TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠP TẠNG

BỘ CHƯ TÔNG

SỐ 1862 - KHUYẾN PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM

Biên soạn: Sa-Môn dịch kinh là Tuệ Chiểu

MỤC LỤC

SỐ 1862 - KHUYẾN PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM

QUYỂN THƯỢNG

Thứ nhất: Nói về môn chủng tánh tướng của Bồ-tát.

Thứ hai: Nói về môn nhân duyên phát tâm:

Thứ ba: Môn biểu thị rõ sự vượt hơn.

Thứ tư: Môn thí dụ khen ngợi.

Thứ Năm: Môn khuyến phát tâm hơn, kém, nặng, rộng.

Thứ Sáu: Môn lập thệ phát nguyện.

Thứ Bảy: Môn nói về phát tâm và thương xót:

Thứ Tám: Môn nói về tu hành và lui sụt, không lui sụt.

Thứ Chín: Y cứ môn quán sám hối, thọ giới của kinh Phổ Hiền Bồ-tát:

QUYỂN TRUNG

1-Thứ Nhất Môn khen thọ giới:

2-Môn chỉ rõ lỗi:

3-Môn khuyên giữ giới:

4-Môn Hộ giới:

5-Môn ý nghĩa thọ giới:

6-Môn lợi ích của việc thọ giới:

7-Môn Thọ Chánh:

8-Môn thọ giới được lợi ích:

9-Môn thọ mười điều lành:

10-Môn khen nhẫn hộ giới:

11-Môn người tại gia chỉ bảo lẫn nhau:

12-Môn cúng dường:

13-Môn cúng dường được lợi:

14-Môn trị chướng:

15-Môn hơn kém:

16-Môn bạn lành:

17-Môn nhiều hạnh lẫn lộn:

QUYỂN HẠ

-Môn Thọ ba nhóm tịnh giới của Bồ Tát:

-Môn Đắc xả:

-Môn tám vượt hơn, năm tưởng:

-Môn nói pháp:

-Môn phương tiện nhiếp thọ chúng sinh:

-Môn Cầu pháp:

-Môn Nhập pháp:

-Môn Nên giữ gìn chánh pháp:

-Môn Mười độ sáu thứ phân biệt:

-Môn Dường như có lợi ích:

-Môn năm thứ hy vọng của Bồ-tát:

-Môn sáu quyết định nên làm:

-Môn sáu độ chín thứ phân biệt:

-Môn Năm tướng gọi là Ba-la-mật:

-Môn bảy tướng thanh tịnh như bố thí, v.v.

-Môn bảy thứ chẳng phải ruộng, không nên bố thí:

-Môn chín môn đều đắc quả:

-Môn mười nghiệp sống lâu:

-Môn Mười nghiệp làm cho nhiều bệnh, không bệnh:

-Môn mười nghiệp xấu, tốt:

-Môn mười nghiệp khiến sinh vào dòng họ giàu sang hay thấp hèn:

-Môn mười công đức lễ tháp:

-Môn mười công đức bố thí dù, lọng:

-Môn mười công đức bố thí cờ phướn:

-Môn mười công đức bố thí nước uống:

-Môn mười công đức bố thí y phục:

-Môn mười công đức bố thí hương:

-Môn mười công đức thí đèn:

-Môn mười công đức của việc cung kính chắp tay:


QUYỂN THƯỢNG

1- Nói về môn chủng tánh tướng của Bồ-tát.

2- Nói về môn nhân duyên phát tâm.

3- Hiển bày môn biện luận hơn, thua.

4- Môn thí dụ, khen ngợi.

5- Môn khuyến phát rộng về hơn, kém.

6- Môn lập thệ, phát nguyện.

7- Môn lại nói về phát tâm và thương xót.

8- Môn tám tạp nhạp, nói về tu hành và thối, bất thối.

9- Môn y cứ kinh Phổ Hiền Bồ-tát mà quán sám hối, thọ giới.

Thứ nhất: Nói về môn chủng tánh tướng của Bồ-tát.

Bồ-tát có sáu chủng tánh tướng Ba-la-mật-đa. Vì tướng này, nên khiến cho người khác biết rõ là

Bồ-tát chân thật. Lại, tướng chủng tánh của người thí, nghĩa là bổn tánh của các Bồ-tát là ưa bố thí. Đối với hiện tại đang có thể thí cho một cách bình đẳng không có xen hở, vui mừng thí cho không hối tiếc. Dù ít nhưng có thể quân bình rộng lớn, chẳng phải nhỏ. Nếu không có vật để thí cho, thì cảm thấy hổ thẹn một cách sâu sắc. Đối với người khác, thường xuyên ưa khen ngợi, khuyến khích bố thí, thấy người hay yêu thích, vui vẻ, đối với họ, nên cúng dường, cung kính, bố thí. Đời này đời khác, không có tội, có sự lợi ích, hoặc thỉnh, không thỉnh, như lý mà nói. Hoặc có người sợ phép vua, giặc, nước, lửa, Bồ-tát sẽ thí cho vô úy, đối với kẻ rất sợ hãi, thì tùy khả năng cứu giúp; nhận lấy vật người khác gởi, không hề sai trái. Nếu vay nợ người thì không bao giờ giựt nợ. Đối với của cải chung, không có tâm gian dối. Được của báu lớn, không còn tham chấp mắc, huống chi lợi ích nhỏ nhen.

Những hành vi như thế, v.v… gọi là tướng chủng tánh thí.

Tướng chủng tánh giới: Nghĩa là bổn tánh các Bồ-tát là thành tựu, nhu nhuyến, thân, ngữ, ý nghiệp bất thiện, không tạo ác đối với các hữu tình, không gây nhiều tổn não. Dù gây nghiệp ác, nhưng có thể ăn năn một cách nhanh chóng, thường cảm thấy hổ thẹn, không tỏ vẻ, vui mừng, không dùng dao, v.v... não hại hữu tình, tánh không từ ái. Đối với đối tượng đang kính, hiện tiền lễ bái, tu nghiệp hòa kính. Đối với người căn cơ lanh lợi không ngu ngơ, khéo thuận theo tâm người khác, thường trước mỉm cười, với dáng vẻ thư thái, nhìn thẳng, xa lìa buồn bã, trước nói lời hỏi han, biết ơn, trả ơn, đến cầu chơn chất ngay thẳng, không dùng cử chỉ nịnh bợ để đáp tạ. Đúng như pháp cầu tài của, không dùng phi pháp, không tỏ vẻ hung bạo, ưa thích tu phước, còn khuyến khích người khác tu phước, huống chi không tự làm, nghe nói người khác bị các nỗi khổ ép ngặt, vượt quá thân mình, ít tội, sợ sâu, huống chi là nhiều tội? Tất cả như pháp, đều đồng với sự, phi pháp không theo. Tâm ác không nối tiếp, tùy thuận sinh, tùy thuận xả. Đối với bậc Hiền thiện thường tôn trọng thật ngữ, không lừa dối. Đối với kẻ tôi tớ sai khiến còn không dùng lời nói khó nghe, huống chi đối với người khác.

Những loại như thế v.v… gọi là Tướng nhẫn.

Tướng tinh tấn v.v… Nghĩa là tánh các Bồ-tát tự siêng năng vượt hơn, dậy sớm, ngủ trễ, không ưa ngủ nghỉ. Làm việc mạnh mẽ, quyết định, ưa làm không quên, sự việc đã vững chắc cuối cùng, sau cùng không bỏ dỡ, nghĩa lớn không khiếp sợ, không tự khinh thường, có khả năng chứng sự nghiệp khó hành, không sợ, không riêng, có khả năng dẫn phát nghĩa lợi, trong việc lớn, còn không cảm thấy mỏi mệt, huống chi việc nhỏ nhen ít ỏi. Các loại như thế, v.v… gọi là tướng tinh tấn.

Về tướng tĩnh lự v.v… Nghĩa là tánh của Bồ-tát đối với nghĩa pháp có khả năng xem xét, suy nghĩ, không có nhiều tán loạn, thấy nghe như trên đỉnh núi cao, ven rừng, đủ người không quen gần, lìa chúng sinh ác, thuận theo vắng lặng, ấy là sinh ái, lạc, tánh phiền não mỏng, đến chỗ xa lìa, tư lương nghĩa mình, tâm không tích cực, vì bị các tầm, tư ác ràng buộc khuấy rối. Đối với kẻ thù oán, còn yêu thương, huống chi là trong thân thích. Thấy khổ sinh xót thương, tùy khả năng cứu giúp, tánh thông minh, lanh lợi. Đối với pháp, có thể thọ lãnh hay gìn giữ, nghĩ nhớ, sự lâu đã ghi nhớ, cũng khiến nhớ nghĩ đến người.

Các loại như thế, v.v... gọi là tướng tĩnh lự.

Về tướng của chủng tánh tuệ v.v… Nghĩa là các Bồ-tát thành tựu đều có sinh tuệ, có khả năng nhập vào tất cả cảnh giới của xứ minh. Tánh không chậm lụt, mờ tối. Đối với chỗ buông lung có năng lực tư duy, lựa chọn.

Các loại như thế, v.v... gọi là chủng tánh tuệ.

Do chủng tánh mà các Bồ-tát đã có, tương ưng với công đức như thế, v.v… thành tựu các bạch pháp thanh tịnh của bậc Hiền thiện. Cho nên, đối với việc được quả vị Như Lai Vô thượng, vì chứng được nhân, cho đến vì bốn tướng tùy phiền não trái với bạch pháp; bị nhiễm ô hoặc đủ, không đủ, tương ưng với bạch pháp, hoặc bị nhiễm ô.

Bạch pháp như thế đều không hiển hiện rõ, làm cho bạch pháp trái với bốn hoặc, nghĩa là buông lung: Vì các phiền não, tập quán trước kia nên tánh thành phiền não mạnh mẽ, nhạy bén trong thời gian dài, đó gọi là thứ nhất. Lại, kẻ ngu si, kẻ không tốt, không khéo léo, nương tựa theo bạn ác, đó gọi là thứ hai. Lại, vì Tôn trưởng, phu chủ, vua giặc, oán thù bắt giam giữ không tự tại. Tâm mê loạn, đó gọi là thứ ba. Lại, giúp đỡ sự sinh có đủ nghèo, thiếu, luyến tiếc thân mạng, đó gọi là tánh tùy phiền não thứ tư, dù có chủng tánh, do bốn nhân duyên, không thể mau chứng Vô thượng Bồ-đề.

Bốn nhân là gì? Nghĩa là các Bồ-tát khi chưa gặp chư Phật, Bồ-tát, chân thiện tri thức, là nói đạo không có điên đảo Bồ-đề, đây là nhân thứ nhất. Lại, các Bồ-tát dù gặp bạn lành, nói cho nghe chánh đạo mà chấp điên đảo, tu tập điên đảo ở trong chánh học, gọi là nhân thứ hai. Lại, các Bồtát dù gặp bạn lành, nói cho nghe chánh đạo, có thể chánh tu học, mà đối với phương tiện gia hạnh trễ nải, chậm chạp, không thể mạnh mẽ hăng hái, tinh tấn, gọi là nhân thứ ba.

Thứ hai: Nói về môn nhân duyên phát tâm:

Phát tâm Bồ-đề: Phẩm Du-già Phát Tâm chép:

"Lược có năm thứ": 1-Tự tánh

2- Hành tướng

3- Sở duyên

4- Công đức 5-Tối thắng.

Bồ-tát phát tâm đầu tiên, đối với các Bồ-tát sở hữu chánh nguyện, là chánh nguyện đầu tiên, khắp có thể nhiếp thọ chánh nguyện khác kia. Cho nên, phát tâm dùng chánh nguyện đầu tiên làm tự tánh kia. Lại, các Bồ-tát lúc khởi chánh nguyện, tâm cầu Bồ-đề, phát tâm như thế, nói như vầy: "Ta nguyện quyết định sẽ chứng Vô thượng Bồ-đề, sẽ thực hành tất cả nghĩa lợi cho hữu tình, chỗ yên ổn cuối cùng là Niết-bàn rốt ráo, kể cả trong trí rộng lớn của Như Lai".

Phát tâm như thế, nhất định tự mong cầu Vô thượng Bồ-đề và mong cầu sẽ làm các việc nghĩa lợi cho các hữu tình. Cho nên phát tâm do quyết định mong cầu là hành tướng kia, do đại Bồ-tát và tất cả nghĩa lợi của các hữu tình làm cảnh sở duyên. Phát tâm đầu tiên có thể gồm thâu tất cả pháp phần Bồ-đề, vì gốc lành cao siêu là thượng thủ, cho nên là thiện cực thiện, là diệu cực diệu có thể cùng tận tương ưng với công đức của ba nghiệp, của tất cả hữu tình. Lại, các Bồ-tát phát tâm đầu tiên, đã khởi chánh nguyện, đối với tất cả mong cầu khác, chánh nguyện khéo léo, nghĩa của thế gian, xuất thế gian rất là bậc nhất.

Bồ-tát phát tâm do bốn duyên, bốn nhân, bốn lực: Bốn duyên đầu tiên là:

1- "Người thiện nam hoặc người thiện nữ, nếu thấy chư Phật và các Bồ-tát có oai lực thần biến không suy nghĩ, bàn luận; hoặc từ chỗ đáng tin, nghe việc như thế. Thấy nghe rồi, liền nghĩ rằng: "Vô thượng Bồ-đề của công đức lớn, sao cho người an trụ và người tu hành, thành tựu oai lực công đức thần biến không suy nghĩ, bàn luận như thế. Vì năng lực tăng thượng thấy, nghe này, nên đối với Đại Bồ-đề, sinh tín hiểu sâu. Do đây, phát khởi tâm Đại Bồ-đề, đó gọi là bậc nhất (ở đây, nên vì nói năng tu năng chứng đắc của Phật, Bồ-tát nên bảo phát tâm).

2- Dù không thấy nghe công đức thần thông của Phật và Bồ-tát. Đối với tạng Bồ-tát, nghe xong, cũng tin sâu. Do nghe chánh pháp và sức tin sâu sắc nên đối với công đức thần biến của Như Lai, sinh tín hiểu sâu, vì được trí mầu nhiệm của Như Lai, nên phát tâm Bồ-đề (trước kia y cứ vào tự tánh thấy hoặc nghe Phật khác và công đức thần biến của Bồ-tát. Y cứ vào người khác thấy Phật nói khác. Đây là y cứ theo giáo, nghe xong sinh niềm tin).

3- Hoặc có một loại, dù không thấy, nghe, kể cả nghe nói chánh pháp như trên, mà thấy tất cả pháp tạng Bồ-tát, sắp muốn diệt mất, liền nghĩ rằng: "Bồ-tát Pháp Tạng trụ lâu ở đời, hay cứu vớt nổi khổ lớn của vô lượng chúng sinh. Ta nên trụ trì pháp tạng Bồ-tát, phát tâm Bồ-đề, vì diệt vô lượng nổi khổ lớn của chúng sinh. Vì hộ trì năng lực tăng thượng của Bồ-tát Pháp Tạng, nên đối với trí Như Lai, sinh tín hiểu sâu, vì dược diệu trí của Như Lai nên phát tâm Bồ-đề.

4- Hoặc có một loại dù không nhìn thấy chánh pháp sắp diệt, nhưng đối với kiếp cuối, đời cuối, thời đại cuối, nhận thấy thân, tâm của các chúng sinh ác bẩn, đã bị não loạn bởi mười tùy phiền não, nghĩa là thường ngu si, thường không có sự hổ thẹn, thường có tánh keo kiệt, ganh tị, nhiều các khổ lo, nhiều nỗi thô nặng, nhiều các phiền não, nhiều các hành vi ác, nhiều sự buông lung, nhiều tánh lười biếng, nhiều các bất tín; thấy việc này xong, bèn cảm nghĩ rằng: "Đời ác vẩn đục lớn đến nay là lúc chánh khởi các tùy phiền não đã não loạn, mà phát được tâm Bồ-đề Độc giác thấp kém, còn khó có thể được, huống chi là người phát được tâm Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề? Ta phải phát tâm đại Bồ-đề, khiến cho ở đời ác này vô lượng hữu tình theo học ở ta, sinh nguyện Bồ-đề. Vì nhận thấy ở đời ác, phát tâm khó được năng lực tăng thượng nên sinh tin hiểu sâu sắc đối với Đại Bồđề. Nhân tin hiểu này, phát khởi tâm Đại Bồ-đề đây gọi là duyên thứ nhất.

Nhờ dựa vào sự nhiếp thọ của Phật, Bồ-tát và bạn lành, đó gọi là duyên thứ hai.

Đối với các chúng sinh thường khởi tâm bi, đó gọi là duyên thứ ba.

Đối với nỗi khổ lớn sinh tử suốt thời gian rất dài, khó thực hành khổ hạnh, không có khiếp sợ, đây gọi là duyên thứ tư.

Duyên thứ nhất đủ chủng tánh Bồ-tát. Duyên thứ hai đủ bốn thứ tướng, phải biết đầy đủ Bồ-tát, bạn lành nghĩa là được gặp các Bồ-tát, bạn lành, tánh không ngu si đần độn, thông minh, trí tuệ sáng suốt, không rơi vào ác kiến, đây gọi là duyên lành thứ nhất.

Được gặp bạn lành, sau cùng không xúi giục người hành động buông lung, cũng không trao cho họ các công cụ buông lung, đó gọi là đủ bạn lành thứ hai.

Được gặp bạn lành, chung quy không bảo người tạo ra hành vi ác, cũng không trao cho họ dụng cụ làm ác, đó gọi là đầy đủ bạn lành thứ ba.

Được gặp bạn lành, sau cùng không khuyên bỏ niềm tin tăng thượng, muốn thọ học công đức của phương tiện tinh tấn, mà lại khuyên tu các công đức kém tin, dục thấp kém. Nghĩa là không khuyên bỏ Đại thừa, tu theo Nhị thừa; không khuyên bỏ phước, tuệ vượt hơn, tu phước huệ kém, đó gọi là đầy đủ bạn lành thứ tư.

Do bốn thứ nhân duyên phải biết rằng Bồ-tát đối với các chúng sinh, phần nhiều khởi tâm bi. Nghĩa là các Bồ-tát dù có vô lượng vô biên các thế giới ở mười phương không có khổ, nhưng chúng sinh có khổ trong các thế giới, ở trong đó luôn bị mọi nỗi khổ, hoặc có lúc thấy người khác tùy thuộc gặp phải một nỗi khổ; đôi khi thấy mình đang chạm trán với một nỗi khổ; hoặc thấy mình, người tùy thuộc gặp phải một nỗi khổ xúc chạm ép ngặt; hoặc nhận thấy cả hai thứ đều gặp phải những nỗi khổ lớn bức xúc, mạnh mẽ, nhạy bén không có xen hở. Nhưng Bồ-tát này dựa vào chủng tánh của mình, hiền nhân của mình. Y cứ sở xứ bốn cảnh, dù không phải tập quán, nhưng vẫn có thể phát khởi bi của phẩm hạ, trung, thượng không có xen hở.

Do bốn nhân duyên này đối với các chúng sinh, trước khởi tâm bi, đối với những thứ khổ lớn sinh tử mạnh mẽ, nhạy bén không có xen hở, không có thiếu sót trong suốt thời gian dài, những khổ hạnh khó làm còn không có khiếp sợ, huống chi là nổi khổ nhỏ. Nghĩa là tánh của các Bồ-tát tự dũng cảm mạnh mẽ, có sức kham nhẫn là nhân thứ hai.

Có thể đối với Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thành tựu tin hiểu, thanh tịnh phẩm thượng, đó gọi là nhân thứ ba.

Đối với các chúng sinh đã thành tựu tâm xót thương sâu đậm phẩm thượng, đó gọi là nhân thứ tư (như thứ lớp đó giải thích rõ về bốn nhân trên).

Bốn lực: Nghĩa là các Bồ-tát do công sức của mình, có thể sinh tâm yêu thích sâu sắc đối với Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, sinh tâm rất yêu thích, đó gọi là lực thứ nhất. Do công lực của người khác, đối với đại Bồ-đề sinh tâm rất yêu thích, đó gọi là thứ hai. Tập Đại thừa đời trước, tương ưng với pháp lành. Nay, được tạm thời thấy chư Phật, Bồ-tát hoặc tạm thời được nghe khen ngợi, thì có thể nhanh chóng phát tâm Bồ-đề, huống chi ngắm xem thần lực, nghe chánh pháp của Đức Phật kia, đó gọi là thứ ba, gần gũi bậc Thiện sĩ ở trong hiện pháp, lắng nghe chánh pháp, suy nghĩ kỹ, v.v… tu tập pháp lành trong thời gian dài. Do gia hạnh này phát tâm Bồ-đề, đó gọi là lực thứ tư.

Môn thối tâm Bồ-đề có bốn nhân duyên, khiến cho Bồ-tát lui sụt tâm Bồ-đề:

1- Không có chủng tánh.

2- Thuộc về bạn ác.

3- Tâm bi nhỏ, hẹp đối với các chúng sinh.

4- Chịu nỗi khổ lớn sinh tử suốt thời gian dài, khiếp sợ khổ hạnh khó làm.

Thứ ba: Môn biểu thị rõ sự vượt hơn.

Bồ-tát phát tâm đầu tiên một cách vững chắc. Sơ lược có hai pháp lạ rất ít có của thế gian không chung. Hai pháp đó là:

1- Nhiếp thọ các chúng sinh đều làm quyến thuộc.

2- Nhiếp thọ lỗi lầm của quyến thuộc, đối tượng không thể nhiễm.

Nhiếp thọ lỗi lầm của quyến thuộc có hai thứ: Nghĩa là đối với quyến thuộc, lợi ích, tổn giảm, ô nhiễm, trái thuận.

Hai việc như thế, Bồ-tát đều không có: "Phát tâm đầu tiên thật vững chắc, Bồ-tát đối với các chúng sinh phát khởi hai thứ ý ưa thích điều lành vượt hơn.

1- Ý ưa thích lợi ích.

2- Ý ưa thích sự yên vui.

Ý ưa thích lợi ích: Nghĩa là muốn từ các chỗ bất thiện kia, cứu vớt chúng sinh đặt ở chỗ tốt lành. Ý ưa thích sự yên vui, nghĩa là đối với chỗ các chúng sinh nghèo khổ, thiếu thốn, không nơi nương tựa cậy trông. Lìa tâm ô nhiễm, muốn cho đầy đủ mọi thứ an vui, lợi ích, phát tâm Bồ-tát vì cầu Bồ-đề, thuộc về pháp lành, so sánh pháp lành thuộc về tất cả pháp khác, có hai thứ vượt hơn.

1- Nhân.

2- Quả.

Thuộc về pháp lành đều là Vô thượng chánh đẳng Bồ-đề, là nhân năng chứng. Đã chứng Vô thượng là vì quả này, còn trội hơn Nhị thừa, huống chi nhân, quả của tất cả thế gian, phát tâm Bồ-tát có hai thứ phát tâm thắng lợi:

1- Phát tâm đâu tiên xong, tức là chúng sinh tôn trọng ruộng phước; tất cả chúng sinh đều nên cúng dường, cũng làm cha mẹ của tất cả chúng sinh.

2- Phát tâm đầu tiên xong thì sẽ nhiếp thọ phước không có sự não hại. Bồ-tát này đã thành tựu phước không não hại như thế, được sự che chở gấp bội của Luân vương. Do được chủ thể, đối tượng che chở như thế, hoặc ngủ, hoặc thức, hoặc mê loạn, ngất xỉu, v.v... tất cả yêu quái, nhơn, phi nhân v.v... không thể quấy nhiễu, hãm hại. Lại, chuyển thọ sinh khác này, do đối tượng thủ hộ, gồm thâu, gìn giữ phước như thế, nên ít bị bệnh, không bị bệnh, không bị bệnh nặng trong thời gian dài, thường đem lại lợi ích cho chúng sinh, không có nhọc nhằn, không có hao tổn.

Nói rộng sự vượt hơn. Luận Đại Trang Nghiêm quyển 2 chép: "Bồ-tát phát tâm có bốn thứ lớn".

1- Mạnh mẽ lớn: Nghĩa là thệ nguyện rộng, tinh tấn sâu, rất khó làm, thuận theo trong suốt thời gian dài.

2- Phương tiện vĩ đại: Nghĩa là mặc giáp thệ nguyện rộng lớn, thường dùng phương tiện siêng năng, tinh tấn.

3- Lợi ích lớn: Nghĩa là thực hành việc lợi ích cho mình, và người bất cứ lúc nào.

4- Xuất ly vĩ đại: Nghĩa là Vì cầu Vô thượng Bồ-đề. Bồ-tát phát tâm lấy gì làm gốc? Cho đến bị những khó khăn, chướng nạn rốt ráo bình đẳng. Dùng đại bi làm căn bản, dùng lợi ích chúng sinh làm y chỉ; dùng pháp Đại thừa làm đối tượng tín; dùng chủng trí làm đối tượng duyên, vì cầu Đại thừa kia. Dùng dục vượt hơn làm sở thừa, vì mong muốn thừa vô thượng. Dùng che chở lớn làm chỗ an trụ. Vì an trụ giới Bồ-tát; dùng thọ chướng làm nạn, vì khởi tâm thừa khác; dùng việc lành tăng thượng làm công đức; dùng phước, trí làm tự tánh; dùng tu các độ làm ra khỏi; dùng địa mãn làm rốt ráo. Do mỗi địa siêng năng, vận dụng phương tiện, tương ưng với địa kia, từ phát tâm thế tục đầu tiên. Nghĩa là từ địa, tâm, nghe, gìn giữ, giác biết, hiểu mà phát tâm, gọi phát tâm thế tục.

Việc phát tâm này do bốn lực:

1- Do sức bạn mà phát tâm: Nghĩa là được thiện tri thức vì thuận theo.

2- Sức nhân. Hoặc ở đời quá khứ đã có phát tâm làm tánh.

3- Sức căn: hoặc đã từng thật hành gốc lành đầy đủ ở quá khứ.

4- Sức nghe. Hoặc ở mỗi chỗ khi nói pháp, vì vô lượng chúng sinh phát tâm Bồ-đề.

Luận Hiển Dương quyển 2 chép: "Người phát tâm thế tục nghĩa là như có một hạng người hiểu biết, trước cung kính mà trụ, khởi ý tăng thượng, phát thệ nguyện rằng: "Trưởng lão nhớ nghĩ cho, hoặc nói: "Thánh giả nhớ nghĩ cho!", hoặc nói: "ỔBa-Đà-Da! Tôi tên là..., từ ngày hôm nay, bắt đầu phát tâm A-Nậu-Bồ-đề, vì muốn lợi ích các hữu tình. Từ nay trở đi, nguyện sái Ba-la-mật mà ta đã tu; tất cả muôn hạnh, đều vì chứng đắc Vô thượng Bồ-đề. Nay, tôi và các Bồ-tát-ma-ha-tát hòa hợp xuất gia. Nguyện tôn chứng biết cho tôi là Bồ-tát.

Lần thứ hai, thứ ba, cũng nói như thế.

Nghĩa thứ nhất, phát tâm có ba thư vượt hơn:

1- Giáo thọ vượt hơn. Vì gần gũi chánh biến tri.

2- Thuận theo vượt hơn, vì khéo nhóm họp phước trí.

3- Đắc quả vượt vượt hơn. Sinh trí vô phân biệt, nuôi lớn phát tâm này, gọi là địa Hoan hỷ.

Sự vượt hơn này lấy gì làm nhân? Có bốn:

1- Pháp bình đẳng: Vì thông đạt pháp vô ngã.

2- Chúng sinh bình đẳng: Vì đến được mình, người bình đẳng.

3- Việc làm bình đẳng: Vì làm cho người hết khổ, như mình hết khổ.

4- Thể của Phật bình đẳng: Do pháp giới và ta không khác, quyết định có khả năng thông đạt.

Sự phát tâm của nghĩa thứ nhất này, lại có sáu thứ vượt hơn:

1- Vị sinh.

2- Vị nguyện.

3- Mạnh mẽ.

4- Y tịnh.

5- Sự khéo léo khác.

6- Phát ra khác.

Sự sinh vượt hơn có bốn:

1- Hạt giống vượt hơn: Tin pháp Đại thừa làm hạt giống.

2- Mẹ sinh vượt hơn: Vì Bát-nhã Ba-la-mật là mẹ sinh.

3- Tạng thai vượt hơn: Vì dùng thú vui của đại thiền định làm tạng thai.

4- Mẹ nuôi vượt hơn: Vì đại bi nuôi lớn là mẹ nuôi.

Nguyện tức mười đại nguyện, nên y cứ Du-già quyển 45, như dưới đây sẽ nói:

1- Cúng dường cung kính: tất cả chư Phật.

2- Thọ trì tất cả pháp của Phật ba đời.

3- Thuận theo chỗ quay bánh xe pháp của các Như Lai, đều đến cúng dường, lắng nghe chánh pháp

4- Nói về đối tượng thực hành hạnh vượt hơn.

5- Thành thục tất cả hữu tình, như thuyết Bátnhã nói.

6- Biết rõ khí thế giới và giới hữu tình.

7- Nghiêm tịnh tất cả cõi nước của chư Phật.

8- Không rời tất cả Bồ-tát, chư Phật.

9- Đem lại lợi ích cho chúng sinh, cũng như cây thuốc. Ý châu như như, chúng sinh gặp đều có ích. 10-Thuận theo đối tượng lợi sinh, thường không có thôi dứt, chẳng đồng với Nhị thừa, mau chóng nhập Niết-bàn.

Như cúng dường thứ nhất có ba:

1- Tất cả Phật không có thừa.

Cúng dường không có ba thừa: a-Lợi cúng dường: Y phục, v.v… b-Kính cúng dường: Nghĩa là hương, hoa, v.v… c-Tu hành cúng dường: Tu tín, giới, v.v… 3-Cung kính không có thừa, có ba: a-Giúp đỡ, hầu hạ, cung kính. b-Đón tiếp cung kính. c-Tu hành cung kính.

Rộng như luận Thập Địa quyển ba chép: Kinh Thập Địa lại dùng mười câu tận, thành các nguyện lớn, mười nguyện lớn đó là:

1- Giới chúng sinh cùng tận. Nghĩa là tất cả sinh sinh.

2- Thế giới cùng tận. Nghĩa là xứ nào ở giới?

3- Hư không giới tận. Nghĩa là tất cả hư không.

4- Pháp giới tận. Nghĩa là nói: Pháp nào là pháp giáo hóa?.

5- Cõi Niết-bàn tận: thuận theo đối tượng hóa sinh, đặt ở cõi Niết-bàn nào?.

6- Cõi Phật xuất thế tận.

7- Giới của trí Như Lai tận: Dùng phương tiện khéo léo nào? Vì trí Như Lai tận.

8- Cõi, đối tượng duyên tâm tận: thuận theo đối tượng duyên, vì tâm duyên cõi tận.

9- Cảnh giới Phật trí nhập cõi tận. Lại, thuận theo cảnh giới Phật, ở cõi nào? Trí nhập tận.

10- Thế gian xoay bánh xe pháp, trí chuyển cõi cùng tận, có thể thực hành hạnh khó làm, vì không bao giờ lui sụt.

Y tịnh: Nương hai lợi sinh:

1- Biết mình gần Bồ-tát.

2- Biết phương tiện lợi tha, nên dùng phương tiện khéo léo, vượt hơn, vì được tiến tới phương tiện của địa trên.

Xuất ly vượt hơn. Khéo tư duy trụ trong các địa, vì đã kiến lập pháp.

Thứ tư: Môn thí dụ khen ngợi.

Kệ phát tâm dụ rằng:

Như đất, như vàng sạch
Như trắng, như thêm lửa
Như kho tàng, như rương báu
Như biển, như kim cương
Như núi, như vua thuốc
Như bạn, như như ý
Như mặt trời, đẹp vui
Như vua, như kho lẫm
Như đường, như xe cộ
Như suối, như tiếng vui
Như dòng chảy như mây
Dù phát tâm như thế.

Thí dụ như đất: Phát tâm đầu tiên cũng giống như thế, vì tất cả pháp Phật năng sinh ra, giữ gìn.

Thí như vàng sạch. Nghĩa là dựa vào tương ưng, phát tâm cũng giống như thế, vì lợi ích, yên vui không lui sụt.

Ví như trăng mới, tương ưng với siêng năng, phát tâm như thế, vì tất cả pháp lành tăng thêm dần dần.

Ví như thêm lửa, rất y chỉ tương ưng, phát tâm như thế thêm củi, lửa cháy hừng hực, vì chứa hạnh y chỉ cùng cực.

Ví như kho tàng vĩ đại, tương ưng với đàn Ba-la-mật. Phát tâm cũng giống như thế, dùng của cấp cho khắp, cũng không hết.

Ví như rương báu, tương ưng với thi-la, phát tâm cũng giống như thế, vì công đức pháp bảo từ giới kia sinh.

Ví như biển cả, tương ưng với Nhẫn ba-la-mật. Phát tâm cũng giống như thế, đối với người đến gây trái nghịch, tâm không giao động.

Ví như kim cương, tương ưng với tinh tấn, phát tâm cũng giống như thế, mạnh mẽ bền chắc, vì không thể hủy hoại.

Ví như núi chúa, tương ưng với Thiền-ba-lamật, phát tâm cũng giống như thế, vật không thể làm nghiêng động, không tán loạn.

Ví như vua thuốc, tương ưng với Bát-nhã, phát tâm cũng giống như thế, hai bệnh hoặc, trí thuốc này có thể phá tan.

Ví như bạn lành, tương ưng với Vô lượng, phát tâm cũng giống như thế, không bỏ chúng sinh bất cứ lúc nào.

Ví như như ý, tương ưng với thần thông. Phát tâm cũng giống như thế, tùy ý muốn, vì hiện có thể thành tựu.

Ví như mặt trời rực rỡ, tương ưng với sự nhiếp thọ. Phát tâm cũng giống như thế, như mặt trời làm lúa chín, thành thục chúng sinh.

Ví như vui đẹp, tương ưng với nhân biệt, phát tâm cũng giống như thế, nói pháp, giáo hóa, nhiếp thọ chúng sinh.

Ví như nhà vua, tương ưng với lượng, phát tâm cũng giống như thế, luôn vì chánh đạo, nhân không hư hoại.

Ví như kho lẫm, tương ưng với nhóm, phát tâm cũng giống như thế, đối tượng nhóm của phát tài, phước, trí.

Ví như đường sá, tương ưng với phần giác, phát tâm cũng giống như thế, đại Thánh đi trước, người khác đi theo sau.

Ví như xe chuyên chở, tương ưng với chỉ quán, phát tâm cũng giống như thế, hai luân đầy đủ, bỏ đi yên vui.

Ví như suối vọt lên, tương ưng với tổng trì, phát tâm cũng giống như thế, người nghe dù nhiều, nhưng pháp vô tận.

Ví như tiếng mừng, tương ưng với pháp ấn, phát tâm cũng như thế, người cầu giải thoát, rất ưa nghe.

Ví như dòng sông, tương ưng với tự tánh, phát tâm cũng giống như thế, đạo Vô sinh nhẫn, tự nhiên chảy đi, không hề tác ý.

Ví như mây lớn, tương ưng với phương tiện thành tựu thế gian, phát tâm cũng giống như thế, thị hiện tám tướng thành đạo, hóa độ chúng sinh. Như kinh Vô Tận Ý có ba mươi hai ví dụ, Bồ Tát có bốn thú vui.

1- Suy nghĩ lợi ích yên vui, nghĩa là khi suy nghĩ đem lại lợi ích cho người khác.

2- Vui được phương tiện là đến lúc được phương tiện mầu nhiệm.

3- Vui hiểu nghĩa là Khi hiểu rõ ý của Đại thừa. 4-Vui chứng thật là Khi chứng nhập pháp vô ngã. Nếu người nào lìa bỏ chúng sinh, thu hướng Niết bàn, thì biết người đó không được bốn thú vui như thế của Bồ-tát (đây là nói lỗi không phát tâm Bồ-tát).

Tiếp theo nói về khen ngợi người phát tâm: Nếu Bồ-tát đầu tiên phát tâm Đại Bồ-đề, thì lúc bấy giờ sẽ nương vào vô biên chúng sinh, liền được che chở tốt đẹp, không tạo ra các việc ác. Vì người bạn lành này là người đã xa lìa nỗi lo sợ lui sụt đường ác. Lại nữa, vì có thêm bạn lành, nên đối lạc, thường vui. Vì có bi tăng thêm, nên đối với nỗi khổ, thường vui mừng, vì sự tăng thêm này nên người này đã xa lìa nỗi sợ lui mất đường lành. Do đây phát tâm được che chở, không tạo tác, nghĩa là hay khéo che chở, không gây ra các điều ác). Kệ rằng:

Yêu người khác hơn yêu mình
Quên mình, làm lợi chúng sinh
Không vì mình, ghét người khác
Đâu có gây nghiệp bất thiện.

Bồ-tát yêu thương người khác hơn yêu thương mình, vì thế, nên quên thân mạng mình, mà đem lại lợi ích cho người, không vì lợi mình mà làm tổn hại người. Do đây, nên có thể đối với các chúng sinh, dứt các nghiệp ác, được không lui sụt. Bồ-tát dùng công đức của mình mà để tự trang nghiêm. Dùng lợi ích cho chúng sinh, tâm vui mừng làm thức ăn cho mình, lấy tác ý chỗ sinh làm đất vườn, dùng thần thông biến hóa làm vui mừng.

Bốn việc như thế chỉ Bồ-tát có; người Nhị thừa không có. Đã có bốn việc như thế, thì làm sao lui sụt? Tiếp theo, ngăn chận tư duy tâm khổ. Bồ-tát đã dùng đại bi làm thể, cho nên, rất siêng năng lợi tha cho dù phải vào địa ngục A-tỳ, cũng như đến chỗ vui chơi.

Bồ-tát như thế đối với nỗi khổ khác, đâu sinh sợ hãi? Vì sự sợ hãi này mà tâm lui sụt ư?

Các Bồ-tát dùng đại bi xà-lê thường ở trong tâm. Nếu thấy chúng sinh chịu khổ tức tự sinh khổ. Do đạo lý này tự nhiên nên tạo tác, nếu đợi bạn lành khuyến phát, thì sẽ cảm thấy vô vùng hổ thẹn". Kệ rằng:

Gánh vác gánh nặng chúng sinh
Lười biếng xấu, không phải hơn
Vì muốn cởi ràng buộc cho người
Tinh tấn đáp lại gấp trăm lần.

Bồ-tát để tâm gánh vác việc nặng của chúng sinh, nếu cách xa, thong thả, thì đây là việc xấu xa, chẳng phải đầu mối thứ nhất, sửa đổi chúng sinh. Bồ-tát nên suy nghĩ, hoặc mình, hoặc người bị các thứ ràng buộc khốn gấp, hoặc nghiệp sinh khởi. Vì cởi mở sự ràng buộc này, nên phải tinh tấn gấp trăm lần, vượt qua Thinh văn, Độc giác kia, làm những việc nên làm.

Tiếp theo nói thuận theo thực hành hạnh lợi mình, lợi người có sáu đại:

Y chỉ đại: Y chỉ đại Bồ-đề mà phát tâm.

Hạnh đại: Vì lợi mình, lợi người mà phát hạnh.

Quả đại: Nay được vô thượng Đại Bồ-đề.

Nhận lấy đại: Lúc phát tâm đầu tiên vì gồm thâu tất cả chúng sinh.

Nhẫn đại: Khi phát hạnh, vì nhẫn chịu tất cả nỗi khổ lớn.

Nghĩa đại: Khi đắc quả, rộng làm lợi ích tất cả chúng sinh, là nghiệp thành tựu. Lại, có bốn đại:

1- Đại xuất ly vượt hơn: Đối với ba hữu, trong năm cõi mà xuất ly vượt hơn.

2- Đại tĩnh lặng: Tùy thuận hướng Niết-bàn Vô trụ xứ.

3- Đại công đức: Vì hai nhóm phước, trí thêm lớn.

4- Đại lợi vật: Thường y chỉ đại bi, không bỏ chúng sinh.

Y cứ vào phát tâm Bồ-đề để biện luận lý ban đầu; khen khuyên phát tâm nói các công đức, đã tu hạnh vượt hơn, có thể có lợi ích đối trị. Khen ngợi Phật, Bồ-tát, và các thứ công đức của Pháp, Tăng, khiến người kia phát tâm rằng: "Chư Phật tử! Nếu đệ tử Phật thọ trì lời Phật nói thì sẽ vì chúng sinh giảng nói pháp, nên trước khen ngợi công Đức Phật, chúng sinh nghe xong sẽ phát tâm, cầu trí tuệ Phật, vì phát tâm nên hạt giống Phật không mất. Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, niệm Phật, niệm pháp. Lại niệm Như Lai, khi thực hành đạo Bồ-tát, vì cầu pháp nên chịu sự siêng năng khổ nhọc. Ý này nên nghĩ ơn Phật, siêng năng khổ nhọc, cầu pháp vì chúng ta. Nay, nên như thế, vì trả ơn Phật, tùy thích ứng nói cho người nghe khiến họ phát tâm tu hạnh Bồ-tát, do niệm như thế, vì Bồ-tát nói pháp dù chỉ một bài kệ. Bồ-tát được nghe pháp này thị hiện giáo hóa tâm vui mừng khi đem lại lợi ích cho chúng sinh, sẽ gieo trồng gốc lành, tu tập Phật pháp, được Vô thượng Bồ-đề. Vì dứt được vô lượng các khổ não sinh tử vô thỉ của chúng sinh.

Vì muốn thành tựu vô lượng thân tâm tinh tấn, phát sâu nguyện lớn, thực hành phương tiện lớn, khởi đại từ bi, cầu trí tuệ lớn, cho đến Như Lai Vô Kiến đảnh tướng, cầu pháp đại thừa của chư Phật như thế, v.v… phải biết vì vô lượng pháp, nên quả báo phước đức cũng vô lượng.

Thứ Năm: Môn khuyến phát tâm hơn, kém, nặng, rộng.

Kế là nói phát tâm hơn kém rằng: "Như Lai nói: "Như các Bồ-tát phát tâm đầu tiên, quả báo phước đức của một niệm thấp kém, trăm ngàn muôn kiếp nói không thể hết, huống chi là một ngày, một tháng, một năm, cho đến trăm năm, đã tu tập quả báo phước đức của các tâm, đâu thể nói hết. Vì sao? Vì công hạnh của Bồ-tát vô tận muốn cho tất cả chúng sinh đều trụ pháp nhẫn Vô sinh, được Vô thượng Bồ-đề.

Kế là nêu dụ nhằm làm sáng tỏ sự vượt hơn rằng: "Các Phật tử! Bồ-tát đầu tiên mới phát tâm Bồ-đề, vì như biển cả lúc đầu tiên nổi sóng dần dần, phải biết đều vì giá trị phẩm hạ, trung, thượng, cho đến không có trị giá viên ngọc báu như ý, tạo ra chỗ cư trú ngọc báu này đều từ biển cả mà sinh. Bồ-tát phát tâm cũng giống như thế, là chỗ sinh ra công đức của tất cả thiền định, trí tuệ của người Ba thừa".

Lại nữa, như Tam thiên Đại thiên thế giới, lúc đầu tiên khởi dần, phải biết ấy là Hai mươi lăm hữu, trong đó có tất cả chúng sinh, đều gánh vác, làm ra chỗ y chỉ Bồ-tát cũng vậy, lúc đầu tiên khởi dần, khắp vì tất cả vô lượng chúng sinh, cái gọi là sáu đường, bốn sinh, chánh kiến, tà kiến, tu thiện, làm ác, giữ giới, phá giới, tôn trọng kính thờ Tam bảo, chê bai chánh pháp, các ma, ngoại đạo, Samôn, Phạm chí, cho đến bốn họ, tất cả gánh vác làm chỗ y chỉ.

Kế là phát tâm tướng Bồ-đề, dùng đại từ bi làm gốc. Nay nói với Bồ-tát tu từ bi, v.v... nói rộng tu ở hành tưởng sở duyên của từ bi, hỷ, xả, dùng dụ để nói về cảnh giới. Nêu lên đại địa, vi trần, nước biển cả một Tam thiên cho đến mười phương khó biết giới hạn số lượng v.v…

Đã là cõi do sở duyên sinh xa không thể cùng tận. Bồ-tát phát tâm đều có thể che khắp chúng sinh như thế. Thế nào, các Phật tử, tâm Bồ-đề này há có thể hết ư? Nếu có Bồ-tát nào nghe nói như thế, không sợ hãi, không lui, không mất, thì phải biết rằng, Bồ-tát đó chắc chắn có thể phát tâm Bồ-đề. Dù cho khiến vô lượng chư Phật, Như Lai, trong vô lượng kiếp, khen ngợi công đức phát tâm Bồ-đề của Bồ-tát kia, cũng không thể hết. Vì sao? Vì tâm Bồ-đề không có giới hạn.

Kế sẽ nói về nhân duyên phát tâm Bồ-đề rằng: "Nếu các Bồ-tát gần gũi thiện tri thức, cúng dường chư Phật, tu tập gốc lành, chí cầu pháp cao siêu, tâm thường nhu hòa, gặp khổ có thể nhẫn, từ bi, thuần hậu, tâm sâu, bình đẳng, tin ưa Đại thừa, cầu trí tuệ Phật.

