TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠP TẠNG

BỘ CHƯ TÔNG

SỐ 1869 - NĂM MƯƠI CÂU HỎI ĐÁP QUAN TRỌNG CỦA HOA NGHIÊM

Biên soạn: Sa-môn Trí Nghiễm chùa Chí Tướng ở núi Thái Nhất thuộc Chung Nam, đời Đại Đường

MỤC LỤC

SỐ 1869 - NĂM MƯƠI CÂU HỎI ĐÁP QUAN TRỌNG CỦA HOA NGHIÊM

QUYỂN THƯỢNG

1. Mười Phật và danh nghĩa, giải thích trong phẩm Ly Thế Gian:

2. Nghĩa thọ chứa, sau phẩm Thập Trụ.

3. Nghĩa chúng sinh thành Phật, sau mười, nhiều giải thích:

4. Nghĩa trước, sau thành Phật, sau bốn mươi Vô ngại biện:

5. Nghĩa một niệm thành Phật cũng sau bốn mươi vô ngại biện:

6. Nghĩa thành hóa độ của Phật phương khác.

7. Nghĩa quyến thuộc Phật mẫu, giải thích trong hậu Ma-da:

8. Nghĩa căn hữu tình của Phật, giải thích trong phẩm Sơ thỉnh của phẩm thứ hai:

9. Nhân quả của Phật, Bồ-tát chung cho nghĩa cuộc hạn, giải thích sau phẩm Lô-xá-na:

10. Nghĩa chung, riêng tu đạo của các giáo, thuyết tam-muội ly cấu đầu tiên của địa thứ mười:

11. Nghĩa thành thật, không thành thật, giải thích sau khu rừng rậm:

12. Nghĩa tướng mạo của Phật, giải thích trong phẩm Tri Thức thứ ba:

13. Nghĩa đại sự, tiểu sự, giải thích hai địa gồm thâu sinh giới:

14. Nghĩa tín mãn, thành Phật, giải thích phẩm Hiền Thủ:

15. Nghĩa hưng thịnh của Phật trong kiếp giảm, giải thích sau lợi ích của địa sau Thập địa:

16. Cây Bồ-đề là nghĩa bắt đầu, giải thích hội Thập trụ đầu tiên:

17. Giải thích nghĩa thường, vô thường của thân Phật trong Bồ-đề của phẩm Khởi Tánh:

18. Giải thích tướng đồng, tướng bất đồng về nghĩa chuyển y của Phật trong phẩm Địa:

19. Nghĩa chuyển bốn thức thành bốn trí. Cũng giải thích xứ, tướng khác nhau của phẩm Địa:

20. Giải thích phần danh, giải thích địa thứ mười nghĩa tướng giáo:

21. Nghĩa phân chia xếp đặt của Nhất thừa, giải thích sau bốn mươi vô ngại biện tài:

22. Lập nghĩa vị Nhất thừa cũng giải thích sau bốn mươi vô ngại:

23. Nghĩa phương tiện sáu đường trở thành thanh tịnh cũng giải thích sau bốn mươi vô ngại biện tài:

24. Nghĩa lập tạng khác nhau, giải thích trong phẩm Thập tạng:

25. Giải thích đầu tiên mười thứ rừng rậm, nghĩa là tâm, ý, thức:

26. Nghĩa loại khác nhau của các kinh bộ, giải thích các văn gom góp của phẩm Tựa:

27. Giải thích trong địa thứ tư, ý nghĩa của phẩm Đạo:

28. Giải thích sau phẩm Tánh khởi, nghĩa Niết bàn:

29. Giải thích trong địa thứ hai, ý nghĩa giới học:

30. Giải thích trong ba địa, ý nghĩa định học:

31. Nghĩa tuệ học, giải thích xứ trí trong địa thứ chín:

32. Đầu tiên giải thích về thiện tri thức, ý nghĩa Hiền Thánh:

33. Giải thích trong phẩm Thập minh, ý nghĩa nhóm sắc:

34. Nghĩa bất tương ưng, giải thích trong thuyết thành tựu của chín địa:

35. Giải thích trong mười tâm, sau Sơ địa, nghĩa ba tánh, ba vô tánh:

36. Giải thích đầu tiên rừng rậm, nghĩa của tâm sở và tâm sở hữu pháp:

QUYỂN HẠ

37. Ý nghĩa ba đời khác nhau, giải thích trong phẩm Ly Thế Gian:

38. Nghĩa chướng, giải thích đầu tiên phẩm Phổ Hiền:

39. Nghĩa chướng riêng của Nhất thừa, cũng giải thích đầu tiên phẩm Phổ Hiền:

40. Giải thích xứ thứ mười một trong tri thức, môn Đà-la-ni:

41. Số môn thừa, danh không đồng nghĩa, cũng giải thích sau bốn mươi biện tài:

42. Giải thích về sơ Tứ thiền ba địa, nghĩa bốn tầm tư:

43. Giải thích đầu phẩm nói về vấn nạn, nghĩa nhân duyên như thật:

44. Giải thích đầu tiên hồi hướng thứ năm, nghĩa pháp sám hối:

45. Nghĩa dụng Đà-la-ni, cũng giải thích trong mười một tri thức:

46. Giải thích trong địa thứ sáu, nghĩa lược quán của Duy thức:

47. Giải thích trong mười tâm sau Sơ địa, nghĩa quán Không:

48. Giải thích đầu tiên hồi hướng thứ chín, cung kính nhìn nhận khắp nghĩa ác.

49. Giải thích sau phần thỉnh của Sơ địa, nghĩa bốn tông:

50. Giải thích phẩm Thập Tạng, ý nghĩa mười hai bộ kinh:

51. Trái với nghĩa y, giải thích sau phẩm tựa:

52. Giải thích đầu tiên phẩm Thập Địa, nghĩa môn tục đế nhập Phổ Hiền:

53. Giải thích sau bốn mươi vô ngại, Nhất thừa được danh, ý:


QUYỂN THƯỢNG

Nay lập năm mươi câu hỏi đáp quan trọng để làm sáng tỏ nghĩa tiết của văn Nhất thừa.

1. Mười Phật và danh nghĩa, giải thích trong phẩm Ly Thế Gian:

Hỏi: Thế nào là thấy Phật và danh số Phật? Nghĩa bất đồng trong giáo Nhất thừa, Ba thừa, Tiểu thừa?

Đáp: Y cứ vào giáo pháp Tiểu thừa, thấy ba mươi hai tướng của sắc thân Phật là thấy Phật. Nhãn căn và cảnh, đồng thời tương ưng với thấy sắc tướng thật, gọi là thấy Phật.

Nếu y cứ vào Ba thừa thấy ba mươi hai tướng sắc thân thật của Phật, không gọi là thấy Phật, vì kết hợp với phân biệt biến kế. Nếu thấy tướng có tự thể giống nhau, thì là gọi giống nhau, cũng chẳng phải thấy Phật.

Nếu biết chẳng có tánh, chẳng có tướng vị lai, quá khứ, tức sắc là không, chẳng phải không của sắc diệt. Bình đẳng, chẳng phải như cái gọi là, đó gọi là thấy Phật, vì tương ưng với thể của Phật, nên dựa vào giáo Nhất thừa, thấy, nghe dĩ vãng, quá khứ, cho đến hội ý biết tướng vô sinh và thích ứng với mười số thấy mười vị Phật kia.

1. Phật vô trước, an trụ thế gian, thành Chánh giác.

2. Phật nguyện, vì sinh ra.

3. Phật nghiệp báo, vì có lòng tin.

4. Phật trì, vì thuận theo.

5. Phật Niết-bàn, vì độ mãi mãi.

6. Phật pháp giới, vì chẳng có chỗ nào không đến.

7. Phật tâm, vì an trụ.

8. Phật tam-muội, vì vô lượng không có chấp mắc.

9. Phật tánh, vì quyết định.

10. Phật như ý, vì che khắp nên gọi là thấy Phật. Vì thấy như thế, thuận với chánh lý thì sẽ nhìn thấy Như Lai vô thượng. Vì sao? Vì thành pháp phần Bồ-đề và pháp phần giải thoát. Sự khác nhau giữa thô, tế, đối cơ sinh tín đầu tiên, vì bắt đầu là khác nhau.

Sự khác nhau về danh số của Phật đối với Nhất thừa, nhiều ít thế nào? Nghĩa là danh số Phật của giáo Nhất thừa có mười, như kinh Hoa Nghiêm chép: "Một là Phật vô trước. Hai là Phật nguyện. Ba là Phật nghiệp báo. Bốn là Phật trì. Năm là Phật Niết-bàn, sáu mươi sáu Phật pháp giới, bảy là Phật tâm, tám là Phật Tam-muội, chín là Phật tánh.

Mười là Phật như ý."

Phật đối với Ba thừa có ba:

1. Phật pháp thân.

2. Phật báo thân.

3. Phật hóa thân.

Một là: Phật pháp thân, cũng gọi thân tự tánh, tức chân như bản thức.

Hai là: Phật báo thân, cũng gọi là ứng thân, thì tu sinh hạnh đức thành.

Nếu y cứ vào hai vị Phật Tiểu thừa: Phật sinh thân, và Phật hóa thân thì đều tu sinh, hạnh từ bi ái thành.

Nếu khen ngợi đức của Phật, hoặc một, hoặc ít, hoặc nhiều thời gian là Ba thừa. Hoặc lúc khen ngợi nhiều ít, cho đến nhiều thời gian, nhiều khen ngợi Nhất thừa.

2. Nghĩa thọ chứa, sau phẩm Thập Trụ.

Hỏi: Các giáo pháp thành Phật thọ chức như thế nào?

Đáp: Nếu Tiểu thừa thọ chức, thì chỉ giáo trong nghĩa nhân, trở thành nghĩa không có sự riêng.

Nếu Ba thừa thọ chức thì sẽ dựa vào lý, xứ mà thành, cũng không nói về sự, lý, như kinh Hoa Nghiêm có nói rộng.

3. Nghĩa chúng sinh thành Phật, sau mười, nhiều giải thích:

Hỏi: Y cứ vào trong các giáo, hữu tình chúng sinh thành Phật ra sao?

Đáp: Y cứ vào giáo Tiểu thừa, trong cùng một lúc, chỉ có hạnh ái từ bi của một vị Bồ tát. Dựa vào ba mươi ba tâm, thứ lớp thành Phật, hạnh, kiến khác, đều không thành Phật, chỉ được hai thứ Niếtbàn vô dư.

Nếu y cứ vào Thỉ giáo của Ba thừa thì một nửa thành Phật, một nửa không thành Phật.

Nếu hai người tiến thẳng và hồi tâm, tu hành mười ngàn kiếp, người trụ địa Kham Nhẫn đều thành Phật. Nếu chưa đến vị này thì sẽ đồng với Nhất-xiển-đề-ca, những người này đều không thành Phật.

Đây là y cứ vào năm vị, nếu y cứ vào sự phán quyết này thì so sánh bốn luận chứng phân biệt, cũng có thể biết. Ở đây, như Du-già, Bồ-tát Địa chép: "Nếu y cứ vào Chung giáo của Ba thừa thì tất cả chúng sinh hữu tình đều sẽ được thành Phật". Do trí Thánh của người khác làm sáng tỏ Phật tánh bản hữu và vì tánh hạnh nên dứt trừ cỏ, cây, như kinh Niết-bàn chép: "Y cứ vào nghĩa Nhất thừa thì tất cả chúng sinh đều nương tựa chung và đều sẽ thành Phật". Như kinh Hoa Nghiêm chép: "Dùng nghĩa này so sánh với nghĩa của bốn luận chứng ở trên, tức là Cộng giáo của Nhất thừa, chẳng phải là Biệt giáo.

4. Nghĩa trước, sau thành Phật, sau bốn mươi Vô ngại biện:

Hỏi: Các giáo nói: hữu tình, tất cả chúng sinh thành Phật trước sau, mình người ra sao?

Đáp: Y cứ theo giáo Tiểu thừa thì chỉ một người thành Phật, nếu nhập giáo khác thành Phật thì thời gian trước, sau khác nhau. Nếu thời gian sau giáo hóa hữu tình thành Phật thì vì không có Phật ở mười phương nên nương tựa giáo pháp ba thừa, vì có Phật mười phương nên đồng thời ở chỗ khác thành Phật.

Nếu hữu tình khác cũng có chủ thể hóa, đối tượng hóa thì đồng thời thành Phật, vì tới, lui không nhất định nên dựa vào giáo pháp Nhất thừa, trong mỗi niệm thành Phật, đều tận cùng hữu tình đã được hóa độ. Mười Trụ trong các vị trở đi, cho đến Bồ-đề đều tận cùng cõi chúng sinh, đều thành Phật đồng khắp, không có trước, sau, vì đồng một đại thọ duyên khởi.

5. Nghĩa một niệm thành Phật cũng sau bốn mươi vô ngại biện:

Hỏi: Một niệm thành Phật và nhiều kiếp thành Phật khác nhau như thế nào?

Đáp: Y cứ theo giáo pháp Tiểu thừa thì mãn ba A-tăng-kỳ đại kiếp thành, hoại của thế giới, chắc chắn sẽ thành Phật.

Không có một niệm thành Phật: Y cứ giáo pháp Ba thừa, hoặc một niệm thành Phật, việc này có hai nghĩa:

Một là: Do khi giai vị Giác lý đầy đủ thì chỉ một niệm.

Hai là: Khi gặp duyên từ thật, thì pháp tánh chẳng có nhiều, ít, dài ngắn, vì một thành tức tất cả thành, tất cả thành tức một thành. Nếu y cứ vào một thiên giới, quyết định ba tăng-kỳ thành Phật, thì đây là y cứ vào thuyết một trăm hai mươi số của Hoa Nghiêm nói về nghĩa tăng kỳ, nếu chung cho thế giới khác cũng không quyết định ba Tăng-kỳ, như kinh Thắng Thiên Vương chép: "Y cứ vào nghĩa Nhất thừa thì lúc thành Phật đều không quyết định, vì thời tiết của thế giới mười phương đều đồng với thế giới của Nhân-đà-la, đều y cứ ở vị báo của phần thích hợp để nói về tương tác, tương nhập của các kiếp hữu vi, nên chẳng có thời lượng nhất định, nhưng vẫn là pháp của thời lượng không trái.

6. Nghĩa thành hóa độ của Phật phương khác.

Giải thích trong phẩm Vân Tập đầu tiên của phẩm thứ hai:

Hỏi: Tướng các giáo ứng hóa của chư Phật ở phương khác ra sao?

Đáp: Theo giáo pháp Tiểu thừa thì không có Phật của phương khác, nếu có, tức là Phật của phương này biến hóa đến phương kia.

Y cứ giáo pháp Ba thừa, tịnh độ mười phương nơi có chư Phật đều là Phật bao, không có biến hóa. Nên quyền khởi thì chẳng nhất định thỉ chung, khiến cho căn cơ hữu tình biết người biến hóa thuộc về hóa. Nếu ở xứ Sắc Cứu Cánh và dưới cây Bồ-đề thì hai vị Phật đối nhau có hai nghĩa:

Một là: Dùng hóa làm sáng tỏ báo, tức dưới cây Bồ-đề nói lên một cách sáng tỏ Phật trong biển thế giới Liên Hoa Tạng, vì là báo thân.

Hai là: Dùng báo thân làm rạng rỡ hóa thân. Nêu xứ Sắc Cứu Cánh hình thành thân cao lớn, làm sáng tỏ cây Bồ-đề là nghĩa hóa.

Nếu y cứ Nhất thừa thì chỉ có mười vị Phật, nói về phần công hạnh, thì không chia ra nghĩa tu sinh hữu và bản hữu.

Nếu thể giải đại đạo thì thể là thể tướng của nhất thiết chung, tức tất cả chủng tướng, dụng tức tất cả thứ dụng. Các phương xuất hiện Phật, hoặc danh, hoặc nghĩa, nếu y cứ vào biển của Phật Thích-ca thì sẽ ấn định hóa hiện, không có Phật riêng.

7. Nghĩa quyến thuộc Phật mẫu, giải thích trong hậu Ma-da:

Hỏi: Tướng nghĩa của các quyến thuộc Phật mẫu Ma-da như thế nào?

Đáp: Theo giáo pháp Tiểu thừa, Ma-da Phật mẫu là thân mẫu của Phật chân thật ở châu Thiệmbộ này. Trong thế giới khác thì chẳng có thật, vì là Phật hóa thân.

Y cứ Thỉ giáo của Ba thừa, đối với tất cả Phật trong một Tam thiên, v.v… đều là quyến thuộc của Ma-da hóa Phật, cũng chẳng phải thật, các xứ của cõi Tam thiên cũng có Phật riêng, nghĩa hóa đồng với trước. Các quyến thuộc của Phật mẫu trong tịnh độ cũng chỉ là hóa, vẫn là hóa pháp môn, chẳng phải hóa tám tướng.

Nếu Chung giáo của Ba thừa, như thế giới đồng loại của Tam thiên, v.v… hóa hiện thành Phật, đều là hóa Phật. Vì sao biết được? Luận Đại Trí Độ chép: "Thế giới thành Phật, dẫn chứng rộng như sớ, được biết đều là cảnh của một hóa Phật, vì hiện thân nhiều xứ, nên là Hóa. Thân trời Ma-hê-thủ-la cũng là biến hóa, do quyền hiển dưới cây Bồ-đề của Diêm-phù là hóa Phật, nên tất cả Phật của thế giới Liên Hoa Tạng là thật báo. Tịnh độ mười phương của thể, tướng, dụng chung đã có Phật xuất hiện là báo thân Phật, tất cả thân thuộc là pháp môn vì hiện đang dẫn dắt chúng sinh có thói quen khác lạ, tiểu căn của Ta-bà này, như kinh Đại Vô Lượng Thọ chép: "Nếu y cứ vào Nhất thừa, tất cả chư Phật tồn tại ở lưới giáo mà Phật Thích-ca đã hóa độ với danh nghĩa hiển hiện đều là năng lực định hải ấn của Phật Thích-ca".

Do nghĩa này, so sánh với các quyến thuộc đều đồng như vậy. Nghĩa thể, tướng, dụng và tánh thay đổi, biến hóa, y theo nghĩa này có thể biết.

8. Nghĩa căn hữu tình của Phật, giải thích trong phẩm Sơ thỉnh của phẩm thứ hai:

Hỏi: Sự khác nhau giữa tương nhập, tương tác giữa các tình căn của Phật như thế nào?

Đáp: Y cứ vào các căn của Phật, Bồ-tát, giáo pháp Tiểu thừa tương tác chỉ do biến hóa mà thành chứ chẳng phải do sửa đổi tánh. Dựa vào giáo pháp của Ba thừa, biến hóa và sửa đổi tánh đều được tự tại. Ba thừa có hai nghĩa: Y cứ vào bản tánh tức Bồ tát Đại thừa, Duyên giác, Thanh văn. Nếu dựa vào hiện giác thì gọi chung là Bồ tát Đại thừa. Nay, gồm thâu bản tánh, phân biệt từ Đại thừa, tức hai nghĩa: biến hóa, tánh sửa đổi đều thành. Y cứ ở tánh sửa đổi, biến hóa của giáo Nhất thừa, đều dựa vào pháp căn bản duyên khởi, biểu hiện rõ ràng, cũng không có tánh riêng để biến, để đổi. Nếu hiện thành thì sẽ đồng với nhiếp hóa ở trước, vẫn là thể của Nhất thừa của người có thân kia. Lại nữa, có đức Thánh kia, tiến thẳng Đại thừa có, đức Thánh kia không có. Hễ có thân, tỏ ngộ dần và Tiểu thừa có thân kia có đức Thánh, mà phân phàm chẳng phải pháp Thánh.

9. Nhân quả của Phật, Bồ-tát chung cho nghĩa cuộc hạn, giải thích sau phẩm Lô-xá-na:

Hỏi: Hai vị nhân quả của Phật, Bồ-tát khác nhau thế nào?

Đáp: Y cứ giáo Tiểu thừa, một người nương tựa một cõi, dựa vào thứ lớp của nhất tâm thành Phật. Nhân quả tương xứng với hiện lượng có thể biết, chỉ dứt hoặc, nhân quả tận, không tận khác nhau.

Nếu dựa vào nhiều thân, nhiều tâm, nhiều xứ của Ba thừa, ứng hiện thành, chẳng phải nghiệp của một hạnh, Phật cũng như thế, tất cả xứ thành, chỉ có biển thế giới Liên Hoa Tạng, Phật và một phần tướng nghĩa của trí chánh giác của ba thế gian, nghĩa tướng có thể biết, chỉ phân chia bằng nhau biên lượng, từ thế giới Tam thiên này, hữu tình y cứ xứ mười phương, dùng làm biên lượng, không biện luận về mành lưới của Nhân-đà-la và cảnh giới mà thế giới sâu kín đã có.

Nếu y theo giới hạn phần lượng, về nhân quả thành Phật của tất cả Nhất thừa, thì chung cho bí mật sâu kín của Nhân-đà-la, sự phân chia giới hạn của tất cả cảnh cùng tận, biên lượng của phần giới hạn của ba thế gian, như y cứ môn Phổ Hiền của kinh Hoa Nghiêm, tất cả hai vị nhân quả tu hành dứt hoặc, v.v… đều cùng tận, không cùng tận.

10. Nghĩa chung, riêng tu đạo của các giáo, thuyết tam-muội ly cấu đầu tiên của địa thứ mười:

Hỏi: Sự tu đạo của các giáo chia giới hạn, thời tiết của nghiệp chung, riêng như thế nào?

Đáp: Y cứ vào giáo Tiểu thừa các nghiệp báo chung của Bồ-đề đều từ phát tâm đầu tiên, thứ lớp tu hành. Thập địa sắp thành Phật, với tâm sau cùng tu riêng nghiệp tướng tốt trong một trăm kiếp là thật, chẳng phải hóa.

Nếu y cứ vào Thỉ giáo của Ba thừa là hóa, chẳng phải thật, nếu theo Chung giáo và tiến thẳng Bồ-tát, đều từ khi phát tâm đến nay, tất cả đều tu. Sau cùng của Thập địa không có tu nghiệp tướng tốt trong một trăm kiếp riêng mà dựa vào phần giáo của Nhất thừa tương đồng với Chung giáo.

Đã tu Thập tín đến nay, tức thành Phật, thành Bồ-tát. Hạnh cũng không có thời lượng riêng, tu nghiệp tướng tốt riêng. Vì sao? Vì hiện sau Thập địa, tu nghiệp tướng tốt, vì hồi Thanh văn, do hàng Thanh văn tu nghiêng về phần trí, không tu phần phước.

Nay, hiện đang tu riêng, làm sáng tỏ lòng tin của người ấy, không có ngã mạn, vì kính yêu.

11. Nghĩa thành thật, không thành thật, giải thích sau khu rừng rậm:

Hỏi: Bồ-tát tu đạo, thành Phật, không thành Phật khác nhau thế nào?

Đáp: Theo giáo Tiểu thừa, chỉ tu nghiệp phần Bồ-đề, trừ người có lui sụt, đều thành Phật, không ai không thành Phật. Nương tựa giáo ba thừa, thực hành tu đạo, đều được thành Phật. Nếu đối với căn cơ khác lạ thì hiện không thành Phật. Nếu theo chánh lý vô thành thì bất thành.

