiết đại giới mà kiết thẳng tiểu giới thì cũng không được thọ Cụ túc.
Nếu Hòa thượng, chúng Tăng và người thọ giới thay nhau ở bên trong, bên ngoài cương giới cũng không được thọ Cụ túc.
Có mười ba hạng người mà ta không được làm Hòa thượng truyền giới Cụ túc cho họ:
Một là: Hoặc tại gia thọ giới Ưu-bà-tắc mà phá hủy một giới, hoặc thọ tám trai giới mà phá một giới, hoặc thọ mười giới Sa-di mà phá một giới. Hạng người như vậy về sau có xuất gia cũng không đắc giới.
Hai là: Hoặc xuất gia hoặc tại gia mà phá phạm hạnh Tỳ-kheo-ni, ta cũng không được làm Hòa thượng truyền giới cho họ.
Ba là: Hạng người vì cơm ăn áo mặc mà tự cạo tóc, mặc áo cà-sa, dối trá, trà trộn vào trong chúng Tăng, cùng chúng Tăng làm các pháp sự; đối với hạng người này ta cũng không được làm Hòa thượng truyền giới cho họ.
Bốn là: Nếu có ngoại đạo xuất gia trong Phật pháp, về sau chán đạo, không xả giới mà đi, từ ngoại đạo lại muốn trở về trong Phật pháp thì Phật không cho người này ở trong chúng Tăng, cũng không được làm Hòa thượng truyền giới cho họ.
Năm là: Không được làm Hòa thượng truyền giới cho Hoàng môn.
Sáu là: kẻ giết cha.
Bảy là: Kẻ giết mẹ.
Tám là: Làm thân Phật chảy máu.
Chín là: Giết La-hán.
Mười là: Phá hòa hợp Tăng.
Mười một là: Phi nhân biến hình làm người.
Mười hai là: Súc sanh biến hình làm người.
Mười ba là: Người hai căn.
Đối với mười ba hạng người này, ta không được phép làm Hòa thượng truyền giới cho họ. Vì sao?-Vì họ không có giới.
Việc Ni sai sứ thọ giới khi Phật tại thế, chỉ có một cô đắc giới. Lý do là cô này có nhan sắc rất đẹp, không ai sánh bằng. Nếu đích thân đi đến thì sợ trên đường đi bị kẻ xấu bắt giữ cưỡng hiếp. Vì thế Phật cho phép cử người đại diện. Ngày nay, nếu có người giống như vậy thì được phép nhờ người đại diện thọ giới, còn tất cả những người khác phải có mặt mới đắc Cụ túc, không có mặt thì không đắc giới.
Đối với cách thọ Cụ túc do thực hành theo pháp của thầy, ngoài Kiều-đàm-di và năm trăm người nữ ấy, tất cả còn lại không được thọ Cụ túc theo cách này.
Đối với pháp thọ Cụ túc bậc thượng, ngoài tôn giả Ma-ha-ca-diếp, Tô-đà-da, tất cả còn lại không được thành lập pháp lành thọ Cụ túc bậc thượng. Hoặc nam hoặc nữ có bản tánh hiền lành, trí tuệ sáng suốt, không có các nạn thì được thọ Cụ túc.
Lại có ba hạng người không được thọ Cụ túc: Một là không tự xưng tên, hai là không xưng tên Hòa thượng, ba là không xin giới. Ba hạng người này không được thọ Cụ túc. Ngược với ba hạng trên thì được thọ Cụ túc.
Lại có năm hạng người có thể thọ Cụ túc: Một là người đã trưởng thành, hai là không mắc nợ, ba là không phải người nô lệ, bốn là tuổi đủ hai mươi, năm là cha mẹ cho xuất gia. Năm hạng người này được thọ Cụ túc.
Lại có năm điều kiện để việc bạch Tứ yết-ma thọ giới được viên mãn. Năm điều kiện đó là: Một là Hòa thượng, hai là A-xà-lê, ba là chúng Tăng đầy đủ, bốn là tánh hiền hòa, năm là các căn đầy đủ, không có các chướng ngại. Đó là năm điều kiện để việc thọ giới được viên mãn. Nếu ngược với năm điều trên thì không được thọ Cụ túc.
Lại có hai hạng người không được thọ Cụ túc: Một là có nghiệp chướng, hai là người do rồng biến thành. Nếu trước không biết, cho thọ giới, về sau biết thì nên đuổi ra khỏi chúng. Nếu biết trước thì không được cho thọ giới. Mười ba hạng như trên cần phải biết rõ.
Lại có một hạng người không nên thọ Cụ túc, đó là người trên thân bỗng có màu trắng, có rồi lại mất. Nếu biết trước thì không được cho thọ Cụ túc. Nếu không biết và đã cho thọ Cụ túc xong thì về sau tuy biết cũng không nên đuổi ra khỏi chúng.
Thế nào là nghiệp?-Đó là nghiệp suy tư, nghiệp hành động, nghiệp có thể suy tư, nghiệp cố ý suy tư, nghiệp chẳng thể suy tư, nghiệp có thể thọ nhận, nghiệp không thể thọ nhận, nghiệp thọ ít, nghiệp thọ nhiều, nghiệp đã thọ, nghiệp chưa thọ, nghiệp sắc, nghiệp phi sắc, nghiệp có thể thấy, nghiệp không thể thấy, nghiệp có đối, nghiệp không đối, nghiệp Thánh, nghiệp thế gian, nghiệp phải chịu trong thân này, nghiệp phải chịu trong thân sau, nghiệp phải chịu về sau, nghiệp dẫn đến đường ác, nghiệp dẫn đến cõi trời, nghiệp dẫn đến Niết-bàn.
Có ba nghiệp (yết-ma) bao gồm tất cả nghiệp (yết-ma), đó là: yết ma đơn bạch, yết-ma bạch nhị và yết-ma bạch tứ.
Lại có bốn loại nghiệp (yết-ma) là: Yết-ma phi pháp, yết-ma đúng pháp, yết-ma theo phe nhóm và yết-ma hòa hợp.
Lại có bốn loại nghiệp (yết-ma) là: Nghiệp yết-ma theo phe nhóm Tỳ-kheo, nghiệp hòa hợp làm yết-ma phi pháp, nghiệp làm yết-ma phi pháp theo phe nhóm (không hòa hợp), nghiệp hòa hợp làm yết-ma như pháp.
Trong các pháp yết-ma này, nghiệp (yết-ma) theo phe nhóm và yết-ma phi pháp, các Tỳ-kheo không nên làm. Nghiệp yết-ma hòa hợp, yết-ma phi pháp, hai nghiệp này không nên làm. Nghiệp yết-ma như pháp và theo phe nhóm cũng không nên làm. Nghiệp yết-ma hòa hợp, yết-ma như pháp, hai nghiệp này nên làm, Đó là điều Ta cho phép.
Trong đó, có ba loại cần phải biết: Một là nghiệp (yết-ma) bạch, hai là nghiệp (yết-ma) tẫn xuất (đuổi đi) và trị phạt, ba là nghiệp (yết-ma) chẳng bạch, chẳng tẫn xuất, trị phạt.
Thế nào là nghiệp bạch?-Nghiệp bạch là sau khi bạch rồi mới cho cạo tóc, thọ giới sa-di cho đến đại giới, Tỳ-kheo cũng bạch trước, sau mới cho thọ. Nếu không làm vậy thì không được thọ pháp Tỳ-kheo. Tất cả đều như vậy. Nếu có làm việc gì cần phải bạch chúng Tăng, chúng Tăng cho phép thì làm, không cho thì không được làm. Vì thế gọi là yết-ma đơn bạch.
Thế nào gọi là yết-ma tẫn xuất, trị phạt?-Nếu có Tỳ-kheo không thuận theo lời Phật dạy hoặc tự nói với Tăng, hoặc người khác nói với chúng Tăng, Tăng tập hợp lại, tùy theo tội ấy nặng nhẹ mà quở trách, đuổi đi, hoặc là trị phạt. Khi bị trị phạt, chưa trả hết tội lại tái phạm, chúng Tăng lại quở trách. Các nghiệp (yết-ma) như vậy gọi là nghiệp tẫn xuất trị phạt.
Thế nào là không bạch, không tẫn xuất, trị phạt?-Nếu có Tỳ-kheo được Tăng sai xây dựng nhà cửa thì nghiệp này chẳng bạch, cũng chẳng đuổi phạt. Lại nữa, người này khi Tăng vừa yết-ma lần đầu cử làm người xây dựng nhà cửa thì cũng chẳng phải bạch, chẳng phải tẫn xuất, trị phạt. Nghiệp này gọi là nghiệp chẳng phải bạch, chẳng phải tẫn xuất, trị phạt. Lại nữa, nên hiểu yết-ma chẳng phải là một. Như yết-ma về vật của Tỳ-kheo đã qua đời, yết-ma này chẳng bạch, chẳng đuổi phạt, vì thế có khác. Yết-ma thọ y công đức cũng như vậy.
Yết-ma kết đại giới, yết-ma tịnh địa, những yết-ma này chẳng phải là yết-ma bạch và đuổi phạt.
Lại có hai loại yết-ma: một là người, hai là pháp. Những gì là yết-ma về pháp?-Như bạch rồi, thuyết giới Ba-la-đề-mộc-xoa và tự tứ. Như phân chia chỗ ở trong tịnh xá cho Tăng, sai người làm việc cho Tăng, sai người chia y bát, như thọ y Ca-hi-na, xả y Ca-hi-na, kiết giới, xả giới, ngủ lìa y, bố-tát, an cư.
Các Tỳ-kheo (và Tỳ-kheo-ni) được đàn việt thỉnh an cư. Khi mùa an cư đã mãn, vì tham đồ ăn uống ngon, Tỳ-kheo-ni ở lại không đi, đàn việt sanh tâm chán ghét, các Tỳ-kheo liền đến bạch Phật, Phật liền chế giới:
-An cư xong, nếu Tỳ-kheo-ni ở nán thêm một ngày thì phạm Ba-dật-đề. Nếu là Tỳ-kheo lớn tuổi thì phạm Đột-kiết-la.
Tụ tập, tự tứ, hỏi pháp, đáp pháp, hỏi luật, đáp luật. Người hỏi pháp là Ca-diếp, người đáp pháp là A-nan. Người hỏi luật là Ca-diếp, người đáp luật là Ưu-ba-ly. Đó đều gọi là yết-ma theo pháp.
Thế nào gọi là yết-ma theo người?-Như pháp độ Sa-di, trước bạch, sau cạo tóc cho thọ giới. Như hành Ba-lợi-bà-sa chưa đủ ngày lại tái phạm thì phải thực hành lại từ đầu, sau đó mới hành Ma-na-đỏa và tác pháp xuất tội với Tỳ-ni Hiện tiền và Tỳ-ni Ức niệm.
Nhân Đạp-bà-ma-la-tử bị phỉ báng, Phật chế pháp Tỳ-ni Ức niệm.
Nhân Tỳ-kheo Nan-đề-già đã thọ giới với tâm thanh tịnh, sau đó bị loạn tâm nên làm những việc trái giới luật, về sau tâm bình phục trở lại, các Tỳ-kheo phỉ báng là phạm tội. Tỳ-kheo này tự nói: "Khi bị mất trí, tôi làm các việc ấy nhưng không hay không biết". Đức Phật nói: "Các việc làm khi tâm bị điên cuồng thì không phạm". Vì thế, Tỳ-kheo này theo chúng Tăng xin Tỳ-ni Bất si.
Thế nào là Tỳ-kheo tự biết?-Khi Phật tại thế, Ngài thường tự thuyết giới. Đến ngày thuyết giới nọ, khi giờ thuyết giới đến, đầu đêm, giữa đêm, các Tỳ-kheo thỉnh Phật thuyết giới, Phật im lặng không thuyết, Mục Liên dùng thiên nhãn quán sát chúng này xem thử có ai không thanh tịnh mà Phật không thuyết giới, thì thấy một Tỳ-kheo không thanh tịnh. Mục Liên liền đứng dậy nắm tay dẫn ra ngoài. Phật bảo Mục Liên: "Vì sao không xét hỏi cho rõ? ".
Các Tỳ-kheo nên biết, lý do đầu đêm, giữa đêm Phật không thuyết giới là vì có giặc xấu. Lúc ấy các Tỳ-kheo ở nước Xá Vệ tranh cãi nhau, làm sao để dập tắt việc đó? Một Tỳ-kheo thông về Tam Tạng ở trong chúng dùng lời nói hòa hợp để dẹp trừ. Có Tỳ-kheo tên Ha Đức bị trúng gió trúng nắng nên loạn tâm, tranh luận với các ngoại đạo, lời lẽ lầm lẫn, rối loạn, trước sau mâu thuẫn nhau, bị ngoại đạo chê cười. Các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật gọi Tỳ-kheo ấy đến và nói: "Ông chớ có vì loạn tâm mà tranh luận với người khác, lời nói cần phải chắc thật". Việc ấy bị quở trách trong hiện tại và dẹp trừ ngay trong hiện tại.
Khi đó, các Tỳ-kheo ở nước Xá Vệ tranh cãi nhau. Phật bảo các Tỳ-kheo: "Mỗi người hãy hướng về nhau, năm vóc sát đất, như cỏ che đất, dẹp trừ sự vi phạm do tranh cãi và từ đó về sau nên sám hối diệt trừ".
Từ yết-ma quở trách cho đến yết-ma về các loại người, vật đó là yết-ma theo người.
Có yết-ma thành, sự không thành. Có sự thành, yết-ma không thành. Có khi cả hai đều thành, có khi cả hai đều không thành. Yết-ma là pháp, sự là người.
Thế nào là sự thành, yết-ma không thành?-
Người này thanh tịnh, không có tất cả các chướng ngại, đó là sự thành. Yết-ma không thành là: hoặc lời nói không đủ, không đúng thứ lớp trước sau, nói không rõ ràng, đó gọi là yết-ma không thành. Thế nào là yết-ma thành, sự không thành?-Yết-ma thành là nói năng đầy đủ, đúng thứ tự trước sau, nói rõ ràng, đó là yết-ma thành. Sự không thành là: có người các căn không đầy đủ, hoặc bị các chướng ngại khác. Đó là sự không thành.
Cả hai đều thành: Yết-ma và người cả hai đều đầy đu, nói là cả hai đều thành.
Cả hai đều không thành: Yết-ma và người cả hai đều không đầy đủ, gọi là cả hai đều không thành.
Yết-ma được ngăn chận: Các Tỳ-kheo tập hợp lại nhưng làm không đúng pháp, pháp cần yết-ma không chịu yết-ma, pháp cần bạch không bạch. Trong chúng có người trì luật, đạo hạnh thanh tịnh, nói: "Việc này phi pháp phi luật, là việc không nên làm, hãy chấm dứt ngay!". Đó là yết-ma được ngăn chận.
Yết-ma không được phép ngăn: Chúng Tăng tập hợp làm các việc như pháp, trong chúng không có người cơ hiềm. Đó là yết ma không được phép ngăn.
Hai điều này được nói rõ trong Ti-kiền-độ. Ti là tên nước.
Tẫn xuất có hai loại yết-ma: Một là tẫn xuất vĩnh viễn, hai là vì điều phục nên tẫn xuất. Người bị tẫn xuất để điều phục, trong khoảng thời gian chưa sám hối thì việc ăn uống, ngồi, đứng, nói năng..., tất cả các pháp sự của Tăng đều không được làm chung. Đó là yết-ma tẫn xuất để điều phục. Nếu người này ngang ngạnh, vĩnh viễn không chịu hối cải thì trọn đời không được cùng chúng Tăng làm các pháp sự.
Tôn giả Ưu-ba-ly rời khỏi chỗ ngồi, sửa y phục, chấp tay lễ Phật, bạch:
Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có Tỳ-kheo không có lầm lỗi đối với việc của Tăng mà bị cưỡng ép tẫn xuất thì việc này như thế nào?
Đức Phật nói:
Tẫn xuất có hai loại: một là tẫn xuất đúng, hai là tẫn xuất sai. Như đuổi mười ba hạng người gọi là tẫn xuất đúng, ngược lại gọi là tẫn xuất sai. Đó là yết-ma tẫn xuất.
Lại có chúng Tăng cho phép sám hối nhập vào chúng Tăng, yết-ma theo thứ lớp.
Nếu có Tỳ-kheo bị tẫn xuất để điều phục. Về sau, người này hối cải, xin Tăng tha tội, Tăng có dạy dỗ điều chi đều thuận theo ý của chúng Tăng, không làm trái nghịch, làm cho chúng Tăng đều hoan hỷ, Tăng liền tập hợp giải yết-ma tẫn xuất và làm yết-ma cho nhập chúng. Đó gọi là yết-ma cho nhập chúng Tăng.
Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật:
Tẫn xuất và sám hối, việc này như thế nào? Đức Phật nói:
Vì để điều phục thì cho phép sám hối, còn đuổi hẳn thì không được phép sám hối.
Thế nào là yết-ma quở trách?-Có người gây sự, tranh chấp dữ dội ở trong chúng Tăng, đối với các pháp sự của Tăng đều làm không đúng pháp, cần phải quở trách đủ cách ngay khi có mặt đương sự cho đến đuổi đi. Việc quở trách này trong kiền độ quở trách có nói rõ. Việc quở trách như sau:
Nếu Tỳ-kheo làm các việc không đúng pháp, chúng Tăng nói: "Trưởng lão, thầy phạm lỗi làm việc không đúng pháp". Người này liền đáp: "Tôi không biết, không thấy phạm những việc gì". Tăng cần phải quở trách đủ cách nặng nề, cho đến đuổi đi. Đó gọi là yết-ma quở trách.
Pháp can gián cần phải căn cứ vào ba trường hợp là: Thấy, nghe, nghi về phá giới, phá kiến, phá hạnh. Việc can gián gồm có năm nhân duyên: một là đúng lúc, hai là lợi ích cho đương sự, ba là thật tâm, bốn là lời nói hòa thuận, năm là không nói lời thô ác.
Lại có năm lý do bên trong cho nên can gián: Một là lợi ích, hai là an lạc, ba là tâm từ, bốn là tâm bi, năm là làm cho mau chóng lìa khỏi việc phạm tội. Đó là duyên sự của pháp can gián.
Thế nào gọi là duyên sự?-Hoặc nhân, hoặc duyên ở trong đây, đầu tiên phát sanh từ đâu, sẽ được biết rõ như trong kinh Tỳ-kheo Bạt-đà-ba-la.
Bấy giờ, tại nước Xá Vệ, mỗi ngày Thế Tôn ăn một bữa. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
Từ khi Ta ăn mỗi ngày một bữa đến nay, thân thể điều hòa, không có các bệnh khổ. Các thầy cũng nên ăn mỗi ngày một bữa.
Nghe Phật dạy, các Tỳ-kheo hoan hỷ phụng hành. Riêng Tỳ-kheo Bạt-đà-ba-la không vâng lời Phật dạy, mà bảo:
Con không thể ăn mỗi ngày một bữa. Vì sao?
Con thường ăn liên tục và đã thành thói quen.
Đức Phật lại bảo:
Ông có thể ăn nhiều vào giữa trưa, nhưng chỉ ăn một lần được không?
Lại nói:
Thưa, không thể được.
Đức Phật lại định đi du hành các nước. Tôn giả A-nan vá y cho Phật. Tỳ-kheo ấy đến chỗ A-nan hỏi:
Thầy làm gì vậy? Tôn giả A-nan đáp:-Thế Tôn định đi du hành các nước, vì thế tôi vá y cho Phật. Thầy sống ở đây chẳng có lợi ích gì?
Nghe lời này xong, vị ấy liền đến chỗ Phật, gieo năm vóc sát đất, bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Cho đệ tử xin sám hối. Đức Phật nói:
Sám hối vô ích, tất cả Sa-môn, Bà-la-môn đều biết ông làm việc phi pháp. Ai thuận theo lời Ta thì đều có thể chứng đắc Tứ thiền, bốn định Vô sắc, các thần thông, giải thoát. Ai không nghe lời Ta thì không thể đạt được các pháp lành ấy.
Thầy ấy lại ân cần thưa thỉnh Thế Tôn ba lần. Sau đó, Thế Tôn nhận sự sám hối của Tỳ-kheo ấy và nói pháp:
Nếu ai làm ác mà có thể hối cải thì được nhiều lợi ích ở trong Phật pháp. (Nói rõ như vậy)
Tỳ-kheo Bạt-đà-ba-la thường xuyên phạm tội. Các Tỳ-kheo thấy vậy liền can gián. Nghe lời can gián, Tỳ-kheo ấy không thèm để ý mà dùng lời khác đáp lại. Phật hướng về Tỳ-kheo Bạt-đà-ba-la nói:
Có một Tỳ-kheo phạm đủ thứ tội. Các Tỳ-kheo thấy vậy liền như pháp can gián, Tỳ-kheo này liền dùng lời khác đáp lại và sanh tức giận.
Đức Phật nói:
Tỳ-kheo này tuy không nhận lời can gián nhưng cũng phải can gián ông ấy. Vì sao?-Để cho tất cả Sa môn, Bà-la-môn đều nghe rõ, cũng để cho ông ấy phải chịu đau khổ lâu dài trong đời này.
Đức Phật nói:
Pháp điều phục có ba loại: một là quở trách, hai là ở riêng, ba là cho y chỉ người có trí, cho đến đuổi đi. Nhờ việc điều phục này, tâm ý người ấy trở nên mềm dịu, sống thuận theo pháp của Tăng, làm cho đại chúng hoan hỷ. Đó gọi là pháp điều phục.
Xá-ma-đà, đời Tần gọi là diệt. Những việc gì của Tỳ-kheo cần phải diệt?-Nếu có Tỳ-kheo theo pháp lành, có thể dứt trừ bốn thọ: Một là thọ dục, hai là thọ kiến, ba là thọ giới thủ, bốn là thọ ngã thủ. Có thể trừ bốn thọ này thì thuận với việc thực hành pháp xuất ly. Điều thiện làm tăng thêm trong từng niệm, điều ác thì xả bỏ đi. Đó gọi là diệt.
Lại nữa, diệt là: Từ Tỳ-ni Hiện tiền đến Tỳ-ni Phú thảo, diệt bảy sự tranh cãi này cũng gọi là diệt. Không nên diệt là: Tỳ-kheo nào đã làm năm pháp phát sanh việc tranh cãi: một là thường thích tại gia; hai là thường thích nương tựa quốc vương, đại thần; ba là không thích dựa vào Tăng; bốn là cũng không nương tựa pháp; năm là không thuận theo tất cả các việc chúng Tăng làm. Nếu Tỳ-kheo nào đủ năm việc này mà có sự tranh cãi thì không nên diệt. Lại có Tỳ-kheo đã có năm pháp mà có sự tranh cãi thì phải diệt trừ. Đó là năm pháp trái ngược năm pháp trên. Ai thành tựu năm pháp này mà có sự tranh cãi thì phải diệt trừ.
Lại nữa, diệt là tùy thuận theo pháp mà chúng Tăng thực hành, thiện pháp đã có ngày càng tăng thêm, các việc làm thường hướng đến giải thoát. Nếu có công việc thì có thể làm cho Tăng vui vẻ, thực hành không mỏi mệt. Đó gọi là pháp diệt.
Pháp xả giới là: Nếu Tỳ-kheo nào buồn rầu không vui, không thích phạm hạnh, muốn trở về nhà, không thích pháp Tỳ-kheo, sanh tâm hổ thẹn đối với pháp này, ý muốn thành tựu pháp tại gia. Tỳ-kheo ấy nghĩ: "Pháp xuất gia vô ích đối với ta, pháp tại gia giúp ích ta rất nhiều, ý ta muốn xả pháp Tỳ-kheo, trở về nhà". Tỳ-kheo ấy nói: "Ta xả bỏ Phật, Pháp, Tăng, Hòa thượng, A-xà-lê, phạm hạnh, Tỳ-ni, giới Ba-la-đề-mộc-xoa (nói rõ như vậy). Nên biết đó là xả giới.
Không xả giới là: Nếu điên cuồng tâm loạn, cho đến miệng bị cấm khẩu không nói được thì không gọi là xả giới. Nói rõ như vậy, cần phải biết.
Giới sút kém là: Tỳ-kheo sanh niệm không thích phạm hạnh, thích làm ngoại đạo cho đến làm người bình thường. Đó gọi là giới sút kém. Việc giới sút kém như văn trên đã nói.
Pháp thuyết giới: Phải tập hợp Tăng như pháp. Khi Tăng đã tập hợp cần phải bạch yết-ma một lần; không nên bạch yết-ma hai, ba, bốn lần. Tăng làm pháp sự, như pháp nhận dục đều phải im lặng, không nên ngăn lại. Nếu Tăng không đầy đủ thì không nên thuyết giới. Nếu Tăng đủ thì nên đọc đủ giới. Nếu gặp lúc có nạn thì nói tóm lược.
Thời là: không có sự khó khăn gọi là thời. Lúc ấy, Thế Tôn ở trong phòng yên tĩnh, suy nghĩ: "Ta phải chế giới nói Ba-la-đề-mộc-xoa cho các Tỳ-kheo, cho đến làm cho họ đắc bốn quả Samôn".
Ba-la-đề-mộc-xoa là nơi đi đứng của giới luật. Đó là nghĩa Ba-la-đề-mộc-xoa. Khi đó, các Tỳ-kheo dùng tiếng ca để tụng giới. Phật nói:
Không nên dùng âm thanh cao to để tụng giới. Dùng tiếng ca để tụng giới có năm việc lỗi: một là tâm đắm nhiễm vào âm thanh này, hai là bị người đời chê, ba là không khác người đời, bốn là phế bỏ việc hành đạo, năm là ngăn trở việc nhập định. Đó là năm sự lầm lỗi.
Lúc Phật còn tại thế, các Tỳ-kheo thuyết giới hàng ngày, chúng Tăng đều sanh tâm nhàm chán. Nghe vậy, Phật liền dạy: mười lăm ngày thuyết giới một lần.
Bấy giờ, ở một trụ xứ thuyết giới, phòng Tăng lớn, các Tỳ-kheo ở xa không nghe, vì thế Như-lai chế pháp cho các Tỳ-kheo:
Nếu Tăng chúng đông, phòng lại lớn, cần phải trải tòa ngồi ở giữa phòng, người thuyết giới ngồi trên tòa này, cần phải nói lớn tiếng rõ ràng cho mọi người đều nghe.
Lúc này, ở trụ xứ nọ, Tăng chúng tuy đông nhưng không có người tụng giới, pháp sự không thành. Nghe vậy, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
Từ nay về sau, ai xuất gia đến năm hạ, phải học giới cho thuộc. Nếu căn tánh chậm lụt thì dù cho trăm hạ cũng phải học giới. Nếu cố không học, hoặc trước học sau quên, hoặc căn cơ chậm lụt không thể thuộc được, ba hạng người này có bốn lỗi: Một là không được nuôi đệ tử, hai là không được lìa y chỉ, ba là không được làm Hòa thượng, bốn là không được làm A-xà-lê. Đó là lỗi của người không học giới.
Có tám loại nạn được nói giới tóm lược: một là nạn vua, hai là nạn giặc, ba là nạn nước, bốn là nạn lửa, năm là nạn bệnh, sáu là nạn người, bảy là nạn phi nhân, tám là nạn rắn độc. Khi gặp tám nạn này thì được nói giới tóm lược.
Có năm cách tóm lược giới:
Nói bài tựa giới xong, nêu tên bốn pháp Ba-la-di và bảo: "Còn lại là những điều các vị thường nghe". Đến pháp Chúng học cũng nói như vậy.
Nói bài tựa giới và bốn Ba-la-di xong, phần sau cũng nêu tên như cách trên.
Nói từ bài tựa giới cho đến mười ba việc. Phần còn lại được nêu tên như hai cách trước.
Nói từ bài tựa cho đến hai pháp Bất định. Phần còn lại được nêu tên cũng như ba cách trước. 5-Nói từ bài tựa cho đến Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề.
Phần còn lại được nêu tên cũng như bốn cách trước.
Khi ấy, có nhiều Tỳ-kheo cùng ở một chỗ, đều có căn tánh chậm lụt không biết gì. Vì có nạn giặc, họ không thể đến chùa khác thuyết giới nên pháp sự không thành. Nghe vậy, Phật dạy các Tỳ-kheo:
-Các ông hãy nói tóm lược giới:
Chớ làm các việc ác
Hãy làm các việc lành
Giữ tâm ý thanh tịnh
Là lời chư Phật dạy.
Đó là nói giới tóm lược.
Có bốn việc không thành thuyết giới:
Nhóm người phi pháp cùng nhau thuyết giới, không gọi là thuyết giới.
Tụ tập một cách phi pháp cũng không gọi là thuyết giới. Những người này có nhóm họp cũng không thành tựu.
Chỗ cần bạch một lần mà bạch hai lần cũng không thành thuyết giới.
Trong khi thuyết giới, nếu có ba bốn Tỳ-kheo cùng tranh luận, phát sanh tâm ngã mạn, nhân thuyết giới mà luận bàn sanh ra tranh cãi; thuyết giới như vậy không thành thuyết giới.
Có hai việc không thành:
1-Do tranh cãi nên thuyết giới không thành.
2-Do ác tâm nên tăng thêm phiền não.
Do hai việc này nên không thành thuyết giới. Việc này sẽ được nói rõ trong phần kiền độ Bố-tát. Ở đây nên nói điều gì?-Nếu Tỳ-kheo nào chưa phạm tội, trong tâm nghĩ: "Làm sao không phạm các điều ác mà được sanh điều lành", liền đến gặp bậc trì pháp, trì luật, trì luận để hỏi điều ấy: "Tôn giả, pháp là gì? Thế nào là phi pháp? Thế nào là có thể nói? Thế nào là không thể nói?".
Nghe lời này, vị thầy ấy liền nói pháp theo thứ lớp: như pháp, nói là không như pháp; không như pháp, nói là như luật; như luật, nói là chẳng phải luật; chẳng phải luật, nói là khinh; khinh, nói là trọng; trọng, nói là lời thô ác; lời thô ác, nói là chẳng phải lời thô ác; chẳng phải lời thô ác, nói là phạm; đúng là phạm, nói là không phạm; nên là không phạm, nói là Tăng tàn; đúng là Tăng tàn, nói là không phải Tăng tàn; không phải Tăng tàn, nói là nên đối trị; đúng là nên đối trị, nói là chẳng phải nên đối trị; chẳng phải nên đối trị, nói là chế định; chế định nói là chẳng phải chế định; chẳng phải chế định, nói là lời được nói; lời được nói, nói là không phải lời được nói; chẳng phải lời được nói, nói là như nhau; đúng là như nhau, nói là không như nhau; không như nhau, nói là phân biệt; phân biệt, nói là không phân biệt; không phân biệt, nói là pháp Tỳ-kheo.
Thức ăn ở bên trong cương giới, không có nhà bếp thì không được ăn. Vì sao vậy?
Đức Phật du hành đến các thôn xóm, thấy các Tỳ-kheo đang tranh cãi, Phật hỏi:
Tỳ-kheo tranh cãi việc gì vậy? Tỳ-kheo bạch Phật:
Hôm qua, ăn xong còn dư thức ăn nên hôm nay tranh giành. Đức Phật nói:
Từ nay trở đi, nếu là thức ăn qua đêm và thức ăn bên trong đại giới không có tịnh trù thì tất cả không được ăn.
Trụ xứ của chúng Tăng lúc mới lập, chúng Tăng phải tập hợp, phải yết-ma xác định chỗ làm tịnh trù trước, sau đó yết-ma về nơi dựng phòng ốc cho chúng Tăng. Nếu khi đó quên không yết-ma xác định nơi làm tịnh trù, và sau đó mới nhớ lại thì phải giải đại giới, rồi giải tiểu giới, sau đó yết-ma xác định chỗ làm tịnh trù trước pháp kết giới: kết tiểu giới trước, sau mới kết đại giới. Để thức ăn chung trong đại giới mà ngủ qua đêm, thức ăn còn dư qua đêm, thức ăn chúng Tăng làm trong tiểu giới, thức ăn chúng Tăng tự tay làm, nếu gặp lúc đói kém thì được ăn, còn các lúc khác thì không được ăn. Ăn xong, đàn việt đến thỉnh, vị ăn đã no hãy đem thức ăn này cho các vị Tăng khác. Vị Tăng kia nhận xong phải tác pháp thức ăn dư rồi mới ăn.
Lại có các đại sư được nhà vua thỉnh thọ thực đến hai lần. Sau khi ăn no, vị ấy đem thức ăn còn dư cho các vị Tăng cùng trụ xứ, chúng Tăng sợ, không dám ăn. Phật dạy:
Cho các vị tác pháp thức ăn dư rồi ăn, không có lỗi.
Có Tỳ-kheo nhận được trái cây ở ngoài đem đến cúng, liền tịnh thí cho thí chủ. Gặp lúc đói kém, thí chủ không hoàn trả, nhân đó Phật chế giới:-Từ nay trở đi, nếu gặp lúc đói kém thì được phép tự cất chứa để ăn. Trái cây ở trong ao và tất cả trái cây cũng như vậy.
Pháp chứa bát: trừ bát sắt, bát đất nung, tất cả các loại bát khác đều không được cất chứa.
Không được cất chứa loại y có màu đẹp nhất. Gấm vóc, vòng hoa, các loại y này không được cất chứa.
Điều cần nói là: Có Tỳ-kheo suy nghĩ: "Làm sao tu các pháp lành?". Nghĩ xong, vị ấy đến chỗ các bậc trí, hỏi: "Thế nào là phạm, thế nào là không phạm? Thế nào là sám hối? Vì việc gì mà phạm?". Vị thầy ấy liền dựa theo luật mà nói những việc phạm hay không phạm, cần phải biết rõ như vậy. Nghe vị thầy nói xong, người hỏi không còn buồn khổ, theo lời dạy của thầy mà thực hành đúng luật, tâm được thanh tịnh, thuận theo pháp lành, không còn có ý niệm khác. Đó gọi là nói điều cần nói.
Lại nữa, nói điều cần nói là:
Tỳ-kheo nghĩ: "Sanh tử thật đáng chán. Làm sao để ra khỏi sanh tử và tu đạo để nhập Niếtbàn?". Suy nghĩ xong, vị ấy đến chỗ bậc trí để hỏi: "Thưa tôn giả, làm sao tu bốn thiền cho đến bốn quả?". Vị thầy ấy liền nói theo thứ lớp cho đến quả A-la-hán. Đó gọi là nói điều cần nói.
Thế nào gọi là nói phi pháp?-Đó là khi được hỏi, vị thầy ấy trả lời lung tung: pháp nói là phi pháp; phi pháp nói là pháp; cho đến lời được nói, nói chẳng phải lời được nói; chẳng phải lời được nói, nói là lời được nói; đúng lượng, nói chẳng phải đúng lượng; chẳng phải đúng lượng, nói là đúng lượng; phân biệt, nói chẳng phân biệt; chẳng phân biệt, nói là phân biệt. Từ đồ ăn, bình bát, cho đến đồ uống cũng đều như vậy.
Lại nữa, nói điều không nên nói là:
Có Tỳ-kheo hỏi bậc trí: "Làm sao đắc sơ thiền cho đến bốn quả?". Bậc trí nói: "Ông đã hỏi cách đắc pháp thượng nhân, vì vậy, ông phạm Ba-la-di". Đó gọi là nói điều không nên nói.
Ngày xưa, có Tỳ-kheo tên Nan-đề-già, bị mất trí. Vào ngày chúng Tăng bố-tát, có lúc nhớ có lúc quên, khi nhớ thì đến, không nhớ thì không đến. Các Tỳ-kheo đến bạch Thế Tôn, Phật bảo:
Hãy bạch Nhị yết-ma mất trí cho Tỳ-kheo ấy, thì tuy ông ấy không đến, pháp sự vẫn thành tựu. Việc này trong phần kiền độ Bố-tát có nói rõ.
Sau đó, tâm trí Tỳ-kheo ấy trở lại bình thường, các Tỳ-kheo thắc mắc: "Nên xả hay không xả yết-ma mất trí lúc trước?" bèn đến bạch Thế Tôn, Phật bảo:
Tâm trí đã bình thường thì hãy xả yết-ma ấy. Các Tỳ-kheo lại thắc mắc: "Về sau thầy ấy lại mất trí thì phải làm sao?", Phật nói:
Làm lại yết-ma mất trí và khi tâm vị ấy trở lại bình thường thì xả yết-ma ấy.
Tỳ-kheo nhận đồ cúng dường của người mà không như pháp thì sẽ bị đồ cúng dường ấy làm đọa lạc. Đọa có hai loại:
Một là ăn đồ cúng dường của người mà không tu đạo đúng pháp, buông lung, phóng túng, không chịu làm các việc lành.
Hai là nhận đồ cúng dường đem cho lại người khác không đúng pháp.
Do hai việc này, người ấy phải đọa vào ba đường. Nếu không chịu quả báo trong ba đường thì ngay trong thân này người ấy sẽ bị vỡ bụng, thức ăn trào ra, áo đang mặc trên thân bỗng lìa khỏi thân.
Người đáng được cho là: Hoặc cha mẹ nghèo khổ, trước hết phải truyền Tam quy, Ngũ giới, Thập thiện, sau đó mới cho. Nếu cha mẹ không nghèo thì tuy thọ Tam quy, Ngũ giới cũng không được cho.
Lại có những hạng người đáng được cho: Một là người sửa tháp, hai là người phục vụ Tăng chúng, ba là người sửa phòng ốc của Tăng, bốn là người bệnh khổ, năm là trẻ con, sáu là người mang thai, bảy là người bị cầm tù, tám là người đến chùa xin ăn. Những hạng người này, hoặc cho đúng, hoặc cho không đúng.
Người sửa tháp, phục vụ Tăng và sửa phòng ốc cho Tăng thì tính công lao của họ để trả công theo giá trị. Nếu trả nhiều hơn thì sẽ bị đồ cúng dường làm sa đọa.
Khi cho người bệnh thức ăn thì nên khởi tâm từ bi, tùy theo người bệnh cần gì mà bố thí cho. Nếu cho loại thức ăn không hợp với bệnh thì sẽ bị đồ bố thí làm sa đọa.
Trẻ con, người bị cầm tù, người mang thai, đối với những hạng người này phải dùng tâm từ bi để bố thí cho họ. Chớ có mong đem cho để được quả báo, vì vậy đừng làm trở ngại cho Phật pháp. Hãy dùng tâm như vậy để bố thí như pháp. Nếu không như vậy thì sẽ bị của bố thí làm cho đọa lạc.
Đối với người đến chùa xin ăn, nếu họ đã có sẵn thức ăn thì không cần phải cho thêm. Nếu cho thì sẽ bị của bố thí làm cho đọa lạc. Nếu người đó không có thức ăn thì bố thí cho họ không có lỗi.
Nếu Tỳ-kheo không ngồi thiền, không tụng kinh, không làm việc Phật, Pháp, Tăng mà nhận đồ cúng dường của người thì sẽ bị đồ cúng dường làm cho đọa lạc. Ai có đủ ba nghiệp lành thì nhận cúng dường không có lỗi. Nếu người đối diện không có ba nghiệp lành, ta biết mà còn đem đồ bố thí lại cho họ thì cả người cho và người nhận đều bị đồ cúng dường làm cho đọa lạc.
Tỳ-kheo ăn đồ của đàn việt cúng dường, cần phải biết đủ, biết lượng, ai ăn uống quá no sẽ bị đồ cúng dường làm cho đọa lạc. Tỳ-kheo nào ăn uống với tâm kiêu mạn thì sẽ bị đồ cúng dường làm cho đọa lạc. Vì sao vậy?-Từ lâu, Thế Tôn thường ca ngợi sự ăn uống vừa phải.
Cuối cùng, cúng dường cho người trì giới là người có thể nhận đồ cúng dường và làm tiêu được đồ cúng dường. Như Phật đã nói: "Cúng dường cho người trì giới, được quả báo rất lớn. Cúng cho người phá giới được quả báo rất ít". Như câu kệ Phật đã nói: "Thà nuốt hòn sắt mà chết, không đem thân không có giới hạnh mà ăn đồ của tín thí cúng dường".
Nếu ăn no rồi còn ráng ăn thêm thì không tăng thêm sắc đẹp và sức lực mà chỉ tăng thêm bệnh hoạn. Vì thế không nên ăn vô độ.
Về việc yết-ma, có bốn nhơn duyên làm yết-ma thành tựu: một là như pháp, hai là Tăng tập hợp đủ; ba là, chỗ cần đơn bạch như pháp thì đơn bạch cho đến chỗ cần bạch tứ thì bạch tứ, nơi cần bạch tứ thì không được bạch ba, hai, một lần; bốn là người ở trong chúng mà không đến thì gởi dục, trong chúng không có người vấn nạn. Bốn pháp này thành tựu thì đó là yết-ma như pháp. Việc này xem trong chương kiền độ thì sẽ biết rõ.
Yết-ma phi pháp: bốn việc trên không thành thì không gọi là yết-ma. Tỳ-ni là có nhiều loại Tỳ-ni, như Tỳ-ni có vi phạm, Tỳ-ni có tranh cãi, Tỳ-ni có phiền não, Tỳ-ni Tỳ-kheo, Tỳ-ni Tỳ-kheo-ni, Tỳ-ni thiểu phần, Tỳ-ni tất cả mọi chỗ, Tỳ-ni tùng phạm, Tỳ-ni xuất tội. Lại nữa, Tỳ-ni có thể diệt trừ gốc bất thiện, có thể diệt pháp chướng ngại, có thể diệt năm triền cái và hạnh ác thì gọi là Tỳ-ni.
Lại có Tỳ-ni có thể phát lồ, tùy thuận tu hành, bỏ ác theo thiện gọi là Tỳ-ni.
Thế nào gọi là phát lồ?-Không che giấu những lỗi đã phạm, nói hết cho người khác biết, gọi là phát lồ. Việc này trong kiền độ diệt tội đã nói rõ. Tùy thuận là thuận theo lời của Hòa thượng, lời của A-xà-lê, cho đến lời của chúng Tăng, không có làm trái ngược, đó gọi là tùy thuận.
Thế nào gọi là diệt?-Có thể dập tắt việc tranh cãi nên gọi là diệt.
Thế nào gọi là đoạn?-Như đoạn trừ phiền não gọi là đoạn.
Tỳ-ni phiền não sẽ được nói rõ trong phần Tỳ-ni đoạn trừ phiền não.
Lại nữa, Tỳ-kheo nói: "Theo sự thấy biết của tôi thì tham dục không thể làm chướng đạo". Các Tỳ-kheo can gián: "Chớ có nói như vậy. Dục là gốc của sự chướng đạo. Sở dĩ biết như vậy là vì Thế Tôn đã dùng đủ loại ví dụ để nói về dục. Đó là: dục như hố lửa... cho đến như con dao. Vì sao nói dục không làm chướng đạo?! Cần phải xả bỏ tà kiến này".
Khi các Tỳ-kheo can gián, nếu vị ấy nhận lời can gián thì tốt. Nếu vị ấy không nhận thì các Tỳ-kheo phải làm yết-ma bạch tứ ức niệm, nhắc cho vị ấy nhớ lại. Đó là dẹp bỏ lời nói sai lầm của Tỳ-kheo ác kiến.
Các Tỳ-kheo tụ tập làm pháp sự. Trong chúng có người không như pháp nên chúng Tăng làm pháp sự không thành. Nếu người này có ba, bốn, năm người bạn thì hãy can gián vị ấy. Nếu chỉ có một mình thì không cần can gián. Vì sao vậy?-Vì lực của đại chúng lớn, có thể tẫn xuất vị ấy. Vị ấy sẽ không còn được ích lợi ở trong pháp và tự chịu khổ não. Do đó hãy im lặng, không nói.
Nếu vào trong chúng Tăng thì phải lập năm đức: Một là, thường khởi tâm từ, như ví dụ cái cào, cái chổi bình đẳng đối với sự tốt xấu và đều làm cho được tốt. Hai là, thường phát sanh tâm cung kính khiêm hạ đối với các Thượng tọa, không được ngạo mạn. Ba là, không được đàm luận, giao du với những người hạ tọa. Bốn là, khi Tăng tập hợp làm pháp sự, đại chúng phải thỉnh một vị biết pháp lên nói pháp. Năm là, nếu chúng không thỉnh thì hãy nhắc chúng thỉnh người biết pháp lên nói pháp. Xá-lợi-phất cũng thành tựu năm pháp nhập vào chúng Tăng nói trên.
Thế nào là bạch?-Này Ca-diếp! Tùy theo lời nói của Tỳ-kheo mà chúng Tăng đều im lặng chấp nhận, nên gọi là bạch.
Trường hợp đơn bạch là: Như khi bắt đầu độ Sa-di thọ đại giới phải bạch Tăng. Sau khi bạch xong, Tăng sai thầy giáo thọ dẫn người xuất gia đến nơi kín để hỏi pháp già nạn. Như khi muốn nói Ba-la-đề-mộc-xoa hoặc tự tứ, hoặc bình bát bị vỡ... phải thọ lại.
Có Tỳ-kheo tên Xiển-Đà sắp sửa phạm giới, các Tỳ-kheo biết được liền can gián. Tỳ-kheo này nói với các Tỳ-kheo: "Các Thầy nói gì vậy, nói với ai vậy, ai phạm giới vậy, thế nào là phạm?". Ông ta nói những lời khác nhau như vậy. Các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật nói:
Hãy làm yết-ma biệt trụ đối với Tỳ-kheo nói năng lung tung này. Về sau, Tỳ-kheo Xiển Đà lại khinh chê, trêu chọc các Tỳ-kheo.
Các Tỳ-kheo bảo chớ có ngồi, vị ấy lại ngồi; bảo chớ có đứng, vị ấy lại đứng dậy; bảo chớ có nói, lại nói; bảo chớ có đến, lại đến. Các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật bảo:
Hãy yết-ma bạch nhất để điều phục sự đùa cợt của ông ấy.
Những yết-ma như vậy và những yết-ma chưa nêu tương tự như vậy đều gọi là yết-ma bạch nhất.
Thế nào là yết-ma bạch nhị?
Bạch là: "Đại đức Tăng xin lắng nghe. Phòng ốc ấy bị sụp đổ, nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp nhận để phòng ốc ấy cho đàn-việt sửa chữa cùng với Tỳ-kheo tri sự". Bạch như vậy.
"Đại đức Tăng xin lắng nghe. Phòng ốc ấy không có đàn việt chăm nom, đã bị sụp đổ. Nay Tăng để phòng ốc ấy cho đàn việt ấy sửa chữa cùng với Tỳ-kheo tri sự. Nếu vị nào chấp nhận để phòng ốc ấy cho đàn việt ấy sửa chữa cùng với Tỳ-kheo tri sự thì im lặng, vị nào không chấp nhận thì nói". "Tăng đã chấp nhận để phòng ốc ấy cho đàn việt ấy sửa chữa cùng với Tỳ-kheo tri sự. Tăng chấp nhận vì im lặng, việc ấy được ghi nhận như vậy".
Người quản lý công việc của chúng Tăng phân chia y, bát của Tỳ-kheo qua đời, thọ y công đức, xả y công đức, tất cả pháp kết giới, pháp ngủ không lìa y, trước hết phải kết đại giới, sau mới kết giới không mất y. Khi xả, trước hết phải xả giới không mất y, sau mới xả đại giới, giáo thọ Tỳ-kheo-ni tự tứ, các pháp như vậy đều là yết-ma bạch nhị.
Yết-ma bạch tứ là: Một lần bạch và ba lần yết-ma, gọi là yết-ma bạch tứ. Một là yết-ma quở trách. Hai là có Tỳ-kheo tranh cãi với bạch y, chúng Tăng khuyên hãy cùng đàn việt ấy sám hối. Các yết-ma như tẫn xuất, diệt tẫn, biệt trụ, trị phạt lại như cũ, hành Ma-na-đỏa, thực hành pháp xuất tội cho đến bảy diệt tránh cũng là bạch tứ yết-ma.
Có Tỳ-kheo đại đức được đàn việt tín tâm, giàu có coi trọng, thỉnh vị ấy trong nhiều năm, cúng dường cho vị ấy mọi thứ cần dùng, có người phỉ báng: "Do Tỳ-kheo ấy, nên trưởng giả giàu có nọ bị hao tổn tài sản".
Tỳ-kheo-ni ngu si mất trí, thọ giới xong lại đến gặp chúng Tăng để xin giới. Yết-ma về các việc sai phạm trên như: yết-ma phú bát, mặc tẫn và nhiều yết-ma khác tương tự như vậy chưa nêu ra ở đây đều là yết-ma bạch tứ.
Biệt trụ có hai loại: Nếu có ngoại đạo xin xuất gia trong Phật pháp, Tăng nên tác pháp yết-ma bạch tứ, cho ở riêng bốn tháng. Lại nữa, người nào phạm một trong mười ba pháp Tăng-tàn mà che giấu không phát lồ, về sau mới phát lồ thì Tăng phải bạch tứ yết-ma cho biệt trụ. Vì sao gọi là biệt trụ?-Biệt trụ là sống riêng trong một phòng, không được ở chung với chúng Tăng, phải ngồi ở vị trí thấp nhất trong chúng, không được ăn chung với chúng Tăng, dù một chút như cọng cỏ. Lại nữa, tất cả những việc khổ nhọc của chúng Tăng như quét dọn tháp, phòng Tăng, nơi đại tiểu tiện, người ấy đều phải làm. Lại nữa, khi vào trong Tăng thì người ấy không được cùng Tăng đàm luận. Nếu có ai hỏi thì cũng không được đáp. Vì lý do này nên gọi là biệt trụ.
Làm trở lại từ đầu là: Chưa hết thời gian biệt trụ, người ấy lại tái phạm, lại phải theo chúng Tăng xin biệt trụ. Tăng bạch tứ yết-ma bắt làm lại số ngày đã che giấu trước đây nên gọi là làm lại từ đầu.
Thế nào gọi là Ma-na-đỏa?-Ma-na-đỏa là phải làm việc khổ nhọc và sống riêng biệt giống như trước đó, nhưng hơi khác trước là về giới hạn thời gian. Nếu lúc mới phạm liền phát lồ ngay thì cũng phải thực hành sáu ngày sáu đêm. (Ma-na-đỏa, Tàu dịch là ý hỷ). Người làm việc ấy tuy tự ý vui mừng nhưng cũng có hổ thẹn và cũng làm cho chúng Tăng hoan hỷ. Do vui mừng nên chỉ phải thực hành trong vài ngày. Vì chỉ có ít ngày nên được gọi là vui mừng. Chúng Tăng vui mừng là: quan sát thấy người này thực hành theo pháp, không còn vi phạm trở lại, chúng Tăng khen: "Người này nhờ vậy mà hối cải, không còn phát sanh phiền não, trở thành người thanh tịnh", vì vậy nên vui mừng.
A-phù-ha-na (pháp xuất tội) là: Có giới thanh tịnh sanh ra giải thoát thanh tịnh. Hoàn toàn thanh tịnh không vi phạm và khéo giữ gìn giới này thì gọi là A-phù-ha-na.
Có phạm và không phạm: người phạm có ba hạng: Một là không điên cuồng. Hai là tâm không bị loạn. Ba là không bị sự đau khổ bức ngặt, đó gọi là phạm.
Lại có người phạm. Tất cả những tội nặng nhẹ được xét tùy theo luật Phật đã chế, cần phải biết rõ. Người không phạm cũng như vậy, tùy theo được nêu rõ ở thiên nào, cần phải biết rõ việc ấy. Việc quyết định có phạm hay không phạm phải được dựa vào luật để suy luận ra. Từ pháp đầu tiên là không biết phi pháp cho đến không biết sám hối, không sám hối; hai mươi hai loại cho người thọ Cụ túc, này đều gọi là phạm, cần phải đoạn trừ dứt khoát tất cả những thứ đó. Muốn biết việc không phạm cũng phải dựa vào luật để suy luận ra, có thể thành tựu hai mươi hai pháp mới nên cho người thọ Cụ túc thì gọi là không phạm.
Có khi Tỳ-kheo phạm, chẳng phải Tỳ-kheo-ni phạm. Có pháp Tỳ-kheo Ni phạm, chẳng phải Tỳ-kheo phạm. Có pháp Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni phạm, chẳng phải Thức xoa ma ni phạm. Có pháp Tỳ-kheo, Tỳ-kheo Ni phạm, chẳng phải Sa-di, Sa-di Ni phạm. Có pháp năm chúng xuất gia phạm, chẳng phải Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di phạm. Có pháp bảy chúng xuất gia đều phạm.
Những pháp gì Tỳ-kheo phạm, chẳng phải Tỳ-kheo-ni phạm?-Như pháp ở nơi hoang vắng, Tỳ-kheo-ni không thực hành pháp này, vì vậy Tỳ-kheo phạm, chẳng phải Tỳ-kheo-ni phạm: Có một Tỳ-kheo sống ở A-lan-nhã, làm biếng không chịu múc nước chứa trong bình, lại không có thức ăn. Sau đó có kẻ cướp đến theo đòi nước và thức ăn đều không có liền nổi giận đánh thầy Tỳ-kheo, sau đó Như Lai biết được liền chế giới: "Người sống ở A-lan-nhã phải chứa nước trong bình và để dành ít nhiều thức ăn dư để khi kẻ cướp đến đòi thì đem cho". Những việc như vậy đều là pháp của Tỳ-kheo, chẳng phải pháp của Tỳ-kheo-ni.
Những pháp gì Tỳ-kheo-ni phạm, chẳng phải Tỳ-kheo phạm?-Nếu Tỳ-kheo-ni qua sông một mình, vào làng một mình, lìa chúng ngủ một mình, đi đường một mình, bảo người nam cạo tóc một mình, đi kinh hành hoặc ngồi kết-già một mình ở nơi kinh hành của Tỳ-kheo thì phạm luật. Những vi phạm này, Tỳ-kheo-ni phạm, chẳng phải Tỳ-kheo phạm.
Những pháp gì Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni phạm, chẳng phải Thức xoa ma ni phạm?-Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni không nhận thức ăn mà ăn thì Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni phạm, chẳng phải Thức xoa ma ni phạm.
Những pháp gì ba chúng phạm, chẳng phải Sa-di, Sa-di Ni phạm?
-Trừ giới Sa-di, Sa-di Ni, phạm những giới khác là ba chúng phạm, chẳng phải Sa-di, Sa-di Ni phạm.
Những pháp nào năm chúng phạm, chẳng phải Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di phạm?-Trừ năm giới, phạm những giới khác là năm chúng phạm, chẳng phải hai chúng phạm.
Những pháp nào bảy chúng đều phạm?-Bảy chúng đều giữ năm giới, nếu phạm năm giới này thì bảy chúng đều phạm.
Có pháp chỉ phạm vào mùa Đông, không có phạm vào mùa Xu-ân, Hạ. Có pháp chỉ phạm vào mùa Xuân, chẳng phạm vào mùa Hạ và Đông. Có pháp chỉ phạm vào mùa Hạ, không phạm vào mùa Đông và Xuân.
Pháp nào mùa Đông phạm, chẳng phải Xuân, Hạ phạm?-Bốn tháng mùa Đông đã mãn, phải xả y công đức, nếu không xả, quá một ngày phạm Đột-kiết-la. Việc này chỉ phạm vào mùa Đông, chẳng có phạm vào mùa Xuân, Hạ.
Pháp nào mùa Xuân phạm, chẳng phải phạm vào mùa Hạ, Đông?
-Còn một tháng là hết mùa Xuân, phải xin y tắm mưa. Nếu quá trước một tháng mà xin, hoặc xin quá trễ so với quy định và khi đã được y lại không dùng trong phạm vi mười lăm ngày thì phạm luật. Ba việc này đều phạm Ni-tát-kỳ-ba-đạtđề.
Pháp nào mùa Hạ phạm, chẳng phải mùa Đông, Xuân phạm?-Thường pháp của Tỳ-kheo là an cư vào mùa Hạ. An cư có hai loại: Tiền an cư và hạ an cư. Nếu đều không an cư, lại không tự tứ thì vi phạm luật. Việc này phạm vào mùa Hạ, chẳng phải phạm vào mùa Đông, mùa Xuân.
Vì thế ba việc vi phạm này đều theo thời gian mà có, gọi là phạm hay không phạm.
Thế nào là tội nhẹ?-Phạm Ba-la-đề-đề-xá-ni là tội nhẹ. Hoặc nói với một người, hoặc tự nghĩ trong tâm đều có thể diệt tội. Tự chủng tánh là: Nếu Tỳ-kheo cất chứa giày bằng da người, hoặc ăn thịt người, hoặc chứa đựng thức ăn thì phạm Thâu-lan-giá.
Chủng tánh là: thịt và da là thân người nên nói là chủng tánh. Đột-kiết-la là: không giữ gìn oai nghi trên thân nên mắc Đột-kiết-la.
Ác khẩu là: nói ông là thợ thuyền, là con hát người làm trò, các căn không đầy đủ, nói như vậy mắc tội Ba-dật-đề. Đó gọi là phạm tội nhẹ về nói lời hung ác.
Tội nặng là Ba-la-di, Tăng-già-bà-thi-sa. Thâu-lan-giá giữa hai tội này.
Có chỗ Tỳ-kheo phạm nặng, Tỳ-kheo-ni phạm nhẹ; có chỗ Tỳ-kheo Ni phạm nặng, Tỳ-kheo phạm nhẹ.
Tỳ-kheo phạm nặng là: Cố làm xuất tinh, Tỳ-kheo phạm Tăng-già-bà-thi-sa, Tỳ-kheo-ni phạm Ba-dật-đề.
Tỳ-kheo-ni phạm nặng là: Nếu do tâm dâm dục quá mạnh, Tỳ-kheo Ni dùng tay xoa chỗ kín của người nam, người nam cũng dùng tay xoa chỗ kín của Tỳ-kheo-ni, cả hai đều thích thú khi tiếp xúc thì Tỳ-kheo Ni phạm Ba-la-di.
Nếu Tỳ-kheo-ni biết Tỳ-kheo-ni phạm giới trọng mà che giấu không nói với Tỳ-kheo-ni khác thì phạm tội Ba-la-di.