Nếu người nào có thể đủ mười pháp như thế thì người đó mới phát được tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề. Vả lại, gần gũi bạn lành có tám việc, bài kệ thứ chín trong luận Đại Trang Nghiêm chép:

Điều, tĩnh, trừ, đức thêm
Hữu dũng, A-hàm giàu
Chân giác khéo nói pháp
Bi sâu lìa lùi bớt.

Bài kệ này nói gần bạn lành nhất, dựa vào sự gần gũi bạn lành, đầy đủ mười thứ công đức, nên có thể gần gũi, mười công đức đó là:

1- Điều phục: tương ưng với giới, vì điều phục các căn.

2- Vắng lặng: tương ưng với định, do nhiếp thọ bên trong.

3- Trừ hoặc: Tín, niệm tương ưng với tuệ, vì dứt trừ phiền não.

4- Đức tăng. Nghĩa là giới, định, tuệ đầy đủ không thiếu giảm.

5- Hữu dũng. Nghĩa là vì khi đem lại lợi ích cho người không mệt mỏi.

6- Kinh giàu được học rộng.

7- Chân giác. Nghĩa là hiểu rõ thật nghĩa.

8- Khéo nói. Vì không điên đảo.

9- Bi sâu. Vì dứt hy vọng.

10- Lìa thối lui: trong tất cả thời đều cung kính nói (Đây là tướng bạn lành nên gần gũi).

Hai/ vật gần gũi có ba:

1- Của: nghĩa là cung kính cúng dường.

2- Thân: nghĩa là thuận theo, giúp đỡ hầu hạ.

3- Tâm: nghĩa là khi giúp đỡ, hầu hạ, thân, tâm tương ưng.

Ba/ duyên khởi gần gũi bạn lành có ba:

1- Nguyện ưa thích.

2- Biết thời lượng.

3- Dứt trừ ngạo mạn.

Bốn/ Hồi hướng gần gũi, không vì tham lam, vướng mắc lợi dưỡng, chỉ vì thuận theo tu hành.

Năm/ nhân gần gũi, như đối tượng giáo thọ tùy thuận, tu hành là nhân gần gũi. Vì sao? Vì tùy thuận này khiến cho bạn lành kia vì tâm sinh hoan hỷ.

Sáu/ gần gũi người trí: vì khéo hiểu ba thừa, tự thừa, khiến cho thành.

Bảy/ do gần gũi bạn lành. Nghĩa là trang nghiêm Tịnh độ. Sao gọi là ruộng? Dùng pháp mà mình đã nghe đối với chúng sinh, nối nhau mà kiến lập, vì thuận theo ở cõi nước Phật tu nhân thanh tịnh.

Tám y chỉ gần gũi. Chỉ dùng pháp lợi đầy đủ làm y chỉ, cho nên, gần gũi bạn lành không dùng của, lợi đầy đủ làm y chỉ.

Sự khác nhau của gần gũi bạn lành có sáu:

1- Sự khác nhau về nhân quả. Nghĩa là gần gũi quá khứ làm nhân, hiện tại làm quả, hiện tại làm quả, vị lai làm nhân.

2- Sự khác nhau của pháp tùy thuận: nghĩa là pháp môn mà thiện tri thức đã nói, vì thuận theo sự khác nhau của pháp môn đó mà tu hành.

3- Sự khác nhau giữa trong, ngoài. Tự gần gũi là trong, bảo người khác gần gũi là ngoài.

4- Sự khác nhau giữa thô, tế. Tự nghe là thô; tư duy trong tâm là tế.

5- Sự khác nhau giữa vượt hơn, thua kém. Có gần gũi ngạo mạn là thua kém; không gần gũi ngạo mạn là vượt hơn.

6- Sự khác nhau giữa xa, gần. Cõi hiện là gần, gần gũi sinh báo là xa.

Sinh báo, hậu báo, đời không có cách nhau gần, xa, như thứ lớp.

Sao gọi là gần gũi hơn hết? Có năm:

1- Tín tịnh. Vì ở chỗ gần gũi sinh niềm tin tịnh.

2- Tâm sâu sắc.

Trong tâm này có chín:

1- Tâm vị

2- Tâm tùy hỷ

3- Tâm hy vọng

4- Tâm không nhàm chán

5- Tâm rộng lớn

6- Tâm hoan hỷ vượt hơn

7- Tâm thắng lợi

8- Tâm vô nhiễm

9- Tâm thiện tịnh

- Thần thông. Nghĩa là y chỉ các tam-muội như Hư không tạng, v.v... mà gần gũi.

- Phương tiện: Nghĩa là y chỉ thuộc về trí Vô phân biệt.

- Hòa hợp. Nghĩa là Đại Bồ-tát dùng một quả nhập tất cả quả (mười thứ hạnh kia, mỗi một hạnh nên nói)

Lại có bốn duyên:

1-Tư duy chư Phật, phát tâm Bồ-đề.

Lại có năm thứ:

1. Suy nghĩ chư Phật ba đời mười phương, đầu tiên mới phát tâm, có đủ tánh phiền não cũng như ta nay, cuối cùng thành Chánh giác, là đấng Vô thượng. Vì duyên này nên phát tâm Bồ-đề.

2. Suy nghĩ chư Phật ba đời phát tâm mạnh mẽ rộng lớn đều được Vô thượng Bồ-đề. Nếu Bồ-đề này mà được pháp, thì lẽ ra ta cũng được, vì duyên này nên phát tâm Bồ-đề.

3. Tư duy chư Phật ba đời phát tuệ sáng lớn, ở trong vỏ trứng vô minh, kiến lập tâm vượt hơn, chứa nhóm khổ hạnh, đều có thể tự cứu mình vượt ra khỏi ba cõi, ta cũng như thế sẽ tự cứu giúp vì duyên sự này.

4. Suy nghĩ chư Phật ba đời là người hùng trong loài người, đều vượt qua biển cả phiền não sinh tử, ta cũng là trượng phu, cũng sẽ có thể vượt qua, vì việc này nên phát tâm Bồ-đề.

5. Suy nghĩ chư Phật ba đời phát đại tinh tấn, đã bỏ thân mạng, tài sản để cầu trí nhất thiết. Nay ta cũng sẽ thuận theo bắt chước chư Phật, vì duyên sự này nên quán tai hại lỗi lầm của thân, phát tâm Bồ-đề.

Lại có năm thứ:

1- Tự quán thân ta: năm ấm, bốn đại đều có thể gây ra vô lượng nghiệp ác, vì muốn lìa bỏ.

2- Tự quán thân ta, chín lỗ thường chảy, hôi hám, nhơ nhớp bất tịnh, sinh tâm nhàm chán xa lìa.

3- Tự quán thân ta có tham, giận, si, vô lượng phiền não đốt cháy tâm lành, vì muốn dứt trừ.

4- Tự quán thân ta như chùm bọt nổi trên mặt nước, niệm niệm sinh diệt, là pháp đáng xả bỏ, vì đáng xả bỏ.

5- Tự quán thân ta đã bị vô minh che lấp, thường gây ra nghiệp ác luân hồi năm đường, vì không có lợi ích nên cầu quả vượt hơn, phát tâm Bồ-đề. Lại, có năm việc:

1- Thấy các tướng tốt của Như Lai, trang nghiêm sáng chói, nếu ai gặp Như Lai, thì chắc chắn sẽ dứt trừ phiền não, tu tập.

2- Thấy pháp thân của các Đức Như Lai thường trụ, thanh tịnh, không ô nhiễm, tu tập.

3- Thấy các Như Lai có tu pháp của giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến thanh tịnh.

4- Thấy các Như Lai có mười lực, bốn vô úy, đại bi, ba niệm, tu tập.

5- Thấy các Như Lai có trí Nhất thiết, thương xót chúng sinh; từ bi che khắp, có thể vì tất cả ngu mê chánh đạo, vì tu tập, vì thương xót chúng sinh nên phát tâm Bồ-đề. Lại có năm việc:

1- Thấy các chúng sinh bị triền vô minh ràng buộc.

Thấy các chúng sinh bị ràng buộc bởi mọi nỗi khổ. 3-Thấy các chúng sinh nhóm họp nghiệp bất thiện.

4- Thấy các chúng sinh tạo tội ác rất nặng.

5- Thấy các chúng sinh không tu chánh pháp, bị vô minh ràng buộc.

Lại có bốn việc:

1- Thấy các chúng sinh vì bị mê hoặc bởi si, ái, nên cảm chịu nỗi khổ dữ dội.

2- Thấy các chúng sinh không tin nhân quả, tạo tác nghiệp ác. 3-Thấy các chúng sinh lìa bỏ chánh pháp, tin nhận pháp tà.

4-Thấy các chúng sinh đang chìm trong sông phiền não. Bốn dòng chảy bị trôi nổi ràng buộc bởi mọi nỗi khổ.

Lại có bốn việc:

1- Thấy các chúng sinh sợ sinh, già, bệnh, chết, không cầu giải thoát mà lại tạo nghiệp.

2- Thấy các chúng sinh lo buồn khổ não, không giác ngộ phương tiện, nhiễm ô vướng mắc.

3- Thấy các chúng sinh bị khổ ái biệt ly, mà không giác ngộ phương tiện, nhiễm ô vướng mắc.

4- Thấy các chúng sinh khổ vì oán ghét gặp nhau, thường khởi ngờ vực ganh tị, lại tạo tác nghiệp ác bất thiện.

Lại có bốn việc:

1- Thấy các chúng sinh vì ái dục, nên gây ra các điều ác.

2- Thấy các chúng sinh biết dục sinh khổ mà không bỏ dục.

3- Thấy các chúng sinh dù muốn cầu thú vui, nhưng không thọ cụ giới.

4- Thấy các chúng sinh dù không ưa khổ, nhưng lại tạo ta nỗi khổ, không dứt tạo ác.

Lại có bốn việc:

1- Chúng sinh hủy phạm trọng giới, mặc dù lo sợ, nhưng cũng vẫn buông lung.

2- Thấy các chúng sinh gây tạo tội cực ác, chịu khổ vô gián, hung bạo ngu xuẩn, che giấu không hổ thẹn.

3- Thấy các chúng sinh chê bai hủy báng Đại thừa, chánh pháp Phương đẳng, chỉ theo ngu chấp của mình, nên khởi kiêu hãnh, ngạo mạn.

4- Thấy các chúng sinh dù mang tiếng thông thái, hiền triết mà cắt đứt gốc lành. Trái lại, tự cao, tự đại, không hề hối cải, không tu chánh pháp.

Lai có bốn việc:

1- Thấy các chúng sinh, sinh ở chỗ tám nạn, không nghe chánh pháp, không biết tu điều lành.

2- Thấy các chúng sinh gặp Phật ra đời, nghe nói chánh pháp, không thể vâng giữ.

3- Thấy các chúng sinh tập nhiễm các khổ của ngoại đạo, nghiệp do thân tu, không bao giờ ra khỏi.

Thấy các chúng sinh tu được định Phi tưởng phi phi tưởng cho là Niết-bàn. Khi quả báo lành đã hết, sẽ lại rơi vào ba đường.

Bồ-tát nhận thấy các chúng sinh vì vô minh che lấp nên gây tạo nghiệp ác, phải chịu hậu quả khổ đau suốt đêm dài, xa lìa chánh pháp, mê muội lạc đường.

Vì các chúng sinh này, nên Bồ-tát phát đại từ bi, chí cầu Bồ-đề như chữa lửa cháy đầu. Tất cả chúng sinh bị khổ não, ta sẽ cứu vớt sao cho không còn thừa.

Này các Phật tử! Nay ta lược nói đầu tiên thực hành duyên sự phát tâm Bồ-tát.

Thứ Sáu: Môn lập thệ phát nguyện.

Về lập thệ phát nguyện, Bồ-tát làm sao phát thú Bồ-đề? Phải thực hành nghiệp nào để thành tựu Bồ-đề?

Phát tâm Bồ-tát trụ địa Càn Tuệ, trước phải phát chánh nguyện bền chắc, nhiếp thọ tất cả vô lượng chúng sinh. Ta cầu Vô thượng Bồ-đề, nhằm cứu hộ, độ thoát họ, sao cho không còn thừa, đều khiến cho cuối cùng được Niết-bàn vô dư. Cho nên, lúc bắt đầu phát tâm đại bi là hàng đầu. Vì do tâm bi, nên có thể phát sinh chuyển vận vượt hơn mười chánh nguyện lớn, mười chánh nguyện ấy là:

1- Nguyện đời trước của ta, kể cả thân hiện nay đã gieo trồng gốc lành, bố thí cho tất cả, đều hồi hướng Vô thượng Bồ-đề, sao cho nguyện này của ta niệm niệm thêm lớn, đời đời không quên, vì được Đà-la-ni che chở.

2- Nguyện ta Hồi hướng Đại Bồ-đề rồi, nhờ gốc lành này nên ở tất cả chỗ sinh, thường được cúng dường tất cả chư Phật, thường không sinh vào cõi nước không có Phật.

3- Nguyện ta được sinh về cõi nước chư Phật rồi, thường được gần gũi, thuận theo hầu hạ gần bên như bóng theo hình, không có khoảng sát-na nào, xa lìa chư Phật.

4- Nguyện ta được gần Phật rồi, thuận theo đối tượng thích ứng nói pháp cho ta nghe, tức được thành tựu năm thông của Bồ-tát.

5- Nguyện được thần thông rồi, liền đạt thế đế, giả gọi là lưu truyền khắp, hiểu rõ đệ nhất nghĩa, được trí chánh pháp.

6- Nguyện ta được trí chánh pháp rồi, do tâm không nhàm chán, nói pháp cho chúng sinh nghe, thị hiện giáo pháp lợi ích, hoan hỷ, đều khiến khai mở.

7- Nguyện ta khai mở các chúng sinh rồi, nhờ năng lực thần thông của Phật, đến khắp các thế giới ở mười phương không sót, cúng dường chư Phật. Lắng nghe, thọ nhận chánh pháp, nhiếp thọ rộng lớn.

8- Nguyện ở chỗ Phật nghe pháp rồi thì có khả năng xoay bất cứ một bánh xe chánh pháp thanh tịnh nào. Tất cả chúng sinh ở các thế giới trong mười phương, nghe pháp ta, tên ta, liền được lìa bỏ tất cả phiền não, phát tâm Bồ-đề.

9- Nguyện ta có khả năng khiến cho tất cả chúng sinh phát tâm Bồ-đề rồi, thường thuận theo che chở, bỏ việc không lợi ích, cho niềm vui vô lượng, xả thân mạng, của cải, nhiếp thọ chúng sinh, gánh vác chánh pháp.

10- Nguyện ta có thể gánh vác chánh pháp rồi, dù thực hành chánh pháp, nhưng tâm không có thực hành, như các Bồ-tát thực hành chánh pháp mà không có thật hành, cũng không có chẳng thực hành. Vì hóa độ chúng sinh, nên không xả chánh nguyện.

Kế là lập thệ quyết định, có năm sự trì:

1- Giữ vững được tâm mình.

2- Điều phục được phiền não.

3- Ngăn chặn được buông lung.

4- Phá tan năm cái.

5- Siêng năng tu hành sáu Ba-la-mật.

Thế nào là lập thệ? Nếu có người đến cầu xin các thứ, lúc ấy ta sẽ tùy thuộc cái ta có mà có thí cho, cho đến không sinh một ý niệm keo kiệt. Nếu sinh tâm ác như trong khoảng thời gian búng ngón tay, do nhân duyên thí cho, cầu báo thanh tịnh, thì tức là ta đã lừa dối vô lượng chư Phật trong các thế giới ở mười phương, ở đời vị lai chắc chắn cũng sẽ không thành Vô thượng Bồ-đề. Nếu ta giữ giới cho đến mất mạng, kiến lập tâm tịnh, thề không có ăn năn. Nếu ta tu nhẫn, vì người khác xâm hại cho đến cắt đứt thân mạng, thường sinh tâm từ, thề không tức giận, gây trở ngại. Nếu tu tinh tấn, gặp rét nóng, vua, giặc, nước, lửa, sư tử, cọp, sói, chỗ không có nước, lúa, chủ yếu, tất nhiên thề bền chắc không lui mất. Nếu ta tu thiền vì xúc não sự ngoài, không được nhiếp tâm, chủ yếu là cảnh buộc niệm, thề không tạm khởi tưởng rối loạn phi pháp.

Nếu tu trí tuệ thì quán tất cả pháp, thật tánh chân như thuận theo thọ trì, đối với pháp thiện, bất thiện, hữu vi, vô vi, sinh tử, Niết-bàn không khởi hai kiến.

Nếu tâm ta ăn năn, giận dữ, chướng ngại, lui mất, tưởng rối loạn, khởi lên hai kiến, như trong khoảnh khắc búng ngón tay mà dùng giới nhẫn, tinh tấn, thiền định, trí tuệ để cầu quả báo thanh tịnh ấy thì tức là ta đã lừa dối vô lượng vô biên Atăng-kỳ chư Phật hiện tại trong các thế giới ở mười phương, đời vị lai sẽ không chứng Bô đề.

Bồ-tát dùng mười nguyện lớn giữ gìn chánh pháp hạnh, dùng sáu lời thề rộng lớn chế phục tâm buông lung, tất nhiên có thể tinh tấn tu tập sáu Ba-la-mật, thành Vô thượng Bồ-đề.

Du-già quyển 45 chép: "Có năm đại nguyện và mười đại nguyện, năm nguyện là:

1- Nguyện phát tâm

2- Nguyện thọ sinh

3- Nguyện đã thực hành 4-Chánh nguyện 5-Đại nguyện.

Nếu các Bồ-tát đối với Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, phát tâm đầu tiên, gọi là phát tâm nguyện.

Nếu các Bồ-tát nguyện ở đời đương lai, sẽ vãng sinh thuận theo lợi ích hữu tình. Trong các cõi lành gọi là nguyện thọ sinh.

Nếu các Bồ-tát nguyện có thể không có nguyện của suy nghĩ lựa chọn trái ngược với các pháp, thì tu vô lượng pháp lành cao siêu đối với cảnh giới, gọi là đã thực hành.

Nếu các Bồ-tát nguyện ở đương lai sẽ nhiếp thọ tất cả pháp lành của Bồ-tát, nhiếp thọ tất cả công đức sở hữu gọi là chánh nguyện.

Đại nguyện của Bồ-tát nên biết là xuất phát từ chánh nguyện, mười nguyện lớn là:

Nếu các Bồ-tát nguyện ở đương lai, dùng tất cả các thứ vật cúng thượng diệu để cúng dường vô lượng, vô biên Như Lai, gọi là nguyện thứ nhất.

Nếu các Bồ-tát (Lời nói này truyền đến mười thứ)

Nguyện ở đương lai, sẽ nhiếp thọ giữ gìn chánh pháp của chư Phật, truyền giữ pháp nhãn, không để hư hoại, gọi là nguyện thứ hai.

Nguyện ở đương lai, từ cung trời Đổ-Sử-Đa giáng xuống, như trước đã nói, cho đến nhập Niếtbàn, gọi là nguyện thứ ba.

Nguyện ở đương lai, sẽ thực hành tất cả các thứ chánh hạnh của Bồ-tát gọi là nguyện thứ tư.

Nguyện ở đương lai, sẽ thành thục khắp tất cả hữu tình, gọi là nguyện thứ năm.

Nguyện ở đương lai, tất cả thế giới đều có thể thị hiện, gọi là nguyện thứ sáu.

Nguyện ở đương lai, sẽ tịnh tu khắp tất cả cõi nước Phật, gọi là nguyện thứ bảy.

Nguyện ở đương lai, tất cả Bồ-tát đồng một thứ gia hạnh, ý ưa thích, thu nhập Đại thừa gọi là nguyện thứ tám.

Nguyện ở đương lai, tất cả gia hạnh không có trái ngược, đều không có vô ích, gọi là nguyện thứ chín.

Nguyện ở đương lai, mau chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, gọi là nguyện thứ mười.

Du-già quyển 47 chép: "Do được thanh tịnh vì ý ưa thích vượt hơn. Vì muốn cúng dường hơn hết Pháp vương Đại sư ruộng phước chân thật của hữu tình. Cho nên, dẫn phát đại nguyện thứ nhất".

Vì muốn thọ trì, nên Bồ-tát kia đã giảng nói chánh pháp Vô thượng. Cho nên dẫn phát đại nguyện thứ hai.

Vì muốn thỉnh chuyển bánh xe chánh pháp mầu nhiệm chưa từng có. Cho nên dẫn phát đại nguyện thứ ba.

Vì muốn thuận theo chánh pháp kia, để thực hành công hạnh của Bồ-tát, cho nên dẫn phát đại nguyện thứ tư.

Vì muốn thành thục hữu tình, khí thế gian kia, cho nên dẫn phát đại nguyện thứ năm.

Vì muốn cũng sinh về cõi nước chư Phật, tận mặt thấy Như Lai, hầu hạ cúng dường, nghe nhận chánh pháp. Cho nên dẫn phát đại nguyện thứ sáu. Vì tịnh tu trị cõi nước Phật, cho nên dẫn phát đại nguyện thứ bảy.

Vì đối với tất cả ở chỗ đã sinh, thường không xa lìa chư Phật, Bồ-tát, với các Bồ-tát, thường đồng một vị gia hạnh ý ưa thích, cho nên dẫn phát đại nguyện thứ tám.

Thường vì lợi ích tất cả hữu tình, không hề luống qua, cho nên dẫn phát đại nguyện thứ chín.

Vì chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm các Phật sự, cho nên dẫn phát đại nguyện thứ mười.

Thứ Bảy: Môn nói về phát tâm và thương xót:

Luận Văn-thù-sư-lợi Vấn Bồ-đề Tâm rằng:

"Có mười thứ phát:

1- Phát thân: Vì muốn cho thân nghiệp của chúng sinh được thanh tịnh.

2- Phát miệng: Vì muốn cho nghiệp miệng của chúng sinh được thanh tịnh.

3- Phát ý: Vì muốn cho ý nghiệp của chúng sinh được thanh tịnh. (Luận giải thích: Vì xa lìa tất cả hành vi ác của nghiệp: thân, miệng, ý, nên gọi là phát đại tinh tấn)

4- Phát trong: Vì phân biệt tất cả chúng sinh một cách không luống dối (Luận chép: Vì hóa độ tất cả chúng sinh, khiến học xứ kia phân biệt không giả dối, vì không vướng mắc các pháp).

5- Phát ngoài: Vì thực hành bình đẳng đối với tất cả chúng sinh (Luận chép: Vì xa lìa yêu ghét).

6- Phát trí: Vì đầy đủ trí Phật thanh tịnh (Luận chép: Vì bình đẳng giáo hóa tất cả chúng sinh).

7- Phát cõi nước thanh tịnh (Vì thị hiện công đức trang nghiêm cõi nước của tất cả chư Phật (Luận chép: Dùng biết tâm như thật, ấy là thuận theo tương ưng nói pháp).

Mười phát tâm đầy đủ, trí vô vi: Vì không chấp mắc ba cõi (Luận chép: Vì pháp chứng thật không chấp mắc ba cõi, lại vì pháp lìa giả dối).

Luận Du-già quyển 72 chép: "Có mười phát tâm: Nghĩa là phát tâm thọ thế tục; được phát tâm pháp tánh; phát tâm không quyết định; phát tâm quyết định; phát tâm không thanh tịnh; phát tâm thanh tịnh; phát tâm yếu kém; phát tâm mạnh mẽ, phát tâm chưa thành quả; phát tâm đã thành quả, chưa nhập tánh ly sinh gọi là phát thế tục; đã nhập chánh tánh ly sinh, được gọi là phát tâm pháp tánh. Đã xa lìa gần, gọi là phát tâm không quyết định. Trái với tướng này, gọi là phát tâm quyết định. Tùy thuộc người khác chuyển; hoặc bị lấn hiếp, ép ngặt; hoặc sợ; hoặc lừa dối; hoặc vì lợi dưỡng".

Các lối phát tâm trên đây được gọi là không thanh tịnh, trái với tướng này gọi là thanh tịnh.

Vì bị khuất phục, che lấp bởi triền tham, giận, si, nên đã bỏ chánh pháp ở nơi tà hạnh, gọi là phát tâm yếu kém, trái lại, gọi là phát tâm mạnh mẽ, nghĩa là thắng giải cho đến Thập địa, gọi là quả chưa thành; nghĩa là địa Như Lai gọi là quả đã thành.

Du-già quyển 47 chép: "Bồ-tát có năm chân thật, tướng Bồ-tát.

Nếu đã thành tựu thì sẽ nằm trong số Bồ-tát. Năm tướng đó là":

1- Thương xót

2- Ái ngữ

3- Mạnh mẽ

4- Duỗi cánh tay tuệ thí

5- Hiểu được nghĩa rất sâu.

Năm tướng này mỗi tướng đều có năm thứ:

1- Tự tánh

2- Chỗ y chỉ

3- Quả lợi ích

4- Thứ lớp

5- Gồm thâu nhau.

Chỗ y chỉ, thương xót, sơ lược có năm thứ:

1- Hữu tình có khổ.

2- Hữu tình có hành vi ác.

3- Hữu tình buông lung.

4- Hữu tình tà hạnh.

5- Hữu tình phiền não.

Ba đường, tám nạn là có khổ. Các bất luật nghi là hành vi ác. Ngắm xem, ưa thích tất cả cảnh giới ô nhiễm, vì buông lung. Dựa vào các kiến giả dối, tu hành các thứ khổ hạnh giải thoát. Đối với người ác nói pháp Tỳ-nại-da mà xuất gia gọi là tà hạnh, phiền não có thể biết. Quả lợi: Đối với các hữu tình, đầu tiên phải dứt oán hại, nghi ngờ, giận hờn. Bồ-tát thương xót khắp tất cả, đối với việc lợi ích cho hữu tình, đều có thể tu tạo, tâm không yếu hèn. Đối với gia hạnh này, không hề có nhàm chán, mỏi mệt, nhiều phần trụ thương xót, có thể gồm thâu không có tội; hiện pháp lạc trụ và lợi ích cho người. Lại như Đức Thế Tôn đã nói: "Do tu từ mà được thắng lợi nghĩa là đối với hiện thân, thuốc độc, dao gậy không hại được, gọi là quả lợi thương xót".

Bảy thương xót v.v… Nghĩa là các Bồ-tát đối với các hữu tình, tâm sâu sắc phát khởi bảy việc thương xót nhau, vì các Bồ-tát xót thương đủ, gọi là ý ưa thích thiện, bảy tướng ấy là: 1-Thương xót vô úy.

2- Thương xót đúng lý

3- Không có mỏi mệt

4- Không có mong cầu

5- Không có ô nhiễm 6-Rộng lớn 7-Bình đẳng.

Nghĩa là các Bồ-tát ở chỗ hữu tình, vì chẳng phải sợ hãi, nên thương xót, hiện hành thuận theo nghiệp thân, ngữ, ý. Thích đáng với tâm họ, lợi ích, yên vui, gọi là thương xót vô úy.

Đối với các hữu tình, không bao giờ dùng phi pháp, phi luật, pháp chẳng phải Hiền thiện, kể cả phi xứ, khuyến khích trao cho hữu tình, gọi là thương xót như lý.

Đối với các hữu tình, thuận theo cơ nghi của chúng phát khởi tất cả sự nghiệp lợi ích, không hề có chán nản, mệt mỏi. Không đợi cầu thỉnh, Bồ-tát tự khởi thương xót; vì tạo ra sự lợi ích, gọi là không có mong cầu.

Tâm không ái nhiễm mà khởi thương xót. Nghĩa là lợi ích cho người, không mong trả ơn, cũng không mong ở đương lai, các quả ái sẽ dị thục, gọi là không có ô nhiễm, nghĩa là đối với tất cả hữu tình, dù gặp phải tất cả việc không lợi ích mà không xả bỏ, tự thân Bồ-tát đâu có cảm thọ phi ái. Sau cùng không dùng dục ái để thêm cho hữu tình kia, nên gọi là rộng lớn.

Khắp đối với tất cả các loại hữu tình, bình đẳng, bình đẳng đối với cõi hữu tình, không có phân chia giới hạn, đây gọi là thương xót bình đẳng.

Bồ-tát tương ưng với bảy thứ hành tướng thương xót, gọi là ý ưa thích tốt đẹp, ý ưa thích rất tốt đẹp.

Luận Du-già quyển 72 chép: "Lại nữa, nếu trong năm chúng hữu tình, lúc khởi tà hạnh, gọi là không có thương xót, không có thở than":

1- Đối với người cầu xin

2- Đối với kẻ đang bị nguy ách

3- Đối với người có ơn 4-Đối với người ưa vui 5-Đối với người ưa pháp.

Cầu xin có năm, bốn việc xin là bốn, năm là cầu cứu hộ nguy ách, cũng có năm:

1- Người thiếu thốn, gian nan

2- Người trong lúc mê loạn

3- Người cầu quy y

4- Người ủy thác nhau

5- Người đến lễ bái, yết kiến.

Người có ơn kia cũng có năm: 1-Mẹ

2- Cha

3- Vợ, con

4- Tôi tớ sai bảo

5- Bạn bè, anh em Ưa vui cũng có năm:

1- Niềm vui mạnh mẽ của sự nghiệp yên vui

2- Không trái với lìa niềm vui

3- Niềm vui xa khổ

4- Vui cởi mở sự mệt mỏi 5-Vui cầu thắng tấn.

Pháp ưa cũng có năm:

1- Ưa nói chánh pháp

2- Ưa thọ trì đọc tụng

3- Ưa biện luận, bàn bạc, quyết trạch 4-Ưa truyền bá, răn dạy 5-Ưa pháp tùy pháp hạnh.

Tà hạnh trong đây, nghĩa là ở trong đây, hoặc gia hạnh tạo tác; hoặc gia hạnh không tạo tác; hoặc gia hạnh không lợi ích; hoặc là gia hạnh trung dung nên biết tướng ấy.

Thứ Tám: Môn nói về tu hành và lui sụt, không lui sụt.

Luận Du-già quyển 46 chép: "Bồ-tát tu Vô thượng Bồ-đề, có năm điều kỳ lạ ít có":

1- Đối với các hữu tình, không có nhân duyên mà sinh thân ái.

2- Chỉ vì lợi ích các hữu tình, nên thường ở trong sinh, tử chịu đựng vô lượng khổ.

3- Đối với hữu tình nhiều phiền não khó chế phục, khéo có thể hiểu rõ phương tiện điều phục.

4- Đối với nghĩa lý chân thật rất khó hiểu, có khả năng thuận theo ngộ nhập.

5- Có năng lực oai thần rộng lớn không thể suy nghĩ, bàn luận. Do năm thứ tướng khắp các hữu tình với tâm bình đẳng:

1- Lần đầu tiên Bồ-tát phát tâm nguyện Đại Bồđề. Như thế, cũng vì đem lại lợi ích cho tất cả hữu tình, mà khởi tâm bình đẳng.

2- Đối với các hữu tình, tâm đều bình đẳng thương xót.

3- Đối với các hữu tình, tâm sâu sắc phát khởi tâm đều có bình đẳng như yêu đứa con một.

4- Biết pháp tánh mà một hữu tình có tức là pháp tánh của tất cả hữu tình, vì tâm đều thực hành pháp tánh bình đẳng, nên các hữu tình trụ tâm bình đẳng.

5- Thực hành công hạnh lợi ích đối với tất cả hữu tình cũng giống như thế.

Vì tâm lợi ích đều có, nên đối với các hữu tình trụ trong tâm bình đẳng.

Do năm thứ tướng, đối với các hữu tình có ơn, đền đáp hiện tiền:

1- Đặt hữu tình vào chỗ yên ổn, bảo phải học đức của chính mình.

2- Ở chỗ phương tiện yên ổn, bảo nên học đức của người.

3- Không có nương tựa, không có nhờ cậy, có khổ, có nghèo, tùy theo khả năng, làm chỗ nương tựa, trông cậy, v.v…

4- Khuyến khích cúng dường chư Phật, Như

Lai.

5- Bảo đến chỗ Như Lai nói chánh pháp, thọ trì, đọc, tụng, viết chép, cúng dường.

Bồ-tát đối với năm chỗ, thường phải hân hoan khen ngợi:

1- Gặp Phật ra đời, thường được kính thờ.

2- Ở chỗ chư Phật thường nghe sáu thứ Ba-lamật-đa, pháp tạng của Bồ-tát.

3- Đối với nhất thiết chủng, thành tựu hữu tình, thường có thế lực.

4- Có thể đối với Vô thượng Chánh đẳng Bồđề được chứng đắc mau chóng.

5- Chứng Bồ-đề rồi, các chúng đệ tử thường hòa hợp không có tranh cãi.

Lại, các Bồ-tát thuận theo pháp lui sụt, phải biết có năm:

1- Không kỉnh chánh pháp và sư nói pháp.

2- Buông lung, lười biếng.

3- Đối với các phiền não, gầm gũi, chấp mắc.

4- Đối với các hành vi ác, gần gũi, chấp mắc.

5- Đối với các Bồ-tát khác, so sánh, suy lường hơn kém, khởi tăng thượng mạn; Trái với tướng trên, gọi là thuận với pháp vượt hơn, phát tâm Bồđề. Luận dưới nói: "Bồ-tát tu tập sáu pháp Ba-lamật, cầu Vô thượng Bồ-đề nên lìa bảy pháp".

1- Lìa ác tri thức: Ác tri thức: Cái gọi là bảo người lìa bỏ tín, dục, tinh tấn nói trên, họp chúng, thực hành việc lặt vặt.

2- Lìa nữ sắc, tham đắm dục lạc, tập nhiễm theo người đời, chuyên việc thế tục.

3- Xa lìa ác giác, tự quán hình dung, tham lam ái nặng, đắm nhiễm che chở, cho rằng có thể giữ được lâu.

4- Lìa giận dữ, tự cao, ngạo mạn, ganh tị, nổ ra cuộc tranh cãi, làm rối loạn tâm lành.

5- Lìa buông lung, kiêu mạn, lười biếng, tự cậy việc lành nhỏ, khinh miệt người.

6- Lìa thư, luận của ngoại đạo và tụng các văn thế gian, văn từ thêu dệt, chải chuốt, chẳng phải Phật nói, không nên khen, tụng.

7- Không nên gần gũi tà kiến, ác kiến.

Bảy pháp như thế phải nên xa lìa. Đức Như Lai nói: "Không thấy có pháp nào khác, làm chướng ngại sâu đạo Phật như bảy pháp này. Nếu muốn mau chóng được Vô thượng Bồ-đề, thì phải tu bảy pháp, đại ý trái với bảy lối tu hành trước". Văn-thù vấn kinh luận chép: "Có thiện tử tên Nguyệt Tịnh Quang Đức hỏi ngài Văn-thù-sư-lợi rằng: "Đầu tiên, Bồ-tát vì quán pháp nào, nên thực hành hạnh Bồ-tát? Vì y cứ vào pháp nào để thực hành hạnh Bồ-tát? Văn-thù-sư-lợi đáp:

Này Thiên tử! Công hạnh của các Bồ-tát dùng đại bi làm gốc, vì các chúng sinh".

Lại hỏi: Đại bi lấy gì làm gốc?

Đáp: Lấy tâm ngay thẳng làm gốc!

Lại hỏi: Tâm ngay thẳng lấy gì làm gốc?

Đáp: Lấy tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh làm gốc.

Lại hỏi: Đối với tất cả tâm bình đẳng lấy gì làm gốc?

Đáp: Lấy không có khác, lìa hạnh khác làm gốc.

Lại hỏi: Không có khác, lìa hạnh khác lấy gì làm gốc?

Đáp: Lấy tâm tịnh sâu làm gốc.

Lại hỏi: Tâm tịnh sâu lấy gì làm gốc?

Đáp: Lấy tâm A-nậu-Bồ-đề làm gốc.

Lại hỏi: Tâm A-nậu-Bồ-đề lấy gì làm gốc?

Đáp: Lấy sáu Ba-la-mật làm gốc.

Lại hỏi: Sáu Ba-la-mật lấy gì làm gốc?

Đáp: Lấy Tuệ phương tiện làm gốc.

Lại hỏi: Tuệ phương tiện lấy gì làm gốc?

Đáp: Lấy không buông lung làm gốc.

Lại hỏi: Tâm không buông lung lấy gì làm gốc?

Đáp: Dùng ba hạnh lành làm gốc.

Lại hỏi: Ba hạnh lành lấy gì làm gốc?

Đáp: Lấy mười nghiệp đạo lành làm gốc.

Lại hỏi: Mười nghiệp đạo lành lấy gì làm gốc?

Đáp: Lấy giữ giới làm gốc.

Lại hỏi: Giữ giới lấy gì làm gốc?

Đáp: Dùng sự nhớ nghĩ thích đáng làm gốc.

Lại hỏi: Sự nhớ nghĩ thích đáng lấy gì làm gốc?

Đáp: Dùng chánh quán làm gốc.

Lại hỏi: Chánh quán lấy gì làm gốc?

Đáp: Dùng niệm vững chắc không quên làm gốc.

Luận Văn-thù Vấn Kinh quyển hạ chép: "Bồ-tát có mười thứ đối trị, tức pháp bị đối trị của mười Ba-la-mật. Đối trị tham lam, keo kiệt, là Bố thí. Đối trị tâm phá giới, là nghiệp thân, miệng, ý thanh tịnh. Trị tâm giận dữ, là tu hành thanh tịnh đại từ bi. Trị tâm lười biếng, là cầu pháp chư Phật không biết mệt mỏi. Trị giác quan bất thiện, là tâm được thiền định, giải thoát, phấn khởi, tự tại. Trị tâm ngu si, là sinh giúp sức quyết định pháp phương tiện tuệ. Trị tâm phiền não, vì sinh pháp đạo. Đạo trị tâm điên đảo. Pháp trị tâm không tự tại, vì thời, phi thời được tự tại. Trị tướng có ngã vì quán các pháp vô ngã. Như thứ lớp mười độ đối trị có thể biết.

Kinh Di-lặc vấn chép: "Bồ-tát Ma-ha-tát có tám pháp để thành địa vị không lui sụt, tám pháp đó là:

1-Đại bi. 2-Tâm an trụ 3-Trí tuệ.

4- Phương tiện.

5- Không buông lung.

6- Phát tinh tấn

7- Khéo trụ niệm 8-Gặp thiện tri thức.

Bồ-tát mới phát tâm phải mau tu hành tám pháp này như cứu lửa cháy đầu, vì thành tựu tám pháp được gọi là nhập số Bồ-tát bất thối bất chuyển.

Tám pháp đó là:

1- Quán sát lỗi mình, không xét lỗi người.

2- Cho đến không vì thân mạng mình nên thí cho người cái ái.

3- Nếu được lợi dưỡng, tâm Bồ-tát không tự cao; nếu mất lợi dưỡng, tâm Bồ-tát cũng không thấp.

4- Đối với các chúng sinh, nghĩ là ruộng phước, không sinh tâm ác.

5- Sở hữu của vật đều chung cho tất cả chúng sinh.

6- Đối với các pháp, không muốn một mình mình hiểu; khiến người khác không biết.

7- Thấy người khác được vui, thì mình sinh tâm hoan hỷ, không do niềm vui của mình mà sinh tâm hoan hỷ.

8- Đối với yêu, không yêu, tâm Bồ-tát thường bình đẳng.

Vì đủ tám pháp này nên Bồ-tát không thối, không chuyển Vô thượng Bồ-đề. Có năm pháp gọi là tướng không thối chuyển đối với Vô thượng Bồđề của Bồ-tát. Năm pháp đó là:

1- Đối với các chúng sinh khởi tâm bình đẳng.

2- Đối với lợi dưỡng của người không sinh tâm ganh ghét.

3- Cho đến tự vì thân mạng, không nói các lỗi lầm xấu ác của Pháp sư, Tỳ-kheo.

4- Sau cùng không tham đắm những việc cúng dường, cung kính, khen ngợi, v.v… 5-Cuối cùng được trí tuệ rất sâu xa.

Lại có năm pháp:

1- Không thấy thân mình.

2- Không thấy thân người.

3- Tâm không phân biệt, nói dối pháp giới 4-Không thấy Bồ-đề.

5-Không dùng tướng để thấy Như Lai.

Có ba mươi hai pháp mâu thuẫn: đường sá, hầm hố trở ngại cho việc phát tâm Bồ-đề: 1-Cầu thừa Thanh văn

2- Cầu thừa Bích-chi-phật

3- Cầu sinh chỗ Thích, Phạm

4- Dựa vào vướng mắc, sinh ra tịnh tu phạm hạnh

5- Chuyên một gốc đức nói là ngã sở (cái ta có)

6- Nếu được của báu, keo kiệt tham ái

7- Dùng tâm nghiêng lệch, bè đảng mà bố thí chúng sinh

8- Khinh dễ răn cấm

9- Không nghĩ đến tâm đạo hạnh chuyên tinh

10- Dùng việc giận dữ làm tiếng đồn

11- Tâm buông lung

12- Rong ruổi

13- Không cầu học rộng

14 Không xem xét điều mình đã gây

15- Cống cao, tự đại

16- Không thể thanh tịnh hành vi của thân, miệng, tâm

17- Không ủng hộ chánh pháp

18- Trái bỏ ơn

19- Phủ nhận ơn

20- Lìa pháp yếu vững chắc

21- Học đòi các bạn ác

22- Theo các giống âm

23- Không siêng giúp đạo

24- Nghĩ đến gốc bất thiện

25- Ý đạo đã phát, không có quyền phương tiện

26- Không hết lòng hỏi han Tam bảo

27- Ghét các Bồ-tát

28- Bài báng pháp chưa nghe

29- Không giác biết sự

30- Tập học, giữ gìn sách tục

31- Không chịu khuyến hóa các loài chúng sinh 32-Nhàm chán sinh tử.

Luận Phát Bồ-đề tâm quyển hạ có mười pháp, hay khiến không thối Bồ-đề.

Thứ Chín: Y cứ môn quán sám hối, thọ giới của kinh Phổ Hiền Bồ-tát:

Văn sám hối sáu căn, y cứ quán sám hối sáu căn của kinh Phổ Hiền Bồ-tát và pháp tự thọ giới. Trong vô lượng đời, nhân duyên nhãn căn tham đắm sắc. Vì tham đắm sắc, nên tham ái các trần. Vì ái trần nên cảm thọ thân nữ. Ở chỗ sinh đời đời, nên mê hoặc vướng mắc các sắc. Sắc làm hư hoại mắt ông, vì làm nô lệ cho ân ái, thế nên khiến ông đi qua ba cõi, có được thấy xác thật như vậy hay không? Nhãn căn bất thiện đã gây tổn hại cho ông nhiều. Hãy thuận theo lời ta nói quy hướng chư Phật Thích-ca Mâu-ni đã nói: "Nhãn căn của ông đã có tội lỗi, nước pháp tuệ minh của chư Phật, Bồtát, nguyện dùng rửa sạch sao cho được thanh tịnh".

Nói lời này xong, lễ khắp Phật mười phương, hướng về đức Phật Thích-ca Mâu-ni, Kinh điển Đại thừa. Lại nói như vầy: "Nay con sám hối tội nặng, chướng che lấp sự nhơ bẩn, mắt con mù không thể thấy được, mong Phật đại từ xót thương che chở cho".

Bồ-tát Phổ Hiền cưỡi thuyền đại pháp, cứu độ khắp tất cả Vô lượng các Bồ-tát ở mười phương, cúi mong thương xót cho con sám hối lỗi, nghiệp ác bất thiện của nhãn căn làm chướng ngại pháp.

Nói ba lần như thế, năm vóc gieo sát đất.

Kế là sám hối nhĩ căn, y cứ kinh có trước là văn khuyên, tiếp theo là nói: "Bấy giờ, hành giả nghe lời này xong. Lại, chắp tay dập đầu sát đất mà nói rằng: "Thế Tôn chánh biến tri, hiện vì con chứng minh kinh điển Phương Đẳng, là chủ từ bi, cúi mong xét cho con, nghe con nói: "Con đã từ nhiều kiếp, cho đến thân hiện nay, nhân duyên nhĩ căn nghe tiếng, mê hoặc chấp mắc, như keo dính cỏ. Mỗi khi nghe các tiếng xấu ác, khởi độc phiền não, chỗ nào cũng mê hoặc chấp mắc, không có lúc nào tạm dừng, phát ra tiếng xấu tệ này làm nhọc thần thức của con, đọa lạc ba đường".

Nay, mới giác biết hướng về các Đức Thế Tôn, phát lồ sám hối. Tiếp theo, sám hối tội của Tỷ căn. Văn kinh, trước nói lỗi lầm, tiếp theo lễ Thíchca, Đa Bảo, phân thân Thích-ca. Tiếp theo lễ Phật Thiện Đức ở phương Đông và thân phần chư Phật, như đối tượng mắt thấy, mỗi mỗi tâm lễ, hương hoa cúng dường. Tiếp theo cúng dường xong, quỳ xuống, chắp tay, dùng các bài kệ khen ngợi chư Phật. Đã khen ngợi Phật xong. Tiếp theo sám hối mười nghiệp ác. Tiếp theo nói rằng: "Đã sám hối xong bèn nói như vầy: "Con ở đời trước, trong vô lượng thời gian số kiếp, đã tham hương, vị, xúc, tạo ra mọi việc ác. Do nhân duyên này, nên từ vô lượng đời đến nay luôn cảm thọ các thân bất thiện ở địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, biên địa, tà kiến".

