TẠP TẠNG
SỐ 1912 - CHỈ QUÁN PHỤ HÀNH TRUYỀN HOẰNG QUYẾT
Sa-môn Tram Nhiên Tỳ Lăng đời Đường soạn.
SỐ 1912 - CHỈ QUÁN PHỤ HÀNH TRUYỀN HOẰNG QUYẾT
Có người hỏi: Vì nhân duyên gì mà vội biết soạn bộ sách này?
Đáp: Do việc bất đắc dĩ. Nói duyên khởi này gồm có mười ý: Một là vì có người Sư thừa mà chẳng hết lòng với thầy lại trái ý thầy; Hai là vì có người từng sự thừa mà bỏ căn bản để theo cái chưa thấy; Ba là vì đời sau xoay vần tùy sanh hiểu khác, làm mất chỗ nương tựa căn bản; Bốn là vì tin tông tu tập tốt, phương khác không có sư để có thể vâng theo; Năm là vì nghĩa quán đều tu tập tốt dựa vào giáo, hạnh giải đều đầy đủ; Sáu là vì điểm bày quan tiết rộng lược sanh khởi cùng tận văn tông yếu; Bảy là vì kiến lập sư giải chẳng để đọa lạc lợi ích cho đời sau; Tám là vì giúp quán giải để phòng ngừa lầm lẫn mà dễ tìm xét; Chín là vì trình bày chỗ hiểu e có chỗ quên mà cầu cắt bỏ; Mười là thuận theo Phật chỉ vận tâm đại bi làm lợi tha.
Một bộ sách này trước sau ba bản: Bản thứ nhất có hai mươi quyển, bản thứ hai có mười quyển đầu đều đề tên là viên đốn, ấy là khác với thiên tiểu và bất định. Bản thứ hai thì đầu văn là nêu thiết nghĩ. Bản thứ ba đề và ý có chút khác nhau, sẽ nói đủ ở giải thích sau.
Đầu tiên nói chỉ quán minh tịnh, đây là theo bản thứ ba. Người thời ấy truyền nhau phần nhiều cho rằng bản thứ ba là bản lược, cho bản thứ hai là bản rộng. Một khi xem qua thì giống như có rộng và lược. Như tìm kiếm đầu cuối thì số trang đều bằng nhau, phải coi bản thứ ba bản tái trị chẳng nên cho là lược. Từng ở người nghe thiếu thưa hỏi chỗ nghe nên cùng tìm kinh luận mà suy nghĩ tìm chọn thêm, để không đoán mò mà soạn lầm.
Theo tiêu chuẩn giải Thích kinh luận đều chia làm ba phần. Nay văn chánh thuyết còn chưa trọn, tin không có phần thứ ba lưu thông là rõ ràng thôi. Chỉ có trước khai chương Ngài Chương An soạn lời tựa có thể làm phần tựa, từ khai chương trở đi là phần chánh thuyết. Xưa, bản thứ hai đem tựa chánh thuyết hợp lại thành mười chương. Cho nên đầu văn nói "thiết nghĩ" thuật nghe cộng thành mười ý. Nói "thiết nghĩ", là riêng tôi thầm khởi nghĩ. Tựa có năm ý: một là thương lược, hai là tổ thừa, ba là nói về sai, bốn là dẫn chứng, năm là bày xứ. Nói thuật nghe, nghĩa là ghi chép các điều đã nghe. Chánh thuyết cũng có năm ý: Một là khai chương, hai là sanh khởi, ba là phân biệt, bốn là phân biệt, năm là giải thích. Vì đem chỗ nghe của mình và lời tựa hợp thành mười đoạn, ý vẫn chưa ổn, cho nên tự định mất thứ lớp này, chỉ thành tựa vào chánh thuyết. Lại ở trong tựa chỉ phát khởi mà không có qui kính cho nên biết đây là do sự thuật ghi mà thôi. Nếu căn cứ văn Chánh thuyết của Đại sư thì nghĩa chia ra ba đoạn, tức là sáu chương trước dùng làm phần tựa, chánh quán và quả báo xem là chánh tông. Khởi giáo hóa tha là phần lưu thông, chỉ qui là thôi hóa qui tịch, không phải ba sở nhiếp nghĩa dường như lưu thông. Trong sớ y cứ hạnh còn đối ba học chia làm ba phần. Nay cũng lệ nghĩa ấy mà khai ra ba có gì mà chẳng được? Nay lại y hai đoạn trước làm chánh. Ở trong tựa đầu tiên thêm lời tựa về văn, thời, xứ v.v... các thứ xem là tựa chung, coi Tổ thừa nhân-pháp v.v... các việc là tựa riêng. Tức là tái trị định chánh ý. Chẳng được lại dùng năm thứ Thương lược, v.v... xem là thứ lớp mà phân văn tái trị, thời, xứ v.v.... Cho nên tái trị định trở về Thương lược cũ xem là viên chứng. Cho nên dưới dùng văn Thương lược này nói rằng nay y kinh lại nói viên đốn. Nói y kinh, chánh phải dẫn chứng chứng viên đốn xong. Thỉnh chứng hai thứ kia. Tức là đặt câu hỏi rằng: các Tam-muội khác nguyện nghe thành chứng. Trong bản thứ hai, thiếu câu hỏi này cho nên bản thứ hai văn Thương lược chép: lược dẫn kinh Phật thô bày ý viên. Cho nên biết tên Thương lược chẳng khác dẫn chứng. Cho nên tái trị định mất Thương lược trở về là dẫn chứng. Nếu đem các tên Thương lược v.v... ở bản trước mà thứ lớp đối trị định bản văn thì khiến chỉ. Quán Minh Tịnh các văn liền là đồ thiết, huống chi đem Thương lược để đối "Tổ thừa" là rất chưa thể được. Cho nên phải bỏ thứ lớp chương cũ. Nay tái (lại) trị định thêm tựa chung, là muốn kết tập theo loại truyền thuật lại năm thứ: Pháp thể sở văn, cho nên chẳng đồng với Thương lược cũ ở đầu. Đã thuật mới cũ, có không thứ lớp do đó đổi tên gọi là Ma-ha, là có hai nghĩa: một là đối tục huynh người anh ruột tên Trần châm mà soạn ra tiểu chỉ quán; Hai là giữ nguyên âm tiếng Phạn vì nghĩa phong phú kiêm hàm, cho nên Đại luận chép: Nói Ma-ha là gọi chung ba nghĩa: Đại đa thắng (lớn nhiều hơn) y sở bốn giáo giải thích Tỳ-kheo vị thì chẳng phải ý này. Dùng ba tên này để giải thích viên tam quán chánh là nêu y chỉ. Đại (lớn) là nghĩa không, đa (nhiều) là nghĩa giả, thắng (hơn) là nghĩa trung. Cho nên đổi tên gọi theo kiêm hàm để chỉ trọn bộ nhất tâm tam quán. Nếu thế có gì khác so với viên đốn đổi từ Ma-ha?
Đáp: Tên viên đốn tuy khác thiên tiệm nhưng chỉ chung cả ba, cho nên đổi tên cõi này chỉ đơn lẻ mà dùng vốn tiếng Phạn có nhiều nghĩa. Vì thế phải biết hai chữ chỉ quán đều là Ma-ha, tức là nhất tâm tam chỉ tam quán là chỉ quán. Cho nên biết nắm chung một bộ để làm tên sách. Đầu tiên từ đại ý, sau ở chỉ qui đều là chỉ quán của Ma-ha. Cho nên tên đề là chung mười chương là riêng, trong mười chương thì đại ý là chung, tám thứ kia là riêng, cho nên biết chung riêng tự hành, nhân quả hóa tha năng sở đều là Ma-ha Diệu định tuệ.
Vì sao trong giải thích chung phát tâm tu hành nhân tự hành. Kế xé rách lưới lớn là có khả năng hóa tha. Đã có năng hóa thì có sở bị. Văn lược nêu năng để nhiếp sở. Việc năng sở đã xong mà đồng nhập chỉ qui. Trong giải thích riêng, bắt đầu từ giải thích tên, cuối đến chánh quán nhân tự hành. Kế chương quả báo là quả tự hành. Chương khởi giáo là khả năng hóa tha. Nghĩa sở bị là chỗ hóa tha. Ba chương lớn sau văn thiếu nghĩa lược mà ý đồng với ba thứ sau ở trong phần tổng trước. Cho nên văn sau lược qua chẳng nói. Tựa đầu chia làm hai, trong tựa chung tuy giống mà trong tập kinh thông có năm việc. Đã là ghi riêng cho nên thiếu đồng nghe, trong đó có sáu. Bốn chữ đầu nói "Chỉ quán minh tĩnh" sở văn thể (thuật cái được nghe). Hai chữ chỉ quán là bày văn thể (thể được nghe), hai chữ minh tịnh là thán thể đức. Nghĩa là thể chỉ là tĩnh, thể quán là minh. Trước sau mười chương, mười pháp chánh quán đều là thể chỉ quán đều là minh tịnh, là chỉ chung một bộ để làm sở văn (những điều được nghe). Như kinh Pháp Hoa nói Bổn môn Tích môn đều là thể pháp mầu gồm chân thật. Đời trước chưa từng nghe là người hay nghe. Trở lại dùng tha vãng để hiển thành, tôi nghe thuật mình kiêm người khác nói hiện và vãng. Cho nên nói đời trước sau có thể nghe. Nói đời tuy có nghĩa là ba mươi năm, nay dùng đời lại có nghĩa đời khác. Đời khác hoằng pháp đời đời đều có nên nói là đời. Từ thời vua Hán Minh Đế nằm mộng, cho đến đời Trần, các tác phẩm ở đương đời thịnh hành đầy mắt. Dự vào chốn thiền môn y bát truyền trao thì nghe đầy tai, đâu có ai chẳng nghe hai chữ chỉ quán. Chỉ vì chưa nghe, như Ngài Thiên Thai nói bộ này định tuệ đều kiêm mỹ, nghĩa quán song minh mà nhiếp một đời giáo môn, nắm gọn ý kinh Pháp Hoa thành mười thừa mười cảnh không thể nghĩ bàn, dứt đối đãi, dứt hết diệt, thành hạnh tịch chiếu. Đời trước chưa nghe lời này. Cho nên Ngài Nam Sơn khen rằng chỉ Hành Nhạc Thai Nhai song hoằng hóa thiền tuệ lẽ nào Nam Sơn nịnh hót khen dối sao?.
Hai chữ Trí Giả gọi là vương đạo. Đây là do khi mới sanh có điềm lành mà đặt tên. Pháp danh là Trí Khải, Khải Tĩnh tức xuất gia rồi thầy đặt hiệu, theo đức mà đặt tên nên dùng nghĩa Tĩnh. Sau trao giới phẩm Bồ-tát cho Tấn Vương (là Tùy Văn Đế) đặt pháp hiệu cho vua là Đại vương hướng dẫn từng bước các đều thánh cấm gọi tên là Tổng Trì. Vua nói: Sư truyền đèn Phật pháp nên gọi là Trí Giả. Nay đều cho Trí Giả là người nói giáo đời Tùy. Các kinh phần nhiều gọi chung "nhất thời", tức gọi chung dài ngắn, nhiếp cả tinh thô, nay chỉ một bộ nên chỉ riêng đời Tùy. Nhà Tùy được nhà Chu nhường ngôi cho họ Dương, người ở Hoằng nông, Hoa âm. Trước theo Chu Thái Tổ khởi nghĩa ở Quan Tây, làm đến chức Đại Tư không, phong hiệu là Tùy Quốc công, húy là Kiên, sau lên ngôi đại hiệu là Tùy Quốc (nhà Tùy). Lập niên hiệu là Khai Hoàng, hoàng là lớn. Nhĩ Nhã nói hoàng là uông chánh, là tột, là lớn. Kinh Châu là nói chỗ. Chùa Ngọc Tuyền, đầu đời Lương niên hiệu Thái Bình năm thứ hai Ngụy Chúa cho xây nhà Văn Thái, phá hai muôn quân Lương Nguyên Đế. Lúc đó Sư mới mười tám tuổi, đến chùa Quả nguyện ở Dương Châu, nương người cậu họ Hồ mà xuất gia. Đến niên hiệu Thái Bình thứ ba đời Trần, thì hai mươi tuổi bèn thọ giới cụ túc, nương Luật sư Tuệ Khoáng mà học thông luật tạng. Đến niên hiệu Càn Minh thứ nhất đời Trần, Sư mới vào Quang châu, nương Thiền Tư sư học pháp thiền. Lúc đó Sư hai mươi ba tuổi. Đến niên hiệu Quang Thái thứ nhất đời Trần, giả từ thầy mà vào đất Nghiệp, tuổi đã ba mươi, đến niên hiệu Thái Kiến năm thứ bảy đời Trần. Sư mới đến Thiên thai. Lúc đó đã ba mươi tám tuổi, đến niên hiệu Thái Kiến thứ chín, vua sai xây chùa Tu thiền, đến niên hiệu Thái Kiến thứ mười ba thì vua mời Sư đến đất Nghiệp. Đến Trịnh Minh năm thứ ba tức là niên hiệu Khai Hoàng thứ mười một đời Tùy, Tuyền Hình xây chùa để trả ơn đất, trước tên là Nhất Âm, sau đổi thành Ngọc Tuyền, mầu suối như ngọc do đó đặt tên. Chùa ở Tây trúc gọi là Tăng-già-lam. Trung Hoa gọi là chúng viên, cũng gọi chung là Tinh xá. Xứ này tục gọi nhà của quan Cửu ty là chùa, nghĩa là chỗ có pháp độ. Cho nên lấy tên Pháp độ mà gọi Tịnh xá. Đến niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười bốn, lúc đó Sư năm mươi bảy tuổi trụ ở Ngọc Tuyền mà giảng chỉ quán, kế lại nói về phân tề giới hạn. Trước nói giới hạn về thời gian một hạ là nêu chung từ đầu đến cuối thời hạn định khuyên tu, nói pháp khen ngợi nên gọi là phu dương, hai thời là sớm chiều. Từ chú, tức là từ tâm nói như mưa lớn. Nếu dùng hai duyên sanh pháp nói thì có cùng. Dùng tâm vô duyên từ không nương tựa mặc sức nhạo thuyết biện, cho nên nói không cùng, vị ở năm phẩm, chính là quán hạnh vô duyên từ. Chú là như Đại luận quyển năm phê bình bốn pháp sư nói kệ rằng: Học rộng biện tuệ lời khéo léo, nói hay các pháp chuyển lòng người, tự không đúng pháp hạnh bất chánh. Ví như mây sấm mà không mưa, học rộng nghe nhiều có trí tuệ ấp úng vụng nói chẳng khéo léo, chẳng thể hiển phát kho pháp báu. Ví như không sấm mà mưa nhỏ, chẳng rộng học hỏi không trí tuệ, chẳng thể nói pháp chẳng làm tốt, là Tệ Pháp sư không hổ thẹn, ví như mây nhỏ chẳng sấm mưa. Nghe nhiều trí rộng lời khéo léo, nói giỏi các pháp chuyển tâm người, hành pháp tâm chánh không sợ sệt, như mây lớn sấm sét và mưa to như đại vân lôi chú hồng vũ. Ý kệ lấy nghe nhiều làm mây, nói pháp như sấm, từ hạnh như mưa. Đại sư có đủ ba thứ, tức Pháp sư thứ lớp, tuy lạc thuyết chẳng cùng, luận có bốn, nghĩa là nghĩa pháp từ lạc thuyết, nghĩa là hiển rõ nghĩa các pháp, pháp là nói danh tự của pháp. Từ là lời lẽ nói pháp. Tuy có ba thứ này nhưng phải lạc thuyết ba thứ trước. Nghĩa là đối với một pháp nói tất cả pháp, ở trong một chữ nói tất cả chữ, ở trong một lời nói tất cả lời, đều vào thật tướng mà không sai lầm, cho nên biết đều là năng lực lạc thuyết. Tuy là lời bất tận cũng là lời giúp, tuy là chẳng cùng hạ trọn bảo dứt. Mới đến thấy cảnh bánh xe pháp thường xoay, mới là siêng được, cẩn tất cả cảnh khi ép hạ hết. Tuy thiếu các văn kia nhưng hạnh môn không cần thiết. Trong lược đã nói đầy đủ, biểu thị hẹn tâm. Tức đại chương thứ bảy khai thành mười cảnh đến cảnh thứ bảy kia chẳng nói lại. Ba đại chương sau và ba cảnh kia mượn duyên chẳng trọn. Cho nên trong truyện chép: quán đảnh ghi riêng chỉ quán mười quyển, mới mong nghe lại hết đầu đuôi. Hiểu Trí Giả Niết-bàn không chỗ kính ngưỡng. Các văn khác tuy lược nhưng y theo trên thì có thể hiểu.
Tăng-thượng-mạn là như Thiền Cảnh chép:
Không chỗ biết người được đây gọi là Vô sanh nhẫn. Tỳ-kheo Bốn thiền gọi là bốn quả, khởi dứt thấy chuột gặm chim không. Như các văn đó tướng nói chẳng phải một. Hai cảnh sau chỉ là hai giáo Nhị thừa, ba giáo Bồ-tát, đủ tại thể tướng, nhiếp pháp Thiên viên, v.v... các văn, và trong các cảnh bên trong có thể nghĩ bàn. Ba đại chương sau cũng y cứ theo ba lược sau của năm lược. Văn đó tuy thiếu nhưng nghĩa đã đủ. Cho nên mượn cuối hạ để làm thiếu duyên. Tín hạnh Viên thừa ở đây hết nói năng, nên nói bánh xe pháp ngừng chuyển. Bị hạnh lược các thứ còn lại đều không nói. Cho nên nói phần sau chẳng nói. Nhưng ấp lưu tìm nguồn là lời tựa riêng. Trước nói chung là nghĩa chung mà văn riêng. Nói riêng chỉ quán Minh tĩnh v.v..., Nay tựa riêng, là ý riêng mà tồn chung. Bởi chung nói hai mươi ba Sư, v.v... cho nên tuy chung riêng khác nhau mà cũng chẳng ngoài Sư tư nhân pháp thầy trò người pháp. Cho nên trong lời tựa chung chỉ quán chỉ là pháp sở đắc nghe văn sở đắc nói thuyết của thầy trò, kế nêu người năng nghe, năng nói. Kế là nói văn thuyết hoặc thời hoặc xứ. Cho nên nêu pháp sở đắc, nghe văn ty chung như hương (thơm) như lưu (tuôn dòng), sai biết đại giác như cội như nguồn. Lại riêng đây tuy chẳng khác bộ có thể xem là thầy trò nối nhau ba bộ khác nhau đốn đối với hai thứ kia nên gọi là riêng. Lại chỗ nối (thừa) này cùng các thầy khác cũng gọi là riêng. Trong đó trước nói Tổ thừa trao pháp vẫn tiệm. Nếu trước chẳng chỉ Như lai Đại thánh thì không nhờ đầu mà nêu hai mươi ba vị tổ. Nếu chẳng nêu hai mươi ba vị tổ thì không do đâu mà chỉ Sư thứ mười ba. Nếu chẳng chỉ Sư thứ mười ba thì không nhờ đâu mà tin ở Hành nhai Thai Nhạc. Nên trước ví lý do như tìm nguồn tìm gốc. Nay chỉ quán hưng đời tượng mạt như lưu như hương. Kim khẩu Phạm âm như gốc như nguồn. Ấp là châm chước. Thi chép: chỉ ở phương Bắc có Bắc Đẩu nên không thể rót rượu. Rót rượu phải biết chén đầy, biết thơm phải tìm xét nguồn cội, cho nên Đại kinh chép: nghe mùi hương thì biết đất ấy phải có thuốc, thuốc ấy chân vị dừng tại núi cũng như trăng đầy tùy lưu xứ mà có các thứ tên chân vị là thật lý, các tên Mạt giáo trăng đầy ví như thật lý. Ở núi ví như lý tại âm, Như lai y lý tùy cơ mà đặt tên. Tượng các tên là Mạt bốn y hoằng tuyền Phật hóa, thọ giáo hóa bẩm phải tìm xét nguồn cội. Nếu mê nguồn cội thì tăng thượng mạn mà chứng chân. Nếu hương lưu mất hết thì tà thuyết lẫn lộn Đại thừa. Do đó mà biết Thai Hành Tuệ Văn là Tổ sau tổ Long thọ. Hai mươi ba Tổ nối gót ở Kiên Lâm thật có lý do đáng tin. Luận chép: chỉ thứ hương giả là muốn nói trao pháp. Phiếm dẫn giáo nghiệm có Sư không Sư. Nói không Sư là như Đại luận quyển hai nói, ta giữ chí vô Sư một mình không các bạn, chứa nhất hạnh được Phật tự thiên thông đạo ấy. Kinh Tăng nhất A-hàm quyển mười lăm chép: năm người A-nhã v.v... hỏi thầy Phật là ai? Phật đáp: Ta không có thầy, cũng không có bạn, một mình chẳng ai hơn, lạnh mà không ấm. Văn của luật cũng đồng như thế. Kinh Na-tiện chép: Phật không thầy thành đạo tự ngộ tất cả pháp. Kinh Pháp Hoa chép: trí Phật là trí vô sư. Ở Tục Thái sư, Thái Truyện, Thái Bảo đều là Nghĩa sư, kế nói có thầy. Thọ biệt, chữ biệt tức là phái biệt cũng là phân biệt (nhiều sách viết chữ biệt không có bộ thảo. Như kinh Thụy Ứng chép: khi xưa thời Phật Định Quang ra đời, ta làm Bồ-tát tên là Nhu Đồng cho đến mua hoa dâng Phật Định Quang, tung hoa cúng dường, hoa ở trên hư không, Phật ấy biết ý mà khen ngợi rằng: ông vô số kiếp sau sẽ học thanh tịnh, do đó thọ ký rằng: Ông sau chín mươi mốt kiếp, kiếp tên là Hiền, ông sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca cho đến thân bay lên hư không được Vô sanh nhẫn. Luận chép: Vô sư kinh gọi là ký biệt. Thư nói khứ lại trích dẫn sách tục cũng có hai nghĩa. Sanh tri như vô sư học thành như ký biệt. Nên Luận ngữ chép: sanh ra đã biết là bậc thượng, học mới biết là bậc kế. Bắt ép mới học là kẻ thường, bắt ép mà không học thì càng thấp kém hơn. Lương là lành, là lớn. Thư tuy không nói nhân quả xa, nay lại dẫn rộng lời nói tương tự để chứng hai nghĩa đối với lý không lỗi. Người đọc văn phải dùng chữ Lương làm cuối câu, ở đời có người chẳng hiểu câu đầu, lấy chữ Lương làm câu đầu rất chưa ổn. Như bản thứ hai câu đầu đầu câu lại có các vị trời, đâu thể đọc bản thứ hai rằng Lương Nhiên pháp môn v.v... ư? Cho nên chẳng thể dùng. Nhưng vô sư và ký biệt là y cứ sự tuy khác nhưng y cứ lý chẳng hai. Ở nhân thì phải nhờ thầy che chở, quả mãn thì gọi là ngộ riêng. Vì nhân quả này gọi là các Sư nối tổ xưa. Kế pháp môn mầu nhiệm mà trong sáng rộng lớn nêu pháp dụ hỏi hai đường trên, người đã chia ra sự lý nhân quả thì chỗ chứng pháp thể cũng chia hai ư? Hạo là nước mênh mông, pháp đã mầu nhiệm là sự hay lý, là thiên chân tỏ sáng. Hỏi pháp Vô Sư là từ lam mà có xanh. Hỏi: học thành pháp lý chẳng phải tạo tác nên gọi là thiên chân, chứng trí tròn sáng nên gọi là riêng sáng. Do thầy thói quen tu tập nên nói từ lam, do học công toại nên gọi mà thanh. Thư rằng xanh có ra từ lam mà xanh hơn lam, nhuộm sai như thế. Nay dẫn nghĩa nhuộm chẳng phải dẫn hơn lam. Người tu nếu nghe đến tông nguyên là đáp chung, tông là tôn, là chủ, là nguyên thủ, là trương. Nếu tìm chỗ truyền pháp xoay vần trao nhau bèn biết lý do tông chữ của người năng truyền. Cho nên biết Phật trong một thời kỳ là lý do mới hiểu Tông sư nay ở Long Thọ. Từ Đại giác đến hàng ma là đáp riêng. Trước đáp chung hai câu hỏi về nghĩa Đại giác thì nghĩa Thiên chân hạnh mãn là thọ ký, nhân và pháp hai ý đều như thế. Hai ý gồm đủ, đạo thầy trò thành. Nên thư chép: Tre chưa cắt thì tiếng phượng chưa bày, tánh tình chưa luyện mà phát cho nên chân lý cũng do học mà thành. Giác thì Thi nói có giác đức hạnh, lại nói giác là đại minh, là hiểu, là ngay thẳng. Nay cũng giống như thế, mười hiệu đầy đủ, chủng trí tròn sáng, ba hoặc dứt nhanh, đêm dài chợt sáng, hai tử dứt trừ, không còn trở lại. Lại giác đầy đủ thì gọi là Đại giác. Bốn giác khác nhau giác trí cũng khác. Lại nhờ tiệm mới thông, nói lược chung là Đại giác. Vì Đại giác là bậc tôn quý trong đời, nhiều kiếp hạnh mãn cũng là nói chung. Cho nên chẳng nói ba A-tăng kỳ cho đến vô lượng A-tăng kỳ. Kiếp Hán dịch là Thời, các luận Câu-xá v.v... thường lấy hai mươi lần tăng giảm làm một Trung kiếp, tám mươi lần tăng giảm là một đại kiếp. Kinh Kim Quang Minh nói: Y trời Thiên nặng ba thù của Phạm thiên ba năm một lần phất qua một tảng đá vuông rộng mỗi bề bốn mươi dậm lấy đó làm một tiểu kiếp, mỗi bề tám mươi dăm xem là một Trung kiếp, rộng một trăm hai mươi dặm là Đại kiếp. Chẳng ở trong kiếp số này mà tu học thì chẳng gọi là Bồ-tát. Lại chép: có một kiếp, một dặm, kiếp dặm, cho đến kiếp muôn dặm. Lại nói có thể thành vuông lớp, chu vi bốn mươi dặm chứa đầy hạt cải. Cứ trăm năm mới lấy ra một hạt gọi là một kiếp, trải qua vô số kiếp gọi là Atăng kỳ. Xét nghĩa kiếp này không phải là chánh văn nên không nói rộng. Trải sáu năm mới phục kiến cho đến hàng ma. Phục kiến là điều của ngoại đạo, hàng ma là dẹp Thiên ma. Cho nên sáu năm khổ hạnh qua kỳ sở hành, trước đồng sau khác, hóa đạo phải như thế. Cho nên năm người, có hạnh trước ải mà bỏ đi, qua sáu năm bèn ăn lại mà tu thiền, người có hạnh chấp trước lại bỏ đi. Sau Phật hàng Thiên ma ở dưới cội cây chưa thành đạo. Việc hàng ma có nói rộng ở các kinh. Lại Thụy Ứng chép: Thiên ma và Phật hỏi đáp nhau, Phật nói kẻ trượng phu gặp người chiến đấu chết rồi không có thân, bị người hàng phục. Ma nói: Tỳ-kheo cầu gì mà thích ngồi dưới gốc cây trong rừng rậm đầy thú dữ, mây nổi tối mịt mù đáng sợ, Thiên ma vây quanh cũng chẳng sợ. Phật nói: xưa có chân đạo Phật đã làm, điềm đạm là cao nhất trừ chẳng sáng. Đây thật là pháp mãn tạng tối thắng. Ta ngồi đây chiến đấu với Ma vương. Ma nói: Ông làm vua Chuyển luân, bảy báu tự đến, làm khuôn phép bốn phương, năm dục thọ vui không ai bằng. Chỗ này không có đạo, hãy về cung đi! Phật nói: Ta thấy dục đầy như nuốt lửa, bỏ nước như đàm dãi không hề tiếc rẻ.
Làm vua cũng còn buồn già chết nên bỏ đi như thế, không lợi chớ dối bàn. Ma nói: Tại sao ngồi trong rừng mà bảo là vui, bỏ ngôi của cải nói yên nhàn, mà chẳng thấy ta dấy bốn binh, voi ngựa bộ binh, ngàn muôn ức, hiện ra mặt khỉ vượn sư tử, đều cầm dao kiếm và qua mâu, nhảy múa la hét đầy khắp hư không, v.v...
Đại Luận chép: lúc đó trời Tịnh Cư đứng vây ba mặt xem Phật đối đáp chiến đấu với ma. Thiên ma bỏ chạy, chạy đến núi Thiết vi vẫn không thôi. Kinh Đại Tập kinh Quán Phật Tam-muội v.v... chép: Ma vương lúc đầu muốn đến đánh Phật cho nên trước sai dân, thuộc kế sai Thái tử, lại sai ba cô gái đều chẳng phá hoại được, bèn giận dữ chính mình cầm quân. Vừa đến chỗ Phật thì chủ tướng đều té. Trong Đại luận Phật dùng kệ quở ma nữ rằng: Thân ấy dơ uế, vật bất tịnh nhầy nhụa, thật là cầu xí, sao lấy đó làm vui, các cô gái ma hổ thẹn. Lại bảo ma rằng: Ta đã ba A-tăng-kỳ kiếp tu tập khổ hạnh mới được Bồ-đề. Các ngươi chỉ bày một hội vô già bảo là thiên chủ, sao được tranh đấu với ta. Ma nói: lấy gì làm chứng, Phật dùng ngón tay chỉ đất bảo: Người này biết ta. Lúc đó thần đất bảo Không thần truyền cho đến Phạm Thế, Thiên ma bị hàng rồi, Tam-muội bất động thành đạo vô thượng. Bắt đầu ở Lộc uyển cho đến Hạc Lâm, là thành đạo rồi thuyết pháp thì phải có chỗ cho nên lược nêu trong thủy ở đâu ba chỗ ban đầu chẳng giữ và cuối cùng. Do pháp mà nghiệm chứng, có chỗ mà bày pháp. Tức Pháp được truyền chánh chỉ ở đây. Thiên chân từ làm công dụng của lam mà hưng thạnh.
Nói "Lộc uyển", thì Đại luận chép: Xưa, vua Ba-la-nại vào núi săn bắn, thấy hai bầy nai mỗi bầy có năm trăm con và đều có một nai đầu đàn. Có một con nai đầu đàn thân mầu bảy báu là Bồ-tát Thích-ca, lại có một nai đầu đàn là Đề-bà Đạt-đa. Nai đầu Bồ-tát thấy vua giết bầy nai, bèn khởi tâm đại bi đến trước vua, mọi người tranh nhau bắn tên như mưa. Vua thấy con nai này không sợ sệt, phải có ý gì, bèn bảo đừng bắn nữa. Nai đến chỗ vua quì xuống thưa rằng: Vua vì việc nhỏ mà một lúc sai cả bầy nai chịu khổ, nếu muốn ăn thịt thì mỗi ngày xin dâng một con, vua bằng lòng. Do đó bầy nai theo thứ lớp dâng nạp. Trong bầy nai của Điều-đạt có một nai mẹ thưa với nai đầu đàn rằng: tôi chết cũng cam, nhưng tôi đang có mang, con tôi không thể chết được, xin tìm cách giải quyết, sai người sống không lạm mà kẻ chết đúng thứ lớp. Nai đầu đàn giận du bảo: ai chẳng tiếc thân mạng, đến phiên phải đi. Nai mẹ suy nghĩ nai đầu đàn này không từ bi ưa giận dữ, bèn đến nai đầu đàn Bồ-tát mà thưa rằng: Đại vương nhân từ, như tôi nay đây trời đất rộng xa mà không chỗ kháng cáo trình bày mọi việc. Nai đầu đàn Bồ-tát chép: nếu ta không giải quyết được việc chết oan của con bà ấy và sai theo thứ lớp, chi bằng mình đến thay thế, nghĩ xong bèn đến nộp mình, bảo nai mẹ trở về. Khi nai Bồtát đến thành vua mọi người đều lấy làm lạ, thưa lên với vua. Vua hỏi bầy nai hết rồi hay sao mà bỗng tự đến? Nai đầu đàn thưa vua nhân từ, không ai phạm tội, cây cối xinh tươi. Chỉ có bầy nai về bảo tôi, tôi thương xót, nếu đến phiên không dâng nạp thịt thì không được, mà nếu không dâng cứu thì khác nào gỗ đá, thân này không lên cũng chết, từ bi cứu khổ nạn thì phước đức vô lượng. Nếu người không từ bi thì có khác nào cọp sói. Vua nghe lời ấy bèn đứng dậy nói kệ rằng: ta thật là súc sanh gọi là người đầu nai, người tuy là súc sanh gọi là nai đầu người. Lấy lý làm người chẳng do hình thù mà làm người ngày nay ta bắt đầu chẳng ăn các thứ thịt nữa. Ta vì thí vô úy cũng giúp cho người an lòng. Bầy nai được an vua được nhân tín, chỗ ở bầy nai gọi là Lộc uyển. Phật ở đó đầu tiên xoay bánh xe pháp nên gọi là thỉ. Từ cây làm tên nên gọi là Nại uyển. Chỗ hai vị tiên ở nên gọi là vườn Tiên. Núi Đầu thứu, văn nói chim này mầu đen có nhiều con. Hình dáng núi giống như con chim nên lấy chim đặt tên. Lại ở bên núi ấy có rừng Thi-đà, thú ăn thay người chết nên ở rất nhiều trên núi này, nên lấy chim đặt tên. Lại là chỗ nhiều thánh linh ở nên đặt tên là Linh Thứu, cũng gọi là Kê Túc, cũng gọi là Lang Tích. Kinh Tăng nhất quyển ba mươi mốt chép: Phật bảo các Tỳ-kheo: núi này lâu xa gọi là Linh Thứu lại có tên khác, các thầy chẳng biết cũng gọi là núi khoáng phổ, núi Bạch Thiện, núi Tiên Nhân, thường có các La-hán thần thông đắc đạo ở đấy. Lại có năm trăm vị Bích-chi-Phật ở đấy. Phật muốn hạ sanh nên sai trời Tịnh Cư xuống báo trước, rằng kiếp sau năm thứ hai có Phật ra đời ở chốn này. Bích-chi-Phật nghe xong liền thiêu thân nhập diệt, là đời Phật thứ hai. Rừng hạc là ở thành Câu thi, bên sông A-di-la-Bạt-đề, cây có bốn cặp.
Lại nói song thọ bốn phương đều gọi đều gọi song nên gọi là song. Lại nói phần rễ trên hợp nhau nên gọi là Song. Phật ở trong đó mà nhập Niết-bàn. Khi Niết-bàn thì rừng ấy biến thành màu trắng cũng như hạc trắng nên gọi là rừng hạc. Trong kinh Ahàm chép: Ngưu giác Ta-la, hai là lấy thành đặt tên. Thành Câu-thi-na, hán dịch là Giác Thành, vì thành ấy có ba cạnh nên gọi là Giác. Nếu thế thì chỉ gọi là giác soa, gọi là ngưu giác. Biểu thị song là lấy tên cây Ta-la. Ta-la là tiếng Tây trúc, hán dịch là kiên cố, từ ngữ kiên cố (bền chắc) là tên gọi đức của cây. Cho nên biết ngưu giác là biểu thị nghĩa song gồm ba cạnh, đây là nói chỗ Phật Niếtbàn sau cùng. Hai nghĩa trước tự nhiên chứng lý không phải ở đây nói. Thầy trò truyền nhau chính là ý này. Cho nên kế nói pháp trao cho Ca-diếp. Nói Phật diệt độ rồi là người trao pháp. Trong đó trước nói miệng vàng Tổ thừa. Kế nói Sư nay xoay vần truyền nhau. miệng vàng Tổ thừa thì nhân pháp đều nêu, nay Sư Tổ thừa thì chung riêng đều nói. Trong riêng trước nhân kế pháp. miệng vàng đủ ở trao pháp tạng truyền bảy mươi trang giấy, còn rất rườm rà. Nay lược trước y A-hàm và luận
Bà-sa nói phần đầu xá-lợi và kết tập ba tạng. Trường A-hàm chép: Ca-diếp từ hang Tất-bát-la ra đến chỗ làm lễ trà-tỳ. Phật hiện ra đôi chân từ Kim quan. Ca-diếp lễ xong đi quanh xá-lợi. Trong truyện phó pháp ở trước có chia xá-lợi làm ba phần cho trời, người và long vương chia làm ba phần gọi là nhân-thiên-hải. Trong nhân có một phần lại chia làm tám, giống như A-hàm. Cho nên A-hàm chép: sau khi Phật Niết-bàn ở nước Câu-thi có chúng Mạt-la, nước Ba-ba có chúng Mạt-lê, nước Già-la có chúng Bạt-ly, nước Ma-già-đà có chúng Câulợi-dân, nước Tỳ-đề có chúng Bà-la-môn, nước Ca-duy-la có chúng dòng họ Thích, nước Tỳ-xá-ly có chúng Ly-xa, nước Ma-kiệt có vua A-xà-thế. Ai nấy đều nghĩ rằng Phật nhập Niết-bàn ở Câu-thi, ta phải đến đó tìm xá-lợi. Lúc đó các nước đều dấy bốn quân binh mạnh mẽ. Liền sai Bà-la-môn Hương Tánh rằng ông đem tên ta đến thành Câuthi-na hỏi thăm chúng Mạt-la nước Câu-thi có mạnh khỏe không. Tôi rất kính trọng các bậc hiền, nước láng giềng nhân nghĩa chẳng có tranh cãi. Tôi nghe Như lai Niết-bàn ở nước quý vị, nhưng đấng Vô Thượng Tôn là chúa của chúng tôi, nên từ xa đến xin chia phần xá-lợi đem về nước xây tháp cúng dường, nếu cho thì chúng tôi xin đáp lại nhiều châu báu. Hương Tánh nhận lời đến đó cáo bạch. Chúng Mạt-la chép: thật đúng như quý vị nói, chỉ có Phật giáng sanh ở cõi này, rồi diệt độ ở đây, nên trong nước tự phải cúng dường. Cực nhọc quý vị đến xin chia xá-lợi mà không được. Lúc đó vua các nước nhóm họp các Đại thần mà gởi tụng rằng: cúng tôi lễ nghĩa hòa bình từ xa đến cầu lạy xin chia ra xá-lợi. Nếu không được thì dấy bốn binh, đấy chẳng tiếc thân mạng. Nghĩa không được thì phải dùng năng lực mà lấy. Lúc đó nước Câu-thi liền nhóm họp các quan cùng dùng kệ đáp rằng: Từ xa cực khổ quý vị chịu nhục cầu lạy, di hình Như lai chẳng thể trao cho, bên ấy nói dấy binh, chúng tôi cũng có, liều mạng chống lại, chẳng hề sợ sệt. Lúc đó Hương Tánh bảo mọi người rằng có trưởng giả hiền nghe lời Phật dạy miệng tụng pháp ngôn, tâm lại nhân hóa, tất cả chúng sanh phải nghĩ được an, đâu tranh giành xá-lợi mà giết hại nhau, Như lai để lại hình hài để làm lợi ích rộng rãi. Xá lợi hiện tại chỉ nên chia ra. Chúng đều khen tốt. Bèn bàn hỏi ai chia ra được? Chúng cử Hương Tánh nhân từ có khả năng chia xá-lợi v.v... Liền chia xálợi thành tám phần, bình tháp thứ chín, xây tháp thứ mười. Khi Phật còn sống thì tóc do các vị trời giữ trên cõi trời xây tháp cúng dường. Vua A-xàthế trước đó đưa thư an ủi khi sao mai mới mọc thì chia ra xá-lợi, xong tự đem về nước mình. Còn các tro khác, người ở thôn Tất-bát-la bảo chúng rằng: con xin chỗ đất đốt thân về xây tháp cúng dường, thì chúng đồng ý cho. Các nước đều xây tháp thờ.
Nói kết tập ba tạng: Ngài Đại Ca-diếp chia ra xá-lợi Phật xong, liền sai A-nan nói ra Tu-đa-la (kinh) sai Ưu-ba-ly nói Tỳ-nại-da (luật) Ca-diếp tự nói A-tỳ-đàm (luận). Hỏi luận ai nói ở Bà-sa nói trước nói tạo luận duyên khởi có hỏi: Ai tạo luận này?
Đáp: Thế tôn tạo.
Hỏi: ai hỏi ai đáp?
Đáp: hoặc nói Xá-lợi-phất hỏi Phật đáp hoặc nói năm trăm Phật. Phật đáp: hoặc nói các pháp sâu xa không thể hỏi. Như lai tự hóa thành Tỳ-kheo hỏi Phật đáp, nếu thế vì sao lại nói Ca-chiên-diên tạo.
Đáp: Vì Tôn giả ấy đọc luận này vì người mà nói khiến cho truyền khắp, danh qui về Ngài ấy nên nói Ngài ấy tạo. Có người nói Tôn giả ấy tạo.
Hỏi: Đã nói pháp rất sâu xa không thể hỏi, Cachiên-diên ấy làm sao tạo được.
Đáp: Vì Ngài ấy có lợi trí ba minh sáu thông, đủ tám giải thoát. Năm trăm Phật có nguyện đối với di pháp Phật Thích Ca mà tạo A-tỳ-đàm phải chăng? Thế tôn ở khắp nơi nói pháp giáo hóa, Tôn giả ở trong đó mà lập kiền-độ. Thích-ca diệt độ rồi hơn sáu trăm năm thì ở Bắc Thiên trúc có năm trăm ứng chân cùng soạn tập lời Thế tôn nói. Kế vào bản thứ hai lược nêu trao pháp theo văn của bản truyện lúc đó có khác chút ít, ý ở lược biết ngôn thú.
Trước Ca-diếp bộ đã chia ra ba tạng giáo rồi. Sau hai mươi năm hoằng trì chánh pháp. Trước lễ bốn tháp, tức là xuất gia xoay bánh xe pháp, nhập Niếtbàn. Kế lễ tám tháp kế vào cung rồng lễ tháp răng
Phật, kế lên trời lễ tháp tóc Phật, đắp y Tăng-già lê và cầm y bát tích trượng của Phật như vào bùn mềm pháp giao cho A-nan, A-nan giữ kinh pháp hai mươi năm nghe một Tỳ-kheo tụng kệ Pháp câu rằng: người sống một trăm tuổi mà chẳng thấy con hạt già không bằng sống một tuổi mà được thấy. A-nan buồn bã bảo đây không phải là kệ của Phật. Kệ Phật nói người sống trăm tuổi không nghe pháp sanh diệt, chẳng bằng người sống một tuổi mà được thấy. A-nan than rằng đời ta vô dụng bèn đến từ biệt Xà vương (vua A-xà-thế) người giữ cửa nói vua ngủ. Liền lội qua sông Hằng. Vua ngủ mộng thấy cây lọng gãy thì thức dậy, người giữ cửa bèn tâu việc A-nan đến. Vua bèn đuổi theo ra đến giữa sông mới kịp A-nan, thỉnh rằng: Thế tôn Niết-bàn, Ca-diếp nhập diệt con đều chẳng thấy. Chỉ biết kính ngưỡng, nay Tôn giả lại bỏ đi con biết nương tựa vào ai. Tôn giả yên lặng liền vào Tam-muội gọi là Phong phấn tấn chia thân ra bốn phái. Phái là phần. Chia cho hai nước trên trời dưới đất. Pháp trao cho Thương-na-hòa-tu, Tu tạo ban già vu sắc. Ở núi Man-đà lập tinh xá hai mươi năm. Nhân đến Câu-đa ngồi giường Câu-đa. Có nhiều đệ tử không biết, bèn đưa tay lên hư không mà mưa cam lộ, hiện năm trăm pháp môn, phần nhiều đều chẳng biết, bảo rằng Phật vào mà Mục-liên chẳng biết, Mụcliên vào mà các Tỳ-kheo chẳng biết, ta vào mà Câu-đa chẳng biết. Ta được bảy muôn bảy ngàn bản sanh các kinh, tám muôn Tỳ-ni, tám muôn Tỳ-đàm các thầy đều chẳng biết. Nếu ta mất pháp môn cũng mất theo. Các đệ tử mới biết thần dị đều được quả A-la-hán. Độ đệ tử rồi mà vào Niết-bàn. Trao pháp cho Câu-đa, Câu-đa khi còn ở thế tục đã được Sơ quả thấy dâm nữ Đồ-liệt-tấn được ba quả, xuất gia thọ giới được quả thứ tư. Khi nói pháp bị ma làm chướng ngại. Câu-đa hàng rồi do đó chẳng dám ở Diêm-phù-đề, độ cho vợ chồng được bốn quả, bèn hạ một trù. Trù dài bốn tất đầy nhà trượng sáu dùng trù đốt thân pháp trao cho Đề-ca-đa. Đa lên đàn được Sơ quả, ba lần yết-ma được bốn quả. Pháp trao cho Di-già-ca. Ca mất thì pháp trao cho Phật-Đà-nan-đề. Đề trao cho Phật-đà Mật-đa, hai
Tôn giả trên trong truyện duyên khởi nói việc cũng ít Mật-đa mười hai năm thường cầm cây phướn đỏ đi trước vua. Vua hỏi: là ai?
Đáp: người trí.
Hỏi: cầu việc gì?
Đáp: cầu tranh luận. Vua bèn lập hội mời các Luận sư. Người cạn thì một lời, kẻ sâu thì nói lại một lời nữa (lời thứ hai). Vua luận cũng thua bèn xin thọ ba quy y. Có một Bà-la-môn, khéo biết pháp tính toán thường ngầm che chở, ông ấy nói Phật vô thần, Đa chép: bị tội, ông ấy chẳng tin mà bói toán thì biết là bị đọa địa ngục, liền quy y tin Phật. Thường ngầm che chở thì biết là sanh lên cõi trời. Khi Đa nhập diệt thì dời thi thể như tượng bất động, bèn thiêu thân dưới gốc cây, tro thân giúp cây xanh, bèn trao pháp cho Tỳ-kheo Hiếp. Tỳ-kheo ở trong thai suốt sáu mươi năm sanh ra tóc đã bạc. Bèn thề không nằm nữa, nên gọi là Tỳ-kheo Hiếp, cho đến ở trong tối mà tay phát ra ánh sáng để lấy kinh. Bèn trao pháp cho Phú-na-xa. Xa tranh luận với Mã Minh. Minh chấp có ngã. Xa chép: Phật pháp hai đế, thế đế có ngã, chân đế vô ngã. Mã Minh muốn cắt đầu tự tử. Xa bảo cạo tóc làm đệ tử, Minh lại tạo ra hòa-la-kỵ. Trong âm kỵ có nói vô thường, khổ, không, vô ngã. Nghe rồi sẽ ngộ đạo, năm trăm Vương tử nhàm chán cuộc đời đi xuất gia. Vua sợ dẫn đi tu hết, bèn cấm kỵ không cho lưu hành. Bị nguyệt thị đánh đòi chín ức đồng tiền vàng. Vua cầu hòa, liền đem cho chín ức tiền vàng. Vua cầu hòa liền đem bát Phật của Mã Minh và một con gà từ tâm, rồi chuẩn cho chín ức tiền vàng, Nguyệt Thị nhận lấy vui mừng, kéo quân về. Lại làm lễ tháp, tháp bị sụp đổ, đào lên thì được thây Ni-càn. Có thấy cạo tọc đến xin Vương nữ, ba lần như thế. Vua nói: tiểu nhân, đây có ý gì vậy? Minh nói: đất ấy có vàng nên khiến như thế. Đào lên quả nhiên được kho báu. Vua Anh Dũng ba lần biểu đều qui phục, vua giết chín ức người. Minh nói: ta biết pháp sám hối bèn bỏ một khuyến vàng vào vạc nấu sôi trong bảy ngày, hỏi ai có thể lấy? Chẳng có ai. Vua bèn chế nước lã vào rồi lấy ra. Vua do đó mộng bảo rằng: Tội ta phải chịu vạc nước sôi, sám hối như đổ nước lã vào. Minh vì vua nói pháp do đó tội nhẹ làm cá ngàn đầu đội vòng sắt nóng, cắt đầu lại mọc. Nghe tiếng chuông thì dứt đau đớn. Bèn khuyên đánh chuông mãi. Pháp trao cho Tỳ-la. La soạn luận Vô ngã, chỗ nào có luận đến tà kiến đều tiêu. Pháp trao cho Long thọ, Thọ học rộng, vô địch trong thiên hạ, muốn chê bai kinh Phật mà tự làm pháp, nói lên ta không có thầy. Rồng mời Long Thọ xuống thủy cung, một hạ chỉ tụng kinh của bảy Đức Phật. biết pháp Phật vi diệu, nhân đó mà xuất gia, hàng phục Quốc vương, chế phục ngoại đạo. Ngoại đạo hiện thần thông hóa thành ao hoa mà ngồi trên hoa sen. Long Thọ hóa thành voi nhổ hoa sen đánh tát ngoại đạo. Ông soạn ba thứ luận: một là luận Đại Bi Phương Tiện, nói thiên văn địa lý làm báu làm thuốc lợi ích thế gian, hai là luận Đại Trang Nghiêm, nói tu tất nhất nghĩa, luận Trung Quán, đó là một phẩm. Khi soạn luận này xong thì hỏi một vị sư Tiểu thừa là muốn ta đi hay ở.
Đáp: Đi bây giờ là tốt nhất. Sư bèn vào phòng mà thoát xác. Pháp trao cho Đề-bà. Bà do đó vào miếu Đại Tự Tai. Miếu có tượng vàng, tượng cao sáu trượng, mắt bằng lưu ly, rất linh nghiệm, ai cầu nguyện gì đều được, mắt giận động con ngươi. Đềbà bảo: Thần là thần vốn lấy tinh linh dạy vật mà giả mượn vàng ròng lưu ly ra oai ở đời sao tệ như thế? Bèn bắc thang lên móc mắt thần, mọi người đều bảo thần bị làm nhục. Đề-bà bảo muốn biết trí thần vốn không có mạn tâm (tâm hống hách coi thường) thần biết tâm ta sao lại làm nhục. Đêm ấy cúng kiến sáng ra tế thần thì thần hóa thành người thường không có mắt tai, khi tế lễ thì than rằng: ở đây bày cúng thí rất là ít có, nay tôi không có mắt sao chẳng thí mắt. Đề-bà khoét mắt mình mà thí. Chỗ khoét lại có mắt mới, như thế đến muôn mắt. Thần rất vui mừng hỏi muốn cầu điều gì? Đề-bà chép: ta từ chối chẳng nhờ gì khác, chỉ sợ người chưa tin nhận. Thần chép: sẽ đúng như nguyện, rồi biến mất. Thần giao cách cảm đều tin phục. Chỉ có một ngoại đạo ôm lòng sân hận bảo ông lấy đao không mà phá nghĩa ngã, ta dùng dao sắt mà phá bụng ngươi, năm tạng bày ra đất không dứt, lại xin ba y, thì bảo đi mau, rồi lại đi theo mà nói pháp vô thường. Ta vì tạo nghiệp nên nay đối với nghiệp phải chịu, ông chớ lo buồn. Nói xong thì nhập diệt trao pháp cho La-hầu-la. Trước đó có một ngoại đạo soạn sách tên Quỉ danh, sâu kín khó hiểu, Long Thọ đọc qua liền hiểu. Lại vì Đề-bà mà giải thích, lại rộng vì La-hầu-la phân biệt mới hiểu. Ngoại đạo khen rằng Sa-môn Thích Tử thần trí như thế, đọc sách của ta như biết từ xưa. Pháp trao cho Tăngkhư Nan-đề. Đề đạo cao hóa rộng, nói kệ Thử Lahán rằng: Sanh dòng vua Chuyển luân mà nhập vào Niết-bàn, chẳng phải Phật, chẳng phải La-hán, cũng chẳng phải Bích-chi-Phật. La-hán vào Tammuội suy nghĩ cũng chẳng hiểu. Liền bay lên cung trời Đâu-suất mà hỏi Di-lặc. Di-lặc nói: bùn dính trên bánh xe xem là đồ sành sứ. Sành sứ bể rồi, không phải là Nhị thừa cũng không phải là Phật. Sau thấy Nan-đề vì Đề mà nói. Đề nói là lời Dilặc. Pháp trao cho Tăng khư Da-xá, xa đến bờ biển thấy có một ngôi thành, đến thành khất thực mà nói kệ rằng. Hành là khổ bậc nhất, đói là bịnh bậc nhất, nếu thấy được pháp thật, thì được đạo Niết-bàn. Chủ thành do đó mời vào cho ăn, thấy hai quỉ xưa là vợ con. Do nó san tham, ta bèn thề rằng: thấy các ngươi chịu báo. Lại thấy một ngôi thành cùng ăn uống tề chỉnh. Ăn xong liền ném bát vào lửa, lửa nổi lên mà thiêu thân. Vì tiếc thức ăn với người khác cho nên bị khổ này. Pháp trao cho Cưu-mA-la-đà. Đà khi còn bé đã hay đoán được việc nên được gọi là Mỹ Danh, một lần xem muôn người cỡi ngựa nên gọi Mã Sắc. Y trượng đều ghi. Pháp trao cho Xà-dạ-na. Na vì chị dâu đưa cơm cho Tỳ-kheo mà phạm tội trọng. Hóa thành hầm lửa để nhảy xuống sám hối. Nói pháp tội hết được thành La-hán. Lúc đó người gọi là Luật sư Thanh Tịnh. Thấy bên ngôi thành lớn có con quỉ không được ăn đã năm trăm năm. Lại thấy có con quạ con, xưa là con ngăn ta xuất gia, nên suốt năm trăm năm không được đạo quả. Pháp trao cho Bà-tu Bàn-đà. Đà trao cho Ma-nô-la, La cùng Tam tạng phân vùng mà giáo hóa. Từ sông Hằng trở về Nam người Nhị Thiên trúc, người nhiều tà kiến, bèn giao cho Manô-la. Từ sông Hằng trở về Bắc người Tam Thiên trúc, người tin dễ dạy nên giao cho Tam tạng. Pháp giao cho Hạc-lặc-dạ-na. Na trao cho Sư tử. Sư tử gặp vua ác tên là Đàn-di-la phá đập chùa tháp, giết hại chúng tăng, kiếm chém sư tử, máu biến thành sữa, trao pháp sau đó thầy kết, kế nói lợi ích trao pháp.
Nêu chung: Kim khẩu, đây là nói Như lai thân mầu vàng ròng, khẩu nghiệp giảng nói.
Hỏi: các Tôn giả này vị hạnh thế nào (vị hạnh nào)? Chuẩn theo bốn y vị, một là y thuộc. Phàm chẳng được tên thánh, trong truyện chẳng phán đúng vị ấy mà gọi chung là bậc Thánh, cho nên phần lớn là y nhân thứ tư, cũng có thể chung cho cả thứ ba, thứ hai. Cho nên văn đều nói bậc Thánh. Xưa vua chẳng lập của cải đầu lâu (sọ người). Đây là nói tướng trao pháp được lợi ích. Cứu là chuồng ngựa, đồ là giết. Trong truyện nêu người trao pháp có chép: gần gũi thiền thiên, lắng nghe chánh pháp lợi ích xa cho đời sau. Như xưa nước Hoa Thị có một con voi trắng khí lực mạnh mẽ diệt được kẻ thù. Nếu có người tội thì cho voi chà đạp. Sau đó chuồng voi bị cháy nên dời đến chỗ khác, gần một tinh xá. Có một Tỳ-kheo tụng kệ Pháp Câu rằng: làm thiện sanh cõi trời, làm ác xuống vực sâu thì tâm liền nhu hòa khởi ý niệm từ bi. Sau trao cho người tội thì voi chỉ nhìn không đạp chết, chỉ ngửi liếm mà thôi. Vua thấy việc ấy tâm rất kinh sợ, bèn mời các quan đến cùng mưu tính việc ấy. Lúc ấy, có một vị quan tâu vua rằng: con voi này vì ở gần tinh xá nên ắt có nghe diệu pháp, nên như thế. Nay nên sai nói ở gần nhà giết mổ, nói thấy voi ở gần chỗ giết mổ. Voi thấy giết hai thì tâm ác lừng lẫy liền giết hại càng dữ. Cho nên phải biết loài chúng sanh tánh nói bất định. Súc sanh còn bởi nghe pháp mà sanh từ, thấy ác thì giết hại, huống chi là người, mà chẳng nhiễm thói quen khi gần thiện tri thức Bà-la-môn, của cải đầu lâu. Truyện nói xưa có Bàla-môn mang rất nhiều đầu lâu (sọ người) đến bên thành Hoa Thị mà bán, bán rất lâu mà không ai mua. Liền tức giận lớn tiếng mắng rằng: trong thành này nếu không có ai mua ta sẽ khiến cho các ngươi làm ác nổi tiếng, thật các ngươi quá ngu si đần độn. Bấy giờ trong thành các Ưu-bà-tắc, sợ bị chửi chê nên đều đến mua, bèn rót nước đồng sôi vào tai. Người nghe thông thì trả giá nhiều, người nữa nghe thông thì trả giá ít, kẻ điếc đặc thì không trả giá. Khi đó Bà-la-môn hỏi Ưu-bà-tắc rằng: số đầu lâu này chẳng khác nhau, sao giá có khác nhau? Ưu-bà-tắc nói: người thông suốt thì sanh ra có nghe pháp mầu, trí tuệ cao quý nên trả giá nhiều. Người nữa thông suốt tuy có nghe pháp nhưng chưa khéo phân biệt, nên trả giá ít. Kẻ không thông, vì từ xưa người này không hề nghe pháp. Các Ưu-bà-tắc này đem đầu lâu người nghe pháp mà xây tháp cúng dường, nên chết rồi sanh lên cõi trời. Phải biết đại pháp có công năng lớn, đem đầu lâu người nghe pháp mà cúng dường còn sanh lên cõi trời huống chi dốc lòng cúng dường người trì kinh. Nghe pháp đã có ích sâu xa như thế. Cho nên Phật trao pháp khiến ở đời sau, xoay vần được nghe, khiến ở sau Long thọ diệu quán do đây mà có chỉ quán.
Từ "Bộ chỉ Quán này Sư nay nối Tổ, ở đây tức là trước nêu chung người và nhân pháp được truyền. Nói "Thuyết pháp môn mà tự mình đã thực hành trong tâm. Tức là chương An ngầm nói từ Đại sư được pháp sở hành cho nên nêu chỗ làm để hiểu chỗ truyền. Nếu truyền mà chẳng tập, có nói mà không làm thì lấy gì để luận chỗ truyền chẳng không. Cho nên biết chỗ truyền tức là chỗ làm (truyền là để hành), cũng sai đời sau làm chẳng trái lời. Do đó một bộ đều là hành tướng. Có người khác chép: ngoài ba tâm yếu truyền riêng, tức là văn của ba bộ trở thành vô dụng. Nếu có mặt mà trao khẩu quyết, chỉ là sắp đem chứng mà trình riêng với thầy, an tâm quan môn văn này tự đủ, huống kẻ học sau này chẳng mong mặt trao, mà lìa đây thì gọi là gì? Cho nên phải tin đây tức là chỗ truyền, cho nên di chúc rằng: chỉ quán chẳng cần truyền trao cho riêng ghi vì người nói. Riêng ghi là chỉ cho Chương An ghi mười quyển. Y dặn dò chính nói mặt trao, ý nhiều chẳng khắp, ghi riêng là nói ý đầy đủ. Cho nên biết chỉ quán do Đại sư truyền thì tùy cơ mặt trao truyền chẳng phải là cái mà đời sau chỉ kham được vì khi qua đời đã hết lòng dặn dò (di chúc). Nghiệm biết biệt truyền là ở đây nói lầm.
Kế từ khi ngài Trí giả trở đi là biệt nêu người truyền pháp kim khẩu Tổ thừa từ trước hướng sau, nay Sư Tổ thừa thì từ sau hướng trước, là chỉ Sư Tuệ văn sư đã nối Long thọ là văn câu. Trong tựa đầu, Trí Giả trước nói về đức nghiệp. Khi mới sanh ra thì trong nhà sáng rực, nóc nhà, hiên nhà đều rực rỡ các nhà ở gần cũng sáng. các việc mừng theo thế tục đều lửa tắt nước lạnh, mà việc không thành. Mắt sư có tròng mắt có hai con ngươi, cha mẹ giấu nhẹm chẳng muốn người biết mà người tự biết. Sách Ngọc thiên nói đồng là hạt châu nơi mắt, tức hạt châu nhỏ trong tròng đen, soạn Pháp Hoa sám hối phát Đà-la-ni, là Tập Luật tạng rồi đến núi Đại Hiền mà trì kinh Pháp Hoa. Do túc duyên đã huân nên thường thích thiền duyệt rõ ràng Giang Đông không có gì đáng hỏi. Nghe núi Đại Tô ở Quảng châu có Thiền sư Tuệ Tư, xa nghe phong đức như đói khát. Đất ấy là biên giới hai nước Trần Tề, thường xảy ra chiến tranh, nhưng vì trọng pháp, xem thường mạng sống bèn đi theo đường hiểm. Ngày Tuệ Tư mới thấy cười bảo rằng: Xưa cùng ở núi Linh sơn nghe kinh Pháp Hoa, do túc duyên mà mà nay lại gặp nhau, liền bày Phổ Hiền đạo tràng thực hành Tam-muội Pháp Hoa, trải khoảng nửa tháng hành đạo tụng kinh. Đến phẩm Dược Vương, chư Phật đồng khen Bồ-tát Dược Vương rằng: ấy là tinh tấn, chân thật, pháp cúng dường chân thật, rỗng rang vào định, soi rõ Pháp Hoa, đem chứng bạch thầy, thầy bảo: không phải ông chẳng chứng, không phải ta chẳng biết, mà là chỗ phát định phương tiện trước của Tam-muội Pháp Hoa. Chỗ phát trì là sở Tuyền Đà-la-ni, nếu sai văn tự Pháp sư đông ngàn muôn người tìm ông mà luận bàn cũng chẳng thể cùng. Ở trong nói pháp nhân, rất là bậc nhất. Pháp sư Đại thọ, v.v... tức chỉ cho Nam Nhạc là Pháp sư Thọ. Ngài Nam Nhạc tạo kinh Đại Phẩm chữ vàng xong tự mở Huyền Nghĩa sai Sư nhờ giảng thay. Do đó Trí Phương Nhật Nguyệt biện loại huyền hà quyển thư xứng hội, hữu lý tồn yêu. Chỉ có ba Tam-muội, ba quán trí dụng để xét hỏi, ngoài ra đều tự cắt bớt. Tư nói hãy nói pháp phó pháp cho Thần Pháp Vương vô sự. Lúc đó, Luật sư Tuệ Khoáng cũng ngồi trong hội, tự hỏi: Luật sư từng có Hiền Tử giảng chăng? Khoáng đáp: chỗ Thiền sư sanh ra chẳng phải là Khoáng Tử (này). Tư nói Tư cũng không có công năng lực Pháp Hoa. Hai nước Trần Tùy: nhà Trần họ là Quốc. Từ Võ Đế Bá được Lương nhường ngôi đến nay đến Thiếu chủ Thúc Bảo mới đến nhà Tùy. Nhà Trần gồm năm vua. Vua thứ tư Tuyên Đế là em của Văn Đế, tên là Hạng Tự tự là Thiệu Thế, trước Tự bảo Trí Giả rằng: ta ham thích Nam Nhạc đã lâu, tiếc rằng pháp không có chỗ trao, ông có thể truyền đăng hóa độ, chớ làm người sau dứt mất hạt giống Phật, ông ở nước Trần có duyên phải đến đó mà làm lợi ích. Đã nghe lời dặn dò nghiêm khắc bèn cùng hai mươi bảy vị như Pháo Hỷ, v.v... mà đến đất Trần. Nghi Đồng Trầm Quân Lý mời ở chùa Ngõa Quan mở Pháp Hoa kinh đề vua ra lịnh một ngày ngưng việc triều đình, công khanh đều tập hội. Sư ở Ngõa Quan được tám năm giáng luận Đại trí độ nói thứ đệ thiền môn, người mong được lợi ích nói nín khó có thể lược xưng nói. Sau đó, đồ chúng càng nhiều mà người được pháp càng ít, hại đạo tự hành vào hóa tha của ta, rất dễ hiểu. Các hiền đều tùy chỗ mà an. Ta muốn theo chí ta, ta nghe đất Thiên thai có Tiên cung, nên dứt tâm ở đảnh này mà mở chí bình sanh, vua Trần ra lịnh ở đó mãi, có từ bộc xạ tiềm thế khuyến thỉnh. Vua nói Kinh sư Tam tạng, tuy hoằng hóa Phật pháp đều có một đường riêng, hiểm đạo gồm hiển, Trẫm nghe tế tế sâu dụng ủy hoài, phải dừng lại vật đâu sợ độc thiện. Không phải từ vật luận bàn mà chỉ thẳng Đông xuyên. Lúc ấy, là đời Trần Thái Kiến năm thứ bảy, tháng chín mùa Thu, từ Tư Thủy đến Thiên Thái, vua Tuyên Đế ra sắc rằng: Thiền sư Phật pháp tài giỏi, thời tượng đều theo, dạy cả đạo tục, là chỗ cậy nhờ của nước, phải cắt huyện Thủy phong, mà nuôi chúng, quyện hai hộ dân để cung cấp củi nước. Sau ban cho sắc tứ tự bảng ngạch đầy đủ. Tả Bộc Xạ Từ Lăng Khải tâu biết Thiền sư sáng lập Thiên thai ngồi thiền ở núi nổi tiếng đặt hiệu là Tu Thiền. Khi Trần bị thua thì đến đất Tùy, vua Tùy kính trọng. Vua Trần cùng các Vương thư sớ gồm mười hai đạo, vua Tùy cùng các Vương sai thư sớ gồm năm mươi đạo. Bày vật làm tin ở chùa Quốc thanh hơn trăm lục. An thiền mà giáo hóa đến năm phẩm. Đây là trích ra từ Lâm Chung hạnh vị, không trích ra ở thiền định đoan tọa thủ diệt, nên gọi là an thiền mà hóa. Niên hiệu Khai Hoàng, năm thứ mười lăm Sư từ kinh xuống đất Nghiệp đến năm thứ mười sáu mới vào lại Thiên Thai. Niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười bảy, Tấn Vương mời Sư đến Thạch Thành, Sư bảo đồ chúng rằng: Đại vương muốn mời ta đến, ta không phụ lời mà đến, ta biết thân mạng ta ở đây nên không đi nữa. Bèn ở trước tượng đá mà miệng trao di thư rằng hoa sen lò hương tê tiết như ý lưu lại kính biệt Đại vương. Nguyện hương thơm chẳng cùng, thường giữ gìn như ý, chỉ ba y sai giặt rửa. Rồi bảo đọc tên hai bộ kinh Pháp Hoa quán và Vô Lượng thọ, khen ngợi xong. Lúc đó hai mươi lăm người như Nông Châu Thị Quan v.v... thấy tượng đá phát ra ánh sáng rực rỡ đầy núi. Lại dùng nước thơm súc miệng xong thì nói mười như, tám sanh, mười pháp giới, bốn giáo, ba quán, bốn tất, bốn đế, sáu độ, mười hai duyên. Mỗi pháp môn nhiếp tất cả pháp. Ta nay cuối cùng khuyên quán nói thiền, thiện tịnh cuối cùng nay ta sẽ vào. Lúc đó, Trí Minh thỉnh rằng xin từ bi giải thích để lường nghi chẳng rõ ở vị nào, chết rồi sanh về đâu, ai có thể kính nương. Đáp rằng: các thầy kém trồng gốc lành, hỏi công đức người khác, như kẻ mù hỏi sữa, kẻ què hỏi đường, thật có ích gì. Tuy nhiên ta phải vì các thầy mà phá bỏ nghi ngờ. Nếu ta chẳng lãnh chúng thì sẽ thanh tịnh được sáu căn, vì tổn mình mà lợi ích người khác, nên chỉ ở vị Ngũ phẩm. Còn sanh chỗ nào, thì ta và các thầy bạn đều theo Quan Âm cùng đến y cứ ta, hỏi ai có thể kính ngưỡng. Các ông chẳng nghe hay sao? Ba-la-đề-mộc-xoa (giới luật) là Đại sư của các thầy. Bốn thứ Tam-muội là người dẫn đường sáng của các thầy, dạy các thầy bỏ gánh nặng, dạy các thầy hàng phục ba độc, dạy các thầy trị bốn đại, dạy các thầy mở nghiệp buộc, dạy các thầy phá quân ma, dạy các thầy điều thiền vị, dạy các thầy tà tế, dạy các thầy bẻ gãy cờ ngã mạn, dạy các thầy ra khỏi hầm vô vi, dạy các ông lìa nạn đại bi, chỉ nên nương nhờ Đại sư này. Từ bỏ gánh trở đi tức là mười cảnh. Cho nên biết nếu chẳng bày nhân cảnh quán chẳng nhận nương cậy. Do đó dạy Duy-na, rằng mạng người sắp mất tăng thêm chánh niệm, phải đánh chuông dài và lâu đợi dứt hơi thở mới thôi, đâu đợi thân lạnh mới đánh chuông khánh, than khóc đắp y đều chẳng nên làm. Nói xong thì ngồi kiết già đọc tên Tam bảo mà vào Tam-muội. Lúc đó là giờ mùi ngày 24 tháng 11, sư ngồi thẳng nhập diệt. Diệt độ rồi có điềm lành hiện nói đủ như trong Biệt truyện. Tức là trụ ở Quán hạnh vị Thủ-lăng-nghiêm tịnh mà vào diệt.
Nói năm phẩm là rất đáng tin. Nhưng Đại sư khi còn sống thường nguyện sanh lên cõi trời Đâusuất. Khi qua đời bèn nói Quan Âm đến ry cứ, phải biết quỹ vật tùy cơ thuận duyên nên bày hóa, chẳng thể y theo một thứ. Cho nên nói lúc đi dẫn chứng Đại sư năm phẩm công nhiều. Phẩm Tùy Hỷ chép: Bố thí bốn trăm muôn ức A-tăng kỳ thế giới chúng sanh sáu thú bốn loài mỗi đều cho bảy báu, thấy họ già yếu cho đến chết dạy họ sai được quả khởi sáu thần thông chẳng bằng người mới tùy hỷ gấp trăm ngàn muôn lần. Kinh thứ sáu mới nêu là cuối kinh thứ năm là phần đầu tùy hỷ trong năm phẩm. Lại dùng người thứ năm mươi mà so sánh người tùy hỷ đầu tiên. Cho nên nay trong văn này trước thuật Tiểu thừa hóa tha sánh với phẩm đầu, đủ như trong văn kinh nói. Lại dùng phẩm đầu mà so với phẩm sau cho nên nói huống năm phẩm chăng. Nêu tối đa Tiểu thừa của huống với cực tiểu của Đại thừa. Phẩm đầu nhỏ nhất công còn nhiều, huống chi là phẩm thứ năm ư? Đây chứng tỏ Đại sư ở phẩm thứ năm là đức rất sâu.
Kế dẫn phẩm Pháp Sư, làm chỗ nương cho đời vì ban truyền ý Phật nên gọi là sứ. Sứ tức là người được sát sử Tuyên nói nhân quả Phật nên gọi là việc của Như lai. Kế dẫn Đại kinh, cũng để chứng minh cho ngôi vị của Đại sư. Kinh chép: Nếu có người có tánh phiền não năng biết tạng bí mật của Như lai, đó gọi là sơ y (người mới nương). Nếu y theo viên vị năm phẩm sáu căn thì đều gọi là sơ y, chưa dứt vô minh thì gọi là có phiền não, cũng gọi là quán hạnh tương tự biết bí mật tạng. Kế Trí Giả trở xuống: Nêu Trí Giả Sở Thừa tức là Nam nhạc. Nam Nhạc đức hạnh trở xuống, nêu là Nam Nhạc hạnh chứng. Truyền vật chí nói tung cao là Trung Nhạc thuộc Dự châu, Hoa sơn là Tây Nhạc thuộc Đồng châu, Thái sơn là Đông Nhạc thuộc Duyển châu, Hằng sơn là Bắc Nhạc thuộc Ký châu, Hành sơn là Nam nhạc thuộc Kinh châu, sau mở Hành châu là từ núi mà đặt tên. Vì năm núi này trên ứng Thiên tượng đối với năm Đế. Lại núi cao gọi là Nhạc. Đại sư họ Lý, người ở Hạng thành, Võ Tân. Lúc còn bé nằm mộng thấy vị tăng Ấn-độ khuyên vào đạo, lại thường mộng thấy vị tăng dạy trai giới. Khi thấy bạn đọc kinh Pháp Hoa thì tâm rất ưa thích kính trọng. Trước không hề đọc bèn mượn mà ở chỗ nghĩa địa vắng vẻ tự xem một mình, không người dạy trao ngày đêm than khóc. Lại sợ ở nghĩa địa là chỗ ở của phi nhân. Bèn dời đến một ngôi thành xưa đào hang mà ở. Ngày thì khất thực, đêm chẳng ngủ nghỉ, đối kinh mà khóc đảnh lễ mãi không thôi. Mùa hạ mưa nhiều dưới hang ngập nước, toàn thân sưng thủng cục cựa không được, mà tâm đối kinh vẫn mạnh mẽ, bỗng bịnh tiêu hết bình phục như xưa. Lại mộng thấy Phổ Hiền cỡi voi trắng đến xoa đầu mà đi. Văn xưa chưa biết nay tự nhiên hiểu rõ, chỗ đầu được xoa tự nhiên nổi lên như nhục kế. Do đó kinh Pháp Hoa và hơn ba mươi quyển kinh khác trong mười năm tụng không dứt tiếng. Nhân đọc các kinh thấy khen thiền định, lại phát tâm tìm thiện tri thức. Gặp Thiền sư Tuệ Văn mà học pháp thiền. Ngày thì làm việc tăng, đêm thì ngồi thiền đến sáng. Siêng năng động chướng, bèn phản quán nguồn tâm tìm cầu bất khả đắc, bèn động tám xúc phát thiền căn bản. Nhân thấy chỗ ba đời hành đạo, được tướng này rồi càng thêm tinh tấn. Hết hạ thọ lạp xong sắp muốn thượng đường (lên pháp đường) thuyết giảng bèn cảm thán rằng: xưa Phật ở đời chín tuần vừa xong thì người chứng đạo rất nhiều. Nay Ta không quá tuổi pháp dối nhận, trong tâm hổ thẹn, ngả mình tựa vách, lưng chưa đến vách thì sáng suốt liễu ngộ. Tam-muội Pháp Hoa pháp môn Đại thừa cảnh giới đều sáng tỏ, thông minh bối xả đều thành tựu. Từ đó trở đi, biện ngộ rất nhiều, kinh chưa nghe chẳng nghi ngờ mà tự hiểu. Cho nên văn nay chép: pháp môn đại tiểu sáng suốt rỗng phát. Trong truyện chẳng nói bảy năm phương đẳng, là chỗ truyền nghe khác nhau. Kế Ngài Nam Nhạc thờ Ngài Tuệ Văn, là nói Nam Nhạc sở thừa và đức hạnh của văn sư, chưa thấy có bản truyện.
Nói Tề Cao, Tề là nước Tề, Cao là Cao Tổ, là người ở Bột Hải, họ Cao là con cháu của Tề Đại phu Cao Hề. Cao Hoan Kế Trừng Kế Dượng, mới được Ngụy nhường ngôi, kinh đô là Nghiệp ở Tương châu tức là Bắc Tề, không cạnh tranh giáo hóa nên gọi là độc thiệp. Hà là Hà bắc, Chuẩn là Chuẩn Nam. Hành hóa ở đời mà nói đời chẳng biết là nói chỗ chứng đã sâu mà người khác không biết. Nếu y theo chín Sư nối nhau chỗ dụng, người thứ nhất húy là Minh, dùng nhiều bảy phương tiện, e rằng sợ là bảy phương tiện Tiểu thừa. Từ Trí Giả về trước không hề có người lập ở Viên gia bảy phương tiện. Người thứ hai tên là Tôi, thường dùng tâm dung, tánh dung, tướng dung các pháp vô ngại. Người thứ ba tên là Tung, thường dùng bổn tâm ba đời vốn không lui tới chân tánh bất động. Người thứ tư tên Tựu thường dùng tịch tâm. Người thứ năm tên Giám, thường dùng liễu tâm, quán sát nhất như. Người thứ sáu tên Tuệ, thường dùng đạp tâm, trong ngoài khoảng giữa tâm bất khả đắc tiêu tan thanh tịnh năm chỗ dừng tâm (Ngũ xứ chỉ tâm). Người thứ bảy tên Văn, thường dùng giác tâm, trùng Tam-muội quán, Tam-muội diệt tân, Tammuội vô gián, đối tất cả pháp tâm vô phân biệt. Người thứ tám tên Tư, phần nhiều như tùy tự ý an lạc hạnh. Người thứ chín tên Khải dùng quán thứ đệ như thứ đệ Thiền môn, dùng quán bất định như sáu diệu môn dùng Viên đốn quán như Đại chỉ quán. Vì quán này tuy nói tượng thừa pháp môn mà chuyển đổi. Tuệ Văn xưa nay đã y Đại luận, thì biết là cái trước chẳng phải sở thừa. Nay tán thán pháp sở hành của Tuệ văn, cho nên nói đời không thể biết. Đạp đất rất dày, đây là nói pháp hạnh ở đời của Văn sư như đạp đất chẳng biết là đất dày, đội trời chẳng biết là trời cao. Trí Giả quán tâm luận trở đi dẫn chứng Văn sư (là Sư Tuệ Văn) sở thừa có khác. Nói Cao Tổ. Nếu theo Trí Giả thì phải lấy Ngài Nam Nhạc làm Phụ sư, Ngài Tuệ Văn làm Tổ sư, Ngài Long Thọ làm Tằng Tổ sư, cho nên Nhĩ Nhã Thích Thân chép: cha đã chết là Vương Phụ thêm Vương là Tôn, cha đã chết của Vương Phụ là Tằng Tổ Vương Phụ, thêm Tằng là Trọng, cha đã chết của Tằng Tổ Vương Phụ là Cao Tổ Vương Phụ, thêm cao là trên hết. Ấy là Ngài Chương An so với Long Thọ mới là Cao Tổ. Nếu lấy Tôn thượng làm cao thì khá thông dụng. Như các nhà Hán, Tề, Tùy v.v... đều chỉ Thủy Tổ là Cao Tổ. Nghĩa là thiền kiền lập công đức ích không gì hơn làm cao. Nay ta cũng lấy Long Thọ làm Thỉ Tổ, cho nên Trí Giả chỉ làm Cao Tổ. Có người nghi nói trở đi là giả lập lờ hỏi. Sau trở đi là so sánh đó. Nay lập nghi rằng: đã gọi Tổ thì pháp môn Long Thọ chẳng thể khác nhau. Để lại kiến lập đã khác, nghĩa của Sư Tổ đã yên nhưng Thiên Trúc trở đi là đáp. Trước dẫn người chú luận mà đáp. Nói phàm bảy mươi nhà Phó Pháp truyện chép: Ngài Long Thọ soạn Luận Đại Vô Úy có mười muôn bài kệ, Trung Luận từ đó lược ra đại cương có năm trăm bài kệ, văn xuôi đều do các Sư chú giải. Pháp sư Quan Trung Ảnh chép: có hơn mười nhà chú giải, Trung Luận là sau cùng. Hà Tây Lãng nói có hơn bảy mươi nhà chú giải. Ngài Chân Đế nói phương Tây có hai bản rộng lược, cõi này chỉ truyền bản lược mà thôi. Sư Nguyên Khang chép: ở đây e chẳng phải thế. Cõi này đã có bốn bản: Một là Ngài Thanh Mục chú gọi là Trung luận, sau ngài La-thập đời Tần đã dịch; Hai là Ngài Vô Trước chú gọi là Thuận Trung luận, sau Bồ-đề-lưu-chi đời Ngụy dịch chỉ được hai quyển còn các quyển khác chưa dịch ra; Ba là Pháp sư La-hầu chú cũng gọi là Trung luận, Ngài Chân Đế đời Lương dịch, chỉ được một phẩm Nhân Duyên; Bốn là Bồ-tát Phân Biệt Minh chú gọi là Luận Bát-nhã Đăng. Tamtạng Ba Phả đời Đường dịch có mười sáu quyển. Hà Tây nói hơn bảy mươi nhà, đâu vì các Sư là không phải, riêng Thanh Mục là đó, Huống chi Thanh Mục là rất kém Di Đãng không thể y nên nói như thế. Lại Luận nói trở đi là dẫn luận văn mà đáp. Bản văn Long Thọ có đãng có lập, nay y theo Long Thọ ý cũng đồng như thế, nên chẳng dùng văn chuyên đãng hình chỉ quán mà kiến lập. Luận câu đầu nói pháp do nhân duyên sanh, tức là kiến lập. Ta nói tức không là khiến dẹp, giả gọi Trung đạo lại là kiến lập. Bốn câu Trung luận ba lập một đãng, chỉ quán trước sau dẫn nhiều văn này. Hai chỗ phù hợp, thầy trò xác lập, tức Quãng Nhã nói là hợp. Nếu y vào đây mà giải thích vẫn giống hai vật hợp nhau mà gọi tên, lý tức cũng kém. Nay vì nghĩa cầu thể chẳng có hai nên gọi là Tức. Tức ba mà một, cùng hợp nghĩa khác (nghĩa khác với hợp). Phần dưới trở đi đều như thế. Từ Thiên Thai trở đi giải thích riêng pháp được sở truyền, tức sở truyền này là hướng sở hành trong đó trước lược sau rộng. Trong phần trước lược nói Thiên thai, Thiên là đỉnh núi, là nguyên khí chưa chia trộn mà là một, Lưỡng Nghi đã phán trong là trời đục là đất. Đây vốn là tục danh lại y tục mà giải thích, Thai là tên sao, đất đó chia dã ứng thiên tam thai nên lấy đó đặt tên. Có người nói tên xưa là Thiên Thê (thang trời) nghĩa là núi cao có thể bước lên mà lên trời. Người sau đọc sai là Thiên Thai. Lại, Chương An Sơn Ký nói rằng: Vốn gọi là Nam Nhạc Châu Linh Vương Thái tử Tử Tấn ở đó hồn là Thần (hồn làm thần ở đấy), sai kẻ hầu đổi là Thiên Thai hoặc theo Tôn Công Phú nói sở dĩ không xếp vào ngũ nhạc quan tái ở thường điển là vì chỗ lập sâu kín, đường đi rộng xa, không biết Chương An trích ở đâu ra. Phong tục phương Tây xưng tên là tôn quý, như tên con gồm cả cha mẹ, Phật đương thời lập ra nghi này sai người mến đức gọi tên. Phong tục cõi này thì giấu tên là kính trọng, cho nên lấy chỗ ở mà đặt tên người, Nam Nhạc cũng thế. Truyền là truyền trao cũng là truyền thọ, thọ nhận cái được truyền ấy nên gọi như thế. Kế là nêu ba bày giáo cảnh và tên, đều như lời văn.
Kế thứ tiệm trở đi, là giải thích hành tướng, trong đó nói tiệm giống như bậc thang. Nên Đại kinh quyển tám nói vì muốn hóa độ các thế gian nên các thứ chỉ bày các lớp khác nhau như bậc thang kia. Đại luận quyển bốn mươi nói: Ví như lên lầu có thang thì dễ. Quyển mươi tám nói: Ví như lên thang phải từ bậc đầu tiên rồi dần dần lên cao, cao cách mấy cũng đến được, nên dùng để ví Tiệm. Như bắt đầu từ trời người rồi cuối cùng đến thật tướng. Báu, kim cương Đại kinh quyển hai mươi nói: Như báu kim cương để dưới ánh sáng mặt trời thì mầu sắc không nhất định. Tam-muội Kim cương cũng giống như thế, như ở giữa đại chúng thì mầu sắc bất định. Đại luận quyển ba mươi nói: Như châu pha lê tùy mầu sắc ở phía trước mà đổi, tự nó mầu sắc không nhất định. Các pháp cũng giống như thế. Hoặc thường hay vô thường. Kinh lấy một hạnh mà tùy các hạnh, luận lấy một lý mà ứng với các lý, lý hạnh tuy khác mà đồng gọi là bất định. Cho nên kim cương và châu pha-lê tên tuy khác nhưng thí dụ về châu là đồng.
Đại luận quyển năm mươi chín nói: Báu kim cương Đế-thích cầm cùng đánh nhau mà rơi xuống Diêm phù. Giải thích rằng lý hạnh như châu, giáo pháp như mặt trời, tình như các vật, quán như hiện sắc. Viên đốn, viên là viên dung, viên mãn. Đốn là đốn cực, đốn túc. Lại viên là hoàn toàn tức viên toàn không thiếu sót. Thể chẳng phải tiệm thành (thành dần dần) nên gọi là Đốn. Thể tuy cực đủ nhưng phải lấy hai mươi lăm pháp làm phương tiện trước, mười pháp thành quán mà làm chánh tu. Nay trong tựa lược nói đủ như văn sau. Như người có thần thông bay lên hư không, cận địa thì không cùng muôn nhẫn đồng thể nên nói bất nhị. Người có thần thông ví như người đốn hạnh, đằng ví như tu hành quán lý, không ví như đốn lý bất nhị vì ba căn, đây là ba chỉ quán đối căn khác nhau. Sự tuy khác
@@@nhau nhưng đồng duyên đốn lý, lìa ngoài Viên giáo thì chẳng có căn tánh khác. Phải biết ba thứ này đều y theo viên lý, chia ra ba hạnh này gọi là ba căn tánh, Cho nên tiệm thứ khác nhau ở biệt hoặc một ngày một tháng một đời tu thì có thể tu được. Cho nên trong Huyền Văn Phán giáo thứ mười chép: Tiệm quán là từ mới phát tâm làm viên cực cho nên tu A-na-ban-na cho đến Vô tác, cho nên biết người đốn thì hạnh giải đều đốn. Người Tiệm thì giải đốn mà hạnh tiệm, chẳng nhất định giải đốn mà hạnh hoặc đốn tiệm. Có chỗ nói là biệt đều chẳng thấy văn chỉ. Kế trong giải rộng: sơ là kết trước sanh sau. Trước giải thích tiệm, nói tiệm sơ (trước) cũng biết thật tướng, nghĩa là y đốn lý mới khởi đốn giải so với người đốn kia cho nên nói cũng biết. Nương đốn mà khởi giải nên nói là nan giải (khó hiểu), nương giải mà khởi hạnh lại nói là khó hành, tiệm là dễ làm vì dễ hiểu. Văn tuy cùng nói nêu phải gồm cả hai. Vì lý khó hiểu mà khởi tiệm hạnh. Trong phen này chỉ có năm lớp, nghĩa thì mười ba. Nói năm lớp, một là qui giới, hai là thiền định, ba là vô lậu, bốn là từ bi, năm là thật tướng, nghĩa mười ba tức phen đầu có sáu, nghĩa là ba ác ba thiện, phen thứ ba có bốn, nghĩa là hai giáo thừa có sáu nghĩa trước hợp thành mười, ba thứ kia chẳng khai, hợp là mười ba. Trong mười ba thật tướng là cảnh được duyên so với đốn là đồng bất ứng số là hạn khác nhau. Cho nên ở dưới trong hỏi đáp chép: trong tiệm thứ có mười hai thứ khác nhau tức là ý này. Thứ lớp điểm xuất, đến dưới dễ biết bất định đến đốn sau, là tiệm thứ nêu tên ở bất định ở trước, cho nên nói tiệm trước. Viên đốn nêu ở văn sau bất định nên nói là đốn sau. Trong bản thứ hai nêu văn bất định ở sau tiệm đốn, tức nói bất định là y cứ tiệm đốn ở trước, hoặc tiệm hoặc đốn chẳng phải chỉ một pháp nên gọi là bất định. Nếu từ đầu đến cuối chuyên tiệm hoặc đốn thì mới gọi là tiệm đốn. Biết bất định trước cũng biết viên. Từ canh tiền canh lậu trở đi là giải thích tướng bất định. Trước sau chỉ là trước tiệm sau đốn. Hoặc khi quán đốn hoặc khi quán tiệm. Cạn sâu là y cứ năm phen trước cùng nói cạn sâu. Về sự lý, giới nội là sự, giới ngoại là lý. Chân đế tục đế ba thứ đều một, đều lại đắp đổi cũng thế. Trong đây chỉ nêu bốn tất và chỉ quán. Các pháp tuy nhiều, nếu luận về hành tướng thì chẳng ngoài hai thứ này. Như sau an tâm và phá biến, v.v... cũng chẳng ngoài đây cho nên nay nêu ra. Từ hoặc chỉ trở đi là giải thích thể bất định. Văn có hai cặp: một là y cứ bốn tất. Ấm là thế giới như trước quán ấm nhập. Tức quán ấm nhập là Đệ nhất nghĩa, gọi chỉ thế giới này là Đệ nhất nghĩa. Như quán chân lý là chỉ sanh thiện diệt ác mà thôi gọi là chỉ Đệ nhất nghĩa, lấy làm hai tất. Kế y cứ chỉ quán, hoặc chánh dụng quán mà phải dứt quán, hoặc chánh dụng chỉ mà phải chiếu chỉ. Vì chiếu chỉ nên chỉ liền thành quán, vì dứt quán nên liền thành chỉ. Hoặc tuy không (hôn trầm tán loạn) mà tiến đạo công si, phiền hoặc chẳng dứt thì chân lý chẳng mở, đều phải đổi đường hoặc dứt hoặc chiếu, nên quán thành chỗ dứt chỉ thành chỗ chiếu khác nhau với nghi thường. Cho nên nói là bất tịnh. Trong phân biệt ở dưới, bốn trong bất định là chỉ cho hai cặp này. Người nghi nói trở đi là phân biệt văn trước, trong nghi hỏi trước nói giáo cảnh, là đồng giáo Đại thừa, đồng duyên cảnh thật tướng, đồng gọi là chỉ quán, ba thứ này đã đồng vì sao ba hạnh tướng đốn là khác nhau? Kế từ nhiên trở đi là. Đáp: Trước đáp chung, nói đồng và khác nhau v.v... là hành tướng đều khác đâu ngại ba đồng, tuy nói ba đồng đâu ngại hạnh khác. Trong tiệm thứ trở đi là đáp riêng, phải gọi tiệm thứ đối nhau với bất định ở viên đốn để nói dị đồng. Nay văn chỉ giải thích, hành tướng tiệm thứ. Tiệm sau kết rằng vì sao nói bất định, là vì pháp bất định, không có thềm vị, cho nên mượn tiệm sau mà kết bất định. Trong tiệm có mười hai thứ bất đồng như phân biệt trước hai giáo hai thừa là bốn vô lậu. Mà nay chỉ nói chung ba thứ trong vô lậu là sao. Nói riêng là lìa thành bốn người, nếu gọi chung vô lậu thì hợp tức ba người chỉ còn một vị. Nay nêu chung trong một hợp khai gồm ba, nên gọi là trong vô lậu gồm có ba. Nếu mất bản vị lìa khai làm bốn cùng thiện ác đều ba, cho đến thiền định từ bi đều là một, cho nên thành mười hai. Nếu y theo vô lậu thì lìa làm bốn riêng, từ bi cũng phải có ba khác nhau. Văn không lượng là nói từ nhiều, vì tiệm bất định mười hai khác nhau nhiều hành tướng cho nên gọi là tiệm bất định. Y cứ lý thì chẳng phải nhiều chẳng phải ít. Y cứ tướng thì đốn ít hai nhiều, trong tiệm thật tướng cho đến viên đốn, tướng ấy là đồng chẳng cần phải nói khác, cho nên chỉ kết bất đồng ở viên mà dùng để giải thích hướng đồng hay chẳng đồng, v.v... Kế từ chương này đồng Đại thừa trở đi là hỏi lại: hướng tuy nói tiệm bất định khác nhau lại hỏi lại ba phen khác nhau, cho nên hỏi rằng sao gọi là nói sai. Lại câu hỏi đầu, hứa có ba khác, đem đồng mà hỏi khác, cho nên kết văn rằng tướng đốn này khác. Ý câu hỏi sau là do trước đáp khác, đem khác mà hỏi đồng. Cho nên kết rằng vì sao gọi là nói sai. Hai câu hỏi tuy là ba đồng ở trước, mà văn ý thật dùng hai nghĩa đắp đổi mà nêu. Cho nên hai đáp đều nói đồng và chẳng đồng. Lại do trong đáp trước chỉ nêu tướng tiệm để đối với đốn, còn hành tướng bất định thì nhờ tiệm mà nói. Nay muốn nói đủ ba tướng riêng, nên lại dùng ba đồng mà hỏi. Cho nên đáp dưới nêu có hai tướng. Nói chương này trong đây tên cũ là chương biện sai. Đã nói ba đồng vì sao chương này lại nói ba thứ khác nhau. Tên chương tuy bỏ cũng có thương tổn gì. Nhưng trở đi là lại đáp, nghĩa đồng như trước. Chín khác nhau là ở mười hai trước hợp thành ba vô lậu y chung làm một, cho nên chỉ có chín, cùng bốn bất định đối đốn liền thành ba khác nhau. Lý mà nói thì trong tiệm bất định thật tướng sở duyên đồng với đốn lý, là đáp câu hỏi, cho nên đối hai mà nói đều gọi là khác nhau, cho nên nói từ nhiều. Kế tất cả trở đi là chứng đồng khác nhau, vì chứng pháp vô vi nên khác nhau mà đồng, mà có chứng khác nhau nên đồng mà khác nhau. Bởi các thánh chứng pháp vô vi, vì vô vi này mà phân biệt, nên nói khác nhau. Như các vị La-hán được tiểu vô vi còn phân biệt tiểu, nên các Bồ-tát được Đại vô vi nên phân biệt được đại. Do đó phân biệt là dụng của vô vi, cho nên lấy pháp vô vi y vào bản thứ hai mà đáp rằng trong tiệm thứ có mười hai thứ khác nhau, trong bất định có bốn chữ đồng nhau, trong chung có mười ba thứ chẳng đồng. Nếu không sửa lại bản văn thứ ba thì bản văn thứ hai do đâu mà giải, mười hai và bốn nên có mười sáu, mà nói mười ba. Bèn nêu từ khai hội số lần từ họp. Phải biết mười hai y cứ với khai vô lậu, mười ba y cứ với hợp vô lậu, đối bất định mà nói. Hỏi: Vô lậu khai bốn, sao từ bi chẳng khai? Đáp: Khai cũng chẳng trái. Trong Huyền Tiệm quán nêu bốn từ bi, khai họp tùy tiện chẳng thể một chuẩn (theo một). Có người chép: ba trong vô lậu chung, tức là ba quán là vô lậu không. Trong giả trung tự làm tham cúng có hơn một kỷ, thật không hề nghe có giải thích khác ở đây. Trung tức là Thật tướng, thật tướng là đồng, như thế nào số là hạn khác nhau, là một chẳng thật có. Một Tông giáo môn văn không nói giả dùng làm chung là hai chẳng thật có. Trong chín tiệm thứ đã có vô lậu, từ bi và giả nghĩa nó lại đồng, chẳng nên trùng số lấy ba có chín, là ba chẳng thật có. Nhờ sai lấy ba đủ sáu thiện ác, chỉ phải thành chín, nay nói mười hai là bốn chẳng thật có. Dẫu gồm thật tướng chỉ thành mười một, nay nói mười hai, là năm chẳng thật có. Lại văn bản thứ hai không có trong vô lậu nói chung, cũng nói mười hai. Nay phối ba thứ này mà với ba quán lại hợp tiệm thứ cũng chỉ mười hai, là sáu chẳng thật có. Lại nói các phen đạt tức là quán, chỉ tức là chỉ, ba đường vì sao chỉ có chỉ mà không có quán, thường trụ vì sao chỉ quán mà không có quán, thường trụ vì sao chỉ quán mà không có chỉ. Nhờ sai lấy đây làm chỉ quán, là trung gian bốn phen là bốn chỉ bốn quán, trước sau hai phen là một chỉ một quán, thì chỉ có mười. Nếu khai thiện ác đều lập chỉ quán thì chín chẳng đồng với mười tám chỉ quán. Nếu số thường trụ lại làm hiện văn. Văn nói tiệm chín là bảy chẳng thật có. Lại phải suy nghĩ phân biệt tiệm đầu tuy lại biết viên. Chẳng đồng chỉ trung và trong mười hạnh, thời dài hạnh xa. Lược biết hai thứ này đã là giáo khác nhau. Cho nên biết ba thứ này biết viên tánh đồng mà hành tướng hơi khác. Phải biết Ngài Nam Nhạc chỉ trao cho Ngài Thiên Thai Lý Viên Đốn y cứ hạnh phải dùng tiệm bất định mà giúp. Hỏi: Đại sư Nam Nhạc biết bốn giáo chăng? Đáp: Nam Nhạc biết rõ mà chẳng phán kỷ, vì sao. Như Trí Giả giải thích vị mà dẫn Nam Nhạc dùng văn Đại phẩm bốn mươi hai chữ lấy làm viên vị, địa Hoan Hỷ v.v... lấy làm biệt vị, địa Càn Tuệ v.v... lấy làm Thông vị. Lại Nam Nhạc tự giải thích bốn mươi hai tự môn gồm bày văn kinh Đại phẩm. Cũng làm nghĩa ba giáo mà giải thích, đã biết trong văn ba giáo đại phẩm nơi nơi đầu dùng để diễn bày đối tạng làm tiểu. Cho nên biết Nam Nhạc cũng biết bốn giáo. Lại bốn giáo này không phải bắt đầu từ Nam Nhạc. Thiền sư Tuệ Văn đã y theo Đại luận. Đại luận giải thích các kinh nói ba giáo, phải biết giáo này truyền đến đã lâu. Đến Ngài Thiên Thai thì phân biệt mới thạnh hành. Có người chép: bốn giáo là do thần tăng trao cho. Lời nói này không có bằng cớ. Thần tăng chỉ nói từ nay trở đi, tự hành hóa tha ta thường ảnh hưởng Tam-muội đã thiên cơ chợt phát, bốn giáo đâu đợi thần tăng. Thừa nhiếp hữu do rất phù hợp thánh chỉ. Cho nên ba quán nhiếp chung bốn giáo. Lại ba tên gọi chỉ quán này tuy giống ba thứ trong tám giáo mà tướng hoàn toàn biệt. Trong tám giáo kia chỉ có Hoa Nghiêm là Đốn, từ Lộc uyển trở đi là Tiệm, bất định gởi tại bốn vị trước trong. Trong phần Liệu giản bên dưới phân biệt sau chỉ là nhờ tên. Vì đem bí mật đối ba làm nạn, không phải ý chánh viên đốn trở đi, là giải thích viên đốn, trong đó trước là y căn cứ chỉ quán. Ban đầu duyên thật tướng đến chân thật, tức là chỉ quán cảnh sở được duyên, duyên nó cũng tạo tuy thuộc năng quán, nhưng ý lại nói được cảnh mầu diệu sở duyên. Từ hệ duyên trở đi, là kế giải thích năng quán, tức niệm làm hệ nên tịch mà thường chiếu, tức hệ làm niệm nên chiếu mà thường tịch. Năng sở còn là một huống chi chỉ quán? Một sắc một hương đều là Trung đạo. Trung đạo tức pháp giới, pháp giới tức chỉ quán, chỉ quán chẳng hai, cảnh trí ngầm một. Sở duyên sở niệm tuy thuộc về cảnh, lại nói năng duyên để làm sáng tỏ tịch chiếu. Từ giáo môn của Sơn gia làm sáng Trung đạo chỉ có hai nghĩa, một là lìa đoạn thường thuộc hai giáo trước. Hai là Phật tánh thuộc hai giáo sau. Ở trong Phật tánh giáo phân ra quyền thật, cho nên có tức và lìa. Nay từ nghĩa tức nên nói sắc hương đều là Trung đạo. Sắc hương này người đời đều xem là vô tình. Nhưng cũng cho sắc hương là Trung đạo. Vô tình Phật tánh mê hoặc tai làm kinh tâm. Nay lại dùng mười nghĩa mà bình luận sai đối với lý chẳng mê hoặc. Các thứ khác lệ theo đây mà biết: một là y cứ thân. Nói Phật tánh là Phật hải có đủ ba thân, chẳng thể nói riêng có tánh ứng thân. Nếu đủ ba thân thì pháp thân cho khắp sao cách vô tình, hai là từ thể ba thân tướng tức chẳng lúc nào tạm rời, đã cho pháp thân ở khắp tất cả mọi nơi. Báo ứng chưa hề lìa pháp thân, huống chi là chỗ pháp thân hai thân thường ở. Cho nên biết ba thân ở khắp các pháp, đâu riêng pháp thân. Pháp thân nếu khắp thì còn đủ ba thân đâu riêng pháp thân, ba là y cứ sự lý, bốn thứ cần dùng chia ra tình và vô tình, từ lý thì vô tình chẳng phải tình khác. Cho nên tình, vô tình cũng thế, bốn là y cứ độ, từ mê là tình cho nên chia ra y chánh. Từ lý là trí cho nên y tức là chánh như thường tịch quang tức là cõi pháp thân, thân độ tương xứng đâu cách vô tình, năm là căn cứ giáo chứng, giáo đạo nói hữu tình và phi tình, chứng đạo nói cho nên chẳng thể phân làm hai, sáu là y cứ chân tục, chân cho nên thể là một, tục thì phân ra có không, hai mà chẳng hai suy ra mà biết. Bảy là y cứ nhiếp thuộc, tất cả muôn pháp thuộc về tâm, ngoài tâm không có gì khác, đâu lại cách ngăn. Chỉ nói hữu tình tâm thể đều khắp, đâu cách cỏ cây gọi riêng vô tình, tám là nhân quả, theo nhân theo mê chấp khác thành cách. Theo quả theo ngộ, Phật tánh luôn đồng, chín là tùy nghi, bốn câu phân biệt thuận theo tất-đàn, nói khác nhau loại, phân ra hai khác. Mười là Tùy giáo, ba giáo nói không, viên nói có khắp. Lại kinh Tịnh Danh chép: chúng sanh như nên tất cả pháp như, như không Phật tánh, lý tiểu giáo quyền, giáo quyền lý thật cũng chẳng phải y nay. Lại nếu nói vô tình thì đâu riêng ngoại sắc, nội sắc cũng thế. Cho nên Ngài Tịnh Danh chép: thân ấy không biết như cỏ cây gạch ngói, nếu luận hữu tình đâu riêng chúng sanh, tất cả duy tâm. Ấy thì một trần đầy đủ tất cả Phật tánh chúng sanh, cũng có Phật tánh Chư Phật mười phương. Từ giới mình trở đi là y cứ đế nói Đốn, tức là vô tác đế đến trong bốn hoằng mà nói Tướng đế. Trong đây lược bày quán vô tác. Cho nên bốn niệm xứ giải thích vô tác bốn đế rằng: trong một niệm tâm có đủ khổ mười giới, gọi là Khổ đế, đủ mười giới hoặc gọi là Tập đế, khổ tức Niết-bàn gọi là Diệt đế, hoặc tức Bồđề gọi là Đạo đế. Kế từ pháp tánh trở đi là lấy riêng một chỉ quán mà kết vô tác đế. Kế kết thể chẳng hai. Từ tiệm và bất định trở đi là dẫn rộng chứng viên. Trước đã chọn hai, kế chánh dẫn chứng, trước đã giải thích hai lớp rộng lược, nay lại dẫn chứng nên nói là lại nói. Trong bản thứ hai từ đây đến ân Phật pháp đều thuộc về bàn bạc, nay đều trở lại dẫn chứng văn. Xưa gọi bàn bạc mất mà chẳng bày là do đây, kế trong dẫn chứng ở trước dẫn kinh như liễu đạt v.v... là kinh cũ thứ năm trong phẩm Hiền Thủ, Ngài Văn-thù dùng hai kệ mà hỏi nghĩa sâu liễu đạt tịnh đức Bồ-tát Hiền thủ đem mười lăm hạnh năm lần nói kệ mà đáp. Nay Bồ-tát Văn-thù ở trong sanh tử đến cùng kiếp chẳng thể hết. Lược trong kệ ấy văn hai hạnh lại nói sanh tử là nêu vị thấp nhất, là Bạc địa sơ tâm. Nếu chẳng thế thì vì sao có hiển viên đốn công sâu. Chẳng thể động là lý rốt sự khắp, chẳng bị chỗ động, chẳng phải gọi bất thối là bất động. Nói một niệm là nêu thời gian thật nhỏ công sâu đức rộng, sâu cùng không bến, rộng khắp không bờ. Như lai nói chẳng thể hết, lý đã mầu nhiệm nói chẳng thể cùng, cả người cực vị còn chẳng thể nói há phàm thánh khác nhau mà có thể nói cùng tận. Từ Bồ-tát này trở đi đến kiến lập chúng sanh, là kinh ấy mười lăm hàng kế trước sau. Hiền Thủ lại dùng sáu trăm chín mươi hai hàng bảy lần nói kệ đáp. Trong đó ba mươi hàng trở lại là nói viên tín. Kế sáu mươi hàng nối liền nhau nói về hành tướng tu. Kế nói sáu căn các tướng dùng lẫn nhau. Nay lược y đó khai làm sáu văn lập viên nhân quả. Sao gọi là viên văn kỳ văn, ba chướng tức là ba đức, đến chỉ qui chương và trong đức chung với đủ tướng ấy. Nói viên tín là y lý khởi tín, tín là gốc hạnh. Như pháp là thứ ba nói Xá-vệ, Giang đông nước ấy rộng sâu, hơn năm trăm nhà ngang bướng dối gạt nhau. Phật biết có thể độ đến dưới cây. Có người đến lễ hỏi là có người đến thăm hỏi. Phật hóa thành người từ nước lên, nước đến mắt cá, mọi người kinh ngạc hỏi: Có thấy người từ nước đi lên chăng? Có đạo thuật nào hóa người. Đáp rằng ta là người ngu dốt ở Giang nam đây. Nghe nói Phật ở đây muốn gặp. Người hỏi nước cạn sâu, người khác đáp, nước chỉ đến mắt cá chân. Tin nói mà lỗi không có thuật khác. Phật nói: chấp tin (tin chắc) bèn vượt qua vực sâu sanh tử, vượt qua sông mấy dặm, đâu đáng làm lạ. Người trong làng nghe đều từ Phật hóa, nay cũng giống như thế. Nếu tin ba đạo tức là ba đức, còn có vượt qua hai sông sanh tử huống chi ba cõi, ba đạo nầy chỉ là ba đế, đế đã là cảnh thì phải quán trí, ba quán là nhân, quán thành là trí đủ như giải thích ở sau, ba trí đủ như Đại phẩm. Trong ba trí phẩm ba quán đủ như anh lạc quyển hạ nói. Bấy giờ Bồ-tát Kính Thủ bạch Phật rằng: Những lời Phật đã nói trên hoặc nhân hoặc giả, hoặc hiền hoặc thánh tất cả công đức, nay trong hội này mười bốn ức na-do-tha người ai có thể chẳng từ tòa này đứng dậy học tu tập. Tu đầu đến cuối vào vị Bồ-tát. Lúc đó đỉnh đầu phát ra tất cả ánh sáng, lại nhóm hội Phật và chúng Bồ-tát ở mười phương trăm ức cõi Phật. liền ở trong chúng bảo Văn-thù, Phổ Hiền, Pháp Tuệ, Công Đức Lâm Kim Cương Tràng, Kim Cương
Tạng, đồng tử Thiện Tài. Các ông thấy trong chúng ấy Bồ-tát Kính Thủ hỏi về ba quán pháp giới đạo tự tánh thanh tịnh của Chư Phật, pháp môn tu quán của tất cả Bồ-tát? Các ông nên biết trăm muôn đại chúng đều phải tu học pháp môn như thế. Nếu thế, chỉ phải ở thượng địa mà tu ba quán này, có quan hệ gì với phàm hạ. Đáp văn kinh đã nói chỗ hiểu trăm muôn đều phải tu học, đâu riêng gì địa phương. Như ở phẩm Trung đạo của kinh Thủlăng-nghiêm có chép: cho đến phàm phu cũng được tin nhận minh, vô minh không ba. Vì không ba cho nên thành trí không ba, làm không ba hạnh cho đến già chết đều nói như thế. Cho nên mười hai chi mỗi chi đều dùng ba quán mà quán, quên mất năng sở nên nói không ba. Kinh Đại Anh Lạc quyển tám nói nhiếp ý vào định, phân biệt ba quán, cũng chẳng thấy ý người nhập định. Đạo tâm vô lượng thế giới ở mười phương thừa sự cúng dường quán tất cả pháp. Ấy gọi là đầy đủ thiền độ. Cho nên phải biết ba quán chưa viên thiền độ chưa mãn, danh từ hiển bày lược như trên dẫn. Nếu dùng nghĩa cầu nhiếp tất cả pháp đủ như văn dưới sẽ nói trong nhiếp pháp. Cho nên ba quán trí, văn lý có bằng chứng. Hỏi nghe trong viên pháp làm thành tên ba đức. Tin phải y nghe, vì sao viên tín làm tên ba quán cho đến giá chiếu rộng sâu v.v... ư? Đáp: ba đức là cảnh, ba quán là hạnh. Hạnh phải nương cảnh, lại từ hạnh nói. Không là Bát-nhã, giả là giải thoát, Trung là pháp thân, chiếu là Bát-nhã, giá tức giải thoát, không giá không chiếu là pháp thân, rốt ráo là pháp thân, thanh tịnh tức là Bát-nhã, tự tại tức là giải thoát. Sâu là Bát-nhã, rộng là giải thoát. Chẳng sâu chẳng rộng là pháp thân. Tín sẽ khởi hạnh, Cho nên từ hạnh mà được tên khác nhau. Lại ba quán từ nhân, giá chiếu từ dụng, sâu rộng từ thể. Trong viên hạnh nói một hướng, là nếu chẳng một hướng tức là thuộc hai thứ kia nói vào thẳng Trung đạo, chớ gọi chỉ là Trung. Chỉ là chẳng bị thiên, không thiên giả kéo lôi, nên gọi là bất động bất tịch. Từ hơn làm tên nên gọi vào thẳng. Người chẳng thấy thì gọi là quán trước chỉ trung đều không có lý này. Kế trong Viên vị mà chỉ là ba đế ba đức. Sơ hiểu sơ khai nhập vị sơ trụ, một trụ tất cả trụ, là trong sơ trụ thì đủ tất cả vị, như môn chữ A đầy đủ tất cả công đức Chư Phật. Công đức tuy nhiều mà chẳng ngoài ba đức, nên nói tất cả rốt ráo v.v... Trong viên Trang nghiêm có pháp thí hợp, trong pháp lại dùng một tâm ba đế làm sở trang nghiêm, một tâm ba quán làm năng trang nghiêm. Khi đến vị này ngoại dụng tự tại nên nói Trang nghiêm, chánh thọ không công đức nói ra giả công đức. Công đức trong nhập xuất và bất nhập xuất, trong đó có song già và song chiếu. Đối với đức và dụng so nói rất dễ hiểu. Căn là sáu căn, trần là sáu trần, phương là mười phương, vật là tùy trần đều có các loại, chánh báo v.v... là văn kinh rộng y cứ nam nữ các thân, phương trần vật v.v... tức là y báo. Kế là văn thí dụ. Trong dụ song nhập xuất. Vả thí dụ sáng khởi xuất mà nói, thí dụ chiều nhập chánh thọ, thí dụ nửa đêm là chẳng nhập xuất. Cho nên kinh Trường A-hàm quyển hai mươi hai chép: ở Diêm-Phù-Đề là mặt trời giữa trưa, ở Phất-bà-đề là mặt trời lặn, ở Cù-đà-di là mặt trời mọc, ở Uấtđơn-việt là nửa đêm. Văn kinh thứ lớp bốn phương nói khắp. Kinh ấy lại chép: Diêm-phù-đề là Tây thì Cù-da là Đông, Cù-da là Tây thì Vu Đãi là Đông. Vì mặt trời mọc là Đông nên nay chỉ lấy bốn phương thấy khác làm thí dụ, trong hợp mà nói cũng thế, là phải đem đủ ba đế ba quán trên mà hợp trong đây. Trong kiến lập nói manh cổ là đui mù. Nay vì vô duyên không nạp ánh sáng giáo nên mắt tâm như mù, cho nên nêu Long vương làm thí dụ. Thuyết văn nói rồng hay ẩn hay hiện hay lớn hay nhỏ, xuân chia thì lên trời, thu chia thì xuống vực sâu. Quản Tử nói muốn nhỏ thì như con tằm muốn lớn thì đầy khắp trời đất. (Tha: là Tha Hóa; Lạc: là Hóa Lạc; Đâu: là Đâu Suất; Dạ: là Dạ-ma; Đao: là Đao Lợi; Tu: là Tu-la là tên các trời. Não: là mã não; lê: là pha lê; Diêm: là Diêm phù; Việt: là Uất đơn việt, v.v...). Đây là sáng tục nói chưa biết hết công dụng của rồng. Nay y theo Hoa Nghiêm thì Long vương Ta-kiệt-la làm mưa khắp sáu tầng trời cõi dục, ngang khắp bốn vực. Kim cương rộng nói bắt đầu từ lớp Kim cương, cuối đến trời Tha Hóa, bốn vực là người bốn châu. Sáu trời là sáu tầng trời cõi dục. Tức dụ cho sáu vị đã phá vô minh thấy Đệ nhất nghĩa. Nên gọi là trời bốn mươi vị là bốn, Đẳng giác, Diệu giác là hai. Nếu tu nhân mà nói thì phải từ trụ tiền cho đến Đẳng giác. Pháp thân nói pháp còn sai Đẳng giác dứt phẩm cuối cùng, huống chi là Sơ trụ. Trong đây phải dùng bản tích cao thấp bốn câu mà giải thích, bốn vực ví như bốn cơ, bốn môn, bốn tất, v.v... được ích lợi khác nhau. Cho nên biết sáu phen chỉ đốn bốn cơ thông tiệm. Nói người ở vị này có hai kiến lập. Dụ chung cho bị vật cơ thấy khác nhau. Nổi mây là kinh nói Long vương hiện bày tự tại từ mé Kim cương đến trời Tha Hóa, nổi mây khắp bốn thiên hạ, mây ấy có các mầu trang nghiêm.
Tha vàng, lạc đỏ, Đâu-suất trắng Dạ Lê, Đao Não, Tứ vương pha. Trên biển Kim cương, hương hệ-na Các rồng như hoa, tu như núi.
Diêm xanh, việt vàng, hai châu tạp Điện cũng tùy cảm đều khác nhau. Tha Hóa nhật quang, lạc nguyệt quang Đâu, Diêm-phù vàng, dạ báu trắng. Đao vàng, Tứ vương mầu tối diệu Diêm xanh sắc báu, ba châu khác. Sấm sét khác nhau lại khác nhau, Tha Hóa Phạm âm, lạc diêu âm.
Đâu kỹ nhạc âm, dạ thiên nữ Đao hệ la nữ, tứ vương càn.
Loài người hải triều âm đồng khác Tám bộ chỗ thấy đều khác nhau.
Mưa khác nhau, tướng cũng khác nhau, Tha hóa hương hoa, nhạc chiêm bậc.
Đâu ma ni báu, dạ cờ lọng. Đao châu như ý, bốn cam lộ.
Bắc việc anh lạc, hai chiêm-bậc. Nam Diêmphù-đề nước thanh tịnh Các rồng thấy biết đều khác nhau. Cùng dụ Bồ-tát tự tại dụng.
Mây ví cho hiện thân, sấm ví cho nói pháp, điện ví cho phát ra ánh sáng, mưa ví cho từ bi. Ba nghiệp như thế hay chúng sanh sự thấy biết đều khác. Hỏi trang nghiêm kiến lập có gì khác nhau? Đáp: Đều là không thể nghĩ bàn Một tâm ba trì trang nghiêm pháp thân gọi là Trang nghiêm. Ngoài ích ở nó gọi là kiến lập. Cho nên Pháp Hoa chép: Năng lực Định Tuệ trang nghiêm, dùng đây độ chúng sanh. Độ sanh tức là kiến lập. Hợp như văn. Sơ tâm còn thế v.v... là nêu so sánh. Đây là chỉ cho viên lập sơ phát tâm trụ khác nhau với sáu căn thanh tịnh v.v... ở văn trước. Nhị Trụ trở lên cho đến Đẳng giác gọi là Trung tâm, Diệu giác vị gọi là hậu tâm. Cho nên nêu sơ trụ để so sánh trung hậu. Cho nên Sơ trụ trở lên cũng gọi là sáu căn dùng lẫn nhau. Như kinh Tứ Niệm Xứ chép: sáu căn dùng lẫn nhau gồm có hai thứ: một là tự, hai là chân. Tự như Pháp Hoa, chân như Hoa Nghiêm. Nay y theo Hoa Nghiêm, Sơ Trụ trở lên tức là chân dùng lẫn nhau. Đây là dẫn Hoa Nghiêm chứng ba trung đốn, vì sao gọi là Tiệm viên. Như lai hết lòng là chánh dẫn pháp bày diệp pháp thể, pháp thể chỉ là đồng thể cảnh trí tức là nói người chẳng khinh cho nên người hiểu, vui mừng là sao, ở đầu phẩm Phương Tiện, có Ký ngôn, tuyệt ngôn khen rộng, khen lược, chẳng nêu quyền thật. Cho nên đầu chương nêu rằng: Chư Phật có trí tuệ sâu xa vô lượng. Sâu xa là khen thật, vô lượng là khen quyền. Cho đến ở cuối chương chỉ có Phật và Phật mới biết rõ hết thật tướng các pháp, các pháp là quyền. Thật tướng là thật. Đây đều là ký ngôn khen quyền thật, chỉ chẳng cần nói tức là bặt ngôn khen. Cho nên nói hết lời khen ngợi pháp này, cho nên cuối văn xuôi Ngài Thân tử thỉnh rằng: Bạch Đức Thế tôn vì sao hết lời khen ngợi là chỉ văn này. Ý khen ngợi bởi có lý do Phật thành đạo đến nay đã bốn mươi hai năm mới hiển chân thật nay muốn nói pháp lại đợi ba lần t hỉnh đã hứa nói xong năm ngàn vị đúng dậy đi, sau mời rộng y cứ chương môn năm Phật mà khai quyền bày thật, cho nên biết khai hiểu đâu dễ được nghe. Cho nên nói Như lai hết lời khen ngợi, đầu quyển hai Ngài Thân Tử hiểu được, vui mừng hớn hở. Cho nên nói người nghe vui mừng. Kế dẫn các kinh nói người cầu chí lớn cho nên chỗ làm pháp mầu đều là giải thích thành pháp được truyền. Nói thường than khóc, tức là vì cầu pháp mà bảy ngày bảy đêm than khóc ở chỗ rừng vắng nên gọi là Thường Đề, tiếng Tây trúc là Tát-đềba-luân. Kinh Đại phẩm quyển hai mươi sáu nói Phật bảo Tu Bồ-đề rằng Bồ-tát Ma-ha-tát vì cầu Bát-nhã Ba-la-mật thì phải như Tát-đa-ba luân. Bồ-tát này nay ở chỗ Phật Lôi Âm mà thực hành hạnh Bồ-tát. Tu Bồ-đề nói vì sao vị ấy cầu Bát-nhã Ba-la-mật thì chẳng tiếc thân mạng chẳng cầu danh lợi nghe trên hư không có tiếng rằng người thiện nam, từ đây đi về phương Đông chớ màng các việc như: mỏi mệt, ngủ nghê, ăn uống, ngày đêm, lạnh nóng, v.v... chớ nhìn ngó hai bên, chớ hoại thân tướng, nếu hoại thân tướng thì ở pháp có ngại. Có ngại cho nên tới lui năm đường chẳng được Bátnhã Ba-la-mật. Bồ-tát nói con theo lời dạy bảo. Vì cầu Bát-nhã vì chúng sanh vì làm ánh sáng lớn nên cầu Bồ-đề. Lại nghe trên hư không có tiếng chép: ông nên tin chắc ba không, gần gũi cúng dường các thiện tri thức. Các thiện tri thức nói được ba không, cho đến các trí sai tâm vui mừng. Do đó, Bồ-tát nghe lời dạy đi về phương Đông. Lại nghĩ rằng: chẳng hỏi tiếng trên hư không đi về đâu, đi gần hay xa biết nghe theo ai, bèn than khóc bảy ngày đêm như con chết. Trên hư không có tiếng Phật bảo. Chư Phật quá khứ khi cầu Bát-nhã cũng giống như thế, từ đây đi về phương Đông năm trăm do-tuần có ngôi thành tên là Chúng Hương. Thành ấy có Bồ-tát Đàm-vô-kiệt, mỗi ngày ba thời nói Bát-nhã, người nghe cúng dường đều không còn lui sụt. Ông nên đến đó mà nghe Bát-nhã, nghe rồi rất vui mừng. Lại nghĩ lúc nào ta được thấy, khi nghĩ thế thì vô lượng trí tuệ, vô lượng Tam-muội đều hiện ra, do đó liền đến, v.v... Thiện Tài Nam Cầu, là Đồng Tử Thiện Tài khi mới gá thai trong nội cung có bảy kho lớn, các kho ấy đều sanh ra lầu các bảy báu tự nhiên vây quanh, có bảy vật. Từ bảy báu sanh ra bảy răng ngà. Thiện Tài sanh rồi ngà cao mười bốn tầm rộng bảy tầm. Lại ở trong nhà có năm trăm hình báu đựng đầy các báu. Lại các hình bảy báu cùng sanh các báu. Vì nhân duyên ấy nên các Bà-la-môn giỏi xem tướng đặt tên là Thiện Tài, tìm thiện tri thức đi dần về phương Nam qua một trăm mười thành gặp các thiện tri thức đều bảo rằng tôi trước đã phát, tâm Bồ-đề. Các thiện tri thức đều nói tôi chỉ biết có một pháp môn này. Mới trải đến thành thứ năm mươi mốt thì gặp Di-lặc, thành năm mươi ba thì gặp Văn-thù, Phổ Hiền thì chẳng còn nói chỉ biết một pháp. Cho nên biết là trước tiệm sau đốn. Nay từ sau đốn nên chỉ ra, đủ như trong phẩm Nhập Pháp Giới, v.v... Dược Vương đốt tay là Dược Vương Bồ-tát vốn ở chỗ Phật Bảo Tạng phát nguyện trị hai bệnh thân tâm của chúng sanh. Nên nay gọi tên ông là Dược Vương. Ở chỗ Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức tên là Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Phật ấy diệt độ rồi thì xây tháp cúng dường. Bồ-tát Nhất thiết chúng sanh hỷ kiến vì cúng dường tháp, nên ở trước tháp ấy mà đốt cánh tay trăm phước trang nghiêm suốt trong bảy mươi hai ngàn năm, sai vô lượng A-tăng kỳ người phát tâm Bồ-đề. Sau khi phát thệ thì tay hoàn lại như xưa. Đây cũng là cầu quyền thật diệu thể. Phổ Minh tự cắt đầu, là được tên là Vị Tri. Tên này là từ kinh Nhân Vương. Đại luận gọi là Ma-vương Tu-đà. Nhân vương chép: Xưa vua nước Thiên-la có Thái tử tên Ban Túc khi mới lên ngôi được ngoại đạo Đà-la dạy sai lấy đầu một ngàn vua để tế thần mải, từ khi lên ngôi rồi thì cắt được chín trăm chín mươi chín đầu vua, còn thiếu một đầu. Đi về phía Bắc một ngàn dặm thì được một vị vua tên là Phổ Minh, vua ấy thưa rằng cho tôi còn sống một ngày để cúng cơm cho Samôn và lạy Tam bảo. Ban Túc nhận lời. Phổ Minh liền trở về y theo pháp bảy Đức Phật thỉnh một trăm vị Pháp sư, một ngày hai thời giảng Bát-nhã một ngàn bài kệ xong, Pháp sư thứ nhất vì vua và quyến thuộc nói kệ bốn phi thường, quyến thuộc được Pháp nhẫn, vua được Tam-muội không bình đẳng, các tên pháp nhãn v.v... giống Tiểu thừa vì trị vua này, khiến cho bỏ y chánh. Đã nói y theo pháp bảy Đức Phật để giảng Bát-nhã, đâu riêng Tiểu thừa huống chi là cộng bộ, nghĩa không vốn chung. Nay từ bất cộng Cho nên chỉ rõ. Một ngày ba xả là nói Lý viên Pháp Diệu, ân sâu khó đền đáp, kinh Kim cương kia dùng bốn câu kệ để đánh giá xả thân, nay mượn văn kinh ấy mà nêu nhiều so sánh ít. Ngày bỏ ba thân luôn trong trăm ngàn ức mà chẳng thể báo đáp. Một câu Bát-nhã, huống chi như Pháp Hoa đội mang gánh vác tuy nhiều kiếp gánh vác mà thân ấy cũng còn, đâu thể báo đáp đầm Viên thừa, Bát-nhã cộng biệt ý chẳng khác trước. Một kinh một lời là nêu lược, chỉ rộng như trên trích dẫn Thường Đề, v.v... đều là một kinh. Trong một kinh lược, còn một lời, lấy đây mà so sánh các thứ khác rất dễ thấy. Nghi nói trở đi là thỉnh chứng hai thứ kia, đây tức là hỏi. Từ trên đã chứng Tam-muội viên đốn, tiệm cùng bất định thì lấy gì làm bằng. Nhưng kinh luận trở đi là đáp. Trước nói ý đáp, viên là gốc ý ấy nên dẫn trước. Tiệm và bất định cũng đều có bằng cứ, do đây lại chứng (chung) ba nghĩa. Thánh giáo đã nhiều, Khảo Thanh dẫn đủ nên nói là lược nêu. Kế là đáp riêng. Trong đó trước dẫn bốn kinh đều chứng ba nghĩa, kế dẫn vô lượng nghĩa thì chỉ chứng ở tiệm. Kế dẫn sáu kinh chứng riêng ở viên viên là ý chánh nên lại dẫn. Lại dẫn Hoa Nghiêm kết chung, văn trước là dẫn các giáo. Trước dẫn Tịnh Danh nói về Tiệm. Hoa Nghiêm là giáo tiệm trước đốn sau, nghĩa đồng tiệm quán cho nên dẫn ra. Các văn dưới trở đi là chứng tiệm bất định, đều mượn giáo để chứng quán, thế nghĩa giống nhau đâu thể toàn đồng. Nếu khuấy giáo thành quán lại chẳng khác lắm. Cây Phật, cũng gọi cây nguyên cát, cũng gọi là (cây) đạo, cây Bồ-đề. Từ đó mà được đạo nên gọi Thế. Đã hàng ma rồi chứng được trạch diệt, thấy đế lý, lìa pháp sanh tử thì gọi là cam lộ diệt, là đức đoạn thành tựu, đạo Giác thành tựu là phát được trí chân đạo năng đoạn nên gọi giác đạo thành là trí đức thành. Diệt đạo thành cho nên bốn đế đầy đủ, từ thắng (hơn) mà nói nên chỉ nói diệt đạo, ba chuyển v.v... là khuyến chứng. Một chuyển đều sanh mắt trí sáng biết gọi là mười hai hạnh, nói đủ hai nghĩa: một là chuyển đi, hai là dẹp phá. Dùng bánh xe bốn đế mà chuyển độ cùng phá kiết hoặc của người. Như báu Vương Luân làm hoại, làm an, bánh xe pháp cũng giống như thế, hoại oán phiền não mà an trụ Đế lý cho nên người xoay bánh xe pháp này ở Đại thiên. Nói Đại thiên là như luận Câu-xá nói là bốn đại châu mặt trời, mặt trăng, Tômê-lô Dục Thiên, Phạm thế đều một ngàn gọi là một tiểu thiên giới, một ngàn Tiểu thiên này là một trung thiên, một ngàn Trung thiên là một Đại thiên đều đồng một ngôi thành một hoại. Đời không có hai Phật cho nên ở một Đại thiên. Kinh Thụy Ứng nói là trung ương của mười hai ngàn trời đất vậy. Bốn Đế lý này thể không kiết hoặc nên gọi là vốn tịnh. Lại nói vốn chẳng thể nói nên gọi là vốn tịnh, vì phá hoặc người không được mà chuyển tám muôn các vị trời được pháp nhãn thanh tịnh. Năm người như Câu-lân, v.v... đều được sơ quả cho nên nói trời người đều được đạo chẳng dối, có thể làm chứng. Thế tôn là Phật bảo, nên gọi là Tam bảo hiện thế gian. Kế chứng bất định tức là nói lên bất định. Nói một âm là gọi chung đại tiểu nay ý ở đại. Nói Tiểu thừa, như Tỳ-đàm chép: Phật vì bốn vua mà dùng lời thánh nói bốn đế, hai đế hiểu, hai đế không hiểu, Phật lại nói tiếng Tỳ-đà-la thì một người hiểu một người không hiểu. Phật lại nói tiếng Lê-xa thì bốn vua đều hiểu. Hỏi nếu lời thánh nói mà hai trời chẳng hiểu. Nếu Phật có tài thì đâu có chẳng hiểu, nếu Phật bất tài thì kệ làm sao hiểu. Kệ chép: Phật dùng một thứ tiếng giảng nói pháp mà hiện ra các nghĩa. Chúng sanh đều bảo Phật vì ta hiểu mà nói các pháp chớ không phải vì người.
Đáp: một âm là âm Phạm. Nếu trong đại hội có nhiều người tham, đều bảo Thế tôn chỉ vì riêng ta mà nói vì bốn vua này đều nghĩ khác nhau, nên Phật ba lần nói để đến ý niệm của họ. Lại phá chúng sanh bảo Phật dùng lời thánh mà nói pháp. Lại có chúng sanh phải đổi hình tiếng mà thọ hóa, có loài thì không cần đổi. Cho nên khác nhau một âm Đại thừa. Nay như dẫn luận khởi Tín nói: Viên âm hễ giảng nói thì các loài khác đều hiểu. Lại như trong tám mươi vẻ đẹp, một âm đáp được các thứ tiếng, khác phương loài khác đều được lợi ích. Như lai vốn chẳng phải dùng tất cả tiếng nói mà đến khắp tất cả tiếng nói, là cùng đồng với nghĩa bất định của văn này. Hoa Nghiêm, Lăng-già đều nói Như lai có sáu mươi bốn thứ tiếng, đây là phương tiện chưa phải lý rốt. Nay nói sợ sệt vui mừng là y cứ bốn tất mà nói tướng bất định. Sợ sệt là ba cõi đáng sợ tức là thế giới. Vui mừng là vui có thể làm lành, tức là loài người. Chán lìa là lìa các điều ác, tức là đối trị. Dứt nghi là nghi dứt thấy lý Đệ nhất nghĩa. Kế chứng đốn là chẳng phải có chẳng phải không, chung cả bốn giáo, bỏ ba còn viên vì chứng ở đốn. Lý vốn không nói bốn tất bị cơ nên các pháp sanh vô ngã, v.v... kết thành viên đốn, vô ngã tạo thọ kết chẳng có, thiện ác chẳng mất kết đều chung bốn giản (bỏ) ba cũng như vừa nói. Có người nói vô ngã đạo thọ phá thắng số luận Tam tạng có thể chung nghĩa bất nhiên, cho nên nay chẳng dùng. Trong Đại phẩm trước chứng Tiệm là Đại luận quyển tám mươi hỏi rằng Bồ-tát Thỉ hạnh tu hành thế nào, ba thứ này có gì khác nhau? Có người chép: có khác vì y cứ đầu giữa cuối, hoặc y cứ ba học để đặt ba tên. Lại Đàn-lê gọi là Hạnh, Thi thiền gọi là Học, Sằn-bát gọi là Đạo. Hỏi vì sao có thứ lớp?
Đáp: các pháp tuy không thứ lớp mà được. Bátnhã cũng giống như thế, vào tất cả pháp bốn thiền cho đến Đệ nhất nghĩa không. Luận Châu-ma-ni nói báo ma-ni ở trong nước sẽ có bất cứ một mầu nào. Như ở trong nước xanh thì màu xanh. Cũng gọi là như ý, giống như Đường Phạm khác nhau.
Đại luận Hoa Nghiêm đều gọi Như-ý Ma-ni, giống như nêu hai tiếng, như Pháp Hoa gọi Ma-ni anh lạc, Như ý châu anh lạc, tuy giống nhưng thể khác. Chân tánh như thể của châu, còn tập tánh như vật biểu. Nghe giáo như đặt trong nước, tập phát như hiện sắc. Lý tánh chẳng khác mà hiện sắc các pháp. Phát tâm tức ngồi đạo tràng là nói mới phát tâm, lại nói xoay bánh xe pháp, biết là Sở Trụ, tám tướng thành đạo, chia thân trăm cõi, hiện xoay bánh xe pháp tức là nghĩa viên. Kế dẫn Pháp Hoa, chẳng phải người giáo Hoa Nghiêm, cũng chẳng phải các giáo vào đốn, bắt đầu từ Lộc uyển thiệp hai vị nên gọi là Tiệm. Nói chẳng tin, là nếu chẳng tin Đốn, lại dùng sâu khác. Viên giáo chẳng phải khác mà là sâu, Biệt giáo là khác mà cũng là sâu. Tạng thông là khác mà chẳng phải sâu. Chỉ xưa đốn tiệm đều là dùng ba mà giúp đốn. Xưa chưa bị hội ở khác ở sâu hoặc tin hay chẳng tin, nên gọi là bất định. Tiệm và bất định đều từ xưa nói. Lại đến Pháp Hoa thì lại không hai tên. Nếu vì người từ Tiệm giáo đến thì gọi Pháp Hoa là tiệm đốn, người này cũng từ bất định đến, sao Pháp Hoa chẳng gọi là Bất định đốn? Người tu nhiều đường, Pháp Hoa thường đốn, đều ban là một suy nghĩ rất dễ hiểu. Xả phương tiện là y cứ bỏ quyền. Kế dẫn Đại kinh mươi ba chép: từ trâu ra sữa là ví như từ Phật ra mười hai bộ kinh, cho đến từ bỏ chín ra Đề-hồ là ví như từ Bát-nhã ra Đại Niết-bàn. Trung gian thứ đệ để đối với Tam-muội, lấy thứ đệ nghĩa đồng với Tiệm. Văn Trí Độc ở thứ hai mươi bảy. Nhóm họp liễu nhân gọi là Trí độc, nhờ nay nghe suy nghĩ mà độc phát khác nhau giống như quán bất định nên lại làm chứng. Tuyết sơn Nhẫn Thảo: quyển hai mươi lăm chép: Tuyết sơn ví cho Phật, Nhẫn thảo ví cho tu hành, xuất là ví cho nhập trụ. Đốn cơ hỏi Phật, nói giáo viên đốn, nghe rồi tu hành, phát hiểu vào vi. Trước tu lạc ra, chưa dung luyện lại, gọi là bơ sống, chất tinh diệu của bơ gọi là Đề-hồ. Kế dẫn vô lượng nghĩa, ba thừa thứ lớp nên gọi là Tiệm, đều dùng mưa mà ví cho ba thừa pháp luân, nói thừa kém nhất là mưa nhỏ. Vì mới chuyển nên gọi là mới mưa, phát hoặc ba cõi gọi là chán bụi dục, nghe xoay bánh xe pháp sẽ kiến hết trước, tư hoặc tuy nhiều lấy dục làm gốc, dục chung ba cõi nên gọi là các. Đạo phẩm sau đủ ba Tam-muội nên gọi là khai môn, được hai giải thoát gọi là phiến phong, dứt nóng sanh tử. Chân pháp mát mẻ nương thừa Thanh văn. Kế nhân duyên giáng xuống, nhân duyên mưa rót xuống mà dứt bụi vô minh. Mây tuệ đã nổi làm tắt ánh sáng tà. Đây là Trung thừa, sau mưa Đại thừa tất cả đều mưa. Nếu Phật thừa mở thì khắp đủ các cơ, Đại thừa ý thông nên nói tất cả. Nếu dẫn văn ấy chứng hai thứ kia. Từ một pháp một pháp đốn vậy, hoặc hai hoặc ba tức là bất định. Tiệm văn dứt trừ lại từ hiển mà nói. Kế riêng chứng viên, là Như lai Long vương mưa giáo viên đốn, không mưa ba giáo xuống đất loại thấp. Nhị thừa chẳng nghe cũng chẳng thể nói, cho nên như câm như điếc. Tịnh Danh nhà trống biểu thị cho Thường tịch quang, chư Phật mười phương thường nhóm họp trong đó. Cho nên người vào thì chỉ tôn kính Phật thừa, dẫn kinh Lăng-nghiêm thì lý tánh như hoàn. quán hạnh như đốt, các pháp đốn phát tên đủ các khí. Dẫn Đại phẩm thì như phẩm Quảng thừa muốn được các pháp đều nói phải học Bátnhã. Dẫn Pháp Hoa thì từ Pháp Hoa trở về trước chưa hề khai quyền, chẳng gọi đầy đủ. Dẫn Đại kinh thì lý đủ các pháp giống như nước biển. Người tu quán hạnh như đang tắm. Hạnh nhiếp tất cả gọi là đã dụng. Hoài Nam Tử nói biển chẳng nhường nước chứa nhỏ thành lớn, bắt đầu từ Long vương, cuối cùng là biển lớn, đều phán sáu tức mới hết lý ấy. Có người chép: đất khác chẳng kịp mưa khắp, chỉ ngửi mà cách mùi khác. Đảo hòa chẳng bằng vốn đủ, tất cả chẳng bằng tức là biển đủ chẳng bằng sông đủ, phải biết người này chẳng ý dụ, hễ người lập dụ đều phải y cứ hiện sự cho nên dẫn cực sự mà dụ cho pháp tối thượng pháp sẽ mau đủ đâu cần phải khó dụ. Núi Tuyết dụ cho voi ý cũng giống như thế. Kế lại dẫn Hoa Nghiêm để kết trước. Núi cao thấy mặt trời mọc trước các nơi khác, chưa nói là phương chung, cho nên tuy đốn mà bỏ hạnh nhỏ, hang sâu được chiếu sáng thì hơn ở đỉnh núi cao mà ẩn kín, không bằng bình xuyên (sông và đất bằng) nên chưa gọi là khắp lợi ích, cho nên chẳng thọ ký, chỉ được thiên chân. Kế ở trên trở đi là biết khen. Đây là y cứ chín đời để khen chân pháp. Cho nên ba đời đều nhắc lại pháp Như Như gọi là thầy của Phật. Hoa Nghiêm quyển ba mươi mối chép: Phật tử có mười thứ ba đời, nghĩa là quá khứ nói quá khứ, quá khứ nói vị lai và quá khứ nói hiện tại. Vị lai nói quá khứ, vị lai nói hiện tại, vị lai nói vô tận, hiện tại nói quá khứ, hiện tại nói vị lai, nói hiện tại bình đẳng, hiện tại nói ba đời bình đẳng. Nói được mười thu này thì nói được tất cả ba đời. Kinh Hoa Nghiêm làm thành mười câu, cho nên ở ngoài chín liền thân bình đẳng. Cho nên đại anh lạc đều nhờ Thiên tử hỏi Phật: ba đời đều có Chư Phật chăng? Phật nói ông hỏi thế nào là ba đời, quá khứ chăng? hiện tại chăng? hay là vị lai? Đây cũng là ý chín đời. Vô thỉ đều là quá khứ, thuộc về quá khứ nên gọi là vô manh. Mầm lúa mới nẩy nở gọi là Manh, đậu mới nhú gọi là câu. Phải biết chỉ quán trở đi là tông kết mà nói. Lý tánh bốn đức tức là thầy của Phật, chỉ chung văn trước như liễu đạt, v.v... kế bày ba văn bộ riêng nơi chốn, pháp được truyền chẳng ngoài ba thứ này. Phàm muốn tu hành thì y theo bộ nào, cho nên phải bày bộ khác nơi chốn. Trước đã tin, v.v... là kết trước sanh sau. Thứ đệ thiền môn, mục lục nói Đại sư ở Ngõa Quan mà nói. Chùa Đại Trang Nghiêm, Pháp thân riêng ghi phần đầu còn chưa trị định, bản thảo mới thành truyền cho Thiền sư Thiên Thai Đảnh. Trị định đã thành mười quyển. Vua trần cũng có thỉnh Đại sư Nam Nhạc giảng kinh Đại phẩm.
Đại sư chép: hai trang Hạ chẳng đủ, lại nói sáu độ, sáu độ lại rộng bèn nói Thiền đệ, đây không có văn chép. Nay Thiên Thai nói thì mở làm mười chương một là đại ý, hai là thích tên gọi, ba là minh môn, bốn là thuyên thứ, năm là tâm pháp, sáu là phương tiện, bảy là tu chứng, tám là quả báo, chín là khởi giáo, mười là qui thú. Chỉ đến tu chứng, ba thứ kia lược không có. Ở trong tu chứng mở làm bốn khác: một là thế gian thiền, hai là thế gian cũng là xuất thế gian, ba là xuất thế gian, bốn là không phải thế gian không phải xuất thế gian. Trong bốn thứ này chỉ đến thứ ba là xuất thế. Xuất thế lại có hai một là đối trị vô lậu, hai là duyên lý vô lậu. Chỉ đến đối trị, đối trị là chín tức chín tưởng, tám niệm, mười tưởng bối xả, thắng xứ, nhất thiết xứ, chín định thứ đệ phần tấn, vượt lên. Giải thích chín thứ này xong thì nói về tướng tu hành đâu thể đủ hết. Nếu ghi hết các văn dưới đây phải ba mươi quyển. Truyền rằng: Đại sư Thường ở trên tòa cao bảo rằng: nếu nói thứ đệ thiền môn, mỗi năm riêng mới khắp. Nếu lập chương mà sớ (giải thích) thì cũng năm, mười quyển. Văn truyện là do Ngài Chương An soạn ra, mục lục cũng do chúng cùng ghi chép, quyển hoặc lớn nhỏ khác nhau ngại gì. Sáu Diệu
Môn cũng là mười chương: một là trải qua các thiền, hai là sanh nhau, ba là tiện nghi, bốn là đối trị, năm là nhiếp nhau, sáu là chung riêng, bảy là toàn chuyển, tám là quán tâm, chín là viên đốn, mười là chứng tướng. Trong mười chương này sáu thứ trước chung cho đại tiểu cho đến lậu và vô lậu. Từ thứ bảy trở đi là pháp riêng của Bồ-tát. Lại bảy thứ trước là y cứ sự, quán tâm chỉ là lý. Lại tám thứ thuộc Thiên, thứ chín là Viên. Lại chín thứ trước là tu, thứ mười là y cứ chứng. Văn gồm sự lý và hữu lậu v.v... tu phát khác nhau nên gọi là bất định. Mười hai thiền tức là bốn thiền, bốn không, bốn vô lượng cho đến sáu độ, dùng mười môn sáu diệu mà trải, nghiệm ra chỗ phát tuy lấy thượng thư lệnh làm thỉnh chủ, tu phát cũng đâu có gián đoạn, ở đạo và tục. Văn viên đốn, tức là văn này, Chương An tự nói chỗ ghi. Nói về đại phần tuy như vừa nói nhưng trong mỗi bộ đều có bàng chánh hư thứ lớp thiền môn chánh nói thứ lớp, bàng cũng có hai. Văn tuy chưa trọn cũng có ý ấy, chẳng phải lậu, chẳng phải vô lậu tức là đốn văn. Tu phát khác nhau mười sáu câu tức là bất định. Trong sáu Diệu Môn chánh nói bất định, bàng cũng có hai, Viên đốn tức đốn, tương sanh tức tiệm. Nay Viên văn đốn cũng gồm hai thứ kia. Lệ như ba tạng cũng có chung riêng. Từ tuy có trở đi là khuyên răn một là khuyên chớ chấp ba, cho là nhất định có, hai là khuyên chớ chấp, ba là định khác nhau. Tuy có ba khác nhau nhưng đều chung thật tướng, đâu thể chấp nhất định tướng phải trái, cho nên văn sau nói biết văn chẳng phải văn. Bướu la bịnh thịt nổi cao lên, hai là bịnh thịt khuyết lõm. Định có làm bớt, định có làm thêm, cho nên dẫn làm thêm bớt ba chê bai.
Kế dẫn luận: Đại luận quyển hai mươi khen kệ Bát-nhã rằng: nếu chẳng thấy Bát-nhã ấy thì bị trói buộc, nếu người thấy Bát-nhã là được giải thoát. Sự ấy rất hiếm có rất là sâu xa rộng lớn. Dùng hai hạnh trước mà đối ý văn nay. Đối với pháp khởi thấy gọi là cái thấy bị trói buộc. Mê đối với pháp tướng gọi là chẳng thấy trói buộc. Xứng pháp mà khởi thấy thì gọi là thấy được thoát, thấy tướng chẳng thấy gọi là chẳng thấy thoát. Định có ba, ba định khác, gọi là thấy trói buộc. Mê ở ba văn và ý ba băn gọi là chẳng thấy trói buộc. Biết ba không ba đồng khế một cực gọi là thấy được thoát. Kế nghi hỏi trở đi là đặt câu hỏi giải thích nghi. Trước trong câu hỏi nêu chẳng thể nói lấy câu hỏi để chỉ người. Lý vốn không nói sao phải bày ba. Nói chung riêng là chẳng chia lớn nhỏ chỉ nói các pháp, nên gọi là chung. Dẫn sanh sanh, v.v... bốn cái khác nhau đối giáo khác nhau, nên gọi là riêng. Ngài Thân Tử đối Thiên nữ giấu chẳng thể nói. Không nói không bày viên chẳng thể nói. Lược nêu trước sau hai so sánh mà biết tức chung riêng. Chung và riêng đều chẳng thể nói, sao lại lấy ba văn mà chỉ người. Từ nhiên đản dẫn trở đi là lời đáp. Văn có chung hai ý sao lại chỉ dùng chẳng nói khó nói mà hỏi. Nay trong ba văn này tức là nói. Chẳng cho chấp văn tức chẳng thể nói. Vì đâu gọi riêng ba văn là nói, cho nên bác bỏ chung rằng: chỉ thấy một bên chẳng thấy cả hai. Trước dẫn Đại kinh có thể nói để đáp câu hỏi ở trước. Đây là nói chung về có thể nói. Kế dẫn Pháp Hoa vô số phương tiện tức rất có thể nói, vì năm Tỳ-kheo là hỏi có thể nói. Đây là nói riêng có thể nói. Cũng nêu trước sau, hai thứ lệ theo mà biết. Kế dẫn Đại kinh mười hai văn sửa đổi với kẻ mù từ bé thật chẳng thể nói mà cũng có thể dùng bối mạt để chỉ bày. Lý chân như thật chẳng thể nói mà cũng có thể dùng bốn thứ như thường, v.v.... để nói. Nay ba chỉ quán cũng giống như thế. Tổng trì tức là không thể nghĩ bàn. Tục này văn tự cũng chẳng nói được. Tuy chẳng thể nói cũng giả văn tự tục đế nói. Ấy là hai đế đều có thể nói. Chân lý không nói còn nhờ nói mà ngộ, huống chi là tục đế mà nói chẳng nói. Cho nên có nói phải y theo hai đế. Đã dẫn văn nói để đáp chẳng nói. Dẫn Tịnh Danh v.v... dung thông hai đường. Văn trước cho rằng nói và không nói thể tánh tức nhau. Văn tự là sắc pháp, sắc pháp tức thật tướng. Thật tướng đã chẳng khác thì nói tức là không nói. Kế dẫn đại kinh. Như lai vốn không nói đậu vật gọi học rộng, học rộng chẳng lìa lý, nên không nói tức là nói. Kế dẫn kinh Tư ích cũng dung hai đường, cho nên nói thường hạnh. Kế dẫn Pháp Hoa đến thấy Phật, là nhắc lại đáng nói để ngược với câu hỏi trước. Kế dẫn đại kinh về mây sấm v.v... trong hư không, là ý nói đều cảm ứng. Trước nói nhân duyên nghĩa đó còn chung, nay lại riêng lấy thí dụ mà hiển rõ cảm ứng. Thứ tám nói ví như trong hư không sấm sét nổi mây, tất cả trên ngà voi đều nổi vân. Không sấm sét thì chẳng nổi vân cũng không danh tự. Kinh họp thí dụ rằng nghe giáo thường trụ thì thấy Phật tánh. Cho nên này kết rằng: lúc nào một bề không nói. Nói là ứng, nghe là cảm, hình tiếng hai luân đều có cảm ứng, nay để đáp câu hỏi nên cho là nói. Nói ngà voi, là sở có ba giải thích một là tên của ngà voi, hai là súc sanh là trên ngà voi có nổi vân, ba là nói trên ngà voi sanh cỏ hoa. Tuy ba thứ khác nhau mà đều kham ý thí dụ cảm ứng. Ngà voi cũng sấm trời huyền đất khác, còn do sấm trời mà nổi vân, huống chi là thánh nói bị vật tương xứng với cơ mà vô ích ư? Hư không là pháp thân, sấm sét là nói pháp, nổi mây là hiện thân ngà voi là cơ duyên, nổi vân là được ích lợi. Nghĩa là có bốn ích lợi như quán hạnh, v.v... khác nhau. Kế từ nếu còn cho đến Vô gián là nói ý pháp, có pháp thì hợp văn đầu nói pháp như trên đã dẫn hai đường giúp nhau không được tranh nhau mà sanh, tránh hỏi han. Đây là nói mất lý do vì tranh chấp. Kế là nói trở đi là bày lý chẳng nói. Tuy nói không nói nhưng phải có chỗ nương. Kế đại bi trở đi là chánh nói ý nói một là vì phàm sư đại bi mà lợi ích chúng sanh cho nên nói, hai là vì chúng sanh hoặc nặng căn độn nên phải nói. Đã chẳng gặp thánh thì y phàm mà dựa theo giáo. Vì tâm đại bi khiển trước mà nói. Kế như nguyệt trở đi là nêu thí dụ: mặt trăng tánh chân thường ẩn núi phiền não. Phiền não chẳng phải một, nên gọi là nặng. Gió giáo viên âm dứt hóa về tịch. Lý tịch vô ngại cũng như thái hư. Bốn y hoằng giáo như động cây nổi quạt. Cho nên giả ba văn mà bày lý chân thường. Lý chẳng thể bày. Năng lực đại bi huân nhân văn mà so biết, biết gió biết trăng. Thuyết văn nói trăng là thiếu vì có đầy có vơi nên gọi là thiếu, cho nên lấy làm thí lý có nữa có đầy, Quảng nhã nói gương trăng, quạt trăng. Kế từ người nay trở đi là họp. Diệt rồi bẩm giáo nên nói người thời nay. Thân lãnh thừa Phạm âm, dùng tuệ nội chiếu nên nói là huyền lãm. Người nay ý độn, chẳng phải nay huyền chiếu mà biết cho nên nói sẽ khó. Giả văn giúp ý, văn có chỗ cứ sai ý chẳng lầm nên nói là dễ. Từ nhược phong văn trở đi là sai phá phong tình thâu (đoạt) văn thành quán. Nếu chấp văn sanh lỗi thì lấy văn làm cảnh văn tức là pháp giới sao lại có gió. Biết văn chẳng phải văn là quán không, thấu tất cả văn là quán giả, chẳng phải văn hay chẳng văn là quán trung. Quán được văn này ba trí đầy đủ, cho nên nói được tất cả hiểu. Kết vi thứ trở đi là kết chung câu hỏi ở trước. Ba thứ chung là môn thật tướng. Thật tướng là một, ba văn giúp thấu đạt nên ba tức là môn thấu đạt một. Vì sao hỏi rằng đều chẳng thể nói. Đã nói lược duyên khởi, là Chương An viết tựa xong tự kết.
Kế Kim đương trở đi là nói Chánh thuyết, mở thành mười chương. Nay ở đây đại tiểu đều thành chương, lại từ đoạn lớn nên lược mở mười, mỗi đoạn đều là chỉ quán. Chỉ quán đại ý cho đến thứ mười chỉ quán chỉ qui, nói thì đều phải dùng chỉ quán mà tiêu. Mươi là trở đi là nói ý dùng mười số. Nói số là phương, phương cũng là pháp. Như trong Hoa Nghiêm, các pháp môn đều lấy mười làm số. Kế nói mười chương công năng. Thủy thì nêu hẹn tại trà v.v... Thủy là đại ý, trà là nghĩa rốt ráo cho nên Tứ Thập Nhị Tự chép: Vào các pháp biên cảnh xứ chẳng thật có cho nên chẳng chung chẳng sanh, quá trà thì không có chữ để nói. Đại luận quyển năm mươi ba giải thích rằng: đời Tần dịch là Tất. Nếu nghe chữ Trà thì biết các pháp đều (Tất) chẳng thật có. Nếu lại có thì là chi nhánh của chữ Trà. Ấy là đại ý đã nêu Tông cực. Tiêu là chương đầu, kỳ là khắc chung (ở cuối). Vì sao? đại ý năm lược: trước phát đại tâm hẹn tâm đại xứ, đại xứ chỉ quy về ba đức. Ba đức là nghĩa Trà rốt ráo. Chung nghĩa là chỉ qui. Chỉ qui ba đức tức là tự tha muôn hạnh chỗ đến, nên nói là chí cực. Thiện thủy, v.v... là sai cũng thiện. Thủy là đại ý, chung chỉ qui. Tự tha thỉ chung tu chứng pháp mầu, đều ở trong mười chương này. Cho đến bảy thiện đều ở trong đó.
Trước giải thích nghĩa sanh khởi. Sanh khởi chỉ là thứ lớp, kế chí lý trở đi là nói chung riêng. Lý vốn vô sanh, cũng không có chủ tể. Vì có việc tự tha nhân quả nên gọi là nhân duyên. Giải thích có chung riêng, chung là mỗi chương đều có hai nghĩa sanh khởi, riêng là sanh ở chương trước, tức là năng sanh ra sau. Khởi ở chương sau nghĩa là sau từ trước khởi. Lý do, v.v... là giải thích có hai tên. Gọi sanh khởi cũng gọi là duyên do thú thứ. Nghĩa là chương trước là lý do của chương sau, chương sau là thú thứ của mỗi chương đều là chuyên do thú thứ, đồng nghĩa với sanh khởi nên nói cũng giống như thế. Cho nên Bà-sa hỏi sanh khởi có gì khác?
Đáp: hai nghĩa đồng là pháp hữu vi nên không có khác nhau. Nếu làm riêng thì sanh là nhân, khởi là quả. Như từ nhân sanh quả, quả lại làm nhân mà sanh quả sau. Cho nên đại ý này tuy ở đầu tiên, cũng do không rõ vô minh làm nhân, đời này hiểu biết nên nói là khai giác. Đầu từ phát tâm, cuối là đại xứ, ý ở khai giác. Phải biết Bà-sa chung khác với nay. Sở dĩ trở đi là nói tướng sanh khởi. Do đại ý mà biết tên chỉ quán. Đã khái giác rồi chẳng còn cầu Niết-bàn thiên tiểu gọi là bất lưu động, lại chỉ bị hoặc làm nhiễm gọi là Đại tịnh. Bất động gọi là Chỉ, đại tịnh gọi là Quán. Tên này chung cho nhân quả của tự tha. Cho nên chẳng nói nó cạn sâu. Danh là năng thuyên, thể là sở thuyên, do danh này nên biết có sở thuyên cho nên danh là đắc, không phải gọi chứng đắc. Thể là nhiếp pháp. Thể là thật tướng. Thật bao gồm quyền. Cho nên quyền thật nhiếp tất cả pháp, quyền thật sở nhiếp chẳng ngoài thiên viên. Cho nên dùng thiên viên để phán quyền thật, văn khác rất dễ biết. Tuy sanh khởi mười chương, văn lại ở y giải khởi hạnh. Cho nên ba chương sau lược mà chẳng giải thích v.v... Kế kỳ (chỉ) vi trở đi là kết ý sanh khởi, dùng mười chương này mà sanh khởi. Chỉ là chẳng đạt chân thật không sanh khởi. Cho nên nói mười chương sanh khởi chỉ qui, tuy là không sanh không khởi cũng từ sanh khởi đến không sanh khởi. Cho nên không sanh khởi từ chín chương sanh. Nên văn trước nói chung là sanh khởi. Nếu khế lý rồi thì không có mười chương. Chỉ qui còn mất huống chi là chín trước, cho nên chỗ tâm hành diệt v.v... Lại chẳng phải chỉ do có sanh khởi mà được không sanh khởi. Cũng do không sanh mà được có sanh, như khế bí tạng ứng khắp pháp giới. Kế phân biệt trước từ chân tục, cuối đến dọc ngang. Lược dùng mười môn để phân biệt mười chương. Trước nói mười chương công đức v.v... là nói ý phân biệt, nếu không có mười môn phân biệt mười chương thì sợ người chẳng biết mười chương dồi dào. Như báu ở trong túi, v.v... là ý thí dụ phân biệt. Nghĩa mười ý giàu như trong túi có vật báu. Các môn phân biệt như chỉ bày cho người. Đại luận quyển sáu mươi lăm chép: nếu không chấp tướng để không dính tâm, nói có chín thứ, sai người khác đọc giữ, chánh tâm nghĩ nhớ: một là chiếu liễu, là chẳng biết sai biết; Hai là mở ra như mở kho báu tùy ý lấy dùng; Ba là (chỉ bày) như thấy chẳng sáng, chỉ bày tốt xấu. Tiểu thừa mắt trí chẳng sáng thì chỉ bày đạo và chẳng phải đạo; Bốn là phân biệt, tức là thế và xuất thế; Năm là hiển bày, hoặc khi phá bỏ thiện mà giúp bất thiện, quý ở chỗ sai chúng sanh được hiểu rõ; Sáu là nói pháp, là nói ý thú của Phật; Bảy là giải thích như trong túi có vật báu mà người chẳng biết. Nên phải mở túi kinh Phật để giải thích đạo lý; Tám là bỏ nặng sai nhẹ, các thứ thí dụ giúp cho dễ hiểu; Chín là cạn dễ, như nước khó lội qua phải sai dễ qua. Nước Bát-nhã sâu làm cho cạn dễ. Văn nay dắt dẫn thăm túi một văn, ý đều chứa đủ tám nghĩa kia, nói là phải giải thích cả tám ý. Kế phải giải thích phân biệt, trước từ mười chương nay trở đi, là trưng bày, kế từ tám chương đầu trở đi là đáp giải thích. Trong giải thích nói ngay nơi tục là chân, v.v... là phải nói bảy thứ trước đến thứ chín. Từ nhiều theo tiện nên nói tám thứ đầu, tám không phải là chân chứng nên gọi là Tục. Ngay nơi tục này thể tánh là chân, nên nói ngay nơi tục là chân. Quả báo chiêu cảm là giới ngoại tục. Tục do chân chứng, chứng thể khởi dụng, dụng ngay nơi là tục, cho nên nói ngay nơi chân là tục. Quán là thánh pháp, y pháp vào quán. Cho nên nói sự im lặng của bậc Thánh. Nghĩa chung trụ tiền tất cả phàm phu. Chánh quán một phần là định, v.v... Hoặc nói chỉ quán ở nghĩa thật không song cùng nêu chương danh mục không tiện. Trước nêu chương nói chánh tu chỉ quán nay lược tu chỉ, chỉ nói chánh quán, chánh tu chẳng ngoài hai pháp chỉ quán có chỉ thì thuộc định, có quán thì thuộc tuệ. Tuệ gồm các chương kia, trong các chương kia nếu y cứ về giải thì đều là nghĩa, chỉ thuộc về giải, giải tức thuộc về quán. Quả báo ở đấy nên thuộc về giải. Quả báo thuộc quả văn thiếu là mục, là cũng tùy lời tiện, theo lý giải nói năm chương trước và khởi giáo là mục, mục thì thuộc về giải, năm chương trước chỉ cho tự hạnh, khởi giáo một chương sai chỉ cho tha sanh. Phương tiện đến quả báo là đủ. Đủ là thí ở hạnh, phương tiện chánh quán có công dụng hạnh. Quả báo vị ở Sơ trụ trở lên không có công dụng hạnh. Tự nhiên tác ý, dù ít khác nhau, đồng thuộc ở hạnh. Nếu y theo quyển năm ở trước nói sáu lớp trước là giải, ấy là phương tiện cũng thuộc về giải. Nay dùng phương tiện được làm hạnh đầu, lại xếp thuộc về hạnh. Đại ý đến chánh quán là cộng, v.v... là vị tuy ở phàm, nhưng nghĩa chung cạn sâu nên gọi là sông. Vì từ Sở trụ đến Đẳng giác cũng gọi là chánh quán từ thắng mà đặt tên, vì là quả báo và khởi giáo v.v... nên hai thứ này chẳng chung với hạ phàm. Chỉ ở thánh vị nên gọi là bất cộng. Nói chung riêng, chung là chung ở nhân quả mình người, riêng là riêng ở tám chương khác nhau. Nói dọc ngang là thể tướng một chương chánh nói về cạn sâu nên gọi là dọc, tám chương kia so thể một lần là ngang, hương vị nói rõ đều là đồng khác. Chỉ có thích danh một mực là ngang còn các thứ kia thì gồm cả ngang dọc. Như đại ý mỗi lần thì ngang, nếu dùng phát âm mà so quả báo há chẳng phải là dọc sao? Nhiếp pháp sáu môn, mỗi môn so nhau thì là ngang, đương môn vẫn dọc. Phương tiện năm khoa, mỗi khoa so sánh nhau cũng được gọi là dọc, đương khoa vẫn ngang. Như trước đủ duyên kế mới trách dục (muốn). Muốn vào chánh quán phải bỏ cái màng che, cái lui thì đạo tiến tùy bịnh mà chữa trị. Tuy có đủ bốn khoa phải cần năm pháp. Y cứ thứ lớp này nên gọi là dọc. Mỗi trong năm như áo so cơm dùng sắc so tiếng đều không cạn sâu. Các khoa khác cũng Cho nên không gọi dọc. Chánh quán một lần tuy gọi là ngang, bắt đầu từ năm phẩm, cuối cùng ở sáu căn, chung thuộc chánh quán là nghĩa ở dọc. Quả báo đương vi thì tức là ngang. Đầu từ sơ trụ, cuối đến Đẳng giác, đây thì là dọc. Khởi giáo một chương khắp bày lưới giáo, tùy duyên năm vị quá hiện mà vào thì gọi là ngang. Trải qua năm vị quá hiện mà vào thì gọi là dọc kế phân biệt, trước trong hỏi nói lược mà chỉ, v.v... nếu lấy văn này là Đại sư phân biệt, chẳng phải lấy Thương lược mà làm (vì) lược chỉ, vì Thương lược này thuộc tựa Chương An. Vì đối Đại sư Chương đầu đại ý là phân biệt, nghĩa là rất bất tiện huống chi văn trong Thương lược không có bất định. Cho nên văn ấy chép: lược nói kinh Phật thô bày ý viên. Kế dẫn Vô Lượng Nghĩa để nói về tiệm thứ. Nói tiệm thứ xong liền nói nay bỏ tiệm nói đốn cùng đáp văn dưới chép: Riêng thì lược chỉ ba môn nghĩa lại chẳng tiện. Nay nói trong văn tuy không có lời miệng nói, đây là Chương An phân biệt riêng, tức chỉ biện sai lược giải thích ba môn để làm câu hỏi này. Tuy ở trong tựa nghĩa gồm cả chánh. Cho nên bản thứ nhất chưa có văn tựa, cùng ở văn mà trước nêu ba chỉ quán, và trong đại ý các văn phần nhiều dùng ba chỉ quán mà kết. Bản hai trước nêu lý do, tức là tựa trước do thầy trò truyền nhau. Chương An soạn tựa hợp với soạn tựa, cho nên trong phân biệt đối nhau làm câu hỏi. Cho nên hỏi ba lược đồng khác thế nào với đại ý này? Đáp: có chung riêng. Chung thì lược là một với đại ý. Như trong phân biệt nói đại ý lược, tám thứ kia là rộng. Riêng thì chẳng phải như thế. Lược thì ba thứ chỉ, quán khác nhau, đại ý chỉ nói viên đốn chỉ quán, một trong ba thứ nên nói viên đốn chỉ quán, một trong ba thứ nên nói một đốn, chớ bảo ngoài ba riêng. Nếu lập riêng thì có nhiều ngại, một là thành Thiên Thai chẳng bẩm Nam Nhạc; hai là đại ý cùng tám chương thành riêng. Đại ý nhìn tám chỉ có rộng hẹp, chẳng phải là riêng; ba là đương văn tự tướng trái ngại; bốn đế bốn hoằng mười thứ phát tâm chỉ y cứ bốn giáo vì sao ngoài ba lập một riêng. Nếu đại ý một đốn ở các, vì sao thích danh được có dứt đối đãi viên y ba đức. Trong hiển thể chẳng dạy thứ lớp nhãn trí cảnh giới không thể nghĩ bàn đắc. Thiên viên năm chương, mỗi chương lập hai mươi lăm pháp đốn, mỗi pháp viên giải. Mười cảnh chánh quán đều không thể nghĩ bàn. Vô duyên từ bi, an tâm pháp tánh, chẳng có thứ lớp mà phá một thông bít, đạo phẩm vô tác chánh trợ cùng làm. Lìa ái thì không mê đắm vị lên Sơ địa. Như các văn đó đều nói về đốn vì sao lại gọi là Tiệm ư? Nếu nói đại ý chỉ là một đốn, vì sao trong văn lại nói bốn giáo, đủ như văn bốn hoằng phân biệt sau. Kế các câu hỏi sau đều là phân biệt sở Đại sư truyền. Trước trong hỏi nói y cứ giáo luận như hiển, v.v... vì ba quán cùng ba giáo trong tám giáo tên đồng. Bốn giáo như tạng v.v... thuộc về Tiệm, trừ tạng đẳng bốn chỉ đốn đẳng bốn. Cho nên chỉ dùng Mật giáo đối hỏi ba thứ kia, giáo của ba quán đã là Hiển giáo, Hiển mật đều dạy đều có thể tu quán, cùng phải y cứ bí mà tu Mật quán ư? Cho nên người đọc đến đây phải biết đốn, v.v... ba quán cùng đốn trong tám giáo đều là ba thứ khác nhau. Vì tám giáo kia chỉ ở bốn thời giáo như nhũ, v.v.... Nay ba văn này đều duyên theo lý viên. Đáp: ý chia hai nay chẳng luận mật kế hỏi: chia hiển mật khâu như vừa luận cho nên nói chia môn có thể như thế. Theo lời tôi hỏi phải luận mật quán có được hay chăng? Kế trong đáp trước lập hai môn là được, chẳng được. Kế từ giáo trở đi là chánh đáp, trước chánh y cứ hóa chủ mà nói về được, chẳng được mật thuộc về bậc Thánh, thánh hay song ích. Nay luận phàm sư cho nên thiếu mật, vì thế người tu quán, không có nghĩa. Cho nên nói người nghe nhờ đâu mà làm quán. Kế hoặc lập trở đi là nghĩa lập ở được. Vị tuy ở phàm, phàm sư có nhiều thứ, năm phