TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠP TẠNG

BỘ CHƯ TÔNG

SỐ 1861 - ĐẠI THỪA PHÁP UYỂN NGHĨA LÂM CHƯƠNG

Tác giả: Sa-môn Khuy Cơ

MỤC LỤC

SỐ 1861 - ĐẠI THỪA PHÁP UYỂN NGHĨA LÂM CHƯƠNG

QUYỂN 1

CHƯƠNG PHÂN ĐỊNH TỔNG QUÁT

CHƯƠNG NGŨ TÂM

QUYỂN 2

CHƯƠNG CHƯ TẠNG

THỨ NHẤT LÀ NÓI VỀ DUYÊN KHỞI KIẾT TẬP

THỨ HAI LÀ DANH SỐ THÊM BỚT:

THỨ BA, GIẢI THÍCH VỀ PHẾ, LẬP:

THỨ TƯ LÀ PHÁT RA THỂ:

THỨ NĂM LÀ GIẢI THÍCH VỀ DANH NGHĨA:

THỨ SÁU LÀ GIẢI THÍCH SỰ KHÁC NHAU:

THỨ BẢY LÀ TRÌNH BÀY PHẬT TỰ NÓI LOẠI BỘ CHUNG, RIÊNG:

THỨ TÁM, THẦY TRÒ KIẾN LẬP:

THỨ CHÍN, THỨ LỚP PHÂN BIỆT:

THỨ MƯỜI LÀ GIẢI THÍCH THÔNG SUỐT NGHI NGỜ, VẤN NẠN:

CHƯƠNG MƯỜI HAI PHẦN

-Thứ nhất, là nêu tên:

-Thứ hai, trong phần giải thích tướng:

-Thứ ba, là giải thích về tên gọi chung, riêng:

-Chung riêng thứ tư:

-Thứ năm, là bỏ lập:

-Thứ sáu, là tướng các tạng gồm thâu rộng hẹp:

-Thứ bảy, là phân biệt hỏi đáp:

CHƯƠNG ĐOẠN CHƯỚNG

-Thứ nhất, giải thích tên gọi: Chướng:

-Thứ hai, là nêu ra thể:

-Thứ ba, là y cứ vào thức phân biệt:

-Thứ tư, y cứ vào đạo để phân biệt:

-Thứ năm, y vào quán để phân biệt:

-Thứ sáu, y cứ vào hạnh để phân biệt:

-Thứ bảy, là dựa vào phẩm phân biệt:

-Thứ tám, là y cứ vào chướng để phân biệt: trong đó có chín:

-Thứ chín, là phân biệt sở y: (đối tượng nương tựa), trong đó có hai:

-Thứ mười, là hỏi đáp phân biệt:

QUYỂN 3

CHƯƠNG ĐẠI CHỦNG TẠO SẮC

-Giải thích về thể:

-Giải thích tên gọi:

-Năm nhân sinh v.v... để nói về tạp.

-Y cứ vào nhân duyên để nói về tạo:

-Đại tạo đồng, khác đối nhau để giải thích về tạo:

CHƯƠNG NĂM CĂN

CHƯƠNG BIỂU VÔ BIỂU SẮC

-Thứ nhất, là nói về tên gọi, ở trong đó có hai:

-Thứ hai, nêu ra thể:

-Thứ ba, là phân biệt giả, thật:

-Thứ tư, chi có đủ bao nhiêu:

-Thứ năm, giới hạn được, bỏ, trong đó có hai:

-Thứ sáu, y cứ vào địa "có" "không":

-Thứ bảy, là sở tạo của đại nào? Y cứ vào luận Hiển Dương rằng:

-Thứ tám, lẽ ra thành khác nhau, trong đó có hai:

-Thứ chín, là trước được, sau xả:

-Thứ mười là phân biệt hỏi đáp:

QUYỂN 4

CHƯƠNG QUY KÍNH:

I-Các giáo khác nhau:

II-Giải thích tên gọi khác nhau:

III-Nêu ra thể:

IV-Nói về ý kính:

V-Kính lễ hai thứ khác nhau của quy y:

VI-Giải thích các môn:

CHƯƠNG BỐN THỨ THỨC ĂN

-Thứ nhất, Giải thích tên gọi có hai:

-Thứ hai, là phát ra thể tánh:

-Thứ ba, là hiển tướng: Bốn thứ này, v.v…

-Thứ tư, là phế lập:

-Thứ năm, là các môn: trong đó có năm:

CHƯƠNG 62 KIẾN

-Thứ nhất, là nói về sở nhân, lược có hai nhân:

-Thứ hai là nói về danh tướng:

-Thứ ba, nêu ra thể tánh:

-Thứ tư là mê đế chung riêng:

-Thứ năm, là phân biệt hỏi đáp:

CHƯƠNG BÁT GIẢI THOÁT

1. Nêu ra tên gọi:

2. Biểu thị rõ hành tướng:

3. Phát ra thể tánh:

4. Giải thích tên:

5. Cảnh sở duyên (đối tượng duyên) giải thoát Sơ, Nhị, dùng tướng hiển sắc và tướng chân như làm cảnh sở duyên (đối tượng duyên).

6. Sự chứng đắc của phàm, Thánh:

7. Sự khác nhau của lìa chướng:

8. Y chỉ thân khởi:

9. Hai đắc:

10. Hữu lậu, vô lậu:

CHƯƠNG NHỊ CHẤP

QUYỂN 5

CHƯƠNG NHỊ THẬP THẤT HIỀN THÁNH

-Một. Giải thích danh nghĩa, trong đó có hai:

-Hai. Phát ra thể chung, riêng:

-Ba. Y chỉ môn địa của thân: trong đó có hai:

-Nói thứ tư là phế, lập:

-Thứ năm, là hỏi đáp, quyết định lựa chọn:

CHƯƠNG CỰC VI

I-Nói về duyên mắt:

II-Giải thích sai trái, vặn hỏi:

III-Nói thắng lợi:

CHƯƠNG SẮC CỦA QUẢ ĐỊNH CAO HƠN

1) Phàm, Thánh khởi:

2) Cảnh nhiều ít:

3) Đại chủng sở tạo:

CHƯƠNG THẬP NHÂN

QUYỂN 6

TAM BẢO NGHĨA LÂM

-Thứ Nhất, Nói về chủng loại:

-Thứ hai, là nêu ra thể tánh:

-Thứ ba, là giải thích tên gọi:

-Thứ tư, Nói về phế, lập:

-Thứ Năm, Nói rõ sự khác nhau:

-Thứ sáu, Giải thích trở ngại, vặn hỏi:

PHÁ MA LA NGHĨA LÂM:

NGHĨA LÂM BA TUỆ.

NGHĨA LÂM BA LUÂN

QUYỂN 7

NGHĨA LÂM BA THÂN

CHƯƠNG PHẬT ĐỘ


QUYỂN 1

CHƯƠNG PHÂN ĐỊNH TỔNG QUÁT

Thứ nhất là, giải thích tổng quát về nghiệp, tông, thể, danh của các giáo, qua đó, lược dùng năm môn để phân biệt:

1. Lợi ích của giáo có khác.

2. Sự khác nhau giữa thời gian, lợi ích.

3. Giải thích về tông đều khác.

4. Thể tánh khác nhau.

5. Được gọi tên cách xa nhau.

Thứ nhất là lợi ích của giáo có khác, lại chia làm hai: Đầu tiên, nói về lợi ích của pháp luân; sau phân biệt lợi ích của nghĩa.

Trong phần nói về lợi ích của pháp luân, lại chia làm hai: Trước, nói về chấp khác nhau, sau nói về Đại thừa.

Nói về chấp khác nhau: Đa văn bộ; Tát-bà-đa bộ; Tuyết chuyển bộ; Độc tử bộ; Pháp Thượng bộ; Hiền vị bộ; Chánh lượng bộ; Mật lâm Sơn bộ; Hóa địa bộ; Kinh lượng bộ, cả mười bộ đồng nói. Chẳng phải lời của chư Phật đều vì lợi ích, mà chủ yếu là hợp với căn cơ chúng sinh, vì với tâm nhập đạo, gọi là lợi ích, nên chỉ có tám Thánh đạo là Chánh pháp luân.

Bầu bánh xe, lưới, nan bánh xe, phá dẹp trọn vẹn phiền não, gọi là luân, nên Thế Hữu nói: "Chẳng phải ngữ Như Lai, đều vì xoay bánh xe pháp", mà Đức Thế Tôn nói: "Cũng có khi không đúng như nghĩa, giảng giải giáo của tám chánh đạo, vì cảnh của tám đạo, cũng gọi là pháp luân. Công đức và giáo khác, mặc dù gọi Thánh giáo, nhưng không gọi là bánh xe pháp". Như hỏi: "Có chúc mừng trời mưa hay không?" Hỏi: "Này các Tỳ-kheo! Các thầy khất thực, có được dễ dàng không? Sức khỏe có yên ổn không? Đây là lợi ích gì? Xoay bánh xe pháp nào?".

Nên trong các kinh dù có bày ra Phật ngữ, có lợi ích hay không mà chẳng phải bánh xe pháp, như nói: "Nghịch hại cha, mẹ v.v... Nói giáo này cần gì đúng như nghĩa, nên Đức Phật cũng có lời nói không đúng như nghĩa.

Mười bộ này, nói chung các kinh có khi không như nghĩa mà nói giả dối. Có khi không phải bánh xe pháp mà không có lợi ích. Đại chúng bộ; Nhất thuyết bộ; Thuyết xuất thế bộ; Kê dẫn bộ; Thuyết giả bộ; Chế đa sơn bộ; Tây Sơn Trụ bộ; Bắc sơn trụ bộ; Pháp tạng bộ; Ẩm quang bộ, mười bộ đồng nói tất cả ngữ của Phật đều là lợi ích. Lời nói của Như Lai đều đúng như nghĩa, chẳng phải chỉ có tám Thánh đạo là bánh xe chánh pháp. Tất cả công đức có công năng dẹp trừ các "hoặc" đều gọi là pháp luân, tất cả giáo pháp luân nhân cảnh, đều gọi là pháp luân. Tông luận, luận thuyết, ngữ của các Như Lai đều là xoay bánh xe pháp, vì chiết phục, chuyển động, nên gọi là luân. Ngữ Phật chuyển động ở thân người khác, đã hàng phục "hoặc" v.v..., vô tri của thân người khác, nên hiệu là Luân, như hỏi: "có vui mừng vì trời mưa hay không?"

"Vì khiến A-nan xem xét sự đế nên Đức Phật đều biết, còn hỏi trời mưa, huống chi trí chưa viên, mà không xem xét ư?"

- "Cũng vì trừ tăng thượng mạn của người khác, nên Đức Phật đã biết mà vẫn hỏi, huống chi người không biết, đối với pháp khác chưa rõ mà không xem xét đế. Do nghĩa nhiều này, nên hỏi "trời mưa". Đức Phật thể hiện rõ từ bi, khiến người khác nhập đạo".

Hỏi: "Tỳ-kheo v.v... khất thực có dễ dàng không?" Khiến sinh tâm vui mừng, hăng hái tu đạo. Đức Phật kia chúc mừng thương xót hỏi, thêm siêng năng tu học, cũng khiến cho Tỳ-kheo ở đời vị lai, tu tập việc này, thuận theo thế tục, nhưng dùng ái làm mẹ, dùng nghiệp làm cha; hữu, thủ, thức làm vua, hai thủ giới, kiến làm hai học rộng.

Sáu xứ bên trong là người trong nước; sáu cảnh bên ngoài là súc sinh đi theo có khả năng giết hại, dứt trừ này, gọi là thanh tịnh, vì lời nói ác của đời, chuyển vận nghĩa trội hơn rõ ràng, chẳng phải hại mẹ ruột, v.v... cần gì không như nói, nên Đức Phật nói: "Tất cả ba tạng đều xoay bánh xe pháp, đều làm lợi ích, đều đúng như nghĩa, không có lời nói giả dối. Ở đây đầu tiên là nói chấp khác.

Nói về Đại thừa: Dù không có chánh văn nói là ngữ của Phật nhưng đều đúng như nghĩa, đều xoay bánh xe pháp. Nhưng chánh pháp luân chỉ cho tám Thánh đạo, còn lại tuy chẳng phải chính là giúp sức cho pháp luân, kinh Vô Cấu Xưng, ba lần xoay bánh xe pháp luân ở cõi đại thiên v.v... Pháp Hoa lại nói: "Tức hướng về thành Ba-la-nại, xoay bánh xe pháp bốn đế. Lại luận Du-già, quyển 95 chép: "Đức Phật chuyển ba lần bánh xe pháp mười hai hành tướng rất sâu, trong ba vị vô học kiến tu, như thứ lớp đó, thị hiện tướng mạo khuyên tu, tác chứng, quán ở cảnh bốn Thánh đế, sinh ra tuệ nhãn của bậc Thánh, đều ở đời quá khứ, vị lai, hiện tại. Như thứ lớp sinh trí nhãn, giác biết sáng suốt chân trí vô lậu, chủ thể đoạn đối tượng thích ứng; vì dứt hẳn phiền não, nên tám Thánh đạo là chánh pháp luân. Kinh Vô Cấu Xưng, quyển năm chép: Phật bảo A-nan, nói một cách tóm tắt, oai nghi đi, đứng, thọ dụng, làm việc mà chư Phật đã có, đều khiến cho điều phục hữu tình đã hóa độ. Cho nên, tất cả đều gọi là Phật sự.

Nói bầu, lưới tay, nan xe có khác nhau; chánh pháp luân của Phật chỉ cho tám Thánh đạo. Các công đức khác là giúp đỡ xoay bánh xe pháp, dẹp trừ, chế phục, động chuyển là nghĩa Luân. Quyển thứ mười bốn trong kinh Niết-bàn nói: "Lại nữa, người thiện nam, chư Phật, Thế Tôn hễ có nói ra lời gì, đều gọi là xoay bánh xe pháp. Này người thiện nam! Ví dụ như tất cả xe báu của Thánh vương, kẻ chưa hàng phục thì khiến hàng phục; người đã hàng phục, có thể khiến cho được yên ổn. Thông thường, pháp mà Phật, Thế Tôn nói ra, cũng giống như thế. Người mà vô lượng phiền não chưa điều phục, thì khiến cho điều phục; người đã được điều phục, thì khiến sinh ra gốc lành, cho đến nói rộng", cho nên thân, ngữ của Phật, hễ có vận động, đều vì lợi ích, nên biết Phật ngữ đều gọi là pháp luân. Tóm lại, pháp luân có năm:

1. Thể của pháp luân, là tám Thánh đạo.

2. Cảnh của pháp luân, là lý bốn đế, v.v...

Quyến thuộc của pháp luân: là công đức v.v... của năm uẩn khác.

4. Nhân của pháp luân: Nghĩa là giáo và ba tuệ, v.v...

5. Quả của pháp luân: là Bồ-đề, Niết-bàn. Như chương Pháp luân có nói rộng.

Tất cả Phật ngữ đều là lợi ích, khiến cho hữu tình khác hoặc gần, hoặc xa năng sinh ra chân trí, dẹp tan, chế phục thù oán, tất cả hai chướng, nên lời Phật nói, đều gọi là pháp luân; bẻ gãy chế phục, dời động là nghĩa luân. Vì thuyết Phật nói thường hợp với đạo lý, không thể lập câu hỏi, vì lìa bốn lỗi:

1. Không có phi xứ.

2. Không có phi thời.

3. Không có phi khí.

4. Không có phi pháp.

Xứ, nghĩa là nơi chốn, ứng với chỗ lợi ích; chủ thể hóa độ, đối tượng hóa độ, đáng lợi ích ở đây, tất nhiên, là làm lợi ích trong đó.

Thời, nghĩa là thời phần, thời tiết lợi ích. Sự sinh này, xứ này, thời điểm này, hợp với ích, hợp với thời phần mà nói, tất nhiên không mất. Khí, là cơ khí, đồ đựng căn cơ, căn cơ của đối tượng hòa hợp nhau.

Vì ứng với căn cơ mà nói, không có sai lầm. Pháp, nghĩa là giáo pháp, giới, định, tuệ... thích ứng với pháp lợi ích, pháp này có thể làm lợi ích, phải hợp với căn cơ, không có sơ loạn. Do đạo lý này, so sánh mà biết, ngữ Phật đều vì hữu tình. Hoặc gần, hoặc xa, sinh ra trí vô lậu. Cho nên, tất cả giáo pháp ba tạng, hoặc cong vạy, hoặc ngay thẳng, đều gọi là pháp luân, đều là nghĩa như, đều là lợi ích, không có lời hư dối. Hỏi về trời mưa, v.v… như trước đã nói đều vì lợi ích, vì ngôn thô tế ngữ quy về thắng nghĩa.

Từ trên đến đây, đều là lợi ích của pháp luân sáng suốt ban đầu.

Nói về ý nghĩa lợi ích: trong đó lại có hai: Trước giải thích về chấp khác nhau, sau, giải thích về Đại thừa.

Trước giải thích về chấp khác: Mười bộ như bộ Tát-bà-đa v.v... đồng nói. Kinh do Phật nói, chẳng phải đều là liễu nghĩa. Đức Phật tự nói có kinh không liễu nghĩa, như Khế kinh nói: "Không tin, không biết ơn, đoạn mật, không có chỗ chấp nhận; thường ăn cái do con người mửa ra, là trượng phu trên hết". Đó gọi là không liễu nghĩa.

Cho nên tất cả kinh có không liễu nghĩa, mười bộ, như đại chúng bộ v.v... đồng nói: "Kinh Phật nói, đều là liễu nghĩa, vì khế hợp với đạo lý, đều là pháp luân".

- "Kinh Mật Ngữ kia có liễu nghĩa nào?"

"Tự chứng đế ý, không tin lời người khác nói, biết được viên tịch; biết chẳng phải ơn, nên gọi là "không biết ơn". Bỏ hẳn nghiệp sau, gọi là "đoạn mật". Quả vị lai bất sinh, là không có chỗ chấp nhận. Mặc dù tiếp nhận tiền của, dụng cụ, nhưng cũng như ăn đồ mửa ra. Người hành động như thế, gọi là Trượng phu trên."

- Đã khế hợp với chánh lý, sao không phải liễu nghĩa?"

- "Nghĩa kinh khác, so sánh với kinh này, nên biết."

- "Đã thế, sao trong bốn y nói: "Khuyên các đệ tử nên y chỉ liễu nghĩa, nghĩa là khuyên các đệ tử kia nên dựa vào ngôn giáo liễu nghĩa mà Đức Thế Tôn đã nói, không cho đệ tử dựa vào ngoại đạo kia nói kinh không liễu nghĩa, vì chẳng phải kinh Phật này có nghĩa không liễu, đây tức là chấp khác đã giải thích ở trước."

Giải thích về Đại thừa: kinh Niết-bàn quyển sáu nói: "Pháp Thanh văn thừa, giống như đầu tiên chưa được quả chắc thật, thành ra không nên nương tựa thừa Thanh văn". Như thế, gọi là không liễu nghĩa. Pháp Đại thừa thì nên y chỉ, gọi là liễu nghĩa.

Nếu y cứ vào lý này thì các kinh Đại thừa đều gọi là liễu nghĩa; Thanh văn thừa v.v... gọi là không liễu nghĩa. Nhưng quyển 45 luận Du-già chép: "Thế nào là Bồ-tát tu bốn y chánh. Nghĩa là các Bồ-tát ở chỗ Như Lai, trồng sâu chánh tín, trồng sâu thanh tịnh, hoàn toàn lóng trong, chỉ dựa vào kinh điển liễu nghĩa của Như Lai, chẳng phải không liễu nghĩa, vì kinh sách liễu nghĩa là đối tượng nương tựa, nên đối với Tỳ-nại-da, pháp mà Phật đã nói, không thể dẫn đoạt, vì rộng như kia nói, vì thế trong Đại thừa nên nói: "Phật nói giáo pháp ba tạng có bất liễu nghĩa, để khuyên chúng ta nên y cứ vào kinh liễu nghĩa"."

- "Đã thế, sao kinh Niết-bàn nói: Kinh điển Đại thừa gọi là liễu nghĩa?"

- "Lý này không đúng."

- "Há các kinh Đại thừa đều là liễu nghĩa?". "Như Khế kinh nói: "Dâm dục tức là đạo, giác biết không cứng chắc là cứng chắc". Lại, nói các pháp đều vô sinh, vô diệt, Nghĩa Thú kinh ẩn Mật." Lại, Du-già chép: "Giáo bất liễu nghĩa, gọi là kinh, Khế kinh, Ưng tụng, ký biệt, v.v..."

- "Há trong kinh Đại thừa, không có Khế kinh, v.v...?"

- Lại nói: "Bồ-tát Uẩn-Ban-Đà-San có nhung ni v.v..., nên kinh Đại thừa chẳng phải đều liễu nghĩa".

Do lý như thế, dù không có chánh văn, nhưng nay, dùng nghĩa để giải thích nghĩa liễu, không liễu, lược có bốn lớp:

1. Pháp ấn chẳng phải ấn môn.

2. Giải thích các môn thường, phi thường.

3. Hiểu rõ môn ẩn mật.

4. Môn ngôn lược, ngữ rộng.

-Pháp ấn chẳng phải ấn môn: Pháp ấn có ba:

1/ Các hành vô thường.

2/ Niết-bàn vắng lặng.

3/ Các pháp vô ngã.

Hoặc nói: "Bốn Ổ-đà-nam thêm hữu lậu đều khổ. Nếu tất cả giáo vì ba thứ lý ấn, đối tượng ấn v.v..., gọi là liễu nghĩa thì sẽ trái với ba pháp ấn,... chẳng phải là kinh liễu nghĩa."

Do đạo lý này, ba tạng, Nhị thừa, mười hai phần giáo, đều là liễu nghĩa, vì xả bỏ nghiệp phiền não và khổ, nên giáo của các ngoại đạo vì chẳng phải kinh liễu nghĩa, nên không thể bò vĩnh viễn hoặc, nghiệp, khổ. Vì thế, nên luận Du-già quyển 64 chép: "Quy y có bao nhiêu? Vì sao chỉ có quy y ngần ấy? Quy y có ba, nghĩa là Phật, Pháp, Tăng.

Vì bốn duyên, nên có quy y ngần ấy:

1) Do tánh Như Lai đều nhu thiện, cho đến nói rộng. Do Phật như thế, Tỳ-nại-da, pháp do Phật đã nói kia, cũng có thể quy y. Kinh Niết-bàn chép: "Ngôn thuyết mà tất cả ngoại đạo nói, đều là những lời giả dối, nên chỉ Phật giáo là kinh liễu nghĩa, vì thuận với ba pháp ấn v.v... đáng quy y. Giáo của các ngoại đạo chẳng phải lời nói liễu nghĩa, vì trái với ba pháp ấn v.v..., nên không đáng quy y. Dù có Thánh giáo chỉ nói Phật giáo là lời nói liễu nghĩa; còn thuyết của ngoại đạo nói, gọi phi liễu nghĩa, vì môn này đi suốt qua chẳng phải trong Phật giáo, vì chỉ liễu nghĩa, nên giải thích môn thường, phi thường, như kinh Niết-bàn quyển sáu chép: "Lại, Thanh văn thừa gọi là bất liễu nghĩa; Đại thừa Vô thượng mới gọi là liễu nghĩa".

Nếu nói "Như Lai vô thường, thay đổi", thì gọi là bất liễu nghĩa. Nếu nói: "Như Lai thường trụ, không thay đổi, thì gọi là Liễu nghĩa".

-Ý kinh này nói: "Nếu trong kinh nói: "Phật là pháp thân thường trụ, không thay đổi, gọi là Liễu nghĩa"; mâu thuẫn với đây, thì gọi là bất liễu nghĩa."

Kinh Giải Thâm Mật, Du-già Quyết Trạch quyển 76 chép: "Xưa kia, Đức Thế Tôn chỉ vì người phát tâm thú hướng Thanh văn thừa, nên dùng tướng bốn đế để xoay bánh xe chánh pháp, dù là sự kiện ít có, mầu nhiệm, nhưng còn có trên, là chưa liễu nghĩa, tức đủ chứng tỏ Đại thừa là kinh điển liễu nghĩa, giáo Thanh văn thừa, gọi phi liễu nghĩa".

Trong đây, một khi y cứ vào Đại thừa, để thuyết minh gọi là liễu nghĩa, chứ không phải các Đại thừa đều là liễu nghĩa, kinh Thanh văn thừa đều không có liễu nghĩa. Như thứ lớp, sẽ dẫn văn chứng như thế, nên y cứ vào Niết-bàn để giải thích chân thường của Phật, gọi là liễu nghĩa; giải thích Phật chẳng phải thường, gọi là phi liễu nghĩa.

Về môn hiển liễu, hiển mật: luận Du-già quyển 45 chép: "Lại, các Bồ-tát ở chỗ Như Lai, trồng sâu chánh tín, trồng sâu thanh tịnh, hoàn toàn lóng trong, chỉ y chỉ kinh điển liễu nghĩa của Như Lai, chẳng phải không liễu nghĩa, vì kinh điển liễu nghĩa làm đối tượng nương tựa. Pháp Tỳ-nại-da do Phật nói, không thể dẫn đoạt, vì kinh bất liễu nghĩa do Phật nói, là y cứ vào các môn, nhằm giải thích về nghĩa bổn tánh, cũng chưa quyết định, còn sinh nghi "ngờ", vì chẳng phải liễu nghĩa, tức dựa vào văn này, hiểu rõ ngôn, giáo trong Đại thừa, gọi là liễu nghĩa; Ngôn, giáo ẩn mật, chẳng phải kinh liễu nghĩa. Kinh Giải Thâm Mật, và Quyết Trạch Phần có thuyết này: "Thuở xưa, Đức Thế Tôn, trong thời thứ hai, chỉ vì người phát tâm thú hướng Đại thừa, y cứ tất cả pháp đều không có tự tánh, không có sinh, không có diệt, dùng tướng mạo ẩn mật để xoay bánh xe chánh pháp; mặc dù rất ít có, mầu nhiệm, nhưng còn hữu thượng, cũng chưa liễu nghĩa, tức là nói "tất cả tánh đều trống rỗng, giáo của ba vô tánh, gọi là phi liễu nghĩa".

Luận Thành Duy thức quyển 9 chép: "Cho nên Phật mật ý nói: "Tất cả pháp đều vô tự tánh". Chẳng phải tánh hoàn toàn vô. Nói lời mật ý, là nói lên chẳng phải liễu nghĩa. Vì thế, nên kinh Đại thừa nói: "Ngôn của các pháp tướng chẳng phải hiển liễu, vì đối tượng giải thích không cuối cùng, nên gọi là không liễu nghĩa. Nếu ngôn hiển liễu, lý rốt ráo của đối tượng giải thích, thì gọi là kinh liễu nghĩa. Đây là y ăn cứ vào chủ thể giải thích, nhằm nói rõ không có liễu nghĩa của tên khác." Môn ngôn lược, ngữ rộng: Du-già quyết trạch quyển 64 chép: "Kinh bất liễu nghĩa, gọi là các giáo: Khế kinh, Ưng tụng, Ký biệt v.v...,

Đức Thế Tôn nói lược, nghĩa ấy chưa liễu, nên lại sẽ giải thích."

Giáo liễu nghĩa mâu thuẫn với bất liễu nghĩa này, nên biết tướng liễu nghĩa kia, ý trong đây nói: "Dù là giáo rõ ràng, sáng suốt của Đại thừa, nhưng đầu tiên, chỉ nói lược về lý chưa tường tận; đối tượng thuyết minh chưa phổ biến cùng khắp, gọi là bất liễu, chẳng phải là đối tượng giải thích, chẳng phải lý rốt ráo, gọi là bất liễu.

Do đây, tức chứng tỏ các thừa Thanh văn cũng có liễu nghĩa, trừ Khế kinh v.v..., tự thuyết khác, vì ngữ đủ rộng, nên gọi là kinh liễu nghĩa. Giáo rõ ràng sáng suốt trong Đại thừa; pháp thuyết trong Khế kinh v.v..., vì ngôn lược, ngữ chưa rộng, nên cũng có không liễu.

Ở đây, y cứ vào phần nói về nghĩa, ngôn có rộng, lược, gọi là liễu, bất liễu. Chẳng phải y cứ đối tượng giải thích lý là rốt ráo, chẳng phải rốt ráo, gọi liễu, bất liễu, trong đây thứ nhất, là vì muốn cho hữu tình bỏ tà, về chánh, nên gọi là liễu, bất liễu. Tất cả kinh Phật đều gọi là liễu nghĩa, thuyết ngoại đạo gọi là bất liễu.

Thứ hai, vì khiến hữu tình bỏ Tiểu về Đại, nên gọi là liễu, bất liễu. Tất cả Đại thừa đều gọi là liễu nghĩa, các giáo Tiểu thừa gọi là bất liễu.

Thứ ba, vì khiến bỏ ẩn, về hiển, gọi là liễu, bất liễu. Tất cả ngôn giáo hiển liễu của Đại thừa, đều gọi là liễu, là pháp mà Đại thừa nói ẩn mật, nên gọi là bất liễu.

Thứ tư, vì muốn cho hữu tình biết pháp rộng lược, nên gọi là liễu, bất liễu. Các kinh, trùng tụng, ngôn lược không tường tận, đều gọi là bất liễu; chẳng phải kinh trùng tụng, vì lời nói rộng, tường tận, nên gọi là liễu.

Dùng nghĩa liễu, bất liễu của bốn môn này, nhằm giải thích tất cả ngôn, giáo liễu, bất liễu, nên kinh Đại thừa dù đều gọi là liễu, nhưng trong đó, lại nên lấy, bỏ, khuyên các đệ tử y chỉ liễu nghĩa. Thuận theo đối tượng thích hợp của chúng, sẽ suy nghĩ, lựa chọn rộng, thuận theo giáo đã giảng, phải nên phối hợp.

Từ trước đến nay, đều bàn về lợi ích của giáo có khác.

Thứ hai, là sự khác nhau của lợi ích và thời gian. Lại được chia làm hai: Đầu tiên, bày ra thuyết xưa; sau, là thuật lại văn hiện nay. Trong bày ra thuyết xưa lại chia làm hai: Trước, nêu bày thuyết xưa nói, sau bày ra chỗ sai của thuyết đó.

Bày ra thuyết xưa: Đời Hậu ngụy, có Pháp sư Bồ-đề-Lưu-Chi, Hán dịch là Giác ái, chỉ lập một thời giáo. Phật được tự tại, đều chẳng khởi tâm, có nói, không nói, chỉ vì chúng sinh có cảm, trong tất cả thời gian, nói tất cả pháp. Ví như nhạc trời, thuận theo sự nghĩ nhớ của chúng sinh, phát ra các thứ âm thanh, cũng như Mạt-ni tùy ý mong cầu mưa xuống các thứ châu báu.

Kinh Hoa Nghiêm chép: "Trong một ngữ của Như Lai, giảng nói vô biên biển Khế kinh."

Kinh Duy-ma chép: "Đức Phật dùng một thứ tiếng để nói pháp, chúng sinh tùy loài, đều được hiểu. Hoặc có chúng sinh e sợ, hoặc tỏ vẻ vui mừng; hoặc sinh ý tưởng chán lìa; hoặc dứt nghi nên không có một giáo nhất định là Đốn, nhất định là Tiệm. Lại, kinh Vô Lượng Nghĩa chép: "Từ khi ta đắc đạo đến nay, suốt hơn bốn mươi năm, thường nói các pháp bất sinh, bất diệt, không đi, không đến, không có bên này, không có bên kia, không có được, không có mất. Một tướng, vô tướng, chỉ do chúng sinh tỏ ngộ, hiểu biết khác nhau, được các quả khác nhau". Kinh Pháp Hoa cũng chép: "Một cơn mưa, thấm nhuần khắp ba thứ cỏ, hai giống cây sinh trưởng khác nhau".

Kinh Ưu-bà-tắc chép: "Ba con thú lội qua sông, vì cạn, sâu, mà trở thành khác nhau, nên biết các giáo chỉ chung một thời, không có hai, ba v.v... Lại, từ xưa đến nay, các đại đức lập hai giáo có Đốn

Tiệm, vì rễ lớn, cọng to của các Bồ-tát. Nói kinh Hoa Nghiêm, Lăng-Già, Đại Vân, Pháp Cổ,

Thắng-Man v.v..., trong một hội, nói về hai đế lý, đều gọi là Đốn. Vì Đại chẳng do Tiểu khởi, nên gọi Đốn. Bắt đầu tứ khi Phật ngồi dưới cội cây Bồ-đề, cho đến thị tịch tại song lâm, từ cạn đến sâu, dần dần nói pháp: Nhân quả, ba quy, năm giới, mười điều lành, v.v... Ba thừa có giáo: Kinh A-hàm..., Duy-Ma tư duy giáo "không" của phẩm Đại ích. Nhất thừa của Pháp Hoa; Niết-bàn v.v... nói về Phật tánh thường trụ, đều là giáo Tiệm, hội thông ba thừa, Đại do tiểu khởi gọi là Tiệm.

Lại, Pháp sư Bồ-đề-lưu-chi cũng lập hai thời giáo. Kinh Lăng-Già nói: "Tiệm, Đốn (tức khắc), bất luận Thanh văn, hay Bồ-tát, vì đều tu hành dần dần, từ cạn đến sâu, gọi là Tiệm.

Đốn: Như Lai có khen ngợi giảng nói tức khắc tất cả pháp trong cùng một thời gian, gọi là Đốn.

Lại có hai giáo:

1/ Bán giáo.

2/ Mãn giáo.

Kinh Niết-bàn chép: "Đâu hiểu nghĩa chữ bán và chữ mãn". Lại nói: "Vì Thanh văn thừa mà nói chữ "bán"; vì Bồ-tát thừa mà nói chữ "mãn"."

Lại, kinh Thắng-man chép: "Bốn Thánh đế hữu tác, bốn Thánh đế vô tác. Thanh văn biết hữu tác, Phật biết vô tác".

Du-già v.v... chép: "An lập đế chẳng phải an lập đế, chỉ nói "an lập", gọi là giáo một nửa, nói chung, "chẳng phải an lập", gọi là giáo mãn. Lại, có hai giáo:

1) Giáo sinh không.

2) Giáo pháp không.

Luận Nhị Thập Duy Thức chép: "Nương tựa giáo này, hay nhập, tự tướng nhận lấy thú hướng về vô ngã. Chấp pháp vô ngã, lại do giáo khác nhập. Ở đây, dùng hai không, hai đế để nói về bán, mãn. Lại, có hai giáo:

1/ Thắng nghĩa đế. 2/ Thế tục đế.

"Đời Tấn, có ẩn sĩ Lưu Cầu lập ra năm thời giáo".

Hoặc có thuyết nói: "Chân đế Tam Tạng lập ra năm thời giáo. Nhưng Pháp sư Bồ-đề-Lưu-chi lập sớ văn riêng để phá. Chân Đế đời Lương; Lưu-Chi đời Ngụy, nên biết chẳng phải là chân đế v.v... tạo lập.

Thời giáo thứ nhất: lúc mới thành đạo, Phật vì năm trăm người đi buôn: Đề-vị, ba-lợi v.v..., chỉ nói ba quy, năm giới, mười điều lành, giáo nhân quả thế gian, tức kinh bổn hành nói năm giới cho Đề-vị..., vì chưa có căn khí xuất thế gian.

Thời giáo thứ hai: Phật thành đạo xong, ngoài hai mươi mốt ngày, trong mười hai năm, chỉ nói về giáo hữu hành của ba thừa, chưa vì nói "không", tức các kinh Tiểu thừa: như A-hàm, v.v...

Thời giáo thứ ba: Đức Phật thành đạo rồi, trong ba mươi năm, nói về giáo đồng hành không giáo của ba thừa kia, tức kinh Duy-ma, Tư Ích, Đại Phẩm, v.v...

Thời giáo thứ tư: Phật thành tựu xong, trong bốn mươi năm, nói có một thừa, cũng chưa giảng nói rõ ràng về Phật tánh thường trụ có thật, vẫn còn nói Phật vô thường, nhằm nói lên quả Phật Nhất thừa, dùng làm chân thật, tức kinh Pháp Hoa. Vì trước kia chưa nói nghĩa Nhất thừa, nên trong đây, cũng chưa giảng nói rõ ràng về Phật tánh thường trụ.

Thời giáo thứ năm: Nghĩa là trong song lâm, Phật, nói các chúng sinh đều có Phật tánh, Phật giáo thường trụ, tức kinh Niết-bàn, kinh Đại Bi, v.v...

Ở đây dù như vậy, nhưng không có văn thành thật của kinh, luận để nói, thì cũng chưa thể dựa vào đức tin.

Từ trên đến đây, đều là bày ra thuyết xưa. Bày ra sự sai quấy của thuyết xưa, chỉ như Pháp sư Bồđề-Lưu-Chi thứ nhất, chỉ lập một thời giáo, nghĩa là nếu bỏ sự, bàn về lý và ở một hội có căn cơ đại, tiểu, thì có thể như đã nói; còn nếu chỉ cùng khắp căn cơ đại, như kinh Thắng-man, hoặc chỉ cùng khắp Tiểu, như kinh Di Giáo. Hoặc đầu tiên có đại, không có tiểu, như kinh Hoa Nghiêm, cho đến phẩm nhập pháp giới, mới có Thanh văn.

Đầu tiên, có Tiểu không có Đại, dù chưa thấy lý văn, tất nhiên nên như thế, như loại giáo nghĩa ở đây v.v... rất nhiều. Hoặc có các kinh toàn phần, nhiều phần giáo Đại, Tiểu khác nhau, lời nói chỉ một thời sâu thẳm vì lượn sóng dữ.

- "Há không có hội phát tức khắc tâm của ba thừa và không có người dần dần nhập vào Đại thừa?"

- "Thứ hai là người xưa nói có tức khắc, dần dần. Về lý dù có thể như thế, nhưng phán quyết nhất định thì các kinh là đốn, tiệm, về nghĩa rất khó hiểu, chỉ như phẩm Nhập Pháp Giới trong kinh Hoa Nghiêm, năm trăm Thanh văn ngồi trong hội, liệt kê danh, khen ngợi đức. Lại, Xá-lợi-phất dẫn sáu ngàn vị đệ tử từ phòng mình đi ra. Văn-thù-sưlợi nói cho nghe mười pháp, tức phát tâm Chánh đẳng giác Vô thượng. Trong kinh Lăng-già cũng đặt Thanh văn ngồi trong hội. Dụ người nghèo nói trong kinh Pháp Cổ, đồng với phẩm Tín giải trong kinh Pháp Hoa. Kinh Thắng-man nói nghĩa Nhất thừa của ba thứ ý sinh thân. Nhiếp Đại Thừa chép: "Vì dẫn nhiếp tánh không nhất định của một loại, nên chẳng phải vì Đốn giáo, kinh Hoa Nghiêm, v.v... chưa hẳn từ đầu đến cuối đều vì khắp căn hạnh đại thừa mà nói, đều gọi là đốn, quyết định nói kinh mà năm thời giáo đã nói, là tiệm giáo. Sau đây, sẽ trình bày ra chỗ sai:

Thứ ba, lại Pháp sư Bồ-đề-Lưu-Chi y cứ kinh Lăng-già lập ra hai giáo: Đốn, Tiệm. Điều này cũng không hợp lý, vì kinh kia do Phật năng thuyết pháp đốn, dùng nói là Đốn; do người ba thừa tu học dần dần, gọi đó là Tiệm, do hành vi dần dần, chẳng phải thời điểm y cứ ở giáo, cũng không thể nhận lấy. Lại, thời giáo thứ tư, y cứ kinh Niết-bàn v.v... lập ra giáo bản, mãn, sư kia đều y cứ ở lý đã nói có tường tận, không tường tận. Do nói Bán, Mãn không nhất định, dựa vào cơ nghi đi thẳng vào pháp hội, để nói về bán, mãn.

Thời giáo thứ năm: Lưu Cầu lập ra năm thời. Nay lại dựa vào Pháp sư Bồ-đề-lưu-chi, bác bỏ, đả phá, nghĩa này không đúng.

Kinh Đề-vị chép: "Năm trăm người đi buôn sắp thọ năm giới, trước hết, sám hối năm tội nghịch, mười điều ác, chê bai chánh pháp, v.v..., được bốn đại vốn tịnh, năm ấm vốn tịnh, sáu trần vốn tịnh, ta ngã vốn tịnh. Lúc bấy giờ, Đề-vị... được pháp nhẫn không khởi; ba trăm người đi buôn được Nhu thuận nhẫn; hai trăm người đi buôn đắc quả Tu-đàhoàn. Bốn vua trời, v.v... được nhẫn nhu thuận; ba trăm vị Long vương được tín nhẫn, các vị trời khác v.v... phát ý Vô thượng đạo. Mười ức người, trời, đều thực hành mười điều lành của Bồ-tát. Trưởng giả Đề-vị dứt khổ ba cõi, được Pháp nhẫn không khởi, tức là Sơ địa; hoặc Bát địa". Lại, kinh Phổ Diệu chép: Vào ngày thứ hai mươi bảy, năm trăm người đi buôn, Đề-vị v.v... bố thí, miến mật cho Phật, Đức Phật thọ ký cho: "Ở đời đương lai, ông sẽ được thành Phật, tên là Tề Thành".

- "Sao chỉ nói giáo thế gian trong thời thứ nhất?"

- "Mặc dù tạo ra nghĩa đả phá này, nhưng cũng khó biết. Vì đã có người đi buôn chứng được quả Dự lưu... sao không ở ngay ngày này, gọi là chuyển pháp luân? Để đến năm Tỳ-kheo, bánh xe pháp mới xoay. Do chưa giảng nói rõ ràng về người ba thừa, vì đồng với đế, đối tượng quán, nên chưa gọi là xoay bánh xe pháp.

Theo thứ lớp hai thời giáo, trong mười hai năm Phật chỉ nói người có giáo. Giác ái phá bỏ rằng: "Điều này cũng chẳng đúng, vì Phật thành đạo năm năm, thuyết Đại Bát-nhã, nói về thật tướng. Lại, vào năm thứ bảy, Phật vì các Bồ-tát, giảng kinh Ban-chu tam-muội, nói về năm uẩn của chúng sinh vốn không.

Lại, đến năm thứ chín, Phật nói kinh Ươngquật-ma-la, Trong năm thứ mười, nói kinh Như Lai Tạng, đều nói về lý sâu kín Phật tánh Niết-bàn. Lại, kinh Đề-vị, Phổ Diệu v.v... đều nói về hạnh Bồ-tát. Thọ ký cho người buôn bán thành Phật, nói lúc mới thành đạo đã nói Đại thừa. Lại, trong kinh Ma-ha Bát-nhã Đại Phẩm chép: "Phật ở Vườn Nai, xoay bánh xe pháp bốn đế, vô lượng chúng sinh phát tâm Thanh văn; vô lượng chúng sinh phát tâm Độc giác; vô lượng chúng sinh phát tâm A-nậu-đa-laTam-miệu-Tam-bồ-đề; thực hành sáu Ba-la-mật, vô lượng Bồ-tát được Vô sinh Pháp nhẫn, trụ ở Sơ địa, Nhị địa, Tam địa, cho đến Thập địa, vô lượng Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ, cùng một thời gian thành Phật. Lại, thành đạo xong, vào ngày thứ hai mươi bảy, Phật nói kinh Thập Địa".

- "Sao nói trong mười hai năm, chỉ nói giáo, không nói Đại thừa?"

- "Như kinh Pháp Hoa chép: "Trong hai mươi mốt ngày, Phật thường suy nghĩ việc này, tức thành đạo xong, trong hai mươi mốt ngày không có nói pháp.

Luật Di-sa-tắc chép: "Đầu tiên, lúc mới thành đạo, Phật nhập tam-muội bảy ngày."

Kinh Thập Địa chép: "Bảy ngày không nói pháp, để nói lên việc tự thọ pháp lạc, vì khiến cho chúng sinh thêm yêu kính, nhưng luật và truyện Tát-bà-đa nói: "Quá sáu, bảy, ngày Phạm thiên đến thỉnh, mới nói pháp, bắt đầu độ năm người, tức bốn mươi hai ngày mới nói pháp.

Kinh Thập Nhị Do nói: "Thành đạo xong, một năm không nói pháp, trải qua mười hai năm, mới độ năm người."

Luận Trí Độ nói: "Đầu tiên mới thành đạo, năm mươi ngày, Đức Phật không nói pháp".

Có chỗ giải thích rằng: "Tức năm mươi lần bảy ngày, đồng với kinh Thập Nhị Do, một năm Phật không nói pháp."

Như truyền thuyết của kinh này nói ngày không nói pháp của Phật sau khi thành Phật đạo, đều khác nhau, đâu được do tâm ức đoán nói mười hai năm chỉ nói về giáo. Lại, nếu trước sau chỉ độ một căn cơ, thì có thể như thuyết đã nói. Đồ đựng căn cơ có một ngàn phẩm, đâu được một tiêu chuẩn.

Nay, y cứ vào thuyết xưa, lược phá hai môn đầu, tự ba thời giáo còn lại, rộng như truyện riêng của Pháp sư Bồ-đề-lưu-Chi. Ở đây là phá riêng, lập giáo khác nhau. Nhưng sở lập này, dù về lý, có thể như thế. Đã không có giáo, mà văn chưa thể y cứ, nên đều trái với thời giáo mà kinh Giải Thâm Mật đã nói.

Từ trên đến đây, nói chung là bày ra sự sai lầm của thuyết xưa, và trước đều vì bày ra thuyết xưa.

Trong phần trình bày lại văn nay, lại chia làm hai: Đầu tiên, là trình bày lại văn nay, sau lược thị hiện giáo.

Trình bày lại văn hiện nay: Như kinh Giải Thâm Mật quyển thứ một, Quyết Trạch Du-già quyển thứ 76 chép:

Đức Thế Tôn rộng vì Bồ-tát Thắng Nghĩa Sinh, vì y cứ thể tướng của Biến kế sở chấp không có, nên nói tướng không có tánh tự tánh; y cứ vào y tha khởi, không có biến kế sở chấp, vì tự nhiên sinh, nên nói sinh không có tánh tự tánh, và tức y cứ vào thuyết này, không có biến kế sở chấp, một phần thắng nghĩa không có tánh tự tánh; y cứ vào Viên thành thật, vì không có biến kế sở chấp. Lại, nói phần thắng nghĩa không có tánh tự tánh.

Nói ba thứ vô tánh đều dựa vào tánh biến kế sở chấp đã xong. Bồ-tát Thắng Nghĩa sinh: sinh ra nhận hiểu sâu sắc. Nói rộng, là

Tỳ-thấp-phược-dược của thế gian, năm mầu xen nhau vẽ lên đất, thục tô, hư không, các thí dụ đã xong.

Đức Thế Tôn khen ngợi Bồ-tát Thắng Nghĩa Sinh khéo léo hiểu được thuyết mà Phật đã nói. Bồtát Thắng Nghĩa Sinh bạch Phật rằng:

-"Đức Thế Tôn đầu tiên, vào một thời gian, ở chỗ đọa của vị tiên Ba-la Nê-tư, thí cho trong rừng nai, chỉ vì người phát tâm thu hướng Thanh văn thừa, đã dùng tướng bốn đế, để xoay bánh xe chánh pháp, dù rất lạ kỳ, rất là ít có. Tất cả thế gian, trời, người, v.v... trước đó không có người nào có khả năng đúng như pháp chuyển, mà vào thời gian đó, đã xoay bánh xe pháp luân hữu thượng, có chấp nhận là chưa liễu nghĩa, là nơi chốn đầy đủ các tranh luận.

Đức Thế Tôn, xưa kia trong thời giáo thứ hai, chỉ vì người phát thu hướng tu Đại thừa, y cứ tất cả pháp đều không có tự tánh, vô sinh, vô diệt, xưa nay tĩnh lặng, tự tánh Niết-bàn, dùng tướng ẩn mật xoay bánh xe chánh pháp, dù rất kỳ lạ, rất là ít có, mà đã xoay bánh xe pháp ở vào thời gian đó, cũng là hữu thượng, có đối tượng chấp nhận, cũng chưa liễu nghĩa, là nơi chốn đầy đủ của các tranh luận.

Trong thời giáo thứ ba hiện nay, Đức Thế Tôn đã khắp vì người phát tâm thú hướng tất cả thừa, y cứ tất cả pháp đều không có tự tánh, vô sinh, vô diệt, xưa nay vắng lặng, tự tánh Niết-bàn, không có tánh tự tánh, dùng tướng liễu sáng tỏ, xoay bánh xe pháp chân chánh.

Thời giáo thứ nhất rất kỳ là, rất là ít có, đến nay, Đức Thế Tôn đã xoay bánh xe pháp Vô thượng, không chấp nhận là chân liễu nghĩa, không phải nơi chốn dừng chân của các tranh luận.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Thắng Nghĩa Sinh rằng: "Thắng Nghĩa Sinh! Nếu người thiện nam, hoặc thiện nữ, đối với các kinh không liễu nghĩa, nghe xong, tin, hiểu, viết chép, gìn giữ, cúng dường, truyền bá, thọ tụng, ôn tập, tư duy đúng như lý, dùng tướng tu kia, phát khởi gia hạnh, so sánh với ngôn giáo liễu nghĩa mà Phật đã nói, nghe xong, tin, hiểu, cho đến nói rộng, dùng tướng tu kia phát khởi, gia hạnh, công đức đã nhóm họp, trăm phần không bằng một, cho đến Ổ-ba-ni-sátđàm phần cũng không bằng một, vì phước đã sinh này khó có thể dùng thí dụ để biết.

Nay, ta nói lược, như đất dính trên móng tay so với đất dưới mặt đất; hoặc như nước đọng trong dấu chân bò, đem so với nước trong bốn biển cả, trăm phần không bằng một, cho đến Ổ-ba-ni-sátđàm phần, cũng không bằng một.

Khi Phật nói kinh này, có sáu trăm ngàn (600.000) chúng sinh phát tâm Bồ-đề; ba trăm ngàn (300.000) Thanh văn xa bỏ trần cảnh, lìa vết nhơ bẩn, được mắt pháp thanh tịnh, một trăm năm mươi ngàn (150.000) Thanh văn hết hẳn các lậu, tâm được giải thoát; bảy mươi lăm ngàn (75.000) Bồ-tát được Vô sinh pháp nhẫn.

Kinh Kim Quang Minh cũng nói ba thời giáo, gọi là chuyển chiếu trì. Kinh Niết-bàn chép: "Đầu tiên, khiến cho hữu tình đều được uống sữa; kế là, bảo đều dứt sữa; sau dạy có người nên uống, có người không nên uống, đồng với nghĩa trong kinh Giải Thâm Mật đã nói.

Trong Du-già Thích, ba thời giáo này có chút khác nhau, về ý nghĩa không có khác nhau. Do đây, mà chứng thành thật, nếu dùng cơ nghi nghiêng lệch, tròn đầy theo thứ lớp, giáo chỉ có ba thời, chẳng phải một, chẳng phải năm.

Từ trên đến đây, đều là trình bày lại văn nay.

Lược thị hiện giáo: Bốn A-cấp-ma v.v... là thời giáo đầu tiên. Các kinh nói "Không" là thời giáo thứ hai. Dùng lời nói ẩn mật để nói chung các pháp không có tự tánh nên kinh Hoa Nghiêm, Thâm Mật, Duy thức Giáo v.v..., là thời giáo thứ ba, dùng lời nói sáng tỏ để nói giáo đạo trong ba vô tánh là phi "không", phi "hữu". Do các phàm phu đã khởi từ vô thỉ, mê chấp có "ngã", chẳng rõ biết "ngã" không thật có, vì thường đắm chìm trong sông ái, luân hồi trong biển si, nên đầu tiên, Đức Phật nói pháp luân bốn đê, sao cho phàm phu biết được ngã không; chỉ có pháp ấy. Kiều-trần-na v.v... được đạo đầu tiên, ông nghe pháp có chứng "ngã" đều "không", bèn chấp các pháp là "có" thật, chấp chặt quả tiểu, không cầu địa vị đại. Đức Phật đã vì ông tu dùng phương tiện lại nói pháp "Không", nhằm phá bỏ chấp "Hữu". Trong thời giáo tiếp theo, Phật nói Bát-nhã, v.v..., nói tất cả pháp với bản tánh đều "không". Tu-bồ-đề v.v... hồi tâm thu hướng về đại. Ông nghe ngôn giáo ẩn mật "pháp không", bèn bác bỏ tánh tướng các pháp đều "không" thì tu tạo mà làm gì, đâu cần phải đoạn, xả. Đức Phật vì phá trừ, chấp này, lại nói thắng nghĩa giáo ba tánh v.v... của Duy thức, sinh ra tin hiểu, v.v... tu học biến kế sở chấp "không"; biết pháp, ngã đều dứt trừ. Cái có của y tha, viên thành, soi rọi chân, tục, cả hai đều tồn tại.

"Không" là chẳng có "cái không có", cho nên nói "không" "có" là có sở hữu "cái có", cho nên nói "có". Nói "có" mà "có", cũng có thể nói "không", vì chân, tục của biến kế sở chấp không. Nói "không" mà không có, cũng có thể nói: "có", vì đương tình, hai thứ ngã, pháp hiện tiền, nên Phật bảo phải dứt trừ đối tượng giải thích chân, tục, gọi là "có"; giải thích ngã, pháp giả dối, chẳng phải "không có", chẳng phải không là "không có", đường tình giống như "có". Vì y cứ vào thể "không có", nên giải thích giả dối chân, tục, chẳng phải có, chẳng phải không có; chẳng phải gọi vọng tình, vì thế chẳng phải không có; vì ngã, pháp "không", nên đều là chấp, đều dứt trừ; vì chân tục "có", nên các lìa chấp đều tồn tại. Do đây nên nói: "Bốn luận chứng mê tình, bốn luận chứng đều sai. Bốn luận chứng ngộ tình, bốn luận chứng đều đúng. Nói cảnh ngã, pháp "không", để phá chấp "có" ban đầu. Nói tâm chân, tục "có", nhằm đả phá chấp "không" tiếp theo, người kiến chấp nghiêng lệch, đầu tiên, nghe nói "có", thì tức tâm sảng khoái, đối với "không", thì khởi sự chê bai. Về sau, nghe nói "không", cũng lại hợp ý, bèn chê bai "hữu". Nay, nói giáo Trung đạo: Phi "không", phi "hữu" ấy là thời giáo thứ ba.

Y cứ vào lý và cơ nghi dần dần vào đạo, nghĩa là đại từ tiểu mà khởi, tức là có các giáo ba thời trước sau, là kinh Giải Thâm Mật nói về Duy thức. Nếu chẳng phải người nhập đạo dần dần, thì đại không do tiểu, tức không có các giáo ba thời trước sau.

Y cứ vào phần nhiều kia, tức lúc mới thành đạo, trong Kinh Hoa

Nghiêm v.v..., nói về duy tâm, phần nhiều đốn, tiệm, không có môn giáo riêng, vì thuận theo đối tượng lợi ích, thích hợp trong một hội, nên Thâm Mật cũng nói có Thanh văn tu tập. Trong kinh Thắng-man cũng nói thân ý sinh v.v... của Nhất thừa. Nhiếp Đại Thừa chép: "Vì người không nhất định, nói Nhất thừa, nên phẩm Phân biệt Công đức trong kinh Pháp Hoa chép: "Khi Phật nói phẩm Như Lai Thọ lượng, đã có tám thế giới chúng sinh nhiều như cát bụi phát tâm bình đẳng."

Các văn như thế v.v... vì trên, dưới chẳng phải một, nên biết phẩm cũng khắp tỏ ngộ ngay. Hoa Nghiêm cũng có người tỏ ngộ dần dần. Nếu y cứ theo Giác Ái, thì quyết định chỉ một thời giáo, không có người tu dần dần, tức trái với Giải Thâm Mật nói có ba thời. Nếu dựa vào Lưu Cầu, thì nhất định sẽ có năm thời giáo theo thứ lớp trước sau. Lại nữa, không có văn nào nói, nhưng trái với ba thời, nay đều không y cứ. Nếu y cứ vào cơ khí của chúng sinh và lý, thì có thể có giáo tiệm, đốn, nhưng về lý thì đồng với thuyết xưa. Nếu không y cứ vào cơ nghi, thì về lý, phán quyết nhất định một kinh là đốn, là tiệm. Thời giáo thêm, bớt: Vì đốn, tiệm không thành, nên Duy thức nói: "Chỉ ta đối với phàm ngu, không chỉ bày, giảng nói, chẳng phải vì ngăn chận không nhất định và tánh nhất định, đây là dựa vào chứng quả. Nếu cho rằng người, trời có bốn thời giáo, thì người Nhị thừa kia, dùng phương tiện pháp học là vì sơ học kia, nên lược bỏ không nói. Nay, y theo sự truyền trao của sư, lược trình bày sự khác nhau về lợi của thời giáo xưa, nay, những người có trí kia, mặc tình lấy bỏ.

Giải thích tông thứ ba đều khác: nói về Tông: Chủ nghĩa tôn sùng, Thánh giáo được sùng trọng, được tôn kính, được chủ pháp, gọi là Tông. Lại, như ngoại đạo, nội đạo, Tiểu thừa, Đại thừa, sùng kính, tôn trọng, chủ pháp, thảy đều có khác, nói là tông riêng. Tuy nhiên, các Đại đức xưa gồm lập bốn tông:

1/ Tông lập tánh: là Tạp Tâm, v.v...

2/ Tông phá tánh: là Thành thật, v.v...

3/ Tông phá tướng: là Trung, bách, v.v...

4/ Tông hiển thật: là Niết-bàn, v.v...

Nay, không phải như vậy, trong đó được chia làm hai: Đầu tiên, là trình bày tông khác; sau liệt kê tự chủ.

Trong phẩm bày ra tông khác, lại chia làm hai: Đầu tiên là bày ngoại đạo; sau là bày Tiểu thừa.

Bày ra ngoại đạo: Ngoại đạo dù có chín mươi lăm thứ, nhưng đại ý không ngoài mười sáu dị luận, rộng như Du-già quyển sáu, bảy, Hiển Dương quyển chín, mười chép: "Luận kia đều nói: "Chấp trong nhân có quả, hiểu rõ có khứ, lai, đời trước, ta thường tạo ra hai tự tại nhân, pháp... biên, vô biên, rối loạn, thấy không có nhân, đoạn, "không", chấp vượt hơn, thanh tịnh, tốt lành, gọi là mười sáu Dị luận.

Tông trong nhân có quả: Nghĩa là lối chấp của hai chúng ngoại đạo. Tánh quả thường có trong nhân của các pháp, như cây lúa lấy hạt lúa làm nhân. Khi muốn tìm cây lúa, chỉ cần gieo hạt lúa, thì cây lúa chắc chắn mọc từ hạt lúa, không mọc từ lúa mì, nên biết trong nhân hạt lúa trước kia đã có tánh cây lúa.

Nếu không như vậy, thì lẽ ra tất cả từ tất cả pháp.

1. Tông từ duyên hiển rõ: Tức là Tăng-khư và phái Thanh luận.

Sư Tăng-khư chấp: "Thể của Tất cả pháp, tự tánh vốn có, từ mọi duyên rõ ràng, chẳng phải do duyên sinh".

-"Nếu chẳng phải do duyên làm sáng tỏ quả, thì trước kia là có.

Lại từ nhân sinh, không hợp với đạo lý."

Phái Thinh luận nói: "Thể của tiếng là thường, mà tướng vốn có, vô sinh, vô diệt, nhưng do thường thường tuyên nói rõ ràng."

3. Tông đến đi là thật có: Nghĩa là ngoại đạo Thắng luận và ngoại đạo chấp thời gian, v.v… cũng tạo ra chấp này, có đời khứ, lai, cũng như hiện tại có thật, chẳng phải giả, chung cho Tiểu thừa. Nay, chấp lấy ngoại đạo.

4. Tông chấp ngã thật có. Nghĩa là tất cả ngoại đạo, như thú chủ, v.v... đều tạo ra lối chấp này: "Có ngã, có Tát-đỏa, có mạng, có người sinh, v.v...".

Do khởi năm giác nên biết có ngã. Nghĩa là khi thấy sắc thì Tát-đỏa giác, v.v...

5. Tông các pháp đều thường: Nghĩa là chấp YSư-Ca, ta và thế gian đều là thường trụ, tức chấp hoàn toàn thường; một phần thường v.v... chấp cực vi thường, cũng thuộc về chấp này.

6. Tông các nhân đã gây ra đời trước. Nghĩa là lìa trói buộc người thân, cũng nói rằng, ngoại đạo không có hổ thẹn. Nghĩa là nỗi khổ hiện đang cảm chịu, đều do đời trước đã gây ra, làm nhân. Nếu hiện đang tinh tấn, ấy là mửa ra nghiệp cũ. Vì bị hại không gây nhân. Như thế, về sau, không còn hữu lậu.

7. Tông Tự tại đẳng nhân: Nghĩa là nhân không bình đẳng, là chấp tùy thuộc việc tự tại kia, tức lấy làm danh, như Mạc-hê-y-thấp-phạt-la v.v... chấp các pháp đều do trời Đại tự tại biến hóa; hoặc trượng phu biến hóa; hoặc Đại phạm biến hóa; hoặc thời, phương, "không", ngã, v.v... làm nhân.

8. Tông hại vì chánh pháp. Nghĩa là kiếp cạnh tranh khởi lên, các Bà-la-môn vì muốn ăn thịt, nên khởi chấp này giả dối: "Nếu vì cúng tế, chú thuật làm ưu tiên, hại các sinh mạng, hay thờ cúng bị hại, hoặc bạn giúp đỡ, đều được sinh lên cõi trời.

9. Tông biên, vô biên v.v... là ngoại đạo biên, vô biên tĩnh lự của thế gian, trụ vào tưởng hữu biên, vô biên, chấp hữu biên, vô biên của thế gian, đều có, không đều có v.v...

10. Tông không chết, rối loạn: là ngoại đạo không chết, không có rối loạn.

11. Tông các pháp vô nhân: là ngoại đạo chấp không có nhân, ta và thế gian không có nhân mà khởi.

12. Tông bảy sự đoạn diệt: là ngoại đạo chấp đoạn diệt, có bảy sự đoạn diệt.

13. Tông nhân, quả đều không: Các ngoại đạo tà kiến chấp không có yêu thương, nuôi nấng, v.v... thấy người thực hành việc lành, lại sinh vào cõi ác. nhận thấy kẻ làm điều ác, lại được sinh lên cõi lành, bèn cho là không. Hoặc bác bỏ chung, tất cả đều không.

14. Tông chấp giả dối trội hơn hết. Nghĩa là kiếp đấu tranh, các Bà-la-môn chấp. Bà-la-môn là giống trội hơn hết, con của Phạm vương, được sinh ra từ bụng, miệng, hạt giống khác là thua kém, chẳng phải con của Phạm vương.

15. Tông vọng chấp thanh tịnh. Nghĩa là ngoại đạo Niết-bàn hiện pháp và ngoại đạo trong sạch, như nước v.v... Nghĩa là đối với năm dục mầu nhiệm của các vị trời, vướng mắc vững chắc thọ dụng gọi là được hiện pháp Niết-bàn, cho đến nói rộng. Giữ giới bò, chó, v.v… cũng giống như thế.

16. Tông vọng chấp tốt lành: Nghĩa là ngoại đạo xem lịch, bói toán. Nếu mặt trời, mặt trăng xâm thực mỏng, thì các vì sao sẽ mất độ, v.v... Nếu tùy thuộc mặt trời, mặt trăng, thì mọi đối tượng mong muốn đều thành, nên siêng năng cúng dường mặt trời, mặt trăng, các vì sao v.v..., cho đến nói rộng, như luận kia đã nói.

Từ trên đến đây, thứ nhất, là trình bày ngoại đạo. Trình bày về Tiểu thừa: Tiểu thừa dù có hai mươi bộ chấp. Kết thúc chung làm tông, không hơn mười một.

Từ xưa đến nay, tương truyền mười tám bộ, thật là sai lầm, vì y cứ vào bộ mà Pháp sư Chân Đế xưa đã phiên dịch, thành mười chín. Đại chúng chia ra bảy, có tám. Đại chúng và bổn, lẽ ra thành chín bộ, tức là thoát Tây Sơn trụ bộ. Thượng tọa bộ chia mười một và bổn Thượng tọa cũng ở trong đó.

Trong quyển hạ kinh Văn-thù Vấn, nói thành hai mươi bộ, nhưng có chút khác nhau. Kệ kinh kia nói: "Ma-ha Tăng-kỳ bộ chia ra có bảy, thể Tỳ-lý mười một, đây gọi là hai mươi bộ: Mười tám và bổn hai, đều phát ra từ Đại thừa, chẳng có phải, cũng không có quấy. Ta nói vị lai khởi, dù nói hai mươi vừa đồng với Luân tông mà đối tượng chia ra thêm, bớt có khác với luận thuyết của Luân tông. Trong Đại chúng bộ chia ra tám bộ và bổn có chín:

1/ Đại chúng.

2/ Nhất thuyết.

3/ Thuyết xuất thế.

4/ Kê dẫn.

5/ Đa văn.

6/ Thuyết giả.

7/ Chế đa sơn.

8/ Tây sơn trụ.

9/ Bắc sơn trụ.

-Trong Thượng tọa bộ chia ra mười bộ và bổn mười một:

1/ Thuyết Nhất thiết hữu.

2/ Tuyết chuyển, cũng gọi là Thượng tọa.

3/ Độc tử.

4/ Pháp thượng.

5/ Hiền vị.

6/ Chánh lượng.

7/ Mật lâm sơn.

8/ Hóa địa.

9/ Pháp tạng.

10/ Ẩm quang.

11/ Kinh Lượng Bộ.

Cho nên, hợp thành hai mươi bộ. Nhưng trong Đại Chúng bộ của Kinh Văn-thù Vấn và bổn có tám. Thượng tọa và bổn mới có mười hai, nên biết đều là sự nhận lầm của nhà phiên dịch. Nay y cứ vào thuyết của luận Tông Luân mới dịch, kết thúc chung hai mươi thành mười một loại:

1. Đại chúng bộ, Nhất Thuyết bộ, Thuyết xuất thế bộ, Kê dẫn bộ, tông của bốn bộ, nói tất cả Như Lai không có pháp hữu lậu. Lượng tuổi thọ của thân Phật đều không có bờ mé, thân năm thức như nhãn thức, v.v... có nhiễm, có lìa nhiễm ở cõi Sắc, Vô sắc có đủ thân sáu thức. Năm thứ sắc căn lấy nhục đoàn làm thể. Vô vi có chín. Đời quá khứ vị lai không có. Một sát-na tâm rõ biết tất cả pháp. Đạo và phiền não, chấp nhận đều cùng hiện tiền, nghĩa đại như thế.

2. Tông của bộ Đa văn nói: "Năm âm của Phật là giáo xuất thế, âm khác, tức thế gian: 1/ Vô thường; 2/ Khổ; 3/ Không; 4/ Vô ngã; 5/ Niết-bàn vắng lặng. Về nghĩa khác phần nhiều đồng với Thuyết Nhất thiết hữu bộ.

3. Tông của Thuyết giả bộ, nói: "Khổ chẳng phải uẩn (chứa nhóm), mười hai xứ chẳng phải chân thật. Do vì phước nên được Thánh đạo, đạo không thể tu; nghĩa khác, phần nhiều đồng với lối chấp của Đại Chúng bộ.

4. Chế-Đa Sơn bộ, Tây Sơn trụ bộ, Bắc Sơn trụ bộ. Tông của ba bộ này nói: "Tất cả Bồ-tát không thoát khỏi cõi ác, cúng dường tháp, miếu, không được quả báo lớn. Các nghĩa khác phần nhiều đồng với thuyết của Đại chúng bộ".

5. Tông Thuyết Nhất thiết hữu bộ: cho là tất cả có hai:

1/ Pháp hữu.

2/ Thời hữu.

Nghĩa là tâm, tâm sở, sắc bất tương ưng và ba vô vi, là pháp Nhất thiết, khứ, lai, hiện tại, là tất cả thời gian. Các "hữu" này, đều thuộc về hai thứ: 1/ danh, 2/ sắc.

6. Tông Tuyết Sơn bộ nói: Nghĩa là các Bồ-tát cũng là phàm phu. Bồ-tát nhập vào thai không khởi tham ái, không có ngoại đạo nào được năm thông, không có phạm hạnh trụ trong cõi trời.

7. Độc Tử bộ, Pháp Thượng bộ, Hiền vị bộ, Chánh Lượng bộ; Mật Lâm Sơn bộ, hợp với tông của năm bộ nói: "Bổ-đặc-già-la chẳng phải tức uẩn, lìa uẩn; Năm thức không có nhiễm, cũng chẳng phải lìa nhiễm, nhập chánh tánh ly sinh. Trong khoảng mười hai tâm, gọi là hạnh, hướng; tâm thứ mười ba gọi là trụ quả."

8. Tông Hóa địa bộ nói: "Đời khứ, lai không có; hiện tại, vô vi có. Bốn Thánh đế, quán một thời điểm, nhất định không có trung hữu, cũng có giới hạn Bổ-đặc-già-la hàng đầu, có chánh kiến thế gian, không có tín căn thế gian, không có tĩnh lự xuất thế, không có tầm vô lậu, thiện chẳng có nhân."

Dự lưu có lui sụt, vô vi có chín:

9. Tông Pháp Tạng bộ nói: "Phật thuộc về tăng,

Phật và giải thoát của Nhị thừa dù là một, nhưng Thánh đạo có khác. Không có ngoại đạo nào có được năm thông. Thân A-la-hán đều là vô lậu; các nghĩa khác đa số đồng với lối chấp của Đại chúng bộ."

10. Tông của Ẩm quang bộ nói: "Nếu pháp đã đoạn, đã biết khắp, tức không có, chưa đoạn, chưa biết khắp tức là "có"; quả nghiệp đã thành thục tức là "không", chưa thành thục tức là "có". Các pháp Hữu học có quả dị thục, các nghĩa khác phần nhiều đồng với thuyết của bộ Pháp Tạng.

11. Tông của Kinh lượng bộ nói: "Có Bổ-đặcgià-la thắng nghĩa, trong vị phàm phu, cũng có Thánh pháp, có căn bên uẩn; có uẩn của một vị.

Uẩn của một vị: Tức ý thức nhó nhiệm, các chấp khác, phần nhiều đồng với thuyết Nhất thiết hữu bộ.

Đối tượng đã trình bày trong đây, là lược tiêu biểu chỉ yếu của tông; trình bày rộng tông, nghĩa là như sự biện luận của Luận tông.

Từ trên đến đây, đều là trình bày về tông khác. Nêu ra trong tự chủ, lại chia làm hai: Đầu tiên, là nêu chủ biên, sau, là chủ trong nêu ra.

Nêu ra chủ biên, nghĩa là Thanh Biện, v.v... là bạn giúp Long Mãnh ý kinh Bát-nhã nói: "Các pháp "không", dù tất cả pháp đều không thể nói, nhưng vì tánh "không", nên không thể nói là "không" là "hữu", cho đến hai pháp hữu vi, hai pháp vô vi". Y cứ vào thể thắng nghĩa đế dù là "không", nhưng vì thế tục có thể có, nên nói là tụng nói:

"Chân tánh hữu vi "không"
Vì duyên sinh nên huyễn
Vô vi chẳng có thật,
Không khởi như không hoa."

Cho đến không lập ba tánh Duy thức. Đây là do trong thắng nghĩa đế đã nói, đều chỉ "không", nên gọi là chủ biên. Chủ trong nêu ra: nghĩa là Thiên thân v.v... theo hầu Từ thị.

Kinh Thâm Mật v.v... y cứ vào chân đế, tục đế, để nói tất cả pháp "hữu", "không", "bất không", lý thế tục đế; Biến kế sở chấp, tình có, lý không, hữu vi, vô vi, lý có, tình không. Trong thắng nghĩa đế, dù là thể của tất cả pháp, nhưng hoặc có, hoặc không, do lời nói bất cập phi "không", phi "hữu", vì chẳng phải do "thể" "không", mà gọi là "không thể nói". Thành Duy Thức chép: "Trong Thắng nghĩa đế, vì tâm, ngôn dứt bặt, nên phi không, phi hữu, vì gởi vào lời nói của người giải thích, nên dẫn bài tụng mà Bồ-tát Từ Thị đã nói:

"Phân biệt luống dối có
Hai pháp này đều không
Trong đây, chỉ "hữu", "không"
Vì kia cũng có pháp,
Chẳng "không", chẳng "bất không"
Vì "có" và "không" "có"
Đây khế hợp Trung đạo."

Đây là kiến lập ba tánh Duy thức; cảnh ngã, pháp "không", thức chân, tục "hữu", nghĩa Trung đạo: Phi không, phi hữu lập, tức do đã nói về nghĩa trung đạo của tất cả pháp phi không, phi hữu, dùng làm tông. Như chương riêng có nói.

Trong đây, lược bày tông của bạn tranh cãi, bạn ấy do bộ mình của các giáo đã nói về pháp tướng riêng, dùng làm tông, nghĩa là thuộc về đối tượng giải thích của pháp tướng, như hiển bày chỗ riêng lẻ.

Thể tánh thứ tư khác nhau, lại chia làm hai: Đầu tiên, là nêu rõ chỗ chấp khác, sau, là biểu dương sáng tỏ Đại thừa.

Trong nêu rõ chấp khác, lại chia làm hai: Đầu tiên, nêu rõ ngoại đạo, sau nêu rõ Tiểu thừa.

Về nêu rõ ngoại đạo: Đại loại, ngoại đạo có riêng sáu thứ chấp:

1/ Số luận.

2/ Thắng luận.

3/ Minh luận.

4/ Thinh hiển luận.

5/ Thinh sinh luận.

6/ Thuận thế luận.

Số luận, thể của giáo, nói rõ có hai thứ: Y cứ vào thể của giáo pháp căn bản, tức tự tánh ba đức làm thể, dựa vào giáo pháp cuối. Tiếng trong năm duy lượng là thể của giáo, gốc chỉ là thường, ngọn là vô thường, nhưng sự chuyển biến này chẳng phải bị diệt hoại, vì khi hoại diệt tức là quy gốc, nên Thắng luận sư kia đã dùng âm thanh trong các đức làm thể của giáo, vô thường không có ngăn ngại.

Phái Minh luận kia: Bà-la-môn v.v... chấp tiếng của luận Phệ-đà chỉ là tự tướng, không chấp lấy tánh của tiếng, vì chẳng phải chủ thể giải thích, nên tiếng, chủ thể giải thích kia, giải thích, đối với nghĩa đối tượng giải thích của Minh luận, giáo này là thường, vì đối tượng giải thích cố định. Tất cả giáo khác đều nói là âm thanh vô thường, dùng làm thể của giáo. Không nói Thinh luận có danh riêng... vì nói danh v.v... tức là vì tiếng, nên phái Thinh hiển luận cho rằng, "thể" của tiếng vốn có, chờ đợi duyên làm tỏ rõ tiếng, thể tánh là thường trụ.

Chấp này có hai:

1) Tùy theo mỗi vật, đều có một chủ thể giải thích tiếng là thường, cũng như phi trạch diệt, được phát âm do tầm, tứ, v.v... là chứng minh âm thanh là vô thường. Nay, dùng đa số tiếng là thường làm thể.

2) Đối bới tất cả pháp, chỉ có chung một công năng giải thích tiếng là thường, cũng như chân như. Do tầm, tứ v.v... đã phát ra âm rõ ràng. Âm thanh này là vô thường. Nay, chỉ lấy một âm thanh là thường làm thể. Âm vang v.v... kia chỉ là duyên làm rõ, chẳng phải thể của công năng giải thích. Trong chấp này đều có hai thứ:

1/ Chấp toàn phần: Các âm thanh trong ngoài đều là thường trụ.

2/ Chấp một phần: Tiếng trong là thường, tiếng ngoài là vô thường.

Vì chẳng phải chủ thể giải thích, nên cũng như tiếng vang, nên buộc chung làm bốn: Chấp một, chấp nhiều đều chung cho cả trong, ngoài.

Thinh Hiển Thanh sinh đầu có bốn thứ, "Tiếng vốn "không", đợi duyên sinh ra tiếng, sinh xong là thường trụ, do âm hưởng v.v... đã phát sinh".

-Chấp này có hai:

1/ Chấp thể nhiều, giống như phi trạch diệt.

2/ Chấp thể một, giống như chân như.

Âm vang sinh, "duyên" với pháp vô thường của thể. Nay, lấy mới sinh ra âm thanh thường làm thể, vì công năng giải thích, nên tiếng vang chẳng phải công năng giải thích. Chấp này đều có hai: 1/ Chấp toàn phần 2/ Chấp một phần.

So sánh với trước, nên biết. Tóm thâu lại thành bốn: Chấp một, chấp nhiều, đều chung cho cả trong, ngoài. Thanh Hiển, Thanh sinh, đều có bốn thứ. Ngoại đạo Thuận Thế cho rằng, tất cả đều là bốn đại, dùng bốn đại làm thể, hợp với Thắng luận, Số luận và Minh luận thinh, gồm có mười hai thể giáo của ngoại đạo.

Nêu bày Tiểu thừa, đại loại giáo thể của Tiểu thừa có sáu:

1/ Đại chúng bộ...

2/ Nhất thuyết bộ.

3/ Đa văn bộ.

4/ Thuyết giả bộ.

5/ Thuyết Nhất thiết hữu bộ.

6/ Kinh lượng bộ.

Đại thừa bộ, Thuyết Xuất thế bộ, Kê dẫn bộ, cả ba bộ đồng nói: "Tất cả pháp của Phật đều là vô lậu, đều là xuất thế, lời Phật đã nói ra đều đúng như nghĩa, tất cả ngữ đều xoay bánh xe pháp. Tất cả thời giáo của Phật, không nói danh v.v..., vì thường ở trong định, nhưng các hữu tình cho rằng, nói, danh v.v..., tức là không có nghĩa tư duy thành việc của mình, vì thể vô lậu của lời Phật kia là âm thanh thật có, danh, cú v.v... là giáo thể của Phật."

Nhất Thuyết bộ nói: "Thể của tất cả pháp chẳng có thật, chỉ là giả danh. Nay, nhận lấy danh v.v... tiếng giả vô lậu dùng làm giáo thể".

Đa Văn bộ nói: "Năm ấm của Như Lai là giáo xuất thế:

1/ Vô thường.

2/ Khổ.

3/ Không.

4/ Vô ngã.

5/ Niết-bàn vắng lặng.

Do năm thứ âm thanh này, quyết định có công năng dẫn dắt ra khỏi; âm thanh khác của Như Lai là giáo thế gian, đều khởi chung với năm âm, cũng là xuất thế. Dù cho dẫn dắt xuất thế, nhưng không tương ưng với năm, vì không quyết định, nên chẳng phải ngôn âm, luận thuyết, giáo xuất thế. Vì âm tức âm thinh, nên chỉ lấy âm thanh, không nói danh v.v... Vì thế, nên các giáo của chư Phật, dùng chung tiếng hữu lậu, vô lậu mà làm thể của giáo mình, vì năm âm của Phật là vô lậu.

Thuyết Giả bộ, là âm thanh, danh, cú v.v... Nếu ở xứ, v.v... thì thể chung chẳng phải có thật, do nói y, duyên, vì có chứa nhóm. Nếu tiếng v.v... ở uẩn thì ấy là thật. Dù có chứa nhóm, nhưng không nói y, duyên, vì do danh uẩn, âm thanh, danh, cú v.v... đã đi suốt qua uẩn..., nên chung cho giả, thật, hữu lậu, vô lậu, dùng làm thể của giáo.

Thuyết Nhất Thiết hữu bộ nói: "Thể của giáo, có thuyết nói: "Chỉ dùng ba thứ danh, cú, văn mà làm giáo thể, vì có giải thích"."

Có thuyết nói: "Chỉ dùng tiếng tốt làm thể, vì Phật đã siêng cầu trong ba vô số kiếp, vì danh v.v... vô ký, nên không nhận lấy chúng."

Nhà phê bình luận rằng: "Nhận lấy chỉ có âm thanh thiện hữu lậu, dùng làm giáo thể, vì siêng cầu khởi."

Kinh Lượng Bộ nói: "Thể của tiếng giả, như danh v.v... là có thật, mặc dù thể giáo kia không lập bất tương ưng hành, nhưng vẫn không nhận lấy tiếng, vì không có giải thích, nên nhận lấy chủ thể giải thích cong vạy, quanh co, giả trên tiếng hữu lậu, dùng làm thể tánh, nhưng xứ tiếng gồm thâu ở trước, huân tập ở sau, lần lượt tu tập, vì không có quá khứ, vị lai.

Như thế, hợp thuyết Tiểu thừa có sáu, gồm là bày ra thứ nhất là chấp khác.

Trong hiển bày Đại thừa, lại chia làm hai: Đầu tiên, là chỉ rõ thể biên; sau là biểu dương sáng tỏ Trung đạo.

Chỉ rõ thể biên: Long Mãnh, Thanh Biện đều nói rằng: "Tất cả các pháp vô tướng trong thắng nghĩa đế đều là "không", giáo nào? Lấy gì làm thể?"

-"Trong thế tục đế có thể cũng nói câu, ngôn, chương, luận, tiếng là thể của giáo. Tiếng Phạm nói: "Bát-đà, Hán dịch là dấu vết, là câu của khi xưa, câu có hai thứ:

1/ Câu đầy đủ của pháp nhóm họp.

2/ Câu tròn khắp của nghĩa rõ ràng.

Như nói: "Chẳng sinh, cũng chẳng diệt, chẳng đến, cũng chẳng hông đi; chẳng một cũng chẳng khác, chẳng thường cũng chẳng đoạn. Mỗi câu nghĩa này dù chưa tròn, nhưng cũng gọi là câu, vì pháp đầy đủ, nên danh mà Trung đạo trong đây đã nói tiếng Phạm là: "Phược-ca, Hán dịch là "ngôn". Lúc này, là câu mà Trung đạo nói, vì nghĩa tròn khắp"."

Tiếng Phạm là: "Bát-thích-ca-la, Hán dịch là Chương, Chương là chương đoạn. Một chương, một đoạn, để nói các nghĩa. Không có đối tượng gánh vác này". Tiếng Phạm là: "Xa-tát-trở-la, Hán dịch là luận. Tổng khắp một bộ, lập làm tên luận".

Bốn thứ này là chủ thể giải thích tiếng làm thể của giáo. Đây là so sánh đèn Bát-nhã để giải thích thuyết đã nói. Lại, nên xét văn của luận Trí Độ kia. Biểu thị rõ Trung đạo: Luận Du-già gồm thâu quyển 81 của phần quyết trạch, nói thể của kinh có hai:

1/ Văn 2/ Nghĩa.

Văn là đối tượng nương tựa; nghĩa, là chủ thể nương tựa. Do văn, chủ thể giải thích, nên nghĩa được rõ ràng. Trong văn, chủ thể giải thích lại chia làm hai:

1. Luận sư Long Quân, Bồ-tát Vô Tánh và một sư luận Phật địa đã nói. Vả lại, Vô Tánh nói: "Trong đây, tức là tùy thuộc vào tám thời giáo. Người nghe nói ngay thẳng, chẳng ngay thẳng trong thức, dùng sự tụ tập biểu hiện rõ làm thể tánh.

Ý này là nhận lấy sự thuận theo thế tục để giảng nói tám thời suốt ngày đêm. Khi nói về tám hội kinh

Hoa Nghiêm, giải thích các pháp, lúc tám lần chuyên vận tiếng, người nghe pháp, nghe tiếng v.v... do thức biến chuyển, nói thẳng chẳng phải thẳng, dùng làm thể của giáo."

Luận Phật Địa chép: "Nghĩa là với sức duyên theo bổn nguyện của Đức Phật từ bi, người có thể nghe giáo kia, nghĩa văn trong ý thức mình tương sinh, giống với thuyết Như Lai đã nói. Ý này, tức là do bổn nguyên của Phật làm duyên tăng thượng, khiến cho người nghe, nhận thức có tướng nghĩa văn. Tướng nghĩa văn này mặc dù tự nương tựa gần gũi với năng lực gốc lành khởi, nhưng y cứ vào bổn duyên, mà gọi là Phật nói. Thật ra, vì Đức Phật không có nói, nên Vô Tánh nói rằng: "Nếu như vậy, thì làm sao Bồ-tát có thể nói là sánh ví tăng thượng kia, nên tạo ra thuyết này: Ví dụ như vì năng lực tăng thượng của trời, v.v... nên khiến cho trong mộng được biện luận, chú thuận.

Nếu lìa thức thì làm sao Phật nói?"

-"Đây là y cứ vào bổn duyên, Phật không nói pháp, tức là không có nghĩa văn, chỉ có bi, trí đại định vô lậu. Nếu dựa vào người nghe, do tự thức biến, tâm hữu lậu thể hiện tức giống với danh, cú, văn; Tiếng vô lậu, dùng làm thể giáo; tâm vô lậu thể hiện, tức lấy nghĩa văn vô lậu chân thật làm thể. Đây tức là Như Lai thật sự không nói pháp, nên ở Đại Bát-nhã quyển 425, kinh Văn-thù Vấn, kinh Niết-bàn v.v... đều nói rằng: "Từ khi thành đạo đến nay, ta không nói một chữ, ông cũng không nghe." Thập Địa cũng nói: "Vì ba cõi Duy thức, cho nên biết giáo thể duy tâm đã biến nghĩa văn thành tánh, khéo thuận với Khế kinh, chẳng trái với Duy thức".

Hỏi: "Vì sao Phật bảo tức có bổn Phật, nay, nói pháp bảo tức duy tâm biến hiện?"

Đáp: "Giáo pháp nói suông chỉ nói tự tâm; vì chẳng phải hý luận khác, nên nhận lấy bản chất, vì lý, hạnh, quả, pháp đồng với Phật bảo."

Kinh Vô Cấu Xưng chép: "Pháp chẳng phải thấy, nghe, hay biết. Nếu vận hành thấy, nghe, hay biết, thì tức là thấy, nghe, hay, biết, chẳng phải cầu pháp", cho nên duy tâm biến hiện.

Hỏi: "Nếu lấy nghĩa của Phật nói, thì có thể như thế. Nếu người nghe, tâm đã biến thành giáo, nghiên cứu chín chắn, về lý, thật khó. Quá khứ, vị lai đã chẳng phải thật có, chẳng phải pháp hữu vi sinh rồi bèn trụ, thì làm sao nhóm họp sự hiểu biết sinh trên thức được?"

Đáp: "Vô Tánh giải thích: "Tùy theo rơi vào tám thời giáo, người nghe trên thuyết chẳng phải nói thẳng, thể hiện rõ ràng, dùng làm thể tánh, nghĩa là trong tám thời, trên thức người nghe, có hai thứ ngôn thuyết: Ngay thẳng, và không ngay thẳng, được nhóm họp, biểu hiện rõ ràng." Du-già nói: "Tâm lược có năm thứ:

1/ Suất nhĩ

2/ Tìm cầu

3/ Quyết định 4/ Nhiễm, tịnh 5/ Đẳng lưu.

Như chương Ngũ tâm, tự sẽ giải thích rộng hơn. Như Thánh giáo nói: "Các hành vô thường, pháp có khởi, tận, như nói: "Các chữ: tâm suất nhĩ rồi, tất nhiên khởi tìm cầu nối tiếp sơ tâm khởi. Mặc dù nhiều sát-na, nhưng hạnh, giải chỉ một, gọi chung là tìm cầu, vì biết chưa quyết định các đối tượng gọi". Như luận Du-già quyển ba nói: "Lại, một sátna, năm thức sinh xong, vì từ vô gián này, tất nhiên ý sinh"."

Lại nữa, nói thời điểm vận hành, do huân tập ở trước, liên đới hiểu biết sinh, có ba tâm biểu hiện, nghĩa là suất nhĩ, cũng tìm cầu và quyết định sau. Quyết định biết các điều kiện: tất cả hành, nên Dugià nói: "Tìm cầu vô gián, nếu không tán loạn, thì tâm chắc chắn sinh; nếu khi tán loạn sinh, thì không có định. Dù biết tự tánh, nhưng chưa biết nghĩa, vì giúp cho biết rõ"."

Lại nữa, nói không có chữ, trong thời gian này, có ba tâm trước, ở trên không có chữ, chỉ có hai tâm kia, là suất nhĩ, và tìm cầu. Chưa quyết định biết, chẳng có cái "không có", tức từ sau quyết định, liền khởi tìm cầu. Luận chỉ nói quyết định suất nhĩ tìm cầu, quyết định vô gián sinh.

Tìm cầu xong, về sau, vì thừa nhận sự tán loạn. Lại nói: "Lúc thường, năm tâm đều đủ, nghĩa ấy rất dễ hiểu, do sức chữ trước, lần lượt huân tập nối nhau với chữ sau sinh. Vào thời gian sau cuối, mới có thể hiểu nghĩa, tâm nhiễm, tịnh v.v... vì mới được chuyển vận, nên dù không có quá khứ, vị lai mà thể giáo cũng vẫn thành. Nếu vừa hiểu đều có "suất nhĩ", thì trên bốn chữ đều quyết định có hai tâm là suất nhĩ, và tìm cầu, tức ở sau cuối, có mười hai tâm, nhóm họp cùng một lúc.

Vì thứ nhất có hai, thứ hai có ba, thứ ba có hai, thứ tư có năm, nên thành mười hai. Đã ở chữ đầu tiên có suất nhĩ, tìm cầu; ở chữ thứ hai, mới sinh quyết định và trước là ba. Trong chữ thứ ba, liền khởi tìm cầu và trước là bốn. Thời gian chữ thứ tư, chỉ mới quyết định ba tâm: Quyết định, nhiễm tịnh, và đẳng lưu mà khởi, gồm có bảy tâm, nhóm họp cùng một thời gian.

Vì như thế, mới gọi là đầy đủ năm tâm, nên giáo Duy thức, lý thể của nó thành.

Xét về sớ thứ nhất của đối pháp, nên đầy đủ rộng khắp.

2. Hộ pháp, Thắng tử, Thân quang v.v... nói: "Phẩm biện luận về thể xuất, gồm có bốn lớp:

1) Nhiếp tướng quy thể tánh, tức tất cả pháp, vì đều là tánh cho nên, nên phần lý thú của kinh Đại Bát-nhã chép: "Tất cả hữu tình đều là Như Lai tạng".

Kinh Thắng-man chép: "Nói về người sinh tử là Như Lai Tạng". Kinh Vô Cấu Xứng chép: "Tất cả chúng sinh đều như, tất cả pháp cũng như, chúng hiền Thánh cũng như, đến cả Di-lặc cũng như."

Các kinh, luận nói như thế chẳng phải một. Tất cả hữu vi, các vô vi..., có pháp thể riêng là tướng của như. Ví dụ như nước biển tùy vào "duyên" gió v.v... kích động thành tướng sóng. Thể của sóng này đâu khác với nước? Tất cả các pháp tùy thuộc bốn duyên hợp thành thể tướng của pháp đó, nhưng chẳng lìa Như. Tánh hạt giống hữu lậu đều như, bản thức cũng giống như thế, nên đều vô ký.

2) Nhiếp cảnh từ thể thức: Tức tất cả pháp đều là Duy thức, kinh Hoa Nghiêm v.v... nói: "Ba cõi duy tâm, tâm sở theo tâm vương, gọi là Duy thức, v.v..."

Chứng thành văn như thế... chẳng phải một.

3) Nhiếp giả theo thể thật, tức các pháp giả tùy thuộc đối tượng nương tựa pháp thật làm thể. Như nói bình v.v... lấy bốn trần làm thể. Các phần vị sắc, tâm bất tương ưng tức dùng phần vị đối tượng nương tựa làm thể.

Luận Đối Pháp chép: "Vì là giả lập trong các sắc, tâm bất tương ưng hành, nên là nói "bất hại" v.v..., tức vô sân v.v...; loại này chẳng phải một. Dụng của bốn tánh, biện luận riêng về thể, vì sắc tâm giả thật đều có chỗ riêng."

Du-già v.v... nói: "Uẩn sắc gồm thâu mười xứ, giới v.v... kia, loại này rất nhiều.

Lại, có bốn lớp:

1/ Chân như

2/ Vô tướng

3/ Duy thức

4/ Nhân duyên

Hai thể, bốn thể này gồm thâu nghĩa pháp khắp, tùy thuộc đối tượng thích hợp của nghĩa pháp, giải thích tất cả pháp. Này, thuận theo nghĩa, ấy là lược bày để nói, ngõ hầu học trò mai sau sẽ được hiểu tường tận mà dễ ngộ nhập."

Hộ pháp v.v... nói: "Thể của các giáo, nghĩa là sức duyên bản nguyện của người nghe, văn nghĩa trong thức Như Lai sinh nhau, nghĩa văn của chủ thể, đối tượng giải thích thật làm thể. Ý của sư này nói: "Bổn nguyện của chúng sinh là mong được nghe Phật nói, nghĩa văn trên thức Như Lai tương sinh; tâm thức của người nghe, tức nghe Phật nói"."

Vì cũng có tướng mạo của nghĩa văn giống hệt như thế, nên kinh Thăng Nhiếp Ba-Diệp Dụ nói: "Phật nhặt lấy lá cây để hỏi A-nan, so với lá rừng kia là nhiều hay ít?" Phật lại bảo Khánh Hỷ: "Ta chưa nói, mà đã có ngần ấy", nên ở đầu các kinh Phật đều dạy để: "Ta nghe như vầy!"

Nhị Thập Duy thức, Thiên Thân nói: "Lần lượt sức tăng thượng, hai thức thành tựu quyết định, nghĩa là vì sự khác nhau thức nối tiếp nhau nên sự khác nhau nối tiếp nhau khác, thức sinh lần lượt làm duyên tăng thượng lẫn nhau".

Cho nên, Thế Tôn thật sự cũng nói pháp.

Nói không nói: Là mật ý nói, vì dứt ngữ ngôn đối với tánh chân như, vì thật ra không có các việc, nên Bát-nhã nói: "Âm thinh tìm ta, không thấy Như Lai, tìm tòi công quy bổn, vẫn nói ứng hóa chẳng phải người nói pháp, vì trong đối tượng chấp, không có nói pháp, nên đối với y tha khởi, ví như người ảo thuật, vì người ảo thuật nói: "Chỉ có giả nói giống như người răng nói, đều không có nói thật". Tướng nghĩa văn trên tâm thức của người nghe, vì về lý "có, không", nghi ngờ, nên thể các giáo vốn vô lậu, dùng nghĩa văn mà Đức Thế Tôn đã nói làm thể. Nếu nhận lấy chủ thể giải thích, thì chỉ tiếng, danh v.v... mà làm thể tánh."

Luận Thập Địa chép: "Người nói, người nghe, đều dùng hai việc mà được rốt ráo:

1/ Âm thanh.

2/ Giỏi về chữ.

Lại, kinh Giải Thâm Mật và luận Du-già quyển 78 nói: "Ở địa thứ chín, dứt trừ hai thứ ngu:

-Ngu đối với vô lượng pháp đã nói, vô lượng danh, cú, tự, Đà-la-ni tự tại.

Luận Thành Duy Thức quyển chín chép: "Vô lượng danh, câu, chữ, gọi là pháp vô ngại giải.

Pháp đã nói: "Nghĩa" là đối tượng giải thích. Danh, câu, chữ: "Văn", là chủ thể giải thích."

Luận Đối Pháp v.v... chép: "Tiếng do thành dẫn, nghĩa là tiếng do các bậc Thánh nói".

Luận Thành Duy Thức quyển hai chép: "Do cảnh của hai pháp, từ vô ngại giải này có khác nhau: pháp "duyên" theo danh,...; Từ ngữ "duyên" theo tiếng."

Luận Kim Cương Bát-nhã, Thiên Thân nói: "Lại nói: Người vô ký, nghĩa này không hợp lý. Vì sao? Vì pháp của ông là vô ký; mà pháp của ta là ký (ghi nhận). Cho nên, pháp bảo cao quý hơn vô lượng chân báu. Cho nên, phải biết thể giáo thuyên biểu chỉ có thể tiếng, danh,... chỉ là vô lậu, cũng chỉ là thiện. Thể này chung cho y tha và viên thành thật. Từ các duyên khởi, gọi là y tha, thể là vô lậu, có thể chung cho Thành thật."

Luận Phật Địa chép: "Y cứ vào môn tùy chuyển và phái Nhị thừa nói về mười lăm giới, chỉ là danh, cú, văn, thân hữu lậu, chỉ là vô ký. Nay y cứ Đại thừa, nếu chỉ sau Như Lai, được tiếng danh câu văn nói pháp, vô lậu chân thiện, như trước kia đã giải thích nói trong các giáo, nên luận Phật Địa, Thành Duy Thức, nói mười tám giới đều chung cho hữu lậu và vô lậu. Nếu Bồ-tát Thập Địa, Nhị thừa nói pháp, thì tiếng, danh, câu, văn, chỉ là hữu lậu. Nếu người nghe, nghĩa văn do thức biến, hoặc chung cho hữu lậu và vô lậu. Tất cả phàm phu, Nhị thừa, Bồ-tát Thất địa trở xuống sao là hữu lậu được? Người nghe pháp đều chỉ là hữu lậu. Nếu tất cả Nhị thừa, Thất địa trở xuống, sao vô lậu được? Bát địa trở lên, tiếng, danh, câu, văn được biến trên thức, đều chỉ vô lậu, tùy thuộc vào đối tượng thích hợp của vô lậu nói là giáo. Nhưng đều được kính trọng, đã lấy bản chất, Tam bảo là vô lậu. Nay, thể giáo cũng lấy Phật v.v... bản chất đã nói nhậm vận mà hiện, chẳng phải tiếng là nói suông hữu lậu làm thể. Nhiếp Đại Thừa chép: "Như trống trời Mạt-ni, không có suy nghĩ thành việc mình, tiếng v.v... làm thể. Đối với người năng nói, vì thể hiện trong thức, nên chẳng trái với Duy thức. Nếu người nghe giáo do thức biến thành thì giáo chỉ dùng ba tánh hữu lậu làm thể, vì đồng với thức tánh, nên y cứ vào thuyết trước đã nói: Trong bốn thể phát ra, nay phát ra thể giáo, lẽ ra cũng có bốn. Y cứ thứ nhất trước gồm thâu tướng về tánh. Giáo tức chân như. Luận Bát-nhã nói: "Ứng hóa chẳng phải chân Phật, cũng chẳng phải người nói pháp, nói pháp không là hai thủ, vì không có nói tướng ly ngôn, nên biết thể tánh của giáo tức chân như không nhơ, hợp với ngữ."

Đại Thiện Hiện nói: "Tánh văn tự là lìa, không có văn tự, tức là giải thoát. Tướng giải thoát: Tức là các pháp. Lại nói: "Tất cả pháp cũng như". Lại, nói: "Pháp chẳng phải thấy, nghe, hay biết. Nếu thực hành thấy, nghe, hay biết, tức là thấy, nghe, hay, biết, chẳng phải cầu pháp. Nên biết thể tánh của giáo tức chân như. Y cứ thứ hai trước gồm thâu cảnh từ thức. Nếu nhận lấy tâm thức căn bản của người năng nói pháp làm thể; nếu vì nhận lấy ở ngọn tâm thức của người năng nghe pháp, nên Thiên Thân nói: "Năng lực tăng thượng lần lượt hai thức thành quyết định"."

Y cứ thứ ba ở trước, nhiếp giả về thật, tất cả thể của giáo trong chỉ là tướng, do thể của danh, cầu, văn là có giả, vì thuận theo nói thật.

Luận Đối Pháp chép: "Tiếng được trở thành dẫn sinh, chẳng nói danh v.v... Danh thành đã dẫn sinh, y cứ vào tướng dụng của thứ tư ở trước, để giải thích riêng, chỉ nhận lấy căn bản tiếng, danh, câu, văn đã biểu hiện trong thức của người năng nói pháp, dùng làm thể của giáo, vì dụng của nghĩa thật và giả khác nhau."

Luận Thập Địa chép: "1/ Âm thanh; 2/ Giỏi về chữ.

Như giáo lý trước trở thành thể này xong. Bổn thể trong đây, y cứ ở phần dụng của nghĩa chẳng trái với chân, tục là lý pháp tướng. Mặc dù nói là nghĩa của một thể chẳng trái với ba, tức mỗi pháp đều có "thể" của bốn thứ này, nên nói là thể của các pháp.

Y cứ vào thể này, nên biết dù nghĩa của thể hiển giáo có nhiều đường lối mà chưa giải thích về tánh giáo của Duy thức."

-"Sao người nói nhóm họp trong thức, khiến người nghe pháp nhóm họp kiến giải sinh".

Luận Hiển Dương quyển mười hai chép: "Có chữ chẳng phải danh, gọi là một chữ; có danh chẳng phải câu". Nghĩa là một chữ danh. Câu phải có danh tự; danh cũng phải có tự; tự không cần có danh; danh không cần có câu.

Trong Đại thừa, đối với nghĩa quẩn khúc của tiếng, nói danh, v.v..., nên nói là danh, chẳng phải nghĩa Tiểu thừa.

Nay, y cứ vào nghĩa này để giải thích về người nói pháp và người nghe pháp, nhóm họp trong tâm thức hiện rõ, như Thánh giáo nói: Các điều ác chớ làm; các điều lành vâng làm. Khéo điều phục tâm mình, là Thánh giáo chư Phật, khi nói các chữ, chữ ác, v.v... đều ở vị lai, chỉ có một chữ và dựa vào một chữ, mà danh được thành, biểu hiện ở trong tâm. Đây tức là nghĩa của một chữ thành danh; cũng có một chữ không thành danh. Nghĩa là chẳng phải do-tuần nói ở đây. Lại nữa, khi nói điều ác khác, nghĩa chữ "thảy", đều ở vị lai. Các chữ trước kia, dù thuộc về quá khứ, nhưng hiện không có bản chất. Do năng lực huân tập, năng lực biến của Duy thức, vẫn đối với cảm nghĩ này, khi nói chữ ác, sẽ thể hiện rõ trong tâm, tức có một chữ của hai cái, thân chữ của một cái. Một chữ của hai cái đã thành danh; một chữ, một cái đã thành danh, danh thân. Hai chữ một cái đã thành danh. Lại nói, nghĩa là thời gian có một chữ ba cái, thân chữ của hai cái:

1/ Gọi là các việc ác;

2/ Gọi là người ác. dùng hai hợp nói.

Dưới đây, nên so sánh mà biết, không thể cách vượt. Vì hợp nên không có. Các nghĩa là hợp với thân danh chữ; ba chữ của một cái, nhiều thân chữ, một chữ ba cái đã thành danh; một chữ hai cái đã thành danh, danh thân.

Thân, chữ như trước, hai, hai hợp nói. Một cái, một chữ đã thành danh, nhiều danh thân. Luận dù có hai thuyết, nhưng nay, lấy ba chữ danh, gọi là nhiều danh thân; chẳng lấy bốn chữ. Nghĩa là so sánh với ở dưới, nên biết.

Hai chữ của hai cái đã thành danh (danh được thành bởi hai chữ của hai cái). Cũng hai, hai hợp nói.

Danh được thành do hai chữ của một cái, gọi là danh thân.

Danh được thành bởi ba chữ của một cái gọi là nhiều danh thân.

Lại nữa, khi nói "chớ", có một chữ bốn cái, thân chữ của ba cái, cũng hai, hai hợp, nói, y theo trước nên biết.

Ba chữ của hai cái, nhiều chữ thân.

Ba hợp với ba nói: Lại, trừ lẫn nhau một chữ đầu và sau.

Bốn chữ một cái, thành danh, danh thân, năm chữ bốn cái được thành Danh, gọi là danh thân, nghĩa là hai, hai hợp nói.

Danh được thành do một chữ hai cái.

Gọi ba danh, nhiều danh thân, nghĩa là ba, ba hợp nói, lại trừ lẫn nhau một chữ trước sau.

Danh được thành do một chữ một cái, bốn danh, nhiều danh thân.

Danh được thành bởi hai chữ ba cái. Nghĩa là hai, hai hợp nói.

Danh được thành bởi hai chữ, hai cái, gọi là thân.

Danh được thành bởi ba chữ, một cái, gọi là nhiều danh thân.

Danh được thành bởi ba chữ, hai cái, lại trừ lẫn nhau, so sánh nói như trước.

Danh được thành bởi ba chữ, một cái, gọi là thân. Danh được thành bởi bốn chữ, một cái gọi là danh, danh thân.

Lại nói: Khi tạo tác, có một chữ, năm cái. Thân chữ của bốn cái.

Nghĩa là hai hai hợp nói. Ba chữ, ba cái, nhiều chữ Thân.

Bốn chữ, hai cái, nhiều chữ thân. Năm chữ một cái, nhiều chữ thân.

Đến đây, tổng hợp chữ và chữ thân và nhiều chữ thân, có một, mười, năm.

Danh được thành bởi một chữ, năm cái.

Danh được thành bởi một chữ, bốn cái. Nghĩa là hai, hai hợp nói.

Danh được thành bởi một chữ, ba cái. Ba danh, nhiều danh thân.

Nghĩa là ba, ba hợp nói.

Danh được thành do một chữ, hai cái.

Bốn danh, nhiều danh thân, lại trừ ban đầu lẫn nhau, một chữ sau.

Danh hình thành do một chữ, một cái, gọi là năm danh, nhiều danh thân.

Danh hình thành bởi hai chữ, bốn cái, nghĩa là hai, hai hợp nói.

Danh hình thành bởi hai chữ, ba cái, gọi là thân. Danh hình thành bởi hai chữ, hai cái, gọi ba danh, nhiều danh thân.

Danh hình thành do hai chữ, một cái, gọi là bốn danh, nhiều danh thân.

Danh hình thành do ba chữ, ba cái. Nghĩa là ba, ba hợp nói.

Danh được thành do ba chữ, hai cái, gọi là danh thân.

Danh được thành do ba chữ, một cái, gọi là nhiều danh thân.

Danh được thành, do bốn chữ, hai cái, lại trừ lẫn nhau một chữ đầu và sau.

Danh được thành do bốn chữ, một cái, gọi là thân.

Danh được thành do năm chữ, một cái gọi là danh.

Đến đây, tổng hợp danh và danh thân và nhiều danh thân, có ba mươi lăm, hợp có một câu, vì nghĩa rốt ráo. Tiếng Phạm là: A-nậu-sắt-đa-xiếtđà, tức tám chữ thành câu, không dài, không ngắn. Vì viên mãn, nên trong đây đều dùng tướng vô gián hợp mới thành danh..., không thể cách việt mà hợp thành danh..., vì chữ bị ngăn cách thì không có công dụng.

Trong đây, lại, y cứ vào sự tăng trưởng gấp bội mà tạo ra pháp kia, hợp có tiếng, đối tượng nương tựa của năm sát-na, biểu hiện ở trong tâm, nên không thể đặt câu hỏi. Ở đây, y cứ ở sự rốt ráo của một câu để nói, chữ, danh, câu, tiếng, đều hợp, còn có năm mươi nhóm. Nếu y cứ một tụng, một đoạn một quyển, một bộ, thì nhóm họp chữ, danh, câu... về mặt lý, tức là vô biên. Nếu Tát-bà-đa v.v..., khi nói chữ ác..., thì các chữ đã diệt, vì không có nhóm họp, nên thứ lớp mà sinh; vì không cùng thời, vì không huân tập, nên chẳng thể đến sau. Chữ đã được nói ở trước, vì biểu hiện ở trong tâm sau, nên nghĩa giáo kia, chắc chắn sẽ không thành, cũng chẳng phải do thế lực của các chữ trước; Chữ sau cuối có công năng sinh ra danh hiển, quá khứ không có tự "thể". Lại, không có huân tập.

- "Do thế lực nào, mà chữ sau cuối sinh ra danh... hiển v.v…?"

- "Vào thời nay, ta là người nói pháp, nếu ở vị nhân và các thính giả cũng ở trong nhân. Do các chữ đầu tiên huân tập bổn thức xong, liên đới "duyên" chữ "v.v…" người ác sau, kiến giải trong thức sinh, cho đến khi tạo ra chữ sau cuối, thì trước đều nhóm họp. Do trước huân tập trên thức sau nhóm họp hiện rõ. Sự khác nhau của chủ thể, đối tượng giải thích tròn đầy, gọi là nói pháp. Nói vì nghe giáo; nếu là Phật nói thì dù không có huân tập, cũng là nhóm họp sinh, nên dù không có quá, vị, nhưng giáo Duy thức vẫn thành lập. Người nói, người nghe, về nghĩa đều viên mãn, đều cùng lấy hai thứ tiếng, và chữ, cuối cùng nhóm họp trong tâm mình, vì sự thể hiện rõ ràng làm "thể" của giáo, nên đối với bốn thứ thể phát ra này, thuận theo đối tượng thích ứng của các thể đó, do viên thành v.v... và năm pháp, ba tánh của tướng, danh v.v... đều phát ra riêng lẻ, chỉ cho nghĩa Đại thừa.

Trong nghĩa Đại thừa dù có pháp của ba khoa uẩn, xứ, giới v.v..., vì thể tánh thay đổi, lại vì xen lạm Tiểu giáo, nên không nhận lấy.

Thể tánh của ba tánh, nói một cách đơn giản, thể của biến kế sở chấp chỉ cho tánh, tướng của ngã, pháp đều không có Y tha, Viên thành thật đều có hai thể:

1) Môn hữu lậu, vô lậu. Vì các pháp vô lậu đều gọi là viên thành, nên Nhiếp Luận chép: "Nếu nói bốn thanh tịnh là tức là viên thành thật. Các pháp hữu lậu đều là Y tha khởi".

2) Môn thường, vô thường: các thứ thường trụ, gọi là Viên thành thật, tức chỉ thuộc về chân như Viên thành thật.

Luận Du-già chép: "Trong năm pháp chỉ nói chân như là viên thành, nên tất cả hữu vi đều là y tha khởi, vì dựa vào mọi duyên khác mà được khởi, nên thể của giáo ở trước là nhiếp tướng về tánh, chỉ là viên thành thật. Từ ba thể khác, có thể đi suốt qua hai thuyết vì hữu vi vô lậu chung cho hai tánh, nên thể tánh của năm pháp, như chương Ngũ pháp. Về nghĩa, đem so sánh nên đồng đều. Tất cả chương khác đều từ môn này."

Đã lược chỉ bày không nói riêng, y cứ vào nghĩa để biết. Nghiên cứu, tìm tòi nghĩa lý đã nói trong đây, đều do Đại sư truyền trao dạy bảo riêng. Người truyền là thật, dù văn vụng về nhưng nghĩa này rất đáng xem.

Mong rằng, những người có trí, xoay vần vì xem xét tường tận. Trong đó, dẫn chứng Đại thừa thuần túy. Như ánh sáng rực rỡ của mặt trời, không cần sự giúp đỡ của các vì sao.

Nếu có chỗ nào sai lầm, thì mong làm bài khuôn phép.

Từ trên đến đây, đều là thể tánh khác nhau. Các nghĩa môn khác, như chương khác có nói.

Thứ năm, là được danh cách trở xa vời, trong đó có hai: Trước bàn về thuyết xưa; sau nói về giải thích hiện nay.

Bàn về thuyết xưa: Các sư xưa giải thích danh nghĩa các pháp, chỉ thuận theo ý mình, đều là một giải thích: đã không có y cứ, nên khó có thể so sánh nghĩa nương nhờ, vì trái với thể, nên trở thành sơ suất, nhận lầm. Hoặc nói rằng, đương thể để bày danh; hoặc nói rằng, y cứ vào nghĩa, dùng làm đề mục; hoặc nói rằng, từ chủ thể nương tựa để tiếp nhận tên gọi; hoặc nói rằng, từ đối tượng nương tựa để đặt tên; hoặc nói rằng, từ số, y cứ vào nghĩa để đặt tên; hoặc từ tăng cường tương ưng làm hiệu; hoặc hai thể trái nhau.

Như thế, mỗi cách giải thích khác nhau, đều vâng theo tình hình, chưa phải là điển cứ, sở dĩ các sư lăng xăng, khởi lên dị đoan lẫn nhau, làm cho kẻ hậu học không thể theo tiếp nhận, đều do người đứng đầu phiên dịch không giỏi về phương ngôn, nên dù cho ngôn ngữ tiêu dung, nhưng chỉ thú huyền vi vẫn cách biệt.

Sư đã sai lầm nên của tiền cũng phụ!

Luận về người giải thích hiện nay. Tương truyền ở Tây Vức các nhà giải thích các danh nghĩa, đều y cứ vào luận riêng, gọi là Lục hợp thích. Tiếng Phạm là: Sát-tam-ma-ta, Hán dịch là Lục hợp.

Sát là sáu; Tam-ma-ta là hợp. Các pháp chỉ có hai nghĩa. Trở lên mà vì danh: Tức tương đương cách giải thích này, chỉ có:

1/ Nghĩa danh, tức chẳng phải cách giải thích này. Một nghĩa vì danh lý, gọi là tự thể, không từ pháp của người khác mà lập danh mình.

2/ Nghĩa vì danh lý, vì có lạm nhau, nên sáu hợp, giải thích không có một nghĩa danh.

Đầu tiên, chỉ là giải thích riêng hai nghĩa khác nhau; sau, mới hợp lại. Như nói: Phật-đà, dịch là giác giả, giả là nghĩa chủ, chung cho năm uẩn; giác là nghĩa xem xét, chỉ thuộc về trí.

Đây là giải thích riêng xong. Người có xem xét, gọi là giác giả, đây tức là hợp lại, nên gọi là Hợp.

Gọi hợp này có sáu thứ, gọi là giải thích sáu hợp. Dù như Bồ-đề có hai chữ, nhưng hai chữ chỉ gọi nghĩa một giác. Nghĩa đã là một, về lý, gọi là một thể. Đã không lạm nhau thì đâu dùng sáu hợp. Giải thích sáu hợp. Giải thích sư lạm nhau trong các danh, vì đúng nghi các người đặt câu hỏi. Giải thích sáu hợp này, dùng nghĩa để giải thích, cũng có thể gọi là sáu ly hợp thích.

Đầu tiên, mỗi thứ đều giải thích riêng, gọi là ly; sau tổng hợp để giải thích, gọi là hợp. Sáu thứ là:

1/ Trì nghiệp thích

2/ Y chủ thích

3/ Hữu tài thích

4/ Tương vi thích 5/ Lân cận thích 6/ Đới số thích.

Đầu tiên là trì nghiệp thích, cũng gọi là đồng y. Trì, nghĩa là nhậm trì; nghiệp, là nghiệp dụng, nghĩa của tác dụng. Thể có công năng gìn giữ dụng, gọi là trì nghiệp thích.

Gọi đồng y: Thanh tịnh, nghĩa là đối tượng nương tựa. Hai nghĩa đồng y là:

- Thể sở y, gọi là đồng y thích, như gọi Đại thừa.

Vô Tánh giải thích rằng: "Vừa là thừa, vừa là đại. Đại, có bảy nghĩa. Hình tiểu giáo là danh. Thừa: Nghĩa là vận tải. Hạnh cứu giúp là mục đích. Hoặc thừa, hoặc đại, đồng y một thể, gọi là đồng y thích. Thể ấy là pháp đại, vì có công năng vận động, nên gọi là trì nghiệp. Trong các luận, phần nhiều gọi trì nghiệp, ít gọi là đồng y. Luận Nhiếp Đại Thừa cũng thừa nhận như vầy: "Vì công năng nhiếp giáo tức là luận, nên Vô Tánh bảo rằng: cho nên nói: Đây gọi là Nhiếp Đại Thừa; đều có cương yếu của Đại thừa, vì không có nơi riêng, nên luận này gọi kinh này là Đại thừa. Luận cuối gọi là nhiếp, chẳng phải dùng phẩm Bổn kinh Nhiếp Đại Thừa, gọi là Nhiếp Đại Thừa.

Lại như Duy thức, luận Thành Duy Thức, thể của thức tức "duy", giáo của chủ thể thành cũng tức là luận, nên đều là trì nghiệp. Đối với thức danh, gọi là Tạng thức. Thể của tạng tức là thức, trì nghiệp cũng vậy.

Danh nghĩa của chủng loại như thế chẳng phải một, không phiền thuật lại, phải so sánh mà biết.

- Y chủ thích: Cũng gọi là y sĩ. Y nghĩa là chủ thể y chỉ; chủ, nghĩa là thể pháp, y chỉ pháp chủ người khác, để lập danh mình, gọi là y chủ thích. Hoặc chủ là chủ vua. Tất cả pháp thể, gọi là chủ, nghĩa là từ dụ đặt tên, như bề tôi nương tựa vua, vì bề tôi của vua, nên gọi là vua tôi. Sĩ, gọi là sĩ phu. Hai giải thích cũng vậy.

Trong Sinh luận, luận Nhiếp Đại Thừa, dùng phẩm Nhiếp Đại Thừa trong kinh này, gọi là Nhiếp Đại Thừa.

Luận này giải thích kinh kia, gọi là luận Nhiếp Đại Thừa. Về nghĩa, có thể nói luận của Nhiếp Đại Thừa, vì dựa vào phẩm Nhiếp Đại Thừa làm chính, vì để đặt tên luận, nên gọi là y chủ thích. Nếu thừa nhận luận cũng gọi là nhiếp, nhiếp suốt qua lý. Luận là giáo, luận của Nhiếp Đại Thừa, so sánh cũng nên biết. Thành của Duy thức, gọi là Thành Duy thức, dùng lý làm thành; luận là giáo. Luận Thành Duy Thức cũng là y chủ. Như gọi nhãn thức ở trong thức danh, y cứ vào thức của nhãn, so sánh với đây nên biết.

- Hữu tài thích. Cũng gọi là Đa tài, không bằng hữu tài, nghĩa là của vật, mình từ của cải của người khác mà lập, xưng mình, gọi là hữu tài. Như thế gian có tài sản, cũng là từ dụ mà đặt tên. Như: Đại Thừa A-tỳ-đạt-ma Tập Giả trong luận gọi là: Đại Thừa A-tỳ-đạt-ma, đây là tên của kinh Phật căn bản. Tập, là chung cho chủ thể, đối tượng chủ thể tập tức là luận, đối tượng tập tức là kinh. Nay lấy Đại thừa Đối pháp kia làm tập, gọi là Đại Thừa Đối Pháp Tập, cho nên là Hữu tài thích. Luận này dùng Duy thức làm đối tượng thành, gọi là luận Thành Duy Thức, cũng là hữu tài thích, dùng A-tỳ-đạt-ma làm Tạng, gọi là Đối pháp tạng. Hữu tài cũng vậy. Tất cả nghĩa như thế đều đồng giống như vậy.

- Tương Vi Thích. Danh đã có hai nghĩa: Đối tượng gọi, tự thể đều khác. Hai thể trái nhau mà lập chung tên gọi, là nghĩa trái nhau. Như nhiếp quyết trạch phần, đầu tiên lập tên địa nói rằng: "Thân năm thức tương ưng với địa ý của địa: Đây chẳng phải là địa của năm thức thân, tức là địa ý, cũng chẳng phải địa ý của địa năm thân thức, cũng chẳng phải dùng địa của năm thân thức làm địa ý, vì hai địa đều khác, đặt chung một tên gọi, bởi thể chúng đều riêng, nên gọi là trái nhau.

Nay dùng nghĩa so với lý "có" và lời nói, nên nói rằng, địa của năm thức thân và địa ý, chỉ vì luận nói giản lược. "Với", "và", "và nói" trong các giáo, đều là pháp cách biệt, khiến cho sự khác nhau kia đều là tương vi thích, như Nhân Minh nói: "Chủ thể lập (năng lập) và chủ thể phá (năng phá). Ở đây, giải thích rõ vì nghĩa năng lập, chẳng phải năng phá, nên nói là với lời nói chứng tỏ hai thứ khác nhau. Tất cả pháp khác đều giống với ở đây, nên biết."

- Lân cận thích: Nghĩa của pháp đều cùng một thời gian, với công dụng vượt trội hơn, tự thể từ pháp kia mà đặt tên mình, gọi là lân cận thích. Như nói: "Các pháp tương ưng với có tầm và có từ v.v... đều là thể này, chỉ khi tầm, từ tăng, gọi là có tầm..., cũng như thể của niệm, trụ chỉ là tuệ; chỉ dụng của niệm tăng, gọi là niệm trụ; ý nghiệp cũng vậy. Tất cả pháp khác đều giống với ở đây, nên biết."

- Đới số thích: Số nghĩa là số một, mười, một trăm, mười ngàn, v.v... Đới nghĩa là đính kèm, thể pháp đính kèm theo pháp số, đặt tên, gọi là Đới số thích, như nói: luận Nhị Thập Duy Thức chép: "Duy thức, nghĩa là pháp của đối tượng sáng suốt. Nhị thập là tên số tụng, kèm theo số là Danh, gọi là Đới số thích. Luận Quảng Bách y cứ vào số này, nên biết".

Sáu thích ở đây, lại, dựa vào truyền chung, mà lược bày nghĩa thể; giải thích rộng về tướng, như chỗ khác có nói. Nghĩa là Trì nghiệp thích đầu tiên trong sáu thích này, đối với tám chuyển thinh, giải thích trong thinh nào? Cho đến đính kèm theo số làm câu hỏi cũng vậy, đều như chỗ khác, lại có tên thích, như tông luận sớ, e chán nhiều rườm rà. Vả lại, chỉ có cương yếu, tổng hợp với ở trước, nghĩa thông với các giáo. Các hữu học khác, phải nên áp dụng. Nếu giảng nói bộ riêng, thì sẽ dùng nghĩa văn này trong mỗi môn, nên kết quy về nghĩa mình. Nếu không như vậy, thì đó là sơ lược thái quá. Giải thích, gạn hỏi về nghĩa lý trong đây, đều đối với đại sư, đích thân giải quyết, chỉ vì sai lầm không thừa nhận.

Những người có trí, xin lưu ý cho!

------------------------------

CHƯƠNG NGŨ TÂM

Năm tâm như suất nhĩ v.v... lược dùng mười hai môn để phân biệt:

1/ Nêu tên

2/ Giải thích tướng

3/ Tám thức "có", "không"

4/ Sát-na nhiều, ít

5/ Rối loạn, không rối loạn sinh.

6/ Các tâm đối biện.

7/ Trước, sau rộng, lược

8/ Các vị thiếu đủ

9/ Gồm thâu ba tánh

10/ Duyên sinh chung, riêng 11/ Thuộc về lượng nào?

12/ Hỏi đáp nhờ phân biệt.

- Thứ nhất, là nêu tên: 1) Tâm suất nhĩ

2) Tâm tìm cầu

3) Tâm quyết định

4) Tâm nhiễm, tịnh 5/ Tâm đẳng lưu.

Du-già quyển một chép: "Địa của thân năm thức, do nhãn thức sinh ba tâm có thể được, như thứ lớp ba tâm đó, nghĩa là tâm suất nhĩ, tâm tìm cầu, tâm quyết định. Đầu tiên là nhãn thức, hai là ý thức, sau tâm quyết định, mới có nhiễm, tịnh. Từ đây về sau, mới có nhãn thức đẳng lưu, chuyển vận thiện, bất thiện, như nhãn thức sinh, cho đến thân thức cũng vậy. Do tánh của ba tâm đầu tiên, vì đồng loại, nên chỉ nói là ba, nói thật là gồm hai tâm sau."

- Thứ hai, là giải thích về tướng: Vả lại, như nhãn thức, đầu tiên, rơi vào cảnh, gọi là suất nhĩ đọa tâm, đồng thời, ý thức trước kia chưa "duyên" với cảnh này.

Nay, đầu tiên là đồng khởi, cũng gọi là suất nhĩ, nên Du-già quyển ba chép: "Ý thức nhậm vận tán loạn, khi "duyên" cảnh không tập quán, không có dục v.v... sinh. Bấy giờ, ý thức gọi là suất nhĩ đọa tâm, có dục v.v... sinh, vì thuộc về tìm cầu."

Lại, kinh Giải Thâm Mật, và Quyết Trạch quyển 76 chép: "Năm thức đồng thời, chắc chắn có một ý thức phân biệt, vì chuyển biến cùng thời gian, nên mắt đều cùng có với ý, gọi là tâm suất nhĩ. Đầu tiên, tâm suất nhĩ rơi vào cảnh này đã là duyên đầu tiên, chưa biết cảnh nào, là thiện hay ác (tốt hay xấu). Vì muốn biết rõ, nên tiếp theo, khởi tâm tìm cầu với dục, đều chuyển vận cảnh hy vọng; đã tìm cầu xong, thức nhận biết trước cảnh hôn trầm, tiếp theo, là khởi tâm quyết định, vì hiểu rõ cảnh một cách ấn tượng, nên quyết định xong, cảnh giới khác nhau của thức, nhận lấy tướng chánh nhân v.v..., đối với kẻ oán, thì dừng lại ở việc ác; đối với người thân, thì dừng lại ở điều lành, ở trong đó trụ xả, tâm nhiễm tịnh sinh. Do ý thức nhiễm, tịnh này làm ưu tiên, dẫn sinh ra nhãn thức đồng tánh thiện nhiễm, thuận với tâm trước mà khởi, gọi là tâm đẳng lưu. Như nhãn thức sinh, nhĩ, v.v... cũng như vậy.

- Thứ ba, là tám thức "có", "không": Quyển một chỉ nói: "Sáu thức có năm tâm này, không nói bảy, tám. Lại, thức xen hở mới có đủ năm tâm này, chẳng phải thức luôn nối tiếp, nhưng thức thứ bảy, vị chưa chuyển y, "duyên" cảnh luôn định, nhậm vận sâu kín, chỉ có ba tâm sau:

- Vì có thể nói đủ trong một sát-na, thứ tám không như vậy. Vị sơ sinh của giới, có tâm suất nhĩ, vì có cảnh sắc, vô sắc rộng, hẹp, nên cảnh quyết định của ba tâm đẳng lưu, nhiễm tịnh có mới, cũ. Hoặc trước, sau đối nhau, vì có thể đầy đủ, nên chỉ không có tìm cầu, vì không có dục đi chung vì thức giới thứ bảy dù cảnh sơ sinh, cũng luôn là một loại, nên chẳng có hai tâm suất nhĩ, và tìm cầu. Vị chuyển y đầu tiên, có thể gọi là suất nhĩ, tức là tâm quyết định nhiễm, tịnh.

- Sau niệm thứ hai, tức là đẳng lưu. Về nghĩa hai niệm hợp nói có bốn tâm. Hoặc thời thứ hai, lại khởi tịnh thức. Niệm ban đầu tức là bốn tâm này, là vì tâm đẳng lưu đã khởi ở trước. Nay, cảnh mới đọa, có suất nhĩ, nên trong đây, lại dựa vào luận nói sáu thức. Bảy, tám đạo lý đã có các tâm. Về lý mà nói, thứ sáu có năm. Nhân, quả của năm thức trước, hợp nói có thể có năm tâm, nhân chỉ có bốn, trong khi tìm cầu thấy, nghe chưa rõ. Năm là tùy ý chuyển, cũng là tìm cầu, vì có hy vọng. Không như vậy, thì tâm này lẽ ra chẳng thuộc về năm. Một niệm suất nhĩ, quyết định chưa sinh, nếu chẳng tìm cầu, thì sẽ bị sai lầm lớn. Ý thức quyết định đã thừa nhận nhiều thời gian, nhiễm, tịnh chưa sinh, năm tùy ý chuyển.

- "Nếu chẳng phải quyết định thì đó là tâm nào?"

- "Năm trong nhân, không có nhiễm, tịnh thứ tư, vì nhân không có thế lực, có thể tự dẫn sinh, quả có thế lực, vì vượt hơn, nên có nghĩa.

Bát địa trở lên, năm thức tự tại, trước, sau dẫn sinh nhau trở thành nhiễm, tịnh."

- "Thừa nhận thức bảy, tám, ở trước có thể dẫn sau, thành tâm nhiễm, tịnh, sao năm không như vậy?"

- "Nên biết rằng, nhân của năm thức cũng có năm. Tổng kết, sáu thức trước đủ năm tâm; thức thứ bảy, tám, mỗi thức đều có bốn. Nghĩa có trong đây, năm thức chỉ có hai, là tâm suất nhĩ và đẳng lưu; năm trong tìm cầu v.v... tùy thuận sinh, tức tâm đẳng lưu, vì thừa nhận rối loạn sinh.

Nay, ở đây, lại, y cứ vào pháp vượt hơn, rõ ràng để nói, pháp khác, đều so sánh mà biết.

Luận Du-già chép: "Đầu tiên, trong ba tâm, tâm đầu là năm thức, tâm thứ hai là ý thức. Lại nói nhiễm, tịnh là ý thức, đẳng lưu mới có năm thức ấy, vả lại, y cứ vào thuyết chấp nhận ở trong một, không có cảnh thức tạp nhạp, xê dịch."

- "Nguyên nhân nào chẳng thừa nhận tìm cầu không hiểu rõ, mà thường thường tìm cầu?"

- "Thành Duy Thức chép: "Được vị tự tại, nhậm vận quyết định không cần tìm cầu. Lúc bấy giờ, năm thức thân, về lý, tất nhiên là nối tiếp nhau, nên biết năm thức có đủ năm tâm, chẳng trái với Dugià, về lý cũng vượt hơn."

- Thứ tư, là sát-na nhiều ít: Nghĩa là năm thức như suất nhĩ v.v… chỉ một sát-na. Du-già quyển ba chép: "Lại, chẳng phải năm thức thân có hai sátna, tùy thuộc nhau đều sinh chung. Lại, một sát-na, năm thức sinh xong, vì từ vô gián này, tất nhiên ý thức sinh, nên năm thức suất nhĩ chỉ là một sát-na, tìm cầu chưa rõ, lại khởi năm thức. Năm thức này chỉ là tìm cầu, nên năm thức thân không có nhiều "suất nhĩ"."

Nói thân năm thức có tầm tứ ấy, nghĩa là có tìm rộng. Không có tầm tứ, nghĩa là vì có chung với dục, nên cũng có tìm cầu. Các chỗ đã nói năm thức không có quyết định tìm cầu, không có hành tướng sâu rộng, nói hành tướng đó là "không" chẳng phải không có vi tế nên sinh ý riêng, nếu năm đều có ý, thì vị tâm suất-nhĩ cũng một sát-na.

Du-già quyển một nói: "Ba tâm trước, tâm đầu là năm thức, tâm thứ hai là ý thức, tâm thứ ba, cũng nói là ý có suất nhĩ. Mặc dù trái nhau, nhưng do hai tâm tiếp theo, tất nhiên là vì ý, nên trong một niệm ban đầu, đơn giản không nói là ý cũng có suất nhĩ. Đã không có chữ chỉ, về lý, cũng không ngăn chận."

Có thuyết nói: "Ý thức đã thừa nhận nối nhau, nói là tâm quán lãnh (suất nhĩ) đi suốt qua nhiều niệm khởi, cũng không có lỗi."

Cách giải thích của thuyết trước là khéo, vì niệm đầu tiên rơi vào cảnh, nên niệm sau, chẳng phải suất nhĩ, vì quyết định có nhiều sát-na tìm cầu chưa biết, nên biết chưa khởi tâm nhiễm tịnh. Lại, ở trong định nghe tiếng, vì tìm cầu biết, ấy là vì xuất định, nên thừa nhận có nhiều sát-na.

Đã được tự tại vì nhậm vận quyết định (tùy ý quyết định), nên tâm quyết định cũng có nhiều niệm khởi; tâm nhiễm tịnh cũng giống như thế.

Nhiều niệm nối tiếp nhau, dùng để vặn hỏi, vì sinh, nên ở đây, y cứ vào năm thức dùng làm tâm đẳng lưu. Nếu là ý đẳng lưu, thì nhiễm, tịnh chỉ là một niệm. Kế là, niệm thứ hai, tức là đẳng lưu, nên chỉ có tâm đẳng lưu, lược có hai thuyết là: ý thức đẳng lưu nối tiếp nhau, không có trở ngại:

1) Nói rằng: "Năm thức chỉ một niệm sinh, gọi là tâm đẳng lưu cũng không nối tiếp nhau, dẫn thuyết như trước."

2) Nói rằng: "Năm thức thừa nhận nối nhau mà sinh, vì một sát-na ấy, gọi là suất-nhĩ."

Quyết trạch cũng chép: "Vì sáu thức nối tiếp nhau, trở thành Đẳng vô gián, nên tâm Đẳng lưu thừa nhận nối nhau mà khởi."

Duy Thức cũng chép: "Như địa ngục nhiệt, là luống dối trời, v.v…"

Về lý, tất nhiên nối tiếp nhau, nên nay, theo nghĩa đúng thì "suất-nhĩ", thường chỉ cho một niệm, bốn thuyết khác, đa số nối tiếp nhau, hoặc đều chung cho nhiều niệm.

- Thứ năm, sinh ra loạn, bất loạn: Trước, là nói bất loạn; sau nói về sinh loạn.

Trong sinh bất loạn, lại có ba môn:

1/ Mình, người đều không rối loạn.

2/ Người rối loạn, mình không rối loạn.

3/ Mình tự loạn, tâm không loạn.

- Mình, người khác đều không rối loạn: Du-già quyển ba chép: "Lại, một sát-na, năm thức sinh xong. Từ vô gián này, tất nhiên, ý thức sinh; từ vô gián này, nếu không tán loạn, thì chắc chắn tâm quyết định thứ hai trong ý thức sinh. Do đây, quyết định tìm cầu cảnh giới phân biệt của hai thức, vì làm nhân nên pháp nhiễm tịnh sinh. Vì đối tượng dẫn sinh, nên từ vô gián này, pháp nhiễm tịnh trong nhãn thức v.v... sinh, dù nhãn thức v.v... sinh, nhưng nhãn thức v.v... này không do năng lực tự phân biệt, vì vô phân biệt, nên chỉ do dẫn sinh, mà được nhiễm, tịnh.

- Người loạn, mình không loạn: Nghĩa là có trong thức trung gian của người khác sinh, năm tâm của thức mình vẫn khởi trước, sau, như mắt thấy sắc khởi tâm suất nhĩ, tất nhiên có sự tìm cầu nối nhau, vì tâm đầu tiên khởi, nên Du-già chép: "Lại, một sát-na, năm thức sinh xong, từ vô gián này, tất nhiên ý thức sinh." Du-già lại chép: "Trong định nghe tiếng, nếu có hy vọng, thì thời gian sau, mới phát ra; vì hy vọng tức là tâm tìm cầu, nên sau năm tâm suất nhĩ, chắc chắn sẽ khởi tâm tìm cầu."

Có chỗ nói: "Có người sau suất nhĩ, không khởi tâm tìm cầu, là không đúng vì trái với giáo lý."

Du-già lại chép: "Tìm cầu không xen hở; hoặc có lúc tán loạn, hoặc là thức khác, hoặc khởi quyết định, dù khởi tâm khác, nhưng trung gian cách biệt, tán loạn, cảnh thức của người khác vì chẳng vượt hơn phải trội hơn trên, nên không thể dẫn sinh, thoát khỏi thức người khác, vì từ lâu chẳng sinh. Lại nữa, nhập vào quyết định nhãn thức, khi quyết định khởi, hoặc lại khởi tìm cầu dẫn sinh, hoặc khởi tức là quyết định, quyết định làm nhân. Nếu không có duyên khác thì khởi nhiễm, tịnh của mình, có thức người khác đoạt lấy, thì nhiễm, tịnh của mình sẽ chẳng sinh; thức người khác đã diệt, tâm mình mới có thể nhập vị nhiễm tịnh. Vị nhiễm tịnh khởi, hoặc nhập trở lại quyết định dẫn sinh; hoặc tức khởi nhiễm, tịnh. (Dưới đây đều y theo mà biết). Lại, không có nói riêng, vì thừa nhận nhiều niệm. Sau tâm nhiễm, tịnh, nếu không có "duyên" người khác, thì đẳng lưu của mình sẽ khởi, người khác "duyên" thức khởi, sau khi nhiễm tịnh, thì đẳng lưu chẳng sinh, thức người khác đã diệt, đẳng lưu của mình khởi, hai thức: Nhãn và ý, cho đến chưa thu hướng cảnh giới khác, trải qua thời lượng ngần ấy, thường chuyển biến nối nhau, đó gọi là người tán loạn, mình không tán loạn.

- Mình rối loạn, tâm không tán loạn: Như mắt trước thấy sắc của một đại chúng, suất nhĩ tìm cầu chắc chắn nối nhau, nhưng chưa khởi quyết định có một sắc tượng tốt đẹp trên hiện tiền. Nhãn thức chuyển biến đối với sắc khác, lại khởi suất nhĩ và tâm tìm cầu. Hoặc đồng thời quyết định, hoặc tâm nhiễm, tịnh, v.v… thấy sắc tượng rồi, liền quán cái sắc. Vì trước đã thấy, nên không khởi suất nhĩ; hoặc lại khởi quyết định tìm cầu dẫn sinh, vì thừa nhận tìm cầu nhiều sát-na nên hoặc tức khởi quyết định (dưới đây đều y theo mà biết). Hoặc từ sơ tâm đến quyết định xong. Lại nữa, thấy sắc lửa, trên sắc lửa, khởi suất nhĩ v.v... tùy thuộc tâm nhiều, ít đã thấy lửa rồi, tức quán mọi sắc, bắt đầu khởi lên nhiễm, tịnh. Sau tâm nhiễm, tịnh, hoặc quán sắc mây, tùy thuộc mây nhiều, ít, khởi suất nhĩ v.v... xong, liền quán mọi sắc mà khởi đẳng lưu, đều y cứ vào thuyết trước nói. Đó gọi là mình rối loạn, tâm không tán loạn.

Từ trên đến đây, nói về không tán loạn. Từ đây, trở xuống là nói về tán loạn: trong đó có hai:

1/ Người khác tán loạn, mình cũng tán loạn.

2/ Mình tán loạn, tâm cũng tán loạn. Người khác tán loạn, mình cũng tán loạn: Như nhãn thức sinh, duyên theo một sắc tượng khởi suất nhĩ tìm cầu xong, riêng có tiếng đến. Lại nữa, khởi tâm suất nhĩ tìm cầu v.v... tượng liền phát ra ánh sáng; tượng, ánh sáng đã mới khởi, tìm cầu trước sau, lại khởi suất nhĩ, tìm cầu quyết định. Lại, có riêng mùi hương đang ngửi hiện tiền. Lại nữa, khởi suất nhĩ v.v... ánh sáng đổi mầu, sau tâm quyết định, lại khởi suất nhĩ cho đến tâm nhiễm tịnh. Lại, gặp thượng vị, hiện tiền đang nếm, ấy là khởi tâm lợi ích của thiệt thức xong, lại quán ánh sáng tượng, ánh sáng, hoặc lớn, nhỏ, đều từ tâm nhiễm tịnh. Về sau, lại khởi suất nhĩ tìm cầu quyết định.

Như thế, cho đến lại xúc chạm diệu "xúc", khởi suất nhĩ, v.v... xong liền quán tượng, ánh sáng. Ánh sáng liền lìa chất, biến hiện tia sáng khác lạ, lại khởi suất nhĩ v.v..., hoặc hai, hoặc ba, hoặc đến bốn tâm, đó gọi là tán loạn. Nếu liên tục tiếp theo khởi đến tâm Đẳng lưu, thì gọi là không tán loạn. Tâm khác, cũng lệ theo như thế.

Tự loạn, tâm cũng loạn: Y cứ vào sự rối loạn của người để nói, như nhãn thức sinh, "duyên" một sắc tượng, cho đến tìm cầu xong, sắc, tượng hiện tiền liền khởi suất nhĩ, tượng hoặc phát ra ánh sáng, tức liền khởi tâm suất nhĩ tìm cầu, v.v...

Như thế, cho đến chẳng đến Đẳng lưu, chỉ dùng cảnh giới khác nhau giữa mình và người, khác với sự tán loạn trước kia; các tác pháp khác thì đồng."

- Thứ sáu, là các tâm đối biện: Như tâm suất nhĩ của nhãn thức, cũng được tâm suất nhĩ đồng với thức khác, cho đến Đẳng lưu, cũng giống như thế.

Du-già v.v... chép: "Vì tám thức trong một thời gian đều khởi chung, nên cũng có nhãn thức suất nhĩ được bốn tâm tìm cầu v.v... với nhĩ thức, đều có tâm tìm cầu của nhãn thức, được ba tâm quyết định v.v.... với nhị thức.

Hai tâm nhiễm, tịnh,... cho đến một tâm đẳng lưu đều có khởi, cũng có tâm suất nhĩ của nhãn thức; tâm tìm cầu của nhĩ thức; tâm quyết định của tỷ thức; tâm nhiễm tịnh của thiệt thức và một niệm đẳng lưu của thân thức, đều cùng khởi. Vì về lý không có ngăn chận; nên như nhãn thức sinh, cho đến thân thức v.v... so sánh với đây có thể biết."

Có thuyết không được, vì chẳng phải chánh nghĩa, cho nên không nói.

- Thứ bảy, trước sau, rộng lược: Hoặc có tâm suất nhĩ, tìm cầu nhiều; tâm đẳng lưu ít. Đầu tiên, nhiều cảnh hiện hữu; sau, là ít cảnh hiện hữu; hoặc tâm suất nhĩ, tìm cầu ít; tâm đẳng lưu nhiều. Do trước kia, vì thế lực nhiễm, tịnh trước dẫn sinh và cảnh suất nhĩ v.v... vì gặp riêng riêng, nên ba tâm trung gian phần nhiều nói ý thức không phân biệt nhiều, ít. Nếu ở quả vị, thì sẽ tùy thuộc tâm sở hữu đều được khởi chung, tùy thích ứng, không có lỗi.

Đã thừa nhận vị nhân, năm thức có năm tâm, tùy thuộc thích ứng, năm tâm đều được, đều có ít, nhiều chẳng nhất định.

- Thứ tám, các vị thiếu đủ: Ở đây, nói về năm tâm, chỉ y cứ vào vị nhân mới gặp một cảnh, thứ lớp sinh riêng lẻ, vì có chưa biết, nên nếu gặp cảnh cũ thì chỉ có ba tâm quyết định, nhiễm tịnh, và đẳng lưu; hoặc chỉ có hai tâm: Nhiễm tịnh, và đẳng lưu; hoặc chỉ có đẳng lưu; hoặc chỉ có nhiễm tịnh; hoặc chỉ có quyết định, vì một niệm không nối nhau, nên không có chỉ tìm cầu không khởi suất nhĩ. Nếu có thể tìm cầu, thì tất nhiên, trước hết, vì không hiểu rõ, nên chắc chắn có suất nhĩ. Trong năm thức không có, chỉ có suất nhĩ, không có tâm tìm cầu, vì Du-già nói chẳng phải thức khác, nên Thành Duy Thức chép: "Bát địa trở lên, cho đến thành Phật, nhậm vận quyết định, không cần tìm cầu, nên chỉ có bốn. Luận chung của ba thừa vô lậu đủ năm, vì có tìm cầu, nên tức nghĩa các sát-na, nói riêng là có, chẳng phải khởi trước, sau, mà là chuyển y v.v... đầu tiên, như trước đã nói.

- Thứ chín, là gồm thâu ba tánh: Luận Du-già chép: "Ba tâm đầu là vô ký".

Thứ bốn, năm suốt qua ba tánh. Đây là y cứ the nhân vị, không có cảnh rối loạn. Một trong năm thức nối nhau với thức thứ sáu mà sinh. Nếu ở nhân vị, thì cảnh giới sẽ mạnh mẽ hơn. Các thức sinh lẫn lộn, đều sinh năm tâm, đều nhiếp chung thuộc về ba tánh. Nếu là vị vô lậu và được tự tại, thì tất cả đều tốt đẹp.

- Thứ mười, duyên sinh chung, riêng: Đã thừa nhận một thức được dẫn sinh sáu thức làm vô gián sinh, thì cũng thừa nhận nhiều thức năng dẫn sinh một thức làm vô gián sinh. Nhiều suất nhĩ dẫn sinh tâm một thức tìm cầu khởi, cho đến nói rộng. Một tâm nhiễm, tịnh dẫn sinh nhiều tâm đẳng lưu thức sinh, nghĩa ấy quyết định, vì thừa nhận một thức, một tâm, được nhiều thức dẫn một niệm tâm sinh. Do y theo nghĩa này, một niệm của các thức sẽ có đủ năm tâm, cảnh có thức mới, cũ dẫn sinh riêng, lý này rất sâu xa, người trí nên suy nghĩ.

- Thứ mười một, thuộc về lượng nào? Nghĩa là năm thức trong nhân, hoặc bốn, hoặc hai, hoặc thừa nhận năm tâm, đều chỉ là hiện lượng "duyên" cảnh hiện đời. Năm thức trong quả đã có bốn tâm, cũng chỉ là hiện lượng "duyên" cảnh ba đời; có nghĩa cũng "duyên" chẳng phải cảnh thế gian.

Nhân vị thứ bảy, thừa nhận có ba tâm, đều thuộc về phi lượng, cảnh bản chất và ảnh tượng chỉ hiện tại; hành tướng chẳng bị cảnh thế gian chuyển. Quả vị có bốn tâm đều chỉ là hiện lượng, "duyên" chung ba đời và chẳng phải cảnh thế gian. Quả nhân thứ tám đều cùng chỉ cho hiện lượng, ở nhân duyên hiện tại, quả duyên ba đời và chẳng phải cảnh thế gian.

Vị định của ý thức thứ sáu, năm tâm đều chỉ cho hiện lượng, "duyên" chung ba đời và chẳng phải cảnh thế gian.

Nếu ở vị tán, thì năm tâm độc đầu sẽ chung cho tỷ lượng, phi lượng, "duyên" chung ba đời và chẳng phải cảnh thế gian. Hành tướng cũng tạo nên sự hiểu biết về thế gian, chẳng phải thế gian.

Luận Du-già nói: "Ý thức tán loạn suất nhĩ rơi vào tâm "duyên" quá khứ, nghĩa là y cứ vào năm ý sau, vì "duyên" theo phần nhiều, nên với ý ngũ câu, thì tất cả có năm tâm. Có nghĩa chỉ là hiện lượng mà cho là chứng giải, nên Tập Lượng luận của Bồtát Trần-na nói: "Vì năm thức đều có ý là hiện lượng. Nêu khi ngũ câu "duyên" thì mười tám giới cũng thuộc về hiện lượng, theo năm hiện trần, vì nhận lấy rõ ràng sáng suốt. Có nghĩa tánh bất định vẫn còn khác nhau, huống chi là hiện lượng? Tập Lượng không nói ý ngũ câu chỉ là hiện lượng, đâu được phán quyết nhất định chấp chặt so sánh suy lường. Đã thừa nhận ngũ câu nhất định chỉ là hiện lượng, vì về mặt lý chưa thể, nên nghĩa ngũ câu ý chung cho thuộc về hiện, tỉ và phi lượng, duyên chung cảnh ba thế gian và phi thế gian. Nếu "duyên" một cảnh, với năm, câu suất nhĩ, đẳng lưu thì nhất định chỉ là hiện lượng. Ba tâm trung gian không cùng với ngũ câu, chung cho tỉ lượng, phi lượng.

Dùng sát-na để luận về lượng thì "duyên" cảnh quá khứ. Luận Du-già chép: "Năm thức Vô gián đã sinh ra ý thức tìm cầu quyết định, chỉ nên nói "duyên" cảnh hiện tại, đây là y cứ vào đầu mối cuối cùng của phần vị, gọi là hiện tại."

Du-già tự nói: "Nếu ở đây tức "duyên" cảnh kia, vì sinh cho nên nhiễm, tịnh cũng vậy, vì tánh của ba tâm đồng, nên luận nói nghiêng lệch."-Thứ mười hai là hỏi đáp, phân biệt.

-"Vì sao lập năm tâm chẳng thêm, chẳng bớt?

Đáp: "Y cứ rất nhiều phần quyết định có năm; ít nhất có một, vì chẳng phải viên mãn."

Hỏi: "Năm tâm này có chung cho vô lậu không?"

Đáp: "Cả năm đều chung. Nghe tiếng, định tâm, chung cho vô lậu, nhân vô lậu, vì tâm có hy vọng. Hoặc nói: "Tầm, từ chung cho vô lậu". Dù cho không đi suốt qua vô lậu, nhưng vì đều chung với dục, nên tâm tìm cầu này cũng chung cho vô lậu."

Hỏi: "Có đi suốt qua ba cõi hay không?"

Đáp: "Đi suốt qua, vì không có lý ngăn chận". Trong mỗi tâm cũng "duyên" ba cõi. Loại thức riêng của các tâm ba cõi, tùy thuộc thích ứng; có thể đều có."

Hỏi: "Vì sao phải giải thích năm tâm như thế?" Đáp: "Vì khiến biết rõ phần vị của tâm, nhập tướng Duy thức của pháp vô ngã."

Hỏi: "Năm tâm nói ở đây, khi nghe "duyên" giáo, có bao nhiêu chữ thì đủ?"

Đáp: "Lại, y cứ vào một chữ của phương này trở thành danh, cũng có thể giải thích, chỉ nghe một chữ thì có đủ năm tâm, nếu nghe Đức Phật nói hai chữ thì đủ, như nghe Bồ-tát, ba chữ thì đủ, như nghe Phật Từ Thị, bốn chữ thì đủ, như nghe Như Lai Năng Tịch, thì năm chữ đủ; như nghe các điều ác chớ làm."

- "Các loại như thế, cho đến vô lượng. Nghe "duyên" hiểu rõ thì đủ năm tâm, không cần giới hạn riêng khi nghe bao nhiêu chữ, năm tâm mới đủ?"

- "Nếu nói sự lý chưa cuối cùng, thì đến năm tâm sẽ không đủ. Nếu nghe, hiểu rõ xong, thì mới đủ năm tâm, tức tùy thuộc nhiều ít, hoặc danh, hoặc câu xong, chỉ ý hiểu viên mãn, tức nói đủ năm tâm, tùy thuộc thời lượng ngần ấy; ý thức đã dẫn năm thức tùy thuộc sự sinh, vì tùy thuộc ý thức kia thuộc về tâm kia, cũng không trái lý, nên sáu đủ năm; bảy, tám chỉ có bốn, rất là thỏa đáng." Duy Thức Nghĩa Chương phần ba:

Duy Thức Nghĩa Chương, lược dùng mười môn để giải thích:

1/ Nêu ra thể.

2/ Giải thích tên gọi.

3/ Ly hợp hội thích.

4/ Thức nào là quán?

5/ Hiển loại khác nhau. 6/ Thứ lớp tu chứng.

7/ Quán pháp tánh nào.

8/ Các địa y khởi.

9/ Dứt các chướng nhiễm.

10/ Quy thuộc hai "không".

-Thứ nhất, nêu ra thể: Nêu ra thể này có hai thứ:

1) Thể đối tượng quán (sở quán).

2) Thể chủ thể quán (năng quán).

Duy thức, đối tượng quán, dùng tất cả pháp làm tự thể. Quán chung hữu vi, vô vi, vì duy thức lược có năm lớp:

1. Khiển hư, tồn thật thức: Quán biến kế sở chấp, chỉ do luống dối khởi, đều không có thể dụng, nên chánh khiển "không", vì tình là "không" nên quán thật thể các pháp của y tha, viên thành.

Cảnh giới của hai trí, nên chánh tồn tại có, vì lý "có", tình "không".

Bài tụng của Vô Trước chép:

"Danh, sự làm khách nhau.
Tánh chúng nên tầm tư.
Với hai cũng sẽ tìm.
Duy lượng và duy giả.
Thật trí quán vô nghĩa.
Chỉ có phân biệt ba.
Kia "không" nên đây "không".
Là tức nhập ba tánh."

Thành Duy Thức chép: "Thức nói chỉ rõ chung, tất cả hữu tình, đều có tám thức; sáu vị tâm sở; đối tượng biến (sở biến): Sự khác nhau của vị tướng, kiến phần và lý "không" kia đã làm sáng tỏ chân như, vì là tự tướng thức, vì là tương ưng thức, vì là hai đối tượng biến, vì là ba phần vị, vì là bốn thật tánh."

Các pháp như thế, đều không lìa thức, đều đặt tên là thức, chỉ nói chỉ ngăn chận đối tượng chấp của người ngu, chắc chắn lìa các thức, thật có sắc, v.v...

Văn như thế... chứng thật chẳng phải một. Vì từ vô thỉ đến nay, chấp ngã, pháp là "có", bác bỏ sự, lý là không, nên trong quyển này, khiển là quán "không", đối với phá chấp "hữu". Tồn là quán "hữu". Tồn, là quán "hữu" đối với khiển trừ chấp "không". Nay quán "không" "hữu" mà dứt trừ "có", "không"; "không" nếu "chẳng có" thì cũng chẳng có "không"; "Hữu", do "không", "hữu" kia, quán đối đãi "hữu" là gì, nên muốn chứng nhập pháp tánh lìa lời nói, đều phải dựa vào phương tiện này mà nhập, chẳng phải cho rằng "có", "không" đều quyết định, chứng vị chân quán, pháp phi hữu, phi không, vì tánh vô phân biệt lý ngôn, nên nói: "Chủ yếu quán "không" mới chứng chân. Nghĩa là vì chủ yếu quán biến kế sở chấp "không" kia làm môn, nên nhập vào chân tánh. thể chân phi "không", Duy thức này nói: "Đã ngăn chận đối tượng chấp. Nếu chấp có thật các thức để "duy", thì đã là đối tượng chấp, cũng lẽ ra phải trừ khiển. "Duy thức", đối tượng quán của môn đầu tiên này, chỉ là thức, suy lường, tu chứng đối với tất cả vị.

2. Xả lạm, lưu thuần thức: Mặc dù quán sự, lý đều không lìa thức, nhưng thức nội tại này có cảnh, có tâm, tâm sở khởi lên, tất nhiên vì dựa vào cảnh trong sinh, nên chỉ có thức nói là "duy", không nói "duy" cảnh.

Thành Duy Thức chép: "Thức chỉ có ở trong, cảnh cũng chung cho ở ngoài, vì e lạm quá ngoài nên chỉ nói "Duy" thức. Lại, các người ngu mê chấp cảnh, khởi nghiệp phiền não, đắm chìm sinh tử, không hiểu quán tâm, siêng cầu ra khỏi. Chính vì xót thương người ngu kia, nên nói là "Duy thức", khiến cho tự quán tâm, giải thoát sinh tử, chẳng phải cho rằng, cảnh trong như ngoài đều "không". Do cảnh có lạm quá xả, nên chẳng gọi là "duy"; vì thể tâm đã thuần lưu lại, nên nói là "Duy thức".

Kinh Hậu Nghiêm chép: "Vì đối tượng duyên của tâm, ý, thức đều chẳng lìa tự tánh, nên ta nói tất cả chỉ có Thức, không có gì khác."

Kinh Hoa Nghiêm, v.v... chép: "Ba cõi Duy tâm". Kinh Di Giáo nói: "Thế nên, các thầy phải khéo chế phục tâm, chế phục tâm ở một chỗ, thì không có việc gì mà không làm xong v.v..." đều thuộc về môn này.

3. Nhiếp mạt quy bổn thức: Cảnh giới, đối tượng nhận lấy trong tâm, rõ ràng; tác dụng của tâm, chủ thể nhận lấy nội tại cũng vậy. Phần kiến, tướng này đều nương tựa thức mà có. Lìa gốc, tự thể của thức, thì pháp ngọn tất nhiên cũng không có.

Tam Thập Tụng chép:

"Vì giả nói ngã pháp.
Có các thứ tướng chuyển.
Kia nương thức biến ra.
Năng biến này chỉ ba."

Thành Duy Thức nói: "Biến, là sự chuyển biến của "thể" thức, giống như hai phần kiến, tướng đều nương tự thể mà khởi."

Kinh Giải Thâm Mật nói: "Đối tượng duyên của các thức được biểu hiện bởi Duy thức, gồm thâu ngọn tướng kiến, quy về gốc thức. Nói quán chân, tục, lý, sự... đều thuộc về môn này."

4. Ẩn liệt, hiển thắng thức: Tâm và tâm sở đều có công năng biến hiện, chỉ nói duy tâm, chẳng phải duy tâm sở. Thể của tâm vương cao quý, tâm sở thua kém, dựa vào sự trội hơn mà sinh, ẩn đi sự thua kém, không bày ra, chỉ làm sáng tỏ pháp trội hơn, nên Đức Thế Tôn nói: "Thừa nhận tâm giống như hai hiện."

Như thế, dường như tham v.v..., hoặc giống với tín v.v... không có pháp nhiễm thiện khác; mặc dù tự thể năng biến của tâm dường như hai hiện của kiến, tướng kia, nhưng vì thể của tham, tín v.v... cũng đều có năng biến dường như tự kiến tướng hiện, vì tâm trội hơn, nên nói tâm dường như hai; vì tâm sở thua kém, nên ẩn mà không nói, chứ chẳng phải không thể giống.

Kinh Vô Cấu Xưng nói: "Vì tâm nhơ bẩn, nên hữu tình nhơ bẩn; vì tâm thanh tịnh, nên hữu tình thanh tịnh, đều thuộc về môn này."

5. Khiến tướng chứng tánh thức: là nói đối tượng tiêu biểu có đủ lý, sự. Sự là tướng dụng, khiển bỏ mà không nhận lấy; lý là tánh thể, nên cầu tác chứng.

Kinh Thắng-man chép: "Tâm tự tánh thanh tịnh". Bài tụng Nhiếp Luận chép:

"Sợi dây tưởng là rắn.
Thấy dây, biết là không.
Khi chứng kiến phần kia.
Biết như rắn, trí loạn."

Khởi nói ở đây, là thời gian biết sợi dây, bỏ cái biết rắn, dụ cho quán y tha, bỏ các biết sợi dây, dụ cho kiến viên thành bỏ cái biết y tha. Ý này là biểu thị rõ đối tượng dứt trừ hai giác biết, đều là y tha khởi. Vì dứt trừ nhiễm này, nên đối tượng chấp: Ngã, pháp, rắn thật, sợi dây thật, không còn đương tình, chẳng phải vì đối với y tha nên gọi là khiển, nên đều trừ bỏ lẫn nhau. Rắn do khởi giả dối, thể dụng đều "không". Sợi dây nhờ cây gai sinh, chẳng phải không có tác dụng giả. Cây gai dụ cho chân lý, dây dụ cho y tha. Biết thể dụng của cây gai, sợi dây rồi, thì tâm chấp rắn tự diệt. Vì tâm chấp rắn đã diệt, nên rắn không thích hợp với tâm, gọi là dứt trừ đối tượng chấp, chẳng phải như y tha vì cần có Thánh đạo để dứt, nên dần dần nhập chân, đạt được rắn không, mà tỏ ngộ phần sợi dây. Địa vị quán chứng chân, soi rọi chân lý mà tục sự được bày ra. Sự lý đã phô bày, ngã, pháp ấy thôi dứt. Đây tức là một lớp thể đối tượng quán. Duy thức, chủ thể quán dùng tuệ biệt cảnh để làm tự thể.

Nhiếp Đại thừa quyển sáu nói: "Vì nghĩa gì nên nhập tánh Duy thức? Do "duyên" pháp chung, vì trí chỉ quán xuất thế."

Vô Tánh giải thích: "Vì Tam-ma-hý-đa không có trí điên đảo." Có chỗ giải thích rằng: "Chủ thể quán Duy thức suốt qua do chỉ, quán mà làm tự tánh."

-Cách giải thích này cũng không hợp lý, vì nếu lấy bốn uẩn tương ưng làm thể, hoặc gồm quyến thuộc, tức chung cho năm uẩn. Nay, lại y cứ vào danh để quán thể, thì chỉ có tuệ vô tánh. Lại, nói rằng, vì trí hiện quán Duy thức. Lại nói: "Do trí chẳng có điên đảo Tam-ma-hý-đa, chỉ dùng trí đã khởi trong định dùng làm thể quán, tạo ra sự vượt hơn tầm, tư v.v... vì quán Duy thức tất nhiên ở định, cho nên không nói, tức dùng chỉ làm thể của quán."

Nhiếp Luận lại nói: "Do bốn tầm, tư; Bốn trí như thật."

Như thế, vì đều không thật có, nên do các Bồtát như thật như thế. Vì nhập Duy thức, siêng tu gia hạnh, tức ý nói đối với nghĩa, văn tương tự, tìm cầu văn, gọi "duy" là ý nói, cho đến nói rộng.

Du-già, Đối pháp, v.v... trí như thật tầm, tư, đều dùng làm Thể.

Tầm, tư chỉ là hữu lậu, trí như thật suốt qua vô lậu.

Nhiếp Đại Thừa chép: "Nhập tướng sở tri, nghĩa là đối tượng nương tựa của sự học rộng, huân tập, chẳng thuộc về thức A-lại-da". Văn này chỉ nêu hạt giống vô lậu, tăng ở địa ấy, gọi là văn huân, tập, chẳng gọi là Tạng thức, chẳng phải các chủ thể quán đều là vô lậu. Không như vậy, thì bốn tầm, tư, lẽ ra chẳng phải trí gia hạnh.

Ở đây dù nói chung, nhưng nếu biểu thị rõ riêng, thì lược có hai vị:

1/ Nhân.

2/ Quả.

Nhân chung cho ba tuệ, vì chỉ có hữu lậu, vì tuệ do văn, tư, tu mà thành làm thể quán. Đây chỉ là tánh phân biệt, lựa chọn sáng suốt, nhạy bén, vì chẳng phải sinh đắc thiện, nên Nhiếp Luận nói: "Giống với pháp, giống với nghĩa, ý nói: "Pháp tướng v.v... của Đại thừa đã sinh khởi thắng giải địa hạnh, kiến đạo, tu đạo, v.v...."

Thành Duy Thức chép: "Duy thức trong đây, lắng nghe, suy nghĩ trong vị tư lương, hay tin hiểu sâu sắc ở vị gia hạnh, khởi tầm, tư, v.v... dẫn phát chân kiến; quả chỉ vô lậu, tuệ do tu thành mà làm thể quán, đi suốt qua do chánh trí, vì trí hậu đắc làm tự thể."

Nhiếp Đại Thừa v.v... chép: "Vì thông đạt như lý, vì trị tất cả chướng, vì lìa tất cả chướng, nên kiến, tu đạo vô học, như thứ lớp ấy, trí chánh thể Duy thức chứng chân lý; hậu đắc trí Duy thức chứng sự tục. Văn nhiều, nghĩa rõ ràng, không dẫn giáo thành."

Từ trên đến đây, dù lại giải thích về chủ thể, đối tượng quán, nhưng nói về nghĩa chung, nghĩa là nếu nói chung, thì Duy thức suốt qua chủ thể, đối tượng quán. Nói quán Duy thức, chỉ cho chủ thể, chẳng phải đối tượng, chung cho hữu lậu, vô lậu, suốt qua tán và định, do văn, tư, tu. Ba trí hậu đắc, căn bản gia hạnh, làm tự thể.

Nếu nói Tam-ma-địa Duy thức suốt qua hữu lậu, vô lậu thì chỉ có định, chẳng phải tán, chỉ tu tuệ, chẳng phải văn, tư chung cho ba trí.

Nếu nói chánh chứng Duy thức, chỉ vô lậu, không phải hữu lậu, chỉ có định, chẳng phải tán, chỉ tu tuệ, chẳng phải văn, tư, chỉ có chánh trí, hậu đắc, chẳng phải gia hạnh. Đây là thuyết phi nghĩa. Nêu không như vậy thì Tam-ma-địa v.v... cũng suốt qua văn, tư, vì luận Thập Địa nói, nên đến dưới sẽ biết. Nhưng khắp chung tường tận các giáo đã nói thì tất cả Duy thức không ngoài năm thứ:

1) Duy thức cảnh, kinh A-tỳ-đạt-ma chép: "Quỷ, bàng sinh, người, trời, mỗi loại đều tùy thuộc đối tượng thích ứng của chúng, vì sự đồng, tâm khác, nên thừa nhận nghĩa chẳng phải chân thật."

Văn như thế..., chỉ nói cảnh đối tượng quán của Duy thức, tức đều là cảnh Duy thức.

2) Duy thức giáo. Do tự tâm chấp mắc các bài tụng, các thuyết của Hoa Nghiêm, Thâm chỉ Mật giáo Duy thức, đều là đều Duy thức giáo.

3) Duy thức lý. Tam Thập Tụng chép:

"Các thức này chuyển biến Phân biệt, sở phân biệt

Vì đây, kia đều không Nên tất cả chỉ Thức."

Như thế, thành lập đạo lý Duy thức, đều là lý Duy thức.

4) Duy thức hạnh: Bồ-tát đối với bốn thứ trí như thật tầm, tư của các bài tụng như vị định v.v..., đều vận hành Duy thức.

5) Duy thức quả. Kinh Phật Địa chép: "Các cảnh, xứ của trí Đại viên cảnh, thức đều hiện trong gương đó". Lại kinh Như Lai Công Đức Trang Nghiêm chép: "Thức vô cấu của Như Lai là cõi vô tịnh lậu, giải thoát tất cả chướng, tương ưng với trí viên cảnh".

Duy Thức cũng chép: "Đây là cõi vô lậu, thiện, thường, không suy nghĩ bàn luận, thân giải thoát, yên vui, pháp tên Đại Mâu-ni."

Các thuyết như thế chỉ thức được quả, đều là Duy thức quả.

Năm thứ Duy thức đã nói ở đây, đều gồm thâu tất cả Duy thức. Nhưng trong các giáo, y cứ vào nghĩa thuận theo cơ nghi, đối với Duy thức cảnh, mỗi thứ nói khác. Hoặc dựa vào đối tượng chấp để giải thích Duy thức.

Kinh Lăng-già chép: "Do tâm mình chấp mắc, tâm giống như ngoại cảnh hiện, vì cảnh kia chẳng thật có, cho nên nói: "Duy tâm", chỉ vì dựa vào lối chấp tâm biểu hiện giả dối. Hoặc y cứ vào hữu lậu để nói về Duy thức".

Kinh Hoa Nghiêm chép: "Ba cõi Duy tâm" là vì y cứ vào thế gian để nói về Duy thức. Hoặc dựa vào đối tượng chấp và tùy thuộc hữu vi để giải thích về Duy thức.

Tam Thập Tụng chép:
"Do giả nói ngã pháp,
Có các thứ tướng chuyển,
Kia nương thức biến ra"

Nương thức tự thể khởi, hai phần kiến, tướng, vì chấp sự sinh.

Hoặc dựa vào hữu tình để giải thích Duy thức." Kinh Vô Cấu Xưng chép: "Vì tâm thanh tịnh, nên hữu tình thanh tịnh; vì tâm tạp nhiễm, nên hữu tình tạp nhiễm. Hoặc y cứ vào tất cả các pháp "có", "không" để giải thích Duy thức. Kinh Giải Thâm Mật chép: "Đối tượng duyên của các thức do Duy thức biến hiện." Hoặc tùy thuộc chỉ sự để giải thích Duy thức. Bài tụng trong Khế kinh A-tỳ-đạt-ma chép:

"Quỷ, bàng sinh, người, trời,
Đều tùy theo thích ứng,
Tùy thuộc chỉ một việc,
Vì giải thích Duy thức."

Chúng như thế... vô lượng môn giáo, đơn cử ở loại sáu môn này, gồm thâu hết nghĩa lý các giáo, nghĩa là chỉ giáo thứ năm, nói chung tất cả là Duy thức. Hoặc gộp làm ba, gọi là cảnh, hạnh, quả, như tâm kinh tán đủ phân biệt rộng.

-Thứ hai, là giải thích danh. Tiếng Phạm là: Tỳ-nhã-để, Hán dịch là Thức. Thức, nghĩa là liễu biệt. Tự tướng thức, tương ưng thức, sở biến thức, phần vị thức, thật tánh thức, vì sự lý của năm pháp, đều chẳng lìa thức, nên gọi là Duy thức. Nếu không như vậy, thì chân như lẽ ra chẳng phải Duy thức, cũng chẳng phải chỉ một tâm, lại không có vật nào khác, gồm thâu quy thức khác, đặt chung tên gọi là, không phải gồm thâu về chân, không gọi là như. Tiếng Phạm là: "Ma-trớ-thích-đa, Hán dịch là Duy". Duy có ba nghĩa:

1/ Nghĩa chọn lọc, gìn giữ: "Chọn lọc bỏ đi hai thứ ngã, pháp do Biến kế sở chấp sinh, gìn giữ lấy tánh tướng thức của thức y tha, viên thành."

2/ Thành Duy Thức chép: "Nói "Duy" là vì ngăn chận ngã, pháp lìa ngoài thức, không phải không lìa nghĩa hai quyết định tâm, tâm sơ của thức."

Bài tụng trong Luận Trung Biên bản cựu dịch chép:

Trong đây nhất định có, "không" Ở kia cũng có ở đây."

Nghĩa là trong sự tục, chắc chắn có chân lý; trong chân lý, chắc chắn có sự tục. Hai sự, lý này trong biểu thức, quyết định rõ ràng không hai thủ, ba nghĩa trội hơn rõ ràng.

Nhị thập Duy thức của Luận sư Cù-ba giải thích rằng: "Ở đây nói về Duy thức, chỉ nêu lý trội hơn của chủ, gồm cả tâm sở, như nói: "Vua đến, chẳng phải không có quan phụ tá"."