Các Nghiệp ác như thế, nay con đều phát lộ, quy hướng chư Phật, vua của Chánh pháp nói tội sám hối.

Tiếp theo, sám hối ngữ có bốn, tức tội của Thiệt căn. Trước, tưởng ở trước chư Phật tự nói lỗi mình. Chư Phật, Như Lai là cha lành của ông. Ông sẽ tự nói: "Đối tượng tạo tác của thiệt căn, tức nói bốn nghiệp đã có tai hại lỗi lầm. Năm thể gieo sát đất, lễ Phật mười phương, chắp tay, quỳ thẳng, nên nói như vầy: "Lỗi lầm của lưỡi này vô lượng, vô biên các nghiệp ác đâm thọc, xuất phát từ thiệt căn này, làm gãy bánh xe chánh pháp từ lưỡi này mà khởi. Lưỡi ác như thế làm hư hạt giống công đức. Ở trong phi nghĩa nhiều đầu mối nói gắng gượng, khen ngợi tà kiến, như lửa thêm củi, cũng như lửa dữ; tổn hại chúng sinh, như người uống thuốc độc, không có nhọt, bướu mà chết. Bất thiện tà ác, tội báo như thế, sẽ phải đọa đường ác, trăm kiếp, ngàn kiếp vì lời nói giả dối, nên đọa đại địa ngục. Nay con quy hướng chư Phật mười phương, đại bi Thế Tôn phát lộ tội ác, thành tâm sám hối".

Nói lời này xong, năm thể gieo sát đất. Lại lễ chư Phật, tiếp theo nói đại bi của chư Phật, nói bốn Vô lượng và sáu hòa kính, khiến hành giả tu.

Tiếp theo, sám hối thân, tâm rằng: "Thân: Sát, trộm, dâm. Tâm: Nghĩ đến các bất thiện, tạo ra mười nghiệp ác và năm vô gián, cũng như khỉ, vượn, cũng như ly, giao, chỗ nào cũng tham đắm; khắp đến tất cả sáu căn; nhánh nhóc hoa lá, nghiệp của sáu căn này đều đầy đủ tất cả xứ sinh của hai mươi lăm hữu trong ba cõi, cũng có thể tăng thượng mười hai sự khổ vô minh, già chết, tám tà, tám nạn, đều dứt trong đó. Nay, ông phải sám hối nghiệp ác bất thiện như thế".

Tiếp theo, nói rằng: "Lúc bấy giờ, hanh giả nghe lời này xong, nghe có tiến nói giữa hư không: "Nay, con ở chỗ nào thực hành pháp sám hối?" Tức thì, tiếng nói trong hư không liền bảo rằng: "Thíchca Mâu-ni gọi là Tỳ-lô-giá-na khắp tất cả chỗ, chỗ ở của Đức Phật kia, thường vắng lặng, sáng suốt, thường là chỗ do Ba-la-mật hình thành; chỗ an trú Ba-la-mật của ta, xứ có tướng của tịnh Ba-la-mật diệt, ưa Ba-la-mật không ở chỗ tướng của thân, tâm, không thấy có, không có chỗ tướng của các pháp, như giải thoát vắng lặng, cho đến Bát-nhã Ba-la-mật, vì là pháp thường trụ của sắc".

Như thế, phải quán Phật mười phương. Bấy giờ, các Phật ở mười phương đều duỗi tay phải xoa đầu hành giả, vừa nói như vầy: "Lành thay! Lành thay! Này người Thiện nam! Vì ông đọc tụng Đại thưa, nên chư Phật mười phương nói pháp sám hối. Bồ-tát đã tu hành, không dứt kiết sử, không ở biển sử, quán tâm, không có tâm đều từ tưởng điên đảo khởi. Tướng như thế, tâm từ vọng tưởng khởi. Như gió trong hư không không có chỗ nương tựa".

Pháp tướng như thế không sinh, không mất. Sao là tội? Sao là phước? Tâm ta tự không, tội, phước không có chủ. Tất cả pháp không có trụ, không có hoại như thế.

Sám hối như thế, quán thân không có pháp, không trụ trong pháp.

Các pháp giải thoát, Diệt đế, vắng lặng.

Tướng như thế, gọi là Đại sám hối, gọi là Đại Trang Nghiêm sám hối, gọi vô tội tướng sám hối; gọi phá hoại tâm thức. Người thực hành pháp sám hối này, thân tâm thanh tịnh, không trụ trong pháp, cũng như dòng nước chảy, trong mỗi niệm được thấy Bồ-tát Phổ Hiền và các Phật mười phương. Tiếp theo, nói rằng: "Người thực hành sám hối này, sẽ được diệt trăm muôn ức kiếp A-tăng-kỳ tội nặng sinh tử! Lúc bấy giờ, nếu hành giả muốn đầy đủ giới Bồ-tát, thì phải chắp tay, ở chỗ trống trải nhàn nhã, lễ khắp mười phương, sám hối các tội, tự nói lỗi của mình, sau đó ở chốn vắng lặng hướng về Phật mười phương mà nói như vầy: "Chư Phật, Thế Tôn thường trụ ở đời, vì nghiệp chướng của con, dù tin Phương Đẳng, nhưng vẫn thấy Phật không rõ ràng. Nay quy y Phật con chỉ mong sao Đức Thích-ca Mâu-ni, Chánh biến tri. Thế Tôn vì con, Hòa-thượng Văn-thù-sư-lợi, người có tâm đại bi, nguyện dùng trí tuệ trao cho con pháp các Bồ-tát thanh tịnh. Bồ-tát Di-lặc đấng đại từ vượt hơn, vì xót thương con, cũng nên cho con thọ pháp Bồ-tát; chư Phật mười phương hiện đang vì con chứng biết. Các đại Bồ-tát đều tôn xưng danh hiệu Phật Thích-ca là Đại sĩ cao quý, che chở chúng sinh, giúp đỡ chúng con. Nay, con thọ trì kinh điển Phương đẳng, cho đến khi xả mạng, nếu đọa địa ngục, chịu vô lượng đau khổ, không bao giờ hủy báng chánh pháp chư Phật.

Do năng lực công đức nhân duyên này, nay

Đức Phật Thích-ca Mâu-ni là Hòa-thượng của con, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi là A-xà-lê của con, Phật Dilặc đương lai nguyện truyền trao pháp cho con; chư Phật mười phương nguyện chứng biết cho con; đại đức Chư Bồ-tát nguyện làm bạn với con. Nay, con y chỉ nghĩa rất mầu nhiệm, sâu mầu của kinh điển Đại thừa, quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Nói ba lần như thế, quy y Tam bảo xong, tiếp theo phải siêng năng tu phạm hạnh vô ngại, phát tâm cứu giúp rộng rãi; thọ tám trọng pháp.

Lập lời thệ này xong, ở chốn trống trải nhàn nhã, đốt các thứ danh hương, rải hoa cúng dường tất cả chư Phật và Đại thừa Phương đẳng của chư Bồ-tát mà nói như vầy: "Hôm nay con phát tâm Bồ-đề, nguyện đem công đức này cứu độ khắp tất cả".

Nói lời thệ này xong, lại đảnh lễ tất cả chư Phật và chư Bồ-tát, suy nghĩ nghĩa Phương đẳng.

Lại nữa, Sát lợi, cư sĩ có năm pháp sám hối như sớ sao trước đã nói.

QUYỂN TRUNG

1- Môn khen thọ giới.

2- Môn chỉ rõ lỗi, khuyên giữ giới.

3- Môn nói về giữ giới.

4- Môn ý nghĩa thọ giới.

5- Môn nói về lợi ích thọ giới.

6- Môn chánh thọ.

7- Môn thọ giới được lợi ích.

8- Môn thọ mười giới lành.

9- Môn khen nhẫn hộ giới.

10- Môn năm giới của người tại gia.

11- Môn cúng dường.

12- Môn cúng dường được lợi ích.

13- Môn trị chướng.

14- Môn hơn, kém.

15- Môn bạn lành.

16- Môn tạp hạnh.

17- Môn tánh tốt của phụ nữ.

1-Thứ Nhất Môn khen thọ giới:

Luận Trí Độ quyển 13 chép: "Nếu vì thương xót chúng sinh, vì cứu độ chúng sinh, cũng vì biết thật tướng của giới, nên tâm không nương tựa, chấp mắc giữ giới như thế, tương lai, sẽ khiến cho con người được đến với đạo Phật".

Như thế, gọi là được giới vô thượng của đạo Phật. Nếu có người mong cầu lợi lành lớn, thì phải giữ chắc giới, như tiếc vật báu quý trọng, như bảo vệ thân mạng mình. Vì sao? Ví như mặt đất, tất cả loài hữu tình, muôn vật đều nương tựa trên đất mà ở. Giới cũng như vậy, giới là trụ xứ của tất cả pháp lành. Ví như không có chân mà muốn đi, không có cánh mà muốn bay; không có thuyền mà vượt qua sông, là việc không thể được. Nếu không giữ giới, mà muốn được quả tốt đẹp, cũng giống như thế.

Nếu người nào xả bỏ giới này thì cho dù ở núi, tu khổ hạnh, ăn quả, uống nước, người ấy không khác gì cầm thú. Người dù nghèo khổ khốn cùng, mà giữ được giới, thì sẽ vượt trội hơn kẻ giàu sang; còn người phá giới, hương hoa, hương gỗ không thể nghe xa. Hương giữ giới bay khắp mười phương, người giữ giới, yên vui đầy đủ, danh tiếng đồn xa, trời, người yêu kính, hiện đời thường được mọi thứ vui sướng.

Nếu muốn được giàu sang sống lâu trên trời, trong người nhận lấy hiệu quả đó không khó, miễn là phải giữ giới thanh tịnh, thị mọi nguyện vọng đều được thỏa mãn.

Lại nữa, người giữ giới, thường được người đời nay cung kính, phụng thờ; tâm vui, không ăn năn; áo, cơm không thiếu; chết sẽ được sinh lên cõi trời; về sau sẽ được đạo Phật. Người giữ giới, không có việc gì không được; còn kẻ phá giới, tất cả đều mất. Ví như có người thường cúng dường trời. Người ấy nghèo cùng, nhất tâm cúng dường, đủ mười hai năm, để cầu được giàu sang. Trời thương xót người này, tự hiện thân (nói rộng như thường). Lại nữa, mỗi người giữ giới đã ưa bố thí, không tiếc tài vật, không tu lợi ích cho đời, mà không có thiếu thốn, được sinh lên cõi trời. Trước Phật mười phương, nhập đạo ba thừa mà được giải thoát, chỉ những kẻ tà kiến mà giữ giới ấy, về sau, sẽ không có chi cả. Lại nữa, người giữ giới dù không có binh khí, gậy gộc, nhưng mọi nỗi khổ, không gia hại được, của cải của người giữ giới, không ai có thể chiếm đoạt. Người giữ giới thân gần, dù chết cũng không lìa. Giữ giới trang nghiêm vượt hơn bảy báu, là vì lẽ này. Nên giữ gìn giới, như giữ gìn thân mạng, như yêu của báu quý trọng; kẻ phá giới sẽ chịu khổ muôn mối, như nhắm vào người nghèo, đập vỡ bình, mất vật là vì lẽ này, nên phải giữ tịnh giới.

2-Môn chỉ rõ lỗi:

Lại nữa, người giữ giới quán sát tội của người phá giới, nên xoay lại khích lệ nhất tâm giữ giới. Sao gọi là tội của người phá giới? Người phá giới, mọi người không cung kính. Nhà người ấy như gò mả, không ai đến. Người phá giới, mất hết các công đức. Ví như cây khô, người không yêu thích; kẻ phá giới như sương, đọng trên hoa sen, người không ưa ngắm. Kẻ phá giới, tâm ác như La-sát ác; người phá giới, mọi người không hướng về. Ví như người khát nước, không nhắm đến chỗ giếng khô; kẻ phá giới, tâm thường nghi ngờ, hối tiếc, như người phạm tội, thường sợ tội đến; kẻ phá giới, như ruộng lúa bị giông bão, không thể nương tựa, cậy trông; kẻ phá giới ví như trái dưa đắng, dù hình dáng dường như ngọt, mà không ăn được. Như trộm giặc lối xóm, không thể y chỉ, như người bệnh quá năng, mọi người không muốn gần gũi. Ví như tên giặc hung ác, khó có thể gần gũi. Ví như hầm lửa, người đi phải tránh; như rắn độc không thể xúc chạm. Như biển cả, như thuyền vỡ, như ăn đồ mửa ra; ví như ngựa dữ ở giữa ngựa lành, khác với người lành. Như lừa ở giữa đàn bò. Người phá giới ở trong chúng tinh tấn. Ví như người yếu đuối ở giữa đám trẻ con mạnh khỏe. Kẻ phá giới dù giống như Tỳ-kheo, nhưng ví như thây chết ở giữa người ngủ. Cho nên hành giả phải nhất tâm giữ chắc giới cấm.

3-Môn khuyên giữ giới:

Luận Trí Độ chép: "Người có thể dùng sức vượt hơn người đều là hai nước thù oán giết chóc; hoặc săn da thịt ở ruộng, được cứu giúp rộng lớn. Nay, không sát sinh, sẽ được lợi ích gì?

Đáp: "Được không sợ hãi, vì yên vui nên không có sợ. Vì ta không hại chúng, nên chúng cũng không hại ta. Vì lẽ này nên không sợ. Người ưa giết, dù cho địa vị tột cùng là vua cõi người, cũng không tự yên ổn. Người giữ giới đi một mình dạo chơi không sợ tai nạn. Lại nữa, người ưa giết, loài có mạng đều không thích nhìn thấy. Nếu không ưa giết thì tất cả chúng sinh đều thích nương dựa. Lại nữa, hành giả suy nghĩ: "Ta tự tiếc mạng, yêu thân, loài vật kia cũng như thế, nào có khác gì với ta? Vì lý do này, thành ra không nên sát sinh".

Nếu người sát sinh, thì sẽ bị người lành quở trách, kẻ thù ganh ghét, vì nợ mạng người khác, nên thường sợ hãi, vì bị người kia ghét. Khi chết tâm ăn năn, sẽ đọa vào đường ác. Nếu ra khỏi đường dữ, được làm người, thì sẽ phải chịu mạng sống ngắn ngủi, nếu đời sau không có tội, không bị người lành quở trách, kẻ thù ganh ghét, còn tự không thích hợp, huống chi cướp đoạt mạng sống người khác. Vì sao? Vì tướng của người lành không nên làm, huống chi hai đời có quả báo của tội tệ ác. Lại nữa, sát sinh là tội nặng trong các tội. Vì sao? Vì người giết chết gấp, không tiếc của báu quý trọng, chỉ lấy mạng sống làm trước, ví như người đi buôn ra biển mò châu báu, xuôi ra biển cả, thuyền vỡ, của báu mất, mà vẫn tự chúc mừng.

Mọi người ngạc nhiên nói: "Ông bị mất của vật, thân trần truồng được sống còn, sao lại nói là mừng, mất bao nhiêu của báu?"

Đáp: "Vì mạng con người là bậc nhất trong tất cả của báu, con người vì mạng nên cầu của báu, chứ không vì của báu nên cầu mạng".

Do đó, nên Đức Phật nói: "Trong mười nghiệp bất thiện, thì sát sinh đứng đầu. Nếu người dùng mọi cách để tu các phước đức, mà chẳng giữ giới không sát sinh, thì không có lợi ích chi cả. Vì sao? Vì dù được sinh ở chỗ giàu sang, thế lực mạnh mẽ, nhưng không sống lâu, thì lấy ai thọ hưởng thú vui này? Trong các tội, sát sinh là tội nặng nhất, trong các công đức, bất sát là công đức trên hết". Lại, trong thế gian tiếc mạng sống là tội bậc nhất. Vì sao biết? Vì tất cả người đời thà cam chịu hình phạt bằng mọi cách tra khảo, đánh đập, để bảo vệ mạng sống. Lại, Phật nói có năm thứ đại thí: tức là năm giới. Lại nữa, tức hành tam-muội từ, phước ấy vô lượng, nước, lửa không hãm hại được, dao, gậy không gây tổn thương được, tất cả sự độc ác, đều không thể trúng, nhờ năm thứ đại thí nên mới được như thế. Lại nữa, sát sinh có mười tội, như Phật nói với Ưu-Bà-tắc Nan-Đề-Ca rằng: "Sát sinh có mười tội, mười tội đó là":

1- Tâm thường nghĩ việc độc ác, đời đời không dứt.

2- Chúng sinh ghét bỏ, mắt không thích nhìn.

3- Thường nghĩ nhớ tội ác, tư duy việc ác.

4- Chúng sinh sợ họ như sợ rắn.

5- Lúc ngủ, tâm sợ, khi thức chẳng yên.

6- Thường có ác mộng.

7- Khi qua đời, điên cuồng, sợ chết.

8- Gieo trồng nhân chết yểu.

9- Thân hoại, qua đời, đọa vào địa ngục.

10- Nếu ra khỏi địa ngục, được làm người, thì thường phải chết yểu.

Hỏi: "Nếu không xâm hại thì tâm sát của ta có thể dứt, nếu bị xâm hại thì sẽ thế nào?

Đáp: "Tùy theo với lượng nhẹ, nặng. Nếu người giết rồi, trước tự nghĩ lợi của toàn giới là nặng hay lợi của toàn thân là nặng? Phá giới là mất hay mất thân là mất? Nghĩ như thế rồi, biết giữ giới là trọng, toàn thân là khinh. Nếu dù cho khởi toàn thân, thì thân cũng đâu có được, vì thân này gọi là rừng già chết, tất nhiên sẽ phải hư hoại, nếu vì giữ giới mà mất thân thì lợi ấy rất trọng". Lại nghĩ: "Trước, sau ta cũng mất mạng, vô số đời kiếp chỉ vì tài, lợi, các việc bất thiện. Nay, mới được giữ tịnh giới, nên không tiếc thân này, bỏ mạng, giữ giới, hơn giữ toàn thân cả trăm ngàn muôn lần, không thể ví dụ".

Tâm định như thế, phải bỏ thân để giữ gìn tịnh giới, như một người Tu-đà-hoàn, sinh vào nhà giết mổ, tuổi đã khôn lớn, cần phải tu nghiệp nhà của mình mà không trái với sát sinh. Cha mẹ trao cho anh ta con dao và một con dê, giam giữ anh ta trong nhà, rồi bảo rằng: "Nếu không giết dê, thì ta sẽ không cho mày ra khỏi nhà để được nhìn thấy mặt trời, mặt trăng sinh sống, uống ăn". Người con tự nghĩ: "Nếu ta giết con dê này, thì sau cũng sẽ vì nghiệp này, đâu nên vì thân mà gây nên tội ác lớn này", hắn bèn dùng dao tự sát.

Cha, mẹ mở cửa ra, thì nhìn thấy con dê đang đứng một bên; còn đứa con đã chết. Khi chết ta liền được sinh lên cõi trời!

Nếu người như thế, là vì không tiếc mạng sống mà giữ gìn tịnh giới.

Như Phật dạy: không cho mà lấy: có mười tội là:

1- Chúng sinh tức giận.

2- Càng nghi ngờ.

3- Hành động phi thời, không trù tính.

4- Kết bạn với người ác, xa lìa bậc Hiền Thánh.

5- Phá tướng hiền lành.

6- Có tội với quan.

7- Của vật mất, mát.

8- Gieo nghiệp nhân nghèo cùng

9- Chết đọa vào địa ngục

10- Nếu ra khỏi ngục, làm người siêng năng, khổ nhọc để cầu tài vật.

Năm nhà có chung tà dâm.

Hỏi: "Nếu người chồng không biết, không thấy, không não hại người, thì có tội gì?"

Đáp: "Tình chồng vợ, thân khác mà thể đồng. Đoạt đối tượng yêu kính, phá bổn tâm người khác, đó gọi là giác".

Lại nữa, tiếng ác tiếng xấu, vì bị người ghét bỏ, ít vui, nhiều sợ, hoặc sợ hình phạt, giết chết. Lại, sợ chồng, người bên cạnh biết được, nên thường có tâm nói dối, bị bậc Thánh quở trách. Lại tự nghĩ: "Vợ ta, vợ người, đồng là người nữ. Trạng thái của tình xương thịt giữa người kia với người này không khác, mà sao ta vì ngang ngược sinh tâm mê hoặc chạy theo ý bất chính? Người tà dâm, đã phá tan niềm tin của đời này, đời sau. Đổi chỗ trở về mình, để tự chế phục. Nếu người xâm phạm vợ ta, thì ta sẽ tức giận; nếu ta xâm phạm vợ người, thì người kia cũng không có thái độ nào khác. Tha thứ cho mình tự chế phục, như Đức Phật đã chép: "Người tà dâm, về sau, sẽ đọa vào địa ngục cây gươm, chịu đủ mọi đau khổ. Được ra khỏi ngục, làm người, gia đạo không hòa thuận, thường gặp phải vợ dâm, tà tích, giặc tàn dư, tà dâm là tai hoạn. Ví như răn, rít, cũng như lửa lớn, không tránh gấp; họa hại sắp đến như Đức Phật đã nói".

Tà dâm có mười tội:

1- Thường bị người chồng đã dâm, muốn ngăn chận, hãm hại.

2- Vợ chồng không hòa thuận, thường xuyên tranh cãi.

3- Các pháp bất thiện ngày càng thêm nhiều, đối với các pháp ngày càng giảm ít.

4- Không giữ gìn thân, vợ con cô quả.

5- Tài sản ngày càng hao hụt.

6- Có các việc ác, thường bị người nghi ngờ.

7- Thân thuộc, quen biết, không thích.

8- Gieo trồng nghiệp kẻ thù.

9- Thân hoại, qua đời, đọa vào địa ngục.

10- Nếu ra khỏi ngục, làm người nữ, có nhiều chồng chung; nếu làm người nam, thì vợ không trinh tiết.

Người nói dối, trước tự lừa dối mình, sau là dối người, lấy thật làm giả, lấy giả làm thật. Giả thật điên đảo, không thọ nhận pháp lành. Ví như bịt miệng mình, nước không đổ vào bình được người nói dối, tâm không hổ thẹn, đóng bít đường trời, cửa ngõ Niết bàn. Vì quán biết tội này, thành ra không nên nói dối. Lại nữa, quán biết thật ngữ có lợi ích rất rộng, lợi của lời nói chân thật, được xuất phát từ mình, rất là dễ được, đây là công sức của tất cả người xuất gia. Với công đức như thế, nếu người tại gia có chung lợi ích này, có tướng của người lành, của người thật ngữ, thì tâm họ sẽ, ngay thẳng, dễ tránh khỏi khổ đau. Ví như kéo gỗ rừng rậm, gỗ thẳng, suôn đuột thì dễ ra. Người đời ngu si, ít trí, hễ khi gặp phải sự khổ ách, tai nạn, thì nói dối để mong được thoát thân, không biết rằng, việc xảy ra thì đời nay đắc tội; không biết đời sau, sẽ có tội báo lớn hơn.

Lại nữa, có người dù biết rằng tội nói dối là vì nhiều tham lam, keo kiệt, giận dữ, ngu si, nên mới nói dối. Mặc dù không tham, giận, nhưng vọng chứng biết tội của người, tâm cho rằng thật như vậy, chết rồi sẽ đọa vào địa ngục, huống chi lòng dạ độc ác tham, giận, si vọng chứng biết ư? Như Câu-Ca-ly, đệ tử của Đề-Bà-Đạt-đa, thường tìm lỗi lầm của Xá-lợi-phất.

Bấy giờ, hạ an cư xong, hai vị Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên đi đến các nước, gặp trời mưa to, đến nhà người thợ gốm, rồi tá túc trong nhà chứa đồ gốm này. Trong nhà này, trước đó có một người nữ đã ngủ trong buồng tối, hai vị không biết. Đêm đó, người nữ này nằm mộng, thấy xuất chất bất tịnh. Sáng hôm sau, cô ta xuống tắm gội dưới dòng nước gần đó. Bấy giờ, Câu-ca-ly tình cờ gặp ả trên đường đi, Câu-ca-ly có thể xem tướng biết được trình trạng giao hội của con người, mà không biết mộng và không mộng. Câu-ca-ly này cố tình nói với đệ tử: "Đêm qua, cô gái này đã thông tình với người", liền hỏi cô: "Cô ở chỗ nào đi ra? Cô gái đáp: "Tôi ngủ trọ trong nhà của người thợ gốm".

Lại, hỏi: "Chung với ai? Cô gái đáp với hai vị Tỳ-kheo". Lúc bấy giờ, hai vị từ trong nhà đi ra, Câuca-ly thấy rồi, lại dùng tướng để xét nghiệp hai vị, ý cho rằng hai người tất nhiên bị rớt chất bất tịnh. Trước hết, có tâm ganh ghét, đã thấy việc này, còn bảo cho mọi người trong khắp các thành, ấp, thôn xóm đều biết. Sau đó, lại đến tinh xá Kỳ-hoàn, nói lời ác này! Trong khi đó, Phạm Thiên Vương muốn yết kiến Đức Thế Tôn. Đức Phật vào tịnh thất, tammuội vắng lặng; các chúng Tỳ-kheo cũng có tammuội đóng cửa phòng, đều không thể hay biết. Phạm Thiên Vương liền tự nghĩ: "Ta cố đến yết kiến Phật, Phật đã nhập tam-muội. Lại muốn quay trở lại, liền nghĩ rằng: "Đức Phật xuất định, cũng sẽ không lâu!", bèn dừng lại trong giây lát, trước phòng Câu-ca-ly, gõ cửa vừa nói: "Câu-ca-ly, Câuca-ly! Xá-lợi, Mục-liên thanh tịnh, ông đừng phỉ báng họ, mà phải chịu đau khổ suốt đêm dài!" Câu-ca-ly hỏi: Ông là ai?

Đáp: Ta là Phạm Vương.

Hỏi: Đức Phật nói ông đã đắc đạo A-na-hàm, vì sao ông đến đây? Phạm vương tâm nghĩ, mà nói kệ rằng:

Pháp vô lượng, muốn suy lường
Không nên dùng tướng nhận lấy
Pháp vô lượng muốn suy lường
Dã nhân này che lấp mất.

Nói kệ này xong, Phạm Vương đến chỗ Phật, nói cụ thể về việc Câu-ca-ly. Phật nói: "Lành thay! Lành thay! Ông đã vui vẻ nói kệ này". Lúc bấy giờ,

Đức Thế Tôn lại nói kệ này. Phạm Vương nghe Phật nói xong, bỗng nhiên biến mất, liền trở lại cõi trời.

Lúc bấy giờ, Câu-ca-ly đến chỗ Phật, đầu mặt lễ dưới chân Phật xong, đứng sang một bên. Phật bảo Câu-ca-ly:

Xá-lợi, Mục-liên là người thanh tịnh, ông chớ chê bai họ, để rồi phải chịu đau khổ suốt đêm dài! Câu-ca-ly bạch Phật:

Đối với lời Phật nói, con chẳng dám không tin, chỉ vì chính mắt con thấy rõ, quyết định rõ ràng, rằng, hai người đã làm việc bất tịnh. Đức Phật quở trách ba lần như thế, Câu-ca-ly cũng không chịu, vội từ chỗ ngồi đứng dậy đi ra, trở về phòng mình, đột nhiên, toàn thân mọc các nhọt bằng hạt cải, to dần bằng hạt đậu, như trái táo, lại chuyển biến to bằng bằng móng tay, hợp nhau cháy sém, tan rã, như đốt đống lửa to, khóc lóc, kêu la và chết ngay trong đêm đó, đọa vào địa ngục Đại Liên Hoa.

Có một Phạm thiên, đến nửa đêm bạch Phật: "Câu-ca-ly đã đọa vào địa ngục. Đêm đã qua rồi! Đức Phật sai nhóm họp chư tăng mà bảo rằng: "Các thầy muốn biết Câu-ca-ly đã đọa địa ngục, tuổi thọ dài, ngắn hay không? Các tỳ-kheo nói":

-Chúng con rất muốn nghe! Phật nói: "Sáu mươi hộc mè, có người sống lâu hơn trăm tuổi, lượm lấy một hạt mè đi, cùng tận như thế, thì tuổi thọ trong địa ngục A-Phù-Đà cũng chưa hết. Sự sống lâu trong hai mươi địa ngục A-Phù-Đà là một tuổi thọ trong địa ngục Ly-La-Phù-Đà. Cứ nhân như thế, đều hai mươi lần. Câu-ca-ly là đọa trong địa ngục dùng năm trăm cây định đóng vào lưỡi; năm trăm lưỡi cày cày nát lưỡi".

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Người ta ở đời, Búa ở trong miệng Sỡ dĩ chém thân Do lời nói ác.

Nên quở mắng mà khen, nên khen mà quở mắng. Miệng nói các điều ác, sau cùng không thấy vui. Tâm dựa vào tà kiến, đả phá lời nói của Hiền, Thánh, như tre sống đặc ruột, tự hủy hoại thân nó. Chịu tội như thế, không nên nói dối. Phật nói: "Nói dối có mười tội, mười tội đó là:

1- Hơi miệng hôi thối.

2- Thiện thần xa lánh, phi nhân được dịp làm hại.

3- Dù có nói thật, người vẫn không tin nhận.

4- Người trí bàn luận mưu kế, thường không tham dự.

5- Thường bị nhạo báng, tiếng xấu xa, gian ác đồn đại khắp thiên hạ.

6- Người không kính trọng; dù có dạy bảo, người cũng không nghe theo.

7- Thường mang nhiều nỗi lo buồn.

8- Gieo trồng nghiệp bài báng. 9-Chết đọa địa ngục.

10-Ra khỏi địa ngục, được sinh lên làm người, thường bị phỉ báng.

Vì những lỗi như thế, thành ra không nên nói dối.

Rượu có ba thứ: Lúa, quả, rau, đều có nhiều thứ, đều có công năng khiến cho lòng người giao động, buông lung, đó gọi là tất cả rượu, không nên uống, đó gọi là không uống rượu.

Hỏi: "Rượu có công năng phá lạnh, ích cho thân, được hoan hỷ, vì sao không uống?"

Đáp: "Giúp ích cho thân thì rất ít; gây tổn hại cho thân thì quá nhiều". Do vậy, không nên uống, như Phật nói với Ưu-bà-di Nan-đề-ca: Rượu có ba mươi lăm lỗi, ba mươi lăm lỗi đó là:

1- Tài vật hiện tại bị cạn kiệt.

Vì sao? Vì người uống rượu say, tâm không có giới hạn, tiết chế, phí dụng vô độ.

2- Cửa để mọi chứng bệnh xâm nhập.

3- Gốc của sự đấu tranh.

4- Trần truồng không biết hổ thẹn.

5- Tiếng tăm xấu, ác, người không kính nể.

6- Che mất trí tuệ.

7- Vật đáng lẽ được mà không được; vật đã được thì tiêu tan mất.

8- Việc đáng giấu, đều nói cho mọi người biết.

9- Các thứ sự nghiệp đều bỏ dở, không thành.

10- Say rượu là gốc của sự buồn rầu.

Vì sao? Vì trong khi say, có nhiều lỗi, lúc tỉnh rồi, cảm thấy hổ thẹn, lo buồn.

11- Lực thân chuyển vận ít.

12- Sắc thân bị hủy hoại.

13- Không biết kính trọng cha.

14 Không biết kính trọng mẹ.

15- Không biết kính trọng Sa-môn.

16- Không biết kính trọng Bà-la-môn.

17- Không biết kính trọng chú bác và tôn trưởng.

Vì sao? Vì say mất, hoảng hốt, không có đối tượng riêng.

18- Không kính trọng Phật.

19- Không kính trọng Pháp.

20- Không kính trọng Tăng.

21- Bạn bè đều là những người ác.

22- Xa lánh bậc Hiền, thiện.

23- Làm người phá giới.

24- Không có hổ thẹn.

25- Không giữ sáu căn.

26- Buông lung theo sắc.

27- Bị người ghen ghét, không thích thấy mặt.

28- Bị các thân thuộc, quý trọng và các tri thức đều xua đuổi.

29- Thực hành pháp bất thiện.

30- Xả bỏ pháp lành.

31- Người sáng suốt, người trí đều không tin tưởng.

Vì sao? Vì rượu buông lung. 32-Xa lìa Niết bàn

33- Trồng nhân ngu si.

34- Thân qua đời, đọa vào đường ác.

35- Được làm người, sinh ra nơi nào thường bị điên khùng, đần độn.

Ba mươi lăm tội này có nhiều thứ lỗi lầm.

Vì thế, không nên uống rượu.

Lại nữa, người tại gia ở đời, vụ việc của đương quan, gia nghiệp tạo ra sai khiến, cho nên, khó vâng giữ không nói lời hung ác, v.v...

Năm giới có năm thứ thọ, gọi là năm thứ Ưubà-tắc:

1- Thực hành một phần

2- Thực hành phần ít

3- Thực hành phần nhiều 4-Thực hành mãn phần 5-Dứt dâm.

Thọ một phần, một tên, hai, ba gọi là ít.

Thọ phần, nhiều bốn danh ba thọ mãn phần của năm danh.

Thọ năm giới xong, sư trước hết lại lập ra lời tự thệ: pháp tám giới, như nghi thức thông thường (y cứ vào ba quy y, cũng một ngày, một đêm).

Hỏi: Năm giới, tám giới, giới nào trội hơn?.

Đáp: "Vì có nhân duyên, nên hai giới đều bằng nhau, nhưng năm giới giữ trọn đời; tám giới giữ một ngày. Lại năm giới thường xuyên gìn giữ, thời lượng nhiều mà giới ít. Giới một ngày đêm: thời lượng ít, giới nhiều. Lại nữa, nếu không có tâm Đại thừa giữ giới một ngày. Ví như người mềm mỏng làm tướng, dù làm tướng suốt đời, nhưng trí, dũng không đủ, chung quy không có công danh; nếu là người anh hùng, xông pha dẹp loạn, thì chắc chắn sẽ lập được công danh; công huân của một ngày, che khắp cả thiên hạ. Lại nữa, dù phá giới, đọa vào tội, cuối cùng, tội sẽ được giải thoát, như trong kinh Ưu-bát-la Hoa Tỳ-kheo-ni bổn sinh chép: Lúc Phật ở đời, các Tỳ-kheo-ni được A-la-hán sáu thần thông, vào nhà người sang trọng, thường khen ngợi pháp xuất gia, nói với các phụ nữ, người quý phái rằng: "Chị em hãy xuất gia". Các phụ nữ quý phái nói rằng: "Chúng tôi còn trẻ trung, mạnh khỏe, nhan sắc xinh đẹp, thì giữ giới thật khó, đôi khi sẽ phá giới". Tỳ-kheo-ni nói: Phá giới, ấy là phá, chỉ cho xuất gia.

Hỏi: "Phá giới sẽ đọa địa ngục, làm sao phá được?"

Đáp: "Đọa ấy cũng là đoạn, các phụ nữ quý phái mỉm cười nói: "Chịu tội ở địa ngục, làm sao có thể đọa?". Tỳ-kheo-ni nói:

Ta tự nghĩ là: nhân duyên đời trước, khi làm vũ nữ, ta đã mua sắm mọi kiểu y phục, mà nói những gì cần nói, đôi khi ta mặc y của Tỳ-kheo-ni để cười đùa.

Do nhân duyên này, nên vào thời Phật Ca-diếp, ta làm Tỳ-kheo-ni, tự cậy dòng họ sang trọng, uy thế, tâm sinh kiêu hãnh, ngạo mạn mà phá giới cấm. Vì phá giới cấm nên phải đọa vào địa ngục, chịu các thứ tội.

Thọ tội, cuối cùng gặp Phật Thích-ca Mâu-ni, xuất gia, được đạo A-la-hán sáu thần thông.

Vì lý do này, nên biết xuất gia, thọ giới, dù lại phá giới, nhưng vì nhân duyên mới, nên được đạo A-la-hán. Nếu chỉ làm ác, không có nhân duyên giới, thì sẽ không đắc đạo. Ta, do thời xưa, đời đời đọa địa ngục. Ra khỏi địa ngục, làm người ác, người ác chết, đọa trở lại địa ngục, đều không được gì cả. Nay, do nhân duyên này chứng biết xuất gia, thọ giới, dù phá giới nhưng nhờ nhân duyên này sẽ được đạo quả. Lại, nói: "Nhờ say mà xuất gia, thọ giới, Phật bèn cho pháp".

Say xong trở lại tục, người khác hỏi Phật do đâu?

Phật nói: "Bà-la-môn này từ vô lượng kiếp đến nay, không có tâm xuất gia. Nay, vì say nên phát tâm nhỏ nhoi này, nên ta cho xuất gia làm nhân đời đương lai".

4-Môn Hộ giới:

Dẫn thuyết trong kinh Tô-đà Ma Vương nói: "Không tiếc thân mạng để giữ hoàn toàn giới cấm, như bổn thân Bồ-tát từng làm rồng độc có sức mạnh. Nếu chúng sinh với sức thân ở trước yếu ớt, mắt nhìn thấy, ấy là chết; sức thân mạnh mẽ, hơi đi qua mà chết. Con rồng này thọ giới một ngày, xuất gia, cầu vắng lặng, vào trong rừng cây, suy nghĩ, vì ngồi lâu mỏi mệt, bèn ngủ. Bấy giờ, hình tượng như rắn, thân có văn chương, sắc lẫn lộn bảy báu. Gã thợ săn nhìn thấy con rồng này, kinh hãi vừa vui mừng nói: "Lấy được cái da hiếm có, khó được này, đem dâng lên nhà vua để làm trang sức y phục, chẳng lẽ không nên ư? Anh ta bèn dùng gậy đè đầu con rồng xuống, dùng dao lột da. Con rồng tự nghĩa: "Ta có sức mạnh như ý, có thể làm khuynh đảo cả nước này dễ dàng như trở bàn tay; vật nhỏ của người này đâu thể vây khốn được ta. Nay, ta vì giữ giới, nên bất kể thân này, ta phải theo lời Phật dạy". Đoạn tự chịu đựng, mắt nhắm nghiền như ngủ, không nhìn; nín hơi, không thở, thương xót người này vì lẽ giữ giới, nên nhất tâm chịu cho lột da, không có ý ăn năn. Đã mất vì da, nên thịt đỏ tươi rơi rớt xuống đất. Lúc đó, mặt trời rất nóng, con rồng nằm quằn quại dưới đất. Nó định đến dòng nước lớn, thấy các con giòi nhỏ đến ăn thân mình. Vì giữ giới, nên không dám động đậy, nhúc nhích, tự nghĩ rằng: "Nay thân này của ta bố thí cho giòi trùng là vì đạo Phật. Nay dùng thịt thí cho để thân chúng được no. sau khi thành Phật, ta sẽ dùng pháp thí để lợi ích tâm chúng". Thệ như thế xong, thân khô, chết đi, liền sinh lên cõi trời Đao-lợi thứ hai. Con rồng độc lúc bấy giờ là Phật Thích-ca Mâu-ni, ngày nay, người thợ săn bấy giờ, chính là sư Đề-bà-đạt-đa, v.v... ngày nay. Các con giòi nhỏ, chính là tám muôn vị trời đắc đạo, trong lần Phật xoay bánh xe pháp đầu tiên.

Bồ-tát thủ hộ giới, không tiếc thân mạng, quyết định không ăn năn, sự việc ấy như thế.

5-Môn ý nghĩa thọ giới:

Bồ-tát giữ giới, vì đạo Phật nên phát thệ nguyện vĩ đại, tất nhiên, hóa độ chúng sinh, không mong cầu thú vui ở đời này, đời sau; không vì tiếng tăm, khen ngợi, mà là vì pháp, cũng không vì mình mà sớm cầu Niết bàn, chỉ vì chúng sinh đang chìm đắm trong dòng sông dài, vì bị ân ái lừa dối; mê lầm bởi hoặc ngu. Ta sẽ cứu độ chúng, sao cho đến bên kia bờ, nhất tâm giữ giới, vì sinh xứ lành, nên phát trí tuệ; vì phát trí tuệ, nên được thực hành sáu độ; vì được sáu độ, nên được đạo Phật.

Trì giới như thế, gọi là Thi-la Ba-la-mật. Lại, tâm giữ giới ưa điều lành thanh tịnh, không vì sợ đường ác, cũng không vì sinh lên cõi trời, chỉ cầu thiện tịnh, dùng giới xông ướp tâm, sao cho tâm ưa thích việc lành, đây là Thi-la Ba-la-mật.

6-Môn lợi ích của việc thọ giới:

Lại nữa, Bồ-tát giữ giới sinh sáu Ba-la-mật.

Thế nào là giữ giới hay sinh ra đàn? Đàn có ba thứ:

1- Bố thí của.

2- Bố thí pháp.

3- Bố thí vô úy.

Trì giới tự xem xét không xâm phạm tài vật của tất cả chúng sinh, đó gọi là tài thí.

Chúng sinh nhìn thấy, kính mến công hạnh mình đã thực hành. Lại, vì nói pháp sao cho chúng sinh kia được tỏ ngộ. Lại, tự nghĩ: "Ta phải giữ giới, để tạo ra ruộng phước cho tất cả chúng sinh thực hành cúng dường, sao cho chúng sinh được vô lượng phước".

Các thứ như thế, gọi là Pháp thí.

Tất cả chúng sinh đều sợ cái chết. Giữ giới không hại, tức là bố thí vô úy. Lại nữa, Bồ-tát tự nghĩ: "Ta phải giữ giới, dùng báu của giới này, vì các chúng sinh làm vua Chuyển Luân; hoặc làm vua Diêm-phù; hoặc làm Thiên Vương, sao cho chúng sinh đầy đủ của cải, không bị thiếu thốn. Sau đó, sẽ ngồi dưới cây Phật, hàng phục ma vương, thành đạo Vô thượng; vì các chúng sinh nói pháp thanh tịnh, sao cho vô lượng chúng sinh đều vượt qua biển già, bệnh, chết, là nhân duyên giữ giới sinh đàn Ba-la-mật. (các Ba-la-mật còn lại, y cứ vào lý để nói). Nhưng giới dụ cho người già, nhẫn dụ cho cây gậy, không có gậy thì què. Nhẫn là chiếc gậy giới, nhờ nương tựa chiếc gậy mà con người mới đến đạo được.

Giới sinh ra siêng năng: Người giữ giới, mỏi mệt, nhàm chán tai hoạ khổ già, bệnh, chết của thế gian, tâm sinh tinh tấn, tất nhiên cầu sự giải thoát, cũng vì hóa độ người. Ví như con chồn hoang ở trong rừng, dựa theo sư tử, cọp, chó sói, tìm thịt dư để tự sống còn. Đôi khi đi khát, thiếu thốn, vào nửa đêm, nhảy qua thành vào nhà người để tìm thịt không được, đến nằm ngủ ở chỗ vắng vẻ, bất giác, sáng đêm, hoảng hốt, sợ hãi không còn biết tính sao? Vì hễ chạy thì lo sẽ không được thoát khỏi; còn đứng lại thì chết khổ, bèn tự định tĩnh tâm, giả vờ chết nằm lăn ra đất. Mọi người chạy đến thấy vậy, có một người nói: "Tôi cần tai của chồn", liền thẻo lấy tai, Chồn tự nghĩ: "Cắt tai mình dù đau, nhưng chỉ cốt sao cho thân sống còn".

Tiếp theo, có người nói: "Tôi cần đuôi chồn", rồi họ lại cắt đi.

Con chồn lại nghĩ: Cắt đứt đuôi dù đau, nhưng cũng là chuyện nhỏ".

Kế lại có một người nói: "Tôi cần nanh chồn", con chồn nghĩ: Người nhận lấy càng nhiều, bè đảng họ sẽ chặt lấy đầu ta, thì sẽ không còn con đường sống sót nữa!", nghĩ đoạn, chồn từ mặt đất đứng dậy, hăng hái trí lực của mình, nhảy vọt hẳn lên, thoát qua cửa tắt, tự cứu vớt được mình. Tâm hành giả cầu thoát khỏi khổ nạn, cũng giống như thế. Nếu khi tuổi già đến, cũng cố tự tha thứ, không thể siêng năng khổ nhọc, quyết đoán, tinh tấn bệnh cũng giống như thế, vì có kỳ hạn lành mạnh, nên chưa thể chấp quyết định.

Lúc cái chết sắp đến, tự biết không có trông mong, tự cố gắng khích lệ, quả cảm, hết lòng, phần nhiều, tu tinh tấn, từ trong địa chết, được đến Niếtbàn.

Nói trong nhẫn độ, nói lợi dưỡng, mới đặc biệt thích nghi sâu sắc, ấy là Nhẫn, như Đề-Bà-Đạt-Đa dù được xuất gia, nhưng Phật và năm trăm Đại A-la-hán không dạy tu thần thông. A-nan chưa được tha tâm, vì kính trọng anh, nên y chỉ thuyết Phật nói, dạy cho tu thần thông, được thông biến hiện, tìm tòi môn đồ, v.v… nói rộng, tư duy về thông.

7-Môn Thọ Chánh:

1- Kinh Bồ-tát Anh Lạc bổn nghiệp chép: "Phật tử thọ giới có ba hạng": chư Phật, Bồ-tát, hiện ở trước, thọ được giới phẩm thượng chân thật.

