TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠP TẠNG

BỘ CHƯ TÔNG

SỐ 1863 - LUẬN NĂNG HIỂN TRUNG BIÊN TUỆ NHẬT

Soạn giả: Bí-sô Tuệ Chiểu, chùa Đại Vân ở Truy Châu.

MỤC LỤC

SỐ 1863 - LUẬN NĂNG HIỂN TRUNG BIÊN TUỆ NHẬT

QUYỂN 1

CHƯƠNG I: VIÊN CHÂN PHÁ CHẤP

1-Phá chấp nhân thời gian nhất định.

2-Phá thời giáo nhất định

3-Phá quyền thật nhất định có ba:

4-Phá vọng, thông kinh:

5-Phá hạnh tánh khắp:

6-Phá định, hiển mật:

7-Phá duyên chấp chánh Phật tánh:

QUYỂN 2

CHƯƠNG II: DẪN XEM XÉT, TRỪ SAI LẦM

1-Nêu lên sự sai lầm của năm tánh:

2-Sự sai lầm của chủng tánh khác nhau:

3-Sự sai lầm của bản tánh trụ tánh:

4-Sự sai lầm của 5 tánh chỉ mới huân tập:

5-Sự sai lầm chân như là hạt giống:

6-Sự sai lầm về thông kinh pháp nhĩ:

7-Sự sai lầm vô lậu sinh vô lậu:

QUYỂN 3

8-Sự sai lầm thuyết giáo trước, sau:

9-Sai lầm của sự sống lâu chẳng phải liễu:

10-Sự sai lầm của nói dối là thông hiểu kinh:

11-Sự sai lầm của giải thích chung về vấn nạn bên ngoài:

QUYỂN 4

-CĂN CỨ VĂN, HIỂN BÀY RÕ CHÁNH

1-Nói về Phật tánh khác nhau:

2-Sự khác nhau giữa có, và không.

3-Nói về loại Xiển-đề:

4-Thanh văn có khác:

5-Hai thứ chết không bình đẳng:

6-Nói ba thân của Phật là thường, vô thường khác nhau.

7-Quyết trạch các thứ:


QUYỂN 1

"Mười lực, năm nhãn Đại Thánh hùng.
Vì chúng cầu pháp vô biên kiếp.
Tám muôn bốn ngàn tạng báu mầu.
Cảm hợp chân kia hơn bờ kia.
Tùy cơ giải thích đều khiến chứng,
Nên hiệu Năng Nhân là Pháp vương.
Mặt trời Phật quyền ẩn núi Niết-bàn.
Chánh giáo lặn theo, mắt tuệ nhắm!
Các Thánh chúng mười Địa ba hiền.
Thương vật, hộ pháp, giải thích kinh.
Mạng đời cuối, hạnh niệm, tuệ nhỏ.
Phần nhiều theo tình mê Thánh chỉ.
Giải lệch chánh giáo, theo mình thấy.
Tự mê, mê người, ngại dòng pháp.
Nay chọn kinh luận hội các văn.
Pháp chung giúp chúng được hiểu đúng.
Nên con cúi đầu qui Tam bảo.
Cúi mong từ bi thầm che chở."

Nói về nghĩa vượt hơn không có khác nhau. Kinh luận nói về thuyết bình đẳng, tục đế có khác, nói một, bốn của các dòng Thánh, tùy tướng phần sao của lý trí, quy tánh tâm ngôn đều bặt. Hoặc chân, hoặc tục, vừa thật, vừa quyền, suy lường vì ứng vật, bảo cho biết nhân phù hợp với căn cơ, thú hướng về quả. Về mặt lý dù là một, nhưng căn khí thật nhiều, nên lại khiến mười hai huyền môn giải thích có đồng khác, yếu chỉ sâu kín của ba tạng giải thích hoặc phần chung hoặc có chấp như mà làm nhân của sinh; thể của tâm là hạt giống của các pháp, mê chấp một văn, đều không để cho khác, vì có khác thì khó hội ngộ, tức chỉ vì tiểu là quyền, chẳng biết Như Lai có năng lực căn tánh bằng nhau; hữu tình có các thứ cõi, v.v... hoặc có nghiêng lệch, khắp, giải thích riêng, đều khiến chẳng phải một; có một sự trái ngược lại, tức nói rằng, tùy theo giả, tùy theo người, chẳng biết Thế Tôn có ý ưa thích đồng thể, y như có tánh bất định, v.v..., cho nên Thanh Văn bị hỏi vặn, vì không nhận thức sự khác nhau của căn cơ. Bồ-tát bị quở trách, do không y theo lý một. Nếu nói chân như Phật tánh là một, đồng được thành Phật, vì chủng tánh chẳng khác, tức thí dụ bốn gánh ba cỏ không thành. Nếu nói Xiển-đề, Nhị thừa, đều không thành Phật, vì chủng tánh đều là một, tức so sánh ba xe, hai thành không lập, nên do chủng tánh của thế giới chúng sinh, có, không đều y cứ ở lý, cùng khắp có thức, đều có y cứ vào sự sai biệt, hữu thức có, không. Hữu tánh lại có nhất định, không nhất định khác nhau. Vô tánh lại có tạm thời và rốt ráo khác nhau. Vì Thanh văn này nói có nhiều loại, Xiển-đề lại giảng nói thường mất, vì thừa này, hoặc quả phần của một, hai, ba, năm bình đẳng; hoặc phàm, Thánh, quyền, thật bình đẳng, dị biệt. Hoặc nói đều có Phật tánh, đều sẽ thành Phật; hoặc nói có, không có chủng tánh, chẳng phải đều thành Phật, nhưng nhân của Phật đã là khác với vô vi; quả thật cũng là phần thường, vô thường. Y cứ vào ba nghĩa mà tiêu biểu danh từ thường trụ; hoặc y cứ vào "hoặc" thì không lấy gì để lập tên gọi vô vi; hoặc có người mê diệu chỉ này, cho rằng ba Phật đều bất động, thấy nói vô vi; đem bốn trí mà không có sinh diệt, chẳng biết đều là Đấng Chánh Biến Tri. Y cứ vào bốn bí mật, bốn thứ ý thú tùy thuộc ở mình, tùy thuộc ở người; Mười hai phần giáo, Đức Phật tự hội thông, tản mát ở quy tắc nhất định của các kinh, khó vạch ra, nghiên cứu.

Bồ-tát Di-lặc soạn rộng luận Du-già giải thích rằng: "Về mặt lý, đều cùng cực; về sự đều cùng tận, văn đều nêu rõ; về nghĩa đều giải thích; mọi chấp đều phá; mọi nghi ngờ đều dứt trừ; mọi công hạnh đều tu; mọi quả đều chứng; chính vì Bồ-tát muốn cho ở cảnh, hạnh, quả của các thừa đều bằng nhau, đều được khéo léo, hết lòng tu hạnh đại, chứng đại Bồ-đề, rộng vì hữu tình thường thuyết minh không có trái ngược, gồm cả thừa khác, khiến dựa vào pháp mình, tu hành phần mình, được chứng quả mình. Các Sư như Vô Trước, v.v… hoặc giải thích riêng một bộ; hoặc nói chung chỉ thú rộng lớn và giáo lý phù hợp sáng sủa rực rỡ, gốc, ngọn lần lượt tỏ rõ, nhưng hữu tình mờ tối mật chỉ, biển dục mà rưới vào ao vũng, tâm che mờ viên ngọc trong chéo áo, bỏ thức ăn nhơ vào trong đồ đựng báu; liên thành mắt cá, bọng cây không phân biệt. Thuốc độc, đề hồ, cỏ huân, cỏ du không riêng; cây ánh sáng của ngọc đá mà chỉ mặt trời, mặt trăng, vượt qua kiếm báu mà chấn chỉnh mũi nhọn chì, sau Đa-la cánh định. Trước kia, Đạt-ma vâng theo chuẩn tắc nhất định chia ra hiển mật. Nếu cũng phát khởi lẫn nhau, tức chí thú y cứ vào văn. Vâng theo chấp thật làm chân, chính là lời trái, lý sai, tôi dù không nhanh nhẹn, từng rót rượu sóng cả của biển pháp, nghĩ nhớ mê hoặc dâng hiến tốt, hoài nghi chỉ nam của sự cứu giúp hiểm nguy, đã gặp luận cao, nắm lấy, thân trước, lượm lặt tinh vi của ba tạng, chọn lấy chỉ thú sâu kín của Ba thừa, làm sáng tỏ chỉ thú u vi kia, để khế hợp với nẻo đường rộng, lược thuật ba chương, nhằm khai hóa kẻ chưa tỏ ngộ. Văn dù không đẹp, nhưng về lý, thật sự đáng quán sát. Mong các gương soi huyền vi, suy tìm tường tận đến chỗ cùng cực của chí thú kia.---------------------------------

CHƯƠNG I: VIÊN CHÂN PHÁ CHẤP

1-Phá chấp nhân thời gian nhất định.

Có thuyết nói: "Trong kinh, luận, có khi danh đồng mà nghĩa khác, như kinh giải Thâm Mật, v.v... chép: "Nói về Nhất thừa, cùng với Pháp Hoa, v.v… nói về Nhất thừa, kinh luận này dù danh đồng, nhưng Thâm Mật thì có ba mà nói một; Pháp Hoa thì phá hai nói một, mà nghĩa có khác. Vì sao? Vì Thâm Mật có hai diệt, rằng Nhị thừa định tánh không ngồi đạo tràng, tụng rằng:

Nên lập Nhất thừa ở trong đó.
Chẳng phải tánh hữu tình.
Không có khác nhau.
Đây là có ba nói một."

Pháp Hoa, v.v... chép: "Thinh văn cũng như Bồ-tát, nghe pháp ta đã nói, dù chỉ một bài kệ, đều sẽ được thành thật không có nghi ngờ, chỉ một sự thật này, hai việc chẳng phải chân. Bỏ dê, nai mà diệt hóa thành; phá hai diệt, mà về đảo châu báu, nên về nghĩa có khác!".

"Thuyết này thật phi lý, vì sao? Vì các thuyết Nhất thừa danh nghĩa chẳng khác. Pháp Hoa,

Thâm Mật, lược nêu chỗ đồng kia. Vả lại, Pháp Hoa Nhất thừa đồng với Thâm Mật. Nhiếp luận dẫn Xá-lợi-phất được thọ ký trong hội Pháp Hoa, trong mười nghĩa, làm sao nói Pháp Hoa về trước đã nói Nhất thừa riêng?". Nhiếp luận chỉ giải thích Nhất thừa về trước, không giải thích Pháp Hoa. Đã đồng đối tượng giải thích, biết sáng suốt không riêng. Lại, người tánh cố định, không có văn rõ ràng nói được thành Phật".

Trong kinh Lăng-già, Đại Tuệ hỏi, Phật đáp. Xưa người phát nguyện Bồ-đề chẳng thể quyết định, v.v... Kinh luận Pháp Hoa nói: "Người quyết định, vì căn cơ chưa thành thục, nên Bồ-tát được thọ ký, khiến phát tâm". Văn đã nói chung, lại nói việc dĩ vãng, đã phá hai diệt, Nhất thừa đã rõ ràng, tức phải nói một cách quyết định rằng, Nhị thừa đều thành Phật, vì sao loại trừ quyết định?

Lại, ở thí dụ thứ ba, là người hoàn toàn cầu Đại thừa, nghĩa là ngoài Đại thừa, không có Nhị thừa riêng, vì Phật khiến cho biết mỗi thừa khác, nên nói ví dụ mưa". Thế nên đồng với chủng tánh thú hướng vắng lặng của Thâm Mật, không ngồi đạo tràng. Pháp Hoa chỉ vì lui sụt tâm Bồ-đề, và Thinh văn biến hóa, ba châu nói về Nhất thừa, pháp mà Thinh văn được Phật truyền trao cho, đều chỉ rõ điểm chung của hai kinh, luận này, nói chung, không có thú hướng vắng lặng, vì ở văn đủ biểu thị rõ, nên đồng với chủng tánh bất định của Thâm Mật để thú hướng Chánh giác. Kinh Pháp Hoa chép: "Vì muốn khai thị cho chúng sinh tri kiến của Phật. Luận giải thích về nghĩa đồng rằng: "Đồng, nghĩa là pháp thân bình đẳng của Ba thừa. Pháp thân của ba thừa bình đẳng, nghĩa là vì Phật tánh, pháp thân, không có khác nhau. Quan điểm này đồng với Thâm Mật y cứ vào thắng nghĩa của ba vô tánh, thắng nghĩa vô tánh, v.v... cũng là bản dịch đời Lương y cứ vào pháp, như bình đẳng nên nói Nhất thừa".

Trong kinh Pháp Hoa, bốn đại Thinh văn tự nói thí dụ, đầu tiên, làm người đổ phân, là kẻ thấp hèn; khoảng giữa, gửi gắm gia tài, tự mình không có hy vọng lấy lại; về sau, nhóm hợp chúng để bố cáo, mới sinh lãnh ngộ. Quan điểm này của kinh Pháp Hoa đồng với thời giáo thứ ba của Giải Thâm Mật. Nhiếp luận dịch vào đời Lương, đời Đường đều chỉ rõ rằng: "vì luận kia không giải thích "Nhất thừa" của Pháp Hoa, nên nói đồng, khác, chỉ vì phân biệt luống dối". Lại, nói: "Hoặc có danh khác mà thể đồng, Niết-bàn, Phật tánh, thể tức chân như"; trong luận Phật tánh gọi là "nên được".

Đã thừa nhận lý tánh khắp hữu tình, không tin "nên được" "chắc chắn thành Phật", điều này cũng phi lý, vì mặc dù có nhận duyên "nên được", nhưng đã thừa nhận Bồ-tát đại bi đều có nhân tố gia hạnh, vì cùng tận cõi chúng sinh, nên thường xuyên không thành Phật, đâu bỏ hữu tình? Chính vì thế, nên cho dù có nhân "nên được" đi nữa, nhưng vì không có nhân gia hạnh, nên thường không thành Phật. Nếu nói rằng: "Ta thừa nhận tác giả, tức là trái với kinh, vì gia hạnh nghĩa là không có phẩm hạ, mà chứng tỏ chánh phẩm trung, tự sẽ giải thích rộng".

Có nghĩa nói: "Nhân có duyên, chánh; quả có gần xa. Duyên tương ưng với thiện, v.v...; chánh là tám thức. Tánh Như Lai tạng, tám thức đồng thành. Chân như có khắp, nếu thiếu duyên nhơn, tu thì sẽ có; không tin chánh nhân, thì há không phải là mê muội hay sao?".

"Lối chấp kia không hợp lý, lại dùng chân như làm chánh nhân là vì đối với sinh quả gọi là chánh, vì y cứ vào mê, ngộ, y chỉ làm chánh, nếu có công năng sinh quả thì gọi là chánh nhân. Kinh Bồ-tát Địa quyển tư; luận Du-già quyển ba mươi tám, luận Địa Trì quyển ba mươi chép: "Nhân bốn duyên không có, nói là pháp thường. Pháp thường làm nhân duyên, về nghĩa hạt giống của Nhiếp luận, Du-già, cũng đều trái nhau. Nếu nói rằng, nghĩa kia và duyên nhân, chẳng phải sinh gần quả ấy, thì sẽ trái với các kinh, luận, ấy là trở thành lỗi lớn. Lại, há không thừa nhận bảo thân Phật hội đủ năm uẩn ư? Nếu đủ năm uẩn, thì nhân còn không thuộc về uẩn, huống chi là nhân của uẩn? Lại, luận Phật Tánh đã không thừa nhận chân thật có thể sinh "hữu", nên tám thức dù làm chánh nhân, nhưng chẳng phải y cứ vào thức hiện hành từ vô thỉ mà nói: "Kinh Lăng-già nói rằng: "Vì đầy đủ pháp huân tập vô lậu, nên gọi là Bất không Như Lai tạng.

Nếu nhận lấy thức của hiện hành vô thỉ làm chánh nhân của Phật, tức chánh nhân vô lậu của Phật sẽ thường hiện hành thì đâu được có phàm phu? Nếu nói là hữu lậu, thì tức đâu được làm chánh nhân, vì trái với Nhiếp Đại thừa nói chất thuốc độc là cam lộ. Lại tâm, tâm sở há chẳng phải là chánh nhân của báo Phật. Nếu chẳng phải chánh nhân của báo Phật thì sẽ trái với luận Trang Nghiêm và phẩm Tứ Trí tâm của Nhiếp Luận, v.v..., gọi là báo thân, thừa nhận là báo Phật. Nói rằng, tương ưng thiện, v.v... làm duyên nhân, đâu không mạnh mẽ thái quá ư? Nếu dùng chân như làm chánh nhân của pháp thân thì sẽ không hơn hai, đó là sinh, liễu. Chân như đối với pháp thân, chẳng phải thuộc về nhân sinh, liễu, thì làm sao gọi là chánh nhân? Chỉ có thể được thừa nhận phần vị nhân, quả khác nhau: Nhân, gọi là Như Lai tạng; phần vị quả, gọi là pháp thân. "Như" không sinh "Như", lại không tự làm sáng tỏ.

Đã chẳng phải sinh liễu, thì không biết lý nào có thể làm chánh nhân, vì thể đối với hai phần vị không đổi thay, xê dịch, nên chia ra nhân, quả, "duyên" chánh lập bày luống dối. Chánh nhân của ba thân phẩm hạ, làm sáng tỏ chánh phẩm trung, sẽ rộng phân biệt".

Có nghĩa nói: "Người tu hạnh Bồ-tát, có khả năng gánh vác, gìn giữ, trụ ở tánh của thừa mình, tất nhiên sẽ được thành Phật; khi chưa đến địa vị này, nói rằng: không thành Phật; có mê không gánh vác chủng tánh thừa mình của Bồ-tát, đầu tiên là phát tâm, chẳng phải giữ gìn được, nói rằng không có chủng tánh, ấy là cuối cùng, không có chủng tánh này, thì sẽ không được thành Phật".

"Nghĩa ấy cũng phi lý, vì sao? Vì kinh Bồ-tát Địa chép: "Nhân phát tâm đầu tiên, chắc chắn sẽ được A-nậu-Bồ-đề. Luận Địa Trì chép: "Sao gọi là trì?" Tự chủng tánh của Bồ-tát, phát tâm đầu tiên và tất cả pháp phần Bồ-đề, đây gọi là Trì. Vì sao? Vì Bồ-tát y cứ vào chủng tánh, chắc chắn có khả năng gánh vác A-nậu-Bồ-đề. Cho nên, chủng tánh gọi là nhất định trì, cho đến nói rằng: "Thế nên, sơ phát tâm, gọi là Bồ-tát thực hành "phương tiện trì".

Bồ-tát dựa vào thực hành đầy đủ phương tiện A-nậu-Bồ-đề.

Đã nói rằng: "Thế nên, sơ phát tâm, gọi Bồ-tát thực hành phương tiện trì, dựa vào thực hành đầy đủ phương tiện Bồ-đề, đâu được nói rằng: "Do sự tu tập lâu ngày của Bồ-tát, mới gọi là "Trì", mới gọi là có chủng tánh".

Lại, kinh Bồ-tát Địa chép: "Nếu không có tánh Bồ-tát, thì cho dù lại phát tâm ân cần tu hành tinh tấn, nhưng sau cùng vẫn không thể được A-nậu Bồ-đề".

Cho nên, phải biết rằng, không phải do phát tâm hết lòng tu hành tinh tấn, mà có tánh Bồ-tát, nếu tu tập lâu đến có khả năng gánh vác, duy trì, gọi là chủng tánh thì sao kinh lại nói: "Chẳng phải nhân phát tâm mà có tánh Bồ-tát?".

Lại, luận Địa Trì chép: "Người phi chủng tánh, vì không có chủng tánh, nên dù đã phát tâm hết lòng tu tinh tấn, nhưng tất nhiên cuối cùng không thể được A-nậu Bồ-đề".

Thế nên, nên biết, dù không phát tâm, không tu hành phương tiện, nhưng cũng vẫn được gọi là chủng tánh trì. Đã nói rằng: "Dù không phát tâm nhưng vẫn được gọi là chủng tánh trì" thì đâu phiền chia ra đầu, cuối?".

Có thuyết nói: "Thấy văn của năm tánh Tiểu thừa, liền cho là sự khác nhau pháp nhĩ của ba thừa; hoặc không có nhân tố Niết-bàn, cuối cùng không có tánh, gọi là A-điên-đế-ca, không có hạt giống pháp nhĩ, chẳng biết cuối cùng không có tánh, không có nhân tốt phát tâm; đến thời gian sau, lại có sự khác nhau giữa năm thừa. Tất cả chủng tánh đều mới huân tập khởi. Văn của Thinh văn địa chẳng phải là chứng nhất định, vì chứng này hoàn không phải. Vì sao? Vì Du-già do Bồ-tát Di-lặc sáng tạo, nói không phải định chứng. Vì sao? Vì Du-già do Bồ-tát Di-lặc sáng tạo, nói không phải chứng quyết định. Kinh Thắng-man chép: "giới thiện, là do Đức Thích-ca Thế Tôn, e là Tiểu giáo; sự hung dữ như đây, ai dám cho nói? Nhưng nói rằng: "cuối cùng không có tánh, không có nhân tố phát tâm; thời gian sau có trở lại". Nay hỏi người kia rằng: "Sự phát tâm sau, vì từ hạt giống khởi hay vì không có nhân sinh. Nếu vốn không có nhân, tâm tự nhiên khởi, thì chẳng phải là đệ tử của Đức Thích-ca. Nên quyển thứ nhất, một trong bốn quyển Lăng-già nói rằng: "Đại Tuệ! Nếu lại nói không có chủng tánh, mà vẫn có ba chủng thức, ba duyên hợp sinh, thì con rùa lẽ ra phải mọc lông, cát nên chảy ra dầu. Tông của ông tức hư hoại, vì trái với nghĩa quyết định. Lại, nếu không thừa nhận tánh pháp nhĩ vô thỉ của năm thừa khác nhau, chỉ đồng nhất như, thì đều phải thành Phật hết".

"Năm tánh mới huân tập, không phải bản hữu, sao Đức Thế Tôn lại bảo năm tánh huân tập kia không chỉ nói Đại thừa khiến đồng huân tập hạt giống Phật?".

Kinh Duy-ma chép: "Người kia, tự không có ung nhọt, chớ gây ra vết thương. Đại sư Điều Ngự há không biết có chánh ứng vì được nhân, dùng Tiểu thừa mà làm hại sao? Nếu nói rằng, do căn tánh khác ấy, thì tức năm tánh vốn có, đâu chỉ mới huân tập?". Lại, kinh Bồ-tát Địa chép: "Không phải nhân phát tâm hết lòng tu tinh tấn, mà có tánh Bồ-tát, nên biết năm tánh đều sẵn có. Từ chủng tánh vốn có, thường thường khởi hiện, huân tập thành hạt giống, gọi là Tánh tập".

Lại, kinh Thiện Giới, v.v... giải thích nhân khác quyết định rằng: "Có tánh Thinh văn, dùng Thinh văn thừa mà bát Niết-bàn, v.v...", nên biết được tánh khác nhau không phải do mới huân tập. Nếu do mới huân tập, mới bắt đầu có, thì lẽ ra phải nói rằng: "Trước kia đã không có tánh Thinh văn, khiến khởi Thinh văn thừa mà dựa vào Thinh văn thừa v.v...".

Đã không tạo ra thuyết này: "Thuyết minh vì chẳng phải mới sinh, cũng chẳng phải tiểu giáo, nên chỉ mới khởi lý giáo trái ngược nhau". Nhưng Kinh Đại Tập, v.v... nói: "Huân Tập "hữu": y cứ vào tập chủng mà nói, chẳng phải tánh chủng tánh, vì nếu nói chủng tánh của tánh, là lý chân như, chẳng phải tánh hạnh, thì dưới đây sẽ bảo cho biết rõ, lượt bỏ bốn mê, các mê khác có thể so sánh mà biết.

2-Phá thời giáo nhất định

Có nghĩa nói: Thâm Mật trước kia đã nói thuyết: "Sau Niết-bàn, hai mươi mốt ngày, pháp luân bốn đế, lập riêng thời giáo; pháp luân vĩ đại nhất sau bốn mươi năm. Do đâu không thừa nhận, lại lập ra thời giáo? Lại, Đại thừa khác với Tiểu thừa, về sau, nói Đại thừa, lập ra thời giáo, Nhất thừa khác với ba thừa, về sau, nói Nhất thừa, do đâu không có lập riêng thời giáo? Nên y cứ theo

Thâm Mật, lập ba thời giáo ban đầu;

Nhất thừa của Pháp Hoa là thời thứ tư; Niết-bàn Phật tánh là thời thứ năm".

Sự thiết lập thời giáo này cũng không hợp lý, vì có nhiều sai lầm. Vả lại, sau chuyển bốn đế, lập thời giáo, là điều mà Phật, Thế Tôn đã nói; thứ tư là Nhất thừa, thứ năm là Phật tánh, trong kinh không phán quyết là ai nói? Nếu dùng nghĩa để lập riêng năm thời giáo, thì về nghĩa mà mỗi kinh nói đều có ý khác nhau, chỉ như kinh Vô Lượng Thọ khuyên sinh về phương Tây, tùy nguyện vãng sinh tức tùy theo cõi tịnh nào? Kinh Di-lặc Thượng Sinh thì dạy vãng sinh lên cõi trời Tri Túc; hoặc quán Hư Không Tạng; hoặc lại quán Phổ Hiền, v.v... tức ứng thời giáo có nhiều, chẳng phải năm, ba thời, tức kinh Niết-bàn, hoặc ở nhất thời bên bờ sông Hằng, v.v...

Đã không phải thời gian nhất định, nên không thể nhận lấy, nên nói năm thời, chẳng phải là Phật dạy. Lại, như trong phẩm Tín Giải thứ tư của kinh Pháp Hoa lập rộng ba thời giáo: đầu tiên nói rằng: "chúng ta đứng đầu trong hàng tăng, tự cho rằng đã được Niết-bàn. Thời giáo đầu tiên, lại nói rằng: "dĩ vãng xa xưa, Đức Thế Tôn nói pháp đã lâu, khi ta ngồi trên tòa, chỉ nhớ nghĩ không, vô tướng, đối với pháp của Bồ-tát, tâm không ưa thích. Đây là thời thứ hai.

Một cách sâu sắc tự chúc mừng vì may mắn được lợi lành lớn. Của báu vĩ đại của Pháp Vương, không mong cầu mà tự được, đây là thời thứ ba.

Ba thời trong bài kệ, tụng lại hiển bày rõ ràng, suy ra đồng với Thâm Mật, làm sao trái với giáo, lập riêng năm thời, nên là lỗi lớn". Lại, nói rằng: "Kinh Vô Lượng nghĩa là thời gian của Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa khác nhau. Đây là mở ra Trung thừa, hợp với Đại thành một".

Cách dẫn chứng này cũng phi lý, vì sao? Vì kinh Vô Lượng Nghĩa này đầu tiên nói rằng: "Từ khi Như Lai đắc đạo đến nay, ròng rã hơn bốn mươi năm, thường vì chúng sinh giảng nói các pháp, cho đến không xuất hiện, không ẩn mất. Nếu có người nào nghe, hoặc được bốn pháp Noãn, Đảnh, Nhẫn, Thế đệ nhất, quả Bích-Chi-Phật, phát tâm Bồ-đề, bước lên Thập địa, không chia ra Ba thừa". Lại, nói: "Ta rời Thọ vương, đến vườn Nai ở thành Ba-la-nại, vì năm người A-nhã, Câu-tân, v.v... chuyển bánh xe pháp bốn đế, cũng nói các pháp, cho đến khoảng giữa niệm niệm sinh diệt, ở đây, kể cả mọi nơi, vì các Tỳ-kheo và chúng Bồtát giảng nói mười hai nhân duyên, sáu Ba-lamật..." cho đến nói rằng: "Nay, lại ở đây, ta giảng nói kinh Đại thừa Vô Lượng Nghĩa, cho đến niệm niệm sinh diệt, không nói là trung gian, chỉ vì BíchChi-Phật, cũng nói là cùng chúng Bồ-tát. Về sau, không nói: "Nay lại ở đây, chỉ vì Bồ-tát". Lại nói: "Này người thiện nam! Đầu tiên nói bốn đế, vì cầu hàng Thinh văn, mà tám ức các vị trời xuống đây để nghe pháp, phát tâm Bồ-đề, trong đó ở các nơi giảng nói mười hai nhân duyên rất sâu; vì người cầu Bích-Chi-Phật, mà vô lượng chúng sinh phát tâm Bồ-đề; hoặc trụ Thinh văn. Kế là nói mười hai bộ kinh Phương Đẳng, Ma-ha Bát-nhã Hoa Nghiêm biển không, đã giảng nói Bồ-tát tu hành nhiều kiếp, mà trăm ngàn Tỳ-kheo, muôn ức người, trời, vô lượng chúng sinh đều được quả Tuđà-hoàn, cho đến được quả A-la-hán, trụ trong pháp nhân duyên của Bích-Chi-Phật. Mặc dù trong đó giảng nói mười hai nhân duyên, nhưng nói rằng, vì Bích-Chi chỉ có phát tâm Bồ-đề; hoặc trụ Thinh văn không có phát tâm Duyên giác và chứng quả Duyên giác. Tiếp theo nói Phương Đẳng, là được quả Thinh văn và trụ trong pháp nhân duyên của của Bích-Chi-Phật, không nói rằng, vì Bồ-tát phán quyết rằng: "Kinh Vô Lượng nghĩa vì thời giáo khác nhau của Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa, mở ra Trung thừa, hợp với Đại thừa thành một. Do một này là ba thời giáo, thì từ thời giáo nào chuẩn y nhất định? Nếu nói rằng: "Đã nói Đại giáo, đâu chẳng phải Đại thừa? Nếu vậy, Thâm Mật cũng nói giáo Đại thừa, sao nói là ba thừa? Lại, nếu là ba, sau cùng không có năm, cũng không hạn định năm tháng trước sau. Lại nói rằng: "Nay, y cứ vào tánh thừa, nói năm thời, nghĩa là một tánh của Tiểu thừa, Đại thừa, ba thừa, Nhất thừa. Sau năm thời giáo này gồm cả nghĩa trước, nghĩa trước không gồm nghĩa sau". Nhưng kinh Pháp Hoa lập ở sau Thâm Mật; Niết-bàn lại ở sau Pháp Hoa, nói Thâm Mật đã ở trước, làm sao dự phán quyết ở thời giáo sau? Vì theo thứ lớp cạn, sâu, quyết định là năm thời giáo. Thời thứ tư, thứ năm chẳng phải thuộc về thời thứ ba của giáo Thâm Mật. Sự phán quyết này cũng không hợp lý, vì sau hai mươi mốt ngày, Đức Phật mới đến vườn nai, nói giáo bốn đế, đầu tiên độ năm người.

Vào ngày thứ mười bốn, Phật nói Thập địa, không rời cây đạo, thọ ký cho Đề-Vị: sẽ được thành Phật hiệu là Tề Thành, làm sao phán quyết nhất định trước hết nói Tiểu giáo? Lại, Nhất thừa tức là Đại thừa".

Kinh Thắng-man chép: "Thinh văn, Duyên giác thừa đều nhập vào Đại thừa. Đại thừa tức là Phật thừa. Cho nên, ba thừa tức là Nhất thừa. Được Nhất thừa, nghĩa là được A-nậu-Bồ-đề".

Ở thời thứ hai, phán quyết nói Đại thừa, Nhất thừa, tức Đại gồm thâu phải ở thời thứ hai, làm sao là thứ tư? Nếu nói rằng, Thâm Mật là nói thời giáo của ba thời, thì vì chung cho tạng ba thừa, gọi là giáo Ba thừa, vì nói có ba thừa, nên gọi là thời giáo của ba thừa. Nếu thừa nhận Thâm Mật chung cho thuộc về Ba thừa, thì sẽ trái với chánh lý. Xưa nay đều thừa nhận chung là tạng Đại thừa. Nếu nói rằng, nói có ba thừa, gọi là thời giáo của ba thừa, thì Pháp Hoa cũng như vậy, trước sau đều nói rằng: "Vì cầu Thinh văn, v.v...". Nếu nói rằng, vì không đồng như trước đã không phải, nên không thể nói Nhất thừa của Pháp Hoa là thời thứ tư". Kinh Niếtbàn cũng nói rằng: "Trong kinh này hoặc nói Nhất thừa, hoặc nói Ba thừa. Lại Nhất thừa tức Phật tánh; Phật tánh tức chân như".

Kinh Thắng-man, kinh Như Lai Tạng, kinh

"Bất Tăng Bất Giảm"; kinh Pháp Giới Thể Tánh; kinh Như Lai Trí Ấn; kinh Thánh Thiện Trụ Thiên Tử Sở Vấn; kinh Chư Pháp Vô Hành; kinh Văn-thù-sư-lợi Vấn Pháp Thân, v.v..., đều nói rộng về Như Lai tạng, Phật tánh, pháp thân, tất cả chúng sinh đều có, sao nay nói rằng, thời thứ năm nói về Phật tánh".

Kinh Thắng-man nói: "Phu nhân Mạt-lợi tin pháp chưa lâu, có nói ở trước, kinh Như Lai Tạng, theo Bồ-đề-lưu-chi nói rằng: "Sau khi Phật thành đạo, vào năm thứ mười nói luận Phật Tánh, luận Bảo Tánh đều y cứ vào kinh này và kinh Giải Thâm Mật, Vô Thượng Y, nói rộng về Phật tánh, không y cứ vào Niết-bàn để nói về nghĩa Phật tánh, làm sao phán quyết nhất định ở thời giáo Niết-bàn, bắt đầu nói tất cả đều có Phật tánh, xếp kinh Thắngman v.v... và luận Phật Tánh, v.v... vào thời giáo thứ năm. Nếu để Niết-bàn ở sau Thâm Mật thì không được phán quyết là thời thứ ba, thì sao lại tự dẫn chứng rằng: "Hoặc có kinh trước Mật Ý nói nghĩa sau, như luận Trí luận nói: Lại, Hoa Nghiêm là trước khi nói bốn đế, sao kinh Vô Lượng nghĩa lại phán quyết là Phật đã nói vào thời giáo thứ ba?

Nếu nói rằng, y cứ vào loại nghĩa để nói, không y cứ trước, sau; Thâm Mật cũng vậy, vì đâu riêng gì không tin, nên y cứ vào trước, sau để phán quyết là thời giáo thứ năm, chỉ vì tuệ trẻ thơ, nên người trí đã không thừa nhận".

Lại, nói rằng: "Ba thời của Pháp Hoa khác với Thâm Mật. Nhận xét này cũng như vậy, vì thời giáo mà hai kinh đã nói, về ý nghĩa không khác nhau".

Kinh Pháp Hoa quyển hai chép: "Xưa, Phật xoay bánh xe pháp bốn đế ở Ba-la-nại; Nay, lại xoay bánh xe Đại pháp vô thượng sâu mầu. Vả lại, đối với quyền, thật, dùng hai thời để nói, thời thứ hai, kệ tụng của phẩm Tín Giải nói: "Phật cũng như thế, biết ta ưa Tiểu, mà không hề nói: "Các ông thành Phật", mà nói: "chúng ta được các vô lậu, thành tựu đệ tử Thinh văn của Tiểu thừa. Đây là nghe Hữu giáo". Phật dạy chúng ta nói đạo Tối thượng". Cho đến nói rằng: "Nếu chúng ta nghe thanh tịnh cõi Phật giáo hóa chúng sinh, đều không ưa thích. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều vắng lặng, không có sinh, không có diệt, không có đại, không có tiểu, v.v... Đây là nghe "Không giáo", cho đến nói rằng: "chúng ta, ngày nay được điều chưa từng có, chẳng phải trước kia đã hy vọng mà nay tự được, như người nghèo kia được vô lượng của báu v.v... Đây là nghe giáo phi không hữu. Văn kinh trong văn xuôi cũng đủ". Lại, nói rằng: "Thâm Mật còn hai diệt một; Pháp Hoa phá hai còn một. Do đây không đồng: như trước đã phá; kinh Niết-bàn cũng vậy. Như kinh Niết-bàn quyển hai nói trong dụ thầy thuốc, đầu tiên, dạy bảo chung là uống sữa, dụ cho hữu giáo. Tiếp theo, bảo dứt chung, dụ nói "Không giáo"; sau, có nên, không nên uống, dụ cho phi "không", "hữu". Đây là đối với chấp của ngoại đạo đều có "Ngã". Vì đã phá "hữu" này, khiến nhập nhân không".

Vả lại, Mật Ý nói "nhân không", về nghĩa, rõ ràng là Tiểu, đầu tiên nói pháp "Hữu"; kế là, phá pháp "Hữu", Mật thuyết "Pháp Không". Trong hội như Phật mới nói rõ, loại trừ chấp có của ngoại đạo, nên nói "Không", vì dứt trừ chấp "không" của Thinh văn, nên nói "có", để nói về Phật tánh; vì chẳng phải chấp giả dối "ngã", nên chẳng phải có. Vì "có" thường, v.v... nên chẳng phải "Không". Hợp với thời giáo thứ ba, sao gọi là thứ năm? Lại, nếu Niết-bàn nói có Phật tánh, thì căn tánh của năm thừa cũng đều thú hướng về quả Phật.

Thời thứ năm: vì sao Tu-bạt-Đà-la nghe Phật nói tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, đồng được thành Phật sao không phát đại tâm, mà nhận lấy quả A-la-hán, nên như giải Thâm Mật phán quyết thuộc về thời thứ ba, khắp vì phát tâm thú hướng tất cả thừa ấy, nghĩa là vì chân liễu nghĩa, xem xét, nghiên cứu tìm tòi kỹ về nghĩa, lại nói rõ ràng, giải tỏa mẻ lưới to.

Vì năm môn che lấp lâu dài, nên không là môn riêng, môn riêng đối với tâm. Lại nói rằng, giáo có năm thời, năm môn, phân biệt:

1) Thứ lớp có khác.

2) "Được" gọi là có khác.

3) Nói về ích lợi không bình đẳng.

4) Nói về thời giáo khác nhau.

5) Nói về pháp có khác.

Nói thứ lớp khác: Ba thừa ở trước Nhất thừa; Phật tánh ở sau Nhất thừa. Đại ý đồng với trước là trước định lỗi sau, nên không phá lại.

Nói "được" gọi là khác: Thời giáo thứ tư gọi là Nhất thừa, nghĩa là vì năm thừa đều quy về Phật tánh.

Thời giáo thứ năm gọi là Phật tánh: Vì năm tánh quy về Phật tánh. Phán quyết này cũng không như vậy, vì năm thừa quy về Nhất thừa, là thời thứ tư. "Thắng-man cũng nói bốn quả đều quy về quả Phật. Thâm Mật không nhất định, cũng thú hướng về Phật thừa, ứng với thời thứ tư. Tánh định của Pháp Hoa cũng không quy về một, nên thuộc về thời thứ ba.

Trên đã dẫn Phật tánh, nhiều kinh nói đồng, ứng với thời thứ năm, gọi là giáo Phật tánh, đâu chỉ Niết-bàn? Nếu nói rằng như thế, thì Thắng-man nói: "Như Lai tạng, là sau bốn mươi năm ư?"

Vì trước đã chứng tỏ không phải, nên nói lợi ích không bình đẳng. Tiểu thừa nói pháp "có" của duyên sinh, là nền tảng đầu tiên của muôn hạnh, nên kinh Thập Luận chép: "Người không học Tiểu thừa, thì không do đâu mà học Đại thừa".

Thuyết này y cứ vào sự chứa nhóm gốc lành của Hữu giáo, chẳng phải là trước phát tâm Tiểu, sau mới học Đại".

Thuyết này nói không như vậy, vì y cứ vào tánh bất định đầu tiên, khiến học Tiểu, tức ngoài cửa kinh Pháp Hoa, hứa cho ba chiếc xe. Ở vườn nai, chứng quả Tiểu. Nếu y cứ vào tỏ ngộ ngay, thì đầu tiên thọ ký cho đề vị, nói kinh Hoa Nghiêm, v.v... đều chẳng phải Tiểu thừa. Lại, y cứ vào giáo Đại, thì không được chứa nhóm gốc lành, có thể phải dựa vào Tiểu, y chỉ đại. Y chỉ đại, được phước vượt hơn Tiểu thừa, đâu cần phải dựa vào Tiểu. Lại, Pháp Hoa chép: "Học Đại, cho đến không thọ một bài kệ của kinh khác. Lại không được gần gũi học giả ba tạng Tiểu thừa. Đã thừa nhận là liễu nghĩa, vì sao bỏ liễu nghĩa này mà không y chỉ?

Lại Du-già, v.v... nói: "Trước học thừa mình, sau mới học giáo khác. Nếu không phải bất định thì sẽ không có ba, một của tiểu, đại này. Theo thứ lớp, nếu là tỏ ngộ ngay, thì không phải trước học Tiểu".

"Sự phán quyết này y cứ vào đâu?".

"Ý của kinh Thập Luân không phải triển khai trước vì nói Tiểu thừa, khiến cho họ gieo trồng gốc lành; cũng chẳng phải trước nghe vô tánh, sau phân biệt năm tánh, như trước kia đã chỉ rõ không phải.

Nói thời giáo khác nhau. Đây là đồng thừa nhận riêng, kinh Pháp Hoa, Thâm Mật ở trước. Sau, sự thừa nhận cũng không có lỗi, nhưng nói Thâm Mật là nói ba thừa. Pháp Hoa chỉ tồn tại nhất thật.

"Lý này chưa thể", Thâm Mật Giải Thoát quyển hai chép: "Ta nói Thinh văn, Duyên giác, Bồ-tát, một đạo thanh tịnh thành tựu đệ nhất nghĩa, chỉ một đạo thanh tịnh, không có đạo thứ hai. Ý ta vì y cứ theo đây nên nói Nhất thừa.

"Làm sao được nói là giáo Ba thừa?". Nếu nói cho phép bất định hồi tâm, thì quyết định không hồi, tức tồn tại hai diệt, khác với Pháp Hoa".

"Cách lý giải này cũng không đúng, vì cho phép bất định hồi thú, tức đã phá hai diệt. Ba cỏ một đất của Pháp Hoa rất khác nhau, vì quyết định không ghi nhận, cũng tồn tại hai diệt. Nếu nói Pháp Hoa thừa nhận tánh quyết định thú hướng Đại thừa thì sẽ trái với luận mà giải thích kinh. Hơn nữa, văn kinh đã ghi nhận Thinh Văn, đều là tánh bất tịnh, kể cả sự biến hóa. Ở văn đủ rõ ràng, bởi vì hội này đối với hai diệt này giống với Thinh văn nói "không có một ai chẳng thành Phật". Nếu không như vậy thì sao Luận Thích nói "chỉ vì lợi ích cho hai người, e tổn hại kinh sợ". Không vì quyết định, nên nói thí dụ mưa, sao cho biết được thừa khác nhau. Há Bồ-tát Thiên Thân không hiểu Pháp Hoa? Phàm phu đời Mạt pháp, hiểu sâu được ý kinh. Nếu nói rằng Thâm Mật dù nói Nhất thừa, nhưng vẫn thừa nhận có căn tánh khác nhau. Nói chỉ một là luật ý nói, ở đây hợp với trước. Pháp Hoa cũng nói rằng: "Đã nói, đang nói, sẽ nói, mà trong đó, kinh Pháp Hoa này là trên hết".

Làm sao kinh chưa nói, mà kinh này lại được nói là trên hết? Vì chưa nói là thừa nhận ở trên hết, chưa nói hội ý với trước, mà đã thừa nhận là đồng, điều này đâu có lỗi gì? Lại, ba minh của Phật trấn giữ bốn trí trong sáng, thường xán lạn. Hội ý với kinh sẽ chưa nói, thì đâu có lỗi cố chấp không thừa nhận? Lại kinh kia tự dẫn, hoặc lại kinh trước bí mật nói nghĩa sau, như luận Trí Độ, bí luật trước nói sau, người kia đã tin. Trước rõ ràng, hợp với sau, vì sao không thọ lãnh? Hơn nữa, với mười nghĩa chứng tỏ kinh Pháp Hoa ở sau Thâm Mật.

Một thuyết khác nói: "Thâm Mật nói có hai diệt; Pháp Hoa nói "không có".

"Đây là sự hiểu lầm, như trước kia đã chỉ rõ, cho đến Thâm Mật, quyển mười thừa nhận một phần của tánh bất tịnh thành Phật. Pháp Hoa chép: "Hoàn toàn không có hai diệt". Sự hiểu lầm này y cứ như trước đã nói".

Kinh Lăng-già chép: "Cho đến Xiển-đề vô tánh, sẽ được Niết-bàn".

Đây cũng là hiểu lầm ý kinh. Vì sao? Vì vô tánh mà kinh Lăng-già nói, tức là lúc đường thời, chẳng phải rốt ráo. Vì về sau gặp Phật, v.v… thừa nhận sẽ được thành Phật.

Nếu nói: "Xiển-đề kia, nói là vô tánh, tức là hoàn toàn không có nhân, thì Bồ-tát khởi đại bi há là hoàn toàn vô tánh, cũng nói là vô tánh ư? Lại, nói rằng: "Kinh Niết-bàn chép: "đều sẽ thành Phật". Lời này cũng không đúng, vì rằng, đầu tiên y cứ vào Xiển-đề, nói là "không có Phật tánh". Đây là y cứ vào tánh hạnh, về sau nói "đều có", tức y cứ vào lý tánh. Nếu không như vậy, thì làm sao có hai thuyết trước, sau?".

Lại nói: "Tu-đà-hoàn cho đến La-hán đều sẽ được thành Phật", vì không hiểu ý ta. Lại, bảy người ở sông Hằng nói rằng: "Quả A-na-hàm có trung sinh bát, v.v...".

"Kinh Niết-bàn này là thuyết hiển liễu, chẳng lẽ hoàn toàn không có hai diệt?"

Lại nói: "Giáo Phật tánh này, khi sắp Niết-bàn, nói là quả xa của chánh nhân, vì nhân sâu, quả xa rất khó tin, cho nên về sau nói kinh Niết-bàn, nhân sâu, quả xa khó tin hình thành chung, vì nói là khó tin nên ở sau cuối".

Sự phán quyết này tức sai lầm. Vì sao? Vì kinh Niết-bàn nói độ Tu-bạt-đà-la, há là người vượt hơn hay sao?

Kinh Di giáo chép: "Nói pháp lần sau cùng, độ Tu-bạt-đà-la, người đã đáng độ, ta đều đã độ xong". Mới nói Di giáo, chẳng lẽ là nhân sâu, quả xa, rất khó tin hay sao?

Lại kinh Đại Thừa Niết-bàn hậu khởi, vì mẹ nói pháp, há lại khó tin, lại hiển bày rõ ràng ư?

Lại, đã nói Phật vì báo ơn mẹ, nên Niết-bàn lại khởi, A-nan hỏi tên, đáp rằng: "Tên là Kinh Mẫu Tử tương kiến, nên giảng nói cho người đời sau, v.v... Chủ thể, đối tượng giải thích này nói về việc báo ơn, khác với giáo trước, ứng với thời giáo thứ sáu, ở đây không lập thời giáo, ở kia làm sao như vậy? Bắt đầu nêu lên bao gồm sau cùng, sự hiểu lầm khác có thể đều có".

3-Phá quyền thật nhất định có ba:

Có nghĩa: "Trong các kinh, luận, cũng nói khác nhau, tất nhiên không có hai thật, quyết định có một quyền, nhưng y cứ theo nghĩa riêng, thì không phải hoàn toàn luống dối. Giải Thâm Mật tồn tại hai diệt mà nói Nhất thừa".

Có kinh nói: "Xiển-đề rốt ráo không có pháp Niết-bàn, v.v... đây là quyền giáo".

Pháp Hoa dứt trừ hai diệt mà nói Nhất thừa. Niết-bàn, nói Xiển-đề có Phật tánh, đây là Thật giáo, nên về nghĩa của các quyền thật, so sánh có sáu:

1) Tin, chê, tội, phước, nhiều, ít, khác nhau.

2) Đã vì nói con người hơn kém khác nhau.

3) Khó hiểu, dễ hiểu, cạn, sâu khác nhau.

4) Phật tự hội thích "có", "không" khác nhau.

5) Quyền, thật đối nhau trước sau khác nhau.

6) Đại, tiểu khác với bán, mãn.

Ba thừa, Nhất thừa, năm tánh, Phật tánh, hai thuyết đối nhau cũng có sáu tướng, nên biết Nhất thừa, Phật tánh là thật; ba thừa, năm tánh là quyền. "Thuyết kia nói không hợp lý, vì cả sáu tướng đều có lỗi. Đầu tiên nói rằng, sự khác nhau của năm tánh khởi tự Tiểu thừa, chỉ một Phật thừa. Pháp Hoa, v.v... nói đều sẽ thành Phật, hiểu rõ ràng, phân minh chỉ ở trong hai kinh Niết-bàn nói rộng, so sánh suy lường: tin hủy, tội phước. Nhị thừa thật diệt, một phần vô tánh, thì không có thuyết này, cho nên biết giáo của Phật tánh Nhất thừa, liễu đạt rõ ràng lại thật. Giáo năm tánh của Ba thừa bị che ẩn bởi quyền; nghĩa là nếu nói về tin, chê kinh liễu, không liễu, tội, phước, thật khác nhau. Sư so sánh, suy lường của Thâm Mật tức là thuyết nhất định, nên biết được Thâm Mật chẳng phải phi liễu nghĩa, mà phán quyết là quyền, há không trái với kinh hay sao?

Lại, có vô lượng các kinh Đại thừa không so sánh suy lường nhiều, há đều là quyền mật? Nếu như vậy, thì y vô thượng của Thắng-man, Như Lai tạng của Lăng-già, đều không có so sánh, suy lường, thì lẽ ra là quyền, chẳng phải liễu.

Lại, kinh Vô Cấu Xưng chép: "Ví dụ như voi, ngựa quá hung dữ, không điều phục được, thêm vào đó các nỗi khổ sở, độc hại, cho đến thấu xương, sau đó, điều phục, cho đến nói rằng: "Dùng những lời nói đau khổ tha thiết như thế v.v... hết lòng răn dạy, khuyến dụ, sau đó, điều phục chúng thú nhập chánh pháp".

Pháp Hoa vì hóa độ Thinh văn căn cơ chậm lụt, mới không nhất định thú hướng về Niết-bàn.

Vì trừ bốn đảo của Thinh văn, nghĩa là Phật thật bát Niết-bàn, nói về lý tánh của Phật, thường tồn tại, dạy bảo thiết thực sao cho họ được điều phục, là người thấp kém. Nếu không như vậy thì chẳng lẽ trước bát Niết-bàn, không có căn cơ nhạy bén, Văn-thù, v.v... có thể vì nói Niết-bàn; đến lúc Niếtbàn, mới có căn cơ nhạy bén; Ca-diếp mới vì nói "thật".

Lại, nếu y cứ vào so sánh, suy lường, tiếp theo, quyết định là quyền thật, giả thuyết này cũng khó so sánh. Vì sao? Vì Pháp Hoa, Niết-bàn đều so sánh, suy lường rộng, tức quyết định là thật, là văn liễu nghĩa của Kim Cương, Bát-nhã, so sánh, suy lường cùng cực phước của tin nhận, v.v... Thắng Thiên Vương Bát-nhã chê bai kinh này, nghĩa là chê mẹ của chư Phật, đại địa ngục vô gián ở mười phương hư hoại, tội báo vẫn chưa ra khỏi. Kinh Đại Bát-nhã, so sánh, suy lường, các chỗ, nhờ kinh này, nên mau được thành Phật. Tất cả công đức, v.v... e rườm rà nên không dẫn đủ. Nếu y cứ vào kinh này v.v..., tức quyết định là thật, là liễu, không chỉ tự trái với đối tượng chấp của mình, mà cũng là trái với kinh.

Nay, không chướng ngại kinh Niết-bàn, v.v... là liễu là chân thật, chỉ không được chấp so sánh, suy lường, nhất định. Thâm Mật, Bát-nhã đều không thừa nhận tánh Nhị thừa quyết định hồi tâm hướng đại, vì tương tự so sánh suy lường để phán quyết Thâm Mật, v.v... là quyền, không phải liễu, ấy là thành lỗi.

Lại, kinh Thâm Mật tự cho là kinh liễu nghĩa, nhằm so sánh, suy lường phi liễu nghĩa, Phật tự nói đây là liễu nghĩa. Sau đó, thay phàm phu phán quyết là phi liễu nghĩa, lẽ ra trí hơn Phật, là lỗi hơn kém của con người.

Nếu nói rằng: "Pháp Hoa chép: "Vào kiếp trược loạn", cho đến nói: "Vì thành tựu các căn bất thiện, nên đối với một Phật thừa, phương tiện nói ba".

Lại, nói rằng: "Sở dĩ chưa từng nói, vì lúc nói chưa đến". Lại nói rằng: "Đối với phương tiện xả chánh trực trong các Bồ-tát, kinh Niết-bàn chép: "Vì không có căn cơ nhạy bén, nên Ca-diếp, v.v... đã thuận theo cơ nghi, dùng phương tiện mở bày ba thừa". Lại nói: "Đại sự như thế, tiểu nhân thấp hèn này không được nghe. Thế nào là Đại? Cái gọi là Tạng bí mật rất sâu kín của chư Phật, gọi là Phật tánh, cho nên biết Nhất thừa, Phật tánh của Pháp Hoa, Niết-bàn là liễu, là Thật, ba thừa một phần vô tánh của Thâm Mật.

Các kinh này tức là quyền, mật. Điều này không hợp lý, vì nếu nói sự hơn, kém của con người là do quyết định phần ít quyền, thật, hiển, mật của kinh, thì phần ít có thể như vậy.

Theo kinh Pháp Hoa, v.v... thì ở sau có nói, đó là người vượt hơn, là thật, là liễu. Thâm Mật v.v... phán quyết rằng lời ở trước là quyền, là mật. Sóng dữ rất tổn hại, như kinh Hoa Nghiêm và luận Bảo Tánh, v.v... đều nói thí dụ như mặt trời mới mọc trước chiếu sáng trên đỉnh núi cao; kế là chiếu sông, chằm, v.v... Như Lai cũng vậy, trước vì Bồtát, sau vì Nhị thừa, v.v... bảy ngày sau khi thành đạo, nói kinh Thập Địa.

Kinh Niết-bàn quyển ba mươi mốt chép: "Ba đứa con, ba ruộng, ba đồ dựng v.v... đều trước hơn, sau kém, há trước nói pháp chưa lâu; sau đều do người kém, pháp nông cạn ư? Lại, khi sắp Niếtbàn, Như Lai nói kinh Di Giáo, v.v... há vượt hơn pháp sâu xa của con người hay sao?