Nay, ở đây, phần nhiều nhận lấy sự chọn lọc, giữ gìn, nhằm giải thích Duy thức, nghĩa là tâm. Vì vẽ trên tơ lụa năm mầu là căn bản của chủ, nên kinh nói: "Vì Duy tâm, căn bản của phân biệt rõ biết, nên luận gọi là Duy thức. Hoặc nghĩa kinh đi suốt qua nhân quả, nói chung, là Duy tâm; luận nói chỉ ở nhân, chỉ gọi là Duy thức. Nghĩa liễu biệt của thức, vì công dụng của thức ở trong đơn vị nhân rất mạnh, nên nói thức là "Duy". Nghĩa ấy không hai". Luận Nhị Thập chép: "Tâm, ý, thức liễu, gọi là sai biệt thức, tức là "Duy", là giải thích gìn giữ nghiệp. Hoặc thuận với ngoại đạo của đời và Thanh biện v.v... thành lập cảnh, chỉ vì phân biệt cảnh kia, nói là duy của thức, y chỉ chủ không có lỗi."

Vì khiến bỏ thức mà nương tựa vào trí, nói lời nói Duy thức. Nếu trí trong chủ thể quán mạnh, thức yếu kém, nếu cho là cảnh đều không lìa ngoài tâm. Nay, vì là đối tượng quán, nên gọi là Duy thức. Lại, không lìa dựa vào chủ, gọi là Duy thức, vì quyết đoán từ khả năng, nên có thể dựa vào trí. Lại, từ vui mừng hớn hở làm tên gọi, kinh chỉ gọi là Bát-nhã; từ nhàm chán làm hiệu, luận tiêu biểu đều chỉ cho Tỳ-nhã-để gồm thâu pháp quy chủ vô vi, nên nói tất cả pháp đều như, vì gồm thâu pháp quy chủ hữu vi, nên nói các pháp đều Duy thức, gồm thâu pháp quy chủ của sự chọn lựa, nên nói tất cả đều là Bát-nhã, đây gọi là giải thích danh hiệu thứ hai.

-Thứ ba, là giải thích lìa hợp hội. Lìa, nghĩa là khác; hợp nghĩa là đồng. Nghĩa là các kinh, luận đều nói riêng về danh của các quán v.v... Nay hợp giải thích, chỉ vì nghĩa khác nhau của Duy thức, chẳng khác với thể, một danh có ba mươi mốt loại. Trong Hoa Nghiêm v.v... ngăn chận cảnh lìa thức, gọi là duy tâm.

Luận Biện Trung Biên ngăn đường lối chấp một bên, gọi là đạo.

Trung Trong kinh Bát-nhã nói về tánh phân biệt, chọn lựa, gọi là Bát-nhã Ba-la-mật.

Trong kinh Pháp Hoa nói vận chuyển cuối cùng gọi là Nhất thừa. Bốn tên gọi này chung cho chủ thể, đối tượng quán, quán cảnh chân, tục; chánh trí chỉ có chân, gia hạnh trí hậu, đều suốt qua chân, tục, nếu nói chứng thì trí hậu đắc chỉ có tục.

Pháp Hoa có nói: "Chỉ y cứ vào trí quả, chỉ nói ba xe ở ngoài cổng, nên người từ trong nhà đi ra, gọi là áo, binh khí, bàn, ghế và cổng, không gọi là Thừa. Về lý cũng không đúng.

Vì Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát bất thối vận chuyển xe báu này, chạy thẳng đến đạo tràng, nên suốt qua nhân vị."

Sáu pháp trong kinh Thắng-man đã vì Đại thừa, cho nên nói, chung cho gia hạnh, đến chương thừa sẽ chỉ bày rõ.

Trong kinh Thắng-man, vì ngăn chận luống dối khác, nên gọi như thật đế, đủ chứng tỏ pháp căn bản, cũng gọi là nhất y, do "không" làm chứng. Lại, là tánh "không", cũng gọi là "không", nói lên khác với xuất triền, nói lên gồm thâu đức của Phật, Đức Phật từ trong đó ra, gọi là Như Lai tạng, với thể sáng suốt không nhiễm, pháp tánh chân thật, gọi là tâm tự tánh thanh tịnh; tự thể công đức cũng gọi là pháp thân. Lý ngăn chận trong kinh Vô Cấu Xưng có khác nhau, gọi là pháp môn không hai.

Biểu không có khởi tận trong kinh Đại Tuệ, cũng gọi là bất sinh, bất diệt. Bày ra nhân pháp thân trong kinh Niết-bàn, thường gọi Phật tánh.

Trong kinh Lăng-già, biểu thị lìa lời nói, gọi là không suy nghĩ, bàn luận.

Trong Du-già v.v... biểu thị rõ không thể lập bày, gọi phi an lập.

Nhiếp Đại thừa v.v... chỉ rõ thường khắp v.v… này, gọi là Viên thành thật.

Luận Đối pháp v.v... nói chẳng phải luống dối điên đảo, gọi là chân như. Mười ba loại này, gọi là duy lý sở quán, duy cảnh chân trí, e văn phiền rộng, lược nêu ngần ấy, chẳng phải lại không có, nghĩa là pháp giới, pháp tánh, tánh không luống dối, tánh không biến khác, tánh bình đẳng, Tánh ly sinh. Pháp định, pháp trụ, pháp vị, chân tế, hư không giới, thắng nghĩa vô ngã, bất tư duy nghị giới, v.v… gồm mười bốn tên, như Đại Bát-nhã có giải thích rộng.

Hợp với ba mươi mốt tâm riêng trước kia, hai danh có bốn.

Trong luận Du-già, thiết lập, thi thiết lập, cạn, sâu khác nhau, gọi là an lập, phi an lập đế, tức kinh Thắng-man nói bốn Thánh đế hữu tác; bốn Thánh đế vô tác.

Trong kinh Niết-bàn cũng gọi là hai đế: Thắng nghĩa, và thế tục. Trong luận Hiển Dương, chủ thể giải thích, đối tượng giải thích, gọi là hai pháp danh, sự. Ba trí này gọi là suốt qua chủ thể, đối tượng quán, vừa chân, vừa tục. Trí đầu, giữa, sau. Nhiếp Đại thừa, v.v... biểu thị rõ đối tượng chấp là không, gọi là hai vô ngã sinh, và pháp, cũng chung cho chủ thể, đối tượng quán, chỉ chân, phi tục, đi suốt qua ba trí: Đầu, giữa, sau, ba danh có bốn.

Giải Thâm Mật v.v..., chỉ rõ tất cả pháp có, chủng loại không sự, lý khác nhau, gọi là ba tánh, chỉ rõ cả ba đều có và không có biến kế sở chấp, cũng gọi là ba vô tánh. Hai pháp này chỉ có đối tượng quán, cũng chung cho hai cảnh chân, tục của ba trí.

Nếu nói quán ba tánh v.v..., nghĩa là chỉ chủ thể quán, chẳng phải đối tượng quán, đi suốt qua ba trí và chân tục.

Trong Du-già v.v... nói về phương tiện lìa trói buộc, cũng gọi là ba môn giải thoát, bề ngoài ghi dấu ấn lý sâu sắc, gọi là ba vô sinh nhẫn, chỉ có chủ thể quán, chẳng phải đối tượng quán, chỉ hai trí căn bản, và hậu đắc suốt qua chân và tục; bốn danh có bốn.

Trong địa Bồ-tát nói về nghĩa tổng tập, gọi là bốn Ốt-đà-nam, các hành vô thường, hữu lậu đều khổ. Các pháp vô ngã, Niết-bàn vắng lặng.

Luận Đại Trí Độ chỉ bày rõ sự khác nhau của tông, gọi là bốn tất-đàn:

1/ Thế giới tất-đàn.

2/ Đệ nhất nghĩa tất-đàn.

3/ Đối trị tất-đàn.

4/ Các các vi nhân tất-đàn."

Hai môn trên đây suốt qua chủ thể, đối tượng quán ba trí chân, tục. Các luận dùng quán đầu tiên thô, cũng gọi là bốn tầm, tư, chỉ có chủ thể quán, chẳng phải đối tượng quán, chỉ có trí thể quán, chẳng phải đối tượng quán, chỉ có trí gia hạnh, chẳng phải trí trung gian, hậu đắc, chung cho hai thứ chân, tục. Về sau, các luận quán nhỏ nhiệm, cũng gọi là bốn trí như thật, cũng chỉ có chủ thể quán, chẳng phải đối tượng quán, chung cho ba trí thuộc về chân, tục.

Năm danh có một. Vị ấn khả riêng trong kinh Nhân Vương, cũng gọi là năm nhẫn:

1/ Phục nhẫn, vì chế phục, ấn khả địa tiền.

2/ Tín nhẫn: ở sơ, nhi, Tam-địa, mới được tín không hư hoại, tương đồng loại thế gian.

3/ Thuận nhẫn ở Tứ, Ngũ, lúc địa, thuận vì hạnh xuất thế.

4/ Vô sinh nhẫn, ở Thất, Bát, Cửu địa, vì nhậm vận quán lý vô tướng trong thời gian dài.

5/ Tịch diệt nhẫn, vì vắng lặng viên mãn trong vị nhân quả của Thập Địa, Phật Địa, nên là chủ thể quán, chẳng phải đối tượng quán.

Đầu tiên, chỉ cho trí gia hạnh, sau có khả năng suốt qua trí khác, đều chung cho chân, tục. Hoặc gọi là sáu hiện quán, bảy chi giác, tám Thánh đạo, chín Xa-ma-tha, mười pháp Vô học, bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Như ý túc, năm căn, năm lực v.v... vì chẳng phải chánh quán của Bồ-tát, nên không nói riêng.

Tất cả danh như thế, dù nói danh khác, nhưng đều là danh khác nhau của cảnh trí Duy thức ở đây.

-Thứ tư, thức nào là quán? Đại chúng bộ v.v... nói: "Sáu thức có nhiễm, đều năng lìa nhiễm".

Độc tử bộ v.v... nói: "Năm thức chẳng phải nhiễm, cũng chẳng phải lìa nhiễm.

Câu hữu thứ sáu. Tát-bà-đa v.v... Sáu thức có nhiễm, lìa nhiễm chỉ có thứ sáu. Ở trong Đại thừa, người xưa hoặc nói bảy thức tu đạo, tám thức tu đạo, đều chẳng phải chánh nghĩa, không thể y cứ. Nếu nhân của thức chủ thể quán, thì chỉ có thứ sáu."

Du-già quyển một chép: "Công năng lìa dục là ý thức thứ sáu, vì nghiệp cùng chung, nên suốt qua ba trí chân tục; trí khác chẳng thể khởi công hạnh "duyên" chung quán lý, vì thu nhập chân.

Du-già lại chép: "xem xét, lo nghĩ đối tượng duyên, vì chỉ có ý thức."

Thứ bảy, do người khác dẫn, cũng là quán này, chung cho trung gian, hậu trí. Quả Phật chung cho tám thức, có công năng là quán Duy thức. Ba trí suốt qua hai môn, sự lý, chân tục, thành sự chẳng phải chân, chỉ quán tục thức.

Cách giải thích này là dựa vào lý luận, hoặc có chân, chỉ thức chân như quyết định chẳng phải chủ thể quán. Nếu biện luận về đối tượng quán, thì tám thức đều suốt qua hai vị nhân, và quả, chân thức cũng vậy.

-Thứ năm, chỉ bày rõ loại khác nhau. Thức chân tánh viên thành kia, nếu quán gia hạnh hậu đắc là tướng chung, chẳng phải tướng riêng. Vì "duyên" chung pháp khắp, nên quán trí căn bản là tướng riêng, chẳng phải tướng chung. Vì biết các pháp riêng, nhưng thể chẳng phải tướng chung, muôn pháp chẳng rời tướng chung này, vì lý một không hai, cũng có thể gọi là tướng chung. Các kinh luận nói: "Tác ý tướng chung năng dứt "hoặc", nghĩa là y cứ vào đạo lý này và gia hạnh ở trước, và nói chủ thể giải thích, nhưng trong các pháp đều tự có lý, nội tại đều chứng riêng, chẳng thể nói chung, thức y tha tánh huyễn kia. hoặc nói: "Thể nhân quả đều có một thức, tác dụng thành nhiều, một loại nghĩa Bồ-tát, hoặc nhân, quả đều nói có hai. Trong phần quyết trạch có thuyết Tâm địa, nghĩa là bổn thức và chuyển thức. Hoặc chỉ nhân nói ba"."

Luận Biện Trung Biên chép: "Thức sinh nghĩa biến đổi giống nhau: hữu tình và liễu."

Duy Thức Tam Thập chép: "Gọi là dị thục tư lương và thức cảnh liễu biệt."

Vì nhiều tánh dị thục, nên nói nghiêng lệch dị thục: A-đà-na gọi là thông lý, hữu quả, hoặc trong nhân quả đều nói có ba, gọi là tâm, ý, thức; hoặc chỉ có quả nói bốn.

Kinh Phật Địa v.v... nói: "Phẩm bốn trí hoặc nhân, quả đều nói sáu."

Trong kinh Thắng-man nói sáu thức; hoặc nhân, quả đều nói bảy.

Các giáo nói bảy tâm giới, hoặc nhân, quả đều nói tám, gọi là tám thức; hoặc nhân, quả hợp nói chín.

Bài tụng thứ chín trong kinh Lăng-già chép:

"Tám, chín các thứ thức
Như các sóng trong nước."

Theo Luận Vô Tướng, Kinh Đồng Tánh, nếu nhận lấy chân như làm thứ chín, thì chân, tục, hợp nói nay nhận lấy bản thức thứ tám của vị tịnh dùng làm thứ chín, vì bản thức nhiễm tịnh đều nói riêng. Kinh Như Lai Công Đức Trang Nghiêm chép: "Thức vô cấu của Như Lai là giới vô lậu tịnh, giải thoát tất cả chướng, tương ưng với trí viên cảnh. Thức vô cấu nói ở đây và trí viện cảnh đều đi chung, thứ chín lại gọi là thức A-mạt-la, nên biết thức thứ tám nhiễm, tịnh được nói riêng, dùng làm thứ chín."

Hoặc nhân tám quả, ba thức, Phật địa v.v... nói: "Vì mười lăm giới trước chỉ hữu lậu, nên hoặc nhân tám quả, bảy thức."

Luận sư An Tuệ nói: "Vì Mạt-na chỉ nhiễm, nên hoặc nhân, quả đều có tám thức, như chánh nghĩa của Hộ pháp... có nói: "Trong thức y tha, hoặc nói chỉ một phần tự chứng, nghĩa là sư An Tuệ, hoặc nói chỉ hai phần kiến, tướng". Sư Nanđà hoặc nói có ba: Tự chứng phần kiến, tướng." Sư Trần Na hoặc nói bốn phần, thêm chứng tự chứng phần. Sư Hộ Pháp nói: "Sự khác nhau của các thức đã nói như thế, thử giải thích một phen: Y cứ vào Thành Duy Thức chép: "Tự tánh của tám thức không thể nói nhất định khác, vì tánh nhân, quả, vì tánh không nhất định, vì như nước, và sóng, cũng chẳng phải nhất định, vì hành tướng sở y duyên tương ưng khác nhau, vì khởi, diệt kết quả, vì huân tập là khác."

Kinh Lăng-già chép: "Tám thứ tâm, ý, thức, vì là tục nên tướng có khác; vì chân, nên tướng chẳng có khác, vì chủ thể tướng, đối tượng tướng không có".

Sự khác nhau của tất cả loại thức như thế, gọi là Duy thức. Thức tánh huyễn ảo này, nếu gia hạnh quán thì chỉ chung, chẳng phải tự; nếu hậu đắc quán thì suốt qua tự tướng quán, vì mỗi mỗi y tha đều chứng."

- Thứ đến, là vị thứ tu chứng. Nhiếp Đại Thừa chép: "Xứ nào năng nhập? Nghĩa là tức ở xứ kia có kiến giống như pháp, giống như nghĩa, vì ý này nói: "Pháp tướng v.v... của Đại thừa đã sinh khởi địa hạnh thắng giải. Trong kiến đạo, vì thuận theo nghi thắng giải, vì thông đạt như lý, vì trị tất cả chướng, vì lìa tất cả chướng."

Vô Tánh giải thích: "Ở địa thắng giải, đối với tất cả pháp chỉ có tánh thức, chỉ vì thuận theo lắng nghe, sinh thắng giải. Đối với kiến đạo, thông đạt như lý, vì ý này nói. Do sự tu tập này nên đối với tu đạo, vì đối trị chướng phiền não, chướng sở tri. Vì lìa bỏ các chướng, rất thanh tịnh cùng cực trong đạo rốt ráo."

Thành Duy Thức chép: "Thế nào là ngộ nhập dần Duy thức? Nghĩa là các Bồ-tát đối với vị tư lương tánh tướng của thức, tin hiểu được sâu sắc. Đối với vị gia hạnh, phục trừ dần đối tượng nhận lấy, chủ thể nhận lấy, dẫn phát chân kiến; ở vị Thông đạt, như lý đã thấy trong vị tu tập, thường xuyên tu tập, hàng phục, dứt trừ các chướng khác, đến vị cuối cùng, xuất ly chướng, tròn sáng, cùng tận. Vị lai, hóa độ loài hữu tình. Lại giúp cho chúng được ngộ nhập tánh tướng Duy thức."

- "Năm mươi chín nói: làm sao dứt trừ được phiền não? Ngang đâu sẽ nói đã dứt phiền não?"

"Nghĩa là vì tư lương của pháp lành đã chứa nhóm, vì đã được chứng nhập địa phương tiện, vì chứng đắc địa kiến, vì chứa nhóm địa tu, nên có khả năng dứt trừ phiền não, được địa rốt ráo, sẽ nói đã dứt tất cả phiền não, y cứ đồng với Duy thức."

Trong Nhiếp Đại Thừa, dùng đạo tư lương để nuôi lớn việc lắng nghe, tư duy. Tu mãn đại kiếp, mới khởi gia hạnh, tạo ra quán Duy thức trong vị đẳng trì.

Từ nhiều làm luận, chỉ nói về bốn vị, do khi quán ít, lược ẩn giấu không nói. Trong Duy thức v.v... y cứ vào thật, để giải thích về tu riêng hành tướng, ở địa vị trước kiến đạo, cũng có hàng phục, dứt trừ.

Nhiếp luận, Duy thức v.v... đều nói: Trong noãn v.v... vì tạo ra quán tầm, tư cho nên hàng phục, dứt trừ, đi thẳng qua địa tiền xa xôi đều đồng. Người đi qua con đường không thẳng tắp, xa xôi, dù được vô lậu, trong tâm đi dạo xem, cũng chẳng thể hàng phục dứt trừ, vì chưa chứng chân thức, nên sau cùng, chẳng thể hiểu rõ thức như trò ảo thuật."

Từ trên đến đây, đã nói về vị, dưới đây sẽ nói về tu. Giải thích tu có ba:

1/ Tu chứng.

2/ Tu tướng.

3/ Tu địa.

Tu chứng: Trước khi kiến đạo này, dù tạo ra hai Duy thức chân, tục tương tự mà chẳng phải chân. Kiến đạo của tướng chân trong nhập kiến đạo, đều có liễu chân thức; trí tục hậu đắc, mới liễu thức tục. Tứ địa trở xuống, quán riêng chân tục. Trong địa thứ năm, chân, tục mới hợp, nhưng phải dùng công sức tích cực, mới bắt đầu khởi một ít; đến vô tướng của Lục địa dù nhiều, nhưng vẫn chưa thể khởi trong thời gian dài, ở Thất địa mới được thời lượng dài, cũng có gia hạnh, cũng chưa nhậm vận, Bát địa trở lên, chưa có cố gắng tu, mặc theo vận mệnh trong "không" khởi có hạnh trội hơn. Hai thức chân tục đều có duyên hợp. Đến địa vị Phật, cả ba trí đều có công năng "duyên" thức chân, tục. Thứ sáu không nhất định, vì tùy ý ưa thích, nên thành sự chỉ tục, vì hành duyên nông cạn. Hoặc cũng suốt qua chân, vì tự tại thỏa mãn.

Về tu tướng, sao gọi là tu quán Duy thức? Nghĩa là làm sao cho hạt giống của tâm quán hữu lậu, vô lậu hiện hành, lần lượt tăng trội, lớn lên một cách viên mãn. Đầu tiên, ở vị Tu tập, thuận theo pháp đã nghe, gởi hình tích vào cảnh để suy nghĩ, sao cho tâm quán này thuần thục, tự tại. Về sau khuất phục hai chấp: đối tượng nhận lấy, và chủ thể nhận lấy, tâm quán chuyển vận càng sáng suốt, tướng, cảnh suy dần, bỗng tâm cảnh mờ tối, quán chuyển vận thành vô lậu. Xoay vần như thế chuyển hạ thành trung, trung chuyển thành thượng, cuối cùng viên mãn, gọi đó là Tu.

Ở sơ vị, nhị vị, thì ba tuệ hữu lậu đều hiện chủng tử tu, chủng tử tu vô lậu, vì dụng tăng dần.

Trong vị Thông đạt chỉ có tu tuệ thuần là vô lậu, biểu hiện chung hạt giống tu, hạt giống tu hữu lậu.

Ở vị tu tập, Thất địa trở xuống, hữu lậu, vô lậu đều có đủ ba tuệ, chung cho hiện chủng loại tu.

Bát địa trở lên, ba tuệ vô lậu, chung cho hiện chủng tu, chủng loại tu hữu lậu.

Ở vị Cứu Cánh, hữu lậu đều xả, vì vô lậu mãn, nên không còn tu.

Nhưng biểu hiện đủ hạt giống quán vô lậu của hai môn chân, tục.

Tu địa: Có đắc tu, tập tu. Đối Pháp quyển chín chép: "Lại khi đạo sinh làm an tập khí của mình, đây gọi là đắc tu. Từ chủng loại này lần lượt tăng thịnh nối nhau sinh. Lại, tức đạo này hiện tiền rốt ráo, đây gọi là Tập tu. Do tức đạo này vận hành hiện tiền. Tập nghĩa là hiện hành; đắc nghĩa là hạt giống, có hạt giống dựa vào địa dưới thì khởi tâm của địa dưới."

Tập tu, chỉ có địa dưới; đắc tu suốt qua địa trên, dụng của địa dưới đều tăng, vì địa trên chỉ dụng tăng nên Thành Duy Thức chép: "Ba vô sắc trước có căn này, nghĩa là có kiến đạo vượt hơn, vì bên cạnh đắc tu, có tu dựa vào địa dưới khởi tâm ở địa trên."

Tập tu chỉ có địa trên, đắc tu suốt qua địa dưới. Có tu dựa vào địa trên khởi tâm địa trên; tập tu chỉ địa trên, đắc tu cũng suốt qua địa dưới. Có tu dựa vào địa trên mà khởi tâm địa dưới.

Tập tu chỉ có địa dưới, đắc tu suốt qua địa trên. Các địa trên tu địa dưới và tu địa mình suốt qua tất cả phẩm. Người tu địa dưới, địa trên, tất nhiên là từng được tự tại, nghĩa là tu chẳng phải phẩm loại khác. Luận Đối Pháp chép: "Địa dưới chẳng thể tu địa trên, do các nghiệp đầu tiên và gần gũi dần.

Tập tu: Nghĩa là nói chưa được tự tại, chưa được định trên, chẳng thể tu địa trên, vì gồm chưa sinh quả, chẳng phải trội hơn, có thể như vậy.

- Thứ bảy, pháp quán là tánh nào? Pháp quán này có hai thứ:

1/ Chủ thể quán 2/ Đối tượng quán.

- Chủ thể quán, chắc chắn không phải biến kế sở chấp, vì pháp kia không có "tự thể".

Đây là y cứ vào chánh nghĩa. Quán hữu lậu, hóa độ thuộc về y tha; quán vô lậu thuộc về hai tánh; môn thường, vô thường, thuộc về y tha khởi; môn hữu lậu, vô lậu, thuộc về viên thành. Quyết định không có, chỉ thuộc về viên thành, nghĩa là vì chẳng phải chân lý, nên chứng tỏ Địa tiền chỉ là hữu lậu dựa vào chủ thể quán của người khác.

Thất địa trở xuống, chỉ dùng chủ thể quán, hai tánh hữu lậu, vô lậu; Bát địa trở lên, chỉ dùng hai tánh vô lậu.

Tánh của chủ thể quán, đối tượng quán: Nhiếp Đại Thừa chép: "Như thế, Bồ-tát ngộ nhập ý, ngôn, vì tướng nghĩa tương tự, nên ngộ nhập tánh Biến kế sở chấp, vì ngộ nhập Duy thức, nên ngộ nhập tánh y tha khởi.

Nếu đã dứt trừ ý ngôn nghe pháp, huân tập chủng loại tướng Duy thức, cho đến bấy giờ, Bồtát bình đẳng, trí vô phân biệt bình đẳng đã được sinh khởi, ngộ nhập tánh Viên thành thật. Lại nói rằng: Danh, sự làm khách lẫn nhau. Tánh của danh, sự đó, lẽ ra là tầm, tư. Đối với hai thứ danh, sự, cũng sẽ tìm tòi duy lượng và duy giả. Thật trí quán chẳng có nghĩa, chỉ có phân biệt ba, vì danh, sự kia chẳng có, nên tầm tư này cũng chẳng có, là tức nhập ba tánh.

Nửa bài tụng đầu, ngộ nhập biến kế sở chấp. Nửa bài tụng tiếp theo, ngộ nhập tánh y tha khởi.

Một bài tụng sau, ngộ nhập tánh Viên thành thật."

Thành Duy Thức chép: "Chẳng thể không thấy chân như mà liễu đạt được các hành đều như huyễn hóa v.v..., dù có mà chẳng phải chân.

Như thế, ba xứ trên, dưới khác nhau, đoạn văn đầu tiên của Nhiếp luận chép: "Hai vị Noãn, Đảnh ngộ nhập đối tượng chấp (sở chấp); pháp Nhẫn, Thế đệ nhất, ngộ nhập y tha. Sơ tâm của Sơ địa nhập Viên thành thật."

Nhiếp luận đoạn văn thứ hai chép: "Tầm tư của Noãn, Đảnh ngộ nhập hai tánh. Bốn trí như thật, ngộ nhập viên thành."

Đoạn văn của Thành Duy Thức chép: "Chủ yếu nhập Sơ địa, mới ngộ ba tánh, dù có ba văn, nhưng về nghĩa lý chỉ có hai:

1/ Chứng thật.

2/ Tương tự.

Trong Thành Duy Thức, y cứ ở thật thân chứng. Do hai trí chân, tục vô lậu, trước, sau, mới chứng đắc được hai tánh sau, nên khi chứng hai tánh, chẳng thấy hai thủ, tức gọi là chứng biến kế sở chấp kia "không có", thể "vô pháp" chẳng có.

Trí đã chứng gì? Tâm sở biến chẳng thuộc về y tha khởi. Vì lý chân như chẳng thuộc về viên thành thật, nên chủ thể chấp, đối tượng chấp, không nói chứng riêng, chỉ đối với hai tánh, không thấy hai chấp, có thể gọi ngộ nhập biến kế sở chấp, nhưng trí y cứ thể đạt lý không có chứng, phần nhiều nói trí này chứng biến kế sở chấp, dù trước kiến đạo nhưng cũng đã không thấy, chưa gần được hai, chẳng gọi là chứng "không" nên ở Sơ địa, mới gọi là chứng đắc."

Văn đầu tiên Nhiếp luận, chép: "Ngộ viên thành, y cứ vào chứng đắc thật, đồng vời Duy thức; ngộ hai tánh trước, y cứ vào ngộ tương tự trong thời gian dài, phần nhiều ý giải vì suy nghĩ hai tánh trước, nên phần ít thời gian ngắn ngủi mặc dù cũng tương tự ngộ nhập viên thành, chẳng phải thời gian dài, phần nhiều cũng không phải thân chứng, nên y cứ vào sự thật mà nói."

Văn tiếp theo của Nhiếp luận, ngộ nhập ba tánh. Y cứ chung ý thú tương tự mà nói, vì mới quán "danh", "sự" không lệ thuộc nhau, nên gọi là ngộ nhập đối tượng chấp. Tiếp theo, quán chỉ có lượng thức và các pháp giả danh v.v... mặc dù chưa chứng thật, gọi là ngộ y tha, vị như thật trí, dù thật có tướng, nhưng chưa chứng chân, hai chấp đều mất, tương tự với quán chân trí, thu nhập ý giải, cũng cho rằng, vì tức là chân như, nên vị thật thật trí gọi là nhập viên thành, thật sự chưa ngộ nhập.

Nhiếp Luận y cứ tương tự ba tánh ý giải để nói riêng về ngộ nhập Duy thức. Y cứ chân thật, chứng riêng hai tánh, chung cho chứng đối tượng chấp. Mặc dù văn có khác, nhưng không mâu thuẫn; Tất cả văn khác đều y theo cách giải thích này.

-Thứ tám, là các địa, y khởi: Trong đây có hai: Đầu tiên, là giải thích về y thân; sau là nói về địa khởi. Y thân: Nếu người tỏ ngộ tức khắc, thì đầu tiên khởi nương ở của thân cõi Dục mà được, mới phát tâm vượt hơn, chỉ vì cõi Dục, Hiển Dương nói: "Lo buồn cùng cực, chẳng phải cõi ác, hớn hở tột cùng, chẳng phải hai cõi trên, chỉ người, trời cõi Dục, Phật ra đời hiện quán. Sơ địa trở xuống, ba cõi dựa vào thân, tất cả chấp nhận được, thừa nhận Tỳ-bát-xá-na, Bồ-tát sinh cõi Vô Sắc, vì dùng tâm vô sắc rõ biết tất cả, nên nếu chẳng phải Bồ-tát này, thì người nào được có được việc này.

Thất địa trở xuống, được y chỉ thân của hai cõi Dục, và Sắc mà khởi, Bồ-tát không sinh cõi Vô Sắc.

Bát địa trở lên, chỉ định dựa vào thân cõi sắc khởi, vì gởi thân hình mình vào đối tượng nương tựa cao quý, được Bồ-đề.

Người giác ngộ dần dần: Người của quả sơ, nhị, đầu tiên là khởi, tất nhiên, y chỉ thân cõi Dục. Người không kinh qua sự sinh: Thất địa về trước, cũng đi suốt qua cõi Sắc, dựa vào thân mà khởi, mặc dù chưa nhập địa, nhưng cũng không sinh cõi Vô sắc, vì bi nguyện tự tại, tùy ý thọ sinh, nên cũng không nhân tu, mà thừa nhận chuyển sinh, không đồng với sự giác ngộ ngay. Kiến đạo trở xuống, tự đã được vô lậu, vì nghiệp lực của họ nặng, hoặc cũng thừa nhận sự sinh, vì nghiệp ba cõi ràng buộc họ cũng có; chẳng phải sự sinh này vì nhàm chán địa trên, đắm nhiễm địa dưới. Nếu người trải qua sự sinh, thì tất nhiên, sẽ không sinh ở địa trên, ở trong và về sau, vì chỉ có cõi Dục.

Người chứng quả thứ ba không trải qua sự sinh. Ở cõi Dục phát tâm, về sau, suốt qua cõi Sắc, dựa vào thân mà khởi, không sinh cõi Vô sắc, vì không có lợi ích.

Nếu người trải qua sự sinh và quả thứ tư, thì sẽ phát tâm ở cõi Dục. Đầu tiên, sau chỉ nương tựa thân ở cõi Dục mà khởi; ở cõi Sắc phát tâm, cũng chỉ dựa vào thân cõi Sắc mà khởi. Đầu tiên, là chứng ngộ ngay, tất nhiên với thân cõi Dục, do dứt bặt mà sinh, vì tuệ nhàm chán sâu đậm. Người chứng dần dần, đầu tiên nương tựa cũng suốt qua cõi Sắc.

Luận Hiển Dương v.v... nói: "Chỉ có người nhập hiện quán trong cõi Dục, y cứ vào lần nhập đầu tiên, vì chẳng phải ngộ nhập dần, nên chỉ dứt trừ pháp chấp, vì chẳng phải nhàm chán sâu, nên ở cõi trên, nói dựa vào thân; ở cõi dưới, nói dựa vào địa khởi.

Địa mình ở cõi Dục, quán chung cho nghe, và suy nghĩ, chỉ là tán, chẳng phải định, cũng chẳng phải vô lậu.

Đây là y cứ vào nghĩa đúng, không nhận lấy thuyết một bên. Trong quán cõi Sắc, chung cho văn tuệ, tu tuệ, quán của cõi Vô Sắc chỉ có tu, không có tuệ khác, vì cõi Sắc không có tư tuệ; Vô Sắc lại không có văn, vì các giáo đều đồng, ở đây, vì chỉ có gia hạnh thiện, nên chẳng thuộc về sinh đắc, nhưng, y cứ Du-già quyển 65 nói: "Hoặc định, hoặc sinh Tỳ-bát-xá-na, Bồ-tát chưa được tự tại và được tuệ riêng. Thanh văn, hoặc các vị hữu học, hoặc A-la-hán dùng tâm cõi Vô Sắc để rõ biết pháp ba cõi và pháp vô lậu, nên biết được Vô Sắc cũng có quán này. Bồ-tát tức là vị bốn mươi tâm trở xuống của Kiến đạo, vì nói ở mỗi chỗ không sinh ở trên địa".

Hàng Thanh văn tuệ rộng: tùy thuộc thích ứng, nói là vì không ngu đối với pháp, nên ngoài hai pháp này, không nói là người khác cũng được tâm vô sắc "duyên" chung ở tất cả kiến đạo của Bồ-tát và định Kim cương, chỉ định thứ tư, trở lên, suốt qua các địa. Sắc có sáu, vô sắc có bốn, mười địa thuận theo dựa vào thích ứng mà khởi quán này, dứt "hoặc" có chín, đi dạo quán có mười, thuận theo thích ứng nói riêng, văn, tư duy, thuận nương tựa không sai lầm.

Bảy Vị Chí ở trên, chỉ có ưa thích, nhàm chán, vì hành tướng cũng hạn chế, nên không nên làm.

-Thứ chín, là người dứt trừ các chướng nhiễm.

Chướng có hai thứ:

1/ Câu sinh.

2/ Phân biệt.

Hai thứ này lại có hai:

1/ Phiền não chướng.

2/ Sở tri chướng.

Luận Thành Duy Thức quyển 10 chép: "Chướng phân biệt, phiền não hiện hành, hàng phục dần dần trong đạo tư lương; hay hàng phục hết ngay hạt giống, tập khí trong đạo gia hạnh, đều có Sơ địa đoạn.

Chướng phiền não câu sinh hiện hành, địa tiền hàng phục dần. Sơ địa trở lên, hàng chế phục hết ngay, tuy nhiên, với sức cố ý đôi khi cũng khởi, mà vẫn chẳng phạm lỗi lầm.

Bát địa trở lên, không bao giờ hiện hành tập khí, mỗi địa đều dứt trừ hạt giống kim cương đoạn thân kiến v.v... kia và câu sinh này, Tứ địa hàng phục hẳn, vì pháp chấp không có. Ngũ địa đã sinh khởi ở đây không hiện hành, vì hại bạn. Phân biệt hiện hành trong chướng sở tri, cũng khuất phục dần trong đạo Tư lương, hay khuất phục hết ngay trong đạo Gia hạnh. Hạt giống, tập khí, ở Sơ địa đoạn, câu sinh hiện hành, Địa tiền hàng phục dần, cho đến Thập địa, mới hàng phục hết hẳn. Sáu thức trước, Bát địa hàng phục hết; hạt giống, tập khí, mỗi địa đều dứt trừ. Bảy thức hiện hành, Kim cương dụ định, đạo gia hạnh hàng phục. Khi Kim cương dụ định khởi, hạt giống, tập khí đều dứt trừ. Địa Bồ-tát nói: "Phiền não, chướng sở tri, đều có đối tượng dứt của ba trụ:

1. Trụ cực hỷ: Các phẩm phiền não của tất cả cõi ác, và chướng sở tri thô, nặng ở ngoài da, đều dứt trừ hẳn, có khả năng khiến phiền não trên trong tất cả, đều không hiện hành. Đầu tiên, là chứng đắc chân trí của hai "không", hai vô công dụng, trụ vô tướng, tất cả năng chướng pháp nhẫn Vô sinh; các phẩm phiền não và chướng sở tri thô, nặng ở ngoài da, đều dứt trừ hẳn. Tất cả phiền não đều không hiện tiền. Đầu tiên, nhậm vận được Vô sinh nhẫn. Ba thành mãn trên hết, Bồ-tát trụ tất cả phiền não, tập khí, phiền não và chướng sở tri, thô, nặng ở xương, đều dứt trừ hẳn, nhập trụ Như Lai.

Kinh Giải Thâm Mật chép: "Có ba thứ phiền não:

Một là phiền não hại bạn: nghĩa là các phiền não không câu sinh của Ngũ địa ở trước, phiền não câu sinh này, hiện hành giúp bạn. Bấy giờ, người ấy không bao giờ lại có ý này nói: "Thức thứ sáu đều có thuộc về thân kiến v.v..., gọi là câu sinh; Phiền não khác, gọi là chẳng phải câu sinh, nhưng thể hơi thô, do phiền não kia mà khởi. Vì phiền não kia đã dứt, nên phiền não này cũng không theo, nên gọi hại bạn."

Hai phiền não yếu kém: Nghĩa là Lục địa, Thất địa hiện hành vi tế. Nếu vì đối tượng hàng phục của tu không hiện hành, nên không phải thân kiến câu sinh đoạn, thì phiền não này cũng diệt theo, vì hơi khó dứt; vì không trái với dứt thân kiến câu sinh của Lăng-già, nên tham tức không sinh.

Kinh kia y cứ vào Nhị thừa dứt phiền não để nói, không y cứ theo sở tri chướng của Bồ-tát, vì "không có", nên phiền não không sinh để nói, hoặc dựa vào vị đoạn của hai phiền não cuối cùng. Do đó, kinh Lăng-già kia và luận này cũng không mâu thuẫn nhau.

Ba phiền não sâu kín: nghĩa là ở Bát địa trở lên, từ đây trở đi, tất cả phiền não không còn hiện hành nữa, chỉ có sở tri chướng là y chỉ. Nhưng vì Sơ địa đã đoạn thô nặng ngoài da, nên mới có thể biểu thị rõ được vị phiền não sơ, nhị. Lại, do Bát địa vì dứt thô nặng ở ngoài da, nên nhận thấy rõ ràng vị phiền não sâu kín."

Nếu dứt thô nặng ở xương, thì ta nói là vô vi lìa tất cả phiền não, trụ ở Phật địa. Trong luận Thật Tánh, hoặc nói bốn chướng:

1/ Chướng Xiển-đề không tin. 2/ Chướng ngoại đạo chấp mắc "ngã" 3/ Chướng Thanh văn sợ khổ.

4/ Chướng Duyên giác xả tâm.

Tâm thứ sáu của Thập tín hàng phục chướng đầu tiên, vì đức tin không lui sụt. Trụ thứ tư trong mười trụ, hàng phục chướng thứ hai, vì phân biệt ngã kiến thô không sinh.

Hai hạt giống này, nhập Sơ địa dứt; sở tri chướng thứ ba, năm địa đoạn, vì ưa năm địa dứt chướng Niết-bàn của thừa dưới. Duyên giác xả sở tri chướng của tâm, Thất địa mới đoạn, vì lục địa cũng quán mười hai duyên, hoặc hạt giống phiền não của sơ địa, nhị địa, do kiến đạo dứt; hạt giống của hai phiền não sau, do Kim cương đoạn.

Kinh Thắng-man chép: "Phiền não của năm trụ đó là: Kiến nhất xứ trụ địa. Dục ái trụ địa. Sắc ái trụ địa. Hữu ái trụ địa và Vô minh trụ địa.

Kiến nhất xứ trụ địa. Sơ địa dứt; ba địa tiếp theo, Kim cương dứt.

Vô minh trụ địa. Hai đạo kiến, tu, như thứ lớp đó dứt ngay và dứt dần dần. Nếu tập khí phiền não của bốn địa đầu đồng với chướng sở tri, thì trong kiến, tu đạo, sẽ dứt ngay và dần dần. hoặc nói sáu phiền não, hoặc nói bảy tùy miên, tám triền, chín kiết, mười phiền não, mười tán động, mười phân biệt v.v... như chương Đoạn Chướng có nói rộng. Đây là nói quán Duy thức đoạn, không nói đối tượng dứt trừ khác."

Thứ mười, là quy nhiếp hai "không": Các luận nói có hai "không":

1/ Sinh không. 2/ Pháp không.

Quán Duy thức kia suốt qua quán hai "không". Thật trí tầm, tư suốt qua sinh không, pháp "không", làm đối tượng nương tựa của sinh, chỉ nói quán pháp, với ý cầu chủng trí, vì quán pháp "không", nên vì đối với hai "không", sinh kiến giải đúng. Nhưng lại quán pháp, tất nhiên, kèm theo sinh không, vì luận nói thật.

- "Vì sao trái ngộ nói mê?"

- "Sinh chấp, tất nhiên gồm cả pháp chấp; trái với mê nói ngộ, sinh không chẳng vướng mắc pháp không. Nếu vì kiến giải thì sẽ có cạn sâu; vì ngộ sinh chưa hẳn ngộ pháp, lẽ ra cũng mê có sâu cạn; mê dụng không mê thể. Nay giải thích, chưa hiểu thể mà mê dụng, cho nên sinh chấp, tất kèm theo pháp chấp, ngộ cạn, không đạt sâu, sinh không chưa hẳn kèm pháp."

Nhị Thập Duy Thức chép: "Pháp sở chấp vô ngã, lại y chỉ giáo khác mà nhập…"

Giáo Duy thức này nhập vào pháp không. Nói pháp không ở đây, tất nhiên y cứ vào Duy thức, chẳng phải quán Duy thức chỉ là pháp không, vì tạo ra sinh không riêng, cũng là Duy thức, nên chỉ là quán pháp không, chắc chắn là Duy thức. Sinh không chẳng nhất định, vì sinh không của Nhị thừa, chẳng phải Duy thức quán, nên quán Duy thức rộng, suốt qua quán sinh, pháp, nghĩa quán pháp cuộc hạn chỉ là Duy thức; nghĩa quán sinh rộng, chung cho quán Duy thức, chẳng phải Duy thức; quán Duy thức cuộc hạn có "sinh" "không", chẳng phải do quán Duy thức này, đối với quán sinh không, thuận với câu trước phân biệt không có quán Duy thức, chẳng phải sinh không, chỉ quán pháp không, tất nhiên là kèm sinh.

Có quán sinh không chẳng phải Duy thức, nghĩa là quán sinh không của Nhị thừa; pháp không đối với Duy thức, cũng giống như thế. Có Duy thức chẳng phải pháp không, nghĩa là chỉ có sinh không, quán Duy thức, không có quán pháp này chẳng phải Duy thức. Hai pháp này tạo ra câu, nghĩa ấy rất dễ hiểu.

Nói chung, Duy thức suốt qua quán hai "không", luận chỉ nói quán pháp là quán Duy thức. Nghĩa là vì y cứ quyết định. Lại nói: Các "không" gồm thâu lẫn nhau, như chương "Không" có nói.

Thứ tư, nghĩa lâm của các thừa.

Nghĩa thừa, lược dùng năm môn để phân biệt:

1/ Nói về thêm bớt.

2/ Giải thích, thể tánh.

3/ Giải thích danh tự.

4/ Nói rõ phế lập.

5/ Hỏi đáp, phân biệt.

Thứ nhất, là nói về thêm bớt: Hoặc nói về Nhất thừa. Kinh Pháp Hoa chép: "Trong các cõi nước Phật ở mười phương, chỉ có pháp Nhất thừa."

Kinh Thắng-man chép: "Ma-ha-diễn sinh ra tất cả pháp lành của Thanh văn, Duyên giác, thế gian, xuất thế gian, cho đến "lại nói rằng: Thanh văn, Duyên giác thừa đều nhập vào Đại thừa. Đại thừa tức là Phật thừa, cho nên ba thừa tức là Nhất thừa". Lại nói: "Nếu Như Lai thuận theo đối tượng mà họ mong muốn, rồi dùng phương tiện để nói, tức là Đại thừa không có Nhị thừa. Người Nhị thừa nhập Nhất thừa; người Nhất thừa tức Đệ nhất nghĩa thừa. Phẩm Vô thượng thừa, trong luận Biện Trung Biên quyển ba, có nói rộng về Nhất thừa sai biệt, có ba:

1/ Chánh hạnh vô thượng 2/ Sở duyên vô thượng 3/ Tu chứng vô thượng.

Như kia có nói rộng, luận Hiển Dương quyển 20 vì dùng sáu nhân, nên Đức Phật nói Nhất thừa, không vượt hơn mười nhân mà Nhiếp luận đã nói."

Nhiếp luận quyển mười dùng nghĩa mười nhân, Phật nói Nhất thừa, như dưới đây sẽ giải thích. Hoặc nói Nhị thừa, Nhiếp luận, của Thế Thân đầu tiên là nói: "Thượng thừa, hạ thừa có khác nhau."

Niết-bàn lại chép: "Vì Thanh văn thừa mà nói Bán tự; vì Bồ-tát thừa mà nói Mãn tự. Lại nói rằng: "1/ Đại thừa; 2/ Thanh văn thừa."

Trong Duy thức, Nhiếp luận thành lập chân Phật ngữ của Đại thừa, đều có văn này, cũng gọi là Đại thừa, Tiểu thừa, hoặc gọi là ba thừa.

Kinh Niết-bàn chép: "Ví như người bệnh có ba hạng:

1/ Nếu gặp thầy thuốc và không gặp, quyết định có thể lành bệnh.

2/ Nếu gặp thì sẽ khỏi bệnh ngay, không gặp thì không khỏi.

3/ Gặp và không gặp, chắc chắn không lành bệnh, tức dùng Đại thừa làm đầu. Nhị thừa là kế.

Vô tánh là thứ ba.

Lại, có ba thừa:

1/ Bồ-tát thừa.

2/ Độc giác thừa.

3/ Thanh văn thừa.

Nên Khế kinh nói: "Vì người cầu Bồ-tát, mà nói sáu pháp Ba-la-mật, cho đến vì người cầu Thanh văn, mà nói pháp bốn đế. Văn của ba thừa này, ở mỗi chỗ chẳng phải một, hoặc nói bốn thừa." Kinh Thắng-man chép: "Nhiếp thọ chánh pháp, người thiện nam, người thiện nữ, gánh vác bốn trách nhiệm nặng, nghĩa là lìa thiện tri thức, không nghe chúng sinh phi pháp, dùng gốc lành của người, trời mà thành thục. Đối với người cầu Thanh văn, trao cho thừa Thanh văn; người cầu Duyên giác, trao cho thừa Duyên giác; người cầu

Đại thừa, trao cho Đại thừa. Kinh Đại Bát-nhã Hội thứ mười sáu chép: "Người khéo mạnh mẽ, xin nói: "Cúi mong Thế Tôn xót thương chúng, vì giảng nói đủ cảnh trí Như Lai. Nếu loại hữu tình đối với thừa Thanh văn, người có tánh quyết định, nghe pháp này xong, mau chóng chứng được địa vô lậu của mình, người có tánh quyết định đối với Độc giác thừa, nghe pháp này xong, mau chóng được xuất ly đối với thừa mình, chắc chắn được Vô thượng, người có tánh quyết định nghe pháp này xong, mau chóng chứng Vô thượng chánh đẳng Bồ-đề. Nếu loại hữu tình dù chưa chứng nhập chánh tánh ly sinh, nhưng không nhất định đối với tánh của ba thừa. Nghe pháp này xong, đều phát Vô thượng chánh đẳng ba thừa. Nghe pháp này xong, đều phát

Vô thượng Chánh đẳng giác tâm, cúi mong Đức Thế Tôn đáp cho câu hỏi. Hoặc nói ba thừa trước trong năm thừa như trước.

Thừa của người thứ tư, thừa của trời thứ năm. Kinh Thiện giới, v.v... nói rằng: "Người không có chủng tánh, vì không có chủng tánh, nên chỉ dùng gốc lành, của người, trời mà thành tựu. Lại, khen ngợi kinh Đại thừa Công Đức, Lăng-già quyển tám trong mười quyển nói về năm thừa, ba thừa như trước. Thứ tư, tức là mỗi thứ tánh thừa; thứ năm mới là thừa người, trời.

Thứ hai, là giải thích về thể tánh: Nói một cách tổng quát, thì giáo, lý, hạnh, quả, gọi chung là Thừa.

Nhất thừa giáo. Nghĩa là giải thích thuận với giáo pháp ba tạng của Đại thừa; Nhiếp luận chép: Kinh A-tỳ-đạt-ma Đại Thừa, v.v… đây là Đại thừa chánh bổn giáo. Lại, kinh Pháp Hoa chép: "Pháp chín bộ này nhập Đại thừa làm gốc. Lại, kinh Thắng-man nói: "Chánh pháp trụ, chánh pháp diệt, Ba-la-đề-mộc-xoa, tỳ-ni, xuất gia thọ giới cụ túc, vì là Đại thừa, nên nói sáu xứ này, vì Đại thừa giáo của phương tiện này, nên biết giải thích thuận với tất cả ngôn giáo của Đại thừa; hoặc phương tiện, hoặc căn bản, đều là Đại thừa giáo."

Lý Đại thừa: Nghĩa là hạnh sáu độ v.v... của lý chân như, vì lý chân như này có thể có đối tượng đi qua, nên gọi là Đại thừa, nên nói là vô tánh, hoặc vì tánh đại, nên gọi là Đại thừa. Ở đây, chỉ nêu căn bản."

Kinh Thắng-man chép: "Thánh đế, nghĩa là chẳng phải đế của Thanh văn, Độc giác, cũng chẳng phải công đức của Thanh văn, Độc giác."

Luận Pháp Hoa chép: "Quán niệm, nghĩa là Thanh văn quán nhân vô ngã; Bồ-tát quán chân như, hai vô ngã, v.v..."

Niết-bàn cũng chép: "Thanh văn có khổ, có đế, mà chẳng có thật. Vì Bồ-tát có đủ, nên bốn đế lý v.v..., phương tiện của Đại thừa, đều là lý Đại thừa.

Hạnh Đại thừa: Nghĩa là sáu độ v.v..., nên Vô Tánh nói: "Vừa là Thừa, vừa là đại, nên gọi là Đại thừa."

Lại, Thắng-man chép: "Chánh pháp trụ v.v... đã là hành pháp, gọi là Đại thừa."

Luận Pháp Hoa chép: "Phương tiện, nghĩa là Thanh văn quán uẩn, giới xứ, chán khổ, lìa khổ, Bồ-tát tu sáu độ, bốn nhiếp, hai lợi, là thuận với Đại thừa; hoặc hạnh căn bản; hoặc hạnh phương tiện, đều gọi hạnh Đại thừa."

Quả Đại thừa: Nghĩa là Bồ-đề Phật, pháp quả Niết-bàn. Kinh Pháp Hoa chép: "Vì nói trí tuệ Phật, nên chư Phật xuất hiện ở thế gian, chỉ một, sự thật này, hai thì chẳng phải chân". Lại nói rằng: "Là pháp trụ, pháp vị, tướng thế gian thường trụ, nơi đạo tràng biết rồi, Đạo sư dùng phương tiện nói."

Lại, Thắng-man nói: "Người Nhị thừa tức là Nhất thừa." Pháp Hoa lại chép: "Vì chỗ nghỉ ngơi, nên nói hai."

Lại, phẩm Thọ Lượng chép: "Thành đạo đã lâu trả ơn Phật".

Phẩm An Lạc Hạnh chép: "Không như ba cõi, mà thấy ba cõi, là pháp thân, tức Bồ-đề, Niết-bàn đều là quả Đại thừa." Thắng-man lại nói: "Niết-bàn của Nhị thừa, gọi là hướng về cõi Niết-bàn. Bốn trí rốt ráo được chỗ sống, nghỉ ngơi, là Phật có nói chẳng liễu nghĩa khác, nên quả căn bản, nếu quả thuận theo thì đều gọi là Đại thừa, chung cho hiện và chủng trong pháp hữu vi, và đều thuận theo pháp lành hữu lậu, tức muốn pháp lành đã bỏ hạnh văn, tư v.v... và pháp vô vi đều là thể của thừa. Thể của Nhị thừa: tất cả ba quy y của Đại thừa trở đi, thuận theo năm uẩn hữu lậu xuất thế và thuận theo đối tượng thích ứng: Giáo, lý, hạnh, quả, dùng làm thể tánh, nên luận Du-già quyển 64 chép: "Hàng Thanh văn thừa chứng đắc, nghĩa là trước thọ quy y để làm nhân, nên có năm thứ chứng đắc:

1/ Địa chứng đắc: Nghĩa là kiến và tu rốt ráo Tam địa.

2/ Trí chứng đắc: Chín trí tức là pháp loại bốn đế, trí thế tục, mà sau đó chứng được là Tận trí, trí vô sinh.

3/ Tịnh chứng đắc: là bốn chứng tịnh.

4/ Quả chứng đắc: là bốn quả Sa-môn.

5/ Công đức chứng đắc: Nghĩa là vô lượng thắng xứ, cho đến thần thông v.v... Nên biết giáo, lý, hạnh, quả, đều là thể của Thừa.

Đây là giải thích về sự chứng đắc, lược trước Kiến đạo, y cứ vào thật quy y xong, sau, đều là thể của Thừa. Ở đây, chỉ cho căn bản, chẳng có thừa phương tiện, vì thừa dưới hết. Nên dù có tánh bất định cũng gọi là thối, chẳng phải nhân. Du-già lại nói: "Sự chứng đắc của Độc giác lược có ba:

1/ Trước được thuận phần quyết trạch, khéo chứng đắc.

2/ Trước đã được chứng đắc, mà chứng đắc.

3/ Trước chưa được chứng đắc, mà chứng đắc.

Hai chứng đắc trước, gọi là Độc thắng; chứng đắc thứ ba, gọi dụ Lân giác, nên căn bản này và pháp phương tiện, giáo lý, hạnh, quả đều là thể của thừa, vì kết hợp Độc giác, Thanh văn, chung thành thừa Thanh văn, nên phát ra hai thể."

Trong kinh Pháp Hoa, quả là ba thừa:

1/ Nhân của thừa, gọi là môn, chỉ có một môn, lại nhỏ, hẹp.

2/ Nhân của thừa gọi y phục, bàn, ghế, từ nhà đi ra, vì tùy thuộc thích nghi mà đi ra, chẳng nương tựa vào môn.

3/ Thể tánh của ba thừa: Nếu nói riêng, thì giáo, lý hạnh quả của bốn đế, đều là thừa Thanh văn. Giáo, lý, hạnh, quả của mười hai duyên khởi, đều là thừa Độc giác; Đại thừa như trước đã nói, nên thành ra khác nhau. Tuy nhiên, có thuyết nói: Là thừa Bồ-tát, vì có khả năng tự vận chuyển và vận chuyền người khác." Pháp Hoa chỉ nói là Phật thừa. Ba thừa đối nhau. Tự thừa của Phật, thừa này chỉ vận chuyển rộng người khác. Nếu gọi Đại thừa, tức bao gồm cả nhân, quả.

Nếu bốn thừa: Thắng-man nói bốn thừa, dùng hiện chủng văn, tư, tư hữu lậu, phần phước, gốc lành của người, trời; ba quy, năm giới, tám giới, mười điều lành, v.v... giáo lý, hạnh, quả dùng làm thể tánh. Do quả là vì quyến thuộc của nhân kia.

Nếu là nghĩa chuyên chở thì quả kia tức chẳng phải. Ba pháp còn lại, như trước đã nói. Nếu chủng loại bốn thừa của Bát-nhã thì nhiều, ít có khác, giáo v.v... chẳng có khác nhau, chỉ căn bản là ba thừa và phương tiện là thứ tư. Lăng-già v.v... nói năm thừa; hợp người, trời thành một; Mở rộng ngoài ba thừa không nhất định làm một, vì chung khác với riêng, vì chủng loại có khác, thể của thừa chẳng có riêng khác.

Hợp với người, trời: Đồng với pháp hữu lậu, vì căn, chủng ngang nhau. Lại, một chủng năm thừa, do chung theo riêng, hợp với tánh bất định, vì thú hướng khác nhau, nên mở rộng người trời thành hai, thể của thừa không có khác nhau.

Thứ ba, trong phần giải thích tên gọi: Nhất thừa, là Đới số thích; Nhị thừa, Trung thừa, Hạ thừa, Thượng thừa, y cứ vào trì nghiệp thích, có hai cách giải thích đều được, dùng căn cơ, dùng pháp đều vì thượng, hạ. Lại, gọi là Đại thừa, và Thanh văn thừa; thừa Thanh văn, y cứ vào chủ để giải thích. Lại, kinh Pháp Hoa chép: "Sau cùng, không dùng pháp Tiểu thừa để cứu giúp chúng sinh."

Nhà phiên dịch ở đây, nói là Tiểu thừa, bổn Phạm gọi Thanh văn; hoặc cũng vì nương tựa người kia, có thể được, nên nói là Tiểu, tức gồm thâu hai hình tướng khác làm Danh, cũng chung cho hai cách giải thích, như danh từ Đại thừa, gồm cả Phật và Bồ-tát, vừa Đại, vừa Thừa, đều là trì nghiệp thích. Hoặc tánh đại của thừa, cũng là hữu tài thích; hoặc y chủ thích, như tiếp theo đây sẽ biết:

Trong tên gọi ba thừa, có thuyết nói là Phật thừa; có thuyết nói là Bồ-tát thừa. Tự vận chuyển, vận chuyển người khác, có khả năng đi qua cho đến, gọi là thừa Bồ-tát. Vận chuyển người khác chẳng phải mình. Đã đến nơi đến, vì thể dụng rộng khắp, cùng cực, nên dùng thừa này đặt tên. Cả hai đều y cứ vào chủ, nên gọi là Đại thừa, tức gồm cả nhân quả."

Trong kinh Pháp Hoa, đa số y cứ vào quả Phật để gọi Đại thừa, vì hóa độ hai quả cùng cực, thu hướng địa vị Phật. Kinh Thắng-man, v.v... đều gọi là Đại thừa. Sơ, Nhị đều y cứ vào chủ. Thanh văn là thừa Độc giác; Đại thừa chung cho Trì nghiệp và Y sĩ, vừa là thừa, vừa là Đại. Đối với đại tánh là thừa của đại, vì Vô Tánh nói. Hoặc không được có của, vì đại chẳng phải vận chuyển. Hoặc dùng Đại làm đối tượng vận chuyển, cũng là hữu tài thích, nhưng cách giải thích trước hay hơn. Vì đại, chẳng phải chủ thể vận chuyển.

Bốn thừa nói trong kinh Thắng-man: Đầu tiên, gọi là thừa người, trời, cũng là Y sĩ thích."

Thừa của chủng tánh thứ tư trong Đại Bát-nhã. Thừa của mỗi thứ tánh của Y sĩ thích. Tên ba thừa khác của hai kinh đồng với trước.

Đại thừa nếu gọi là Vô thượng thì thừa tức Vô thượng, thuộc về trì nghiệp thích.

Thứ tư, trình bày về phế, lập:

- "Vì sao lập một? Vì có tánh quyết định là hai thừa, vì có, không chủng tánh là năm thừa?"

- "Ở đây có mười nghĩa, như Nhiếp Đại Thừa quyển mười chép: "Vì dẫn dắt một loại và giữ gìn loại khác. Do chủng tánh không nhất định, nên chư Phật nói Nhất thừa. Vì pháp vô ngã, giải thoát, nên tánh khác nhau, được hai ý lạc hóa rốt ráo, nói là Nhất thừa". Mười nhân trong đây:

1/ Vì dẫn dắt chủng tánh không nhất định của một loại, khiến cho dựa vào Đại Thừa Bát Niếtbàn.

2/ Vì giữ gìn chủng tánh bất định khác, Bồ-tát sợ rằng, đối với sự tinh tấn của Đại thừa lại hư hoại, thối lui, vì dựa vào Thanh văn bát Niết-bàn.

Kinh Pháp Hoa chép: "Bồ-tát mới phát tâm, nghe pháp này xong, lưới nghi đều xé toang."

Trong đây, chỉ nói trước lục trụ có thể lui sụt.

3/ Vì ba pháp v.v... nên thừa dù có khác, nhưng đã thú hướng chân như không có khác nhau. Cách giải thích của luận Pháp Hoa cũng đồng với ở đây. 4/ Vì vô ngã v.v... nếu có thật Bổ-đặc-già-la thì có thể có thừa riêng, vì ngã đã không có khác, nên nói Nhất thừa. Vì năm giải thoát..., nên ba thừa đều ở trong phiền não chướng mà được giải thoát. Vì giải thoát không có khác nhau, nên thân Thanh Văn này có đủ chủng tánh Thanh văn và Phật. Vì có tánh này, nên nói Nhất thừa, vì thứ bảy, thứ tám được hai ý lạc:

a) Chư Phật đối với các hữu tình được đồng tự thể, ý ưa thích nói: "Ta tức Phật kia; Phật kia tức là ta, ta đây đã thành Phật, người kia cũng sẽ thành

Phật."

b) Trong hội Pháp Hoa của Đức Thế Tôn, Phật thọ ký riêng, truyền trao cho các Thanh văn, vì khiến cho họ gìn giữ được ý ưa thích như thế này: Ta đồng với Phật, bình đẳng không hai. Lại, trong hội này, có các Bồ-tát, đồng với danh hiệu Phật kia, được thọ ký riêng, nên một lời Phật nói, bao gồm hai thứ lợi ích. Nghĩa là các Thanh văn được ý ưa thích, đồng với tự thể của Phật và các Bồ-tát được thọ ký riêng, vì chín hóa, như Đức Thế Tôn nói: "Bí-sô các thầy, ta nhớ lại thuở xưa, đã vô lượng một trăm lần, ta nương tựa Thanh văn thừa mà bát Niết-bàn."

- "Vì sao đã thành Phật, mà lại dựa vào Thanh văn mà bát Niết-bàn?"

"Tức vì điều phục Thanh văn đã được hóa độ; Phật, Bồ-tát v.v... tự biến hóa thân mình, vì đồng với Thanh văn kia, thị hiện bát Niết-bàn. Trải qua trăm ngàn kiếp, đam mê rượu tĩnh lặng, mới từ Thanh văn kia khởi hiện Phật thọ ký, khiến các Thanh văn với chủng tử bất định, đều tạo ra tâm này: "Thuở xưa, ta nhập Niết-bàn. Nay, đều lại khởi hiện Phật trao thọ ký, huống chi đối với chúng ta, không hy vọng, thành Phật mà nhập vào Niếtbàn? Cũng vì hàng phục Thanh văn kia, nên ta cũng được Niết-bàn của ông."

Vì mười rốt ráo, nên do vượt ngoài thừa này, không có thừa trội vượt riêng, vì y cứ vào lý rốt ráo, rất là vượt hơn.

Bốn hạng Thanh văn trong luận Pháp Hoa: Chỉ vì người bất định và ứng, hóa mà thọ ký riêng. Chủng tánh bất định, tức là thứ nhất, thứ hai trong mười và phần nhỏ thứ tám, ứng, hóa tức thứ chín. Phần nhỏ của sáu chủng khác, là nghĩa riêng nói về Nhất thừa, chẳng phải đều bất định và người ứng hóa, cũng chẳng phải vô tánh tạo ra danh hiệu Phật. Trong mười nghĩa, giải thích hai mươi sáu nghĩa của Hiển Dương, không cần nói riêng. Nhưng kinh Pháp Hoa khai môn phương tiện, làm sáng tỏ tướng chân thật, dùng Nhị thừa làm phương tiện, Nhất thừa làm chân thật."

Kinh Thắng-man, chép: "Nếu Như Lai thuận theo ý muốn của Nhị thừa kia, mà phương tiện nói, thì chỉ có Nhất thừa không có Nhị thừa, ý này tức nói rõ dắt dẫn Nhị thừa nhập Đại, nói là Nhất thừa, nghĩa là thuận theo ý ngữ của người khác, vì Nhị thừa kia cần phải nghe, nên cũng là phương tiện nói có Nhất thừa, chẳng phải chân thật, chủng tánh quyết định không thọ ký riêng, vì chẳng phải chỉ một, không có tánh hữu tình, nên không thành Phật". Một hội Pháp Hoa đối với cơ nghi không nhất định, dùng hai thừa làm phương tiện, Nhất thừa làm chân thật.

Trong kinh Thắng-man, vì đạo lý phổ cập đủ các căn cơ không nhất định, bốn thừa là thật, nên nói Nhất thừa là phương tiện nói thuận theo ý người khác, cũng không trái nhau.

Lại, kinh Pháp Hoa chép: "Nhất thừa chỉ y cứ vào nhiếp nhập, vì thể dụng hẹp, nên làm phương tiện để nói."

Kinh Thắng-man chép: "Nhất thừa xuất sinh nhiếp nhập, Nhị thừa đều đủ khắp, nên nói là chân thật."

Lại, Pháp Hoa chép: "Vì Nhất thừa chỉ nói có tánh làm y chỉ, nên là phương tiện."

Kinh Thắng-man chép: "Nhất thừa cũng nói: "Vì không có tánh làm chủ thể y, nên gọi là chân thật".

Lại, Pháp Hoa chỉ bàn bạc, vì tánh bất định, nên là phương tiện".

Vì Thắng-man cũng bàn bạc chủng tánh quyết định, nên gọi là chân thật, vì trong một hội đáng nên nghe, nên Pháp Hoa rõ ràng, dùng trí tuệ làm Nhất thừa, ẩn mật nói chân như, dù nói hóa thành, cũng chẳng phải chân diệt. Nói Đại Niết-bàn đều vì đảo châu báu mà chưa nói rõ ràng chân Niếtbàn, do Niết-bàn mà người Nhị thừa đã được đều gọi là hóa, vì Bồ-đề hoàn toàn không thật có, nên chứng tỏ dùng trí tuệ làm Nhất thừa, sao cho Nhị thừa kia hớn hở mong cầu. Kinh Thắng-man chép: "Dùng chân lý làm Nhất thừa, vì không nói trí tuệ, nên hai thứ nhiếp vào, sinh ra đều có cùng tận. Dù ở quả Phật, Niết-bàn, Bồ-đề đều cùng là Nhất thừa.

Thắng-man liễu nghĩa sư tử hống chép: "Pháp Hoa ẩn mất nói về Nhất thừa, bàn bạc chung Thanh văn, dù có bốn hạng, nhưng thời giáo đầu tiên của Pháp Hoa có ba Thanh văn, chỉ trừ cõi tĩnh lặng, sau tăng thượng mạn kia, khởi xong, quá khứ mới lạm hai ghi nhận.

Vì lý do như thế, dù nói Nhất thừa, nhưng vẫn không trái với giáo khác, nói trong Nhị thừa, không nói Độc giác, chỉ nói thượng, hạ như căn trong mười lực, vì năng lực thượng, hạ không quá hai, dùng căn cơ, dùng giáo, đều là hai loại. Lại, Thanh văn, Độc giác đều có vị nhất định, và không nhất định. Sơ phát tâm này vì đều dựa vào tiếng, nên cuối cùng thành quả, vì cũng có phần nhỏ dựa vào tiếng, nên tánh bất định, do tiếng Phật đạo, khiến tất cả nghe, đều được gọi là Thanh văn. Lại, Độc giác kia không có nhiều loại giáo riêng, gọi là thừa hạ và vì Thanh văn thừa, nên không nói riêng.

Lại, gọi hai thừa Đại, Tiểu: Hợp với Nhị thừa kia vì cùng chủng loại.

- "Tánh định, bất định trong ba nhân nào hợp thành ba?"

- "Trong tánh bất định có đủ hai, đủ ba chủng tánh khác nhau, vì cuối cùng được quả chẳng vượt quá ba. Người, trời cạn cợt, vì chẳng phải vận chuyển cuối cùng, nên cũng không nói".

Kinh Thắng-man chép: "Không nói bất định trong bốn, cuối cùng cũng chỉ ba thừa, vì gồm thâu hết, nên lược không nói".

Hợp với người, trời, nghĩa là đều không có loại tánh, vì đồng với cạn, cợt, nên trong kinh Bát-nhã chẳng nói là không có tánh, vì không phải vận chuyển cuối cùng.

Mở rộng bất định: Đức cao quý nghe kinh, tu phương tiện khác, vì mở bày rõ cuối cùng được Niết-bàn. Vì sao Lăng-già khen ngợi nói riêng năm thừa, vì tánh định, bất định có bốn thứ khác nhau, nên người, trời đồng một, vì loại cạn cợt. Ở chỗ khác lại nói người, trời làm năm nghĩa là thọ quả có cõi khác nhau. Vì loại riêng, hợp với tánh bất định, vì không vượt hơn ba. Không mở mang có tánh làm bốn; không có tánh làm hai, dùng làm sáu. Các giáo chỉ nói năm chủng tánh riêng; vì loại chỉ có năm. Nếu lập sáu: Về lý cũng không trái. Nhưng không có văn chứng, không nói bảy v.v... vì loại lại không có.

Thứ năm, là hỏi, đáp phân biệt: Lý Nhất thừa trong đây, lẽ ra chỉ một, không có hai, ba khác.

Kinh Pháp Hoa chép: "Thanh văn, hoặc Bồ-tát nghe pháp mà ta đã nói, cho đến một bài kệ, đều sẽ thành Phật, không có nghi ngờ."

Kinh Niết-bàn cũng chép: "Hễ người có tâm đều sẽ được Vô thượng Bồ-đề". Vì sao vừa mới nói đã dẫn bất định, cho đến tất cả hữu tình của năm thừa đều có Phật tánh, cuối cùng đều đến quả cùng cực của Đại thừa. Vì sao cuối cùng có thừa người, trời không quy y Phật?"

Đáp: "Luận Nhiếp Đại thừa vì dùng mười nhân, nên Phật nói: "Nhất thừa."

Hiển Dương quyển hai mươi chép: "Vì dùng sáu nhân, nên Phật nói Nhất thừa, như trước kia đã giải thích.

Nay, vì người giải thích: Y cứ vào thật mà nói năm thừa đều khác, như giáo lý đã dẫn trước kia, được thành lập, vì dẫn một loại, nên nói:

Nhất thừa, chẳng phải thừa chỉ một, không có hai, ba..."

Luận Pháp Hoa chép: "Thanh văn có bốn:

1/ Thú hướng tĩnh lặng.

2/ Lui sụt tâm Bồ-đề, cũng gọi là hồi hướng tâm Bồ-đề.

3/ Ứng hóa.

4/ Tăng thượng mạn.

Kinh chỉ vì hóa độ kẻ thối tâm Bồ-đề và vì ứng, hóa, nên Đức Thế Tôn thọ ký, chẳng phải hai thứ khác. Thanh văn ứng hóa, tức kinh đã nói: "Ưa thích rượu tam-muội, trải qua nhiều kiếp không giác ngộ. Về sau, từ Bồ-tát kia khởi, mới phát đại tâm. Phật, Bồ-tát tạo ra hình hóa này, tạo ra loại Thanh văn. Bậc Thánh trước kia giảm, trải qua thời lượng lâu của kiếp. Nay, còn phát tâm, huống chi đối với chúng ta? Nên được vì ứng, hóa mà nói Nhất thừa, thọ ký thành Phật."

Vì hóa thứ chín trong một nhân của Nhiếp luận, tức là ở đây. Xá-lợi-phất v.v... trước phát tâm Đại thừa, vì nhân bố thí mắt, nên lui sụt cầu tiểu quả. Nay, vì Thanh văn kia, Phật nói Nhất thừa thọ ký, nên nói cũng vì lui sụt tâm bình đẳng, nói Nhất thừa v.v... không như vậy, ấy là trái với năm thứ chủng tánh, mười thời lượng, ta nói Nhất thừa, một đạo, một hạnh, một duyên, nói Tu-đà-hoàn, cho đến A-la-hán v.v..., đều được Phật đạo. Các đệ tử ta không hiểu ý ta, ở trong đại chúng nói như thế này: "Như Lai nói Tu-đà-hoàn cho đến A-la-hán đều được Phật đạo". "Nếu đều thành Phật, tức là hiểu ý Phật, vì sao gọi là không hiểu ý Phật?" Nên biết, chỉ nên nói như trong đây, hỏi kinh tự nói rằng: "Trong các cõi Phật ở mười phương, chỉ có pháp Nhất thừa, không có hai, cũng không có ba, trừ Phật phương tiện nói, tức là phá hai, phá ba mà nói Nhất thừa."

- "Vì sao mới nói ba, năm thừa riêng?"

Đáp: "Y cứ vào bổn Phạm chép: "Kinh, tụng nên nói không có số thứ hai, thứ ba. Độc giác trong ba thừa là thứ hai, Thanh văn là thứ ba. Vì dẫn không nhất định, vì gìn giữ pháp khác, nên phương tiện nói: "Không có thứ hai, thứ ba, chẳng phải chân phá."

Kinh Pháp Hoa chép: "Chỉ một sự thật này, hai sự khác, tức chẳng phải chân, sau cùng, không do Tiểu thừa cứu độ chúng sinh."

- Nếu đả phá ba thì vì sao vừa mới nói hai sự khác chẳng phải chân, không do Tiểu thừa cứu giúp, cũng nên nói không do Đại thừa cứu độ?"

- "Kinh chỉ nói: "Hại sự khác chẳng phải chân, không do Tiểu thừa cứu giúp, đủ biết rõ Đại thừa chẳng phải đối tượng phá."

Kinh kia lại nói: "Còn không có hai thừa, huống chi có ba? Hai, nghĩa là thứ hai; ba, nghĩa là thứ ba, chẳng phải cho rằng Nhị thừa, Ba thừa, gọi là hai, ba."

Kinh Thắng-man chép: "Thanh văn, Bích-chiphật thừa, tức là Đại thừa. Lại nói: "Đại thừa tức là Nhất thừa, nên chỉ hội nhập thừa của hai tánh bất định, cũng chẳng phải hội nhập Nhị thừa của tánh nhất định kia, huống chi Đại thừa. Lại, không có ba thừa, vì biểu thị rõ tức là một, nên chẳng phải đả phá Đại thừa chỉ có Nhất thừa. Lý này đâu có sai lầm. Nếu đả phá ba thì đại trong ba, tức trong nhà lửa đã cho xe bò; ra khỏi cổng v.v…, đều cũng là bò chuyên chở. Nếu đả phá bò trước, sau riêng cho bò, hai con bò đâu có khác."

Lại, đại trong ba tức là giác ngộ ngay, hội khiến nhập một.

Há khiến ngộ ngay mà, trở thành giác ngộ dần ư?"

- "Lại giải, hạnh của Đại thừa, Nhất thừa đâu có khác?

Mà nói bỏ ba, lại thu hướng về một?

"Lưới nghi của Bồ-tát mới phát tâm được dứt trừ, tức gìn giữ những thứ còn lại trong mười nghĩa, chưa nói về Nhất thừa, e đối với tinh tấn, lại hư hoại, khởi nghi lui sụt. Nay, nghe Nhất thừa, dứt trừ y nghi của Bồ-tát kia. Đây là bỏ vị của địa dưới mà thú hướng giai cấp trên chẳng phải xả Đại thừa mà nhập vào một. Không như vậy, thì Thập Địa xả địa dưới, thú hướng địa trên, đều lẽ ra cũng gọi phá ba về một. Lại, cũng lẽ ra nói ba khác chẳng phải chân, đâu chỉ nói hai?"

Thắng-man lại chép: "Nếu Như Lai thuận theo ý muốn của Bồ-tát kia mà phương tiện nói tức là Đại thừa, chẳng có hai thừa, nên hội Nhị thừa nhập vào một, là phương tiện nói, chẳng phải lý chân thật. Kinh dù nói rằng, khai môn phương tiện, nhưng vì làm rạng rỡ tướng chân thật, nên nói là có người Nhị thừa mang tánh không nhất định, là môn phương tiện, vì xả khiến nhập chân."

Nay, nói Nhất thừa, khiến thu hướng quả cùng cực, gọi là chân thật, chẳng phải cho rằng, đều không có hai, chỉ có một gọi là chân, nên kinh Pháp Hoa chép: "Thầm sai hai người: Mắt chột, què xấu xí, không nói ba người". Lại nói: "Vì chỗ nghỉ ngơi, nên nói hai, không nói ba. Nếu nói xa hội nhập ở vị đại, gọi là Đại thừa. Nếu người đi thẳng qua thì đã nhập vị Đại, gọi là Nhất thừa. Kinh, luận chép: "Nhất thừa thật là bất định. Nay, ở đây đã giải thích, chưa vì y cứ sách, chưa thấy văn thành thật".

- "Nhất thừa của Pháp Hoa, đâu do đi thẳng qua? Nay, hai hạnh, vị có gì khác nhau?"

- "Nên biết phương tiện ẩn, không có Nhị thừa mà nói Nhất thừa, vì hóa trong một hội, phải nên nghe."

Có thuyết Chấp Đức Phật, ba kiếp đã viên mãn, cũng là phàm phu. Ba mươi bốn niệm thành vị Bồđề. Nay, vì phá chấp này, nên nói Nhất thừa, cũng là đả phá ba. Không như vậy, thì đây là Phật diệt độ về sau, kiến chấp cong vạy của Tiểu thừa há Phật là ở "hữu tác", chấp Phật này cho là chân, mà nay vì nói đả phá, nên chỉ phá hai."

- "Vì sao lập Nhất thừa, năm thừa? Không nói một tạng, năm tạng?

Nói có sáu tạng, không nói sáu thừa?

Kinh A-xà-thế Vương v.v... đã nói hai tạng, ba tạng, phải chăng đồng với Nhị thừa, Ba thừa?"

Đáp: "Thừa, là nghĩa chuyên chở y cứ vào động cơ, vận hành để nói về thừa. Tạng nghĩa là bao gồm, chứa đựng giáo đối với lý mà làm tạng:

1/ Một, năm với sáu thứ, cho nên khác nhau, là vì trong kinh đã nói hai tạng, ba tạng, hai thừa, ba thừa, dùng căn cơ, công hạnh mà bày ra, lý vận hành đối với căn cơ mà giải thích về giáo, cho nên có thể đồng; chưa thể khiến cho đều đồng, đều khác, thuận theo cơ nghi, lại chia ra thừa, tạng, có dị, đồng đối nhau, đều có tướng để đồng, về lý không sai lầm. Nhưng vẫn chưa thấy văn. Lại, y cứ vào tạng Bồ-tát quyển một, nói về tướng của một độ, mười tệ, số đối trị nhau, bằng nhau; số đối trị nhau của bốn luân tám nạn khác, không nên trách cứ bằng nhau."

Hỏi: "Thừa là nghĩa chuyên chở, vượt qua. Bồtát có thể có thừa.

Như Lai đã là đẳng độ, cho nên không lập Phật thừa?"

Đáp: "Mình, người đều có thể có thừa, Bồ-tát đủ cả hai độ.

Hóa độ người khác chẳng phải tự độ, đâu trở ngại cho việc lập Phật thừa."

Hỏi: "Vì sao có chỗ nói Phật thừa cũng gọi Bồ-tát thừa, chỉ gọi Thanh văn thừa, không gọi Độc giác thừa?"

Đáp: "Do quả đối nhau, chỉ nói Phật thừa; hai là vận chuyển có thể tu, nói là Bồ-tát thừa. Vì công hạnh v.v... rộng, nên gọi là Đại thừa. Vì ngăn hai thứ còn lại, nên cũng gọi Nhất thừa. Độc giác không có giáo môn riêng vì nghiệp đầu tiên, cũng do âm thanh mà khởi, nên gọi Thanh văn thừa, không gọi Độc giác thừa. Nhị thừa, biện luận chung về tên, gọi chung Tiểu thừa. Do căn cơ, công hạnh v.v... đồng, vì hẹp hòi, yếu kém nên chẳng trái nhau."

Hỏi: "Đã dùng quả đối với danh, là Phật thừa, lẽ ra cũng quả đối với danh là Phật tạng. Vì sao chỉ gọi là Bồ-tát tạng, không gọi là Phật tạng?"

Đáp: "Thanh văn, Độc giác đều được gọi là Tạng, như trong chương Tạng, có giải thích rộng". Hỏi: "Giáo, lý, hạnh, quả đều là thể Nhất thừa, là đồng, hay là khác?"

Đáp: "Một cơn mưa thấm nhuần khắp giáo đồng, căn cơ khác. Cái lý ba con thú lội sang sông là đồng, chứng là khác. Nhân hạnh lớn của sáu xứ là đồng, tu là khác. Ba xe khuyến dụ dẫn đến quả, là đồng, giả thiết là khác; hoặc khác, hoặc đồng, không nhọc công đặt ra tiêu chuẩn nhất định."

Thắng-man chép: "Hội nhân, hội quả". Pháp

Hoa là hội ba thứ giáo, hạnh, quả, một cơn mưa giáo, là chín bộ hành, ba xe là quả. "Hiển" chỉ giáo, hạnh, quả; "mật" thật có bốn, như kinh Niết-bàn nói là đồng, dị.

QUYỂN 2

CHƯƠNG CHƯ TẠNG

Các tạng lược dùng mười môn để phân biệt:

1/ Duyên khởi kiết tập.

2/ Danh, số, thêm bớt.

3/ Giải thích về phế, lập.

4/ Nêu ra thể tánh.

5/ Giải thích danh nghĩa.

6/ Nói lên rõ sự khác nhau.

7/ Phật tự nói bộ loại chung, riêng.

8/ Thầy trò kiến lập.

9/ Thứ lớp phân biệt.

10/ Giải thích thông suốt về chỗ nghi ngờ vấn nạn.

THỨ NHẤT LÀ NÓI VỀ DUYÊN KHỞI KIẾT TẬP

Trong Nhất Thiết kinh, có một quyển riêng, gọi là Kiết Tập Tam Tạng Truyện, và Phó Pháp Tạng Truyện; Luận Đại Trí Độ, quyển hai; Chân Đế Tam Tạng Bộ Chấp Sớ, quyển hai; Đại Đường Tây Vực Ký, quyển chín và Luật Tứ Phần; v.v...

Nay, đều xem xét tường tận, hợp tâm mà giải thích: Muốn ghi chép đủ riêng, e văn quá nhiều, khiến người học giả khó biết.

Tây Vực Ký chép: "Chính giữa nước Ma-kiệtđà, nơi đóng đô của Quân vương khi xưa, mọc thứ cỏ tranh cát tường, gọi là thành Mâu Thượng, tức thành Củ-xa-kiệt-la Bổ-la.

Bốn chu vi Sùng Sơn, là thành quách bên ngoài. Phía Tây thông qua đường thẳng tắt hẹp; phía Bắc mở rộng cổng núi. Đông Tây dài, Nam Bắc hẹp, chu vi hơn một trăm năm mươi dặm. Nền khác thành nội, chu vi hơn ba mươi dặm. Ở cổng phía Bắc thành núi, đi bộ chừng một dặm, đến khu vườn trúc Ca-lan-đà. Phía Tây nam vườn trúc đi năm, sáu dặm là phía Nam núi Nam Sơn. Trong rừng Đại Trúc, có ngôi nhà bằng đá xanh lớn, nơi Đại Ca-diếp với ba kỳ kiết tập. Vua Vị Sinh Oán vì nhà kiết tập, kiến lập các ngôi nhà, tức núi phía Tây nam, ngoài cửa Bắc thành của núi.

Chân Đế nói: Ở bảy ngọn núi cao của thành Vương-xá, Tập Tạng truyện chép: "Ở phía Bắc thành Tăng-già-thi, cả ba thuyết đều giống nhau".

Luận Đại Trí Độ chép: "Người kiết tập ở núi Kỳ-xà-quật, là chẳng phải. Núi này ở phía Bắc thành vua khoảng mười bốn, mười lăm dặm, giáp với núi phía Bắc. Kiết tập ở bên ngoài cổng phía Bắc thành lớn, ghi nhận dấu vết hiện tồn tại, nên biết là chẳng phải. Tên của văn riêng, nơi chốn không khác."

Quyển thứ mười một, Luận Đại Trí Độ chép: "Khi Phật nhập diệt, sáu thứ rung chuyển cả địa cầu, các dòng sông chảy ngược, gió lốc xoáy dữ dội, mây đen bao trùm, sấm, sét, mưa bão; các vì sao chuyển đi khắp nơi. Sư tử, thú dữ gào rống, kêu la, người trời kêu gọi. Các vị trời, người, v.v... đều nói rằng: "Phật nhập Niết-bàn sao mau chóng quá! Thời gian ấy tai biến nhiều vô lượng, vô biên, các người đại Thánh đều nhập tịch diệt.

Tây Vực Ký chép: "Lúc bấy giờ, Đại Ca-diếp đang ngồi yên lặng trong rừng, bỗng nhiên, ngọn đuốc rực sáng". Lại, thấy mặt đất rung chuyển bèn nói: "Đây là điềm lành gì?"

Nếu khác với hiện tượng này, thì Bồ-tát dùng mắt trời quán thấy Phật, Đức Thế Tôn ở giữa song lâm, nhập Niết-bàn.

Luận Trí Độ nói: "Các vị trời ở sáu tầng trời cõi dục, cho đến các Thiên tử, v.v... cõi Biến tịnh, thấy các A-la-hán đều bát Niết-bàn, tâm tự nghĩ rằng: "Mặt trời Phật đã tắt, các đệ tử v.v... cũng ẩn mất theo, cho đến nói rộng. Voi đầu đàn đã mất, voi con cũng mất theo. Thượng pháp đã đi rồi, nước theo ai để cầu pháp bảo?

Bấy giờ, các vị trời lễ dưới chân Ca-diếp mà nói kệ rằng: "Người cao tuổi, dục, giận, mạn đã dứt trừ, thân vị ấy ví như cây cột bằng vàng tím, trên dưới trang nghiêm, xinh đẹp, không gì so sánh bằng. Mắt trong sạch như hoa sen, bạch Ca-diếp rằng: "Nhân giả có biết không? Thuyền pháp bị vỡ tan; thành pháp bị suy sụp; biển pháp khô cạn; cờ pháp bị lộn ngược; đèn pháp sắp tắt, pháp, nhân sắp ra đi; người hành đạo ít; người ác càng nhiều, sẽ dùng đại từ để xây dựng Phật, pháp."

Bấy giờ, Đại Ca-diếp, tâm như biển cả lóng trong, lặng ngắt không xao động, một hồi lâu rồi đáp: "Thật như ông nói", bèn yên lặng nhận lời thỉnh cầu của các vị trời.

Các vị trời lễ dưới chân xong, bỗng nhiên biến mất. Bộ Chấp Luận Sớ quyển hai của Chân Đế Tam Tạng chép: Phật Bát Niết-bàn, về sau, trải qua bảy ngày. Ca-diếp ra lịnh cho đồ chúng thuộc hạ sắp đi qua thành Câu-thi-na, dọc đường gặp ngoại đạo tên Ưu-bà-kha, Hán dịch là Cận tánh." Ca-diếp hỏi: "Ông từ đâu đến?" Ngoại đạo đáp:-"Tôi từ xứ Niết-bàn của Đức Thế Tôn đến. Phật Bát Niết-bàn xong, qua bảy ngày, vô lượng trời, người đốt hương, rải hoa, lập ra các cúng dường, ta ở chỗ Phật mà lượm được hoa Mạn-đàla này, đem đến bảo cho Ca-diếp biết. Ca-diếp đến chỗ Vị Sinh Oán nói với vị vua ấy rằng: "Ta cần tám cái máng, xin vua cho lấy." Vua y theo giáo sắc dạy."

Lại, xin y vương, nhà vua cũng y lời dạy, hỏi rằng:

- "Các thứ thuốc của y vương, thuốc nào trị phong? Thuốc nào trị mụn nhọt?"

- "Lại theo vua đòi yêu sách, vua đều tùy thuận cho. Mài thuốc làm mạt vụn, nấu thành cao. Trong tám cái máng bên trong, tức ở vào ngày này, trả lời với vua A-xà-thế rằng: Phật đã Bát Niết-bàn xong, qua bảy ngày. Vua nghe lời nói này, liền ngất xỉu. Ca-diếp đem vua đặt khắp trong máng, đến chiếc máng thứ tám, vua bèn được sống. Ca-diếp dùng sức cao quý của thuốc giúp sức vua được sống lại. Ba lần báo cáo như thế, vua nghe liền chết. Cadiếp thứ lớp an bài trong chiếc máng, sống lại như trước. Ca-diếp vì nói tất cả hữu vi đều trở về với sự hao mòn, tiêu diệt, đều là vô thường. Như Lai cũng đồng với vua, chớ lo buồn, nên giảng nói rộng chánh pháp, để trả ơn Phật, đáp lại với quyến thuộc, đều cùng đến chỗ Phật, nhà vua đều cùng quyến thuộc và Đại Ca-diếp, chỉ trong khoảng co duỗi cánh tay, đã đến thành Câu-thi. Vua đã thấy Phật ngất xỉu mà chết. Ca-diếp lại đặt vua trong chiếc máng thuốc, cho đến chiếc thứ tám, ấy là vua lại được sống. Đức Phật ló hai chân ra ngoài kim quan, để tiếp nhận lễ kính của Ca-diếp.

Bốn bộ đệ tử thấy Phật Niết-bàn, Ca-diếp chưa đến, đều không nhập tịch diệt; Ca-diếp đã đến, không còn đối tượng chờ đợi. Vô lượng bậc Thánh cũng bát Niết-bàn. Niết-bàn đã không có các Thánh trụ trì, trụ trì đã không sợ chánh pháp diệt tận. Ca-diếp, bèn nói với những người chưa nhập diệt rằng: các Thánh giả không nên vội nhập diệt. Chúng ta nên đền đáp ôn Phật, pháp, chọn lựa kiết tập ba tạng mà Như Lai đã nói, để đem lợi ích lại cho chúng sinh. Nếu không từ ta nói, thì sẽ mắc tội Đột-cát-la.

Nói lời như thế rồi, ít có người nhập diệt.

Tây Vực Ký chép: "Bấy giờ, Đại Ca-diếp bảo các học trò rằng: "Mặt trời tuệ đã chìm, thế giới tối tăm, khéo dẫn dắt chúng sinh điên đảo. Các Tỳ-kheo lười biếng, lại chúc nhau rằng: "Như Lai diệt độ, bọn ta yên vui, vì nếu có phạm điều chi, ai có thể quở mắng, chế phục?""

Nghe xong, Ca-diếp lại cảm thấy thương xót sâu sắc, tư duy kiết tập pháp tạng, y cứ pháp trị phạm. Chân Đế nói: "Ca-diếp có hai đệ tử:

1/ Nan-đà

2/ Ưu-bà Nan-đà.

Thấy Phật Niết-bàn, tâm rất vui mừng. Bấy giờ, đại chúng bốn bộ báo cáo với Ca-diếp, Ca-diếp quở trách, đuổi họ ra khỏi chúng, suy nghĩ kiết tập. Tập Tạng Truyện chép: "Bốn bộ, người trời, chia xá-lợi

Phật thành tám phần, thiêu tro Phật và đặt bàn thờ Phật, xây cất mười ngôi tháp xong".

Luận Đại Trí Độ, Tây Vực Ký chép: "Ma-ha Ca-diếp ở đỉnh núi Tu-di, đánh kiền-chùy đồng, nói kệ rằng:

"Các đệ tử của Phật. Nếu nghĩ nhớ đến Phật. Nên đền đáp ơn Phật. Chớ nhập vào Niết-bàn. Âm thanh kiền-chùy này. Truyền đi lời Ca-diếp.

Khắp thế giới Tam thiên, Thảy đều được nghe biết!"

Các Đại đệ tử được thần thông, đều đến nhóm họp ở chỗ Ca-diếp. Ca-diếp bảo rằng: "Phật pháp sắp diệt, trong các đại đệ tử, người biết pháp, gìn giữ pháp, cũng diệt độ theo. Chúng sinh vị lai thật đáng thương xót; kiết tập đã xong, thuận ứng diệt độ theo, các đại chúng đời đương lai đều thuận theo giáo mà trụ, được chín trăm chín mươi chín vị, chỉ trừ A-nan."

Chân Đế nói: "Được bốn trăm chín mươi chín người, chỉ trừ Khánh Hỷ."

Tập Tạng Truyện chép: "Được tám mươi ngàn người đều là vô lậu. Truyện này nói chung hữu học, vô học."

Luật Tứ Phần chép: "Trước có năm trăm, sau Phú-lâu-na đến, lại có năm trăm, trước, sau khác nhau."

Chân Đế nói: "Vào ngày rằm tháng tư mùa hạ, trong lúc an cư, vua A-xà-thế, đại đàn-việt, Như Lai ở đời, các đệ tử v.v... sáng, chiều lễ bái Như Lai. Nay, an cư kiết hạ, sáng, chiều và giữa trưa, chia làm ba thời gian, lễ bái, cúng dường xá-lợi."

Luận Trí Độ chép: "Do vua Bình-sa đắc đạo, tám vạn bốn ngàn quyến thuộc cũng đắc đạo theo. Bình-sa giáo sắc trong cung, thường lập thức uống ăn cúng dường mười ngàn người, nên A-xà-thế chưa dứt pháp này. Thánh giả nói: "Dù chúng chỉ để lại mười ngàn người, để kiết tập. Nếu để lại nhiều người, thì đối với việc khất thực bên ngoài, e rằng, ngoại đạo nghị luận trở ngại pháp sự".

Bấy giờ, Đại Ca-diếp và một ngàn người, đến chỗ kiết tập, nói với A-xà-thế hãy cung cấp thức ăn cho ta, khi ấy là vào ngày rằm tháng ba, an cư kiết hạ, khi thuyết giới. Tây Vực Ký chép: Kiết tập vào ngày rằm an cư mùa hạ."

Luận Trí Độ nói: "Ca-diếp nhập định, quán sát đại chúng, biết ai chưa dứt hết lậu, chỉ thấy A-nan còn ở học địa. Ca-diếp xuất định, dẫn A-nan đi ra, nói: "Kiết sử của ông chưa hết, không nên ở đây!". A-nan cảm thấy hổ thẹn, khóc lóc mà tự nghĩ rằng: "Hai mươi lăm năm qua, ta theo hầu Phật, cung cấp bên cạnh không hề là khổ", bạch Ca-diếp rằng: "Tôi có khả năng đắc đạo từ lâu, nhưng trong pháp của chư Phật, vì người A-la-hán không được cung cấp bên cạnh, nên để lại kiết sử dư thừa." Đại Ca-diếp nói:

-"Ông lại có tội:

1) Ý Phật không muốn người nữ xuất gia, ông lại tha thiết xin Đức Phật khai cho, vì chánh pháp này sẽ suy giảm năm trăm năm. Nay ông nên thực hành sám hối Đột-cát-la.

-A-nan đáp: "Tôi thương xót Cồ-đàm-di. Lại, pháp của tất cả Phật đều có bốn bộ chúng, nay chỉ có Phật ta không có. Tạp Kiền-độ phần cuối trong Luật Tứ Phần chép:

"Đại Ái Đạo Ni rất có ơn đối với Phật. Thuở nhỏ, Phật đã mất mẹ, Cồ-đàm-di nhận Phật để nuôi nấng, nên đáng độ cho".

2) Ca-diếp lại nói: "Khi Phật sắp Niết-bàn, bị đau lưng ở gần thành Câu-di-na-kiệt. Trải uất-Đa-la tăng, bốn lớp để nằm, Ngài nói: "Ta cần nước", sao ông không cung cấp?" A-nan đáp:

-"Lúc bấy giờ, năm trăm chiếc xe cắt ngang dòng chảy mà vượt qua, làm cho nước đục ngầu, do đây tôi không múc".

Ca-diếp lại nói: "Đang khiến cho nước đục, Phật có thần lực có khả năng làm cho nước đục trong biển cả trong trở lại, sao ông không múc lấy? Là tội của ông, nên thực hành sám hội tội Đột-cátla!"

Luật Tứ Phần nói: "Thiên thần cũng có khả năng khiến cho nước trong được."

3) Ca-diếp lại nói: "Phật hỏi ông rằng: "Nếu người có khả năng tu bốn thần túc, sống lâu một kiếp, hoặc dưới một kiếp, ta có khả năng khéo tu, mà ông không đáp!"

Ba câu hỏi như thế, mà ông vẫn im lặng. Do ông khiến Phật sớm nhập Niết-bàn, nên thực hành sám hối Đột-cát-la."

-A-nan đáp: "Vì bị ma che khuất, cho nên như vậy, chứ chẳng phải tôi có lòng dạ độc ác."

4) Ca-diếp lại nói: "Điệp Phật y (y hai mươi lăm điều) của Phật, sao ông lại dùng chân đạp lên Tăng-già-lê? Nên thực hành sám hối tội Đột-cátla?" A-nan đáp:

-"Vì lúc ấy, có gió to nổi lên, mà không có người nào giúp tôi, chiếc Tăng-già-lê bị gió thổi tung lên, rơi xuống đúng ngay dưới chân tôi, chứ chẳng phải tôi không cung kính mà giẫm đạp y Phật.

Luật Tứ Phần chép: "Vá y cho Phật, đạp lên y Phật."

5) Ca-diếp lại nói: "Tướng âm tàng của Phật, khi Phật bát Niết-bàn, lại cho người nữ thấy là việc đáng hổ thẹn", ông nên thực hành sám hối Đột-cátla". A-nan đáp:

-"Bấy giờ, tôi nghĩ rằng, nếu các cô gái thấy tướng âm tàng của Phật, thì họ sẽ tự cảm thất rất hổ thẹn cho hình tướng xấu xí của người nữ, muốn được thân nam, nên tu hành tướng Phật, gieo trồng các gốc "lành", nên tôi mới cho họ thấy, chứ chẳng phải vì không hổ thẹn mà cố tình phá giới."

Trong Luật Tứ Phần, không có điều này, lại không hỏi giới vi tế là một, Phật sai làm thị giả, Anan không chịu là một; vì người nữ làm nhơ chân Phật là một, nên hợp thành tám. Trong truyện Tập Tạng, chỉ nói có bốn: Độ người nữ, đạp y, xin nước không cho và không hỏi giới."

Luận Trí Độ nói: "Đại Ca-diếp nói: "Sáu tội này của ông, ông nên sám hối". A-nan: "Nói xin vâng. Bèn quỳ thẳng sám hối"."

Mặc dù nói có sáu, nhưng văn chỉ nêu có năm, văn dường như thiếu.

Luật Tứ Phần nói: "A-nan đáp: Nhưng tôi chẳng biết là tội, vì tin lời Thượng tọa nói, cho nên sám hối."

Sám hối xong, Đại Ca-diếp kéo A-nan ra và nói: "Ông đã được lậu tận", sau đó, lại trở vào. Cadiếp nói xong, bèn tự đóng cửa lại. Đại chúng bàn luận quanh vấn đề kiết tập Tỳ-ni."

A-na-luật nói: "Kiều-phạm-ba-đề, đệ tử của Xá-lợi-phất, có khả năng biết Tỳ-ni, nay đang ở trong vườn cây Thi-lợi-sa trên cõi trời, nên khiến thỉnh đến. Ca-diếp gọi Kiều-phạm-ba-đề, và nói rằng: "Tăng Diêm-phù-đề có đại pháp sự, nay phải đến nhanh, ông hãy đến sớm hơn!" Sứ giả liền lễ dưới chân tăng. Lễ tăng xong, như chim bay trên hư không, đến vườn cây Thi-lợi-sa, y lời nói thưa hỏi.

- Kiều-phạm-ba-đề hỏi sứ giả rằng:

- "Đem việc không có đấu tranh, gọi ta đến có phải không? Chẳng có kẻ phá tăng, phải không?"-Sứ giả đáp: "Không".

- "Mặt trời Phật đã diệt ư?" Sứ giả đáp:

- "Vâng, Đức Phật đã diệt độ rồi!"

Kiều-phạm-ba-đề nói: "Sao Phật diệt độ nhanh chóng quá vậy? Hòa-thượng Xá-lợi-phất của ta, hiện giờ đang ở nơi nào?" Sứ giả đáp:-"Hòa-thượng cũng đã Niết-bàn!"

- "Đại Mục-kiền-liên vì hỏi cũng vậy ư?"

Đáp: "Đã diệt độ!"

Kiều-phạm-ba-đề nói: "Phật pháp sắp tiêu tan, Đại nhân đã trở thành quá khứ; chúng sinh đáng thương xót. A-nan, La-hầu, hiện nay đang ở đâu?" Sứ giả đáp:

"A-nan thấy Phật Niết-bàn, lo buồn, khóc than, không thể thí dụ. La-hầu-la chứng được quả A-lahán, chỉ quán vô thường." Kiều-phạm-ba-đề nói: "Ta mất đi Đại sư lìa dục; Hòa-thượng cũng mất, ở lại cõi này nào có ích gì! Lập tức khởi thần biến, bèn nhập Niết-bàn. Thân hóa ra bốn đường nước, chảy xuống đến tận chỗ Ca-diếp, trong nước có tiếng nói bài kệ rằng:

Kiều-phạm-ba-đề cúi đầu lễ. Đại đức Diệu Trí, tăng bậc nhất. Nghe Phật diệt độ, ta đi theo.

Như voi lớn đi, voi con theo.

Bấy giờ, sứ giả mang y, bát của Kiều-phạm-bađề trả lại cho tăng."

Tập Tạng truyện chép: "Bấy giờ, A-na-luật bạch Ca-diếp rằng:

-"Tỳ-kheo Kiều-phạm ở trời Đao-Lợi, bậc Lahán vô lậu, nay không đến họp. Ca-diếp sai người thỉnh mà không đến. Thế Tôn Bát Niết-bàn, thế gian trống vắng, biết cầu mong nơi nào?"

Luận Trí Độ chép: "Bấy giờ, A-nan mong cầu lậu tận, tha thiết, rất mỏi mệt, nằm nghỉ trên giường, bỗng nhiên đắc đạo, như mặt trời xua tan bóng tối. Ba minh, sáu thông đều đủ, đêm đến nhà tăng, vây quanh cửa mà gọi. Ca-diếp bảo A-nan hãy vào từ lỗ khóa.

A-nan lễ bái chúng tăng."

Tập Tạng truyện chép: "Bấy giờ, A-nan ngồi dưới tán cây, diệt kiết, lậu tận. Vô số các vị trời hiện đến vây quanh A-nan; A-nan bước đến giữa đại hội, như sư tử không hề sợ sệt. Ca-diếp nhìn thấy từ xa, tám muôn chúng khác đang đứng chắp tay đón tiếp.

Ca-diếp đưa tay chào A-nan mới đến, rồi ngồi trên tòa cao, xếp đặt chúng tăng, Ca-diếp cất tiếng bảo chúng sanh: Người muốn hóa độ thế gian, đều đến đây, như các pháp mà Phật đã nói, nhằm dứt trừ nỗi khổ đau của chúng sanh. A-nan sẽ nói, mười phương sẽ nghe; đệ tử của bốn bộ trời, rồng, quỷ thần; bậc Thánh bốn quả; Các vua, binh chúng, nghe tiếng đều đến. Đại chúng thứ lớp ngồi vừa vặn mười hai do-diên. A-nan ở chính giữa, như vầng trăng sáng tròn đầy, Đế-thích đứng bên phải, Phạm thiên bên trái, hầu A-nan, như khi Phật còn ở trên đời.

Lúc bấy giờ, trời Đế-thích, nói kệ khen ngợi:

Tất cả các vua đều vui vẻ hân hoan.
Như khi xoay bánh xe pháp, vây quanh Phật.
A-nan không có sợ sệt.
Dung nhan, tượng cao cao,
Như mặt trời tỏa sáng.
Đã kiết đầu tiên dứt hết.
Dáng dấp giống như đỉnh núi.
Đỉnh có ánh sáng tròn.
Soi rõ cả đại hội.
Chúng nhìn xem, đều khen ngợi.
Ma nghe danh tiếng, đều đem vợ con.
Và quan binh chúng, cũng đều đến đây."

Ba-tuần nghĩ rằng: Hễ Phật diệt độ, thì có ba việc xuất hiện:

1/ Kiết của A-nan phát ra, hào quang trên đỉnh đầu Ca-diếp.

2/ Na-luật nhìn thấy thấu cả Đại thiên.

3/ Cồ-đàm Niết-bàn, nghĩa là nói giải thoát.

Ba đức này, xứ ấy rất lớn. Tuy nhiên, pháp đã suy vi, không có đối lập với oán cừu, nên lập ra phương tiện thích nghi, dứt pháp tàn dư này. Đệ tử của bốn bộ và các vua chúa.

Ma bèn xuất hiện, lịnh cho tướng sư tử, mau chóng sai khiến bốn binh tiêu diệt hết pháp này, lập tức biến hóa ra chủ tướng của bốn binh chủng bao vây đại hội. Chúng phát ra tiếng đáng ghê sợ, ruồng bắt các đạo nhân, nam, nữ thanh tín; giết các vua, phá tan đạo tràng. Hội chúng vô cùng kinh ngạc; bốn chúng nghĩ rằng: "Tình huống này từ đâu ra?" Các vua nghe tiếng gầm thét, đều sinh tâm kinh sợ, hoài nghi, đều chuẩn bị gậy gộc.

A-nan nghĩ rằng: "Ai đến đây khuấy nhiễu? Khi thấy chúng binh này, mới biết trạng huống này là do ma làm ra". A-nan bèn ra lịnh cho vua ngự giá tức khắc, kẻ loạn binh này, ta tự hàng phục hắn. Bấy giờ, A-nan dùng năng lực trí tuệ; Ma-ha Cadiếp dùng năng lực tinh tấn, duỗi tay ra bắt giữ lấy ma. Ba ma bị siết cổ:

Thứ nhất, là thây người chết.

Thứ hai, là thây chó chết.

Thứ ba, là thây rắn chết.

Sình trướng lên, khó đến gần, ma bèn cúi đầu chịu khuất phục, xin Ca-diếp phóng thích cho. Lahán phải gây khốn đốn cho con người ư? Ca-diếp này! Trước kia, ta đã từng ra sức khuấy rối Phật, Thế Tôn, nhưng chưa từng gặp phải nỗi khốn khổ như hôm nay!" Ca-diếp đáp:

-"Vì Phật thương xót, nên sau cùng, không làm hại. Chúng ta kiết tập pháp, vì muốn cho chánh pháp được hưng thịnh lâu dài. Sao ngươi lại đến đây khuấy nhiễu chúng của ta?" Ma vội khoanh tay thưa với A-nan rằng: "Chỉ cần thả tôi ra, tôi sẽ không dám khuấy rối con người nữa!"

A-nan, Ca-diếp đều thề với ma kia rằng: "Nếu ngươi còn khuấy rối chúng, thì thây chết sẽ lại treo lủng lẳng trên cổ ngươi!"

Ba thây chết liền biến mất.

Ba-tuần thoát khỏi, đứng về một phía. Các vị trời khen ngợi việc lành trội hơn. Ca-diếp ra lịnh cho chúng đều phải lắng nghe, im lặng. Các vua đều đứng dậy hết, chắp tay hầu A-nan. A-nan khen ngợi. Sư tử nhấc chân lên thấy thiếu, nhìn quanh bốn phía."

Chúng sinh nghe nói như thế và một thời đã xong, đất bị rung chuyển. Một ức trời, người đều được mắt pháp. Kiết tập các kinh thành một tạng; luật là hai tạng; pháp đại là ba tạng; ghi chép các pháp khác lạ, nhóm họp các thứ tạp nhạp lại thành một tạng, gọi là Tạp tạng.

Nghe pháp này xong, Thiên thần và người, ba ngàn Tỳ-kheo đều được lậu tận; tám ngàn vị Bất hoàn; mười ngàn vị Nhất lai vô số trời, người được dấu ấn kiến đạo.

Kiết tập pháp đã xong, trời, người đều trở ngại; bốn chúng đệ tử đều trở về chỗ cũ. Xét nghiệm kiết tập bốn tạng này, tức là nghĩa của đại chúng bộ. Bốn tạng đều do A-nan kiết tập.

Luận Trí Độ chép: "Thây chết buộc vào cổ họng, cho đến về sau, Ổ-ba-cúc-đa."

Luận Trí Độ chép: "Ca-diếp đưa tay rờ đầu Anan, bảo kiết tập pháp tạng. A-nan chắp tay hướng về hướng Phật Niết-bàn, mà nói kệ rằng:

Khi Phật nói pháp đầu tiên.
Lúc bấy giờ, ta không thấy.
Như thế, lần lượt nghe.
Phật ở Ba-la-nại.
Vì chúng năm Tỳ-kheo.
Xoay pháp luân Tứ đế."

Kinh Chuyển Pháp Luân cũng có bài kệ này. Ngàn vị A-la-hán này, nghe lời này xong, bay lên cây Thất-đa-la trên hư không. Năng lực vô thường rộng lớn, như mắt ta thấy Phật tự nói pháp. Nay, bèn nói: "Ta nghe như thế này: Thánh giả Vô Diệt Ca-diếp đều cũng nói kệ. Nói năng lực vô thường rộng lớn. A-nan kiết tập bốn bộ A-hàm như thế, nghĩa là tương ưng Trường Tạp trong Tăng Nhất, gọi là Tu-đố-lộ, khiến Ưu-ba-ly kiết tập tạng Tỳ-ni rằng: "Ta nghe như vầy: "Một thuở nọ, Phật ở Tỳxá-ly v.v... cho đến nói rộng." Lại, khiến cho Anan kiết tập tạng A-tỳ-đàm rằng: "Ta nghe như vầy: "Một thuở nọ, Phật đang ngụ trong thành Xávệ, Phật bảo các Tỳ-kheo, có năm sự sợ hãi, năm tội, năm oán không trừ, không dứt, vì nhân duyên này, nên trong đời này phải chịu vô lượng khổ. Về sau, đọa vào đường ác, cho đến nói rộng." Kiết tập pháp xong, các vị trời, rồng thần v.v... dùng các thứ cúng dường, mưa hương hoa trời, dùng tất cả vật để cúng dường, nói kệ này rằng:

"Vì thương xót thế gian
Nên kiết tập ba pháp xong
Mười chín Nhất thiết trí
Nói đèn trí vô minh."

Lại nói rằng: "Di-lặc, Văn-thù dẫn A-nan vào núi Thiết-vi, để kiết tập ba tạng Đại thừa, thành tạng Bồ-tát." Tây Vực Ký nói rằng: "Vào ngày rằm, an cư kiết hạ, Đại Ca-diếp-ba nói kệ rằng:

"Tốt lành thay! Lắng nghe,
A-nan nghe, nhớ giữ,
Như Lai khen kiết tập
Tạng Tố-đác-lãm này
Ta, Ca-diếp kiết tập
Tạng A-tỳ-đạt-ma
Ưu-ba-ly giữ luật
Nghiên cứu rốt sáng suốt,
Đại chúng đều nhận biết
Kiết tạng Tỳ-nại-da."

Sau ba tháng mùa mưa, kiết tập, ba tạng xong. Ba tạng của Đại thừa, Tây Vực tương truyền cũng đồng ở núi này để kiết tập, tức là A-nan, các Đại Bồ-tát Diệu Cát Tường đồng kiết tập ba tạng Đại thừa."

Bộ Chấp Sớ chép: "Ca-diếp ra lịnh cho A-nan tụng năm A-hàm làm kinh tạng, lịnh cho Phú-lâuna tụng A-tỳ-đàm, gọi là Đối Pháp Tạng. Lịnh cho Ưu-ba-ly tụng Tỳ-nại-da, gọi là Luật tạng. Trong thời gian này, có vô lượng Tỳ-kheo đến muốn nghe pháp, Ca-diếp không cho, bảo phải ở ngoài giới, đều tự đúng như pháp tụng ra ba tạng.

Có vị A-la-hán nghĩ nhớ ơn Phật, pháp, nghĩ đến nỗi khổ của chúng sinh, vì tự tuôn rơi lệ, nên gọi Bà-sư-bà, đứng đầu đại chúng, truyền dạy các người:

1/ Do Yết-ma xong, không cho người đến sau được nhập chúng, vì e phá Yết-ma, sẽ phạm tội Thâu-lan-già.

2/ Do không cho chúng tạp nhạp, chỉ năm trăm người chung với Đại Ca-diếp có thể nhận hiểu với nhau, vì người khác thì không như vậy, nên không cho nhập chúng. Dù có hai chỗ đều tự kiết tập; tình kiến chưa phân, cũng đồng với lý giải. Mùa hạ đã xong, sự pháp lại khắp. Vua A-xà-thế sửa soạn xong y bát để cúng thí Thánh chúng. Chúng ngoài giới, số ấy đã nhiều, nên thời gian này đều gọi là nhiều chúng. Chúng nội giới, Ca-diếp là bậc Thượng thủ. Đức Thế Tôn tự nói: "Ca-diếp làm Thượng tọa, sau Phật diệt độ, vì là y chỉ của đệ tử, nên thời bấy giờ, đều gọi là Thượng tọa".

Tháng mười hai năm ấy, vua Vị Sinh Oán băng, Ma-ha Ca-diếp vào núi Lang Tích, ấy là đại chúng phân tán.

Theo Tây Vực Ký, thì Ma-ha Ca-diếp vào núi Kê-túc, không phải Lang Tích.

Luật Tứ Phần chép: "Kiết tập ba tạng ở thành Vương-xá, không nói chỗ khác. Đầu tiên, chỉ có năm trăm vị Đại A-la-hán. A-nan kiết tập hai tạng; Ưu-ba-ly kiết tập tạng Tỳ-nại-da. Sau Phú-lâu-na, với năm trăm Đại A-la-hán đến thỉnh Ca-diếp kiết tập lại. Sau đó, A-nan kiết tập hai tạng, năm trăm tập đầu dù đồng với thuyết của sư Chân Đế nói, nhưng về sau, thành một ngàn, đồng với Tây Vực Ký và luận Trí Độ, Tập Tạng Truyện chép: "Về nghĩa của Đại chúng bộ, đã dùng chúng ngoài giới, cho nên không chia hai chỗ để kiết tập."

Về nghĩa Pháp Tạng bộ trong Luật Tứ Phần, sư Chân Đế nói về nghĩa của bộ Tát-bà-đa.

Chánh nói về Đại thừa trong Tây Vực Ký, không biết Luận Trí Độ do bộ nào đã nói. Chỗ kiết tập đã riêng, con người lại khác nhau; bộ khác lại nói khác, không thể hòa hợp. Những người hữu học như lý nên biết. Tóm lại, là duyên khởi kiết tập thứ nhất.

THỨ HAI LÀ DANH SỐ THÊM BỚT:

Các Sư Kinh Lượng Bộ chỉ lập ra hai tạng:

1/ Tạng Tố-đát-lãm.

2/ Tạng Tỳ-nại-da.

Sư Bộ kia nói: Hai tạng kinh, luật có loại bộ riêng. Phật và đệ tử đều không có bộ riêng, nói là tạng Đối pháp, chỉ trong các kinh giải thích ở chỗ tuệ, gọi là Đối pháp. Nói về đệ tử v.v..., chỉ giải thích về kinh, sớ, chẳng thuộc về tạng này, như luận Thuận Chánh Lý quyển một nói. Nhưng trong Đại thừa cũng y cứ vào căn cơ, công hạnh để nói; đối với môn giáo, được chia làm hai tạng:

1/ Tạng Bồ-tát.

2/ Tạng Thanh văn.

Luận Du-già quyển hai mươi lăm, ba mươi tám, tám mươi mốt, tám mươi lăm, Đối pháp quyển mười một; luận Hiển Dương quyển sáu và rộng tự kiến lập trong Nhiếp luận quyển một, quyển hai mươi của Thế Thân.

Do giáo, lý, hạnh, quả của Độc giác kia, có một ít đối với giáo Thanh văn, từ nhiều làm tạng, chỉ gọi là tạng Thanh văn, tức y cứ Bán tự, Mãn tự để chia thành hai tạng, nên hàng Độc giác chỉ chứng Sinh không, chỉ dứt trừ nhân chấp, gồm thâu vào

Thanh văn. Lại, vì sơ phát tâm cũng dựa vào tiếng; vì từ tiếng kia nhập, nên cũng gọi là Thanh văn. Như kinh Pháp Hoa, Niết-bàn v.v... nói, nhưng trong Đại thừa và các bộ Tát-bà-đa v.v... đồng nói có ba tạng:

1/ Tố-đát-lãm.

2/ Tỳ-nại-da.

3/ A-tỳ-đạt-ma.

Về nghĩa Tát-bà-đa, như giáo Đại thừa Tỳ-bàsa, như trước đã dẫn. Kinh Phổ Diệu và kinh A-xàthế Vương cũng nói có ba tạng:

1/ Tạng Bồ-tát 2/ Tạng Độc giác 3/ Tạng Thanh văn.

Do căn cơ khác nhau, nên giáo cũng có khác, trước kia, vì hạnh v.v... phần nhiều không khác, nên gồm thâu vào Thanh văn. Nay, y cứ vào căn cơ, quả, hạnh, vì có một ít khác, nên chia riêng. Hoặc nói bốn tạng, như Luật Tăng-kỳ, kinh Phân Biệt Công Đức, đồng với Đại chúng bộ. Ngoài ba tạng Tố-đát-lãm v.v..., có lập riêng Tạp tạng, nghĩa là chỉ giải thích định danh Tố-đát-lãm. Nếu chỉ giải thích giới, thì gọi là Tỳ-nại-da. Nếu chỉ giải thích tuệ, thì gọi là Đối pháp. Nếu hợp hai giải thích, hoặc hợp ba giải thích, thì gọi là Tạp Tạng.

Trong kinh Phân Biệt Công Đức, có giải thích rộng bốn thứ khác nhau: Tập Tạng Truyện chép: "1/ Kinh; 2/ Luật; 3/ Pháp đại; 4/ Tạp tạng Cachiên-diên soạn xong, đem trình lên Phật, Phật nói: "Vì pháp trên, nên gọi là pháp đại, trong đó, phá tan sự si mê, lợi ích thế gian. Vì các kinh này nói, nên gọi là pháp đại.

Như thế, lại có hai. Lại nữa, giải thích không thể phiền dẫn. Phật nói duyên đời trước, La-hán cũng nói. Vì Thiên ma, ngoại đạo, nên gọi là Tạp tạng, trong đó, nhiều kệ tụng hỏi về mười hai duyên. Tạng này đều khác với nhập, đây gọi là Tạp tạng. Nay quán sát truyện này, ý giải thích đầu tiên, chỉ cho Phật, Thế Tôn, tự nói duyên đời trước, gọi là Tố-đát-lãm. La-hán cũng nói gọi là Tạp tạng.

Ý giải thích thứ hai, nếu chỉ giải thích nhất định, thì gọi là Tố-đát-lãm, gồm giải thích tuệ v.v... gọi là Tạp tạng. Hỏi mười hai duyên, vì mười hai duyên này đều khác, vì giải thích ở tuệ, nên nay, giải thích đầu tiên này tức tương đương với thứ hai của truyện kia. Lại nữa, trong Độc Tử bộ cũng nói bốn tạng:

1/ Kinh 2/ Luật

3/ Đối pháp 4/ Minh chú.

Vì tập hợp các chú trong tạng này, nên năm thứ pháp tạng vô vi không thể nói v.v... của ba đối kia. Đối tượng giải thích của thuyết kia, chẳng phải chủ thể giải thích này.

Trong Pháp Tạng bộ nói có năm tạng, tức trong bốn tạng này, thêm tạng Bồ-tát, nói về sự bổn hạnh của các Bồ-tát.

Trong luận Thành Thật nói có năm tạng. Nói ba tạng xong, lại nói Tạp tạng và Bồ-tát tạng. Nhưng trong Đại thừa cũng nói sáu tạng. Du-già, Hiển Dương, Đối pháp, Nhiếp luận, của Thiên Thân giải thích rằng: "Bồ-tát, Thanh văn mỗi thứ đều có ba tạng". Kinh Pháp Hoa chép: "Không được gần gũi ba tạng của Tiểu thừa, nên biết Đại thừa cũng có ba tạng, cho nên chia thành sáu, Độc giác giáo ít. Lại nữa, không có giới, luật v.v... riêng, nên không có ba tạng có thể chia thành chín, về nghĩa có thể có bảy. Tiểu thừa nói bốn, vì Đại thừa nói ba, nên nghĩa thành bảy; nhưng không có văn riêng.

Lại, kinh Thai Tạng và Đại chúng bộ, lại nói tám tạng: Vì Bồ-tát, Thanh văn, mỗi tạng đều có bốn. Hoặc có thể nói chín."

Kinh Phổ Diệu v.v... nói có ba, vì mỗi tạng này đều thành ba, nên về nghĩa lập chín, hoặc tám muôn bốn ngàn pháp tạng.

Sự thêm bớt như thế lược có bảy thứ khác nhau, là hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám. Nếu nói riêng, thì sẽ có tám mươi bốn ngàn, do đây nói rộng, có tám câu-chi, bốn mươi lạc-xoa, như tông luận sớ, đủ phân biệt rộng, tóm lại là danh số thêm bớt thứ hai.

THỨ BA, GIẢI THÍCH VỀ PHẾ, LẬP:

Thuyết khác của Tiểu thừa chẳng phải thuyết mà tông đã nói, vì trong Đại thừa chỉ lập hai tạng, hai thứ, ba tạng, và sáu tạng, tám mươi bốn ngàn v.v... Bồ-tát Thiên Thân giải thích Nhiếp luận rằng, ba tạng như thế, vì thừa hạ, thừa thượng có khác nhau, nên chia thành hai tạng. Ý này nói rằng: "Chỉ do giáo, lý, hạnh, quả của Độc giác, một ít đối với Thanh văn gồm thâu vào trong thừa hạ, gọi chung là tạng Thanh văn. Lại như căn trong lực, lực thượng, hạ dù có lực trung, nhưng hình tướng thượng hạ chỉ có hai phẩm, hoặc thượng, hoặc hạ, không nói lực trung. Nay, do thượng, hạ một phen đi qua hình tướng, giáo Độc giác sẽ nhập vào tạng Thanh văn. Căn yếu kém, nghiệp nông cạn, đối tượng đã dứt, đối tượng tu, đối tượng chứng, đối tượng lợi ích đều không cùng khắp, vì không rộng lớn, nên chỉ nói hai tạng."

Kinh Phổ Diệu v.v... lập ba tạng: Bồ-tát, Độc giác, Thanh văn tùy thuộc căn cơ khác nhau, vì hạnh, thừa, có khác, để lập ba tạng không thêm bớt. Lại, lập ba tạng: Tố-đát-lãm, v.v... chẳng phải thêm bớt.

Bồ-tát Thiên Thân có bốn cách giải thích: Ba cách giải thích đầu tiên, lại nữa đồng với Đối pháp: Nghĩa thứ nhất là: "Tất cả lỗi lầm, lược làm ba thứ:

1/ Nghi ngờ.

2/ Hành của hai bên.

3/ Tự chấp thủ.

Đầu tiên, không chịu tu; kế là tu điên đảo; sau là giải thích chẳng phải chân. Vì đối trị lỗi lầm kia, như thứ lớp đó, nói có ba tạng. Trong kinh, vì nghĩa mà Bồ-tát kia quyết định nói, nên khiến Thanh văn kia thú nhập.

Trong luật, vì Phật khai cho một trăm, một cụ, nên khiến ở trung hạnh.

Trong luận, vì soi rọi rõ các pháp tướng, nên khiến sinh ra chân trí. Trong đây lý do chưa nhập, đã nhập, tác chứng.

Nghĩa thứ hai, lại y cứ vào đoạn các "hoặc" nghiệp đầu tiên để nói.

Ba thứ lỗi lầm này đều do kiến đạo dứt trừ. Nhân hạnh của hai bên, tức là giới thủ.

Nghĩa thứ ba, lại dựa vào các hoặc nghiệp, gây chướng ngại nhập đạo để nói, nên tất cả phiền não chỉ có hai thứ:

1/ Do dự, nghi là ưu tiên.

2/ Quyết định, kiến thủ đứng đầu.

Nêu hai thứ này, gồm thâu các phiền não, dù cầu nhập đạo, thực hành các diệu hạnh, vướng mắc hai bên khổ, vui, không thể chánh chứng, nghĩa là loại tại gia tiếp nhận bên dục lạc, các bọn ngoại đạo tự bên khổ hạnh, vì dứt trừ hoặc nghiệp này của hiện tại, nên chỉ nói ba tạng.

Thứ tư, lại các phẩm học, chớ vượt quá ba thứ. Nghĩa là giới, định, tuệ, mỗi mỗi tông tăng thượng, vì nói ba học, mỗi học đều khác nhau, nên chỉ có ba tạng, không thêm, không bớt.

Thứ năm, lại vì luật nghi ác, người thường tán loạn, người nặng về phiền não, theo thứ lớp tự lập ba: Tỳ-nại-da, Tố-đát-lãm, A-tỳ-đạt-ma.

Thứ sáu, lại vì nghiệp ác nhiều, ái nhiều, kiến nhiều, nên theo thứ lớp lập ba.

Thứ bảy, lại vì người nặng về giận, nặng về tham và nặng về si, theo tứ lớp lập ba.

Thứ tám, lại vì kẻ sợ cõi ác, sợ cõi Dục, sợ ba cõi, theo thứ lớp lập ba.

Thứ chín, vì được ba việc Đại Bát Niết-bàn, do luận được Bát-nhã; do luật được giải thoát; do kinh được pháp thân.

Thứ mười, vì được hai thân nên lập ba tạng: Do luật được pháp thân, vì tánh giải thoát; do luận được báo thân, vì trí là tự thể; do kinh được hóa thân, vì dựa vào định, phát sinh thần thông.

Sự khác nhau như thế, do ba tạng này không thêm, không bớt, tức do nghĩa này, phân chia thừa thượng, hạ, để thành sáu tạng, lại không có nghĩa riêng. Tám muôn bốn ngàn "hoặc" tùy thuộc đối tượng trị, không thêm, không bớt; Do đây lại trở thành tám trăm muôn ức các pháp tạng, như luận Đối pháp quyển mười một, đã nói. Nhưng Phật thuận theo cơ nghi đã nói không nhất định. Hoặc y cứ ở bỏ tà, về chánh, để nói chỉ có một tạng. Nghĩa là chánh pháp giáo tạng. Đối với môn tạng của nghĩa đối tượng giải thích, chỉ nói một tạng, cái gọi là Tạng chữ.

Hoặc nói hai, cho đến tám mươi bốn ngàn, như kinh Niết-bàn, Đức Phật chỉ nói nhân duyên. Nghĩa là tất cả hữu vi; hoặc cho đến nói mười hai, vì cần nên nghe, tạng này cũng vậy. Đối tượng lập (sở lập) tùy thuộc cơ nghi, nên chẳng thể làm câu hỏi, đây là giải thích về phế, lập thứ ba.

THỨ TƯ LÀ PHÁT RA THỂ:

Loại nghĩa thể tánh của ba tạng chẳng khác, trong phần phân biệt chung như thế, đã làm sáng tỏ bốn thể. Vả lại, như giải thích riêng tướng dụng trong bốn thứ thể của Hộ pháp, đây là tất cả đều do người năng nói pháp, đã thể hiện rõ ràng trong tâm họ, tiếng đường lối giả, thật không biết, dùng danh, câu, văn mà làm thể tánh, tùy thuộc vào đối tượng thích ứng của danh, câu văn của ba tánh, năm pháp uẩn, xứ, giới gồm thâu giáo lý đã dẫn, rộng như trước đã nói.

THỨ NĂM LÀ GIẢI THÍCH VỀ DANH NGHĨA:

Trong đó được chia làm hai: Đầu tiên, là giải thích về tên chung, sau, là giải thích về tên riêng.

Giải thích tên chung: Thiên Thân giải thích rằng: "Vì sao gọi là tạng? Vì chủ thể gồm thâu, có nghĩa là gồm thâu tất cả nghĩa đã biết. Về nghĩa này, ý nói do giáo là chủ thể giải thích, có khả năng gồm thâu tất cả nghĩa đã biết, sao cho chúng không mất, nên đặt tên tên là tạng."

Lại, có chỗ giải thích rằng: "Nghĩa gồm thâu, gìn giữ là nghĩa tạng. Pháp, đối tượng nên biết, đều thuộc về giữ là nghĩa Tạng. Pháp, là đối tượng nên biết, đều thuộc về nghĩa Tạng này, gìn giữ pháp, đối tượng gồm thâu, sao cho chúng không mất, gọi là Tạng. Tạng này là khác không đồng, vì có hai, ba v.v... Hai, ba, sáu v.v... là pháp số của tạng đó.

Trong giải thích về sáu, là kèm số để giải thích. Người xưa giải thích rằng: "Tạng là nghĩa ghi nhận; ngôn giáo của bậc Thánh, có công năng ghi khắc các pháp, gọi là Tạng.

Giải thích về tên riêng, trong hai tạng:

1/ Tạng Bồ-tát.

2/ Tạng Thanh văn.

Nói tạng Bồ-tát, Tiếng Phạm, nên nói là Bồ-đề

Tát-đỏa, vì làm cảnh đối tượng duyên, nên gọi là Bồ-tát. Y cứ vào lời thề rộng lớn để lập tên gọi Bồtát. Ý này nói, có các hành giả phát tâm nguyện lớn, cầu đại Bồ-đề, cứu độ loài hữu tình. Dùng hai thứ này làm cảnh đối tượng duyên (sở duyên), để lập tên gọi Bồ-tát.

Đây là Hữu tài thích, vì dùng hai thứ kia làm cảnh sở duyên, gọi là Bồ-tát.

Hoặc Tương vi thích: Cũng bồ, cũng tát, vì trí, bi khác nhau. Lại nói hoặc tức tâm hành giả kia vì mong cầu Bồ-đề, vì có chí, có năng lực, nên gọi là Bồ-tát. Ý này nói: "Bồ-đề là quả được mong cầu. Tát-đỏa là nghĩa mạnh mẽ, khỏe khoắn. Tâm hành giả vì cầu Vô thượng Chánh đẳng giác. Có ý chí lớn, có khả năng chịu đựng, đủ đức cao quý này, gọi là Bồ-tát.

Đây là Y chủ thích là Tát-đỏa cầu đại Bồ-đề.

Hoặc Tát-đỏa, Hán dịch là hữu tình, nghĩa là hữu tình cầu Đại Bồ-đề.

Y sĩ thích, như trước đã nói.

Trong giải thích của Du-già, văn dù nhỏ, khác nhưng cũng đồng với cách giải ở đây.

Kinh Thập Nhất Diện nói: "Bồ-đề tức Bát-nhã; Tát-đỏa là phương tiện".

Hai pháp như thế, đem lại lợi ích, yên vui cho tất cả hữu tình; Tát-đỏa của Bồ-đề cũng là Y chủ thích.

Nói Thanh văn, Thanh là âm thanh, tức tất cả âm thanh mà Phật nói pháp. Văn là lắng nghe. Nếu người tu hành nghe Phật nói pháp, tin nhận, tinh tấn mà ra khỏi ba cõi, thì gọi là Thanh văn, nên kinh Pháp Hoa quyển hai, đầu tiên nói: "Nếu có chúng sinh, bên trong có tánh trí, từ Phật Thế Tôn nghe pháp tin nhận, ân cần tinh tấn, muốn mau chóng ra khỏi ba cõi, tự cầu Niết-bàn, thì gọi là

Thanh văn thừa. Đây là y cứ vào đầu tiên nhập vị Thanh văn thừa, phần nhiều vì nương tựa giáo mà nhập đạo. Sau khi chứng quả, chưa hẳn tất cả đều chủ yếu dựa vào âm thanh.

Du-già giải thích: "Thánh giáo của chư Phật, tiếng là đứng đầu.

Từ thầy, bạn được nghe tiếng giáo này, vì lần lượt tu chứng, ra khỏi hẳn thế gian, nên gọi là Thanh văn. Dùng tiếng làm nghe, cũng là Hữu tài thích (giải thích có của). Lại, Thanh văn này chỉ nương tựa ở thừa mình để hiểu, chỉ hạnh lợi mình, để lập danh của mình. Nếu là tánh không nhất định, thì về lý, sẽ không hợp, nên cuối quyển thứ hai kinh Pháp Hoa, chép: "Dùng âm thanh Phật đạo, vì khiến cho tất cả đều nghe, nên gọi Thanh văn tức y cứ vào tâm hồi hướng, trụ vào Phật thừa, thực hành công hạnh lợi tha, nói là vì dùng tiếng sao cho người khác nghe nên gọi là Thanh văn, tức Hữu tài thích. Độc giác ban đầu nhập vị của thừa mình, phần nhiều cũng dựa vào âm thinh của Phật. Lại, vì giáo nhỏ, nên từ nhiều là Tạng. Chẳng phải sự rộng lớn, gọi là Thanh văn, mà là tùy thuộc đối tượng thích ứng của Tây Vực, hòa hợp hai căn cơ này, hai nghĩa pháp sở hữu của sở tri này, đều thuộc về tạng Thanh văn này, tức gọi tạng Thanh văn Bồ-tát. Hai tạng đều cùng là Y sĩ thích.

Trong tên riêng của ba tạng, đầu tiên, trong kinh Phổ Diệu đã nói về ba tạng, hai tên gọi như trước.

Tạng Độc giác: Kinh Pháp Hoa chép: "Nếu có chúng sinh từ Phật, Thế Tôn, nghe pháp, tin nhận, hết lòng tinh tấn, mong cầu trí tuệ tự nhiên, thích ở một mình, khéo vắng lặng, nhận biết sâu sắc nhân duyên các pháp, thì gọi là Bích-chi-phật thừa.

Du-già giải thích rằng: "Thường ưa vắng lặng, không muốn ở lẫn lộn, tu gia hạnh mãn, không có sự dạy bảo của thầy bạn, tự nhiên giác ngộ một mình, thoát hẳn thế gian, nên gọi Độc giác.

Độc chứng (chứng riêng một mình): Giác, gọi là Độc giác, thuộc về y chủ thích. Hoặc quán duyên đối đãi mà ngộ nhập quả Thánh, cũng gọi là Duyên giác, đợi duyên mà giác ngộ, cũng là y chủ thích.

Tạng Độc giác, thuộc về y chủ thích, như ba tạng: Tố-đát-lãm v.v... ở trước.

Luận Thành Thật chép: "Tu-đa-la, nghĩa là ngữ ngôn nói trực tiếp."

Luận Tạp Tâm chép: "Kinh có năm nghĩa: xuất sinh, suối vọt lên, hiển bày dây mực, và kết tràng hoa.

Nay, cách giải thích của Đại thừa, tiếng Phạm là: Tố-đát-lãm, Hán dịch là Khế kinh, nên Du-già quyển hai mươi lăm và Hiển Dương quyển sáu chép: "Thế nào là Tố-đát-lãm? Do hai mươi bốn sự, lược gồm thâu tất cả Khế kinh. Khế, nghĩa là nghĩa khế đương, chí hợp."

Nói Kinh, nghĩa là Thiên Thân biện luận, giải thích rằng: Nghĩa là vì công năng xuyên suốt, nương tựa, vì tướng, vì pháp, vì nghĩa, nên gọi Tốđát-lãm, nghĩa là ở chỗ này, do đây, vì này mà có đối tượng nói, gọi là nương tựa tướng chân đế, tục đế, gọi là tướng. Mười pháp v.v... tốt lành, khéo léo, gọi là Pháp.

Nghĩa: Thuận theo mật ý v.v... để nói các pháp, gọi là nghĩa. Dùng bốn thứ nghĩa để giải thích Tốđát-lãm.

Luận Du-già quyển hai mươi, Hiển Dương quyển hai mươi nói: Nghĩa là Phật, Thế Tôn, ở phương kia, đã vì hữu tình kia, y cứ vào các hạnh khác nhau đã hóa độ hữu tình kia, mà giảng nói vô lượng ngữ tương ưng với uẩn, cho đến nói rộng.

Kiết tập pháp: Gồm thâu nhóm Thánh ngữ, vì pháp trụ lâu, dùng lời nói tinh đẹp, thứ lớp kiết tập, xuyên suốt chấp vá vụn vặt nghĩa lợi hay dẫn; năng thực hành phạm hạnh, nghĩa tốt đẹp, khéo léo, đó gọi là Khế kinh.

Từ trước đến nay, mặc dù dùng nghĩa xuyên suốt để giải thích Khế kinh, dùng nghĩa xuyên suốt của giáo, dùng giáo gồm thâu sự sinh, gọi là Kinh, cũng như sợi chỉ xỏ hoa, như kinh gìn giữ hàng ngang. Tây Vực gọi dây múc nước, chỉ sợi vá áo, dệt chiếu, Kinh, Thánh giáo v.v... đều gọi là Tốđát-lãm. Chúng sinh do giáo gồm thâu, không phân tán, truyền đi cõi ác. Về nghĩa lý, do giáo xuyên suốt, không tan mất, ẩn một, cho nên Thánh giáo, gọi là Khế kinh.

Luật Tứ Phần chép: "Như những đóa hoa để rải rác trên bàn, gió thổi rơi rớt, rời rạc, vì không có xỏ chỉ.

Trước mười hai năm, có khả năng thọ lược giáo, căn tánh như chiếc bàn. Do các thứ kiến chấp khác lạ của xuất gia, tại gia, đã khiến cho chánh pháp tiêu diệt một cách nhanh chóng, như gió. Tất cả nghĩa kinh, gọi là hoa, nếu có kinh giáo xuyên suốt chánh lý con người không có dị kiến, tất nhiên pháp sẽ không diệt, nên luận Phật địa quyển một chép: "Vì công năng quán xuyến, gồm thâu, nên gọi là Kinh. Do Thánh giáo của Phật xuyên suốt, gồm thâu, gìn giữ nghĩa đã nói và chúng sinh đã hóa độ, gọi là Kinh; kinh của Khế lý, gọi là Khế kinh; thuộc về y chủ thích.

Nếu chỉ gọi Kinh, thì đó chẳng phải là cách giải thích này. Tuy nhiên, thể của Tố-đát-lãm tức là Tạng, gọi là tạng Tố-đát-lãm là Trì nghiệp thích, do Kinh và Tạng đều thuộc về Giáo.

Tỳ-nại-da, Hán dịch là Điều phục, quyển 85 chép: "Bốn thứ hữu tình thường tu tập tà giải thoát, do kiết nhóm hợp thành cõi. Đức Phật dùng các thứ trí lực thắng giải và trí lực của cõi, nhằm tìm cầu thắng giải sở hữu trước kia và cõi sau kia, như đối tượng thích ứng của thắng giải, vì điều phục, nên phần nhiều vì chuyển vận bốn thứ giáo pháp, gọi là Tỳ-nại-da, nên Tỳ-nại-da gọi là Điều phục."

Thiên Thân giải thích: "Vì phạm tội, vì đẳng khởi, vì tịnh trở lại, vì xuất ly, nên gọi là Tỳ-nạida, nói rộng như Nhiếp luận quyển một kia.

Điều, nghĩa là điều hòa chế ngự; Phục, nghĩa là chế diệt. Điều hòa, không chế nghiệp thân, ngữ v.v... chế phục, diệt trừ các hành vi ác, vừa điều ngự vừa chế phục, là Trì nghiệp thích.

Đây là tên hạnh, Tạng điều phục, gọi là tạng Tỳ-nại-da. Vì tạng là giáo, nên cũng là y chủ thích.

A-tỳ-đạt-ma, Đạt-ma là pháp. Bốn nghĩa A-tỳ, Hán dịch là Đối pháp, cũng gọi là Đối pháp, phục pháp, thông pháp.

Thiên Thân giải thích: "Nói nghĩa đối: Pháp này đối với hướng, không trụ Niết-bàn, vì năng nói các diệu hạnh, phần Bồ-đề v.v... của các đế.

Nếu y cứ vào cách giải thích này thì chủ thể đối, gọi là đối; thể tức là giáo, vì năng nói diệu hạnh, hướng về Niết-bàn, nên đối tức là Pháp, gọi là Đối pháp. Đối pháp tức tạng, gọi là Đối pháp tạng, đều là Trì nghiệp thích. Cũng gọi là số pháp, đối với mỗi pháp, thường thường giảng nói tự tướng v.v... của lời lẽ dạy bảo, giải thích. Đây là dùng lý làm pháp, lấy giáo làm số, vì số của pháp, nên gọi là pháp số, là Y chủ thích. Pháp số tức tên tạng, tạng pháp số, là Trì nghiệp thích, cũng gọi là Pháp phục.

Do đây, ở chỗ luận Cụ túc, vì có khả năng chế phục vượt hơn luận tà dị của người khác, nên thể của chế phục là lý. Pháp giải thích chế phục, gọi là phục pháp, tức Y chủ thích. Hoặc giáo pháp tức chế phục. Do pháp giáo này đủ luận về xứ v.v... vì công năng chế phục vượt hơn luận tà dị của người khác, tức Trì nghiệp thích.

Pháp chế phục tức Tạng, cũng là Trì nghiệp thích, cũng gọi thông pháp. Chủ thể giải thích này vì suốt qua nghĩa của Khế kinh, nên nghĩa kinh gọi là pháp. Vì pháp này năng suốt qua nghĩa Khế kinh kia, nên gọi là Pháp thông; vì thông của pháp, nên thuộc về Y chủ thích.

Pháp thông tức là Tạng, cũng là trì nghiệp thích. lại có giải thích riêng, như sớ của đối pháp:

Kinh Phân Biệt Công Đức chép: "Có hai cách giải thích:

1/ Gọi là pháp không có so sánh.

2/ Gọi là pháp Đại."

Trong kiết tập truyện, cũng gọi là pháp đại.

Vô Tánh giải thích: "Vì nhân Trạch pháp; hoặc vì liễu đạt chung; Tạp tâm có hai cách giải thích; hai mươi bốn, mười hai đại luận sư của Tỳ-bà-sa quyển một.

Lại nữa, giải thích luận Thuận chánh lý rằng: "Hoặc các Khế kinh gọi là Đạt-ma, luận có khen ngợi quyết đoán rõ ràng, gọi là Đối pháp, dùng giáo đối giáo."

Câu-xá có hai cách giải thích: Hoặc giáo, lý, hạnh, quả, đều gọi là Đối pháp. Tùy thuộc đối tượng thích ứng của Đối pháp, mà giải thích danh nghĩa. Hợp bốn mươi mốt cách giải, như Đối pháp giải thích, không thể trình bày lại.

Tạng này cũng gọi là Ổ-ba-đề-thược, tức cổ Ưu-bà-đề-xá, Hán dịch là Luận nghị, cũng gọi là Ma-đát-lý-ca, tức xưa gọi là Tạng Ma-đức-lặc-già, Hán dịch là Bổn mẫu, quyển 81 v.v... chép: "Tức Ổ-ba-đề-thược này, cũng gọi Ma-đát-lý-ca, cũng gọi A-tỳ-đạt-ma, quyển 85 chép: "Vì muốn quyết định, lựa chọn đối tượng khen ngợi đẹp mà Như Lai đã nói.

Khế kinh của tiên Thánh ví như không có chữ nghĩa của Bổn mẫu, không sáng suốt rõ ràng.

Bổn mẫu như thế không thuộc về kinh. Nghĩa của Bổn mẫu đó, là nghĩa ẩn, mờ tối, không sáng suốt, rõ ràng, nghĩa mâu thuẫn với đây tức sáng suốt, rõ ràng.

Cho nên, nói gọi là Ma-đát-lý-ca, Ma-đát-lý-ca thuộc về nghĩa Tạng này, nghĩa là giáo. Tạng của Bổn mẫu cũng Y chủ thích. Nếu giáo của luận này làm mẹ của nghĩa kia, thì gọi là Bổn mẫu. Bổn mẫu tức là Tạng, tức Trì nghiệp thích. Danh nghĩa của sáu tạng vì chẳng khác với hai, ba nên chẳng giải thích riêng."

Từ trước đến nay, đã giải thích, vả lại, tùy thuộc một nghĩa, các người có trí, mặc tình lấy, bỏ, hợp là môn sinh nghĩa giải thích thứ năm.

THỨ SÁU LÀ GIẢI THÍCH SỰ KHÁC NHAU:

Biện minh hai tạng riêng và ba tạng riêng của Độc giác v.v... Như trong giải thích danh, dù lược đã giải thích. Ở trong chương thừa, cũng riêng chỉ bày rõ.

Ba tạng riêng Tố-đát-lãm v.v...: Từ một pháp tánh, đại định, chánh tri, vì đại bi hậu đắc đã lưu xuất, nên đều không khác nhau. Nhưng vì đối tượng giải thích nghĩa lý, đều khác, nên thành ra sai biệt. Lại, do giải thích ba học gọi là Tố-đát-lãm, nên Tỳ-nại-da, A-tỳ-đạt-ma đều tức Tố-đát-lãm. Đã giải thích giới, định gọi là Tỳ-nại-da, nên đối với điều phục, cũng có Khế kinh, mà không có Đối pháp, vì trong Đối pháp đã giải thích ở tuệ, nên có Khế kinh, chỉ không có điều phục.

Như thế, nên nói Khế kinh đủ cả ba. Điều phục Đối pháp chỉ đều có hai, nhưng luận Đối pháp quyển mười một chép: "Trừ" "hoặc" phiền não nghi là Tố-đát-lãm, trừ hành hai bên là Tỳ-nại-da; trừ kiến thủ của mình, là A-tỳ-đạt-ma.

Lại nữa, chỉ bày ba học, gọi là Tố-đát-lãm; chỉ bày giới, định, gọi là Tỳ-nại-da; chỉ bày tuệ học là A-tỳ-đạt-ma.

Đây là y cứ ở bộ riêng để nói nghĩa khác của ba tạng, tức có thể khác; nếu y cứ vào đối tượng giải thích để nói, thì là khác nhau. Do Tố-đát-lãm có đủ hai học còn lại. Điều phục, Đối pháp đều có hai thứ nghĩa khác nhau, giống như trước đã nói. Nếu y cứ vào đối tượng giải thích tăng thượng làm khác, thì về nghĩa sẽ có khác.

Lại nữa, mở rộng văn nghĩa của chánh pháp; nghĩa dễ hiểu rõ là Tố-đát-lãm. Vì làm sáng tỏ nghĩa pháp, nhằm tạo ta chỗ đầy đủ, gọi là Tỳ-nạida. Vì khiến người trí thọ dụng pháp lạc, là nghĩa Đối pháp.

Thiên Thân giải thích rằng: "Lược có chín duyên, lập ra ba tạng.

Lại nữa, ba tạng này đều có ba nghĩa, nên chia thành chín."

Luận Hiển Dương quyển hai mươi chép: "Chư Phật, Thế Tôn chỉ y cứ vào sự gồm thâu, nhằm làm sáng tỏ các pháp là tạng Tố-đát-lãm.

Nói sự gồm thâu. Nghĩa là bốn sự, chín sự, hai mươi chín sự. Vì các Thanh văn và các Bồ-tát, nói biệt giải thoát và pháp tương ưng của biệt giải thoát, gọi là tạng Tỳ-nại-da.

Có bảy thứ tướng, lược gồm thâu các biệt giải thoát của Bồ-tát. nghĩa là đầu tiên, vâng giữ phép tắc, nói rộng cho đến sự xả luật nghi thứ bảy. Dùng mười một tướng biểu thị rõ, phân biệt chỉ bày các pháp, là tạng Ma-đát-lý-ca.

Quyển 85 nói: "Giải thích hai mươi bốn xứ, gọi là Tố-đát-lãm v.v... rộng như thuyết kia đã nói, không cần trích dẫn dài dòng.

Trong Tỳ-bà-sa, có thuyết nói chẳng có riêng. Từ một biển trí, thuận theo một ao giác vì đã tuôn chảy ra, nên tiếp nhận thuộc về mười lực, vô úy; đồng một đại bi vì đẳng khởi.

Có thuyết nói: "Có riêng, trong đó có tám. Lại nữa, không đồng, cũng rộng như kia". Giải thích về sáu tạng riêng, do Nhị thừa sáu, đối tượng giải thích đều riêng. Tùy thuộc đối tượng thích ứng của sáu tạng, đều nên so sánh mà biết, đây gọi là giải thích khác nhau thứ sáu.

THỨ BẢY LÀ TRÌNH BÀY PHẬT TỰ NÓI LOẠI BỘ CHUNG, RIÊNG:

Trong hai tạng, nói một cách tổng quát, hoặc có loại bộ riêng; hoặc không có loại bộ riêng. Vì sao? Vì trong một hội, chỉ khắp Thanh văn, không khắp Bồ-tát, như A-hàm v.v..., đây gọi là tạng Thanh văn của bộ riêng.

Trong một hội kia chỉ trùm khắp Bồ-tát, không trùm khắp Thanh văn, như Thập địa v.v... đây gọi là tạng Bồ-tát của bộ riêng.

Nếu trong một hội đều cùng trùm khắp hai căn cơ thì giáo lợi ích hai thứ, gọi là không có bộ riêng, như nói thâm mật, chúng sinh ba thừa đều có vô biên vì nhập thừa mình. Phật vì thắng nghĩa sinh, khi Bồ-tát nói pháp ba vô tánh, sáu trăm ngàn chúng sinh phát tâm Bồ-đề; ba trăm ngàn Thanh văn xa lìa trần cấu, được mắt pháp thanh tịnh. Một trăm Thanh văn, dứt hết hẳn các lậu, tâm được giải thoát, bảy trăm mười lăm ngàn Bồ-tát được pháp nhẫn Vô sinh, nên biết được hai tạng vừa có bộ riêng, vừa không có bộ riêng. Đây là nói loại bộ chung, riêng của hai tạng.

Ba chung riêng Tố-đát-lãm v.v... Sư Kinh Bộ nói: "Khế kinh điều phục có loại bộ riêng. A-tỳđạt-ma không nói có bộ riêng."

Sư Tát-bà-đa có hai sư nói. Có sư nói: "Đức Thế Tôn cũng có nói bộ riêng: Đối pháp tạng, tức phát trí. Vì gọi gồm thâu quy bộ riêng kia, nên nói là Ca-đa-diễn Ni tử soạn."

Có thuyết nói: "Đức Thế Tôn không có loại bộ riêng, gọi là Đối pháp tạng."

- "Chẳng lẽ Phật tự tạo chương, tụng, phẩm...?"

- "Nếu theo cách giải thích này, ấy là với thuyết mà kinh bộ đã nói, sẽ không khác, đã sư chánh lý rộng vì đấu tranh, nên nói Phật, Thế Tôn nói riêng Đối pháp. Do nghĩa lý này, nên Tỳ-bà-sa có hai cách giải".

Nay, trong Đại thừa cũng có hai thuyết: Tây Vực tương truyền nghĩa kia như thế này:

Một sư nói rằng: "Đức Thế Tôn cũng có nói loại bộ riêng: Kinh Hoa Nghiêm, Bát-nhã như thế v.v... là tạng Tố-đát-lãm; các kinh A-tỳ-đạt-ma, Thâm Mật v.v... là tạng A-tỳ-đạt-ma.

Tỳ-nại-da: Kinh Cổ-sa là tạng Tỳ-nại-da. Tạng này, là bổn phạm, tức hiện nay ở chùa Thí Vô Yểm cũng còn có phần ít, phần lớn đều đã mất.

Người thời xưa truyền rằng: "Kinh Thanh Tịnh Tỳ-ni là tạng Tỳ-ni."

Sư thứ hai nói: "Tùy thuộc ở đối tượng giải thích, được chia làm ba tạng, không có loại bộ riêng. Kinh Giải Thâm Mật phần nhiều giải thích tuệ học. Kinh Văn-thù Vấn v.v... phần nhiều giải thích về giới học. Kinh Thủ-lăng-nghiêm phần nhiều giải thích về định học. Tùy thuộc nhiều đối tượng giải thích để chia ra ba tạng, như kinh Niếtbàn, bắt đầu từ: "Như vầy" sau cùng đến "vâng làm", đều là Tu-đa-la".

Trong kinh A-tỳ-đạt-ma đầy đủ cũng có thuyết ngay thẳng, không ngay thẳng, nên kinh kia chắc chắn không phải là Đối pháp riêng, nên tùy thuộc nhiều phần để lập tạng.

Ba học phần nhiều đều chỉ cho Tố-đát-lãm. Giới, định nhiều, chỉ cho Tỳ-nại-da, duy tuệ nhiều, thuộc về tạng Đối pháp.

Đây là y cứ vào lời Phật nói. Nếu là đệ tử nói, thì cũng sẽ có bộ riêng, chỉ cho tạng Đối pháp.

Kinh Phổ Diệu, kinh Vị Sinh Oán, v.v… nói về ba tạng, chỉ tạng Độc giác, không có loại bộ riêng, vì giáo tiểu, nên hợp với thuyết Thanh văn, chỉ có hai thuyết khác, do y cứ căn cơ, hạnh, quả và đối tượng giải thích, vì có chút khác nhau, nên chia làm ba tạng, chắc chắn không có bộ riêng. Trong sáu tạng kia, y cứ vào thuyết trước đã nói.

Sư đầu tiên đã thừa nhận Đại thừa có riêng. Tỳnại-da, Kinh Cù-sa là tạng Tỳ-nại-da.

Bộ riêng nói có sáu tạng khác nhau, điều này cũng không có lỗi.

Ý của sư thứ hai, không thừa nhận bộ riêng, chỉ thuộc về đối tượng giải thích. Nếu thầy trò cùng biện luận, thì thuyết của loại bộ riêng, cũng có thể có sáu; nếu chỉ Phật nói thì không có riêng sáu. Tùy thuộc vào đối tượng thích ứng của giải thích, có riêng nhiều ít, tùy thuộc ở giải thích thành sáu. Đây, tức thứ bảy, bày ra Phật tự thuyết loại bộ chung, riêng.

THỨ TÁM, THẦY TRÒ KIẾN LẬP:

-"Các giáo tạng này có bao nhiêu chỉ cho Phật nói? Bao nhiêu chung cho đệ tử, như giải thích trong luận Du-già quyển 81, kinh Luận Nghị chép: "Kinh Luận Nghị, nghĩa là các kinh, điển, theo thứ lớp xoay vần, nghiên cứu miệt mài Đát-lý-ca, tất cả kinh liễu nghĩa, đều gọi là Ma-đát-lý-ca, nghĩa là ở xứ này, Đức Thế Tôn tự phân biệt rộng thể tướng các pháp. Lại, ở xứ này, các đệ tử Thánh đã kiến dấu vết đế. Y cứ vào đối tượng chứng của mình, không có phân biệt điên đảo thể tướng các pháp. Đây cũng gọi là Ma-đát-lý-ca, cũng gọi Atỳ-đạt-ma."

Vì văn này, nên truyền thọ giải thích rằng: "Thừa nhận sau Phật diệt độ, một phần luận nghị trong mười hai phần; một tạng Đối pháp trong ba tạng, cho phép đệ tử nói, không thừa nhận mười một phần giáo khác và hai tạng khác chung cho đệ tử nói. Vì sao? Vì chỉ có Đối pháp này và giáo Luận Nghị, về nghĩa lý mà đệ tử đã soạn, không khác với ý Phật. Nếu là Ưng tụng... tất nhiên khác với Phật nói, vì sửa đổi bổn tụng của Phật, nên hợp với căn cơ, nói là kinh, đối với phạm mà thuyết giới. Chẳng phải Phật tự nói, những thứ khác không tin, nên do đây giả thiết sau Phật diệt độ, có các đệ tử soạn ra kệ, tụng... Nếu gọi Luận Nghị và gọi Đối pháp, thì như giải thích duyên khởi, vẫn gọi là Đối pháp tạng. Và gọi kinh Luận Nghị, do tìm tòi tích cực các diệu lý, nên ý muốn giải thích, biện minh các pháp tướng. Nếu đệ tử soạn không thuộc về Tạng giáo. Tạng giáo ấy gồm thâu Thánh giáo không tận, nên sau Phật diệt độ, đệ tử soạn đều thuộc về Luận Nghị, Đối pháp. Nếu lúc Phật ở đời, thì đối trước Phật nói, Phật đã thừa nhận có thể nói mười hai phần giáo ở ba tạng, tất cả không ngăn chận như trong các kinh, nghĩa này chẳng phải một. Do nghĩa như thế, nên sau Phật diệt độ, hai tạng: Thanh văn, Bồ-tát đều chung cho đệ tử đã soạn."

Ba tạng đã nói trong kinh Phổ Diệu đều chung cho đệ tử đã nói. Trong ba tạng, chỉ có tạng Đối pháp chung cho đệ tử nói. Hai tạng Đối pháp trong sáu tạng, cũng do đệ tử nói. Nếu Đức Phật tự nói và các đệ tử v.v... đối trước Phật, nói hai, ba, sáu tất cả không ngăn chận. Nhưng trong kinh này, lại biện luận đệ tử kiến đế, nói nêu lên sự vượt hơn của đế, nhằm chỉ rõ lìa các lỗi, vì có đối tượng chứng. Nếu thật sự mà biện luận, thì cho phép chung người chưa thấy Thánh đế, soạn thì cũng thuộc về tạng Đối pháp kia.

THỨ CHÍN, THỨ LỚP PHÂN BIỆT:

Tra xét các chỗ, nói thứ lớp này, lược có hai thứ:

1/ Theo thứ lớp cạn sâu, Nhiếp luận của Thiên Thân nói tạng Thanh văn là đầu, tạng Bồ-tát là sau. 2/ Chỗ khác cũng nói thứ lớp hơn, kém, vì tạng Bồ-tát là đầu, tạng Thanh văn là sau. So sánh nói về thứ lớp của ba tạng Độc giác v.v... của ba thừa cũng vậy.

Lại nữa, có ba thứ thứ lớp trước, sau:

1/ Thứ lớp về chủng: Đầu tiên, là Tố-đát-lãm; kế là, Tỳ-nại-da; sau, là tạng Đối pháp.

Ở đây có năm nghĩa tạo ra thứ lớp này:

1. Y cứ thuyết minh trình tự, kinh Phổ Diệu chép: "Phật thành đạo xong, ngày thứ sáu, thứ bảy, ở vườn nai của vị tiên nước Ba-la-nại, vì Trần-như v.v... nói pháp bốn đế, tức Tố-đát-lãm. Kế là, ở nước Xá-vệ, nhân con của Ca-lan-đà, ngăn cấm phi phạm hạnh.

Kế là nói về Tỳ-nại-da, sau, ở bờ ao di hầu tỳtà-ly, nhóm họp khắp tại giảng đường.

Phật nhận thấy nhân duyên bổn, mạt của Tỳ-kheo kỳ cựu Bạt-cừ, nói xa lìa năm sự sợ hãi, về sau, nói Đối pháp.

2. Thứ lớp kiết tập: Đầu tiên, Đại Ca-diếp ra lịnh cho A-nan kiết tập Tố-đát-lãm. Kế là, ra lịnh cho Ba-ly kiết tập Tỳ-nại-da. Sau, Đại Ca-diếp tự kiết tập Đối pháp. Nhưng kinh Phổ Diệu lại nói sau A-nan, kiết tập Đối pháp kia.

Chân Đế nói: "Mãn Từ Tử kiết tập Đối pháp".

3. Thứ lớp hóa độ. (Đối tượng hóa độ)

Vì người đầu tiên nhập pháp, nói về Tố-đátlãm; vì người đã nhập pháp, nói Tỳ-nại-da. Vì người có đoạn, chứng, nói về tạng Đối pháp.

4. Thứ lớp gốc ngọn: Khế kinh là gốc, giới từ gốc này sinh, tuệ mới được khởi.

5. Thứ lớp rộng hẹp: Khế kinh giải thích sinh ba học, điều phục giải thích sinh hai học. Đối pháp chỉ giải thích tuệ, nên kinh là đầu, Đối pháp là sau.

2/ Thứ lớp thứ hai: Dựa vào sự tu hành mà nói, thí giới thô dễ tu; tiếp theo, là định; sau, là tuệ rất khó có thể thành. Tu hành từ cạn đến sâu, vì pháp nhĩ, nên đầu tiên là Tỳ-nại-da; kế là Tố-đát-lãm; sau là A-tỳ-đạt-ma.

3/ Thứ lớp thứ ba: Nói theo sự hơn, kém thì Đối pháp giải thích sinh tuệ, căn bản của chủng trí. Định làm lóng sạch tâm sinh tuệ, giúp cho chứng pháp. Trì giới, lìa bỏ các việc ác, vì điều phục thân, ngữ, ý, nên đầu tiên là Đối pháp, tiếp theo, là Tốđát-lãm; sau là Tỳ-nại-da.

Lại, không theo thứ lớp, vì thuận theo cơ nghi mà nói. Tuy nhiên, các kinh điển phần nhiều y cứ vào thứ lớp thứ nhất, để giải thích về ba tạng.

Thứ lớp sáu tạng, so sánh nghĩa nên biết.

THỨ MƯỜI LÀ GIẢI THÍCH THÔNG SUỐT NGHI NGỜ, VẤN NẠN:

Duyên khởi, kiết tập thứ nhất, dù văn có trái, nhưng vì các bộ khác nhau, nên chưa thể làm câu hỏi.

Trong thêm bớt danh số thứ hai.

Hỏi: "Đã không có tạp tạng riêng trong Đại thừa, vì sao kinh Phân Biệt Công Đức lại nói có

Tạp tạng?"

-"Luận Du-già v.v... nói: "Như Tạp sự".

Đáp: "Kinh Phân Biệt Công Đức là nghĩa Đại Chúng bộ, chẳng được tông ta thừa nhận. Dù cho đồng với Du-già nói có Tạp sự, như Pháp Uẩn Túc Luận, Tát-bà-đa bộ nói có phẩm Tạp Sự.

Gốc là văn kinh, thuận theo đối tượng của kinh kia, tức thuộc về tạng kia; chỉ giải thích hành tạp nhạp, tức Tỳ-nại-da; chỉ giải thích sự tạp nhạp, tức Tố-đát-lãm; chỉ giải thích về lý tạp nhạp, tức tạng Đối pháp.

Nếu cả ba đều có tạp nhạp, tức Tố-đát-lãm. Nếu hành sự tạp nhạp, tức Tỳ-nại-da và Tố-đát-lãm. Nếu thực hành lý tạp nhạp, tức chung cho điều phục và thuộc về Đối pháp.

Nếu sự, lý tạp nhạp, tức chung cho Khế kinh và thuộc về Đối pháp. Nhưng chẳng phải Đại thừa lập riêng Tạp tạng, mà đây là y cứ vào đối tượng giải thích để chia làm ba tạng. Nếu trong bộ khác, thì sẽ từ nhiều gồm thâu, thuộc về đối tượng gồm thâu của Tạng kia.

Tám tạng của Kinh Thai Tạng, cũng như Đại chúng bộ, chẳng phải nghĩa của Đại thừa.

Trong giải thích về phế, lập thứ ba;

Hỏi: "Y cứ vào động cơ, vận chuyển, kế là thừa, tức là lập Nhất thừa, hay năm thừa?"

Đáp: "Cũng thừa nhận y cứ vào căn cơ gồm thâu, giữ gìn làm Tạng, thừa nhận lập một tạng, năm tạng. Mặc dù không có văn nói, nhưng về nghĩa thì có thể như vậy. Thừa, tạng đều thừa nhận y cứ vào căn cơ. Về lý, có một tạng, năm tạng."

Kinh Thắng-man chép: "Tỳ-ni: tức học Đại thừa, đã gồm thâu giáo tiểu gọi là học Đại, nên đồng với thừa, chỉ lập một tạng; cũng nên nói là trong cõi Phật mười phương, chỉ có một pháp tạng, không có thứ hai, thứ ba, trừ Phật phương tiện nói, do đây, so sánh mà biết, về nghĩa nên lập một, năm. Y cứ vào căn cơ để giải thích về tạng, thì vì các giáo tiểu, nên lược không lập một tạng; năm tạng, về lý, nên có. Lại, thừa, y cứ vào căn cơ, hạnh; tạng thì y cứ vào môn giáo, ý thú có khác, không thể một so sánh như mười cõi, mười tế, số tương trị bằng nhau. Bốn luân, tám nạn, số ấy không bằng nhau, nên thừa có một, năm, mà giáo không lập.

Trong môn thứ tư, phát ra tất cả trở ngại, vặn hỏi của thể tánh kia.

Trong phần phân biệt chung như thế, trước đã trình bày lại đầy đủ.

Giải thích thứ năm trong tên gọi chung, riêng." Hỏi: "Vì sao trong hai tạng, Tiểu thừa y cứ vào con người để lập tạng, gọi là tạng Thanh văn, không gọi là tạng Độc giác? Đại thừa dựa vào con người để lập Tạng, gọi là tạng Bồ-tát, mà không gọi là Tạng Như Lai?"

Đáp: "Tiểu giáo của Độc giác đối với Thanh văn. Lại, vì mới nhập pháp, nên cũng dựa vào thanh giáo, nên tạng Tiểu thừa dựa vào con người mà đặt tên, gọi là tạng Thanh văn, không gọi là tạng Độc giác. Nếu gọi là tạng Như Lai, thì danh tự, hạnh nguyện sẽ không rộng. Vì muốn biểu thị rõ hạnh danh tự nguyện sâu rộng nên chỉ gọi là tạng Bồ-tát, không gọi Tạng Như Lai. Lại, về đức hạnh của Bồ-tát, đời có thể dễ thành, còn đức hạnh của Như Lai, đời khó có thể thành. Vì muốn khuyên hữu tình, sao cho nương tựa giáo này, dễ có thể thành lập, nên chỉ gọi là tạng Bồ-tát, không gọi là tạng Như Lai.

Lại, Thanh văn trong Tiểu thừa là nhân, Độc giác là quả, vì từ nhỏ đặt tên, nên chẳng phải gọi là tạng Độc giác. Trong Đại thừa, Bồ-tát là nhân, Như Lai là quả, vì từ tiểu mà gọi, chẳng gọi là tạng Như Lai."

Hỏi: "Vì sao tạng Bồ-tát dùng thệ nguyện đã mong cầu mà đặt tên, không lấy duyên cảnh làm hiệu, mà gọi là tạng Vô sư; tạng Thanh văn kia dùng duyên cảnh gọi tên, không dùng thệ nguyện đã mong cầu làm danh, mà gọi là tạng Bồ-tát Tátđỏa?"

Đáp: "Nói về đặt tên, lại y cứ vào một đức, Bồtát nguyện cầu đều có lợi ích rộng, lớn. Vì muốn biểu thị rõ bi trí rộng sâu, nên chỉ gọi là tạng Bồtát, không gọi là tạng Vô sư; Thanh văn do dựa vào duyên thành, không gọi là tạng Vô sư; Thanh văn do dựa vào duyên thành đức là trội hơn, vì lời nguyện cầu đều cạn cợt, nên từ duyên cảnh mà được tên gọi, không gọi là tạng Bồ-đề Tát-đỏa. Do đây, Độc giác cũng y theo duyên mà đặt tên, không dùng thệ nguyện làm hiệu."

Hỏi: "Trong ba tạng, nếu xuyên suốt sinh, thì về lý gọi Tố-đát-lãm, hai tạng còn lại, lẽ ra cũng gọi là Khế kinh, Điều phục, Đối pháp, vì hỏi cũng vậy?"

Đáp: "Y cứ vào sự thật mà giải thích, ba tạng đều có thể gọi Tố-đát-lãm, do nói Tố-đát-lãm là nghĩa xuyên suốt, nhưng vì từ căn bản để được tên, pháp khác không được, như sắc, pháp xứ, pháp khác sẽ không được tên là điều phục. Đối pháp, với nghĩa ấy cũng vậy. Lại, lý xuyên suốt sinh vượt hơn, một được tên mình, chẳng phải pháp khác; điều phục ba nghiệp vượt hơn; một được tên, chẳng phải pháp khác; đối với hướng Niết-bàn vô trụ vượt hơn, một được gọi tên, chẳng phải pháp khác. Khế kinh, điều phục, Đối pháp, như thứ lớp, đều một được mang tên."

Hỏi: "Trong sáu tạng, nếu dùng hạnh, quả, căn cơ, thì về lý, có chút khác nhau; kinh Phổ Diệu v.v... lập Độc giác v.v... làm ba tạng, lẽ ra cũng dùng hạnh tiểu riêng, v.v… để lập riêng chín tạng, vì sao chỉ có sáu?".

Đáp: "Vì có loại bộ khác nhau, nên chỉ có thể chia làm sáu, vì giáo Độc giác không có loại bộ riêng, nên không chia thành chín. Lại, căn cơ, tánh, hoàn toàn khác, có thể chia thành ba tạng; giáo pháp (Tiểu) riêng không chia thành chín."

Trong phần giải thích về sự khác nhau thứ sáu. Hỏi: "Dựa vào tịnh Thi-la, sinh không có ăn năn v.v..., dần dần được định sinh giải thích giới, định đều gọi là Tỳ-nại-da. Y chỉ định, phát tuệ, sinh ra giải thích, định, tuệ, lẽ ra phải đều gọi là Đối pháp?"

Đáp: "Giới, định đều có thứ phước; giải thích sinh, đều điều phục, định, tuệ, phước trí khác nhau, chọn lựa khác, dứt hoặc có khác nhau, thuộc về tạng."

Hỏi: "Loại định, tuệ khác, thuộc về tạng khác; sự khác nhau giữa tán, định, chắc chắn không phải điều phục phải chăng?"