2- Sau chư Phật, Bồ-tát diệt độ, trong vòng ngàn dặm, có người trước thọ giới Bồ-tát, thỉnh làm Pháp sư truyền giới cho ta. Trước ta lễ dưới chân Phật, nên nói như vầy: "Thỉnh Đại Tôn giả làm thầy trao giới cho ta. Đệ tử của Đức Phật kia được giới chánh pháp là giới phẩm trung. Ba vị Phật sau diệt độ, vào thời kỳ không có Pháp sư, trong năm ngàn dặm, nên ở trước hình tượng chư Phật, quỳ thẳng, chắp tay, tự thệ thọ giới, nên nói như vầy: "Con pháp danh là... bạch Phật và Bồ-tát mười phương v.v... ở khắp đại địa, con học tất cả giới của Bồ-tát, là giới phẩm hạ, lần thứ hai, thứ ba cũng nói như vầy: "Phật tử, ba thứ này nhiếp thọ ba thứ thọ giới: Phật quá khứ đã nói; Phật vị lai sẽ nói; Phật hiện tại đang nói".

Các Bồ-tát quá khứ đã học; các Bồ-tát vị lai sẽ học; các Bồ-tát hiện tại đang học, là giới chánh pháp của chư Phật. Nếu tất cả Bồ-tát không nhập môn giới chánh pháp này mà được đạo quả vô thượng, thì không có việc ấy.

Lúc sắp thọ giới, trước bảo lễ Tam bảo rằng: "Đệ tử pháp danh là… Kính lễ tất cả chư Phật đời quá khứ, cùng tận bờ mé quá khứ; vị lai; hiện tại, đều y cứ vào quá khứ này (nói ba lần).

Lễ pháp, rằng: "Đệ tử pháp danh là … Kính lạy pháp chân thật thanh tịnh mười hai phần giáo của quá khứ, cùng tận bờ mé quá khứ; vị lai, hiện tại cũng như vậy".

Lễ tăng rằng: "Đệ tử pháp danh là… Kính lễ chúng Thánh ba thừa của đời quá khứ, cùng tận mé quá khứ, vị lai, hiện tại cũng như vậy (nói ba lần).

Tiếp theo, dạy thọ bốn niềm tin không hư hoại rằng: "Đệ tử pháp danh là… Nguyện từ giờ phút này, cùng tận mé vị lai, quy y Phật, quy y pháp, quy y Hiền, Thánh, Tăng, quy y giới chánh pháp (nói ba lần).

Tiếp theo, dạy sám hối mười nghiệp ác nặng. Đã ăn năn lỗi mình xong, liền cho thọ mười giới vô tận rằng: "Các thầy hãy khéo lắng nghe! Phật tử từ thân hiện nay, đến thân Phật, cùng tận mé vị lai, ở khoảng giữa đó, không được cố sát sinh. Nếu có người phạm, thì không phải lỗi của hạnh Bồ-tát, bốn mươi hai pháp Hiền, Thánh, không được phạm, có thể giữ được không? (Người thọ giới đáp:

"Dạ giữ được".

2- Không được cố ăn trộm.

3- Không được cố dâm dục.

4- Không được cố nói dối.

5- Không được bán rượu.

6- Không được cô ý nói tội lỗi của Bồ-tát tại gia, xuất gia.

7- Không được cố keo kiết.

8- Không được cố ý giận

9- Không được cô tự khen, chê người khác.

10- Không được cố chê bai tạng Tam bảo (đều y cứ có thể nói).

Tiếp theo, nói rằng: "Phật tử, thọ mười giới vô tận, người đã thọ giới, thường vượt qua bốn ma, vượt qua nỗi khổ ba đời, từ sinh đến chết không mất giới này, thường thuận theo người tu hành, cho đến thành Phật".

Này Phật tử! Nếu tất cả chúng sinh quá khứ, vị lai, hiện tại, không thọ giới Bồ-tát, thì sẽ không gọi là hữu tình thức, không khác súc sinh, không gọi là người, thường lìa biển Tam bảo, vì chẳng phải là Bồ-tát v.v... Bồ-tát có pháp thọ mà không có pháp xả; có phạm mà không mất, cùng tận mé vị lai. Nếu có người đến muốn thọ giới, Pháp sư Bồ-tát, trước giải thích cho họ hiểu, giúp cho người đó tâm khai, ý giải, sinh tâm ưa thích, sau đó truyền giới cho họ. Lại nữa, Pháp sư có thể ở trong tất cả cõi nước, giáo hóa một người xuất gia, thọ giới Bồ-tát, thì phước của Pháp sư này vượt hơn xây dựng tám mươi bốn ngàn tháp, huống chi là hai, ba người, cho đến trăm, ngàn, phước không thể kể. Về thầy truyền giới thì vợ chồng, sáu thân, được làm thầy truyền trao lẫn nhau, người thọ giới kia nhập vào số Bồ-tát của cõi chư Phật, vượt qua ba kiếp tội sinh tử, thành ra nên thọ giới. Thọ có mười phần, thuận theo thọ một, cho đến đủ mười. Lại, mười trọng của Bồ-tát này, mười trọng trong tám muôn oai nghi giới, có phạm, không có sám hối. Được sai sứ thọ giới về truyền lại, tám muôn oai nghi giới đều gọi là khinh có phạm, được sai sứ, sám hối. Đối thủ, sám hối diệt. Giới của tất cả Bồ-tát, Thánh phàm đều lấy tâm làm thể, thế nên tâm cũng tận, giới cũng tận, vì tâm vô tận, nên giới cũng vô tận.

Chúng sinh sáu đường được thọ, y cứ vào pháp thọ mười giới của phẩm Giới thế gian của kinh Văn-thù Vấn chép rằng: "Lúc bấy giờ, Văn-thù-sưlợi bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là Quy y? Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Quy y, nên nói như vầy: "Bạch Đại đức, tôi tên là… Cho đến Bồ-đề, quy y Phật, cho đến Bồ-đề, quy y pháp, cho đến Bồ-đề, quy y tăng lần thứ hai, lần thứ ba cũng nói như thế. Lại nữa, nói: "tôi tên là… Đã quy y Phật, đã quy y pháp, đã quy y tăng rồi, nói ba lần như thế. Tiếp theo nói: "Bạch Đại đức! Con giữ giới Bồ-tát, con pháp danh là… Cho đến Bồ-đề, không giết hại chúng sinh, lìa bỏ ý nghĩ giết hại cho đến Bồ-đề; không trộm cắp, cũng lìa bỏ ý nghĩ trộm cắp; Cho đến Bồ-đề; Không làm việc phi phạm hạnh, lìa bỏ ý nghĩ phi phạm hạnh, cho đến Bồ-đề, không nói dối, lìa ý nghĩ nói dối, cho đến Bồ-đề; Không uống rượu, lìa ý tưởng uống rượu, cho đến Bồ-đề; Không mang tràng hoa, cũng không sinh ý nghĩ mang tràng hoa cho đến Bồ-đề; Không ca múa tạo nghiệp, lìa ý nghĩ ca múa, cho đến Bồ-đề; Không ngồi nằm giường cao rộng, lìa ý nghĩ giường rộng, cho đến Bồ-đề; Không ăn quá giữa ngày, lìa bỏ ý nghĩ ăn quá giữa ngày cho đến Bồ-đề; Không cầm giữ vàng bạc, sinh tượng, lìa bỏ ý nghĩ cầm giữ vàng, bạc, cho đến sẽ đầy đủ đại từ, đại bi sáu Ba-la-mật".

Đức Phật nói Kỳ-dạ này, phát thệ đến Bồ-đề. Quy y Tam bảo, vâng giữ mười thứ giới, cũng thệ đến Bồ-đề, sáu độ và bốn đẳng, đều sẽ khiến đầy đủ.

Người tu hành như thế, là tương ưng với Đại thừa. Lúc sắp thọ giới, trước nên phát thệ nguyện. Phẩm Bồ-tát Thọ giới chép: "Lúc bấy giờ, Vănthù-sư-lợi bạch Phật rằng: "Bạch Thế Tôn! Có người thiện nam, thiện nữ nào muốn thọ giới pháp mà Bồ-tát đã thọ, thì phải làm sao? Phật bảo Vănthù-sư-lợi: "Nên đến trước Phật, chí thành lễ bái, nói như vầy: "Con tên là… Xin chư Phật nghĩ nhớ cho, con như chư Phật, Thế Tôn, Chánh biến tri, dùng trí tuệ Phật vô sở trước, con sẽ phát tâm Bồđề, vì đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh, sao cho được yên vui, phát tâm vô thượng đạo, như chư Phật, Bồ-tát quá khứ, Vị lai, hiện tại đã phát tâm vô thượng Bồ-đề; đối với tất cả chúng sinh, như cha mẹ, anh em, chị em gái, con trai, con gái, bạn thân, v.v… vì giải thoát chúng sinh kia, được ra khỏi sinh tử, cho đến bảo phát tâm Tam-Bồ-đề, siêng năng khởi tinh tấn, thuận theo các chúng sinh rất cần tài pháp, tất cả đều bố thí; dùng tài pháp, này nhiếp thọ tất cả chúng sinh; dần dần, thuận theo cơ nghi, vì giải thoát chúng sinh ra khỏi sinh tử, cho đến khiến chúng được an trí vô thượng Bồđề. Con nguyện sẽ khởi tinh tấn; sẽ không buông lung. (nói như thế ba lần). Đó gọi là phát tâm Bồđề dầu tiên của Bồ-tát Ma-ha-tát".

Nếu y cứ vào Kinh Phạm Võng nói mười giới trọng, thì đồng với kinh Anh Lạc, nhưng kinh kia nói đủ tự mình tạo tác, bảo người khác, tùy hỷ nhân sát, duyên sát, nghiệp sát, v.v… lược, rộng, phân biệt như vậy.

Kinh Tịnh Hạnh Ưu-bà-tắc giới chép: "Thọ mười vô tận", đồng với kinh Anh Lạc Bổn Nghiệp. Lại, thọ giới sáu Ba-la-mật, phương pháp lễ bái, quy y, sám hối, đều đồng với mười vô tận. Nhưng trước kia, kinh Khuyến Miễn chép: "Phật phát ra ánh sáng vô lượng tướng, trên, vượt qua Tam Đảnh, dưới soi rọi khắp các địa ngục và những nơi tối tăm, tất cả đều sáng rực. Chúng sinh có duyên đến nhóm họp. Đức Phật bảo đại chúng: "Hãy nhất tâm khéo nghe! Muốn cầu Bồ-đề pháp chân vô thượng đều tu mười điều lành hóa độ chúng sinh, thương yêu chúng sinh, như yêu con mình, xót thương nghĩ đến Xiển-đề, cứu khổ địa ngục, trăm pháp đủ rồi, nguyện các chúng sinh, được yên vui hoàn toàn, nếu chưa thể phân thân đến cứu giúp, thì thường phát nguyện này; nguyện này đã mãn xong, tiến nhập pháp trí, tu tập chủng tánh, gọi là Đại Ưu-bà-tắc chân Bồ-tát".

Phật tử có sáu chiếc thuyền lớn, có công năng vượt qua biển cả, chỗ người tu hành đến kho tàng bảy báu, vào dòng nước pháp, rửa sạch nhơ bẩn, thân thể thanh tịnh, ba nghiệp trong sáng, diệt trừ chướng che lấp của già, bệnh, vô minh, tự được cứu độ, lại cứu độ người. Cho nên, phật tử nên thọ, nên trì. Nếu có người trì giới, từ sơ phát tâm cho đến Diệu giác, thì tùy duyên bố thí, hóa độ. Nếu có chúng sinh chiêu cảm pháp chân, thì Phật sẽ hóa hiện thân Bồ-tát mà đến cứu độ. Nếu cảm ứng, thì Phật sẽ ứng hiện thân Ưu-bà-tắc mà cứu độ (như Quán Âm, v.v…) Dưới đây sẽ thỉnh thọ.

Lúc bấy giờ, ở phương Đông có thế giới hiệu là Quang Tịnh, có tám ngàn vị Đại Phạm Thiên vương. Thế giới thứ nhất lấy tịnh nghiệp đặt danh hiệu, đều có trăm ngàn quyến thuộc, các phương cũng nhiều như số này. Ở thế giới này, vua trời Tịnh Cư, gọi là Tịnh chí, cũng với trăm ngàn quyến thuộc cùng đến trước Phật, đi nhiễu quanh ba vòng, rồi đứng qua một phía, bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Ngày nay, chúng con đang ở biển phiền não, dừng lại trong sông sinh tử, dù muốn lội qua sông, cũng không có thuyền bè chắc chắn, e chìm giữa dòng, muốn trở lại bờ này, cứ lần lượt như thế, không hề trông mong ra khỏi. Đấng đại từ Thế Tôn cứu vớt tất cả. Nguyện Phật ban cho sáu chiếc thuyền để vượt qua tai nạn nguy hiểm!" Chúng ta đã vượt qua sông rồi, cũng bảo tất cả chúng sinh khiến được vượt qua. Ở đời ác sau, truyền khắp bá không dứt.

Tiếp theo, Đức Phật dạy lập nguyện rằng: Phật tử phải phát nguyện lớn: "Nguyện cho tất cả chúng sinh khắp thành Chánh Giác. Nếu có một người còn khổ não, thì con sẽ thay cho họ chịu khổ não, để họ được vui. Dốc lòng đầu mặt dập sát đất, lại nguyện cho tất cả chúng sinh đều hướng về tướng từ, như cha, như con, thân thể thanh tịnh, như lưu ly trong suốt, nếu có một người không như thế, thì con sẽ thay họ".

Tiếp theo là dạy sám hối: "Sám hối xong, quy y Tam bảo, kế là nói rằng: "Phật tử đã phát đại nguyện. Sám hối đã xong, lại quy y Tam bảo rồi, ba nghiệp thanh tịnh; Thật là con của pháp thân Như Lai, là chủ chiếc cầu pháp của tất cả chúng sinh, dốc lòng đầu mặt sát đất, thu giữ thân tâm, theo lời nói mà xưng tên".

Tiếp theo, chánh thức nói về tướng rằng: "Phật tử, từ thân hiện nay đến thân Phật, ở khoảng trung gian đó, thường thực hành Đàn Ba-la-mật, đều khiến cho đầy đủ, không được lười biếng, có bị phạm, hoặc phạm, đều chẳng phải Bồ-tát, có thể giữ được không? (đáp lại lời này): Giữ được (Căn cứ ở trước, tùy theo xưng tên, nên nói rằng: Tên... giữ được). Thi-la Ba-la-mật, Sằng-Đề Ba-la-mật; Tỳ-lê-da Ba-la-mật; Thiền Ba-la-mật; Bát-nhã Ba-la-mật (căn cứ vào đàn để nói).

Tiếp theo nói: Phật tử, giới của sáu Ba-la-mật này, thường phải giữ gìn, siêng năng thực hành, tu tập, chớ có lười biếng, hoặc lui mất. Bốn mươi hai pháp Hiền, Thánh, giữ vững tâm mình, không được trái phạm, có giữ được không? (Đáp lời dạy: giữ được).

Nếu y cứ vào quyển mười, thì có đủ pháp thọ, trì y, kiết giới, an cư, tự tứ v.v…, rộng như kinh Tịnh Hạnh Ưu-bà-tắc đã nói. Nhưng y cứ vào pháp

Ưu-bà-tắc xuất gia, lại có Sa-di, đại giới, v.v…

Tịnh hạnh, Ưu-bà-tắc quyển 3 chép: "Nếu Ưubà-tắc giữ giới, phải cẩn thận trọng tội phẩm thượng. Trọng tội phẩm thượng là sao? Thứ nhất, là dâm si; thứ hai, là giết người phát tâm Bồ-đề. Thứ ba, là trộm vật Tam bảo. Thứ tư là không hiếu thuận cha mẹ. Thứ năm là ngạo mạn với Thầy. Thứ sáu là giết người. Thứ bảy là giận dữ, ganh tỵ. Thứ tám là keo kiệt, nghèo thiếu".

Nếu phạm tội Ba-la-di như thế, thì đầy đủ một đại kiếp, đọa vào đại địa ngục, kiếp hết lại sinh.

Lần lượt như thế, đến vô số kiếp; chê bai Tam bảo, cũng giống như thế.

8-Môn thọ giới được lợi ích:

Kinh Ưu-bà-tắc giới chép: "Khi xưa, có một vị Đại Ưu-bà-tắc Bồ-tát thọ trì năm giới, đầy đủ oai nghi, dẫn chúng đệ tử đi khắp xóm ấp, đến thành Chư Ly nghỉ ngơi, thấy một chim mái dẫn hai chim cù dục con lên rừng. Tiếng chim kêu rất buồn thảm, cảm động. Vì Ưu-bà-tắc này tên là Tịnh phát ngoái đầu lại nghe chim kêu mà rơi lệ. Ông quay lại bảo chúng đệ tử: "Con chim này là quyến thuộc khi tu nhân của ta, ta vốn tu hành, xuất gia, thọ giới. Ta có hai con, lên ba và lên bốn. Vợ ta lúc bấy giờ, yêu sắc, chấp mắc ngã, ngoảnh đầu lại nói với con rằng: "Hãy nắm lấy áo của cha con, sống, chết chớ buông!" Chim trống tự nuôi con, cho bú đến ba năm!" Do vậy, nay cha đâu bỗng nhiên bỏ con mà đi. Vì duyên cớ này, nên đọa làm loài chim đen. Do sức giới từ, liền kêu nói: "Con hãy đến chỗ ta. Chim mẹ và hai chim con kêu ríu rít mãi không thôi, mừng rỡ như chết đi được sống lại".

Một phen cách biệt đến nay, là mười sáu muôn năm, ta vốn kính yêu chẳng có tâm ác, đâu trông mong một mai cảm thọ tội báo này. Nói rồi con chim trống bay đến, ôm lòng buồn rầu, bi cảm, áo não. Ngày nay một phen vĩnh biệt, thì không hẹn trở lại. Đối với thân này, đến khi nào, thì ta sẽ thoát bỏ tịnh phát? Lúc bấy giờ, biết tâm ăn năn của người kia, gốc lành đã đến, vì nói nhân duyên sáu độ, mười điều lành. Lại, vì sám hối, dứt trừ sở chướng, tội lỗi, liền trao cho pháp trai, năm phần pháp thân, giới phần giải thoát".

Thọ giới xong, cung kính đảnh lễ, từ biệt mà đi. Hai mẹ con tư lương, qua bảy ngày đêm, đều cùng lúc qua đời, sinh vào nhà Đại Bà-la-môn ở Nam Thiên-trúc, trở lại làm quyến thuộc. Nhân duyên của sức giới, tự nhiên đầy đủ, trí tuệ thông minh; ba nghiệp thanh tịnh được tâm bất thối. Phải biết rằng, giới này một khi thọ thì không mất, cho đến súc sinh, đây gọi là Ưu-bà-tắc không thể suy nghĩ bàn luận.

Lại thuở xưa, có một người vợ giấu giếm chồng mình, ăn riêng một mình vô độ. Vì trộm ăn, nên sau khi chết đọa làm chó đói, sinh vào nhà nghèo hèn, vì phước đức mỏng, hình dáng xấu xí, thân thể mọc đầy ghẻ ngứa, than khóc nghe trái tai thường sủa những tiếng kinh quái, bị người ghét bỏ, đánh đập, xương sống đùn lại, chân què đi khập khểnh, chỉ nói giết chóc, không ai cho ăn. Trong năm trăm đời, có ba lần ăn no.

Lần ăn no thứ nhất: Nó gặp hai người say rượu, đều ói cùng lúc, người khác chưa đi qua, nó chạy thật nhanh để ăn. Trong khoảnh khắc đi chưa được, thì con chó to chạy đến ăn, chết đi sống lại. Nó rên rỉ trong nhà vì không thể thoát ra được. người chủ giận dữ, toan tìm cách định giết. Vì tâm sợ chết, nên cố gắng lén đi. Khi bình phục, lành mạnh rồi, bị cơn đói dày vò nguy khốn; nó bắt gặp mành rượu, liềm trộm hèm ăn. Ăn no nê rồi, không dám về gần nhà, sợ e sau khi hết say, hoặc bị đánh giết, lập tức nó chạy đến chỗ không có người qua lại, ý buông lung, ngủ li bì suốt ba ngày. Lúc tỉnh dậy lại bị cơn đói vây khốn làm khổ, nghĩ đến uống, ăn, không cách nào có được. trong khoảnh khắc bồi hồi, thì người chủ là thôn nữ đang xách một đấu gạo đầy để trong nối đất, đậy miệng nồi lại rồi bỏ đi. Thấy người chủ đi rồi, nó dùng mỏ đẩy nắp nồi văng ra, đút đầu vào giữa nồi ăn hết gạo, sau đó kéo đầu ra không được, phần thì sợ người chủ đến thấy, nó dốc hết sức mang chiếc nồi chạy đi từ Đông sang Tây, vẫn không mở được. Ở giữa đường không có tiếng, nó dừng lại, trong chốc lát đến sau cùng, nó chết tại đây, trở lại thân chó trong khoảnh khắc.

Lúc bấy giờ, có vị Bồ-tát tên là Vô Ngôn, liền nói cho nghe pháp năm phần giới. Nhân dạy khiến tu trì, bỏ thân này rồi sinh vào nhà vua, thông minh, trí tuệ, được Bồ-đề không lui sụt.

Giới Ưu-bà-tắc có năng lực không thể suy nghĩ, bàn luận như thế. Này người Thiện nam! Các ông tu đạo nhẫn nhục làm đầu. Vì sao? Vì xưa có một người tên là Cao Vương, xuất gia thọ giới, hay khinh dễ thầy mình, thường có tâm ngạo mạn. Đối với các đồng đạo cũng như thế; tranh chấp giận dữ, miệng buông lung bốn lỗi, khi chết đọa vào địa ngục lớn, trải qua bảy Đức Phật cũng không được ra, mãi đến hết kiếp Hiền mới được khỏi nạn. Dự báo dùng số kiếp để nói cũng không thể hết. Cho nên, tu đạo trước phải nhẫn nhục.

Lại có một vị Đại quốc vương tên là Kiệt-lôgià, bị vua Đại Trăn thảo phạt giết chết. Vua có một người con tên là Tín Trụ. Cha mất rồi giấu mình, ẩn phục. Khi tuổi đã khôn lớn, nghèo không có tư sản, bị sai khiến thờ phụng sự. Khi nhà vua du ngoạn, sức thân quá mệt mỏi, nên thất lạc các bạn, Tín Trụ cùng nhà vua, hai người đến bên một dòng nước, Tín Trụ xuống tắm chung với vua. Lúc bấy giờ, nhà vua bị nước cuốn chìm. Tín Trụ dang tay ra nắm lấy tóc vua kéo ra khỏi vực sâu, Tín Trụ nói với nhà vua: "Tôi là con của Kiệt-Lô-già, nhà vua đã giết chết cha tôi, là mối thù lớn của tôi. Vì nghe nói thù cha không đồng với trời như chiếc dù, thù anh không đồng với nước mà đi. Tôi vì việc nguy khốn này không thể nhịn được, nhà vua phải chịu chết thôi. Vua Đại Tràng đáp: "Trăm lần chết ta không hề hối hận!" Tín Trụ đáp: "Tôi không giết nhà vua chỉ bảo cho ông biết mà thôi, vì nói về trả oán ví như bánh xe không có đầu mối, nếu không báo thù, hòa thuận mới được chấm dứt. Sau đó, Tín Trụ vội đỡ nhà vua lên ngựa cùng trở lại nước. Trở lại nước rồi, liền triệu tập các quan hỏi: "Nay bắt được con của Kiệt-lô-già là được thưởng hay là chém? Các quan đều tâu: "Tâu Đại Vương! Con của kẻ mất nước không thể thưởng, phải giết chết hắn".

Nhà vua liền bàn bạc cụ thể việc trước kia, rồi đưa vợ, con gái trở lại bổn quốc. Vua tự trở về nước trị vì như cũ.

Này người thiện nam! Tâm Bồ-tát rộng như núi, biển, vô lượng thiện, ác đều chứa đựng trong đó. Lại, oán thù còn nhẫn huống chi giận dữ khác. Hoa báo trong hiện tiền thọ vui. Về sau sinh lên cõi trời cho đến đại quả nên người giữ giới sức nhẫn rất lớn.

9-Môn thọ mười điều lành:

Đầu tiên, suy nghĩ nên tu mười điều lành. Kinh Thập Địa chép: "Bồ-tát nghĩ như vầy: "Tất cả chúng sinh đọa vào các đường ác đều do không lìa mười nghiệp đạo bất thiện tập nhân duyên. Cho nên, trước phải trụ pháp lành cũng khiến cho người khác trụ trong pháp lành vì sao? Vì nếu người tự không làm điều lành; làm việc thiện không đủ, mà nói pháp cho người khác nghe, muốn cho họ trụ trong pháp lành là không có việc đó".

Tiếp theo, tư duy mười quả bất thiện rằng: "Bồtát này lại nghĩ: "Mười nghiệp đạo này bất thiện phẩm thượng là nhân duyên địa ngục; phẩm trung nhân duyên là súc sinh; phẩm hạ là nhân duyên ngạ quỷ. Tội của sát sinh ở phẩm trung có thể khiến chúng sinh đọa vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ.

Nếu sinh lên làm người được hai thứ quả báo".

1- Mạng sống ngắn ngủi.

2- Thường bị bệnh.

Tội của trộm cướp cũng khiến cho chúng sinh đọa vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Nếu sinh lên làm người thì sẽ mắc hai quả báo:

1- Nghèo cùng.

2- Tài vật chung không được tự tại (tám đạo nghiệp còn lại đồng với văn ba đường ác).

Tội tà dâm nếu sinh lên làm người thì sẽ mắc hai thứ quả báo:

1- Vợ không trinh tiết, lương thiện.

2- Hai người vợ tranh cãi nhau không theo ý mình.

Tội nói dối, nếu sinh làm người thì sẽ mắc phải hai thứ quả báo:

1- Thường bị chê bai.

2- Thường bị nhiều người lừa dối.

Tội nói lưỡi đôi chiều. Nếu sinh làm người thì sẽ mắc phải hai thứ quả báo:

1- Quyến thuộc bị phá hoại.

2- Quyến thuộc xấu ác.

Tội của miệng nói lời hung ác: Nếu sinh làm người thì sắc mắc phải hai thứ quả báo: 1-Thường nghe tiếng ác.

2-Có nói năng gì thì luôn tranh cãi.

Tội nói lời thêu dệt: Nếu sinh làm người thì sẽ mắc phải hai thứ quả báo:

1- Đã nói chánh ngữ nhưng người không tin.

2- Tất cả lời nói không thể hiểu rõ.

Tội tham dục: Nếu sinh làm người thì sẽ mắc phải hai thứ quả báo:

1- Tham của không biết thỏa mãn.

2- Mưu cầu nhiều thường không vừa ý mình.

Tội giận dữ: Nếu sinh làm người thì sẽ mắc phải hai thứ quả báo:

1- Thường bị người khác vạch tìm điều xấu tốt của mình.

2- Thường bị não hại bởi người khác.

Tội tà kiến: Nếu sinh làm người thì sẽ mắc phải hai thứ quả báo:

1- Thường sinh vào nhà tà kiến.

2- Tâm luôn tà vạy, nịnh hót.

Đã biết quả ác. Tiếp theo tư duy xa lìa rằng: "Ta sẽ xa lìa mười nghiệp đạo bất thiện, ưa thực hành pháp thiện, vì làm lợi ích cho chúng sinh, nên phải trụ mười nghiệp đạo thiện, cũng bảo người khác an trụ trong mười nghiệp đạo thiện vì tự mình trụ pháp lành, xa lìa chướng kia, tu hành đối trị cũng khiến chúng sinh trụ pháp lành. (Tiếp theo tư duy mười điều lành, có được lợi ích rộng như kinh Thập Địa, Nhân Vương, Di-lặc Vấn Luận, v.v... nói)".

Đã muốn cho chúng sinh tu hành mười điều lành, vì ở mười pháp lành vì dựa vào bi tăng thượng nên đối với tám thứ chúng sinh, sinh tám thứ tâm.

1- Đối với chúng sinh hạnh ác, vì muốn cho trụ hạnh lành nên sinh tâm yên ổn.

2- Đối với chúng sinh khổ, khiến đủ vui vì không cùng tận nên sinh tâm vui.

3- Đối với chúng sinh oán ghét, vì không nghĩ đến thêm báo thù nên sinh tâm từ.

4- Đối với chúng sinh nghèo cùng, vì muốn cho chúng sinh được xa lìa nỗi khổ kia nên sinh tâm bi. 5-Đối với chúng sinh yên vui, vì muốn cho chúng không buông lung, nên Bồ-tát sinh tâm thương xót.

6- Đối với chúng sinh ngoại đạo, vì muốn cho họ hiện tin Phật pháp, nên sinh tâm lợi ích.

7- Đối với chúng sinh của nhân hạnh, vì muốn cho chúng không lui sụt, nên sinh tâm che chở.

8- Đối với tất cả thuộc về Bồ-đề, nguyện chúng sinh như nguyện cho thân mình, vì các chúng sinh này tức là thân ta nên sinh ngũ tâm.

Lại nữa, Bồ-tát nghĩ rằng: "Các chúng sinh này đọa vào tà kiến, ý ác, rừng rậm của đường ác, ta nên bảo chúng sinh đó thực hành đạo chánh kiến". Lại, Bồ-tát nghĩ rằng: Tướng chung của chúng sinh này đã phá hoại sự phân biệt giữa người và ta, thường đấu tranh chung, ngày đêm giận hờn luôn hực cháy không thôi dứt, ta nên giúp cho chúng được an trụ trong đại đạo vô thượng".

Lại, Bồ-tát nghĩ rằng: "Tâm của các chúng sinh này không có thỏa mãn, thường mưu cầu tài sản của người khác, tà mạng tự nuôi sống, ta nên giúp cho họ trụ trong chánh pháp mạng của nghiệp thân, miệng, ý thanh tịnh".

Lại, Bồ-tát nghĩ rằng: "Các chúng sinh này nhân tùy thuộc tham dục, giận dữ, ngu si, thường bị các thứ lửa hừng phiền não thiêu đốt, không thể có chí mong cầu phương tiện ra khỏi ác, ta nên bảo họ hãy dứt trừ tất cả lửa lớn phiền não, an trí họ ở chỗ thanh tịnh không sợ hãi".

Lại, Bồ-tát nghĩ rằng: "Các chúng sinh này vì ở trong sinh tử, nên thường bị nhận chìm bởi sóng cả của dòng nước cuồn cuộn chảy siết, xuôi theo dòng dục, dòng hữu, dòng kiến, dòng vô minh, xuôi theo dòng chảy trôi nổi thế gian, chìm đắm trong sông ái mênh mông, vì dòng chảy quá nhanh, nên không thể chánh quán, thường giác biết dục; giác biết giận dữ, giác biết não. Vì hành vi ác rộng, nên bị la-sát cầm giữ trong nước ái kiến, thuận vào rừng dục, vì vướng mắc ái sâu, nên đất liền ngã mạn đã bị cháy khô, không có khả năng cứu chữa; xóm làng sáu nhập không thể phát động, tự lìa hạnh lành, không có người thích đáng hóa độ, ta nên sinh tâm đại bi đối với họ, dùng năng lực gốc lành mà cứu vớt họ, sao cho họ được vô úy, không nhiễm, vắng lặng, lìa các nỗi sợ hãi, an trụ trong bảo châu Nhất thiết trí tuệ".

Lại, Bồ-tát nghĩ rằng: "Các chúng sinh này đã bị giam dữ ở chỗ lao ngục thế gian, mang nhiều khổ sở, tai hoạn, nhiều vọng tưởng phiền não, yêu ghét ràng buộc, lo buồn hiện hành chung, bị trói buộc bởi vòng xích ái, dấn sâu vào rừng rậm vô minh ba cõi, khiến an trụ Niết-bàn vô ngại lìa tướng".

Phát ý nghĩ này rồi, kế là pháp thọ giới, như nghi thức thông thường. Lại, kinh Di-lặc Vấn chép: "Bồ-tát tu hành mười nghiệp đạo thiện có năm sự kiện kỳ lạ, ít có.

1- Khởi tâm mạnh mẽ.

2- Tinh tấn

3- Vững chắc

4- Trí tuệ

5- Quả (như danh khởi).

Lại, các Bồ-tát vì dùng nguyện vững chắc, nên nương tựa đại từ bi, khởi hạnh lợi ích cho chúng sinh. Đối với các thế gian, tâm không mỏi mệt.

Sao gọi là nguyện vững chắc của Bồ-tát?

Đáp: "Có năm thứ pháp, gọi là nguyện vững chắc của Bồ-tát":

1- Thinh văn thừa không thể lay động.

2- Bích-chi-phật thừa không thể lay động.

3- Luận của các ngoại đạo không thể lay động. 4-Tất cả các ma không thể lay động.

5-Chẳng thể do không có nhân, không có duyên, mà tự nhiên lay động.

Lại, có năm pháp biết được Bồ-tát có tâm đại bi:

1- Vì đem lại niềm vui yên ổn cho chúng sinh, không tiếc tất cả vật giúp ích cho sự sống.

2- Không tiếc thân mình.

3- Không yêu, tiếc thân mạng.

4- Tu tất cả hạnh, không đợi nhiều thời gian. 5-Oán thân bình đẳng.

Cho nên, Bồ-tát đối với các thế gian, tâm không mệt mỏi, nên đã vì chúng sinh, phát tâm Bồ-đề.

Người thọ mười điều lành của Bồ-tát này, cũng nên tu hành tâm vững chắc v.v…

10-Môn khen nhẫn hộ giới:

Kinh Ưu-bà-tắc giới quyển tư chép: "Nây người thiện nam! Nếu Ưu-bà-tắc vâng giữ giới, thì nhẫn nhục là ưu tiên. Giận đến thì đáp lại vẻ vui mừng, bị xúc não, vẫn không thay đổi. Đây là thể trì giới của Bồ-tát. Bồ-tát thí cho người khác, từ oán là bắt đầu".

Này người thiện nam! Thuở xưa, có vị vua hiệu là Trường sinh, dùng chánh pháp để trị nước, không uổng phí nhân dân, thiên hạ thái bình, cõi nước yên tĩnh. Vua nước láng giềng là Ma-lô-lana, vì tham cõi nước của mình, nên đã khởi binh đánh chiếm, giết vua Trường sinh, rồi ở trong cung điện của ma. Vua Trường sinh chỉ có một con người, mới biết nói, chưa có sự nhận thức. Lúc nhà vua sắp băng đã có sắc chỉ các quan văn võ đôi bên: Con Trẫm là Ma-Nạp-Nhã, hãy bảo toàn thân mạng nó, đừng báo thù nước, mới thật là con ta. Vì người muốn chấm dứt oán thù, thì không nẩy sinh ý tưởng đáp trả, oán mới dứt được; nếu kẻ trả oán thù thì cũng như bánh xe quay sẽ không bao giờ có bao giờ có chỗ ngừng.

Ma-Nạp-Nhã mới lên mười hai tuổi, đổi tên là Di Tánh, danh là Vô Tư. Bị sai khiến hầu hạ nhà vua. Mặc dù tuổi Vô Tự còn ấu thơ, nhưng về tài, trí hơn người; hình mạo khôi ngô dáng dấp tuấn tú, lễ tiết, cúi ngước, hầu hạ dễ xem. Ma-nạp rất được vua cha sủng ái, thường ở trong nhà. Được ba năm tuổi chàng lên mười lăm. Lúc bấy giờ, vua Ma-lôla-na và Hoàng hậu hai người chỉ có chung Vô Tự, không còn có người nào khác.

Một hôm, ở trong cung vua phát hiện bị mất xâu chuỗi Anh lạc và một chiếc áo, nhà vua vội hạ lịnh tìm kiếm, tra xét, nhưng không biết được thủ phạm. Vua tự nghĩ: "Không có người nào khác, chỉ có Vô tự đã lấy trộm chuỗi ngọc, áo của ta, liền ra lệnh bắt Vô Tự, như trị phạt hỏi: "Nếu Vô Tự có trộm chuỗi ngọc, và áo của ta thì hãy đem ra đây nhanh lên". Vô Tự đáp:

Muôn tâu, chính con đã lấy trộm chuỗi ngọc, phải biết rằng xâu chuỗi ngọc ngày hôm nay không thể được. vua liền hỏi: "Người đã lấy trộm của ta, sao lại nói xâu chuỗi ngọc không thể được? Vô Tự đáp: "Vì vốn không phải là ý của tôi, mà là Thái tử đã sai tôi trộm chuỗi ngọc, đang ở bên Thái Tử, thì làm sao có thể có được". Vua liền hỏi:

Nếu Thái tử lấy trộm, thì còn chung với ai nữa? Vô Tự đáp: "Quan đã được vua sủng ái, lại là khách, chủ có giá trị chung; lại gái dâm chung". Lúc bấy giờ, vua y cứ lời khai của Vô Tự, lệnh cho bắt Thái tử dẫn đến hỏi: "Con trộm chuỗi ngọc như thế nào? Thái tử đáp: "Con không lấy trộm chuỗi ngọc".

Vua hỏi Vô Tự: Thái Tử không lấy trộm.

Vô Tự tâu vua: Tâu Đại vương! Thái tử đã lấy trộm chuỗi ngọc, nay lại nói không trộm, sẽ được khỏi tội trộm chuỗi ngọc;

Vô Tự cũng không lấy trộm chuỗi ngọc".

Vua cấm Thái tử đến ở chỗ không phải chỗ.

Tiếp theo hỏi quan đại thần.

Vô Tự dẫn chứng các khanh đã lấy trộm xâu chuỗi, hãy mau đem ra đây!

Đại Thần đáp: Thật sự không lấy trộm chuỗi ngọc.

Vua hỏi Vô Tự: Quan không lấy trộm chuỗi ngọc, sao ngươi lại dẫn chứng họ?

Vô Tự tâu: Tâu Đại vương! Miệng nói không lấy trộm, được thành không trộm, Vô Tự cũng không trộm chuỗi. Tiếp theo, vua hỏi người buôn bán, cho đến gái dâm, cũng giống như thế. Vua liền ra lịnh cho năm người này đều cho ở riêng một chỗ. Lúc bấy giờ, cô gái dâm trước đến hỏi Vô Tự rằng: "Trong cung vua, có người nào lạ không?"

Vô Tự đáp: Chỉ vua, hoàng hậu và tôi, ngoài ra không có ai lạ.

Cô gái dâm hỏi: "Nếu không có người nào khác, thì có chim Anh Vũ, v.v… thú khỉ vượn, v.v... không?

Vô Tự đáp: Có một con khỉ thường ở trong cung, các khỉ vượn khác, đều không thể vào. Cô gái nói với Vô Tự rằng: "Vậy là con khỉ đã lấy trộm xâu chuỗi và chiếc áo đem đi rồi! Ông cứ xem xét, sự thật không có nghi ngờ. Ông phải tâu với vua, cho các kỹ nữ ra, mặc nhiều áo đẹp, các khỉ khác cũng mặc áo đẹp; con khỉ trong cung chỉ cho trần truồng sắp hàng trước sân, vừa nô đùa vừa múa.

Loài khỉ vốn ưa bắt chước, tất nhiên nó sẽ lấy áo chuỗi ngọc Anh Lạc ra để cùng với người múa men, đùa giỡn".

Vô tự liền tâu việc này lên nhà vua, biết vua sẽ trọng dụng lời nói của mình. Như thế tạo ra kế sách kết hợp ca vũ, con khỉ bèn lục tục đem áo, chuỗi ngọc đến chỗ sân, mới biết cả năm người không lấy trộm áo, chuỗi ngọc, thì ra con khỉ chính là thủ phạm ăn trộm. Nhà vua hỏi Vô Tự:

Con khỉ là kẻ trộm, còn Thái tử không lấy trộm, sao ngươi chứng biết?

Vô Tự tâu: Vì Thái Tử là chánh đích của Đại Vương, Được đại vương trọng dụng, sủng ái, nếu Thái tử kia vô tội, thì Vô Tự lẽ ra cũng không có tội. Nếu không dẫn chứng Thái tử thì từ rày về sau, sẽ không khỏi bị mất mạng. Cho nên dẫn Thái tử.

Còn dẫn Đại thần thì sao? Vua hỏi, Vô Tự tâu:

Muôn tâu Đại vương! Vị đại thần là người được vua kính trọng, các quan tôn quý là những người làm nghiêng nước, sang, hèn, có ý giúp đỡ đại vương, nên được vô tội và tôi cũng vô tội.

Dẫn chứng người buôn bán là sao? Vua hỏi: Vô Tự tâu:

Tâu đại vương! Chủ đi buôn có nhiều vàng bạc, báu vật lạ, thoát khỏi được do chuộc mạng, thì tôi lẽ ra cũng được khỏi.

Dẫn chứng gái dâm là sao? Vua hỏi. Vô Tự đáp:

Tâu đại vương! Cô gái dâm, diện mạo xinh đẹp đặc biệt, có nhiều người cùng đi qua lại chung, thoát khỏi, sẽ có trí tư duy; suy lường kế của người ngoài. Thoát ra sẽ bắt được kẻ trộm, thì tôi cũng vô tội.

Nhà vua biết Vô tự là người có trí, rất yêu mến trọng dụng, nên thường cho hầu cận mình.

Về sau, nhà vua lên núi đi săn, thấy bầy nai đang cắm đầu chạy, vì bị ngựa rượt đuổi theo, bọn chúng bị thất lạc, chỉ cùng Vô Tự, hai người theo nhau. Lúc bấy giờ, vì quá mệt mỏi, nhà vua dừng lại nghỉ ngơi dưới tán cây. Vô Tự ngồi ôm làm gối đỡ đầu vua. Lúc đó, vua ngủ say không tự hay biết. Lúc bấy giờ, Vô Tự cơn giận nổi lên trong lòng, rút gươm ra toan giết vua, thù cha ta, nay được dịp thuận tiện này, rất khó có thể dung thứ. Vô Tự lại nghĩ: "Trước phút qua đời, cha ta đã có lời di chúc dạy ta: "Nếu không báo oán thì mới thật là con ta, nay, nếu ta trả thù thì sẽ trái với ý của cha, không phải là đứa con có hiếu", nghĩ đoạn liền tra kiếm vào vỏ".

Nhà vua tỉnh giấc, nói với Vô Tự rằng: "Ta vừa nằm mộng, thấy một mình Trường Ma-Nạp, Vương tử của vua Trường sinh, đang dùng kiếm đến tìm ta" Vô Tự tâu:

Tâu Đại vương! Con của Trường Sinh, từ lâu đã thành tro đất rồi, hiện giờ đang ở trong núi sâu, chỉ có hai người ta, đâu có Trường Sinh, Vương tử?

Vua lại ngủ yên. Vô Tự lại dùng gươm bén đâm vua, kinh hãi, vua tỉnh giấc như trước. Nhà vua lại ngủ tiếp. Vô Tự lấy tay vén tóc trên đầu vua, hỏi vua rằng: "Trường Ma-Nạp là ta đây! Ông đã giết cha tôi là mối thù của tôi. Nay tôi gặp ông, ấy là do phần chết? Vua nói: "Xưa ta vốn giết cha ngươi, nay chết ta không ân hận". Ma-Nạp tâu vua:

Tâu Đại vương! Cha ta trước phút qua đời đã có dạy ta. Nay, nếu giết ông thì sẽ trái với ý nguyện của cha ta, không phải con có hiếu, ta không giết vua, khiến vua tự biết. Nói xong, Vô Tự đỡ vua lên ngựa, cùng trở về cung. Đến cung rồi, vua triệu tập các quan, nói rằng:

Nay bắt được Vương tử của Trường Sinh, phải giết hay là là thưởng? Các quan đều nói: "Đứa con mất nước, không thể thưởng, chỉ phải giết thôi".

Vua nói: "Không đúng, rồi nói cụ thể sự tình trước kia, liền đưa con gái, vợ đến để làm chúa của bổn quốc; nhà vua tự trở về nước xưa. Hai nước thông giao tốt đẹp, không chinh phạt nhau nữa".

Người tu hạnh Bồ-tát, oán thân bình đẳng, thù cha vẫn còn xả bỏ, huống chi oán thù khác. Tâm Bồ-tát rộng như núi, biển. Nếu có thể chấp nhận vô lượng môn đồ tập mất các việc ác, thì nên quán như thế này: "Bồ-tát hòa ánh sáng, tạo ra cõi nước này và quan, dân khắp thực hành mười điều lành, tích cực cứu khổ u đồ, hướng về tướng từ bi, như cha, như con, như anh, như em, nhu hòa, nhẫn nhục, đều phát tâm Bồ-đề. Giới thiện tự ở hạnh kia thanh tịnh. Đó gọi là Bồ-tát phát ý cho là đều lợi ích, đức đại nhẫn nhục có thể dẹp bỏ phiền não".