Nếu Tỳ-kheo không thuận theo pháp của Tăng, Tăng làm yết-ma quở trách, Tỳ-kheo-ni nói: "Tỳ-kheo ấy tùy thuận pháp của Tăng". Tỳ-kheo-ni ấy dùng đủ lời lẽ qua lại trợ giúp cho Tỳ-kheo kia. Các Tỳ-kheo-ni can gián: "Không được qua lại nói những lời lẽ trợ giúp cho nhau". Tỳ-kheo-ni ấy không nghe theo lời can gián mà qua lại dùng lời trợ giúp Tỳ-kheo kia không dứt, Ni chúng liền bạch tứ yết-ma đối với Tỳ-kheo-ni ấy. Tỳ-kheo-ni ấy phạm Ba-la-di.
Tỳ-kheo-ni lại có tám việc phạm Ba-la-di: một là Ni và người nam nắm tay nhau, hai là nắm y nhau, ba là cùng người nam ngồi chỗ kín, bốn là cùng nói chuyện ở chỗ kín, năm là thân xúc chạm nhau ở nơi kín, sáu là Ni cùng người nam đi chung đường một mình, bảy là khỏa thân xúc chạm nhau ở giữa đường, tám là hẹn nhau làm việc bất tịnh. Nếu Ni làm đủ bảy việc trước thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu đủ tám việc thì phạm Ba-la-di.
Đó là Tỳ-kheo-ni phạm nặng, Tỳ-kheo phạm nhẹ.
Có lúc phạm giới nặng, quả báo nhẹ; có lúc phạm giới nhẹ, quả báo nặng; có lúc phạm giới nặng, quả báo cũng nặng; có lúc phạm giới nhẹ, quả báo cũng nhẹ.
Phạm giới nặng, quả báo nhẹ là: Có Tỳ-kheo làm mai mối để nam nữ hòa hợp nhau. Nếu họ hòa hợp được thì Tỳ-kheo phạm Tăng-tàn, không hòa hợp được thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo tự động làm phòng ốc riêng, không bạch chúng Tăng xin yết-ma, chưa cất xong phạm Thâu-lan-giá, cất xong phạm Tăng-tàn. Đó gọi là phạm nặng, quả báo nhẹ.
Phạm giới nhẹ, quả báo nặng là: nếu Tỳ-kheo nổi giận đánh A-la-hán hoặc vuốt ve xúc chạm A-la-hán với tâm dâm dục, đắm nhiễm, cho đến đánh Phật hoặc sanh tâm dục nhiễm đối với Phật, hoặc dùng lời ác mắng A-la-hán và Phật, chê thân hình tàn tạ, các căn không đủ thì phạm Ba-dật-đề. Đó gọi là phạm giới nhẹ nhưng quả báo nặng.
Phạm giới nặng, quả báo nặng là: Tỳ-kheo nào dùng pháp Ba-la-di với hai việc không căn cứ phỉ báng Thánh và phàm thì phạm tội Tăng-tàn. Hai việc không căn cứ là:
Do tâm sân hận, Tỳ-kheo-ni nọ sai cô ni em mình tên Di-Lặc đến phỉ báng A-la-hán Đà-phiêu-ma-la-tử: "Đại đức cùng tôi hành dâm".
Lúc khác, Tỳ-kheo phỉ báng người khác đó đi trên đường, thấy hai con dê cùng hành dâm, liền nghĩ: "Việc phỉ báng lần trước đã không thật có kết quả, nay lấy dê cái làm Ni Di-Lặc, dê đực làm Đàphiếu-ma-la-tử". Suy nghĩ xong, vị ấy vào trong chùa nói với chúng Tăng: "Lần trước không có thật, hôm nay thì thấy thật sự". Các Tỳ-kheo liền can gián: "Chớ có dùng lời ác phỉ báng A-la-hán này". Đáp: "Thật vậy, hãy nghe tôi nói". Các Tỳ-kheo lắng nghe. Thầy ấy nói: "Hôm trước tôi đi trên đường, thấy hai con dê hành dâm với nhau, dê đực là Đà-phiếu-ma-la-tử, dê cái là Ni Di-Lặc". Nghe xong, các Tỳ-kheo cùng nhau bàn luận: "Hai việc này đều không có căn cứ".
Đó gọi là phỉ báng dựa trên hai việc không căn cứ.
Tỳ-kheo nào mắc các lỗi sau: một là làm hoen ố tín đồ, hai là tìm cách phá hoại pháp luân Tăng, ba là đồng lõa với nhóm phá hoại pháp luân Tăng, bốn là có tánh ngoan cố không nhận lời can gián của người thì mắc tội Tăng-tàn. Đó là phạm tội nặng, quả báo cũng nặng.
Phạm tội nhẹ, quả báo cũng nhẹ là: Tỳ-kheo nào vào làng xóm, quên không giữ gìn bốn oai nghi của thân và bốn lỗi của miệng, sơ suất vi phạm thì phải sám hối trước một người về tội Đột-kiết-la, Ba-dật-đề. Nếu Tỳ-kheo-ni phạm tội, quên không phát lồ, đến lúc bố-tát mới nhớ, định phát lồ nhưng sợ làm loạn tâm nghe giới của chúng Tăng nên im lặng suy nghĩ: "Để thuyết giới xong sẽ sám hối". Những việc như vậy đều phạm tội nhẹ, quả báo cũng nhẹ.
Có ba hình thức phạm: Một là sự nặng, tâm nhẹ. Hai là sự nhẹ, tâm nặng. Ba là sự, tâm đều nặng.
Sự nặng, tâm nhẹ là: Tỳ-kheo thuyết pháp cho Ni nghe ở trong chùa Ni, tuy mặt trời đã lặn nhưng trong tâm sanh nghi, cho: "Mặt trời chưa lặn" nên tiếp tục thuyết pháp. Đó là sự nặng tâm nhẹ.
Sự nhẹ tâm nặng là: Tỳ-kheo nói pháp ở chùa Ni, mặt trời chưa lặn nhưng trong tâm cho là mặt trời đã lặn và vẫn tiếp tục nói pháp. Đó là sự nhẹ, tâm nặng.
Tâm và sự đều nặng là: Tỳ-kheo nói pháp ở trong chùa Ni, mặt trời đã lặn, tâm cũng nghĩ là mặt trời đã lặn mà vẫn tiếp tục nói pháp. Đó là tâm và sự đều nặng.
Tâm nhẹ, sự nặng; tâm nặng, sự nhẹ, cả hai đều mắc tội Đột-kiết-la.
Tâm và sự đều nặng, phạm Ba-dật-đề.
Ba-la-di tuy tội phạm có cùng tên gọi nhưng quả báo có khác nhau. Vì sao?-Như chỗ hành dâm chẳng phải chỉ có một, bao gồm súc sanh và người. Trong loài người lại có xuất gia và không xuất gia. Không xuất gia có hai hạng là: có trì giới và không trì giới. Xuất gia có năm hạng và cũng có trì giới hay không trì giới, cho đến Thánh nhơn. Do có sự khác nhau như vậy nên tuy tội phạm có cùng tên gọi nhưng quả báo có khác.
Trong pháp Ba-la-di thứ nhì thì nơi bị ăn trộm cũng chẳng phải là một, gồm có xuất gia và tại gia. Người tại gia bị ăn trộm đồ vật có nhiều hạng khác nhau, người xuất gia bị ăn trộm đồ vật cũng có nhiều hạng khác nhau. Ăn trộm đồ Tam bảo cũng có khác nhau. Vì thế tội Ba-la-di tuy có cùng tên nhưng quả báo có khác,
Pháp Ba-la-di thứ ba là, nếu giết hại trời người cho đến Thánh nhân thì mắc tội Ba-la-di. Danh từ giết hại tuy giống nhau nhưng quả báo cũng khác nhau.
Pháp Ba-la-di thứ tư cũng có sai khác. Nói với người tại gia là mình đắc pháp thượng nhơn thì mắc tội nặng. Nói với người xuất gia mình đắc pháp hơn người thì mắc tội nhẹ.
Vì thế, tên của tội tuy giống nhau nhưng quả báo không giống nhau.
Thế nào gọi là tàn?-Tội có thể trừ, vì vậy gọi là tàn (còn dư).
Thế nào là không tàn?-Bốn Ba-la-di là tội không thể trừ, vì vậy gọi là không tàn (không còn dư).
Thế nào gọi là phạm thô ác?-Như người định tạo bốn Ba-la-di, thân làm và miệng nói không hổ thẹn, do hai điều này ắt thành tội Ba-la-di. Đó gọi là tội thô ác.
Lại có một trường hợp ô trược, nặng nề, đó là gần phạm Tăng-già-bà-thi-sa và tạo điều kiện để phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Hai tội Thâu-lan-giá này được gọi là tội ô trược, nặng nề.
Thế nào chẳng phải là tội thô trược nặng nề?-Tội Thâu-lan-giá và Đột-kiết-la có tự tánh là Ba-dật-đề, Ba-la-đề-đề-xá-ni, những tội này cũng là hành động bất thiện của thân và miệng nhưng chẳng phải là phương tiện gây ra tội lớn, vì vậy chẳng phải là tội thô ác vẩn đục nặng nề.
Sa-di, Sa-di ni phạm Ba-la-di thì mắc tội Đột-kiết-la, không thể sám hối.
Có tội phạm cần phải yết-ma, có tội không cần yết-ma.
Tội cần phải yết-ma là: Mười ba Tăng tàn cho đến ác khẩu, tội này cần phải yết-ma mới trừ được.
Tội không cần yết-ma là ba tội Ba-la-di. Có một tội Ba-la-di cần phải yết-ma mới trừ được. Đó là trường hợp Tỳ-kheo Nan-đề-già, vị này thường ngồi thiền nơi yên tĩnh, vắng vẻ; có thiên ma biến ra hình người nữ ở trước Nan-đề, làm lòng dục của Nan-đề trở nên mạnh mẽ và vị ấy đuổi theo người nữ đó, ma liền ẩn mất. Thấy con ngựa chết, Nanđề liền cùng nó làm việc bất tịnh. Sau khi làm xong, vị ấy hối hận, cởi áo cà-sa ôm trong lòng khóc như mưa, đưa tay, kêu trời, gào to: "Tôi chẳng phải Sa-môn, chẳng phải con dòng họ Thích!". Đến chỗ Thế Tôn, vị ấy nói với Thế Tôn về việc phạm giới của mình. Biết Tỳ-kheo này có tâm phát lồ rất mạnh mẽ, về sau sẽ không tái phạm, Phật liền tập hợp các Tỳ-kheo bạch tứ yết-ma cho đắc giới trở lại.
Lý do đắc giới là: Một là người này thấy Phật, hai là tâm phát lồ rất mạnh mẽ. Vì vậy đắc giới. Tuy đắc giới trở lại nhưng phải ngồi dưới tất cả chúng Tăng và không đồng với tất cả các Tỳ-kheo khác khi Tăng làm pháp sự.
Đó gọi là cần và không cần yết-ma.
Tôn giả Tát-bà-đa nói: "Tỳ-kheo nào đắc định của thế tục, từ định Tứ thiền xuất, thiên ma giả làm người nữ làm mê hoặc vị ấy, Tỳ-kheo ấy liền cùng người nữ ấy làm việc bất tịnh, làm xong vị ấy liền hối hận, không hề có tâm che giấu, vị ấy luôn luôn nhớ đến việc đó, không có ý che giấu và không muốn xả bỏ pháp phục. Người như vậy phải theo Tăng xin yết-ma diệt trừ tội Ba-la-di, Tăng phải bạch tứ yết-ma trừ tội Ba-la-di cho vị ấy. Khi đã đắc giới trở lại, người ấy phải suốt đời làm theo lời chúng Tăng chỉ dạy, không được làm Hòa thượng, A-xà-lê, không được làm thầy giáo thọ cho Ni. Khi Tăng tập hợp không được thuyết giới, được dự tất cả pháp sự nhưng phải ngồi ở vị trí thấp nhất trong chúng, không được để cho Tăng trải tòa và dâng thức ăn cho mình, dù chỉ bằng cọng cỏ".
Như tôn giả Bà-xa nói: "Tỳ-kheo nào đắc định thế tục, sau khi xuất định hoặc điên cuồng tâm loạn, hoặc là trái đạo, cho đến bị quỷ làm mê hoặc, do đó làm việc bất tịnh; làm xong liền hối hận, phát lồ, không có tâm che giấu, lại không muốn xả bỏ pháp phục thì phải xin Tăng làm yết-ma trừ tội Ba-la-di, trọn đời phải vâng theo lời chúng Tăng dạy, không được làm Hòa thượng, A-xà-lê, không được làm thầy giáo thọ cho Ni, không được thuyết giới khi đại chúng tập hợp, cũng không được làm yết-ma cho người, ngồi ở vị trí thấp nhất trong đại
Tăng và ở trên Sa-di, không được để cho Tăng trải tòa và dâng thức ăn cho mình, dù chỉ bằng cọng cỏ".
Có một Tỳ-kheo tên Thiền-na-đà, ngồi thiền ở nơi vắng vẻ. Hàng ngày các đàn-việt đem thức ăn đến dâng. Trong số các đàn-việt ấy không có người nam, có một người nữ thường đem cơm đến dâng. Sau một thời gian thường lui tới, họ liền sanh tâm đắm nhiễm và cùng làm việc bất tịnh. Làm xong vị ấy hối hận, cởi ba y vắt trên vai, để lộ thân hình, vừa chạy vừa la:
Ăn cướp! Ăn cướp!. Người bên cạnh hỏi:
Có bọn cướp nào vậy?.
Đáp:-Tôi bị giặc phiền não cướp hết sạch.
Vị ấy phát lồ với các đàn việt và chúng Tăng, không có tâm che giấu. Người có hiểu biết trong Tăng bảo:
Có tôn giả Bà-xa nắm vững giới luật, có thể trừ tội của ông. Tỳ-kheo ấy liền đến chỗ Bà-xa nói với Bà-xa về tội của mình đã phạm, Tôn giả ấy nói:
Để trừ tội, ông có thể nghe theo lời ta không?. Đáp:-Không dám trái lời.
Tôn giả Ba-xa sai người làm một hố lửa lớn, lửa bốc cháy hừng hực và bảo:
Nếu ông muốn hết tội thì hãy nhảy vào hố này. Trước đó, Ba-xa đã bàn với các Tỳ-kheo: "Nếu Tỳ-kheo ấy nhảy vào hố lửa thật, thì các vị hãy níu thầy ấy lại".
Tỳ-kheo ấy làm theo lời Ba-xa, nhảy thẳng vào hố lửa. Người bên cạnh liền níu vị ấy lại. Biết Tỳ-kheo này thật tâm, Ba-xa liền bạch tứ yết-ma trừ tội Ba-la-di. Sau khi đã được yết-ma, Tỳ-kheo ấy được gọi là người trì giới thanh tịnh, nhưng thân này không được giải thoát sanh tử và chứng bốn quả, không được công đức vô lậu, nhưng không bị đọa vào địa ngục.
Giống như lá cây sau khi đã rụng mà còn mọc lại trên cây thì không có chuyện đó. Nếu Phạm thiên đầu tiên mà được chứng bốn quả, đạt được công đức vô lậu thì cũng không có việc ấy. Người này tuy cùng ở một chỗ với Tăng nhưng Tăng ở cách người ấy rất xa.
Như trên đã nói, phạm giới có bảy loại: Một là Ba-la-di, hai là Tăng-già-bà-thi-sa, ba là Ni-tát-kỳba-dật-đề, bốn là Ba-dật-đề, năm là Thâu-lan-giá, sáu là Ba-la-đề-đề-xá-ni, bảy là Đột-kiết-la. Ba-la-di là không sanh căn lành, vĩnh viễn không thể sám hối, cũng không thể làm yết-ma để trừ tội được. Có tội Thâu-lan-giá cũng không thể làm yết-ma trừ tội được, đó là trường hợp nào?-Như Đề-bà-đạt-đa làm thân Phật chảy máu, tội Thâu-lan-giá này vĩnh viễn không thể sanh căn lành vô lậu, cũng không có thể làm yết-ma trừ tội. Có tội Ba-dật-đề không sanh căn lành, cũng không thể làm yết-ma trừ tội được, đó là trường hợp nào?-Như có Tỳ-kheo tức giận, muốn giết Phật nên đánh Phật, mắc tội Ba-dật-đề, không thể sám hối.
Có tội Đột-kiết-la không phát sanh căn lành, cũng không thể làm yết-ma trừ tội, đó là trường hợp nào?-Như Sa-di, Sa-di ni, Thức-xoa-ma-ni nếu phạm một trong bốn Ba-la-di thì tội này không thể sám hối. Vì thế có tội cần yết-ma, có tội không cần, như trên đã nói.
Yết-ma xong lại yết-ma nữa là trường hợp phạm Tăng-tàn. Yết-ma xong, không yết-ma nữa là trường hợp phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề và chín mươi pháp Ba-dật-đề.
Người muốn phát lồ phải có đủ năm pháp: Một là chỉnh đốn y phục, hai là cởi giày da, ba là quỳ, bốn là chấp tay, năm là nói rõ tội đã vi phạm. Phải như vậy mới được sám hối. Nếu không như vậy, không gọi là sám hối.
Có năm tội dễ trừ:
Một là có tội cần phải đến trước một Tỳ-kheo để sám hối trừ tội, nếu không có Tỳ-kheo thì trong tâm lập lời thề cũng có thể trừ được.
Hai là phạm Đột-kiết-la. Nếu là lời nói ác thì nói với một người sẽ hết tội.
Ba là tội Thâu-lan-giá thuộc về Ba-dật-đề, sám hối trước một người cũng hết tội.
Bốn là Thâu-lan-giá gần Tăng-tàn và Thâu-lan-giá gần Ba-la-di, cần phải có chúng Tăng gồm bốn vị trở lên để yết-ma trừ tội này. Tội Tăng-tàn như trên đã nói.
Năm là từ địa đến địa trong kiền độ yết-ma thọ giới đã nói rõ.
Tội có tên gọi chung: đó là từ Ba-la-di cho đến bảy pháp diệt tránh, nếu vi phạm bất cứ pháp nào thì đều gọi là phạm. Vì thế gọi là tội chung.
Pháp can gián là: Nếu có Tỳ-kheo phạm tội, các Tỳ-kheo khác hoặc thấy, nghe, nghi cần phải bạch Thượng tọa và Tăng trước. Thượng tọa và Tăng nghe xong, cần phải hỏi lại người phạm tội: "Chúng tôi định can gián, thầy có chấp nhận không?". Nếu người phạm tội chấp nhận thì Thượng tọa và Tăng được can gián. Nếu cả hai đều không chấp nhận, hoặc một bên chấp nhận, một bên không thì hoàn toàn không được can gián. Người can gián phải đầy đủ năm đức mới được can gián:
Một là biết can gián đúng lúc.
Hai là thật tâm, chẳng phải giả dối.
Ba là vì lợi ích nên can gián, chẳng phải không vì lợi ích nên can gián.
Bốn là can gián bằng lời êm dịu, chẳng phải lời thô ác.
Năm là can gián bằng tâm từ, chẳng phải không thấy lỗi mà can gián.
Khi can gián, chúng Tăng tập hợp lại, ngồi theo thứ lớp. Người phạm tội ngồi riêng một chỗ. Người can gián rời khỏi chỗ ngồi, đến chỗ người phạm tội để can gián theo việc ông ấy đã thấy, nghe, nghi.
Việc ấy gồm có ba loại:
Một là Ba-la-di, Tăng-tàn, Thâu-lan-giá. Đó gọi là giới.
Hai là phá chánh kiến, chấp chặt tà kiến.
Ba là từ Ba-dật-đề cho đến ác khẩu. Đó gọi là hạnh.
Thấy, nghe, nghi phát sanh từ ba việc ấy. Người can gián ở nơi kín hoặc giữa chúng, nói:
"Ông hãy nhớ lại việc đã phạm, không được cùng Tăng làm pháp sự, hãy đi ra ngoài, đợi sau khi trừ tội như pháp xong sẽ nhập chúng trở lại. Đó gọi là can gián bằng cách nhớ lại.
Có pháp can gián không thành tựu. Đó là:-Sau khi chúng Tăng tập hợp, người phạm tội ngồi riêng một chỗ. Người can gián hỏi người phạm tội có nghe can gián không, người kia đáp "nghe", nghe xong, đương sự liền đứng dậy bỏ đi, như vậy không thành can gián.
Người can gián người khác, hỏi xong liền bỏ đi, chính là nhóm sáu Tỳ-kheo. Nếu người hỏi người phạm tội, hỏi xong liền bỏ đi thì không thành can gián.
Lúc nào là lúc can gián?-Chúng Tăng tập hợp, gởi dục. Người phạm tội có mặt hay gởi dục. Người can gián có mặt... Những việc như vậy đều gọi là can gián.
Khi ấy, tôn giả Tát-bà-đa nói:
Người can gián bảo người phạm tội: "Tôi nghĩ đến thầy, nói với thầy, can gián thầy". Người phạm tội đáp: "Thầy nghĩ về tôi, nói với tôi, can gián tôi, như vậy thật tốt". Người nhận can gián không nên nhận sự can gián của năm hạng người: một là người không biết hổ thẹn; hai là người không học rộng; ba là người thường tìm kiếm lỗi người; bốn là người thích tranh cãi; năm là người muốn xả pháp phục để hoàn tục. Không nên nhận lời can gián của năm hạng người này. Đó gọi là không nhận can gián.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
Người can gián sau khi nhận dục của người phạm tội xong, không được bỏ đi. Nếu bỏ đi thì mắc tội Đột-kiết-la. Từ nay trở đi, người can gián cùng người phạm tội phải hẹn nhau đến một nơi trong khu vực của chúng Tăng hoặc nơi chúng Tăng tập hợp để uống nước trái cây, ăn cháo, bốtát, tự tứ và làm tất cả các pháp sự. Cần phải ở trước Tăng can gián đương sự xả bỏ việc ấy. Nếu không có đại chúng thì ở trước một, hai Tỳ-kheo thông hiểu tam tạng can gián đương sự xả bỏ việc ấy.
Tôn giả Di-sa-tắc nói:
Yết-ma đình chỉ việc can gián là: Nếu có Tỳ-kheo phá giới, phá kiến hoặc phá hạnh thì chúng Tăng phải chọn người có năm đức để can gián người này. Nếu người ấy có tánh ngang ngạnh không nghe lời can gián, cậy mình thông minh tài giỏi, nhiều đồ chúng; lại cậy thế lực của quốc vương, đại thần nên không nghe lời can gián thì chúng Tăng phải làm yết-ma không nói chuyện với họ. Đó gọi là đình chỉ sự nói chuyện.
Ngưng, không thuyết giới là: Phật bảo các Tỳ-kheo:
Trong chúng nếu có người không thanh tịnh thì phải ngưng, không nên thuyết giới.
Nghe Phật nói xong, nhóm sáu Tỳ-kheo liền thông báo với tất cả các chùa: "Phật cấm không cho thuyết giới". Thế Tôn bảo: "Ta không cấm Tỳ-kheo thanh tịnh thuyết giới. Khi Tăng tập hợp, nếu trong chúng có người vi phạm bảy tụ cho đến nói lời hung ác thì không được thuyết giới. Nếu không có người phạm thì hãy thuyết giới. Đó gọi là ngăn thuyết giới".
Ngăn, không cho tự tứ là: Phật bảo các Tỳ-kheo:
Trong chúng nếu có người không thanh tịnh thì ngưng, không nên tự tứ. Hãy làm yết-ma ngăn tự tứ. Nên tra xét người không thanh tịnh, nếu nặng thì đuổi ra, nhẹ thì cho sám hối, sau đó mới tự tứ.
Nếu người không thanh tịnh ấy cậy mình thông minh, trí tuệ, hoặc cậy vào thế lực của đồ chúng, quốc vương, đại thần, không thể đuổi ra thì hãy để một thời gian sau mới tự tứ. Đến lần tự tứ sau, người kia vẫn không ra thì chúng Tăng có thể tự tứ riêng để được thanh tịnh.
Thế nào là Ba-la-đề-mộc-xoa?-Ba-la-đề-mộcxoa có nghĩa là tối thắng.
Vì sao có nghĩa là tối thắng?-Các việc lành lấy giới làm gốc rễ.
Do làm phát sanh các pháp lành nên có nghĩa là tối thắng.
Lại nữa, giới có hai loại: Một là xuất thế, hai là thế gian. Giới thế gian có thể làm nhân cho pháp xuất thế nên nói là tối thắng.
Lại nữa, giới có hai loại: Một là dựa vào thân, miệng, hai là dựa vào tâm. Do giới dựa vào thân, miệng mà đạt được giới dựa vào tâm nên gọi là đứng đầu.
Ba-la-đề-mộc-xoa này đã được nói rõ trong kiền độ Bố-tát. Lại có năm cách thuyết giới nói đủ và nói hẹp:
Một là nói bài tựa của giới và bốn Ba-la-di, còn các giới khác đều nói như các vị thường nghe.-Hai là nói bài tựa của giới, bốn Ba-la-di, mười ba việc, các giới còn lại đều nói như các vị thường nghe.
Ba là nói bài tựa của giới, bốn Ba-la-di, mười ba Tăng tàn và hai pháp Bất định, còn các giới khác đều nói như các vị thường nghe.
Bốn là nói bài tựa của giới cho đến ba mươi Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề, các giới khác đều nói như các vị thường nghe.
Năm là nói đầy đủ như trên.
Thường pháp của Tỳ-kheo là phải thuộc Ba-la-đề-mộc-xoa. Nếu ai chưa thuộc thì phải thường xuyên đến nơi có tụng luật để ở. Vì sao?
Nếu có phạm hoặc nghi ngờ điều gì thì sẽ sám hối, giải nghi để trừ tội. Vì vậy Phật dạy: "Tỳ-kheo phải thuộc Ba-la-đề-mộc-xoa".
Thế nào gọi là Bố-tát?-Đoạn trừ gọi là Bố-tát. Có thể đoạn trừ các điều vi phạm, đoạn trừ các phiền não, đoạn trừ tất cả các pháp bất thiện là ý nghĩa của Bố-tát. Thanh tịnh gọi là Bố-tát.
Thế nào gọi là yết-ma Bố-tát?-Khi chúng
Tăng định Bố-tát, người nhỏ nhất trong chúng phải quét nhà, trải tọa cụ, lấy nước thơm rưới đất, đốt đèn... các việc như vậy đều gọi là yết-ma Bố-tát.
Thế nào gọi là tự tứ?-Tỳ-kheo sau khi nhập hạ xong, phải đến trước Tỳ-kheo thanh tịnh có trí tuệ để xin chỉ tội đã được thấy, nghe, nghi. Lý do xin chỉ tội là vì muốn nêu rõ việc trì giới luật và các căn lành khác trong chín mươi ngày hạ đều không bị phá hủy. Vì thế, sau khi an cư xong mới được tự tứ.
Vì sao Phật dạy làm tự tứ?
Một là mỗi người đều can gián lẫn nhau.
Hai là nhớ nghĩ về nhau.
Ba là chỉ dạy lẫn nhau.
Bốn là cung kính lẫn nhau.
Năm là nói năng hòa thuận với nhau.
Sáu là đều có chỗ nương tựa, chẳng có ai không có chỗ nương tựa.
Vì vậy gọi là tự tứ.
Yết-ma tự tứ là: người nhỏ nhất trong chúng phải quét nhà, trải tọa cụ, đốt đèn, thắp nhang, xông trầm... các việc như vậy đều gọi là yết-ma. Nếu không yết-ma vị trí tịnh trù bên trong cương giới thì thức ăn cách đêm Sa-môn không được ăn. Bấy giờ, Phật du hành ở nước Bạt-lợi-kỳ, dần dần đi đến nước Tỳ-ly, nghe các Tỳ-kheo to tiếng với nhau, Phật hỏi Tôn giả A-nan:
Chúng Tăng đang tranh cãi việc gì vậy?
Tôn giả A-nan đến xem, thấy Tỳ-kheo cất chứa thức ăn rất nhiều, liền trở lại bạch với Phật:
Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo và Sa-di cựu trú cùng tịnh nhơn muốn dọn thức ăn cho Tỳ-kheo khách, vì vậy gây ồn ào.
Đức Phật liền bảo A-nan:
Ông hãy đến nói với các Tỳ-kheo: "Từ nay trở đi, nếu Tăng không tập hợp để xác định vị trí tịnh trù thì thức ăn cách đêm ở bên trong cương giới đều không được ăn".
Một lúc nọ, Thế Tôn ở tại Ba-la-nại, thời ấy, nhằm lúc đói kém, chúng Tăng đều tích trữ lúa gạo ở bên ngoài đại giới nên bị người ăn trộm lấy đi.
Các Tỳ-kheo nói với nhau và đến bạch với Thế Tôn về việc ấy.
Phật nói:
Gặp năm đói kém thì cho phép chứa lúa gạo bên trong cương giới, cho đến thuốc thang cũng như vậy.
Lại một lúc nọ, thế gian đói kém, thóc lúa quý hiếm, người không có lễ nghĩa, các Tỳ-kheo nấu thức ăn ở bên ngoài cương giới, bị những người có sức mạnh cướp lấy mang đi. Các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật dạy:
Cho phép các ông nấu thức ăn ở trong đại giới và ăn ở trong đại giới.
Lại bị các Sa-di và tịnh nhân xén bớt mang đi, các Tỳ-kheo bạch
Thế Tôn, Phật nói:
Cho phép các Tỳ-kheo tự tay nấu thức ăn.
Khi ấy, Thế Tôn ở nước Xá-vệ, có một Tỳ-kheo bệnh, thường ăn cháo và được đàn-việt dâng cúng mỗi ngày. Một ngày nọ, cửa thành bị đóng kín, đàn-việt không đến được, Tỳ-kheo ấy không có cháo để ăn. Vì Tỳ-kheo bệnh ấy, Phật bạch nhị yết-ma xác định vị trí tịnh trù ở bên trong cương giới và cho phép nấu cháo trong tịnh trù để ăn.
Lúc này, các Tỳ-kheo sanh nghi, cho Tỳ-kheo ấy đã ăn loại thức ăn được cất chứa qua đêm, thức ăn nấu ở trong đại giới và thức ăn tự tay làm. Phật nói:
Đó chẳng phải là thức ăn được cất chứa qua đêm, chẳng phải thức ăn được nấu ở trong cương giới, cũng chẳng phải tự tay làm, cho đến thuốc thang cũng như vậy.
Khi đó, Thế tôn ở nước Ba-la-nại, là thời kì đói kém, các Tỳ-kheo đi trên đường, thấy trái cây chín rụng ở dưới đất nhưng không được nhặt, phải đợi tịnh nhơn đến. Một lát sau có bạch y đến nhặt lấy mang đi. Tỳ-kheo đem việc ấy bạch Phật, Phật nói:
Cho phép các ông lấy cỏ che lên để đợi tịnh nhân đến..
Trong khi lấy cỏ che lên để đợi tịnh nhân đến, lại có bạch y đến giở cỏ ra, thấy trái cây và lấy mang đi. Các Tỳ-kheo lại bạch Thế Tôn, Phật nói:-Cho phép các ông tự tay nhặt lấy mang đi đến chỗ tịnh nhân đặt xuống đất, rồi thọ nhận lại đúng pháp để ăn.
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
Khi lúa gạo đắt đỏ, xin Thế Tôn cho phép các
Tỳ-kheo ăn thức ăn dư được cất chứa qua đêm, thức ăn tự tay làm và được tự tay nhặt trái cây.
Đức Phật nói:
Khi mất mùa, thóc lúa đắt đỏ thì được phép làm như vậy.
Có Tỳ-kheo trước đó đã nhận được thức ăn, đến nơi khác lại được nhận tiếp, khi ăn đã no liền đem thức ăn còn thừa tịnh thí lại cho thí chủ. Khi ấy nhằm lúc đói kém, thí chủ liền ăn thức ăn ấy, Tỳ-kheo đến bạch Phật:
Hôm qua có thức ăn dư, con đem tịnh thí cho thí chủ để mong hôm sau lại được ăn, thí chủ liền ăn ngay.
Đức Phật nói: Phật nói:
Vào năm đói kém, cho phép các ông được tự cất thức ăn không cần có thí chủ.
Bấy giờ, có các vị Đại đức Tăng được quốc vương, đại thần kính trọng. Các đàn-việt thỉnh các vị ấy vào làng thọ thực. Sau khi ăn xong, các vị ấy mang thức ăn dư về chùa cho các Tỳ-kheo khác ăn. Người nào muốn ăn, nếu gặp lúc đói kém thì được ăn, không cần làm phép dư thực. Đến lúc được mùa thì phải cùng thí chủ làm pháp thức ăn dư, sau đó mới được ăn.
Về sau, nếu gặp lúc thóc lúa đắt đỏ, nhân dân đói kém, các Tỳ-kheo sau khi ăn xong có được trái cây, người nào muốn ăn thì không cần làm phép thức ăn dư cũng được ăn. Sau đó, vào lúc được mùa trở lại thì không được ăn, không làm phép thức ăn dư như thế nữa.
Vào lúc đói kém, nếu Tỳ-kheo có được các loại rễ cỏ và rễ thuốc có thể ăn được thì được phép tự lấy ăn mà không cần thí chủ. Khi được mùa thì không được phép.
Thế nào gọi là thọ y công đức như pháp?-Chúng Tăng tập hợp, ngay lúc ấy không có các chướng ngại thì được nhận chiếc y mới như pháp mà đàn-việt cúng dường. Như pháp là: chẳng phải y gấm, chẳng phải y có màu đẹp nhất. Đó là chiếc y như pháp.
Tỳ-kheo ở cùng chúng Tăng trong đại giới mà bị bệnh và người làm việc Tam-bảo phải gửi dục, sau đó bạch nhị yết-ma, đó gọi là như pháp.
Thế nào không gọi là thọ?-Chúng Tăng ở bên ngoài cương giới và nhóm Tỳ-kheo phi pháp, đó là không thọ.
Pháp xả y công đức là: Sau khi thọ y đã đủ năm tháng, chúng Tăng tập hợp, ngay lúc ấy không có các chướng ngại, chúng Tăng bên trong cương giới gửi dục như pháp rồi bạch nhị yết-ma, không làm các yết-ma khác. Đó gọi là xả y như pháp.
Có tám cách xả y công đức:
Một là sau khi thọ y liền đi ra khỏi nước, đó gọi là xả sau khi đi.
Hai là Tỳ-kheo nào thọ y công đức rồi ra khỏi chùa đi du hóa để tìm xin ở bên ngoài, nghe Tăng đã xả y xong liền suy nghĩ: "Ta sẽ tìm y khác", thì đó gọi là xả khi hết thời hạn.
Ba là thọ y công đức rồi đi ra ngoài du hóa, nghe ở chùa đã xả y xong, liền suy nghĩ: "Ta không tìm y nữa", đó là cách xả rốt ráo.
Bốn là Tỳ-kheo nào sau khi thọ y xong đi ra bên ngoài tìm xin y, được y rồi liền bị kẻ cướp cướp y và nghe ở chùa đã xả y xong, thì đó là xả khi mất y.
Năm là Tỳ-kheo nào sau khi đã thọ y, đi ra ngoài mong xin được y nhưng xin không được và nghe trong chùa đã xả y công đức, thì gọi là xả khi đã hết hy vọng.
Sáu là Tỳ-kheo nào sau khi thọ y liền đi ra ngoài để tìm xin, nghe trong chùa đã xả y liền suy nghĩ: "Ta sẽ tìm xin ba y", thì đó là xả khi nghe.-Bảy là Tỳ-kheo nào sau khi thọ y liền ra ngoài cương giới đi du hóa để mong được y và khi được y liền quay về. Trải qua nhiều ngày, vị ấy trở về bên ngoài cương giới và nghe trong chùa đã xả y. Đó là xả y ở bên ngoài cương giới.
Tám là Tỳ-kheo nào sau khi thọ y đi ra bên ngoài xin y, dù được hay không được cũng quay về chùa để cùng Tăng xả y. Đó gọi là xả như pháp. Ngoài tám cách này, những cách nhóm họp phi pháp đều không gọi là thọ, cũng không gọi là xả.
Phân chia vật của Tỳ-kheo qua đời: Y, bát, tọa cụ, kim khâu, sợi dây, túi xách bằng da, dây buộc y, thảm lông dày khoảng ba ngón tay, dù, lọng, dao cạo..., đó là những đồ vật có thể đem phân chia. Tôn giả Ca-diếp-duy nói:
Pháp phân chia vật của Tỳ-kheo là: trước hết phải đem người chết đi chôn cất, sau đó chúng Tăng trở về chùa, hãy tập hợp các vị Tăng đang có mặt ở chùa lại. Sau khi chúng Tăng đã tập hợp, hãy đem những đồ vật của Tỳ-kheo quá cố để phía chúng Tăng, sai một người phân vật có thể phân chia và vật không thể phân chia thành hai phần để ở hai chỗ khác nhau. Ba y được phân cho người nuôi bệnh, các vật khác được phân chia cho chúng Tăng đang có mặt. Nếu có nô-tỳ của vị ấy thì hãy cho họ đi, nếu không cho đi thì nên cho làm tịnh nhơn của chúng Tăng. Voi, lạc đà, ngựa, bò, lừa thì để cho chúng Tăng thường trụ ở trong chùa làm phương tiện vận chuyển. Nếu Tỳ-kheo quá cố này có đồ vật ở bên ngoài thì hãy sai tịnh nhơn ở trong chùa đi tìm lấy về. Sau khi các thứ ấy đã được đem về chùa thì có thể phân chia những vật bằng sắt, bằng đồng cho chủ Tăng thường trụ. Những vật bằng sắt bao gồm: thìa sắt, chiêng sắt, nồi nhỏ, búa, rìu, dao dài năm tấc, móc cửa, ống đựng kim, con dao, kéo, gậy sắt, lư hương, lò lửa, mâm, dù, lọng, ống đựng hương... và các vật tương tợ cần phải biết rõ. Các vật khác như: bát đồng lớn, chén đồng nhỏ, chiêng, nồi nhỏ, gậy đồng đều được chia như các vật bằng sắt. Thế nào gọi là y có giá trị?-Giá trị có hai loại: Một là giá cao, hai là có thể chống lạnh, vì thế gọi là có giá trị. Y phải được thọ trì một cách thanh tịnh, không được thọ trì không thanh tịnh. Thanh tịnh có hai loại: một là nhuộm loại màu thanh tịnh, hai là sau khi đã nhuộm màu chấm ba chấm trên y cũng gọi là thanh tịnh. Nếu y đã may xong, giặt, nhuộm và chấm ba chấm, các đàn-việt thấy liền biết là y phục của Sa-môn, chẳng phải y của ngoại đạo thì được gọi là y có giá trị.
Lúc ấy, tôn giả Tất-lăng-già-bà-tha bị đau mắt, đi dọc đường hai chân quờ quạng, định đi về phía Đông lại ngã về phía Tây, không thể tiến bước. Phật trông thấy liền hỏi các Tỳ-kheo:
Vì sao vậy?
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
Do vị ấy đau mắt không thấy đường. Đức Phật nói:
Cho phép ông ấy mang giày da.
Tôn giả Tất-lăng-già-bà-tha vốn được dân chúng kính trọng nên được họ đem võng lưới cúng dường, hoặc đem voi ngựa, lạc đà, xe cộ, hoặc cất một ngôi chùa nhỏ cúng dường. Những vật cúng dường đó, Phật đều cho phép nhận.
Do tôn giả bị đau mắt, đàn-việt liền làm cho tôn giả cái kính bằng lưu ly, các Tỳ-kheo bạch với Phật:
Cúi xin Thế Tôn cho phép Tất-lăng-già-bàtha cất giữ cái kính này để chữa bệnh đau mắt.
Đức Phật nói:
Tuy vật này có giá cao nhưng vì đau bệnh nên cho phép cất giữ. Lại có các đàn việt mang đến các loại bình bằng đồng, sắt, sành, chậu đồng, cái mũ trụ bằng đồng để cúng dường. Các vật có giá trị này cũng được Phật cho phép cất chứa.
Nếu có người cúng dường loại y tốt, đắt giá và mịn màng thì cho phép tịnh thí để cất chứa.
Lại nữa, đồ vật có giá trị của thầy, đệ tử không được tự lấy, nếu Tăng cho thì được lấy. Đệ tử không được mang vật đó để trước chúng Tăng, Tăng không được tự lấy và làm yết-ma phân chia vật ấy. Vì sao vậy?-Vật đó thuộc về chúng Tăng bốn phương.
Vì sao gọi là vật có giá trị?-Trước đã nói rõ thế nào là y có giá trị, nay vật có giá trị thì cũng theo đó sẽ rõ.
Vật không nên phân là: nếu vị ấy có chùa riêng và trong chùa ấy có các thứ như ruộng, cây ăn quả, voi, ngựa, lạc đà, bò, lừa, cho đến giường, chiếu, chậu, bình và những dụng cụ sinh hoạt, tất cả các thứ ấy đều thuộc về Tăng bốn phương. Nếu vị ấy xây nhà lớn, phòng nhỏ ở bốn phía bên ngoài đại giới thì tất cả đồ vật ở trong đó chúng Tăng đang có mặt không được phân chia và các thứ ấy cũng thuộc về chúng Tăng bốn phương. Việc này xem trong "Kiền độ về Y" sẽ biết rõ.
Nếu y phấn tảo nằm ở bên trong bốn bức tường, nằm ở bốn phía thì Tỳ-kheo không nên lấy. Nếu y ở trên hàng rào và ở trong hào đào quanh thành thì cũng không nên lấy. Nếu y nằm ở bên ngoài vách tường, nơi có khoét lỗ để đưa tử thi ra ngoài thì cũng không nên lấy. Sở dĩ Phật chế giới này là vì lúc ấy có nạn dịch lớn, người chết rất nhiều, không thể đem đến nghĩa địa chôn cất được, mới đục tường thành và bỏ xác chết phía bên ngoài. Nhà vua ra lệnh:
Không được phép bỏ tử thi ở bên ngoài tường thành. Quân cấm vệ liền thông báo:
Ai lấy áo của người chết này đem đi thì phải mang xác chết ấy ra nghĩa địa.
Mọi người đáp:
Hôm qua đến giờ có Sa-môn lấy y.
Quân cấm vệ liền bảo Sa-môn:
Hãy mang xác chết ra bỏ ở ngoài nghĩa địa. Vì lý do đó, Phật dạy:
Tỳ-kheo không được lấy y của người chết như thế. Trên xác chết chưa bị hư rã ở nghĩa địa mà có y thì cũng không được lấy. Bên trên tử thi có xây tháp, y được treo trên tháp ấy cũng không nên lấy. Các y phấn tảo như vậy đều không nên lấy.
Có một Tỳ-kheo ở riêng một mình, bị bệnh mà qua đời. Y, bát và đồ đạc của Tỳ-kheo này thuộc về chúng Tăng đang có mặt.
Có một Tỳ-kheo đã nuôi bệnh, không biết pháp, mang y và các vật ấy đến gặp Thế Tôn, Thế Tôn dạy:
Ông hãy đem y và các vật này đến gặp chúng Tăng và xin chúng Tăng. Khi gặp mỗi Thượng tọa, ông phải hỏi: "Xin hãy cho con những thứ này". Sau khi đã xin từng vị rồi, chúng Tăng phải bạch nhị yết-ma để cho ông ta các thứ ấy.
Sở dĩ Phật cho phép xin là vì người này có công nuôi bệnh.
Lại có vật không nên phân là: Kinh, luật. Khi còn sống, người bệnh (biết mình sắp chết) phải nhờ đem kinh, luật mà mình có cho người có thể đọc tụng. Nếu người ấy không kịp đem cho thì chúng Tăng đang có mặt phải đem cho người có thể đọc tụng. Đó là vật không nên đem bán.
Nếu Tỳ-kheo qua đời tại nhà bạch y ở trong thôn, sau đó có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thức-xoama-na ni, Sa-di, Sa-di ni nào đến nhà đàn việt trước thì hãy đem vật đó cho vị ấy. Nếu không ai đến thì hãy đem vật đó cho chúng Tăng ở chùa gần đó nhất.
Thế nào gọi là vật dụng nuôi sống?-Đó là vật mà con người cần.
Thế nào là chẳng phải vật dụng nuôi sống?-Vật con người không dùng được gọi là vật chẳng nuôi sống.
Cho đến vật mà súc sanh cần thì gọi là vật nuôi sống, vật súc sanh không dùng được là chẳng phải vật nuôi sống.
Tỳ-kheo nào lấy vật nuôi sống của người khác thì phải nói với người ấy. nếu người ấy cho thì được lấy, không cho thì không được lấy.
Đối với vật nuôi sống của súc sanh thì trừ khi súc sanh đó hiểu được tiếng người, ngoài ra tuyệt đối không được lấy.
Đối với chúng sanh hiểu tiếng người, nếu muốn lấy thì phải hỏi, nếu được cho thì lấy, không cho thì không lấy.
Những vật mà Tỳ-kheo được phép chứa là: Bình bát, ba y, tọa cụ, kim chỉ, túi đựng bát, bình, chậu...
Những vật Tỳ-kheo không nên cất chứa là: Người nữ, vàng, bạc, hết thảy vật báu, tất cả khí giới chiến đấu, rượu, bình đựng rượu... Những vật như vậy Tỳ-kheo không nên cất chứa.
Tỳ-kheo Nan-đà có tâm dâm dục rất mạnh, có người nữ đảnh lễ vị ấy, vị ấy liền để chảy chất bất tịnh trên đầu cô ta. Nan-đà và cô ấy đều hổ thẹn, liền đến bạch Phật, Phật dạy: Phải làm túi để đựng. Phật cho phép chứa con dao để làm các việc sau: Một là dùng để gọt vỏ, hai là dùng để cắt móng tay, ba là dùng để mổ mụt nhọt, bốn là dùng để cắt y, năm là dùng để cắt những sợi lông trên y, sáu là dùng để tác tịnh trái cây, cho đến dùng làm các việc trong khi ăn, vì thế Phật cho phép cất chứa.
Phép cạo tóc là: Chỉ trừ lông và râu ở trên đầu, còn lông ở tất cả những chỗ khác đều không được cạo bỏ. Lý do cạo tóc là vì trừ bỏ tâm kiêu mạn, tự thị. Khi tóc dài không được dùng kéo để cắt mà hãy dùng dao cạo để cạo bỏ. Lý do Phật cấm dùng kéo là: Nhóm sáu Tỳ-kheo dùng kéo cắt tóc, các Tỳ-kheo bạch với Phật. Vì nhóm sáu Tỳ-kheo này, Phật chế giới không được dùng kéo. Nếu trên đầu Tỳ-kheo có mụt nhọt thì được dùng kéo hớt tóc và lớp vảy trên mụt nhọt để xức thuốc.
Tỳ-kheo không được làm dao bén bằng gỗ để nạo ghét, cạo lông. Nếu làm đứt một sợi lông thì phạm một Đột-kiết-la. Trừ lông trên đầu, nếu làm đứt một sợi ở nơi khác thì phạm Thâu-lan-giá. Đó là pháp cắt tóc.
Lại nữa, pháp cắt tóc là như cậu bé La-hầu-la: Lúc ấy, Phật đi từ cây Ni-câu-đà đến thành Caduy-la-vệ khất thực. Khi đó, Cù-di cùng La-hầu-la ở trên lầu cao. Thấy Phật đi vào thành, Cù-di liền chỉ Phật và bảo La-hầu-la rằng:
Đó là cha của con.
La-hầu-la liền xuống lầu, đến đảnh lễ Phật, Phật dùng tay xoa đầu La-hầu-la làm cậu bé rất sung sướng. Phật hỏi La-hầu-la:
Con thích xuất gia không? La-hầu-la đáp:
Con muốn xuất gia.
Phật liền dẫn La-hầu-la đến tinh xá Ni-câu-đà, bảo Xá-lợi-phất làm Hòa thượng cho La-hầu-la. Xá-lợi-phất bạch Phật:
Phải làm gì để cho cậu ấy xuất gia? Phật bảo Xá-lợi-phất:
Trước hết phải cạo tóc, cho mặc cà-sa rồi bảo quỳ xuống, chấp tay. Sau đó cho thọ Tam quy, Ngũ giới và mười giới Sa-di.
Đó là người đầu tiên cạo tóc, mặc áo cà-sa, thọ Tam quy y, Ngũ giới và mười giới.
Lúc ấy, nghe tin La-hầu-la xuất gia, vua Tịnhphạn liền đến chỗ Phật, lạy sát chân Phật rồi ngồi qua một bên, cúi đầu, rơi nước mắt, bạch với Phật:
Bạch đức Thế tôn! Anh em Ngài đã cùng nhau xuất gia. Trẫm trông mong La-hầu-la sẽ kế tục để tông miếu không bị chấm dứt. Nay vì sao Ngài lại độ cho La-hầu-la xuất gia?
Đức Phật liền nói cho vua cha nghe đủ công đức và lợi ích của việc xuất gia. Nhân đó, Phật răn dạy những người xuất gia:
Từ đây về sau, ai muốn xuất gia thì phải thưa với cha mẹ trước. Cha mẹ không cho thì không được xuất gia. Đó gọi là pháp độ Sa-di và việc ai muốn xuất gia thì phải được cha mẹ cho phép bắt đầu từ đó.
Phật ở tại nước Câu-diệm-di, Sư Tử Ý muốn xuất gia, không thưa cha mẹ mà đến thẳng chùa để xin xuất gia. Tăng liền cạo tóc cho vị ấy xuất gia. sau đó cha mẹ anh ta không biết con mình ở đâu nên tìm kiếm khắp làng nhưng vẫn không thấy. Họ lại đến chùa hỏi các Sa-môn, các vị ấy đều nói không thấy. Họ vào chùa tìm trong từng phòng, chợt thấy con mình đã cạo tóc xuất gia, cha mẹ vị ấy không vừa lòng mà nói:
Sa-môn Thích tử vì sao lại nói dối? Thật sự có độ con của người ta mà lại nói không thấy.
Các Tỳ-kheo liền bạch với Thế Tôn, Phật nói:-Từ nay trở đi, người nào muốn xuất gia thì phải thưa cha mẹ và được cha mẹ cho phép. Ai muốn độ Sa-di thì phải bạch với chúng Tăng về việc cạo tóc, truyền Tam quy y, Ngũ giới cho đến giới Sa-di cho người ấy. Nếu Tăng không đồng ý thì không được độ người ấy làm Sa-di
Việc cho xuất gia, độ Sa-di ở trong Tỳ-ni có nói rõ.
Các Tỳ-kheo mới xuất gia một thời gian thì tóc ra dài, liền đến bạch với Thế Tôn, Phật nói:
Được phép cạo tóc thường xuyên.
Đó là nhân duyên đầu tiên của việc cạo tóc thường xuyên.
Lúc ấy, Phật ở thành Vương-xá. Tóc Phật đã dài, do cung kính Phật nên không ai trong số các Tỳ-kheo dám cạo tóc cho Ngài. Có cậu bé Ưu-baly cùng cha mẹ đến chỗ Phật. Sau khi gặp Phật, cậu ấy liền nghĩ muốn cạo tóc cho Như-lai. Sau đó cậu ấy quỳ xuống, chấp tay, bạch Thế Tôn:
Con muốn cạo tóc cho Phật, xin Phật từ bi cho phép.
Phật liền bảo cậu ấy cạo tóc. Cha mẹ cậu ấy ở bên cạnh, bạch Thế Tôn:
Cậu bé cạo tóc giỏi không, thưa Thế Tôn?
Đức Phật nói:
Rất giỏi, nhưng đứng gần Phật quá.
Cậu bé liền xê thân ra và ngẩng đầu lên. Cha mẹ lại hỏi:
Cậu ấy cạo tóc giỏi không, bạch Thế Tôn?
Đức Phật nói:
Giỏi, nhưng ngẩng đầu quá cao.
Cậu bé liền cúi đầu xuống một ít. Cha mẹ lại hỏi Phật:
Cạo tóc giỏi không, thưa Thế Tôn? Đức Phật nói:
Giỏi, nhưng hơi thở ra vào rất thô.
Cậu ấy liền giữ hơi thở thật nhẹ nhàng và nhập vào thiền thứ tư. Phật bảo A-nan:
Đồng tử này đã nhập vào thiền thứ tư, ông hãy cầm lấy con dao cạo trong tay cậu ấy.
A-nan liền cầm con dao. Sở dĩ cậu ấy dám cạo tóc cho Như-lai là vì ba lý do: Một là do không biết gì nên xin cạo. Hai là do thần lực của Như-lai muốn làm cho cậu ấy đạt được thiền thứ tư nên cho cạo. Ba là muốn làm cho chúng sanh đời sau biết cạo tóc có công đức lớn nên cho cạo.
Lúc định cạo tóc, Phật bảo với mọi người:
Không được dùng y cũ và bình cũ để đựng tóc này, hãy dùng những vật mới để đựng.
Lúc Phật cạo tóc, vương tử Cù-ba-la đến chỗ Phật, xin tóc của Phật để đem về nước cúng dường. Phật liền đồng ý. Vương tử hỏi Thế Tôn:
Tóc này nên dùng vật gì đựng để cúng dường?
Đức Phật nói:
Nên dùng bảy báu làm đồ để cúng dường. Theo lời Phật dạy, vương tử liền làm chiếc bình bằng bảy báu để đựng tóc. Lại hỏi Thế Tôn:
Khi đi nên dùng voi, ngựa, xe hay đặt trên vai, hoặc trên đầu để chở đi?
Đức Phật nói:
Dùng phương tiện gì cũng được, nhưng khi đi phải tấu các loại âm nhạc rồi mang đi.
Vương tử làm theo lời Phật dạy. Trên đường đi, nghe tin có giặc từ nước khác đến, vương tử liền dựng một ngôi tháp lớn ở giữa đường để cúng dường tóc Phật. Tháp này gọi là tháp thờ tóc Phật. Tôn giả Ca-diếp-duy nói:
Phàm phép cạo tóc, Thượng tọa nên cạo trước. Lại có người nói: "Người tóc dài nên cạo trước".
Lại có chỗ nói: "Người gội đầu trước nên cạo trước". Lại có người nói: "Người có việc định đi nên cạo trước". Đó là cạo tóc đúng pháp.
Lại nữa, pháp của Tỳ-kheo là không được cố giết chúng sanh để ăn. Thức ăn có ba loại: một là thấy, hai là nghe, ba là nghi. Thức ăn mà mình thấy, nghe, nghi như vậy thì không được ăn. Nếu có đàn-việt muốn cúng tế trời, nên suy nghĩ: "Nếu có ai đến đây thì đều đem cho thức ăn, không có phân biệt. Chúng sanh bị giết là để dành cho tất cả những người đi đến đây". Tỳ-kheo nào được loại thịt như vậy thì không nên ăn.
Một lúc nọ, Phật ở tại nước Tỳ-xá-ly, gặp lúc mất mùa, thóc lúa quý hiếm, khất thực khó được. Những người có thần thông trong số các Tỳ-kheo dùng thần lực của mình đến nước ngoại đạo khất thực. Các ngoại đạo thấy các Tỳ-kheo đến khất thực, không thích sự dơ bẩn của họ nên đem thức ăn đặt xuống đất và bỏ đi. Các Tỳ-kheo bạch Phật:-Do khó kiếm được thức ăn, các Tỳ-kheo có thần thông dựa vào sức thần thông để đến nước ngoại đạo khất thực. Ngoại đạo thấy họ thấp kém nên đem thức ăn để dưới đất và bỏ đi. Việc này phải làm sao?
Đức Phật nói:
-Tuy tay không nhận nhưng họ đem đến đặt trước mặt là đã cho rồi. Các vị chỉ việc nhận lấy. Đó tức là nhận thức ăn và được gọi là nhận dùng do người khác đã có hành động cho.
Người không hợp với Tỳ-ni là: Người gọi pháp là phi pháp, gọi phi pháp là pháp, cho đến ngôn luận nói chẳng phải ngôn luận, chẳng phải ngôn luận nói là ngôn luận. Đó gọi là không hợp với Tỳ-ni.
Lại nữa, người không hợp với Tỳ-ni là: Tỳ-kheo nói với các Tỳ-kheo khác: "Tôi không thể học pháp này, dùng việc nhỏ nhặt đó làm gì? Đại đức, tôi cũng biết pháp này đi vào Tỳ-ni, đi vào khế kinh" Cần biết rõ như vậy. Đó gọi là không hợp với Tỳ-ni.
Hợp với Tỳ-ni là: Như lời Phật dạy, việc này nên làm, việc này không nên làm; việc này phạm, việc này không phạm. Không làm trái lời Phật dạy nghĩa là hợp với Tỳ-ni.
Thế nào gọi là người nuôi dưỡng?-Đó chính là tịnh nhân của chúng Tăng.
Phi nhân đóng vai trò vật nuôi dưỡng là: Voi, lạc đà, ngựa, lừa, bò. Chúng có thể chở chúng Tăng đi xa nên gọi phi nhân ấy là vật nuôi dưỡng.
Thế nào là trái cây ăn được?-Lúc ấy, trong thành Vương-xá có đại trưởng giả, có nhiều cây ăn quả. Trưởng giả sai người đem trái cây đi cúng dường chúng Tăng và bảo:
Ông hãy đến chùa tìm gặp Thích tử Bạt-nanđà, đưa số trái cây này cho ông ấy để ông ấy dâng cho chúng Tăng.
Lúc này, đã sắp đến giờ ăn, Bạt-nan-đà đi ra ngoài đến quá trưa nên các Tỳ-kheo không được ăn trái cây. Khi ấy, Thế Tôn đi du hóa đến rừng Mật Phong, có một Tỳ-kheo bệnh, cần dùng quả Ha-lê-lặc. Các Tỳ-kheo bạch với Phật, Phật liền cho phép dùng ba quả: Ha-lê-lặc, Tỳ-hê-lặc, A-malặc. Nếu bệnh không khỏi thì được phép dùng cho đến khi hết bệnh.
Một lúc nọ, Tỳ-xá-khư-lộc-mẫu có được nhiều trái cây ngon ngọt nhưng không dám ăn, liền thỉnh Phật và chúng Tăng đến để cúng dường thức ăn, nhân tiện cúng dường trái cây ấy cho Phật và Tăng. Phật và chúng Tăng thọ trai xong liền ra về. Do có việc bận nên Tỳ-xá-khư-lộc-mẫu quên không đem trái cây lên dâng. Sau đó nhớ lại, bà ấy suy nghĩ: "Sở dĩ ta thỉnh Phật và Tăng là vì muốn cúng dường số trái cây này. Nay vì sao lại quên đi?" Bà ấy liền cho người mang trái cây đến cúng cho Phật và Tăng. Chúng Tăng nghi ngờ không dám nhận, liền đến bạch Phật, Phật dạy:
Hãy làm phép thức ăn dư rồi ăn thì không có lỗi.