Đáp: "Định, tán dù khác, nhưng đều là phước, không thể dứt "hoặc", đều có điều phục. Vì hai thứ phước, trí khác, chuyên lựa chọn khác, nên việc dứt "hoặc" thuộc về có tạng khác nhau.

Thứ bảy, trình bày Phật tự nói, loại bộ chung, riêng, lược làm phân biệt như thế, như môn mình nói."

Thứ tám thầy trò kiến lập:

Hỏi: "Nếu thừa nhận ba tạng mười hai phần giáo, sau Phật diệt độ, hầu hết các đệ tử đều thuộc phân biệt giảng nói. Như vậy, có lỗi gì không?"

Đáp: "Nếu như vậy, thì sẽ trở thành thầy trò không có pháp sâu, cạn khác nhau: Pháp so sánh, pháp chứng, pháp Thánh, phàm, pháp Nhất thiết trí; pháp Nhất thiết chủng trí, đều không có khác nhau. Lại, thừa nhận người sáng tạo: Vì giáo tạng, ấy là đặc biệt, nên Phật không thừa nhận rằng, sau Phật diệt độ, các đệ tử v.v... đều sáng tạo ba tạng mười hai phần giáo v.v..."

Hỏi: "Như thế, thì các tạng ở ba cõi, năm đường, nơi nào đầy đủ, trùm khắp chúng sinh nào?"

Đáp: "Trong kinh Nhân Vương, nêu ra chúng biến hóa, chúng sinh cõi Vô Sắc. Lại, các tầng trời cõi Vô Sắc; bên Phật, lập nghiêng lệch cho kinh Ahàm, kinh Đà-la-ni, chúng địa ngục dữ dội, nên biết Khế kinh trùm khắp ba cõi, năm đường, thân hóa độ chân thật."

Kinh Lô-xá-na Phật nói mười tám Phạm thiên, các vua quan v.v..., đều có khả năng giải ngộ, vì đều thọ trì giới pháp Bồ-tát, nên biết được điều phục cũng khắp thân của năm đường, hai cõi.

Đây là y cứ vào thân Phật, vì trong cõi Vô Sắc, không có nhĩ thức, vì không nghe giáo, nên biết chỉ khắp thân thật của hữu tình trong hai cõi, năm đường, do oai lực kinh, nên chúng sinh địa ngục vẫn được nghe pháp. Các Đại Bồ-tát giáo hóa trong địa ngục, như mỗi việc thọ giới v.v... nhưng, người được giới, về nghĩa tức khác nhau.

Có giáo này: Cũng chỉ hai cõi, năm địa không có ngăn chận. Vì địa trên, tầm, từ có thể khởi địa dưới, nên phát giáo hóa người khác, về mặt lý, cũng không có lỗi. A-tỳ-đạt-ma có thể suốt qua hai cõi, không thấy văn nào nói thừa nhận suốt qua năm đường, bốn sinh, tức không có ngăn chận. Tuy nhiên, kinh Trung Ấm nói: "Phật đối với trung hữu, giáo hóa chúng sinh cõi Vô Sắc, chẳng phải là tông của Đại thừa. Tông Đại thừa: Đây là giáo hóa chúng sinh, chắc chắn không phải thân chân thật, vì không có nghiệp quả. Nếu không như vậy, thì sẽ trái với thuyết Du-già, v.v...

-----------------------------

CHƯƠNG MƯỜI HAI PHẦN

Thứ sáu, là mười hai phần giáo, lược dùng bảy môn giải thích:

1/ Nêu tên.

2/ Giải thích tướng.

3/ Giải thích tên gọi chung, riêng.

4/ Chung, riêng.

5/ Bỏ, lập.

6/ Thuộc về các tạng.

7/ Hỏi, đáp phân biệt.

-Thứ nhất, là nêu tên:

1) Khế kinh.

2) Ứng tụng.

3) Ký biệt.

4) Phúng tụng.

5) Tự thuyết.

6) Duyên khởi.

7) Thí dụ.

8) Bổn sự.

9) Bổn sanh.

10) Phương quảng.

11) Hy pháp.

12) Luận nghị.

-Thứ hai, trong phần giải thích tướng:

Về tướng Khế kinh; Đối pháp quyển mười một nói: "Nghĩa là dùng văn xuôi chấp vá, lược nói nghĩa đáng được nói, tức văn xuôi trong các kinh.

Lược nói pháp nên nói, gọi là Khế kinh. Quyển 81 nói: đồng với Đối pháp. Nghĩa là nghĩa xuyên suốt. Văn xuôi nói trực tiếp, thuộc về phần nhiều. Tiếp nhận thể, tánh của ý thú.

Du-già quyển 25, Hiển Dương quyển sáu, không nói văn xuôi hàng, chỉ tướng chung rằng: "Phật ở nơi chốn kia kia, vì hữu tình của kia kia, dựa vào hạnh kia kia, giảng nói ngữ, tương ưng với vô lượng uẩn (vô lượng uẩn tương ưng với ngữ) cho đến ngữ tương ưng với chứng tịnh."

Kiết tập Pháp: gom nhóp Thánh ngữ, vì muốn cho chánh pháp được an trụ lâu dài, nên tên gọi xinh đẹp, thứ lớp an bày khắp, cho đến nói rộng. Diệu nghĩa chân thiện, gọi là Khế kinh, đồng với thuyết mà kinh Niết-bàn đã nói."

Kinh Niết-bàn quyển 15 chép: "Từ "Ta nghe như vầy này… cho đến vui mừng vâng làm".

Tất cả như thế, gọi Tu-đa-la. Tuy nhiên, Tu-Đa-la có chung, có riêng, chung: Là gồm thâu hết mười hai bộ. Kinh Niết-bàn v.v... nói: "Là riêng: chỉ gồm thâu văn xuôi nói lược nghĩa đáng nói, vì với khác tướng của phần khác, nên gọi là riêng, đều y cứ một nghĩa cũng không mâu thuẫn."

Tướng Ưng tụng: Các luận Đối pháp v.v... đáng nói, tức trong các kinh, hoặc ở chính giữa, hoặc ở phần sau, dùng tụng, để trùng tụng, tức sau lại tụng nghĩa văn xuôi ở trước. Lại, nói rằng: "Kinh không liễu nghĩa, nên lại tụng, giải thích. Văn xuôi dù nói nghĩa, cũng chưa hết. Sau, lại tụng mười năng lực đó, tức dùng hai nghĩa gọi là Ứng tụng:

1/ Vì lợi ích căn cơ bén nhạy ở tương lai về sau. 2/ Vì giải thích rõ ràng bất liễu nghĩa trước kia, sao cho người nghe được nhận hiểu một cách sáng suốt, thanh tịnh.

Nên Niết-bàn chỉ có một nghĩa đầu. Luận Thành Thật quyển hai, hoặc Phật tự nói, hoặc đệ tử nói, muốn làm cho nghĩa lý bền chắc không tản mát, rời rạc, như sợi chỉ xâu hoa, thứ lớp bền chắc. Lại, vì lời lẽ nghiêm túc trung nhã, khiến cho vui lòng. Lại nghĩa nhập trong kệ tức là để cho chủ yếu đơn giản dễ có thể hiểu.

Tướng ký biệt: Đối pháp v.v... nói: "Nghĩa là đệ tử Thánh v.v... ở xứ này, dứt đi quá khứ dĩ vãng, ghi nhận riêng sự khác nhau chỗ sinh được mất. Đây là y cứ vào Thế Tôn ghi nhận sự sinh ở vị lai ghi nhận nhân quả của các đệ tử. Lại, các luận nói: Các kinh liễu nghĩa gọi là ký biệt. Ký biệt khai thị ý sâu kín; ký, nghĩa là sáng suốt; biệt, nghĩa là phân biệt, ghi nhận sáng suốt, phân biệt nghĩa sâu kín, gọi là Ký biệt. Ở chỗ khác đã nói kinh bất liễu nghĩa, gọi là ký biệt. Nghĩa là dùng một ít để nói, vì lược ghi nhận riêng nên là bất liễu nghĩa, không y cứ nói rõ ràng nghĩa sâu sắc. Kinh Niết-bàn nói: "Như Lai vì các đại nhân thọ ký, ông A-dật-đa, ở vị lai có vị vua, tên là Hoài Khư, ở đời này mà thành Phật, hiệu là Di-lặc, là kinh Ký biệt. Y cứ vào các giáo nói: "Đều dùng ba nghĩa, gọi là Ký biệt:

1/ Ghi nhận nhân quả tử sinh của đệ tử. 2/ Ghi nhận rõ ràng nghĩa sâu kín.

3/ Ghi nhận việc Bồ-tát sẽ thành Phật."

Về Tướng phúng tụng; Hiển Dương v.v... nói: "Nghĩa là trong các kinh, chẳng phải văn xuôi nói lập lại, nhưng vì câu kết thành; hoặc dùng hai câu, ba câu, bốn câu, năm câu, sáu câu v.v... nói, đều là phúng tụng.

Kinh Niết-bàn chép: "Trừ Tu-đa-la và các giới luật. Ngoài ra, có thuyết nói: bài kệ bốn câu:

Các việc ác chớ làm Các điều lành vâng làm Tự thanh tịnh ý mình Là lời chư Phật dạy."

Đây gọi là kinh Già-đà, ý này nói: Chẳng phải văn xuôi nói thẳng và chẳng phải nhân duyên vì người khác, dùng bốn câu kệ làm đầu. Nói các pháp: Gọi là Già-đà, vì Niết-bàn này cũng có tướng riêng, Tu-đa-la không phải như vậy, trong đây, thế nào là Trừ? Vì chỉ có Tu-đa-la của tướng chung, nên câu nhỏ có đến hai câu, nhiều câu, vô lượng câu. Tất cả đều là Niết-bàn. Vả lại, nêu một bài tụng chỉ giáo. Các luận nêu câu hỏi, tụng không đầy đủ, nên chỉ đến sáu. Nếu chỉ một câu, tức không thành tụng vì tụng này và văn xuôi, khó có thể phân biệt, nên nêu một bài tụng rưỡi, nói là sáu câu, năm câu, bảy câu đều được, vì nhỏ nên không nói.

Tướng tự nói: Du-già v.v... chép: "Nghĩa là ở trong đây, không rõ người thỉnh, vì khiến cho chánh pháp tồn tại lâu dài ở đương lai, vì chánh giáo ở lâu, nên không thỉnh mà nói, đây gọi là tự nói. Luận Đối Pháp nói: "Như Già-đà nói:

Nếu đối với pháp như thế Phát tinh tấn mạnh mẽ Tĩnh lự suy nghĩ đế

Bấy giờ gọi Phạm chí."

Đức Phật này vì khiến chánh pháp tồn tại lâu dài, Chánh pháp tồn tại lâu dài là đi đứng. Kinh Niết-bàn chép: "Như buổi quá ngọ, Đức Phật nhập vào thiền định, cho đến sáng sớm hôm sau, xuất định, không có vị nào hỏi, Đức Phật dùng trí tha tâm, liền tự nói pháp, cho đến nói rộng.

Các kinh như thế, không hỏi tự nói, đây gọi là Ưu-đà-na, chỉ sự dù khác, nhưng nghĩa lý vẫn đồng."

Hỏi: "Vì sao người thỉnh không nói, không gọi là thỉnh nói, Như Lai im lặng tức bằng lòng, thành đáp?"

Đáp: "Thỉnh có hai thứ: 1/ Tâm niệm.

2/ Miệng nói."

-"Miệng nói, nghiệp động, vì hết lòng trân trọng, cho nên thành thỉnh; chỉ tâm niệm khinh, cho nên trong kinh không gọi là thỉnh?"

Đáp: "Cũng có hai:

1/ Im lặng.

2/ Nói.

Chỉ làm cho sinh hiểu biết, thì gọi là đáp. Vì không y cứ nhẹ, nặng, nên không đồng với hỏi. Lại, trong các kinh, Đức Phật biết rõ ý niệm của người hỏi kia, tức vì nói pháp, nên dù không có nói, cũng gọi là Thỉnh; chủ yếu tỏ bày lời nói kính trọng với lời thỉnh của người kia, gọi là không nói, là chẳng phải thỉnh." Lại

Hỏi: "Đã có kinh không có hỏi, tự nói, sao không có kinh có hỏi, không có đáp?"

Đáp: "Nói pháp trong mười hai phần, mới thành kinh. Không có hỏi, có đáp thì được thành kinh; không có nói, không thành kinh. có hỏi không có đáp, không thành kinh. Nhưng nói, theo lý các "trí đáp" cũng gọi là Kinh. Lại, nước Phật Hương Tích có hai thứ đều không có, hương là Phật sự, không có nói thành kinh. Tiếng Như Lai ở cõi nước này là Phật sự, cho nên không đáp, thì không được thành kinh. Mười hai phần kinh không do có hỏi, mới gọi là kinh, nên có Kinh không có hỏi, mà tự nói."

Tướng duyên khởi: Tám mươi mốt thuyết. Nghĩa là y cứ có thỉnh mà nói các pháp. Như kinh nói: "Một thuở nọ, Đức Thế Tôn dựa vào con nai đen (hắc lộc tử), giảng nói pháp yếu cho các Tỳ-kheo nghe. Lại, y cứ vào nhân Biệt giải thoát, Tỳnại-da gồm thâu tất cả lời nói. Lại, ở chỗ này, nói như thế vầy: "Đức Thế Tôn dựa vào nhân duyên như thế, như thế, dựa vào sự như thế, như thế, nói lời như thế, như thế."

Đủ ba nghĩa này, gọi là nhân duyên: 1/ Do thỉnh mà nói.

2/ Do trái phạm mà chế giới. 3/ Nhân sự, mà nói pháp.

Như thứ lớp, nên biết. Luận Đối pháp v.v...: "Chỉ có sơ, nhị, trong kinh Niết-bàn chỉ có một sau". Luận Đối pháp v.v... nói: "Nhân duyên: Nghĩa là do thưa hỏi mà nói. Lại, có nhân duyên lập ra học xứ."

Kinh Niết-bàn chép: "Như căn bản, mà các bài kệ trong kinh y cứ, như nước Xá-vệ có một người đàn ông giăng lưới bắt chim, bắt được chim xong, lại thả. Đức Thế Tôn biết rõ nhân duyên gốc, ngọn nên nói kệ rằng:

"Đừng khinh việc ác nhỏ,
Cho là không có hại
Giọt nước dù nhỏ nhoi,
Nhưng dần đầy chậu lớn."

Đây gọi là kinh Ni-đà-na. Kinh này chỉ y cứ vào việc để nói pháp, nên đều chẳng đầy đủ, chỉ có tám mươi mốt nghĩa lý tròn khắp."

Về tướng thí dụ, Kinh Niết-bàn chép: "Như thí dụ đã nói trong giới luật, đó gọi là kinh A-ba-đàna."

Đối pháp v.v... nói: "Nghĩa là có thuyết so sáng trong các kinh, vì khiến cho nghĩa gốc được sáng sạch. Đối pháp quyển 25 chép: "Nghĩa là ở trong đây có thuyết thí dụ; Đối pháp chỉ nói rằng: "Thí dụ trong kinh, Niết-bàn chỉ nói thí dụ trong luật. Du-già nói chung thí dụ của kinh, luật, luận, đều thuộc về Du-già này."

Về tướng bổn sự, quyển 81 chép: "Gọi là trừ bổn sinh, giảng nói các sự sở hữu của bờ mé ở trước, trừ bổn sinh của Phật, nói tất cả việc của mé trước, gọi là Bổn sự. Luận Đối Pháp chép: "Cái gọi là giảng nói sự việc tương ưng với đời trước của các đệ tử Thánh, v.v..."

Kinh Niết-bàn chép: "Như lời Phật nói, tỳ-kheo nên biết, khi ta ra đời, điều mà ta đã có thể nói, gọi là Khế kinh. Cưu-lưu-tần Phật nói là trống cam lộ. Phật Câu-na-hàm Mâu-ni nói là gương pháp. Phật Ca-diếp là nói "phân biệt "không"", đây gọi là y đế, là Đa-già. Đối pháp chỉ nói sự của đệ tử trong dĩ vãng, do đối với Bổn sinh, vì là Bồ-tát, nên chỉ nói nhân sự. Niết-bàn chỉ nói sự pháp ở dĩ vãng xa xưa."

Du-già nói chung tất cả việc dĩ vãng xưa, hoặc người, hoặc pháp, hoặc phàm, hoặc Thánh, đều gọi Bổn sự. Về tướng Bổn sinh: Du-già quyển 25; Hiển Dương quyển sáu chép: "Nghĩa là trong đây, giảng nói về phương phần kia kia ở đời quá khứ của Đức Thế Tôn, hoặc sinh, hoặc tử, thực hành hạnh Bồtát, thực hành hạnh khó làm, đây gọi là Bổn sinh, nghĩa là nói thân tử, sinh sở hữu phương phần trong dĩ vãng của Đức Thế Tôn, đã thực hành hạnh Bồ-tát, tất cả hạnh khó làm, đều gọi là Bổn sinh, Đối pháp và quyển 81 chép: "Cái gọi là giảng nói sự tương ưng với bổn hạnh của Bồ-tát. Kinh Niếtbàn chép: Như Phật Thế Tôn lúc còn là Bồ-tát làm nai, làm gấu, làm thỏ, cho đến nói rộng, làm chim cánh vàng, v.v... đã có thể cảm thọ thân, đây gọi kinh Xà-đà-già. Đối pháp chỉ nói công hạnh của các Bồ-tát. Niết-bàn chỉ nói thân Bồ-tát ở dĩ vãng".

Du-già nói chung Bồ-tát ở dĩ vãng xa xưa, hoặc thân, hoặc công hạnh, đều gọi là Bổn sinh."

Về tướng Phương Quảng: Du-già quyển 81 chép: "Nghĩa là nói đạo Bồ-tát, như nói hạnh của bốn Bồ-tát Thất địa và một trăm bốn mươi pháp Phật không chung.

Lại nữa, pháp này vì rộng, vì nhiều, vì rất rộng lớn, vì thời gian dài xa, nên nghĩa này ý nói, thuyết minh về lý hai "không" của pháp Phật không chung với đạo Bồ-tát, bao gồm thích đáng phước tuệ tròn đầy, gọi là Phương Quảng, chỉ ở Đại thừa, không chung với Tiểu thừa. Niết-bàn gọi là kinh Tỳ-phậtlược.

Đối Pháp chép: "Cũng gọi đả phá rộng, cũng gọi là không có so sánh (vô tỷ), vì là chỗ dựa của lợi ích yên vui của hữu tình, vì giảng nói pháp rất rộng lớn, nên gọi là Phương Quảng; đả phá được các chướng, gọi là phá rộng; vì không có pháp nào so sánh được, nên gọi là vô tỷ; chỉ y chỉ Đại thừa, nên gọi là Phương Quảng."

Du-già quyển 21, Thanh văn có mười hai, tự nêu Phương Quảng. Lại, kinh Niết-bàn, quyển ba chép: "Đại thừa có chín, vì không ngăn chận Tiểu thừa có mười hai kia nên trong Tiểu thừa cũng có Phương Quảng. Chánh pháp ở đây, gọi là Phương, cũng được; lý nhân quả gọi là tiếng phương, vì nói bốn chân lý rất chân chánh, nên bày rộng, bao gồm, gọi là Quảng, nên Tiểu thừa có."

Pháp Hoa, Du-già v.v... chỉ nói về Đại thừa. Niết-bàn nói chung, văn rất là thích đáng.

Về tướng hy pháp: Hiển Dương quyển 6 chép: "Nghĩa là trong các kinh, giảng nói đức chung, không chung với tất cả chư Phật và tám chúng đệ tử. Và pháp rất sâu kín, khác lạ, đặc biệt, hơn hết, đó là hy hữu. Y này nói: Chỉ nói công đức và sự khác lạ ít có, gọi là hy pháp."

Kinh Niết-bàn chép: "Bồ-tát mới sinh liền bước đi bảy bước, phát ra ánh sáng sáng rực rỡ, soi khắp mười phương, khỉ vượn dâng mật; chó cổ trắng nghe pháp; Ma biến thành bò xanh đi trong bát sành, khiến cho cây đường chạm sát vào nhau mà không bị tổn thương, như Phật mới sinh, khi biết vào miếu thờ trời, liền khiến cho pho tượng trời kia đứng dậy kính lễ, gọi là việc chưa từng có. Đây là nói sự kiện đặc biệt của Phật v.v... gọi là hy pháp.

Không nói công đức và sự việc của đệ tử."

Luận Đối Pháp chép: "Nếu nói thân Thanh văn, các Đại Bồ-tát và Như Lai, là pháp ít có, rất kỳ lạ đặc biệt, là chỉ nói pháp đặc thù, kỳ lạ của bậc Thánh, chứ không nói pháp khác, thì không mâu thuẫn nhau."

Về tướng luận nghị: Quyển 81 chép: "Nghĩa là nghiên cứu xoay vần các kinh điển Ma-đát-lý-ca, tất cả kinh liễu nghĩa, đều gọi là Ma-đác-lý-ca, nghĩa là ở chỗ này, Đức Thế Tôn tự phân biệt rộng pháp tướng. Lại, đệ tử Thánh đã thấy dấu đế, dựa vào pháp mà mình đã chứng, cũng không có phân biệt điên đảo thể tánh các pháp, đó cũng gọi là Mađát-lý-ca; Ma-đát-lý-ca cũng gọi A-tỳ-đạt-ma."

Kinh Niết-bàn chép: "Như các kinh mà Phật, Thế Tôn đã nói, nếu y cứ vào luận nghị để phân biệt, giải thích rộng tướng mạo của pháp kia, thì gọi là kinh Ưu-bà-đề-xá."

Hiển Dương quyển sáu, Du-già quyển 25, Đối pháp, v.v… đều nói: "Luận nghị là sao? Nghĩa là tất cả Ma-đát-lý-ca, A-tỳ-đạt-ma đều nghiên cứu rất sâu nghĩa Tố-đát-lãm, giảng nói về tông yếu của tất cả khế kinh, đó gọi là Luận nghị."

Kinh Niết-bàn chỉ chép: "Chỉ nói về luận nghị mà Phật, Thế Tôn nói. Trong luận Hiển Dương v.v... chỉ nói về luận nghị mà đệ tử đã nói, đều nêu một thứ. Nhưng trong luận Du-già quyển 81 đã bao gồm đủ hai thứ, để thừa nhận đệ tử soạn ra kinh luận Nghị của tạng Đối pháp.

Như thế, đã nói chung tổng về tướng trạng đồng, khác của mười hai phần giáo, người học rộng rất may mắn vì không có sự buồn phiền. Giải thích riêng về tướng này, như Du-già quyển 25, 81, Hiển Dương quyển 6; Đối pháp quyển mười một; Niếtbàn quyển mười lăm, chỗ khác đều lược, tất cả sự trái ngược, đều thuận theo hội thông xong."

-Thứ ba, là giải thích về tên gọi chung, riêng:

Trước, là giải thích tên chung; sau giải thích về tên riêng.

Tên chung: Tiên đức phiên dịch thành mười hai bộ kinh, chỉ dùng nghĩa ngôn của bộ bao gồm hai thứ:

1/ Biểu bộ.

2/ Loại bộ.

Người đời cho rằng có mười hai biểu bộ, tên kinh cũng lạm quá, vì chung, riêng khó rõ.

Nay, phiên dịch làm mười hai phần giáo. Phần là nghĩa loại, nghĩa chi, nghĩa đoạn, nghĩa giáo; như giáo trước có mười hai thứ thứ nghĩa, vì chi điều, phần, đoạn khác nhau, nên có đính kèm theo số để giải thích.

Giải thích về tên riêng: Nên thuật lại các bài tụng, tụng có thể đọc, thuyết tự trần, đối đãi duyên mà khởi pháp ít có, rộng của phương, lý. Sáu sinh này đều là y chủ thích. Thể của luận, tức bàn bạc về một danh này, chỉ là trì nghiệp thích. Nếu nói kinh của khế lý, là Y chủ thích; chủ thể khế, tức kinh, là Trì nghiệp thích. Ghi nhận sự khác nhau của nhân quả kia; ghi nhận khác nhau là Y chủ thích.

Nếu nói ghi nhận phân biệt thức, thì gọi là ký biệt. Ký tức là biệt, là Trì nghiệp thích. Nếu nói rằng thí, nghĩa là so sánh. Dụ, nghĩa là hiểu rõ, thí của dụ hiểu rõ, là Y chủ thích.

Nếu nói thí là loại, dụ là so sánh, thì thể của thí tức là dụ, là Trì nghiệp thích.

Nếu nói là sự của đời trước, sinh của đời trước, thì gọi là Bổn sự, Bổn sinh, thuộc về Y chủ thích.

Nếu bản thể tức sự, bản thể tức sinh là Trì nghiệp thích.

Năm tên gọi này đều chung cho hai cách giải thích. nhưng mười hai này đều thêm chữ Giáo, nghĩa là giáo Khế kinh, cho đến nói rộng giáo luận nghị, đều là Trì nghiệp thích.

-Chung riêng thứ tư:

Một dĩ vãng của các giáo trong đây là luận. Y cứ vào sự thật đều có tướng chung, riêng. Vì sao? Vì kinh Niết-bàn trong Khế kinh nói: "Bắt đầu từ như thế, sau cùng, đến vâng làm, tức mười hai phần, đều gọi là Khế kinh, là tướng chung."

Du-già v.v... chép: Nghĩa là dùng văn xuôi để chắp nối, nói lược nghĩa cần nên nói, gọi là Khế kinh, là tướng riêng. Trong tướng riêng có chín, chỉ trừ hai bài tụng.

Môn Nhất hạnh này, dùng một đối với pháp khác. Thuyết đã đối đó, nghĩa là dưới, không có nói riêng. Tất cả nên biết, trong ưng tụng cũng có ký biệt, dù không có văn thừa nhận nhưng có giáo chứng, như Pháp Hoa nói: "Xá-lợi-phất, ở đời đương lai sẽ thành Phật Phổ Trí Tôn, hiệu là Hoa Quang, sẽ cứu độ vô lượng chúng sinh."

Loại văn như thế v.v... vì ở mỗi chỗ chẳng phải một, nên trong Ưng tụng cũng có ký biệt.

Vì trùng tụng này, là nghĩa của văn xuôi ở trước, nên Ký biệt có ba:

1/ Ghi nhận nhân quả sống chết của đệ tử.

2/ Ghi nhận nghĩa sâu kín.

3/ Ghi nhận thành Phật.

Đây tức là ưng tụng, cũng có ghi nhận riêng thành kinh Phật. Hai Ký biệt khác nhau, tùy thuộc thích ứng với "có", "không". Trong Ứng tụng, nhất định không có phúng tụng, phúng tụng chẳng phải nói thẳng văn xuôi ở trước, mà chỉ dùng hai câu v.v... để nói lên những gì đáng được nói, nên trong Ứng tụng cũng có tự thuyết, như thọ ký, v.v...

Vì không có người thưa hỏi, nên có duyên khởi của lý trong Ưng tụng. Duyên khởi có ba:

1/ Do thưa hỏi mà nói 2/ Do trái phạm, mà chế giới 3/ Nhân sự việc mà nói pháp.

Như trong kinh Pháp Hoa quyển một chép: "Nhất thừa xứ, vì xá-lợi-phất đã ân cần thưa hỏi đến ba lần, Đức Thế Tôn đã dùng văn xuôi nói cho nghe rồi, lại lặp lại, nên duyên khởi còn lại, tùy thuộc thích ứng "có", "không"."

Trong Ứng tụng, về mặt lý có thí dụ: Nhà lửa, người nghèo; dụ hóa thành v.v..., vì đều nói lặp lại, nên trong Ưng tụng, về lý, có bổn sự. Thuyết trong phẩm Tựa, Diệu Cát Tường nói: "Phật kia, sau diệt độ, kẻ lười biếng chính là ông. Pháp sư Diệu Quang ấy, chính là ta hiện nay.

Đã nói việc đời trước của các đệ tử như Vănthù, Di-lặc, nên trong Ứng tụng cũng có Bổn sự. Lại, trong phẩm Hóa Thành Dụ, Đức Phật tự tụng rằng:

Bấy giờ, Người nghe pháp
Đều ở chỗ chư Phật
Có người trụ Thanh văn
Giáo dần theo đạo Phật.
Ta ở số mười sáu
Từng cũng nói ông nghe."

Nên, Trong Ứng tụng, quyết định có Bổn sự. Vì nói sự Bổn sinh của Thanh văn v.v..., nên trong Ứng tụng, về lý, có Bổn sinh. Kệ trùng tụng của phẩm Thường Bất Khinh chép: "Bất Khinh ở thời đại đó, tức là ta hiện nay."

Bấy giờ, người chấp mắc pháp trong bốn bộ chúng, nghe Bất Khinh nói: "Ông sẽ thành Phật!", nhờ nhân duyên này, gặp vô số Phật, đã nói về việc Bổn sinh của Phật Bất Khinh, nên trong Ứng tụng cũng có Bổn sinh, mười sáu vị vương tử giống như đây, nên biết.

Trong Ứng tụng, về lý có Phương Quảng, Phẩm Phương tiện chép: "Trong cõi nước Phật mười phương, chỉ có pháp Nhất thừa, không hai, cũng không ba, trừ Phật Phương Tiện nói. Vì Nhất thừa đã là kinh sâu sắc của Phương Quảng, nên trong Ứng tụng cũng có Phương Quảng". Lại, Giải Thâm Mật chép: "Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này, mà thuyết kệ rằng:

Thức A-đà-na rất sâu kín.
Tất cả hạt giống như dòng chảy chảy.

Tức là trong Ứng tụng có Phương Quảng. Trong Ứng tụng, về lý có hy pháp, Phẩm Hóa thành dụ chép: "Phật Đại Không Trí Thắng, ngồi đạo tràng suốt mười kiếp, Phật pháp không hiện tiền, không được thành Phật đạo." Lại nói: "Các thế giới phương Đông, năm trăm muôn ức cõi, cung điện Phạm chói sáng, xưa chưa từng nói Đức Phật đã trải qua mười kiếp ngồi ở đạo tràng, mà vẫn chưa được thành Phật. Và, Phật đã dùng thần thông khiến cho mười phương cõi nước ấy, mỗi phương đều có năm trăm muôn ức cõi nước có ánh sáng chói lọi, là sự kỳ lạ ít có của Phật, Thế Tôn.

Trong Ứng tụng cũng có hy pháp. Trong Ứng tụng, về lý có luận nghị, như kinh Giải Thâm Mật nói ba vô tánh rồi, bấy giờ, Đức Thế Tôn vì muốn nói lại nghĩa này, nên nói bài tụng rằng:

"Thắng nghĩa sinh nhau không có thường
Như thế, ta đều đã chỉ bày rõ."

Không biết mật ý này của Phật, vì hoại mất chánh đạo không thể trụ, nên trong đó lập Nhất thừa, chẳng phải tánh hữu tình không có khác nhau. Ở đây, đã nghiên cứu pháp ba vô tánh, nói là mật ý. Lại, vì tụng lại các nghĩa đã nói ở trước, nên trong Ứng tụng cũng có Luận nghị. Do đây, dù không có chánh văn chứng thành, thừa nhận trong Ứng tụng có chung, có riêng. Nhưng dùng lý để chứng, như nghĩa đã dẫn trước kia, có thể thành lập, nên tướng chung kia trong Ứng tụng có đủ mười một phần, vì tự thuyết, nên ở đây nói theo tướng chung của Tu-đa-la.

Tướng riêng: Nghĩa là không có, nếu đối với sau, thì chỉ có chín trước, trừ Khế kinh ở trước, vì phúng tụng ở sau, nên tướng riêng kia nghĩa là như các giáo thuyết.

Từ trước đến nay, đã dẫn rộng một pháp làm tỷ lệ; pháp khác chỉ sơ lược, nhưng không thể phiền dẫn, người học nên nghiên cứu chín chắn.

Trong ký biệt kia cũng có chung, riêng. Trong tướng chung, có thuyết nói: "Có năm loại là: Tự thuyết, Nhân duyên, Phương Quảng, hy Pháp, và Luận nghị. Không thấy nói ký biệt, phúng tụng, nên cũng không có nói dụ, mà vì thọ ký, cho nên Bổn sự, Bổn sinh đều nói quá khứ.

Ký biệt: Nghĩa là ghi nhận sự sinh ở vị lai, nên không nói có. Ở đây nương vào sự thọ ký sinh tử thành Phật, gọi là thọ ký."

Có thuyết nói không như vậy, nếu thọ ký rõ ràng riêng các kinh liễu nghĩa, gọi là ký biệt ấy, nghĩa là ký biệt cũng có phúng tụng, thí dụ, Bổn sự, Bổn sinh, có chín phần sau. Trong phúng tụng chung cho có tám phần sau. Tự thuyết chung cho tướng, có đủ bảy phần sau. Nhân duyên chung cho tướng có đủ sáu phần sau. Giáo Phương Quảng v.v..., cũng có sự đợi thỉnh, vì nhân sự nói, nên thí dụ chung cho thanh tịnh chỉ có năm phần sau; nghĩa là chỉ có ba thứ sau, không có Bổn sự, Bổn sinh; không thấy dụ thuyết, vì hai thứ này, nên tướng chung của bổn sự có ba phần sau, nhưng không có Bổn sinh. Vì thầy, trò khác nhau, nên Bổn sinh cũng có ba thứ sau.

Tướng chung của Phương Quảng có đủ hai phần sau. Tướng chung của Pháp hy chỉ có một phần sau. Ký biệt do tướng riêng của Phương Quảng kia của phần dưới, tùy thuộc đối tượng thích ứng của Phương Quảng kia, có nhiều, có ít, vì văn không nhất định, nên có chỗ giải thích rằng: Pháp khác không gồm thâu, gọi là tướng riêng, cũng thuận theo nghĩa để giải thích, nhưng hơi khó hiểu.

Như thế, giải thích chung các tướng chung: Khế kinh, Ký biệt, Tự thuyết, Nhân duyên, Thí dụ, Phương Quảng; hy Pháp; Luận nghị. Tám bộ này gồm thâu đủ mười hai phần còn lại, có thể ở trong đó, có đủ mười hai, nên trong Niết-bàn, từ mười hai bộ phát ra Tu-đa-la. Trong Tu-đa-la lưu xuất ra Phương Quảng; Trong Phương Quảng gồm thâu đủ mười hai. Tất cả pháp khác so sánh với ở đây, nên biết. Mười phần khác, Ứng tụng, phúng tụng, nhất định đều không có lẫn nhau; bổn sự, bổn sinh cũng không có lẫn nhau như vậy, chỉ có thể ở trong đó có mười một phần, nên có trong đây, hoặc có thể có đủ, chẳng phải chắc chắn có. Vả lại, như ký biệt chẳng phải chỗ ghi nhận, tức là không gồm thâu, cho đến luận nghị chẳng phải là chỗ nghiên cứu, tìm tòi, tức cũng không gồm thâu, tùy thuộc thích ứng, hoặc có nghĩa có thể đầy đủ, chẳng phải chắc chắn có.

-Thứ năm, là bỏ lập:

- "Vì sao chỉ lập mười hai phần giáo, không thêm, không bớt?"

Kinh Niết-bàn chép: "Người năng nghe pháp, vì đều cần nên nghe. Ba thừa nói chung, do xoay bánh xe pháp ba chu kỳ, nói chung có mười hai hạnh. Chủ thể giải thích loại giáo kia, chia ra mười hai. Lại, để phá mười hai chi, nhập mười hai xứ, cho nên nói pháp cũng chia ra mười hai. Đây là phế, lập chung.

Về phế, lập riêng: Thánh giáo như thế, văn xuôi, kệ tụng đối nhau làm môn, là có nói trực tiếp và chẳng nói trực tiếp. Trùng tụng, đơn tụng riêng đối nhau làm môn, nói có Ứng tụng và phúng tụng."

Không hỏi, có hỏi, đối nhau làm môn, nói có không hỏi và với có hỏi, kinh nhân duyên có thỉnh riêng, gọi nhân thỉnh mà nói, tức là hỏi.

Phật sự chẳng phải Phật sự đối nhau làm môn. Bày tỏ việc đời trước của họ, nói có bổn sự và có bổn sinh.

Như thế, lẽ ra cũng ghi nhận, chẳng phải ghi nhận đối nhau; pháp, dụ đối nhau; rộng lược đối nhau; chưa từng đối nhau; biện luận, không biện luận đối nhau làm môn. Lại, lẽ ra cũng phải lập gốc ngọn đối nhau, nghĩa là tức Bổn sự, Bổn sinh đã nói, lẽ ra cũng phải đối lập mạt sự, mạt sinh? Việc này không nên như vậy, vì như lập xứ, phi xứ trong mười lực, căn phẩm thượng, căn phẩm hạ, sở hữu trí lực lại không đối lập với nghiệp, phi nghiệp của mình, cho đến không lập trí lực sở hữu của không lập lậu tận, bất tận.

Trong kinh cũng vậy, lại lập nói trực tiếp và không nói trực tiếp v.v... không nên lập có ghi nhận, không ghi nhận v.v..., do người tin ưa, vì thích hợp cho nên nghe. Lại, hiểu riêng, nghĩa là sự trội hơn có thể ghi nhận, khiến cho người nghe kia nhàm chán việc ác mà hớn hở ưa thích điều lành, nên lập kinh ký biệt; không thể ghi nhận: Vì nghĩa ưa, chán nhỏ nhen, nên không phải ghi nhận. Những người có trí do thí dụ mà được hiểu; nêu dụ thành pháp về lý vì có ích lớn, nên kinh có thí dụ, kinh không thí dụ, không có tác dụng vượt hơn riêng, chỉ vì lập chung làm Khế kinh v.v... nên đều là dụ. Như thế, cho đến kinh biện luận, không biện luận, lý giải cũng như thế. Rộng trội hơn lược, từng kém hơn chưa từng; biện luận trội hơn phi biện luận, vì đều chẳng phải bằng nhau, nên lược bỏ không lập.

Đây là y cứ vào Thanh văn có giáo rộng.

Đã có kinh gốc, nay lập ngọn, trong kinh Thọ Ký, đã là ngọn. Lại, pháp hiện tại v.v... sự kia có thể thấy; pháp quả vị lai sâu kín khó biết, nên lại không lập riêng, gọi là mạt sự, mạt sinh, pháp quả hiện tại biểu lộ rõ, chỉ có thể nói lên việc nhân đời trước của người kia, sao cho biết hiện quả, nghĩa chán ưa thành, nên chỉ lập bổn sự, bổn sinh kia, không lập riêng ở mạt sự, mạt sinh; hoặc kinh ký biệt cũng gọi kinh mạt sự, mạt sinh v.v..., vẫn không có lỗi.

-Thứ sáu, là tướng các tạng gồm thâu rộng hẹp:

Đầu tiên, là dùng các tạng đối với mười hai phần, thuộc về tướng chung; sau dùng các tạng đối với tướng riêng của mười hai phần gồm thâu nhau.

Đầu tiên, là dùng các tạng đối với tướng chung của mười hai phần gồm thâu nhau, tối thắng đó có ba: Đầu tiên, là hai tạng đối nhau; kế là, ba tạng đối; sau là sáu tạng đối nhau.

Hai tạng đối nhau: Trong hai tạng đều có mười hai. Du-già quyển 21, Đức Phật vì Thanh văn, nói mười hai phần, từ đầu đến cuối đều nêu đủ. Lại, trong kinh Niết-bàn, quyển ba nói: "Người giữ gìn Đại thừa, vâng giữ chín bộ, họ tự nói chín, nghĩa là trừ nhân duyên, Thí dụ, Luận nghị, chẳng nói là Thanh văn không có chín bộ này, nên biết rằng, Thanh văn có đủ mười hai phần, không thể nói là trừ chín; ba phần còn lại, gọi là Thanh văn, vì trong tạng Thanh văn cũng có Khế kinh, Ứng tụng v.v... nên Du-già quyển 25 chép: "Trong tạng Thanh văn không có Phương Quảng, nghĩa là vì không có khen ngợi được quả Vô thượng, nên nói "không có". Về lý, thật sự có chung".

Kinh Pháp Hoa quyển một chép: "Tiểu thừa có chín, pháp chín bộ này của ta vì thuận theo chúng sinh cho nên nói, nhập Đại thừa làm gốc, cho nên nói kinh này, do Phật kia tự nói chín, nghĩa là trừ ký biệt, tự thuyết, Phương Quảng, vì ngăn chận Đại thừa có đủ mười hai, cho nên biết hai tạng không ngăn chận lẫn nhau. Do đây, nên soạn ra bốn luận chứng để phân biệt:

1/ Đại hoàn toàn chẳng phải tiểu, như kinh Pháp Hoa.

2/ Tiểu hoàn toàn chẳng phải đại, như kinh Niết-bàn.

3/ Cả hai đều không hoàn toàn, hợp cả hai phần tiểu.

4/ Cả hai đều hoàn toàn, vì hợp hai phần hoàn toàn, nên trong hai tạng đều có đủ mười hai.

Ba tạng đối nhau: Đã thừa nhận tướng chung của luận nghị, duyên khởi Khế kinh, đều có mười hai phân giáo, nên đều gồm thâu nhau, như giáo lý đã dẫn rộng thành. Vì trong ba tạng, mỗi tạng đều có đủ mười hai phần, nên nghĩa của ký biệt đã có đủ ba, tùy đối tượng được ghi nhận riêng, thuộc về Tỳ-nại-da. Giới Bồ-tát v.v… đã gọi là Phương Quảng. Thuộc về Tỳ-nại-da, về lý cũng không trái. Nhân thỉnh, nhân sự, nói các lý sâu kín, nên kinh Nhân Duyên thẳng qua tạng Đối pháp.

Đã từ "Như thế, sau cùng đến vâng làm", đều là Tu-đa-la, nên biết ba tạng đều có mười hai; sáu tạng đối: Đã nói tướng chung, vì mười hai chung lẫn nhau, nên trong sáu tạng đều có mười hai, vì chánh pháp bày rộng, gọi là Phương Quảng, nên chung cho tạng Thanh văn, thọ ký sự việc sống chết của các đệ tử, thông qua Tỳ-nại-da trong Thanh văn.

Như trên là, nói chung thuộc về tướng tướng, sau dùng các tạng đối với tướng riêng của mười hai phần gồm thâu nhau, ở trong đó cũng có ba phần: Đầu tiên, là dùng hai đối; kế, là dùng ba đối; sau, là dùng sáu đối.

Dùng hai đối: kinh Niết-bàn quyển ba chép: "Đại thừa có chín, chỉ không có Nhân duyên, Thí dụ, và Luận nghị. Tiểu thừa đủ mười hai, vì văn kinh không ngăn ngại, nên nói có đủ. Du-già quyển 21 nói có đủ mười hai."

Kinh Pháp Hoa chép: "Tiểu thừa có chín, nghĩa là trừ ký biệt, tự thuyết, Phương Quảng; Đại thừa có mười hai."

Luận Du-già quyển 38 chép: "Phần Phương Quảng chỉ cho tạng Bồ-tát; các phần khác có tạng Thanh văn; Đây là nói Đại thừa có đủ mười hai; Tiểu thừa chỉ có mười một, chỉ trừ Phương Quảng."

Lại, luận Du-già quyển 85 chép: "Trong mười hai phần, trừ phần Phương Quảng, phần còn lại gọi Thanh văn thừa tương ưng với Khế kinh, tức phần Phương Quảng gọi riêng Đại thừa tương ưng với Khế kinh. Đây là nói Tiểu thừa có mười một, Đại thừa chỉ có Phương Quảng; bốn văn khác nhau, mỗi văn đều có ý riêng, vì trong đây đều dựa vào môn của tướng riêng. Vả lại, trong kinh Niết-bàn, y cứ vào nhân phạm, chế giới, gọi là nhân duyên. Các Đại Bồ-tát từ trước đến nay, không có phạm, không nhân chế giới, nói là không có nhân duyên, chẳng phải không có nhân thỉnh, do sự gọi là kinh Pháp Nhân Duyên.

Nói về thí dụ, mở ra căn cơ trung, hạ; vì các Đại Bồ-tát phần nhiều căn cơ nhạy bén, nên không cần thí dụ, bởi nghe pháp ấy là hiểu ngay. Nói không cần có thí dụ, về lý, chẳng phải không có, vì các kinh

Đại thừa hiện thấy phần lớn có nói dụ. Lại tánh của Đại Bồ-tát đều là căn cơ nhạy bén, nêu tông, ấy là giải, không cần gạn hỏi, mới sinh tâm tuệ, nói là không có luận nghị. Về lý, thật ra chẳng phải không có. Kinh Giải Thâm Mật, luận Du-già v.v... là Đại thừa. Kinh Minh Luận Nghị chung cho Đại thừa.

-Có người hỏi: "Đã nói Bồ-tát vì căn cơ nhạy bén nên chẳng cần luận nghị, lẽ ra không có Ứng tụng, vì không cần nói lặp lại?"

Đáp: "Vì lợi ích cho tương lai về sau, nên cần có trùng tụng, chẳng phải Bồ-tát trước giả trùng tụng nói Niết-bàn một phen y cứ vào nghĩa riêng này, để nói trong Đại thừa không có ba phần này. Thật ra có đủ. Lại, ngài Hộ Pháp tụng trong ba tạng, phần nhiều chỉ tụng tạng Tố-đát-lãm, không tụng hai tạng còn lại, nên chỉ nói chín, là lược bỏ không có ba tạng kia. Ba tạng kia thuộc về hai tạng. Về lý, thật ra Đại thừa chẳng phải không có mười hai. Trong các Thánh giáo, đều có Đại thừa có ba tạng này. Lại, trong kinh Pháp Hoa, y cứ vào sự truyền trao, ghi nhận đệ tử sẽ được thành Phật, gọi là ký biệt. Nói là Thanh văn không có ký biệt kia, vì không cầu đại Bồ-đề, cũng như dùng vật báu để bảo cho người ngu kia biết, người ngu bèn cười! Thanh văn nghe, ghi nhận cũng giống như thế, nên nói là không có. Ghi nhận sự sinh, tử v.v... của các đệ tử, về lý thật sự cũng có. Lại, hàng Thanh văn học rộng pháp cạn thấp. Nếu không đợi thỉnh kiêu căng, ngạo mạn, ấy là sinh, nói là không có tự thuyết, thật ra cũng có. Lại, pháp Thanh văn chỉ chứng quả tiểu, không được Vô thượng chánh đẳng Bồ-đề, về lý chẳng phải là hạnh rất cùng cực, không bao gồm thuyết rộng, nói là không có

Phương Quảng, thật ra cũng có, vì chánh pháp bày rộng, nói là Phương Quảng. Lại, tông của một hội Pháp Hoa, nói là Nhất thừa, vì dẫn dắt tất cả không nhất định là cõi Thanh văn, thú hướng về quả Phật. Loại kia trở xuống chưa nghe thọ ký cho Thanh văn kia sẽ được thành Phật. Nay, vì đã hồi tâm xong, mới được nghe, nên nói Thanh văn không có ký biệt. Phẩm phương tiện đầu tiên, biểu thị rõ pháp rất sâu kín mầu nhiệm, vì muốn cho Thanh văn khởi ý tôn trọng, nên không hỏi, không nói, phải ba lần thỉnh mới nói, nên nói Thanh văn, lược không có tự thuyết, e rằng, Thanh văn v.v... trước kia đã nghe pháp bốn đế v.v..., sinh ý Vô thượng. Nay, chứng tỏ pháp Tứ đế kia chẳng phải đại pháp Vô thượng; đại pháp Vô thượng chỉ có Đại thừa, cho nên nói Thanh văn, lược bỏ không có Phương Quảng. Pháp Hoa một phen hóa độ người không nhất định; y cứ vào một nghĩa để nói hàng Thanh văn chỉ có chín phần kia, thật ra có thể có đủ."

Trong luận Du-già quyển 38 đồng với kinh Pháp Hoa cũng y cứ vào giáo lý của Tiểu thừa chẳng phải trội hơn, không được Bồ-đề, gọi không có Phương Quảng, có mười một bộ. Trong kinh Tiểu Thừa cũng ghi nhận sự việc sinh tử của đệ tử, rõ ràng, biểu thị rõ các pháp, mật ý cũng có ký biệt. Trong kinh Tiểu thừa cũng làm sáng tỏ tất cả pháp tướng hữu từ bi của Phật, không đợi thưa hỏi mà ấy là tự thuyết, như vì đầu tiên xoay bánh xe pháp, nên có tự thuyết, không đồng với Pháp Hoa lược không có hai pháp này.

Nói trong Đại thừa có mười hai: Trong kinh Đại thừa cũng có nhân thỉnh, nhân sự nói pháp, nên có nhân duyên.

Kinh Thắng-man chép: "Tỳ-ni: Tức học Đại thừa, nên có nhân duyên làm sáng tỏ pháp sâu kín, vì cũng có thuyết so sánh, nên có thí dụ. Pháp tướng kín đáo, sâu xa, lại vì phương sáng suốt, nên có Luận nghị, nên nói Đại thừa có đủ mười hai phần giáo."

Lại, Du-già quyển 85 chép: "Văn đồng với quyển 38. Nhưng vì mười một phần đã là tạng Thanh văn. Đối với Đại thừa này, chỉ nói một phần Phương Quảng làm tạng Bồ-tát, thật ra, Bồ-tát có đủ mười hai phần. Lại quyển 85 nói tướng chung Phương Quảng, vì Phương Quảng gồm thâu mười hai. Lại, không giả nói mười một phần khác, gọi là tạng Bồ-tát. Quyển 85 của tạng Thanh văn nói: "Hoặc chung, hoặc riêng đều không có Phương Quảng, nên phải dứt bỏ. Đây là bốn văn với ý khác nhau."

Từ trên đến đây, cặp của tạng thứ nhất, thứ hai đã xong. Do ba cặp: hai thứ của ba hữu:

1/ Trong kinh Phổ Diệu có ba, nghĩa là ba Độc giác, v.v...

2/ Ba Tố-đát-lãm, v.v...

Vì giáo Độc giác không có loại bộ riêng, nên không thể nói riêng, có sự khác nhau của mười giáo này, chỉ đồng với Thanh văn. Thanh văn, Bồ-tát trong hai tạng trước đã giải thích xong.

Hiển Dương quyển sáu, Du-già quyển hai mươi nói: "Khế kinh, Ưng tụng, ký biệt, phúng tụng, tự thuyết, thí dụ, bổn sự, bổn sinh, Phương Quảng, hy pháp. Trong mười hai phần giáo, đây lạ tạng Tốđát-lãm."

Nói nhân duyên, đây là tạng Tỳ-nại-da. Nói luận nghi, đây là tạng A-tỳ-đạt-ma.

Một bộ nói ở đây là Tố-đát-lãm, chỉ nói một bộ là Tỳ-nại-da; chỉ nói một bộ là tạng Đối pháp.

Trong Tố-đát-lãm dù đủ mười hai, nhưng vì việc chế giới là chánh Tỳ-nại-da; giải thích câu hỏi rất sâu sắc, cũng chỉ là Đối pháp.

Lược hai bộ này chẳng phải Tố-đát-lãm. Trong Tố-đát-lãm chẳng phải không có hai bộ này. Ba thứ: Thí dụ, Bổn sự, Bổn sinh, về lý thật ra cũng đều thuộc về Tỳ-nại-da. Đối pháp nói là tạng Tỳnại-da. Trong luật, phần nhiều nói thí dụ v.v... là thuộc về quyến thuộc; tự tánh là chẳng trái.

Luận Hiển Dương v.v... y cứ vào tự tánh, chẳng phải thuộc về Tỳ-nại-da, nên nói ba thứ: Thí dụ, Bổn sự, Bổn sinh kia là Tố-đát-lãm.

Đối pháp y cứ vào quyến thuộc nói là Tỳ-nạida, đều đối với một bên không trái nhau.

Từ trên đến đây, đều là đối ba tạng, vì sáu cặp là: Thuyết thứ mười một trong luận Đối pháp.

Khế kinh, Ứng tụng, ký biệt, phúng tụng, tự thuyết, là thuộc về Tố-đát-lãm trong tạng Thanh văn.

Duyên khởi, Thí dụ, Bổn sự, Bổn sinh, là tạng Tỳ-nại-da trong hai tạng này và thuộc về quyến thuộc. Một thứ nhân duyên, chính là Tỳ-nại-da; ba Thí dụ v.v... là quyến thuộc kia. Phương Quảng, hy pháp, là thuộc về Tố-đát-lãm trong tạng Bồ-tát. Phương Quảng, sâu rộng, chính là tạng Bồ-tát. Hy Pháp khó tư duy cũng là tạng Bồ-tát. Một thứ luận nghị chung thuộc về tạng A-tỳ-đạt-ma trong hai tạng.

Trong đây ý nói: Mười hai phần giáo là năm tạng trong sáu tạng, chỉ thuộc về Tố-đát-lãm của Thanh văn; bốn chung cho thuộc về Tỳ-nại-da của hai tạng; hai chỉ thuộc về Tố-đát-lãm của Bồ-tát; một chung cho A-tỳ-đạt-ma của hai tạng.

Y cứ vào Thanh văn này chỉ có mười thứ. Trong tạng Bồ-tát chỉ có bảy. Y cứ vào thật, thì năm thứ đầu cũng chung thuộc về Tố-đát-lãm của Bồ-tát, vì trong Thanh văn, đơn giản không có Phương Quảng, chỉ nói năm thứ kia, cho là thuộc về Tố-đát-lãm của Thanh văn; chẳng phải không có năm thứ kia trong Bồ-tát.

Quyển 38 chép: "Vì mười hai phần đều chung cho tạng Bồ-tát, bốn duyên khởi v.v... cũng chẳng phải không thuộc về Tố-đát-lãm trong hai tạng, vì nói tự tánh và giúp bạn là Tỳ-nại-da, lược bỏ không nói là hai Tố-đát-lãm, chỉ nói nhân trái phạm, mà chế ra giới, gọi là nhân duyên. Tự tánh của nhân duyên, thuộc về Tỳ-nại-da; quyến thuộc theo nhân duyên đó, cũng thuộc về tạng Tỳ-nại-da kia."

Kinh Niết-bàn chép: "Bắt đầu từ: Như vậy sau cùng cho đến "vâng làm", đều là Tu-đa-la kinh."

Kinh Niết-bàn quyển 25 chép: "Vì mười bộ gọi là Tố-đát-lãm, nên ba thí dụ v.v... cũng Tố-đát-lãm. Nhân thỉnh, nhân sự mà nói pháp, gọi là nhân duyên, nên cũng nói là Tố-đát-lãm. Ba tướng theo này, cũng thuộc về Tỳ-nại-da. Lại, chẳng phải trong Tố-đát-lãm của tạng Tây Vực, cũng không có Phương Quảng, Hy pháp. Niết-bàn không ngăn mười hai, đều chung với Thanh văn có, nên nghĩa bày rộng của chánh pháp, cũng cùng chung. Lại, vì nói mười một là tạng Thanh văn, nên biết được Hy pháp cũng chung cho Tố-đát-lãm của Thanh văn.

Nay, vì lý cùng cực có thể được Bồ-đề, gọi là Phương Quảng, chỉ có oai thần rộng lớn của chư Phật, Bồ-tát, gọi là Hy pháp. Nói không có hai phần này trong Tố-đát-lãm của Thanh văn, về lý, thật ra đều có như trước đã nói. Lại, không có Phương Quảng, các văn đều cùng chung. Không có Hy pháp, nghĩa là thuộc về quyến thuộc, chỉ cho tạng Bồ-tát, thật ra là chung.

Luận nghị phần nhiều chỉ là Đối pháp; hoặc y cứ vào luận, v.v... mà đệ tử đã soạn, gọi là Nghị luận, nên chỉ gồm thâu ở A-tỳ-đạt-ma, về lý, thật sự cũng đi suốt qua hai Tố-đát-lãm, vì tạng Tố-đátlãm của Bồ-tát, Thanh văn, đối với sự lựa chọn khác, văn đầu tiên lại nêu nghĩa một bên. Lại, vì hai tạng đều Tỳ-nại-da, A-tỳ-đạt-ma đối lẫn nhau với nghĩa của mười hai bộ đều có chung. Nếu theo nghĩa riêng, nghĩa chọn lựa đối nhau, thì so sánh nên biết, e rằng văn rườm rà, nên lược bớt không thuật lại."

Kinh Niết-bàn chép: "Từ mười hai bộ có ra Tuđa-la; Từ Tu-đa-la lưu xuất ra Phương Quảng, đây là do lưu xuất ở chung trong riêng, bắt đầu từ: "Như vầy" sau cùng đến "vâng làm" đều là Tu-Đa-la, nên từ mười hai phần phát ra Tu-đa-la. Lại, từ trong cái chung, lưu xuất ở chung, vì Phương Quảng cũng có mười hai phần, nên từ Tu-đa-la lưu xuất ra Phương Quảng. Lại, có cách giải thích rằng: "Đầu tiên từ riêng phát ra chung, sau từ chung phát ra riêng. Vì muốn nói rõ về chung, nên lưu xuất lẫn nhau. Y cứ vào chính nói tướng riêng của các văn, nên nói rằng: "Phương Quảng chỉ thuộc về Tố-đát-lãm của Bồ-tát, Nghị luận chung là A-tỳ-đạt-ma của Bồ-tát, Thanh văn; nhân duyên cũng thuộc về Tỳ-nại-da chung cho Thanh văn, Bồ-tát.

Khế kinh, Ứng tụng, Ký biệt, Phúng tụng, Tự thuyết, Hy pháp, sáu thứ này cũng thuộc về Tố-đátlãm chung trong tạng Bồ-tát, Thanh văn. Ba thứ: Thí dụ, Bổn sự, Bổn sanh, chung là tạng Thanh văn và Bồ-tát, thuộc về hai tạng Tố-đát-lãm và Tỳ-nạida. Thuyết mà Đối pháp đã nói, y cứ vào nghĩa riêng của Đối pháp, chẳng phải là văn trái với lý. Đây là y cứ vào phần nhiều, hoặc phần Phương Quảng cũng chung cho hai thứ.

Thuyết đã nói như thế chẳng trái với các giáo. Nếu y cứ vào thuộc về đối nhau của môn chung, dùng tạng chia ra thành ba mươi sáu bộ, vì bộ chi tạng cũng có ba mươi sáu.

Nếu dùng tướng riêng gồm thâu lẫn nhau làm môn, thì dùng tạng chia bộ v.v... tùy thuộc thích hợp để nói rộng. Do ba tạng này đối với Tu-đa-la trong mười hai phần đều bằng nhau, nên có rộng, hẹp lẫn nhau.

Bốn câu phân biệt có Tu-đa-la trong ba tạng, chẳng phải Tu-đa-la trong mười hai, nghĩa là Tuđa-la tạng Ứng tụng v.v... vì y cứ vào tướng riêng trong mười hai phần; nên có Tu-đa-la trong mười hai phần, chẳng phải tạng Tu-đa-la trong ba tạng, nghĩa là Nhân duyên, Nghị luận v.v... Tu-đa-la của tướng chung, có hai đều là "phải": Vì Tu-đa-la của tướng riêng nhập vào trong tạng, nên có hai, đều là sai lầm, nghĩa là duyên khởi v.v... tướng riêng trong mười hai, Tỳ-nại-da, v.v... riêng trong ba tạng; hoặc sách vở của ngoại đạo, ngoài ra, làm câu lẫn nhau trong tạng khác. Danh đã khác nhau, chỉ có thể có rộng, hẹp, cũng có thể làm danh, y cứ theo nghĩa, nên biết.

Từ trước đến nay, đã giải thích về nghĩa kết hợp gồm thâu nhau, là sự rộng hẹp gồm thâu nhau của mười hai phần giáo thứ sáu.

-Thứ bảy, là phân biệt hỏi đáp:

Hỏi: "Mười hai phần giáo, vì sao văn xuôi lược nói, đầu tiên gọi là Khế kinh, không gọi là Nghị luận, cho đến nghiên cứu xoay vần, về sau, gọi là nghị luận, cho đến không gọi là Khế kinh?"

Đáp: "Giáo kia có được tên gọi, tùy thuộc nghĩa tăng thượng lược nói xuyên suốt văn xuôi tăng thượng, chỉ gọi là Khế kinh, cho đến không gọi là luận nghị giáo v.v...

Hỏi đáp, xoay vần, nghiên cứu, tăng thượng, chỉ gọi luận nghị, cho đến không gọi Khế kinh.

Hỏi: "Vì sao Khế kinh là đầu tiên, cho đến Nghị luận là sau, theo thứ lớp như thế?"

Đáp: "Đây là y cứ vào nghĩa văn, trước sau đối nhau, để nói về thứ lớp."

Xuyên suốt văn xuôi như thế, vì lược nói nghĩa văn xuôi kia chưa rõ, nên có một cặp của Ứng tụng xuyên suốt xong. Vì trong văn xuôi kia có sự ký biệt, nên thứ lớp thọ ký khác nhau trong kệ tụng kia. Lại, vì chẳng phải tụng lại, nên thứ lớp Phúng tụng.

Đây là văn xuôi trước và kệ tụng sau. Vì có thuyết nói "chẳng có nhân", nên thứ lớp tự nói. Vì có thuyết nói "có nhân", nên thứ lớp duyên khởi. Văn xuôi trước kia và kệ, đã chỉ có pháp thuyết, sau có dụ thuyết, nên tiếp theo là thí dụ. Trong pháp dụ kia, có thuyết nói: "Đệ tử và ý việc đời đã qua của đệ tử và tự thân Phật, vì trước người, sau mình, nên kế là bổn sự, tiếp theo là bổn sanh.

Các pháp trước đây, về lý có giáo chánh, bất chánh; hạnh có rộng, hẹp.

Về lý có giáo bất chánh, hạnh cạn hẹp, tức như thuyết trước. Giáo chín phần gọi lý có phương chánh, vì giáo, hạnh rộng, gọi là Phương Quảng, nên kế là thuyết sau nói: "Lý, giáo đã có rộng sâu, nói sự cũng có chưa từng, nên tiếp theo là hy pháp. Từ trên đến đây, mười một phần, chỉ thuộc về đối tượng thích nghi, phương tiện dẫn thuyết, đối với pháp tướng sâu sắc, chưa thể nghiên cứu, vì chỉ bày rõ lý sâu, vì nghiên cứu, hỏi han, tìm tòi, nên tiếp theo nghị luận, nên mười hai phần giáo, có thứ lớp như thế, cũng là lý do bỏ lập, thêm bớt."

-----------------------------

CHƯƠNG ĐOẠN CHƯỚNG

Nghĩa dứt chướng, lược dùng mười môn để giải thích:

1. Giải thích tên gọi.

2. Nêu thể.

3. Dựa vào thức để phân biệt.

4. Nương tựa đạo để phân biệt.

5. Y cứ vào quán để phân biệt.

6. Dựa vào hạnh để phân biệt.

7. Y cứ vào phẩm để phân biệt.

8. Dựa vào chương để phân biệt.

9. Phân biệt đối tượng nương tựa.

10. Phân biệt hỏi đáp.

-Thứ nhất, giải thích tên gọi: Chướng:

Nghĩa là ngăn che, trở ngại. Do chướng sở tri che lấp cảnh sở tri, làm cho trí chẳng sinh. Do chướng phiền não làm trở ngại Đại Niết-bàn, làm cho không thể hiện chứng. Do nghĩa che lấp, trở ngại, nên đặt tên là chướng.

Đoạn, nghĩa là không nối nhau. Do đạo vô lậu, cắt đứt hạt giống, khiến cho không nối nhau, gọi là Đoạn, nhờ năng lực của đạo hữu lậu, vô lậu, hàng phục sự hiện hành của chúng, sao cho không nối nhau, cũng gọi là Đoạn.

Giải thích này tức là dùng đối tượng đoạn, gọi là đoạn; chướng tức là đoạn, gọi là đoạn chướng, là Trì nghiệp thích. Lại, giải thích đoạn, nghĩa là trừ hại. Do đạo vô lậu dứt trừ hạt giống của hai chướng. Và, do năng lực đạo hữu lậu, vô lậu hại hai hiện hạnh, không để cho sinh khởi, gọi là Đoạn. Giải thích này tức dùng chủ thể đoạn, gọi là đoạn; Đoạn cắt đứt chướng, gọi là đoạn chướng, thuộc về chủ thích.

Lại, giải thích: "Đoạn, nghĩa là thể tánh, gây trở ngại pháp chẳng sinh. Nghĩa chẳng sinh là nghĩa đoạn."

Tánh tức là chân lý, lý là tánh đoạn, đạo là dụng đoạn, chướng là đối tượng đoạn, nên Đối pháp quyển chín giải thích về ba chuyển y rằng: "Hoặc đối tượng diệt, hoặc chủ thể diệt, hoặc tánh diệt là ba chân lý chuyển y gọi là đoạn. Dứt bỏ chướng, gọi là đoạn chướng, cũng là Y chủ thích. Ba nghĩa đầy đủ, mới được đặt tên là Đoạn chướng.

-Thứ hai, là nêu ra thể:

Chướng, là đối tượng đoạn, dùng sự hiện hành, hạt giống, tập khí của hai chướng và quả nghiệp này làm thể tánh, nên Đối pháp nói: "Thế nào là đối tượng đoạn của kiến? Nghĩa là tất cả phân biệt đã khởi kiến, nghi ô nhiễm và xứ kiến, xứ nghi, cho đến "và do kiến v.v... đã phát ra nghiệp thân, ngữ và tất cả uẩn, giới, xứ của cõi ác v.v... là đối tượng đoạn của kiến, tức là đối tượng đoạn của kiến đạo trong ba cõi ác."

Kinh Giải Thâm Mật quyển ba chép: "Cõi ác, tạp nhiễm ngu, là đối tượng đoạn của Sơ địa." Luận Thành Duy Thức quyển chín chép: "Tức là các quả nghiệp v.v... của cõi ác, Niết-bàn vô dư đã là trạch diệt, nên quả nghiệp tất cả chướng phiền não, đều là đối tượng đoạn."

Kinh Giải Thâm Mật lại chép: "Hai địa dứt trừ hai thứ ngu. Hai, nghĩa là mỗi thứ ngu của cõi nghiệp."

Duy thức giải thích: "Tức là đối tượng khởi phạm lầm ba nghiệp, nên quả nghiệp do chướng sở tri phát ra, cũng đều là đối tượng đoạn."

Trong luận Phật Địa, các pháp về nghiệp quả do hai chướng phát ra hai, đều thuộc về hai chướng, nên biết chấp hai chướng, và quả nghiệp phiền não, tất cả hữu lậu đều là đối tượng đoạn. Nhưng, thể của đối tượng đoạn này là tự tánh của người nhiễm, nên đoạn, chẳng phải quả của nghiệp nhiễm đều lìa ràng ràng buộc, đoạn trừ.

Duy thức nói do hạt giống của hai chướng này, được gọi là đối tượng đoạn xả, chẳng phải hữu lậu nhiễm, gọi là đối tượng ruồng bỏ. Thể của chủ thể đoạn chướng, dùng ba trí làm thể."

Luận Thành Duy Thức quyển mười chép: "Đạo năng chuyển vận có hai:

1) Đạo năng chế phục. Đạo này chung cho hai đạo hữu lậu, và vô lậu. Ba trí: Gia hạnh, căn bản, và hậu đắc, tùy thuộc đối tượng của các trí đó, chế phục dần, tức khắc chướng kia. Ở đây, nói lên trí gia hạnh có công năng chế phục dần dần các chướng; hai trí còn lại, có công năng chế phục ngay.

Do thế lực này làm cho chướng kia không sinh, gọi là chế phục, chẳng phải chủ yếu sáu hạnh, nếu thu hướng quả cùng cực, dùng phương tiện sáu hạnh tuệ, có khả năng chế phục các "hoặc". Vì trí gia hạnh gồm thâu thu hướng quả cùng cực, cho nên, nếu không thu hướng quả cùng cực, thì tu tuệ có khả năng chế phục các "hoặc". Sáu hạnh chẳng phải trí gia hạnh. Sáu hạnh này chỉ tu tuệ, không phải tuệ văn tư.

2) Đạo năng đoạn. Nghĩa là công năng dứt hẳn các phiền não của hai chướng. Đạo này chắc chắn chẳng phải là hữu lậu, và trí gia hạnh.

Vì trí hữu lậu từng tập, vì chưa dứt tướng, nên trí gia hạnh hướng đến cầu đối tượng chứng chưa thành xong."

Trong trí vô lậu, lược có hai thuyết:

1) Có nghĩa trí căn bản chứng lý "không", vì không có cảnh tướng, nên năng dứt trừ phiền não, không phải trí Hậu đắc.

2) Có nghĩa trí Hậu đắc dù chẳng chứng lý "không", nhưng không có năng lực dứt trừ phiền não mê lý, mà đối với tướng an lập, phi an lập, lại sáng suốt, rõ ràng hiện tiền, vì không có chứng đạo ngược, nên cũng có khả năng dứt hẳn phiền não mê sự.

Dẫn rộng Du-già, như kia đã thành lập.

Do lý thú này, nên tất cả kiến "hoặc" và tu đạo dứt trừ phiền não mê lý, chỉ trí căn bản đoạn, vì thân chứng lý, nên tu đoạn khác phiền não mê sự; chung cho hai trí đoạn. Đây là ở Nhị thừa, chẳng phải địa vị Bồ-tát, bởi trong nhân Bồ-tát vì không dứt phiền não, "hoặc" mê sự, vì trong tâm Kim cương với chướng sở tri, nhất thời đoạn dứt. Lại, trong chướng sở tri cũng có người mê sự mà chẳng phải chấp. Bồ-tát Thập Địa, Hậu đắc cũng đoạn trừ.

Mặc dù có hai cách giải thích, nhưng cách giải thích sau là vượt hơn, nên đạo năng dứt chướng suốt qua ba trí, chỉ tu chẳng phải văn, tư, chung cho hữu lậu, vô lậu. Đây là nói bốn đạo trong định, hàng phục các phiền não. Không như vậy thì lắng nghe, suy nghĩ cũng chế phục được ba tánh năng đoạn, tức dùng hai "không" để làm sáng tỏ chân như làm thể. Nếu thuận theo đạo kia tạm mượn trạch diệt làm thể thì ba thừa đều được trạch diệt này. Nếu không như vậy, thì lẽ ra không có giải thoát."

-Thứ ba, là y cứ vào thức phân biệt:

Trong đó có ba:

1) Đối tượng đoạn ở thức nào?

-"Đối tượng đoạn của Tát-bà-đa suốt qua sáu thức. Đối tượng đoạn của Độc tử bộ chỉ ở thức thứ sáu, vì năm thức không có ô nhiễm."

Đối tượng đoạn của Đại thừa, là dứt trừ chướng sở tri của an tuệ. Thứ bảy, ở chướng bảy phiền não khác, trừ thứ tám, chấp ở thức khác, tức khác nhau. Luận sư Hộ Pháp nói: "Hai chướng đều chung cho chấp bảy thức trước, tức sai biệt Nghiệp do chướng phát ra, chỉ có sáu thức trước. Thức thứ bảy tự không phải tánh nghiệp, không thể phát ra nghiệp, quả ở bảy thức khác, chẳng phải thức thứ bảy, vì chẳng phải do người khác sinh. Đây là nói dị thục tăng thượng, thế của nghiệp sử dụng sinh, chẳng phải quả đẳng lưu.

2) Nếu đạo này đoạn được, thì Tát-bà-đa chỉ có thức thứ sáu. Tạp Tâm nói: "Khi lìa dục và lui sụt, nên biết ở ý thức". Câu-xá v.v... đồng với bốn bộ của Đại chúng... và Hóa địa bộ nói: "Sáu thức đều có thể dứt chướng cho đạo, nói là thân năm thức có lìa nhiễm".

Độc Tử bộ chép: "Chỉ có thức thứ sáu nói thân năm thức chỉ là vô ký, không có nhiễm, vì không có lìa nhiễm."

Các Sư luận Thành Thật nói: "Chẳng phải sáu thức, thức là vô ký, chỉ dựa vào tâm hành sau cuối thứ tư. Với trí tuệ chánh đoạn, Đại thừa chỉ ở ý thức thứ sáu; hoặc chế phục, hoặc đoạn, vì chẳng phải ở thức khác, nên lui sụt và lìa dục."

Du-già quyển một chép: "Vì nghiệp không chung thứ sáu, nên thức khác không thể. Vì trí bình đẳng khởi do người khác dẫn sinh, nên nói "chẳng phải"."

3) Nếu là tánh năng đoạn thì chỉ có thức thứ chín, vì chân tánh thức, nên chẳng phải nương thức khác.

-Thứ tư, y cứ vào đạo để phân biệt:

Nghĩa là đạo gia hạnh, đạo vô gián, đạo giải thoát, đạo Thắng tấn.

Gia hạnh: Thêm hạnh công dụng, ưa thích cầu đạo đoạn. Vô gián: Không còn ngăn cách, chính là công năng dứt "hoặc". Giải thoát là chứng giải thoát vô vi. Thắng tiến còn tu các thắng đạo khác. Bốn đạo này đều có cả hữu lậu, vô lậu.

- "Đạo nào có khả năng đoạn "hoặc"?"

- "Luận Thành Duy Thức quyển mười chép: "Căn cơ Nhị thừa chậm lụt, khi đoạn dần chướng, tất nhiên, đều khởi riêng vô gián, giải thoát, gia hạnh, thắng tấn, hoặc riêng, hoặc chung. Văn này ý nói: Gia hạnh thú hướng đoạn, Thắng Tấn tiến tu không dứt phiền não. Vô gián, giải thoát vì chậm lụt, nên không thể khởi đạo này, tức là hành tướng riêng của ba đạo, nên đều khởi riêng"."

Quyển chín chép: "Đoạn "hoặc", chứng "diệt", vì tâm trông mong khác, hai đạo trở thành khác. Trong đạo giải thoát vì bỏ tánh thô nặng của phẩm kia, nên vô gián giải thoát đều là đạo năng đoạn, vô gián đoạn phiền não giải thoát xả thô nặng, tức hai thời gian khởi hai thứ đạo. Nếu nói suông thì khi sáu hành là bốn đạo. Ba: Khổ, thô, chướng, tùy thuộc một là đạo vô gián, tịnh diệu lìa ba, tùy thuộc một là đạo giải thoát. Gia hạnh, Thắng tấn đồng với chung, riêng ở trước. Đạo vô lậu, vô gián, giải thoát của Nhị thừa vẫn còn riêng, huống chi là sáu hành hữu lậu, vô gián, giải thoát mà không riêng. Tuy nhiên, luận Đối pháp quyển chín chép: "Phẩm sau sở hữu gia hạnh, vô gián, giải thoát đều là thắng tấn của phẩm trước"."

- "Vì sao Duy thức nói rằng: "Thắng tấn hoặc riêng, Duy thức y cứ vào tu riêng hành tướng ngữ?"-"Đối pháp y cứ vào đạo lý, tiến tới ngữ trước, không trái nhau. Nếu y cứ vào nghĩa này, thì sẽ tu riêng hành tướng đạo gia hạnh v.v…", như Thành Duy Thức nói hoặc chung, hoặc riêng, nếu giải thích về đạo lý thì sẽ có khả năng dẫn phát đến sau, gọi là gia hạnh. Giải thoát của phẩm trước cũng là gia hạnh sau."

Duy thức lại nói: "Căn cơ nhạy bén của Bồ-tát dứt trừ dần dần vị chướng, không phải chủ yếu khởi riêng vô gián, giải thoát, vì sát-na, sát-na năng đoạn chứng nên bốn thứ như gia hạnh v.v... sát-na, sát-na trước sau đối nhau đều chấp nhận có đủ. Đây là dựa vào Bồ-tát, vì căn cơ nhạy bén, nên hành tướng của mỗi niệm đều có thể đầy đủ, không đồng với ba thừa."

- "Không như vậy, thì đâu có khác đạo lý Nhị thừa?"

- "Y cứ vào thuyết này đã nói tất cả Nhị thừa và đạo hữu lậu, vô lậu của phàm phu khác, đều chỉ có vô gián y cứ vào đoạn trừ chế phục "hoặc". Trong đạo giải thoát, đoạn trừ, chế phục thô nặng, gia hạnh, thắng tấn đều không nói có khả năng.

Căn cơ nhạy bén của Bồ-tát, với bốn đạo hữu lậu, vô lậu đều có khả năng hoặc chế phục, hoặc đoạn trừ. Chế phục chỉ làm chướng thể; đoạn cũng chung cho nghiệp quả; hoặc cả hai đều chung, đoạn tất nhiên chứng chân; chế phục chưa hẳn như vậy. Bồ-tát hàng phục chướng, chứng chân cũng chế phục. Nhị thừa, phàm phu, v.v... chưa hẳn có thể như vậy, nhưng có khác nhau, bốn đạo hữu lậu lúc khởi đầu tiên. Có nghĩa: "Ba tuệ đều cùng là gia hạnh vì tu tuệ là gần, nên Đối pháp nói: "Đạo gia hạnh cũng chế phục "hoặc". Thắng giải của tướng liễu cũng chưa dứt "hoặc", xa lìa mới đoạn."

Có nghĩa: "Đầu tiên, dùng văn, tư làm đạo gia hạnh; Sau khi nhập tu, tức đạo vô gián vì năng chế phục "hoặc"."

Đối pháp v.v... nói: "Hai thứ tác ý: liễu Tướng và thắng giải, không chế phục "hoặc": Y cứ vào đoạn ba phẩm đầu, vì cũng chưa hết "hoặc", nên nói xa lìa đoạn. Y cứ vào sự thật, sự chiết phục đầu tiên, nếu vì quán đế khi nhập kiến đạo, thì trí của sáu hạnh trước kia không khuất phục, vì không ưa chán, nên gia hạnh có thể khuất phục, nghĩa là vì vô gián vô lậu, nên trong đạo hữu lậu, không có chiết phục, thành thử chưa làm vị chánh. Thời gian sau, cũng chung cho tu gia hạnh tuệ. Khi đạo vô lậu khởi đầu tiên, tất nhiên hữu lậu tu tuệ là đạo gia hạnh, đầu tiên được vô lậu tức là đoạn "hoặc", thời gian sau, cũng là gia hạnh vô lậu, nhưng trí gia hạnh tự có bốn đạo. Trong bốn đạo, vì tự đi suốt qua ba trí, nên trên Bát địa dù không có trí gia hạnh, nhưng vẫn có bốn đạo, như thường phân biệt."

-Thứ năm, y vào quán để phân biệt:

Quán có mười thứ:

1) Duy thức

2) Hai "không"

3) Ba tuệ

4) Ba trí

5) Bốn niệm xứ

6) Năm nhẫn

7) Sáu hiện quán

8) Bảy tác ý

9) Bảy chi giác

10) Tám Thánh đạo.

1) Duy thức đoạn chướng xong, như trước đã giải thích.

2) Hai không: Quán nhân không, chỉ dứt chướng phiền não, và quả nghiệp, không dứt bỏ tập khí (thói quen), vì quán thô. Nhưng nói rằng, đạo giải thoát dứt thô nặng, nghĩa là tóm tắt có hai cách giải thích:

1/ Y cứ theo Bồ-tát, không phải nói Nhị thừa.

2/ Thô nặng có hai:

a) Thô.

b) Tế.

Nay, không dứt thô tế: Vì dứt trừ được, nên nhập Nhị thiền, gọi là đoạn thô nặng của khổ căn. Vì Nhị thừa không đoạn tế, nên nói là không đoạn. Quán pháp không có ba thời gian: Pháp đầu tiên, sau, song quán có thể dứt hai chướng: Hoặc nghiệp và quả. Tất cả tập khí, cõi ác, người, trời, tùy nên dứt hẳn.

Trong quán "pháp không", chỉ đoạn hạt giống, hiện hành của sở tri chướng và sở hữu thô, nặng trong hai chướng, tùy thuộc phẩm loại thô tế của sở tri chướng, đều có thể dứt trừ. Nghĩa là Thập Địa tu đạo pháp không, quán tế, tất nhiên, vì kèm "nhân không", cho nên song đoạn.

3) Ba tuệ: Nếu nói về hàng phục, đoạn trừ, ba tuệ đều có khả năng; năng lực của thế chiết phục, chung cho văn, tư kia, chẳng phải chánh quán hàng phục. Khi chánh quán hàng phục. Tức là bốn đạo chỉ ở tu tuệ. Nhưng đối với phần thô cõi Dục, kềm giữ tâm, cũng hàng phục phiền não. Ở vị văn, tư, nếu năng đoạn đoạn, thì chỉ là tu tuệ.

Nhiếp luận nói là: "Vì trí chỉ quán xuất thế, nên kinh Thập Địa chép: "Bồ-tát Bát địa đều có khả năng suy nghĩ, khả năng gìn giữ."

Thiên Thân giải thích: "Tức là ba tuệ, vì nói nghĩa chân, tục đi đôi, nên có khả năng, đâu ngại gì văn, tư cũng có khả năng đoạn trừ, hàng phục, người khác không thể. Đây là ở địa trên, chẳng phải là cõi Dục.

4) Ba trí: Sự hàng phục chung cho ba trí; đoạn chẳng phải gia hạnh, dần dần, tức khắc khác nhau, như trước đã giải thích.

Luận Phật Tánh chép: "Trí vô phân biệt tiêu diệt "hoặc" hiện tại, gọi là Tận trí. Trí Hậu đắc tiêu diệt "hoặc" vị lai, gọi trí Vô sinh. Đây là y cứ vào thời điểm dứt trừ mê lý, mê sự, vị lớn của đầu tiên, sau, phán quyết hai trí này, giải thích về hai trí thật đều cùng tận vô sinh. Lại, không phải điển cứ, không cần hòa hợp."

Bốn niệm xứ: Mặc dù Đại thừa không tạo ra hành tướng của niệm, xứ, nhưng về đạo lý thì thuộc về pháp niệm xứ, "duyên" chung niệm xứ, chẳng phải tướng riêng. "Duyên" chung pháp quán, có công năng đoạn trừ các "hoặc", vì các văn đều đồng, nên quán "không" vô ngã đã có "duyên chung, vì thế nên không trái nhau. Nếu không như vậy, chỉ có khổ, trở thành trái nhau."

5) Năm nhẫn. Nghĩa là phục nhẫn, cho đến tịch diệt nhẫn. Phục nhẫn không đoạn, chỉ năng chế phục chướng chung cho đoạn, chế phục khác, sức phần thế của chân vô lậu đoạn chế phục. Tuy nhiên, trong tĩnh lặng (Niết-bàn) dù cũng có Phật, nhưng chẳng phải thuộc về đoạn này. Vị đạo của Bồ-tát Thập Địa đã tăng trưởng, chung cho dứt trừ, chế phục; hiện quán của Thất địa, lúc địa tư duy hiện quán, chỉ hàng phục, không khả năng dứt trừ. Vì cõi Dục, nên bên tín, trí, đế, giới, chung cho hàng phục, dứt trừ. Chánh đoạn, giúp cho đoạn đều cho tên gọi là đoạn, vì tín chung cho bên vô lậu đoạn sự "hoặc". Nếu so sánh với bên của luận Đối pháp, thì chỉ có trí thế tục, tức không thể đoạn. Nay nhận lấy Du-già làm chánh quán cuối cùng, vì chẳng phải trước kia đã đoạn, nên tác ý của Bát địa, Thất địa:

1/ Rõ tướng

2/ Thắng giải

3/ Xa lìa

4/ Gồm thâu ưa thích

5/ Quán sát

6/ Rốt ráo gia hạnh

7/ Quả của gia hạnh cuối cùng.

Nếu y cứ theo Đối pháp và Du-già thì khác nhau. Chín là bảy chi giác, mười là tám Thánh đạo.

-Thứ sáu, y cứ vào hạnh để phân biệt:

Hạnh có ba thứ:

1. Không, Vô tướng, Vô nguyện hạnh.

2. Sáu hạnh như khổ thô, v.v...

3. Bốn đế mười sáu hạnh.

1. Không, Vô tướng, Vô nguyện hạnh: Nếu chế phục, thì đều đi chung. Hiển Dương quyển hai chép: "Nếu chỉ nói "không", vô tướng, vô nguyện thì sẽ chung cho định và tán. Văn, tư, tu tuệ hữu lậu, vô lậu. Nếu nói Tam-ma-địa không, vô tướng, vô nguyện thì chỉ là định chẳng phải tán, chỉ tu không phải văn, tư, chung cho hữu lậu, vô lậu. Nếu nói môn giải thoát: Không, vô tướng, vô nguyện, thì chỉ tu vô lậu, chỉ thuộc về định; nên biết rằng, ba môn đều có công năng chiết phục "hoặc", nhưng khuất phục thích đáng "Hoặc" thì chỉ do "hạnh không".

Y cứ vào môn hai "không" nhập vị Đại thừa, quán lý bốn đế, vì nhập địa vị Nhị thừa, nên chung cho ba hạnh. Địa vị này là ở bốn gia hạnh lành. Nếu chánh đoạn, thì ở các văn trong Đại thừa nói khác: Hoặc nói hai hạnh trong mười sáu hạnh là "không". Mười hạnh là vô nguyện, vì hữu vi; bốn hạnh là vô tướng, vì vô vi."

Có thuyết nói: ""Không", như trước, sáu hạnh là vô nguyện, vì hữu lậu. tám hạnh là vô tướng, vì vô lậu."

Có thuyết nói: ""Không", như trước; sáu hạnh là vô nguyện, bốn hạnh là vô tướng. Đạo bốn chẳng phải ba môn, vì chẳng phải khổ đế, nên chẳng phải "không", vì chẳng phải hữu lậu, nên không phải vô nguyện; vì chẳng phải vô vi, nên chẳng phải vô tướng."

Hiển Dương quyển hai nói: ""Không" hai, vô nguyện sáu; vô tướng bốn, đồng với bốn đạo trước chung cho ba. Vì đạo năng tạo ra ba môn, nên tùy thuộc ba môn."

Có thuyết nói: "Hạnh "không" chung cho mười sáu, vô nguyện, vô tướng, tùy thuộc thích ứng đồng với trước."

Có thuyết nói: ""Không" chẳng phải "duyên" đế, vì quán đối tượng chấp; hai môn còn lại tùy thuộc thích ứng, quán ở bốn đế, vì thể của hai tánh không quyết định."

Có thuyết nói: "Ba môn đều chung cho mười sáu. Đối với nghĩa quán của chánh trí, chia làm ba môn, vì nghĩa chia ra mười sáu, nên trong năm pháp của luận Du-già chép: "Nếu nói theo môn giải thoát thì sẽ thuộc về chánh trí xuất thế. Lại, Thành

Duy Thức quyển tám chép: "Ba môn, ba tánh, về lý, thật sự đều chung, tức đối với chân lý, khởi đủ ba môn". Vì ba môn nên biết, đều chung cho mười sáu, vì phần nghĩa lý ở trong chân quán. Nếu dùng hạnh riêng thì phần nhiều chỉ dùng môn "không" để dứt "hoặc"."

2. Vì ngã không là "duyên" chung với "không", chẳng có hạnh "không" riêng. Hạnh "không" riêng, nghĩa là vì chỉ khổ đế. Về nghĩa ba môn, như đã nói ở chỗ riêng, tùy thuộc thích ứng, gồm thâu đạo lý đoạn trừ, hàng phục trong hai chánh thể, Hậu đắc, không có ngăn ngại.

Sáu hạnh như hai khổ v.v...: Nghĩa là sáu hạnh này chỉ ở địa vị phương tiện hữu lậu, quán chướng thô của khổ địa ở dưới, tùy thuộc một là đạo Vô gián, quán tỉnh, diệu, ly ở trên, tùy thuộc một là đạo giải thoát, chỉ hàng phục "hoặc" chẳng phải chủ thể dứt chung cho phàm và Thánh, nghĩa là đối với Nhị thừa chẳng phải Bồ-tát. Bồ-tát Thập địa không ưa địa trên, chán địa dưới, vì sự thọ sinh nên Bổn Địa Phần nói: "Ở kiếp sơ, vị tư lương đầu tiên Bồ-tát cũng dùng sáu hạnh, nhưng vì người tu lâu đã không dứt trừ phiền não mà vì sinh lên cõi trên, nên không dùng làm vượt hơn". Nhưng luận Dugià quyển 69 chép: "Bậc Thánh không dùng sáu hạnh, dựa vào nhiều phần để nói, về lý, thật sự cũng dùng ba mươi sáu hạnh, cũng chỉ hàng phục chẳng phải đoạn, khi nhập chân quán chẳng phải mười sáu hành tướng, vì kiến đạo. Vì tu phương tiện trong đạo gia hạnh, nên không phải quán chánh chân. Bồ-tát gồm khởi dụng chân chánh của Nhị thừa, chỉ có người vô lậu, chẳng phải người phàm mà được". Tuy nhiên, luận Phật Tánh chép: "Thanh văn, người căn cơ nhạy bén, hạnh vô ngã bậc nhất của khổ pháp nhẫn, đoạn trừ chung tám mươi tám kiết địa dưới của bốn chân đế thuộc ba cõi. Thanh văn căn cơ chậm lụt đủ mười sáu hạnh. Đoạn riêng tám mươi tám kiết trong địa dưới, do bốn chân đế của ba cõi. Vả lại, chia ra căn cơ nhạy bén, chậm lụt của địa trên, địa dưới, cho nên khác. Đây chẳng phải là dụng đáng chứng của Đại thừa, không cần hòa hợp."

Bộ Độc tử kia có mười ba tâm, khổ đế có ba:

1/ Khổ pháp nhẫn, quán nỗi khổ cõi Dục.

2/ Khổ pháp kiến, trùng quán nỗi khổ cõi Dục, xem xét hết, chưa hết.

3/ Khổ loại trí: Hợp quán hai cõi trên, vì không có nỗi khổ sau, nên không cần quán lặp lại.

Vì bốn đế đều có ba, nên thành mười hai. Mười hai tâm trước, gọi là hạnh, hướng, tâm thứ mười ba, gọi là trụ quả, chẳng phải tông này, nên không cần phân biệt.

-Thứ bảy, là dựa vào phẩm phân biệt:

Người xưa nói:

Có người nói: "Không có phẩm nào dùng vọng của thân hình chân thật, không có vọng nào để đoạn, không nói có phẩm."

Có thuyết nói: "Ba kiếp niệm niệm dứt chướng, vì niệm niệm được trí, nên Pháp sư Cổ Cơ nói: "Chín phẩm Thánh đạo đoạn cũng chín phẩm. Nay, không phải như vậy. Trong bảy thức có chướng phiền não, có chướng sở tri. Trong chướng phiền não trừ thức thứ bảy. Sáu thức còn lại ở chín địa ba cõi, mỗi địa đều có chín phẩm thành tám mươi mốt. Chín phẩm mười hoặc của kiến đạo, chắc chắn như vậy, vì thô, tế khác nhau nên đều sinh sáu "hoặc", đoạn dứt thì khác nhau. Thân kiến, biên kiến và tương ưng này, chỉ phẩm thứ chín. Nói theo Cửu địa thì chỉ có chín phẩm; Sân chỉ có chín phẩm của một địa, ngoài ra, tám mươi mốt phẩm độc đầu tham, mạn, si v.v..., mỗi địa đều có chín. Chín địa phiền não chướng trong thức thứ bảy cũng có hai thuyết. Có nghĩa: Chín địa chỉ đồng với phẩm loại thứ chín của phi tưởng. Nhưng trong đó tự loại có chín, như tà kiến tăng thượng, kẻ năng dứt điều lành, cũng có chín phẩm, loại kia cũng như thế, vì chỉ đồng với phẩm thứ chín của Phi tưởng, chỉ chướng ngại vô học. Kim cương bắt đầu dứt trừ chướng, vì có chín phẩm, vì thể có thêm bớt, nên thành chủ thể huân tập."

Có nghĩa: Chín địa đều có một phẩm, phần tế ấy thành tám mươi mốt phẩm. Vì thế lực đối tượng chướng đều đồng với "hoặc" phẩm hạ hạ của phi tưởng, nên tâm Kim cương đoạn tức khắc cùng một lúc.

Do đây, nói số phẩm phiền não đã đoạn trừ xong, nên phân biệt rằng: "Phân biệt chín phẩm trong sáu thức trước, ba thừa đều chắc chắn chỉ một phẩm đoạn, nghĩa là kiến đạo của nhất tâm."

Có thuyết nói: "Hai phẩm đoạn, nghĩa là kiến đạo của ba tâm, chỉ chánh đoạn vô lậu không có chế phục, đoạn trừ, vì các đạo hữu lậu không hàng phục kiến hoặc."

Luận Du-già chép: "Đạo thế gian chỉ có thể hàng phục, dứt trừ phiền não câu sinh, nhưng không thể chiết phục phiền não phân biệt, Tát-cada kiến câu sinh kia gần gũi kiêu, mạn.

Đây là y cứ vào sáu hạnh, chẳng phải trí gia hạnh, vì sáu hạnh kia có khả năng hàng phục. Sự phân biệt hiện hạnh trước kia của địa Bồ-tát cũng chế phục không khởi, chẳng phải sáu hạnh này, vì thế lực của quán Duy thức v.v... không hiện hành, nên phân biệt phiền não và tập khí, trong sáu thức mặc dù cũng chín phẩm, nhưng vẫn nhất định một phẩm, hoặc hai phẩm đoạn."

- "Chín phẩm trong hai phẩm đoạn là phẩm nào?"

- Là phẩm đoạn trước, phẩm đoạn sau, như luận Du-già quyển chín chép: "Khu vực phẩm hạ, chủ yếu nói phiền não câu sinh trong sáu thức kia, trừ tập khi kia dù có chín phẩm, nhưng đoạn trừ thì khác nhau."

Tuy nhiên kia lược có bốn loại:

1. Tám mươi mốt phẩm loại đoạn trừ riêng, đây là y cứ vào người Nhị thừa đoạn dần và phàm phu dị sinh đoạn, nhưng thân kiến, biên kiến v.v... sẽ đoạn khi phẩm thứ chín, phiền não khác đều do chín phẩm đoạn.

2. Tùy thuộc vị phàm kia đã chế phục nhiều ít; về sau nhập kiến đế, kiến đạo đều đoạn. Không hàng phục, thì không đoạn vì chia ra số phẩm. Nhập kiến đạo về sau, ấy là thứ lớp đoạn.

3. Chín địa hợp thành chín phẩm đoạn, như quả Dự lưu gộp lại tất cả phiền não của chín địa ba cõi, cộng chung thành chín phẩm đoạn, được quả vô học, vì siêu việt ngay.

4. Chín địa ba cõi, hợp thành một phẩm đoạn, là giai vị đoạn của Đại thừa trong tâm Kim cương, vì không đoạn "hoặc" trong nhân của mười địa, nhưng phiền não câu sinh trong sáu thức, tất cả tập khí, dù có chín phẩm, nhưng mười địa đều đoạn dần chín phẩm này, vì chướng mười địa, nên đồng loại với phẩm sở tri chướng. Trong thức thứ bảy, nếu nói chín phẩm, hoặc nói một phẩm đều một phẩm đoạn, chủ yếu tâm Kim cương ba thừa, một sát-na đoạn liền chướng vô học, tập khí cũng vậy. Sở tri chướng kia đoạn, thì không như vậy. Phân biệt sở tri chướng và tập khí trong sáu thức dù có chín phẩm, nhưng có thuyết nói là chắc chắn một phẩm đoạn, vì kiến đạo của nhất tâm. Có thuyết nói: "Hai phẩm đoạn, vì kiến đạo của ba tâm, nên chẳng phải đối tượng chế phục của sáu hạnh đồng với phiền não. Câu sinh sở tri chướng và tập khí trong sáu thức kia, cũng có tám mươi mốt phẩm của chín địa, nếu người hiện hành chung với phiền não, cũng có thể nói chế phục. Thế lực của người khác không hiện hành, không đều sinh chung, dù có chín phẩm, nhưng đều chẳng phải đối tượng chế phục của sáu hành, vì chướng ngại lý. Trí gia hạnh kia tức chủ thể chế phục là mười phẩm đoạn, vì mười địa đoạn, nên không chia ra thô tế, trước sau, nói là đoạn; không bỏ đoạn tế của Sơ địa; đoạn thô của Nhị địa. Sơ địa đoạn Hữu đảnh, Nhị địa đoạn cõi Dục, chỉ tùy thuộc chướng, vì trí của địa này tức là đoạn chướng, nên chẳng có trước, sau.

Trong thức thứ bảy kia, sở tri chướng và tập khí dù nói là có chín phẩm, hoặc nói không có phẩm, nhưng vẫn một phẩm đoạn, vì trong tâm Kim cương mới đoạn hẳn. Vì đây là nói đoạn phiền não, nên không nói là đoạn hiện hành v.v... kia, dù luận Vô Tướng nói: thứ hai là chấp thức chung cho phiền não da thịt, đối tượng đoạn của kiến, tu. Nhưng văn kia đã lầm, không thể áp dụng theo."

Kinh Nhân Vương chép: "Ba địa trước đoạn sắc phiền não của ba cõi; Tứ, Ngũ, Lục địa đoạn tâm phiền não của ba cõi; Thất, Bát, Cửu địa đoạn sắc tập phiền não ba cõi; Thập địa và Phật địa đoạn tâm tập phiền não ba cõi; sắc thô, tâm tế sinh ra "hoặc" cũng vậy."

Vì sự khác nhau giữa tầng cấp của năm nhẫn riêng, nên nói đoạn phiền não chẳng có loại riêng, cũng không trái nhau.

-Thứ tám, là y cứ vào chướng để phân biệt: trong đó có chín:

1. Hai chướng: Người Nhị thừa đoạn trừ hạt giống, hiện hành của chướng phiền não hết, tập khí không hết, cũng có thể dứt hẳn phần nhỏ chướng sở tri, nhưng có khác nhau, dần dần sơ quả chỉ đoạn trừ phiền não phân biệt của ba cõi, dần dần quả Nhất lai cũng gồm sáu phẩm tu đạo cõi Dục, dần dần, người Bất hoàn tất nhiên đoạn dục, tu chín phẩm, người khác đến Hữu đảnh, chín địa không nhất định. Sự siêu việt kia, so sánh không nhất định. Sơ quả siêu việt "hoặc" cõi Dục và tu năm phẩm. Nhất lai siêu việt "hoặc" cõi Dục và tu tám phẩm. Bất hoàn siêu việt chỉ trừ Phi tưởng tu chín hữu. Dự lưu siêu việt và Phi tưởng tu đều có thể đoạn trừ chứng đắc hai quả. Hữu đảnh, đạo Vô gián thứ chín vẫn gọi là Dự lưu. A-la-hán, Độc giác có khả năng đoạn trừ chướng tất cả kiến, tu trong ba cõi. Bồ-tát có khả năng đoạn trừ tất cả, ba thừa đều có khả năng hàng phục hiện hạnh hai chướng, nhờ hàng phục mà được định v.v... Nhưng Bồ-tát hàng phục mà được định, được quả, y cứ vào phần vị giải thoát, đều như thường đã giải thích.

2. Ba chướng phân biệt. Ba thí có ba:

a. Bì, da, xương.

b. Phiền não hại bạn, phiền não yếu kém, phiền não vi tế. Hai môn trên đây, như chương Duy thức có giải thích.

c. Hoặc, nghiệp, khổ, tất cả hai chướng phân biệt, đã phát ra nghiệp, và khổ v.v..., đối tượng đoạn trừ của kiến đạo.

Như trước đã giải thích, văn Đối pháp nói, nỗi khổ của nghiệp câu sinh, tất cả hai chướng, tùy thuộc ở đối trị vĩnh viễn, còn tâm kim cương, thì nghiệp khổ phiền não không bao giờ hiện hành.

-"Ở địa nào, phần đoạn không sinh ở Bát địa; Biến dịch không sinh ở Phật địa?"

Đây là y cứ vào nghĩa chung. Nếu biệt nghiệp đoạn, thì sẽ có bốn thứ nghiệp như đen đen v.v... đoạn, như sở thích của luận Du-già quyển 9, thì nghiệp quả trong chướng sở tri v.v… đoạn, đoạn ở mười địa, phần phần đoạn dần, chướng ngại nghiệp quả; vì hai đạo vô gián, giải thoát khác nhau, nên hàng phục ở Bát địa.

3. Ba bốn chướng phân biệt có hai:

a. Nghĩa là Xiển-đề không tin v.v..., như cách giải thích trong chương Duy thức.

b. Lại có bốn, chỉ có hai chướng vô minh:

1/ Không chung

2/ Tương ưng

3/ Trói buộc

4/ Phiền não Không chung có ba: a/ Không chung hiện hành riêng: Tùy miên chỉ ở kiến đạo mới đoạn; Trụ thứ tư trong mười trụ, sinh quý trụ đã hàng phục triền (ràng buộc). b/ Tương ưng không chung: Phẩm v.v... đều có vô minh, chung cho phân biệt, câu sinh triền và tùy miên. Vị hàng phục, đoạn trừ, thứ lớp như trên đã nói. c/ Hằng hành không chung: Nghĩa là thức thứ bảy đều có: Chỉ vô lậu đoạn, chẳng phải hữu lậu hàng phục, khi nhập quán vô lậu, cũng gọi là khuất phục, vì không khởi triền, nên phiền não Kim cương đoạn. Ba phiền não còn lại, so sánh với cách giải thích phiền não chướng ở trước.

4. Năm chướng phân biệt. Nghĩa là năm trụ địa:

a. Kiến nhất xứ

b. Dục ái

c. Sắc ái

Vô sắc ái đ. Vô minh trụ địa. Vô minh trụ địa này đều có hai:

1/ Khởi tức năm hiện hành.

2/ Trụ địa, tức năm phiền não.

Kiến nhất xứ là phân biệt phiền não chướng. Tiếp theo ba là chướng câu sinh phiền não; sau, một là tất cả chướng sở tri; tùy thuộc đối tượng thích ứng của chướng sở tri, so sánh hàng phục, đoạn trừ ở trước.

Hỏi: "Nếu phân biệt các "hoặc" gọi kiến nhất xứ khi nhập kiến đoạn, vì sao Đại Bát-nhã quyển 54, kinh Nhân Vương chép: "Sơ địa dứt tham; Nhị địa dứt giận; Tam địa dứt si; Tứ địa dứt kiến; Ngũ địa dứt nghi?"

Đáp: "Người xưa giải thích rằng: "Mượn nêu phàm, Thánh để dụ cho mười địa. Tam địa trở xuống đồng nhau, vì thế gian nên dứt ba độc. Trong Tứ, Ngũ địa đồng nhau. Bốn quả Sa-môn. Sơ quả dứt kiến, nghi. Nói Tứ, Ngũ địa trừ kiến, nghi, mà thật ra Sơ địa đã dứt. Nay, giải kiến, nghĩa là thân kiến. Bốn địa năng đoạn, vì thân kiến câu sinh. Nghi, nghĩa là sự nghi, chẳng phải nghi phiền não. Do thân kiến, sinh thân kiến, nên Ngũ địa đoạn.

5. Lại có sáu tán động:

a. Tự tánh tán loạn, nghĩa là năm thức, v.v...

b. Tán loạn bên ngoài, rong ruổi, tản mát năm dục.

c. Tán loạn bên trong, mê đắm vị hôn trầm trong vị tu định.

Tướng tán loạn: nhiễu loạn người tu thiện. đ. Tán loạn thô nặng, vì năng lực thô nặng ngã chấp, mạn v.v... đối với vui v.v..., chấp là ngã. Do phẩm thiện này không bao giờ thanh tịnh.

d. Tác ý tán loạn. Bỏ đối tượng tập ở trước, định khác nhập thừa khác, định đã khởi tán loạn. Tư duy, nghĩa là tầm từ, như Đối pháp quyển một chép: "Lại, có sáu hoặc căn bản. Sáu, nghĩa là bảy phiền não, đều như trước đã nói. Khai, hợp có khác, tức chướng phiền não. Nghi, kiến, giới thủ, tà kiến, chỉ phân biệt khởi; phiền não khác cũng chung với câu sinh, tùy thuộc thích ứng hai đoạn. Lại có bảy câu. Nghĩa là Kiến lậu; tư duy lậu; ái lậu, niệm lậu, căn lậu, ác lậu, thân cận lậu, thể của hai lậu trước, năm lậu sau, có đủ kiến, tu đoạn, so sánh cách giải thích, nên biết, hoặc thể của một lậu đầu, sáu lậu sau là đủ.

Như danh giải thích nghĩa, chín: Tám phân biệt sinh ba sự, như Hiển Dương, Du-già và Bồ-tát Địa quyển 36 chép:

1/ Tự tánh: Nghĩa là chấp thể của pháp.

2/ Sai biệt: Chấp nghĩa các pháp.

3/ Chấp chung: Chấp ngôi nhà, đoàn quân, khu rừng, ngã, hữu tình...

4/ Chấp ngã.

5/ Ngã sở (cái của ngã).

6/ Ái.

7/ Phi ái.

8/ Đều trái nhau.

Ba sự đều sinh phân biệt sự sở y, duyên; hai sự tiếp theo sinh ra sự kiến, ngã ái; ba sự sau sinh ra sự tham, giận, si, phần nhiều đối với sự này chỉ tu đoạn; về lý, thì chung với kiến đạo. Lại, có tám triền ràng buộc, nghĩa là: Hôn, miên, trạo, hối, tật, san, vô tàm, vô quý. Vì triền thường xuyên khuấy nhiễu, nên chỉ do tu đoạn; về mặt lý, cũng chung cho kiến đạo.

Kế là Chín kiết. Và, luận Bảo Tánh chép: "Chín tùy miên, kiến kiết; thủ kiết, nghi kiết trong chín kiết, chỉ do kiến đoạn; sáu kiết còn lại chung cho tu đoạn. Chín phiền não là:

1/ Phiền não Dục tham.

2/ Phiền não sân.

3/ Phiền não si.

4/ Tâm phẩm thượng tột cùng của ba độc.

5/ Vô minh trụ địa.

6/ Đối tượng diệt của kiến đế.

7/ Do tu tập mà đoạn trừ.

8/ "Hoặc" của địa bất tịnh.

9/ "Hoặc" của địa thanh tịnh.

Thứ sáu chỉ có kiến, thứ bảy chỉ có tu; thứ còn lại có cả kiến lẫn tu. Tùy thuộc đối tượng thích ứng của kiến, tu đó, mà nói phần giới hạn của đoạn.

Chín: là mười phiền não, mười tán động. Và, Biên Trung Biên quyển một chép: "Các chướng đều nên xem xét, đều tùy thuộc vào thứ lớp của đối tượng nên đoạn."

-Thứ chín, là phân biệt sở y: (đối tượng nương tựa), trong đó có hai:

1. Nương tựa thân

2. Nương tựa địa.

1. Nương tựa thân: Nếu hàng phục chướng phiền não thì đầu tiên, chỉ có cõi Dục; sau chung cho Bát địa ba cõi, sinh lên địa vị Hữu đảnh, lại vì không hàng phục, nên đoạn chung cho chín địa ba cõi đều được. Ở đây nói Nhị thừa, chẳng phải Bồtát, vì Bồ-tát đoạn "hoặc" chỉ dựa vào thân cõi Dục, Sắc, chẳng phải sinh Vô sắc. Đây là Thánh, Bồ-tát, phàm phu thì không như vậy.

Đây là nói chung đã xong. Phân biệt riêng: Người Ba thừa kia, thú hướng trực tiếp thừa mình. Đoạn trừ hai chướng phân biệt, chỉ ở sáu tầng trời cõi Dục và ba thiên hạ cõi người, chẳng phải xứ khác, vì tuệ nhàm chán mạnh mẽ.

Hiển Dương v.v... chép: "Lo buồn cùng cực, chẳng phải cõi ác; vui vẻ tột độ chẳng phải hai cõi trên, chỉ có người, trời cõi Dục, Phật xuất thế hiện quán. Bậc Thánh cõi Sắc hồi tâm hướng đại, dứt trừ sở tri chướng, cũng chung cho cõi Sắc, không đồng với phiền não, vì cần tâm nhàm chán vượt hơn, nên chung cho địa cõi Sắc kia. Nếu dứt trừ chướng phiền não câu sinh, thì Nhị thừa chung cho thân chín địa ba cõi."

Bồ-tát có hai nghĩa:

1/ Chung cho dục, sắc, tánh không nhất định, nghĩa là thân để lại chung cho hai cõi.

2/ Thiền thứ tư cõi Sắc, thẳng đến Bồ-tát Mahê-thủ-la trí Xứ sinh.

Tánh không nhất định: Luận dù có hai thuyết chung cho hai cõi, nhưng thuyết này là chánh. Nếu dứt trừ chướng câu sinh, sở tri, thì sẽ chung cho năm địa của hai cõi Dục, Sắc, chẳng có ở Vô sắc, vì Bồ-tát không sinh cõi Vô Sắc.

2. Nương tựa địa: Nếu hàng phục chướng phiền não, thì phương tiện căn bản của sáu địa cõi Sắc, bốn địa cõi Vô sắc, đều có thể hàng phục. Vì sáu hạnh và vô lậu đều có thể hàng phục, nên sáu hạnh chỉ có phương tiện, vì bảy tác ý chung cho phương tiện căn bản.

Bảy tác ý chung cho phương tiện căn bản, vì tác ý thứ bảy nhập căn bản, nên vô lậu hàng phục

"hoặc". Sáu địa cõi Sắc chẳng phải ba phương tiện. Bốn địa Vô sắc có xứ vô lậu, đều có khả năng hàng phục, vì phần thế hàng phục khiến không sinh khởi.

Nếu chánh đoạn, thì Nhị thừa đoạn trừ chướng phiền não phân biệt, chỉ dựa vào năm địa cõi Sắc, tất nhiên là tuệ của vô lậu, nhưng cũng không nhập kiến đạo, vì tuệ Vô sắc yếu kém, chẳng phải là đạo đoạn trừ "hoặc".

Hiển Dương quyển 69 chép: "Kiến đạo chỉ có năm địa. Lại, ba y chỉ, năm y chỉ sinh, vì không nói ở trung gian có kiến đạo. Nếu dứt trừ tu "hoặc" chung cho chín địa, thì cõi Sắc có sáu, Vô sắc có ba."

Du-già quyển 100 chép: "Chín địa năng tận lậu. Nghĩa là đầu tiên, tĩnh lự vị chí, trung gian; bốn tĩnh lự, ba vô sắc. Ở đây, ý nói tu đạo chẳng phải kiến đạo. Lại, nói: Vì ba y chỉ, năm y chỉ sinh, vô lậu của Hữu đảnh tối tăm, nên không thể dứt "hoặc". Nếu Bồ-tát dứt hai chướng phân biệt, chỉ vì công đức cao quý của định thứ tư, nhờ đối tượng nương tựa trội hơn mới nhập kiến đạo. Nếu dứt trừ chướng câu sinh sở tri và hai tập khí chung cho Sắc sáu, Vô Sắc ba. Nếu dứt trừ chướng phiền não câu sinh, cũng chỉ có định thứ tư, dùng tâm Kim cương dựa vào thiền thứ tư nhập dứt trừ "hoặc", như luận có nói rộng, e phiền phức, nên không trình bày lại."

-Thứ mười, là hỏi đáp phân biệt:

Hỏi: "Đây là dứt trừ phiền não, trong ba đời, ở chỗ nào nói đoạn?"

Đáp: "Các thuyết mà Tát-bà-đa nói khác nhau, nay, y cứ vào Đại thừa, Du-già quyển 58 chép: "Không phải đoạn trừ quá khứ, vị lai, hiện tại, nhưng nói dứt ba đời chẳng phải quá khứ đã có phiền não, vì tâm nhậm vận đã diệt". "Tánh đã không có thì đâu có gì để dứt? Tánh vị lai chưa sinh, thể hiện không có, thì lấy gì để dứt?" Hiện tại có tâm phiền não, tánh sau sát-na này, tất nhiên không trụ, lại dứt cái gì? Lại, có phiền não, lìa tâm phiền não, cả hai không hòa hợp, cho nên, hiện tại cũng chẳng phải đối tượng dứt. Nhưng từ ngôn âm của người khác, vì hai nhân duyên chánh tác ý nội tại tương ưng chánh kiến, tùy thuộc "hoặc", đối tượng trị; Tâm chủ thể trị sinh. Phiền não của các hữu, tâm đối tượng trị diệt. Thời gian tâm này sinh; thời gian tâm kia diệt, bình đẳng, bình đẳng; đối trị với đạo lý sinh, diệt, nên biết rằng, chánh kiến tương ưng với tâm chủ thể đối trị, ở đời hiện tại không có phiền não, ở đời quá khứ cũng chẳng có phiền não. Lìa tâm phiền não sau sát-na này, ở đời vị lai cũng không có phiền não. Từ đây về sau, đối với đã chuyển y, do dứt trừ tất cả phiền não của thân nối nhau, về sau sẽ được tâm thiện, vô ký thuộc về thế gian, ở vị quá khứ, vị lai, hiện tại, đều lìa phiền não, cho nên ba đời đều được nói là đoạn."

Hỏi: "Phiền não, đối tượng đoạn, có lui sụt, hay không lui sụt?"

Đáp: "Dựa vào Tát-bà-đa, kiến đạo nhanh chóng, đạo đoạn đã không bao giờ lui sụt, đạo vô học kia trụ bất động, nghĩa là không lui sụt, chủng có tánh lui sụt, nghĩa là pháp lui sụt, pháp tư duy, pháp hộ, pháp trụ, tất nhiên, bản tánh thắng tấn không lui sụt; pháp lui sụt, tiến tới thành, nghĩa là lui sụt."

Đại chúng bộ v.v... lui sụt quả Dự lưu chẳng phải A-la-hán, vì hai đạo kiến, tu A-la-hán rất vững chắc, vì kiến đạo không phải như vậy nên lui sụt. Nay, Thánh đạo Đại thừa dứt trừ phiền não, tất nhiên không lui sụt; chế phục, có là lui sụt. Kinh Niết-bàn chép: "Nếu đạo thế tục mà dứt bỏ phiền não, vì do sinh trở lại, nên nói gọi là vô thường". Du-già chép: "Cũng như vậy, chủng có tánh lui sụt v.v... y cứ vào chướng định để kiến lập, chẳng phải quả lui sụt. Nhưng Bồ-tát v.v... vì bị khuất phục bởi đạo vô lậu, vì cũng không lui sụt tự tại, như Xá-lợi-phất đến tâm thứ sau Thập tín, cũng lui sụt, vì lui sụt khởi phiền não, vì hàng phục hữu lậu ở trước".

Hỏi: "Thế nào gọi là đoạn?"

Đáp: "Quyển 58 chép: "Chỉ dứt bỏ phiền não, vì triền phiền não trước kia đã bỏ, vì đoạn trừ phiền não, nên gọi là đoạn". Vì sao? Vì dù triền đã dứt, nhưng chưa đoạn phiền não, thì các triền phiền não thường lại hiện khởi. Nếu phiền não dứt thì triền và phiền não cuối cùng sẽ không hiện khởi, cũng gọi là triền đoạn. Đây nói Thánh đạo chánh đoạn phiền não." Nếu hàng phục, đoạn trừ, nghĩa là dùng sức bẻ gãy hạt giống sao cho không sinh hiện, gọi là hàng phục hiện hành; phiền não dù lại không có chung với đạo, nhưng như câu hỏi:

-"Nghĩa trước kia nói là pháp chân kiến đạo đoạn trừ ba tâm; quán đã tế, tất nhiên gồm sinh quán, tức đoạn chấp sinh, vì sao chấp sinh tức đoạn trừ ba tâm; pháp chỉ hai tâm, lẽ ra tế ba tâm, thô hai tâm phải không?"

Đáp: "Pháp quán dù tế, tất nhiên kèm theo sinh quán, sát-na thứ hai không đoạn trừ chấp sinh, như quán pháp đoạn trừ "hoặc" trong mười địa, tập khí có thể đoạn, nhưng hạt giống không thể trừ. Vì không chướng ngại đạo này, nên tâm gia hạnh không ưa thích đoạn trừ, vì không thích đoạn trừ nên hai phẩm đều đoạn. Nếu không như vậy thì sẽ trái với luận."

Hỏi: "Vì "duyên" chung tác ý, hay dứt phiền não, hay vì "duyên" tác ý riêng hay dứt trừ phiền não?"

Đáp: "Giải thích về tướng của tự, cộng trong luận Phật Địa, lược có ba thuyết, có nghĩa: Hai lượng ở vị tâm tán, không nói là vị tịnh, vì vị định

"duyên" tất cả đều thuộc về hiện lượng."

- Sư này dù nói tâm định "duyên" tất cả, nhưng không nói tướng chung riêng của định dứt trừ "hoặc", nhưng theo nghĩa thì biết, chỉ dứt trừ tướng chung, vì tâm định "duyên" chung tự cộng.

Sư thứ hai nói: "Tâm định chỉ "duyên" tự tướng (cụ thể) nhưng vì tướng chung được dẫn phát bởi phương tiện, nên nói là duyên tướng chung; lý đã rõ ràng, nghĩa là nói theo phương tiện thì gọi là biết tướng chung, nếu không như thế, thì gọi là biết tự tướng (tướng riêng).

Do lý này, hoặc nói chân như, gọi là tướng chung (khái niệm) của các pháp là "không", vô ngã. Hoặc nói chân như được sáng tỏ bởi hai "không", chẳng phải là tướng chung."

- Ý sư này nói: "Nói theo phương tiện, thì có thể gọi tướng chung, nói là chứng trong quán, thì có thể gọi là tự tướng, tức biểu thị rõ dứt trừ "hoặc" chỉ quán tự tướng, chẳng phải cộng tướng."

Sư thứ ba nói: "Nghĩa như thật: Luận Nhân Minh kia lập tướng riêng chung, so với đây có khác một ít. Nhân Minh kia nói: "Nghĩa thật trong tất cả pháp đều gọi là tự tướng (tướng riêng), vì tướng chung, tướng riêng trong các pháp đều nương tựa vào thể của mình, vì không chung với người khác. Nếu tâm phân biệt lập một chủng loại chủ thể giải thích, đối tượng giải thích chung cho các pháp, như sợi chỉ xâu hoa, gọi là tướng chung. Đây là chủ yếu tâm tán phân biệt giả lập là cảnh tỷ lượng. Tất cả tâm định lìa khỏi sự phân biệt này, đều gọi là hiện lượng. Dù "duyên" các pháp khổ, vô thường, v.v... mỗi pháp cũng đều vì có khác, nên gọi là Tự tướng. Chân như dù được sáng tỏ bởi tướng chung, nhưng vì tự thật tánh của các pháp này, vì tự có tướng, nên cũng chẳng phải tướng chung, nên chẳng thể dùng không là một, không là khác với tất cả pháp, tức gọi là tướng chung. Tự tướng cũng chẳng phải một, khác với tất cả cộng tướng, nên nghĩa này ý nói: "Chung là đối tượng biểu thị rõ tướng chung vô ngã, mỗi mỗi chứng riêng thể là tự tướng, tức có thể chung cho hai quán: Chủ thể đoạn, chủ thể làm sáng tỏ là tướng chung, giải thích là vì Duy thức vô ngã v.v... Y cứ vào pháp đều là tự tướng, vì mỗi nhất pháp, chân lý đều có thể biết rõ". Kinh Duyên Khởi quyển hạ chép: "Thánh trí của chân đế, đối với cảnh chân trí chẳng phải là nghĩa an lập. Vì "duyên" tướng chung, nên gọi là hiện quán ngay. Trong một sát-na do gia hạnh dẫn, nên biết khắp, gọi là "duyên" tướng chung, chẳng phải mỗi pháp diệu lý chân như mà không biết riêng, gọi là tướng chung. Vì Phật Địa tự hội nhập, nên không trái nhau"."

Hỏi: "Các phiền não này từ đâu mà nói dứt trừ?"

Đáp: "Từ tương ưng kia và vì đối tượng duyên, nên phiền não có thể dứt trừ. Vì sao? vì đạo đối trị sinh, phiền não không khởi, được pháp vô sinh. Cho nên, mới gọi đoạn. Tương ưng với đoạn kia, do hạt giống phiền não trong bổn thức đều dứt hết. Khi tâm v.v... khởi không có phiền não, đều gọi là tương ưng đoạn. Tương ưng đoạn xong, vì không còn "duyên" cảnh, nên từ đối tượng duyên cũng gọi là đoạn, vì không có khả năng trói buộc tâm, ràng buộc đối tượng duyên.

Văn này nói theo đoạn chướng phiền não."

Việc đoạn trừ của Bồ-tát: Do tu chỉ quán năng dứt trừ phiền não. Do tu hai quán này, vì đối với vô tướng, nên các tướng ràng buộc đều được giải thoát. Vì ràng buộc, giải thoát lẫn nhau, nên các ràng buộc thô nặng cũng được giải thoát, nên Đức Thế Tôn nói: "Sự ràng buộc nhau, ràng buộc chúng sinh cũng do sự ràng buộc thô nặng, khéo song tu chỉ quán, mới đều giải thoát."

Hỏi: "Thế nào là thứ lớp dứt trừ các phiền não?"

Đáp: "Nghĩa là người tại gia, đầu tiên, nên dứt trừ sự nghiệp bất thiện và các ác kiến. Tiếp theo, và sau, nên dứt chướng ưa thích xuất gia, gọi là ba thứ: Dục, nhiễu, hại, tầm tư; tiếp theo, và sau, nên dứt trừ tâm bất định, nghĩa là chướng Tam-ma-địa: tức ba thứ quyến thuộc, cõi nước và không chết, đều tầm tư. Kế là, đoạn được chướng tác ý, nghĩa là phẩm ưa xa lìa các thô nặng của thân. Kế là dứt trừ phiền não do kiến đạo; tiếp theo, đoạn phiền não do tu đạo; tiếp theo, đoạn thuộc về khổ, thuộc về lo, thuộc về vui, thuộc về mừng, thuộc về xả, phiền não chướng ngại các định. Tiếp theo sau, là có riêng, nên đoạn trừ các chướng của phẩm sở tri chướng. Do thứ lớp trước, nên dứt trừ hai chướng." Hỏi: "Kiến đạo, tu đạo, gọi là đạo chánh đoạn, cần gì đốn, cần gì Tiệm?"

Đáp: "Sẽ chỉ bày rõ ràng trong chương Kiến Đạo".

-Nghĩa hai đế:

Sự sâu mầu của hai đế, chẳng phải đơn giản mà nói được tường tận. Hãy thuật lại sự ghi nhận cương yếu về ba môn phân biệt:

1/ Nêu danh, giải thích thể 2/ Sự cạn, sâu của ba thừa

3/ Hỏi đáp gồm thâu nhau.

Môn đầu có hai:

1/ Nêu danh.

2/ Giải tích thể.

Trong danh có hai: Trước là nêu, sau giải thích. Trong nêu, lại có hai: Đầu tiên, là chung; sau là riêng.

Nêu tên chung: Trong kinh Thắng-man; "chỉ lập một đế, cuối cùng chân thật, vì không thể hư hoại."

Trong kinh Nhân Vương, nói chung hai đế.

Nhân, pháp đều có sự hơn kém khác nhau.

Hai đế trong kinh Niết-bàn đều có hai đế chân, tục; vì mỗi đế đều có trí trung, thượng.

Hai đế biên và trung trong Hiển Dương, đều có ba, vì nhờ hành mà hiển, v.v... có khác nhau.

Du-già, Duy thức, cả hai đều có bốn. Dưới đây, sẽ giải thích rộng:

1/ Thế tục đế trong tên chung này, cũng gọi là đế ẩn, hiển.

2/ Thắng nghĩa đế, cụm danh từ cũ, gọi là Đệ nhất nghĩa đế, cũng gọi là Chân đế.

Nêu tên riêng: Nay, nói về hai đế có, không, "thể" khác nhau, nghĩa sự lý khác, nông, sâu không đồng. Vì giải thích chỉ thú đều khác, nên đối với hai đế, mỗi đế đều có bốn lớp, cũng gọi hai đế danh sự. Hai đế sự, lý; hai đế cạn, sâu; Giải thích chỉ thú hai đế.

Thế tục đế có bốn tên gọi:

1/ Thế tục đế thế gian, cũng gọi đế hữu danh, vô thật.

2/ Thế tục đế đạo lý, cũng gọi đế tùy sự sai biệt.

3/ Chứng đắc thế tục đế, cũng gọi phương tiện an lập đế.

4/ Thắng nghĩa thế tục đế, cũng gọi giả danh, chẳng phải an lập đế.

Luận Hiển Dương chép: "Bốn thứ tục đế đều là an lập, ba thứ trước rất dễ hiểu".

- "Thế nào là thứ tư? Cũng gọi an lập?"

- "Tánh của Thắng nghĩa đế, tự nội tại đã chứng. Vì muốn thuận theo dẫn sinh trí kia, nên y cứ theo tục để an lập. Gọi là thắng nghĩa tục."

Ba tướng đầu tiên, có thể nghĩ định thích nghi.

Thắng nghĩa thứ tư, giả gọi thi thiết.

Thắng nghĩa đế có bốn tên gọi:

1/ Thế gian Thắng nghĩa đế, cũng gọi là thể dụng, làm sáng tỏ hiện đế.

2/ Đạo lý Thắng nghĩa đế, cũng gọi là nhân quả sai biệt đế.

3/ Chứng đắc Thắng nghĩa đế, cũng gọi Y môn hiển thật đế.

4/ Thắng nghĩa, Thắng nghĩa đế, cũng gọi phế thuyên đàm chỉ đế.

Ba tên gọi trước là An lập Thắng nghĩa; một loại thứ tư, gọi là phi an lập thắng nghĩa.

Sau, là giải thích tên gọi:

Đầu tiên là giải thích tên chung; sau, là giải thích tên riêng.

Giải thích tên chung: Hộ pháp giải thích: Thế, nghĩa là che giấu, có thể hủy hoại. Tục, gọi là hiện rõ ràng, nghĩa tùy thuộc dòng đời; đế lý này, lẽ ra gọi là ẩn hiển đế, che giấu lý "không", có tướng hiện rõ, như thắt chiếc khăn tay làm thành vật nhỏ v.v..., giấu chiếc khăn tay cũ, tướng thô sẽ biểu hiện rõ. Thế tục này cũng giống như vậy. Nay, thuận theo danh xưa, gọi là Thế tục đế. Tiếng Phạm là: "Tam-phật-túc-để", nên dùng nghĩa để giải thích, gọi là Ẩn hiển đế. Lại nữa,, tánh đọa, khởi tận, gọi là Thế. Thể, tướng hiện rõ, gọi là Tục. Thế tức là tục, gọi là Thế tục, thuộc về trì nghiệp thích. Hoặc nghĩa tục của thế gian, cũng không trái. Đế: Nghĩa là thật, có cái "có" như thật, không có cái "không" như thật. Có đều hư, gọi là Đế; thế tục tức đế, thuộc về trì nghiệp thích.

Đế của thế tục, là Y sĩ thích, Thắng, nghĩa là thù thắng, có hai nghĩa:

1/ Danh nghĩa của cảnh giới.

2/ Danh nghĩa của đạo lý.

Thắng nghĩa thứ tư, các luận phần nhiều nói: "Thắng, tức là nghĩa, trì nghiệp thích danh. Hoặc bốn thắng nghĩa, đều là nghĩa của thắng, thuộc về y sĩ thích."

Luận chép: "Hai tánh y tha, viên thành, tùy thuộc đối tượng thích ứng của hai tánh đó, vì cảnh của hai trí căn bản, và Hậu đắc, cho nên các giáo phần nhiều dùng thể trội hơn của chân như, trì nghiệp được danh; thật, chung cho Y sĩ thích.

- "Chân trí vô lậu kia thuận theo đế nào?"

- "Cũng lấy sự vượt hơn làm nghĩa, chân như làm cảnh, chung cho Hữu tài thích."

Thắng nghĩa thứ tư, phần nhiều dựa vào danh nghĩa đạo lý: Bỏ giải thích, bàn bạc chỉ thú chẳng phải cảnh giới. Danh nghĩa cảnh giới của ba Thắng nghĩa trước, Đế là thật nghĩa; sự sự như thật sự; lý là lý như thật; sự, lý không sai lầm, gọi là Đế. Thắng nghĩa tức là đế, đế của thắng nghĩa.

Hai cách giải thích như trước, dù không có giáo thuyết, nhưng hai thứ cũng được gọi là Thánh đế, như bốn Thánh đế, mà Thánh giả có thể biết rõ sự lý "có", "không", đều không, sai lầm, gọi là Đế. Kế là, giải thích về tên riêng: Thế gian, thế tục: Che giấu chân lý (sự thật) hợp với cái có của tình đời, rơi vào trong sự giả dối, ngụy tạo, gọi là Thế gian. Thói phàm đều gọi là "Có", dựa vào tình gọi là giả thuyết, gọi là đạo lý thế tục. Thế tục: là tùy thuộc vào nghĩa kia kia, lập ra pháp uẩn v.v..., gọi là đạo lý, sự tướng biểu hiện rõ ràng khác nhau, gọi là Thế tục.

Chứng đắc thế tục: lập ra sự khác nhau, của nhân quả nhiễm tịnh, khiến cho kẻ phàm tục kia được thú nhập, gọi là chứng đắc; có tướng mạo dễ biết, gọi là Thế tục.

Thế tục thắng nghĩa: Diệu xuất mọi pháp, là "sở tri" của bậc Thánh, gọi là Thắng nghĩa. Tướng giả được an lập, chẳng phải thể ly ngôn, gọi là Thế tục. Thế gian ở đây, tức Thế tục đế; cho đến Thắng nghĩa tức thế tục đế, đều là trì nghiệp thích.

Thắng nghĩa thế gian: Sự, tướng thô hiển, vẫn có thể phá hoại, gọi là thế gian, cũng là chỗ biết của bậc Thánh, vượt qua thế tục thứ nhất, gọi là Thắng nghĩa.

Thắng nghĩa đạo lý: Biết đoạn, chứng, tu sự khác nhau của nhân, quả, gọi là Đạo lý. Cảnh trí vô lậu vượt qua hai tục ở trước, gọi là thắng nghĩa.

Thắng nghĩa chứng đắc: Thánh trí y cứ vào giải thích môn "không", với lý lẽ rõ ràng, gọi là chứng đắc. Phàm ngu không suy lường, trắc nghiệm được, vượt hơn ba tục trước, gọi là Thắng nghĩa.

Thắng nghĩa, thắng nghĩa: Thể mầu nhiệm, lìa ngôn ngữ, việt hơn mọi pháp, gọi là Thắng nghĩa. Thánh trí chứng nội tại, vượt hơn bốn tục trước, lại gọi Thắng nghĩa. Thế gian ở đây tức là thắng nghĩa đế, cho đến thắng nghĩa tức thắng nghĩa đế, đều là trì nghiệp thích; hoặc đế của thắng nghĩa, y sĩ thích không có lỗi.

Tiếp theo, là nêu ra thể của đế:

Thể của thế tục thứ nhất: Luận Hiển Dương chép: "Cái gọi là đã an lập ngã, hữu tình, chiếc bình, đoàn quân, khu rừng, v.v... hoặc không có thật thể, hoặc thật thể vô, chỉ có tên gọi hữu tình, đều không có thể tánh. Nhưng chung cho hai pháp có dụng, không có dụng: Chiếc bình v.v... có công dụng; "ngã" v.v... "không có" dụng. Niết-bàn quyển 13 chép: "Có danh, không có thật, như "ngã", chúng sinh, cho đến bánh xe lửa xoay vòng và năm thứ pháp thế gian như: Danh, cú, v.v... đó gọi là Thế đế. Chúng sinh v.v... chẳng có công dụng. Thể của bánh xe lửa là "không". Về thể của thế tục thứ hai, luận Du-già chép: "Nghĩa là uẩn, xứ, giới v.v... đã an lập". Kinh Niết-bàn cũng chép: "Các ấm, giới, nhập gọi là Thế đế, tức sự thể của các pháp hữu vi, vô vi, có thể dụng riêng, khác với tục ban đầu."

Thể của thế tục thứ ba: Luận Hiển Dương chép: "Cái gọi là đã an lập quả dự lưu v.v... và nơi sở y, tức quả của các Thánh, lý Tứ đế, v.v…"

Kinh Niết-bàn cũng chép: "Có tướng của tám khổ, gọi là thế đế. Thể của thế tục thứ tư: Luận Dugià chép: "Tức tánh của Thắng nghĩa đế đã được an lập." Niết-bàn chép: "Hoặc đốt, hoặc cắt, hoặc chết, nếu hư hoại thì gọi là thế đế. Do có thể đốt, cắt, v.v... không có tướng ngã, pháp v.v... thường, nhất, tức hai vô ngã, gọi là Thế tục. Thể của thế tục thứ nhất, giả gọi là an lập. Thể của ba tục sau, có tướng an lập.

Thể của Thắng nghĩa thứ nhất: Thành Duy Thức chép: "Nghĩa là sự uẩn, xứ, v.v..." Niết-bàn cũng chép: "Có danh, có thật, gọi là uẩn, xứ, giới v.v... của nghĩa thứ nhất, cũng là Thắng nghĩa.

Thể của Thắng nghĩa thứ hai: Thành Duy Thức chép: "Nghĩa là sự thể của nhân quả bốn đế v.v..." Niết-bàn cũng chép: "Khổ, tập, diệt, đạo gọi là Đệ nhất nghĩa đế".

Thể thắng nghĩa thứ ba: Thành Duy Thức chép: "Y cứ vào môn giải thích, làm sáng tỏ chân như về hai không."

Niết-bàn cũng chép: "Không có tướng mạo tám khổ, gọi là nghĩa thứ nhất, vì quán chung các pháp là hai vô ngã, nên không có khổ v.v... gọi là thắng nghĩa."

Thể của thắng nghĩa thứ tư: Luận Du-già chép: "Nghĩa là phi an lập nhất chân pháp giới."

Niết-bàn cũng chép: "Thể thật: Tức là Phật tánh hư không của Như Lai." Lại nói: "Không có đốt, cắt v.v... gọi là nghĩa thứ nhất, vì không dựa vào vô ngã mà làm rạng rỡ chân, nên ba thắng nghĩa trước vì có tướng, cho nên an lập. Thắng nghĩa thứ tư, vì không có tướng, nên phi an lập. Một tục tâm đầu tiên, ngoại cảnh không có, dựa vào tình mà đặt tên, gọi là thế tục. Sự đã thay đổi tâm tục đế thứ hai; lý đối tượng biến đổi của tâm hai tục sau, lập ra sự khác nhau tức ba chân trước; chân thứ tư kia, chỉ chứng trí nội, chẳng phải lý thay đổi của tâm, tùy thuộc đối tượng thích ứng của tâm, tức là ba tánh."

Từ trên đến đây, thứ nhất, là làm sáng tỏ tên gọi, giải thích về thể.

Thứ hai, là môn cạn sâu của ba thừa: trong đó có hai: Đầu tiên, là giải thích về ba thừa, sau, làm sáng tỏ sâu cạn.

Nhị thừa tự nói: "Dù không tạo ra hạnh quán hai đế, nhập chân, nhưng hiện nay nói ở Nhị thừa kia cũng đã chứng sinh không. Lúc quán gia hạnh, là đã cho phép quán chân, tục." Niết-bàn chép: "Thế đế, đệ nhất nghĩa đế, vì đều có trí phẩm trung, trí phẩm thượng, nên biết được người thế đế, gọi là Trí trung. Phân biệt thế tục vô lượng, vô biên, chẳng phải "trí" của các Thanh văn, Duyên giác, đây gọi là Trí thượng. Đây chính là trí thượng, trí trung của tục đế. Tất cả hành vô thường, các pháp vô ngã, Niết-bàn vắng lặng, là nghĩa thứ nhất, đó gọi trí trung; biết nghĩa thứ nhất vô lượng, vô biên, không thể tính kể, các Thanh văn, Duyên giác không thể biết được, là nghĩa thứ nhất, đây gọi là trí thượng. Trong Thắng nghĩa này, dùng trí chung, riêng làm thượng. Tất cả trí chung là trung, như dưới đây sẽ nói rộng:

Đồng với câu hỏi của kinh Nhân Vương: "Trong thế đế, có đệ nhất nghĩa đế không?"

-"Nếu có đế thì không phải một; nếu không có trí thì sẽ không phải, tức chứng tỏ nhân, pháp đều có hai đế, vì nhân đối nhau, khác với sinh là phẩm hạ. Nhị thừa là trung, Như Lai là thượng. Do nhân, pháp này đều chia làm hai lớp, cho nên, ba thừa đều có hai đế."

Hai đế của Thanh văn thừa: Thế tục đế thế gian thứ nhất, nghĩa là đã an lập "ngã", hữu tình, bình, đoàn quân, khu rừng, v.v... Trong đây, chỉ nhận lấy thật ngã đã chấp, không nhận lấy thật pháp. Lập ra chấp thật pháp, vì không ngăn quả, nên cũng không nhận lấy pháp thật.

Thế tục đế của đạo lý thứ hai, đó là sự thể của ba khoa: Uẩn, xứ, giới đã được an lập, vì Thanh văn phần nhiều là quán ba nghĩa.

Thứ ba, chứng đắc thế tục đế, đó là đã an lập lý bốn Thánh đế, vì dựa vào tu chứng đắc gia hạnh này.

Thế tục đế thắng nghĩa thứ tư, đó là chân như sinh không đã được an lập, vì y cứ vào môn sinh không để chứng chân như.

Thắng nghĩa đế thế gian thứ nhất, đó là pháp ba khoa v.v... đã được an lập.

Thắng nghĩa đế của đạo lý thứ hai. Nghĩa là lý bốn Thánh đế đã an lập, Thắng nghĩa đế của chứng đắc thứ ba, đó là chân như sinh không đã lập.

Thắng nghĩa đế của thắng nghĩa thứ tư, đó là sinh không vô ngã phi an lập, nhất chân pháp giới, bỏ giải thích, bàn chỉ thú.

Tướng an lập, phi an lập trong đây, vì so sánh với trước nên biết, thế tục đế thứ ba, thứ hai trong các luận, phần nhiều đều dựa vào cảnh giới Thanh văn, mà nói là hai đế của Độc giác thừa: Thừa này và thể mà Thanh văn đã chấp, đã chứng, mặc dù không khác nhau, nhưng căn cơ có thượng, hạ, vì công hạnh có cạn, sâu nên thành khác nhau.

Thế tục đế thế gian. Nghĩa là đã an lập chiếc bình, đoàn quân, khu rừng, "ngã", hữu tình,... Đã không khác với đối tượng chấp của Thanh văn, cũng chỉ nhận lấy thật ngã v.v... của chấp kia, chẳng phải chấp pháp v.v... vì không chướng ngại quả.

Thế tục đế của đạo lý thứ hai: Nghĩa là đã an lập pháp trôi lăn, v.v... của mười hai chi "hữu". Vì Độc giác thường "duyên" với pháp này làm cảnh.

Thế tục đế chứng đắc thứ ba: Nghĩa là đã an lập quán sát thuận, nghịch của mười hai chi "hữu" tạp nhiễm. Và, đối với nhân quả thuận, nghịch, v.v… của phẩm tịnh.

Bảy mươi bảy trí, pháp bốn mươi bốn trí..., vì y cứ vào gia hạnh này, mà tu chứng đắc.

Thế tục đế thắng nghĩa thứ tư. Nghĩa là chân như sinh không đã an lập.

Thắng nghĩa đế thế gian thứ nhất, nghĩa là chi "hữu" trôi lăn đã được an lập.

Thắng nghĩa đế của đạo lý thứ hai. nghĩa là quán sát thuận, nghịch v.v… của phẩm tịnh; thuận nghịch tạp nhiễm của mười hai chi "hữu", bảy mươi bảy trí, bốn mươi bốn trí, v.v...

Thắng nghĩa đế chứng đắc thứ ba. Nghĩa là "sinh không" chân như đã được an lập.

Thắng nghĩa đế của thắng nghĩa thứ tư: Nghĩa là chẳng phải an lập vô ngã, sinh không, bỏ giải thích, bàn luận chỉ thú nhất chân pháp giới. Đã chứng ngộ cùng với Thanh văn là một; hai thắng nghĩa sau chẳng khác với Thanh văn. Lại nữa, đối tượng ngộ, đối tượng chấp dù đồng với Thanh văn, nhưng văn không đồng. Hành, duyên cũng khác. Lại, trí thượng gồm cả trí hạ; hạnh duyên của Thanh văn, tất nhiên, vì là pháp Độc giác, nên lý bốn Thánh đế của pháp uẩn v.v... cũng là cảnh Độc giác. Trí hạ không gồm trí thượng, mười hai chi "hữu" trôi lăn, hoàn diệt. Bảy mươi bảy trí v.v... trừ căn cơ nhạy bén Đại thừa, chẳng phải là cảnh của Thanh văn khác.

Hai đế của Bồ-tát thừa: đã không đồng với căn tánh của Nhị thừa, hạnh duyên có khác, ngộ, chấp cũng khác.

Thế tục đế thế gian thứ nhất. Nghĩa là đã an lập bình, đoàn quân, khu rừng, "ngã", hữu tình v.v... Trong đây, nhận lấy chung chấp thật nhân, pháp, vì chướng ngại quả của mình.

Thế tục đế đạo lý thứ hai, nghĩa là đã an lập mười sáu việc khéo léo. Luận Biện Trung Biên quyển hai, Kinh Tạng Bồ-tát quyển 17 chép: "1/ Uẩn; 2/ Giới; 3/ Xứ; 4/ Duyên khởi; 5/ Xứ, phi xứ; 6/ Căn; 7/ Đời; 8/ Đế; 9/ Thừa; 10/ Việc khéo léo hữu vi, vô vi.".

Bồ-tát "duyên" theo mười thứ này làm cảnh. Trừ chấp ngã, pháp. Luận Du-già chép: "Sáu thứ khéo léo, tức sáu thứ trước trong mười, hoặc nói bảy thứ, lại thêm Đế vào".

Thế tục đế chứng đắc thứ ba, nghĩa là ba tánh, ba vô tánh đã được an lập, lý mầu Duy thức nhờ duyên tánh này làm cảnh mà chứng đắc.

Thế tục đế thắng nghĩa thứ tư. Nghĩa là đã an lập chân như hai "không", Bồ-tát chứng cả hai "không" vì như.

Thế tục đế thế gian thứ nhất, nghĩa là đã an lập mười khéo léo, v.v...

Thắng nghĩa đế đạo lý thứ hai, nghĩa là đã an lập lý ba tánh... Thắng nghĩa đế chứng đắc thứ ba, nghĩa là hai "không" như, y cứ vào môn hai "không" mà chứng đắc.

Thắng nghĩa đế, thắng nghĩa thứ tư: nghĩa là phi an lập hai "không" vô ngã, nhất chân pháp giới, đối tượng ngộ, đối tượng chấp đã khác với Nhị thừa; đối tượng chứng, đối tượng đoạn, riêng, hẹp cũng khác nhau. Trí thượng, tất nhiên gồm nhận lấy trí hạ. Hạnh, cảnh của Nhị thừa, tất nhiên là hạnh cảnh của Bồ-tát, cho nên mười thứ khéo léo gồm thâu cả pháp uẩn... Các luận thường nói thứ hai, là ba tục, ba khoa, bốn đế, để làm thể tánh. Trí hạ không bằng trí thượng, hạnh, cảnh của Bồ-tát chẳng phải sở tri của Nhị thừa. Pháp "không" như ba tánh, ba vô tánh, chẳng phải cảnh của Nhị thừa. Trong hai đế, bốn đế, một tục đế đầu tiên, giả gọi là an lập. Ba thế tục sau, ba thắng nghĩa trước, có an lập tướng.

Thắng nghĩa thứ tư, bỏ giải thích, bàn luận chỉ thú, không có tướng khác nhau, chỉ phi an lập, vì tự nội chứng.

Nói cạn, sâu. Nghĩa là tìm tòi cạn sâu đối với nhân pháp.

Y chỉ nhân, y chỉ pháp, đều chung cho hai đế, bốn đế.

Y chỉ ở chỗ cạn, sâu của con người: Kinh Niếtbàn chép: "Cái biết của người xuất thế, gọi là đệ nhất nghĩa đế; cái biết của người đời, gọi là Thế đế, thế đế tức đệ nhất nghĩa đế. Có phương tiện khéo léo, thuận theo chúng sinh, nói có hai đế, như năm ấm hòa hợp gọi là tên họ gì đó. Phàm phu chúng sinh, tùy thuộc vào tên gọi của chúng, đó gọi là Thế tục đế. Hiểu ấm không có tên họ gì đó; lìa ấm cũng không có tên họ gì đó.

Người xuất thế, như tánh, tướng của họ, mà có thể biết, gọi là đệ nhất nghĩa đế.

Y cứ vào pháp cạn sâu: Trong kinh Niết-bàn có giải thích đủ. Giáo phẩm hạ gồm giáo phẩm trước (sẽ chỉ bày rõ). Như pháp năm uẩn, nếu uẩn, là đối tượng chấp, thì sẽ tùy thuộc vào tình chấp kia, tức là tục thứ nhất. Sự của năm uẩn này, là tục thứ hai; đạo lý nhân quả trên năm uẩn, v.v… tức tục thứ ba. Quán năm uẩn này không có hai thật ngã. Y cứ vào vô ngã mà được sáng tỏ chân lý, tức là tục thứ tư. Vì nói y cứ vào giải thích, biểu thị rõ chân như, nên sự năm uẩn của người kia, tức chân thứ nhất, lý nhân quả là chân thứ hai. Hai "ngã" trong năm uẩn này, không có thời gian nào y cứ vào môn để làm sáng tỏ thật, tức chân thứ ba. Quán năm uẩn, như tự đã chứng nội tại, bỏ giải thích, bàn luận ý chỉ nhất chân pháp Giới, tức chân thứ tư, vì trước trước là thô, sau sau là tế."

Luận Thành Duy Thức quyển bảy chép: "Nếu y cứ vào thế tục, nói lìa ngoài tâm, có tâm sở riêng, tức là tục thứ hai, vì sự khác nhau. Nếu dựa vào thắng nghĩa, tâm sở và tâm chẳng phải "lìa", chẳng phải "tức" tức chân thứ hai, vì đạo lý nhân quả chẳng phải "tức", "lìa". Thế tục thứ ba, so sánh cũng như thế. Nay, đối với chân mà nói. Lại, thứ bảy nói rằng: "Như trước đã nói: "Tướng khác nhau của thức, dựa vào lý thế tục, tức là tục thứ hai, chẳng phải nghĩa chân thắng. Vì tâm, ngôn dứt bặt trong nghĩa chân thắng, tức chân thứ tư.

Lại, Duy thức quyển bảy kia giải thích: "Tự thể của tám thức, chẳng nhất định "một", "khác", tức tục thứ ba. Đối với tâm, ngôn dứt bặt, tức chân thứ tư. Tánh thức luống dối là tục thứ nhất. Tánh thức chân thật, tức chân như thứ tư, tức dùng tục đầu tiên, đối với bốn chân; tục thứ hai đối với ba chân; tục thứ ba đối với hai chân, tục thứ tư đối với nhất chân. Về lý đều như thế. Do y cứ vào lý này, mỗi thứ tìm tòi, từ thô, đến tế, tương đối vì nói, chung cho hai đế bốn đế".

Kế là, môn hỏi đáp gồm thâu nhau, trong đó có hai:

1) Các giáo gồm thâu nhau.

Hỏi đáp, phân biệt các giáo gồm thâu nhau, như kinh Niết-bàn quyển mười ba chép: "Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: "Thuở xưa, Đức Phật đang ngự trong rừng Thi-thủ bên bờ sông Hằng, lúc bấy giờ, Như Lai nhặt nắm lá bảo hỏi các Tỳ-kheo, rằng lá cây đó nhiều hay ít, cho đến pháp chưa được nói, như lá trong rừng."

Ca-diếp hỏi rằng: "Như Lai đã thiếu hiểu vô lượng các pháp. Nếu nhập bốn đế, tức là đã nói; nếu không nhập, thì lẽ ra có năm đế". Đức Phật khen Ca-diếp: "Các pháp như thế, đều đã gồm thâu trong bốn Thánh đế." Ca-diếp lại nói: "Nếu ở bốn đế, thì vì sao Như Lai nói là không nói?"

-Đức Phật bảo: "Này người thiện nam! Dù nhập vào bốn đế, nhưng cũng không gọi là nói. Vì sao? Vì người thiện nam biết Thánh đế có hai thứ trí:

1/ Trung. 2/ Thượng.

Trung, nghĩa là trí Thanh văn, Duyên giác; Thượng nghĩa là trí chư Phật, Bồ-tát. Này người thiện nam! Biết nỗi khổ của các ấm, gọi là trí trung. Phân biệt các ấm có vô lượng tướng, đều là các khổ, Nhị thừa không thể biết, đó gọi là trí thượng. Ở kinh kia, ta đã từng không nói, xứ, giới và sắc, thọ, tưởng, hành, thức, đây là khổ đế và tập, diệt, đạo đều nói có trí trung và trí thượng. Này người thiện nam! Người biết thế đế, đó gọi là trí trung. Vì biết tướng chung, nên phân biệt thế đế có vô lượng, vô biên, Nhị thừa không thể biết được, đó gọi là trí thượng, vì biết tướng riêng, nên biết tất cả hành vô thường v.v... là trí trung, đệ nhất nghĩa. Ví biết chung ba pháp ấn, nên biết đệ nhất nghĩa vô lượng, vô biên, không thể tính kể, Nhị thừa không thể biết được, đó gọi là trí thượng."

Xưa nay giải thích rằng: Tức vô lượng, vô biên muôn đức như số cát sông Hằng.

Văn kinh trên đây nhân Ca-diếp hỏi nguyên do của hai đế. Trong lời đáp của Đức Thế Tôn, chứng tỏ mỗi pháp đều có trí thượng, trung, vì nói hai đế khác nhau, nên đế, nghĩa là thật. Phàm phu không hiểu rõ, chỉ bậc Thánh mới chứng. Trí phàm phu "duyên" mà không thể chứng, gọi là trí hạ. Do đối với trí kia, chỉ nói y cứ vào hai trí trung, thượng, lập ra hai đế. Y cứ vào thật mà nói, pháp có hơn, kém, trí có sâu, cạn, chỉ lập hai đế. Nay thân của phàm vị, trí nói trung, thượng, thật chứng chỉ hai. Nếu tướng chung nói là thượng, hạ của thân Nhị thừa, tức vì thuộc về hạ, thượng, nên như năng lực của trí thượng, hạ căn, tùy thuộc vào đối tượng thích hợp của trí ấy, kế đây, kinh sẽ chỉ bày rõ.

Văn-thù bạch rằng: "Trong nghĩa thứ nhất có thế đế hay không? Trong thế đế, có đệ nhất nghĩa hay không? Nếu có thì tức là một đế; nếu không có thì sẽ chẳng lẽ Phật nói dối ư?" Đức Phật nói:

- "Này người thiện nam! Thế đế tức đệ nhất nghĩa đế. Đây là nói nghĩa hai đế không rời nhau."

- "Bạch Đức Thế Tôn! Nếu vậy, thì sẽ không có hai đế?" Phật nói:

- "Này người thiện nam! Có phương tiện khéo léo, thuận theo chúng sinh, nói có hai đế. Này người thiện nam! Nếu thuận theo ngôn thuyết thì có hai thứ:

1/ Pháp thế.

2/ Pháp xuất thế.

Này người thiện nam! Như "sở tri" của người xuất thế, gọi là đệ nhất nghĩa đế. Cái biết của người đời, gọi là thế đế. Đây là nói y cứ ở trí con người có cạn, sâu, nhằm biểu thị rõ hai đế khác nhau. Này người thiện nam! Năm ấm hòa hợp, gọi là tên A. Phàm phu chúng sinh, tùy thuộc vào tên gọi của chúng, đó gọi là thế đế, ấm không có tên gọi của tên A; lìa ấm cũng không có tên gọi của tên A đó. Người tu xuất thế, như tánh tướng của họ, mà nhận biết được, gọi là Đệ nhất nghĩa đế.

Lại nữa, này người thiện nam! Hoặc có pháp có danh có thật; hoặc có pháp có danh không có thật. Này người thiện nam! Có danh không có thật, tức là thế đế. Có danh có thật, là Đệ nhất nghĩa đế.

Này người thiện nam! Như ngã, cõi Dục, mạng sống lâu, tri kiến, dưỡng dục trượng phu, thọ giả, tác giả; ánh lửa lúc nắng nóng, thành Càn-thát-bà, lông rùa, sừng thỏ, vòng bánh xe lửa, các ấm, giới, nhập, đó gọi Thế đế. Khổ, tập, diệt, đạo, gọi là Đệ nhất nghĩa đế.

Này người thiện nam! Pháp thế gian có năm thứ:

1/ Danh thế.

2/ Câu thế.

3/ Phược thế.

4/ Pháp thế.

5/ Chấp vướng mắc thế.

- "Này người thiện nam! Thế nào là danh thế?" Bình, áo, xe cộ, nhà cửa, các vật như thế, gọi là

Thế."

- "Câu Thế là sao?"

- "Một bài kệ bốn câu. Kệ như thế v.v... gọi là câu thế."

- "Thế nào là Phược thế?"

- "Cuốn hợp, trói buộc, thắt, kết, bó buộc, ràng buộc, chắp tay, đó gọi là phước thế."

- "Thế nào là pháp thế?"

- "Như rung chuông nhóm hợp tăng. Đánh trống, thử binh, thổi vỏ ốc biết giờ giấc, đó gọi là pháp thế."

- "Chấp trước thế là sao?"

- "Như người nhìn xa, có người nhuộm áo, nảy sinh ý tưởng chấp mắc nói: "Sa-môn này, chẳng phải Bà-la-môn. Thấy có sợi dây thắt ngang trên thân, bèn nghĩ là Bà-la-môn, chẳng phải Sa-môn, đó gọi chấp trước thế"."

Nay người thiện nam! Đó gọi là năm thứ pháp thế. Này người thiện nam! Nếu có chúng sinh nào đối với năm thứ pháp thế đó mà tâm không điên đảo, nhận biết như thật, đó gọi là Đệ nhất nghĩa đế. Lại nữa, này người thiện nam! Hoặc đốt, cắt; hoặc chết, hư hoại, đó gọi là thế đế. Không có đốt, không có cắt, không có chết, không có hư hoại, đó gọi là đệ nhất nghĩa đế.

Lại nữa, này người thiện nam! Có tướng mạo của tám khổ, gọi là Thế đế. Không có sinh, không có già, không có bệnh, không có chết, không có yêu mà phải chia lìa; không có oán ghét, mà phải chạm mặt nhau; không có mong cầu mà không được; không có năm ấm lừng lẫy, đó gọi là Đệ nhất nghĩa đế.

Lại nữa, này người thiện nam! Ví như có một người có nhiều kỹ năng, nếu khi người ấy chạy, thì gọi là người chạy; hoặc lúc quơ cắt, thì gọi người cắt cỏ. Nếu tạo ra thức uống ăn thì gọi là người nấu ăn; nếu sửa sang cây rừng, thì gọi thợ công, khi luyện vàng bạc, thì gọi là thợ kim hoàn, thợ bạc.

Như thế, một người có nhiều tên gọi, Pháp cũng giống như thế, thật ra là một mà có nhiều tên gọi. Y cứ nhân cha mẹ hòa hợp mà sinh, gọi là thế đế. Mười hai nhân duyên hòa hợp sinh, gọi là đệ nhất nghĩa đế.

Xưa nay: "Năm ấm hòa hợp, cho đến bảy phen sau, đương pháp, giải thích về tướng, trong đó, phần thô có hai:

1/ Đại. 2/ Tiểu." Phần tế có bốn:

1/ Lập tông tánh, tức trong Tiểu thừa, nói các pháp cạn thấp đều có "thể tánh", Tát-bà-đa, v.v...

2/ Tông Phá tánh, tức trong Tiểu thừa, nói sâu các pháp, giả có vô tánh, như Luận Thành Thật, v.v…

3/ Tông Phá tướng, tức trong Đại thừa, đả phá tướng nhân duyên của các pháp nông cạn, giảng nói các pháp rốt ráo vắng lặng. Trung Luận, Bách luận, v.v...

4/ Tông Hiển thật, tức trong Đại thừa nói sâu về tình vọng đã nhận lấy các pháp, rốt ráo không có pháp giới chân thật, thường trụ, không hư hoại, Niết-bàn, v.v...

Trong bốn phần này đều có hai đế. Trong bảy phiên trên, ba phiên đầu là hai đế đã được giải thích trong tông lập tánh kia. Tiếp theo, hai phiên là hai đế đã được giải thích trong tông Phá tánh kia. Tiếp theo, hai đế đã được giải thích trong tông phá tướng; sau, một phiên hai đế đã được giải thích trong tông làm sáng tỏ thật.

Nay, trong văn này, vì dùng sâu gồm thâu cạn nên giải thích đầy đủ.

Y cứ vào tông đầu tiên, y chỉ Bà-sa v.v... nói đủ có bảy lượt, không cần dẫn dài dòng.

1/ Phân biệt tình lý: Vọng tình đã chấp lấy "ngã", chúng sinh, sự sống lâu v.v... dùng làm Thế đế. Lý vô ngã là Đệ nhất nghĩa.

2/ Phân biệt giả thật: Bình, y phục, xe cộ, nhà cửa, đoàn quân, khu rừng, v.v…

Tất cả pháp giả như thế, gọi là "có", gọi là Thế đế. Các Pháp thật như: Ấm, giới, nhập v.v..., gọi là Đệ nhất nghĩa, nên Tạp Tâm chép: "Nếu khi phân biệt pháp, xả danh, tức thuyết..., phân biệt không có đối tượng xả (pháp để xả), là nói nghĩa thứ nhất.

3/ Phân biệt về sự lý: Sự ấm, giới, nhập v.v..., gọi là Thế đế. Đạo lý pháp tướng của mười sáu hạnh kia, là nghĩa thứ nhất.

4/ Phân biệt sự ràng buộc, giải thoát: khổ, tập là Thế; diệt, đạo là nghĩa bậc nhất.

5/ Phân biệt hơn, kém: Khổ, tập và không phải thượng trong đạo lý, đồng gọi là thế đế. Diệt đế trội hơn, nói là bậc nhất.

6/ Phân biệt "không", "hữu": Trong mười sáu hạnh bốn đế kia, trừ "không", vô ngã, đều gọi là Thế đế. "Không" và nhiệm mầu trong lý vô ngã, nói là bậc nhất.

7/ Phân biệt hạnh, giáo, gọi là Thế đế; hạnh gọi là bậc nhất, nên Tạp Tâm chép: "Kinh, luật, A-tỳđàm là gọi là chánh pháp tục. Ba mươi bảy phẩm giác, gọi là nghĩa bậc nhất.

Nay đây, chỉ trình bày ba môn đầu tiên, môn còn lại, lược bỏ không nói.

Thứ nhất, trước là y cứ vào tình, lý để chia làm hai: Năm ấm hòa hợp, gọi là A, B. Thông thường, tùy thuộc đối tượng gọi, chấp có ta, người, đó gọi là Thế đế. Bậc Thánh hiểu ấm không có tên A, B, lìa ngoài ấm, cũng "không có", gọi là đệ nhất nghĩa.

Thứ hai, là y cứ vào giả, thật, để chia làm hai: Trước, chia ra hai pháp, có danh, có thật, là pháp thật kia. Ấm, giới, nhập v.v... dựa vào danh, tìm cầu pháp có "thể", vì có thể được, nên nói là có thật. Có danh, không có thật là pháp giả kia, như Bình, y phục, xe pháo, nhà cửa, đoàn quân, v.v...

Tất cả pháp giả như thế, lập ra tên chung; vì tìm tòi không có "tự thể", nên nói là không có thật. Dưới đây, sẽ y cứ vào đế, nhằm nói giả là Thế đế; thật là Bậc nhất.

Thứ ba, là y cứ vào sự lý, chia làm hai: Sự là thế đế; lý là bậc nhất. Sự có giả, thật, như "ngã", chúng sinh, cho đến sừng thỏ, bánh xe lửa xoay vòng v.v... là sự giả; các ấm, giới, nhập là sự thật.

Tất cả pháp này, đồng gọi là Thế đế. Đạo lý pháp tướng của khổ, tập, diệt, đạo là nghĩa Bậc nhất.

Tiếp theo, dưới đây, sẽ y cứ vào tông Phá tánh kia, để nói về hai đế, trong đó có hai môn: Môn trước, y cứ vào "không" "hữu" pháp giả kia, để nói về hai đế. Môn sau, y cứ vào "không", "hữu" của pháp thật kia, để nói về hai đế.

Y cứ vào môn trước, trước nói Thế đế. Pháp thế có năm; sau, đối với năm pháp này, tâm không có điên đảo.

Gọi là bậc nhất: Biết tánh kia "không", không cũng là thật tánh, gọi là không có điên đảo.

Y cứ vào môn sau, hoặc đốt, cắt v.v... gọi là Thế đế. Nghĩa là các pháp năm ấm, đồng gọi là Thế đế. Không có đốt, cắt v.v... gọi là Bậc nhất: Nghĩa là các pháp tánh "không", gọi là đệ nhất nghĩa.

Tiếp theo, dưới đây, y cứ vào tông Phá tướng kia, để nói về hai đế, tướng của tám khổ, dùng làm thế đế; không có tướng tám khổ là Đệ nhất nghĩa.

Hỏi: "Hai đế mà tông này đã nói, so với cách biện minh ở trước đâu có khác nhau phải không?"

- Xưa nay giải thích rằng: "Thuyết trước nói nhân duyên giả có, dùng làm Thế đế; tông này nói cái có của tướng luống dối, để làm Thế đế. Tông trước nói "Không" của vô tánh làm đệ nhất nghĩa; tông này nói "không" của vô tướng làm Đệ nhất nghĩa, có sự khác nhau này thôi.

Tiếp theo y cứ vào tông Hiển Thật thứ tư để nói về duyên khởi sự tướng của hai đế, dùng làm Thế đế. Duyên khởi pháp tánh, gọi là Đệ nhất nghĩa.

Trước dụ, sau hợp."

- "Tướng của dụ thế nào?"

- "Ví như một người tùy dùng phần nhiều. Nếu khi người ấy chạy thì sẽ gọi là người chạy, lúc quớ cắt, gọi là người quơ cắt, Bên cha mẹ sinh đã nói như thế, gọi là Thế đế; Bên sinh của nhân duyên, gọi là Đệ nhất."

Xưa nay giải thích: "Nhân duyên sinh, thông thường có sáu lớp:

1/ Sự do nhân duyên sinh, như Tỳ-đàm nói.

2/ Pháp do nhân duyên sinh, chỉ pháp số của khổ, vô thường, sinh diệt.

3/ Giả nhân duyên sinh, như Thành Thật nói.

4/ Nhân duyên sinh ra do tướng vọng, cũng như huyễn hóa.

5/ Nhân duyên sinh ra do tưởng giả dối, như đối tượng thấy trong mộng.

6/ Nhân duyên chân thật sinh ra, cái gọi là mười hai nhân duyên của Phật tánh, như nước nổi sóng, năm duyên sinh trước đều là Thế đế. Nay, vì y cứ thứ sáu, nên gọi là bậc nhất.

Cách giải thích trên dù chuyên nhất, nhưng nay giải thích riêng:

Hai đế trong đây chỉ nói về hai đế trong tông Hiển Thật, không nói hai đế của Tiểu thừa và Phá tướng, vì Hiển thật tự đã có phá tướng. Các Tiểu thừa chấp hai mươi bộ khác, Đức Phật đâu có lấy cái xa vời để làm tất cả rất vô ích? Nói hai tông tiểu sở hữu hai đế, do đây, nên nói: "Trong bảy phiên sau, phiên đầu tiên là nêu sự, giải thích trước, y cứ vào con người để lập hai đế. Kinh nói: "Phàm phu tùy thuộc vào tên gọi của mình, gọi là Thế đế. Người của xuất thế, như tánh, tướng của họ mà có thể nhận biết được họ, gọi là đệ nhất nghĩa, nên biết rằng, chỉ là làm sáng tỏ lại nghĩa trước, khiến cho biết hai đế y cứ vào con người đối đãi nhau, cũng kiến lập đế; dùng sáu phiên phẩm hạ, y cứ ở pháp hơn, kém đối nhau mà kiến lập. Mặc dù phân biệt sự khác nhau không rõ ràng, nhưng vì nghĩa tìm tòi tức là bốn lớp trong đây. Phiên thứ hai trước có danh, không có thật, là thế tục ấy, tức là tục đầu tiên này, Hiển Dương nói: "Như "ngã", hữu tình, v.v..., chính đồng với đây, có danh, có thật, gọi là đệ nhất nghĩa, tức bốn thứ thắng nghĩa mà luận đã nói, vì đều có "thể" của danh, tức biểu thị rõ "ngã" hữu tình v.v... chỉ là tục, không phải chân thật, rất thấp kém. Pháp khác đều vượt hơn, pháp này có thể là thắng nghĩa. Hoặc chỉ ba khoa đối với "ngã", chúng sinh v.v... có danh, có thật, gọi là đệ nhất nghĩa đế, cũng không trái với lý, vì tướng có thể biết.

Trong phiên thứ ba, như "ngã", chúng sinh, cho đến các ấm, giới, nhập, đó gọi là thế đế.

Bốn đế là Đệ nhất nghĩa: Đây là dùng hai loại, đối với bốn đế lý, đều gọi là thế tục, cho đến quay vòng bánh xe lửa, chỉ có tên gọi là bánh xe lửa kia, không có thể dụng. Pháp lại nói lặp lại là thế tục đế, nhằm biểu thị rõ không chỉ hình thành đối với pháp ba khoa, gọi là thế tục, mà cũng hình thành đối với bốn đế v.v... gọi là Thế tục, nên so sánh với thế tục khác, đều có thể chung hình thành với ấm, giới, nhập v.v... kia, có danh có thể.

Phiên thứ hai trước, do đầu tiên, pháp có danh, không có thể dụng, hình thành ấm, giới, nhập; Pháp ấm, giới, nhập gọi là Chân đế, tức thuộc về nghĩa trội hơn đầu tiên, vì biểu thị rõ nghĩa này chẳng phải chỉ là thắng nghĩa. Lại nữa, dùng ba khoa để hình thành bốn đế, vì sự yếu kém, về lý là tục tức là thế tục thứ hai trong luận; bốn đế tức là Thắng nghĩa thứ hai.

Pháp thế gian trong phiên thứ tư có năm, gọi là thế tục biết. Thế tục như thế, gọi là chân: Biểu thị rõ thế tục đầu tiên, không chỉ "ngã"..., chỉ có danh của "ngã", không có pháp của thể, dụng, mà pháp có dụng, không có thật thể kia, cũng là tục ban đầu. Hiển Dương v.v... chép: "Phòng, nhà, đoàn quân, khu rừng... vì cũng là thế tục đầu tiên, vì ngã v.v... không có thật thể, vì đồng loại rất thấp kém, nên biết không có trái ngược, ở đây, chỉ có uẩn v.v... đều không có pháp danh, câu v.v... chân thật, là nghĩa thứ nhất. Trong bốn thắng nghĩa đều không có nói năm pháp thế. hoặc trong ba khoa, thật sự không có năm pháp này. Trạng thái của phiên này, giống như thuyết nói chẳng phải thứ lớp, vì uẩn, giới, nhập đã nói là chung với chân, e rằng, pháp có dụng, không có "thể" này cũng chung với chân đế.

Vì để chứng tỏ không như vậy, vì giải thích hoài nghi kia, nên nay mới nói.

Trong năm thứ thế, hai thế đầu tiên, là chủ thể giải thích; hai Thế tiếp theo, là đối tượng giải thích; một đời sau, tiêu biểu tướng. Biểu thị rõ chủ thể, đối tượng giải thích, hoặc tình, hoặc sự, đều có giả lập, vì chẳng phải chân thật, nên tạo ra thuyết khác nhau, không còn có nghĩa nào khác.

Trong phiên thứ năm, hoặc đốt, cắt v.v... gọi thế đế...: Một cặp này biểu thị rõ hai vô ngã, gọi là Thế tục. Ngoại đạo, phàm phu chấp "ngã" là thường, nhất, Đức Phật nói là "không" bởi năm uẩn, v.v... có thể đốt, cắt..., vì không có tướng thường, nhất của thật ngã kia, nên là hai vô ngã như đốt, cắt, v.v...

Phiên sau, do vô ngã này hình thành ở lý khổ đế, nói chân đế tức chân thứ ba. Nay lấy chân đế đó đối với chân như nhất thật, chân như không y cứ vào có thể đốt, cắt v.v..., vì môn giải thích rõ ràng, nên tức là thắng nghĩa thắng nghĩa. Hai vô ngã v.v... y cứ vào giải thích, làm sáng tỏ sự thật, gọi là Thế tục. Thuộc về thế tục Thắng nghĩa thứ tư.

- "Không như vậy thì lời nói này có lý giải thích cái gì?"

- Đức Thế Tôn không nói, lời rõ nghĩa, nên chân như nhất thật tức là thắng nghĩa, thắng nghĩa thứ tư.

Trong phiên thứ sáu, tướng tám khổ v.v... gọi là thế. Bốn đế trước đối với uẩn v.v..., gọi là chân. Nay vì đối với hai vô ngã v.v... không có pháp của tướng tám khổ, tức thành thế tục."