11-Môn người tại gia chỉ bảo lẫn nhau:

Kinh Ưu-bà-tắc Giới chép: "Này người Thiện nam! Thuở xưa ta sinh vào nhà tà kiến; hoặc bủa lưới việc lành của ta. Lúc bấy giờ, ta tên Quảng Lợi, vợ tên Nữ, tinh tấn, mạnh mẽ, độ thoát vô lượng, dùng mười điều lành để dẫn dắt hóa độ. Khi ấy, ta ưa đi săn, giết hại, tham vui rượu thịt, trễ nải, lười biếng, không thể tinh tấn. Bấy giờ vợ ta nói với ta: "Đừng đi săn, giết hại nữa". Ta bèn giữ giới không uống rượu, ăn thịt, siêng năng tinh tấn, được thoát khỏi tai hoạ khổ não của địa ngục, cùng sinh lên cõi trời với vợ ta. Lúc bấy giờ, tâm sát của ta không dứt, vị ngọn của rượu thịt không thể cắt bỏ, tâm tinh tấn biếng nhác không tiến tới. Ý thôi dứt của cõi trời, thọ phần địa ngục. Bấy giờ, ta đang cư trú trong thôn xóm, gần tăng-già-lam, thường nghe tiếng kiền-chùy, vợ nói với ta: "Mỗi việc không thể nghe tiếng kiền-chùy, mà phải ba lần búng móng tay, một lần xưng niệm danh hiệu Phật; thúc liễm thân, tự cung kính, chớ sinh kiêu hãnh, ngạo mạn, như nửa đêm của người kia, pháp này chớ bỏ".

Ta không chịu nghe lời, lại bỏ mất, trải qua mười hai năm, người vợ kia qua đời, sinh lên cõi trời Đao-lợi. Ba năm sau, ta cũng hết tuổi thọ, trải qua đến sự đoạn, phán quyết ta có tội, hướng đến cổng địa ngục, khi sắp vào cổng, thì nghe ba tiếng chung, lập tức ta dừng lại, tâm sinh vui mừng, yêu thích không nhàm chán; như pháp ba lần búng ngón tay, xướng danh hiệu Phật một hơi dài, từng tiếng đều từ bi, âm phạm sáng suốt, chủ sự nghe xong, tâm rất hổ thẹn, đối với vị Bồ-tát chân chánh này sao lại phán quyết lầm? Liền sai đuổi theo tiễn lên cõi trời. Đã đến rồi, năm thể gieo sát đất, lễ kính vợ ta mà bạch rằng: "Đại sư, hân hạnh nhờ ơn lớn, được cứu vớt cho đến Bồ-đề, không trái với lời răn dạy. Do đây nên làm thầy lẫn nhau, đều được quả lớn. Các ông hãy nghe cho chắc thật, tin nhận vâng làm.

12-Môn cúng dường:

Kinh Ưu-bà-tắc Giới quyển 44 chép: "Bồ-tát có mười thứ cúng dường":

1- Cúng dường thiết-lợi-la

2- Cúng dường chế đa

3- Cúng dường hiện tiền

4- Cúng dường không hiện tiền

5- Tự làm cúng dường

6- Dạy người cúng dường

7- Tài vật kính trọng cúng dường

8- Cúng dường rộng lớn 9-Cúng dường vô nhiễm 10-Cúng dường chánh hạnh.

Sáu thứ ý lạc tăng thượng do Như Lai phát khởi:

1- Ý lạc tăng thượng của ruộng Đại công đức Vô thượng.

2- Vô thượng có ơn đức lớn.

3- Tôn quý trọng tất cả hữu tình.

4- Như Diệu hoa Ổ-Đàm, rất khó được gặp.

5- Xuất hiện độc nhất.

6- Tất cả công đức viên mãn của thế gian, xuất thế gian, tất cả nghĩa đều y cứ vào ý lạc tăng thượng.

Theo luận Đại Trang Nghiêm có tám thứ cúng dường Như Lai:

1- Nương tựa cúng dường.

2- Vật

3- Duyên khởi.

4- Hồi hướng

5- Nhân

6- Trí

7- Ruộng

8- Y chỉ Tụng rằng:

"Hiện tiền, không hiện tiền
Y phục, uống ăn thảy
Khởi sâu tâm thiện tịnh
Vì đầy đủ hai nhóm.
Thường nguyện sinh đời Phật
Ba luân không phân biệt
Thành thục các chúng sinh
Mười một thứ sau cuối".

Hiện tiền, không hiện tiền. Nghĩa là y chỉ cúng dường, y chỉ chư Phật đời hiện tại và quá khứ, vị lai mà cúng dường.

Y phục, uống ăn, v.v… Nghĩa là vật cúng dường, dùng y phục, v.v… mà cúng dường.

Khởi sâu tâm thiện tịnh: Nghĩa là cúng dường duyên khởi, dùng tâm tịnh sâu mà cúng dường.

Vì đầy khắp hai nhóm: Nghĩa là cúng dường hồi hướng. Vì mãn hai thứ phước, trí mà cúng dường.

Thường nguyện sinh ở đời có Phật. Nghĩa là nhân cúng dường, do có nguyện đời trước, nguyện sẽ được sinh ra đời có Phật, khiến ta có ích, vì cúng không giả dối.

Ba luân không phân biệt. Nghĩa là cúng dường trí bày ba việc: Cúng, thọ cúng, phẩm vật cúng, không thật có.

Thành thục các chúng sinh. Nghĩa là cúng dường ruộng phước; chúng sinh là ruộng, giáo là cúng dường kia, vì khiến gieo trồng gốc lành.

Mười một thứ sau cuối: nghĩa là cúng dường y chỉ. Cúng dường này có mười một thứ:

1- Y chỉ vật, vì y chỉ tài vật mà cúng dường.

2- Y chỉ suy nghĩ: do y chỉ tư duy vị; tư duy tùy hỷ; tư duy hy vọng.

3- Y chỉ tín, vì tin Đại thừa nên phát tâm Bồđề.

4- Nguyện: Vì phát thệ nguyện rộng.

5- Y chỉ bi: vì thương xót chúng sinh.

6- Y chỉ nhẫn: vì khó làm mà làm được.

7- Y chỉ hạnh, vì các Ba-la-mật.

8- Y chỉ chánh niệm, vì đúng như pháp, không điên đảo.

9- Y chỉ chánh kiến, vì đúng như thật rõ biết.

10- Y chỉ giải thoát, vì phiền não của Thinh Văn diệt.

11- Y chỉ chân thật, vì được Đại Bồ-đề.

Năm thứ tự ý cúng dường Như Lai, nên biết cúng dường này là cúng dường trên hết. Năm thứ cúng dường là:

1- Tín thanh tịnh

2- Tâm sâu xa

3- Thần thông 4-Phương tiện 5-Hòa hợp.

Tín thanh tịnh: Đối với pháp Đại thừa, nói là xứ cúng dường, vì sinh tín thanh tịnh.

Tâm sâu: Tâm này có chín thứ:

1- Tâm vị

2- Tâm vui theo

3- Tâm hy vọng

4- Tâm không nhàm chán

5- Tâm rộng lớn

6- Tâm vui mừng

7- Tâm thắng lợi

8- Tâm không có nhiễm ô 9-Tâm thiện tịnh.

Thần thông: Nghĩa là vì y cứ vào các Tam-mađề của Hư Không Tạng, v.v…

Phương tiện: Vì thuộc về trí phương tiện Vô phân biệt.

Hòa hợp: Tất cả các Đại Bồ-tát hòa hợp, vì một quả nhập tất cả quả.

Kinh Văn-thù Vấn quyển thượng chép: "Có ba mươi lăm đại cúng dường, Bồ-tát-ma-ha-tát này nên biết, đốt đèn, đốt hương, thoa thân, thoa đất, bột hương, Ca-sa hương và tán nhã, long tử, phướn tinh, các phướn khác, vỏ ốc, trống, trống to, linh, bàn, ca múa, kể cả giường nằm, tọa cụ. Hoặc ba tiết: lưng trống, tiết trống, tinh trống và trống tiệt; hoa Mạn-đà-la, quét đất, rưới đất, xỏ hoa, treo tơ lụa, cơm, nước, nước trái cây ép, có thể ăn, có thể nuốt, kể cả có thể nếm vị, hương, hòa với nhành dương tân lang; tắm nước thơm xà-bông. Đó gọi là đại cúng dường".

13-Môn cúng dường được lợi:

Kinh Văn-thù Vấn quyển hạ chép: "Lúc bấy giờ, Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Các cúng dường hoa khác, dùng để chữa trị mọi chứng bệnh; hoặc tiêu trừ độc ác. Pháp ấy ra sao? Nếu cúng dường Phật bằng hoa khác, hoa Bát-nhã Ba-la-mật, hoa dưới chân Phật; hoa cây Bồ-đề; hoa nơi xoay bánh xe pháp; hoa tháp; hoa Bồ-tát; hoa chúng tăng; hoa tượng Phật; pháp kia thế nào? Đức Thế Tôn dùng hoa này có bao nhiêu thứ chú?

Bạch Đức Thế Tôn: "Tất cả các hoa". Làm sao vào trong hoa Phật?.

Bạch Đức Thế Tôn: "Dùng pháp của hoa này". Là có một thứ hay có nhiều thứ? Chú này là có một thứ hay có nhiều thứ? Phật bảo Văn-thù-sưlợi: Mỗi thứ hoa, mỗi thứ chú, tất cả hoa, chú.

Tụng một trăm lẻ tám biến chú hoa Phật rằng: "Nam mô Phật Thạt tả trị toa ha".

Chú Hoa Bát-nhã Ba-la-mật rằng: "Na-mạt A lô lý (dân chỉ phản),

Ba-nhã Ba-la-mật đa duệ tóa ha.

Chú hoa chân Phật: "Na-mạt ba đà chế điểm đan diêm toa ha".

Chú hoa cây Bồ-đề: "Nam-mô Bồ-đề, bức lực, kham lam tóa ha".

Chú hoa chỗ xoay bánh xe pháp:

"Nam-mô Đạt ma chước kha la dạ toa ha".

Chú hoa tháp: "Na-mạt du bạt da toa ha".

Chú hoa Bồ-tát: "Nam-mô Bồ-đề Tát đỏa dã toa ha".

Chú hoa chúng tăng: "Na-mạc tăng già dã toa ha".

Chú hoa tượng Phật: "Na-mạc ba la để da toa ha".

Văn-thù-sư-lợi! Chú kinh như thế, ông phải thọ trì. Phật lại bảo Văn-thù-sư-lợi! Dùng pháp của hoa này, nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, nếu kính tin, tu hành, thì phải dậy sớm, tắm gội sạch sẽ, niệm công Đức Phật, cung kính hoa này, không dùng chân đạp và nhảy qua trên hoa, đúng như pháp cầm lấy, đặt yên trong đồ đựng sạch. Nếu người bị lạnh, nóng, thì dùng nước lạnh thấm lên hoa, rồi thoa nước hoa vào mình; hoặc đầu trán đau nhức, dùng nước cất để uống, thấm lên hoa, nên uống, nước hoa này. Nếu miệng bị bệnh nhọt, thì dùng nước thấm lên hoa, ngậm nước hoa này.

Nếu người nặng về giận, thì hoặc dùng nước lạnh; hoặc dùng đường cát, để thấm lên hoa này, uống nước của hoa; Nếu người nặng về tham nhiễm, dùng nước tro thấm lên hoa, thoa vào chỗ kín. Lại, dùng nước lạnh thấm lên hoa, thoa trên đỉnh đầu mình, thì kiết tham sẽ tiêu dần, thường được tất cả mọi người kính mến.

Nếu trời mưa không tạnh, thì đến chỗ trống trải, nhãn nhã, dùng lửa đốt hoa, cơn mưa liền dứt; nếu gặp phải nắng hạn, thì ở chỗ trống trải, nhàn nhã dùng hoa trong nước, lại chú nước lạnh, rải trên hoa, tức thì trời mưa.

Nếu bản tánh của bò, ngựa, voi, v.v... không điều phục, thì dùng hoa uống, liền sẽ điều phục được chúng.

Nếu các quả, cây, hoa, hạt chắc không tốt tươi, thì dùng nước lạnh, phân bò, thoa, lấy nước hoa, để thoa vào rễ, không được dẫm đạp lên thì hạt hoa sẽ nhiều.

Nếu trong ruộng nhiều nước, mầm mạ bị hao hụt, giảm sút, thì giã hoa nát ra, rồi rải trên ruộng, thì sẽ được thấm nhuần lâu dài. Hoặc cao nguyên, đất liền, chỗ không có nước, thỉnh bốn vị Tỳ kheo, trải hoa lên đó, trong một ngày, tụng một trăm lẻ tám biến chú. Lại, tụng một trăm lẻ tám biến chú như thế cho đến bảy ngày, hễ cuốc đất lên là được nước.

Nếu ở cõi nước nhiều bệnh tật, dùng nước lạnh thấm lên hoa, thoa vào vỏ ốc, v.v... rồi thổi, đánh ra tiếng, người nghe liền lành bệnh.

Nếu nước thù địch, kẻ oán, muốn đến xâm lược biên giới, thì dùng nước thấm lên hoa, ở xứ kia, dùng nước hoa rưới lên, liền được lui tan.

Nếu ở núi cao, nơi có bàn đá, nhiều chúng Tỳ-kheo, thấm nước hoa lên đá; thấm hoa xong, đem lễ bái; lâu sau trên đá tự sinh châu báu.

Nếu người ngu si, thì dùng số hoa đã cúng dường có trăm thứ, dưới đến bảy thứ; giả hoa cho nát, dùng bôi tô bò, trước tụng chú một trăm lẻ tám biến, vo thành viên như viên đạn to, mỗi ngày uống một viên. Khi uống viên này, cũng tụng một trăm lẻ tám biến chú, dàn dần sẽ được thông minh, căn cơ nhạy bén. Trong một ngày có thể dùng trăm bài kệ. Nếu người có đối tượng tạo tác, thì dùng hoa Ưu-bát-la; hoa Câu-vật-đầu; hoa Phân-đà-lợi; hoa Ưu-ba-la, v.v…

Nếu ở dưới nước, trên đất liền, sinh hoa, hoa có trăm thứ, trước dùng cúng dường, sau dùng nước thấm lên hoa, tùy thuộc đối tượng cần thiết, hoặc thoa, hoặc rải, đều có kết quả.

Nếu được trăm thứ hoa giã nát thoa, rải; hòa với nước vo thành viên. Nếu bệnh thủng dữ dùng thấm lên trên nhọt ghẻ, bệnh ấy liền hết. Nếu bị bệnh ung thư, nếu bệnh rôm, sẩy, hoặc các chất độc; hoặc uống viên này; hoặc thoa lên da, bệnh liền được trừ.

Nếu người thường bệnh về khí ho, thân thể gầy ốm, thì dùng nước lúa mì to, nhỏ thấm lên hoa, xoa trên mình, liền đầy đủ, vui vẻ.

Lại nữa, dùng nước hoa Vị lợi, hòa với bột hoa vo thành viên, thoa lên trán, thì tất cả nhà oán thấy, sinh ý nghĩ yêu thích.

Văn-thù-sư-lợi! Pháp chú của hoa này như sau: Nam-mô Phật, Thạt tả dã toa ha. Na Mạt Kha Lô Lý (dâm chỉ phản). Bát nhã ba la mật đa tóa ha (2). Na mạc ba đà chế điểm đam diêm toa ha (3). Nam mô Bồ-đề bức lực kham lam toa ha (4). Nam mô Đạt ma chước kha la dạ toa ha (5). Na mạc dụ bạt na toa ha (6). Nam mô Bồ-đề tát đỏa dã toa ha (7). Na mặc Tăng già dã ha toa ha (8). Na mạc ba la để da toa ha (9). Mỗi chú tụng một trăm lẻ tám biến. Cú chương của chú này, ở mỗi chỗ ông nên nói.

Như Pháp hoa của Phật, hoa khác cũng như thế.

14-Môn trị chướng:

Du-già quyển 79 chép: "Bồ-tát lược có bốn chướng phẩm thượng. Nếu bất tịnh loại trừ, sau cùng không có khả năng nhập địa Bồ-tát và địa dần dần. Bốn chướng đó là:

1- Đối với Tỳ-nại-da của các Bồ-tát, khởi phạm ô nhiễm.

2- Chê bai Đại thừa, tương ưng với pháp mầu.

3- Chưa chứa nhóm gốc lành.

4- Có tâm nhiễm ái.

Vì trị bốn chướng này:

1- Khắp chỗ chư Phật, Như Lai ở mười phương, tâm sâu, tha thiết trách cứ mình, phát lồ sám hối.

2- Khắp vì lợi ích tất cả các loài hữu tình mười phương, khuyến thỉnh tất cả Như Lai nói pháp.

3- Tất cả công đức của khắp tất cả hữu tình mười phương đều sinh tùy hỷ.

4- Tất cả gốc lành đã sinh khởi, đều hồi hướng về A-Nậu-Bồ-đề.

15-Môn hơn kém:

Luận Di-lặc Vấn kinh quyển 2 chép: "Bồ-tátma-ha-tát có năm pháp vượt hơn mười nghiệp đạo thiện của Thinh văn":

1- Chuyên tâm tu hành, vì cuối cùng không lìa tâm một vị.

2- Thường tu hành không dứt bỏ, không thôi nghỉ.

3- Vì yên ổn thân mình, vì thân mình nhận lấy thân người, trời.

Nhận lấy sự yên ổn của người, trời và Đại Bồtát.

4- Vì yên ổn thân người; vì yên ổn cho tất cả chúng sinh, cuối cùng, hồi hướng về Đại Bồ-đề.

5- Khéo thanh tịnh lại có bảy thứ:

1- Vì không phá, nên tu trị phần ít gọi là phá, tu trị đầy đủ gọi là không phá.

2- Không điểm, không tự tu hành, vì bảo người khác tu hành, nên gọi là điểm: Bồ-tát tự thực hành, dạy người tu hành, nên gọi là không điểm.

3- Không ô: Tự mình không tu hành, không bảo người khác tu, vì nhận thấy người khác tu hành mà tâm tùy hỷ, nên gọi là ô, cho nên Bồ-tát tu hành đầy đủ, gọi là không ô.

4- Không bị lệ thuộc: Chủ yếu dựa vào trí người khác, mới có thể tu hành, nên gọi là hệ thuộc. Cho nên, Bồ-tát vì không dựa vào trí người khác mà vẫn có thể tu hành, nên gọi là không bị lệ thuộc.

5- Rốt ráo thiện. Chuyên niệm dục tâm cuối cùng, v.v... gọi rốt ráo thiện.

6- Không ăn: Hồi hướng ở hữu, vì nhận lấy hữu để giúp đỡ sự sống, nên gọi là ăn. Cho nên, Bồ-tát vì không nhận lấy hữu, nên gọi là không ăn.

7- Người trí khen ngợi; bỏ Nhị thừa, hồi hướng thế gian, bỏ Đại thừa, hồi hướng Tiểu thừa, gọi là người trí không khen ngợi.

Cho nên, Bồ-tát đối với Nhị thừa, không hồi hướng thế gian; Đối với Đại thừa không hồi hướng Nhị thừa, gọi là được người trí ngợi khen, nên biết Bồ-tát có năm thứ pháp, tu hành mười nghiệp đạo lành, sẽ vượt qua thế gian.

1- Nguyện: Bồ-tát từ mới phát tâm, cho đến đạo tràng, thường vì tất cả thế gian, người, trời mà làm ruộng phước, vượt hơn các Nhị thừa.

2- Yên ổn: Bồ-tát tu hành dù vì thế gian bị ép ngặt cùng cực khổ sở; nhưng vẫn không bỏ Bồ-đề, vì thường chuyên tâm tu hành.

3- Tâm sâu: Vì tâm tu hành trên hết, do tâm ái rất sâu của các Bồ-tát, tu hành mười điều lành.

4- Thiện thanh tịnh: Vì Bồ-tát có ba thứ thanh tịnh, thực hành mười nghiệp lành.

5- Phương tiện: Bồ-tát ở trong pháp nào? Dùng những phương tiện não để tu hành mười điều lành? Lại có năm pháp, nên tu hành vô lượng mười điều lành. Năm pháp đó là:

1- Vô lượng đời: Vì dùng vô lượng thời gian để tu hành.

2- Vô lượng pháp lành. Vì dùng vô lượng pháp lành kia, nên Bồ-tát khởi vô lượng đạo nghiệp lành, nhóm họp tất cả công đức, vì khiến sinh thọ dụng.

3- Vô lượng quán: Vì vô lượng chúng sinh quán, chẳng phải hữu lượng chúng sinh.

4- Vô lượng tận: Vì như Trưởng giả giàu có, của cải vô lượng, là người xả lớn, là người đại từ, người thực hành đại bi, người thương chủ vĩ đại, vì thương xót tất cả chúng sinh. Người tu hành, người tâm không lui sụt, khởi tâm như thế, ta có thể cho tất cả vô lượng, vô biên chúng sinh niềm vui yên ổn. Bồ-tát cũng thực hành trụ tâm sâu, vì các chúng sinh trụ tâm yên ổn, khởi tâm đại tinh tấn, nghĩ như vầy: "Ta sẽ giáo hóa vô lượng vô biên chúng sinh khổ não, đều an trí trong Niết-bàn. Cho nên Bồ-tát tu hành vô tận".

5- Vô lượng hồi hướng: Dùng mười vô tận, vô lượng để tu hành mười nghiệp lành, cũng lại vô lượng hồi hướng như trước, nên Bồ-tát tu hành tất cả mười nghiệp lành, quả cũng lại vô lượng gọi là vô lượng hồi hướng.

16-Môn bạn lành:

1- Tướng bạn lành. Bồ-tát địa quyển 44 chép: "Phải biết rằng Bồ-tát thành tựu tám chi, có khả năng làm viên mãn mọi tướng của bạn lành".

2- Trụ giới: Đối với các luật nghi, không có xuyên thủng, không có thiếu sót.

3- Học rộng. Giác tuệ thành tựu.

4- Chứng đủ, được tu mà thành, tùy theo bất cứ một việc tốt đẹp nào, bằng với chỉ, quán.

4- Thương xót. Nội tại đủ từ bi, xả hiện pháp lạc trụ của bản thân mình, tinh tấn, siêng năng, không có lười biếng, lợi ích cho người.

5- Vô úy. Khi giảng nói chánh pháp cho người khác nghe, không phải do e sợ mà quên mất sự nghĩ nhớ, giải thích.

Kham nhẫn: Đối với người khác dùng lời thô bỉ, cười chế nhạo, chơi giỡn vẩy vọc, sự chống trái, v.v... mọi hành vi ác, với lối nói không đáng yêu, đều có thể nhẫn.

7- Không có mỏi mệt. Sức người khi sung mãn, mạnh khỏe, thường hay suy nghĩ, lựa chọn, ở trước chúng nói pháp, lời nói không có chậm chạp, tâm không mỏi mệt nhàm chán.

8- Lời nói tốt đẹp, đủ pháp tánh không hư hoại, viên mãn. Lời nói giải thích rõ:

Đối tượng tạo tác của bạn lành: Bồ-tát Địa nói: "Nếu các Bồ-tát có đủ năm tướng, tương ưng với mọi đức, thì có khả năng làm bạn lành, việc làm không giả dối".

1- Đối với người khác, trước muốn cầu tạo ra lợi ích yên vui cho họ.

2- Đối với lợi ích yên vui kia, biết rõ như thật, biết rõ không có điên đảo.

3- Đối với hữu tình kia, khéo quyền phương tiện, thuận với cơ nghi nói pháp, thuận theo chúng sinh kham thọ trong sự điều phục, có năng lực.

4- Tâm lợi ích không nhàm chán, mỏi mệt.

5- Đầy đủ đại bi bình đẳng. Đối với phẩm hơn trong kém của các hữu tình, tâm không nghiêng lệch bè đảng.

Nếu các Bồ-tát thành tựu năm tướng, khiến cho tánh của bạn lành, làm chỗ nương tựa, tin tưởng, sao cho người khác nghe xa, tích cực sinh kính tin thanh tịnh, huống chi đích thân thấy.

1- Thắng diệu, oai nghi viên mãn, vắng lặng, đầy đủ tất cả chi phần, đều không có cử chỉ thô bạo.

2- Đôn hậu, nghiêm nghị, hiện hành của ba nghiệp không trạo cử, không có nhiễu loạn.

3- Không có rối loạn: không vì lừa dối người, mà tư duy, hiện oai nghi nghiêm chỉnh giả dối.

4- Không có ganh tỵ, cuối cùng không thể không chịu được khi thấy người khác được lợi dưỡng, cung kính, mà thường thỉnh nói, về sau khuyên bảo người kia bố thí, cung kính sinh tâm nịnh bợ giả dối. Thấy người kia nói pháp và được lợi dưỡng, cung kính, sinh tùy hỷ sâu, như chính mình được.

5- Tiết kiệm, ước lược: tùy thuận xả.

Về bạn lành, Bồ-tát do năm thứ tướng đối với sự đã hóa sinh làm bạn lành.

1- Có khả năng can ngăn, nêu ra.

2- Có khả năng khiến cho nhớ nghĩ.

3- Có khả năng dạy bảo truyền trao.

4- Có khả năng răn nhắc.

5- Có khả năng dạy bảo nói pháp.

Phải biết Bồ-tát do bốn tướng, mới được gần gũi bạn lành một cách viên mãn; bốn tướng là:

1- Đối với bạn lành bị bệnh, không bị bệnh thuận theo thời tiết, cung cấp, hầu hạ, thường phát khởi ái kính, tịnh tín.

2- Đối với bạn lành, lúc nào cũng thăm hỏi lễ bái, kính mến, chắp tay, ân cần tu nghiệp hòa kính mà vì cúng dường.

3- Đối với bạn lành, như pháp y phục, uống ăn, giường nằm tọa cụ, duyên bệnh, thuốc thang, mọi thứ lặt vặt giúp đỡ tự thân, cúng dường đúng lúc.

4- Đối với bạn lành, hoặc chánh y chỉ đối với nghĩa đúng như pháp, hoặc hợp, hoặc lìa, tùy chuyển tự tại, không có nghiêng động, như thật phát rõ, tạo ra tâm phụng giáo, thuận theo thời điểm qua đến, cung kính hầu hạ, thưa hỏi nghe nhận.

Theo kinh Pháp Cú chép: "Lúc bấy giờ, Bồ-tát Bảo Minh bạch Phật rằng: "Thiện tri thức, nghĩa là người khéo hiểu pháp sâu xa: Không vô tướng, vô tác, vô sinh, vô diệt; có biết các pháp từ xưa đến nay, rốt ráo bình đẳng, không có nghiệp, không có báo, không có nhân, không có quả, tánh tướng như như, trụ ở mé thật. Đối với rốt ráo không rõ ràng kiến lập là thiện tri thức, nêu dụ để biểu thị rõ công năng. Kinh Pháp Cú chép: "Người thiện nam, bực thiện tri thức là cha, mẹ của ông, nuôi nấng, giáo dục thân Bồ-đề của các ông. Người thiện tri thức là mắt của ông, bảo cho biết, dẫn đường Bồ-đề cho các ông (dưới lược không nói đủ thiện tri thức, y cứ theo đây) là đôi chân của ông, vì gánh vác các ông lìa sinh tử; là thềm thang của ông, nâng đỡ, gìn giữ các ông đến bờ bên kia; là thức uống ăn của ông, khiến cho pháp thân của các ông thêm lớn; là chiếc áo báu của ông, che mát thân công đức của các ông; là cây cầu chuyên chở các ông vượt qua biển hữu; là vật báu của ông, dẫn dắt các ông lìa khổ tham; là mặt trời, mặt trăng của ông, vì soi sáng cho các ông lìa xa bóng tối; là thân mạng của ông vì che chở thân mạng của các ông, không có lúc nào sợ hãi; là áo giáp, gậy sắt của ông, vì hàng phục các ma được vô úy; là sợi dây buộc, kéo rút các ông lìa khỏi địa ngục; là thuốc hay của ông, vì trị liệu chứng bệnh phiền não của các ông; là con dao bén vì cắt đứt các lưới ái của các ông; là cơn mưa của ông vì thấm nhuần, ngâm tẩm mộng Bồđề của các ông; là ngọn đèn sáng của ông, năng phá tan năm cái tối tăm của các ông; là cờ nêu tốt lành của các ông, vì bảo cho các ông biết thu hướng chánh đạo; là lửa, củi của ông; vì thành thục thức ăn Niết-bàn của các ông; là cung tên, của ông, vì bắn giết giặc phiền não của các ông; là vị tướng có sức mạnh của ông, vì phá được quân sinh tử của các ông; là Như Lai của ông, vì phá tan phiền não của ông để đến Niết-bàn.

Nay người thiện nam! Bực thiện tri thức có vô lượng công đức như thế, cho nên nay ta bảo ông nên gần gũi".

Lúc bấy giờ, Bảo Minh và các đại chúng nghe Đức Phật nói pháp mầu nhiệm này và các câu quan trọng về Thiện tri thức, đều cất tiếng than khóc, rơi lệ như mưa, tiếng kêu khóc thật buồn bả, áo não, không thể tự kiềm chế, tự nghĩ: "Thân ta từ nhiều kiếp đến nay, vì đã được các bậc thiện tri, thức chở che, gìn giữ, nên ngày nay mới may mắn gặp được đức Như Lai, được nghe pháp sâu xa".

Sự hội ngộ như thế, chính là nhờ ở oai lực của bậc Thiện tri thức, chứ chẳng phải do năng lực của ta. Và tự nghĩ: "Chúng ta từ xưa đến nay, chưa từng báo đáp ơn sâu, hay dùng phương tiện để được gần gũi các bậc thiện tri thức!".

Nghĩ đoạn, lại nói rằng: "Đại văn của tri thức đồng với Du-già.

Kinh Thi-Ca-La-Việt lục hướng bái chép: "Ác tri thức có bốn thứ".

1- Bên trong có tâm oán thù; bề ngoài gượng làm tri thức.

2- Ở trước mặt người thì nói lời tốt đẹp; sau lưng người lại nói lời xấu ác.

3- Khi có việc khẩn cấp, ở trước người, tỏ vẻ lo lắng, âu sầu; sau lưng lại vui mừng.

4- Bề ngoài, xem như thân thiện, đôn hậu; nhưng bên trong lại nhen nhúm khởi lên mưu mô thù oán.

Bực thiện tri thức cũng có bốn chúng:

1- Bề ngoài trông như kẻ thù oán, nhưng bên trong có ý đôn hậu.

2- Ở trước mặt người, can ngăn thẳng thừng; bề ngoài, nói việc tốt lành của người.

3- Quan huyện bị ốm đau, vì họ lo giải quyết việc kiện tụng.

4- Thấy người nghèo nàn, không bỏ, thường hay nghĩ ngợi, tìm cách đem lại cho họ niềm vui mừng, giàu có.

Ác tri thức lại có bốn thứ:

1- Khó can ngăn chỉ dạy làm việc lành, nên theo với kẻ gian ác.

2- Dạy bảo thì chớ, ưa kết bạn với người nghiện rượu, nên hay bám sát với người ham uống rượu.

3- Bảo phải tự bảo thủ; còn việc ích lợi, thì lại có nhiều việc.

4- Bảo làm bạn với người Hiền, nên tỏ ra trọng hậu với người học rộng.

Thiện tri thức lại có bốn chúng:

1- Thấy người nghèo cùng, thường muốn giúp sửa sang cuộc sống cho họ.

2- Không tranh cãi, suy lường, tính toán.

3- Hằng ngày, có tin tức qua lại với họ.

4- Khi ngồi thường nghĩ nhớ nhau.

Thiện tri thức lại có bốn loại:

1- Người nghèo bị quan lại bắt, đem về nhà che giấu, để về sau mới giải quyết.

2- Người nghèo khổ bị bệnh gầy ốm, đem về nuôi nấng, chăm sóc.

3- Tri thức mất, lo áo quan, tẩm liệm trông coi.

4- Sau khi tri thức qua đời, thường nghĩ nhớ đến nhà cửa.

Thiện trí thức lại có bốn loại:

1- Muốn sự tranh chấp chấm dứt.

2- Muốn theo sát ác tri thức, nhằm can ngăn chấm dứt các việc làm ác.

3- Không muốn sửa trị sự sống, khuyên ác tri thức hãy tự sửa đổi đời sống của họ.

4- Không thích trải qua đạo, dạy họ hãy tin tưởng, vui mừng.

Ác tri thức lại có bốn loại:

1- Người hơi xâm phạm đã rất tức giận.

2- Lúc có việc khẩn cấp, thỉnh sứ không chịu đi.

3- Khi thấy người có việc khẩn cấp, thì tránh người mà đi. 4-Thấy người chết, bỏ không nhìn tới.

Đức Phật nói: "Người lựa chọn điều lành kia thì theo họ; kẻ ác thì tránh xa họ. Vì ta và thiện tri thức theo nhau, nên tự suy cho cùng được Phật".

17-Môn nhiều hạnh lẫn lộn:

Con phụng sự cha, mẹ sẽ có năm việc:

1- Phải nghĩ nhớ sửa sang sự sống.

2- Dậy sớm, dạy bảo tôi tớ về giờ giấc nấu cơm ăn.

3- Không để cha mẹ phải lo lắng thêm.

4- Phải nghĩ nhớ đến công ơn cha, mẹ.

5- Cha mẹ ốm đau, phải lo tìm thầy thuốc thang chữa trị. Cha mẹ chăm sóc con, cũng có năm việc:

1- Phải dạy con bỏ ác, làm lành.

2- Nên dạy tính toán, học sách, vở.

3- Phải dạy vâng giữ kinh giới.

4- Nên cưới vợ cho con đúng lúc.

5- Tất cả tài vật trong nhà, phải cho chúng nó.

Học trò phụng sự thầy, nên có năm việc:

1- Nên kính trọng, khen ngợi thầy.

2- Nên nhớ ơn thầy.

3- Thường vâng theo lời thầy dạy.

4- Lo nghĩ không chán.

5- Về sau, nên khen ngợi thầy.

Thầy dạy học trò cũng có năm việc:

1- Nên bảo cho học trò hiểu biết một cách nhanh chóng.

2- Phải làm cho học trò mình vượt hơn học trò người.

3- Muốn cho sự hiểu biết của học trò mình không quên.

4- Các nghi ngờ, thưa hỏi, đều giải quyết thỏa đáng cho học trò mình.

5- Muốn cho trí của đệ tử vượt hơn thầy.

Vợ thờ chồng, có năm việc:

1- Chồng từ ngoài đến, phải đứng dậy đón rước.

2- Chồng đi khỏi, không có mặt ở nhà, người vợ phải nấu nướng, quét dọn, đợi chồng về.

3- Không được có tâm dâm với người ngoài. Chồng có mắng nhiếc, vợ không được trả lời, nổi cơn thịnh nộ.

4- Phải vận dụng lời răn dạy của chồng; có tài vật, không được cất giấu riêng.

5- Chồng nghỉ ngơi, yên giấc, vợ mới được nằm.

Chồng chăm sóc vợ cũng có năm việc:

1- Ra, vào nên kính trọng vợ.

2- Phải cho vợ thức uống ăn, áo, quần.

3- Cấp cho vàng, bạc, châu ngọc.

4- Trong nhà có được ít nhiều, cũng đều phó thác cho vợ.

5- Không được có ý tà dâm, đối với người ngoài, chứa người hầu hạ.

Thân thuộc, bạn bè, nên có năm việc:

1- Thấy làm chuyện quấy ác, ở chỗ khuất, can ngăn, hiểu dụ, quở trách nên thôi.

2- Có việc khẩn cấp nhỏ, phải đến cứu giúp.

3- Có nói lén, không được vì người khác nói.

4- Phải khen kính lẫn nhau.

5- Có vậy gì tốt đẹp, ít nhiều phải chia nhau đồng đều.

Người chồng trông coi tôi tớ sai khiến cũng có năm việc:

1- Phải đúng thời cho thức uống ăn, áo quần.

2- Bệnh tật ốm đau, phải mời thầy thuốc chữa trị.

3- Không vô cớ đánh đập.

4- Có của riêng, không được đoạt lấy.

5- Chia vật phải bình đẳng.

Khách tôi tớ phụng sự đại phu cũng có năm việc:

1- Phải tự dậy sớm, đừng để đại phu gọi.

2- Phải làm công việc, tự dùng tâm làm.

3- Phải biết tiếc vật của đại phu, không được vứt bỏ cho kẻ ăn mày.

4- Khi Đại phu ra vào, phải chào đón.

5- Phải ở sau, khen ngợi sự tốt lành của Đại phu; không được nói xấu Đại phu.

Người thờ Sa-môn đạo nhân, phải theo năm việc:

1- Dùng tâm lành hướng về Sa-môn.

2- Lựa lời nói tốt đẹp nói với Sa-môn.

3- Dùng thân kính trọng Sa-môn.

4- Phải thương yêu, mến mộ Sa-môn.

5- Bậc hùng sư trong hàng đạo nhân Sa-môn, phải luôn kính nể, thở phụng, hỏi han việc đời. Đạo nhân Sa-môn phải dùng sáu ý trông coi phàm phu: "Dạy bảo bố thí, cho đến trí tuệ là sáu. Đạo nhân Sa-môn dạy bỏ việc ác, làm điều lành, khai thị ơn chánh đạo vĩ đại hơn ơn cha mẹ.

-Môn hạnh của người vợ:

Kinh Ngọc-da nói: "Phật bảo Ngọc-da! Người con gái không nên ỷ mình xinh đẹp, khinh dễ ngạo mạn đối với con rể. Thế nào là xinh đẹp? Bỏ tám mươi bốn thứ nhơ của thái độ bất chánh. Nhất tâm của ý quyết định, đó là xinh đẹp, không phải nhan sắc, mặt trắng, tóc năm mầu là xinh đẹp".

Trong thân người nữ có mười việc ác là:

1- Người con gái mới sinh rớt xuống đất, cha mẹ không vui.

2- Giáo dục, nuôi nấng, chăm sóc không có vị thấm nhuần.

3- Tâm người nữ thường sợ người.

4- Cha, mẹ thường lo gả chồng.

5- Sinh ra chia lìa với cha mẹ.

6- Thường sợ chồng biết, ngắm nhìn nhan sắc mình, hễ vui vẻ thì mừng, giận dữ thì sợ.

7- Mang thai, sinh sản rất khó.

8- Người nữ, lúc trẻ, bị cha mẹ kiểm soát, xem xét.

9- Trung niên, bị con rể cấm chế.

10- Tuổi già, bị con cháu quở trách.

Từ sinh ra đến chết đi, không được tự tại, đây là mười việc ác.

Phật bảo Ngọc-da:

Người vợ phụng sự mẹ chồng, và chồng có năm việc lành, ba điều ác. Năm việc lành là:

1- Làm vợ, phải ngủ muộn, dậy sớm, chải tóc năm mầu, sửa sang y phục tức khắc, lau sạch mặt mắt, chớ để nhơ bẩn, rồi làm công việc. Trước, thưa hỏi bậc Tôn trưởng, tâm thường cung kính, hòa thuận. Nếu có thức ăn ngon ngọt, không được ăn trước.

2- Chồng có quở mắng, không được giận hờn.

3- Một lòng giữ gìn đối với chồng, không được có ý tà dâm.

4- Thường mong chồng được sống lâu.

5- Chồng có đi ra ngoài, người vợ phải sửa sang trong nhà, thường nghĩ đến sự tốt đẹp của chồng, không nghĩ đến điều xấu ác của chồng, đây là năm điều lành.

Ba điều ác là:

1- Không dùng lễ của người vợ phụng sự mẹ chồng và chồng, chỉ muốn ăn ngon, lấy ăn trước; chưa buồn ngủ, đã nằm sớm; mặt trời đã mọc, vẫn không thức dậy. Nếu chồng có quở, dạy, thì người vợ nổi giận, trợn mắt lườm chồng, lẽ ra phải chống đối, mắng nhiếc.

2- Không một lòng hướng về chồng, chỉ nghĩ nhớ trai.

3- Muốn cho chồng chết sớm, để được gả lấy chồng lần nữa, đó là ba điều ác.

Phật bảo: "Ngọc-da! Thế gian lại có bảy chúng vợ":

1- Vợ như mẹ.

2- Như em gái.

3- Như thiện tri thức.

4- Như vợ.

5- Như tôi tớ.

6- Như kẻ thù.

7- Như đoạt mạng.

Vợ như mẹ: Nghĩ nhớ đến chồng, như bà mẹ hầu, hầu hạ chồng mình không rời, tận tâm cung cấp nuôi nấng, không mất thời gian thích nghi.

Nếu chồng đi đến, e người khinh dễ, thấy thì xót thương, nghĩ nhớ, tâm không mệt mỏi, nhàm chán, thương chồng như con.

Vợ như em gái: Hầu hạ chồng, hết lòng thành kính. Nếu như anh em đồng khí, chia thân cốt nhục chí thân, không có hai tình. Tôn quý, thờ phụng, kính trọng họ, như em gái phụng sự anh.

Vợ của thiện tri thức: Hầu hạ chồng mình, rất thương nhớ, nương tựa, lưu luyến, không thể bỏ nhau, sự việc kín đáo riêng tư, thường bảo cho nhau biết, thấy lỗi, y chỉ quở trách, sao cho hành vi không có lỗi, khéo phụng sự, dạy bảo nhau, khiến cho lợi ích trí sáng, thân yêu nhau, muốn cho độ đời, như thiện tri thức.

Như vợ: Cúng dường đại nhân, rất đỗi thành kính, thừa phụng chồng, khiêm tốn, thuận theo mệnh lệnh chồng. Sáng thức, tối ngủ; lời nói cung kính, vâng dạ, khiến cho miệng nói không có buông thả, thân hành động không có buông thả, khéo léo tìm tòi, khiêm nhượng, có lỗi thì nói là do mình, giáo hóa thí cho lòng nhân, khuyên tiến tới đạo, tâm ngay thẳng, ý chuyên nhất, không nhìn ngó tà vạy, tĩnh tu tiết phụ, không bao giờ bỏ phế, tiến tới không phạm oai nghi, lùi lại không mất lễ, chỉ hòa là quý.

Như tôi tớ: Thường ôm lòng sợ giận, không dám tự ngạo mạn, ganh đua thú hướng phụng sự, không có lẫn tránh, tâm thường khiêm nhường, cung kính, trung hiếu, tận tiết, lời nói mềm mỏng, tánh thường hòa mục, miệng không phạm lời nói tà loạn; thân không làm hành vi buông lung; trinh lương, thuần nhất, chất phác, niềm tin ngay thẳng, thường tự nghiêm chỉnh, để lễ tự tướng. Chồng nhận lấy sự may mắn không do kiêu hãnh, ngạo mạn. Nếu không tiếp gặp, không cho là oán, hoặc bị đánh đập bằng gậy, cam phận chịu, không giận, bị mắng nhiếc yên lặng mà không căm hờn, cam tâm vui thọ, không có hai ý; khuyên tiến đến đối tượng tốt đẹp, không ganh ghét tiếng, sắc, gặp sự mong manh, cong vạy của mình, không tính cầu vụ việc ngay thẳng, tiết phụ tu, không chọn áo cơm, chuyên ròng cung kính, chỉ e không kịp. Kính phụng chồng, như tôi tớ thờ phụng Đại gia, đây là người vợ tôi tớ.

Như kẻ thù: Thấy chồng không vui, luôn thì ôm lòng giận dữ, ngày đêm suy nghĩ, muốn được chia ly, vì tâm chồng, vợ thường xuyên như khách trọ, đấu tranh không sợ lẫn tránh, đầu rối loạn, siêng năng không chịu làm, không nghĩ nhớ đến việc sửa sang nhà cửa, nuôi nấng con cái. Hoặc hành động dâm đãng, không biết hổ thẹn, trạng thái như súc chó, hủy nhục bà con. Ví như kẻ thù.

Vợ như đoạt mạng: Ngày, đêm không ngủ, tâm thâm độc luôn nhắm vào nhau, tìm phương tiện nào để được xa lìa nhau. Muốn cho chồng uống thuốc độc thì sợ người ta sẽ phát giác biết, hoặc bà con chí thân, xa gần gởi gấm chồng, ấy là tạo ra sự giận dữ, rõ ràng là chung với giặc. Nếu đem vật báu thuê người hại chồng, hoặc sai người bên cạnh, rình rập chồng mà giết, oan uổng mạng chồng, đó là vợ đoạt mạng.

Phật bảo Ngọc-da! Năm hạng vợ lành, thì thường có danh tiếng, ngôn, hạnh có phép tắc, mọi người đều kính yêu; dòng dõi thân thuộc chín họ đều nhờ người vợ mà vinh hiển. Trời rồng, quỷ thần đều đến ủng hộ, khiến cho người chồng không chết ngang một cách oan uổng. Về sau, muôn phần sẽ được sinh trên cõi trời, cung điện bảy báu được ở tự nhiên. Khi hết tuổi sống lâu trên cõi trời, sẽ sinh xuống thế gian, được làm con cháu xinh đẹp của vua quan sang giàu, được bậc Thánh, người trí thờ phụng kính trọng; còn hai hạng vợ kia, thường có tên ác, thân hiện tại không được an ổn, thường bị bệnh bởi các quỷ, các thứ độc, ngủ, thức không yên ổn; vì mộng dữ sợ hãi; mọi điều mong muốn đều không được, phần nhiều gặp phải tai hoạn. Về sau, muôn phần, hồn phách thọ hình, sẽ đi vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, lần lượt chuyển sang ba đường, nhiều kiếp không ra khỏi.