Trong vùng đất thanh tịnh của chúng Tăng bỗng mọc một cây ăn trái. Cây ấy rất lớn, có cành hướng qua vùng đất bất tịnh. Phật nói với các Tỳ-kheo:
Bảo tịnh nhơn dùng dây kéo cho hướng về vùng đất thanh tịnh.
Sau đó có Tỳ-kheo sanh nghi: "Trái cây này vốn ở vùng đất bất tịnh, nay kéo qua vùng đất thanh tịnh, vậy có ăn được không?
Đức Phật nói:
Nếu trái cây rụng ở nơi đất bất tịnh thì không được ăn. Nếu chưa rụng thì được ăn.
Lại có cây ăn quả mọc ở vùng đất bất tịnh, nhưng cành nhánh đều nằm ở vùng đất bất tịnh. Nếu trái cây ấy rụng nơi đất bất tịnh thì được ăn. Nếu không rụng thì không được ăn.
Lại có một lúc các Tỳ-kheo có được nhiều loại trái cây, nhưng người ít mà trái cây nhiều nên ăn không thể hết, số còn dư không biết dùng làm gì, họ đến bạch Phật, Phật bảo:-Cho phép ép lấy nước để đến đầu hôm uống. Nếu chưa đến đầu hôm, nước trái cây biến đổi thành rượu đắng thì không được uống. Vì sao vậy?-Vì nó đã thành rượu.
Có Tỳ-kheo ăn loại trái cây bất tịnh. Các ngoại đạo liền khinh chê mà nói: "Các Tỳ-kheo không có lòng từ bi. Trái cây này có sanh mạng, vì sao lại ăn sanh mạng?". Vì sự khinh chê của thế gian nên Phật liền chế giới:
Các Tỳ-kheo phải tác tịnh trái cây rồi mới được ăn, không tác tịnh thì không được ăn.
Tác tịnh gồm có năm cách: Một là tác tịnh bằng lửa, hai là tác tịnh bằng dao, ba là tác tịnh do chim ăn, bốn là tác tịnh do trên trái cây có phần bị hư hoại, năm là tác tịnh bằng cách lấy hạt ra.
Lại có bảy cách tác tịnh: Một là tác tịnh bằng cách gọt vỏ, hai là tác tịnh bằng cách bổ ra, ba là tác tịnh để cho rã, bốn là tác tịnh để cho héo, năm là tác tịnh bằng cách cứa làm rách ra, sáu là tác tịnh để cho nước cuốn trôi, bảy là tác tịnh để cho bụi đất phủ.
Đó là pháp tác tịnh.
Bấy giờ, đức Thế Tôn nhập Niết-bàn giữa hai cây Sa-la, tại thành Câu-thi-na-kiệt, thuộc nước Ba-Bàn. Năm trăm lực sĩ dòng Sát-đế-lợi,... đến chỗ Phật dùng các loại nước thơm tắm rửa thân Phật, kế đó dùng vải trắng kiếp bối quấn quanh thân Như-lai. Lại dùng năm trăm xấp lụa trắng mềm mại quấn xung quanh, dùng bơ, dầu, dầu thơm để vào quan tài bằng sắt, sau đó đặt thân Như-lai vào. Họ lại đem các loại củi thơm chất thành đống và giã các loại hương bột rải lên đống củi. Có một lực sĩ cầm ngọn đuốc định đốt đống củi, chư thiên liền dập tắt không cho cháy. A-naluật bảo các lực sĩ:
Các anh chẳng nên gắng sức mệt nhọc, chư thiên không muốn cho cháy.
Các lực sĩ hỏi A-na-luật:
Vì sao chư thiên không muốn cho cháy? A-naluật đáp:
Chư thiên muốn cho Ma-ha Ca-diếp thấy thân Như-lai.
Lúc ấy, trời mưa hoa Mạn-đà-la cúng dường Như-lai. Có một ngoại đạo tên A-bạt nhặt được một cánh hoa Mạn-đà-la ở cạnh Như-lai và mang hoa ấy đến nước Ba-Bà. Trên đường đến nước BaBà, ông ta gặp Ma-ha Ca-diếp và năm trăm đệ tử đang đi trên đường. Ca-diếp hỏi:
Ông từ đâu đến?
Đáp:-Từ thành Câu-thi-na-kiệt đến. Lại hỏi:
Có gặp Như-lai, đại sư của ta không?
Đáp:-Thầy ông đã nhập Niết-bàn được bảy ngày. Chư thiên đã làm mưa hoa cúng dường Nhưlai. Đây là loại hoa ấy.
Ma-ha Ca-diếp buồn rầu không vui. Các đệ tử đều lăn lộn dưới đất như con cá bị vớt khỏi nước, dính đầy bụi đất. Họ đều nói:
Từ đây chúng ta vĩnh viễn mất đi bóng mát!
Họ thốt ra đủ các lời lẽ như vậy. Thích tử BAnan-đà can ngăn các Tỳ-kheo:
Không cần buồn rầu như vậy. Khi còn tại thế, Thế Tôn đã ngăn cấm đủ thứ, nay Ngài đã nhập Niết-bàn, chúng ta được tự do, tùy ý làm hay không làm mọi việc, cần gì phải buồn rầu.
Nghe lời này, Ma-ha Ca-Diếp càng thêm buồn thảm nên nói:
Như-lai là bậc Sư-tử ở trong các biện luận, giáo pháp mà Ngài đã nói không ai có thể hủy hoại. Ngài có thể điều phục tất cả ngoại đạo và làm chủ đối với tất cả các pháp. Pháp vương, Pháp chủ, Như-lai, Ứng cúng, Chánh biến tri mới nhập Niếtbàn chưa được bao lâu, vì sao kẻ ác phát ra lời như vậy không chút hổ thẹn ở trước đại chúng?!
Sau khi than thở xong, Ma-ha Ca-diếp cùng năm trăm Tỳ-kheo đi đến chỗ Như-lai. Khi đã đến nơi, Tôn giả bảo A-nan:
Ta muốn thấy thân của Như-lai. A-nan đáp:-Thân của Như-lai đã được các lực sĩ dùng vải kiếp bối và lụa trắng quấn xung quanh và đặt vào trong quan tài, đem đủ loại gỗ thơm chất thành đống, vậy làm sao có thể thấy được?
Khi A-nan nói lời này xong, do thần lực của
Phật, hai chân của Như-lai xuất hiện. Ca-diếp xem chân Như-lai, thấy chân bị dính vết bẩn, liền hỏi A-nan:
Trên chân Như-lai vì sao dính bẩn như vậy? A-nan nói:
Khi Như-lai sắp Niết-bàn, có các người nữ thương xót, quyến luyến, đảnh lễ chân Như-lai, làm chân Ngài bị dính vết bẩn.
Phật hiện cho Ca-diếp thấy chân của Ngài xong, liền ẩn vào trở lại. Ca-diếp nhiễu quanh Như-lai bảy vòng và nói kệ ca ngợi, lửa liền tự nhiên bùng cháy.
Sau khi cúng dường Như-lai xong, Ca-diếp liền tập hợp năm trăm đại A-la-hán ở tinh xá Trúc Lâm, tại núi Kỳ-xà-quật, thuộc thành Vương-xá mà nói:
Khi ở trên đường đi từ nước Ba-Bà đến đây, nghe Như-lai đã nhập Niết-bàn, năm trăm Tỳ-kheo cùng đi với tôi đều buồn rầu áo não, Thích tử Bạtnan-đà bỗng nói: "Như-lai còn tại thế thì pháp luật rất nghiêm khắc. Sau khi Như-lai diệt độ, mỗi chúng ta tùy ý làm mọi việc, cần gì phải buồn rầu". Nếu các ngoại đạo nghe lời này sẽ nói: "Khi Thế Tôn còn tại thế, các Thích tử lo tu hành theo giáo pháp. Sau khi Như-lai diệt độ thì họ đều phế bỏ việc tu hành". Chúng ta hãy tập hợp lại, kết tập kinh tạng để giáo pháp không bị mai một. Các A-la-hán đáp:
Chúng ta kết tập kinh tạng cần phải nhờ Tôn giả A-nan. Ca-diếp đáp:
A-nan chưa dứt sạch kiết sử, lậu hoặc, làm sao được ở trong chúng này? Các La-hán đáp:
Những đoạn kinh bị quên, chúng ta cần phải hỏi vị ấy. Ca-diếp nói:
Nếu vậy cần phải làm yết-ma cho phép để vị ấy được vào chúng Tăng.
Sau khi đã an tọa, năm trăm vị Tăng đem năm bộ kinh kết tập thành ba tạng. Trong các kinh, đoạn nào nói về giới luật Tỳ-kheo thì kết tập thành kinh Tỳ-kheo, đoạn nào nói về giới luật tương ưng với giới luật của Ni thì kết tập thành kinh Tỳ-kheo-ni, cho đến đoạn nào tương ưng với y công đức thì kết tập thành kiền độ y công đức.
Các kinh như kinh Kiền-độ-mẫu, kinh Tăngnhất Tỳ-kheo, kinh Tỳ-kheo-ni được tổng hợp lại thành tạng Tỳ-ni. Trong các kinh, đoạn nào tương ưng với Trường A-hàm thì tập hợp vào Trường Ahàm, đoạn nào tương ưng với Trung A-hàm thì tập hợp vào Trung A-hàm. Các đoạn có liệt kê số từ 1, 2, 3, 4 cho đến 11 trở lên thì được tập hợp vào Tăng-nhất A-hàm. Các kinh tương ưng với cả Tỳ-kheo lẫn Tỳ-kheo-ni, Đế thích, chư thiên, Phạm vương thì tập hợp thành bộ Tạp A-hàm.
Hoặc Pháp cú, hoặc thuyết nghĩa, hoặc Ba-laduyên, các kinh do Như-lai nói từ khế kinh cho đến Luận nghị, phần nào tương ưng với tạp tạng thì tập hợp thành tạp tạng.
Năm loại như vậy gọi là tạng Kinh. Phân biệt khi có người hỏi, phân biệt khi không có người hỏi, những kinh tương ưng với năm loại trên và phát sanh từ năm loại trên gọi là tạng luận. Mười lăm loại kinh này tập hợp thành ba tạng.
Tôn giả A-nan sửa áo bày vai phải, chấp tay bạch Tôn giả Ma-ha Ca-diếp:
Trước đây, khi ở bên cạnh Như-lai, tôi nghe
Ngài nói: "Sau khi Ta diệt độ nên tập hợp chúng Tăng để xả bỏ những giới nhỏ nhặt". Ca-diếp lại hỏi A-nan:
Ông đã đích thân nghe Như-lai nói như thế.
Vậy giới nhỏ nhặt là những giới nào? A-nan đáp:
Vào lúc ấy, vì bị buồn khổ bức ngặt nên tôi mê mờ, không hỏi được.
Ca-diếp liền quở trách A-nan:
Lời ông nói thật chẳng đúng lúc, trước đây sao ông không hỏi Thế Tôn, nay lại nói là quên không hỏi. Lúc ấy, Ca-diếp bảo các Tỳ-kheo:
Chúng ta hãy cùng suy nghĩ về việc này.
Những giới nào là giới nhỏ nhặt? Có một Tỳ-kheo nói:
Trừ bốn Ba-la-di, những giới còn lại là giới nhỏ nhặt.
Mỗi người lần lượt nói, cho đến có người nói: "Trừ chín mươi Ba-dật-đề, số còn lại là giới nhỏ nhặt".
Trưởng lão Ca-diếp nói:
Lời các vị nói đều chưa nhất trí giới nào là nhỏ nhặt. Chúng ta sẽ thực hành tất cả những giới luật Phật đã chế. Những điều Phật không nói thì chẳng phải bàn ở đây. Nếu ta xả bỏ giới nhỏ nhặt thì các ngoại đạo sẽ phỉ báng: "Sau khi Như-lai diệt độ, các giới nhỏ nhặt đều bị các Tỳ-kheo xả bỏ. Pháp của Sa-môn Cù-Đàm giống như khói của lửa, vừa sanh đã diệt. Nếu xả bỏ giới nhỏ nhặt, chỉ giữ bốn giới trọng thì làm sao gọi là Sa-môn?".
Vì lý do này, tôn giả Ca-diếp trách A-nan về bảy việc. Một trong bảy việc đó là việc A-nan cầu xin cho người nữ xuất gia. Có mười lý do để quở trách A-nan về việc này:
Một là, nếu người nữ không xuất gia thì các đàn việt thường đựng thức ăn đầy bát, quỳ ở cạnh đường để dâng cho các Sa-môn.
Hai là, nếu người nữ không xuất gia thì các đàn việt thường đem y phục, ngọa cụ đi ngược đường tìm Sa-môn để cúng dường.
Ba là, nếu người nữ không xuất gia thì các đàn việt thường cỡi voi, ngựa, xe đến cạnh đường, gieo năm vóc xuống đất mời các Sa-môn bước qua.
Bốn là, nếu người nữ không xuất gia, thì các đàn việt thường dùng tóc mình trải lên đất ở giữa đường mời Sa-môn bước qua.
Năm là, nếu người nữ không xuất gia thì các đàn việt thường cung kính thỉnh Sa-môn đến nhà cúng dường.
Sáu là nếu người nữ không xuất gia thì khi gặp Sa-môn, các đàn việt thường cung kính quét sạch đất, cởi áo trải ra đất cho Sa-môn ngồi.
Bảy là, nếu người nữ không xuất gia thì các đàn việt thường cởi áo lau bụi trên chân Tỳ-kheo.
Tám là nếu người nữ không xuất gia thì các đàn việt thường xõa tóc lau bụi trên chân Tỳ-kheo.-Chín là, nếu các người nữ không xuất gia thì oai đức của Sa-môn sáng hơn cả mặt trời, mặt trăng, huống chi các ngoại đạo làm sao có thể sánh với Sa-môn được?
Mười là, nếu người nữ không xuất gia thì chánh pháp của Phật trụ thế một ngàn năm. Nay do người nữ xuất gia nên giảm xuống còn năm trăm năm. Trong một trăm năm được giải thoát kiên cố, một trăm năm được định kiên cố, một trăm năm được trì giới kiên cố, một trăm năm được đa văn kiên cố, một trăm năm được bố thí kiên cố.
Trong một trăm năm đầu
Pháp giải thoát kiên cố
An trụ trong pháp ấy
Ắt hiểu nghĩa giải thoát
Một trăm năm thứ hai
Lại có định kiên cố
Một trăm năm thứ ba
Trì giới không hủy hoại
Một trăm năm thứ tư
Nhiều người được đa văn
Một trăm năm thứ năm
Nhiều người thích bố thí
Từ đó pháp Như-lai
Giảm dần trong từng niệm
Như bánh xe đã quay
Sẽ dừng lại từ từ
Lý do chánh pháp ẩn
Là lỗi của A-nan
Đã xin bậc Điều ngự
Cho người nữ xuất gia
Đáng lẽ chánh pháp trụ
Đầy đủ một ngàn năm
Giảm còn năm trăm năm
Còn lại đều như cũ
Vì thế năm trăm năm
Năm pháp được phát triển
Giải thoát, định, trì giới
Đa văn và bố thí.
Khi các Tỳ-kheo sắp kết tập Pháp tạng, lúc ấy, Tôn giả Ma-ha Ca-diếp vỗ bàn tay xuống đất làm phát ra âm thanh vang động giống như tiếng chuông đồng. Khi đó, thầy trò Phú-lan-na-năm trăm A-la-hán trước đây sống ở thành Vương-xá-nghe âm thanh này liền nói với nhau: "Giờ kết tập Pháp tạng đã tới". Tôn giả Phú-lan-na với đồ chúng gồm năm trăm vị La-hán cùng nhau đi đến chỗ của Tôn giả Ma-ha Ca-diếp ở tinh xá Trúc Lâm, thuộc thành Vương-xá. Khi đến nơi, họ nói với Ma-ha Ca-diếp:
Chúng tôi nghe tin Tôn giả và năm trăm vị La-hán sắp kết tập Pháp tạng tại tinh xá Trúc-Lâm, thuộc thành Vương-xá, chúng tôi cũng muốn được nghe.
Tôn giả Ma-ha Ca-diếp liền nói với Phú-lan-na về lý do kết tập Pháp tạng. Phú-lan-na nói với tôn giả Tôn giả Ma-ha Ca-diếp:
Thưa Đại đức, tôi đã nghe lý do kết tập Pháp tạng, việc đó thật tốt, chẳng thể nói hết. Nhưng đối với tám pháp, tôi có chỗ không hiểu. Đó là thức ăn để cách đêm ở trong đại giới cho đến các loại rau, củ ở bờ ao, tám loại này tôi đã đích thân nghe Phật nói là Như-lai cho phép chứa, nhưng Ngài lại nói là không cho phép chứa. Đó là chỗ tôi không hiểu. Tôn giả Ca-diếp đáp:
Đúng như lời thầy nói. Gặp lúc đói kém, thóc lúa quý hiếm, khất thực khó được, Phật thương xót chúng sanh nên cho phép cất chứa. Đến lúc no đủ, thóc lúa rẻ, khất thực dễ được thì Như-lai lại không cho cất chứa.
Phú-lan-na nói:
Thưa Đại đức! Như-lai là bậc thầy thấy biết tất cả, lúc cần cất chứa thì cho mọi người biết đó là thời gian được phép cất chứa. Khi cần xả bỏ thì cho mọi người biết là đã đến lúc phải xả bỏ.
Tôn giả Ca-diếp đáp:
Vì lý do này, Phật biết thời mới nói là: Lúc này nên cất chứa, lúc này không nên cất chứa. Này Phú-lan-na, vì thế chúng ta nên theo Như-lai, lúc nào Ngài cấm ngăn thì chúng ta cũng cấm ngăn theo, lúc nào Ngài cho phép thì chúng ta cũng cho phép. Như-lai Ứng cúng thành tựu tám loại pháp hoàn hảo: một là hoàn toàn đạt được trí Kim cương, hai là đoạn trừ tất cả phiền não, phá tan bóng tối vô minh, ba là không còn bị chướng ngại đối với tất cả các pháp, bốn là được tự tại ở tất cả mọi nơi, năm là chế phục hoàn toàn các dị luận của ngoại đạo, sáu là chỉ cho chúng sanh thấy rõ việc lợi ích và không lợi ích, bảy là giúp chúng sanh phân biệt đúng pháp, tám là có thể khéo léo chế định các việc phạm hay không phạm một cách tự tại vô ngại. Người thành tựu tám pháp ấy được gọi là Pháp vương, Pháp chủ.
Lúc ấy, Tôn giả Ma-ha Tôn giả Ca-diếp hỏi Anan:
Việc này như thế nào? Tôn giả A-nan trả lời:
Tôi đã đích thân nghe Phật dạy, giống như Tôn giả đã trả lời Phú-lan-na. Người nào thực hành đúng như lời Phật dạy thì người đó có thể làm rạng rỡ Phật pháp. Vì thế cần phải thực hành như pháp. Nghe lời này xong, các đệ tử của Phú-lan-na liền tu hành như pháp, tức là làm rạng rỡ Phật pháp. Đó là Pháp tạng được kết tập do năm trăm Tỳ-kheo ở trong núi Tuyết.
Nay nói về việc bảy trăm Tỳ-kheo kết tập Pháp tạng:
Sau khi Như-lai Niết-bàn một trăm năm, các Tỳ-kheo thuộc dòng Tỳ-lợi-kỳ ở Tỳ-xá-ly tự thực hành và rao truyền:
Theo lời Phật dạy, ai thực hành mười pháp sau đây là làm rạng rỡ Phật pháp: Một là được dùng hai ngón tay để lấy thức ăn; hai là khi vào xóm làng được cúng dường thức ăn, nói đã no rồi, không nói chưa no, sau đó lại được thức ăn, không làm phép thức ăn dư vẫn được ăn; ba là được làm pháp sự theo phe nhóm bên trong cương giới; bốn là ca ngợi việc làm pháp sự theo phe nhóm là hoàn hảo; năm là pháp người trước đã làm, người sau làm trở lại, việc nào cũng đều thành tựu; sáu là bơ, dầu, mật ong, đường phèn hòa với cao sữa thì được ăn phi thời; bảy là muối nhận được vào ngày hôm trước thì hôm nay được trộn với cơm để ăn; tám là được phép uống rượu vừa lên men; chín là được trải loại tọa cụ không cần cắt tua; mười là được tự tay cầm và được cất chứa vàng bạc, bảy báu.
Vì lý do này, Tôn giả Da-xá dòng họ Ca-lan-đà muốn diệt trừ tai họa đó, liền cho tập hợp bảy trăm La-hán ở thành Tỳ-xá-ly.
Sau khi chúng Tăng đã tập hợp, Tôn giả Da-xá dòng họ Ca-lan-đà liền hỏi tôn giả Ly-bà-đa: Khi vào trong làng thọ thực, Tỳ-kheo có được dùng hai ngón tay lấy thức ăn mà ăn không?
Tôn giả Ly-bà-đa đáp:
Không được dùng hai ngón tay lấy thức ăn mà ăn. Tôn giả Da-xá hỏi:
Phật quy định không được dùng hai ngón tay lấy thức ăn mà ăn ở đâu? Ly-bà-đa đáp:
Phật chế định điều đó trong phần tàn thực ở tại nước Xá-vệ. Tôn giả Da-xá lại hỏi tôn giả Lybà-đa:
Nếu Tỳ-kheo ăn đã no, không làm phép thức ăn dư, có được ăn nữa không?
Đáp:-Không được. Tôn giả Da-xá lại hỏi:
Có được làm pháp sự bên trong cương giới không? Tôn giả Ly-bà-đa liền hỏi:
Làm những pháp sự gì trong cương giới? Đáp:
Làm pháp sự theo phe nhóm.
Tôn giả Ly-bà-đa đáp:
Không được.
Hỏi:-Điều này được chế định ở đâu? Đáp:-Được chế định trong kiền độ Bố-tát, ở thành Vương-xá. Tôn giả Da-xá lại hỏi:
Có được ca ngợi việc làm pháp sự theo phe nhóm bên trong cương giới là hoàn hảo không?
Đáp:-Không được. Điều này cũng được chế định trong phần kiền độ Bố-tát ở thành Vương-xá. Tôn giả Da-xá lại hỏi tôn giả Ly-bà-đa:
Việc đã làm trước đây, nay có được làm lại không? Tôn giả Ly-bà-đa liền hỏi:
Thế nào gọi là làm lại? Tôn giả Da-xá nói:
Việc này đã làm, nay làm.
Đáp:-Nếu việc này không hợp với kinh, luật, luận thì nếu đã làm, nay không được làm nữa, nếu chưa làm thì không nên làm, nếu đang làm thì hãy ngưng, không được làm nữa. Nếu việc này hợp với Tam tạng thì nếu đã làm, hãy làm tiếp; nếu chưa làm thì hãy làm; nếu đang làm thì hãy tiếp tục làm.
Tôn giả Da-xá lại hỏi tôn giả Ly-bà-đa:
Tỳ-kheo có được ăn thức ăn ngon không?
Tôn giả Ly-bà-đa liền hỏi:-Thế nào là thức ăn ngon? Tôn giả Da-xá nói:
Bơ, dầu, mật ong, đường phèn hòa với cao sữa là thức ăn ngon.
Đáp:-Không được ăn.
Hỏi:-Việc này được chế định ở đâu?
Đáp:-Chế định trong phần tàn thực, ở nước Xá-vệ. Tôn giả Da-xá lại hỏi:
Có được ăn loại muối đã được nhận không?
Tôn giả Ly-bà-đa liền hỏi:
Thế nào là muối đã được nhận? Tôn giả Daxá đáp:
Muối được nhận vào hôm qua.
Lại hỏi: Muối đó hôm nay có được trộn vào cơm để ăn không?
Đáp:-Không được ăn.
Hỏi:-Chế định điều đó ở đâu?
Đáp:-Điều đó được chế định trong phần kiền độ Dược thảo, tại nước Xá-vệ.
Lại hỏi tôn giả Ly-bà-đa:
Tỳ-kheo có được uống rượu vừa lên men không?
Đáp:-Không được.
Hỏi:-Chế định điều đó ở nơi nào?
Đáp:-Điều đó được chế định tại nước Câudiệm-di, vì Tỳ-kheo Bà-đề. Tôn giả Da-xá lại hỏi:
Được chứa loại phu cụ chưa cắt tua không? Đáp:-Không được.
Hỏi:-Chế định việc này ở nơi nào?
Đáp:-Việc này được chế định tại nước Xá-vệ, vì nhóm sáu Tỳ-kheo. Lại hỏi:
Tỳ-kheo có được chứa vàng, bạc, châu báu không?
Đáp:-Không được.
Hỏi:-Chế định việc này ở nơi nào?
Đáp:-Việc này được chế định tại thành Vương-xá, vì Thích tử Bạt-nan-đà. Vì lý do này cần phải kết tập lại Pháp tạng để giúp các Tỳ-kheo bỏ ác tu thiện. Nơi nào có bốn người cư trú cho đến có nhiều người cư trú mà biết pháp và tu hành đúng pháp thì làm cho Phật pháp được rạng rỡ. Hoặc Hòa thượng, A-xà-lê, hoặc người biết pháp, nếu những người này đều có thể tu hành như pháp thì làm cho Phật pháp được phát triển.
Có hai loại pháp không thể làm trái ngược, đó là pháp Phật và pháp Chuyển luân Thánh vương.
Vì lý do ấy cần phải tập hợp bảy trăm vị Tăng để kết tập Pháp tạng. Lý do kinh ấy được gọi là kinh Tỳ-ni là vì ở trong các kinh, phần nào tương ưng với Tỳ-ni thì được tập hợp lại thành kinh Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni. Trong các kinh, phần nào tương ưng với y công đức thì được tập hợp thành kiền độ y công đức. Kinh Tỳ-kheo, kinh Tỳ-kheo-ni, tất cả các kiền độ, Ma-đắc-lặc-già, Tỳ ni tăng nhất, năm bộ này hợp thành tạng Tỳ-ni. Vì thế được gọi là kinh Tỳ-ni.
Kinh là pháp được diễn nói rất rộng lớn, nói về rất nhiều việc nên gọi là rộng. Chúng ta đang truyền trao pháp lớn nên gọi là lớn. Chúng ta đang diễn nói pháp lớn, Tỳ ni lớn nên nói là rộng lớn. Do pháp ấy được bậc đại nhân giảng nói nên gọi là lớn. Bậc đại nhân là chư Phật, Thế Tôn. Do được bậc đại nhân này nói ra nên pháp ấy được gọi là lớn và lại nói là rộng.
Có vị Đại đức Tỳ-kheo nói tóm lược kinh, hoặc trước nhiều Tỳ-kheo hoặc trước bốn, ba, hai, một Tỳ-kheo, vị ấy giảng kinh đó và nói: "Đích thân tôi đã nghe Phật giảng như vậy". Bậc Thượng tọa có đức độ, hiểu biết nên tư duy về nghĩa lý lời giảng của vị ấy. Nếu nghĩa lý đó tương ưng với Tam tạng thì Thượng tọa ấy nên nói: "Lời giảng của Đại đức rất hay. Nếu có ai theo học thì hãy đem pháp ấy dạy lại cho họ". Nếu nghĩa lý đó không tương ưng với Tam tạng thì Thượng tọa ấy nên nói: "Đại đức chớ có thực hành pháp này, cũng không được dạy người khác thực hành pháp này".
Vì thế, giảng rộng là giảng nói sự điều phục lớn trong hiện tại. Đó gọi là giảng rộng. Nếu có người thông minh, tài giỏi, tự cho mình đầy đủ khả năng này, cố chấp vào hiểu biết đó, cạnh tranh với giáo pháp mà Như-lai đã nói thì cũng như người cầm vàng giả sánh với vàng thật. Nếu khó phân biệt được thật giả thì hãy dùng lửa đốt, thật giả sẽ tự hiện. Cũng vậy, nếu có ai đưa ra pháp tà ngụy rồi nói là pháp của Như-lai nói thì hãy đem đối chiếu với Tam tạng sẽ biết được sự thật, giả của nó.
Ví như ở đời có vị thầy thuốc giỏi, lại có người chẳng phải thầy thuốc mà nói dối tự xưng là thầy thuốc; có người không phân biệt được nên đến chỗ thầy thuốc giả mạo để chữa bệnh, liền bị mất mạng. Việc đó cũng giống như người đời không biết pháp chơn chánh, thực hành theo pháp tà ngụy thì có thể làm cho thân mạng, tâm thiện bị tiêu diệt.
Người làm cho chánh pháp không bị tiêu diệt là người thực hành theo lời Phật dạy và Tỳ-ni Phật đã nói. Người này có thể làm cho chánh pháp rạng rỡ ở đời. Vì sao vậy?-Người này biết đây là điều Phật nói, đây chẳng phải là điều Phật nói, vì vậy có thể xiển dương chánh pháp. Đó gọi là giảng rộng.
Tôn giả Tát-bà-đa nói:
Có bốn cách giảng rộng về việc tốt và bốn cách giảng rộng về việc xấu. Vì lý do gì mà gọi là giảng rộng về việc tốt?-Bởi vì nhờ kinh này ta mới biết đây là lời Phật dạy, đây chẳng phải lời Phật dạy. Nếu gặp người có tài biện luận, có thể hiểu rõ các việc đúng sai và nói cho người khác hiểu thì phải ghi nhớ lời giảng đó. Giảng rộng về việc xấu cũng phải như giảng rộng về việc tốt.
Bốn trường hợp là: hoặc nhiều người, hoặc ba, hoặc hai, hoặc một người. Đó gọi là bốn.
Lại nữa, có Tỳ-kheo nói với đại chúng:
Ở thành Phù-di, Thế Tôn dạy các Tỳ-kheo: hoặc ở làng, hoặc ở xóm, chính tôi đã đích thân nghe Phật dạy: "Đây là pháp, đây là Tỳ-ni, đây là lời thầy dạy". Điều Tỳ-kheo này nói có thể đúng hoặc sai. Nếu điều đó hợp với Tăng nhất A-hàm, Trung Ahàm, Trường A-hàm, Tạp A-hàm, kinh Tỳ-kheo, kinh Tỳ-kheo-ni, các kiền độ, Tạng luận và hợp với pháp thì nên bảo: "Đại đức hãy siêng năng thực hành và dạy người khác siêng năng thực hành pháp này".
Nếu điều đó không hợp với pháp thì nên bảo: "Đại đức không nên tự thực hành, cũng không nên dạy người khác thực hành pháp này". Đó là trường hợp giảng rộng đầu tiên.
Trường hợp thứ hai, thứ ba, cho đến thứ tư cũng nói như vậy.
Trường hợp thứ nhất là trước đại chúng, trường hợp thứ hai là trước bốn người, trường hợp thứ ba là trước hai người, trường hợp thứ tư là trước một người. Đó gọi là giảng rộng.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
Ta dạy các ông một câu kinh, một bài kệ, hoặc nhiều, hoặc ít. Điều nào nên làm thì các vị hãy làm theo lời dạy, điều gì không nên làm thì các vị theo lời dạy chớ có làm. Nếu lời nói của Tỳ-kheo đời sau hợp với Tam tạng thì cũng phải thực hành theo. Nếu lời Ta nói-hoặc nhiều hoặc ít-mà không nên thực hành thì chớ có thực hành theo. Lời nói của Tỳ-kheo đời sau mà không nên thực hành thì chớ có thực hành. Việc này ở trong kinh Tăng-nhất có nói rõ.
Có sự giảng rộng như sau:
Khi sắp Niết-bàn, đức Như-lai bảo Tôn giả Anan:
Sau khi Ta diệt độ, các ông chớ nói: "Chúng con không có nơi nương tựa". Giới luật mà Ta đã chế chính là nơi nương tựa và là thầy của các ông. Vì thế, này A-nan, sau khi Ta diệt độ, các vị phải dựa vào giới luật để thực hành Phật pháp, mỗi vị phải khiêm tốn mà thực hành. Các vị phải từ bỏ tâm kiêu mạn, đặt tâm vào pháp thanh tịnh. A-nan, từ nay trở đi, người dưới nên gọi người trên là "Thượng tọa, tôn giả", người trên nên gọi người dưới là: "Hạ tọa, tuệ mạng". A-nan, người nào thấy mười hai nhân duyên tức là thấy pháp và cũng được thấy Ta.
Lúc sắp Niết-bàn, Như-lai nói bốn pháp rộng rãi này để lợi ích chúng sanh. Vì thế, việc ấy được gọi là giảng rộng.
Đức Phật lại bảo:
Có vật do hòa hợp nên được chứa, có vật do không hòa hợp nên không được chứa.
Thế nào là hòa hợp?-Như Xá-lợi-phất nhận được miếng vá có màu rất đẹp và đem miếng vá này may lên trên y. Phật liền cho phép cất chứa nó. Đó gọi là hòa hợp.
Không hòa hợp là: Gấm hoặc lụa có màu rất đẹp thì tuy hòa hợp cũng không được cất chứa. Đó gọi là không hòa hợp.
Giống như rượu, nếu hòa với thuốc thì được uống, không hòa với thuốc thì không được uống. Cũng vậy, màu sắc đẹp xen với màu sắc xấu thì được cất chứa, không xen với màu sắc xấu thì không được cất chứa.
Hòa hợp có hai loại: Một là màu sắc hòa hợp, hai là y hòa hợp.
Màu sắc hòa hợp là: đầu tiên dùng màu đậm để nhuộm, sau đó dùng màu lợt để nhuộm. Hoặc đầu tiên dùng màu đẹp nhất để nhuộm, sau đó dùng màu xấu nhất để nhuộm. Y được nhuộm theo hai cách này được gọi là y có màu sắc hòa hợp, được phép cất chứa.
Thế nào gọi là thượng sắc?-Năm màu chính gọi là thượng sắc. Bộ phái Tát-bà-đa cho:
-Thượng sắc là thuần xanh, thuần đỏ, thuần vàng, thuần đen, thuần trắng. Đó gọi là năm loại thượng sắc.
Đại sắc hòa hợp là: Đầu tiên dùng màu xanh để nhuộm, sau đó dùng màu khác để nhuộm; hoặc trước tiên dùng màu khác để nhuộm, sau đó dùng màu xanh để nhuộm. Năm cách khác cũng giống như vậy. Đó là các loại màu được cất chứa.
Y hòa hợp là: Nếu y được tác tịnh, miếng vá chưa được tác tịnh, may miếng vá lên trên y; hoặc y chưa được tác tịnh, miếng vá đã được tác tịnh, may miếng vá lên trên y, cả hai trường hợp này đều gọi là y thanh tịnh.
Nếu y chưa đủ mười ngày, chưa được tịnh thí, miếng vá đã được tịnh thí, may miếng vá lên trên y, thì tấm y đó được phép cất chứa.
Nếu miếng vá chưa đủ mười ngày, chưa được tịnh thí, may miếng vá lên trên y, thì được phép cất chứa. Đó gọi là y hòa hợp.
Pháp tịnh thí là:-Nhận được vào ngày nào thì phải tịnh thí trong ngày đó. Nếu quá mười ngày không tịnh thí thì phạm Ni-tát-kỳ.
Nếu do buông lung nên không tịnh thí, hoặc do tâm ác thì tuy chưa đủ mười ngày nhưng đều phạm Xả-đọa.
Thế nào là không hòa hợp thì được cất chứa, hòa hợp thì không được cất chứa?
Không hòa hợp, được cất chứa là: Sơn thiệp tử, thức kỳ lưu thảo, diêm bà già, tỳ bát ưu lặc già, mật rượu đắng, diêm đà lâm, cân đề lực, gừng, các loại thuốc như vậy không hòa hợp thì được chứa. Vì sao vậy?
Thuốc này để riêng từng thứ thì có thể dùng, nếu hòa hợp lẫn nhau thì không thể dùng.
Giống như nấu sữa cho sôi, chín rồi rót vào một cái bình. Qua một thời gian ngắn, sữa và nước tách rời nhau. Nếu sữa này có trộn muối thì không được ăn, nếu không có trộn muối thì được ăn. Các loại thuốc nêu trên mà hòa trộn với nhau thì hoàn toàn không được dùng. Cũng như sữa có trộn muối thì không được ăn, nếu để riêng thì ăn rất tốt.
Đó gọi là không hòa trộn thì được dùng.
Lúc ấy, vì Tỳ-kheo bệnh, Phật cho phép uống bơ sữa, nước tỳ lặc hòa với muối, không hòa muối cũng được dùng. Đó gọi là hòa hợp thì được dùng. Loại thuốc dùng cho đến hết đời là: Gừng, tiêu, tất-bát, ha-lê-lặc, muối, cỏ xương bồ. Những loại này đều là thuốc dùng trọn đời. Việc này ở trong kiền độ Dược thảo có nói rõ.
Những việc được phép làm trong chùa là yết-ma về tất cả pháp sự, cho đến ăn, uống, ngủ, thức, đắp mặc y nội, áo lót.
Lại có việc xảy ra trong chùa là: Nếu thấy trong đất chùa có vàng bạc, hoặc biết chủ, hoặc không biết chủ của nó, đều phải nhặt lấy; nếu biết chủ thì sau đó phải trả lại; nếu không biết chủ thì phải thông báo với chúng Tăng: "Hôm qua, tôi vừa nhặt được vàng bạc rơi trên đất chùa, đó là vật của ai vậy?".
Nếu có người đến nói: "Đó là vật của tôi", thì phải hỏi: "Vật ấy có số lượng nhiều hay ít, nặng khoảng bao nhiêu? Dùng vật gì để đựng và cột?" Nếu người đó nói chính xác từng việc thì hoàn trả cho người ấy, nếu không chính xác thì không nên trả.
Lại có việc phải làm trong chùa là: Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni dùng lá cây làm lọng, dùng vỏ cây làm lọng, hoặc đan cỏ làm lọng, thì những thứ ấy đều được dùng trong chùa.
Lại nữa, ở trong chùa, Tỳ-kheo được dùng vật sau: Bên trên đôi dép lại đắp thêm một lớp da bao lại. Nếu ra ngoài xóm làng gặp mưa, tuyết thì được mang, không có mưa tuyết thì không được mang. Giày da bốn lớp, ba lớp, cho đến một lớp, Tỳ-kheo được mang ở trong chùa. Khi vào xóm làng, nếu có mưa tuyết thì được mang, không có mưa tuyết thì không được mang. Khi bệnh cũng được mang.
Việc này trong Kiền độ về giày da có nói rõ.
Những vật trong chùa được cất chứa là: Then cửa bằng sắt, then cửa bằng gỗ, cái bầu đựng nước, gậy, đồ ngồi trong phòng tắm. Đó là những vật được cất chứa trong chùa.
Nếu Tỳ-kheo được Tăng sai vào rừng thì nên cho đi bảy ngày, nếu bảy ngày chưa về kịp thì nên cho mười lăm ngày. Nếu mười lăm ngày chưa về kịp thì cho một tháng. Đó gọi là cho vào rừng.
Có Tỳ-kheo bị mọc mụt nhọt trên thân và dùng loại thuốc bột nhám rít để rửa mụt nhọt.
Đức Phật nói:
-Cho phép Tỳ-kheo dùng loại thuốc bột mềm, mịn để rửa mụt nhọt.
Cách cất thuốc bột là: Bỏ vào trong bình, đậy kín miệng bình, cho đến treo lên cây cọc. Trong kiền độ Dược thảo có nói rõ việc này.
Có Tỳ-kheo bị bệnh hủi, bị lở chảy ra máu mủ, các Tỳ-kheo dùng thuốc bột nhám rít để bôi, rửa. Đức Phật nói: "Hãy dùng loại thuốc bột mềm mịn để bôi rửa". Việc này có nói rõ trong kiền độ Tạp.
Tỳ-kheo nào vừa bị mọc mụt nhọt đau đớn mà không vỡ ra thì hãy dùng loại thuốc làm vỡ mụt thoa vào. Sau đó hãy giữ các loại thuốc chữa bệnh mụt nhọt để chữa trị cho đến khi lành hẳn.
Tỳ-kheo nào bị bệnh trĩ thì hãy may y che mụt để máu mủ không chảy ra làm dơ y. Tùy theo thầy thuốc bảo may y như thế nào thì được phép chứa loại y đó.
Tỳ-kheo nào bị mọc mụt nhọt ở trên đầu, hoặc trên mặt, hoặc trên môi, hoặc trên vai, hoặc dưới nách, hoặc trên hông, hoặc trên rốn, hoặc trên mông, hoặc đầu gối, hoặc trên bắp chân; nếu bị mọc mụt nhọt ở trên đầu thì được phép trùm đầu, che đầu khi vào nhà bạch y; nếu trên mặt có mụt nhọt thì được phép tự soi vào nước trong bình bát, hoặc soi trên vách để xem mụt và được tự bôi thuốc; nếu trên môi có mụt nhọt thì được phép nhai thức ăn mà không cần khép kín hai môi. Nếu trên lưỡi có mụt nhọt thì được phép nuốt thức ăn, không cần nhai. Nếu trên vai có mụt nhọt thì được phép dùng tay nắm mụt nhọt và lấy y che bên trên khi vào nhà bạch y, lại được phép không cần dùng y che mụt trên vai khi vào nhà bạch y. Nếu dưới nách có mụt nhọt thì được phép chống tay khi vào nhà bạch y. Nếu trên hông có mụt nhọt thì được phép vắt ngược y khi vào nhà bạch y. Nếu trên rốn có mụt nhọt thì được phép hạ thấp y nội. Nếu trên mông có mụt nhọt thì được phép ngồi chồm hổm khi vào nhà bạch y. Nếu trên đầu gối có mụt nhọt thì được phép vén y lên quá đầu gối khi vào nhà bạch y. Nếu bắp chân có mụt nhọt thì được phép nâng cao y nội khi vào nhà bạch y. Đó gọi là những việc được phép làm khi có mụt nhọt.
Nếu trong chùa có ba bốn người làm tòa nhà lớn để làm chỗ ở riêng thì phải đào hào sâu xung quanh tòa nhà đó để thoát nước; trong hào phải làm nơi đại tiểu tiện. Việc này đã được nói rõ trong kiền độ Phu cụ.
Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:
Ông hãy cầm chìa khóa này đến từng phòng bảo với các Tỳ-kheo là: Ta sắp đi về phương Nam để du hóa qua các nước, ai có thể đi theo Ta thì hãy sắp xếp y bát.
Vâng lời Phật, A-nan liền đến từng phòng thông báo việc ấy. Các trưởng lão Tỳ-kheo bảo với A-nan:
Nếu thầy chúng tôi đi thì chúng tôi cũng đi theo. Nếu thầy chúng tôi không đi thì chúng tôi cũng không đi được. Vì sao vậy?-Vì đến đó lại phải tìm Y chỉ sư.
Lúc ấy, Thế Tôn cùng những người có thể đi, dẫn nhau đi về phía Nam. Trên đường đi, thấy số lượng các Tỳ-kheo ít, Đức Phật bảo A-Nan:
Ông không đến từng phòng để nói hay sao, mà số lượng Tỳ-kheo đi theo Ta ít như vậy?
A-nan liền bạch đầy đủ với Phật về việc trên. Đức Phật bảo A-nan:
Từ đây về sau, Tỳ-kheo nào đủ mười tuổi hạ và biết pháp thì nên nhận sự y chỉ của Tỳ-kheo mười tuổi hạ, cho đến một trăm tuổi hạ mà không biết pháp.
Pháp y chỉ đã được nói rõ trong Kiền độ thọ Cụ túc. Đó là việc xảy ra sau khi đi thông báo từng phòng.
Những việc liên quan đến hai ngón tay là: Nếu bát bị lủng năm chỗ thì phép vá bát này là cách nhau hai ngón tay vá một chỗ. Khi đi đại tiện xong, phải dùng đầu hai ngón tay để rửa đường đại tiện. Nếu vá y rách thì phải dùng miếng vá rộng hai ngón tay. Tỳ-kheo nào để tóc thì không được để dài quá hai ngón tay, nếu dài quá hai ngón tay thì phải cạo. Đó là những pháp liên quan đến hai ngón tay. Nói tóm lược việc cùng Tăng làm pháp sự:
Tỳ-kheo nào có tánh hạnh điều hòa, giữ giới, đầy đủ oai nghi, dung mạo trang nghiêm, người như vậy thì Tăng nên cho cùng làm tất cả các pháp sự, cho đến cùng ăn uống, ngủ, thức. Đó là nói tóm lược việc cùng Tăng tác pháp sự.
Tỳ-kheo nào đến chùa khác nên hỏi một Tỳ-kheo trong chùa đó về nơi kiết đại giới, nơi lìa y ngủ, lại hỏi nơi tịnh trù của chúng Tăng, nơi thuyết giới Bố-tát. Các việc như vậy đều hỏi một người, nên gọi là hỏi tóm lược. Sau khi hỏi xong, nếu có bạn thì nên nói lại cho họ nghe.
Lại nên hỏi: "Trong nước uống có trùng không, có trong sạch không? Nước uống này thuộc về ai?".
Lại hỏi: "Rau quả này đã tác tịnh chưa?".
Một người hỏi, những người khác đều được thanh tịnh. Vì thế gọi là tóm lược.
Nếu Tỳ-kheo cựu trú mời Tỳ-kheo khách, Tỳ-kheo khách đến chùa, một người lần lượt hỏi tất cả các điều cần hỏi, thì các Tỳ-kheo khác đều được thanh tịnh.
Tôn giả Tát-bà-đa nói:
Lợi dưỡng gây ra sự tham đắm của con người, vì vậy Phật không cho phép nắm giữ, nhưng cũng không chế định những điều vi phạm, phải thực hành theo pháp đã chế định trước đó.
Đức Thế Tôn nói:
Người nào làm việc ác mà biết hổ thẹn thì không bị chướng ngại đạo pháp. Tỳ-kheo nào không có tâm hổ thẹn, cũng không có hiểu biết thì ta không nên nghe theo lời nói của vị ấy. Người nào không có tâm hổ thẹn mà có hiểu biết thì không nên nghe theo lời nói của vị ấy.
Lại nữa, có người tuy biết hổ thẹn nhưng không có hiểu biết thì cũng không nên nghe theo lời nói của vị ấy. Người nào có tâm hổ thẹn, thông suốt pháp tướng thì nên nghe.
Tôn giả Ca-diếp-duy nói:
Có những người có trí tuệ và hiểu biết ngang nhau, tánh tình hòa nhã, giới hạnh thanh tịnh, không có tỳ vết. Đó gọi là lời hòa nhã nên nghe theo. Có những việc cần phải làm, đó là những việc gì?-Tọa cụ, ngọa cụ bị rách, cần dùng miếng vá rộng một tấc để vá lại, cần biết rõ như vậy.
Nếu có mụt ghẻ thì phải chữa trị, cần phải quét dọn nơi chúng Tăng ăn, cần phải quét dọn nơi các vị Hòa thượng, A-xà-lê ăn. Đó gọi là nơi chốn cần quét dọn.
Nếu có Tỳ-kheo bệnh thì Phật cho phép nấu cháo cho vị ấy ăn. Nếu không có tịnh địa thì chúng Tăng phải bạch nhị yết-ma chọn chỗ làm tịnh địa. Những việc như vậy đều gọi là chọn nơi chốn.
Khi còn tại thế, Phật thường thuyết giới ở thành Vương-xá. Vào ngày rằm hoặc cuối tháng, các Tỳ-kheo ở xa gần không ngại mệt nhọc, đều đến thành Vương-xá để nghe Phật thuyết giới. Biết các Tỳ-kheo mệt nhọc, khổ sở, Phật liền hỏi các Tỳ-kheo về nơi ở và cho phép được ở tại nơi ở của họ mà nói giới. Đó gọi là địa phương.
Tháp ở phương Đông tên La-đa-bạt-đà-la, cho đến phương Bắc có núi tên Vô-chi-la-tỳ-la. Đó gọi là địa phương. Ở những nơi thuộc biên địa như vậy chỉ cần có năm luật sư thì được thọ Cụ túc. Tỳ-kheo nào ở nơi thanh tịnh thì phải biết rõ địa phương, nơi chốn và thời điểm.
Lúc ấy, các Tỳ-kheo ở phương Bắc thọ an cư, an cư xong, họ đều mang y bát đến chỗ Phật. Thế Tôn hỏi: "Các vị từ đâu đến đây?" và họ đều nói về nơi mà họ vừa rời khỏi để đến đây. Vì thế, đó gọi là địa phương.
Những nước nào được Phật cho phép chỉ cần năm vị giới sư thì có thể truyền giới Cụ túc?-Đó là nước ở biên địa có vị luật sư thì cho phép năm giới sư được truyền giới Cụ túc.
Có một Tỳ-kheo tên Sổ-lỗ-nô, ít tin tưởng vào đạo pháp, muốn được thọ Cụ túc nhưng trong nước không có Tăng. Do có việc tôn giả Ca-chiên-diên đến nước ấy, vị đó thỉnh cầu Ca-chiên-diên truyền trao giới Cụ túc cho mình. Ca-chiên-diên phải tập hợp suốt mười hai năm mới đủ Tăng để truyền giới Cụ túc. Sau khi truyền giới Cụ túc xong, Tôn giả Ca-chiên-diên liền đến chỗ Phật. Phật hỏi:
Này Ca-chiên-diên, vì sao ông đi chậm vậy?
Tôn giả Ca-chiên-diên liền đem việc thọ giới bạch đầy đủ với Phật, Phật liền lập quy chế:
Từ nay trở đi, nơi biên địa không có chúng Tăng, chỉ cần năm vị luật sư cũng được phép truyền giới Cụ túc. Nước nào quá nóng nực thì Tỳ-kheo được phép tắm rửa hàng ngày. Nơi nhiều gai góc thì được phép mang loại giày bằng da dày. Cách làm giầy da là tùy theo đất như thế nào thì được làm da giày theo đó.
Các Tỳ-kheo an cư mùa hạ ở trên núi Tuyết; tay chân, đầu, tai đều bị giá rét làm nứt nẻ. Sau khi an cư xong, họ đắp y, mang bát đi đến chỗ đức Phật, đảnh lễ sát đất rồi đứng qua một phía. Phật biết mà vẫn hỏi:
Vì sao thân thể các vị đều bị nứt nẻ? Các Tỳ-kheo bạch Phật:
Do giá rét trên núi Tuyết nên thân thể chúng con đều bị nứt nẻ. Đức Phật hỏi:
Phải mặc những thứ gì để thân không bị nứt nẻ? Các Tỳ-kheo bạch:
Nếu chân mang ủng da, thân đắp y nhiều lớp thì sẽ không bị nứt da.
Phật liền cho phép mang giầy, mang tất, quấn khăn choàng cổ và đắp y nhiều lớp. Nếu các thứ ấy được dệt bằng lông dê, lông lạc đà, cho đến dệt bằng bông thì được phép đắp mặc.
Có hai Tỳ-kheo Bà-la-môn: Người thứ nhất tên Ô-ta-ha, người thứ hai tên Tán-ma-đà, đến chỗ Phật bạch với Thế Tôn:
Các đệ tử của Phật thuộc đủ các dòng họ, đủ các đất nước, quận huyện nên ngôn ngữ không giống nhau. Ngôn ngữ không thống nhất thì có thể làm sai lệch hết ý nghĩa của lời Phật. Cúi xin Thế Tôn cho phép chúng con được dựa theo luận Xiểnđà-chí-trì để biên soạn kinh Phật, tuần tự chọn lọc câu văn để cho ngôn ngữ được hoàn chỉnh, nghĩa lý rõ ràng.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
Trong Phật pháp của Ta không cho ngôn ngữ hay là đúng, chỉ cần đừng để mất nghĩa lý thì đó là ý của Ta. Tùy theo các chúng sanh cần loại ngôn ngữ gì để được giác ngộ thì Ta dùng loại ngôn ngữ đó để giảng cho họ nghe. Đó gọi là tùy theo nước mà làm. Nước Tỳ-xá-ly bị đói kém, như ở trên đã nói. Phật liền cho phép chứa y công đức. Có năm lợi ích do việc giữ y này:
Được ăn nhiều lần trước giờ ngọ.
Được ăn biệt chúng khi có đàn-việt đến thỉnh.
Được cất chứa y dư mà không cần thuyết tịnh (tịnh thí).
Được ngủ lìa y.
Được đi ra khỏi cương giới mà không cần báo cho người khác biết. Đó là lợi ích của việc thọ y công đức.
Cách làm nước gạo: Đầu tiên nghiền gạo, trộn với nước, rồi đem lược và rót vào trong bình, sau đó nấu cơm. Khi cơm sắp cạn hãy chắt nước cơm, đem cất qua một đêm. Đến giờ ăn được uống nước ấy như pháp.
Theo thuyết Tát-bà-đa, Tôn giả Ca-diếp-duy nói:
Nước gạo này sau giờ ngọ cho đến đầu hôm cũng được uống. (Phần đầu tiên đã xong)
Pháp an cư mùa hạ là: Nếu có phòng ốc nào bị hư mục, các Tỳ-kheo phải gắng sức tu bổ, sửa sang lại.
Pháp tự tứ là: Nếu có đại chúng thì cần phải bạch nhị yết-ma tự tứ như pháp. Nếu Tỳ-kheo ở A-lan-nhã, chỉ có một, hoặc hai, ba, hoặc bốn vị thì chỉ quỳ xuống, chấp tay, lần lượt nói với nhau: "Hôm nay chúng Tăng tự tứ, con cũng tự tứ". Nói ba lần như vậy. Nếu chỉ có một người thì tâm nghĩ miệng nói: "Hôm nay chúng Tăng tự tứ, con cũng tự tứ". Nói ba lần như vậy.
Thế nào là gởi dục khi tự tứ?
Lúc ấy, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
Hôm nay tự tứ.
Có một Tỳ-kheo bạch với Phật:
Bạch Thế Tôn, có một Tỳ-kheo bệnh, không thể đến. Người chăm sóc bệnh nhân không đến được. Người làm việc Phật Pháp Tăng không đến được. Vậy phải làm sao?
Đức Phật bảo Tỳ-kheo ấy:
Những người như vậy phải gởi dục bằng cách nói: "Hôm nay chúng Tăng tự tứ, con không thể đến dự tự tứ được, xin gởi dục cho chúng Tăng thanh tịnh, tự tứ như pháp". Nói ba lần như vậy.
Đó gọi là pháp gởi dục tự tứ.
Có năm cách gởi dục tự tứ:
Hôm nay Tăng tự tứ, con xin cùng Tăng tự tứ.
Con xin bạch tự tứ.
Hãy vì con mà tự tứ.
Nếu miệng không thể nói thì dùng tay ra dấu cũng được gởi dục tự tứ.
Lời nói tuy không rõ nhưng cũng là gởi dục tự tứ.
Đó là năm cách gởi dục tự tứ. Nếu người gởi dục nói không rõ thì phải hỏi lại vị ấy.
Thân, miệng không biểu hiện được là: mạng sống chưa bị chấm dứt, tai còn nghe tiếng người. Chúng Tăng phải tập hợp ở trước vị ấy để yết-ma tự tứ. Trên đường nhận lời gởi dục tự tứ đến nơi tự tứ, nếu người nhận dục qua đời hoặc bị dâm dục làm mê loạn, hoặc bị mất trí, hoặc ra khỏi cương giới, hoặc bỏ đạo hoàn tục thì đều không thành nhận gởi dục. Cần phải nhờ người khác nhận dục lại. Nếu người nhận dục bị giặc cướp, bị nước, cọp, sói cản đường, không thể đến được thì việc nhận dục này thành tựu. Những việc khó khăn như vậy chẳng phải là một. Nếu người nhận dục muốn đến chỗ tự tứ nhưng không đủ khả năng thì việc nhận dục đều thành tựu.
Pháp Ba-la-đề-mộc-xoa là: Lúc ấy, ở trong phòng yên tĩnh, Thế Tôn suy nghĩ: "Ta phải chế giới Ba-la-đề-mộc-xoa cho các Tỳ-kheo. Vì sao vậy?-Vì Tỳ-kheo hậu học muốn thực hành pháp nhưng không biết pháp gì được Phật chế, pháp gì chẳng phải Phật chế, cho đến sự an lạc của quả A-la-hán". Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
-Nay Ta nói Ba-la-đề-mộc-xoa. Các vị hãy ghi nhớ kỹ và thực hành theo. Nếu có vị phạm phải lập tức sám hối, nếu không phạm thì phải chú tâm suy nghĩ. Lúc Ta thuyết giới, nếu người nào im lặng thì nên biết đó là người hoàn toàn thanh tịnh. Như ở chỗ khuất, các vị phát lồ không có giấu giếm. Ở trong đại chúng, khi Ta hỏi, các vị cũng không được che giấu, giống như vậy.
Lần thứ hai, thứ ba cũng hỏi như vậy. Nếu cố ý nói dối thì tự làm chướng đạo. Chướng đạo là chướng ngại bốn thiền sắc giới, bốn thiền vô sắc, cho đến làm chướng ngại bốn quả, bốn hướng. Nếu về sau có thể hối cải thì bốn Thiền sắc giới bốn Thiền vô sắc, bốn hướng, bốn quả đều có thể đạt được. Đó gọi là pháp Ba-la-đề-mộc-xoa.
Việc nói Ba-la-đề-mộc-xoa gồm có năm cách, như đã nói ở trên. Cách nhận dục khi Bố-tát cũng giống như cách nhận dục khi tự tứ đã nói ở trên.
Ruộng, vườn, nhà, những chỗ được cúng trước hoặc cúng sau thì không được chuyển đổi hoặc cúng lại cho nơi khác. Nếu chuyển đổi hoặc cúng lại nơi khác ruộng, vườn, nhà đáng giá năm tiền thì phạm ác tác. Lại có mười tám loại phân biệt, tám hình thức A-lan-nhã.
Hoặc có Tỳ-kheo-ni được bên ngoài đến cúng dường, hoặc có việc làm bị người chê trách, hoặc có việc làm bị chê trách và tẩn xuất, những pháp như vậy đều gọi là vật.
Thế nào là quở trách và tẫn xuất?-Người bị quở trách và tẫn xuất là phải nêu rõ tướng trạng tội lỗi của họ, sau đó mới đuổi, chứ không được đuổi ngay.
Lúc ấy, vào trước ngày tự tứ, có một Tỳ-kheo phạm tội. Người trông thấy việc ấy định can gián nên nói: "Tôi muốn can gián thầy, thầy có nghe không?". Người phạm tội chấp nhận.