Lại nói: "Vô lượng Đại thừa ở trước Pháp Hoa, vì Bồ-tát nói, chẳng phải người kém thua, pháp nông cạn". Kinh Pháp Hoa biện luận rằng: "Vì công việc mà hàng Thinh văn đã làm, nên Pháp Hoa quyển hai, Như Lai bảo Xá-lợi-phất: "Nay ta lại muốn thầy nhớ lại đạo mà bổn nguyện thầy đã thực hành, vì các Thinh văn nói kinh Đại thừa này, tên là Diệu Pháp Liên Hoa. Đây chẳng lẽ Thinh văn vượt hơn Bồ-tát. Lại, Pháp Hoa quyển hai chép: "Xá-lợiphất! Lúc Phật kia ra đời, dù chẳng phải đời ác, nhưng do bổn nguyện, nên nói pháp Ba thừa, cho đến trong nước kia, lấy Bồ-tát làm đại bảo, người thua kém này, vì nói giáo quyền, cạn cho Ba thừa. Lại, kinh Thâm Mật, v.v... vì Di-lặc v.v... nói, há Thinh văn kém thua hay sao?

Nếu nói rằng, ta y cứ vào con người, một thời giáo khác, sau hơn, trước kém, quyền trước, thật sau, tức Xá-lợi, v.v... hồi tâm hướng đại v.v... là đúng, tức đâu bỏ con người, ở thời giáo khác thì trước hơn, sau kém, trước thật, sau quyền, là sinh, v.v... của nghĩa vượt hơn, nói tánh quyết định, một phần không có tánh, không ngồi đạo tràng, làm sao chấp nghiêng lệch Pháp Hoa, Niết-bàn riêng vì làm sáng tỏ "thật", khó, dễ, cạn, sâu.

Nếu nói rằng: "theo kinh Giải Thâm Mật quyển hai chép: "Vì chưa gieo trồng gốc lành, chưa thanh tịnh chướng, v.v... nên nói: giáo Tiểu thừa, khiến tu phẩm Ngũ Sự Vô Thượng. Năm việc lui sụt đại trí tuệ. Có năm sự của phẩm thượng này, nghe Đại thừa không chê bai. Theo pháp này, thì Tiểu thừa dễ hiểu, Đại thừa khó hiểu. Quyển hai mười bảy chép: "Bồ-tát Thập Trụ không biết tất cả chúng sinh đều có Phật tánh".

Kinh Pháp Hoa quyển hai chép: "Chỉ một Phật thừa, Xá-lợi-phất thầy đối với kinh này còn do niềm tin mà được nhập".

Trí Luận quyển chín mươi ba chép: "A-la-hán thành Phật, luận giả không thể biết được, chỉ có Phật mới liễu đạt được vô tánh, một phần thật diệt của Nhị thừa, thì không có thuyết này. Quyền cạn, thật sâu, là nghĩa quyết định.

"Cũng không nên như vậy, vì Thâm Mật đã vì nghĩa vượt hơn mà sinh pháp quán tự tại, sinh ra thuyết của Bồ-tát Di-lặc, v.v... tức là đủ năm việc của phẩm thượng. Nghe Đại thừa không chê bai, vì không tạo ra thuyết khác, nên quyết định biết là sâu xa, là thật, rằng tánh bất định thì thành Phật; tánh định thì không thành, là chủ thể liễu. Vì Phật tự nói, nên chấp là quyền nông cạn, há không trái nhau, cho nên bị lỗi:

Kinh Vô Thượng Y nói: "Có ba phẩm chúng sinh:

1) Chấp mắc "hữu", chấp mắc "hữu" có hai: Trái với đạo Niết-bàn, không cầu Niết-bàn; ưa thích sinh tử.

2) Đối với ngã, pháp không sinh khát khao, kính mến; chê bai Đại thừa.

Hai thứ này khác nhau: trước là không có tánh; sau là có tánh, chỉ chê bai Đại thừa. Hai luận Phật Tánh, Bảo Tánh đều hội thích rằng không thành Phật. Y cứ vào kẻ chê bai, nói là không hội thích, không có nhân. Người mê không biết, cho là một. Nếu là một, thì sao Phật nói hai, nên biết một phần giáo vô tánh là thật, liễu đạt rõ ràng; thường chìm lặn trong sông kinh Niết-bàn. Thường chìm lặn cũng có hai. Lại, bảy người đều có một.

Lại, kinh Niết-bàn quyển chín chép: "Nếu tất cả vô lượng chúng sinh trong một lúc đều thành Bồ-đề, thì các Như Lai này cũng không thấy một Xiển-đề kia được thành Bồ-đề". Lại, nói: "Như cây khô, như hạt giống rang, v.v... đây là thuyết Hiển, Mật của Niết-bàn, mà nói một phần giáo vô tánh, vì là thuyết quyền, mật, nên bị lỗi lớn.

Hội thích người, không lỗi, như nói rằng: "Giải Thâm Mật kia hội thích hai thời giáo trước, thì Pháp Hoa, Niết-bàn sẽ hội thích Thâm Mật trước, không hội thích Nhất thừa của Pháp Hoa làm phương tiện". Lại, kinh Niết-bàn chép: "Vì Xiểnđề chướng ngại vị lai, nên gọi là vô tánh".

Pháp Hoa chép: "Vì phương tiện nói, nên ở đây, đều là do kinh, luận tự hội thích năm tánh, ba thừa, không có văn nào hội thích Nhất thừa, Phật tánh".

"Thuyết này nói không hợp lý. Kinh Thắngman chép: "gánh bốn gánh nặng, không nghe chúng sinh phi pháp, dùng gốc lành của người, trời mà thành thục họ, tức nói bốn thừa. Lại nói rằng: "Nếu Như Lai thuận theo điều họ mong muốn mà phương tiện nói, thì tức là Đại thừa, không có hai thừa, vì người Nhị thừa nhập vào Nhất thừa, người Nhất thừa tức độ Nhất thừa. Đã nói: "Như Lai thuận theo điều họ muốn mà phương tiện nói, tức là Đại thừa".

Lại, kinh Niết-bàn quyển ba mươi mốt chép: "Một đạo, một vị v.v...". Niết-bàn chép: "Các đệ tử ta không hiểu ý ta, nên tuyên bố rằng: Như Lai nói Tu-đà-hoàn, cho đến A-la-hán đều sẽ thành Phật đạo, và tự hội thích xong, đồng với giải Thâm Mật, Nhiếp Đại thừa, v.v... nói: "Chỉ Nhất thừa là Mật Ý của Phật, cũng hội thích Pháp Hoa. Văn luận nói rõ ràng, Niết-bàn không có văn, vì nói rõ nhất thiết biến của tánh hành, vì nói chướng ngại vị lai, nên gọi là không có tánh, vì là tạm thời.

Kinh Niết-bàn quyển ba mươi hai chép: "Mặc dù ta nói tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, nhưng lời nói như thế, nghĩa là Bồ-tát của thân sau, còn không thể hiểu, nếu nói rằng: "chúng sinh đều có Phật tánh", đây gọi Như Lai thuận theo ngữ ý của mình. Như Lai thuận theo ngữ ý của mình như thế, chúng sinh làm sao hoàn toàn hiểu nỗi?".

Theo ý văn này, nếu các chúng sinh đều có Phật tánh, thì Phật sẽ nói rõ ràng là "có", làm sao Bồ-tát thân sau không hiểu? Thế nào là không được hiểu một cách hoàn toàn? Do đây nên biết, tánh hạnh "có", "không", vì lý chân như cùng khắp, nên nói là tất cả có. Đây là đồng với năm nghĩa của luận Phật Tánh, nên nói Phật tánh. Ba nghĩa của luận Bảo Tánh nói khắp, vì y cứ như lý.

Lại, nói rằng: "Nếu không có quán nhân duyên được thành, thì hàng Xiển-đề lẽ ra phải có quán này.

Theo đây, là thừa nhận không có tánh hành, huống chi Xiển-đề kia tự cho như tâm vốn có, vô lậu không có. Đã là trước kia không có, vô lậu chẳng có nhân, thì sau từ đâu khởi? Nên biết Phật tánh, nhất thừa và kinh, luận tự hội thích. Rằng vì không có hội thích, nên bị lỗi.

Lỗi quyền thật, trước sau: nếu nói rằng: "Quyền, thật đối nhau: quyền trước, thật sau, các chỗ có văn thật trước, quyền sau, cuối cùng không có kinh nào nói". Cách giải thích này cũng không đúng, vì về lý không quyết định; y cứ vào tánh bất định, loại Thinh văn từ tiểu khởi đại; trước ba, sau một, có thể trước quyền, sau thật. Y cứ vào tỏ, ngộ ngay, thỉ chung đều có đại, đâu thể quyền trước chỉ là thật sau.

Đối tượng phán quyết của Thâm Mật, y cứ vào tánh bất định, dần tỏ ngộ tánh mà nói. Lại, Thâm Mật phán quyết bất định rồi, các kinh Đại thừa trước kia đều ẩn, mật. Pháp mật thuyết như bốn bộ A-hàm, v.v… là có, ngoại trừ chấp "ngã". Các mật thuyết của Bát-nhã, v.v... đều là "không", trừ pháp chấp nhỏ, bày ra chẳng phải "không", "hữu", mới vì nói rõ ràng, tức Hoa Nghiêm dù nói trước, nhưng thuộc về thời giáo thứ ba; kinh Di giáo dù nói trước nhưng có thể thuộc về thời giáo thứ ba; kinh Di giáo dù nói sau nhưng có thể thuộc về thời giáo thứ nhất, do giảng nói "không" "hữu" không rõ ràng, nên chỉ nói bốn đế, vì quyết định không có khác, như đối tượng phán quyết của giải Thâm Mật kia, thì Hoa Nghiêm lẽ ra là quyền, ví nói ở trước; Di giáo lẽ ra là thật, vì nói minh ở sau. Lại, đối với bất định, cũng trước nói thật. Như kinh Pháp Hoa chép: "Thinh văn được độ, đều trước nghe đại, sau, phát tâm tiểu, lấy dĩ vãng làm tiêu chuẩn cho hiện nay, vì tánh Thinh văn, trước thật, sau quyền, làm sao phán quyết nhất định trước quyền, sau thật? Pháp chư Phật tồn tại lâu dài, về sau, phải nói chân thật, y cứ ở người bất định; Tỳ-ni "khai" trước; Niết-bàn "già" sau, đại, tiểu khác nhau. Thâm Mật đã không phải giáo tiểu, không chuyên vì Thinh văn, sao lại phán quyết sai lầm là quyền, thật?

Lại, bảy ngày đầu, Như Lai nói Thập địa, sau hai mươi mốt ngày, nói giáo bốn đế, há có thể trước nói quyền, sau là thật? Nên biết là lỗi lớn; lỗi bán, mãn của đại, tiểu. Nếu phán quyết tiểu là bán, là giáo quyền, mật, thì sẽ y cứ vào một loại để nói; các lỗi này thì có thể như thế, và y cứ theo Thâm Mật, luận Du-già, v.v... vì giáo quyền, mật tùy chuyển của Du-già kia, là lỗi lầm rất lớn? Vì sao? Vì Phật tự nói là giáo liễu, nghĩa nay phán quyết cho là quyền, mật. Lại nói: "một phần không có tánh là nghĩa Tiểu thừa: Theo phẩm phá Tiểu thừa của luận Phật Tánh chép: "Nếu nói theo bộ phân biệt, thì tất cả chúng sinh phàm Thánh đều lấy "không" làm gốc, đều vì từ "không" phát ra, nên "không" là Phật tánh; Phật tánh, tức đại Niết-bàn; Theo Tát-bà-da v.v... thì tất cả chúng sinh không có tánh được Phật tánh, chỉ có tu được Phật tánh, cho nên Du-già nói không có y cứ vào giáo hữu bộ, mà luân Phật tánh đả phá. Nếu như vậy, thì Phật tánh, Niết-bàn nói có Phật tánh, lẽ ra cũng y theo bộ phân biệt, Niết-bàn cũng nói: "Đệ nhất nghĩa Không là Phật tánh. Luận Du-già bác bỏ, nếu thừa nhận như vậy, thì làm sao chấp cố định? Trong luận Phật Tánh nói có Phật tánh, là hiển là thật, thuộc về thời giáo thứ năm. Nếu nói rằng trong luận Phật tánh dù bác bỏ "vô", nhưng vì không đồng với chấp "có" của bộ phân biệt, nên chẳng phải đối tượng bác bỏ của Du-già. Lẽ ra Du-già dù nói một phần "vô", nhưng không đồng với chấp "không" của hữu bộ, chẳng phải đối tượng bác bỏ của luận Phật Tánh. Lại, luận Phật tánh rõ ràng tự nói phân biệt bộ, v.v... là "có", Tát-bà-đa, v.v... là "không", nên nói có Phật tánh, tức không dựa vào Đại thừa, để phá Tiểu thừa".

Trong luận Du-già không có đối biện, do lý nào mà biết được? Dựa vào Tiểu thừa để lập "không", bác bỏ thuyết "có" của Tiểu thừa. Lại, Tát-bà-đa lập không có tánh được Phật tánh". Du-già "có" thì tánh "có", "không" thì tánh "không", đâu đồng với thuyết Hữu bộ, vì đều cần Tiểu thừa, nên bị lỗi lớn. Lại, phán quyết Du-già và Nhiếp luận v.v..., chỉ giải thích Quyền giáo.

Y cứ gì là định? Phát trí lục túc giải thích kinh Tiểu thừa. Trung luận, Bách luận, v.v... giải thích về Bát-nhã đồng thời luận rõ về văn, mọi người đồng thấy rõ. Du-già, Hiển Dương, luận Đại Trang Nghiêm; luận Bồ-đề Tư lương, v.v... đều không thừa nhận sự hồi tâm của định tánh; một khi phân biệt hữu tình không có tu hành Phật tánh, thì nên phán quyết là vì giải thích quyền giáo, không phải kinh Đại thừa. Cứ như thiên ái biết, chẳng được người trí chấp nhận.

Lại, ý nghĩa của luận Phật Tánh và luận Bảo Tánh rất đồng nhau: luận Bửu Tánh quyển một, nhằm giải thích rõ ràng kinh Như Lai Tạng; còn luận Phật Tánh quyển tư thì dẫn Thâm Mật giải thoát. Lại, nói về thể của Phật tánh kia tức là ba tánh. Y cứ kinh giải Thâm Mật. Lại, nói về thể của

Phật tánh kia tức là ba tánh. Theo kinh giải Thâm Mật, không có liễu đạt rõ ràng, giải thích ngữ Niếtbàn, đâu chỉ Niết-bàn nói riêng về Phật tánh? Như Lai Tụng, v.v... không phải là Phật tánh hay sao?

Luận Phật Tánh, v.v... giải thích về thời giáo thứ năm. Than ôi, thương xót thay! Các pháp Đại thừa đều Niết-bàn. Phàm phu buông lung, khinh lờn Thánh giáo!".

4-Phá vọng, thông kinh:

Có thuyết nói: "Thiện giới, Địa trì, Du-già, v.v... nói về người "không có chủng tánh" là y cứ nói khách tánh, chứ chẳng phải bản tánh. Vì sao biết được? Vì kinh tự giải thích rằng: "Tánh Bồtát, là sơ phát tâm và ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Vì sao? Vì Bồ-tát phát tâm Bồ-đề, chính là căn bản của tất cả pháp lành. Cho nên gọi là phát; nhân phát tâm này mà được A-nậu-Bồ-đề, cho nên gọi là nhân. Nhận phát tâm đầu tiên, quyết định, tất nhiên sẽ được A-nậu-Bồ-đề, cho nên gọi là Tánh.

Đây là giải thích sơ phát tâm, do ba nghĩa có riêng ba thứ gọi: phát tâm tập, chủng, tánh. Đủ ba nghĩa này, phát tâm của vị trước chỉ có nghĩa nhân, không có hai nghĩa còn lại. Tuy nhiên, kinh nói: "Nếu người nào không có tánh Bồ-tát, thì cho dù phát tâm siêng năng tu hành tinh tấn đi nữa, thí cuối cùng vẫn không thể được A-nậu-Bồ-đề". Ấy, nghĩa là vì y cứ ở vị trước nói, chưa đề cập đến chủng tánh. Mặc dù nhẹ nhỏ, không có quyết định, nhưng sẽ được năng lực kham nhẫn và trì viên mãn, gọi là "vô tánh", chẳng phải là không làm nhân cho phát tâm, mà gọi là không có chủng tánh. Cách lý giải ở đây đồng với quan điểm nhận xét của kinh Nhân Vương, Anh Lạc, v.v...

"Cách giải thích này không hợp lý, bởi vì nếu là "chủng tánh Vị Chí" không có năng lực quyết định, cuối cùng trì viên mãn, rằng cuối cùng không được. Gọi là vô tánh, sao kinh nói rằng, nhận phát tâm đầu tiên quyết định, tất nhiên sẽ được A-nậuBồ-đề, cho nên gọi là Tánh. Cứ như văn kinh này, tức sơ phát tâm, gọi là Tánh, tức nhân tâm ban đầu có thể được Bồ-đề; rằng, không đến chủng tánh gọi là vô tánh, chưa đến kham nhẫn và trì viên mãn, nói rằng, cuối cùng không được, há không trái với văn kinh hay sao?".

Luận Địa Trì chép: "Y cứ vào phát tâm ban đầu, tu hành sáu độ, gọi là Bồ-tát thực hành trì phương tiện. Dựa vào thực hành phương tiện đầy đủ Bồđề. Cho nên, thực hành phương tiện gọi là Đại Bồđề. Địa trì, Du-già cũng đồng quan điểm này.

Hơn nữa, nhân của vị sau, đầu tiên mới có, nói rằng: "Cuối cùng không được", há không trái ngược lại ư? Lại, do trước trước, mà có được sau sau, sao kinh lại nói rằng: "Cho nên phải biết rằng, không phải vì nhân phát tâm siêng năng tu tinh tấn, nên có tánh Bồ-tát" đã trái với nghĩa kinh, tất nhiên lỗi sai lầm sẽ quá lắm; cũng không được nói: "Không phát tâm, nói rằng vô chủng tánh", vì kinh nói: "Chẳng phải do phát tâm, mà có tánh Bồ-tát".

Luận Địa Trì chép: "Chẳng phải người của chủng tánh vì không có chủng tánh, nên cho dù có phát tâm hết lòng tu tinh tấn, cuối cùng sẽ không được A-nậu Bồ-đề". Cho nên, phải biết rằng, dù không phát tâm, không tu hành phương tiện, cũng được gọi là Trì chủng tánh".

Luận Du-già chép: "Trụ trong Bổ-đặc-già-la vô chủng tánh, vì vô chủng tánh, nên dù có phát tâm và thực hành gia hạnh làm đối tượng y chỉ, nhưng chắc chắn sẽ không có khả năng viên mãn Vô thượng Bồ-đề. Do lý này, nên chưa phát tâm, chưa tu gia hạnh mà Bồ-tát đã thực hành. Nếu có chủng tánh thì phải biết rằng, đối với chủng tánh kia mà được gọi là trì. Lại, có chủng tánh, nếu chưa phát tâm thì không thể được mau chóng, không được nói rằng: "Cuối cùng không thể được", nên Du-già tiếp theo nói rằng: "Lại, trụ trong Bổ-đặc-già-la chủng tánh, nếu người nào không phát tâm, không tu hạnh Bồ-tát, thì dù có khả năng cũng không thể mau chứng Vô thượng Bồ-đề.

Nay y cứ vào phần vị nói rằng: "Vì vô chủng tánh", nên biết là hiểu lầm. Lại, nói rằng: "Luận Du-già, v.v... nói rằng vô tánh, nghĩa là nói theo khách tánh". Với nghĩa lý tự lập kia, tâm là bổn tánh; vốn thực hành hạt giống vô lậu là khách tánh; khách tánh tự thừa nhận đầu tiên là vô".

Du-già, v.v... nói là "vô" tức hợp với liễu nghĩa, sao lại phát quyết là không liễu. Do không thể biết hai thứ chủng tánh.

1) Tánh chủng tánh, tức pháp nhĩ (là có).

2) Tập chủng tánh, tức hạt giống pháp nhĩ.

Tùy duyên khởi hiện, huân tập hạt giống mới, gọi là Tánh tập.

Kinh Thiện Giới chép: "Tánh có hai thứ:

1) Bổn tánh.

2) Khách tánh.

Nói bản tánh: Ấm, giới, sáu nhập, theo thứ lớp nối nhau, pháp tánh vô thỉ, vô chung, tự như thế, đó gọi bản tánh, tức là trước kia nói rằng: "Cho nên, phải biết rằng, chẳng phải do phát tâm mà có tánh Bồ-tát".

Luận Địa Trì nói: "Mặc dù không phát tâm, không tu phương tiện gia hạnh, nhưng cũng vẫn được gọi là chủng tánh trì; đã tu tất cả pháp lành, tức là khách tánh".

Luận Du-già chép: "Từ đời vô thỉ, lần lượt truyền đến nay, pháp nhĩ đã được, gọi là tánh chủng tánh. Nếu từ trước đến nay do tu điều lành mà được, thì gọi là Tập tánh. Pháp tánh tự như thế, tức là bản tánh".

Kinh Thiện Giới chép: "Không phải do phát tâm mà có tánh Bồ-tát, nghĩa là do bản hữu, nên nói là chủ. Vì tập giống mới khởi, nên gọi là khách", đồng với luận Địa Trì. Mở đầu của luận kia, giải thích khác, rộng vì khó nêu, luống lập ra siêng năng khó nhọc. Lại, do nói không liễu đạt pháp tánh tự như thế, sắp tạo ra chân như, Phật tánh. Nếu chân như nói là vô thỉ, vô chung thì về mặt lý, tức có thể như thế, sao kinh Thiện Giới lại chép: "Theo thứ lớp nối nhau?".

Luận Địa Trì chép: "Lần lượt truyền đến, dẫn rộng văn kinh là tánh chân như, hoài công vô ích. Dưới đây, sẽ biểu thị rõ". Lại nói: "Giải Thâm Mật quyển hai chép: "Hoàn toàn thú hướng tĩnh lặng, không ngồi đạo tràng. Các thọ trong vô dư y, mãi mãi dứt hết".

Luận Du-già chép: "Trong vô dư y chỉ có chân như, không có các nghiệp tạo tác. Nói theo Tiểu thừa, do trước bốn mươi năm, Phật chưa nói nhị thừa không có Niết-bàn thật; bỏ thân phần đoạn, có biến dịch riêng, chúng sinh không có đoạn, vì Thâm Mật đã ở trước, nên thừa nhận Nhị thừa thú hướng vắng lặng thật diệt".

Cách giải thích này cũng phi lý, vì Thâm Mật tự phán quyết kinh Bát-nhã v.v... cũng không phải liễu nghĩa; Nay, thời giáo thứ ba là chân liễu nghĩa, đâu chịu lại theo giáo Tiểu thừa nói diệt thật của Nhị thừa? Thắng nghĩa được khen ngợi là chân liễu nghĩa. Lại, nếu chẳng phải thật Bồ-tát Di-lặc, dẫn trong luận Du-già làm quyết trạch, thì có thể sẽ không hiểu hội thích, đến thời đại sau, mới hiểu suốt qua kinh phán quyết rằng: "Di-lặc bỏ "thật", mở rộng "quyền", sự sâu xa chưa thể". Lại nói: "Trước nói không diệt sau Phật diệt độ; không diệt sau tín là liễu nghĩa. Trước kia đã nói quyết định. Nay, hồi tâm, đâu riêng gì không tin, mà nói quyết định".

Điều này so sánh khác nhau, vì chỉ có giáo Tiểu thừa chắc chắn nói là Phật diệt độ. Kinh luận Đại thừa đều thừa nhận chẳng phải chân quyết định, tất nhiên không hồi tâm, vì kinh, luận Đại thừa nói chung, quyết định không hồi tâm, biến dịch chẳng phải thọ riêng thân; một phần diệt thật phẩm hạ của Nhị thừa, bảo cho biết chính phẩm trung, rộng phân biệt".

Lại, nói: "kinh Đại Bồ-tát Tạng quyển năm chép: "vì chúng sinh của nhóm tà định chẳng phải pháp khí, nên nếu Như Lai nói pháp cho họ nghe, hoặc không nói, cuối cùng, họ cũng không có khả năng gánh vác, chứng giải thoát. Như Lai biết như thật hữu tình kia chẳng phải đồ đựng pháp, ấy là xả bỏ".

Thế Thân giải thích: "Cõi ác gọi tánh tà quyết định, nhập cõi ác, gọi là định tà; Niết-bàn gọi là tánh chánh; được định Niết-bàn, gọi Niết-bàn chánh định. Đã khước từ, xả bỏ cõi ác, về sau, khi xuất định, ra khỏi cõi ác, thì chẳng phải nhóm định tà. Khi là nhóm định tà, thì Như Lai gác qua, khi chẳng phải định tà, thì Bồ-tát hóa độ, nên biết là chẳng phải rốt ráo là vô tánh".

Đại Tập quyển mười chép: "Vì người tà định, Như Lai dùng phương tiện giảng nói, sao cho họ phá tan tà định. Không có người lành, bảo gieo trồng gốc lành, không có đồ đựng pháp, khiến tạo ra đồ đựng pháp (pháp khí); vì người pháp khí, giảng nói Bồ-đề".

Thuyết kia nói, cũng không hợp lý, vì ý hai thuyết của kinh Bồ-tát tạng và Đại Tập khác nhau, Bồ-tát Tạng nói: "Nếu Như Lai vì hữu tình kia nói pháp, hoặc không nói pháp, thì sau cùng, vẫn không có khả năng gánh vác, chứng giải thoát. Biết chẳng phải pháp khí, mà xả bỏ, y cứ theo vô chủng tánh, thì không được Niết-bàn, rằng, chẳng phải pháp khí, nên bèn xả bỏ, chẳng phải hoàn toàn xả bỏ, cũng khiến hữu tình kia sẽ được thú vui của người, trời. Nếu là cõi ác thì gọi là tà định. Người mà Phật xả bỏ, thì sao Bồ-tát thị hiện thân trong sáu đường? Há cho từ bi của Bồ-tát vượt hơn Phật? Lại, nếu nói: "Khi ở tà định cõi ác, Phật bèn xả bỏ; ra khỏi cõi ác xong, khi không phải định tà, Phật, Bồ-tát hóa độ, há chẳng phải diệt, xả bỏ bi nguyện của các Thánh hay sao?

Kinh Đại Tập chép: "Vì người tu định, phương tiện giảng nói, sao cho họ tự phá hoại định tà. Không có người lành, bảo gieo trồng hạt giống lành; không có người pháp khí, thì khiến đào tạo pháp khí, giảng nói Bồ-đề. Đây là y cứ theo người có tánh, được thọ ký Niết-bàn. Do tạo ra năm tội nghịch, v.v... nên gọi là Tà định. Giả thuyết là có tánh, kẻ dứt gốc lành, cũng gọi là nhóm định tà.

Do dứt trừ gốc lành và năm tội nghịch, v.v... chưa có nhiều rộng, mới hun đúc hạt giống lành, nói rằng không có người lành (hạt giống lành); chưa đến thành tựu, nói rằng chẳng phải pháp khí. Nếu không như vậy, thì sao kinh Bồ-tát Tạng nói xả bỏ định tà?" Đại Tập chép: "Phương tiện vì nói cũng không được nói, y cứ phát ra định tà trong kinh Đại Tập, nếu phát ra định tà, ấy là chẳng phải định tà; nói là định tà, là phương tiện giảng nói, do không thể biết ba nhóm mà kinh, luận đã nói có khác nhau, tạo ra phẩm hạ của kinh chung này, biểu thị chính phẩm trung, rộng vì chỉ bày. Lại, nói rằng: "kinh Ương Quật-ma-la quyển hai chép: "Sao gọi là tà định?

Nghĩa là Phật không thể hóa độ. Lại, tiếp theo phẩm hạ chép: "Nói định tà, nghĩa là Nhất-xiển-đề. Chánh định, nghĩa là Nhị thừa, Bồ-tát; người dứt mất gốc lành, gọi là Nhất-xiển-đề. Khi gốc lành được nối nhau rồi, thì không phải Nhất-xiển-đề. Khi đoạn, thì gọi là không thể trị; nối nhau rồi, là có thể trị".

Niết-bàn quyển ba mươi ba chép: "người Nhấtxiển-đề mà không thể cứu khổ địa ngục, gọi là không thể trị; tạo ra hạt giống đời sau, lại gọi có thể trị. Vì tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, nên không thể trị. Nói gần, chẳng phải xa, cũng không đúng như thế".

Kinh Ương-quật-ma-la chép: "Đối với nhóm tà định, Phật không thể hóa độ, vì không có chủng tánh". Khác với kinh Niết-bàn quyển ba mươi ba, vì tạo ra nhân đời sau, tức là công năng hóa độ. Lại, kinh Niết-bàn quyển mười chép: "Như sừng dê trắng, v.v... Xiển-đề đồng với kinh Ương-quật. Lại, Nhất-xiển-đề chẳng phải chỉ dứt mất điều lành, chỉ sắp nối tiếp gốc lành nói là có thể trị, thuyết này còn có thuyết khác. Lại, Nhất-xiển-đề dù có việc lành tương lai, nhưng không thể chống chế nỗi khổ địa ngục; vị lai có thể thoát khỏi? Vì y cứ vào quả báo nhất định mà nói, nếu chẳng phải quyết định nỗi khổ của địa ngục thì có thể cứu chữa. Không như vậy, thì sao có ở hiện tại, hoặc là ở vị sinh tử, kể cả căn lành riêng nối nhau của đời sau. Lại, như năm tội nghịch, gọi là nghiệp Vô gián, tạo nghiệp rồi, chắc chắn phải đi qua cõi ác để chịu báo". Kinh luận lại chép: "Năm tội nghịch, bốn tội trọng, ăn năn, đều diệt trừ, không đi vào đường ác, sinh lên cõi người, trời, v.v... Đây là do quả nghiệp có định, bất định; ở trong định, lại có thời gian, quả báo khác nhau. Kinh một bề nói, hiểu cũng có thừa; vì nói có Phật tánh, nên cũng không thể trị. Người kia, vì không hiểu Xiển-đề có nhiều thứ, nên hiểu lầm phẩm dưới của kinh chung, biểu thị trong chính, sẽ chỉ bày rõ. Lại nói rằng: "kinh Thiện Giới quyển ba chép: "Điều phục chúng sinh có bốn thứ: 1) Tánh Thinh văn thừa, được đạo Thinh văn.

2) Tánh Duyên giác thừa, được đạo Duyên giác.

3) Có Phật tánh được thành Phật.

4) Có tánh người trời, được thú vui của người, trời".

Địa trì quyển hai, Du-già quyển ba mươi bảy nói đều đồng nhau, nhưng điều phục có sáu:

1) Điều phục tánh.

2) Điều phục người.

3) Nói bản tánh, đến giai vị phát tâm. Điều phục người nói bốn khách tánh. Bản tánh nói xa, tất cả đều muốn Bồ-đề, khách tánh nói gần, có bốn thứ khác nhau, nên kinh nói: "Điều phục tánh vì có hạt giống lành, nên tu pháp lành; vì tu pháp lành, nên phá hoại hai chướng. Vì tu pháp lành, nên thân, tâm thanh tịnh. Vì thân, tâm thanh tịnh, nên hoặc gặp bạn lành, hoặc không gặp đều có khả năng hủy hoại hai chướng, như mụn nhọt đã chín muồi, dù gặp thầy thuốc, hay không gặp đều có thể được lành; tất cả chúng sinh cũng giống như thế, tu hành, cuối cùng khi được Bồ-đề, đây gọi là thành thục, gọi là điều phục tánh.

Đã nói điều phục bản tánh rồi; Mật Ý nói tất cả chúng sinh đều sẽ thành Phật, đồng với luận Pháp Hoa và kinh Thập Pháp, Thinh văn định tánh, do nhân Phật tánh được thọ ký sẽ thành Phật.

1- Điều phục người: có bốn, đã nói như trên; nên biết điều phục con người là nhân gần. Có tánh người, trời, v.v... đều là vì gần. Đã không có tánh người, trời, sau có tánh người trời, nên biết trước không có tánh ba thừa; sau được tánh ba thừa".

"Thuyết này nói cũng phi lý, vì nói điều phục tánh, là nói chung, xưa nay tự tánh pháp nhĩ".

2- Điều phục chúng sinh tức nói đối tượng điều phục, nên Du-già chép: "Bổ-đặc-già-la đã thành thục, lược có bốn hạng. Y cứ vào sinh, nói tánh, "có", "không" khác nhau, tánh đại, tiểu khác nhau. 3-Điều phục hành: Nói Bồ-tát tu hành có khác nhau, nghĩa là tu trí tuệ, v.v... các căn của thân vượt hơn.

4- Điều phục phương tiện, nói về Bồ-tát tu có ba mươi hai phương tiện.

5- Điều phục thành thục, nói về chủ thể thành thục và đối tượng thành thục.

6- Điều phục thành thục dấu ấn, tức nói về đối tượng thành thục. Người đã thành thục tất cả tướng ấn, rõ ràng như kinh, luận, vì rườm rà, nên không dẫn chứng. Cho nên điều phục tánh và điều phục người, không y cứ vào xa, gần. Nếu nói rằng: "Điều phục tánh nói về tánh xa, là bản tánh của chúng sinh.

Điều phục hai sinh, tức là tánh gần, tánh khách của chúng sinh. Tất cả chúng sinh đều có bản tánh, đều sẽ thành Phật. Vì sao gần? Vì ba thừa đã thành thục tánh.

"Vì sao thức ăn nhơ để trong đồ đựng báu? Vì muốn thực hành đại đạo và bảo cho biết nẻo tắt nhỏ hẹp. Người bệnh kia không có bệnh nhọt, thì đâu làm tổn hại nó. Lại, nói tánh gần, vì người khác có là vốn tự thành".

"Nếu nhân người khác có thì sao luận Địa Trì lại nói: "Người có tánh Thinh Văn, do Thinh Văn thừa mà thành thục tánh mình, v.v... Vì sao không nói: "Không có tánh Thinh văn, do tánh Thinh văn mà thành thục? Nếu nói rằng, do y cứ vào mình mà có thì đó là do Thinh văn thừa mà thành thục. Nếu vậy, thì vì sao lại nói rằng: "Người không có chủng tánh, thì do khéo thú hướng mà thành thục, không nói do tánh Thinh văn thừa bình đẳng mà thành thục".

Nếu nói rằng, đã không có tánh thì làm sao thành thục được? "Nếu vậy, "thì" đã không nói, vào lúc nào sẽ được "có"?"

Lại nói rằng: "Đã "không có" tánh người, trời, thì về sau sẽ có tánh người, trời, nên biết trước không có tánh Ba thừa, sau được tánh Ba thừa. Đây là so sánh giả dối để lập, không hề có văn nào chứng minh trước không có chủng tánh người, trời; sau khiến cho có chủng tánh người, trời. Nếu đã thừa nhận đầu tiên "không có", sau, khiến cho "có", thì tức cõi người, trời có sau Phật, tức lẽ ra phải có bắt đầu. Lại, chủng tánh người, trời, cảm sinh đắc thiện. Sinh đắc thiện: sinh tức là "đắc", há trước "không có"; sau người khác làm cho có ư? Kiếp hoại có sinh người, trời, há là Phật dạy hay sao?

Nếu nói rằng, luận Trí Độ chép: "Người không trụ Niết-bàn, vì chấp mắc trong phước, vui của người, trời, làm ra nhân Niết-bàn, nên biết không có nhân, về sau, lại "có" tánh".

"Cách giải thích này cũng không phải như vậy, vì luận Trí Độ chép: "vì với nhân tạo ra Niết-bàn, nên biết không có nhân, sau lại "có" tánh".

"Điều này cũng không phải như vậy, vì luận Trí Độ chép: với người tạo ra nhân Niết-bàn, y cứ không có hiện hành mà nói, thì chẳng phải không có hạt giống, không có quả hạt giống sinh, vì không hợp lý".

Lại, rằng: "Tuy nói cho thú vui người, trời, tức có tánh, không có tánh khác nhau, tức văn đã dẫn rằng: "Dùng việc lành của người, trời mà thành thục, không phải là lượng nhất định".

"Ở đây cũng không đúng, vì luận là lượng nhất định. Vì sao? Vì Trí Luận chép: "Người không trụ Niết-bàn, thì đặt trong tánh người, trời, để làm nhân Niết-bàn, chẳng nói là không có chủng tánh, dùng gốc lành của người, trời mà thành thục, tạo ra nhân Niết-bàn, là nhân của ba thừa mà thành thục. Lại, nếu nói rằng: "Không thừa nhận quả không có giống được sinh, thì vì sao kinh Lăng-già chép: "dứt gốc lành vô tánh sau được Niết-bàn, nên biết sau vô nhân, lại có tánh".

"Điều này cũng không đúng, vì Bồ-tát đại bi cũng ở trong đây, chẳng lẽ không có Phật tánh, mà gọi là vô tánh, nên biết đại bi thấy chưa thành Phật, nói là "vô"; đoạn thiện, thấy đoạn, nói rằng chẳng phải không có hạt giống cũng không được".

Vặn hỏi rằng: "Nếu có nhân Niết-bàn, thì vì sao vướng mắc trong thú vui của người, trời; tạo ra nhân Niết-bàn?".

Kinh Thiện Giới chép: "Có tánh của ba thừa, vì điều phục ba thừa".

"Giải đáp này cũng không đúng. Vì há có nhân Niết-bàn, đều có thể thành Thánh ngay, không có nhàn rỗi. Vì không thành Thánh, nên đặt để ở người, trời".

Luận Bát-nhã của Vô Trước chép: "Người sinh xứ tai nạn, vì chờ đợi thời gian". Ý luận này nói: Sinh ra thấy mình ở chỗ tai nạn, chờ đợi sinh người, trời, rời chỗ tai nạn xong, mà thành thục mình, là hiểu lầm rằng thông kinh Thắng-man, vì so sánh với kinh này có thể như thế. Lại, nói rằng: "Du-già quyển năm mươi hai gọi là không có pháp Niết-bàn, và luận Trang Nghiêm quyển sáu mươi bảy, phần thứ nhất chép: "Không có pháp Niếtbàn: nghĩa là nói theo khách tánh, chứ chẳng phải y cứ ở bản chánh nhân, bản chính đồng có, không thể phân chia con người, khách tánh, "có", "không" khác nhau. Vì y cứ ở sự khác nhau của tánh này, nên kinh Ưu-bà-tắc giới quyển 1 chép: "Do Bồ-đề có thượng, trung, hạ nên Bồ-đề chẳng phải "bản hữu" (vốn có)".

Cách giải thích này cũng không đúng, vì thuyết này nói: "Quả Phật kia do nhân mà được, mà nói rằng chẳng phải bản hữu; giả thuyết nếu nói nhân, y cứ vào mới huân tập khởi, không như vậy, làm sao đồng có bổn chánh nhân, bắt đầu khiến trở thành ba phẩm, lỗi như trước đã nói".

Lại nói: "Bồ-tát phát tâm có được tên gọi, không do bản tánh, nên so sánh mà biết, được tánh danh của ba thừa không do bản tánh, nghĩa này không đúng, vì danh là giả thiết không có tánh thật của nó, nên nói rằng không do tánh".

Luận Nhiếp Đại Thừa chép: "Danh nghĩa là làm khách lẫn nhau, sự việc ấy, cần phải tầm tư, không phải chủng tánh của Bồ-tát kia, vì pháp thể không khác nhau. Lại, chẳng phải không có bản tánh, và do phát tâm mới bắt đầu được, là trái với kinh Thiện Giới chép: chẳng phải do phát tâm mà có tánh Bồ-tát. Nếu y cứ ở vị chung, thì như trước đã không đúng. Hơn nữa, dẫn điều phục con người, cũng như trước không đúng. Lại, dẫn Nhiếp luận chép: "Chướng đủ mà nhân thiếu, thì chư Phật sẽ không tự tại". Luận Du-già hoặc nói theo chướng; hoặc nói theo nhân, hai thuyết khác nhau, đều chẳng phải bản tánh: "Vậy, y cứ vào đâu để làm chứng thuyết minh. Nếu chẳng phải bản tánh, thì sẽ không phải đều càng có "không" để nói, tức có thể biểu thị rõ nhất định. Lại, nói rằng: "Cuối cùng, Xiển-đề, y cứ vào luận Bảo tánh nói rằng: "Vì do vô lượng thời gian, nên nói rốt ráo không có pháp Niết-bàn. Kinh Niết-bàn; luận Phật Tánh cũng nói như vậy. Về sau, quyết định phát tâm đều được thành Phật.

Các thuyết này đều nói theo thời gian, chẳng phải rốt ráo. Vì sao biết được? Vì kinh Vô Thượng Y chép: Có ba phẩm chúng sinh:

-Chấp "hữu". Lại có hai thứ:

1- Trái với đạo Niết-bàn, không có tánh Niếtbàn, không cầu Niết-bàn, ưa thích sinh tử.

2- Đối với ngã, pháp không sinh khát khao, kính mến, chê bai Đại thừa, này A-nan các chúng sinh này, không phải đệ tử ta, Phật chẳng phải là thầy họ, cho đến nói rằng: "Dùng sinh tử để chuyển biến, tạo tác, ở bờ mé sau, rơi vào lưới Xiển-đề, không thể tự thoát ra khỏi; trước kia là không có tánh, dù có tánh, nhưng vì căn cơ chậm lụt, trong thời gian dài, chê bai Chánh pháp, không tin. Hội thích trong luận Bảo Tánh, người thứ hai này chẳng phải người thứ nhất, rằng: "Vì kẻ hồi chuyển chê bai pháp, vì nói vô lượng thời gian, nên chẳng phải thứ nhất. Nếu không như thế, thì vì sao phân tích làm hai". Lại, luận tự nói rằng: "Nếu không có nhân duyên sinh tâm như thế, thì nhất Xiển đề đều không có nhân duyên sinh tâm như thế, thì nhất Xiển đề đồng không có tánh Niết-bàn, lẽ ra phải phát tâm Bồ-đề. Không như vậy, thì không nên tạo ra đủ hai thuyết trong kinh, luận. Nếu nói rằng, luận tự hội thích, e đó là định. Trang Nghiêm, Phật Địa cũng nói rõ về người vô tánh, rốt ráo không thành Phật". Vì sao không nhất định? Vì nên biết cả hai thuyết đều y cứ vào tánh riêng, nhưng không trái với kinh luận. Nếu nói rằng, trong kinh Niếtbàn, Phật cũng tự hội thích vì chướng ngại vị lai, nên nói là không có tánh, tất nhiên, vì sẽ được, nên gọi là "có" tánh, cũng không hợp lý, vì đây là nói theo thời gian, tất nhiên sẽ được, chứ chẳng phải cuối cùng, nghĩa là nếu không như thế, thì vì sao luận Phật quyển mười.

Địa chép: "Dù cho tất cả vô lượng chúng sinh trong một lúc đều thành A-nậu Bồ-đề thì các Như Lai cũng không thấy Nhất-xiển-đề kia được thành Bồ-đề".

"Chư Phật có lúc diệt tận, có thể nói rằng: "Người này vì suốt thời gian dài không thấy Phật, khi không có Niết-bàn, sao lại nói là không thấy?" Do đây, nên biết có rốt ráo "là vô tánh". Ở luận Trang Nghiêm soạn rộng, hội thông, luống uổng lập ra sự siêng năng khó nhọc. Lại, dẫn Nhiếp Luận rằng: Đệ tử bậc Thánh nói: "Người này hoàn toàn không có chút gốc lành mà xả bỏ; Phật quán biết là có mà độ thoát họ, biết có một ít nhân nhỏ nhoi không đủ". Luận Trang Nghiêm chép: "Nhân không đủ, tức là một ít gốc lành nhỏ nhoi của chúng sinh khác, không có một chút gốc lành nhỏ nhoi này, được gọi là kẻ rốt ráo vô tánh".

"Nghĩa này cũng không đúng, vì không có một chút gốc lành nhỏ nhoi ngần ấy, về sau sẽ thành Phật, thì lại là thời gian, đâu gọi là rốt ráo? Vì kẻ chưa từng khởi được một chút gốc lành nhỏ nhoi, chính là hoàn toàn làm hành vi ác, thuộc về thời gian, chẳng phải rốt ráo không có tánh. Nếu nói rằng rốt ráo về sau sẽ không thành Phật thì vì sao tiếp theo ở dưới lại nói rằng: "Đã nói: "vô tánh" tiếp theo, nói: "Khiến nhập". Nghĩa này cũng không đúng".

Nói khiến nhập: nghĩa là do văn luận kia, trước nói có tánh; sau nói vô tánh, là thuyết đối nhau "có", "không". Kế là, nói khiến nhập, nghĩa là nói có tánh khiến nhập. Không như vậy, thì sao lại nói rằng: "Nếu không có tánh khác nhau, thì sẽ không có thừa khác nhau v.v...". Lại nói rằng: "Nhiếp Luận nói: Chướng đủ mà nhân thiếu, chư Phật không được tự tại". Luận vô tánh giải thích: "chướng đủ, nghĩa là nghiệp phiền não, dị thục thiếu nhân. Các nhân không có Niết-bàn, chướng đủ, dù Đức Phật trước không tự tại, nhưng Phật sau có tự tại.

So sánh nhân thiếu: nên biết cũng giống như thế".

"Thuyết kia nói phi lý, vì phiền não cảm quả, dù cho cùng có định, thì cũng có lúc quả báo hết. Khi báo đã dứt hết, thì Phật sẽ được tự tại, khiến cho Niết-bàn. Kẻ không có nhân, Đức Phật ở trong vị này không tự tại, không được khiến cho "có", đâu có tự nhiên, có lúc của nhân, đều đối với vị kia, Phật mới giáo hóa. Nếu vốn không có nhân, về sau, tự nhiên có, thì cũng như vốn là phàm phu, tự nhiên thành Thánh. "Vì sao nhờ bạn lành, Phật, v.v... làm duyên, đối với lý cùng cực này, nên hãy tư duy sâu sắc. Nếu không thể tỏ ngộ, thì tôi sẽ không có tự tại.

5-Phá hạnh tánh khắp:

Có nghĩa: Lý, hạnh, Phật tánh, tất cả đều có, như kinh Đại Vân v.v... chép: "Như Lai thường trụ, Nhị thừa vô diệt. Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh làm Tông".

"Lý này không cùng tận. Tánh của lý cùng khắp, là chân đệ tử. Nói sự tánh khắp, kinh không có văn thật, dù nói được tâm Bồ-đề, chủ thể tin cũng đúng, chẳng thể được quả Phật Bồ-đề, mới được gọi là đắc tâm.

Y cứ theo văn đã dẫn, thì không có lời nói: "Tất cả chúng sinh đều thành Phật". Nếu thể của thức thứ tám là tánh hữu lậu, pháp vô ký, thì chẳng phải nhân vô lậu; Nhiếp luận của Bồ-tát Thiên Nhân v.v... đều không thừa nhận. Nếu nói không có Nhị thừa diệt, y cứ vào tánh bất định, xưa nay cùng thừa nhận; Nếu nói về tánh quyết định, thì tánh này sẽ không cực thành".

Kinh Niết-bàn chép: "Nếu nói rằng: "Bốn quả đều được thành Phật, thì không hiểu ý ta".

Niết-bàn quyển hai mươi bảy chép: "Tất cả đều có tâm, người, có tâm đều được thành Phật, như nói Nhất thừa y cứ vào đồng thể, y cứ ý ưa thích của đồng thể".

Quyển ba mươi sáu chép: "Tất cả pháp thiện, bất thiện, vô ký v.v... đều gọi là Phật tánh: Bất thiện, nghĩa là phiền não, v.v... Nếu là bất thiện, đã dựa vào chân như thì gọi là Phật tánh. Nghĩa này có thể như thế, tức do bất thiện, gọi là Phật tánh, trái với luận nhập Đại thừa. Luận ấy chép: "Ông ngu si vô trí, nghĩa là phiền não là nhân, v.v...". Như trong phần chỉ bày nói nếu dùng phiền não làm nhân Bồ-đề thì há dùng bất thiện làm nhân của pháp thiện ư? Nên nói Phật tánh, chẳng phải chánh

Phật tánh. Do đó không thể làm chứng. Nếu nói rằng: "bảy người trong sông Hằng không rời nước Phật tánh, há không phải tánh hạnh ư? Không như vậy, thì đây ở nước lý Phật tánh, nếu tánh hạnh khắp thì đều được phát ra. Sao gọi bảy người đều là một?

Nói các pháp, các đạo, hoặc nhân, hoặc quả đều là Phật tánh: y cứ một người đủ bảy mà nói, do người thứ nhất có không phải vô tánh mà cầu ra khỏi, thì cũng gọi thường xuyên mất. Như luận Phật Tánh đã hội thích Xiển-đề, không phải là người vô tánh. Lại, cứ như văn tiếp theo đây, "dù nói thường xuyên lặn mất, thừa nhận có lúc xuất ly, nói là tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, chẳng phải nhất định tất cả hạnh, vì chứng không khắp". Lại, nói rằng: "Vì chẳng phải Phật tánh, nên nói ở Phật tánh ấy: chẳng phải Phật tánh; cái gọi là tường, vách, gạch, đá, vật vô tình, lìa người vô tình như thế, v.v... đó gọi là Phật tánh. Nghĩa này cũng không đúng, vì tham, giận, si v.v... làm sao gọi là Phật tánh? Vì nếu do tham, v.v... có thể che lấp Phật tánh ấy, thì nên biết phiền não không có tánh che lấp chân, gọi là Phật tánh chẳng phải tất nhiên tánh hạnh, thì đâu thể làm sáng tỏ tánh hạnh, cũng đồng như tánh khắp. Nếu nói rằng không có tánh hạnh thì đâu được gọi Phật tánh? Về nghĩa này cũng không đúng, vì gạch, đá hoàn toàn không phải nên đối với chúng sinh, phân biệt chúng sinh không thật có. Vả lại, ẩn giấu không giải thích.

Nếu nói rằng, vì che nhơn, nên gọi Phật tánh; gạch, đá v.v... như thế, đâu cần gì phải phân biệt?

Về nghĩa này không so sánh, vì tham v.v... là chướng ngại, gạch, đá chẳng phải chướng ngại, nên kinh nói rằng: "Sắc mầu như vốn trụ thế gian, người trí ở trong đó được giải thoát; y cứ vào người có tánh, mà nói".

Quyển ba mươi ba chép: "Chẳng phải có như hư không, chẳng phải "vô" như sừng thỏ. Nay Phật tánh hiện hạnh, hiện tại tuy có nhân nhưng vẫn chưa được quả, vì có thể thêm lớn, vì chẳng phải thường có, nên chẳng như hư không". Vì có công năng làm nhân, vì quả sẽ được, nên không như sừng thỏ, mà nói: "Nói là Xiển-đề vô tánh", nhằm phá thường có của hư không; nói Xiển-đề có tánh, là nhắm phá thường không có sừng thỏ. Nếu nói pháp nhĩ một phần có trước, tức đồng với thường "không" của sừng thỏ.

Người nói như thế là chê bai Tam bảo. Không như thế, thì nếu ông cho chân như và tâm là tánh bình đẳng, thì tất cả thường có, tức lỗi như hư không.

Nếu nói rằng y cứ vào khách tánh thấy "không" "sẽ có" ấy, nghĩa này cũng không hợp lý, vì không có nhân mà sinh, thì chẳng phải là đệ tử của Thíchca. Hơn nữa, hữu lậu chẳng phải là nhân vô lậu, lỗi đã thường nói, là quán ý kinh này, vì trong nhân, chẳng phải quyết định có quả, như hư không thường có; chẳng phải quyết định không có quả, như sừng thỏ thường không có. Vì quả sẽ có, là không phải trước có, có công năng làm nhân, nên không phải như nói: "Vì giải thích hiện rõ được". Lại, nói: "Quyển ba mươi ba chép: "Thinh văn, Duyên giác tám muôn, sáu muôn, bốn muôn, hai muôn, mười ngàn kiếp trụ xứ gọi là Niết-bàn. Trụ xứ của Thánh chủ, chủ pháp vương vô thượng, gọi là Đại Niết-bàn.

Theo Nhị thừa thì không có thật Niết-bàn, nghĩa này cũng không đúng. Kinh nói rằng: "Gọi là Niết-bàn, không gọi là Đại Niết-bàn, sao nói rằng: "không?". Lại, y cứ không nhất định. Về sau người hồi tâm, nói như vầy: "chẳng phải người tánh quyết định". Lại, nói rằng: "Nếu là địa vị Dư Lưu v.v... quyết định nguyện để lại thân, tám muôn kiếp, v.v... và phân đoạn có thừa, thì không hợp đạo lý. Vì sao? Vì trong mười một hạnh bệnh của Niết-bàn nói rằng, có năm hạng người:

-Người thứ nhất, vì dứt trừ ba kiết, nên được Tu-đà-hoàn, không rơi vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ; bảy lần trở lại cõi người, trời, dứt hết hẳn mọi nỗi khổ, nhập vào Niết-bàn, cho đến là người sẽ được A-nậu-Bồ-đề, vượt quá tám muôn kiếp trong vị lai. Vì cứ như đây, nên biết chẳng phải là phần đoạn của địa vị Dự Lưu có thừa, dựa vào bảy lần trở lại cõi người, trời, dứt hết hẳn các đau khổ, vì tám muôn kiếp sau, nên cũng không phải để lại thân, vì tự cho là Niết-bàn, nên phần vị đẳng lưu dứt hết hẳn các nỗi khổ, nhập vào Niết-bàn".

"Nghĩa này cũng không đúng, vì đây là nói quả kia có công năng này, chẳng phải chỉ có Vô học mới được thú hướng Đại thừa. Nếu chấp kinh nói: "Bảy lần trở lại cõi người, trời, dứt hết hẳn các khổ, nhập vào Niết-bàn há không thừa nhận Dự lưu kia được giảm bảy đời, dứt hết hẳn các khổ ư? Lại, nếu được Niết-bàn, dứt hết hẳn các khổ, Vô học được Niết-bàn, nên không thọ biến dịch. Thân của biến dịch, cũng là hành khổ, nên dù nhập Niết-bàn, nói các khổ hết, không bỏ Vô học, thọ thân biến dịch, dù nói Dự lưu, cùng cực bảy lần sau, cũng thừa nhận giảm bảy lần được quả vô học, nên biết văn này là nói theo công năng; hoặc y cứ vào một loại, để nhận lấy bậc Vô học, về lý thật, Sơ quả cũng được hồi tâm, liền thọ biến dịch. Trong luận Phật Địa, vì có thuyết thành thật, nên hữu học của Pháp Hoa vì hồi tâm, nên đã thừa nhận Pháp Hoa là liễu nghĩa, sao không tin nhận sự hồi tâm của hữu học? Lại, Niết-bàn quyển mười chín nói thẳng rằng: "Hàng Tu-đà-hoàn, tám muôn kiếp, cho đến Bíchchi-phật một muôn kiếp.

Niết-bàn quyển hai mươi cũng nói thẳng rằng: Hàng Tu-đà-hoàn tám muôn kiếp, được tâm Anậu-Bồ-đề, cho đến Bích-chi một muôn kiếp được tâm Bồ-đề, sao kinh lại nói La-hán, tức chấp không thừa nhận dựa vào văn để nói ba quả trước, vào không thừa nhận một kinh đã nói, còn tạo nên cách yêu, ghét, lấy, bỏ, thật là nhiều hiểu lầm. Dẫn kinh Pháp Hoa nói: "Chỉ một Phật thừa, Thinh văn đều sẽ thành Phật. Lại, luận Phật Tánh chép: "Nhập Thánh đạo rồi, sinh tâm rốt ráo.

Vì đã phá tâm tăng thượng mạn như thế, nên biết giáo pháp chân thật của Pháp Hoa, Bồ-tát Thế Thân, quyết định vì chân thật, người nào lại khiến sắp vì không liễu; "không như thế thì sao?".

Kinh Thắng-man chép: "Nếu Như Lai thuận theo đối tượng mong muốn của chúng sinh kia, mà phương tiện nói".

Kinh Giải Thâm Mật chép: "Nếu không biết Mật Ý này của Phật, thì kinh Niết-bàn nói: "Vào một lúc nào đó ta nói một hành, một duyên, một thừa, một đạo. Các đệ tử ta vì không hiểu ý ta, nên nói bốn quả v.v... đều sẽ được thành Phật".

Luận Nhiếp Đại Thừa, Vô Trước tự nói rằng: "Dẫn nhiếp một loại". Luận Vô Tánh của Thiên Thân đều nói: "Ẩn mật". Phật Thích-ca, Vô Trước, đều là thầy của Thế Thân, phán quyết là không liễu nghĩa, người nào của Thế Thân mới sắp vào liễu nghĩa? Lại, Thiên Thân phán quyết là liễu nghĩa, người khác có khiến xếp vào không liễu nghĩa hay chăng?

"Nếu như vậy, thì kinh Giải Thâm Mật, Đức Phật tự nói là liễu nghĩa; người khác là ai mà phán quyết là quyền, mật?" Lại nói: "Quyển hạ của giải Thâm Mật, Hoa Nghiêm chép: "Nếu người giải thoát, thì cõi chúng sinh sẽ diệt, tức phá hoại tất cả trí tánh của Như Lai, pháp "sở tri" của Phật, khứ, lai, hiện tại sẽ không được bình đẳng. Lại, nếu Niết-bàn, chúng sinh sẽ diệt, thì lấy ai để lìa khổ, có vô dư? Sự kiện hàng phục ma quân đều là nói dối hay sao?".

"Cho nên, phải biết rằng, các người tu hạnh quán, chứng giải thoát, tất nhiên, thân họ thường trụ, lìa bỏ uẩn các "hữu", diệt hết các tập khí (thói quen), ví như dìm tấm sắt nóng vào nước lạnh, sức nóng dù tan biến, nhưng sắt không tan hoại".

Ý văn này khác, trước hết nói: "Nếu cõi chúng sinh diệt, tức hoại tánh nhất thiết trí của Như Lai. Vì nói theo chân như, nên gọi là cõi chúng sinh".

Luận Bảo Tánh dẫn kinh "Bất Tăng Bất Giảm" rằng: Xá-lợi-phất không lìa cõi chúng sinh mà có pháp thân, không rời pháp thân mà có cõi chúng sinh, vì cõi chúng sinh tức pháp thân; pháp thân tức cõi chúng sinh. Hai pháp này, nghĩa một mà tên khác. Các kinh Đại thừa, vì mỗi chỗ đều có văn, nên không thể người chứng Nhị thừa là vô dư bất diệt. Nếu nói rằng, kinh chép: "Chứng giải thoát, thân họ thường trụ, lìa chúng có uẩn, diệt các tập thể, v.v... dùng làm chứng ấy, nghĩa ngày cũng không đúng.

Thuyết này nói: "Nếu Như Lai thừa nhận Nhị thừa nhập vô dư y, thì cũng như thế, đâu có khác với Phật, lại cần phải thú hướng Đại thừa. Nếu nói rằng Như Lai thừa nhận Nhị thừa, vô dư, thân, trí đều diệt, thì sẽ trái với kinh Mật Nghiêm quyển thượng. Kinh Niết-bàn kia chép: "Nếu diệt hoại thì chúng sinh sẽ có chung tận, chúng sinh có chung tận thì cũng có tế ban đầu, vốn có pháp chẳng phải sinh mà bắt đầu nương vào chúng sinh, không có phi chúng sinh, mà sinh ra cõi chúng sinh ấy, nghĩa này cũng không đúng, vì đây là y cứ vào lý tánh". Hoặc nói "Như Lai nếu do kinh nói chúng sinh có chung tận, thì lẽ ra phải có sơ tế (vì không có tế ban đầu).

Nói về chúng sinh diệt, nghĩa là phiền não cũng như thế. Phiền não tức chúng sinh, nhân quả đều cùng có từ vô thỉ, há do phiền não cùng tận, nên so sánh phiền não có ban đầu. Nếu không thừa nhận hoặc sau cùng, thì chư Phật sẽ có phiền não. Mặc dù thừa nhận phiền não dứt nhưng nói hoặc không có ban đầu, dù rằng thân sau cùng, nhưng nào ngại gì được vô thỉ, nên ý kinh Niết-bàn kia, là y cứ vào lý tánh để giải thích". Lại, kinh Đại Pháp Cổ chép: "Ca-diếp bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Chúng sinh bát Niết-bàn là có cùng tận hay không? Phật bảo Ca-diếp, chúng sinh không có cùng tận". Ca-diếp bạch Phật:

"Không cùng tận là sao?" Phật nói: "Nếu chúng sinh cùng tận thì lẽ ra phải có tổn giảm, và Tu-đàla này sẽ trở nên không có nghĩa. Cho nên, Cadiếp! chư Phật, Thế Tôn Bát Niết-bàn đều thường trụ. Vì nghĩa này, nên chư Phật, Thế Tôn bát Niếtbàn sau cùng không tiêu ma, hoại diệt. Không nói Nhị thừa bát Niết-bàn cũng thường không hư hoại. Hoặc nói chân như của chúng sinh vô tận". Lại, luận Đại Trang Nghiêm quyển một chép: "Gốc lành của người khác vì không có lợi tha, nên căn lành của người khác, khi Niết-bàn là cùng tận. Gốc lành của Bồ-tát không phải như vậy. Do gốc lành này làm nhân, với chủng tánh vượt hơn hết".

"Nếu người Nhị thừa nhập Vô dư y, có gốc lành tồn tại, thì sao lại nói là diệt?".

"Vô trước, Thiên Thân thờ phụng Đấng Từ tôn, địa vị của mình lại lên Cực hỷ, nói là gốc lành diệt, thì sao không tin? Lại, nói rằng: "Trong tánh thứ hai mươi lăm của Lăng-già nói: "Đại Tuệ! Nói người ba thừa vì phát khởi địa tu hành, nên các tánh khác nhau, chẳng phải địa rốt ráo". Lại nói: "Ba hạng người kia, Thinh văn, Duyên giác, rốt ráo nói: "Được pháp thân Như Lai". Kinh nói ba người là Nhị thừa tánh quyết định và vì tánh bất định".

"Nghĩa này cũng không đúng. Kinh Niết-bàn kia nói: "Đầu tiên, tánh định, bất định dùng làm ba thừa". Lại nữa, nói thừa tánh bất định thứ tư, chỉ nhận lấy bất định, như Bồ-tát đại bi trong không có tánh, mặc dù cũng có tánh Đại thừa, nhưng vì nguyện bi có khác, nên lại nói riêng có ba".

"Sao không phải rốt ráo?"

"Vì y cứ vào thuyết bất định: Nếu phán quyết nói ba là quyết định, thì Nhị thừa và người bất định, quyết định cũng khởi thú huống Đại thừa, thì cần gì phải nói riêng thừa thứ tư?".

Dưới đây, sẽ giải thích Lăng-già bốn quyển:

Theo cái biết sai lầm, kinh Thắng-man luận Bảo tánh; luận Phật tánh, v.v... đều so sánh với cái biết ở trước. Địa vị của Thế Thân ở Phục Nhẫn, được khen riêng làm chỉ nam, thân từ Nhị trụ Pháp Vân, đâu không khen riêng, theo phương Bắc, mà khen nghiêng lệch địa vị phàm phu, Bồ-tát thuyết giáo là chân, Từ tôn bổ xứ, bàn luận về pháp là chẳng phải liễu, nghĩa há không phải lỗi ư?".

6-Phá định, hiển mật:

Có nghĩa nói: "Thừa của Pháp Hoa là thuyết liễu nghĩa; ba thừa chẳng phải liễu nghĩa.

Hỏi: "Nhất thừa là thật, ba thừa là quyền, như Pháp Hoa, v.v... phải chăng".

Vì sao Thâm Mật nói: "Nhất" là quyền? Bốn là chân thật?

Đáp: "Nhất thừa có hai:

1) Nhất thừa của Mật Ý.

2) Nhất thừa rốt ráo.

Vì có khác nhau, nên Thâm Mật, Nhiếp Luận, v.v... là Nhất thừa Mật Ý. Pháp Hoa, Thắng Man, v.v... là Nhất thừa rốt ráo".

"Vì sao biết được có hai loại này?".

Đáp: "Vì dùng hai nghĩa giải thích:

1) Thuật khác.

2) Dẫn hai văn đối chiếu rõ ràng. Thuật khác có chín:

1) Còn ba, phá hai khác nhau.

2) Thuyết thời trước, sau khác nhau.

3) Nói vị không đồng nhau, khác nhau.

4) Diệt phân biệt đạo đồng nhau, khác nhau.

5) Phần đồng, toàn phần khác nhau.

6) Có hội thích, không có hội thích khác nhau.

7) Hợp ba, khai một khác nhau.

8) Vì sự hơn, kém của con người khác nhau.

9) Nói nghĩa không đồng nhau, khác nhau.

Điều này không nên như thế. Chín môn đều chẳng đúng.

1) Đầu tiên, còn ba, phá khác: lại, phán quyết Thâm Mật v.v..., vì còn ba là một, nên là "quyền". Pháp Hoa v.v... phá ba, nói một, cho nên "thật".

Đây là trước kia đã biểu thị rõ sự phán quyết sai lầm về văn giáo.

2) Thời lượng của hai thuyết trước, sau khác nhau: rằng, Hoa Nghiêm, Thâm Mật, v.v... vì nói bốn mươi năm về trước, nên thuộc về "quyền"; Pháp Hoa, Thắng-man là vì nói về sau, nên "Thật".

Nghĩa này cũng không như thế, vì nếu Pháp Hoa trước kia còn ba, nói một, nên là Mật, thì như Thâm Mật v.v... nói trước bốn mươi năm, có thể như sự phán quyết.

Đã nói Tiểu thừa, "có" có thể còn. Vả lại, nếu là "quyền", thì Hoa Nghiêm là trước hai mươi mốt này, Phật chưa từng nói tiểu, tức là chưa có, có thể tồn tại, thì làm sao cũng phán quyết là thuyết ẩn mật? Nếu nói chung về địa vị sau. Khi nói Nhị thừa, thì lẽ ra cũng phải hội thích chung ẩn mật một địa vị sau, đâu không thừa nhận ư? Nên không thể dùng thời gian trước, sau để phán quyết nhất định. Lại tự phán quyết Nhất thừa của Nhiếp luận, đều là Quyền, Mật, tức Pháp Hoa, v.v... Nhiếp luận, đồng giải thích, đồng với Nhất thừa của Thâm Mật, v.v... chẳng phải liễu, làm sao phán quyết "quyền" trước, "thật" sau được?

3) Nói về phần vị chẳng đồng, khác, rằng: "Nói Giải Thâm Mật, v.v... như sữa, lạc, như phần vị của mọi dòng chảy là một. Nhất thừa của Pháp Hoa, như đến đề hồ đều trở về biển là một.

Về nghĩa này cũng không đúng, vì như thí dụ sữa, v.v... lại y cứ vào người với tánh bất định của một loại, từ tiểu hướng về đại, đều có căn tánh cố định, thì không đúng. Nếu chấp thí dụ, nói là người tu hành, trước, sau nhất định như thế, chẳng lẽ thừa nhận tỏ ngộ ngay cũng do Tiểu ư? Có người không dừng lại ở Tiểu thừa, thì có thể thú hướng Đại thừa, lẽ ra phải thừa nhận bơ v.v... không phải có ra từ sữa. Lại, luận Pháp Hoa có Thinh văn như sữa, v.v...; địa vị Phật như đề hồ, há thừa nhận Thâm Mật, v.v... đã nói Nhất thừa là địa vị Thinh văn, cũng như sữa v.v... Lại, thừa nhận Bồ-tát có ngay không phải dần dần, thì làm sao phán quyết nhất định địa vị khác là "quyền"? Nếu nói rằng, Thâm Mật đối với địa vị của tánh bất tịnh khác là "quyền", làm sao biết được là phá quyết bất định của Tiểu thừa là không thật?

4) Diệt đạo riêng lẻ đồng, khác. Rằng, đạo Nhất thưa của Mật Ý vì đồng, nên gọi là một. Nhất thừa rốt ráo không có diệt của Nhị thừa, đến Phật mới có. Nếu không như vậy thì chỉ có thuyết nói ba giải thoát là bình đẳng, không nói trí, đức, ba thừa bình đẳng, sao nay lại xếp đạo v.v... đều đồng? Tuy nhiên, kinh Niết-bàn nói rằng: "Một đạo một duyên bình đẳng, nghĩa là y cứ thú hướng Đại thừa, nói rằng, đồng một đạo, chẳng phải nói ba thừa, đạo sở giác là đồng".

Lại, kinh Thâm Mật chép: "Nghĩa vượt hơn của sinh nhau không có tự tánh, như thế ta đều đã chỉ bày rõ ràng nên ở trong đó lập Nhất thừa; chẳng phải tánh hữu tình không có khác nhau, nên nói có tánh đồng, tức Nhị thừa không có diệt riêng, Nhất thừa đồng với Pháp Hoa, đâu có riêng.

5) Phần đồng, hoàn toàn đồng khác nhau rằng: "Nhất thừa của Mật Ý, nhân vô ngã, pháp thân, thân biến dịch không đồng; Nhất thừa rốt ráo, các pháp này đều đồng: đã phán quyết Nhiếp Luận, v.v... là "mật", Nhất thừa, sao văn luận lại nói rằng: "Vì pháp vô ngã, giải thoát bằng nhau, nên tánh không bình đẳng".

Luận Hiển Dương chép: "Tức các pháp kia, vì nói theo tướng không khác nhau, cho đến vì pháp vô ngã bình đẳng, nên nếu nói rằng, luận Hiển Dương kia không thừa nhận rằng pháp vô ngã bình đẳng, thì há các Thinh văn, v.v... Nhất thừa Pháp Hoa, đã chứng pháp vô ngã bình đẳng hay sao?

Nếu nói rằng, vì chấp nhận sẽ chứng, nên trong Nhiếp luận v.v... cũng thừa nhận bất định sẽ được chứng, vì sao lại là "quyền"? Nếu nói rằng vì không phải nói tất cả đều sẽ đồng, Pháp Hoa cũng giống như vậy. Luận Thích của Thiên Thân không vì tánh quyết định gây tổn hại nỗi sợ hãi.

Nếu thừa nhận tánh định các pháp này đều đồng, sao không vì nói? Lại, Lăng-già chép: "Đồng nhập môn vui tam-muội của Bát địa, là từng thực hành công hạnh vĩ đại, không nói tánh quyết định, đâu có thừa nhận đều đồng? Lại trái với bản dịch đời Lương, bản dịch đời Lương chép: "Kệ trước dùng liễu nghĩa để nói về Nhất thừa; Kệ sau, dùng nghĩa bí mật để nói về Nhất thừa". Lại nói rằng: "Về sau, gọi là hàng Thinh văn, v.v... với như ý bình đẳng đối với pháp, như các Thinh văn trong kinh Pháp Hoa đã được Phật thọ ký, chỉ được pháp như ý bình đẳng, chưa được pháp thân Phật. Nếu được như ý bình đẳng của pháp này, Thinh văn kia nghĩ rằng: "Như pháp của Như Lai, tức là như ngã, pháp. Vì ý như thế nên nói Nhất thừa. Cứ như luận thích này, há Nhiếp Đại thừa luận v.v... đã nói về Nhất thừa là "quyền", chỉ nhân vô ngã v.v... đồng với thuyết của kinh Pháp Hoa; Pháp Nhất thừa rốt ráo đều đồng với pháp thân vô ngã v.v...?

6) Trong có hội thích, không có hội thích khác nhau, rằng Nhất thừa Mật Ý không hội thích nói ba là phương tiện. Nhất thừa rốt ráo hội thích nói chân thật là phương tiện. Không như vậy, thì không hoàn toàn hội thích ba, nghĩa là y cứ vì có tánh quyết định, nên nói hội thích ba, nghĩa là vì y cứ theo tánh bất định, nên có tánh định, bất định.

Luận Pháp Hoa, kinh Lăng-già đều có nói. Nếu nói rằng, tánh quyết định chỉ được thành Phật, thì vì sao kinh Niết-bàn nói rằng: "Không hiểu ý ta?". Kinh Thắng-man chép: "Vì thuận theo đối tượng mong muốn của Tiểu thừa kia, mà Phật dùng phương tiện nói bình đẳng.

Lại, Nhiếp Đại thừa chánh chỉ kinh Pháp Hoa rằng: "Lại trong Pháp Hoa Đại Tập có các Bồ-tát đều đồng với Xá-lợi-phất v.v...".

Giải Thâm Mật chép: "Không phải tánh hữu tình không có khác nhau, vì Nhiếp luận bình đẳng nên tánh không đồng".

Luận Pháp Hoa chép: "Vì hai hạng người mà nói, đây đều đã hội thích xong, sao lại nói không hội thích Pháp Hoa? Do văn không kẻ vạch, chỉ nói nghe như thế. Bảy hợp, ba khai trong một, khác rằng: "Thâm Mật hội thích, xưa hợp ba thừa thành một thừa. Một chẳng phải đại trong ba. Pháp Hoa hội thích xưa khai một thành ba thừa. Nhất là Phật thừa trong ba. Không như vậy, thì trong hai mươi mốt ngày thành đạo, tức nói Đại thừa.

Kinh Pháp Hoa chép: "Mặc dù lại nói ba thừa, nhưng chỉ vì Phật hóa độ Bồ-tát". Lại, nói: "Mặc dù thị hiện các thứ đạo, nhưng thật ra là Nhất thừa, tức hội thông ba thừa đã nói của một thời đại; lại ba thừa đã được nói trong thời đại nào? Rằng, là khai nhất thành ba thừa. Lại, nói về Nhất thừa. Nhất thừa tức Đại thừa, há Giải Thâm Mật đã thu nhiếp Nhị thừa tánh quyết định kia thành Đại thừa, cho nên không thể". Lại, giải Thâm Mật y cứ vào ba vô tánh để nói Thừa là nhất", Pháp Hoa cũng đồng. Luận Thích nói: "Trong cõi nước Phật mười phương, chỉ có pháp Nhất thừa không hai, cũng không ba.

Không có hai, nghĩa là không có Niết-bàn, v.v... của Nhị thừa, cho đến nói rằng: "Thừa Thinh văn, Bích-chi-phật, chẳng phải là thể của pháp thân bình đẳng kia, vì nhân, quả, hạnh quán khác nhau".

Nhiếp Luận bản dịch đời Lương chép: "Thừa có ba nghĩa: 1) Tánh.

2) Hạnh.

3) Quả.

Tánh tức chân, như; hạnh tức mười độ; quả tức bốn đức. Nhất thừa của kinh Pháp Hoa tức tri kiến Phật. Luận rằng: "Y cứ vào bốn nghĩa đế mà nói:

1) Khai nghĩa là vô thượng, trừ trí Nhất Thiết Trí, không còn có việc khác, tức Bồ-đề, Niết-bàn.

2) Bảo cho người biết là nghĩa đồng, tức pháp thân bình đẳng của Thinh văn, Bích-chi-phật. Pháp thân bình đẳng, nghĩa là Phật tánh, pháp thân, không hề có khác nhau. Đây chẳng phải đều có quả, mà cũng tức là tánh Nhất thừa của Nhiếp Luận.

3) Nhập: nghĩa là nhân, vì khiến địa vị đã chứng không lui sụt, vì thị hiện cùng với vô lượng nghiệp trí, Vô lượng nghiệp trí tức là mười độ mà nhiếp Đại thừa đã thực hành. Lại, Nhiếp luận, Nhất thừa của Pháp Hoa nếu có khác nhau thì Thiên Thân lẽ ra phải hiểu. Đã hội thích chung, thì còn so sánh phán quyết nào riêng? Nhập là trong sự khác nhau về hơn, kém của con người, rằng, Nhất thừa của Mật Ý, vì căn cơ chậm lụt mà nói; Nhất thừa rốt ráo vì căn cơ nhạy bén mà nói".

Nhiếp luận bản dịch đời Lương chép: "Có các Bồ-tát đối với căn tánh Đại thừa đã nhập pháp không. Vì ở đây nói nhất, đồng với kinh Niết-bàn, không vì người căn cơ chậm lụt, mà là vì căn cơ nhạy bén mà nói. Không như vậy, thì Nhất thừa của Nhiếp luận đã phán quyết trước là "Mật", nay nói "Mật" là vì căn cơ chậm lụt mà nói. Nhất thừa của Nhiếp luận đã phán quyết là mật, sao lại dẫn kinh Niết-bàn, đồng vì căn cơ nhạy bén mà nói, há không tự khác nhau hay nhau?

Lại, kinh Pháp Hoa chép: "Vì sự, đối tượng nương tựa của Thinh văn". Kinh chép: "Vì các Thinh văn nói: "kinh Đại thừa này thọ ký cho Thinh văn, v.v... há là Ca-diếp căn cơ nhạy bén đồng với kinh Niết-bàn đã nói ư? Thâm Mật chép: "Thắng nghĩa sinh, v.v... há là Thinh văn căn cơ chậm lụt ư? Hơn nữa, trước Phật độ căn cơ nhạy bén; tiếp theo lại độ, căn bực trung, hạ. Kinh Niếtbàn Pháp Hoa đều có nói ở sau, há vì căn cơ nhạy bén, nên kinh Trang Nghiêm Tuệ, Như Lai nói: "Văn-thù-sư-lợi đã dựa vào tánh chất thượng, trung, hạ của chúng sinh vô biên pháp giới kia. Như Lai phát ra vầng ánh sáng mặt trời đại trí chiếu khắp chúng sinh cũng giống như thế. Đầu tiên tất cả các Bồ-tát v.v... tiếp theo, là Bích-chi-phật; tiếp theo nữa là Thinh văn; kế là gốc lành mà chúng sinh đã tin; tiếp theo, chúng sinh trụ trong nhóm tà định.

Văn các kinh này đâu nói căn cơ chậm lụt ở trước, căn nhạy bén ở sau ư? Lại nói: "tám thứ Nhất thừa là dẫn Bồ-tát Thinh văn bất định, tức vì người căn cơ chậm lụt, cũng không như thế". Nhiếp Luận dịch vào đời Lương chép: "Vì căn cơ nhạy bén, tám nghĩa Nhất thừa".

Thứ nhất, tức là Thinh văn; thứ hai, là Bồ-tát bất định. Luận Pháp Hoa chép: "Hai hạng Thinh văn, Như Lai thọ ký cho, nghĩa là Thinh văn ứng, hóa, người đã lui sụt, lại phát tâm Bồ-đề, tức Thinh văn của tánh bất định.

"Làm sao được nói Nhất thừa rốt ráo, vì căn cơ nhạy bén mà nói. Nghĩa là chín thuyết khác nhau, khác là: "Nhất thừa của Nhiếp luận y cứ vào mười nghĩa để nói. Nhất thừa của Pháp Hoa nương vào bốn nghĩa để nói nghĩa là nói khác nhau, biết rõ thừa là khác, là không đúng, vì sao? Vì nếu nói rằng mười bốn nghĩa khác với mười "quyền", bốn "thật".

Luận Hiển Dương có sáu nghĩa trang nghiêm, tám nghĩa nên chia ra "quyền" "thật". Nhiếp luận kia không như thế, Hiển Dương này làm sao như thế. Lại, kinh Pháp Hoa nói: "thể tánh của Nhất thừa có bốn thứ. Luận rằng: "Y cứ có bốn nghĩa để nói, về tánh Nhất thừa.

Nhiếp luận v.v... nói về ý của Nhất thừa, nói theo tám thứ đạo lý, vì không ra ngoài thể của thừa, nên bản Luận dịch vào đời Lương chép: "Vì sao nói người Nhị thừa đồng thú hướng Nhất thừa, đều sẽ được thành Phật".

Luận Trang Nghiêm chép: "Tám ý trong đây, Phật nói Nhất thừa".

Lại nói: "lại có nghĩa gì? Vì ý kia mà nói Nhất thừa. Kệ rằng:

"Dắt dẫn các Thinh văn.

Nhiếp trụ các Bồ-tát Với hai bất định này Chư Phật nói Nhất thừa".

Luận Pháp Hoa chép: "Vì Thinh văn lui sụt Bồđề, tức dắt dẫn Thinh văn, người bất định. Ghi nhận từ v.v... đầy đủ, tức người biến hóa. Lại, luận Pháp Hoa nói ba bình đẳng rằng: "Lại nữa, thị hiện thân mình, thân người khác, vì pháp thân bình đẳng không có khác nhau", cho đến nói rằng: "Vì không biết Phật tánh của người kia, người này, vì pháp thân bình đẳng, nên gọi là người kia, tu chứng pháp này, vì người kia không được đối trị pháp này, nên thọ ký cho Thinh văn, tức nói về pháp bình đẳng, nhân bình đẳng, với ý Nhất thừa mà Nhiếp luận, v.v... đã nói, không hề có khác; làm chia ra Hiển, mật, muốn khuyến dụ con trẻ, dẫn văn đối với loại, người trí nên xem xét. Lược bày thuật khác, không phải; đối với loại, phiền không làm sáng tỏ đủ. Giáo đã bày sai lầm, vì thừa Hiển mật, nên điên đảo luống dối; "thật", "quyền" nói thừa. Văn có khác nhau, vì cứ như thế nên đều sai lầm".

7-Phá duyên chấp chánh Phật tánh:

Nghĩa là: "Biện luận chung về hai môn sự, lý Phật tánh: lý, tức chân như, pháp giới, gọi là nhân, gọi là tánh, v.v... tất cả chúng sinh đều đồng; sự, tức chủng ba mươi hai tướng, mười lực, v.v..., tất cả hữu tình co, không, khác nhau".

Hỏi: "Nếu vậy, thì trước bốn mươi năm, cũng nói thật diệt của Nhị thừa; mười năm thành đạo tức nói kinh Như Lai Tạng, đâu có dùng ba thừa, năm tánh, nói trước là "quyền"; Nhất thừa Phật tánh nói sau là "Thật"?"

Đáp: "Cũng nói tướng chung, vì chưa phân biệt gìn giữ, nên không cần phải quyết định cho". Kinh Niết-bàn chép: "Hễ là có tâm, đều sẽ được thành Phật, tức phân biệt với không có tâm, đối lập với không có Phật tánh. Nói về Phật tánh, tức phân biệt với ngói, gạch, nên chỉ có tâm là kẻ hữu tình, đều có Phật tánh, đều sẽ thành Phật. Nhất thừa ở sau và nói Phật tánh, đều là liễu nghĩa".

"Cách giải thích này cũng không đúng, vì nếu có phân biệt gìn giữ thì gọi là hiển liễu; còn nếu không có phân biệt gìn giữ, tức là ẩn mật".

Kinh Giải Thâm Mật chép: "Nhất thừa rất có phân biệt, giữ gìn căn tánh chúng sinh, giữ lấy ba tánh, gọi là "Nhất", phân biệt bỏ đi tánh quyết định sẽ được thành Phật. Vì định là liễu nghĩa, nên kinh Niết-bàn quyển ba mươi hai chép: "Trong kinh này, hoặc nói ba thừa, hoặc nói Nhất thừa. Đã nói rằng: "Hoặc nói ba thừa, lại nói sinh bát trong Na-hàm, tức là hai diệt".

Kinh Thắng-man chép: "Thế nên ba thừa tức là Nhất thừa". Lại nói: "Như Lai thuận theo đối tượng mong muốn của chúng sinh kia, mà phương tiện nói, tức là Đại thừa, không có Nhị thừa; người Nhị thừa nhập vào Nhất thừa, Nhất thừa tức là đệ nhất nghĩa thừa. Đã nói là phương tiện, tức chứng tỏ bốn thừa là chân thật, nói đồng với Giải Thâm Mật. Pháp Hoa hoàn toàn chỉ nói Nhất thừa đối với hàng Thinh văn hoặc chỉ vì Bồ-tát".

Luận chép: "Vì người hoàn toàn cầu Đại thừa, Phật nói thí dụ trời mưa, khiến chúng sinh biết thừa khác nhau".

Các luận giải thích về Nhất thừa: Y cứ vào lý pháp thân, không nói căn tánh, tất cả không có khác, chính đồng với Giải Thâm Mật y cứ vào lý nói "nhất", chứ chẳng phải căn cơ không có khác nhau". Lại, kinh Như Lai Tạng nói: "Tất cả chúng sinh dù ở các cõi, nhưng trong thân phiền não, vẫn có Như Lai Tạng, thường không ô nhiễm, đức tướng đầy đủ, như ta không khác", cho đến nói rằng: "Phật thấy Như Lai tạng của chúng sinh rồi; muốn mở rộng nên vì nói kinh pháp cho chúng sinh nghe, nhằm dứt trừ phiền não, hiển hiện rõ Phật tánh. Đã nói rằng: "Tất cả chúng sinh" tức phân biệt phi tình rồi. Lại, nói: "kinh Như Lai Tạng làm lợi ích lớn; nếu có người nào nghe đều thành Phật đạo, tức đồng với nghe kinh Niết-bàn thì sẽ thấy Phật tánh, dụ như trời sấm sét sinh ra vạn tượng, mầm, hoa, đồng có phân biệt với thuyết Niết-bàn, đâu không phải là thật?"

Nghĩa là: "Thể của Phật tánh có hai thứ".

1) Lý. 2) Sự.

Lý nhận, tánh nghĩa là đệ nhất nghĩa "không", đệ nhất nghĩa "không" làm chánh nhân cho pháp thân, cũng làm duyên nhân cho báo thân. Nếu thể sinh tướng, thì cũng làm chánh nhân cho báo thân. Bản thể của báo thân là nghĩa "không" thứ nhất.

"Cách giải thích này không hợp lý, vì nếu nghĩa "không" thứ nhất là chánh nhân của pháp thân, thì là sinh liễu, nếu là sinh nhân thì pháp thân là thường, mà đã là thường, thì tất nhiên không phải do nhân sinh".

Kinh Niết-bàn quyển mười ba chép: "Nếu có các pháp từ duyên sinh thì biết là vô thường, các ngoại đạo này không có một pháp nào không từ duyên sinh, người thiện nam! Phật tánh vô sinh, vô diệt; cho đến nói rằng: "Không phải được gìn giữ bởi ấm, giới, nhập, cho nên gọi là thường".

Kinh Niết-bàn quyển mười chín cũng nói: "Ánh sáng như thế, gọi là trí tuệ; trí tuệ, tức là thường trụ. Pháp thường trụ không có nhân duyên. Lại nói rằng: "Thể Niết-bàn chẳng phải vốn "không", mà hiện nay "có", bởi nếu thể Niết-bàn vốn "không", mà nay có, thì chẳng phải là pháp thường trụ vô lậu. Niết-bàn chẳng phải vốn không, mà nay có, thì làm sao do nhân sinh? Lại, Bồ-tát Cao Quý Đức Vương hỏi: "Hễ cái gì do trang nghiêm mà được thành, thì đều gọi là vô thường. Niết-bàn lẽ ra như thế?" Như Lai vì đáp: "Nói nhân có năm:

1) Chánh nhân.

2) Hòa hợp.

3) Trụ nhân.

4) Tăng trưởng.

5) Xa lìa.

Thể Niết-bàn chẳng phải được thành bởi năm nhân như thế, v.v... pháp thân tức Niết-bàn, sao lại nói có nhân. Lại, khác với phần vị nhân quả, gọi là "khác"; thể thường không có khác, cũng không có thêm bớt, sao chân như lại làm nhân cho chân như ư?".

Kinh Như Lai Tạng nói rộng thí dụ để so sánh với ánh sáng vốn đầy đủ; vì bị chướng che lấp, nói pháp làm nhân, khiến được mở mang, tỏ rõ, cũng chẳng phải liễu nhân".

Niết-bàn quyển mười chín chép: "Lại nữa, có hai nhân:

1) Tác.

2) Liễu.

Ba-la-mật ba mươi bảy phẩm v.v... đối với Niết-bàn, đó gọi là liễu nhân. Lại, Niết-bàn quyển ba mươi ba chép: "Quả xa lìa: tức là Niết-bàn. Xa lìa các phiền não. Tất cả nghiệp lành là nhân Niếtbàn. Nhân có hai thứ:

1) Gần.

2) Xa.

Gần tức ba giải thoát; xa thì pháp lành đã tu trong vô lượng đời, cho đến nói rằng: "Cho nên, Niết-bàn chỉ có liễu nhân, không có sinh nhân. Đây là y cứ vào môn sự, lý, Bồ-đề, Niết-bàn, trí đoạn riêng khác nhau".

Kinh Niết-bàn quyển hai chép: Đại bát Niếtbàn trí đoạn đều gọi là Đại Niết-bàn. Lại, lý chân như đối với vị pháp thân, là mười nhân bốn duyên, vì sao? Vì gồm thâu "đắc" làm chánh nhân. Hơn nữa, tự dẫn kinh Mật Nghiêm chép: "Như Lai tạng thanh tịnh cũng gọi là Trí vô cấu".

Kinh Hoa Nghiêm chép: "Trí vô tướng, trí vô ngại đầy đủ trong thân chúng sinh".

Kinh Như Lai Tạng chép: "Trong thân phiền não có Như Lai tạng, thường xuyên không có ô nhiễm, đức tướng đầy đủ như ta không khác". Đã nói rằng: "Đức tướng đầy đủ như ta không khác, sao làm nhân, vì chỉ có thể dùng ngôn, giáo để tu hành làm nhân, nên kinh Như Lai tạng nói rằng: "Phật thấy Như Lai tạng của chúng sinh rồi, muốn cho mở rộng nên nói kinh pháp cho nghe, diệt trừ phiền não, thể hiện rõ Phật tánh", nên luận Bát-nhã của Thiên Thân nói: "Đối với thật làm liễu nhân, cũng làm sinh nhân khác".

Kinh rằng: "Tất cả chư Phật đều từ kinh này xuất hiện, tất cả chư Phật đều sinh ra từ kinh này". Có thuyết rằng: "Chân như tức thể của pháp thân, không có nói: "Vì chân như là nhân của chân như, nên trở thành lời nói giả dối, "nghĩa là có thuyết nói: như vì liễu nhân, nghĩa là trong quả nói tên nhân, chẳng phải tức liễu nhân. Nếu chủ thể liễu, thì lẽ ra phải tự lìa nhiễm, đâu đợi duyên khác, nhưng luận Phật Tánh chép: "Lẽ ra phải được nhân, nghĩa là vì có trí chân như khởi đoạn "hoặc", thì chân như mới thể hiện rõ, là lý do của đối tượng nên được, chẳng phải là sinh liễu. Nếu gọi nhân gần thì mười nhân, bốn nhân sinh liễu thuộc về gì? Lại luận Phật Tánh chép: "Nên được, nghĩa là sẽ có thể hiện, gọi là nên được, đâu thể tự hiển bày, mà hiển bày ở trí". Lại nói: "Nếu thể sinh tướng cũng sẽ làm chánh nhân cho báo thân, là bản thể của báo thân, vì bản thể của báo thân là nghĩa

"không" thứ nhất, nếu không như vậy, thì ở đây nói thể chân như kia, dù nói chân như là pháp giới; giới là nghĩa nhân, cũng là nghĩa tự tánh. Nhân, nghĩa là chẳng phải sinh, chỉ vì dựa vào nhân, nên nói chân như là y chỉ của mê ngộ".

Luận Phật Tánh chép: "Vì đạo sinh y chỉ, do có chân như, mới có sự tục, ở các chỗ, văn đều nói thế". Lại luận Phật Tánh chép: "Một hữu thể có khả năng sinh hữu thể, một hữu thể có khả năng sinh vô thể, đây là chân thật. Nếu vì, chánh nhân của báo Phật, tức một hữu thể năng sinh hữu thể. Vì sao nói là một? Vì cũng đồng với pháp bất sinh viên thành của Du-già. Lại, nếu dùng chân như làm chánh nhân, thì vì sao luận Phật tánh chỉ nói". Vì gia hạnh, nên được nhân viên mãn, quả viên mãn. Nhân viên mãn: tức nhân gia hạnh, không nói rằng, nhân gia hạnh tức là nhân nên được. Chánh nhân: tức là phước trí. Không như vậy, thì cũng nói đệ nhất nghĩa "không" là thể của pháp nhiễm. Đâu thừa nhận chân như làm chánh nhân cho phiền não. Nếu thừa nhận như thế, thì sẽ trái với kinh Niếtbàn quyển ba mươi ba chép: "Nếu có thuyết nói: "Tất cả chúng sinh nhất định có Phật tánh thường lạc, ngã, tịnh, không tạo tác, không sinh nhân duyên phiền não, nên không thể thấy, phải biết là người chê bai Phật, pháp, tăng, nói như không tạo tác, không sinh nhân duyên phiền não, chê bai Tam Bảo. Nếu nói: "làm chánh nhân cho Báo thân, nghĩa là không phải sinh gần báo thân".

"Đã không sinh gần, thì làm sao gọi chánh nhân?"

"Như dụ mặt đất, nếu mặt đất không có, thì một trăm thứ cỏ sẽ nảy sinh, dù nương tựa đất có, nhưng không nói mặt đất là chánh nhân của trăm thứ cỏ, chân như so sánh mà biết".

Nghĩa là: "Tánh sự cũng có hai thứ:

1) Chánh nhân.

2) Duyên nhân.

Niết-bàn quyển hai mươi tám chép: "Chánh nhân, là chúng sinh, duyên nhân là sáu Ba-la-mật, đây là nói chánh nhân của báo Phật. Hoặc nói quán trí Trung đạo và kiết, v.v... vô minh năm ấm thiện, dùng làm Phật tánh, nên nói tất cả tánh nhân".

Kinh Niết-bàn quyển ba mươi sáu chép: "Phật tánh không gọi một pháp, cho đến không gọi muôn pháp, khi chưa được A-nậu Bồ-đề, thì tất cả pháp lành, vô ký đều gọi là Phật tánh. Phật tánh này làm duyên sinh hai nhân cho báo Phật".

"Kinh kia nói không đúng, vì chánh nhân riêng của duyên nhân không liễu. Nếu chánh nhân do kinh nói, quy về chúng sinh, thì tức nói chúng sinh là chánh nhân của báo Phật. Sáu Ba-la-mật làm duyên nhân, nghĩa là chưa biết chúng sinh vì tức lấy thức thứ tám làm năm ấm chung. Nếu nhận lấy tám thức, thì hạt giống hữu lậu, vô lậu là của thức thứ tám; Nếu nhận lấy hữu lậu thì hữu lậu chẳng phải chánh nhân của vô lậu. Nếu nhận lấy vô lậu, thì vô lậu này tức Phật tánh, sao chỉ nói chúng sinh làm chánh nhân mà không có phân biệt? Nếu nói rằng, lậu, vô lậu đều là chánh nhân, thì đâu cần phải giản biệt? Chúng sinh tức năm ấm, sáu Ba-lamật cũng thuộc về chánh nhân chung của năm ấm". "Vì sao trong kinh chỉ nói sáu độ?"

"Nay, y cứ như ý kinh, thì do hạt giống vô lậu của tánh sẵn có, vì mầu nhiệm đẹp ẩn mật khó biết, gửi gắm chúng sinh nói gọi là Phật tánh. Không như vậy, thì làm sao Sư Tử Hống quyển thứ hai mươi sáu chép: "Nếu tất cả chúng sinh đều không có Phật tánh thì làm sao được A-nậu Bồ-đề? Vì có chánh nhân, nên khiến chúng sinh được A-nậu Bồđề".

"Chánh nhân là gì?"

"Cái gọi là Phật tánh, nếu nói rằng "tức" Phật nói tâm, gọi là Phật tánh ấy, thì pháp khác há chẳng phải ư? Nếu như vậy, thì trái với văn thứ ba mươi, văn ấy nói: "Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, từ, bi, hỷ, xả v.v... đều gọi là Phật tánh; Mười hai nhân duyên cũng gọi là Phật tánh".

Lại, quyển ba mươi ba chép: "Phật tánh không gọi một pháp, cho đến pháp thiện, bất thiện, gọi là Phật tánh. Nếu nói rằng: "Dù nói chung, Phật tánh là chánh nhân của Phật, với ý nhận lấy thứ tám: lấy gì làm chứng? Sao không nói? Lại, Nhiếp Đại thừa chép: "Không thấy thuốc độc được thành cam lộ, v.v... Lại, kinh A-tỳ-đạt-ma chỉ nói rằng: "Vì y chỉ lưu chuyển, hoàn diệt, không nói là chánh nhân của hoàn diệt. Lại, chỉ tướng chung, nói về pháp thiện, bất thiện, làm chánh nhân duyên báo Phật, nói rằng làm sáng tỏ sự đồng, khác của Phật tánh, mà không hề làm sáng tỏ sự đồng dị của Phật tánh.

Nếu dùng hữu lậu làm chánh nhân, thì hữu lậu này chỉ thật sự khác với các người có trí, ai chịu là đồng? Các nghĩa môn khác, so sánh với môn này biết chẳng đúng, làm sáng tỏ chánh nhân khác với phần chánh rộng khai thị ở dưới.

QUYỂN 2

CHƯƠNG II: DẪN XEM XÉT, TRỪ SAI LẦM

1- Nêu lên sự sai lầm của năm tánh.

2- Sự sai lầm của chủng tánh khác nhau.

3- Sự sai lầm trụ tánh của bản tánh.

4- Sự sai lầm của năm tánh chỉ gần.

5- Sự sai lầm của chân như làm hạt giống.

6- Sự sai lầm của pháp nhĩ thông kinh.

7- Sự sai lầm của lậu sinh vô lậu.

8- Sự sai lầm của thuyết giáo trước, sau.

9- Sự sai lầm của thêm tuổi sống lâu chẳng phải liễu.

10- Sự sai lầm của nói giả dối thông kinh.

11- Sự sai lầm của giải thích chung vấn nạn của ngoại đạo.

1-Nêu lên sự sai lầm của năm tánh:

Nghĩa là: "Nếu người khác với đồng thời, thì trước sẽ nói vô tánh của thật diệt; sau nói hữu tánh không diệt. Nếu người đồng thời với khác, thì trước, sau không nhất định, nhưng vô tánh của một phần, thật diệt của Nhị thừa, nhất định là Tiểu thừa, đều có Phật tánh, không có diệt của nhị thừa là nghĩa của Đại thừa".

Nghĩa này không nên như vậy, vì sai lầm trước, sau. Vì sao? Vì nếu nói rằng, người khác đồng với thời khác, trước nói thật diệt, vô tánh là bình đẳng: Đây là y cứ vào người nào để nói. Nếu y cứ vào Bồ-tát, thì không hợp với đạo lý. Nếu y cứ vào Thanh văn, thì giáo nào trước nói sau. Nếu giáo Tiểu thừa, trước nói diệt thật, vô tánh. Trong các Đại thừa cũng nói diệt thật, vô tánh một phần.

Nếu kinh Đại thừa biết quyết định thì kinh nào trước nói Tiểu?

Kinh nào trước nói Đại?

Nếu Bát-nhã, Thâm Mật, v.v.. trước nói cho Tiểu thừa, thì Bát-nhã sẽ nói rộng về sáu độ, ba tánh; Bát-nhã nói về chúng sinh không; Thâm Mật nói không, đều quy về ba tánh xong.

Nói về có ba tánh, sao lại nói: "Trước nói không có tánh; sau nói có tánh? Lại, về sau tự chấp chân như và tâm là tánh của chánh nhân, há có Đại thừa về trước và sư Đại thừa lập chân như và tâm không phổ biến hữu tình hay sao? Nếu nói rằng y cứ vào tánh năm thừa, nhưng năm thừa đó tự chấp sau năm tánh, hữu vô phải vốn pháp nhĩ, y cứ theo như đây, thì có vị của năm tánh chưa thành về trước, lại là người của một phần vô tánh. Đối tượng của giáo trước kia đồng với giáo ở đây, đâu không phải liễu nghĩa ư? Nếu nói rằng: "Giáo sau dù có nói không có, nhưng vì đều sẽ có, nên không đồng với giáo trước kia. Nếu không như vậy, thì như kinh Niết-bàn, kinh Ưu-bà-tắc, v.v… chép: "Trong sữa không có lạc; trong đá xanh không có vàng, là ở nhân không có, hay là quả không có? Nếu không có tánh của nhân, mà về sau có thể làm nhân thì không hợp lý, cũng nên từ tất cả công năng sinh đối với tất cả, vì dùng tánh không có nhân làm nhân của tất cả kia. Nếu nói rằng, nhân Đại, Tiểu không có quả, thừa nhận không có quả trong nhân, thì trước, sau đâu có khác nhau? Riêng nói rằng, trước kia đã nói một phần không có tánh, Tiểu thừa chẳng phải liễu ba thừa, Nhất thừa, chỉ luống dối có thể đều đặn". Lại nói: "Một phần không có tánh, diệt thật cả Nhị thừa quyết định là Tiểu thừa đều có Phật tánh, không có diệt của Nhị thừa là nghĩa Đại thừa".

Nghĩa này không nên như vậy, vì quyết định sai lầm về Đại, Tiểu. Vì sao? Vì nếu một phần không có tánh gọi là Tiểu thừa, thì tất cả có tánh. Kinh bộ, Nhất thuyết bộ, gọi chung là không có thật diệt, nên đều là Đại thừa. Lại, do Tiểu thừa, có thuyết nói thật diệt và sinh vô tánh. Đại thừa cũng nói như thế, tức nói rằng: "Tùy chuyển". Tiểu thừa cũng nói: "Tất cả có tánh, nhị thừa không có diệt".

Lại, luận Phật tánh chép: "Đại chúng bộ chấp đều có Phật tánh, tức nghĩa không thứ nhất. Đại thừa đồng với bộ kia, nên có môn tùy chuyển". Lại, trong Đại thừa chỉ nói sáu thức là môn tùy chuyển; trong kinh Niết-bàn cũng chỉ nói sáu cũng là tùy chuyển". Niết bàn này đã nói tùy chuyển, thì tất cả có tánh lẽ ra phải thừa nhận tùy chuyển. Niết-bàn ở đây đã không như vậy, thì Đại thừa kia làm sao như vậy? Nên biết chẳng thể nói là đồng với Tiểu thừa đều là Tùy chuyển". Môn Như Lý nói: "Ngoại đạo cũng có sáu căn, sáu cảnh, sáu thức; Phật pháp đồng với họ, há là tà giáo ư?". lại, nói: "Mặc dù Đại, Tiểu khác nhau, nhưng đều không nói Kiến đạo trở xuống đã thành thục hữu vi, chân vô lậu".

Nghĩa này cũng không như thế, há có thể không thừa nhận bậc Thánh Nhị thừa hồi tâm hướng Đại? Chấp trước kiến đạo, quyết định không thành thục hữu vi vô lậu. Lại nói rằng: "Thuyết trong Tiểu thừa, tâm vô lậu đầu tiên không có nhân đồng loại, gọi là pháp sát-na, nên biết Đại, Tiểu đồng nói trong phần vị phàm phu chưa thành pháp chân vô lậu hữu vi".

Nghĩa này cũng không như vậy. Vì sao? Vì trong luận Phật Tánh, Luận sư của bộ Phân Biệt không tin có Vô tánh. Trong luận Dị Bộ, sư kinh Lượng Bộ thành tựu pháp Thánh trong vị phàm phu.

Luận Du-già chép: "Địa ngục thành tựu ba căn vô lậu, tiêu biểu tập khí thứ tư của Lăng-già, chẳng phải pháp sát-na". Luận Nhiếp Đại Thừa từ đồng loại sinh, làm sao chỉ tin tâm vô lậu của Sư Tát-BàĐa không có nhân đồng loại, không tin sư Kinh Bộ, bộ Phân Biệt và Du-già, v.v... nói có vô lậu, nhưng kinh Niết-bàn chép: "Không có tánh chất lạc trong sữa. Vì đả phá ngoại đạo kia chấp có quả trong nhân". Kinh Niết-bàn chép: "Nếu hạt Am-ma-la có tánh chất của cây đó, thì làm sao không thấy sinh chất của năm đại? Ý của kinh trên, dưới không phải chỉ một chỗ, đồng với quả trong nhân mà Du-già, Hiển Dương bác bỏ. Nói về quả thì không phải như vậy, vì sao kinh nói rằng: "Nếu tất cả chúng sinh không có Phật tánh thì làm sao được A-Nậu-Bồđề?".

Đáp: "Vì chánh nhân, nên khiến chúng sinh được A-Nậu-Bồ-đề, gọi là Phật tánh, trước kia đã nói: "Không có Phật tánh, không có tánh của quả Phật". Kinh kia nói: "Phật tánh làm nhân, tức là có tánh nhân của Phật". Nếu nói rằng: "Trước Kiến đạo, nói chung không có hạt giống vô lậu hữu vi, há không chỉ là ý thình lình đã bàn bạc không dựa vào kinh, luận". Lại, tự dẫn văn, nếu dùng một giọt nước cất của cây phả-cầu nhỏ vào sữa thì liền thành lạc. Nếu vốn đã có lạc, thì đâu có cần đợi duyên; Phật tánh của chúng sinh cũng giống như thế".

Ý này như sữa làm nhân, lạc tức là quả. Nếu đã có lạc rồi thì sữa đâu cần đợi duyên. Phật tánh của chúng sinh cũng giống như thế. Nếu đã thành Phật thì đâu cần phải tu nhân. Đã chờ đợi tu nhân, nói chưa có Phật, chẳng phải là không thừa nhận có nhân Phật tánh. Xem xét văn hiểu ý, nghĩa này liền rõ ràng. Lại nữa, dẫn kinh Bồ-tát Ưu-Bà-tắc giới: Ba thứ Bồ-đề không có tánh nhất định, cho đến nếu nói nhất định có tánh, thì đó gọi là người ngoại đạo. Đây là bác bỏ như nói chấp quyết định có tánh, trong nhân có quả, đồng với kinh Niết bàn rằng: "Chẳng phải có như hư không, chẳng nói hoàn toàn không có lạc, cũng như sừng thỏ". Lại, nếu nói không thừa nhận có tánh, đến sau khi kiến đạo, lẽ ra cũng không có tánh.

Nói Tam Bồ-đề không có tánh quyết định, vì không phân biệt nhân quả, sao lại bác không có hạt giống vô lậu trong địa vị phàm phu; văn còn lại cứ theo đây sẽ được biết.

2-Sự sai lầm của chủng tánh khác nhau:

Có nghĩa: "Dùng pháp giới, chân như và thức thứ tám làm chánh nhân. Chân như, là tám thức vô sinh", không có nói một phần vô tánh. Vì môn lý tùy chuyển chẳng phải nghĩa Đại thừa, nên Niếtbàn, Lăng-già, Mật Nghiêm đều song thuyết Tạng thức và Như Lai tạng là nhân của các pháp".

Kinh Niết-bàn lại nói: "Nghĩa không thứ nhất, công năng sinh pháp lành là hạt giống; nhưng kinh Thiện Giới, v.v... nói bản tánh của pháp lành, chỉ nói pháp tánh, không nói tâm ấy, vì lý có tánh công đức nhiều như số cát sông Hằng, hễ thuận, thì thành thanh tịnh, còn trái thì thành nhiễm. Do đây tu đắc gọi là khách tánh. Tâm thì không như vậy. Lại, về mặt diện lý, dù cũng làm chỗ dựa cho pháp nhiễm, sinh ra pháp lành, không lành mà không tánh có trần lao nhiều như số cát sông Hằng".

Nghĩa này cũng không đúng. Luận Thành Duy thức và Đại thừa khác, chỗ nào không thừa nhận chân như và hữu tình không khắp của tâm, rằng một phần không có là môn tùy chuyển". Lại, nếu dùng lý, tâm làm chánh nhân của Phật, tức tánh Bồ-tát, thì sao lại tự dẫn chứng kinh Ưu-bà-tắc Giới rằng: "Chủng tánh của Bồ-tát cũng giống như thế. Nhân duyên nghiệp lành, phát tâm Bồ-đề, gọi là tánh Bồ-tát, há tâm lý kia do phát tâm mà có, mới gọi là tánh Bồ-tát. Nếu nói rằng chỉ gọi Phật tánh, chẳng phải tánh Bồ-tát ấy hãy còn không phải tánh Bồ-tát, thì làm sao gọi là Phật tánh? Nếu nói rằng, phát tâm gọi tánh Bồ-tát là nói theo khách tánh, há bản tánh của Bồ-tát kia không được gọi là tánh Bồ-tát ư? Lại, y cứ kinh Niết bàn quyển 26 chép: "Có hai thứ":

1-Sinh nhân. 2-Liễu nhân.

Công năng sinh pháp, đó gọi là Sinh nhân; vì đèn có công năng soi rõ vật, nên gọi là liễu nhân. Đối với quả sinh, Sinh nhân là chánh, liễu nhân là duyên; như lý đã là duyên chánh nhân văn dưới đây tự sẽ thừa nhận vật sinh. Những người tu hành ở trước kiến đạo, đã thuận như lý mà tu, đâu không sinh hữu vì vô lậu, tức nhận lấy hữu làm hạt giống vô lậu. Nếu không có khả năng sinh, thì làm sao gọi là chánh nhân?

Nếu thừa nhận sinh thì tâm đâu có chỗ dùng, vì như đã sinh. Lại nếu chân như làm nhân sinh gần, thì trái với Niết bàn và luận Phật Tánh như trước đã dẫn. Dưới đây cũng có văn giả thiết, có chỗ nói Chân như là hạt giống, như nói các trần lao là hạt giống. Như Lai đâu nói hạt giống đó là chánh nhân của Phật? Nên biết do y chỉ như mà khởi, như bốn đại chủng đối với sắc tạo, cũng lập năm thứ gọi là hạt giống chánh: Bảy nghĩa của Du-già không phải dùng pháp thường làm nhân, vì không tỏ ngộ nghĩa huân tập khác với nghĩa hạt giống, nên đem nghĩa huân tập đến, mặc dù đối với hạt giống, chủ thể, đối tượng huân tập, hiểu nghĩa huân tập, chẳng phải giải thích hạt giống.

Lại, luận Phật Tánh quyển 2 hỏi rằng:

Trong ba tánh này, có mấy tánh không có tự thể, năng sinh có tự thể.

Đáp: Chỉ một tánh phân biệt không có tự thể, năng sinh có tự thể.