Thứ đến, chứng đắc tám khổ thuộc về thế tục, tức là vì lý khổ đế, nên nêu ra nghiêng lệch một nỗi khổ so với ba đế còn lại. Phiên này lẽ ra phải nói là ở phiên thứ năm; còn phiên thứ năm ở trước, lẽ ra phải nói là ở phiên thứ sáu, vì lời nói dễ dàng, nên trước, sau không nhất định.

Trong phiên thứ bảy đã nói pháp, dụ, nhằm nói chung thể của hai đế không có khác nhau. Tùy thuộc ở trí người kia và đối với pháp, "không" "hữu", sự lý cạn sâu, giải thích chỉ thú, vì bốn lớp hai đế hơn kém hình thành ra chân, tục. Người đời chỉ biết mình do cha mẹ sinh ra, gọi là Thế tục.

Người thế tục, nhận biết do nhân duyên sinh, gọi là nghĩa thứ nhất.

Đây là tùy thuộc vào trí con người mà chia làm hai đế: Do cha mẹ sinh, là sự giả thô cạn, gọi là nhân duyên sinh, nghĩa là pháp thật nhỏ nhiệm, sâu sắc, gọi là Thắng nghĩa. Đây là thuận theo pháp để chia ra hai đế.

Nói chung về pháp, dụ, sự khác nhau của hai đế, không còn môn nào khác, xét xem ý kinh, dù có bảy lớp dùng nghĩa mà tìm tòi không khác với luận. Kinh là nghĩa căn bản, y cứ vào pháp tướng để tuyên dương; còn luận là tông ngọn, bẩm thọ lời Phật nói mà thành lý, đâu lại tự trái nhau? Cho dù phát ra từ hoài bão? Nên biết rằng, thuyết mà kinh, luận đã nói không có khác nhau, chỉ do người nhận hiểu, phân biệt không đồng, tạo ra hội ý này về kinh lẽ ra cũng thỏa đáng.

- "Vì sao biết được hình không có đốt, cắt, v.v...?"

- "Tức nhất thật chân như, thuộc về thắng nghĩa thắng nghĩa. Niết-bàn lại nói: "Bồ-tát Ma-ha-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng: "Thật tế mà Đức Thế Tôn đã nói, nghĩa ấy thế nào?" Phật dạy:

"Này người thiện nam! Nói thật đế, gọi là pháp chân. Này người thiện nam! Nếu pháp chẳng phải chân thì sẽ không gọi là thật đế. Này người thiện nam! Thật đế, nghĩa là không có điên đảo, không có điên đảo, mới gọi Thật đế. Này người thiện nam! Thật đế, nghĩa là không có luống dối, nếu có luống dối, thì không gọi là thật đế. Này người thiện nam! Thật đế ấy gọi là Đại thừa; Nếu không phải Đại thừa thì không gọi thật đế. Này người thiện nam! Thật đế là thuyết Phật đã nói, không phải ma nói; thuyết không phải Phật nói ấy, chẳng gọi là Thật đế. Này người thiện nam! Thật đế, nghĩa là một đạo thanh tịnh không hai. Này người thiện nam! Có thường, có lạc, có ngã, có tịnh, đó gọi là nghĩa thật đế!"

- "Ý này tức nói không có đốt, cắt v.v..., chân như là đế, chỉ là thắng nghĩa, không thuộc tục đế, vì rất cao siêu." Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng:

- "Bạch Đức Thế Tôn! Nếu dùng chân thật làm thật đế, thì pháp chân thật này tức là Như Lai, hư không, Phật tánh! Nếu như thế, thì Như Lai, hư không và Phật tánh sẽ không khác nhau?" Phật bảo Văn-thù-sư-lợi:

- "Có khổ, có đế, có thật; có tập, có đế, có thật; có diệt; có đế, có thật; có đạo, có đế, có thật!" Này người thiện nam! Như Lai chẳng phải khổ, chẳng phải đế, là thật; hư không chẳng phải khổ, chẳng phải đế là thật; Phật tánh chẳng phải khổ, chẳng phải đế là thật!"

- "Nỗi khổ mà Văn-thù-sư-lợi đã nói, là tướng vô thường, là tướng đáng dứt trừ, đây là Thật đế; tánh Như Lai chẳng phải khổ, chẳng phải vô thường, chẳng phải tướng đáng dứt trừ, cho nên là thật. Hư không, Phật tánh, cũng giống như thế."

- "Ý văn kinh này nói: "Chân như nhất thật còn ở triền, gọi là Phật tánh, ở quả gọi là Như Lai. Pháp tánh không như, cũng do "không" mà sáng tỏ, nên gọi là hư không, vì chẳng an lập, nên chẳng thuộc bốn đế. Kinh này tức là bỏ giải thích, bàn luận chỉ thú nhất chân pháp giới. Khổ, tập, diệt, đạo là sự bốn đế, đế tức bốn lý, thật là bốn như. Do chân như này chẳng phải khổ, chẳng phải đế, chỉ thuộc về Thật. Lại, như trước đã dẫn. Du-già, Hiển Dương nói có hai đế, chỉ nói tục có bốn, đồng với bốn này, chỉ nói chân có một, tức chẳng phải an lập, chỉ có chân thứ tư, ba thứ trước không rời tục, vì ba sau, cho nên không nói. Lại, có khác nhau, gọi là an lập, nên nói bốn tục, không có khác nhau, gọi là phi an lập, nên chỉ nhất chân."

Bốn chân có đủ trong luận Thành Duy Thức quyển chín, vì biểu thị rõ ràng, nên bảo cho biết vượt hơn tục, cũng có khác nhau. Kinh Thắng-man nói: "Một đế gồm thâu chân thứ tư," Kinh Nhân Vương nói: "Hai đế đều thuộc về thứ lớp tên gọi." Biện Trung Biên, Hiển Dương, Duy thức thứ tám, nói hai đế này đều có ba thứ. Tục đế có ba:

1/ Giả thế tục

2/ Hành thế tục

3/ Hiểu rõ thế tục.

Như thứ lớp nên biết, tức ba tự tánh. Chân đế có ba:

1. Nghĩa thắng nghĩa, nghĩa là chân như.

2. Đắc thắng nghĩa, nghĩa là Niết-bàn.

3. Hành thắng nghĩa, nghĩa là Thánh đạo.

Thế tục giả này, thuộc về tục thứ nhất, vì chỉ có giả danh, đều không có tự thể. Hành thế tục này thuộc về thế tục thứ hai, thứ ba, vì sự hữu vi, nêu trong tâm biến hiện giống như lý tướng bốn đế, vì lý không lìa sự, nên y cứ thuộc về người khác, thuộc về thế tục thứ hai, thứ ba, hiểu rõ thế tục thuộc về tục thứ tư, vì y cứ vào môn hai "không" đã hiểu rõ; y cứ vào nghĩa nên nhập vào bốn thắng nghĩa, rất dễ hiểu. Thắng nghĩa của nghĩa kia thuộc về chân thứ tư. Thắng nghĩa của đắc này, thuộc về chân thứ ba. Vì nhân chứng rõ ràng, nên y cứ vào đắc để giải thích.

Hành thắng nghĩa này thuộc về chân thứ hai, vì chân trí vô lậu, về lý hơi vượt hơn.

Nếu thuận theo sự thắng nghĩa kia, là thuộc về chân thứ nhất; tùy thuộc đối tượng thích ứng của thắng nghĩa, nhập vào bốn thế tục rất dễ hiểu.

Nếu nói bốn đế khổ, tập, diệt, đạo là được nghĩa vượt hơn, tức tục thứ ba, thuộc về chân thứ hai, vì luận tự nói, nên Du-già quyển 46 chép: "Thế nào gọi là đế thi thiết kiến lập? Nghĩa là vô lượng thứ; hoặc lập một đế. Nghĩa là đế không luống dối, thuộc về chân thứ tư. Hoặc lập hai đế:

1/ Thế tục đế.

2/ Thắng nghĩa đế.

Nhân Vương, Bát-nhã chép: "Vua Ba-tư-nặc bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Trong thế đế có Đệ nhất nghĩa đế hay không?" Nếu có, thì đế lẽ ra không nên có một; nếu không, thì trí chẳng nên có hai, đồng với Du-già, thuận theo danh, thứ lớp thuộc về đế thứ hai. Hoặc lập ba đế:

1/ Đế tướng 2/ Đế ngữ 3/ Đế dụng.

Thể dụng của đối tượng giải thích, chủ thể giải thích, vì ly, hợp có khác nhau, nên tướng chung cho chân, tục. Ba tục đầu tiên của dụng ngữ, chỉ chẳng phải thuộc về hai tục sau trong chân. Hoặc lập bốn đế:

1/ Khổ 2/ Tập 3/ Diệt 4/ Đạo.

Như trước đã nói; hai thứ tạp nhiễm, thanh tịnh, mỗi thứ đều có nhân, quả khác nhau. Hoặc lập ra năm đế:

1/ Đế nhân 2/ Đế quả 3/ Đế trí 4/ Đế cảnh 5/ Đế thắng.

Bốn đế trước an lập; một đế sau, không cần an lập. Trong an lập có thể có tất cả vì tâm cảnh khác nhau; đế nhân quả đầu tiên, thuộc về chân thứ hai, tục đế thứ ba; cảnh chung cho chân tục, trí chỉ có tục đế thứ hai, thứ ba, thuộc về chân thứ nhất, thứ hai; đế thắng thứ năm, tục đế thứ tư, thuộc về chân đế thứ ba, thứ tư. Hoặc bốn đế đầu thuộc về như thứ lớp phối hợp tập, khổ, đạo, diệt, một chân như sau; hoặc lập ra sáu đế:

1/ Đế đế 2/ Đế vọng

3/ Đế biết khắp 4/ Đế nên dứt hẳn 5/ Đế nên tác chứng 6/ Đế nên tu tập.

Hai thứ: Thắng nghĩa, và thế tục có khác, vì nhân quả, nhiễm tịnh, cả hai đều khác, nên đế đế chung cho bốn chân, vì nghĩa, lý đều vượt hơn; để vọng chung cho bốn tục, vì nghĩa lý đều yếu kém. Hoặc đế đế là lý, chẳng phải tục sơ nhị, là ba chân sau, đế vọng như huyễn, là tục sơ, nhị thuộc về chân thứ nhất; bốn tục sau, như thứ lớp, tức là bốn đế, thuộc về chân thứ hai, tục đế thứ ba. Hoặc lập ra bảy đế:

1/ Đế của vị ái

2/ Đế của tai hoạ, lỗi lầm. 3/ Đế ra khỏi.

4/ Đế pháp tánh 5/ Đế thắng giải 6/ Đế

Thánh

7/ Đế chẳng phải Thánh.

Theo thứ lớp bốn thứ đầu tiên: Tập, khổ, đạo, diệt, ý hiểu tư duy "sở tri" của Thánh, phàm, vì chủng loại khác. Bốn đế chỗ có tục đế thứ tư, thuộc về chân thứ ba. Vì y cứ vào giải thích hành tướng hai vô ngã, nên bốn chân, bốn tục, đều là Thánh đế, vì Thánh biết "có", "không có" sự, lý riêng. Thông thường, đối với sự chấp mắc bền chắc của tục đầu tiên, vì nói dối cho là thật, nên chẳng phải hai Thánh đế, Thánh biết là không, có thể thuộc về tục đầu tiên. Ở chỗ khác hoặc lập ra bảy đế, thoát khỏi tai hại lỗi lầm của vị ái, nên biết, nên đoạn, nên chứng, nên tu. Lớp riêng hai quán, quán sát bốn đế. Trong quán thứ hai, vì dứt trừ đạo đế, nên cũng thuộc về chân thứ hai, tục thứ ba. Hoặc lập ra tám đế:

1/ Đế của tánh khổ

2/ Đế của tánh hoại khổ

3/ Đế của tánh khổ khổ

4/ Đế lưu chuyển

5/ Đế Hoàn diệt

6/ Đế tạp nhiễm

7/ Đế thanh tịnh

8/ Đế của chánh gia hạnh.

Dựa vào ba thứ khổ, sinh tử, Niết-bàn, có phẩm vô lậu, vì bậc Thánh là khác, nên bốn đế đầu và tục đế thứ hai, thứ năm và tục đế thứ ba, thứ bảy, thuộc về chân đế thứ hai, vì nhân quả thanh tịnh. Hoặc tục thứ tư, thuộc về chân đế thứ ba, thứ tư.

Thứ tám, là đế chánh gia hạnh. Tục đế thứ ba, thứ tư, thuộc về chân đế thứ hai, thứ ba.

Trong kinh Thắng-man cũng nói tám đế, hữu tác, vô tác đều có bốn thứ. Đối với căn cơ kém hơn, nói lý cạn, sâu, vì chủng loại khác, nên hữu tác bốn đế của Thanh văn, chắc chắn thuộc về tục đế thứ ba, thuộc về chân đế thứ hai; bốn đế vô tác, bốn đế của Bồ-tát, tục đế thứ ba, thuộc về chân thứ hai. Hoặc tục thứ tư, thuộc về chân thứ ba. Y cứ vào giải thích làm sáng tỏ chỉ thú, không cần an lập.

Hoặc nói chín đế:

1/ Đế vô thường.

2/ Đế khổ.

3/ Đế "không".

4/ Đế vô ngã.

5/ Đế hữu ái.

6/ Đế chẳng có ái.

7/ Đế đoạn trừ phương tiện kia.

8/ Đế Niết-bàn Hữu dư y.

9/ Đế Niết-bàn Vô dư y.

Dựa vào bốn cảnh khổ, nên về sau có hai thứ ái thường, và đoạn, vì tập một đạo, hai diệt mà chia thành. Đây là bốn đế, tức tục thứ ba, thuộc về chân thứ hai.

Hoặc nói mười đế:

1/ Khổ đế ép ngặt

2/ Khổ đế phần vị của cải thiếu thốn

3/ Khổ đế cõi không bình đẳng 4/ Khổ đế đối tượng ái biến hoại 5/ Khổ đế thô nặng. 6/ Đế nghiệp

7/ Đế phiền não

8/ Đế lắng nghe chánh pháp, tác ý đúng lý.

9/ Đế chánh kiến.

10/ Đế quả chánh kiến.

Đầu tiên, là năm quả hữu luận, kế là hai nhân dị thục, tiếp theo, là hai đạo xuất thế. Sau, là một vô vi diệt; Một khổ đầu tiên trong năm khổ đế gồm thâu bốn khổ, nghĩa là sinh, già, chết, oán ghét mà gặp mặt nhau là khổ. Thứ hai, tức là cầu không được mà khổ. Thứ ba, là bệnh khổ, thứ tư là khổ ái biệt ly, thứ năm, là lược gồm thâu tất cả khổ của năm thủ uẩn. Tám khổ, hai tập, hai đạo, một diệt, vì có khác nhau.

Tục đế thứ ba, thuộc về chân thứ hai. Trong đây lại lược phối hợp để gồm thâu lẫn nhau. Môn nghĩa lớn, nhỏ, đều nên nói riêng. Bài tụng chép:

"Không hư, chân, tướng, khổ
Nhân, đế và ái, hạnh
Vô thường và ép ngặt.
Thêm mười đế đều trước."

Phân biệt hỏi đáp.

Hỏi: "Dù nói hai đế, bốn thứ khác nhau, nhưng ở đây, thế nào gọi là an lập, thế nào gọi phi an lập?" Đáp: "Luận Hiển Dương chép: "Bốn thứ tục đế, đều là an lập."

Luận Du-già chép: "Thắng nghĩa thứ tư là phi an lập, nên ba thứ chân trước cũng là an lập. Thể tức là tục, vì ba đế sau."

Hỏi: "Nếu là an lập đế, đã lập làm đế, vì sao lại nói là phi an lập đế?"

Đáp: "Luận Du-già quyển 64 chép: "Chỉ nói an lập, lìa phi an lập, vì hai thứ giải thoát không hợp lý:

1/ Đối với ràng buộc nhau.

2/ Đối với ràng buộc thô nặng.

Nếu có hành động đối với các an lập đế; hành động đều có tướng. Đối với các sự ràng buộc nhau, không được giải thoát, vì tướng không giải thoát, nên đối với ràng buộc thô nặng, cũng không giải thoát. Nếu có hành động đối với phi an lập đế, không hành động đối với tướng, vì tướng không hiện hành nên giải thoát ràng buộc nhau. Vì giải thoát ràng buộc nhau nên đối với ràng buộc thô nặng cũng được giải thoát."

Hỏi: "Nếu phi an lập xong, lại lập làm đế, thì đâu cần nói là an lập đế?"

Đáp: "Luận Du-già quyển 64 chép: "Vì khiến cho tư lương và đạo phương tiện được thanh tịnh, nên có đối tượng nhàm bỏ, có đối tượng tu tập, có đối tượng thú hướng, vì có đối tượng biết rõ, cho nên lập ra an lập."

Hỏi: "Nếu hạnh có tướng thì hai thứ ràng buộc, và giải thoát, có lỗi lầm gì?"

Đáp: "Luận Du-già quyển 64 chép: "Có tâm định thiện tột độ, dựa vào tĩnh lự thứ tư, chuyển vận trong pháp thiện thuận phần quyết trạch, khi "duyên" với các đế, đối với hai thứ ràng buộc, lẽ ra phải được giải thoát. Cuối cùng, thanh tịnh, do tâm có tướng, ràng buộc nhau cũng tồn tại."

- "Nếu tâm, là chủ thể trị, thừa nhận có tướng, thì với tâm, đối tượng trị, cuối cùng sẽ có sự khác nhau nào?"

- "Lại, vì hai thứ đạo thế gian, xuất thế gian có khác, nên hạnh có tướng, không được giải thoát, chủ yếu phải y cứ vào vô tướng phi an lập đế. Do đây, mà chứng biết, trí vô phân biệt, chắc chắn không có phần tướng mà vẫn có thể dứt trừ hoặc" buộc ràng."

Hỏi: "Chỉ lập một tục, một chân, là được rồi, cần gì phải lập bốn?"

Đáp: "Đế này lẽ ra chỉ gồm thâu hạnh quy chân, lập chung một đế. Kinh Thắng-man nói: "Nhất thật đế", là chỉ cho Như Lai tạng, là vì nhất Phật; đế khác có khởi, tận. Hoặc vì đối tượng nhận lấy chẳng phải nhất thật. Nếu dùng sự lý an lập, phi an lập để giải thích, thì chỉ nên lập hai. Luận Du-già quyển 64 chép: "Nhất chân pháp giới gọi là thắng nghĩa, chân khác gọi thế tục."

Trong kinh Nhân Vương chép: Hai đế cũng vậy, nếu thuận theo nhân, pháp có hơn, có kém, thì nên mỗi thứ đều lập hai."

Trong kinh Niết-bàn thuận theo nhân, pháp cũng nói hai đế: Hoặc tục và chân, đều có hai đế. Nếu dùng "không" và sự, lý, thì nghĩa được hạnh sẽ khác.

Trong hai đế của luận Hiển Dương v.v... đều có ba thứ. Nếu dung các pháp "có", "không" sự, lý cạn sâu để giải thích chỉ thú, thì vì nghĩa đều khác, nên trong hai đế nói bốn lớp. Lại, Du-già giải thích rằng: "Thế tục, Thắng nghĩa đều có thế gian đã thành, đạo lý đã thành, chứng đắc đã thành, chân lý đã thành. Do thế tục này và thắng nghĩa đế đều chia làm bốn thứ.

Đối với pháp thua kém, thế gian, đã thành v.v... lập ra bốn thế tục; Đối với pháp trội hơn, thế gian đã thành, đồng lập bốn thắng nghĩa, nên chẳng phải thêm bớt."

Hỏi: "Hai đế này là đồng hay khác?"

Đáp: "Vừa đồng vừa khác". Kinh Nhân Vương chép: "Trong thế đế, không có Đệ nhất nghĩa, thành ra trí không nên hai; nếu nói có, thì trí không nên một."

Kinh Niết-bàn chép: "Thế đế tức đệ nhất nghĩa, có phương tiện riêng, vì thuận theo chúng sinh nói có hai đế, nên chẳng thể nói nhất định là đồng, hay nhất định là khác. Thế tục thứ nhất có danh, không có thể. Trong tục, rất kém, không có khả năng vượt hơn, giả gọi là an lập, chỉ tục chẳng phải chân, đó gọi là khác. Thắng nghĩa thứ tư, với thể mầu nhiệm, lìa ngôn ngữ, không thể lập ra. Trong chân rất trội hơn, vượt qua tất cả, chỉ có chân chẳng phải tục, đó gọi là khác, pháp khác, có thể là đồng.

Do hai đế này, dùng bốn câu để phân biệt: 1/ Có tục chẳng phải chân, là tục thứ nhất.

2/ Có chân, chẳng phải tục, là chân thứ tư.

3/ Có vừa chân, vừa tục, là trước ba chân tục, sau ba đế.

4/ Có chẳng phải chân, tục. Nghĩa dứt tướng trước.

Thắng nghĩa thứ tư không thể tự vượt hơn, vì còn phải đối đãi với bốn tục, nên gọi là Thắng nghĩa. Vì vậy, nên ba chân trước cũng gọi là Tục. Thế tục thứ nhất không thể tự tục, mà vì phải tiếp đãi với bốn chân, gọi là Thế tục, nên ba tục sau cũng gọi là Chân.

Thắng nghĩa thứ nhất đối đãi một tục, gọi là thắng. Thắng nghĩa thứ hai tiếp đãi hai tục gọi là thắng. Thắng nghĩa thứ ba đối đãi với ba tục, gọi là thắng. Thắng nghĩa thứ tư đối đãi với bốn tục, gọi là Thắng.

Thế tục thứ nhất đối đãi với bốn chân, gọi là tục Thế tục, thứ hai đối đãi với ba chân, gọi là tục.

Thế tục thứ ba, đối đãi với hai chân, gọi là tục.

Thế tục thứ tư đối đãi với một chân, gọi là tục.

Thế nên, nếu khi có tục, thì tất nhiên cũng có chân; nếu lúc có chân, tất nhiên cũng có tục. Tục là tục của chân; chân là chân của tục. Có tục cũng có chân; vì không có chân, cũng không có tục, nên chẳng phải dứt trừ y tha mà chứng viên thành thật; chẳng phải không có tục đế mà có thể được chân; chân, tục dựa vào nhau mà kiến lập.

Đã nói về hai đế bốn thứ như thế, kinh luận dù có, các đức dù truyền đi, nhưng các hậu học vẫn chưa có khả năng giảng nói xa, cơ bản là tùy thuộc vào thứ lớp của phiên dịch; lược biên tập những gì đã được nghe, trong đó, tỉ mỉ, xoay vần. Về sau lại hỏi han, tra cứu, biên tập thành một chương, mong sao học trò mai sau sẽ dễ dàng hiểu rõ!

Có thể nói là nghĩa cao ngàn lá, lý sáng muôn đời. Khen, vịnh, ngâm, tụng, đâu dùng để sướng thích tâm tình hân hoan của mình, mà luống ân hận âm vang tiếng đàn cầm của Bá Nha, cuối cùng chỉ đành hòa tấu dưới chân tường mà thôi!"

QUYỂN 3

CHƯƠNG ĐẠI CHỦNG TẠO SẮC

Sắc do đại chủng tạo ra dùng sáu môn để phân biệt:

1/ Nói về thể.

2/ Giải thích tên gọi.

3/ Dùng năm nhân như minh v.v... để nói về tạo tướng.

4/ Y cứ vào nhân duyên để nói về đại tạo.

5/ Đại tạo đồng, dị, đối nhau, giải thích về tạo.

6/ Phân biệt hỏi đáp.

-Giải thích về thể:

Ngoại đạo Thuận Thế, không lập riêng chủ thể tạo, đối tượng tạo, đều là bốn đại, nhưng tánh là thường. Lại, không có vật riêng. Phệ-thế-sử-ca, bốn đại chính là câu thật, có ngăn ngại. Thông thường vô thường, nhãn căn tức lửa, nhĩ căn tức "không"; tỷ căn tức đất; thiệt căn tức nước; bì căn tức gió: sắc, vị, hương, xúc, tiếng, thuộc về câu đức, nhưng không có ngăn ngại. Tiếng, mùi hương chỉ cho vô thường. Thông thường khác, là vô thường; bốn thứ như sắc, v.v... là bốn đức lớn. Bốn đại chẳng phải chủ thể tạo; sắc v.v... chẳng phải đối tượng tạo; đất có sắc, vị, hương, xúc, nước có sắc, vị, hương, xúc. Lửa có sắc xúc; gió chỉ có xúc, tiếng là đức "không", chẳng phải bốn đức lớn. Sư Tăng Khư nói: "Năm thứ như sắc v.v... gọi là năm duy lượng, chính là chủ thể tạo, tạo ra đất, nước v.v..., đất, nước v.v..., mới tạo năm căn như mắt v.v..., chủ thể tạo, đối tượng tạo, dù đều là vô thường, nhưng chẳng phải sinh diệt là chuyển biến vô thường, đều có trở ngại. Nhưng có tạo riêng, cũng có tạo chung. Sư Thinh luận nói: "Tiếng chỉ là thường; bốn đại chủng còn lại và nhãn v.v..., căn, sắc, vị, hương, xúc đều là vô thường. Tiếng hoặc làm sáng tỏ thường; hoặc là sinh thường. Đại chúng bộ nói: "Bốn đại là chủ thể tạo; bốn trần là đối tượng tạo, không có năm căn riêng, tức là bốn trần, nên đều có chung hữu lậu, kể cả vô lậu, vì thừa nhận Phật có, nên luận Thành Thật chép: "Bốn trần là chủ thể tạo, tạo ra bốn đại; bốn đại thành năm căn; năm căn chỉ cho sở tạo (đối tượng tạo). Bốn trần chỉ cho chủ thể tạo, bốn đại chung cho cả hai; âm thanh cũng chỉ cho đối tượng tạo."

Sư Tát-bà-đa nói: "Bốn đại là chủ thể tạo, chỉ cho hữu lậu, có trở ngại, thuộc về xứ xúc. Năm căn, năm trần và pháp xứ, vô biểu sắc là đối tượng tạo (sở tạo); năm căn, năm trần đều có ngăn ngại, chỉ là hữu lậu. Pháp xứ, vô biểu, là chung cho vô lậu, thuộc về vô ngại, đều là có thật."

Sư Kinh bộ nói: "Chủ thể tạo, đối tượng tạo dù đều có ngăn ngại, nhưng đều chung cho giả, thật. Cực vi là thật; sắc thô là giả, đều hoàn toàn hữu lậu. Vô biểu giả lập, pháp xứ vô sắc, không thừa nhận sắc uẩn có vô biểu sắc."

Thuyết Giả bộ nói: "Chủ thể tạo, đối tượng tạo hoặc thô, hoặc tế, ở trong môn uẩn, thể đều là thật. Vì nghĩa chứa nhóm, nên thể chẳng phải chứa nhóm, đối với môn giới, xứ, đều là giả. Y cứ vào duyên, đều là thể, vì chứa nhóm, nên chung cho hữu lậu, vô lậu."

Nhất Thuyết Bộ nói: "Năng tạo, sở tạo chỉ có một tên gọi, đều không có thật thể."

Thuyết Xuất Thế bộ nói: "Chủ thể tạo, đối tượng tạo, nếu hữu lậu thì đều là giả, vì từ điên đảo khởi. Các người vô lậu, đều là thật, vì chẳng phải do điên đảo sinh. Nay, y cứ vào Đại thừa, xúc xứ, pháp xứ đều có đại chủng, vì tán, định khác nhau, nên sắc tạo chung cho mười một xứ có. Sắc tạo đại chủng, tùy thuộc thích ứng, đều chung cho y tha, thuộc về hai tánh viên thành. Tướng trong năm pháp và thuộc về hai pháp của chánh trí, chung cho hữu lậu, vô lậu, tánh thiện, vô ký. Đại tạo hữu lậu, quyết định thuộc về y tha; đại tạo vô lậu cũng chung cho viên thành; thuộc về y tha; sắc tạo hữu lậu chỉ có tánh vô ký, vì tánh giả chung cho ba, nên luận Du-già quyển 64 chép: "Sắc, tiếng, biểu sắc, giả chung cho thiện, ác, thật chỉ cho vô ký. Vô biểu đã giả, thừa nhận chung cả thiện, ác. Đại tạo vô lậu, tất cả chỉ cho thiện, đại chủng chỉ cho thật, sắc tạo chung cho giả."

-Giải thích tên gọi:

Du-già quyển ba chép: "Do Đại chủng này, vì tánh nó lớn, vì là chủng sinh, nên gọi là đại chủng. Đại có bốn nghĩa:

1/ Vì làm đối tượng nương tựa, làm chỗ dựa cho các sắc tạo.

2/ Vì thể tánh rộng, thể tánh rộng vì rộng ở sắc tạo.

3/ Vì hình tướng lớn, địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, vì tướng trạng lớn.

4/ Vì khởi dụng đại; thế giới thành, hoại, vì tác dụng lớn.

Chủng: nghĩa là nhân, hoặc nghĩa là loại. Bốn chủng này có khả năng làm năm nhân sinh, v.v... vì khởi mọi sắc, vì chủng loại riêng. Hư không dù lớn, nhưng không làm nhân. Hạt giống, v.v... bên trong dù có công năng làm nhân, nhưng thể tự tướng chẳng phải đại, các pháp khác chẳng phải đại, chẳng phải chủng. Do địa v.v... này vì vừa đại, vừa chủng, nên gọi là đại chủng, trì nghiệp thích.

Nếu nói bốn đại chủng, bốn là danh số, tức kèm theo số để giải thích.

Danh từ sắc tạo: Hiển Dương quyển năm nói: "Nghĩa là y chỉ đại chủng, tức nơi chốn của đại chủng. Có sắc tạo khác sinh, vì nhân này, nên nói sắc tạo của bốn đại chủng tạo, đối tượng tạo tức là sắc. Hiển Dương quyển 54 chép: "Là đồng một xứ, gìn giữ nghĩa sắc kia, gọi là tạp. Đối tượng tạo tức sắc, do trì nghiệp mà được gọi tên. Sắc do đại tạo, y sĩ thích để gọi tên riêng: Nghĩa cứng chắc là nghĩa đất, nghĩa tuôn chảy, ẩm ướt là nghĩa nước; nghĩa ấm, nóng, là nghĩa lửa; nghĩa nhẹ, dao động là nghĩa gió. Đất kia tức đại, cho đến gió tức là đại, đều là trì nghiệp thích. Về tên riêng của sắc tạo đến trong chương rõ giải thích.

-Năm nhân sinh v.v... để nói về tạp.

Đối pháp quyển một chép: "Sở tạo: Nghĩa là dùng bốn đại chủng làm sinh, nương tựa, lập ra nghĩa nhân, gìn giữ, nuôi nấng, tức y chỉ năm nhân, gọi là tạo."

Nhân sinh: Tức là nhân khởi, vì lìa đại chủng, thì sắc không khởi; các sắc sở tạo dù tự chủng sinh, nhưng nếu rời đại chủng, thì tất nhiên không thể khởi.

Du-già quyển ba hỏi: "Các pháp đều từ tự chủng mà khởi, sao lại nói là đại chủng năng sinh ra các sắc, cho đến nuôi lớn?"

Luận kia tự đáp: "Do hạt giống sắc tạo của các đại chủng trong, ngoài, đều nương tựa tâm nối nhau bên trong; hạt giống các đại, chưa sinh hạt giống sắc tạo của các đại, cuối cùng không thể sinh, chủ yếu là hạt giống lớn, trước sinh ra đại chủng, thì hạt giống sắc tạo mới sinh sắc tạo, vì dẫn đường trước, nên nói vì đại chủng kia có khả năng sinh, vì thế gọi là "nhân sinh".

Luận Du-già quyển 66 chép, đồng với đây, nay nên hỏi: "Nếu như vậy, thì biệt giải thoát và định đạo đều là giới đã ly khai đại chủng, thì lẽ ra không được sinh?"

- "Biệt giải thoát và định cộng giới này thuận theo chỗ đi, đối tượng ngăn ngừa, gọi là sắc, cũng thuận theo hai sắc ấy, giả nói là đại tạo.

Nghĩa không lìa có hai:

1/ Chỗ định đồng.

2/ Phải dùng giới biệt giải thoát, tất nhiên nhờ vào sinh đại, không phải xứ đồng của định, cũng gọi là không rời, rời chất, tiếng, ánh sáng đều cũng như thế."

Luận Du-già quyển 54 chép: "Sắc của quả định trội hơn, chỉ dựa vào định trội hơn, không dựa vào đại chủng."

- "Thuyết của luận kia nói, kia làm sao thông?"

- "Luận Du-già kia tự giải thích: "Nhưng từ "duyên" ảnh tượng chủng loại đại chủng kia, Tamma-địa phát, nói là đại tạo kia; chẳng phải dựa vào đại tạo kia mà sinh, gọi là tạo". (Chương pháp xứ sắc, sẽ trình bày đủ)."

Hoặc là năm nhân không phải khắp tất cả, như lìa vầng hào quang v.v... không có nhân đối tượng nương tựa. Dựa vào nhân Đối pháp nói: "Tức là nhân chuyển vận. Nghĩa là xả đại chủng, các sắc sở tạo, không có công năng, vì y cứ ở xứ riêng, nên các sắc sở tạo, y cứ đại chủng, mới được sinh, nên bỏ đại chủng, không có chỗ riêng để trụ."

Luận Du-già quyển ba chép: "Do sắc tạo sinh xong, vì không rời xứ đại chủng mà chuyển biến, nên gọi là nhân y chỉ."

- "Nếu vậy, thì sao Du-già quyển 54 chép: "Lìa vầng hào quang sáng, đại chủng hương v.v... đều không thể được. Nay, y cứ vào tức chất để giải thích, y chỉ ở nhân, rời ngoài chất ánh sáng v.v..., không có nghĩa y, nhân, nên không trái nhau. Hoặc nói ánh sáng kia cũng có đại tạo, tùy thuộc ở chỗ có ánh sáng kia cũng có đại tạo, tùy thuộc ở chỗ có ánh sáng, có đại tạo."

- "Cách giải thích này không hợp lý, vì âm thanh, mùi hương lìa chất, đâu có đại tạo nào, nên thuyết trước là tốt.

Lập nhân: Tức nhân tùy chuyển, do biến đổi rất khác, hay y chỉ sắc tạo, vì tùy thuộc thay đổi khác, nên chủ thể tạo, đối tượng tạo, an nguy tất nhiên đồng, nên khi biến đổi đại tạo, tùy theo biến đổi khác."

Luận Du-già quyển ba chép: "Do sự tổn ích của đại chủng, vì đồng an nguy kia, nên sau giới biệt giải thoát, nối nhau sinh ra, nghiệp biến đổi khác, làm sao nối nhau? Hoặc nói thời gian sau, vì đối tượng nương tựa cũng có, nên không biến chuyển khác."

Nghĩa như thật: "Đây là thuận theo đối tượng đi khắp, đối tượng ngăn ngừa đại tạo. Không như vậy, thì câu giới định đạo của vô sắc, vì không có sở y, nên lẽ ra không có nhân này."

- "Nếu vậy, thì đối tượng đề phòng đã đoạn diệt từ lâu, đã không có chủ thể tạo, lẽ ra không có lập nhân, vì không thể đề phòng thuyết người khác nói, gọi là sắc. Dùng bốn đại đạo của người khác, tự vô biểu, đây chỉ là nghĩa đối trị phần xa của người kia, gọi là tạo, vì đã có sự so sánh."

Nhị định trở lên, vô biểu đều như vậy. Luận nói đề phòng người khác, bốn đại tạo của người khác.

- "Nghĩa này không hợp, vì không phải lỗi của mình, vì đề phòng không được, nên lẽ ra chẳng phải đối trị. Nghĩa này gọi là sắc giả, gọi là tạo, vì đối trị phần xa, nên không có lỗi, vì sự đề phòng xa, tự thân đã có giới ác, tức từ đại tạo quá khứ, sắc hiện nay; hoặc giới vô biểu, không có lập nghĩa nhân. Y cứ vào sắc thật của chất, vì lập đủ nhân, nên nếu nhận lấy sự y chỉ đại chủng của thân, gọi là tạo, thì Thánh giả ở vô sắc, lẽ ra chẳng có vô biểu; ấy là chẳng phải Đại thừa, cũng trái với luận Hiển Dương. Các sắc luật nghi y cứ vào pháp không hiện hành, để lập ra tánh sắc, nên dùng tùy thuộc đại tạo đã đề phòng của người kia.

Giữ gìn nhân: Tức là trụ nhân, nghĩa là do các sắc sở tạo của đại chủng, tương tự nối nhau sinh ra gìn giữ không để dứt. Sắc tạo nối nhau sinh, nhờ năng lực giữ gìn của đại không như vậy, thì sắc tạo lẽ ra có xen hở.

Du-già quyển ba chép: "Do tùy thuộc lượng đại chủng... vì không hư hoại, nên gọi nhân gìn giữ. Lại, tiếng, ánh sáng v.v... to, nhỏ có khác, làm sao chỉ nói lượng đẳng không hư hoại. Đối pháp y cứ ở toàn phần, nói chung nhân gìn giữ."

- "Du-già vì y cứ vào phần nhỏ, nên tạo ra thuyết này. Luận Hiển Dương kia nói theo sắc tạo tức chất để nói, hoặc Du-già nói đẳng lượng không hư hoại, chẳng phải là hai lượng đại tạo đồng đẳng. Đẳng, nghĩa là nghĩa trước sau giống nhau.

Thuyết trước nói là tốt. Nhân nuôi nấng: Tức là nhân lớn, nghĩa là do đại chủng nuôi nấng sắc tạo kia, vì làm cho thêm lớn. Do đại gần gũi nuôi nấng sắc tạo thêm lớn, hoặc lớn tức nhân, hoặc nhân của lớn, nên gọi là nhân lớn."

Du-già quyển ba chép: "Do nhân uống ăn, ngủ nghỉ, tu tập phạm hạnh, Tam-ma-địa v.v... y cứ vào gấp bội sắc tạo kia, lại vì thêm rộng, nên nói đại chủng làm nhân nuôi nấng kia, hay nuôi nấng sắc tạo có nhân, có duyên, đại là nhân nuôi nấng, tạo kia là duyên nuôi nấng, vì đều y cứ ở một thuyết, nên không trái nhau. Lại, do duyên kia, trước nuôi nấng đại chủng, khiến cho tạo sắc tăng thêm, nên không có lỗi.

Hoặc sắc tạo kia nuôi nấng chung đại và sắc tạo, nhân tất cả pháp tâm, tâm sở v.v... đây chỉ là sắc tạo có khả năng nuôi nấng nhân riêng. Vì tánh tạo chậm lụt, không như tâm v.v... nên nhờ ở hai nuôi nấng, tâm v.v... không như vậy.

Du-già quyển 54 hỏi: "Các hành đều từ tự chủng mà khởi, làm sao lại nói đại tạo sở tạo? Do sự biến đổi khác của đại tạo kia, mà vì biến đổi khác, nên đại tạo kia đã kiến lập và vì gìn giữ."

Hiển Dương quyển năm nói: Nghĩa là y cứ vào đại chủng có thuộc về sắc tạo khác, ở một chỗ, gọi là đại sở tạo. Nghĩa này tức biểu thị rõ nương tựa nhau mà có, đây là nghĩa tạo, không phải nói về thể, nghĩa là hiện hành đối nhau làm duyên tăng thượng."

-Y cứ vào nhân duyên để nói về tạo:

Đầu tiên, là nói về nhân tạo.

Sau, nói về duyên tạo. Nhân tạo có hai:

1/ Mười nhân.

2/ Sáu nhân.

-Mười nhân tạo: đại đối với sắc tạo, tổng có bảy nhân:

1/ Nhân dẫn dắt.

2/ Nhân sinh khởi. Trong nhân vô ký, có chưa thấm nhuần, và đã thấm nhuần. Lúa mì bên ngoài v.v... đối với mầm, v.v...

3/ Nhân nhiếp thọ, vì đối tượng nhiếp thọ: nương nơi chốn sĩ dụng.

4/ Nhân dẫn phát.

5/ Nhân khác với định, dẫn đồng loại khởi và vì tự tánh.

6/ Nhân đồng sự.

7/ Nhân không trái nhau.

Vì gồm thâu các nhân trước, vì hai nhân này, tướng chúng trái với nhân, hay tổn hại lẫn nhau, mà vì làm nhân, nên không có nhân trái nhau. Đại, chẳng phải là nói năng, không có tùy thuộc nói nhân. Nhân quán đối đãi xa, không có nhân quán đối đãi; Có nghĩa: "Nói là tám, chỉ trừ thuận theo nói và nhân trái nhau, cũng chung cho quán đối đãi, lập hai nhân này".

Có nghĩa: "Hoặc chín thêm nhân trái nhau. Sắc tạo đối với đại, có thể làm tám nhân:

1/ Nhân nói thuận theo: âm thanh, ngôn thuyết, giải thích, nói về đại.

2/ Nhân quán đối đãi, vì đối đãi nhau xa.

3/ Nhân dẫn dắt.

4/ Nhân sinh khởi. Trong nhân nhiễm, tịnh, luật, không luật nghi, và định câu giới, chưa thấm nhuần, đã thấm nhuần là hai nhân này.

5/ Nhân nhiếp thọ. Nhiếp thọ do nương vào nơi chốn tác dụng.

6/ Nhân khác với định, vì định có công năng chiêu cảm dị thục riêng của mình.

7/ Nhân đồng sự.

8/ Nhân không trái nhau.

Trừ dẫn phát: Hay dẫn phẩm đồng của loại mình, vì phẩm vượt hơn làm nhân cho đại chủng kia, trừ trái nhau, nghĩa là vì không thuận nhau.

Hoặc nói có chín thêm nhân dẫn phát. Về nghĩa, cũng được thành, vì dẫn phát nhau. Hoặc là mười nhân, vì có trái nhau.

Sáu nhân tạo: Hiện hành có sáu nhân. Luận Hiển Dương quyển 18 chép: "Đều là duyên tăng thượng."

Đối pháp quyển tư chép: "Phải biết tất cả nhân, đều thuộc về nhân năng tác."

Vì biểu thị rõ nghĩa khác nhau, lại kiến lập riêng năm nhân khác.

Nếu y cứ vào nhân duyên để nói về sáu nhân, thì luận Nhiếp Đại Thừa, Duy Thức v.v... nói: "Hạt giống đối với hiện hành, làm nhân năng tác, câu hữu, tương ưng, biến hành. Hạt giống đối với hạt giống cũng là đồng loại. Nhưng không có dị thục, vì chẳng phải nhân duyên. Đại đối với sắc tạo, đều chẳng phải sáu nhân. Tạo đối với đại chủng là nhân dị thục, vì chiêu cảm quả dị thục kia. Nay, y cứ vào duyên tăng thượng, nhằm nói về tạo của sáu nhân: Đại đối với sắc tạo, chỉ có ba nhân:

1/ Nhân Năng tác, vì năng và lực kia không chướng ngại.

2/ Nhân đồng loại, vì khiến cho thêm lớn, nên trong văn Đối pháp, y cứ vào huân tập hạt giống trước, dẫn quả sau, sinh, cũng dựa vào hiện hành, đối nhau mà nói, chẳng phải hạt giống đối với hạt giống.

3/ Nhân câu hữu. Luận Đối pháp quyển tư chép: "Sắc tạo đại chủng, tất nhiên vì cùng sinh nên làm nhân câu hữu, chẳng phải nghĩa đồng được một quả, nên chẳng phải tâm, tâm sở, không có nhân tương ưng, không phải nghiệp thiện, ác, không có nhân dị thục, vì không phải tánh phiền não, nên không có nhân biến hành.

Sắc tạo đối với đại, cũng có ba nhân:

1/ Nhân Năng tác, vì nhân này rộng.

2/ Nhân câu hữu, vì không rời nhau.

3/ Nhân dị thục.

Luật, bất luật nghi và định câu giới vì có công năng chiêu cảm đại. Hoặc làm bốn nhân, thêm nhân đồng loại, vì như dẫn phát, nên không có nhân khác, có thể biết."

- Thuyết này đồng với thế gian, chẳng riêng thế gian mà tạo, vì y xứ mà có, chẳng phải khác với thế gian, nên chỉ sắc luật nghi, y cứ vào pháp không hiện hành để kiến lập tánh sắc, cũng khác với thế gian, tạo đại chủng quá khứ, vì tạo hiện sắc, nên sắc, tiếng hữu lậu, chỉ cho tánh vô ký. Nếu là vị vô lậu, vì đại tạo đều có việc lành, nên lẽ ra như đã nói trong đây, và nói như thế này: "Quá khứ là nhân của hiện tại, chẳng phải nhân quá khứ, vị lai. Hiện là nhân hiện tại và nhân vị lai; vị lai chẳng phải nhân vị lai; vì quá khứ, vị lai không có, nên trong đây không nói quá khứ là nhân của vị lai, vì nhân quả đều không có. Cũng chẳng phải mé sau là nhân của mà trước. Vì nhân, quả trái nghịch".

- "Nói về tạo nhân đã xong, còn tạo "duyên" thế nào?"

- "Đại tạo đối nhau thành một duyên tăng thượng, vì hiện hành đối nhau chẳng phải nói về thể, nên chẳng phải là nhân duyên.

Năm nhân sinh v.v... là duyên tăng thượng, vì chẳng phải tâm, v.v... nên không có hai duyên khác. Tạo nhân duyên này dựa vào tướng chung để nói. Y cứ hữu lậu, vô lậu và mười hai xứ, ba tánh, ba giới, thêu dệt lẫn nhau, đối nhau, dùng đại đối với đại; hoặc tạo đối với tạo, nhân duyên nhiều, ít đều tư duy như lý.

-Đại tạo đồng, khác đối nhau để giải thích về tạo:

Đầu tiên, dùng loại khác với đại tạo đối nhau. Về sau, vì tức ly đại tạo đối với nhau, loại khác với đại tạo, đối nhau để giải thích về tạo."

Luận Du-già quyển ba, năm mươi bốn chép:

"Loại khác có ba:

1/ Loại dị thục, loại này có hai thứ:

a. Sinh nghiệp, khởi đầu tiên.

b. Nối nhau, đầu tiên là dị thục chung, sau là dị thục riêng; hoặc đầu tiên là sát-na đầu tiên, sau là thời gian sau.

2/ Loại nuôi lớn. Loại này cũng có hai:

Xứ rộng, khắp, uống ăn, ngủ nghỉ, được nuôi lớn bởi phạm hạnh, đẳng chí.

a. Tướng tăng thịnh vượng, cũng vì ăn, vì đối tượng nương tựa kia, vì tu tác ý vượt hơn, vì thuần thục trong thời gian dài, nên nói là đối tượng nuôi lớn.

3/ Loại đẳng lưu. Loại này có bốn thứ:

a. Đẳng lưu dị thục.

Đẳng lưu nuôi lớn, tức hai loại trước, vì đều là Đẳng lưu.

b. Đẳng lưu biến khác.

c. Đẳng lưu bổn tánh.

Dị thục nuôi lớn có hai thứ không gồm thâu, vì đều là hai thứ sau: đ. Căn chỉ có dị thục nuôi lớn. Lìa ngoài hai thứ này, không có đẳng lưu riêng. Đây là nói theo thể của ba loại khác nhau, không phải căn, các sắc có đủ ba loại; hoặc ở đây không nói giới tiếng, vì tiếng chẳng phải dị thục, nên trừ sắc pháp xứ, tiếng kia chỉ nuôi lớn và vì đẳng lưu, nên lìa ngoài căn, các sắc cũng không có dị thục.

Trong sắc trước có đủ ba loại: Đủ hai dị thục, hai thứ nuôi lớn, bốn thứ đẳng lưu.

Không có ba loại: Năm sắc căn trong, đủ hai dị thục và hai nuôi lớn. Các sắc pháp xứ có nuôi lớn sau, không có ở rộng khắp, có ba đẳng lưu sau, không có dị thục này: Các tâm, tâm sở dù có đủ ba loại, nhưng không có nuôi lớn đầu tiên. Các uẩn cõi Sắc, trừ do đối tượng nuôi lớn: Đoạn thực, ngủ nghỉ, phạm hạnh. Sự nuôi lớn của ba cõi đều chung cho đẳng trì, tu trong, ngoài, tùy thích ứng, hoặc có ba, hai, mười thứ sắc tạo đại chủng, tùy thượng căn thích ứng, nói tất cả đại chủng tạo, tất cả sắc kia, đều nương tựa nhau mà có nghĩa tạo này, nên chẳng phải giải thích về thể, nên luận Du-già quyển 54 chép: "Dựa vào xứ đại chủng có sắc tạo sinh, gọi là tạo. Lại trong tụ này có đối tượng tạo của đại chủng kia có thể được. Phải biết rằng, trong đây tức có pháp kia, nên các đại chủng đồng nhóm họp đã có thì tướng sắc tạo dựa vào "hữu", đều có thể là gọi tạo, lẫn nhau được nghĩa tạo, chẳng nhất định nghĩa hệ thuộc. Về lý khác với Tiểu thừa, không nên giải thích riêng.

Trong đây, hoặc có thể bản tánh hạt giống của đại tạo đều khác. Về sau, sinh ra hiện hành, đều dựa vào tự loại. Đại chủng của tự loại không sinh hiện hành. Giống của loại tạo này sau cùng sẽ không sinh tạo, cho nên tự loại tạo."

- Cách giải thích này cũng không hợp lý, vì phải dựa vào nhau mà có, mới gọi là Tạo, nên đại tạo sở hữu trong nhóm họp đồng nương tựa với nhau, tùy thuộc đối tượng thích ứng đều tạo.

- Thuyết trước là tốt, tức lìa đại chủng, đối nhau giải thích về tạo. Nghĩa là sắc sở tạo và xứ đại chủng không lìa nhau, gọi "tức" chất tạo. Nếu thể tướng của sắc sở tạo và xứ đại chủng lìa nhau, thì gọi "lìa" chất tạo.

Luận Du-già quyển 54 chép: Lìa ánh sáng của vầng hào quang, đại chủng hương, v.v... đều không thật có, lìa ánh sáng chất, mùi hương và âm thanh, v.v... tức do chỗ phát ra sở tạo của bốn đại không có chỗ cư trú, vì đối tượng nương tựa, nên nói "không thật có".

Về các luật nghi giới, luận Hiển Dương chép: "Y cứ vào pháp không hiện hành kiến lập tánh sắc, đều do đã đề phòng đại chủng sở tạo của giới ác cõi Dục; về giới bất luật nghi, luận Hiển Dương chép: "Y cứ vào pháp hiện hành, để lập ra tánh sắc, tức do sắc thân, ngữ ác đã phát ra đối tượng tạo của đại chủng, gọi là lìa chất tạo, sắc khác đều gọi là tạo không lìa nhau. Bản chất của cực lược, cực huynh kia là đại, có thể gọi là "tức" chất, và "ly" chất tạo; Biến kế đã khởi cũng vậy. Vô biểu của cõi Vô Sắc và vô biểu của thân Phật, do đại tạo nào? Nên do tự thân quá khứ tất cả đối tượng tạo chủng của giới ác, chủ thể tạo. Về nghĩa, gọi tạo xa vời như chương vô biểu nói.

Phân biệt hỏi đáp:

Hỏi: "Trong nhóm các sắc cõi Dục, có bao nhiêu vật để được?"

-"Du-già quyển ba chép: "Hoặc có trong nhóm chỉ có một đại, như thạch mạt-ni, sông, ao cong, ngọn lửa, đèn, đuốc, có, không gió bụi. Hoặc chỉ hai đại, như nhiệt mạt-ni, tuyết, ẩm ướt, cây, v.v... Hoặc chỉ cho ba đại, như ẩm ướt, nóng, cây; hoặc cây, lay động, ẩm ướt; hoặc bốn đại đều có. Hoặc chỉ có sắc, như lìa vầng hào quang; hoặc chỉ có tiếng, lìa chất, tiếng v.v...; hoặc chỉ có hương, hương v.v... đi đơn lẻ. Nếu có vị, xúc, tất nhiên, cũng có hương, sắc. Hoặc chỉ có bốn khí thế giới ngoại, trừ tiếng. Hoặc chỉ có năm, khi khí thế giới ngoại có tiếng. Hoặc có thân căn và bốn sắc v.v... Hoặc chỉ có sáu, tùy thuộc có nhãn căn, và năm thân, có tiếng là bảy".

Sắc tạo như trên, thân thêm đất là sáu, thêm mắt là bảy, thêm nước, lửa, gió là tám, là chín, là mười, thêm tiếng là mười một. Lìa vầng hào quang, tùy thuộc vào đối tượng thích ứng, thêm bốn đại chủng thành nhiều, ít."

Luận Du-già quyển 64 chép: "Nếu ở nhóm này có đại tạo để được, nên biết nhóm này có sắc tạo đại chủng này. Nếu tự tướng của đại tạo kia đều không có, thì phải biết rằng ở chỗ này chẳng có pháp kia, không đồng với tông khác, không có hiện sự kia, có cực vi kia. Các hỏi đáp đều như thuyết Du-già kia có nói rộng."

Trong đây nói về tướng, hoặc "có", hoặc "không". Nếu y cứ thuộc về cõi, thì tùy thuộc thích ứng, đều có, rộng như luận Du-già quyển ba kia đã nói.

Luận Du-già chép: "Cõi Dục có đất, cũng có sắc, hương, vị.

Ở cõi Sắc chỉ có sắc, lệ thuộc cõi Sắc, trừ hương, vị và sắc của cõi Vô sắc, tùy thuộc đối tượng thích ứng có, nói cõi Sắc kia có thể được, vì e nhàm chán văn dài dòng, nên thôi."

Hỏi: "Ở thân cõi Dục, khởi đại chủng cõi Sắc, các đại chủng kia và cõi Sắc ở dưới là chỗ đồng hay khác?"

Đáp: "Như cát ở chỗ nước, chẳng phải ở chỗ khác, do trong bản thức có hai loại giống:

1/ Sinh thuần túy.

2/ Sinh lẫn lộn.

Dẫn đại kia khởi. Vì thuần túy diệt, lẫn lộn sinh, nên chẳng khác với trụ.

Có nghĩa: đây là thuận theo môn lý, Đại thừa đồng ở, như đại của loại khác. Sắc của hai đại này vốn không ngăn ngại nhau, đâu cần gì gián cách, nên thuận theo môn."

Hỏi: "Đại chủng tạo sắc có đối đồng ở, đã không có chướng ngại, sao không nói là tánh không có đối?"

Đáp: "Vì thuận sinh lẫn nhau, không chướng ngại nhau. Lại, nghiệp loại này do tăng thượng sinh, các căn khắp nghiệp loại đó, vì thọ dụng chung, như trung hữu v.v..., dù tánh có đối, nhưng không trở ngại nhau. Sắc tạo đại chủng này lẽ ra cũng như vậy."

Hỏi: "Sắc tạo đại chủng trụ ra làm sao? Là có trên, dưới, là ở trong, ngoài, hay lộn xộn?"

Du-già quyển 65 chép: "Đều cùng lúc mà có, không hề rời nhau. Do chủng loại của sắc tạo đại chủng kia, vì được thành do nhân, như một khối tròn vị lai giao thiệp nhau, nhận khắp tất cả chỗ, chẳng phải như tụ bột gạo, lúa, mạt-ni... Lại, đại chủng tạo sắc này có ba:

1/ Đồng chỗ ở.

2/ Hòa lẫn nhau.

3/ Lẫn lộn nhau, không rời nhau."

Lại, Du-già quyển ba chép: "Các xứ sắc có hai không rời nhau: 1/ Đồng chỗ ở không rời nhau.

2/ Hòa lẫn không rời nhau.

Đồng chỗ ở không rời nhau. Nghĩa là như một nhãn căn, sắc A-noa, A-noa của bốn đại với A-noa của sắc tạo, tùy thuộc sở hữu thích ứng, đều tương quan thiệp nhập, hợp thành một xứ, không có nơi chốn riêng, tức trong một sắc A-noa, có tám A-noa thêm tiếng thành chín, thêm thân thành mười, tùy thuộc vào căn khác là mười một. Hoặc bảy A-noa: Mắt, thân, đất, sắc, hương, vị, xúc, một nhân, một quả đồng ở một chỗ, thiệp nhập lẫn nhau, chẳng phải như tông Tát-bà-đa chủ trương cực vi đều riêng, đều thành A-noa; cũng không đồng với Kinh bộ hợp thành A-noa.

Nay, Đại thừa vốn không có cực vi, như cực vi sắc v.v... cho đến thời điểm A-noa, tùy thuộc vào đối tượng thích ứng nhiều ít, đồng ở một chỗ, các căn ở chỗ đó cùng khắp thọ dụng; vì tâm biết cảnh, nên ngần ấy là cảnh sinh tâm, nhưng vì đồng xứ không lìa nhau.

Hòa lẫn không rời nhau: Tức đồng xứ trước không lìa nhau, sắc A-noa, chủ thể tạo, đối tượng tạo, thiệp nhập lẫn nhau, dù ở một xứ, đồng xứ mà trụ, nhưng không hội nhập nhau, hợp thành một thể. Khi các căn được, vì mỗi căn đều riêng, nhưng không thể nói như nhóm hồ ma, đậu..., có thể phân tích được, nên gọi hòa tạp không rời nhau. Lại, giải thích đại tạo, đồng loại đối nhau, đồng một xứ trụ, gọi đồng xứ không lìa nhau; đại tạo khác loại đối nhau, cũng đồng trụ ở một chỗ, gọi là hòa tạp không lìa nhau, chẳng phải như tông người khác, cực vi đồng loại, dị loại đều khác, chẳng phải đồng một xứ."

Hỏi: "Dị thục có lúc thêm rộng lớn, vì sao dị thục chẳng phải tức nuôi lớn?"

Đáp: "Do sự nuôi lớn kia có thể gồm thâu chủ thể giữ gìn, dị thục nối nhau hiện thêm lớn v.v..., cũng như tường thành bên ngoài, vì ngăn giữ bên trong thành, nên chẳng phải tức nuôi lớn kia."

Hỏi: "là một bốn đại tạo, một sắc tạo hay nhiều sắc tạo? Là nhiều đại tạo, nhiều sắc tạo hay một sắc tạo ư?"

Đáp: "Nương tựa nhau mà có, lập dùng tên tạo, tạo một, tạo nhiều, về mặt lý, đều không trở ngại." Nhiếp Quyết Trạch chép: "Chủ yếu đại chủng sinh, trước, y cứ vào nơi chốn, sau sắc tạo khởi, vì không lìa chỗ kia, nên gọi là Tạo. Ánh sáng của vầng như thế, tức ít sinh nhiều; vì đều có tiếng v.v... tức nhiều sinh ít.

Các loại như thế v.v..., đều nên so sánh mà biết, vì đã không có cực vi, nên chấp nhận đều được.

--------------------------------

CHƯƠNG NĂM CĂN

Năm căn, phải dùng năm môn để phân biệt:

1. Các tông khác nhau.

2. Nêu ra thể tánh

3. Giải thích tên gọi

4. Lập khác nhau, chung

5. Loại khác có khác.

1-Các tông khác nhau: ngoại đạo Thuận Thế nói: "Tất cả pháp đều dùng đất, nước, lửa, gió bốn đại làm tánh. Vì thể của năm căn này tức là bốn đại. Sư Thắng Luận nói: "Nhãn căn tức lửa, nhĩ căn tức "không"; tỷ căn tức đất vị, căn tức nước; bì căn tức gió. Năm đại đều thuộc về thật cú. Cứng chắc, ẩm ướt, ấm, lay động, đều là tánh vô ngại, thuộc về đức cú, mắt chỉ được ba, chỉ trừ phong đại, Thân căn được bốn, cũng được cứng chắc..."

Sư Số Luận nói: "Tự tánh thành đại; đại thành ngã chấp; ngã chấp thành năm duy; năm duy thành năm đại; năm đại thành mười một căn."

Có thuyết nói: "Lửa thành nhãn căn; "không" thành nhĩ căn; đất tạo tỷ căn; nước thành thiệt căn; gió tạo bì căn. Tâm căn có hai thuyết: Một thuyết: Là khối thịt, chỉ đại tạo đất, hoặc năm đại tạo chung.

Thuyết khác nói: "Chẳng phải sắc, tai trong sáu căn kia, chỉ không có ngăn ngại."

Thuyết nói tâm căn chẳng phải sắc ấy, cũng không có ngăn ngại, vô tướng khác đều có trở ngại, đều là tánh thường."

Đại chúng bộ v.v... nói: "Thể tức bốn trần, khối thịt làm tánh, không có tịnh sắc riêng, không thể nhận lấy cảnh, vì hơi trội hơn sắc khác, nên gọi là thanh tịnh."

Sư Tát-bà-đa nói: "bốn đại có riêng; năm nhân sinh, v.v... làm nhân duyên tạo ra năm căn như mắt v.v... Đại chỉ xúc của thân căn dù hòa tập, nhưng đều thật sự có thể."

Sư luận Thành Thật nói: "Danh sư tử trụ, vốn xuất gia trong pháp Số luận, nhân lập nghĩa kia nói rằng: "Bốn trần hình thành bốn đại; bốn đại hình thành năm căn"."

Sư Kinh Bộ nói: "Căn dù là đối tượng tạo, nhưng chung cho giả, thật, cực vi là thật, vì thô là giả."

Thuyết Giả Bộ nói: "Cũng chung cho giả, thật, uẩn ở môn là thật, giới, xứ là giả."

Nhất Thuyết Bộ nói: "Căn chỉ có tên gọi, đều không có tự "thể" của sắc."

Thuyết Xuất Thế Bộ nói: "Căn hữu lậu là giả; căn vô lậu là thật."

Nay, y cứ vào Đại thừa, lược có bốn cách giải thích. Trong môn xuất thể, nên biểu thị đầy đủ:

2-Nêu ra thể tánh: Duy thức quyển tư lược có hai thuyết:

1) Sư Nan-đà v.v... nói: "Chỉ là hạt giống, không có hiện hành riêng, năm căn tịnh sắc, đây có bốn nghĩa:

1/ Chỉ có kiến phần, hạt giống của năm thức. 2/ Chỉ tướng phần, hạt giống của năm trần.

3/ Nhận lấy chung hạt giống của hai phần kiến, tướng. Ba nghĩa này đều là nghĩa của sư Nan-đà.

4/ Bồ-tát Hộ Pháp giả bào chữa nói rằng: "Nhận lấy cảm chủng nghiệp tăng thượng của năm thức, gọi là năm căn."

Duy thức quyển tư nói: "Năm thức như nhãn thức v.v... không có nhãn riêng làm "câu hữu"; dựa vào năm căn như nhãn căn v.v... tức là hạt giống."

Bài hệ trong luận Nhị Thập Duy Thức chép: "Thức từ tự chủng sinh, giống với cảnh tướng mà chuyển. Vì thành xứ trong, ngoài, Phật nói thức kia là một, cho đến dẫn rộng bài tụng trong luận Quán Sở Duyên rằng: "Ý bài tụng kia nói: Trong thức Dị thục, hay cảm ra hạt giống nghiệp tăng thượng của năm thức, gọi công năng sắc, nói là năm căn, không có nhãn v.v... riêng, chủng với thức sắc thường làm nhân lẫn nhau, hay huân tập với hạt giống, làm nhân lẫn nhau"."

Lại, luận ấy lại nói: "Có tránh tai nạn lỗi lầm của các thuyết đã nói từ trước đến nay, bạn bè dựa vào chấp kia, lại chuyển sang bào chữa nói: "Trong thức dị thục, có công năng chiêu cảm nghiệp chủng tăng thượng của năm thức, gọi là năm sắc căn, chẳng phải tạo ra nhân duyên sinh chủng của năm thức. Hai chánh nghĩa của Hộ pháp, v.v...: Có riêng tịnh sắc hiện hành làm năm căn kia", nên Duy thức nói: "Năm thức đều có nương tựa, chắc chắn có bốn thứ, nghĩa là năm sắc căn, thức thứ sáu, bảy, tám, vì tùy thuộc quan hệ một chủng, tất nhiên không chuyển biến."

Đối pháp v.v... chép: "Nhãn căn thế nào? Là đối tượng tạo của bốn đại chủng, đối tượng nương tựa của nhãn thức, sắc thanh tịnh làm thể, cho đến thân căn, đối tượng nương tựa của thân thức, tịnh sắc làm thể."

Luận Duy Thức chép: "Trong đây, lại, nói về đối tượng nương tựa không chung."

Luận Đối Pháp lại chép: "Giới mắt: nghĩa là mắt có hiện trông thấy sắc và hạt giống này, chứa nhóm thức A-lại-da dị thục, tức nhận lấy hiện chủng, đều gọi là giới nhãn; bốn giới còn lại đều như vậy.

Hỏi: "Hai nghĩa: Giới nhãn, nhãn căn đâu có khác nhau, căn chỉ nhận lấy hiện, không nói chủng ư?"

Đáp: "Nhân giữ gìn gọi là giới, chủng cũng tên là giới, tăng thượng gọi là căn; chủng chẳng thuộc về căn."

Hỏi: "Hiện căn tăng hiện thức; hiện sắc được gọi là căn; chủng căn tăng chủng thức, lẽ ra đồng thuộc về hiện căn mới đúng?"

Luận Đối pháp chép: "Do hạt giống căn sinh hiện căn xong, hạt giống thức mới sinh hiện thức, nên đáp: "Công dụng của đại chủng sở tạo tăng thượng, hiện được gọi là căn; chủng chẳng phải đại tạo, vì dụng chẳng phải tăng thượng, nên chẳng thuộc về căn"."

Hỏi: "Hiện nhãn dựa vào đại khởi, nhãn này cũng gọi là căn. Đại chủng cũng là chủng căn nương tựa, sao chủng nhãn không thuộc về căn?"

Đáp: "Đây là y cứ làm sáng tỏ tướng, hạt giống chẳng phải căn. Y cứ lý, dựa vào văn, vì chủng cũng thuộc về căn, nên Quyết Trạch chép: "Vì năm căn như nhãn căn v.v... chung cho hiện chủng."

3-Giải thích tên gọi: Các luận đồng nói: "Căn: nghĩa là tăng thượng, nghĩa là xuất sinh, là nghĩa căn, làm tăng thượng oai thế cho nhãn thức v.v...; vì làm nhân sinh ra, nên gọi là căn".

Năm là danh số, tức kèm số giải thích. Mắt: nghĩa là soi rõ, dẫn đường, gọi là mắt."

Luận Du-già quyển ba chép: "Vì thường thấy mọi sắc mà lại bỏ, nên gọi là mắt. Tiếng Phạm là chước-sô. Chước nghĩa là hành; Sô nghĩa là tận, nghĩa là, đối với cảnh, hạnh, thấy hết hành tận, vì thấy các sắc nên gọi là hành tận. Dịch là nhãn, nghĩa là thể dụng tương đương. Y cứ ngôn ngữ đời Đường dịch là Nhĩ: Nghĩa là nghe, tiếng Phạm là Thú-lũ-đa, Hán dịch là năng văn.

Ta nghe như vầy cũng nói rằng, Thú-lũ-đa, nên Du-già nói: "Thường đối với tiếng này, đến hay nghe, nên gọi là tai, dịch là nhĩ, nghĩa là thể dụng tương đương". Căn cứ vào ngôn ngữ đời Đường dịch: Tỷ: Nghĩa là ngửi. Tiếng Phạm là: Yết-lạnoa, Hán dịch: Năng khứu (ngửi), nên Du-già nói: "Vì thường do đây, nên ngửi mùi hương, gọi là mũi, Hán dịch là tỉ: tương đương với nghĩa thể". Y cứ vào ngôn ngữ đời Đường dịch là: thiệt: (nếm), nghĩa là trừ đói khát. Tiếng Phạm là Thời khất phược, Hán dịch: là nếm, vì trừ đói khát, nên Dugià chép: "Trừ đói, ốm, thường phát ngôn luận, vì biểu thị, bày ra, kêu gọi, nên gọi là lưỡi. Nhưng do thế tục phát ngôn luận. Là chỗ dựa của lưỡi, nên trong Du-già lấy chung hai nghĩa: Thế tục, thắng nghĩa, đều gọi là lưỡi, dịch là thiệt, vì nghĩa tương đương, nên y cứ theo đời Đường dịch: Thân, nghĩa là chứa nhóm, y chỉ. Dù đại tạo của các căn đều chứa nhóm. Thân căn là y chỉ của nhiều pháp kia. Chứa nhóm trong kia, riêng được gọi là thân. Tiếng Phạm nói: "Ca-da", Hán dịch là chứa nhóm, nên Du-già nói: "Vì các căn đã tùy thuộc chứa nhóm khắp, nên gọi là thân. Dù rằng Ca-da nghĩa là đối tượng nương tựa, chứa nhóm, Hán dịch là thân: Tương đương với nghĩa thể. Y cứ ngôn ngữ đời Đường dịch; thể của mắt ở đây tức là căn mắt kia, cho đến thân căn đều là trì nghiệp thích, đều có sinh ra, nói là vì nghĩa tăng thượng."

4- Lập khác nhau chung: Mắt, tai trong đây, lập là chung, ba căn còn lại, không lập. Vả, nói chung: Nghĩa lìa bít lấp, chướng ngại, thêm vào đó tên thần, gọi là sáu thần thông. Lìa các chướng ngại, bít lấp, diệu dụng khó suy lường, gọi là thần thông. Hai căn mắt, tai lìa dụng chất, nghĩa là xa lìa nít lấp, vì tăng thêm diệu dụng, khó suy lường, nên lập riêng thông; ba căn còn lại không lập. Nhưng hai thứ này do tu phương tiện sinh, trừ chướng ngại, ủng tắc, được gọi là thông. Không như vậy, thì dụng hẹp chẳng được gọi Thông. Thông: Chỉ có Tứ thiền có, chẳng phải thông do năm địa thành. Chẳng phải thông: thì đều tự địa khởi. Thông khác với địa khỏi. Nhưng địa dưới khởi địa trên, chẳng phải địa trên khởi địa dưới, vì chẳng phải tu khởi.

Thông: Thông có vô lậu, Phật cũng có. Nhưng thiên nhãn thông cũng lập làm minh, làm người dẫn đường cho trí sinh tử, nên quán sắc các nghiệp, thấy nhân tìm quả, vì thiên nhĩ vượt hơn.

Thiên nhĩ chẳng minh, thiên nhĩ không thể trừ ngu ba đời. Các tầng trời cõi Dục kia dù nhìn thấy thấu suốt, nhưng tác dụng không rộng, nên không lập làm thông. Nhãn, nhĩ "sinh đắc", chẳng phải đã được do tu đoạn bít lấp. Nhưng trong Hữu Kinh nói: "Năm sắc căn trong Phật vị đều gọi là Thông, vì công dụng của Phật cao quý, thông khác không như vậy".

Nay, y cứ vào thông của ba thừa được, vì thông chỉ hai căn.

5- Loại khác có khác: luận Du-già quyển 3, 54 chép: "Loại khác có ba:

1) Loại dị thục. Dị thục này có hai thứ:

a. Nghiệp sinh khởi đầu tiên.

b. Thời gian chuyển biến sau nối nhau. 2) Loại nuôi lớn. Loại này lại có hai:

Xứ rộng khắp, được nuôi lớn do ăn, ngủ nghỉ, phạm hạnh, đẳng chí.

Tướng thêm thịnh vượng, cũng do ăn, là đối tượng nương tựa của tướng kia, là tu tác ý vượt hơn, vì được nuôi lớn, thuần thục trong thời gian dài.

3) Loại đẳng lưu. Loại này có bốn thứ:

1/ Đẳng lưu dị thục.

2/ Đẳng lưu nuôi lớn.

Hai thứ này thuộc về hai loại trước.

3/ Đẳng lưu thay đổi khác.

4/ Đẳng lưu bản tánh.

Hai thứ nuôi lớn không gồm thâu, vì đều là hai thứ sau.

Năm căn chỉ có dị thục nuôi lớn, lìa hai thứ này, không có đẳng lưu riêng.

Đây là y cứ theo thể của ba loại riêng, năm sắc căn này đủ hai dị thục và hai nuôi lớn.

Nói chung như thế, căn nhãn, nhĩ kia, tu quả gọi là trời, tu khác gọi là nhục. Trời chỉ nuôi lớn, đủ hai nghĩa nuôi; dị thục nhục thông và nuôi lớn hai. Hai nuôi lớn đều đủ, vì thiên nhãn chẳng phải do nghiệp sinh, nên không chung với dị thục."

Có sư của dị luận khi soạn sớ của Tạp Tâm, dù không dụng, cũng cho là tự chấp, tương đương với lý sâu kia, mới nói rằng Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ. Thân ở địa dưới khởi thân căn của địa trên, Tạp Tâm chép: "Cực vi ở bốn căn, mười thứ, lẽ ra phải biết thân căn chín; tám căn khác, nghĩa là có hương, đất. Lý này không đúng".

Luận Câu-xá chép: "Tụ cực vi cõi Dục không có âm thanh, không có căn, có tám việc, có chín việc của thân căn, mười việc có căn khác, dùng dục để tiểu biểu cho danh, biểu thị rõ là nói nhóm cực vi cõi Dục, chẳng phải nói nhóm cực vi cõi trên cũng vậy, khởi nhãn, nhĩ kia, sẽ thành thân v.v... Lại trái với phát trí mà Bà-sa đã nói, luận ấy chép: có khi nào thành tựu nhãn căn kia mà không thành tựu thân căn hay không?"

Đáp: "Có, nghĩa là thân ở địa dưới khởi thiên nhãn ở địa trên, không thành tựu thân căn của địa." Vì lẽ như thế v.v..., nên chỉ là tu học, không là do thầy truyền trao, văn không tìm khắp, vâng theo giả dối vọng tình, nảy sinh tràn lan xuyên tạc, cần phải y chỉ điển cứ để làm gương cho hậu học.

Luận Du-già quyển ba lại có so sánh: Có một thứ căn, gọi là "công năng thấy sắc", có hai thứ mắt, gọi là nuôi lớn, dị thục, cho đến mười một thứ căn, gọi là khứ lai, kim, trong, ngoài, thô, tế, kém, mầu nhiệm, xa, gần; mắt, tai, v.v... cũng vậy. Nhưng có khác nhau, luận tự làm sáng tỏ.

Có mắt giả, mắt thật, về nghĩa, so sánh nên đồng đều, e chán văn rườm rà, nên lược mà thôi, rộng như luận kia đã nói.

-----------------------------

CHƯƠNG BIỂU VÔ BIỂU SẮC

Biểu, vô biểu sắc, phải dùng mười môn để phân biệt:

1. Nói về tên gọi.

2. Nêu ra thể.

3. Phân biệt giả, thật.

4. Chi đủ ít, nhiều.

5. Giới hạn được, bỏ.

6. Y cứ vào "có", "không" của địa.

7. Tánh của bốn đại tạo.

8. Nên thành khác nhau.

9. Trước, sau được, bỏ.

10. Giải thích các chướng ngại.

-Thứ nhất, là nói về tên gọi, ở trong đó có hai:

1) Nêu ra tên gọi.

2) Giải thích tên gọi.

-Nêu ra tên gọi có hai: 1/ Biểu sắc

2/ Vô biểu sắc

Xưa gọi tác sắc, vô tác sắc. Biểu sắc có hai:

1. Nghiệp thân biểu 2. Nghiệp ngữ biểu.

Biểu này chung cho ba thừa. Nếu theo thuyết Đại thừa, thì có nghiệp nghĩa biểu cũng có ba thứ, lại thêm ý biểu.

Luận Du-già quyển 53 chép: "Nếu không muốn biểu thị cho người khác biết, chỉ tự khởi tâm, ý tư duy, lựa chọn bên trong, không nói ra bằng lời, chỉ phát ra hiện hành của pháp thiện, nhiễm ô, vô ký.

Vì nghiệp ý biểu, nên có ý biểu.

Ý biểu này riêng vô biểu: Chỉ là tánh thiện."

Bồ-tát cũng chỉ lập có ba chi, vì y cứ vào đạo nghiệp, nên dứt trừ nhiễm, vô ký. Nghiệp tăng thượng: Ấy là phát vô biểu, nghiệp khác thì không như vậy.

Có nghĩa: Bất thiện cũng có vô biểu, mười nghiệp đạo ác, rất nặng mới thành.

Ba ý biểu sau cũng phát vô biểu, về lý có lỗi gì?

- "Thuộc về một trăm hạnh, đều gọi là luật nghi, trái với đây, chính là không cần luật nghi. Nên biết ý ba cũng phát vô biểu, đâu chấp nhận phát thân, ngữ; tư duy chủng, gọi là vô biểu; Vì ý riêng suy nghĩ mạnh mẽ, không gọi là vô biểu, nên biết ba biểu đều có vô biểu.

Trong ba nghiệp phạt, vì ý phạt là nặng, nên ý tiên nhân ngờ vực sát sinh nhiều đời."

Bài tụng trong Nhị thập Duy thức chép: "Không như Mạt-đăng-già v.v..., làm sao do ý phát giận dữ của tiên nhân, thành tội lớn."

- "Việc này làm sao thành?"

- "Ý có vô biểu chung cho thiện, bất thiện, chẳng phải hai vô ký, nhưng ý vô biểu, chẳng phải là tánh sắc, chẳng phát ra hiện hành, vì sắc thân, ngữ phát ra thân ngữ: Vì thuộc về ý."

- Có nghĩa: "Ý biểu thị giáo chung, dù vậy nhưng không thấy văn riêng, nói có vô biểu phát ra thân, ngữ, ý tứ, biểu lộ bên ngoài rất mạnh mẽ, huân tập hạt giống tăng thượng, có thể phát ý tứ vô biểu, phát nội tại chỉ tự biểu, biết không phải rất tăng thượng mạnh mẽ. Mặc dù huân tập hạt giống chẳng phải vì dụng tăng gấp bội, nên chỉ thân, ngữ mới có vô biểu. Ý tiên nhân ngờ vực nói trở thành ý phạt, dù cho trở thành tội nặng, cũng đâu có vô biểu? Nghĩa này cũng không thuộc về bất luật nghi."

"Nếu vì luật nghi mà có một trăm hạnh, nên ý nghiệp cũng có lập vô biểu bất luật nghi, vì sao một trăm pháp không nói riêng?"

- "Nếu dựa vào nghĩa này thì dù thọ lãnh mười điều lành, hạt giống mười điều lành dù có công năng mười loại, gọi là luật nghi giới, nhưng chỉ bảy chi nói có vô biểu. Vì danh từ luật nghi chung cho cuộc hạn vô biểu, nên chẳng thể nói luật nghi đều có vô biểu, nên nghĩa vô biểu khác với luật nghi, luận Du-già quyển 53 chép: "Nếu xa lìa tư duy thì sẽ trái với bất luật nghi. Vì xa lìa năng lực tăng thượng, nên đều hiện hành với năm căn gọi là luật nghi. Đây là nói thân, ngữ đã xa lìa hành vi tư duy ở trước, gọi là Luật nghi, thì cần gì phải có vô biểu, mới gọi là luật nghi?""

Lại, luận Du-già chép: "Luật nghi có tám:

1/ Luật nghi năng khởi. 2/ Luật nghi nhiếp thọ. 3/ Luật nghi phòng hộ.

4/ Luật nghi dẫn trở lại.

5/ Luật nghi phẩm hạ.

6/ Luật nghi phẩm trung.

7/ Luật nghi phẩm thượng.

8/ Luật nghi thanh tịnh."

Nếu chưa chánh thọ, thì trước phải khởi tâm niệm này: "Ta nhất định thọ xa lìa như thế, gọi là luật nghi Năng khởi.

Nếu khi chánh nhiếp thọ giới xa lìa, thì gọi là luật nghi nhiếp thọ. Vì tự năng lực tăng thượng của năm căn sau, đều hiện hành chung với hạt giống kia; thường cảm thấy hổ thẹn đối với tội không làm, gọi là luật nghi phòng hộ.

Quên nhớ nghĩ có trái phạm, tầm tức ăn năn chừa bỏ, gọi là luật nghi dẫn trở lại.

Nếu phần lìa nhỏ, lìa trong ít thời gian, chỉ tự lìa, không khuyên người khác lìa, không khen ngợi, không chúc mừng, an ủi, gọi là luật nghi phẩm hạ.

Nếu phân lìa nhiều, lìa trong nhiều giờ, tự lìa, cũng khuyên người khác, nhưng không ca ngợi, cũng không chúc mừng, an ủi, gọi là luật nghi phẩm trung.

Nếu tất cả lìa, suốt đời lìa, tự lìa, cũng khuyên người khác, là cũng khen ngợi, chúc mừng, an ủi, gọi là phẩm thượng. Tĩnh lự vô lậu, gọi là thanh tịnh. Đây là chủ thể khởi đầu tiên, đã gọi luật nghi, thì cần gì luật nghi, tất nhiên là vô biểu. Nên dù một trăm hạnh đều gọi là luật nghi. Phát vô biểu: Chỉ ở bảy trước."

Câu-xá quyển 14 dẫn tụng trong kinh rằng:

"thân luật nghi lành thay! Ngữ luật nghi lành thay! Ý luật nghi lành thay! Khắp luật nghi lành thay!"

- "Ý căn cũng nói lời luật nghi, có thành vô biểu chăng?"

- "Nếu y cứ vào hai cách giải thích trước thì luật nghi thân, ngữ và thể của bất luật nghi là tánh sắc, vì không có biến đổi, ngăn ngại, vì khác với loại sắc, nên thuộc về xứ riêng. Ý này đều tư duy không đồng với sắc kia, không phát ra ở sắc, cũng không ngăn chận sắc, không gọi tên sắc. Đã là duyên lo nghĩ, được huân tập bởi hiện tư duy, chỉ ở nghĩa suy nghĩ chủng loại, gọi là vô biểu, vẫn thể là suy nghĩ, tức thuộc về hành uẩn, nên đối với trăm pháp lại không nói riêng, như ý tà kiến sau bày ra thân ngữ, thân ngữ sau bày ra gọi là bất luật nghi";

- "Hai tư duy đầu tiên, vì sao không gọi tên?"

- "Như hai tư duy đầu tiên trong luật nghi, mặc dù ý vô biểu, nhưng chỉ là trong xứ, cũng đâu có lỗi gì?"

- Trong ba thuyết này, thuyết sau là thích đáng, vì thân, ngữ biểu lộ bên ngoài, khiến người khác biết có thêm sự mạnh mẽ.

Trong sắc vô biểu lược có ba loại:

1/ Vô biểu luật nghi.

2/ Vô biểu bất luật nghi.

3/ Vô biểu của phi luật nghi, phi bất luật nghi.

Đối pháp quyển tám chép: "Nghiệp có ba:

1/ Nghiệp luật nghi.

2/ Nghiệp bất luật nghi.

3/ Nghiệp phi luật nghi, phi bất luật nghi.

Nghĩa là người kia đã có nghiệp thiện, bất thiện, hoặc bố thí, v.v... hoặc ẩu đả, đánh đập..., thì nghiệp sẽ không thuộc về luật nghi, bất luật nghi, mà đều được gồm thâu ở đây."

Quyết Trạch quyển 53 chép: "Luật nghi, bất luật nghi đã nói, nghĩa là trừ nghiệp luật nghi, bất luật nghi đã nói, nghĩa là trừ nghiệp luật nghi, bất luật nghi như trước kia đã nói. Tất cả nghiệp thân, ngữ, ý thiện, bất thiện v.v..., nên biết rằng, tất cả đều thuộc về phi luật nghi, phi bất luật nghi."

Quyết Trạch quyển 54 chép: "Sự khác nhau của dụng sắc. Nghĩa là hữu biểu, vô biểu đều thuộc về luật nghi, bất luật nghi, phi luật nghi, phi bất luật nghi.

Nói bố thí v.v..., vì là nghiệp này, nên quyết định biết nghiệp này cũng có vô biểu."

- "Vì sao đầu tiên nói hữu biểu, vô biểu chỉ ở trong luật nghi, bất luật nghi, không ở trong xứ?"

- "Ở đây có ý gì? Nên luận Câu-xá quyển 14 nói: Vô biểu ba, luật nghi, bất luật nghi chẳng phải hai."

Có nghĩa: "Trong xứ, chỉ cho nghiệp hữu biểu, chủ yếu ở tư duy của phẩm thượng, với thế huân tập hạt giống trội hơn, mới có vô biểu."

Luận Hiển Dương quyển 1, 54 chép: "Sắc pháp xứ có ba:

1/ Luật nghi.

2/ Bất luật nghi.

3/ Định tự tại, vì không nói là chẳng phải hai hữu, vô biểu, nên dù các chỗ nói có nghiệp trong xứ, cũng không nói rõ có vô biểu, nên biểu trong xứ không có sắc vô biểu. Nếu y cứ vào nghĩa đầu tiên, thì đâu có ngăn ngại ý khích lệ, thành thật tạo ra trong xứ, mà có suy nghĩ thượng; luật nghi chấp nhận mà có tư duy phẩm trung, đâu chấp nhận đồng với nghĩa huân tập hạt giống mạnh mẽ, nhạy bén, trở thành vô biểu, phân biệt nghiệp trong xứ.

Nếu dùng luật nghi và phi luật nghi, thì tất nhiên vì có đủ chi, nên tư duy hạt giống, huân tập trội hơn được vô biểu; Trong xứ thì không phải như vậy, tức lẽ ra một trăm hạnh không phải là luật nghi; vì cũng có toàn phần, một phần v.v..., nên thừa nhận cận sự, vì có thọ lãnh ít. Các chỗ dù nói vô biểu pháp xứ, nhưng chỉ có hai loại, tánh nghiệp trong xứ kia cũng chỉ gồm hai, thuộc về vô biểu kia, tức gồm hai này, không còn nói riêng, thể chẳng phải không có. Nếu y cứ vào nghĩa sau, thì nghĩa này không hợp lý. Vì trong tất cả xứ, đối với tư duy về luật nghi... đều là phẩm hạ, không phải nghiệp trong xứ có thể có vô biểu."

Trong hai thuyết, đã không có văn rõ ràng, cũng mặc tình lấy, bỏ.

Kế là, giải thích danh: Sắc tạo đại chủng của các căn, hòa hợp sự chứa nhóm khác nhau, gọi là Thân. Năm căn, bốn trần, chủ thể tạo, đối tượng tạo, đều được gọi là Thân, chỉ do chỗ nhóm họp các pháp của thân căn, riêng dựa vào danh từ thân, lại nghĩa y chỉ, gọi là Thân.

Luận Duy Thức chép: "Thể dựa vào nghĩa nhóm họp, nói chung, gọi là thân, cũng do thân căn là đối tượng y chỉ của rất nhiều pháp, vì tiêu biểu riêng danh hiệu của thân", nên Du-già chép: "Vì các căn đã tùy thuộc chứa nhóm khắp, nên gọi là Thân. Mặc dù tiêu biểu tên gọi chung, nhưng tức là tên riêng. Biểu là biểu thị, biểu thị nội tâm của mình, thị là bảo cho người khác biết". Xưa nói: "Nghĩa tạo tác của thân không tương ưng, vô biểu này cũng có nghĩa tạo tác; thể của biểu tức là xứ sắc, biểu sắc, biểu của nương tựa thân, gọi là Thân biểu, y chủ thích. Nghiệp là nghĩa tạo tác. Nếu xứ sắc, biểu sắc, gọi là Nghiệp thân biểu, dựa vào biểu của thân, gọi là thân biểu. Thân biểu tức nghiệp, gọi là nghiệp thân biểu, trì nghiệp thích danh".

Nay, nhận lấy biểu của thân động, tư duy, gọi là nghiệp thân biểu, nghiệp của thân biểu động, là y chủ thích. Ngữ nghĩa là ngôn ngữ (lời nói), dùng âm thanh làm thể. Nghĩa biểu, nghĩa nghiệp, đều như trước đã giải thích. Chủ thể biểu ở đây, hiểu rõ đối tượng dục, giảng nói ý ưa thích của nội tâm, vì biểu thị cho người khác biết, nên gọi là ngữ biểu. Hoặc giả ngữ nghĩa là đối tượng nương tựa của chữ v.v... Vì kèm theo chữ hay giải thích, biểu thị, nên gọi là ngữ. Thể ngữ tức biểu, trì nghiệp thích. Ngữ biểu tức nghiệp; nghiệp thuộc về tiếng nói. Nay, nhận lấy tư duy năng phát của ngữ biểu, gọi là nghiệp ngữ biểu, tức nghiệp của phát ngữ biểu, gọi là nghiệp ngữ biểu, y sĩ thích.

Tương ưng với ý, tác động ở ý, gọi là ý biểu, gọi là ý nghiệp, đều giải thích gần gũi.

Nếu nói rằng, ý biểu tức nghiệp, là Trì nghiệp thích, vô biểu của ba nghiệp thân, ngữ, ý, đều là y chủ thích. Vì nghĩa thành nghiệp v.v... đều rõ ràng, nên không dẫn phát.

Luật nghi có ba:

1/ Luật nghi biệt giải thoát.

2/ Luật nghi tĩnh lự. Trước nói rằng, định cộng giới, cũng gọi là luật nghi thiền.

3/ Luật nghi vô lậu, cũng gọi giới đáng yêu của bậc Thánh trước, gọi là đạo cộng giới, ngăn ngừa sự sai quấy, gọi là Biệt. Chủ thể đề phòng, đối tượng đề phòng đều được gọi là biệt giới, tức giải thoát, vì giải thoát việc ác là nên giải thoát của Biệt. Biệt thuộc về đối tượng đề phòng, Y Sĩ thích. Biệt tức giải thoát, biệt thuộc về chủ thể ngăn ngừa, trì nghiệp thích.

Luật, là pháp thức; Nghi là phép tắc, mô phạm, khuôn mẫu, xưa có cách giải thích: Luật nghĩa là loại; nghi là thức; chủng loại, pháp thức, gọi là luật nghi, vì đều chung cho thiện, ác, nên nói là giới ác, gọi là bất luật nghi.

Nay, giải thích: Chỉ có giới thiện kia được gọi tên, có thể làm pháp thức, vì có thể làm phép tắc, khuôn mẫu, nên gọi là luật nghi. Như nói: "Điều phục, là vừa điều, vừa phục. Luật nghi này cũng giống như thế, vừa luật, vừa nghi. Biệt giải thoát tức luật nghi, đều là Trì nghiệp thích. Lại, giải thích: Biệt giải thoát: là tên riêng của giới này. Luật nghi: là gọi chung các giới, vì phân biệt người khác, nên nói là luật nghi biệt giải thoát, tức Y sĩ thích."

Luận Câu-xá quyển mười bốn chép: "Thời điểm sát-na đầu tiên gọi là Biệt giải thoát, cũng gọi là luật nghi, cũng gọi là đạo nghiệp căn bản. Từ niệm thứ hai, cho đến chưa bỏ, không gọi là Biệt giải thoát, biệt giải luật nghi, không gọi là đạo nghiệp, mà gọi là khởi sau. Nay, cũng có thể như thế. Tĩnh lự là tánh lìa chướng ngại ung dung tự đắc, tự cao, chìm mất v.v... gọi là tĩnh. Chuyên chú tư duy vượt qua cảnh môn gọi là lự, vừa lự, vừa tĩnh, gọi là tĩnh lự. Tĩnh của lự, gọi là tĩnh lự.

-Hai giải thích đều được tĩnh lự, là tên riêng của định."

Du-già quyển mười hai chép: "Định cũng gọi là đẳng dẫn, đẳng trì, đẳng chí, tâm nhất cảnh tánh, cũng gọi tĩnh lự, nên luật nghi là tư duy luật nghi của tương ưng tĩnh lự, lân cận vi thích.

Vô lậu: Nghĩa lìa lỗi, như vô tham v.v..., không thể có sáu cách giải thích. Nếu vô lậu thuộc về Thánh đạo, thì thể tức luật nghi tương ưng với vô lậu, nếu vô lậu, tức tư duy luật nghi, vì thể là vô lậu, nên chung với hai cách giải thích: gần gũi, trì nghiệp, cũng là đối tượng yêu thích của bậc Thánh. Giới của đối tượng yêu thích của bậc Thánh, đều là y sĩ thích. Bất luật nghi: Bất: là chẳng, là không chẳng đáng làm phép tắc, không đáng làm nghi quỹ, gọi bất luật nghi, như vô minh v.v..., cũng không phải sáu cách giải thích, không đồng với ố thi-la, ố tha thi-la dùng thi-la để làm đối tượng ác, gọi là ố thi-la, tức Hữu tài thích.

Thi-la, là tiếng Phạm, Hán dịch là Thanh lương. Người làm ác, rất ghét thi-la, gọi là ố thi-la, chẳng phải thi-la xấu mà gọi là ố thi-la.

Người xưa giải thích: "Nghĩa của giới thi-la. Thi-la ác: Tức là giới ác. Do câu hỏi này nói: Đề phòng lỗi quấy để giải thích giới. Có giới không đề phòng quấy. Tạo tác để giải thích tư duy; có tư duy quấy, tạo tác.

Nay, giải thích không đúng, vì bất thiện, giải thích danh, nên có câu hỏi này. Thi-la chẳng phải nóng bức, đâu được thể ác là thi-la."

- "Nếu như vậy, thì hỏi trái lại, thể ác chẳng phải thi-la, ghét thi-la, gọi là ố thi-la, lẽ ra cũng thể ác, chẳng phải là kiến. Vì ác đối với kiến, nên gọi là ác kiến?"

- Câu hỏi này không ngang nhau. Tìm cầu để hiểu kiến, thiện, ác đều tìm cầu, mát mẻ là thi-la; thi-la chẳng phải thể ác. Do bất luật nghi này chẳng đáng làm phép tắc, không là phép tắc ác.

Phi luật nghi, phi bất luật nghi: Không đáng làm oai nghi, phép tắc, đồng với luật nghi, gọi là phi luật nghi; chẳng phải không đang làm phép tắc thì như bất luật nghi, gọi là phi bất luật nghi. Đã có song phi, cũng chẳng phải sáu cách giải thích. Lại, chúng ta giải thích rằng: "Cũng chẳng phải luật nghi, cũng chẳng không phải luật nghi, tức Trì nghiệp thích. Luật nghi v.v... tức vô biểu, đều trì nghiệp thích. Vô biểu luật nghi đều là y chủ thích. Vô biểu đạo định kia, để phân biệt chung, cũng được là y sĩ thích.

-Thứ hai, nêu ra thể:

Nhờ nghiệp thân biểu, dùng sắc biểu trong xứ sắc làm tánh, giả nghiệp ngữ biểu, dùng tiếng làm thể; luận Thành nghiệp, Du-già v.v... nói: "Có ba thứ tư duy:

1/ Tư duy xem xét, lo nghĩ; sắp phát thân, ngữ, thì trước là xem xét, lo nghĩ.

2. Quyết định tư duy, khởi tâm quyết định, vì sắp muốn làm.

3/ Phát động tư duy vượt hơn, chánh phát thân, ngữ tác động ở sự.

Hai nghiệp biểu thân, ngữ, chỉ chấp lấy hiện hành."

Thứ đến, là phát động tư duy thiện, bất thiện, dùng làm tự thể. Vì ý biểu dùng hai tư duy trước làm thể nên Duy thức nói: "Thân có khả năng động tác, tư duy, gọi là thân nghiệp; hay phát ngữ, tư duy, gọi là ngữ nghiệp. Xem xét quyết định hai tư duy vì tương ưng với ý, vì ý tác động, nên gọi là ý nghiệp. Bất luật nghi kia chỉ là hữu lậu, nghiệp trong xứ kia."

Có nghĩa: "Chỉ có hữu lậu, Phật v.v... tất cả năm uẩn vô lậu đều thuộc về luật nghi; pháp lành vô lậu đều đáng làm phép tắc."

Trong chỗ có nghĩa: cũng chung cho vô lậu; vì vô lậu khác và việc lành khác của Phật chung là phép tắc kia, nên giải thích trước là thích đáng, vì pháp lành vô lậu đều đáng làm phép tắc, nên không đồng với Tiểu thừa. Nếu là nghiệp luật nghi thì chắc chắn chung cho vô lậu, thì sẽ thừa nhận Phật v.v... cũng có hai biểu vô lậu, nên luật nghi biệt giải thoát kia và một phần vô biểu trong xứ, do khéo tư duy đối với hạt giống, nên có công năng đề phòng giới ác của thân, ngữ và phát công năng giới thiện thân, ngữ làm thể. Bất luật nghi kia và một phần vô biểu trong xứ, do tư duy bất thiện đối với hạt giống, có phát công năng bất thiện của thân, ngữ, ngăn chận công năng giới thiện của thân, ngữ làm thể.

Vô biểu trên đây dù thiện, ác khác nhau, nhưng đều y cứ vào tư duy công năng riêng của hạt giống để lập. Do nguyện chế phục tư duy có phân chia giới hạn, nhận lấy công năng riêng, nên Duy thức chép: "Nhưng dựa vào tư duy giới hạn phần nguyện thiện ác, giả lập vô biểu, đối với lý đâu có trái?" Lại, chép: "vô biểu này hoặc y cứ vào vị tăng trưởng tư duy hạt giống lành, dữ của thân, ngữ vượt hơn để lập".

Du-già, Thành Nghiệp nói đều giống nhau. Kinh Niết-bàn chép: "Bồ-tát có giới dù không phải sắc hình mà có thể hộ trì, dù không có xúc đối, khéo tu phương tiện có thể được, đầy đủ y cứ đồng với ở đây". Lại, Niết-bàn quyển 34 chép: "Xưa, Vương tử Bồ-đề đã nói thế này: "Nếu có tỳ-kheo hộ trì giới cấm, nếu khởi tâm ác, thì phải biết rằng lúc ấy đã mất giới Tỳ-kheo". Lúc bấy giờ, ta nói: "Vương tử Bồ-đề! Giới có bảy thứ, từ thân, miệng có sắc vô tác, vì nhân duyên sắc vô tác này, nên tâm Tỳ-kheo kia dù ở trong ác, nhưng trong vô ký không gọi là mất giới, cũng gọi là giữ giới"."

- "Vì sao gọi là sắc vô tác, chẳng phải nhân sắc thật không tạo ra nhân quả của sắc thật?"

- "Các đệ tử ta nghe thuyết này xong, không hiểu ý ta, bèn nói rằng: "Phật nói có sắc vô tác"."

Tát-bà-đa dựa vào thuyết này, có sắc vô tác thật, ở kinh khác, ta đã nói lời như vầy: "Giới: tức là ngăn cấm pháp ác; nếu không làm ác, thì gọi là giữ giới". Các đệ tử của ta nghe thuyết này, không hiểu ý ta, bèn chấp rằng: "Như Lai quyết định nói: "Không có sắc vô tác", nên Kinh bộ v.v... nói: "Không có sắc vô tác"."

- "Ý kinh kia nói: "Do phát tư duy của sắc nghiệp thân, ngữ, là công năng ngăn ngừa sắc giới ác của thân, ngữ, nên huân tập hạt giống thành ra sắc của giới vô tác, do suy nghĩ hạt giống này, đề phòng dụng của sắc ác, vì thường nối tiếp nhau, nên tâm dù lập ra trong ác, vô ký, cũng không gọi là mất giới. Đây là ngăn ngừa thân, ngữ ác tư duy hạt giống, vì giả gọi là sắc, nên không tạo ra nhân duyên hạt giống của sắc thật, sinh ra hiện sắc, cũng chẳng phải là thật chủ thể tạo, đối tượng tạo sắc, đều có nhân quả đồng loại, chẳng phải từ sự sinh kia, vì không sinh ở chỗ kia, nên nói là có thật sắc vô tác, vì không hiểu ý. Suy nghĩ hạt giống này, đã sinh hiện hành, vì phát ra thân, ngữ, nên giả gọi là Sắc. Ngăn cấm đối với pháp ác, gọi là Giới.

Nếu nói không có giới vô tác, thì cũng vì không hiểu ý, nên biết không có thật, có sắc giả, gọi là hiểu ý, chính là hợp với văn này; vô biểu tĩnh lự do pháp nhĩ tất cả định hữu lậu trong mười bảy địa của hai cõi trên, đều hiện hành trong suy nghĩ, có đề phòng công năng của giới ác cõi Dục làm thể, vì thuyết này nói đều có luật nghi tĩnh lự ngoài giới vô lậu, nên Đối pháp nói: "Vì sắc thô của cõi Vô Sắc không có, nên đã lược bỏ không kiến lập luật nghi giới sắc, dù ở địa Vô Sắc thật có giới định, nhưng không nói có, nghĩa là vì lược bỏ không lập, nên luật nghi vô lậu, do pháp nhĩ, tất cả đạo vô lậu sở hữu của địa trên, đều có hiện hành trong suy nghĩ, có công năng đoạn trừ các phạm giới cõi Dục, chẳng phải dùng công năng làm thể, hai cõi, mười địa tùy thuộc thích ứng mà có, thể của hai giới này đều hiện hành tư duy, vì tùy thuộc ở tâm chuyển biến."

Thành Duy Thức chép: "Hoặc y chỉ suy nghĩ hiện hành ác của thân, ngữ ở trong định mà lập; vô biểu khác đều không tùy thuộc tâm. Có tâm, không có tâm, tùy thuộc vào tâm tánh nào, mà nhất định thành tựu? Chỉ dựa vào hạt giống lập, vì công năng tạo tác nghĩa là tư duy, vì nghiệp là tạo tác, nên chỉ nhận lấy tư duy không y chỉ pháp khác, do tất cả giới biểu, vô biểu này đều y cứ ở tự lập.

-Thứ ba, là phân biệt giả, thật:

Nếu hai nghiệp, ba nghiệp biểu, vô biểu, thì đều là giả lập, nhưng vẫn có khác nhau; Hai nghiệp thân, ngữ giả; Thể của phương biểu thật là sắc biểu, chẳng phải là tánh nghiệp."

Hiển Dương v.v... chép: "vì hai nghiệp thân ngữ biểu hiện thiện, ác nên giả gọi là thiện, ác, vì thật là vô ký, nên không thể chiêu cảm quả dị thục ở đương lai; vì từ nghiệp là giả, nên Duy thức chép: "Hoặc thân, ngữ biểu vì do tư phát, nên giả nói là nghiệp.

Luận Hiển Dương quyển 53 chép: "Tất cả nghiệp biểu đều là giả có. Nghiệp ấy phát ra tư của hiện hành thân, ngữ, thật là tánh nghiệp, vì chiêu cảm quả dị thục mà không phải thân, ngữ, cũng không phải là biểu, cũng không phải là sắc, giả gọi sắc của thân, ngữ biểu.

Đối tượng phát là biểu, vì đối tượng ngăn ngừa, đối tượng phát khởi đều là sắc, nên tư giả gọi sắc. Vô biểu sắc kia, thật là vô biểu, vì không có đối tượng biểu thị, mà thể chẳng phải sắc, cũng từ đối tượng phát khởi, đối tượng ngăn ngừa, giả gọi là sắc, nên Hiển Dương chép: "Sắc của các luật nghi y cứ vào pháp không hiện hành để kinh luận tánh sắc; vì tánh sắc này từ đối tượng ngăn ngừa, nên gọi là sắc; vì quyết định, nên sắc của bất luật nghi y chỉ pháp hiện hành, để kiến lập tánh sắc, vì định phát ra thân, ngữ. Tuy nhiên Duy thức chép: "Tánh này hoặc y cứ vào phát ra vị làm thêm lớn suy nghĩ hạt giống lành, dữ của thân, ngữ vượt hơn để lập. Ở đây có hai nghĩa:

1/ Vô biểu biệt giải, có công năng huân tập tư hiện hành ở vị đầu tiên, vì cũng có phát thân, ngữ nên luận Hiển Dương, y cứ vào quyết định rằng: "Y chỉ không hiện hành, nhằm lập ra tánh sắc". Duy thức y cứ vào biệt giải thoát, vì cũng có đối tượng phát, nên không trái nhau.

Duy thức lại chép: "Nhưng y cứ vào giới hạn thiện, ác của suy nghĩ, nguyện để giả lập vô biểu, nên đều giả có."

Luận Hiển Dương quyển 18 chép: "Bảy việc không có thật. Vì luật nghi thứ sáu, bất luật nghi thứ bảy, nên biểu, vô biểu, đều là giả lập, đồng với luận Thành Nghiệp."

-Thứ tư, chi có đủ bao nhiêu:

Chi có hai nghĩa:

1/ Nghĩa của phần chi.

2/ Nghĩa của loại chi.

Nghĩa của phần chi: Tức môn phế, lập. Nghĩa loại chi: Tức nghĩa loại thể.

Nghĩa của phần chi: luận Hiển Dương quyển 53 chép: "Thuộc về bốn chi của luật nghi Bí-sô:

Chi thọ cụ túc. Nghĩa là tác biểu bạch Yết-ma thứ tư và lược nhiếp thọ thuận theo học xứ thô. Vì đủ chi thọ này, nên gọi là Bí-sô đầu tiên đủ giới Bí-sô. Ý này tức rõ ràng: Đầu tiên, thọ giới cụ, tác bạch làm Yết-ma thứ tư, nói bốn Ba-la-di v.v..., biểu thị người thọ giới ý ưa thích rộng khắp, thân ngữ đã được đều có chỉ, tác, gọi là chi đầu, mới thành Bí-sô nên mười giới, sáu pháp; quy y nói tướng đều tức là chi đầu."

1) Thọ tùy thuộc pháp học xứ, từ thọ đầu tiên về sau, đối với Biệt giải thoát của Tỳ-nại-da, đã có thuận theo thi-la của Bí-sô.

Nếu đa số Học xứ đã dẫn kia, đối với tất cả người đã thọ kia đều giữ gìn vâng làm, thì sẽ do đây, được gọi là luật nghi biệt giải thoát thủ hộ. Ý này liền hiển bày. Từ thọ giới về sau, luật Tỳ-nạida rộng, trong biệt giải thoát giới bổn, thuận theo pháp giới đã thọ. Nghĩa là các tánh chỉ, trì v.v..., giới ngăn cấm. Và các tánh tác, trì đã dẫn kia, giới ngăn cấm giữ gìn, vâng làm. Giới cần sách, cần sách nữ của chánh học kia và ba ngàn oai nghi v.v... đều thuộc về giới này.

2) Tùy thuận giữ gìn chi tha tâm, do thành hai phép tắc trước đầy đủ, sở hành đầy đủ, ý này liền rõ ràng, đi, đứng, ngồi, nằm v.v... đúng như pháp oai nghi, gọi là phép tắc đầy đủ, không đi vào nhà người tại gia, và như bước đi của trâu đầu đàn, voi đầu đàn... Nhà bán rượu, vương gia, Chiên-trà-la, nhà Yết-sĩ-na... đều không nên đến, gọi là sở hành đầy đủ, tức một mình với người nữ ở chỗ vắng vẻ, che khuất, nơi có thể hành dâm, ngồi, nói chuyện phi pháp...

3) Tùy thuận giữ gìn, như chi sở học xứ, đối với tội vi tế, thấy rất sợ sệt. Trong các học xứ, ở chỗ sở học, thường không hủy phạm. Dù cho phạm phát ra nhanh chóng. Nghĩa là do thấy sâu, sợ sệt và vì thông tuệ. Ý trong đây nói: Vì sợ sệt và vì thông minh, nên rất sợ các tội mà không dám trái phạm. Dù cho phạm phát ra, nay, tất cả giới tướng, tánh, giá trong luật phân biệt này, đem so sánh mà luận nói là để làm chi, nên do bốn chi này, những người xuất gia, đối với giới tánh, già đều hộ trì không giảm, không thêm, ở đây nói đại giới, nên lược làm bốn.

Du-già Bản Địa Phần Thanh Văn Địa quyển 22, và Hiển Dương quyển 7 đều nói có bảy chi, như trong luật thuyết minh: "Nếu thi-la của các Bí-sô đã thành thục là trụ thứ nhất; thủ hộ luật nghi biệt giải thoát là thứ hai; phép tắc đã vâng hành đều đầy đủ là thứ ba, thứ tư; đối với tội vi tế thấy rất sợ sệt là thứ năm. Thọ học Học xứ là thứ sáu, gọi là giới cụ: Thứ sáu kia tức Sơ, Nhị ở đây; thứ ba, thứ tư, kia tức thứ ba ở đây. Thứ nhất, thứ hai, thứ năm kia, là thứ tư ở đây. Thể tánh của sinh số thêm, bớt không có khác. Tướng của ô chi này, rộng như Hiển Dương quyển 7... đã giải thích, thuộc về ba chi luật nghi cận sự:

1/ Thọ chi viễn ly, tổn hại người, tức lìa sát sinh, tổn hoại tài sản của người.

2/ Thọ chi viễn ly tổn hại mình, người, tức lìa phi phạm hạnh, do lìa phi phạm hạnh này, không nhiễm vợ mình, không nhiễm vợ người, chẳng phải như cận sự, phải ly khai vợ mình.

3/ Chi trái việc đã thọ tu hành lại, tức lìa nói dối.

4/ Chi không vượt qua trụ chánh niệm đã thọ, tức là ba thứ:

- Ca múa hát, hòa nhạc; thoa hương, đeo tràng hoa.

- Ngồi trên giường cao rộng lớn.

- Ăn phi thời.

Ba thứ này thường đã tập quen. Nếu lìa phi phạm hạnh kia, thì thường tự nhớ nghĩ: "Nay ta an trụ quyết định trai giới, đối với tất cả thời, giữ chắc chánh niệm, như người con chí hiếu, v.v... lìa các dụng cụ nhạc, không nhận giường lớn, xa lìa các kiêu ngạo, không thường ăn uống, tinh khiết hóa mình, nhớ, giữ, ấy là vì trụ trong giới, nên đối với giới đã thọ, không vượt qua chánh niệm.

5/ Chi không làm hư hoại chánh niệm, tức bỏ các thứ rượu, mọi sự buông lung, người kia dù an trụ trong chi chánh ức niệm, nghĩa là nay ta trụ quyết định trai giới. Nếu bị các thứ rượu làm cho say, ấy là phát điên loạn, vì không tự tại chuyển vận, cho nên ngăn cấm.

Trong đây, các giới của năm chúng xuất gia, hợp lại một chỗ để nói:

Giải thích chi trên, trong Hiển Dương quyển 53 có nói: "Nay ở trong đây, hoặc luật nghi Bí-sô ni, hoặc chánh học, Cần sách, Cần sách nữ, đều thuộc về phẩm xuất gia, phải biết thuộc về luật nghi Bísô. Lại nữa, thể của giới học v.v..., dù hẹp, nhưng đều hộ trì, đồng với Bí-sô, nên hợp nói năm chúng trong phế, lập. nếu luật nghi cận sự nữ, vì thuộc về địa phẩm tại gia, vì tương tự với Học đã rõ ràng. Phải biết rằng, thuộc về luật nghi cận sự, không nói tĩnh lự và giới mà bậc Thánh ưa thích và bất luật nghi; giới trong xứ như mười điều lành, v.v… chi đủ nhiều, ít". Ý trong đây nói: "Trong giới bảy chúng, nói về loại riêng kia, không đồng lý do, chẳng phải trong giới khác, có sự thêm bớt này. Vì giải thích lý do này, nên nói về phần chi. Nếu nói loại chi đều phải nói riêng, thì trong Bí-sô-ni kia, chánh học, cần sách nữ chia làm ba; Bí-sô chia làm hai. Và khai, hợp giới cận trụ, cần sở chứng v.v..., trong hỏi, đáp dưới đây, tự nên giải thích rộng.

Phần chi nói trên".

- "Loại chi, là sao?"

- "Giới Bí-sô, Bí-sô-ni kia, chỉ có luật nghi bảy chi: thân ba, ngữ bốn. Ý ưa thích của tâm Bí-sô v.v..., vì ngăn chận khắp tội tánh sắc, nên tướng nghiệp thân, ngữ dù là vô cùng, nhưng y cứ vào căn bản trọng, thì đều thuộc về bảy, vì không quá bảy, nên pháp khác chỉ vì giữ gìn giới này mà thọ, không có loại riêng, nên kinh Niết-bàn chép: "Giới có bảy thứ: từ thân, ngữ sinh ra vô tác, nhưng chung cho sự ngăn ngừa căn bản gia hạnh kia. Về sau, khởi ba thứ, về nghĩa cũng có thể nói đều ngăn ngừa ba đời: Đối với pháp hiện tại, lập ra quá khứ, vị lai. Vì đã ngăn ngừa pháp hiện tại, nên về nghĩa ngăn ngừa ba, không đồng với Tiểu thừa. Vì Tiểu thừa kia chỉ ngăn ngừa hữu tình, nên nghĩa ngăn ngừa này không đúng. Hai tâm đạo, định sinh, tức thuận với lý mà làm lợi ích chúng sinh, vì pháp nhĩ phá ác, nên cũng đủ bảy. Đã không có chi ngăn ngừa, cũng có thể nói rằng, chung cho đề phòng căn bản gia hạnh của ba thời gian; về sau sinh khởi là quấy. Nếu khi sinh khởi sai quấy kia, vì ba thời gian đều diệt, nên cũng có thể nói rằng phá ác ba đời".

Hai loại trên đây, thật sự chỉ ngăn ngừa hiện tại vì hai đời quá khứ, vị lai không có tự thể, nên về nghĩa có thể chung. Giới, định chỉ căn bản, vì tánh chắc chắn đối địch, nên Cần sách, Cần sách nữ và chánh học, cận sự, cận trụ, đều chỉ có bốn chi: Thân ba, ngữ một. Nghĩa là không nói dối, khiến cho ý ưa thích học dần của họ sinh khởi, lại không thọ nhiều giới bốn tánh này, giới khác vì ngăn ngừa lỗi quấy này có "tự thể" riêng, do tất cả giới xuất gia ở trên đã là đồ đựng đạo, tất nhiên, cần thọ cụ, trì giới cụ mới thành. Cận sự, cận trụ thì không như thế, vì phương tiện khuyến dụ."

Hiển Dương quyển 53 chép: "Luật nghi thuộc về một trăm hạnh, nghĩa là đối với mười thứ đạo nghiệp bất thiện, xa lìa phần nhỏ, xa lìa phần nhiều; xa lìa toàn phần; xa lìa một ít thời gian, xa lìa nhiều thời gian, xa lìa suốt đời; tự xa lìa, khuyên người khác xa lìa; khen ngợi xa lìa, chúc mừng, vui lòng xa lìa, đây gọi là một trăm."

Đã nói luật nghi, vì thừa nhận có thời phần ít nhiều mà lìa, nên biết cận trụ, cận sự, hai giới có thiếu, có hoàn toàn, thọ và trì một phần, cũng thành cận sự v.v... Tạp Tập quyển 8 chép: "Hỏi: "Nếu chỉ tu học một phần học Ổ-ba-sách-ca, là vì nói thành tựu luật nghi Ổ-ba-sách-ca hay vì nói không thành tựu?""

Đáp: "Nên nói thành tựu mà gọi là phạm giới. Đây là nói sau khi thọ cụ, ấy là vì giữ một ít, nên trở thành phạm giới, chứ không phải đầu tiên thọ một ít mà về sau giữ giới một ít mà được gọi là có phạm. Vì trước đã không thọ, thì sau làm sao phạm được? Nên biết thọ thiếu thọ đủ, vì về sau, giữ đủ và giữ thiếu, cũng sẽ trở thành hai thứ".

Nghĩa là: "Cận sự đầu tiên, dù đã thọ giới hoàn toàn, nhưng có thể một phần giữ thành tánh cận sự. Đã nói thành tựu mà gọi là phạm giới, nên biết có thể một phần giữ giới, chẳng phải không hoàn toàn thọ; cận trụ thì không phải như vậy, vì thời gian gấp rút, thọ trì hoàn toàn đủ."

Câu-xá quyển 14 chép: "Vì bảy nhân duyên, nên thọ luật nghi cận trụ, bài tụng chép:

"Cận trụ lúc sáng sớm Hạ tọa thọ từ thầy Theo giáo nói đủ chi Lìa trang sức ngày đêm Một chủ yếu sáng sớm Một ngày đêm giữ gìn."

1/ Nếu trước đó có yêu cầu thọ vào ngày mồng tám trong tháng, thì sáng sớm, có duyên trở ngại, đến lúc thọ trai xong, cũng được thọ.

2/ Ở tòa thấp kém, chỉ trừ bệnh, v.v...

3/ Phải theo thầy.

4/ Nên theo sự dạy bảo của thầy, về sau nói không đồng năm giới.

Vì ở đây không hỏi, đáp, vì theo thầy liên hoàn mà thọ giới.

5/ Thọ đủ tám chi, mới thành cận trụ.

6/ Phải bỏ trang sức, kiêu hãnh, buông lung, như người mới thọ.

7/ Tất nhiên phải ngày đêm, cũng đến sáng sớm, lúc mặt trời mới mọc.

Nếu không y pháp thì chỉ được diệu hạnh, không được luật nghi.

Nay, thì không phải như vậy, vì chỉ có sáu duyên. Không có nghĩa phải theo thầy, như dưới đây sẽ nói:

Luận chép: "Cận sự có một phần v.v..., không cần đủ chi."

Luận Trí Độ chép: "Người thọ một giới, gọi một phần Ưu-bà-tắc; nếu người thọ hai, ba, bốn giới, thì sẽ gọi là nhiều phần Ưu-bà-tắc; người thọ lãnh đủ năm giới, gọi mãn phần Ưu-bà-tắc". Lại, Niết-bàn quyển 35 chép: "Thuở xưa, khi ta đang ngự tại khu rừng Ni-câu-luật-đà ở Ca-tỳ-la-vệ. Thích-ma-nam-lai đến chỗ ta, nói như vầy: "Thế nào gọi là Ưu-bà-tắc? Ta liền nói: "Nếu người thiện nam, thiện nữ nào! Các căn trọn vẹn, thọ ba quy y, đây gọi là Ưu-bà-tắc." Thích-ma-nam nói: "Thế nào gọi là một phần Ưu-bà-tắc?"

Ta nói: "Nếu thọ ba quy và thọ một giới, đó gọi là một phần Ưu-bà-tắc". Các đệ tử ta nghe ta nói lời này xong, không hiểu ý ta, nói: "Như Lai nói giới Ưu-bà-tắc, không thọ trì đủ", vào một lúc nọ, ta đang ở bên bờ sông Hằng", lúc bấy giờ, Cachiên-diên đến chỗ ta, nói lời như vầy: "Bạch Đức Thế Tôn! Con đã giáo hóa chúng sinh, bảo chúng thọ pháp trai, hoặc một ngày, hoặc một đêm; hoặc một giờ, hoặc một niệm. Người như thế, có thành trai hay không?" Ta nói: "Tỳ-kheo! người ấy được điều lành, không gọi là trì trai". Các đệ tử ta nghe ta nói xong, không hiểu ý ta, bèn nói: "Như Lai nói phải thọ đủ tám giới trai mới được.""

Y cứ vào văn kinh kia, Đức Thế Tôn trước kia đã nói: "Nếu người đã thọ ba quy và thọ một giới, thì gọi là nhất phần Ưu-bà-tắc, là giới cận sự. Nếu giới cận trụ có một phần ấy, thì đó là không hiểu ý ta". Về sau, nói: "Nếu chỉ một ngày, không có đêm, hoặc chỉ một đêm, không có ngày; hoặc một giờ, hoặc một niệm, đều không thành trai, mà chủ yếu là phải hết một ngày, một đêm, không ăn phi thời, giữ gìn thì thành trai, ta chỉ nói: "Trai, phải hết một ngày đêm", đệ tử không hiểu, phải đủ tám chi, mới thành trai."

Thế nên biết: Giới cận trụ không thọ đủ thì không được; giới cận sự không thọ đủ, thì được. Sư trước tức dùng văn này làm chánh, cận sự, cận trụ đều chung cho thọ đủ và không thọ đủ, tất cả đều được. Nói không đủ được, gọi là không hiểu ý ta, nghĩa là vì dẫn dắt sơ sơ nên cho phép thọ một phần, chẳng phải dẫn phát căn cơ đã lâu, cũng thọ một phần, hóa độ dần dần sao cho phải thọ đủ giới, nên chỉ thọ một phần, không có thọ toàn phần, gọi là "không hiểu ý". Nếu phải thọ toàn phần, không thọ một phần, thì cũng không hiểu ý.

Luận Đối pháp, lại y cứ vào thọ đủ, giữ ít, không phải giá (ngăn cấm) cũng có thọ một ít, giữ một ít, do đây, so sánh mà biết bất luật nghi cũng có đủ bảy chi và chi thiếu nghĩa là thế gian hiện thấy mời đón, trông mong suốt đời, chỉ làm việc sát sinh mà tự sống còn, chưa hẳn đều đủ bảy đạo nghiệp ở trước, há thế gian kia chẳng phải là bất luật nghi ư?

Luật nghi đã như vậy, đối lập với luật nghi, khẳng định là như thế. Thọ trì, nguyện suốt đời, gọi là Bất luật nghi, chỉ dù suốt đời không mời đón trông mong, nghĩa là thuộc về trong xứ."

Có nghĩa nói: "Bất luật nghi, chủ yếu đủ bảy chi, pháp ác dễ thành, vì ý ưa thích rộng, vì thuận theo cũng thực hành bảy việc kia. Nếu không đủ bảy, thì dù có vọng trông mong suốt đời, nhưng vẫn thuộc về trong xứ, không đồng với luật nghi, tất nhiên, luật nghi sẽ khó thành, vì ý ưa thích khó rộng, nên có chi thiếu; bất luật nghi thì không phải như vậy, nên làm sao đủ bảy chi."

Trong hai cách giải thích này, tùy thuộc ở tình lấy, bỏ đạo nghiệp trong xứ nhiều ít không nhất định, thuận theo nguyện ưa thích của người thọ giới kia mà làm việc. Do đây, cũng y cứ khi cận sự được ít, lúc cận trụ được nhiều, khi phần nhiều, phần ít, là nhiều. Khi thời gian ít, cái gì gây chướng ngại giới của họ? Chỉ đến sáng sớm, chủ yếu đến khi qua đời mới được bỏ, y cứ vào nghĩa được thành luật nghi mười điều lành; giới của người xuất gia thì không phải như vậy, vì chẳng phải nhiếp thọ đầu tiên, phân biệt, lựa chọn mới lấy làm đồ đựng đạo.

Có nghĩa không như vậy, vì thọ riêng cận sự, không có thời gian ít; cận trụ không có thời gian nhiều; phần ít, phần nhiều đều khác với luật nghi trăm hạnh. Cuộc hạn của phần này, cận sự chỉ có xả suốt đời; cận trụ chỉ có xả lúc mặt trời mọc, vì không chấp nhận thời gian khác. Nếu lẫn lộn trong giới Bồ-tát đã có thể như vậy, nay giải thích không phải như vậy. Vì luận y cứ vào công hạnh chung của ba thừa, khiến cho người thọ không hiểu, phần nhiều vì luận không nói, người thọ giới, có ý nghĩ ưa thích ngắn, dài khi xả giới."

- "Vì sao chấp nhận có giữ giới phần ít, mà không chấp nhận thọ trong thời gian ít. Luật nghi mười điều lành kia gồm thâu chung chúng ban đầu, tức chấp nhận phần nhiều, ít...? Vì sao cận sự v.v... lại không như vậy?"

"Thuyết trước nói là tốt, mười điều lành, tức là đạo nghiệp lành, đã thừa nhận ý có vô biểu, tức có đủ mười chi. Vì luật nghi Bồ-tát chế ra mười chi, vì đối trị với tánh tội. Chi sắc chỉ bảy. Ba chi sau chẳng phải sắc, vì giới Bồ-tát kia với tâm trông mong rộng, nên phải thọ đủ cũng chẳng phải dẫn dắt địa vị đầu tiên."

-Thứ năm, giới hạn được, bỏ, trong đó có hai:

1/ Được. 2/ Bỏ.

Trong được lại có hai:

1/ Được duyên.

2/ Thời tiết.

Được duyên lại có hai" 1/ Duyên khác nhau.

2/ Duyên không có khác nhau.

Duyên khác nhau đầu tiên chỉ ở giới biệt giải thoát đầy đủ, không có duyên khác nhau, chung cho tất cả.

Duyên khác nhau có hai:

1/ Được duyên biệt giải thoát đầy đủ.

2/ Yết-ma được duyên biệt giải thoát

Duyên đầu chung cho Phật và đệ tử. Yết-ma chẳng phải Phật và Độc giác, nhưng cả hai đều chung cho hữu tình, diệt sau. Vả lại, được duyên biệt giải thoát đầy đủ, các giáo khác nhau, bốn luật, năm luận, các tông đều nói khác. Bốn luật: một là luật Thập Tụng, là tông Tát-bà-đa, đồng với Câuxá quyển 14. Luật Tỳ-bà-sa và luận Tạp Tâm và Thuận Chánh Lý. Hiển Tông, Đại Tỳ-bà-sa, luật Thập Tụng chép: "Ở vườn trúc, Phật bảo các Tỳ-kheo! Có mười thứ thọ cụ túc:

1. Được tự nhiên. Nghĩa là Phật, Độc giác, ở giai vị tâm tận trí, tự nhiên được.

Hỏi: "Vì sao thừa nhận có Sa-di La-hán được thần thông không có giới, mà không thừa nhận Độc giác cũng có thần thông, không có giới, đều tự nhiên được?"

-"Vì căn cơ nhạy bén."

2. Được do thấy đế: Câu-xá v.v... nói: "Nghĩa là nhập chánh tánh ly sinh, tức năm Bí-sô".

Hỏi: "Vì sao Bí-sô đầu tiên nhập kiến đạo, có được giới đầu tiên; chư ni đầu tiên được vô kiến đế?"

- "Vì hơn kém khác nhau!"

- "Nếu vậy, thì lẽ ra do Đức Phật vượt hơn, nên đã được khi thấy đế?"

- "Vì đệ tử yếu kém, nên khi vô học mới được. Vì sao? Vì Phật và Độc giác chỉ khi Tận trí được; khi thấy đế, xoay bánh xe pháp lần đầu tiên là được, vì hiểu pháp đầu tiên lại thêm tin pháp, người khác thì không phải như vậy."

3. Được do gọi thiện lai: Luận Câu-xá v.v... chép: "Phật bảo thiện lai. Nghĩa là Da-xá v.v... chỉ có Đức Phật tự làm, người khác không thể, vì đạo viên mãn cùng khắp."

4. Được do tự thệ. Câu-xá... chép: "Tin Đức

Phật là Đại sư, gọi là Đại Ca-diếp."

- "Vì sao có bốn phần?"

- Ca-diếp tự nói rằng: "Phật kiến lập thọ cụ túc trên gốc lành, vì y cứ khác nhau. Người khác vì sao không tự thệ được? Vì đức tin không tăng thêm."

5. Được do nghị luận. Câu-xá v.v... nói: "Giải đáp khôn khéo câu hỏi. Nghĩa là Tô-đà-di, mới lên bảy tuổi, Phật hỏi rằng: "Nhà của con ở đâu?" Tôđà-di đáp:

- "Phật nói: "Ba cõi không có nhà". Đức Phật khen rất thông minh khéo đáp câu hỏi. Mặc dù chưa đủ tuổi, nhưng Phật bảo tăng truyền giới cho, chẳng phải do khi đáp, tức thì được giới."-"Vì sao Thu-tử, Phật không bảo như vậy?"

- "Vì dạy thiện lai." Trong Tây Vực Ký chép: "Mục-liên, Thu-tử đều được thiện lai".

6. Thọ trọng pháp: Câu-xá v.v... nói: "Kính thọ tám pháp tôn trọng", là Chủ Đại Sinh. Luật Thập Tụng chép: "Ưu-ba-ly hỏi: Ba-xà thọ pháp tôn trọng, tức là xuất gia thành Tỳ-kheo ni; còn các ni khác thế nào?"

- Phật nói: "Nên hiện tiền tác bạch bốn lần Yết-ma."

- "Nếu vậy, lúc chúng chưa đủ, thì chư ni làm sao ở thời sau được giới?"

Đáp: "Đã cho pháp lúc đầu thọ tám pháp tôn trọng, lại có ni khác, ấy là trái với Thập Tụng bảo phải làm Yết-ma."

- "Sư Tát-bà-đa, giải thích ra sao?"

- Luận Tát-bà-đa này nói: "Trước mười bốn tuổi, thì dùng tám kính pháp độ người nữ; sau mười bốn tuổi, dùng Yết-ma để độ, ấy là không có lỗi này."

Luật Ngũ phần cũng nói: "Năm trăm chúng ni cũng được tám kính pháp".

7. Được do sai người: Câu-xá v.v... nói: "Nghĩa là pháp truyền trao cho ni". Luật Ngũ phần nói: "Bán-ca-thi, dâm nữ muốn đi qua trụ xứ Lan-nhã, để xin thọ cụ giới. Bọn giặc muốn chận đường bắt dâm nữ kia. Khi nghe việc này, dâm nữ không dám đi. Phật ở xa nghe, cho phép sáu người thọ cụ giới thay, trước hết, tác bổn pháp trong chúng ni xong, sắp đặt người thọ giới ở một chỗ, đem mười chúng ni đi qua chỗ Lan-nhã, lễ dưới chân chúng tăng. Sư Yết-ma ni theo tăng xin giới, sư Yết-ma tăng, cho đến tác bạch bốn lần Yết-ma xong. Sau đó, Hòa-thượng A-xà-lê dẫn chúng ni mười vị trở lại chỗ cũ, gọi người thọ giới, bảo phải lễ dưới chân chúng; ở trước sư Yết-ma, quỳ xuống chắp tay, được chúng tăng bạch bốn lần Yết-ma, sao cho người thọ giới kia nghe xong, nói đủ hai tám, hai bốn, nghĩa là tám đọa, bốn dụ, tám không thể vượt qua, và bốn y, cho đến người chưa biết ở chỗ khác. Hòa-thượng phải vì nói tám biên, năm đắc. Câu-xá v.v... chép: "Trì luật là người thứ năm".

Về người thứ năm này, có cách giải thích: "Vì không có chư tăng, nên ít nhất cũng có năm; Bốn vị thì thành tăng:

Vì một người Yết-ma, nên gọi trì luật là người thứ năm, Hòa-thượng không nhập trong số đó, đồng với luận tăng-kỳ, nếu bớt thì sẽ không thành, vì thiếu sự pháp.

Đã thế, thì nên bốn vị Yết-ma, một người biểu bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, ba vị còn lại chẳng phải tăng. Hoặc nên bạch tự, do chủ yếu bốn người mới thành tăng, nên một trong năm vị giữ nhiệm vụ Yết-ma, một vị làm Hòa-thượng, Yết-ma nhắc tên họ, thể của ba vị tăng còn lại, vì thích đáng đã hòa bạch, nên ở biên địa, ít nhất cũng năm người để làm các pháp sự."

Luận Ma-đắc-lặc-già chép: "Ở biên địa có nhiều tăng, chỉ cần năm vị, thì được gọi thọ cụ. Tăng được quở tội, chín Yết-ma". Luận Câu-xá chép: "Chúng mười vị là nói ở giữa nước, luật kia là nói chung, vì tăng, ni được giới, nên nói là Yết-ma, vì trong ni thọ hai bộ rất ít, mỗi bộ cũng cần mười vị. Vì "duyên" phạm giới nhiều, tất nhiên phải hai bộ đối thọ, mới được phân biệt lựa chọn đối tượng thích hợp, sao cho sinh hổ thẹn, không dám trái phạm, nên luận chỉ y cứ vào tăng, nói là mười chúng."

Lại, y cứ vào luận nói hai bộ đều mười, gọi chung là chúng mười vị. Như ở biên địa năm, cũng không trái nhau.

Mười ba quy, Câu-xá v.v... chép: "Ba thuyết quy Phật, Pháp, Tăng nghĩa là sáu mươi bộ hiền, nghĩa là có sáu mươi loại chúng Hiền Nhân nhóm họp chung. Đức Phật sai các vị vô học nói cho nghe ba quy y, bèn được giới cụ túc."

Tỳ-ni Mẫu chép: "Các A-la-hán dạy bảo cạo tóc, nhuộm y, nhờ nương tựa Tam bảo, tâm quy y thành, liền phát cụ túc, nên gọi là ba quy y được, cũng gọi là ba ngữ được."

- "Vì sao các ni không có ba quy được?"

- "Vì không có chúng hiền, hai là luật tứ phần là bộ Pháp tạng, có năm thứ đắc giới:

1/ Thiện lai,

2/ Thượng pháp, xưa nay tương truyền giải thích, cho rằng thành vô học, chứng diệt hữu dư, gọi là Thượng pháp, liền được đắc giới, nên Tứ Phần chép: Nếu tu đạo thành thành quả A-la-hán, thì gọi là xuất gia thọ giới cụ túc. Sa-di La-hán chẳng phải nghĩa của tông này.

3/ Ba quy y. 4/ Tám kỉnh. 5/ Yết-ma.

Ý của tông kia nói: "Tự nhiên tức pháp thượng, được quả vô học, là thành thọ cụ, nên không chỉ thuộc về Phật và Độc giác. Thấy đế kia được tức là thiện lai. Trong luật có chép: Nhóm Tỳ-kheo sáu vị bàn với nhau: Ca-diếp không bằng Kiều-trần, Thiên Lai thọ giới, không bằng Bạt-kỳ-tử ba quy, thọ giới ở Tỳ-xá-ly; cũng không bằng Bà-lô-Ba-tưna Yết-ma thọ giới, sao Ca-diếp bố-tát Yết-ma với các Tỳ-kheo?"

Đáp: "Ta ở bên tháp Đa-tử, Thế Tôn đã xây dựng cho ta gốc lành bậc nhất, trao cho giới cụ túc." Đầu tiên thấy đế tức là Thiện lai, do đây, cũng không tin Phật là Đại sư." Ca-diếp tự nói: "Vì được thượng pháp, nên hỏi đáp, khiển trừ, bên năm, giữa mười, đều làm Yết-ma, đều thuộc về Yết-ma, nên chỉ nói năm. Ba luật tăng-kỳ là Đại chúng bộ, bốn thứ đắc giới. Luật kia chép: "Thành đạo năm năm, Tỳ-kheo thanh tịnh. Từ đó về sau, dần dần làm việc sai quấy, tùy theo việc, mà lập ra bốn pháp thọ giới mộc-xoa, pháp cụ túc:

1/ Tự giác cụ túc: nghĩa là Phật tự giác, đầu tiên chứng Bồ-đề, khéo thọ cụ túc.

2/ Thiện lai: Phật tự giác xong, tại vườn Trúc lâm, bảo các Tỳ-kheo: "Như Lai ở các chỗ độ người, các thầy nên bắt chước Như Lai độ người!" Do đây, các Tỳ-kheo cũng khéo đến độ người. Bấy giờ, các Tỳ-kheo Thiện lai độ người không đúng như pháp, bị Thế Tôn quở trách. Ngài Thân tử yên lặng nêu để thỉnh Phật, đều gọi là Thiện lai có đúng pháp, không đúng pháp, làm sao khiến cho Tỳ-kheo khéo đầy đủ giới cụ túc, đều được đúng pháp?"

Nhân cơ hội này, Phật chế ra mười chúng, ba mươi chúng."

Luật ấy nói: "Hòa-thượng trong mười chúng, không gọi là thọ cụ, phải có mười một vị". Tứ Phần v.v... chỉ nói mười chúng, Hòa-thượng ở trong số đó, vị chúng bốn, năm. Luật kia tiêu biểu đầu tiên, dù nói bốn thứ thọ giới cụ túc, nhưng Ni Ái Đạo nói rằng: "Phật vì ni chế ra tám pháp, chúng ta có được nghe rộng rãi không?"

- "Đức Phật nói cho nghe đủ tám tướng. Trong tám tướng, sáu tướng đầu đồng với bốn phân biệt và hai pháp sau. Do lý này, suy ra, nên có thứ năm, thọ tám kỉnh pháp. Nếu không như vậy, thì chư ni đầu tiên làm sao được?"

- "Vì trước kia, chỉ nói tăng, nên chỉ có bốn. Ý tông này nói: "Thấy đế, tin Phật là Đại sư, cũng tự giác được, vì được A-la-hán, thành thọ cụ. Từ Phật mà được gọi tên, gọi là Tự giác. Hỏi đáp kia, khiển trừ tín, không khác với mười ở giữa, vì đều có mười chúng, không có ba quy y được, cho nên không nói. Luật Tứ phần, Ngũ Phần là Hóa Địa Bộ, luật có có năm cách thọ cụ túc:

1/ Tự nhiên.

2/ Thiện lai.

3/ Ba quy.

4/ Tám pháp không được vượt qua.

5/ Yết-ma tám pháp không được vượt qua."

Luật kia gồm có năm trăm chúng ni. Luật kia nói: "Vì ngươi, mà chế tám pháp không được vượt qua. Nếu thực hành được thì tức là thọ giới cụ túc." Đại Ái Đạo nói: "Nếu Phật nói tám pháp không được vượt qua, tôi và năm trăm ni sẽ cung kính lãnh thọ."

Lại, Phật nói: "Ái Đạo và các ni Xá-di cũng được giới". Ý tông này nói: "Thấy đế, tin Phật là đại sư, hai thứ đều tự nhiên được". Hỏi đáp kia, trừ bỏ niềm tin năm bên cạnh, mười ở giữa, bốn thứ đều tức Yết-ma, không còn nói riêng. Tự nhiên trong đây với thọ cụ túc ở trên, về tên gọi dù khác, nhưng nghĩa, suy ra cũng hơi giống với Tứ Phần, năm luận thì khác:

Một: Luận Tỳ-ni mẫu: Hai chúng đều năm, chung tức là mười, Tỳ-kheo có năm:

1/ Thiện lai.

2/ Kiến lập thọ cụ túc trên gốc lành, nghĩa là được quả A-la-hán.

3/ Dạy nghe, gọi là nghị luận, nói hạ liền được.

4/ Ba ngữ, nghĩa là ba quy y.

5/ Yết-ma.

Thấy đế kia, tin Phật là đại sư, tự nhiên, đều thuộc về thượng thọ.

Năm bên cạnh, mười ở giữa, tức Yết-ma, Ni cũng có năm:

1/ Thiện lai.

2/ Thượng thọ cụ túc.

3/ Pháp sư, nghĩa là tám kỉnh pháp.

4/ Khiển tín.

5/ Yết-ma.

Gồm có bảy thứ:

1/ Thiện lai.

2/ Thượng thọ.

3/ Dạy nghe.

4/ Ba quy y.

5/ Tám kỉnh pháp.

6/ Sai người.

7/ Yết-ma.

Hai Yết-ma được luận Lặc-già, mười thứ được giới:

1/ Không có thầy, tức tự nhiên.

2/ Thấy đế.

3/ Hỏi đáp, nghĩa là Tu-đà-di.

4/ Ba quy y.

5/ Tự thệ: là Ca-diếp.

6/ Năm chúng.

7/ Mười chúng.

8/ Tám pháp tôn trọng, là đại sinh chủ. 9/ Sai người.

Mười hai bộ: là các ni. Tông này vừa quán đồng với Tát-bà-đa, nhưng không có thiện lai, lại bỏ tướng tục. Sau, lại cho thọ, năm biên, mười ở giữa, chỉ ở trong tăng, nên ni thêm chúng hai bộ, tức là mười chúng, hai mươi chúng.

Ba là luận Thiện Kiến, tám thứ đắc giới:

1/ Thiện lai.

2/ Ba quy y.

3/ Kỉnh truyền, tức thấy đế. Nhân Phật dạy đã kính thọ lời Phật, ấy là đắc giới.

4/ Hỏi đáp.

5/ Thọ pháp tôn trọng.

6/ Sai người.

7/ Tám ngữ, nghĩa là ni trong hai bộ. Về nghĩa, tìm tòi, phân phát tín, tức mười hai ngữ.

8/ Bạch bốn lần Yết-ma. Bạch tứ tức là bốn ngữ.

Đây là nói đệ tử không có tự nhiên. Tin Phật là đại sư, tức Yết-ma, vì phải Yết-ma xong mới được giới. Hoặc tin Phật là đại sư, tức do kính mà thọ được, năm bên cạnh, mười ở giữa tức là Yết-ma.

Bốn là luận Tát-bà-đa chép: "Bảy thứ thọ giới cụ túc:

1/ Thấy đế.

2/ Thiện lai. 3/ Ba ngữ.

4/ Ba quy y.

5/ Tự thể.

6/ Tám pháp.

7/ Bạch bốn lần yết ma.

Đây là nói vì đệ tử, nên không có tự nhiên. Ba ngữ tức sai người. Một đầu tiên này cho đến một ở kia, một ở tương lai sau. Mười ở giữa, năm bên cạnh hỏi đáp kia, đều bạch bốn lần yết ma. Đây là tông Tát-bà-đa, đồng với Câu-xá v.v..., với số thêm bớt khác nhau, thể tánh chẳng khác.

Năm là Luận minh liễu: "Ba thừa được hợp với giới, có chín viên đức. Viên đức là: Bốn mươi hai ngàn công đức đều đầy đủ, gọi là viên đức. Thanh văn có bảy; Tỳ-kheo có bốn:

1/ Thiện lai.

2/ Ba quy y.

3/ Lược Yết-ma.

4/ Rộng Yết-ma.

Lược Yết-ma: Khi Phật mới thành, vì nghe pháp được giới, nên gọi là lược Yết-ma, tức thấy đế mà được. Đệ tử kia tin Phật là đại sư và nghị luận. Năm bên cạnh, mười ở giữa, đều thuộc về rộng Yết-ma. Ni có ba:

1/ Thiện lai.

2/ Sai người, tức pháp truyền trao cho ni. Kính tám pháp tôn trọng của Phật, sai A-nan xa truyền ngữ để trao giới.

3/ Rộng Yết-ma, tức sai người. Hai bộ v.v... Từ trước đến nay, bảy hạng Thanh văn đắc giới.

Thứ kế, công đức hữu lượng của Độc giác, cuối cùng được. Thứ đến, công đức vô lượng của Phật cuối cùng được.

Hai thứ này đều tự nhiên. Trong Đại thừa không có văn giáo riêng nhiều phần, dùng mười thứ đắc giới của tông Tát-bà-đa. Nhưng kính thọ tám pháp không chỉ đại sinh chủ, không phải chỉ đồng với luận Tát-bà-đa kia, mà còn đồng với luật Ngũ phần.

Phật nói: "Ái Đạo và các ni Xá-di, cũng kính thọ tám pháp không được vượt qua giới."

Trên đã được duyên biệt giải thoát cụ túc. Kế là Yết-ma được duyên biệt giải thoát. Từ xưa đến nay, tương truyền luật Tứ Phần có đủ bốn duyên.

Giải thích trong tám Tỳ-kheo:

1/ Yết-ma: Nếu Tỳ-kheo thọ đại giới, duyên đầy đủ số tăng.

2/ Bạch bốn lần Yết-ma, như pháp thành tựu, là duyên thành tựu giáo pháp.

3/ Được xứ sở: Kiết giới thành tựu, bên trong giới trường không có các duyên riêng.

Trong pháp Tỳ-kheo Tứ trụ, đầy đủ tuổi, thân không có duyên nạn chướng ngăn, chủ yếu đủ bốn trụ này là đại. Tỳ-kheo được thành đại giới cũng tức trong năm pháp diệt tránh hiện tiền, trừ diệt tránh kia. Công việc đã làm riêng, nghĩa là đủ bốn hiện tiền:

1/ Có công năng gìn giữ tăng.

2/ Có công năng gìn giữ pháp.

3/ Có công năng giữ gìn nơi chốn của pháp, tức giới hiện tiền.

4/ Sự việc đã làm, nghĩa là người hiện tiền.

Nay, thọ giới này tức công việc làm riêng, nên đủ bốn thứ này thì có công năng phát giới.

Luật Tăng-kỳ chép: "Có sáu duyên tức là văn giải thích tám Tỳ-kheo". Luận Tỳ-ni-mẫu nói có năm duyên:

1/ Hòa-thượng đúng pháp.

2/ Xà-lê như pháp.

3/ Bảy tăng thanh tịnh.

4/ Văn xưng Yết-ma.

5/ Bên trong giới trường hòa hợp không khác.

Năm duyên này, thuộc về ba duyên đầu tiên trong bốn. Ba duyên đầu tiên là duyên thứ nhất. Kế là duyên một giáo pháp. Tiếp theo, duyên một không riêng. Nay, y cứ vào bốn duyên đầy đủ của Tứ Phần. Thân thứ tư trong bốn duyên trước, trong không có tai nạn chướng ngăn.

Du-già quyển 53 chép: "Vì do sáu nhân, thành ra không nên vì truyền trao luật nghi Bí-sô, tức là giải thích lý do chướng nạn ngăn che kia, e văn dài dòng, đến sau sẽ giải thích; đối với số tăng bậc nhất trong duyên đầy đủ."

Du-già lại nói: "Lại, trừ thiếu kém có thể làm Yết-ma, A-gia-lợi-da, Ổ-ba-thác-da, trụ giới thanh tịnh, tăng chúng viên mãn, ý nghĩa trong đây. Các Sư Thượng tọa bộ và Tát-bà-đa kia vì phạm trọng không xả giới, nên khi thọ giới, xà-lê, đại chúng, cần phải thanh tịnh, vì duyên vượt hơn hòa hợp với giới, phát giới, nên Hòa-thượng không nhất định thời lượng thọ giới kia, ngoại trừ Hòa-thượng, tên của người thọ giới kia, và tên các tai nạn, tên v.v... ba y, nếu không nêu lên có chỗ thiếu sót thì sẽ không đắc giới. Vì đại chúng xem xét có đối tượng thiếu sót, vì chẳng phải hòa hợp, nên danh của Hòa-thượng kia, ghi chép với không ghi chép và ở trong chúng, không ở trong chúng, nếu thanh tịnh hay không thanh tịnh, đều được giới. Đại chúng chỉ biết tên A ấy là Hòa-thượng, khiến Hòa-thượng kia ghi chép người đã thọ giới, chẳng phải chủ yếu vì duyên vượt hơn của phát giới, nhưng ghi chép đủ tên họ Hòa-thượng, thân ở trong chúng, giới thanh tịnh, thì không có tội. Nếu không ghi chép tên họ và không ở trong chúng mà biết Hòa-thượng không có giới, phá giới, cho người khác thọ giới, thì người ấy dù được giới, nhưng đại chúng hiện tiền phạm Đột-cát-la, Yết-ma chỉ nói: "Nay theo chúng tăng để xin thọ giới cụ túc, không nói từ Hòa-thượng, xin thọ giới. Dù cho Hòa-thượng, giới đức thanh tịnh, nhưng đại chúng, xà-lê có sự thiếu sót, giới đức có phạm, thì không đắc giới. Vì không có duyên vượt hơn nên Chế Đa Sơn bộ v.v... đều đồng với thuyết này. Lại, có các bộ nói: "Chỉ Hòa-thượng thanh tịnh; đại chúng bất tịnh, cũng được đại giới, vì duyên vượt hơn của Hòa-thượng làm phát khởi tâm mọi người kia. Đại chúng chỉ hỏi han ủy thác người thọ giới, không có tội ngăn chận, tai nạn, hòa hợp với chúng, khiến rơi vào số tăng, nên Yết-ma rằng: "Nay, theo chúng tăng xin thọ giới cụ túc, chẳng phải duyên phát khởi tâm vượt hơn của người thọ giới kia, đâu có chủ yếu ở sự thanh tịnh"."

Luật Đại chúng bộ kia chép: "Hòa-thượng, Đại chúng, đều phải thanh tịnh thì mới được giới. Thân giáo của Hòa-thượng thật là duyên vượt hơn. Sự phát tâm vượt hơn của người kia, cũng do Hòathượng. Lại, nếu trì giới, chính là chúng tăng phạm giới chẳng phải tăng, thì đâu được răn dạy thành đạo thầy trò? Lại, giới từ tăng xin, tăng có hòa hợp, thì mới đắc giới. Đại chúng giới hạnh không thanh tịnh, trước kia đã không rơi vào số tăng, thì đâu được nói về sự pháp, nói ngay lời nói giới luật? Lại, tăng cũng là duyên vượt hơn của người thọ giới; Hễ tăng phạm giới thì sẽ không làm phát khởi tâm người thọ giới kia. Há là duyên vượt hơn của họ. Cho nên chủ yếu là Hòa-thượng và đại chúng đều thanh tịnh, thì người thọ mới được đại giới.

Nay, Đại thừa lược có hai thuyết:

1) Ba phẩm tâm phạm trọng, thì đều mất giới.

2) Trung hạ phẩm tâm, hạ phạm trọng, thì không mất giới.

Tâm phẩm thượng phạm trọng, tức là mất giới. Nếu y cứ vào nghĩa sau, thì Hòa-thượng sẽ không thanh tịnh, chỉ có đại chúng thanh tịnh, thì được giới, vì từ đại chúng kia xin giới, nên sự pháp được thành xong, Hòa-thượng chỉ là duyên dạy bảo."

-"Nếu biết Hòa-thượng không thanh tịnh, thì không từ Hòa-thượng xin giới, vì sao không được giới?" Nếu theo nghĩa đầu, thì Hòa-thượng, chúng tăng, phải thanh tịnh hoàn toàn mới có thể được giới, vì Hòa-thượng là duyên của sự giáo thọ vượt hơn, nhưng chưa thể hiện trước tăng, mà đã từ Hòa-thượng xin đại giới. Vả lại, như ở nơi biên địa, chúng tăng đủ bốn giải thoát, vì sự pháp thành xong, vì duyên trao cho giới thiếu một người thì phạm trọng, đều vì chẳng thể không có tăng, vì chẳng phải tăng trao cho giới."

Du-già chép: "Ổ-ba-đà-da an trụ giới thanh tịnh, chúng tăng viên mãn, trụ tịnh giới nói: "Trên, thuộc Hòa-thượng, dưới thuộc chúng tăng, cả hai đều có điều kiện cần đủ, hoàn toàn thanh tịnh".

Từ trên đến đây, đã nói: Đức Phật tồn tại và nhập diệt, tất cả Đại thừa, trừ quả Độc giác, người thọ giới cụ túc khác, chẳng phải nói tất cả."

Trên đây, đã nói về có duyên khác nhau, không có duyên khác nhau, có duyên chung các giới, nên nói bài tụng rằng:

"Bí-sô chẳng tự thọ
Vì chọn lựa người khác
Các giới cận trụ thảy
Tự thọ cũng từ người
Nghiệp biểu gọi từ người
Vô biểu chỉ tự thọ
Tự thọ chỉ biểu ý,
Vì không biểu thị người,
Là giới biệt giải thoát."

Luận Du-già quyển 53 chép: "Trong đây, hoặc có do người, dò mình mà thọ luật nghi. Hoặc lại có một, chỉ tự nhiên thọ, trừ luật nghi Bí-sô. Vì sao? Vì luật nghi Bí-sô chẳng phải tất cả ai cũng có khả năng thọ. Nếu luật nghi Bí-sô không phải từ người thọ, hoặc có khả năng xuất gia, hoặc không có khả năng xuất gia, chỉ người muốn xuất gia, ấy là vì tất cả đều tùy thuộc vào đối tượng mong muốn của mình, tự nhiên xuất gia."

Như thế, Thánh giáo sẽ hóa ra không có phép tắc, mẫu mực. Cũng không khéo nói pháp Tỳ-nạida mà biết rõ được. Cho nên, luật nghi Bí-sô không có nghĩa tự nhiên thọ, vì phân biệt lựa chọn, tất nhiên là thọ từ người, ở đây trừ hai hạng người: Tự nhiên thọ và thấy đế; hoặc tin Phật là Đại sư; tất cả người khác được giới Biệt giải thoát, vì họ không có phân biệt, lựa chọn, nhưng họ cũng do không có việc chướng ngăn, tai nạn mới có thể tự nhiên, thấy đế v.v... được, nên luận Câu-xá chép: "Một thứ đắc giới". Như thế, đã được giới biệt giải thoát, không phải nhất định phải y cứ vào nghiệp biểu mà phát, huống chi từ người khác, tức thừa nhận trừ giới Bí-sô, tất cả cả giới khác tự thọ cũng từ người khác, nên luận Du-già hỏi: "Nếu trừ luật nghi Bí-sô, thì luật nghi khác sẽ có tự nhiên thọ."

- "Vì sao nên từ người mà thọ?"

- "Vì có hai thứ xa lìa giới ác, thọ tùy thuộc chi, cái gọi là hổ thẹn, nếu đối với người khác và ở chỗ mình, khi tội hiện hành, cảm thấy rất hổ thẹn.

Như thế, đối với việc lìa giới ác, thọ tùy thuộc chi, mới có thể thọ cụ, nên từ người mà thọ. Trong đây, ý nói: "Vì có hổ thẹn, nên đến khi tội hiện hành ở chỗ mình, cảm thấy rất hổ thẹn. Vì có hổ thẹn, nên khi tội hiện hành đối với người khác, sinh tâm rất hổ thẹn. Hoặc do hổ thẹn, nên đối với người, đối với mình, lúc gây tội, nhìn lại mình, cảm thấy hổ thẹn, kính trong, tôn sùng bậc hiền thiện. Hoặc do hổ thẹn, nên khi tạo tội đối với người khác, đối với mình, nhìn lại đời, sinh tâm hổ thẹn; vì khinh thường, chống đối, bạo ác, nên hổ thẹn hiện tiền chẳng phải tất nhiên có hổ thẹn, tất nhiên có người hổ thẹn, chắc chắn hổ thẹn.

Cho nên, pháp hổ thẹn rất mạnh mẽ. Nếu như tự mình đã thọ giới mà giữ gìn sâu chắc, thì nên biết phước đức v.v... sinh ra không có sai biệt. Do tự cảm thấy hổ thẹn, tất nhiên cảm thấy thẹn với người khác. Có cảm thấy thẹn với người khác, chưa hẳn cảm thấy tự hổ thẹn. Khởi lên, mặc dù vì bảo hộ danh tiếng của thế gian mà không nghĩ đến mình."

Đây là nói về giới năm chúng xuất gia; cận sự, cận trụ và giới Bồ-tát đều chung cho hai thọ, không đồng với tông khác, giới cận trụ kia, tất nhiên thọ từ thầy, nên Bồ-tát địa quyển 42 chép: "Nếu có người muốn siêng năng, tu học ba thứ tạng giới, hoặc tại gia, xuất gia, thì trước phải phát nguyện rộng đối với Vô thượng Bồ-đề, sau đó phải xem xét hỏi han Bồ-tát đồng pháp, đã phát đại nguyện, có trí, có lực, về nghĩa ngữ biểu, năng truyền trao, năng triển khai đối với công đức như thế v.v... đầy đủ vượt hơn, đến chỗ Bồ-tát, trước lễ dưới chân, cho đến nói rộng."

Về năm tướng thọ giới, quyển 41 chép: "Nếu không gặp Bổ-đặc-già-la đầy đủ công đức, thì bấy giờ, lẽ ra đối trước tượng Như Lai, tự thọ luật nghi thanh tịnh của Bồ-tát". Quyển 40 lại chép: "Mặc dù thông minh, nhưng đối với giới vẫn không tin hiểu, suy nghĩ bất thiện; có kẻ tham lam, keo kiệt, dục vọng lớn lao không biết đủ, phá giới, ngạo mạn, buông thả, giận hờn, không nhẫn nại, không chịu được khi thấy người phạm, lười biếng, ham vui, nằm dật dựa, ưa tụ hợp bè bạn, vừa mừng rỡ vừa nói nhảm, tâm thường tán loạn, dưới cho đến không thể trong thời gian vắt sữa bò, duyên tâm khéo trụ tu tập, ngu si tối tăm, với tâm thấm kém, chê bai tạng Bồ-tát, không nên theo thọ, đây gọi là duyên của giới sư Bồ-tát."

Kinh Anh Lạc chép: "Nếu trong vòng ngàn dặm không có giới sư, thì được tự tho, khiến tôn trọng giới, vượt qua hằng ngàn dặm để tìm thầy, không phải chủ yếu nhất định như thế, như một người nữ, thân không tự tại; hoặc vì nghèo, thân bệnh, muốn thọ giới Bồ-tát, đâu phải chủ yếu ở mười ngàn dặm, nên biết được chỉ là ngữ của một tướng."

Vì gần xa, chỗ mà Du-già không nói đến, chỉ thừa nhận tự thọ.

Các giới trên đây, nếu từ thọ người, thì tất nhiên hữu biểu, vô biểu, vì biểu thị cho người khác biết. Nếu là người tự thọ, thì sẽ chỉ có ý biểu, không có thân biểu, ngữ biểu, vì có thể trở thành vô biểu, nên luận Du-già chép: "Nếu là người tự nhiên thọ, thì chỉ có nghiệp ý biểu. Nếu có người bên cạnh thấy người tự thọ kia vì chẳng phải là duyên hổ thẹn của sư trưởng, nên chắc chắn là nghiệp vô biểu, hoặc cũng là hữu biểu."

Luận nói một người bên cạnh cũng không có người tự nhiên thọ, chỉ có nghiệp vô biểu. Như hiện nay, đối với chúng phát lộ, thọ giới tự thệ, mời đón, trông mong, chắc chắn là nghiệp hữu biểu.

Vô biểu của đạo định, là nói theo Đối pháp:

Trong năm sắc của pháp xứ, gọi thọ đã dẫn phương tiện trước xa, cũng thọ từ người. Chánh khởi vô biểu cũng có nghĩa từ người, như Phật nói pháp cho nghe được nhập kiến đạo, xa trần, lìa cầu được nhập tam-muội, tức là được giới.

- "Nếu vậy, thì lẽ ra cũng nói nghiệp hữu biểu?"-"Điều này cũng không hợp lý, vì suy nghĩ này không phát ra ngoài, thân ngữ, vì là vô lậu, vì không có nghiệp hữu biểu, nên chỉ có thể nói có nghiệp vô biểu, nhưng khi chánh thức đắc đạo, chắc chắn là vô biểu, không có duyên ngoài tâm".

- "Thọ đắc là sao?"

"Từ phương tiện xa, được gọi là thọ". Du-già quyển 53 chép: "Nếu đối với luật nghi sở thọ này, mà không thiếu sót, trái phạm, để làm y chỉ, tu không hối tiếc v.v... cho đến đầy đủ nhập Sơ tĩnh lự, do khả năng làm tổn hại, chiết phục của Xa-matha, làm tổn hại hàng phục tất cả hạt giống phạm giới, đây gọi là luật nghi tĩnh lự."

- Thuyết này nói: "Như Bí-sô v.v..., thọ luật nghi rồi mà không có thiếu sót, trái phạm, để làm y chỉ. Vì không có trái phạm, nên không có ăn năn; vì không có ăn năn, nên tâm vui mừng; vì tâm vui mừng, nên tâm vui; vì tâm vui, nên tâm yên, vì tâm yên, nên được định. Nếu có trái phạm thì sau cùng sẽ không được định."

Trong kinh Đại Tập, Phật chép: "Ta vốn là phàm phu, tự là Giá-tha-đà ở trong vô số kiếp, tại nước Gia-luân-la, làm người buôn bán, buôn bán nói dối không thật, gây ra các hành vi ác, không thể kể hết. Lúc bấy giờ, ngu si hại cha, dâm mẹ, cả nước đều biết việc này, không khác gì với sáu thứ súc vật.

Nhà vua định bắt ta giết, vì sợ quá, ta trốn sang địa phương khác, làm Sa-môn được ba mươi bảy năm. Do tội năm nghịch che lấp tâm không được định. Về sau, trong lúc đi thực, ta nhặt được một cái bát, trong bát có Đà-la-ni này, tên là Tập pháp chú xả khổ nạn; Hơn một năm sau, ta tụng trì không dứt, mới được thiền định. Cái Bí-sô kia, v.v... phạm trọng cấm rồi, vì tâm ăn năn, nên tâm hay lo, vì tâm hay lo, nên không vui, vì không vui, nên không yên ổn, vì không yên ổn, nên không được thiền định. Vì thế, nên trì giới v.v... được duyên luật nghi thiền. Nếu đã trì giới, thì ở trong thân này đã phạm trọng cấm rồi thì sẽ không được định vì suy nghĩ bất thiện, tổn hại rộng, chướng ngại sâu nặng, do oai thần của chú, trước kia ở thế tục, phạm năm tội nghịch, nay thân có thể được.

Ở trên nói nhờ giới mà được định: Cũng có sơ định không do giới, như khi kiếp hoại, đầu tiên, một người đã được thiền định, vì pháp nhĩ đầu tiên, nên luật nghi định cũng có trường hợp duyên người khác, cũng có trường hợp không do đạo cộng giới kia." Du-già lại nói: "Nếu đối với luật nghi thi-la này, không có thiếu sót, trái phạm, lại y chỉ luật nghi tĩnh lự, nhập hiện quán đế, thì được quả Bất hoàn. Bấy giờ, tất cả hạt giống của giới ác đều hại mãi mãi. Nếu dựa vào định vị chí, thì chứng được Sơ quả, khi ấy, tất cả có khả năng đi qua cõi ác, "hoặc" đều dứt hẳn. Thuyết này vượt qua quả thứ ba, và thứ lớp, con người dựa vào định Căn bản và Vị chí, nói các giới được đạo, tất nhiên, định tịnh trước dùng làm duyên của giới kia. Vì bốn gốc lành của giới kia thuộc về cõi Sắc, nên bất luật nghi của người kia và giới trong xứ, nếu sinh vào nhà kia, hay không sinh vào nhà kia cũng tự phát tâm trông mong; hoặc vì tập giáo tự tướng của cha, con v.v... nên được duyên ngoài; hoặc không do người khác mà được, cả hai đều không có lỗi, không đồng với tông tiểu. Bất luật nghi không từ người khác mà được.

Thuyết trên đã nói được duyên, được thời tiết: Đầu tiên, là nói khi được biểu, sau là nói khi được vô biểu, lại nói khi Bí-sô, Bí-sô ni được biểu, nghĩa là khi từ chúng tăng xin giới mà được."

Quyển 53 chép: "Lại, nếu khởi tâm đi qua chỗ sự, hết lòng khuyến thỉnh, phương tiện phát khởi nghiệp lễ kính v.v... dùng chánh oai nghi đứng ở trước sư. Lại, dùng lời nói để biểu thị, nói lên điều mình mong muốn, tạo tác các nghiệp vượt hơn, đây gọi là nghiệp của thân biểu và ngữ biểu, đồng với luận Thành Nghiệp, không thể dẫn nhiều, chủ yếu là hiện hành tư duy đẳng khởi của nhân gần, chánh phát thân ngữ làm nhân chuyển biến. Vì là thể của nghiệp biểu, nên chủ yếu ở vào thời gian này, nếu nói là lúc trước khi từ tăng xin giới, tâm thượng, trung, hạ để phán quyết về nghiệp; nguyện cầu đầy đủ, quan trọng là lúc Yết-ma lần thứ ba, mới được biểu, đây là nghĩa của Tiểu thừa, chẳng phải đối tượng của tông hiện nay, vì nghiệp biểu chẳng thuộc về sắc thân này, nên chỉ phát ra thân, ngữ, vì hiện thuộc về suy nghĩ, nên khi ấy không có tâm. Hoặc nhiễm vô ký, hoặc vì khác với duyên, nên y cứ vào đây, tự ba chúng xuất gia khác, cận trụ, cận sự, đều lễ bái trước sư, v.v… thọ được giới biểu. Thời gian sau này, dù nói theo thầy, nhưng chưa hẳn có tâm, chưa hẳn là tốt, cũng không quyết định, vì chính là tùy chuyển, không phải tâm chuyển biến.

Nếu đối với người, trước kia, đã thừa nhận tự nhiên thọ, có thân ngữ biểu và ý biểu, tức khi đến trước Phật, hết lòng lễ bái mà được giới Bồ-tát kia, tức khi thỉnh thọ, vòng thứ ba, vì hiểu rõ từ bi, nên văn tự, thời gian được; vì quyết định, nên đạo định chỉ có vô biểu, không nói thời gian được biểu; bất luật nghi kia, chủ yếu ở thời lượng làm việc. Hoặc xứ, thời phần, mới được biểu nghiệp."

Du-già quyển 53 chép: "Nếu có người sinh vào nhà bất luật nghi, có đối tượng rõ biết, tự phát tâm mong mỏi rằng: "Ta sẽ nhờ phụng sự mạng sống này mà tự sống còn. Lại, đối với mạng sống này, lại khởi tâm muốn được chấp nhận, bấy giờ gọi là bất luật nghi, nghĩa là vì thuộc về bất luật nghi, rất coi trọng tác ý không đúng lý, vì thuộc về tổn hại tâm, nên chỉ thành các gốc bất thiện rộng lớn, nhưng chưa thành tựu sát sinh, đã sinh vào đường nghiệp bất thiện khác, đã sinh các nghiệp bất thiện, cho đến việc đã trông mong, chưa hiện hành. Ý này nói rằng: "Nếu sinh vào nhà hay không sinh vào nhà kia, phát tâm chấp nhận, tức là vì thành bất thiện căn kia, nên từ đương lai đã khởi làm tên gọi, tức là gọi bất luật nghi, luận kia lại nói: "Về sau, hoặc hiện hành, hoặc ít, hoặc nhiều, tùy thuộc vào đối tượng thích ứng của bất luật nghi kia, lại thành tựu các nghiệp bất thiện. Ý này nói rằng: "Về sau, hoặc tự làm, hoặc xử phân người khác làm công việc ít, nhiều, dù chưa cắt đứt mạng sống, v.v... cũng đã tức thành sát sinh, hoặc thân, hoặc ngữ nghiệp biểu bất thiện; hoặc về sau, việc kia, mình, người đã làm xong. Mạng đời trước bị cắt đứt ít, nhiều, vì tâm thỏa mãn bổn nguyện, mới thành vô biểu, không đồng vợi việc trước của người, cuối cùng, biểu và vô biểu đều cùng thời gian phát đắc. Đầu tiên, là phát tư duy vượt hơn, khởi nghiệp thân, ngữ, tức là nghiệp biểu. Rốt ráo của việc kia là tùy chuyển, chẳng phải vì chuyển được vô biểu, nên được gọi là bất luật nghi. Nghiệp biểu như nay nói: Nghiệp biểu trong xứ, hoặc phát tâm cầu nguyện, hoặc xứ, thời phần; hoặc tạo tác mà được. Ở trên đã nói: Khi hai biểu thân, ngữ được, thì nghiệp của Yết-ma biểu kia nêu tâm liền được.

Trên đã nói được biểu, vô biểu: Được vô biểu biệt giải thoát có ba thứ:

1/ Đại giới của xuất gia. Yết-ma thứ ba xong thì sự việc, thời lượng này, cứ giữ như thế.

Giới Bồ-tát kia cũng Yết-ma lần thứ ba đáp rằng: "giữ được thời gian này là được!"

Trước, với tâm trông mong đã mời đón bằng vẻ mặt tươi vui, nay vì đầy đủ, nên sự pháp của chúng tăng vì thời gian này đủ, nên mặc dù ở phần vị trước, đã do biểu tư duy huân tập sự pháp hạt giống, đến nay mới xong; dù không có tâm, hoặc tâm "duyên" riêng, người thọ giới kia, trước đó đã mong mỏi, nay, vì nguyện đã thỏa mãn, nên từ ý niệm ban đầu, về sau, suy nghĩ ngăn ngừa hạt giống ác sẽ tăng lên gấp bội phần, gọi là đắc giới. Có thuyết nói: "Suy nghĩ thể của hạt giống sẽ tăng lên gấp bội lần, gọi là đắc giới; hiện tượng này cũng không hợp lý, vì thời gian pháp sự đã xong, giới tử kia không có để tâm, hoặc "duyên" theo tánh khác, đã không có suy nghĩ hiện tại, nghiệp biểu hiện tại huân tập, thì làm sao thể của hạt giống bỗng nhiên mới sinh được?

Do đây nên biết rằng, còn tùy thuộc ở giới tử kia gặp "duyên" hạt giống mới cũ, hoặc riêng, hoặc chung, được huân tập bởi nhân suy nghĩ, duyên hiện hành. Nay "duyên" hội ngộ thỏa mãn, công dụng tăng gấp bội, gọi là được vô biểu, do tùy thuộc ở giới tâm, mặc dù trong niệm niệm là không hề được giới."

- "Nếu chẳng phải dụng tăng, là thể tăng ấy, thì chẳng lẽ trong mỗi niệm đều hiện hành huân tập hạt giống hay sao?"

- "Vô biểu của đạo định đã là tư duy hiện hành, vì không có trong một tâm có nhiều tư duy."

So sánh vô biểu biệt giải thoát này, cũng không phải thể tăng, vì phần vị sát-na đầu tiên một, bảy dụng tăng; sát-na thứ hai, tức hai, bảy chi, cho đến chưa xả, nhậm vận thêm lớn. Quyển 60 nói: "Đạo nghiệp bất thiện, nếu đến rốt ráo, thì đạo nghiệp này cũng gọi là do lỗi bôi nhọ, nhuộm thành tàn ác nặng, thành rất bất thiện, có thể dẫn đến quả tăng thượng không đáng ưa thích. Vì sao? Vì nếu có dụng tâm ô nhiễm, thì sẽ dẫn phát nỗi khổ không đáng ưa thích, hài lòng cho người khác, người kia, vì tùy thuộc năng lực oai thế của tâm khổ, nên có thể dẫn phát khổ, tư duy Bổ-đặc-già-la, suy nghĩ xúc chạm đắc tội rộng lớn. Cho nên, gọi là lỗi lầm bôi nhọ, nhuộm thành."