Vào lúc sắp sửa can gián, người phạm tội không có mặt. Đó gọi là việc có, người không. Nếu sau đó người muốn can gián đến gặp người phạm tội để nhận dục thì được can gián. Nếu không nhận thì không được.
Bấy giờ, Thế tôn cùng năm trăm Tỳ-kheo đi từ nước Ca Thi đến tinh xá U-Lan, trong tinh xá ấy có năm người đã ở từ trước. Năm Tỳ-kheo ấy lần lượt có tên là: A-phạm-kỳ, Phú-na-bà-tô, Bán-trìđà-lộ-ê-ny, Già-lộ-la, Đế-xa. Nghe tin Thế Tôn đến, các Tỳ-kheo này liền cùng nhau phân chia các vật ở trong chùa như phòng ốc, nhà cửa, ruộng vườn, hoa quả, tọa ngọa cụ và các đồ vật sinh hoạt, chỉ chừa lại một phòng cho Phật. Lý do họ phân chia như vậy là vì sợ Phật cùng Xá-lợi-phất, Mụckiền liên và đại chúng đến chiếm đoạt phòng ốc, ruộng vườn,... vì vậy họ vội vàng phân chia. Sau khi sanh ý nghĩ ấy, họ liền phân phòng ốc, nhà cửa là một phần, ruộng vườn là một phần, hết thảy phu cụ là một phần, tất cả các đồ vật sinh hoạt là một phần, tất cả hoa quả là một phần. Sau khi họ phân chia xong thì Thế Tôn đến.
Khi đến nơi, Thế Tôn bảo Xá-lợi-phất và Mụckiền-liên:
Ông hãy bảo các Tỳ-kheo cựu trú: "Khách tăng đến, hãy chuẩn bị phòng ốc và tọa cụ, ngọa cụ".
Vâng lời Phật dạy, hai vị liền đến nói lại với họ. Tỳ-kheo cựu trú liền đáp lời Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên:
Phòng tốt nhất đã được chọn cho Phật, cầu xin Như-lai cứ ở yên trong đó. Tất cả các vật còn lại đã được phân chia thành năm phần.
Nghe xong, Mục-liên liền đem việc ấy bạch đầy đủ với Phật. Đức Thế Tôn liền bảo Mục-liên đến nói với các Tỳ-kheo cựu trú một lần nữa, các Tỳ-kheo cũng đáp như trước. Phật liền gọi Tỳ-kheo cựu trú đến, quở trách bằng nhiều cách và nói:
Thế gian có năm hạng giặc cướp:
Hạng giặc cướp thứ nhất là Tỳ-kheo ác không giữ giới cấm, dẫn nhiều đồ chúng đi qua các nước, các làng, ăn dùng thức ăn của tín thí.
Hai là Tỳ-kheo nào thật sự không thanh tịnh mà tự nói là mình thanh tịnh, đó cũng là giặc cướp. * Ba là Tỳ-kheo nào tự ỷ thông minh, tài trí, kiêu mạn quở mắng các Tỳ-kheo khác, buông lời quá đáng, đó cũng là giặc cướp.
Bốn là Tỳ-kheo nào vì muốn có cơm ăn áo mặc nên tự nói rằng mình chứng đắc pháp hơn người đó, cũng là giặc cướp.
Năm là Tỳ-kheo nào lấy vật của chúng Tăng để dùng riêng một mình thì cũng là giặc.
Vì thế, tất cả những vật thuộc về chúng Tăng bốn phương thì không nên dùng riêng một mình.
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
Nếu có vật mà các thầy Tỳ-kheo nhơn đó phát sinh tranh chấp thì phải làm sao với vật ấy?
Đức Phật nói:
Nếu các Tỳ-kheo cùng nhau sám hối thì được phép phân chia vật ấy. Nếu không hòa hợp thì không được phép phân chia. Phép phân chia là: cần phải bạch nhị yết-ma. Việc này đã được nói rõ trong kiền độ Câu-diễm-di
Năm pháp Đề-bà-đạt-đa dùng để phá Tăng là:
Đi khất thực trọn đời.
Đắp y phấn tảo.
Không được ăn bơ và muối.
Không được ăn cá thịt.
5-Ngồi ở nơi trống trải (Bên gốc cây).
Vị ấy đưa ra năm pháp này rồi đi phát thẻ cho chúng Tăng và bảo: Ai chấp nhận theo năm pháp ấy thì hãy rút thẻ. Lúc ấy, trong chúng có năm trăm Tỳ-kheo nhận thẻ, A-nan liền đến giữa chúng, cởi y Tăng-già-lê ném xuống đất và la to:
Đó là phi pháp!
Có năm mươi Thượng tọa cũng cởi y Tăng-giàlê quăng xuống đất. Các Tỳ-kheo đem việc này bạch với Thế Tôn, Đức Phật nói:
Đó chính là nhân tội địa ngục, sẽ bị đọa địa ngục A-tỳ trong một kiếp, không thể cứu vớt. Việc này đã được nói rõ trong kiền độ Phá Tăng.
Năm pháp mà Đề-bà-đạt-đa nêu ra ở trên tuy không trái với lời Phật nhưng ông ta muốn dựa vào các pháp này để phá hoại Phật pháp. Lúc ấy, Thế
Tôn ở thành Vương-xá, các Tỳ-kheo ở nghĩa địa, dưới gốc cây, bên bờ sông hoặc đầm nước, trải cỏ nằm ngủ ngoài trời.
Vào sáng sớm có vị đại trưởng giả đi ra ngoài và gặp các Tỳ-kheo, liền đảnh lễ hỏi:
Tối hôm qua các vị ngủ ở đâu? Các Tỳ-kheo đáp:
Chúng tôi trải cỏ ở nghĩa địa, dưới gốc cây để ngủ.
Trưởng giả hỏi:
-Nếu có đàn-việt làm nhà cửa cho các ngài có được không?
Các Tỳ-kheo đáp:
Phật chưa cho phép làm.
Các Tỳ-kheo liền đem việc này bạch Phật, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
Nếu có đàn-việt có lòng tin, có thể xây dựng nhà cửa cho chúng
Tăng thì được phép làm.
Sau khi nghe Đức Phật nói, trưởng giả liền cất sáu mươi phòng, sắm thức ăn uống, thỉnh Phật và Tăng đến để cúng dường. Sau khi đã dùng bình bằng vàng để rót nước dâng cho Phật và Tăng, trưởng giả quỳ xuống, chấp tay bạch Phật:
Con vừa cất xong sáu mươi căn phòng cho Phật và Tăng.
Cúi xin Phật và chúng Tăng thọ nhận cho con. Nhân việc cúng dường phòng ốc của trưởng giả, Phật liền nói lợi ích của việc cúng dường phòng ốc:
Có thể ngăn gió mưa.
Có thể ngăn nóng lạnh.
Có thể ngăn thú dữ, trùng độc.
Tất cả những lợi ích như vậy Phật đều nói hết. Nhờ phòng ốc này các Tỳ-kheo sống được an lạc, tịch tịnh. Việc này đã được nói rõ trong kiền độ Phu cụ.
Tại nước A-tra-tỳ, Phật cho phép các Tỳ-kheo tự cất thất riêng. Các Tỳ-kheo đều cất nhà lớn riêng cho mình nên phải xin rất nhiều tiền của. Vì thế, trông thấy Sa-môn vào làng, các đàn-việt đều né tránh, không muốn gặp. Có Tỳ-kheo tên A-tra-tỳ tự chặt cây rừng để làm thất riêng. Trong rừng có vị thần, khi Tỳ-kheo kia lấy cây làm nhà, vị thần ấy suy nghĩ: "Nếu đánh Tỳ-kheo này thì sợ mắc tội nhưng nếu im lặng thì không có chỗ ở". Suy nghĩ xong, vị thần ấy liền đến bạch Phật:
Phật bảo:-Nếu đánh người trì giới thì mắc tội rất nặng. Ngươi hãy lội qua sông sẽ thấy có cây đại thọ, thần cây ấy đã chết vào ngày hôm qua, ngươi hãy sống dựa vào cây ấy. Vì lý do đó Phật chế giới không cho cất thất lớn riêng cho mình.
Khi ấy, Thế Tôn ở tại nước Câu-diệm-di, có Tỳ-kheo tên Xiển-đà chơi rất thân với vua Ưu-điền của nước ấy. Vị ấy đến nói với vua: "Tôi muốn cất thất riêng nhưng thiếu gỗ ván". Vua liền nói: "Xin thầy tùy ý lấy dùng các cây gỗ ở trong nước". Ở giữa đường cái lớn có một cây đại thọ, cành lá che kín năm trăm cổ xe, người trong nước đều cho rằng cây ấy có mạng sống. Tỳ-kheo Xiển-đà chặt cây ấy làm mọi người đều hiềm hận ông ta. Các Tỳ-kheo liền đến bạch Thế Tôn. Phật nhân đó liền chế giới:
Từ nay trở đi, nếu cây có thần, loại cây ở giữa đường được mọi người quý trọng thì không được phép chặt. Nếu ai chặt thì phạm tội Ba-dật-đề, hoặc là Thâu-lan-giá. Từ đây về sau, các Tỳ-kheo không được cất thất lớn quá lượng cho phép.
Lúc đó, Đạp-bà-ma-la-tử xuất gia, siêng năng tu tập và đắc quả A-la-hán, suy nghĩ: "Với thân này, ta nên tu nghiệp gì?". Sau khi suy nghĩ xong, vị ấy liền nhận phân chia thức ăn và ngọa cụ, tọa cụ cho chúng Tăng. Một ngày nọ, khi trời đã tối mịt có một Tỳ-kheo tìm đến chùa nhưng không biết chùa nằm chỗ nào. Đạp-bà-ma-la-tử liền nhập vào tam muội Hỏa quang, đưa tay chiếu sáng cho vị kia biết vị trí của chùa. Khi Tỳ-kheo đó đã đến, vị ấy liền chỉ phòng ở, phu cụ, nơi đại tiểu tiện, nơi để nước rửa tay, dầu thoa chân và tất cả những nơi cần biết. Nếu có khách Tăng đến chùa, vị ấy liền cung cấp đầy đủ tất cả các thứ mà khách cần dùng, không chút tiếc rẻ. Phật khen ngợi vị ấy là người phân chia tất cả đồ ăn uống, phu cụ một cách bình đẳng, không thiên vị. Do đó mà biết rõ là Đạp-bàma-la-tử đã bị vu báng không có căn cứ.
Bấy giờ, Đề-bà-đạt-đa bàn luận với A-xà-thế:-Ông hãy giết vua cha, còn tôi thì giết Phật. Vua mới và Phật mới cùng nhau cai trị thiên hạ thì thế gian đều thái bình, nhân dân an lạc, không phải là vui sao?
A-xà-thế hỏi Đề-bà-đạt-đa:
Cần bao nhiêu binh lính mới có thể hại Phật được? Đề-bà-đạt-đa đáp:
Cần sáu mươi binh lính thì có thể giết Phật.
A-xà-thế liền giao cho Đề-bà-đạt-đa sáu mươi binh lính, khi đã nhận được binh lính, Đề-bà-đạtđa liền sai hai người đến giết Phật và dặn: "Giết Phật xong, hãy theo đường khác trở về, chớ có đi theo đường cũ". Đề bà lại sai bốn người giết hai người trước rồi theo đường khác trở về. Lần lượt như vậy, Đề bà định cho họ giết nhau hết sạch. Sở dĩ vị ấy làm vậy là để tiếng ác này không lan truyền ra ngoài.
Hai người đầu tiên đến gặp Phật, tự nhiên không phát sanh tâm ác, liền nói với Phật ý định của mình, Phật liền nói pháp giúp họ đắc quả Tuđà-hoàn. Đức Phật bảo với họ
Các ông hãy trở về đi, chớ có đi theo con đường khác để đến chỗ của Đề-bà-đạt-đa.
Nghe báo tin không giết được Phật, Đề-bà-đạtđa tức giận, tự đến chỗ Phật, đem tảng đá lớn ném vào thân Phật, chư thiên liền đỡ tảng đá ấy ném sang núi khác. Có một mảnh đá nhỏ bị vỡ, văng đến làm chân Phật bị thương. Các Tỳ-kheo liền vác gậy đến canh giữ xung quanh phòng của Thế Tôn.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
Giả sử có người mang núi Tu-di định đè Ta thì cũng không thể làm hại Ta, huống gì là Đề-bàđạt-đa. Các vị hãy trở về chỗ, an lạc thực hành theo pháp môn tu tập của mình.
Khi Phật chưa chế giới, Tỳ-kheo không được ngủ chung phòng với Sa-di. La-hầu-la không có phòng riêng, bị các Tỳ-kheo đuổi ra, La-hầu-la liền ngủ trong nhà xí. Trong nhà xí có con rắn độc lớn, Phật biết trong đó có rắn độc, sợ nó làm hại La-hầu-la bị thương nên liền đến nhà xí. Tuy biết nhưng Ngài vẫn hỏi:
Ông là ai vậy? La-hầu-la đáp:
Con là Sa-di La-hầu-la. Đức Phật hỏi:
Vì sao ông ở trong đó?
Đáp:-Không còn phòng nào khác.
Các Tỳ-kheo không cho con ngủ chung.
Phật liền dẫn vào phòng Ngài.
Ngày hôm sau, Phật tập hợp các Tỳ-kheo và bảo:
Thường pháp của người xuất gia là phải có tâm Từ. Từ nay trở đi, Sa-di được phép ngủ chung với Tỳ-kheo hai đêm. Đến đêm thứ ba nếu không có chỗ khác, Tỳ-kheo không được nằm ngủ, phải ngồi kiết-già cho đến khi mặt trời mọc. Đến đêm thứ tư, nếu vẫn không có chỗ để đi thì khi mặt trời sắp mọc hãy đuổi Sa-di ra khỏi phòng. Nếu Sa-di sợ, không thể ra khỏi phòng, thầy Tỳ-kheo nên tự đi ra.
Khi có khách Tăng đến chùa, Tỳ-kheo cựu trú dọn phòng, ngọa cụ để cung cấp cho vị ấy. Sau đó, khi ra đi, vị ấy không báo với Tỳ-kheo cựu trú. Trải qua nhiều ngày, chủ nhân vào phòng mới biết Tỳ-kheo khách đã đi. Ngọa cụ bị mối, chuột cắn rách nát. Tỳ-kheo liền đem việc này bạch Thế Tôn, nhân đó, Phật chế giới:
Tỳ-kheo khách nào ngủ nhờ ở trong chùa thì lúc đi phải xếp phu cụ, dọn dẹp giường ghế và phải thưa với Tỳ-kheo cựu trú rồi mới đi. Nếu không làm như vậy thì khi ra khỏi cương giới sẽ phạm tội Ba-dật-đề.
Một hôm nọ, nhóm sáu Tỳ-kheo và nhóm mười bảy Tỳ-kheo đều ngủ nhờ ở một chỗ. Nhóm sáu Tỳ-kheo là Thượng tọa, nhóm mười bảy Tỳ-kheo là Hạ tọa. Nhóm mười bảy Tỳ-kheo nói với nhóm sáu Tỳ-kheo:
Xin các Đại đức hãy chọn phòng trước. Nhóm sáu Tỳ-kheo nói:-Có ai chê tốt xấu đâu?
Nhóm mười bảy Tỳ-kheo chọn phòng và trải tọa cụ xong, nhóm sáu Tỳ-kheo liền đến chiếm phòng ấy và đuổi nhóm kia ra ngoài. Nhóm mười bảy Tỳ-kheo giận dữ lớn tiếng. Nghe vậy, chủ nhà liền hỏi:
Có việc gì mà người các vị la to vậy?
Nhóm mười bảy người đem việc trên kể lại với chủ nhà. Các Tỳ-kheo đến bạch Thế Tôn. Nhân đó, Phật liền chế giới:
Từ nay trở đi, bậc Hạ tọa nhường phòng tốt cho Thượng tọa. Nếu Thượng tọa không nhận thì sau khi Hạ tọa trải phu cụ xong, Thượng tọa không được dùng sức mạnh để chiếm đoạt và đuổi Hạ tọa đi. Nếu Hạ tọa đến trước, không biết có Thượng tọa đến thì khi Thượng tọa đã đến, Hạ tọa phải tránh đi. Trên dưới đều không được ỷ sức mà xua đuổi nhau. Nếu người nào ỷ sức, xua đuổi nhau thì phạm tội Ba-dật-đề.
Lúc nọ, nhóm sáu Tỳ-kheo ở trên gác, không chịu xem xét kỹ càng xem sàn gác dày hay mỏng mà buông mình ngồi xuống, chân giường bị gãy, đâm xuyên qua sàn gác, rơi xuống làm đầu của Tỳ-kheo đang ở bên dưới bị thương. Nhân đó, Phật chế giới:
Từ nay về sau, người ở trên gác phải xem kỹ sàn gác dày hay mỏng, không được liền ngồi thẳng xuống. Nếu ai ngồi như vậy thì phạm Ba-dật-đề.
Một lúc nọ, Tỳ-kheo Xiển-đà lấy nước có trùng trộn với bùn để cất thất. Thấy vậy, các đàn-việt bất mãn, nói: "Vì sao Tỳ-kheo không có lòng từ bi?". Nhân đó, Phật chế giới:
Từ nay trở đi, Tỳ-kheo không được dùng nước có trùng trộn với bùn để cất thất. Nếu ai dùng thì phạm tội Ba-dật-đề.
(Xong phần phòng ốc).
Lúc ấy, Phật ở tại nước Ba-la-nại.
Năm Tỳ-kheo A-nhã Kiều-trần-như đến chỗ Phật, bạch Thế Tôn:
Các Tỳ-kheo được phép ở những nơi nào và trải những loại phu cụ gì?
Đức Phật bảo Kiều-trần-như:
Cho phép các Tỳ-kheo được nghỉ ngơi ở A-lan-nhã, nơi gốc cây, ở nghĩa địa, ở cạnh bờ sông, khe núi, nơi vắng vẻ, trải cỏ, lá cây để làm tọa cụ. Việc này trong kiền độ Phu cụ đã nói rõ.
Về trụ xứ, nói tóm tắt gồm có hai loại: một là làng xóm, hai là nơi vắng vẻ, yên tĩnh.
Lúc ấy có Tỳ-kheo khách an cư ở chùa khác, không chịu đi xem phòng ốc, ngọa cụ; nhận được phòng xấu và ngọa cụ xấu nên trong lòng không vui, tu đạo bị trở ngại. Vì tức giận Tỳ-kheo cựu trú, vị ấy phỉ báng:
Tỳ-kheo ấy có thương, có ghét, có si mê, có lo sợ. Nghe việc ấy, Phật liền bảo các Tỳ-kheo:
Từ nay trở đi, khi an cư mùa Hạ, các Tỳ-kheo phải đích thân đi xem phòng ốc, ngọa cụ, sau đó mới nhận. Nếu phòng được phân chia theo thứ tự từ Thượng tọa trở xuống thì không cần xem trước cũng không có lỗi. Nếu người phân chia phòng bảo: "Thầy hãy đi xem phòng" mà lười biếng không đi xem thì phạm tội Đột-kiết-la.
Lý do Như-lai bảo các Tỳ-kheo giữ gìn phu cụ là để ngăn năm việc sau:
Không muốn cho gió thổi.
Không muốn cho bị phơi nắng.
Không muốn cho mắc mưa.
Không muốn cho bụi đất bám vào.
Không muốn cho chim, trùng phóng uế lên phu cụ.
Pháp an cư mùa Hạ của Tỳ-kheo là: Người được Tăng sai phân chia phòng và phu cụ phải đi đến từng phòng để xem xét xem những phòng nào có nhiều phu cụ và những phòng nào không có phu cụ. Nơi nào nhiều phu cụ thì lấy bớt đem qua nơi không có phu cụ. Nếu khắp nơi đều có thừa phu cụ thì lần lượt giao cho từ Thượng tọa trở xuống. Đó gọi là cách phân chia phu cụ.
Quản lý có hai loại: Một là làm, hai là che.
Làm là: Có đàn việt muốn cất thất cho chúng Tăng, Tăng nên sai người quản lý bạch nhị yết-ma để sắp xếp công việc. Nếu người quản lý này muốn thọ dụng căn thất đó đến trọn đời, khi đã làm xong thì Tăng cho phép vị ấy được ở trong mười hai năm. Sau đó chúng Tăng sẽ tùy ý phân xử. Nếu trong hai, ba năm mà người quản lý không thể cất thất xong thì Tăng phải xem lại năng lực của người ấy, nếu nhắm người ấy có thể hoàn tất công việc thì cho làm tiếp đến khi hoàn tất, nếu nhắm người ấy không thể hoàn tất thì hãy sai người khác làm thay. Đó gọi là làm.
Thế nào là che?-Nếu người làm xây tường vách xong, không thể lợp mái thì sau đó, Tăng phải sai người có khả năng đến lo việc lợp mái. Nếu người lợp mái muốn sống ở đó suốt đời thì Tăng nên cho người ấy sống tại đó sáu năm, sau đó Tăng tùy ý phân xử. Đó gọi là lợp mái.
Pháp Tỳ-kheo cung kính lẫn nhau là: Phải đứng dậy nghinh đón, đảnh lễ, nắm tay hỏi thăm, cung cấp tất cả những thứ vị kia cần dùng, chớ có làm phật ý. Các Tỳ-kheo bạch Phật:
Thượng tọa có lỗi đối với Hạ tọa thì phải có mấy pháp để phát lồ sám hối?
Đức Phật nói:
Phải có bốn pháp: Một là sửa áo bày vai phải, hai là cởi giầy da, ba là chấp tay, bốn là nói lỗi đã phạm.
Hạ tọa hướng về Thượng tọa để sám hối tội đã phạm thì phải đủ năm pháp: một là sửa áo bày vai phải, hai là phải cởi giầy da, ba là quỳ xuống, bốn là chấp tay, năm là nói ra tội đã phạm.
Nếu Tỳ-kheo khách đến chùa khác, gặp Thượng tọa thì phải đủ năm pháp cung kính: một là sửa áo bày vai phải, hai là cởi giầy da, ba là quỳ xuống, bốn là dùng hai tay nắm chân Thượng tọa, năm là cúi đầu lễ bái. Nếu Tỳ-kheo cựu trú nhỏ thì cũng phải đủ năm pháp cung kính. Pháp này được nói rõ trong kiền độ Trì giới.
Cách trị bệnh phong là: Phải dùng nước Tô-tỳlặc. Cách làm loại nước này là: Đầu tiên sai tịnh nhân giã lúc đại mạch bỏ vào trong bình, ngâm với nước trong hai ba ngày. Khi đã sắp lên men thì lọc sạch mà uống. Nếu Hòa thượng bệnh thì đệ tử phải làm nước này để nuôi bệnh. Nếu đệ tử bệnh thì Hòa thượng cũng phải làm như vậy.
Có Tỳ-kheo-ni mang nước Tô-tỳ-lặc đi trên đường, giữa đường, gặp một người bị chặt tay chân đang nằm trên đường. Tỳ-kheo-ni ấy liền dùng nước Tô-tỳ-lặc rưới lên vết thương người kia làm người ấy chết lập tức. Đức Phật nói:
Từ nay trở đi không được đem nước Tô-tỳ-lặc rưới lên trên vết thương.
Có Tỳ-kheo mang nước Tô-tỳ-lặc đến rừng bỏ tử thi, thấy một người bệnh nằm trên đất, người kia xin Tỳ-kheo nước Tô-tỳ-lặc để uống. Do lòng từ bi, Tỳ-kheo ấy liền cho anh ta, uống xong người này liền bị chết. Các Tỳ-kheo sanh nghi, không biết Tỳ-kheo có phạm giới không? Đức Phật nói:
Do tâm thương xót nên không phạm. Đó gọi là nước Tô-tỳ-lặc.
Vì Tỳ-kheo bệnh, Phật cho phép uống sáu loại thuốc bột: Một là bột ly-bạn, hai là bột phá-la-tư, ba là bột bố-la-la, bốn là bột a-phạm-khước-la, năm là bột ba-khước-la, sáu là bột a-bạn-đà. Những loại bột như vậy có rất nhiều loại. Nếu Tỳ-kheo nào bệnh thì hãy uống theo sự chỉ dẫn của thầy thuốc.
Lúc ấy, Ly-xa-tử mang bình bát báu, bên trong đựng đầy bột chiên-đàn đến dâng Phật. Đức Phật nói:
Trong Phật pháp của Ta không cho phép nhận bình bát bằng châu báu. Ly-xa-tử nói:
Nếu không nhận bình bát báu thì xin Thế Tôn hãy nhận hương bột chiên đàn.
Phật liền thọ nhận.
Có Tỳ-kheo dùng tháo đậu thô để rửa bát làm bát mất màu. Đức Phật nói:
Phải giã nhỏ, sau đó dùng sàng rây cho nhuyễn rồi mới dùng.
Có một người nữ đã mất chồng, do tâm dâm dục mạnh, cô ta tư thông với người khác và bị mang thai. Sợ bị lộ, cô ta bảo người đã tư thông với mình xin thuốc phá thai. Người ấy xin được thuốc từ Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, liền dùng để phá thai. Nghe vậy Phật liền chế giới:
Người xuất gia không được phép cho người khác thuốc phá thai. Pháp của Tỳ-kheo là không dùng các loại hương và tháo đậu để tắm rửa, thậm chí bị bệnh cũng không được dùng.
Bấy giờ, Phật ở tại Ba-la-nại, năm Tỳ-kheo đến bạch Thế Tôn:
Các Tỳ-kheo được phép chứa những loại thuốc gì? Đức Phật nói:
Cho phép các Tỳ-kheo được chứa thuốc đã bào chế (trần khí dược, cho đến lưu ly cũng được chứa.)
Thuốc trị bệnh gồm có bốn loại:
Loại thuốc dùng trước giờ ngọ, không được dùng sau giờ ngọ, bảy ngày hoặc trọn đời.
Loại thuốc dùng sau giờ ngọ thì trước giờ ngọ cũng được dùng, nhưng không được cất chứa trọn đời.
Thuốc dùng sau giờ ngọ gồm có hai loại: Một loại được cất chứa trong bảy ngày, một loại không được.
Loại thuốc dùng trọn đời thì trước và sau giờ ngọ cho đến bảy ngày đều được dùng.
Việc này đã được nói rõ trong kiền-độ Dược.
Có Bà-la-môn tên Tử Thi La đem tám loại nước uống đến dâng Phật:
Một là nước Am-la
Hai là nước Thiệm-bà
Ba là nước Táo
Bốn là nước Hoại vị
Năm là nước Đa
Sáu là nước Sa-lâm-tỳ-Bảy là nước Phá-lưu-sa-Tám là nước Cam.
Những loại nước này Phật cho phép Tỳ-kheo được dùng.
Lý do Phật cấm uống rượu là: Do Tỳ-kheo Sađề uống rượu say nên Phật dạy không được uống rượu.
Tôn giả Di-sa-tắc nói:
Tỳ-kheo Sa-đề từ nhỏ đã nhờ rượu nuôi lớn thân mạng. Sau khi xuất gia không được uống rượu nên bốn đại không điều hòa.
Các Tỳ-kheo bạch Phật, Đức Phật nói:-Người bệnh thì được phép ngửi mùi bên trên vò rượu. Nếu lành bệnh thì không được ngửi nữa. Nếu ngửi không lành thì được dùng rượu rửa thân mình. Nếu lại không lành thì được đem rượu trộn với bột gạo làm bánh rượu để ăn. Nếu lại không bớt thì được phép ngâm mình trong rượu.
Tôn giả Ca-diếp-duy nói:
Có loại nước uống, được phép uống trước giờ ngọ, sau giờ ngọ không được phép uống. Có loại nước uống, trước giờ ngọ được phép uống, sau giờ ngọ cũng được uống. Có loại nước trước và sau giờ ngọ đều không được uống. Có loại nước trước giờ ngọ không được uống, sau giờ ngọ được phép uống.
Như Phật đã chế định tại Tỳ-xá-ly: "Không được ăn men rượu, không được uống rượu chua, đắng", tôn giả Ca-diếp-duy nói:
Có tám loại rượu không được uống:
Rượu do hòa trộn men rượu tạo thành thì không được uống.
Rượu do bột gạo hòa trộn tạo thành thì tuy có chứa các loại thuốc cũng không được uống.
Rượu chua có thể làm cho người say thì không được uống.
Rượu tuy ngọt nhưng có thể làm cho người say thì không được uống.
Rượu trong suốt cũng không được uống.
Rượu hơi chua cũng không được uống.
Rượu làm bằng cơm giã nhuyễn cũng không được uống.
Rượu Thư-đà cũng không được uống. Các loại rượu như vậy rất nhiều, đều không được uống. Tôn giả Tát-bà-đa nói:
-Rượu do nho và gạo nếp hòa trộn tạo thành thì không được uống.
Rượu làm bằng mật cũng không được uống, rượu làm bằng gạo cũng không được uống. Rượu làm bằng các loại quả cũng không được uống. Tất cả các loại rượu như vậy đều không được uống. Đó là những loại rượu không được uống.
Không nên thuyết pháp cho người mang guốc gỗ. Như cậu thanh niên Da-xá cởi guốc vàng để lại khi lội qua sông. Khi thấy đôi guốc này, người nhà cậu ấy liền biết cậu ấy đến gặp Phật để xin xuất gia.
Lúc ấy Phật ở tại nước Xá-vệ, nhóm sáu Tỳ-kheo mang guốc cao đi vào nơi ngồi thiền, tiếng guốc vang rất to. Nghe tiếng động ấy, các Tỳ-kheo đang ngồi thiền cho là quân mã của bọn cướp kéo đến nên rất kinh sợ. Vì thế, Phật chế giới:
Từ đây trở đi, tất cả Tỳ-kheo đều không được mang guốc, trừ người bệnh và khi lên nhà cầu. Đó gọi là lý do của việc mang hoặc không mang guốc.
Khi đó, có trưởng giả tên Lưu-lô-nô. Lúc mới sanh, người cha vui mừng nên đã cho con trai mình hai mươi vạn ức tiền vàng, vì thế có tên là Nhị Thập Ức. Cậu ấy rất giàu sang, từ lúc mới sanh đến lớn, chân chưa hề đạp trên đất. Sau khi xin Phật xuất gia, vị ấy siêng năng tu tập, đắc quả A-la-hán. Do hành đạo khổ nhọc nên chân vị ấy bị chảy máu.
Biết vị ấy từ nhỏ đến nay giàu có, chân chưa hề đạp lên đất nên Phật cho phép mang giày da một lớp.
Lưu-lô-nô bạch Thế Tôn:
Đệ tử có thể xả bỏ gia nghiệp giàu có như vậy, há lại tham mang một đôi giày da sao? Nếu Thế Tôn cho phép tất cả các Tỳ-kheo đều được mang giày thì đệ tử sẽ mang.
Vì lý do này, Phật cho phép tất cả Tỳ-kheo đều được mang giày da.
Người đang mang giày da không được phép nghe pháp. Người bệnh được phép mang giày da nghe pháp.
Có Tỳ-kheo mang giày da vào tháp, Phật liền chế giới:
Không được mang giày da vào tháp và nhiễu tháp, cho đến dép cũng không được mang vào tháp. Sở dĩ làm vậy là vì ở nơi ấy người nào mang giày dép da đều sanh tâm kiêu mạn. Vì thế, Phật không cho phép mang. Đó là nhơn duyên mang giày da.
Do nước A-bàn-đề rất lạnh nên Phật cho phép cất chứa da, trừ năm loại da như: da sư tử, da gấu, da bi, da rồng, da người. Những loại da này đều không được phép cất chứa.
Những loại da được phép cất chứa là: da voi, da ngựa, da lạc-đà, da bò, da lừa. Những loại da được phép cất chứa như thế rất nhiều.
Pháp của người xuất gia là không được cất chứa vò lớn đựng rượu, bình và hộc đựng rượu lớn bằng đồng. Những thứ ấy gây nên sự hiềm nghi của mọi người, vì vậy không được cất chứa.
Lúc này, Lộc mẫu Tỳ-xá-khư cúng dường cho chúng Tăng sáu loại vật như:
Chiếc giường được chạm trổ rất đẹp.
Nồi bằng đồng.
Cây đuốc.
Quạt.
Cây chổi quét.
Bình lớn bằng đồng.
Các Tỳ-kheo phân vân mới hỏi Phật, Đức Phật nói:
Bình lớn bằng đồng không nên nhận, năm thứ còn lại thì nên nhận.
Có một người thợ gốm làm nhiều bình gốm lớn, đem cúng dường cho Tăng, Tăng phân vân liền hỏi Phật, Đức Phật nói:
Trừ bình lớn, số còn lại đều được nhận.
Lúc ấy, có hai người khách buôn ở cách tinh xá Kỳ-hoàn không xa, một người tin đạo, một người không tin đạo. Người không tin đạo nói:
Sa-môn Thích tử tham lam cất chứa nhiều bình lớn. Người tin Đức Phật nói:
Sa-môn Thích tử không có tâm tham, không có chứa bình lớn.
Hai người liền đánh cược với nhau bằng năm trăm tiền vàng. Khi đến Kỳ-hoàn, họ thấy các đànviệt đem nhiều bình lớn cúng dường cho chúng Tăng, người tin đạo bị thua nên phải trả năm trăm tiền vàng.
Nghe việc ấy, Phật liền dạy các Tỳ-kheo:
Từ nay trở đi, không được chứa bình lớn để đựng rượu.
Vào lúc khác, hai người lái buôn ấy lại tranh luận, người không tin đạo nói:
Hiện giờ do tâm tham, Sa-môn vẫn còn chứa bình lớn. Người tin đạo nói:
Hiện nay Sa-môn không còn chứa bình lớn.
Hai người liền đánh cược với nhau bằng một ngàn tiền vàng. Người không tin đạo đem nhiều bình lớn đến cúng cho Sa-môn, nhưng các Tỳ-kheo đều không nhận. Vì thế, người không tin đạo phải trả lại cho người tin đạo một ngàn tiền vàng.
Đó là lý do không nên chứa bình.
Lúc ấy, Thích tử Bà-nan-đà cột lông dê lên đầu gậy rồi gánh đi.
Đàn-việt trông thấy liền chê cười, giả vờ hỏi:-Có bán lông không? Nan-đà đáp:
Không bán.
Lần lượt như vậy, việc đó đến tai đức Thế Tôn, đức Thế Tôn liền chế giới:
Từ nay trở đi, Tỳ-kheo không được cột lông dê trên đầu gậy rồi gánh trên vai mà đi.
Không được thuyết pháp cho người cầm gậy. Đầu gậy bằng sắt hoặc bằng sừng nai đều được dùng. Vì sao?-Vì sợ gậy bị mòn.
Pháp nấu cỏ làm thuốc nhuộm của các Tỳ-kheo là: Làm một cây gậy dài khoảng ba thước (tàu), đầu gậy được bó bằng cỏ, khi nước sôi bùng lên thì dùng gậy khuấy. Nếu không biết cỏ nhuộm chín hay sống thì đổ nước vào một cái bình, dùng gậy vớt nước cỏ nhuộm rưới vào trong bình nước, nếu cỏ nhuộm đã chín thì nước nhuộm sẽ chìm thẳng xuống dưới, nếu chưa chín thì nó sẽ nổi trên mặt nước. Khi cỏ nhuộm đã chín thì lọc sạch để nhuộm y. Nhuộm xong, muốn phơi y thì phải để nơi đất bằng, đừng để bốn góc bị cuốn lại. Khi muốn xếp y, phải quấn trên cái trục cho y được ngay thẳng.
Thích tử Bạt-nan-đà đan chiếc túi, bỏ bát vào đó rồi treo lên đầu gậy vác đi. Các đại thần trông thấy, cho là vua mang cờ đến nên đều tránh xa. Khi vị ấy đến gần, họ mới biết đó là Sa-môn nên đều bực mình với vị ấy. Nghe vậy, Phật liền chế giới:
Tỳ-kheo không được cột túi đựng bát lên đầu gậy mà vác đi.
Nhóm sáu Tỳ-kheo cất chứa gậy trúc, làm người thế tục trông thấy đều chê trách:
Sa-môn không khác gì nhà vua và đại thần.
Nghe vậy, Phật liền chế giới không cho phép Tỳ-kheo cất chứa vật ấy.
Nếu Tỳ-kheo bệnh, có việc phải vào làng và cần gậy thì phải cầu xin Tăng bạch nhị yết-ma. Nếu đã được Tăng làm yết-ma cho phép thì được mang bát cột lên đầu gậy mà đi. Nếu không yết-ma thì không được.
Khi ấy, Thế Tôn ở tại thành Vương-xá, có Tỳ-kheo-ni-đàn đi trong rừng vào ban đêm, lo sợ bị rắn độc, trùng độc và thú dữ làm hại nên đến bạch Phật, Đức Phật nói:
Cho phép các Tỳ-kheo ở nơi tối tăm đáng sợ được rung tích trượng phát ra tiếng động để rắn độc, trùng độc tránh xa. Cần phải biết rõ như vậy. Có người bị khiển trách, trừng phạt, cần làm yết-ma quở trách, yết-ma tẩn xuất, diệt tẩn, yết-ma y chỉ, yết-ma sám hối, yết-ma Tăng không thấy sự vi phạm, yết-ma chưa chịu sám hối, yết-ma không xả bỏ ác kiến. Những việc như vậy phải bạch tứ yết-ma, cho ở riêng, thực hành sáu ngày Ma-na-đỏa, nói trái ngược, phú bát và không nói. Trong năm trường hợp này có ba trường hợp bạch tứ yết-ma, còn hai trường hợp sau thì bạch nhất yết-ma.
Đó gọi là tẫn xuất, trị phạt.
Thế nào là cái túi lưới?-Đến giờ khất thực, cần để bát vào trong túi lưới. Khi các đàn-việt cúng dường cơm canh, Tỳ-kheo cầm túi lưới để đàn-việt để cơm canh vào bát. Nếu cơm canh tràn ra ngoài bát làm dơ túi lưới thì cũng không có hại gì; chỉ cần đừng để cơm canh nóng dính vào tay. Nếu có đệ tử, đến giờ khất thực, đệ tử phải bỏ bát vào túi rồi đem trao cho Hòa-thượng và A-xà-lê.
Bấy giờ, trong thành Vương-xá có vị đại trưởng giả thu được nhiều gỗ hương chiên-đàn, liền thuê thợ làm bát chiên đàn, dùng vật báu làm túi đựng bát, dựng một ngọn cờ cao ở trong sân, treo túi và bát trên đầu cây cờ và rao:
Ở trong thành Vương-xá này, Sa-môn, Bà-lamôn nào có thần thông đức độ, có thể bay lên lấy hoặc duỗi tay lấy thì chiếc bát này thuộc về người ấy.
Ngoại đạo Phú-lan-na Ca-diếp đến chỗ trưởng giả nói:
Ta là đại A-la-hán chơn thật. Ta sẽ hiện thần lực lấy chiếc bát đó.
Lục sư ngoại đạo đều hiện thần lực nhưng không thể lấy được. Khi ấy, Mục-kiền-liên đang kinh hành trên tảng đá lớn, Tân-đầu-lô bảo Mụckiền-liên:
Đại đức là người có thần thông đứng đầu trong số các đệ tử của Phật, có thể gầm tiếng sư tử, xin hãy hiện thần lực lấy bình bát ấy. Mục-liên đáp:
Tôi không thích hiện thần thông, cũng không thể lấy bình bát đó. Thế Tôn cũng đã nói Đại đức là đại A-la-hán có thần thông bậc nhất, có thể gầm tiếng sư tử, vậy đại đức hãy đi lấy bình bát đó đi.
Tân-đầu-lô liền hiện thần lực, đứng trên một tảng đá lớn, nương hư không mà đi quanh thành Vương-xá, làm người xem không ai không kinh sợ. Nếu tảng đá này rơi xuống thì không ai có thể tránh khỏi.
Lúc này trưởng giả đang ở trên lầu cao. Sau khi thấy Tân-đầu-lô hiện thần thông, trưởng giả chấp tay đảnh lễ tôn giả Tân-đầu-lô và bạch:
Đệ tử đã cúng cho tôn giả bình bát ấy rồi, xin hãy nhận lấy.
Khi Tân-đầu-lô đã nhận bình bát, trưởng giả liền thỉnh vị ấy vào trong nhà, đặt các loại thức ăn ngon vào bát cúng dường Tân-đầu-lô.
Các Tỳ-kheo đem việc ấy bạch đầy đủ với Phật, Phật gọi Tân-đầu-lô đến hỏi:
Có thật là ông đã vì cái bát này mà hiện thần lực không? Tân-đầu-lô đáp:
Đúng vậy, thưa Thế Tôn.
Đức Phật liền quở trách Tân-đầu-lô bằng nhiều cách:
Vì sao chỉ vì chiếc bát gỗ này mà ông hiện thần lực cho các bạch y xem? Giống như dâm nữ chỉ vì nửa đồng tiền mà cho người xem thân thể của mình, ông cũng như vậy. Từ nay trở đi, Tỳ-kheo không được cất chứa bình bát bằng chiênđàn, cũng không được vì y bát mà hiện thần lực. Nếu để thành tựu việc hàng phục các ngoại đạo thì được phép hiện thần thông.
Lý do được phép cất chứa túi xách là: Sa-di, tịnh nhân cùng đi ra bên ngoài và nhận được trái cây, trái ngon thì họ ăn, còn trái dở thì mang về cho thầy. Nghe việc này, Phật cho các Tỳ-kheo được làm túi xách, khi nhận được trái cây thì bỏ vào túi xách, buộc chặt miệng túi lại, mang về đến chùa, rửa tay rồi thọ thực như pháp.
Tôn giả Tát-bà-đa nói:
Có một Tỳ-kheo cùng tịnh nhân khất thực, tịnh nhân này cầm thức ăn sơ suất bị ngoại đạo bỏ thuốc độc vào mà không biết. Về đến trụ xứ, Tỳ-kheo ấy ăn xong liền qua đời.
Do đó Phật dạy các Tỳ-kheo:
Từ nay trở đi, mỗi người phải làm túi xách đựng bát và giữ cho kỹ.
Đó là các lý do Phật cho phép chứa túi đựng bát.
Nếu có Tỳ-kheo già, bệnh cần gậy để đi đường, hoặc giữa đường có nạn rắn độc thì Phật cho phép cầm gậy đi; đầu gậy bằng sắt, bằng đồng hoặc bằng sừng đều được dùng.
Hỏi: tất cả Tỳ-kheo đều không được ăn tỏi, trừ khi bệnh.
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở tại tinh xá Kỳ-hoàn thuyết pháp cho đại chúng nghe. Có một Tỳ-kheo ăn tỏi nên ngồi cách xa Phật và ở bên ngoài đại chúng. Phật hỏi A-nan:
Tỳ-kheo ấy vì sao ngồi một mình ở đằng xa vậy? A-nan bạch Phật:
Tỳ-kheo ấy ăn tỏi, vì vậy phải ngồi riêng. Phật bảo A-nan:
Vì việc nhỏ này mà vị ấy không được nghe pháp do Như Lai khéo giảng dạy. Phật lại bảo A-nan:
Từ nay trở đi, trừ khi bệnh, ngoài ra đều không được ăn tỏi.
Có một lần Xá-lợi-phất bị bệnh phong, thầy thuốc bảo phải dùng tỏi, vị ấy liền đến bạch Phật, Đức Phật nói:
Người bệnh thì được phép dùng.
Lúc ấy, Thế Tôn ở tại Tỳ-xá-ly. Bên ngoài thành này có một đàn việt trồng rất nhiều tỏi. Tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà thường đi qua lại cạnh vườn tỏi này. Đàn-việt chủ vườn tỏi ấy có tâm thiện, muốn tạo phước đức nên hỏi:
Tôn giả cần tỏi để ăn không? Ni cô đáp:
Chúng tôi ăn cơm thường không biết ngon. Nếu được ít tỏi để ăn thì thật tốt.
Đàn-việt liền đem tỏi cúng cho cô ấy và hứa là hàng ngày sẽ cho chúng Tăng năm chùm tỏi. Thâula-nan-đà liền bạch với Ni chúng:
Đàn việt ấy hứa cúng cho chúng Tăng năm chùm tỏi mỗi ngày.
Vị nào cần thì sai Sa-di ni đến lấy.
Có một ni cô cần tỏi, sai Thức-xoa-ma-ni, Sa-di ni đến lấy. Lúc ấy chủ vườn tỏi đang mang tỏi vào chợ trong thành để bán và để người giúp việc ở lại giữ vườn tỏi. Sa-di ni hỏi:
Chủ vườn tỏi đi đâu rồi? Người giữ vườn đáp:-Đã vào chợ trong thành để mua bán.
Sa-di ni theo người ấy xin tỏi. Người giữ vườn đáp:
Tôi không biết. Tôi chỉ biết giữ tỏi. Sa-di ni giận dữ nói:
Chủ nhà đã cho, ông giữ làm sao được? Nói xong, Sa-di ni tự tay nhổ tỏi và nói:
Đây là phần của Hòa thượng, đây là phần của A-xà-lê, đây là phần ngày hôm nay, đây là phần ngày mai. Cô ta tự ý phân chia như vậy rồi mang đi. Khi trở về, người chủ vườn tỏi thấy vậy liền hỏi người giữ vườn:
Ai mang số tỏi này đi vậy?
Người giữ vườn kể lại đầy đủ mọi việc cho chủ nghe. Nghe xong, chủ vườn tỏi rất bực bội và chê trách các Tỳ-kheo-ni. Việc ấy lần lượt đến tai Thế Tôn. Thế Tôn gọi các Tỳ-kheo-ni đến, quở trách bằng nhiều cách và bảo:
Từ nay trở đi, Tỳ-kheo-ni không được ăn tỏi.
Ai ăn phạm Ba-dạ-đề.
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
Nên dùng những loại dao gì để cạo tóc? Đức Phật dạy:
Dùng đồng hoặc sắt làm dao để cạo tóc. Khi đã làm dao xong, không có chỗ cất dao, họ lại hỏi Thế Tôn, Đức Phật nói:
Có thể dùng đồng hoặc sắt, hoặc sừng, hoặc xương, hoặc tre, hoặc cỏ lau để làm vỏ dao và cất dao ở trong gỗ, da, hoặc da bò, da dê.
Đó gọi là pháp cất dao cạo tóc. Việc này trong kiền độ Tạp có nói rõ.
Pháp cạo tóc của Tỳ-kheo-ni là: Nên tuần tự cạo cho nhau. Nếu người cạo tóc là người nam thì phải có hai Tỳ-kheo-ni mới cho cạo. Nếu Tỳ-kheo-ni có tâm dục đối với người cạo tóc nam và người nam ấy cũng có tâm dục đối với Tỳ-kheo-ni thì không nên cho cạo.
Xe có bốn loại: Một là cưỡi voi, hai là cưỡi ngựa, ba là đi xe, bốn là đi kiệu.
Khi ấy bên ngoài thành Câu-diệm-di có cây lớn tên Ni-câu-đà. Dưới gốc cây này có nhiều loại xe dừng lại nghỉ ngơi. Đó gọi là phương tiện đi lại. Người nào đến vì pháp mà không xuống xe thì không nên nói pháp cho họ nghe, trừ người bệnh.
Phải làm như vua Bình-Sa, cưỡi tám vạn bốn ngàn con voi, ngựa, đến rừng Dạ-Trí để gặp Phật, nghe pháp. Lúc này cũng có anh em Ca-diếp và một ngàn đồ chúng đang ở cạnh Phật để nghe pháp.
Khi đó, Thế Tôn từ nước Tỳ-lê-kỳ du hóa đến Tỳ-xá-ly, cô Am-la cùng nhóm Ly-xa-tử đều đi các loại xe quý giá đến chỗ Phật để nghe pháp. Sau khi nghe pháp, họ thỉnh Thế Tôn đến vườn xoài để nghỉ đêm và thọ nhận sự cúng dường của họ vào ngày hôm sau. Những phương tiện mà các người ấy cưỡi đều gọi là xe.
Bấy giờ, nhóm sáu Tỳ-kheo đi các loại xe dành cho vua, mọi người trông thấy cho là vua hoặc đại thần. Khi đến nơi mới biết đó là Sa-môn nên ai nấy đều chê trách. Nghe nói việc ấy, Phật liền chế giới:-Trừ Tỳ-kheo già, bệnh, số còn lại đều không được đi xe, không được cưỡi ngựa, cưỡi voi. Những người bệnh đều được cưỡi.
Lúc ấy, vua Bình Sa ở nước Ma-kiệt-đề có năm món đồ trang sức: một là đao có dây đai bằng vàng, hai là xe bằng bảy báu, ba là mũ bằng bảy báu, bốn là quạt bằng các loại lưới bảy báu, năm là giày da nạm các loại châu báu. Vị vua ấy cởi bỏ năm món đồ trang sức này, đi chân không, đến trước Phật đảnh lễ sát chân Như Lai rồi ngồi lui qua một phía. Khi đó, có tám vạn bốn ngàn người dân nước Ma-kiệt-đề cũng theo vua đến đó. Thấy anh em Cadiếp đều ngồi ở nơi ấy, họ phân vân không biết là Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp đến xuất gia với Đại Samôn hay Đại Sa-môn đến xuất gia với Ca-diếp. Biết mọi người đang phân vân, Phật liền nói kệ hỏi Ca-diếp:
Pháp ông đã tu tập Có những lỗi lầm gì? Bỏ nó xin xuất gia Để cầu lợi ích gì?
Vốn tu pháp thờ lửa Vì sao không thờ tiếp?
Chắc gặp pháp tốt khác Nên xả bỏ pháp cũ?
Ca-diếp liền nói kệ đáp: Vị thức ăn càng ngon Tai họa cũng càng lớn Nữ sắc còn hơn thế
Tai họa càng lớn hơn Pháp thờ lửa trước đây Không vượt được khổ ấy Nên xuất gia để được Thoát hẳn các khổ nạn.
Đức Thế Tôn nói kệ hỏi Ca-diếp tiếp:
Người bị vị ràng buộc Lâu ngày thành thói quen Ở cõi trời, cõi người Thấy gì được giải thoát? Ca-diếp nói kệ đáp lại: Thấy ba cõi sanh tử Trống rỗng không có gì
Pháp diệt trong từng niệm Nên bỏ không vướng mắc.
Bấy giờ, những người đi theo vua Bình-Sa ở nước Ma-kiệt-đề vẫn chưa hết phân vân: "Phật và Ca-diếp mỗi người đều nói hai bài kệ, vậy ai lớn hơn?" Biết được ý nghĩ ấy, Phật liền bảo Ca-diếp:
Ông hãy cầm quạt, quạt cho ta.
Ca-diếp liền đứng dậy cầm quạt quạt cho Phật. Quạt xong, bèn vọt lên hư không, hiện thần thông rồi trở xuống đảnh lễ sát chân Phật và nói lớn:
Thế Tôn là thầy, con là đệ tử.
Thấy vậy mọi người mới biết Phật là Đại sư độ Ca-diếp.
Biết đã đến thời, tâm phân vân của họ đã hết, Phật liền giảng pháp, chỉ dạy sự lợi ích an vui, vua cùng tám vạn bốn ngàn người đều đắc quả Tu-đàhoàn. Mười ức na-do-tha chư thiên cũng xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh.
Khi ấy, trời Đế Thích, Tứ-thiên-vương,... biến thành Bà-la-môn cầm quạt vàng quạt Phật. Cần phải biết rõ như vậy.
Lúc đó, nhóm sáu Tỳ-kheo cầm phất trần bằng châu báu phất qua phất lại làm tổn hại chúng sanh. Thấy vậy, đàn-việt chê trách:
Vì sao người xuất gia lại cất chứa loại phất trần này để trang sức, làm tổn hại chúng sanh?
Nhân đấy, Phật chế giới:
Từ nay trở đi không được cầm roi và phất trần cứng làm thương tổn chúng sanh. Lại có Tỳ-kheo cầm phất trần định phủi bụi ở tháp Như lai, Phật liền cho phép.
Lúc ấy có tám người ở bên cạnh Phật cầm phất trần phất trên thân Phật. Tám người đó là:
1-Ca-diếp
2-Ưu-đà-di
Sa-già-đà
Di-ty-dụ
Na-ca-bà-la
Quân-đà
Tu-na-sát-la
A-nan.
Các Tỳ-kheo ấy cầm phất trần phất thân Phật nên gọi là phất. Lúc này, các Tỳ-kheo tập hợp lại một chỗ. Thời tiết rất nóng.
Phật cho phép các Tỳ-kheo được cất chứa quạt. Nếu quạt bị rách thì cho phép vá lại. Cách làm quạt là: Hoặc vải, hoặc dạ, hoặc tre, hoặc cỏ lau, hoặc giấy đều làm được.
Khi đó, có hai vợ chồng nọ tuổi đã cao mới xuất gia. Về sau, Tỳ-kheo ấy khất thực xong mang đến chùa ni. Cô ni cao tuổi nọ cầm quạt, quạt bên trên thức ăn. Tỳ-kheo nói không cần quạt. Cô ni nổi giận, cầm quạt đánh Tỳ-kheo ấy rồi bỏ vào phòng. Nghe nói việc ấy, Phật liền chế giới:
Từ nay trở đi, ni không được cầm quạt quạt Tỳ-kheo. Nếu trời nóng, chúng Tăng nhóm họp đông thì cho phép người đệ tử cùng đi quạt cho Hòa thượng, người đệ tử ngủ cùng phòng quạt cho A-xà-lê, Tỳ-kheo hạ tọa quạt cho đại chúng; giống như tám người như Ca-diếp,... cầm quạt quạt Phật. Đó gọi là quạt.
Lúc ấy, nhóm sáu Tỳ-kheo cầm dù lọng, mang giày da đi đường. Các đàn việt hiềm trách: "Vì sao các Tỳ-kheo lại mặc tình cầm dù lọng, mang giày da đi đường?" Vì thế, Phật chế giới:
Từ nay trở đi không được cầm dù lọng, mang giày da mà đi. Nếu ở trong chùa thì được phép mang giày da. Nếu lọng làm bằng vỏ cây hoặc cỏ thì được phép dùng. Khi vào xóm làng, trừ Tỳ-kheo già, bệnh, số còn lại đều không được phép cầm dù lọng và mang giày da.
Bấy giờ, những người thuộc dòng họ Ly-xa-tử đến chỗ Phật. Ngựa, xe mà họ đi cùng y phục và tất cả các đồ trang sức đều có màu xanh. Phật bảo các Tỳ-kheo:
Nếu ai muốn biết tướng mạo của chư thiên trời Đao Lợi khi họ đi dạo chơi thì hãy quan sát những người thuộc dòng họ Ly-xa-tử này, vì họ giống nhau không khác.
Khi ấy, Bạt-nan-đà cầm lọng báu rất xinh đẹp đi trên đường. Mọi người trông thấy đều cho rằng đó là nhà vua. Khi đến nơi, họ mới biết đó là Tỳ-kheo. Mọi người liền trách: "Vì sao người xuất gia lại cầm lọng báu xinh đẹp như vậy đi trên đường?" Nghe vậy, Phật liền chế giới:
Tỳ-kheo không được cầm lọng đi đường, trừ Tỳ-kheo già, bệnh. Đó gọi là lọng.
Thế nào gọi là gương?-Nơi có thể làm ảnh của thân thể hiện ra được, gọi là gương.
Nếu trên mặt Tỳ-kheo bệnh có mụt nhọt cần xức thuốc thì hãy nhờ Tỳ-kheo khác xức. Nếu không có Tỳ-kheo khác thì hãy soi mặt vào những nơi có thể hiện ảnh như: nước, bình bát, hoặc vách tường. Không được soi mặt vào gương bằng sắt.
Có Tỳ-kheo bị đau mắt, đến bạch Thế Tôn, Phật dạy làm ba loại thuốc chữa bệnh mắt: một là mật dê, hai là kỳ-lan-thiền, ba là Tô-tỳ-lan-thiền. Mài thuốc trên đá cho nhuyễn rồi bôi lên mắt. Nếu có loại thuốc nhỏ mắt quý báu thì Phật cũng cho phép dùng. Cách giữ thuốc là dùng ống trúc để đựng, không được dùng châu báu. Cần phải biết rõ như vậy.
Lại có Tỳ-kheo mắt bị mù, không thấy gì. Phật cho phép dùng máu người thoa lên, cũng cho phép dùng xương người, tóc người đốt thành tro, tán nhỏ ra rồi thoa lên mắt. Cần phải biết như vậy.
Người Thiên Trúc thường dùng thuốc thoa lên mắt để trang sức. Nhóm sáu Tỳ-kheo cũng bắt chước người đời, hàng ngày bôi thuốc lên mắt để trang sức. Nghe vậy, Phật liền chế giới:
Không được dùng thuốc này thoa lên mắt mỗi ngày. Người nào bệnh thì được phép dùng ba loại thuốc này để chữa bệnh mắt.
Khi ấy, nhóm sáu Tỳ-kheo-ni trang sức như người nữ. Nghe vậy, Phật gọi các Tỳ-kheo-ni ấy đến quở trách và dạy:
Từ nay trở đi, ni không được phép trang điểm như người nữ.
Tỳ-kheo không được tự múa, cũng không được dạy người khác múa.
Lý do Phật không cho phép là vì nhóm sáu Tỳ-kheo như: A-phạm-kỳ, Phú-na-bà-tô,... tự ca múa, hát xướng. Nghe vậy, Phật chế giới:
Tất cả các Tỳ-kheo không được ca múa, xướng hát.
Nhóm sáu Tỳ-kheo chạy lăng xăng như chó đùa giỡn. Nghe vậy, Phật liền ngăn cấm:
Múa là việc làm của trẻ nhỏ, ca có tiếng giống như khóc. Hai việc này Tỳ-kheo không nên làm. Cười hở răng thì giống người điên nên cũng không được phép.
Nhóm sáu Tỳ-kheo dùng tiếng ca để tụng kinh ca ngợi Phật, Phật không cho phép làm việc ấy. Ai làm vậy sẽ phạm năm lỗi:
Một là tham đắm đối với âm thanh ấy.
Hai là làm người khác tham đắm.
Ba là chư thiên không vui.
Bốn là tiếng nói bị sai lạc.
Năm là ý nghĩa của lời nói không được rõ. Đó gọi là âm nhạc.
Không được đeo vòng hoa, chuỗi ngọc; cũng không được làm vòng hoa, chuỗi ngọc cho người thế tục đeo. Nếu Tỳ-kheo làm vòng hoa để cúng dường Phật hoặc cúng dường tháp Phật, tháp Thanh văn thì không phạm.