Hỏi: Bao nhiêu tánh này có khả năng sinh ra có tự thể.

Đáp: Chỉ một tánh y tha này.

Hỏi: Bao nhiêu tánh này có công năng sinh ra có tự thể.

Đáp Chỉ một tánh y tha này.

Hỏi: Trong ba tánh này có bao nhiêu tánh có tự thể, năng sinh ra không có tự thể?

Đáp: Một tánh chân thật năng diệt y tha khiến không có tự thể. Nếu như vì chánh là hạt giống các pháp, đâu không thể sinh lời nói chỉ là một y tha. Lại, nếu thể của thức thứ tám làm chánh nhân của các pháp, cũng trái với nghĩa của hạt giống Du-già, Nhiếp Đại thừa, v.v... nói Thể của tâm là một, thừa nhận sinh gần, sao gọi là dẫn tự quả, kể cả tánh quyết định. Lại nữa, một nhân đâu thể sinh chung thiện, bất thiện, v.v... Nếu thừa nhận như thế, thì nhân một luận thành không bình đẳng.

Niết bàn quyển 22 chép: "Tất cả các pháp khác với nhân, khác với quả, cũng chẳng phải một nhân sinh ra tất cả quả, chẳng phải tất cả quả từ một nhân sinh. Do đây nên biết, nhân quả gọi riêng. Do Alại-da đủ ba nghĩa tướng, đủ các thứ cõi trong tướng nhân, dù không lìa thức thứ tám, cũng không tức A-lại-da, vì lý Nhân, quả thể dụng lẽ ra như thế, nên kinh A-tỳ-đạt-ma chép: "Các pháp đối với Tạng thức, thức đối với pháp cũng như vậy, lại làm tánh quả lẫn nhau, cũng thường gọi là tánh nhân". Lại nói rằng: "Do gồm thâu, chứa giữ tất cả hạt giống thức của các pháp, nên gọi là A-lại-da. Đối với người vượt hơn ta chỉ bày.

Do đây nên biết, có các thứ giới trong Tạng thức, không phải thức thứ tám, nhưng Hoa Nghiêm, Lăng-già đều nói tâm nhiễm, tịnh năng sinh tất cả", dẫn dụng trở về thể, vì dẫn dụng khác với thức, nên không trái nhau".

Lại nói rằng: "Tâm lý dù đều có Sinh nhân, phần nhiều nói về lý, vì thuận với như thanh tịnh; trái với nhơ, trở thành nhiễm, tâm thì không phải như vậy, nên không nói".

Nghĩa này cũng không như thế; nếu tâm không thể sinh chung nhiễm, tịnh, thì có thể đồng như tâm đã sinh chung, sao không nói? Lại, tỏ ngộ thức thành tịnh; mê thức trở thành nhiễm, vì sao lại khác nhau? Phần nhiều nói nghiêng về lý. Lại nếu nói tâm không sinh công đức tướng như số cát sông Hằng", chân như với công đức gì là tánh của cát sông Hằng?".

Lại nói: "Không có tánh trần lao nhiều như cát sông Hằng".

Nghĩa này cũng không như thế, vì đã có tám mươi bốn ngàn các môn trần lao, trái với có tám mươi bốn ngàn các môn công đức. Đã nói công đức nhiều như cát sông Hằng, lại có lỗi lầm nhiều như số cát sông Hằng. Nếu chân như không khắp, không có trần lao của tánh cát sông Hằng, thì thừa nhận chân như khắp, đâu không có tánh trần lao của cát sông Hằng. Lại nói rằng: "Như Lai Tạng tánh và thức thứ tám, như ngọc Mạt-ni vì tùy duyên phát ra, nên kinh Mật Nghiêm quyển hạ chép: "Như ngọc Mạt-ni đặt trong ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, tùy thuộc đối tượng thích ứng của viên ngọc đó, đều mưa xuống muôn vật kia; thức A-lạida cũng giống như thế; hợp với tập khí, biến tương tự mọi sắc, khắp cả thế gian. Nếu tương ưng vô lậu, thì mưa tất cả các pháp công đức, thì tạng thức thứ tám, đối tượng mình đã chấp là chánh nhân của Phật, nghĩa ấy có lỗi lầm. Vì sao? Vì kinh nói: "Tương ưng với vô lậu, tức mưa công đức, nói thức thứ tám, không phải là chánh nhân; tương ưng với tánh người khác vì chẳng phải tự tánh".

Cứ như thế thì biết, đến khi lên Sơ địa, thứ tám do tương ưng với vô lậu, sinh ra trí vô lậu, chẳng phải là hữu lậu sinh gần với vô lậu. Y cứ văn kinh này, vô lậu trước đó đã có, không do mới huân tập, đâu được nói rằng: "Thức thứ tám là chánh nhân". Lại, pháp vô lậu tương ưng này cũng là công đức. Từ thứ tám, mưa thứ tám, chưa có vô lậu đều cùng lúc."

Vô lậu này khởi lên như thế nào?

Không thể nói có hạt giống vô lậu sinh, vì tự mình đã không thừa nhận có pháp vô lậu trước kiến đạo của Ba thừa. Lại, nói rằng: "Do mê tức Lại-da vô thường, tỏ ngộ lý như thức thứ tám thương trụ, nên trong kinh mật Nghiêm chép: "thức A-lại-da nào là đối tượng nương tựa của tập khí các pháp như ý, v.v...?".

Vì đối tượng quấy nhiễu vẩn đục của tâm phân biệt. Nếu lìa phân biệt sẽ trở thành vô lậu, vô lậu tức là thường, cũng như hư không. Kinh Kim Quang Minh chép: "Pháp thân là thường; ứng, hóa thân thì vô thường".

Kinh Niết bàn cũng chép: "Nếu đến quả Phật thì chẳng phải ba đời". Lại nói rằng: "Phật không đồng với các hành là hữu vi, cũng chẳng thể nói vì không phải nghiệp phiền não hữu vi, nên gọi là vô vi; vì tất cả vô lậu đều chẳng phải hữu vi, đâu riêng gì nói trí Phật gọi là phi hữu vi ư?" Lại, luận Duy Thức chép: "Nhân chứng Phật là vô thường, nghĩa là giới hạn việc thấy, nghe của mình là điều giả dối".

Nghĩa này cũng không đúng, vì nếu nói rằng: "Báo Phật là thường nối nhau thì lập đã trở thành lỗi lầm". Nếu thường ngưng đọng, thì sẽ có bốn lỗi":

-Lỗi trái với giáo: Báo Phật Bồ-đề là vốn có hay nay mới có? Nếu là vốn có thì chẳng từ nhân sinh, tức là Bồ-đề, Niết bàn đều cùng chỉ có liễu nhân, không có sinh nhân. Vì sao? Vì kinh Niết bàn quyển 26 chép: "Lại nữa, có nhân sinh, nghĩa là sáu Ba-la-mật, Bồ-đề v.v…". Lại, nếu là thường thì làm sao do nhân sinh? kinh Niết-bàn quyển 13 chép: "Nếu có các pháp từ duyên sinh, thì biết là Vô thường". Lại, chép: "Vì nghĩa này, nên pháp từ nhân sinh, không gọi là Thường". Văn dưới chép: "Này người thiện nam! Hư không chẳng phải sinh, chẳng phải phát ra, chẳng phải tác, chẳng phải tạo, chẳng phải pháp hữu vi, Như Lai cũng vậy, chẳng phải sinh, chẳng phải xuất hiện, chẳng phải tác, chẳng phải tạo, chẳng phải pháp hữu vi, như tánh Như Lai, Phật tánh cũng thế, chẳng phải sinh, chẳng phải phát ra, chẳng phải tạo, chẳng phải pháp hữu vi: Đây là nói chân như, pháp thân, chẳng phải báo thân. Nếu không như vậy, vì sao báo Phật gọi là tu đắc?". Lại kinh Duy-ma từ các công đức sinh, v.v… Lại kinh Niết-bàn quyển 19 chép: "Như thế, ánh sáng gọi là trí tuệ, tức là thường trụ. Pháp thường trụ không có nhân duyên, có nhiều lượt giải thích pháp thường không có nhân". Lại nói: "Thể Niết-bàn chẳng phải vốn không có, mà nay có. Nếu thể Niết-bàn vốn không có mà nay có, thì chẳng phải pháp Thường trụ vô lậu". Lại, Bồ-tát Cao Quý Đức nói: "Thông thường, nhân trang nghiêm mà được thành, đều gọi là vô thường. Đại Bồ-đề này vì trang nghiêm mà thành, nên nhân tu mới có; gọi là vốn không mà nay có, thì sao là thường?".

Lại, nói rằng thể Niết-bàn chẳng phải được hình thành do năm nhân như thế, v.v.. Sáu Ba-lamật đã là liễu, chẳng phải sinh. Hoặc vì bổn nhân nên là thường; thể Bồ-đề do năm nhân được. Vì sáu Ba-la-mật, v.v.. đã là Sinh nhân, nên là vô thường, hai lỗi trái với lý".

Luận Phật Tánh quyển 2 giải thích ba Như Lai tạng, ba công năng gồm thâu là Tạng, nghĩa là địa quả, tất cả công đức vượt hơn số cát sông Hằng. Khi trụ tánh nên chứng đắc của Như Lai, vì gồm thâu đã hết. Nếu khi đến quả mới được tánh, nghĩa là tánh ấy là thường, vì sao? Vì chẳng phải mới được, nên biết là vốn có, cho nên nói là thường.

Đây là nói pháp thân tự tánh, nếu là báo thân thí há khi nên được nhân, là đã được viên mãn, thì không cần lại tu nhân ư? Trí đại viên cảnh đến quả mới sinh, tức là mới được, nên là vô thường". Lại, kinh Niết-bàn quyển ba chép: "Chuyển y có bốn thứ tướng, nên biết":

1- Vì sinh y.

2- Diệt y, cho đến nói rằng: "một sinh y, nghĩa là đạo vô phân biệt của Phật y chỉ nối nhau. Nếu không duyên pháp nây, thì đạo vô phân biệt sẽ ức không được sinh".

Đã nói rằng, đạo vô phân biệt, y chỉ nối nhau mà nói khác nhau, như bất động thường trụ. Lại, trong giải nạn Niết-bàn chép: "Vì chẳng phải do đạo sinh, nên pháp này phải cần có nhân đạo mới đến được, không phải đạo có công năng sinh. Cho nên, khi chưa tu, chẳng được nói không có, vì vậy nghĩa không có sinh được lập vì không có mé sau, là không có diệt, mé giữa không có nghiệp phiền não, v.v… nên chẳng có biến đổi khác, vì ba lỗi lầm không có sinh, dị, diệt, v.v… nên nói Thường trụ. Bồ-đề là do đạo sinh, khi chưa tu đạo không có, vì nhân tu mới được, nên khác với Niết-bàn, chẳng phải thường trụ". Lại, nói rằng: Nếu lìa bỏ Niết-bàn thì sẽ không có một pháp nào Thường trụ, nên mà trước, v.v... của Niết bàn, vì không có nên biết là thường". Bồ-đề có bắt đầu, vì có mé trước, nên nói chẳng phải thường trụ".

Nếu nói rằng, vì báo thân không lìa Niết bàn, nên là thường, thì há chịu biến hóa của người khác là rời Niết bàn ư?.

Lại Nhiếp Luận quyển 15 dịch vào đời Lương chép: "Sáu nhân chứng thân thọ dụng, không trở thành thân tự tánh. Ý này nói chân như làm báo Phật tự tánh, gọi là thọ dụng. Sáu nhân là":

-Vì sắc thân và hành thân biểu hiện rõ nên giải thích rằng: "Thân danh sắc mười nhập, thọ, v.v… gọi là hành thân. Chư Phật dùng pháp chân làm thân, sắc hành trong không thể được; ứng thân thì không phải như vậy".

Nghĩa này ra sao?.

Nhất thiết trí đại định, đại bi v.v… công đức của Như Lai nhiều như số cát sông Hằng, dù y chỉ pháp thân, nhưng nếu khi thể hiện rõ ràng, thì sẽ không lìa bỏ hóa thân. Hóa thân này do Phật khác với tất cả chúng sinh, vì sự tướng của ứng thân, nên sắc hành có đối với ứng thân, không có đối với pháp thân, cho nên, ứng thân không thành pháp thân. Nói về sáu A-lại-da và thức sinh khởi hiện chuyển y chẳng phải là đạo lý.

Giải thích rằng: "Thức A-lại-da và thức sinh khởi, tức là thân thọ dụng. Chuyển y của hai thức này gọi là pháp thân. Nếu thân tự tánh tức là thân thọ dụng, thì sẽ chuyển hai thức, y chỉ thân nào của Hậu đắc? Vì phi đạo lý này, nên thân thọ dụng không trở thành thân tự tánh. Nếu thân thọ dụng tức là thân tự tánh, thì sẽ không có mọi đức như đại trí, v.v… Vì không có mọi đức, nên thân tự tánh không trở thành thân thọ dụng". Tuy nhiên, luận Đại Trang Nghiêm quyển ba chép: "Trí Đại viên cảnh, trí Bình đẳng tánh, gọi là Pháp thân, nghĩa là dùng thức thứ tám để giữ gìn hạt giống của hai chướng, khi được Cảnh trí, xả hạt giống hai chướng. Thức thứ bảy, luôn chấp lý bình đẳng chướng, lìa chấp chứng như. Vì nhân hai trí này được pháp thân, nên nói hai trí là pháp thân". Lại, gốc đối tượng nương tựa của công đức của lý chân như; gốc đối tượng sinh của công đức hai trí, nên gọi là pháp thân. Nếu chia ra thân tự tánh; và thân tự thọ dụng, thì bốn trí đều là thân tự thọ dụng. Thọ biến hóa của người khác nhân hai trí khởi, tức nói hai trí là thân kia".

Luận Đại Trang Nghiêm quyển 3 chép: "trí Quán sát, trí Thành sự là hóa thân, vì hai nhân trí khởi, nên nói hai trí là hai thân kia. Không như vậy, vì hai luận đều do Vô Trước soạn".

Vì sao luận Trang Nghiêm nói hai trí là pháp thân? Nhiếp Luận không thừa nhận hai trí là pháp thân. Lại nữa, vị nhân của tám thức vô thường, vì sao quả vị có thường, vô thường khác nhau.

Đã thừa nhận thường, vô thường khác nhau, thì lẽ ra phải thừa nhận tư lự (lo nghĩ) phi tư lự; tâm, phi tâm; sắc, phi sắc v.v... khác nhau. Lại nữa, ứng, hóa và sắc lập v.v… đều từ Cảnh trí hiện. Vì sao tâm chủ thể biến là thân thường trụ, trí đối tượng biến là vô thường, không được nói lẫn lộn, chủ thể biến chỉ là tâm sở biến, tâm sắc riêng, tâm chủ thể biến là thường trụ, đối tượng biến là vô thường. Vì sao? Vì hạt giống sở biến đều khác; chủ thể biến chỉ có tâm sở; chủ thể, đối tượng đều cùng có tâm, trí, đâu được thường, vô thường.

Luận Bát-nhã Thiên Thân chép rằng: "Phân biệt thể hữu vi, chẳng phải thành tựu tướng hữu kia. Vì ba tướng khác với thể, nên lìa tướng đó là Như Lai".

Đây là nói pháp than lìa hữu vi, há tướng báo thân lìa hữu vi hay sao? Nếu nói rằng, không lìa thì chẳng lẽ không thừa nhận sự sinh? Sinh rồi dừng lại, há chẳng phải là trụ hay sao?

Đã có ba tướng, đâu được gọi là thường. Lại nói rằng: "Ứng, hóa có đến đi, Phật pháp không có đến đi, ứng hóa có đến, đi, là nói về vô thường". Lại, luận Nhiếp Đại Thừa nói rằng: "Đối với pháp thân, sắc, hành không thật có, nói về báo thân, v.v... sắc hành có thể được; vì báo thân đã là sắc hành có thể được, nên là vô thường, cũng không được nói rằng, dù có sắc hành mà thể là không".

Kinh Niết-bàn chép: "Bỏ sắc vô thường, đạt được sắc thường. Thọ, tưởng, hành, thức, cũng giống sắc như thế, nghĩa là đã thừa nhận sắc, hành động với chân như thường, đồng với như vắng lặng".

Vì sao Nhiếp luận dịch vào đời Lương: "Nếu cho rằng pháp thân là ứng thân Phật, thì không có việc lợi ích chúng sinh. Nếu cho rằng ứng thân là pháp thân Phật, thì không có nghĩa yên vui hiện đời, vì luôn ồn ào náo động, lìa vắng lặng".

Cứ như ý của luận này, do pháp thân là thường, không có công năng lợi ích chúng sinh. Báo thân đã là thường, há chẳng đồng như không có khả năng lợi ích chúng sinh.

Lại nếu là thường, thì sao lại vặn hỏi rằng: "Nếu cho rằng ứng thân là pháp thân Phật, thì sẽ không có nghĩa yên vui hiện đời".

Vì thường ồn ào, náo động, vì lìa vắng lặng, nên thừa nhận báo thân là thường, làm sao nói được vì thường ồn ào náo động, vì lìa vắng lặng. Lại, kinh luận Pháp Hoa giải thích: "Chỉ cho văn pháp thân trong ba thân rằng: "Chẳng thật, chẳng hư, chẳng như, chẳng dị".

Giải thích: "Nghĩa là lìa bốn tướng, có bốn tướng, vì là vô thường, thành ra không nói báo Phật cũng lìa bốn tướng. Ba vọng dẫn đến lỗi Thánh giáo. Nếu Vô thường, vì sao kinh Mật Nghiêm nói đồng với không thường?".

Kinh Niết-bàn chép: "Bỏ sắc vô thường, đạt được thường, v.v…". lại nói: "Như Lai có thường, lạc, ngã, tịnh, v.v… ư? Dẫn rộng như trước, điều này không chứng thành. Vì sao? Vì Luận dịch đời Lương vốn chép rằng: "Lại nữa, thân tự thọ dụng và thân biến hóa Vô thường, sao chư Phật dùng pháp thường trụ làm thân".

Thích luận chép: "Nếu Như Lai không Bát Niết-bàn mãi mãi, thì Như Lai dùng pháp thường trụ làm thân. Thân thọ dụng và thân biến hóa không nên là vô thường. Nếu là vô thường, thì sao lại nói: "Dùng pháp thường trụ làm thân" Luận này đáp: "Do ứng thân và hóa thân, luôn chỉ có pháp thân".

Giải thích rằng: "Pháp thân là gốc của ba thân. Vốn đã thường trụ, cuối cùng dựa vào bổn nguyện, vì nối nhau luôn tồn tại, nên cuối cùng cũng thường trụ".

Luận chép: "Vì ứng thân không lìa bỏ, vì hóa thân thường hiện khởi, như thường thọ niềm vui, như luôn thí thực. Hai thân thường trụ, nên biết như thế".

Luận Đại Trang Nghiêm, kinh Kim Quang Minh, Kinh Vô Thượng Y, luận Phật Tánh v.v…" giải thích: "Vì đều giống nhau, nên không đồng, như trong lặng sâu dày, thường trụ, cũng không được nói ứng thân của thuyết này là thân tự tánh".

Giải thích: "Như Lai đức hạnh viên mãn và đem lại lợi ích cho các Bồ-tát, vì hai việc này với Như Lai không không lìa nhau". Lại, trước kia nói: "Nếu thân tự tánh tức là thân thọ dụng, chuyển y hai thức, lại được thân nào?". Cho đến nói: "Nếu thân thọ dụng, tức là thân tự tánh, vì không có mọi đức của đại trí v.v… Đây là nói ứng thân của thân thọ dụng". Lại, người thiện nam vì tánh nên sinh, trụ, dị, diệt đều là thường. Nhưng vì niệm niệm diệt, nên không thể nói là thường".

Đây là nói bốn tướng là thường. Lại luận Đại Trang Nghiêm quyển 33 chép: "Nấy người thiện nam! Pháp thường không có nơi chốn. Nếu có trụ xứ, tức là vô thường, mười hai nhân duyên không có nơi chốn quyết định. Nếu có trụ xứ, thì mười hai nhân duyên không được gọi là thường. Các nhân duyên đều y cứ đối tượng nương tựa, vì tánh như nên gọi là thường, tức Nhiếp Luận chép: "Do ứng thân, hóa thân vì thường y chỉ pháp thân, nên gọi là Thường, chẳng phải tự tánh thường".

Văn Mật Nghiêm, v.v… so sánh với Nhiếp luận này, nên biết đây là các Đại luận Điều ngự vô thượng, trí giải đều khắp, giáo lý đầy đủ rõ ràng, tự không có mắt pháp, khắc vào thuyền, vào cây để đợi thỏ (giữ chết ý kiến của mình), thuốc điên khùng uống vào tâm, phát ra tánh hung bạo này, nói được pháp v.v..., đều trái với văn kinh, chỉ khiến cho sinh, diệt, nói đạo trong hội. Thánh trí có thể sinh, chẳng phải thường chấp là thường, theo nhóm định tà. Bốn không xả, bốn ghi nhận lỗi lầm rằng: "Nếu y chỉ bốn thọ ký, vì có sinh, tất nhiên có tử, nên chứng trí Phật: có sinh thì có diệt, lẽ ra cũng do không có hoặc, chết chết bất sinh, chứng trí Phật diệt, lại không khởi, không thể một bề ghi nhận. Nói sát-na phân biệt ghi nhận, tức thân phần đoạn, Phật đã không có; hoặc diệt, sinh trở lại, có sinh phải có tử, không phải y cứ ở Phật. Không như vậy, do chưa khéo bỏ ý của bốn thọ ký. Vấn nạn này sinh, hiểu biết bốn thọ ký này, tai nạn mạnh mẽ ấy liền dứt. Vì sao? Vì sinh, tất nhiên có tử; hoàn toàn ghi nhận, bất luận sát-na với một kỳ hạn chết, nghĩa là sống hay sao?".

Phân biệt ghi nhận một kỳ hạn sát-na, đều cùng có. Nếu không phân biệt, thì sao gọi là phân biệt ghi nhận. Nay vì phân biệt, nếu y cứ ở một kỳ hạn, thì sẽ không có phiền não: Tử thì không có sinh. Nếu y cứ vào sát-na; hoặc có; hoặc không; hoặc đều có; cần phải phân biệt. Vả lại, y cứ vào trí Như Lai hiện khởi, đã trải qua sinh chủng, gọi là sinh hiện. Khởi, diệt xong, không huân tập hạt giống, tức tử nghĩa là không sinh. Nếu y cứ vào hạt giống sinh hiện hành, thì sẽ không ngăn ngại hiện diệt; hạt giống khác khởi, dù không có phiền não, nhưng hạt giống lại sinh, nêu một cử, so sánh khác. Tánh quyết định của Nhị thừa, người không có phiền não, một kỳ hạn diệt xong, tất nhiên sẽ không trở lại. Nếu y cứ vào sát-na, hiện khởi trí tâm, huân tập trở lại thành hạt giống, dù lại hiện diệt, nhưng hạt giống mới lại sinh, người tánh bất định đều có sátna diệt, không có một kỳ hạn diệt, không xả thân này, lại vì thọ thân. Nếu thừa nhận hồi tâm thì người của quả Vô học, xả phần đoạn xong, lại thọ biến dịch, sao lại nói không có phiền não được chết chết không sống lại? Biện luận về Phật tức Phật không chết. Lại, có người nào gọi là tử không sinh? Y cứ có phiền não sinh nghĩa là nêu tử; tử nghĩa là sinh ư? Y cứ ở phần đoạn để nói, cũng có không sinh, thú hướng ba thừa, quyết định nhập kiến đạo, không lui sụt. Thân ba đường ác, từ trước kia đã chết rồi, tất nhiên không sinh lại người, trời, không quyết định y cứ ở sát-na. Sinh tất nhiên đều có chết; chết nghĩa là sinh ư? tức cần phải phân biệt, nếu nghiệp, nghiệp dị thục, thân, tâm dù sinh, nhưng vì không huân tập hạt giống, nên sau khi chết rồi, không sinh trở lại. Nếu nói theo hạt giống cũ, thì dù chết, nhưng vẫn khởi trở lại, đó là báo thân Phật đã có, sinh rồi, chắc chắn sẽ có diệt, không cần phân biệt một kỳ hạn sát-na tử nghĩa là sinh, tức cần phải phân biệt.

Nếu biết như thế, thì gọi là có bốn thọ ký. Phật tự nói quyết định người có sinh đều có tử, là hoàn toàn thọ ký, sao hiện nay lại vì phân biệt?.

3-Sự sai lầm của bản tánh trụ tánh:

Có nghĩa: "Như Lai tạng và thức tạng, tất cả hữu tình đều bình đẳng, tức ở đây gọi là Tánh chủng tánh, cũng gọi là Bản tánh. Huân tập sau: gọi là khách tánh, vì mới huân tập. Tánh của năm thừa khác nhau chẳng phải là bản hữu; vì tánh của chân như, bản thức bình đẳng, nên tất cả không khác nhau".

Nghĩa này nói phi lý, vì lập tông luống dối. Vì sao? Vì chân như, pháp giới và thức thứ tám, hữu tình đồng có.

Văn thành thật của kinh, luận, ngu, trí đều thừa nhận, tức ở đây gọi là chủng tánh, người trí không như thế. Vì sao? Vì nếu chân như này và thức thứ tám, gọi là tánh chủng tánh, tất cả đều có, thì sao gọi là thù thắng?.

Do có hạt giống vô lậu pháp nhĩ, Ba thừa sai biệt, khác với không có tánh, gọi là Thù thắng. Kinh Thiện Giới quyển nhất chép: "Trước nói phẩm Thiện hạnh tánh, không nói phẩm Tánh chủng tánh". Lại, nói tu tập hạnh Thánh, thực hành đạo Bồ-đề của quả lành. Có mười phép tắc có công năng gồm thâu tất cả pháp lành. Du-già, Địa Trì và đều tương tự nhau. Trước nói về phẩm Bản Tánh Phát Tâm, sau, mới nói về Tập tánh. Trong Tánh chủng tánh nói về Tập chủng tánh, lại nói đối nhau, chẳng phải chánh thuyết minh. Đối tượng nhận lấy, do sáu độ của Địa Trì, ấn tướng rằng: "Tánh Bồ-tát tự ưa thích bố thí v.v...".

Luận Du-già chép: "Lại, các Bồ-tát có sáu tướng chủng tánh Ba-la-mật-đa, vì tướng này nên bình đẳng". Lại, Địa Trì chép: "Chẳng phải người của chủng tánh vì không có chủng tánh, nên dù lại phát tâm hết lòng tu tinh tấn, tất nhiên, không rốt ráo A-Nậu Bồ-đề, cũng không được nói rằng: "Không có tập chủng tánh, tức người này phát tâm hết lòng tu tinh tấn, có thể không phải Tập tánh, rằng sau cùng không được. Do đây nên biết phải có hạt giống vô lậu pháp nhĩ, mới gọi là Tập chủng tánh. Nếu không có bản tánh thì tập tánh do đâu mà sinh?".

Tạp Tập luận chép: "Dù có mọi duyên, nhưng vì không có hạt giống bất sinh, nên chẳng phải do người khác làm".

Kinh Thiện Giới cũng chép: "Nếu người nào không có tánh Bồ-tát, thì sẽ không được Bồ-đề, cũng không được nói rằng: "Người không có Tập tánh". Kinh nói: "Cho nên, phải biết rằng, không phải do phát tâm mà có tánh Bồ-tát, tập chủng tánh này do người phát tâm, sao được nói: "Không phải do phát tâm mà có tánh Bồ-tát". Lại, Địa Trì chép: "Nếu không có tánh Bồ-tát thì cho dù có tất cả các hạnh phương tiện, cuối cùng cũng không được thành Vô thượng Bồ-đề". Kinh Thiện Giới chép: "Mặc dù đầy đủ bốn việc như thế, nhưng nếu không có tánh Bồ-tát mà được thành Bồ-đề, là không có việc đó. Lại, luận Phật Tánh quyển 4 chép: "Năm không có tánh thiện tương ưng đầu tiên làm pháp".

Giải thích: "Không có đầu tiên: Vì tánh "Đắc" Bát-nhã, Đại bi, thiền định, pháp thân đều vốn có, nên nói không có tánh; vì thể, dụng không hề rời nhau, nên nói tương ưng". Tánh "đắc" nói ở đây, tức không do huân tập. Đã tức nói vốn có, vì không có nói đầu tiên, chẳng có bắt đầu khởi, nên không được nói rằng, thuyết này đúng như lý".

Luận rằng: "Bát nhã, Đại bi, thiền định, pháp thân, vì đều là bản hữu nên đều chỉ nói như ngang bằng với pháp nào? Lại, trước kia đã nói nghiệp báo phiền não đều không có ban đầu, tức thừa nhận ba khác nhau. Nay, nói bốn pháp đều không có ban dầu, sao chỉ y cứ sở lý? Lại, vốn hạt giống vô lậu, không gọi là Tánh chủng tánh, vì sao kinh Thiện Giới, gọi là phẩm Thiện hạnh tánh?" Lại, luận Phật Tánh chỉ thừa nhận tánh chân như, không khiến cho phiền não diệt; không thừa nhận có tánh".

Luận Du-già quyển 74 chép: "Viên thành cũng đồng với thể của tâm thứ tám, cũng không phải tánh chủng tánh. tánh chủng tánh là vô lậu của tâm thứ tám kia, là chủng tánh sẵn có". Thể của tâm thứ tám đã là hữu lậu, làm sao được thành nhân vô lậu, nên Nhiếp Đại thừa của Vô Tánh quyển 3 chép: "Chưa từng thấy có chất độc là cam lộ, thức A-lạida cũng như thuốc độc, làm sao có thể sinh tâm thanh tịnh cam lộ xuất thế?. Lại, bản luận dịch vào đời Lương chép: "Phật, Thế Tôn nói: "Từ người khác nghe tiếng và tự chánh tư duy; do hai nhân này mà sinh chánh kiến".

Giải thích: "Hai nhân này đối với chánh kiến là duyên tăng thượng. Nhân nói ở đây là nhân danh từ chung, nói duyên làm nhân. Đã nói huân tập nghe làm duyên tăng thượng, là nói biết chánh kiến vốn tự có nhân. Dưới đây, vì nói huân tập làm hạt giống, nên tâm xuất thế được sinh".

Nói về sự hội thích trước kia đã xong. Dưới đây lại không giải thích, đều khiến so sánh mà biết, không phải chỉ là hiện gần. Nghe, gọi là huân tập nghe, vốn hạt giống chánh kiến cũng gọi là huân tập, vì nhân tăng trưởng, nên luận Địa Trì, v.v... cũng gọi là Huân tập, cũng gọi là Tăng trưởng. Đã huân tập này không phải thuộc về A-lại-da, là chủ thể đối trị này, biết rõ không thật có, do thể của thức thứ tám là tánh chủng tánh của Bồ-tát, gọi là nhân bình đẳng. Nếu thừa nhận là vô lậu thì đối trị với Khổ, Tập; Tức vì không được làm nhân của pháp nhiễm, nên bản ương luận dịch vào đời Lương chép: "Tức đã làm đối trị của nhiễm, vẩn đục và tâm xuất thế, không nên về sau nói là bất định gọi là nhân. Nếu nói rằng ta nhận lấy công đức trên thức thì tức là nhân pháp nhĩ có không có tánh, riêng vốn có tánh hạnh, mỗi chỗ nói thành thật. Không biết có hạt giống bản hữu, Vô tánh có riêng hành tánh bản hữu, chỗ nào cũng thật có, không biết có hạt giống bản hữu này gọi là tánh chủng tánh vọng chấp chân như và thức thứ tám làm tánh chủng tánh, có thể không hổ thẹn ư? Có thể không nhiễm ư? Vì bản ý của Vô tánh, Nhiếp luận đều đồng, nên không dẫn đủ. Các luận đều nói: "Huân tập hạt giống vô lậu làm nhân, không nói chân như, thể của thức thứ tám làm nhân chánh sinh". Lại nữa, vì chân như không dựa vào các pháp, nên luận Bảo Tánh chép: "Không" không dựa vào đất, v.v...". Lại nói: "Tâm thanh tịnh tự tánh không dừng lại ở các pháp kia, ở các chỗ đều nói thật, không cần trích dẫn rườm rà, đâu cần nêu ý sáu xứ, nhận lấy nhất định chân như kia". Lại nói: "Kinh Vô Thượng Y nói: "Cõi Như Lai không thể suy nghĩ, bàn luận. Tất cả chúng sinh đều có chủng loại tướng vượt hơn của ấm, nhập, giới, đã biểu hiện trong, ngoài, với thời tiết vô thỉ nối nhau, lưu truyền đến nay, do pháp nhĩ mà được".

Y cứ văn kinh này, tức cõi chân như gọi là Tánh chủng tánh. Nghĩa nầy cũng không như vậy, vì lầm dẫn kinh để chống chế.

Y cứ vào văn kinh này, chính là tánh hạnh của pháp nhĩ vô thỉ, gọi là chủng loại của tướng vượt hơn của ấm, nhập, giới, trong, ngoài nối nhau, truyền đến đối tượng đắc của pháp nhĩ. Đối tượng đắc của pháp nhĩ, tức nghĩa pháp nhĩ. Chỗ này, nếu tâm, ý, thức phẩm hạ, khiến nương tựa xứ y tha, quán lý chân như, dứt trừ pháp nhiễm, về lý sáng tỏ, trí viên, đồng với bài tụng của luận Biện Trung biên, phân biệt luống dối có. Đối với hai pháp này đều không có. Trong đây, chỉ có không, ở kia cũng có đây, cho đến đây là khế hợp với Trung đạo. Vì không biết nghĩa này, nên chấp cõi chân như có trong, ngoài chủng loại kia đã biểu hiện nối nhau, lưu truyền đến nay. Lại nói: "Niết-bàn quyển 8 chép: "Phật tánh của chúng sinh thì không như thế. Mặc dù ở trong ấm, giới, nhập, mà không đồng với ấm, nhập, giới, không đồng với văn trước kia".

Kinh Vô Thượng Y chép: "Có chủng loại trong, ngoài tướng vượt hơn của ấm, nhập, giới, đã biểu hiện, nối nhau truyền đến. Đây là đồng với tướng ấm, nhập, giới". Kinh Niết-bàn nói: "Không đồng với tướng ấm, nhập, giới, nên sự lý khác nhau. Hoặc y cứ theo vô lậu, khác với hữu lậu, nói rằng, không đồng với hữu lậu kia. Nếu không như vậy, thì sao lại nói: "vẫn còn ở trong ấm, nhập, giới, vì sao? Vì chân như khắp tất cả, không thể nói rằng: "Mặc dù ở trong ấm, nhưng nói Phật tánh chẳng phải chỉ có lý nhân, thực hành sáu độ, v.v… đều gọi là Phật tánh".

Lại nói: "Thắng Thiên Vương phân tích văn trước sau khác nhau. Trước rằng: "Pháp tánh của Như Lai ở trong uẩn, giới, xứ, từ vô thỉ đến nay, lần lượt nối nhau, phiền não không nhiễm".

Nghĩa này cũng phải chứng, vì đây là nói tánh hạnh, hạnh cũng là pháp. Pháp vì nói chung, nếu là lý tánh, thì thể tánh thường trụ đâu được nói rằng lần lượt nối nhau. Sự nối nhau ấy không phải là nghĩa thường trụ. Kế là, nói pháp tánh thanh tịnh là gốc các pháp, tự tánh không có gốc.

Ở đây nói chân như sinh ra các pháp làm duyên tăng thượng, chẳng phải nhân duyên gần sinh ra các pháp, nhưng như không sinh là duyên tăng thượng sinh. Nếu nhất như sinh ra muôn đức, thì đâu có quyết định nhân khác.

Luận Nhiếp Đại Thừa, Trang Nghiêm chép: "Các công đức đều khởi từ cảnh trí, như đã sinh gần, đâu cần trí sinh". Lại nói rằng: "Luận Phật Tánh chép: "Ánh sánh của mặt trời trí tuệ Phật. Đã khiến pháp thân sinh, thuận theo ý thân, thêm lớn pháp thân, tức đương bản tánh, đồng với Kinh Thiện Giới chép: "Pháp tánh tự như thế".

Nghĩa này cũng chẳng phải chứng, vì đã nói chân như, gọi là Pháp tánh, tức là pháp thân, đâu thể khiến cho sinh. Kinh Niết-bàn Phẩm 37 chép: "Ba-la-mật v.v.. đây gọi là liễu nhân, tự vận hành còn gọi là liễu. Ánh sáng Phật đâu phải tức năng sinh". Lại, trước kia tự nói rằng: "Trong luận Khởi Tín nói thể đại tức thể chân như; tướng đại tức Vô lượng công đức tánh, dụng đại tức thể sinh nhân, quả lành thế gian, xuất thế gian. Hạnh hữu vi của dụng đại là vì như dụng, nên công năng sinh ra tất cả".

Nghĩa này cũng không như thế, vì chân như há có tác dụng? Nếu có tác dụng thì vì đồng với các hành, nên như dụng tăng thượng, mà các pháp được sinh. Lý này có thể như thế, không vì sinh dụng. Trở xuống phần nhiều ý văn đều chứng như và thể thứ tám gọi là tánh chủng tánh, tức gọi là chánh nhân, Sinh nhân; Sáu độ, v.v... khác, tức là tánh tập duyên nhân. Theo luận Phật Tánh, chân như không sinh thể hữu dư. Nhiếp Luận chép: "Lại-da chẳng phải nhân xuất thế". Đại Trang Nghiêm quyển năm chép: "Sáu, nghĩa là không có khác, không có khởi, do tánh chân thật, chẳng phải có tự thể khác sinh khởi, nếu thân sinh các pháp, thì có tự thể khác khởi".

Đại Trang Nghiêm quyển ba chép: "Tức nói trí nhất thiết chủng là thể của thân Phật". Lại, nói: "Chuyển sáu Ba-la-mật, v.v… tất cả pháp lành, làm thể của Phật. Các luận đều nói chuyển tám thức thành bốn trí làm thân Phật, không nói chân như sinh, không chỉ thể có thức thứ 8, so sánh biết văn khác, dẫn rộng, e rườm rà phải giải thích, nên đều lượt bớt".

Nghĩa là: "Luận Thành Duy Thức lập năm tánh khác nhau, có trái với lý giáo. Nói trái với lý, nghĩa là tất cả chúng sinh đồng với tâm có lý, có một phần nhân khác nào, chúng sinh không có hạt giống vô lậu. Dù có vô lậu, do đâu lại có phần tánh của Ba thừa, có nhân thì không phải pháp nhĩ, cũng không có nhân, không hợp, không đồng, đã chấp tất cả chúng sinh đồng với tâm có lý là nhân chánh sinh. Đã thừa nhận lý tất cả bình đẳng của tâm, làm sao có sáu đường được, ba cõi thiện, ác, nhiễm, tịnh; chủng tánh của ba thừa, nếu có nhân khác, thì về lý tâm chẳng phải gốc, không có nhân khởi riêng, hợp nào không đồng. Nếu cho rằng đợi duyên, thì duyên sẽ từ như khởi, như nhân đã là một, thì duyên cũng đồng, cũng duyên, từ đâu sinh có các thứ khác nhau? Nếu tất cả chúng sinh đồng có chân như, chung một chánh nhân, thì sẽ đồng với Số luận, v.v... từ một nhân khởi tình, phi tình, v.v... Thể là thường trụ, đại v.v… Vô thường. Lại tự nêu ví dụ, về lý, nếu như hư không, thì tâm sẽ như các giới không. Hữu lậu đồng với bóng tối; vô lậu đồng với ánh sáng. Bóng tối diệt, ánh sáng sinh.

Do đối với hư không và do lửa, v.v… sinh gần, chẳng lẽ trong bóng tối, trước đã có tánh ánh sáng, mà tạo ra nhân gần của ánh sáng chăng?".

Nghĩa này cũng không đúng, như ví dụ tự trái với lý, nếu hư không, tâm đồng với cõi không, đã nói lý, tâm tạo ra nhân gần của vật, tức tự có thể sáng, đâu cần lửa của hạt ngọc đỏ" Nếu do lửa của ngọc châu đỏ, thì lửa của ngọc châu đỏ sẽ tự tạo ra nhân ánh sáng, há là do hư không và ở cõi không sinh gần ánh sáng? Dụ khác và văn đều tự trái, nên tự suy nghĩ, quán sát, e phiền não không thể nêu được". Lại nói rằng: "Duy Thức trái với chánh giáo, như kinh Thiện Giới nói Tánh chủng tánh: là lý, chẳng phải sự. Nếu nói là sự, thì có văn nào chứng không?".

Nghĩa này cũng không hợp lý, vì văn dẫn luống dối kia, như trước kia đã lược chỉ ra; văn của tánh hạnh đã chứng như trước đã nói". Lại nói: "Nếu có thượng trung, hạ khác nhau thì sẽ trái với kinh Ưubà-tắc giới, kinh này nói rằng: "Có thượng, trung, hạ chẳng phải bản tánh; cũng trái với kinh Chánh Pháp Hoa, Đại Tập, v.v... vì nhân duyên, nên trước không có tánh của ba thừa. Nếu không có nhân, thì pháp nhĩ tự được, tức trái với Thâm Mật có thượng, trung, hạ chẳng phải không có nhân".

Nghĩa này cũng không như vậy, vì nếu chẳng phải bản tánh đều tự khác nhau, chỉ do duyên, nên căn tánh khác nhau, há thượng, trung, hạ không có tự chánh nhân, chỉ nhân duyên khởi, đã tự không có hạt giống, thì sẽ duyên đối tượng nào? Trong kinh Niết bàn chỉ nói Niết bàn từ liễu nhân mà được, không nói hữu vi chỉ duyên nhân sinh, không có hạt giống mà sinh, trái với nhiều Thánh giáo.

Theo phẩm Thiện hạnh tánh trong kinh Thiện Giới nói rằng: "Nói căn cơ vượt hơn, nghĩa là bản tánh của Bồ-tát Ma-ha-tát mạnh mẽ, nhạy bén, duyên tánh Thanh văn trong giác tánh chậm lụt". Đã nói rằng: "Bản tánh mạnh mẽ, nhạy bén, nói chẳng phải do khách tánh". Lại, luận Đại Trang Nghiêm quyển một chép: "Do sự khác nhau của cõi, nghĩa là chúng sinh có các thứ cõi, vô lượng cõi, nhiều cõi. Tu-đa-la nói: "Vì khác nhau về cõi, nên biết sự khác nhau của chủng tánh ba thừa, cho đến không có sự khác nhau của bốn quả. Bồ-đề của chúng sinh có hạ, trung, thượng, vì hạt, quả giống nhau. Nếu không có tánh khác nhau thì sẽ không có quả khác nhau, đồng với kinh Thâm Mật có thượng, trung, ha là nhất định có nhân duyên". Kinh Đại Tập chép: "Do duyên nhân, nghĩa là y cứ vào tăng thượng mà nói rằng: "Vì có bốn duyên, nên chẳng trái với giáo trước đã nói chẳng phải bản tánh, vì chẳng phải do tánh, nghĩa là ý nói: "Không chỉ do tánh, mà cũng nhờ tăng thượng, lại duyên sinh. Y cứ chẳng phải như nói giải thích hạt giống sở duyên duyên của chân như. Văn dưới đây sẽ nói cho biết rõ: "Nếu nói rằng về lý, thì tâm sẽ là chánh nhân của chân như kia, đâu thể vì lý do duyên nhân nên thành ra thượng, trung, hạ. Hơn nữa, về mặt lý, tâm gọi là Tánh chủng tánh, vì sao chẳng được nói rằng: "Vì tánh, nên gọi là Bồ-tát?" Vì đã do tánh, nên nói: "Không thừa nhận tánh hạnh vốn có, lẽ ra cũng vì không do tánh nên nói chứng lý, tâm chẳng phải thật có. Nghĩa này không đúng, thì nghĩa kia làm sao như đúng?". Lại nói rằng: "Lậu sinh ra vô lậu, lại trái với Nhiếp Luận như trước đã dẫn". Lại nói rằng: "Vì sữa không có lạc, thừa nhận sinh lạc, tức vặn hỏi trong lạc không có sữa, lẽ ra sinh lạc, vì lạc không sinh sữa, tức không thừa nhận sữa sinh lạc".

Lời vặn hỏi này không đúng, vì: "Sữa không có lạc mà sinh lạc, là ý kinh Niết-bàn nói trong nhân không có quả để giải thích, chứ chẳng phải không thừa nhận sữa là nhân tố của lạc".

Vì tìm tòi tỉ mỉ văn kia để tự mở rộng, hiểu rõ, nên Đại Trang Nghiêm quyển 2 chép: "Lại nữa, cái có kia, nghĩa là do thể có; chẳng phải có, nghĩa là vì thể của quả chẳng phải thật có".

Hỏi: Nếu như vậy thì sao gọi là Tánh?.

Đáp: Vì nghĩa thể công đức, nên độ, nghĩa là xuất sinh ra công đức. Do lý này nên gọi là Tánh.

Lại vặn hỏi rằng: "Thánh không có lý làm phàm, chẳng lẽ không thừa nhận phàm không có tánh Thánh mà làm bậc Thánh hay sao? Nếu không như vậy, thì ai nói phàm không có tánh Thánh mà làm Thánh? Như ta đã thành lập tông: "Phàm không có tánh Thánh, nên không làm Thánh". Ông lập: "Phàm không có tánh Thánh, nên được thành Thánh". Lý nào ngăn chận được Thánh, không có tánh phàm mà thành phàm?" Lại nói rằng: "Nếu vặn hỏi vô vi vì bản tánh của vô vi sinh vô lậu, tức đồng với pháp thường của ngoại đạo làm nhân. Kinh Lăng-già quyển hai chép: "Đại Tuệ vì hỏi, Phật tự giải thích rằng: "Ta nói pháp không là Như Lai tạng, không đồng với ngoại đạo".

Đây là ta dạy không đồng với ngoại đạo kia chấp có thật ngã riêng, gọi là Như Lai. Đức Thế Tôn nói pháp "không" là Như Lai tạng, giả gọi là Như Lai, không đồng với ngoại đạo. Ông chấp vô vi có thể thường trụ năng sinh ra tất cả, đều khác với tánh mờ tối v.v… của ngoại đạo phải chăng?

Nếu chấp tự "thể" "không" có khả năng sinh tất cả, thì sẽ đồng với luận Vô nhân, lại đồng với Trang, Lão từ "không" sinh ra "có". Nếu chấp pháp thường làm duyên sinh khởi, thì trái với Tạp Tập. Tạp Tập quyển tư nói về tướng Duyên sinh rằng: "Vì duyên sinh nên vô thường".

Giải thích rằng: "Vì đây sinh, nên kia sinh, nghĩa là biểu thị rõ nghĩa duyên sinh vô thường, chẳng phải không có pháp sinh làm nhân, nên một ít pháp đã sinh mà được thành lập". Trong nghĩa duyên sinh rằng: "Sát-na nhân diệt; sát-na quả sinh, vì thời phần bằng nhau, là nghĩa nhân quả nối nhau không đoạn, cũng không được nói rằng: "Đây là nói theo hữu lậu và khách tánh, vì trong quán thuận, nghịch của luận kia chép: "Nên quán nghĩa duyên sinh khởi như thế, tất cả đều là duyên sinh, chỉ trừ các pháp vô vi của một phần pháp xứ, vì không trừ vô lậu. Lại nếu chân như có công năng sinh ra vô lậu, như thứ lớp đó làm duyên của luận Tạp Tập kia". Lại luận chép: "Nhân duyên, nghĩa là thức A-lại-da và tập khí lành với các pháp hữu lậu, vô lậu, như thứ lớp đó làm nhân duyên, nên chẳng phải hữu lậu, vì thể của thức thứ tám là nhân vô lậu, dẫn sinh tất cả pháp của nghĩa kinh vô lượng, từ một pháp sinh một pháp, gọi là Vô tướng".

Kinh Đại Bát-nhã chép: "Chân như dù sinh ra các pháp, nhưng chân như bất sinh, đã giải thích như trước".

Lại nói: Trong kinh nói: "Với đức của ta, há ngoại đạo kia đồng với ta?".

Lời dạy này cũng không đúng, vì các kinh Đại Thừa đối với nghĩa thường, lạc, ngã, tịnh, giả lập bốn đức gọi là ngoại đạo, không có thể của thường ngã, v.v… vì đối với chấp chẳng phải thường, ngã, v.v… nên có thể đồng với chấp pháp thường của ngoại đạo làm nhân. Hoặc không có nhân khởi, thì làm sao có riêng; cũng không được nói rằng, kinh

Niết bàn nói: "Vốn không, mà nay có, có rồi trở lại không, lấy nghĩa này làm chứng, ý văn kia khác, chẳng nói là không có nhân, rằng: "Vốn không, nay có. Rằng quả vốn không có từ nhân mà khởi, rằng vốn không mà nay có, khởi xong liền diệt; trở lại không có. Nếu văn chấp rằng: "Không có tức không có nhân, có xong, lại diệt, làm sao thừa nhận báo Phật thường trụ. Lại tự hỏi rằng: "Nếu pháp thường sinh ra pháp vô thường, thì vì sao trong kinh Niết bàn Phật nói với ngoại đạo rằng: "Nhân của ông là thường, quả là vô thường; nhân của ta vô thường, quả là thường".

Đáp: Nhân có nhân xa, nhân gần; quả có quả gần, quả xa; ngoại đạo chỉ có một nhân thường, chẳng có quả thường kia, nhân xa của pháp Phật là thường; nhân gần vô thường, quả xa là thường, quả gần là vô thường. Lời đáp này khiến trái với sự so sánh.

Niết-bàn quyển 33 chép: "Tất cả nghiệp lành là nhân Niết-bàn.

Lại, nhân có hai":

1- Gần.

2- Xa.

1- Gần tức ba môn giải thoát, xa là pháp lành đã tu trong vô lượng đời. Nếu nhân xa, thường tức là Diệt đế, chỉ có thể nói chứng, không được nói tu.

Niết-bàn quyển 27 rằng: "Nói nhân Niết-bàn gọi là Phật tánh; Phật tánh gọi là đạo, chẳng phải chỉ có chân như, pháp sau độ, v.v… gọi là Phật tánh".

Niết-bàn quyển 22 rằng: "Lúc chưa được ANậu-Bồ-đề, vì nhân Phật tánh là quá khứ, hiện tại, vị lai; quả thì không như vậy là có ba đời, chẳng phải có ba đời".

Y văn tiếp theo, nhân tức phước, trí, vì quả chung cho trí đoạn, nên nhân chung cho ba đời; quả đời, chẳng phải đời. Nếu nói chân như vì duyên nhân, nhân cũng chung cho thế gian, không phải thế gian, sao chỉ nói ba đời?

Quyển 33 chép: "Phật tánh của chúng sinh cũng như hư không, vì chẳng phải ba đời, vì Phật tánh là thường, nên chẳng phải thuộc về ba đời. Lại, Phật tự đáp: "Nhân của ta vô thường, quả là thường. Trong nhân có xa, gần, nhân chung cho ba đời. Nay có người đem tâm phàm của mình nói, trái ngược với lời Phật dạy rằng: "Nhân xa, thường, vô thường, giả dối dùng nhân, quả xa gần đối nhau phân chia thường, vô thường". Lại nữa, tự thừa nhận chân như sinh pháp, vì sao chỉ có thể sinh xa làm nhân xa? Mà không thể sinh gần làm nhân gần, như lý đã thường trụ, gần không làm nhân, xa cũng chẳng phải nhân; thể tánh ngưng đọng, xa có thể làm nhân, gần cũng thế, vì thể trước sau không khác nhau". Phật nói: "Sinh nhân là vô thường, trái với Phật nói là Thường", Phật nói tánh hữu vô, trái với Thánh nói có tánh".

Đây là chấp trí kiến của mình là đúng, cho Phật, Bồ-tát là sai, khác nào cậy sừng thỏ mà chầu núi Diệu Cao; nhổ lông rùa mà lấp vũng bể, há có thể được sao? Đâu không suy nghĩ ư?

4-Sự sai lầm của 5 tánh chỉ mới huân tập:

Có nghĩa: "Sự khác nhau giữa năm tánh đều do mới huân tập". Chánh Pháp Hoa quyển ba chép: "Trước không có tánh của ba thừa, sau gieo trồng nhân ba thừa, gọi là có tánh ba thừa".

Đã nói rằng trồng sau, tức là nói chẳng phải hiện nay có. Kinh Pháp Hoa ở trên, và Văn Đại Tập là nói theo tánh tập; chẳng phải tánh chủng tánh, cũng không hợp lý. Lại, kinh Pháp Hoa chép: "Chân như và tâm làm tánh chủng tánh; vọng, nghĩa là như Du-già quyển 21 chép: "Nghĩa là hoặc tự tánh chủng tánh; hoặc chủng tánh an lập, v.v… trong tự tánh chủng tánh rằng: "Nay, chủng tánh này lấy gì làm thể?

Đáp: Dựa vào đối tượng nương tựa có tướng như thế, thuộc về sáu xứ đối tượng nương tựa. Lại trong an lập chủng tánh làm sao nói các thứ nối nhau, các thứ lưu chuyển được? Hạt giống như thế, chẳng phải sáu xứ có tướng khác nhau, tức sáu xứ vượt hơn, đặc thù phần vị chủng loại như thế, từ đời vô thỉ lần lượt truyền đến, đã được pháp nhĩ có tướng như thế kể cả nói năng, nghĩa là làm tánh giới hạt giống của chủng tánh. Cho nên, sẽ nói đoạn một nối tiếp nhau".

So sánh thuyết đã nói ở đây, Bồ-tát như văn trước đã nói, đã chẳng phải chân như; về sau nói: Vô thỉ, thuyết minh bản tánh khác nhau. Nếu chỉ mới huân tập có năm tánh khác nhau, tức trước Kiến đạo, không thừa nhận có vô lậu, sao văn dưới lại nói: "Thế nào gọi là Bổ-đặc-già-la an trụ bản tánh, chỉ trụ chủng tánh mà chưa thú nhập, cũng như ra khỏi? Nghĩa là như có một Bổ-đặc-già-la thành tựu hạt giống của các pháp Thánh xuất thế gian, mà chưa được gần gũi Thiện sĩ để nghe chánh pháp, chưa đối với chánh giáo của Như Lai, nói thích đáng pháp Tỳ-nại-da, đạt được chánh tín, chưa thọ tịnh trì tịnh giới, chưa nhiếp thọ sự học rộng, chưa thêm lớn tuệ xả, chưa điều phục các kiến. Như thế, gọi là chỉ trụ chủng tánh mà chưa thú nhập, Bổ-đặc-già-la cũng chưa ra khỏi".

Xin nêu văn này, bản tánh Thanh văn đâu phải do mới huân tập?

Đâu thuận với tông sở lập của Hữu bộ?