QUYỂN HẠ

Môn thọ ba nhóm tịnh giới của Bồ-tát.

Môn được, xả.

Môn tự thọ giới Bồ-tát.

Môn nghĩ là tám hơn năm.

Môn nghe pháp.

Môn nói pháp.

Môn phương tiện nhiếp sinh.

Môn cầu pháp.

Môn nhập pháp.

Môn ủng hộ chánh pháp.

Môn mười thứ phân biết của luận Lục độ Y Trang Nghiêm.

Môn bảy tự nhiêu ích.

Môn Bồ-tát hy vọng.

Môn Sáu quyết định nên làm.

Môn chín thứ phân biệt của sáu độ Du-già.

Môn năm tướng gọi là Ba-la-mật.

Môn bảy tướng thí đều thanh tịnh (nghĩa là thí, kiến, tâm, ngữ, trí và chứa giấu sáu phương lìa mười bốn).

Môn Bảy phi điền không nên bố thí.

Môn bốn nhiếp như độ chín thứ.

Môn chín đều được quả.

Môn mười nghiệp mắc quả báo thọ mạng ngắn ngủi.

Môn báo mười nghiệp sống lâu.

Môn mười nghiệp nhiều bệnh, không bệnh.

Môn mười nghiệp báo xấu, tốt.

Môn mười nghiệp sinh dòng họ hạ, thượng.

Môn mười công đức lễ tháp.

Môn mười công đức thí lọng dù.

Môn mười công đức bố thí cờ phướn.

Môn mười công đức bố thí thức uống.

Môn mười công đức thí y.

Môn thí đồ đựng và thức uống, ăn được mười công đức.

Môn mười công đức thí hương.

Môn mười công đức thí đèn.

Môn mười công đức cung kính, chắp tay.

-Môn Thọ ba nhóm tịnh giới của Bồ Tát:

Đại Đường, Tam tạng Pháp sư truyền chánh pháp tạng của Tây vực thọ pháp giới Bồ-tát.

Khi sắp thọ giới Bồ-tát, trước phải dạy phát tâm tha thiết, thanh tịnh, hoặc lại một năm, ít nhất là bảy ngày trì trai, lễ bái, bỏ các nghiệp ác, làm các việc lành, nuôi lớn tâm thanh tịnh. Tuy nhiên, được phép thọ dùng, nếu có duyên sự. Không được trước dạy phát tâm ân cần thanh tịnh. Khi muốn thọ giới, phải phát tâm sâu nặng mới cho thọ giới.

Tâm sâu nặng nghĩa là dứt tất cả ác, tu tất cả lành, tâm độ thoát tất cả chúng sinh. Nếu là người trước đây chưa từng quy y Tam-bảo, thì dạy quy y; nếu là người đã từng quy y thì không cần dạy nữa.

Quy y rằng: "Đệ tử tên là… Nguyện từ thân này cùng tận đến vị lai, quy y Phật lưỡng túc tôn, quy y Pháp ly dục tôn; quy y Tăng chúng trung tôn (ba lần nói như thế)".

Đệ tử tên là… Nguyện từ thân này cùng tận đến vị lai, quy y Phật rồi, quy y Pháp rồi, quy y Tăng rồi (nói ba lần).

Từ nay trở đi, gọi Đức Phật là thầy, không dám quy ngoại đạo, tà ma khác, cúi mong Tam bảo từ bi nhiếp thọ.

Tiếp theo, sư dạy thỉnh xong, truyền cho giới Bồ-tát.

Đệ tử tên là… Nay, ở chỗ sư, cầu thọ giới Bồtát. Đại đức đối với con vì thương xót không nề hà khó nhọc (nói ba lần) Giới sư đáp: "Tốt".

Tiếp theo, Hòa thượng dạy thỉnh Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai trao cho giới rằng:

Đệ tử tên là… Phụng thỉnh Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Như Lai Ứng chánh đẳng giác, trao cho giới Bồ-tát, con vì y chỉ Hòa thượng nên được thọ giới Bồ-tát, xin thương xót cho con (nói ba lần).

Tiếp theo, dạy thỉnh Mạn-thù-thất-lợi làm Axà-lê rằng:

Đệ tử tên là… Phụng thỉnh Bồ-tát Ma-ha-tát Mạn-thù-thất-lợi làm A-xà-lê truyền giới Bồ-tát, con vì y chỉ A-xà-lê, nên được thọ giới Bồ-tát, xin thương xót con (nói ba lần).

Tiếp theo, dạy thỉnh Bồ-tát Di-lặc làm Giáo thọ sư, rằng:

Đệ tử tên là… Phụng thỉnh Bồ-tát Ma-ha-tát Di-lặc làm thầy giáo thọ, con vì y chỉ thầy giáo thọ, nên được thọ giới Bồ-tát, xin thương xót con (nói ba lần).

Tiếp theo, dạy thỉnh chư Phật mười phương làm sư chứng giới rằng:

Đệ tử tên là… phụng thỉnh chư Phật, Như Lai Ứng Chánh Đẳng giác mười phương, làm sư chứng giới truyền giới Bồ-tát. Con nhờ y chỉ sư chứng giới, nên được thọ giới Bồ-tát, xin thương xót con (nói ba lần).

Tiếp theo dạy thỉnh Bồ-tát mười phương làm bạn đồng pháp:

Đệ tử tên là… phụng thỉnh tất cả Bồ-tát Ma-hatát mười phương làm bạn đồng pháp thọ giới Bồtát, con vì y chỉ đồng pháp, nên được thọ giới Bồtát, xin thương xót con (nói ba lần).

Tiếp theo, dạy phát tâm Bồ-đề rằng: "Tâm Bồ-đề: Rộng thì vô biên, lược có ba thứ"; 1-Chán lìa tâm hữu vi.

2- Hân hoan cầu tâm Bồ-đề.

3- Nghĩ sâu sắc tâm chúng sinh. Chán lìa tâm hữu vi: Tức là nói rộng, lỗi lầm sinh tử, khiến sinh tâm rất chán lìa.

Năm pháp tương tự biển cả sinh tử, được mang tên biển cả:

1- Vì tương tự một xứ sở Vô biên

2- Vì tương tự rất sâu

3- Vì tương tự khó suy lường

4- Vì tương tự không thể uống

5- Vì tương tự đối tượng nương tựa báu lớn.

Tâm cầu Bồ-đề: Tức là nói rộng, công đức mà ba thân Bồ-đề đã có, khiến sinh tâm hớn hở mong cầu.

Niệm sâu tâm chúng sinh: Tức là nói rộng oán thân bình đẳng, sao cho đều sinh từ bi, phát tâm độ thoát.

Tiếp theo nói: "Này người thiện nam, thiện nữ! Hãy lắng nghe, nay ta hỏi ông, ông nghĩ thế nào thì đáp thế ấy":

Ông đã phát tâm Bồ-đề chưa? (Dạy đáp: đã phát). Tiếp theo, dạy sám hối rằng:

Đệ tử tên là… kính bạch tất cả chư Phật tận hư không khắp pháp giới, bậc tôn quý trong bậc lưỡng túc; tất cả các pháp, bậc tôn quý trong hàng ly dục; tất cả tăng bảo, bảo Tôn quý trong các chúng.

Đệ tử pháp danh là… Từ sinh tử vô thỉ trở lại, cho đến ngày nay đã bị vô lượng phiền não tham, giận, si, v.v... làm não loạn thân, tâm, tạo rộng các thứ tội, đó là phá tháp, hoại chùa, đốt kinh, tượng; trộm sử dụng vật của Tam bảo; chê bai pháp Ba thừa, nói là không phải Thánh giáo, chướng ngại lưu nạn, ẩn lấp che giấu. Đối với tất cả người xuất gia, hoặc có giới, hoặc không có giới, giữ giới, phá giới; đánh mắng, quở trách, nói lỗi xấu ác của người xuất gia kia, cấm đóng lao ngục, hoặc đoạt ca-sa, khiến trở lại tục; khu dịch sai khiến; trách cứ điều phục của người xuất gia kia; cắt đứt mạng sống của họ; hoặc giết cha, hại mẹ, làm thân Phật ra máu; giết A-la-hán, phá tăng hòa hợp; khởi tà kiến rộng lớn, chê bai không có luật nhân quả, đêm dài thường được gây ra mười nghiệp bất thiện, đó là bất thiện của thân nghiệp; sát, trộm, dâm, bất thiện của ngữ nghiệp: nói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi đôi chiều, nói lời hung ác. Bất thiện của ý nghiệp: Tham, giận, tà kiến.

Làm ô cha, ô mẹ, ô Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, ô chỗ tăng-già-lam; phá trai, phá giới, uống rượu, ăn thịt; khinh chê Tam bảo; não loạn chúng sinh, tự làm, xúi giục người khác làm, thấy người khác làm, mà tùy hỷ.

Vô lượng vô biên tội như thế, không thể đếm biết.

Ngày nay, đệ tử xin thành tâm phát lộ sám hối. Một khi sám rồi, về sau, sẽ dứt trừ tâm nối nhau, cùng tận đời vị lai, không bao giờ dám làm nữa.

Cúi mong Tam bảo từ bi chứng minh, khiến cho tội chướng của đệ tử chúng con đều được tiêu diệt!.

Tiếp theo, nói về ba nhóm tụ tướng giới của Bồ-tát: 1-Giới luật nghi: Thề dứt hết tất cả điều ác. 2-Giới nhiếp thiện pháp: Thề tu hết tất cả việc lành. 3-Giới lợi ích hữu tình: Thề độ tận tất cả chúng sinh.

Tiếp theo nói: "Này người thiện nam, thiện nữ! Hãy lắng nghe, nay ta hỏi ông, ông nghĩ thế nào thì đáp thế ấy.

Ông có phải là Bồ-tát hay không? (Đáp: Phải).

Nói Bồ-tát: Tin thật trong thân này có chủng tánh Bồ-tát, có khả năng thọ lãnh tịnh giới Bồ-tát, gọi là Bồ-tát, không phải đã có chứng, gọi là Bồtát.

Tiếp theo, theo chánh thọ, khiến lắng nghe phát tâm sâu nặng rằng: "Này người thiện nam, thiện nữ! Nay các ngươi ở chỗ ta, cầu thọ tất cả Học xứ của Bồ-tát, cầu thọ tất cả tịnh giới của Bồ-tát, cái gọi là giới luật nghi, giới nhiếp thiện pháp; giới nhiêu ích hữu tình. Các học xứ này, các tịnh giới này, tất cả Bồ-tát quá khứ đã học; tất cả Bồ-tát vị lai sẽ học; tất cả các Bồ-tát hiện tại đang học. Từ giờ phút này, cho đến tận cùng mé vị lai, các ngươi không được trái phạm, có giữ được không? (dạy đáp: "Giữ được"(nói ba lần)).

Tiếp theo, người thọ giới tự xưng tên mình, cung thỉnh chư Phật chứng minh, đứng dậy, tay bưng lư hương (nếu chỗ ngồi trên cao, không cần đứng lên) nói rằng:

Đệ tử pháp danh… kính bạch tất cả chư Phật tận hư không khắp pháp giới, nay ở già-lam … thôn xóm …. Địa điểm của chủ, người châu Thiệm Bộ, một tứ thiên hạ của thế giới sách ha này, trong đạo tràng này, có rất nhiều Bồ-tát đến chỗ con (nói ba lần) để cầu thọ giới Bồ-tát. Con đã làm chứng cho họ, cúi mong đấng từ bi cũng làm chứng cho họ (lễ bái, thỉnh ba lần).

Tiếp theo, sẽ vì nói ba phẩm tâm thọ giới. Ở chỗ chư Phật mười phương, có tướng ba phẩm hiện: hoặc gió mát; hương thơm; hoặc âm thanh lạ, hoặc ánh sáng, v.v… các thứ tướng hiện. Các Bồtát kia đều hỏi Phật: "Vì nhân duyên gì mà có tướng hiện? Chư Phật kia đều đáp: "Ở thế giới Sách-ha, chỗ… tại xứ xở… Có rất nhiều Bồ-tát… ở chỗ sư … mới thọ giới Bồ-tát. Nay xin chứng minh, cho nên có tướng của ba phẩm này hiện".

Các Bồ-tát ở mười phương kia đều sinh tâm vui mừng và đều nói: "Các hữu tình có nghiệp ác phiền não đầy đủ tạp nhiễm như thế, ở xứ sở cực ác như thế, mà phát được tâm rất vượt hơn như thế, để thọ giới Bồ-tát, thì thật là ít có, sinh rất thương xót, ở chỗ các ông, khởi tâm đồng phạm hạnh, cho nên các ông phải hết lòng hộ trì tịnh giới, không tiếc thân mạng, chớ nên hủy phạm.

Tiếp theo vì nói tướng trì, phạm, cho đến gìn giữ trói buộc một ngọn cỏ, cũng có trì, phạm.

Tướng giới Bồ-tát không thể nói rộng, nay lược nói giới trọng, là bốn Ba-la-di.

Ba-la-di; Hán dịch là: "Tha Thắng Xứ". Pháp thiện lợi ích mình gọi là Tự; pháp ác tổn hại mình gọi là Tha. Nếu phạm bốn pháp này, thì pháp ác sẽ thêm lớn, sẽ tổn hại mình, gọi là Tha Thắng Xứ.

Này người thiện nam, thiện nữ, hãy lắng nghe:

1- Nếu có Bồ-tát ở chỗ giới sư, nói ba lần cầu thọ giới Bồ-tát rồi, vì tiếng tăm, lợi dưỡng, khen mình, chê người, thì không phải Bồ-tát chân thật, là Bồ-tát giả hiệu, không có hổ thẹn, phạm Ba-ladi. Các ông từ nay, thân cùng tận đời vị lai, không được trái phạm, có giữ được không? (Đáp: giữ được).

Người thiện nam, thiện nữ hãy lắng nghe.

2- Nếu có Bồ-tát ở chỗ giới sư, nói ba lần cầu thọ giới Bồ-tát rồi, có của, có pháp, có người đến cầu xin, keo kiệt không bố thí, thì không phải Bồtát chân thật, là Bồ-tát giả danh, không có hổ thẹn, phạm Ba-la-di. Các ông từ nay, thân cùng tận đời vị lai, không được trái phạm, có thể giữ được không? (Đáp: giữ được).

Người thiện nam, thiện nữ hãy lắng nghe.

3- Nếu có Bồ-tát ở chỗ giới sư, nói ba lần cầu thọ giới Bồ-tát rồi, thời gian trước đã cùng người khác, tranh chấp chống trái nhau. Người khác đến cầu ăn năn, do tâm giận hờn, nên không thuận theo lời thỉnh của người kia, đã không đối với người, nhanh chóng chấp nhận cầu sám hối, thì không phải Bồ-tát, là Bồ-tát giả danh, không có hổ thẹn phạm Ba-la-di. Các ông từ nay, thân cùng tận đời vị lai, không được trái phạm, có giữ được không?

(Đáp: giữ được).

4- Người thiện nam, thiện nữ hãy lắng nghe:

Nếu có Bồ-tát ở chỗ giới sư, nói ba lần cầu thọ giới Bồ-tát rồi, khởi tâm tà kiến, chê bai mắng nhiếc Tam bảo, chê bai Đại thừa nói là chẳng phải do Phật nói, thì không phải Bồ-tát chân thật, là Bồtát giả danh, không có hổ thẹn, phạm Ba-la-di. Các ông từ nay, thân cùng tận đời vị lai, không được trái phạm, có giữ được không? (Đáp: Giữ được).

Trên đã thọ giới chính là khởi hạnh, khởi hạnh đã xong. Tiếp theo dạy phát nguyện rằng:

Đệ tử pháp danh là …. Nguyện đem công đức đã sinh do sám hối, thọ giới như thế, hồi hướng bố thí cho tất cả chúng sinh, người chưa lìa khổ, nguyện đều lìa khổ; kẻ chưa được vui nguyện cho được vui; người chưa phát tâm Bồ-đề nguyện cho phát tâm Bồ-đề, dứt ác làm lành, người chưa thành Phật, nguyện sớm thành Phật. Lại, dùng công đức đã sinh như thế, chung cho tất cả chúng sinh, bỏ thân này được sinh về cõi trời Đổ-Sử-Đa, được thấy Đức Di-lặc, ba hội Long Hoa, nguyện đứng hàng đầu, nghe pháp, ngộ đạo, chứng Vô sinh nhẫn, được thần thông rộng lớn, đi khắp mười phương, thờ phụng chư Phật, thường nghe chánh pháp Đại thừa Vô thượng. Lại, dùng công đức đã sinh như thế, nguyện chung cho tất cả chúng sinh, đời đời kiếp kiếp lìa hẳn thân địa ngục, lìa hẳn thân súc sinh, lìa hẳn thân ngạ quỷ, lìa hẳn thân biên địa thấp hèn, lìa hẳn thân không tự tại, lìa hẳn thân người nữ, thường ở trong Phật pháp, tu hành thanh tịnh, làm đại thiện tri thức cho tất cả chúng sinh, nguyện cho tất cả chúng sinh nghe tên con, phát tâm Bồ-đề, thấy thân con, dứt ác làm lành. Người nghe con nói pháp sẽ được trí tuệ rộng lớn. Kẻ biết tâm con, sẽ sớm được thành Phật.

-Môn Đắc xả:

Bồ-tát Địa quyển 40 chép: "Bồ-tát đối với bốn pháp Tha Thắng Xứ hễ phạm bất cứ một pháp nào thì không còn khả năng tăng trưởng ở trong hiện pháp, nhiếp thọ tư lương Đại Bồ-đề rộng lớn của Bồ-tát, không còn khả năng ý lạc thanh tịnh ở trong hiện pháp, huống chi là phạm tất cả, đây gọi là Bồtát tương tự, không phải Bồ-tát chân thật".

Nếu Bồ-tát dùng triền phẩm trung của nhu nhuyến, hủy phạm bốn pháp tha Thắng xứ, không bỏ luật nghi tịnh giới của Bồ-tát. Triền phẩm thượng phạm gọi là xả. Nếu các Bồ-tát hủy phạm bốn pháp Tha Thắng xứ, thường thường hiện hành, đều không có hổ thẹn, sinh ái dục sâu, thấy công đức này, nên biết gọi là triền phẩm thượng phạm, chẳng phải các Bồ-tát tạm hiện hành một pháp Tha Thắng Xứ, ấy là bỏ luật nghi tịnh giới của Bồ-tát, như các Bí-sô phạm pháp Tha Thắng xứ, tức là xả giới Biệt giải thoát.

Nếu các Bồ-tát do sự hủy phạm này, từ bỏ luật nghi tịnh giới của Bồ-tát thì chịu được gánh vác, như Bí-sô trụ giới biệt giải thoát, phạm pháp Tha Thắng xứ, không gánh vác trong trong hiện pháp, phải thọ lại.

Lược do hai duyên xả luật nghi tịnh giới của các Bồ-tát: 1-Bỏ nguyện đại Bồ-đề Vô thượng Chánh đẳng.

2-Triền phẩm thượng hiện hành, phạm pháp Tha Thắng Xứ. Nếu các Bồ-tát dù chuyển vận thân khắp các cõi mười phương, tồn tại ở chỗ sinh, không xả luật nghi tịnh giới của Bồ-tát, do Bồ-tát này không xả đại nguyện Bồđề Vô thượng, cũng không hiện hành triền phẩm thượng, phạm pháp Tha Thắng xứ.

Nếu các Bồ-tát chuyển vận thọ sự sinh khác, quên mất niệm gốc, gặp bạn lành, vì muốn giác ngộ niệm giới Bồ-tát, dù thường thọ lại, mà chẳng phải mới thọ, cũng không phải mới được.

Y cứ Bồ-tát Địa quyển 75 có bốn duyên xả:

1- Quyết định phát khởi tâm thọ, tâm không đồng phần.

2- Vì ở trước đại trượng phu, có nhận thức riêng, nên ý phát khởi bỏ lời nói năng.

3- Hủy phạm chung, riêng.

4- Pháp vượt hơn của người.

Bốn do triền phẩm tăng thượng, hủy phạm chung, riêng, thuận theo bốn pháp Tha Thắng xứ. Lại, tất cả trái phạm của Bồ-tát này, phải biết đều là thuộc về ố tác, lẽ ra phải hướng đến có sức, đối với nghĩa ngữ biểu, chủ thể giác, chủ thể thọ Bổđặc-già-la Tiểu thừa, Đại thừa, mà phát lộ sám hối trừ diệt.

Nếu các Bồ-tát do triền phẩm thượng trái phạm pháp tha Thắng xứ như trên, mất đi luật nghi giới, thì lẽ ra phải thọ lại.

Nếu triền phẩm trung trái phạm pháp tha Thắng xứ như trên, thì lẽ ra phải đối với ba Bổ-đặc-giàla; hoặc vượt qua số này, nên như pháp phát lộ trừ pháp ố tác. Trước hết phải trình bày lại danh, sự đã phạm, nên tạo ra thuyết này: "Xin trưởng lão Tôn túc nghĩ nhớ; hoặc nói: "Đại đức! Tôi như thế gọi là trái phạm pháp Tỳ-nại-da của Bồ-tát, như sự đã gọi; phạm tội ố tác, pháp khác như Bí sô phát lộ sám hối. Diệt pháp tội ố tác, nên nói như thế này: "Nếu triền phẩm hạ trái phạm pháp tha Thắng xứ như trên và tráo phạm pháp khác, thì lẽ ra phải đối với một Bồ-đặc-già-la để phát lộ sám hối, phải biết như trước".

Nếu không có thuận theo Bổ-đặc-già-la để phát lộ sám hối, trừ tôi đã phạm thì bấy giờ, Bồ-tát dùng ý ưa thích sâu nặng, khởi tâm tự thệ: "Ta phải quyết định phòng hộ đương lai, sau cùng không phạm lại".

Như thế, đối với phạm, xuất ly trở lại, thanh tịnh trở lại. Tự thọ giới pháp Bồ-tát (Du-già quyển 41).

Lại, các Bồ-tát muốn thọ luật nghi tịnh giới của Bồ-tát. Nếu Bổ-đặc-già-la không hội tụ đầy đủ công đức, thì bấy giờ nên đối trước tượng Như Lai, tự thọ luật nghi tịnh giới của Bồ-tát, nên thọ như vầy: "(Vén y bày vai phải, đầu gối phải chấm sát đất, hoặc quỳ, ngồi soạt đùi) nói như vầy: "kính bạch tất cả Như Lai mười phương đã nhập các chúng Bồ-tát ở đại địa, nay con muốn ở chỗ Phật, Bồ-tát ở các thế giới mười phương, thề thọ tất cả học xứ của Bồ-tát; thề thọ tất cả tịnh giới của Bồ-tát, đó là giới luật nghi; giới nhiếp thiện; giới nhiêu ích hữu tình".

Học xứ như thế, tịnh giới như thế, tất cả Bồ-tát quá khứ đã đủ, tất cả Bồ-tát vị lai sẽ đủ, khắp tất cả Bồ-tát hiện tại mười phương đang đủ. Đối với học xứ này, đối với tịnh giới này, tất cả Bồ-tát quá khứ đã học, tất cả Bồ-tát vị lai sẽ học; tất cả Bồ-tát hiện tại khắp mười phương đang học.

Lần thứ hai, thứ ba, cũng nói như thế. Nói xong, nên đứng dậy.

Tất cả pháp thọ giới khác, như trước nên biết, y theo pháp nên thọ.

-Môn tám vượt hơn, năm tưởng:

Đầu tiên nói tưởng của hạnh cao siêu:

1- Thú hướng đạo cao siêu.

2- Phát tâm.

3- Ruộng phước.

4- Công đức.

5- Ở trong thai.

6- Thần thông.

7- Quả báo vượt hơn.

8- Phát tâm năm quán:

Thứ nhất, quán sát tất cả chúng sinh tưởng cũng như bậc Thánh. Thứ hai, tưởng cũng như cha mẹ

Thứ ba, tưởng cũng như sư trưởng Thứ tư, tưởng cũng như Vua chúa Thứ năm, tưởng cũng như người nhà. Lại phát bốn nguyện:

Thứ nhất, sở hữu công đức đồng với tất cả chúng sinh mười phương.

Thứ hai, nguyện cho tất cả chúng sinh mười phương vượt qua biển phiền não sinh tử.

Thứ ba, nguyện cho tất cả chúng sinh mười phương chung cho nghĩa văn mười hai bộ kinh rõ ràng.

Thứ tư, nguyện cho tất cả chúng sinh mười phương đều đến Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Nghi thức nghe pháp (Du-già quyển 44).

Nếu các Bồ-tát khi muốn nghe pháp, có năm tưởng, thì nên từ bạn lành lắng nghe chánh pháp:

1- Nghĩ là của báu, vì nghĩa khó được.

2- Tạo ra tưởng mắt, hay đều sinh tuệ mầu rộng lớn, vì là nghĩa tánh.

3- Tạo ra tưởng sáng, đã đều sinh mắt tuệ rộng lớn. Đối với Nhất thiết chủng, như thật giác biết, vì nghĩa soi rọi bình đẳng.

4- Nghĩ rõ ràng công đức vượt hơn của quả đại, có thể được Niết bàn và dấu ấn mầu nhiệm Vô thượng của Tam-Bồ-đề, vì là nghĩa tánh.

5- Tạo ra tưởng vui vẻ vừa ý lớn không có tội, đối với hiện pháp, chưa được Niết bàn và Tam-Bồđề. Đối với pháp, phân biệt lựa chọn như thật, chỉ quán không có tội, vui lớn, vì là nghĩa tánh.

Nếu các Bồ-tát khi muốn nghe pháp từ bạn lành, thì đối với thầy nói pháp, do năm chỗ không tạo ra ý khác lạ, vì tâm thanh tịnh thuần túy, thuộc về tai nghe pháp:

1- Đối với giới hư hoại, không tạo ra ý khác, nghĩa là không nghĩ rằng: "Người này phá giới, không trụ luật nghi nay ta không nên nghe người ấy nói pháp".

2- Đối với họ hư hoại, không tạo ra ý khác, nghĩa là không nghĩ rằng: "Người này thuộc dòng họ thấp hèn, nay ta không nên nghe người ấy nói pháp".

3- Đối với sắc hư hoại, không tạo ra ý khác, nghĩa là không nghĩ rằng: "Người này tướng tá xấu xí, nay ta không nên nghe người ấy nói pháp".

4- Đối với văn hư hoại, không tạo ra ý khác, nghĩa là nghĩ rằng: "Đây là ngôn từ không đẹp, nay ta không nên theo lời lẽ ấy để nghe pháp, chỉ y theo nghĩa, không y theo văn".

5- Đối với ngữ hư hoại, không tạo ra ý khác, nghĩa là nghĩ rằng: "Lời nói người này thô ác, vì phần nhiều ôm lòng giận dữ, không dùng lời lẽ hay ho để giảng nói các pháp, nay ta không nên nghe người ấy nói pháp".

Du-già quyển 38 nói: "Thế nào là cầu nghe chánh pháp, nghĩa là các Bồ-tát đối với người khéo nói pháp, phải an trụ mạnh mẽ, nhạy bén, kính mến tôn trọng để cầu nghe chánh pháp".

Lược nói tướng mạo mạnh mẽ, nhạy bén, kính mến, tôn trọng: nghĩa là các Bồ-tát, vì muốn đến nghe một người khéo nói pháp, giả sử dọc đường, do lửa dữ hừng hực cháy, mặt đất như tấm sắt rất nóng, không có phương tiện nào khác để được nghe người khéo nói pháp, thì liền phát khởi ý mạnh mẽ, nhạy bén, kính mến tôn trọng vui mừng mà đi, huống chi muốn nghe phần nhiều khéo nói nghĩa. Lại, các Bồ-tát đối với phần thân mình và đối với mọi phẩm vật nuôi thân: Việc uống, ăn, v.v... tất cả sự kính mến, tôn trọng, mới tôn trọng, yêu kính sau, trong trăm phần không bằng một, cho đến phàn Ổ-Ba-ni-sát-đàm cũng không bằng một". Như thế, Bồ-tát đối với người khéo nói pháp, luôn tỏ lòng kính mến, tôn trọng, thường ưa đến nghe các người khéo nói pháp, không có mệt mỏi, cũng không có nhàm chán đủ; tín tịnh sâu dày, tánh Bồ-tát nhu hòa, vì tâm ngay thẳng, kiến ngay thẳng, vì kính yêu đức, vì kính yêu pháp, nên ở chỗ Pháp sư, không có gạn hỏi, hỏi vặn, mà có tâm kính trọng, không có tâm tự cao, ngạo mạn, chỉ chuyên chú vì cầu việc lành, không phải làm sáng tỏ đức mình, vì muốn an lập gốc lành cao cả của mình, không vì lợi dưỡng, cung kính, Bồ-tát đầy đủ công đức như thế, đi đến chỗ Pháp sư không có tâm tạp nhiễm, không có tâm tán loạn, lắng nghe chánh pháp.

Thế nào là tâm không ô nhiễm? Nghĩa là khi nghe pháp, tâm người ấy lìa cống cao, tạp nhiễm; lìa khinh man tạp nhiễm, lìa sự yếu hèn tạp nhiễm. Vì sáu tướng, nên lìa tự cao tạp nhiễm, nghĩa là khi nghe pháp, thời lượng thích hợp mà nghe; tha thiết quý trọng mà nghe, cung kính mà nghe, không vì tổn hại, không vì thuận theo, không vì tìm lỗi lầm, do bốn tướng của người nghe pháp kia đã lìa tạp nhiễm nhẹ, nên khi nghe pháp, cung kính chánh pháp, cung kính Bổ-đặc-già-la nói pháp, không khinh chánh pháp, không xem thường người nói. Lại, lúc nghe pháp, không tự khinh miệt, do một tướng này mà xa lìa yếu hèn, tạp nhiễm.

Không có tâm tán loạn khi nghe chánh pháp là sao? Nghĩa là do năm tướng:

1- Tâm cầu tỏ ngộ khi lắng nghe chánh pháp

2- Tâm chuyên chú một cõi

3- Nghe hiểu ý tiếng nói thuộc về tai

4- Gội sạch tâm mình

5- Gồm thâu tất cả tâm để lắng nghe chánh pháp. Vì sao lại cầu pháp?

Nghĩa là khi các Bồ-tát cầu Nội minh, vì chánh tu hành pháp tùy pháp hạnh, vì mở bày rộng khắp, đem lại lợi ích, giác ngộ cho người.

Nếu khi cầu Nhân minh, thì Bồ-tát vì muốn biết rõ như thật về luận Nhân minh mà ngoại đạo đã sáng tạo, là lời nói ác; vì muốn hàng phục các dị luận của người khác; vì muốn đối với kẻ chưa có niềm tin thanh tịnh đối với Thánh giáo chân thật này, sao cho người ấy kính tin thanh tịnh; đối với người đã kính tin thanh tịnh, thì khiến cho thêm rộng gấp bội.

Lúc cầu Thanh minh, Bồ-tát vì muốn cho chúng sinh tin ưa điển ngữ, đối với thân Bồ-tát, sinh tưởng sâu sắc kính tin. Chú giải nghĩa văn, sự khác nhau về câu văn, ngôn âm; thuận theo về âm khác của mỗi thứ phẩm loại ở trong một nghĩa.

Nếu khi cầu Y minh, thì Bồ-tát vì chấm dứt các thứ bệnh tật của chúng sinh, vì muốn đem lại lợi ích cho tất cả đại chúng.

Nếu các Bồ-tát cầu Công xảo minh, thì vì một ít công sức, gom góp nhiều của cải để bố thí, vì muốn lợi ích cho các chúng sinh. Vì phát tưởng kỳ lạ, rất ít có cho chúng sinh, vì dùng trí khéo léo, chưa khắp lợi ích bình đẳng, nhiếp thọ Vô lượng chúng sinh, nên cầu năm minh này; vì muốn cho tư lương của Đại trí, Vô thượng chánh đẳng Bồ-đề mau chóng được tròn đầy.

-Môn nói pháp:

Bồ-tát vì người khác nói pháp có hai:

1- Thuận theo nói.

2- Thanh tịnh nói.

Thuận theo nói: như trong giới kinh Biệt giải thoát có nói.

Thanh tịnh nói: Đối với mình có oán thù, các loại hữu tình nên trụ tâm từ vì nói chánh pháp. Đối với các hành vi ác, trụ tâm lợi ích, nên nói chánh pháp. Đối với các hữu tình không có ưa có khổ, hữu tình buông lung thấp kém, cần phải an trụ tâm thương xót, đem lại lợi ích, yên vui, nói cho nghe chánh pháp, vì không do sức tăng thượng của triền ganh tị, nên tự khen chê người khác, vì tâm không ô nhiễm, không hy vọng lợi dưỡng, cung kính, khen ngợi, nói pháp cho người khác nghe.

-Môn phương tiện nhiếp thọ chúng sinh:

Bốn phương tiện đối với các hữu tình, nhiếp hóa khắp, điều phục, thành thục. Bốn phương tiện đó là:

1-Phương tiện thuận theo nhiếp hóa. 2-Phương tiện năng nhiếp hóa.

3-Phương tiện khiến nhập vào. 4-Phương tiện tùy chuyển.

Thực hành bố thí này, gọi là phương tiện tùy thuận, nhiếp hóa. Vì sao? Vì trước hết, dùng mọi thứ tài vật để bố thí, lợi ích hữu tình. Vì muốn cho hữu tình đó được nghe, thọ lãnh chánh pháp đã nói, rồi vâng theo giáo pháp mà thực hành.

Nếu các Bồ-tát, tiếp theo thực hành ái ngữ, thì đối với người kia, ở chỗ kia có ngu si, vì muốn dứt trừ sự ngu si mà người kia vốn có, sao cho không còn thừa, nên nhiếp thọ họ; chiêm nghiệm, xem xét chánh lý.

Ái ngữ như thế, gọi là Phương tiện năng nhiếp hóa. Nếu các Bồ-tát biết hữu tình kia nhiếp thọ, chiêm nghiêm xem xét chánh đạo xong, tiếp theo thực hành hạnh lợi tha, cứu vớt hữu tình kia thoát ly chỗ bất thiện, đến chỗ thiện, khuyên bảo, dẫn dắt, điều phục chỗ yên ổn, gọi là Khiến nhập phương tiện.

Nếu các Bồ-tát vận dụng phương tiện như thế, khiến thu nhập xứ thiện rồi, sau cùng đối với sự nghiệp chân chánh của họ, được tu hành chung, sao cho họ chuyển theo. Do nhân duyên này khiến cho kẻ đã được hóa độ, không tạo ra thuyết này: "Ông tự không có niềm tin thanh tịnh, thi-la, tuệ xả, trí tuệ, đâu nhờ ở khéo khuyên bảo, dẫn dắt người khác, can ngăn, răn dạy, quở mắng, xua đuổi, và tạo ra sự nghĩ nhớ. Cho nên, đồng sự gọi là phương tiện tùy chuyển".

-Môn Cầu pháp:

Luận Đại thừa Trang Nghiêm Kinh chép: "Cầu pháp có bốn nhân duyên":

1- Sắc.

2- Phi sắc.

3- Thần thông.

4- Chánh pháp.

Sắc: là nhân của tướng tốt, phi sắc: là nhân dứt trừ bệnh phiền não, thần thông: là nhân tự tại, chánh pháp: là nhân vô tận.

Như Kinh Phạm Thiên Vương Vấn chép: "Bồtát cầu pháp đầy đủ bốn tướng":

1- Tưởng như báu mầu nhiệm: là nghĩa khó được

2- Tưởng như thuốc hay: là nghĩa trừ bệnh

3- Tưởng như tài vật: la nghĩa không phân tán 4-Tưởng như Niết-bàn, là nghĩa khổ diệt.

Vì pháp, là nhân của tướng tốt trang nghiêm, nên tưởng như vật báu mầu nhiệm, vì pháp là nhân tố diệt bệnh phiền não nên tưởng như thuốc hay.

Vì pháp là thần thông, là nhân tự tại, nên tưởng như tài vật. Vì pháp là chánh pháp, là nhân vô tận, nên tưởng như Niết-bàn. Cầu pháp có ba thứ đại:

1- Phương tiện đại. Do tinh tấn trên hết để cầu thế đế, vì đệ nhất đế thật không điên đảo.

2- Lợi tha đại: Do pháp làm chỗ nương tựa, trông cậy của thế gian, vì dùng đệ nhất nghĩa để an trí.

3- Tự lợi đại: Do tất cả công đức đầy đủ như biển.

-Môn Nhập pháp:

Phẩm Nhập tự của Thập Trụ Tỳ-Bà-Sa chép: "Nếu Bồ-tát vào chùa, thì nên thực hành các oai nghi cung kính mà lễ bái cúng dường. Nếu các Tỳ-kheo, Bồ-tát tại gia vào chùa Phật, thì khi muốn vào, trước năm thể sát đất ở ngoài cổng chùa, nên nghĩ như vầy: "Đây là trú xứ của người lành; là trụ xứ của người tu hạnh; không trụ xứ của người tu hạnh vô tưởng; trụ xứ của người tu hạnh vô nguyện, trụ xứ của người thực hành từ, bi, hỷ, xả; trụ xứ của người chánh hạnh, chánh niệm".

Nếu thấy các Tỳ-kheo thuận theo nghiệp đã thấy, thấy rồi tâm cung kính, lễ bái, gần gũi, hỏi han, thì nên nghĩ rằng: "Nếu trải qua số kiếp như số cát sông Hằng, tôi thường xuyên bố thí lớn trong miếu thờ trời, không thôi, bỏ dở, sẽ không bằng một người xuất gia". Lại nghĩ: "Người tại gia có nhiều lỗi lầm; còn xuất gia thì không, thuận theo thích ứng, nói rộng, nghĩ rằng: Sự pháp mà người xuất gia đã thực hành, công đức đã được, còn tôi đến lúc nào mới được? nói rộng ra, hành tướng mà Ba thừa đã có, là hành tướng mà Bồ-tát tại gia đã yêu mến; người xuất gia, nếu vào chùa tháp, khi kính lễ Phật nên sinh ba tâm".

1- Đến khi nào thì tôi sẽ được thọ các cúng dường của tám bộ.

2- Đến lúc nào, tôi sẽ được thần lực, xá-lợi được truyền khắp thế gian, lợi ích cho chúng sinh?

3- Nay, tôi tâm hạnh sâu, đại tinh tấn, được đại Bồ-đề, tôi thành Phật rồi, nhập Niết-bàn Vô dư.

Tiếp theo thuận theo công việc đã làm, đến chỗ các Tỳ-kheo, thỉnh tánh tướng các pháp thì đến chỗ Luận sư; hỏi giới trì phạm đến chỗ Luật sư; ngồi thiền, nhập định đến chỗ Thiền sư, v.v…

-Môn Nên giữ gìn chánh pháp:

Bồ-tát vì năm nhân duyên nên thọ lãnh giữ gìn chánh pháp:

1- Vì biết báo ơn chư Phật

2- Vì khiến cho chánh pháp tồn tại lâu dài

3- Vì cúng dường trên hết, là cúng dường chư

Phật

4- Vì đem lại lợi ích cho vô lượng chúng sinh

5- Vì chánh pháp bậc nhất khó được

Du-già quyển 70 chép: "Vì ba lỗi, nên chẳng thể không có đảo ngược khi lắng nghe chánh pháp".

1- Vì tán loạn.

2- Vì ngu si.

3- Vì không cung kính.

Có năm tướng là đồ đựng của văn, tu:

1- Tâm khiêm tốn thấp mình

2- Tâm vâng làm

3- Tâm nghĩa nhiếp thọ

4- Tâm nghĩa khéo nhiếp thọ

5- Tâm cung kính

Kinh Văn-thù Vấn Bát-nhã chép: "Sáu trường hợp không gây tiếng động: Lúc lễ Phật, lúc nghe pháp, lúc hòa hợp chúng; lúc đi khất thực; lúc đang ăn, lúc tiểu đại tiện. Vì sao? Vì những lúc trời như thế tâm thanh tịnh, để nghe pháp, vì có tiếng kia, thì tâm không được định, vì các vị trời đi, nên quỷ dữ đến làm những việc không lợi ích".

-Môn Mười độ sáu thứ phân biệt:

Phẩm Độ Nhiếp thứ bảy trong luận Đại thừa Trang Nghiêm chép: "Sáu Ba-la-mật trong đây có mười nghĩa":

1- Chế số.

2- Bày tướng.

3- Thứ lớp.

4- Giải thích tên gọi.

5- Tu tập.

6- Khác nhau.

7- Nhiếp hạnh.

8- Trị chướng.

9- Công đức.

10- Hiển bày lẫn nhau.

Đầu tiên là số sáu, lại giải thích nghĩa thứ nhất rằng: "Vì gồm thâu ba việc lợi mình, nên chỉ có sáu":

1- Tiến thêm

2- Bất nhiễm

3- Đầu tiên, không trái ngược

4- Như thứ lớp khiến bốn việc tấn:

1. Giúp sinh thành tựu, do bố thí

2. Tự thân thành tựu, do giữ giới 3. Quyến thuộc thành tựu, do nhẫn nhục

4. Phát khởi thành tựu.

Do tinh tấn, vì tất cả sự nghiệp do tinh tấn này mà thành.

5- Thiền định khiến cho phiền não bất nhiễm, vì chiết phục phiền não, vì năng lực chế phục này.

6- Bát-nhã khiến cho nghiệp không điên đảo, tất cả việc đã làm vì biết như thật.

Lại nữa, thứ hai vì gồm thâu hai lợi, sáu sự, nên số chỉ sáu. Đầu tiên vì gồm thâu ba việc lợi tha, nên ba độ ở trước, khiến khởi chánh cần.

1- Bố thí cho người kia.

2- Không não hại người kia.

3- Nhẫn sự não hại của người kia.

Sau, vì gồm thâu ba việc lợi mình, nên ở sau có ba:

1- Có nguyên do, vì nương tựa tinh tấn.

2- Tâm trụ: Vì tâm không nhất định.

3- Giải thoát: Do tâm đã định, vì khiến giải thoát.

Lại nữa thứ ba, vì gồm thâu sáu việc lợi tha, nên như thứ lớp đó, đối với sự thọ dụng của người kia, vì không để họ thiếu thốn, vì không não hại họ, vì cam chịu sự não hại của người kia, nên giúp đỡ công việc mà họ đã làm, sao cho không lùi lại. Vì dùng năng lực thần thông khiến quy hướng. Vì khéo nói pháp dứt trừ nỗi nghi ngờ của người kia.

Lợi tha như thế tức thành tự lợi.

Lại nữa thứ tư, là gồm thâu Đại thừa, vì bốn thứ nhân nên độ chỉ có sáu:

1- Bất nhiễm

2- Rất cung kính

3- Không lui sụt

4- Vô phân biệt

Khi tu hành bố thí, đối với của cải không nhiễm, vì không cố nghĩ đến sự luyến ái, nên khi thọ giới, đối với các học xứ, vì khởi tâm rất cung kính, nên khi thực hành nhẫn, tấn, cả hai không lui sụt, cho đến đối với chúng sinh, chẳng phải nỗi khổ mà chúng sinh đã gây ra, vì được không lui sụt, nên khi tiến đến thực hành việc lành, vì được không lui sụt, nên thực hành thiền định, Bát-nhã. Bấy giờ, hai thứ vô phân biệt này là thuộc về chỉ quán bình đẳng.

Lại nữa thứ năm, vì gồm thâu sáu Đại thừa. Đạo là nghĩa gì?

Đáp: "Có phương tiện, nghĩa là Đạo; vì bố thí cho nên đối với tiền của, tài sản, không chấp mắc là đạo. Vì giới, nên đối với cảnh không rối loạn là

Đạo. Vì nhẫn nên đối với chúng sinh không bỏ là Đạo. Vì định, nên làm cho phiền não thanh tịnh là Đạo. Vì Bát-nhã nên đối với chướng trí thanh tịnh là Đạo".

Lại nữa thứ sáu, gồm thâu ba Học đồng với Duy thức, v.v... giải thích.

Thứ hai là làm sáng tỏ tướng, đều có bốn tướng:

1- Trị chướng

2- Hợp trí 3-Mãn nguyện 4-Thành sinh.

Trị chướng: Đàn v.v... như thứ lớp, trị sáu keo kiệt v.v...

Hợp trí: Thực hành chung với trí Vô phân biệt, do thông đạt pháp vô ngã.

Mãn nguyện: Bố thí cho người cầu tài của, tùy ý muốn của họ mà cấp cho. Giới là đối với người cầu giới, dùng thân, miệng, ý giữ gìn mà truyền dạy cho họ.

Nhẫn, hoan hỷ đối với người biết ăn năn lỗi lầm. Tấn: Đối với tạo nghiệp, tùy ý muốn, giúp đỡ cho họ.

Định: Đối với định học, tùy ý muốn trao cho pháp. Trí đối với người có hoài nghi, tùy ý muốn quyết đoán.

Thành sinh: Trước là dùng sự thí cho, để nhiếp hóa. Về sau, dùng pháp Ba thừa, thuận theo đối tượng thích ứng mà thành thục cho họ. Trước là an lập họ vào tịnh giới, sau dùng giáo pháp ba thừa để thành thục cho họ cũng vậy.

Thứ lớp thứ ba, có ba nhân duyên: 1-Trước, sau.