Những loại hoa được dùng để làm vòng hoa là:
Hoa sen
Hoa bà-sư-ca
Hoa Chiêm-bặc-ca
Hoa A-đề-mục-đa-ca
Hoa làm bằng vàng
Hoa làm bằng bạc
Hoa làm bằng thiếc trắng
Hoa làm bằng chì
Hoa làm bằng gỗ
Hoa làm bằng vải
Hoa kết bằng dây tua. Đó gọi là hoa và vòng hoa.
Tôn giả Ca-diếp-duy nói:
-Có việc Phật không làm nhưng các chúng sanh khác có thể làm mà không phạm.
Khi đó, nhóm sáu Tỳ-kheo dùng hương Bạt-na thoa lên thân và bị các bạch y chê trách. Phật liền ngăn cấm việc ấy.
Nhóm sáu Tỳ-kheo lại dùng hương bột thoa lên thân và bị người đời chê cười. Những việc như vậy đều bị Phật ngăn cấm.
Nếu các Tỳ-kheo đem các loại hương thơm thoa lên tháp Phật, tháp Thanh văn để cúng dường tháp hoặc làm các loại hình tượng thì đều được Phật cho phép.
Một lúc nọ, Phật không cho phép các Tỳ-kheo mặc y lượm được từ xác chết đi vào tháp. Các Tỳ-kheo nói:
Chúng con đều mặc y phấn tảo, vậy làm sao vào tháp để lễ lạy?
Nghe vậy, Phật bảo các Tỳ-kheo:
Khi lượm được y phấn tảo, các vị phải ngâm nước thật lâu, dùng tro giặc sạch, lấy hương hềmặc-già thoa lên, sau đó mới được mặc đi vào tháp. Nếu phòng ở có mùi hôi thì các Tỳ-kheo không được phép ở, được phép đốt các loại hương thơm để khử mùi hôi. Đó gọi là hương thơm.
Những người nam, người nữ giàu sang ở Thiên trúc có thói quen hòa trộn các loại hương thơm để thoa lên thân và trên y phục đẹp. Nhóm sáu Tỳ-kheo cũng bắt chước những người thế tục thoa hương lên thân và bị các đàn-việt chê trách: "Vì sao Tỳ-kheo lại giống như người thế tục". Nghe vậy, Phật liền chế giới:
Tất cả các Tỳ-kheo không được dùng hương thoa lên thân. Nếu người nào có bệnh cần dùng hương thoa lên mới khỏi bệnh thì được phép dùng, không phạm.
Thế nào gọi là an tọa?
Chúng Tăng tập hợp, sửa y phục, ngồi kiết già trông rất nghiêm trang. Đó gọi là an tọa.
Lại nữa, an tọa là: Phật đi đến một gốc cây, ngồi kiết già làm mọi người ngắm nhìn không biết chán, đó gọi là an tọa.
Hoặc như người ngồi thiền, mỗi khi ngồi trải qua một kiếp, thân không lay động, đó đều gọi là an tọa.
Người xuất gia không được ngồi với người nữ ở nơi kín đáo. Người đời sở dĩ cùng nhau ngồi ở nơi kín đáo là vì người nam lấy người nữ làm thức ăn, người nữ lấy người nam làm thức ăn. Tỳ-kheo đã xả bỏ việc ấy, không nên cùng người nữ ngồi ở nơi kín đáo.
Vua Ba-tư-nặc cho binh mã đi ra đường. Có một chùa nhỏ, khách Tăng đến rất đông. Để tránh quân đội, họ vào hết trong phòng. Phòng nhỏ, người đông nên họ ngồi khép đầu gối, đó cũng gọi là ngồi.
Tôn giả Ly-bà-đa đến cạnh tôn giả Tát-bàkiềm. Thấy Ly-bà-đa đến với thân thể mệt nhọc, Tát-bà-kiềm ngồi thu gọn lại để nhường chỗ cho Ly-bà-đa ngồi được thoải mái. Ly-bà-đa suy nghĩ:
" Tôn giả Tát-bà-kiềm là vị Thượng tọa đứng đầu Diêm-phù-đề, làm sao ở trước vị ấy mà ta lại ngồi một cách buông lung?". Suy nghĩ xong, vị ấy liền chỉnh đốn thân thể, ngồi ngay ngắn, chuyên chú tư duy. Ngồi như hai vị ấy cũng gọi là ngồi.
Thế nào gọi là không nên nằm?-Không được nằm cùng phòng với người nữ; cũng không được nằm cùng phòng với Sa-di đã bị đuổi.
Phu cụ là: giường dây, giường cỏ, giường gỗ, giường lá và những vật mà người tu đạo dùng để nằm, ngồi, đều gọi là phu cụ.
Có Tỳ-kheo-ni đi vào trong xóm làng để khất thực. Chủ nhà đi vắng, ni cô ấy liền vào ngồi trong nhà. Khi trở về, chủ nhà thấy cô ni đang ngồi, liền hỏi người nhà:
Ai trong số các ngươi bảo cô ni ngồi ở đây? Người nhà đáp:
Cô ấy tự đến, không ai chỉ bảo. Chủ nhà chê trách, nói:
Vì sao Tỳ-kheo-ni không hỏi mà tự động ngồi? Nghe vậy, Phật liền chế giới:
Khi đến nhà đàn-việt, Tỳ-kheo-ni không hỏi thì không được ngồi.
Lúc ấy Tỳ-kheo-ni hỏi Phật:
Người xuất gia vào xóm làng, nếu chúng Tăng đông, phòng ốc chật hẹp thì phải phân chia làm sao?
Phật bảo các Tỳ-kheo-ni:
Tùy theo phòng rộng hẹp, hãy tính toán mà phân chia.
Nếu người không bệnh mà tự đại nằm dưới đất thì không nên nói pháp cho người ấy. Nếu người bệnh đang nằm muốn nghe pháp thì nên nói cho họ nghe.
Lúc ấy, Tỳ-kheo Ức-Nhĩ xuất gia với Ca-chiêndiên-tử ở nước A-bàn-đề. Vị ấy giữ giới, chuyên cần tu tập, không hề biếng trễ và đắc quả A-la-hán. Sau khi đắc quả, vị ấy đi từ nước A-bàn-đề đến nước Thiệm-bà để gặp Như Lai. Thấy vị ấy từ xa đến, lại vừa chứng đắc quả A-la-hán, Phật liền bảo Tôn giả A-nan:
Ông hãy trải phu cụ cho Ta, đồng thời trải phu cụ cho Tỳ-kheo này ở trong phòng của Ta.
Cách nằm trong phòng của Phật của Tỳ-kheo này là mặt phải hướng về Phật, không được xoay lưng về phía Phật.
Khi đó, lại có các Tỳ-kheo ham ngủ nghỉ nên phế bỏ ba nghiệp. Lực sĩ Kim-cang suy nghĩ: "Suốt ba A-tăng-kỳ kiếp, Như Lai đã chịu đủ các khổ nhọc mới được thành Phật, nay các Tỳ-kheo này vì ham thích ngủ nghỉ mà không chịu hành đạo thì làm sao được!" Suy nghĩ xong, vị ấy liền nói ra lời. Nghe vậy, các Tỳ-kheo liền đem việc ấy bạch đầy đủ với Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo:-Ăn của tín thí thì không nên biếng nhác. Trong ba thời ban đêm, phải dành hai thời để tọa thiền, tụng kinh, kinh hành; còn lại một thời để ngủ nghỉ. Đó gọi là ngọa cụ.
Có các Tỳ-kheo ngồi ở nơi đất trống. Các vị
Thượng tọa cao tuổi đều bị bệnh đau lưng. Việc ấy dần dần đến tai Thế Tôn. Phật bảo các Tỳ-kheo:-Người nào ngồi nơi đất trống bị đau lưng thì trừ gấm và da có màu sắc đẹp, có thể dùng các thứ khác để buộc khi ngồi thiền. Cần phải buộc dây ấy khi ngồi thiền.
Cách làm dây đai là rộng một gang tay, dài ngắn tùy theo độ lớn của thân. Đó gọi là dây đai dùng khi tọa thiền.
Bấy giờ, Phật chưa cho phép các Tỳ-kheo mới xuất gia dùng dây thắt lưng buộc hạ y mà chỉ cột hai đầu y vào eo. Về sau, khi đến nhà đàn-việt có Tỳ-kheo bất ngờ làm rơi hạ y xuống đất ở giữa đám đông làm mọi người đều cười chê. Tỳ-kheo ấy xấu hổ đem việc ấy bạch Thế Tôn. Phật bảo:
-Từ nay trở đi cho phép độ dài của lai phải đủ để quấn hai vòng quanh hông. Ngoài ra còn phải dư hai thước tàu, dây đai phải quấn đủ ba vòng và dư ra một thước tàu để buộc bên hông.
Đó là nhơn duyên của dây đai.
Khi Hòa thượng, A-xà-lê định đi ra ngoài, đệ tử cùng đi và đệ tử cùng ngủ phải xem dây này có chỗ nào bị trùng, chuột gặm nhấm không. Sau khi đã xem xét kỹ mới trao cho thầy. Nếu Tỳ-kheo ở A-lan-nhã, không có đệ tử thì Tỳ-kheo Hạ tọa phải xem xét kỹ dây ấy rồi mới trao cho Tỳ-kheo Thượng tọa.
Nếu đầu của Tỳ-kheo bị đau thì nên dùng dây thắt lưng buộc gấp. Nếu đầu dây thắt lưng có tua thì không nên cất chứa. Do nhóm sáu Tỳ-kheo cất giữ loại dây như vậy, Phật liền chế giới này.
Có Tỳ-kheo giấu dây thắt lưng của người khác để đùa giỡn, đến quá giờ vẫn không trả lại, làm Tỳ-kheo kia buồn rầu, Phật liền cấm việc ấy.
Lúc nọ, Tôn giả Xá-lợi-phất vào nhà bạch y, bỗng gặp cơn gió thổi mạnh làm ca-sa trên thân bị rơi xuống đất và vị ấy đứng lộ hình. Nhân đó, Phật liền dạy:
Từ đây trở đi, trên áo ca-sa đều phải có dây buộc, có nút ở một bên để buộc dây, đừng để y bị rớt.
Đó là cách làm dây và móc buộc y.
Lúc này, nhóm sáu Tỳ-kheo vắt hạ y trên lưng, gánh vật nặng, ở trần cúi đầu mà đi, làm các bạch y đều chê cười. Nghe vậy, Phật liền dạy:
Từ nay trở đi, các Tỳ-kheo không được vén y lên khi mang nặng. Nếu làm việc Tam bảo phải vén y lên thì cần phải làm sao đừng để lộ thân hình.
Đó là cách vén y.
Tỳ-kheo cần phải cất giữ cung nỏ để khi gặp kẻ cướp thì bắn tên lên không, làm kẻ cướp sợ hãi bỏ đi.
Có pháp tên giống mà công dụng khác nhau, như cung nỏ và mía đều được gọi là ức-sơ. Khi có kẻ cướp mà xin ức-sơ thì biết đó là xin cung nỏ.
Vào giờ ăn mà xin ức-sơ thì biết đó là xin mía.
Đó là tên giống mà công dụng khác.
Nơi kinh hành của Tỳ-kheo mà cần trải dạ, lụa thì không cần trải da, ở nơi lạnh thì được phép.
Nơi kinh hành của Hòa thượng, A-xà-lê thì đệ tử không được kinh hành ở chính giữa nơi ấy, mà có thể kinh hành ở một bên. Nơi kinh hành của Tỳ-kheo có tuổi hạ cao bằng tuổi hạ Hòa thượng, Axà-lê thì Tỳ-kheo nhỏ tuổi không được kinh hành ở đó.
Khi Hòa thượng, A-xà-lê đang kinh hành, nếu đệ tử có cần thưa hỏi điều gì thì phải chấp tay, khom mình, cúi đầu mà hỏi.
Có căn phòng trên gác sắp đổ về phía vùng đất bất tịnh. Các Tỳ-kheo phân vân, đến bạch Thế Tôn. Đức Phật nói:
Chỉ cần đừng để hư đổ. Nếu chưa rơi xuống vùng bất tịnh thì gọi là phòng thanh tịnh.
Nơi chúng Tăng ở chưa có tịnh trù. Nếu chúng Tăng tập hợp lại, yết-ma chọn phòng tốt nhất làm tịnh trù thì Phật không cho phép. Phải dùng phòng thứ hai làm tịnh trù. Nếu đã làm yết-ma thì phải giải bỏ yết-ma ấy và yết-ma lại, chọn phòng thứ hai làm tịnh trù.
Lý do không được trải gấm ở nơi kinh hành là vì có đàn-việt đem loại gấm quý giá ở trong nước đến cúng cho chúng Tăng. Chúng Tăng nhận xong, liền đem trải trên đất kinh hành. Sau đó, đàn-việt đến tinh xá thấy vậy liền chê trách:
Vì sao Tỳ-kheo không có tâm thương tiếc. Vật quý giá thế này mà lại đem trải ở nơi kinh hành và giẫm đạp lên trên! Việc này dần dần đến tai Thế Tôn, Thế Tôn liền bảo các Tỳ-kheo:
Từ nay trở đi không được trải các vật quý giá mà đàn-việt cúng ở nơi kinh hành.
Có hai hạng Tỳ-kheo không được ngủ chung với Tăng: Một là Tỳ-kheo đang hành biệt trụ, hai là Tỳ-kheo không như pháp, được người trí can gián vẫn không nghe theo và tự bỏ ra khỏi chùa. Hai hạng người này không được ngủ chung với Tăng.
Có đàn-việt cúng dường đất cho Tăng, Phật cho phép nhận dùng.
Đó gọi là đất.
Có năm loại cây Tỳ-kheo không được chặt:
1-Cây Bồ-đề.
2-Cây có quỷ thần.
3-Cây Diêm-phù.
Cây A-tư-đà.
Cây Ni-quật-đà.
Có những người dòng họ Thích xuất gia, Ưuba-ly là thợ hớt tóc của họ, họ gọi anh ấy tới và nói:-Anh phục vụ chúng tôi đã lâu. Nay chúng tôi ra đi không có vật gì đáng giá để tặng anh, chỉ có những vật báu đang mang trên mình như: y, chuỗi ngọc, vòng xuyến và dao bằng bảy báu,... chúng tôi cho anh hết.
Sau khi nhận xong, Ưu-ba-ly nghĩ: "Những người này có dòng họ cao quý, còn có thể từ bỏ tất cả để cầu đạo, huống chi ta là thấp kém mà giữ của báu thì chỉ thêm khổ".
Suy nghĩ xong, cậu ấy lấy ba tấm vải gói chúng lại và treo lên cây với ý nghĩ: "Ai cần thì cứ tùy ý đem đi". Kế đó, cậu ấy liền theo các Thích tử đến chỗ Phật để xin xuất gia.
Tỳ-kheo nào vì Tam bảo trồng ba loại cây như: cây ăn trái, cây hoa, cây lá thì chỉ có phước, không có lỗi.
Có Tỳ-kheo thích an cư ở bên gốc cây ở nơi yên tĩnh, vắng vẻ nên đến bạch Thế Tôn:
Có được an cư dưới gốc cây không? Đức Phật nói:
Được phép an cư.
Vị ấy lại phân vân nên hỏi Phật:
Được an cư ở dưới cây bao lớn? Đức Phật nói:-Cây càng lớn càng tốt. Nếu không có cây lớn thì cây nhỏ nhất cũng phải cao hơn đầu người, cành lá rậm rạp che khắp bốn phía, mưa tuyết không dột, ánh nắng không xuyên qua, được phép an cư ở dưới cây như vậy.
Có Tỳ-kheo an cư ở trên cây, kết gỗ làm giường, không chịu trèo xuống mà phóng uế từ trên xuống nên bị con quỷ dữ ở trên cây ấy nổi giận đánh chết. Phật dạy:
Từ nay về sau, Tỳ-kheo an cư trên cây không được đại tiểu tiện từ trên xuống gốc cây.
Khi Phật chưa chế giới, Tỳ-kheo-ni đều ngồi thiền, kinh hành ở nghĩa địa, dưới tàng cây, nơi vắng vẻ. Tỳ-kheo Hoa Sắc đắc quả A-la-hán nên oai nghi đi ngồi rất thanh thoát. Có tên tướng cướp đến đó, thấy vậy liền phát khởi lòng tin. Khi tới chỗ khác, ăn xong còn dư nhiều thịt ông ta dùng vải gói lại, treo trên cây và nguyện:
Nếu có A-la-hán đắc đạo nào đến đây trước giờ ngọ thì được phép ăn thức ăn này.
Tỳ-kheo-ni Hoa Sắc có đầy đủ sáu thông, nghe được lời này nên sai Sa-di ni đến lấy vào sáng sớm. Lúc ấy, Thế Tôn đi đến cạnh một gốc cây, trải tòa ngồi, chợt gặp Tỳ-lại-tra-tử-tán-kỳ-da chở sáu mươi xe đường tán đến cúng Phật và Tăng.
Nhơn duyên liên quan đến cây cần biết rõ như vậy.
Có Tỳ-kheo cùng người nữ ngồi một mình nơi gốc cây, người đời trông thấy liền trách: "Vì sao Sa-môn lại cùng người nữ ngồi một mình nơi gốc cây?" Nghe vậy, các Tỳ-kheo đến bạch Thế Tôn, Đức Phật nói:
Từ nay trở đi, Tỳ-kheo không được cùng người nữ ngồi một mình cạnh gốc cây.
Nếu trong đất của chúng Tăng có cây khô thì không được lấy nhúm lửa riêng. Vì sao?-Vì vật ấy thuộc về chúng Tăng bốn phương.
Nếu trong đất của chúng tăng có loại cây gỗ tốt thì chúng hòa hợp được dùng làm tháp Phật, phòng Tăng. Nếu không hòa hợp thì không được dùng.
Trong đại chúng có ba, bốn người cất phòng lớn để cùng ở, nơi đất cất phòng có sẵn cây, nếu chúng Tăng phân cho thì được dùng, nếu Tăng không cho thì không được dùng.
Nếu làm phòng ở thì được dùng loại cây tự mình trồng ở trong đất ấy.
Nếu người cất phòng trước đây đã không còn, hiện tại các vị Tăng đến sau đang ở thì cây đó không cần bạch Tăng, cũng được dùng.
Nếu nơi cất phòng ấy có khoảng đất trống được chủ phòng trồng cây cho phòng ấy thì có thể dùng cây ấy để sửa phòng.
Nếu người trồng cây không còn và có vị Tăng khác đến ở nơi đó thì không cần bạch Tăng cũng có thể sử dụng cây ấy.
Đối với cây hoa, cây quả, chỉ có chúng Tăng hòa hợp thì mới được dùng để sửa tháp, làm phòng, còn cá nhân thì không được chặt.
Có năm loại cây không được chặt là:
Cây Bồ-đề.
Cây có thần ở.
Cây lớn ở trên đường.
Cây ở rừng bỏ tử thi.
Cây Ni-câu-đà.
Khi có nhân duyên như: Tháp Phật bị hư hoại, tịnh xá bị hư hoại, bị nước cuốn, lửa thiêu thì được chặt bốn loại kia, trừ cây Bồ-đề.
Có năm loại cây được phép dùng:
Cây bị lửa đốt.
Cây bị rồng phun lửa thiêu.
Cây tự khô.
Cây do gió thổi đến.
Cây bị nước cuốn.
Những cây như vậy thì được dùng. Thế nào gọi là tranh cãi?
-Tranh cãi là: Hai người tranh nhau gọi là đấu, đồng nhóm giúp đỡ nhau gọi là tranh, việc ấy đến tai chúng Tăng gọi là nói, mỗi người nói lên lý lẽ của mình gọi là cãi.
Lại có bốn loại tranh cải:
Tranh cãi bằng lời nói
Tranh cãi bằng cách không nhận lời can gián
Tranh cãi về lỗi đã vi phạm
Tranh cãi về việc làm. Đó gọi là Tranh cãi.
Thế nào gọi là phá?-Phá có hai loại:
1-Phá pháp luân
2-Phá Tăng.
Phá pháp luân là: Không thực hành theo tám chánh đạo, truyền bá pháp tà, cho trí là tà, lấy ngu làm chánh, ngăn trí, hiển tà. Đó là phá hoại pháp luân.
Phá Tăng là: Ở trong cùng một chùa, một người cho đến năm người Bố-tát riêng, hoặc một người yết-ma cho hai người, cho đến yết-ma cho đại chúng, hoặc đại chúng yết-ma cho đại chúng. Đó gọi là phá Tăng.
Người đi theo Đề-Bà-Đạt-Đa đều phạm Thâu-lan-giá. Nếu trở lại giữa Tăng để sám hối thì được khỏi tội. Người không trở về sám hối mà ở lại trợ giúp thì thành người trợ giúp phá Tăng, nhưng không phạm tội phá Tăng, chỉ có một mình Đề Bà Đạt Đa phạm tội phá Tăng.
Lại có thuyết cho: Không có việc phá pháp luân Tăng, không làm theo tức là phá Tăng.
Lại có hai loại phá: Một là phá theo bè nhóm, hai là phá kiến. Như Tỳ-kheo ở Câu-diệm-di kết bè đảng cùng nhau Tranh cãi, không dựa theo Kinh, Luật, Luận, lấy trái làm phải, đó là do ngu si mà ra. Việc này trong kiền-độ Câu-diệm-di có nói rõ.
Phá kiến là như Đề-bà-đạt-đa phá Tăng, đó gọi là phá kiến. Trong kiền-độ phá Tăng có nói rõ việc này. Như trên đã nói thì có mười tám loại phá.
Khi ấy, có Tỳ-kheo an cư một mình, chợt nghe có một Tỳ-kheo sắp làm việc phá Tăng liền phân vân: "Nếu đến can ngăn thì sợ phá an cư, nếu không đến thì sợ pháp ác được lưu hành". Nghe vậy, Phật liền bảo Tỳ-kheo ấy:
Nếu vì pháp sự thì việc an cư không bị phá. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy, nếu vì pháp thì việc an cư không bị phá.
Lý do can gián là vì sợ người kia bị đọa địa ngục chịu quả báo nên can gián với lòng từ.
Lại có Tỳ-kheo nghe ở nơi ấy đã phá Tăng, định đến làm hòa hợp trở lại nhưng sợ mất an cư nên trong lòng phân vân. Phật biết việc ấy liền bảo:
Nếu vì làm hòa hợp việc phá Tăng thì không mất an cư. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy.
Kẻ phá Tăng dùng bốn lời sau đây để phá Tăng:
Pháp nói là chẳng phải pháp, chẳng phải pháp nói là pháp.
Chẳng phải Tỳ ni, nói Tỳ là ni; Tỳ ni, nói là chẳng phải Tỳ ni.
Chẳng phạm, nói là phạm; phạm, nói là chẳng phạm.
Nhe, nói là nặng; nặng, nói là nhẹ. Dùng bốn lời này để mê hoặc các Tỳ-kheo.
Người ấy có đồ chúng riêng ở trong tịnh xá, cho đến mười tám loại pháp như bố-tát, yết-ma... đều làm riêng, không cùng làm với Tăng. Trong kinh Tỳ-kheo và kinh Tỳ-kheo-ni đã nói rõ. Đó gọi là phá.
Thế nào gọi là hòa hợp?-Hòa hợp là giảng nói cho kẻ phá Tăng nghe: Pháp, nói là pháp; chẳng phải pháp, nói là chẳng phải pháp; phạm, nói là phạm; không phạm, nói là không phạm; Tỳ ni, nói là Tỳ ni; chẳng phải Tỳ-ni, nói là chẳng phải Tỳ ni; nặng, nói là nặng; nhe, nói là nhẹ; cho đến bố-tát, yết-ma đều cùng làm với Tăng, không được làm riêng. Đó gọi là hòa hợp.
Lại có năm loại hòa hợp:
Thấy pháp nên hòa hợp.
Chứng quả thứ nhất nên hòa hợp.
Hòa hợp bằng cách gởi dục.
Hòa hợp do lòng tin.
Hòa hợp bằng cách im lặng.
Năm pháp này có thể làm cho Tăng hòa hợp, cần phải biết rõ như vậy.
Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật:
Làm cho sự phá Tăng được hòa hợp có những lợi ích gì? Đức Phật nói:
Người làm cho sự phá Tăng được hòa hợp sẽ được sanh thiên, hưởng quả báo trong một kiếp.
Tỳ-kheo bạch Phật:
Chúng Tăng tranh cãi nhau, chưa sám hối có phải là hòa hợp không?
Đức Phật dạy:
Không sám hối thì không gọi là hòa hợp. Sau khi đã sám hối như pháp mới gọi là hòa hợp.
Tỳ-kheo nào định rời bỏ phòng để đi nơi khác thì trước hết phải quét dọn, sửa sang trong phòng cho sạch sẽ, xếp đồ nằm, để giường cách xa vách tường, đặt đồ nằm trên giường, loại tốt đặt ở dưới, loại xấu che bên trên. Hai loại đồ nằm phần trên đã nói rõ.
Khi đi phải bạch Hòa-thượng, A-xà-lê. Nếu các vị ấy cho phép thì nên đi, không cho phép thì hãy ở lại. Nếu đã quá mười tuổi hạ và có pháp sự cần làm để tạo lợi ích cho chúng sanh thì tuy Hòa thượng, A-xà-lê không cho phép mà tự đi, vẫn không có lỗi.
Khi đã đi ra khỏi chùa nên hướng về nơi định đến, lại phải xét xem bạn cùng đi có phải là người đồng hành tốt hay không, và có nên cùng đi với họ hay không?
Nếu là người trốn thuế, khi qua biên giới thì không nên cùng đi. Nếu là người trộm cướp thì không nên cùng đi.
Nếu là người tà kiến, không tin Tam bảo thì không nên làm bạn cùng đi. Những người như vậy rất nhiều, nay nói tóm gọn thành hai, ba hạng người.
Lại phải nên suy nghĩ: "Những người bạn ở cùng chùa này, trên đường đi nếu có ai mắc bệnh thì có thể chăm lo cho nhau không?". Nếu biết trước đó là bạn tốt thì hãy cùng đi. Nếu chưa biết nhau thì phải đợi người bạn mà mình đã biết rõ là bạn tốt.
Lại phải suy nghĩ: "Người bạn đồng hành này có chịu cùng làm những việc mình muốn làm không?"
Lại phải suy nghĩ: "Người ấy có thường giữ gìn oai nghi không? Người ấy không phải là người biếng nhác phải không? Đối với ta, người ấy có lợi hay có hại và có đáng tin hay không? Khi cùng đi với người ấy, ta sẽ khổ hay vui?".
Lại phải suy nghĩ: "Từ trước đến nay người ấy có bệnh hay không bệnh? Mạnh khỏe hay ốm yếu? Giữa đường người ấy có bỏ ta hay không?"
Việc lường xét khi lên đường như vậy, gọi là việc đi.
Khi Thượng tọa ở trong chùa ra đi thì trước hết phải sắp xếp lại phòng mình đã ở, sau đó phải dặn Tỳ-kheo trẻ tuổi dọn dẹp phòng ấy như khi mình còn ở. Kế đó, Thượng tọa lại phải dặn dò tất cả các pháp sự khác như bố-tát, thuyết giới, cho đến những việc phân chia...
Sau khi đã dặn dò xong, Thượng tọa mới được ra khỏi chùa. Khi ra khỏi chùa, Thượng tọa ấy lại phải hỏi các Tỳ-kheo cùng đi: "Y, bát... cho đến tất cả các vật tùy thân, các ông có bỏ quên thứ gì không?"
Lại phải dạy dỗ các Tỳ-kheo: "Nay cùng đi với tôi, các vị phải ít nói và hộ trì các căn".
Dọc đường, nếu có thấy việc gì cũng đều phải làm cho họ hoan hỷ và phát sanh tâm thiện. Khi nghe Thượng tọa răn dạy, các vị Hạ tọa cùng đi đều phải quỳ xuống, chấp tay thưa: "Xin hoan hỷ thực hành theo lời ngài dạy".
Trên đường đi, Hạ tọa phải thường cung kính, ca ngợi Thượng tọa và đi theo Thượng tọa. Mỗi khi nghỉ ngơi và khởi hành trở lại, Thượng tọa đều phải quan sát xem có bỏ sót vật gì không. Nếu có bỏ quên thì bảo nhặt lấy.
Lại nữa, khi đi đường, Hạ tọa đi phía trước, Thượng tọa đi phía sau. Thượng tọa phải bảo các Hạ tọa tự thâu giữ tâm, chớ để tán loạn. Giữa đường, nếu Hạ tọa mắc bệnh, Thượng tọa phải nói pháp cho tâm thiện được liên tục. Dù gặp việc gấp hay hoạn nạn cũng không được bỏ đi.
Ở giữa đường, nếu Hạ tọa gặp nạn thì Thượng tọa phải giúp đỡ.
Các nạn đó là:
Nạn của cha mẹ.
Nạn của anh chị em.
Nạn của bà con.
Nạn quốc vương, đại thần.
Nạn trộm cướp.
Nạn thú dữ.
Thượng tọa phải đem hết sức lực để giúp Hạ tọa thoát nạn. Nếu tự mình không đủ sức thì phải đến xóm làng, quận huyện, thành ấp, nơi có tịnh xá, có Tỳ-kheo đức độ được mọi người kính trọng, cho đến phải gặp các Bà-la-môn, đàn-việt, đại thần có lòng tin Phật để nhờ họ giúp đỡ. Nếu được thoát nạn thì tốt. Nếu không thoát được thì phải đến gặp quốc vương để nhờ quốc vương giúp cho thoát nạn, chớ có để họ chịu khổ.
Tỳ-kheo nào vào xóm làng không đúng thời thì phải bạch Hòa thượng, A-xà-lê hoặc Thượng tọa rồi mới vào. Đó gọi là pháp vào xóm làng.
Tập hợp Tăng phi thời là trừ giờ ăn cơm, giờ ăn cháo, giờ uống nước trái cây, tập hợp vào tất cả những giờ làm pháp sự như pháp, như Tỳ-ni, như lời Phật dạy vào những lúc khác là tập hợp Tăng phi thời.
Nếu các Tỳ-kheo tập hợp phi thời, trong đó có Thượng tọa thì Thượng tọa phải hỏi các Đại đức: "Vì sao Tăng tập hợp phi thời? "Các Tỳ-kheo đáp: "Có những pháp sự như vậy cần phải làm, nên tập hợp". Thượng tọa nên làm yết-ma hoặc bạch nhất, hoặc bạch nhị, hoặc bạch tứ. Đó gọi là pháp tập hợp phi thời do Thượng tọa hướng dẫn.
Lại có hai loại tập hợp:
Chúng Tăng nói kinh, bàn luận cả đêm.
Chúng Tăng ngồi im lặng thiền quán, tư duy. Lại có pháp hội năm ngày làm một lần. Lúc nhóm họp có cả ba chúng: Thượng, Trung, Hạ tọa tập hợp. Sau khi đã hội họp, họ sửa sang y phục, ngồi ngay ngắn, yên tĩnh, cung kính lẫn nhau, có đủ oai nghi phép tắc, làm mọi người nhìn không biết chán, có thể làm phát sanh tâm thiện của người khác. Đó là pháp tụ họp năm ngày một lần.
Người nghe pháp phải chuyên chú lắng nghe pháp, không được để tâm rong ruổi theo việc khác. Nếu người thuyết pháp lỡ có sự sai sót lầm lẫn thì thính chúng phải tự ghi nhớ. Nếu không có sai sót lầm lẫn thì không được quở trách là nói nhiều mà nghĩa bị ngăn ngại. Đối với pháp và người nói pháp, ta cần phải cung kính như cung kính trời Đế-thích, không nên tự khinh và khinh Pháp sư. Đối với pháp do người có trí tuệ nói thì không được để tâm tán loạn mà phải chuyên chú lắng nghe, niệm niệm tiếp nhau, chớ để gián đoạn.
Lúc nghe pháp, trong tâm cần lập năm đức:
Pháp chưa từng nghe, nay mới được nghe.
Pháp đã từng nghe thì được thông suốt hơn.
Đoạn trừ tâm nghi ngờ của mình.
Làm sự hiểu biết của mình được đúng đắn.
Tăng trưởng tâm thanh tịnh.
Đó là năm đức bên trong. Việc này trong Tăng Nhất A-Hàm có nói rõ. Nghe pháp có chín lợi ích:
1-Sanh lòng tin.
Nhờ tin nên tâm hoan hỷ.
Hoan hỷ, ưa thích.
Bỏ tham cầu lợi dưỡng, nghe pháp không còn phân vân.
Thành tựu được chánh kiến.
Dứt trừ vô minh, trí tuệ phát sanh.
Dứt trừ sự ràng buộc trong tâm.
Được pháp nhãn thanh tịnh đối với bốn Thánh đế
Quán thấy sự khổ, không, vô thường, vô ngã của năm ấm.
Sau khi quán thấy như vậy, trong tâm phấn khởi, lòng tin càng sâu, không thể hư hoại, được lìa phiền não, chứng đạo Niết-bàn, hưởng niềm vui giải thoát. Vì lý do đó cần hết lòng nghe pháp.
Nếu trong pháp hội có vị Thượng tọa thì trước tiên phải ngồi yên tĩnh trong chốc lát. Tĩnh tọa xong phải nói một thời pháp ngắn cho đại chúng nghe. Nói pháp xong phải quán sát xem trong chúng này có ai có bảy khả năng không, Thượng tọa nên thỉnh người đó nói pháp cho đại chúng nghe.
Thượng tọa lại phải quán sát xem pháp mà Pháp sư này giảng về thứ lớp, nghĩa lý, biện tài, câu cú có bị đảo lộn trước sau không? Ý nghĩa có thích hợp không? Văn, nghĩa có được liên tục, không bị gián đoạn không? Biện tài có thông suốt không? Lời giảng có hợp với Tam tạng không?
Lại quán xem Pháp sư nói pháp có hợp với tâm của mọi người không? Nếu câu văn và nghĩa lý không hợp với Tam tạng, cho đến lời nói không rõ ràng thì không được chê trách. Thượng tọa phải bảo người nói pháp: "Hãy nói pháp gọn lại. Pháp sư ở trong chúng rất đông và đều muốn nói pháp". Nếu câu văn, thứ lớp và nghĩa lý của Pháp sư đó hoàn hảo, cho đến biện tài thông suốt, hợp với Tam tạng, vừa ý với đại chúng, thì trước hết Thượng tọa phải cảm tạ Pháp sư và khen ngợi bằng lời tốt đẹp. Đại chúng cũng nên khen ngợi, tùy hỷ.
Nếu ở trong hội chúng có đàn-việt có lòng tin Tam bảo thì Thượng tọa phải giảng rộng lợi ích của việc nghe pháp, để làm cho tâm thiện của họ được tăng thêm và trở nên chắc chắn, không bị thối lui.
Nếu trong hội chúng có Tỳ-kheo muốn nói pháp cho bốn chúng thì không được nói trực tiếp mà trước hết phải thưa với người quản chúng, Tỳ-kheo quản chúng sẽ nói lại với Thượng tọa, Thượng tọa không được tùy tiện cho nói pháp liền, mà phải quán sát xem sự hiểu biết và đức hạnh của người đó. Nếu xét thấy vị ấy có khả năng thì Thượng tọa phải thỉnh vị ấy thuyết pháp ở trước đại chúng. Nếu biết vị ấy không đủ tài năng thì im lặng để mặc vị ấy.
Nếu có ngoại đạo đến pháp hội định phá hoại chánh pháp thì Thượng tọa cần phải tranh luận qua lại để thu phục họ. Người có đức tánh chỉ dạy nghĩa lý như pháp, như Tỳ-ni, như Phật dạy mới gọi là Thượng tọa trong pháp hội.
Nếu người thuyết pháp là người giữ giới luật, giữ gìn thân-miệng
-ý, thực hành ba nghiệp lành, phụng sự Hòa thượng, A-xà-lê, phụng sự Thượng tọa như văn trên đã nói thì người này sẽ thành tựu pháp Bốn niệm xứ, rất sợ hãi đối với tội nhỏ.
Hãy khéo học pháp tùy thuận như vậy, phải làm cho người đối diện tin nhận giới hạnh mà ta nói. Khi thọ nhận pháp phải dùng tai nghe tiếng với tâm chuyên chú không tán loạn và thực hành như đã nghe. Đó gọi là thọ nhận.
Ta nói tuệ, hoặc nói định, hoặc nói Niết-bàn đều phải lắng nghe và thọ nhận. Phải khéo giữ gìn nhĩ căn, đừng để duyên theo âm thanh khác. Nếu ta nói điều gì thì phải hiểu rõ.
Lại nữa, Tỳ-kheo nào thuyết pháp thì trước hết phải tự thực hành hạnh ở nơi yên tĩnh, lại ca ngợi hạnh ở nơi yên tĩnh. Nếu ta nói về hạnh ở nơi yên tĩnh thì phải chú ý lắng nghe cho rõ và phải hiểu tất cả những điều ta giảng.
Thuyết pháp về khất thực cho đến chỉ dùng ba y, người nói phải tự thực hành, lại phải khen ngợi việc khất thực, cho đến chỉ dùng ba y, dạy người thực hành và dạy người khen ngợi việc ấy. Nếu ta có nói về khất thực, cho đến chỉ dùng ba y thì phải chuyên chú lắng nghe, ghi nhớ và phải hiểu rõ tất cả những điều ta đang nói.
Lại nữa, Tỳ-kheo thuyết pháp cần phải suy xét xem nên giảng pháp gì để đại chúng hiểu được. Nếu chúng ấy thích hợp với việc nghe pháp sâu xa thì hãy giảng cho họ pháp sâu xa. Nếu họ cần nghe pháp đơn giản thì giảng cho họ nghe pháp đơn giản. Nếu không làm lợi ích cho người nghe thì gọi là giảng dở. Thế nào là không làm lợi ích cho người nghe?-Đó là giảng pháp đơn giản cho người thích nghe pháp sâu xa, làm họ không muốn nghe, không muốn tìm hiểu.
Thế nào là pháp sâu xa?-Đó là việc luận bàn về trì Giới, về Định, về Tuệ; luận bàn về Giải thoát, Giải thoát tri kiến; luận bàn về mười hai nhân duyên cho đến Niết-bàn. Đó gọi là pháp sâu xa.
Người nào cần nghe pháp sâu xa thì hãy giảng cho họ nghe pháp như vậy. Họ hoan hỷ lắng nghe, suy nghĩ, ghi nhớ và hiểu rõ nên gọi là lợi ích.
Người nào muốn nghe pháp đơn giản thì hãy nói pháp đơn giản cho họ nghe. Thế nào là pháp đơn giản?-Đó là luận về trì giới, luận về bố thí, luận về sanh Thiên. Nếu chúng thích pháp đơn giản mà nói cho họ nghe pháp sâu xa thì họ không thích nghe, không muốn ghi nhớ, tìm hiểu và không được lợi ích. Đó là giảng dở.
Người cần nghe pháp đơn giản thì giảng cho họ nghe pháp đơn giản để họ được lợi ích. Đó gọi là khéo thuyết giảng.
Lại nữa, Tỳ-kheo thuyết pháp phải biết ý nghĩa, câu văn, âm thanh nam nữ; lại có thể nói pháp bằng phương tiện khéo léo, giảng theo sự hiểu biết của họ, làm cho họ hiểu rõ; lại phải biết rõ nghĩa lý của câu văn, sắp xếp theo thứ lớp, không để cho gián đoạn.
Người nào khéo thuyết giảng thì ngay cả pháp nhỏ nhất cũng có thể làm cho người nghe chú ý đến và thực hành rốt ráo. Rốt ráo có hai nghĩa:
Một là nói pháp rốt ráo, đó gọi là rốt ráo.-Hai là pháp được nói hết sức đơn giản, đó cũng gọi là rốt ráo. Lại nữa, theo ý nghĩa của tên người thì có hai loại sau cùng:
Một là như Tu-bạt-đà-la đắc đạo sau cùng, đó gọi là sau cùng.
Hai là như Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni đắc quả A-la-hán với báo thân này, thì thân này gọi là thân sau cùng.
Lại nữa, khi muốn thuyết pháp, người thuyết pháp phải quan sát trước xem có đủ bốn chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di không? Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni thì phải giảng về trì Giới, Định, Tuệ, Niết-bàn. Nếu có Ưu-bà-tắc, Ưubà-di thì phải giảng về trì giới, bố thí, sanh thiên, cho đến pháp thanh tịnh.
Lại nữa, người nào nói pháp thì phải trừ bỏ tâm tham và lập các tâm, như: tâm không đắm nhiễm, tâm không độc ác, tâm không ngu si, tâm không xem thường mình, tâm không xem thường đại chúng, tâm từ bi, tâm hỷ xả, tâm lợi ích, tâm kham nhẫn, tâm bất động, tâm không mê hoặc... Phải lập những tâm như vậy mới thuyết pháp.
Lại nữa, người thuyết pháp không được do nhơn duyên khác mà nói pháp, mà chỉ vì nói pháp mà thôi, bởi vì pháp rất quý trọng và khó được nghe; pháp này là châu báu, là thuốc thang, có thể làm lợi ích cho mọi người; vì thế cần phải nói pháp. Người nói pháp cần phải có tâm từ, tâm bi. Khi nói pháp cho người khác nghe, cho đến một bài kệ bốn câu cũng phải làm cho người nghe hiểu một cách đúng đắn, giúp họ được an lạc, lợi ích trong thời gian dài.
Người thuyết pháp phải nghĩ: "Cần dùng câu văn có thứ lớp và đầy đủ ý nghĩa để giúp người nghe hiểu biết một cách bình đẳng".
Lại nữa, Tỳ-kheo thuyết pháp không được do thấy lợi dưỡng nên sanh tâm tham mà thuyết pháp cho người; không được thuyết pháp với tâm sợ hãi. Vì sao?-Nếu nói pháp với tâm sợ hãi thì thân thể mệt nhọc, chậm lụt, lời văn không đúng thứ lớp, âm thanh không rõ ràng, pháp được nói ra có ý nghĩa không hay và rất khó hiểu. Nếu nói pháp với tâm thanh thản, yên vui thì cho đến nghĩa lý cũng đều rõ ràng.
Lại nữa, Tỳ-kheo thuyết pháp cần phải nói pháp theo thứ lớp, lại phải nói cho mọi người nghe về pháp nhàm chán, pháp xa lìa, giúp cho người nghe được hoan hỷ, mong cầu giải thoát, sớm được Niết-bàn.
Tỳ-kheo thuyết pháp phải thường suy nghĩ, quán sát sự khổ, không, vô thường, vô ngã, bất tịnh của thân này một cách liên tục. Vì sao?-Để được mười hai niệm thành Thánh pháp. Mười hai niệm là:
Niệm thành tựu thân mình.
Niệm thành tựu người khác.
Niệm nguyện được thân người.
Niệm sanh vào dòng họ cao quý.
Niệm mong có lòng tin đối với pháp Phật.
Nguyện dù sanh đến đâu cũng được chứng ngộ pháp mà không cần phải nỗ lực.
Nguyện dù sanh đến đâu cũng đầy đủ các căn.
Nguyện gặp Phật Thế Tôn xuất hiện ở đời.
Nguyện đời đời thường được nói chánh pháp.
Nguyện pháp mình nói thường được tồn tại lâu dài.
Nguyện pháp tồn tại lâu dài và được tu hành theo.
Nguyện thường có tâm thương xót các chúng sanh.
Có đầy đủ mười hai niệm này thì chắc chắn được Thánh pháp. Đó chính là nhân duyên thuyết pháp. Nhân duyên đó bắt đầu từ pháp khó được nghe, cho đến quán thân không ngừng, người nói pháp và pháp được nói.
Nếu trong chúng thuyết pháp có Thượng tọa thì Thượng tọa phải xem xét bài thuyết pháp có hợp với lòng người không. Nếu không hợp, thì Thượng tọa phải bảo với người thuyết pháp: "Trưởng lão không nên giảng như vậy". Vì sao?-Có năm việc gây trở ngại cho chánh pháp, làm chánh pháp không được tồn tại lâu dài và bị ẩn mất. Năm việc là:
Kinh được tụng ra không đầy đủ. Pháp được tu học không được rốt ráo. Văn dạy cho đệ tử không được đầy đủ. Lời thầy dạy cho đệ tử không được rõ ràng và không toát hết ý nghĩa.
Người giảng dạy thông suốt Tam tạng, hiểu đầy đủ ý nghĩa, có khả năng giảng nói rõ ràng, nhưng không chịu giảng dạy cho bốn chúng đệ tử thì sau khi vị ấy viên tịch, pháp cũng sẽ diệt theo.
Vị Thượng tọa đứng đầu chúng không tu ba nghiệp, thích làm việc thế tục, tạo nghiệp sanh tử, đồ chúng theo vị ấy học cũng không tu ba nghiệp mà chỉ thích làm việc thế tục. Đồ chúng như vậy có thể tiêu diệt chánh pháp.
Có Tỳ-kheo tánh tình ngang trái, ưa sân hận, không nghe theo lời nói của người khác, nghe điều thiện hay điều ác đều sân hận, lại xa lánh các Tỳ-kheo có nhiều hiểu biết được tôn trọng trong cõi nước, không qua lại với vị ấy. Đó là nguồn gốc làm cho chánh pháp bị tiêu diệt.
Có Tỳ-kheo ưa thích đấu tranh, kết bè, kết đảng, tranh nhau quyền thế và lợi dưỡng.
Năm việc như vậy làm cho chánh pháp mau bị tiêu diệt.
Có người thuyết pháp ngôn ngữ rõ ràng, âm thanh chính xác, đầy đủ lời văn và ý nghĩa, lại phù hợp với lòng người, người nào thuyết pháp như vậy thì tất cả đại chúng đều nên khen ngợi và tùy hỷ.
Lại có năm việc có thể làm cho chánh pháp không bị mai một:
Kinh được tụng đọc có đầy đủ câu cú và được sắp theo thứ lớp trước sau, người tụng có thể thông suốt hết nghĩa lý của kinh và dạy lại cho đồ chúng đệ tử để họ hiểu biết như mình. Người như vậy thì có thể làm cho Phật pháp tồn tại lâu dài ở đời.
Hiểu rõ đầy đủ ý nghĩa lời văn trong Tam tạng. Lại có thể giảng dạy cho bốn bộ chúng theo sự hiểu biết của mình. Người như vậy thì tuy diệt độ nhưng vẫn làm cho chánh pháp ở đời sau được nối tiếp, không bị chấm dứt. Người này có thể làm cho chánh pháp không bị mai một.
Trong chúng có vị Thượng tọa đại đức, được bốn bộ chúng coi trọng, vị ấy siêng năng tu tập ba nghiệp, xả bỏ việc thế tục nhiều đời, chúng đệ tử của vị ấy cũng đều như vậy. Việc này cũng làm cho chánh pháp tồn tại lâu dài.
Nếu có Tỳ-kheo tánh tình hòa nhã, không nói ngang ngược, nghe điều thiện thì làm theo, nghe điều ác thì tránh xa. Nếu được bậc tài cao, đức trọng dạy bảo thì tu hành theo. Tỳ-kheo như vậy cũng có thể làm cho Phật pháp tồn tại lâu dài.
Tỳ-kheo hòa thuận nhau, không tranh giành quyền thế, lợi dưỡng, không kết bè kết đảng, cạnh tranh phải trái.
Năm việc như vậy có thể làm cho chánh pháp lưu truyền không dứt. Đó gọi là bậc Thượng tọa trong việc thuyết pháp.
Lúc ấy, ở trên lầu, nhìn thấy các cư sĩ dẫn nhau đi, vua Bình Sa hỏi người bên cạnh:
Những người kia định đi đâu vậy? Các bề tôi đáp:
Họ đi nghe ngoại đạo thuyết pháp. Vua liền suy nghĩ: "Hai bên đều có thuyết pháp. Tại sao họ không đến chỗ Phật nghe pháp?"
Bấy giờ, Phật ở thành Xá-Vệ, vua liền đến chỗ Phật đảnh lễ sát chân rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Hàng ngày ngoại đạo thuyết pháp, các cư sĩ bạch y dọn rất nhiều đồ cúng dường, đệ tử xin Thế Tôn vào sáu ngày trai hàng tháng tập hợp các Sa-môn để giảng nói, bàn luận; đệ tử sẽ làm các loại thức ăn để cúng dường Phật và Tăng, đồng thời cũng được nghe pháp. Ngoại đạo tự nói pháp mình là chơn chánh, nếu Phật không nói pháp thì người đời không biết chánh pháp, đều đi vào đường tà.
Do nhơn duyên này, Như Lai liền tập hợp các Tỳ-kheo. Sau khi đã tập hợp, các Tỳ-kheo ngồi yên lặng, các đàn-việt cũng đều tập hợp đến. Vì muốn nghe pháp nên họ nói với các Tỳ-kheo. Nghe vậy, các Tỳ-kheo bạch với Thế Tôn, Phật bảo các Tỳ-kheo:-Cho phép các vị nói pháp.
Tuy Phật đã cho phép nhưng người nói pháp không biết phải nói những pháp gì, nên các Tỳ-kheo lại hỏi Thế Tôn, Phật nói:
Có thể tùy ý nói từ Khế Kinh cho đến Luận nghị.
Sau khi Phật đã cho phép nói mười hai bộ kinh, các Tỳ-kheo định giảng nói nhưng lại phân vân: "Nếu nói theo thứ lớp thì chúng đông, nghe nhiều, e rằng họ sẽ thấy mệt nhọc, chán nản. Nếu chọn những đoạn kinh chỉ thẳng ý nghĩa thì không biết có được không?". Họ liền đem việc ấy bạch đầy đủ với Phật, Phật liền cho phép các Tỳ-kheo trích dẫn những đoạn kinh hay, chỉ thẳng ý nghĩa.
Khi Phật đã cho phép thuyết pháp, có hai Tỳ-kheo cùng ngồi chung một chỗ, cùng nói một pháp. Nghe nói việc ấy, Như Lai không cho phép.
Lúc ấy, trong hội chúng có một Tỳ-kheo tụng kinh bằng giọng ca rất lớn, ở chỗ cách Phật không xa. Phật nghe được liền chế giới:
Không được dùng âm thanh ấy để tụng kinh. Tụng như thế sẽ có năm lỗi như đã nói ở phần trên.
Dùng tiếng ca của ngoại đạo để thuyết pháp lại có năm lỗi:
1-Không thể tự giữ được mình.
2-Không thỏa ý người nghe.
Chư thiên không vui.
Ngôn ngữ không chính xác, khó hiểu.
Lời không khéo nên nghĩa khó hiểu. Đó là năm lỗi của việc trên.
Khi ấy vua Bình Sa hết sức tin tưởng Tam bảo. Vị ấy cung cấp cho Phật và chúng Tăng tất cả mọi vật dụng cho đến ao tắm cũng vậy.
Vào sáng sớm, vua Bình Sa cùng các bề tôi đến ao định tắm rửa, chợt nghe trong ao vang lên tiếng tụng kinh với âm thanh rất cao. Vua liền hỏi người bên cạnh:
Đó là ai vậy?
Người hầu tâu với vua:
Đó là nhóm sáu Tỳ-kheo.
Vua liền bảo những người đi theo dừng bước, không được tiến tới vì sợ làm kinh động Sa-môn. Vua đứng chờ thật lâu nhưng các Tỳ-kheo vẫn chưa tắm xong. Vua không tắm được, liền quay xe về cung. Việc ấy dần dần đến tai Thế Tôn, Ngài liền dạy các Tỳ-kheo:
Từ nay trở đi, nửa tháng các Tỳ-kheo mới tắm một lần, và khi tắm không được nói lớn tiếng.
Đó gọi là pháp nói năng.
Lúc này các Tỳ-kheo tập hợp lại một chỗ, muốn chánh niệm tư duy, không thích nói chuyện. Biết được ý nghĩ của các Tỳ-kheo, Phật liền bảo:
Cho phép các vị im lặng, hoặc chánh niệm tư duy, hoặc im lặng kinh hành, không nói chuyện, hoặc chú tâm suy nghĩ về nghĩa lý của kinh điển. Đó gọi là pháp không nói. Pháp nuôi đồ chúng là phải dùng hai việc để dạy dỗ, bảo hộ đồ chúng:
Một là bảo hộ bằng pháp.
Hai là bảo hộ bằng y phục và thực phẩm, tùy theo khả năng mà thu nhận đồ chúng nhiều hay ít.
Tỳ-kheo nuôi dưỡng đồ chúng phải như chủ nhà khéo léo dạy dỗ quyến thuộc, đừng để họ mong cầu nhiều. Hãy bảo họ ngồi thiền, tụng kinh, tu phước. Dạy họ làm mọi cách để tu dưỡng ba nghiệp sau:
Thứ nhất là dạy thường mong cầu pháp.
Thứ hai là dạy chớ xả bỏ pháp.
Thứ ba là dạy siêng năng tìm cách tu học.
Lại phải quán sát đồ chúng của mình xem họ có không thích nói nhiều hay không? Có tham đắm việc nói nhiều hay không? Có siêng năng tạo phương tiện để nói nhiều hay không? Có không thích ngủ nhiều hay không? Có không tham đắm ngủ nghỉ hay không? Có tìm cơ hội để ngủ nghỉ hay không?
Lại quán sát đồ chúng xem họ có không ưa thích cuộc sống tại gia hay không? Có tham đắm cuộc sống tại gia hay không? Có cố gắng tìm cách tạo cuộc sống tại gia hay không?
Lại quán sát đồ chúng xem họ có thích tụ tập vui chơi, đùa giỡn hay không? Có tham đắm việc đùa giỡn không? Có tìm cách tổ chức vui đùa không?
Lại phải quán sát xem trong số đồ chúng, ai thực hành đúng pháp, ai thực hành không đúng pháp. Nếu ai thực hành đúng pháp thì nên cho người ấy thêm y phục, thực phẩm và dạy thêm Phật pháp. Nếu ai không thực hành đúng pháp thì hãy đuổi đi. Về sau, nếu người ấy có tâm hối cải thì cho nhập chúng lại, cung cấp cho y phục, thực phẩm và dạy Phật pháp cho họ. Đó là pháp nuôi dưỡng đồ chúng.
Pháp vào đại chúng của Tỳ-kheo đứng đầu chúng là: phải kiểm tra lại tướng mạo, sửa lại y phục, giữ thân ngay ngắn, nhìn thẳng, nói năng khiêm tốn, hạ mình, cung kính người đối diện, oai nghi đỉnh đạc, các căn tịch tĩnh làm người nhìn không chán. Khi vào chúng Tăng cần phải tu tập đức hạnh như vậy.
Chúng gồm có bốn chúng, trong đó có chúng như pháp, có chúng không như pháp và chúng của riêng mình.
Khi vào đại chúng, phải dạy đồ chúng của mình thực hành theo như mình. Như vậy gọi là pháp nhập vào đại chúng.
Pháp làm Tỳ-kheo đứng đầu chúng là phải quán sát xem chúng đó thích ngồi thiền hay kinh hành, hoặc im lặng tư duy, hoặc nói chuyện qua lại, hoặc bàn luận nghĩa kinh; phải quán sát xem họ thích những pháp gì. Nếu họ thích bàn luận thì tùy theo họ đã học tập kinh gì hãy cùng họ bàn luận kinh ấy, đừng nên trái ngược.. Đó gọi là pháp đứng đầu chúng.
Vị Thượng tọa ở trong chúng phải quán sát những người hiện có mặt xem họ thích pháp gì, hoặc là thích nói về bố thí, hoặc thích nói về trì giới, hoặc thích nói về sanh Thiên, hoặc thích nói về Niết-bàn,... tùy theo mọi người thích nói về pháp gì thì hãy nói cho họ nghe pháp ấy. Lại phải quán sát xem đại chúng thích những pháp gì trong các pháp: Không, Vô tướng, Vô nguyện và tùy theo họ thích hợp pháp gì mà nói pháp ấy cho họ nghe. Đó gọi là pháp Thượng tọa nói pháp trong chúng.
Bấy giờ, ở trong tịnh thất, Thế Tôn tư duy về việc sẽ chế giới cho Tỳ-kheo. Lý do chế giới như văn trên đã nói.
Năm cách nói giới cũng đã nói ở trên.
Tỳ-kheo đến năm hạ phải tụng giới cho thông suốt. Lý do Tỳ-kheo nói giới đã nói rõ ở văn trên.
Cách mà một người bố-tát, hai người, ba người bố-tát cũng đã nói ở văn trên.
Các việc làm khi bố-tát đều gọi là yết-ma, cũng đã nói ở trên. Pháp thọ an cư cũng đã nói ở trên.
Pháp an cư là Tỳ-kheo khách phải đến nói với Tỳ-kheo cựu trú trước. Nếu có nạn duyên thì không được an cư, phải đến nơi khác để xin an cư, không được gắng gượng ở lại. Nếu chỗ an cư tốt, không có đàn-việt nào có thể nói thì phải tâm niệm an cư. Nơi kiết hạ an cư, hoặc ở tịnh xá, hoặc tại A-lan-nhã, hoặc nơi gốc cây, Tỳ-kheo phải đến đó trước để xem xét xem nơi đó có đồ nằm không? Nơi đó không có âm thanh gây phiền phức không? Không có các nạn như: sư tử, hổ, sói, giặc cướp, muỗi, trùng, nước lũ... hay không? Nơi đó có thể an cư yên ổn hết mùa hạ được không? Nơi đó có hang đá, bờ rào đá hay không? Nếu có thì phải dọn dẹp, mang bỏ tất cả cỏ, gỗ ở trong đó đi, lại phải sửa sang hang đá đó. Cần phải biết rõ như vậy.
Khi an cư vào mùa hạ, Tỳ-kheo phải suy nghĩ: "An cư ở đây đồ ăn uống có được như ý không? Khi bệnh đau có thể kiếm được thuốc thang tùy theo bệnh không? Lại phải quan sát xem người cùng ở có phải là người cộng sự tốt không? Người cùng ở có đáng tin hay không? Ở chung với người ấy có thể yên ổn hành đạo hay không? Người ấy có gây trở ngại cho mình khi cùng đi, đứng, nằm, ngồi hay không? Khi mình bệnh họ có bỏ mặc mà đi không?..." Sau khi lường xét các việc như vậy rồi mới an cư.
Lại quán sát đại chúng xem trong khi kiết hạ an cư trong chúng này có ai gây sự tranh cãi không? Có sanh tâm ác, nói lời ác với mình? Có làm trở ngại cho mình không?
Lại phải suy nghĩ: "Như đức Thế Tôn nói: an cư mùa hạ phải dựa vào giới luật, không biết trong chúng này có người biết pháp, hiểu Tỳ-ni, hiểu Luận tạng hay không? Đừng để trong khi ta an cư mùa hạ, nếu có phạm điều gì mà muốn diệt trừ tội lỗi thì không biết nhờ ai. Lại như Thế Tôn nói: người ngu si, không hiểu biết thì suốt đời không được lìa y chỉ".
Lại phải suy nghĩ: "Trong chúng này có vị Tăng nào thường dạy dỗ đồ chúng giống như cha mẹ dạy dỗ con cái không? Có vị nào danh đức cao vời, được cả đời lẫn đạo kính trọng không? Nếu ta phạm tội sẽ đến gặp vị ấy để cầu sám hối với tâm hổ thẹn. Vì thương xót, Thượng tọa ấy sẽ thường xuyên dạy dỗ để ta không buông lung. Như Thế Tôn nói: việc phá Tăng là tội ác lớn, cũng như chất cứng, chất nhám, chất đắng, chất cay... thì không có gì vui thích. Trong chúng ở trụ xứ này có chắc là không có người gây sự tranh cãi và không làm phát sanh việc phá Tăng trong khi an cư vào mùa hạ hay không, và họ có gây trở ngại cho ta hay không?".
Sau khi lường xét như vậy, thấy không có gì trở ngại mới thọ an cư. Đó gọi là pháp lường xét khi muốn thọ an cư.
Pháp thọ an cư của các Tỳ-kheo là: Trước hết phải thọ pháp an cư, sau đó thọ phòng xá, phu cụ. Cần phải tu bổ, sửa sang trong phòng và phải sắp xếp giường ghế.
Trong khi an cư mùa hạ, nếu không có lý do thì không được đi nơi khác. Nếu có nhân duyên hoặc vì Phật, vì Pháp, vì Tăng, vì bệnh thì nên thọ pháp ra khỏi cương giới bảy ngày rồi trở lại bên trong cương giới ấy để an cư. Nếu vì đồ ăn uống và lợi dưỡng thì không được ra bên ngoài cương giới. Nếu vì bát, vì y, áo, vì thuốc, vì kim, vì tấm thảm thì được phép ra khỏi cương giới trong bảy ngày.
Khi đó, vương tử Bát Trụ xuất gia trong Phật pháp. Vua cha tổ chức buổi lễ lớn cúng dường tháp, liền đưa thư gọi con đến cúng dường tháp. Vì đang an cư mùa hạ, vị ấy không được phép đi, liền đem việc ấy bạch rõ với Phật. Phật bảo:
-Vì tháp, các Tỳ-kheo được phép thọ pháp bảy ngày trong khi an cư mùa hạ. Đủ bảy ngày thì không mắc lỗi. Nếu bảy ngày thêm một đêm mà không về lại nơi an cư thì pháp an cư mùa hạ của Tỳ-kheo bị mất. Y, bát, cho đến cây kim, tấm thảm... cần phải tìm cách có được trước khi an cư để điều chưa hiểu phải làm cho hiểu, pháp chưa đắc phải đắc, chưa chứng phải chứng. Đó gọi là thọ pháp an cư trong mùa hạ.
Vị Thượng tọa trong chúng an cư cần phải hỏi ranh giới của đại giới, lại phải hỏi vị trí mất y và không mất y, vị trí tịnh xứ, vị trí bố-tát, thuyết giới, thuyết pháp. Ngoài ra, vị Thượng tọa phải làm các việc như: cử người thuyết pháp, chú nguyện, sai người làm việc, an ủi người làm việc, cử người đi phát thẻ, sai bảo tịnh nhân của Tăng, bạch nhị yết-ma khi các Tỳ-kheo ra bên ngoài đại giới trong bảy ngày, mười lăm ngày, cho đến một tháng; dạy dỗ Tỳ-kheo trẻ tuổi, tự mình dạy và khuyến khích người khác dạy... Đó là những việc mà vị Thượng tọa ở nơi an cư mùa hạ phải làm.
Vị ấy lại phải đi khắp các phòng để xem ai sử dụng đồ nằm đúng pháp, ai sử dụng không đúng pháp. Nếu ai sử dụng đúng pháp thì chỉ dạy điều lợi ích và khen ngợi việc làm của họ. Nếu gặp người sử dụng không đúng pháp thì phải nhắc nhở, khuyên răn họ và nói: "Trưởng lão cần sử dụng đúng pháp, bởi vì sử dụng không đúng pháp có năm lỗi".
Theo giới mà Như Lai chế thì cần phải nhớ nghĩ việc này: Vào giờ ăn chính, giờ ăn cháo và giờ uống nước trái cây, vị Thượng tọa ở trong chúng an cư cần phải thông báo "giờ này đã qua, giờ khác đã đến...".
Nếu vị Thượng tọa ở trong chúng làm các việc làm như vậy thì được gọi là cha mẹ của chúng Tăng, cũng gọi là thầy của Tăng. Đó là pháp làm Thượng tọa trong chúng an cư.
Vào ngày tự tứ, Tỳ-kheo an cư được làm một việc, đó là khi tự tứ được nói ra các tội mà mình thấy, nghe, nghi. Sau khi tự tứ thì phải làm bốn việc:
1-Giải đại giới
2-Kết lại đại giới.
(Có hai lý do giải cương giới: Một là nước lũ cuốn trôi cột mốc, không còn biết vị trí; hai là bị nạn giặc cướp nên các Tỳ-kheo đều ra bên ngoài cương giới. Do hai lý do này nên phải giải giới và phải kiết giới trở lại).
Thọ y công đức.
Thọ nhận phu cụ sau khi an cư xong. Đó là những việc phải làm sau khi tự tứ.
Chúng gồm có bốn chúng là: Chúng Tỳ-kheo, chúng Tỳ-kheo-ni, chúng Ưu-bà-tắc, chúng Ưu-bà-di.
Lại có bốn hạng chúng Tăng:
Tăng phàm phu.
Tăng Thánh nhân.
Tăng biết hổ thẹn.
Tăng không hổ thẹn.
Tỳ-kheo Tăng là: Một, hai, ba vị thì không thành Tăng. Bốn vị mới thành tăng, cho đến hai mươi vị cũng thành Tăng.
Tăng bốn người thì được làm yết-ma bạch nhất, bạch nhị, không được tự tứ, không được truyền Cụ túc, không được làm yết-ma trừ tội cho Tỳ-kheo. Trừ ba loại yết-ma này, tất cả các pháp sự khác đều được làm.
Tăng năm người được tự tứ, bố-tát, được truyền giới Cụ túc ở vùng biên địa có luật sư, ở đô thị trung tâm thì không được. Không được làm yết-ma trừ tội cả ở đô thị trung tâm lẫn biên địa.
Tăng hai mươi người được làm tất cả các pháp sự.
Tăng mười người được làm tất cả các pháp sự, trừ yết-ma xuất tội.
Pháp sự cần bốn người làm mà thiếu một người thì pháp sự không thành và là làm pháp sự phi pháp.
Pháp sự cần năm người làm mà thiếu một người thì pháp sự không thành và được gọi là làm pháp sự phi pháp.
Pháp sự cần mười người làm mà thiếu một người thì pháp sự không thành và được gọi là pháp sự phi pháp.
Pháp sự cần hai mươi người làm mà thiếu một người thì pháp sự không thành và được gọi là pháp sự phi pháp.
Đó gọi là Tăng sự.
Pháp gia nhập chúng Tăng là: từ việc thu thúc oai nghi cho đến làm cho người phát sanh tâm thiện đã được nói rõ trong phần trên.
Pháp dụng tâm khi gia nhập chúng Tăng là phải như cây chổi quét khắp trên đất, không thấy việc phải trái và khởi tâm từ đều khắp. Phải gia nhập chúng Tăng với tâm như vậy. Đó gọi là pháp gia nhập Tăng.
Pháp ngồi khi gia nhập Tăng: Khi gia nhập Tăng phải cung kính Thượng tọa, tự biết nơi ngồi, không được chiếm chỗ quá rộng, hãy chọn chỗ ngồi.
Nếu thấy trong Tăng chúng có người làm việc phi pháp, định can gián nhưng sợ Tăng không nghe lời mình thì hãy ghi nhớ và ngồi im lặng.
Khi gia nhập chúng Tăng, Tỳ-kheo phải lường xét xem các pháp sự mà chúng Tăng làm là đúng pháp hay không đúng pháp, tương ưng hay không tương ưng với Tỳ-ni. Nếu tương ưng thì tốt. Nếu không tương ưng, lại có người đồng tâm thực hành Tỳ-ni như pháp thì hãy cùng họ can gián. Nếu không thì hãy ngồi yên lặng. Đó gọi là việc gia nhập Tăng.
Khi Tăng tập hợp, vị Thượng tọa trong chúng phải quán sát Trung tọa và Hạ tọa xem oai nghi ngồi đứng của họ có như pháp không, có kín đáo không? Nếu có người ngồi không như pháp hoặc kín đáo thì Thượng tọa phải khảy móng tay cho Trung tọa và Hạ tọa biết. Nếu họ vẫn không biết thì phải sai người đến nói với họ. Các việc trong Tăng chúng, Thượng tọa đều phải sắp đặt lo liệu.
Khi ngồi, Tỳ-kheo Trung tọa phải quán sát Thượng tọa và Hạ tọa xem họ ngồi có như pháp không? Y phục có che hết thân thể không? Nếu có người không như pháp thì phải khảy móng tay cho họ biết. Nếu họ vẫn không biết thì phải bảo người biết pháp đến nói: "Thượng tọa hãy tự biết thời". Đối với Hạ tọa thì nói: "Trưởng lão hãy tự biết thời".
Phải cúng dường cung kính, tôn trọng, khen ngợi Thượng tọa. Đó là pháp của Trung tọa.
Pháp của Hạ tọa khi ngồi ở trong chúng là: Sau khi chúng đã ngồi yên, Hạ tọa phải quan sát Thượng tọa và Trung tọa xem cách ngồi và y phục có như pháp không? Nếu không như pháp thì phải khảy móng tay cho họ biết. Nếu họ vẫn không biết thì phải sai người biết pháp đến nói: "Đại đức hãy tự biết thời".
Hạ tọa phải cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi Thượng tọa và Trung tọa ở trong chúng Tăng, Hạ tọa phải lấy nước rưới lên đất và quét cho sạch; phải đốt lửa trong phòng tắm của chúng Tăng, phải làm tất cả mọi việc mà Phật dạy Hạ tọa phải làm ở trong Tăng. Đó là pháp của Hạ tọa.
Từ không có tuổi hạ đến chín tuổi hạ gọi là Hạ tọa. Từ mười đến mười chín tuổi hạ gọi là Trung tọa.
Từ hai mươi đến bốn mươi chín tuổi hạ gọi là Thượng tọa.
Quá năm mươi tuổi hạ trở lên, được quốc vương, trưởng giả và người xuất gia quý trọng, gọi là Trưởng lão kỳ cựu.
Phải học tất cả những việc mà Tăng thực hành, phải học cách giữ giới thanh tịnh. Người giữ giới thanh tịnh là người có thể thọ trì tất cả các giới mà Phật chế, không vi phạm một giới nhỏ, vì thế được gọi là giữ giới thanh tịnh.
Giới tâm chính là giới thiền. Do giữ tâm không tán loạn, hợp nhất với định nên gọi là đắc được tâm giới.
Giới tịnh tuệ là: giữ gìn trí tuệ không cho tán loạn, thấy được bốn đế gọi là giới Tịnh tuệ.
Tất cả mọi người nếu có lòng tin trì giới thì phải suy nghĩ như vầy: "Nếu phạm giới nhỏ thì phải lo sợ như phạm giới trọng không". Người trì giới như vậy thì phạm hạnh thanh tịnh, giới Ba-la-đề-mộcxoa mà họ thọ trì cũng thanh tịnh.
Mọi người phải tu thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp cho thành tựu hạnh lành, cho đến có thể phòng hộ thân-miệng-ý không làm mười điều ác.
Đó gọi là pháp mà mọi người phải làm.
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở Tỳ-xá-ly, nhóm Ly-xatử dọn cơm thỉnh Tăng. Do có nhiều loại thức ăn ngon nên chúng Tăng ăn quá no và đều bị mắc bệnh, không được an vui. Thầy thuốc Kỳ-Bà khám bệnh xong, liền bảo: "Nếu có phòng tắm thì bệnh này sẽ khỏi". Vị ấy nói vậy là vì muốn dựng một nhà tắm ở tinh xá KỳHoàn. Tỳ-kheo đem việc ấy đến bạch Phật. Phật cho phép các Tỳ-kheo làm nhà tắm.
Cách làm nhà tắm: Nên đắp vách bằng bùn. Nếu không kiếm được đất thì có thể dùng gỗ để làm rồi lấy bùn đắp lên. Trong nhà tắm, dưới một bức vách dành để đốt lửa cho ấm. Dưới các bức vách khác thì đặt sàn để tắm rửa.
Phép vào nhà tắm để tắm rửa là: Tùy theo Thượng tọa, cần nóng thì đóng cửa, cần lạnh thì mở cửa. Hạ tọa không được làm trái ý Thượng tọa. Khi vào phòng tắm để tắm, Thượng tọa phải vào trước, chọn sàn tốt để tắm rửa.
Do nhóm sáu Tỳ-kheo mà Phật chế pháp vào nhà tắm để tắm rửa này.
Một lúc nọ, Tỳ-kheo cùng người thế tục vào phòng tắm để tắm.
Phật nghe được liền không cho phép và nói:
Tỳ-kheo không được cùng bạch y tắm rửa trong phòng tắm cùng một lúc. Nếu là đàn việt có tín tâm thì được phép.
Sau đó các Tỳ-kheo lõa thân cùng vào phòng tắm để tắm, đều nhìn thấy nhau và đều hổ thẹn.
Việc ấy dần dần đến tai Thế Tôn. Phật nói:
Từ nay trở đi, không được lõa thân khi cùng vào phòng tắm để tắm, cũng không được tắm cho nhau. Nếu một người có y, một người không có y, thì người có y được mang nước cho người không y và được tắm cho người ấy. Người không có y, không được rưới nước tắm cho người khác. Nếu phòng tắm ở cách xa nguồn nước thì cho phép đặt hồ nước ở trong phòng tắm, cũng được phép đào giếng. Phép vào phòng tắm để tắm phải biết rõ như vậy.
Khi vào phòng tắm để tắm, nếu thấy phòng tắm quá nóng thì nên mở hé cửa để bớt nóng. Thượng tọa nên nói lý do của việc tắm rửa cho chúng Tăng đang ở trong nhà tắm nghe: "Việc tắm rửa không phải vì làm đẹp mà là để thân thể sạch sẽ".
Lại phải nói pháp nhàm chán thân, pháp điều phục tâm, làm phát sanh tâm từ bi, nói pháp làm họ được ít muốn, biết đủ.
Lại phải nói: "Việc tắm rửa này không vì lý do nào khác, chỉ vì muốn trừ bệnh gió, bệnh lạnh trong thân để được an ổn để hành đạo nên phải tắm. Đó gọi là pháp mà Thượng tọa phải giảng về tác dụng của nhà tắm.
Pháp đệ tử cùng đi, đệ tử cùng ngủ, hầu hạ Hòa thượng, A-xà-lê và pháp Hòa thượng, A-xà-lê nuôi đệ tử đều được nói rõ ở phần trên.
Pháp Sa-di là: Sa-di được phép nhổ cỏ, làm sạch đất, lấy đồ chà răng, hái hoa quả. Khi đã mang về, Sa-di phải bạch Hòa thượng. Hòa thượng, Axà-lê nên nhận lấy để dùng.
Pháp Sa-di là phải biết hổ thẹn, phải khéo hầu hạ thầy, không nên biếng trễ, buông lung đối với pháp, cần phải giữ gìn cẩn thận thân, miệng, hạ thấp mình, cung kính người khác. Phải thích trì giới, chớ ham đùa giỡn, cũng không nên tự ỷ vào tài năng, sức khỏe, chớ có nóng nảy, phải biết hổ thẹn. Lại không nên nói lời rối loạn không có thứ lớp; nếu có nói thì phải nói hợp lý, đúng thứ lớp, phải thường tự biết pháp tịnh và bất tịnh, phải thường theo Hòa thượng, A-xà-lê để đọc tụng kinh pháp, không được làm trái tất cả mọi việc của Tăng. Cần biết rõ như vậy.
Pháp của Tỳ-kheo đi trước-khi đi cùng Tỳ-kheo bạn-là: người đi trước nên quay lại nhìn người đi sau xem y áo có ngay ngắn không, có so le không, có bị cuộn không? Có nhiếp tâm không? Có giữ oai nghi khi đi không? Khi vào nhà người khác có khởi tâm đắm nhiễm đối với các sắc đẹp không? Có khởi tâm trộm cướp khi thấy các vật báu kỳ lạ không?
Có chúng Tỳ-kheo sai Tỳ-kheo đến gặp đàn-việt để sám hối, Tỳ-kheo được sai đến nhà đànviệt đi vào trước nói với đàn-việt: "Chúng Tỳ-kheo này đã trách phạt xong, hãy nhận sự sám hối của Tỳ-kheo ấy".
Đó gọi là pháp của Tỳ-kheo đi trước. Lý do gọi đó là người đi trước là vì người ấy nhận sự sai bảo của Tăng nên vào nhà đàn-việt trước để nói, vì thế gọi là người đi trước.
Lại nữa, khi đi cùng đường, Tăng sai Tỳ-kheo dẫn đường đi phía trước để dẫn Tăng đến nhà đànviệt, đó cũng gọi là người đi trước.
Tỳ-kheo đi phía sau phải thành tựu năm pháp:
1-Lúc đi không được đi phía trước.
Không được đi quá xa ở phía sau mà phải đi ngay phía sau.
Nếu Tỳ-kheo ở phía trước là Hòa thượng, Axà-lê hoặc Thượng tọa thì không được làm trái lời của họ. Nếu họ hỏi về việc hành đạo, tụng kinh, tu tập thì phải đáp như thật, không được che giấu, trừ việc đắc thiền, đắc Thánh quả. Nếu người đi phía trước có nói pháp lành gì thì phải tùy hỷ, khen ngợi.
Nếu người đi phía trước có nói điều gì nhầm lẫn, không đạt thì nên nói điều này không hợp với ý của Phật. Phàm muốn nói điều đó là không hợp lý thì phải nói kín đáo ở chỗ khuất.
Nếu có được của cải như pháp và của cải có được do thí chủ đặt vào bát thì đều phải chia sớt cho nhau. Đó là năm đức của Tỳ-kheo đi phía sau.
Nếu Tỳ-kheo nào làm thầy của người tại gia, dạy họ làm ruộng phước thì không được làm năm việc sau:
Không được cư trú ở nhà đàn-việt.
Không nên tham lợi dưỡng của họ.
Không nên nói nhiều loại một lần mà chỉ dạy sự lợi ích an vui cho đàn-việt. Phải dạy cho họ tu riêng từng pháp khác nhau. Các pháp khác nhau là bố thí, trì giới, thọ tám trai giới. Phải nói từng pháp như vậy.
Không được đùa giỡn, vui chơi cùng người tại gia.
Không được mong muốn gặp nhau thường xuyên.
Lại có năm việc không được làm:
Nếu đàn-việt chưa thân quen thì không được gắng gượng làm như thân quen mà đến.
Không được vì mong cầu thế lực mà sắp đặt việc nhà của đàn-việt.
Không được lén lút vì mình nói nhỏ với đànviệt.
Không được nói với đàn-việt giờ tốt, ngày tốt để cúng tế quỷ thần.
Không được mong cầu quá độ nơi đàn-việt thân quen.
Tỳ-kheo cần thành tựu năm pháp sau sẽ được đàn-việt tôn trọng cung kính. Đó là năm pháp gì?
Không nên qua lại nơi chẳng thân quen.
Không sắp xếp việc nhà của đàn-việt vì cầu thế lực.
Không nói nhỏ với đàn việt làm người khác ở trong nhà sanh nghi.
Không dạy đàn việt giờ tốt, ngày tốt để cúng tế quỷ thần.
Không mong cầu quá độ.
Tỳ-kheo vào nhà đàn-việt cần thành tựu năm pháp:
Khi đi vào phải nói nhỏ.
Phải thu thúc thân, khẩu, ý.
Chú tâm khiêm cung mà đi.
Thu nhiếp các căn.
Oai nghi đĩnh đạc, từ tốn, làm cho người khác phát khởi tâm thiện.
Đó là năm pháp cần giữ khi vào nhà đàn việt. Tỳ-kheo có chín việc, nếu biết tâm đàn-việt thì không nên ngồi nói pháp:
Khi Tỳ-kheo vào nhà đàn-việt, tuy được đànviệt lễ lạy nhưng biết không thật tâm cung kính thì không nên ngồi.
Tuy ra nghênh đón nhưng tâm họ không kính trọng, ân cần thì không nên ngồi.
Tuy nhường chỗ cho ngồi nhưng biết tâm họ không thật thì không nên ngồi.
Tuy mời ngồi nhưng sắp đặt chỗ ngồi ở nơi không cung kính thì không nên ngồi.
Giả sử có nói pháp hoặc phi pháp mà tâm họ không lựa chọn ghi nhớ thì không nên ngồi.
Tuy nghe Tỳ-kheo có đức mà không tin nhận thì cũng không nên ngồi.
Khi xin vật gì, biết họ có nhiều mà cho ít thì cũng không nên ngồi.
Đến nhà họ, giả sử có thức ăn ngon nhưng họ không chịu dọn mà dọn thức ăn dở thì cũng không nên ngồi.
Tuy cung cấp các vật cần dùng mà giống như mua bán thì cũng không nên ngồi.
Lại có chín việc khi biết tâm của đàn-việt thì nên ngồi để nói pháp:
Biết có tâm cung kính nên họ lễ lạy.
Biết họ nghênh đón với tâm cung kính.
Biết họ thỉnh vào với tâm cung kính.
Biết họ trải tòa ở chỗ cao vì tâm kính trọng.
Biết họ có tâm thọ giáo nên lời pháp và lời phi pháp đều được ghi nhớ.
Biết họ nghe đức của mình liền sanh lòng tin.
Biết đó là vật ít có, khó được mà cúng cho mình nhiều.
Biết họ vốn có thức ăn dở mà lại dọn ra thức ăn ngon.
Biết họ cung cấp vật mình cần với tâm tốt.
Khi biết tâm của đàn-việt qua chín nhơn duyên này thì hãy ngồi thuyết pháp cho họ.
Khi vào nhà bạch y, Tỳ-kheo phải chú tâm như ánh sáng mặt trăng.
Khi đi trong xóm làng phải đi với tâm khiêm tốn và hổ thẹn, không nên đi với tâm tự cao, buông lung, không có hổ thẹn tâm tán loạn. Pháp thâu giữ tâm cũng giống như người đi bộ nơi vách núi cao, hết sức hiểm trở, chỉ rộng một tấc nên luôn lo sợ, chứ không có ý niệm gì khác. Lại như có người ở chỗ núi cao sắp rơi xuống vực sâu, chỉ khởi tâm lo sợ chứ không nghĩ gì khác; khi đi vào xóm làng, Tỳ-kheo giữ tâm không tán loạn cũng nên như vậy. Này các Tỳ-kheo! Khi vào xóm làng, các vị phải thâu giữ tâm giống như Ca-diếp vào xóm làng.
Đức Phật hỏi các Tỳ-kheo:
-Khi vào xóm làng, các vị có đi từ từ như mặt trăng không? Có hổ thẹn không? Có theo dõi, ghi nhớ những ý nghĩ trong tâm không? Có giữ tâm chuyên chú như người ở trên bờ cao, bên vực sâu phát sanh lo sợ không? Có giữ gìn thân, khẩu, ý không cho buông lung không? Các vị có như lông dê dày lọt vào bụi gai, đụng đâu dính đó không?
Có bị sáu trần và lợi dưỡng dẫn dắt, trói buộc không? Khi vào xóm làng có tâm lo sợ như sợ lao ngục, gông cùm không? Khi vào xóm làng các vị có khởi tâm tham đắm không? Có như con nai dính bẫy được thoát không? Có nhớ nghĩ nơi cũ không? Vì thế, khi vào xóm làng Tỳ-kheo phải đi với tâm như các ví dụ trên. Phải như con ong lấy hoa, chỉ lấy mật hoa, không làm tổn hại hương sắc của hoa, cũng vậy, khi vào xóm làng Tỳ-kheo không được tham đắm sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, chỉ vì sự tốt đẹp mà đi vào trong xóm làng.
Như đức Thế Tôn dạy, Tỳ-kheo nào sắp vào xóm làng mà nghĩ: "Đàn-việt sẽ cho ta tất cả những vật họ có chứ không cho người khác, mong họ cho ta nhiều, đừng cho ta ít, mong họ cho ta vật tốt, đừng cho vật xấu; cho với tâm cung kính, đừng cho với tâm không cung kính". Suy nghĩ xong, vị ấy vào xóm làng và mọi sự mong cầu đều không được như ý thì vị ấy sẽ chán nản về việc mong cầu, sẽ buồn rầu, hổ thẹn, khổ não không vui.
Tỳ-kheo nào khi sắp vào xóm làng khất thực không nghĩ như vầy:
"Đàn-việt sẽ cho ta tất cả chứ không cho người khác, mong họ cho ta nhiều, đừng cho ta ít, mong họ cho ta vật tốt, đừng cho ta vật xấu, cho đến cho với tâm không cung kính". Khi vào xóm làng nếu không suy nghĩ như vậy thì dù được nhiều, ít, tốt, xấu... vị ấy cũng đều không buồn rầu, hổ thẹn, khổ não.
Này các Tỳ-kheo! Khi vào xóm làng Ca-diếp không bao giờ có ý nghĩ như vậy. Do không có ý nghĩ như vậy nên đối với tất cả các việc tốt, xấu, nhiều, ít, vị ấy không chán nản, cho đến không khổ não, không vui.
Khi đi, ông luôn luôn
Như ong hút mật hoa
Được vật tốt hoặc xấu
Được chậm hoặc được mau.
Như ong hút mật hoa
Không phá hỏng sắc hương
Tu sĩ đi trong đời
Tu thiện cũng như vậy.
Không chống đối lẫn nhau
Quán sát lỗi lầm ấy
Để tự quán thân mình
Đã làm tốt hay xấu.
Đồ dùng có đủ không
Đã thoát nhà cửa chưa?
Ghế vững nhờ dây buộc
Như tằm ở trong kén.
Vì thế, giống như ví dụ về con ong, khi đi vào xóm làng, Tỳ-kheo không được nắm giữ vị của sáu trần, như quơ tay trong không trung không bị trở ngại. Khi vào xóm làng, tâm không bị ngăn ngại cũng phải như vậy.
Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
Các vị muốn thực hành những hạnh gì? Các vị có thể làm thầy dạy cho đàn-việt không?
Các Tỳ-kheo liền đáp:
Bạch đức Thế Tôn! Ngài là căn bản của các pháp, cũng biết thứ lớp của các pháp, là vị thầy thuốc lớn, xin Thế Tôn hãy giảng giải cho chúng con. Tỳ-kheo chúng con nghe giảng xong mới hiểu được.
Đức Thế Tôn liền quơ tay trong hư không và bảo các Tỳ-kheo:
Bàn tay này đang qua lại trong hư không, không hề bị chướng ngại, không bị ràng buộc. Các Tỳ-kheo đi trong thế gian phải để tâm không bị ngăn ngại, không bị ràng buộc giống như vậy. Người nào tìm cầu của cải thì phải dùng tâm kiềm chế thân, sau đó mới có được. Người nào cầu phước thì phải ràng buộc tâm, lao khổ thân, sau đó mới được phước báo. Tỳ-kheo nào tâm bình đẳng đối với cả điều tốt lẫn điều xấu, thấy người khác được lợi giống như mình được, tâm sanh tùy hỷ thì Tỳ-kheo ấy có thể làm thầy dạy cho người đời.
Này các Tỳ-kheo! Ca-diếp đi vào xóm làng không bị trở ngại, không bị trói buộc, không nắm giữ, là đối tượng để người muốn được lợi cầu lợi, người muốn được phước cầu phước. Khi thấy người khác vui mừng vì được lợi, vị ấy cũng vui mừng giống như chính mình được vậy. Vị ấy không bị trở ngại, không bị trói buộc, giống như quơ tay trong hư không.
Người khéo vào xóm làng Xem lợi hại như nhau Cùng huynh đệ vào làng Không có tâm ganh ghét Gặp người quen hay lạ Không phân biệt thân sơ Đó là pháp dạy người.
Tỳ-kheo vào nhà đàn việt cần tuân theo những quy định sau:
Không được cười đùa.
Không được tự thị, kiêu mạn.
Không được lăng xăng.
Không được nói những điều kiêng kỵ, không được nói những lời rối loạn không đầu đuôi.
Không được ngồi từ xa, cúi rạp người nói chuyện với người khác.
Không nên ép nhau cùng ngồi nói chuyện.-Không được ngồi chòm hõm.
Không được cười lớn mà ngồi.
Tuy giữ oai nghi nhưng không được biểu hiện tướng mạo có đức khi ngồi.
Không nên ngồi gác chân lên nhau.
Không nên ôm đầu gối mà ngồi.
Không nên ngồi tréo cẳng chân.
Không nên dùng tay sờ mó hai bên khi ngồi.
Không nên rung đùi khi ngồi.
Không nên ngồi trên cái vò lớn.
Không được cùng Tỳ-kheo-ni ngồi một mình trong phòng kín.
Không nên cùng người nữ ngồi một mình trong phòng.
Không được ngồi ở nơi thấp và nói pháp cho người ở nơi cao nghe.
Tỳ-kheo phải nhẫn nhục đối với tất cả những việc lợi hại.
Đó là cách ngồi của Tỳ-kheo khi vào nhà bạch y.
Pháp của Tỳ-kheo Thượng tọa khi vào nhà thế tục là: Thượng tọa phải biết thời, biết cân nhắc và biết mình, phải biết Đại chúng, biết đức hạnh của người khác cao thấp ra sao. Phải dạy oai nghi cho các Tỳ-kheo. Phải nói với các bạch y những lời như pháp. Phải dạy cho họ nghe pháp và dạy họ đọc tụng. Phải dạy cho họ các pháp lành như vậy. Khi giờ chú nguyện đến, lại phải chú nguyện. Đó gọi là pháp của Thượng tọa khi vào nhà bạch y.
Lúc ấy, Thế Tôn ở tại nước Xá Vệ. Nước Kiềutát-la có một trụ xứ có rất nhiều Tỳ-kheo định an cư mùa hạ. Các Tỳ-kheo ấy cùng bàn luận: "Trong khi an cư mùa hạ, làm sao để việc hành đạo của chúng ta được an ổn, an vui?". Họ lại cùng nhau bàn bạc: "Muốn được yên ổn hành đạo, chúng ta phải cùng nhau ra quy định là: không ai được nói điều gì. Khi cần việc gì thì phải dùng tay để ra dấu".
Sau khi an cư mùa hạ, các Tỳ-kheo cùng nhau đến chỗ Thế Tôn để đảnh lễ, thăm hỏi. Gặp họ, Phật biết nhưng cố hỏi:
Trong mùa hạ, các vị hành đạo có được yên vui không? Các Tỳ-kheo đáp lời Thế Tôn:
Dạ, hành đạo được yên ổn. Phật lại hỏi:
Các vị cùng quy định việc gì? Đáp:
Cùng quy định không nói chuyện với nhau. Phật nói:
Đó là đặt ra quy định của những kẻ thù sống chung với nhau, khổ sở đến như vậy sao lại nói là vui? Từ nay trở đi, các Tỳ-kheo không được ra quy định không nói chuyện với nhau. Khi Bố-tát, nếu có đàn việt đến, vị Thượng tọa trong chúng nên nói pháp an ủi họ.
Có một Thượng tọa tên Ưu-ba-tư-na, căn tánh ngu tối, không học Tam Tạng, nói năng chậm chạp. Khi Tăng tập họp, có đàn việt đến, vị ấy không thể nói pháp, không thể an ủi, thăm hỏi, làm đàn-việt kia phân vân: "Không biết vì sao mà chúng Tăng tỏ vẻ không thích khi thấy mình, không nói năng gì cả?!".
Việc ấy dần dần đến tai Thế Tôn, Ngài liền bảo các Tỳ-kheo:
Từ nay trở đi, khi chúng tập hợp mà có bạch y đến thì Thượng tọa phải nói pháp an ủi. Nếu Thượng tọa không thể nói thì phải bảo Thượng tọa thứ hai. Nếu Thượng tọa không nói thì phạm tội. Nếu bảo Thượng tọa thứ hai nói mà vị ấy không nghe thì cũng phạm tội.
Khi đi đường, nếu thấy người cùng xuất gia và thấy bạch y, Tỳ-kheo phải hỏi người kia từ đâu đến và trên đường đi có được an ổn không? Đó gọi là pháp nói năng.
Khi ấy, có các Tỳ-kheo đi trên đường, thân thể mệt mỏi, muốn nghỉ ngơi nhưng phân vân không dám. Về sau, họ đến bạch Thế Tôn, Phật nói:
Các Tỳ-kheo được phép nghỉ ngơi bên đường khi đi xa.
Nếu Hòa thượng, A-xà-lê phạm tội, bị chúng Tăng yết-ma đuổi, khi yết-ma thành, đệ tử liền mất y chỉ. Nếu đệ tử phạm tội thì sau khi chúng Tăng yết-ma xong cũng mất y chỉ. Nếu Hòa thượng, Axà-lê nói với đệ tử với tâm quyết định: "Từ nay trở đi không cần ở bên cạnh tôi nữa", thì lúc ấy đệ tử liền mất y chỉ.
Nếu mặt trời chưa xuất hiện mà tách rời Hòa thượng, A-xà-lê thì cũng mất y chỉ.
Nếu Tỳ-kheo có làm việc gì vi phạm trong Tăng, bị Tăng quở phạt, nếu Tỳ-kheo ấy cầu xin một ngày cho đến ngày hôm sau thì Thượng tọa nên cho phép làm yết-ma quở trách, yết-ma đuổi, yết-ma phát sanh tâm thiện, yết-ma phơi bày sự thật, yết-ma che bát, yết-ma không nói chuyện. Sau khi yết-ma sám hối như vậy xong, chúng Tăng làm yết-ma xá tội. Đó gọi là pháp tha tội.
Phải đi kinh hành ở nơi để kinh hành, không được kinh hành ở nơi khác.
Phải ngồi thiền ở nơi để ngồi thiền, không được ngồi ở nơi khác.
Khi đi kinh hành không được chán nản giữa chừng, không được đi với tâm tán loạn.
Nếu mặt đất nơi kinh hành không bằng phẳng thì phải làm cho bằng phẳng, đừng để chỗ cao chỗ thấp.
Bấy giờ, Thế Tôn ở tại nước Ba-la-nại, Ngài bảo thị giả Na-già-ba-la:
Hãy đem áo tắm của Ta đến.
Sau khi nhận y, Phật đắp y ấy đi kinh hành. Lúc Phật kinh hành,
Đế-thích hóa ra nhà vàng rồi đến lạy sát chân Phật mà bạch Ngài:
Xin hãy nhận ngôi nhà bằng vàng này để đi kinh hành.
Lúc này, Phật kinh hành ở tại Tỳ-xá-ly, nhóm sáu Tỳ-kheo mang giày da đi kinh hành theo Phật. Phật nói:
Pháp của đệ tử là không được mang giày da đi kinh hành trước Hòa thượng, A-xà-lê; cho đến không được kinh hành ở nơi kinh hành của Hòa thượng, A-xà-lê; huống là mang giày da đi kinh hành ở trước Ta và đi kinh hành ở nơi Ta đang kinh hành mà được sao? Cần phải biết rõ như vậy.
Có Tỳ-kheo đang hành Ma-na-đỏa đi kinh hành
ở nơi chúng Tăng kinh hành, Phật trông thấy liền chế giới:
Tỳ-kheo có tội không được kinh hành ở nơi Tỳ-kheo thanh tịnh kinh hành.
Có Tỳ-kheo kinh hành ở nơi đất trống, bị trời mưa to làm y dơ và ướt hết nên buồn rầu không vui. Nghe vậy, Phật liền bảo các Tỳ-kheo:
Cho phép các Tỳ-kheo làm nhà để kinh hành. Có Tỳ-kheo kinh hành ở vùng đất trống trong núi Kỳ-xà-quật, bị mưa to, gió lớn, lại bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt. Nghe vậy, Phật liền cho phép các Tỳ-kheo làm nhà để kinh hành.
Một lúc nọ, tại trụ xứ Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo-ni Hạ tọa kinh hành trước ni Thượng tọa với tâm kiêu mạn, tự đại, không chút cung kính. Thấy các ni Hạ tọa làm ni Thượng tọa buồn bực, nhóm sáu Tỳ-kheo-ni cũng bắt chước nên đến trước các ni Thượng tọa để kinh hành. Nghe việc ấy, Thế Tôn liền cấm ni Hạ tọa kinh hành trước ni Thượng tọa. Nơi kinh hành của ni Thượng tọa, ni Hạ tọa không được kinh hành ở đó.
Có Tỳ-kheo bị mọc mụt trên thân. Thầy thuốc chỉ cách chữa như sau: dùng nước miếng thoa lên mụt, nung ngói cho nóng áp lên làm tróc vẩy, mụt sẽ lành. Sau khi thầy thuốc chỉ như vậy, Phật liền cho phép làm theo.
Một lúc nọ, trong phòng Tăng vừa mới sửa sang và có vẽ tranh. Vì lạnh, các Tỳ-kheo đốt lửa, khói xông lên làm hư hết bức vẽ. Nghe tin ấy, Phật liền không cho đốt lửa trong nhà. Ai lạnh thì đốt lửa ngoài đất trống để tự sưởi ấm. Sau đó, các Tỳ-kheo bạch với Thế Tôn:
Đốt lửa nơi đất trống để sưởi ấm, sưởi phía trước thì phía sau lạnh, sưởi phía sau thì phía trước lạnh, không thể làm cho ấm.
Nghe vậy, Phật liền cho phép đốt lửa trong phòng để tự sưởi nhưng phải làm sao đừng cho có khói.
Tại đường đi trước phòng ở của các Tỳ-kheo, họ tiểu tiện khắp nơi, làm mặt đất dơ bẩn, hôi hám, không thể đi. Nghe vậy, Phật bảo các Tỳ-kheo:
Từ nay trở đi, các Tỳ-kheo không được tiểu tiện khắp nơi trong tinh xá, phải tập trung ở một chỗ kín đáo, dùng bình sành hoặc thùng gỗ chôn dưới đất rồi đi tiểu vào đó. Sau khi đi tiểu xong, phải lấy vật gì đậy lại, đừng để có mùi hôi thối.
Có các Tỳ-kheo vào mùa lạnh, rửa chân ở bên ngoài bị lạnh buốt rất khổ sở. Nghe vậy, Phật liền cho phép dùng đồng hoặc đất nung, hoặc gỗ làm vật đựng nước để rửa chân trong nhà.
Bát mà các Tỳ-kheo dùng bị rạn nứt, đồ ăn uống ở trong các chỗ nứt rất hôi nên không thể dùng được. Phật liền cho phép làm lò xông bát, dùng hạt gai hoặc hạt mè giã nhỏ thoa lên bát rồi đặt bát lên lò để xông. Sau khi xông bát xong phải đem cất lò, đừng để mưa làm ướt.
Nếu người muốn thọ giới dùng sức thần thông đứng trên hư không, Giới sư và chúng Tăng ở dưới đất thì người ấy không được thọ giới.
Nếu thầy ở trên hư không, người thọ giới và chúng Tăng ở dưới đất thì cũng không được thọ giới.
Nếu chúng Tăng ở trên hư không, thầy và người thọ giới ở dưới đất, thì cũng không được thọ giới.
Nếu thầy, đệ tử và chúng Tăng đều ở trên không trung thì cũng không được thọ giới. Vì sao?-Vì ở hư không không có giới hạn để kết giới. Vào ban đêm, nếu Tỳ-kheo đặt ba y trên vai, nương thần thông đi đến nơi khác thì không mất y. Nếu y trên đất, Tỳ-kheo nương thần thông ở trên không trung và đưa chân đạp trúng y hay ngoài đất cạnh y khi minh tướng chưa hiện thì không mất y. Nếu chân không đạp trúng y mà ra ngoài đất cạnh y khi minh tướng đã hiện thì bị mất y. Vì sao?-Vì hư không ở ngoài cương giới của y.
Có các Tỳ-kheo đang dùng thần thông đi trong hư không bỗng muốn uống nước, Phật liền cho phép uống. Tuy được phép uống nước nhưng họ chưa biết uống nước bằng cách nào, nếu mang y xuống nước thì sợ y rơi xuống nước, nếu để trên bờ thì sợ mất y. Phật dạy:
-Khi lấy nước, một chân bước xuống nước, một chân ở trên bờ sẽ lấy được nước. Đó gọi là pháp ở trên hư không.
Khí có hai loại: một là khí bên trên, hai là khí bên dưới.
Khi ợ không được há miệng cho ra phía có người, phải quay mặt về phía không có người há miệng cho ra.
Khi khí bên dưới muốn ra, không được cho ra ở nơi đông người, phải tìm cách đi ra ngoài, đến chỗ không có người mới cho ra, sau đó mới trở vào đám đông, đừng để mọi người nhờm gớm.
Khi vào trong tháp không được hạ phong. Ở trong nhà tháp, dưới cây đặt tháp và ở trong đại chúng đều không được hạ phong; ở trước thầy, trước Đại đức, Thượng tọa cũng không được hạ phong ra tiếng. Nếu trong bụng có bệnh, cần mau chóng đi ra ngoài, đừng để người khác nhờm gớm.
Pháp quét đất là: Chúng ở dưới gió thì không được quét đất ở trên gió.
Pháp ăn cháo là: không được há miệng húp cháo ra tiếng. Đợi cháo nguội rồi mới từ từ húp vào. Đó là cách ăn cháo.
Lúc ấy, Thế Tôn ở tại thành Vương Xá, có một Tỳ-kheo thuộc dòng Bà-la-môn, rất thích sạch sẽ. Khi đi đại tiện, vị ấy dùng thẻ và cỏ nạo hậu môn, nạo nhiều lần làm hậu môn bị thương. Vì thế tướng mạo vị ấy không vui. Các Tỳ-kheo hỏi:
Vì sao tướng mạo thầy tiều tụy như vậy? Có bị đau bệnh gì không? Vị ấy đáp:
Khi đi đại tiện, tôi ghét chỗ bất tịnh này nên đã dùng thẻ nạo nhiều lần làm cơ thể bị thương, vì vậy không được khỏe.
Các Tỳ-kheo đem việc ấy bạch Thế Tôn, Phật gọi Tỳ-kheo này đến và hỏi:
Ông có thật như vậy không? Tỳ-kheo ấy bạch Phật:
Thật như vậy, thưa Thế Tôn. Đức Phật nói:
Ông mà còn nhờm gớm thân mình như vậy, huống gì là người khác.
Phật quở trách Tỳ-kheo ấy bằng đủ cách rồi bảo:
Phải tự giữ gìn thân. Khi sắp đại tiện, không được cố ý dùng sức rặn cho ra tiếng, phải rặn từ từ cho ra dần. Khi đi đại tiện, trước hết phải lấy thẻ, cỏ; đến cửa phải khảy móng tay ba lần để cho người và phi nhơn biết; cởi y mắc lên nơi để y ở trước cửa. Nếu trời mưa không có nơi cất y thì phải khéo quấn y vào thân; mở cửa nhìn vào nhà xí xem có các loại trùng độc không. Xem xong, khi sắp đại tiện phải từ từ vén y lên theo thứ lớp, không được vén hấp tấp làm lộ thân thể.
Pháp ngồi xuống đứng lên là: không được ngồi nghiêng một bên, phải ngồi ở chính giữa, đừng làm dơ hai bên hố xí. Khi muốn đứng dậy phải từ từ hạ y xuống theo thứ lớp, không được hạ quá mau.
Từng chi tiết của pháp lên nhà xí đã được nói rõ trong Kiền-độ Tam-ma-đâu.
Khi lên nhà xí, ở chỗ ngồi xuống đứng lên, các Tỳ-kheo bị sự gập ghềnh làm mỏi mệt, nghe vậy Phật liền cho phép đặt tấm ván tốt ở nơi đi lại, để đường đi khỏi bị cao thấp, không bằng phẳng. Sau khi đi xong, phải dùng thẻ sạch nạo cho sạch. Nếu không có thẻ, không được chùi lên vách cho sạch, không được chùi lên tấm ván làm cầu trên nhà xí, không được dùng đá, không được dùng cỏ xanh, không được dùng đất cục, vỏ cây mềm, lá mềm thay cho gỗ. Vật nên dùng là dùng gỗ, tre, cỏ lau làm thẻ với độ dài dài nhất là một gang tay, ngắn nhất là bốn ngón. Sau khi dùng xong, không được quệt lung tung làm dơ những chỗ sạch, không được để lộn trong những thẻ sạch. Đó là pháp đi đại tiện và dùng thẻ đi đại tiện.
Tôn giả Ca-diếp-duy nói:
-Được dùng đá và ngói.
Đàm Vô Đức thì không cho phép.
Lên nhà xí có hai chỗ: một là chỗ đi vệ sinh, hai là chỗ dùng nước để rửa. Việc vén y khi đứng lên ngồi xuống ở nơi dùng nước cũng giống như ở nơi đi vệ sinh. Trước cửa nhà xí có bình nước sạch, lại phải mang theo một bình nhỏ. Nếu tự có bình thì dùng bình của mình, nếu không có bình thì dùng bình nhỏ cạnh nhà xí. Không được dùng thẳng bình nước lớn của Tăng làm cho dơ bẩn. Đó là pháp dùng nước trên nhà xí.
Pháp dùng nhành dương để chà răng là: Lúc ấy, các Tỳ-kheo không chà răng nên hơi trong miệng hôi hám khó chịu. Không dùng nhành dương chà răng có năm lỗi:
Hơi miệng hôi thối.
Cổ họng không sạch.
Không tiêu trừ được đàm dãi, thức ăn cách đêm và gió lạnh.
Không muốn ăn uống.
Tăng thêm bệnh mắt.
Dùng nhành dương chà răng có năm công đức:
Hơi miệng thơm tho.
Cổ họng sạch.
Trừ được đàm dãi và thức ăn dư.
Muốn ăn.
Mắt không có bệnh.
Khi dùng nhành dương chà răng, có các Tỳ-kheo tụ tập nơi phòng Tăng, hoặc tụ tập nơi đất sạch của chúng Tăng, hoặc tại nơi kinh hành, hoặc ở trước thầy, hoặc trước Đại đức, Thượng tọa. Phật nghe việc ấy liền không cho phép.
Lại có Tỳ-kheo lấy vỏ cây làm nhành dương, có các Tỳ-kheo dùng nhành dương ngắn chà răng làm nó chui vào cổ họng gây bệnh. Nghe vậy, Phật cũng không cho phép. Độ dài của nhành dương dài nhất là một gang tay, ngắn nhất là bốn ngón tay. Pháp của đệ tử là sáng sớm phải mang nhành dương đến dâng cho Hòa thượng và A-xà-lê. Ca-diếp-duy nói:
-Pháp cắn nhành dương là đối với loại ngắn cỡ bốn ngón tay thì nhấm một đoạn hai ngón tay. Ở trước tháp, trước chúng Tăng, trước Hòa thượng, trước A-xà-lê không được há miệng lớn khạc nhổ lên đất. Nếu muốn khạc nhổ phải đến nơi kín đáo, đừng để cho người nhờm gớm. Đó là pháp khạc nhổ.
Sau khi ăn, các Tỳ-kheo phải xỉa răng, phải dùng đồng, sắt, xương, tre, gỗ, cỏ lau để làm. Không được làm đầu quá nhỏ dễ gây thương tích. Khi xỉa răng xong, phải rửa sạch, đừng để phơi bày thức ăn dư, làm người khác nhờm gớm. Đó là pháp xỉa răng.
Trong tai các Tỳ-kheo đầy ráy, Phật liền cho phép dùng đồng, sắt, xương, sừng, tre, gỗ, cỏ lau làm đồ móc tai.
Sáng dậy, chà răng xong, phải nạo lưỡi. Phật cho phép dùng đồng, sắt, gỗ, tre, cỏ lau để nạo. Đó gọi là pháp nạo lưỡi.
Pháp tiểu tiện là: Khi vừa mắc tiểu phải đi ngay, không được để lâu. Đó là pháp tiểu tiện.
Nơi tiểu tiện phải để guốc gỗ. Khi muốn đi tiểu phải mang guốc, đừng để nước tiểu làm dơ bẩn nơi ở của các Tỳ-kheo.
Nếu có Tỳ-kheo già, bệnh, không thể lên nhà xí, ở xa thì được phép chôn một cái bình lớn hoặc một thùng gỗ xuống đất ở nơi kín để làm chỗ tiểu tiện riêng; che bên trên cho kỹ, đừng để người ta thấy. Trên đường đi đến nơi ấy cần lót ván tốt, đừng để chất bất tịnh làm dơ bẩn.
Thế nào gọi là không thực hành?-Người thọ Cụ túc gọi là thực hành, không thọ Cụ túc gọi là không thực hành.
Thế nào là người thực hành pháp?-Người thọ Cụ túc gọi là người thực hành pháp. Người không thọ Cụ túc là người không thực hành pháp. Đó gọi là thực hành pháp.
Lại nữa, người thực hành là người thực hành những việc Phật cho phép. Những việc Phật không cho phép thì tuy có làm cũng không gọi là thực hành.
Lại nữa, thế nào gọi là thực hành?-Pháp nói là pháp, phi pháp nói là phi pháp. Nhẹ nói là nhẹ, nặng nói là nặng. Đó gọi là thực hành.
Chẳng phải thực hành là: pháp nói là phi pháp, phi pháp nói là pháp, nhẹ nói là nặng, nặng nói là nhẹ. Đó chẳng phải là thực hành.
Lại nữa, thực hành là ba nghiệp thân, cho đến mười nghiệp lành. Không thực hành là ba nghiệp thân cho đến mười nghiệp ác.
Lại nữa, thực hành là tám đường chánh, không thực hành là tám đường tà.
Thực hành giới do Phật chế và tùy thuận theo người thực hành, gọi là thực hành. Không tùy thuận theo, gọi là chẳng phải thực hành.
Đó là pháp thực hành và chẳng phải thực hành. Phần thứ ba đã xong. Tóm lược gọi là tất cả các phần. Cần biết rõ như vậy.
Phạm tội gồm có ba loại: một là nhân duyên phạm tội lần đầu, hai là do vi phạm nên chế giới, ba là chế giới thêm.
Thế nào gọi là nhân duyên?
Bấy giờ, đức Thế Tôn đang giáo hóa ở nước Tu-lại-tra. Tu-đề-na là con ông Ca-lan-đà, vì muốn có con nối dõi nên đã khởi lòng dục, hành dâm với vợ cũ. Do sự vi phạm đầu tiên này, Phật tập hợp các Tỳ-kheo. Đó gọi là nhân duyên.
Thế nào gọi là chế giới?
Nếu Tỳ-kheo làm việc phi phạm hạnh, cho đến cùng với súc sanh thì phạm Ba-la-di, không được sống chung. Đó gọi là chế giới.
Thế nào là chế thêm?
Lúc ấy, Thế Tôn ở nước Tỳ-lê-kỳ, có một người thuộc họ Tỳ-lê-kỳ xuất gia. Về sau, vị ấy không vui với đạo, thường nghĩ về việc dâm dục nên trở về nhà hành dâm với người vợ cũ. Sau khi hành dâm xong, vị ấy liền hối hận nên về chùa nói với các Tỳ-kheo về việc đã vi phạm. Nghe xong, các Tỳ-kheo đến bạch với Thế Tôn. Phật bảo các Tỳ-kheo:
Vừa "đưa vào" liền phạm Ba-la-di.
Như trường hợp Tỳ-kheo khất thực trong khu rừng ở Tỳ-xá-ly, đó là chế thêm.
Khi đó, tôn giả Ưu-ba-ly từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục, đảnh lễ sát chân Phật, quỳ xuống, chấp tay bạch Phật:
Bạch đức Thế Tôn, nếu có người hành dâm với súc sanh thì có phạm Giới không? Đức Phật bảo Ưu-ba-ly:
Vừa "đưa vào" liền phạm.
Nhân duyên "vừa đưa vào liền phạm" đã được giải rõ trong Luật. Chế giới thêm có hai nhân duyên: Một là gấp, hai là chậm.
Phạm với người cho đến súc sanh gọi là gấp. Thế nào là chậm?-Nếu có Tỳ-kheo định bỏ đạo hoàn tục để hành dâm thì được phép xả Giới trở về nhà. Sau đó lại thích sống trong đạo thì được phép xuất gia thọ Cụ túc. Đó gọi là chậm.
Như Tỳ-kheo Nan-đề-già phạm giới trọng, được phép sám hối và phải ở dưới đại Tăng, trên Sa-di. Đó cũng là chậm.
Ví như trong nước có người phạm tội, vua chế luật lại, một là gấp, hai là chậm. Việc chế thêm cũng như vậy, một là gấp, hai là chậm.
Đó là ba trường hợp để quyết định việc vi phạm.
Lại có ba trường hợp để quyết định là không phạm: Một là duyên, hai là chế, ba là chế thêm.
Duyên là: Khi Phật chưa chế giới, người phạm lần đầu tiên chính là duyên.
Chế là: Khi có người phạm lần đầu, Phật chế định không được phạm giới. Đó gọi là chế.
Chế thêm là: Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni không được tự chủ, bị sức mạnh cưỡng bức cùng hành dâm, nhưng không cảm nhận vui thích thì không phạm. Đó là chế thêm.
Đó là ba trường hợp để quyết định không phạm. Lại có ba trường hợp để quyết định việc vi phạm: Một là duyên, hai là chế, ba là chế thêm.
Duyên là: Bấy giờ, đức Thế Tôn ở tại thành Vương Xá. Tỳ-kheo Đà-nị-ca không được cho phép mà vẫn lấy gỗ quý của vua Bình Sa. Vì muốn các Tỳ-kheo sau này không phạm lại lỗi lầm đó, Phật liền tập hợp các Tỳ-kheo lại. Đó gọi là duyên.
Phật dạy: "Nếu Tỳ-kheo nào lấy vật không được cho ở nơi hoang vắng hoặc trong làng xóm thì phạm Ba-la-di". Đó gọi là chế.
Hoặc tự lấy, hoặc bị người khác sai lấy, hoặc sai người khác lấy: ba trường hợp không cho mà lấy này đều phạm Ba-la-di. Đó là chế thêm.
Nếu là vật của người khác nhưng không nghĩ là vật của người khác thì phạm Đột-kiết-la. Đó cũng là chế thêm.
Cần phải biết rõ: Tất cả mọi vi phạm đều được quyết định ở ba trường hợp như vậy.
Chế thêm lại có hai loại: Một là gấp, hai là chậm.
Gấp là cho đến cỏ cây, lá, vật của người khác mà họ không cho thì không được lấy. Đó gọi là gấp.
Chậm là: Vật của người khác không nghĩ: "đó là vật của người khác" mà lấy thì gọi là chậm. Đó là ba trường hợp để quyết định việc vi phạm.
Lại có ba trường hợp để quyết định không phạm: Một là duyên, hai là chế, ba là chế thêm.
Duyên như đã nói ở trên.
Chế là: Lúc chưa kiết giới thì không phạm, đó là chế.
Chế thêm là: Vật của người khác biết rõ là vật của người khác nên không lấy, cho đến không khởi tâm trộm. Đó gọi là chế thêm.
Lúc ấy, đức Thế Tôn ở tại Tỳ-xá-ly, có Tỳ-kheo ở cạnh sông Bạt-cầu, quán tưởng bất tịnh, nhàm chán thân này nên đem y bát thuê Tỳ-kheo khác giết mình. Vì muốn dứt trừ việc ác như vậy nên Như Lai tập hợp các Tỳ-kheo lại. Đó gọi là duyên. Chế là: Tỳ-kheo nào giết chết người thì phạm tội Ba-la-di, không được sống chung. Đó gọi là chế.
Chế thêm là: từ việc giết hại thai nhi cho đến giết người lớn đều mắc Ba-la-di. Đó gọi là chế thêm.
Lại có việc chế lại: nếu người bệnh muốn tự sát, Tỳ-kheo hoặc tự đưa dao, hoặc dạy người khác đưa dao, hoặc tự đưa thuốc, hoặc dạy người khác đưa thuốc, tạo nhiều phương tiện như vậy đều gọi là chế thêm.
Chế thêm gồm có hai nhân duyên: một là gấp, hai là chậm. Gấp là không được giết bất cứ loài nào, cho đến con kiến, đó gọi là gấp. Chậm là: Hoặc người mà tưởng là chẳng phải người nên giết thì không phạm, đó gọi là chậm.
Đó là ba trường hợp để quyết định việc vi phạm.
Lại có ba trường hợp để quyết định không phạm: Một là duyên, hai là chế, ba là chế thêm.
Duyên là như ở trên đã nói.
Chế là: Khi chưa chế giới thì không phạm, đó gọi là chế.
Chế thêm là: Không phát sanh tâm giết hại đối với tất cả chúng sanh, đó gọi là chế thêm.
Đó là ba trường hợp để quyết định việc không phạm.
Lại có ba chỗ quyết đoán: một là duyên, hai là chế, ba là chế thêm.
Duyên là: Lúc bấy giờ Thế Tôn ở tại chùa Mađế, cạnh sông Bạt-cầu, ở Tỳ-xá-ly. Các Tỳ-kheo vì việc khất thực nên nói dối. Để đoạn trừ việc ấy, Như Lai cho tập hợp các Tỳ-kheo. Đó là duyên.
Chế là: Tỳ-kheo nào tự xưng mình đắc pháp hơn người thì Tỳ-kheo ấy mắc tội Ba-la-di, không được sống chung. Đó gọi là chế.
Chế thêm là: Tự xưng đạt được thân niệm xứ, cho đến tự xưng đắc quả. Đó gọi là chế thêm.