Theo giáo Nhất thừa đều đối với căn cơ trước kia, nếu muốn thành Phật thì thường sẽ thành, mới dứt kiết thành Phật cũng không trụ. Học Địa thành Phật, nếu đối với căn cơ bất thành thì thường bất thành, như biển cả đối với các giai vị không có tràn đầy, tức là Bồ-tát Nhất-xiển-đề trong kinh Lănggià. Nếu đối với căn cơ bệnh lạ thì vô thành, bất thành, nếu đối với Phổ Hiền thì vừa thành, vừa không thành.

12. Nghĩa tướng mạo của Phật, giải thích trong phẩm Tri Thức thứ ba:

Hỏi: Các giáo lập tướng mạo Phật ra sao?

Đáp: Theo giáo Tiểu thừa dùng tướng con người làm tướng Phật. Trí Nhất thiết v.v… thuộc về pháp. Y cứ giáo Ba thừa, vừa đức, vừa tướng, là tướng mạo Phật. Y cứ giáo Nhất thừa là đức, là tướng, là chẳng phải đức, là chẳng phải tướng, do lý duyên khởi, đầy đủ nghĩa tác, bất tác, nghịch, thuận.

13. Nghĩa đại sự, tiểu sự, giải thích hai địa gồm thâu sinh giới:

Hỏi: Sự khác nhau giữa đại sư và tiểu sư như thế nào?

Đáp: Theo giáo Tiểu thừa, Hòa-thượng là Đại sư, Xà-lê là Tiểu sư. Phật chẳng phải Đại sư, chẳng phải Tiểu sư. Theo giáo Ba thừa, Phật là Đại sư, giáo khác đều lập là Tiểu sư. Vì sao? Vì nếu là người Tiểu thừa, thì đặt ra giai vị riêng, vì nhập quả Niết bàn vô dư, nên quyền đối với vị dưới, lập sư đại, tiểu.

Sự đại, tiểu của Nhất thừa: Theo lý là chánh, chẳng phải do sự tướng.

14. Nghĩa tín mãn, thành Phật, giải thích phẩm Hiền Thủ:

Hỏi: Thập tín thành Phật với tâm sau cùng của Thập Địa thành Phật sẽ ra sao?

Đáp: Nếu chỉ nói Thập tín thành Phật mà không nói về tâm sau cùng của Thập Địa thành Phật thì tức là giáo của Ba thừa. Vì sao? Vì đạo lý pháp, nghĩa không đầy đủ. Nếu đủ năm vị và chín vị làm Phật thì tức là thuộc về Viên giáo Nhất thừa, vì sao? Vì đủ nghĩa giáo, đầy đủ thuyết, nên Phật Tiểu thừa, Phật Ba thừa đều là Phật A-hàm, Phật Nhất thừa là Phật nghĩa.

15. Nghĩa hưng thịnh của Phật trong kiếp giảm, giải thích sau lợi ích của địa sau Thập địa:

Hỏi: Vào kiếp giảm, chia giới hạn đời hưng thịnh của Phật như thế nào?

Đáp: Theo giáo Tiểu thừa thì một trăm năm làm kiếp giảm. Theo giáo Ba thừa có hai thứ giảm:

1. Thời gian giảm, chẳng phải việc lành giảm.

2. Thời gian giảm, việc lành cũng giảm.

Tám muôn kiếp trở xuống vị đại là thời gian giảm. Một trăm năm trở xuống vị đại là việc lành giảm, vì các điều ác như năm trược, v.v… tăng thêm.

16. Cây Bồ-đề là nghĩa bắt đầu, giải thích hội Thập trụ đầu tiên:

Hỏi: Giáo lý kinh Hoa Nghiêm vì sao y cứ vào cây Bồ-đề và Phật là bắt đầu cho chỗ nói pháp khác, và Bồ-tát hữu tình đều nói là cuối?

Đáp: Nếu nói theo mê thì khởi tâm động niệm đều là biến kế, tức là pháp không vô. Nay, do trí Phật khéo giác ngộ bản tánh, dứt tướng, trở lại cội nguồn để lập ra giáo, vì giềng mối đều là trí Phật, nên y cứ Phật là bắt đầu xa lìa Phật, không có một pháp nào cả.

17. Giải thích nghĩa thường, vô thường của thân Phật trong Bồ-đề của phẩm Khởi Tánh:

Hỏi: Thân Phật là thường hay Vô thường?

Đáp: Theo Tiểu thừa thì Phật vô thường, theo Ba thừa thì Phật vừa thường vừa vô thường. Phật Pháp thân rốt ráo cho nên thường. Vì lìa, không lìa nên vô thường. Ứng thân vì hễ chứng thì rốt ráo cho nên thường, thuận theo đối với vị phẩm hạ, Thanh văn, phàm phu được thấy thêm bớt nên là vô thường. Hóa thân như lửa, có chỗ đốt cháy, có chỗ diệt nên là vô thường, vì đức hóa độ nối nhau nên nói là thường. Vì cùng tận mé vị lai nên mười vị Phật của Nhất thừa là thường, là vô thường, chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Vì dụng không nói là thuyết nên Phật là thường, vì tương ưng với A-hàm nên là vô thường. Vì tùy thuộc mé duyên khởi nên chẳng phải thường, chẳng phải vô thường.

18. Giải thích tướng đồng, tướng bất đồng về nghĩa chuyển y của Phật trong phẩm Địa:

Hỏi: Theo các giáo, sự khác nhau về chuyển y của Phật như thế nào?

Đáp: Theo giáo Tiểu thừa chuyển diệt, chuyển thành, chuyển vị, chuyển hiển, vị hiện hoặc diệt trừ nên nói là chuyển diệt, vì hạnh đức mãn nên chuyển thành, vì chuyển tánh phàm phu được tánh bậc Thánh nên chuyển vị, vì dòng pháp của bậc Thánh được thể hiện ở đời nên nói chuyển hiển.

Theo giáo của ba thừa, chuyển diệt, chuyển thành, chuyển vị, chuyển hiển. Hoặc được tâm trong hiện tại và chủng diệt, tánh diệt, nên chuyển diệt. Các đức viên mãn và vì tánh mãn nên chuyển thành, chuyển y phàm phu, được y bậc Thánh và không chuyển thì không được thành chuyển vị. Pháp thân lìa hoặc và không lìa tướng nên gọi là chuyển hiển.

Theo giáo Nhất thừa bản hữu và bản hữu tu sinh. Tu sinh và tu sinh bản hữu bốn vị thường như vậy. Diệt ác bất diệt, vì rốt ráo thường như vậy, nên nghĩa chuyển y chung cho chín đời và mười đời, chẳng phải như Tiểu thừa ở trước và một đời, ba đời của ba thừa giáo.

19. Nghĩa chuyển bốn thức thành bốn trí. Cũng giải thích xứ, tướng khác nhau của phẩm Địa:

Hỏi: Chuyển diệt bốn thức thành bốn trí, nghĩa ấy như thế nào?

Đáp: Theo giáo Tiểu thừa chỉ có năm thức và ý thức, không có Lại-da và Mạt-na, cũng không có bốn trí để thành. Nếu theo giáo Ba thừa thì sẽ có chuyển diệt bốn thức thành bốn trí, mà bốn trí này y cứ vào Chung giáo của Ba thừa và tiến thẳng bốn trí, giáo Bồ-tát đều từ ý thức thành. Vì sao? Vì tất cả quả báo và thức mạt-na được khởi hiện hạnh, đều từ vị ý thức, vì duyên xa thành. Nếu lại-da dị thục, gần gũi từ chủng phát, đồng loại hạt giống tức từ tâm, ý, thức trên mà sinh, huống chi lại phát trí, từ chủng loại, v.v… của bản thức, thứ lớp phát ra, nghĩa này không thể chỉ Phật, Bồ-tát gửi gắm danh từ bốn trí làm sáng tỏ bốn thức, làm sáng tỏ bản thức và thức mạt-na là có, quyết định chẳng phải gồm với tự loại của bốn thức sinh trí. Vì sao? Vì mạt-na, bản thức và năm thức không thành nghiệp suy nghĩ của báo chung và văn, tư phân biệt, lựa chọn vì không thể có. Nếu có phát ra nghiệp suy nghĩ thì người phải phân biệt thọ sinh có lỗi này, giáo cũng chẳng có văn. Nếu pháp tánh thì Lại-da, Như Lai tạng thức hoàn toàn không hợp, vì tự khởi phát tư duy, nên kinh Phật Địa và hai giáo như nhiếp luận của vô tánh khác nhau, vì có nghĩa riêng. Kinh Phật Địa chép: Phải biết có năm pháp gồm thâu địa Đại giác". Năm pháp đó là thanh tịnh pháp giới, trí đại viên cảnh, trí bình đẳng tánh, trí diệu quán sát, trí thành sở tác. Dưới đây sẽ thứ lớp giải thích:

Cho đến trí thành sở tác chung cho thành tác dụng của ba nghiệp, không có thích hợp thuộc văn riêng A-lại-da, mạt-na, ý thức, năm thức, phân biệt thành chuyển y được bốn thứ trí. Lại, như Nhiếp luận của vô tánh chép: "Do chuyển uẩn thức của tám việc thức A-lại-da được bốn thứ diệu trí, trí đại viên cảnh, như theo thứ lớp số, hoặc tùy thuộc đối tượng thích hợp nên biết, trong đây vì chuyển thức A-lại-da, nên được trí đại viên cảnh. Dù cảnh đối tượng thức không hiện ở trước mà có thể không quên, không hạn chế thời gian, nơi chốn, đối với tất cả cảnh thường không ngu mê, hạnh vô phân biệt, khởi lên thọ dụng ảnh tượng của trí Phật, vì chuyển mạt-na ô nhiễm nên được trí bình đẳng tánh. Khi hiện quán đầu tiên, trước kia đã chứng đắc, chuyển biến ở vị tu đạo, lại thanh tịnh. Do đây, an trụ Niết bàn vô trú, thường tương ưng với đại từ, đại bi, hay thuận theo đối tượng ưa thích ứng hiện ảnh tượng Phật, vì chuyển thức năm quán nên được trí diệu quán sát, đầy đủ tất cả môn Đà-la-ni, môn Tam-ma-địa.

Do tạng như thật, trong đại hội có khả năng thể hiện tất cả tác dụng tự tại, dứt trừ các nghi ngờ, có khả năng giáng xuống trận mưa pháp, vì chuyển ý thức, nên được trí thành sở tác, khắp cả mười phương, tất cả thế giới có thể hiện biến hóa, từ cung trời Đổ-Sử-Đa biến mất cho đến được Niếtbàn, có khả năng hiện trụ trì việc lợi lạc của tất cả hữu tình, nên văn trên đã nói: "Vì thuận theo đối tượng tương ưng nên biết phối hợp chuyển y bốn thức thành bốn trí, nghĩa này không nhất định, chỉ vì ý văn thuận theo nghĩa, làm rõ pháp, nhận lấy một nghĩa của văn kia, không được quyết định, nhưng nhờ hoặc làm rõ phép tắc của vị, thì có thể biết. Nên biết rằng ý giáo, vì phương tiện làm sáng tỏ pháp nên tạo ra thuyết này. Nếu y cứ vào Sơ giáo của Ba thừa thì ý giáo ở đây cũng có thể như thế. Như luận Thành Duy Thức chép: "Ngoại đạo ngờ vực rằng: Nếu tự loại thức mạt-na không phát trí thì trong địa vị Thánh sẽ có một chút".

Vì đáp nghi vấn này nên có bốn câu: 1. Hoặc có pháp mà phàm Thánh có.

2. Hoặc có pháp phàm có, Thánh không có.

3. Hoặc có pháp Thánh có, phàm không có.

4. Hoặc có pháp phàm, Thánh đều không có.

Phàm, Thánh đều có là năm nghĩa của Như Lai tạng. Phàm, Thánh đều không có là tánh biến kế.

Phàm không có, Thánh có là thân thường. Thánh không có, phàm có là thân vô thường.

Đã có câu này, mạt-na, phàm có, Thánh không có đâu có lỗi. Một nghĩa này chỉ cho giáo của Ba thừa nói, giáo không chung chẳng có.

Nếu theo môn Thỉ giáo của ba thừa đối với hàng Tiểu thừa, không nói Như Lai tạng không nhiễm mà nhiễm, nhiễm mà không nhiễm, vì thành Lại-da.

20. Giải thích phần danh, giải thích địa thứ mười nghĩa tướng giáo:

Hỏi: Về tướng giáo Nhất thừa được kiến lập ra sao?

Đáp: Tướng nghĩa này khó, ở đây nêu dụ để làm rõ. Như bên trong, ngoài một lầu quán được trang trí hết công sức, mà chỉ có một cổng. Người có trí tuệ có thể gõ mở cổng, bảo cho kẻ không có trí biết. Nghĩa giáo Nhất thừa cũng giống như thế. Tánh khởi trong Thọ tạng, trang nghiêm Nhất thừa, bên ngoài trang nghiêm Ba thừa và Tiểu thừa, có một cổng giác, hướng về dưới cây Bồ đề, chỉ có hai vị nhân quả, hai người: Phật và Phổ Hiền mở cổng nhìn thấy, vì các chúng sinh hữu tình đáng hóa độ, bủa lưới đại giáo, làm cạn kiết biển sinh tử, đem trời, người, rồng đặt trên bờ Niết-bàn bảo cho biết trong các Tướng giáo, Tiểu thừa kia và giáo ba thừa sao cho chúng sinh sinh niềm tin, khởi sự tu hành, phần chứng, thị hiện giáo Nhất thừa sao cho sau khi đã thấy, nghe được nhập chứng, nên giáo kia tương tự hình thành trong ngoài và giáo nghĩa khác nhau, tức như chiếc xe bò to lớn đậu bên ngoài ranh giới kinh Pháp Hoa và Địa luận. Địa thứ tám trở lên văn tức việc ấy.

21. Nghĩa phân chia xếp đặt của Nhất thừa, giải thích sau bốn mươi vô ngại biện tài:

Hỏi: Nghĩa giáo của Nhất thừa được phân chia xếp đạt như thế nào?

Đáp: Giáo Nhất thừa có hai thứ:

1. Giáo chung.

2. Giáo không chung.

Một là: Nhất thừa Viên giáo đã nói các nghĩa câu văn, đều đầy đủ tất cả, đây là giáo không chung, rộng như kinh Hoa Nghiêm nói.

Hai là: Giáo chung. Tức giáo Ba thừa, Tiểu thừa. Về mặt văn tự dù đồng nhưng về ý đều khác nhau, như đã nói rộng trong các kinh Đại thừa, có thể biết vẫn đối nhau trên, dưới, các giáo, có chung, không chung, như giáo Tiểu thừa nói ba đời có, ba thừa thì không, giáo Ba thừa có, Tiểu thừa thì không. Hoặc Nhị thừa có chung, như phẩm Đạo, v.v… danh số cùng chung. Hoặc Nhị thừa đều không có, tức là giáo Nhất thừa, có thể so sánh mà biết.

22. Lập nghĩa vị Nhất thừa cũng giải thích sau bốn mươi vô ngại:

Hỏi: Sự khác nhau lập vị của các giáo ra sao?

Đáp: lược y cứ vào chế vị nhân quả của Phổ Hiền Nhất thừa khác nhau, có mười bảy môn, sáu đạo thế gian tức là sáu môn, Thanh văn, Duyên giác là hai môn. Hai môn này Phật đồng nương tựa ba mươi ba tâm, y chỉ phát trí bốn thiền được thành Phật. Thập Tín trở lên đến năm vị của Thập Địa, mỗi vị đều thành Phật, tức là năm môn. Một là Thanh văn hồi tâm, chế ngự Mười Địa như Càn Tuệ, v.v… lại là một môn. Vì tiến thẳng Bồ-tát từ Thập tín đầu tiên, tu viên mãn Thập Địa, về sau sẽ được thành Phật, thành Chánh giác của một niệm ban đầu, lại là một môn. Ba thừa, Tiểu thừa so sánh có thể biết.

23. Nghĩa phương tiện sáu đường trở thành thanh tịnh cũng giải thích sau bốn mươi vô ngại biện tài:

Hỏi: Nhân quả của sáu đường vốn chẳng phải là vị Thánh, đâu gồm thâu trong môn Phổ Hiền?

Đáp: Nhân quả của sáu đường trái với pháp Thánh, phương tiện của Phổ Hiền trở về thành trái với đạo hạnh và ngược lại với môn hạnh, khiến cho các hữu tình vì dùng phương tiện dựa vào sự nhàm chán được giải thoát.

24. Nghĩa lập tạng khác nhau, giải thích trong phẩm Thập tạng:

Hỏi: Cương lĩnh giáo ba tạng Tu-đa-la đồng, khác như thế nào?

Đáp: Giáo của ba tạng kia được phân tích thành hai nghĩa:

Một là: Vì đối tượng giải thích nên giáo tức là ba. Giải định của Tu-đa-la cho đến giải thích về giới Tỳ-nại-da. Ba thừa, Tiểu thừa đồng với danh số này, nhưng nghĩa sâu, cạn được phân chia, xếp đặt khác nhau.

Hai là: Vì việc làm có hai nên phân chia giáo làm hai, gọi là Đại thừa, Tiểu thừa, chia thành hai tạng: Duyên giác từ Độc giác kia, vì không có giáo nên không gọi là Tạng. Nếu trong Nhất thừa tức có mười tạng, như hội thứ tư đã nói.

25. Giải thích đầu tiên mười thứ rừng rậm, nghĩa là tâm, ý, thức:

Hỏi: Ở trong các giáo, kiến lập sự sai biệt giữa tâm, ý thức ra sao?

Đáp: Nếu theo Tiểu thừa thì chỉ có sáu thức. Về nghĩa được chia ra tâm, ý, thức; nghĩa khác như luận Tiểu thừa đã giải thích.

Theo trong văn sơ giáo của giáo ba thừa lập có Lại-da dị thục thọ huân tập thành hạt giống, cho nên biết được là vì luận Vô Tánh nói: "Nay lập Lạida dị thục, việc này cũng không có tổn hại. Vì đã biết không có tổn hại, nên biết tam thay lập làm Thanh văn hồi tâm, chưa thấu đạt pháp Không.

Tạm thay nêu tướng dị thục, dẫn phát dần biến dịch sinh tử của Tiểu thừa, hướng dần tế diệt, thật ra thì không phải như vậy, vì lẽ nếu y cứ ở lý thật, thì tất cả duyên khởi đều không ra khỏi pháp giới, vì sự lý đã thành là công năng của pháp giới. Do như đồ đựng bằng vàng, lìa vàng không có đồ đựng là công năng của vàng.

Nói huân tập quả báo: Nói theo vị thì vị này có thể vì suy nghĩ phân biệt, nên luận Khởi Tín chép: Chân như huân tập vô minh, vô minh huân tập chân như, ý này hướng về Phật. Nếu nghĩa như thế thì sao? Luận Du-già chép: Dị thục thọ huân là người ngu nói. Ở trong, ở ngoài không có huân tập, tức không thấy tạng trụ, khả năng biết như thế, đó gọi là Bồ-tát ma-ha-tát, Khởi Tín chép: Đã huân tập chân như, do đâu giải thích thành huân tập? Nay, hội ý này, Du-già vì đối trị Thanh văn nên trước là dị thức thục, sau biết vô sinh, vì thuận với hạnh quán, nên nay luận Khởi Tín chép: "Vì tiến thẳng Bồ-tát, nên tướng duyên khởi của thức, tức vì hội nhập vô sinh, nên tạo ra thuyết riêng, vẫn y cứ kinh Lăng-già chép: Pháp nhiễm tịnh có khai, có hợp. Nhiễm khai thì thành bảy thức, hợp tức là Lê-da. Tạng thức thanh tịnh của Như Lai cũng có hai nghĩa: Hợp thì thành tám thức, khai thì thành chín thức, nên có tám, chín thứ đạo đối trị của mỗi thứ, khởi có diệt, có không diệt, so sánh với diệt, không diệt này mà biết. Lại, luận Thành Duy Thức chép:

Tướng do thức biến ra dù có vô lượng thứ nhưng về loại thức năng biến phân biệt chỉ có ba:

1. Gọi dị thục, tức thức thứ tám, vì nhiều tánh dị thục.

2. Gọi tư lương tức thức thứ bảy, vì luôn xem xét, so lường.

3. Gọi thấu đạt cảnh, tức sáu thức trước, vì thấu đạt tướng thô và nói sáu hợp thành một thứ.

Ba thứ này đều gọi là thức của chủ thể biến. Chủ thể biến có hai thứ:

Một là: Nhân của chủ thể biến. Nghĩa là hai nhân dị thục, đẳng lưu trong thức thứ tám. Tập khí, tập khí đẳng lưu. Do huân tập thiện, ác hữu lậu trong sáu thức, khiến tập khí dị thục sinh ra và lớn lên. Do huân tập thiện, ác hữu tình trong sáu thức khiến cho sinh ra và lớn lên.

Hai là: Quả của chủ thể biến, nghĩa là vì năng lực tập khí của hai thứ trước, nên có tám thức sinh ra chủng tướng của hiện hạnh, hạt giống, vì đẳng lưu, tập khí làm nhân duyên. Sự khác nhau giữa thể tướng của tám thức mà sinh gọi quả Đẳng lưu. Vì quả giống với nhân nên dị thục, tập khí làm duyên tăng thượng, chiêu cảm thức thứ tám, đáp lại năng lực dẫn nghiệp. Vì thường nối tiếp nhau nên lập ra danh từ dị thục, chiêu cảm sáu thức trước, đáp lại mẫu nghiệp, từ dị thục khởi, gọi là dị thục sinh, không gọi dị thục, vì có gián đoạn nên tức dị thục trước và dị thục sinh, gọi là quả dị thục, vì quả khác với nhân, nên trong đây nói ngã ái chấp tàng, gìn giữ hạt giống tạp nhiễm của thức quả chủ thể biến, gọi là Dị thục, chẳng phải cho rằng tất cả thức mạtna kia đều dựa vào giáo của Ba thừa, có thức kia khởi bốn hoặc, chẳng khởi pháp chấp, ngu pháp, Thanh văn không đoạn dứt, chỉ chế phục tạm tâm trên. Do trí quán nông cạn nên Thanh văn lui sụt tâm Bồ-đề và Thanh văn hồi tâm đều đoạn mạt-na vì trí quán vượt hơn.

Giả sử sau Du-già, phân biệt nói thức lại-da khởi, tất nhiên sẽ tương ưng với hai thức ấy, đây là y cứ vào thời điểm khởi đầu, không y cứ ở trạng thái nối tiếp sau.

Y cứ vào vị để nói nghĩa tiến thẳng Bồ-tát nên chẳng khởi làm chánh nghĩa, vì người hồi tâm khởi là chánh nghĩa. Lại, hồi tâm đầu tiên, Bồ-tát vì để lại hoặc nên theo nhau đến định Kim cương mới dứt. Tiến thẳng: nghĩa là tập khí đến trước Kim cương. Nói đến là y cứ hai A-hàm mà nói, đầu tiên là đối với Tiểu thừa nên nghĩa khác so sánh có thể biết, ý thức và năm thức hoặc đồng, hoặc khác như kinh, luận nói, nghĩa tâm sở như dưới đây sẽ nói riêng.

Văn này ở Ba thừa, nghĩa chung cho Nhị thừa, vì dụng đồng với pháp giới. Lại, một giáo chỉ nhất tâm, vì làm rạng rỡ tánh khởi đủ đức như phẩm

Tánh Khởi nói. Lại nói: Mười tâm vì muốn làm sáng tỏ vô lượng nên như địa thứ chín nói. Ở đây, là nói theo Biệt giáo Nhất thừa.

26. Nghĩa loại khác nhau của các kinh bộ, giải thích các văn gom góp của phẩm Tựa:

Hỏi: Loại khác nhau của các bộ kinh ra sao?

Đáp: Như bốn bộ kinh A-hàm cuộc hạn giáo Tiểu thừa. Kinh Chánh Pháp niệm nêu hạnh giải chánh, phân biệt hạnh giải tà, giáo ba thừa chung, kinh Niết-bàn và kinh Đại Phẩm, Chung giáo của Ba thừa, vì căn cơ thành thục, vì nói cho Thanh văn nghe, nên Kim Cương Bát-nhã là Thỉ giáo của Ba thừa, hội đầu ngu pháp, vì Thanh văn nên ý nghĩa ở văn. Duy-ma Tư Ích, Nhân vương, Thắng Thiên Vương, Ca-diếp Phật Tạng vì Bồ-tát tiến thẳng mà nói, tiến thẳng có hai thứ:

1. Tiến thẳng trong Đại thừa.

2. Bồ tát tiến thẳng trong Tiểu thừa.

Giáo tiến thẳng hai chỗ này cũng có đồng, khác, theo như sự gồm thâu có thể biết.

Bộ kinh Hoa Nghiêm là giáo không chung của Nhất thừa, kinh khác là giáo chung, vì Nhất thừa, ba thừa, Tiểu thừa y chỉ chung. Lại, Hoa Nghiêm là chủ, kinh khác là quyến thuộc. Do đó, so sánh về nghĩa tướng giáo của các bộ cũng có thể hiểu. Như nghĩa tông của kinh Pháp Hoa là kinh Nhất thừa, Ba thừa ở trong ba cõi vì hoàn thành công hạnh của mình. Nhất thừa ngoài ba cõi, làm thấy, nghe cho ba cõi, nghĩa khác so sánh có thể biết.

27. Giải thích trong địa thứ tư, ý nghĩa của phẩm Đạo:

Hỏi: Phẩm đạo các giáo khác nhau như thế nào?

Đáp: Danh số phẩm đạo của tiểu, thừa lược có ba mươi bảy thứ, danh số phẩm đạo của Ba thừa cũng đồng, chỉ nghĩa có khác, có nói rộng ở kinh luận.

Nghĩa hai ngàn câu của phẩm Ly Thế Gian trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm Đạo của Nhất thừa tức là danh tự, kể cả thể tánh. Lại hỏi:

Phẩm đạo Nhất thừa đã là thể riêng của danh số, cũng cần nhân riêng, đâu có nghĩa đồng với Ba thừa?

Đáp: Y cứ ở phần lượng của nghĩa sâu, cạn, rộng, hẹp đều khác nhau. Nay, nêu môn nghĩa có khác nhau, danh tự có đồng, vì muốn dẫn dắt tin ưa Ba thừa, số nói chung của các giáo có thêm bớt cũng y theo đây mà biết.

28. Giải thích sau phẩm Tánh khởi, nghĩa Niết bàn:

Hỏi: Sự khác nhau giữa Niết-bàn của các giáo như thế nào?

Đáp: Niết bàn của Tiểu thừa có hai thứ: là hữu dư, và vô dư. Hữu dư, là thân trí có thừa. Vô dư, nghĩa là thân trí không có thừa, là Thân trí của báo thân.

Niết-bàn của ba thừa lược có bốn thứ:

1. Niết-bàn tánh tịnh.

2. Niết-bàn phương tiện tịnh.

3. Niết-bàn hữu dư.

4. Niết-bàn vô dư.

Tánh tịnh tức pháp thân phương tiện thanh tịnh, tức ứng thân. Hữu dư, vô dư là y cứ vào hóa thân.

Nói về thể tướng của nghĩa ba thân kia, khác với Tiểu thừa. Nếu đối với đức của ba thân kia đều thành pháp thân, Bát-nhã, giải thoát. Ba đức đã đồng không có thêm lớn. Bốn thứ Niết-bàn này chỉ cuộc hạn ở quả đức. Niết-bàn Vô trú xứ chung cho nhân và quả. Niết-bàn này có hai thứ:

Y cứ về lý, so lường, phân tích làm hai cách giải thích, như Nhiếp luận. Nếu giáo Nhất thừa thì chỉ có một đại bát Niết-bàn, không có khác nhau, có nói rộng trong kinh Hoa Nghiêm. Danh số của dụng đức cũng đủ mười và tất cả, bình đẳng với pháp giới.

29. Giải thích trong địa thứ hai, ý nghĩa giới học:

Hỏi: Các giới học, v.v… có khác nhau như thế nào?

Đáp: Tùy thuộc vào sự khác nhau của con người, có tám thứ, tám giới và bảy chúng đã giữ giới, chung thành một giới biệt giải thoát, vì với đạo định riêng, vì tu trì riêng, nên gọi là biệt. Hai giới định, đạo chung cho biệt giải thoát ở trước, chung thành ba giới. Ba nghiệp của ba giới này cũng chung, vì tùy thuộc vào đối tượng tương ưng. Bồ-tát Ba thừa có riêng ba giới, nghĩa là mười vô tận giới, hai mươi bốn giới, bốn giới Ba-la-di, ba giới này. Bốn giới ba-la-di người xuất gia thọ, hai giới còn lại là người thế tục thọ. Trên, dưới chia làm hai, tướng nghĩa như đây. Thể giới hoặc năm thứ, mười điều lành, hoặc biểu, vô biểu, vô biểu tức lý, sự, sắc, tâm bất tương ưng, hoặc tức Nhất thừa vì ứng với pháp giới.

30. Giải thích trong ba địa, ý nghĩa định học:

Hỏi: Môn định có gì khác?

Đáp: Như tám thiền định với Tiểu thừa, gọi là đại đồng, trong đó tùy thuộc ở tà chánh của con người và phát dòng trí có dòng, không có dòng khác nhau, tức thể tánh đều khác.

Y cứ vào môn Thánh, Nhất thừa và Ba thừa, đều là vị của các Tiểu thừa, đều dùng chung định này. Tùy thuộc sự đã thành, khác với đắc, gọi là riêng. Trong vị ba thừa tiến thẳng Bồ-tát có riêng tám định. Trước địa có bốn, như định Quang Đức, v.v… trên địa có bốn, như Thủ-lăng-già-ma, v.v...

Theo giáo Nhất thừa có mười thứ, như Hoa Nghiêm chép: "Thể tánh, đức lượng đều khác nhau".

31. Nghĩa tuệ học, giải thích xứ trí trong địa thứ chín:

Hỏi: Môn tuệ có gì khác?

Đáp: Kiến, tu của Tiểu thừa và tám nhẫn, tám trí v.v rộng như luận nói. Trong giáo ba thừa, hoặc có mười một trí, hoặc ba trí. Nếu dùng nghĩa để cầu mười một trí thì phần nhiều là tâm hồi chuyển, tỏ ngộ dần về nhân, nói là vì phương tiện khởi tín của người kia. Trí gia hạnh là nói tiến thẳng Bồ-tát, đối với sự nhập đạo của người kia vì có phương tiện vượt hơn.

Nếu theo Nhất thừa thì có mười thứ trí, như phẩm Ly Thế Gian nói. Sở tri của trí là các đế, môn nghĩa khác nhau của mười hai nhân duyên, rộng như sớ nói.

32. Đầu tiên giải thích về thiện tri thức, ý nghĩa Hiền Thánh:

Hỏi: Sự khác nhau giữa Hiền Thánh trụ đạo, trụ quả như thế nào?

Đáp: Theo giáo Tiểu thừa có hai mươi bảy bậc Hiền Thánh rộng như Tỳ-đàm, Thành Thật, v.v… nói. Hiền Thánh của Ba thừa có bốn mươi hai vị,

Hiền Thánh của Nhất thừa có bốn mươi lăm vị. Đây là pháp môn nhân quả chung cho nhân, pháp, hạnh vị, sự, lý này. Nếu chủ, bạn được chia riêng, thì có một trăm mười. Nếu nói cách phân tán đối tượng nương tựa thì Tam thiên Đại thiên thế giới nhiều như số bụi nhỏ, tức là thiện tri thức.

33. Giải thích trong phẩm Thập minh, ý nghĩa nhóm sắc:

Hỏi: Văn của sắc các giáo có gì khác nhau?

Đáp: Y cứ vào sắc Tiểu thừa có mười một, sắc của ba thừa có hai mươi lăm.

Sắc Nhất thừa chung, riêng có một trăm mười thứ. Huỳnh sắc trong sắc ba thừa, tình nghĩa là sắc ngoài chướng. Sắc ảnh tượng, tâm định thành tựu cảnh giới của sắc, người kia nhớ giữ sắc trước kia và sắc mà mắt nhìn thấy.

Sắc Nhất thừa như phẩm Thập minh đã giải thích, không đồng với sắc phàm cảnh giới Thánh.

34. Nghĩa bất tương ưng, giải thích trong thuyết thành tựu của chín địa:

Hỏi: Theo Tiểu thừa có mười bốn bất tương ưng, theo giáo ba thừa có hai mươi bốn bất tương ưng. Dựa vào nghĩa bất tương ưng của giáo Nhất thừa bình đẳng với pháp giới. Vì sao? Vì bất tương ưng của Tiểu thừa như gọi là pháp có thật. Bất tương ưng của ba thừa chỉ có sắc, tâm duyên phát, nghĩa lý hiện tiền mà không đối với sự là nghĩa bất tương ưng, bất tương ưng chẳng tương ưng với sự sắc, tâm, được bất tương ưng, nghĩa là sự kia khác với hiện tiền không được lý. Ba thừa, Nhất thừa không có đại đắc đắc tiểu đắc, tiểu đắc đại đắc. Vì sao? Vì Nhất thừa, ba thừa lập pháp số v.v... Muốn ngăn cấm nghĩa là vì tình. Nếu đại, tiểu tương đắc thì có lỗi vô cùng.

Danh và câu không tương ưng, giải thích đủ ở luận tạp tập, nghĩa bất tương ưng của Nhất thừa, danh số đồng đẳng với pháp giới. Về lý, cũng vô cùng như pháp giới.

35. Giải thích trong mười tâm, sau Sơ địa, nghĩa ba tánh, ba vô tánh:

Hỏi: Tướng khác lạ của ba tánh, ba vô tánh mà kinh luận đã nói như thế nào?

Đáp: Ý vốn an lập pháp môn ba tánh, muốn phân biệt pháp tướng để biết giới hạn ý nghĩa của hạnh giải, lý sự kia được phân chia, xếp đặt khác nhau, vì lìa chấp ngã mạn, nên khởi giáo này. Nay, y cứ vào Nhiếp luận dẫn bốn kinh khác, nói về tướng quả của ba tánh, tức là phép tắc đại.

1. Dẫn kinh Tỳ-Phật-lược nhằm nói có ba tánh.

2. Dẫn kinh Bà-la-môn Vấn để chứng minh có ba tánh.

3. Dẫn A-tỳ-đạt-ma, Tu-đa-la để chứng minh có ba tánh.

4. Lại nữa, có chỗ Thế Tôn nói đẳng dẫn có ba pháp Thánh giáo thường, vô thường để chứng minh có ba tánh.

Lại, một là sự khác nhau của nghĩa văn trước kia, là vì biết giải thích pháp tướng của ý chỉ. Hai là ba tánh tướng theo nhau vì làm sáng tỏ lý, vì lưu thông chẳng có tánh. Ba là phân biệt đủ, đảm nhiệm làm sáng tỏ, lưu thông sự tướng vì không có ngăn ngại. Thánh giáo gọi chung vì dùng lý lãnh hội giáo trở thành trí.

Nếu tánh phân biệt có dụng của một nghĩa của nó thì sẽ không có phẩm loại nào làm thể của nó.

Không có tánh tướng khác nhau sao?

Đáp: Nếu phân biệt thật tướng tức không là tánh phân biệt. Không biểu hiện thật tướng là tánh vô tướng. Nếu theo Nhiếp luận nói về tướng khác nhau của ba vô tánh thì sẽ có ba thứ:

1. Tự chẳng phải vô tánh, vì thể của pháp bản hữu không tự hiện ở trước, mà phải nhờ vào nhân, dựa vào duyên, mới sinh được, vì quả không có tự sinh, nên gọi là không có tánh, nghĩa này chung cho ba tông.

2. Thể chẳng thật có, vô tánh, nói thể của các pháp, bản tánh chẳng thật có, nếu rơi vào quả vị thì sẽ không có tự thể, chỉ khi nào có đủ nhân duyên mới bắt đầu hiện ở trước. Pháp hữu vi hiện tại giả có, chẳng thật, mỗi niệm dời đổi khác, không thể tự dừng lại. Đây cũng là phân thành Phật. Vì nghĩa vô ngã, nên gọi là vô tánh, đây là chung cho thành Phật, kể cả Đại thừa.

3. Như thủ, không là hữu, y cứ vào lý pháp vô ngã của bản thức kia, ba tánh không có hình thành, không có tánh. Do tự thể quyết định tự chẳng thật có, có không là hai, vì không lìa bỏ hết các phân biệt, chẳng phải báo sinh ý thức thiện của địa thượng văn tư, tu, cảnh giới đối tượng duyên của trí, nên gọi là vô tánh, nghĩa này chỉ có Đại thừa.

Ba tánh này ấn định chung là một, riêng là bốn, rộng thì vô lượng. Nếu đối với hạnh giải thì sẽ dùng ba tánh để ấn định sau ba tánh, nói riêng ba vô tánh. Đây là nói lược giải để nói: Nếu sau hai tánh thì sẽ nói về vô tánh, lại không hội được tánh chân thật. Đây là y cứ vào hạnh để nói, so sánh như thế có thể biết.

Văn này ở Ba thừa, cũng chung cho dụng của Nhất thừa. Vì sao?

Vì pháp này thích ứng với dụng vô biên của tánh pháp giới.

36. Giải thích đầu tiên rừng rậm, nghĩa của tâm sở và tâm sở hữu pháp:

Hỏi: Bậc Thánh lập tâm sở và tâm sở hữu pháp phân chia, xếp đặt như thế nào?

Đáp: Nay, giải thích hai môn phân biệt pháp sở hữu của tâm.

1. Y cứ chung Đại, Tiểu thừa nhằm biểu thị rõ nghĩa của tâm sở hữu và pháp tâm sở.

2. Đối với Nhị thừa kia chỉ rõ bỏ, lập tâm sở.

Trước nói về tâm sở hữu pháp của Đại, Tiểu thừa. Theo Đại thừa có sáu vị:

1. Biến hành có năm:

1. Tác ý.

2. Xúc.

3. Thọ.

4. Tưởng.

5. Tư.

2. Biệt cảnh có năm:

1. Dục.

2. Thắng giải.

3. Niệm.

4. Tam-ma-địa.

5. Tuệ.

3. Thiện có mười một:

1. Tín.

2. Tàm.

3. Quý.

4. Vô tham.

5. Vô sân.

6. Vô si.

7. Cần.

8. Khinh an.

9. Không buông lung.

10. Xả.

11. Bất hại.

4. Đại phiền não có mười:

1. Tham.

2. Sân.

3. Mạn.

4. Vô minh.

5. Nghi.

6. Tát-ca-da kiến.

7. Biên kiến.

8. Kiến thủ.

9. Giới thủ.

10. Tà kiến.

5. Tùy phiền não có hai mươi:

1. Phẫn.

2. Hận.

3. Phú.

4. Não.

5. Tật.

6. San.

7. Cuống.

8. Siểm.

9. Kiêu.

10. Hại.

11. Vô tàm.

12. Vô quý.

13. Hôn trầm.

14. Trạo cử.

15. Bất tín.

16. Biếng nhác.

17. Buông lung.

18. Vọng niệm.

19. Bất chánh tri.

20. Tán loạn.

6. Bất định có bốn:

1. Thùy miên.

2. Ác tác.

3. Tầm.

4. Từ.

Gồm năm mươi lăm pháp Thêm bớt: luận Bách Pháp hợp năm kiến thành một, Luận Du-già thêm tà dục, tà thắng giải.

Thêm, bớt như các luận, sâu sắc có ý riêng, hãy suy nghĩ so sánh.

1. Lược dùng ba môn để phân biệt:

1. Giải thích tên gọi, phân biệt về tướng mạo, nhằm nói về sự phân chia, xếp đặt.

2. Đối với các môn để phân biệt.

3. Y cứ vào tự thừa, tùy thuộc vào nghĩa để phân biệt. Môn thứ nhất, biến hành có hai nghĩa:

Một là: Vị mình, tướng do khắp, như năm pháp riêng mình, một không có, tất cả là không, giải thích lẫn nhau cũng như vậy, nghĩa có cũng như thế.

Hai là: Vị người khác, phân chia xếp đặt ngang nhau cùng khắp, hễ kia có thì đây có, vẫn không đồng với ở đây.

Vì sao? Vì có thời gian, có biền hành này, không có thời gian, không có pháp sở hữu, nên biết.

Biến: là Phân bố, xếp đặt ngang nhau. Hành:

Khởi ở duyên cảnh.

Đây gọi là từ nghĩa ban đầu mà được.

Tướng mạo: Năm pháp nối tiếp nhau, không lìa bỏ nhau. Hành ở trong duyên là tướng mạo.

Giới hạn, phạm vi, cho đến ở chỗ sáu vị, hành do tướng nối nhau của vị mình. Năm vị còn lại chẳng phải nối tiếp nhau mà là bạn của nhau.

2. Biệt cảnh có hai nghĩa:

1. Tướng của vị mình riêng lẻ như dục, chẳng phải thắng giải. Có thời gian, có dục mà không có thắng giải, cho đến tuệ, v.v… không có lẫn nhau cũng vậy.

2. Y cứ vào vị riêng như vị thiện, có thiện mà không có dục, có dục mà không có thiện, nên thuộc về riêng, vẫn là danh từ biệt cảnh này từ nghĩa đầu tiên mà được.

Biệt đều là riêng lẽ chẳng phải nghĩa nối tiếp nhau.

Cảnh là phân chia giới hạn xếp đặt, chẳng phải cảnh đối tượng duyên. Đây là vì đối với biến hành nối tiếp nhau trước kia nên được gọi là biệt cảnh.

Tướng mạo: Hành riêng của năm pháp tướng, là tướng mạo. Phân chia, xếp đặt giới hạn cho đến sáu vị bất định đều hiện hành chung, riêng, là giới hạn phạm vi. Trong các vị, có lúc có dục mà không có thắng giải cho đến tuệ, lẽ ra có thể so sánh mà biết.

3. Thiện nghĩa là tánh, từ thể mà được tên riêng: Vì chung với trước nên rốt cuộc thể hiện được gọi tên.

Tướng mạo: Đối với vị có dòng, không có dòng, khác với thiện, ác và vô ký là tướng mạo của thể thiện.

Phân chia giới hạn xếp đặt cho đến xứ sáu vị bất định hành đều khác nhau, chẳng phải khởi một cách nối tiếp nhau, mà có lúc có một, nhưng không có mười, mỗi thứ biện luận có, không lẫn nhau, có tăng giảm trở thành sự phân chia xếp đặt của hành kia.

4. Phiền não, từ tác dụng mà được gọi tên: do phiền não đối với nghĩa công dụng mạnh mẽ của thế gian, xuất thế gian, đối với pháp thế gian có thể trở thành pháp xuất thế, vì có công năng làm hư hoại khác với thể thiện ở trước nên từ dụng được gọi tên.

Tướng mạo, đối với xứ, vị của mình trở thành hai tướng: lo, mừng, là tướng mạo của phiền não.

Phạm vi giới hạn, cho đến nghĩa số của sáu vị bất định, công dụng thêm bớt mà vận hành, chẳng phải nối tiếp nhau mà là bạn chung, là sự phân chia giới hạn xếp đặt.

5. Tùy phiền não: Từ tướng phiền não mà được gọi tên, tùy phiền não này có hai lý do:

a. Do hoặc đại trước thành tùy phiền não.

b. Do hoặc tiểu này tăng thêm trở thành hoặc đại nên gọi là tùy, vẫn chỉ tuy này từ nghĩa đầu tiên mà được.

Vì sự giả hợp này nên phiền não đồng với cách giải thích trước.

Tướng mạo ở trong duyên của mình đều khác nhau mà là bạn giúp nhau, chứ chẳng phải khởi liên tục nối nhau, là tướng mạo của tùy phiền não.

Về phạm vi giới hạn, đối với sáu vị phiền não, cho đến tướng bất định, do nghĩa tướng số của bạn giúp nhau thêm bớt, có không mà hiện hành, là phạm vi giới hạn của tùy phiền não.

6. Bất định, vì hai nghĩa thể, dụng nên nói là bất định: vì khác với thể của định trước, nên được gọi là bất định. Tướng mạo ở trong vị của mình đều khác nhau mà khởi. Thể dụng của ba tánh đồng thời thành:

1. Pháp có ba nghĩa, sự dụng đồng thời của thiện, ác, vô ký là tướng mạo của bất định.

Phân chia giới hạn xếp đặt, nghĩa số ở trong sáu vị thêm bớt, khởi dụng mà sinh, là sự phạm vi giới hạn, của sáu vị phiền não, vẫn chẳng phải nối tiếp nhau mà là bạn giúp nhau.

2. Đối với các môn phân biệt, sơ lược đối với năm môn:

Y cứ vào thừa để phân biệt.

Y cứ vào ba tánh để phân biệt.

Y cứ vào các hoặc để phân biệt.

Y cứ vào các thừa để phân biệt.

Y cứ vào giả, thật để phân biệt.

a. Y cứ vào thừa để phân biệt: Thừa có ba thứ: Một là: Nhất thừa.

Hai là: Tam thừa. Ba là: Tiểu thừa.

Nay, tâm sở này là tâm sở của ba thừa, vì đối trị phiền não của tâm thế gian, xuất thế gian, chẳng phải một, chẳng phải tiểu, chẳng phải Chung giáo của Ba thừa, chẳng phải Biệt giáo của Nhất thừa. Y cứ chung giáo của Ba thừa, giáo Đại thừa và tâm sở trong Biệt giáo của Nhất thừa, tức có vô lượng, đều như số lượng của pháp giới duyên khởi. Vì sao? Vì các loại tâm sở, mỗi loại tâm sở duyên riêng. Y cứ vào duyên kia khác nhau, vì không thể nói chung nên không đồng với số mà Ba thừa đồng nói chung. Tâm sở một phần thỉ của Ba thừa, vì đối trị với chướng phiền não, chướng sở tri, phiền não của tâm thế gian mà nói, vẫn ba thừa này có thỉ, có chung. Tâm sở của Nhị thừa Chung giáo cũng không thể nói, tâm sở của thỉ giáo tức như Chung giáo này.

Du-già, luận Đối Pháp chép: "Sự đồng, khác của tâm sở Tiểu thừa như dưới đây sẽ giải thích riêng.

b. Y cứ vào ba tánh có hai: Một là ba tánh thiện.

Hai là ba tánh biến kế.

Ba tánh thiện: biến hành có năm, chung cho ba tánh, vẫn tùy thuộc ở một tánh, chẳng phải hai tánh còn lại.

Biệt cảnh có năm, chung cho ba tánh, vẫn tùy thuộc nhiều ít không nhất định đối với năm pháp của một tánh.

Mười một thiện chỉ có tánh thiện, vẫn chung cho dòng, không dòng. Nếu đối với dòng thì chẳng phải không có dòng, không có dòng cũng như thế. Phiền não chung cho bất thiện và vô ký, vì thức mạt-na và hoặc của địa định, là vì vô ký, nên hai mươi tùy phiền não, chung cho bất thiện và vô ký, so sánh với trước có thể biết.

Nếu y cứ trái với lý, bất thiện chỉ là tánh bất thiện, bốn pháp bất định chung cho ba tánh, lúc bất thiện thì hai tánh còn lại, so sánh với trước có thể biết, hai tánh còn lại cũng như vậy.

Y cứ vào ba tánh biến kế, nghĩa là năm biến hành chung cho ba tánh, vẫn tùy thuộc ở một tánh thì gồm thâu hai tánh còn lại, thành một tánh này. Tánh này như đã nói trong nghĩa ba tánh, tùy thuộc một tánh nối tiếp nhau đủ năm.

Năm biệt cảnh chung cho ba tánh, vẫn tùy thuộc ở một tánh thì chẳng phải thuộc về hai tánh còn lại, đồng với thuyết trước.

Mười một món thiện chỉ có Viên thành thật, thiện này có cả lậu, vô lậu, bao gồm như thuyết trước đã nói.

3. Y cứ vào các hoặc để phân biệt, gồm có ba môn:

Y cứ vào ba hoặc như da, v.v… để phân biệt.

Y cứ vào hai chướng: phiền não, sở tri để phân biệt.

Y cứ vào năm trụ địa để phân biệt.

Phân biệt ba hoặc như da, v.v…: Biến hành chung cho ba hoặc, biệt cảnh cũng chung cho ba. Thiện v.v… chẳng phải ba hoặc, phiền não cũng là da, thịt. Nếu y cứ vào sự gởi gắm ở vị, thì chung cho ba, tùy phiền não cũng là da, thịt. Nếu nói theo thô, tế thì chung cho tâm da thịt. Bốn bất định cũng chung cho tâm da, thịt.

Vì duyên thành ba hoặc nên phân biệt hai chướng: phiền não, và sở tri: Biến hành chung cho hai chướng, biệt cảnh cũng giống như thế.

Thiện v.v... chẳng phải hai hoặc, phiền não chỉ có phiền não, tùy phiền não v.v… cũng giống như vậy.

Nếu y cứ vào tướng để thành lập môn thì chung cho hai chướng, bất định chỉ có sở tri. Nếu y cứ vào tướng trở thành môn thì sẽ chung cho hai chướng. Y cứ vào năm trụ địa để phân biệt thì biến hành chung cho năm trụ. Biệt cảnh cũng chung khắp. Thiện v.v… chẳng phải năm trụ, phiền não chung cho năm trụ, tùy phiền não cũng chung cho năm trụ, nghĩa như thế có thể y theo. Các hoặc chướng sẽ phân biệt rộng, bất định chung cho năm trụ vì duyên thành các hoặc.

4. Y cứ các thức phân biệt, nghĩa là thức Lạida khởi biến hành có năm. Thức Mạt-na khởi chín, biến hành năm và ngã kiến, ngã ái, ngã mạn, vô minh, ý thức khởi sáu vị sở hữu pháp như biến hành v.v... Năm thức thì bất định, hoặc đầu tiên năm, hoặc tất cả. Do hoặc đồng thể, hoặc khác thể với ý thức nên kinh nói: "Có một ý thức duyên chung cảnh với năm thức".

Đây là y cứ vào tướng thô thỉ giáo của ba thừa. Nếu y cứ vào Chung giáo của ba thừa để nói thì Lại-da sáu thức v.v… đều khởi tất cả pháp sở hữu.

Vì chỉ có một thức thành mười một thức.

5. Giả, thật phân biệt: Giả thật có ba:

a. Y cứ vào duyên để giải thích quả thật. Nếu y cứ vào nghĩa này hoặc có phân biệt, hoặc không có phân biệt, vì duyên thành nên lìa phân biệt, vì ứng giáo nên có phân biệt. Nếu y cứ vào nghĩa này đều chung cho giả thật, tức vì không có tánh nên thật, vì duyên thành cho nên là giả.

b. Y cứ vào gốc, ngọn để nói về giả, thật. Phiền não là gốc, tùy phiền não là ngọn, như giải thích có thể biết.

c. Y cứ vào sự làm sáng tỏ lý, giải thích giả thật, sự lý tương ưng là thật, chỉ có lý không có sự là giả. Giả từ sự giáo để nói.

6. Tùy thuộc nghĩa để phân biệt:

Hỏi: Các pháp sở hữu của tâm có thể nói đoạn hay chăng?

Đáp: Biến hành và biệt cảnh tương ưng với bất thiện, vô ký, nghĩa là đoạn, thiện và tự tánh vô ký không đoạn, mười một thiện không đoạn. Phiền não và tùy phiền não nói đoạn. Bốn bất định v.v… bất thiện, vô ký nói đoạn, thiện và tự tánh vô ký không nói đoạn.

Đây là y cứ vào Sơ giáo của ba thừa và trí pháp trụ để nói. Nếu y cứ vào Chung giáo và Nhất thừa thì chẳng phải trước, chẳng phải ở chính giữa, sau. Vì gồm thâu trước, giữa, sau nên tức đoạn mà không có tướng. Vì chẳng thể đoạn nên nghĩa khác đều y theo không có tướng.

Hỏi: Vì sao luận nói phiền não có chỗ nói sáu, có chỗ nói mười?

Đáp: Do năm sử lợi có hai nghĩa:

Một là nghĩa gốc ngọn, do biên kiến dựa vào thân kiến mà sinh.

Do dựa vào gốc nói gồm thâu ngọn, vì ngọn từ gốc nên chỉ nói sáu.

Hai là nghĩa khởi dụng trở thành lỗi, vì nghĩa trở thành lỗi nên chi ly nói mười.

Vì sao luận chép: Trong tùy phiền não nói thêm tà dục, tà thắng giải?

Đáp: Vì dục và thắng giải trong biệt cảnh đối với hoặc đại, tiểu có phương tiện và sau cùng trở thành hai xứ, đều trở thành lỗi. Vì y cứ lìa hai tánh, nên y cứ vào phương tiện và sau cùng trở thành hai số.

Thứ đến, là y cứ Tiểu thừa để phân biệt. Có ba nghĩa:

1. Giải thích tên gọi: Nói về tướng mạo và biểu thị rõ giới hạn phạm vi.

2. Phân biệt đối với các môn.

3. Y cứ vào tự thừa, thuận theo nghĩa để phân biệt. Đầu tiên, là giải thích tên gọi: pháp tâm sở có bốn mươi sáu, phần đại là sáu.

-Một chung cho đại địa có mười:

1. Tưởng.

2. Dục.

3. Xúc.

4. Tuệ.

5. Niệm.

6. Tư.

7. Biếng nhác.

8. Nhớ lại.

9. Định.

10. Thọ.

-Địa đại thiện có mười:

1. Vô tham.

2. Vô sân.

3. Tàm.

4. Quý.

5. Tín.

6. Khinh an.

7. Không buông lung.

8. Bất hại.

9. Tinh tấn.

10. Xả.

-Tiểu phiền não Đại địa có mười:

1. Phẫn.

2. Hận.

3. Cuống.

4. San.

5. Tật.

6. Não.

7. Siểm.

8. Phú.

9. Kiêu.

10. Hại.

-Đại phiền não Đại địa có năm:

1. Bất tín.

2. Biếng nhác.

3. Vô minh.

4. Trạo cử.

5. Buông lung.

-Bất thiện Đại địa có hai:

1. Vô tàm.

2. Vô quý.

-Sử có bốn:

1. Tham.

2. Sân.

3. Si.

4. Mạn.

-Triền có ba:

1. Thùy.

2. Miên.

3. Hối.

Thêm giác quán, tổng cộng thành bốn mươi sáu, và tâm vương là bốn mươi bảy.

Đầu tiên, chung cho danh từ đại địa, do mười tưởng, v.v… chung cho các tâm sở, cho là chung với y và hiện hành chung xứ y, duyên của các số, nên nói là chung, nếu chung thì tác dụng của năng lực cùng khắp.

Đại địa là tên dụ, như mặt đất có công năng sinh ra và nuôi lớn muôn vật làm y chỉ, vì tương tự với pháp nên làm dụ.

Tướng mạo với đối tượng duyên của mình, khởi thể dụng của pháp kia, giúp đỡ bạn lẫn nhau mà vận hành, là tướng mạo của pháp kia.

Về phạm vi giới hạn, đối với các tâm sở, các vị hiện hành chung mà không rời nhau, đó gọi là phạm vi giới hạn.

Đại địa thiện: Đối với xứ, vị của mình, tùy duyên mà phát, thiện không tương ưng với ba nhóm sắc, tâm, dùng làm xứ y chỉ, nên nói là đại địa.

Đại địa tiểu phiền não: Đối với xứ, vị mình, y cứ vào duyên phân biệt khởi, không có tánh đại, gọi là tiểu. Phiền não như giải thích ở trước.

Tướng mạo, đối với xứ duyên của mình với thể dụng hiện hành mà không rời nhau gọi là tướng mạo.

Phân chia giới hạn xếp đặt, đối với các vị, xứ, kể cả sắc tâm sở thành sự của mình, người mà không đồng với họ, gọi là phạm vi giới hạn. Đại địa như trước đã giải thích.

Đại địa đại phiền não, đủ năm nghĩa tương ưng với kiết, phược, v.v… gọi là đại phiền não. Đại địa, như trước đã giải thích. Tướng mạo, như năm bất tín, v.v… đối với xứ duyên của mình, thể dụng hiện tiền mà chẳng tạp nhạp nhau, là tướng mạo của đại phiền não.

Về phạm vi giới hạn, đối với các vị, thành sự của mình, người mà không tạp nhạp nhau, là phạm vi giới hạn kia.

Đại địa bất thiện, đối với xứ, vị của mình khởi thể dụng của mình trái với chánh lý của mình, gọi là đại địa bất thiện, như trước đã giải thích.

Tướng mạo, không có hổ, không có thẹn, dạo khắp các cảnh, khởi các lỗi nghiệp, là tướng mạo kia.

Về phạm vi giới hạn, đối với vật xúc chạm vì duyên người khác, trở thành trái mà không thuận theo, gọi là phạm vi giới hạn.

Sử, nghĩa là sai khiến, sai khiến người tu hành hoàn thành sự nghiệp của mình. Đây là từ dụ mà gọi tên.

Tướng mạo, đối với xứ duyên của mình hoàn thành sự nghiệp của mình, theo đuổi mãi không bỏ, là tướng mạo của sứ giả kia.

Về phạm vi giới hạn, đối với xứ vị duyên người khác thành lập sự nghiệp, là cùng cực mà không đồng với người kia, là phạm vi giới hạn của mình.

Triền, danh, nghĩa của dụ, như xiềng xích ràng buộc voi. Triền ràng buộc như thế.

Tướng mạo, đối với vị duyên người khác nối tiếp nhau thành lỗi, là tướng mạo của triền kia.

Về phạm vi giới hạn, thành xử sự người khác, xứ mà không đồng với họ, là phạm vi giới hạn kia. Giác quán: Trái với sau, dịch là tầm, tứ, v.v… danh nghĩa ít có khác. Giác là giác sát, quán là quán thấu suốt. Tầm là tìm kiếm, theo đuổi. Từ là dò xét, tìm tòi danh nghĩa, tướng mạo, phạm vi giới hạn, có thể biết. Tâm vương là tâm làm y chỉ cho số. Lại dựa vào số mà khởi như vua, quan nương tựa nhau. Đây là từ pháp mà dụ.

Tướng mạo, sáu thức đối với các căn, hiểu biết các cảnh giới, đó gọi là tướng mạo.

Về phạm vi giới hạn, dựa vào căn số khởi mà không đồng với căn, số, đó gọi là phần giới hạn.

Hỏi: Nghĩa tâm sở hữu trong Đại thừa, Tiểu thừa và nghĩa của tâm sở có gì khác nhau?

Đáp: Số, nghĩa của pháp số là nghĩa phân chia giới hạn xếp đặt, nghĩa tâm sở hữu là thuộc về nghĩa của người khác từ tướng sinh, hai trí giả và thật kia khác nhau, cả hai lược đối với các môn phân biệt:

1. Đối với các thừa phân biệt, tâm sở này chỉ ở nghĩa Tiểu thừa chung cho Đại thừa. Nếu nhập Đại thừa thì đối với xứ tiền phương tiện của Ba thừa là thể, dụng, tướng mạo thuộc về giáo phương tiện, đều chẳng phải Nhất thừa và danh số Thỉ giáo, Biệt giáo của ba thừa, danh nghĩa của tâm sở như dưới đây sẽ giải thích.

2. Dựa vào ba tánh để phân biệt, chung cho đại địa, thường đi chung cho ba tánh thiện, bất thiện, vô ký.

Đại địa thiện, chỉ cho tánh thiện, phiền não tiểu, đại, kể cả bốn sử chung cho trái lý, bất thiện và vô ký. Đại địa bất thiện chỉ có bất thiện. Triền trái với lý bất thiện. Giác quán chung cho ba tánh, tâm vương cũng như thế.

3. Y cứ vào hoặc để phân biệt, chung cho số đại địa, chung cho tất cả hoặc sử, triền v.v… Đại địa thiện không chung cho các hoặc, phiền não tiểu, đại và các phiền não như bốn sử, v.v...

Vô tàm, vô quý chung cho phiền não, phi phiền não. Vì nhập nghiệp nên ba triền v.v… này tức bất định ở triền là phiền não, nhập số thì chung cho phiền não, phi phiền não, giác quán chung cho phiền não, phi phiền não. Tâm vương cũng giống như thế.

Y cứ vào các thức để phân biệt, chung cho số tại địa, chung cho sáu thức. Giác quán chỉ có địa ý.

4. Giả thật phân biệt, chỉ có thật, không chung với giả. Tâm vương cũng giống như thế. Nghĩa khác như luận đã giải thích.

Đây là lược nói về nghĩa, đối tượng bình luận thích đáng, nhằm nói rõ phần giới hạn phạm vi của tâm, tâm sở của Đại thừa. Tông khác so sánh có thể biết.

Thuận theo nghĩa phân biệt ở trong tông mình:

Hỏi: Sao không nói gốc lành không si?

Đáp: Vì thuộc về chung cho tuệ của đại địa.

Năm phiền não khác trong đại phiền não vì sao không nói?

Đáp: Tà giải tức thuộc về giải thoát trong đại địa, thất niệm thuộc về niệm. Lại, vì tiềm ẩn nhau nên tán loạn thuộc về định. Lại, không hợp lý vì định gọi là tướng tán loạn tiềm ẩn.

Lại, năm kiến trong mười sử thuộc về tuệ trong thông. Si thuộc về vô minh trong đại phiền não. Lại, cái mà trên đã bỏ ấy đều là phương tiện dứt hoặc nhập đạo.

Hỏi: Đại địa thiện trong đây là những pháp lậu, vô lậu nào?

Đáp: Là trí lậu, vô lậu của nhân vô ngã.

Hỏi: Các đại địa này có gồm thâu tâm phiền não và chướng sở tri hay không?

Đáp: Các tâm sở này không gồm thâu tâm phiền não. Theo chướng sở tri có gồm thâu, mà không gồm thâu. Chướng định, gồm thâu tâm phiền não của thế gian không gồm thâu thứ hai, đối với đại thừa, tiểu thừa kia đã biểu thị rõ ràng phế, lập.

Hỏi: Vô tàm, vô quý trong đây vì sao lại từ tùy phiền não? Đáp: Vô tàm, vô quý có hai nghĩa:

1. Nói theo thể.

2. Y cứ vào dụng để biện luận.

Do công dụng trở thành lỗi lầm, vì đại thừa y cứ Tiểu thừa nhập tánh bất thiện. Nếu vì y cứ vào loại tự thể thì sẽ đồng với tiểu hoặc, nên nhập Đại thừa này thuộc về tùy phiền não.

Hỏi: Vì sao Đại thừa thêm thất niệm và tán loạn còn Tiểu thừa thì không thấy nói?

Đáp: Vì Tiểu thừa đầu tiên răn dạy tâm họ hẹp hòi, thua kém, chấp mắc nhau, nên ẩn đi không nói. Hỏi: Biến hành, biệt cảnh là tùy phiền não đại hoặc và danh từ bất định ở trong Tiểu thừa vì sao không nói?

Đáp: Tâm sở của Tiểu thừa là do ý bậc Thánh lập, vì đối trị hoặc thô, nên không cần nói tế. Nay, vì các pháp này được gọi là đối trị chung hoặc tế, nên phân biệt tế, tương đương với nghĩa nhập đạo của Tiểu thừa.

Hỏi: Đại địa của Tiểu thừa và tên các sử đối với Đại thừa kia vì sao không nói?

Đáp: Tên đại địa, v.v… vốn đã thành tướng thô, trong Đại thừa tức là giáo của phương tiện nhập đạo đầu tiên. Chính vì nghĩa này nên ở trong giáo tế không có thích đáng nên không nói.

Muốn biết được ý bậc Thánh hãy dùng bốn câu sau đây để giảng nói:

1. Thể mạnh mà dụng yếu, như đại phiền não, v.v... Đây là y cứ một nửa của số Đại thừa, tức là sân.

2. Dụng mạnh mà thể yếu, như vô tàm vô quý. Đây là nói theo Tiểu thừa đối với Đại thừa.

3. Thể, tướng, dụng đều mạnh mẽ, như đại phiền não đại địa v.v... Đây là nói theo Tiểu thừa.

4. Thể dụng đều yếu, như tùy phiền não. Đây là nói theo Đại thừa, trong đó vẫn có thịnh suy nối tiếp nhau. Có thân thích thành, giúp thành, trở thành lỗi lớn. Tiểu thừa bỏ nỗi nghi ngờ tiến tới đạo, có phương tiện, không có phương tiện, Phật thì phế, lập khác nhau. Hai tông Đại, Tiểu lại lập danh lẫn nhau không bình đẳng, chẳng phải một, có thể so sánh tư duy gồm thâu.

Hỏi: Thể dụng của mười thứ phiền não đều mạnh mẽ, vì sao giáo đầu tiên của Tiểu thừa không nói?

Đáp: Trí Tiểu thừa nông cạn, như văn Tiểu thừa chép: "Phiền não Bất thiện và sử, v.v… đều nói theo chỗ tướng dụng mạnh mẽ. Lại, đối với ý giáo che chở nhau, hình thành nhau, như ba kiết, ba tùy chuyển thích nghi có thể tư duy. Lại như luận Dugià chép: "Chúng như thế v.v… đều có một pháp sở hữu của tâm tương ưng, đó gọi là bạn giúp đỡ đồng một đối tượng duyên, không đồng với một hành tướng. Một thời điểm đều có một hành tướng mà chuyển đều từ hạt giống sinh ra, lại có hành tướng tương ưng lẫn nhau, có đối tượng duyên, đối tượng nương tựa.

Hỏi: Các tâm pháp như thế có bao nhiêu tâm nương tựa, tất cả xứ tâm sinh ra, tất cả địa, tất cả thời, tất cả?

Đáp: Có năm, nghĩa là tác ý v.v…, tư là hậu biên.

Có bao nhiêu tâm dựa vào tất cả xứ, sinh ra tất cả địa, chẳng phải tất cả thời gian, chẳng phải tất cả chăng?

Đáp: Cũng có năm, nghĩa là dục v.v…, Tuệ là hậu biên.

Có bao nhiêu tâm chỉ dựa vào thiện, chẳng phải tất cả xứ sinh, chẳng phải tất cả địa, chẳng phải tất cả thời gian, chẳng phải tất cả chăng?

Đáp: Tín v.v…, bất hại là hậu biên.

Hỏi: Có bao nhiêu tâm chỉ y chỉ ô nhiễm, chẳng phải tất cả xứ sinh, chẳng phải tất cả địa, chẳng phải tất cả thời gian, chẳng phải tất cả chăng?

Đáp: Tham v.v, bất chánh tri là hậu biên.

Hỏi: Có bao nhiêu tâm dựa vào tất cả xứ sinh, chẳng phải tất cả địa, chẳng phải tất cả thời, chẳng phải tất cả?

Đáp: Nghĩa là ác tác, từ là hậu biên, do đây tính toán lựa chọn chung nghĩa giả thật của văn kia, lược có bốn thứ:

1. Đối với tánh không, tất cả pháp khác đều là giả có, vì y chỉ bổn vô trụ, lập ra tất cả pháp.

2. Y cứ vào nhân duyên danh ngôn phát khởi lẫn nhau, tức là tất cả pháp đều chung cho nhân duyên giả thật, vì quả thật khởi nên giả.

3. Y cứ vào pháp tướng ba tánh, biến kế tức không, tình cho là có thật, vì thể tánh chân thật, nên lý thật có, vì y tha do duyên phát nên giả.

4. Phẩm loại tăng thêm vì thiện, ác trái thuận để nói về giả thật, thì biện luận như thế, tâm sở hữu pháp cho đến bất tương ưng, v.v… để nói về giả, thật. Luận Du-già, Hiển Dương, v.v… cũng vậy đều đối nhau làm rõ nghĩa, dần dần trở thành pháp. Nếu tục đế ẩn mất nhau và trái với việc lành mà dụng có lý ấy là giả. Nếu bày tỏ nhau mà có thể, dụng sự hướng đến việc lành là có thật. Vì sao? Bậc Thánh vì muốn dùng phương tiện đối với người căn cơ Tiểu, biểu thị rõ pháp là không.

Nghĩa văn như thế nào?

Vì tám thức y cứ vào chỗ sự dụng để giảng nói nên đều là thật. Năm mươi lăm pháp nếu y cứ theo hai mươi bảy pháp của Du-già thì là có thật, pháp còn lại đều giả lập.

Hai mươi bảy: Biến hành có năm, biệt cảnh năm, trong thiện có bảy, trừ không buông lung, xả là vô tham, sân, si, kể cả tinh tấn. Đối với bốn pháp này vì giả lập nên có bất hại. Lại vì giả lập trên vô sân nên Du-già nói: "Thế nào là các pháp thiện? Có bao nhiêu là cái có của thế tục? Có bao nhiêu là vật có thật?