Bồ-tát Địa chép: "Văn ở sáu xứ vượt hơn đặc biệt pháp nhĩ từ vô thỉ, y theo đây có thể biết". Lại, luận Phật Tánh chép: "Không có đầu tiên, do tánh được Đại bi, Bát-nhã, Thiền định, pháp thân vì đều là bản hữu, nên nói không có ban đầu, tín đại bi, v.v... là nhân của bốn đức". Đã nói rằng: "Không có ban đầu, là nói nhân sẵn có". Lại nói rằng: "Tánh đắc thuyết minh chẳng phải mới huân tập". Lại Nhiếp luận đời Ngụy, Lương, Đường, v.v... đều nói rằng: "Lại, sự tương ưng của tác ý như lý là tâm xuất thế, không hề có lúc cùng sinh, cùng diệt, cho nên, tâm này chẳng phải đối tượng huân tập của hạt giống kia. Đã chẳng phải đối tượng huân tập của hạt giống kia thì không hợp lý. Nhưng nói nghe huân tập là nhân của tâm xuất thế".

Bản luận dịch vào đời Lương tự hội thích là duyên tăng thượng. Đường luận lại nói rằng: "Văn huân tập trong đây, nhiếp thọ hạt giống của tâm xuất thế kia, vì không tương ưng. Lại, luận Đại Trang Nghiêm chép: "Nếu không có tánh khác nhau, thì sẽ không có tín khác nhau, cho đến nói rằng: "Nếu không có tánh khác nhau, thì sẽ không có quả khác nhau, do bốn thứ khác nhau này, thành ra nên biết chủng tánh có tự thể". Đại Bát-nhã đã khéo hội thích mạnh mẽ. Kinh Thắng-man, Lăng-già, kinh Thiện Giới, luận Địa Trì, luận Du-già, luận Phật Địa, đều nói tánh riêng pháp nhĩ, không nói do huân tập, e rườm rà nên không dẫn, cho nên chánh Pháp Hoa chép: "Trước không có tánh ba thừa; sau trong nhân của ba thừa; hạt giống Phật từ duyên khởi, v.v… đều do gặp duyên giúp đỡ, huân tập bản tánh, mới có thể được quả, chẳng phải vốn không có nhân. Năm tánh mới khởi, chẳng có nhân mà sinh năm tánh khác nhau, không giải thích hạt giống. Lại như kinh Tịch Điều Âm Thiên Tử Sở Vấn chép: "Như người nghèo ăn chất độc của Luân Vương này. Pháp Hoa không thừa nhận gần gũi Tiểu thừa, sao Thế Tôn thấy có lý bình đẳng, tánh đại của tâm, mà không dạy phát đại tâm, khiến khởi ý Tiểu, muốn thực hành đại đạo, đâu nói cho biết đường thẳng tắt, nhỏ hẹp (Tiểu) họ tự không có bệnh nhọt, thì đâu có tổn hại nó, hãy suy nghĩ chín chắn chớ sai lầm! Nên biết năm tánh pháp nhĩ tự có, vì phải chờ duyên hiện tại phát, thì quả mới thành thục. Hạt giống hữu lậu, vô lậu đều có hai loại":

1- Bản tánh.

2- Tập tánh.

Nên Du-già quyển 2 chép: "Lại, thể của hạt giống từ vô thỉ đến nay, nối tiếp nhau không dứt. Tánh dù có từ vô thỉ nhưng do sự khác nhau giữa nghiệp tịnh, bất tịnh huân tập phát sinh, mong thường nhận lấy quả dị thục, nói quả đó là mới". Nhập Đại Thừa chép: "Huân tập văn v.v… không có quả sinh, là phi đạo lý".

Niết-bàn quyển 26 chép: "Phật tánh của chúng sinh không gọi là Phật, vì nhân duyên của các công đức hòa hợp, mới được thấy Phật tánh, sau đó được thành Phật. Ông nói chúng sinh đều có Phật tánh, vì sao không thấy? Nghĩa thấy không đúng. Vì sao? Vì nhân duyên do biết chưa hòa hợp, vì nghĩa này, nên ta nói hai nhân, chánh nhân, và duyên nhân. Chánh nhân gọi là Phật tánh; duyên nhân nghĩa là phát tâm Bồ-đề. Do hai nhân duyên được A-Nậu-Bồ-đề, như đá sinh ra vàng, nhân Phật tánh chẳng phải như hư không thường có, chẳng phải như sừng thỏ là vô

Y cứ theo đây phải giải thích: "Nếu nói rằng, Kinh Ưu-bà-tắc Giới chép: "Nếu nói có tánh Bồtát thì đó gọi là kẻ ngoại đạo". Không như vậy thì kinh Thiện Giới nói là người có tánh Bồ-tát, do Đại thừa thành thục, v.v... Niết bàn cũng nói đều có Phật tánh, há là ngoại đạo hay sao?".

Muốn nói năm tánh chỉ mới huân tập, rằng có bản tánh ấy là nghĩa ngoại đạo. Muốn chứng tất cả có Phật tánh, nếu nói không có, thì đó là nghĩa của Tiểu thừa, nên trở thành trái nhau, huống dẫn nhiều văn, giả dối vì giải thích không bằng dựa vào luận để giải thích kinh Phật, vì e rằng văn này rườm rà, nên lược bớt không nêu".

5-Sự sai lầm chân như là hạt giống:

Nghĩa là: "Luận Du-già chép: "Các pháp xuất thế gian từ hạt giống nào sinh? Nếu nói hạt giống tự tánh thô nặng, là hạt giống sinh thì sẽ không hợp lý?".

Đáp: Các pháp xuất thế gian đều từ hạt giống sở duyên duyên của chân như mà sinh, chẳng phải do hạt giống chứa nhóm tập khí kia sinh.

Phương Tây nêu ra hai cách giải thích:

1- Hộ pháp v.v... nói: "Đây là duyên trí chân như, dùng chân như làm sở duyên duyên, gọi chân như là hạt giống sở duyên duyên".

2- Nan-đà, v.v... nói: "Là văn huân tập hạt giống, từ trí chánh thể của Phật, đều là hạt giống sở duyên duyên của chân như".

Cả hai cách giải thích trên đây đều không đúng, vì sao? Vì luận rằng: "Nếu chẳng phải do hạt giống chứa nhóm tập khí sinh ra, thì vì sao khiến lập ba thứ chủng tánh Bổ-đặc-già-la của pháp Bát Niếtbàn? Và kiến lập Bổ-đặc-già-la của pháp không là Bát Niết-bàn. Vì sao? Vì tất cả đều có duyên sở duyên của chân như".

Như ý vặn hỏi này, thì chân như đều có, chẳng có sự hơn kém kia.

Do đâu chia ra tánh của ba thừa và không có tánh? Nhà đáp: Vì không phải tất cả đều đáp có trí chủng.

Người vặn hỏi đem tất cả đều có chân như ra làm pháp vặn hỏi, vì biên chép đáp vặn hỏi nạn, vì đồng một lối văn. Lại, huân tập làm hỏi, đáp. Không thể nói người vặn hỏi không được đáp ý, nên biết người đáp dùng chân như làm chủng tánh đáp".

Người vặn hỏi thì nói: "Không được có, không khác nhau, nên biết chân như có thể làm hạt giống sinh, đồng với chân như của Đại Bát-nhã, dù sinh các pháp nhưng chân như bất sinh".

Nghĩa này cũng không đúng. Vì sao? Vì nếu dùng chân như làm pháp chủng tánh, thì lỗi lầm như trước đã chỉ ra. Nhân bất bình đẳng là thuyết trong vọng rằng: "Hai sư giải thích trái với luận".

Nghĩa này cũng không, vì giải thích không trái với luận. Vì sao? Vì ý đáp dùng chân như làm trí chủng của chủ thể duyên của duyên sở duyên, làm nhân của pháp xuất thế.

Ý vặn hỏi là đã dùng chân như làm duyên sở duyên. Đã khắp có chủ thể duyên, thì lẽ ra cũng tất cả đều thành, làm sao lập có, không có tánh khác nhau được, nếu tức hạt giống chân như có công năng sinh thì lẽ ra chỉ nói rằng: "Từ hạt giống của chân như sinh, sinh ra pháp xuất thế, đâu cần nói rằng, hạt giống duyên sở duyên của chân như sinh, do luận Bát-nhã của Thiên Thân chép: "Nếu tất cả thời gian, tất cả nơi chốn thật sự có chân như, vì sao có người được, có người không được?". Tụng đáp:

Thời và chỗ thật có
Mà không được chân như
Vô trí vì trụ pháp
Pháp khác, có trí được.

Giải thích rằng: "Vì sao không được? Vì người vô trí kia dùng tâm trụ pháp, nên dùng không thanh tịnh; người có trí tâm không trụ pháp, cho nên, có thể được. Y cứ vào ý này để giải thích, thuyết minh như vặn hỏi khắp, song nêu chướng trí để đáp lời vặn hỏi kia, thuyết minh biết chủng tánh pháp nhĩ có không. Nếu không như thế, chỉ nên nêu trụ ở pháp, đâu cần nói trí ư? Nên luận Du-già vì có cuối cùng chướng hạt giống và pháp nhĩ vốn có hạt giống vô lậu, chia ra năm tánh khác nhau. Trong luận Bát-nhã, vì như vặn hỏi khắp, nêu trí và chướng để đáp". Du-già do như vặn hỏi khắp, nêu riêng chướng để đáp. Ý biểu thị rõ hạt giống có, không, khác nhau, không chê bai pháp. Nếu do chê bai pháp mà lập tánh khác nhau, thì lẽ ra chỉ lập có tánh. Không có tánh, thì không nên chia làm bốn. Lại nữa chê bai pháp Đại thừa, mỗi chỗ đều thừa nhận ăn năn tịnh, há Từ Thị không biết rằng cuối cùng không thể đoạn. Lại nữa, chê bai pháp, tạo nghiệp năm nghịch, chiêu cảm báo xấu ác, chỉ chướng phiền não, đâu mở rộng sở tri; có hạt giống sở tri chướng cuối cùng. Dựa vào đối tượng nương tựa, chẳng phải chủng tánh phiền não chướng, ở một phần hạt giống đó, kiên lập chủng tánh Thanh văn; một phần kiến lập chủng tánh Độc giác; Đâu thể Nhị thừa do chê bai pháp, gọi là không có chủng tánh? Đức Phật kia đã thừa nhận Nhị thừa được quả Vô học, tức thọ biến dịch hồi tâm hướng Đại, đâu thể sở tri chướng cuối cùng không thể đoạn. Lại, nếu chê bai hai không, tức biến thời gian của luận Đại Trang Nghiêm. Trong bốn đoạn khắp các gốc lành, chẳng phải cuối cùng không có nhân. Lại, nếu chân như làm hạt giống sinh gần pháp xuất thế gian, thì lược có bốn lỗi":

1- Lỗi mâu thuẫn trước sau. Tự trong môn Bản tánh ở trước, tức nói vô lậu từ tâm hữu lậu sinh, nay nói chân như sinh, quyết định từ đâu là đúng?

2- Môn mâu thuẫn nhau. Mâu thuẫn nhau của Thánh giáo. Trong nghĩa hạt giống của Nhiếp luận, Du-già đều nói rằng: "Một sát-na diệt, sinh rồi thì không xen hở, tức là hoại diệt, không có pháp thường trụ được thành hạt giống, vì không có khác nhau trong tất cả thời gian, nên không thể vặn hỏi rằng: "Hạt giống pháp nhĩ không tương ưng với chủ thể huân tập, huân tập thành, đâu được gọi là hạt giống. Không như vậy, thì bảy nghĩa giải thích nghĩa hạt giống, chủ thể huân tập, đối tượng huân tập, giải thích nghĩa huân tập. Lại, hạt giống sẵn có do huân tập thêm lớn, không nói huân tập sinh. Nói huân tập sinh là hạt giống mới huân tập".

3- Lỗi mâu thuẫn với tông mình, trái với luận Phật Tánh chép: "Có tự thể sinh không có tự thể". Nếu thừa nhận chân như sinh gần xuất thế, thì lẽ ra nói rằng hai hữu thể sinh hữu thể, vì sao nói là một".

4- Lỗi tiến lùi trái nhau.

Nếu từ hữu lậu sinh vô lậu, lại trái với Du-già quyển 52 không có thô nặng, vì hạt giống tự tướng sinh, lại có nhiều lỗi như trước đã nói. Về nghĩa khác, y cứ theo đây nên biết.

6-Sự sai lầm về thông kinh pháp nhĩ:

Có nghĩa: "Dẫn kinh, tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay, có các thứ giới chứng pháp nhĩ với năm tánh khác nhau, không hợp với đạo lý". Thuyết kia nói: "Mỗi chúng sinh đều có các thứ giới, như cây bảy là chẳng phải nói tất cả chúng sinh đều có nhiều sai biệt". Lời nói này pháp nhĩ, vì là bản tánh nên chẳng phải như mỗi thứ giới sở tri của tánh lực".

Nghĩa này không đúng, vì nếu thừa nhận mỗi sự sinh đều có các thứ cõi, mỗi cõi giống nhau, như cây bảy lá, há mỗi sinh đều khởi hai mươi bảy Hiền Thánh, quả của Ba thừa, nhiều phẫn, tham, v.v... có tánh, không có tánh, v.v...

Nếu như vậy, thì vì sao nói có tánh Thanh văn được đạo Thanh văn, v.v... người nặng về tham, nói pháp quán bất tịnh, v.v… căn cơ nhạy bén, chậm lụt khác nhau, v.v... có không trái nhau, chậm lụt, nhạy bén trái nhau, dần dần, và tức khắc trái nhau; định, và không định, chẳng trái nhau, đâu thể một đời đầy đủ thành tựu. Lại, Bồ-tát Di-lặc, sư Vô Trước, v.v... không hiểu văn kinh, chứng năm tánh khác nhau, đều dẫn giáo kia ư?

Kinh Thiện Giới chép: "Nói trụ chung khiến chuyển: Y cứ tánh bất định mà nói, chẳng phải tánh quyết định".

Lăng-già đối với thừa bất định, nói có thú hướng Đại thừa, Tiểu thừa thì không có, đồng với Đại Bát-nhã". Lại chép: "Du-già chỉ nói Vô thỉ có không có chủng tánh, không nói pháp nhĩ và trụ bản tánh, chẳng phải là chứng quyết định. Nếu không như vậy, thì vô thỉ nói ở đây, tức pháp nhĩ và trụ bản tánh". Vì sao biết được? Vì luận Phật tánh chép: "Không có đầu tiên, nghĩa là tánh được Đại bi, v.v... không có đầu tiên, tức tánh vô thỉ được, tức pháp nhĩ, v.v.. Lại, tiếp theo dưới đây sẽ dẫn hạt giống có bốn":

1-Trụ bản tánh, sao lại nói "không nói trụ bản tánh, chẳng phải là chứng quyết định ư?". Lại chép:

Du-già nói chủng tánh có bốn: a-Trụ bản tánh. b-Trước tập khởi. c-Đáng tu trị, nghĩa là có pháp Niết-bàn. d-Không thể tu trị, nghĩa là không có pháp Niết-bàn.

Y cứ vào hạt giống tụ tập trước kia, chia ra năm tánh, nghĩa này cũng không đúng, vì đã lập trụ bản tánh.

2-Trước tập khởi, nếu nói rằng, y cứ vào hạt giống tu tập trước kia, chỉ có ba thứ, đâu được nói bốn? Đã nói chung tập trước, sao lại nói bản tánh? Lại, trái với Thanh văn địa quyển 21 nói, đều như trước kia đã dẫn. Lại chép: "Du-già nói nếu pháp bát Niết-bàn, thì tất cả hạt giống đều đầy đủ: là đầy đủ bốn thứ, gọi là tất cả không có pháp Niết bàn, ấy là thiếu hạt giống của ba thừa, chỉ có trụ bản tánh; hạt giống trước tu tập không thể tu trị hạt giống, thiếu có thể tu trị hạt giống, thì gọi là không đầy đủ".

Nghĩa này cũng không đúng, đối với có, không lập riêng hai thứ sau, hai thứ trái nhau, đâu được nói rằng có bốn thứ gọi là đầy đủ. Lại nữa, thừa nhận có trụ bản tánh, hạt giống tu tập trước kia, có thể tu trị, không như thế thì tập trước vì sao không thể trị? Lại nói rằng: "Chỉ do hạt giống mới huân tập của con người khác nhau, không nói hạt giống trụ bản tánh là có, không khác nhau, cũng không nói rằng: "Pháp nhĩ". Nếu nói rằng có giáo thỉnh biểu thị văn kia, dù trước kia thường nói, nhưng nay lại lược dẫn, tức văn kia tự dẫn, hạt giống có bốn:

-Bản tánh, sao không nói bản tánh trụ chủng tánh. Lại, tự tánh của chủng tánh đầu tiên của địa Thanh văn, là chủng tánh an lập, đều nói rằng: "Từ đời vô thỉ, lần lượt truyền đến đối tượng đắc pháp nhĩ, đồng với kinh Thiện Giới chép: "Bản tánh, nghĩa là sáu nhập, ấm, giới, thứ lớp nối nhau vô thỉ, vô chung, pháp tánh tự như thế; Pháp tánh tự như thế, tức là pháp nhĩ. Trong chủng tánh Thanh văn, Bồ-tát đều nói rằng: "Đối tượng đắc của pháp nhĩ vô thỉ, đâu riêng gì không tin văn của Thanh Văn Địa. Rằng, là thuyết tiểu". Lại, Nhiếp luận dịch vào đời Lương chép: "Chướng tịnh xuất thế gian, đầu tiên, chứng kiến của Nhị thừa, để nghe âm người khác và tự suy nghĩ làm duyên tăng thượng, mới bắt đầu được sinh, nên tánh của ba thừa là bản hữu vô thỉ".

Luận Phật Địa chép: "Vì là pháp nhĩ, từ thời vô thỉ đến nay, tất cả hữu tình có năm thứ tánh". Lại y cứ vào Du-già và luận Hiển Dương đã lập không có tánh, đều y cứ vào bản tánh. Đã thấy văn giáo, nên tin thuận thọ. Nếu chỉ huân tập mói sự khác nhau của năm tánh, hiện công năng huân tập không có, thì hạt giống đâu có khởi. Nếu không có hạt giống sinh, thì trái với Lăng-già 4 quyển; Quyển một chép: "Đại Tuệ! Nếu nói không có hạt giống, có chủng thức, ba duyên hợp sinh, thì rùa lẽ ra phải mọc lông; cát lẽ ra phải ép ra dầu, hoặc từ nhân sinh trở lại bản tánh khác nhau".

7-Sự sai lầm vô lậu sinh vô lậu:

Nghĩa là: "Luận Nhiếp Đại Thừa chép: "Như thế, đã nói: Nhập tướng sở tri. Nhập vào tướng "sở tri" làm sao biết, cho đến gọi là đối với Đại thừa mà khởi học rộng. Nghĩa là pháp văn đã huân tập tâm sở pháp, đối tượng nương tựa nối tiếp nhau, người nghe một ít kia, không có chấp nhận được nhập hiện quán này, y cứ vào văn luận này, huân tập học rộng, đồng với duyên nhân của kinh Niếtbàn, như sữa là chánh nhân của lạc; Noãn v.v... là duyên, tức bản thức làm chánh nhân".

Thuyết kia không đúng, vì ở đây giải thích về chánh nhân, trước sau tự trái nhau. Vì sao? Vì ở đây nói rằng huân tập học rộng làm duyên nhân; bản thức làm chánh nhân, dưới đây nói: "Do giáo vô lậu, sinh huân tập nghe, dần dần sinh vô lậu, chẳng phải trong hữu lậu có tánh vô lậu". Lại nói rằng: "Nến biết thức A-lại-da được làm nhân duyên gần cho vô lậu, huân tập hạt giống của nghe cũng làm nhân duyên gần cho vô lậu. Trước kia nói là duyên, nay nói là nhân gần là trái nhau". Lại chép: "Đồng với luận Du-già nói: "Chánh trí từ lắng nghe pháp sinh. Thuyết này là duyên nhân chẳng phải bản tánh. Trước kia đã nói huân tập nghe là nhân gần, nay lại nói là duyên nhân chẳng phải bản tánh, là hai thứ trái nhau".

Theo văn kinh trên, đất, tâm như lý, cỏ thuốc, hạt giống, như huân tập nghe khởi pháp ba thừa, cho đến nói rằng: "Như đất thế gian có công năng sinh ra tất cả, phải đợi hạt giống làm nhân gần, mới có công năng sinh trưởng, bản tánh cũng giống như thế, đợi huân tập nghe, để làm nhân duyên, thì đạo Thánh mới sinh".

Đầu tiên, là dùng đất dụ cho tâm lý, sự huân tập dụ cho hạt giống; đất này làm duyên nhân. Chánh nhân hạt giống, trước kia nói rằng: "Sự huân tập đồng với thuyết Du-già nói làm duyên nhân, chẳng phải là bản tánh, là ba thứ trái nhau". Lại nói rằng: "Như đất dù có công năng sinh ra tất cả, nhưng phải chờ đợi hạt giống để làm nhân tố gần, mới có công năng sinh sôi nẩy nở; bản tánh cũng vậy, phải đợi huân tập nghe dùng làm duyên nhân, thì đạo Thánh mới sinh". Lại bản tánh dụ như mặt đất, không phải vật thân sinh, phải đợi hạt giống làm nhân gần; bản tánh làm duyên nhân".

Ở trước đã nói: "Huân tập, đồng với chánh nhân, duyên nhân của Niết-bàn, tức là Phật tánh. nay, lại nói bản tánh, như đất trái lại làm duyên nhân, có bốn thứ trái nhau". Lại nói rằng: "Như đất sinh cỏ, cây; hoặc duyên xa cũng làm nhân gần".

Thuyết này trái với kinh Niết-bàn, quyển 26 chép: "Hạt giống, v.v... là sinh nhân, đất, nước, phân, v.v... gọi là liễu nhân. Nay nói đất cũng làm nhân gần, có năm thứ trái nhau". Lại, Nhiếp luận dịch vào đời Lương chép: "Nghe tiếng từ người khác, suy nghĩ đúng lý, đối với chánh kiến là duyên tăng thượng. Nay nói huân tập nghe làm nhân duyên gần, có sáu thứ trái nhau".

Nhiếp luận lại nói: "Tâm thế gian này không hề có sinh với tâm xuất thế gian kia; thức chẳng phải đối tượng huân tập của tâm kia; làm hạt giống của tâm xuất thế gian".

Nghĩa này không hợp lý. Nay, nói là hạt giống, có bảy thứ trái nhau. Lại địa Thanh văn, địa Bồ-tát; và luận Trang Nghiêm, luận Hiển Dương, v.v... nói hạt giống sẵn có, nay nói chỉ mới huân tập, là tám thứ trái nhau, lại chỉ mới huân tập.

Luận Thành Duy Thức chép: "Nghĩa này không đúng, có hạt giống, cũ mới, là nghĩa đúng của sư kia, ưa thích với tà, trái với chánh, là chính thứ trái nhau".

Lại nói: Luận Du-già chép: "Ba căn vô lậu của địa ngục, được nói từ quả đương lai, hiện tại không có hạt giống là không đúng".

Quyển 57 chép: "Ba căn vận hành quyết định không thành hạt giống, hoặc thành, không thành; Nghĩa là pháp Bát Niết bàn thành thục, pháp không Bát Niết-bàn chẳng thành thục. Lại, hiện tại có hạt giống, quả đương lai sẽ sinh. Hiện tại không có nhân, quả đương lai làm sao khởi? Lại, về sau có bộ dù ba đời có, nhưng đến tướng sinh mới bắt đầu nói được. Đại thừa chỉ có hiện tại không có hạt giống, nói là sẽ thành. Y cứ Du-già quyển 51 trong giải thích được thành tựu, đầu tiên, phá người khác rằng: "Nếu đã được sinh nhân của các hành, hoặc từ trước đến nay, chưa được pháp này, ở đây không có đắc của sinh nhân thì lẽ ra thường không sinh. Do đây, lẽ ra cuối cùng cũng không được. Nay nếu hiện không có hạt giống, nhân không có được sinh nhân của hạt giống quả đương lai khởi, gọi là thành tựu, trái với chánh văn của Du-già, là mười thứ trái nhau". Lại so sánh rằng: "Lạc dù không sinh sữa, nhưng trong sữa không có lạc, vì nhân tố của lạc, Thánh dù không từ phàm, phàm không có hạt giống Thánh, phàm sinh tự có hạt giống". Tiếp theo là đáp. Ngoài ra, hoặc không có huân tập, lạc không huân tập sữa; sữa sinh ra lạc; pháp nội tất nhiên huân tập sinh, chẳng phải do vô lậu huân tập không có vô lậu; cũng không thể nói rằng, hạt giống pháp nhĩ do mới huân tập sinh. Đạo lý pháp nhĩ, đạo lý nhân duyên đều thừa nhận được lập. Nếu do huân tập sinh, tức là đạo lý nhân duyên, chẳng phải đạo lý pháp nhĩ. Nếu nói rằng: "Vô lậu đầu tiên không có đồng loại, thì vì sao luận Nhiếp Đại Thừa chép: "Lại tâm xuất thế dù khi chưa sinh, đã có khả năng đối trị các phiền não trói buộc. Đây là nhân đồng loại lần lượt nối tiếp nhau, với thế lực sát-na có thể đối trị. Vì pháp ngoại chẳng phải nhân gần, nên không thể so sánh đồng với ngoại. Nếu ngoài, thì sẽ đồng với trong, ngoài lẽ ra có đủ bốn duyên, v.v...". Lại nói rằng: "Kiến đạo trở xuống, hữu lậu sinh hữu lậu, đây là nhân hữu lậu sinh ở hữu lậu, chẳng phải là do nhân hữu lậu, nên quả cũng hữu lậu. Khi từ hữu lậu sinh vô lậu, đây là nhân vô lậu sinh ra vô lậu: Đâu vì sự trái nhau với tỉ lượng, so sánh rằng: "Kiến đạo trở xuống nhân hữu lậu, không thừa nhận nhân hữu lậu, vô lậu sinh; pháp thế đệ nhất là nhân thế gian, chẳng sinh hạt giống xuất thế. Lại vô lậu có nhân vô lậu khởi; nhân vô lậu, vô lậu gọi là vô lậu. Nếu vô lậu không có nhân, quả thì sẽ không sinh hữu lậu, cái gì là hạt giống vô lậu". Lại nói rằng: "Chỉ tin ngoại đạo không có sinh hữu, không tin Niết bàn chuyển vô minh thành minh".

Hữu lậu sinh vô lậu: Cũng không đúng. Lănggià chẳng thừa nhận không có Sinh hữu, ở đây đồng với ngoại đạo có nhân không có vô minh, tức chuyển biến nhân, há không đồng với thuyết hai chúng nói". Lại, nói: "Luận chép: "Chỉ có sát-na của năm uẩn vô lậu ban đầu, v.v… cho đến nếu cho rằng Đại thừa không có sát-na thì sẽ phát ra kinh, luận nào? Trước kia đã dẫn Nhiếp luận có nhân đồng loại; luận Du-già chép: "Vốn là hạt giống vô lậu". Lại Lăng-già quyển bốn chép: "Vô lậu không có sát-na đâu không phải nói như xem nhỏ giọt không trông suối ngọc; nếu nhìn mùa thu, thì mảy may chớ thấy non cao vòi vọi".

QUYỂN 3

8-Sự sai lầm thuyết giáo trước, sau:

Nghĩa là: "Tiệm giáo của kinh trước, chỉ nói bốn trụ là nhân của ba hữu; kinh sau liễu đạt rõ ràng, nói chung năm trụ là gốc sinh tử. Vì bốn trụ không dứt, nên thọ thân phần đoạn. Vì vô minh tồn tại, nên được thể biến dịch. Do Đức Phật này nói trước, sau khác nhau. Luận giải thích kinh Phật, không trái với thời giáo, như Thâm Mật về trước, nói là giáo trước; sau hội Pháp Hoa tức là giáo sau, không liễu đạt, chỉ nói không quyết định hồi tâm, thú hướng vắng lặng, cũng tồn tại Diệt thật, không bỏ thân ba cõi, không nói chịu riêng cái chết biến dịch, chỉ nói lưu lại hành sống lâu, để lại thân phần đoạn, tức kinh Giải Thâm Mật, luận Du-già, v.v…".

Kinh Pháp Hoa sau chép: "Tánh quyết định, không quyết định, đều hồi tâm không có thật diệt của Nhị thừa, bỏ thân ba cõi, là chịu biến dịch, chẳng phải ba cõi. Kinh Lăng-già, Thắng-man, Vô Thượng Y, luận Phật Tánh v.v...".

Nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì sau bốn mươi năm, kinh Pháp Hoa có văn nói rõ, Kinh Lăng-già, v.v... đều phải phát ra Thánh giáo nào về trước. Vả lại, kinh Vô Thượng Y chẳng phải sau Pháp Hoa.

Vì sao biết được? Vì Xà Vương chưa thống nhất ngôi vị nước, có thể có Tần-Bà-ta-la, trong kinh Pháp Hoa đã nêu tên vua, vì sao kinh Vô Thượng Y cũng nói Tần-Bà ở trong hội?

Vì kinh Vô Thượng y nêu trong chúng rằng: "Tần-bà-ta-la được tôn làm Thượng thủ. Do đây so sánh mà biết chẳng phải sau Pháp Hoa". Lại Kinh Thắng-man chép: "Cũng chẳng phải sau bốn mươi năm".

Vì sao biết được?

Kinh rằng: "Vua Ba-tư-nặc và phu nhân Mạtlợi kính tin Phật pháp chưa lâu". Trong kinh Nhân Vương Bát-nhã chép: "Ngày mùng tám, tháng..., năm đầu, tức đầu ba mươi năm".

Vì sao biết được?

Theo kinh Nguyệt Quang chép: "Như Lai đã vì đại chúng chúng ta, v.v…, chín năm nói Ma-ha Bát-nhã, nên biết đến khi nói kinh Nhân Vương, Nguyệt Quang thì tin Phật đã lâu". Kinh Thắngman chép: "Tin Phật chưa lâu nói ở Nhân Vương, Bát-nhã về trước. Không như vậy, đã hai mươi chín năm nghe kinh, sao trong Kinh Thắng-man chép: "Tin Phật chưa lâu, y theo đây, tức biết chẳng phải Pháp Hoa". Lại, kinh Nhập Lăng-già, y cứ vào ba tạng, Bồ-đề-lưu-chi rằng: "Lại y chỉ kiết tập, năm đầu tiên, Phật nói Đại Tập Bảo Tràng Đà-lani và Lăng-già Hải Long Vương. Chín năm nói Ương-quật-Ma-la, mười năm nói Như Lai tạng". Lại nói rằng: "Hoa Nghiêm, Niết-bàn, Ban-Chu, Ương-quật-ma-la, Như Lai tạng, v.v… đều nói tháng, năm. So sánh các kinh này, Lăng-già chẳng phải sau bốn mươi năm năm, mặc dù dưới đây, Chỉ Trì nói rằng: "Ta đối với Niết-bàn Tượng dịch, kinh Đại Vân, v.v... đã khiến cắt đứt thịt. Lăng-già chưa hẳn sau kinh Niết-bàn. Vì sao? Vì như văn tự chép: "Bảy ngày ở cung rồng, bắt đầu nhập Lănggià mới nói giáo này, chẳng lẽ nói Niết-bàn".

Ở song lâm, diệt độ rồi, lại trụ Cung rồng v.v... ư? Kinh Niết-bàn đã chỉ, chưa hẳn tức là Đại Niếtbàn. Nếu nói rằng: "Thấy, nghe có khác, nào ngại gì không nói là sau Niết-bàn".

Nếu vậy, thì đâu ngại gì thấy, nghe khác nhau? Như kiết tập nói là ở năm đầu tiên". Lại nói rằng: "Đại Bát-nhã ở trước Pháp Hoa như Lưu-chi nói: "Băm năm thì nói kinh Đại Bát-nhã, y cứ theo văn của Trí luận, chính là nói ở sau Pháp Hoa".

Vì sao biết được? Vì cứ như trong phẩm Tất định kia, hỏi tất cả Bồ-tát đều có tất định không? Luận giải thích rằng: "Vì sao hỏi điều này?". Vì thấy trong Pháp Hoa nói: "Trẻ con nhóm cát đều thành Phật đạo". Và nói vì Nhị thừa sẽ thành Phật, nên nêu lên câu hỏi này".

Y cứ vào phẩm đại này, là nói ở sau Pháp Hoa, nhờ ở phán quyết nhất định nào là trước bốn mươi năm? Lại, luận Phật Tánh và luận Bảo Tánh không chỉ giải thích về kinh sau Pháp Hoa, hai luận không dẫn Niết-bàn, Pháp Hoa mà phần nhiều đều y cứ theo kinh Vô Thượng Y, Lăng-già, Thâm Mật, Như Lai tạng và Thắng-man để nói. Y cứ vào kinh hỏi định, hai luận là giải thích giáo trước của Pháp Hoa, trước, sau của định kia. Đã đều nhờ ở hư, dựa vào định kia để tiêu biểu chương. Lại nữa, còn có nhiều lỗi. Lỗi ấy là gì? Lại nói rằng: "Kinh trước kia dù đã nói Nhị thừa thật nhập Niết bàn; kinh sau giải thích rằng: "Như hóa thành dê, nai". Kinh Lăng-già chép: "Chủng tánh Thanh văn rơi vào cái chết biến dịch; Nhị thừa không có diệt, chẳng phải chỉ có tánh bất định. Không như vậy, thì Lăng-già nói rơi vào biến dịch, người có khả năng thú hướng Đại thừa là tánh bất định".

Vì sao biết được?

Lăng-già quyển 7 chép: "Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Đức Thế Tôn nói Thanh văn, Bích-chi-phật nhập môn vui vắng lặng của địa Bồ-tát thứ tám", cho đến nói rằng: "Còn chưa có khả năng chứng pháp của Sơ địa, huống chi là môn vui vắng lặng của Bát địa?". Phật bảo Đại Tuệ Thanh văn có ba hạng. Nói nhập môn vui vắng lặng của bát địa, đây là người trước kia đã tu hạnh Bồ-tát, rơi vào địa Thanh văn, lại dựa vào bản tâm, tu hạnh Bồ-tát, đồng nhập vào môn vui vắng lặng của Bát địa, chẳng phải Thanh văn vắng lặng tăng thượng mạn, vì họ không thể nhập hạnh Bồtát, không hề biết ba cõi duy tâm; chưa từng tu hành các pháp của Bồ-tát; chưa từng tu hành các Ba-la-mật, hạnh của Thập địa. Cho nên, quyết định Thanh văn vắng lặng không thể chứng môn vui vắng lặng mà Bồ-tát kia đã tu hành. Lại, tụng rằng:

Các Thanh văn quyết định.
Không hành hạnh Bồ-tát.
Người đồng nhập tâm địa.
Đó vốn là Bồ-tát.

Theo đây, tức là thừa bất định trong năm thừa. Ý của Pháp Hoa, Du-già đồng nhau. Lại, Pháp Hoa quyển 8 chép: "Vì sao Phật, Thế Tôn cho các đại A-la-hán thọ ký?". Phật đáp: "Đại Tuệ! Vì ta đã từng thực hành hạnh Bồ-tát, các Thanh văn v.v... y chỉ Niết-bàn Vô dư nên được thọ ký. Đại Tuệ! Ta thọ ký cho Thanh văn, là chúng sinh yếu hèn, sinh tâm mạnh mẽ. Đại Tuệ! Trong thế giới này và cõi nước Phật khác, có các chúng sinh thực hành hạnh Bồ-tát mà lại ưa pháp Thanh văn thừa. Phật vì vận chuyển cho họ nhận lấy Đại Bồ-đề". Tụng rằng:

Ba thừa và phi thừa
Vô lượng thừa chư Phật
Tất cả ghi nhận Phật địa
Nói các phiền não dứt
Trong thân chứng Thánh trí
Và Niết bàn Vô-dư
Khuyên chúng sinh yếu hèn,
Cho nên ẩn giấu nói.

Như bài tụng này, chính là đồng với Giải Thâm Mật, nói ba ý sinh thân. Sơ địa trở lên, quyết định thú hướng vắng lặng. Đã không chứng môn vui vắng lặng mà Bồ-tát đã thực hành, nói họ không thể được ý sinh thân mà vì không thể biết, nên bị lỗi lầm. Lại nói rằng: "Kinh Bất Không Quyên Sách và Tăng-già-tra chép: "Trời Tịnh Cư đều phát tấm thú hướng Đại thừa, pháp quyết tạo ra giáo sau Pháp Hoa, không biết nhờ vào đâu để biết được. Có giáo hiện nay nói rằng không có chứng, làm sao chỉ phán quyết? Lại nói rằng: "Thuyết mà luận sư Duy Thức đã nói, đều không hợp lý, nên biết tất cả bậc Thánh trước hội Pháp Hoa đều không phát tâm. Sau hội Pháp Hoa, Tịnh Cư cũng phát. Luận sư Duy Thức lập nghĩa trái với kinh, chẳng phải chỉ một, hai vị. Không như vậy, thì sao kinh Giải Thâm Mật lại tự thừa nhận nói trước Pháp Hoa".

Kinh Giải Thâm Mật nói về Tịnh độ, giảng về tướng Tịnh độ, nêu mọi việc khen ngợi đức đều đồng với Phật địa. Phật địa luận giải thích về nghĩa như thật, đều là chủng tánh bất định, Thanh văn được quả Tiểu xong, vì thú hướng Đại Bồ-đề nên gọi là Đại. Nếu không phải hồi tâm thì không quán Tịnh độ". Lại mười nghĩa Nhiếp luận, v.v… nói về Nhất thừa rằng: "Vì tánh bất định chung cho bậc Thánh Hữu học và Vô học đều thừa nhận sự hồi tâm. Lại, luận Đại Trí Độ giải thích về kinh Đại Phẩm, giáo trước Pháp Hoa rằng: "Ba hạng người đều có cõi nước nhiệm mầu thanh tịnh, ra khỏi ba cõi, cho đến không có danh từ phiền não. Ở cõi nước này, Phật nhờ nghe kinh Pháp Hoa mà đầy đủ Phật đạo, sao lại nói: "Tất cả bậc Thánh nghe kinh Pháp Hoa, đều không phát tâm". Lại nói rằng: "Kinh Lăng-già nói rõ ràng về trạng thái vắng lặng của tánh quyết định cái chết biến dịch, lý giáo rõ ràng, đâu được chấp truyền rộng giáo trước, giảng nói kinh sau?".

Nghĩa này cũng không đúng, vì y cứ vào Lănggià quyển tư chép: "Đại Tuệ! Thanh văn, Bích-chiphật chưa chứng pháp Vô ngã, chưa được sinh biến dịch không thể suy nghĩ bàn luận. Cho nên, ta vì các Thanh văn, nên nói đạo Nhất thừa. Ở đây nói rằng chưa được. Lại, y cứ vào văn nào mà nói rằng: "Nói rõ ràng về con người quyết định được biến dịch?". Y cứ vào văn này, người tánh bất định chưa nghe được Đại thừa thì sẽ không được biến dịch, đâu thừa nhận quyết định không thể hồi tâm được biến dịch? Nhưng văn kinh này cũng có nói rằng: "Chưa lìa cái chết biến dịch thì không thể suy nghĩ, biện luận. Cũng có nghĩa nói: "Không được lìa cái chết biến dịch không thể suy nghĩ, bàn luận. Cũng có thuyết nói: "Chưa lìa bỏ được cái chết biến dịch không suy nghĩ bàn luận. Không có văn rõ ràng tạo ra thuyết quyết định. Người của tánh quyết định được biến dịch, nhưng trong Pháp Hoa quyển 2 chép: "Vì đọa vào cái chết biến dịch không suy nghĩ. Đây là nói không quyết định hồi tâm về sau, rơi vào sinh tử biến dịch không suy nghĩ, bàn luận. Không có tánh quyết định được biến dịch. Nếu lại thừa nhận thọ thân sinh biến dịch, đâu được nói như thế, v.v... được nhập nhân vô ngã, cho đến sinh tâm cho là Niết bàn, phàm phu chịu phần đoạn tự biết thân sinh tử. Bậc Thánh chịu biến dịch, há chấp là Niết bàn, nghĩa là được hữu dư, tức chướng sở tri biết khác, vì khổ tồn tại. Bậc Thánh kia tự không thừa nhận, gọi là hữu dư y hồi tâm hướng Đại, chủ yếu bỏ phần đoạn như thọ biến dịch, được thú vui tam-muội, nghĩa là vì vô dư, nếu cũng như ít nghe được định thứ tư, sắp vì quả cùng cực khi chết, thấy tướng trước còn thú hướng cõi tâm chê bai, huống chi bậc Thánh thấy thọ biến dịch, gọi là Vô dư ư?. Lại y cứ vào văn năm thừa, trong Nhị thừa đầu tiên, không có nhập Năm Đại thừa, chỉ trong thừa bất định thứ tư nói: "Đại Tuệ! Ba hạng người kia lìa chướng phiền não, vì huân tập được thanh tịnh, nên thấy pháp vô ngã, vì được môn vui tam-muội. Thanh văn, Duyên giác cuối cùng chứng được pháp thân Như Lai".

Nói ba hạng người kia: tức trong thừa bất định có ba hạng người, chẳng phải là chỉ nhất định ba thừa đầu tiên ở trước.

Nếu như vậy, thì tức trước kia đâu cần nói riêng là thừa thứ tư? Hoặc có thể tánh định, bất định của ba thừa trước đều kết hợp nói người thứ tư, chỉ nhận lấy người tánh bất định, nói ba hạng người kia, tức người tánh bất định trong ba thừa ở trước. Nếu không như thế, nghĩa là tức tánh định, bất định của ba thừa trước đều thừa nhận nhập Đại thừa trái với quyển 7, quyển 8 ở dưới đã nói, như trước đã dẫn: Không có văn nói rõ trạng thái vắng lặng của tánh quyết định, chịu cái chết biến dịch. Ngôn giáo hư, vì lý rõ ràng, nên bị lỗi.

Lại, trong hỏi đáp nói rằng: "Vì sao hai thuyết khác nhau?". Đáp: "Như trong kinh không nói

Cung vua dùng làm Hóa Phật, mở rộng thời giáo này, tức nói ba mươi bốn tâm thành Phật, chưa nói A-lại-da; mở rộng thời giáo này, tức nói diệt định chỉ ở cõi Dục, cõi Sắc và, nói hạt giống dựa vào sắc tâm. Mở rộng thời giáo sau, nghĩa ấy tức một đoạn Du-già, tức mở rộng giáo trước. Hai diệt sau bốn mươi năm chẳng phải chân, có A-lại-da, đọa vào sinh tử biến dịch không suy nghĩ, bàn luận. Mở rộng thời giáo này, kinh, luận cũng tùy thuộc giáo".

Nghĩa này cũng không đúng, vì tự thừa nhận Hoa Nghiêm là giáo về trước, đâu chỉ nói hóa thân ở cung vua cho là chân Phật? Du-già, Nhiếp luận đều nói hóa thân ở cung vua là chẳng phải chân Phật. Ba mươi bốn thân là văn khuyến dụ Tiểu thừa diệt định dựa vào thân cõi Dục, cõi sắc; hạt giống của thuyết Hữu bộ dựa vào tâm sắc. Du-già, tông của sư Kinh bộ đều sửa đổi hạt giống của tông trước; y chỉ ở tám thức, v.v… đồng với Lăng-già, v.v… cũng nói bất định không có thật. Kinh Niết bàn, Trí luận, Hiển dương, Phật địa, đều nói có sinh tử biến dịch. Nghĩa nào khác nhau mà phán quyết Du-già, luận Phật địa, v.v… là giáo trước bốn mươi năm, như trước đã dẫn, phán quyết trước, sau không đúng. Đối với đồng không giải thích, phần đồng chẳng phải khác kia, vì miễn cưỡng thấy khác nhau nên phạm lỗi.

Lại nói rằng: "Du-già quyển 80 nói hai Niếtbàn do thức dị thục không có đối tượng nhận lấy, nên y chỉ chuyển thức, v.v... không còn được sinh, chỉ có thanh tịnh khác, Vô vi lìa vết nhơ, chân pháp giới tồn tại, ngay như kinh Lăng-già mà diệt các tướng, không nhận lấy cảnh giới vị lai là thú vui của tam-muội, nhị thừa gọi là Niết-bàn".

Nghĩa này cũng không đúng. Kinh Niết bàn kia đã nói khác với văn trước, sau; Niết bàn quyển 2 thì nói Thanh văn, Bích-chi-phật vì sợ nỗi khổ của vọng tưởng sinh tử mà cầu Niết-bàn, vì không biết Niết-bàn và thế gian không có khác nhau, nên phân biệt tất cả pháp với phi pháp mà diệt các căn, không nhận lấy ở cảnh giới vị lai; nhận lấy giả dối cho là Niết bàn, là hữu học của Nhị thừa; phàm phu chấp Vô học diệt, nghĩa là diệt các căn đã được không có thừa, nghĩa là cuối cùng, không biết A-lại-da. Thức chuyển thành vượt hơn vì không có thừa. Tiếp theo, nói rằng: "Cho nên, người ngu si kia nói có ba pháp thừa, mà không thể biết chỉ có tâm tưởng diệt, được pháp vắng lặng. Nếu tức bậc Thánh thì không đáp lại".

Tiếp theo là nói: Cho nên, Đại Tuệ! Người ngu si kia ở trong vòng sinh tử của thế gian thường chuyển biến không dừng, cũng y cứ vào nghĩa thật. Người tánh quyết định diệt các căn, v.v... nghĩa là thân, trí đều diệt, chỉ có chân như.

Lăng-già chép: "Chỉ tâm, tưởng diệt, được pháp vắng lặng, pháp vắng lặng, chẳng phải thú vui tam-muội. Thú vui tam-muội; theo văn của kinh Lăng-già quyển 7 chép: "Không nhất định tánh hồi tâm hướng Đại được nhập các địa do danh, thuyết xưa, nên đồng ngộ ngay Bồ-tát. Trong các địa được định diệt tận, gọi là rơi vào môn pháp lạc tam-muội".

Vì sao biết được?

Vì Kinh Lăng-già kia tự hỏi đáp rằng: "Phật bảo Đại Tuệ! Ta nay vì ông phân biệt giảng nói: "Đại Tuệ! Thanh văn có ba hạng, nói nhập môn vắng lặng của Bát địa, đây là người trước tu hành hạnh Bồ-tát, rơi vào địa Thanh văn, lại dựa vào bản tâm, tu hạnh Bồ-tát, đồng nhập môn vui vắng lặng của Bát địa, không phải Thanh văn vắng lặng tăng thượng mạn. Nếu là Nhị thừa bỏ thân phần đoạn, trụ tam-muội, gọi là người được Niết-bàn ấy, thì vì sao Lăng-già quyển tư lại nói: "Tu-đà-hoàn có ba phẩm đều nói nhập Niết-bàn". Kinh nói quả thứ hai rằng: "Vì hành tướng tu thiền của Thiện Kiến, nên một lần đến thế gian là dứt hết khổ, nhập vào Niếtbàn. Vì sao? Vì thọ thân biến dịch, nên hiện có hành khổ, đâu được nói rằng, dứt trừ hết khổ, nhập vào Niết bàn?".

Hơn nữa, đây là quyết định thú hướng vắng lặng. Vì sao biết được? vì tiếp theo dưới đây, Đại Tuệ hỏi Phật rằng: "Vì nói A-la-hán dược trạng thái vắng lặng quyết định, hay vì gốc lành phát nguyện Bồ-tát?".

A-la-hán của gốc lành là ứng, hoá La-hán, Phật bảo Đại Tuệ! Vì nói La-hán, Thanh văn được sự vắng lặng quyết định, vì chẳng phải La-hán khác, nên biết tánh quyết định nhập vô dư y, chỉ có chân như, đồng với kinh Lăng-già mà diệt các căn và tâm tưởng diệt, rằng nhập Niết-bàn. Nếu trụ thú vui tam-muội, sinh tưởng Niết-bàn, thì đây là người tánh bất định lui sụt Bồ-đề. Vì văn rõ ràng không giải thích, nên cũng phạm lỗi". Lại nói rằng: "Hai giáo trước, sau lược có mười ba điểm khác nhau".

1- Kinh Vô Thượng chép: "Do trụ địa vô minh có cái chết biến dịch". Luận Du-già, v.v... nói: "Do phẩm nguyện quyết định".

Nghĩa này cũng không đúng, vì ẩn giấu từng trải nghiệp vô lậu, nên nếu biện luận về chướng sở tri, cho là khác nhau, không nói rằng do chướng sở tri đồng với trụ địa vô minh, khởi nguyện quyết định vô lậu đồng với nghiệp vô lậu, thì cũng bị phạm lỗi.

2- Lăng-già chép: "Phải diệt các căn, mới nhận lấy biến dịch".

Du-già chép: "Có để lại căn thân".

Nghĩa này cũng không đúng, vì người diệt các căn, chắc chắn nhập vô dư, chẳng phải chịu biến dịch. Không như vậy, thì biến dịch chẳng lẽ không có các căn? Luận nói: "Để lại căn thân". Lăng-già nói: "Vì bất định nên để lại căn thân mà bị biến dịch, không biết rằng, do luống dối mà khác nhau".

3- Không đồng, đến khi phá chấp biến dịch, mới phân biệt được lỗi đó.

4- Rằng, kinh Pháp Hoa, v.v... đi đến cõi nước Phật khác. Du-già, v.v... nói: "Để lại thân ở châu này".

Nghĩa này cũng không đúng. Pháp Hoa đi đến cõi nước Phật khác, y cứ sau Phật diệt độ, cõi này không có Phật, không có khả năng giác ngộ, khiến phát tâm Đại thừa, do đó Phật phương tiện khiến đi đến cõi nước. Luận Du-già, v.v... y cứ vào hiện tại gặp Phật. Đã có khả năng thú hướng Đại thừa, thọ sinh biến dịch để lại thân ở cõi nước này, tức kinh Pháp Hoa thọ ký ba vòng. Người Học, Vô học đều cùng ở châu này, không đi đến cõi nước khác, bắt đầu có khả năng thú hướng Đại thừa, vì đối với Đại thừa này mà không tỏ ngộ, nên cũng phạm lỗi". 5-Y cứ vào kinh Niết bàn, là người đã trụ, v.v... hơn tám muôn kiếp ở vị lai, luận Du-già, v.v... tức để lại thân này; hoặc hơn một kiếp. Nghĩa này không đúng. Luận Du-già nói: "Hoặc hơn một kiếp, nghĩa là luận Phật địa giải thích: Hoặc hơn một kiếp, nghĩa là ý trong đây nói vượt qua một kiếp. So sánh tám muôn kiếp này cũng là vượt qua một kiếp. Vượt qua một kiếp ý nói không có giới hạn nhất định".

6-Y cứ Thắng Man, v.v... nói: "Nhị thừa, Bồtát đại lực, đồng thọ ý sinh thân". Luận Du-già v.v... nói: "Nhị thừa không đồng với Bồ-tát đại lực. Bồ-tát đại lực như ý mà sinh, vì thường nguyện sinh, như Nhị thừa xa lìa mà trụ, vì tất cả chúng sinh đều không thể thấy: Nghĩa này cũng không đúng. Vả lại, kinh Niết-bàn chép: "Người Tu-đàhoàn tu tám muôn kiếp, cho đến Phật Bích Chi, tu mười ngàn kiếp, trụ ở đây là chịu biến dịch, vì trụ Vô dư y. Nếu không chịu biến dịch. Xả phần đoạn xong, sau khi trụ tám muôn kiếp, dựa vào pháp nào để thú hướng Đại thừa ư? Nếu chịu trụ tám muôn kiếp biến dịch, thì đâu thường hóa sinh?". Lại Lăng-già quyển tư chép: "Đại Tuệ! Thanh văn, Bích-chi-phật, nếu lìa tất cả các lỗi, huân tập thì được chứng pháp vô ngã. Lúc bấy giờ, tam-muội lìa các lỗi, pháp say Vô lậu biết rồi, tu hành tất cả công đức trong cõi vô lậu xuất thế gian". Tụng rằng:

Không có nẻo rốt ráo Cũng không còn lui sụt Được các thân tam-muội Vô lượng kiếp bất giác Như người say mờ tối Rượu tiêu, sau đó tỉnh Được thể vô thượng Phật Là chân pháp thân ta.

Lăng-già quyển 7 cũng chép: "Đại Tuệ! Thanh văn, Bích-chi-phật, Bồ-tát Bát địa, ưa chấp mắc môn vui tam-muội vắng lặng. Vì say sưa, nên không thể khéo biết, chỉ tự tâm thấy, cho đến Đại Tuệ! Các Bồ-tát do thấy môn vui vắng lặng của tam-muội, nhớ nghĩ bổn nguyện, tâm đại từ bi độ chúng sinh, biết mười vô tận trí hạnh như thật. Cho nên, không nhập vào Niết bàn ngay".

Ở đây, đều là Nhị thừa dù chịu biến dịch, nhưng, việc tu hành lợi sinh không đồng với Bồtát, vì sao chỉ gọi không đồng với Du-già, không đồng với quyển 7, cho đến biện minh trong phá biến dịch, không đồng với thứ 8, thứ 9, y theo trước mà phá.

10- Rằng, Du-già chép: "Để lại thân chung cho Hữu học". Kinh Thắng-man chép: "Chỉ là người Vô học". Nghĩa này cũng không đúng, vì Hữu học không hồi tâm, không thừa nhận chịu biến dịch, để thừa nhận sự hồi tâm của Hữu học kia, sao không chịu biến dịch? Nếu cho rằng phiền não tồn tại, thì Bồ-tát cũng giống như thế. Nếu cho rằng Bồ-tát dù có phiền não, nhưng vì năng lực vô lậu vẫn vượt hơn, nên đâu có trở ngại. Hữu học hồi tâm thú hướng Đại thừa rồi, là có công năng vượt hơn. Lại, kinh kia tự phán quyết giáo trước của Thâm Mật. Sau, chỉ không quyết định hồi tâm trước kiến đạo, thú hướng Đại thừa, không nói Thánh giả hồi tâm hướng đại, chẳng phải vì liễu đạt rõ. Giáo sau Pháp Hoa được bậc Thánh, Hữu học cũng thừa nhận hồi tâm, vì nhận hiểu rõ ràng". Nay luận Du-già, v.v... cũng nói là hữu, cũng nói là hữu học hồi tâm, thừa nhận chịu biến dịch, điều này có lỗi gì? Kinh Thắng-man nói theo quyết định đối với Nhị thừa kia chịu biến dịch sinh tử, Luận Phật Địa nói theo chấp nhận chịu biến dịch sinh tử. Không như vậy, thì chấp văn, nói Vô học chịu thân biến dịch, đâu thể nhị thừa và Hai địa đầu đều không chịu biến dịch, vì không phải lỗi là lỗi, nên bị phạm lỗi".

11- Không đồng cũng y theo trước mà phá.