Chế thêm gồm có hai loại: Một là gấp, hai là chậm. Gấp là không được nói dối cho đến đùa giỡn, đó là gấp. Chậm là: Nếu muốn nói dối nhưng nói không được, người kia không hiểu thì mắc tội Thâu-lan-giá, đó là chậm. Đó là ba trường hợp để quyết định việc phạm. Có ba trường hợp để quyết định việc không phạm: Một là duyên, hai là chế, ba là chế thêm.
Duyên: Như đã nói ở trên.
Chế là: Làm khi chưa chế giới thì không phạm. Đó là chế.
Chế thêm là: Như Tỳ-kheo tăng thượng mạn, thật chưa đắc đạo, nghe người bên cạnh nói mình đắc đạo, ý cho là thật đắc. Sau đó vị ấy nỗ lực không ngừng và đắc quả A-la-hán, biết việc cho mình đã đắc quả vào lúc trước là không thật, vị ấy phân vân nên đem hỏi Phật, Phật nói: "Không phạm". Đó gọi là chế thêm.
Đó là ba trường hợp để quyết định việc không phạm.
Như vậy, cho đến các pháp Học đều dùng ba pháp này suy ra thì biết.
Lại nữa, cần phải nêu ra duyên liên quan đến các vật như:
1-Bình bát.
2-Y.
Tọa cụ.
Ống đựng kim.
Người hành đạo.
Người. 7-Phòng.
Duyên của bình bát là: Bấy giờ, Thế Tôn ở tại thành Vương Xá, thành này có một trưởng giả, trong nhà ông ta có bình bát lớn làm bằng gỗ chiên đàn,... cho đến tập hợp các Tỳ-kheo. Đó là duyên.
Chế là: Không nên chứa bình bát bằng chiên đàn. Đó là chế.
Chế thêm là: Không nên hiện thần thông cho các bạch y xem. Đó là chế thêm.
Lại nữa, chế thêm là: Tỳ-kheo không được chứa bát gỗ, bát đá, bát vàng, bát bạc, bát quý báu, bát ngọc châu: Không được đặt bát trên giá, không được đặt bát trên cục bùn, cho đến không được để bát ẩm ướt vào túi xách. Việc này trong kiền độ Tạp có nói rõ.
Đó là ba trường hợp để quyết định việc phạm.
Lại nữa, không nên ngồi trên bát, không nên nằm trên bát, không nên đựng nước rửa tay chân trong bát, không nên dùng bát làm bất cứ việc gì khác trừ khi bệnh: không nên dùng bát để đựng phẩn: không được không yêu mến giữ gìn bát, phải quý bát như con mắt, trừ khi bệnh.
Đó là ba trường hợp để quyết định việc phạm. Lại có ba trường hợp để quyết định việc không phạm: một là duyên, hai là chế, ba là chế thêm.
Duyên là: Lúc ấy Thế Tôn ở tại Ba-la-nại, các Tỳ-kheo bạch Phật: "Chúng con nên cất chứa những loại bát nào?", đó là duyên.
Chế là: Cho phép các Tỳ-kheo được chứa loại bát miệng rộng và bát đứng thẳng.
Chế thêm là: Cho phép các Tỳ-kheo được chứa bát sắt, bát đất Tô-ma, cho đến bát đỏ. Đó là chế thêm.
Lại nữa, chế thêm là: Nếu bát được vắt trên vai hay dưới nách mà bị bể thì được phép làm cái giỏ để đựng. Nếu bát đất Tô-ma bị vỡ thì dùng sợi tơ kiếp-ba hay sợi gai để vá lại, cho đến dùng lạc-sa để hàn gắn lại. Nếu bát sắt bị thủng thì phải đập sắt cho mỏng vá lại mà dùng. Bát dư không được cất chứa quá mười ngày. Bát thủng chưa quá năm chỗ thì không được xả bỏ để tìm bát khác. Tỳ-kheo-ni có bát dư thì phải tịnh thí ngay trong ngày hôm đó, không được để qua đêm. Đó cũng là chế thêm. Nhân duyên liên quan đến y áo là: một là duyên, hai là chế, ba là chế thêm.
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở tại nước Xá Vệ, nhóm sáu Tỳ-kheo cất chứa y có màu sắc đẹp nên Phật tập hợp các Tỳ-kheo. Đó là duyên. Chế là: Không được cất chứa y có màu sắc đẹp. Đó là chế.
Chế thêm là: Không được cất chứa y gấm, y trắng, không được cất chứa y có tua, y lưới. Đó là chế thêm.
Lại nữa, không được trùm đầu mà đi, không được cất chứa giày da, trừ khi có việc.
Không được dùng y Tăng-già-lê để gói gỗ, củi, bột, gạo, phân bò, cỏ, đất. Không được dẫm lên Tăng-già-lê, không được xếp Tăng-già-lê trải làm tọa cụ, không được mặc Tăng-già-lê mà không mặc áo lót, không được không quí tiếc, giữ gìn Tăng-già-lê như giữ gìn da mình. Đó là chế thêm.
Đó là ba chỗ quyết định việc phạm.
Lại có ba chỗ quyết định việc không phạm: Một là duyên, hai là chế, ba là chế thêm.
Duyên là: Khi ấy Thế Tôn ở Ba-la-nại, có các Tỳ-kheo bạch Phật: "Chúng con nên cất chứa những loại y nào?". Đó là duyên.
Chế là: Các Tỳ-kheo được phép cất chứa y phấn tảo. Đó là chế.
Chế thêm là: Cho phép chứa mười loại cho đến y phấn tảo.
Lại nữa, Tỳ-kheo không được cất chứa y dư quá mười ngày. Người nào bị nước, lửa, trộm cướp lấy mất y mà có đàn việt đem nhiều y đến cúng dường thì chỉ được nhận ba y, không được nhận hơn.
Tỳ-kheo có được y mới phải chấm ba chấm để tác tịnh. Nếu y bị rách thì được phép vá lại.
Đó là ba trường hợp để quyết định không phạm. Về tọa cụ, có ba trường hợp để quyết định việc phạm: một là duyên, hai là chế, ba là chế thêm.
Duyên là: Khi ấy Thế Tôn ở tại nước Xá Vệ, nhóm sáu Tỳ-kheo cất chứa tọa cụ dài rộng quá kích cỡ cho phép. Nhân đó, Phật tập hợp các Tỳ-kheo lại. Đó là duyên.
Chế là: Tỳ-kheo nào cất chứa tọa cụ quá kích cỡ thì gọi là phạm. Đúng kích cỡ là: Dài hai gang tay rưỡi của Phật, rộng một gang tay rưỡi của Phật.-Chế thêm là: Không được cất chứa tọa cụ có màu đẹp, tọa cụ gấm, tọa cụ lụa, tọa cụ da: Không được dùng phu cụ gói gỗ cây thị, cây nại, cho đến gói đất. Phải giữ gìn tọa cụ như giữ gìn da mình. Đó là chế thêm.
Đó là ba trường hợp để quyết định việc phạm.
Lại có ba trường hợp để quyết định việc không phạm: một là duyên, hai là chế, ba là chế thêm.
Duyên: Như đã nói ở trên.
Chế là: Làm đúng kích cỡ Phật đã dạy, đó là chế.
Chế thêm là: Làm mười loại cà-sa theo đúng hạn kích cỡ mà đức Phật dạy, vải nhuộm thành màu cà-sa cũng được phép làm tọa cụ. Đó là chế lại.
Đó là ba trường hợp để quyết định không phạm. Về ống đựng kim, có ba chỗ quyết đoán: Một là duyên, hai là chế, ba là chế thêm.
Duyên là: Bấy giờ, Thế Tôn ở tại thành Vương Xá, có người thợ làm ống đựng kim, có lòng tin Tam bảo nên thường thỉnh chúng Tăng đến và cúng dường ống đựng kim. Do cúng dường mãi dứt nên ông ta nghèo khổ, không đủ sinh sống. Nghe vậy, Phật liền tập hợp các Tỳ-kheo. Đó là duyên.
Chế là: Các Tỳ-kheo không được cất chứa ống đựng kim làm bằng xương, răng, sừng. Đó là chế.
Chế thêm là: Có Tỳ-kheo dùng loại vải có màu sắc đẹp làm túi đựng kim, hoặc dùng gấm, lụa, da làm túi đựng kim. Phật không cho phép dùng vải có màu sắc đẹp cho đến da làm túi đựng kim. Đó là chế thêm.
Ống và túi đựng kim này phải được cất cho kín, không được để cho bạch y mang đi. Vì sao vậy?-Có một Tỳ-kheo đi chung đường với một khách buôn. Khi ấy, Tỳ-kheo bảo với khách buôn: "Tôi có việc phải đi lui lại phía sau, anh hãy mang giùm tôi ống đựng kim này đi trước đi, lát nữa tôi sẽ đi theo kịp". Lúc Tỳ-kheo ấy đã lui lại phía sau, người khách buôn liền đem hạt ngọc châu trị giá trăm ngàn lượng vàng bỏ vào ống đựng kim. Khi Tỳ-kheo trở lại, khách buôn đưa ống đựng kim trả lại mà không nói cho vị ấy biết. Khi đến chỗ thu thuế, họ bị gọi lại để kiểm soát. Người thu thuế tìm thấy hạt ngọc quý ở trong ống đựng kim nên quở trách thầy Tỳ-kheo, làm vị ấy rất khổ não. Nghe vậy, Phật chế giới: "Từ nay trở đi, không được đưa ống đựng kim cho bạch y mang đi". Đó là chế thêm.
Đó là ba trường hợp để quyết định việc phạm. Lại có ba trường hợp để quyết định không phạm: một là duyên, hai là chế, ba là chế thêm.
Duyên là: Như đã nói ở trên.
Chế là: Ban đầu, khi chưa chế giới thì không phạm. Đó là chế.
Chế thêm là: Ống đựng kim làm bằng đồng, sắt, chì, thiết, tre, cỏ lau, gỗ, bùn, đá... thì được phép cất chứa. Lại cho phép các Tỳ-kheo dùng mười loại vải để may túi đựng kim mà dùng. Đó là chế thêm.
Đó là ba trường hợp để quyết định không phạm. Lại có ba trường hợp để quyết định việc phạm: một là duyên, hai là chế, ba là chế thêm.
Duyên là: Lúc ấy, nhóm sáu Tỳ-kheo thường đi du hành qua các nước. Vào mùa hạ, họ bị nước mưa cuốn trôi mất y bát hoặc làm tổn hại chúng sanh, cho đến giẫm đạp cỏ non. Các đàn-việt chê trách: "Ngoại đạo giữ giới còn sợ làm tổn hại chúng sanh nên không đi lại vào mùa hạ, huống là đệ tử Phật có lòng từ bi, sao lại đi tìm cầu cả mùa đông, mùa hạ, không biết chán biết đủ? Chim sống trên cây rừng, thú sống trên núi đều có lúc dừng nghỉ, vì sao Tỳ-kheo không có lúc nào tạm thời nghỉ ngơi?" Nghe được việc ấy, đức Thế Tôn liền tập hợp các Tỳ-kheo. Đó là duyên.
Chế là: Các Tỳ-kheo không được đi lại khi an cư mùa hạ. Đó là chế.
Chế thêm là: Có một Tỳ-kheo khi an cư mùa hạ, sau khi đã kiết giới an cư xong, đã đi ra ngoài mà không có lý do. Phàm pháp an cư là khi đã kiết giới an cư xong, không được đi ra ngoài mà không có lý do. Như Thích tử Bạt-nan-đà, gánh lông trên đầu gậy mà đi, đó đều là việc Phật không cho phép. Lại nữa, như nhóm sáu Tỳ-kheo đi chung đường với Tỳ-kheo-ni cũng không được Phật cho phép.
Lại nữa, không được đi chung đường với trộm, cướp, cho đến không được vác lọng báu mà đi trên đường như Thích tử Bạt-nan-đà. Lại không được treo bát lên đầu cây cờ mà đi.
Tất cả những việc không được làm trên đường đi cần biết rõ như vậy. Đó gọi là chế thêm.
Đó là ba trường hợp để quyết định việc phạm. Lại có ba trường hợp để quyết định không phạm: Một là duyên, hai là chế, ba là chế thêm.
Duyên: Như trên đã nói.
Chế là: Nếu không kịp tiền an cư mà kịp hậu an cư thì cũng không phạm.
Lại nữa, đi ra ngoài có lý do thì cũng không phạm.
Lại có Tỳ-kheo thọ pháp bảy ngày, khi về đến nhà biết số ngày phép sắp hết, muốn trở lại nhưng mẹ không cho. Khi đã quá bảy ngày, vị ấy tưởng đã mất an cư nên đến bạch Thế Tôn. Phật nói: "Nếu quyết định trở về nhưng mẹ không cho thì không mất an cư".
Sau khi an cư mùa hạ xong, Tỳ-kheo phải dời đến ở chỗ khác. Nếu có việc không đi được thì không phạm. Nếu không có việc, an cư xong đi ra ngoài một đêm rồi trở lại cũng không phạm. Đó gọi là chế thêm.
Đó là ba trường hợp để quyết định không phạm. Lại có ba trường hợp để quyết định việc phạm: một là duyên, hai là chế, ba là chế thêm.
Duyên là: Khi đó, Thế Tôn ở tại thành Vương Xá. Trong thành lúc ấy có mười bảy thiếu niên, lớn nhất là mười bảy tuổi và nhỏ nhất là mười hai tuổi. Người giàu nhất có tám mươi ức vạn tiền và người nghèo nhất có tám mươi vạn tiền.
Trong số các cậu bé ấy có một người tên là Ưuba-ly, được cha mẹ rất yêu mến. Cha mẹ cậu ấy nghĩ: "Ta chỉ có đứa con duy nhất này, sau khi ta trăm tuổi, làm sao để đứa con này được sống lâu, không khổ, thường được yên vui?".
Họ định cho cậu bé học viết chữ, đọc tụng kinh sách, nhưng lại sợ con bị mỏi mắt và bị khổ. Định cho học vẽ lại sợ đứng lâu mỏi chân. Định dạy thiên văn, tính toán lại sợ con mệt nhọc thân tâm. Họ lại suy nghĩ: "Sa-môn dòng họ Thích thường ở nơi yên tĩnh, cầu đạo vô vi. Đó chính là niềm vui lớn. Ta hãy cho đứa bé làm Sa-môn".
Lại có nhóm mười bảy cậu bé là bạn của cậu ấy. Các cậu thường xuyên đến rủ nhau cùng đi xuất gia. Thế rồi cha mẹ cho các cậu xuất gia. Vị thầy liền cho thọ giới Cụ túc, nhưng vì họ còn nhỏ tuổi, mỗi ngày ăn hai bữa, đến tối, trời chưa kịp sáng lại la khóc đòi ăn. Phật dùng thiên nhĩ thông nghe tiếng khóc của các cậu ấy, liền tập hợp các Tỳ-kheo. Đó là duyên.
Chế là: Đủ hai mươi tuổi mới được thọ giới Cụ túc. Đó là chế.
Chế thêm là: Chưa đủ hai mươi tuổi thì không được thọ giới.
Lại có mười ba hạng người không được thọ Giới. Trong số mười ba hạng người này, nếu truyền giới cho một người, biết họ là hạng người không nên truyền giới cho mà vẫn truyền giới cho họ thì Giới sư cũng bị phạm. Đó là chế thêm.
Đó là ba trường hợp để quyết định việc phạm. Lại có ba trường hợp để quyết định không phạm: một là duyên, hai là chế, ba là chế thêm.
Duyên: Như đã nói ở trên.
Chế là: Khi chưa chế giới thì không phạm. Đó là chế.
Chế thêm là: Tuổi đủ hai mươi, cho thọ giới thì không phạm. Nếu không biết người đó chưa đủ hai mươi tuổi, người thọ giới cũng không tự biết thì truyền giới không phạm.
Có một Sa-di chưa đủ hai mươi tuổi mà thọ giới Cụ túc nên sanh phân vân không biết mình có đắc giới hay không, liền đến bạch Thế Tôn, Phật nói:
Cho phép ông tính thêm năm trong thai. Nếu chưa đủ thì cho phép tính luôn số tháng nhuần. Nếu chưa đủ thì cho phép tính ngày bố-tát vào ngày thứ mười bốn. Sau khi tính luôn ngày bố-tát vào ngày thứ mười bốn mà vẫn chưa đủ tuổi, Phật hỏi các Tỳ-kheo:
Thầy ấy đã đắc quả A-la-hán chưa? Các Tỳ-kheo bạch Phật:
Đã đắc quả A-la-hán. Phật bảo các Tỳ-kheo:
Đó là thọ Cụ túc bậc thượng. Nếu như vậy, tuy chưa đủ hai mươi tuổi nhưng vẫn đắc Cụ túc, không có phạm.
Như Thiện-na-da-thâu-đà thọ giới, đắc giới không phạm, cho đến San-xà-da-già, Ưu-ba-đề-xá, Câu-luật-đà... cả thảy là hai trăm năm mươi người và nhiều người khác thọ giới, đắc giới. Đó là chế thêm. Đó là ba trường hợp để quyết định không phạm. Lại có ba trường hợp để quyết định việc phạm: Một là duyên, hai là chế, ba là chế thêm.
Duyên là: Lúc ấy ở tại thành Vương Xá, đức Thế Tôn cho phép Tỳ-kheo A-la-tỳ cất thất riêng. Tỳ-kheo A-la-tỳ cất thất rất rộng lớn, cần rất nhiều tiền của nên đi xin liên tục. Vì thế, những người ở làng mà vị ấy cư trú vừa trông thấy Tỳ-kheo là họ đều vào nhà tránh, không muốn gặp. Nghe được việc ấy, Phật liền tập hợp các Tỳ-kheo. Đó là duyên.
Chế là: Tỳ-kheo nào không có thí chủ, tự làm thất riêng cho mình, cần phải làm đúng kích cỡ cho phép, nếu làm quá kích cỡ thì phạm Tăng-tàn. Đó là chế.
Chế thêm là: Như tôn giả Xiển-đà, tự làm thất riêng, theo vua xin gỗ. Vua nói: "Cứ tùy ý lấy dùng". Vị ấy liền chặt cây mà tất cả mọi người đều quý trọng mọc ở trên đường cái. Vì thế, người đời đều chê trách: "Vì sao Tỳ-kheo không có lòng từ bi, đã làm chấm dứt mạng sống của cây!" Nhân đó Phật chế giới:
Khi cất thất riêng không được chặt cây lớn ở trên đường. Đó là chế thêm.
Một lúc nọ, đức Thế Tôn ở tại nước Câu-diệmdi. Tỳ-kheo Xiển-đà làm thất riêng, dùng nước có trùng hòa với bùn để làm thất. Sau khi làm xong, còn dư bùn vị ấy chất hết lên trên thất, làm thất bị sụp đổ. Nhân đó Phật chế giới:
Khi làm thất riêng, không được chặt cây lớn ở trên đường, không được lấy nước có trùng trộn với bùn, không được chất bùn bên trên thất. Đó là chế thêm.
Bấy giờ, tôn giả La-hầu-la ở tại Na-la-già-baninh. Một đàn-việt có lòng tin Tam bảo, cung kính tôn giả La-hầu-la nên cất thất riêng cho La-hầu-la. Khi cất xong, ông ta thỉnh La-hầu-la nhận dùng. La-hầu-la nhận và dùng được một thời gian thì rời nơi ấy, đi đến nơi khác để giáo hóa. Chủ thất lại đem cái thất đó, cúng cho nhiều người. Thời gian sau La-hầu-la trở lại, nghe vậy liền đem việc ấy bạch đầy đủ với Thế Tôn, Phật dạy La-hầu-la:
Ông hãy đến hỏi đàn-việt ấy: "Đàn-việt thấy tôi có lỗi gì nơi thân, khẩu, ý hay không?".
Đàn-việt đáp: "Không thấy có lỗi".
La-hầu-la trở về gặp Phật, thuật lại đầy đủ lời đàn-việt nói. Nhân đó, Phật liền tập hợp các Tỳ-kheo và dạy:
Hoặc có sự cúng dường như pháp, thọ nhận như pháp và dùng như pháp. Hoặc có sự cúng dường không như pháp, thọ nhận không như pháp và dùng không như pháp:
Nếu có đàn-việt tự phát tâm cất thất cúng một người, sau đó lại chuyển sang cúng dường cho nhiều người, thì đó gọi là cúng dường không như pháp, thọ nhận không như pháp và dùng không như pháp.
Nếu có người tự ý cất thất cúng cho một người, sau đó lại chuyển sang cúng dường cho chúng Tăng, thì đó là cúng dường như pháp, thọ nhận như pháp và dùng như pháp.
Nếu có người tự phát tâm cất thất cúng dường cho một người trong chúng. Về sau, chúng này phân thành hai nhóm, nếu người ấy chuyển phòng này lại cho một nhóm thì đó là cúng dường không như pháp, thọ nhận không như pháp và dùng không như pháp.
Nếu có đàn-việt phát tâm cất nhà cúng dường cho nhiều người, về sau chuyển sang cúng cho một người hoặc chuyển sang cúng cho đại chúng thì đều là cúng dường không như pháp, thọ nhận không như pháp và dùng không như pháp.
Như pháp là: Cúng cho một người thì một người nhận dùng, cúng cho nhiều người thì nhiều người nhận dùng, cúng cho chúng Tăng thì chúng Tăng nhận dùng. Nếu chúng Tăng phân thành hai nhóm, cúng cho bên nào thì một nhóm đó nhận dùng. Đó gọi là nhận dùng như pháp.
Đó là chế thêm.
Đó là ba trường hợp để quyết định việc phạm.
Lại có ba trường hợp để quyết định việc không phạm: Một là duyên, hai là chế, ba là chế thêm.
Duyên: như đã nói ở trên.
Chế là: ban đầu, khi chưa chế giới thì không phạm. Đó là chế.
Chế thêm là: Nếu chúng Tăng chỉ dẫn nơi cất thất, cất đúng kích cỡ và không có các chướng nạn, hoặc xây tháp hoặc cất phòng ốc cho chúng Tăng thì không phạm. Đó là chế thêm.
Trong thành Vương Xá có đàn-việt xây dựng tòa nhà chứa được sáu mươi người không phạm. Đó là chế thêm.
Đó là ba trường hợp để quyết định không phạm. Tất cả những việc không phạm là những việc thuận theo lời Phật dạy mà làm. Phạm là làm ngược lại lời Phật dạy.
Pháp của Tỳ-kheo là phải làm những việc được Phật cho phép và không được làm những việc Phật không cho phép, như ban đầu, giữa và sau cũng vậy.
Thế nào gọi là Tỳ-ni?-Tỳ-ni có năm nghĩa:
Một là sám hối, hai là tùy thuận, ba là diệt, bốn là đoạn, năm là xả.
Thế nào là sám hối?-Như vi phạm những học xứ trong bảy thiên thì phải sám hối để trừ tội. Sám hối có thể diệt tội nên gọi là Tỳ-ni.
Thế nào gọi là tùy thuận?-Tùy thuận là bảy bộ chúng ghi nhớ những điều Như Lai ngăn cấm, dạy bảo, rồi thực hành theo không trái nghịch. Đó là Tỳ-ni tùy thuận.
Thế nào gọi là diệt?-Có thể diệt trừ bảy sự tranh cãi nên gọi là Tỳ-ni diệt.
Thế nào gọi là đoạn?-Có thể làm cho phiền não được đoạn trừ, không còn phát sanh nên gọi là Tỳ-ni đoạn.
Thế nào là xả?-Xả có hai loại: Một là xả việc làm, hai là xả kiến chấp.
Xả việc làm là xả mười ba pháp Tăng-tàn.
Trong mười ba pháp này, chín việc đầu vừa làm liền thành tội, không phải đợi can gián. Bốn việc sau phải đợi can gián ba lần mà không nhận, Tăng mới bạch tứ yết-ma thì tội mới thành. Sau khi đã bạch yết-ma ba lần xong thì có ăn năn cũng không kịp. Mười ba việc như vậy gọi là xả việc làm.
Xả kiến chấp là như Tỳ-kheo A-lê-tra nói: "Đích thân tôi đã nghe Phật dạy: Hành dục không có chướng ngại đạo pháp". Xả bỏ kiến chấp đó thì gọi là xả.
Hai loại này gọi là Tỳ-ni xả.
Tóm lại có hai loại: Một là có thể phát lồ, hai là không thể phát lồ.
Có thể phát lồ là mười ba pháp Tăng-tàn của Tỳ-kheo, mười chín pháp Tăng-tàn của Tỳ-kheo-ni, trong đó có sáu pháp cần được can gián ba lần và có thể làm yết-ma trừ tội được. Đó là tội có thể phát lồ.
Tội không thể phát lồ là: Ni có một việc có thể can gián ba lần. Như là Tỳ-kheo phạm tội, Tăng làm yết-ma tẫn xuất, có Tỳ-kheo-ni thường đến giúp đỡ. Việc đó được báo với Tỳ-kheo-ni khác. Tỳ-kheo-ni ấy can gián: "Không nên trợ giúp người kia nữa". Cho đến ba lần can gián, cô ấy vẫn không ngừng trợ giúp. Ni, Tăng liền bạch tứ yết-ma, cho đến khi đã yết-ma lần thứ ba mà cô ấy sám hối thì tội vẫn có thể tiêu trừ. Đến khi yết-ma lần thứ tư thì tội đã thành, không thể tiêu trừ nữa. Đó gọi là không thể phát lồ.
Việc như vậy, Tỳ-kheo có bốn, Tỳ-kheo-ni có bảy. Ngoài ra, các việc khác đều không cần can gián.
Đó là Tỳ-ni xả.
Năm nghĩa ấy đều là nghĩa của Tỳ-ni.
Thế nào là phạm?-Phạm có hai loại: một là phạm nặng, hai là phạm nhẹ.
Phạm nặng là: Khi muốn làm ác, lửa phiền não rất mạnh, có thể thiêu đốt hết tâm thiện, việc ác được hình thành. Đó là nghĩa thiêu đốt. Sau khi làm việc ác xong, lúc hối cải, tâm rất khổ não, tâm thiện rất mạnh, có thể tiêu diệt tâm ác. Đó cũng là nghĩa thiêu đốt.
Phạm nhẹ là: Tâm ít khởi phiền não. Phạm tội nhẹ, diệt mất chút ít tâm thiện, không được tự chủ: Đó gọi là nghĩa thiêu đốt. Đến khi hối cải, phát sanh chút ít tâm thiện để đốt chút ít tâm ác. Đó cũng là nghĩa thiêu đốt.
Thế nào gọi là phạm?-Có thể làm cho chúng sanh luân hồi trong ba cõi, gọi là phạm.
Lại nữa, thế nào gọi là phạm?-Làm việc không được phép làm, gọi là phạm.
Thế nào gọi là phạm?-Vi phạm giới mà mình đang hành trì, quả báo mà mình phải chịu do vi phạm ấy thật không đáng ưa nên gọi là phạm.
Lại nữa, thế nào gọi là phạm?-Tội lỗi khổ não hành hạ toàn thân đều gọi là phạm: có thể đoạn trừ pháp lành gọi là phạm.
Lại nữa, những việc làm bất thiện ở trong ba cõi như: Cõi người, cõi trời, cõi lục dục, trời Tứ thiền, Tứ không, đều gọi là phạm. Lại nữa, khởi tâm sân hận gọi là phạm: phiền não nhiễm tâm cũng gọi là phạm.
Lại nữa, ở trong đạo mà phiền não ngày càng tăng thì gọi là phạm: Phiền não đầy ắp cũng gọi là phạm.
Vì sao phiền não được gọi là phạm?-Như nước chứa trong bình được đun lửa thì tuôn trào: Lửa phiền não có thể làm thân miệng buông lung, tạo nghiệp bất thiện. Lại nữa, phạm là làm những việc không được làm trong bảy tụ:
Người nào làm đều gọi là phạm.
Vì sao gọi là Ba-la-di?-Phá hoại, tan rã gọi là Ba-la-di. Bị đao, giáo của người khác làm tổn thương, cắt đứt mạng căn gọi là Ba-la-di.
Trong Phật pháp, cùng chiến đấu với phiền não, bị điều ác làm hại gọi là Ba-la-di.
Lại nữa, Ba-la-di là bị mất ba mươi bảy pháp trợ đạo, bị bốn quả Sa-môn xả bỏ: Bị Giới, Định, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến cùng tất cả các pháp lành xả bỏ. Đó gọi là Ba-la-di.
Lại nữa, ở trong Tỳ-ni, trong chánh pháp, trong pháp Tỳ-kheo, bị đoạn diệt, không còn sanh trở lại, gọi là Ba-la-di.
Đức Thế Tôn nói: "Có Niết-bàn ở bờ bên kia. Do không thể vượt qua bờ bên kia nên gọi là Ba-la-di. Người phạm Ba-la-di cũng như người bị người khác chặt đầu, không thể sống lại. Bị pháp ác tiêu diệt, không còn là Tỳ-kheo, gọi là Ba-ladi". Tôn giả Ca-diếp-duy nói: "Phạm điều ác nặng nề nhất, hoàn toàn không thể thành tựu đối với pháp Tỳ-kheo, gọi là Ba-la-di.
Lại nữa, người phạm tội Ba-la-di giống như người phạm tội bị kết án tử hình, không hề còn đường sống: Cũng vậy, người phạm tội Ba-la-di vĩnh viễn không còn đường sám hối, hoàn toàn không thể tu tập trong pháp Tỳ-kheo, đó gọi là Ba-la-di. Như người muốn đến bờ bên kia, do ngu si giữa đường bị người khác lừa dối nên không thể đến bờ bên kia: Ở trong Phật pháp bị phiền não lừa dối, không thể đến Niết-bàn ở bờ bên kia, đó gọi là Đọa.
Đứng đầu ác là dâm
Hoặc không cho mà lấy
Hoặc giết hại mạng người
Giả chứng pháp hơn người.
Là phương tiện mạnh nhất
Đoạn trừ các việc thiện
Xả bỏ các công đức
Đó là Ba-la-di.
Tuy giả mặc pháp phục
Ngồi xen trong chúng Tăng
Cách xa người phạm hạnh
Gọi là Ba-la-di.
Sống nhờ vật cúng dường
Chẳng lo tạo công đức
Làm giặc cướp đất nước
Gọi là Ba-la-di.
Thế nào gọi là Tăng-tàn?-Tăng-tàn là khi phạm tội phải sám hối trước Tăng, không được sám hối trước một người, cho đến hai, ba người. Sám hối trước chúng Tăng gọi là Tăng-tàn. Do tất cả những việc sám hối như thế của Tỳ-kheo đều phải làm trước Tăng và nhờ Tăng xả tội cho nên gọi là Tăng-tàn.
Lại nữa, vì có một ít còn lại, không bị diệt mất hết nên gọi là Tăng-tàn.
Lại nữa, tàn là như người bị người khác chặt đầu mà còn sót lại cuống họng, gọi là tàn.
Ví như hai người cùng tham gia chiến trận, một người bị người khác giết chết, người thứ hai thì bị người khác làm cho bị tổn thương gần chết. Người này nếu gặp được thầy giỏi thuốc hay thì có thể lành, còn nếu không thì không thể lành. Người phạm Tăng-tàn cũng vậy, chỉ còn chút ít cơ hội để sám hối, nếu được đại chúng thanh tịnh nói pháp sám hối trừ tội như pháp thì tội ấy có thể tiêu trừ. Nếu không có đại chúng thanh tịnh thì tội ấy không thể trừ được. Đó là pháp diệt trừ tội Tăng-tàn.
Để trừ tội Tăng-tàn, phải cho người phạm tội ở riêng, tiếp theo cho thực hành sáu ngày ma-na-đỏa, kế đó làm pháp yết-ma trừ tội. Sau khi làm yết-ma trừ tội xong thì người phạm tội được thanh tịnh, được giải thoát khỏi tội lỗi và không còn vi phạm trở lại. Đó gọi là Tăng-tàn.
Thế nào gọi là Ba-dật-đề?-Do phạm tội nhẹ nên gọi là Ba-dật-đề.
Lại nữa, Ba-dật-đề là tội cành nhánh, không dứt mất căn lành nên gọi là Ba-dật-đề.
Lại nữa, như người bị chém, bị thương chút ít ở da, không đến nỗi mất mạng: Cũng vậy, tội Ba-dật-đề làm tổn hại chút ít việc lành nên gọi là Ba-dật-đề.
Thế nào gọi là Ba-la-đề-đề-xá-ni?-Ba-la-đề-đề-xá-ni là phạm xong phải sám hối ngay, mấy lần phạm là mấy lần sám hối nên gọi là Ba-la-đề-đề-xá-ni.
Lại nữa, Ba-la-đề-đề-xá-ni là do nhầm lẫn mà làm, chẳng phải do cố tâm mà làm, nên gọi là Ba-la-đề-đề-xá-ni.
Thế nào gọi là Thâu-lan-giá?-Thâu-lan-giá là tội gần bằng tội thô ác.
Lại nữa, muốn phạm tội nặng nhưng làm không thành, gọi là Thâu-lan-giá.
Lại nữa, lời nặng nề hơn so với Đột-kiết-la nên gọi là Thâu-lan-giá.
Làm những việc sau đây thì mắc tội Thâu-lan-giá:
Ăn thịt người.
Cất chứa da người.
Cạo lông ở gần nữ căn và lông dưới nách.
Dùng thuốc rưới lên đường đại tiện.
Chứa tóc người.
Khỏa thân mà đi.
Chứa bát bằng đá.
Giận dữ xé rách y.
Giận dữ phá phòng ốc.
Giận dữ phá tháp.
Đó là tự tánh của Thâu-lan-giá.
Đột-kiết-la còn gọi là ác tác. Phạm oai nghi phép tắc nơi thân, miệng gọi là ác tác.
Ác ngữ có hai loại: một là nói lời thô ác, hai là nói không đúng lúc.
Nói lời thô ác là: Thích tử Ma-ha-nam đem thuốc cúng dường chúng Tăng với tâm bình đẳng, nhóm sáu Tỳ-kheo phỉ báng: "Loại tốt dâng hết cho Thượng tọa, còn loại xấu thì đem cho chúng tôi". Thí chủ nói: "Tôi sẽ đi chợ mua thuốc tốt cho tôn giả". Do nhóm sáu Tỳ-kheo phỉ báng người khác nên gọi là nói lời thô ác.
Nói không đúng lúc gọi là nói phi thời. Các thứ được phép dùng vào đầu đêm là:
Nước mía.
Nước hòa với nước mía.
Lại có tám loại nước:
Nước quả xoài.
Nước thiệm-bà.
Nước câu-la.
Nước chú-đề.
Nước nguyên-đề.
Nước xá-lâm-tỳ.
Nước phá-lâu-thi.
Nước nho.
Nếu các loại nước này chưa biến vị thì được phép uống đến đầu đêm.
Hai ngày hai đêm là khoảng thời gian người thọ Cụ túc cùng người chưa thọ Cụ túc được phép ngủ chung. Đến đêm thứ ba, khi mặt trời chưa mọc, người thọ Cụ túc phải ngồi dậy.
Lại có việc sau liên quan đến hai đêm: đó là người phạm tội thì phải phát-lồ để ở riêng. Nếu nơi ở riêng có tai nạn đáng sợ, không thể ở được thì người ấy được phép che giấu hai đêm.
Lại có hai thời tương ưng với pháp là: Đầu đêm và cuối đêm phải siêng năng ngồi thiền, kinh hành. Vì sao không siêng năng cả ba thời?
-Vì có một thời giữa đêm dành cho hành giả nghỉ ngơi, cho nên không được dạy tu hành suốt đêm. Lý do khuyên hành giả nỗ lực vào đầu đêm, cuối đêm là vì muốn hành giả hành đạo không biếng nhác. Đó là hai thời tương ưng.
Những việc được phép làm ban đêm là: Ban đêm được nằm nơi đất trống, ban ngày thì không được. Khi sắp sáng phải trở vào phòng nằm ngủ.
Khi kinh hành vào ban đêm, nếu nóng nực thì không cần mặc đầy đủ các y, chỉ cần khoác y mà kinh hành. Nếu quá mỏi chân thì không cần mặc y nội cũng được.
Mang giày da, lấy nước cho người, hoặc lấy nước ở ao thì được phép lấy vào ban đêm, ban ngày không được.
Những việc được phép làm trước giờ ngọ là: Từ khi mặt trời mọc đến giờ ngọ được phép ăn, không phạm. Những loại thức ăn được phép ăn trong giờ ngọ là năm loại thức ăn chính, chẳng phải các loại thức ăn phụ khác. Các loại thức ăn phụ được ăn thường xuyên trước giờ ngọ.
Pháp vào làng thọ thực trước giờ ngọ là: Nếu không có đàn-việt thỉnh thì không nói với người ở bên cạnh mà vào làng khất thực cũng không có lỗi. Nếu nhận lời thỉnh, không nói với người bên cạnh mà đi thì có lỗi. Vì sao?-Như Thích tử Bạt-nanđà nhận thỉnh hai chỗ, không nói với người bên cạnh mà đi đến một chỗ đã nhận thỉnh vào sáng sớm. Sau đó, đàn-việt đã được nhận thỉnh ở nơi khác đến mời Bạt-nan-đà và các Tỳ-kheo khác. Các Tỳ-kheo đợi Bạt-nan-đà đến quá giờ ngọ nên không được ăn ngọ. Vì thế, Phật chế giới:
-Tỳ-kheo nào có chỗ thỉnh phải báo cho người bên cạnh biết. Trước giờ ngọ, Tỳ-kheo bệnh được ăn cháo.
Trước giờ ngọ vào làng không cần báo cho người bên cạnh.
Vì Phật, vì Pháp, vì Tăng bốn phương, vì tháp, vì bệnh thì được vào làng.
Đệ tử cùng đi, mỗi khi muốn vào làng đều phải bạch với Hòa thượng.
Tỳ-kheo nào vào làng gặp đàn-việt thì phải báo cho người bên cạnh biết.
Ăn thức ăn dư: Ăn xong, sau đó được ăn lại. Khi giờ ăn chưa qua, làm phép thức ăn dư mà ăn, đó gọi là ăn thức ăn dư.
Người bệnh được phép ăn nhiều lần số thức ăn dư mà không có lỗi. Người nuôi bệnh có làm hay không làm phép thức ăn dư đều được ăn thức ăn dư. Nếu có đàn-việt thỉnh thì phải báo cho người bên cạnh. Nếu không có đàn-việt thỉnh thì không báo cũng không có lỗi.
Công việc mà Tỳ-kheo chỉ được làm vào ban ngày, không được làm vào ban đêm là: dạy Tỳ-kheo-ni. Đó là vào ban ngày được dạy, ban đêm không được dạy.
Tỳ-kheo-ni nào nhận pháp giáo giới thì ngày mười lăm phải thưa với thầy giáo giới. Nếu bạch với Tăng được ngay lúc ấy thì chiều ngày mười lăm, ni được phép Bố-tát. Nếu ban ngày, Tăng không tập hợp và không bạch Tăng được thì đợi khi Tăng Bố-tát vào buổi chiều tối sẽ bạch Tăng.
Sau khi đã nhận được giáo giới thì đến ngày mười sáu. Chúng Tỳ-kheo-ni phải đến nghe người đã nhận giáo giới truyền đạt lại. Sau khi đã nhận giáo giới xong liền được Bố-tát. Vào ngày mười lăm, Tỳ-kheo ni đến giữa đại Tăng để nhận giáo giới. Khi Tăng tập hợp liền xin giáo giới, không được để sau đó mới đến xin.
Tỳ-kheo-ni nào đã thọ Cụ túc từ chúng tăng Tỳ-kheo-ni xong thì ngay ngày hôm đó phải đến thọ Cụ túc nơi đại Tăng, không nên đến vào ban đêm.
Tỳ-kheo-ni nào được bát dư thì phải đem cho người khác, hoặc tịnh thí ngay trong ngày đó, cho đến khi mặt trời chưa mọc thì không phạm.
Tỳ-kheo-ni nào có được đồ dùng thì được phép chứa. Trong mười sáu loại đồ thì được chứa một cái mỗi loại. Nếu dư thì phải đem cho hoặc tịnh thí cho người khác ngay hôm đó, cho đến khi mặt trời chưa mọc thì không phạm.
Lại có việc thích hợp với ban ngày. Tỳ-kheo nào thích ngồi thiền, nơi ngồi thiền không có Y-chỉ sư, từ nơi ấy đến nơi Y-chỉ sư ở có thể đi qua lại trong một ngày thì rời xa Y-chỉ sư không có lỗi. Nếu hai chùa cách nhau một khoảng đường, có thể đi qua lại trong một ngày, nếu có người nào giữ chùa thì cũng được rời xa Y-chỉ sư mà không có lỗi.
Tỳ-kheo kết đại giới cùng Bố-tát thì được phép kết giới với xa nhất là phạm vi trong khoảng có thể đi về trong ngày.
Đó là pháp tương ưng với ban ngày.
Những pháp được làm cả ngày đêm là thọ Cụ túc, Bố-tát, tự tứ, gởi dục, gởi dục thanh tịnh, gởi dục Tự tứ, thọ an cư, thọ y công đức, thọ không lìa ba y cách đêm. Đó là những pháp được làm cả ngày đêm.
Lại có pháp tương ưng với hai ngày đêm:
Người thọ Cụ túc với người chưa thọ Cụ túc được ngủ chung hai ngày hai đêm, đến đêm thứ ba khi mặt trời chưa mọc, người thọ Cụ túc phải ngồi dậy.
Nếu Tỳ-kheo khách đến chùa khác, nhận phòng ốc, ngọa cụ xong, không nói với Tỳ-kheo cựu trú mà đi ra ngoài hai đêm, đến đêm thứ ba, khi mặt trời chưa mọc, nếu tự đến hoặc sai người đến nói với Tỳ-kheo cựu trú thì tốt, nếu không nói thì khi mặt trời mọc liền phạm tội.
Tỳ-kheo nào ở trong quân đội hai đêm, đến đêm thứ ba, khi mặt trời chưa mọc, nếu còn thời giờ thì có thể chia tay với những người quen, nếu không còn thời giờ thì lập tức ra khỏi quân trận để mặt trời mọc không phạm. Nếu biết từ giã thì người quen sẽ không cho đi, thì hãy đi thẳng, không cần từ giã.
Đó là những pháp tương ưng với hai ngày hai đêm.
Pháp tương ưng với ba ngày ba đêm là: người thọ Cụ túc với người chưa thọ Cụ túc được ngủ cùng phòng ba đêm. Đến đêm thứ tư khi mặt trời chưa mọc, người chưa thọ Cụ túc phải đi ra ngoài cương giới. Nếu người ấy không thể đi thì người thọ Cụ túc phải ra khỏi giới. Đó là pháp tương ưng với ba đêm. Lại có pháp tương ưng với năm ngày năm đêm. Nếu có nạn trộm cướp, nạn giặc giã, Tỳ-kheo không thể tự mang theo ba y thì nên gởi ba y ở nhà bạch y quen biết trong năm ngày. Đến ngày thứ sáu, khi mặt trời chưa mọc phải đến thăm y và tự tay cầm y. Nếu qua ngày thứ sáu, khi mặt trời mọc mà chưa trở lại thăm y thì phạm Ny-tát-kỳ-ba-dật-đề.
Tỳ-kheo nào vì nghĩ là chỗ thân quen, không nói mà lấy y của người khác để mặc, qua năm ngày, đến ngày thứ sáu khi mặt trời mọc thì phạm Đột-kiết-la.
Tỳ-kheo cứ mỗi năm ngày là phải kiểm tra ba y của mình một lần xem có bị trùng, chuột cắn rách hay không. Nếu để quá năm ngày, đến ngày thứ sáu khi mặt trời mọc thì phạm Đột-kiết-la. Đó là pháp tương ưng với năm đêm.
Pháp tương ưng với sáu đêm là: Tỳ-kheo nào ngủ lìa y, đến ngày thứ sáu khi mặt trời mọc thì mất y.
Lại có pháp được thực hành trong sáu đêm, đó là sáu đêm thực hành Ma-na-đỏa.
Đó là pháp tương ưng với sáu đêm.
Pháp tương ưng với bảy đêm là: Bơ, dầu, mỡ, sữa sống, mật, đường tán, đường phèn, vì bệnh được chứa trong bảy ngày. Đến ngày thứ tám khi mặt trời mọc thì không được chứa nữa.
Tỳ-kheo nào trong khi an cư mùa hạ, nếu vì Phật, Pháp, Tăng, tháp, bệnh, hoặc vì nhiều việc như vậy mà thọ pháp bảy đêm thì đến đêm thứ bảy phải trở về (nếu để đến ngày thứ tám thì mất an cư).
Tôn giả Tát-bà-đa nói:
-Tỳ-kheo nào nhận y chỉ xong, xin ra bên ngoài cương giới trong bảy ngày và khi đã đủ bảy ngày liền trở về đến chùa thì không mất y chỉ. Đó là pháp tương ưng với bảy đêm.
Pháp tương ưng với mười đêm là:
Tỳ-kheo chứa y dư không tịnh thí thì không được chứa quá mười ngày.
Chứa bát dư không tịnh thí cũng không được chứa quá mười ngày.
Đó là pháp tương ưng với mười ngày đêm.
Pháp tương ưng với nửa tháng là:
Một tháng trước khi an cư mùa hạ phải tìm xin y tắm.
Khi đã được y được cất chứa nửa tháng
Trong khi an cư mùa hạ, nửa tháng mặc tắm một lần.
Tỳ-kheo-ni nào phạm Tăng-tàn thì hai bộ Tăng tập hợp lại cho cô ấy thực hành Ma-na-đỏa nửa tháng.
Tỳ-kheo-ni mỗi nửa tháng phải qua bên Tăng xin pháp giáo giới.
Hai bộ chúng mỗi nửa tháng phải tắm sạch sẽ, mỗi nửa tháng phải bố-tát.
Trong khi an cư mùa hạ, Tỳ-kheo nào có việc đi ra ngoài cương giới, nếu đi xa thì phải thọ pháp mười lăm ngày để trì giới cho thanh tịnh. Đó là pháp tương ưng với nửa tháng. Pháp tương ưng với một tháng là:
Tỳ-kheo nào thiếu một trong ba y, sau khi đã tìm xin được vải may y thì trong một tháng phải cắt, may, nhuộm, sửa cho xong để thọ trì. Nếu để quá một tháng thì phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề.
Sau khi Tự tứ được phép ngủ lìa y một tháng, còn một tháng là hết mùa Xuân, cần phải tìm xin y tắm. Y tắm phải dài sáu khuỷu tay, rộng hai khuỷu rưởi.
Việc cần làm sau khi an cư mùa hạ là sau ngày mười lăm tháng bảy, hãy tìm xin y trong một tháng.-Pháp thọ y công đức là ngày mười sáu tháng bảy nên thọ. Nếu có duyên sự, thọ không kịp thì được thọ cho đến ngày mười lăm tháng tám. Nếu quá thì không được thọ.
Đó là pháp tương ưng với một tháng.
Pháp tương ưng với hai tháng là: Không được để tóc quá dài, chỉ được để tóc hai tháng, không được để quá. Đó là pháp tương ưng với hai tháng.
Pháp tương ưng với ba tháng là: Sau khi an cư ba tháng hạ xong phải ra bên ngoài một đêm. Đó là pháp tương ưng với ba tháng.
Pháp tương ưng với bốn tháng là: Trong bốn tháng hạ được dùng y tắm mưa. Nếu đàn-việt cúng cho Tăng thuốc uống trong bốn tháng thì Tăng nên thọ dụng trong bốn tháng, không được nhận dùng quá bốn tháng. Nếu ngoại đạo đến gặp chư Tăng xin xuất gia thì hãy cho ở riêng trong bốn tháng để theo dõi hành vi của họ xem có phải họ đến để tìm kiếm lỗi của Tăng chúng không? Có phải là xin xuất gia với tâm giả dối không? Tâm ý họ có thuận theo Phật pháp không?... Sau khi đã biết rõ hành vi của họ mới cạo tóc cho họ xuất gia.
Lại có pháp tương ưng với bốn tháng là: bốn tháng mùa đông, bốn tháng mùa xuân, bốn tháng mùa hạ. Đó là pháp tương ưng với bốn tháng.
Pháp tương ưng với năm tháng là: Sau khi tự tứ được năm tháng phải xả y công đức. Đó là pháp tương ưng với năm tháng.
Pháp tương ưng với mười hai tháng là: Sau khi đã thọ Đại giới làm Tỳ-kheo, trong mười hai tháng phải dạy dỗ cho họ tất cả các pháp mà một Tỳ-kheo phải làm, sau đó mới được truyền giới cho người khác, nếu chưa đủ mười hai tháng thì không được truyền giới.
Sau khi đã truyền giới cho Tỳ-kheo, lại được nhận một Sa-di.
Sau khi truyền giới Thức-xoa-ma-ni cho Sa-di ni thì trong hai năm không được độ Sa-di ni.
Khi Thức-xoa-ma-ni đã thọ giới Cụ túc mới được độ Sa-di ni.
Tỳ-kheo-ni cũng như đại Tăng, trong mười hai tháng phải dạy họ những pháp cần làm, sau đó mới được truyền giới Cụ túc cho Thức-xoa-ma-ni nào muốn thọ Cụ túc. Đó gọi là pháp tương ưng với mười hai tháng.
Pháp y-chỉ là trong mười hai tháng được nhận sự y-chỉ của một người, không được nhận hai người y-chỉ trong cùng một lúc.
Pháp tương ưng với một năm tức là pháp tương ưng với mười hai tháng.
Pháp tương ưng với hai năm là: Nếu độ cho thiếu nữ mười tám tuổi thọ giới Sa-di ni thì cô ấy được phép thọ học giới Thức-xoa-ma-ni trong hai năm. Nếu độ cho người nữ mười tuổi-đã có chồng-xuất gia thọ giới Sa-di thì sau hai năm mới được truyền cho cô ấy giới Thức-xoa-ma-ni, và sau đó hai năm nữa mới được cho thọ giới Cụ túc. Đó là pháp tương ưng với hai năm.
Pháp tương ưng với ba năm là: Tỳ-kheo một hạ và Tỳ-kheo năm hạ được dùng chung giường ghế trong ba năm. Đó là pháp tương ưng với ba năm.
Pháp tương ưng với năm năm là:
Tỳ-kheo đủ năm hạ phải tụng giới cho thông thạo, tụng bạch nhất, bạch nhị và bạch tứ yết-ma cho thông thạo.
Tỳ-kheo chưa đủ năm tuổi hạ không được lìa y-chỉ. Năm trường hợp mất y-chỉ đã nói ở phần trên.
Đó là pháp tương ưng với năm năm. Pháp tương ưng với sáu năm là:
Phải sử dụng ngọa cụ đủ sáu năm. Nếu chưa đủ sáu năm mà bị rách thì phải đem cho người khác (rồi mới làm cái mới). Nếu vá lại thì được phép sử dụng. Nếu không bị rách thì cũng được sử dụng.-Nếu phòng ở đã có bốn bức tường nhưng chưa được lợp bên trên và Tăng yết-ma sai người lợp lại thì sau khi lợp xong người ấy được ở tại phòng ấy sáu năm rồi trả lại cho Tăng, không được ở quá hạn.
Đó là pháp tương ưng với sáu năm. Pháp tương ưng với mười năm là:
Tỳ-kheo đủ mười tuổi hạ thì được phép làm Hòa thượng truyền giới Cụ túc cho người, được nhận làm y-chỉ cho người, được nhận Sa-di.
Thiếu nữ mười tuổi-Đã có chồng-Sau khi thọ mười giới Sa-di, trong hai năm mới được thọ giới Thức-xoa-ma-ni.
Đó là pháp tương ưng với mười năm.
Pháp tương ưng với mười hai năm là: Tỳ-kheo nào có đàn việt muốn làm phòng ở cho Tăng và Tăng sai Tỳ-kheo ấy quản lý việc xây cất thì sau khi cất xong, Tỳ-kheo ấy được ở tại phòng ấy trong mười hai năm rồi trả lại cho Tăng, không được quá hạn. Đó là pháp tương ưng với mười hai năm.
Pháp tương ưng với mười tám tuổi là: Độ Sa-di ni đủ mười tám tuổi thì được truyền cho cô ấy giới Thức-xoa-ma-ni. Đó là pháp tương ưng với mười tám tuổi.
Pháp tương ưng với hai mươi tuổi là: Thiếu nữ thọ giới Sa-di, sau khi thọ học giới đủ hai năm và tròn hai mươi tuổi thì được thọ Cụ túc. Đó là pháp tương ưng với hai mươi tuổi.
Pháp tương ưng với một người là: Giường đơn chỉ có một người ngồi nên gọi là pháp tương ưng với một người.
Pháp tương ưng với hai người là: Giường dây chỉ chịu được hai người. Đó là pháp tương ưng với hai người.
Pháp tương ưng với ba người là: Giường lớn chỉ chứa được ba người. Đó là pháp tương ưng với ba người.
Pháp tương ưng với bốn người là: Giường thật lớn có thể chứa được bốn người. Đó là pháp tương ưng với bốn người.
Pháp tương ưng với số năm là năm loại thức ăn chính.
Pháp tương ưng với số bảy là: Ban đêm Tỳ-kheo được ngủ cách y một khoảng bảy lần bảy là bốn mươi chín cung (mỗi cung bằng bốn khuỷu tay). Đó là pháp tương ưng với số bảy.
Pháp tương ưng với số tám là pháp làm giường:
Tất cả các chân giường trừ phần từ lỗ mộng-để ráp thành giường-trở lên phải cao dưới tám ngón tay. Đó là pháp tương ưng với số tám.
Pháp tương ưng với số mười là được phép dùng mười loại vải để may y. Đó là pháp tương ưng với số mười.
Pháp tương ưng với số hai mươi là: Chúng Tăng hai mươi người có thể làm yết-ma xả tội. Đó là pháp tương ưng với số hai mươi.
Pháp tương ưng với một là: Lúc thọ Cụ túc chỉ có một Hòa thượng.
Đó là pháp tương ưng với một.
Pháp tương ưng với hai là: Khi thọ Cụ túc chỉ có hai A-xà-lê. Đó là pháp tương ưng với hai.
Pháp tương ưng với ba là: Khi thọ Cụ túc phải chuẩn bị sẵn ba y, nếu thiếu thì không được thọ Cụ túc. Đó là pháp tương ưng với ba.
Pháp tương ưng với bốn là: Bạch tứ yết-ma mới được thọ Cụ túc.
Đó là pháp tương ưng với bốn.
Pháp tương ưng với năm là: Người không bị năm pháp ngăn che thì được thọ Cụ túc. Đó là pháp tương ưng với năm.
Pháp tương ưng với bảy là: Người nhận dục phải nói với một người, lần lượt như vậy cho đến nói với người thứ bảy đều được nhận dục thanh tịnh. Đó là pháp tương ưng với bảy.
Pháp tương ưng với tám là: Nếu có tấm vải dư rộng bốn ngón tay Phật, dài tám ngón tay Phật thì hãy tịnh thí. Đó là pháp tương ưng với tám.
Pháp tương ưng với mười là: Khi thọ Cụ túc phải đủ mười người mới được thọ Cụ túc. Đó là pháp tương ưng với mười.
Pháp tương ưng với hai mươi là: Đủ hai mươi tuổi mới được thọ Cụ túc. Đó là pháp tương ưng với hai mươi.
Pháp tương ưng với một là: Tỳ-kheo-ni đan dây một vòng. Đó là pháp tương ưng với một.
Pháp tương ưng với hai là: Một vòng không đan dây và một vòng có đan dây. Đó là pháp tương ưng với hai.
Pháp tương ưng với ba là: Một vòng có đan dây và hai vòng không đan dây. Đó là pháp tương ưng với ba.
Pháp tương ưng với bốn là: Bốn Ca-la-sa-bạn (một Ca-la-sa-bạn là mười sáu đồng tiền ở nước Thiên Trúc): Mùa đông trời lạnh, chỉ may y với giá cao nhất là bốn Ca-la-sa-bạn, không được quá. Đó là pháp tương ưng với bốn.
Pháp tương ưng với năm là: Tỳ-kheo-ni có đủ năm y thì được thọ Cụ túc. Đó là pháp tương ưng với năm.
Pháp tương ưng với bảy là bảy loại cơm, đó là pháp tương ưng với bảy.
Pháp tương ưng với tám là: Có đàn-việt thỉnh Tỳ-kheo-ni thọ thực,
Tỳ-kheo-ni đến muộn. Các Tỳ-kheo-ni ấy lại hỏi tuổi hạ của nhau để ngồi cho đúng thứ lớp. Khi đó, đã sắp qua giờ ngọ nên họ ăn không được no. Nghe nói việc ấy, Thế Tôn liền chế giới:
-Từ nay trở đi, khi đại chúng Tỳ-kheo-ni tập hợp, cho phép tám người Thượng tọa hỏi tuổi hạ để ngồi theo thứ lớp, còn những người khác thì ngồi tùy ý.
Pháp tương ưng với mười là: Tỳ-kheo nào thành tựu mười pháp mới được Tăng yết-ma sai làm thầy dạy cho Tỳ-kheo-ni. Mười pháp ấy là:
1-Thành tựu giới Ba-la-đề-mộc-xoa.
Nghe nhiều, nghĩa là thông hiểu về văn nghĩa Tam tạng.
Tụng rành rọt Giới kinh Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni.
Miệng thường nói lời tốt đẹp, thường khởi tâm từ bi, lời nói rõ ràng dễ hiểu.
Đầy đủ các căn, tướng mạo đoan nghiêm, ai cũng kính yêu.
Thuộc dòng họ Sát-lợi, Cư sĩ, Bà-la-môn.
Giỏi biện luận, có thể giảng dạy, thuyết pháp, làm cho Ni chúng được lợi ích an vui.
Được Tỳ-kheo-ni quý trọng.
Ba nghiệp không có lỗi đối với Tỳ-kheo-ni.
Hoặc hai mươi tuổi hạ, hoặc hơn hai mươi tuổi hạ.
Đó là pháp tương ưng với mười.
Pháp tương ưng với hai mươi là: hai mươi tuổi hạ.
Pháp tương ưng với một là: Tỳ-kheo ở một mình nơi vắng vẻ, vào ngày Tăng Bố-tát phải nghĩ và nói: "Hôm nay chúng Tăng Bố-tát, tôi cũng Bốtát".
Pháp tương ưng với hai là: Hai Tỳ-kheo lần lượt nói với nhau: "Trưởng lão, hôm nay chúng Tăng thanh tịnh Bố-tát, tôi cũng thanh tịnh Bố-tát". Đó là pháp tương ưng với hai.
Pháp tương ưng với ba là: Ba người lần lượt nói với nhau, đó là pháp tương ưng với ba.
Pháp tương ưng với bốn là: Một người bạch, sau đó mới Bố-tát.
Đó là pháp tương ưng với bốn.
Pháp tương ưng với năm là: Ở nơi biên địa không có Tăng, năm Tỳ-kheo-trong đó có một Luật sư thông hiểu về Luật-thì được truyền giới Cụ túc. Đó là pháp tương ưng với năm.
Pháp tương ưng với bảy là: bảy pháp diệt tránh. Pháp tương ưng với tám là: tám kỉnh pháp của Tỳ-kheo-ni.
Pháp tương ưng với mười là: Tỳ-kheo thành tựu mười pháp sẽ được chính thức nói giới. Đó là pháp tương ưng với mười.
Pháp tương ưng với hai mươi là: Như việc truyền giới cho thiếu nữ đã nói ở phần trên. Pháp tương ưng với một là: Một Tỳ-kheo Tự tứ.
Pháp tương ưng với hai là: Hai Tỳ-kheo lần lượt Tự tứ.
Pháp tương ưng với ba, pháp tương ưng với bốn đều là lần lượt tự tứ.
Pháp tương ưng với năm là: Năm người yết-ma sai một người làm người tự tứ.
Pháp tương ưng với bảy là: thành tựu bảy pháp. Pháp tương ưng với tám là: Bạch y, tại gia, người có lòng tin Tam bảo làm tám việc phi pháp, Tăng làm yết-ma phú bát để họ xả bỏ tám việc phi pháp ấy. Khi họ đã xả bỏ, Tăng xả yết-ma phú bát cho họ. Đó là pháp tương ưng với tám.
Pháp tương ưng với mười là: Không thành tựu mười pháp thì không được truyền giới Cụ túc cho người. Đó là pháp tương ưng với mười.
Pháp tương ưng với hai mươi là: Tỳ-kheo nào không đủ ba y thì phải ra sức tìm xin cho đủ và nội trong hai mươi ngày phải cắt may cho xong để thọ trì. Nếu không xong thì được cắt may cho đến ba mươi ngày để thọ trì. Nếu ba mươi ngày không xong thì phải tịnh thí. Nếu không tịnh thí, phạm Xả đọa.
Pháp tương ưng với một là: Hai Tỳ-kheo ở chung, một người qua đời, người còn sống suy nghĩ: "Đồ vật của Tỳ-kheo qua đời thuộc về ta", người đó liền được, người đến sau không được. Đó là pháp tương ưng với một.
Pháp tương ưng với hai là: Ba người ở chung, một người qua đời, hai người còn lại lần lượt nói với nhau: "Đại đức nên nhớ, những vật này thuộc về chúng ta". Đó gọi là pháp tương ưng với hai.
Pháp tương ưng với ba là: Bốn người ở chung, một người qua đời. Ba người lần lượt nói như ở trên. Đó là pháp tương ưng với ba.
Pháp tương ưng với bốn là: Năm người ở chung, một người qua đời, bốn người làm yết-ma phân chia của cải. Đó là pháp tương ưng với bốn.
Pháp tương ưng với năm là: Năm người làm yết-ma phân chia vật của Tỳ-kheo mất. Bốn người làm yết-ma bố thí cho một người, một người cúng dường lại cho chúng, sau đó được cùng nhau phân chia. Đó là pháp tương ưng với năm.
Pháp tương ưng với bảy là: Bảy pháp cung kính.
Pháp tương ưng với tám là: Tỳ-kheo nào thành tựu tám pháp, Tăng nên sai vị ấy làm cho đàn việt được phát khởi lòng tin và tâm sám hối. Đó là pháp tương ưng với tám.
Pháp tương ưng với mười là: Có pháp sự cần mười người làm mới được như pháp. Nếu có chín người hoặc mười một người thì không như pháp. Đó là pháp tương ưng với mười.
Pháp tương ưng với hai mươi là hai mươi người rút thẻ, đó là pháp tương ưng với hai mươi.
Pháp tương ưng với một là: Tỳ-kheo nào sống một mình, tự biết mình có phạm tội, không có nơi sám hối thì hãy ghi nhớ trong tâm, sau đó gặp Tỳ-kheo liền sám hối. Đó gọi là pháp tương ưng với một.
Pháp tương ưng với hai là: Tỳ-kheo phạm tội phải phát-lồ với một người, nếu không hết thì sau đó phải đến giữa chúng để sám hối. Đó là pháp tương ưng với hai.
Pháp tương ưng với ba là: Tỳ-kheo phạm tội xong, phát lồ với hai Tỳ-kheo, nếu không hết tội thì phải đến giữa Tăng sám hối lại. Đó là pháp tương ưng với ba.
Pháp tương ưng với bốn là: Tỳ-kheo nào phạm tội, sám hối với bốn Tỳ-kheo và được họ làm yết-ma trừ tội. Đó là pháp tương ưng với bốn.
Pháp tương ưng với năm là năm pháp sám hối.
Pháp tương ưng với bảy là: Tỳ-kheo nào thành tựu bảy pháp thì được ngăn thuyết Giới.
Pháp tương ưng với tám là: Như Lai thấy tám loại lỗi lầm. Đó là pháp tương ưng với tám.
Pháp tương ưng với mười là được phép chứa mười loại y phấn tảo.
Pháp tương ưng với hai mươi là: Tỳ-kheo nào muốn làm phu cụ mới nên dùng hai mươi lạng lông dê mà làm. Đó là pháp tương ưng với hai mươi.
Pháp tương ưng với trước ngọ là: Năm loại thức ăn chánh, chín loại thức ăn tương tợ và các việc khác tương ưng với trước giờ ngọ. Đó là pháp tương ưng với trước ngọ.
Pháp tương ưng với đầu đêm là nước nho, cho đến nước thủy giải.
Pháp tương ưng với bảy ngày là năm loại thuốc và các thứ thuốc khác.
Pháp tương ưng với suốt đời là:
Sơn thiệp tử.
Thức lưu.
Lưu thảo.
Thiện thiện.
Lô-phá-la.
Hạt tiêu.
Gừng.
Tỳ-bát.
Thi-la-chiết-lặc.
Chơn-phù-lưu.
Điền lực.
Già-luân-câu-lô-hỷ.
Rất nhiều các thứ như vậy, là pháp tương ưng với suốt đời. Pháp tương ưng với các vật dụng sinh hoạt là: ba y, bình bát, đồ nằm, ống và túi đựng kim, chậu, bình, rương,... Các vật mà Tỳ-kheo cần dùng như vậy gọi là pháp tương ưng với dụng cụ sinh hoạt. Pháp tương ưng với bát và người là bát sắt, bát tô-ma (gốm), nhiều thứ như vậy gọi là pháp tương ưng với bát và người.
Pháp tương ưng với y và người là mười loại vải may y được nhuộm, giặt, cắt, may và thọ trì như pháp. Đó gọi là pháp tương ưng với y và người. Pháp tương ưng với đồ nằm là đồ nằm phải được làm đúng kích cỡ cho phép.
Pháp tương ưng với ống và túi đựng kim là như đã nói ở phần trên.
Pháp tương ưng với việc khất thực là: Lúc khất thực được nhận thức ăn vừa đầy bát, không được nhận quá nhiều. Đó là pháp tương ưng với việc khất thực.
Pháp tương ưng với việc xin y là: Khi xin y, tuy đàn-việt cúng rất nhiều nhưng người nào không đủ ba y thì chỉ nhận cho đủ ba y, không được nhận quá. Đó gọi là pháp tương ưng với việc xin y.
Lúc ấy, sau khi khất thực xong, Thế Tôn trở về trụ xứ, xếp y lại để một chỗ. Đó là pháp tương ưng với y áo.
Pháp tương ưng với đồ nằm là như trong kiềnđộ Phu cụ đã nói rõ. Đúng lượng là y nội dài bốn khuỷu tay, rộng một khuỷu tay rưỡi.
Đó là đúng kích cỡ.
Bát, y, phu cụ, ống và túi đựng kim, phòng ở của người hành đạo, tất cả các vật như vậy mà được làm như lời Phật dạy thì gọi là đúng kích cỡ, nếu không như lời Phật dạy thì gọi là không đúng kích cỡ.
Pháp tương ưng với nhuộm màu là: Khi y của các Tỳ-kheo đã bạc màu, Phật cho phép dùng mười loại màu để nhuộm lại. Mười loại màu đó là:
1-Bùn.
Vỏ cây Đà-bà.
Vỏ cây Bà-đà.
Phi thảo.
Càn-đà.
Rễ Hồ-đào.
Quả A-ma-lặc.
Vỏ cây Khư-đà.
Vỏ cây Thi-thiết-bà.
Hòa đủ màu lại để nhuộm. Đó là mười loại màu được dùng để nhuộm.
Pháp tác tịnh bằng cách chấm ba chấm trên y là:
Dùng bùn.
Dùng màu xanh.
Dùng màu đỏ lợt (màu không đều).
Dùng ba loại này chấm ba chấm trên y để tác tịnh.
Pháp tương ưng với oai nghi là: Y áo phải mặc cho ngay ngắn, cho đến không được đứng mà đại tiểu tiện. Đó là pháp tương ưng với oai nghi.
Pháp tương ưng với yết-ma sai người là: Bạch nhị, bạch tứ và yết-ma sai người. Trước hết kết giới bất tịnh địa, kế đó kết giới phòng ốc của chúng Tăng, sau đó kết Đại giới. Sau khi kết đại giới phải hỏi chúng Tăng làm tịnh trù ở đâu, rồi kết giới làm tịnh trù ở nơi Tăng chỉ định, sau đó kết giới nơi Bố-tát, cuối cùng là kết giới không mất y.
Khi giải giới, trước tiên giải giới không mất y, sau đó giải giới Bố-tát, kế đó giải giới tịnh trù của chúng Tăng, kế đó giải Đại giới, kế đó giải giới phòng xá của Tăng, kế đó giải giới bất tịnh địa và nơi để các loại tạp vật.
Các việc như: Giáo thọ Tỳ-kheo-ni, Tự tứ, phát thẻ, làm sứ giả cho Tăng, làm việc cho Tăng bốn phương, giúp đàn-việt có lòng tin chia cháo, chia thức ăn trước giờ ngọ, cho đến quản lý tịnh nhân ở trong chùa, không cho đến nhà đàn-việt có lòng tin để khất thực, trông coi người cuồng loạn mất trí, truyền Đại giới cho ni... Những yết-ma như vậy và những yết-ma sai người chưa được nêu ra ở đây đều gọi là pháp tương ưng với yết-ma sai người.
Pháp tương ưng với nơi chốn là: hoặc tháp, hoặc y bị rách, hư, lủng đều phải tu bổ, sửa sang. Đó là pháp tương ưng với nơi chốn.
Nơi ở của Hòa thượng, nơi ở của A-xà-lê, nơi ở của chúng Tăng, nơi Tăng Bố-tát cũng là pháp tương ưng với nơi chốn.
Lúc ấy, vì Tỳ-kheo bệnh, Đức Thế Tôn yết-ma chọn tịnh địa để làm nơi nấu ăn. Nếu có khách Tỳ-kheo đến, người chủ chùa phải nói cho họ biết nơi bất tịnh, nơi phòng Tăng, nơi kiết Đại giới, nơi tịnh trù, nơi Bố-tát, nơi kiết giới không mất y, nơi uống nước... Đó là pháp tương ưng với nơi chốn.
Pháp tương ưng với phương hướng là: Tùy theo Hòa thượng, chúng Tăng và thầy tổ hướng về phương nào thì hướng về phương đó.
Lại nữa, phương hướng là: Khi Phật ở thành Vương Xá, vào ngày thứ mười lăm cuối tháng, lúc nói giới, chúng Tăng đều tập họp đến. Phật hỏi: "Các ông từ đâu đến?" Các Tỳ-kheo nói phương hướng nơi họ đang ở. Đó gọi là phương hướng.
Phương Đông có tháp La-hầu-bạt-đà.
Phương Nam có xứ tên Đa-nô.
Phương Tây có xứ tên Thư-tỳ-đà-lâu-đà. Phương Bắc có xứ tên Vô-chí-la-tì-xà.
Đó là bốn nơi ở biên giới xa nhất. Ở nơi ấy, năm Tỳ-kheo-trong đó có một vị thông hiểu về Luật-thì được truyền giới Cụ túc. Đó là pháp tương ưng với phương hướng.
Pháp tương ưng với cõi nước là: Ở nước A-bànđề, trong năm vị có một vị sư thông hiểu về Luật được phép truyền giới Cụ túc. Ở nước A-phạmkiền-đề, trời nóng được phép tắm rửa thường xuyên, cũng cho phép mang giày da làm bằng hai ba lớp da.
Lúc ấy, các Tỳ-kheo an cư mùa hạ trên núi Tuyết, thân thể bị nứt nẻ, liền đến thưa với Phật. Nghe xong, Phật cho phép ở nước như vậy Tỳ-kheo được mặc áo lót cho kín hai vai.
Có hai Tỳ-kheo: Một người tên Ô-ta-la, người thứ hai tên Tam-ma-đà, đến chỗ đức Phật bạch:-Các Tỳ-kheo gồm những người thuộc nhiều dòng họ, từ nhiều nước đi xuất gia nên sợ rằng họ dùng ngữ âm không chuẩn, làm mất ý nghĩa của kinh Phật. Xin Thế Tôn cho phép con dùng luận Xiển-đề để làm chính xác ý nghĩa của kinh Phật.
Đức Phật nói:
Pháp của Ta không quý những lời lẽ trau chuốt. Lời lẽ tuy chất phác mà không mất ý nghĩa, giúp cho người hiểu được là điều chính yếu.
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở tại Tỳ-xá-ly, gặp lúc mất mùa, đói kém, khất thực khó được, các Tỳ-kheo nương sức thần thông đến nước Khởi-Già để khất thực. Người nước ấy khinh ghét tu sĩ nên đem thức ăn để xuống đất chứ không trao tận tay. Có các Tỳ-kheo đến bạch Thế Tôn việc ấy, Phật nói:
Tuy không trao tận tay nhưng tâm bố thí đã trọn vẹn nên có thể lấy mà ăn.
Đó là pháp tương ưng với cõi nước.
Pháp tương ưng với Tự tứ là: Một người tâm nghĩ miệng nói; hai người, ba người, bốn người đều lần lượt nói với nhau. Năm người thì yết-ma tự tứ. Đó là pháp tương ưng với tự tứ.
Pháp tương ưng với gởi dục Tự tứ là có năm cách gởi dục:
Một là tôi cùng Tự tứ.
Hai là tôi Tự tứ.
Ba là vì tôi nên làm Tự tứ.
Bốn là tay làm tướng mạo Tự tứ.
Năm là miệng làm tướng mạo Tự tứ.
Nếu năm cách đó không thành thì không gọi là gởi dục Tự tứ. Đó là pháp tương ưng với gởi dục Tự tứ.
Pháp tương ưng với nhận dục Tự tứ là Tăng sai người nhận dục. Nếu người nhận dục gặp nạn cha mẹ bệnh, nạn phi Phạm hạnh, hoặc nhiều nạn khác như vậy thì phải nhờ người khác mang lời gởi dục đi.
Pháp gởi dục là nói với người nhận dục: "Xin đại đức ghi nhớ, tôi là Tỳ-kheo... (tên đó), hôm nay chúng Tăng Tự tứ, tôi cũng Tự tứ. Tôi xin gởi dục cho chúng Tăng thanh tịnh. Đó là pháp tương ưng với việc gởi dục.
Nếu người nhận dục chưa trở về, bỗng bị nạn nước lũ, nạn sư tử, hổ, sói,... không thể đến Tự tứ thì người Tự tứ ở bên ngoài cương giới cũng được thanh tịnh và người đi cũng được thanh tịnh. Đó là pháp tương ưng với người nhận dục Tự tứ.
Pháp tương ưng với Ba-la-đề-mộc-xoa là: Lúc ấy, đức Thế Tôn ở trong căn phòng yên tĩnh, Ngài nghĩ: "Hôm nay Ta phải dạy các Tỳ-kheo tập hợp lại một chỗ để nói Giới Ba-la-đề-mộc-xoa. Nếu Ta không chế giới này, các Tỳ-kheo mới muốn học Ba-la-đề-mộc-xoa thì làm sao được nghe và tu tập thế nào?"
Khi ấy, đức Thế Tôn rời khỏi phòng yên tĩnh và bảo các Tỳ-kheo:
-Từ nay trở đi, các ông hãy tập hợp lại một chỗ để nói giới Ba-la-đề-mộc-xoa. Khi muốn nói giới, trước tiên phải bạch: "Đại đức Tăng xin lắng nghe. Nếu thời giờ thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp nhận, nay Tăng tập hợp lại một chỗ để nói giới Ba-la-đề-mộc-xoa. Đây là lời tác bạch".
Đó là pháp tương ưng với Giới Ba-la-đề-mộcxoa.
Pháp tương ưng với việc nói Ba-la-đề-mộc-xoa là: Có năm cách nói tóm lược Ba-la-dề-mộc-xoa đã được nói ở phần trên.
Lại có pháp tương ưng với việc nói Ba-la-đềmộc-xoa đã được nói ở phần trên trong kinh Mẫu. Đó là pháp tương ưng với việc nói giới.
Pháp tương ưng với việc Bố-tát là: Cho đến ba người thì lần lượt nói Bố-tát. Bố-tát như pháp là bốn người trở lên thì bạch một lần, sau đó Bố-tát. Tỳ-kheo Hạ tọa phải quét dọn, tưới nước nơi Bốtát. Đó là pháp tương ưng với việc Bố-tát.
Pháp tương ưng với việc gởi và nhận dục là:
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo cần phải thuyết tịnh. Thuyết tịnh xong phải nói: "Hôm nay chúng Tăng Bố-tát, có Tỳ-kheo bệnh không đến, được phép gởi dục". Tăng sai người đến nhận dục. Đó là pháp tương ưng với dục.
Nếu có nhân duyên thì gởi dục, không có nhân duyên thì nên ra đi. Gởi dục có năm cách như đã nói ở trên.
Pháp tương ưng với người nhận dục là: Nếu có các nạn, người nhận dục không đến được thì người nhận dục thanh tịnh, chúng Tăng thanh tịnh. Đó là pháp tương ưng với người nhận dục.
Pháp tương ưng với thanh tịnh là: Nếu bệnh, không đến được thì tự nói thanh tịnh. Đó gọi là thanh tịnh.
Trong khi Tự tứ thì chỉ được nói gởi dục, không được nói gởi dục thanh tịnh. Các pháp sự khác thì nói thẳng là gởi dục thanh tịnh, không nói thanh tịnh. Đó là gởi dục thanh tịnh. Người nhận dục có nạn, không đi được, gọi là nhận dục thanh tịnh. Đó là pháp tương ưng với người nhận dục thanh tịnh.
Các quy định đã được nói ở trên cần được suy xét lại theo năm kinh sau:
Kinh Tỳ-kheo.
Kinh Tỳ-kheo-ni.
Kinh Ma-đắc-lặc-già (luận).
Kinh Tăng nhất.
Kinh các Kiền độ.
Dựa vào các Kinh ấy để suy xét các điều trên, điều nào hợp với nghĩa của năm Kinh thì hãy thọ trì, đừng nên xả bỏ. Nếu điều nào không hợp thì để đó, không nên thực hành.
Lại nữa, pháp cần suy xét là: Một là duyên, hai là chế, ba là chế thêm, tóm lược, phạm, không phạm phải tương ưng với năm loại Kinh. Dùng duyên, chế và chế thêm trong năm loại Kinh này để đối chiếu.
Thế nào là nói tổng quát: Tỳ-kheo tức là tất cả Tỳ-kheo, đó là nói tổng quát.
Thế nào là nói lược?-Đó là nói phần đầu, giữa và cuối nhưng chỉ nêu lên nghĩa. Đó là nói lược.
Nói đầy đủ là: Có Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo chỗ hiểu biết của mình và bảo: "Tôi đã đích thân nghe Phật nói như vậy". Nghe xong, không được hủy báng lời ấy, cũng không được thọ trì ngay. Phải đem sự hiểu biết đó so sánh với năm bộ Kinh, nếu thích hợp với Kinh thì nên nói: "Lời trưởng lão nói rất tốt, hãy tự thọ trì, đừng xả bỏ. Lại thường giảng nói đầy đủ cho người khác nghe". Nếu không tương ưng với năm bộ Kinh thì nên ngăn: "Lời trưởng lão nói không nên thọ trì, cũng đừng nên giảng nói cho người khác, hãy tìm sự hiểu biết tốt đẹp". Đó gọi là việc giảng nói đầy đủ thứ nhất.
Sự giảng nói đầy đủ thứ hai là: Có người nói: "Tôi đã đích thân nghe chúng Tăng nói", và người đó cũng nói với người khác về sự hiểu biết của mình. Người nghe cũng phải làm như ở trên, không chê bai, không thọ trì mà dùng năm Kinh để kiểm nghiệm. Đó là sự giảng nói đầy đủ thứ hai.
Sự giảng nói đầy đủ thứ ba là: Có Tỳ-kheo tự nói: "Đã đích thân nghe ba người nói" và cũng nói với Tỳ-kheo khác về hiểu biết của mình. Muốn thọ trì hay không thọ trì lời nói này thì phải đem so sánh với năm bộ Kinh. Đó là sự giảng nói đầy đủ thứ ba.
Sự giảng nói đầy đủ thứ tư là: Lại có Tỳ-kheo tự xưng: "Tôi đã đích thân nghe hai Tỳ-kheo đại đức nói như vậy" và Tỳ-kheo ấy cũng nói với người khác theo hiểu biết của mình. Khi nghe lời ấy, muốn biết có nên thọ nhận hay không thì Tỳ-kheo phải kiểm nghiệm như trên. Đó là sự giảng nói đầy đủ thứ tư.
Đầy đủ có hai loại: một là văn đầy đủ, hai là nghĩa rộng. Đó là bốn sự giảng nói đầy đủ.
Lại nói tóm lược về nghĩa thích hợp và không thích hợp.
Loại bát thích hợp là bát sắt, bát gốm, bát của nước Ưu-già, bát của nước Ưu-già-xa, bát đen của nước Tỳ-xá-ly, bát đỏ của nước Xá-Vệ. Bát tuy có sáu loại nhưng thật ra chỉ có bát sắt và gốm. Đó là loại bát thích hợp.
Loại bát không thích hợp là bát chiên-đàn, bát gỗ Thi-xá-bà, bát đá, bát vàng, bát bạc, bát lưu ly, bát ngọc, bát bảy báu. Đó là loại bát không thích hợp.
Đó là thích hợp và không thích hợp.
Người kia thích hợp, người này không thích hợp:
Thích hợp là: Tỳ-kheo có bát dư được phép chứa mười ngày.
Không thích hợp là: Tỳ-kheo-ni có bát dư không được chứa quá một ngày. Đó là không thích hợp.
Đó là người này thích hợp, người kia không thích hợp.
Chừng ấy người thì thích hợp, Bấy nhiêu người thì không thích hợp là: Bát lủng đã được vá hơn năm chỗ, lại xin bát mới để thọ trì, cần phải ở giữa bốn Tỳ-kheo, bạch nhị yết-ma để thọ trì. Ba Tỳ-kheo trở xuống thì không được. Đó gọi là chừng đó người thì thích hợp, chừng đó người không thích hợp.
Đúng kích cỡ thì thích hợp, không đúng kích cỡ thì không thích hợp là:
Thích hợp là: Một thăng rưỡi đến hai thăng rưỡi là thích hợp.
Không thích hợp là: Không đủ một thăng rưỡi, hoặc hơn hai thăng rưỡi là không thích hợp.
Đó gọi là đúng kích cỡ thích hợp, không đúng kích cỡ thì không thích hợp.
Màu này thích hợp, màu kia không thích hợp là:
Do xông đốt mà được thì thích hợp.
Màu không do xông đốt mà được thì không thích hợp. Đó là màu thích hợp và không thích hợp. Hoặc có lúc thích hợp, có lúc không thích hợp:
Thích hợp là: Tỳ-kheo nào có y bát bị giặc cướp, nước cuốn trôi, rơi xuống đất bị vỡ, hoặc mất thì có thể nói với cha mẹ, bà con, quyến thuộc để xin. Đó là thích hợp.
Nếu không bị nước cuốn trôi, giặc cướp, rơi xuống đất bị vỡ, bị mất mà nói với cha mẹ, bà con, quyến thuộc để xin thì không thích hợp. Đó là lúc thích hợp hay không thích hợp. Sự thích hợp hay không thích hợp của y áo:
Loại y thích hợp là: Mười loại vải may y.
Loại không thích hợp là: Y có màu sắc đẹp, y gấm, y màu trắng, y có tua. Nhiều loại y như vậy đều không thích hợp. Đó là các loại y không thích hợp. Chỉ thọ trì một y trong số ba y cũng không thích hợp.
Cho đến trên đầu trùm y làm bằng lông thú có tua cũng không thích hợp.
Có lúc thích hợp, có lúc không thích hợp là: Nếu bị cướp, bị nước lũ cuốn trôi, bị cháy, hoặc bị mất thì nên nói với cha mẹ, anh em, bà con để xin. Nếu không như vậy thì không nên nói để xin. Đó gọi là có lúc thích hợp, có lúc không thích hợp.
Y mặc lót thích hợp là: Ngắn nhất cũng phải dài quá eo một gang tay. Phải may y sao cho che được hai vú và ôm kín nách. Đó là thích hợp.
Không thích hợp là: may y quá ngắn. Y lót bên trong được mặc khi nằm ngủ buổi chiều tối. Y này phải có độ dài đủ để che kín từ cổ đến chân để khỏi làm dơ y sạch bên ngoài. Đó là đúng kích cỡ. Y che ghẻ phải dài bốn khuỷu tay, rộng hai khuỷu tay.
Y tắm mưa phải dài hai gang tay rưỡi.
Khăn lau mình phải dài một gang, rộng một gang tay. Khăn lau mặt dài một khuỷu tay, rộng một khuỷu tay. Khăn lau mắt dài rộng đều đúng một gang tay mình.
Ngần ấy người thì thích hợp, ngần ấy người thì không thích hợp là: Bốn người thì thích hợp. Ba người, hai người thì không thích hợp. Đó là ngần ấy người thì thích hợp, ngần ấy người thì không thích hợp.
Hoặc có khi thích hợp, hoặc có khi không thích hợp: Thích hợp là trong một tháng sau khi Tự tứ được thọ y Ca-thi-na, quá hạn thì không được thọ. Đó là có khi thích hợp, có khi không thích hợp.
Có màu thích hợp, có màu không thích hợp: màu được Phật cho phép thì thích hợp, màu không được Phật cho phép thì không thích hợp. Đó gọi là có màu thích hợp, có màu không thích hợp.
Có giới hạn thích hợp, có giới hạn không thích hợp: Thích hợp là: mặc y nội ngắn trên mắt cá ba ngón tay là thích hợp. Nếu dài hơn thế thì không thích hợp. Đó gọi là giới hạn thích hợp hay không thích hợp.
Pháp đi đường là: Tiền an cư và hậu an cư dù đi đến đâu xong việc rồi cũng phải đi về nơi an cư. Hậu an cư nếu có duyên sự cũng phải xin phép bảy ngày để đi. Một tháng sau của tiền an cư cũng nên đi.
Không nên đi là: Trong mùa hạ, không có duyên sự thì không được xin phép bảy ngày. Trong mùa đông, không có duyên sự thì không nên đi. Đó là nên và không nên đi.
Người thích hợp và không thích hợp là:
Quá cao, quá lùn, có các nạn, không đủ số chúng Tăng. Đó là không thích hợp.
Thích hợp là: không cao, không thấp, tuổi đủ hai mươi, không có các nạn, đầy đủ số chúng Tăng thanh tịnh. Đó là thích hợp. Đó gọi là người thích hợp và không thích hợp. Phòng thích hợp và không thích hợp:
Thích hợp là: Đất được chúng Tăng cho phép như pháp. Nơi đó không có các nạn. Phải xây cất đúng kích cỡ cho phép. Đó là thích hợp.
Không thích hợp là: Tăng không cho như pháp, nơi đó có các nạn. Làm quá kích cỡ cho phép nên phải xin tiền của rất nhiều, làm đàn-việt chán ghét. Đó là không thích hợp.
Đó là phòng thích hợp hay không thích hợp.
Phạm Tỳ-ni là phạm một trong bảy tụ. Phải xét xem phạm vào tụ nào trong bảy tụ này. Lại phải xét xem nên sám hối làm sao tội này mới trừ được. Lại phải biết thời điểm phạm tội này là đầu đêm hay cuối đêm, hay là hai đêm mới phát sanh. Lại phải xét xem tội này phạm trước bữa ăn, sau bữa ăn hay ban ngày. Nguyên nhân gây ra vi phạm là người hay pháp.
Việc phạm vào đầu đêm là nhận và dùng những vật không nên nhận dùng.
Phạm ban đêm là: Tỳ-kheo thuyết pháp cho Tỳ-kheo-ni vào ban đêm thì phạm.
Phạm sau hai đêm là: Ngủ chung với người chưa thọ giới Cụ túc quá hai đêm, khi mặt trời chưa mọc mà không ngồi dậy, không ra ngoài thì phạm. Phạm trước giờ ngọ là: Rửa chân trước giờ ngọ, lấy dầu thoa chân đi vào làng thì phạm, trừ khi bệnh.
Phạm sau khi ăn là: Trước đã nhận lời thỉnh thọ thực của người vào giờ ngọ, sau đó lại nhận lời thỉnh ở nơi khác nhưng không nói với người ở bên cạnh mà đi thì gọi là phạm.
Phạm ban ngày là: Vào ban ngày, Tỳ-kheo nào nằm ngủ ở nơi đất trống thì gọi là phạm.
Lại có việc phạm ban ngày là: Không mặc y hạ và áo lót mà chỉ đắp cà-sa đi kinh hành, đệ tử đi kinh hành cùng Hòa thượng, A-xà-lê, nhận thức ăn quá nhiều, mang giày da không trúng. Đó gọi là phạm ban ngày.
Những vi phạm phát sanh theo pháp là: Khi chứng đắc pháp thượng nhơn không được nói với bạch y, nếu là người xuất gia quen biết, hợp ý nhau thì có thể nói cho nghe, không nên nói với người khác.
Lại có việc vi phạm do pháp: Hoặc dạy Kinh cho người đối diện, hoặc cùng tụng; người dạy Kinh dạy câu trước, người học Kinh tụng tiếp câu sau. Người như vậy không nên truyền dạy Kinh.
Không cùng tụng là: Thượng tọa tụng câu trước xong, Hạ tọa tụng lại câu Thượng tọa vừa tụng, không được tụng cùng một lúc, không được nói pháp cho người nữ quá năm sáu lời. Không được nói pháp cho người che vai, che đầu và nhiều người như vậy. Đó gọi là vi phạm do pháp.
Vi phạm do người là: Cao, thấp quá độ, không đủ hai mươi tuổi, có các nạn, chúng Tăng không đủ số và không thanh tịnh, nhóm họp thọ giới một cách phi pháp, thọ giới giữa hư không, thọ giới ở ngoài giới, truyền Giới cho mười ba hạng người phi pháp và người thọ giới không đắc giới. Tất cả đều gọi là vi phạm do người.
Vi phạm do sáu chỗ phát sanh nên suy xét sáu chỗ để sám hối.
Có vi phạm phát sanh do thân, chẳng phải do tâm, miệng. Có vi phạm do miệng, chẳng phải do thân, tâm. Có vi phạm do tâm, chẳng phải do thân, miệng.
Có vi phạm phát sanh do thân, tâm.
Có vi phạm phát sanh tâm miệng.
Có vi phạm phát sanh do thân miệng. Có vi phạm phát sanh do tham dục.
Có vi phạm phát sanh do sân hận. Có vi phạm phát sanh do ngu si.
Có vi phạm do bị thân, miệng ngu si làm hại. Có vi phạm do thân, miệng sân hận làm hại. Có vi phạm do thân, miệng tham dục làm hại.
Vi phạm do thân chẳng phải do tâm, miệng làm hại là ba-la-di đầu tiên và cố ý làm xuất tinh. Trong vi phạm này, có vi phạm là bất thiện, có vi phạm là vô ký, ngủ lìa ba y, hoặc dùng tay, dùng gậy đánh người đều gọi là vi phạm do thân.
Vi phạm do miệng là Ba-la-di thứ tư, do tâm dục nên nói lời thô tục với người nữ hoặc nói với tâm sân hận, tự ca ngợi thân mình rồi bảo đem sự dâm dục cúng dường mình; phỉ báng dựa vào trường hợp không căn cứ thứ hai; hủy nhục dòng họ, hình dạng của người khác, nói dối, nói hai lưỡi, những việc như vậy và những vi phạm khác do khẩu nghiệp mà được gọi là vi phạm do khẩu nghiệp phát sanh.
Vi phạm do thân, miệng mà phát sanh là Ba-la-di thứ hai, làm mai cho người hoặc những việc về phòng ốc. Những việc ấy và những việc khác tương tự là vi phạm do thân, miệng.
Vi phạm do tâm mà phát sanh là như trong ba mươi Xả đọa, Tỳ-kheo được thí chủ cho vàng bạc, tuy tay không cầm mà nghĩ đó là của mình và bảo tịnh nhân đem cất vào nơi ấy mà không nói với tịnh nhân: "Ông hãy tùy ý dùng", hoặc như Tỳ-kheo thấy người khác vi phạm mà che giấu không phát lồ với người khác, đó là vi phạm do tâm.
Vi phạm do thân, tâm mà phát sanh là vi phạm từ thân tâm như trên.
Vi phạm do thân, miệng, tâm mà phát sanh là vi phạm từ thân, miệng, tâm như trên.
Vi phạm từ tham dục mà phát sanh là Ba-ladi đầu tiên, cố ý làm xuất tinh, thân xúc chạm, miệng ca ngợi thân mình.
Vi phạm do sân hận mà phát sanh là: Giới Ba-la-di thứ ba, phỉ báng dựa vào việc không căn cứ thứ hai.
Vi phạm do ngu si mà phát sanh là: Nếu Tỳ-kheo ngu si, không nhận lời can gián của người thì gây ra vi phạm do ngu si phát sanh.
Vi phạm do thân và tham mà phát sanh là Ba-la-di đầu tiên, thân xúc chạm, cố ý làm xuất tinh và các vi phạm khác do thân và tham mà phát sanh.-Vi phạm do miệng và tham mà phát sanh là: Vì dâm dục nên nói lời thô tục, khen ngợi thân mình và những việc khác tương tự. Đó gọi là vi phạm do miệng và tham mà phát sanh.
Vi phạm do thân, miệng, tham mà phát sanh là: Như có hai mẹ con cùng xuất gia, con thường đến cúng dường mẹ, mẹ con đều sanh tâm tham, mẹ nói với con: "Đó là chỗ mà ông đã sanh ra. Nay hãy xem lại nó thì có lỗi gì?" Người con nghe lời mẹ liền làm việc bất tịnh. Đó là vi phạm do thân, miệng, tham mà phát sanh.
Những việc như vậy rất nhiều, nay nói tóm lược như vậy.
Vi phạm phát sanh do thân và sân là: Tự tay giết chết mạng người và cầm gậy đánh người.
Lại có Tỳ-kheo tranh cãi với bạch y, tháo hết nước trong ruộng lúa của người khác làm cho lúa bị chết. Những việc như vậy là vi phạm do thân và sân mà phát sanh.
Vi phạm từ miệng và sân mà phát sanh là: Tỳ-kheo nói với người khác: "Hãy giết chết người ấy cho ta", hoặc sai, hoặc viết thư..., những việc như vậy chẳng phải làm một lần. Đó là vi phạm từ miệng và sân mà phát sanh.-Vi phạm từ thân, miệng, sân mà phát sanh là: Nương theo tâm sân, thân hoặc miệng làm hại người khác, làm bực mình loạn người khác. Đó là vi phạm từ thân, miệng và sân mà phát sanh.
Vi phạm từ thân và ngu si mà phát sanh là: Có Tỳ-kheo lấy loại ngọa cụ trải giường đem trải nơi đất trống để ngồi, khi đi không tự cất, đó là vi phạm do ngu si và thân mà phát sanh.
Vi phạm do miệng và ngu si phát sanh là: Có
Tỳ-kheo khách nhận phòng ốc, ngọa cụ của chúng Tăng, bỏ đi hai đêm, không tự đến báo, cũng không bảo người khác đến báo. Đó là vi phạm do miệng và ngu si mà phát sanh.
Vi phạm từ thân, miệng, ngu si mà phát sanh là: Có người nhận phòng ốc, giường, phu cụ của Tăng, khi đi không bảo người cất, cũng không tự cất. Đó là vi phạm từ thân, miệng, ngu si mà phát sanh.
Bị thân và tham làm hại là: Có một Tỳ-kheo tên Năng-già-tăng-đề, được Tăng sai giữ chùa. Sau đó có một bé gái vào chùa, ông ta liền ôm bé gái cùng làm việc bất tịnh. Vì bé gái đó còn nhỏ tuổi nên nữ căn bị rách mà chết. Các Tỳ-kheo phân vân, không biết trong hai tội sát và dâm, người này phạm tội nào nên đến hỏi Thế Tôn, Phật nói: "Bị mắc tội dâm". Đó là vi phạm do thân, tham làm hại.-Vi phạm do miệng, tham làm hại là:
Lúc ấy, có bạch y bị bệnh nên nằm, người ấy có người vợ nhan sắc xinh đẹp, có một Tỳ-kheo đến thăm bệnh và bảo người vợ ông ta:
Hãy cùng tôi làm việc dâm dục. Người nữ đáp:
Tôi còn có chồng, không thể tự tiện được.
Tỳ-kheo liền nói cho người bệnh nghe pháp là:-Nếu tạo tội mà sống lâu ở đời thì đời sau chịu tội rất lâu. nếu có phước đức thì khi chết liền được hưởng thú vui cõi trời, dùng đời sống xấu xa này làm gì?
Nghe xong, người bệnh liền nhàm chán thân và tìm cách tự tử.
Các Tỳ-kheo bạch với Phật, Phật nói:
Người này phạm tội Ba-la-di.
Đó là vi phạm do miệng, tham làm hại.
Vi phạm do thân, miệng, tham làm hại chính là thân, miệng, tham.
Lúc ấy, có Ưu-bà-di Tô-tỳ-da, bảo Tỳ-kheo:
Nếu cùng tôi hành dục, khi chất bất tịnh sắp ra hãy rút ra và đứng dậy thì không phạm.
Tỳ-kheo liền nghe theo, cùng cô ấy hành dục và cho là không phạm. Việc ấy dần dần đến tai đức Thế Tôn, Phật nói:
Đó là vi phạm do thân, miệng, tham. Lại nữa, vi phạm do thân, miệng, tham là:
Có một Tỳ-kheo truyền giới cho đệ tử, bạch tứ yết-ma truyền giới xong, không nói Giới tướng mà để ông ta về chùa. Sau đó, đệ tử gặp người vợ cũ, người vợ hỏi:
Anh đang làm gì? Đáp:
Thầy dẫn đến đây để thọ đại giới. Vợ liền nói:
Số ngày giữ giới còn dài, hôm nay nhân dịp gặp nhau, hãy cùng nhau hành dục.
Người chồng liền cùng làm việc bất tịnh theo lời người vợ. Sở dĩ người này làm việc bất tịnh là do không biết giới tướng. Nghe vậy, Phật liền chế giới:
Từ nay trở đi, sau khi truyền giới xong phải lập tức nói cho người thọ giới biết Giới tướng.
Đó là vi phạm do thân, miệng, tham.
Bị thân, sân hận làm hại là: Nương theo tâm sân, tự tay cắt giết chết người khác. Đó là vi phạm do sân hận và thân làm hại.
Vi phạm do miệng và sân làm hại là: Sai người khác đi giết người.
Đó là vi phạm do miệng và sân hận làm hại.
Bị thân, miệng và sân hận làm hại là: Thân tự giết, miệng sai người giết. Đó là vi phạm do thân, miệng và sân hận làm hại.
Bị thân và ngu si làm hại là: Hoặc gỗ của người khác, hoặc trái cây, hoặc cây cối, không nói với chủ mà tự ý lấy, đó là vi phạm do thân, và ngu si làm hại.
Bị miệng và ngu si làm hại là: Có Tỳ-kheo thấy việc làm của Tỳ-kheo khác không đúng nên nói: "Trưởng lão, việc làm này không đúng pháp, không nên làm nữa". Tỳ-kheo ấy đáp lại lời can gián là: "Tôi không nghe theo lời của Đại Đức, để tôi hỏi lại người có trí tuệ". Đó là vi phạm do miệng và ngu si.
Lại có vi phạm do miệng và ngu si là: Khi chúng Tăng nói giới, người đó nói: "Nói những giới nhỏ nhặt này làm gì". Đó cũng là vi phạm do miệng và ngu si.
Lại có người khi Tăng thuyết giới thì nói: "Điều các vị đang nói, chúng tôi đã nghe hoài, cần gì phải nói lại". Đó là vi phạm do miệng và ngu si.
Vi phạm do thân, miệng và ngu si là: Nếu hai, ba người bảo một người đi giết người, người ấy nói: "Được" và lập tức đi giết. Đó là vi phạm do thân, miệng, ngu si.
Vi phạm do bất thiện là: Vi phạm do phàm phu cố ý gây ra và vi phạm do người hữu học cố làm.
Phạm do vô ký là thế nào?-Phàm phu không cố ý mà làm, hoặc do nhầm lẫn mà làm. Bậc Hữu học và A-la-hán do sơ suất mà làm. Đó gọi là phạm do vô ký.
Nhớ nghĩ sám hối là: Nếu biết mà cố làm là nặng. Nếu ngu si không hiểu mà làm là nhẹ.
Phạm nặng thì sám hối trước một người, hoặc trước chúng Tăng, tội mới tiêu trừ. Phạm nhẹ thì tâm nghĩ, miệng nói, tội liền tiêu trừ. Đó là tội Đột-kiết-la, ác khẩu.
Tất cả những điều bất thiện đều phạm Đột-kiết-la. Đột-kiết-la còn gọi là ác tác.
Lấy y phấn tảo trên thi thể của người chết chưa bị hư rã, y phấn tảo trên tử thi đặt ngoài cửa, hoặc khoét vách tường vứt ra, y nằm trên hàng rào tưởng là y phấn tảo,... Lấy các loại y như vậy đều phạm tội nhẹ, tâm niệm sám hối, tội liền tiêu trừ. Đó là vi phạm do thân.
Nếu có vi phạm, khi thuyết giới không sám hối được, phải tự ghi nhớ, sau khi thuyết giới xong sẽ sám hối.
Có vi phạm do sơ suất thì tâm niệm tự trách, tội liền tiêu diệt. Đó là tội do không cố ý phạm các pháp Học.
Cố ý phạm mức thấp nhất là sám hối trước một người. Đó là tội nhẹ.
Cố phạm mức trung bình là tự tánh Thâu-lan-giá, Ba-dật-đề, Ba-la-đề-đề-xá-ni. Đó là phạm mức trung bình, phải sám hối trước một người.
Tội nặng là mười ba Tăng-tàn, Thâu-lan-giá gần Tăng-tàn, Thâu-lan-giá gần Ba-la-di. Đó là tội nặng trong số các tội có thể sám hối.
Tội không thể sám hối là: bốn tội Ba-la-di, tội Đột-kiết-la, Ba-dật-đề, Thâu-lan-giá. Đó là những tội không thể sám hối.
Nếu Tỳ-kheo cùng nhau tranh cãi, muốn trừ tội, trước hết phải sám hối với người đã tranh cãi với mình. Cũng như cỏ phủ trên bùn, gi-úp người đi qua không bị dơ bẩn, cũng vậy, cùng hòa hợp sám hối, che việc ác, phát sanh việc lành, sau đó mới sám hối tội đã vi phạm.
Yết-ma sám hối trừ tội đã nói ở đoạn trên.
Tỳ-ni diệt trừ tranh chấp ngôn tụng là: Đánh nhau, mạ nhục nhau gọi là chống đối. Tranh là bè nhóm giúp đỡ nhau gọi là tranh. Ngôn là nêu ra sự việc để phán đoán nên gọi là ngôn. Tụng là mỗi người nói ra sự lý phải trái.
Tranh chấp gồm có ba loại là: Thiện, ác, vô ký.
Lại phải xét xem việc tranh chấp đó do nhơn duyên gì mà phát sanh và sám hối làm sao để trừ diệt. Sự tranh chấp này phát sanh vào đầu đêm, giữa đêm hay cuối đêm. Phát sanh trước bữa ăn, sau bữa ăn hay giữa bữa ăn. Sự tranh chấp này có phải phát sanh sau hai đêm không? Có phải phát sanh vì pháp không? Hay phát sanh vì người?
Sự tranh chấp phát sanh vào đầu đêm là: Nước uống vào đầu đêm có người nói uống khi đã quá đầu đêm; có người nói không được uống, cho đến việc truyền Giới Cụ túc cho người cao, thấp, cho những người phi pháp thì có người nói được, có người nói không được và nhân đó phát sanh tranh chấp.
Tất cả những việc như vậy đều đã được nói trong phần phạm Luật ở trên.
Nhân duyên chính của việc tranh chấp này gồm có sáu, phân chia ra thì thành mười tám. Những gì là sáu?
Sân hận.
Não hại.
Xảo trá.
Keo kiệt, ganh ghét.
Kiến thủ.
Tà kiến, biên kiến.
Sân hận là sắc mặt biến đổi làm người ta sợ.
Não hại là có thể làm hại người khác, làm cho họ buồn rầu. Xảo trá là tâm không thật nên giả dối, làm không thật.
Keo kiệt, ghen ghét là tham vật ở trước mặt, không muốn cho người, đó gọi là keo kiệt.
Ganh ghét là thấy người khác đạt được thì buồn bực, đó là ganh ghét.
Kiến thủ là chấp chặt kiến thức của mình là đúng, kiến thức của người khác là sai, đó là kiến thủ.
Biên kiến là chấp sự tiếp nối là thường, chấp sự hoại diệt là đoạn. Tà kiến là hủy báng không có nhơn quả.
Đó là sáu chỗ phát sanh ra tranh chấp.
Mười tám loại phân biệt là: Phát sanh theo pháp, chẳng theo pháp... cho đến nói, chẳng nói. Mười tám loại trên làm phát sanh tranh chấp cho nên gọi là nguồn gốc của tranh chấp. Có hai nhân duyên làm cho sự tranh chấp này được trừ diệt: một là đối tượng phải có mặt, hai là phải truy tìm chỗ phát sanh.
Như nhóm sáu Tỳ-kheo ở thành Xá Vệ, đến tắm ở sông A-lê-bạt-đề, cởi y để trên bờ. Sau đó có Tỳ-kheo Ca-lưu-đà đến cởi y đặt trên y của nhóm sáu Tỳ-kheo. Đến khi trở lên, vị ấy không xem kỹ nên mặc y của nhóm sáu Tỳ-kheo đi. Nhóm sáu Tỳ-kheo phỉ báng: "Ca-lưu-đà lấy trộm y", liền làm yết-ma ở nơi vắng. Ca-lưu-đà phân vân nên đến hỏi Phật. Phật nói:
Lúc lấy y, ông lấy với tâm gì? Ca-lưu-đà nói:
Dạ, con tưởng của mình nên lấy. Đức Phật nói:
Nếu vậy thì không phạm tội lấy trộm.
Nhân đó Phật liền chế giới:
Từ nay trở đi phải đủ hai duyên: một là phải xem xét lý do, hai là phải có mặt đối tượng, sau đó mới làm Tỳ-ni diệt sự tranh chấp. Đó gọi là Tỳ-ni diệt tranh chấp.
Tỳ-ni đoạn trừ phiền não là: Tỳ-ni đoạn trừ kiết sử trói buộc ở cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc ở giai đoạn kiến đế và tu đạo. Đó là Tỳ-ni diệt trừ phiền não.
Kiết sử là đối tượng đi theo hành giả, không cho tu thiện, đó là ý nghĩa của kiết sử. Huân tập từ lâu xa đến nay rất khó xả bỏ, là nghĩa của kiết sử. Làm cho chúng ta chìm đắm trong đường ác, là nghĩa của kiết sử. Trói buộc hành giả trong đường sanh tử, là nghĩa của kiết sử. Làm cho con người thọ thân liên tục không dứt, là nghĩa của kiết sử; phiền não không dứt là nghĩa của kiết sử. Oan gia là nghĩa của kiết sử. Phương tiện không xả bỏ là nghĩa của kiết sử. Làm ác không dứt là nghĩa của kiết sử.
Mười kiết sử là: Sử kiến, sử nghi, sử giới thủ, sử dục nhiễm, sử sân hận, sử sắc nhiễm, sử vô sắc nhiễm, sử vô minh, sử mạn, sử trạo cử.
Triền phược là: Triền vô minh, triền sân hận, triền giải đãi, triền thùy miên, triền trạo cử, triền hối hận, triền nghi, triền phược về tự tham vật mình, triền phược về tham vật người khác. Từ những triền phược này sanh ra tranh chấp, tranh cãi, sau đó sanh tâm làm hại nhau, trói buộc hành giả không cho giải thoát. Đó là nghĩa của triền phược.
Lại nữa, triền phược là: Triền ngã kiến, triền nghi, triền giới thủ, triền dục, triền sân hận, triền xan tham, triền tật đố, triền vô minh, triền ngã mạn, triền trạo cử. Mười triền phược này chính là mười kiết cho nên gọi là triền phược.
Cõi Dục gồm mười hai nơi cư trú. Cõi Sắc gồm hai mươi hai nơi cư trú. Cõi Vô sắc gồm bốn nơi cư trú. Ở các nơi ấy, bậc Kiến đế đoạn trừ được thân kiến, giới thủ và nghi.
Người tu đạo đoạn trừ được là: làm mỏng bớt tham dục, sân hận và vô minh ở cõi Dục thì đắc quả Tư-đà-hàm; đoạn trừ hết tham dục, sân hận và vô minh thuộc cõi Dục thì đắc quả A-na-hàm; đoạn trừ hết tham dục và vô minh thuộc cõi Sắc và Vô sắc thì đắc quả A-la-hán.
Phải suy xét xem phiền não này phát sanh từ đâu và diệt đi ở nơi nào. Nơi phát sanh là nơi kiết sử phát khởi, sanh tâm đắm nhiễm, làm sanh ra tất cả phiền não.
Kiết sử phát sanh ở nơi nào?-Mắt thấy thân sắc, sanh tâm tham đắm, chấp là thường còn và chấp là ngã, cho đến ý pháp cũng vậy.
Ở bên ngoài là sáu trần, ở giữa là sáu thức, bên trong là sáu xúc, sáu thọ, sáu ái, sáu giác, sáu quán cho đến năm ấm, mười hai nhập, bốn đại, quyến thuộc của thức. Tâm ta quán sát những pháp này và chấp là ngã, là thường.
Nhân năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới phát sanh ngã, cho là thường còn nên có thể sanh ra kiết sử và tất cả các phiền não. Phiền não gồm năm trăm loại nên gọi là tất cả. Đó là nơi phát sanh. Nơi tiêu diệt là: Ở chỗ phiền não phát khởi, sanh ý tưởng cho đó là sai lầm, là tai họa. Khi mắt thấy sắc thân cho đến ý tiếp xúc với pháp đều quán vô thường, vô ngã. Đối với quyến thuộc của thức phải quán là vô thường, khổ, bệnh, ung nhọt, tên độc, vô ngã. Sau khi quán sát như vậy thì tất cả phiền não đều được dứt sạch. Đó gọi là nơi diệt trừ. Muốn dứt trừ phiền não phải thực hiện năm pháp quán là: quán hành vô thường, khổ, vô ngã, tịch diệt, không. Hành vô thường là niệm niệm không dừng, lại thêm bệnh hoạn, hư rã. Đó là vô thường.
Khổ là: như mụt nhọt, như bệnh, như mũi tên cắm vào tim, như vật bị hư rã sanh khổ. Đó là hành khổ.
Không là: Quán ngã và ngã sở đều như huyễn hóa, là pháp không thật. Đó là không.
Hành vô ngã là: Quán tất cả các pháp đều không có ngã. Quán hai hành vô thường và khổ là quán chung tất cả các pháp hữu lậu. Quán hai hành không và vô ngã là quán cả pháp hữu lậu, vô lậu.
Tịch diệt nghĩa là không có sanh tử biến đổi cho nên gọi là pháp tịch diệt.
Vì thế, hành giả phải thường để tâm đến năm pháp quán hành này. Cảnh giới được quán là năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới, mười hai nhân duyên, cho đến sáu niệm xứ, quán pháp thân tịch diệt niệm xứ, sổ tức niệm xứ, cho đến bốn vô lượng tâm niệm xứ, tưởng ăn đồ bất tịnh cho đến tưởng dứt đoạn. Những việc này có nói rõ trong kinh Tạp A Hàm.
Nếu quán tưởng bộ xương, quán tưởng hư rã thì từ chân đến đỉnh đầu phải quán bất tịnh cho đến tưởng hoại diệt. Đó là cảnh giới mà tâm duyên theo.
Nếu trụ vào ba môn Không, tùy theo dùng môn gì để quán sát mà đoạn trừ kiết sử thì đó gọi là ba môn giải thoát.
Hành giả trong khi Trụ Địa cần phải quán sát sáu địa:
Địa quán Bạch cốt.
Địa Tánh.
Địa Bát nhơn.
Địa Bạt.
Địa Ly dục.
Địa Dĩ tác. Đó là trụ địa.
Để đạt được Kiến Đế cần phải đoạn trừ sáu yếu tố sau:
1-Thân kiến. 2-Nghi.
Giới thủ.
Tham dục hướng về đường ác.
Sân hận hướng về đường ác.
Si mê hướng theo đường ác.
Những pháp mà bậc Tu đạo đoạn trừ là:
Dục nhiễm.
Sân hận.
Sắc nhiễm.
Vô sắc nhiễm. 5-Vô minh.
Mạn.
Trạo cử.
Đoạn trừ bảy phiền não này liền được chứng quả:
Đoạn trừ ba kiết sử thì chứng đắc Tu-đà-hoàn.
Do dục nhiễm, sân hận giảm bớt nên đắc Tưđà-hàm.
Đoạn trừ hết dục nhiễm, sân hận thì đắc A-nahàm.-Dứt tất cả kiết sử thì gọi là A-la-hán.
Vì thế, Ta nói: Đoạn trừ những thứ ấy thì đắc quả và dùng quả để phân biệt người. Do đắc quả Tu-đà-hoàn nên gọi là bậc Tu-đà-hoàn. Đắc quả Tư-đà-hàm thì được gọi là bậc Tư-đà-hàm. Đắc quả A-na-hàm thì gọi là bậc A-na-hàm. Đắc quả A-la-hán thì gọi là bậc A-la-hán. Đó gọi là nơi đoạn trừ.
Luật thọ Cụ túc của Tỳ-kheo là:
Hoặc thích hợp, hoặc không thích hợp, cho đến đúng kích cỡ.
Hoặc thích hợp, hoặc không thích hợp; hoặc được phép, hoặc không được phép.
Thích hợp, đúng kích cỡ thì được phép. Không thích hợp thì không được phép.
Có vi phạm, không vi phạm: Như pháp thì không phạm, không như pháp thì phạm.
Nên suy đoán lần lượt như vậy.
Về bình bát cho đến phòng ốc, thích hợp hay không thích hợp đã được nói ở văn trên.
Vật thích hợp với tất cả những người thọ Cụ túc là: Bình bát, túi đựng bát, giày da, ống đựng kim, đai ngồi thiền, cà-sa, dây nút, dây buộc thắt lưng, ống đựng thuốc nhỏ mắt, bình chứa thuốc, mũ đội đầu, đãy lọc nước..., những vật như vậy có vật thích hợp, có vật không thích hợp. Đó gọi là Tỳ-ni của Tỳ-kheo.
Tỳ-ni của Tỳ-kheo-ni là: Tỳ-kheo-ni thọ Cụ túc hoặc thích hợp, hoặc không thích hợp, nếu đúng kích cỡ thì không phạm, không đúng kích cỡ thì phạm cũng nên theo thứ lớp mà suy xét, từ bát cho đến phòng. Nếu các Tỳ-kheo-ni có được bát thì thọ trì một cái, nếu có dư thì phải tịnh thí, hoặc cho người khác ngay ngày đó.
Hoặc y hạ, hoặc áo lót đã được nói như trên.
Khăn che ghẻ cũng đã được nói trên.
Y tắm mưa cũng được nói như trên.
Từ y cho đến phòng ốc đều giống như trong kinh Tỳ-kheo đã nói.
Thức-xoa-ma-ni được tự lấy thức ăn. Hôm nay nhận, ngày hôm sau được ăn. Ngoài ra đều giống học pháp của đại Tỳ-kheo-ni. Đó là Tỳ-ni của Tỳ-kheo-ni.
Tỳ-ni Thiểu phần là Tỳ-kheo có hai trăm năm mươi pháp, Tỳ-kheo ni có năm trăm pháp. Thứcxoa-ma-ni có số pháp như đại Tỳ-kheo-ni nhưng trừ đi việc tự lấy thức ăn để ăn và thức ăn đã nhận để đến hôm sau vẫn được ăn. Sa-di ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đều tự có giới và đều là Tỳ-ni của họ. Đó là Tỳ-ni Thiểu phần.
Tỳ-ni Nhất thiết xứ là: Tất cả giới thuộc về thanh tịnh, Giới thuộc về Định, Giới thuộc về Trí tuệ, cần phải học. Tất cả các giới nhỏ đều cần phải thọ trì như giới trọng để cho Phạm hạnh được rốt ráo, giới Ba-la-đề-mộc-xoa được thanh tịnh. Tất cả hạnh lành của thân, hạnh lành của miệng, hạnh lành của ý phải tùy thuận với Chánh kiến cho đến Chánh định.
Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nên trừ bỏ tà dâm cho đến xa lìa sát sanh, tà kiến. Đó gọi là Giới của người thế tục. Nên tìm những nhóm phạm khinh hay trọng và nơi phát sanh, và nhóm đó có thể diệt hay không.