Đáp: Ba là cái có của thế tục, gọi là không buông lung, xả và bất hại. Vì sao? Vì không buông lung, xả là vô tham, vô sân, vô si, phần tinh tấn tức là nghĩa pháp lìa nhiễm, kiến lập làm xả. Vì nghĩa trị tạp nhiễm nên lập ra không buông lung. Bất hại tức là phần vô sân, không có vật thật riêng.

Phiền não căn bản có sáu: Năm thật, một giả. Luận chép: "Trong phiền não căn bản sáu có bao nhiêu thế tục có? Bao nhiêu vật có thật?

Đáp: Một, kiến là có của thế tục, vì là phần tuệ, cái có của vật thật khác, vì tâm pháp riêng, nên thuận theo giả thật của phiền não tức hai mươi bốn, gọi chung là phần tùy phiền não, cũng không nói tà dục, tà thắng giải.

Y cứ trong bổn địa phần có hai mươi sáu, thêm tà dục, tà thắng giải, rộng như trong luận đã giải thích.

Lại nữa, tùy phiền não này có bao nhiêu thế tục? Có bao nhiêu vật thật? Cái gọi là vô tàm, vô quý, bất tín, biếng nhác, bốn thứ này là thật, các thứ còn lại là giả. Phẫn, hận, não, tật, hại, năm thứ này là phần sân, sân này đều có thế tục, San, kiêu, trạo cử ba là phần tham, cũng là thế tục có. Chín pháp: Phú, cuống, siểm, hôn trầm, thùy miên, ác tác, vong niệm, tán loạn, tuệ ác là phần si, đều là thế tục có. Buông lung là phần tham, sân, si, biếng nhác, là thế tục có. Hai pháp: tầm, tứ là phát ra lời nói, phần gia hạnh của tâm và phần tuệ nên là giả có. Nếu theo luận Tạp Tập nói hai mươi hai là vật có thật, vật khác là giả có.

Hai mươi hai: Biến hành có năm, biệt cảnh có năm, thiện có bảy, là vật có thật, bốn thiện còn lại là giả có, nên luận ở dưới chép: Vô si, nghĩa là báo giáo, chứng trí, quyết trạch làm thể. Lại, quyết trạch nghĩa là vì tuệ, dũng, cần đều có, nên biết chẳng có dụng si, tuệ làm tánh. Không buông lung, xả đều nói rằng: Y chỉ chánh cần, vô tham, vô sân, vô si. Cho nên y cứ vào bốn pháp này giả lập.

Bất hại, là một phần gốc lành vô sân nên là giả có. Phiền não căn bản có mười, năm là thật có, năm là giả có, là phần tuệ. Tùy phiền não là bốn bất định, hợp với hai mươi bốn đều là giả có, nên luận chép: "Nên biết phẫn, v.v… là giả kiến lập, vì lìa sân, chẳng có tự thể riêng".

Phẫn, hận, não, tật, hại, năm thứ này là một phần sân, đồng với luận Du Già nói: Sân, kiêu, trạo cử, ba thứ này là phần của tham, đồng với Du-già nói: Buông lung nương tựa bốn pháp biếng nhác và tham, sân, si mà giả lập. Cũng đồng với Du-già chép: Vô tàm, vô quý là một phần tham, sân, si, bất tín biếng trễ là một phần si, đều là giả lập, không đồng với Du-già. Bốn vật thật có này của Du-già: Hai pháp cuống, siểm là một phần của ngu si, pháp tán loạn là một phần của tham, sân, si. Vọng niệm bất chánh tri là phiền não tương ưng với định, tuệ làm thể. Phú, thùy miên, hôn trầm, ác tác, bốn pháp này là một phần ngu si. Hai pháp tầm, từ hoặc tánh tư, hoặc tánh tuệ, nghĩa là đối với nghĩa vị riêng, tìm tòi, so lường, không tìm tòi, so lường. Chín trong các tùy phiền não của Du-già đã nói ở trước là: Phú, siểm, cuống, hôn trầm, thùy miên, ác tác, vọng niệm, tán loạn, tuệ ác đều là phần si.

Luận này chỉ bốn thứ: Phú, hôn trầm, ngủ nghỉ, ác tác là phần ngu si, năm thứ còn lại khác nhau, nghĩa là một pháp tán loạn là phần tham, sân, si, hai pháp cuống siểm là phần tham, si, vọng niệm, bất chánh tri là niệm trong phiền não.

Sở dĩ có sự khác nhau này là phải biết rằng đều do các nhà soạn luận đã dùng phương tiện liên lạc với nhau để biểu thị rõ nghĩa khác của mình, tùy thuộc vào sự khác nhau về hưng thịnh, suy vi thêm lên của họ, về lý, không trái nhau.

Nếu theo Tỳ-đàm thì triền nhơ tùy phiền não chung cho nương tựa, chín sử là tham, sân, si, nghi, năm kiến, chỉ trừ sử mạn. Trong đây, Đại thừa chỉ là tham, sân, si y, chẳng phải sử khác y. Vì sao? Vì sự liên lạc với nhau giữa hai tông, đều biểu thị rõ một nghĩa.

Tráng Pháp sư: "Bảy pháp trong các tùy phiền não của các sư phương Tây" là thật có, vô tàm, vô quý, bất tín, biếng trễ bốn thứ có tự thể riêng. Luận có văn thành thật: ba pháp thật hôn trầm, trạo cử, tán loạn cũng có tự thể riêng, cho nên biết được".

Giải thích: Vì trạo cử là phần tham, vẫn lìa tham, có tự thể riêng, như tham không tương ưng với giận.

Nếu vậy thì trạo cử sẽ có lỗi là không tương ưng với tất cả phiền não chăng?

Phải biết rằng, hôn trầm, tán loạn cũng là một phần si, nên biết cũng có tự thể riêng. Nay, y cứ luận Tạp Tập chỉ nói là một phần tham, sân, si trong tùy phiền não và y chỉ tham, sân, si đều là giả có. Nếu nói tham, sân, si này có thật thì nay bảy sử: vô tàm, vô quý, hôn trầm, trạo cử, bất tín, biếng trễ, tâm loạn này là một phần của tham, giận, si. Mười ba thứ còn lại, hoặc nói một phần, hoặc nói y chỉ ở đây, so sánh đều là giả có. Bốn pháp bất định cũng có thể riêng, là bất định. Lại, nếu có tự thể riêng thì đâu riêng gì biến hành.

Đáp: Biến hành tùy thuộc khởi thì đồng với hiện hành, bất định hiện tiền do khác nhau với sự. Điều này phải nên suy nghĩ. Lại, bốn pháp này so với trên không đủ, so với dưới có thừa.

Tráng Pháp sư nói: gốc lành vô si có thể tánh riêng. Ba trong mười một món thiện của Du-già là giả có. Xả, không buông lung, bất hại, ba thứ này là giả có, các thứ còn lại là thật có. Lại, đại bi dùng vô si làm tánh. Vì tuệ căn không nói gồm thâu với hai mươi hai căn, nên biết có tánh riêng. Như trong văn đem vô si đối với ba tuệ để giải thích, chỉ giải thích đối với ba tuệ nhằm làm sáng tỏ vô si, chẳng phải tức một thể. Nếu theo các nghĩa này thì ba mươi có thật trong pháp sở hữu của tâm, nghĩa khác là giả có. Ba mươi: Trong hai mươi hai thứ trước thêm bảy tùy phiền não và vô si. Y cứ khởi sai duyên riêng có nhiều ít chủng loại tạo nghiệp khác nhau, gọi là bỏ riêng, phấn khởi đều như Dugià và luận Thành Duy Thức giải thích, cũng có phần trí giả phán quyết Đại thừa y cứ cách giải thích của Tiểu thừa, xét văn của Đại thừa e không thể cùng cực, phải xét định tâm sở sâu kín khó có thể biết rõ, lược nêu một góc độ để chỉ bày cho người hậu học.

QUYỂN HẠ

37. Ý nghĩa ba đời khác nhau, giải thích trong phẩm Ly Thế Gian:

Hỏi: Thời gian tồn tại của các giáo như thế nào? Đáp: Theo giáo Tiểu thừa ba đời có pháp, theo giáo ba thừa có hiện tại trong ba đời, quá khứ, vị lai không có. Y cứ nghĩa chín đời của giáo Nhất thừa quá, vị, hiện tại và ba thời gian hiện tại, hiện tại là có, quá khứ, vị lai, hiện tại đều có, sáu đời quá, vị là không có. Chín đời đều có vì tương nhập, tương tức, nên được thành một câu chung, chung, riêng hợp thành mười đời, đời này dùng pháp bất tương ưng làm thể.

38. Nghĩa chướng, giải thích đầu tiên phẩm Phổ Hiền:

Hỏi: Các giáo nói về nghĩa chướng ra sao?

Đáp: Nếu y cứ các sử, triền nhơ của Tiểu thừa là danh số của chướng, thì tên chướng này chung cho Thỉ giáo của Ba thừa, gồm thì đi suốt qua giáo khác. Vì sao? Vì rằng hoặc danh đồng, nghĩa có sâu cạn, nên hai chướng hoặc, trí và phiền não sở tri chướng tám, tưởng quên hai mươi hai, vô minh, v.v… chính ở Thỉ giáo của Ba thừa. Ba chướng: tâm, thịt, da, hoặc của năm trụ địa, bốn chướng của xiển-đề, mười một chướng như vô minh v.v…, tánh phàm phu.

Các chướng này tiến thẳng lên quả vị Ba thừa, bao gồm Chung giáo, v.v…

Như trên, các hoặc, một hoặc, tất cả chướng, một đoạn tất cả đoạn. Đây là thuộc về giáo Nhất thừa, như dưới đây sẽ nói.

39. Nghĩa chướng riêng của Nhất thừa, cũng giải thích đầu tiên phẩm Phổ Hiền:

Hỏi: Trong phẩm Phổ Hiền y cứ vào pháp Phổ Hiền rất sâu xa, rộng lớn, y cứ vào văn nào đầu tiên nói một sân thành trăm chướng?

Đáp: Theo giáo Tiểu thừa, một hoặc, một chướng, một đời, một nhẫn, một trí, một đoạn đắc, một diệt.

Y cứ giáo Ba thừa, giáo đầu tiên, danh đồng với trước, trong nghĩa, sâu cạn khác nhau. Nếu y cứ vào Chung giáo của Ba thừa, một hoặc, một chướng ba đời, một nhẫn, một trí, chẳng phải sơ, chẳng phải trung, hậu, đoạn đắc ba đời diệt.

Theo giáo Nhất thừa, một hoặc nhiều chướng, nhiều đời, một số, nhiều số, nhẫn đến nhiều số, nhẫn đến một số, nhiều số, trí nhiều số, trí một số. Một đoạn chẳng phải đầu, chẳng phải giữa, chẳng phải sau. Được chín đời diệt và phi đời diệt.

Nay, phẩm Phổ Hiền đầu tiên nói về chướng giận, y cứ vào ở đầu mà nói, muốn so sánh làm rạng rỡ pháp hạnh giải rộng lớn của Phổ Hiền.

40. Giải thích xứ thứ mười một trong tri thức, môn Đà-la-ni:

Hỏi: Trong kinh Hoa Nghiêm dùng môn Đà-lani để làm sáng tỏ tất cả pháp môn, tướng trạng ấy thế nào?

Đáp: Luận tự dẫn chương Tất-đàn, mười hai tiếng, A, v.v… ba mươi sáu chữ rưỡi ca v.v... Lấy âm thêm bán tự, lần lượt nhân nhau, thành tất cả mãn tự. Tướng chữ kia vẫn không rời âm chữ bổn, một trong nhiều. Vì trong nhiều có một, bán tự đầu và vì tiếng ban đầu nên là nhiều trong một. Trong một có chữ nhiều, vì âm có tự thể, nên một tức nhiều, nên nhiều tức một. Do tướng, v.v… của mãn tự, tức hư hoại, trở thành bán tự và vì âm đầu tiên, do Đà-la-ni pháp tự này, hàng trời, người đồng hiểu chung. Nêu lên pháp tự này vì lập pháp Đàla-ni, nên có thể y cứ theo đó mà sử dụng. Pháp này được dùng nhiều ở Nhất thừa, chia ra dụng ở ba thừa, thừa khác chẳng phải rốt ráo.

41. Số môn thừa, danh không đồng nghĩa, cũng giải thích sau bốn mươi biện tài:

Lại, theo các kinh luận nói: "Thừa có bốn thứ:

1. Nhị thừa: là hai thừa Đại, Tiểu. Trong phương tiện, từ giáo thu hướng quả, chia làm hai.

2. Ba thừa, nghĩa là Đại thừa, Trung thừa, Tiểu thừa. Trong phương tiện từ lý thành hạnh, chia làm ba.

3. Theo Nhiếp luận là Nhất thừa, ba thừa, Tiểu thừa, nghĩa là trong môn giáo, trở thành căn cơ, tính dục, biểu thị rõ sự khác nhau giữa bản, mạt của pháp, vì khác nhau.

4. Theo kinh Pháp Hoa thì: Ba thừa, Nhất thừa, là y cứ theo thể tướng của phần cõi, vì phương tiện rốt ráo khác nhau. Lại, nói theo số, nghĩa là số hai và ba đều chung cho ba, hai, vì ý nghĩa nên nói.

Nói hai chung cho ba, nghĩa là Đại thừa, Tiểu thừa, Thanh văn, Duyên giác, Nhất thừa, ba thừa.

Nói ba chung cho hai, có hai nghĩa: Đại thừa, Trung thừa, Tiểu thừa, Nhất thừa, ba thừa, Tiểu thừa, ý kia đều khác nhau, cứ như tư duy có thể biết. Lại, theo văn kinh dưới, hoặc một, hai, ba, hoặc bốn, nghĩa là Nhất thừa, Ba thừa; hoặc năm, nghĩa là Ba thừa, người, trời. Hoặc vô lượng, nghĩa là tất cả pháp môn, đây là nói theo Thỉ, chung.

42. Giải thích về sơ Tứ thiền ba địa, nghĩa bốn tầm tư:

Hỏi: Pháp quán bốn tầm tư của các giáo như thế nào?

Đáp: Kinh, luận đã nói quán tầm, tư, sơ lược có ba thứ:

1. Bốn tầm tư.

2. Sáu tầm tư.

3. Ba tầm tư.

Cũng gọi là cầu biết. Đại môn có năm:

1. Nêu tên gọi và giáo khởi ý.

2. Giải thích về nghĩa quán tầm tư kia và chỉ rõ giới hạn chủ, khách khác nhau.

3. Đối với ba tánh nói về thật giả của ba tánh đó.

4. Nói sâu, cạn và đối với như thật, làm sáng tỏ giới hạn quán.

5. Nói về vị, địa và hỏi, đáp dứt trừ nghi. Đầu tiên, nêu tên gọi và giáo, khởi ý, nghĩa là bốn tầm tư đầu tiên:

1. Danh: nghĩa là chủ thể giải thích giáo pháp.

2. Nghĩa: là nghĩa của đối tượng giải thích.

3. Tự tánh, gọi là thể năng của danh nghĩa.

4. Sai biệt là danh, nghĩa, tướng, hình.

Đối với các pháp vì khác nhau không đồng nên gọi là sai biệt.

Sáu tầm tư: Phân tích danh, nghĩa kia đều có tự tánh và sai biệt nên có sáu.

Ba tầm tư: hợp với danh, nghĩa, tự tánh và sai biệt, thì là ba, giáo khởi ý.

Hỏi: Vì sao lập bốn tầm tư?

Đáp: Vì người căn phẩm trung có hai kiến:

1. Kiến hòa hợp.

2. Kiến sai biệt.

Kiến hòa hợp, nghĩa và danh hòa hợp thành một.

Kiến sai biệt, nghĩa và danh đều có tự tánh. Có chủ thể tương ưng mà thể khác nhau. Bậc Thánh lập giáo nhằm đối trị bệnh người kia, khởi bốn tầm tư, chỉ bày danh nghĩa ban đầu, đối trị khác nhau ở trước, kiến hợp với tự tánh của danh, nghĩa kia và nghĩa khác nhau đối trị với kiến tương ưng thành một.

Hỏi: Phàm nói đối trị, tri chướng phải khác nhau. Người ngoài lập một pháp của chủ thể tri thì giới phân biệt thành nhiều pháp, biểu thị rõ một là giả và phô bày nhân không có gì bằng, nay sao lại nói chỉ bày hai danh, nghĩa để trị khác nhau, có đạo lý như thế hay không?

Đáp: Nếu đối với ngoại đạo và Ba thừa không y cứ hành đạo thì Như Lai sẽ quở trách. Nay, tầm tư này là Bồ tát tự quán, đối trị chung tất cả ngoại đạo, Nhị thừa và Bồ-tát. Hoặc vì thuận với hành đạo, nên khởi lên đối trị này. Vì sao? Vì phân biệt giới, phân tích đả phá, giả hợp và kiến tự tánh thì trái với hành đạo. Vì sao? Vì giả hợp tự tánh là duyên pháp tụ và trở thành phân biệt pháp giới, chính là pháp hư hoại, thành, hoại khác nhau, vì nhờ dựa vào duyên đều khác nhau, nên không trị nhau, là vì trong văn, khởi phân biệt xếp đặt một ít khác nhau của môn quán kia, như dưới đây sẽ nói đủ, hãy suy nghĩ.

Sáu tầm tư: Vì trị kiến khác nhau tức vì người căn cơ nhạy bén.

Ba tầm tư: đối trị hòa hợp và một kiến vì người căn cơ mềm mỏng. Vì sao? Vì mỗi người có kiến khác nhau, là vì kiến hạnh nên người hòa hợp một kiến, là ái hạnh.

Hai, giải thích nghĩa tầm tư kia và chỉ rõ phân chia giới hạn chủ, khách khác nhau. Như Nhiếp luận chép: Sao gọi là tầm tư? Nghĩa là tự tánh khác nhau giữa danh, nghĩa. Bồ-tát đối với danh chỉ thấy danh, đối với nghĩa chỉ thấy nghĩa. Đối với ngôn thuyết tự tánh của danh nghĩa, chỉ thấy ngôn thuyết tự tánh của danh nghĩa. Đối với ngôn thuyết khác nhau của danh, nghĩa, chỉ thấy ngôn thuyết khác nhau của danh nghĩa.

Đối với bốn chỗ này so lường, nghi ngờ, quyết định rõ ràng, nói môn tầm tư, cho nên tự tánh và khác nhau an định ngôn thuyết là hai pháp sau, vì quán tướng sâu. Nếu y cứ quán thật trong bốn pháp đều là ngôn thuyết.

Hỏi: Y cứ vào tướng quán nào biết được hai pháp sau là sâu chẳng phải cạn?

Đáp: Hai pháp danh, nghĩa, một khi thẳng đến kiến chấp không sâu nặng, tự tánh và sai biệt y cứ vào danh, nghĩa kia để chứng nghiệm thành chấp, nên thành rất nặng. Trái với quán trị, trở thành gia công tạo nghiệp mới quán hiện tiền, nên rất sâu. Văn này: Đối với danh chỉ thấy danh, v.v… nghĩa là Bồ-tát đối với danh thật đều chẳng thấy danh giả và không có danh, chẳng thấy danh thật; Về nghĩa, v.v… cũng vậy, chủ, khách được phân chia xếp đặt khác nhau, không làm chủ, lấy thật làm khách, lấy giả làm chủ, lấy thật làm khách. Vì sao? Do Nhiếp Luận nói: lấy vô sở hữu làm tự tánh.

Lại, quán danh, nghĩa chỉ giả lập vì tầm tư nên biết được. Có dùng nhân làm chủ, lấy quả làm khách. Vì sao? Vì khách dựa vào chủ lập nên nương gá, nổi trôi, không có gốc rễ, chủ và khách làm nương tựa, được thành việc kia.

Vì sao biết được?

Vì làm nhân quả lẫn nhau, trở thành nghĩa chủ, khách. Nhiếp Luận chép: Danh, nghĩa làm khách lẫn nhau. Vì Bồ-tát thích ứng với tầm tư nên được biết.

Hỏi: Nếu nghĩa là nói ở đây thì vì sao Nhiếp Luận chép: Danh chẳng có cái có, đối với nghĩa là khách? Nghĩa không có sở hữu, đối với danh là khách. Nếu y cứ văn này thì vô sở hữu là nghĩa khách, vì sao lại nói không vô sở hữu làm chủ kia? Đáp: Vì lời nói này chợt ẩn giấu, vì phân biệt có tánh với nghĩa không, đồng một thứ, không có lý, không thể có, khác với tướng này, khó tỏ bày, chỉ muốn nói thật thì can dự chưa quán, chỉ miệng nói không, mà chẳng biết phân chia xếp đặt, nên nay nêu danh để nói vô sở hữu thì biết là thật.

Tiếp theo sau nêu nghiêng về vô sở hữu, vì bản tánh của danh nghĩa này nên biết văn ở trước kia gọi là vô sở hữu và nghĩa vô sở hữu tức nói là thật. Ở đây, y cứ vào quán cảnh trí tuệ để nói nên đáng suy nghĩ. Vì ba đối với ba tánh nói về sự phân chia, xếp đặt nên luận nói kệ:

Danh và nghĩa làm khách lẫn nhau
Bồ-tát thích ứng với tầm tư.
Nên quán hai duy lượng.
Và hai giả thuyết kia.
Từ đây sinh thật trí.
Lìa trần phân biệt ba.
Nếu thấy chẳng phải có.
Được nhập ba vô tánh.

Một hàng rưỡi kệ trước nói về quán vô tướng, kế có một câu:

"Nếu thấy chẳng phải có là nói về quán vô sinh".

Ba được nhập ba vô tánh, một câu này nói về quán vô tánh.

Quán tướng như thế nào?

Dựa vào tánh y tha để dứt trừ tánh phân biệt.

Y chỉ chân như kia dứt bỏ tánh y tha.

Khả năng dứt bỏ là sao?

Do danh, nghĩa không thật có, có thể phân biệt, cũng không thể là có. Vì sao? Vì nếu danh, nghĩa, đối tượng phân biệt là có, thì có khả năng phân biệt duyên danh, nghĩa này có thể nói là có. Do danh nghĩa chẳng có cái có, nhân duyên phân biệt đã nhất định là không, thì thể năng phân biệt cũng không. Phân biệt trong đây đã không, nói năng cũng không thật có, thì nhập tánh vô sinh của y tha. Bồ-tát nhận thấy có, không này là vô sở hữu thì nhập ba vô tánh phi an lập đế. Tánh phân biệt trong ba tánh này là thật, cũng tức là không. Tánh y tha là giả, chẳng phải thật, chẳng phải không. Một tánh chân thật là thật, không phải suông.

Quán bốn tầm tư, nếu nhập tánh phân biệt thì trần, đối tượng phân biệt là không, là thật, nên Thích luận nói: "Nếu Bồ-tát nhận thấy danh nghĩa lại làm khách lẫn nhau thì đã nhập vào tánh phân biệt danh nghĩa khác. Vì sao? Vì quán vô tướng chưa hoàn toàn thành vì chỉ khác với khi chưa quán nên nói là khác. Ở đây dù biết không có chưa phá hoại kiến thật, nên quán tầm, tư cũng ở trong thật.

Nếu nhận thấy tự tánh của danh nghĩa là giả nói, chỉ phân biệt làm thể thì sẽ trở thành phân biệt quán vô tướng, mới được cuối cùng. Bấy giờ, tầm tư sở tri đều là không. Quán tầm tư nếu ở tánh y tha thì chẳng phải thật, chẳng phải trống rỗng, cũng có thể vì là già nên trong Nhiếp Luận y cứ vào tám dụ kia để giảng nói sự tương tự nọ.

Quán bốn tầm tư không nhập vô tánh. Vì sao? Vì phương tiện đầu tiên của pháp quán này. Nếu được bốn trí như thật thì mới nhập vô tánh nên được biết.

Nói sâu, cạn và đối với như thật quán rõ ràng phạm vi giới hạn. Văn luận nói: giải thích nghĩa tự tánh xong, dùng nghĩa rất sâu xa làm cảnh giới, dùng nghĩa này để cầu được biết hai môn danh nghĩa là nông cạn chẳng phải sâu, tự tánh và khác nhau là sâu chẳng phải cạn.

Nói quán như thật phân biệt, Thích Luận giải thích: Sao gọi là trí như thật được dẫn phát bởi tầm tư? Nếu Bồ-tát đối với danh đã tầm tư chỉ có danh về sau biết như thật chỉ có danh thì đây là biết quyết định danh không thật có.

Hỏi: Nếu danh quyết định không có tự thể thì vì sao lại đặt tên các pháp?

Đáp: Vì muốn cho chúng sinh dần nhập vào chánh lý, tưởng, kiến, ngôn thuyết, dựa vào nghĩa danh, tưởng và hiện chứng phát ngữ, giáo hóa người khác, giả lập tên khách. Vì không có pháp thật nên Thích luận chép: Nếu thế gian không an lập danh, sắc thì ở trong loại sắc sẽ không có một người nào có thể tưởng tượng loại này là sắc. Nếu không thể tưởng thì sẽ không thể tăng ích, nếu không chấp mắc thì sẽ không thể dạy bảo cho nhau biết.

Tầm, tư nghĩa nào đã dẫn phát trí như thật?

Đáp: Nếu Bồ-tát đối với nghĩa đã tầm, tư chỉ có nghĩa, về sau biết nghĩa như thật, là lìa tất cả ngôn thuyết, không thể nói năng, nghĩa là loại sắc, thọ, v.v… sắc chẳng phải sắc, chẳng thể nói pháp, phi pháp, chẳng thể nói có, không, chẳng thể nói là phải. Danh, nghĩa do tầm, tư đã dẫn trí như thật.

Trí như thật được dẫn do tự tánh tầm tư như thế nào?

Trong tự tánh ngôn thuyết của loại sắc đã tìm kiếm, suy nghĩ có ngôn thuyết, do ngôn thuyết nên loại này không phải tự tánh của loại kia, như tự tánh của loại kia thể hiện rõ ràng. Bồ-tát đã thông đạt đúng như thật loại này, như ảnh tượng ứng hóa, chẳng phải loại giống với loại biểu hiện rõ, đây gọi là trí như thật được tự tánh tầm tư đã dẫn phát.

Trí như thật được dẫn phát do tầm tư khác nhau. Nếu Bồ-tát đối với ngôn thuyết khác nhau đã tầm, tư chỉ có nói năng, đối với loại sắc, v.v… thấy khác nhau, ngôn thuyết không có hai nghĩa. Loại này chẳng phải có, chẳng phải không, do có thể nói thể không thành tựu, nên chẳng phải có, chẳng phải không phải có, do không thể nói thể thành tựu. Như phi sắc này, vì chân đế nên chẳng phải phi sắc, vì tục đế nên ở giữa là có sắc, nói năng, nên Bồ-tát biết đúng như thật nói năng khác nhau, không có hai nghĩa, đó gọi là tầm tư khác nhau đã dẫn trí như thật.

Bồ-tát quán như thế, v.v… tầm tư danh nghĩa này, giả lập tự tánh và sai biệt, suy lường, ngờ vực, quyết đoán rõ ràng như thế nói gọi tầm tư. Do tầm tư này quán danh nghĩa, nhất định không có sở hữu, gọi là trí như thật. Đây tức là hai nghĩa tầm, tư như thật khác nhau.

Nói về vị địa và hỏi đáp, dứt trừ nghi: Địa vị tầm, tư ở hai vị Noãn, Đảnh. Nếu y cứ Thời Gian Tu ở Thập tín và vị Thập giải. Địa vị của trí như thật ở tâm Nhẫn và pháp Thế đệ nhất. Nếu y cứ ở chương thời gian thì ở vị Thập hạnh, Thập Hồi Hướng nên Nhiếp luận chép: Bồ-tát đối với bốn thứ tầm tư, tu đạo phương tiện của hai thứ: Noãn, Đảnh. Trong bốn thứ trí như thật, tu đạo thế nào? Cho đến Thích luận chép: Duyên thức làm cảnh, hiểu biết không có trần, v.v... Đối tượng duyên đã không có thì chủ thể duyên sẽ không được sinh. Vì sự hiểu biết này nên có công năng chế phục diệt tưởng Duy thức. Duy thức đã diệt từ sát-na sau cuối, lại tiến tới sát-na thứ hai, liền nhập Sơ địa.

Lại, chương Thời Gian Tu chép: Như đạo Thanh văn, trước kia có bốn phương tiện, gọi là Noãn, Đảnh, Nhẫn và pháp Thế đệ nhất, bốn vì địa tiền Bồ-tát cũng như đây, nghĩa là Thập tín, Thập giải, Thập hạnh, Thập hồi hướng, nên được biết.

Hỏi: Bồ tát nhận thấy ngôn thuyết tự tánh và ngôn thuyết khác nhau vì đều thuộc về nghĩa nên nói là tương ưng với nghĩa. Làm sao biết được danh, nghĩa làm khách lẫn nhau? Đây là văn luận với ý nghĩa như thế nào? Như người ngoài chấp danh, nghĩa đều có tự tánh và sai biệt, mỗi thứ đều tương ưng với hai pháp danh, nghĩa, tự tánh khác nhau, đây tức là nhà trạm khách, bình đẳng không nghiêng lệch. Làm sao biết được danh, nghĩa làm khách lẫn nhau?

Luận có ba cách đáp:

1. Trước hết, đối với danh vì trí bất sinh nên chứng tỏ danh nghĩa, và thể khác nhau mà không tương ưng. Khi thể khác nhau thì không có pháp. Danh, nghĩa số đời đều như vậy. Nếu danh thể đồng với nghĩa và khi chưa nghe danh tương ưng, trí biết danh ở trong nghĩa, lẽ ra là thành. Vì hiện thấy trí biết nghĩa danh, trí biết danh bất sinh nên biết danh nghĩa vốn không tương ưng.

2. Nghĩa thứ hai dẫn một, nhiều mâu thuẫn, để chứng minh danh, nghĩa khác nhau cũng không tương ưng, một nghĩa như chiếc bình nước khác đặt tên đều không đồng. Nếu danh và nghĩa tương ưng thì sẽ thành có, nghĩa là danh nhiều, chẳng phải một, nghĩa lẽ ra cũng nhiều. Vì sao? Vì một nghĩa tương ưng với nhiều danh thành có.

3. Nghĩa thứ ba vì định khác với bất định nên hai tướng danh, nghĩa không được tương ưng. Vì danh không nhất định nên danh tương ưng với nghĩa cũng không nhất định, nghĩa lẽ ra cũng như thế.

Nước tây có pháp dùng một tên cồ, gọi chín nghĩa, cái gọi là chín, nghĩa là: lời nói, phương, đất, ánh sáng, bò, kim cương mắt trời, nước dùng một tên cồ để gọi chín nghĩa này.

Danh chắc chắn tương ưng với nghĩa: Khi gọi trời thì đất lẽ ra phải gọi theo, vì tương ưng với trời, pháp khác cũng như thế. Đã không có nghĩa này nên biết được hai pháp tương ưng thì điều này cũng không thành. Vì sao? Vì cũng mâu thuẫn với ba nghĩa trên.

Hỏi: Một khác với hai nghĩa tương ưng đều khác nhau, sao đồng mâu thuẫn với nghĩa một, ba? Đáp: Dù danh đồng với lỗi mâu thuẫn với ba nghĩa đều khác nhau, cho nên được biết. Nếu danh và nghĩa một mà tương ưng thì trí thấy nghĩa cần phải là trí biết danh kia. Lại, nếu một nghĩa đã là một thì danh sẽ không nhiều. Lại, nếu một danh đã bất định thì nghĩa lẽ ra cũng như thế. Nếu danh khác với nghĩa mà tương ưng thì trí biết nghĩa sinh, trí biết danh lẽ ra cũng tức là sinh. Vì sao? Vì danh nghĩa khác nhau mà tương ưng. Lại, nếu khác thì danh đã là nhiều, nghĩa lẽ ra cũng nhiều, vì hai tướng đều khác nhau mà tương ưng.

Lại, nếu khác thì chín nghĩa là khác, tên một lẽ ra cũng phải thành chín. Vì sao? Vì tướng riêng của danh nghĩa, tương ưng thành cái có của chín nghĩa. Các lý này đều nghiêng lệch, nói theo bốn tầm tư thì sáu tầm tư, v.v… và ba tầm tư đem so sánh có thể biết. Vì sao? Vì không vượt ngoài một, khác tương ưng thành có. Pháp khác có thể y theo giáo này, ở ba thừa cũng được dụng Nhất thừa. Vì sao? Vì pháp quán này tất cả xứ dụng thích ứng với pháp giới.

43. Giải thích đầu phẩm nói về vấn nạn, nghĩa nhân duyên như thật:

Hỏi: Bồ-tát đầu tiên khởi tu hành trước quán nhân quả như thật thành phương tiện nhập đạo. Nghĩa ấy như thế nào?

Đáp: Đại khái đại cương pháp Phật có hai thứ, gọi là chân tục, thuận theo quán thế đế thì nhập Đệ nhất nghĩa.

Tướng quán ra sao?

Pháp có nhiều môn, lại dựa vào đồng thời như thật làm nghĩa nhân quả lẫn nhau, nghĩa nhập nhân quả có hai lớp. Trong lớp thứ nhất có ba môn:

1. Nói về lỗi che chở phân biệt.

2. Nói về nghĩa nhập nhân quả.

3. Nói ngược lại thì thành lỗi.

Đầu tiên là nghĩa che chở: Dựa vào chiếc đèn, ánh sáng và tim đèn cháy để nói, các việc thân, tâm, so sánh có thể hiểu.

Hỏi: Tim đèn cháy có sinh ra ngọn lửa, ánh sáng chăng?

Đáp: Không, vì tim đèn từ ngọn lửa sinh.

Ngọn lửa có sinh ra tim đèn không?

Đáp: Không, vì ngọn lửa từ tim đèn sinh. Ngọn lửa có từ tim đèn sinh không?

Đáp: Không, vì ngọn lửa có thể sinh ra tim đèn. Bấc đèn có từ ngọn lửa đèn sinh ra chăng?

Đáp: Không, vì bấc đèn có công năng sinh ra ngọn lửa. Có thể không sinh ra chăng?

Đáp: Không, vì bỏ tim đèn thì ngọn lửa sẽ không có. Sinh, bất sinh đi đôi với nhau phải không?

Đáp: Không, vì mâu thuẫn nhau.

Chẳng phải sinh, chẳng phải không sinh chăng? Đáp: Không, vì trái với lý sinh như thật của nhân quả.

- Giải thích xong môn thứ nhất.

Nghĩa thứ hai: Nhân là tim đèn, sinh ra quả ngọn lửa đèn. Nhân là nghĩa có. Vì có năng lực nên quả ngọn đèn từ nhân sinh là nghĩa không có. Vì nương tựa nhân tim đèn sinh nên ngọn đèn sinh tim đèn, trái với trước, có thể biết.

Quả ngọn đèn từ nhân tim đèn sinh, là nghĩa chẳng phải có. Vì không có tự thể nên tim đèn sinh ra ánh sáng, nhân của tim đèn, ngọn đèn là nghĩa chẳng phải không có, vì năng lực có. Câu khác, so sánh có thể biết.

- Môn thứ hai đã xong.

Thứ hai, trái lại thì thành lỗi. Nếu nói nhân của tim đèn sinh, quả cũng có thể thường sinh, vì thường sinh ra quả, ngọn lửa đèn là tăng ích.

Nếu nói tim đèn bất sinh cũng có thể thường không sinh ra quả ngọn lửa đèn, vì chẳng có nhân không có, là tổn giảm. Ngọn đèn sinh ra tim đèn, như trước có thể biết.

Nếu nói vừa sinh vừa không sinh, là mâu thuẫn nhau. Nếu nói chẳng phải sinh, chẳng phải không sinh là nói suông, nghĩa khác so sánh với nghĩa này có thể biết.

- Môn thứ ba đã xong.

Lớp thứ hai: Ba môn đồng với trước.

1. Môn thứ nhất: Trước là nói theo nhân, sau là nói theo quả.

Hỏi: Nhân có hay không?

Đáp: Không, vì là nhân của quả, là duyên thành. Nhân không có phải chăng?

Đáp: Không, vì sinh ra quả. Nhân có, không là đi đôi chăng?

Đáp: Không, vì mâu thuẫn nhau. Chẳng phải có, không chăng?

Đáp: Không, vì hiện thấy pháp sinh quả.

2. Y cứ vào quả để nói.

Hỏi: Quả có hay chăng?

Đáp: Không, là quả của người khác vì không có tự thể. Quả là không có phải chăng?

Đáp: Không, vì là quả.

Vừa có, vừa không có phải chăng?

Đáp: Không, vì một quả, vì không mâu thuẫn nhau. Chẳng phải có, chẳng phải không có chăng?

Đáp: Không, vì quả hiện có đã sinh. Giải thích môn thứ nhất xong.

Nghĩa thứ hai: Nhân là nghĩa có, vì công năng sinh. Nhân là nghĩa không, vì là nhân của quả. Vì duyên thành nên nhân là nghĩa vừa có, vừa không. Vì nhân thành nên nhân là nghĩa chẳng phải có, chẳng phải không có, vì tùy thuộc lấy một nghĩa nhất định không thể được. Bốn môn của nghĩa quả so với trước nên biết.

Môn thứ hai đã xong.

3. Chấp thành lỗi:

Hỏi: Nhân sinh quả đâu có lỗi?

Đáp: Nếu sinh cũng có thể thường sinh, cũng có thể thường bất sinh.

Vì sao biết được?

Vì nếu sinh tức là thường sinh. Lại, nếu sinh thì hiện đã có quả của ngọn lửa đèn, là nhân năng sinh, tim đèn tức không có đối tượng sinh, nên là đoạn.

Nhân không sinh quả có lỗi gì?

Đáp: Cũng có hai lỗi, nếu nhân tim đèn không sinh tức ánh sáng, ngọn lửa đèn vì không có nhân, nên là thường. Lại, nếu tim đèn không sinh ra ngọn lửa đèn không có tự sinh, nhân lại không sinh, vì không thể có được, nên là đoạn. Vừa sinh, vừa không sinh, chẳng phải sinh, chẳng phải không sinh, so sánh để suy nghĩ. Nghĩa khác cứ như thế có thể biết.

Lại, tất cả nhân có sáu nghĩa:

1. Không có năng lực, không chờ đợi duyên, vì từng niệm diệt.

2. Có năng lực, không chờ đợi duyên, vì quyết định.

3. Có năng lực, chờ đợi duyên, như vì dẫn làm sáng tỏ quả của mình.

4. Không có năng lực không chờ đợi duyên vì quán nhân duyên.

5. Có, không có năng lực chờ đợi duyên, vì theo đuổi đến mé trị.

6. Không có năng lực chờ đợi duyên, vì đều có sức.

Hỏi: Chưa biết chờ đợi duyên, chờ đợi duyên gì?

Đáp: Đây là chờ đợi duyên ngoài: bếp lò, dầu, nước, đất v.v…, không nhân lấy sự nhân và sáu nghĩa của mình. Lại, kinh nói: Nhân của nhân, cũng nhân quả của nhân, quả của quả cũng là quả của quả, phân biệt nhân quả gần, xa, công dụng của năng lực có, không, là phân chia xếp đặt: nhân ban đầu là nhân gần. Lại nhân là duyên nhân. Cũng là nhân nhân: hai nhân do nhau. Quả quả, v.v… y cứ nhân hai quả do nhau mà thành. Nhân quả khác đối nhau thì không có tác dụng. Lại, duyên tăng thượng đối với quả tự tăng thượng, trở lại làm nhân gần, nên luận Tạp Tập hội chứng duyên xa nhập về nhân gần. Lại, luận Thành Duy Thức nói: nhân duyên, nghĩa pháp hữu vi gần, nói về quả mình. Thể này có hai:

1. Hạt giống.

2. Hiện hành.

Hạt giống, nghĩa là công năng khác nhau của các giới, địa của thiện nhiễm, vô ký, công năng dẫn dắt, tiếp theo, công năng tự loại sau và khởi tự loại đồng thời hiện quả. Đây chỉ là đối với kia là nhân duyên hiện hành, nghĩa là bảy chuyển. Thức và tướng, kiến, tánh, giới, địa, v.v… đối tượng biến tương ưng trừ quả Phật thiện, vô ký rất kém, huân tập bản thức khác, sinh chủng tự loại. Đây chỉ đối kia là tánh nhân duyên.

Phẩm Tâm thứ tám vì không có đối tượng huân tập, nên không phải phân biệt đối tượng nương tựa, vì công năng huân tập riêng, vì rất sâu kín, nên không huân tập thành hạt giống, hiện hành đồng loại lần lượt đối nhau, vì đều chẳng phải nhân duyên tự chủng sinh. Tất cả loại khác lần lượt đối nhau cũng chẳng phải nhân duyên, vì không sinh gần.

Có thuyết nói: Hiện hạnh của loại đồng, loại khác, lần lượt đối nhau làm nhân duyên. Nên biết giả thuyết hoặc môn tùy chuyển hữu chỉ nói chủng là tánh nhân duyên, chủng ấy dựa vào làm rõ sự vượt hơn chẳng phải thuyết cùng tận lý.

Thánh nói: chuyển thức với A-lại-da vì lần lượt đối nhau làm nhân duyên nên ở đây làm sáng tỏ nhân quả, phân chia xếp đặt gần, xa rất rõ ràng. Sáu nghĩa kia và sự, lý nhân quả trước kia hình thành nhau, lại dùng sáu pháp để biểu thị rõ, cái gọi là chung thành chung nhân quả.

Nghĩa riêng thành riêng là chung. Đồng tự, đồng thành là chung.

Khác với các nghĩa, khác với tự, vì làm rõ đồng. Thành sự lý nhân quả là thành.

Làm hư hoại các nghĩa đều ở pháp mình vì không dời đổi bản tánh.

Duyên khởi đã thuật ra đều chung cho khắp tùy thuộc có sự thành, xem xét, suy nghĩ có thể hiểu.

Văn này ở Ba thừa, Nhất thừa mới cuối cùng.

Vì sao? Vì thích hợp với pháp giới.

44. Giải thích đầu tiên hồi hướng thứ năm, nghĩa pháp sám hối:

Hỏi: Pháp sam hối của các giáo khác nhau như thế nào?

Đáp: Pháp này có bốn môn:

Thứ nhất là sám hối. Thứ hai là khuyến thỉnh.

Thứ ba là tùy hỷ.

Thứ tư là hồi hướng.

Văn này ở Nhất thừa đi suốt qua dụng của Ba thừa. Thuyết minh rộng như luận Tỳ-Bà-Sa. Giáo Tiểu thừa, v.v… không có pháp này. Phương pháp diệt tội kia nói rộng như kinh luận.

Nếu là môn phát nguyện thì đều chung cho nhân quả, sự lý, đều có sự thành, nguyện chưa thành, sự, nguyện có thể so sánh hiểu rõ.

45. Nghĩa dụng Đà-la-ni, cũng giải thích trong mười một tri thức:

Hỏi: Các giáo tụng pháp chủ Đà-la-ni khác nhau như thế nào?

Đáp: Lợi ích của tụng chú là diệt tội, phước sinh, cho đến thành công dụng lợi mình, lợi người, chứng quả, v.v... Văn này ở Chung giáo của Ba thừa, chung cho công dụng Nhất thừa. Vì sao? Vì thích ứng pháp giới, Tiểu thừa không có giáo này.

Lại có bốn thứ Đà-la-ni:

1. Pháp.

2. Nghĩa.

3. Chú thuật.

4. Nhẫn, cũng gọi là già nhẫn.

Biết tất cả nói năng, nghĩa tự tánh của tất cả pháp không thật có, gọi là Đà-la-ni nhẫn, hai Đàla-ni sau xuất xứ từ luận Địa Trì. Lại, mười Đà-lani là nghĩa văn Nhất thừa, như phẩm Ly Thế Gian chép: In dấu tướng, lập ra tướng, v.v… chữ khéo léo đều y cứ vào chú này mà biết.

46. Giải thích trong địa thứ sáu, nghĩa lược quán của Duy thức:

Hỏi: Trong các giáo nói về quán Duy thức bằng phương tiện thế nào?

Đáp: Người muốn tu quán trước phải gần gũi hai tri thức.

1. Hạnh tri thức.

2. Giải tri thức.

Y chỉ chỗ vắng lặng kia, tự thân thuận theo đối tượng tương ưng, giữ giới thật thanh tịnh, dốc lòng sám hối, cung thỉnh chư Phật mười phương, tất cả Hiền Thánh và vua thiện thần che chở xong.

Thân ngồi kiết già, tay trái để lên trên tay phải, thân thật ngay ngắn, nhắm mắt, điều hòa hơi thở, dùng lưỡi… chánh tâm dừng ở duyên cảnh, tướng đã hiện, biết tâm mình tạo ra sự phân biệt, theo hơi thở, tâm mình liền dừng lại. Nếu tâm chưa dừng lại, hãy dùng động tác không điều hòa, tu tập ban đầu. Trải qua ngày, tháng, tâm mình liền dừng. Tiếp theo liên tục trở thành định, đó là phương tiện. Nếu có tướng sự ma khởi thì đến trước đạo tràng sám hối, hành đạo, việc ma sẽ nhẹ dần, các nghi ngờ đến lúc này đều tiêu dứt.

Đối với giải tri thức, quyết đoán việc ma kia, tâm chỉ muốn cho dứt bặt, đều phải sách tấn, hết lòng, thì sẽ thành tựu không hoài nghi, lười biếng thì không thành. Phiền não giảm ít là tướng quán thành.

Pháp quán này chung cho giáo Nhất thừa và Ba thừa. Đầu tiên, thuận với ba thừa, sau thuận với Nhất thừa, về sau sẽ thành thục, vì đầy đủ chủ, bạn.

47. Giải thích trong mười tâm sau Sơ địa, nghĩa quán Không:

Hỏi: quán Không như thế nào?