12- Không đồng với biện minh đủ trong phá chấp biến dịch ở dưới. Lại nói: Niết-bàn v.v... trước nhập, sau vắng lặng, phát đại tâm. Du-già trước phát đại tâm, nhưng sau để lại thân, v.v…

Nghĩa này cũng không đúng, Kinh Pháp Hoa chép: "Người Hữu học, Vô học đều hồi tâm, đâu phải Vô học đều trụ trong diệt định, gọi là diệt Vô dư, trải qua nhiều kiếp, mới bắt đầu thú hướng Đại. Lại, kinh Niết bàn chép: "tám muôn kiếp xong, đến tâm, v.v... A-nậu-Bồ-đề, không nói tám muôn kiếp xong, bắt đầu phát đại tâm, không đồng, nghĩa là vọng, nghĩa là đồng, cái thật đồng tức là không đồng. So sánh đối tượng biện luận kia đồng cũng không hề đồng, khác cũng thật không khác. Khác chủng khó suy nghĩ. Mắt che mờ thừa nhận hoa sinh không; tầm từ của hạt giống khác chỉ phân biệt luống dối".

9-Sai lầm của sự sống lâu chẳng phải liễu:

Có nghĩa: "Kinh trước nói về hạnh để lại của sự sống lâu. Luận Du-già, v.v... giải thích rằng: "Thêm sự sống lâu đến Đại Bồ-đề, nhưng vì nghiệp vô lậu, chẳng phải nhân gần biến dịch, không xả căn thân thì chịu sinh tử biến dịch; giáo sau được quả Vô học, bỏ thân phần đoạn, chướng sở tri làm duyên, mới phát nghiệp vô lậu vọng, cảm gần sinh tử biến dịch ngoài ba cõi, trụ thú vui tam-muội gọi là Niết-bàn Vô dư, chẳng phải định diệt tận. Từ giác này xong, mới phát đại tâm".

Quyển hai dù là hữu lậu, vì phiền não hết, không hệ thuộc cõi, gọi là ngoài ba cõi, chẳng phải lìa ba cõi có chúng sinh riêng, nhưng chủng tánh Nhị thừa dù có định, bất định khác nhau, cũng đều chịu biến dịch; chịu biến dịch rồi, lại không xả thân, cho đến vị Kim Cương, mới bắt đầu lìa bỏ, nên luận Phật Tánh chép: chỉ có một sinh gọi là hữu hữu. Nếu luận Duy Thức v.v... không bỏ phần đoạn, thì chịu biến dịch, làm sao gọi là sinh tử. Nếu nói là sát na thì trái với luận Phật Tánh nói chỉ có một sinh. Nếu gọi là thỉ, chung của mạng, thì trái với Du-già, thêm các hạnh sống lâu. Lại, nói thêm sự sống lâu, sao lại nói là chết? Đã không có chết, thì sao nói sống. Lại đã không bỏ phần đoạn". Dugià lại không có văn chuyển căn, La-hán người nữ thêm sống lâu, nếu thành Phật thì do thân nữ, sẽ trực tiếp thành Phật, chỉ có thể y chỉ kinh mà sinh trí; phàm phu không được luống dối có tư duy, so lường".

Thuyết này nói không đúng. Quả Thánh của Nhị thừa hồi tâm hướng Đại, đều chấp nhận chịu sinh tử biến dịch.

Trong kinh Thắng-man y cứ vào quyết định, nói người tánh bất định, được quả Vô học, quyết định hồi tâm, không còn sinh lại nữa, quyết định chịu Hữu học biến dịch. Không quyết định thì cũng hồi tâm chịu sinh tử biến dịch. Vì không quyết định, nên trong kinh không nói, có thể do Thắngman không nói Hữu học hồi tâm, thì có thể không thừa nhận trong hội Pháp Hoa thú hướng Đại thừa.

Cho nên, luận Phật Tánh, v.v... đồng với kinh Thắng-man. Vả lại, y cứ vào thọ quyết định, trong kinh Lăng-già chép: "Y cứ vào tỏ ngộ ngay, người sợ phiền não, nói ba ý sinh thân, Du-già, Phật Địa đồng với Pháp Hoa, v.v... đều thừa nhận hồi tâm. Đã nói hồi tâm, tức chấp nhận chịu sinh tử biến dịch kia. Đã không có văn chứng minh Hữu học hồi tâm thì được thọ biến dịch, cũng vì nói thích đáng, không có văn của kinh kia, che lấp có văn ở đây để nói Niết-bàn, Pháp Hoa đều thừa nhận sự hồi tâm. Du-già, Phật Địa thừa nhận có chịu biến dịch. Các luận ấy tự nói rằng: "Chỉ có thể y chỉ kinh sinh trí. Phàm phu không được có suy nghĩ, so lường giả dối: Người kia há là đại Thánh, ở đây Du-già v.v... đều ngăn cấm ư? Lại, bao gồm ý vào văn luận kia, sơ lược có mười một lỗi".

Nói xả thân phần đoạn, cảm chịu biến dịch, xuất xứ từ Thánh giáo nào?

Kinh Thắng-man, v.v... đều nói không có xả phần đoạn", Du-già, luận Phật Địa v.v... đều nói: "Nguyện định vô lậu để giúp nghiệp cũ, sao cho chiêu cảm được thân vượt hơn, tăng trưởng dần". Hiển Dương quyển 16 chép: "Y chỉ có thân biến hóa, được đến địa vị Phật, cũng không nói xả phần đoạn". Luận Nhập Đại thừa cũng nói: "Trụ sống lâu dựa vào kinh, luận mà là tự ý đoạt". Lại nói: "Chướng sở tri làm duyên, mới phát nghiệp Vô lậu luống dối, chiêu cảm riêng sinh tử biến dịch của cõi ngoài".

Nghĩa này không lẽ như thế, vì nếu tạo ra nghiệp mới, là chiêu cảm gần nhân, thì vì sao luận Phật Tánh lại nói: "Nhân duyên sống chết ví như Tu-đà-hoàn trở lên, chỉ dùng nghiệp cũ, không sinh nghiệp mới". Nếu dùng vô lậu mới, chiêu cảm sinh tử thì thí dụ này sẽ không thành". Lại, kinh Duyên Khởi, v.v… nói: "Bậc Thánh không tạo ra chiêu cảm nghiệp hữu ở sau. Nếu không là có kinh, luận, thì không nên nói rằng có sinh tử của hữu. Nếu sự sinh tử kia là có, thì bậc Thánh làm sao tạo ra nghiệp hữu ở sau? Hơn nữa, nếu đã thừa nhận tạo nghiệp hữu sau, thì Na-hàm không nên tu nhiều thứ thiền định lẫn lộn, giúp cho nghiệp cũ phẩm hạ, sinh lên năm tầng trời Tịnh cư?". Nếu nói rằng: "Do năng lực Đại, Tiểu khác nhau, thì nghĩa này cũng không đúng, vì thân hơn kém khác nhau, đâu không được tạo? Lại, nếu sức đặc biệt, thì lẽ ra Bồtát chỉ tạo nghiệp mới, do chiêu cảm; Năng lực nhị thừa thua kém, không thể tạo ra chiêu cảm?. Lại, nếu Bồ-tát đã thừa nhận mới tạo nghiệp, chiêu cảm sinh tử biến dịch, thì tức thân biến dịch của cung Đại Tự Tại sinh ra nghiệp báo? Và sao luận Thập Địa nói: Lợi ích của quả báo, do trí Ma-hê-thủ-la sinh ra", nên luận Phật Tánh chép: "Ví như Tu-đà-hoàn trở lên, chỉ dùng nghiệp cũ không sinh nghiệp mới. Do đây nên biết, Du-già, Duy Thức, v.v... nói: "Giúp nghiệp cũ là nói thích đáng của các luận đó. Nếu là vô lậu mới chiêu cảm, thì thuộc về Tập đế, cho dù an lập đế, phi an lập khác nhau, nhưng vẫn không rời bốn đế; không có chỗ nào nói "Tập" chẳng phải là đối tượng đoạn. Được chung cho vô lậu là sự kiện đáng nên tu, chỉ nói Tập đế là hữu lậu, đối tượng đoạn của vô lậu kia, chẳng phải tu, vì trái với lý, để tìm kiếm văn, cho nên không đúng". Lại, nếu xả thân lại cảm thọ riêng sinh tử biến dịch thì trái với bốn thọ ký: "Người không có phiền não, chết, sẽ không sinh". Nếu nói rằng, vì nói theo phần đoạn, thì nghĩa này cũng không đúng, vì chẳng lẽ biến dịch kia không thuộc về sinh ư? Lại, y cứ vào xả phần đoạn, gọi là tử không sinh, đây là phân biệt, đâu cần nói rằng, người không có phiền não, chết không sinh, như nhập kiến đạo, xả các tai nạn, v.v... cũng được nói là không sinh. Nếu nói rằng, đồng với phần đoạn sinh không gọi là xả, thì lẽ ra cũng đồng với hữu lậu thứ 8, không gọi là xả. Đã không có tử, không có sinh, nên khiến cho Đại sư thuận theo nói luống dối". Lại, luận Nhập Đại Thừa chép:

Hỏi: Trụ sự sống lâu nào?

Đáp: A-la-hán không có phiền não, đồng với Bồ-tát Bát địa, vì khéo tu như ý túc, nên có thể tùy ý sống ở đời, cho đến tận cùng nơi sinh tử. La-Hầu-la, Tân-Đầu-lô v.v… đều trụ ở đời. Nếu là xả phần đoạn, làm sao có thể tùy ý trụ ở đời, đều không tin ở bốn thọ ký của Đại sư rằng: "Thọ riêng thân, vì trái với văn lập nghĩa, nên cũng phạm lỗi". Lại nói rằng: "Vô lậu cảm gần ngoài ba cõi sinh, gọi là sinh biến dịch".

Nghĩa này cũng không đúng, nghiệp Vô lậu mới có công năng không rơi vào cõi Hữu lậu thứ tám đâu không phải cõi ư?

Nếu nói rằng: "Vì lìa hệ thuộc, nên gọi là chẳng phải cõi, thì đây là đồng với thuyết xưa nói, đâu có rảnh mà trình bày lại". Lại, vì như phiền não có công năng chiêu cảm sự sinh, nên hay bị trói buộc Luận Nhiếp Đại Thừa đã thừa nhận sở tri, thật sự đồng với phiền não, có công năng phát ra nghiệp chiêu cảm hữu lậu thứ tám, vì chướng ngại Bồ-đề, đâu không phải là trói buộc?". Vì luận kia chép: "Vô lậu sinh, như thủ làm duyên, nghiệp nhân hữu lậu mà sinh ba hữu, tức là chấp biến dịch, như nghiệp nhân kia sinh riêng, đã nói vì như thủ, v.v… nên sở tri kia lẽ ra trói buộc, vô lậu gồm thâu, nhóm họp; vì thuyết này không thừa nhận, thành ra không nên chấp biến dịch sinh riêng, như Duy Thức, v.v... gọi là đoạn sở tri, dù để lại thân trụ nguyện, định vô lậu, giúp cho nghiệp cũ kia, thì sẽ không có lỗi này. Kinh nói: "Như Thủ làm duyên, nghiệp dụng hữu lậu, nhân sinh ba hữu, là dụ phần ít thôi". Lại, luận Nhập Đại Thừa chép: "Nếu ông nói: "Kẻ không có phiền não, ta cũng như thế. Nếu có người thân yêu kính tin quy y ta, thì ta sẽ nói cho ông nghe".

Hỏi: "Trụ sự sống lâu nào?

Đáp: A-la-hán không có phiền não, vì đều khéo tu như ý túc, nên có khả năng tùy ý trụ ở thế gian.

Đã nói tùy ý trụ, là nói không phải thọ riêng sinh, cũng không được nói là giải thích giáo trước bốn mươi năm. Văn luận tự dẫn, vì như La-hầu, v.v... nên biết gồm giải thích giáo Pháp Hoa v.v.. Duy Thức giải thích chẳng trái với kinh, luận, vì trái với kinh, luận kia thì phạm lỗi. Lại nói rằng: "Chịu cái chết biến dịch, trụ thú vui tam-muội, gọi là Niết bàn Vô dư, không phải định Diệt tận, từ giác biết này xong, người bắt đầu phát tâm Đại thừa, y cứ vào tánh bất định, Duy Thức không có trái. Nếu nói tánh quyết định thì nghĩa này cũng không đúng, vì trái với Lăng-già, v.v... như trước đã dẫn, mà không thể biết căn tánh có khác. Nói chung hồi tâm trái với kinh và luận. Lại, kinh Pháp Hoa quyển 2 chép: "Nay chúng ta trụ thân sau cuối ở Niết-bàn hữu dư, không nói là Vô dư"; Thắng-man cũng đồng với quan điểm này. Hơn nữa, tự nói Vô học hồi tâm, chủ yếu trụ Diệt định, cho là Vô dư. Từ đây khởi xong, mới có thể thú hướng Đại thừa. Nay lại nói: "Không phải diệt định trước sau tự trái với nghĩa mà kinh đã lập, là lỗi lớn".

Lại nói rằng: "Luận Duy Thức không bỏ phần đoạn, tức là chịu biến dịch, sao gọi là sinh tử. Nếu nói sát na, thì trái với luận Phật Tánh, nói là chỉ có một sinh; nếu cho rằng thỉ chung của mạng, tức trái với Du-già, thêm các hạnh sống lâu, thì không có tử hữu. Đã không có tử, thì làm sao nói sinh? Nghĩa nây cũng không đúng, vì sinh tử là gọi chung. Lại, như kinh Vô Thượng Y, Luận Phật Tánh, v.v... bốn thứ sinh tử đều gọi là sinh tử, chẳng phải y cứ vào mọi người đã tử rồi, sinh riêng mới gọi là sinh tử". Nếu nói rằng "Vì pháp sinh tử của thân biến dịch này, nên gọi là sinh tử, cũng chuyển biến pháp sinh tử phần đoạn, trở thành biến dịch, nên gọi là sinh tử, đâu có lỗi không thừa nhận. Nếu xả phần đoạn, chịu sinh tử riêng, thì sao gọi biến dịch? Lại, thừa nhận vô lậu, có công năng làm nghiệp mới, chiêu cảm gần sinh tử". Lăng-già lại nói: "Ba ý sinh thân, địa vị đều riêng, lẽ ra lại có thọ, vì đâu gọi là một sinh, nên đã uổng công lập ra câu hỏi, vì lỗi rất lớn".

Lại nói rằng: "Đã không xả phần đoạn, Du-già lại không có văn chuyển căn, La-hán, người nữ, nếu là người thành Phật, thì nghĩa này không đúng, vì nếu do Du-già không có văn nói chuyển căn, tức thừa nhận thân nữ thành Phật". Kinh Thắng-man, luận Phật Tánh, kinh Vô Thượng Y cũng nói không có chuyển căn. Nếu bỏ thân, căn cơ chậm lụt của Nhị thừa, thì làm sao thành Phật. Du-già, Duy Thức, vô lậu, v.v... giúp sức gọi là biến dịch; biến dịch tức là nghĩa chuyển căn mà không thể biết, lỗi ấy rất lớn". Lại nói rằng: "Đạo kia như trên, đả phá địa ở trên, cảm đạo của địa trên, phá bỏ địa dưới, chiêu quả cảm báo của địa trên. Vô lậu của Nhị thừa, phá tan phần đoạn, chiêu cảm biến dịch, về lý đâu có lỗi".

Nghĩa này cũng không đúng, vì đạo hữu lậu của địa trên, chế phục địa dưới, không khuất phục địa trên. Hữu lậu có khả năng chiêu cảm quả báo, đạo vô lậu đoạn chung địa trên dưới, chẳng phải đồng với hữu lậu, thì làm sao có thể chiêu cảm? Lại nói: "Luận Du-già chép: "Để lại căn, thêm sống lâu, trụ ở châu này, xa lìa mà trụ; châu khác không thấy được".

Y cứ vào văn luận này là để lại hành sống lâu, chẳng phải biến dịch sinh tử. Luận sư đời cuối, gia tăng sự xuyên tạc, chẳng phải ý của Du-già.

Nghĩa này cũng không như vậy, vì luận sư thời đại sau, thuận với văn trở thành lý khác nhau. Thuyết kia đều trái với Du-già. Nếu Du-già bỏ thân phần đoạn, riêng chịu biến dịch. Luận sư thời đại sau nói rằng: "Vì giúp nghiệp cũ, nên có thể lìa gia tăng. Du-già không bỏ căn thân, thêm sự sống lâu, tức là biến dịch, không đồng với hạnh sống lâu mà nguyện định hữu lậu của Nhị thừa đã gia tăng, vì chẳng phải nhiều kiếp, nên đồng loài người, trời đều nhìn thấy được. Lại, trong luận Hiển Dương của Vô Trước nói là thân biến hóa. Trong luận Phật Địa của Thân Quang nói là cái chết biến dịch". Lại, luận Nhập Đại Thừa chép: "Đáp rằng, A-la-hán không có phiền não, đồng với Bồ-tát Bát trụ, vì khéo tu như ý túc, nên có thể tùy ý trụ ở thế gian, cho đến cùng tận sinh tử". Lại, nói rằng: "Như trong Tăng-kỳ nói: "Vì mắt xanh của Như Lai là hóa Bồ-tát nên đã trụ ở trời Quang Âm với các chúng Thanh văn trong Vô lượng trăm ngàn ức nado-tha kiếp. Như trên tầng trời kia, Thanh văn trụ sống lâu nhiều kiếp, phải biết thế giới này cũng có Thanh văn, có thể trụ như thế. Nếu chủ yếu bỏ sống lâu thọ thân ở xứ khác, đâu gọi là trụ, ở thế gian này cũng có v.v...".

Lại, hỏi: "Là do thân này trụ ở đời hay là do có thân khác trụ?" Đáp: "Do thân thật mà trụ ở đời, thì không có nghĩa kia; nếu thân biến hóa trụ sống lâu nhiều kiếp, thì có lý này. Nếu lại thọ thân, tức là thân thật, thì đâu gọi là biến hóa, nên biết thêm sự sống lâu, chuyển đổi hình gốc, gọi là biến dịch. Nếu như thế, thì dựa vào danh, lấy nghĩa và không trái với kinh. Nếu chủ yếu xả thân, mới chịu biến dịch, thì đâu chỉ gọi là sai trái, mà còn trái với Thánh giáo; chỉ ý chẳng những không phải các sư duy thức như Vô Trước, Kiên Ý, các Bồ-tát, v.v… mà Thánh giáo kia còn nói rằng lược hỏi. Kính phàm không đủ, lấn át Thánh có thừa". Lại hỏi rằng: "Như phiền não trong ba cõi làm duyên nghiệp hữu lậu là nhân sinh vào ba cõi. Nếu có nghiệp phiền não chưa chế phục, chưa dứt, vì quyết định sinh ba cõi, nên biết nếu có nghiệp Vô lậu luống dối vì chưa dứt trừ vô minh trụ địa, nên chịu biến dịch, thì nghĩa này cũng không đúng, vì như người chứng Sơ quả, lại có nghiệp phiền não của ba cõi chưa dứt, chưa hẳn nhất định thọ sinh ba cõi, mới nhận lấy Vô học, tức ở hiện thân cũng thừa nhận được, nên biết Bồ-tát Thượng địa cũng như thế, tức ở hiện đời được chứng quả. Nếu nói rằng nhị thừa Hữu học có thể chế phục, chưa dứt trừ tu hoặc, có thể được bất sinh, Bồ-tát cũng có khả năng chế phục chướng sở tri, đâu cần sinh riêng mới được chứng quả".

Lại, Bát địa trở lên, có nghiệp vô lậu chưa dứt trụ địa Vô minh, sao không thọ lại, vì ba ý sinh chỉ một sinh ư? Lại, thứ bảy trong mười ba thứ khác nhau rằng: "Pháp Hoa, luận Trí Độ, v.v... chẳng phải thuộc về ba cõi, vì nhân duyên chẳng phải là nghiệp của ba hữu, vì phiền não ba cõi không thể trói buộc. Không như vậy, thì Pháp Hoa ở chỗ nào nói rằng thân biến dịch chẳng thuộc về thế giới. Nếu y cứ vào thân phần đoạn, hoặc tận, cũng nói rằng ngoài cõi, nên kinh dưới chép: "Do môn Phật giáo ra khỏi nỗi khổ ba cõi, vượt qua ba trăm tuần. Nếu nói về sự hiện thân, thì thứ thứ tám, thức bảy, năm và năm căn, v.v... đều là hữu lậu, sao chẳng phải thế giới? Nên biết rằng, biến dịch ra khỏi ba cõi, nghĩa cũng đồng với ở đây. Lại từ nhân duyên sinh tử rằng, chẳng phải hệ thuộc cõi. Nếu y cứ thứ thứ 5, 8 v.v... cũng thuộc về thế giới, dù chẳng phải hoặc trói buộc, mà vì thể tùy thuộc thế giới. Nếu không phải thuộc về cõi thì lẽ ra là xuất thế, sự xuất thế này đâu có khác với Phật. Nếu nói rằng, vì hữu lậu nên khác với Phật. Đã nói rằng hữu lậu, thì làm sao không phải thế giới. Hơn nữa, kinh, luận ở mỗi chỗ của Đại thừa, đều nói về cõi thú hướng thể, chỉ y cứ vào quyển thứ tám, mà nay vì không biết nên cũng thành lỗi. Quyển 10 trong Bất đồng chép: "Kinh Vô Thượng Y, luận Phật Tánh, v.v… nghiệp vô lậu luống dối là sinh tử, chướng ác là đại Bồđề". Luận Du-già v.v... do định vô lậu giúp thân mạng trụ để nhận lấy Bồ-đề; nghĩa này cũng không đúng, vì nếu không vì nhận lấy Bồ-đề Vô thượng để lại thân trụ lâu, vì sự tu ở đây, vì sao trong vị Bồ-tát Thập địa, chịu thân biến dịch, gây chướng ngại cho Bồ-đề. Lại, Lăng-già quyển 7 chép: "Đại Tuệ! Bồ-tát do thấy môn vui tam-muội vắng lặng, nhớ nghĩ bản nguyện, với tâm đại từ bi, độ thoát các chúng sinh, biết mười vô tận, trí hạnh như thật, cho nên không nhập vào Niết-bàn ngay, các Bồ-tát đại bi, xa lìa tâm phân biệt luống dối, v.v...

Đã nói rằng từ bi vì chúng sinh biết mười vô tận trí hạnh, v.v… như thật, đâu thể không biết cũng khởi nghiệp vô lậu luống dối thọ sinh biến dịch làm chướng ngại cho Bồ-đề. Nếu do không biết khởi vô lậu luống dối, chiêu cảm sinh tử biến dịch, nên như phàm phu tạo nghiệp cảm quả, không chỉ một đời, vì do sức nghiệp, nên nếu nói rằng: "Cố ý thọ thân biến dịch, tức đâu bị chướng, chỉ do có chướng ngại trí đại Bồ-đề, vì nhận lấy Bồ-đề, để lại thân trụ lâu, đoạn trí chướng này. Nếu không như thế, liền nhập vào Niết bàn. Nhưng kinh nói là nạn, luận gọi là chướng oán, vì chướng ngại Đại Bồ-đề, cho nên người cần thọ, vì muốn dứt trừ, nên như người mạnh mẽ có sức khỏe, có kẻ thù oán, vì tìm kẻ thù, nên chẳng phải không thể tránh, gặp phải oán bị hại, chịu thân biến dịch, nên biết cũng giống như vậy".

Nghĩa này cũng không đúng, vì tự thừa nhận Lăng-già là thời giáo thứ năm, chỉ nói người lui sụt tâm Bồ-đề hướng về Đại thừa.

Thắng-man là liễu nghĩa kia, nói Nhất thừa. Lại nói rằng: "Thuận theo ý muốn kia mà phương tiện nói, luận Pháp Hoa giải thích không có lợi ích quyết định cho Thanh văn. Trong dụ cỏ thuốc nói rằng: "Khiến biết thừa khác, Niết bàn ở sau cuối, bày nói đều thành Phật, không hiểu ý ta, do đây so sánh mà biết. Du-già Thâm Mật liễu nghĩa Đại thừa; Lăng-già, Niết-bàn đều phù hợp, nói giáo chia làm năm thời, tánh quyết định đều thành Phật. Vô học sau Vô dư, bắt đầu hồi tâm, bỏ thân phần đoạn, chịu riêng biến dịch. Đã không có Thánh giáo, chỉ Nhị thừa kia tự nói, chẳng phải tin ở người, ai có thể thuận với thọ, nếu có mâu thuẫn, thì về sau sẽ hội thích".

10-Sự sai lầm của nói dối là thông hiểu kinh:

Nghĩa là: "Người học Du-già, vọng cho là thông kinh Lăng-già, Niết-bàn chép: Nhất-Xiển-đề thành Phật, là biên thời của luận Trang Nghiêm; Vô Tánh chẳng phải rốt ráo vô tánh là không không đúng, vì sao? Vì A-điên-Đế-Ca, dịch là rốt ráo, tánh thứ năm gồm thâu hạng Nhất-xiển-đề. Bốn tánh trước dứt bỏ điều lành, gọi là tạm thời; dứt bỏ điều lành thứ năm gọi là rốt ráo, việc này cũng phi lý. Vì sao? Vì, năm thứ dứt bỏ điều lành xuất xứ từ kinh, luận nào? Nếu y cứ kinh Lăng-già, thì chỉ nói năm thừa, không nói năm thứ dứt bỏ điều lành. Nếu y cứ trong biên thời gian của luận Trang Nghiêm, thì sẽ có bốn thứ tánh, cũng không nói đều dứt bỏ điều lành. Nếu y cứ vào kinh Niết-bàn quyển 36, tức nói trong sông sinh tử có bảy hạng người, đều nói dứt bỏ điều lành, Kinh kia nói năm thứ dứt bỏ điều lành, bốn tánh trước là tạm thời; tánh thứ năm là rốt ráo. Nhờ vào Thánh giáo nào? Lẽ ra là văn nêu ra". Lại nói: "Tạm thời cũng có Niết-bàn".

1- Chẳng phải tánh thứ năm.

2- Chẳng phải thường.

3- Chẳng phải quyết định không có pháp Niếtbàn.

4- Kinh trước đã nói sẽ được Niết-bàn.

Kinh Lăng-già chép: "Sau gốc lành bị đốt cháy trong tánh thứ năm, sẽ nhập Niết-bàn. Trong tánh thứ năm, chỉ có Bồ-tát Xiển-Đề, lại vì không có cuối cùng, nên biết rằng cuối cùng không có tánh mà luận Trang Nghiêm đã nói, tức là kẻ đốt gốc lành trong kinh Lăng-già".

Về nghĩa này cũng không đúng. Vì sao? Vì kinh Lăng-già nói sẽ được Niết bàn, đủ chứng tỏ rằng hàng Nhất-xiển-đề kia chẳng phải là người thường chìm trong kinh Niết-bàn, cũng chẳng phải nghĩa cuối cùng của luận Trang Nghiêm, há trong kinh tự nói sẽ được Niết-bàn? Bồ-tát Vô Trước nói là rốt ráo không có người Niết-bàn. Nếu nói đốt cháy tất cả pháp lành, trong luận Trang Nghiêm gọi là rốt ráo không có pháp Niết-bàn. Ở trong biên thời gian, lại nói: "Ai là người dứt khắp các gốc lành? Lại, rốt ráo không có nhân của luận Trang Nghiêm, Đại bi không có tánh của Lăng-già, Đại bi kia chẳng lẽ hoàn toàn không có tánh? nên biết rằng, kẻ đốt gốc lành, không có pháp Niết-bàn của Lăng-già là gồm thâu biên độ thời gian, chẳng phải thuộc về cuối cùng của luận Trang Nghiêm. Nếu luận Trang Nghiêm nói có năm thừa, đồng với kinh Lăng-già ấy thì có thể nói rằng cuối cùng tức tánh thứ năm kia. Trong luận Trang Nghiêm chỉ nói có tánh, không có tánh; trong có tánh là nói ba thừa; trong không có tánh lại có bốn thứ:

1- Không đồng với Lăng-già nói có tánh thứ tư.

2- Không đồng với Lăng-già nói thừa không có tánh là tánh thứ năm kia.

Lại thuyết mà các kinh, luận đã nói đều khác nhau. Niết bàn nói rằng: "Ba hạng người bệnh"; hoặc bảy thứ đoạn thiện"; Thắng-man nói bốn".

Các thuyết này chẳng phải một, vì mỗi thuyết đều y cứ vào nghĩa riêng, chẳng có một tiêu chuẩn nhất định, thì làm sao phán quyết nhất định?

Cuối cùng không có tánh trong luận Trang Nghiêm, tức đốt cháy các gốc lành kia. Lại, nếu chẳng có rốt ráo không có tánh, thì sao Niết-bàn quyển 32 nói rằng: "Nấy người thiện nam! Trong con sông sinh tử có bảy hạng người: Người thứ nhất là dứt gốc lành, thường bị chìm". Lại, Niếtbàn quyển 9 chép: "Nếu người nào được nghe kinh Đại Niết-bàn này, thì người đó dù phạm bốn cấm và năm vô gián, cố nhiên cũng có khả năng sinh nhân duyên Bồ-đề; bọn Nhất-xiển-đề thì không phải như vậy, vì cho dù được nghe, nhận kinh điển mầu nhiệm này, nhưng vẫn không thể sinh nhân đạo Bồ-đề".

Y cứ kinh này, năm nghiệp Vô gián dù là tà định, nhưng nói là nhân năng tác, tức chỗ khác nói là cứu chữa định tà; hạng Nhất-xiển-đề này thì không như thế, tức kinh khác nói: "Người bỏ tà định". Lại nói bỏ, nghĩa là không hóa thành Phật, không phải hoàn toàn bỏ, vì khiến họ sinh lên cõi trời, nên kinh Bồ-tát Tạng của hội trước kia, đồng với bất xả khác, nói là nói dối. Lại nữa, có nhiều dụ, như cây khô thì không sống; như núi đá không ngăn dòng nước, như trong bùn lầy, viên ngọc chưa thể trong, như hạt giống bị rang cháy, thì không nẩy mầm. Lại nói rằng: "Dù cho tất cả vô lượng chúng sinh, trong cùng một lúc, thành tựu A-NậuBồ-đề, các Đức Như Lai này cũng không thấy Nhất-xiển-đề kia được thành Bồ-đề". Lại kinh Niết-bàn quyển 7 chép: "Lại, có Tỳ-kheo nói kinh điển rất sâu ẩn mật của Phật, tất cả chúng sinh đều có Phật. Vì tánh này nên dứt trừ vô lượng ức các kiết phiền não, tức được A-Nậu-Bồ-đề, trừ Nhấtxiển-đề. Nếu đều có Phật tánh, thì sẽ dứt được các kiết phiền não, nói rằng người khác, Nhất-xiển-đề kia há không thể trừ riêng ư? Nếu nói rằng người khác, thì hiện là Xiển-đề, nhưng đương lai có thể nói. Hiện chẳng phải đương lai: Nghĩa này cũng không đúng, trừ các chỗ nạn cho Xiển-đề, v.v… đều hiện có khả năng hay không? Tùy thuận đâu rơi vào nạn, đều là Xiển-đề ư? Nhiều văn trên, dưới vì rườm rà nên không dẫn đủ. Nếu dùng luận Phật Tánh của Thế Thân để hội thích, vì người chê bai pháp, nói vô lượng thời gian, chẳng phải thật không có tánh, sao không tin? Trong kinh Thiện Giới, Như Lai tự nói người chẳng phải chủng tánh, vì không có chủng tánh. Bồ-tát Di-lặc đối với địa Thanh văn và Bồ-tát kinh địa, đều có phần quyết trạch; luận Hiển Dương, v.v... của Bồ-tát Vô Trước, đều nói không có tánh; trong luận Phật Địa lại hội thích rằng: "Dù kinh khác giảng nói tất cả loại hữu tình, đều có Phật tánh đều sẽ thành Phật. Nhưng y cứ vào pháp thân, Phật tánh, Chân như; hoặc y cứ tất cả hữu tình của phần nhỏ, phương tiện mà nói, vì khiến hữu tình của chủng tánh bất định, quyết định nhanh chóng thú hướng quả Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề; luận Nhiếp Đại Thừa và luận Pháp Hoa đã nói nghĩa Nhất thừa, đều giống nhau. Hơn nữa, đều có Phật tánh đều sẽ thành Phật, tức chỉ Nhất thừa, mà vì liễu nghĩa. Vì sao Niết bàn nói rằng: "Nói Nhất thừa, một đạo, một hạnh, một duyên, cho đến nói rằng: "Không hiểu ý ta". Lại nói rằng: "Ở trong kinh, hoặc nói nhất thừa; hoặc nói ba thừa". Lại kinh Giải Thâm Mật chép: "Nên ở trong kinh kia nói Nhất thừa chẳng phải tánh hữu tình, không có khác nhau". Trong kinh Lăng-già cũng chép: "Ẩn mật". Nếu như vậy, đã có không có tánh. Văn luận Phật Tánh và luận Bảo Tánh, làm sao hội thích?

Đáp: Trong luận Phật Địa, đã nói lược, nay, lại giải thích, có văn kinh nói: "Xiển-đề quyết định không có tánh Niết-bàn". Có nhiều thứ khác nhau. Luận Phật Tánh, v.v… chép: "Nói Xiển-đề quyết định không có tánh Niết-bàn: hội thích kẻ dứt gốc lành kia, không có tánh thứ năm của kinh Lănggià, chỉ không có hiện hành, chẳng phải không có hạt giống tự tánh tâm vô lậu, thanh tịnh; hoặc nói quyết định không có tánh Niết-bàn, nghĩa là chỉ không có tánh hạnh, chẳng phải không có lý tánh. Nay, tướng chung nói vô minh chẳng phải liễu nghĩa, nên luận Bảo Tánh chép: "Vì Xiển-đề kia thật sự có tánh thanh tịnh, nên không được nói rằng họ thường xuyên cuối cùng không có tánh thanh tịnh". Hơn nữa, hai luận đều y cứ ở kinh Vô Thượng Y, đã hội thích Xiển-đề là vướng mắc thứ hai trong hữu, chẳng phải đầu tiên. Chẳng phải đầu tiên chê bai giải thoát không tin Đại thừa. Luận Phật Tánh hội thích rằng: "Phật nói: "Nếu không tin Đại thừa, thì gọi Nhất-xiển-đề. Luận Bảo Tánh chép: "Vì muốn hồi chuyển tâm chê bai Đại thừa". Nếu giải thích như thế, thì các giáo sẽ không có sai trái. Tin một, bỏ khác, là tin chẳng phải đầy đủ". Lại nói: "Vọng chung cho Niết bàn nói tất cả chúng sinh đều có Phật tánh". Nếu nói về tánh hạnh, phần ít của tất cả, đây chẳng phải ý kinh".

Vì sao biết được?.

Kinh chép: "Dù tin Phật tánh là chúng sinh có, không tin tất cả đều có Phật tánh, gọi là tin không đầy đủ".

Nghĩa này cũng không đúng, kinh không nói rõ: "Nếu không tin tất cả chúng sinh đều có hiện hành Phật tánh, gọi là tín không đầy đủ. Lại, nếu thừa nhận đều có tánh hạnh. Trái với đối tượng chấp kia, vì kiến đạo trở xuống không có vô lậu. Hơn nữa, kinh Niết-bàn chép: "Phật tánh nghĩa là chẳng phải chỉ một pháp, đâu có thể nhiễm, tịnh tất cả đều có, chẳng có phàm, Thánh khác nhau, y cứ vào lý không ngăn ngại. Về tánh hạnh thì không phải như vậy. Lại, nếu dùng tham, v.v... làm tánh hạnh, vì không phải pháp lành, vì ngăn chận luận, v.v... Nhập Đại thừa, nên luận chép: "Ông ngu si không có trí, cho rằng phiền não là Phật tánh. Do lý tánh khắp không tin đều có, gọi là tín không đầy đủ. Nay, thừa nhận lý khắp, đạo trước kia chẳng phải luống dối. Lại nói rằng: "Thông thường, người có tâm đều sẽ thành Phật. Và rằng, danh chẳng phải Phật tánh. nói là đối với Phật tánh, chẳng phải Phật tánh. Nghĩa là vách tường gạch đá, vật vô tình; ngoài vật vô tình như thế v.v… đó gọi là Phật tánh, nghĩa là tất cả chúng sinh, há nói vô tâm, kể cả phi tình, là chúng sinh ư? Nên đồng tất cả, không làm chứng nhất định, huống chi trong kinh tự có giải thích tất cả rằng: "Hai môn lý, hạnh, phải giải thích chung, luận Phật Tánh kia hoàn toàn không thừa nhận hạt giống vô lậu vốn là tánh của ba thừa, còn không làm trái, huống chi tất cả có lời nói, làm sao phân biệt có là trái với giáo?". Du-già, v.v... chép: "Chẳng khắp, nghĩa là nói tâm ý ư?". Lại do Trí luận đã nói năm thừa rằng: "Người không trụ Niết-bàn, chấp mắc trong người, trời, tạo ra nhân Niết-bàn dùng làm thuyết nhất định".

Nghĩa nây cũng không đúng, vì luận kia y cứ vào tánh tập; chẳng phải tánh chủng tánh. lại, thừa nhận làm chứng, ấy là trái với Niết-bàn, tất cả có lời nói, tất cả văn trái trái với vọng thông kia, y cứ theo trước có thể đều. Lại nói rằng: "Niết bàn nói: "tất cả chúng sinh đều quy về một đạo. Một đạo, nghĩa là đồng lấy Phật thừa làm nhất thừa: cũng đồng với kinh Thắng-man rằng: "Nhị thừa nhập Nhất thừa, nhất thừa tức Đại thừa".

Nghĩa này cũng không đúng, vì kinh, luận kia tự giải thích rằng: "một đạo, một duyên, v.v… bình đẳng trước bốn mươi năm. Thắng-man xếp vào sau bốn mươi năm, sao nay lại nói là đồng? Vì trước, sau trái nhau, thật ra là tự vụng về! Lại, có lỗi như dưới đây, văn phá hội Niết bàn giải thích: "Vì sao một kinh, hai văn giống nhau? Tự tình mình lấy bỏ, gắng gượng hội thích khác nhau, nên biết rằng: Duy Thức khéo thuận với các kinh, mọi luận tìm tòi rộng sâu, có thể tu tập nghi thức".

11-Sự sai lầm của giải thích chung về vấn nạn bên ngoài:

Nghĩa là:

1-Giải thích chung cho vấn nạn bên ngoài rằng: "Nếu chỉ Nhất thừa đều sẽ thành Phật là liễu nghĩa, thì vì sao kinh Niết-bàn quyển 34 chép: "Hoặc có thuyết nói: "Tu-đà-hoàn cho đến A-lahán đều được đạo Phật". Hoặc nói: "Không được, Hoặc có thuyết nói: "Phạm bốn trọng cấm, tạo năm tội nghịch; Nhất-xiển-đề v.v..., đều có Phật tánh", có người nói là không có, cho đến nói "Không hiểu ý ta" là Ca-diếp hỏi, Phật vì đáp rằng: "Ta đối với người trí chẳng tạo ra hai thuyết, v.v… như nói Xiển-đề vì chướng vị lai, gọi là không có tánh, tất nhiên là sẽ được, nên gọi là có tánh". Kinh Lănggià chép: "Vì độ phần đoạn, nên gọi là diệt; chưa độ biến dịch, gọi là không diệt. Do đây, người trí biết Phật nói không hai".

Nói tất nhiên sẽ được, chẳng phải hoàn toàn không có. Lại, chẳng phải tánh nhất định có thể độ biến dịch.

Lăng-già, Thâm Mật, luận Du-già, v.v... nói Nhị thừa có tánh quyết định không được thành Phật, không nhất định được thành Phật. Đối với Đại Tuệ, v.v… Phật không có hai thuyết, đối với nhị thừa có tánh quyết định; hoặc tướng chung nói không được thành Phật. Đối với Nhị thừa bất định; hoặc tưởng chung nói đều được thành Phật.

Nhiếp luận dịch vào đời Lương chép: "Vì bài tụng trước liễu nghĩa, bài tụng sau không liễu nghĩa", nên Nhị thừa nghe thế, cho rằng Phật nói hai thuyết". Luận Pháp Hoa Kinh chép: "Đây là do Như Lai trước nói khác với hiện nay nói, vì sao Như Lai không thành nói vọng?".

Vì dứt trừ sự nghi ngờ này, như kinh nói: "Xálợi-phất! Các thầy phải nhất tâm tin hiểu, v.v…".

Y cứ vào hội Niết bàn này, kinh Pháp Hoa cho rằng, Phật nói hai thuyết. Lăng-già, Thâm Mật vì không có nỗi nghi ngờ này, nên kinh kia đối với người trí, Phật đã nói rõ ràng, rằng không tạo ra hai thuyết. Nếu không như thế; hoặc nói thành Phật; hoặc nói không thành, sao không là hai? Lại Lănggià nói: "Nhị thừa của tánh quyết định, còn không thể nhập Sơ địa, huống chi có thể đến Bát địa, như trước đã dẫn, vì cứ như thế, nên biết Nhị thừa có tánh quyết định, không chịu biến dịch, vì họ không thể biết, nên giải thích bừa câu hỏi".

2-Chu cho vấn nạn bên ngoài, kinh Niết-bàn chép: "Trong kinh, ta bảo các Tỳ-kheo! Nhất thừa, nhất đạo, nhất hạnh, nhất duyên, cho đến nói: "Các đệ tử ta không hiểu ý ta, tuyên bố rằng: "Như Lai nói Tu-đà-hoàn, cho đến hàng A-la-hán đều được đạo Phật, v.v...".

Đây là giải thích trước bốn mươi năm đã tồn tại ba thuyết: 1-Thuyết một không phải ba.

Sau bốn mươi năm, không có hai, không có ba, đả phá hai quy về một nghĩa đã khác nhau, do đâu làm câu hỏi? Vì sao biết được? Nhất thừa, nhất đạo, chẳng phải nhất thừa quyết định?

Đáp: Vì nghĩa văn và con người đều khác nhau, vì Pháp Hoa, Thắng-man, không có văn này, nên nghĩa khác nhau: Pháp Hoa chỉ một Phật thừa; Thắng-man nói: "Nhị thừa nhập Đại thừa. Tất cả chúng sinh đều quy một đạo, một đạo nghĩa là Đại thừa. Niết-bàn đã lập: "Nhất thừa khác thời, đồng một đạo, như một đạo của Thâm Mật, đồng với hạnh không có khác nhau của Hiển Dương, cho đến nhất hữu, đồng với giải thoát, không có khác nhau của kinh Hoa Nghiêm, cũng như xuất sinh tâm kinh Bồ-đề, đồng đến một thành, nghĩa là đồng với người giải thoát khác: Văn này bảo các Tỳ-kheo, Pháp Hoa là Bồ-tát, Thanh văn Niết-bàn là Bồ-tát Ca-diếp. Phu nhân Thắng-man tự nói: "Cách giải thích này không đúng, vì không có văn nói rõ nhất thừa, nhất đạo, v.v... là thuyết giảng trước bốn mươi năm. Lại, Pháp Cổ, Thắng-man cũng nói trước bốn mươi năm, như trước đã nói Niết-bàn tự nói rằng, đều quy nhất đạo, nhất đạo nghĩa là Đại thừa".

Thắng-man nói rằng: "Vì nhân lớn của sáu xứ là Đại thừa, nên nói nhân này đồng một hạnh. Pháp Hoa lại nói rằng: "Như đây đều vì được Nhất Phật thừa, vì trí nhất thiết chủng". Lại nói rằng: "Chỉ vì một đại sự nhân duyên, nên há chẳng phải một duyên. Phẩm Phương Tiện của kinh Pháp Hoa bảo Xá-lợi-phất, cho đến phẩm Hóa Thành, bảo các Tỳ-kheo, cho đến chánh thuyết phá hai về một rằng: "Lại, các Tỳ-kheo, nếu Như Lai tự biết khi Niết-bàn đến", cho đến nói rộng: "Chỉ một Phật thừa được diệt độ như thế, đây tức nghĩa văn và con người, tất cả đều đồng, làm sao giải thích luống dối? Lại, nếu nói rằng: "Kinh Thắng-man, phu nhân nói rằng: "Pháp Hoa chép: Phật bảo Xá-lợiphất! Vì Niết-bàn không có, nên không hội thích về Niết-bàn kia". Thâm Mật bảo Thắng Nghĩa sinh, không bảo các Tỳ-kheo, kinh Niết-bàn không hội thích về Niết-bàn kia, trong Pháp Hoa lại nói về bốn nghĩa, nhằm giải thích trong nhất thừa rằng: "Hai nghĩa đồng, do pháp thân của Thanh văn, Bích-chi-phật, pháp thân Phật bình đẳng. Phật tánh, pháp thân lại không có khác nhau. Lại, trong giải thích ba bình đẳng chép: "Như Lai y cứ vào ba bình đẳng, vì nói pháp Nhất thừa, do pháp thân Như Lai, không khác với pháp thân của Thanh văn, nên thọ ký cho". Lại nói rằng: "Lại y theo nghĩa nào, mà Như Lai nói ba thừa, gọi là Nhất thừa, vì y cứ vào nghĩa đồng, nên thọ ký cho các Thanh văn. Nghĩa đồng: Do pháp thân của Như Lai, với pháp thân Thanh văn, vì bình đẳng không có khác nhau. Do Thanh văn kia chẳng phải Đại thừa, nên y cứ như đây, y cứ như nói thừa là một, y cứ ở quả trí, v.v... thì Thừa có riêng. Lại, Nhiếp luận dịch vào đời Lương chép: "Sau, gọi là đối với pháp, như ý bình đẳng, các hàng Thanh văn, v.v... trong kinh Pháp Hoa Như Lai, thọ ký cho Thanh văn kia. Đã được ý Phật, chỉ được pháp như ý bình đẳng, chưa được pháp thân Phật. Y cứ vào pháp thân này, chính là giải thích Nhất thừa Pháp Hoa. Người của nghĩa văn đồng, không xem kinh, luận, vọng động tính toán, so lường. Lại, chung cho ba mươi lăm tránh luận rằng: "Giáo có ba":

1- Giáo thỉ chung không hai.

2- Giáo thuận theo căn cơ không nhất định.

3- Giáo sau nói quyết định.

Ở đây pháp quyết là ba:

Về lý, tất nhiên là không đúng. Vì sao? Vì thỉ chung không hai, với hai giáo quyết định sau đâu có khác nhau. Hơn nữa ba giáo không có Phật giáo, văn sẽ nhờ vào đâu mà giải quyết cho giáo pháp? Lại thuận theo căn cơ không nhất định người kia không có trí ư? Nghĩa là Phật, Thế Tôn vì nói không nhất định. Kinh Niết-bàn chép: "Nếu người có trí, thì ta đối với người này, sau cũng không tạo ra hai thuyết. Người này cũng cho là ta không tạo ra hai thuyết. Cứ như thế, đối với người trí thì thỉ, chung không hai; đối với người không có trí, thì tạo ra thuyết không nhất định". Lại, kinh Niết-bàn vì Thanh văn nói bán tự, vì Bồ-tát nói mãn tự. Cứ như thế, cũng tức là vì người không có trí, có trí, nên chia làm hai, chia làm ba giáo, nghĩa là kinh Niết-bàn kia nói không phải Phật giáo; pháp quyết giáo đã luống dối, giải thích quyết định chẳng phải chân, vì e rườm rà nên không nói đủ. Lại, thông suốt luận Du-già, và luận Phật Tánh, nhằm phá chấp có, chấp không và đả phá Tiểu thừa, phá Bộ phân biệt trong luận Du-già, phá Tát-bà-đa trong luận Phật Tánh. Không song phá: vì đối tượng mở rộng giáo pháp khác nhau. Du-già giải thích trước bốn mươi năm; đối với Thanh Văn địa mở đầu nghĩa vô tánh của Hữu bộ, v.v… nhằm đả phá bộ phân biệt, vì tông Tiểu thừa chưa hợp lập Phật tánh".

Luận Phật Tánh phát huy rộng về giáo của luận Phật Tánh, y cứ ý nghĩa tất cả thành Phật của thời giáo thứ năm, nhằm đả phá Hữu bộ, v.v... nói về Phật tánh trong Đại thừa; căn cư vào nghĩa đều khác nhau, chẳng phải phá lẫn nhau.

Làm sao biết được?

Đáp: Vì có sáu nghĩa:

1- Tánh có mà Du-già phá, chẳng phải nghĩa của Đại thừa mà là Bộ Phân biệt.

2- Văn dẫn mà Du-già hay đả phá, chẳng phải văn kinh Đại thừa.

3- Du-già hay đả phá chẳng phải nghĩa Đại thừa.

4- Luận Phật Tánh đả phá không có tánh mà Du-già lập gọi là phá chấp của Tiểu thừa.

5- Luận Phật Tánh đả phá tánh không mà Dugià đã lập, rằng đồng với ngoại đạo.

6- So sánh kinh Thiện Giới, kinh Niết-bàn, sở lập của Du-già chẳng phải nghĩa Đại thừa.

-Du-già chẳng phải nghĩa Đại thừa.

Cách giải thích này không đúng, vì sao? Vì nếu nói rằng trong luận Phật Tánh phá văn luận của Hữu bộ, thì biết rõ rằng, giáo Du-già phá bộ Phân Biệt. Y cứ vào đâu mà được hiểu rõ? Lại quyết định nghĩa trước, sau, đã minh chứng là chẳng phải. Lại, vì Du-già mở rộng giáo về trước; Tiểu thừa chưa hợp lập Phật tánh. Giáo Du-già: Cả hai luận đều mở rộng, vì khi Phật ở đời chưa có bộ Phân Biệt, nên đâu cần đả phá giáo khác nhau, há Tát-bà-đa mở rộng giáo trước? Du-già thuận theo họ. Sư bộ Phân Biệt mở rộng giáo sau, luận Phật Tánh thừa nhận bộ Phân Biệt kia đều có Tiểu thừa, vì gọi chấp nghiêng lệch, vì đều bị chê bai. Đối tượng nói của Du-già là:

1- Không đồng với tất cả không của phái Tát-bà-Đa.

2- Không đồng với tất cả hữu của bộ Phân Biệt. Vì sao biết được?

Vì y cứ vào Thanh văn địa, sáu tướng nói không có tướng và có tướng, v.v... "có" là có trước, chẳng phải đến vị Nhẫn mới có, vì không tức cuối cùng, "không", nên khác với Hữu bộ. Có tức là có, thừa nhận có chuyển biến, vì chẳng phải tất cả thời gian, quyết định thường có, khác với bộ Phân Biệt. Bộ Phân Biệt nói tất cả tánh là có, hai tánh Phàm, Thánh đều đồng với Đệ nhất nghĩa không. Du-già nói về tánh có, vặn hỏi chẳng phải có tất cả thời gian.

Vì sao biết được?

Vì Du-già kia vặn hỏi rằng: "Không có pháp Bát Niết-bàn? Lại vặn hỏi: "Không có pháp Niết bàn như thế, vì sao không có pháp giới của Bát Niết-bàn ư?" Lại, vặn hỏi rằng: "Như hiện có một địa phương ở vào một lúc nọ không có tánh chất vàng, v.v... hoặc ở vào một lúc có tánh chất vàng, v.v… cho đến lại trình câu hỏi rằng: "Ông muốn gì? Như ở địa phương kia, trước đây không có chủng tanh này, về sau, lại không có chủng tánh này. Như thế, trước có chủng tánh quyết định của Thanh văn, về sau, không có chủng tánh quyết định v.v... này".

Theo sự lập ra câu hỏi này, há đồng với bộ Phân Biệt chấp tất cả Hữu, không làm tánh để vặn hỏi? đã chấp không làm chủng tánh, thì phải có trong bất cứ lúc nào, không nên hoặc có, hoặc không.

Trong luận Phật Tánh, tạo ra câu hỏi này, tự trái với tông chỉ đâu trở thành phá?. Lập Du-già đả phá tất cả cái có; luận Phật Tánh đả phá tất cả cái không, trái với câu hỏi này, há không thành lỗi? Vì sao? Vì Du-già không chủ trương đả phá. Đã là đối tượng phá của Du-già, thì trong luận Phật Tánh lẽ ra không thành lập, vì nếu dùng đối tượng đả phá của Du-già để làm chánh nghĩa, chủ thể phá của luận Phật Tánh, thì tức chủ thể phá của Du-già, sẽ được gọi là tương tự, chẳng phải chân, vì nhận lấy đối tượng phá của Du-già mà làm chủ thể lập, thì cũng tức là đối tượng lập (tợ lập).

Trái với hợp hai luận, đều có môn rơi vào lỗi, hãy khéo suy nghĩ.

- Rằng: Văn dẫn chủ thể phá của Du-già, chẳng phải kinh Đại thưa. Luận Phật Tánh chép: "Phật vì hàng Tiểu thừa nói có chúng sinh không trụ trong tánh mãi mãi không Bát Niết-bàn. Lại nói rằng: "A-hàm nói: "Sở tri của sức tánh trong mười lực của Phật".

Cách giải thích này cũng không đúng, vì Kinh Vô Thượng Y cũng nói: "Có, không có tánh của Bát Niết-bàn".

Phẩm Tánh Hạnh của kinh Thiện Giới cũng nói: "Có, không có tánh" há là kinh Tiểu thừa ư? Danh từ A-hàm là gọi chung Đại, Tiểu, làm sao nói nhất định tức là Đại thừa v.v… thuộc về kinh Tiểu thừa? Đều nói rằng A-cấp-ma Đại thừa, A-cấp-ma, tức A-hàm"? Luận Pháp Hoa kinh cũng nói rằng: "A-hàm rất sâu xa, há nói là Tiểu giáo?".

- Rằng: Du-già, là chủ thể phá, chẳng phải nghĩa Đại thừa, chỉ có luận Phật Tánh, Du-già, Hiển Dương, là chứng Vô tánh, là nghĩa Hữu bộ. Luận Phật Tánh chép: "Thuyết Tát-Bà-Đa, v.v... nói: "Tất cả chúng sinh không có tánh được Phật tánh, chỉ có tu được Phật tánh".

Cách giải thích này cũng không đúng, vì sao? Vì trong Thanh văn địa, nói về chủng tánh của họ, là nói lại chánh nghĩa của mình, chẳng thuận với tông "Hữu", tông "Hữu" không có tánh đắc, vì lập tánh đắc trong chủng tánh Thanh văn kia, nên cũng lập không, tức rốt ráo không. "Có" tức có vô thỉ, không đồng với luận Phật Tánh thuật ra tông của Hữu bộ, xưa nay là không, về sau mới có. Lại, luận Phật Tánh bày ra nghĩa của tông Hữu bộ, cũng mất một ít Hữu bộ, không thừa nhận nhập tâm kiến đạo; khổ nhẫn đã bỏ đi, đâu gọi Phật tánh? Lại được tánh Thánh, chẳng phải ở khổ nhẫn. Ba thừa đều cùng ở địa vị của pháp Thế đệ nhất, vì được Thánh tánh, cũng không thừa nhận vì có mười hồi hướng. Trong luận Câu-xá, thuật ra nhất thiết hữu, vì nói tánh tông, nên giả lập ra thuyết khác, vì tường bày không thích đáng. Lại, nếu Du-già trong địa Thanh văn, thuận với sáu tướng của tông Hữu bộ, nói về minh không, lại ở chỗ nào chứng Nhất thiết hữu, chẳng lẽ muốn tự nói về chủng tánh, không y cứ vào tông mình, chỉ thuận theo thuyết Tiểu. Lại, quyết trạch nói rõ lại năm câu hỏi, sáu giải đáp, cũng nói rằng không có thuyết khác; Hiển Dương cũng đồng, đâu đều đồng với Hữu bộ ư? Lại, tự lập tông rằng Du-già, v.v... giải thích giáo trước bốn mươi năm, nên nói một phần không, v.v... nay nói rằng một phần không, thì đâu trở thành thuận với Tiểu? Mà thường thường tự trái nghịch há không nhọc tâm hay sao?

- Theo kinh Bồ-tát Thiện Giới, kinh Niết bàn, Du-già có lập ra hữu tình vô tánh chẳng phải nghĩa Đại thừa. Vì sao? Vì sức tánh của kinh A-hàm biết các thứ, chứng một phần vô tánh, đây tức giới tánh không thể chuyển đổi. Kinh Thiện Giới quyển 5 chép: "Thọ học Bồ-tát giới, trước hết phải quán biết giới tánh chúng sinh, sau ở chung, là chuyển đổi tánh giới, như nên nói pháp". Niết-bàn quyển 31 chép: "Chuyển phẩm hạ làm trung, chuyển trung làm phẩm thượng, v.v... nói căn bất định, vì so sánh đây nên biết. Giới tánh quyết định, là nghĩa Tiểu thừa".

Cách giải thích này cũng không đúng, vì chẳng lẽ trong Đại thừa không có giới tánh quyết định, nhưng Lăng-già, Bát-nhã nói về tánh của thừa kia, có tánh định, bất định. Kinh Vô Lượng nghĩa chép: "Quán như thế xong, mà nhập dục tánh các căn của chúng sinh, vì dục tánh vô lượng nên nói pháp vô lượng".

Luận Nhập Đại Thừa cũng chép: "Như Phật đã nói: căn hạ, tánh hạ, phát hạ sở nguyện của ý đạo, cũng căn trung, tánh trung, phát nguyện của ý đạo, cũng căn cơ thượng trung, tánh thượng, phát thượng sở nguyện của ý đạo, cũng nói rằng thượng. Cho nên, chư Phật đối với căn cơ thuận theo căn tánh của chúng sinh kia liền dùng tâm từ bi phân biệt giáo thọ".

Luận Đại Trang Nghiêm quyển 1 cũng chép: "Nếu không có tánh khác nhau, thì sẽ không có tin sự khác nhau của quả thừa. Kinh luận Đại thừa, Tiểu thừa đều nói, v.v... tánh của hai mươi bảy bậc Hiền, Thánh khác nhau, có chuyển, không chuyển, đâu biết kinh Thiện Giới và kinh Niết bàn chuyển hạ thành trung, v.v… y cứ theo thuyết bất định, quyết định của giới tánh, nghĩa là y cứ vào tánh quyết định, mà nói. Lại, luận Du-già chép đủ văn kinh Thiện Giới, đâu thể chỉ dựa vào Tiểu thừa nói là không. Lại, kinh Bồ-tát Tạng nói về năng lực Phật tánh, cũng biết các thứ giới, và Thiện giới, Địa trì, đều giải thích mười nhân. Trong nhân khác với định, nói về về căn tánh quyết định khác, y cứ vào đâu để phán quyết nhất định là kinh Tiểu thừa? Nên biết rằng, nghĩa của Du-già, Thiện Giới, Niết bàn đồng như nước với sữa, mà Tiểu thừa kia không biết, tự phân biệt luống dối nói rằng: "Người học Duy Thức không hội thích thời giáo, đối với nghĩa này thành thực có thể xem xét lại. Dưới đây, sẽ giải thích về các câu hỏi, phần nhiều theo ý mình, giải thích văn điên đảo, đã không dựa vào tiêu chuẩn, rất phiền phức không nêu đủ".

QUYỂN 4

-CĂN CỨ VĂN, HIỂN BÀY RÕ CHÁNH

1-Nói về Phật tánh khác nhau.

2-Sự khác nhau giữa có, và không.

3- Nói các loại Xiển-đề khác nhau.

4- Thanh văn có khác.

5- Hai thứ chết không bình đẳng.

6- Nói về ba thân Phật thường, Vô thường khác nhau.

7- Quyết trạch nhiều thứ.

1-Nói về Phật tánh khác nhau:

Y cứ các kinh, luận nói về Phật tánh không hơn ba thứ:

(1)-Tánh lý.

(2)-Tánh hạnh.

(3)-Tánh ẩn mật.

Nói về tánh lý, luận Phật Tánh chép: "Vì dứt trừ lối chấp này, nên Phật nói Phật tánh: Tức là chân như, làm sáng tỏ hai không nhân, và pháp. Vì chân như, nên không có chủ thể mắng, đối tượng mắng; thông đạt lý này, lìa chấp luống dối". Kinh Niết-bàn quyển 25 chép: "Này, thiện nam! Phật tánh nghĩa là chẳng phải ấm, giới, nhập, chẳng phải vốn không, nay có; chẳng phải có rồi lại không có". Niết bàn quyển 8 chép: "Khai thị tạng bí mật của Như Lai, Phật tánh thanh tịnh thường trú không biến đổi". Quyển 33 chép: "Như Phật đã nói: "Phật tánh của chúng sinh cũng như hư không, nói rộng là chẳng phải ba đời, vì như hư không "không có" nên chẳng thuộc ba đời, vì Phật tánh thường, nên chẳng thuộc ba đời."

Tánh hạnh, nghĩa là nói chung cho tất cả muôn hạnh hữu lậu, vô lậu. Nếu đối với ba thân thì vô lậu là chánh sinh liễu, hữu lậu làm duyên, xa gọi là sinh liễu, chánh vô lậu gọi là Phật tánh, giả gọi hữu lậu, chẳng phải chánh Phật tánh.

Kinh Thiện Giới đã nói tánh chủng tánh và Tập chủng tánh. Kinh Lăng-già chép: "thức A-lê-da, gọi là không Như Lai tạng, vì huân tập đầy đủ pháp vô lậu, nên gọi là Bất không Như Lai tạng". Niết Bàn, quyển 33 chép: "Nếu có thuyết nói: "Phật tánh của chúng sinh chẳng phải có như hư không; chẳng phải không có như sừng thỏ. Vì sao? Vì hư không là thường, vì sừng thỏ thì không có". Cho nên được nói: "Vừa có, vừa không có; vì có nên đả phá sừng thỏ; vì không có nên phá hư không".

Kinh Lăng-già quyển 26 chép: "Lại, có Sinh nhân, gọi là A-Nậu Bồ-đề sáu Ba-la-mật. Lại, có liễu nhân, gọi là Phật tánh sáu Ba-la-mật".

Quyển 12 chép: "Phật tánh như thế, từ năm ấm thiện, cho đến được A-Nậu-Bồ-đề".

Luận Bảo Tánh, v.v... nói tin Bát-nhã, Tammuội, Đại bi làm nhân của ba thân.

Kinh Bồ-tát Tịnh Hạnh và Du-già, Bồ-tát địa đều nói về bốn hạnh Bồ-tát.

Kinh Già-Da Sơn Đảnh, ở các chỗ đều nói Tánh ẩn mật, như kinh Duy-ma nói: "Bọn trần lao là hạt giống Như Lai, v.v…".

Kinh Niết-bàn quyển 33 chép: "Tất cả Kiết Vô minh phiền não, v.v… đều là Phật tánh. vì sao? Vì nhân của Phật tánh, nên từ vô minh, hành, và phiền não được năm ấm thiện". Lại, Lăng-già, Tư ích chép: "Hành động năm nghịch mà được Bồ-đề".

Nhập Đại thừa luận quyển 2 chép: "Ta không muốn cho có hạt giống phiền não nẩy mầm trong pháp Phật. Ông ngu si không có trí vì nhận hiểu điên đảo, cho rằng phiền não là hạt giống pháp Phật. Do đây nên biết rằng, các kiết phiền não bất thiện, vô ký chẳng phải là hạt giống Phật".

Nếu như vậy, thì vì sao nói là hạt giống Phật?

Đáp: Y cứ vào vị trên Kim Cương, kinh Đà-lani chép: "Văn-thù-sư-lợi nói: "Sao Thế Tôn nói: "Vô minh là Bồ-đề?".

Phật nói: "Văn-thù-sư-lợi vì không có vô minh, nên nói không có vô minh. Nếu không có vô minh, thì cũng không có sinh; nếu không có sinh, thì người ngu kia sẽ không có nhiễm. Bồ-đề của Vănthù-sư-lợi không có nhiễm, vì thể tánh thanh tịnh tươi sạch, nên Văn-thù-sư-lợi nói: "Vì ta thấy việc này, nên nói: "Không có vô minh". Là do thuyết không hai. Theo đây, tức là do dứt trừ vô minh, nên được lý thanh tịnh. Vì thanh tịnh không hai, nên gọi vô minh là Bồ-đề". Luận Đại Trang nghiêm có hai tạng nói rõ:

1-"Do lìa pháp tánh, không có các pháp riêng, cho nên nói rằng: "Phiền não tức Bồ-đề".

Giải thích: "Như trong kinh nói: "Vô minh, Bồđề đồng là một".

Đây là gọi Vô minh, pháp tánh lập danh từ Bồđề, nghĩa này là chỉ thú của kinh. Lại tụng rằng:

Đối với tham, khởi chánh suy nghĩ.
Vì đối với tham được giải thoát.
Nên nói là tham lìa khỏi tham
Ra khỏi giận, si cũng như vậy.

Giải thích rằng: "Nếu người nào đối với tham, khởi chánh suy nghĩ quán sát, biết như thế rồi, vì giải thoát về tham, nên nói: Do tham ra khỏi tham; ra khỏi giận, si cũng như thế".

Nói là Phật tánh, y cứ theo đây có thể hiểu.

Với ba loại trên đây, trong các kinh, luận, hoặc nói nghiêng lệch một; hoặc nói song song lý, sự; hoặc lại nói chung, như nói chân như, nói nghiêng một bên lý tánh, như hạnh của Bồ-tát v.v…, nói nghiêng lệch về tánh hạnh, hoặc thuận theo sự việc vượt hơn đầu tiên, như kinh Niết-bàn quyển 22 chép: "Hoặc nói Bồ-đề, dùng lòng tin làm nhân tố. Nhân Bồ-đề này dù là Vô lượng, nhưng nếu nói về lòng tin, thì sẽ gồm thâu hết. Hoặc y cứ vào phần vị quả, bày tỏ nghiêng lệch về nhân vượt hơn, như nói: "Tín, Trí, Định, tuệ là nhân, v.v... của ba thân, bốn đức của Phật; hoặc bày tỏ cả hai sự, lý, như kinh Lăng-già quyển 7 chép: "Phật bảo Đại Tuệ! Vì nhân thiện, bất thiện của tạng Như Lai, nên cũng làm nhân duyên sinh tử cho sáu đường, cho đến vì y chỉ tạng Như Lai nên sinh tử năm đường". Lại nói: "Đại Tuệ! Thức A-lê-da được gọi là Như Lai tạng, đều có chung với bảy thức, như sóng biển cả thường xuyên vỗ chập chùng nối nhau không dứt, là thân câu sinh".

Đây là nói về thể của thức hữu lậu có công năng che giấu, chứa đựng, gọi là Như Lai tạng.

Lại nói: "Đại Tuệ! Thức của Như Lai tạng không ở trong A-lê-da, thế nên, bảy chủng thức có sinh, có diệt; thức của Như Lai tạng bất sinh, bất diệt, đây là nói về lý".

Kinh Lăng-già quyển 8 lại chép: "thức A-lê-da còn gọi là không Như Lai tạng. Không có ý chung, vì sự huân tập của chuyển thức, nên gọi là không; pháp huân tập vô lậu đầy đủ, gọi là bất không, đây là tánh của chánh hạnh".

Kinh Thắng-man chép: "Có hai thứ Như Lai tạng: Trí không, không Như Lai tạng, hoặc lìa, hoặc thoát, hoặc khác nhau, tất cả tạng phiền não, đồng với không Như Lai tạng". Bất không Như Lai tạng của Thế Tôn, vượt hơn số cát sông Hằng, không lìa, không thoát, không khác, pháp Phật không thể suy nghĩ, bàn luận". Tức kinh Lăng-già chép: "Thức Như Lai tạng (bất sinh, bất diệt, và vì huân tập đầy đủ pháp vô lậu, nên gọi là Bất không Như Lai tạng", cho đến nói: "Vốn đã không được tất cả khổ diệt, chỉ Phật được chứng, phá hoại tất cả tạng phiền não, tu tất cả đạo diệt khổ, đây là lý tất cả khổ diệt, tu hành đạo diệt khổ". Như quyển tư chép: "Phật tánh có hai thứ":

1-Như kho đất. 2-Như trái cây.

Từ thế giới vô thỉ đến nay, tự tánh thanh tịnh tâm, tu hành đạo Vô thượng, y chỉ hai thứ Phật tánh, được ra khỏi ba thứ nhân, cho đến lại dẫn tụng rằng:

Tánh đời vô thỉ đến nay
Tạo ra các pháp y chỉ
Dựa vào tánh có các đường
Và chứng quả Niết bàn.
Dưới đây sẽ giải thích.

Cái gọi là Tánh, nghĩa là như bậc Thánh giả. Kinh Thắng-man chép: "Thế Tôn Như Lai nói Như Lai tạng: là tạng pháp giới, cho đến tự tánh thanh tịnh. Vì Như Lai tạng, nên tạo ra các pháp y chỉ. Cho nên, Như Lai tạng là y, là trì, v.v… phần nhiều đều y cứ vào sự để giải thích".

Rằng như thế, do các phiền não nào? Do những chỗ nào? Như thế, biết như thật, gọi là trí không. Lại pháp của chư Phật nào? Chỗ nào có đầy đủ? Thấy biết thật như thế, gọi là trí bất không, tức giải thích hai thứ Như Lai tạng: Trước, y cứ vào gồm thâu tướng quy tánh và y chỉ của mê, ngộ để giải thích; sau, y cứ vào tánh, tướng để nói riêng".

Luận Nhiếp Đại thừa, v.v... giải thích bài tụng của kinh trước kia. Y cứ vào tánh, tướng khác nhau và lưu chuyển, hoàn diệt, y chỉ thuyết nghĩa đều không trái. Lại, luận Phật Tánh làm sáng tỏ phần thể phẩm Như Lai tạng, phẩm Như Lai tạng nói về ba Như Lai tạng.

1- Đối tượng Nhiếp tàng. Dưới đây sẽ nói rằng: "Tất cả chúng sinh quyết định không có phát ra cảnh như như và vì gìn giữ thuộc về Như Lai, nên gọi chúng sinh là đối tượng chứa giữ, gọi là Như Lai tạng. Y cứ theo đây, tức Lăng-già này là thức hữu lậu, nhân sinh tử".

2- Đối tượng che lấp. Dưới đây, nói rằng: "Khi tánh Như Lai trụ ở trước đạo, bị che lấp bởi phiền não, vì chúng sinh không thấy, nên gọi là Tàng.

Tàng này vượt hơn Mạn không Như Lai tạng".

3- Chủ thể gồm thâu là Tạng: Nghĩa là quả địa tất cả công đức vượt hơn, nhiều như số cát sông Hằng, nên khi được tánh là đã gồm thâu hết, tức tạng Bất không.

Lại, phẩm Tam nhân cũng chung cho sự lý, phẩm ấy nói: "Thể của Phật tánh có ba chủng thuộc về ba tánh; về nghĩa nên biết. Ba chủng là ba nhân, ba thứ Phật tánh.

Ba nhân là: 1-Nhân nên được 2-Nhân gia hạnh.

3-Nhân viên mãn.

Chân như là nhân nên được, tâm Bồ-đề là nhân gia hạnh. Tâm Bồ-đề và hạnh đã khởi là nhân viên mãn. Nhân viên mãn, nghĩa là quả hạnh phước, tuệ viên mãn, gọi là ơn đức của trí đoạn. Lại làm sáng tỏ phần thể. Phẩm Tam tánh chép: "

Ba tánh và ba vô tánh, gồm thâu hết tánh Như Lai, đây là chung cho rất rộng". Nếu kinh Niết-bàn quyển 36 chép: "Nhân quả nhiễm, tịnh, gọi chung là Phật tánh, nên kinh nói: "chúng sinh này, hoặc pháp thiện, hoặc pháp bất thiện; hoặc đạo phương tiện; hoặc đạo giải thoát; hoặc đạo thứ lớp; hoặc nhân, hoặc quả, đều là Phật tánh. Dưới đây gọi là Như Lai thuận theo ngữ, ý mình, thuận theo nghĩa trước để giải thích. Nhưng nhân nên được, đối với thân ứng, hóa, có thể chung cho sinh, liễu, vì dựa vào nhân, quả kia khởi, xa gọi là Sinh nhân, nếu y theo kinh Niết-bàn, thì chỉ gọi là liễu; như đất đối với mầm là liễu nhân; vì có như, nên được có ứng, hóa, có thể làm liễu nhân. Nếu đối với pháp thân, thì chẳng phải thuộc về Sinh, Liễu. Luận Du-già rằng: "Tánh người khác làm nhân, vì chẳng phải tự tánh, vì thể của nhân quả chân như không khác nhau, nên tự mình không có khả năng làm sáng tỏ chính mình. Nếu có khả năng tự sáng tỏ, thì đã chẳng bị phiền não che lấp. Lại, vì thể thường, vì chẳng có sự sinh sau, nên chẳng phải hai nhân. Nhưng gọi nhân nên được, nghĩa là vì có như, nên về sau, tất nhiên sẽ được pháp thân của vị tịnh, nên gọi là nhân nên được". Luận Phật Tánh chép: "Dù chưa làm sáng tỏ ngay, nhưng sẽ có thể hiện, nên gọi là chánh nhân nên được".

Kinh Thắng-man chép: "Tại triền gọi là Như Lai tạng, xuất triền gọi là Pháp thân. Y cứ vào có tánh để nói, chẳng phải người không có tánh, vì sẽ có thể làm sáng tỏ, nên khi chưa làm sáng tỏ, gọi là Nhân, vì làm sáng tỏ gọi là pháp thân".

Trong hai luận nói rằng làm nhân, nghĩa là do ở phần vị nhân, thì gọi là nhân; nếu ở phần vị quả, thì gọi là quả; tức vị nhân, pháp thân của quả như thế, gọi là chánh nhân, chẳng phải pháp chánh Sinh, liễu".

Vì sao biết được? Vì luận Phật Tánh chép:

"Nhân có hai":

1- Phật tánh.

2- Tin ưa.

Phật tánh của hai pháp này là tin ưa vô vi, là tin, ưa hữu vi, y cứ vào tánh, được Phật tánh là liễu nhân, vì hiểu rõ được chánh nhân, chánh tánh. tin ưa y cứ gia hạnh làm Sinh nhân, vì công năng sinh khởi mọi công hạnh. Đây là đối với bốn đức của pháp thân mà nói tin ưa, y cứ vào gia hạnh làm Sinh nhân, vì năng khởi mọi hạnh, đây là đối với báo thân, không nói chân như là Sinh liễu, nên kinh Niết-bàn quyển 26 chép: "Phật tánh của chúng sinh cũng có hai thứ nhân. Chánh nhân, nghĩa là các chúng sinh, ở đây nói chúng sinh, vì tánh chúng sinh, nên gọi là chúng sinh. Không phải nói năm ấm, gọi là chúng sinh. Duyên nhân, nghĩa là về nghĩa của sáu Ba-la-mật cũng đồng với duyên nhân này, cho đến tâm chẳng phải Phật tánh, tâm là Vô thường". Lại nữa, nghĩa gồm thâu chung, nên biết sự gồm thâu có hai thứ:

1- Do nhân.

2- Do quả.

Do gồm thâu nhân: Là tánh thanh tịnh của Như Lai có bốn thứ nhân, cho đến nói là nhân thanh tịnh của pháp thân, tu tập, tin ưa Đại thừa, nên biết. Hoặc có thể đây là nói báo thân Như Lai, vì được hình thành bởi pháp công đức. Không như vậy thì báo thân há không có tịnh đức, trí đức của Phật ư?

Sinh nhân: Tu tập Bát-nhã và Thiền định, nên biết. Nhân của ơn đức nghĩa là tu tập Đại bi của Bồ-tát, nên biết. Cũng không nói Chân như là nhân của pháp thân.

Lại, kinh Niết-bàn quyển 27 chép: "Này người thiện nam! Ta đã giảng nói nhân Niết-bàn, cái gọi là tánh của Phật tánh chẳng sinh Niết-bàn, cho nên ta nói Niết-bàn vô nhân".

Lại, Niết-bàn quyển 19 chép: "Thể của Niếtbàn chẳng phải do năm nhân, không có Sinh nhân. Pháp thân với Niết-bàn vì nghĩa khác, thể đồng, nên biết được chân như đối với pháp thân, chẳng phải Sinh liễu nhân. Nếu gia hạnh viên mãn thì hai tức chánh nhân, đối với pháp thân là liễu nhân, đối với thân khác là Sinh nhân".

Trên đây là nói lược Phật tánh khác nhau.

2-Sự khác nhau giữa có, và không.

Nếu nói về lý tánh, thì không hai, bất sinh, như kinh Niết-bàn quyển 26 chép: "Xiển-đề dứt trừ gốc lành, vì cũng đều đủ, nên kinh ấy nói: "Nếu tâm Bồ-đề là Phật tánh, thì bọn Nhất-xiển-đề sẽ không được gọi Nhất-xiển-đề. Tâm Bồ-đề cũng không được gọi là Vô thường. Ý này vì tâm Bồ-đề chẳng phải là lý Phật tánh. Nếu lý tánh này Xiển-đề, không dứt, thì các chỗ đều nói thật, không nhọc công dẫn rộng. Nếu nói về tánh hạnh, thì sẽ có hai thứ, gọi là Hữu lậu, Vô lậu. Hai thứ tánh này có, "không" chẳng nhất định. Nếu là tánh hữu lậu, thì tất cả hạt giống hữu tình quyết định là có. Người hiện hành hoặc thành, không thành; nếu vô lậu thì sẽ nói theo hiện hành, phàm phu không thành. Nếu y cứ vào hạt giống, thì sẽ có thành, không thành, như luận Du-già quyển 57 chép: "Sinh Na-lạc-ca, hạt giống, hiện hành của tám căn, nhất định thành tựu, trừ ba căn khác, hạt giống quyết định thành ba căn; hiện hành nhất định không thành; hạt giống hoặc thành; hoặc không thành, nghĩa là pháp Bát Niết-bàn thành tựu, pháp không Bát Niết-bàn chẳng thành tựu, đây là y cứ vào hiện hữu. Nếu y cứ sẽ nói, thì sẽ cũng hiện hành, đâu nói là định, không định".

Kinh Vô Thượng Y, luận Phật Tánh và luận Bảo Tánh đều nói rằng: "Chúng sinh có ba":

1-Chấp có. Sự chấp mắc lại có hai: a-Trái với đạo Niết-bàn, không có tánh Niết-bàn, không cầu Niết-bàn, nguyện ưa sinh tử. Nhiếp Đại Thừa quyển 14 dịch vào đời Lương chép: "Nếu chúng sinh không có tánh Niết-bàn, thì gọi là nhân không đủ, chư Phật ở trong vị nây, không thể khiến Bát Niết-bàn; Tuệ thần thông cũng không tự tại. Không có tánh Niết-bàn, nghĩa là tham chấp sinh tử, không tin ưa Đại thừa, không đồng với tạo nghiệp, thọ quả quyết định, chẳng phải hai thời gian này, có thể hóa độ. Vô Niết-bàn tánh chép: "Đối với vị này, không được tự tại, tức không bao giờ có tánh Niết-bàn". Lại luận Phật Tánh chép: "Do phần tịnh làm duyên, tánh tịnh làm nhân, nên thành quán này, chẳng phải không có nhân duyên. Nếu không do đối với hai việc này, thành quán không có nhân duyên, như người Xiển-đề không có tánh Niết-bàn, nên được quán này, mà Nhấtxiển-đề dã không có quán này, nên biết quyết định phải quán nhân duyên mới biểu hiện được, đồng với luận Bảo Tánh".

Lại, luận Bảo Tánh quyển 3 chép: "Chánh nhân Phật tánh đối với chúng sinh cả nhóm bất định, tạo ra hai thứ nghiệp":

1- Vì thấy thế gian nhàm chán khổ.

2- Vì thấy Niết-bàn, mong cầu thú vui vắng lặng, không nói nhóm định tà có thể tạo ra hai nghiệp". Luận Phật Tánh cũng đồng với quan điểm này.

Kinh Niết-bàn cũng nói rằng: "Không thể lập tâm Bồ-đề của người Xiển-đề, dụ như Kim Cương không thể đập nát được sừng dê trắng, v.v… rộng như đã dẫn trước đây". Quyển 9 chép: "Lại Phật nói: "Người thiện nam! Trừ Nhất-xiển-đề, chúng sinh khác đã nghe kinh này rồi, đều có thể tạo ra nhân duyên gốc lành. Ánh sáng của tiếng nói pháp, nhập vào lỗ chân lông, tất nhiên chắc chắn sẽ được A-Nậu-Bồ-đề. Đã là người Xiển-đề, thì không nói là sẽ được Phật tánh, mà phải nói không có Phật tánh".

Lại, Niết-bàn quyển 33 nói trong sông sinh tử có bảy hạng người rằng: "Người thiện nam! Bảy hạng người này, hoặc có một người đủ bảy; hoặc có bảy người đều có một. Đã nói đều là một, kẻ thường chìm tức là không có tánh. Không như vậy, với một người đủ bảy đâu có khác nhau?"

Kinh Thiện Giới, luận Địa Trì, Du-già, Bồ-tát Địa đều nói rằng: "Người không có tánh vì không có chủng tánh v.v… Thanh văn Địa, quyết trạch phần, Hiển Dương, luận Phật Địa, v.v... đều có lập "vô tánh", rộng như các luận kia đã nói, vì sơ lược, nên không dẫn đủ".

Kinh Niết-bàn quyển 26 chép: "Người thiện nam! Ta dù nói rằng: "Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh", chúng sinh không hiểu Phật như thế, v.v… chỉ theo ngữ, ý của mình. Này người thiện nam! Nói như thế, Bồ-tát thân sau còn không thể hiểu, huống chi Bồ-tát khác kia đối với Nhị thừa". Lại nói rằng: "Nếu nói: "Chúng sinh đều có Phật tánh", thì đó gọi là Như Lai thuận theo ngữ ý của mình, Như Lai thuận theo ngữ, ý của mình như thế, chúng sinh làm sao hoàn toàn hiểu biết".

Kinh Niết-bàn quyển 32 chép: "Như trên Hương Sơn có cỏ nhẫn nhục, chẳng phải tất cả bò đều được ăn. Phật tánh cũng giống như thế, đây gọi là pháp phân biệt. Đã hỏi về Phật tánh, không đáp nhất định, mà đáp phân biệt, như cỏ nhẫn nhục có được, không được, nói biết tánh hạnh có, không khác nhau, lý tánh như thế nào? Chúng sinh đều nhập. Do lý này, các Bồ-tát Di-lặc, Vô Trước, v.v... đều dẫn kinh làm chứng, nói các chúng sinh, có người "có tánh", có người không có tánh".

Luận Phật Tánh và luận Bảo Tánh đều nói rằng: "Xiển-đề không có tánh Niết-bàn; không có tánh hạnh này, chẳng phải không có lý tánh".

Giải thích trong vặn hỏi rằng: "Có tánh thanh tịnh, tức là lý tánh.

Nếu không như vậy, thì văn luận trước, sau trái nhau, cũng trái với nhiều giáo".

3-Nói về loại Xiển-đề:

Y cứ kinh Lăng-già và Du-già, v.v... nói về tánh của năm thừa. Xiển-đề thứ năm cũng gọi là không có tánh. Tuy nhiên, Xiển-đề này gồm có ba thứ:

1- Gọi là Nhất-xiển-đề-để-ca, nghĩa là ưa thích là ưa ưa thích sinh tử.

2- Tên A-Xiển-đề-ca, nghĩa là không ưa thích, vì không ưa thích Niết-bàn.

Hai thứ này chung cho người không dứt mất gốc lành, vì không tin nên bị ngu si che lấp, cũng chung cho Bồ-tát Đại bi, vì được đại trí, đại bi huân tập.

3- Gọi A-Điên-Để ca, gọi là rốt ráo, vì rốt ráo không có tánh Niết-bàn. Người không có tánh này cũng được hai tên gọi trước. Hai thứ trước, lâu ngày sẽ thành Phật, sau sẽ không thành, nhưng thuyết mà các kinh luận đã nói khác nhau; hoặc thuận theo nói một; hoặc nói chung có ba, như kinh Lăng già đều nói hai thứ trước là thừa vô tánh".

Kinh nói rằng: "Xiển đề có hai":

1- Đốt tất cả gốc lành.

2- Phát nguyện cùng tận cõi chúng sinh. Đại tuệ hỏi Phật:

Thành Phật là sao? Phật đáp: Đại Tuệ nói:

Đốt gốc lành, chẳng phải tạo ra nguyện cùng tận cõi, vì gốc lành có thể dứt, chúng sinh vô tận, nói chung là có tánh dứt bỏ điều thiện, không có nhân hiện tại, Đại bi không có quả đương lai, gọi là vô tánh, chẳng phải không có hạt giống.

Trong luận Du-già chỉ nói thứ ba, rốt ráo không có tánh. Kinh Vô Thượng Y, luận Phật Tánh, luận Bảo tánh, Niết-bàn, đều nói có ba thứ.

Kinh Vô Thượng Y chép: "Phật bảo A Nan!

Trong thế gian có ba phẩm chúng sinh".

-Chấp có, chấp "có" lại có hai: a-Trái với đạo Niết-bàn, không có tánh Niết-bàn, không cầu Niết-bàn, ưa thích sinh tử. b-Đối với ngã, pháp không sinh khát ngưỡng, chê bai Đại thừa, cho đến rơi vào lưới Xiển-đề, không thể tự ra khỏi. Trước là không có tánh; sau là có tánh, nhưng đều gọi là hoá độ nhóm tà định, khiến thành Phật, sau này có tánh là không đúng, Hai người khác nhau ra sao?

Trong luận Bảo Tánh nói chấp mắc thứ hai, có nói rằng: "Đối với Phật pháp, nhân vị Xiển-đề, nói chẳng phải vô tánh".

Luận Phật Tánh chép: "Cả hai đều thuận theo vị định; vị định chẳng phải Thánh, chẳng phải phàm, tiến lùi không có chấp lấy, mà là người trong Phật pháp, trái với pháp Đại thừa. Vì người này, nên Phật nói lời này: "Ta chẳng phải sư kia, v.v... nên kinh Vô Thượng Y, v.v… chép: đầu tiên, người vô tánh. Người thứ hai có tánh mà không thể tự phát ra, trong vô lượng thời gian, Phật v.v… làm duyên trở lại, có thể được ra khỏi".

Kinh Niết-bàn quyển 9, rộng dùng dụ để nói, sau cùng không có khả năng làm nhân duyên cho Bồ-đề, cho đến nói rằng: "Nếu tất cả vô lượng chúng sinh; cùng lúc thành tựu A-Nậu-Bồ-đề, thì các Như Lai cũng không thấy Nhất-xiển-đề kia được thành Bồ-đề".

Kinh Niết-bàn quyển 30 chép: "Này người thiện nam! Biển sinh tử cũng giống như thế, có bảy thứ người, vì sợ phiền não nên phát tâm muốn vượt qua, cho đến nói rộng, người thứ nhất dứt bỏ điều lành, thường chìm trong ba đường ác, người thứ hai dù gần bạn lành, sẽ được tín tâm về sau, nhưng gặp bạn ác, dứt bỏ điều lành, nên chìm trở lại".

Người thứ ba, do gần gũi bạn lành, dù dứt mất gốc lành, nhưng được gọi là xuất; trụ vững chắc tín, tuệ, tâm không lui sụt, gọi là tụ.

Người thứ tư, vì dứt mất gốc lành, nên chìm đắm giữa chừng, vì gần bạn lành, cho đến quán khắp bốn phương. Bốn phương, nghĩa là bốn quả của Sa-môn.

Người thứ năm, dứt mất điều lành, chìm đắm. Nhờ gần gũi bạn lành, cho đến gọi là Bích-chi-phật dù có khả năng tự độ nhưng không độ chúng sinh, đó gọi là xuất.

Người thứ sáu: Dứt bỏ gốc lành, chìm đắm, nhờ gần gũi bạn lành được tín, gọi là xuất. Đến chỗ cạn, liền trụ không bỏ, gọi là Bồ-tát vì độ chúng sinh, trụ quán phiền não "không".

Người thứ bảy, vì dứt bỏ điều lành, nên chìm đắm, nhờ gần gũi bạn lành nên được xuất, cho đến đã tiến tới trước, được đến bờ bên kia, lên núi cao lớn, phần nhiều được yên vui, dụ cho Phật thường trụ.

Văn kinh Đại bát Niết-bàn quyển 32, đại ý đồng, nhưng có chút khác nhau. Quyển 34 chép: "Hoặc vốn có sáu chữ, một người có đủ bảy, trước kia nói không nhất định, vì đều phát tâm lội qua sông sinh tử".

Quyển 36 chép: "Vì định, bất định, nên ở trong thường chìm nói rằng: "Vì nghiệp tâm nặng, nên không thể ra khỏi. Vì sao? Vì tâm họ không thể nẩy sinh pháp lành. Mặc dù có vô lượng chư Phật xuất hiện thế gian nhưng vì họ không nghe, không thấy, nên gọi là thường chìm, người vô tánh ở trên lại nói. lại rằng: "Mặc dù ta lại nói Nhất-xiển-đề, v.v... gọi là thường chìm; nhưng lại có người thường đắm chìm mà chẳng phải Nhất-xiển-đề. Vì sao? Vì như có người có tu giới thiện của thế gian nên gọi là thường chìm; Cù-Da-ly, v.v... gọi là nổi lên khỏi mặt nước rồi lại chìm xuống. Xá-lợi-phất, v.v... gọi là trồi lên rồi không chìm xuống nữa. Hàng Tu-đàhoàn, như quán sát bốn phương; Hàng Tư-đà-hàm, như quán sát rồi đi; Hàng A-na-hàm, gia hạnh xong lại ở. Vô học của ba thừa cũng như rùa thần, ở dưới nước, trên đất liền, đều bò đi. So sánh phối hợp dụ này với pháp trước kia, có chút khác nhau".

Cứ theo văn, nếu bảy người gặp phải bạn ác, thì đều có thể dứt mất điều lành, gọi là thường chìm. Nếu may mắn gặp được bạn lành, nối tiếp gốc lành xong, sẽ được lội qua sông sinh tử. Trong người thứ nhất, vô tánh, rốt ráo chìm, kẻ có tánh tạm thời trồi lên, cũng gọi là thường chìm. Mặc dù đều nói là thường, nhưng vẫn có mãi mãi tạm biệt, như ba thứ thường nói thường dù đồng, nhưng chẳng có khác nhau. Không như vậy thì sao đối với dụ, pháp của văn trước có bảy thứ khác nhau, vì đều có thường chìm đắm. Lại giải thích: Hoặc bảy chúng sinh thường nói rằng chìm đắm, vì lời nói chung ý riêng, nên cũng không trái. Dưới lại nói: "Bảy hạng người này, hoặc có một người đủ bảy; hoặc bảy người đều một".

Vì y cứ theo đây, nên biết có định, bất định. Một người đủ trong bảy, nói thường đắm chìm:

Tức người chấp "hữu" thứ hai đã nói trong kinh Vô Thượng Y và luận Bảo Tánh, v.v... cũng tức Xiểnđề đã được hội thích trong luận Phật Tánh, v.v... không có pháp Niết-bàn, vì kiến chấp dứt mất điều lành. Nếu người không có thường chìm đắm và tánh quyết định, v.v... thì chỉ là một người đủ bảy, làm sao biết được có bảy người đều là một, người thường chìm trong bảy người đều một, tức là không có tánh.

Kinh Niết-bàn quyển 32 chép: "Trong người thứ nhất, dù chẳng phải Xiển-đề, như người vì có tu thí, giới, thiện, đó gọi là người thường chìm, tức người thứ hai trong chấp hữu nói trong kinh Vô Thượng Y".

-Xiển đề có tánh, tức người có chút phần thứ nhất trong bảy hạng dứt mất điều lành nói trong kinh Niết-bàn. Sáu người sau, và thừa vô tánh của kinh Lăng-già là thuyết nói bất định trong các kinh, luận. Kinh Niết-bàn, kinh Vô Thượng Y, luận Đại Trang Nghiêm, luận Bảo Tánh, v.v... đều nói chung cho hai. Trong kinh Lăng-già chỉ nói có tánh. Du-già, Hiển Dương, Địa Trì, Thiện Giới đã nói không có tánh, chỉ rốt ráo không có. Do đây, nên biết, kinh Niết-bàn quyển 32 chép: "Một hạng người Xiển-đề năng sinh ra gốc lành; sinh gốc lành xong, nối nhau không dứt, sẽ được A-Nậu-Bồ-đề, đó là nói có tánh. Nói hạng Xiển-đề trong thứ chín, như cây khô, đá núi, hạt giống bị hư mục, mai rùa, cho đến tất cả thành Phật, không thấy Xiển-đề được A-Nậu-Bồ-đề". Ở chỗ này nói không có tánh, ở chỗ khác đều y cứ theo đây, nên biết. Nếu tạo ra cách giải thích này, thì sẽ không trái với kinh, luận. Nếu nói đều có tánh, thì sẽ trái với nhiều Thánh giáo, rộng như trước đã dẫn chứng".

4-Thanh văn có khác:

Phẩm Tam Đạo Ta, Thừa thứ mười bốn trong kinh Bồ-tát Anh Lạc chép: "Phật bảo Xá-lợi-phất! Ba thừa Bồ-tát đều có ba phẩm; Ba thừa Bích-chi cũng có ba phẩm. Ba thừa Thanh văn cũng có ba phẩm. Ba thừa Bồ-tát có Đại thừa Bồ-tát. Có thừa Bồ-tát, Bích-chi-phật; có thừa Thanh văn, Bồ-tát".

Ba thừa của Bích-chi-phật: Có Bồ-tát Đại thừa, Bích-chi có Bích-chi-phật, Bồ-tát, Duyên giác thừa, có thừa của Bích-chi-phật, Bồ-tát, Thanh văn.

Ba thừa của Thanh văn: Có Đại thừa Thanh văn; có thừa Bích-chi-phật Thanh văn. Thanh văn có thừa không có chấp mắc, đều chỉ cho cõi nước, Phật, gọi là hạnh nguyện, v.v… Ở đây đều y cứ hóa, vì hóa ba thừa. Chư Phật, Bồ-tát đều biến hóa tạo ra ba thừa. Luận Nhập Đại Thừa và luận Bồ-đề Tư Lương chép: "Người được Phật thọ ký trong kinh Pháp Hoa, vì Phật, Bồ-tát biến hóa làm Thanh văn".

Nhập Đại thừa luận quyển 2 chép:

Hỏi: Nếu La-hầu-la thật sự là Bồ-tát, thì sao lại nói là A-la-hán Thanh văn?

Đáp: "Vì Bồ-tát cũng gọi Thanh văn, cũng gọi A-la-hán. Vì sao? Vì khiến cho tất cả chúng sinh vì nghe A-nậu-Bồ-đề, nên gọi là Thanh văn; vì đối với tất cả người, trời, A-tu-la, nên thọ sự cúng dường, gọi là Ứng cúng, Bồ-tát vì hóa độ chúng sinh, nên hóa hiện làm A-la-hán Thanh văn".

Hỏi: "Các Thanh văn khác cũng là Bồ-tát phải không?"

Đáp: "Các Thanh Văn khác cũng có người là Bồ-tát, như năm trăm vị đệ tử Xá-lợi-phất, v.v... trong kinh Pháp Hoa, đều là Bồ-tát, đều sẽ thành Phật. Tất cả Thanh văn đều là Bồ-tát A-bệ-bạt-trí, như trong kinh Bất thối chuyển pháp luân có nói rộng".

Nếu y cứ vào kinh Thâm Mật giải thoát quyển 2, kinh Giải Thâm Mật và luận Du Già, Quyết trạch phần, đều nói có hai:

1- Vắng lặng.

2- Thú hướng Bồ-đề.

Vắng lặng: Cũng gọi là tánh quyết định. Thú hướng Bồ-đề, cũng gọi là tánh bất định, cũng gọi lui sụt tâm Bồ-đề.

Kinh Lăng già chép: "Vì có ba hạng, nên quyển tư chép: "Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật rằng: "Thế Tôn nói ba hạng A-la-hán, đây là nói hạng A-la-hán nào, gọi là A-la-hán?". Thế Tôn vì nói A-la-hán được quyết định vắng lặng, vì gốc lành phát nguyện Bồ-đề, quên A-la-hán của căn lành, vì làm cho A-la-hán ứng hóa?".

Lăng-già quyển 7 có chép: "Nghĩa là đời trước tu hạnh Bồ-tát, Thanh văn tăng thượng mạn, Thanh văn vắng lặng". So sánh với đây, trước, sau đều đồng với quan điểm, luận Pháp Hoa kinh chép: "Thanh văn có bốn hạng, Luận Nhiếp Đại thừa, Hiển Dương, luận Đại Trang Nghiêm đều nói trong Nhất thừa, đều đồng với Lăng già".

Kinh Pháp Hoa nói có ba hạng:

1- "Tỳ kheo tăng thượng mạn v.v...".

2- "Xưa, ta bảo ông chí nguyện đạo Phật, nay ông đều quên hết!".

Những người này tức là Thanh văn của tâm Bồđề.

3- "Trong ẩn hạnh Bồ-tát, ngoài hiện là Thanh văn, v.v… Đây là biến hóa".

Theo luận Pháp Hoa Kinh nói có bốn hạng, luận chép: "Thanh văn có bốn hạng".

1- Thanh văn quyết định.

2- Thanh văn tăng thượng mạn. 3-Thanh văn lui sụt tâm Bồ-đề. 4-Thanh văn ứng, hóa.

Nếu là người Duyên giác, thì y cứ luận Pháp Hoa, chỉ nói một hạng. Lăng-già quyển 2 nói: "Có hai hạng, gọi là tánh định, bất định, đồng với Đại Bát-nhã".

Y cứ luận Tạp Tập, v.v… nói có hai hạng:

1- Chúng xuất.

2- Lân giác.

Bồ-tát Anh Lạc quyển 14 chép: "Ba thừa BíchChi: Như đã dẫn ở trước, thì có ba hạng". Thủlăng-nghiêm tam-muội quyển ba chép: "Văn-thùsư-lợi nói: "Ta nhớ lại kiếp Chiếu Minh ở đời quá khứ, ta ở trong ba trăm sáu mươi ức đời, dùng thừa Bích-chi-phật mà nhập Niết-bàn". Cho đến nói rằng: "Các chúng sinh này không có chỗ nào được nhân duyên gieo trồng gốc lành, bấy giờ, ta vì giáo hóa chúng sinh, nên tự xưng thân mình là Bích-chiphật".

Bồ-tát cũng thế, dùng thừa Bích-chi-phật nhập Niết-bàn mà không diệt hẳn, cho đến nói rộng, hóa bốn quả, v.v…

Quyển 3 nói tánh quyết định, luận giải thích: "Vì khiến cho biết các thừa khác nhau""

Quyển 7 lại chép: "Bồ-tát hóa làm, nhưng không thấy văn nói có Duyên Giác tăng thượng mạn".

Hỏi: Thanh văn, Duyên giác đều có nhiều hạng, là tất cả chủ thể nhận lấy Vô thượng Bồ-đề, hay không phải tất cả?

Đáp: Chẳng phải tất cả. Vì sao biết được?.

Vì y cứ vào bổn luận Nhiếp Đại Thừa dịch vào đời Lương chép: "Nếu như vậy, thì Thanh văn, Duyên giác không phải đã được chung mọi đức như vậy, tương ưng với pháp thân của chư Phật. Vì sao nói là họ đều thú hướng Nhất thừa, đồng với Phật thừa?".

Giải thích rằng: "Nếu chư Phật không có năm thứ trước khác nhau, mà là do năm nghiệp của pháp thân là đồng, thì hàng Nhị thừa có năm nghiệp khác nhau, sẽ không được pháp thân, không có năm nghiệp đồng với Như Lai là nghĩa gì?" Nói hàng Nhị thừa đồng thú hướng nhất thừa, đều được thành Phật".

Cứ như ý của lời nói này, không nói tất cả đều có thể hướng về, chỉ vì dắt dẫn tánh của căn cơ bất định, để mau chóng thú hướng Đại thừa.

Thích luận chép: "Vì nói rõ ý nhất thừa, cho nên nói kệ; kệ trước dùng liễu nghĩa để nói Nhất thừa; kệ sau dùng nghĩa bí mật để nói nhất thừa. Ý này, kệ trước vì dắt dẫn tánh bất định được thành Phật, nên nhất thừa là liễu nghĩa; kệ sau nói Nhị thừa là tánh quyết định, vì không thành Phật, chỉ dựa vào chân như vô ngã giải thoát, v.v… nên nói chánh là đồng".

Kinh Giải Thâm Mật chép: "Nên trong đó nói Nhất thừa, chẳng phải tánh hữu tình, không có khác nhau". Lại nói: "Thú hướng vắng lặng, cuối cùng không ngồi đạo tràng, chỉ với tánh bất định, mới có thể thành Phật". Văn Nhiếp luận của Vô tánh cũng tương tự. Lăng-già quyển 7 chép: "Đại Tuệ! Thanh văn có ba hạng. Nói môn nhập Bát địa vắng lặng, đây là nói người trước kia đã tu hạnh Bồ-tát, rơi vào địa Thanh văn, rồi trở lại y chỉ bản tâm, tu hạnh Bồ-tát, đồng nhập môn vui vắng lặng của Bát địa, chẳng phải Thanh văn vắng lặng tăng thượng mạn".

Kinh Lăng-già quyển 8 chép: "Phật bảo Đại Tuệ! Ta từng thực hành hạnh Bồ-tát; các Thanh văn, v.v... dựa vào Niết-bàn vô dư y mà thọ ký cho. Đại Tuệ! ta thọ ký cho Thanh văn, là vì chúng sinh yếu hèn, sinh tâm mạnh mẽ. Đại Tuệ! Trong thế giới này và cõi nước Phật, Phật khác, có các chúng sinh thực hành hạnh Bồ-tát, mà lại ưa thích pháp Thanh văn, ta chuyển biến cho họ nhận lấy Đại Bồđề. Theo văn kinh này, ở địa phương khác của nước này, đều không nói là Thanh văn vắng lặng, có người thú hướng Đại thừa".

Luận Nhập Đại Thừa quyển 2 chép: "Thanh văn có hai hạng":

1- Siêng tu thiền định là người căn cơ chậm lụt.

2- Hồi hướng Bồ-đề, có công năng dứt trừ sở tri chướng là người căn cơ nhạy bén.

Người ưa thực hành thiền định, như kinh Bảo Lương nói: "Cũng như thủy tinh, sau cùng không thể trở thành ma-ni bửu châu; Thanh văn tu thiền cũng giống như thế, sau cùng không thể trở thành quả Bồ-đề".

Lăng-già quyển tư chép: "Đại Tuệ! Tướng của quả Tư-đà-hàm là sao? Nghĩa là một lần đi qua, thấy sắc tướng hiện tiền sinh tâm, không phải do tưởng phân biệt luống dối thấy, mà là do khéo thấy hành tướng tu thiền, nên một lần qua lại thế gian, liền dứt hết khổ, nhập Niết-bàn".

Văn này không đồng với môn trụ thú vui tammuội, sinh tưởng Niết-bàn, vì Tư-đà-hàm kia còn có biến dịch, sinh tưởng Niết-bàn vì chưa dứt hết khổ". Ở đây nói rằng khổ hết, nhập Niết-bàn, không nói sinh tưởng Niết-bàn, đủ chứng minh là tánh quyết định vì nhập diệt vô dư, nên tiếp theo nói rằng: "Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật rằng: "Thế Tôn nói ba hạng A-la-hán. Đây là La-hán nào gọi là A-la-hán? Cho đến Phật bảo Đại Tuệ! Vì nói Lahán Thanh văn được vắng lặng quyết định, chẳng phải La-hán khác".

Luận Nhiếp Đại Thừa dịch vào đời Lương chép: "Do luôn khác nhau đối với Niết-bàn Vô dư, không rơi vào bờ mé đoạn tận, nên giải thích rằng: "Nhị thừa cũng ở Niết-bàn Vô dư, không có hai thân ứng, hóa, vì không quán việc lợi ích cho người khác, vì không có ứng thân; nên rơi vào đoạn; vì không có hóa thân, nên rơi vào tận. Đối với Niếtbàn Vô dư, Bồ-tát thường khởi hai thân, không có bờ mé, cho đến nói rằng: "Vì có ứng thân, nên không rơi vào đoạn, vì có hóa thân nên không rơi vào Tận".

Luận Nhập Đại Thừa quyển một chép:

Hỏi: Bồ-tát vượt qua không, ra khỏi sinh tử, làm sao được trội hơn Thanh văn?

Đáp: Bồ-tát được lợi ích thế gian, lợi ích xuất thế gian, vì vượt qua địa Nhĩ-Diệm; nên dù xuất thế gian, nhưng vẫn có thể trụ thế gian, để giáo hóa chúng sinh; hàng Thanh văn thì không như vậy, chỉ sợ sinh tử, cầu mau chóng diệt độ; dùng đạo xuất thế gian để thấy pháp giới. Thấy pháp giới rồi, tiến đến bờ Niết-bàn; Bồ-tát không như vậy. Kinh Niếtbàn quyển 32, trong phần giải thích bát Na-hàm hữu hành, vô hành, đều nói rằng: "Hết tuổi thọ, nhập Niết-bàn". Lại, trong vô hành bát chép: "Vì cũng nhờ năng lực tam-muội hữu vi, nên hết sống lâu thì được vào Niết-bàn".

Theo văn này nói: "Nhập tam-muội, hóa lửa đốt thân, hết mạng sống lâu của họ, nhập Niết-bàn.

Nếu trụ thú vui tam-muội, cho là Niết-bàn, làm sao nói vì nhờ năng lực tam-muội hữu vi, nên hết sự sống lâu thì sẽ được nhập vào Niết-bàn? Vì nhờ tam-muội hữu vi, thì được Niết-bàn; do đây nên biết, Thanh văn trụ, diệt định xong, hóa lửa đốt thân, mới được Niết-bàn. Vì hữu hành cũng đồng, nên nói rằng: "Cũng do đây, nên tánh quyết định nhập Vô dư y, không chịu biến dịch".

Lăng-già quyển tư chép: "Thanh văn, Duyên giác, chưa chứng pháp Vô ngã, chưa được lìa sinh biến dịch không suy nghĩ, bàn luận".

Theo đây, nên biết Nhị thừa tánh quyết định thú hướng Vô dư y, không chịu biến dịch sinh tử.

Thắng-man v.v... nói: "A-la-hán, Bích-chiphật, Bồ-tát Đại lực, chịu biến dịch, đều là tánh bất định".

Luận Phật Địa quyển 2, luận Du-già quyển 80 đều nói hồi thú bất định, được thọ biến dịch.

Luận Đại Trang Nghiêm quyển 1 chép: bốn là do gốc lành vô tận. Vì sao? Vì không phải gốc lành của các Thanh văn, v.v... sáng sạch như thế, nên chẳng phải tất cả gốc lành của con người gồm thâu lực, vô úy, v.v... gốc lành của người khác vì không có lợi ích cho người; nên gốc lành của người hết khi Niết-bàn; gốc lành của Bồ-tát thì không như vậy. Do đây, nên biết tánh bất định nhập Vô dư không thể thú hướng về. Người có tánh bất định trụ hữu dư y, mới hồi thú".

Pháp Hoa quyển 2 có bài tụng rằng:

Được thoát khỏi tai hoạn
Khổ não của ba cõi
Trụ thân sau cuối.
Niết bàn Hữu dư".

Du-già quyển 80 chép:

Đáp: Chỉ trụ trong cõi Niết-bàn Hữu dư y có thể có việc này. Vì sao? Vì trong cõi Niết-bàn vô dư y, xa lìa tất cả sự nghiệp phát khởi, tất cả công dụng đều thôi dứt, đồng với luận Phật Địa".

Thắng-man cũng nói: "Thế Tôn, A-la-hán, Bích-chi-phật, khi quán sát, không được thọ hữu sinh, quán địa Niết-bàn, chỗ dứt sự sống thứ nhất. Thế Tôn, địa mà nhị thừa kia đã được, chẳng phải pháp ngu, không do người khác, cũng tự biết được địa hữu dư, tất nhiên sẽ được A-nậu-Bồ-đề".

Vì sao? Vì Thanh văn, Bích-chi-phật đều nhập Đại thừa. Y cứ vào các văn này, không có nói Nhị thừa, nhập cõi Niết-bàn Vô dư xong, mới có thể hồi thú, nên biết hồi thú, phải là tánh bất định, trụ Niết-bàn Hữu dư y, chỉ nói tám muôn kiếp trụ Niếtbàn, v.v… không nói vô dư. Gốc lành mà người bất định này đã tu là phương tiện lớn, cũng đồng với gốc lành vô tận của Bồ-tát, nên Pháp Hoa chép: "Đối tượng thực hành của các ông là đạo, của Bồtát v.v...". Lại kinh Thủ-lăng-nghiêm quyển hai chép: "Các vị trời nghe Phật nói nghĩa như thế, đều than khóc mà nói như vầy: "Thế Tôn, nếu người nào đã nhập địa vị Thanh văn, Bích-chi-phật, vì mất hẳn tam-muội Thủ-lăng-nghiêm. Thế Tôn, kẻ gây năm tội nghịch, được nghe tam-muội Thủlăng-nghiêm không nhập vị pháp tạo ra A-la-hán lậu tận. Vì sao? Vì người gây năm tội nghịch, nghe tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, phát tâm A-Nậu-Bồđề, lại được thành Phật. Thế Tôn, A-la-hán lậu tận cũng như đồ đựng bị bể, không bao giờ có khả năng gánh vác thọ mạng này. Về sau, dụ rộng, huống chi là nói không có khả năng thọ".