2- Dưới, trên

3- Thô, tế

Dùng bố thí làm đầu, vì dẫn giới, v.v... ở sau. Dùng bố thí là dưới, vì giới, v.v… là trên. Dùng bố thí là thô, vì giới v.v... là tế, đều dùng thứ lớp để biết.

Thứ tư, là giải thích tên gọi: Vì có thể dứt trừ nghèo cùng, nên gọi là bố thí. Vì khiến cho trong mát, nên gọi là giới; vì có công năng phá tan sự giận dữ, nên gọi là nhẫn. Vì có khả năng kiến lập điều lành, nên gọi là Tấn; vì có công năng gìn giữ tâm, nên gọi là định; vì giải thích pháp chân, nên gọi là Tuệ.

Thứ năm, là tu tập: Đồng với Tạp tập, luận Duy thức, v.v… Thứ sáu, là sự khác nhau: Đều có sáu nghĩa:

1- Tự tánh

2- Nhân

3- Quả

4- Nghiệp 5-Tương ưng 6-Phẩm loại.

Tự tánh: Vì dùng vật của mình để bố thí cho những người nhận lãnh.

Nhân thí: Vì tài vật lành vô tham với tư duy đều sinh. Quả thí: Vì tài vật và thân thành tựu.

Vì thân thành tựu: Tức gồm thâu năm mạng, v.v… nghĩa là được mạng, được sắc, được lực, được ưa thích, được biện tài.

Nghiệp bố thí: Hai gồm thâu: Mình người đầy đủ và Đại Bồ-tát.

Tương ưng với bố thí đầy đủ: Do trụ đầy đủ, vì không keo kiệt trong tâm người.

Phẩm loại: Pháp, tài vật, vô úy.

Tự tánh: Do trụ Cụ giới, cho đến vì thọ học các Học xứ.

Nhân: Diệt là Niết-bàn, vì cầu Niết-bàn; độ các hữu biên, vì thọ giới hạnh.

Quả: Đạo thiện và không ăn năn, v.v… thứ lớp tâm trụ, vì nhờ giới mà được.

Nghiệp có ba:

1- Công năng trì: Gánh vác, gìn giữ tất cả công đức, như mặt đất.

2- Công năng tĩnh: vì dứt tất cả phiền não.

3- Vô úy: Do không thể khởi tất cả duyên khởi. Các tội: Khủng bố, ghét, v.v…

Tương ưng: Do tất cả thời gian, nghiệp thân, miệng, ý đều thực hành hạnh lành.

Phẩm loại: Nghĩa là hai đắc, một thọ; đắc tức hai pháp Ba-la-đề-mộc-xoa, đắc tức là định, đạo, giới (những thứ khác rườm rà nên không thuật, xin xem lại văn).

Tám đối trị: Vì đàn lìa bảy chấp mắc:

1- Chấp mắc tiền của, tài sản.

2- Chấp mắc trễ nải, chập chạm.

3- Chấp mắc nghiêng lệch.

4- Chấp mắc báo ơn.

5- Chấp mắc quả báo.

6- Chấp mắc chướng ngại.

7- Chấp mắc tán loạn.

Chấp mắc chướng ngại ở đây: Nghĩa là vì không dứt phiền não tham, đối tượng trị của đàn.

Chấp mắc tán loạn: Có hai:

1- Ý phẩm hạ tán loạn, vì cầu Tiểu thừa

2- Phân biệt tán loạn, vì phân biệt ba luân

Trị sáu chướng khác, năm chướng đầu trái với trước, nghĩa là chấp mắc v.v... giới, lìa phá giới.

Giới v.v... lìa chấp mắc chướng ngại: Vì phiền não chướng ngại kia đều dứt.

Giới v.v... lìa chấp mắc phân biệt: thuận theo ba luân kia, vì không phân biệt.

Chín công đức là:

1- Lúc nào cũng xả: Nghĩa là các Bồ-tát, trong tất cả thời gian, thí xả thân mạng mình cho tất cả người cầu xin.

2- Lìa cầu, không cầu trả ơn, kể cả quả ái, vì dùng đại bi làm nhân.

3- Kiến lập Bồ-đề, do sự bố thí, kiến lập Bồ-đề ba thừa cho tất cả chúng sinh.

4- Vô tận: Vì thuộc về trí vô phân biệt, cho đến Niết-bàn, phước của trí đó vô tận, vô cùng lợi ích cho tất cả chúng sinh.

Lại nữa, sáu độ có công đức thanh tịnh. Vả lại, thí cho người cầu xin, đối với Bồ-tát đã sinh ba thứ vui mừng:

1- Vui mừng khi được thấy

2- Vui mừng lúc được toại nguyện

3- Vui mừng khi cầu được thấy, được mãn nguyện, vì khi không thấy, không toại nguyện, thì không sinh nỗi vui mừng.

Bồ-tát, tất cả đối với người cầu xin trái với ba nỗi vui mừng của người kia, cũng sinh ba nỗi mừng:

1- Khi được thấy sinh vui mừng

2- Khi nguyện của người kia được thỏa mãn thì sinh vui mừng

3- Lúc cầu thấy, cầu toại nguyện của người kia, cảm thấy vui mừng.

Trong đây, nên biết rằng, người cầu xin kia có ba nỗi vui mừng không giống như Bồ-tát. Vì sao? Vì Bồ-tát thường đầy đủ đại bi. Sáu độ có tám Vô thượng:

1- Y đàn.

2- Loại.

3- Duyên.

4- Hồ hướng.

5- Nhân.

6- Trí.

7- Ruộng.

8- Y chỉ.

Y đàn: Vì nương tựa Bồ-tát. Có ba loại:

1- Thí vật: để xả thân mạng mình

2- Thí vô úy: Vì để cứu giúp chúng sinh ác.

3- Thí pháp: Vì để nói pháp Đại thừa.

Duyên: Vì dùng đại bi làm duyên khởi. Hồi hướng: Vì cầu đại Bồ-đề.

Nhân: Do nghiệp thí cho ở đời trước huân tập hạt giống làm nhân.

Trí: Dùng trí Vô phân biệt để quán sát ba luân. Ruộng: Có năm người:

1- Người cầu xin

2- Người khổ

3- Người không nơi nương tựa 4-Người có hành vi ác 5-Người có đức.

Y chỉ: Do ba thứ y chỉ: 1-Y chỉ tín hướng

2- Y chỉ suy nghĩ.

3- Y chỉ tam-muội.

-Môn Dường như có lợi ích:

Luận Trang Nghiêm quyển 12 chép: "Bồ-tát có bảy thứ dường như lợi ích":

1- Dường như mẹ

2- Dường như cha

3- Dường như bạn lành

4- Dường như bạn đồng hành

5- Dường như tôi tớ mạnh khỏe

6- Dường như Xà-lê

7- Dường như Hòa thượng

Dường như mẹ: Ví như mẹ hiền tạo ra nghiệp lợi ích đối với con:

1- Mang thai

2- Sinh ra con

3- Nuôi lớn

4- Đề phòng con bị hại

5- Dùng lời răn dạy con

Năm nghiệp lợi ích chúng sinh của Bồ-tát cũng giống như vậy:

1- Tâm bình đẳng nhắm vào chúng sinh

2- Sinh ra địa vị Thánh

3- Nuôi lớn các gốc lành

4- Phòng hộ các gây tạo ác

5- Dạy tu tập để học rộng

Ví như cha lành đối với con, tạo ra năm thứ nghiệp lợi ích:

1- Gieo hạt giống gả

2- Dạy cho nghề nghiệp khéo léo 3-Vì cưới gả cho con biết.

4- Giao phó con cho bạn lành

5- Vì dứt nợ, nếu không sẽ bồi thường về sau.

Năm nghiệp của Bồ-tát cũng như vậy:

1- Bảo cho khởi lòng tin để làm hạt giống của thể Thánh.

2- Bảo phải học giới, định tăng thượng, để làm nghề khéo léo.

3- Khiến cho được thú vui mừng giải thoát dùng làm sính lễ cưới

4- Dạy khuyến thỉnh chư Phật để làm bạn lành. 5-Vì ngăn chận việc làm ác cho mình Việc ác có bốn thứ:

1- Săn bắn

2- Ưa sai quấy

3- Ham thích rượu

4- Đánh bạc

Năm nghiệp của Bồ-tát cũng giống như vậy:

1- Người không phải đồ đựng, kín đáo nói sâu sắc cho chúng sinh

2- Người phạm giới, đúng như pháp quở trách.

3- Người giữ cụ giới, dùng việc lành để khen ngợi.

4- Kẻ tu hành, bảo cho cách chứng mau chóng. 5-Về việc ma liền bảo cho biết.

Ví như người có trí, bạn đồng hành đối với mình làm được năm việc lợi ích:

1- Cho niềm vui

2- Cho lợi ích

3- Thường cho vui

4- Thường cho lợi

5- Không trái lìa

Năm nghiệp của Bồ-tát cũng giống như vậy:

1- Cho niềm vui không điên đảo, điều mà thế gian thành tựu gọi là vui, do đó được thọ vui.

2- Cho lợi không điên đảo, sự thành tựu của xuất thế gọi là lợi, vì lợi này đối trị bệnh phiền não; ba lợi còn lại rất dễ hiểu. Ví như kẻ tôi tớ mạnh khỏe làm chủ, làm được năm việc lợi ích:

1- Cùng cực các đối tượng tạo tác.

2- Được không lừa dối.

3- Chịu đựng các việc đánh, mắng. 4-Làm công việc tinh tấn, tốt đẹp. 5-Khéo hiểu léo về phương tiện, Bồ-tát cũng giống như vậy.

1- Thành thục chúng sinh

2- Mở bày chỉ yếu xuất ly

3- Nhẫn nhịn các việc ác

4- Cho thế gian niềm vui

5- Cho thế gian lợi ích.

Ví như A-xà-lê làm năm việc có lợi ích cho đệ tử:

1- Dạy bảo các pháp cho đệ tử

2- Bảo cho đệ tử biết bí quyết nhanh chóng

3- Thân biết thanh thản thư thái

4- Miệng biết nói lời đáng yêu

5- Tâm không có hy vọng

Ví như Hòa-thượng đã làm năm việc lợi ích cho đệ tử:

1- Hóa độ cho xuất gia

2- Cho đệ tử thọ giới

3- Cấm đoán các lỗi lầm

4- Giữ gìn tài vật 5-Dạy trao chánh pháp Bồ-tát cũng giống như vậy:

1- Khiến đầy đủ hai nhóm

2- Khiến được giải thoát

3- Khiến dứt các chướng

4- Cho thế gian niềm vui

5- Cho thế gian lợi ích

-Môn năm thứ hy vọng của Bồ-tát:

1- Hy vọng sáu độ thêm lớn

2- Tổn bớt sáu tệ

3- Thành tựu chúng sinh

4- Thắng tấn các địa

5- Hy vọng Vô thượng Bồ-đề

-Môn sáu quyết định nên làm:

Bồ-tát do làm sáu độ thêm lớn được sáu thứ quyết định:

1- Tài vật thành quyết định, vì thế thường được của thành tựu.

2- Sinh quyết định vượt hơn, vì giới thường được tùy ý thọ sinh.

3- Không lùi quyết định, do nhẫn chịu các khổ, vì thường không lui sụt.

4- Tu tập quyết định. Vì tiến hằng giờ tu tập điều lành không có bỏ dở, thôi dứt.

5- Định nghiệp quyết định, do thiền thành tựu nghiệp chúng sinh, vì không bao giờ lui sụt.

6- Không có công dụng quyết định, do trí được Vô sinh nhẫn, vì trí vô phân biệt tự nhiên trụ; Bồtát vì thành tựu sáu độ, nên ở trong các địa, quyết định nên tạo ra sáu việc:

1- Phải nên cúng dường.

2- Phải nên học giới.

3- Phải nên tu bi.

4- Phải nên siêng làm việc lành 5-Phải nên lìa chỗ rầm rĩ, ồn ào.

6-Phải nên ưa pháp.

Như thứ lớp viên mãn sáu Ba-la-mật, tất nhiên, Bồ-tát thường nên làm sáu việc:

1- Nhàm chán năm dục, vì không chấp mắc quả báo bố thí.

2- Tự xét lỗi mình. Nghĩa là sáu thời trong một ngày đêm thường tự tỉnh lại mình, xét nét đối tượng tạo tác của ba nghiệp, hễ biết lỗi thì sửa đổi. 3-Nhẫn chịu gian khổ 4-Tu điều lành

5-Không đắm vị, nghĩa là không đắm vị thiền, vì thường thọ sinh ở cõi Dục 6-Không phân biệt.

Như thứ lớp khiến cho sáu độ viên mãn.

-Môn sáu độ chín thứ phân biệt:

Du-già quyển 39 chép: "Chín môn Thí Ba-lamật, cho đến Trí Ba-la-mật cũng giống như vậy.

Tụng rằng:

Tất cả nạn của tự tánh
Thiện sĩ của tất cả môn
Cầu toại nguyện tất cả thứ
Hai đời ưa thanh tịnh
Chín thứ tướng như thế
Đó gọi lược nói thí.

1- Tự tánh: Chủ thể thí cho tất cả vật đáng nên thí; tư duy câu sinh vô tham và nhân đối tượng phát, hay thí cho tất cả vật thí không có tội.

Hai nghiệp thân ngữ nhất định có quả, thấy thuận theo đối tượng mong cầu, tức dùng vật này mà thực hành tuệ thí gọi là tự tánh thí.

2- Tất cả thí: Lược có hai thứ: a-Vật, đối tượng thí bên trong b-Vật đối tượng thí bên ngoài.

Chỉ thí cho thân mình gọi là đối tượng thí trong. Nếu ăn mau mắn, mửa ra, mạng sống còn, chúng sinh thường ăn rồi mửa ra, cơm đã ăn đem thí cho gọi là thí tạp nhạp trong, ngoài.

Trừ cách thí đã nói trên, tất cả vật, đối tượng nên thí cho khác, gọi là chỉ thí ngoài. Biết thí cho trong, ngoài, đối với chúng sinh kia, chỉ sao cho yên vui, không tạo ra lợi ích. Hoặc không lợi ích, cũng không yên vui, tức không thí cho, trái lại tức là thí; rộng có vô lượng, nên bố thí, không bố thí, tư duy y theo đó có thể biết.

3- Khó thực hành thí: Của vật quá ít, tự cam chịu nghèo khổ, tuệ thí cho người khác là khó thực hành bậc nhất; vật đối tượng đáng yêu, rất sinh ham ưa chấp mắc, hay tự mở mang ý, tuệ thí cho người khác, là việc khó làm thứ hai, tài vật cực kỳ gian nan, cay đắng mới có được, đem tuệ thí cho người là việc khó làm thứ ba.

Môn tất cả: a-Tài vật của mình b-Vật người khác đã được

c- Thí cho người thân, nuôi nấng, yêu thương tôi tớ

d- Bố thí cho người đến cầu xin

4- Bố thí cho thiện sĩ: Lược có năm tướng: Tín tịnh mà thí; cung kính mà thí; tự thân mà thí; hợp thời mà thí; không tổn não người khác mà thực hành tuệ thí.

5- Trí Nhất thiết chủng:

Có mười ba tướng:

1- Không có chỗ nương tựa

2- Rộng lớn

3- Vui mừng

4- Thường thường

5- Ruộng phước

6- Không phải ruộng phước

7- Tất cả vật

8- Tất cả nơi chốn

9- Tất cả thời gian

10- Vô tội

11- Hữu tình

12- Vật phương cõi.

13- Vật thí: tài sản, lúa thóc.

7-Cầu toại nguyện thí cho, có tám tướng:

1- Uống ăn thiếu thốn

2- Xe cộ thiếu thốn

3- Y phục thiếu thốn

4- Dụng cụ trang nghiêm thiếu thốn

5- Tư lương lặt vặt thiếu thốn

6- Hương, hoa, trang sức, tràng hoa thiếu thốn

7- Nhà cửa thiếu thốn

8- Ánh sáng thiếu thốn, người cầu xin thì thí chó ánh sáng, bảy tướng trên y theo tám tướng này.

8-Người ưa bố thí đời này, đời khác.

Lược có chín tướng, của có ba:

1- Vật diệu tịnh đúng như pháp mà thực hành tuệ thí.

2- Điều phục vết nhơ keo kiệt mà thực hành tuệ thí.

3- Điều phục tạng chứa nhơ mà thực hành tuệ thí.

Vô úy có ba:

Cứu vớt nỗi sợ hãi về sợ sư tử, cọp, sói, v.v…

1- Cứu giúp nỗi sợ hãi về vua, giặc v.v... 3-Cứu vớt nỗi sợ hãi về nước, lửa, v.v… Pháp thí có ba:

1- Nói pháp không có điên đảo

2- Nói pháp xứng lý 3-Khuyên tu học xứ.

Chín tướng như thế, có thể khiến chó niềm vui của đời này, đời khác, tài, vô úy đời này, pháp thí đời khác.

Chín thanh tịnh thí, có mười tướng:

1- Bố thí không ngưng trệ

2- Bố thí không chấp trước

3- Không chứa nhóm

4- Không đề cao

5- Không có đối tượng nương tựa

6- Không lui sụt

7- Không thấp kém

8- Không hướng về, không xoay lưng 9-Không hy vọng trả ơn 10-Không hy vọng dị thục.

Vì thí nhanh chóng không để lại, vì không vọng chấp trước, vì không chứa nhóm đốn thí, vì khiêm nhượng, không tranh hơn, vì không dựa vào danh dự, không ăn năn rộng lớn, vì không tự khinh; vì vật bố thí thắng diệu, vì tâm bi bố thí bình đẳng; vì thương xót bố thí, không mong trả ơn, vì không hy vọng quả đương lai.

Chín môn giới:

1-Môn tự tánh có bốn thứ:

1- Chánh thọ từ người khác

2- Ý thích thiện tịnh

3- Phạm rồi lại được thanh tịnh

4- Kính sâu chuyên niệm, không có trái phạm.

Do từ người khác thọ, vì thẹn quán bên ngoài, nên ý ưa thích thiện tịnh, vì trái phạm hổ bên trong, nên chuyên niệm thanh tịnh trở lại. Đầu tiên, không có trái phạm, vì hai nhân duyên nên lìa bỏ các ố tác. Thứ nhất, hai là y chỉ, vì sinh hổ thẹn. Vì hổ thẹn nên có thể hộ thi-la. Vì công năng hộ, nên lìa các ố tác. Lại, thứ một, hai là pháp; hai thứ sau được dẫn phát bởi hai thứ trước. Lại thứ một, hai, tư có thể khiến cho không hủy phạm, đã thanh tịnh trở lại, khiến cho phạm phát ra trở lại, đủ bốn công đức, làm lợi cho mình, cho người; lợi ích yên vui vô lượng chúng sinh, vì thương xót các người, trời, v.v... ở thế gian.

2- Tất cả thế giới có hai thư: đó là giới phần tại gia; và giới phần xuất gia. Hai thứ này lược nói ba tức ba nhóm giới.

3- Giới khó thực hành:

Lược có ba thứ:

1-Nghĩa là các Bồ-tát hiện đủ tài vật lớn, tăng thượng dòng họ có thể bỏ; thọ trì giới Bồ-tát, gọi là nạn thứ nhất. Nếu phải gặp nạn ép ngặt, cho đến mất mạng đối với giới đã thọ, còn không có thiếu kém, huống chi là phạm hoàn toàn, gọi là nạn thứ hai, khắp tất cả tác ý đi, đứng, luôn trụ chánh niệm, thường không có buông lung, cho đến qua đời, không có phạm lầm tội khinh, huống chi phạm trọng, gọi là nạn thứ ba.

4- Tất cả giới môn lược có bốn thứ: 1-Giới chánh thọ

2- Giới bổn tánh

3- Giới tập quán

4- Giới tương ưng phương tiện.

Chung thọ: Thọ tịnh giới của ba nhóm đã thọ trước kia. Bổn tánh nghĩa là trụ vị chủng tánh. Hiền nhân của bổn tánh, hai nghiệp thân, ngữ luôn chuyển vận thanh tịnh. Tập quán: Nghĩa là nhiều đời tu tập ba thứ tịnh giới, tất cả pháp ác không ưa hiện hành, rất nhàm chán pháp ác, ưa tu pháp lành, sinh rất hâm mộ. Giới tương ưng: Nương tựa bốn sự nhiếp, vì đối với nghiệp lành của các hữu tình luôn chuyển.

5- Giới thiện sĩ: Lược có năm thứ, nghĩa là các Bồ-tát tự có thi-la, khuyên người khác thọ giới, khen ngợi công đức của giới, người thấy pháp đồng, rất sinh vui mừng, nếu có hủy phạm, đúng như pháp ăn năn trừ bỏ.

6- Giới Nhất thiết chủng: Tóm lại, sáu thứ, bảy thứ. Nói sáu thứ: 1-Giới hồi hướng, vì hồi hướng Đại Bồ-đề

2- Giới rộng rãi, gồm thâu rộng tất cả học Xứ đã học.

3- Giới của xứ hoan hỷ vô tội, xa lìa ham vui chấp mắc dục lạc, vì tự khổ hạnh hai bên.

4- Giới thường hằng. Dù hết mạng sống lâu, là không xả bỏ.

Giới vững chắc: Lợi dưỡng, cung kính vốn tùy phiền não, vì không chế phục, không đoạt.

5- Thi-la trang nghiêm đủ giới tương ưng, vì trang nghiêm đầy đủ tất cả giới, như Thanh văn địa có nói.

Nói bảy thứ:

1-Giới thôi dứt, vì lìa tất cả sát sinh, v.v… 2-Giới chuyển tác:

Vì gồm thâu tất cả việc lành, vì lợi ích hữu tình.

3- Giới phòng hộ: Vì thuận theo hộ giới chuyển tác thôi dứt

4- Giới dị thục của tướng Đại sĩ

5- Giới dị thục của tâm tăng thượng 6-Giới dị thục của đường đáng yêu 7-Giới dị thục, lợi ích hữu tình.

6- Người cầu giới toại nguyện, lược có tám hạng:

Nghĩa là các Bồ-tát tự suy nghĩ đế, như ta đã mong cầu, chớ cho rằng, người kia đối với hiện hành của ta, cắt đứt mạng sống, không cho mà lấy, tà nhơ nhớp, luống dối, chia rẻ, thô ác, nói lời thêu dệt, các xúc chạm phi ái: tay, khối đất, gậy gộc, v.v... làm hại ta; đối với người khác cũng như vậy, vì sự mong cầu không vừa ý, nên đều không hài lòng.

Như thế, xem xét suy nghĩ nhân duyên tai nạn của mạng mình, cũng không đối với tám thứ hiện hành của người khác đã mong cầu việc không toại nguyện, không hài lòng.

Tám thứ giới ưa thích của đời này, đời khác, lược có chín thứ, nghĩa là các Bồ-tát vì các hữu tình, lẽ ra phải ngăn chận thì ngăn chận, nên triển khai thì triển khai, nên nhiếp thọ, thì chánh nhiếp thọ; nên điều phục, thì chánh điều phục. Hai nghiệp thân, ngữ ở giữa của Bồ-tát thường chuyển biến thanh tịnh gọi là bốn thứ. Lại nữa, năm độ còn lại đều vận hành, tịnh giới tức là thứ năm, nói gọi là chín, có thể khiến cho mình, người được yên vui trong hiện tại, mai sau, gọi là giới vui của hai đời.

Chín giới thanh tịnh, lược có mười thứ:

1- Đầu tiên, khéo thọ giới là vì Tam Bồ-đề, không vì mạng sống.

2- Giới không quá trầm, lúc trái phạm, vì sinh ăn năn, hổ thẹn và không đề cao giới quá, vì thông suốt lìa phi xứ, sinh ăn năn, hổ thẹn.

3- Giới lìa lười biếng: Vì không ham vui, vướng mắc đối với thú vui nằm ngủ, v.v…

4- Thọ giới thuộc về lìa các buông lung, tu tập năm chi như trước, vì không buông thả.

5- Giới chánh nguyện, xa lìa lợi dưỡng, không nguyện sinh lên cõi trời, vì quan trọng là tự tu hành.

6- Thọ giới thuộc về đầy đủ phép tắc, đối với các oai nghi, đúng như pháp thân, ngữ, chánh hiện hành.

7- Giới cụ túc thuộc về mạng tịnh, vì lìa tất cả lỗi tà mạng: như dối trá, v.v…

8- Giới lìa hai bên, vì xa lìa thọ dụng hai bên khổ.

9- Giới xuất ly hẳn, vì xa lìa tất cả kiến chấp ngoại đạo.

10- Giới đã thọ trước kia không hao hụt mất mát vì không có thiếu đối với thọ, nên tu tập như thế thì được năm lợi ích cao quý:

1- Chư Phật mười phương hộ niệm

2- Sắp qua đời, sinh vui mừng

3- Giữ giới là bạn lành

4- Tạng công đức lớn tròn đầy

5- Giới hiện tại, mai sau đều thành tánh Chín môn nhẫn:

1* Tự tánh: Hoặc năng lực tư duy, lựa chọn; hoặc do tự tánh, chịu đựng kẻ thù hãm hại. Do tâm không ô nhiễm, vì thuần túy xót thương, nên có thể có sức nhẫn nhục, chịu đựng, đó gọi là Tự tánh.

2* Tất cả nhẫn: Tại gia, xuất gia đều có đủ ba nhẫn, lược như Năng đoạn sớ. Sao gọi là Nhẫn? Tự mình không có giận dữ, không trả oán thù khác, cũng không phiền não, vì chảy rót thường nối tiếp, nên gọi là Nhẫn.

An thọ khổ nhẫn. Về sự có tám: 1-Khổ của xứ y chỉ

2- Khổ của xứ pháp thế gian

3- Khổ của xứ oai nghi

4- Khổ của xứ pháp nhiếp

5- Khổ của xứ đi khất thực

6- Khổ của xứ siêng năng khó nhọc 7-Khổ của xứ lợi tha.

8-Khổ của xứ đối tượng tạo tác.

- Nỗi khổ của xứ y chỉ có bốn, tức bốn việc uống, ăn, v.v... Nỗi khổ của thế pháp thế gian có chín thứ là: Sư suy yếu, chê bai, khổ, hư hoại, tận, già, bệnh, chết.

- Nỗi khổ của xứ oai nghi có bốn, tức bốn oai nghi.

- Nỗi khổ của pháp nhiếp có bảy:

1- Cúng dường Tam bảo

2- Cúng dường, phụng thờ Tôn trưởng

3- Hỏi han thọ chánh pháp

4- Hỏi han thọ rồi, nói rộng cho người nghe.

5- Dùng âm thinh lớn, ngâm vịnh, ca tụng 6-Xứ riêng suy nghĩ, quán sát

7-Tu chỉ quán thuộc về Du-già.

-Nỗi khổ của xứ đi khất thực, có bảy:

1- Hủy hình, xả tục.

2- Y phục hoại sắc.

3- Tiến tới, dừng lại, không buông lung, thuộc về trụ xứ tự cạnh tranh.

4- Dựa vào sự sống còn của người.

5- Suốt đời cầu xin, không cần chứa dùng lâu.

6- Suốt đời lìa dâm.

7- Suốt đời lìa xem ca múa, xướng hát, v.v…

-Tư thắng giải nhẫn, vì có thể đối với tám thứ sinh thắng giải:

1-Xứ công đức của Tam bảo 2-Xứ nghĩa chân thật

3- Xứ đại thần lực của Bồ-tát

4- Xứ nhân

5- Xứ quả

6- Xứ nghĩa nên được

7- Tự mình đối với nghĩa kia, được xứ phương tiện

Tất cả chỗ nên biết nên làm, do hai nhân duyên đối với các xứ kia, khéo có thể an lập. a-Vì tập quán trong thời gian dài. b-Vì trí chứng thiện, tịnh.

3* Nhẫn khó làm, có ba: Đối với đối tượng nhẫn của hữu tình thấp kém, người kia đã làm những việc không lợi ích, gọi là điều khó thứ nhất. Ở địa vị tôn quý, đối với sự không lợi ích của quan lính, của mình, có khả năng chịu đựng, gọi là điều khó thứ hai.

Đối với việc làm của hữu tình thuộc dòng họ thấp hèn kia, tăng thượng việc không lợi ích, có khả năng chịu đựng được, gọi điều khó khăn thứ ba.

4* Tất cả môn:

Lược có bốn thứ:

1- Đối với việc không lợi ích do người thân làm.

2- Đối với việc do kẻ thù gây ra.

3- Đối với việc do người không thân, không thù gây ra.

4- Và đối với phẩm vượt hơn của ba hạng thấp kém kia, với việc không lợi ích, đều có thể chịu đựng.

5- Nhẫn của thiện sĩ, lược có năm hạng, nghĩa là các Bồ-tát trước đối với nhẫn kia thấy các thắng lợi, nghĩa là khả năng nhẫn Bổ-đặc-già-la, ở đời đương lai không có nhiều kẻ thù, không có nhiều chuyện trái lìa, có nhiều nỗi vui mừng, khi qua đời không có ăn năn. Đối với thân sau khi hư hoại sẽ sinh về cõi lành trong thế giới trời. Thấy lợi ích cao quý rồi, tự có thể nhẫn chịu được, khuyên người khác thực hành nhẫn, khen công đức nhẫn, thấy nhẫn có thể thực hành, an ủi chúc mừng.

6- Tất cả thứ nhẫn có sáu, bảy thứ, sáu thứ nghĩa là biết rõ không chịu nhẫn dị thục phi ái, vì sợ nên nhẫn. Đối với tâm sinh thương xót, tâm xót thương thân ái, vì thân lành nên nhẫn. Vô thượng

Bồ-đề, vì nhẫn viên mãn, nên tu hành nhẫn. Nói về người xuất gia đủ sức nhẫn nhục, chẳng phải không thực hành Nhẫn, vì thọ pháp, nên tu hành ở tập quán của chủng tánh nhẫn, vì ở tự tánh, nên tu hạnh nhẫn. Tất cả hữu tình vì chỉ thấy các pháp nên tu hạnh nhẫn.

Bảy thứ, nghĩa là đối với tất cả nhẫn không lợi ích, từ tất cả đối tượng nhẫn, tất cả xứ, tất cả thời nhẫn, tất cả thân nhẫn, vì không đánh đập, vì nhẫn ngữ không ngoài phi ái, nên ý nhẫn không nổi cơn phẫn nộ.

7- Người cầu nhẫn toại ý, lược có tám thứ:

Đối với người có khổ đến cầu xin, chủ yếu ép ngặt có thể nhẫn. Đối với các loài hữu tình của nghiệp ác phẩm thượng cực kỳ hung bạo, vì bi nên nhẫn không xúc não; đối với những người phạm giới, vì tình thương nên nhẫn không xúc não.

Lại, có năm thứ chịu được siêng năng khổ nhọc, có thể chịu đựng được nỗi khổ của hữu tình, khổ siêng năng; chịu đựng được nỗi khổ siêng năng cầu pháp; chịu đựng được sự siêng năng khổ nhọc của pháp tùy pháp hạnh; chịu đựng được sự siêng năng, khổ nhọc nói pháp cho người nghe; chịu đựng được vì đối tượng tạo tác của hữu tình, chính việc siêng năng khổ nhọc đã có.

8- Ưa nhẫn đời này đời khác. Lược có chín thứ: Nghĩa là các Bồ-tát trụ không buông lung, đối với các pháp lành đều có thể chịu đựng, có thể chịu đựng đối với lạnh, nóng; đối với đói khát, đối với muỗi mòng; đối với nắng, gió, đối với rắn rít, đối với siêng năng khổ nhọc, lo buồn, đối với hữu tình, đọa vào nỗi khổ sinh, già, bệnh, chết, thương xót mà thực hành công phu nhẫn. Như thế, có thể khiến cho tự thân được trụ yên vui trong hiện pháp, không bị tất cả pháp bất thiện ác xen lẫn, có thể dẫn nhân duyên yên vui của đời sau, cũng có thể khiến người khác tu hành hạnh yên vui của hai đời gọi là thú vui của hai đời.

Nhẫn thanh tịnh. Lược có mười thứ: Nghĩa là các Bồ-tát gặp việc không lợi ích mà người khác đã gây ra, tổn não, trái, vượt, sau cùng không trả lại báo, cũng không là ý phẫn nộ, cũng không có oán thù, ngờ vực, ý ưa thích nối nhau, luôn thường hiện tiền. Muốn tạo ra sự lợi ích, trước sau chẳng phải khác, chẳng phải một lợi ích đã bỏ mà không là lợi ích. Đối với người có oán, tự ăn năn tạ tội dĩ vãng, sau cùng không làm cho người khác sinh nhàm chán, sau đó, tiếp nhận tạ tội, e người kia nhàm chán mau chóng, vừa tạ tội liền thọ, v.v...

Chín môn tinh tấn:

1-Tự tánh. Nghĩa là các Bồ-tát với tâm dũng cảm mạnh mẽ, có khả năng nhiếp thọ vô lượng pháp lành. Lợi ích yên vui cho tất cả hữu tình, mạnh mẽ, không có xen hở, không có điên đảo và tính siêng năng của thân, ngữ, ý đã khởi này, gọi là

Tiến tới tự tánh. Tất cả, nghĩa là tại gia, xuất gia đều có ba thứ:

1- Mặc áo giáp

2- Nhiếp thiện

3- Nhiêu ích

Mặc áo giáp. Nghĩa là các Bồ-tát trước phát gia hạnh tinh tấn, tâm Bồ-tát mạnh mẽ, trước mặc áo giáp thệ nguyện, nếu ta vì giải thoát nỗi khổ của tất cả hữu tình, nên dùng một ngàn đại kiếp v.v... ngày đêm ở Na-lạc-ca, không ở cõi khác, chứng được Bồ-đề. Nếu vượt qua số kiếp thời gian gấp bội 100.000 câu-chi này, mới chứng Bồ-đề, thì sự dũng cảm mạnh mẽ của ta cũng không có lui sụt khuất phục. Đối với cầu Bồ-đề chẳng phải không tiến tới thú hướng. Đã tiến tới thu hướng rồi, thì siêng năng mạnh mẽ không có lười biếng, huống chi đã trải qua nổi khổ mông mênh, ngắn ngủi của thời gian, gọi tinh tấn mặc giáp.

Tinh tấn nhiếp thiện. Có thể làm sáu gia hạnh có khả năng thành xong sáu độ. Ở đây lại có bảy:

1- Tinh tấn không có lay động. Tất cả phân biệt vốn tùy thuận hoặc, vì chạm sát khổ của dị luận không lay động.

2- Tinh tấn vững chắc, vì ân cần trân trọng gia hạnh.

3- Tinh tấn vô lượng có thể hiện chứng tất cả xứ minh.

Tinh tấn tương ưng với phương tiện, nghĩa của đối tượng nên được, không có điên đảo, vì thuận với thông đạt.

4- Tinh tấn không trái ngược, vì muốn chứng đắc nghĩa, do nguyện dắt dẫn.

5- Tinh tấn hằng thường vì gia hạnh vô gián.

6- Tinh tấn lìa mạn, do khuyên tinh tấn vì lìa tự đề cao.

Do đây, chứng mau chóng tất cả nhân duyên hơn hết của tất cả pháp lành của Bồ-đề Vô thượng. Thế nào là tinh tấn lợi ích hữu tình? Ở đây có mười một, như phẩm giới nói: "Giới kia, tinh tấn này, sự khác nhau kia, ở đây khó thực hành tinh tấn, lược có ba thứ":

1-Vô gián xa lìa tưởng áo, tưởng cơm, tưởng nằm, tưởng thân. Đối với điều lành không có xen hở, tu không có lười biếng, bỏ dở, gọi là điều khó thứ nhất.

Tinh tấn như thế, tâm chúng đồng phần, đối với tất cả thời lượng, không hề có lười biếng, bỏ dở, gọi là điều khó thứ hai. Bình đẳng thông đạt tương ưng với công đức, không thong thả, không gấp vội, không có ngược ngạo, có công năng dẫn phát tinh tấn của nghĩa lợi, gọi là điều khó thứ ba.

Tất cả môn: Lược có bốn thứ:

1- Tinh tấn lìa pháp nhiễm.

2- Tinh tấn dẫn pháp của mình. 3-Tịnh trừ nghiệp

4-Tinh tấn thêm lớn trí tuệ.

Tinh tấn của Thiện sĩ, lược có năm thứ:

1- Tinh tấn không có đối tượng xả bỏ, vì không bỏ tất cả gia hạnh về dục.

2- Tinh tấn không có lùi, giảm, vì như trước đã thọ thuận theo nuôi lớn.

3- Tinh tấn không có thấp kém; dũng mãnh, mạnh mẽ, sách lệ trong thời gian dài, vì không có khiếp sợ, không có lui sụt.

4- Tinh tấn không có trái ngược, dẫn dắt đến nghĩa lợi, vì gìn giữ, thuộc về phương tiện khéo léo.

5- Siêng năng mạnh mẽ gia hạnh tinh tấn, có thể tiến nhanh chóng thú hướng đối với Vô thượng chánh đẳng Bồ-đề.

Tinh tấn Nhất thiết chủng có sáu thứ, bảy thứ, tổng cộng có mười ba thứ. Sáu thứ là:

1- Tinh tấn vô gián: bất cứ lúc nào cũng tu gia hạnh.

2- Tinh tấn ân trọng: vì công năng tu gia hạnh đầy đủ khắp.

3- Tinh tấn đẳng lưu: được năng lực của nhân trước nhậm trì.

4- Tinh tấn gia hạnh: vì thường tư duy, lựa chọn gia hạnh của phẩm lành.

5- Tinh tấn không có nghiêng động: Vì tất cả xúc chạm khổ không thể dao động.

Tinh tấn không có hỷ túc: vì không hỷ túc trong sự chứng yếu kém, nên lời trong kinh nói, có năm thứ như: Thế, v.v… Bảy thứ gồm:

1- Tinh tấn cùng thực hành với dục, thường mạnh mẽ, nhạy bén đối với Bồ-đề, vì dục nguyện thuận theo nuôi lớn.

2- Tinh tấn tương ưng với bình đẳng: bổn tùy phiền não, không ô nhiễm tâm, có thể đối với pháp lành, v.v... tu tập mà an trụ.

3- Tinh tấn của Thắng tấn, nếu tâm triền, tâm nhiễm, vốn tùy thuộc hoặc vì biểu thị rõ tinh tấn, vì như chữa lửa cháy đầu.

4- Siêng năng cầu tinh tấn: siêng năng cầu xứ mình, vì không nhàm chán, mệt mỏi.

5- Tinh tấn tu học. Đối với pháp đã học, tùy pháp hạnh vì có thể thành xong.

6- Tinh tấn lợi tha. Đối với mười một thứ tương ưng của thuyết trước, vì biết tướng chúng.

7- Tinh tấn khéo hộ. Tất cả tinh tấn, khởi gia hạnh khéo tự giữ gìn, vì phạm ăn năn như pháp.

Thú vui của hai đời, như nhẫn nên biết, thanh tịnh lược có mười thứ:

1- Tinh tấn tương xứng.

2- Tập quán.

3- Không có thong thả, chậm rãi.

4- Khéo nhiếp.

5- Tu tập vào thời gian thích hợp.

6- Thông suốt các tướng.

7- Không lui sụt, yếu kém.

8- Không xả bỏ khó khăn.

9- Bình đẳng.

10- Hồi hướng.

Tương xứng với đại Bồ-tát. Vì dứt các tùy phiền não kia kia, nên tu pháp môn đối trị tương xứng với đại Bồ-đề kia, như vì dứt trừ tánh tham, tu bất tịnh, v.v... pháp môn đối trị khác, y theo môn này, nên biết.

Chín môn tĩnh lự: Tự tánh nghĩa là các Bồ-tát đối với tạng Bồ-tát, văn, từ là ưu tiên, tất cả diệu thiện thế gian xuất thế gian, tâm nhất tánh cảnh, tâm chánh an trụ; hoặc phẩm Xa-ma-tha; hoặc phẩm Tỳ-bát-xá-na; hoặc song vận tự tánh của đạo Tĩnh lự.

Tất cả Tĩnh lự, lược có hai thứ: Tức thế gian, xuất thế gian. Ở đây đều có hiện pháp lạc trụ, có công năng dẫn sinh công đức đẳng trì của Bồ-tát, lợi ích hữu tình, tất cả thân, tâm tĩnh lự khinh an, lìa lỗi dứt tướng, gọi là hiện pháp lạc, năng dẫn mười phương giải thoát nguyện trí, v.v... gọi là công năng dẫn.

Lợi ích tĩnh lự đối với nghĩa lợi, dẫn dắt các hữu tình, sự nghiệp kia làm bạn giúp đỡ, có khổ vì trừ. Đối với các hữu tình, y cứ đúng như lý mà nói.

Đối với người có ơn, biết ơn, trả ơn. Đói với kẻ sợ hãi, thì cứu giúp. Đối với chỗ tang, mất, hay cởi mở nỗi lo rầu. Đối với người thiếu thốn, bố thí cho mọi điều lành, sửa chữa chế ngự các hữu tình, khéo tùy tâm chuyển. Đối với người thật sự có đức, khen ngợi, cho họ vui mừng; đối với lỗi lầm của các hữu tình, có thể chân chánh điều phục, vì vật hiện thông, dẫn dắt kẻ e sợ.

Gọi tất cả Tĩnh lự khó thực hành, lược có ba thứ:

Đã có khả năng an trụ tĩnh lự cùng cực thiện cao siêu rộng lớn, vì lợi hữu tình, sinh trở lại cõi Dục, gọi là nỗi khổ khó thứ nhất.

Y chỉ Tĩnh lự có thể phát vô lượng đẳng trì của Bồ-tát, vượt ngoài cảnh sở hành của Nhị thừa gọi là điều khó thứ hai.

Y chỉ Tĩnh lự mau chóng chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, gọi là cái khó thứ ba.

-Môn tất cả có bốn:

1- Tĩnh lự có tầm, có từ.

2- Hỷ đều có vận hành tĩnh lự.

3- Lạc đều có vận hành tĩnh lự.

4- Xả, đều có vận hành tĩnh lự.

Thiện sĩ có năm:

1- Tĩnh lự không có vị ái.

2- Từ cùng vận hành.

3- Bi cùng vận hành.

4- Hỷ cùng vận hành.

5- Xả cùng vận hành tĩnh lự.

Nhất thiết chủng có sáu thứ, bảy thứ: Nói sáu thứ là:

1- Tĩnh lự thiện

2- Biến hóa vô ký

3- Phẩm Xa-ma-tha

4- Phẩm Tỳ-bát-xá-na

5- Lợi mình, lợi người, chánh xem xét tư duy.

6- Tĩnh lự có công năng dẫn phát công đức oai lực thần thông.

-Nói bảy thứ là:

1- Gọi là duyên tĩnh lự.

2- Duyên nghĩa.

3- Duyên tướng chỉ.

4- Duyên tướng nêu.

5- Duyên tướng xả.

6- Hiện pháp lạc trụ.

7- Công năng lợi ích cho người.

Cầu toại ý có tám:

1- Đối với các tai họa: thuốc độc, sương, bảo, tĩnh lự có công năng chấm dứt, công năng trở thành đối tượng nương tựa của chú thuật.

2- Đối với cõi trái với tĩnh lự có công năng dứt trừ mọi tai họa đã sinh.

3- Vào lúc xảy ra các hỏa tai, đói khát, nắng hạn, v.v... hiện ở trước, tĩnh lự khởi mưa cam lộ.

4- Đối với chúng sinh sợ hãi, có khả năng giúp.

5- Đối với các loại hữu tình thiếu ăn, đọa ở vùng hoang dã, có khả năng bố thí cho thức uống ăn.

6- Đối với hữu tình đã hóa độ bị thiếu thốn tài vật thì bố thí cho tài vật.

7- Đối với hữu tình buông lung ở các cõi mười phương, thì có khả năng can ngăn thích đáng, răn dạy.

8- Đối với các hữu tình, thuận theo đối tượng sinh khởi, nên tạo ra tĩnh lự, thì tạo ra tĩnh lự.

Niềm vui của đời này, đời khác có chín:

1- Thần thông biến hiện, tĩnh lự điều phục hữu tình.

2- Ghi nhận nói biến hiện điều phục hữu tình.

3- Răn dạy biến hiện điều phục hữu tình.

4- Đối với người gây ra điều ác, thì thị hiện cõi ác.

5- Đối với kẻ mất biện tài, thì bố thí cho biện tài.

6- Đối với người mất đi sự nhớ nghĩ, thì bố thí cho sự nghĩ nhớ.

7- Chế tạo, kiến lập luận không có điên đảo, khen tụng Ma-trở-lý-ca mầu nhiệm, giúp cho chánh pháp tồn tại lâu dài.

8- Đối với chỗ công nghiệp khéo léo của thế gian, thì đem đến nghĩa lợi, các công cụ giúp cho sự sống có thể thuận theo tạo ra tĩnh lự.

9- Đối với hữu tình được hóa độ bị đọa vào đường ác, vì muốn tạm thời dứt mọi nỗi khổ kia, nên Bồ-tát phát ra ánh sáng rực rỡ, soi rọi xúc chạm tĩnh lự.

Tĩnh lự thanh tịnh lược có mười:

1- Do thế gian thanh tịnh, lìa các vị ái, tĩnh lự thanh tịnh.