Ý này nói rằng: "Hoặc thân tự tạo tác; hoặc sai bảo người khác gây ra đạo nghiệp bất thiện, khiến cho mạng người khác gây ra đạo nghiệp bất thiện, khiến cho mạng người khác phải bị cắt đứt, v.v... Lúc sự việc rốt ráo, với oai thế pháp nhĩ có thể tự hiện hành và phần cư xử, nghĩa là "Tư", ấy là sự xúc chạm đắc tội rộng lớn. Tâm trước, nay thỏa mãn, nỗi khổ người cũng thỏa mãn, nên tội tự xúc chạm, gọi là bôi thoa, tiêm nhiễm."

Luận kia lại chép: "Người thọ giới kia dù không phát tâm tưởng như thế, nhưng công năng dẫn phát nỗi khổ của, nó sẽ xúc chạm tội lớn. Nhưng pháp nhĩ kia xúc chạm với tội lớn. Ví như đá nam châm dù không tác ý tất cả các sắt đến dựa vào ta, nhưng pháp nhĩ kia đã có sắt gần, không do công dụng, đến tựa vào đá nam châm; đạo lý ở đây, nên biết cũng như vậy. Thí dụ mặt trời, ngọc đỏ, nên biết cũng giống như thế. Lại, trong tư duy không có pháp riêng, do oai thế của pháp nhĩ kia sinh, đến nương tựa vào nhau, gọi là thoa, nhuộm. Nên biết chỉ là sự chuyển biến của tư duy này. Do đối tượng, phát khởi bởi oai lực của pháp nhĩ kia; ý này nói rằng, tức tư duy hạt giống, do tâm trông mong trước kia, nay đã đầy đủ, nỗi khổ của người khác viên mãn, công dụng ấy là tăng thêm, gọi là tư duy chuyển biến, lại, không có vật riêng, cũng như ma vương mê hoặc, nịnh hót vô lượng Ta-lê-dược-ca; tâm của các Bà-la-môn, Trưởng giả v.v..., khiến cho đối với Đức Thế Tôn biến đổi khác với sự bạo ác, chẳng phải đối với tâm Bà-la-môn lại tăng thêm pháp khác, nói gọi là mê hoặc nịnh hót, chỉ trừ oai thế gia hạnh của ma vương sinh ra các tâm của Bàla-môn kia, khiến cho họ chuyển thành rất bạo ác. Trưởng giả này cũng giống như thế, trái với đạo nghiệp ác, vì có việc lành này, nên trở thành bôi thoa, nhuộm nhiễm, dụng tăng gấp bội, mới thành vô biểu.

Trong mười thứ được giới, thì Phật là tự nhiên được. Có các Bồ-tát Sơ địa, tức được sinh tử biến dịch; hoặc Bát địa được không trải qua sự sinh. Biệt giải thoát kia cho đến có hạt giống một khi đã được, không bỏ, sẽ chuyển biến thành pháp vô lậu viên mãn. Với chủng tánh bất định, Thanh văn vô học hồi tâm hướng đại, thọ sinh biến dịch cũng giống như thế.

Đây là nói thọ riêng biệt giải thoát, chẳng phải giới luật nghi trong giới Bồ-tát.

- "Vì sao gọi là tự nhiên được giới?"

- "Nếu y cứ vào địa vị thành Phật thì hiện chẳng phải do thọ mà được, cũng gọi là tự nhiên được. Tự nhiên được, nghĩa là khi được đạo giải thoát, liền được vô biểu. Nếu có nghiệp hữu biểu, chẳng phát vô biểu, thì sau khi thành Phật, sẽ không huân tập. Địa vị đạo giải thoát của tâm Độc giác, cũng không phát ra thân ngữ."

- "Chỗ nào được hữu biểu?"

- "Kiến đạo được giới, cũng giống như thế.

Năm người thấy đế, cũng là nghiệp vô biểu."

Đầu tiên, là nhập vào kiến đế, liền được vô biểu; ngay lúc ban đầu đã có, chẳng phải ở thời gian sau. Về sau, vì có thêm, vì đầu tiên chưa có, nên dưới câu nói: "Thiện lai Da-xá", liền được nghiệp vô biểu. Chúng ở đây v.v... đa số chỉ gọi là Thiện lai, thì râu, tóc tự rụng, ca-sa khoác trên thân, biến thành Sa-môn, đều là loại này.

Tin Phật là thầy: Cũng chưa thấy Phật, xa nghe liền tin, lúc tin liền được, cũng là nghiệp vô biểu."

Có thuyết nói: "Thấy Phật, tín nhẫn làm thầy, mới được vô biểu, chẳng phải khi chưa thấy."

Hỏi đáp mà được: Chỉ ở dưới câu: "Một người Tu-đà-di", liền được, cũng là nghiệp vô biểu.

Cũng có thuyết nói: "Tuổi chưa đầy hai mươi, nhân hỏi đáp kia, Phật sai vì Tu-đà-di truyền trao tám pháp đáng tôn trọng. Bấy giờ, vì không có ni, nên khi nghe trao cho kính giáo, ấy là được vô biểu. Vì chưa có ni, nên có thể nói vô biểu đều cùng lúc với biểu, cũng nói thời gian khác.

Đầu tiên là biểu, sau vô biểu, chỉ có đầu tiên, chẳng có sau, sai khiến người thọ; biểu ở vào lúc sai khiến được vô biểu, nghĩa là ở đối tượng sai khiến ni, khi thọ giới kia xong, năm chúng, mười chúng đều từ thầy thọ, như trước đã nói.

Ba quy y phát biểu, ở quy y đầu tiên khi sáng lập, hết lòng lễ bái, vô biểu được lúc ba quy y xong.

Mười chúng này đều có khi Phật còn tại thế. Về sau, không có Phật, chỉ có ba thứ:

1/ Độc giác tự nhiên.

2/ Mười chúng.

3/ Trì luật.

Thuộc về nhãn giới thứ năm. Ngoài ra, chẳng phải không có Phật, mà có được.

Loại đầu tiên đã nói trên, loại thứ hai: là ba chúng xuất gia kia, cận sự được vô biểu, tức ba quy y xong được. Luận Câu-xá chép: "Khởi tâm thanh tịnh, hết lòng, trân trọng, phát lời thành thật, tự xưng: "Con là Ổ-ba-sách-ca, nguyện xin nhớ giữ từ bi hộ niệm!" Bấy giờ, liền phát luật nghi cận sự. Sau ba chúng xuất gia, nói giới tướng, chẳng phải phát vô biểu. Vô biểu cũng là ba quy y xong thì được."

Loại thứ ba: Giới cận trụ kia có hai nghĩa:

1/ Rằng ba quy y xong được, với cận sự không có riêng.

2/ Nếu vậy, thì vì sao Câu-xá không nói ba quy y xong, liền được giới cận trụ.

- "Vì sao nói tướng không đạo đức với cận sự?"

- "Cận sự nói riêng tướng năm giới; cận trụ, ba vòng liên hoàn, nói tướng."

Bài tụng kia nói: "Thuận theo giáo nói chi đủ; không nói cận sự, cũng tùy theo giáo", nên bố thí được cận trụ chẳng phải ba được vì tâm họ ngăn ngừa rộng một ngày đêm, nên chẳng phải trước liền được. Do đó, nên bố thí nói theo sau Sư. Vòng thứ ba xong, mới phát vô biểu.

Vô biểu tĩnh lự. Đầu tiên khởi địa trên, đầu tiên là tâm một phẩm vị chí địa, tức là gọi đầu tiên được. Sau là thuận theo đã khởi tâm vị chí định, căn bản của địa nào đều gọi thành tựu?

Đối pháp quyển tám chép: "Nghiệp thuộc về luật nghi tĩnh lự. Nghĩa là hay tổn hại phát khởi hạt giống phiền não phạm giới; người lìa dục cõi Dục xa lìa tất cả; người lìa dục của Sơ, Nhị, Tam tĩnh lự, xa lìa tất cả."

Luận Đối Pháp tự giải thích: "Người lìa dục cõi Dục, nghĩa là do năng lực đối trị, chế phục; hoặc lìa dục phần nhỏ; hoặc lìa dục toàn phần, chỉ cho địa Vị chí đầu tiên, đối với việc phạm giới, chẳng phải là đối trị đoạn.

Trở lên, đều là đối trị phần xa. Vả lại, sáu tác ý đầu trong bảy tác ý là địa Vị chí; hai tác ý thắng giải của tướng liễu kia, bị đối trị với sự tổn hại, hàng phục, cũng chưa tác ý dứt trừ xa lìa hoặc, mới bắt đầu dứt hoặc.

Về nghĩa này có hai cách giải thích:

1/ Nói tướng liễu, cũng vì nghe, suy nghĩ xen lẫn, mới quán cõi Dục là thô. Địa trên là tĩnh, chưa thể dứt trừ chướng. Thắng giải đối với địa này, thường thường suy nghĩ. Từ đây trở đi, hoàn toàn tu tướng, vì hai tác ý này, nên gọi là nhàm chán hư hoại, đến tác ý xa lìa thứ ba, mới đoạn dứt ba phẩm trên, cũng đối trị tổn hại, chế phục. Đã là tu tuệ, cho nên tướng liễu, thắng giải đều đã được định, giới.

Ba phẩm trên, dứt hoặc, chủ yếu cho đến tác ý thứ ba, nên nói xa lìa, mới dứt được "hoặc" phẩm thượng hạ.

Phẩm thượng đều hết, mới được gọi là đoạn ở trên, không phải trong tướng liễu vì không hàng phục phiền não, nên định đều có giới, tâm đầu tiên liền được, cũng không có trở ngại, khó khăn, nên nói bài tụng rằng:

"Định giới chỉ vô biểu
Phần gần đầu, gọi đoạn
Trì khác, tánh phần xa
Đây gọi luật nghi định."

Nếu vô biểu vô lậu, đầu tiên được thấy đạo; đạo Vô gián đều có, tức gọi là Đắc. Năm địa cõi Sắc, được nhập vào kiến đạo, đều đối trị đoạn; Sắc, Vô sắc khác đều thành phần xa.

Nghĩa là đường dài. Nếu nương vào Lục địa cõi Sắc, ba thứ dưới của Vô Sắc, quả Dự lưu vượt lên chứng quả thứ tư, cũng như chặt tre, đoạn ngang phiền não. Tu đạo trong cõi Dục, phiền não có đối trị đoạn; phiền não khác, gọi là phần xa. Dù có kinh nói: "Dựa vào địa Vị Chí được Sơ quả này, nhưng lại không tiến tu nghĩa vô lậu ở trên". Chẳng phải định chỉ như vậy, có thể như thuyết trước. Không như vậy, thì vô sắc không có đối trị đoạn. Giới đạo định này, lẽ ra tùy tâm chuyển vận, chỉ được tâm kia, thì gọi là "Đắc". Không đối đãi với biểu phát pháp nhĩ tánh của định đạo trái với ác, nên hai thứ này phải có vô biểu.

Vô biểu bất luật nghi được: về bất luật nghi kia, luận Du-già quyển 9 chép: "Có mười hai thứ:

1/ Giết mổ dê.

2/ Gà.

3/ Heo.

4/ Bắt chim.

5/ Bẫy.

6/ Trộm cắp.

7/ Giết mổ.

8/ Cai ngục.

9/ Gièm pha, thọc.

10/ Coi ngục.

11/ Nài voi.

12/ Chú rồng."

-Luận Đối Pháp chép: "Có mười lăm thứ:

1/ Giết mổ dê.

2/ Nuôi gà.

3/ Nuôi heo.

4/ Bắt chim.

5/ Bắt cá.

6/ Săn nai.

7/ Bẫy thỏ.

8/ Trộm cướp.

9/ Hàng thịt.

10/ Giết bò.

11/ Nài voi.

12/ Lập đàn chú rồng. 13/ Cai ngục.

14/ Gièm pha, cấu kết. 15/ Ưa làm tổn hại, v.v...

-Trong kinh Niết-bàn nói: Mười sáu thứ:

1/ Bò.

2/ Dê.

3/ Heo.

4/ Gà.

Vì lợi, nên mua con mập xong, chuyển sang bán thành bốn. Vì lợi, nên mua, sau đó giết mổ, tức thành tám thứ. Bắt chim, bắt cá; thợ săn, trộm cướp, giết mổ; nói lưỡi đôi chiều, coi ngục, chú rồng. Lại có tám, Tạp Tâm nói có mười hai, chẳng phải ở đây nói, đây đều là ý ưa thích tổn hại, là rộng, tức với danh kia, vì chẳng phải chỉ nhất định như vậy, nên Đối pháp chép: "Ưa làm tổn hại, v.v... Khi vô biểu này được, do biểu trước dẫn đến sau, thỏa mãn là tâm trước kia đã xong, tức thành vô biểu, nên Đối Pháp chép: "Đã trông mong hiện hành, nghiệp kia quyết định. Nghĩa là phương tiện thân, ngữ là ưu tiên, quyết định chủ yếu trông mong ở hiện hành; vì nghiệp kia nên biểu ở hành vi trước sau, nghiệp sát kia khiến cho sinh mạng, bị cắt đứt, trộm khiến lìa bỏ xứ, biến đổi khác, che giấu, nuôi nấng, trở thành thuộc về mình, bắt bỏ vào lưới săn, đều gọi là hiện hành, chắc chắn thành vô biểu. Vô biểu trong xứ, chủ yếu khi tự tạo tác, hoặc phát nguyện đầu tiên; hoặc xứ, thời phần, sự mãn, bổn tâm, liền được vô biểu, như sai khiến sát sinh, sinh mạng bị cắt đứt rồi mới thành vô biểu, gọi là lỗi thoa bôi, nhuộm nhiễm, nghĩa như trước đã nói.

Trên đã nói về "đắc", dưới đây, nói về xả.

Trong xả, chia làm hai:

1/ Xả tướng.

2/ Xả duyên.

Xả tướng: Đầu tiên, là được công năng niệm niệm thêm lớn, làm cho tăng trưởng mới, chỉ thuận với trụ cũ, không đồng với giai vị trước, lại không có mới sinh, tức gọi là "xả".

Chẳng phải xả xưa: Từng được thể vô, gọi là xả, không đồng với Tiểu thừa, vô "đắc" thuộc về mình.

Hai biểu thân, ngữ kia phát vô biểu: Niệm đầu gọi là "đắc". Trong niệm thứ hai, thì gọi là xả. Mặc dù có trạng thái nối nhau, nhưng không gọi là phát ra biểu của vô biểu, vì chỉ là tùy chuyển, chẳng phải chuyển vận nhất định, vì không do đây, phát ra thân, ngữ, nên có vô biểu, vì ba tánh đều không nhất định. Phật thì không phải như vậy, chẳng phải ngoài Phật thì đều chưa từng được, niệm niệm mới sinh. Phật là người từng được, chỉ thuận với trụ xưa, do chỉ không héo hết, nên không gọi xả giới. Nên Duy thức chép: "Y cứ vào giới hạn thiện, ác của tư duy, nguyện, giả lập vô biểu, vì nguyện của Phật không có héo tàn, nên không gọi là xả, không đồng với nhân vị. Không như vậy, thì công đức của chư Phật lẽ ra không được viên mãn, vì niệm niệm mới sinh, có người chưa từng được. Nếu không như vậy, thì chư Phật trước, sau, lẽ ra có hơn, kém, vì giới của Phật trước nhiều, Phật sau ít, nên phát biểu của vô biểu chỉ ở ban đầu, tự nghiệp biểu khác chẳng phải nhân của vô biểu, nghiệp của vô biểu kia."

Vả lại, vô biểu biệt giải thoát, Du-già quyển 53 chép: "Luật nghi của năm chúng Bí-sô vì năm duyên, cho nên xả:

1/ Do xả chỗ sở học.

2/ Do phạm tội căn bản.

3/ Do hình mất, hai hình sinh.

4/ Do dứt trừ gốc lành.

5/ Do từ bỏ chúng đồng phần.

Xả chỗ sở học: Trong luật, nói tác pháp từ bỏ nghĩa là đối trước Tỳ-kheo, quỳ xuống tác pháp, nói lời từ bỏ, giới mới thành xả. Nếu tạo ra tâm xả, dù khởi lời nói, nhưng không đối với Tỳ-kheo, y pháp nói xả, thì chỉ gọi là giới yếu, giới ấy không xả. Về sau, khi tạo tội, thì gọi giới ô nhiễm thuộc về Sa-môn, không phải là người tại gia. Do đây, Bí-sô, gọi là xả học xứ. Cận sự, cận trụ, đều khởi tâm bất đồng phần, chẳng phải tạo tội đối với người khác, mới thành xả, nên người phạm tội căn bản, y cứ vào kinh Thập Luận quyển tư nói: "Phạm giới trọng không xả, việc ấy ra sao? Này người thiện nam! Nếu có Bí-sô, phạm bất cứ một tội nào trong các tội tánh trọng căn bản, mặc dù gọi Bí-sô làm việc ác, phá giới, nhưng luật nghi đã được ở trong hòa hợp tăng, thân giáo cũng không dứt mất cho đến đã từ bỏ thi-la đã học, cũng còn có hơi thơm của bạch pháp theo đuổi. Vua chúa, Đại thần, những người tại gia không có luật nghi, không nên khinh mạn và chỉ trích, quở phạt. Như thế, Bí-sô dù chẳng phải pháp khí, lùi mất Thánh pháp, uế tạp thanh chúng, phá hoại tất cả pháp sự của Sa-môn, không được thọ dụng vật tăng bốn phương, mà vì luật nghi đã được ở trong hòa hợp tăng thân giáo, không từ bỏ, cũng vẫn vượt hơn tất cả người tại gia. Người phạm tánh tội còn như thế, huống chi là phạm các già tội nhỏ khác ư? Thế nên, không cho vua chúa, Đại thần, các người tại gia khinh mạn và chỉ trích, quở phạt."

Về việc này có hai cách giải thích:

Luận Du-già quyển bốn mươi giải thích: "Trong Giới Bồ-tát chép: "Nếu khởi triền phẩm thượng, phạm tội căn bản, tức là xả giới, vì không có hổ thẹn, hãy còn khiến cho, diệt mất tất cả căn lành, huống chi triền phẩm thượng của giới đã thọ, đối với bốn tội gốc thường thường hiện hành, đều không có hổ thẹn, sinh ái lạc sâu, cho là công đức, nói gọi là thượng triền, chẳng phải hiện hành tạm thời, tức gọi là xả bỏ. Nhưng vì pháp trị phạt không ở chung, nên chẳng có nghĩa là mất giới. Trung triền, hạ triền phạm giới không xả.

Luận Du-già y cứ vào thượng triền mà phạm, kinh Thập Luân chỉ y cứ vào triền trung, hạ phạm, nên kinh Niết-bàn quyển 34, Bồ-tát Ca-diếp hỏi: "Ở đời đương lai, có hai mươi mốt cặp nghĩa tránh luận. Đây sẽ là đôi cặp mười tám, đến quyển 35, Đức Phật giải thích rằng: "Này người thiện nam! Trong kinh, ta đã nói như thế này: Nếu có Tỳ-kheo nào đã trái phạm bốn tội trọng xong, thì sẽ không được gọi là Tỳ-kheo, mà gọi là phá Tỳ-kheo, vong thất Tỳ-kheo, không còn có thể sinh hạt giống của mầm lành. Ví như hạt giống rang, không sinh quả chắc, như chặt ngọn cây Đa-la, nếu đoạn hoại, thì không sinh quả. Tỳ-kheo phạm tội trọng, cũng giống như thế". Các đệ tử của ta nghe ta nói xong, không hiểu ý ta, đều đồng thanh nói như thế: "Như Lai nói các Tỳ-kheo phạm trọng cấm, đã mất giới Tỳ-kheo!"."

"Này người thiện nam! Trong kinh, ta đã vì Thuần-đà nói có bốn hạng Tỳ-kheo:

1/ Rốt ráo chí đạo, Câu-xá gọi là Sa-môn thắng đạo.

2/ Thị đạo.

3/ Thọ đạo, tên dịch là Mạng đạo.

4/ Ô đạo.

Người phạm bốn giới trọng, tức là ô đạo. Các đệ tử ta nghe thuyết này xong, vì không hiểu ý ta, nên phụ họa: "Như Lai nói các Tỳ-kheo phạm bốn giới trọng, không mất giới cấm!"

Cứ xem xét ý văn, "nếu phạm bốn trọng, thì đó là hoàn toàn mất giới", tất nhiên, lẽ ra phải hiểu ý ta muốn nói là "hoàn toàn không mất", cũng nên hiểu ý ta."

- "Thế nào là không hiểu?"

- "Nên biết rằng, tâm hai phẩm thượng phạm, hạ phạm, có mất, không mất giới kia, mặc dù trong các kinh, phần nhiều đều nói: "Nếu có người phạm bốn trọng cấm, thì hãy tụng chú này, tội đều tiêu diệt", mà không nói thể của giới trọng, sinh trở lại, hay không sinh trở lại."

Kinh Đại Phương Đẳng Đà-la-ni quyển tư chép: "Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng: Sau Phật diệt độ, nếu có Tỳ-kheo hủy phạm bốn giới trọng, hoặc Tỳ-kheo ni hủy phạm tám giới trọng; hoặc Bồ-tát và Sa-di-ni; Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Nếu trái phạm mỗi mỗi các giới, thì sẽ phải diệt tội lỗi như thế ra sao?" Đức Phật nói:

- "Nếu Tỳ-kheo tội ác, hủy phạm bốn giới trọng, mặc nhiên tiếp nhận của vật cúng dường, mà không ăn năn sửa đổi, thì phải biết rằng, vì Tỳ-kheo này, sẽ phải chịu nỗi đau khổ của địa ngục, mà không có nghi ngờ gì.

Nay, ta sẽ phát ra phương thuốc hay để cứu chữa cho vị Tỳ-kheo kia:

"Ly bà ly bà đế. Cưu ha cưu ha đế. Đà la ly đế. Ni ha la đế. Tỳ ma ly đế. Sa ha (toa ha)"

Là lời tuyên thuyết của bảy Đức Phật trong ba đời, nhằm cứu vớt cho Tỳ-kheo thuộc luật nghi ác đời Mạt pháp, sao cho họ được trụ vững chắc ở địa thanh tịnh. Nếu phạm bốn tội trọng, thì phải dốc lòng nghĩ nhớ Đà-la-ni này, tụng một ngàn bốn trăm biến, là một sám hối. Thỉnh một vị Tỳ-kheo làm nhân chứng, tự trình bày tội của mình, hướng trước hình tượng Phật, Bồ-tát, thứ lớp như thế, suốt tám mươi bảy ngày sám hối xong. Các gốc giới này, nếu không sinh trở lại, thì không có việc đó. Người kia, qua tám mươi bảy ngày xong, nếu không vững chắc Vô thượng Bồ-đề, thì cũng không có việc đó!"

- "Làm sao biết được người trụ giới thanh tịnh?"

- "Nếu nằm mộng, thấy sư trưởng đưa tay rờ đầu mình, hoặc cha, mẹ, Bà-la-môn, bậc kỳ cựu có đức." Đối với những người như thế v.v..., nếu bố thí cho họ thức uống ăn, y phục, giường nằm, thuốc thang, thì phải biết rằng, người này đang an trụ trong giới thanh tịnh.

Nếu Tỳ-kheo ni trái phạm tám thứ tội, thì nên tụng Đà-la-ni này, chú rằng:

"A nghi ly ba. Kỳ la đế. La đế bà. Ma la đế ha. Ma la đế. Sa ha."

Chín mươi bảy ngày, tụng bốn mươi chín biến, là một sám hối. Nói rộng, là pháp diệt tội của Bồtát và Sa-di, v.v... Đà-la-ni nói trong quyển một kinh kia cũng nói: "Người phạm giới Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni v.v... phải thực hành một sám hối. Nếu giới căn không sinh trở lại, thì không có việc đó, trừ trường hợp không dốc lòng. Nên biết phạm trọng mà không mất giới, chỉ gọi là giới ô nhiễm. Nếu không như vậy, thì làm sao giới căn được sinh trở lại, thanh tịnh về sau? Thuyết trong kinh Phật Danh nói cũng đồng với kinh này.

Y cứ vào luật Tứ Phần đồng với Tát-bà-đa cũng nói: Người phạm trọng, không mất giới.

1/ Không ở chung: Là pháp trị phạt, chẳng phải là nghĩa mất giới.

2/ Rằng, phạm trọng bất luận (hỏi) tâm nào quyết định mất giới?

Du-già quyển 53 nói: "Vì phạm trọng, xả, nên Bồ-tát Địa quyển 40 giải thích: "Nếu dùng triền của phẩm trung nhuyến, hủy phạm bốn thứ pháp thắng xứ của người, không xả triền phẩm thượng của luật nghi tịnh giới Bồ-tát, phạm, thì gọi là xả. Nếu các Bồ-tát hủy phạm bốn pháp thắng xứ của người, thường thường hiện hành, không có hổ thẹn, sinh tâm rất yêu thích, thấy là công đức, nên biết gọi là triền phẩm thượng phạm, chẳng phải các Bồtát tạm thời một hiện hành pháp tha thắng xứ, ấy là xả luật nghi tịnh giới của Bồ-tát, như các Bí-sô phạm pháp vượt hơn người khác, tức là từ bỏ giới biệt giải thoát.

-Ý trong đây nói: "Triền trên tịnh giới của Bồtát, phạm, mất giới, không phải triền trung hạ của các Bồ-tát, phạm cũng gọi là mất giới, như các Bísô phạm trọng, ấy là mất giới. Điều này là trái với biểu thị rõ tâm phẩm hạ trong phạm trọng của Bísô, cũng tức là mất giới; vì Bồ-tát thì không như vậy, nên nói rằng, chẳng phải các Bồ-tát tạm thời một hiện hành, thì gọi là phạm, v.v...

Vì thường đọc nghĩa văn luận, đạo cũng xa, nên biết Bồ-tát phạm trọng, có khi mất, có khi không mất giới. Bí-sô phá giới, phạm trọng, quyết định mất giới; không thể dùng phạm trọng giới Bồ-tát có mất giới không mất giới để chứng minh cho Bísô đồng, bởi vì ý ưa thích của Bí-sô rộng lớn, sâu xa làm pháp khí, vì Bồ-tát mỗi thứ đều dẫn dắt, gồm thâu, nên luận Du-già quyển 40 chép: "Do Bồtát này phạm trọng, mất giới, đời nay, được thọ; Bí-sô hiện đời không thành thật thọ lại, với ý tội ác, ưa suy nghĩ tổn hại đồ đựng pháp lành. Hoặc hai hình sinh và dứt gốc lành, tác pháp xả bỏ mà mất giới. Sau, không có việc trước, vì đời nay được thọ giới không ô nhiễm."

Kinh Thập Luân v.v... chép: "Vì bảo hộ tăng đời mạt pháp, vì ngăn dứt sự chê bai, hóa độ thế tục, nên Phật nói không mất giới, chứ chẳng phải thật sự không mất."

Kinh Niết-bàn chép: "Do phạm trọng này, thật sự mất giới; vì chấm dứt sự chê bai thì không mất, cho nên nói là nhất định mất, nhất định không mất, đều hoàn toàn không hiểu ý Phật."

Trong kinh Phương Đẳng chép: "Chỉ là sám hối, để diệt tội phạm trọng. Nói sinh lại: Nghĩa là lời nói dẫn dắt, vì cũng không trái nhau, nên trong kinh nói: "Người phạm trọng, Đức Thế Tôn không cho ăn thức ăn của tăng-kỳ, là chỉ một nắm. Một gót chân của Ty-ha-la giẫm lên đất, vì đuổi ra tất cả sự nghiệp của Bí-sô", nên Đức Phật lại nói: "Nhổ mau nhổ bỏ chóng cỏ đắng, chừa lại lúa tốt, phân biệt, lựa chọn nhanh chóng rường cột khô mục, nên vê sạch hết trấu, còn ròng hạt giống, cần phải khai trừ nhanh chóng tương tự Bí-sô, nên gọi phạm trọng nhất định là mất giới.

Trong luật có nói: "Không phạm: Thời kỳ đầu tiên chưa chế giới, tâm tán loạn, cuồng si, bị triền bệnh xúc não ràng buộc. Dù có cách giải thích này nói không mất giới, văn nhiều, lý chánh. Lại, người phạm giới, thật sự có ba tâm. Một loại của nhân nào, là khiến mất giới, nên cách giải thích trước là tốt, hình ẩn mất, hai hình sinh, nghĩa là hình ẩn mất, có hai cách giải:

1/ Một hình ẩn mất, lúc vô hình, không mất giới, như lên bậc Thánh, dù có mất hình, nhưng giới không mất. Mặc dù biết bậc Thánh không tạo ra vô hình, như khi người phàm được giới, về sau bị trùng ăn, lúc trùng ăn, liền nhập kiến đế. Ngay lúc đó, giới trước kia đều không mất, vì nhập đế rồi, không mất giới, vì có thể mất hình, nói hình ẩn mất: Nghĩa là lúc hai hình sinh, trước đó chỉ một hình, tất nhiên, vì chuyển biến mất, nên mới thành hai hình, chẳng phải là vô hình, mà là mất giới.

Nếu trước kia đã vô hình, thọ đại giới không được, thì vì ý ưa thích yếu kém, vì chẳng phải đồ đựng đạo. Vì thọ giới xong, về sau có thể vô hình, vì ý không yếu kém.

2/ Nên sáu duyên xả. Khi một hình mất, thì giới tất nhiên xả. Sau hai hình sinh, một hình trước vẫn còn.

- "Sao gọi là mất? Nhưng đều cùng không phải hình, mà là mất giới."

Luận Nhất Xứ chép: "Thật ra có sáu duyên không nhập kiến đế mà cho trùng ăn, không thể dùng Tiểu thừa mà làm loạn nghĩa đại."

- "Nếu như vậy, thì có những người dần dần qua đời, trước chết từ phía dưới, đâu qua hình liền mất giới. Về sau, được sống lại, thì phải thọ giới lại. Sự việc này cũng đâu có sai.

Trước hết, khi vô hình, vì giới đã xả, nên đâu cần qua đời.

- "Nếu như vậy, thì đầu tiên, sinh ở chỗ này, về sau xả ở chỗ này."

Luận Du-già quyển một chép: "Tâm sau cuối mới chết. Ở giai vị chết, tất cả trước kia đều vô hình, đâu được lại có qua đời mà xả. Hai hình trước đã có thọ giới không được, sau hai hình sinh cũng nhất định xả giới; vô hình thì không như vậy, vì trước có không được, sau sinh không xả. Hai hình là: Đồ đựng ác. Phiền não của nam, nữ thường hiện tiền, vì chướng ngại pháp khí. Vô hình, đầu tiên là có lý kia cũng đồng, sau, có không mất, chẳng hoại bản tánh, vì không chướng Thánh. Hai hình ấy là hư hoại, vì chướng vị Thánh. Nên Câu-xá chép: "Thành tựu vị tri, đương tri căn, nhất định thành tựu mười ba, nghĩa là năm thứ như Tín v.v..., thân, mạng, ý, bốn thọ, trừ ưu căn và vị tri, đương tri căn; không nói nhất định thành nam, nữ, vì tùy thuộc một, nên biết các bậc Thánh cũng có vô hình. Đoạn gốc lành có hai tâm thọ giới. Nghĩa là gia hạnh sinh đắc. Đoạn sinh đắc thiện, chẳng phải gia hạnh thiện. Tâm của gia hạnh thiện, thọ, nghĩa là đoạn gốc lành; giới kia của gia hạnh trước đã mất. Đoạn thiện làm duyên, cũng gọi là đoạn thiện. Nếu tâm sinh đắc thọ, thì chủ yếu tà kiến khởi hiện tại tiền, giới kia mới mất. Nhưng giới, nói chung có tâm của ba phẩm thọ, chín phẩm tà kiến mới đoạn thiện hết, giới kia cũng vậy, chỉ nói đoạn thiện xả, không nói xả đầu tiên.

Bỏ chúng đồng phần: Nghĩa là mạng chung xả, một niệm sau cuối chánh thức qua đời, tâm ở đời hiện tại giới cũng hiện tại; không gọi là đã xả, có thể gọi là chánh xả, như pháp thứ nhất xả, khác với tánh sinh. Nếu qua đời rồi, giới nhập quá khứ, hiện ở trung hữu, v.v..., vì đã xả giới, nên gọi là bỏ. Vì cách ngăn phàm phu nên thuyết này thọ riêng giới Bí-sô, v.v... chẳng phải giới luật nghi của giới Bồtát.

Luận Du-già quyển 53 nói: "Nếu chánh pháp hủy hoại, chánh pháp ẩn mất. Dù không có mới thọ luật nghi Bí-sô, nhưng đã thọ được, nên biết không xả. Vì sao? Vì ở thời bấy giờ, kiếp hoại đang khởi, chẳng có một hữu tình nào không tổn hại ý ưa thích, có thể thọ cụ giới, huống chi sẽ có người chứng quả Sa-môn, nên thọ không được, giới trước không mất.

Luật nghi cận sự do ba duyên mà xả:

1/ Khởi tâm không đồng phần. Đây là thuộc về thế hạn chế, hạn chế sự trông mong về tuổi tác ít nhiều, thọ, xả, thừa nhận có ít thời gian, nhiều thời gian, vì cận sự suốt đời.

2/ Gốc lành bị cắt đứt. 3/ Bỏ chúng đồng phần.

Chánh pháp ẩn mất, như luật nghi Bí-sô, về mặt đạo lý, nên biết không có phạm trọng, xả; cũng vô hình mất, hai hình sinh, xả.

Luận Đối Pháp quyển tám chép: "Hỏi: Nếu chỉ tu học một phần học xứ Ổ-bà-tố-ca, là nói thành tựu luật nghi Ổ-bà-tố-ca, hay nói không thành tựu?"

Đáp: "Nên nói là thành tựu, mà gọi phạm giới, nên biết phạm trọng không mất giới cận sự."

Quyển kia lại hỏi: "Phiến-để-ca, Bán-trạch-ca v.v... là chướng ngăn họ thọ giới cận sự hay không ngăn chướng?"

Đáp: "Không chướng ngăn chận họ thọ luật nghi cận sự, nhưng chướng ngăn tánh họ không thể kính thờ hai chúng xuất gia. Hai hình cũng vậy, vì phiền não của nam, nữ thường cùng hiện hành, không thế gần gũi, kính thờ hai chúng, nên không nói riêng."

Du-già quyển 53 chép: "Vì sao Phiến-để, Bántrạch dù thọ quy y, nhưng cũng có thể theo hộ vệ các cận sự nam, chỗ có học xứ, mà không gọi là cận sự nam?"

Đáp: "Vì người cận sự nam, đều có thể gần gũi, phục vụ chúng Bí-sô, Bí-sô ni; mặc dù họ có thể theo hộ vệ nơi thọ luật nghi, nhưng không nên thường xuyên gần gũi kính thờ hai chúng xuất gia. Hai chúng xuất gia cũng không nên gần gũi, nhiếp thọ họ, hoặc sờ mó, xúc chạm chủng loại như thế. Lại, cũng không nên như cận sự nam mà gần gũi nhau. Cho nên, không được gọi là cận sự nam. Tuy nhiên, họ thọ, hộ vệ nơi có học xứ, nên biết rằng, về phước đức, v.v... vẫn bằng nhau, không hề khác nhau, nên biết lúc hình mất, hai hình sinh, cũng không mất giới cận sự."

Về luật nghi cận trụ cũng có ba duyên xả:

1/ Do từ lúc mặt trời mọc về sau, duyên này chỉ dắt dẫn một thứ căn cơ đầu tiên, không có một pháp chướng ngăn, trở ngại giới. Nếu tâm trông mong được thỏa mãn, giả thiết đã trông mong nhiều ngày, thì nghĩa nào mà không được, nên biết chỉ là do Phật dạy lập ra hóa độ căn cơ đầu tiên.

2/ Do phát khởi tâm không đồng phần.

3/ Xả chúng đồng phần, không có phạm trọng xả, và nghĩa hình, mất, hai hình sinh, như trước đã nói.

Không có đoạn thiện, xả: Loại này có hai thuyết:

1) Về lý, lẽ ra có bốn duyên. Trong đây, khởi tâm bất đồng phần gồm có hai thứ xả:

a) Khởi tâm xả bỏ. Tâm từ bỏ, nghĩa là khởi tưởng không gìn giữ, không đồng với tác pháp hoàn toàn của Bí-sô.

b) Đoạn gốc lành, do giới cận sự không có mặt trời mọc xả, cận trụ thì có, nên hợp cả hai thứ, đều gọi là khởi tâm không đồng phần; ẩn, hiển, ảnh bày ra, cũng không có lỗi lầm, như trước kia đã khởi phương tiện tà kiến, mà cũng chưa đoạn. Ngày nay, thọ giới, tức là vì dứt bỏ điều lành, nên tin, lẽ ra có bốn, mà thuyết này nói là ba.

2) Rằng, chỉ có ba duyên, do thời lượng một ngày, đêm rất gấp rút, nên không cần phải khởi riêng phương tiện dứt bỏ việc lành, nên không có xả này, trước kia đã khởi phương tiện không thể thọ giới, tâm phẩm trung hạ, dù cho thọ không được, tất nhiên, tâm phẩm thượng vì mới phát giới, nên tà kiến của phẩm thượng, mới dứt bỏ điều lành.

Bồ-tát giới quyển 40 chép: "Vì hai duyên nên xả: 1/ Từ bỏ đại nguyện Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

2/ Triền phẩm thượng hiện hành, trái phạm pháp thắng xứ của người khác.

Quyết Trạch Phần quyển 75 có nói: "Lại, nhân duyên xả, lược có bốn duyên:

1/ Quyết định phát khởi tâm không đồng phần, tạo ra ý thôi, bỏ.

2/ Vì đối trước người đàn ông có nhận thức khác, nên ý phát khởi lời nói từ bỏ, phát ngôn đối với xả.

3/ Hủy phạm riêng bốn thứ pháp thắng xứ của người, khởi tội căn bản.

4/ Nếu dùng triền phẩm thượng hủy phạm chung, riêng, thuận theo bốn pháp thắng xứ của người, phạm tội thuận theo. Lại, nói rằng: "Ba thứ giới này, do gìn giữ thuộc về giới luật nghi, khiến chung kia hòa hợp. Nếu ở trong chúng này tinh tấn, hết lòng giữ gìn, thì cũng có thể giữ gìn nơi khác. Nếu ở đây không thể khác, thì tất nhiên cũng không thể. Cho nên, nếu có hủy phạm giới luật nghi, thì gọi là hủy phạm tất cả luật nghi Bồ-tát. Thế nên phạm bốn trọng và trái phạm thuận theo, là mất giới, nghĩa là đều trái phạm luật nghi. Giới luật nghi vì là căn bản, nên, nếu có không xả, thì phải biết rằng, sự sinh khác cũng được chuyển biến theo.

Địa Bồ-tát kia lui sụt tâm Bồ-đề, tức gồm thâu Sơ, Nhị trong bốn quyết trạch, triền phẩm thượng phạm, tức gồm thâu hai quyết trạch sau, chỉ vì triền phẩm thượng phạm bốn căn bản và bốn thuận theo, đều mất giới.

Cắt đứt gốc lành của người kia, là thuộc về khởi tâm không đồng phần, cho nên không biện luận. Lại, thối lui sụt tâm Bồ-đề, vì trước kia đã mất giới. Khi dứt trừ gốc lành, lại không nói là xả."

Quyết Trạch Phần nói rằng: "Giới Bồ-tát này, nếu có người không xả, thì phải biết rằng, sự sinh khác cũng được chuyển biến theo."

Quyết Trạch quyển 40 chép: "Nếu các Bồ-tát dù chuyển vận thân khắp các thế giới ở mười phương, tồn tại ở chỗ sinh, không xả luật nghi tịnh giới của Bồ-tát, do Bồ-tát này không xả đại nguyện Bồ-đề, vì cũng không là triền trên hiện hành, phạm, nên dù chuyển vận sự sinh khác, quên mất sự nghĩ nhớ xưa, gặp gỡ bạn lành, lại được giác ngộ niệm giới Bồ-tát, dù thường thọ lại, nhưng chẳng phải mới thọ, cũng chẳng phải mới được, vì tâm nguyện thọ cùng tận vị lai, vì tâm rộng rãi; người khác đều không được, vì tâm nguyện hẹp hòi, nên tạo ra thế giới của tâm rộng, cũng không được. Y cứ ở Bí-sô, cận sự, cận trụ này, đời nay chưa xả, thọ lại cũng được, chẳng phải mới được."

Quyết Trạch quyển 41 chép: "Nếu triền phẩm thượng phạm pháp Thắng xứ của người, thì sẽ mất luật nghi giới, phát lộ sám hối, diệt, cần phải thọ lại. Pháp phát lộ, như triền phẩm trung phạm. Nếu triền phẩm trung phạm pháp Thắng xứ của người, thì lẽ ra phải đối với ba, hoặc quá số này, đối với nghĩa ngữ biểu năng giác, năng thọ, Bổ-đặc-già-la Tiểu thừa, Đại thừa, phát lộ sám hối, diệt trừ pháp ố tác, cho đến nói rộng.

Nếu triền phẩm hạ phạm Thắng xứ của người, và vì phạm khác, thì nên đối với người có đức trước, phát lộ, chừa bỏ, ăn năn. Nếu không có người có đức này để đối trước phát lộ, thì nên ý tịnh ưa thích khởi tâm tự thệ, ta sẽ quyết định phòng hộ giới, đương lai, không bao giờ phạm lại. Như thế, đối với phạm, phát ra trở lại, thanh tịnh trở lại; người không phạm bị cuồng loạn, kẻ bị nỗi khổ ép ngặt tạo ra trọng tội, không gọi là phạm. Y cứ vào hai loại: Cận sự, cận trụ phạm giới không xả, nên đối với người có đức có khả năng khai thọ, hoặc tự thệ rằng: "Phát lộ tự thệ, lại xuất tội của cận sự, cận trụ kia, tịnh trở lại giới của họ." Bốn thắng xứ của người khác và pháp thuận theo, như mới được dịch trong Di-lặc sở tạo Bồ-tát giới, v.v... đã nói: Vô hình, hai hình, không ngăn cấm thọ giới, vì nhiếp thọ rộng, nên cũng không nói xả.

Y cứ vào các lý lẽ này, giới Bí-sô v.v... trong giới Bồ-tát, qua đời, hai hình, khi mặt trời mọc v.v... đều không xả. Vì tâm rộng khắp, nếu thọ riêng không được.

Luật nghi tĩnh lự có bốn duyên xả:

1/ Thôi dứt xả. Nghĩa là xuất định kia, khởi tâm của phần khác, vì thuận theo giới tâm.

2/ Không vận hành xả, nghĩa là đổi địa xả. Khi từ địa hạ thượng, sinh lên địa thượng hạ.

3/ Mất dụng xả.

4/ Không bao giờ có xả, nhập Niết-bàn vô dư, tất cả đều xả, không bao giờ thành tựu, lui sụt tĩnh lự, v.v..., lại vì không thành tựu, nên luật nghi vô lậu có năm duyên xả:

1) Thôi dứt xả. Nghĩa là phát ra tâm kia, khởi tâm của phần khác, vì chuyển theo tâm.

2) Tạm thời không có xả. Nghĩa là vì lui sụt, nên xả tuệ giải thoát và thân chứng. Nghĩa là lui sụt hiện pháp lạc trụ, định diệt tận v.v..., lúc sinh ở địa dưới, v.v... chẳng phải lui sụt quả Thánh, khởi các phiền não, hai địa trên, tạm gọi là xả. Nay, thân lại dẫn hiện tiền.

3) Được quả xả: "luận Đối Pháp quyển 14 chép: Đối với các giai vị hiện quán, khi chứng được đạo của phẩm vượt hơn sau, xả đạo phẩm thấp kém đã được xả, như khi chứng được đạo thuộc về quả này, tức xả đạo thuộc về hướng này, vì không còn hiện tiền.

4/ Luyện căn, xả: Quyết Trạch quyển 57 chép: "Có bao nhiêu Bổ-đặc-già-la có luyện căn?" Đáp: "Tất cả hữu học và năm vô học lui sụt tư duy thủ hộ, an trụ chủng tánh kham đạt, chẳng phải các Độc giác, cũng chẳng phải tánh Bồ-tát, vì căn cơ nhạy bén."

Luận Đối Pháp quyển 14 nói: "Nếu các tánh Bồ-tát là căn cơ nhạy bén, thì làm sao lại khiến tu luyện căn?" Nghĩa là khiến dựa vào căn cơ nhu nhuyến, nhạy bén, dẫn phát căn cơ nhạy bén. Dựa vào căn cơ nhạy bén, lại dẫn sinh ra căn cơ nhạy bén phẩm thượng."

Luận kia tự hội ý rằng: "Trước đã nói tánh Bồtát là căn cơ nhạy bén mà sau đó lại nói là thường nên tu luyện căn: Do đối với chủng loại của mình, lại có ba phẩm nhuyến, v.v... Về sau sau, dẫn sinh nhau, gọi là luyện căn. Không như vậy, thì căn cơ nhạy bén lẽ ra chỉ có một phẩm."

5/ Luận Đối Pháp quyển 57 chép: "Độc giác bất động không luyện căn. Nghĩa là không tiến tu thừa mình, Bồ-tát không luyện căn; không tiến tu thừa người, chẳng phải pháp bất động và Độc giác không tiến đến thừa người khác, cũng chẳng phải Bồ-tát không tiến tu thừa mình."

Luận Đối Pháp quyển 57 chép: "Dự lưu luyện căn cũng được Nhất lai. Nhất lai luyện căn không được Bất hoàn đối trị khó được, vì sở đắc rộng lớn nên không còn luyện căn, chỉ tiến đến lìa dục, không được vô học". Như trước, nên biết vì có năm nghĩa nên phải luyện:

1/ Chút ít điều lành chút ít cũng không có.

2/ Vì dẫn sinh định cao hơn.

3/ Vì trồng nhiều năng lực nghe.

4/ Vì trồng năng lực nghị luận, quyết trạch.

5/ Vì trồng quán sát pháp rất sâu, vì năng lực nhẫn, nên phải luyện căn, nên trừ đắc quả, cũng có luyện căn, xả đạo cộng giới.

Năm duyên nhập Niết-bàn vô dư, tất cả bỏ hẳn ba phẩm hạ xả bỏ hạt giống không còn thành tựu. Mặc dù biết bốn duyên, nói là tĩnh lự xả, dù lại năm duyên nói vô lậu xả. Loại chung một duyên, nghĩa là khởi tất cả tâm khác đều xả, vì tư duy hiện hành là vô biểu, nên đã nói xả ở trong phương tiện của các duyên.

Nay, nói vì chủng loại ở hiện nối tiếp sinh, nên nói vì bốn duyên, năm duyên nên xả. Giới bất luật nghi dù không có văn thích đáng, nhưng do bốn duyên xả:

1/ Thệ nguyện xả: Ở chỗ Phật, v.v... tự đón rước, mong cầu, không bao giờ làm nữa, như xả luật nghi, vì xả tư duy kia.

2/ Thọ giới, xả: Nếu thọ giới xuất gia và giới cận sự, tất cả xả hẳn. Nếu thọ giới cận trụ, tạo ra tư tưởng xả hẳn, cũng lại xả hẳn. Nếu thế của tâm xả vượt hơn sáng sớm, xả giới cận trụ xong, lại nối tiếp nhau, vì tư duy điều ác kia không xả hẳn.

3/ Được định xả: Giới đạo các định, vì tánh trái với ác. 4/ Qua đời xả: Vì mời đón, trông mong dứt. Có thuyết nói: "Thân mất, hai hình sinh cũng xả, vì đối tượng nương tựa biến đổi."

Có thuyết nói không đúng, thừa nhận hai thứ luật nghi không xả này, thọ được luật nghi, huống chi bất luật nghi ý chỉ ưa thích việc ác; vì đồ đựng đạo của họ cũng vậy, nên không có xả này."

Luận Đối Pháp quyển 53 chép: "Phải biết rằng, người này, cho đến suy nghĩ bất luật nghi chưa xả trở lại, thường được gọi là bất luật nghi, nghĩa là ở phần vị người này, tư duy bất thiện của người kia, vì chứa nhóm rộng, nên nghiệp bất thiện của họ có nhiều hiện hành. Phải biết rằng, vì chẳng phải phước nhậm vận thêm lớn, nên biết bốn xả như trước là tốt."

Có thuyết nói: "Không có thệ nguyện xả, như người bệnh không uống thuốc, nên về sau cùng khó lành; nên quan trọng ở thọ giới được định, qua đời."

-Cách giải thích này cũng không hợp lý, vì suy nghĩ xả kia, như vì xả luật nghi, nên thuyết trước là tốt.

Vô biểu trong xứ nếu lập hữu Vô biểu này không có chánh văn. Luận Câu-xá quyển 15 chép "Vì sáu duyên nên xả:

1/ Vì tâm thọ đoạn hoại nên xả: Xả giới đã thọ, có cảm nghĩ rằng: "Kể từ giờ phút này, ta bỏ giới đã thọ trước đây."

2/ Thế lực đoạn hoại. Nghĩa là do tịnh tín, nên thế lực phiền não, bị hạn chế, đoạn hoại, v.v… như mũi tên đã buông ra, thế lực của bánh xe quay của thợ gốm đã hết, ấy là đoạn.

3/ Tác nghiệp đoạn hoại: Như giới đã thọ, về sau, không còn tạo tác.

4/ Sự vật đoạn hoại: Đối tượng xả thí, bốn sự, các đồ lặt vặt, việc lưới săn thỏ, v.v...

5/ Mạng sống lâu đoạn hoại: Vì đối tượng y chỉ có chuyển đổi.

6/ Gốc lành đoạn hoại. Nghĩa là thời điểm khởi gia hạnh cắt đứt gốc lành, ấy là xả thiện căn đã dẫn vô biểu. Biểu của mười nghiệp đạo lành với loại chi vô biểu dù khác, nhưng phần nhiều nói là đồng với giới cận sự. Nhưng trong xả thêm kỳ hạn đã mãn; hoặc một ngày, đêm v.v..., thời phần dài, ngắn, vì giới hạn trông mong đã mãn, nên tức là từ bỏ.

-Thứ sáu, y cứ vào địa "có" "không":

Nghĩa là biểu luật nghi thân và ngữ thiện, chỉ có ở hai cõi Dục, sắc. Vì sơ định cõi Dục có tầm, từ, nên có thể phát ra biểu thân, ngữ; ý biểu chung cho ba cõi, nghĩa là: "Thân biểu chung cho ba định của địa trên, vì tầm, từ chẳng phải là nhân của thân, vì hai hơi thở ra vào là nhân của thân, nên nghiệp chung cho Tứ thiền, sao không thừa nhận có. Biểu thân, ngữ vô lậu kia, hoặc chung cho bốn định. Nếu không như vậy, thì tỏ ngộ ngay Bát địa trở lên, Bồtát và Phật chỉ ở định thứ tư, nên không có thân, ngữ thiện, như tỷ thức thiệt thức hữu lậu, ở địa trên không có. Vô lậu thì nói có, nghiệp thân, ngữ lẽ ra như thế. Hai biểu bất thiện chỉ có ở cõi Dục. Thân, ngữ biểu thiện trong xứ, chung ở hai cõi. Biểu của ý địa chung cho Cửu địa. Vô biểu, giải thoát riêng trong luật nghi vô biểu, có thể dựa vào hai cõi Dục, Sắc, dựa vào thân mà được. Đã thừa nhận cõi Sắc hồi hướng Đại thừa."

- "Vì sao Đức Thế Tôn không có giới biệt giải thoát?"

- "Giới biệt giải thoát này, nếu lúc còn là Bồtát, thì dù lại dựa vào biệt giải thoát kia, nhưng nhất định là vô lậu; dựa vào thân cõi Sắc. Y cứ vào thân cõi Sắc này không có biệt giải thoát hữu lậu này. Phật Lô-xá-na hóa độ mười tám Phạm thiên, v.v... đều có thể hiểu ngôn ngữ, đều thọ trì giới Bồ-tát, cũng được biệt giải thoát; không được thọ riêng giới biệt giải thoát, thọ riêng biệt giải thoát, chỉ trừ các bậc Thánh.

Cõi trên dựa vào thân, tâm, chẳng phải chán nản tột độ, do đó mà không được, đã thừa nhận quỷ, súc, được giới biệt giải thoát. Các tầng trời cõi Sắc thừa nhận đối với lý đâu có trái?

- Đã thừa nhận các tầng trời cõi Dục có trụ phạm hạnh, cũng có các tầng trời cõi Dục được giới biệt giải thoát; súc sinh, ngạ quỷ, đều được thọ năm giới, tám giới, nhưng chẳng phải tánh của chúng, như Phiến-để, Bán-trạch-ca, nên có biệt giải thoát, chẳng phải giới Bồ-tát, địa ngục, không có, do được giới biệt giải thoát, giới Bồ-tát vượt hơn, có thể gồm thâu giới biệt giải thoát kia; hoặc giới Bồ-tát kia cũng được năm giới. Tám giới, v.v... Bồ-tát Địa Tạng bằng với sự thọ giới của người kia.

Du-già chỉ ngăn chận ý ưa thích và đều có hình gây tổn hại cho việc thọ giới cận sự, vì không chướng ngăn súc sinh, v.v... Do đây, cũng chứng tỏ trời Dục, trời Sắc, được năm giới, tám giới. Về lý không trái, nhưng chẳng phải giới xuất gia hữu lậu, về mặt lý, không trái. Luật nghi tĩnh lự chung cho chín địa cõi Sắc, tám địa Vô Sắc, chỉ Vị chí đầu tiên lìa dục cõi Dục, hoặc phần ít; hoặc toàn phần là đối trị đoạn, tổn hoại, hàng phục, vì phát khởi hạt giống phiền não phạm giới, nên đạo giải thoát thứ chín nhập sơ định căn bản, có thể là trì đối trị.

Như lên, đều là đối trị phần xa, luận Du-già quyển chín chép: "Nghiệp thuộc về luật nghi, hoặc là quả Đẳng chí tĩnh lự, thuộc về luật nghi đoạn. Đẳng chí là định của bốn Vô sắc. Không như vậy, thì sắc tĩnh lự chắc chắn đã khắp, đâu cần quả đẳng chí. Đoạn, tức là hai luật nghi này dứt trừ việc phạm giới, vì chẳng nhất định sinh quả, nên Đối Pháp quyển 8 và luận Du-già quyển 53 chỉ nói bốn tĩnh lự, còn không nói bốn Đẳng chí, huống chi là Vô Sắc."

Đối Pháp quyển tám hội ý rằng: "Vì sắc thô của cõi Vô Sắc không có; lược kiến lập luật nghi giới của cõi Sắc. Do đây, nên biết được Vô Sắc cũng có luật nghi tĩnh lự. Luật nghi này chỉ đối tượng ngăn ngừa giả gọi là sắc, cần gì phải nhờ có thân, đối tượng nương tựa, nên dùng căn bản, kể cả trung gian phương tiện, đều có công năng ngăn ngừa việc phạm giới của cõi Dục, không bị mất giới. Pháp nhĩ tĩnh lự đều là công năng chế phục sự sai quấy, chẳng phải chỉ ở cõi Sắc có luật nghi này. Do đây, không đồng với nghĩa Tát-bà-đa; luật nghi vô lậu chung cho mười địa: Sắc có sáu; Vô Sắc có bốn. Vì có đạo vô lậu, nên nếu kiến đạo đối trị đoạn thì tĩnh lự trung gian của năm địa sở chấp sẽ không có kiến đạo; địa khác đều giữ gìn phần xa. Nếu tu đạo đối trị đoạn; Có nghĩa nói: "Chỉ sáu địa cõi Sắc có đối trị đoạn đối với cõi Dục, chẳng phải địa Vô Sắc, địa Vô Sắc xa, vì không dứt trừ lỗi quấy của cõi Dục, nên chỉ tánh của phần xa"."

Có nghĩa: "Đối trị của tu đạo, cũng chung cho ba Vô sắc ở dưới, thừa nhận vượt hơn quả đầu tiên, nhận lấy quả thứ tư."

- "Sao bỏ dở nương tựa vị chí kia?"

- "Mặc dù biết văn luận dẫn chỉ đầu mối phân biệt, về mặt lý, dựa vào Vị Chí đầu tiên được quả thứ tư. Vả lại, y cứ vào phần nhiều, vì công năng quyết định; vì không y cứ chấp nhận có, nên cũng không có sai."

Địa phi tưởng: Chỉ cho phần xa, chẳng phải nghĩa đoạn, sinh ra thân ba cõi tất cả chấp nhận khởi.

Vô biểu bất luật nghi kia, chỉ y cứ vào địa thân cõi Dục bị hệ thuộc, chỉ là bất thiện. Người của ba thiên hạ chẳng có ở châu phía Bắc. Sáu tầng trời cõi dục, quỷ, súc, tất cả cũng không có. Không có ý ác, vì ưa nuôi nấng mạng sống, nên trời và cõi ác, có thể có ý thiện vì ưa gìn giữ cấm giới, nên tâm ác không vượt hơn; vì tâm thiện vượt hơn, nên trong xứ tức chung cho ba cõi dựa vào thân và khởi sắc của thân, ngữ: Nghĩa là hai địa cõi Dục, Sắc mới có.

Ý biểu, v.v... và người vô lậu, chung cho ba cõi dựa vào thân, các địa trên đều có, ngoại trừ luật nghi thiện, vì đều ở trong xứ.

-Thứ bảy, là sở tạo của đại nào? Y cứ vào luận Hiển Dương rằng:

"Sắc luật nghi dựa vào pháp không hiện hành để lập ra tánh sắc; sắc bất luật nghi y cứ pháp hồi hướng, nhằm lập ra tánh sắc."

Ý này nói một cách tổng quát, luật nghi biểu và vô biểu, đều y cứ vào đối tượng ngăn ngừa thân, ngữ để giả gọi là sắc, tức biểu thị rõ biệt giải thoát của ba cõi, nhất định sắc, v.v... vô lậu giới, đều là chủ thể tạo; đối tượng đề phòng thân, ngữ tạo ác do bốn đại tạo ra cõi Dục. Vô biểu vô lậu của thân

Phật, chung với định Vô Sắc, cũng do bốn đại tạo cõi Dục trong quá khứ, đã giả sơ xa gọi là sắc; cũng giả sơ xa gọi là tạo, nên không do đối tượng phát ra gọi là sắc, cũng không vì gọi là tạo, vì không nhất định, nên chưa hẳn có thân, ngữ, phát ra.

Về nghĩa của hai biểu thân, ngữ của người kia cũng chung cho đối tượng phát ra, gọi là sắc, tức sắc phát ra do đại chủng tạo. Thế nên Duy Thức chép: Sắc này hoặc dựa vào phát ra thân, ngữ vượt hơn, tư duy hạt giống thiện, ác, thêm lớn giai vị để lập. Dù biết tán vô biểu hiện hành, nhưng cũng phát ra thân, ngữ."

Hiển Dương phân biệt định, đạo vì không do đối tượng phát gọi là Sắc, nên không trái nhau. Lại, sắc kia chỉ y cứ vào luật nghi; đại tạo này chung cho luật nghi, bất luật nghi. Lại, luật nghi kia quyết định đối tượng tạo.

Thuyết này nói không nhất định, vì cũng có thân, ngữ, đổi thay phát ra, nên gọi là "sắc", gọi là "tạo". Sắc kia chỉ có vô biểu, tạo này chung cho biểu, vô biểu. Sắc kia y chỉ tất cả luật nghi, đại tạo này chỉ có biệt giải thoát và bất luật nghi, vì bất luật nghi kia chắc chắn hữu biểu nên từ đối tượng phát ra hiện hành, giả gọi là "Sắc", giả gọi "Đại tạo". Ý của vị tiên kia ngờ vực giết người một nước, Tiểu thừa tất nhiên hữu biểu, vì quỷ thần biết tướng thân, ngữ của vị tiên, cho nên giết. Đại thừa chỉ nghiệp ý biểu, phát ra vô biểu sát sinh."

- "Thế nào gọi là đối tượng phát ra gọi "sắc", gọi là "tạo"? Nếu không như vậy, thì Nhị thập Duy thức chép: "Ý trị phạt là tội lớn. Việc này làm sao thành?"

- "Nghĩa này trái nhau, nay sẽ giải thích:

Dù không dùng thân nghiệp, nhưng cũng có công dụng của chủ thể sát, vì đây là sắc, nên cũng có sắc, đối tượng phát ra; hoặc ý luận kia do ý nghiệp trước dẫn dắt tội lớn thành, chẳng phải thực hành sát, mà không có biểu thân, ngữ, vì động thân phát ngữ, tất nhiên có tướng, nên cách giải thích trước là tốt, vì thuận với văn luận. Lại, vì ý vị tiên ngờ vực sát chẳng phải bất luật nghi, nên không có thân, ngữ, cũng không đối nhau. Vô biểu trong xứ tùy thuộc vào việc thiện, ác kia, được y cứ vào hai thuyết này."

-Thứ tám, lẽ ra thành khác nhau, trong đó có hai:

1/ Được thành do tư cách.

2/ Được thành do thầy.

Trước, nói về tư cách. Du-già quyển 53 chép:

Hỏi: "Luật nghi Bí-sô có bao nhiêu nhân duyên, dù ưa thích thọ giới cũng không nên truyền trao?"

Đáp: "Lược có sáu nhân, không nên truyền trao".

Năm chúng xuất gia đều nằm trong đó:

1/ Ý ưa tổn hại.

2/ Y chỉ tổn hại.

3/ Hình nam tổn hại.

4/ Bạch pháp tổn hại.

5/ Lệ thuộc người khác.

6/ Vì che chở người khác.

Nếu có người bị nhà vua ghi ép ngặt, hoặc bị giặc ép ngặt, hoặc bị chủ nợ ép ngặt, hoặc bị sợ hãi ép ngặt; hoặc sợ không sống sót. Người kia nghĩ thế này: "Ta ở nhà, khó có thể sống còn, là mạng sống của các Bí-sô rất dễ. Nay, ta nên đến trong chúng Bí-sô, dối hiện thân mình đồng pháp với chúng Bí-sô kia, để có sự sống tương đối. Người kia do ý lừa dối như vậy, nịnh hót, nên đã xuất gia rồi, dù ôm lòng sợ hãi, giữ gìn, vâng làm, thuận theo một học xứ.

Chớ cho rằng, các Bí-sô đồng với ta, chỉ biết ta phạm giới, sẽ bị xua đuổi. Nhưng ý người kia vì ưa bị tổn hại, nên không gọi là xuất gia thọ giới cụ túc. Như thế, gọi là ý ưa thích tổn hại. Nếu có người nghĩ như vầy: "Ta ở tại gia khó có thể sống được, cần phải xuất gia, mới được cứu giúp tồn tại, như phạm hạnh mà các Bí-sô đã tu, ta cũng như thế, cho đến qua đời, thường tu phạm hạnh.

Người xuất gia như thế, không gọi ý ưa thích tổn hại. Dù không phải thanh tịnh thuần túy, chẳng phải không gọi là xuất gia thọ giới cụ túc."

Y chỉ tổn hại: Nếu có thân cưu mang các chứng bệnh ung thư, nề sủng, hủi trắng, điên cuồng, đường đại, tiểu tiện hợp một v.v..., như bệnh trạng đã nói trong pháp chướng ngăn.

Như thế, gọi là y chỉ tổn hại.

Do người kia không có năng lực như thế, nên đã thọ sự nghiệp chung của người đồng phạm hạnh của sư trưởng và thọ vật thí của tín tịnh, y phục, uống ăn của thí chủ thuần tín. Đối tượng thí, tín tịnh của hai thứ này, của thí chủ kia rất khó tiêu, không nên thọ dụng, vì khiến các pháp lành lui, giảm, cho nên, y chỉ bị tổn hại, không nên xuất gia thọ giới cụ túc.

Về hình nam tổn hại: Nếu Phiến-để-ca và Bántrạch-ca, gọi là tổn hại hình nam. Lại, Bán-trạchca lược có ba hạng:

1/ Bán-trạch-ca toàn phần. 2/ Bán-trạch-ca một phần. 3/ Bán-trạch-ca tổn hại.

Nếu có sinh, ấy là không thành nam căn, đó gọi là Bán-trạch-ca toàn phần. Nếu có thế dụng khởi nam trong nửa tháng; hoặc bị người khác làm đối với mình; hoặc lại thấy hành vi của người khác, chẳng phải thế nam của phạm hạnh mới khởi, đó gọi là Bán-trạch-ca một phần.

Nếu bị tổn hại bởi dao, v.v...; hoặc bị thuốc bệnh, hoặc bị lửa, chú thuật, v.v... gây tổn hại, thì trước kia đã được nam căn, nay đang bị đoạn hoại. Đã đoạn hoại rồi, mà thế nam không thay đổi, đó gọi là Bán-trạch-ca tổn hại.

Bán-trạch-ca ban đầu, gọi là Bán-trạch-ca, cũng gọi là Phiến-để-ca.

Thứ hai, chỉ cho Bán-trạch-ca chẳng phải Phiến-để-ca.

Thứ ba, nếu không bị người khác làm lỗi đối với mình, thì chỉ là Phiến-để-ca, chẳng phải Bántrạch-ca.

Nếu có bị người khác làm lỗi đối với mình, thì gọi là Bán-trạch-ca, cũng gọi là Phiến-để-ca.

4/ Tổn hại bạch pháp: Nếu tạp nghiệp Vô gián, gây ô nhiễm Bí-sô-ni, cư trú chỗ giặc, ngoại đạo; hoặc ở riêng khác; hoặc không ở chung, đây gọi là tổn hại bạch pháp, không nên thọ giới cụ túc. Vì sao? Vì người kia đã do pháp rất cấu nhiễm không có hổ thẹn của phẩm thượng, khiến cho sự hổ thẹn, v.v... tất cả bạch pháp cực thành yếu kém, mỏng manh.

5/ Hệ thuộc người khác: Nếu các vua, quan, hoặc bị vua ghét; hoặc có gây ra các nghiệp vua không thích. Hoặc bị chủ nợ bắt giữ; hoặc là tôi tớ nô lệ của người khác; hoặc người khác cướp dẫn đi; hoặc là sở đắc của người khác; hoặc có tranh cãi, kiện tụng; hoặc không được cha mẹ cho phép, đây gọi là hệ thuộc người khác, không nên trao cho giới Cụ túc.

6/ Tùy thuộc thủ hộ tâm người khác: Nếu là người biến hóa, vì giữ gìn tâm người khác, thành ra không nên trao cho giới Cụ túc. Vì sao? Vì hoặc có rồng, v.v... vì thọ pháp nên tự hóa thân mình thành tướng Bí-sô, để xin thọ giới Cụ túc.

Nếu vì người kia thọ giới Cụ túc: Nghĩa là khi người kia ngủ nghỉ, ấy lại là hình gốc. Đã ngũ, thức, đã tạo ra tượng Bí-sô, Bí-sô của tướng giả kia. Hoặc kẻ giữ vườn; hoặc cận sự nam, vâng theo như thế, đi qua các cõi, thấy thân hình kia biến hóa như thế, ấy là đã khởi tâm ganh ghét đối với tất cả Bí-sô chân thật, các Bí-sô đều không phải loài người, thì đâu thể kính trọng, thờ phụng, thí cho họ áo, cơm.

Chớ kiến cho người khác có ác kiến này, cho nên, vì thuận theo giữ gìn tâm người, không nên truyền giới Cụ túc cho họ. Giới cận sự kia, vì có hai nhân nên không được thọ:

1/ Vì ý ưa tổn hại.

2/ Vì tổn hại thân nam.

Nếu ý ưa tổn hại: Phải biết tất cả không nên truyền cho họ, nếu tổn hại thân nam: Hoặc có vì thọ, nhưng không được nói gọi cận sự nam, không nói nhân duyên trước đây đã giải thích đủ. Nếu là giới cận trụ, thì phải biết rằng, chỉ do ý ưa tổn hại, không nên truyền trao. Vì sao? Hoặc có trường hợp vì tùy thuộc người khác mà chuyển; hoặc có người vì được lợi, cung kính, giả dối gọi là muốn thọ luật nghi cận trụ. Nhưng người kia thật sự không có cầu thọ ý ưa thích, phải biết đây gọi là ý ưa tổn hại.

Nếu không có thuyết đã nói như trên, thì không nên thọ nhân duyên, mà nên thọ luật nghi đã thọ như trước.

Thứ hai, là minh sư. Lại, trừ thiếu kém Yết-ma, chủ thể tạo tác, A-già-lợi-da, Ổ-ba-đà-da, trụ giới thanh tịnh, chúng tăng tròn đầy.

Đạo định được duyên: Trong kinh nói: "Thi-la không thanh tịnh, thì Tam-muội không hiện tiền. Do đây nên biết, phải giữ tịnh giới, nhờ giữ giới, nên không có ăn năn, vì không có ăn năn, nên tâm yên, vì tâm yên, nên được thanh tịnh, vì được thanh định, nên khởi Thánh đạo; vì khởi Thánh đạo, nên y cứ vào tư duy đều cùng một lúc, để lập giới đạo định."

Hỏi: "Bất luật nghi, luật nghi không có duyên riêng hay sao?"

Đáp: "Vì không có hổ thẹn, nên phạm rộng các giới, vì gây ra các nghiệp ác, nên gọi bất luật nghi, lại không có duyên riêng."

-Thứ chín, là trước được, sau xả:

Luận Du-già quyển 100 chép: "Bí-sô chuyển thành, ni chuyển thành Bí-sô, thì lại được giới, không cần thọ giới lại, cho đến giới Sa-di, Sa-di-ni v.v... Thức-xoama, là người nam tức là Sa-di, không cần thọ lại.

Sa-di chuyển thành con gái, lại phải thọ sáu pháp. Sáu pháp: tức ở trước lại thêm một. Nếu biệt giải thoát thọ dần, thọ ngay, bắt đầu từ năm giới, thứ lớp thọ giới Bí-sô.

Nếu khi từ năm giới lại thọ mười giới, thì chỉ thêm duyên của người kia, khiến cho giới thêm sáng suốt, lại không phát riêng thể của giới, chỉ dựa vào một trong ba ngữ của thân cũ, chỉ thêm giới ngăn cấm kia, cho đến mười giới. Thọ giới đại Bísô, chỉ thân ngữ có ba, không được riêng bốn chi trước. Nếu nói theo chiều dọc (thời gian), thì nhất định sẽ thọ dần được, không phải tức khắc. Nếu nói theo chiều ngang (không gian), thì ngay tức khắc, không phải dần dần, vì bốn chi, bảy chi đều được ngay. Nếu khi xả, thì cũng có tức khắc. Nếu khi xả, thì cũng có tức khắc, dần dần. Nếu Ổ-ba-sách-ca, cũng có hai thọ là dần dần, và tức khắc, như Đối Pháp chép: "Có phần ít, phần nhiều, toàn phần Ưubà-tắc."

- "Người xả giới kia, lại, như một giới với sáu pháp giới. Về sau, khi xả sáu pháp là chỉ xả sáu pháp bốn chi, hay cũng xả bốn chi trong mười giới? Lại năm trăm giới của ni, về sau khi xả, là chỉ xả ba chi, bốn chi, hay cả bảy chi đều xả?"

- Giải thích rằng: "Khi sáu pháp xả, là đã xả mười bốn chi, vì tự thể không có riêng, lúc ni xả bảy chi có hai cách giải thích:

1) Xả ba, không xả bốn, vì chẳng khác với bốn chi trước.

2) Xả chung bảy chi, vì khi thọ riêng."

-Thứ mười là phân biệt hỏi đáp:

Hỏi: "Hai giới định đạo tùy tâm, pháp có công năng chiêu cảm dị thục không? Nếu có thể cảm thì đây là hiện hành, làm sao chiêu cảm dị thục được? Nếu lấy hạt giống, thì chẳng phải thuận theo tâm giới phải không?"

- Giải thích rằng: "Công năng chiêu cảm quả dị thục, hiện hành không thể chiêu cảm, hạt giống có công năng chiêu cảm, do đây, loại nhà định đạo, cũng gọi chuyển theo tâm."

- "Ý vị tiên có ngờ vực vô biểu có sinh hay không? Nếu sinh, thì bắt đầu không có thân, ngữ, làm sao nói sinh?; Nếu không sinh thì chẳng lẽ có vô biểu không dựa vào biểu sinh ư?"-Giải thích: "Có hai:

1/ Rằng: Ngay trong lúc đó, cũng có nghiệp biểu, đến khi môi miệng mấp máy, thì quỷ thần, v.v... sẽ biết ngay ý của vị tiên, trời mưa đá.

2/ Rằng: "Không đúng, vả lại như phá tăng là tội nặng trong nghiệp năm tội nghịch. Tà kiến trong năm kiến là trọng; ý nghiệp trong ba nghiệp trị phạt là trọng. Nếu như trước nói, tức thân nghiệp này là trọng, chỉ do năng lực phước đức của vị tiên, nên khiến cho các quỷ, v.v... chiết phục sự hận thù của người kia."

"Nếu như thế, thì bắt đầu đã không có sắc thân, ngữ đâu được phát vô biểu ư?"

- Giải thích rằng: "Cũng có sắc đã phát, các sắc trời: như mưa đá, v.v..."

Hỏi: "Vì sao trước giới Bí-sô, chỉ lập cần sách một? Trước giới ni tức chánh học và cần sách nữ hai?"

Đáp: "Vì người nữ kia phần nhiều có phiền não, thọ giới Cần Sách xong, lại thọ chánh học. Hai năm đào luyện thân tâm, trong đó, trụ trì thọ vui, sau đó, có thể thọ năm trăm giới."

Hỏi: "Vì sao trong giới cần sách nói lìa bỏ và không cầm giữ vàng, bạc sinh tượng; còn giới cận trụ v.v... sao không như vậy?"

Đáp: "Người xuất gia đối với hai thứ xứ rất chẳng phải tịnh diệu:

1/ Rơi vào thú vui tham dục, ưa đùa giỡn, trang sức thân.

2/ Chứa nhiều của báu, là đoạn đầu tiên vì phi tịnh diệu, nên thọ xa lìa ca múa, trỗi nhạc và ăn phi thời là đoạn thứ hai, vì phi tịnh diệu.

Thọ xa lìa, cầm nhận vàng bạc. Do vàng bạc kia là căn bản quý nhất trong các chất báu."

Hỏi: "Vì sao trong giới cần sách, ca múa, hát xướng, dùng dầu thơm thoa mình, thì khai làm hai; còn trong giới cận trụ lại hợp thành một?"

Đáp: "Ở người tại gia, chẳng phải là quá nặng; đối với người xuất gia, rất sinh chê bai; vì chấm dứt sự chê bai, ngờ vực đó, nên chia làm hai."

Hỏi: "Thọ chung giới Bồ-tát, là gồm thâu tất cả giới. Giới đạo định kia cũng ở trong đó. Nếu Bồtát khởi tâm tham thì làm sao được gọi là giới chuyển theo tâm?"

Đáp: "Vì có hạt giống trong thân, lại vì có thể thành, nên cũng được nói thọ chung gọi là giới chuyển theo tâm."

Hỏi: "Vả lại, như phá giới trong nhân, thời gian sau, lại có chiêu cảm quả dị thục hay không? Nếu nói có chiêu cảm sau khi phá giới xong, thì làm sao có thể chiêu cảm?; còn nếu không chiêu cảm thì làm sao nói được: "Vì giữ giới, nên có được sinh lên trời hay không?"

Đáp: "Cũng nói người phạm giới không gây tổn hại thể của hạt giống, mà chỉ làm hao hụt công năng, lại không gấp bội mà có thêm năng lực ngăn ngừa sự sai quấy, nên gọi là phạm, chẳng phải không có công năng hạt giống khi xưa còn tồn tại, nên vẫn có thể chiêu cảm dị thục."

Hỏi: "Trong ý đã có luật nghi thiện, ác, là đều phát vô biểu hay không?"

Đáp: "Có hai cách giải thích:

1/ Rằng: "Trong thiện có vô biểu, vì Bồ-tát phát tâm cực kỳ rộng lớn, nên điều ác không có tự thể."

2/ Rằng: "Ác cũng có vô biểu. Vả lại, như ý người trước hoài nghi giết chúng sinh ba nước, thì thật là nặng."

Hỏi: "Đã nói dựa vào biểu của thân, gọi là thân biểu, lại, như người biến hóa khi phát nghiệp thân biểu, đã không có thân thật, thì sao gọi là nghiệp thân biểu?"

Đáp: "Biểu hiện là thân giả, về lý đâu có ngăn ngại."

Hỏi: "Định cộng giới, v.v... đã là hiện hành, sátna liền diệt, là có thể chiêu cảm hay không? Nếu không thể cảm, thì đâu được nói định cộng giới hữu lậu chiêu cảm dị thục?"

Đáp: "Nhận lấy hạt giống năng cảm."

-"Nếu vậy, thì sao gọi là giới tùy tâm?"

Đáp: "Vì là chủng loại kia."

Hỏi: "Bồ-tát Địa chép: "Giới mà bảy chúng đã thọ là luật nghi Bồ-tát, giới xuất gia. Vì sao Bồ-tát hai hình sinh? Và khi xả chúng đồng phần, cũng tức không xả đồng với Thanh văn ư?"

Đáp: "Bồ-tát thọ giới, tâm Bồ-tát rộng lớn bao la, vì năng lực tăng thượng mạnh mẽ, nhạy bén, nên hai hình sinh và khi qua đời, chắc chắn không xả, vì hay thuận theo loại mà hóa độ chúng sinh.

Nếu người thọ riêng, thì xả. Người thọ chung, nghĩa ấy không hợp."

Hỏi: "Ý vị tiên ngờ vực, chỉ là ý nghiệp, vì sao có chỗ nói rằng, vị tiên nhích môi, miệng, thân, đó gọi là thân ngữ biểu phải không?"

Đáp: "Đây là nghĩa Tiểu thừa, chẳng phải Đại thừa, vì Đại thừa chỉ do tâm, nên khiến quỷ v.v... mưa đá. Vô biểu sắc này cũng được gọi là không từ biểu sinh."

Hỏi: "Nhưng thể của mười nghiệp đạo là luống dối, y cứ đối tượng phát kia để ngăn ngừa, tức giả gọi là sắc. Đại thừa không có thân, ngữ, chỉ là đối tượng ngăn ngừa, đối tượng phát của một tư, chỉ hoàn toàn là ý, làm sao nói được?"

-"Y cứ vào mưa đá trong hư không kia mà gọi là sắc vô biểu. Y cứ vào bốn châu, sáu cõi, chín địa của ba cõi mà ý biểu khác nhau trong biểu chung cho ba cõi. Thân ngữ chung cho cõi Sắc. Nếu y cứ vào sắc do định sinh và biểu sắc thân, ngữ của Thanh văn tuệ rộng, cũng chung cho Vô Sắc. Nếu y cứ vào quả nghiệp và chỉ cho phàm phu, như trước đã phân biệt vô biểu, so sánh nên biết.

Phân biệt chín địa: Ý biểu chung cho chín địa, ngữ biểu chỉ cho sơ thiền, thân biểu chung cho năm địa. Nếu y cứ vào Phật và Bồ-tát, thì hai biểu thân, ngữ đều chung cho năm địa, đạo định đều cùng có chung cho tư duy chín địa của ba cõi.

Nói sáu cõi. Nghĩa là biệt giải thoát chỉ cõi người. Giới Bồ-tát chung cho sáu cõi; năm giới, tám giới dù được chung, nhưng không thành tánh giới. Đạo định chỉ cho hai cõi người, trời, vì có sự nhàn rỗi khác, nên biểu, vô biểu, so sánh mà biết. Biệt giải thoát của bốn châu, năm giới, tám giới ở thiên hạ. Bồ-tát chung cho bốn châu, biểu, vô biểu so sánh mà biết. Đạo, định cũng ở ba thiên hạ."

Hỏi: "Định và tánh vô lậu có công năng ngăn chận việc ác, sao không lấy định và tuệ vô lậu làm thể của vô biểu?"

Đáp: "Nếu được định và tâm vô lậu thì đều có tương ưng với tư. Cả hai đều dứt bỏ điều ác, vì tư là thể của nghiệp, chỉ dựa vào tư duy?"

Hỏi: "Như các Như Lai đã đủ biệt giải thoát trong giai vị nhân ở trước, làm sao đã thành Phật rồi, mà nói là tự nhiên được giới ư?" Đáp: "Có hai cách giải thích:

1/ "Y cứ vào tướng hóa độ của môn tùy chuyển, mà nói, về lý, thật sự biệt giải thoát của Như Lai đã thành từ quá khứ lâu xa."

2/ "Được trội hơn, bỏ thua kém, giới trội hơn đã thành, vì không từ sư v.v..., nên nói tự nhiên được, cũng không trái lý"."

Hỏi: "Như tâm lành gia hạnh thọ được giới, về sau, cắt đứt gốc lành, thì sẽ xả vào lúc nào?" Đáp: "Có hai cách giải thích:

1/ Xả đồng thời với tâm lành gia hạnh, vì được, và xả trái nhau, nên không trái lý.

2/ Dù cho tà kiến cắt đứt điều lành gia hạnh, nhưng bấy giờ, chỉ khiến giới yếu dần, do đây chưa gọi là xả, mà xả đồng thời với sinh đắc thiện, vì thuận theo gốc lành cuối cùng mới gọi là xả."

-Cách giải thích trước, có phần vượt hơn.

QUYỂN 4

CHƯƠNG QUY KÍNH:

Tướng Năng kính, dùng sáu môn để phân biệt:

1- Các giáo khác nhau.

2- Giải thích tên gọi khác nhau.

3- Nêu ra tánh thể.

4- Nói về ý kính.

5- Kính lễ quy y, hai thứ khác nhau.

6- Giải thích các môn.

I-Các giáo khác nhau:

Có chỉ thân kính, chẳng phải ngữ, ý. Luận Câu-xá chép: "Vì cúi đầu tiếp giáp với chân, nên nói kính lễ; dùng đầu mình cúi sát đất mà tiếp giáp với chân Phật, nên gọi kính lễ, vì kính thành, mến mộ sâu đậm, dùng thân so sánh với ngữ: thân nặng, ngữ nhẹ, nêu nặng đầu thành, nói nhẹ có thể phát. Thân do ý khởi, không nói cũng tự thành, nên chỉ thân kính. Hoặc chỉ ngữ kính chẳng phải thân, ý, mà nói".

Kinh Vô Cấu Xưng chép: Trưởng giả Bảo Tánh dùng bài tụng khen ngợi rằng:

"Chứa lâu, vô biên nghiệp thanh tịnh.
Được tiếng đồn vượt hơn rộng lớn.
Nên ta cúi đầu lễ Sa-môn.
Mở con đường vắng lặng, ít có".

Đầu tiên, dù thân lễ, sau chỉ dùng lời nói, nên gọi là ngữ kỉnh. Chẳng phải thuộc về thân, ý; không có chỉ ý kính, chẳng phải là văn thân, ngữ, tiêu biểu khiến người khác biết, đều vì hình, tiếng, sắc".

Cũng có cách giải thích: "Kinh Pháp Hoa chép: "Đem tâm sâu sắc niệm Phật, vì tu trì tịnh giới, tức là ý kính. Hoặc chỉ thân, ngữ chẳng phải ý kính".

Bài tựa Tạp Tập chép: "Kính lễ Đại giác tôn như thế, pháp mầu không gì so sánh bằng, chân tánh chúng". Luận ấy giải thích: "Nay, trong bài tụng này, khen ngợi không có trái ngược, công đức tối thắng, kính bày đảnh lễ. Ý nghiệp của người kia, có công năng phát sinh tư duy, không nói tự thành, chỉ nêu thân, ngữ; hoặc chỉ thân, ý, chẳng phải ngữ kính".

Tạp Tam chép: "Khởi tâm lành, chuyển vận quả ái, là nêu thể lễ kính. Nêu thân nghiệp nặng, vốn do ý chuyển vận. Ngữ nghiệp của người kia: Ảnh cũng vì kính có, chỉ cho ngữ, ý, chẳng phải thân kính".

Kinh Thắng-man chép: "Đều dùng tâm thanh tịnh, nhằm khen ngợi công đức thật sự của Phật.

Thân Diệu sắc của Như Lai, cho đến kính lễ khó suy nghĩ, bàn luận. Mặc dù trước đây đã lễ thân, nhưng nay, khi khen ngợi chỉ cho ngữ, ý, hoặc ba nghiệp đều cung kính.

Tựa Nhiếp luận của Thiên Thân chép: "Nên ta chí thành thân, ngữ, ý tứ thường tu quy mạng lễ không có trái ngược". Luận Hiển Dương cũng chép: "Nay, ta chí thành, trước khen lễ, ý nghiệp chí thành, ngữ khen ngợi, thân lễ, nên chung cho cả ba nghiệp".

II-Giải thích tên gọi khác nhau:

Y cứ vào tục để giải thích: "Khể, nghĩa là chí, thủ là đầu; vì dập đầu sát xuống đất, nên gọi là khể thủ. Đây tức là quỳ, bái, đầu chí đất, tức Câu-xá nói: "Vì khể thủ tiếp xúc chân Phật, nên nói là lễ kính. Cúi đầu được tôn quý, tiếp giáp chân thấp của Phật, nên nói là khể thủ". Ý Câu-xá nói: "Dùng thân nghiệp khể thủ, gọi riêng lễ, tức là gọi chung, ba nghiệp kính lễ, cũng khể thủ".

Nói khấu đầu: Vì dùng tay đến đầu, nên nói khấu đầu. Nói lễ kính là chí thành, cung kính, nói là kỉnh; Oai nghi, phép tắc, gọi là lễ. Chân thật phát sinh, trân trọng, dáng dấp cúi xuống bọc bạch khen, bày ra đạo chí thành cung kính, tiêu biểu cho danh từ kính lễ. Lại, khởi tâm thanh tịnh tha thiết, sách tấn nghiệp cao quý, vì bày tỏ tấc lòng chí thành quy kính, nên gọi là kính lễ, tức chung cho cả ba nghiệp.

Các giáo hoặc nói khể thủ, nghĩa là nhờ vào khể thủ của thân nghiệp, để bày ra kính lễ ba nghiệp.

Thể chỉ một vật, chưa thể y chỉ tục.

Xưa nói: "Nam-mô, tức lễ kính, nên nói nạpmộ, hoặc nạp-mạc, nên không giải thích riêng".

Quy y: nghĩa là quy kính, y đầu, chẳng phải ở đây đã nói. Hoặc nói rằng bạn-đàm; hoặc nói bạnđề, đây nói là khể thủ, cũng nói là lễ bái, chẳng phải lễ kính, gọi sai là hòa-nam.

III-Nêu ra thể:

Thể tức ba nghiệp, hợp có ba tư duy: Nghĩa là xem xét, lo nghĩ, tư duy, tư duy quyết định, phát động tư duy trội hơn. Phát động tư duy vượt hơn, xà, chánh phát ra thân, ngữ. Hai tư duy trước thể của nghiệp thân, ngữ. Thể của ý nghiệp dù chung cho cả ba tánh, nhưng nay nhận lấy tư duy thiện làm thể của lễ kính. Thân ngữ của Đại thừa trừ trong quả Phật, vì thể chỉ vô ký. Thể của hai nghiệp chỉ nhận lấy phát tư duy.

Lại, có cách giải thích: "Thể chỉ hổ thẹn, tôn sùng, kính trọng người hiền thiện, gọi là Hổ; Khinh thường, chống đối, bạo ác, gọi là Thẹn".

Nay nhận lấy cách giải thích trước: "Hai uẩn sắc, hành làm tự tánh, thân ngữ là sắc uẩn, vì ý nghiệp là hành uẩn, nên phát ra sắc của thân, ngữ, vì tư duy với sắc, danh, tác động ở ý, gọi là ý nghiệp, thuộc về hai uẩn; tùy thuộc vào đối tượng thích ứng của uẩn đó, cũng chung cho hạt giống. Vì sắc vô biểu của hai nghiệp thân, ngữ, nên phần vị cũng chung cho xứ sắc, xứ tiếng.

IV-Nói về ý kính:

Nhị thập duy thức của Luận Sư Cù-ba giải thích rằng: "Vì muốn chứng tỏ Đại sư có mắt trời, nên dùng thân nghiệp để lễ. Vì có tâm người khác, nên dùng ý nghiệp để lễ".

Như thuyết trong luật, nếu ở xứ minh, thì dùng thân nghiệp để lễ, vì có thể thấy, nên ở chỗ tối tăm, cách gần, dùng ngữ nghiệp để lễ, vì có thể nghe, nên ở chỗ tối tăm, lại xa, dùng ý nghiệp để lễ. Vì chẳng thể thấy, nghe. Lại, biểu thị rõ lễ kỉnh, nghĩa là nhân của ba luân. Thân nghiệp lễ, ngoài là nhân luân thần biến. Ngữ nghiệp lễ, nghĩa là nhân của ghi nhận nói luân. Ý nghiệp lễ: Nhân luân là dạ, răn. Lại, biểu thị rõ phát sinh ba nghiệp lành, tròn đầy. Ba nghiệp thiện nghĩa là gồm thâu chung tất cả nghiệp đạo, vì cùng tận. Lại, cần năng lực nương nhờ vào đại oai thần. Nếu kính không viên, nương oai bất tận.

V-Kính lễ hai thứ khác nhau của quy y:

Lược có bảy cách giải thích:

1- Quy y y cứ trọng, chỉ có thân, ngữ, lễ kính chung cho khinh, ba gồm tâm và sắc, vì chung cho ba nghiệp.

2- Cảnh quy y rộng, tất nhiên quy y đủ mà thành nghiệp. Sự lễ kính hoặc rộng, dù nương tựa nghiêng lệch mà nói về sự. Quy y đủ Tam bảo, mới là quy y. Chỉ kỉnh một tôn, tức là lễ kính.

3- Quy y có giới hạn của nó, phát ngôn, tất nhiên sau cùng ở vị lai, lễ kính chỉ y cứ vào đầu thành, quán tưởng, vì có vĩnh viễn, tạm thời, nên quy y nói: "Nguyện từ nay, thân cùng tận đến vị lai". Các lễ kính: Nêu tâm chí thành, kính mến tức là lễ kính.

4- Lòng tha thiết quy y, kèm theo vô biểu, dùng làm quy y. Tâm lễ kính là chung, hoặc chỉ biểu mà làm thể quy y, tất nhiên có biểu và vô biểu, vì chỉ có biểu thiện, thì thành lễ kính.

5- Nghĩa quy y trọng, tất nhiên hợp với thân, ngữ. Sự lễ kính chung cả khinh, chỉ có một là đúng.

6- Quy y kèm theo tướng mạo, chỉ ở cõi Dục, Sắc, nghĩa lễ kính cùng chung, cũng khắp Vô Sắc.

7- Nghĩa quy y vượt hơn, quán chân lý mà cũng thành lễ kính chung cùng. Vì trọng người hiền thiện mà gồm cả phải. Sự lóng sạch là tín, quy kính là nghiệp, thể tánh riêng xa, không nhọc công đối đáp biện luận.

VI-Giải thích các môn:

Lược có mười hai môn. Du-già quyển 64 nói:

1/ Do quán sát đối tượng quy y ở năm chỗ, mới có thể quy y:

1- Tịnh thân nghiệp.

2- Tịnh ngữ nghiệp.

3- Tịnh ý nghiệp.

4- Khởi đại bi, đối với hữu tình.

5- Thành tựu pháp vô thượng.

2/ Quy y có bao nhiêu?

Đáp: "Có ba: gọi là Phật, Pháp, Tăng. Vì ba có bốn duyên, nên chỉ có ngần ấy không bớt, không thêm".

1- Do tánh Như Lai điều phục việc lành cùng cực.

2- Đối với Nhất thiết chủng, đối tượng điều phục, chủ thể điều phục, vì phương tiện tốt đẹp.

3- Vì có đại bi.

4- Tài vật cúng dường.

Chưa được vui mừng, vì chánh hạnh cúng dường, nên sinh vui mừng. Vì như thế, nên pháp sở lập kia, chúng đệ tử kia đều có thể quy y.

Vì bốn bằng nhau, bốn duyên, nên nói chủ thể quy y:

1- Biết công đức.

2- Biết khác nhau.

3- Tự thệ nguyện.

4- Lại không nói có Đại sư khác.

Năm, phải biết quy y khởi bốn chánh hạnh:

1- Gần gũi Thiện sĩ.

2- Lắng nghe chánh pháp.

3- Tác ý đúng lý.

4- Pháp tùy pháp hành.

Nếu thành tựu bốn chánh hạnh này, mới gọi là quy y.

Lại có bốn hạnh:

1- Các căn không dao động.

2- Thọ học xứ.

3- Thương xót hữu tình.

4- Thời gian thích hợp, thời gian đối trước Tam bảo, siêng tu cúng dường.

6. Phân biệt nhân quả: Quy y ở nhân, chẳng phải ở quả Phật. Vì Phật không có đối tượng quy y, nên chủ thể quy y cũng không có.

Kinh Thắng-man chép: "Thanh văn, Bích-Chi Phật, có e sợ, có quy y. Y không cầu y, Như Lai không có e sợ, không có quy y, có thể lễ kính".

Trong kinh Phạm Võng, Đức Thích-ca lễ Phật Lô-xá-na. Pháp Hoa cũng chép: "Ta nghe tiếng mầu nhiệm, thanh tịnh sâu sắc của Sư tử Thánh, vì mừng gọi Nam-mâu Phật, nên có lễ kính".

7. Phân biệt hữu lậu, vô lậu: Thân ngữ chỉ cho hữu lậu, ý nghiệp chung cho vô lậu; Thất địa trở xuống ở địa vị nhân; hoặc ở phần vị nhân, ba nghiệp đều chung cho vô lậu. Vì trong trí hậu đắc có lễ kính, nên hoặc ở thân Phật đều vô lậu.

8. Sự khác nhau của chín địa: Ngữ nghiệp đến Sơ thiền, vì có tầm, từ. Thân nghiệp đến Tứ thiền, vì có thân nghiệp, nên ý nghiệp chung cho chín địa, vì có tư duy thiện. Nhị định trở lên dù mượn ngữ khởi, chẳng vì không phải tánh thiện, nên không phải thể kính của ngữ. Bồ-tát Địa, bậc Thánh Vô sắc, vì ở bên Phật nghe pháp, nên có ý biểu; quy y thì không như vậy, vì không phát vô biểu.

9. Phân biệt ba tánh: Chỉ thuộc về tánh thiện, tôn kính bậc Hiền thiện, tất nhiên sự hổ thẹn đều chỉ cho tánh thiện, nên hai thứ gia hạnh sinh đắc đều được, ba lý văn, tư, tu cũng không sai.

Phân biệt mười ba khoa, thể chỉ cho sắc hạnh, năm uẩn quyến thuộc, thể chỉ một giới, xứ, nghĩa là giới pháp, pháp xứ. Nếu biểu xứ ba cõi, nghĩa là sắc, thinh, bốn xứ quyến thuộc thuộc về mười giới.

Bốn xứ: Xứ sắc, thinh, ý, pháp.

10. Giới: Sắc, thinh, bảy tâm và pháp giới.

11. Do năm nhân duyên, các trời khác v.v… chẳng đáng quy y, chỉ có Tam bảo là chân quy y.

1- Do hình tướng: Nghĩa là các vị trời kia do không hiện thấy, vì không có dung nghi giao tiếp, vì hình có bạo ác, có sợ hãi; vì tập buông lung có tham ái. Do lìa bỏ người khác, vì không có từ bi.

Do không biết rõ tạo tác và không tạo tác; vì đối với nghĩa chân thật không thông suốt; hình tướng Như Lai, do hiện có thể trông thấy, vì có dung nghi giao tiếp. Do hình điềm đạm, vì không sợ hãi, do không có buông lung, vì lìa tham ái. Do thường xuyên không bỏ việc lợi hữu tình, vì có thương xót. Do khéo biết rõ tạo tác và không tạo tác, đối với nghĩa chân thật vì khéo thông đạt. Lại nữa, Phật có năm tướng đáng quy y. Vì lợi hữu tình, vì nhận lấy Bồ-đề. Vì khéo chuyển vận mắt chánh pháp, vì tâm lợi ích cho loài hữu tình v.v... ân, oán, nên bỏ nhà, thuộc về nghèo, thường vắng lặng, nên có thể khéo giải thích tất cả nghi.

2- Do tự tánh: các vị trời lậu, tánh chẳng khéo điều phục, đâu thể hóa độ người khác. Như lại lìa lậu, vì tự tánh điều phục việc lành, nên có khả năng hóa độ chúng sinh.

3- Do tác nghiệp: các vị trời thọ dục, gây tổn hại hữu tình, nghiệp ác có thể được. Phật trụ tĩnh lự, làm lợi ích hữu tình, nghiệp lành có thể được.

4- Do pháp nhĩ: Nghĩa là việc thịnh vượng tốt lành của thế gian và xuất thế gian, đều dựa vào công sức của mình mà được. Nếu không có công sức thì cho dù thờ phụng các vị trời đi nữa, cũng không thể được, nên dù không thờ phụng các vị trời, nhưng chỉ tự tạo ra công sức, tất nhiên có thể được việc lành, Phật thì chẳng phải như vậy, vì có oai thần rộng lớn, hay làm bạn lành, dùng phương tiện khuyên người khác, sao cho sự tu tập, ấy là được việc thịnh vượng.

5- Do nhân quả: Dù thân trời kia do nghiệp trời mà được, là nhờ cúng dường các vị trời, nên được, hay không có nhân mà được, đều có lỗi như luận kia nói:

12. Thọ quy y: Được bốn công đức: a-Được phước rộng lớn. b-Được rất vui mừng. c-Được tam-ma-địa. d-Được thanh tịnh lớn.

-Lại nữa, được bốn đức:

1- Đại hộ viên mãn: Do người quy Tam bảo, Thánh chúng mười phương đều ủng hộ, giúp họ không có chướng nạn.

2- Đối với tất cả các thứ tin tà giải, chướng ngại, đều được nhẹ nhàng; hoặc diệt hẳn.

3- Được nhập vào đại chúng, chánh hạnh, chánh chí thiện thông minh, cái gọi là người đồng phạm hạnh với Đại sư.

4- Vì tịnh tín đối với Thánh giáo, nên các vị trời vui mừng, yêu mến, nghĩ nhớ, xuống lên trong đó: "Chúng ta thành tựu ba quy y, nên từ chỗ kia mất, sinh đến trong đây, các người này v.v... nay đã thành tựu, phần nhiều trụ quy y, cũng nằm trong chúng đồng phần của ta ở đương lai".

Luận Hiển Dương quyển 6 chép: cũng đồng với ở đây. Mặc dù có một ít nghĩa "đại" riêng lẻ không khác, nhưng các môn nghĩa này v.v... hoặc có giáo thành thật, hoặc dùng nghĩa để so sánh, chưa thấy truyền trước, các học giả rộng, nên sửa cho đúng một cách tường tận.

-----------------------------

CHƯƠNG BỐN THỨ THỨC ĂN

Bốn cách ăn, nên dùng năm môn để phân biệt:

1- Giải thích tên gọi.

2- Nêu ra thể.

3- Bày rõ tướng.

4- Bỏ lập.

5- Các môn.

-Thứ nhất, Giải thích tên gọi có hai:

Đầu tiên, là liệt kê; sau, giải thích: Ở đây, giải thích rộng, như luận Du-già quyển 57, 66, 94, Hiển Dương quyển 1, Đối pháp thứ 5; hai bổn Nhiếp luận đều quyển ba, quyển 10.

Thành Duy Thức quyển tư chép: "Đầu tiên, là nêu danh". Quyển 57 v.v... chép: "Như kinh nói: "Có bốn cách ăn, đều có công năng nuôi lớn đại chủng các căn".

Thế nào là bốn cách thứ ăn? Thế nào là nuôi lớn đại chủng các căn?

Đáp: Đoạn thức, Xúc thực, Ý tứ thực, thức thực, cho đến nói rộng.

Sau, là giải thích danh: Giải thích tên chung rằng: "Du-già quyển 66 chép: "Gìn giữ hữu tình, sao cho không hư hoại?".

Thành Duy Thức chép: "Bốn thứ thức ăn này có công năng giữ gìn thân mạng hữu tình, vì khiến cho chúng không đoạn, hoại, nên gọi là ăn. Bốn là danh số, tức kèm giải thích số. Giải thích tên riêng rằng: "Đoạn, nghĩa là phần đoạn, tiếp nhận từng phần, giữ gìn được thân mạng. Đoạn tức là ăn, thuộc về trì nghiệp thích. Xưa nói đoàn, nghĩa là có thể nắm, có thể vò, vắt, thành từng viên, nghĩa này hoàn toàn không đúng, vì chữ đoàn không phải nắm, như nước uống, v.v... không thể nắm vò tròn, sao gọi là Đoàn được, nên phải gọi Đoạn".

Xúc: Nghĩa là đối chạm sát, khiến tâm, tâm sở đồng tiếp xúc với cảnh, đặt tên là xúc; xúc tức là ăn, cũng là trì nghiệp thích.

Ý tư thực: Ý, nghĩa là tên của tâm, sở y của xứ ý (chỗ dựa của ý).

Tư: Nghĩa là tâm sở tương ưng với sự tạo tác; Tư tương ưng với ý, gọi là ý tư, là lân cận thích. Y, là tư duy của ý, tức Y chủ thích. Ý tứ tức ăn, cũng là trì nghiệp thích.

Thức: Nghĩa là liễu biệt, thức tức là ăn, cũng tên là trì nghiệp.

-Thứ hai, là phát ra thể tánh:

Luận Du-già quyển 66 chép: "Đoạn thực, phải nói là thuộc về xứ hương, vị, xúc".

Thành Duy Thức chép: "Nghĩa là ba hệ hương, vị, xúc thuộc về cõi Dục". Ý nói ở đây, chứng tỏ chỉ có ba hệ hương, vị, xúc thuộc cõi Dục, vào thời điểm biến hoại, người có của tiền nuôi nấng, gọi là ăn, chẳng phải tất cả địa dưới và xúc v.v… của địa trên, luận Du-già quyển 94 chép: "Xúc của các hữu lậu, công năng lấy mừng, vui làm thức; Duy Thức cũng nói: "Nghĩa là xúc hữu lậu, khi lấy chung cảnh, nhiếp thọ hỷ lạc và xả thuận ích có thể làm sự ăn. Ý này biểu thị rõ tám thức, hữu lậu ba cõi đều có xúc, gồm thâu lợi ích hỷ, lạc và xả thuận ích; Nhiếp ích thân: là thể xúc thực. Nếu dẫn sinh lo khổ thì chẳng phải xả thuận ích, vì thể của xúc chẳng phải thức ăn, vì chẳng phải giúp ích, nên Duy Thức nói: "Xúc này dù tương ưng với các thức, thuộc về sáu thức nhưng nghĩa ăn vượt hơn nghiêng lệch, tức bày ra xúc thực, chung cho tám thức đều có mật hội".

Nhiếp luận quyển ba của Thiên Thân chép: "Xúc thực trong đây thuộc về thân sáu thức. Vì cảnh thô hiển của xúc, giúp nuôi nấng vượt hơn, nên không nhận lấy sự xúc chạm khác".

Có nghĩa: "Chỉ nhận lấy sáu thức đều có xúc, dùng làm thể của ăn. Biện luận về xúc dù đi suốt qua tám thức nhưng đều chuyển biến thành thể của thức ăn, nghĩa là chỉ sáu thức đều cùng có; bảy, tám đều có xúc, hoàn toàn không có dẫn sinh hai thọ hỷ, lạc và thuận với xả, nên tám đều có. Khi xả tất cả địa vì hành tướng đồng, nên cách giải thích trước không hợp, chẳng phải chủ yếu là xúc có công năng dẫn tự đều cùng sinh ra hỷ, lạc, thọ, v.v... mới gọi là ăn, dẫn thức khác đều có hỷ, lạc, v.v... khởi nhiếp ích thân, nghĩa là tất cả đều đúng. Do xúc thứ tám, v.v... trội hơn cảnh mình, khi dẫn sinh sáu thức đều có, vì hỷ, v.v... cũng là ăn. Nhưng so sánh các văn, thì cách giải thích thứ hai trội hơn, chỉ nói gồm thâu ích hỷ, v.v... làm thức ăn, vì chẳng phải bảy, tám, nên Thành Duy Thức chép: "Tư thực, nghĩa là tư hữu lậu, đều chuyển vận với Dục. Lại nói: "Tư này dù tương ưng với các thức, nhưng thuộc về ý thức: nghĩa ăn trội hơn nghiêng lệch. Ý này chính là biểu thị rõ tám thức hữu lậu ba cõi đều có tư, lìa vọng cảnh đáng yêu gồm thâu ích thân, đều là thể của Tư thực: mật hội quyển 57, và Nhiếp luận của Thiên Thân nói: "Duyên theo cảnh vị lai nhiếp ích thức, gọi là Tư thực. Ý tứ đối với cảnh, vì hy vọng trội hơn. Do quyển 94 này chép: "Nếu ở địa ý có thể hội nhập cảnh, tư gọi là ý hội tư, có thể với tất cả, đối với cảnh đáng yêu, chuyên chú hy vọng làm thức ăn".

Lại, có nghĩa: "Sáu thức đều có tư duy các hữu lậu. Cảnh hy vọng lợi ích thân, đều là thể của tư thực; thức bảy, tám không như vậy, vì không có hành tướng, nên các chỗ chỉ nói đều cùng có với ý, duyên chung vị lai, vì ý kia rất vượt hơn, nên cũng có hy vọng vì tư duy hiện cảnh, nên thừa nhận năm thức chung, chỉ cho thức đã nói tương ưng với các thức, chứng tỏ thể của tư đều có ăn, chỉ cho cả sáu đều có".

Có nghĩa: Tư thực chỉ cho thứ sáu đều có. Vì các chỗ chỉ nói "duyên" vị lai, nên năm thức duyên hiện, năng lực xúc tăng trưởng, chẳng phải Tư thực, nên Duy Thức nói: "Thể của tư chung cho các thức, thành nghĩa ăn: chỉ vì thức thứ sáu đều có, nên Thế Thân nói: "Ý tư thực, là chủ thể hy vọng này vì hy vọng, nên chẳng phải vì năm thức có hy vọng ở vị lai".

Ở đây, dù có ba cách giải thích, nhưng cách giải thích thứ hai vượt hơn.

Năm thức đối với Cảnh, có tư duy sâu kín, vì có thể hy vọng.

Không như vậy, thì năm thức lẽ ra không có dục đều có. So sánh với cách giải thích thứ ba này, thì đồng với Duy thức không thừa nhận "biệt cảnh" và nghĩa ngũ câu, nên biết thích đáng, sư thứ hai vượt hơn".

Thành Duy Thức chép: "Thức thực. Nghĩa là thức hữu lậu, thức này dù chung cho tự thể các thức, nhưng nghĩa ăn của thức thứ tám vượt hơn nghiêng lệch".

Đây là biểu thị rõ thức thực nhận lấy chung tám thức hữu lậu của ba cõi; một cách thích đáng, chủ thể chấp thọ chỉ có thức thứ tám. Một loại nối nhau, vì chấp trì vượt hơn, nên Nhiếp luận, Duy thức đều nhận lấy thức thứ tám, thật sự chung cho tám thức, nhưng Du-già v.v... chỉ nói chung là Thức, không nói riêng là thức thứ tám nên dù biết tám thức, nhưng đều có thể gọi là ăn, chẳng phải tất cả thức đều đặt tên là ăn, nhận lấy vị Hữu lậu. Thức thứ tám hoàn toàn vì thường chấp trì, nên luận Du-già quyển 57 chép: "Do ba thức nuôi nấng, vì thức lại nuôi lớn đại chủng các căn, nên đặt tên là ăn, nên biết các thức chẳng phải giúp đỡ nuôi nấng, nghĩa là đều chẳng phải thuộc về thức ăn, như xúc tư, v.v… phân biệt bốn câu trong phần nói về tướng của môn thứ ba ở dưới, mới lẽ ra biết rõ. Nhưng thức thứ bảy hữu lậu, đều là vì đều có y với bản thức, vì hay chấp trì, nên tức bảy, tám, hoàn toàn, sáu thức phần ít, hoặc trừ thứ bảy, vì chẳng phải giúp đỡ nuôi nấng. Do đây, Tập Luận quyển ba chép: "Ba uẩn, năm xứ, một phần, mười một giới gồm thâu đoạn thực là sắc uẩn, tư xúc là hành uẩn, tám thức là thức uẩn. Năm xứ: nghĩa là hương, vị, xúc 3, 2 xứ pháp, ý. Mười một giới: Hương, vị, xúc 3, đều là thể của ăn, vì chẳng phải giúp nuôi nấng".

Du-già quyển 57 chép: "Công năng nuôi lớn, gọi là thức ăn, mâu thuẫn. Vì trái với ở đây, chẳng phải là thức ăn, nên như đoạn thực, các thực khác cũng vậy".

-Thứ ba, là hiển tướng: Bốn thứ này, v.v…

Thế nào là nuôi lớn đại chủng các căn để thành tướng ăn? Về đối tượng nuôi nấng này, Du-già quyển 57 chép: "Nghĩa là năm sắc căn, Ý căn và đối tượng nương tựa của căn, tất cả đại chủng, nếu các đoạn thực, có thể nhiếp ích thức, khiến thức đó mạnh mẽ. Do đây nuôi lớn đại chủng các căn, cũng khiến cho mạnh mẽ".

Xúc có công năng nhiếp thọ, hoặc hỷ, hoặc lạc, hoặc xả một phần. Do đây lợi ích cho thức, thức lại nuôi dưỡng đại chủng các căn, ý tư làm chứng vì cảnh giới vượt hơn, nên y chỉ phương tiện, khởi nhiễm, không nhiễm, hy vọng hỷ căn "duyên" cảnh vị lai, nhiếp ích ở thức. Do đây, nuôi lớn đại chủng các căn.

Văn này tức biểu thị rõ tư duy hỷ đều có, gọi là Tư thực, lạc đều có xả, tư đều cùng có là không phải, nghĩa này không đúng, vì y cứ vào cảnh duyên vượt hơn. Vả lại, nói hỷ đều có, lạc đều có, xả đều có, tư duy kia đều không phải như vậy, vì trên Tam, Tứ định của cõi trên, lẽ ra không có Tư thực, ấy là trái với Thánh giáo.

Ba thứ như thế, gồm thâu lợi ích thức người kia, do thể thêm thịnh vượng và duyên hiện tại; vì sinh vị lai, nên cũng duyên quá khứ. Vả lại, nghĩa này vì y cứ vào thuận với xúc tư, nên lược bỏ không nói. Thức do ba thứ ăn nuôi nấng, giữ gìn, nên có công năng làm nhân thêm mạnh mẽ cho sau sau, khiến cho thức kia được sinh, nên nói thức làm thức ăn cho ý căn.

Luận Du-già quyển 94 nói: "Có bốn pháp đối với hiện pháp rất có khả năng nuôi lớn đại chủng các căn":

1- Khí lực.

2- Mừng, vui.

3- Đối với sự đáng yêu, chuyên chú hy vọng.

4- Ba pháp trước y chỉ đại chủng các căn, và thọ với Noãn an trụ trong không hư hoại.

Đoạn thực có công năng làm thức ăn cho khí lực. Vì nhờ khí lực, nên có thể nuôi lớn đại chủng các căn, khí tức phong đại; lực: là xúc của năng lực xúc xứ. Vì đoạn thực nên giúp thêm lớn khí lực kia, nuôi căn thêm lớn.

Luận Du-già quyển 57 chép: "Đoạn thực giúp thức thêm lớn, khiến cho thức người kia thịnh vượng, mạnh mẽ, mới nuôi lớn căn đại".

Luận Du-già quyển 94 chép: "Hỗ trợ riêng cũng vậy".

Trong luận Du-già quyển 57 chép: "Vì hỗ trợ chung, nên cũng không trái nhau".

Trong Thành Duy Thức chép: "Hai cách ăn: đoạn và thức, y cứ vào công năng nuôi nấng hỗ trợ chung, riêng, vì văn không trái nhau. Xúc, tư chỉ y cứ vào đối tượng giúp nhau riêng, để nói; vì dụng trội hơn rõ rệt, nên cũng không trái nhau".

Luận Du-già quyển 94 chép: "Các xúc hữu lậu thuận theo lạc thọ, có công năng làm thức ăn cho mừng, vui".

Vì lược bỏ không có thuận ích với xả. Do đây, là công năng nuôi lớn căn đại. Nếu hội nhập cảnh, tư sẽ có công năng cho tất cả. Đối với cảnh đáng yêu, sự chuyên chú, hy vọng làm thức ăn, tức nhất định đều có dục, vì y cứ vào ngoài vượt hơn, dù cho không phải chắc chắn đều có hy vọng, vì cũng do hy vọng, nên căn đại thêm lớn. Do thức lớn của căn hay chấp thọ, nên khiến cho thọ, noãn lớn của căn kia với thức không lìa thân làm nhân mà trụ. Cho nên, nói thức là nhân của trụ kia. Vì trụ kia, nên vui mừng của lực khí, chuyên chú hy vọng, dựa vào thân kia mà chuyển.

Luận Du-già quyển 94 phần hai kia lại nói: "Vì đoạn thực, nên có lực khí; vì có lực khí, nên đại chủng căn thêm lớn. Do đây, các hữu chiếu cố, tham luyến thân mạng. Tất cả những người ngu vì nghĩa này, nên có đối tượng đeo đuổi, mong cầu.

Lúc mong cầu, tạo tác các thứ nghiệp thiện, ác mới và các phiền não cũng làm cho thêm lớn; tư xúc cũng vậy".

Do ba môn này có công năng nhóm họp thức nghiệp phiền não của hữu sau. Thức này ở hiện pháp, do bị nghiệp phiền não theo đuổi, nên thành ra thủ, "hữu" kia. Về sau, lại có thể nhiếp thọ các căn đại, v.v... của hữu sau ở đương lai, lại được thêm lớn. Do bốn thứ này mỗi thứ đều có pháp, đối tượng nuôi lớn chung, riêng ở hiện tại, đương lai. Nhưng đoạn thực này dù nuôi lớn các thức; hoặc tăng trưởng lực khí.

Luận Du-già quyển 66 chép: "Nếu đang tiêu hóa, biến đổi, ấy là hay nuôi lớn; không phải đang tiêu hóa, biến đổi, mới là tổn giảm. Nếu các vật từng đoạn lúc còn đọng lại ở cổ họng, làm cho tâm vui mừng, các căn hớn hở, thì ngay từ lúc ấy, sẽ không gọi là đoạn thực, chỉ gọi là xúc thực, là cảnh của xúc, vì xúc trội hơn cảnh, nên chẳng phải dùng ba xứ, tức thể của xúc thực, vì ba đã sinh xúc hân hoan, vui vẻ, đó là xúc thực. Nếu thọ dụng xong, yên ổn, tiêu hóa, biến đổi, thêm lớn nỗi vui mừng, khi thức ăn được tiêu hóa, biến đổi, mới gọi là Đoạn thực. Nếu thức ăn chín, biến đổi, nhưng không thể nuôi lớn các căn được yên vui, thì không gọi là Đoạn thực. Nếu khi nuốt thức ăn vào cổ họng, mà không cảm thấy vui sướng, thì cũng không thể khiến cho các căn được vui vẻ, vào lúc ấy, đều không gọi là ăn, mà chủ yếu ở thời gian sau, được yên ổn, chín, biến đổi, thêm lớn sự vui mừng, thì mới gọi là ăn".

Luận Du-già quyển 57 chép: "Hoặc có vật từng đoạn, ở vào thời lượng thọ dụng, tạm bị tổn hại, đến khi biến đổi, hư hoại, mới có thể làm lợi ích, như đắng, cay, v.v... Hoặc có vật đoạn, đến khi thọ dụng, tạm thời vì nhiếp ích, ở vào lúc thay đổi, hư hoại, mới bị tổn hại, như có thức ăn ngon ngọt mà không thích hợp, nên khi biến đổi, hư hoại, bèn làm thứ ăn".

Vì luận chỉ có hai câu, nên lẽ ra lại thêm ở đầu, và sau, đều có tổn hại, như thuốc độc, v.v… đầu và sau đều làm lợi ích như ăn cơm, ăn thức ăn ngon ngọt thích hợp.

Đầu tiên, là câu thứ tư trong bốn câu, gọi là ăn. Hai câu khác không phải, do đó, nên tạo ra câu để phân biệt.

Luận Du-già quyển 66 chép: "Hoặc có vật đoạn, mà chẳng phải là ăn, nghĩa là các vật đoạn không thể nuôi lớn đại chủng các căn. Hoặc có là thức ăn mà chẳng phải vật đoạn, nghĩa là xúc, tư, thức, làm cho nuôi lớn đại chủng các căn.

Hoặc có là thức ăn, cũng là vật đoạn. Nghĩa là có vật đoạn, có thể khiến nuôi lớn đại chủng các căn. Hoặc chẳng phải vật đoạn, cũng chẳng phải thức ăn. Nghĩa là xúc, tư, thức không thể nuôi lớn.

Như thế, ba thứ xúc, tư, thức khác, tùy thuộc vào đối tượng thích ứng của chúng, bốn câu chứng cũng vậy. Vì muốn cho nghĩa gốc được sáng, tỏ, nên đều phải phân biệt:

1- Hoặc có xúc mà không phải ăn. Nghĩa là thuận với một phần ưu khổ, xả, xúc.

2- Hoặc có ăn, mà không phải xúc. Nghĩa là ba thứ đoạn; tư, thức, có công năng nuôi lớn đại chủng các căn.

3- Hoặc có xúc, mà cũng là ăn. Nghĩa là xúc gồm thâu lợi ích hỷ, lạc; Hai thọ và xả một phần; giúp ích các căn đại chủng, v.v…

4- Hoặc chẳng phải là xúc, mà cũng chẳng phải ăn. Nghĩa là ba thứ đoạn, tư, thức chẳng phải ăn.

Hoặc có tư mà chẳng phải ăn. Nghĩa là "duyên" quá khứ và đời hiện tại, vị lai, không thể gồm thâu lợi ích đại chủng các căn. Hoặc ăn, chẳng phải tư. Nghĩa là ba cách ăn còn lại. Hoặc có tư, cũng là ăn. Nghĩa là tư và dục đều cùng duyên lợi ích đại căn ở đời vị lai, đều bốn câu, nghĩa là ba thứ còn lại chẳng phải ăn. Hoặc có thức mà chẳng phải ăn. Nghĩa là chẳng phải ba thức được nuôi nấng, không thể nuôi lớn đại chủng căn, hoặc ăn mà chẳng phải thức, nghĩa là ba cách ăn còn lại.

Câu thứ ba: ba thứ trước đã nuôi thức, có công năng làm lợi ích đại chủng căn.

Câu thứ tư: Nghĩa là ba thứ trước chẳng phải ăn. Do bốn thứ này, mỗi thứ đều có bốn câu, nên luận Đối pháp quyển 5 chép: "Nghĩa là vì biến đổi hư hoại nên có biến đổi hư hoại, vì có cảnh giới nên có cảnh giới, vì có hy vọng nên có hy vọng; vì có nhận lấy nên có nhận lấy. Nhận lấy, nghĩa là nhận lấy cảnh; hoặc có nhận lấy tên khác của hữu lậu, vì trong mỗi pháp, "có" là quấy, nên được thành nghĩa này".

Như thế, gọi một cách tổng quát, thành tướng của căn.

-Thứ tư, là phế lập:

Có bốn pháp có công năng nuôi lớn đại chủng các căn trong hiện pháp.

1- Lực khí.

2- Hỷ, lạc.

3- Đối với cảnh đáng ưa thích, chuyên chú, hy vọng.

4- Tức ba đối tượng y chỉ đại chủng các căn và thọ với Noãn an trụ không hư hoại, như thứ lớp đó, phải biết dùng riêng bốn pháp làm cái ăn:

1- Đoạn.

2- Xúc.

3- Tư.

4- Thức.

Do đối tượng giúp đỡ riêng, nuôi lớn đại chủng các căn, vì pháp chỉ có bốn, nên cách ăn chỉ lập bốn không thêm, không bớt. Pháp khác, đối với bốn cách ăn này, vì không có công năng vượt hơn, nên lại do theo đuổi, mong cầu ba thức ăn, v.v… nên sinh ra nghiệp phiền não; vì sao sinh có thức, nên chỉ lập bốn; pháp khác thì không như vậy. Lại, luận Du-già quyển 57 chép: "Vì sao kiến lập bốn thứ này làm thức ăn? Vì do phần nhiều". Nên quyển 66 nói: "bốn là các nhân duyên phần nhiều đi đứng. Phần nhiều hữu tình lấy bốn làm nuôi nấng, nên không thêm, không bớt. Lại, vì dễ giác biết, nên bốn tướng này dễ rõ ràng, có thể biết rõ". Luận Du-già quyển 57 chép: "Loại trẻ thơ, v.v... cũng có thể biết.

Lại, trong mỗi ngày, vì dễ nuôi nấng, bốn tướng này, mỗi ngày dễ có thể nuôi nấng thân, vì pháp khác không thể thường thường nuôi nấng. Lại, ở trong niệm, trụ vì dễ thú nhập". Nên quyển 66 chép: "Khiến cho dễ vào đạo, có thể tu bốn thứ niệm trụ như thân, v.v... nghĩa là tất cả hữu tình nhờ ăn mà được sống còn. Nhờ đoạn thực, nên có thể tu thân niệm trụ. Nhờ xúc thực, nên có thể tu thọ niệm trụ. Nhờ thức trụ, nên có thể tu tâm niệm trụ. Nhờ tư thực, nên có thể tu pháp niệm trụ. Tư là chủ của các hành pháp, vì ăn là nhân của hành pháp kia, dễ vào đạo, ăn chỉ bốn cách. Lại, quyển thứ 66 chép: "Có bảy nhân duyên trụ trì các hành, khiến trụ trong không hư hoại".

Vì sao đức Thế Tôn chỉ nói bốn thứ ăn? Bảy nhân duyên là gì?

1- Sinh, vì vô vô sinh mà trụ.

2- Mạng căn.

3- Ăn.

4- Tâm tự tại thông.

5- Nhân duyên hòa hợp, do duyên chưa phải đều là trụ trong pháp lành.

6- Tác ý, do phát nghiệp trước hay lôi kéo các hành, không để dứt đoạn.

7- Không có chướng ngại, tức pháp bị xa lìa trái nghịch bại hoại. Luận Du-già quyển 66 tự đáp:

"Đây có năm nhân".

1- Vì dễ biết rõ.

2- Vì khiến cho đại chủng các căn ốm yếu được thêm lợi ích.

3- Lại khiến cho tật bệnh được tiêu trừ, khỏe mạnh.

4- Lại vì có các loại hữu tình sống lâu dài, nếu không được cái ăn, vì trung, yểu do ăn phi thời.

5- Vì giúp cho dễ vào đạo.

Vì tu bốn niệm trụ, v.v… nên chỉ nói bốn không thêm, không bớt. Vì sao lại nói: "Y chỉ mạng căn, các hành được trụ?".

Nghĩa là ở xứ này không hề có uống ăn, có người bị thiếu thốn, chẳng phải mong cầu uống ăn, có đối tượng gian nan. Ở xứ sở kia, chỉ do thế lực mạng căn mà trụ, như mạng căn người kia đã chiêu cảm sự sống lâu mà trụ. Đức Phật dựa vào chỗ kia, nói là do mạng trụ.

Nếu như vậy, thì tại sao không nói là ăn?

Luận Du-già quyển 57 chép: "Nếu lìa cái ăn, thì hữu tình kia sau cùng sẽ không thể nuôi lớn thân được, thức của chúng cũng vậy. Chủ yếu là ba thứ giúp đỡ, nuôi nấng, mới được trụ".

Cách giải thích này không hợp lý, vì người sinh lên cõi Vô Sắc, nhập diệt định, v.v… thức tự giữ thân, đâu do ba lực nói? Nói do ba, nghĩa là chung cho tất cả luận, chẳng phải mỗi mỗi như vậy. Hoặc thức do ba thứ gìn giữ mạng, v.v... thể của sự sống lâu vượt hơn. Vì không phải như vậy, nên không làm tiền lệ.

Luận Du-già quyển 57 chép: "Vì sao ngủ, nằm mộng thấy phạm hạnh, đẳng chí, đều có thể nuôi lớn đại chủng các căn, mà không lập các cách ăn?".

Đáp: Có hai thứ nuôi lớn:

1- Nhiếp thọ nghĩa riêng, nuôi lớn,

2- Khiến không có tổn hại nuôi lớn, ba thứ ngủ nằm mộng, v.v... Về sau lớn lên, mặc dù có khả năng nuôi lớn, nhưng về trước, thì không phải, cho nên không lập.

Nhiếp thọ nghĩa riêng: Tức luận Du-già quyển 94 chép: "Nuôi lớn duyên hiện tại, nghĩa là khí lực v.v…; Bốn cách ăn, đối với nghĩa riêng kia, có thể nhiếp thọ, đều có thể lợi ích cho thức, pháp khác không phải như vậy, không nên làm thức ăn".

Nếu như vậy, thì vì sao ba thứ xúc, tư, thức lại chẳng phải nuôi lớn? Nếu chỉ không tổn hại, mà gọi là nuôi lớn thì sao lại được có nơi chốn rộng khắp?

Trên đây, đều là phế, lập chung đã xong, vì sao năm căn và hai thứ sắc, tiếng chẳng phải thuộc về thức ăn?

Vì năm căn cũng có thể nuôi năm thức thân thành sáng, tối, nên xem sắc, nghe tiếng cũng nuôi lớn. Nếu nuôi bốn pháp ấy, có thể lập làm thức ăn, thì năm thức kia vì không có công dụng này, nên do căn thức kia đã giúp đỡ nuôi lớn; vì thức có công năng nuôi nấng vượt hơn, vì chẳng phải căn đối với thức, nên không nói. Vì khi tác dụng của đoạn thực biến đổi hư hoại tăng; đối với sắc, tiếng thì không như vậy. Nhưng luận Du-già quyển 57 và Duy Thức chép: "Vì sắc không có tổn, ích đối với trạng thái biến đổi, hư hoại, nên do ở căn mình đã không có tổn ích, vì căn người khác cũng không có, nên không lập. Lại sắc thọ chấp mắc; thể của tiếng là không, thưa thớt, rời căn có tác dụng, cũng không thể nuôi được lực khí, vì mạnh mẽ vượt hơn, nên không lập làm thức ăn. Sắc của quả định vượt hơn, dù đủ năm xứ, nhưng hoàn toàn chẳng phải là cách ăn. Nhưng do năng lực Thánh, ba chỗ có thể thành cách ăn, như cơm Hương tích, vì có thể làm thức ăn".

Có nghĩa là: "Không đúng, vì ba chỗ thật của bậc Thánh, chẳng phải pháp xứ, nhưng có bậc Thánh dùng năng lực thông định, biến hóa, khiến giúp đỡ ích, ba thức đã được, vì chẳng phải pháp xứ".

Cách giải thích này cũng không hợp lý, đâu cần ba thức được, mới gọi là ăn? Chỉ là sau khi biến đổi, có công năng giúp cho khí lực khiến thức sáng suốt mạnh mẽ, không phải chủ yếu thức được, nên ba chỗ của quả định vượt hơn, gọi là thức ăn, do bổn thức được, có công năng giúp đỡ nuôi nấng. Sắc pháp xứ giả kia chẳng phải nghĩa ăn, vì cũng trở thành không có thể dụng, như bất tương ưng.

Vì sao thọ, tưởng không gọi là ăn?

Vì thọ do xúc giúp đỡ, nói lợi ích cho thức, cũng như khí lực, nên không lập thức ăn. Dụng tưởng nhỏ nhen, mờ tối đối với bốn thứ thực không có công năng, vì không phải như xúc tư, nên cũng không lập. Dù cũng do ái theo đuổi, mong cầu bốn thứ thực, chẳng phải nuôi lớn gần, vì nghiệp, v.v... cũng như vậy, nên chẳng nói là ăn. Tâm sở pháp khác, đều không theo kịp xúc, tư, vì xúc khắp các tâm, thuận sinh ba thọ; tư năng hy vọng, là chủ tạo tác, nên tâm sở khác đều chẳng phải, vì vô lậu, vô vi đều phá hoại hữu, nên bốn hữu lậu mới lập tên ăn.

-Thứ năm, là các môn: trong đó có năm:

1- Ba cõi.

2- Năm đường.

3- Thuộc về ba tánh.

4- Nhân quả riêng lẻ.

5- Hỏi đáp.

- Thứ nhất là ba cõi: Hiển Dương quyển một, luận Du-già quyển năm, Duy thức, v.v... đều nói: "Nhờ bà thứ thực: xúc, tư, thức, nên tất cả hữu tình ba cõi an trụ. Một thứ đoạn thực chỉ khiến hữu tình cõi Dục an trụ, vì ở cõi Dục có ngủ và dâm dục như vậy. Đây là dựa vào cảnh tán; cảnh định chung cho ba cõi, (đến sau sẽ biết)".

- Thứ hai là năm đường: luận Du-già quyển 66 chép: "Nếu đoạn thực thô, thì ở trong năm đường cõi Dục đều hiện có thể được. Đoạn thực này đối với một phần đầu là Na-lạc-ca riêng, không phải đại Na-lạc-ca; thứ ăn khác chung cho trong ba cõi, đều hiện có thể được".

Luận Du-già quyển 5 chép: "Đối với hữu tình thọ sinh ở Na-lạc-ca, có đoạn thực nhỏ nhiệm. Nghĩa là gió trong phủ tạng, do nhân duyên này, hữu tình kia được ở lâu. Quỷ, bàng sinh, người, trời có đoạn thực thô. Nghĩa là tạo ra phần đoạn, mà ăn, nuốt, nên nói là Thô. Ở địa ngục không như vậy, nên nói là Tế".

Lại, có thứ ăn nhỏ nhiệm, nghĩa là ở phần vị

Yết-lạ-lam v.v... hữu tình và các vị trời cõi Dục, do trời kia ăn xong, sở hữu đoạn, thức ăn truyền vào tất cả chi tiết của phần thân, thì sẽ tiêu hóa, không có tiện nhơ nhớp. Nhưng luận Du-già quyển 57 chép: "Trong Na-lạc-ca không có đoạn thực, các vị trời của địa định cũng giống như thế".

Các Na-lạc-ca dù có nhân duyên tổn hại của đại chủng các căn rộng lớn, mà không thể chết, văn tiếp theo của luận Du-già kia tự hội ý nói: "Nhưng địa ngục kia cũng có các gió sâu kín, theo vào phần thân, dùng làm thức ăn, vì khéo biết rõ, cho nên, vì không nói, nên chẳng mâu thuẫn nhau, tức biểu thị rõ bốn thứ thực ở khắp năm đường".

- Thứ ba, thuộc về ba tánh: Đoạn thực chỉ cho vô ký; ba cảnh của vị tán, vì tánh chúng nhất định, vì bản tánh cố định của chủ thể tạo, đối tượng tạo. Ba cảnh của pháp xứ nếu làm thức ăn, nghĩa là tự thức đã biến cảnh của thức thứ tám, vì cũng vô ký. Nếu dựa vào cảnh của ý, vì hỗ trợ dài xa, nên hữu lậu này hệ thuộc cõi Sắc, Vô sắc: là thuộc về tánh thiện. Nếu vô lậu, thì gần không phải hỗ trợ hữu, cuối cùng bị tổn hại; vì phá vỡ hữu, nên gần có thể làm thức ăn. Về nghĩa hơi khó biết. Điều này nên suy nghĩ xem xét xúc, tư, thức của hữu tình kia chung cho ba tánh "có". Nếu nhận lấy thức thực vượt hơn chỉ có tánh vô ký, tức vì thức thứ tám, nhưng chung cho định, tán, vì tư, xúc, thức của vị định, đều có công năng nhiếp ích.

- Thứ Tư, Nhân, quả thứ lớp riêng: Luận Đối pháp quyển 5 chép: "có bốn thứ khác nhau".

1- Bất tịnh Y chỉ, trụ thực: Nghĩa là phàm phu cõi Dục, vì còn ràng buộc. Nhiếp luận quyển 10 của Thế Thân, chỉ nói ràng buộc đủ. Đối pháp là vượt hơn, vì dựa vào hiện chủng của hữu, nên nói là ràng buộc đủ.

2- Tịnh bất tịnh Y chỉ trụ thực: Nghĩa là hữu học và phàm phu của cõi Sắc, Vô sắc, vì ràng buộc có thừa. Nhiếp luận nói: "Hữu học". Dù đồng với Đối pháp, nhưng trong phàm phu nói: "Nếu sinh cõi Sắc, Vô sắc, thì nghĩa này là hẹp; chỉ nói ba thứ thực, vì chẳng phải nói đoạn, nên thuộc về lìa dục địa dưới không cùng tận".

3- Thanh tịnh Y chỉ trụ thực: Nghĩa là vì A-lahán giải thoát tất cả ràng buộc; cho nên đồng với văn Nhiếp Luận.

4- Thị hiện y chỉ trụ thực: Nghĩa là chư Phật và Bồ-tát đã chứng oai đức lớn, do chỉ thị hiện thọ dụng bốn thứ thực như đoạn thực, v.v... Lúc Như Lai ăn, thật ra không thọ thực, cũng không ăn giả, vì nhờ ăn mà sống. Nhưng vì thuận với thế gian, nên thị hiện thọ thực; thị hiện giả ăn, thân Phật kia an trụ. Đối pháp không y cứ vào thức thực thứ tư, để thuyết minh, thị hiện, nên nhận lấy Bồ-tát. Nhiếp Luận y cứ đủ bốn, vì đều thị hiện, nên nói chỉ có Phật. Duy thức cũng nhân thuyết Nhiếp

Luận đã nói, nhìn nhận khác nhau, không trái nhau.

Thứ năm là hỏi đáp:

Hỏi: Nếu ba thứ thực chung cho đoạn thực của vị tán ba cõi, thì cũng có đoạn thực cõi dưới giúp đỡ cõi trên và ba thứ thực khác hay không?

Đáp: Có, hai định trở lên khởi bốn thức Sơ thiền, chẳng lẽ không phải giúp đỡ ba thứ thực của địa dưới hay sao? Lại, đoạn thực thị hiện có thể như vậy, tức Bồ-tát, v.v... oai đức lớn là thật sự không giúp đỡ địa dưới.

Hỏi: Địa dưới giúp đỡ địa trên phải không?

Đáp: Do y chỉ định của địa trên khởi xúc, vì tư duy lý mầu của cảnh xúc. Lại giải thích ở đây chẳng phải là thứ thực của địa dưới, chỉ vì nuôi lớn. Không như vậy, thì tâm định lẽ ra cũng gọi ăn, chẳng phải nhiếp ích riêng. Nghĩa này không như vậy, chắc chắn không tổn hại nghĩa riêng thuộc về xúc, v.v… vì đã đối khác.

Hỏi: Bốn thứ như thế là chỉ cho hạt giống, cũng chung cho hiện hành phải không?

Đáp: "Ba thứ trước chỉ có hiện hành; thức thực chung cho hạt giống".

Quyển 94 chép: "Do vì năng lực đoạn thực, v.v… nên có khí lực v.v... Đại chủng các căn đều được tăng thêm lợi ích. Do nhân duyên này, các hữu luyến tiếc thân mạng, người ngu vì nghĩa này, nên có đối tượng theo đuổi, mưu cầu, lúc theo đuổi mưu cầu, lại tạo ra nghiệp mới và tăng thêm phiền não. Vì do ba môn: đoạn, xúc, tư này nên có thể nhóm họp thức phiền não của nghiệp "hữu" sau. Đây là ở hiện pháp, vì nghiệp phiền não đã đeo đuổi, nên thành "hữu", "thủ" của người kia, ấy là chủ thể nhiếp thọ "hữu" sau ở đương lai; ý này tức rõ ràng.

Do ba thứ thực trước đã, nhóm họp hạt giống thức, thêm lớn hữu ở sau, nên biết ba thứ thực trước đều chỉ hiện hành. Hạt giống của hữu tình kia, tức nhân của hữu sau, là thức hạt giống này chung cho hai đời, vị lai chỉ phàm, không phải ở bậc Thánh, vì y cứ ở nghiệp quả chung, chẳng phải bậc Thánh.

Hỏi: Tất cả hữu tình trong khoảnh khắc mỗi niệm, tùy theo chỗ có đều chắc chắn là có phải không?

Đáp: Không chắc chắn, thức thực chắc chắn có, còn lại hoặc có hoặc không.

Hỏi: Nếu đã thừa nhận năm đường đều có đoạn thực, xúc thực, v.v... thì hữu tình kia sẽ sinh vui trong cõi khổ cùng cực phải không?

Nhiếp Luận nói: "Có niềm vui". Vậy, hữu tình kia chắc chắn là vui ư?

Đáp: Khởi thuận ích xả, chẳng phải hỷ, lạc thọ. Lại Duy Thức chép: "Ở chỗ khác nói: "Hữu tình kia có niềm vui", nghĩa là môn lý tùy chuyển, chẳng phải nghĩa Đại thừa.

Nghĩa này là thích đáng, vì chi sinh thuận với xả, tất nhiên chẳng phải hỷ, lạc.

Hỏi: Nếu ba thứ thực chung cho ba tánh thì làm sao bất thiện có thể nuôi lớn ư?

Đáp: Như người gây ra hành vi ác, xúc chạm với năm dục hấp dẫn, cũng giúp nuôi lớn. Đời sau, dù tổn hại, nhưng vì giúp nuôi nấng, ở hiện tại.

Hỏi: Trong nhân, quả riêng, tùy thuộc đối tượng thích ứng của nhân quả, có bốn, ba thứ thực đều được bốn thứ ư? Nghĩa là thức ăn bất tịnh v.v... Đáp: Ở cõi Dục có đủ bốn, cõi Sắc có ba, trừ thứ thực bất tịnh, không có phần ít thứ tư, vì không có Phật. Tuy nhiên, ở cõi Vô Sắc, hoàn toàn không có thứ tư và đầu tiên.

Hỏi: Trong ba cõi, thực của cõi nào thô?

Đáp: Chính là, đoạn thực, Du-già quyển 94 chép: "Trời Dục và trung hữu, ở trong bụng mẹ, trong vỏ trứng đều là tế; ở phần vị khác, gọi thô". Nhưng Du-già quyển 57 chép: "Chỉ trời là tế, các cõi khác đều gọi là thô, nghĩa là vì y cứ phần nhiều. Hoặc năm đường (năm cõi) đối nhau là thô, tế.

Trong Du-già quyển 94 chép: "Vì đối với cõi mình. Lại hoàn toàn tiêu hóa, không tiêu hóa là thô, tế; vì thứ thực khác như vậy".

Du-già quyển 57 chép: "Ba thứ thực ở cõi Dục là thô, ba thứ thực ở cõi Sắc, Vô Sắc là tế".

Du-già quyển 94 chép: "Ba thứ thực ở cõi Vô Sắc gọi là tế, ở chỗ khác gọi là thô. Hữu sắc là y chỉ, vì dễ phân biệt, Vô Sắc là y chỉ, vì khó phân biệt".

Ý này rõ ràng, vì đối tượng nương tựa của hữu sắc là thô; đối tượng nương tựa của vô sắc là tế.

Du-già quyển 57 chép: "Do hành tướng của pháp địa định khó biết, gọi là tế, hành tướng của địa tán dễ biết, gọi là thô, đều y cứ vào một nghĩa cũng không mâu thuẫn nhau.

Du-già quyển chép: "Lại, có nghĩa riêng. Tất cả bốn thứ thực làm cho hữu tình đã sinh, an trụ, gọi là tế, vì trong bản hữu có thô tế riêng. Tất cả các nghĩa này đều nên so sánh mà biết, vì chẳng phải chủ yếu ở nghĩa vượt hơn, nên không trình bày đủ". Du-già quyển 94 nói: "Không có một chút pháp sinh xong, an trụ cũng không có ta, chủ thể ăn, đối tượng ăn. Nhưng chỉ y cứ vào lý tạo ra duyên sinh cho các pháp chưa sinh, chỉ có pháp dẫn sinh ra pháp, nói là nghĩa ăn, chỉ vì do pháp giả ở trong thức người kia, giả tưởng lập ra Bổ-đặc-già-la. Đối với bốn thứ thực này, nói là ăn, nghĩa là thuận theo thế gian, y cứ vào thế tục đế có chủ thể ăn, không phải y cứ ở thắng nghĩa. Nếu nói có thức sinh xong, an trụ. Thể là chân thật Bổ-đặc-già-la, gọi là ăn thì không nên lập thức làm tánh ăn của người kia, vì chưa từng thấy có Bổ-đặc-già-la nào lại tự có thể ăn Bổ-đặc-già-la, cho đến nói rộng. Vì thế, nên biết được ăn, nghĩa là chỉ giả lập ra".

Lại nữa, ba thứ thực là nhân sinh ra ba khổ: 1-Khổ vì cõi không bình đẳng.

2- Khổ vì mong cầu dục.

3- Khổ vì mưu cầu không thỏa mãn.

Do ba thứ đoạn, xúc, tư làm nhân, nên quán đoạn thực, như tưởng thịt con mình, không nên tham vướng mắc. Quán thuận theo cảm xúc của vui, như con bò không có da, bị các loài trùng rút rỉa ăn, phần nhiều sinh ra mọi đau khổ. Quán sát ý hội nhập tư, như một đám lửa lớn; tạo ra quán này xong, chớ bị khổ não bởi ba khổ, thản nhiên mà trụ. Ba thứ thực làm duyên sinh ra nỗi khổ trong thức, nên quán thức thực, như bị đâm nát bởi ba trăm mũi giáo, cho đến nói rộng: "Không xem xét, quán sát thứ thực này, ấy là bị ô nhiễm bởi tham hỷ. Nếu bị hai nhiễm thì sinh hai lỗi lầm:

1- Đương lai.

2- Hiện pháp.

Cho đến nói rộng, như Du-già quyển 94 chép: "Hỏi: "Nếu là pháp vô lậu phá vỡ hữu, nên nói là chẳng phải thức ăn, thì sao kinh Phật Địa nói: "Vị pháp rộng lớn, được hỷ, lạc gìn giữ gọi là ăn?".

Đáp: Phật địa quyển một chép: "Thức ăn nuôi lớn chúng sinh ba hữu. Vì đây là đoạn hữu, nên không gọi là thực; vì là nhân gìn giữ, bám trụ, nên cũng gọi là ăn. Như pháp hữu lậu dù chướng ngại vô lậu, nhưng vì gìn giữ hữu lậu, nên được gọi là ăn; vô lậu cũng vậy".

Dù đoạn hữu lậu, nhưng vì gìn giữ vô lậu, sao không phải là thức ăn?

Nghĩa là Phật, Bồ-tát, về sau được vô lậu, có khả năng nói, có khả năng thọ pháp vị Đại thừa, sinh tâm rất vui mừng. Lại, trí chánh thể thọ vị Chân như sinh tâm rất vui mừng, hay giữ gìn thân, khiến cho không hoại. Vì nuôi lớn pháp lành, nên gọi là thức ăn, chẳng phải cho hữu tình làm thức ăn, chỉ cho tâm đại bi, dùng cảnh thần thông biến hóa, giúp đỡ, nuôi nấng hữu tình, vì gần cũng gọi là ăn, nên không trái nhau.

Hỏi: Vì sao xúc hữu lậu là thể của cái ăn; trong pháp vô lậu, hỷ, lạc lại làm thức ăn?

Đáp: Do xúc hữu lậu dẫn sinh nỗi mừng vui vượt hơn. Nỗi vui mừng Vô lậu đối trị khổ sâu hơn, đều lập làm thức ăn, vì đối trị riêng. Lại, vô lậu thọ lãnh vị pháp tăng thêm, nói là ăn; cũng như xúc hữu lậu sinh hỷ tăng thêm, lập gọi là ăn, nên không trái lý, vì đều tăng theo.

Hỏi: Kinh Phật Địa nói là một thứ ăn, vị pháp rộng lớn được gìn giữ bởi hỷ, lạc". Kinh Pháp Hoa nói hai thứ thực:

1- Pháp hỷ.

2- Thiền duyệt.

Mỗi chỗ nói bốn. Nghĩa là: Đoạn, xúc, tư, thức". Nhiếp luận chép: "Bốn ý chỉ, v.v... bất tịnh". A-hàm chép: chín gồm: bốn là thế gian, năm là xuất thế gian. Thức ăn của thế gian: tức từng đoạn, xúc, v.v... Thức ăn của xuất thế là:

1- Thiền.

2- Nguyện.

3- Niệm.

4- Tám giải thoát.

5- Hỷ thực.

Phật địa, Pháp Hoa chỉ nói nhân thức ăn nghe chánh pháp, không nói thú vui thiền. Pháp Hoa nói chung, vì sự giúp đỡ của định, tuệ, nên nói hai thứ thực, vì hai thứ này vượt hơn trong phẩm Phước Tuệ, nên niệm, nguyện, giải thoát vì không phải thêm trội hơn, nên lược bỏ không nói. Mỗi chỗ đều nói bốn, vì thức ăn của thế gian, nên bốn bất tịnh, v.v..., vì dựa vào con người riêng.

Nói chín thức ăn: Vì hữu lậu, vô lậu, hợp hai thuyết, nên pháp vô lậu giúp đỡ phá tan thức ăn hữu lậu, vì đủ năm thứ, nên A-hàm nói: "Thường chuyên chung niệm trừ bỏ bốn thứ thực của thế gian, cầu năm thứ thức ăn xuất thế gian. Đoạn v.v... trong pháp hữu là vượt hơn; định v.v... trong pháp vô lậu là vượt hơn vì đều y cứ vào sự vượt hơn để lập, nên cũng không trái nhau.

-------------------------------

CHƯƠNG 62 KIẾN

Sáu mươi hai kiến, lược dùng năm môn để phân biệt:

1- Nói về sở nhân.

2- Nói về danh tướng.

3- Phát ra thể tánh.

4- Mê đế chung, riêng

5- Hỏi đáp phân biệt.

-Thứ nhất, là nói về sở nhân, lược có hai nhân:

1-Phật nói sở nhân. 2-Kiến khởi sở nhân.

Sở nhân mà Phật nói: "Y cứ vào phẩm Phạm Động trong A-hàm quyển 14, Phật đến nước Makiệt-đề, đi hoá đạo trong nhân gian, đến vườn Trúc, khi dừng chân ở giảng đường, có một Phạm Chí tên là Thiện Niệm, có đệ tử tên Phạm-Ma-Đạt, hai thầy trò thường đi theo Phật. Phạm Chí Thiện Niệm đã dùng vô số phương tiện, nhằm chê bai Phật, Pháp, Tăng. Phạm-Ma-Đạt kia dùng vô lượng phương tiện để khen ngợi Phật, Pháp, Tăng. Hai thầy, trò có ý niệm khác nhau, cùng chống trái, mâu thuẫn nhau, vì tập khác, kiến khác mà gần gũi. Lúc bấy giờ, sau khi thọ thực, các Tỳ-kheo cùng nhau đến trong giảng đường, bàn việc rất kỳ lạ như vầy: "Đức Thế Tôn có sức thần vĩ đại, đầy đủ oai đức, biết tường tận ý chí hướng đến của chúng sinh. Phạm Chí Thiện Niệm chê bai Phật, Pháp, Tăng; đệ tử Phạm-Ma-Đạt, đã dùng Vô lượng phương tiện, nhằm khen ngợi pháp của Như Lai và Tỳ-kheo, đều ấp ủ tâm khác lạ".

Đang ngự tại tịnh thất, Đức Phật dùng tại trời thanh tịnh, nghe các tỳ-kheo bàn nói như thế. Khi các tỳ-kheo đến giảng đường, Phật biết mà cố hỏi, nhắm vào đối tượng nào để nói?". Các Tỳ-kheo nói: "Nhắm vào sự kiện rất kỳ lạ để bàn chung. Đức Thế Tôn cho đến nói rộng. Cả hai thầy, trò đều có kiến chấp khác lạ, trình bày đủ sự việc kia. Đức Thế Tôn bảo rằng: "Nếu có người nào chê bai Phật, Pháp, Tăng, thì các thầy không được có tâm tức giận, làm hại đối với người đó. Nếu có tâm này, thì tức là tự sa ngã chìm đắm! Nếu có người khen ngợi Phật, Pháp, Tăng, thì các thầy đối với việc đó không đáng vui mừng! Nếu sinh tâm vui mừng, thì cũng tự đắm chìm sa ngã!".

Đây là phàm phu nhỏ, yếu đuối, ít nghe, không đạt nghĩa sâu sắc; trực tiếp dùng đối tượng thấy như thật, khen ngợi Phật, Pháp, Tăng bảo.

Lại, có pháp khác, đại pháp sáng suốt, nhiệm mầu sâu xa, chỉ có đệ tử Hiền Thánh, có khả năng dùng pháp này để khen ngợi Như Lai.

Có các Sa-môn, Bà-la-môn v.v... đối với kiếp gốc, kiến gốc; kiếp ngọn, kiến ngọn, mỗi thứ vô số, tùy ý nhập tận, nhập vào sáu mươi hai kiến, không có ai vượt hơn, chỉ có Như Lai biết xứ kiến này, chuyển biến như thế, chấp như thế. Lại, vượt hơn ở đây, dù biết không vướng mắc, vì không chấp mắc, tức được tĩnh lặng, vì giải thoát không có thừa, nên gọi pháp là đại sáng suốt, nhiệm mầu rất sâu của Như Lai. Đệ tử Hiền, Thánh chân thật bình đẳng, khen ngợi Như Lai. Du-già cũng nói: "Rằng, do y chỉ sư kia, có thể nhận lấy rõ ràng thú hướng tạng pháp bất chính, thầy trò truyền nghe, lần lượt trao nhau làm phương tiện, cho nên Đức Thế Tôn nói các kiến này, do kiến khởi nhân".

Luận Du-già chép: "Rằng, tất cả Tát-Ca-Da kiến kia dùng làm nhân duyên, nhân duyên dù có, hoặc gần, hoặc xa, gần là dựa vào ngã kiến, các kiến mới khởi. Nếu không như vậy, thì ấy chẳng phải thuộc về biên kiến; dựa vào xa nhau: nói là tà kiến. Vì duyên thường, v.v… của Phạm Vương có tà kiến". Đó đều là nói về sở nhân thứ nhất.

-Thứ hai là nói về danh tướng:

Luận Đại Trí Độ chép: "Thân kiến, biên kiến dùng làm căn bản, có hai mươi câu ngã sở kiến. Ba đời hợp với số và hai kiến gốc, thành sáu mươi hai kiến, chẳng phải điều ở đây y cứ. Kinh A-hàm có thừa nhận cõi Vô Sắc, vì có sắc thân. Kinh Đại Chúng Bộ chẳng phải hoàn toàn nương nhờ vào kinh Phạm Võng Lục Thập Nhị Kiến, đồng với A-tỳ-đàm của Xá-lợiphất, nhưng Chánh lượng bộ cũng không y cứ. Đại Tỳ-Bà-Sa quyển 199 và 200 dù có nói rộng, nhưng Tát-Bà-Đa cũng không nương nhờ, do trên đây đều không phải nghĩa Đại thừa, nay đều không y chỉ, nay, y cứ luận Du-già thứ 8 và 58, thứ 7, thứ 6 và thứ 87; Hiển Dương thứ 10, thứ 9, quyển thứ nhất Đối pháp, các căn trên dưới của quyển 6 Thành Duy Thức có giải thích rộng: "Đã là nghĩa của mình, về lý lẽ ra là nương nhờ, đầu tiên là nêu danh, tướng chung; sau giải thích về danh tướng riêng".

Nêu danh tướng chung: Du-già quyển 87 chép: "Tát-Ca-Da kiến dùng làm căn bản, có sáu mươi hai các cõi ác. Kiến, nghĩa là bốn Biến thường kiến luận; bốn nhất phần thường kiến luận; hai vô nhân luận; bốn hữu biên vô biên tưởng luận, bốn bất tử Kiểu loạn luận".

Như thế, mười tám các cõi ác kiến là luận giả chấp mé trước, nói là ngã. Lại, có mười sáu Hữu kiến tưởng luận; tám vô tưởng luận; tám phi hữu tưởng, phi vô tưởng luận, bảy đoạn kiến luận; năm Hiện pháp Niết-bàn luận.

Bốn mươi bốn các cõi ác kiến, là luận giả chấp mé sau, nói là ngã. Như thế, mé trước, mé sau vì đều có năm, nên cộng chung thành mười loại.

Mé trước, sau: Mé, nghĩa là bờ mé, nghĩa là thời phần, tức A-hàm nói: "Kiếp gốc, kiến gốc; kiếp ngọn, kiến ngọn. Quyển 87 chép: "Các kiến dựa vào đời. Nghĩa là dựa vào quá khứ và đời hiện tại, vì khởi phân biệt, nên gọi là chấp mé trước. Dựa vào đời vị lai, vì khởi phân biệt, nên gọi chấp mé trước; dựa vào đời vị lai, khởi phân biệt, nên gọi là chấp mé sau. Đây là y cứ ở phần nhiều đạo lý của hai mé, như bốn hoàn toàn thường, thường kiến thứ tư, vì kiến chấp tử sinh, nên hiện tại gọi trước. Những loại như thế, v.v… vì nghĩa phần nhiều, nên chẳng phải y cứ vào nghĩa thật. Vả lại, như luận Ngũ hiện pháp Niết-bàn chép: Là mé sau, nhưng vì chỉ hiện tại, nên biết hiện tại chung cho mé trước, sau. Gọi là mé trước, nghĩa là vì trước vị lai, vì nhân của vị lai, nên hoặc gọi mé sau, vì sau quá khứ, là quả của quá khứ".

Do đây, hiện tại chung cho mé trước, sau.

Đã giải thích về danh tướng chung xong, giải thích về danh tướng riêng: luận Du-già quyển 6, luận Hiển Dương quyển 9 chép: "Phải biết rằng, trong đây, chấp mé trước. Nghĩa là hoặc dựa vào tĩnh lự hạ, trung, thượng, khởi túc trụ tùy niệm, vì duyên khởi bất thiện, nên đối với các hành quá khứ, chỉ nhớ nghĩ, biết không như thật, chấp đời quá khứ, cho là mé trước, phát khởi thường kiến. Hoặc dựa vào mắt trời, chấp đời hiện tại, cho là mé trước, đối với các hành, sát-na sinh diệt trôi lăn, biết không như thật. Lại, thấy các thức trôi lăn nối nhau. Từ thế gian này đến thế gian kia, vì không có cắt đứt, nên phát khởi thường kiến". Du-già quyển 87 chép: "Túc trụ tùy niệm đều cùng vận hành. Nghĩa là chấp mé trước. Trong tam thường luận, do sự khác nhau thanh tịnh phẩm hạ, trung, thượng, nay quán ý luận, do y cứ ở túc trụ niệm tĩnh lự, có phẩm hạ, trung, thượng, chia thành ba phần đầu tiên":

1- Nhớ lại quá khứ, hai mươi kiếp thành, hoại.

2- Nhớ lại bốn mươi kiếp thành, hoại.

3- Nhớ lại tám mươi kiếp thành hoại.

Vì do túc trụ tùy niệm có ba phẩm, nên thấy có xa gần. Phái Y-Sư-Ca, Tăng-Khư-dụ gọi tất cả pháp đều là Thường; vì sự ẩn, hiển của thế gian chẳng phải là diệt, hoại, nên chấp là thường. Vì nói ba phẩm đối tượng kiến của tĩnh lự, vì sáu mươi kiếp tục trụ không duyên, nên chỉ có ba. Du-già quyển 6 v.v... chép: "Hoặc dựa vào mắt trời, chấp đời hiện tại, cho là mé trước. Đối với sát na sinh diệt, trôi lăm của các hành, biết không như thật. Lại nhận thấy các thức trôi lăm chết ở đây, sinh ở kia, mà biết các hành trôi lăn không thật sinh, diệt trong sát-na, nên chấp là thường, là thường kiến thứ tư, ý này nói rõ chung, ba kiến đầu tiên dù đồng với A-hàm, nhưng thứ tư tức chẳng phải. Trí mau chóng, lanh lợi kia chấp tất cả thường, chẳng phải do mắt trời".

Quyển 87 cũng chép: "Vì mắt trời đều có vận hành, nên ba thứ trước trong đây, đều là thứ nhất Bà-Sa, thứ tư ở đây tức thứ ba ở kia. Hai thường khác kia, không có trong đây".

Luận Du-già quyển 87 chép: "Bốn thường kiến này đều dựa vào tĩnh lự, vì không nói là tán. Tuy nhiên, Bà-sa nói: "Thứ nhất, là quán kiếp; thứ hai là quán sinh; thứ ba là quán tử hiện tại, ở đây, ở kia. Thứ tư, là y cứ vào tầm, từ; Hoặc có thuyết nói: "Ba thứ trước này tức Du-già nói: "Dựa vào ba thứ tĩnh lự phẩm hạ, trung, thượng, mặc dù như vậy, nhưng tức có lỗi trái với mắt trời".

Luận Du-già quyển 6 chép: "Thứ tư tức y cứ vào đối tượng mà mắt trời thấy, vì không phải tầm, từ, nên bốn luận giả có một phần thường kiến".

1- Từ Phạm Thiên mất, sinh đến đây, được Túc trụ không, quán sát xứ từ trước đến nay, tạo ra lối chấp như thế này: "Chúng ta đều là những người đã được Phạm Vương giáo hóa. Phạm Vương là thường thấy hiện nay, tương lai ở đây; nên trong Thường luận chép: "Hoặc thấy Phạm Vương tùy ý thành lập, tức kiến chấp này".

2- Nghe Phạm Vương có kiến chấp như vầy: "Đại chủng là thường, tâm v.v... là vô thường; hoặc lại trái với đây, đồng với người nhẫn kia; hoặc trụ Phạm Thế, cho đến hoặc lần lượt nghe đạo lý như vầy: "Ta lấy Phạm Vương làm lượng, tin lời người đã nói".

Cho nên, một phần của thế gian thường trụ.

Trong Thường luận nói: "Hoặc thấy bốn đại chủng biến đổi khác; hoặc nhận thấy các thức biến đổi khác. Biến đổi khác nghĩa là vô thường, tức là kiến này".

3- Ba hữu trước kia từ trời Hý Vong qua đời, sinh đến trong đây, đều khởi lên chấp, ở các tầng trời kia không hý luận lắm v.v..., ở đó là thường trụ, chúng ta Vô thường".

4- Trước kia đã từ trời Ý Phẫn Nhuế mất, sinh đến trong đây, đều khởi lên chấp, ở các tầng trời kia không giận dữ lắm, ở trời kia thường trụ, chúng ta vô thường. Hai tầng trời sau đây, so sánh y cứ vào luận Du-già quyển 5 nói: "Tự hại, chẳng phải người khác mà có thể chết!", tức chỉ tứ không thiên trên cõi Dục. Hai tầng trời dưới, vì bị người khác hại, nên bốn kiến này, quyển 87 nói: "Đều dựa vào tĩnh lự mà biết được quá khứ, nên gọi là mé trước". Bốn thứ Bà-sa dù đồng với luận này, nhưng hai tầng trời sau là khác.

Về trời kia, có hai thuyết:

1- Tức trụ từng Cấp Diêu Cao.

2- Tức tầng trời Tam Thập Tam.

Bốn tầng trời này do chấp đại chủng của Đại Phạm; hoặc tâm Hý Vong, Phẫn Nhuế khởi lên. Kinh A-hàm chép: "Không có thứ hai này, ba thứ còn lại, đồng với đây. Lại, thêm Thế trí nhanh chóng, lanh lợi, ba thứ còn lại đã chấp nửa thường, vô thường".

Ở đây, dù nói tướng, nhưng vẫn khó thấy, chẳng những nghĩa khác của tông khác, mà còn là ý rất khó được.

Có hai luận vô nhân:

1- Từ trời Vô Tưởng mất, sinh đến trong đây được Túc trụ thông, chẳng thể nhớ lại tâm xuất kia về trước đã có các vị, ấy là chấp các pháp vốn không có mà sinh, ấy là chấp ngã và thế gian không có nhân mà khởi.

Do tầm, từ không nhớ lại thân thích, tạo ra chấp trước như vầy: "Không có nhân mà khởi, cho đến nói rộng, nên luận Du-già quyển 7 chép: "Dựa vào tĩnh lự và dựa vào sự khác nhau của hai thứ tầm, từ, thấy các nhân duyên là không, không có quả báo. Gió to thình lình nổi lên, bỗng nhiên lặng lẽ trở thành khô cạn, trống không, nên tạo ra chấp này, đồng với A-hàm, v.v…

Bốn luận hữu biên, vô biên: luận Du-già quyển 7, Hiển Dương quyển 9 nói rằng:

1- Nếu y cứ lúc đoạn mé biên để cầu bên đời, nếu nhớ nghĩ lại kiếp hoại ở thế gian, thì sẽ khởi tưởng hữu biên, do kia khi thế giới hoại, sắp đến kiếp không, vì giới hạn hữu biên.

2- Nếu nhớ lại lúc kiếp thành, thì sẽ khởi tưởng vô biên ở thế gian, cách kiếp hoại xa, vì không thấy biên giới.

3- Nếu y cứ vào phương cõi rộng, khắp thì cầu bên đời, nên dưới đến vượt qua Vô gián, lại không có được, trên đến vượt qua tĩnh lự thứ tư, thì đối với không gian trên, dưới, sẽ khởi tưởng hữu biên, ở xứ bên cạnh, đã khởi tưởng vô biên.

4- Nếu vì đối trị chấp này, chỉ y cứ vào nghĩa văn khác không có khác nhau, thì đối với thế gian sẽ khởi chẳng không phải hữu biên, chẳng phải vô biên.

Hai kiến đầu duyên quá khứ, khởi hai thứ sau, duyên hiện tại khởi; vì đối đãi với vị lai, nên gọi là bờ mé trước. Luận Vô biên nói bốn, đều y cứ vào Tĩnh lự mà khởi. Du-già quyển 87 chép: "Túc trụ tùy niệm đều cùng vận hành, nghĩa là đối với bốn thứ luận biên, vô biên, do luận giả kia nhớ nghĩ đến cảnh thành, hoại của khí thế gian, thế gian xuất hiện phương tiện, nếu thời gian nhớ nghĩ lại phần vị kiếp thành, bấy giờ nẩy sinh bốn thứ vọng tưởng".

1- Nếu có người hoàn toàn nhớ nghĩ trên, dưới: dưới đến phẩm hạ Vô ngại Nại-lạc-ca; trên đến Tĩnh lự thứ tư. Nhớ nghĩ bờ mé của phần lượng như thế, ấy là Trụ tưởng hữu biên ở thế gian.

2- Nếu có người hoàn toàn nhớ bên cạnh không có bờ mé, ấy là trụ tưởng Vô biên ở thế gian.

3- Nếu có người nhớ nghĩ đến phần vị kiếp hoại, bấy giờ nẩy sinh ý tưởng phi hữu biên, phi vô biên, vì các thế gian không có được, dù hai văn nói hai thứ kiến này, vì có hành tướng này, nên gọi chung là luận vô biên. Kinh A-hàm chép: "Kiến thứ tư này dựa vào trí nhanh nhẹn lanh lợi. Bốn thứ Du-già đều y cứ vào trí túc trụ tĩnh lự khởi, nhưng Tỳ-Bà-Sa:

1- Dùng mắt trời để trông thấy dưới đến địa ngục, trên đến sơ định, chấp ngã ở giữa đều đầy khắp, bèn nghĩ như vầy: "Vượt qua đây có ngã, vì ngã lẽ ra có thể nhìn thấy, nên biết là hữu biên".

2- Thấy một biên, vô biên là chấp, đồng với trước, khởi tưởng vô biên.

3- Dựa vào mắt trời và cảnh thần thông, thấy dưới, thấy trên, như đầu tiên, vận dụng thân cách bên cạnh, gần, xa, không được bờ mé, ở trên dưới khởi tưởng hữu biên, ở bên cạnh khởi tưởng vô biên.

4- Trái với bốn tưởng này, đều duyên hiện tại, vì đối đãi với vị lai, nên gọi là mé trước, chỉ kiến thứ tư khác với 87, ba kiến còn lại là đồng. Nhưng thấy ở trên, cũng có xa gần. Nhưng y cứ vào tướng chung của kinh A-hàm, thì được định khởi chấp hữu biên, vô biên, không nói duyên phần giới hạn nào khởi chấp. Kiến thứ ba kia đồng với Bà-Sa. Kiến thứ tư kia, y cứ vào trí nhanh nhẹn, lanh lợi mà khởi chấp này, cũng không nói kiến kia duyên cảnh nào mà khởi, nên không thể y cứ. Bốn không chết, giả vờ (nắn thẳng), rối loạn, luận Du-già quyển 87 chép: "Tịnh thiên có 2:

1-Thanh tịnh bất thiện. 2-Thanh tịnh thiện.

Chỉ nhập định tục, gọi là thanh tịnh bất thiện; vì chưa liễu đạt đế (chân lý), nên tâm chưa giải thoát. Nếu đã chứng định của pháp nội, thì gọi là thanh tịnh thiện, vì đã liễu đạt đế, vì tâm giải thoát thiện, nên không tán loạn cũng có hai:

1- Vô tướng, vô phân biệt.

2- Hữu tướng, hữu phân biệt.

Đầu tiên là trời thanh tịnh thiện, sau là trời thanh tịnh bất thiện. Trời thanh tịnh trước kia, đối với mình không chết, không có tán loạn mà chuyển biến, nên gọi là không chết, không có án loạn. Về sau, trời không thanh tịnh. Nếu có người dựa vào không chết, không có tán loạn, có đối tượng gạn hỏi, ấy là dối trá việc khác, giả vờ, tán loạn để tránh né. Đối với đế, tâm không có tướng, vì chắc chắn không khéo léo, nên trước, khởi tâm lo nghĩ, có tư duy như vầy: "Chúng ta đã xứng với không chết, không có tán loạn". Lại nữa, có không chết, không có tán loạn khác; đối với các Thánh đế, định Vô tưởng đã được khép léo, đức mà người kia đã thành, so với ta là vượt hơn, nếu người kia hỏi vặn lại ở trong đó, đối với ta, nếu ta ghi nhận riêng, hoặc ghi nhận khác lạ, hoặc bác bỏ cái có thật; hoặc thừa nhận chẳng thật có, người kia đối với ghi nhận riêng, do thấy các lỗi lầm như thế v.v…, nên có tư duy như vầy: "Ở trong tất cả đối tượng vặn hỏi, ta đều không nên ghi nhận".

Xét ý đoạn văn này, thì tức trời được thờ phụng, gọi là vô loạn, cũng gọi không có lộn xộn, lẽ ra phải nói không chết, không có tán loạn.

Nói giả vờ không chết, không tán loạn áy, tức một không là chỉ xuyên suốt hai chỗ, nghĩa là không chết, không tán loạn, hoặc người kia tự xưng là đã tạo ra lời đáp không có lộn xộn này, nghĩa là sinh trời không chết, nay chê trách trời ấy, gọi là tán loạn. Lại, do bậc Thánh, thật là trời bất tử thanh tịnh vô loạn, đây là chủ thể hỏi. Nay, đáp lại các câu hỏi về trời này, gọi là không chết, không rối loạn.

Ý của luận Du-già quyển 87 chép: "Chớ cho rằng: người khác do sự xem xét này, tu không có biết rõ nguyên nhân, thì khinh thường, chê cười, cho là lời đáp này. Lại, kẻ có hành động nịnh hót, cảm nghĩ rằng: "Không phải trời tịnh của ta, tất cả giấu kín đều cho ghi nhận riêng, nghĩa là chính mình đã chứng và vì đạo thanh tịnh, nên đặt ra lời rối loạn. Lại, có tâm e sợ mà không có ghi nhận riêng. Chớ cho rằng, sự mê muội, thua kém của ta đã bị người khác biết. Do nhân duyên này, họ không thể giải thoát, vì đây là nhà mà là chỗ tự yên, tức đem sự e sợ và không giải thoát mà làm nhà, để tự yên. Lại, có kẻ ngu si đần độn, chuyên tu hạnh chỉ, không thể nói rối loạn, chỉ nghĩ rằng: "Các hữu đến hỏi: "Ta sẽ hỏi vặn, tùy thuộc lời người kia đáp, tự sẽ thuận theo tất cả họ không có giảm mà ấn chứng chấp thuận cho họ. Lời nói này có bốn:

1- Sợ không có biết.

2- Hành động nịnh hót.

3- Có tâm e sợ, không được giải thoát.

4- Vì ngu đần.

Trong Thập Lục dị luận chép: "Các ngoại đạo kia, nếu có người đến, dựa vào đạo Tối thắng sinh, mà hỏi về thiện bất thiện, y cứ quyết định đạo thắng tấn hỏi bốn Thánh đế, bèn tự xưng là: "Không chết, không có rối loạn: "Tuỳ thuộc ở nơi chốn, dựa vào Tịnh thiên không chết, không rối loạn để hỏi vặn, tức đối với câu hỏi của người kia, dùng lời nói rối loạn, hoặc lừa dối việc khác, dùng phương tiện tránh né; hoặc chỉ theo lời lẽ của người hỏi mà chuyển biến, giác thứ nhất trong đây chưa khai ngộ; thứ hai kia, lại nói nữa: "Sự sợ sệt, nói dối, và vì sợ người khác biết mình không có trí, nên đáp không rõ ràng: "Ta không biết".