Lại, luận Bồ-đề Tư Lương chép: "Như gạo không có trấu cám, hạt giống tất nhiên không nẩy mầm, hàng Thanh văn cũng giống như thế, quyết định không thành Phật". "Trong kinh Pháp Hoa nói các Thanh văn như Xá-lợi-phất v.v… được thành

Phật, là đối tượng hóa thành của Phật, Bồ-tát. Luận Nhiếp Đại thừa dịch vào đời Lương cũng nói: "Trong Pháp Hoa, Đại Tập, có các Bồ-tát, đều đồng với Xá-lợi-phất, v.v... Bồ-tát này được ý này, Phật thọ ký, cho nên nói nhất thừa". Lại nữa, Phật hóa làm Thanh văn Xá-lợi-phất, v.v… thọ ký cho họ".

Luận Pháp Hoa kinh nói: "Hai hạng Thanh văn, Như Lai thọ ký cho, nghĩa là Thanh văn, ứng, hóa, lui sụt rồi, lại phát tâm Bồ-đề, hai hạng Thanh văn tăng thượng mạn quyết định, vì căn cơ chưa thành thục. Như Lai không thọ ký cho Bồ-tát được thọ ký vì phương tiện khiến phát tâm Bồ-đề; bất định nói là khiến phát tâm thú hướng chỉ người quyết định phát tâm tin Đại thừa, thành pháp không ngu, cũng được gọi là phát tâm. Trước kia đã nói vì lợi ích cho hai hạng người, nên nếu cũng thành Phật, chỉ là bất định, đâu gọi tánh quyết định. Dụ cho Lân Giác, Độc giác, tất nhiên là tánh quyết định, vì không được thấy Phật, nên kinh Hoa Nghiêm chép: "Bồ-tát bước xuống, trước hết, dùng tay phải phát ra ánh sáng, nghĩa là nghiêm tịnh giới. Hàng Độc giác gặp ánh sáng này, liền nhập Niết-bàn; người không hay biết, Bồ-tát dùng thần lực của ánh sáng kia, dời họ đặt ở phương khác, do đây nên biết Lân giác, Độc giác tất nhiên là tánh quyết định, quyết định không thú hướng Đại thừa. Trong bộ hành có định, bất định. Người bất định hồi tâm; kẻ quyết định không hồi tâm, do đây, khéo thuận với kinh Niết-bàn, nói: "Nếu nói rằng: "Người Tu-đà-hoàn v.v… đều được đạo Phật". Hoặc nói: "Đều không được, rằng: "Vì không hiểu ý ta, nên biết tánh quyết định, thì sẽ không thành Phật; tánh bất định, thì sẽ thành Phật". Du-già v.v... đều nói: "Không nhất định hồi tâm hướng Đại, không nói đều được, vì không nói đều được". Nên luận Du-già quyển 80 nói: "Vì sao tất cả A-la-hán đều không hồi hướng Vô thượng Bồ-đề?".

Đáp: Vì các thứ chúng sinh kia có khác nhau, v.v... Luận Đại Trang Nghiêm chép: "Do các cõi khác nhau của cõi: chúng sinh có các thứ cõi vô lượng khác nhau, như đa giới Tu-đa-la nói: "Do các cõi khác nhau cõi, nên biết chủng tánh ba thừa có khác nhau", cho đến nói rằng: "Nếu không có tánh khác nhau, thì cũng sẽ không có quả khác nhau v.v...".

Lại, kinh Thiện Giới, luận Địa Trì, luận Du-già trong giải thích mười nhân, có giải thích nhất định khác với nhân, có tánh và tánh ba thừa, đều quyết định khác.

5-Hai thứ chết không bình đẳng:

1-Tên gọi, không bình đẳng. 2-Thể tánh không bình đẳng.

3-Được người không bình đẳng. Tên gọi không bình đẳng.

1- Y cứ vào lỗi lầm khác nhau: Phần đoạn, biến dịch. Y cứ kinh Thắng-man chép: "Như thứ lớp, gọi là Vô thường ôm ấp thế gian; vô thường gây bệnh thế gian".

2- Y cứ vào phàm, Thánh khác nhau, như thứ lớp gọi là sinh tử hữu vi; sinh tử vô vi, do hữu "không", vô "không" khác nhau.

3- Y cứ vào cảnh, trí khác nhau. Phiền não phát ra nghiệp, đã chiêu cảm sinh tử, gọi là nhân phần đoạn. Sở tri chướng vô lậu làm duyên mà có sinh tử, gọi là tử biến dịch không suy nghĩ bàn luận.

4- Y cứ vào duyên lậu, vô lậu khác nhau: Phần đoạn sinh tử cũng gọi là sinh tử trong cõi.

Kinh Vô Thượng Y chép: "Có sinh tử hữu, như vì nạn sinh trong ba cõi; sự sinh biến dịch cũng gọi sinh tử ngoài cõi".

Luận Phật Tánh chép: "Do ra khỏi ba cõi, có ba hạng Thánh, cho đến nói rằng: "Trụ cõi Vô lậu có bốn thứ chướng đoạn. Đã nói rằng, người ra khỏi ba cõi, là nói sự sinh tử gọi là ngoài cõi".

5- Y cứ vào sức định thấm nhuần nghiệp khác nhau: Pháp sư Cổ Cơ nói: "Trong luận Vô Tướng chép: "Cái chết phần đoạn, gọi là thân quả báo, cái chết biến dịch gọi là thân biến hóa".

6- Dựa vào biến dịch, y cứ vào vị chứng khác nhau: kinh Nhập Lăng-già quyển 5, gọi là ba ý sinh thân. Kinh rằng: "Phật bảo Đại Tuệ! Có ba thứ ý sinh thân, ba thứ đó là":

1-Được ý sinh thân Tam-ma-bạt-đề, thú vui tam-muội. 2-Ý sinh thân giác biết như thật về tướng của các pháp. 3-Chủng loại Câu sinh ý sinh thân của hạnh vô tác.

7-Y cứ vào dụng tánh khác nhau: Hai thứ chết đều chia ra bốn thứ:

Sinh tử phần đoạn, gọi là bốn nạn. Biến dịch thì gọi bốn thứ sinh tử, nên kinh Vô Thượng Y nói:

"A-nan! Ở trong ba cõi, có bốn thứ tai nạn".

1- Tai nạn phiền não.

2- Tai nạn nghiệp.

3- Tai nạn sự sinh.

4- Tai nạn lỗi lầm.

Vô minh trụ địa đã khởi phương tiện sinh tử, như nạn phiền não trong ba cõi. Vô minh trụ địa đã khởi nhân duyên sinh tử, như tai nạn nghiệp trong ba cõi.

Vô minh trụ địa đã khởi có sinh tử hữu, như tai nạn của sinh trong ba cõi.

Vô minh trụ địa đã khởi không có sinh tử, như tai nạn lỗi lầm trong ba cõi.

Thể tánh khác nhau: Sinh tử phần đoạn, dùng hoặc của kiến đạo làm phát nghiệp thích đáng, tu hoặc chánh thấm nhuần, cảm được dị thục. Sáu đường, ba cõi; bốn uẩn, năm uẩn là thể của phần đoạn. Thể chỉ hữu lậu, vì thuộc về Khổ, Tập, vì hoặc nghiệp, khổ, đều gọi là sinh tử, vì đều có sinh diệt, nên sinh tử biến dịch do chướng sở tri làm duyên khởi. Vô lậu có nghiệp phân biệt giúp chiêu cảm cái có của hiện thân, nên nghiệp chung cho ba thiên hạ, sáu dục, bốn thiền, phước của bốn thiền, nghiệp bất động trừ các xứ nạn và năm Tịnh cư, đã khiến cảm năm uẩn thân nối tiếp nhau, chuyển biến vượt hơn, chuyển biến mầu nhiệm, được Phật địa là thể của biến dịch. Thể chung cho hữu lậu, kể cả quả vô lậu, chỉ có nhân hữu lậu chung cho cả hai.

Hỏi: Vì sao trừ xứ nạn?

Đáp: Vì nhập kiến đạo rồi, nữ hai hình, huỳnh môn và xứ tai nạn được phi trạch diệt, vì đều mãi mãi không thọ.

Hỏi: Vì sao trừ Tịnh cư?

Đáp: Vì cõi trời này không có hồi thú, luận Nhập Đại Thừa chép: "Như Tôn giả Câu-Ma-LaĐà có nói kệ rằng:

Các cõi đều biến hóa
Chỉ trừ trời Tịnh Cư
Theo nghiệp các thứ chuyển
Không nơi nào chẳng sinh.

Do đây, nên biết các Bồ-tát thường đồng lợi ích, thuận theo sự thọ sinh của chúng sinh mà dẫn dắt, hóa độ họ; dùng năng lực phương tiện chỉ vì chúng sinh; không thuận theo phiền não, vì bị trói buộc bởi nghiệp báo Bồ-đề.

Văn này nói rằng: "Bồ-tát thường đồng lợi ích, thuận theo sự thọ sinh của chúng sinh mà dẫn dắt, hóa độ họ". Đã trừ Tịnh cư, nói không có lợi ích. Vị cõi trời kia tự chứng đắc Niết-bàn của Tiểu thừa, không giống với Bồ-tát. Nếu có thể hồi thú, thì sao Bồ-tát không sinh cõi đó mà giáo hóa họ".

Vì sao trừ Vô Sắc?

Đáp: Theo luận Tạp Tập chép: "Được Bồ-tát tánh không sinh Vô Sắc; vì tánh tất định của bậc Thánh Tiểu thừa. Lại, không có năm căn có thể giúp đỡ khéo léo hơn làm biến dịch. Lại, vì không sinh lại hai cõi dưới".

Hỏi: Vì sao không thừa nhận Bồ-tát thượng địa, Vô học Tiểu thừa thọ riêng năm uẩn làm thân biến dịch. Vì thân được thấm nhuần, nên nghiệp cảm nhân của hiện thân, khiến có năng lực vượt hơn, dẫn đến quả trong thời gian dài, được sinh địa vị Phật?

Đáp: nhị thừa Vô học vì chìm đắm trong không, nên chết rồi không sinh lại. Luận Đại Lực Bồ-tát Thập Địa chép: "Vì lợi ích báo sau, sinh chỗ trí Ma-hê-thủ-la, nên nếu đã thừa nhận sự hiện khởi nghiệp Vô lậu mới, chiêu cảm riêng biệt, thích đáng sinh tử biến dịch, sao gọi là báu sau? Lại, luận Nhập Đại Thừa chép:

Hỏi: "Như Lai dùng hạnh nào để dứt bỏ hẳn kiết sử mà thành Phật?" Trong kinh nói: "Phật bảo A-nan! Người hãy tu bốn như ý túc, hoặc trụ một kiếp, hoặc nhiều kiếp, mới cùng tận sinh tử; tất cả các kinh đều đồng với thuyết này. Nếu ông nói rằng, không có phiền não, thì ta cũng giống như thế. Nếu có ai thân ái, tín quy ở ta, thì ta sẽ nói cho ông nghe".

Hỏi: Thế nào là sống lâu?

Đáp: A-la-hán không có phiền não, đồng với Bồ-tát bát trụ; vì khéo tu như ý túc, nên có khả năng tùy ý ở đời, cho đến tận cùng sinh tử. La-hầula, Tân-Đầu-lô đều trụ ở đời, là dùng thân này trụ ở đời hay là có thân khác trụ?.

Đáp: Dùng thân thật mà ở đời, thì sẽ không có nghĩa kia. Nếu thân biến hóa trụ sống lâu trong nhiều kiếp, thì ở đây có lý này, cũng như trong Tăng-kỳ nói: "Như Lai mắt xanh, vì hóa độ Bồ-tát, ở trời Quang Âm với các chúng Thanh văn, trụ vô lượng trăm ngàn ức kiếp na-do-tha, như Thanh văn ở cõi trời kia, sống lâu nhiều kiếp, phải biết rằng, cõi này cũng có Thanh văn có khả năng trụ như thế".

Y cứ vào văn luận này nói trụ sống lâu, vì không thọ riêng sự sinh, nên biết biến dịch nhất định giúp cho nghiệp cũ, cũng không thể nói rằng, luận này giải thích giáo trước bốn mươi năm. Vì sao? Vì tất cả các kinh đều đồng với thuyết này, vì cũng dẫn Pháp Hoa làm chứng nghĩa.

Lại, luận Phật Tánh chép: "Nhân duyên sinh tử: Như Tu-đà-hoàn trở lên, chỉ vận dụng nghiệp cũ". Đã nói: "Như Tu-đà-hoàn kia dùng nghiệp cũ của mình, để chứng tỏ chẳng phải mới tạo. Nghiệp Vô lậu mới, thích đáng, thì có thể cảm, chỉ vì giúp đỡ nghiệp cũ". Lại, Niết-bàn quyển 34 chép: "Vô lậu không có y của báo. Nếu đã thừa nhận vô lậu cảm gần biến dịch, thì sẽ trái với vô lậu này". Lại đồng với Du-già, Phật Địa, v.v... nói". Đã nói sống lâu, là nói thức thứ tám giúp nghiệp cũ chiêu cảm thứ tám, khiến cho trụ trong thời gian dài, cho đến cùng tận sinh tử, nên là hữu lậu. Nhưng chỗ khác gọi là vô lậu, như Thành Duy Thức chép: "Dựa vào duyên giúp đỡ để nói. Nay, lại giải thích: là người được vô lậu, nhân chướng sở tri, khởi nghiệp vô lậu, vì hỗ trợ nên cảm thân, gọi là vô lậu, chẳng phải thể của sinh biến dịch là vô lậu. Vì sao? Vì thức thứ tám, là chánh thể của sự sinh tử, nếu vô lậu thì đâu khác với Phật. Lại, tức là thiện, nên không thọ huân tập. Lại, đã là vô lậu, thì làm sao có công năng gìn giữ hạt giống sở tri chướng của thức hữu lậu? Do đây nên biết vì thể là hữu lậu thuộc về ba cõi, nên Chánh Pháp Hoa đã dụ năm đường với năm trăm do-tuần, vì sao chỉ vượt qua ba trăm, nói là vô lậu ra khỏi ba cõi?".

Là được người vô lậu và người ra khỏi ba cõi đã thọ sinh tử, gọi là vô lậu và ra khỏi ba cõi. Nếu gọi vô lậu, tức thể vô lậu ấy, thì sở tri chướng lẽ ra cũng thể vô lậu. Kinh Thắng-man nói: "A-la-hán, Bích Chi Phật đã dứt bốn thứ trụ kia, vô lậu không cùng tận, không được năng lực tự tại, cũng không tác chứng. Vô lậu không cùng tận: là tức vô minh trụ địa. Sở tri chướng này dù gọi vô lậu, nhưng thật sự chẳng phải vô lậu; biến dịch cũng thế. Lại, nếu nói rằng: "ra khỏi ba cõi, tức thể biến dịch thật sự là vô lậu ra khỏi ba cõi, thì gọi là vô vi, vì ứng với sự sinh, diệt ngoài". Kinh Thắng-man gọi là sinh tử vô vi".

Thứ đến, đã vô lậu ngoài, hiện có sinh diệt, thể là hữu vi, chứng tỏ thể của sinh tử biến dịch là hữu lậu, là thuộc về cõi". Kinh Nhân Vương Bát-nhã chép: "Ở ngoài ba cõi vì không có giới tạng của chúng sinh khác nhau, nên được con người không bình đẳng. Tất cả phàm phu, Nhị thừa tánh quyết định và người tánh bất định chưa hồi tâm, không được biến dịch sinh tử, chỉ có các bậc Thánh Nhị thừa bất định hồi tâm và Bồ-tát giác ngộ ngay từ Sơ địa trở lên, đều chấp nhận được thọ, vì người Hữu học và Thất địa trở xuống, có người chưa thọ, như luận Du-già, kinh luận Phật địa, và luận Nhập Đại Thừa, kinh Nhập Lăng-già đều có nói rộng, nên biết".

Hỏi: Vì sao biết được Nhị thừa tánh quyết định không thọ biến dịch?

Đáp: Vì Nhập Lăng-già quyển 4 chép: "Vì chưa chứng pháp vô ngã, chưa được sinh biến dịch không suy nghĩ bàn luận, nên không có nói rõ ràng Thanh văn tánh quyết định, được thọ biến dịch". Nhập Lăng-già quyển 2 lại nói: "Đại Tuệ! Trong thân của Thanh văn chứng đắc tướng Thánh nghĩa là vô thường, khổ, không, cho đến nói rằng: "Được thiền định giải thoát, đạo quả tam-muội, tam-mabát-đề. Vì không lui sụt giải thoát, vì lìa tử biến dịch, huân tập không suy nghĩ bàn luận. Trong thân chứng đắc pháp hạnh vui của bậc Thánh, vì trụ địa Thanh văn, nên ở đây nói là tánh quyết định".

Đã nói rằng, lìa tử biến dịch huân tập không suy nghĩ bàn luận, trụ Niết-bàn. Do đây, nên biết không được biến dịch.

Hỏi: Làm sao biết được rằng chủng tánh bất định trước khi chưa hồi tâm, không thọ biến dịch?. Đáp: Văn trước kia có nói: "Lìa tử biến dịch huân tập không suy nghĩ bàn luận, trụ địa Niết-bàn. Lại, Du-già, Phật địa, Hiển Dương, luận Nhập Đại thừa v.v... đều chỉ nói bất định hồi tâm trở lên, mới thọ Biến dịch".

Hỏi: Nhị thừa bất định, cũng chưa chứng pháp vô ngã, lẽ ra không được biến dịch phải chăng?

Đáp: Vì có khả năng tin chứng, thường thuận theo nhập, nên được sinh biến dịch, không đồng với tánh quyết định.

Hỏi: Vì sao biết được Sơ địa trở lên, liền được biến dịch?

Đáp: Nhập Lăng-già quyển 5 chép: "Ba ý sinh thân, vì không chỉ Bát địa trở lên, nhưng luận Nhập Đại Thừa chép: "Bồ-tát đồng với Bát trụ trở lên. Và Thắng-man, v.v... nói rằng: "A-la-hán, Bích Chi Phật, được Bồ-tát Đại lực, vì y cứ quyết định nói, nên đều không có trái nghịch; vì phát nghiệp thọ sinh khác nhau, nên đoạn xả, nhập vị có khác". Các môn nghĩa này, v.v... rộng như chỗ khác đã giải thích.

6-Nói ba thân của Phật là thường, vô thường khác nhau.

Công đức của chư Phật lìa phân biệt, bặt bốn câu, không thể nói rằng, sự khác nhau của ba thân: thường và vô thường, mà lý khác giải thích rõ ràng. Chủ thể, đối tượng trí chứng, công đức của ba thân; tâm, sắc, lý trí, tánh, tướng khác nhau, thường, vô thường khác nhau. Rộng như trong trí đoạn cao siêu của Nhiếp luận nói. Và luận Đại Trang Nghiêm, Du-già, Phật địa, Giải Thâm Mật, v.v... nói, e rườm rà nên không dẫn.

Nay, chỉ lược dẫn một ít văn khác để chứng: Như kinh Lăng-già quyển 7 nói: "Đại Tuệ bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Như Lai, ứng chánh biến tri là thường hay là Vô thường? Phật bảo Thánh giả Đại Tuệ!".

Như Lai Ứng chánh biến tri chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, vì sao? Vì hai bên có lỗi".

Đây là ngăn ngừa sự phân biệt, vì lìa bốn câu, nên ở đoạn dưới nói: "Đại Tuệ! Ví như hư không chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Vì sao? Vì lìa thường, vô thường; do không rơi vào một, khác, đều có, không đều có, hữu, vô, chẳng phải hữu chẳng phải vô, thường, vô thường, phi thường, phi vô thường, cho nên lìa tất cả các lỗi, không được nói chứng, cho đến nói rằng: "Cho nên, ta ngăn ngừa tất cả phàm phu không được phân biệt thường và vô thường, vì người được pháp vắng lặng chân thật, được dứt hết phân biệt, không sinh phân biệt".

Đại ý phẩm pháp thân thứ sáu kinh Lăng-già nói cũng đồng. Nếu ký thác giải thích rõ ràng, thì báo Phật có thể là Vô thường, vì tu nhân thành; thể của pháp thân tự tánh là thường trụ, không do tu mà sinh, do tu mà hiển, nên Lăng-già quyển 7 chép: "Đại Tuệ! Như Lai chẳng phải thường. Vì sao? Vì tánh hư không cũng chẳng có các công đức của tu hành".

Ý này phản ánh rõ báo, hóa các công đức của tu hành, nên vô thường. Cho nên Lăng-già quyển 6 chép: "Đại Tuệ! Nếu pháp thân Như Lai chẳng phải pháp tạo tác, thì là không có thân, nếu nói có vô lượng công đức tu hành, thì đó là luống dối. Đại Tuệ! Nếu không tác động thì lẽ ra đồng với sừng thỏ, con của cô gái bất dục, vì không có nhân tạo tác, cũng có thân. Đây là nói báo thân, vì pháp công đức đã gom góp thành, nên cũng gọi là pháp thân". Lại, nói: "Pháp thân Như Lai với năm uẩn chẳng phải một. Nếu nói một, thì lẽ ra là vô thường, vì do năm ấm đã tạo ra pháp thân. Ở đây nói pháp thân tự tánh, không phải như vậy, kinh Niết-bàn chép: "Xả sắc vô thường, được sắc thường. thọ, tưởng, hành, thức cũng giống như thế, tức là năm ấm, há nói không phải một, không phải là pháp tạo tác. Nếu báo thân Phật chẳng phải tự tánh thường thì từ như mà nói thường. Lăng-già quyển 7 chép: "Nếu nói thường, thì đồng với thỏ, ngựa, lạc đà, lừa, rùa, rắn, nhặng, cá, v.v… cho nên không được nói Như Lai là thường. Nếu vì từ đối tượng chứng, đối tượng y chỉ thường, nên được nói là Thường". Lại nói rằng: "Lại nữa, Đại Tuệ! Lại có pháp khác, vì nương tựa pháp kia, nên được nói Như Lai, Thế Tôn là thường, vì sao? Vì dựa vào trí chứng nội tại, chứng pháp thường. Cho nên, được nói Như Lai là thường. Đại Tuệ! Pháp trí chứng nội của chư Phật,

Như Lai, thường hằng trong, mát không thay đổi. Đại Tuệ! chư Phật Như Lai, Ứng Chánh biến tri, hoặc xuất hiện ở đời, không xuất hiện ở đời, pháp tánh thường như thế, thể pháp thường như thế".

Theo đây, thì chính gọi lý sở chứng là thường. Trí giả, là chủ thể chứng, vì y chỉ đối tượng chứng Thường, nên gọi là Thường, chẳng phải thường tự tánh, cũng đồng với kinh Niết-bàn chép: "Giác minh, v.v... là thường. Lại, chính đồng với Nhiếp luận, luận v.v... Đại Trang Nghiêm, v.v… kinh Kim Quang Minh quyển hai chép: "Ba thân như thế, vì có nghĩa mà nói là thường, vì do nghĩa, nên nói là vô thường".

Hóa thân: Thường xoay bánh xe pháp, mỗi chỗ dùng phương tiện tùy duyên nối tiếp nhau không dứt, nên nói là thường, vì chẳng phải là gốc, nên đầy đủ dụng lớn vì không thể hiện rõ, nên nói là Vô thường". Ứng thân: Từ vô thỉ đến nay, nối tiếp nhau không dứt. Pháp không chung của tất cả chư Phật, vì khả năng gìn giữ, nên chúng sinh vô tận, dụng cũng vô tận, cho nên nói là thường, vì chẳng phải là gốc, nên đầy đủ dụng, vì không thể hiện rõ, nên nói là vô thường.

Pháp thân: Chẳng phải là hành, pháp không có khác, vì khác với không có, vì là tự gốc, cũng như hư không, cho nên nói là thường.

Kinh Vô Thượng Y chép: "A-nan! Vì sao pháp thường trụ Vô thượng Bồ-đề, mà pháp thường trụ này lại có hai thứ pháp làm nhân duyên".

1- Bất sinh, bất diệt.

2- Vô cùng, vô tận.

Đó gọi là pháp Thường trụ Bồ-đề?

Cứ như hai nhân này, đầu tiên là pháp thân, sau là Ứng hóa. Luận Phật Tánh, quyển 4 chép: "Ba thân này thường hay sinh khởi những việc lợi ích v.v... của thế gian, nên nói là thường trụ. Thường trụ y cứ vào mười thứ nhân duyên":

1- Nhân duyên vô biên.

2- Chúng sinh Vô biên.

3- Đại bi vô biên.

4- Như ý túc vô biên.

5- Trí vô phân biệt vô biên.

6- Thường ở trong thiền định, không tán loạn. Cho đến mười, bản tánh pháp như vậy, vô sinh, vô diệt, vì một nhân duyên vô biên, nên là thường, từ vô lượng kiếp đến nay, Bồ-tát đã bỏ thân mạng, tài sản, vì bảo vệ chánh pháp. Chánh pháp đã vô biên tế, vô cùng, vô tận, do nhân vô cùng, cảm quả vô cùng, tức là vì ba thân, nên được là thường. Chúng sinh không cùng tận, nguyện rộng vô tận. Cho nên, hóa thân thường ở thế gian, giáo hóa, dẫn dắt chúng sinh, không có cùng tận. Phần ít Bồ-tát có tâm Đại bi, còn có khả năng thường cứu vớt chúng sinh, không nhập Niết-bàn, huống chi Như Lai, mọi đức viên mãn, thường trụ Đại bi, luôn nghĩ đến sự cứu vớt, đâu có bờ mé, cho nên nói là thường. Người thế gian được bốn thần túc, còn có thể sống lâu suốt bốn mươi tiểu kiếp, huống chi Như Lai mà không sống lâu, tự tại ức trăm ngàn kiếp. Cho nên, gọi là thường, cho đến nói rằng: "Vì tánh không có sinh, diệt, nên là thường, pháp thân chẳng phải vốn không mà nay có; vốn có mà nay không, dù thực hành ba đời, nhưng chẳng phải pháp ba đời. Vì sao? Vì đây là sẵn có, không phải mới có, vượt qua pháp ba đời, cho nên gọi là thường. Y cứ vào thường này, đã nói vì tánh không có sinh diệt, nên là thường, chỉ nói pháp thân chẳng phải vốn không mà nay có, vốn có mà nay không. Ứng hóa đã là vốn không mà nay có. Lại không nói là vì tánh không có sinh diệt, nên là thường trụ. Nói có sinh diệt nối tiếp nhau gọi là thường". Luận Bảo Tánh quyển tư cũng đồng với mười nhân duyên của thuyết này là Thường. Bài tụng kia chép":

Thể Thế Tôn thường trụ.
Vì có vô lượng nhân
Cõi chúng sinh vô tận
Tâm từ bi như ý
Tương ưng trí thành tựu
Các pháp được tự tại
Hàng phục các oán ma
Thể vắng lặng nên thường.

Dưới đây sáu bài tụng giải thích, nhưng rộng, lược khác nhau, vì sợ rườm rà, nên không nê ra.

Cứ như các kinh luận đều nói ứng, hóa chẳng phải thường tự tánh, không là không có nhân duyên sinh diệt, vì pháp sinh nên là vô thường, nên Lănggià quyển 7 chép: "Thông thường pháp tạo tác, đều là vô thường, như bình, y phục, xe, nhà và thảm, chiếu, v.v... đều là pháp tạo tác. Cho nên, là vô thường".

Lại, Niết-bàn chép: "Thông thường nhân sinh, nghĩa là đều là vô thường, pháp thường trụ tức chẳng phải nhân sinh, rộng như trước đã dẫn".

Hỏi: Nếu thân ứng, hóa là pháp tạo tác của năm uẩn có sinh, diệt, thì sao Lăng-già quyển 7 chép: "Nếu nói tất cả đều vô thường, trí nhất thiết, tất cả người trí, tất cả công đức lẽ ra cũng vô thường, vì đồng với tướng của tất cả pháp tạo tác?".

Theo văn kinh này, dù tu nhân được mà là thường trụ, văn kinh lại chép: "Lại có lỗi, nếu nói rằng tất cả đều vô thường, thì chư Phật Như Lai lẽ ra là pháp tạo tác, đâu được nói là ứng, hóa vô thường".

Đáp: Theo văn kinh kia, vì thân ứng, hóa nhân, quả viên mãn, không còn gì để tu, gọi là chẳng phải tác pháp. Đã không có nhân vượt hơn, thì quả không có khác, vì trước, sau giống nhau, nên gọi là Thường, chẳng phải do nhân, khiến quả kia khởi, nên kinh tự nói rằng: "Vì không nên lại nói có nhân vượt hơn".

Theo ý của văn này, không chướng ngăn nhân sinh, chỉ lại không có nhân vượt hơn đáng tu tạo, khiến nhân vượt hơn đồng với loại khác.

7-Quyết trạch các thứ:

Hỏi: Nếu tất cả chúng sinh pháp nhĩ năm tánh có khác nhau thì vì sao? Thiện sinh trong kinh Ưubà-tắc Giới quyển nhất, nói rằng: "Nếu nói chúng sinh có tánh Bồ-tát, thì đó gọi ngoại đạo. Lại, nói rằng: "Ba thứ Bồ-đề không có tánh quyết định. Nếu có tánh quyết định đã phát tâm Thanh văn, Duyên giác, thì không thể phát tâm A-Nậu-Bồ-đề, cho đến nói rằng: "Nếu người có tánh quyết định thì đó gọi là ngoại đạo. Vì sao? Vì các ngoại đạo, v.v... không có nhân, quả".

Đáp: "Kinh Thiện Sinh kia ngăn ngừa trong chấp nhân có tánh quả v.v... Hoặc như nói chấp rằng đồng với ngoại đạo, không ngăn ngừa có nhân. Nếu không như vậy, thì trái với kinh Lănggià nói về tướng, tánh của năm thừa. Nói ba thừa không có tánh quyết định: y cứ vào tánh bất định, mà nói và ngăn ngừa chấp thường, vì không có nhân quả là không đúng, kinh Lăng-già nói: "Đại Tuệ! Ta nói năm pháp chủng tánh của thừa, năm pháp đó là":

1- Pháp chứng tánh của Thanh văn thừa.

2- Pháp chứng tánh của thừa Bích Chi Phật.

3- Pháp chứng tánh của thừa Như Lai.

4- Pháp chứng tánh của thừa bất định.

5- Pháp chứng tánh của thừa vô tánh.

Phẩm Điều Phục trong kinh Thiện Giới chép: "Có tánh Thanh văn được đạo Thanh văn v.v… Luận Địa Trì chép: "Trong mười nhân thanh tịnh rằng: "Chủng tánh Thanh văn kia do Thanh văn thừa mà Bát Niết-bàn, v.v... Vô Trước, Di-lặc cũng nói có năm chủng tánh khác nhau, đâu đồng với ngoại đạo? Lại, kinh kia tự thừa nhận năm tánh mới thành, cũng gọi là tánh Bồ-tát v.v..., lẽ ra đồng với ngoại đạo. Văn kinh không nói rằng, nếu vón có tánh Bồ-tát v.v… thì đồng với ngoại đạo".

Hỏi: Nếu năm tánh kia pháp nhĩ có trước thì vì sao Nhập Lăng-già quyển tư chép: "Đại Tuệ phân biệt sự điên đảo của pháp mê hoặc kia, chẳng phải điên đảo, nghĩa là có công năng sinh hai tánh, hai tánh đó là":

1-Công năng sinh ra tánh phàm phu. 2-Công năng sinh ra tánh bậc Thánh.

Đại Tuệ! Tánh của bậc Thánh kia, sinh ra ba thứ tánh khác nhau, cái gọi là tánh khác nhau của cõi nước Phật, Thanh văn, Bích Chi Phật?

Đáp: Lời nói này sinh là do hiện huân tập, khiến được hiện khởi.

Luận Nhiếp Đại Thừa chép: "Quả sinh không có huân tập là phi đạo lý. Không y cứ vào hạt giống xưa nay là không, nay mới sinh. Không như vậy, thì tánh phàm cũng nói rằng: "Sinh là xưa nay không, nay mới khởi ư?".

Hỏi: Nếu nói rằng Phật tánh có, thì vốn có, lẽ ra như hư không là thường, không có thì hằng không có, lẽ ra đồng với sừng thỏ.

Nếu như vậy, thì sẽ trái với thuyết kinh Niếtbàn, kinh ấy nói: "Vì có nên phá sừng thỏ; vì không, nên phá hư không".

Các thuyết nói như thế không chê bai Tam bảo? Đáp: Ý kinh Niết-bàn là vì khiến cho quán nhân duyên sinh diệt của sự tánh, nên chẳng phải thường như hư không. Vì duyên sinh y cứ vào có, chẳng phải không có như sừng thỏ, không ngăn ngại có, không có tanh riêng của hữu tình.

Hỏi: Dù về sự, Phật tánh có, không khác nhau, nhưng về mặt lý thì tánh có khắp. Nếu như vậy, thì phải thừa nhận tất cả hữu tình đều sẽ được thành Phật. Vì sao?

Vì luận Phật Tánh v.v… dẫn rằng: "Nên kinh nói: "Nếu người có tánh thanh tịnh mà không thành Phật, thì không có việc đó?".

Đáp: Y cứ vào ý ưa thích bình đẳng, thì chẳng phải đều thành Phật. Lại, như phẩm Công Đức trong luận Phật Tánh, chép: "trong thân người có gốc lành, thì có công năng; trong thân người không có gốc lành, thì không có công năng".

Đã không có công năng trong thân người không có gốc lành, thì làm sao khiến cho trong thân người không có tánh hạnh, có tánh hạnh ư? Lại, như luận Tư Lương y cứ vào tánh quyết định mà nói: "Các Thanh văn được quả Vô học, tất nhiên sẽ không làm Phật, như gạo không có trấu cám, thì hạt giống sẽ không nẩy mầm, chẳng lẽ tất cả Thanh văn đều không thành Phật ư? Nên các kinh, luận đều y cứ vào một nghĩa, đều không trái với nhau".

Hỏi: Nếu về sự, Phật tánh có tức vốn có, chẳng phải mới huân tập mà sinh, vậy văn nào nói rõ điều đó?

Đáp: Du-già quyển 57 chép: "Sinh Na-lạc-ca, ba gốc hiện hành, nhất định không thành tựu hạt giống. Hoặc thành, hoặc không thành, nghĩa là pháp Bát Niết-bàn là thành tựu; pháp không Bát Niết-bàn thì không thành tựu".

Văn này y cứ thú hướng sự sinh mà nói, chẳng phải y cứ hóa sinh. Y cứ hạt giống hiện hữu, chẳng phải y cứ vào đương lai. Không như vậy, thì hiện hành sẽ cũng hiện khởi, đâu nói không thành? Trong phẩm chủng tánh thứ nhất luận Đại Trang Nghiêm cũng nói: "Chủng tánh có thể do bốn thứ khác nhau":

1- Do thế giới khác nhau.

2- Do tín khác nhau.

3- Do hạnh khác nhau.

4- Do quả khác nhau.

Cho đến nói: "Nếu không có tánh khác nhau, thì sẽ không có sự khác nhau giữa tín, hạnh, quả".

Do bốn thứ khác nhau này, nên phải biết chủng tánh có tự thể. Lại, luận Du-già quyển 21 chép: "Thế nào là chủng tánh? Nghĩa là Bổ-đặc-già-la chủng tánh, có pháp hạt giống, vì hiện có, nên an trụ Bổ-đặc-già-la chủng tánh. Nếu gặp duyên vượt hơn, thì sẽ có khả năng gánh vác, ấy là có thế lực, đối với Niết-bàn của họ, cũng có khả năng đắc; có khả năng chứng".

Lại, nói rằng:

Hỏi: "Nay chủng tánh này, lấy gì làm thể?".

Đáp: Dựa vào đối tượng nương tựa, có tướng như thế, thuộc về sáu xứ. Từ đời vô thỉ lần lượt xoay vần đến nay, pháp nhĩ sở đắc. Lại nói: "Hạt giống như thế, chẳng phải ở sáu xứ có tướng khác nhau, tức đối với phàn vị chủng loại như thế, sáu xứ cao quý, từ đời vô thỉ, lần lượt truyền đến nay, sở đắc pháp nhĩ, có tướng như thế, kể cả ngôn thuyết, nghĩa là vì chủng tánh, hạt giống, tánh giới. Văn luận Bồ-tát Địa và văn phẩm Thiện hạnh, v.v... của kinh Thiện Giới đều giống nhau, không được giải thích khác".

Rằng: "Tánh chủng tánh do tu thành tánh". Luận rằng: "Không phải là người chủng tánh, vì không có chủng tánh, mặc dù phát tâm siêng tu tinh tấn, nhưng tất nhiên cuối cùng sẽ không thành ANậu Bồ-đề".

Cho nên, phải biết rằng, dù không phát tâm, không tu hành phương tiện, nhưng cũng được gọi là chủng tánh trì.

Kinh Vô Thượng Y quyển một chép: "A-nan! Thế nào là cõi Như Lai? Như Lai là cõi không thể suy nghĩ, bàn luận là sao? A-nan! Tất cả chúng sinh đều có chủng loại của tướng vượt hơn của ấm, giới, nhập đã được biểu hiện trong, ngoài, từ thời vô thỉ, nối tiếp truyền đến nay, pháp nhĩ mà được sinh mầu nhiệm sáng suốt".

Đã nói rằng: "Có chủng loại của tướng vượt hơn của ấm, nhập, giới, đã được biểu hiện trong, ngoài, từ vô thỉ truyền đến nay, là thuyết chẳng phải như ký, cũng chẳng phải mới sinh".

Luận Du-già lại chép: "Hơn nữa, người trụ chủng tánh, có các tướng, nghĩa là với tất cả không có pháp Niết-bàn, trái với các tướng Bổ-đặc-giàla, đã có các tướng đến với sáu tướng, rộng như luận kia đã giải thích".

Lại rằng: "Hoặc có người chỉ trụ chủng tánh mà chưa thu nhập, cũng chưa ra khỏi, nghĩa là như có một Bổ-đặc-già-la thành tựu hạt giống pháp Thánh xuất thế, mà chưa được gần gũi Thiện sĩ, lắng nghe chánh pháp, chưa đối trước Như Lai chánh giác, chánh thức nói pháp Tỳ-nại-da, đạt được niềm tin chân chính, chưa thọ trì tịnh giới, chưa tiếp học rộng, chưa tăng trưởng tuệ xả, chưa điều phục, nhu thuận các kiến".

Như thế, gọi là người chỉ mới trụ chủng tánh mà chưa thú nhập, cũng chưa ra khỏi.

Lại, luận Du-già quyển 38 giải thích trong mười nhân và kinh Thiện Giới, luận Địa Trì nói về mười nhân, nói về tánh bản hữu, văn đều tương tự, e rườm rà, nên không dẫn chứng đủ.

Luận Phật Tánh quyển 4 chép: "Năm không có ban đầu, tương ưng với tánh thiện là pháp".

Giải thích: "Không có ban đầu. Nghĩa là do tánh được Bát-nhã, Đại bi, Pháp thân, vì đều vốn có, nên nói: "Không có ban đầu". Nếu vô lậu này từ hữu lậu sinh, tức nhân của Bát-nhã, Đại bi, Thiền định, v.v... là pháp hữu thỉ, đâu được không có ban đầu từ hữu lậu sinh, sao gọi là tánh đắc".

Luận Bảo Tánh quyển 4 chép: "Phật tánh có hai":

1- Như kho tàng trong lòng đất.

2- Như ổ chim v.v… trên cây.

Theo ý văn luận kia, kho tàng trong lòng đất ví như chân như; ổ chim trên cây dụ cho Bát-nhã, v.v… nên tiếp theo nói: "Vì dựa vào thí dụ thứ hai biết cho hai thân Phật, hai thứ Phật tánh đều nói rằng thế giới Vô thỉ, chưa nói bản hữu vô lậu, không chỉ mới sinh".

Lại, hạt giống vô lậu, nếu chỉ mới sinh, thì tức huân tập nghe hữu lậu sẽ làm nhân duyên gần cho chánh kiến xuất thế, vậy sao luận Nhiếp Đại thừa dịch vào đời Lương lại chép: "Phật, Thế Tôn nói: "Nghe tiếng từ người khác và tự chánh suy nghĩ, do hai nhân này, chánh kiến được sinh?".

Giải thích: "Phẩm thanh tịnh dùng chánh kiến làm đầu, Chánh kiến này lấy pháp nào làm duyên tăng thượng? Nghĩa là từ người khác nghe tiếng và tự chánh suy nghĩ, hai thứ này tức là duyên tăng thượng của chánh kiến, cho đến nói rộng: "Do hai nhân này, chánh kiến được sinh. Hai nhân này là duyên tăng thượng của chánh kiến. Nay, nhân đã nói là tên chung, tức nói duyên làm nhân. Lại, luận chép: "Tâm thế gian tương ưng với chánh tư duy, tâm thanh tịnh xuất thế tương ưng với chánh kiến, không có lúc nào sinh chung, diệt chung".

Giải thích: "Chánh tư duy, chánh tu tuệ từ bốn Niệm xứ sinh; pháp thế đệ nhất là ngôi vị của bốn niệm xứ đó. Vì tâm này chưa chứng kiến bốn đế, nên gọi là tâm thế gian. Đã chứng thấy bốn đế, nên gọi là xuất thế, lìa pháp tự tánh, vì là pháp tu đắc, nên gọi là tâm tịnh, chánh kiến tức phần thứ nhất trong tám Thánh đạo. Chánh kiến này và ba mươi bảy phẩm không lìa nhau, cho đến nói rằng: "Vì từ ba mươi bảy phẩm sinh, nên được xuất thế, từ vô thỉ đến nay, tâm thế gian, xuất thế gian không có nghĩa cùng sinh, cùng diệt, vì trái với tánh".

Luận nói: "Cho nên, tâm thế gian này, chẳng phải quan hệ với đối tượng huân tập của tâm thanh tịnh".

Đã không có huân tập, thì lẽ ra không được thành hạt giống xuất thế.

Giải thích: "Nếu như tuệ là đối tượng huân tập của tâm xuất thế, thì sẽ được trở thành hạt giống xuất thế".

Đã không có nghĩa bị huân tập, nên nghĩa hạt giống xuất thế không thành.

Y cứ vào văn luận này, hạt giống vô lậu nếu mới huân tập sinh, do vô lậu là cùng có mới được sinh. Kiến đạo trở xuống đã không có vô lậu, thì hữu lậu làm sao huân tập thành vô lậu. Nếu thừa nhận hữu lậu, huân tập hạt giống vô lậu, thì không nên vặn hỏi người khác; chẳng phải vô lậu cùng có không được huân tập hạt giống; tự thừa nhận chẳng phải vô lậu, đều có huân tập hạt giống vô lậu.

Hỏi: Nếu đã huân tập nghe hữu lậu trước kiến đạo, thì sẽ không thể sinh vô lậu, sao luận nói: "Dù là pháp thế gian trở thành tâm xuất thế".

Giải thích: "Như ý thức dù là pháp thế gian, nhưng có thể thông đạt chân như của bốn đế, vì đối trị chướng ngại bốn đế, nên trở thành tâm xuất thế; huân tập nghe cũng vậy. Dù là pháp thế gian do nhân quả, nhưng vì đều là pháp xuất thế, nên cũng trở thành tâm xuất thế?".

Đáp: Vì vốn vô lậu huyền vi, sâu kín khó biết, nhờ hữu lậu huân tập duyên tăng thượng vượt hơn, làm sáng tỏ hạt giống vô lậu gốc, tức hạt giống này ở phần vị huân tập, vì cũng gọi là huân tập nghe, nên kế là nói rằng: "Vì sao?".

Giải thích: "Vì sao? Vì pháp này chỉ là xuất thế, chẳng phải pháp thế gian, vì có bốn thứ đối trị":

Theo đây, đã nói rằng: "Chỉ là xuất thế, chẳng phải pháp thế gian, chứng tỏ chẳng phải hữu lậu. Lại, nói rằng: "Tâm thanh tịnh xuất thế của hạt giống này khi chưa khởi, đối trị với tất cả hoặc của tâm trên". Vì y cứ vào luận này, nên biết kiến đạo trở xuống là phần vị huân tập hữu lậu, đã có hạt giống của tâm vô lậu". Lại nói: "Hạt giống tức là huân tập nghe: Vị tri, dục tri căn của Bồ-tát, gọi là tâm tịnh xuất thế. Tâm này trước kia chưa tồn tại, là huân tập nghe, thuộc về phần vị tuệ nghe, tư duy; ở trong vị nghe, suy nghĩ so sánh với đây nên biết. Nói huân tập hữu lậu trở thành tâm xuất thế, đó là nói theo duyên tăng thượng. Lại, nói rộng, như luận kia đã giải thích, ở đây sơ lược lại không dẫn chứng".

Hỏi: Các hữu tình đã đồng ý có chân như và thức thứ tám, sao không thừa nhận là chánh nhân của Phật?

Đáp: Như tự không sinh, cũng không trực tiếp làm pháp sinh của chánh nhân, như trước đã nói. Nếu thừa nhận thức thứ tám là chánh nhân của Phật, thì tức là vô lậu. Hơn nữa, đối trị với thức thứ tám hữu lậu, mới có khả năng thành Phật. Thừa nhận thức thứ tám là chánh nhân của Phật, tức lẽ ra chủ thể trị tự thức thứ tám.

Nếu như vậy, thì sẽ trái với Nhiếp luận dịch vào đời Lương rằng: "Thế nào là thức quả báo của tất cả hạt giống trở thành nhân của phẩm bất tịnh? Nếu có thể làm nhân của tâm thanh tịnh xuất thế, đối trị với ô nhiễm, vẩn đục".

Giải thích: "Nếu lập bản thức là nhân xuất thế, đối trị với ô nhiễm, vẩn đục, thì sẽ không được dùng bản thức làm nhân của phẩm bất tịnh; phẩm bất tịnh tức tập đế và khổ đế là hạt giống phiền não nghiệp, là Tập đế, cho đến nói rằng: "Đã lập làm đối trị ô nhiễm, vẩn đục, và vì nhân của tâm xuất thế, thành ra không nên lại nói là nhân của phẩm Bất Tịnh. Như thế, thức thứ tám hữu lậu chẳng phải chánh nhân của Phật. Hơn nữa, thức thứ tám, tất cả hữu tình đồng có, chẳng có Ba thừa khác nhau, tức kinh Thiện Giới; luận Địa Trì, Bồ-tát Địa, v.v... nói nhân khác quyết định tánh Ba thừa khác nhau và tâm điều phục, tánh Ba thừa khác nhau, vì đều không được thành, nên nương tựa vào hạt giống vô lậu của bản thức này, là chánh nhân của Phật".

Hỏi: Nếu không thừa nhận chân như là chánh nhân của Phật, vậy sao luận Phật Tánh nói lý chân như là chánh nhân của Phật, kinh Bát-nhã, v.v... là nhân duyên của Phật, luận Du-già lại nói: "Từ hạt giống sở duyên duyên của chân như mà sinh".

Đáp: Văn của hai luận này như trước kia đã hội thích. Nay, lập lại để giải thích rằng: "hạt giống sở duyên duyên của chân như sinh, nghĩa là giả thuyết sở duyên duyên là hạt giống là chân như thật sự chẳng phải là hạt giống của pháp hữu vi, như nói Tín, Bát-nhã, v.v... là hạt giống của bốn đức, bốn đức của pháp thân chẳng phải do pháp thân kia sinh ra, là pháp thường trụ, vì làm sáng tỏ pháp thân kia, vì giả gọi là hạt giống, nên Nhiếp luận dịch vào đời Lương nói "Huân tập nghe chỉ là hạt giống của đạo đức, bốn Đạo đức có công năng hoàn thành sáng tỏ bốn đức, bốn đức xưa nay là có, không từ hạt giống sinh; vì từ nhân đặt tên, nên gọi là hạt giống". Vì so sánh với đây nên biết, phẩm tâm bốn trí duyên chân như kia sinh, giống như nói chân như, gọi là hạt giống. Nếu thừa nhận chân như thật là hạt giống, có công năng sinh hữu vi thì trái với pháp vô thường thứ nhất trong bảy nghĩa hạt giống của Du-già làm nhân, v.v... cũng trái với văn hữu thể năng sinh hữu thể trong ba tánh của luận Phật Tánh.

Hỏi: Nếu có tánh quyết định thì Nhị thừa sẽ không thành Phật trái với kinh Niết-bàn quyển 36 chép: "Người Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật đều sẽ thành Phật".

Nghe thuyết này xong không sinh lòng tin, cho đến nói rằng: "Đây gọi là thường chìm đắm".

Kinh Pháp Hoa chép: "Thanh văn, hoặc Bồ-tát nghe ta nói pháp xong, cho đến một bài kệ đều sẽ thành Phật, không có hoài nghi, v.v...".

Đáp: Đây là nói bốn quả Thanh văn của tánh bất định, Bích-chi-phật đều sẽ thành Phật. Nghe mà không tin, gọi là thường chìm đắm, v.v... chẳng phải nói tất cả tánh định, bất định đều sẽ thành Phật. nếu không như vậy, thì sao kinh Niết-bàn tự nói rằng "đều được thành Phật", rằng: "Không hiểu ý ta".

Lại, luận Bồ-đề Tư Lương chép: "Há chẳng thấy kinh Niết-bàn hay sao mà nói rằng: "Không thành Phật?".

Hỏi: Có kẻ Xiển-đề quyết định không thành Phật, vì sao kinh Niết-bàn quyển 36 chép: "Nếu người tâm, miệng khác, tưởng khác, nói là Nhấtxiển-đề không được Bồ-đề, người này cũng chê bai Phật, pháp, tăng".

Đáp: Theo ý văn này, nếu nói Nhất-xiển-đề, quyết định không được Bồ-đề, thì gọi là chê bai Phật, pháp, tăng, chẳng phải chướng ngăn phần ít". Nếu như vậy, thì lại trái với luận Bảo Tánh chép: "Rằng, nhằm nói Xiển-đề thường không nhập Niết-bàn, không có tánh Niết-bàn. Vì muốn hồi chuyển tâm chê bai Đại thừa, vì tâm không cầu Đại thừa, nên dựa vào vô lượng thời gian".

Nói như thế, vì hữu tình kia thật sự có tánh thanh tịnh, nên luận Phật Tánh chép: "Người có tánh là thuyết hữu liễu; người nói không có tánh là thuyết không liễu, cho đến vì lặp lại. Phật quán tất cả chúng sinh đều có tự tánh thanh tịnh, sau này chắc chắn được pháp thân thanh tịnh".

Theo đây, nên biết rằng không có kẻ Xiển-đề nào không có Phật tánh, cũng không có hữu tình nào không thành Phật.

Đáp: Đây là y cứ ý ưa thích lý tánh bình đẳng và trong thường chìm mà kinh Niết-bàn đã nói.

Niết-bàn quyển hai chép: "Dù không phải Xiển-đề, cũng thường chìm đắm". Kinh Vô Thượng Y, v.v... chép: "Trong ba thứ pháp không có pháp Niết-bàn".

Người thứ hai nói: "Lăng-già quyển 5 chép: "Người không có tánh thừa, cũng đồng với hội thích này, không hội thích Xiển-đề, gọi là thường chìm đắm. Bảy người đều có một, và kinh Vô Thượng Y quyển nhất chép: "Không có pháp Niếtbàn".

Hỏi: Nếu như vậy, thì vì sao luận Bảo Tánh, luận Phật Tánh đều dẫn kinh nói: "Kẻ Nhất-xiểnđề rơi vào định tà có hai thứ thân":

1-Pháp thân của bản tánh 2-Thân tùy ý.

Ánh sáng trí tuệ của mặt trời Phật soi rọi hai thân này, pháp thân: tức lý chân như. Thân tùy ý, tức từ như lý khởi ánh sáng Phật soi sáng vì thương xót Xiển-đề. Hai thân của Xiển-đề là:

1- Vì khiến pháp thân được sinh

2- Vì khiến gia hạnh được tu hạnh Bồ-tát lâu dài, quán sát được thành.

Đáp: Đây là nói theo kẻ Xiển-đề có tánh không như vậy, thì tự trái với phẩm Sự Năng trước kia nói: "Chúng sinh tu bất định, khởi hai việc này làm dụng, không nói nhóm định là dụng". Lại, nói: "Người này vì phần tịnh làm duyên, tánh tịnh làm nhân thành ra quán này, chẳng phải không có nhân duyên. Nếu không do đối với hai việc này trở thành quán, không có nhân duyên, như Xiển-đề không có tánh Niết-bàn, lẽ ra được quán này, với Nhất-xiểnđề không có quán này, nên biết định cần quán nhân duyên, mới có thể biểu hiện không có tánh. đã không thừa nhận có quán, nói biết không có tánh không được thành Phật, lại cũng đồng với kinh Niết-bàn quyển 9 chép: "Ánh sáng của Đại Niếtbàn rọi vào lỗ chân lông của tất cả chúng sinh, có công năng làm nhân Bồ-đề".

Nghĩa này không đúng, vì sao? Vì Đức Thế Tôn nói: "Người phạm bốn trọng cấm, kẻ gây ra năm tội nghịch và Nhất-xiển-đề, ánh sáng rọi vào thân, làm nhân Bồ-đề, chúng sinh như thế, v.v… vâng giữ tịnh giới, tu tập các pháp lành, có khác nhau, cho đến Phật nói: "Này người thiện nam! Trừ Nhất-xiển-đề, chúng sinh khác nghe kinh này xong, đều có khả năng tạo ra nhân duyên Bồ-đề, tiếng pháp, ánh sáng rọi vào lỗ chân lông, chắc chắn sẽ được A-nậu-Bồ-đề".

Vì theo đây, nên biết luận Phật Tánh, v.v... dẫn kinh chép: "Ánh sáng mặt trời tuệ của Phật soi rọi vào thân Xiển-đề, khiến cho sinh trưởng, là người có tánh:".

Kinh Niết-bàn chép: "Trừ kẻ Nhất-xiển-đề, là kẻ không có tánh, là không đúng, vì sao có trừ, không trừ khác nhau. Lại nói rằng: "Nếu người được nghe kinh Đại Niết-bàn này, thì cho dù họ có phạm bốn tội cấm và năm Vô gián, cố nhiên cũng có thể làm nhân duyên Bồ-đề, hạng Nhất-xiển-đề thì không như thế. Dù được nghe nhận kinh điển mầu nhiệm này, nhưng không thể sinh ra nhân của đạo Bồ-đề. Lại, có nhiều thí dụ, như cây khô, đá, nước, đã không trụ. Thí dụ như hạt giống bị rang dù gặp mưa cam lộ, sau cùng vẫn không nẩy mầm. Lại nói: "Dù cho tất cả vô lượng chúng sinh, lúc thành tựu A-nậu Bồ-đề", thì các Như Lai này cũng không thấy Nhất-xiển-đề kia được thành Bồ-đề.

Đây là thuyết hiển liễu của Niết bàn, làm sao không tin có người không thành Phật, nên biết kinh nói có một Xiển-đề, gọi là không có tánh, mà lại nói rằng sẽ được thành Phật.

Y cứ có hạt giống, Phật mật ý nói "có" sự khác nhau của các thừa thêm bớt khác nhau, rộng như giải thích khác. Lược giải thích đại cương, pháp khác khó suy nghĩ được.


[Đầu trang][Mục lục bộ Chư Tông][Mục lục tổng quát]