2- Do xuất thế thanh tịnh, không có ô nhiễm.

3- Do gia hạnh thanh tịnh.

4- Do được căn bản thanh tịnh.

5- Do căn bản Thắng tấn thanh tịnh.

6- Do nhập trụ tự tại thanh tịnh.

7- Xả tĩnh lự rồi, lại chứng nhập tự tại thanh tịnh.

8- Thần thông biến hóa tự tại thanh tịnh.

9- Con đường thanh tịnh lìa tất cả kiến.

10- Tĩnh lự thanh tịnh tất cả phiền não, sở tri chướng.

Chín môn tuệ:

1- Tự tánh. Nghĩa là khả năng ngộ nhập tất cả sở tri và đã ngộ nhập tất cả sở tri. Lựa chọn các pháp duyên khắp tất cả xứ năm minh chuyển vận, tức tự tánh tuệ.

2- Tất cả có hai, là thế gian và xuất thế gian.

Đây đều có ba: a-Hay đối với sở tri chân thật, thuận theo giác tuệ thông đạt.

Hay đối với năm xứ minh như đã nói và trong ba nhóm, quyết định tuệ khéo léo.

b- Tạo ra tuệ nghĩa lợi cho tất cả hữu tình.

Người khó thực hành tuệ có ba hạng: Trí vô ngã có thể biết pháp rất sâu, gọi là điều khó thứ nhất, trí phương tiện có khả năng hiểu rõ, điều phục hữu tình, gọi là điều khó thứ hai.

Trí vô chướng ngại cảnh giới sở tri gọi điều khó thứ ba.

Môn Tất cả: lược có bốn thứ: hai tuệ tư văn, và thắng diệu trong Ba tạng và tùy chuyển nên làm, tuệ thôi dứt đối tượng không nên tạo tác và vô lượng tuệ của địa Tam-ma-hý-đa thuộc về năng lực tu tập.

Tuệ Thiện sĩ có năm:

1- Lắng nghe chánh pháp, Tuệ do tu tập mà thành.

2- Tuệ cùng vận hành, chánh tác ý bên trong.

3- Tuệ cùng vận hành, phương tiện của hạnh lợi mình, lợi người.

4- Tuệ quyết định thiện đối với các pháp. 5-Tuệ xả phiền não Lại có môn khác:

1- Tuệ vi tế, ngộ nhập sở tri, như tánh sở hữu.

2- Tuệ đủ khắp, ngộ nhập sở tri, vì cùng tận sở hữu.

3- Tuệ câu sinh được nhóm họp thành bởi tư lương của trí đời trước.

4- Tuệ giáo đủ có thể đối với chư Phật đã nhập đại địa. Các chúng Bồ-tát đã nghe nghĩa pháp thọ trì đầy đủ.

5- Tuệ chứng đủ, từ địa tịnh ý lạc, cho đến thọ thuộc về đại rốt ráo.

Nhất thiết chủng có sáu thứ, bảy thứ:

Sáu thứ là tận trí vô sinh của bốn đế, đó gọi là sáu tuệ.

Bảy là pháp trí, loại trí, trí thế tục, trí thần thông, trí tướng, trí hạnh trước mười lực và trí lý chánh đạo trong bốn đạo lý.

Cầu tuệ toại ý có tám:

1- Trí của môn khác y chỉ pháp, nghĩa là tuệ vô ngại của pháp.

2- Trí y chỉ pháp tướng.

3- Trí y cứ pháp, giải thích về từ.

4- Trí dựa vào sự sai biệt câu, loại của phẩm pháp, tức ba vô ngại giải.

5- Bồ-tát dùng tất cả tuệ chiết phục các luận khác.

6- Bồ-tát vận dụng tất cả tuệ để thành lập luận mình.

Bồ-tát sử dụng tất cả tuệ để dạy bảo đúng, mở mang làm tuệ gia sản thuộc về Tông chỉ.

7- Bồ-tát khéo hiểu tất cả, các thứ tuệ thế gian của vua.

Niềm vui của hai đời có chín, nghĩa là các Bồtát dùng tuệ đối với xứ nội minh khéo léo sáng suốt, tịnh khéo an trụ. Xứ bốn minh còn lại, khéo léo sáng sạch, chẳng phải an trụ tuệ. Tất cả Bồ-tát sử dụng tuệ thanh tịnh, sáng suốt, tất cả Bồ-tát dùng tuệ thanh tịnh, sáng suốt như thế đối với năm xứ minh, để làm y chỉ. Đối với ngu si, buông lung, yếu hèn, hữu tình đã được giáo hóa siêng tu chánh hạnh, như thứ lớp đó, thị hiện, trí tuệ giáo hóa, dẫn dắt khen ngợi, khích lệ, chúc mừng, an ủi.

Thanh tịnh có mười, đối với nghĩa chân thật có hai tuệ, nghĩa là do tánh tận sở hữu và như tánh sở hữu. Đối với lưu chuyển có hai tuệ, nghĩa là vì nhận lấy nhân quả thích đáng. Đối với nghĩa chấp thọ, có hai tuệ, nghĩa là đảo, không đảo, vì biết rõ như thật. Về nghĩa phương tiện có hai tuệ, nghĩa là nên làm, không nên làm, vì biết như thật. Về nghĩa rốt ráo có hai thứ tuệ, nghĩa là vì biết rõ như thật về nhiễm, tịnh.

-Môn Năm tướng gọi là Ba-la-mật:

Du-già quyển 75 chép: "Tất cả bố thí của các Bồ-tát, lược có năm thứ tương ưng với công đức, được nhập số đến bờ bên kia của Bố thí":

1- Không có chấp mắc.

2- Không có tham luyến.

3- Không có tội.

4- Không có phân biệt.

5- Hồi hướng.

Như bố thí, thì giữ giới, v.v... nên biết cũng như vậy không có chấp mắc, nghĩa là đối với pháp chướng của tất cả các thứ bố thí v.v... không có trở ngại, không có tham luyến. Nghĩa là đối với có nhiễm và tâm trong quả kia không có trói buộc, chấp mắc.

Không có tội, nghĩa là xa lìa các tùy phiền não như nhất thiết chủng thí v.v... Không có phân biệt nghĩa là đối với thí v.v... không quán tự tánh biến kế sở chấp.

Hồi hướng. Nghĩa là nhờ tất cả các hạnh nguyện như thí, v.v… mà được quả Bồ-đề, đối với chín môn trước, đều thuận theo quyết định rõ ràng.

-Môn bảy tướng thanh tịnh như bố thí, v.v.

Luận Du-già quyển 74 chép: "Tuệ thí mà Bồtát đã vận hành, do bảy tướng, mới được thanh tịnh. Đó là thí tịnh, giới tịnh, kiến tịnh, tâm tịnh, ngữ tịnh, trí tịnh, cấu tịnh đều có mười tướng.

Mười tướng thanh tịnh đầu tiên", là:

1- Thí rộng lớn. Nghĩa là rất nhiều sự khác nhau.

2- Thí bình đẳng. Vì không có thêm bớt.

3- Thí hợp thời, vì tương đương với đối tượng ưa thích.

4- Thí diệu thượng: đầy đủ về sắc, v.v…

5- Thí thanh tịnh, không bị lẫn lộn, nhơ bẩn bởi vật bất tịnh.

6- Thí đúng pháp: vì tương ưng với vô tội.

7- Thí tùy theo sự ưa thích: nghĩa là thuận theo người cầu xin, là đối tượng ưa thích.

8- Thí lợi ích. Vì thuận theo đối tượng thích hợp của người cầu xin kia.

9- Thí ngay hoặc thí dần dần, vì xét tâm người cầu kia. 10-Thí vô gián, vì không có chấm dứt.

Mười tướng của giới tịnh.

1- Tài vật do phát tâm siêng năng tinh tấn đạt được mà dùng để tuệ thí.

2- Vật do tự sức cánh tay tạo nên mà bố thí.

3- Vật lìa nhơ bẩn mà dùng tuệ thí.

4- Bố thí đúng pháp.

5- Đúng như pháp được bố thí.

6- Bố thí để dứt trừ các điều ác.

7- Bố thí để điều phục các căn.

8- Bố thí ân cần, trân trọng, cung kính.

9- Tự tay bố thí.

10- Đối với người giúp việc của mình từ trước đã thực hành ơn nuôi dưỡng; về sau tuệ thí cho người đến cầu xin.

Mười tướng của cái thấy thanh tịnh:

1- Không tính toán suy lường khả năng thực hành bố thí của ta.

2- Không đem mình suy lường bố thí cho người.

3- Không nghĩ người khác sẽ bố thí trả lại.

4- Không nghĩ đương lai sẽ được giàu vui mà bố thí.

5- Không nghĩ là bố thí không có hết quả.

6- Không quán quả không giống nhau của bố thí để thí cho.

7- Không nghĩ bố thí có quả điên đảo để bố thí.

8- Bố thí cho không nghĩ giết hại để làm bạn bè.

9- Không nghĩ sự tốt lành kỳ lạ để bố thí.

10- Thí cho không vì tiếng khen.

Mười tướng của tâm thanh tịnh:

1- Tâm thương xót mà bố thí.

2- Tâm quý báu: là đối tượng thí.

3- Bố thí với Tâm bình đẳng.

4- Bố thí để điều phục tâm nhơ.

5- Bố thí với tâm vui hớn hở: nghĩa là do bảy tướng:

1. Đối với người cầu xin ở vị lai, vì phát tâm vui vẻ.

2. Đối với người đến cầu xin, lúc mới thấy đã tịnh tín.

3. Vào lúc thí sinh tâm vui vẻ.

4. Vì sinh tâm định tĩnh 5. Vì sinh không đầy đủ.

6. Vì sinh tâm không lo buồn

7. Vì thí rồi, tâm không tiếc rẻ ăn năn.

6- Tâm nhẫn nhục mà bố thí, vì không nhàm chán, mỏi mệt.

7- Dùng tâm từ bố thí cho người não hại.

8- Dùng tâm bi đối với người bi khổ.

9- Dùng tâm vui vẻ bố thí cho người có công đức.

10- Dùng tâm xả thí cho bạn thân.

Mười tướng của ngữ thanh tịnh:

1- Trước đối với vật thí, tự ý người xin kia.

2- Nếu khi người kia đến, gọi là điều lành tới.

3- Không nhăn mặt, buồn rầu, vẻ mặt nhìn bình thản, mỉm cười trước khi nói.

4- Dùng lời nói mềm mỏng, trình bày, an ủi.

5- Từ lời nói không có ngăn cách này, sẽ thí cho ông tài vật đáng yêu.

6- Nói ra lời bố thí.

7- Nếu lời nói của người kia làm chướng ngại, dù cho phân bố, cũng không phát ra lời nói thô.

8- Đối với người ăn xin, không chê mắng.

9- Nếu không có vật bố thí, thì dùng lời nói chính đáng, mà từ chối, hứa khi nào có sẽ cho.

10- Đối với người ăn xin, không bao giờ quở trách, cười chê trước mặt họ, khiến cho họ xị mặt.

Mười tướng của trí thanh tịnh:

1- Do tuệ thí, nên trí thanh tịnh.

2- Do người cầu xin, nên trí thanh tịnh 3-Do thí vật mà có trí.

4- Do thí mà có trí gia hạnh.

5- Trí do bố thí, mà thành thục hữu tình.

6- Trí do phương tiện khéo léo.

7- Trí do diệt lỗi lầm tai hại của các dục.

8- Trí do trừ bỏ nhơ bẩn.

9- Tri do bạn bè xa lìa nhiếp thọ.

10- Trí do che giấu thanh tịnh của sáu phương. Do tuệ thí mà được trí thanh tịnh: Hiểu rõ về thể tướng, danh ngôn của thí.

Trí thanh tịnh của người cầu xin: Vì trụ tưởng ruộng phước, người trí thí vật: Đối với nghề khéo léo, nhanh chóng, có thể gom góp vật mà tuệ thí.

Gia hạnh: Chớ khiến cho người cầu xin cảm thấy quá mệt mỏi, v.v... Trí khéo léo của phương tiện: Giáo hóa, dẫn dắt sao cho việc thực hành thí được bình đẳng, trừ mười bốn nghiệp nhơ bẩn, do người trí nhiếp thọ xa lìa bạn. Lìa bốn bạn ác, gần gũi bốn bạn lành mà thực hành bố thí.

Người trí che giấu sáu phương: che giấu sáu phương mà thực hành tuệ thí. (Ba môn tiếp theo này như phẩm An lạc trong Kinh Pháp Hoa nói).

Mười tướng thanh tịnh nhơ bẩn:

1- Bỏ nhơ lười biếng.

2- Bỏ nhơ tham.

3- Bỏ nhơ giận.

4- Bỏ nhơ si.

5- Bỏ nhơ chướng, có bốn chướng.

1- Không có tập quán.

2- Thiếu thốn.

3- Mê đắm ham vui. 4-Quán sát hiệu quả.

Trên đây là lìa vết nhơ phi đạo lý.

6- Khéo phân bố.

7- Do viên mãn bố thí.

Lìa vết nhơ giảm ít này có hai: a-Sự viên mãn. b-Viên mãn ý ưa thích.

Sự viên mãn có bảy:

1- Bố thí tài sản.

2- Bố thí cõi nước.

3- Bố thí hữu tình.

4- Bố thí trang nghiêm.

5- Bố thí nhà cửa.

6- Bố thí chỗ ở.

7- Bố thí cho trong thân.

8- Do thí thanh tịnh, lìa vết nhơ không thanh tịnh, do mười thứ thanh tịnh, tức không có chấp mắc, không có nhận lấy, v.v…

9- Khéo quán sát sự thí cho, lìa vết nhơ tuệ ác, nghĩa là quán sát vật thí; quán sát ý ưa thích, quán sát người kia là ruộng phước.

Quán vật: Quán sự chứa chất vượt hơn của dụng, quán công dụng vượt hơn của sự bố thí, vì lợi ích cho người.

Quán ý ưa thích có bốn: Đối với nhân, không có ý ưa thích điên đảo, không có ý ưa thích đối với quả, ý ưa thích sinh sự thương xót, và ý ưa thích trí viên mãn.

Năm tướng quán ruộng phước:

1- Ở chỗ này người cầu xin có thể được.

2- Ở chỗ này đã có cầu xin, lại thêm người nghèo khổ, thiếu thốn.

3- Ở chỗ này, đã có người nghèo khổ, thiếu thốn, lại không có nơi nương tựa, cậy nhờ.

4- Ở chỗ này có không có nơi nương tựa, cậy nhờ, lại thêm hiện hành hành vi ác.

5- Ở chỗ này dù không có các thảm trạng này, nhưng có tu hành. 10-Đủ đức phương tiện mà thực hành tuệ thí, lìa lỗi không có phương tiện, nghĩa là bố thí theo thói quen, thương xót hữu tình, chẳng sá gì đến thân mạng mình. Vô thượng Bồ-đề của trí nghĩa chân thật, giáo hóa, dẫn dắt thắng giải, ở chỗ bị ép ngặt bởi sức mạnh, mặc tình trả ơn và thần lực.

-Môn bảy thứ chẳng phải ruộng, không nên bố thí:

Chẳng phải ruộng, không nên bố thí có bảy:

1- Người cầu xin rất bạo ác, đã từng thù oán, hãm hại người quy y; vì oán ghét, hãm hại mà có sự mong cầu.

2- Khuyên làm việc lành, cuối cùng không thể được.

3- Tâm hư hoại ô nhiễm, vì sự ô nhiễm mà có cầu xin.

4- Vì tổn não mà có cầu xin.

5- Kẻ cầu xin hoặc tự là ma, hoặc bị yêu ma mê hoặc cầu xin không đúng chỗ.

6- Cha mẹ cầu xin hoặc lại thuận theo một vật không phải đối tượng bố thí.

7- Vì sự vô nghĩa.

Chín môn bốn nhiếp thí độ như trước.

Ái ngữ tự tánh, đối với các hữu tình thường ưa nói năng vui vẻ, ngữ vừa ý, ngữ chân thật, ngữ pháp, dẫn nhiếp ngữ nghĩa, là tự tánh ái ngữ.

Tất cả ái ngữ, lược có ba thứ:

1- Lập ra ngữ dụ, an ủi, thường đối với hữu tình, xa lìa vẻ buồn rầu, mặt ủ mày ê. Trước là nói ra lời tốt lành với dung nhan thư thái bình thản nhìn, mỉm cười làm đầu. Hoặc hỏi thăm sức khỏe, yên ổn; hoặc hỏi các chỗ thích hợp điều hòa. Hoặc hỏi về sự vui vẻ ngày, đêm; hoặc dạy khéo tiến tới trước; dùng các tướng này để hỏi han, an ủi hữu tình.

2- Nếu nói lời vui vẻ, thì do lời nói này. Nếu thấy vợ con, của cải, lúa gạo, rất thịnh vượng của hữu tình mà không tự biết, như nên giác ngộ để chúc mừng vui vẻ; hoặc biết tín, giới, văn, xả, tuệ tăng, cũng lại chúc mừng.

3- Nêu là lời cao đẹp lợi ích, tuyên nói tất cả các đức, ngữ tương ưng với giáo pháp viên mãn, đem lại lợi ích yên vui cho tất cả hữu tình, thường luôn hiện tiền, dùng lời nói ích lợi vượt hơn mà làm lợi ích.

Ái ngữ khó thực hành: Lược có ba thứ: Đối với bạn ác, kẻ thù hay giết hại, dùng tâm thiện tịnh, tâm không có vẩn đục, nhơ nhớp, suy nghĩ lựa chọn vì nói ba ngữ như trước, gọi là điều khó thứ nhất. Các chỗ hữu tình căn cơ chậm lụt, ngu si của phẩm thượng kia, tâm không lo nghĩ hoài nghi, tư duy, lựa chọn, vì chúng nói các thứ giáo pháp, thề cam chịu mệt nhọc, như lý, như pháp, khéo gồm thâu lấy, gọi là điều khó thứ hai. Đối với sự nịnh hót, xảo trá, lừa dối của hữu tình kia, đối với ruộng phước chân thật của bực tôn giả, Trưởng lão, các chỗ hữu tình gây ra hành vi ác bất chính, không có tâm ngờ vực, hờn dỗi, không có tâm giận não, suy nghĩ, lựa chọn, vì nói ba thứ ngữ như trước kia, gọi là điều khó thứ ba.

Ngữ của môn tất cả có bốn:

1- Muốn dứt trừ các cái, thú hướng điều lành, vì nói tác pháp của thời gian trước.

2- Xa lìa các cái, tâm điều phục điều lành, vì nói tăng tấn chánh pháp tương ưng với bốn Thánh đế.

3- Tại gia, xuất gia phần nhiều buông lung: Dạy bảo, can ngăn không có điên đảo, vận dụng phương tiện khiến cho họ lìa bỏ buông lung, đi, đứng, hành vi không buông lung.

4- Người thường nghi ngờ đối với các pháp, vì khiến họ lìa nghi ngờ ở đương lai, nên nói chánh pháp bàn luận, quyết định lựa chọn.

Ái ngữ của Thiện sĩ lược có năm thứ, vì chúng sinh được Phật hóa độ nói rằng: "Như Lai và các Bồ-tát có pháp nhân duyên; có pháp xuất ly; có pháp đối tượng nương tựa; có pháp mạnh mẽ, quyết định và có pháp thần biến. Nếu pháp đã nói được chỗ có nhân, thì chế lập học xứ, gọi là có nhân duyên.

Nếu pháp đã nói, đối với học xứ đã thọ có sự hủy phạm, thì sẽ làm cho thanh tịnh trở lại, gọi là có xuất ly.

Nếu pháp Phật đã nói, thuộc về bốn y, thì sẽ lập ra pháp không có đảo ngược, pháp luật chánh hạnh, gọi là có đối tượng nương tựa.

Nếu pháp Phật đã nói, có công năng bảo cho biết rõ thích đáng rằng: thoát khỏi tất cả khổ, không lui sụt trở lại, gọi là có sức mạnh quyết đoán.

Nếu pháp Phật đã nói, tạo ra ba thần biến, thì tất cả pháp đã nói, sau cùng sẽ không vô ích, gọi là có thần biến.

Tất cả các thứ ái ngữ có sáu thứ, bảy thứ.

Nói sáu thứ là:

1-Đối với pháp nên nghe, khai cho ái ngữ. 2-Đối với pháp nên chế thì ngăn chế 3-Mở bày pháp môn các pháp.

4- Mở bày pháp tướng không có trái ngược.

5- Mở bày giải thích chỉ dạy không có đảo ngược ngôn từ các pháp.

6- Chỉ bày sự khác nhau giữa loại, phẩm, câu của pháp không có đảo ngược.

Bảy thứ là:

1- Ái ngữ an ủi, khuyến dụ.

2- Chúc vui vẻ.

3- Đối với hữu tình khác, tất cả công cụ giúp đỡ, tất cả đối tượng tạo tác ít mong muốn, kể cả chánh chí, ái ngữ rộng lớn ít hy vọng mong muốn.

4- An ủi, thương xót các thứ kinh sợ. 5-Thuộc về giảng nói như lý.

6- Vì muốn cho người ra khỏi chỗ bất thiện, ở yên chỗ thiện.

Chánh kiến, nghe, nghi, nêu lên quở trách.

7- Thỉnh người khác có năng lực ái ngữ làm lợi ích.

Cầu xin toại ý có tám, nghĩa là y chỉ bốn ngữ tịnh, khởi tám Thánh ngữ. Bốn ngữ thanh tịnh, là bốn nghiệp ngữ thiện, tám Thánh ngữ gồm thấy nói là thấy, v.v…

Niềm vui của hai đời trước có chín:

1- Dùng ái ngữ nói chánh pháp, dứt trừ nỗi lo lắng, tai nạn của thân thuộc.

2- Nói chánh pháp, dứt trừ nỗi lo lắng, tai nạn về tài sản, địa vị.

3- Nói chánh pháp, dứt trừ nỗi lo lắng, không có tai nạn bệnh tật.

4- Nói chánh pháp dứt trừ mọi đau khổ, tai nạn của giới tịnh.

5- Nói chánh pháp, dứt trừ mọi đau khổ, tai nạn của chánh kiến.

6- Nói chánh pháp khen ngợi giới thanh tịnh, viên mãn.

7- Nói chánh kiến, nhằm khen ngợi chánh kiến viên mãn.

8- Nói chánh pháp, nhằm khen phép tắc đẹp viên mãn.

9- Nói chánh pháp, nhằm khen chánh mạng tốt đẹp, ái ngữ viên mãn.

Ái ngữ thanh tịnh có hai mươi thứ, như tự tánh lợi hạnh của phẩm

Lực ở trước. Do ái ngữ kia, vì các hữu tình thị hiện chánh lý, tùy thuận theo đối tượng thích ứng, đối với các đối tượng học; tùy thuận hạnh nghĩa lợi, pháp tùy, pháp hạnh, an trụ tâm bi trong hạnh như thế, không có tâm ái nhiễm, khuyên bảo, dẫn dắt, điều phục, ở chỗ yên ổn, để kiến lập.

Gọi tắt là tự tánh, tất cả hạnh lợi ích, lược có hai thứ:

1- Hữu tình chưa thành thục, có khả năng làm cho thành thục hạnh lợi ích.

2- Hữu tình dã thành thục, giúp cho giải thoát.

Hạnh lợi ích lại do ba môn: a-Đối vợi lợi ích của Hiện pháp thì khuyên bảo, dẫn dắt, thực hành. b-Đối vợi lợi ích của Hậu pháp thì khuyên bảo, dẫn dắt, thực hành. c-Đối vợi lợi ích của Hiện pháp, Hậu pháp thì khuyên bảo, dẫn dắt, thực hành.

Đối với lợi hiện pháp thì khuyên bảo dẫn dắt, nghĩa là khuyên bảo, dẫn dắt, dùng pháp, nghiệp, đức, với tập, thủ hộ, tăng trưởng tài vật địa vị. Do đây, có thể đạt được tên gọi lớn và thú vui hiện pháp. Do thú vui của tư cụ, nhiếp thọ an trụ. Đối với lợi ích của hậu pháp, thì khuyên bảo dẫn dắt, nghĩa là chánh khuyên bảo dẫn dắt từ bỏ tài sản, địa vị xuất gia thanh tịnh, tiếp nhận hạnh cầu xin để tự sống còn. Do đây, có thể khiến cho quyết định thu hoạch được thú vui hiện pháp.

Đối với lợi ích của Hiện pháp, hậu pháp khuyên bảo dẫn dắt: nghĩa là chánh khuyên bảo, dẫn dắt người tại gia, hoặc xuất gia, tu hành dần dần, thu hướng lìa dục. Do đây có thể khiến hiện được khinh an, về sau sẽ sinh lên các cõi trời thanh tịnh, hoặc bát Niết-bàn Vô dư y.

Hạnh lợi khó thực hành, lược có ba thứ:

Gốc lành vượt hơn chưa hiện hành trước kia, vì các hữu tình đã có khả năng thực hành hạnh lợi tha, gọi là điều khó thứ nhất, vì khó khuyên bảo, dẫn dắt.

Có nhân lành hiện tiền, ham vui, chấp mắc mọi công cụ địa vị, tài sản rộng lớn, viên mãn hạnh lợi ích hữu tình, gọi là điều khó thứ hai.

Buông lung rộng khắp, vì chuyển biến ham vui chấp mắc, nên đối với các ngoại đạo chấp mắc đạo khác, hạnh lợi của hữu tình tà hạnh, tà kiến, gọi là điều khó thứ ba.

Ngoại đạo kia vì chấp ngu si đối với tông mình, nên đối với pháp luật chân chánh, từng chấp trước, tất cả môn hạnh lợi có bốn, không tin rằng, hữu tình đối với niềm tin khuyên bảo, dẫn dắt, hữu tình phạm giới, đối với giới, khuyên bảo, dẫn dắt; hữu tình của tuệ ác, đối với tuệ, khuyên bảo, dẫn dắt; hữu tình keo kiệt đối với xả, khuyên bảo, dẫn dắt.

Hạnh lợi ích của Thiện sĩ, lược có năm thứ:

Đối với nghĩa chân thật, khuyên bảo, dẫn dắt hữu tình. Lúc thích hợp, nên khuyên bảo, dẫn dắt gồm thâu nghĩa nhiệm mầu khuyên bảo, dẫn dắt.

Đối với các hữu tình, mềm mỏng khuyên bảo, dẫn dắt. Đối với các hữu tình, dùng tâm từ bi khuyên bảo, dẫn dắt. Tất cả thứ hạnh lợi ích có sáu, bảy thứ:

Sáu thứ là nếu các hữu tình nên chánh nhiếp thọ thì chánh nhiếp thọ, nên chánh điều phục thì chánh điều phục, ghét trái Thánh đạo, trừ não giận của họ. Người trụ trong xứ, khiến nhập Thánh giáo; đã nhập Thánh giáo, khiến cho họ được thành thục; đã thành thục, khiến họ được giải thoát.

Bảy, nghĩa là thuận theo chúng sinh đã được hóa độ. Đối với tư lương thiện, thủ hộ, nuôi lớn, thuận theo tiểu thừa, đại thừa; hoặc đối với xa lìa; hoặc đối với tâm nhất cảnh tánh; hoặc đối với các chướng thanh tịnh; hoặc đối với tu tập, tác ý chỗ yên ổn thích hợp. Nếu có hạt giống Nhị thừa, thì đối với Nhị thừa mà ở chỗ yên ổn thích hợp. Nếu hạt giống Đại thừa, thì ở chỗ yên ổn của Đại thừa.

Người cầu toại ý hạnh lợi ích có tám, đó là thấy hữu tình ở chỗ đáng lẽ phải cảm thấy hổ thẹn vì bị triền bao vây ở chỗ triền không có hổ thẹn; phương tiện khai mở, giúp cho lìa triền kia, đối với bảy triền còn lại cũng vậy.

Nếu vui của hai đời có chín, nghĩa là đối với hữu tình khác, dựa vào thân nghiệp thanh tịnh, khuyên lìa sát sinh, lìa không cho mà lấy, lìa hạnh tà dục, lìa tất cả Tốt-la-nhã, mê-lệ-da, kể cả rượu, chỗ buông lung mạt-đà. Y chỉ nghiệp ngữ tịnh, khuyên lìa tất cả cách nói dối; không nói lời chia rẽ, lời nói thô, lời nói nhơ nhớp. Dựa vào ý nghiệp tịnh, khuyên lìa tham, giận, si.

Hạnh lợi thanh tịnh có mười, dựa theo thanh tịnh bên ngoài có năm: 1-Lợi hạnh vô tội.

2- Không chuyển.

3- Dần dần.

4- Biến hành.

5- Như ưng.

Các hành vi ác: Ở trong các điều lành có thể ở yên ổn thích hợp, gọi là hành vi vô tội. Ở chỗ phi giải thoát, phi định thanh tịnh, vì cầu chân giải thoát; vì cầu định thanh tịnh, tức ở trong đó có thể khuyên bảo thích đáng, dẫn dắt, gọi là hành vi không chuyển đổi, biết khéo léo trong thua kém, thuận theo thứ lớp, vì nói pháp hạ, trung, thượng, răn bảo, truyền dạy, khiến tu hành dần dần, tất cả hữu tình tùy thuộc năng lực thực hành hạnh nghĩa lợi.

Người cầu niềm vui, tức ở trong đó, thuận theo từng loại, khuyên bảo, dẫn dắt, gọi là lợi biến hành. Đối với các hữu tình, nếu đối với công năng khác nhau của ba phẩm pháp lành của nghĩa mình, có thể khuyên bảo, dẫn dắt, và do công năng khác nhau của phương tiện, có thể khuyên bảo, dẫn dắt, thì đối với người cầu niềm vui kia, như phương tiện khuyên bảo, dẫn dắt, gọi là hạnh lợi tha như vậy.

Y cứ vào thanh tịnh bên trong, có năm hạnh lợi tha. Đối với các hữu tình, khởi bi rộng lớn, ý ưa thích hiện tiền mà thực hành hạnh lợi tha, đối với các hữu tình đã tạo ra nghĩa lợi, dù chịu tất cả sự siêng năng khó nhọc khổ lớn, mà tâm không có mỏi mệt, cảm thấy vui mừng sâu sắc mà thực hành hạnh lợi tha, dù chỗ yên ổn hiện tại là bậc nhất hơn hết, viên mãn tài sản, địa vị, mà tự khiêm tốn hạ mình như tôi tớ, cũng như đứa con hiếu thảo, con của chiên-đà-la, tâm nó thấp hèn chịu khuất phục, lìa kiêu hãnh, ngạo mạn, ngã chấp, mà theo thực hành hạnh lợi tha. Đối với các hữu tình, tâm không có nhiễm ái, không có giả dối, thương xót chân thật mà thực hành hạnh lợi ích. Đối với các hữu tình sinh tâm từ bi rốt ráo không còn lui sụt, mà vì thực hành hạnh lợi tha, nên gồm có mười.

Đồng sự: Nếu nghe là nghĩa, thì đối với gốc lành này, khuyến hóa thọ học xứ, đồng sự với người khác. Hữu tình đã được hóa độ, biết đồng với sự của mình, thọ học quyết định vững chắc không lui sụt, để suy nghĩ như vầy: "Quyết định có thể vì sự lợi ích, yên vui của ta và người, tự hiện hành nghĩa là chẳng phải ác, Bồ-tát đồng sự như thế, được gạn hỏi, rằng: "ông không thọ học xứ, thì làm sao khuyên bảo, dẫn dắt, truyền dạy người? Ông nên từ người khác, thưa hỏi, vâng lãnh sự răn dạy. Các Bồ-tát là đồng sự của người khác mà không tự chứng tỏ đồng sự với người khác, nghĩa là với năng lực bằng nhau mà không tự biểu lộ rõ, chẳng phải đồng sự với người, mà tự biểu hiện rõ đồng sự với người, nghĩa là hiện đời thấp kém mà vì dẫn dắt người khác. Có người là đồng sự của người, cũng tự biểu hiện rõ đồng sự với người, nghĩa là thấy gốc lành đáng hóa độ dao động, vì muốn cho họ trụ vững chắc, biểu hiện với đồng sự, hoặc tăng thêm, hoặc bằng nhau, chẳng phải đồng sự của người, cũng không tự biểu thị rõ đồng sự với người, nghĩa là tự hành động buông lung, xả bỏ việc của người".

-Môn chín môn đều đắc quả:

Từ thí trước kia cho đến chín môn đồng sự đã được quả, nghĩa là tất cả thí, v.v... Hoặc tu tập nhiều, hoặc khéo thanh tịnh, hoặc viên mãn đầy đủ (ba môn này truyền đến các môn dưới) có công năng chiêu cảm quả chánh pháp tồn tại lâu dài của thân Kim Cương Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Khó thực hành, chiêu cảm quả pháp kỳ lạ, ít có của Như Lai. Tất cả môn đều được quả cúng dường của trời, người hữu tình trên hết.

Môn Thiện sĩ được quả vượt hơn tối tôn của tất cả môn hữu tình.

Nhất thiết chủng được quả thân tướng tốt trang nghiêm, thuộc về vô lượng phước đức cao quý.

Môn cầu toại nguyện, có công năng chiêu cảm quả không nghiêng động, ma không thể não hại Như Lai an tọa tòa Bồ-đề.

Môn hai đời được quả vui cùng cực đẳng trì, v.v... giải thoát tĩnh lự hơn hết của Như Lai.

Môn thanh tịnh có công năng chiêu cảm quả thanh tịnh của bốn nhất thiết chủng của Như Lai, nghĩa là sở y tịnh, tâm tịnh, trí tịnh, vô biên quả vượt hơn, vô tội đáng ưa thích.

Môn mười nghiệp mắc phải quả báo mạng sống ngắn ngủi.

Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt chép: "Có mười thứ nghiệp khiến cho chúng sinh mắc phải quả báo mạng sống ngắn ngủi:

1- Tự làm việc sát sinh.

2- Xúi giục người, khuyên họ sát sinh.

3- Khen ngợi sát sinh.

4- Thấy giết, tùy hỷ.

5- Đối với kẻ mình ghét, muốn cho họ chết.

6- Khi thấy kẻ thù chết rồi, tâm sinh vui mừng.

7- Làm hư thai người khác.

8- Bảo người hủy hoại.

9- Xây dựng miếu thờ trời, giết mổ chúng sinh để cúng tế.

10- Bảo người chiến đấu, tàn hại lẫn nhau.

-Môn mười nghiệp sống lâu:

Mười nghiệp khiến cho chúng sinh được quả báo mạng sống lâu dài:

1- Tự mình không giết hại chúng sinh.

2- Khuyên người khác không sát sinh.

3- Khen ngợi không sát sinh.

4- Thấy người khác không sát sinh, tâm sinh hoan hỷ.

5- Thấy kẻ sát hại kia, tâm dùng phương tiện cứu cho thoát khỏi.

6- Đối với người sợ chết, tìm cách an ủi tâm họ.

7- Thấy kẻ sợ hãi, bố thí cho họ không sợ.

8- Thấy người bệnh, khởi tâm từ bi.

9- Thấy tai nạn khẩn cấp, khởi tâm đại bi.

10- Dùng các thức uống ăn tuệ thí chúng sinh.

-Môn Mười nghiệp làm cho nhiều bệnh, không bệnh:

Mười nghiệp khiến cho chúng sinh mắc phải nhiều quả báo.

1- Thích đánh đập tất cả chúng sinh.

2- Khuyến khích người khác đánh đập.

3- Khen ngợi đánh đập.

4- Thấy người khác đánh đập, tỏ vẻ vui mừng.

5- Gây não loạn cha mẹ, làm cho tâm người lo buồn.

6- Não loạn Hiền, Thánh.

7- Thấy kẻ thù bệnh khổ, tâm rất vui mừng.

8- Thấy bệnh của kẻ thù được lành, tâm cảm thấy không vui.

9- Đối với kẻ thù bị bệnh, không cho chữa trị.

10- Ăn cách đêm chưa tiêu hóa mà lại ăn nữa.

Lại có mười nghiệp, có công năng giúp chúng sinh được quả báo không bị bệnh:

Bốn nghiệp đầu, trái với bốn nghiệp trước.

5- Cúng dường cha, mẹ, và người bệnh.

6- Thấy Hiền, Thánh bị bệnh, khám bệnh, chăm sóc.

7- Thấy bệnh kẻ thù được lành, tâm sinh vui mừng.

8- Thấy người bệnh khổ, thí cho thuốc hay, đồng thời cũng khuyên người khác thí cho.

9- Đối với bệnh khổ, khởi tâm từ bi.

10- Đối với thức uống, ăn tự có thể so lường tiết chế.

-Môn mười nghiệp xấu, tốt:

Mười nghiệp khiến cho chúng sinh được quả báo xấu, tốt:

1- Ưa hành động tức giận.

2- Ưa khởi tâm hờn dỗi, ngờ vực.

3- Mê hoặc, lừa dối người.

4- Não loạn chúng sinh.

5- Đối với cha, mẹ, không có tâm kính yêu.

6- Đối với các Hiền, Thánh tâm không sinh cung kính.

7- Chiếm đoạt ruộng vườn giúp cho sự sống của Hiền, Thánh.

8- Đối với tháp miếu thờ Phật, phá vỡ, tắt đèn sáng.

9- Thấy kẻ xấu xí, khinh chê xua đuổi.

10- Làm các hành vi ác.

Mười nghiệp giúp chúng sinh được quả báo khôi ngô, xinh đẹp.

1- Không giận dữ.

2- Thí cho y phục.

3- Kính yêu cha mẹ.

4- Tôn trọng Hiền Thánh.

5- Tu bổ, tô điểm tháp Phật. 6-Rưới quét điện đường. 7-Rưới quét đất của tăng 8-Rưới quét tháp Phật.

9- Thấy kẻ xấu xí, không sinh khinh dễ, xua đuổi, khởi tâm thương xót.

10- Thấy người xinh đẹp tỏ ngộ nhân đời trước.

-Môn mười nghiệp khiến sinh vào dòng họ giàu sang hay thấp hèn:

Mười nghiệp khiến bị quả báo sinh vào dòng họ thấp hèn:

1- Không kính cha.

2- Không kính mẹ.

3- Không kính Sa-môn.

4- Không kính Bà-la-môn.

5- Đối với bậc tôn trưởng, không cung kính, hộ vệ.

6- Đối với bậc sư trưởng, không đón rước cúng dường.

7- Thấy Tôn giả không đón rước mời ngồi.

8- Đối với cha mẹ, không tôn trọng lời dạy bảo.

9- Đối với bậc Hiền, Thánh không vâng theo lời răn dạy.

10- Khinh miệt người thấp hèn.

Mười nghiệp được quả báo sinh vào dòng họ cao quý, trái với trước tức là mười nghiệp khiến chúng sinh bị quả có ít tiền của, tài sản:

1- Tự làm việc trộm cắp.

2- Bảo người khác làm.

3- Khen người trộm cắp.

4- Thấy trộm cắp vui mừng.

5- Đối với cha mẹ, nghiệp sinh đã bị tổn giảm.

6- Đối với Hiền, Thánh, chiếm đoạt, tiền của tài sản.

7- Thấy người khác được lợi nhuận tâm không vui mừng.

8- Làm chướng ngại lợi nhuận mà người khác sẽ được, để gây khó khăn.

9- Thấy người khác làm việc bố thí, không có tâm tùy hỷ.

10- Thấy kẻ đói khát, tâm không thương xót, mà cảm thấy vui mừng.

Mười nghiệp khiến chúng sinh được nhiều tiền của, trái với trước rất dễ hiểu:

-Môn mười công đức lễ tháp:

Tiếp theo, văn giải thích rộng nghiệp báo khác nhau của nghiệp lẫn lộn. Lễ tháp miếu thờ Phật, được mười công đức:

1- Được sắc xinh đẹp, tiếng tốt.

2- Có nói ra lời gì mọi người đều tin chịu, khuất phục.

3- Ở trong chúng không sợ sệt.

4- Trời, người yêu mến, ủng hộ. 5-Đầy đủ oai thế.

6- Có oai thế, nên chúng sinh đều đến nương tựa.

7- Thường được gần gũi chư Phật, Bồ-tát.

8- Đủ phước báo lớn.

9- Qua đời, được sinh lên cõi trời.

10- Mau chứng Niết bàn.

-Môn mười công đức bố thí dù, lọng:

Kính thí lọng báu, được mười công đức:

1- Ở đời, như dù lọng che chở chúng sinh.

2- Thân, tâm yên ổn, lìa các nóng bức.

3- Tất cả kính trọng, không dám khinh mạn.

4- Có oai thế lớn.

5- Thường được gần gũi chư Phật, Bồ-tát làm quyến thuộc với người có oai đức lớn.

6- Thường làm Chuyển Luân Thánh vương.

7- Luôn làm Thượng thủ, tu tập nghiệp lành.

8, 9, 10 Quả báo, như ba lễ Phật ở sau.

-Môn mười công đức bố thí cờ phướn:

Kính thí cờ phướn tơ lụa báu được mười công đức:

1- Ở đời, như cờ hiệu, vua chúa, đại thần, bạn thân, tri thức đều cung kính, cúng dường.

2- Rộng rãi, giàu có tự tại, có của báu lớn.

3- Tiếng tốt truyền đi khắp nơi.

4- Hình dáng trang nghiêm, mạng sống lâu dài.

5- Thường sinh ra chỗ nào đều thực hành bố thí vững chắc.

6- Có tiếng tăm.

7- Có oai đức.

8- Sinh vào dòng họ cao quý.

9- Khi chết, sinh lên cõi trời.

10- Mau được Niết bàn.

-Môn mười công đức bố thí nước uống:

Dùng chung, linh bố, thí được mười công đức:

1- Được âm thanh phạm.

2- Có tiếng tăm.

3- Diệt được mạng sống đời trước.

4- Lời nói ra được, mọi người yêu kính.

5- Thường có lọng báu để tự trang nghiêm.

6- Có chuỗi anh lạc xinh đẹp để làm trang sức.

7- Diện mạo trang nghiêm, người thấy vui mừng; ba công đức còn lại, như ba lễ Phật ở sau.

-Môn mười công đức bố thí y phục:

Kính thí y phục được mười công đức:

1- Mặt mũi khôi ngô.

2- Da thịt trơn láng.

3- Bụi nhơ không dính.

4- Sinh ra, đã đầy đủ y phục tốt đẹp.

5- Giường nằm cao sang, lọng che thân mình.

6- Có y phục hổ thẹn.

7- Người thấy yêu kính; ba công đức còn lại, y theo như trước.

- Môn bố thí đồ đựng và thức uống ăn được mười công đức:

Các bát đĩa, đồ đựng thức ăn đều được mười công đức, như kinh Vu-lan-bồn khen ngợi nói, không thể nêu bày nhiều.

-Môn mười công đức bố thí hương:

Kính thí hương hoa được mười công đức:

1- Ở đời như hoa.

2- Thân không hôi hám, nhơ nhớp.

3- Hương phước, hương giới bay khắp mọi nơi.

4- Hễ sinh ra chỗ nào tỷ căn đều không mất tác dụng.

5- Vượt hơn thế gian, được chúng sinh quy y.

6- Thân thường thơm sạch.

7- Ưa thích chánh pháp, được chuyển chánh pháp, thọ trì, khen tụng, ba công đức còn lại, y như trước.

-Môn mười công đức thí đèn:

Bố thí đèn sáng cho được mười công đức:

1- Soi sáng thế gian như đèn.

2- Hễ sinh ra chỗ nào, nhục nhãn đều không mất tác dụng.

3- Được mắt trời.

4- Đối với pháp thiện, ác, được trí tuệ chân chánh.

5- Xua tan bóng tối.

6- Được trí tuệ sáng suốt.

7- Lưu chuyển thế gian, thường không ở chỗ tối tăm. Ba công đức còn lại như trước.

-Môn mười công đức của việc cung kính chắp tay:

Cung kính chắp tay được mười công đức:

1- Được phước báo vượt hơn.

2- Sinh vào dòng họ tôn quý.

3- Được sắc xinh đẹp vượt hơn.

4- Được tiếng tăm vượt hơn.

5- Được lọng xinh đẹp vượt hơn.

6- Được biện tài vượt hơn.

7- Được niềm tin vượt hơn.

8- Được giới vượt hơn.

9- Được học rộng vượt hơn.

10- Được trí vượt hơn.

Sách này là con đường quan trọng của việc phát tâm tu hành, là nền tảng vững chắc của Bô-đề, Niết-bàn, người cầu hạnh Phật không thể không y cứ. Theo đó, so sánh với năm trước, viện Tịnh Quang của vua phát nguyện mở đầu quyển thượng, về sau Bí-sô Tĩnh Chiếu chùa Quang Minh ở Danh Việt, Quan Đông phát thệ nguyện đặc biệt, khuyến hóa tịnh tài mấy mươi quan, đủ cho phí dụng khai bản, nhờ bạn đồng pháp là Bí-sô Chiếu Tuệ trợ giúp duyên in ấn. Mong được lưu thông mãi mãi, để mở rộng đại tâm.

Ngày 25 tháng 3 năm Canh Dần, niên hiệu Chánh Ứng năm thứ 3.

Sa-môn Tuấn Tôn chùa Tây Đại kính ghi.


[Đầu trang][Mục lục bộ Chư Tông][Mục lục tổng quát]