Ý này tức nói tánh dù có thức giác biết chưa khai ngộ. Nếu nói: "Ta hiểu tức là nói dối; nếu nói không hiểu, tức người khác biết, ta đều không biết gì cả. Nên nói, rối loạn, là hai thứ giữa, đối với pháp đã chứng, khởi tăng thượng mạn".

Thứ hai, lại nói nữa: "Đối với pháp mình đã chứng, chưa được vô uý, vì sợ người khác gạn hỏi, sợ nói dối và vì sợ tà kiến, nên nói không rõ ràng: Ta có chứng, e người khác hỏi pháp mà mình đã chứng, vì chưa được vô uý, nên không thể đáp thật; đáp thì thành tà kiến; còn không đáp, thì thành nói dối.

Thứ ba trong đây, là giác biết rồi, khai ngộ, mà chưa quyết định. Thứ hai, lại nói nữa: "Tà kiến sợ sệt và vì nói dối, nên vì sợ người khác hỏi vặn, nên nói không rõ ràng: "Ta không quyết định"; ý này tức nói rõ dù có được một ít, nhưng tâm chưa quyết định đáp, là tà kiến; không đáp là nói dối. Vì đã có biết, nên bèn đáp rối loạn.

Ba thứ như thế, giả lừa dối việc khác, dùng lời nói rối loạn, là sự ngu si đần độn, yếu đuối, thua kém, thứ tư ở giữa.

Thứ hai lại nói rằng: "Chỉ sợ người khác hỏi vặn. Đối với đạo sinh vượt hơn, và đạo vượt hơn định, đều không rõ đạt. Đối với văn tự thế gian, cũng không khéo biết mà nói không rõ ràng: "Ta ngu đần, chậm chạp, chỉ theo câu hỏi của người kia, theo lời nói mà chuyển biến".

Ý này do ngu, vì đều không có hiểu rõ, nên theo câu hỏi mà đáp trái lại.

Ở luận trước đây hoàn toàn khác nhau với Ahàm.

Người kia dựa vào bốn câu hỏi, tức là bốn khác nhau:

Hỏi: Thế gian có quả báo hay không có quả báo?

Hỏi: Có đời khác hay không?

Hỏi: Thiện hay chẳng thiện?

Tự ngu si đần độn, người khác khéo hỏi không biết. Tỳ-Bà-Sa nói:

1- Sợ nói dối.

2- Sợ tà kiến.

3- Sợ không biết.

4- Vì sợ ngu si, nên đáp rối loạn thành bốn khác nhau.

Trên đây, năm loại là kiến tế trước, năm tướng loại của tế sau:

Hữu tưởng luận có mười sáu; Du-già quyển sáu, Hiển Dương quyển chín rằng: "Bốn kiến đầu y cứ vào ba kiến lạp. Nếu chấp mạng tức là thân ấy, thì người kia chấp ngã là sắc. Nếu chấp mạng khác với thân, thì người kia chấp ngã chẳng phải sắc. Nếu chấp ngã đều có, khắp không hai, không có thiếu, thì người kia chấp ngã cũng là sắc. Nếu vì đối trị chấp này ở trong nghĩa này, sẽ do câu văn khác mà khởi chấp, thì người kia chấp ngã chẳng phải sắc, chẳng phải phi sắc". Ý này tức nói xứ Vô Tưởng thiên gọi là Vô Tưởng, Hữu đảnh gọi phi hữu tưởng, phi vô tưởng. Ba vô sắc dưới, trừ Vô Tưởng khác trong cõi Sắc, cõi Dục v.v... đều gọi là Hữu tưởng".

Luận Du-già quyển 87 chép: "Do dựa vào mạng tức là thân kiến, nên chấp ngã có sắc. Sau khi chết, hoặc có sắc, có tưởng; hoặc không có tưởng; hoặc Phi hữu tưởng, phi vô tưởng. Do dựa vào mạng, vì khác với thân kiến, nên chấp ngã chẳng có sắc. Sau khi chết có tưởng, hoặc không có tưởng; hoặc Phi hữu tưởng, phi vô tưởng, do dựa vào cái chung này là ngã đầy khắp, vì kiến chấp không hai, không có thiếu, nên nói ngã vừa có sắc, vừa vô sắc. Sau khi chết, có tưởng chẳng phải có sắc, chẳng phải vô sắc, sáu khi chết có tưởng. Vô tưởng kia và phi hữu tưởng, phi vô tưởng cũng vậy.

Ý trên đây: Nói chấp có sắc, v.v… bốn câu Hữu tưởng đầu tiên sau khi chết mà tưởng sau khi chết, và bốn câu đầu tiên của Phi hữu tưởng, phi vô tưởng sau khi chết đồng, chỉ nơi sinh có khác, hiện tại đều đồng. Dựa vào mạng, tức là khác với thân, không hai, không có thiếu, trên ba kiến, lập ba thư này làm nghĩa của bốn câu. Chấp sắc làm ngã, gọi mạng tức thân, chấp phi sắc là ngã, gọi là tức thân, chấp phi sắc là ngã, gọi là qua đời khác với thân, nhưng chấp sắc, phi sắc, cho là ngã của mình, gọi không hai, không có thiếu. Câu ngã có sắc v.v… ba địa dưới của cõi Vô Sắc. Nếu nói có sắc ở vô sắc kia, nếu nói vô sắc, thì không kịp bằng kia.

Bốn câu hữu tưởng sau khi chết:

1- Chấp ngã có sắc, có tưởng sau khi chết.

2- Chấp ngã không có sắc, có tưởng sau khi chết.

3- Chấp ngã vừa có sắc, vừa không có sắc, có tưởng sau khi chết.

4- Chấp ngã chẳng phải có sắc, chẳng phải không có sắc, có tưởng sau khi chết.

Tiếp theo, bốn câu hữu biên, v.v... luận Du-già quyển 87 chép: "Chấp ngã là sắc: Hoặc nói nhỏ hẹp, hoặc nói vô lượng; chấp ngã không có sắc, phải biết cũng vậy, cũng có nhỏ hẹp và vô lượng. Pháp tác dụng, v.v... của đối tượng nương tựa, đối tượng duyên, vì có lớn nhỏ".

Hai ngã luận này, dựa vào kiến thứ ba, kiến này chung, đầy, khắp không hai, không thiếu, lập làm hai luận:

1-Chấp ngã nhỏ hẹp. 2-Chấp ngã vô lượng.

Do sự khác nhau của bốn thứ ngã luận này, nói bốn câu hữu biên, v.v...; như thứ lớp phối hợp, nên Du-già quyển 6 nói: "Nếu thấy một ít sắc, 1 ít phi sắc, là người kia chấp hữu biên. Nếu thấy hai vô lượng kia, thì người kia chấp vô biên. Nếu lại thấy khắp mà phần ít sắc, vô lượng phần phi sắc. Hoặc vô lượng phần sắc, phần ít phi sắc, là người đã chấp vừa hữu biên, vừa vô biên. Vì đối trị kiến chấp này, nên chỉ do văn khác, không do nghĩa khác mà khởi chấp: chấp kia chẳng phải hữu biên, chẳng phải vô biên".

Quán ý văn này, Thái chánh thứ 6, trong luận Du-già quyển 87 như thứ lớp phối hợp: Nghĩa thứ lớp không phải văn. Nghĩa là chấp sắc, phi sắc nhỏ hẹp gọi là hữu biên, chấp sắc, phi sắc vô lượng gọi là vô biên, chấp ít, nhiều lẫn nhau, nghĩa là câu: "Vì đều có", ngăn chấp này là thứ tư, đồng với văn trước, do bốn thứ này, sau khi chết, sinh địa hữu tưởng, đây gọi là bốn câu hữu biên, v.v... thứ hai; Bốn câu tiếp theo: hữu danh thứ sáu, không nói về nơi chốn, luận Du-già quyển 87 chép: "một chấp ngã, một tưởng, đối với không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, không nói vô sở hữu xứ, vì văn lược bỏ, cũng vì một tưởng, nên đồng với Bà-Sa; do Du-già nói: "Vì vô lượng tưởng phối hợp với một tưởng ở trước, nên lược không nói về vô sở hữu xứ, vì chẳng phải vô lượng tưởng kia, nhưng là một tưởng, mỗi thứ tưởng của hai chấp ngã. Nghĩa là tức bốn chấp của địa dưới, tưởng vô lượng của ngã. Nghĩa là Không, Thức xứ, luận Du-già quyển 87 chép: "Tức như hai tưởng đã nói, tùy thuộc thứ lớp của xứ đó, nên biết nói ngã có tưởng hẹp, ít, có vô lượng tưởng. Đây là do nghĩa lý trái với thứ lớp phối hợp. Nhưng Tỳ-Bà-sa nói: "Chấp một ít sắc làm tưởng của ngã, làm ngã sở; ta hợp với người kia, gọi là một ít tưởng, ở cõi Dục, cõi Sắc, thì trời Vô tưởng".

Vô lượng tưởng: chấp vô lượng sắc là tưởng của ngã, ngã sở, v.v… đã rộng như trước, Ý của luận Du-già chép: "Tức trước kia đã nói: "Ở chỗ một tưởng có vô lượng tưởng, ở chỗ mỗi thứ tưởng có một ít tưởng này, cũng không mâu thuẫn nhau". Thứ lớp bốn câu như sau:

1- Ngã thuần túy có niềm vui, sau khi chết, có tưởng. Có danh thứ sáu mà không có nơi chốn. Luận Du-già quyển 87 chép: "Ba tĩnh lự địa dưới".

2- Ngã thuần túy có khổ, có tưởng sau khi chết, nghĩa là ở Nại-lạc-ca.

3- Ngã có vui, có khổ, sau khi chết có tưởng, ở cõi quỷ, bàng sinh, người, trời cõi Dục.

4- Ngã không có vui, không có khổ, sau khi chết có tưởng, ở tĩnh lự thứ tư trở lên, cho đến Hữu đảnh.

Trên đã nói mười sáu luận Hữu tưởng xong, tám Vô tưởng luận kia, tám phi hữu tưởng, phi vô tưởng luận, tức bốn câu sơ, nhị trong Hữu tưởng.

Hữu sắc hữu biên, v.v... là như trước đã dẫn giáo, các chỗ sẽ sinh có khác, nghĩa khác đều đồng, nhưng Du-già, v.v… chỉ nói có sắc, không nói xứ nào, Tỳ-Bà-Sa nói: "Ba Vô Sắc trước".

Có thuyết nói: "Có sắc, tức cũng gồm không có sắc kia, nếu nói không có sắc, tức không đến cõi kia, bảy đoạn diệt luận: Du-già quyển 7, Hiển Dương quyển 10 nói":

1- Ngã có sắc thô, thân do bốn đại thọ, gìn giữ chưa hoại. Bấy giờ bị bệnh, bị ung thư, cõi tên bắn. Nếu sau khi ta chết, đoạn hoại không có, bấy giờ, ngã là đoạn diệt.

2- Các tầng trời cõi Dục.

3- Các tầng trời cõi Sắc.

4- Các tầng trời thuộc về Không vô biên xứ.

5- Thức vô biên xứ.

6- Vô sở hữu xứ.

7- Các vị trời thuộc về Phi tưởng, phi phi tưởng xứ.

Đoạn diệt sau khi chết, bảy diệt trong đây, không nhất định là mình hay người, mà thân hiện nay, thân sau, tất cả đều được.

Năm hiện pháp Niết-bàn, luận Du-già quyển 7 nói Hiển Dương quyển 10 cho rằng:

1- Nếu ta đã giải thoát thì tâm sẽ được tự tại, quán được tự tại, nghĩa là đối với năm dục hấp dẫn của các vị trời, chấp mắc khư khư, nhiếp thọ, nô đùa vui dâm, thọ dụng tùy ý, đây gọi là được thanh tịnh hiện pháp Niết-bàn bậc nhất.

2- Nếu có người lìa pháp bất thiện ác cõi Dục, thì sẽ được trụ đầy đủ ở Sơ tĩnh lự.

3- Lìa bỏ tầm, từ, được trụ đầy đủ ở Tĩnh lự thứ hai. 4-Vì hỷ tầm, từ, nên được trụ đầy đủ ở định thứ ba.

5-Vì lìa bỏ hỷ, lạc v.v..., nên được trụ đầy đủ ở Tĩnh lự thứ tư, thanh tịnh hiện pháp Niết-bàn bậc nhất, đây gọi là phân biệt các kiến của bờ mé sau.

-Thứ ba, nêu ra thể tánh:

Ở đây, dùng hai kiến trong năm kiến làm thể:

1- Biên kiến.

2- Tà kiến.

Đối pháp quyển một chép: "sáu mươi hai kiến thuộc về kiến nào?

Đáp: "Hoặc hai, hoặc tất cả".

Giác Sư Tử giải thích: "Hai, nghĩa là tự tánh; tất cả gọi là quyến thuộc".

Luận Du-già quyển 58, Thành Duy Thức quyển 6 chép: "Sự khác nhau của biên kiến, nghĩa là bốn nhất phần thường luận, bốn biến thường luận chấp bờ mé trước và mười sáu Hữu tưởng, vô tưởng chấp bờ mé sau, đều không đáng, đều thuộc về biên chấp kiến của tám luận, bảy đoạn luận, v.v…

Luận Du-già quyển 58 chép: "sáu mươi hai kiến thuộc về thường kiến, nghĩa là các Biến thường luận, một phần Thường luận chấp bờ mé trước và các luận Hữu tưởng; luận vô tưởng chấp mé sau".

Thuộc về đoạn kiến: Nghĩa là Thất sự đoạn luận, bốn mươi thuộc về thường kiến; bảy thuộc về đoạn kiến, cộng chung có bốn mươi bảy thuộc về biên kiến.

Thành Duy Thức và luận Du-già quyển 58 chép: "Sự khác nhau của tà kiến: Có chấp bờ mé; hai vô nhân luận; bốn luận Hữu biên, v.v… bốn luận bất tử kiểu loạn và năm luận Hiển Niết-bàn chấp bờ mé sau".

Vì mười lăm kiến thuộc về tà kiến như thế, nên nói: "Thuộc về hai kiến tự tánh; hoặc và quyến thuộc đẳng lưu đồng loại thuộc về năm kiến, vì dẫn sinh nhau.

Như thế tức biểu thị rõ chung cho hữu phú bất thiện, thuộc về Tuệ biệt cảnh.

-Thứ tư là mê đế chung riêng:

Luận Du-già quyển 58 chép: "Người ngu đối với nỗi khổ, khởi hai mươi câu Tát-ca-da. Kiến này gọi là mê khổ Tát ca da kiến, kiến này là kiến nương tựa vào năm thủ uẩn; vì ngã đoạn, thường nên biên kiến chấp kiến cũng mê nỗi khổ. Y cứ vào kiến này tức biểu thị rõ bốn mươi bảy kiến thuộc về biên kiến, đều mê khổ đế; Ngã kiến, v.v... nhỏ hẹp đối với ba đế khác, thực hành biên kiến hẹp, không thể có sự phân biệt rộng này".

Hai luận vô nhân trong tà kiến kia, là mê Tập đế mà khởi, quyển 58 chép: "Thế nào là Mê Tập có tám tùy miên. Nghĩa là các Sa-môn, hoặc Bà-lamôn, vì chê bai nhân tà kiến, nên hai nhân mê Tập đế khởi. Bốn luận hữu biên, v.v... mê chung hai đế khổ, diệt đã khởi".

Luận Du-già quyển 58 chép: "Lại, có các kiến chấp biên, Vô biên, v.v…

Như thế, cũng gọi tà kiến mê khổ, cũng gọi là tà kiến mê diệt. Vì mê đối với quả hữu lậu, vô lậu, nên có chấp không chết, rối loạn, mê chung bốn đế, vì dùng đạo quyết định để làm câu hỏi, nên mê đối với bốn đế mà khởi đáp, nên ngũ hiện Niết-bàn luận.

Quyển 58 chép: "Vì Mê Diệt đế khởi mê chánh mê diệt, thuyết trong đây đã nói, đều do hành tướng đã nêu sâu xa, cho là mê đế, chỉ nêu hành riêng, không nêu hành chung. Kiến của hành chung, tùy thuộc thích ứng, tư duy mà nói. Đây gọi là tướng mê đế thứ tư".

-Thứ năm, là phân biệt hỏi đáp:

1- Các kiến như thế, có bao nhiêu hệ thuộc cõi Dục? Bao nhiêu hệ thuộc cõi Sắc? Bao nhiêu hệ thuộc cõi Vô Sắc? Nên từ trên đến dưới, mỗi thứ tìm tòi, xem xét, sẽ giải thích:

2- Lại hỏi: "Vì sao trong Biến thường luận, chỉ có hai mươi cho đến tám mươi, không vượt qua số này và ít hơn số này ư? Cũng không có chấp sự sinh ư? Cũng không có trí nhanh nhẹn ư?

3- Một phần trong thường, vì sao không có chấp hai định Vô sắc trở lên ẩn mất ư? Trong cõi Dục, vì sao không có hai trời và đường khác ư?

4- Vì sao một phần biến là thường kiến, tiêu biểu tên thường kiến; hữu tưởng, v.v... cũng không tiêu biểu tên thường kiến, tiêu biểu hữu tưởng, v.v…?

5- Vì sao đoạn diệt không chấp địa khác và đoạn diệt sau ba cõi ác?

6- Vì sao không có nhân? Sau thân, v.v... của địa khác, không có vô nhân?

7- Vì sao Vô sắc, v.v... và phương tiện của bốn căn bản, không chấp là Niết-bàn? Vì sao người, trời hợp thành một Niết-bàn? Triển khai trong đoạn diệt?

8- Các kiến, v.v... này, có bao nhiêu đối với tức uẩn sau khi ngã khởi? Có bao nhiêu lìa uẩn sau khi ngã khởi?

9- Hỏi: "Vì sao không nói giới kiến kể cả ngã kiến và tà kiến khác là số kiến 62 v.v...?

--------------------------------

CHƯƠNG BÁT GIẢI THOÁT

Tám giải thoát, dùng mười môn để phân biệt:

1- Nêu ra tên gọi.

2- Biểu thị rõ hình tướng.

3- Nêu thể.

4- Giải thích tên gọi.

5- Cảnh sở duyên (đối tượng duyên).

6- Sự chứng đắc của Phàm, Thánh.

7- Lìa chướng riêng biệt.

8- Y chỉ thân khởi.

9- Hai đắc khác.

10- Hữu lậu, vô lậu.

1. Nêu ra tên gọi:

Y cứ luận Du-già quyển 11, 12, 15, 73, Nhiếp sự phần quyển 96; Đối quyển 13 pháp, Hiển Dương quyển 4, Kinh Bồ-tát Tạng thứ 2 và thứ 20; quyển thứ tư v.v… nói:

1- Có sắc, quán các sắc giải thoát.

2- Trong tưởng không có sắc, quán sát sắc ngoài giải thoát. 3-Giải thoát tịnh, thân tác chứng, trụ đầy đủ.

4-Giải thoát Không vô biên xứ. 5-Giải thoát Thức vô biên xứ. 6-Giải thoát Vô sở hữu xứ.

7- Giải thoát Phi tưởng, phi phi tưởng xứ.

8- Giải thoát Tưởng thọ diệt, thân tác chứng trụ đầy đủ.

2. Biểu thị rõ hành tướng:

Luận Câu-Xá quyển 29 chép: "Trong có tưởng sắc, quán sắc ngoài, gọi là Sơ giải thoát. Trong chưa chế phục, trừ kiến, gọi là tưởng sắc, quán các sắc. Y cứ vào Văn Đối pháp, đầu tiên, người tu nghiệp, thân ở cõi Dục. Đã lìa dục cõi Dục, chưa nhập vào định Vô Sắc. Chế phục, trừ kiến, nghĩa là tưởng sắc; vì chưa lìa cõi Dục, cõi Sắc. Nếu tu tập lâu, nghiệp đã lìa sắc, dục, kiến, nghĩa là tưởng sắc an lập hiện tiền, mà quán tất cả các sắc trong, ngoài đã có, nghĩ là sáng suốt. Vì ba giải thoát trước, dẫn phát Thắng xứ, Biến xứ, v.v..., nên tức quán sắc ít nhiều, v.v... thuộc về thắng Xứ, nghĩ là sáng suốt, vì trừ chướng biến hoá, nên nghĩ là sáng suốt; vì không trừ tham dục, nên không nghĩ là bất tịnh.

Du-già chỉ nói: "Chưa được định Vô Sắc, chưa lìa nhiễm cõi Sắc, quán các sắc ngoài, là người giải thoát đầu tiên, vì chỉ nói theo nghiệp đầu tiên".

Giải thoát thứ hai, luận Câu-xá nói: "Người tập nghiệp đầu tiên, đã dựa vào định Vô sắc, hàng phục kiến, nghĩa là tưởng sắc, chỉ quán cảnh ngoài, để làm bất tịnh, gọi là trong không có tưởng sắc, quán các sắc ngoài; Đại thừa không như vậy".

Y cứ Đối pháp chép: "Người tập nghiệp đầu tiên, đã dựa vào định Vô sắc, hàng phục kiến, nghĩa là tưởng sắc, tập nghiệp đã lâu: Hoặc kiến, nghĩa là tưởng Vô sắc an lập hiện tiền, mà quán sắc ngoài, tạo ra tướng ít, nhiều, v.v... không đồng với quán sắc trong, ngoài đầu tiên, đều nghĩ là sáng suốt, vì chưa tự tại, nên ở đây chỉ quán ở người kia đã lìa sắc cõi Dục, tạo ra ít nhiều, v.v..., gọi là quán sắc ngoài. Vì đã lìa nhiễm, nên đặt tên là ngoài".

Vì quán tâm vượt hơn dần, nên hơi lược quán, vì vậy Du-già nói: "Lại, không nghĩ tướng sáng của tưởng kia, chỉ ở sắc ngoài, mà tạo ra thắng giải, tức quán ít nhiều, v.v... không nghĩ là sáng suốt, v.v... Nếu ở chỗ này đã được lìa dục, thì sẽ nói ở chỗ kia là ngoài, nên chỉ quán ở chỗ kia đã lìa sắc nhiễm, gọi là ngoài. Lại, do giải thoát đầu tiên quán sắc, không nói là ngoài; trong giải thoát kia có sắc, cũng không nói là bên trong. Duyên chung sắc trong ngoài, căn trần, v.v..., nghĩ là sáng suốt, nên nay, trong thứ hai này vì có sắc, có sắc căn, v.v…, nên quán sắc ngoài của người kia chỉ quán trần ngoài, tạo ra ít nhiều v.v..., không duyên căn, v.v... tạo ra ít nhiều v.v... Du-già lại nói: "Định của cõi Vô Sắc không hiện ở trước, đây là nói quán sắc ngoài, không dựa vào định Vô Sắc; vì định Vô Sắc không thể duyên sắc ngoài, nên hai giải thoát trên, đầu tiên, nghĩ là sáng suốt; sau, lại nghĩ là ít, nhiều v.v...; đầu tiên rộng, sau hẹp, hai quán có khác. Hiển Dương quyển 20 chép: "Hai giải thoát này, trừ chướng biến hóa, vì làm ra sự biến hóa được tự tại, nên biến hóa vì đã có chung cho bốn tĩnh lự, nên hai giải thoát đầu nương tựa chung bốn tĩnh lự, chỉ ở căn bản không phải là địa phần gần, tu cõi hân hoan kia đều không có quả thông, vì ở đây chấp nhận tu Dự lưu có quả chung, nên không đồng với Tĩnh lự Sơ, Nhị của Câu-xá, vì có thể dứt trừ tham hiển sắc trong Sơ tĩnh lự cõi Dục, tạo ra giải thoát thứ ba của quán bất tịnh. Luận Câu-Xá chép: "Chuyển vận tướng thanh tịnh, tạo ra ánh sáng thanh tịnh, vì chuyển biến hạnh giải, nên chỉ Tĩnh lự thứ tư lìa tám tai hoạn, vì tâm lóng sạch, nên địa khác dù có giải thoát tương tự, nhưng không kiến lập, vì chẳng phải tăng thượng. Nay, Đại thừa, nghĩa là như có một, đã được xả niệm viên mãn thanh bạch, do Đại thừa này vì dựa vào tu tập hạnh Thánh thanh tịnh tròn đầy, ở nội tịnh, các sắc bất tịnh, lần lượt đã lìa tưởng đối đãi nhau, lần lượt tưởng nhập vào, lần lượt tưởng một vị là hành tướng giải thoát thứ ba, nghĩa là đối đãi với các sắc tịnh. Đối với sắc khác, nghĩa là vì bất tịnh, chẳng phải không đối đãi nhau. Nên chỉ thấy một loại tịnh và bất tịnh, vì hai giáo không có, nên gọi là tưởng ban đầu. Lại, tánh bất tịnh đối với tịnh đã nhập theo; tánh tịnh ở trong bất tịnh đã tùy thuộc nhập, vì bị che lấp bởi lớp da mỏng, gọi chung là trong tịnh; vì hiện có ba mươi sáu vật bất tịnh, nên là tưởng thứ hai".

Như thế, lần lượt cộng chung tất cả sắc hợp thành tưởng giải thoát của nhất vị thanh tịnh, là tưởng thứ ba, mới gọi là thành tựu, chỉ ở địa Tĩnh lự thứ tư, vì có xả niệm tịnh. Luận nói vì vượt qua các nỗi khổ, vui, vì tất cả xao động, rối loạn đã tĩnh lặng, vì khéo luyện vàng; ở địa khác không như vậy, nên chỉ thứ tư, ở đây cũng bên trong không có tưởng sắc mà quán sắc ngoài.

Vì trước kia đã nói, nên lược không giải thích, mà nói lời xưng hô khác. Tiếp theo, về giải thoát của bốn Vô sắc, luận Câu-xá chép: "Dùng định bốn Vô sắc thiện làm tánh, chẳng phải vô ký nhiễm, chẳng phải giải thoát, nên cũng chẳng phải thiện tán, vì tánh nhỏ hẹp, yếu kém. Đạo giải thoát của phần gần, cũng được gọi là giải thoát; Vô gián cũng như vậy, vì đã đủ duyên địa dưới, người kia chủ yếu trái với địa dưới, mới gọi là giải thoát, nên phần nhiều nói căn bản: Vì phần gần chẳng phải hoàn toàn".

Hiện nay, Đại thừa đều đã lìa dục của địa mình, y cứ vào địa căn bản của mình, quán lại cảnh mình, suy nghĩ thắng giải, sao cho chướng lại càng xa, sinh ra đức cao quý, nghĩa là như có một người đối với không xứ kia đã được lìa dục, tức ở hư không, tư duy thắng giải, gọi là hành tướng giải thoát của Không xứ, ở Thức xứ kia đã được lìa dục, tức suy nghĩ thắng giải ở thức này, gọi là hành tướng giải thoát của Thức xứ. Đối với vô sở hữu xứ đã được lìa dục; tư duy thắng giải đối với Thức Vô biên xứ, đây gọi là hành tướng giải thoát của Vô sở hữu xứ. Hai thứ Không và Thức, gọi là hành tướng sở duyên của địa mình, gọi là Vô sở hữu xứ, do thức không có, là tên của địa mình, nên tư duy thắng giải đối với Thức xứ.

Đối với địa Hữu đảnh, đã được lìa nhiễm, lại không ở địa khác mà tạo ra thắng giải, cho đến khắp tưởng, có thể sinh xứ, tức ở xứ này, nên tạo ra thắng giải. Vô sở hữu xứ, gọi là xứ sinh của tưởng. Nay duyên tâm, tâm sở hữu này, gọi là phi tưởng, phi phi tưởng, nên tư duy thắng giải khắp ở xứ này, đến địa dưới phải biết. Trên đã nói lìa nhiễm, vì nói theo Vô học, nên luận Du-già chép: "Bảy giải thoát trước, đối với giải thoát mà sinh thắng giải. Thân chứng, nghĩa là đắc. Nếu theo Duy Thức, thì sẽ có hai sư thuyết minh":

1- Hàng phục nhiễm của Sơ định trở lên, được Diệt định.

2- Rằng, hàng phục nhiễm của định thứ tư trở lên, được Diệt định; nhiễm của vô sở hữu trở xuống, có thể có nghĩa hàng phục, khiến cho chướng chuyển biến xa, sinh ra đức trội hơn. Định của một địa Hữu đảnh chưa thể khuất phục, nên Du-già quyển 12 chép: "Hai giải thoát của Không, và Thức".

Có thuyết nói: "Lìa nhiễm của địa mình, nói hai địa trên, không có nói lìa nhiễm của địa mình. Hữu học, vô học, ảnh lược nói, nên chỉ lập căn bản, cũng chẳng phải giải thoát của Diệt tận phần gần, Đại, Tiểu thừa đều nói, tức định Diệt tận mà không có hành tưởng, vì bỏ tưởng, thọ. Nhưng khi sắp nhập Diệt định, có hai hành tướng, nghĩa là y cứ vào tưởng của Phi tưởng, phi phi tưởng xứ và tướng của cõi Vô Tướng".

Đầu tiên, là tu thành thục đã lâu, hai là vì nhập riêng.

3. Phát ra thể tánh:

Luận Câu-xá chép: "Tánh năm uẩn, quyến thuộc của ba tánh vô tham trước kia. Tiếp theo, định thiện của bốn Vô sắc làm tánh. Tánh diệt định thứ tám, trong đại thừa quyển 73 giải thích năm pháp rằng: "Chánh trí của thế gian, xuất thế gian làm thể".

Hữu lậu: Dùng chánh trí thế gian trong phân biệt làm thể. Vô lậu: Tức là trí vô phân biệt và trí Hậu đắc chỉ dùng tuệ làm tánh; duyên sắc, phi sắc và cảnh chân như, lìa chướng các định, sinh ra đức vượt hơn, vì chẳng phải công năng khác. Nếu thể tương ưng, thì bảy trí ban đầu dùng bốn uẩn làm tánh, vì tánh năm uẩn quyến thuộc. Luận Đối pháp chép: "Hoặc định, hoặc tuệ và các tâm, tâm sở tương ưng với định, tuệ kia, thừa nhận có đạo định trong cõi Vô Sắc, vì sắc vô biểu.

Giải thoát thứ tám dùng hai mươi hai pháp hạt giống của tâm nhàm chán làm thể, tức bất tương ưng hành uẩn.

4. Giải thích tên:

Đầu tiên, là giải thích tên chung, sau giải thích tên riêng. Đầu tiên, là tên chung:

Luận Du-già chép: "Bảy giải thoát ở trước, đối với đã giải thoát mà sinh thắng giải. Bảy pháp sở quán (đối tượng quán), phần nhiều là hàng phục; chủ yếu dứt bỏ nhiễm chướng phiền não của địa kia, mới bắt đầu tu tạo, gọi là đã giải thoát, là trừ chướng định, khởi công đức thần thông, mà sinh giải thoát, nên gọi là giải thoát".

Thân chứng của người kia: "Đối với nhiễm Hữu đảnh, chắc chắn chưa thể lìa, chỉ trừ chướng định mà địa kia đã có. Vì đây đã nói: "Phần nhiều đã lìa. Không như vậy, thì nói nhiều là vô dụng".

Giải thoát thứ tám, vì trái bỏ tưởng, thọ, nên gọi là giải thoát. Đạo Vô gián trước kia dù diệt chướng thọ, tưởng, đến định Diệt tận, thì được gọi là giải thoát. Vì khi nhập diệt định, tam thời trái bỏ chướng tưởng, thọ, vì đối tượng mong cầu, nay đã đây đủ, nên lập ra tên gọi giải thoát, chẳng phải thời gian, phương hướng, mới bắt đầu giải thoát chướng định. Vì trước đã lìa, nên vừa giải, vừa thoát.

Kế Đến: là số, kèm theo số để giải thích. Tiếp theo, giải thích về tên riêng: Đầu tiên, có sắc quán giải thoát các sắc. Luận Du-già chép: "Do hai nhân duyên gọi là có sắc. Nghĩa là sinh cõi Dục, được định cõi Sắc. Lại, vì đối với có ánh sáng, mà sinh thắng giải, nên ở đây quán cõi Dục, đối với nơi chốn vượt hơn, chế ít nhiều sắc tốt xấu, hơn kém, v.v..., vì nghĩ là sáng suốt nên chỉ gọi có sắc quán các sắc; không nói trong có sắc, quán sắc ngoài; có sắc kia, vì chẳng phải chỉ nội tại. Vì các sở quán (đối tượng quán) chẳng phải chỉ bên ngoài, nên tức quán sắc ngoài và quán có sắc, sắc ngoài đều là y chủ thích".

Trong không có tưởng sắc, quán sắc ngoài: Do hai nhân duyên, gọi là không có tưởng sắc:

1- Nghĩa là đã chứng đắc Đẳng chí Vô sắc, cũng tự biết rõ nhờ được định này, nên trước dựa vào định Không xứ, vì đã lìa nhiễm cõi Sắc, nên luận Hiển Dương chép: "Trong không có tưởng Vô Sắc, nghĩa là y cứ vào định Vô Sắc, vì ý giải tư duy".

2- Vì không tư duy tưởng ánh sáng nội tại, nên gọi là bên trong có sắc. Lời nói này, với ý biểu thị rõ: đã được bên trong Không xứ, lìa nhiễm sắc. Lại, tự tâm trong không, nghĩ là sáng suốt, gọi là trong không có sắc. Đã lìa nhiễm sắc ở đây, gọi là ngoài, nên Du-già nói: "Nếu đối với sắc này đã được lìa dục, thì nói sắc đó là ngoài. Vì lìa khỏi nhiễm, nên tức quán sắc này tạo ra sự hiểu biết ít nhiều v.v..., gọi là quán các sắc ngoài, nên Du-già nói: "Lại, không tư duy ánh sáng của tưởng kia, chỉ đối với sắc ngoài mà tạo ra thắng giải. Đây là nói không tạo ra quán sắc của ánh sáng, chỉ tạo ra sự hiểu biết ít nhiều về việc tốt, xấu, v.v… Bốn thắng xứ ban đầu, có sắc, không có sắc, đều quán riêng sắc, hoặc ít, hoặc nhiều. Đây là quán chung ít nhiều, tốt xấu, v.v... bên ngoài, nên đối với Thắng xứ, quán các sắc ngoài riêng và quán không có sắc bên trong; khi sắc ngoài cũng đều dựa vào không có sắc trong, tất nhiên, phải được định Không xứ, v.v... chánh quán sắc ngoài, khi tạo ra thắng giải, chỉ dựa vào định Sắc, không dựa vào Vô Sắc, vì Vô Sắc không thể quán ít nhiều, v.v... về các sắc, nên Du-già nói: "Định của cõi Vô Sắc không hiện ở trước, thanh tịnh giải thoát, thân tác chứng, trụ đầy đủ, luận Du-già chép: "Đã được xả niệm tròn đầy, dùng xả niệm này làm y chỉ, nhằm tu tập thanh tịnh hạnh Thánh tròn đầy, gọi là tịnh giải thoát. Đây là nói lìa tầm, từ hỷ, lạc trong Tĩnh lự thứ tư, vì chướng ngại ba địa, nên xả niệm viên mãn thanh bạch gọi là tịnh, nên Du-già nói; "Vì đã vượt qua các khổ, vui, vì tất cả loạn động đã vắng lặng, vì khéo mài luyện vàng, vì lìa chướng tịnh, bất tịnh biến hóa, nên gọi là giải thoát". Ở đây cũng không có sắc, mà quán sắc ngoài, tạo ra tịnh, bất tịnh đối đãi nhau, hội nhập nhau, một vị trưởng tịnh, do trước kia đã nói trong không có sắc, cho nên nay lược bỏ, đã lược bỏ ở trong, nên cũng lược bỏ đối với quán sắc ngoài v.v…, chỉ nói tịnh giải thoát. Luận Hiển Dương chép: "Hoàn toàn ý giải tư duy thanh tịnh mầu nhiệm. Nghĩa là môn lý tùy chuyển; hoặc khi dựa vào sự thành mãn của quán kia, lần lượt nhất vị chỉ quán tưởng tịnh, nên tạo ra thuyết này".

Thân tác chứng: Trong trụ này, tất cả Hiền, Thánh, phần nhiều là đối tượng trụ, nên thân nghĩa là thân ý; tác chứng, nghĩa là vì trong trí đoạn, được tác chứng, nên các căn được cảnh, chỉ có thân căn hợp nhau; vì vượt hơn căn khác, nên riêng được gọi là chứng.

Ở đây cũng như thế, ý giải tư duy của hai giải thoát trước, hãy còn thưa xa, nên đặt tên là giáo. Nay, giải thoát này trừ chướng rất vượt hơn. Ý Thánh nhận lấy gần, gọi là thân tác chứng, do bậc Thánh này phần nhiều trụ ở đây và giải thoát thứ tám. Vì hai trội hơn này, nên ở trong hai cõi, vì đều ở ngoài bìa, nên trong kinh, Đức Thế Tôn nói thân tác chứng. Đối với đoạn chướng của Sắc, Vô Sắc không có thừa, vì chứng đắc chuyển y vượt hơn sáu pháp khác, nên trụ đầy đủ, nghĩa là căn bản Tĩnh lự thứ tư tròn đầy; Thứ tám cũng vậy, Thứ chín định thứ lớp được tròn đầy.

Giải thoát không vô biên xứ: Luận Hiển Dương chép: "Hư không nghĩa là cảnh giới đối tượng duyên, đối trị với sắc, vì sắc kia trống rỗng".

Vô biên: Các tướng của mười phương không thể phân biệt, gọi là Không Vô biên xứ, nghĩa là các pháp đối tượng nương tựa của định trong địa kia; hành giả, chủ thể nương tựa, hư không, đối tượng duyên, chỗ của đối tượng nương tựa, gọi là Xứ.

Về tướng trạng của hai cõi Dục, Sắc dễ phân biệt; cõi kia khó hiểu, riêng đối với tên xứ, không Vô biên là cảnh, Xứ là chủ thể duyên. Xứ của Không Vô biên, là y chủ thích.

Dưới đây đều so sánh mà biết:

Thức vô biên xứ, nghĩa là duyên thức của hư không vô biên, nay duyên thức này mà làm cảnh giới; vì các tướng mười phương không thể biết, nên gọi là Thức vô biên xứ, tức nghĩa chủ thể duyên, như trước đã nói.

Vô sở hữu xứ: Nghĩa là cảnh giới ở trên thức xứ, khi tìm kiếm không có được chút nào, trừ vô sở hữu, không có cảnh giới riêng, vì chỉ thấy cảnh này rất vắng lặng, nên tế này của vô hữu, vượt hơn cảnh trước kia.

Quán cảnh trở lên, không có chút sở hữu nào, vì một chút cũng không có; nghĩa khác như trước đã nói.

Phi tưởng, phi phi tưởng xứ: Phi tưởng, nghĩa là vượt hơn tưởng vô sở hữu, vì vô sở hữu xứ cũng có tưởng thô.

Phi phi tưởng: Nghĩa là lúc tìm kiếm cảnh giới trên Vô sở hữu xứ, chỉ được duyên tâm, tâm sở rất sâu kín của vô sở hữu. Vì chỉ thấy sự rất vắng lặng này, nên Vô sở hữu xứ ở trước chỉ duyên thức xứ trở lên, một chút các cảnh cũng không có. Địa Hữu đảnh này chỉ duyên tâm, tâm sở, chủ thể duyên vô sở hữu xứ, không đồng với địa kia vì có tưởng thô, nên gọi là Phi tưởng, vẫn có, chỉ không có cảnh rất tĩnh lặng này, vì tâm tồn tại, nên gọi là Phi phi tưởng. Phi, nghĩa là không có. Vì chẳng phải hoàn toàn vô tưởng. Nghĩa khác đồng với trước; Tưởng, thọ, diệt, giải thoát thân tác chứng, trụ đầy đủ: Do hai thứ tưởng, và thọ mạnh mẽ, trội hơn pháp khác, vì là tâm, hành, nên nhàm chán các tai hoạn, sự lo nghĩ nhọc nhằn, tạm thời tìm sự nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi vào lúc này, chủ yếu đoạn chướng, gọi là giải thoát, cũng có thể phân biệt chung cho đắc, là y chủ thích. Nghĩa là quán có sắc, giải thoát, v.v... của các sắc:

5. Cảnh sở duyên (đối tượng duyên) giải thoát Sơ, Nhị, dùng tướng hiển sắc và tướng chân như làm cảnh sở duyên (đối tượng duyên).

Đầu tiên, là quán ánh sáng; sau là quán ít nhiều, hiển sắc, v.v... nên dần nhập chân quán, mới đoạn dứt chướng định.

Giải thoát thứ ba, dùng tướng nhiếp thọ và tướng chân như làm cảnh sở duyên. Tướng nhiếp thọ, nghĩa là đối với sắc tịnh, bất tịnh bên trong, lần lượt đối đãi nhau, lần lượt hội nhập nhau, lần lượt nhất vị, như trước đã nói.

Tiếp theo, bốn giải thoát đều dùng tự tướng và chân như làm cảnh. Ba giải thoát đầu, dùng sắc, vô sắc làm cảnh, bốn giải thoát tiếp theo, chỉ dùng Vô Sắc làm cảnh.

Vì dứt trừ hai chướng này, khởi quán hạnh này, nên giải thoát thứ tám không có đối tượng duyên.

6. Sự chứng đắc của phàm, Thánh:

Có nghĩa là nói: "Bảy giải thoát ban đầu, chung cho sự chứng đắc của phàm, Thánh; giải thoát thứ tám, chỉ có Thánh chứng đắc, vì chỉ là vô lậu, nên luận Hiển Dương quyển 73 chép: "Phàm phu, bậc Thánh đồng được ba giải thoát đầu, nhưng vì có khác nhau, nên hai đạo nội, ngoại, chứng đắc chung không khác, trừ chướng biến hoá, vì được tự tại. Nhưng luận Du-già quyển 15 chép: "Ba giải thoát đầu tiên, đối với tất cả sắc, vì được tự tại, ấy là có thể dẫn phát thần thông của các vị Thánh, không chung cho tất cả phàm phu". Luận Hiển Dương chép: "Đối tượng tạo tác của Bất hoàn và A-lahán, không nói phàm phu, không tạo tác ba giải thoát đầu tiên. Bốn giải thoát tiếp theo, luận Đối pháp chép: "Đệ tử Thánh đã chứng đắc, năng thuận với Vô lậu, là tánh thanh tịnh, mới gọi là giải thoát. Vì giải thoát vị ái, nên ngoại đạo dựa vào vô sắc, phần nhiều sinh vị ái, chấp làm Niết-bàn, nên do đây, biểu thị ngược lại, không phân biệt bốn giải thoát tiếp theo, chỉ có bậc Thánh chứng đắc; đệ tử bậc Thánh không được, nên chung cho ngoại đạo".

Có nghĩa: "Chỉ ba giải thoát trước, chung cho ngoại đạo, phàm Thánh đều được. Luận chỉ nói vì sinh đắc khác với giải thoát này, nên năm giải thoát sau, chỉ có bậc Thánh chứng đắc. Luận nói là đệ tử bậc Thánh, không nói vì phàm là đệ tử Thánh".

7. Sự khác nhau của lìa chướng:

Luận Hiển Dương quyển 20 chép: "Đối với trừ sáu chướng.

1- Chướng biến hóa: Đối tượng trừ của Sơ, Nhị, có công năng biến hóa, do quán ánh sáng, đặc biệt mầu nhiệm, vô ngại và vì ít, nhiều v.v..., được tự tại.

2- Chướng trụ hiện pháp lạc rất cùng cực.

3- Đối tượng trừ, luận Đối pháp chép: "Chướng chủ thể đoạn trừ sắc tịnh, bất tịnh, biến hóa và phiền não ở đây sinh khởi chướng; chướng này đối với sự biến hóa của sắc bất tịnh, sắc tịnh, thể tức tánh của vô ký trở ngại, gọi là phiền não, ba chướng qua, lại.

4- Đối tượng trừ: Vì các sắc là không, chẳng có chướng ngại, nên làm phương tiện đã nhập địa căn bản bốn định cõi Sắc, qua lại tự tại. Bốn chướng dẫn công đức vượt hơn Vô tránh v.v... do đối tượng dứt trừ của thức, vì thể của các công đức kia tức là thức. Đây là phương tiện đã khởi Tĩnh lự thứ tư, phát ra các công đức.

5- Các lậu và chướng hữu: Lậu. Nghĩa là phiền não; Hữu: nghĩa là Hữu đảnh; Hữu này tức hai pháp hoặc, khổ cõi Vô Sắc, do giải thoát thứ sáu, thứ bảy đã dứt trừ.

6- Giải thoát, chánh là chủ thể trừ.

7- Giải thoát, loại trừ hoặc sao cho xa lìa.

8- Đối tượng trừ: Vì diệt định tĩnh lặng trụ thù thắng cùng cực.

Hiển Dương quyển 15 chép: "Năm giải thoát sau, chỉ nói có công năng dẫn khởi tưởng, thọ, diệt v.v… đến. Y chỉ vị thành mãn, cũng không trái nhau".

8. Y chỉ thân khởi:

Năm giải thoát sau, thân ba cõi khởi, nhờ năng lực giáo, thừa nhận cõi Vô sắc khởi Diệt định.

Ba giải thoát đầu tiên, nghĩa là: "Chỉ có cõi Dục khởi, nhờ năng lực giáo, Du-già quyển 12 chép: "Do hai nhân duyên, gọi là có sắc, nghĩa là vì sinh cõi Dục".

Có nghĩa là: "Không đúng, vì chung cho hai cõi khởi, đầu tiên giải thoát Biến xứ là quả, tất nhiên ở cõi Dục, như đạo lý trước, sau khi thành mãn, Biến xứ là nhân; giải thoát là quả, nào ngại gì cõi Sắc cũng được khởi sau. Há sinh cõi Sắc không được gọi là có sắc hay sao? Không tạo ra bất tịnh, không chỉ ở cõi Dục".

9. Hai đắc:

"Ở Phật và trong thân Lân giác, Độc giác, tám đều lìa dục mà đắc; ở trong thân giác đều gia hạnh đắc, chủ yếu là nhiễm của địa kia, vì sau mới tu khởi".

10. Hữu lậu, vô lậu:

Ở thân Phật đều vô lậu, ở thân khác, thứ tám vô lậu, bảy thứ còn lại chung cho hữu lậu, vô lậu, chung cho hai thứ thế gian, và xuất thế gian làm thể".

-----------------------------------

CHƯƠNG NHỊ CHẤP

Hai chấp, dùng mười môn để phân biệt:

1- Nêu ra thể.

2- Giải thích tên gọi.

3- Thuộc về ba tánh.

4-Tương ưng.

5 Sở duyên (đối tượng duyên).

6- Tánh tướng.

7- Sinh khởi lẫn nhau.

8- Sự khác nhau giữa hai ràng buộc.

9- Các hoặc gồm thâu nhau.

10- Thứ tự hàng phục, đoạn trừ.

- Thứ nhất, nêu ra thể: Nếu chỉ nói sinh pháp ngã kiến, chỉ dùng Tát-ca-da kiến trong phiền não căn bản tuệ của Biệt-Cảnh để làm thể tánh nên luận Du-già chép: "Năm kiến thế tục hữu, tức vì phần tuệ, nên lìa tuệ, thể không có, chỉ dùng tuệ nhiễm hữu lậu làm thể, nếu nói sinh pháp ngã chấp, tùy thuộc vào đối tượng thích hợp với hai chấp cuộc hạn chung, tuệ đều có bốn uẩn dùng làm thể tánh.

- Thứ hai, là giải thích tên gọi: tiếng phạm là Tát-Ca-Da-đạt-lợi-sắc-trí, các sư Kinh Bộ nói: "Tát nghĩa là ngụy; Ca-da là thân, Đạt-lợi-Sắc-trí là Kiến; thân nghĩa là nhóm, tức tụ tập giả, nên nói duyên tụ thân, kiến là thân kiến. Phật ngăn Tát-bàđa v.v... ở đương lai, chấp là có thân kiến, nên nói là Tát ngụy rằng: Dù một tát nói cũng gọi là hữu, nhưng nay nói là Tư-đản-đề-để-tát. Tát ý nói là tiêu biểu cho ngụy.

Tát-bà-đa rằng: "Tát là nghĩa có, Ca-da v.v... như trước đã giải thích. Mặc dù là tụ thân nhưng có thật, thân là tên khác của tự thể. Duyên kiến này, lẽ ra phải gọi là tự thể kiến. Đức Phật ngăn các thuyết của các sư Kinh Bộ ở đương lai nói, vì người của thân ngụy, nên nói Tát là có. Dù nói một tát, cũng gọi là ngụy. Nay, lẽ ra phải nói A-tất-đềđể-tát, nên nói Tát là biểu thị có. Đại thừa giải thích rằng: "Nến nói tăng-cật-lạn-để-tát, ấy là trở thành nghĩa di chuyển. Do Tát-ca-da kiến này, Đại, tiểu thừa khác nhau, ý của Đại thừa, trong tâm đã hiện lên tướng dường như ngã, thể chẳng phải thật có là pháp giả. Lại, thể chẳng phải hoàn toàn không có tánh y tha, đối tượng nương tựa của ngã. Lại, bản ngã không có cảnh, tình vọng chấp có, có thể nói luống dối, dựa vào cảnh tướng sở biến (đối tượng biến), có thể nói là có thật, chẳng phải như tông khác nhất định là thật, nhất định là ngụy, nên gọi là di chuyển. Chánh nghĩa pháp chấp cũng chỉ có kiến này, nên Phật Địa chép: "Sở tri chướng: Nghĩa là chấp biến kế sở chấp là pháp thật, Tát-cada kiến làm thượng thủ. Pháp, ngã kiến, cũng đồng với sinh ngã. Ngã này gồm ngã sở, không chỉ ngã kiến, vì nói Tát-ca-da".

- Thứ ba, Thuộc về tánh: Ngã kiến ở đây, trong hai thức, ở thức thứ bảy, chỉ là hữu phú vô ký.

Như thế, Hiển Dương, Duy Thức, mỗi chỗ đều nói về ngã kiến, không cần trích dẫn rườm rà.

Thức thứ sáu kia lược có hai thứ: 1-Câu sinh.

2-Phân biệt.

Câu sinh: Dù thuộc về hữu phú, Quyết trạch quyển 58 chép: "Nên Tát-ca-da kiến câu sinh, chỉ thuộc về tánh hữu phu vô ký. Văn này vì chẳng phải một, nên không thể dẫn đủ.

Phân biệt ngã kiến ở cõi Dục, chỉ bất thiện, ở hai cõi trên, thuộc về hữu phú.

Đối pháp quyển tư chép: "Tự tánh bất thiện: Nghĩa là trừ tương ưng với ý nhiễm ô và phiền não của cõi Sắc, Vô Sắc, pháp còn lại, làm phát sinh phiền não, tùy phiền não của hành vi ác".

Việc này thế nào?

Nghĩa là hệ thuộc cõi Dục, không nhậm vận khởi, là bất thiện; nếu nhậm vận khởi, thì có thể phát sinh hành vi ác, cũng là bất thiện, pháp còn lại là hữu phú, vô ký, Duy thức quyển 6 chép: "Sân chỉ bất thiện, vì tổn hại cho mình, người; Chín thứ còn lại, chung cho hai; hai cõi trên chỉ thuộc vô ký, vì bị định khuất phục. Nếu phân biệt hệ thuộc cõi Dục khởi, thì chỉ là bất thiện, vì gồm thâu phát ra hành vi ác. Nếu là Câu sinh, phát ra nghiệp ác, tất nhiên cũng bất thiện, vì gồm thâu tổn hại mình, người. Phải biết rằng hai kiến thân, biên câu sinh, chỉ thuộc vô ký, không phát ra hành động ác, dù thường hiện hành, nhưng không chướng ngại việc lành, tức câu sinh ba cõi chỉ có hữu phú vô ký. Cõi trên phân biệt ngã kiến cũng như vậy. Cõi dục phân biệt chỉ tánh bất thiện, vì gây tổn hại cho mình, người".

Lăng-già quyển 2 chép: "Đại Tuệ! Hai thứ thân kiến hữu là câu sinh và vọng tưởng, thân kiến câu sinh, đoạn tham thì không sinh, thân kiến vọng tưởng trong hai thứ thân kiến, dứt nghi thì không sinh. Câu sinh, tức câu sinh thức thứ bảy và nhậm vận khởi trong thức thứ sáu. Vọng tưởng: tức là phân biệt khởi trong thức thứ sáu: luận Quảng Bách quyển 2 cũng chép: "Nhưng các ngã kiến lược có hai thứ".

1- Câu sinh.

2- Phân biệt.

Vì đồng với Duy thức quyển một này, nên biết thức thứ sáu, thứ bảy đều có hai chấp, hợp với tánh chung cho hai.

-Thứ Tư, Tương ưng tâm sở: "Ngã kiến câu sinh trong thức thứ bảy, Thành Duy thức quyển tư có nói: "Tâm sở chỉ chín pháp đều có, nghĩa là năm biến hành: Ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái, và mong cầu chưa được. Ở đây, chỉ nhậm vận không có dục. Thắng giải, ấn trì chưa nhất định. Ở đây duyên định không có thắng giải".

Niệm ký có huân tập. Đây là duyên cảnh hiện không có niệm. Định chuyên một cảnh. Đây thường là duyên riêng không có định. Tuệ tức là ngã kiến, nên riêng nói không. Tất cả tùy thuộc hoặc, đều y cứ vào sự khác nhau của phần vị trước, sau của phiền não để lập. Đây là vì thường một loại, nên không có tùy thuộc hoặc, ghét sự ăn năn. Duyên khởi ngoài giấc ngủ, tầm, từ đều phát, lời nói cạn, sâu, tìm tòi, suy lường, chuyển vận. Vì chuyển một loại này, nên ở kia không có. Kiến kiến không đi chung, chẳng có bốn kiến khác.

Hai, là nhận lấy phân biệt tà kiến mà sinh. Ngã sở, biên kiến vì dựa vào ngã kiến mà khởi, nên tà kiến này không phải đều có tham, giận trái nhau; kiến, nghi mâu thuẫn nhau, vì nhiễm tịnh khác nhau, nên ở đây chỉ có tám.

Có nghĩa: "Mười lăm đều có chín trước thêm tuệ, vì môn nói riêng, và năm tùy thuộc hoặc, đó là hôn, trạo, bất tín, biếng nhác, buông lung". Đối pháp quyển 6 chép: "Vì nhiễm khắp, nên 10 phẩm thô v.v... Vì thức tế này, nên vô tàm, vô quý chỉ là bất thiện, nên duyên ngoài tán loạn, vì trong thức này, không biết phạm phép tắc, ở đây không như vậy, nên không phải đều có".

Vọng niệm: Chủ yếu là niệm tăng tập, vì niệm này không như vậy, nên chỉ có mười lăm".

Nghĩa là nói mười chín đều cùng có, chín trước thêm sáu tùy là bất tín, biếng nhác, buông lung, vọng niệm, tán loạn, tuệ ác, Quyết Trạch quyển 58, vì nói nhiễm khắp, nên đều niệm, định, tuệ và hôn trầm, chuyên chú một cảnh, không xả có định, vô minh nặng có hôn trầm, không có trạo, vì trái nhau".

Nghĩa là ở đây đều có hai mươi bốn: chín trước và mười tùy hoặc, Quyết Trạch quyển 58 chép: "Tán loạn, biếng nhác, buông lung, trạo cử, hôn trầm, bất tín, tà dục, tà thắng giải, tà niệm, bất chánh tri, vì tâm nhiễm khắp, nên thêm năm Biệt cảnh. Nghĩa như thật: ở đây đều có mười tám; chín trước thêm tám tùy, dù không có Thánh giáo, nhưng về lý y cứ vào định mà có, nghĩa là hôn trầm, trạo cử, bất tín, biếng nhác, buông lung, vọng niệm, tán loạn, bất chánh tri, vô minh làm tánh: Vì đây đều có, nên thêm tuệ biệt cảnh; vì môn nghĩa khác nhau".

Không có dục, giải: Vì không nhiễm khắp, nên dù có năm, nhưng nói năm thứ là chánh, vì không trái với giáo nên thức thứ sáu đều có Tát-ca-da kiến Câu sinh, với năm biến hành, năm Biệt cảnh.

Ba hoặc căn bản: Nghĩa là: ái, mạn, si, mười định đầu trong tùy phiền não, không phải đều có, vì hạnh kia thô, ở đây có năm thuyết:

Thuyết thứ nhất, không phải đều có với tùy hoặc, vì không có phần vị riêng.

Thuyết thứ hai nói: năm tùy đều có, thuyết thứ ba nói: sáu tùy đều có, thuyết thứ tư nói: mười tùy đều có. Thuyết thứ năm nói tám tùy đều có, lấy đây làm chánh, với ba thứ đều cùng trong Bốn bất định, trừ một thứ ăn năn, hành tướng ăn năn thô, vì ngã kiến, v.v… là tế; pháp khác đều không trái, mâu thuẫn với nhiễm thiện, không đều có chung với thiện. Nay, y cứ vào chánh nghĩa, đều nên chấp nhận có với hai mươi bốn.

Tư duy như trước, chấp phân biệt ngã kiến hai mươi bảy đều có, thêm sân căn bản, đều không có hổ thẹn, vì được tương ưng với bất thiện cõi Dục. Đây là nói nghĩa dục, vì không phải nhất định đều có.

-Thứ năm, là giới hạn của sở duyên (đối tượng duyên): Thức thứ bảy đều có: Duy thức quyển tư, gồm có bốn thuyết:

1- Duyên với thể của thức thứ tám và vì tương ưng với ngã, ngã sở đều có, vì tâm sở không lìa thức. Luận nói: "Duyên thứ tám, y cứ sự thật duyên tâm sở".

2- Duyên kiến của thức thứ tám và tướng phần làm ngã, ngã sở, vì tướng, kiến đều có thức.

3- Duyên hiện hành thứ tám và hạt giống làm ngã, ngã sở. Hạt giống tức công năng của thức, không có vật riêng, không trái với lời Thánh nói.

4- Nghĩa thích đáng, chỉ duyên kiến phần thức thứ tám, chẳng phải thức nào khác. Loại thức này không chấp nhận khởi riêng, vì ngã sở kiến, nên về nghĩa nói là sở, đều như thuyết kia nói".

Du-già, văn Hiển Dương đều hoàn toàn thích đáng, nên không dẫn rườm rà.

Ba cách giải thích trước, do duyên tạng thức kia thì không hợp với chánh lý, nên cách giải thích sau là tốt. Thân kiến câu sinh trong thức thứ sáu, chỉ duyên với pháp có, chẳng duyên với pháp không. Duyên với pháp không, nghĩa là chủ yếu ở tư tưởng mạnh mẽ, mới khởi chấp. Giải thích nghĩa của ba phần, bài tụng nói:

Tánh cảnh không theo tâm
Độc ảnh chỉ theo kiến
Đới chất chung gốc tình
Chủng tánh đều thích ứng
Năng ăn, và sở ăn
Ăn này thân được trụ
Năng cầu hai đế không
Thường lợi ích hữu tình
Vì không bỏ sinh tử
Vì thiện vô cùng tận
Nên Bồ-tát quán không
Vì chủng tánh thanh tịnh,
Vì được các tướng tốt
Vì tịnh các Phật pháp
Nên Bồ-tát quán không
Pháp Bổ-đặc-già-la
Thật tánh chẳng thật có
Vô tánh, hữu tánh này,
Nên lập riêng hai không.

Thuật rằng: "Chủ thể ăn ở sáu căn. Do sáu căn, nên thọ dụng cảnh. Nay, quán sáu căn không có thật, hay thọ dụng, vì bờ mé kia trống rỗng, nên nói là nội không".

Đối tượng ăn, nghĩa là sáu cảnh không. Do chấp sáu cảnh là thật được thọ dụng. Nay, quán sáu cảnh không có thật, vì biến kế kia trống rỗng, nên nói là ngoại không.

Nương tựa ở đây, nghĩa là phù căn không, vì không là căn trong, nên chẳng phải trong, vì không đồng với khí thế gian bên ngoài, nên chẳng phải ngoài, vì chẳng phải trong, nên chấp là thật. Nay, quán là không, vì dứt bỏ bờ mé kia, nên nói là trong ngoài không.

Chỗ nương tựa: Đại không; khí thế gian có dụng vượt hơn; đối tượng của nước, lửa y chỉ, phần nhiều là hữu tình, gọi là Đại. Vì đối tượng trụ của hữu tình lớn, nên gọi là dụng vượt hơn. Đối tượng y chỉ của nước, lửa, phần nhiều là hữu tình, nên gọi là có; vì nay quán là trống rỗng, nên gọi Đại không. Chủ thể thấy, là không không, tức là trí chủ thể quán. Do xưa, quán cảnh kia là không, biến kế chấp kia, trí là hữu. Nay quán trí chủ thể quán cũng không, nên gọi là không không.

Như lý ở đây: Nghĩa là không thắng nghĩa, lý chân như là cảnh của trí vượt hơn, vì nghĩa của thắng, nên gọi là thắng nghĩa; cũng có thể chân lý vượt ngoài sự tục, gọi là thắng nghĩa; vì do biến kế, nên chướng ngại lý. Nay, quán biến kế không, làm sáng tỏ chân lý, vì y cứ vào đối tượng sáng tỏ, nên gọi là thắng nghĩa không.

Đối tượng cầu hai đế không: Hữu vi không, vô vi không. Vì chấp tất cả hữu vi là thật, nên hôm nay, vì quán là không, nên gọi là hữu vi không. Do chấp ba vô vi, chín vô vi, v.v... là thật. Nay, quán là không, vì dứt bỏ biến kế kia, nên gọi là vô vi không, tức chân như.

Lại, giải thích: "Bồ-tát vì cầu trí Nhất thiết, vì cầu Niết-bàn, vì mong cầu Bồ-đề, nên không biến kế chấp hữu vi kia. Vì cầu sắc vô vi chân không, nên nói là hữu vi, vô vi không".

Vì thường lợi ích hữu tình, nghĩa là rốt ráo không. Do quán hữu tình rốt ráo không, vì không thấy hữu tình, mình, người khác khác nhau, nên không thể thường lợi ích.

Không bỏ sự sinh, tử, nghĩa là không có bờ mé không. Do trí quán lý, do trí bỏ biến kế kia, vì do si, nên rộng hóa độ hữu tình, vì hữu tình không có bờ mé, nên không có bờ mé không.

Vì thiện vô cùng tận nên Tán không, cũng gọi là bất tán không. Bồ-tát đã chứa tư lương phước trí, cũng tận bờ mé vị lai, vì không có đoạn hết, nên gọi là bất tán không.

Vì chủng tánh thanh tịnh: Bổn tánh không. Pháp vốn không có duyên, bị hoặc che lấp. Nay, quán không dứt trừ hoặc, vì biểu thị rõ chủng tánh bản tánh, nên gọi là bản tánh không, vì cầu tướng tốt, nghĩa là tướng không. Vì quán tướng tốt, nên gọi tướng tốt không.

Vì tịnh các Phật pháp, nghĩa là tất cả pháp không. Do chấp khắp tất cả Tam bảo. Nay, quán dứt bỏ chấp, vì thanh tịnh các Phật pháp, nên gọi là tất cả pháp không. Lại, tất cả pháp cũng được không, không chỉ Phật pháp, pháp Bổ-đặc-già-la: Không có tánh không; vì thể của hai chấp sinh không pháp, không chẳng có tự tánh, nên gọi là không.

Tánh thật đều chẳng phải có, nghĩa là chẳng có tánh không, do tánh của sinh, pháp là vô tánh nên được sáng suốt, chấp vô vi có trở lại thành bệnh kia. Nay, vì quán vô sở đắc cũng không, nên gọi là không vô sở đắc.

Nói mười tám không: Trong mười bảy không trước, chia vô tánh thành hai, thêm không tự tánh. Không tự tánh của pháp chấp. Lại, có ba cách giải thích:

1- Vì chung, nên gọi là sinh; vì riêng, nên gọi là pháp.

2- Cũng vì gốc, nên gọi là pháp; vì ngọn, nên gọi là sinh. 3-Vì Thể, nên gọi là pháp; vì dụng, nên gọi là sinh.

Lại, vì thể dụng nên gọi là pháp, gọi là sinh. Mười chín không: "Trong mười bảy không trước, trừ vô sở đắc, lại thêm ba không":

1- Sở duyên (đối tượng duyên) không, tất cả cảnh sở duyên của thức đều không.

2- Sở duyên không tăng thượng. Tăng thượng không duyên tất cả đều không.

3- Lẫn nhau chẳng có không.

Trước kia đã nói các không, là lẫn nhau chẳng có không. Trong con bò không có ngựa, v.v... Nay quán tất cả tạo ra không, gọi là lẫn nhau chẳng có không.

Hai mươi không: Trong mười chín không trước, trừ ba không sau, nhận lấy trong mười bảy không chẳng có sở đắc, để thành mười tám không, trong đó, chia tán thành hai; tán không, và bất tán không. Nhị thừa vướng mắc có pháp, vì không của pháp có đó, nên là tán không.

Lại, giải thích Vô lậu, gọi là bất tán không, hữu lậu, gọi là Tán. Lại, mở rộng tướng không thành hai không. Tướng không, vì ba mươi hai tướng riêng, gọi tự tướng không; tám mươi vẻ đẹp, vì có bốn mươi chung, nên gọi là cộng tướng không. Nay, duy thức quán một phần ít trong toàn phần, mười bốn trong mười sáu; hoàn toàn pháp, phần pháp gọi là sinh. Lìa chỉ đối tượng chân.

Hỏi: Chỉ nói sinh không, có đều là duy thức không?

Đáp: Được, chỉ là Duy thức, tất nhiên kèm theo sinh không. Tự có sinh không, chẳng cần duy thức quán, gọi là sinh không của Nhị thừa.

QUYỂN 5

CHƯƠNG NHỊ THẬP THẤT HIỀN THÁNH

Lược dùng năm môn phân biệt:

1- Giải thích danh nghĩa.

2- Nêu ra thể.

3- Dựa vào thân địa.

4- Phế, lập.

5- Hỏi, đáp, quyết trạch.

-Một. Giải thích danh nghĩa, trong đó có hai:

1- Nêu tên gọi.

2- Giải thích tên gọi.

-Nói nêu tên gọi, gồm có hai loại:

1- Vị nhân.

2- Vị quả.

Y cứ vào nhân có mười tám, trong vị quả có chín thứ. Bốn mươi tám: Tức bốn Hướng, ba quả, tức thành bảy thứ, 8: Tín giả; 9, là Kiến chí. 10, là thân chứng; 11 cuối cùng bảy lần trở lại; 12, gia gia; 13, Nhất gian; 14, Trung bát; 15, Sinh bát; 16, Vô hành bát; 17, Hữu hành bát; 18, Thượng lưu bát. Đây tức là mười tám danh trong Hữu học, ý nói chín trong Vô học.

1- A-la-hán.

2- Tuệ giải thoát.

3- Câu giải thoát.

4- Lui sụt.

5- Tư.

6- Hộ.

7- Trụ.

8- Kham đạt.

9- Bất động.

Đây là y cứ Đại thừa, nêu ra tên gọi. Nếu y cứ Tiểu thừa, thì tên gọi kia có khác đôi chút. Trong Tiểu thừa, thì không có Tín giải, Kiến chí, nên lập Tùy tín hạnh, Tùy pháp hạnh, thay thế hai tên gọi trước. Nếu trong Vô học, không có La-hán, mở rộng riêng không lui sụt.

Từ trên đến đây, là nêu ra tên gọi đã xong.

Về giải thích tên gọi: Nói sơ quả: Gọi là Dự lưu. Dự, nghĩa là nhập; Lưu, nghĩa là loại, vì vào dòng Thánh nên gọi Dự Lưu.

Nói quả thứ hai: Gọi là Nhất vãng, tức dứt sáu phẩm hoặc, từ loài người sinh lên cõi trời, gọi là Vãng, từ cõi trời trở lại cõi người, gọi là Lai.

Nói quả thứ ba, gọi là Bất Hoàn, chín phẩm hoặc cõi Dục đều dứt hết, chỉ có một lần sinh, không sinh trở lại cõi Dục nữa, gọi là Bất Hoàn.

Nói bốn Hướng, tức là thú hướng tới, gọi là Hướng. Pháp bốn hướng không có nghĩa riêng.

Nói tín giải: Thuận theo tiếng nói của người khác mà sinh tín hiểu, gọi là Tín giải.

Nói Kiến chí: Pháp từng thấy có công năng đưa đến tận quả, gọi là Kiến chí.

Nói thân chứng: hai thứ tín giải, Kiến chí, bậc Thánh đến quả Bất Hoàn, vì trong thân, chứng đắc định diệt tận, nên chuyển vận gọi là thân chứng. Ở đây chỉ chuyển danh mà không chuyển thể; về mặt lý thuyết, lẽ ra phải nói rằng thân chứng diệt định; nhờ được diệt định, nên người được diệt định, tất nhiên đủ bảy giải thoát ở trước, nên Du-già nói: "Được tám giải thoát. Vì sao? Vì bảy giải thoát trước chung với phàm phu, nên phàm phu chỉ có bảy giải thoát ở trước, không gọi là thân chứng, diệt định không có tâm, chỉ có thân chứng đắc giống như pháp Niết-bàn, do thân chứng được, được gọi là Thân chứng. Thân, nghĩa là chứa nhóm. Hoặc lại y chỉ chứng, nghĩa là thành rõ ràng. Chứng và thân, y chủ, hai cách giải thích trái nhau đều được".

Nói bảy lần trở lại Hữu: là bảy lần qua lại cõi người, cõi trời, gọi là bảy lần qua lại hữu. Nói gia gia. Nghĩa là vì từ nhà đến nhà, nên gọi gia gia, trong đó có bốn:

1- Từ cõi người đến cõi người.

2- Từ cõi trời đến cõi trời.

3- Từ cõi người đến cõi trời.

4- Từ cõi trời đến cõi người.

Đều gọi là gia gia. Nghĩa là không nhất định. Hoặc nói người của Sơ quả không sinh lại. Hai nhà, từ nhà Trương chết, truyền sinh nhà họ Vương, nên nói gia gia.

Nói nhất gian: Một đời hoặc nửa đời tôn tại, gọi là nhất gian, tức là nghĩa gián cách, cũng gọi nhất gian. Gián, nghĩa là ngăn cách, tức do đời này, kham năng chướng cách đạo quả Thánh, gọi là gián. Nếu dứt ba phẩm, tức ba đời tồn tại; nếu dứt bốn phẩm, tức sinh hai tồn tại. Nếu khi dứt năm phẩm, tất nhiên dứt sáu phẩm. Năm sức Thánh đạo hợp như thế, nếu dứt bảy, tám phẩm, tức nửa đời tồn tại.

Hỏi: Làm sao biết được?

Đáp: Phẩm đầu thấm nhuần hai đời, hai phẩm trung, hạ đều thấm nhuần một đời. Phẩm trung, thượng, thấm nhuần một đời. Hai phẩm hạ, thượng thấm nhuần nửa đời; hai phẩm hạ, trung hạ, thấm nhuần chung nửa đời.

Hỏi: Nhân nào chỉ có bảy đời, không đến tám, Không bớt sáu?

Đáp: Vì nhờ năng lực Thánh đạo, nên như rắn độc khi tổn hại người, bước đi không quá bảy bước, vì thế lực của nọc độc, nên không giảm đến sáu, bảy bước, nghĩa là vì bốn năng lực, nên nói Trung bát, nghĩa là ở trung hữu mà bát Niết-bàn, gọi là Sinh bát. Nghĩa là ở sinh hữu và trung bản hữu mà bát Niết-bàn.

Nói Hữu hành bát Niết-bàn. Nghĩa là gia hạnh tinh tấn, siêng năng mà bát Niết-bàn.

Nói Thượng lưu: Từ địa dưới hướng lên địa trên, mà vì đi qua thọ sinh, nên gọi là Thượng lưu. Hỏi: Sao gọi là Bát Niết-bàn?

Đáp: Bát Niết-bàn: nghĩa đắc quả, gọi là vì mạng bát mà được La-hán, nên gọi Bát Niết-bàn.

Từ trên đến đây Hữu học đã xong, giờ nói về La-hán: Tức là nghĩa Ứng Cúng. Có ba hạng Lahán, như luận giải thích rộng.

Nói Tuệ giải thoát, có công năng đứt chướng tuệ, hoàn toàn đều có công năng cùng tận, gọi là Câu giải thoát. Nói lui sụt, lui sụt có hai nghĩa: lui mất quả trong Tiểu thừa, gọi là lui sụt, lui mất thiền định, trụ hiện pháp lạc trong Đại thừa, gọi là lui sụt. Hoặc đi dạo tản mát; hoặc không đi dạo tản mát; hoặc tư duy; hoặc không tư duy; vì đều lui mất, nên gọi là lui sụt.

Nói tư, nghĩa là nếu không tư duy, tức là lui sụt. Nếu tư duy xong, ấy là không lui mất, gọi là Tư. Nói hộ, nghĩa là nếu vì tác ý phòng hộ, nên không lui mất, nên gọi là Hộ.

Nói Trụ, nghĩa là ở vị bình đẳng cũng không luyện căn, cũng không lui sụt trụ ở vị bình đẳng, nên gọi là Trụ. Nói kham đạt: Tức là luyện căn; vì có khả năng tiến đạt, nên gọi kham đạt, tánh không lay động là căn nhạy bén không tiến, không lùi, gọi là bất động.

Từ trên đến đây là giải thích Đại thừa xong. Y cứ vào Tiểu thừa, tùy tín hạnh, tùy pháp hạnh, thuận theo tiếng nói của người khác mà sinh tin hiểu, gọi là Tùy tín hạnh.

Nói Tùy pháp hạnh: Là căn cơ nhạy bén, tự có công năng y giáo mà sinh ý hiểu, gọi là Tùy pháp hạnh.

-Hai. Phát ra thể chung, riêng:

Nói tướng chung: Nếu hữu học, vô học, dùng chung hữu vi, vô vi làm tự tánh.

Nói tướng riêng, trong đó có hai:

1- Hướng.

2- Quả.

Nói Hướng: Đầu tiên, là Hướng Dự lưu, tức nhận lấy bốn gốc lành và mười lăm tâm Kiến Đạo đến nay, gọi chung là Hướng.

Nói Hướng Tư-đà-hàm: Chung: sáu đường vô gián, năm đường giải thoát, sáu đường đạo gia hạnh, mà làm thể tánh.

Nói Hướng Na-hàm: Dùng chung chín vô gián, chín gia hạnh, tám giải thoát mà làm tự tánh.

Nói Hướng A-la-hán: Dùng chung chín địa, tám mươi mốt đạo Vô gián; tám mươi mốt đạo gia hạnh; 81 đạo giải thoát, làm tự tánh.

Dây là y cứ hữu vi phát ra thể tánh, nếu nhận lấy vô vi, thì về lý, không có trái.

Từ trước đến nay, phát ra hướng đến thể xong.

Nói thể của bốn quả: Quả đầu tiên, dùng chung tám mươi mốt phẩm vô vi.

Quả thứ hai dùng chung tám mươi mốt vô vi của Kiến đạo và nhận lấy sáu phẩm vô vi của tu đạo và nhận lấy tu tức khắc tám trí, mười sáu hạnh trong sáu phẩm của đạo giải thoát, mà làm thể tánh. Quả thứ ba: Dùng chung tám mươi mốt vô vi của kiến đạo và nhận lấy chín phẩm vô vi của tu đạo và nhận lấy tu tức khắc tám trí, mười sáu hạnh trong đạo giải thoát thứ chín, mà làm thể tánh.

Quả thứ tư: Dùng chung tám mươi mốt vô vi của Kiến đạo và nhận tám mươi mốt vô vi của đạo và nhận lấy sự tu tức khắc tám trí, mười sáu hạnh trong đạo giải thoát thứ chín, mà làm thể tánh.

Từ trên đến đây, là nêu ra thể tánh đã xong.

-Ba. Y chỉ môn địa của thân: trong đó có hai:

1- Dựa vào thân.

2- Dựa vào địa.

Nói dựa vào thân: Bốn quả, bốn Hướng, trong ba cõi, cõi nào khởi đầu tiên? Trong chín địa, địa nào khởi đầu tiên?

Đáp: Ba hướng của ba quả trước, chỉ có thân ở cõi Dục là chứng đầu tiên, khởi đầu tiên.

Quả thứ tư chung cho thân ba cõi. Hướng của quả thứ tư, đầu tiên khởi chỉ có dục, sắc. Nếu y cứ ở Địa luận, thì Hướng của ba quả trước chỉ một địa khởi. Nghĩa là địa cõi Dục, quả thứ tư kia chung cho chín địa. Hướng của quả thứ tư, chuẩn y quả, nên biết, giải thích dựa vào thân đã xong.

Nói dựa vào địa: Hai quả trước, chỉ tâm của Vị chí đầu tiên. Nếu là quả A-na-hàm, thì Vị chí đầu tiên và căn bản. Nếu là quả A-la-hán thì sẽ chung cho tâm chín địa, căn bản và Vị chí đầu tiên, tức chín địa thành, tức nêu ra dựa vào thân, địa đã xong.

-Nói thứ tư là phế, lập:

Hỏi: Trong quả nào mà lập tín hiểu, Kiến chí và thân chứng ư?

Đáp: Tín giải, Kiến chí, tức là Tùy tín hạnh, Tùy pháp hạnh.

Chuyển đến trong ba quả trước, hoặc Hướng, hoặc quả, lập làm Tín giải, Kiến chí, nếu trong quả thứ ba là thân chứng.

Hỏi: Tín giải, Kiến chí, hai thứ này có gì khác nhau?

Đáp: Tín giải là chậm lụt, Kiến chí là nhạy bén, do thuận theo tín hiểu chuyển vận, gọi là Tín giải; do thuận theo pháp hạnh chuyển vận thành Kiến chí, nên cả hai đều khác nhau.

Hỏi: Có bao nhiêu phẩm hoặc cùng tận, để kiến lập bốn quả?

Đáp: Chủ yếu là đoạn hết hoặc do kiến đoạn của ba cõi, nên lập sơ quả, nghĩa là dứt sáu phẩm dục, kiến lập thứ hai. Nếu đoạn chín phẩm cõi Dục đều cùng tận mà lập thứ ba. Kiến, tu ba cõi đều chung mà lập thứ tư?

Hỏi: Xứ nào kiến lập bảy lần trở lại?

Đáp: Y cứ vào nghiệp mà lập. Nghĩa là nghiệp của bảy lần sinh mà lập bảy lần trở lại. Đây là y cứ vào số nhiều mà nói, chẳng phải không có số sinh bốn, ba v.v..., không ngăn cấm.

Hỏi: Ở chỗ nào mà lập gia gia?

Đáp: Y cứ vào sự sinh, y cứ vào hoặc mà lập gia gia. Nói y cứ vào sinh, nghĩa là hai sinh, ba sinh.

Nói y cứ vào hoặc, nếu dứt ba, bốn phẩm, thì người kia đối trị hai, ba phẩm hoặc khác, gọi là gia gia.

Hỏi: Vì sao chỉ ở hai sinh, ba sinh mà lập gia gia?

Đáp: Nói về nghiệp trở lại đều do hoặc thấm nhuần, nghĩa nhuận sinh lược có hai thứ:

1- Chung.

2- Riêng.

Nói chung: Ba phẩm trước, do thấm nhuần bốn sinh; ba phẩm giữa, thấm nhuần chung hai sinh; ba phẩm dưới, thấm nhuần chung một sinh.

Nói riêng: Y cứ vào ba phẩm đầu, một phẩm đầu, do thấm nhuần 2 sinh. Tiếp theo, có hai phẩm đều thấm nhuần một sinh. Phẩm trung, thượng, thấm nhuần một sinh; hai phẩm trung, hạ thấm nhuần chung một sinh; ba phẩm sau, thấm nhuần chung một sinh, ở phẩm trung khác, một phẩm đầu, thấm nhuần riêng nửa sinh.

Tiếp theo, có hai phẩm, thấm nhuần chung nửa sinh. Y cứ bên nghĩa này, tức có nghĩa tổn hại sự sinh. Nếu dứt ba phẩm tức có ba sinh, tức tổn hại bốn nghiệp sinh. Phẩm khác có ba sinh tồn tại.

Nếu dứt bốn phẩm hoặc, thì có hai sinh. Nghĩa là vì thấm nhuần một sinh riêng của phẩm thứ tư.

Nếu y cứ vào bốn sinh để lập Gia gia, thì tức là lỗi lầm của sự sinh ngược dòng. Nếu dứt trừ ba phẩm hoặc, tức là dứt hết nghiệp của bốn sinh.

Cho nên, không được y cứ vào bốn sinh. Nếu dứt bốn phẩm, thì tổn hại nghiệp của năm sinh.

Nếu dứt năm phẩm, tất nhiên đoạn thứ sáu.

Hỏi: Vì sao như thế?

Đáp: Vì do quả gần, nên không còn ó trụ chậm chạp.

Hỏi: Vì sao chỉ đối với ba, bốn phẩm mà lập gia gia? Không y cứ vào dứt một, hai phẩm mà lập Gia gia?

Đáp: Năng lực của phẩm hoặc, v.v… Thánh đạo đều đồng. Nếu dứt hai phẩm, thì tất nhiên sẽ dứt thứ ba, vì đồng với phẩm trên, một nhập đoạn là dứt, không có nghĩa xuất quán.

Hỏi: Ba phẩm thượng bằng nhau không phát ra tức là dứt; ba phẩm của phẩm trung bằng nhau, lẽ ra cũng phải nhập đoạn?

Hỏi: Ở xứ nào mà kiến lập Nhất gian?

Đáp: Trong Hướng Na-hàm dứt bảy, tám phẩm, chỉ Nhất lai sinh mà lập Nhất gian.

Hỏi: Ở xứ nào mà lập năm thứ bát?

Đáp: Lập ở trong Na hàm.

Hỏi: Thượng lưu có bao nhiêu hạng?

Đáp: Thượng lưu có ba hạng:

1- Siêu việt hoàn toàn.

2- Siêu việt phân nửa.

3- Mất khắp.

Nói siêu vượt hoàn toàn: có hai loại:

1- Thượng lưu của tuệ lạc, vì chết ở Sơ thiền, sinh thẳng ngũ Tịnh cư, lạc, tuệ này vượt hơn hoàn toàn.

2- Lạc định siêu việt hoàn toàn, vì tử, sinh của Sơ thiền, ở Phi tưởng, đều đối với cái chết của Sơ thiền, thuận theo các địa đó mà được thọ sinh.

Nói mất khắp: Nghĩa là thứ lớp mà sinh, không được cách vượt, gọi là mất khắp. Ngoài ra, Nahàm, như đã nói trong phần giải thích tên gọi.

Hỏi: Vì sao kiến lập La-hán?

Đáp: đối với bốn quả để nói.

Hỏi: Vì sao kiến lập tuệ câu giải thoát?

Đáp: Vì diệt trừ hai chướng của định, tuệ, cũng lập hai thứ. Thế nào là tuệ giải thoát?

Nghĩa là đã có thể, chứng đắc các lậu hết hẳn. Đối với tám giải thoát, chưa thể thân chứng, an trụ đầy đủ, đây gọi là tuệ giải thoát.

Về nghĩa này với ý nói: Chướng có hai thứ:

Phiền não chướng làm chướng ngại tuệ Thánh, không được quả thích ứng.

2-Sự chướng: Y cứ vào phần vượt hơn mà nói, chỉ có dị thục sinh hỷ, lạc, xả thọ có chướng thấp kém. Đối với đẳng chí ở trên, không chịu cầu tiến, thuộc về sở tri chướng.

Vì người này chỉ có thể dứt chướng đầu tiên, nên tuệ ràng buộc được giải thoát. Tuệ, nghĩa là phân biệt, lựa chọn, vì lìa ràng buộc nên gọi là giải thoát. Tuệ sở hữu giải thoát, gọi là Tuệ giải thoát. Lại, các A-la-hán, là người được diệt định, gọi là Câu giải thoát, do năng lực định, tuệ, mà giải thoát phiền não, giải thoát chướng.

Hỏi: Vì sao kiến lập sáu hạng A-la-hán?

Đáp: Y cứ vào chủng tánh, để lập riêng sáu hạng khác nhau.

-Thứ năm, là hỏi đáp, quyết định lựa chọn:

Hỏi: Trong chín địa đều có hoặc kia, vì sao chỉ trong cõi Dục mà lập ba quả?

Đáp: Vì cõi Dục có đủ ba tánh, ba thọ phiền não lẫn lộn, nhiều sự sinh, lập nhiều quả.

Vì cõi trên chỉ địa định, không có nhiều phiền não lẫn lộn, nên không lập ra nhiều quả.

Hỏi: Trong bốn quả có hai thứ:

1- Nhận lấy hữu vi.

2- Nhận lấy vô vi.

Trong hai thứ này, thứ nào vượt hơn?

Đáp: Nhận lấy hữu vi là vượt hơn, vì hữu vi kia là nghĩa tiến thủ; nghĩa của pháp vô vi đâu có tiến thủ; vì vô vi không có nghĩa tiến thủ, nên cách giải thích trước hơn.

Hỏi: Vô gián, giải thoát, đạo nào được lập quả? Đáp: Chỉ ở trong đạo giải thoát mà lập quả, vì đạo giải thoát được quả tròn khắp, nên mới lập ra quả.

Hỏi: Vì sao chỉ nhận lấy giải thoát?

Đáp: Vì được quả bỏ hướng, được hơn, bỏ kém, chỉ có đạo giải thoát. Hơn nữa, vì đạo giải thoát có thể chứng vô vi, nên nhận lấy giải thoát.

Hỏi: Trong hướng, vì sao không nhận lấy vô vi kiến đạo? Trong quả nhận lấy Vô vi này là ý gì? Trong lập quả sao gọi nhập tám trí, mười sáu hạnh? Đáp: Vì nhận lấy tám đế trên, dưới; nói mười sáu hạnh: tức nhận lấy khổ, không, vô thường, v.v…

Hỏi: Ở cõi Dục, trải qua sinh Na-hàm, khi sắp qua đời, có nghĩa là được quả hay không? Vì Nahàm kia đã trải qua sự sinh, tất nhiên, về mặt không sinh, do dứt hoặc hết, nên không có lý mào sinh cõi Dục?

Đáp: Có hai cách giải thích:

1- Giải thích rằng: Y cứ trên thân Na-hàm, chắc chắn được quả, tất nhiên không có qua đời.

2- Rằng: Hỏi: Vì sao bậc Thánh không sinh Trung gian thiền? Và không y chỉ thiền đó mà được đạo Thánh?

Đáp: Vì không có nhiều dụng vượt hơn, không dựa vào tâm họ.

Hơn nữa, vì nhiều chướng nạn, nên không sinh thiền ấy.

Hỏi: Vị Chí đầu tiên thuộc về cõi nào? Hỏi: Thân chứng và câu giải thoát, có gì khác nhau?

Đáp: Nhân, quả hai thứ khác nhau: Thân chứng thuộc về nhân; Câu giải thoát là gồm cả quả.

Hỏi: Nếu quả đầu tiên tức là hướng của quả thứ hai, thì điều này có gì khác nhau?

Đáp: Mặc dù được Sơ quả, nhưng chưa tiến tới dứt hoặc do tu đoạn, thì chỉ gọi là trụ quả, không gọi là hướng. Nếu được quả xong, tiến đến dứt hoặc do tu đoạn, tùy thuộc vào đối tượng thích ứng của Hướng đó, là thuộc về Hướng.

Hỏi: Nếu có Hướng, cũng là quả phải không?

Có quả, cũng là Hướng phải không?

Đáp: Có, với bốn câu:

1- Có quả mà chẳng phải Hướng: Nghĩa là hai quả trung gian, không tiến đến đoạn vị.

2- Có Hướng chẳng phải quả, nghĩa là Hướng của Sơ quả.

3- Vừa Hướng, vừa quả, nghĩa là hai quả Trung gian, tiến đến đoạn vị.

4- Chẳng phải quả, chẳng phải Hướng. Trái với ở trên, nên biết.

Hỏi: Nhuận sinh một phẩm hạ, thượng, riêng thấm nhuần nửa sinh. Hai phẩm trung, hạ thấm nhuần chung một nửa sinh, làm sao đoạn dục phẩm thứ tám mà lập Nhất gian?

Hỏi: Trung bát Na-hàm nhận lấy Trung hữu nào?

Đáp: Chỉ nhận lấy tử sinh cõi Dục, ở cõi Sắc nhận lấy Trung hữu cõi này, không nhận lấy Trung hữu cõi khác.

Hỏi: Vì sao như thế?

Đáp: Vì sinh trở lại cõi Dục, hai tánh phiền não lẫn lộn của cõi Dục; cõi Sắc sinh một tánh không nhàm chán của cõi Sắc. Cõi Sắc sinh Vô Sắc, không có Trung hữu kia.

Hỏi: Hiền, Thánh có hai mươi bảy, vì sao các chỗ chỉ nói bốn quả?

Đáp: Có năm nghĩa:

1- Bỏ pháp mà mình đã từng được.

2- Được pháp mà mình chưa từng được.

3- Vì hạnh tập đoạn v.v… Nghĩa là nhóm họp các vô vi; dứt trừ các phiền não.

4- Được tức khắc tám trí.

5- Tu tức khắc mười sáu hạnh.

Vì đủ năm nghĩa này, nên lập bốn quả, cũng không có khó khăn, trở ngại.

Nghĩa Uẩn, giới, xứ của Đại thừa.

Nghĩa uẩn, giới, xứ có năm môn phân biệt:

1- Nói về tên gọi.

2- Nêu ra thể.

3- Phế, lập.

4- Một trăm pháp gồm thâu nhau.

5- Phân biệt mười tánh, v.v…

-Một là, Giải thích tên gọi: Đầu tiên, giải thích danh từ mới, cũ; sau, giải thích danh nghĩa. Tiếng phạm là Tắc-kiến-đà, đời Đường dịch là uẩn, xưa dịch là Ấm. Ấm này nghĩa là che khuất. Nếu nói ấm, bản Phạm nên nói là: "Bát-la-Bà-đà. Xét về tiếng ấm, nên dùng trái với hiện nay, ấm của âm, dương".

Các sư cận đại, đua nhau soạn ra cách giải thích khác lạ, hoặc nói rằng, lạt tụ, gọi là lạt ấm.

Cách giải thích này không hợp lý, nhưng y cứ vào y phương nói đạm ẩm, không nói ấm.

Lại, có cách giải thích khác lạ, không thể thuật đủ. Nếu nói khí ấm là bị che bởi vạn vật, tức là nghĩa tụ, mượn dụ đặt tên, thô có thể là con đường chung, nhưng chẳng phải gọi chính thức. Nay gọi uẩn, hoặc gọi là chúng, nên Pháp Hoa chép: "Sự sinh diệt của năm chúng"

Cách giải thích này cũng không hợp lý, vì nếu nói là chúng, thì bổn Phạm lẽ ra phải nói là Tăng-già; hoặc dịch là Tụ.

Cách giải thích này cũng không đúng. Nếu nói Tụ, thì bổn Phạm nên nói là Hạt-la-đà. Lại, nói là xứ, tiếng Phạm là nói A-dã-đát, cựu dịch là Nhập.

Cách dịch nghĩa này cũng không hợp lý, vì nếu nói nhập, thì tiếng phạm nói Bát-la-phệ-xá, kinh xưa cũng dịch là Xứ; như Không vô biên xứ, v.v... xứ A-luyện-nhã, đều đồng với cách dịch hiện nay. Tiếng Phạn nói: "Đà-Đô, đời Đường dịch là giới, có người dịch là Trì".

Y cứ sai lệch một nghĩa, chẳng phải lý cùng tận.

Giải thích về danh nghĩa: Câu-xá nói: Dòng họ của môn sinh, tụ nghĩa là uẩn, xứ, giới. Uẩn nghĩa là nhóm, vì có thể nhóm nghĩa của 11 thứ, nên Trung Biên chép: "Chẳng phải một và giản lược chung nghĩa phần đoạn, gọi là uẩn".

Luận Câu xá kia giải thích:

1- Chẳng phải một nghĩa, như khế kinh chép: "Các sắc sở hữu, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc trong, ngoài; hoặc thô, tế; hoặc kém, hơn; hoặc xa, gần".

Như thế, tất cả lược làm một nhóm, gọi là sắc. Uẩn, do nghĩa nhóm này, mà nghĩa uẩn được thành. Câu-xá giải thích rằng: "Trong kinh này, vô thường đã diệt, gọi là quá khứ. Nếu chưa đã sinh, gọi là vị lai. Đã sinh chưa dứt, gọi là hiện tại. Tự thân, gọi là nội, pháp khác gọi là ngoại. Hoặc y cứ vào xứ để giải thích. Có đối gọi là thô; không có đối gọi là tế. Khổ, tập ô nhiễm gọi là thua, kém, không ô nhiễm, gọi là vượt hơn. Khứ, lai gọi là xa; hiện tại gọi là gần, cho đến thức, uẩn, phải biết cũng như vậy".

2- Nghĩa giản lược, bao gồm, như kinh nói: "Như thế, tất cả giản lược, làm nghĩa ba phần đoạn của nhóm chung, như kinh nói: "gọi là sắc uẩn, v.v... đều an lập riêng tướng sắc uẩn v.v... Do nghĩa nhóm này mà nghĩa uẩn được thành". Luận Câuxá chép: "Nghĩa nhóm hòa hợp là nghĩa Uẩn. Đây là theo nội minh giải thích".

3- Nghĩa gánh vác, gánh nặng, như thế gian nói: "Vài gọi là uẩn, vì vật được chứa nhóm đây là y cứ theo thế tục giải thích.

4- Nghĩa có thể phần đoạn, là nghĩa uẩn. Thế gian có người nói: "uẩn của ông, trả lại, tôi sẽ cho ông (Đây là giải thích theo Thinh luận).

Xét 3 cách giải thích của Câu-xá và Trung Biên chẳng phải một và lược chung nghĩa phần đoạn, gọi uẩn, giống với ý của luận kia. Lại, giải thích uẩn có hai nghĩa:

1- Nghĩa tụ.

2- Nghĩa diệt.

Nên Tỳ-đàm chép: "Ấm nghĩa là nhóm. Xưa nói mười hai nhập là nghĩa sát. Nay, nói rằng xứ: là nghĩa sinh ra, vì sinh ra xứ môn của sáu thức".

Câu-xá chép: "Nghĩa dòng họ là nghĩa giới. Đại thừa giải thích tên gọi. Vì nghĩa hạt giống gọi là giới, nên luận Trung Biên nói: "Chẳng phải một và tổng lược nghĩa phần đoạn, gọi là uẩn, chủ thể, đối tượng nhận lấy, luận Đại thừa nhận lấy nghĩa hạt giống, gọi là giới. Chủ thể thọ cảnh, đối tượng liễu, dùng nghĩa môn, gọi là xứ".

- Hai là, nói về thể: Tánh năm uẩn kia chỉ là hữu vi, vì chứa nhóm, luận Câu-xá nói: "Uẩn không gồm thâu nghĩa vô vi, vì không tương ưng. Lại, Tỳ-đàm chép: "Ấm là pháp chết, chỉ gồm thâu hữu vi, tánh y tha trong ba tánh, vì bàn bạc là pháp có, nên chẳng phải biến kế sở chấp. Vì chung cho vô lậu, nên cũng là viên thành thật".

Trong năm pháp, thể là bốn pháp trước, chỉ trừ như, mười hai xứ, mười tám giới, chung cho dùng hữu vi, vô vi làm thể. Gồm thâu chung năm pháp, kể cả hai tánh, trừ tánh biến kế sở chấp, vì không có tự thể.

- Ba là phế, lập: Có hai môn:

1- Phế, lập chung ba khoa.

2- Phế riêng, lập năm mươi hai vị, v.v…

Về Chung, Câu-xá chép: "Vì ba ngu, căn, lạc, nên nói bà uẩn, xứ, giới. Luận kia tự giải thích: "Hoặc tâm sở ngu, chấp chung là ngã; hoặc chỉ ngu sắc, hoặc ngu sắc, tâm; Lại, căn cũng có ba. Nghĩa là nhạy bén, trung bình, và vì văn rộng, như thứ lớp ba thứ đó, Đức Thế Tôn nói ba uẩn, xứ, giới".

Du-già quyển 9 chép: "Bỏ, ba khoa lập, ly hợp". Tụng rằng:

"Tùy tăng nói sự ngã. Vì dựa sở hành này.

Sinh trì, chưa lược, rộng. Không có sở duyên căn".

Như trên nói về phế, lập chung đã xong. Giải thích văn tụng này, dưới đây tự rõ.

Kế là phế, lập riêng: Tùy tăng nói sự ngã: bỏ, lập năm uẩn. Đối pháp nói do đâu chỉ có năm? Vì biểu thị rõ năm thứ sự ngã; nghĩa là thân đủ sự ngã, nói năng sự ngã, tạo tác tất cả sự ngã pháp, phi pháp, sự tự thể của ngã, đối tượng y chỉ của sự ngã kia, như thứ lớp của sự ngã kia, phối hợp; giải thích năm uẩn không bớt, không thêm. Lại, Câu-xá chép: "Tùy thuộc giới, đồ đựng v.v... thô, nhiễm, riêng lẻ, thứ lớp lập. Đây cũng là phế, lập, cũng là thứ lớp trước sau". Luận chép: "Vì sắc có đối, nên là thô trong các uẩn; thô trong vô sắc, chỉ vì hành tướng thọ, nên thế gian nói: "Tay ta đau!" Đối đãi với phần thô của hai tưởng; vì tưởng nam, nữ, v.v... dễ biết rõ, nên hành uẩn vượt qua thức. Vì hành tướng tham, sân, v.v... dễ biết rõ, nên thức rất sâu kín. Nhận lấy chung tưởng cảnh, vì khó phân biệt. Hoặc từ sinh tử vô thỉ đến nay, nam, nữ đối với sắc lại yêu thích nhau. Đây là do ham vui vướng mắc vị lạc thọ, nên ham vui ái, lại vì từ tưởng đảo ngược sinh; tưởng trái ngược này sinh, vì phiền não, nên phiền não ấy dựa vào thức mà sinh. Phiền não này và ba phiền não trước, đều là thức ô nhiễm. Do đây, tùy thuộc vào nhiễm lập thứ lớp uẩn. Hoặc sắc, như đồ đựng, lãnh thọ thức uống ăn, tưởng đồng giúp vị. Hành động giống như người đầu bếp, thức dụ cho người ăn, nên tùy thuộc đồ đựng v.v..., lập ra thứ lớp uẩn. Hoặc tùy thuộc giới, lập riêng thứ lớp uẩn, nghĩa là trong cõi Dục, có các diệu dục, sắc tướng rõ ràng. Tĩnh lự cõi Sắc có hỷ, v.v... vượt hơn, tưởng thọ được rõ ràng".

Trong ba Vô sắc, nhận lấy tướng không, v.v... tướng tưởng được hiểu rõ. Tư trong hữu thứ nhất là hơn hết, với hành tướng được rõ ràng. Đây là

Thức trụ. Thức trụ trong đó, rõ ràng giống như thứ lớp hạt giống ruộng của thế gian.

Cho nên, thứ lớp các uẩn như thế. Do năm uẩn này không có lỗi thêm bớt, thứ lớp xứ, giới, tụng chép:

Năm cảnh trước chỉ hiện. Bốn cảnh chỉ sở tạo.

Dụng khác xa, chóng, sáng.

Hoặc tùy thuộc thứ lớp xứ (sợ rườm rà, không thể giải thích riêng). Y cứ luận Đối pháp quyển 1, phế lập 18 giới: Do thân đủ v.v... có thể giữ gìn sáu hạnh quá, hiện, vì tánh thọ dụng.

Giải thích rằng: Thân: Nghĩa là sáu căn trong. Đủ, nghĩa là sáu cảnh ngoài, tánh thọ dụng của hạnh quá, hiện. Nghĩa là sáu thức, chủ thể gìn giữ. Nghĩa là sáu căn, cảnh, công năng gìn giữ, vì duyên sở y của sáu thức quá, hiện, hay gìn giữ, thọ dụng vì không bỏ tự tướng, nên phải biết mười tám do nghĩa công năng gìn giữ, nên gọi là Giới.

Hỏi: Nguyên nhân nào xứ chỉ có mười hai?

Đáp: Chỉ do thân đủ, có thể cho thọ dụng sáu hạnh ở vị lai, làm môn sinh trưởng; nói chỉ, nghĩa là phân biệt sáu thức.

-Thứ tư, dùng uẩn, xứ, giới, với một trăm pháp gồm thâu nhau: Trong sắc uẩn, gồm thâu mười một sắc. Thọ uẩn gồm thâu số thọ trong biến hành; Tưởng uẩn gồm thâu số tưởng trong biến hành. Hành uẩn gồm thâu tâm sở tương ưng với bốn mươi chín pháp và gồm thâu hai mươi bốn pháp bất tương ưng hành, hợp với bảy mươi ba pháp. Thức uẩn chỉ gồm thâu tám thứ tâm pháp. Gồm thâu chung chín mươi bốn pháp, chỉ trừ sáu vô vi, nên Câu-xá chép: "Uẩn không gồm thâu nghĩa vô vi, vì không tương ưng".

Thuộc về mười hai xứ: Năm xứ trong, năm xứ ngoài gồm thâu mười thứ sắc, ý xứ gồm thâu tám thức; pháp xứ gồm thâu bốn loại pháp, cái gọi là sắc có năm thứ thuộc về sắc pháp, pháp xứ, là pháp tương ưng có năm mươi mốt, pháp bất tương ưng có hai mươi bốn, pháp vô vi có sáu, cộng chung là tám mươi sáu pháp.

Thuộc về mười tám giới: Chỉ mở rộng ý xứ, lập sáu thức giới, pháp khác đều đồng với xứ.

Phân biệt năm mươi thứ uẩn, v.v... dù không có một xứ nói đủ, nhưng nghiên cứu chung các luận, cũng có thể lập đủ:

1- Uẩn vô lậu thiện.

2- Uẩn thiện gia hạnh.

3- Uẩn thiện sinh đắc.

4- Uẩn bất thiện.

5- Uẩn hữu phú, vô ký. 6-Uẩn dị thục vô ký.

7- Uẩn vô ký oai nghi.

8- Uẩn vô ký khéo léo.

9- Uẩn vô ký biến hóa.

10- Uẩn vô ký tự tánh.

1. Là Sắc uẩn vô lậu: Có thuyết nói: "Chỉ có sắc do định sinh, phần ít sắc uẩn, không có năm căn v.v..., nghĩa thích đáng đều đủ". Kinh Niết-bàn chép: "Xả sắc vô thường, được sắc, v.v... thường". Kinh Thắng-man chép: "Sắc thân mầu nhiệm của Như Lai". Kinh Phật Địa chép: "Có năm thứ pháp gồm thâu địa vị Đại giác". Duy thức quyển 10, luận Phật Địa chép: "Thuộc về uẩn, xứ, giới, công đức của Như Lai".

Văn như thế, v.v... chứng thành chẳng phải một, không thể trích dẫn rườm rà. Dưới đây đều so sánh mà biết, nên pháp năm uẩn đều chung cho vô lậu ở Bách pháp, gồm có bảy mươi pháp chung cho vô lậu. Tám thức của tâm, Pháp thứ nhất là tánh thức uẩn. Pháp Tâm sở thứ hai có hai mươi ba, chung cho vô lậu, nghĩa là biến hành năm; biệt cảnh năm; thiện mười một; bất định hai, gọi là tầm, từ. Thứ ba, là sắc pháp có mười một, nghĩa là năm căn, năm cản và pháp xứ, gồm thâu giới đáng được ưa thích của bậc Thánh và sắc do định tự tại sinh. Bất tương ưng hành nhận lấy hai mươi hai, trừ định Vô Tưởng, vô tưởng sự, trừ tánh phàm phu nhận lấy phi đắc. Nếu nhận lấy tánh phàm phu, chỉ trừ hữu lậu, thì vô vi thứ năm có sáu, đều chỉ có vô lậu, vì dựa vào chân như giả lập, Đối pháp nói: "Không phi trạch diệt thắng nghĩa vô ký: cũng môn tùy chuyển, hai gia hạnh thiện, năm uẩn có năm mươi hai pháp. Tâm có sáu, trừ thức thứ bảy, tám.

Trong nhân, chỉ vì vô ký, đến vị chuyển y, ấy là vì vô lậu". Các pháp tâm sở có hai mươi lăm Biến hành, Biệt cảnh đều năm; thiện có mười một, Bất định có bốn.

Thứ ba, sắc pháp có ba, vì hai biểu sắc, thinh, tâm thiện gia hạnh phát. Định cộng giới và một phần vô biểu tán, vì là thiện gia hạnh.

Thứ tư, Bất tương ưng hành pháp, có mười tám pháp, trừ mạng căn, đồng phần, trừ Vô tưởng và danh, cú, văn, thân.

Đối pháp nói: "Một phần năm uẩn là thiện". Lại nói: "Thiện gia hạnh. Nghĩa là y chỉ trượng phu thiện, lắng nghe chánh pháp, tu tập tịnh thiện, pháp tùy pháp hạnh".

Đối pháp quyển 54 chép: "Sắc định oai đức, cũng chung cho hữu lậu. Các sắc này nói chung, nhân văn tuệ v.v... đã phát ra thân, ngữ, sắc v.v... cảnh định là tánh sắc uẩn, nên chung cho năm uẩn. Ba sinh đắc thiện năm uẩn, cộng chung bốn mươi chín pháp làm tánh. Trong ba sắc uẩn, nghĩa là biểu sắc, thinh và pháp xứ, một phần vô biểu tán; tâm sở pháp hai mươi bốn; biến hành; biệt cảnh, thiện mười, trừ khinh an và bốn bất định; bất tương ưng mười sáu, trừ mạng căn, đồng phần, ba vô tâm và danh, cú, văn thân. Nhận lấy sáu thức trong uẩn thức, trừ thức thứ bảy, thứ tám". Đối pháp chép: "Sinh đắc thiện: Tức trước đã nói phát khởi thiện thân, ngữ, v.v... do tập quán trước cảm được quả báo như thế, cho đến nói rộng, với tín v.v… vì đều nhậm vận khởi" Ý này là nói: "Tập đời trước làm nhân, tâm sở sinh đắc thiện, phát ra thân, ngữ làm tánh sắc uẩn. Bốn bất thiện, năm uẩn: Dùng sáu mươi lăm pháp làm tánh, sắc uẩn chỉ có ba, nghĩa là hai biểu sắc, thinh và pháp xứ, vô biểu bất luật nghi. Bốn mươi trong pháp tâm sở, biến hành, biệt cảnh và phiền não sáu, tùy phiền não hai mươi; bất định bốn. Trong thức uẩn nhận lấy sáu thức, trừ hai thức bảy, tám, nhận lấy mười sáu tướng trong bất tương ưng. Nghĩa là đắc, phi đắc, bốn tướng và mười thức sau, năm hữu phú vô ký, năm uẩn có năm mươi bốn pháp, sắc uẩn chỉ có hai, nghĩa là thân, ngữ biểu. Phạm đối với Thích tử, vì cầm tay, hành động lừa dối. Tâm pháp có bảy, trừ thức thứ tám, bảy thức còn lại chung cho hữu phú".

Pháp sở hữu của Tâm có hai, nghĩa là biến hành, biệt cảnh và phiền não căn bản năm, trừ sân, tùy hoặc có mười một, trừ bảy phẫn v.v… và vô tàm, vô quý hai, nhận lấy ba trong bất định, chỉ trừ hối.

Pháp bất tương ưng nhận lấy mười sáu, nghĩa là đắc, phi đắc, bốn tướng và mười thứ sau. Đối pháp quyển bốn chép: "Nếu phân biệt phiền não, tùy phiền não, hệ thuộc cõi Dục, là bất thiện. Nếu nhậm vận bất thiện, vì pháp khác đều là hành vi ác, thì cũng bất thiện, vì pháp khác đều là hữu phú vô ký, một phần năm uẩn là tánh hữu phú, năm uẩn bất thiện, so sánh mà biết".

Sáu dị thục, năm uẩn vô ký. Sắc uẩn có mười, nghĩa là năm căn, cảnh, chỉ trừ sắc pháp xứ, vì sắc đó chẳng phải dị thục. Đối pháp chép: "tám giới, tám xứ là vô ký: Y cứ toàn phần nói. Nay nhận lấy sắc, thinh, y cứ vào dung nhan".

Có thuyết nói: ""Tiếng" chung cho dị thục, y chỉ địa Bồ-tát, vì thường thực hành ái ngữ, như ngữ, đế ngữ, nên cảm được tướng tiếng Phạm âm của Đại sư, vì đồng với tướng tốt khác, chung cho dị thục, nên tiếng thuộc thứ ba".

-Thứ năm là chuyển: Tùy chuyển Tiểu thừa, vì tiếng chẳng phải dị thục, nên mười sắc uẩn đều chung cho dị thục, tâm pháp chung cho bảy thức, chỉ trừ Mạt-na.

Pháp sở hữu của Tâm, nhận lấy mười một, nghĩa là biến hành, biệt cảnh và nhận lấy miên trong bất định, trừ ba pháp còn lại.

Pháp bất tương ưng nhận lấy hai mươi hai, chỉ trừ hai định.

Thứ bảy là năm uẩn oai nghi lộ: Đối pháp chép: "Nghĩa là tâm sở ôm ấp phi nhiễm, phi tịnh, phát ra oai nghi, có ba mươi chín pháp. Trong sắc uẩn có bốn là sắc, hương, vị, xúc. Trong tâm pháp có năm, nghĩa là ý thức duyên phát oai nghi; bốn thức nhãn, tỷ, thiệt, thân duyên oai nghi, vì dùng tiếng phi oai nghi, nên không nói nhĩ thức. Nếu thức thứ tám, vì duyên bốn trần nên được gọi là duyên oai nghi". Tát-Bà-đa lại lập giống như tâm oai nghi, tức gồm có sáu thức, là thức uẩn oai nghi lộ".

Pháp sở hữu của Tâm có mười bốn, biến hành có năm; biệt cảnh có năm, và bất định có bốn. Pháp bất tương ưng có mười sáu, đó là đắc, phi đắc, bốn tướng và mười thứ sau.

Thứ tám là năm uẩn của công xảo xứ: Đối pháp chép: "Nghĩa là tâm sở phi nhiễm, phi tịnh, khởi xứ công xảo, là pháp của tánh vô ký, có bốn mươi hai pháp. Trong sắc uẩn có năm, tánh bốn trần công xảo của thân; công xảo của ngữ, tức là tiếng. Tâm pháp nhận lấy bảy thức, chỉ trừ Mạt-na, phát công xảo. Ý thức thứ sáu duyên công xảo; năm thức và thức tám. Pháp sở hữu của tâm nhận lấy mười bốn; Biến hành; Biệt cảnh và bất định bốn. Bất tương ưng nhận lấy mười sáu, được phi đắc; bốn tướng và mười thứ sau".

Thứ chín là năm uẩn vô ký biến hóa: Du-già quyển ba chép: "Biến hóa có hai":

1- Thiện.

2- Vô ký.

Nói sắc cảnh định cũng chung cho vô lậu. Dugià quyển 53 chép: "Nếu y cứ vào định vượt hơn, đối với tất cả sắc đều được tự tại. Gia hạnh các định khiến hiện ở trước".

Du-già quyển 98 chép: "Thần thông, không thể biến hóa bốn việc. Nghĩa là căn, v.v… do đây, chỉ có pháp xứ, sắc, thinh, hướng, vị, xúc là năm tánh của sắc uẩn. Nếu vì lợi lạc, ấy là tánh thiện, thuộc về hai môn đầu. Du-già dù nói ở cõi Dục cũng có các biến hóa, nhưng sự biến hóa này chung cho ba tánh, sinh đắc biến hóa chẳng phải quả thông".

Thiết lập vô ký: Thuộc về dị thục sinh, uẩn biến hóa này có ba mươi lăm pháp, sắc uẩn nhận lấy năm trần, nhận lấy cả sắc pháp xứ; tâm pháp chỉ nhận lấy một, nghĩa là ý thức thứ sáu, pháp sở hữu tâm có mười hai, nghĩa là biến hành, biệt cảnh và tầm, từ trong bất định. Bất tương ưng hành có mười sáu phi đắc, bốn tướng và mười thứ sau. Năm uẩn vô ký của tự tánh thứ mười, có bốn mươi bảy pháp. Trong sắc uẩn có năm trần tức khí thế gian ngoại và nuôi nấng năm. Đã chẳng phải vô ký, cho nên gọi là tự tánh. Tâm pháp chỉ nhận lấy hai, nghĩa là hai thứ thức thứ sáu, bảy; pháp tâm sở có mười, nghĩa là biến hành, biệt cảnh, nhị thừa khởi pháp chấp, không chướng ngại quả kia, nên chẳng phải nhiễm ô, là tự tánh, vô ký. Bất tương ưng hành có mười sáu, so sánh với trước, nên biết. Y cứ vào Dugià quyển ba chép: "Vô ký có bốn, không có tự tánh này"; Duy thức cũng chép: "Vì pháp chấp không chướng ngại Nhị thừa, nên thuộc về dị thục sinh". Y cứ Du-già quyển 66 chép: "Vô ký có năm: bốn thức đầu như trước đã nói, lại thêm vô ký tự tánh thứ năm. Nghĩa là các sắc căn nuôi lớn ấy, ngoài các xứ sắc, chẳng thuộc về dị thục, v.v... đều gọi là vô ký tự tánh, trừ thiện, nhiễm, xứ sắc, xứ thinh".

Xét văn này chỉ nói sắc uẩn là tự tánh, tánh vô ký, không nói bốn uẩn chung cho tự tánh. Nay, giải thích bốn uẩn cũng chung cho tự tánh, như pháp chấp mà Nhị thừa đã khởi, là dị thục sinh, cũng gọi là tự tánh, nhưng dị thục sinh có hai thứ:

1- Nghiệp cảm.

2- Tùng sinh.

Cho nên thứ ba Bổn địa nói bốn vô ký đã gầm thâu hết tự tánh. Trong Du-già quyển 66, mở ra thứ năm; nghĩa là Tùng sinh, thể chẳng phải dị thục, lập làm tự tánh. Hai văn trước, sau đều chung cho tự tánh".

Các sư thiếu phần này mà không luận, học trò sau này sẽ không có bằng cứ.

--------------------------------

CHƯƠNG CỰC VI

Lược dùng ba môn để giải thích:

I-Nói về duyên mắt:

1- Mắt thịt: do nghiệp v.v... sinh.

2- Mắt trời: do tu phương tiện mà khởi.

-Hai thứ này đều là nhãn căn sắc uẩn.

3- Mắt tuệ.

4- Mắt pháp.

Trong sáu thông dưới, sẽ phân biệt rộng. Dugià quyển 54 chép: "Trừ mắt thịt, mắt trời, công dụng của mắt khác, tất cả cực vi, làm cảnh sở hành, do mắt trời kia, chỉ nhận lấy hai phía trước, sau, trên, dưới, biểu trong nhóm sắc, hoặc sáng, hoặc tối, tất nhiên không thể nhận lấy xứ sở cực vi, do thể cực vi, vì nhờ tư duy phân tích mà kiến lập; mắt trời còn không thể, huống chi mắt thịt".

II-Giải thích sai trái, vặn hỏi:

Kinh Hoa Nghiêm chép: "Bồ-tát có thể biết được ngần ấy vi trần hình thành cung điện vô sắc. Du-già quyển 54 chép: "Lược nói cực vi có mười lăm thứ: năm căn, năm trần, bốn đại và sắc Phật của pháp xứ".

Giáo như thế, v.v... chỗ chỗ chẳng phải một, Cực vi không có, nghĩa đó làm sao thông suốt? Vì mặc dù không có thể tánh cực vi chân thật, nhưng nếu dùng tuệ để phân tích thì lượng cực vi kia cũng thành, nói là biết cực vi kia, vì như lượng đã bị phân tích?

Du-già quyển 54 chép: "Chẳng phải tập hợp cực vi thành, vì sắc thô". Thành Duy thức chép: "Khi các thức biến chuyển, tùy thuộc lượng lớn, nhỏ hiện tức khắc một tướng, chẳng phải biến đổi riêng, mà là tạo ra rất nhiều cực vi hợp thành một vật thể". Luận Du-già cũng nói: "Do các tụ sắc lúc mới sinh diệt đầu tiên, sinh toàn phần, về sau, lúc diệt, không đến cực vi, mà nửa chừng tận diệt, cũng như giọt nước". Ở đây là nói rõ như chiếc búa nóng nấu nước, lúc tắt, nhỏ nhen, không đến bờ mé, vì các sắc hết ngay".

Đọc dài đoạn văn trên, phiên dịch giải thích về cực vi này; các sắc diệt liền không đến cực vi mà là diệt tận ngay, không phải như giọt nước nhỏ bé đến biên tế. Các sắc diệt sau cùng cũng không đến bờ mé, không chỉ có cực vi chân thật có thể thấy, nên chỉ biết sự phân tích của tuệ. Lại, có rất nhỏ trong thể dụng, cái gọi là A-noa, đây gọi là cực vi, việc này có lỗi gì?

III-Nói thắng lợi:

Đã không có cực vi mà nói có là nghĩa gì?

Du-già quyển 54 chép: "Có năm thắng lợi, nghĩa là do phân tích một sắc nhóm họp, dùng phương tiện an lập đối với cảnh đối tượng duyên, ấy là có thể thanh tịnh tu tập rộng lớn. Lại, có thể trừ dần Tát-ca-da, kiến, dứt các kiêu hãnh, ngạo mạn, chế phục triền phiền não và có khả năng loại trừ nhanh chóng chấp các tưởng". Trong đây ý nói: "Tu quán pháp không, chủ yếu là phân tích các sắc, trước đến cực vi, dứt các phiền não, sau nhập vào không. Vì nghĩa vĩ đại này, nên nói là cực vi" có thể phân tích, tâm kia do người nào tạo tác? Thuộc về đế nào? Đều nên tư duy riêng".----------------------------------

CHƯƠNG SẮC CỦA QUẢ ĐỊNH CAO HƠN

Lược dùng ba môn để phân biệt:

1- Phàm, Thánh khởi.

2- Cảnh nhiều, ít.

3- Đại chủng sinh.

1) Phàm, Thánh khởi:

Có nghĩa là: "Sắc này chung cho phàm, Thánh khởi". Du-già quyển 54 chép: "Tâm tự tại chuyển vận tánh sâu kín: nghĩa là các sắc của hai cõi Sắc, Vô Sắc". Như Khế kinh nói: "Có tâm bình đẳng, trời từng huân tập tâm sáng trong như ngọc ở cõi người. Thuận theo sức tu này, dừng lại trên địa xứ, không lượng ở đầu một sợi lông, xoay vần không chướng ngại nhau". Lại, A-hàm chép: Các vị trời cõi Vô Sắc, rơi lệ như mưa; đứng cạnh bên Phật".

Những chứng cứ như thế v.v... đều có. Ở chỗ kia đã nói: "các tầng trời của hai cõi trên, hiện thần thông ở đây". Lại, nói: "Sắc này cũng chung cho vô lậu, dẫn giáo như trước, nên biết được Phàm, Thánh đều có, có khả năng hiện khởi". Hiển Dương chỉ nói: "Chư Phật, Bồ-tát y cứ vào đại oai đức vượt hơn con người để nói, há nhị thừa v.v... cũng không biến đổi, các tầng trời cõi Vô Sắc, cho rằng, rơi lệ như mưa? Du-già lại nói: "Dù chẳng phải xuất thế do định hiện hành, nhưng vì năng lực tăng thượng của định kia, nên có công năng hiện ra".

Thuyết kia nói: "Bậc Thánh có trí thế gian, xuất thế gian, chẳng phải phân biệt phàm phu, vì không thể hiện khởi, nên biết được sắc này chắc chắn chung cho Phàm, Thánh".

Có nghĩa nói: "Sắc này chẳng phải do phàm phu khởi", Hiển Dương quyển 18 chép: "Trong mười hai tướng của sắc pháp xứ, chỉ nói do chư Phật, Bồ-tát, v.v... biến hiện".

Du-già này lại nói: "Lìa chẳng phải do sự vận hành của định xuất thế, nhưng do năng lực tăng thượng của định kia, nên có một công năng hiện, tất cả bậc Thánh còn chẳng thể khởi, huống chi các phàm phu".

Du-già quyển 65 chép: "Chủ yếu là tâm định rất tĩnh lặng, đủ oai đức, mới có khả năng làm duyên sinh ra sắc định này, cũng chẳng phải không có tâm oai đức lớn và cảnh giới đối tượng duyên của tâm bất định, há loại phàm phu mà được oai đức, tâm định rất tĩnh lặng hiện khởi các sắc". Lại nói: "Việc này không thể suy nghĩ bàn luận, vì nếu phàm phu khởi thì lẽ ra thuộc về suy nghĩ, bàn luận. Do đây, chỉ cho Thánh, không phải do phàm khởi". Nhưng Du-già quyển 33 chép: "Thần thông của các bậc Thánh thuận theo sự đã biến hiệu; thuận theo việc đã làm; thuận theo đối tượng thắng giải, tất cả đều có thể như thật thành xong, không có đổi khác, có thể có công dụng, chẳng phải thần thông của bậc Thánh thì không thể như thế, cũng như trò ảo thuật chỉ có thể nhìn thấy, chứ không thọ dụng được, nên cách giải thích trước là hợp lý".

2) Cảnh nhiều ít:

Du-già quyển 53 chép: "Sắc của quả định vượt hơn, đối với tất cả sắc đều được tự tại". Lại, luận Hiển Dương quyển tư chép: "Đầu tiên, Thắng xứ nói: "Hoặc hơn, hoặc kém, nghĩa là sắc thuộc về sắc, thinh, hương, vị, xúc tịnh, bất tịnh, vì sự chứng thành của các giáo như thế v.v..., nên biết được sắc này hoặc giả, hoặc thật, hữu lậu, vô lậu, đều đủ năm cảnh". Du-già quyển 89 chép: "Sự biến hóa không thể làm bốn việc, nghĩa là quả nghiệp, tâm, tâm sở và căn, nên tất cả pháp khác đều có thể biến hóa".

Du-già quyển 64 chép: "Sắc của quả định, phải biết chỉ có tướng của hiển sắc, v.v… vì thiếu nhân tố sinh đối với hương, v.v... kia, và không có công dụng: "Đại ý lời nói này, chỉ rõ nhân gia hạnh trước của định phàm phu thua kém, nên chẳng thể biến hóa sắc, hương, vị, v.v... Dù cho lại biến hóa sắc, hương, vị, không có công dụng thật kia, thì không phải các bậc Thánh". Lại, vì thế lực của định hữu lậu nhỏ hẹp, yếu kém, nên chỉ có thể biến khởi ba thứ sắc, tiếng, xúc; còn hương, vị thì không có, vì nhân gia hạnh trước, nên không thể biến khởi. Lập ra biến hóa không có công dụng, chẳng phải tâm vô lậu. Lại Nhị thừa chẳng thể biến khởi hai thứ hương, vị, chẳng phải các Bồ-tát. Lại, dùng cõi Dục làm bản chất, nghĩa là có đủ năm cảnh, lấy sắc cõi trên làm bản chất: không có hai thứ hương, vị; địa cõi trên không có hạt giống, vì đã gởi hai thứ nhân. Lại, biến đỗi cõi Dục có năm thứ biến hóa cảnh giới cõi Sắc, nhưng chỉ có ba, vì tùy thuộc có, không". Dù cho nhờ biến hóa, hương vị kia cũng không có công dụng thật, vì bản chất chúng không có, nếu sắc của quả định không thay đổi hương, vị. Kinh Hoa Nghiêm chép: "Tỷ căn của Bồ-tát nghe mùi hương của cung điện cõi Vô Sắc. Kinh Pháp Hoa nói: "Vì trì tụng kinh này, nên ánh sáng, âm thanh thanh tịnh cùng khắp, cho đến Hữu đảnh. Mới sinh lui mất, nghe mùi hương, đều có thể biết, dị thục của cõi kia, trước chẳng phải quả định thì đây là hương gì? Vì chẳng phải riêng biến hóa hương mà không biến hóa vị, nên biết quả định chung cho hương, vị".

Luận Pháp Hoa chép: "Đây là cảnh trí, vì tỷ căn biết, nên các căn dùng lẫn nhau, không thể nói năng". Du-già quyển 65 chép: "Sức định oai đức dù không tương ưng với tự tướng của mười xứ có sắc kia, nhưng giống với tự tánh sắc kia, biểu hiện rõ; Năm căn như nhãn, v.v... đã không có công dụng lẫn nhau, hai pháp hương, vị, công dụng của chúng không có ba sắc, tiếng, và xúc có công dụng thật, nên căn là chỗ dựa của thức, căn của đối tượng biến hóa; thức không y chỉ, có thể không có công dụng thật; Hương, vị thì không như vậy, vì công dụng của chúng đâu không có hương vị, sắc, xúc, đồng với loại kia, giống như căn, chỉ thuộc về năm sắc, v.v... này, vì như đạo lý trước kia đã thành lập rộng; sắc của quả định, chắc chắn đủ năm cảnh, vì cõi Phật Hương Tích chắc chắn đủ năm".

3) Đại chủng sở tạo:

Du-già quyển 54 chép: "Sắc của quả định vượt hơn, nếu y cứ vào định hệ thuộc sắc này, thì tức là do đại chủng sở tạo hệ thuộc sắc này". Lại, nói: "Vì năng lực định vượt hơn sắc này, nên trước khởi đại chủng, sau đó mới biến đổi khác sắc tạo mà sinh. Lại, nói sắc này không dựa vào đại chủng, nhưng từ duyên ảnh tượng của chủng loại sắc kia, vì tam-ma-địa phát, nên cũng nói là sở tạo của đại chủng sắc kia, chẳng phải dựa vào sắc kia sinh, nên gọi là Tạo".

Du-già quyển 66 chép:

Hỏi: Thế Tôn nói: Có sắc không có kiến, không có đối, nên nói là đại chủng sở tạo nào? Nếu tâm định của người kia tư duy ảnh tượng các pháp có sắc của cõi Dục, sinh khởi, thì phải nói đại chủng sở tạo cõi Dục, tư duy đại tạo cõi sắc cũng vậy.

Luận Hiển Dương quyển 18 chép: "Sắc của pháp xứ có mười hai tướng; tướng sắc thứ năm chẳng phải đại sinh thật, mặc dù văn của năm sắc này, tạo ra các thuyết khác lạ, nhưng hiện nay, rõ ràng nghĩa tạo không quá ba thứ, vì do đại chủng gần xa của đối tượng duyên kia chỉ có hai loại".

1- Nghiệp, v.v... của xứ xúc đã sinh ra bốn đại chủng gốc, đại chủng này chung cho thân căn, thân thức, cảnh của thức thứ tám của câu ý.

2- Đại chủng của quả định pháp xứ, đây chỉ là cảnh thứ thứ tám của ý định, chung cho hoặc cảnh của năm thức, trước chung cho đẳng lưu dị thục, nuôi lớn; sau, chẳng phải dị thục. Trước chỉ thuộc về hai cõi Dục, Sắc, hoặc chung cho không hệ thuộc; sau, chung cho hệ thuộc cõi Sắc và không hệ thuộc".

Văn đầu tiên trong năm, y cứ ở đại tạo sau, tùy thuộc chủ thể duyên, vì thuộc về xứ định.

Nói hệ thuộc ở đây: là nghĩa nhiếp thuộc, chẳng phải nghĩa ràng buộc. Không như vậy, thì vô lậu lẽ ra chẳng phải đại tạo, vì tùy đối tượng nhiếp thuộc, vì đại chủng tạo trong Đẳng chí nào? Nghĩa văn thứ hai trước kia, cũng đồng với ở đây, nghĩa là do định vượt hơn, trước biến chuyển đại chủng, sau sắc tạo sinh, tức tùy thuộc chủ thể duyên đại tạo của địa định, tùy thuộc nhân trước của định và có nghĩa nói: "Đại chủng kia, trước khởi thật vì cùng thời gian, nên đại chủng này chung cho tạo cảnh của ba thức, cũng thừa nhận năng lực định, trước khởi cảnh đại bản thức, v.v... của quả định; sau vì tạo ra sự sinh, nên hoặc văn này nói: "Y cứ vào đại tạo đầu tiên, nhất định trước sinh, khởi đại chủng của xứ xúc; sau, vì tạo ra sự sinh, nên văn thứ ba trước kia, y cứ vào đại tạo ban đầu, dù định cũng biến chuyển đại chủng sinh gần; cảnh sắc biến chuyển đầu tiên, chủ yếu nhờ ở xứ xúc, vì pháp xứ mới khởi, nên nói là đại chủng sở tạo của bản chất; vì đại chủng định yếu kém, nên không nói y cứ khởi, nhưng chẳng phải đại tạo gốc". Ý của luận Hiển Dương nói: "Chẳng phải thật đại chủng của xứ xúc sinh gần, nói là chẳng phải đại tạo; chẳng phải trong định không có. Nếu đại chủng đầu tiên chung cho cảnh của ba thức, thì đại chủng đều có thể tạo ra sắc của quả định sau, nương tựa nhau mà có nghĩa thành tạo, là tạo thưa xa, chẳng phải tạo gần gũi. Nếu về sau, đại tạo chung cho cảnh của ba thức, thì đều có thể làm y chỉ khởi sắc tạo, nên là tạo gần, không phải tạo xa. Nếu dựa vào tạo đầu tiên, thì hoặc dùng đại chủng dưới có thể tạo sắc trên; hoặc dùng hữu lậu có thể tạo ra vô lậu; hoặc dùng xứ mình có thể tạo ra xứ của người. Nếu dựa vào tạo sau, thì chỉ tạo tự loại, chẳng phải người tạo, chỉ dùng hữu lậu để tạo ra hữu lậu, chỉ dùng vô lậu tạo ra vô lậu; chỉ dùng xứ mình, trở lại tạo ra xứ mình, đều chỉ cho loại của mình, tất cả chẳng phải người khác, dù có các xứ tạo lẫn nhau không đồng.

Y cứ về mặt lý, tìm tòi văn, không vượt qua hai văn này: "Có nghĩa nói: Đại tạo, một cách tổng quát, nên lập ba, cũng có đại tạo không dựa vào quả định của bản chất, được thành tạo, nên văn đầu tiên ở trước nói: "Tùy thuộc vào đại chủng tạo của định bị hệ thuộc: Đây là y cứ vào đại chủng sở tạo của xứ y, như dựa vào xứ này, khi nhập định kia, không nương tựa bản chất, trước, quyết định tâm trông mong, không biến đổi đại chủng; sắc sở tạo chẳng lẽ không có đại tạo? Tức tùy thuộc vật giường, tòa, v.v... đối tượng nương tựa, nên lẽ ra phải lập riêng xứ y chỉ thứ ba, dù không có gia hạnh, nhưng vì thuộc về lý, tức đại của xứ xúc, thế lực thần thông thuộc về đại chủng đầu tiên trong hai đại chủng, như Du-già quyển 62 nói: "Phương tiện của tu, đầu tiên khởi thân nào khác với sự tương duyên của cõi".

Các nghĩa như thế v.v..., như chương riêng của Duy thức sớ có nói.

CHƯƠNG THẬP NHÂN

Mười nhân lược dùng mười môn để phân biệt:

1- Nói về tên gọi.

2- Nêu ra thể chung, riêng.

3- Ba chủng, mười nhân, giải thích lẫn nhau về rộng, hẹp.

4- Nói về phế lập.

5- Y cứ vào mười lăm xứ để lập.

6- Nói được năm quả.

7- Với bốn duyên gồm thâu nhau.

8- Với hai nhân gồm thâu nhau.

9- Ba tánh.

10- Nhân hỗ nói về cuộc hạn chung lẫn nhau.

11- Hỏi đáp phân biệt.

-Thứ nhất, trong phần nói về tên gọi có hai:

Đầu tiên, là nêu tên, hai là giải thích tên gọi..

I/ Về nêu tên: Có làm bài tụng rằng:

Tùy đối đãi sinh thọ.
Phát định sự trái không?
Nhiếp thọ, sáu y sinh.
Khác đều một xứ khởi.

Đầu tiên, là nêu tên gọi, có thể biết.

II/ Giải thích tên gọi: Y cứ trong mười nhân, gồm có ba loại:

1- Có ba thứ, chung cho trì nghiệp, y chủ.

2- Có một thứ, chỉ y chủ.

3- Có sáu thứ, chỉ trì nghiệp.

Nói ba thứ, nghĩa là tùy thuộc thuyết dẫn phát định khác. Nếu tùy thuộc là đối tượng tùy thuộc, như thấy, nghe, v.v... thì nói là chủ thể thuyết, tức là tùy thuộc nói về tên gọi.

Tùy thuộc nói nhân: Y chủ thích. Nếu tùy thuộc cũng là chủ thể tùy thuộc ấy, thì tức là cũng tùy thuộc, cũng nói về tên gọi.

Tùy thuộc thuyết: Trì nghiệp thích.

Nếu nói phát là tên quả, dẫn, là nhân, thì dẫn của phát, gọi là dẫn phát (y chủ thích).

Nếu phát cũng là nhân, thì vì vừa dẫn, vừa phát, nên gọi là dẫn phát: Trì nghiệp thích.

Nếu khác là quả, thì định: là nhân; định của khác, gọi là dị định:

Y chủ thích.

Nếu cả hai đều có nhân, vừa định, vừa khác, thì sẽ gọi là định khác: Trì nghiệp thích.

Nói một y chủ: Nghĩa là nhân đồng sự; sự là quả, đồng là nhân, đồng của sự, gọi là sự đồng (y chủ thích).

Tự sáu nhân còn lại, đều là trì nghiệp thích. Vừa quán, vừa đối đãi, cho đến không trái nhau, đều là trì nghiệp thích.

Nếu nói tùy thuộc nói nhân, v.v... thì mười thứ đều là trì nghiệp thích. Thuận theo nói tức nhân, cho đến vì không trái nhau, tức là nhân.

Hỏi: Trái nhau tức nhân: há diệt cũng có nhân sinh hay sao?

Đáp: Không đúng, chỉ làm nhân cho lá úa vàng, không làm nhân cho đã diệt mầu xanh, v.v... tức là vì chủ thể trái với nhân, nên gọi là nhân trái nhau; quả trái nhau nghĩa là các lá úa vàng.

-Thứ hai, trong phần nêu ra thể có hai: Đầu tiên, là chung; sau là riêng. Nghĩa là vì pháp, nên có tưởng, vì tưởng nên có danh, vì danh mà khởi tánh ngữ, chủ thể giải thích, nói về các pháp, gọi là thuận theo nói nhân, dùng tiếng làm tánh. Nếu đối đãi với sở quán, thì sẽ có bốn câu: Năng, sở, thọ, tánh, tức là số thọ trong biến hành. Xúc, tưởng, tác ý, tư, không có sự khác nhau của năm vị này, nên không phải. Xúc dù có công năng này, nhưng thọ ở đây, không phải là lãnh nạp, riêng gọi là tánh lãnh thọ. Nếu đối đãi với đối tượng thọ, có chủ thể thọ, thì tánh thọ chỉ cho số thọ. Trong đối tượng thọ lãnh, chung cho tất cả pháp.

Nếu đối đãi với chủ thể thọ, thì sẽ có đối tượng thọ: tức chủ thể thọ, chỉ cho tánh thọ; trong đối tượng thọ, chung cho hữu vi vô vi, vì pháp khác có chung.

Nếu đối tượng thọ, đối đãi với một thứ đối tượng thọ, nếu dùng chủ thể thọ đối đãi với chủ thể thọ ấy, thì cũng giống nhau.

Nhân dẫn dắt kia: Hạt giống xa, có công năng dẫn dắt đến quả, gọi là nhân dẫn dắt, tức dùng hạt giống trong, ngoài của ba tánh hữu lậu, vô lậu làm thể. Nếu hạt giống này làm thấm nhuần, thì đều làm tánh của nhân sinh khởi. Nếu duyên xa nhiếp thọ nhau, khiến cho quả được khởi, thì chỉ trừ thể pháp duyên xa của hạt giống, nhân dẫn phát kia, nghĩa là hoặc chủng, hoặc hiện, ba tánh hữu lậu, vô lậu y chỉ nhau, đồng làm thể trong y chỉ, dẫn dắt. Nếu định khác với nhân, thì cũng sẽ dùng pháp, v.v... này làm thể. Cõi trước rộng, tánh hẹp; cõi sau hẹp, tánh rộng.

Đồng sự: Bắt đầu từ quán đối đãi, sau cùng đến định khác, đồng giải thích một quả, tức dùng pháp trước làm thể. Nếu nhân trái nhau, thì sẽ được có duyên trái làm tánh. Không mâu thuẫn nhau, nghĩa là đối với sinh, trụ, thành, được, đều không bị chướng ngại, tất cả pháp làm tánh.

Trong đây, là nêu ra thể chung.

Thứ hai, phát ra thể riêng, riêng có ba thứ mười nhân, đó gọi là thanh tịnh, tạp nhiễm, vô ký.

Vả lại, thanh tịnh: Dùng tiếng lành vô lậu, vì thuận theo nói thể của nhân; quán nhân đối đãi, tức dùng tánh thọ trong vị thanh tịnh làm thể, tất cả hạt giống làm hai thể sinh khởi, cái thấy vô lậu, thuộc về tướng sơ, y xứ làm thể, hạt giống, hiện hành vô lậu kia là thể của nhân dẫn phát. Nếu hạt giống vô lậu và hiện hành làm thể của nhân khác với định, thì sẽ bắt đầu từ thanh tịnh, quán đối đãi, sau cùng, đến nhân khác với định, đều dùng pháp này làm thể của nhân đồng sự của các pháp tạp nhiễm, pháp thanh tịnh, trái nhau trong sự sinh, trụ, thành, đắc, chẳng chướng ngại nhau.

Pháp vô lậu, nghĩa là làm thể của nhân không trái nhau.

Mười nhân của tạp nhiễm thứ hai: Nếu tiếng Tát-bà-đa chung cho ba tánh, do tánh nghiệp này tức là tiếng tông của Đại thừa chỉ vô ký, vì do quả báo này. Nếu y cứ vào tánh nghiệp biểu, giả gọi là thiện, ác, tức dùng âm thanh bất thiện này làm tánh. Quán nhân đối đãi: Đối đãi khổ thọ, có lạc thọ: hoặc đối đãi với ác tri thức, đối với đối tượng thọ đối đãi này, có chủ thể thọ.

Bảy chi vô minh, v.v... gọi là nhân lôi kéo, dẫn dắt; ái thủ có ba chi, gọi là nhân sinh khởi, do nhiếp thọ nhau xa, đối với căn, cảnh, gọi là nhân nhiếp thọ. Cõi dưới dẫn ba phẩm trên sinh nhau; hoặc hạt giống, hoặc hiện hành, làm thể của nhân dẫn phát.

Định khác với nhân: hay chiêu cảm đắc quả của cõi v.v... của mình làm thể, đầu tiên, là từ quán đối đãi, sau cùng cho đến khác với định, đều có đắc quả chung, gọi là nhân đồng sự. Nếu pháp vô lậu, v.v... là nhà trái nhau pháp tạp nhiễm thì sẽ không chướng ngại nhau ở trong sinh đắc thành, trụ, tức gọi là nhân không trái nhau.

-Thứ ba, là mười nhân vô ký: Tiếng vô ký là tùy thuộc nói là tánh nhân. Nếu nhận lấy lúa mì, v.v... bên ngoài là pháp vô ký, chỉ có Y chủ thích, cũng là trì nghiệp thích.

Tiếp đãi đủ có qua lại, v.v... gọi là nhân quán đối đãi của pháp vô ký. Hạt giống lúa, v.v... chưa thấm nhuần về trước, gọi là nhân dẫn dắt; nếu đã thấm nhuần trở đi thì gọi nhân sinh khởi. Nước, đất, nhân công, v.v... giúp đỡ với nhau, gọi là nhân nhiếp thọ. Dựa vào giống sinh cọng, v.v... trở đi, gọi là nhân dẫn phát. Nếu lúa mì chắc chắn sinh lúa mì, không sinh đậu, v.v... thì gọi là khác với định, bắt đầu từ quán đối đãi, sau cùng đến khác với định, đồng chiêu cảm quả của một việc, gọi là nhân đồng sự. Sương v.v... kia là nhân trái với lúa. Không chướng ngại nhau đối với sinh, trụ, v.v... gọi là nhân không trái nhau.

Ba tánh thứ ba, giải thích lẫn nhau về nhân, quả, rộng, hẹp. Trong mười nhân, lại thanh tịnh: Nếu thuận theo thanh tịnh nói nhân, thì thể của nhân chung cho ba tánh hữu lậu, vô lậu, hữu vi. Quả kia chỉ cho vô lậu, hữu vi, tánh thiện vô vi. Nếu pháp thanh tịnh, tức thuận theo nói nhân. Thể của nhân chỉ hữu vi, tánh thiện vô lậu. Quả chung cho tất cả pháp. Quán nhân đối đãi: Nếu quán nhân đối đãi của pháp thanh tịnh, thì thể của nhân sẽ chung cho ba tánh hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi. Quả chỉ có vô lậu, chung cho hữu vi, vô vi, chỉ có tánh thiện.

Nếu thanh tịnh thiện, tức quán nhân đối đãi, thể của nhân chung cả hữu vi, vô vi, chỉ có vô lậu, nhất định là tánh thiện. Pháp quả chung cho ba tánh; hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi, trong đó có bốn câu: 1-Nếu đối đãi với đối tượng thọ, thì sẽ có đối tượng thọ: Nghĩa là như đối đãi với lý trước kia, sẽ có lý sau khởi tánh nhân quả, v.v…

2- Nếu đối đãi với chủ thể thọ, thì sẽ có chủ thể thọ: nghĩa là như đối đãi với Kiến đạo, có tu đạo: tánh nhân quả đồng.

3- Nếu đối đãi với đối tượng thọ, thì sẽ có chủ thể thọ: Nghĩa là như duyên lý chân như; tánh nhân quả, v.v… Nhân chỉ có vô vi.

4- Nếu đối đãi với chủ thể thọ, thì sẽ có đối tượng thọ, y cứ vào hiện hành để thấy, mới được lý này. Nhân là hữu vi, quả đều vô vi, ngoài ra đều đồng.

Nói dẫn dắt sinh khởi hai nhân: Nghĩa là chỉ được pháp thanh tịnh, tức nhân dẫn dắt, nhân sinh khởi, tánh nhân quả v.v... chỉ cho tướng hữu vi, không có vô vi; chỉ có vô lậu, chỉ có tánh thiện, không có bất thiện và vô ký.

Nếu y cứ hữu vi, vô lậu, thì hy vọng xa, gồm thâu quả vô vi. Quả kia đã xa là xa, nhân này gần không nhận lấy.

Nhân nhiếp thọ: Nếu nhân nhiếp thọ của thanh tịnh, thể của nhân chung cho hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi, có ba tánh. Thể của quả chỉ vô lậu, chẳng phải hữu lậu; có chung vô vi, chỉ có tánh thiện. Nếu thanh tịnh, tức là nhân nhiếp thọ, thể của nhân chung cho hữu vi, vô vi, chỉ có vô lậu, chỉ có tánh thiện. Tánh quả chỉ có vô lậu, chung cho hữu vi, vô vi, chỉ có tánh thiện. Nếu y cứ vào trí bình đẳng, dẫn khởi Mạt-na ô nhiễm thì đâu trở ngại pháp quả cũng chung cho hữu lậu, có ba tánh? nhưng nói nhân dẫn phát: Nếu nhân dẫn phát của pháp thanh tịnh. Thể của nhân hữu lậu, vô lậu, chỉ có hữu vi, chỉ có tánh thiện. Dùng giải thích để nói, đồng loại với phẩm vượt hơn, vì trích dẫn. Đã nói đối với phẩm vượt hơn, cũng được làm nhân, đâu có trở ngại ba tánh đều có chủ thể dẫn. Pháp quả chỉ có vô lậu; có chung định vô vi, chỉ có tánh thiện. Nếu pháp thanh tịnh, tức là nhân dẫn phát. Nhân chỉ có hữu vi, tánh thiện vô lậu; quả chỉ có vô lậu; quả chung cho hữu vi vô vi; hữu lậu, vô lậu, chỉ có tánh thiện.

Nói định khác với nhân: Nếu pháp thanh tịnh, thì định khác với nhân, nhân chỉ có hữu vi, tánh thiện vô lậu; quả chung cho hữu vi, vô vi, v.v... Nếu định của pháp thanh tịnh khác với nhân; nhân chỉ có hữu vi; quả là vô vi, nhân đồng sự: Nếu nhân của sự thì đồng với pháp thanh tịnh. Thể của nhân chung cả ba tánh, hữu vi vô vi, hữu lậu vô lậu. Pháp quả chỉ có vô lậu, chung cho hữu vi vô vi, chỉ là tánh thiện. Nếu pháp thanh tịnh, tức nhân đồng sự; thể của nhân chỉ có vô lậu, chung cho hữu vi vô vi, chỉ cho tánh thiện; pháp quả chỉ có vô lậu, chung cho hữu vi vô vi, chỉ là tánh thiện.

Nếu có thể đồng giải thích về tướng, sẽ được Mạt-na thức khởi, thì pháp quả đâu có trở ngại, chung cho ba tánh.

Nói nhân trái nhau, chỉ được có nhân trái nhau của thanh tịnh, không được có trí nghiệp, vì thể của nhân chung cho hai tánh: bất thiện, hữu phú vô ký. Nếu nói một cách tổng quát, thì đâu ngại gì cũng chung cho ba tánh ư? Chỉ có hữu vi, không có vô vi, chỉ có tánh hữu lậu, pháp quả chung cho hữu vi, vô vi, vì chỉ có vô lậu, chỉ có tánh thiện.

Nói nhân không trái nhau, nếu nhân không trái nhau của thanh tịnh thì nhân rộng, quả hẹp. Nếu là pháp thanh tịnh, tức nhân không trái nhau; thì nhân hẹp, quả rộng, so sánh với cách giải thích ở trước.

Thứ hai là mười nhân tạp nhiễm: Nếu y cứ vào nghĩa thật, thì chỉ được có nhân thuận theo nói pháp tạp nhiễm. Vì sao? Vì tiếng trong Đại thừa chẳng phải là tánh thiện, ác. Nếu vì từ biểu, nên giả được chung cho tánh thiện, ác. Do đạo lý này, cũng có hai cách giải thích.

1- Nếu là nhân thuận theo thuyết của pháp tạp nhiễm, thì thể của nhân chung cho ba tánh hữu lậu, vô lậu chỉ có hữu vi; pháp quả chung cho tất cả đều được.

2- Nếu tạp nhiễm, tức nhân tùy thuận thuyết: Thể của nhân đi suốt qua ba tánh, chỉ hữu lậu, chỉ hữu vi; pháp quả chung cho tất cả.

Nếu y cứ vào nghĩa lần lượt cũng được duyên chân như, nên nhân quán đối đãi: Nếu nhân quán của đối đãi với pháp tạp nhiễm, thì thể của nhân chung cho cả ba tánh, hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi; thể của quả chung cho ba tánh, chỉ có hữu lậu, chỉ có hữu vi.

Nếu tạp nhiễm, tức nhân của quán đối đãi, thì thể của nhân chung cho ba tánh, chỉ có hữu lậu, chỉ có hữu vi, thể của quả đều chung cho tất cả.

Đây là nói chung; nếu nói riêng, thì sẽ có bốn câu:

1- Nếu đối đãi với đối tượng thọ, thì sẽ có thể của nhân chủ thể thọ, chung cho tất cả; pháp quả chỉ có hữu vi, hữu lậu, chung cho cả ba tánh.

2- Nếu đối đãi với chủ thể thọ, thì sẽ có đối tượng thọ; thể của nhân sẽ chung cho cả ba tánh, chỉ có hữu lậu, hữu vi; pháp quả chung cho tất cả.

3- Nếu cho rằng chủ thể thọ đối đãi với chủ thể thọ, thì tánh của nhân quả đồng, trong đó, có riêng, như lý nên tư duy. Trong Đại thừa đã không có sắc, v.v... bất thiện, thì không có đối tượng thọ đối đãi với đối tượng thọ.

4- Nếu y cứ vào nghiệp biểu, thì sẽ bắt đầu từ xương bàn chân, xương mắt cá chân v.v..., tánh nhân, quả chung. Về mặt lý đâu có lỗi.

Hai nhân sinh khởi dẫn dắt kia, đều là trì nghiệp, vì tánh nhân quả là đồng.

Nếu căn cứ sở nghiệp năng dẫn năm quả như thức, v.v... khởi, thì sẽ có một ít nhân dẫn dắt của pháp tạp nhiễm. Thể của nhân chung cho hai tánh, chỉ có hữu vi, quả hữu lậu, chỉ có vô ký, chỉ có hữu lậu, hữu vi.

Nói nhân nhiếp thọ: Nếu nhân của thọ thuộc về pháp tạp nhiễm, thì thể của nhân sẽ chung cho ba tánh, hữu vi, vô vi, hữu lậu, vô lậu; tánh pháp quả đồng với trước.

Nếu pháp tạp nhiễm tức nhiếp thọ, thì thể của nhân sẽ chung cho ba tánh, chỉ có hữu lậu, hữu vi; tánh của quả chung cho tất cả.

Nói dẫn phát: Nếu là nhân dẫn phát của pháp tạp nhiễm thì thể của nhân sẽ chung cho ba tánh, chỉ có hữu lậu, hữu vi; không có vô vi, tánh của quả đồng với trước, cũng có thể không có cách giải thích này.

Nếu pháp tạp nhiễm tức nhân dẫn phát, thì thể của nhân sẽ chung cho ba tánh, hữu lậu, vô lậu chỉ có hữu vi.

Nếu y cứ vào nhân pháp lành hữu lậu, đoạn, chứng quả ly hệ, thì đâu có trở ngại pháp quả chung cho vô vi?

Nói định khác với nhân: Nếu định của pháp tạp nhiễm khác với nhân, thì cần phái phân biệt. Nếu y cứ vào vô ký làm quả thì pháp quả chỉ có vô ký, chỉ có hữu vi, hữu lậu. Thể của nhân sẽ chung cho hai tánh thiện, ác, chỉ có hữu vi, hữu lậu.

Nếu ba tánh làm quả, thì pháp tạp nhiễm tức định khác nhân; nhân quả đều chung cho ba tánh, chỉ có hữu vi, hữu lậu.

Nói nhân đồng sự: Nếu nhân đồng sự với pháp tạp nhiễm, thể của nhân sẽ chung cho ba tánh, hữu vi vô vi; hữu lậu vô lậu; pháp quả chung cho ba tánh, chỉ có hữu vi, hữu lậu.

Nếu tạp nhiễm, tức nhân đồng sự, thì thể của nhân hẹp, tánh của quả rộng.

Nói nhân trái nhau, chỉ được có nhân mâu thuẫn của tạp nhiễm, thể của nhân sẽ chung cho hữu vi, vô vi; chỉ có vô lậu, chỉ có tánh thiện, quả kia tức hẹp.

Nói không trái nhau: Nếu trì nghiệp thích, thì thể của nhân hẹp, thể của quả chung cho tất cả. Nên y chỉ thích thì quả hẹp, nhân rộng.

Thứ ba là mười nhân của pháp vô ký: Nếu nhận lấy pháp ngoài, gọi là pháp vô ký, thì chỉ được có nhân thuận theo mà nói của vô ký, thể của nhân có thể chung cho ba tánh, vì biểu trong nhân, nên trên quả rõ ràng, thật sự vô ký cực thành. Nhân chung cho hữu lậu, vô lậu, chỉ có hữu vi. Thể của quả chỉ có vô ký, chỉ có hữu lậu, hữu vi.

Nói vô ký tức nhân: Nếu y cứ vào tánh của âm thinh trong là vô ký, thì sẽ gọi là nhân của thuận theo nói: Tức có pháp vô ký, tức thuận theo nhân, thể của nhân chỉ có vô ký, chỉ có hữu lậu, chỉ có quả hữu vi, chung cho tất cả.

Nếu tiếng gió v.v… là chủ thể giải thích, thì đâu có ngại pháp ngoài có tức nhân?

Nói quán đối đãi: Ở trong đó có bốn luận chứng:

1-Nếu đối tượng thọ đối đãi với đối tượng thọ: Tức đối tượng đối đãi là nhân; chủ thể gìn giữ là quả. Tánh, v.v... nhân quả dùng nhân để làm sáng tỏ hình, đối đãi với nước, v.v... vì hình, v.v... là nhân quả.

Nếu chủ thể thọ lãnh đối đãi với chủ thể thọ lãnh thì sẽ là tánh nhân quả, v.v…, vì tánh cũng đồng, nên dùng số đều có thọ lãnh làm nhân đối đãi.

Nếu y cứ vào nghĩa này, thì pháp ngoài sẽ không có câu này.

Nếu y cứ vào đối đãi với đối tượng thọ có chủ thể thọ ấy, thì đối tượng thọ là nhân, là pháp vô ký, tức thể của nhân, chỉ cho vô ký, chỉ cho hữu vi, hữu lậu. Tánh quả chung cho ba tánh, chỉ có hữu vi, không phải vô vi, có chung vô lậu, chỉ số xúc, thọ của tâm, tâm sở pháp.

Nếu đối đãi với chủ thể thọ có đối tượng thọ, thì hữu vi, thể của nhân sẽ chung cho hữu lậu, vô lậu, có ba tánh, tánh của quả chỉ có vô ký, chỉ có hữu lậu, hữu vi, chỉ có sắc pháp.

Nếu nhân quán đối đãi của vô ký, thì thể của nhân rộng, tánh của quả hẹp.

Nếu vô ký, tức quán đối đãi ấy, thì tánh nhân hẹp, tánh quả rộng.

Sự dẫn dắt của nghiệp kia sinh khởi hai nhân, chỉ được có pháp vô ký, tức nhân, vì lấy hạt giống lúa mì giả ngoài.

Nói nhân nhiếp thọ: Nếu nhân nhiếp thọ của pháp vô ký, thì chỉ sẽ có hai ý: Nghĩa là: tác dụng, sỉ dụng. Nhân chung cho ba tánh, chỉ cho hữu vi, hữu lậu, quả chỉ có vô ký, chỉ có hữu vi, hữu lậu.

Nếu pháp vô ký, tức nhân nhiếp thọ: Tánh nhân quả đồng. Nhân dẫn phát: Chỉ có pháp vô ký, tức nhân dẫn phát, tánh nhân quả đồng.

Nói định khác với nhân: Cũng chỉ có pháp vô ký, tức định khác với thể, v.v… của nhân quả.

Nói nhân đồng sự: Nếu là nhân đồng sự của pháp vô ký, thì nhân rộng, quả hẹp, y theo trước, có thể hiểu. Nếu pháp vô ký tức nhân đồng sự, thì nhân hẹp, quả rộng.

Nói nhân trái nhau: Chỉ có nhân trái nhau của vô ký, tánh nhân quả đồng.

Nếu y cứ ở tuyết v.v… là vô ký ngoài, thì đâu ngại gì cũng có pháp vô ký tức nhân trái nhau, thể của nhân, quả v.v...

Nói nhân không trái nhau: Nếu nhân không trái nhau của vô ký, thì thể của nhân sẽ chung cho tất cả; quả chỉ có rất hẹp.

Nếu vô ký tức nhân trái nhau thì tánh nhân quả sẽ bằng nhau.

-Thứ tư, là phế, lập:

Hỏi: Vì sao gọi là mười nhân?

Đáp: Lược có sáu khác nhau. Nghĩa của năm quả.

Lược dùng mười môn để phân biệt:

1- Nêu ra thể.

2- Giải thích tên gọi.

3- Phế lập.

4- Mười nhân, hai nhân được.

5- Bốn duyên được.

6- Mười lăm y xứ đắc.

7- Nhân, quả Ba thừa có bao nhiêu?

8- Phân biệt hữu vi, vô vi, hữu lậu, vô lậu.

9- Phân biệt hoặc do kiến đoạn, v.v..

10- Phân biệt hỏi đáp.

3-Bỏ lập: Quả là nghĩa thành xong, chủ yếu có pháp là đúng; không có pháp là sa, bị sự chế phục của nhân có hai thứ quả:

1-Quả vô vi. 2-Quả hữu vi.

Quả vô vi, gọi là quả ly hệ (lìa trói buộc). Quả hữu vi, gọi là quả tăng thượng; vì vô vi không có nhiều sự khác nhau, lại vì không phân biệt hữu vi có khác nhau. Lại nữa, lẽ ra phải kiến lập có nhân không chướng ngại với oai thế mà được, nghĩa là chỉ được gọi là tăng thượng, có nhân nhận lấy vượt hơn cho mà được: Trong đó có nhân sở đắc của người giả chung, gọi là quả sĩ dụng; sở đắc của pháp khác, cũng được quả sĩ dụng, nghĩa là lấy cái riêng từ tương tự chung đặt tên, ở giữa, y cứ chung, lập sở đắc (đối tượng chứng đắc) của pháp riêng.

Lại nữa, có hai loại:

1- Tánh đồng.

2- Tánh khác.

Tánh khác gọi là quả dị thục, tánh đồng gọi là quả đẳng lưu. Quả vô vi, chủ yếu phải dứt trừ sở đắc của phiền não, vì vượt hơn. Quả phi trạch diệt khác, sở đắc, v.v... của sáu hạnh, chỉ có quả tăng thượng. Nếu chẳng phải chiêu cảm vượt hơn, thì chỉ gọi là tăng thượng; vượt hơn, gọi là sĩ dụng, v.v…

Cho nên, năm quả không thêm, không bớt. Lại, biểu thị rõ loại nhân có rất nhiều, có thể chia làm mười thứ. Quả nhiều khó chế phục hợp, lập năm quả. Đây là y cứ vào Thánh giáo, không có nói tăng thượng và quả sĩ dụng, vì chung cho xứ vô vi, nên tạo ra cách giải thích này. Lại, giải thích (hiểu) sở đắc của nhân không vượt qua pháp hữu, nghĩa là hữu vi vô vi; vô vi không có phân biệt nhiều, vì chỉ có một tánh, nên lập một quả, gọi là quả ly hệ. Các pháp hữu vi có nhiều khác nhau, ba tánh không đồng. Sở đắc của tánh đồng kia, gọi quả đẳng lưu; sở đắc của tánh khác, gọi quả dị thục; trong đắc của tánh đồng. Nhưng vì y cứ vào quả được dẫn dắt bởi năng lực vượt hơn, gọi là quả đẳng lưu, nên phẩm và phẩm đồng, hai phẩm vượt hơn đều làm nhân, không phải là nhân thua kém, mà là thể của nhân trong tánh khác cao quý, tướng quả biểu hiện rõ, gọi là dị thục, nên tánh vô ký đối với pháp thiện, ác; Trong pháp thiện, ác, tự đối lẫn nhau, đều chẳng phải quả này, vì thể của nhân chẳng phải vượt hơn, quả không biểu hiện rõ ràng, vì không có tướng khác lạ, khiến có thể biết, nên không lập làm quả, là gồm thâu quả chung, nhưng Duy thức quyển 2 chép: "Tập khí có hai":

1- Đẳng lưu.

2- Dị thục.

Vì gồm thâu chung tất cả tâm hữu lậu, nên biểu thị rõ vô vi không có riêng, hữu vi có riêng, lập một, hai quả. Nhưng thuyết trên đã nói: "Tức là quả riêng của vô vi, hữu vi. Hai pháp này đều có sức gần, sức xa, sức hơn, sức kém thua, sức gần gũi, sức xa, sức nuôi nấng, giúp đỡ; sức không chướng ngại có trong vô vi. Nếu là sở đắc của sức giúp đỡ, nuôi nấng, gần gũi, trội hơn, gần, thì lập làm quả sĩ dụng. Nếu là sở đắc của sức không chướng ngại xa kém, thì gọi quả tăng thượng. Hai pháp này tức là quả chung của hai pháp hữu vi, vô vi, đều y cứ vào pháp riêng, được gọi là Sĩ dụng. Quả này chung cho bốn pháp làm thể. Câu sinh, vô gián, cách nhau bất sinh.

Quả câu sinh: Tức vì pháp đồng thời, nên Thành Duy thức, quyển hai chép: "Hạt giống sinh hiện, như nhân Câu hữu, được quả Sĩ dụng". Hoặc quyển 7 chép: "Tất cả pháp có được quả Sĩ dụng, quả Vô gián: Tiếp theo, vì pháp sinh sau, nên Thành Duy Thức quyển 7 chép: "Tất cả chủng, được quả Sĩ dụng, vì gọi Sĩ dụng trong quả Đẳng lưu".

Duy thức quyển 8 chép: "Nhân dẫn phát, v.v... được quả Sĩ dụng. Quả cách việt là giả, vì giống mùa xuân, sẽ được quả vào mùa thu, nên hầu hết các luận đều nói quả này là Sĩ dụng, hoặc quả dị thục cũng là Cách việt.

Duy thức quyển 7 chép: "Vì ở quả dị thục, lập sĩ dụng". Lại, Duy thức quyển 8 chép: "Dẫn dắt sinh khởi, được quả sĩ dụng. Quả bất sinh: Nghĩa là chân kiến y, xứ đa được Sĩ dụng, nên Duy Thức chép: "Nhân Nhiếp thọ được quả sĩ dụng, dù hai thứ: Y, xứ tác dụng của sĩ dụng, là gồm thâu nhân này, đã dẫn phát, v.v... sẽ được Sĩ dụng.

Há ngăn chận chân kiến được sĩ dụng ư?, nên biết được pháp riêng cũng có Sĩ dụng. Quả sĩ dụng cũng chung cho bốn thứ. Do đây, năm quả không thêm, không bớt.

Duy thức quyển 65 chép: "Về nghĩa năm quả, có một chút tốt đẹp, không đồng với quả khác, cần phải xem xét".

Pháp xứ sắc Nghĩa Lâm. Dùng năm môn để phân biệt:

1- Khai, hợp, phế, lập.

2- Nói về thể tánh.

3- Giải thích tên gọi. 4-Phân biệt giả, thật.

5-Ảnh chất có, không.

1-Khai, hợp, phế, lập: Luận Bách pháp gồm có 1: Nghĩa là sắc thuộc về pháp xứ. Luận Ngũ Uẩn nói sắc pháp xứ có hai: 1-Vô biểu; 2-Quả định.

Du-già quyển ba nói cũng đồng với luận Ngũ Uẩn kia". Hiển Dương quyển một nói có ba thứ:

(1) Luật nghi.

(2) Bất luật nghi.

(3) Định tự tại.

Hiển Dương quyển 54 phần đầu nói có ba, đồng với quyển thứ nhất này. Lại, trong luận Hiển Dương kia, nói rộng, cực vi chỉ Giác tuệ phân tích. Nếu chẳng phải xứ pháp thì thuộc về xứ nào?

Do xứ pháp này cũng lập bốn thứ, luận Đối pháp nói năm, như văn tự nêu, Hiển Dương quyển

18 chép: Sắc pháp xứ có mười hai tướng"

(1) Ảnh tượng.

(2) Việc làm đã thành tựu.

(3) Không có kiến.

(4) Không có đối.

(5) Chẳng phải thật đại sinh. (6) Tướng của tâm hệ thuộc.

(7) Thế gian.

(8) Không suy nghĩ, bàn luận.

(9) Quả định của thế gian.

(10) Quả định của xuất thế gian.

(11) Cảnh địa của mình, người.

(12) Chư Phật, Bồ-tát tự tại chuyển biến.

Bách pháp: Nói một, nghĩa là vì xứ, lại nói: "Năm uẩn, luận Du-già đều nói hai, nghĩa là thể của cực lược, cực hoán, tức cực vi. Phân tích sắc thật thô, chia thành hai sắc này; do giả từ thật; do tế từ thô, nên đối với các pháp xứ, lại không nói riêng biến kế sở khởi không hiểu rõ ý thức sáng suốt, duyên riêng lẻ căn, cảnh, do lờ mờ sinh ra; huân tập hạt giống làm nhân, sau sinh căn, cảnh. Do nhân từ quả, do ảnh từ chất, cũng đối với pháp xứ không nói riêng. Các sắc vô biểu, đồng loại ẩn nhau, tổng hợp kiến lập, gọi là một vô biểu. Quả tự tại của định, dù chung cho giả thật, đều do định sinh, cũng vì tổng hợp soạn ra. Luận Ngũ Uẩn, v.v... nói: "hai không phải nhiều".

Hiển Dương quyển một, Du-già, Quyết Trạch đều nói ba, nghĩa là các sắc vô biểu giống nhau dù đồng, nhưng thiện, ác khác nhau, chia thành hai thứ: Thiện, gọi là luật nghi; bất thiện, gọi là bất luật nghi, vô biểu trong xứ; hoặc không có không lập; hoặc có loại kia, lại không mở rộng riêng, không nói pháp khác; so sánh với trước nên nói: "Hiển Dương, v.v... chỉ nói có ba".

Nói có bốn: Nghĩa là biến kế đã khởi, có thể có ba chất, tùy thuộc chất, từ quả, pháp xứ không lập, vì cực vi không có chất, nên lập riêng, vì loại cực hoán đồng, nên không mở rộng.

Nói năm ở đây: Các sắc, đối tượng duyên của ý độc đầu, khác với chất dụng, vì đối căn, nên thuộc về pháp xứ. Bản chất của các hữu đều gọi là ảnh tượng, gọi là biến kế sở khởi. Tuệ khéo phân tích biến kế này có hai loại:

1- Làm lẫn nhau.

2- Phá một.

Chỉ vì đối tượng quán: Cực lược, cực hoán, giả, thật, đối tượng duyên của tâm vô lậu, đều gọi là định sinh, nên chia thành năm. Hiển Dương quyển 18 nói có mười hai, chỉ nói quả định, hoặc giả, hoặc thật, các tướng đều khác nhau đối với loại khác, lại không nói khác".

Mười hai thứ tướng đều là nghĩa khác nhau của quả định vượt hơn, không phải môn lý cùng tận. Về lý, pháp xứ thật chỉ lập ba thứ:

1-Ảnh tượng. Cực vi các hữu và tấn ý riêng, vẽ thành căn, cảnh bóng trong gương, hình tượng, vầng trăng, sông nước, các loại như thế đều đồng, không có thật, vì chúng là ảnh của tâm. Đồng lập một môn. 2-Nghĩa là vô biểu. Hoặc định, hoặc tán, hoặc thiện, hoặc bất thiện, các pháp này đều không thể biểu thị cho người khác, nên tướng, dụng đã bằng nhau, đồng lập một môn.

3-Quả định, hữu lậu, vô lậu, hoặc giả, hoặc thật đều do định khởi, đồng lập một môn, nên luận Ngũ Uẩn v.v... nói là hai thứ sau. Nếu sắc cực vi thì lấy giả từ thật, dùng tế từ thô; nếu sắc biến kế thì lấy nhân từ quả, lấy ảnh từ chất, không lập riêng sắc ảnh tượng ấy, lẽ ra cũng vô biểu lấy giả từ thật, chẳng phải sắc từ sắc, chẳng nói riêng, chỉ nói quả định. Kia đã không như vậy, thì ở đây làm sao như vậy? Nên lẽ ra phải nói ba, không thể thêm, bớt. Tuy nhiên, nay luận này nói có năm ấy, lại tâm hữu lậu, riêng sinh ý tán, duyên chung căn cảnh: trăng đáy nước, bóng trong gương. Các thứ này đều thô; phân tích các căn, cảnh, đến phần vị cực vi, thì chẳng phải thô mà tế, nên cho dù đồng ảnh tượng, nhưng thô, tế hoàn toàn khác nhau. Vì ý giác chấp tâm, chủ thể duyên, cũng là riêng, nên lìa biến kế, lập cực vi riêng.

Trong sắc có đối, lược có hai loại:

1- Chỉ bị trở ngại (đối tượng trở ngại), không thể gây trở ngại cho người khác, tức sắc hoán, ánh sáng, v.v… trong xứ sắc, vì ba thứ dưới sẽ nói không phải chủ thể trở ngại.

2- Chủ thể gây trở ngại cho người, cũng là đối tượng trở ngại, ngoại trừ sắc hoán, v.v... các sắc có đôi, thứ ba ở dưới sẽ nói: "Vì có công năng trở ngại lẫn nhau".

Do sắc thô của hai loại này, vì phân tích đến rất nhỏ nhiệm, cũng vẫn khác nhau; bẻ vụn (phân tích) đối tượng chướng ngại ở trước, cho đến cực vi, gọi là sắc cực hoán; phân tích sau cùng, đều có trở ngại, cho đến cực vi, gọi sắc cực lược. Do loại này, phân biệt phần tế có hai thứ. Hai môn ảnh hiện cảnh, tâm có khác, tùy thuộc thích ứng, thô tế, chia, hợp cũng khác nhau; sắc thô dễ biết; đều gọi là ảnh tượng; sắc tế khó hiểu, mở riêng hai môn, nên luận nói có năm, không thể thêm, bớt.