Đáp: Theo quán đầu tiên trong kinh Hoa Nghiêm, Bồ-tát y chỉ vào mười pháp, nghĩa là ba nghiệp thân, miệng, ý giới Phật, Pháp, Tăng dựa vào oai nghi mà mười pháp này đã áp dụng, đều như Duy thức quán trước đã nói, chỉ biết mười cảnh thuận theo một hiện tiền, biết tức là trống rỗng, không có tướng gốc, ngọn, tâm mình được dừng lại, tu tập lâu thì được sáng suốt, tương ưng với định.

Pháp khác chẳng phải không chăng?

Đáp: Tất cả đều không, chỉ vì đầu tiên, người tu nhập quán pháp khác bất tiện, vì năng lực tập nhiễm của hữu tình quá lâu xa, mạnh mẽ nên pháp khác không tiên, mà có nghi ngờ, làm bít lấp Nhất thừa. Duy thức quán nói về sử nghi: Trước quán Duy thức, sau thành chánh định, không khác với chỉ quán ra sao?

Y cứ vào chỉ quán thành một thứ tương tự, nay, y cứ vào cảnh giới phương tiện mà nói, nên có khác nhau. Các quán này là thể của chỉ quán. Nếu khi tùy theo bốn oai nghi: đi, đứng, ngồi, nằm trong việc lợi ích chúng sinh, tâm hình thành Duy thức trước kia và quán không, tâm được thích hợp, phiền não giảm ít, đều thuộc về giúp đạo. Quán này chung cho Nhất thừa và giáo Ba thừa, trong giáo Tiểu thừa không có. Nếu Tiểu thừa tạo nên không quán, cũng không giúp với nghĩa trên, vì họ chỉ được nhân không. Sơ lược có năm giải thích làm phương tiện giúp sức một cách thích đáng.

1. Nói về chân như, vì biết như, nên tướng tâm liền dứt.

2. Nói về tức không.

3. Nói về Duy thức.

4. Nói về vọng tưởng.

5. Nói về duyên khởi.

Vận dụng năm giải thích này nhằm giúp đỡ thích đáng, hai quán liền sẽ hoàn thành. Lại, quán không này và sự phân chia xếp đặt hai cảnh Duy thức nói trên, khi không được như giải, thì sẽ trở lại thành cảnh vọng mà thôi.

Không kia có bốn, đều thành cảnh quán:

1. Hư không hữu vi, vô vi.

2. Không trạch số diệt.

3. Tánh không, của giáo luận Thành Thật.

4. Tánh không, của giáo Địa luận.

Đều thành cảnh quán, chỉ khác nhau ở chỗ sâu, cạn. Nếu phương tiện không cùng cực thì chỉ Nhất thừa là rốt ráo.

48. Giải thích đầu tiên hồi hướng thứ chín, cung kính nhìn nhận khắp nghĩa ác.

Hỏi: Trong người tập giáo nói về sự khác nhau của tám pháp Phật như thế nào?

Đáp: Vì tiêu diệt chứng bệnh xiển-đề trở thành Phổ kính nhìn nhận pháp ác có hai đoạn:

Đoạn thứ nhất nói về kính khắp, trong đó có tám đoạn:

1. Như Lai tạng, có hai:

a. Pháp thuyết: Như Lai tạng là thể của tất cả chư Phật, Bồ-tát, Thanh văn, Duyên Giác, cho đến chúng sinh trong sáu đường, v.v...

b. Dụ thuyết, có năm đoạn:

Dụ như ao lớn A-nậu chảy ra tám con sông lớn. Sông dù khác nhau nhưng thể nước không khác. Tất cả phàm, Thánh dù khác nhau nhưng thể tạng không khác.

Dụ như cô đào hát có tài tạo ra mọi thứ khéo léo, hai khéo léo dù khác nhau nhưng thân không có khác nhau, như tất cả gạch đều do đất sét chế tạo thành gạch, dù khác nhau, nhưng thể đất không khác. Sự sinh tử y chỉ Như Lai tạng, Như Lai tạng tạo ra sự sinh tử, đây gọi là vì khéo nói ngôn thuyết thế gian, nên có sinh tử, chứ chẳng phải thể Như Lai tạng có sinh, có tử.

Dụ như sóng dựa vào nước, nước tức tạo ra sóng. Vì nhân duyên gió nên có sóng chứ chẳng phải thể nước có sóng.

Dụ như vàng ròng, dụng cụ trang nghiêm, mọi dụng cụ dù khác nhau nhưng thể vàng không khác, đều là một thứ vàng ròng. Tất cả phàm, Thánh đều không đồng, nhưng đều là một tạng.

2. Phật tánh: cũng là nêu cả pháp dụ, Phật tánh là nhân tố của tất cả phàm, Thánh. Tất cả phàm, Thánh đều từ Phật tánh mà được sinh trưởng. Dụ thuyết: dụ như sữa là nhân của lạc, tất cả lạc đều do sửa mà được sinh trưởng. Một chủng tương tự là Phật đương lai. Tất cả bốn chúng ác hiện tại thực hành hạnh lành thì đều sẽ thành Phật.

Phật tưởng Phật, tưởng tất cả chúng sinh đều tạo nên tưởng Phật.

Chân khắp, chánh khắp pháp Phật chớ luận. Học của người tà cũng được chân chánh, học của người chánh cũng được chân chánh. Vì sao? Vì thể của Như Lai tạng, Phật tánh chỉ là pháp cùng khắp, chỉ là pháp chân, ở giữa không có tà ma nào được xâm nhập vào đó, cho nên bất luận kẻ tà, người chánh đều có được chân chánh.

3. Pháp Phật không có danh, không có tướng, có hai thứ:

Thể của tất cả chúng sinh là Như Lai tạng. Vì chưa có danh từ chân Phật, nên gọi là chẳng có danh, vì chưa có ba mươi hai tướng tốt của chân Phật, nên gọi là không có tướng.

Thể của tất cả chúng sinh trong sáu đường, chỉ là Như Lai tạng, lại vì không có tên riêng, tướng riêng, nên gọi là không có danh, không có tướng.

4. Pháp Phật cứu vớt, dứt trừ căn bản của tất cả các kiến, có hai thứ:

Tất cả Như Lai tạng đều có tánh Thánh, chỉ kính trọng thể tánh đó, vì không gặp thiện, ác, tà, chánh ấy, nên gọi là pháp Phật cứu vớt, dứt trừ tất cả các kiến căn bản.

Thể của tất cả chúng sinh sáu đường là Như Lai tạng, không còn có pháp nào khác, chỉ kính trọng tạo ra bốn hạng Phật, vì không gặp việc thiện, ác của sáu đường, nên gọi pháp Phật cứu vớt dứt trừ các kiến căn bản.

5. Pháp Phật đều dứt trừ tất cả các đường ngôn ngữ: tất cả chúng sinh chỉ kính trọng thể tánh của Như Lai tạng, không nói đến tên của sáu đường thiện, ác nên gọi là pháp Phật dứt trừ tất cả các đường ngôn ngữ.

6. Pháp Phật của một người, một hạnh: Một người, tự thân chỉ là con người ác độc, một hạnh, như kinh Pháp Hoa chép: Bồ-tát Thường Bất Khinh chỉ thực hành một hạnh. Ngoài thân mình ra chỉ kính trọng tạo tác Như Lai tạng, Phật, Phật tánh, Phật đương lai tạo ra Phật, tưởng Phật, nên gọi là một hạnh.

7. Pháp Phật không có người, không có thực hành pháp Phật: Thân mình và người khác, tất cả chúng sinh đều là một Như Lai tạng, không có tự thể riêng, nên gọi là không có con người, không có thực hành pháp Phật.

8. Năm thứ không quan hệ, cùng tận pháp Phật có hai:

Muốn thực hành năm pháp này chỉ cần điều hòa vừa đúng.

Mình, người không quan hệ, không vì thân mình, không chung với thiện tà, qua lại đạo tục.

Không quan hệ gần, xa, không học căn đương lai, pháp Phật không qua lại chung.

Không quan hệ đạo, tục, tất cả đạo tục thiện tà không qua lại với bạn thân.

Không quan hệ sang hèn, tất cả kẻ sang, người hèn không cùng qua lại.

Không quan hệ phàm, Thánh, vì trong tất cả Thánh phần nhiều có tà ma, trong tất cả phàm đa số có chư Phật, Bồ-tát. Phàm phu vì mù bẩm sinh nên không thể phân biệt được, cho nên không quan hệ phàm Thánh, chỉ trừ nhân duyên của việc khó khăn phải đi ăn xin thì tạm thời qua lại chung không cuộc hạn.

Mình, người đều là Như Lai tạng, chỉ tạo ra một quán, không được tạo ra sự hiểu biết ở tâm mình người, gần xa, đạo tục, sang hèn, phàm, Thánh.

Trong tám đoạn này lại có hai nghĩa:

Phật Pháp của chúng sinh mù, điếc, câm bẩm sinh.

Phật pháp của người chết.

Thứ hai là nhận biết nghĩa ác như thế nào?

Đáp: Đoạn thứ hai, việc nhận biết nghĩa ác, ở trong đó có mười hai thứ:

1. Tâm người kia điên đảo, hay nhận lầm, thường nói những lời lẽ chê bai, nhạo báng, tâm duyên pháp Phật của cấp bậc thứ ba trở đi. Lại, tạo ra tâm khác tức là điên đảo vì thường nhận lầm.

Miệng chỉ được nói pháp Phật của Như Lai tạng, lại tạo ra ngữ khác, tức là thường buông ra lời lẽ chê bai.

2. Hai thứ thiện, ác, điên đảo có hai:

Tất cả tà ma tạo ra hình tượng Bồ-tát, chư Phật. Chúng sinh điên đảo thuận với tâm tham gốc, trong đó chỉ nhận thấy việc tốt đẹp của họ mà không biết là tà ma, không phải là chư Phật, Bồ-tát, không phải thiện, mà cho là thiện, nên gọi là điên đảo.

Tất cả chư Phật, Bồ-tát lẽ ra tạo các thứ chúng sinh, chúng sinh điên đảo. Nếu trái với tâm, tâm sở của mình, thì nổi cơn giận dữ, vì chỉ thấy sự xấu ác của mình, chư Phật, Bồ-tát thật ra chẳng phải ác, chẳng phải ác kiến, vì ác nên gọi là điên đảo.

3. Bốn thứ điên đảo trong, ngoài có hai:

Tham tà, đối với tất cả chỗ thuận tình, hoàn toàn chỉ nhận thấy điều tốt đẹp của mình, không có thiện thấy thiện, việc lành ít thấy việc lành nhiều, vì thiện gồm thâu ác đều tạo ra hiểu biết thiện nên gọi là điên đảo.

Sân tà, đối với việc trái tình, hoàn toàn nhận thấy việc xấu ác của mình. Không có ác kiến, ác nhỏ, ác nhiều, vì ác gồm thâu điều lành, vì đều tạo ra sự hiểu biết ác nên gọi là điên đảo.

Si tà, trong thiện được ác mà không hiểu biết, trong ác mất thiện mà không biết, nên gọi là si tà điên đảo.

Thần, quỷ, ma, phụ giúp tâm, chỉ khiến cho tất cả chư Phật, Bồ-tát và đạo tục thế gian gọi là tâm mình, tức là thần quỷ ma gá vào tâm.

4. Tất cả kinh, luật, luận thường nói, nói toàn điên đảo.

5. Bảy thứ điên đảo ác khác nhau:

1. Ba bậc thềm gọi là bực thềm thứ ba.

2. Ba nhóm, nhóm chánh định, nhóm bất định, nhóm tà định.

3. Pháp thuyết: Phật vì các Bồ-tát giảng nói nghĩa Đại thừa rất sâu kín, vì các Thanh văn nói nghĩa cạn gần, vì Nhất-xiển-đề nói nghĩa thế gian.

4. Dụ thuyết, như quyết định thọ không chết. Chết, sống không nhất định, nếu quyết định chết, thì thuốc thang không thể cứu chữa.

5. Tăng không có hổ, thẹn.

6. Người thứ nhất của sông Hằng, gọi là thường chìm.

7. Rất nhiều quả địa ngục A-tỳ.

6. Kinh Lục Bộ chép: rất nhiều điên đảo có năm đoạn:

1. Tất cả Phật không cứu được kiến chấp không: chúng sinh có kiến điên đảo, được gặp vô lượng vô biên chư Phật, ở chỗ chư Phật thực hành sáu Ba la mật, do học Phật pháp không xứng với căn cơ, chê bai Phật, pháp, tăng sẽ không khỏi đọa tất cả địa ngục A-tỳ trong mười phương, tất cả Phật không thể cứu giúp.

2. Tất cả pháp không thể cứu giúp, có hai thứ: Một là Đại thừa, Tiểu thừa, mỗi thừa đều tụng được tám muôn bốn ngàn nhóm pháp. Do một niệm tâm ngờ vực người khác, Tỳ-kheo học mười hai đầuđà, tức thì diệt ngần ấy gốc lành, đều đọa vào địa ngục A-tỳ, như kinh Đại Tập chép. Hai là người đọc tụng mười hai bộ kinh không khỏi chê bai Phật, hiện đời đọa vào tất cả địa ngục A-tỳ, như kinh Niết-bàn nói, nên gọi là tất cả pháp không cứu được.

3. Tất cả tăng không cứu được.

4. Tất cả chúng sinh không cứu được. Độ được sáu trăm bốn muôn ức môn đồ đệ tử, lại độ được chín mươi sáu thứ dị học ngoại đạo, hồi tâm hướng về Niết-bàn, không tránh khỏi sẽ đọa vào tất cả địa ngục A-tỳ ở mười phương.

5. Tất cả dứt ác tu thiện không cứu được: Đại tinh tấn, đại trì giới, đại sám hối, đại không phải mình, chẳng phải người khác, không tự cao, khi dễ người khác, chẳng phải đệ tử Phật, thuộc về tăng không có hổ, không có thẹn.

7. Mười một bộ kinh nói tà, đều điên đảo. Mười một bộ kinh là:

1. Kinh Ca-diếp.

2. Như kinh Đại Tập Nguyệt Tạng Phần, giảng nói phẩm Pháp Tạng Tận, chánh pháp đều diệt.

3. Như kinh A-hàm nói: chánh pháp tạng tận.

4. Như kinh Đại Phương Quảng Thập Luân nói: Tất cả dân chúng đều khởi ở đoạn, thường.

5. Như kinh Tát-Già-Ni-Càn Tử chép: Tất cả chúng sinh đều khởi ba thứ điên đảo.

6. Như kinh Ma-ha Ma-da, văn quyển hai chép: Phật vị lai diệt độ một ngàn năm về sau, chỉ có hai tỳ-kheo học thực hành quán bất tịnh, đang ngồi thiền, không khởi tâm cao thấp, kia đây, phải quấy. 7. Như kinh Đại Bát Niết-bàn chép: Thời mạt pháp, Nhất-xiển-đề và năm tội nghịch nhiều như đất đại địa.

8. Như kinh Tối Diệu Thắng Định.

9. Kinh Đại Vân.

10. Kinh Phật Tạng nói: Người chân chánh chỉ có một, hai người.

11. Kinh Quán Phật Tam-muội Hải.

8. Bốn bộ kinh nói: ra khỏi điên đảo:

1. Kinh Ma-ha-diễn nói ba độc điên đảo.

2. Kinh Thắng-man nói hai kiến điên đảo.

3. Kinh Tát-Già-Ni-Càn Tử nói ba thứ điên đảo: Một là tâm tham phi pháp, đối với mười nghiệp bất thiện sinh tâm ưa thích. Hai là tâm tham điên đảo, do nhờ sức mình, được thời tiết y chỉ, được các tài vật, không sinh tâm biết đủ, tìm mọi cách chiếm đoạt tài sản của người khác. Đó gọi là tâm tham điên đảo. Ba là tâm bị lưới tà pháp ràng buộc, đối với phi pháp sinh tưởng pháp này, đối với phi nghĩa sinh tưởng nghĩa này.

4. Kinh Niết-bàn chép: Mọi thứ điên đảo.

9. Kinh Lưỡng Bộ chép: Toàn điên đảo.

1. Kinh Tượng Pháp Quyết Nghi chép: Hơn một ngàn năm, sắp đến thời kỳ Tượng pháp, các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đã tạo ra mọi việc lành, cầu danh, cầu lợi không có một niệm tạo ra tâm xuất thế.

2. Như kinh Phật Tạng chép: Tỳ-kheo tăng thượng mạn không có một niệm tâm cầu Niết-bàn, không có một niệm tâm xuất thế, tâm cầu Niết-bàn tức là hoàn toàn điều phục.

10. Kinh Lưỡng Bộ chép: Thường điên đảo.

1. Thường chìm.

2. Thường hành động ác.

3. Thường bị triền phược vô minh ràng buộc. 4. Tâm người kia điên đảo, thường nhận lầm.

5. Thường ô nhiễm thân miệng.

Năm đoạn này nói trong kinh Niết-bàn.

6. Tâm thường xa lìa, xả bỏ tất cả pháp vị chân thật.

7. Thường bị phiền não và lưới hoặc tà kiến giăng mắc bủa vây, quy y sáu vị giáo chủ ngoại đạo, gây tổn thương, xả bỏ Thánh đạo.

8. Thường nói lời chê bai.

Ba đoạn này nói trong kinh Thập Luận.

11. Ba mươi hai thứ bệnh nghiêng lệch: Mình, người đều thấy trụ trì chân chánh Phật pháp, lợi mình, lợi người, điên đảo, trong đó có ba mươi hai. Gồm có hai, bốn, một, năm; hai, sáu, một, bảy, một, bốn. Danh tướng quên tưởng, bất tịnh nói pháp.

Hai, bốn: y chỉ người nào, y ngữ, y thức, y kinh bất liễu nghĩa.

Một, năm: Một là nghĩa mình, người, tự thân chỉ thấy mặt tốt của mình, đối với người chỉ thấy điều xấu ác của họ.

Hai là trên, dưới. Chấp không, chấp có, thấy chúng sinh chỉ muốn được học pháp Phật trên, không chịu học pháp Phật dưới.

Ba là riêng khắp, chỉ ưa học pháp riêng, không thực hành pháp khắp.

Bốn là thiện, ác, chỉ dứt ác ngoài thiện, không dứt ác trong thiện, chỉ tu thiện ngoài ác, không tu thiện trong ác.

Năm, là lợi mình, lợi người, chỉ thực hành lợi mình, không thực hành lợi người.

Một, sáu:

1. Danh văn.

2. Lợi dưỡng.

3. Đồ chúng.

4. Học rộng.

5. Thế lực.

6. Vượt hơn người khác. Hai sáu:

1. Tham.

2. Sân.

3. Si.

4. Thần, quỷ, ma.

5. Chấp không.

6. Chấp có.

Một, bảy: Một, nghĩa là ràng buộc, đánh mắng, thưởng, phạt sâu chúng tăng và đuổi trở lại thế tục, diệt mất cả Tam bảo.

Hai là tà, chánh tạp loạn tận.

Ba là tất cả tám bộ trời, rồng ra khỏi nước.

Bốn, tất cả trời, rồng, thần, quỷ, ma, v.v… ác đua nhau vào nước kia mà ở. Diệt Tam bảo, giết chúng sinh, khiến tất cả chúng sinh đều làm tất cả điều ác, dù có phần ít chúng sinh tu thiện, ma ác vào tâm chúng gây trở ngại, vỡ tâm mà chết.

Năm, khiến tất cả người có duyên với Phật pháp sẽ không cùng tận.

Sáu, tất cả căn cơ sẽ không cùng tận.

Bảy, tất cả thuốc, bệnh sẽ không cùng tận.

12. Diệt Tam bảo, thành ba tai, đều điên đảo: Nay, hai nghĩa trên vì cứu vớt xiển-đề, hồi hướng Nhất thừa, kiêm thuận với ba thừa. Về mặt lý vì có thuận nên phụ lục.

Nghĩa Như Lai tạng: Theo kinh Đại Phương Đẳng Như Lai tạng chép: Ta dùng mắt Phật quan sát tất cả chúng sinh đều có trí Như Lai trong các phiền não. Mắt Như Lai, thân Như Lai, ngồi kiết già, vững chắc không lay động. Thí dụ dùng mắt trời kia nhìn xem thì thấy trong đóa hoa chưa nở có thân Như Lai đang ngồi kiết già, là giảng nói dụ cho bản tánh Như Lai tạng đầy đủ đức.

Thí dụ như có mật nguyên chất trong hốc cây, có vô số bầy ong bu xung quanh để giữ. Có người trí khéo léo đuổi ong, lấy mật, dụ cho giảng nói bổn đức bỏ nhiễm thành tịnh.

Ví như lúa tám cánh chưa chà vỏ, người ngu xem thường cho là có thể chà sạch trắng tinh, thường là để vua dùng, dụ này thuyết giảng tạng ở nhiễm đồng với người ngu khác với định.

Ví như vàng ròng rơi vào chỗ bất tịnh, chìm mất không thấy, trải qua nhiều năm vàng y không hư hoại, là dụ giảng nói tạng ở nhiễm khó hư hoại. Ví như nhà người nghèo có hạt ngọc quý được chôn giấu, vì của báu nên không thể nói: Ta ở đây lại không có nói năng: không thể khai phát là dụ giảng nói tạng ở nhiễm, thiếu tịnh.

Ví như giống trong quả am-la không hư hoại, đem trồng dưới đất, trở thành đại thọ vương, dụ cho giảng nói về đức của tạng gặp duyên thành quả.

Ví như có người đem tượng vàng ròng đến các nước khác, đi qua những con đường nguy hiểm, sợ gặp bọn cướp chiếm đoạt, đem để trong bao, dùng vật đậy lại sao cho chúng không nhận biết, rồi vứt bỏ ở chỗ hoang vắng mà con người thấy cho là bất tịnh. Người có mắt trời biết có tượng thật liền lấy ra cho người khác kính lễ, dụ này giảng nói chân đức dứt trừ nhiễm, sinh niềm tin.

Ví như cô gái nghèo nàn xấu xí mà bồng đứa con trai sang trọng, trải qua nhiều giờ, người ta cho là hèn hạ, dụ này nói chuyển tưởng gặp chân thành trí.

Ví như thợ đúc, đúc tượng bằng vàng ròng. Đã đúc xong, mặt ngoài tượng dù bị cháy nám, nhưng tượng bên trong không biến đổi, mở khuôn ra sờ vào tượng, sắc vàng ròng vẫn rạng rỡ, dụ cho thuyết giảng trái nhiễm, quy chân, ứng với thể.

Nghĩa Phật tánh, lược có mười thứ, nghĩa là thể tánh, nhân tánh, quả tánh, nghiệp tánh, tương ưng tánh, hạnh tánh, thời sai biệt tánh và biến xứ tánh, bất biến tánh, vô sai biệt tánh.

Theo luận Phật Tánh, các bộ Tiểu thừa giải thích về các lối chấp khác nhau. Nếu nói theo bộ phân biệt thì tất cả phàm, Thánh, chúng sinh đều lấy không làm gốc. Sở dĩ phàm, Thánh, chúng sinh đều từ không mà có ra, vì không là Phật tánh. Phật tánh tức đại Niết-bàn. Nếu theo các bộ Tỳ-đàm, Tát-bà-đa thì tất cả chúng sinh không có tánh đều được Phật tánh, chỉ có tu đắc Phật tánh.

Phân biệt chúng sinh có ba hạng:

1. Quyết định không có Phật tánh, hạng này không bao giờ được Niết bàn, là Nhất-xiển-đề, người phạm trọng cấm.

2. Không quyết định có hay không có Phật tánh, vì nếu khi tu thì sẽ được, không tu tất nhiều không được, vì từ con người trở lên, vị chung của Hiền Thánh.

3. Quyết định có Phật tánh tức người Ba thừa: Thanh Văn từ khổ nhẫn trở lên tức được Phật tánh.

Độc giác từ pháp Thế đệ nhất trở lên thì sẽ được Phật tánh.

Bồ-tát từ Thập Hồi hướng trở lên là quả vị bất thối được Phật tánh.

Hỏi: Kinh Nhân Vương nói: Hạnh trong nhẫn của ba hiền, mười Thánh, chỉ mình Phật là có khả năng cùng tận nguồn cội. Lại luận chép: Mười giải trở lên đã là bậc Thánh, nay, Thập Hồi hướng trở lên đều được Phật tánh, sao các kinh, luận nói khác nhau?

Đáp: Các luận thuyết khác nhau là vì sự mong muốn, căn cơ của hữu tình đều khác nhau, vì thuận theo một nghĩa để nói, cần phải so sánh, phối hợp để giải thích.

Luận Phật tánh này là nói theo Tiểu thừa và Sơ giáo hồi tâm, nếu về sau do phá chấp, trở thành chánh nghĩa, tức là Chung giáo, tức tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, y cứ hai không là đã làm sáng tỏ chân như.

Bốn câu Phật tánh của kinh Đại thừa Niết bàn: chẳng phải trong nghĩa của Tiểu thừa và người hồi tâm ban đầu tạo ra nghĩa bốn câu, mà tức là Phật tánh của Đốn giáo, Chung giáo và đại bát Niết-bàn, vẫn không phải là nghĩa Biệt giáo của Nhất thừa. Nghĩa bốn câu là:

Hoặc có Phật tánh, người xiển-đề có, người gốc lành không có, nghĩa là y cứ vào hạnh để nói về tánh.

Hoặc có Phật tánh, người gốc lành có, người xiển-đề không có, nghĩa là y cứ vào vị để nói về tánh.

Hoặc có Phật tánh, cả hai người đều có, nghĩa là y cứ vào nhân để nói về tánh.

Hoặc có Phật tánh, cả hai người đều không có, nghĩa là y cứ vào quả để nói về tánh.

Hỏi: Nghĩa của xiển-đề là đoạn nhân gốc lành hiện tại, đâu có hiện hành tánh thiện phải không?

Đáp: Đây là nói theo vị. Đời này sinh gốc lành có thể cứu độ, vì có hiện hành tánh thiện. Đời khác sinh gốc lành, hiện kẻ không thể cứu độ, vì có hạt giống của nhân hạnh. Nghĩa này không đồng với tông Thanh văn.

Bốn vị này đều có hai thứ Phật tánh: Tánh đắc và tu đắc. Vì sao? Vì hai tánh này đồng với chỗ tâm tịnh tin hiểu, cho nên nói. Vì thành lẫn nhau. Hai thứ Phật tánh: Tánh đắc và tu đắc, không phải đầu tiên, giữa, sau vì gồm thâu sau, giữa, trước. Lại xét nghiệm văn kinh, Như Lai tạng là vì tiến thắng căn cơ Bồ-tát mà nói, Phật tánh vì thuần căn cơ của Thanh văn mà nói.

Trong đây đã nói Như Lai tạng, Phật tánh, dù y cứ vào sự khác nhau của các nghĩa, vì đều là giáo, đồng là nghĩa Nhất thừa. Vì sao? Vì thành pháp khắp, vì pháp khắp đã hoàn thành.

49. Giải thích sau phần thỉnh của Sơ địa, nghĩa bốn tông:

Hỏi: Trong giáo của Đại luận nói nghĩa của bốn tông, nghĩa tướng ra sao?

Đáp: Tây vực gọi là Tất-đàn, Hán dịch là Tông tất-đàn, có bốn:

1. Tất-đàn thế giới. Thế là thời gian, giới là giới phần. Vì pháp lý khởi lên ở thời phần nên gọi là Tất-đàn thế giới.

2. Tất-đàn mỗi mỗi đều vì con người: y cứ vào tánh dục, căn cơ trên, dưới thành thuyết đã nói, vì giới hạn phạm vi của chánh lý nên gọi là tất-đàn mỗi mỗi đều vì con người.

3. Tất-đàn đối trị, y cứ vào hoặc để nói về trị nổi chìm ở dụng. Y cứ vào công dụng nhằm làm sáng tỏ đối trị, vì nói lên giới hạn phạm vi, nên gọi là tất-đàn đối trị.

4. Tất-đàn Đệ nhất nghĩa, gồm thâu chung tất cả mười hai bộ kinh, tám muôn pháp tạng đều là chân thật, không có mâu thuẫn nhau.

Cùng cực trong thuận với lý, gọi là tất-đàn Đệ nhất nghĩa.

Sao gọi là nghĩa Tất đàn thế giới?

Đáp: Vì pháp có từ nhân duyên hòa hợp, nên có, không tánh khác nhau. Ví như càng xe, trục xe, tay hoa bánh xe, vành bánh xe, v.v… vì hòa hợp nên có, không có chiếc xe riêng, con người cũng như thế, vì năm chúng hòa hợp nên có, không có con người riêng v.v... Vì thế giới nên có, vì Đệ nhất nghĩa nên không có, vì nhân duyên năm chúng có, nên có con người. Ví như vì nhân duyên sắc, hương, vị, xúc của sữa có, nếu sữa thật sự không có thì nhân duyên của sữa lẽ ra cũng không có. Nay, vì nhân duyên sữa thật có, nên sữa lẽ ra cũng có, chẳng phải như cái đầu thứ hai, tay thứ ba của một người không có nhân duyên mà có giả danh.

Tướng như thế gọi là Tất-đàn thế giới.

Thế nào là tất-đàn mỗi mỗi đều vì con người?

Quán tâm hạnh của con người mà nói pháp cho nghe, đối với một việc hoặc nghe, không nghe, như vì người không tin có tội, phước, nên rơi vào kiến diệt, vì họ nói sinh lẫn lộn thế gian, xúc lẫn lộn, thọ lẫn lộn, là người chấp có ngã, có thần, rơi vào chấp thường, nói là không có người được xúc, được thọ. Sao gọi là Tất-đàn đối trị?

Có pháp thì đối trị có, thật tánh thì không có. Quán Bất tịnh ở trong bệnh tham dục gọi là pháp đối trị khéo léo, ở trong bệnh giận dữ thì không gọi là tốt đẹp, vì chẳng phải pháp đối trị.

Sao gọi Tất-đàn nghĩa bậc nhất?

Vì pháp chân thật mà chư Phật, Bích-chi-phật, A-la-hán đã thực hành, không thể phá tan.

Bà tất-đàn trên không chung, tất-đàn này thì chung cho tất cả, đường ngữ ngôn dứt, chỗ tâm hạnh diệt, khắp không có đối tượng nương tựa, không thị hiện các pháp, không có ban đầu, không có chính giữa, không có sau, không cùng tận, không hư hoại, gọi là tất đàn Nghĩa bậc nhất.

Từ trước đến nay văn nghĩa của tông ở Ba thừa, nghĩa chung cho Nhất thừa. Vì sao? Vì thích ứng với pháp giới. Nghĩa pháp giới khắp trở thành thế giới, khắp chung thành, mỗi mỗi đều vì con người, khắp chung thành đối trị, khắp chung thành nghĩa bậc nhất. Nói chung nếu từ môn, thì Tiểu thừa riêng cũng được có phần.

50. Giải thích phẩm Thập Tạng, ý nghĩa mười hai bộ kinh:

Hỏi: Mười hai bộ kinh giáo khác nhau như thế nào?

Đáp: Giáo để giải thích lý, y cứ vào mười hai bộ:

1. Tu-đa-la: cõi này nói là khế kinh.

2. Kỳ-dạ: Hán dịch là: Trùng tụng.

3. Già-đà: Hán dịch là Bất trực thuyết.

4. Hòa-già-la-na: Hán dịch là thọ ký.

5. Ưu-đà-na, Hán dịch là vô vấn tự thuyết.

6. Ni-đà-na, Hán dịch là nhân duyên.

7. A-ba-đà-na, Hán dịch là thí dụ.

8. Y-đế-mục-đa-già, Hán dịch là bổn sự.

9. Xà-đà-già, Hán dịch là bản sinh.

10. Tỳ-phật-lược, Hán dịch là phương quảng.

11. A-phù-đà-đạt-ma, Hán dịch là vị tằng hữu.

12. Ưu-ba-đề-xá, Hán dịch là luận nghĩa kinh.

Thể tánh của giáo này chung cho Nhị thừa, ba thừa.

Gồm có sáu thứ:

1. Thật.

2. Thật tức không.

3. Có thể giống nhau.

4. Không thể giống nhau.

5. Duy thức.

6. Chân như.

Rộng như trong kinh, luận có nói.

Giáo của mười hai bộ kia, nếu nói theo Thừa thì sẽ có hai nghĩa:

1. Nói về tướng chung: Nhất thừa, Tam thừa, Tiểu thừa đều có mười hai bộ.

2. Nếu phân biệt nói thì Nhất thừa có một bộ, gọi là bộ Phương Quảng; có chín bộ, gọi là không có nhân duyên, thí dụ và luận nghĩa, như phẩm Kim Cương Thân nói: "Trong ba thừa có mười hai bộ. Lại nữa, có mười một bộ, vì trừ bộ Phương Quảng nên Địa trì nói: Trong mười hai bộ chỉ bộ Phương Quảng là tạng Bồ-tát, mười một bộ còn lại là tạng Thanh văn.

Hỏi: Vì sao nói như thế?

Đáp: Vì trong các giáo nói hai thừa và Ba thừa đều có hai nghĩa: Nói hai thừa:

1. Nói theo tánh chất, căn cơ của tâm ban đầu và hạt giống thì hồi tâm trở lên đều là tạng Thanh văn.

2. Tiến thẳng trở lên, là tạng Bồ tát.

Cả hai nói theo hồi tâm đầu tiên, hạnh giải của tâm trên, thì Hồi tâm trở lên là tạng Bồ-tát, người chưa hồi tâm là tạng Thanh văn. Ba thừa y theo đây có thể biết.

Nay, bộ phận văn của luận Địa Trì là y cứ vào nghĩa thứ nhất này.

Trong Tiểu thừa có mười hai bộ, lại nói chín bộ, nghĩa là không có Phương Quảng, Vô vấn tự thuyết và Thọ ký, như kinh Pháp Hoa chép: nói ba thừa, Nhị thừa, v.v…

Vì sao có hai thuyết nói mười hai bộ?

Đáp: Vì đối tượng y cứ đối với giáo hưng thịnh làm sáng tỏ lý khác nhau, nên như một bộ Phương Quảng trong Nhất thừa, tức y cứ vào pháp gồm thâu, lại có chín bộ: nói theo giới hạn phạm vi thì do căn cơ tiểu dưới hình nên trong Ba thừa có mười hai bộ. Lại nữa, nói mười một bộ: Mười hai bộ y cứ vào pháp nhiếp, có mười một bộ, nghĩa là vì căn cơ đại trên hình. Người tiến thẳng có bộ Phương Quảng, người hồi tâm không có bộ Phương Quảng. Người khởi Hồi tâm kia vì lòng tin tăng thượng nên trong Tiểu thừa có mười hai bộ, tức là thuộc về pháp.

Có chín bộ, muốn bày tỏ pháp vượt hơn, căn cơ vượt hơn của Bồ-tát, nhằm nói lên Thanh văn, vì ngu phẩm hạ không đủ, pháp khác có thể y theo tìm cầu.

51. Trái với nghĩa y, giải thích sau phẩm tựa:

Nhận lấy pháp biện luận đạo và giải thích đầu tiên của phẩm địa, nhận lấy pháp của văn giải thích:

Hỏi: Sự khác nhau của Thánh giáo ẩn hiện khác nhau làm sao biết được phạm vi giới hạn của nghĩa văn?

Đáp: Nếu muốn hiểu nghĩa văn của Thánh giáo kia thì phải dùng tám thứ phương tiện, y cứ thì sẽ hiểu.

1. Phương tiện bốn ý.

2. Phương tiện bốn y.

3. Phương tiện bảy so sánh âm thanh.

4. Phương tiện môn giải thích.

5. Phương tiện hai giải thích.

6. Phương tiện tự tướng, cộng tướng.

7. Phương tiện nương vào tiếng.

8. Phương tiện biện luận nghĩa được mất, lập phá, thành lượng, v.v...

Bốn ý đầu tiên:

1. Tâm, ý bình đẳng và lý phổ biến.

2. Ý của thời gian riêng vì nghĩa ở thời gian riêng.

3. Ý nghĩa riêng vì nghĩa ở chứng riêng.

4. Với ý ưa muốn của chúng sinh thuận theo ý muốn căn cơ của hữu tình mà nghĩa giáo có trước, sau không nhất định.

Bốn y:

1. Khiến nhập y chỉ.

2. Y chỉ lẫn nhau.

3. Y chỉ đối trị.

4. Y chỉ trở lại.

Y chỉ trở lại có năm:

1. Trở lại đối nhau, vì nghĩa nhận lấy của hình tướng.

2. Trở lại chữ tăng vì thêm chữ, hội nghĩa.

3. Trở lại hội ý, vì dùng ý hội nhập nghĩa.

4. Trở lại thế mượn, như dê đực, đấu sức nhau, đi trước mà lại bị ruồng đuổi.

5. Trở lại sự khác lạ, ở dưới một danh có sự của hai nghĩa mà vì hội ý lấy chánh.

Bảy là so sánh âm thanh:

1. Bổ-lư-sa-sa, dịch là tiếng tạo nghiệp của thế tục, như nói tiếng cây gỗ.

2. Bổ-lư-tư đã phát ra tiếng nghiệp của chí giáo, như nói: cố suy nghĩ tiếng tạo nghiệp.

3. Bổ-lư-tể-noa, tiếng đủ nghiệp, như nói dao gậy, công năng thành.

4. Bổ-lưu-sa-da, tiếng đã thi vi, như nói bạn giúp nhau.

5. Bổ-lưu-sa, tiếng chủ sở nhân, như nói vua, chúa, cha mẹ.

6. Bổ-lư-sát-ta, tiếng thuộc về chủ, như nói: tôi tớ.

Bổ-lưu-sát, tiếng nương tựa đã gọi, như nói: âm thanh, danh, vị, câu.

Lại, bảy tiếng so sánh:

Thứ nhất như thế gian đã nói thẳng.

Thứ hai là nói tức vị, do lời nói mà thành. Thứ ba, khởi sự nói, dựa vào bản ngữ của vị. Thứ tư, khởi sự nói là đối tượng lập.

Thứ năm, nhân vị của lý do, v.v... Thứ sáu, tự thành do người khác.

Thứ bảy, tiếng giáo, chủ thể giải thích của đối tượng giảng nói. Bị lệ thuộc, thích nghi, hãy suy nghĩ, so sánh.

Môn giải thích sáu thứ:

1. Y chủ thích, như y chỉ ở thầy, làm sáng tỏ cho nghiệp của đệ tử.

2. Trì nghiệp thích, nêu tác dụng để nói rõ lễ.

3. Tương vi thích, như nêu mầu trắng để làm sáng tỏ mầu đen.

4. Đa tài thích, như nêu mọi đức của người kia, nhằm làm rạng rỡ tông nghĩa.

5. Lân cận thích, như nêu chánh nhân để làm rõ nghĩa của quả gần.

6. Đới số thích, như đệ nhất nghĩa đế, nêu số thứ nhất để làm rõ sự vượt hơn.

Giải thích có hai thứ:

1. Thuyên biểu, cũng gọi là thuyên trực, là làm rõ trực tiếp nghĩa.

2. Ngăn ngừa thích, đề phòng sự khác lạ kia, chẳng phải để thành lập nghĩa này.

Phân chia xếp đặt tự tướng, cộng tướng, nghĩa tự tướng của người kia thích hợp với tướng tự thể của pháp thể. Cộng tướng, nghĩa là giả, giải thích nghĩa thật chung vì như tướng giả.

Biện luận nghĩa được mất, lập phá, v.v… rộng như bản dịch của Ngài La-thập: biện luận nghĩa được mất, lập phá, Chân Đế đã phiên dịch như thật luận, hai nhân rộng, lược giảng nói tức luận, v.v… do Đại Vực Long Thương-Yết-La đã sáng tạo, đủ chứng tỏ pháp kia.

Thanh có ba thứ:

1. Tiếng người nam, tỏ bày trực tiếp tiếng, chủ thể đối trị.

2. Tiếng người nữ, uyển chuyển phát ra tiếng chướng đối tượng trị.

3. Tiếng phi nam, phi nữ, như nói tiếng đạo lý khác.

Y chỉ phương tiện ở trên được hội nhập Thánh giáo, thích ứng với nghĩa chân thật. Văn này ở Nhất thừa và ba thừa. Tông khác không đủ biểu thị rõ. Nếu không có tận cùng rốt ráo chỉ Nhất thừa. Vì sao? Vì thích ứng với pháp giới. Nếu theo văn khác nhau tức là Ba thừa.

52. Giải thích đầu tiên phẩm Thập Địa, nghĩa môn tục đế nhập Phổ Hiền:

Hỏi: Đế vương thực hành bao nhiêu giáo để vua được chứng pháp Phật Nhất thừa?

Đáp: Kinh Chánh Pháp Niệm giảng nói ba mươi bảy pháp cho nhà vua nghe:

1. Tất cả quân chúng trong sạch tinh khiết.

2. Y pháp thu thuế, nhận lấy.

3. Thường ôm lòng nhẫn, không tức giận.

4. Công bằng, ngay thẳng, khi quyết đoán sự việc không thiên vị.

5. Thường cúng dường bậc tôn trưởng.

6. Thuận với cũ y theo trước mà chấn hưng.

7. Tâm bố thí không keo kiệt.

8. Không gồm thâu người tu hành phi pháp.

9. Không gần gũi tri thức thiện bất thiện.

10. Khéo léo, cẩn thận, không lệ thuộc vào phụ nữ.

11. Nghe các lời nói không tin tất cả.

12. Ưa thích tiếng tốt, không tham tài vật.

13. Lìa bỏ tà kiến.

14. Thường nhân ái bố thí.

15. Lời nói đẹp đẽ, ái ngữ.

16. Nói lời như thật.

17. Đối với các quan, nếu không có nhân duyên thì không tiến cử, không triệt hạ.

18. Biết việc tốt, xấu của người.

19. Thường ấn định một thời dụng biểu, thường gặp mọi người.

20. Không ngủ nhiều.

21. Thường không lười biếng.

22. Bền chắc với bạn lành.

23. Không gần gũi tất cả bạn vô ích.

24. Giận, mừng không lay động.

25. Không tham ăn uống.

26. Tâm khéo suy nghĩ.

27. Không đợi thời gian sau, thư thả mà làm.

28. Dùng pháp làm lợi ích thế gian.

29. Thường tu hành mười nghiệp lành.

30. Tin ở nhân duyên.

31. Thường cúng dường trời.

32. Bảo vệ thích đáng cõi nước.

33. Che chở vợ con thích đáng.

34. Thường tu tập trí.

35. Không ưa cảnh giới.

36. Không để cho kẻ ác ở trong cõi nước mình.

37. Đối với tất cả người dân, hoặc lộc, hoặc quả vị, y cứ theo pháp trước mà cho người.

53. Giải thích sau bốn mươi vô ngại, Nhất thừa được danh, ý:

Hỏi: Chủ ngữ của Nhất thừa vì có bao nhiêu ý nên nói?

Đáp: Có tám ý nên nói:

1. Vì không nhất định tánh, căn cơ, vì Thanh văn chung cho nhân và quả nên nói Nhất thừa.

2. Vì muốn quyết định tánh bất định của Thanh văn kia, Bồ-tát khiến họ không nhập Tiểu thừa, nên nói Nhất thừa.

3. Y cứ vào pháp Đại thừa kia, chân như là một, các thừa đều y chỉ chân như, vì thể gồm thâu tướng, nên nói Nhất thừa.

4. Y cứ vô ngã, lý không có chân như đã là pháp chung. Đại thừa, Tiểu thừa đều y cứ chung lý vô ngã, vì chung nên nói Nhất thừa.

5. Y cứ giải thoát các loại Đại, Tiểu ra khỏi chướng phiền não. Vì y cứ ra khỏi chướng chung nên nói Nhất thừa.

6. Y cứ vào tánh khác nhau, trong thân Thanh văn, trước tu chủng tánh Bồ-tát, sau nhập Thanh văn. Vì y cứ hai chỗ của tánh là chung nên nói Nhất thừa.

7. Y cứ được hai ý. Có hai ở đây là hai ý ban đầu, ý Phật muốn gồm thâu tất cả hữu tình được đồng thể với ý ưa thích: Ta đã thành Phật, người kia cũng thành Phật. Vì y cứ ý ưa thích này nên nói Nhất thừa. Tự thể có pháp tánh làm tự thể.

Phật thứ hai, trước vì Thanh văn kia thọ ký, muốn phát ý ưa thích bình đẳng của Thanh văn: Chúng con và Phật đều bình đẳng không hai. Phật vì ý này đều thọ ký bình đẳng với các Thanh văn.

Vì y cứ ý bình đẳng của Phật, nên nói Nhất thừa. Nghĩa thứ hai, dưới một lời nói có hai nghĩa:

1. Thanh văn thật gồm thâu ý ưa thích từ tự thể. 2. Có Bồ-tát thật, danh đồng với Thanh văn và Bồ-tát hóa làm Thanh văn, ở dưới một thọ ký, có hai nghĩa, y cứ một thọ ký ý ưa thích nên nói Nhất thừa.

8. Y cứ vì ý hóa độ, Phật vì Thanh văn làm Phật Thanh văn, sở dĩ đồng với hàng Thanh văn là vì muốn cho người kia tu hạnh Thanh văn, nên hóa hiện đồng với Phật nhỏ, vì muốn nhiếp ngọn về gốc, nên nói: Thân này của ta tức là Nhất thừa.

Vì y cứ hay duyên tâm hóa độ nên nói Nhất thừa. Y cứ tám ý này bao gồm thừa Thanh văn, xưa nay là một, chỉ vì người Thanh văn không thấu đạt pháp mình, cho là có khác, ý ngu trụ hạnh Thanh văn, vì cái ngu ấy nên bị chư Phật quở trách.

Nay, đã được hàng Nhất thừa cứu độ, đối với chứng bệnh riêng này. Nghĩa văn nói trong nhiếp luận.

Lược nêu năm mươi câu hỏi đáp, để chung cho tướng giáo đại sáng tỏ. Các văn cứ so sánh có thể thấy. Đây là y cứ vào kinh Hoa Nghiêm để trình bày.


[Đầu trang][Mục lục bộ Chư Tông][Mục lục tổng quát]