Xem xét sâu sắc các văn, thích hợp với lý sâu kín:

2-Nói về thể tánh:

(1) Sắc cực lược: Luận này tự nói cực vi là thể, tức năm sắc căn, trừ sắc hoán, v.v… cảnh của năm sắc khác và sắc thật pháp xứ của bốn đại chủng, lấy cực vi làm tánh.

Luận Hiển Dương quyển 5, luận Du-già quyển 54 nói: "Kiến lập cực vi có mười lăm thứ, nghĩa là căn mắt, v.v... là năm cực vi; cảnh sắc v.v… năm cực vi; bốn đại chủng, bốn cực vi, sắc thật pháp xứ có một cực vi, nên mười lăm thứ này là tánh sắc cực lược".

(2) Sắc cực hoán: Luận tự nói: "Tức sắc này lìa sắc xúc chạm, trở ngại khác, dùng sắc cực vi cõi không làm thể". Luận chép: "Sắc hoán tức sắc sáng, tối, phải biết rằng, ánh sáng, ảnh, sắc, sắc cực hoán. Ánh nắng mặt trời, gọi là ánh sáng; ánh lửa khác, gọi sáng ảnh; tối trái với sáng này, đâu phải chỉ sáng, tối là sắc hoán ư? Chỉ nói sáng, tối, chỉ nêu phần nhỏ, nhưng sắc cõi không, trên, dưới, nhận thấy riêng, phân tích thành sắc hoán và vì một hiển sắc không, nên sắc cõi không gồm thâu sáu thứ sắc, phân tích đến cực vi, gọi chung là cực hoán. Về nguyên nhân kiến lập cực hoán này, như trước đã nói, nên biết".

(3) Sắc do thọ uẩn: Luận tự nói: "Gọi là sắc vô biểu". Có nghĩa:

"Chỉ hai, dùng vô biểu luật nghi, bất luật nghi làm thể, mỗi chỗ đều nói: "Vô biểu pháp xứ chỉ hai thứ này, cần phải mạnh mẽ, nhạy bén, vì tư duy hạt giống ấy là vô biểu".

Có nghĩa: "Cũng dùng vô biểu phi luật nghi, phi bất luật nghi làm tánh. Thuyết thứ tám này nói nghiệp có ba":

1- Luật nghi.

2- Bất luật nghi.

Phi luật nghi, phi bất luật nghi. Nghĩa là tất cả nghiệp thiện, bất thiện kia, hoặc bố thí v.v...; hoặc ẩu đả, đánh đập, v.v... là nghiệp không thuộc về luật nghi, bất luật nghi, đều được gồm thâu ở đây.

Luận Hiển Dương quyển 54 chép: "Sự khác nhau của tác dụng sắc. Nghĩa là tác dụng thuộc về luật nghi, bất luật nghi, phi luật nghi, phi bất luật nghi, hữu biểu, vô biểu, vì nói bố thí, v.v... là nghiệp này, nên biết rằng, nghiệp này cũng có vô biểu".

Nói ba luật nghi, v.v... biểu, vô biểu là tác dụng của sắc, duyên vì sao chỉ có hai hữu biểu, và vô biểu? Và nghiệp trong chỗ này chỉ có hữu biểu ư?

Không nói ba, tức vì loại thiện, ác thuộc về hai, nên định do thọ đã dẫn sinh, chung cho cả ba thứ.

Vô biểu luật nghi gồm có ba thứ:

(1) Vô biểu biệt giải thoát, tức giới của bảy chúng.

(2) Định đều có vô biểu, tám Đẳng chí đều có các giới hữu lậu, đây cũng gọi là luật nghi tĩnh lự. Vì oai nghi cõi Sắc, nên dùng đó đặt tên.

(3) Vô biểu, vô lậu, tám đẳng chí đều có các giới vô lậu. Nếu vô biểu biệt giải thoát, vô biểu bất luật nghi, vô biểu trong xứ, ba vô biểu này đều dựa vào sự phát động tư duy hạt giống, vì đề phòng phát ra vị tăng trưởng công năng thiện, ác của thân, ngữ để lập, nên Duy Thức chép: "Nghĩa là vô biểu này hoặc y cứ phát ra vị tăng trưởng tư duy hạt giống thiện, ác của thân, ngữ vượt hơn, để lập thành nghiệp".

Luận chép: "Phát động tư duy vượt hơn, hay phát ra biểu luật nghi, bất luật nghi, do đây, huân tập thành vị chưa tổn hoại hai hạt giống vượt hơn. Giả lập định vô biểu luật nghi thiện, ác, đều có hai thứ vô biểu vô lậu, dựa vào hai vị hạt giống kia, dứt ác, biểu hiện công năng tư duy, để kiến lập, nên Duy thức chép: "Hoặc y chỉ trong định, dứt trừ tư duy hiện hành ác của thân, ngữ để lập. Các vô biểu này là đoạn dẫn bởi thọ".

(4) Sắc do biến kế sinh khởi, luận chép: "Nghĩa là sắc ảnh tượng, sinh ý thức phân tán riêng, chung cho căn, trần, không có tác dụng của căn, v.v... đối tượng biến hiện của tâm ba tánh; trăng đáy nước, bóng trong gương, những thứ này chẳng phải một. Nhân chấp sắc, v.v… cảnh định của năm căn, năm trần, đối tượng biến hiện, ảnh tượng không có tác dụng là thể của sắc do biến kế khởi".

(5) Sắc định sinh bởi tự tại: Luận chép: "Dùng sắc của cảnh tĩnh lự giải thoát làm thể. Luận Hiển Dương quyển 53 chép: "Vì năng lực định vượt hơn, nên đều được tự tại đối với tất cả sắc, tức dùng cảnh sắc, thinh, hương, vị, xúc do định biến hiện ra làm thể.

3-Giải thích danh tự: Đầu tiên là sắc cực lược.

Cực nghĩa là đến, cùng cực, biên.

Lược có hai nghĩa:

(1)-Nghĩa chung: Lược chung các sắc, phân tích đến cực vi, gọi là sắc cực lược.

(2)-Nghĩa nhỏ: Phân tích các căn, cảnh đến chỗ cực nhỏ, gọi là sắc cực lược, nên gọi là cực lược, không gọi Cực vi. Lược là chung, nghĩa là cùng tột của sắc lược. Lược là nhỏ: sắc tức là cực lược; hoặc cực lược của sắc.

Hai cách giải thích: Y sĩ, và trì nghiệp, tùy thuộc thích ứng. Nay sắc này là tên chung của năm thứ. Hai cách giải thích dù thành, nhưng trì nghiệp là vượt hơn. Sắc của hoán: sắc hoán tức là xứ sắc. Sắc hoán lìa trở ngại, mới sáng rõ, sử dụng tên hoá. Cực hoán tức sắc, cùng cực của sắc hoán, sắc cùng cực của hoán ".

Hai cách giải thích, tùy thuộc thích ứng, sắc đã là tên chung; giải thích đầu, cuối vượt hơn. Dù sáng, tối v.v... cũng là đối tượng phân tích. Sáng, v.v... là riêng; sắc hoán là chung; xứ sở rộng hẹp là y, không gọi cực sáng, v.v... chỉ gọi sắc cực hoán. Nhưng sắc cực hoán này là một hiển với không, loại trên dưới khác nhau, đều có sắc của cõi không, chẳng gọi là cực không, mà gọi là cực hoán, vì e lạm quá hư không cũng là tánh sắc. Lại, sắc hoán chung; sắc không chỉ ở trên, nên không gọi cực không, chỉ gọi là cực hoán.

Sắc do thọ dẫn phát: Thọ, nghĩa là lãnh thọ, nghĩa là nhân giáo, nhân sư mà lãnh thọ. Dẫn nghĩa là dẫn phát, được dẫn bởi thọ, gọi là được thọ dẫn phát. Thọ đã dẫn phát, tức tên sắc, sắc do thọ đã dẫn; Hai danh ly, hợp, tức thành hai cách giải thích. Mặc dù giới đạo định có được, không từ thầy dạy bảo, nhưng khi vận dụng phương tiện, cũng từ sự chỉ dạy. Hoặc tự đoán mời, trông mong; hoặc từ người khác thọ, do đây, nói chung, gọi là đối tượng dẫn của thọ. Lại, vô biểu của giới ác biệt giải thoát, quyết định do thọ khởi, chuyển vận không theo tâm, đạo, định theo nhau, cũng gọi là đối tượng dẫn phát của thọ. Lại, mặc dù được giới đạo định kia không từ người khác, nhưng loại vô biểu vẫn đồng, đều gọi là đối tượng dẫn phát của thọ, cũng có thọ được định, được đạo, do đây, được gọi chung là sắc do thọ dẫn phát.

Sắc do biến kế khởi: Ý thức của ba tánh, hay biến kế so lường từ đây sinh, gọi là đối tượng khởi của biến kế kia đã khởi, tức sắc, gọi là sắc đã khởi; sắc đã khởi của biến kế, gọi là sắc do biến kế khởi, cũng chung cho hai cách giải thích.

Sắc do tự tại sinh: Định đi suốt qua không có bít lấp, gọi là Tự tại. Quả từ định kia khởi, gọi là do định kia sinh. Đối tượng sinh tức sắc, gọi là sắc đã sinh; sắc đã sinh của tự tại, gọi là sắc do tự tại sinh. Hai cách giải thích như trước.

4-Phân biệt giả, thật: luận Hiển Dương quyển

6 chép: "Cực vi không có tự thể, do tuệ phân tích". Luận Hiển Dương quyển 5 chép: "Tuệ phân tích sắc thô, đến bờ mé rất vi tế, kiến lập cực vi, chẳng phải do có thể, nên nói cực vi không có sinh, không có diệt". Du-già quyển 3 chép: "Trong nhóm sắc, đã không hề có cực vi, lúc từ hạt giống sinh, chỉ tu tập khởi, cũng không phải cực vi nhóm họp thành sắc thô". Duy Thức cũng chép: "đến bờ mé sắc, giả lập cực vi". Duy Thức quyển 54 đều nói, đồng với quyển này, nên hai sắc đầu tiên, đều là giả có". Thành Duy thức chép: "Rằng, y cứ vào sự phân chia giới hạn thiện, ác của tư duy, nguyện giả lập vô biểu". Thành Nghiệp cũng chép: "Dựa vào vị chưa tổn hoại của hai hạt giống, giả lập vô biểu luật nghi thiện ác". Đây là vì chứng cớ rất nhiều, nên sắc do thọ dẫn phát cũng là giả có".

Luận Hiển Dương quyển 18 chép: "Bảy việc không có thật, vì ba ảnh tượng, bốn tiếng vang, nên sắc biến kế cũng là giả có. Quyển 54 chép: "Rơi vào sắc pháp xứ có thật, có giả. Nếu có oai đức, cảnh do định vận hành, cũng như biến hóa, thì quả oai đức kia, cảnh định kia và sắc cảnh thức, tương ưng kia v.v... là vật thể có thật".

Thành Duy thức chép: "thức A-lại-da biến mười xứ sắc và rơi vào sắc hiện thật của nơi chốn pháp, nên thể của sắc quả định là có thật".

Trong đây có nghĩa: "Bốn thứ trước trong năm thứ sắc là có giả, chỉ thức năm là thật".

Luận Hiển Dương chép: "Trong bảy việc giả, chỉ nói luật nghi, bất luật nghi giả, không nói quả định cũng là giả có". Du-già chỉ nói: "Oai đức, sắc định trong sắc pháp xứ là vật có thật; luật nghi, bất luật nghi đều là giả có, cũng không nói thông, trong sắc cảnh định này là có giả". Nghĩa là: "thứ năm cũng chung cho giả có. Bồ-tát, nhị thừa, v.v… giải thoát, thắng xứ, Biến xứ, các dụng của sắc thật, tướng giả đều không thật có. Nếu chẳng phải sắc pháp xứ này gồm thâu thì thuộc về sắc nào? Vì cảnh giới định, nên chẳng phải năm cảnh gồm thâu tánh chẳng phải cực vi. Lại, chẳng phải vô biểu, định giải thoát, v.v... kia chẳng phải biến kế. Do đây, lại càng không phải bốn thứ sắc trước; nếu chẳng phải thứ năm, ấy là không có đối tượng hệ thuộc, thì lẽ ra pháp thuộc năm sắc này không cùng tận. Lại, không thể nói vì ảnh tượng, nên gồm thâu sắc biến kế, vì há tâm các định đều trở thành bức vẽ lờ mờ? Vô lậu tâm v.v.. không có tướng giả ư? Vì trí Phật có năng lực thể hiện các ảnh".

Luận này cũng nói: "Sắc cảnh đã vận hành giải thoát của tĩnh lự, gọi là sắc do định sinh, nhưng do đối tượng biến của bậc Thánh đều có thể hình thành sự thật, vì tưởng rất cao siêu". Nên Du-già chỉ nói: "Sắc kia là do định sinh, do sắc kia giả, vì tưởng chẳng phải cao quý, nên lược bỏ không nói. Đối tượng mà phàm phu biến hóa, chỉ khiến cho người khác nhìn thấy, nhưng không thể thọ dụng, há không phải giả hay sao?".

Luận Hiển Dương quyển một chép: "Sắc do định dẫn phát, do tâm ba phẩm khởi tánh sắc ảnh tượng đối tượng duyên kia và tánh sắc thành thục đã làm ra kia; đầu tiên là sắc giả, sau là sắc thật". Lại Hiển Dương quyển 18 chép: "Nói ảnh tượng giả có trong bảy sắc giả". Lại, sắc pháp xứ có mười hai tướng. Ảnh tượng thứ nhất, nếu ảnh tượng giả chẳng phải quả định, thì luận kia sẽ không nói rằng: "Ngoài quả định vô biểu, lại có sắc pháp xứ; sắc của ảnh tượng kia sẽ được gồm thâu bởi sắc nào?, nên biết quả định có giả, có thật".

Nghĩa sau là khéo léo, vì thuận với lý, giáo.

5-Chất ảnh có, không: Duy thức quyển 7 nói:

"Có hai sở duyên duyên":

(1)-Gần.

(2)-Xa.

Nếu với thể năng duyên (chủ thể duyên) không rời nhau, là gởi đối tượng lo nghĩ bên trong kiến phần, v.v… nên biết chủ thể duyên kia là sở duyên duyên gần.

Nếu với thể của chủ thể duyên dù lìa nhau, nhưng vì chất có thể khởi gởi đến đối tượng lo nghĩ nội tại, nên biết rằng, chủ thể duyên kia là sở duyên duyên xa.

Năm thứ sắc này dù phần nhiều là giả, nhưng tướng của đối tượng duyên gần của tâm, chủ thể duyên kia, quyết định đều có, nên luận Hiển Dương kia lại nói: "Chủ thể duyên, sở duyên duyên gần đều có; rời gởi đối tượng lo nghĩ nội tại, tất nhiên không thể sinh, vì tánh là y tha, khởi từ nhân. Các sắc chẳng có thật, tức do hạt giống năng duyên, v.v... sinh ra, vì không có tác dụng của sắc; hoặc vì không có hạt giống riêng hình thành bản chất, nên đồng một hạt giống khởi, nhưng chẳng có tác dụng thật. Nếu có thật, vì có tác dụng của sắc, nên riêng từ hạt giống sinh, chẳng phải đồng một hạt giống khởi với chủ thể duyên, như then chốt thiết yếu nói; hoặc sắc biến tợ; hoặc có tác dụng của sắc, y cứ vào hai thứ này, vì đối tượng duyên gần, nên năm đều gọi là sắc. Dựa vào lượng nhóm họp, nói là sở duyên duyên xa, tất cả tâm sinh quyết định đều có". Luận Phật địa, v.v… chép: "Khi trí vô phân biệt duyên chân như, cũng biến ra ảnh tượng, nên các tâm khởi định có bản chất; đầu tiên, sắc cực lược, cõi dục, mười xứ, có xứ sắc, do sắc thật quả định của Sắc, Vô Sắc dùng làm bản chất". Luận chép: "Vì cực vi có mười lăm, nên tiếp theo, sắc cực hoán, dùng xứ sắc của cõi Dục, sắc làm chất, vì cõi Vô Sắc không có nơi chốn riêng, nên các thuyết đã nói trong đây, đều do phân tích sắc thọ kia mà sinh, nên dùng làm chất, chẳng phải có loại sắc kia nói là bản chất; sắc do thọ dẫn phát, đã chẳng phải tâm biến hóa, vì chẳng phải ảnh tượng, nên không nói là bản chất; biến kế đã khởi, do cõi Dục, sắc mười, có xứ sắc và sắc do định khởi trong hai cõi trên, dùng làm bản chất, vì đều có thể gởi ảnh tượng biến hóa kia, nên sắc do định sinh, dùng sắc các căn, cảnh của cõi Dục, Sắc, cho là bản chất".

Luận Phật Địa quyển 54 chép: "Sắc của quả định vượt hơn, nhưng từ duyên Tam-ma-địa, ảnh tượng của chủng loại kia, phát ra, vì nói là đại tạo kia, nên dùng các sắc của hai cõi làm chất. Hoặc sắc có chất, hoặc không có, cảnh gốc, đều dùng danh, giáo để làm bản chất, thừa nhận hành tướng thức, thấy chung là ảnh, nên biết nhất định đối tượng duyên có ảnh chất. Do bản chất của bốn sắc này đều thành". Nên Thành Duy Thức chép: "Chủ thể duyên, sở duyên, duyên xa hoặc có, vì lìa ngoài đối tượng nương gá, cũng được sinh". Duy thức quyển 8, quyển 6 chép: "Các phẩm tâm này đã dựa vào bản chất, hoặc có, hoặc không, sở duyên duyên xa có, không, chẳng nhất định".

Nếu y cứ vào nghĩa này, thì sắc cực lược, cực hoán, biến kế khởi, phân tích duyên các sắc; nhân danh giáo: nghĩa là bản chất như trước. Y cứ vào tự tâm, tư, chấp các ngã, pháp, hoa đốm giữa hư không, sừng thỏ, quá khứ, vị lai, kiếp tận, thường nhỏ nhen. Không do giáo của người, đều không có bản chất. Lại, sắc của quả định có biến, có hóa, có duyên theo người khác khởi năng lực định sinh. Nếu biến hóa duyên định người khác có bản chất thì năng lực định biến hóa kia và vị tự tại, vì không cần người khác sinh, nên bản chất này có, không chẳng nhất định, dù nói hành tướng chung cho kiến và ảnh, ai thừa nhận tâm khắp tất cả kia, chánh trí duyên như hạnh, vì duyên một. Nếu duyên như thế, trí cũng có ảnh tượng. Ai có thể soi rọi trí kia, mà biết có chân như? Tức Hậu trí gốc, lẽ ra cũng chẳng có riêng. Lại, các Bồ-tát dù nhập Diệt định, vẫn còn khởi oai nghi đến khắp các tịnh độ. Đây là do quyết định ý ưa thích ở trước, kích thích phát tướng phần bản thức, biểu hiện các oai nghi. Về sau, dù tâm diệt, nhưng oai nghi không diệt. Vì thức thứ tám gìn giữ duyên chân như kia, nên oai nghi của vị này, dựa vào bản chất nào? Không như vậy, thì Bát địa trở lên, Bồ-tát nhập vị Diệt định, không có ý thức trước, phát khởi oai nghi, lẽ ra không thành niệm niệm nhập định, cũng chẳng phải không khởi định, biểu hiện các oai nghi".

Như thế, là trái với các chỗ kinh điển. Lại, Phạm Vương, v.v… biến hóa các loại hình gốc. Phật trước kia, nghe pháp, bàn luận, nói năng. Tâm, ý, thức, chủ thể biến hóa trước đã diệt, vì chẳng phải khi định suốt qua thức, hiện ở trước, hình đã biến hóa này chỉ là cảnh của thức thứ tám; Cảnh ấy dùng pháp nào làm bản chất? Đối tượng duyên thức thứ tám, cũng vì quả của định, nên do quả định ở đây đã dựa vào bản chất có, không, chẳng nhất định, nên Duy thức chép: "Khế hợp với tông sâu kín, nhóm họp lực lượng chưa hiện hành. Vả lại, y cứ vào hiện giáo, cảnh tánh không tùy thuận tâm, độc ảnh chỉ từ kiến, đới chất chung cho các tùy thuộc thích ứng như tình bổn, tánh chủng, v.v…"

QUYỂN 6

TAM BẢO NGHĨA LÂM

Tam bảo, lược dùng sáu môn để phân biệt:

1-Nói về chủng loại.

2-Nêu ra thể tánh.

3-Giải thích tên gọi.

4-Nói về phế, lập.

5- Nói lên sự khác nhau.

6- Giải thích trở ngại, vặn hỏi.

-Thứ Nhất, Nói về chủng loại:

Có sáu chủng loại:

1- Thể chung.

2- Thể riêng.

3- Nhất thừa.

4- Ba thừa.

5- Chân thật.

6- Trụ trì.

Thể chung: Kinh Thắng-man chép: "Nghĩa thứ nhất quy y: là quy y rốt ráo, không khác với Như Lai, không khác với hai quy y, Như Lai tức ba quy y". Niết-bàn quyển 10 nói: "Nếu chấp Tam bảo thường trụ, đồng với chân đế, thì đây tức là thệ nguyện trên hết của chư Phật". Lại nói: Nếu người tu tướng khác lạ đối với Tam bảo, thì phải biết rằng, người này đã có giới cấm, đều không đầy đủ, còn không thể được Bồ-đề Nhị thừa, huống chi được đại Bồ-đề. Lại nói: Phật tức là pháp, pháp tức là Tăng, cho đến Phật tánh tức là pháp thân, nên nói là đồng thể".

Thể riêng: kinh Niết-bàn quyển 5, Phật bảo: "Kiều-Đàm-Di! Chớ cúng dường ta, nên cúng dường Tăng. Nếu cúng dường Tăng, thì được cúng dường đầy đủ ba quy, Ma-Ha-Ba-Xà-Ba-Đề nói: Trong chúng tăng không có Phật, không có pháp, sao lại nói rằng cúng dường chúng tăng là được cúng dường đầy đủ ba quy? Ta lại bảo: Ông thuận theo lời ta nói: Tức cúng dường Phật, vì được giải thoát, nên tức cúng dường Pháp. Chúng tăng thọ lãnh, tức cúng dường tăng. Cho nên, ba quy không được làm một. Này người thiện nam! Như Lai đôi khi nói một là ba; nói ba là một. Nghĩa y như thế, cảnh giới chư Phật, hàng Thanh văn, Duyên giác không thể biết được".

Nhất thừa: Kinh Thắng-man chép: "Nói pháp đạo nhất thừa, được pháp thân rốt ráo, ở trên, lại không nói sự pháp Nhất thừa".

Chúng ba thừa: "Có sợ sệt mà quy y, thì chẳng phải quy y rốt ráo. Luận Hiển Dương chép: Thiện Thệ khéo nói ba thân mầu nhiệm, vô uý, vô lưu chứng giáo pháp, thượng thừa chân thật. Mâu ni tử. Nay, ta chí thành, trước khen ngợi thiền. Luận Phật Địa chép: Cúi đầu ruộng phước tốt lành vô thượng, ba thân, hai đế, chúng nhất thừa. Pháp Hoa cũng nói: Trong cõi nước Phật ở mười phương, chỉ có pháp nhất thừa".

Ba thừa: Kinh Thắng-man chép: "đối với thế gian chưa độ, không dựa vào thế gian, đối với đời sau v.v... làm chỗ quy y vô tận. Quy y thường trụ: Nghĩa là Như Lai ứng chánh đẳng giáo. Pháp: Tức nói đạo Nhất thừa. Tăng: là chúng ba thừa. Ý Kinh Thắng-man kia nói là ba thân mà người Ba thừa đã thể hiện, gọi là Phật bảo. Giáo, lý, hạnh, quả, mà người nhị thừa đã tu, phương tiện nhất thừa, gọi là pháp đạo nhất thừa, vì cuối cùng quy y nhất thừa".

Bài kinh Tựa Tạp Tập chép: "Kính lễ Đại Giác Tôn như thế, pháp mầu không có chi bằng, các chúng Thánh, lại nói rằng: Ba thân Phật này là nghĩa khác nhau, phải biết rằng, trong đây, cũng khen ngợi công đức của pháp, tăng".

Pháp bảo: Thuộc về nghĩa nhân, quả, v.v... của tự tánh.

Tăng bảo: thuận theo tu học này, sinh ra, các lời nói đã biểu thị tất cả Tam bảo.

Ý của An Tuệ, đồng với thuyết mà Thiên Thân đã nói: "Tâm không có bè đảng, nghiêng lệch, vì có năng lực đều kính trọng, nên nói các biểu, các Thánh chúng, v.v... Nhiếp luận cũng chép: Cúi đầu Đại giác, các Như Lai, pháp mầu không có chi bằng, chúng chân Thánh vì không có phân biệt riêng, nên chung cho ba thừa".

Chân thật: Phật bảo ba thân; pháp bảo của ba thừa: Tất cả giáo, lý, hạnh, quả vô lậu; tất cả Thánh chúng ba thừa: Trụ hướng, trụ quả, trụ đạo, gọi là Tăng bảo, Tam bảo đồng chân thật của Đại, Tiểu thừa".

Quyển thứ 5 kinh Thập Luân nói: "Sa-môn có bốn loại":

1- Sa-môn đạo thắng: Vô học ba thừa đã lìa bỏ chi Hữu; hoặc Bồ-tát Đại thừa không như duyên người khác. Đối với tất cả pháp, thấy biết không có chướng ngại. Nhiếp thọ lợi ích, yên vui tất cả hữu tình, đều gọi thuộc về Sa-môn đạo thắng. Đều chỉ cho tăng, nghĩa vượt hơn".

2- Sa-môn thị đạo: Tăng, nghĩa vượt hơn kia và tăng thế tục. Trong đó, hoặc có cũng là thuộc về Sa-môn thị đạo. Nếu có người thành tựu giới biệt giải thoát, là phàm phu chân thiện, cho đến đầy đủ chánh kiến thế gian, người ấy vì do ghi nhận nói là sức biến hiện, có khả năng giảng nói rộng cho người khác nghe, chỉ bảy các pháp Thánh đạo, gọi là Sa-môn thị đạo phẩm thấp nhất.

Thứ hai Dự lưu, thứ ba Nhất lai, thứ tư Bất hoàn.

Bồ-tát Thập địa nói: Đây là Sa-môn thị đạo thứ năm.

3- Sa-môn Mạng đạo: Nếu có người thành tựu giới Biệt giải thoát, thực hành phép tắc thanh tịnh đầy đủ; vì dùng đạo để mạng được sống còn, nên gọi là mạng đạo. Lại, đại Bồ-tát vì lợi ích cho hữu tình, tu hành đầy đủ sáu pháp đến bờ kia, cũng gọi là Mạng đạo.

Ba hạng Sa-môn Thắng đạo, Thị đạo, Mạng đạo như thế, gọi là ruộng phước chân thật của thế gian.

Y cứ vào kinh kia nói: Phàm phu chân thiện, vâng giữ giới Biệt giải thoát, đầy đủ chánh kiến, nói pháp Thánh đạo, gọi là Thị đạo. Phàm phu v.v... ở trước, giữ đủ sáu chi giới, gọi là Mạng đạo. Hai loại Sa-môn này, được gọi là ruộng phước chân thật của thế gia, nên Tam bảo chân thật chung cho loại phàm phu. Nếu việc này không như vậy, thì Thánh đạo hiện tiền, dứt bỏ phiền não. Trong thì lý không tranh cãi, ngoài thì sự hòa hợp, có thể gọi là Tăng bảo. Giả thiết phi Sa-môn trụ Thánh đạo: Về lý, vì không có tranh cải, nên đều gọi Tăng bảo, vì đồng chủng loại với các Sa-môn. Nếu các phàm phu trụ giới, trụ kiến, cũng nhập thuộc về tăng bảo chân thật ấy, thì phi Sa-môn trụ giới, kiến, so sánh cũng thuộc về Tăng bảo. Về lý, sự cả đều chẳng phải hòa hợp, thì làm sao gọi là tăng, vì hai nghĩa ruộng phước và Tăng bảo riêng, nên chẳng phải ruộng phước của phàm phu cũng thuộc về chân Tăng bảo.

Nếu thừa nhận hai hạng Sa-môn phàm phu là chân Tăng bảo, nghĩa là vì sự hòa hợp; loại khác không phải như vậy.

Trong hai thuyết thì thuyết sau là tốt.

Trụ trì: Sau cùng, đức Thế Tôn khi sắp bát Niết-bàn, đã lên an cư trên tầng trời Đao-lợi để nói pháp. Vua Ưu-điền, v.v... nhớ Phật, kính mến kim dung, bèn cho khắc gỗ chiên đàn làm tượng, để cúng dường.

Đức Phật từ trời Đao-lợi, vừa mới bước xuống thềm báu, thì pho tượng Chiên đàn đứng dậy đón rước, lễ bái. Đức Thế Tôn dịu dàng xoa đầu pho tượng mà thọ ký rằng: "Sẽ trụ trì ở vị lai, thực hiện Phật sự một cách rộng rãi". Nên kinh Hoa Nghiêm chép: "Mười vị Phật, năm vị trước, trong Phật thế tục, có Phật trụ trì". Lại, kinh khác nói: đối với người chưa được hoá độ, đều cũng đã tạo ra nhân duyên sẽ được hóa độ, tức là di hình Xá-lợi và pho tượng, đều thuộc về Phật bảo trụ trì".

Sau Phật diệt độ, pháp có ba thời, là: chánh, tượng, mạt, đủ ba thứ: Giáo, hạnh, chứng gọi là Chánh pháp; chỉ có giáo, hạnh, gọi là tượng pháp; có giáo, không có chi khác, gọi là pháp mạt.

Hai giáo hạnh này thuộc về hữu lậu; văn tự lá bối, đều là Pháp Bảo trụ trì; ba pháp vô lậu là chân Pháp Bảo.

Trong hai loại Sa-môn: Thị đạo và Mạng đạo, thì phàm phu, giữ giới cụ túc, đủ loại kiến, v.v... là chánh, tượng, Mạt phát có thể trụ trì đó là Tăng trụ trì.

Lại, Kinh Thập Luân chép: "loại thứ tư trong bốn loại Sa-môn, gọi là Sa Mô Ô đạo. Mặc dù chẳng phải chân thật, nhưng cũng được nằm trong số ruộng phước. Tăng không có hổ thẹn, đối với chánh pháp của ta, cũng gọi là thây chết trong biển Thánh chúng, cần phải đuổi đi, vì không phải đồ đựng Thánh. Ta đối với người đó không xưng là Đại sư; kẻ ấy đối với ta cũng khôn phải đệ tử, có tâm hổ thẹn đối với xá-lợi, hình tượng ta và giới đáng yêu của bậc Thánh, sinh tâm kính tin sâu đậm. Tự mình không có tà kiến, cũng khiến cho người khác không có, có khả năng nói chánh pháp, luôn khen ngợi, không bao giờ chê bai, thường xuyên phát ra chánh nguyện, sám hối tùy thuộc số phạm, nghiệp chướng đều dứt trừ, phải biết rằng người này tin giới của Tam bảo, năng lực vượt hơn các ngoại đạo, gấp cả trăm ngàn lần, so với Luân vương còn không theo kịp, huống chi là hữu tình khác, nên khuyên hữu tình nói như vầy: Ở trong pháp ta, cạo bỏ râu tóc, ta không bao giờ pháp cho hủy nhục, trách phạt. Người xuất gia này, chư Phật ba đời luôn từ bi hộ niệm".

Cho nên, khinh chê, tức là chê chư Phật. Có tăng không có xấu hổ, phá hủy giới cấm, chẳng phải pháp khí Thánh, tự khởi tà kiến, cũng bảo người khác khởi, bài báng, chê bai Ba thừa, không khen ngợi Nhất thừa.

Hạng Bí-sô phá giới, tội ác như thế, đã lừa dối, mê hoặc hữu tình, khiến chúng nẩy sinh ác kiến. Thầy và đệ tử đều cùng đoạn tuyệt gốc lành, sẽ đọa địa ngục. Thây chết như thế, sẽ sình trương lên, cháy sém, hôi hám. Nếu giao du, ở chung, đồng sự với kẻ áy, thì sẽ bị tiêm nhiễm, huân tập nhơ nhuốc, hôi hám, mất đi Thánh pháp tài, thầy và đệ tử đều cắt đứt gốc lành, sẽ phải đọa địa ngục.

Cho nên, nếu không có ba loại Sa-môn đầu, ở trong đạo ô nhiễm, dù phá giới không hủy hoại chánh kiến, gần gũi, thừa sự, lắng nghe pháp yếu, không nên gần gũi Bí Sô với hành vi ác, giới kiến đều hủy hoại.

Xem xét ý văn trước, đầu tiên, kẻ không có hổ thẹn cũng được gọi là Tăng bảo trụ trì và tượng tăng Thượng tọa, v.v... cũng giống như vậy. Nhưng quyển thứ tư trong kinh ấy nói: Nếu có Bí-sô đối với các giới ác trọng của tánh căn bản, phạm bất cứ một tội nào, dù gọi Bí-sô ác hạnh phá giới, mà ở trong hòa hợp tăng thân giáo, luật nghi đã được, cũng không đoạn tuyệt, cho đến ruồng bỏ thi-la đã học, cũng có khí thơm bạch pháp theo đuổi. Các vị vua chúa v.v... không có luật nghi, không nên khinh mạn và trách phạt vua kia dù không phải pháp khí, chúng thanh tịnh, tạp nhạp ô uế, vì không bỏ giới nên cũng vượt hơn người tại gia. Người phạm tội tánh, còn nên như thế, huống chi trái phạm các tội già nhỏ khác.

Văn này tức là nói tăng không có hổ thẹn đầu tiên hủy hoại giới, vì có kiến, nên được có giới; về sau, kẻ không có hổ thẹn, gốc lành đã dứt, giới cũng không có theo, chẳng phải trụ trì gồm thâu trụ trì khiến gốc lành người khác sinh, vì pháp thuộc về hữu, nên gốc lành kia khiến khéo diệt, vì pháp diệt theo, nên không phải thuộc về trụ trì.

-Thứ hai, là nêu ra thể tánh:

Tam bảo đồng thể, tức pháp giới thanh tịnh, chân như, pháp thân. Kinh Niết-bàn chép: "Phật tức là pháp, pháp tức là tăng, tăng tức là thường, thường tức hư không, hư không tức Phật tánh, Phật tánh tức pháp thân, Tịch tĩnh căn trong phần Nhập Bất Nhị Pháp Môn của kinh Thuyết Vô Cấu Xứng nói Phật, pháp, tăng bảo, phân biệt làm hai: Nếu liễu đạt Phật tánh tức là pháp tánh. Pháp tức tánh tăng".

Tam bảo như thế, đều là tướng vô vi, bình đẳng như không v.v... các pháp cũng như vậy, thấu đạt được danh này, ngộ được pháp môn không hai, nên Tam bảo thể riêng, Phật dùng ba thân Phật làm tự tánh. Như Tam thân nghĩa lâm nói: "Pháp, nghĩa là dùng bốn pháp: giáo, lý, hạnh, quả thuộc về vô lậu của ba thừa làm tánh giáo, nghĩa là âm thinh, danh, cú, văn, thân, như tổng nghĩa lâm nói: Lý, nghĩa là hai đế, lý bốn đế v.v… Lý này có hai thứ.

1- Thật tánh các pháp của cảnh trí căn bản, tức là lý hai không.

2- Cảnh trí hậu đắc vì biến hóa giống với thật tánh kia, hạnh mười sáu đế, v.v... nghĩa là Ba thừa nhân Thánh đã khởi các hạnh của hai lợi.

Quả, nghĩa là Ba thừa vô học đã được quả của hai chuyển y trong bài tựa Kinh Tạp Tập, chỉ nói cảnh của trí căn bản, chân như, gọi là lý Pháp bảo. Lược không có lý cảnh đối tượng biến hóa của Hậu đắc, chỉ nói nhân hạnh Thập địa của Đại thừa, không nói là nhân của Nhị thừa đã tu hành, chỉ nói pháp quả hữu vi của Đại thừa, không nói là thân, v.v... biến hóa khác, cũng thuộc về pháp quả.

Thể của pháp như thế, nếu nói riêng, thì lý mà nhân đã chứng là lý Pháp Bảo, nhân mà bậc Thánh tu hành là hạnh pháp bảo. Quả của hai chuyển y trong vị Vô học là quả Pháp bảo; ngôn giáo sở hữu là Pháp bảo giáo. Pháp thể khác nhau, gọi là Pháp Bảo; đi suốt qua năm pháp tụ, có thể y chỉ nghĩa đức, kể cả người giả, tùy thuộc đối tượng thích hợp gọi là Phật, Tăng bảo. Năm uẩn giả: Và nghĩa Pháp thân là Phật bảo, chỉ lấy người giả làm Tăng bảo, là ba sai biệt. Thánh chúng Ba thừa, đủ lý sự hòa, gọi là Tăng bảo. Vì đủ giới, kiến, vô lậu v.v…, nên có thể y chỉ người giả, mới gọi là Tăng bảo.

Bồ-tát Thập Địa đều là địa vị Thánh, đa số đồng loại phát ra; Lân giác, Độc giác, cõi trời cũng như vậy, vì chủng loại Tăng bộ hành vượt hơn riêng lẻ. Trong kinh Báo Ân chép: Phu nhân Lộc nữ có năm trăm Thái tử xuất gia tu đạo, cùng một lúc đều được quả Bích-chi, không theo thầy thọ, gọi là Độc giác, có đa số đồng xuất, gọi là bộ hành.

Như sáu tầng trời cõi dục v.v... của hai cõi trên; hai quả; bốn quả, không có tướng xuất gia, về sự chẳng phải hòa; về lý, vì không có tranh cãi; chủng loại tăng này, đều gọi là Tăng Bảo, không đồng với đồ đựng thân hữu lậu của tông khác, làm y chỉ vô lậu, vì cúng dường và tổn hại, nên sinh ra tội, phước.

Du-già quyển 64 chép: "Trước thọ quy y ba thừa đều nhận lấy Kiến đạo trở lên. Thanh văn có năm":

1-Địa; 2-Trí; 3-Tịnh; 4-Quả; 5-Công đức chứng đắc.

Địa: Nghĩa là kiến, tu và các địa rốt ráo. Độc giác có ba, cho đến tám hạng Đại thừa cũng vậy, chỉ nhận lấy Thánh, chẳng phải Phàm. Luận Di giáo chép: Tăng trưởng tu hành: Thế và xuất thế gian, chúng ta đều Nam-Mâu: bậc Thánh Nhị thừa gọi là tu thế gian.

Nhất thừa: tất cả Tam bảo của nhất thừa căn bản, với chủng tánh bất định, phương tiện đã tu, hoặc pháp, hoặc tăng cũng thuộc về thể Tam bảo nhất thừa.

Kinh Pháp Hoa có hai xe dê và nai là nhân của xe bò; "hóa thành" cũng là phương tiện quý báu, nên kinh Thắng-man chép: Chánh pháp trụ, chánh pháp diệt, Ba-la-đề mộc-xoa, Tỳ-ni, xuất gia, thọ cụ túc.

Vì sáu xứ này là Đại thừa, nên nói: bốn xứ đầu là pháp; hai xứ sau là tăng, nên làm phương tiện của Nhất thừa. Hai bảo cũng thuộc về Nhất thừa. Nghĩa này rộng, như Nghĩa Lâm Nhất Thừa nói: Mặc dù hai pháp bảo, tăng của chủng tánh nhất định; về sau, không quy Đại, do đẳng của pháp đẳng, cũng gọi là Nhất thừa, như trong mười nghĩa của Nhiếp luận, v.v... nói: Ba thừa: Phật bảo ba thân, gọi Phật ba thừa. Giáo dù lập khác, nhưng không phải tông đã nói, không cần giải thích lạ.

Phật Bảo Đại thừa, thân, v.v... tự tánh thọ dụng của người khác, biến hóa chỉ là Phật bảo của Nhị thừa. Mặc dù chúng địa tiền cũng được thấy Bồ-tát Thập địa, chẳng phải Phật Đại thừa, chúng địa tiền kia chẳng phải là chúng thuộc Tăng bảo Đại thừa, vì Tăng kia hiện là Phật kia, chẳng phải là chúng thuộc Tăng Bảo Đại thừa, vì tăng kia hiện là Phật kia. Nếu thừa nhận phàm phu, cũng thuộc Tăng bảo, ấy là không có nghĩa này. Đại thừa căn bản và phương tiện tu giáo, lý, hạnh, quả, Pháp bảo Đại thừa. Lân giác, Độc giác và tánh định khác, đã tu bốn pháp, đều tùy thuộc đối tượng thích ứng, pháp bảo của Nhị thừa tùy thuộc đã tu bốn pháp vô lậu này, có thể người tu giả, đều là Tăng bảo ba thừa kia.

Chân thật: Tức đồng thể đã nói ở trước kia. Nhất thừa của thể riêng, Ba thừa của nghĩa thật Tam bảo, chỉ nhận lấy địa vị Thánh, gọi là Tăng bảo. Lý hòa trở lên, phiền não cắt đứt, đắc đạo, đắc quả, đáng quý, đáng trọng, xứng đáng gọi là Tăng bảo. Đầu tiên, đạo vượt hơn đầu tiên, hoàn toàn trong bốn Sa-môn.

Thị đạo, Mạng đạo, đều nhận lấy phần ít. Chủng loại của bậc Thánh là thuộc về Tăng bảo. Thị đạo phàm phu, Sa-môn Mạng đạo, dù có giới, kiến, có khả năng làm lợi ích chúng sinh, là ruộng phước chân thật, không phải thuộc về Tăng bảo, vì không có Thánh đạo, nên nghĩa ruộng phước, nghĩa báu rộng, vì cuộc hạn, nên Tam bảo đồng thể, bỏ giải thích, nói về thật, không phải gồm thâu bốn đế, y cứ giải thích chỉ thú rõ ràng thuộc về Diệt đế. Về thể riêng thì có Nhất thừa, ba thừa, chân thật đều chung cho Diệt, Đạo, y cứ theo trụ trì ở dưới cũng thuộc về khổ, tập. Trụ trì, nghĩa là Phật bảo, chỉ dùng bốn xứ làm tánh. Xá-lợi và tượng sắc, hương, vị, xúc làm tự tánh.

Pháp bảo dùng chung cho năm uẩn làm tánh. Giáo, nghĩa là tiếng, pháp xứ, chữ là bối, nghĩa là bốn xứ hạnh gọi là ba nghiệp. Hoặc tánh năm uẩn, nên pháp bảo này, năm uẩn, bảy xứ dùng làm tự tánh, chỉ vì hữu lậu; tượng Thượng tọa, v.v... trong tăng trụ trì; bốn xứ làm tánh.

Trong hai loại Sa-môn Thị đạo, và Mạng đạo, các loại phàm phu kể cả Sa-môn ô đạo thứ tư, hủy hoại giới có kiến không dứt gốc lành. Ăn năn chủng loại tội, năm uẩn giả, suốt qua mười hai xứ dùng làm tự tánh.

-Thứ ba, là giải thích tên gọi:

Đầu tiên, là giải thích tên chung, có ba là số, nghĩa là Phật, Pháp, Tăng. Ba hạng này xưng là báu, gồm có sáu nghĩa: Luận Bảo Tánh, hỏi: Vì sao Phật, Pháp, chúng tăng gọi là báu?

Kệ nói:

Chân bảo đời ít có.
Sáng sạch và thế lực.
Làm trang nghiêm thế gian.
Trên hết và bất biến.

Dựa vào thứ sáu kia tương tự, tương đối, chúng tăng, Phật pháp gọi là báu.

1- Thế gian khó được, chúng sinh không có điều lành, thì trăm ngàn muôn kiếp không thể được, vì chân bảo thế gian này ít có.

2- Không nhơ: Vì lìa tất cả các hạnh hữu lậu, rất sáng sạch.

3- Oai đức có sáu thần thông, oai đức tự tại có thế lực.

4- Trang nghiêm thế gian, vì có công năng trang nghiêm thế gian.

5- Mầu nhiệm: vì là pháp xuất thế gian trên hết, nên sáu không thể đổi khác, vì được tám pháp thế gian vô lậu, không thể nghiêng động, vì thường không biến đổi, như bảy thứ châu báu của thế gian, đủ sáu tướng này, ba thể cũng vậy, nên đều gọi là báu, kèm số để giải thích. Tương đối tương tự, là nghĩa thí dụ.

Tiếng Phạm là Quất-đà, lược lầm là Phật. Kinh Niết-bàn chép: Phật gọi là Giác, đã tự giác ngộ, lại giác ngộ người khác. Dụ như có người giác biết có giặc, giặc không có khả năng làm, Bồ-tát có khả năng giác biết Vô lượng phiền não, đã giác liễu xong, khiến các phiền não không có khả năng làm gì được, nên gọi là Phật.

Bồ-tát Địa nói: Đối với pháp ba tu vì bình đẳng khai giác nên gọi là Phật.

Luận Phật Địa nói: "Đủ hai thứ trí hay giác biết người khác. Người có giác đều có tuệ riêng, y chủ đặt tên". Đạt-ma nói: "Kinh Pháp Phần Quảng nói: "Phép tắc, gọi là Pháp". Thành Duy Thức nói: "Pháp, nghĩa là gìn giữ phép tắc, hay gìn giữ tự tướng, vì phép tắc sinh hiểu biết".

Kinh Niết-bàn chép: "Pháp, gọi là bất giác.

Tăng-già dịch là Chúng. Đối với lý, đối với sự, vì không có chống trái, tranh cãi". Tăng này có ba thứ:

1- Tăng lý hòa: Ba vị trở lên, dù mới gọi là Tăng, nhưng Lân giác, Độc giác và bậc Thánh khác. Nếu vì độc nhất phát ra chủng loại kia, nên cũng được gọi là Tăng.

2- Tăng sự hòa: Ba vị trở lên, đều là thể của tăng, vì phần nhiều để biện luận. Pháp của nước kia, từ một, gọi là một; từ hai gọi là Thân; từ ba người trở lên, đều gọi là Nhiều, như nói về sự pháp; bốn người mới thành. Một người bạch rằng: "Đại đức tăng nghe, ba người đã hòa được gọi là Tăng". Nếu bốn là tăng, thì há người năng bạch mà tự bạch hay sao?

Vì muốn biểu thị rõ hòa hợp từ nhiều người. Từ ba vị trở lên, đều được gọi là Tăng.

3- Nói về tăng sự: Nghĩa là bốn vị, năm vị, mười vị, hai mươi vị. Trong bạch chủ thể, đối tượng, đầy đủ hòa hợp, vì nói về sự pháp, nên không đúng, nghĩa là thể hòa. Pháp này, tăng lên, đều không đúng. Có sáu cách giải thích; chỉ một danh từ, vì không có phân biệt, nếu nói theo chữ báu, thì cả ba đều là Trì nghiệp thích.

-Thứ tư, Nói về phế, lập:

Lược có bốn nghĩa. a-Luật Tăng-kỳ chép: Vì trái với Tam bảo của tà ngoại đạo, nên Kinh Ưu-bà-tắc giới nói: "Nếu quy y Phật rồi, thà bỏ thân mạng, không bao giờ quy y trời Tự tại, v.v…".

Nếu quy pháp rồi, thì không bao giờ quy y sách vở của ngoại đạo.

Nếu quy y tăng rồi, thì không bao giờ quy y tà chúng ngoại đạo. Niết-bàn, Thành Thật nói cùng đồng với kinh này. b-Phẩm Tam bảo, luận Bảo Tánh quyển hai chép: "Vì y cứ vào nghĩa của ba thứ":

1- Vị thầy Điều ngự.

2- Pháp của vị thầy kia.

3- Thầy trò kia.

Đã chứng vô lượng, vì chủng loại đồng, nên lập ra một pháp, có thể chứng nhân, quả, vì hai loại riêng, nên chia thành Thầy, trò. c-Luận kia lại nói: "Vì người căn cơ bậc thượng, nhận lấy Bồ-đề Phật, nói đối với Phật bảo, vì người căn cơ bậc trung, cầu trí tự nhiên, đạt pháp nhân duyên, nói là đối với pháp bảo, vì người căn cơ bậc hạ, nương thầy thọ pháp, lý sự, không trái, nói là Tăng bảo", nên luận kia nói: "Vì nương tựa sáu hạng người, nên nói Tam bảo".

1- Đại.

2- Trung.

3- Tiểu thừa.

Như thứ lớp, tin Phật, tin pháp, tin tăng, nên nói sáu hạng người. 4-Các chỗ đều nói: "Phật như thầy thuốc; pháp như thuốc hay; tăng như người săn sóc bệnh, nên Tam bảo này không thêm, không bớt".

-Thứ Năm, Nói rõ sự khác nhau:

Du-già quyển 64 chép: "Do sáu thứ tướng, khác nhau của Tam bảo".

(1). Vì tướng: Nghĩa là tướng giác ngộ tự nhiên là Phật bảo.

(2). Vì nghiệp: Nghĩa là chuyển nghiệp chánh giáo là Phật bảo. Bỏ nghiệp cảnh đối tượng duyên (sở duyên) của khổ phiền não là pháp bảo. Nghiệp mạnh mẽ thêm lớn là Tăng bảo.

(3). Vì tín giải thoát: Nghĩa là đối với Phật bảo, nên phải gần gũi, kính thờ tin hiểu. Đối với pháp bảo, nên mong cầu chứng đắc tin hiểu, đối với Tăng bảo, luôn luôn hòa hợp, đồng một Pháp tánh, trụ chung tin hiểu.

(4). Vì tu hành: Nghĩa là đối với Phật bảo, nên tu cúng dường, kính thờ sự chánh hạnh; đối với Pháp bảo, nên tu chánh hạnh, phương tiện Du-già; đối với tăng bảo, nên tu thọ chung của, pháp, chánh hạnh.

(5). Vì tùy thuộc niệm, nên dùng tướng khác, để thuận theo niệm Phật bảo; nên dùng tướng khác để thuận theo niệm Pháp bảo; nên dùng tướng khác để thuận theo niệm Tăng bảo. Rằng là Đức Thế Tôn, cho đến nói rộng.

(6). Vì sinh phước: Nghĩa là nương tựa Phật bảo, một hữu tình sinh phước rất vượt hơn; đối với Pháp bảo, tức nương tựa pháp này sinh phước trên hết; đối với Tăng bảo, dựa vào nhiều hữu tình, sinh phước hơn hết.

-Thứ sáu, Giải thích trở ngại, vặn hỏi:

Đầu tiên, là y cứ vào nghĩa chung, có mười câu hỏi đáp:

Hỏi: Đã nói về Tam bảo; thứ lớp thế nào?

Đáp: Hoặc có thứ lớp; hoặc không có thứ lớp. Tam bảo đồng thể, vì tánh phần của nghĩa nhất thể không có hơn, kém, nên không có trước, sau, nhưng tùy thuộc nghĩa riêng, cũng có trước, sau. Chủ thể giác, đối tượng giác, thuận theo giác có khác, trình bày sự khác nhau trước, sau của Phật, Pháp, Tăng. Tam bảo của tướng riêng, theo thứ lớp có năm:

1- Thứ lớp nhân, quả: Do tăng trước tu, tiếp theo viên mãn quả Phật, sau được quả pháp.

2- Thứ lớp cảnh, hạnh: Dùng pháp làm cảnh; tăng tu hạnh Thánh, viên mãn quả Phật.

3- Thứ lớp thầy trò: Kinh Niết-bàn chép: "Thầy của chư Phật là cái gọi là Pháp". Trong kinh Báo

Ân cũng nói: "Trước hết là pháp, kế nói Phật bảo, sau nói Tăng bảo".

4- Thứ lớp hơn, kém: Các giáo đều nói: "Phật, Pháp, Tăng bảo, chủ thể giác, pháp kia, đối tượng giác, thọ theo vì có hơn, kém.

5- Thứ lớp tùy tín: Do trước thấy giới, hạnh, oai nghi của Tăng, đã sinh tín rồi, kế là tâm quy y đế, v.v... là đối tượng chứng; sau, đối với vị thầy kia, cũng sinh tôn sùng, kính mến, nên Tăng, Pháp, Phật, thứ lớp như thế.

Như Vụ Tử, v.v... ra đường thấy oai nghi nhàn nhã, vắng lặng của Mã Thắng, xin nghe "sự hiểu biết". Đã nghe khổ đế, ấy là được Sơ quả; sau, đi đến chỗ Phật, quy ngưỡng nghe pháp, thành A-lahán.

Thứ hai: Hỏi: Tam bảo, đối tượng quy, bảo nào rộng, bảo nào hẹp?

Đáp: Cả ba đều là thể rộng, vì chung cho trụ trì; hoặc thể không có riêng, vì quy y chân thật.

Thứ ba: Hỏi: Phật thuộc về Tăng hay không thuộc về tăng?

Đáp: Kinh nói: "Trong chúng tăng, không có Phật, không có pháp".

Hỏi: Sao nói cúng dường chúng Tăng, thì được cúng dường đầy đủ Tam bảo?

Đáp: Đức Phật tự bảo rằng: Ông theo lời ta nói, là cúng dường Phật; vì được giải thoát, tức cúng dường Pháp; chúng Tăng người thọ lãnh pháp, tức cúng dường Tăng. Thế nên, ba quy không được là một.

Xem xét ý kinh kia, Đức Phật không phải thuộc về Tăng.

Nếu như vậy, thì sao Du-già quyển 60 chép: "Do ruộng của năm thứ tướng, thành rộng lớn. Thứ năm, là thanh tịnh cùng cực, nối nhau cuối cùng, nghĩa là A-la-hán và Phật là Đại Bí-sô tăng đầu tiên".

Đã nói rằng, Bí sô và Phật là hàng đầu, sao nói Phật không thuộc về Tăng bảo?

Đáp: Ngoại đạo xuất gia đều giả gọi là Tăng, Tăng là khác với học trò kia, và Phật là đứng đầu, đủ chứng tỏ đệ tử Phật, chẳng phải Phật, tức tăng, đồng với đại chúng bộ, v.v... nói: "Phật không thuộc về tăng". Hóa Địa bộ nói: "Vì trong tăng có Phật, nên thí cho tăng, ấy là được quả lớn, chẳng phải thí cho riêng Phật. Vì tăng không được, vì Phật cũng được, nên Pháp Tạng bộ nói: "Nghĩa là đức Phật dù thuộc về ở trong tăng, nhưng thí riêng quả Phật vĩ đại không phải Tăng, vì muôn đức viên mãn, vì ruộng không phải vượt hơn. Nếu y cứ vào nghĩa kia, thì Phật thuộc về Tăng, nên Du-già nói: "Và Phật là Đại Bí-sô tăng đứng đầu".

Đã thế, theo thuyết Niết-bàn đã nói, làm sao đi suốt qua?

Đáp: Đại Thắng Sinh chủ không biết Phật là người cạo tóc, mặc y nhuộm, cũng thuộc về Tăng, vì tùy ý sinh chủ kia, nên tạo ra thuyết riêng, chứ không nhất định nói là Phật chẳng thuộc về Tăng, nên nói: "Đôi khi nói một là ba, nói ba mà là một", vì cảnh giới Phật, người khác không thể biết được. Trong hai thuyết, nên cầu chánh lý.

Thứ tư: Hỏi: Phật, pháp, tăng bảo, hơn, kém nhau có thể biết. Vì sao Phật, tăng gây tổn thương, giết hại thì thành tội nghịch? Còn làm hủy hoại, tổn hại đối với pháp, lại không thành tội nghịch?

Đáp: Phật, Tăng ở chúng sinh, hóa độ Nhị thừa, do đó nói là nghịch, chê bai Pháp, thật là tội nặng. Bồ-tát dẫn dắt nên đặt tên là nghịch.

Kinh Tát-giá-ni-càn Tử chéo: "Thứ ba là năm tội nghịch, chê bai pháp Ba thừa, nhất định là pháp phi lý: chướng ngại, lưu nạn, ẩn lấp, che giấu. Tội thứ tư, mới nói làm cho thân Phật chảy máu, giết bậc Vô học, v.v.." Bát-nhã, Pháp Hoa cũng nói: "Chê bai pháp sẽ đọa địa ngục Vô gián ở khắp mười phương, nên làm cho pháp Bồ-tát cũng thành nghịch".

Thứ năm: Hỏi: ba thân, tổn hại hóa thân, thì thành tội nghịch, nhân sát của Tăng bảo có thành tội nghịch không?

Đáp: Pháp thân, báo thân không có tổn hại, chỉ có hóa thân mới gọi là nghịch. Vô học Phước tăng thêm, thành tội nghịch chỉ có quả, lý thật nói lỗi tăng, còn được gọi là nghịch, huống chi giết mạng Hữu học, mà không phải tội nghịch ư? Làm cho thân Phật chảy máu, còn gọi là nghịch, báo chê bai pháp, về lý, cũng thành tội nghịch, chỉ vì Phật y cứ dễ tổn hại. Tăng dựa vào ruộng vượt hơn, chung cho vì Nhị thừa gọi nghiêng về tội nghịch.

Thứ sáu: Hỏi: Tăng bảo của ba thừa, Bồ-tát thành tôn quý, làm tổn hại, giết chết Thập Địa, lẽ ra phải trở thành tội nghịch mới đúng?

Đáp: Tùy loại hóa sinh, năm nghịch không có dừng lại. Bồ-tát trái với tội đồng loại, mười địa tổn hại, cũng do nghịch mà thành.

Thứ bảy: Hỏi: Phước, tội trái nhau, cúng dường tăng vượt hơn Vô học, riêng tội phước trái nhau, vì vô học không phải nghịch đối với tăng, nên nói là thỉnh riêng năm trăm vị La-hán, không bằng theo thứ lớp tăng thỉnh một vị?

Đáp: Tâm, cảnh của tội sát đều tăng thêm, sát Vô học gọi là nghịch. Ruộng, tình, phước cúng đều trội hơn, đối với phước tăng mà làm nhiều. Hoặc dựa vào tương tự tội phước của Đại thừa.

Thứ tám: Hỏi: Hữu học, Vô học đồng sự hòa mà gọi là Tăng bảo" Sinh phàm, sinh Thánh, đều có tăng mà đồng thuộc về báu phải không?

Đáp: Về lý hòa, sự hòa, hai Thánh không có tranh cãi. Sự hòa phi lý, phàm sinh có trái, nghĩa báu, đáng quý trọng. Tăng phàm chẳng phải báu.

Thứ chín: Hỏi: một Phật, một pháp, cũng xưng Phật pháp; một vị tăng, hai vị tăng được gọi là tăng không?

Đáp: Phân biệt sự, gọi là tăng, từ chúng mới gọi là tăng. Xem xét, giữ gìn phép tắc, tùy thuận một, đều gọi là Phật Pháp.

Thứ mười: Hỏi: Kinh Thập Luân chép: "Có bốn hạng tăng".

1- Thắng nghĩa.

2- Thế tục.

3- Dê câm.

4- Không hổ thẹn.

Nghĩa là Phật, Bồ-tát Thập Địa, Độc giác, bốn quả, gọi là tăng Thắng nghĩa. Nếu các hữu tình có tướng tại gia, không cạo râu tóc, không mặc Ca-sa, dù không được thọ tất cả giới biệt giải thoát xuất gia, tất cả Yết-ma, Bố-tát, tự tứ, đều ngăn chận, khiển trách mà có pháp Thánh, vì được quả Thánh, nên Thánh xuất gia trước, bậc Thánh tại gia này đều là tăng Thắng nghĩa. Có người cạo râu, tóc, mặc pháp phục Ca-sa, thành giới xuất gia, gọi là tăng Thế tục. Đây là y cứ vào loại xuất gia phàm phu có trí. Nếu không biết rõ tội và phi tội, phạm và không phạm, không biết phát lộ, ngu xuẩn, thô lỗ, đần độn, không nương tựa người lành, không chịu đến nghe, không thường xuyên thưa hỏi tạo tội phước gì? Gọi là Tăng dê câm.

Nếu các hữu tình vì mạng sống, nên quy ý ta, xuất gia, hủy phạm giới hạnh, không biết hổ thẹn, không sợ quả khổ, ôm ấp trong tâm việc hủ bại, như loài ốc sên nhơ bẩn, tiếng tù và, bước đi của chó, lời nói dối trá, không có thật, phiền não thêm nhiều, không hề có nghiệp vượt hơn, đắm say sáu cảnh lợi dưỡng, tiếng khen, dâm dật, chê bai chánh pháp, gọi là tăng không có hổ thẹn.

Hỏi: Trong đây, người nào thuộc về Tăng bảo? Đáp: Hạng người đầu tiên là hoàn toàn; hoặc kế là một, ít vị Thánh, gọi là Tăng bảo. Tiếp theo hai hạng sau, hoàn toàn là tăng phàm, không thuộc về báu.

Tiếp theo y cứ vào chủng loại, có ba lượt hỏi đáp:

1- Hỏi: Dùng thừa đối với báu, báu có khác đồng; dùng báu đối với thừa, thừa có đồng, khác hay không?

Đáp: Giáo không có hiển bày riêng, về lý, lẽ ra cũng là chung, chỉ nói ba thứ giáo, hạnh, phương tiện thừa. Bàn luận về lý, quả thừa cuối cùng chỉ một, không ngăn chận tánh nào, ý nghĩa ba con thú lội qua sông, dùng chia làm ba, chuyển y cuối cùng vì chứng nghiêng lệch, viên mãn, mà chẳng phải một, nên bàn bạc về nghĩa quả lý, chia ra ba thừa; hoặc báu được chia ra gốc, ngọn của pháp, nên triển khai hai môn đồng, biệt. Thừa dùng vận tải, vì sinh căn cơ, nên không có một thể, ba nghĩa, bằng nhau, không bằng nhau, giải thích mặc tình lấy, bỏ.

2- Hỏi: Vì sao Tam bảo có một ba thừa? Nghĩa nào ba thừa không có ba, một bảo?

Đáp: Thừa thuận theo căn cơ mà lập, báu theo thừa sáng; báu y cứ đáng quý trọng, thừa không lập theo; hoặc báu dù đáng quý trọng, nhưng theo đuổi ba căn để chia làm ba; thừa đã vận chuyển sinh, cũng thuận theo báu chia làm ba. a-Hoặc dùng vật báu theo thừa mà dễ sáng tỏ; thừa theo đuổi vật báu mà khó sáng tỏ. b-Trái ngược lẫn nhau mà thành. c-Cả hai đều không có sai lầm.

3-Hỏi: Báu thuận theo căn cơ mà lập, giả thừa nhận trụ trì. Thừa đối với căn cơ chúng sinh, lẽ ra phải triển khai tạp nhiễm, vì sao chỉ nói không hệ thuộc là thừa?

Đáp: Chân thật gọi là báu, đồng với nghĩa không hệ thuộc lợi ích đáng quý trọng, trụ trì thuận theo mà lập. Thừa thuận theo chân thật, không hệ thuộc gọi là Thừa. Vận chuyển hữu ích, sinh tạp nhiễm cũng vận chuyển.

Tiếp theo, y cứ vào thể tánh, có sáu hỏi đáp:

1- Hỏi: Tăng là nghĩa Chúng. Từ ba vị trở lên gọi là Tăng. Về mặt lý, thể không khác, vì chân như đâu có nghĩa Tăng?

2- Hỏi: Thể của ba thừa là riêng, hội sau, quy về Nhất thừa. Tam bảo khác nhau, chung quy có thể thành ở một báu hay không?

Đáp: Vận chuyển chúng sinh có ở ban đầu, sau, hội hai quy về Nhất thừa, đáng quý trọng có ở hơn, kém, cuối cùng đều quy một báu. Hoặc báu đáng quý trọng có đồng, riêng biệt mà không có hội. Thừa, là y cứ ở vận tải, nói ba, một mà gọi là quy, bằng nhau và không bằng nhau, cũng tùy thuộc ở lấy, bỏ.

3- Hỏi: Dùng thừa đối với báu, đều thừa nhận hội quy; lấy báu đối với thân, lẽ ra cũng hội quy, nghĩa là hội ứng, hóa, quy về pháp thân?

Đáp: Chấp thừa cùng cực mà trụ quả, khiến tiến tới tập mà nói về quy; không có chấp thân mà không tiến, nên đối với thân mà không có hội. Nếu nói hơn, kém, thì các giáo sẽ rõ nét, sáng sủa.

4- Hỏi: đã thừa nhận thể Tam bảo có tương đồng, dị biệt, lẽ ra phải thừa nhận ba thân cũng có thể đồng mới phải?

Đáp: Bảo thuận theo căn cơ mà lập. Đối với ưa chấp mà gọi là đồng, khác. Lợi thân, căn riêng, không có tình chấp mà chỉ khác. Hoặc sự khác lập riêng, lý bình đẳng, sáng suốt đồng. Báu đã một, ba thì thân cũng ba, một chỉ vì thân khác khó hiểu, các giáo bày ra nhiều, thể đồng đẳng dễ biết, bậc Thánh không nói.

5- Hỏi: Thuận theo căn cơ, biểu hiện bảo, bảo có một, ba; Thuận theo thừa, hiện thân Phật có ba, một phải không?

Đáp: Vì thể của thừa tức là bảo, nên có một, ba; vì Phật chẳng phải Nhị thừa, nên không có ba, một. 6-Hỏi: Thuận theo căn cơ, biểu hiện bảo, bảo một, ba; Thuận theo thừa, hiện thân Phật có ba, một phải không?

Đáp: Phật đều là quả cùng cực, chẳng phải nhị thừa kia, vì triển khai có hơn, kém, nên có ba, một. Hoặc dù hóa làm ba thân, Pháp thân năm phần, gọi là pháp thân. Thân sinh ở cung vua, gọi là báo thân; thân tùy loại khác, gọi là hóa thân.

Ba thân của Nhất thừa, như trước đã nói, nên giải thích câu hỏi trước có ngang bằng, không ngang bằng.

Kế là y cứ giải thích tên gọi, có ba câu hỏi đáp: 1-Hỏi: Gìn giữ tự tướng chân như, chánh có thể gọi là pháp, chẳng phải hòa, không có giác, thì làm sao gọi là Phật, tăng được.?

Đáp: Giác tánh, giác y, giác bổn, gọi là giác. Lý hòa, sự thuận, gốc chúng, gọi là Tăng.

2- Hỏi: Chủ thể Học, hơn kém, Phật, Tăng, mở rộng làm hai, Pháp nhân, quả, đối tượng học, lẽ ra chẳng phải một mới phải?

Đáp: Có chướng, không chướng, để biểu thị rõ tu chủ thể học dễ biết, vì mở rộng hai, có vượt hơn, không có vượt hơn, để chứng minh đối tượng học, vì khó hiểu rõ, nên chỉ có hai.

3- Hỏi: Hơn, kém khó hiểu rõ, hợp pháp là một. Sự, lý đễ biết, pháp triển khai làm hai phải không? Đáp: Đạo Thầy trò khác nhau, Phật, Tăng là hai, nghĩa phép tắc ngang bằng nhau, pháp chỉ là một.

Kế là y cứ vào phế lập có ba câu hỏi đáp:

1-Hỏi: Kinh Thắng-man v.v... chép: "Có nhất thừa" Kinh Niết-bàn, v.v... chép: "Có Nhị thừa". Ví như nhà vua khiển xe bốn ngựa, muốn cho xe lừa mà theo kịp ngựa, thì không có việc đó".

Kinh Pháp Hoa v.v... chép: "Có Ba thừa, nghĩa là xe dê, nai, bò".

Kinh Thiện Giới, v.v... chép: "Có bốn xe: ba xe trước thêm voi".

Kinh Thắng-man v.v... cũng nói có bốn: Nghĩa là không có nghe phi pháp, chúng sinh do gốc lành của người, trời mà thành tựu. Người cầu Thanh văn, truyền trao thừa Thanh văn. Người cầu Duyên giác, trao cho thừa Duyên giác. Người cầu Đại thừa, trao cho Đại thừa.

Trong kinh Lăng-già, nói có năm thừa: ba thừa định, tánh bất định tánh là bốn, thứ năm, A-xà-đề có hai:

1- Có tánh mà dứt mất gốc lành.

2- Bồ-tát có tâm đại bi: trong luận Trang Nghiêm cũng nói có năm: Bốn thừa trước, như trước, thừa thứ năm có hai:

Tức có tánh mà dứt mất gốc lành, nghĩa là tạm thời không có. 2-Không có tánh. Nghĩa là cuối cùng không có. Kinh Thiện giới, v.v… cũng nói có năm: bốn thừa đầu như trước, thừa thứ năm chỉ một, nghĩa là không có chủng tánh.

Vì sao nói thừa có khác nhau này, không nói thân báu có môn khác?

Đáp: Thừa thuận theo căn cơ mà lập; Phật y cứ vào giác, vì khác với tánh báu đáng quý trọng, nên không có thêm bớt.

1- Hỏi: Vì sao chứng tịnh lập riêng môn giới, trong lập báu, không mở ra giới báu?

Đáp: 1-Chứng tịnh là đối tượng tín.

2- Nhân giới lập riêng. Nghĩa báu hóa độ ba căn. từ chung gọi là pháp bảo. Bốn thứ chứng tịnh, do hai nhân lập, do tin Tam bảo, lìa nhân đường ác. Vì tín, giới nên nhân lìa nghèo hèn, nên tin ngoài pháp, lập riêng tịnh giới.

3- Hỏi: Do đâu tùy niệm thêm sáu, thêm ba? Đối tượng cung kính, đáng quý trọng, tức không có thêm, bớt?

Đáp: Niệm duyên khiến gần gũi người kia; niệm hạnh khiến người kia tiến tu, thêm sáu, thêm ba, sáu mươi tùy niệm trọng, chỉ nói ba quy, nên không có thêm bớt.

Tiếp theo, y cứ vào sai biệt, có một câu hỏi đáp: Hỏi: Vì sao chỉ nói tướng riêng của Tam bảo, không nói chẳng có tướng riêng?

Đáp: Không có tướng riêng, đã bày tỏ rộng; có luận khó của nghĩa riêng, cần giải thích đủ, hợp với lượt hỏi đáp ở trước, có hai mươi lăm.

-------------------------------

PHÁ MA LA NGHĨA LÂM:

Nghĩa phá ma-la, dùng bảy môn để phân biệt:

1- Nêu tên gọi khác nhau.

2- Giải thích tên gọi, nêu ra thể.

3- Nói về phế lập.

4- Nói về sở chướng.

5- Năng phá khác nhau.

6- Thứ lớp chân phá.

7- Chỉ bày tướng lúc hàng phục.

1) Nêu tên gọi khác nhau: Ma có hai thứ: a-Phần đoạn phẩm ma. b-Biến dịch phẩm ma.

Phẩm An Lạc Hạnh trong kinh Pháp Hoa, chép: "Như Lai cũng giống như thế, dùng năng lực trí tuệ thiền định, được cõi nước pháp, vua trong ba cõi, mà các ma vương không chịu khuất phục thuận theo, các tướng Hiền, Thánh của Như Lai đã chiến đấu với chúng. Người có công kia cũng vui mừng, ở trong bốn chúng, vì nói các kinh, sao cho tâm họ vui vẻ, cho đến lại ban cho họ thành Niết-bàn, nơi là sẽ được diệt độ, dẫn dắt tâm họ, khiến họ vui mừng, mà không nói cho nghe Kinh Pháp Hoa này".

Đây là nói Nhị thừa, trước vì đã phá diệt, nên biết chỉ Ma là phần đoạn. Phẩm phiền não chướng đã gây chướng ngại Nhị thừa, gọi đó là Ma.

Phẩm Sở tri chướng, đã gây chướng ngại Nhị thừa, gọi đó là Ma. Phẩm Sở Tri Chướng, gây chướng ngại đối với Bồ-tát, biết rõ cũng là ma.

Kinh Thắng-man nói: "Hữu tức bốn Thánh đế, vô tác bốn Thánh đế, Như Lai ứng chánh Đẳng giác, đầu tiên mới giác biết, nhưng về sau, chúng sinh bị chứa giữ trong vỏ trứng vô minh, Như Lai đã dùng phương tiện giảng nói, đã phân tích hai chết, hai uẩn, hai phiền não, biết rõ ma trời cũng có hai loại: Hoặc nói ba ma: Pháp Hoa lại nói: "Như Lai cũng giống như thế, là Đại Pháp vương trong ba cõi, dùng pháp giáo hóa tất cả chúng sinh, nhận thấy quân của Hiền, Thánh chiến đấu với ma năm ấm, ma phiền não, ma chết, có công huân vĩ đại, diệt ba độc, ra khỏi ba cõi, xé rách lưới ma. Bấy giờ, Như Lai cũng rất vui mừng, không nói là ma trời, hoặc nói bốn ma". Du-già, v.v... chép: "Thản nhiên an tọa tòa Bồ-đề mầu nhiệm, hàng phục bốn ma, đủ thế lực vĩ đại, gọi là Bạc-già-phạm". Luận Phật Địa nói có bốn ma.

1- Ma phiền não.

2- Ma uẩn.

3- Ma chết.

4- Ma trời tự tại.

Hoặc nói tám ma: Phần đoạn, biến dịch, đều có bốn, cho nên Bồ-tát cho rằng phân biệt và sở tri chướng là phiền não. Về mặt lý, cũng nhất định có ma phiền não của phẩm biến dịch sinh tử. Lại, nói tám ma, Kinh Niết-bàn nói: "Trên bốn ma, lại thêm bốn đảo; hoặc nói mười ma". Trong Tạp Tạng nói: "Dục, lo rầu, đói khát, ái, ngủ say, sợ hãi, hoài nghi, độc và tự cao, danh lợi, khinh mạn. Quân của các ngươi như thế, tất cả đều không có khả năng phá nổi mũi tên trí, dao định của ta, sẵn sàng đập vỡ nát bình đất khi các người đổ nước vào".

2) Giải thích tên gọi, nêu ra thể: Đầu tiên là giải thích tên gọi, sau nêu ra thể. Trong giải thích tên gọi, đầu tiên là giải thích tên chung; sau giải thích tên riêng. Tên chung: Tiếng Phạn nói: "MA-la, dịch là khuấy rối, chướng ngại, phá hoại: Vì khuấy rối thân, tâm; chướng ngại pháp lành; phá hoại sự việc vượt hơn, nên gọi là ma-la".

Ở đây, nói lược là ma. Các ma là gọi chung, ba v.v... là Đới số thích. Lại, nói rằng: "Ba-ty-dạ, dịch là kẻ ác. Thiên ma là tên riêng, Ba-tuần là lầm, thành tựu pháp ác, trong tâm có ý ác, cho nên Thiên ma Ba-tuần là nêu cả hiệu và tên.

Giải thích tên riêng: Có thể phân tích, có thể cắt từng đoạn, gọi là phần đoạn. Phẩm là nghĩa loại. Biến đổi, chuyển dịch, gọi là biến dịch. Nghĩa phẩm như trước. Phần đoạn, phẩm biến dịch, tức ma, trì nghiệp thích. Phần nhiều, khuấy rối, gọi là phiền não. Chứa nhóm sắc v.v... gọi là Uẩn. Sắp hết, đang hết, hết rồi, gọi là chết. Dụng thần, sáng sạch, tự tại, gọi là trời. Bốn thứ này tức là ma, là Trì nghiệp thích. Niết-bàn chép: "Tám ma: bốn ma đầu tiên, như trước, vô thường, vô học, vô ngã, vô tịnh, thể trái ngược, tức là ma, cũng Trì nghiệp thích".

Tên mười ma: đáng ưa danh; tâm dục; buồn bã; gọi là lo rầu; mong cầu; ăn uống, gọi là đói khát, say đắm dục, gọi là ái, khiến tâm mờ tối, gọi là ngủ say, có e sợ, gọi là sợ hãi; do dự hai đầu, gọi là nghi; tổn não thân, tâm, gọi là độc. Mong được tiếng khen, tham của, gọi là danh lợi, tự đề cao, lăng nhục người khác, gọi là cao mạn, dục, v.v... tức là ma, cũng trì nghiệp thích. Trong đây, giải thích các tên gọi khác nhau, trong số thêm bớt thì đồng nghĩa là loại thích. Kế là nêu ra thể của ma, thể của hai ma: y cứ vào phẩm Hữu tạo thô tứ đế. Sự cảnh thô cạn của phàm phu, Nhị thừa, lập thể ma phần đoạn, y cứ vào phẩm thô cạn của phàm phu, Nhị thừa mà lập thể ma phần đoạn, y cứ vào phẩm Vô tác tế tứ đế. Sự cảnh mầu nhiệm của phàm phu Đại thừa, lập thể ma biến dịch. Về sau, chỉ chướng ngại Bồ-tát. Đầu tiên, chướng ngại chung Nhị thừa. Nhị thừa cầu giải thoát, vì các ma kia có thể làm chướng ngại giải thoát. Bồ-tát cầu bồ-đề, vì bị bốn ma tế biến dịch làm chướng ngại.

Thể của ba ma: Tất cả phẩm phiền não chướng của kiến, tu, gọi là ma phiền não. Do bị hoặc đã cảm các pháp năm uẩn, gọi là ma uẩn. Dựa vào năm uẩn này, vô thường, chết mất, sắp chết, đã chết, gọi là ma chết. Không lấy xúc chết, chỉ là sắc uẩn, vì xúc xứ hẹp; cũng không lấy chi tử, vì sắp chết, đang chết, chẳng phải đã chết, nên chết tức là tướng diệt. Bất tương ưng hành uẩn, nương tựa năm uẩn giả, bỏ chúng đồng phần, vì nhập quá khứ, vì phá hoại mạng sống lâu, nên gọi là Ma; hoặc gồm cả chi chết, sắp chết, đang chết, ép ngặt thân tâm, vì hủy hoại mạng sống lâu; hoặc gồm cả xúc chết, chạm sát sờ mó, khiến sinh khổ não, vì hao hụt mạng sống lâu.

Thể của bốn ma: Sở tri phiền não, hoặc hiện hành, hoặc hạt giống và tùy thuộc đối tượng thích ứng, pháp tập khí v.v... gọi là ma phiền não. Năm uẩn của hai cái chết: phần đoạn, biến dịch, gọi là ma uẩn. Phần đoạn mất, không có sự sắp chết, đang chết, mà là tướng trạng chết rồi diệt, gọi là ma chết.

Hai vị biến dịch đang chết, sắp chết gọi là ma chết. Nếu trạng thái chết kia đã diệt rồi, ấy là không phải thể của ma, thì đó là ma thiên tử của tầng trời Tha hóa thứ sáu, quyến thuộc và Bồ-tát giải thoát không suy nghĩ bàn luận đã hóa ra, gọi là ma trời tự tại.

Thể của tám ma: một trăm hai mươi tám phiền não căn bản và hạt giống, hiện hành, tập khí Tùy phiền não phần đoạn, tức ma này đã chiêu cảm các loại năm uẩn thô, gọi là ma uẩn phần đoạn, tức năm uẩn này cùng tận rồi chết, sắp chết, đang chết, gọi là ma chết phần đoạn. Thiên tử thứ sáu và quyến thuộc, gọi là thiên ma phàn đoạn, vì thô, thấp kém, vì loại phàm thật, vì phá hoại sự thật, nên các sở tri chướng biểu hiện hạt giống, tập khí, gọi là ma phiền não biến dịch, mà Bồ-tát đã tùy phân biệt và tất cả sở tri chướng là phiền não. Quả của năm uẩn biến dịch sinh tử, gọi là ma uẩn biến dịch. Ma này ở vị đầu tiên, không có bỏ hết sau cùng. Kinh Vô Cấu Xưng chép: "Ngồi làm ma vương, đa số là các Bồ-tát giải thoát không thể suy nghĩ bàn luận". Kinh Cổ Âm Vương chép: "Cha của Phật A-di-đà, hiệu là Nguyệt Thượng; mẹ là Thù Thắng Diệu Nhan, Ma vương gọi là Vô Thắng. Điều-Đạt, tên là Tịch, chỉ có rồng, voi, hay gây ra chiến tranh với rồng, voi. Bồ-tát Thập Địa sắp thành Phật, há ma vương phàm mà có thể chống trả lại? Lẽ tất nhiên, Đại Bồ-tát hóa thành ma vương, chiến đấu với Bồtát".

Lại, thể của tám ma, đầu tiên là phẩm Tứ phần đoạn; bốn phẩm sau thuộc về chướng phân biệt sở tri, là bốn đạo của Nhị thừa.

Thể của mười ma: Ma dục, nghĩa là năm cảnh trần, thể là đối tượng dục, sinh ra tham dục, từ quả đặt tên, gọi là dục. Vì thể của dục, phiền não, tức miên bất định. Sự sợ sệt, tức năm sợ:

1- Sợ không sống, do phân biệt ngã, nuôi nấng sinh ái khởi.

2- Sợ tiếng ác: Hành động không lợi ích, có hy vọng khởi.

3- Sợ chết: Do có tưởng mất mát, hư hoại của ngã kiến.

4- Sợ cõi ác: Không gặp chư Phật, nghiệp ác sinh khởi.

5- Khiếp sợ chúng: Nhận thấy điều mình đã chứng, nghĩ là thua kém người khác vượt hơn.

Thể của sự sợ sệt Sơ, Nhị, phần nhiều là tham dục, yêu của cải, tiếng khen. Sợ thứ ba, thứ năm, phần nhiều là ngã ái. Thể của sợ thứ tư là tuệ đều có tham, không có tham. Hoặc thể là hổ thẹn, vì chống cự pháp ác, nên thể của nghi như danh. Độc là ba độc: tham, giận, vô minh. Danh, nghĩa là tiếng khen; lợi, nghĩa là của cải, tài sản, thể chúng tức là mạn, đây là tùy thuộc đối tượng thích hợp, chỉ nói hoặc uẩn dùng làm quân ma. Hoặc nói ma trời, dùng ma trời này làm quân.

3) Nói về phế, lập: Lập hai ma: Đối tượng chướng có hai:

a- Phẩm Niết-bàn.

b- Phẩm Bồ-đề.

Y cứ vào phẩm đầu của chướng, lập ma của phẩm Phần Đoạn. Y cứ vào phẩm sau của chướng để lập ma của phẩm biến dịch. Hoặc trí có hai:

1- Trí phẩm trung.

2- Trí phẩm thượng.

Sở tri của trung trí, lập ma đầu tiên; sở tri của thượng trí lập ma sau, hoặc pháp hữu lậu có hai:

1- Thô.

2- Tế.

Y cứ vào pháp thô để lập ma phần đoạn; y cứ vào pháp tế để lập ma của phẩm Biến dịch. Hữu tác, vô tác, an lập, phi an lập cũng nói như thế.

Ba ma: Chỉ nói Thinh văn, cuối cùng vì thường bị ma hàng phục, nên ma trời che lấp tâm A-nan, không nghe Phật hỏi về sự kiện nhập Niết-bàn. ỔBa-Cúc-Đa đang ngồi thiền quán, bất chợt bị ma vương cắm hoa lên đầu, dù khởi thần thông, cũng có thể chế phục, chẳng phải cuối cùng bị khuất phục, nên lược bỏ không nói, thật ra cũng có thể hàng phục.

Lại, nói bốn ma, không nói nghiệp: Vì hoặc nhân sinh, tử là gốc vượt hơn. Do hoặc đã khởi uẩn vượt hơn chẳng phải nghiệp; uẩn chung, nghiệp riêng, không lập ma riêng, vì trong hai nhân quả không phải cao siêu, nên ba sinh, già, bệnh đều kém thua cái chết. Từ vượt hơn làm ma, không lập ba thứ, chỉ chết thêm tác dụng, lập riêng làm ma.

Pháp lập ba ma: Nghĩa là hoặc, uẩn, chết; tình lập một ma, gọi là Trời Tự tại. Kinh Vô Thượng Y chép: "Trong ba cõi có bốn thứ nạn, không được pháp thân bốn đức của Như Lai":

1- Nạn phiền não.

2- Nạn nghiệp.

3- Nạn sinh báo.

4- Nạn lỗi lầm.

Sinh tử biến dịch có bốn:

1- Sinh tử phương tiện.

2- Sinh tử nhân duyên.

3- Ba hữu có sinh, tử.

4- Không có sinh tử.

Như thứ lớp, phối hợp với trước, trước là phần đoạn, sau là biến dịch, chỉ một thứ nghiệp không lập làm ma, vì sự khuấy rối, phá hoại, chướng ngại yếu kém.

Vì pháp đã là sáu, tình chia ra giả, thật, nên thành tám ma. Phẩm Bát ma phiền não chướng Niết-bàn, có nhân, quả dị thục. Y cứ vào pháp, tình, chia ra bốn phẩm sở tri chướng đầu tiên, vì không có quả dị thục, nên không nói là hữu tình. Vì nói Nhị thừa khởi chướng bốn đức Niết-bàn, nên nói bốn ma sau, mười ma tùy theo. Ma trời phần nhiều khởi phiền não và uẩn. Vì mười tướng này tăng thêm cho nên nói thiên lệch; vì chướng trí định, nên lược bỏ không nói những thứ khác.

4) Nói về sở chướng: Ma phần đoạn trong hai ma, chướng ba thừa; ma biến dịch chướng ngại Bồtát. Đầu tiên, chướng ngại Niết-bàn giải thoát; sau, chướng ngại diệu trí Bồ-đề; phiền não chướng trong ba ma có thừa, chướng uẩn không có thừa; chướng chết, sinh sống lâu. Ba ma trước trong bốn ma như trước. Ma trời hay chướng ngại tất cả phẩm thiện, vì chướng ra khỏi cõi dục và ba cõi, nên trong tám ma đầu tiên. Hai chướng phần đoạn, biến dịch dù khác, nhưng chướng riêng giống nhau. Bốn ma đầu trong tám ma sau, như trước đã nói. Bốn ma sau vì chướng đủ bốn đức của Đại Niết-bàn, mười ma chướng riêng hai môn trí, định, nói mũi tên dài hai nhận mà có thể phá. Hoặc dưới đã nói thể của ma, chủ thể trị, tức là đối tượng chướng, đến dưới đây sẽ biết.

5) Sự khác nhau của chủ thể phá: Có sáu môn khác lạ:

1- Thể của chủ thể phá thật, phá ba ma trước, chánh chứng chân trí. Sự sống của ta đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không thọ thân hữu lậu đời sau. Do trí chướng chân, hữu kia mới diệt. Do có thần thông, mới khuất phục ma trời, cũng trí làm gốc, hậu trí làm tánh.

2- Kinh Đại Tập chép: "Biết khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo".

Như thứ lớp, có thể phá tan ma trời Tự Tại, uẩn, phiền não, chết.

3- Lại nữa, quán khổ hữu lậu, các hành vô thường, các pháp vô ngã, Niết-bàn vắng lặng, như thứ lớp có thể phá hoại uẩn hoặc, chết trời.

4- Lại nữa, quán không, vô tướng, vô nguyện; đủ ba quán này xong, hồi hướng Bồ-đề; như thứ lớp phá hoại bốn thứ.

Lại nữa, quán thân, thọ, tâm, pháp, như thứ lớp, phá hoại bốn thứ.

5- Luận Trí Độ chép: "Vì Bồ-tát đắc đạo, nên diệt tan ma phiền não; vì được thân pháp tánh, nên phá dẹp ma uẩn. Vì được đạo và thân pháp tánh, nên phá tan ma chết. Thường, nhất tâm nhập tammuội bất động, phá tan ma trời. Về nghĩa đã nói ở trước, đều thuận theo tướng tăng thêm; thuận theo bốn hành tướng riêng đã tu trước kia, phối hợp nghĩa tương đương, không phải chánh chứng chân, một niệm có sự khác nhau của hành tướng này, như lý nên biết, lẽ ra đều là nguyên do phối hợp nhau của giải thoát, e rằng văn rộng rườm rà, vì dễ nên không thuật lại".

6- Vị chân phá thứ lớp: Bốn ma phần đoạn. Bồtát Thập trụ, đầu tiên, là Phát Tâm trụ, chia thành mười Tín. Kinh Hoa Nghiêm chép: "Sơ Phát Tâm trụ, có khả năng thị hiện tám tướng thành đạo. Đã chế phục ma trời của phẩm phần đoạn, đã được thần thông, ma kia đâu thể làm chướng ngại".

Trong sinh quý trụ thứ tư, đã chế phục, phân biệt các ma phiền não, đạo tư lương chế phục dần. Trong đạo gia hạnh, có khả năng chế phục tức khắc. Sơ tâm của Sơ địa, chánh dứt hết thể phân biệt. Phiền não câu sinh kia, trong đạo gia hạnh, chế phục dần. Sơ Địa trở lên, có thể chế phục ngay, nhưng sức cố ý có khi cũng khởi, mà không bị mất. Bát Địa trở lên, tất cả ma đều không hiện hành. Hạt giống Kim Cương đoạn, nếu theo luận Pháp Hoa của Thiên Thân thì: "Sơ địa trở lên, thọ biến dịch sinh, tức chế phục uẩn chết". Nếu theo Duy Thức, có người đến Bát địa, nói về biến dịch. Tâm mãn của Thất địa, mới bỏ hai ma: uẩn, chết. Hai loại Bồ-tát đã tu gia hạnh, vì ý ưa riêng lẻ, nên kinh Vô

Cấu Xưng đã khen đức của Bát địa trở lên rằng:

"Hàng phục ma oán, chế phục các ngoại đạo, nói Bồ-tát kia đủ đức, chẳng phải nay mới bắt đầu phá".

Lại, phá đủ bốn ma, vì phải là Bát địa trở lên nên được Phật khen. Luận Phật Địa chép: "Sơ địa trở lên, lìa bốn ma thô, Bát địa trở lên, có thể lìa ma tế. Lại, ma phần đoạn, gọi là thô. Vì sơ địa lìa, nên bốn ma biến dịch cũng tồn tại tên tế chưa lìa. Nếu phân biệt chướng sở tri của ma, trong phẩm Biến Dịch, thì trong trụ thứ tư đã lìa chướng sở tri loại bạn vô minh không chung, chế phục dần trong đạo tư lương, có thể chế phục ngay hết trong đạo Gia hạnh. Sơ địa dứt hẳn; câu sinh sở tri chướng trong sáu thức kia. Thập địa, đoạn từng phần, Bát địa trở lên, tất cả không hiện hành. Trong bảy thức, cho đến trong đạo Gia hạnh Kim Cương, mới đoạn trừ không khởi. Chướng sở tri câu sinh này và hạt giống sáu thức, một thời gian trong đạo Vô gián Kim Cương, mới dứt bỏ hai ma uẩn, và chết của biến dịch, Duy thức có hai thuyết:

1. Đạo Kim Cương khởi, đều đã xả bỏ, vì với hạt giống của hai chướng, đều bỏ cùng lúc, vì với hạt giống của hai chướng, đều bỏ cùng lúc; chánh giữa không như vậy. Đạo giải thoát khởi, mới bỏ; vì không trái với đạo Vô gián. Phật A-di-đà đã có ma vương. Các vị trở lên so sánh có sai lầm gì? Phải là đại Bồ-tát mới có thể làm chướng việc ma vĩ đại. Nếu trụ Bồ-tát, mới hàng phục ma trời; nếu đã thành Phật, thì Bồ-tát Thập địa không có khả năng làm chướng ngại.

Đã ra khỏi ba cõi, lại đâu cần hàng phục? Bốn đảo, bốn ma tức chướng sở tri, vì bốn ma đầu tiên chẳng khác với trước, nên không nói riêng.

2. Thời gian biểu thị Hóa thân của Đức Thíchca, vì hàng phục tướng hóa. Tâm Kim Cương khởi, phá tan phiền não ma, bởi sự sống lâu của phần thứ năm, nhập diệt vô dư. Phá tan ma uẩn kia, sau ma vương cầu xin, Phật lưu lại ba tháng, để chỉ bày rõ được tự tại đối với cái chết, pha tan ma chết kia, nhưng phá ma trời, hai văn không nhất định. Kinh Niết-bàn nói: "Dưới tàn cây Bồ-đề, ma vương não loạn, e ra khỏi ba cõi, Bồ-tát nhập định từ, khởi tam ma địa sấm rống, liền phá tan ma trời; đồng với kinh Pháp Hoa chép: "Đại Thông Trí Thắng phá ma quân xong, sắp được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề, mà pháp chư Phật không hiện ở trước".

Kinh Đại Bát Niết-bàn nói tám tướng thành đạo, được Bồ-đề xong, mới phá ma trời, vì thuận theo căn cơ, Bộ chấp đều có khác, không cần hòa hợp.

------------------------------

NGHĨA LÂM BA TUỆ.

Về nghĩa ba Tuệ, lược dùng mười môn để phân biệt:

1- Nêu ra thể.

2- Giải thích tên gọi.

3- Sở duyên.

4- Phế, lập.

5- Địa vị.

6- Các trí gồm thâu nhau.

7- Sự khác nhau về pháp hạnh.

8- So sánh đồng, khác giữa các Đà-la-ni.

9- Chứng địa khác nhau.

10- Phân biệt các môn.

-Thứ nhất, nêu ra thể: Thuộc về Tuệ biệt cảnh của ba tự tánh này, vì gọi ba tuệ, nên chung cho hiện và chủng. Luận Hiển Dương quyển 17 chép: "18 hiện quán. Nghĩa là trí do văn thành, trí do tư thành; trí do tu hành, nên nói là trí".

Có thuyết nói: "Ba trí này chỉ là ý thức. Hoặc thức thứ bảy, tám tương ưng với tánh tuệ, chẳng phải năm thức đều có, vì năm thức không thể duyên giáo lý".

Luận Duy Thức quyển 6 chép: "Trong mười một thiện; năm thức chỉ có mười, vì tự tánh tán động, không có khinh an, nên nói là trong thân Phật không có năm thức, nên mắt, v.v... không thể lắng nghe pháp. Điều lành trong năm thức chỉ là sinh đắc, vì không rõ biết sáng suốt".

Nghĩa là "Năm thức cũng có văn, tu; Duy thức có thuyết: "Năm thức có khinh an, thiện do định dẫn phát vì cũng có sự điều hòa, vui thích, nên trí thành sở tác đều cùng tất nhiên có khinh an, nên nhất định có tu tuệ".

Vì sao năm thức dù không có phân biệt, do thức thứ sáu phân biệt dẫn sinh có phân biệt hoặc, ý tuệ dẫn phát mà không có văn tuệ, dù không duyên riêng, hoặc danh, hoặc nghĩa; Thể của âm thanh đi chung với danh, tức là giáo. Tai đã duyên tiếng kia, đâu chẳng phải là văn tuệ? Tư tuệ duyên sâu, gọi đối tượng thuyên giải nghĩa. Năm thức có thể không có nghe thô duyên giáo; Năm thức lẽ ra có, ý văn tuệ dẫn năm thức khéo sinh, do nghe mà thành, bạn loạn của văn tuệ, cũng thuộc về văn tuệ, vì do văn mà thành. Nếu có khả năng dẫn ý, nghe gia hạnh thiện, đã dẫn năm thức sinh đắc thiện, lẽ ra cũng hay dẫn ý thức thứ sáu là năm thức được dẫn bởi phân biệt hoặc, chỉ là câu sinh".

Nếu như vậy, thì không nên chung cho kiến đạo đoạn, vì ấy là trái với Thánh giáo.

Nếu đích thân nghe gần tiếng, mới nói là nghe, thì tuệ ý lẽ ra là sai quấy? Nếu vì nghe tiếng, do nghe kia thành, nên năm lẽ ra cũng có?

Du-già quyển 13, văn Địa Tuệ chép: "Danh, cú, văn, thân, giác tuệ là ưu tiên. Lắng nghe, lãnh thọ, đọc tụng nghĩ nhớ, tiếng đồn, do địa thành. Ý luận Du-già kia nói: "Giác tuệ là ưu tiên, là tuệ sinh đắc, vì đầu tiên, tối tăm, yếu kém, sau, là lắng nghe, v.v... đều là văn tuệ, vì khả năng hiểu rõ, sáng suốt, nên nhĩ thức đều có hiểu rõ sáng suốt. Ý thức cũng là văn tuệ. Không hiểu rõ sáng suốt, nghĩa là thuộc về sinh đắc tuệ. Do văn tuệ này chỉ nhận lấy ý thức tương ưng với tánh tuệ, loại bạn được dẫn cũng chung cho năm thức tương ưng với tánh tuệ. Bảy thức duyên ngoài, quả Phật của tám thức khởi, vì không có văn tuệ, nên tư tuệ chỉ nhận lấy ý thức đều có tuệ. Năm không phải bạn giúp đỡ, vì hành tướng nông cạn, nên chẳng phải thứ tám đều có tu tuệ nhất định đi suốt qua tám thức đều có. Nói thể tánh tuệ do tu thành như trước, chỉ nói đối tượng thành không nói tuệ, ấy là chung cho bốn uẩn, hoặc tánh năm uẩn".

-Thứ hai, giải thích tên gọi: Đầu tiên là nêu; sau là giải thích.

Nêu như sau:

1- Tuệ do văn thành.

2- Tuệ do tư thành.

3- Tuệ do tu thành.

Giải thích tên gọi: Trước là giải thích tên chung; sau là giải thích tên riêng.

Giải thích tên chung: Tuệ, nghĩa là phân biệt, lựa chọn. Ba là số, đới số thích. Văn là chủ thể nghe, tức là nhĩ thức, chủ thể nghe ở tiếng, thành nghĩa là sinh trưởng viên mãn. Thể của tuệ như trước, dùng nghe làm nhân, do tuệ của văn mà thành, gọi là tuệ do văn mà thành, Y sĩ thích.

Tư nghĩa là tư duy số, do tư duy, trù tính, so lường, tuệ vượt hơn mới sinh, do tương ưng với tư mà thành tuệ, gọi là tuệ tư thành, Lân cận thích. Hoặc do đối với tuệ do tư mà thành, Y chủ thích.

Tu: Nghĩa là chứng, vì cảnh minh chứng, nên thể tức số định; do định tương ưng với tuệ đã thành, Lân cận thích. Hoặc tuệ do định mà thành, cũng là y sĩ thích. Nếu chỉ nói văn tuệ, tư tuệ, tu huệ thì sẽ lạm quá, trì nghiệp thích, không có lân cận, v.v.., nói đối tượng thành kia, thì không có lỗi này.

-Thứ ba là Sở duyên: (đối tượng duyên). Câuxá quyển 22, các Sư Tỳ-Bà-sa nói: "Tuệ do nghe mà thành chỉ duyên cảnh danh, vì chưa thể bỏ văn mà quán nghĩa. Luận Tỳ-Bà-Sa quyển 42 chép: "Huệ do văn mà thành, đối với tất cả thời gian, dựa vào danh, hiểu rõ nghĩa".

Nghĩ đến giáo ba tạng và giáo huấn của thầy, bạn, có ý nghĩa gì?

Tùy thuộc vào đối tượng nghĩ nhớ kia, đều có thể hiểu rõ. Nhưng vị thành tựu thật sự chỉ duyên nghĩa. Nay, y cứ vào vị đầu tiên mà nói, chỉ duyên danh, tuệ do tư mà thành duyên cảnh danh, nghĩa, có khi do văn dẫn sinh nghĩa; có lúc do nghĩa dẫn phát văn, chưa hoàn toàn bỏ văn, mà vì xem nghĩa, nên tuệ do tu thành chỉ duyên cảnh nghĩa; đã có thể bỏ văn, nên chỉ xem nghĩa. Bà-sa lại chép: "Đối với tất cả thời gian, không dựa chọn danh mà hiểu rõ nghĩa. Ví như có người bơi lội, chìm nhanh xuống nước sâu, người chưa từng học, không bỏ đối tượng nương tựa, từng học thì chưa thành, hoặc bỏ, hoặc chấp, kẻ từng khéo học, không đối đãi với đối tượng nương tựa, tự lực bơi lội qua sông, phải biết rằng ba tuệ như thứ lớp cũng vậy".

Có người nói: "Nếu như vậy, thì tư tuệ sẽ không thành, nghĩa là tư tuệ này đã duyên chung danh, duyên nghĩa. Như thứ lớp, lẽ ra do văn, tu mà thành. Nay hiển rõ ba tướng, không vượt qua riêng, nghĩa là những người tu hành dựa vào nghe chí giáo mà được sinh tuệ vượt hơn, gọi là văn sở thành; y cứ vào tư duy chánh lý, được sinh ra tuệ vượt hơn, gọi là tư sở thành; y chỉ tu đẳng trì, đã sinh tuệ vượt hơn, gọi là tu sở thành. Nói lời nói sở thành, là chỉ rõ ba tuệ vượt hơn là ba văn, tư v.v... nhân sở thành, cũng như thế gian bảo bò v.v... như thứ lớp nói: "Là do ăn mà thành". Nay, quán ý thế gian kia, Thiên Thân chính là nhận lấy nghe, chỉ duyên giáo; tư chỉ duyên nghĩa; tu tuệ cũng vậy. Nhưng trong phân biệt các môn Tỳ-Bà-Sa, chỉ có một thuyết: "Ba thứ tuệ này đều duyên theo danh, nghĩa, mà trái với ở đây".

Nay, y cứ vào Đại thừa, văn tuệ duyên chung, hoặc danh, hoặc nghĩa.

Du-già quyển 13 chép: "Thế nào là địa do văn thành? Nghĩa là nếu nói lược về danh, cú, văn thân, vô lượng khác nhau ở xứ năm minh, giác tuệ là đầu, lắng nghe, lãnh thọ, đọc tụng, nhớ nghĩ. Lại, đối với nghĩa y chỉ danh thân, cú thân, văn thân, hiểu rõ không có trái ngược.

Như thế, gọi là địa do văn mà thành".

Văn đầu tiên trong đây, nói duyên vào danh. Văn sau duyên nghĩa. Nhưng Du-già quyển 11 kia chép: "Tác ý duyên pháp, nghĩa là tuệ do văn mà thành tương ưng với tác ý, không nói duyên nghĩa, nghĩa là vì duyên giáo nhiều, nên chưa thể bỏ văn mà xem nghĩa, dùng giáo làm đầu, mới nhận lấy nghĩa, chỉ nói duyên pháp. Về lý, thật sự duyên chung, tuệ do tư mà thành".

Có nghĩa: "Chỉ duyên vào nghĩa".

Du-già quyển 16 chép: "Tự tánh của tư tuệ, thông thường, đối tượng suy nghĩ chỉ dựa vào nghĩa, không dựa vào văn, mặc dù luận kia cũng nói: "Tư duy, lựa chọn các pháp; tư duy Tố-đáclãm và nghĩa Già-tha, chẳng phải văn kia".

Du-già quyển 11 lại chép: "Tác ý duyên nghĩa, nghĩa là vì tuệ, do tư mà thành, nên luận kia lại nói: "Tuệ do tu mà thành tương ưng với tác ý, cũng chỉ duyên nghĩa, không duyên ở văn, các trí Hậu đắc trong Thập Địa, v.v... có duyên giáo, kia là văn tuệ, cũng không phải tu tuệ".

Luận Thập Địa chép: "Bát địa trở lên, có khả năng tư duy, giữ gìn đối với tất cả pháp, như thứ lớp, tức là văn, tư, tu tuệ. Bát địa trở lên, tâm định nối nhau, duyên ngoài giáo pháp. Vì đã nói là văn, nên biết tư, tu chỉ duyên theo nghĩa, trù tính, lo nghĩ hai nghĩa chứng, giải có khác nhau, ở trong thân Phật, nói không có văn, tư, chỉ có tu tuệ duyên chung với danh, nghĩa, nếu nghe người khác dạy bảo, thì không phải tu tuệ, tánh tu kia là gì? Nên biết được tu tuệ duyên danh, nghĩa, nhưng đều chứng giải thoát".

Nghĩa như thật: Du-già quyển 77; trong kinh Giải Thâm Mật quyển ba, Bồ-tát Từ Thị bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Nếu tuệ do văn thành, do tư thành, tu thành, đều duyên nghĩa, thì sẽ có gì khác nhau? Này người thiện nam! Tuệ do nghe mà thành, y chỉ ở văn, chỉ như ý thú chưa tốt của thuyết kia, chưa hiện ở trước, thuận theo giải thoát, chưa thể lãnh thọ, thành nghĩa giải thoát. Tuệ do tư mà thành cũng dựa vào văn, không chỉ như thuyết, cũng với ý thú thiện, chưa hiện ở trước, thuận theo giải thoát, chưa thể lãnh thọ thành nghĩa giải thoát. Nếu các Bồ-tát nhờ tu mà thành tuệ, cũng y cứ vào văn, cũng không y cứ ở văn, cũng như thuyết của luận Thập Địa kia, cũng không như thuyết, có thể với ý thú khéo léo, phần đồng của sự sở tri, ảnh tượng đã hiện hành của tam-ma-địa hiện ở trước, tích cực thuận theo giải thoát, đã hay thọ lãnh thành nghĩa giải thoát. Đó gọi là sự khác nhau của ba thứ nghĩa riêng".

Thuyết của luận Thập Địa như sau: "Ba Tuệ đều duyên danh nghĩa: Đầu tiên, là dựa vào sự lắng nghe, lấy văn làm trước để quán sát nghĩa, gọi là văn tuệ. Kế là dựa vào tư duy lo nghĩ, dùng nghĩa làm trước mà xét văn, gọi là Tư tuệ. Kế là y cứ vào tu, đều có ở văn, nghĩa, chứng kiến giải thoát, hiểu rõ ràng, sáng suốt, gọi là tu tuệ".

Đây là ở Vị nhân của Bát địa trở lên, có phần nghĩa của một thể; Thất địa trở lên, đều có thể riêng. Ở trong địa vị Phật, không có chưa từng được, đều không có văn, tư, chỉ có tu tuệ. Nhưng các Thánh giáo đều thuận theo đối tượng thích nghi của văn tư kia, thêm vào nhau, nói riêng duyên danh, nghĩa khác, về lý, thật ra là như vậy.

-Thứ tư, là phế, lập: Luận Thập Địa quyển nhất chép: "Như khát nước, thì nghĩ đến nước lạnh; như đói, suy nghĩ đến thức ăn ngon; như bệnh, nghĩ đến thầy thuốc giỏi; như đàn ong bu quanh mật, chúng ta cũng giống như thế, nguyện được nghe pháp cam lộ".

Thí dụ này có bốn nghĩa:

1- Vâng giữ.

2- Giúp sức.

3- Xa lìa.

4- Hạnh yên vui. Nghĩa này thế nào?

Như nước không nhai, hễ được thì uống. Cũng như thế văn tuệ, đầu tiên nghe, thì thọ lãnh, thuận theo nghe mà vâng giữ, như nhai ăn, do sự giúp sức của thân mà thành. Cũng như thế, tư tuệ như pháp đã nghe, nhờ sự giúp đỡ của lực trí được thành; như uống thuốc hay, thuốc vận hành, thì hết bệnh. Như thế, huệ văn, tư đủ, thuận theo nghĩa thích đáng, như pháp tu hành, xa lìa tất cả thói tai hại phiền não, như mật; đối tượng nương tựa của đàn ong, ưa thích chỗ đi, đứng. Như thế, hiệu quả của tuệ văn, tư, tu, chỗ nương tựa của Thánh. Nói ba dụ trước, do ba tuệ này không bớt, không thêm; ong bám theo mật, dụ cho quả Thánh. Lại, tu nhân Thánh có bốn hạnh cao quý, gần gũi Thiện sĩ, lắng nghe chánh pháp, suy nghĩ đúng lý, như giáo tu hành. Đầu tiên, một phước hạnh; sau, hạnh của ba tuệ. Nay, nói hạnh tuệ không bớt, không thêm. Lại, đối tượng phép tắc, gương mẫu, lược có hai môn:

1- Người lành.

2- Pháp vượt hơn, Pháp có hai:

a- Giáo.

b- Lý.

Nói chung, Tập thực hành pháp vượt hơn, lược có hai vị:

1- Tán.

2- Định.

Y cứ vào tập pháp vượt hơn, đầu tiên là giáo; sau là lý, văn, đầu tiên, duyên giáo vượt hơn; Tư, vì sau duyên lý vượt hơn, nên chia làm hai thứ: Tu tuệ dù có thế gian, xuất thế gian, nhưng chứng giải thoát chẳng khác, hợp thành một tuệ. Lại, nhân sinh tử lược có hai thứ:

1- Hoặc.

2- Nghiệp.

Phần nhiều người khởi nặng, chỉ có si và nghi, do cảnh si mê, không đạt được chân, vọng; do nhân quả của nghi không chịu tu tạo, dùng hai môn này, bèn khởi nghiệp ác; vì loại trừ si, nên khiến đầu tiên, lắng nghe. Vì dứt trừ hoài nghi, nên tiếp theo, suy nghĩ lý mầu, vì chấm dứt nghiệp ác, nên về sau, nói tu tuệ. Nhân sinh, tử, diệt quả khổ, thuận theo tu, không có đạo xuất thế, trở thành giác ngộ vắng lặng. Lại, có ba tùy hoặc thường hiện hành:

1- Không chánh tri.

2- Niệm luống dối.

3- Tán loạn.

Mặc dù hành tướng riêng, nhưng đều có công năng dứt trừ. Chính chủ thể dứt trừ, nghĩa là thể chỉ tánh tuệ, nên nói ba tuệ như thứ lớp chế phục, đoạn trừ. Lại nhân xuất thế, giản đơn có hai thứ:

1- Phước.

2- Trí.

Huệ là tướng trí, riêng vượt hơn nên được gọi tên; pháp còn lại là tướng phước, vì kém nên kết phải nói.

Ở trong trí, lược có ba phẩm. Nghĩa là phẩm hạ, trung, thượng.

Đầu tiên là tu; kế là tu; sau tu khác lạ.

Do ba phẩm này, mà chia tuệ thành ba. Lại khi tuệ khởi do ba thế lực:

1- Lực của người.

2- Lực của mình.

Lực cùng có. Lại do ba lực: a-Lực tư lương. b-Lực tự tánh. c-Lực đều có.

Lại, do ba lực:

1- Lực ngoài.

2- Lực trong.

3- Lực trong ngoài cùng có.

Lại, do ba lực:

1- Phần nhiều do lực giáo.

2- Phần nhiều do lực nghĩa.

3- Phần nhiều do lực định.

Như thứ lớp ba tuệ đều do năng lực kia khởi, nên nói ba tuệ không bớt, không thêm. Môn này tức phân biệt không nói pháp khác là sở thành của năng lực kia, mà chỉ nói nhân ba đã khởi diệu tuệ, gọi là thành, quả của năng lực kia, cũng là nghĩa phế, lập.

-Địa vị thứ năm có hai:

1- Vị Phàm, Thánh ba thừa.

2- Vị chín địa ba cõi.

Vị Phàm, Thánh của Ba thừa. Mặc dù có ba tuệ phát tâm, nhưng chưa nhất định, gọi là trụ phàm ngoại, mà phát tâm quyết định, mới là vị phàm nội. Nếu là địa vị Nhị thừa, thì văn tuệ sẽ tồn tại trong phần giải thoát. Vị năm định tâm, tư. huệ tồn tại ở vị hai niệm xứ; tu tuệ tồn tại ở các vị sau này của Noãn. Đây là y cứ vào tùy tăng mà nói là vị của ba tuệ. Nhưng thật ra trong vị nhân, quả của phàm, Thánh đều chấp nhận sinh khởi. Dù thể của Noãn, v.v... không phải là văn tuệ, nhưng vị cũng khởi chung, chỉ trong kiến đạo không có văn tuệ, tư tuệ, vì về lý, nhất định quán. Về người đại thừa, luận Duy thức chép: "Chỉ trong vị tư lương, tánh tướng của Duy thức, lắng nghe, tư duy, có thể tin hiểu sâu sắc; Đối với trong vị gia hạnh, có khả năng chế phục, dứt trừ đối tượng nhận lấy, chủ thể nhận lấy, dẫn phát chân kiến. Ý văn luận kia chép: "Vị bốn mươi tâm khởi văn tuệ, tư tuệ, tu tập Duy thức, bốn gốc lành, về sau mới khởi tu tuệ. Từ phần nhiều thêm tu, chẳng phải về lý thật như vậy".

Trong kinh Hoa Nghiêm chép: "Vị Thập Trụ,

Sơ phát tâm, trụ tám tướng thành đạo, có khả năng hiện thần thông. Lại, luận Du-già quyển 65 chép: "Bồ-tát Tỳ-Bát-Xá-Na, hoặc định, hoặc sinh, do tâm của cõi Vô Sắc liễu đạt pháp ba cõi và pháp vô lậu. Đây không phải vị quyết trạch phần, vì không sinh ở địa kia, nên địa kia không có, nên vị tư lương tu hạnh của tuệ, chưa có khả năng quán lý, vì trong vị gia hạnh, mới có thể quán lý". Luận Duy thức chép: "Vị tư lương, đối với tánh, tướng, lắng nghe, suy nghĩ không nói là tu tuệ, mặc dù thể của quyết trạch phần chỉ tu tuệ, nhưng vị khởi văn, tư, vì thân cõi Dục, nên đối với vị Kiến đạo, chỉ có tu tuệ, bên trong quán đế lý, vì chẳng phải tâm tán, nên hạt giống văn, tư tuệ kia được tu; Bảy địa vị ở tu đạo về trước, trong tâm định, tán đều chấp nhận sinh khởi".

Tam địa trở lên, vô lậu nối nhau, không có tâm tán. Kinh Thập Địa chép: "Bát địa trở lên, đối với tất cả pháp, có khả năng tư duy, khả năng gìn giữ". Luận Duy thức kia giải thích: "Như thứ lớp, tức là văn, tư, tu tuệ. Dù thể của một tuệ, trong một sátna, có thể nhận lấy thể giáo ngoài mà tìm tòi về nghĩa, gọi là văn tuệ, có công năng suy tính, so lượng sâu sắc, trước lý, sau văn, gọi là tư tuệ. Đối với hai văn, tư này, có thể chứng minh rõ ràng, thì gọi là tu tuệ. Trí Thánh nhanh chóng, đối với nghĩa của một niệm tuệ dù chia làm ba, nhưng thật sự không có tự thể riêng".

Có thuyết nói: "Chỉ là thuộc về tu tuệ, chẳng phải là văn, tư; văn, tư giả nói, thật sự là tu tuệ. Hai thừa Đại, Tiểu không có cõi Sắc cũng có thể tư; trong cõi Vô Sắc có thể của văn tuệ. Nếu sau Bát địa khởi văn, tư thật, thì lẽ ra phải thừa nhận địa Sắc cũng có tư tuệ, Vô sắc có văn. Dù nói trời Vô Sắc, bên Phật, lập nghiêng lệch sự nghe pháp, v.v... chỉ y chỉ tu tuệ, vì duyên nghĩa giáo, như Mụckiền-liên, ở cạnh ao khỉ vượn, nhập định vô sở hữu xứ, nghe tiếng rống của voi điên, chỉ tu tuệ văn, chẳng phải văn tuệ".

Chín địa ba cõi: Địa cõi Dục có hai: Văn, tư sở thành. Địa của cõi bất định, chẳng phải địa lìa nhiễm. Nếu khi muốn tu, vì rơi vào tư, nên tâm cõi Dục, vì hành tướng thô. Địa cõi sắc có hai, do văn, tư mà thành. Nếu khi muốn tư duy, vì rơi vào tu, nên vì hành tướng tế của tâm địa cõi trên, do Vô Sắc này cũng không có tư tuệ. Địa trên dù có tuệ với tư đều có, nhưng không do tư thành tướng chẳng phải hiểu rõ sáng suốt. Các tánh thiện: "Hoặc là sinh đắc, hoặc là định của văn, tu, chẳng phải tư tuệ. Cõi Vô Sắc có một, nghĩa là tức tu tuệ, chủ yếu do nhĩ căn lắng nghe pháp, dẫn phát tuệ sở thành, vì cõi Vô Sắc kia không có nhĩ căn, nên không có văn tuệ. Mâu thuẫn với cõi khác vì không thuận nhau. Nếu do nhĩ căn kia dẫn phát thô, tế, xa, khác, như Mục-kiền-liên chẳng phải thuộc về văn tuệ, tuệ do văn thành suốt qua sáu địa. Bốn Tĩnh lự cõi Dục và Trung gian Vị chí tĩnh lự, siêng cầu tướng của địa căn bản. Vị thiện không có chấp nhận khởi văn tuệ tán; hoặc ở Thất địa thêm Vị chí đầu tiên; hoặc ở năm địa, lại trừ Trung gian. Vì sao Trung gian nói không có văn tuệ, không thừa nhận ba địa trên, địa Vị chí không có? Do đây, nên biết thuyết đầu tiên là hay nhất.

Tư tuệ chỉ ở một địa cõi Dục. Tu tuệ hữu lậu: 17 địa: tám căn bản, tám cận phần. Trung gian tĩnh lự, vô lậu: ở Thập địa: Cõi Sắc sáu trừ ba Vị chí trên, bốn căn bản địa ở cõi Vô Sắc; nói là địa phi tưởng có tâm vô lậu, vì dẫn đến diệt định. Nhưng ở địa dưới được khởi văn tuệ hữu lậu ở địa trên. Đối pháp quyển 5 đều nói: "Năng lực dục, nghĩa là người đã ở tĩnh lự thứ hai, nhập Sơ tĩnh lự xong, nếu muốn dùng tâm xuất v.v... của địa tĩnh lự thứ hai, thì có thể hiện tiền mà xuất định, tất cả địa khác, như lý, nên biết".

Tâm tu tuệ đã nhập định của người kia, tâm đã xuất của định thứ hai, chẳng phải sinh đắc thiện. Các luận đều nói: "Nếu sinh địa kia mới khởi sinh đắc thiện ở địa ấy thì lẽ ra tâm định đã xuất là văn tuệ".

Có nghĩa: "Định đã xuất (đối tượng xuất định) là tu tuệ, tâm khác của hữu lậu, vô lậu, gọi là xuất, chủ yếu là sinh ở địa kia, khởi văn tuệ của địa kia.

Bát địa trở lên, tâm luôn luôn là một loại".

Thế nào gọi là xuất?

Đã như vậy, thuần túy vô lậu, làm sao khởi văn tuệ? Nên hành tướng khác, phần khác, gọi là xuất. Sự trước cũng thừa nhận văn tuệ gọi là xuất, ba tuệ vô lậu khởi chung địa trên, dưới. Địa trên không khởi tư duy hữu lậu của địa dưới; tu hai tuệ, tư duy không có địa khởi, vì tuệ thuộc một địa, nên địa trên cũng chẳng khởi văn tuệ của địa dưới; Ba tuệ hữu lậu là vì tánh nghiệp, vì đều chán, bỏ.

-Thứ sáu, các trí gồm thâu nhau: trong kinh Thắng-man chép:

1- Trí tâm pháp; thuyết kia nói là trí chán khổ, cầu Niết-bàn, rốt ráo chỉ tu quán Như Lai tạng vì nhàm chán mọi nỗi khổ, nên dùng phương tiện chung cho hai". Lại, nói hai trí, nghĩa là trí Thánh đế đầu tiên.

2- Không có hai trí Thánh đế, vì người kia chỉ tu tuệ đầu tiên, là trí an lập đế; sau là trí phi an lập đế. Kinh kia nói Nhị thừa dùng trí đế đầu tiên để dứt trừ các phiền não. Chư Phật, Thế Tôn đã dùng trí Thánh đế không có hai để dứt các trụ địa, nên chẳng phải thuộc về văn, tư. Lại nói: "Có hai thứ trí không Như Lai tạng":

1- Trí không Như Lai tạng, nghĩa là duyên hoặc lìa; hoặc thoát; hoặc đoạn; hoặc khác với trí tạng phiền não.

Trí bất không Như Lai tạng, nghĩa là duyên trí Phật, pháp không suy nghĩ, bàn luận, vượt quá số cát sông Hằng không lìa, không thoát, không đoạn, không khác; đầu tiên, là quán phiền não làm che lấp trí, vì không chân thật, nên gọi trí đó là Không. Về sau, quán trí bị hoặc che khuất của pháp thân. Về lý, vì chân thật, nên gọi bất không; rốt ráo thành mãn, cũng chỉ tu tuệ, phương tiện chung cho cả hai. Lại, có hai thứ, nghĩa là trí thế tục, trí Thắng nghĩa.

2- Đều chung cho hai:

Có thuyết nói: "Trí đầu tiên, chỉ là hữu lậu; trí sau chỉ là vô lậu. Vì trong các giáo chỉ nói vô lậu".

Lại, Tạp Tập chép: "Có ba thứ trí vô phân biệt".

1- Tri túc vô phân biệt.

2- Không có điên đảo vô phân biệt. 3-Không có hí luận vô phân biệt.

Trí đầu tiên, chỉ có tư, tu, nói là các phàm phu tùy thuộc ở một pháp vô thường, v.v… cuối cùng suy nghĩ đã sinh hỷ túc. Hai trí sau chỉ có tu tuệ, nói là các Thinh văn ở trong các uẩn, vì trừ bốn đảo, quán sát như lý, được trí xuất thế, đạt được vô ngã, vì là trí phẩm trung, nên nói các Bồ-tát biết pháp hí luận, dứt trừ pháp tướng, được trí Thánh xuất thế vắng lặng cùng cực, là Hậu trí. Lại, có ba trí vô sinh nhẫn: Vô sinh nhẫn bản tánh, Vô sinh nhẫn tự nhiên và Vô sinh nhẫn hoặc khổ. Như thứ lớp, tức là trí vô lậu duyên cảnh ba tánh, cũng chỉ tu tuệ. Lại có bốn trí, nghĩa là viên cảnh, v.v... Hai trí đầu tiên, chắc chắn chỉ có tu tuệ, trí diệu quán sát.

Có nghĩa: Chỉ tu tuệ.

Có nghĩa: Chung cho ba tuệ, trí thành sở tác. Có nghĩa: Chỉ tu tuệ.

Có nghĩa: Chung cho văn, tuệ. Vì thừa nhận khởi trí này ở Thập Địa, nên về nghĩa so sánh như trước. Lại, có bốn trí. Nghĩa là sự sinh của ta đã hết; phạm hạnh đã lập; việc phải làm đã làm xong, không thọ thân sau. Như thứ lớp, tức là: bốn trí vô học Khổ, diệt, đạo, tập, chân thật thành mãn ở trong định khởi, chỉ là tu tuệ. Vị phương tiện trước cũng chung cho văn, tư. Nhưng trong các giáo, phần nhiều nói tu, nghĩa là vì căn bản. Lại, bốn tầm, tư, tầm, tư chỉ cho hữu lậu; Thật trí chung cho vô lậu. Kinh Thắng-man chép: "Thuận theo pháp trí, nghĩa là năm thứ phương tiện khéo léo, quán sát thành tựu".

1- Quán sát lập ra cảnh giới căn, ý, giải.

2- Quán sát nghiệp báo.

3- Quán sát sự ngủ nghĩ của A-la-hán.

4- Quán sát tâm tự tại, ưa thú vui về thiền.

5- Quán sát thông tự tại của bậc Thánh A-lahán, Bích-chi-phật, Đại lực Bồ-tát.

Năm thứ quán sát này, cuối cùng thành mãn, chỉ là tu tuệ. Vị phương tiện đầu tiên cũng chung cho văn, tư. Kinh Thắng-man kia tự nói: "Sau khi ta diệt độ, trong đời vị lai, các đệ tử của ta thuận theo tín, tăng thượng tín, dựa vào niềm tin sáng suốt, thuận theo pháp trí, tự tánh tâm thanh tịnh. Đệ tử kia đã bị ô nhiễm phiền não, mà được rốt ráo. Rốt ráo này, là nhân tố nhập đạo Đại thừa. Lại có sáu trí hiện quán":

1-Hiện quán tư. 2-Hiện quán tín.

3- Hiện quán giới.

4- Hiện quán trí, hiện quán đế.

5- Hiện quán biên, hiện quán đế, trí.

6- Hiện quán rốt ráo.

Đầu tiên chỉ có tư huệ; Ba hiện quán sau, là tu tuệ, hai hiện quán còn lại, chẳng phải tuệ. Đây là y cứ vào tự tánh. Nếu nhận lấy đều hiện hành, tùy thuộc đối tượng thích ứng của tự tánh, phần pháp Bồ-đề làm tự tánh. Luận Đối pháp quyển 13 chép:

"Hiện quán có mười":

1- Pháp.

2- Nghĩa.

3- Chân.

4- Sau.

5- Báu.

6- Bất hành. 7-Cứu cánh 8-Thinh văn.

9- Độc giác.

10- Bồ-tát.

Pháp là Văn tuệ, vì nhiều duyên giáo, nghĩa là tư tuệ. Vì nhiều duyên lý, nên sau chân, rốt ráo đều chỉ tu tuệ. Như thứ lớp, tức là trí đế, rốt ráo biên đế trí.

Vì ba hiện quán, nên báu tức là tín, không hiện hành, tức là giới, đều như trước đã nói. Ba hiện quán sau, y cứ vào thừa được ở đây có khác, tùy thuộc thích ứng, gọi là tuệ. Du-già quyển 69 nói mười trí: "Thế tục trí; pháp trí; loại trí; khổ trí; tập trí; diệt trí; đạo trí; tận trí; vô sinh trí; tha tâm trí".

Thế tục trí, có chung thuộc về ba tuệ vô lậu, tám trí trung gian chỉ có vô lậu, chỉ có tu tuệ. Tha tâm trí sau, có chung vô lậu, cũng chỉ tu tuệ. Lại, có mười trí lực, gọi là xứ, phi xứ, cho đến trí lậu tận, chỉ có trong sự nối nhau của Như Lai, chỉ có vô lậu, chỉ có tu tuệ".

Luận Đối pháp quyển ba chép: "Mười ba trí là: Trí tín giải; trí đạo lý; trí không phân tán; trí nội chứng; trí Tha tánh; trí hạ; trí thượng; trí nhàm chán tai hoạn; trí chẳng khởi; trí vô sinh; trí sinh; trí rốt ráo; trí đại nghĩa".

Luận Đối pháp kia tự giải thích: "Ba trí đầu tiên, tức ba tuệ, thứ tư là trí thắng nghĩa; thứ năm là trí tha tâm; thứ sáu là trí pháp; thứ bảy là trí loại.

Bốn thứ tiếp theo là trí rốt ráo bốn đế, tức trí Tận vô sinh".

Tiếp theo, chín thứ trí trước chỉ là tu tuệ. Trí đại nghĩa, tức trí Đại thừa, chung cho thuộc về ba tuệ, rốt ráo chỉ tu". Lại luận Hiển Dương quyển 16 đồng chép: "Quán sát bốn đế, khởi mười sáu hạnh trí trước, là đối tượng y chỉ của sau sau, nghĩa là vì đối trừ bốn điên đảo, nên bốn hạnh của khổ đế":

1- Vì dứt trừ đảo thường, nên khởi hạnh vô thường.

2- Vì dứt trừ điên đảo lạc, tịnh, nên khởi hạnh khổ.

3- Vì dứt trừ đảo ngã, nên khởi hạnh không.

4- Tức vì trừ ngã này, do ngã không khác, các hạnh quán không, vì tánh không của ngã".

Ngoài hạnh quán này, do ngã chẳng khác, các hạnh quán không, vì chẳng có ngã. Thể của hạnh quán này, vì chẳng phải tánh ngã, là hai khác nhau. Kế là đối với bốn thường, lạc, ngã, tịnh, ái tập đế; khởi tập nhân, sinh duyên bốn hạnh. Tiếp theo, là đối với diệt này, chứng được đạo đế, khởi đạo, như hạnh, phát ra bốn hạnh, đều chỉ có tu tuệ, có chung vô lậu; trong vị thành mãn, chỉ tu vô lậu.

Luận Hiển Dương quyển 17 chép: "Hiện quán có mười tám thứ":

1- Văn.

2- Tư.

3- Trí do tu sinh.

4- Trí thuận quyết trạch phần.

5- Kiến đạo.

6- Tu đạo.

7- Rốt ráo.

8- Trí thế tục bất thiện, thanh tịnh.

9- Trí thế tục thiện, thanh tịnh.

10- Trí thắng nghĩa.

11- Trí có phân biệt hạnh thanh tịnh, bất thiện.

12- Trí có phân biệt hạnh thanh tịnh, thiện.

13- Trí vô phân biệt hạnh thanh tịnh, thiện.

14- Trí hạnh trước của thành sở tác.

15- Trí thành sở tác.

16- Hậu trí thành sở tác. 17-Trí Thinh văn, v.v… 18-Trí Bồ-tát, v.v...

Căn cứ vào hiện quán thể, chỉ tu tuệ, văn v.v... giúp tu năm hiện quán. Trong đây có năm loại. Y cứ vào trí đạo của năm vị có bảy. Ba tuệ văn, v.v... trong phần giải thoát mà vì thiết lập, nên y cứ vào trí quán hai đế có ba. Quán trí thế tục, vì có hai cảnh thiện, bất thiện khác nhau.

Y cứ vào hạnh chủ thể duyên có ba, vì hai loại: Hữu lậu, Vô lậu, trong đó có phân biệt khác nhau.

Y cứ vào hai không, hai chân trí có ba: Gia hạnh, căn bản, hậu đắc, vì là riêng.

Y cứ vào thừa có hai: Thinh văn, Bồ-tát, vì Đại tiểu khác nhau.

Du-già quyển 10 chép: "Bốn mươi bốn trí, nghĩa là quán chi già, chết là bốn":

1- Khổ già, chết.

2- Tập già, chết.

3- Diệt cõi già chết.

4- Hành diệt cõi già chết.

Cho đến chi hành, đều thực hành quán này. Vô minh không có nhân, vì thiếu trí chủng, nên không gọi là Quán. Xưa, Bồ-tát ngồi dưới cội Bồ-đề, quán chi duyên khởi tạp nhiễm, thuận nghịch; ở trong quán nghịch mà thực hành quán này. Vì y cứ vào phương tiện đầu tiên, nên các luận nói ngang bằng nhau, thức lùi trở lại, đều chỉ tu tuệ, đến lúc thành tựu, vì tu quán tuệ, nên đầu tiên, là quán gia hạnh, cũng chung cho văn tư: bảo cho biết tướng phàm phu chỉ thuộc hữu lậu, thật là vô lậu. Luận Du-già chép: "Bảy mươi bảy trí, nghĩa là hai trí, duyên già, chết hiện tại có hai trí".

1- Duyên sinh hiện tại mà có già chết.

2- Chẳng phải không duyên sinh hiện tại mà có già chết. Tự thân hiện tại, vì chính mình đã làm, nên duyên già chết quá khứ có hai trí:

a- Duyên sinh vị lai mà có già chết.

Chẳng phải không duyên sinh ở vị lai mà có già chết.

Mặc dù vị lai chưa khởi, nhưng vẫn chấp nhận có nghĩa hoàn diệt tạp nhiễm. Nay, vì quán tạp nhiễm, nên thành hai trí. Trí đầu tiên trong ba bờ mé này, quán quả có nhân, làm sáng tỏ nguyên do của quả đó.

Hậu trí quán quả có nhân, vì chẳng phải không quyết định đả phá vọng chấp ngoài; nhân bất bình đẳng, không có nhân mà sinh.

Sáu trí trước này, được gọi là trí chân thật. Trí Pháp Trụ thứ bảy, quán chi không gồm thâu pháp, vì các nghĩa biết khắp của tuệ hữu lậu, nên biết chung giáo pháp duyên khởi của ba đời, gọi là chi không gồm thâu. So sánh thân bậc Thánh giả cũng có Trí pháp trụ. Trong thân phàm phu cũng có trí chân thật, quán giáo, quán chi, khởi bảy trí; cho đến chi hành cũng có bảy trí này, vì thiếu chủng trí, nên loại trừ chi vô minh, cuối cùng quán thành, chỉ thuộc về tu tuệ. Đầu tiên, vị gia hạnh cũng chung cho văn, tư". Du-già chép: "Trí các thần thông, trí của môn giải thoát, trí vô ngại giải, trí không có tranh cãi, năng lực của nguyện trí; niệm, trụ, không có sợ hãi, trí Nhất thiết chủng, đẳng trí của Phật pháp không chung".

Năm thần thông trước, vì có chung vô lậu nói là thân phàm phu và Thánh khởi; sau chỉ có vô lậu, vì thuộc về hai trí. Sáu trí đều tu tuệ; trí của môn giải thoát chỉ có vô lậu, vì thuộc về tu tuệ môn giải thoát, nên thuộc về tám trí không; vô nguyện thuộc về sáu trí; vô tướng thuộc về năm trí, trí vô ngại giải, cho đến trí Phật pháp không chung, chỉ là tu tuệ, tùy thuộc vào đối tượng thích ứng của tu tuệ, có chung vô lậu ở A-la-hán v.v… và thân Như Lai.

-Thứ bảy: Sự khác nhau giữa các pháp hạnh: Pháp hạnh có 10 mười: Biện Trung biên quyển 3 có bài tụng rằng:

Rằng viết chép cúng dường
Cho người đọc, vạch, nghe
Vâng giữ chánh mở bày
Đọc tụng, tư duy, tu.

Người thực hành mười pháp hạnh, được nhóm phước vô lượng, vì cao siêu, vì vô tận, do dẫn dắt người khác không dứt.

Đại Tỳ-Bà-Sa quyển 42 nói rằng: "Nếu đối với mười hai phần giáo của ba tạng mà thọ lãnh, gìn giữ, truyền đọc, rốt ráo truyền bá phổ biến, gọi là tuệ do nghe mà thành. Nương tựa vào ba tạng này phát sinh tuệ do tư mà thành; dựa vào đây mà phát sinh tuệ do tu mà thành. Đây là đoạn phiền não, chứng đắc Niết-bàn, như dựa vào quặng vàng sinh vàng, dựa vào vàng sinh Kim Cương, Kim Cương này có công năng đập nát vật đá, v.v... của núi".

Bình luận: "Nêu ra thuyết này: "Nếu thọ lãnh, vâng giữ truyền đọc, cuối cùng, phổ biến rộng mười hai phần giáo của ba tạng, là tuệ sinh đắc.

Dựa vào ba tạng giáo này phát sinh tuệ do văn mà thành; dựa vào đây, phát sinh tuệ do tư mà thành; dựa vào đây, phát sinh tuệ do tu mà thành. Đây là dứt trừ phiền não, chứng đắc Niết-bàn, như dựa vào hạt giống sinh mầm, dựa vào mầm sinh cọng; chuyển sinh cành, lá, hoa, quả".

Y cứ luận Du-già quyển 13 chép: "Thế nào là địa do văn mà thành? Nghĩa là nếu nói lược, thì đối với danh, cú, văn, thân của năm xứ minh, có vô lượng khác nhau. Giác tuệ đứng đầu, lắng nghe, thọ lãnh, đọc tụng, nghĩ nhớ. Lại, đối với nghĩa của giáo ba tạng kia, nhận hiểu rõ ràng không trái. Như thế, gọi là địa do văn mà thành".

Ý trong luận này nói: "Đối với vô lượng khác nhau danh, cú, văn thân của năm xứ minh, tuệ giác làm đầu tiên, là tuệ sinh đắc, lắng nghe, thọ lãnh, đọc tụng, nghĩ nhớ. Lại nhận hiểu rõ ràng, không trái ngược đối với nghĩa giáo pháp ba tạng kia, mới được gọi là văn tuệ, tức biểu thị rõ tướng chung. Đối với năm giáo minh, tuệ giác tối tăm, thua kém, sở hữu tâm thiện, gọi là tuệ sinh đắc. Sự lắng nghe về sau, tác ý khác nhau, tâm thiện sáng suốt, rõ ràng, gọi là văn tuệ, chẳng phải chủ yếu trước hết, đối với giáo ba tạng, lắng nghe, thọ lãnh đều là tuệ sinh đắc, chỉ đối với ba tạng, không phải dùng công sức sinh ra tâm lành, tuệ giác tối kém, gọi là tuệ sinh đắc, vì không thuận với xuất thế, chẳng phải công sức khởi tánh sáng suốt, rõ ràng, đọc hiểu nghĩa văn, vì mặc tình mà khởi, gọi là tuệ sinh đắc, nên dù thọ lãnh, vâng giữ giáo ba tạng, v.v... nhưng cũng có sinh đắc. Nếu đối với ba tạng, chủ yếu dùng công sức, thì sẽ sinh tâm thiện tuệ giác vượt hơn, sáng suốt, gọi là thiện gia hạnh, thuận với xuất thế gian, do công năng khởi tánh rất sáng tỏ. Đọc, hiểu nghĩa văn, gia hạnh mà khởi, gọi là văn tuệ, nên biết được thọ lãnh, gìn giữ giáo ba tạng v.v... cũng có văn tuệ không như vậy, thì làm sao đối với giáo của năm minh, tuệ giác là đầu gọi tuệ sinh đắc? Lắng nghe, thọ lãnh, gọi là Văn tuệ. Biện Trung Biên chép: "Tuệ do văn thành tư duy Đại thừa, khiến cho gốc lành giới được thêm lớn. Tuệ do tư thành tư duy Đại thừa, chánh ngộ nhập thật nghĩa đã cầu, tuệ do tu thành, tư duy Đại thừa, khiến cho sự nghiệp mà mình đã mong cầu, được hoàn thành, viên mãn, gọi là chủ thể thu nhập địa tu trị".

Ba tuệ nhiệm mầu này dùng mười pháp hạnh mà làm bạn giúp đỡ. Do tám pháp hạnh đầu tiên thọ thuộc mười pháp hạnh, gọi là Văn tuệ; pháp hạnh thứ 9 gọi là tư huệ, thuộc về tu tuệ của pháp hạnh thứ mười. Do ba tuệ này tu các pháp hạnh đối với Đại thừa này, được quả rất lớn:

1- Vì rất vượt hơn.

2- Vì vô tận.

Do khả năng gồm thâu ích lợi cho các hữu tình khác. Cho nên, Đại thừa nói là rất vượt hơn, do dù chứng đắc Niết-bàn vô dư, đem lại lợi ích cho sự người khác mà thường không dứt. Vì thế, Đại thừa được gọi là vô tận.

Kinh Pháp Hoa chép: "Thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải thích, hoặc viết chép, người này sẽ được tám trăm công đức của mắt, cho đến một ngàn hai trăm công đức của ý".

Nếu thọ trì, đọc tụng ba tạng, thì chỉ được tuệ sinh đắc, làm sao có được thực hành mười pháp hạnh, được nhiều nhóm phước?

Năm hạng pháp sư thành sáu ngàn đức, gia hạnh sức dụng của pháp lành mới sinh tâm hiểu rõ ràng, sáng suốt, vì được đối tượng thích ứng. Do đây, nên như thuyết mà Đại thừa đã nói.

-Thứ tám, nói về sự đồng, khác giữa các Đàla-ni: Đà la ni có hai:

1- Chủ thể gìn giữ các kinh, v.v... nói là Đà-lani nghe, gìn giữ.

Đối tượng gìn giữ: Địa Bồ-tát nói: "Đà-la-ni có bốn": a-Pháp. b-Nghĩa. c-Được nhẫn của Bồ-tát. d-Minh chú Đà-la-ni, Hán dịch là Tổng trì. Các luận đều nói: Dùng niệm, tuệ làm tánh.

Nghe, gìn giữ trong đây tức là văn tuệ; đối tượng gìn giữ trong đây tức cảnh văn tuệ. Nghe các nghĩa như pháp, v.v… ghi nhận sáng suốt không quên, gọi là nghe, gìn giữ.

Đối với nghĩa này, lẽ ra phải có phân biệt, vì sao văn tuệ gọi riêng là Tổng trì, mà không nói tư, tu, cũng thuộc Tổng trì?

Nghe từ phần ngoài, tuệ vượt hơn bên trong sinh, vì tuệ đầu tiên duyên theo cảnh tán của sự việc, nên phân biệt văn chưa thành tựu mà không giữ gìn, gọi riêng là Tổng trì. Hai tuệ tư, tu, nhân phần trong khởi, về nghĩa quyết định vì chẳng phải tuệ đầu tiên, nên về lý, có thể có công năng trì, vì phân biệt nghĩa nhỏ hẹp, nên không gọi là gìn giữ.

Vì thế đối với ba địa, nói dứt trừ hai thứ ngu:

1- Ngu tham dục: chướng ngại tu tuệ.

2- Ngu nghe, gìn giữ viên mãn Đà-la-ni, làm chướng ngại tuệ văn, tư tổng trì, vì không nói tham dục chướng tổng trì.

Có nghĩa là nghe, gìn giữ tức là văn tuệ. Đẳng trì nghĩa pháp, cũng là cảnh đối tượng gìn giữ của tuệ tư, tu. Văn tuệ nghe chung các nghĩa như pháp, v.v… đã ghi nhận sáng suốt không quên, gọi là văn trì. Hai tuệ tư, tu, với năng lực nhân bên trong khởi, có thể tư duy bốn nghĩa như pháp, v.v… của chủ thể tư, chủ thể tu, ghi nhận sáng suốt không quên, lập bốn trì kia. Không như vậy, thì ba địa đã được văn trì, văn trì bốn nghĩa như pháp, v.v… kia; ngu tổng trì văn, tư dứt chướng xong. Lại nói: "chín địa đoạn, tuệ sau sau nói về ngu Đà-la-ni tự tại". Thành Duy thức quyển 9 chép: "Vô lượng pháp đã nói Đàla-ni tự tại. Nghĩa là Nghĩa vô ngại giải, tức đối với tổng trì tự tại, đối tượng giải thích, vì trong một nghĩa, biểu hiện tất cả nghĩa, nên vô lượng danh, câu, chỉ có Đà-la-ni tự tại, chủ thể giải thích; đối với danh, câu, chữ, vì biểu hiện tất cả danh, câu chữ, nên đối tượng gìn giữ kia, tùy thuộc chủ thể gìn giữ kia, vì ba địa đã được, nên hai tuệ: tư, tu năng gìn giữ, tiềm ẩn nhau, sức phần trong sinh. Nghĩa phân biệt nhỏ hẹp, nói là văn tuệ của đối tượng gìn giữ, tất nhiên, là từ sức duyên bên ngoài khởi; nghĩa phân biệt vượt hơn, tướng của chủ thể gìn giữ tăng thêm, không nói đối tượng gìn giữ, nên Duy thức chép: "Ngu hai viên mãn nghe, gìn giữ Đà-la-ni, tức là trong đây, làm chướng tuệ văn, tư của tổng trì, nghĩa là vì tư tuệ cũng gọi Đà-lani, nên biết được thuyết của chín địa nói là dứt trừ ngu Đà-la-ni tự tại, được vô ngại giải, v.v... của nghĩa pháp, tức là đối tượng gìn giữ của Đà-la-ni của tu tuệ".

-Địa thứ chín chứng khác nhau: Phẩm Pháp sư Công Đức trong kinh Pháp Hoa chép: "Sau Như Lai diệt độ, nếu có người nào thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giảng nói; hoặc viết chép, thì sẽ được một ngàn hai trăm công đức của ý, dùng ý căn thanh tịnh này, cho đến nghe một bài kệ, một câu, thấu suốt vô lượng nghĩa, vô biên, hiểu nghĩa này xong, có thể giảng nói một câu, một kệ, đến một tháng, bốn tháng, cho đến một năm, các pháp đã nói, thuận theo nghĩa thú của pháp đó, đều không trái với thật tướng, mặc dù chưa được trí tuệ vô lậu, nhưng ý căn người kia thanh tịnh. Như đây là người có đối tượng tư duy, nói năng, suy tính, so lường, đều là Phật pháp, đều chân thật". Văn này biểu thị rõ chưa nhập mười địa, chứng được hai tuệ văn, tư cao quý.

Lại, phẩm Thường Bất Khinh chép: "Bồ-tát Bất khinh thực hành hạnh không khinh thường. Đến khi sắp qua đời, ở giữa hư không, nghe đủ hai mươi ngàn muôn ức bài kệ kinh Pháp Hoa mà Phật Oai Âm Vương đã nói, đều có thể nhớ chắc (thọ trì), liền được sáu căn thanh tịnh như trên, lại thêm mạng sống lâu hai trăm muôn ức na-do-tha tuổi. Sau khi qua đời sẽ được gặp hai ngàn ức Phật, đều hiệu là Nhựt Nguyệt Đăng Minh. Sau đó lại gặp hai ngàn ức Phật, đều hiệu là Vân Tự Tại Đăng Vương. Trong pháp chư Phật này, thọ trì, đọc tụng, vì bốn chúng nói kinh điển này, nên được mắt thường thanh tịnh, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, các căn thanh tịnh, đối với bốn chúng nói pháp, tâm không chút sợ sệt".

Ý kinh kia nói: "Bồ-tát Bất Khinh khi sắp qua đời, nghe kinh Pháp Hoa, sáu căn thanh tịnh, thêm mạng sống lâu, là bốn vị gốc lành trước thấy đạo, không nói được thường, vì sáu căn thanh tịnh, nên không nói thuyết pháp, vì tâm không có sợ sệt". Do đây, chắc chắn không phải vị Thánh Thập Địa nói. Sau khi qua đời sẽ được gặp nhiều Đức Phật, được sáu căn thường thanh tịnh, tâm không khiếp sợ khi nói pháp, chứng nhập Sơ địa. Do đây, chắc chắn biết chẳng phải là phần vị bốn mươi tâm giải thoát; vị ấy qua đời, chưa được các căn thường thanh tịnh, vì tâm không sợ sệt, nên soi rọi xa văn trước, dù chưa được trí tuệ vô lậu, nhưng ý căn của Bồtát kia vẫn được thanh tịnh như thế ấy, là vì bốn gốc lành của quyết trạch phần. Đây là nói được trội hơn trước địa văn, tư, là do Bồ-tát tu thành".

Nhiếp luận v.v... nói: "Vì sao Tam địa gọi là Phát Quang?"

Vì đối tượng nương tựa của đẳng chí, đẳng trì không có lui sụt, là chỗ y chỉ của đại pháp quang minh.

Vô Tánh giải thích: "Rằng trong địa này, đã chứng định ít có, vì phát ra trí sáng soi rõ các pháp, nên gọi là Phát Quang. Các định tĩnh lự, gọi là đẳng trì, các định Vô Sắc gọi là Đẳng chí. Hoặc đẳng trì, nghĩa là tâm tâm tánh cảnh. Nói Đẳng chí, nghĩa là chánh thọ hiện tiền". Duy thức lại chép: "Địa 1, 2, 3 tu hành thí, giới, tương đồng với thế gian. Văn trước nói trong địa thứ ba, được tu tuệ vượt hơn.

Nhiếp luận của Thiên Thân, Duy thức, luận Thập Địa, v.v... đều nói mười chướng. Thứ ba, là tánh chậm lụt, quên mất pháp văn, tư, tu. Đây là nói ba địa được ba tuệ vượt hơn. Lại, Thập địa, v.v... nói: "Mười Ba-la-mật, không thêm bớt, nghĩa là trong Mười địa đối trị mười chướng, chứng mười chân như, vì không có thêm bớt".

Đây là biểu thị rõ Năm địa được đẳng trì vượt hơn, chánh hạnh tu tập định Ba-la-mật, tùy theo khả năng, cũng tu các độ khác. Nhiếp luận của Thiên Thân chép: "Nghĩa y chỉ của nghiệp tự tại, nghĩa là giới pháp này là đối tượng nương tựa của nghiệp tự tại thân, v.v... Và đối tượng nương tựa tự tại của môn tam-ma-địa Đà-la-ni".

Nếu biết như thế, được nhập Thập địa, Thập địa nói ở đây mới được định vượt hơn. Tổng đoạn văn trước, ba tuệ hữu lậu được cao siêu, nghĩa là đối với bốn gốc lành dứt chấp phân biệt, được tu vô lậu ở Sơ địa, dứt chướng chậm lụt được ba tuệ vô lậu, soi rọi pháp Đại thừa, ở địa thứ ba, chánh tu các định, vào ra tự tại, lợi mình, lợi người, trừ chướng tán loạn, ở địa thứ năm, đối với tất cả pháp có khả năng tư duy, gìn giữ một dụng tuệ chia thành ba tuệ: Ở địa thứ tám, như kinh Thập Địa đã nói rộng trước đây, đã được biện tài vô ngại và Đà-la-ni vượt hơn y chỉ tu tuệ; ở địa thứ chín, khởi đại thần thông, khắp các cõi mười phương, thực hành rộng lợi lạc. Ở địa thứ mười, do giáo này nói địa chứng khác nhau, dùng lý để tìm văn, không trái nhau.

-Thứ mười, các môn phân biệt, gồm có mười môn:

1-Hỏi: Ba tuệ như thế, có bao nhiêu duyên tự tướng? Bao nhiêu duyên cộng tướng?

Đáp: Vấn đề này có nhiều thứ, lược nói có ba:

a- Tự tướng (cụ thể): Pháp sắc, thinh, v.v... gọi là tự tướng. Sắc uẩn vô thường, v.v... đều là cộng tướng (khái niệm).

b- Sự tự tướng: Pháp xanh, vàng, v.v... gọi là Tự tướng (tướng riêng); các Xứ như sắc, thinh, v.v… gọi là tướng chung (cộng tướng).

c- Tự tướng tự tướng: Không thể nói tánh, gọi là Tự tướng. Tướng khác có thể nói, v.v... gọi là cộng tướng. Dẫn rộng lý, giáo, như nghĩa nên biết. Chứng tự tướng của tự tướng, chỉ tu tuệ được, tự tướng cộng tướng khác chung cho văn, tư tuệ. Lại, luận Phật Địa chép: "Sự khác nhau của tự tướng, cộng tướng, so sánh nghĩa cũng vậy".

2-Hỏi: Có bao nhiêu nhân? Bao nhiêu quả?

Đáp: Vấn đề này có hai thứ: a-Hơn kém sinh nhau. b-Hơn kém tu lẫn nhau.

Y cứ vào nghĩa đầu: Văn là nhân của ba tuệ; Tư là nhân của hai tuệ; Tu là nhân một tuệ. Tu là quả của ba tuệ; Tư là quả của hai tuệ, văn là quả của một tuệ. Do thua kém là nhân vượt hơn; sự vượt hơn là quả thua kém.

Nếu y cứ vào nghĩa đồng loại riêng, thì không hợp lý, vì tư chẳng phải nhân của tu; tu chẳng phải nhân quả của tư, vì giới khác, nên y cứ vào nghĩa sau. Nếu khiến cho phần thế, huân tập phát dụng tăng thêm. Nghĩa nhân như trước đã nói. Nếu do đây, khởi huân tập tu thể kia, với thế lực tăng thêm mạnh mẽ. Về sau, hiện ở trước, rất sáng suốt thanh tịnh: Tuệ do văn thành, chỉ có nhân của văn tuệ; Tuệ do tư thành là nhân của tư tuệ; Tuệ do tu thành là nhân của ba tuệ. Hai tuệ văn, và tư không dựa vào định sau. Khi thế lực thấp kém hiện ở trước, không thể điều khiển thế lực người khác, sau khi thêm vượt hơn, sinh ra sáng, sạch; vì tu tuệ không như vậy, nên là nhân của người. Hoặc pháp vượt hơn sau là nhân thua kém trước. Vì tu khiến trội hơn, nên pháp thua kém sinh trước, chẳng phải nhân vượt hơn sau. Do thế lực yếu kém, không thể khiến cho chuyển biến sáng, sạch về sau.

3- Hỏi: Tương ưng với bao nhiêu căn?

Đáp: Tuệ do văn thành, tương ưng với bốn căn: Nghĩa là từ khổ căn, vì ở năm thức, đối với pháp vượt hơn ở trên, lo buồn muốn chứng tương ưng với ưu căn; ở trong cõi Sắc, tương ưng với lạc căn, hoặc năm căn đều có. Thừa nhận loại văn tuệ có ở năm thức, cũng khổ căn đều có.

Nghĩa như thật. Trừ khổ, ưu, lạc, hỷ, xả đều có. Sư lo buồn muốn chứng tương ưng với từ tuệ. Tánh chẳng phải văn tuệ. Vì chẳng phải ép ngặt, nên chẳng phải ưu căn đều có, vì chẳng phải năm thức, nên tuệ do tu thành, lạc, hỷ, xả đều có, chẳng phải là pháp của địa tán, vì tán không có năm.

4- Hỏi: Có bao nhiêu Đẳng trì, Đẳng chí và Đẳng dẫn đều có?

Đáp: Đều tương ưng với đẳng trì, vì số định của cảnh riêng. Có nghĩa là: "Văn, tư không phải Đẳng dẫn, Đẳng chí, đều có thừa nhận sau Bát địa có văn, tư".

5- Hỏi: Có bao nhiêu pháp cùng chung với mười một món thiện?

Đáp: Có hai tuệ: khéo tư, khéo tu, chung với mười một món thiện.

Luận Thành Duy thức thừa nhận có khinh an trong cõi Dục, văn tuệ tán xa, chỉ có mười pháp khác. Vị tán đã khởi không có khinh an.

Nghĩa thật: Ba tuệ, mười một thiện đều có thừa nhận tâm vô lậu vì có văn, tư.

6- Hỏi: Có bao nhiêu bất định có chung với bốn?

Đáp: Ba tuệ đều tương ưng với tầm, từ, vì trong vị định tán đều chấp nhận khởi, nên hối, miên không tương ưng với tu tuệ, vì định, tán khác nhau. Nghĩa là: Hối, miên không phải văn, tư đều có hành tướng thô bỉ và vì mờ tối qua loa, văn, tư tế vượt hơn và vì rộng rãi, sáng suốt.

Nghĩa thật: Văn, tư cũng là hối, miên đều có, văn, tư ăn năn điều ác, trong vị ngủ nghỉ, lắng nghe giáo pháp, vì nghĩa lo nghĩ, như Thành Duy Thức quyển 7 nói.

7- Hỏi: Có bao nhiêu hệ thuộc, v.v... ba cõi?

Đáp: Nghĩa là Văn hệ thuộc cõi Dục, Sắc; Tư chỉ hệ thuộc cõi Dục; Tu chung cho hệ thuộc hai cõi trên và không hệ thuộc.

Nghĩa thật: Văn Tuệ chung cho hệ thuộc cõi Dục, Sắc và không hệ thuộc. Tư tuệ hệ thuộc cõi Dục và không hệ thuộc. Tu tuệ như trước. Hai tuệ: Văn và tư chung cho không hệ thuộc, nghĩa là chỉ dựa vào địa cõi Sắc, vì văn có chủng loại, vì hành tướng của tư rộng, ba thứ đều bị hệ thuộc, không hệ thuộc.

8- Hỏi: Có bao nhiêu hữu học, v.v…?

Đáp: Tuệ do tu thành chung cho ba thứ, hai tuệ văn, tư. Có nghĩa: Chỉ phi học, phi vô học.

Thật nghĩa: Chỉ hữu học và phi học, phi vô học, vì nói Phật không có. Nếu thân Vô học có thuận theo thiện vô lậu, thì cũng gọi là người Vô học. Hai tuệ văn, tư cũng chung cho Vô học, duyên chung ba thứ.

9- Hỏi: Có bao nhiêu phiền não do thấy đạo mà dứt trừ? Đáp: Nếu lìa ràng buộc thì dứt.

Nghĩa là Văn, tư chỉ do tu đoạn, vì chẳng ô nhiễm nên không do kiến đoạn, vì chẳng phải vô lậu nên không phải đối tượng dứt trừ.

Thành Duy thức chép: "Mười một món thiện v.v…, không phải đối tượng dứt trừ của Kiến".

Luận Du-già chép: "Năm căn như tín, v.v... chỉ do tu đoạn, vì chẳng phải đối tượng dứt trừ, Tuệ do tu thành, chỉ do tu đoạn và chẳng phải đối tượng đoạn, vì chung cho vô lậu, nên y cứ vào không sinh đoạn, cũng chung cho kiến đoạn; nói là định, v.v... vô tưởng chỉ do kiến đoạn, như trong Duy thức quyển 8 nói là nghĩa của hai đoạn".

10-Hỏi: Có bao nhiêu gia hạnh đắc, ly nhiễm đắc và sinh đắc?

Đáp: Ba thứ tuệ này đều chẳng phải sinh đắc, vì chẳng phải tối tăm mê muội, nên đều là gia hạnh đắc, vì gia hạnh thiện, nên đều lìa nhiễm đắc, lìa chướng của ba địa, được ba tuệ vượt hơn, lìa nhiễm Bát địa, vì được ba tuệ vô lậu, nên cũng lìa nhiễm của chín địa, vì được tu tuệ vượt hơn, nên dù có sự tu tập của đời trước. Ba tuệ này trong hiện đời, tất nhiên không có được, nên chẳng phải sinh đắc, chủ yếu là cần một chút công sức, mới có thể được.

Phật được thành: Nhất định do lìa nhiễm đắc, vì không có gia hạnh. Thanh văn, Độc giác và vị Bồ-tát, chung cho hai thứ đắc. Bát địa trở lên, không có gia hạnh cố gắng, khích lệ, vì có gia hạnh tự nhiên.

------------------------------------

NGHĨA LÂM BA LUÂN

1- Nêu ra thể.

2- Giải thích tên gọi.

3- Phế, lập.

4- Biểu thị rõ tướng.

5- Ba thừa năng khởi.

6- Đối tượng tạo tác của ba thân.

7- Hóa độ riêng hữu tình.

- Thứ nhất, là nêu ra thể: Du-già quyển 69 chép: "Năm thần thông trước, phàm phu Hữu học khởi: Đều là hữu lậu. Vô học khởi: đều là vô lậu. Phàm phu là Hữu học, cho nên đạo yếu kém, nên Vô học đã khởi, vì thế đạo mạnh mẽ. Nếu Phật đã khởi, thì chỉ là vô lậu, trí chung cho vô lậu. Luận kia chép: "Dùng hai trí: Tận và Vô sinh làm tánh, vì duyên lậu tận, nên chỉ là vô lậu, thân lậu tận khởi trí thông lậu tận A-la-hán, v.v… dùng mười trí làm tánh. Trong đây có nghĩa: "Thân lậu tận thành, gọi là vô lậu, chẳng phải nghĩa đoạn lậu, tức chứng tỏ ba luân cũng chung cho hữu lậu".

Du-già quyển 69 chép: "Dùng tất cả tĩnh lự của các thần thông, v.v... để làm y chỉ, vì đều có khả năng dẫn sinh, nên dừng Vô sắc cũng có trí lậu tận. Các Bồ-tát v.v... thuận theo dùng tâm vô lậu kia, để hiểu rõ tất cả pháp, cũng có thể y cứ vào pháp vô lậu kia, biến hóa các cảnh, v.v... như đứng bên cạnh Phật và hương cung điện v.v… vì tác dụng hẹp, mà không gọi chung cho tâm cõi Sắc rộng, trừ địa Vị chí có thể có các thông, vì định, tuệ ngang bằng".

Du-già quyển 37 chép: "Vì ba luân tức thông, nên đồng ở thông, chẳng phải ở địa khác".

- Thứ hai là giải thích tên gọi: Du-già quyển 79 hỏi: "Như nói ba luân ba đời thanh tịnh, làm sao biết được?"

Đáp: Vì tự tánh của biến kế sở chấp, nên pháp bình đẳng, bình đẳng ở quá khứ, vị lai, hiện đời, bởi lẽ khi dùng tuệ như thật chánh quán sát pháp quá khứ, vị lai, hiện tại, không có lưu luyến, hy vọng, chấp mắc thì đó gọi là ba luân ba đời thanh tịnh". Luận Hiển Dương quyển 17 chép: "Tất cả, nghĩa ba luân":

1- Cảnh sở tri (đối tượng biết).

2- Trí năng tri (chủ thể biết của tri).

3- Người, chủ thể biết.

Luận kia chép: "Các hành có chung ba pháp này. Vì dứt bỏ pháp chấp, nên quán thể của ba pháp là không". Vì dẹp bỏ chấp kia, nên trên đây đều chẳng phải nghĩa đã nói này. Nay, sẽ nói về ba thứ dẹp bỏ: Người chưa tin, khiến sinh niềm tin thanh tịnh, đối với người đã tin, thì bảo nên tu hành; đối với người tu hành, thì giúp cho họ được hiệu quả, gọi là ba luân.

Kinh Thập luận quyển 6 chép: "Như thế, Như Lai và các Bồ-tát sở hữu thân thông ghi nhận nói lời răn dạy, ba thứ tác dụng của luân vượt hơn không có ngăn ngại". Ba là số, tức là kinh Thập luân kia nói: "Như bánh xe mà vua Chuyển luân ngồi. Hoặc đầu tiên, đi trên bánh xe". Ý đầu tiên kinh kia nói: "Y chỉ sự vận chuyển, gọi là Luân, đối tượng y chỉ của bậc Thánh ba thừa, từ vận, vận người khác, vận chuyển có đến chỗ kia, lập dùng luân (bánh xe) để gọi".

Ý sau của kinh kia nói: "Như xe báu là vật của vua Chuyển Luân. Đầu tiên là đi, có thể dẹp bỏ, không khước từ trấn đóng, vì đã chế phục. Ba luân cũng như vậy, đối với người chưa tin, khiến sinh niềm tin, v.v... người trước đã tin v.v…, thì khiến quyết định v.v…, là Đới số thích".

Du-già quyển 25 cũng gọi ba thần biến truyền trao, răn dạy, Ba thần biến đó là:

1- Thần biến của sức thần.

2- Thần biến ghi nhận nói.

3- Thần biến giáo hóa, dắt dẫn.

Du-già quyển 27 cũng gọi ba thứ thần biến giáo thọ:

1- Thần biến thần cảnh.

2- Thần biến ghi nhân nói.

3- Thần biến răn dạy.

Quả do tu thành, trí đủ oai đức, tức dạng khó suy lường, gọi là thần biến. Chuyển đổi không nhất định, gọi là biến. Biến, nghĩa là cảnh; thần, nghĩa là trí. Thần của cảnh, có công năng biến đổi; cảnh của thần (trí), đối tượng biến đổi, đều Y chủ thích. Thần tức biến; biến thuộc chủ thể biến, Trừ nghiệp thích.

Trong đây chỉ lấy hai cách giải thích: Đầu và sau. Truyền dạy, khuyến khích điều lành của người kia nẩy sinh; răn dạy, tiêu diệt điều ác của người kia; vừa dạy bảo, vừa khuyên răn; dạy và răn khác nhau, hai cách giải thích đều được. Tác dụng một thứ thần cảnh vượt hơn, sáng tỏ, chủ thể biến, chủ thể hóa, vì gọi đúng là thần biến, nên trong sáu thông, gọi riêng là thần thông, tha tâm, tưởng dụng lậu tận, chẳng phải tăng thêm, không bằng thần cảnh, trong sáu thông, không xưng với thần, trong ba luân cũng gọi là Thần, có năng lực chuyển biến tâm người, hay khéo lậu tận. Dụng vượt hơn vì pháp khác; Ba pháp khác so sánh thua kém, cũng không gọi là luân.

Du-già quyển 25 chép: "Ba thứ đều gọi là truyền trao, răn dạy. Ba thứ đều khiến thiện sinh, ác diệt, vì hai thứ khác".

Quyển 27 chép: "Ba thứ đều gọi là thần biến truyền dạy, chỉ khiến cho việc lành phát sinh, chẳng phải nói điều ác diệt. Hoặc sao cho hễ việc lành sinh tức là ác tiêu diệt, nên ba thần biến cũng là Trì nghiệp thích. Chiết phục, trấn áp công dụng của hai lợi, gọi là Luân. Thể diệu vô thường, bày ra đức của dụng, gọi là thần biến. Ba thừa gọi chung, lập danh từ thần biến. Bồ-tát, Như Lai được gọi là luân, vì y chỉ chiết phục, vận chuyển vượt hơn".

Thập Luân lại chép: "Luân: Nghĩa là đối với pháp, không bị trở ngại, cũng như ánh sáng mặt trời soi rọi khắp tất cả, căn khí ba thừa, tùy thuộc vào đối tượng thích nghi, giảng nói chánh pháp, không có đối tượng chấp khắp. Đây là nói soi rọi cùng khắp, không có ngăn ngại, cũng như vầng mặt trời, nên pháp mà người Nhị thừa khởi, chẳng phải luân. Lại, thần biến của Phật, Bồ-tát: Vì vượt hơn Nhị thừa, lại thêm oai lực, nên Du-già quyển 37 chép: "Chư Phật, Bồ-tát lược có ba thứ oai lực thần biến". Nhưng Câu-Xá luận quyển 27 chép: "Gọi ba thị đạo: Chủ thể thị hiện, chủ thể dẫn đạo đắc; danh từ thị đạo. Nay, lời nói thị đạo của Đại thừa chỉ thuộc về răn dạy. Thị hiện giáo hóa, dẫn dắt, khen ngợi, khích lệ, chúc mừng, tức kinh xưa nói: "Thị giáo, lợi hỷ".

Nếu hai thứ ban đầu cũng gọi thị đạo thì thị đạo lợi hỷ, ba luân có chung, ấy là trái với nghĩa tông, nên luận kia lập danh, chẳng phải thuyết của luận này nói.

Tên riêng của ba luân, Tạp Tập quyển 1 chép:

1- Luân thần biến.

2- Luân ghi nhận tâm.

3- Luân răn dạy.

Về nghĩa thần biến, như trước đã giải thích: Thần biến tức luân, là Trì nghiệp thích. Mặc dù biết thần này năng biến, năng hóa; hóa lược, biến rộng, từ rộng đặt tên. Lại, biến là ưu tiên, mới khởi hóa được. Từ đầu tiên gọi là thần biến; về sau, từ thuyết đầu tiên nói: "Tâm, nghĩa là chủng loại khác nhau của tâm người khác. Ghi nhận, nghĩa là nhận thức riêng, thức phân biệt tâm kia, gọi là ghi nhận tâm. Mặc dù cũng có khả năng ghi nhận tâm sở của người khác, vì tâm là chủ, nhưng chỉ nói là ghi nhận tâm, sự ghi nhận của tâm, y chủ thích. Ghi nhận tâm thức luân, cũng là Trì nghiệp thích. Giáo, nghĩa là dạy bảo cho biết, khiến cho việc lành của người kia sinh; Răn, nghĩa là răn nhắc sao cho điều ác của người kia diệt; dạy và răn khác nhau, tương vì thích; vừa dạy, vừa răn, Trì nghiệp thích, dạy, răn tức là luân, giải thích nghĩa như trước".

Du-già quyển đầu gọi là thần lực, thần biến. Ghi nhận nói thần biến, thần biến giáo hóa, dẫn dắt.

Thần cảnh trí, tác chứng thông, gọi là thần. Có danh lực oai thế, vừa là thần, vừa là lực, tức gọi là thần biến. Nghĩa ghi nhận, như trước đã nói, nghĩa là ngôn thuyết, y cứ vào trí ghi nhận nói năng. Nói của ghi nhận, ghi nhận của nói. Nay, nhận lấy cách giải thích sau. Ghi nhận là vì thông nên ghi nhận, tức nghĩa giáo thần biến, như trước đã giải thích. Đạo, nghĩa là dẫn dắt, thể của dẫn dắt là thị hiện; hoặc thể tức răn. Giáo đạo tức thần biến. Du-già gọi là thần biến cảnh, thần biến, ghi nhận nói thần biến, thần biến răn dạy. Thần nghĩa là thông; cảnh, nghĩa là đối tượng biến, đối tượng hóa, thần của cảnh; cảnh của thần. Nếu theo cách giải thích đầu tiên, vì thần là thông, nên thần cảnh tức là thần biến, hai pháp còn lại cũng vậy, đều Trì nghiệp thích.

Nếu nhận lấy cách giải thích sau, thần biến của cảnh, cảnh là vì đối tượng biến, nên được Y chủ thích.

-Thứ ba, là phế, lập, gồm có bảy nghĩa:

1- Du-già quyển 27 chép: "Do thần cảnh, thần biến, hay hiện các thứ cảnh giới thần thông, khiến cho người khác sinh tâm tôn trọng cùng cực, do người kia đối với mình vì sinh tâm tôn trọng đối với mình, nên đối với hệ thuộc tai nghe. Du-già tác ý cùng cực sinh cung kính, do ghi nhận nói thần biến, hay tìm cầu sự khác nhau giữa tâm hạnh người khác. Do thần biến răn dạy, như căn, như hạnh, như đối tượng ngộ nhập, nói chánh pháp cho nghe, đối với đối tượng tu hành thì răn dạy thích đáng".

2- Hoặc chưa phát tâm vì tạo ra thần biến, không tu chánh hạnh, ghi nhận riêng tâm mình, chưa có chứng đắc mà vì răn dạy.

3- Lại, luận Thập Địa quyển 5 chép: "Đầu tiên, một Thần thông là thân nghiệp thanh tịnh. Hai thông thiên nhĩ và tha tâm trí, là khẩu nghiệp thanh tịnh, hai thông: Túc mạng, và trí sinh tử là ý nghiệp thanh tịnh. Một thần thông là đến được chỗ chúng sinh; hai thông: thiên nhĩ và tha tâm, có thể biết vì nói nghĩa pháp âm, vì biết tâm người khác, nên thuận theo các thứ tiếng nói, đều có thể biết hết".

Y cứ vào các thứ tên khác của nghĩa này, nói là vì thuận theo dụng của chúng sinh, nên hai thông khứ, lai đều biết chúng sinh, được thích ứng thọ hóa độ ở quá khứ, vị lai.

Ý luận kia nói: "Dụng của thần cảnh tăng thêm, riêng, thân nghiệp thanh tịnh, thiên nhĩ nghe tiếng kia; hoặc nói tiếng pháp âm, trí tha tâm biết ý người kia, mới nói pháp mầu, khiến cho ngữ nghiệp của mình thanh tịnh. Hai thông khứ, lai biết cảnh giới không có trở ngại, khiến cho ý nghiệp thanh tịnh. Dù thiên nhãn thông cũng thấy mầu đen, trắng v.v… của tâm người kia. Vì nói pháp mầu, ngữ nghiệp thanh tịnh của mình. Do nói trí sinh tử vì biết ý nghiệp tịnh của pháp vị lai, nên lược bỏ không nói. Dù lậu tận biết chung thế gian, phi thế gian, cũng là ý nghiệp tịnh. Vì nói Bồ-tát Tam địa, được năm thông, vì tịnh hóa ba nghiệp của mình, thành ra cũng không nói, nên ba luân này vì tịnh hóa ba nghiệp không bớt, không thêm".

4- Lại, vì thị hiện ba thân, ý, ngữ, như ba nghiệp theo thứ lớp đó, vì biến hóa nên không bớt, không thêm.

5- Luận Câu-xá chép: "Chỉ ba thứ này dẫn đối tượng hóa độ sinh, khiến phát tâm đầu tiên rất là vượt hơn".

6- Hoặc ba thứ này dẫn sinh ra trái với chánh pháp và trong xứ: Vì khiến phát tâm.

7- Lại, chỉ ba thứ này, khiến đối với Phật pháp, như thứ lớp quy phục, tin nhận, tu hành, được gọi là thị đạo; ba thứ còn lại không được như vậy.

-Thứ tư, là nói về tướng: Tướng thần biến đầu tiên, lược có hai thứ:

1- Chủ thể biến.

2- Chủ thể hóa.

Chuyển vận được pháp khác, có vật tự tánh, khiến thành vật khác, gọi là chủ thể biến; tùy thuộc dục, vì tạo ra các việc chưa có, nên gọi là chủ thể hóa, chủ thể biến, đó là mười tám thần biến:

1- Rung chuyển.

2- Thịnh vượng.

3- Lưu bố.

4- Thị hiện.

5- Chuyển biến.

6- Qua lại.

7- Cuốn lại.

8- Duỗi ra.

9- Mọi tượng vào thân.

10- Đồng loại qua cõi.

11- Biểu lộ rõ ràng.

12- Giấu hình.

13- Việc làm tự tại.

14- Hàng phục thần thông người khác.

15- Thí cho biện tài.

16- Thí cho sự nhớ nghĩ.

17- Thí cho sự yên vui.

18 Tỏa ra ánh sáng rực rỡ.

-Chủ thể hóa có ba:

1- Hóa làm thân.

2- Hóa làm cảnh.

3- Hóa làm lời nói.

Hóa làm thân: Hóa thân mình thành thân người khác; hóa thân người khác thành thân mình, hoặc một, hoặc nhiều, loại như thế, v.v..

Hóa thành cảnh: Hóa giống như các thứ báu, thức uống ăn, tiền của, các dụng cụ như thế, v.v… Hóa thành lời nói: Âm thanh hay, âm thanh dở, hệ thuộc mình, người, tất cả như thế.

Kế là, ghi nhận sự khác nhau của tướng tâm có sáu:

1- Ghi nhận có triền, có tùy miên, lìa triền, lìa tâm tùy miên.

2- Ghi nhận có nhiễm, nguyện tà, không có nhiễm, tâm chánh nguyện.

3- Ghi nhận ba cõi thấp kém, trung bình, vượt hơn, tâm năm đường.

4- Biết ba thọ tương ưng với tâm.

5- Dùng một ghi nhận một; dùng một ghi nhận nhiều tâm. chư Phật, Bồ-tát ghi nhận các căn của hữu tình, vượt hơn, thua kém, các thứ thắng, các thứ cõi, hạnh, thuận theo thích ứng trong hành Niếtbàn, xứ yên ổn.

Tướng răn dạy sau: Nghĩa là khả năng biết thật được phiền não cùng tận, hoặc mình, hoặc người khác, đối với các lậu tận đã được, chưa được, cho đến nói rộng. Biết đối tượng hóa kia đối với lậu tận được lìa tăng thượng mạn. Hoặc nói có năm, cái gọi là ngăn cấm, khai cho, can ngăn, khuyên răn, quở phạt, xua đuổi, chúc mừng, an ủi; hoặc khiến cho lìa dục, thị hiện, dạy bảo, dẫn thọ, khen ngợi, khích lệ, chúc mừng. Như luận Hiển Dương quyển 12 chép: "Hoặc giáo thọ có bốn":

1- Không có trái ngược.

2- Dần dần.

3- Giáo.

4- Chứng.

Như Thanh Văn Địa quyển 27 chép: "Tướng của ba luân trước, như Bồ-tát Địa quyển 37 nói".

-Thứ năm là Ba thừa năng khởi: Ba thừa đều khởi ba thần biến. Thanh Văn Địa quyển 25 chép: "Nghĩa là A-la-hán có tám giải thoát, định tĩnh lự, v.v…, có khả năng lớn, đủ thế lực vĩ đại, có thể khéo vì người khác, thị hiện ba thần biến truyền trao, răn dạy, nên biết rằng, Độc giác cũng có thể biểu hiện thần biến này, phải có giải thoát, mới khởi ba thứ, nên có bộ hành mà không thể khởi. Lại, ba thần biến tức là ba thông".

Bồ-tát Địa chép: "Chư Phật, Bồ-tát và người nhị thừa: Oai lực thần thông có chung, không chung, lược do ba tướng":

1-Vì vi tế: chư Phật, Bồ-tát đối với vô số lượng các loại hữu tình. Và, các sự lợi ích của phương tiện kia, đều biết như thật, đều có khả năng tạo tác. 2-Phẩm loại: Tất cả phẩm loại oai lực thần thông đều thành tựu. 3-Thế giới, dùng tất cả thế giới, tất cả giới hữu tình làm cảnh thần thông.

Thanh văn chỉ dùng hai ngàn thế giới hữu tình làm cảnh thần thông; Độc giác chỉ dùng ba ngàn thế giới làm cảnh thần thông, do Độc giác kia chỉ vì điều phục một thân mà tu chánh hạnh, chẳng phải các hữu tình. Cho nên, cuối cùng chỉ dùng một cõi làm cảnh thần thông. Các giáo phần nhiều đều nói: "Độc giác thường dùng thần thông hóa ra vật;

Thanh văn thường dùng ghi nhận tâm nói pháp; chư Phật thường dùng lậu tận để răn dạy".

- Thứ sáu, là đối tượng tạo tác của ba thân: thân tự tánh của chư Phật, Bồ-tát kia, và chân lý thường vắng lặng, không có tác dụng, không ngoài lợi ích chúng sinh, không khởi ba luân. Nhưng luận Bát nhã: "Vì chọn công quy bổn, nên nói như vầy: "Ứng, hóa chẳng phải chân Phật, cũng chẳng phải người nói pháp, thật ra không có tác dụng, chẳng khởi ba luân này, phải chứng ba luân kia, mới vượt hơn. Thân tự thọ dụng, tánh thần thông thật vì thật trí, nên nối nhau yên lặng, không có tác dụng lợi sinh, cũng không khởi ba luân. Thể tức là trí tục sở hữu kia, thân biến hóa kia, khởi ba thứ này, hóa độ tà kiến, v.v... vì nhập pháp v.v... nên thân tha thọ dụng. Các loài chúng sinh đã được hóa độ, dù không có ác kiến v.v... thuận theo đối tượng hóa độ đó, khiến nhập, vị trên cũng thể hiện ba luân, nên Đức Phật A-di-đà cũng hóa hiện thần thông ghi nhận tâm, răn dạy. Mặc dù kinh Lăng-già chép: "Sự khác nhau về nói pháp của pháp thân Phật, chọn công quy về bổn, đồng với luận Bát-nhã, thật sự không có tác dụng khởi lên việc nói pháp".

- Thứ bảy, là hóa độ riêng lẻ hữu tình: Ba luân của Đức Thế Tôn năng hóa độ các loại hữu tình của ba cõi: "Bồ-tát Địa nói: "Thần thông của chư Phật dùng tất cả cõi, tất cả hữu tình làm cảnh, nên ghi nhận tâm, răn dạy, nghĩa ấy quyết định như vậy. Nhị thừa đã dùng ba thứ hóa độ cõi Dục, cõi sắc, Bồ-tát địa chép: "Thần thông của Thanh văn dùng hai ngàn cõi; thần thông Độc giác dùng ba ngàn cõi làm cảnh giới, nên ghi nhận tâm, răn dạy hữu tình kia cũng vậy".

Bên cạnh hóa độ đã thế, trên, dưới nên suy nghĩ. Ba luân của Thế Tôn có khả năng hóa độ năm đường, như phát ra ánh sáng soi rọi ngục Vô Gián, nói Đà-la-ni, địa ngục đến nghe. Nhưng vì nỗi khổ của địa ngục kia ép ngặt, không được yên vui. Hàng Nhị thừa kia không thể hóa độ hữu tình trong địa ngục kia, có thể đi khắp bốn đường, vì oai thế thấp kém, nên hóa độ chung bốn loài sinh. Loại núi nhỏ, v.v... vì đều thọ lãnh hóa độ, nhưng trừ châu ở phía Bắc, Đức Thế Tôn dù đến mà không nhận hóa độ, nhưng ba luân của Thế Tôn năng hóa độ Ba thừa; Nhị thừa thì ba thứ hóa độ v.v... và, hạ thừa chẳng phải Thượng thừa, nếu là phàm phu thì có khả năng hóa độ họ; hữu tình có tánh, đều dùng ba luân để hóa độ; hữu tình không có tánh dùng ba luân mà không đắc quả.

Cho nên, kinh nói: "Dù lại phát tâm, hết lòng thực hành tinh tấn, nhưng cuối cùng, không thể chứng Vô thượng Bồ-đề".

QUYỂN 7

NGHĨA LÂM BA THÂN

Về nghĩa ba thân, lược dùng năm môn để phân biệt:

1- Nói về tên gọi.

2- Nêu ra thể.

3- Khai hợp, phế lập.

4- Nhân khởi tướng quả

5- Các môn phân biệt.

-Thứ nhất, là nói về tên gọi: Kinh Phật Địa chép: "Sự chuyển biến khác nhau của pháp tự tánh, thọ dụng, biến hóa". Phẩm ba thân kinh Kim Quang Minh quyển hai chép: "Tất cả Như Lai có ba thứ thân":

1- Hóa thân.

2- Ứng thân.

3- Pháp thân.

Ba thân như thế, gồm thâu thọ A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề. Luận Phật Địa chép: "Tự tánh tức là thân tự tánh đầu tiên. Thể thường không biến đổi, gọi là thân tự tánh". Thành Duy Thức chép: "Là thật tánh bình đẳng của tất cả pháp".

Nhiếp Luận quyển 9 của Vô tánh chép: "Vì chẳng phải do giả lập, nên gọi là Tự tánh, không phải như thân khác nhóm hợp thành, vì là đối tượng y chỉ, nên gọi là thân tự tánh, tức thân, là trì nghiệp thích. Pháp, gọi là nghĩa các công đức khác nhau. Tánh, gọi là bản thể, vì thể của nghĩa, nên gọi là Pháp tánh".

Vô Tánh giải thích rằng: "Vì pháp tánh tức là thân, nên gọi là pháp thân. Hoặc pháp tức là đức của các hữu. Vì đức này là tánh của pháp thể kia, nên gọi là Pháp tánh".

Vô Tánh giải thích: "Hoặc là chỗ đối tượng y chỉ của các pháp". Thành Duy Thức chép: "Vì đối tượng y chỉ của pháp công đức vĩ đại".

Luận Phật Địa chép: "Vì đối tượng y chỉ của các pháp công đức của lực, vô úy, v.v... gọi là Pháp tánh, là Y chủ thích".

Thân có ba nghĩa: Thành Duy Thức chép: "Thể dựa vào nghĩa nhóm, nói chung là thân; pháp tánh tức thân, là trì nghiệp thích". Luận Phật Địa chép: "Sự thọ dụng tức là thân thọ dụng tiếp theo, vì khiến cho mình, người đều được thọ dụng các thứ pháp lạc lớn. Nghĩa này chỉ rõ chung thân thọ dụng của mình, người, đều gọi là thân thọ dụng. Thân tự thọ dụng tự thọ pháp lạc; thân thọ dụng của người khiến người thọ dụng".

Thành Duy Thức chép: "Thân thọ dụng của mình thường tự thọ dụng thú vui pháp rộng lớn; thân thọ dụng của người là chúng Thập địa hiện thần thông nói pháp, xé rách mọi lưới nghi, sao cho người được đón nhận niềm vui; hợp hai thứ này gọi là thân thọ dụng. Thân tự thọ dụng là trì nghiệp thích. Vì thọ dụng tức là thân, nên thân thọ dụng của người là y chủ thích, vì thân của sự thọ dụng". Kinh Kim Quang Minh cũng gọi là ứng thân, chỉ nói sự thọ dụng của người, không nói sự thọ dụng của mình, gọi là ứng thân, vì đáp lại nên hiện thân, gọi là ứng thân, như kinh kia nói: "Này thiện nam! Các Như Lai này vì các Bồ-tát được thông đạt, nên nói về chân đế, cho đến nói rộng, thân này có thể hiện ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, vầng ánh sáng tròn phía sau ót gọi là ứng thân, về công đức định tuệ của thân tự thọ dụng", kinh kia nói: "Vì thuộc về pháp thân".

Luận Phật Địa chép: "Biến hóa tức là về sau, thân biến hóa vì muốn đem lại lợi ích, yên vui cho chúng sinh, nên thị hiện các thứ biến hóa khác nhau; chuyển đổi thân cũ, gọi là biến; không có mà bỗng nhiên có, gọi là hóa, biến khác với hóa, là Tương vì thích. Biến hóa tức thân, là Trì nghiệp thích".

Đây là nêu tác dụng vượt hơn của thần cảnh, gọi là thân biến hóa, vì phần nhiều là sự biến hóa, nên kinh Kim Quang Minh gọi riêng hóa thân là năng dẫn thọ, vì tiếp nhận niềm vui kém, riêng vượt hơn được gọi tên. Hoặc gọi đơn giản là hóa, biến hóa tức thân là trì nghiệp thích, gọi chung ba thân là Đới số thích.

-Thứ hai, là nêu ra thể: Lược có sáu văn:

1- Có nghĩa: Duy Thức, Phật Địa đều chép: "Thân cõi công đức của Như Lai mầu nhiệm sâu xa, chẳng phải có, chẳng phải không, lìa các phân biệt, dứt bặt các hý luận; chẳng thuộc về pháp môn giới, xứ, v.v... nên thắng nghĩa đế chẳng phải thân, chẳng phải thân không, nhưng có ba thứ: y cứ vào thế tục đế, thuận theo sơ duyên mà hiện, nói có ba thân: lý không của pháp thân; trí không của báo thân; vì đem lại lợi ích cho chúng sinh mà hóa hiện, gọi là thân biến hóa". Các sư Thanh Biện, v.v... đều có nghĩa này.

2- Có nghĩa: Pháp thân chỉ dùng chân như làm tánh. Trong mười tám giới, chỉ có ba thứ sau, chung cho thuộc về vô lậu. Do đây, thân Phật hội đủ ba pháp: Đại định, trí, bi tăng thượng, thức thứ sáu, bảy, tám và phẩm tương ưng, làm thân tự thọ dụng.

Trí bình đẳng tánh, thuận theo cơ nghi của Thập địa, hiện tướng tịnh độ của thân tha thọ dụng. Trí Thành sở tác, thuận theo cơ nghi của ba thừa, khởi lên tướng Tịnh độ của thân biến hóa. Hai thân cõi này, vì diệu định sinh, thuộc về sắc pháp giới, chẳng phải năm thức Phật, dù dựa vào biến này, nhưng thô, tế khác nhau, nên chẳng phải thuộc về năm cảnh. Trí Thành sở tác, hoặc là tương ưng của thức thứ sáu, thứ bảy.

Sáu tương ưng: Quán tự tướng, cộng tướng, v.v..., gọi là trí Diệu quán sát, khởi tác dụng biến hóa, gọi là trí Thành sự, trước, sau khởi riêng, không trái lý. Đồng với phần thể dụng, cũng đều không có lỗi.

Thứ đến là đều có: nghĩa là biến tha thọ dụng, gọi là trí bình đẳng; khởi biến hóa, gọi là trí thành sự. Đức Phật thường ở trong định, tánh của năm thức là tán, mười lăm giới trước ở Phật chẳng phải có. Mặc dù chuyển năm thức được trí thành sự, nhưng thể của trí thành sự chẳng phải năm thức, như chuyển sinh tử, nói là được Niết-bàn, nhưng Niết-bàn kia chẳng thuộc về năm uẩn.

3- Có nghĩa: Thân cõi công đức của Như Lai, như thích ứng gồm thâu trong uẩn, xứ, giới, ba thứ đó đều chung cho hữu lậu, vô lậu, cho đến nói rộng.

Trong thuyết này, lược có bốn nghĩa:

1- Có nghĩa: Duy Thức, Phật Địa đều lập ra thuyết này: "Pháp giới thanh tịnh là thân tự tánh. Kinh Phật Địa chép: "Chân như thanh tịnh là thân tự tánh". Thuyết trí thù thắng trong luận Nhiếp Đại thừa chép: "Chuyển thức A-lại-da, được thân tự tánh".

Luận Trang nghiêm chép: "Vì chuyển thức thứ tám được trí Viên cảnh, nên hợp hai pháp làm thân tự tánh. Trí Bình đẳng tánh, trí Diệu quán sát là thân thọ dụng". Luận Trang nghiêm chép: "trí Bình đẳng tánh đối với cõi nước thuần tịnh, vì các Bồtát hiện thân Phật, nên nói trí quán sát trong hội Đại tập, nói pháp, dứt nghi vì hiện tự tại. Đây là biểu thị rõ hai trí là tha thọ dụng". Luận Trang Nghiêm lại nói: "Chuyển các chuyển thức được thân thọ dụng, ở đây chỉ rõ hai trí là tự thọ dụng. Trí Thành sở tác là thân biến hóa". Kinh Phật Địa chép: "trí Thành sở tác, ở các cõi nước trong mười phương, hiện vô lượng thứ biến hóa khó suy nghĩ. Và, trí thù thắng gồm thâu đủ ba thân, nên biết ba thân đều có thật trí".

Nghĩa này không hợp. Kinh Phật Địa chép: "Pháp giới thanh tịnh là thân tự tánh, chư Phật có chung, là tự tánh thường. Đối với phần trong Thập Địa đều chứng đắc. Nếu trí viên cảnh là tự tánh thân, thì sẽ không có nghĩa này".

Kinh Kim Quang Minh chép: "Như như, trí như như đều gọi là pháp thân. Nếu đức hữu vi vốn nói trí viên cảnh là pháp thân, thì lẽ ra đồng với phẩm Bốn thật trí của kinh kia, đều là pháp thân. Lại, nói chuyển đổi các chuyển thức được thân thọ dụng, nếu trí thành thật chẳng phải thọ dụng, thì lẽ ra chẳng phải chuyển thức. Nếu trí thành sự là biến hóa, thì kinh Giải Thâm Mật hỏi: "Thân biến hóa có tâm hay là không có tâm?" Kinh lẽ ra quyết định đáp: "Hóa thân có tâm, nói năm thức của Phật là thân này, sao kinh nói: "Không được nói có tâm, vì không có tâm tự nương tựa, nên chẳng được nói không có tâm, vì có nương tựa tâm người, do thể của hóa thân này chẳng phải thật trí. Nhưng quán thân Phật, về lý, sự có khác, đức thô, tế khác nhau, thể một mà dụng khác, nói riêng là ba, đâu chia bốn trí đều riêng thành phần".

2- Có nghĩa: "Thành Duy Thức chép: Pháp giới thanh tịnh là thân tự tánh". Luận Trang Nghiêm v.v... chép: "Thân tự tánh, là bổn tánh thường", nên luận Tán Phật chép: "Vì thân tự tánh của Phật chẳng có sinh, diệt". Luận Vô Trước Kim Cương Bát-nhã nói: "Thọ trì, giảng nói công đức của kinh kia, vì đối với pháp thân Phật, làm nhân chứng đắc; đối với hai thân, làm nhân sinh khởi, nên kinh kia nói: "Pháp của tất cả chư Phật đều xuất phát từ kinh này, tất cả Như Lai từ kinh này sinh ra". Các kinh, luận nói: "Chuyển y cuối cùng dùng làm pháp thân, vì chuyển y tức là chân như thanh tịnh, nên biết dùng pháp thân, pháp giới làm tánh, nhưng nói chuyển bỏ tạng thức được, nghĩa là do chuyển diệt hai chướng thô nặng trong thức thứ tám, chứng đắc chân như, làm rạng rỡ pháp thân. Nói pháp thân trong trí cao siêu, là y chỉ của trí kia, vì tánh thật của pháp thân kia, nên thật chẳng thuộc về trí".

Thân thọ dụng có hai:

1- Tự thọ dụng.

2- Tha thọ dụng.

Công đức chân thật trong phẩm Tứ trí; sắc thân thường khắp, đối tượng khởi các Cảnh trí, là tự thọ dụng. Trí Đại viên Cảnh đã nói trong Luận Trang Nghiêm là Phật thọ dụng. Nhiếp Đại Thừa chép: "Chuyển các chuyển thức thì được thọ dụng, vì chuyển tạng thức, thì thật được thọ dụng". Trong Nhiếp Đại Thừa, do nói chuyển thức kia, vì làm sáng tỏ pháp thân, nên đối với được thọ dụng, lược bỏ không nói. Đã nói pháp thân vô sinh, vô diệt, chỉ chứng nhân được, chẳng phải sắc, tâm, v.v… Phẩm Viên Cảnh trí mâu thuẫn với pháp thân này. Nếu chẳng phải thọ dụng thì thuộc về thân nào? Thân thọ dụng này vì gồm thâu đức thật, hữu vi không chung của Phật, nên phẩm Tứ trí thật sự có sắc, tâm, đều tự thọ dụng. Đối tượng hiện của phẩm Bình đẳng trí là tha thọ dụng của thân Phật. Đối tượng hiện của phẩm Thành Sự Trí là tùy các thứ thân tướng làm thân biến hóa. Dù nói hóa thân thuộc về Trí thù thắng, mà giống với hiện trí. Hoặc đối tượng khởi của trí, thuyết kia nói danh của trí, thể thật chẳng phải trí, chỉ nói trí bình đẳng hay hiện thọ dụng. Trí Thành Sở tác hiện hóa thân ba nghiệp, chẳng nói hai thân, tức là hai trí, nên hai thật trí thuộc về tự thọ dụng. Hai tướng đối tượng hiện, nói là hai thân, dù hai thân này đều là tướng của bốn trí. Đối tượng hiện của bốn trí là bậc Thánh Thập địa; đối tượng hiện của ba thừa trước địa, với tướng thân thô, tế có khác, phân biệt thành hai thân. Nhưng hiện thân của trí Bình đẳng tương tự với bình đẳng vô ngã, biểu thị rõ pháp lạc tăng thêm, khiến cho tha thọ dụng chỉ nói thân Phật, đối tượng hiện bình đẳng là tha thọ dụng. Trí Thành sở tác hiện hóa ba nghiệp tăng thêm, chỉ nói thân, tướng mà trí Thành sự đã hiện là thân biến hóa, nên chẳng trái với lý.

3- Có nghĩa: Kinh Kim Quang Minh quyển 1 chép: "Thế nào là Bồ-tát rõ biết hóa thân? Này người thiện nam! Thuở xưa, Như Lai ở địa vị tu hành, vì các chúng sinh, tu các thứ pháp, cuối cùng tu hành viên mãn, cho đến nói rộng", thuận theo ý chúng sinh và thuận theo giới hạn hành động, không quá thời lượng, cho đến hiện các thứ tướng thân, đó gọi là hóa thân. Này người thiện nam! Các Đức Như Lai này vì các Bồ-tát được thông đạt, nên nói đối với chân đế, cho đến nói rộng, vì vô biên pháp Phật làm gốc. Như Lai tương ưng với như như; trí như như vì nguyện lực, nên là thân được hiện, đầy đủ ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, có vầng ánh sáng tròn sau ót, đó gọi là Ứng thân. Này người thiện nam! Vì muốn diệt trừ tất cả các chướng phiền não; vì muốn đầy đủ tất cả các pháp lành, nên chỉ nói như như, trí như như, đó gọi là Pháp thân. Hai thứ thân trước là giả gọi mà có, thân thứ ba này gọi là thật có. Vì hai thân trước tạo ra gốc. Do lìa pháp như như, lìa trí vô phân biệt, nên tất cả chư Phật không có pháp riêng. Vì sao? Vì tất cả chư Phật, trí tuệ đầy đủ, tất cả phiền não cuối cùng đã dứt hết, nên được thanh tịnh, là Phật địa. Cho nên pháp như như, trí như như gồm thâu tất cả Phật, pháp.

Ý Kinh Kim Quang Minh chép: "Pháp giới thanh tịnh, và phẩm Tứ trí, công đức hữu vi, vô vi chân thật của sắc thân thường, khắp, gọi là Pháp thân, vì gốc của công đức hữu vi, vô vi. Như Lai tương ưng với như như, vì nguyện lực của trí như như, nên hiện ra tướng tốt đẹp, có vầng ánh sáng tròn phía sau ót. Vì Ba thừa trước địa và Bồ-tát Thập địa mà hiện thân gọi là Ứng thân; vì hóa độ Ba thừa mà hiện thân Phật và thân tha thọ dụng của Hóa Thập Địa, đều gọi là Ứng thân. Vì hiện thân Phật để đáp lại cơ nghi của người khác, nên tu hạnh nguyện mãn, không chờ đợi thời gian, nơi chốn, thuận theo các loại chúng sinh, hiện thân trong năm đường, đây gọi là Hoá thân, không hiện thân Phật, mà vì biến hóa. Hóa thân năm đường trong Kinh Phật Địa cũng thuộc Hóa thân, phần nhiều hiện thần thông vì sự biến hóa, nên thân tha thọ dụng, cũng gọi là ứng thân. Thân tự thọ dụng, tự thọ pháp lạc, không phải ứng với cơ nghi mà hiện rõ; thân tha thọ dụng, có khả năng khiến Bồ-tát tiếp nhận niềm vui pháp. Tự, tha dù khác, nhưng tiếp nhận thú vui không khác, gọi chung là thọ dụng.

Thân tự thọ dụng dù là cơ bản của pháp công đức hữu vi, nhưng chẳng phải Phật có chung, mà đều là thể riêng, chẳng phải chân tánh của pháp, chẳng phải thân tự tánh, chẳng phải là gốc công đức của cõi vô vi, không gọi là pháp thân, so với Kinh Kim Quang Minh đều y cứ vào một nghĩa nên cũng không trái nhau.

4- Có nghĩa: Luận Phật Địa chép: "Pháp giới thanh tịnh là thân tự tánh. Tự tánh của bốn trí, tương ưng với công đức chân thật của sắc thân thường khắp chung có, là thân tự thọ dụng, vì đã tu thành trong ba vô số kiếp. Luận Bát-nhã quyển thượng của Thiên Thân chép: "Cũng gọi là báo Phật, đây là đối tượng hiện của Bồ-tát Thập địa. Tướng tế của một phần là tha thọ dụng. Vì các Bồtát thọ pháp lạc. Nếu vì hữu tình của ba thừa mà hiện tướng thô của một phần là thân biến hóa, thì Ba thừa Địa tiền, lẽ ra phải thấy thô, chẳng phải công đức chân thật do tu thành, chỉ là tác dụng biến hóa. Nhưng hai thân này đều do tướng bốn trí đã hóa độ hữu tình, thích nghi thấy phần thô, tế thành hai loại. Ba thừa Địa tiền chỉ dựa vào tác dụng biến hóa, phát tâm tu hành mà chưa chứng pháp lạc rộng lớn, nên hóa thân này không gọi là Thọ dụng.

Trong sáu nghĩa này, nghĩa lý của ba thuyết đầu tiên kia trái nhau, như luận tự biểu thị rõ nghĩa thứ tư kia với thuyết thứ sáu, văn dù chi tiết hơi khác, nhưng hai lý không trái. Trong thuyết thứ tư, thuận theo hai trí tăng, nói là thuộc về hai thân, chẳng phải nói hai thân chỉ hai trí hiện, vừa quán nghĩa riêng của văn, thật sự không khác, về nghĩa lý văn kinh thứ năm không có sai lầm. Do sự khen, chê này dù trở thành sáu thuyết, nhưng ba lý không có lầm.

-Thứ ba, là khai, hợp, phế, lập: Trong các kinh, luận, hoặc gọi chung là Nhất Phật bảo, ba thứ giác tánh, giác tướng, giác dụng, vì đồng với giác mãn, nên gọi chung là Phật.

Kinh Niết-bàn, v.v… chỉ nói vì chân thể của Tam bảo đồng, nên nói một pháp thân, hoặc nói là hai.

Luận Bảo Tánh quyển ba chép: "Có hai thứ pháp thân:

1- Thân pháp giới vắng lặng.

2- Được thân của nhân pháp giới kia.

Cái gọi là nói pháp, vì tập khí kia, nên một thô, hai tế. Do dựa vào pháp giới, vì các Bồ-tát, nói pháp sâu kín; vì y cứ vào chân đế mà nói, nên gọi là Tế. Nếu nói Khế kinh và các thứ khác nhau của ứng tụng, v.v... Dựa vào Thế đế nói gọi là Thô, đều dựa vào pháp thân và do thuyết này sẽ được pháp thân. Vì nhân của hai pháp thân, nên cũng gọi là pháp thân, tức tác dụng mà hai thân khác đã khởi, đồng với Duy Thức nói ở Đại Mâu-ni gọi là pháp thân.

Luận Phật Địa lại chép:

1- Sinh thân.

2- Pháp thân.

Thật báo tự tánh, đều gọi là Pháp thân, vì công đức Phật, nên đối tượng y chỉ của các pháp công đức, vì các pháp công đức đã nhóm họp thành, nên người khác thọ hóa thân đều gọi là sinh thân, vì thuận theo cơ nghi của hữu tình, mà hiện thọ sinh.

Luận Phật Địa lại nói:

1- Phật thế tục, tức thân biến hóa.

2- Phật Thắng nghĩa tức thân pháp, báo.

Trước thuận theo ý thua kém, vì hiện tướng thô; sau thuận theo tâm vượt hơn, hoặc hiện tướng tế, hoặc là thể Phật, nên luận Bát-nhã của Thiên Thân chép:

1- Chân Phật.

2- Chẳng phải chân Phật. Đầu tiên là pháp thân; hai thân còn lại, vì gốc, ngọn khác; Du-già quyển 78 v.v... cũng nói có hai:

1- Pháp thân.

2- Thân giải thoát.

Mạn-thù-thất-lợi bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Thinh Văn, Độc giác đã được chuyển y, có được gọi pháp thân hay không?

Này người thiện nam! Không gọi pháp thân, mà gọi là thân giải thoát. Vì thân giải thoát nên nói hai thừa kia bình đẳng với Phật. Vì pháp thân nên nói có khác nhau.

Đây là nói Bồ-đề, Niết-bàn, hai quả chuyển y của Nhị thừa, đều gọi là thân giải thoát, vì đã lìa sự ràng buộc của phiền não chướng, nên Như Lai đã được hai quả chuyển y: Bồ-đề, Niết-bàn, gọi chung là Pháp thân, vì đối tượng nương tựa vượt hơn: vô lượng công đức.

Thanh Duy Thức chép: "Thân giải thoát, yên vui, đại Mâu-ni gọi là pháp. Hoặc nói là ba, Kinh Kim Quang Minh nói:

1- Hóa thân.

2- Ứng thân.

3- Pháp thân".

Tức trong kinh Kim Quang Minh có bảy lần lại nữa, nói ba lý do: 1-Y cứ thân ứng, hóa, nói Niếtbàn Hữu dư. Thân của đối tượng hiện, giống với khổ đế, vì hữu dư y; y cứ vào pháp thân sau, nói là Niết-bàn vô dư, tất cả y khác rốt ráo cùng tận.

2-Y cứ vào ba thân nói Niết-bàn vô trụ; Hai thân không thật, niệm niệm không dừng, thường thường xuất hiện, vì không nhất định, nên không trụ Niết-bàn, pháp thân chân thật, lìa tướng, vắng lặng, không hề xuất hiện, vì thường định, nên không trụ sinh tử.

Trong hai nghĩa trước, nói Hữu dư y không trụ Niết-bàn, chia ra thân ứng hóa, do trụ vô dư y và không ở trong sinh tử, vì có hai pháp như như, trí như như, nên cũng chia làm hai, nhưng pháp trí đó chỉ là gốc của pháp công đức, gọi chung là pháp thân, đây là loại sinh hiện ba tướng: Phật, phi Phật khác nhau, chia làm ba ứng hóa, nghĩa là tất cả phàm phu vì là ba tướng, nên có ràng buộc, có chướng, xa lìa ba thân. Vì trái với ba tánh kia, nên chỉ nói ba thân.

1- Tướng tư duy phân biệt: Nghĩa là biến kế sở chấp tướng hai pháp, hai ngã, vì hiện đương tình, nên xa lìa hóa thân.

2- Tướng Y tha khởi: Hiện tướng tạp nhiễm chủ thể nhận lấy, đối tượng nhận lấy, xa lìa ứng thân.

3- Tướng thành tựu: Đối với chân lý, vì trí chưa dứt tướng, nên xa lìa pháp thân. Như thứ lớp của các tướng như thế, vì không thể hiểu, vì không thể diệt, vì không thể tịnh, nên không đến ba thân. Nếu đối với ba tướng, có thể hiểu, diệt, tịnh, thì sẽ đầy đủ ba thân.

Phàm phu chưa thể nhổ bỏ ba tâm, xa lìa ba thân:

1- Tâm khởi sự.

2- Tâm dựa vào căn bản.

3- Tâm căn bản.

Y cứ vào các đạo chế phục, tâm khởi sự cùng tận, vì tâm khởi sự diệt, nên được hóa thân sáng tỏ. Đây là nói kiến tu, tu các tâm tương ưng của tất cả phiền não, gọi là tâm khởi sự, phát sinh các nghiệp và vì các quả nên gọi là tâm khởi sự. Vì gốc sinh tử, nên chướng ngại thân tùy loại, phải tu đạo để hàng phục, tâm khởi sự cùng tận, vì tâm khởi các sự diệt, nên được biểu dương sáng tỏ hóa thân tùy loại; tâm tương ưng với nghiệp thiện, bất thiện, gọi là dựa vào tâm căn bản, nghiệp là thu hướng sự sinh, vì gốc của đối tượng nương tựa. Nếu tu Thánh đạo, ấy là dứt trừ các nghiệp, nên nói dựa vào các đạo đoạn, dựa vào tâm căn bản cùng tận, vì dựa vào tâm căn bản diệt nên được thể hiện rõ ứng thân Phật; tâm tương ưng với quả khổ ba hữu, gọi là tâm căn bản. Vì tánh tự thể căn bản sinh tử, nên đạo vô lậu viên mãn; trí hai không viên mãn, quả khổ căn bản hữu lậu mới diệt, nên nói y cứ vào đạo cứu vớt vượt hơn, tâm căn bản cùng tận. Vì tâm căn bản diệt, nên được đến Như như, pháp thân của trí như như.

Ý kinh Kim Quang Minh chép: "Người phiền não lừng lẫy, không ăn năn diệt, không thấy hóa thân tùy loại của năm đường. Nếu người ăn năn diệt, thì sẽ được thấy hóa thân. Dù người ăn năn nghiệp phiền não lừng lẫy, nhưng chẳng thấy ứng thân; người dứt nghiệp ác, thì thấy ứng thân Phật. Quả khổ của hai thứ chết, chưa có phần; kẻ chưa hoàn toàn dứt trừ, thì không thấy pháp thân. Nếu có phần, hoàn toàn trừ, thì tùy thuộc thích ứng, sẽ được thấy pháp thân Phật. Do từng phần hoặc hoàn toàn có thể thành hai trí, là chứng hai lý".

5- Tất cả chư Phật, đối với thân thứ nhất, sự đồng với chư Phật, đều thuận theo loại chúng sinh, vì đồng có thể hiện sự biến hóa kia, sao cho chiết phục được "hoặc". Đối với thân thứ hai, ý đồng với chư Phật, đồng hiện thân Phật, khiến cho người ba thừa tùy thuộc thích ứng, nhập đạo dứt các nghiệp đối với thân thứ ba, thể đồng với chư Phật, thể của các công đức hữu vi, vô vi, vì tất cả chư Phật đồng nhau không khác.

6- Vì chướng phiền não thanh tịnh, nên có thể hiện ứng thân; vì nghiệp chướng thanh tịnh, nên có thể hiện hóa thân; vì trí chướng tịnh thanh tịnh nên có thể hiện pháp thân.

7- Ví như dựa vào khoảng không, phát ra điện năng; dựa vào điện năng, phát ra ánh sáng. Như thế, vì nương tựa pháp thân, nên phát ra ứng thân; vì nương tựa ứng thân, nên phát ra hóa thân. Cho nên, tánh thanh tịnh cùng cực, nhiếp thọ pháp thân; trí tuệ thanh tịnh, nhiếp thọ ứng thân; tam muội thanh tịnh, nhiếp thọ hóa thân.

Nay giúp đỡ nghĩa giải thoát, lại có bốn cách giải nhằm quán thân của Phật, nên chỉ nói hai:

1- Tự chân đức nội tại, tức như như, trí như như gọi chung là pháp thân.

2- Vì đối tượng hóa sinh đáp lại cơ nghi mà hiện, gọi chung là ứng thân, nhưng đối tượng hóa sinh, người có cơ nghi thấy thân Phật mà nhập đạo; người không có cơ nghi thấy tiền ẩn thọ hóa, nên chia làm hai thứ gọi là ứng, hóa hợp thành ba thân. Lại quán ý kinh kia, nên nói bốn thân như gọi tự tánh; trí như như gọi là Báo thân, vì lý, sự riêng, vì thật tánh pháp, vì nhân tu sinh, vì đem lại lợi ích cho người khác, nên hiện hai thân, như trước đã nói. Nhưng vì nghĩa chân đức đồng với lý trí thầm hợp; lợi mình không có tự tánh riêng. Báo thân gọi chung là pháp thân. Đức giả khác nhau, thuận theo cơ duyên hiện khác, ẩn, hiển lợi tha, chia thành ứng, hóa, nên thành ba Phật không bớt, không thêm.

3- Lại, phẩm Chư chướng, lược có hai loại:

1- Phẩm phiền não chướng.

2- Phẩm sở tri chướng.

Vì muốn chế phục, diệt trừ hiện hạnh của hai chướng phẩm, nên hiện rõ hóa thân. Vì muốn dứt trừ hạt giống của phẩm hai chướng, nên thể hiện rõ ứng thân. Vì muốn diệt hẳn tập khí của phẩm hai chướng, nên làm sáng rõ pháp thân.

Có ba kia, nghĩa là không đến ba thân. Vì dứt ba chướng nên Đức Phật hiện ba thân.

4- Lại, y cứ kinh Kim Quang Minh chép: "Nhập địa Như Lai: Vì ba thứ tịnh, nên được thanh tịnh cùng tột":

1- Thanh tịnh phiền não, khởi lên hóa thân, do không có đấu tranh, vì tùy theo loại hóa độ.

2- Thanh tịnh các khổ, khởi lên ứng thân, do lìa biết các khổ hiện Đẳng giác.

3- Tướng tịnh làm sáng tỏ pháp thân, lìa chủ thể, đối tượng chấp, vì chứng lý trí.

Trước hai, hoặc chướng, sau, một trí chướng. Kinh Phật địa, v.v... nói ba thân: lược có bốn giải thích:

1- Do xưa, hữu tình quán cảnh luống dối, tâm thường mê tối, khởi nghiệp chịu khổ. Vì trái với kinh kia, nên nói thân sơ nhị, một trái với vọng, làm sáng tỏ chân.

2- Trái với ngu thành trí; cảnh chân lìa triền, gọi là Pháp thân, thật trí lìa sự tối tăm gọi là thân thọ dụng, lý trí khó lường, chẳng phải sơ lược mà biết được, mới vì hữu tình, thể hiện lý trí thô, gọi là thân biến hóa, khiến trước biết thô, sau chứng tế. 2/ Phẩm phiền não chướng làm chướng Niết-bàn, tức Niết-bàn này vì cũng gọi là pháp thân, nên kinh Thắng-man chép: "Nhất thừa tức Đại thừa. Đại thừa tức Phật tánh. Phật tánh tức Pháp thân. Pháp thân tức cõi Niết-bàn; tánh phiền não ràng buộc; tánh Niết-bàn giải thoát, vì tánh trái nhau nên dứt, được pháp thân. Phẩm Sở tri chướng, chướng thân thọ dụng, trừ vô minh tăng thêm, mới là thật trí, ngu trí trái nhau, đoạn chướng sở tri, được thân thọ dụng. Nhân thọ dụng này cũng gọi là Bồ-đề". Bồtát Địa chép: "Bồ-đề, Bồ-đề đoạn đều gọi là Bồđề. Vì khiến cho ba thừa được hai thứ này mới làm sáng tỏ hóa thân.

3- Đức Phật có ba đức. Nghĩa là trí, đoạn, ân. Vì thể hiện rõ ba pháp này, nên nói ba thân pháp, báo và hóa.

4- Quả do tu thành … Lược có hai thứ:

1- Pháp thân ngôn thuyết, tức giáo Bát-nhã.

2- Tướng trí đến được pháp thân, tức trí Bồ-đề.

3- Tướng phước đến được pháp thân, trừ trí, quả thí v.v... khác.

Định khác, việc lành khác, ý luận kia nói: "Do Hóa thân lắng nghe ngôn giáo, vì nhân của pháp thân ngôn thuyết, nên sẽ thành quả Phật, sẽ sinh hai thứ pháp thân: phước và trí. Ba trụ xứ này tức pháp thân chân như của lý vô tướng; quả thân của nhân trước, đều nương dựa vào thân này mới được chứng đắc. Mặc dù luận kia cũng nói thể hóa thân, trụ xứ của sắc thân.

Kinh nói: "Không thể dùng tướng đầy đủ mà được thấy Như Lai, ngăn phá sắc thân, chẳng phải chân thể của Phật, nên ở đây không nói, vì không ngăn chận pháp báo, nên nói có ba". Kinh Thắngman chép: "Sắc thân, v.v... mầu nhiệm của Như Lai, tức là Hóa Phật. Sắc Như Lai vô tận, v.v... tức Phật thọ dụng. Tất cả pháp thường trụ tức là Phật pháp, đồng với nghĩa ba Phật của Luận Bát-nhã, v.v... của Bồ-tát Thiên Thân, nên ở đây không nói". Phẩm Thọ lượng Kinh Pháp Hoa, giải thích: "Xuất hiện cung vua họ Thích là Hóa thân, thành Phật đến nay, thật sự vô lượng kiếp là báo thân. Biết như thật, thấy tướng của ba cõi là pháp thân, cũng vì đồng với luận kia, nên không nói riêng. Hoặc nói bốn thân".

Kinh Lăng Già nói:

1- Phật ứng, hóa.

2- Phật công đức.

3- Phật trí tuệ.

4- Phật Như như.

Đầu tiên là hóa thân. Tiếp theo là thân thọ dụng, vì phước tuệ khác, nên chia thành hai thứ; sau là pháp thân. Kinh Kim Quang Minh cũng nói có bốn, có Hóa thân, chẳng phải ứng thân. Như Lai đã bát Niết-bàn, vì do nguyện lực tự tại.

Thân như thế tức là hóa thân. Đây là nói Như Lai dù bát Niết-bàn, nhưng do nguyện tự tại nên biến hiện thân rồng, quỷ v.v..., vì thuộc về thú, chẳng phải hiện thân Phật nên gọi là hóa, không phải ứng. Có ứng thân chẳng phải hóa thân là thân Địa tiền, tức ứng thân trước, chỉ vì các Bồ-tát v.v… trước địa đã hiện thân Phật, dựa vào định mà khởi, vì hiện thân Phật chẳng thuộc về năm thứ nên gọi là Ứng, không phải hóa. Trong bốn gốc lành đã thấy đại thiên ứng thân Phật.

3- Vừa là ứng thân vừa là hóa thân, trụ Niếtbàn hữu dư. Thân Như Lai, gọi là vì vị bốn mươi tâm của Nhị thừa đã hiện thân Phật, hiện tướng tu thành, dựa vào tam-muội khởi, vì hiện hình tướng Phật nên gọi là Ứng, hiện người đồng loại có các khổ, v.v… cũng gọi là Hóa.

4- Chẳng phải ứng, chẳng phải hóa thân là Pháp thân Phật. Xét văn kinh này, ba thân trước là hóa, sau là pháp thân và tự thọ dụng, không nói là thân tha thọ dụng của Hóa Bồ-tát Thập địa. Về lý, cũng nhất định là ứng thân, chẳng phải hóa. Do vị Địa tiền, trong bốn gốc lành đã thấy ứng thân một chủ Đại thiên, chẳng phải là loại thú, là ứng chẳng phải hóa; thân tha thọ dụng cũng thuộc về câu này. Nêu lên đầu tiên rõ ràng, sau lược bỏ không nói. Nếu không như vậy, thì thân thọ dụng kia sẽ thuộc về câu nào? Trong hóa không có ứng, chỉ nói Như Lai đã bát Niết-bàn, nguyện lực đã thể hiện, không nói là Phật ở hóa thân đã hiện, chủ ở khởi hóa dễ dàng có thể biết; chủ không có hóa khởi, vì khó mà nói, tức kinh kia chép: "Thân thứ nhất này dựa vào ứng thân rõ ràng; thân thứ hai này dựa vào pháp thân rõ ràng; pháp thân chân thật không có chỗ dựa".

Đã nói hóa thân dựa vào ứng thân mà sáng tỏ, vì không có ứng khởi hóa nên nói là khó.

Trong luận Phật Địa cũng có bốn thứ:

1- Thọ dụng chẳng phải biến hóa, nghĩa là thân thọ dụng thật của phần lợi mình.

2- Biến hóa chẳng phải thọ dụng. Nghĩa là thân biến hóa là hóa Địa Tiền vì sinh loại tạp nhạp, hoặc thô, hoặc tinh, hoặc khiến vui mừng, hoặc khiến sợ hãi, đổi thay không nhất định, chỉ gọi là biến hóa, không gọi là thọ dụng, vì không cần khiến thọ hiện pháp lạc.

3- Vừa thọ dụng, vừa biến hóa. Nghĩa là làm các thứ hóa thân mà Bồ-tát Thượng địa đã hiện, khiến các Bồ-tát vì thọ pháp lạc, nên tùy thuộc vào thời gian thay đổi, vì không quyết định.

4- Chẳng phải thọ dụng, chẳng phải biến hóa, nghĩa là thân tự tánh. Lại, Kinh Hoa Nghiêm nói: "Có mười loại Phật":

1- Phật Vô Trước, vì an trụ thế gian, nên thành Chánh giác. Trong luận Phật Địa cũng nói mười loại Phật, kinh ấy gọi Phật Đẳng giác.

2- Phật nguyện, vì nguyện sinh ra, kinh ấy gọi là Phật thệ nguyện rộng lớn.

3- Phật nghiệp báo, vì tín thành tựu, nên các hành đều do tín sinh khởi đầu tiên. Cho nên, nói nghiêng lệch. Kinh kia gọi Phật Nghiệp dị thục.

4- Phật Trì: Thuận theo thế gian không để dứt mất, nên kinh ấy gọi là Phật trụ trì.

5- Phật Niết-bàn, vì thị hiện Niết-bàn, nên luận Phật Địa gọi là Phật biến hóa.

6- Phật pháp giới: vì ở tất cả mọi nơi đều hiện.

7- Phật tâm, vì khéo an trụ, nên hai danh đồng với Phật pháp giới kia.

8- Phật tam-muội, thành tựu vô lượng công đức, vì không có đối tượng chấp mắc, nên kinh ấy gọi là Phật định.

9- Phật tánh: Vì khéo quyết định, nên kinh ấy gọi là Phật bản tánh.

10- Phật như ý: vì che khắp, nên kinh ấy nói là Phật tùy nhạo.

Năm thân trước thuộc về thế tục, năm thân sau thuộc về thắng nghĩa, thuận theo đối tượng thích ứng thuộc về ba thân. Năm thế tục: thuộc về thân biến hóa pháp giới. Trong năm Thắng nghĩa thuộc về pháp thân, bản tánh. Ba thọ dụng khác, thể hiện thành Chánh giác trong biến hóa, thị hiện bát Niếtbàn lập đầu tiên và thân thứ năm thị hiện tu chánh hạnh và phát nguyện hỗ trợ mà được quả thù thắng. Lập thứ hai, thứ ba, hình tượng sau bát Niết-bàn, vì Xá-lợi trụ trì không dứt, nên lập thân thứ tư. vì Hóa Phật tăng theo, nên lập năm thân này. Gốc của pháp công đức ở trong pháp thân và bản tánh của ba thân, nhân thành pháp giới và Phật bản tánh, than tự thọ dụng khác với thức thế gian và khởi công đức, chia thành Phật tâm và Phật định, thân tha thọ dụng gọi Phật tùy nhạo, nên dù ba thân mà chia thành mười thứ".

Kinh Đại Bát-nhã quyển 568 lại nói mười thân:

1- Thân bình đẳng.

2- Thân thanh tịnh.

3- Thân Vô tận.

4- Thân khéo tu.

5- Thân pháp tánh.

6- Thân lìa tầm, từ.

7- Thân không suy nghĩ, bàn luận.

8- Thân vắng lặng.

9- Thân hư không.

10- Thân trí mầu.

Phật bảo Tối Thắng: trong Sơ địa, được thân bình đẳng, thông qua đạt pháp tánh, lìa các kiến chấp tà vạy, vì bình đẳng. Trong địa thứ hai, được thân thanh tịnh lìa lỗi phạm giới, vì giới thanh tịnh. Trong địa thứ ba, được thân vô tận, lìa tham dục giận hờn vì được định vượt hơn. Trong địa thứ tư, được khéo tu thân, thường siêng tu tập phần Bồđề. Trong địa thứ năm, được thân pháp tánh, quán các đế lý, chứng pháp tánh.

Trong địa thứ sáu được lìa thân tầm, từ, quán lý duyên khởi, vì lìa tầm, từ.

Trong địa thứ bảy, được thân không suy nghĩ, bàn luận, phương tiện khéo léo, vì trí hạnh mãn.

Trong địa thứ tám, được thân vắng lặng; lìa các phiền não, vì lời nói riêng.

Trong địa thứ chín, được thân hư không, tướng thân vô tận, vì khắp tất cả.

Trong địa thứ mười, được thân diệu trí vì trí nhất thiết chủng tu viên mãn, nên Tối Thắng bạch rằng: "Thân Phật, Bồ-tát chẳng lẽ có khác nhau? Phật bảo Tối Thắng! Thân không có khác nhau, nhưng công đức có khác, vì tất cả pháp đồng một pháp tánh, nên thân không có riêng. Công đức khác: Đức Phật có đủ công đức; Bồ-tát không như vậy".

Vì như hạt ngọc báu, nếu trang sức đủ, hoặc trang sức không đủ, ngọc báu kia không có khác, nói rộng thí dụ. Thuyết kia nói: "Pháp thân đã chứng, không có riêng khác, nhưng công đức, chủ thể chứng, thân trí có khác. Phật thì không như vậy. Thân của chủ thể chứng cũng không có khác nhau. Nay, mười thân này thuộc về pháp thân, tùy thuộc đức, chủ thể chứng của mười địa kia khác nhau, mà nói có mười thứ. Mặc dù không có văn nào, nhưng báo thân của Bồ-tát cũng có mười thứ, nhưng ứng vật hóa thân, về lý cũng có mười Dụng, đức đã khác thì tên gọi lẽ ra cũng khác. Y cứ vào lý đối sở chứng, vì mười pháp thân, nên gọi mười địa tức là tên báo thân. Vì phần vị pháp trí vô ngã, v.v... gọi là địa, nên Kinh Kim Quang Minh chép: "Thân Phật đầu tiên này thuận theo ý chúng sinh, vì có nhiều thứ, nên thể hiện mỗi thứ tướng, cho nên nói: Phần nhiều hiện ra khỉ, vượn, v.v... vì nhiều loại thân".

Thân Phật thứ hai, vì ý của đệ tử, nên Phật hiện ra một tướng, cho nên nói là một; vì đệ tử ưa thích thấy hiện thân Phật. Thân Phật thứ ba vượt qua tất cả các thứ tướng, vì chẳng phải cảnh giới chấp tướng, nên nói không phải một, không phải hai; vì số một, hai, v.v... đều chấp tướng. Lại, như như không hai, trí như như không là một, cho nên, pháp thân không hai, không một.

-Thứ tư là do khởi tướng quả: Nhiếp Đại thừa v.v... nói một thứ nhân, quyển 6 luận ấy chép: "Nhập tướng Sở tri nên thấy ra sao? Huân tập học rộng đối tượng nương tưa! Chẳng phải thuộc về thức A-lại-da, v.v…". Lại nói: "Từ đâu để nhập? Vì năng lực gốc lành đã được gìn giữ, cho đến nói rộng".

Huân tập học rộng, là tánh hạt giống của tâm xuất thế, đây là nói: Đầu tiên tu bốn hạnh vượt hơn".

1- Gần gũi người lành, dùng làm duyên vượt hơn.

2- Lắng nghe chánh pháp.

3- Tư duy đúng lý.

4- Đúng như lời dạy tu hành.

Ba thứ sau là hạnh trong, hạnh trong, quan trong là trước, huân tập học rộng, vì kẻ ít học kia không có chấp nhận được, hạt giống học rộng này, Thành Duy Thức, v.v... lược có ba cách giải thích: 1-Chỉ mới huân tập, chỉ dùng hạt giống hữu lậu làm nhân duyên sinh gần vô lậu. Trong luận Duy Thức dù đả phá rộng, nhưng luận Du-già quyển 52, hỏi: "Nếu các các tập khí gồm thâu tất cả hạt giống lại gọi là biến hành thô, nặng thì các pháp xuất thế gian từ hạt giống sinh. Nếu nói hạt giống của tự tánh thô nặng, là hạt giống sinh, không hợp với đạo lý, nên biết hữu lậu chẳng phải là nhân duyên sinh gần của pháp vô lậu.

2- Chỉ có bản hữu, các hạt giống vô lậu chưa phát tâm trước kia, gọi là chủng tánh của tánh; phát tâm về sau, gọi là Tập chủng tánh, huân tập tác dụng kia, khiến cho chúng dần dần tăng thêm, nên kiến đạo trở xuống là văn huân hữu lậu, sinh ra hiện hạnh, vô lậu chưa khỏi, cả hai nhận lấy hai pháp này, gọi là thuận giải thoát, quyết trạch phần thiện, nên Tạp Tập chép: "Quyết trạch phần thiện dù tu đạo đoạn, nhưng được kiến lập làm tánh vô lậu, thuộc về đạo đế. Kiến đạo về sau, hạt giống vô lậu mới sinh hiện hạnh.

Về hai hạt giống khởi tạp nhạp trước địa thứ tám; thành Phật về sau, các việc lành hữu lậu và nhân vô lậu đều chuyển biến diệt, các quả vô lậu viên mãn sinh khởi, nên kinh Niết-bàn chép: "Xả sắc vô thường, thu được sắc thường; thọ, tưởng, hành, thức cũng giống như thế".

Nay, quán nghĩa của Tạp Tập kia, nhận thấy chỉ có hạt giống cũ sinh hiện hạnh, đều không có hiện hạnh, lại là hạt giống mới huân tập. Trong Duy Thức cũng đủ phá rộng.

3- Hạt giống đều có hai thứ: Bản hữu mới huân tập kiến đạo trở xuống, đồng với thuyết thứ hai; kiến đạo về sau, các hạt giống bản hữu vô lậu sinh ra hiện hạnh. Các hiện hạnh mới, lại huân tập thành hạt giống mới. Lược có hai nghĩa:

1- Chuyển diệt.

2- Chuyển ngang bằng nhau.

Về nghĩa chuyển diệt: Như địa vị Đại thừa từ vô thỉ đến nay, gia hạnh thắng thiện; hạt giống lành vô lậu vì chưa gặp duyên, nên đều chỉ thấy đạo phẩm hạ trở xuống, vì huân tập văn hữu lậu là duyên vượt hơn, nên giúp sức cho vô lậu phẩm hạ, dần dần khiến tăng trội hơn, đến địa vị kiến đạo sinh hiện hạnh phẩm hạ. Hiện hạnh lại huân tập hạt giống phẩm hạ. Vì kiến đạo tu tập dùng làm duyên, nên đến địa vị tu đạo; trong sát-na trước, vì hạt giống phẩm hạ của kiến đạo diệt; hạt giống trong tu đạo sinh ra, hiện hạnh trong sinh. Hiện hạnh lại huân tập hạt giống của phẩm trung. Vì tu đạo dùng tu tập làm duyên, nên đến địa vị rốt ráo. Trong sátna trước, hạt giống vô lậu phẩm trung diệt; hạt giống vô lậu phẩm thượng trong sát-na sau sinh, vì không có đối tượng nương tựa. Vì đạo đã mãn, nên lại không huân tập vốn chỉ một phẩm; vì diệt yếu kém, sinh vượt hơn nên gọi là chuyển diệt. Về sau, vì tu tập nên đồng loại trước, không thể làm nhân đồng loại, vì dẫn sinh quả đồng loại sau, nên các hạt giống vô lậu của phẩm thượng, trung, hạ, và gia hạnh trong các vị, các chủng hữu lậu của phẩm thượng, trung, hạ thiện vượt hơn, đều nên so sánh mà biết, đến địa vị Phật, chỉ có phẩm thượng vô lậu viên mãn. Phẩm hạ, trung vô lậu, tất cả hữu lậu đều xả, diệt, nên kinh nói vô thường như xả sắc, v.v...

Về nghĩa chuyển ngang bằng nhau: Hạt giống pháp nhĩ đều có ba phẩm; đầu tiên vì tu phẩm loại hạ, nên đến hạt giống vô lậu phẩm hạ của vị kiến đạo sinh hiện hạnh; hiện hạnh lại huân tập hạt giống phẩm hạ. Nếu không có tu tập nhậm vận phẩm hạ sinh thì vì do tu tập, nên đến hạt giống phẩm trung của vị tu đạo sinh hiện hạnh phẩm trung. Hiện hạnh lại huân tập hạt giống phẩm trung. Phẩm hạ trước cũng chuyển thành phẩm trung. Nếu không huân tập, thì nhậm vận (tự nhiên) phẩm trung sinh, vì nhờ tu tập nên đến hạt giống phẩm thượng, trung của địa vị Phật, sinh ra hiện hạnh phẩm thượng, vì đạo đã mãn, không có đối tượng huân tập, nên không còn huân tập hạt giống phẩm trung, đều chuyển thành phẩm thượng. Hạt giống phẩm hạ, trung trước không còn nối nhau vì ngang bằng nhau, trội hơn với sau, nên gọi là chuyển ngang bằng nhau, về thế kinh nói: "Bỏ các vô thường như sắc, v.v... đối với phẩm đồng của mình có thể gọi là chuyển diệt".

Nói danh từ chuyển ngang bằng nhau. Nghĩa là đối với phẩm dị biệt của người khác, sự huân tập hạt giống học rộng này, kiến đạo trở xuống, hạt giống gần hữu lậu làm nhân duyên sinh các hiện hạnh; hiện hạnh làm nhân duyên lại huân tập thành hạt giống. Đối với pháp xuất thế khác của hạt giống vô lậu là duyên tăng thượng. Do hạt giống vô lậu được giúp đỡ, gìn giữ, nên các hạt giống hữu lậu chiêu cảm dị thục vượt hơn, không tạo nghiệp vô gián, không đọa vào cõi ác, v.v... Do pháp hữu lậu giúp đỡ vô lậu, nên sẽ sinh hiện hành vô lậu xuất thế. Kiến đạo trở lên, hạt giống vô lậu gần làm nhân. Duyên sinh hiện hành vô lậu, làm duyên tăng thượng cho pháp hữu lậu, khiến cho thiện hữu lậu cảm quả Thập Vương. Các thiện hữu lậu giúp sức vô lậu, lần lượt tăng thêm, chứng tỏ pháp ly hệ cho đến thành Phật, hữu lậu đều diệt, chỉ thuần túy vô lậu tồn tại. Các hữu thọ sinh đều dựa vào sự thị hiện; huân tập văn này, kiến đạo trở xuống, nghe nghĩa pháp tương tự, pháp lý trí xong, thường khởi suy nghĩ, cho đến tu tập Đẳng dẫn trong bốn gốc lành, đến địa vị kiến đạo, hay chứng trí khởi huân tập phát ra hạt giống, đã sinh hiện trí, đã hiện tướng tốt là đối tượng chứng, nhân của thân thọ dụng; lý sáng suốt là nhân của pháp thân, nên kinh Thắngman chép: "Đối với vô lượng tạng phiền não, đã ràng buộc tạng Như Lai, không nghi ngờ; đối với việc ra khỏi vô lượng tạng phiền não, đã ràng buộc pháp thân Như Lai cũng không có nghi ngờ, vì tu hai nhân, nên lại được hai thân: Hóa thân chỉ do đại bi huân tập, hun đúc, tu hai nhân trước, nên lại được hai thân. Hóa thân chỉ do đại bi huân tập tu hai nhân trước sức nguyện đã khởi. Kinh Kim Quang Minh nói: "Thân thứ nhất này dựa vào ứng thân hiển bày. Thân thứ hai này dựa vào pháp thân hiển bày. Pháp thân không có y chỉ, nói là như như, vì trí như như. Tâm đại Bồ-đề dùng gốc lành làm tự thể. Gốc lành tức là tánh đại Bồ-đề".

Luận Trí Độ chép: "Trí và xứ trí đều gọi là Bát nhã". Bồ-tát địa nói: "Bồ-đề, Bồ-đề đoạn, đều gọi là Bồ-đề. Các gốc lành kia tức là học rộng huân tập hạt giống". Kinh Niết-bàn, v.v... nói: "Có hai thứ nhân":

1- Sinh nhân, như mầm sinh cọng.

2- Liễu nhân, cũng như đèn soi rọi sự vật.

Kinh Bát-nhã chép: "Tất cả pháp của chư Phật đều xuất phát từ kinh này; tất cả chư Phật đều từ kinh này sinh ra".

Luận Thiên Thân giải thích rằng: "Ở thật là liễu nhân, cũng vừa là sinh nhân khác, chỉ riêng phước của pháp chư Phật thành thể thứ nhất. Bồ-đề gọi là thể pháp thân, thật vô vi. Trì kinh và nói, cả hai là liễu nhân. Chân như pháp thân là nhân chứng đắc, nên chẳng phải sinh của sinh nhân pháp khác, nghĩa là thọ báo tướng tốt đẹp, trang nghiêm Hóa thân Phật, tướng Phật tốt đẹp. Đây là sinh nhân, vì sinh của sinh nhân nên dù mười pháp hạnh đều có công năng làm nhân, thọ trì là lợi mình, giảng nói là lợi người. Y cứ vào mười hạnh vượt hơn, lược không nói pháp khác. Trì tụng kinh và giảng nói, chỉ gọi là nhân, nên sinh nhân có hai":

1-Chánh 2-Giúp đỡ.

Trí hữu lậu, nói là đối với thân thọ dụng là nhân giúp đỡ xa, vì tánh trái nhau. Trì vô lậu nói là chánh nhân của Phật, vô lậu thuận nhau, vì sinh gần khởi, nên tức hai sinh nhân, chung cho hiện và chủng. Liễu nhân cũng như vậy, 1-Chánh; 2-Giúp đỡ. Trí vô phân biệt trong trí vô lậu, đối với thân tự tánh là chánh liễu nhân. Các trí hữu lậu và trí hậu đắc là liễu nhân giúp đỡ, không phải các hạt giống vì duyên không nghe. Đây là nói một nhân có thể được hai quả, đối với đồng loại của mình thì làm sinh nhân; đối với dị loại của người thì làm liễu nhân.

Hóa thân kia cũng là sinh của sinh nhân. Pháp thân ở đây kiến đạo trở xuống, vị triền phiền não gọi là Như Lai tạng hàng Nhị thừa dù được sinh không chân như, nhưng vì chướng trí chưa dứt trừ, không phải y chỉ đức, nên không gọi là pháp thân, do thường lắng nghe, suy nghĩ, tu tập nhân bi, trí, nên Sơ địa trở lên, hai chướng dứt trừ dần, là y chỉ đức, tức gọi là pháp thân, như trước đã dẫn kinh Bát-nhã nói: "Ở Sơ địa được thân bình đẳng, cho đến Thập địa được thân diệu trí". Đức Thế Tôn tự nói: "Vì pháp thân này do chứng mười đức khác nhau của trí, chủ thể chứng lý kia, đủ chứng tỏ pháp thân, đối tượng chứng kia cũng có mười cho đến thành Phật, hai chướng đều hết; hai trí trọn thành, vì công đức mãn, thân sáng sạch, lý đối tượng chứng biểu hiện rõ, lại không có khác nhau, đều gọi là pháp thân, cũng thân tự tánh, như hư không xua tan sương mù v.v... che phủ, thênh thang, sáng sạch, chẳng phải hư không mới có. Pháp thân cũng vậy. Đây gọi là liễu nhân của pháp thân thành Phật, tức trước kiến đạo, do thường lắng nghe, suy nghĩ, tu tập vì nhân đại trí, nên khiến cho thế lực của hạt giống vô lậu thêm lớn. Sơ Địa trở lên, các trí vô lậu sinh ra hiện hạnh, tức là sự khác nhau của phần vị các trí này, gọi là Thập địa, nên Nhiếp Luận chép: "Phần vị của pháp vô ngã trí, gọi là địa. Sau địa này, Bồ-tát lược có hai loại: Có sợ phiền não, ấy là chiết phục, Bồ-tát kia khiến chúng đều không hiện hành. Từ sau Sơ địa, thọ thân biến dịch". Kinh Lăng-già y cứ vào đây, chia Bồ-tát

Thập địa làm ba thứ Ý sinh thân, có từ Thất địa, trong tâm sắp mãn mới thọ biến dịch". Kinh Thắng-man y cứ vào đây, nói Vô học của Nhị thừa được tự tại. Bồ-tát vì ba thứ y sinh thân; Thất địa về trước vì không sợ hoặc, nên như trong hai thứ sinh tử nghĩa lâm nói: "Chân lý, đối tượng chứng đã gọi Mười thọ dụng, vì thọ dụng pháp lạc. Nhưng khi xưa, phàm phu đã tạo nghiệp Thập Vương. Sơ địa trở lên, thọ quả Thập Vương. Thứ 8, thân hình, đối tượng biến của năm thức. Dị thục hữu lậu, tướng tốt đẹp, thần thông, đều đầy đủ dần; Hậu đắc y cứ vào tướng này lại biến đổi cao siêu, làm thân tướng tốt đẹp, là thuộc về vô lậu, sinh về các tịnh độ, trang nghiêm đạo tràng, ở chỗ một thân làm hai loại biến đổi. Tướng kia, tương tự với người thấy, sâu kín một, gọi chung là thọ dụng".

Sợ phiền não: Sau kiến đạo, sinh lên cõi trời Quảng quả, giúp đỡ hiện thân, nhân chuyển biến thọ biến dịch.

Không sợ hoặc: Thất địa, tâm mãn mới sinh Quảng Quả, giúp đỡ nghiệp hiện thân, chuyển thành biến dịch, như Thành Duy Thức nói đủ nghĩa này. Thọ dụng của Thập địa, so sánh đối tượng chứng của Mười địa, lẽ ra có mười danh; đồng với danh từ pháp thân, về lý cũng không sai lầm. Vì y cứ ở đức, chủ thể chứng, làm sáng tỏ pháp thân. Hoặc tên gọi Thập địa là danh của thân thọ dụng trong mười địa, vì dựa vào Bồ-tát kia để lập tên kia. Như thế, mười địa làn lượt cao quý đến địa thứ mười, khi sắp thành Phật, trên trời Tịnh cư mới có tướng hoa sen báu lớn xuất hiện, như mười A-tăngkỳ, một trăm ngàn Tam thiên Đại thiên thế giới, số lượng nhiều như cát bụi, Bồ-tát ngồi ở đó mà thành Chánh giác, vị của tâm Kim Cương cũng có hữu lậu, thua kém thân vô lậu. Đạo giải thoát sinh hữu lậu đều dứt, vì thua kém diệt của vô lậu, nên kinh chép: "Bỏ sắc, v.v... vô thường, bốn trí viên thành, công đức đầy đủ. Sắc thân, đối tượng biến hiện vô lậu của tám thức cũng đều vô lậu. Trí như pháp giới đầy khắp của cảnh vô lậu kia; công đức, sắc thân cũng đều như thế, nối nhau vắng lặng, cùng tận bờ mé vị lai, vì bản nguyện lợi sinh tận cùng pháp giới, nên gọi là thân tự thọ dụng, tướng thành Phật đã được sinh bởi sinh nhân, vì Kiến đạo trở xuống, đại bi đã huân tập, hun đúc, để làm nhân, vì Bồ-tát phẩm hạ của Thập địa kia, thể hiện thân tha thọ dụng, chỉ là đối tượng biến vô lậu của Hậu đắc, lần lượt vĩ đại vượt hơn, cho đến thành Phật có thể xuất hiện khắp mười phương, thuận theo đối tượng thích nghi của chúng sinh, vì chúng Thập địa, chứa nhóm chuyển dần, hiện lớn thân tha thọ dụng".

Sơ Địa thấy Đức Phật ngồi trên hoa sen trăm cánh, có thể gọi là 100 thế giới đại thiên. Vả lại, Phật A-di-đà, mắt trong xanh như nước bốn biển; tướng sợi lông trắng giữa hai đầu chân mày, như năm ngọn núi Tu-di; thân cao sáu mươi muôn ứcna-do-tha Hằng hà sa do-tuần, là đối tượng của Bồtát Sơ địa thấy được.

Hai địa thấy Đức Phật ngồi trên cánh hoa, cho đến Thập địa đã thấy chuyển vận lớn, tha thọ dụng này dù có cha, mẹ, nhưng cũng hiện thọ sinh, không là trời của xứ trước mới giáng hạ thành Phật. Kinh Cổ Âm Vương chép: "Phật A-di-đà cha tên Nguyệt Thượng, mẹ tên Thù Thắng Diệu Nhan, con tên Nguyệt Minh, đệ tử thị giả tên Vô Cấu Xứng. Ma Vương tên Vô Thắng, Điều-Đạt tên là Tịch". Luận Vô Lượng Thọ chép: "Người nữ và người căn thiếu, hạt giống nhị thừa không sinh. Đã là báo, thì cõi nước sẽ không có người nữ thật. Phật và Bồ-tát hóa làm mẹ, v.v... vì hóa thân phần đoạn, nên hiện ra tướng này. Hóa ra thân biến dịch, chưa thấy mà nói thật". Trong Kinh Pháp Hoa nói: "Thời đại Ca-diếp sẽ thành Phật, không có việc ma; vì ma và người ma đều ủng hộ Phật pháp mà còn có tướng này, huống chi trong cõi nước báo mà có thật việc ma. Nhưng đại Bồ-tát hóa thành ma vương, khi chướng ngại tha thọ dụng, sẽ hiện hữu". Kinh Thọ Ký chép: "Phật A-di-đà mạng sống lâu vô lượng, trăm ngàn muôn ức kiếp, sẽ có chung cuộc. Sau diệt độ, Bồ-tát Quán Thế âm, khi mặt trời mọc, ở dưới cây Bồ-đề bảy báu, thành Đẳng Chánh giác, hiệu là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Phật, tên nước là Chúng Bảo Phổ Tập Trang Nghiêm, vượt hơn cõi nước của Phật A-di-đà gấp trăm ngàn muôn ức lần, không thể so sánh! Đức Phật này diệt độ xong, Đại Thế Chí sẽ thành Phật, hiệu là Thiện Trụ công đức Bảo Vương Phật, cơ nghi của Thập địa, vì trước kia đã thuần thục, nên đã hóa độ loại kia, tức thân thành Phật, không nói trước nơi chốn nào, tầng trời nào, sau đến bổ xứ, tức dùng thân này đến ngồi tòa Bồ-đề thành Phật, là thân tha thọ dụng, được huân tập bởi đại bi, vì tướng thành Phật đã sinh bởi sinh nhân, nên trí bình đẳng, Sơ địa trở lên có khả năng thuận theo đối tượng chúng sinh ưa thích mà thị hiện, do trước Kiến đạo, đã hun đúc, huân tập đại bi. Sơ địa trở lên có khả năng thuận theo cơ nghi của ba thừa, tùy theo thân nào nên thấy mà hiện các thứ thân".

Kinh Hoa Nghiêm chép: "Sơ phát tâm trong Thập trụ, trụ chủ thể hiện Chánh giác, về sau nhập Niết-bàn, huống chi trong Thập địa không hiện tướng hóa". Pháp Hoa, v.v... chép: "Quán Âm, Diệu Âm đều dùng thần lực, ứng với dùng Ba thừa mà người được độ, ấy là hiện thân kia để nói pháp cho nghe, nên đối với địa vị Thập địa, đều có thể thị hiện hóa thân. Thân biến hóa này và sau tha thọ dụng được đối tượng biến hóa, vốn chỉ có phẩm vô lậu, tám thức y chỉ vô lậu mà biến hóa đều chỉ có hữu lậu".

Xứ đồng, người giống nhau, giống như một, cho đến thành Phật, hay thuận theo đối tượng cơ nghi của ba thừa mười phương mà hiện các thứ hóa thân; hoặc hiện thân Phật, hoặc hiện thân khác. Vị Bồ-tát trước, phải trước, ở cõi trời Đổ-Sử-đa, về sau mới hạ sinh. Ở vị thành của kiếp đầu tiên, sinh vào nhà Bà-la-môn, như Từ Thị, v.v... Do nghèo hèn, giàu sang, vì coi trọng tịnh hạnh, nên vị giảm sau kiếp, sinh vào nhà Sát-Đế-lợi, như Năng Tịch, v.v... Do tịnh hạnh thấp hèn, vì quý trọng giàu sang, nên Phật hóa độ họ, hiện hai thọ sinh. Nhiếp Đại Thừa luận quyển 9 chép: "Thân biến hóa của Phật hay hiện tám tướng: Xuất hiện ở cung trời, ẩn mất, thọ sinh, thọ dục, vượt thành, xuất gia, tu các khổ hạnh, chứng Đại Bồ-đề, xoay bánh xe Đại pháp, nhập Đại Niết-bàn".

Kinh Đại Bát-nhã cũng nói tám tướng:

1- Từ cung trời mất, tức tướng nhập thai.

2- Trẻ thơ, tức tướng thọ sinh.

3- Đồng tử, tức tướng thọ dục.

4- Khổ hạnh.

5- Thành đạo.

6- Hàng phục ma.

7- Xoay bánh xe pháp.

8- Nhập Niết-bàn.

Không có tướng xuất gia của Nhiếp luận kia, thêm tướng hàng phục ma. Hàng phục ma của Nhiếp Luận thuộc tướng thành đạo. Thành đạo lìa ba ma, vì hàng ma phục một, cũng thành đạo rồi liền hàng ma. Đầu tiên, là hiện xuất gia, sau được khổ hạnh, lìa bỏ lập riêng. Luận kia nói: "Xuất gia, thị hiện tướng nhàm chán, tướng tục, khổ hạnh, thị hiện tướng tu tà hạnh". Kinh y cứ xuất gia, vì tu khổ hạnh, nên hợp kiến lập vì hành đạo, chứng quả hàng phục ma, trừ oán, nên lìa lập riêng, đều y cứ vào một nghĩa cũng không trái nhau (rộng như kinh ấy nói).

Nói về lý do hiện tướng. Trong Kinh Hoa Nghiêm chép: "Có mười tướng, trong tám thêm hai. Căn hữu tình ba thừa cũng chưa thành thục, khiến ưa thích sâu sắc mới hiện thân Phật, nên trước ở cung trời, giáng sinh, thành Phật, vì chúng sinh đáng được trông thấy, là thân biến hóa được huân tập bởi đại bi. Do sinh nhân sinh ra tướng thành Phật. Giáo nói chủng loại Bồ-tát có ba: mỗi một hệ thuộc một đời, như Di-lặc, v.v..; trước thân ở trong người, gọi là hệ thuộc một đời, đối với vị Phật đương lai, lẽ ra có bốn đời: người, trời, vốn có và hai trung hữu, như bảy đời, v.v… gọi một đại sinh. Nếu ở trong cõi trời thì gọi là hệ thuộc một đời; nửa đời gọi một, vì một vốn có". Luận Trí độ chép: "Di-lặc ba đời nói ở trong người, trừ thân thành Phật nên nói ba. Hai thân sau cuối, ba thân ngồi đạo tràng, hai thân này cuộc hạn ở vị thân thành Phật; hóa thân đã như thế, thì hai thân thọ dụng dù không thấy văn nói, nhưng vì y cứ vào hai thân này, nên đều là thân tự thọ dụng. Thất địa trở xuống, gọi là hệ thuộc một đời; Bát địa trở lên, gọi là thân sau cuối, lại là Vô sinh nên ở tòa hoa sen gọi ngồi đạo tràng. Thân tha thọ dụng như thân trước của Quan Âm, gọi là hệ thuộc một đời. Thân Quán Âm gọi là thân sau cuối. Ở tòa bảy báu, gọi là ngồi đạo tràng, pháp thân Vô sinh, ấy là không có nghĩa này, nhưng ba thân ấy chẳng phải nhất định một, khác. Thân tự thọ dụng là tướng thân mình ba pháp thân tức là lý tánh của thân này, lý trí mầu nhiệm, sâu kín, chẳng phải sở tri khác. Ba thừa thấy thô, đặt tên là biến hóa; Thập địa thấy tế gọi là thân tha thọ dụng. Do thấy khác nhau, tánh tướng khác lạ, tu tập nghĩa đức chia thành ba thân, chẳng phải như hữu tình, đều có tự thể riêng lập thành ba thứ, vì không nhất định khác, vì chẳng phải không khác, nên chẳng phải nhất định một, khác, như Phật Năng tịch, Thập địa đã thấy, gọi là thân tha thọ dụng. Đối tượng mà Nhị thừa trông thấy, gọi là thân biến hóa. Trí vô phân biệt quán chân lý kia, gọi là pháp thân. Chân trí sâu kín, mầu nhiệm, tu lâu nhân mãn, tự thọ pháp lạc, chẳng phải sở tri khác gọi là thân tự thọ, tri kiến khác nhau, chẳng phải nhất định một, khác, là sinh liễu nhân, nhân khởi tướng quả, nhưng có một quả do hai nhân mà được".

1- Sinh nhân.

2- Dẫn nhân.

Thành Duy Thức chép: "Sinh chánh quả gần gọi là sinh nhân; dẫn quả tàn dư xa gọi là dẫn nhân, như thân thọ dụng. Trước định Kim Cương, các hạt giống vô lậu làm dẫn nhân xa; hạt giống của vị mình gần làm sinh nhân. Đối với pháp thân Phật, hiện trí gần, xa, đều cùng làm dẫn nhân, chẳng phải là sinh nhân; không nói nhân sinh khởi dẫn dắt, v.v... được quả ly hệ, chỉ nói nhân dẫn phát v.v... nhất định khác, vì được vô vi, nên đối với vị hiện ở trước hóa thân, 2/ Hạt giống làm sinh nhân, vì chánh sinh khởi, nên đối với Xá-lợi, v.v… gọi là nhân dẫn, vì quả tàn dư của dẫn. Nay, nói hai nhân của quả thọ dụng, hoặc đối với một nhân, một quả của pháp thân; hoặc so với một nhân, hai quả của Phật đã được gọi là nhân lý trí".

Kinh Thắng-man chép: "Có hai thứ Như Lai tạng không trí, hoặc ly, hoặc thoát; hoặc đoạn, hoặc khác; tất cả tạng phiền não không lìa, không thoát, không đoạn, không khác, không tư duy, bàn luận Như Lai tạng, là luống dối không thật, vì phá hoại rốt ráo gọi là Không: Vô Cấu Xưng nói: "Ruộng trần lao là chủng tánh Như Lai". Kinh Niết-bàn chép: "Khi chưa được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề; thì pháp thân, bất thiện, vô ký đều gọi là Phật tánh, vì gọi là Như Lai tạng, nên kinh nói tiêu biểu có hai thứ Như Lai tạng không trí, vì phiền não cũng gọi là Như Lai tạng, nên lý chân như kia, nhân không được sáng tỏ, vì tánh là Không, nên gọi là Không". Nhân của pháp thân bị phiền não che khuất, gọi là Như Lai tạng. Vì ly khai vị triền này gọi là pháp thân, nên dứt chướng ràng buộc phiền não che lấp, chứng được tự tánh giải thoát của pháp thân. Kinh Pháp Hoa chép: "Vì muốn bảo cho chúng sinh biết tri kiến của Phật, nên Phật mới xuất hiện ở đời. Thị hiện người ba thừa, vì pháp thân đồng, nên diệt hai hóa thành đến đảo châu báu".

Quyển thứ 8 trong Kinh Lăng-già 10 quyển, đầu tiên là nói: "Thức A-lại-da gọi là không Như Lai tạng, vì đầy đủ pháp huân tập vô lậu, nên gọi là Bất không Như Lai tạng".

Ý kinh kia nói: "Thức A-lại-da có công năng chứa đựng hạt giống thanh tịnh, gọi là Tạng, làm nhân của Phật đương lai, gọi là Như Lai tạng. Lại, chưa được Bồ-đề, vì đều là Phật tánh, nên gọi là Như Lai tạng, vì tánh luống dối, vì cũng vỡ nát, không thật, nên gọi là không. Đã chứa đựng hạt giống của pháp thanh tịnh vô lậu, vì nhân của báo thân, nên gọi Như Lai tạng. Tánh chẳng phải luống dối, rốt ráo không cùng tận, gọi là bất không. Quả vị viên mãn hiện hạnh của sinh này, gọi là hóa thân báo, nên đoạn chủ thể tàng, sở tri chướng của tạng thức hữu lậu diệt, vì đại trí viên mãn, nên chứng thân thọ dụng; vì đại bi viên mãn, nên khởi thân biến hóa".

Kinh Pháp Hoa chép: "Vì muốn cho chúng sinh được tỏ ngộ tri kiến Phật, nên xuất hiện ở đời. Thinh văn, Duyên giác vì không biết nơi chốn chân thật của thân, trí, nên Phật không bàn cho dê, nai, chỉ cho xe bò đến đạo tràng".

Hai nhân từ trước đến nay, nếu ở vị quả, thì gọi là thọ dụng pháp. Thị hiện tỏ ngộ hai nhân này, Phật xuất hiện thế gian, vì muốn cho chúng sinh tu nhân này, nhập tri kiến Phật, đều khiến tu hành nghiệp không lui sụt, tức là thị hiện ngộ nhập tri kiến Phật. Đức Phật ra đời đều nhằm chỉ bày rõ nghĩa kinh. Đức Phật xuất hiện thế gian, vì muốn cho chúng sinh tu hai nhân mầu nhiệm, được hai quả cao siêu, nên chỉ bày sự khen ngợi vô thượng này, khiến tu, tức là nghĩa khai thị ngộ nhập. Lại, có hai nhân có thể được hai quả, như luận Đại thừa Trang Nghiêm Kinh chép: "Hai tư lương: phước đức, trí tuệ, Bồ-tát đã khéo tu vô biên đời, cho đến mạnh mẽ, nhanh chóng trở về bờ biển đức". Nhiếp Luận cũng chép: "Ai có thể ngộ nhập tướng nên biết, khéo tu đủ tư lương phước trí. Quả Bồ-tát thuận theo tăng thượng, chia làm hai loại: Pháp thân là phước, thọ dụng là trí. Hoặc thọ dụng là trí, biến hóa là phước, pháp thân chung cho hai. Về lý, ba thân thật đều chung cho phước, trí, vì hai tánh thật, vì hai đối tượng thành, vì hai đối tượng khởi, do ba thân này đều có hai nhân đắc". Lại, có hai nhân:

1-Công năng sinh. 2-Phương tiện.

Tánh nhân công năng sinh, tức là nhân duyên; Tánh nhân phương tiện của ba duyên khác; đối tượng đắc của hai nhân thọ dụng, biến hóa; nhân một thứ phương tiện của pháp thân được. Lại có hai nhân gọi là chung, không chung: một thứ pháp thân là đắc của nhân chung; thân tự thọ dụng là đắc của nhân không chung. Biến hóa của tha thọ dụng, thông cho cả chung, không chung. Lại, có hai nhân: đại trí, đại bi, lợi mình, lợi người, thuận theo nghĩa tăng nói là nhân lợi mình, đại trí của thân tự thọ dụng. Thân biến hóa tha thọ dụng, nhân lợi người của đại bi pháp thân chung cho cả hai nhân: hoặc đều chung cho hai, vì Bồ-tát lấy lợi người làm lợi mình; Bồ-tát lợi mình, vì lợi ích cho người.

Lại, hai nhân: 1/ Tánh chủng tánh, 2/ Tập chủng tánh. Pháp thân chẳng phải do hai nhân gần mà được, xa cũng có thể gọi. Mặc dù gọi là Phật tánh, nhưng vì không có loại riêng, nên không gọi là tánh chủng tánh. Do đây, cũng không có nhân tập thành tánh; hai tánh gần được của hai thân khác.

Lại, nhân của ba trí: Chánh trí chính là liễu nhân của pháp thân hai trí, hai trí còn lại là nhân giúp đỡ xa. Chánh trí Hậu đắc là nhân chúng sinh của thọ dụng; gia hạnh là nhân giúp đỡ xa. Hậu trí chính là nhân chúng sinh của biến hóa; Hai trí còn lại là nhân giúp đỡ xa.

Thuyết xưa nói ba nhân:

1-Nhân nên được: tức là nghĩa chân như, vì đối tượng nên được.

2- Nhân gia hạnh. Nghĩa là nguyện của tâm bồđề.

3- Nhân quả viên mãn. Nghĩa là chánh gia hạnh.

Nghĩa tùy tăng: Nghĩa là đầu tiên được pháp thân; tiếp theo được hóa thân vì nguyện đem lại lợi ích cho chúng sinh. Báo thân của Hậu đắc là thật tu hành.

Trong luận Phật Tánh chép: "Ba nhân này, mỗi nhân đều cảm ba thân, vì chung cho đối tượng thành, rộng như thuyết kia nói". Luận Phật tánh lại chép: "Phật tánh có ba":

1- Tự tánh trụ Phật tánh: trụ vị tự tánh khi chưa phát tâm.

2- Dẫn xuất Phật tánh, các vị Hữu học phát tâm về sau.

3- Phật tánh cho đến được quả. Nghĩa là vị vô học, luận Phật Tánh kia phần nhiều nói: "Lý tánh pháp thân có ba vị này đồng với Niết-bàn. Dựa vào thân thọ dụng, Phật tánh hữu vi chia ra ba thứ này, về lý cũng không có lỗi lầm. Lại, có ba nhân: Kinh Bát-nhã chép: "Phát tâm Bồ-đề, nên trụ thế nào? Tu hành thế nào? Hàng phục tâm mình ra sao?"

Vô Trước giải thích: "Thế nào là Trụ? Nghĩa là dục nguyện, hạnh: Vô tướng tương ưng với đẳng trì phục, nghĩa là chiết phục tâm tán loạn, trụ lại chánh nguyện, nhập định, chiết phục chướng tán, gọi là ba thứ nhân, đồng với cách giải thích của ngài Thiên Thân".

Hoặc giải thích khác: Phát tâm tu hành vì dứt chướng riêng; hạnh tán, hạnh định, tâm đầu tiên hạnh tán tâm tiếp theo hạnh định, tâm sau nhập Thánh, dứt trừ chướng. Cho nên, ba nhân gồm thâu tất cả.

Ý Tông kinh Bát-nhã kia nói: "Nhân, hạnh của pháp thân vì vô tướng, nên cũng nói hai tướng phước, trí. Pháp thân cũng do nhân thọ dụng mới khởi hóa độ với lợi ích vô tận". Có bốn duyên:

1- Nhân duyên.

2- Duyên Đẳng vô gián.

3- Duyên sở duyên.

4- Duyên tăng thượng.

Về nhân duyên, khắp các hữu vi, giải thích quả mình. Duyên Đẳng vô gián: Nhân, quả, tất nhiên là tâm tâm sở pháp. Duyên Sở duyên kia, thể chung cho tất cả pháp, quả, tất nhiên là tâm, tâm sở. Nhân quả của tánh duyên tăng thượng đầu tiên chung cho năng lực không chướng ngăn, là tự tánh quả. Pháp thân chỉ do đắc của duyên tăng thượng. Thân tự thọ dụng chung cho đắc của bốn duyên. Biến hóa của tha thọ dụng, đầu, sau duyên đắc, chẳng phải tâm, tâm sở vì tự tánh thật. Lại, có bốn lực:

1- Nhân.

2- Bạn lành.

3- Tác ý.

4- Tư lương.

Ba thân đều chung cho đối tượng đắc của bốn lực. Nhưng đắc gần: pháp thân thì không phải. Lại, có bốn hạnh. Bồ-tát Địa nói:

1- Phần Bồ-đề.

2- Ba-la-mật.

3- Các thần thông.

4- Thành thục hữu tình.

Ba thân đều do đắc của bốn hạnh. Lại có sáu nhân:

1- Nhân năng tác.

2- Nhân câu hữu.

3- Nhân tương ưng. 4-Nhân đồng loại.

5- Nhân biến hành.

6- Nhân dị thục.

Thể năng tác (chủ thể tạo tác) chung cho hữu vi, vô vi. Quả chỉ hữu vi, vì không chướng ngại sự sinh. Thể chung cho bốn duyên.

Thể của Câu hữu chung cho các pháp hữu vi, đều cùng lúc với lực. Quả tương ưng với nhân duyên, tăng thượng chỉ có tâm, tâm sở pháp, cũng nhân đồng loại với tăng thượng, chỉ là các pháp hữu vi; phẩm đồng, phẩm vượt hơn, dùng tự loại làm nhân, cũng nhân tăng thượng sở duyên nhất định không có, Đẳng vô gián không nhất định. Biến hành chỉ là hai đế: khổ, tập, hoặc là kiến đạo duyên khắp bốn đế, tất cả phiền não chỉ trừ nhân duyên, dị thục chỉ là nghiệp lành hữu lậu và nghiệp bất thiện, vì chiêu cảm vô ký, nên chỉ có duyên tăng thượng.

Trong sáu nhân này, nếu các hiện hành đối với hạt giống gần của mình, làm nhân tăng thượng. Hiện hành đối nhau nhất định không có nhân duyên, tất nhiên có tăng thượng. Hai nhân còn lại, không nhất định; đối với hạt giống không gần, chỉ một tăng thượng, tất cả hạt giống đối với tự loại, đều là nhân tăng thượng; đối với tự loại, hiện hạnh của nhân tăng thượng nhất định không có đẳng vô gián, sở duyên duyên không nhất định. Nếu đối với hạt giống khác chỉ làm tăng thượng thì đối với hiện hành khác nhất định làm tăng thượng, không có nhân Đẳng vô gián, duyên sở duyên không nhất định.

Bốn nhân đầu tiên chung cho hiện hành và hạt giống có thể có nhân duyên; biến hành, dị thục dù chung cho hiện chủng, nhưng vì không là sinh gần, nên đều chẳng phải là nhân duyên. Bốn nhân trước có cả hữu lậu, vô lậu. Hai thứ nhân sau vì chỉ là hữu lậu, nên ba thân Phật, pháp thân chẳng phải là đối tượng đắc của sáu nhân; vì thể chẳng phải sinh, nên đắc bốn nhân trước của thân tự thọ dụng, chẳng phải nhân tương ưng như nghĩa sáu nhân giáo lý lâm làm chứng. Lại, có mười nhân:

1- Tùy theo mà nói.

2- Quán đối đãi.

3- Dẫn dắt.

4- Sinh khởi.

5- Nhiếp thọ.

6- Dẫn phát.

7- Định khác.

8- Đồng sự.

9- Mâu thuẫn.

10- Không mâu thuẫn.

Pháp thân chỉ là đối tượng đắc của năm nhân. Luận chép: "Quả ly hệ, nhiếp thọ, dẫn phát, định khác, đồng sự. Nhân không mâu thuẫn, vì đắc của năm nhân, nên tánh khéo lìa lời nói, không tùy theo thuyết nhân mà được, có thể hợp với chứng đạo".

Quán đối đãi xa nhau, chẳng phải nhân kia dẫn dắt được sinh khởi hai quả hữu vi, cũng không phải hai đắc.

Nhân mâu thuẫn xa được quả đã không có, cũng chẳng phải đắc kia. Nếu giải thích xa thưa thì cũng thuận theo nói đắc. Vì không là đắc gần, nên luận không nói. Quán đối đãi thân của hai công đức khác, thành thân tự tánh. Vì đạo chứng chẳng phải thưa xa nên luận cũng không nói. Lìa triền phiền não mà thành pháp thân, vì khi chứng đạo, đắc kia đều đã xa, luận cũng không nói đắc của nhân trái nhau. Nhưng về nghĩa có thể là đối tượng đắc của tám nhân, chỉ trừ sự dẫn dắt và nhân sinh khởi. Đối tượng đắc tám nhân của biến hóa thọ dụng, trừ thuận theo nói trái nhau. Vì ngôn thuyết không thể giải thích gần. Vì luận kia không nói đắc, xa cũng có thể được.

Nhân trái nhau xa, không nói là đắc. Nếu y cứ vào nghĩa này chung cho đắc của mười nhân.

Nhân đối đãi thành quả; hai thân đối đãi nhau, có quán nhân đối đãi sinh ra hạt giống thuần thục, chưa thuần thục riêng, chia thành nhân dẫn dắt và nhân sinh khởi.

Nhiếp thọ xứ sáu y, nói về pháp vô lậu, nên có nhân nhiếp thọ, hạt giống của bản tánh thành nhân dẫn phát, hạt giống của thừa mình là nhân khác của định, tức các nhân trước vì đồng là một sự nghiệp sinh, v.v... nên làm nhân đồng sự; nhân không mâu thuẫn, vì lý ấy có thể đều, nên có tám nhân, hoặc là mười nhân, lại thuận theo tướng hiển nói các cõi nước nghiêm tịnh của nhân này, v.v... tất cả diệu nhân đều là nhân của ba thân, e rườm rà nên không nói.

Đã nói về nhân khởi, sẽ nói về tướng quả, quả có năm thứ:

1- Dị thục.

2- Đẳng lưu.

3- Ly hệ.

4- Sĩ dụng.

5- Tăng thượng.

Sĩ dụng trong đây, sơ lược có hai cách giải thích:

1- Năm uẩn giả: gọi là Sĩ phu. Quả của đối tượng đắc kia, được gọi là quả Sĩ dụng.

2- Các pháp riêng riêng, cũng gọi sĩ phu.

Như Uẩn kia giả giả: vì có thể, dụng, nên từ dụ đặt tên, Sĩ phu giả được gọi là quả Sĩ dụng. Nếu y cứ vào nghĩa ban đầu, thì pháp thân chỉ là quả tăng thượng của ly hệ, vì đắc của đoạn chướng, nên là quả ly hệ tăng thượng có thể biệt, vì chẳng phải hữu lậu, nên chẳng phải quả dị thục; vì chẳng phải hữu vi nên chẳng phải quả đẳng lưu.

Không phải năm uẩn giả: vì đối tượng chứng gần, nên chẳng phải quả Sĩ dụng. Nếu y cứ vào nghĩa sau, cũng là quả Sĩ dụng. Vì đối tượng đắc của Sĩ phu trong Thánh đạo, nên thể thành ba quả. Biến hóa của thọ dụng đều thành ba quả, vì không phải hữu lậu, nên không phải quả dị thục, vì không phải vô vi, nên không phải quả ly hệ.

Y cứ vào sở đắc của các nhân trước, nhân duyên sinh trong ba thân, nghĩa là Đẳng lưu, Tăng thượng. Hoặc là Sĩ dụng, hoặc không phải sĩ dụng; đắc của duyên tăng thượng có thể chung cho bốn quả, chỉ trừ dị thục. Vì quả Phật không có, nên đắc của hai nhân duyên khác, nhất định có tăng thượng, tất nhiên không có ly hệ. Đẳng lưu, Sĩ dụng, hoặc có, hoặc không.

Phẩm vượt hơn của tự loại. Nghĩa là có Đẳng lưu. Đối nhau khác chẳng phải có. Đắc của thế lực kia, nghĩa là có Sĩ phu, đối nhau khác chẳng phải có.

-Thứ năm, các môn phân biệt: sơ lược có mười bốn môn nói: "Ba thân như thế, vì nghĩa có nên nói là vô thường, người hóa thân thường xoay bánh xe pháp, cho nên xứ xứ phương tiện như như nối nhau không dứt, gọi là thường. Vì chẳng phải là gốc, vì dụng đầy đủ không hiện rõ, cho nên nói vô thường".

Luận Trang Nghiêm chép: "Thường có ba thứ":

1- Bản tánh thường.

2- Không xen hở là thường.

3- Nối tiếp nhau gọi là thường.

Luận Phật Địa chép: "Thân biến hóa này mất rồi lại hiện, vì hóa vô tận; thường nối nhau này, vì đã nương tựa ở thường, nên cũng nói là Thường. Vì có sinh, diệt, nên cũng là vô thường, chính là đồng với kinh, như trong kinh Kim Quang Minh chép: "Pháp thân: Chẳng phải là pháp hành, không có tướng khác; vì khác chẳng có, vì là gốc mình, cho nên nói thường, pháp thân như như chẳng phải là pháp hạnh, không có tướng khác, trí như như, vì pháp thân là gốc của mình. Lý, trí rộng lớn, hợp với sâu kín không có tướng, cũng như hư không. Cho nên nói là Thường". Luận Phật Địa chép: "Pháp thân như như là thường tự tánh, lìa các phân biệt và lìa nói suông, vì bổn tánh thường trú, không có sinh, diệt, cho nên nói Thường. Niết-bàn căn bản ở thuyết này, Phật tức pháp; pháp tức là tăng. Tăng tức là thường, thường tức hư không; hư không tức Phật tánh. Phật tánh tức pháp thân, thân trí như như là không đoạn, thường. Chúng sinh vô tận, bổn nguyện không cùng, lại không nhập Niếtbàn, khoảng giữa không có xen hở, thầm hợp với trí, như hư không chẳng có giới hạn, cũng lìa phân biệt và các hí luận, cho nên nói Thường".

Chỉ nói như như là pháp thân: chỉ có tự tánh thường. Nhiếp Đại thừa hỏi: "Thân thọ dụng của Phật và thân biến hóa đã là vô thường, sao kinh nói: "Thân Như Lai là thường?"

Luận kia tự đáp: "Vì pháp thân, đối tượng nương tựa của hai thân này là thường".

Luận Vô Tánh giải thích: "Đây chẳng phải là thân thường, vì nương tựa thân thường. Ở đây chỉ rõ đẳng lưu và thân biến hóa là thường của môn khác, chẳng phải thường tự tánh. Lại, hai thân kia vì luôn thọ dụng không có, bỏ phế; và thường thường hiện hóa, vì không dứt hẳn, như thường tiếp nhận thú vui, như thường xuyên thí cho thức ăn. Thân Như Lai là thường, nên biết cũng như vậy".

Vô tánh giải thích: "Lại thân thọ dụng, vì luôn thọ dụng, không có, bỏ phế, nên cũng như thế gian nói: "Thường tiếp nhận thú vui", dù không phải tiếp nhận thú vui thường, không có bỏ dở, mà nói thường cảm nhận; thân thọ nhận của Phật cũng như vậy. Các Bồ-tát kia tiếp nhận thú vui không có bỏ dở, dù chẳng phải thường trụ, nhưng cũng nói thường, nên kinh Thắng-man chép: "Sắc Như Lai vô tận, trí tuệ cũng giống như thế, do hóa thân Phật thường hóa hiện, không dứt hẳn, cũng như thế gian nói: "Thường bố thí thức ăn"; mặc dù chẳng phải vô gián, nhưng thường thí cho, vì tâm thí chủ kia không dứt, nên gọi là thường thí cho thức ăn; hóa thân cũng như vậy, thường thường hóa hiện, vì không dứt hẳn".

2- Môn hai lợi mình, người: Kinh Kim Quang Minh chép: "Này người thiện nam! Tất cả chư Phật đem lợi ích cho mình, người, nhẫn đến cuối cùng". Lợi ích cho mình: Là pháp như như. Lợi ích cho người: là trí như như, ở chỗ lợi ích cho mình, người, được tự tại vì thành tựu các thứ dụng vô biên, cho nên phân biệt vô lượng, vô biên các thứ khác nhau của Phật pháp".

Luận Tạp Tập chép: "Thân thọ dụng của Phật, lợi mình vượt hơn; thân biến hóa, lợi người vượt hơn. Thân tự tánh: đều cùng có lợi, đều vượt hơn.

Thân tha dụng. Dù thuộc về lợi ích người, nhưng từ tự thọ dụng mà tiếp nhận pháp Thánh tài, vì rất vượt hơn, nên chỉ nói tự lợi". Luận Phật Địa, Duy Thức đều chép: "Pháp thân vắng lặng, yên vui, vì không có động tác, chính thuộc về lợi mình". Kinh Kim Quang Minh y cứ vào luận này chép: "Lợi ích cho mình: là pháp như như, không nói là có khả năng làm duyên tăng thượng, vì lợi ích chúng sinh, cũng gồm lợi ích cho người. Lại, với hai thân đều có lợi là y chỉ, thuộc về hai lợi".

Thọ dụng có hai: Thân tự thọ dụng, hạnh, nguyện của mình mãn, hay tự thọ dụng pháp lạc mầu nhiệm, thuộc về chánh lợi mình; thân tha thọ dụng, hạnh, nguyện người khác viên mãn, khiến các Bồ-tát thọ pháp lạc lớn, thuộc về lợi người khác vì hai thân này, nên hoặc nói thọ dụng, chỉ thuộc về lợi mình, hoặc nói lợi người. Hoặc nói đều có lợi, đều không trái nhau". Kinh Phản Hiển chép: "Làm lợi ích cho người là trí như như: chỉ nói có thể làm thân biến hóa, thọ dụng lợi ích cho người khác, là trí như như, không ngăn chận trí này là lợi mình. Thân biến hóa chỉ vì lợi ích cho người, hiện các tướng hóa, thuộc về lợi ích cho người".

3- Môn có khác, không khác: Luận Nhiếp Đại Thừa chép: "Pháp thân của chư Phật vì y chỉ nghiệp ý ưa thích, không có riêng, phải nói là không khác. Vì vô lượng thân y chỉ, hiện Đẳng giác nên nói có khác".

Vô Tánh giải thích: "Chân như không có khác, y chỉ không có riêng, ý lợi lạc đồng, ý ưa thích không có riêng lẽ. Chánh giác đồng với các thứ Nghiệp, Niết-bàn, nghiệp không có khác nhau. Đây là vì nói chủ thể y, và đối tượng y (đối tượng nương tựa) đồng, nên nói không khác".

Luận Phật Địa chép: "Vì pháp thân Phật tánh, chư Phật đều có nên không có khác nhau. Y cứ vào nhân chủ thể chứng, vì có sai biệt nên giả thuyết khác nhau, vì thể không hai. Nếu y cứ vào chủ thể nương tựa, nói có khác nhau, vì thể có khác nhau". Nhiếp Luận lại chép: "Như nói pháp thân, thọ dụng cũng vậy, vì ý ưa thích và nghiệp không có khác nhau. Phải nói không có khác, không do y chỉ không có khác nhau, vì chuyển biến khác nhau của vô lượng y chỉ, nên thân biến hóa cũng vậy".

Luận Phật Địa chép: "Ngoài ra hai thân, mỗi thân đều có nhân chiêu cảm riêng, đều có tự tánh riêng, thật sự có khác nhau, tức Nhiếp Luận chép: "Vì thân vô lượng y, hiện Đẳng giác, nên phải nói có khác, chỉ không chấp riêng sự nghiệp bình đẳng của ý ưa thích lợi ích yên vui, nói là không có khác nhau, cũng không trái nhau".

4- Môn hình lượng của ba thân. Luận Phật Địa chép: "Pháp thân vô biên cũng như hư không cùng khắp tất cả chỗ, không thể nói hình lượng của pháp thân đó lớn hay nhỏ. Y cứ vào tướng mà nói, như khoảng không, không có bờ mé. Thân tự thọ dụng có sắc, chẳng phải sắc, chẳng phải sắc không có hình, không thể nói hình lượng của thân ấy lớn, nhỏ, mà tùy thuộc thân và cảnh, cũng được nói rằng, khắp tất cả chỗ, các pháp có sắc, tu nhân đại kiếp được căn, cảnh vượt hơn, mỗi một tướng tốt đẹp cùng khắp pháp giới, không đồng với nghiệp sinh tử, có phần hạ, đã cảm thân hình có nhỏ, có lớn; thân vô lậu của Phật trong vô lượng kiếp, gặp vô biên Phật, dứt vô biên chướng; lợi ích vô biên chúng sinh, vì đã khởi tu vô lượng việc lành, nên quả cũng vô biên. Vì thân được biến bởi trí viên cảnh không có hạn lượng; đối tượng biến của chư Phật đồng xứ, đồng thời lượng, tương tự với tướng Phật kia, không chướng ngại nhau, sau cùng thọ dụng pháp lạc không có ngừng dứt, chỉ có sở tri của Phật, vì chẳng phải căn cảnh khác, nên Thánh giáo nói: "Vô kiến đảnh tướng, pháp âm vô biên, mỗi một tác dụng công đức không có giới hạn. Thân tha thọ dụng của Phật vì các Bồ-tát hiện các thứ thân, tiếng nói, tướng tốt, hình lượng không nhất định".

Kinh Phạm Võng chép: "Nay, Tỳ-lô-giá-na đang ngồi tòa hoa sen, cho đến mỗi cõi nước, một Phật Thích-ca, v.v..." Hoa Nghiêm v.v... chép: "Bồ-tát Sơ địa thấy một trăm cõi Phật; một cõi, tức là một Đại thiên giới; mỗi một cõi có một hóa thân Thích-ca; Một tứ thiên hạ đều có một hóa thân; một cõi tức có một Đức Thích-ca, đối tượng thấy của bốn gốc lành; một trăm cõi Tiểu Thích-ca, đối tượng thấy của ba thừa khác. Sơ địa tự thấy một trăm Đại thiên giới, một Lô-Xá-Na, lượng A-di-đà Phật là đối tượng thấy này. Như thế, Nhị địa thấy một ngàn; Tam địa thấy mười ngàn, số nhân nên biết, cho đến tâm Kim Cương của Thập địa, khi Bồ-tát sắp thành Phật, tướng hoa sen báu lớn trên trời Sắc Cứu Cánh hiện ra tròn khắp, như số lượng cát bụi của mười A-tăng-kỳ, trăm ngàn Tam thiên Đại thiên thế giới. Một hạt bụi này là một Đại thiên giới, Bồ-tát ngồi nơi đó mà thành Chánh giác. Bồtát kia đã thấy lượng thân Phật khó biết, với thân tự thọ dụng của Phật, Bồ-tát kia không thấy".

Kinh Pháp Hoa v.v... chép: "Lượng cõi nước của A Nan thành Phật, đem so sánh thuộc về tha thọ dụng của thân Phật này. Địa nào được thấy? Về lý, so sánh nên đồng đều, thân biến hóa của Bồ-tát kia là chúng trước của hóa địa, hai vị tư lương, gia hạnh thấy khác nhau, tùy theo đối tượng thích nghi của chúng, với hình lượng không nhất định: Đức Thích-ca cao một trượng sáu, gấp bội chúng sinh cao lớn. Di-lặc cao một ngàn mét, thuận theo cơ nghi của chúng sinh được thấy. Hóa thân tha thọ dụng đều là sắc hóa. Tánh của bốn, năm trần, chẳng phải công đức sắc, dù không có hình chất, nhưng cũng vẫn hóa hiện".

Thành Duy Thức chép: "Đấng vô Thượng giác, vì thần lực khó suy nghĩ, nên có thể hóa hiện pháp không có hình chất, hiện tham, giận, v.v... khiến cho biết khác".

Luận Du-già nói: "Biến hóa không thể làm bốn việc kia: 1/ tâm; 2/ tâm sở; 3/ căn; 4/ nghiệp quả, dù không có dụng thật, hiện giống như tâm, tâm sở pháp có, tức tâm tướng phần, hóa giống như tánh bốn trần, thể của năm căn, dù giống với nghiệp quả, nhưng tánh tức vô lậu; khổ hạnh sáu năm "mã mạch", thương vàng, dù đều dường như khổ, nhưng thật ra vì vô lậu nên là môn chung, không chung của năm hữu tình đã được hóa độ. Tự thọ dụng của tư tánh, không có sự phân biệt này. Tha thọ dụng và hóa có môn nghĩa này".

Trong Luận Phật Địa lược có ba thuyết:

1- Đều chung: vì mỗi vị Phật đều có khả năng hóa sinh, phước, tuệ bình đẳng, tu hành trong nhiều thời gian, đồng cầu Bồ-đề, như nói: "Một vị Phật đã hóa độ hữu tình thì tất cả Phật nên biết đều chung.

2- Không chung: Vì đối tượng hóa của Phật vốn hệ thuộc nhau, cho nên, Thích-ca vào thời Phật Đểsa, đã cùng với Từ Thị đồng thờ Đức Phật kia, Phật quán đối tượng hóa độ, đức Thích-ca thành thục trước, Từ Thị thành thục sau. Quán chủ thể hóa: Từ Thị thành trước, Thích-ca thành sau. Nhập định Hỏa Quang để cho đức Thích-ca đứng co một chân suốt bảy ngày, bảy đêm, được khen, khiến vượt hơn Từ Thị, thành Phật trước. Lại, Đức Thích-ca nói: "Đối với người đáng được độ, ta đã độ xong". Lại, Khế kinh nói: "Khi Phật niết-bàn, quán một đối tượng hóa hiện tại là Hữu đảnh, sẽ sinh trong đây, lẽ ra phải được Phật hóa, lưu lại một hóa thân trụ tiềm tàng ở cõi này, thân hiện Niết-bàn. Phật Di-lặc kia mất, sẽ sinh ở đương lai, để lại thân, mới hóa thành vô học; thân đã hóa độ, mới nhập diệt. Lại, mỗi chỗ đều nói: "Chủ thể hóa, đối tượng hóa, quyết định hệ thuộc nhau, cho nên không chung".

3- Nghĩa như thật: "Có chung, không chung". Luận Thành Duy thức cũng nói thế này: "Đối tượng hóa chung: cùng xứ, cùng thời đại chư Phật đều biến hóa làm thân, làm cõi nước, với hình trạng giống hệt nhau, không chướng ngại nhau, lần lượt xen nhau làm duyên tăng thượng, khiến cho tự thức của đối tượng hóa sinh biến hiện, nghĩa là ở một cõi nước có một thân Phật, vì hiện thần thông nói pháp, làm lợi ích".

4- Đối với không chung: Chỉ một Phật biến hóa, các loài hữu tình từ vô thỉ đến nay, chủng tánh pháp nhĩ lại hệ thuộc nhau, hoặc nhiều hệ thuộc một; hoặc một hệ thuộc nhiều, nên đối tượng hóa sinh có chung, không chung. Không như vậy, thì nhiều Phật ở lâu trên thế gian, mỗi việc đều lao tâm, nhọc sức thật là vô ích. Vì một vị Phật có thể lợi ích tất cả chúng sinh.

Nghĩa này, rộng như Phật Địa nói v.v... 6-Môn các tướng của ba thân.

7- Môn do bao nhiêu tự tại được tự tại?

8- Môn ba thân y chỉ bao nhiêu xứ?

9- Môn do bao nhiêu Phật pháp được gìn giữ?

10- Môn thọ dụng, biến hóa chẳng phải pháp thân.

11- Môn công đức tương ưng.

Trên đây đều như Nhiếp Đại Thừa nói.

12- Môn hữu lậu, vô lậu do thức biến (như Thành Duy Thức nói).

13- Môn Tịnh độ sai biệt. (Như biệt nghĩa lâm nói).

14- Môn nói pháp sai biệt của ba thân.

Như kinh Lăng-già chép: "Nghĩa của ba thân này khác nhau vô biên, e chán văn rườm rà nên chỉ lược thuật lại".

Như kinh Thập Địa, kinh Kim Quang Minh; Kinh-già Kinh Kim Cương Bát-nhã, Kinh Niếtbàn, Kính Thắng-man, Kinh Giải Thâm Mật; Kinh Pháp Hoa; Kinh Vô Cấu Xưng, Du-già, Nhiếp Luận; Hai luận Bát-nhã; Đối pháp; Phật địa, luận Duy thức, Bảo tánh, v.v... Và Pháp Hoa sớ, Vô Cấu Xứng Sớ đã nói rộng về tướng nói pháp sai biệt kia.

-------------------------------

CHƯƠNG PHẬT ĐỘ

Nghĩa Phật độ, dùng tám môn để phân biệt:

1- Nói lên sự khác nhau.

2- Nêu ra thể tánh.

3- Nói về Nhân hạnh.

4- Bày ra tướng quả.

5- Giải thích về phân lượng.

6- Giải thích nơi chốn.

7- Chung, không chung.

8- Nói về các môn.

-Thứ nhất nói lên sự khác nhau: luận Phật Địa quyển 7 chép: "Thân Phật có hai":

1- Sinh thân.

2- Pháp thân.

Nếu thân tự tánh, hoặc thọ dụng Phật đều cùng gọi là pháp thân. Các pháp công đức đã tu tập thành; hoặc thân biến hóa; hoặc tha thọ dụng, đều gọi là một sinh thân, thuận theo mọi đối tượng thích nghi, vì thường hiện sinh, nên tất cả cõi Phật, tất nhiên có thân cư trú. Vì thân đã có hai, nên cõi nước cũng vậy. Sinh thân, thì cõi nước có cả tịnh, uế. Pháp thân, thì cõi nước chỉ thanh tịnh.

Thân có hai:

1- Thật.

2- Quyền.

Thật, tức là pháp thân; Quyền tức là sinh thân. Cõi nước thuận theo cũng có hai là: Tịnh và uế như trước. Kinh Phật Địa chép: "Thân Phật có ba, tụng rằng:

"Pháp tự tánh thọ dụng
Biến hóa chuyển sai biệt".

Luận Phật Địa chép: "Pháp tự tánh tức là thân tự tánh đầu tiên của Như Lai, vì thể thường không biến đổi, nên gọi là tự tánh, vì đối tượng y chỉ của các pháp công đức: lực, vô úy, v.v... cũng gọi là pháp thân. Thọ dụng: tức là thân thọ dụng, vì khiến cho các thứ pháp lạc vĩ đại của thọ dụng tự tại".

Biến hóa: Tức thân biến hóa, vì muốn đem lại lợi ích, yên vui cho hữu tình, nên thị hiện các thứ biến hóa, mặc dù thể tánh của pháp giới thanh tịnh, không có khác nhau, nhưng vẫn có các thứ tướng của ba thân, chuyển biến khác lạ không đồng, nên gọi là khác nhau.

Thân đã có ba, quốc độ thuận theo cũng vậy.

1- Cõi pháp tánh.

2- Cõi thọ dụng; hai cõi nước này chỉ có tịnh.

3- Cõi biến hóa: chung cho sạch và nhơ.

Thành Duy Thức quyển 10 chép: "Thân Phật có bốn, cõi nước Phật cũng như vậy".

1- Thân tự tánh: Dựa vào cõi nước pháp tánh, khen ngợi Đại thừa. Kinh Công Đức chép: "Bạcgià-phạm này trụ tạng pháp giới, nói kinh điển Đại thừa kia, trụ cõi nước pháp tánh".

2- Thân tự thọ dụng: Y chỉ cõi nước tự thọ dụng.

3- Thân tha thọ dụng: Nương tựa độ của tha thọ dụng, kinh Phật Địa chép: "Trụ mười tám hòa quang sáng chói viên mãn hơn hết".

4- Thân biến hóa y chỉ độ biến hóa, kinh này chép: "Trụ ở thành trang nghiêm, rộng rãi".

Ba thân cõi trước chỉ có sạch không có nhơ; độ biến hóa sau, có cả sạch và nhơ, vì Bồ-tát Thập địa hiện thân và cõi, không có nhơ, chỉ có sạch. Vì Bồtát Địa Tiền, chung cho Nhị thừa, hiện chung cả sạch và nhơ. Nếu vì phân biệt phiền não và sở tri chướng chưa hết, chưa chứng chân như hai không, thì thân, cõi đã hiện hoặc sạch, hoặc nhơ. Nếu vì hai phân biệt chướng tận và người đã chứng hai không thì thân cõi đã hiện, tất nhiên là tịnh".

Luận Phật Địa chép: Ba thân có bốn câu:

1- Thọ dụng chẳng phải biến hóa. Nghĩa là thân tự thọ dụng.

2- Biến hóa chẳng phải thọ dụng. Nghĩa là thân biến hóa.

3- Vừa thọ dụng, vừa biến hóa. Nghĩa là thân Tha thọ dụng.

4- Chẳng phải thọ dụng, chẳng phải biến hóa.

Nghĩa là thân tự tánh, cũng đồng với Duy Thức.

Kinh Đại Bát-nhã quyển 568, Thắng Thiên Vương hội quyển ba chép: "Phật có mười thân".

1- Thân bình đẳng.

2- Thân thanh tịnh.

3- Thân Vô tận.

4- Thân khéo tu.

5- Thân pháp tánh.

6- Thân lìa tầm, từ.

7- Thân không tư duy, nghị luận.

8- Thân tĩnh lặng.

9- Thân hư không.

10- Thân diệu trí,

Thiên Vương bạch rằng: "Vị nào được mười thân của Như Lai?". Phật nói: "Sơ địa được thân bình đẳng chung cho đạt pháp tánh, lìa các tà vạy bất chánh, vì thấy bình đẳng".

Nhị địa, được thân thanh tịnh, lìa lỗi lầm phạm giới, vì giới thanh tịnh.

Tam địa, được thân vô tận, lìa dục tham, giận, vì được định thù thắng.

Tứ địa, được khéo tu thân vì thường siêng năng tu tập phần Bồ-đề.

Ngũ địa được thân pháp tánh, vì quán các đế lý, chứng pháp tánh.

Lục địa được thân lìa tầm, từ, vì quán lý duyên khởi, lìa tầm, từ. Trong địa thứ bảy, được thân không suy nghĩ bàn luận, dùng phương tiện mầu nhiệm khéo léo, vì trí hạnh mãn.

Bát địa, được thân vắng lặng, vì lìa các phiền não, lời nói riêng. Cửu địa, được thân hư không, vì tướng thân vô tận, cùng khắp tất cả. Thập địa, thân được diệu trí, vì trí Nhất thiết chủng viên mãn".

Thiên Vương lại nói: "Thân Bồ-tát có khác nhau hay không? Phật nói: "Này Thiên Vương! Thân không có khác nhau, nhưng công đức có khác, vì tất cả pháp đồng một pháp tánh, nên thân không có khác. Các thân Như Lai đủ các công đức, các Bồ-tát thì không như vậy, nên công đức khác. Nói rộng, vô lượng thí dụ hiển bày rõ, nên biết mười thân đều chỉ cho pháp thân. Pháp thân y cứ vào nghĩa đã có mười tên gọi, cho nên chân như thuận theo đức vượt hơn, cũng thành mười cõi".

1- Cõi biến hành.

2- Cõi tối thắng (hơn hết).

3- Cõi dòng chảy vượt hơn.

4- Cõi không có nhiếp thọ.

5- Cõi giống nhau không có riêng.

6- Cõi không có nhiễm, tịnh.

7- Cõi pháp không riêng.

8- Cõi không thêm bớt.

9- Cõi Trí tự tại.

10- Cõi nghiệp tự tại.

Cũng thuận theo chủ thể chứng riêng, chia làm mười cõi. Vì y cứ vào nghĩa riêng, nên luận Phật Địa chép: "Lại, kinh khác nói có mười loại Phật, tức kinh Hoa Nghiêm:

1- Phật hiện Đẳng giác.

2- Phật thệ nguyện rộng lớn.

3- Phật nghiệp dị thục.

4- Phật trụ trì.

5- Phật Biến hóa.

6- Phật pháp giới.

7- Phật tâm.

8- Phật định.

9- Phật bản tánh.

10- Phật tùy thuận sự ưa thích.

Năm thế tục trước, năm thắng nghĩa sau, thuận theo đối tượng thích ứng của thế tục, thắng nghĩa, thuộc về ba thân. Vả lại, thuận theo tướng thô, phối hợp với ba thân.

Đầu tiên, năm hóa thân; tiếp theo hai pháp thân; sau ba thọ dụng. Đã tức ba thân, cõi cũng ba cõi, không còn có nghĩa riêng". Du-già quyển tư chép: "Lại nữa, có Bồ-tát vượt qua trụ xứ của Tịnh cư, Đại Tự Tại; có Bồ-tát Thập Địa do vì cùng cực huân tu địa thứ mười, nên được sinh trong đó, tức Hoa Nghiêm chép: "Có cõi diệu tịnh vượt ngoài ba cõi. Bồ-tát địa thứ mười sẽ sinh trong đó, cũng tức luận Thập Địa chép: "Lợi ích hiện báo, vì thọ vị Phật; lợi ích báo sau, vì lĩnh vực trí sinh Ma-hêthủ-la. tiếng Phạm là: Ma-hê-thủ-la tức Du-già sớ rằng: "Đại Tự Tại". Bồ-tát địa thứ mười".

Bồ-tát địa thứ mười khi sắp thành Phật, đi qua cõi Sắc Cứu Cánh, ngồi hoa sen báu vĩ đại, vì thành Chánh giác, nên cảm được cõi nước này. Đã thành Phật xong, cõi nước ấy là vô biên, lại không có nơi chốn riêng.

Đối pháp quyển 6 chép: "Lại nữa, có thế giới thanh tịnh, chẳng thuộc về khổ đế, vì chẳng phải sinh ra bởi sức nghiệp phiền não, vì chẳng phải do năng lực tăng thượng của nghiệp phiền não đã khởi. Nhưng do đại nguyện thanh tịnh, được dẫn phát bởi gốc lành tăng thượng; xứ đã sinh này không thể suy nghĩ, bàn luận, chỉ đối tượng giác ngộ của Phật, còn không phải là người được tĩnh lự, cảnh giới tĩnh lự, huống chi người tầm, từ. Cõi nước tự thọ dụng này chỉ là sở tri của Phật, còn không phải Thập địa, cảnh giới của Nhị thừa, huống chi không phải là bậc Thánh, người có tầm, từ đã có thể biết. Dù có các giáo, các thứ khác nhau và như trên đã nói".

Sự khác nhau của thân, cõi, không quá ba, bốn lại không giải thích cách khác, như lý nên biết.

-Thứ hai là phát ra thể tánh: Thân, cõi tự tánh, tức lý chân như. Mặc dù thể của thân, cõi này không có khác nhau, nhưng thuộc về pháp Phật, vì tướng, tánh khác nhau, dùng tướng nghĩa làm thân, dùng thể tánh làm cõi nước; dùng tướng giác làm thân; dùng pháp tánh làm cõi nước. Thể đủ công đức chân lý như số cát sông hằng. Thân, cõi của Đức Phật này đều không thuộc về sắc, không phải tâm, tâm sở, chỉ y cứ vào nghĩa khác nhau nhất như để nói. Thân tự thọ dụng lại nương tựa cõi mình, nghĩa là trí viên cảnh tương ưng với tịnh thức. Do xưa đã tu lợi mình, vô lậu thuần tịnh, nhân duyên cõi Phật thành thục. Từ đầu tiên thành Phật, cùng tận mé vị lai, nối nhau biến thành cõi Phật thuần tịnh, chỉ dùng sắc uẩn vô lậu, sắc, hương, vị, xúc nối nhau bốn trần xen hở, cũng dùng năm trần như: tiếng, v.v... làm tánh, thể đủ công đức của tự tướng sắc pháp".

Đối pháp đã nói: "Chỉ có đối tượng mà Phật giác ngộ, còn không phải người được tĩnh lự, cảnh giới tĩnh lự, huống chi người tầm, từ, tức là thân tha thọ dụng của cõi này, lại dựa vào cõi mình, nghĩa là năng lực đại từ bi của trí bình đẳng, do xưa đã tu hạnh lợi tha, thành tựu nhân duyên của cõi Phật thuần tịnh, vô lậu. Thuận theo đối tượng thích nghi của Bồ-tát Thập địa, biến thành tịnh độ, cõi khí thế gian cũng dùng năm trần, bốn trần, sắc uẩn vô lậu mà làm thể tánh. Ví như cõi nước của vua người ở thế gian dùng cõi hữu tình và khí thế giới, làm thể tánh lìa hai, vì không có cõi nước và vua riêng, nên do thân tha thọ dụng này sở hữu Tịnh độ, cũng do thành năm uẩn Bồ-tát Thập địa và dùng vàng, bạc, v.v... đã hình thành cõi nước, khí thế giới bốn trần, v.v... làm thể tánh".

Kinh Vô Câu Xưng quyển 1 chép: "Cõi của các hữu tình, đây là cõi Phật nghiêm tịnh của Bồ-tát, tất cả Bồ-tát thuận theo các hữu tình thêm lớn lợi ích, tức là nhiếp thọ cõi Phật nghiêm tịnh, cho đến nói rộng. Độ của đạo nghiệp mười điều lành, là cõi của Phật, Bồ-tát, khi Bồ-tát thành Phật, người giàu to, phạm hạnh, cho đến hữu tình chánh kiến sẽ sinh ở đương lai. Vì nước của họ, nên biết hữu tình và khí thế gian kia, đều gọi là cõi nước Phật, Trì Kế đã nói: "Ta thấy cõi nước của Phật Thích-ca rất nghiêm tịnh. Lại nữa, có vô lượng công đức báu trang nghiêm, cũng là cõi của tha thọ dụng, Trì Kế là địa thứ tám".

Kinh Pháp Hoa chép: "Chúng sinh thấy kiếp tận, khi bị lửa lớn đốt, cõi nước này của ta vẫn yên ổn, trời, người thường đông đủ". Kinh Phạm Võng chép: "Nay, ta Lô-xá-na, đang ngồi tòa hoa sen, một hoa một trăm ức cõi, một cõi một Thích-ca", tức cõi tha thọ dụng". Luận Tịnh độ của Bồ-tát Thế Thân nói: "Người nữ và căn thiếu, giống Nhị thừa không sinh, đều là cõi nước tha thọ dụng. Cõi nước Phật này, đối tượng do Phật biến hiện, nhất định chỉ có vô lậu. Đối tượng biến hóa của Bồ-tát, có cả hữu lậu, vô lậu. Đối tượng biến hiện của năm thức, thức thứ tám chỉ có hữu lậu. Ý thức thứ sáu hoặc thức thứ bảy và đối tượng biến chuyển, có chung vô lậu".

Cõi nước của hữu tình kia chung cho dùng công đức của năm uẩn làm tánh. Cõi nước, khí thế giới này đủ mười tám viên mãn. Thân biến hóa của Phật ở trở lại cõi nước mình, nghĩa là năng lực đại từ bi của trí Thành sự, do xưa đã tu nhân duyên cõi Phật tịnh, uế vô lậu lợi tha thành thục. Thuận theo hữu tình chưa đăng địa, đã tuyên hóa làm cõi nước Phật, hoặc tịnh, hoặc uế, như tịnh độ của Di-lặc; uế độ của Thích-ca. Trong cõi Thích-ca nói Kinh Vô Câu Xưng, đủ chưa xét nghiệm hiện uế ở trước chẳng phải tịnh; xét đủ về sau, tạm thời khiến cho thấy tịnh; khi Phật nói kinh Pháp Hoa, chư Phật mười phương nhóm hợp tịnh mà chẳng phải uế; chưa nhóm hợp về trước, là uế mà chẳng phải là tịnh". Kinh Niết-bàn cũng chép: "Lúc bấy giờ, Tam thiên đại thiên thế giới, do năng lực thần thông của Phật, đất đều mềm mại, không có gò nổng, đất, đá, cát, gạch, cũng thuộc về hóa độ, thuận theo đối tượng thích nghi sinh mà vì hiện cõi nước, nên cõi nước này cũng dùng năm uẩn hữu tình và khí thế giới như bốn trần, v.v... làm thể tánh. Đối tượng biến hóa của Phật, chỉ có vô lậu; biến hóa của hữu tình khác, có chung vô lậu. Thức thứ sáu và đối tượng biến hóa có cả vô lậu. Thức còn lại và đối tượng biến hóa chỉ có hữu lậu, mặc dù có các thứ châu báu trang nghiêm".

Y cứ vào pháp phát ra thể, cõi nước ngoài, chỉ có sắc; độ trong có cả năm, năm uẩn hữu tình, đối tượng hóa độ được hình thành. Hoặc dường như có công đức, hoặc dường như không có công đức.

-Thứ ba là nói về nhân hạnh: Kinh trên đây nói: "Phát tâm Vô thượng Bồ-đề, chính là vì Bồtát nghiêm tịnh cõi Phật. Khi Bồ-tát chứng đắc đại Bồ-đề, tất cả phát ra thu hướng Đại thừa hữu tình sinh đến ở nước đó, ý vui thuần túy, khéo gia hạnh ý vui trên; Sáu Ba-la-mật; bốn vô lượng, phương tiện mầu nhiệm của sự bốn nhiếp. Ba mươi bảy thứ pháp phần Bồ-đề, tu hồi hướng, khéo nói dứt trừ tám thứ không có nhàn rỗi, tự giữ gìn giới hạnh, không chê bai sở đoản của người kia. Mười nghiệp đạo lành hợp với mười tám thứ tịnh tu cõi Phật, đều là nhân tố của Tịnh độ; Văn dưới của kinh nói: "Thành thục tám pháp, sinh về tịnh độ". Phẩm Hương Đài chép: "Các chúng Bồ-tát ở thế giới kham nhẫn, thành tựu tám pháp, không có hủy hoại, không có tổn hại. Ở đây qua đời sinh về tịnh độ khác".

1- Nghĩ rằng: Đối với hữu tình, ta nên làm việc lành, không nên hy vọng quả báo tốt ở họ.

2- Nghĩ rằng: Ta nên thay thế tất cả hữu tình, để cam chịu mọi khổ não. Gốc lành của ta đều hồi hướng cho chúng.

Nghĩ rằng: Đối với các hữu tình, với tâm đáp lại, tâm bình đẳng, không có trở ngại.

3- Nghĩ rằng: ta nên đối với tất cả hữu tình kia, chiết phục kiêu hãnh, ngạo mạn, kính yêu như Phật.

4- Tin hiểu tăng thượng, đối với người chưa nghe thọ lãnh kinh điển rất sâu, tam thời được lắng nghe, không có nghi, không có chê bai.

5- Thấy lợi dưỡng của người khác, không có tâm ganh ghét; đối với lợi dưỡng của mình, không sinh tâm kiêu hãnh, ngạo mạn.

6- Điều phục tâm mình, thường cảnh giác lỗi lầm của mình, không chê bai sự trái phạm của người khác.

7- Thường không có buông thả.

Đối với các pháp lành, thường ưa tìm cầu, tinh tấn tu hành pháp phần Bồ-đề.

Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói rộng về các quán nhân sinh tịnh độ, cho đến hiếu thảo, nuôi nấng cha mẹ, kính thờ sư trưởng, mười niệm thành tựu, đều là nhân Tịnh độ".

Kinh Luận Phật Địa và Nhiếp Đại Thừa đều nói: "Đã khởi gốc lành xuất thế gian vượt hơn, chỉ nói gốc lành vô lậu làm nhân; dù có các văn khác nhau như thế, đều thuận theo cơ nghi đã hóa độ vốn đồng, nên nghe nói hành, chẳng phải nhất định chỉ như vậy, nên Đối pháp nói: "Vì chẳng phải do năng lực phiền não nghiệp sinh, nên chẳng phải khởi nghiêng phiền não tăng thượng. Nhưng do nguyện lớn đã dẫn phát gốc lành thanh tịnh, tóm lại, nhân Tịnh độ: 1/ Do gốc lành, 2/ Do nguyện lớn. Nếu không tu gốc lành, thì cõi nước Phật sẽ không có nhân, không phát nguyện vĩ đại thì cõi Phật sẽ không có duyên, bởi nhân, duyên đầy đủ mới cảm quả. Như giúp đỡ chi hữu nhuận sinh, mới cảm quả hai cõi nước trong, ngoài, nên chủ yếu tu mọi công hạnh, dùng nguyện làm tư lương, mới được sinh về cõi Phật. Không như vậy, ấy là không có nghĩa thấy Phật, nghe pháp, sinh cõi nước Phật".

Tướng chung dù như vậy, nhưng nhân vượt hơn của bốn cõi nước Phật đều riêng, nghĩa là cõi nước pháp tánh chỉ dùng hai không, trí vô phân biệt làm nhân duyên của cõi nước đó, vì chứng lý pháp tánh chỉ có trí này. Cõi nước tự thọ dụng, chỉ dùng lợi mình, trí Hậu đắc làm nhân duyên cho độ tự thọ dụng kia. Năm uẩn của sự chứng, chỉ vì trí này, nên cõi nước tha thọ dụng và cõi biến hóa chỉ để lợi ích người khác, trí Hậu đắc là nhân duyên của cõi nước tha thọ dụng đó.

Kinh Bát-nhã nói: "Trang Nghiêm cõi Phật. Trang Nghiêm cõi Phật tức không phải trang nghiêm cõi Phật, đó gọi là Trang nghiêm cõi Phật". Thiên Thân giải thích rằng: "Trí tập Duy thức chung cho nhận lấy Tịnh độ như thế, không phải hình thể thứ nhất, chẳng phải nghiêm ý trang nghiêm, rộng như kinh kia đã nói, chính đồng với luận này. Ở đây nói chúng sinh được hóa độ, ở các cõi Phật; nhân của cõi Phật là khác".

Cõi nước pháp tánh kia, Bồ-tát Thập địa cũng dùng trí vô phân biệt làm nhân duyên cho cõi nước đó. Cõi nước pháp tánh tròn đầy, mười địa không sinh, chia ra có hội chứng Bồ-tát cũng được.

Vì như trước đã nói, nên các luận chép: "Sơ địa trở lên, sinh vào nhà Như Lai, nghĩa là pháp giới thanh tịnh, gọi nhà Như Lai, vì hội chứng ở trong đó, gọi là sinh, nên cõi nước tự thọ dụng, Thập địa không sinh, biết mà không chứng, độ tha thọ dụng, Hậu trí của Bồ-tát Thập địa, làm nhân duyên cho cõi kia. Trí vô phân biệt, trí gia hạnh, v.v... mà là nhân giúp đỡ của cõi kia". Luận Phật Địa cũng chép: "Vô Phân biệt nghĩa là giúp nhau, lý trí biện luận chung, không làm nhân duyên sự. Nếu trước địa của cõi nước biến hóa, phàm phu dùng trí gia hạnh; nhị thừa cũng dùng trí Hậu đắc làm chánh nhân duyên".

Các thuyết đã nói trên đều là chánh nhân duyên. Nếu gồm giúp, cho nhân và giúp cho duyên, nghĩa là thuận theo cõi nước hợp lý, dùng sự, hạnh và nguyện làm đắc giúp duyên. Nếu cõi nước sự thì sẽ dùng lý hạnh và nguyện làm duyên giúp cho sự sinh; Tịnh độ hữu lậu dùng vô lậu làm giúp đỡ, cõi nước vô lậu dùng hữu lậu làm trợ duyên, nên Đối pháp chép: "Chỉ dùng nguyện lớn, gốc lành làm nhân mà được sinh khởi".

Các giáo đã nói, mỗi thứ khác nhau, đều thuận theo đối tượng cơ nghi, hợp thời mà nói, chẳng phải liền quyết định". Vô Cấu nói: "Tám pháp không thiếu sót được, sinh về Tịnh độ". Luận Phật Địa chép: "Đã khởi gốc lành xuất thế gian vượt hơn, hai trí này là nhân của tha thọ dụng".

Kinh Vô Cấu chép: "Phát khởi độ của tâm Vô thượng Bồ-đề, cho đến mười nghiệp đạo lành, đây là người tịnh tu Phật độ: nói chung cho hai nhân hữu lậu, vô lậu, giúp nhau sinh về cõi nước tha thọ dụng; cũng có thể nói chung, sinh về Tịnh độ biến hóa". Quán kinh nói: "Các quán và sự hiếu thảo, kính nuôi cha, mẹ, v.v... cho đến mười niệm làm nhân tố Tịnh độ: đây có hai nghĩa".

1- Y cứ vào Nhiếp Đại thừa, v.v... thì Tây phương chính là cõi nước tha thọ dụng. Bài tựa Quán Kinh chép: "A-Bệ-Bạt-Trí, là Bồ-tát bất thối mới được sinh, chẳng phải dùng chút ít nhân duyên phước đức gốc lành mà được sinh về.

Luận Tịnh độ của Vô Trước, Thiên Thân chép: "Người nữ, người căn thiếu, hạt giống nhị thừa, v.v... đều không sinh".

Nhiếp Đại Thừa nói: "Không phải chỉ do năng lực của nguyện là được sinh, vì ý, thời điểm riêng, như dùng một đồng tiền để trao đổi được một ngàn đồng tiền, với thời gian khác nhau mới được, không phải hiện nay thì được; mười niệm vãng sinh cũng giống như thế, mười niệm là nhân, về sau mới sinh dần, không phải do mười niệm sau khi chết liền sinh, vì trừ kẻ lười biếng, không tu việc lành, khiến họ niệm. Phật dạy: "Vì nhân mười niệm sinh Tịnh độ. Lại nói: "Tướng ánh sáng, lượng thân của Phật A-di-đà, như năm Tu-di, không phải tha thọ dụng, đâu có chấp nhận như vậy". Lại, Kinh Quán Âm thọ ký chép: "Sau khi Phật A-di-đà diệt độ, Bồ-tát Quán Âm thiếp theo, bổ xứ ở đương lai". Thập Địa Đại hình nói: "Bổ xứ đương lai, chẳng phải tha thọ dụng thì là Phật nào?"

Rằng: "Tây phương chung cho hai độ: Báo, hóa. Về chứng văn của báo, độ, như trước đã nói". Chứng của độ biến hóa, Kinh Cổ Âm Vương chép: "Phật A-di-đà, cha tên Nguyệt Thượng, mẹ tên Thù Thắng Diệu Nhan, có con, có ma, cũng có Điều-đạt; cũng có ngôi thành của vua. Nếu chẳng phải hóa thân, thì đâu có việc này?"

Quán Kinh chép: "Trong chín phẩm sinh, vì có A-la-hán, Tu-đà-hoàn, v.v... nên người sinh về Tịnh độ kia chung cho có ba thừa; cõi nước kia chung cho hai cõi: báo, và hóa này".

Nếu dựa theo cách giải thích trước thì đây là thân tha thọ dụng thị hiện, cũng có cha, mẹ, vua, nước, thật sự là không có, thật sự không có người nữ, đường ác, nỗi sợ hãi, v.v..".

A-la-hán, v.v... trong chín phẩm sinh, là mượn tên A-la-hán kia để nói, thật ra là Bồ-tát.

Hai cách giải thích, mặc tình lấy bỏ tùy ý.

- Thứ tư, là tướng quả: Kinh Phật Địa chép: "Tịnh thức rất tự tại là Tướng". Luận Tịnh Độ kia giải thích: "Dùng tâm vô lậu của Phật làm thể tướng, vì chỉ có thức, nên chẳng phải lìa ngoài thức mà có cõi nước kia, nghĩa là cõi pháp tánh, tức tâm pháp tánh. Cõi này không lìa ngoài trí vô phân biệt tương ưng với tịnh thức, là thật tánh thức. Thọ dụng tự, tha và cõi biến hóa đều không rời trí Hậu đắc của Phật tương ưng với tịnh thức. Nhưng thức có khác, cõi tự thọ dụng tức thức thứ tám; cõi của tha thọ dụng, tức thức thứ bảy; cõi biến hóa kia, tức năm thức trước. Thuận theo thích ứng là trí Hậu đắc kia tương ưng với thức".

Bồ-tát Thập địa thấy cõi nước pháp tánh và cõi tha thọ dụng, ba thừa trước kia, thấy cõi biến hóa, đều thuận theo đối tượng thích ứng, không lìa người thấy, vì hữu lậu, vô lậu hay quán tịnh thức, nên kinh này chép: "Nếu muốn siêng tu nghiêm tịnh cõi Phật, thì trước phải dùng phương tiện nghiêm tịnh tâm mình, thuận theo các Bồ-tát tự tâm nghiêm tịnh, liền được cõi Phật nghiêm tịnh như thế".

Luận Bát-nhã của Bồ-tát Thiên Thân chép: "Trí tập chỉ thức thông, vì nhận lấy Tịnh độ như thế, nên tu nhân trí, thức quả, ấy là tịnh. Thức nội đã tịnh, cảm chúng sinh ngoài và cõi nước, khí thế gian đều thanh tịnh, rộng như kinh nói, cũng thuận theo người thấy được tương ưng với thức, như trước so sánh mà biết".

- Thứ năm, là phần lượng: Luận Phật Địa, Duy thức đều chép: "Cõi pháp tánh mặc dù chẳng thuộc về sắc, không thể nói hình lượng lớn, nhỏ của nó, nhưng y cứ vào sự tướng, thì lượng chúng sẽ vô biên. Ví như hư không khắp tất cả mọi nơi". Về cõi tự thọ dụng, Kinh Thập Địa chép: "Bồtát địa thứ mười được sinh lên cung trời Đại Tự tại, có mười tướng quả hiện, có tòa hoa sen vĩ đại, tròn khắp như mười A-tăng-kỳ trăm ngàn Tam thiên đại thiên thế giới với số lượng nhiều như cát bụi. Xuất địa thứ mười, Bồ-tát ngồi lên tòa Chánh giác. Đã thành Phật xong, cũng tận mé vị lai, biến hóa nối nhau thành cõi nước Phật thuần túy thanh tịnh, tròn khắp không có bờ mé, trang nghiêm bằng các thức châu báu. Thuận theo cõi Pháp tánh vì lượng vô biên. Độ tha thọ dụng, thuận theo cơ nghi của Bồtát Thập địa mà hóa hiện hoặc nhỏ, hoặc lớn; hoặc thua kém; hoặc vượt hơn, thay đổi trước sau".

Kinh Phạm Võng chép: "Nay, ta là Lô-xá-na, đang ngồi tòa hoa sen, một hoa trăm ức cõi, mỗi cõi một Thích-ca".

Nhiếp Luận, v.v... chép: "Bồ-tát Sơ Địa, tỏ ngộ thập bách môn", thấy trăm cõi Phật, mỗi cõi nước Phật là thế giới Tam thiên, thế giới Tam thiên có một trăm ức tứ thiên hạ; mỗi tứ thiên hạ đều có một hóa Phật. Trong thế giới Tam thiên có một trăm ức hóa Phật. Bồ-tát Sơ Địa thấy một trăm cái, một trăm ức hóa Phật; một thân thọ dụng. Thân thọ dụng ở một đài hoa sen báu vĩ đại, hoa có trăm cánh, mỗi cánh tức là Tam thiên Đại thiên thế giới. Một thọ dụng Phật, gọi là Lô-xá-na, trăm cái, trăm ức hóa Phật, gọi là Thích-ca, không lìa, một thân Lô-xá-na, có nhiều Thích-ca. Bồ-tát Nhị địa thấy một thọ dụng Phật ngồi trên hoa sen ngàn cánh, cho đến Thập địa đã thấy Phật rất vĩ đại, với vô biên cánh hoa. Lại trong Nhị địa thấy mười thân thọ dụng Lô-xá-na mà Sơ địa đã thấy có, ngàn trăm ức hóa thân Thích-ca, cho đến Thập địa thấy vô lượng thân thọ dụng Lô-xá-na mà Cửu địa đã thấy, vô lượng hóa thân Thích-ca. Số Phật trong các thế giới Đại thiên dù nhiều, nhưng vì không rời hóa thân của Thích-ca, nên gọi là đối tượng biến hóa của một vị Phật. Lại, trong Tiểu thừa chỉ nói một Phật không có nhiều hóa thân, cũng thuận theo căn cơ của Tiểu thừa kia, nói một Phật. Hoặc đạo tư lương thấy một tứ thiên hạ có một Phật làm chủ. Trong đạo gia hạnh thấy ba Tam thiên có một Phật làm chủ. Từ Sơ địa trở lên, vì thấy tăng dần, nên độ tha thọ dụng, lượng ấy không nhất định. Cõi nước biến hóa kia, hoặc tịnh, hoặc uế; hoặc tiểu; hoặc đại, chuyển đổi trước sau, cũng không có giới hạn nhất định, vì thuận theo cơ nghi của chúng sinh, hóa hiện cùng một lúc".

Kinh Vô Cấu Xưng chép: "Ngón chân Phật đè lên thế giới đại thiên thanh tịnh. Vô Cấu sắp đến dự, bèn biến thành Tỳ-da thành thanh tịnh, nói Kinh Pháp Hoa, đầu tiên, là biến đổi Đại thiên, tiếp theo biến đổi mười phương, mỗi phương đều có hai trăm muôn ức cõi Phật, sao cho thanh tịnh. Về sau, lại biến chuyển lại, nên biết đại, tiểu tùy thuộc ở thời lượng không nhất định". Kinh Anh Lạc chép: "Phật Tỳ-lô-xá-na là Pháp thân; Phật Lô-xá-na là thân thọ dụng; Phật Thích-ca Mâu-ni là hóa thân, nên tạo ra thuyết này".

- Thứ sáu, là nơi chốn: Cõi pháp tánh kia, tức lý chân như, không có nơi chốn riêng, cõi nước tự thọ dụng cũng đầy đủ, pháp giới, lại không có nơi chốn riêng.

Về cõi nước Tha thọ dụng, Kinh Phật Địa chép: "Siêu vượt qua chỗ sở hành của ba cõi". Luận kia giải thích: "Không phải ái ba cõi; vì đối tượng chấp thọ, nên lìa hai ràng buộc: tương ưng, đối tượng duyên, tùy tăng, nói vượt qua ba cõi, nên là thuộc về tánh thiện của Đạo đế".

Luận kia có ba cách giải thích:

Có nghĩa: đều riêng; có chỗ nói ở trên trời Tịnh cư, có chỗ nói ở Tây phương, v.v... có nghĩa: đồng xứ Tịnh độ tròn khắp, không có bờ mé, cùng khắp pháp giới.

Nghĩa như thật: Cõi tự thọ dụng, cùng khắp pháp giới, chẳng có chỗ nào không có. Không thể nói rằng, lìa xứ ba cõi, tức chỗ ba cõi. Nếu cõi nước Tha thọ dụng; hoặc ở trên trời Tịnh cư cõi Sắc. Hoặc nơi chốn Phương Tây v.v... không nhất định. Pháp Hoa cũng chép: "Chúng sinh thấy kiếp tận, khi bị lửa lớn đốt, cõi nước này của ta vẫn yên ổn. Trời, người thường đầy đủ. Đối tượng thấy của Thập địa chính là báo độ; đối tượng thấy của Địa tiền chính là hóa độ, thuận theo cơ nghi mà hóa hiện. Đâu được nhất định, mới chỉ riêng một chỗ. Vì muốn cho chúng sinh khởi tâm ưa thích vượt hơn; chỉ riêng nơi chốn, thuận theo chỗ thanh tịnh của tâm, tức xứ Tịnh độ, độ hóa tất nhiên, thuận theo nơi chốn ba cõi, tùy ý vật hóa sinh, tức thì hóa hiện".

Người xưa đối với mỗi thứ này, phân biệt ngoài ba cõi, có nơi chốn riêng, dùng làm Tịnh độ. Về lý, tất nhiên không như vậy. Đối tượng hóa tất nhiên có thức dị thục tồn tại. Thức dị thục tồn tại, tất nhiên thuộc về ba cõi này, đâu được ra khỏi giới độ, không hệ thuộc cõi, nói là vượt ra ba cõi, không có nơi chốn riêng, vì thuận theo đối tượng hóa.

- Thứ bảy là chung, không chung: Thành Duy thức chép: "Cõi nước pháp tánh kia, vì tất cả Như Lai đều đồng đối tượng chứng, nên thể không có khác nhau, cõi nước tự thọ dụng dù tất cả Phật đều biến hóa khác nhau, mà đều vô biên, không chướng ngại nhau. Hai cõi Phật khác, thuận theo các hữu tình đối tượng hóa độ của Như Lai mà có chung, không chung".

Đối tượng hóa độ chung: Đồng xứ, đồng thời lượng, thuận theo thích ứng, chư Phật đều biến hóa thành cõi, hình trạng giống nhau, không chướng ngại nhau, lần lượt xen lẫn nhau làm tăng thêm một duyên, khiến cho đối tượng hóa sinh, tự thức biến hiện, nghĩa là đối với một cõi có một thân Phật, vì hiện thần thông, nói pháp, lợi ích chúng sinh, như chúng sinh của cõi nước này, nên nghe chư Phật: Thích-ca, Di-lặc, Di-đà v.v... này, tức biến hóa chung.

Đối với không chung: Chỉ một Phật biến hóa, các loại hữu tình, từ vô thỉ đến nay, chủng tánh pháp nhĩ, lại hệ thuộc nhau. Hoặc phần nhiều thuộc về một; hoặc một thuộc về nhiều, như Phật Để-Sa giúp cho Bồ-tát Thích-ca vượt qua chín kiếp, v.v... nên đối tượng hóa sinh có chung, không chung. Không như vậy, thì nhiều Phật ở lâu thế gian, đều thờ phụng hữu tình vất vả khổ nhọc thật là vô ích. Một vị Phật có khả năng làm lợi ích tất cả chúng sinh. Do biến hóa, độ tha thọ dụng này có chung, không chung.

- Thứ tám là các môn, trong đó có mười:

1- Đứng đầu cõi nước.

2- Phụ giúp.

3- Quyến thuộc.

4- Gìn giữ.

5- Sự nghiệp.

6- Nhiếp ích.

7- Không sợ hãi.

8- Con đường bước đi.

9- Sở thừa.

10- Nhập môn.

- Thứ nhất là đứng đầu cõi nước: Kinh Phật Địa chép: "Nơi cư trú của Như Lai. Nghĩa là cõi nước của chư Phật, chư Phật làm chủ. Vì thù thắng, nên không phải chỗ ở khác, chỉ thuộc Thế Tôn. Hoặc chỉ Thế Tôn trụ trì, nhiếp thọ, không phải chỗ ở khác có thể, tức ba thân Phật đều ở cõi nước mình làm chủ chẳng phải ai khác. Nghĩa là thể tánh của cõi Pháp tánh chỉ một pháp thân làm chủ, cõi nước tự thọ dụng dù khắp pháp giới, mỗi mỗi tự biến hóa, đều tự làm chủ, không chướng ngại nhau. Cõi nước tha thọ dụng và cõi biến hóa, dù chư Phật biến hóa, nhưng một hợp tướng, cũng một thân tướng, đều thuận theo thích ứng, nhiếp thọ, làm chủ, không chướng ngại nhau".

- Thứ hai, là phụ giúp: Cõi nước pháp tánh kia và tự thọ dụng, chỉ có Phật mà ở không có phụ giúp. Bồ-tát Thập địa dù chia ra chủ thể chứng, nhưng không có khả năng phụ giúp pháp thân, vì pháp thân vô tướng.

Cõi nước tha thọ dụng. Kinh Phật Địa chép: "Các chúng Đại Bồ-tát đã nhóm họp, nghĩa là tịnh độ này thường có vô lượng đại Bồ-tát tăng thường xuyên đến giúp nên không có thù oán nào làm hại được. Chư Phật từ bi ở trong thức, thuận theo cơ nghi của Bồ-tát mà hóa hiện ra cõi nước thô, diệu. Bồ-tát tùy theo nguyện lực, gốc lành của mình, ở trên tự thức, mường tượng như tướng Tịnh độ mà Phật đã sinh, biến hiện, dù là tự tâm, đều biến hiện riêng, nhưng vẫn đồng một chỗ, hình tướng tương tự, nghĩa là một cõi nước nhóm họp chung trong đó".

Luận Phật Địa chép: "Tịnh độ do Thập địa biến hóa ra như thế, là hữu lậu hay vô lậu?".

Sơ lược có ba nghĩa:

1- Có nghĩa: Vô lậu, tự hạt giống vô lậu, nhờ sự của nguyện lực, nên biến hóa sinh Tịnh độ, trong đó, thọ dụng pháp lạc của Đại thừa. Vì khả năng chứng chân như, được chân vô lậu, thường tận mặt thấy chư Phật, nên gồm thâu đạo đế.

Có nghĩa: Hữu lậu, nghĩa là gia hạnh trong tự tâm có hạt giống Tịnh độ hữu lậu, nhờ năng lực của thệ nguyện giúp đỡ, nên biến sinh Tịnh độ, ở trong đó, thọ dụng pháp lạc của Đại thừa. Thất địa trở xuống, phiền não hiện khởi. Tu đạo của Thập địa, phiền não và hạt giống sở tri chướng vẫn tồn tại. Vì thể của thức thứ tám có công năng gìn giữ hạt giống kia, vì hiện đang tiếp nhận sự huân tập, nên cũng là hữu lậu, và vì thuộc về tánh vô ký, nên chẳng phải vô lậu. Lại, không phải các hữu tình có. Hai thân thật: Thân đã hữu lậu, mà đối tượng nương tựa là Tịnh độ, thì làm sao vô lậu? Nên chỉ có hữu lâu, vì thuộc về khổ đế.

Nghĩa như thật: Tịnh độ được biến hiện bởi tự tâm của Bồ-tát Thập địa, có hai: đối tượng biến hiện của thức thứ tám chỉ là hữu lậu, vì thuộc về tướng phần thứ tám hữu lậu, nên là đối tượng nương tựa của thân hữu lậu. Mặc dù năng lực pháp lành vô lậu đã giúp đỡ, huân tập tịnh diệu của tướng thức thứ tám kia, nhưng là hữu lậu, vì đối tượng hiện do thuận theo gia hạnh, v.v... cũng vậy. Nếu thuận theo tâm vô lậu Hậu đắc, biến ra ảnh tượng Tịnh độ là thuộc về tướng thức vô lậu, thì vì từ hạt giống lành vô lậu sinh, nên thể là vô lậu, thuộc về đạo đế, cõi nước biến hóa kia, nơi chúng ba thừa nhóm họp, là chỗ nhóm họp của bậc Thánh Nhị thừa, phàm phu Bồ-tát; đối tượng biến hóa của Phật chỉ là vô lậu.

Đối tượng biến khác.

2- Có nghĩa: Chỉ có hữu lậu, Hậu đắc vô lậu, không thể biến thành tướng Tịnh độ.

Có nghĩa: Cũng vô lậu, Hậu đắc vô lậu, vì thuận theo đối tượng biến của Phật, nên năng lực duyên tăng thượng cũng biến thành sự tướng, vì về mặt lý không trái.

Cách giải thích trước là khéo léo.

- Thứ ba, là quyến thuộc: Kinh Phật Địa chép: "Vô lượng trời, rồng, nhân, phi nhân, v.v... thường xuyên giúp đỡ. Từ cõi nước pháp tánh, độ tự thọ dụng kia, cả hai đều không có sự trợ giúp, vì vô tướng như trước đã nói. Độ tha thọ dụng chỉ có trời, người làm quyến thuộc, không có loại khác. Mặc dù đã vượt ra ba cõi cõi như trời, v.v... nhưng vẫn là thuộc về ba cõi".

Tịnh thức như thế, nhiếp thọ, biến hiện, vì trang nghiêm Tịnh độ, nên không trái nhau. Hoặc vì thành thục hữu tình, đối tượng hóa độ, thị hiện chủng loại, biến hóa như thế, như vì điều phục vua Kiếp-tỷ-noa, Phật hóa hiện vô lượng các vua Chuyển Luân có quyến thuộc vây quanh. Hoặc Phật tự hóa hiện, hoặc các Bồ-tát hóa thành loại này, giữ gìn Tịnh độ, trang nghiêm, cúng dường, theo giúp đỡ Như Lai, dẫn dắt phương khác". Kinh Vô Lượng thọ cũng nói: "Chim cộng mạng, v.v... đều là đối tượng hóa ra của Phật A-di-đà; hóa thành

Nhị thừa trang nghiêm tịnh độ cũng giống như thế".

Trong cõi nước biến hóa, cũng dùng tám bộ chân thật để giúp đỡ, cõi nước tha thọ dụng, Bồ-tát là chân; tám bộ Nhị thừa đều là quyền hiện, vì chẳng phải chân thật được sinh trong đó, nên tám bộ Nhị thừa trong cõi nước biến hóa đều là chân thật; Bồ-tát Thập địa đều là dấu ấn quyền, vì Thập địa không nên sinh ở cõi nước biến hóa, vì quyền thị hiện hình hóa sinh ở trong cõi đó.

- Thứ tư, là gìn giữ: "Cõi nước pháp tánh, Đức Phật không cần phải gìn giữ, vì cõi tự thọ dụng, đã gìn giữ được pháp lạc".

Cõi nước tha thọ dụng. Kinh Phật Địa chép: "Hỷ, lạc, pháp vị rộng lớn đã được giữ gìn, Bồ-tát Thập địa đã duy trì hỷ, lạc, pháp vị của Đại thừa".

Ăn có công năng làm cho trụ, là nghĩa gìn giữ. Đã vượt qua ba cõi, tánh là vô lậu, dứt trừ được hữu lậu, không nên gọi là ăn. Vì nhân gìn giữ này, nên cũng gọi là ăn. Như pháp hữu lậu dù chướng ngại vô lậu. Nhưng gìn giữ hữu lậu được gọi là Ăn; Vô lậu cũng vậy. Dù dứt trừ hữu lậu, nhưng gìn giữ vô lậu, thì sao chẳng phải là ăn? Vì diệu trí Hậu đắc của chư Phật, Bồ-tát hay nói, hay thọ lãnh pháp vị của Đại thừa, sinh hỷ lạc lớn. Hoặc trí chánh thể thọ vị chân như sinh đại hỷ lạc, gìn giữ được thân khiến cho không đoạn không hư hoại, vì nuôi lớn pháp lành, nên gọi là Ăn.

Thất địa về trước cũng phần đoạn sinh, chẳng phải không hỗ trợ ở bốn đoạn, như xúc, v.v... Bát địa trở lên, và tất cả Phật không giúp sức cho đoạn thực, có thể nói là giúp cho thứ khác. Các luận đều nói là vì thị hiện y chỉ trụ, thuộc về cái ăn. Nếu cõi biến hóa thật sự giúp cho bốn cách ăn, thì cũng sẽ được nói là nuôi lớn pháp vị, làm thức ăn. Nghe như Diệu pháp Liên Hoa chép: "Vì sáu mươi kiếp trụ, nhưng phẩm phần Bồ-đề trong dưới kinh này chép: "Đã ăn pháp không chết, trở lại uống vị giải thoát, dùng Niết-bàn không chết mà làm thức ăn, cảnh vắng lặng đã chứng sinh ra nỗi mừng, vui, vì có thể gọi là ăn, nên gìn giữ được vô lậu, cũng không trái với từ ngữ ăn. Tuy nhiên, vì thể của các thức ăn này, các giáo nói khác nhau, rộng như chương riêng và sớ Pháp Hoa".

- Thứ năm, là sự nghiệp: Pháp thân của Phật kia, hoặc chỉ lợi mình là hai thân nương tựa, hoặc chung cho cả hai lợi. Thân tự thọ dụng, chỉ có lợi mình. Nếu tha thọ dụng và thân biến hóa, thì chỉ thuộc về lợi tha, vì người khác hiện. Kinh Phật Địa chép: "Làm tất cả nghĩa lợi cho các chúng sinh. Đức Phật dù ở định vắng lặng, nhưng do năng lực nguyện, gia hạnh đã tu trước đây, tùy ý có thể tạo ra tất cả nghĩa lợi cho tất cả hữu tình. Trong cõi tha thọ dụng, phần nhiều nói pháp mầu, số ít tạo ra lợi ích, tất cả nghĩa lợi của ba thừa".

Thứ sáu là Nhiếp ích: tự tánh thân, cõi và tự thọ dụng đã dứt viên mãn, không nói Nhiếp ích.

Nghĩa nhiếp ích của tha thọ dụng kia; Kinh Phật Địa chép: "Diệt các phiền não, tai họa, triền nhơ, thì các phiền não được gọi triền nhơ, như thế, tức gọi là nhân tố của các tai họa. Vì trần phiền não nhơ trong đây không có, nên tai họa đã tạo trong đây cũng không có. Hoặc phiền não: tức mười phiền não".

Kiến tu ba cõi, gồm có một trăm hai mươi tám thứ; triền có tám thứ, đó là: Vô tàm, vô quý, hôn trầm, ngủ nghỉ, trạo cử, ố tác, tật, san. Cấu có sáu thứ: nghĩa là: Hại, hận, não, siểm, cuống, kiêu. Tai hạnh tức là nghiệp đã phát động kia và quả đã được chủng trong chướng sở tri, gọi là phiền não, hiện khởi, gọi triền nhơ. Lìa hai thứ này gọi là Nhiếp ích. Như đời phong cho chủ, dù không nhiếp thọ, chỉ không bị tai hoạn; phong cho chủ hộ, cũng nói là chủ nhiếp ích. Sự nhiếp ích ở đây cũng vậy. Lại, hiện chứng được giải thoát triền nhơ, tai hoạn của phiền não. Vì phước trí cao quý nên gọi là nhiếp ích.

Bậc Thánh Nhị thừa trong cõi hóa thân, so sánh với sự nhiếp ích ở đây cũng vậy. Phàm phu, Bồ-tát dù chưa dứt bỏ phiền não, nhưng chiết phục hiện hành cũng gọi là nhiếp ích. Địa tiền gọi là hao hụt sức, giúp ích công năng, vì công năng chuyển vận đạo. Nhưng các vị này phân biệt hai chướng, trong bốn mươi tâm, chiết phục dần dần; ở trong đạo gia hạnh bốn gốc lành, có công năng chiết phục hết ngay. Sơ địa, dứt phiền não ngay, gọi là nhiếp ích. Hai chướng câu sinh, trong đạo gia hạnh có thể chiết phục dần, thập địa thuận theo thích ứng, có thể dứt trừ dần. Sơ Địa trở lên, hay chế phục tức khắc, nên gọi là nhiếp ích.

- Thứ bảy vô úy: Trong có nhiếp ích; ngoài không có sợ hãi. Thân, cõi pháp tánh, thọ dụng tự tha và thân biến hóa, lâu rồi không có sợ.

Kinh Phật Địa chép: "Xa lìa chúng ma, mắc bốn ma là nhân sợ hãi. Do nhân này có thể sinh ra các sự sợ hãi vì Phật đều không có sự sợ hãi kia, nên không có sợ hãi. Cõi nước tha thọ dụng, Bồtát Thập địa đã lìa bốn ma thô, không có năm nỗi sợ hãi: Phiền não, uẩn, chết, vì dứt trừ dần, kế là thuận theo thích ứng mà nói. Nghĩa ấy rất dễ hiểu. Trong cõi biến hóa, bậc Thánh ba thừa cũng chia ra chủ thể lìa, tám tướng thành đạo của Bồ-tát Thập trụ, chiết phục được ma trời. Trong đạo gia hạnh cũng có khả năng chiết phục, phân biệt phiền não, lìa ma phiền não".

Sinh Quý Trụ trong thập trụ, lìa bỏ sinh tử, vì ra khỏi ba cõi, lìa hẳn ma chết. Khi nhập Sơ địa, lìa cái chết phần đoạn, cũng gọi phân ly ma năm uẩn. Cho nên, không có sợ.

- Thứ tám, là con đường đi qua: Kinh Phật Địa chép: "Công hạnh của niệm, tuệ lớn, dùng làm con đường đi qua". Luận Phật Địa kia giải thích: "Nếu niệm lớn của các Đức Như Lai, tức là trí vô phân biệt. Do niệm an trụ lý chân như, nên trí vô phân biệt là con đường đã đi qua của cõi pháp tánh. Đại tuệ tức là trí Hậu đắc, vì phân biệt tướng chân, tục của các pháp, nên là hai thọ dụng và đường biến hóa. Vì hai thứ này đều có nghiệp dụng tăng thượng tạo rá tịnh độ, nên đều gọi là hành; vì đi sinh về Tịnh độ, nên đều gọi là con đường. Hoặc hạnh niệm lớn là hạnh lợi mình, vì gồm thâu ghi nhận nội tại, là cõi pháp tánh và nẻo đường tự thọ dụng".

Hạnh tuệ lớn: Là hạnh lợi tha, vì phân biệt bên ngoài, là tha thọ dụng và con đường biến hóa.

Trên đã nói Phật xong. Niệm lớn của Bồ-tát Thập địa: văn tuệ; tuệ lớn là tư tuệ; hạnh lớn là tu tuệ. Dùng ba tuệ này thuận theo đối tượng thích hợp của Bồ-tát, gần, xa giúp sức nhau, vì con đường của cõi hữu lậu, vô lậu kia, vì ba tuệ đều có chung vô lậu, nên nếu là cõi biến hóa thì ba thừa Địa tiền, cũng dùng ba tuệ làm con đường đi qua kia. Nhị thừa tu tuệ cũng chung cho vô lậu, phàm phu, Bồ-tát chỉ là hữu lậu, là con đường đi qua kia.-Thứ chín là Đối tượng thừa: Chế ngự đối tượng thừa kia, vì đi trên con đường này, nên kinh Phật Địa chép: "Đại chỉ cho diệu quán dùng làm đối tượng thừa. Chỉ: nghĩa là đẳng trì tam-ma-địa; quán là Tuệ Bát-nhã. Vì chỉ quán vận dụng bình đẳng, nên gọi là đối tượng thừa. Đường là vị chung, chỉ, quán trong vị đều riêng, gọi là đối tượng thừa. Ba thân Phật thường nhân ở đây, đều nhập vào cõi có ba loại Phật. Bồ-tát Thập địa nhân ở đây nhập vào cõi tha thọ dụng. Nhị thừa Địa tiền thuận theo thích ứng, cũng nhân phẩm chỉ, quán này mà nhập vào tịnh độ. Nếu hóa ra cõi ô uế, thì sẽ chung cho hệ tán, định, dùng làm đối tượng thừa. Không như vậy, thì sẽ không do đâu sinh về cõi Phật".

- Thứ mười, là nhập môn: Vì từ nhập môn kia, chế ngự nhập cõi Phật này, nên kinh Phật Địa chép: "Đại không, vô tướng, vô nguyện, giải thoát là môn đối tượng nhập. Giải thoát, nghĩa là Niết-bàn, Duyên theo diệu trí này gọi là Môn; hoặc trí vô lậu cũng gọi giải thoát; vì lìa ràng buộc, nên nhân ba môn này nhập vào Tịnh độ. Vả lại, có một nghĩa nói: "Nhân môn vô tướng, nhập cõi nước pháp tánh. Quán pháp vô tướng chân như. Nhân môn vô nguyện nhập độ tự thọ dụng; ở trong ba cõi; vì cầu vô nguyện. Nhân môn Đại không nhập tha thọ dụng và cõi biến hóa đạt hai ngã không có nhập hai cõi. Có chỗ nói rằng: "Ba môn đều nhập ba thứ cõi Phật". Luận chép: "Ba môn hoặc đều riêng, quán ba thứ tự tánh. Hoặc đều là chủ thể quán ba thứ tánh. Đây là nói môn Phật, nếu các Bồ-tát nhân môn vô lậu của ba thứ này, nhập cõi tha thọ dụng. Nếu Nhị thừa Địa tiền, cũng nhân ba vô lậu, hoặc là hữu lậu, nhập vào cõi hóa, thì phàm phu, Bồ-tát chỉ nhân đẳng trì của ba hữu lậu này, nhập vào độ hóa không gọi môn giải thoát, vì chẳng phải thuộc về vô lậu, nên về lý, thật ra là tha thọ dụng và cõi biến hóa, đều có sự nhân môn, v.v... của đường đi qua, vì khiến cho hữu tình ưa thích, vì thật đức, nên y cứ vào hạnh để nói. Cõi pháp tánh kia và tự thọ dụng đều lượng vô biên, không nói có riêng tướng môn sự, v.v... Cõi tha thọ dụng đã có chia giới hạn, đều y cứ vào hoa sen mà kiến lập". Kinh Phật Địa chép: "Đã kiến lập hoa sen báu lớn". Quán kinh cũng chép: "Nghĩ treo cao chiếc trống, có tòa hoa sen, hóa độ không nhất định, hoặc có, hoặc không có, so với cõi Phật này không có hoa sen".


[Đầu trang][Mục lục bộ Chư Tông][Mục lục tổng quát]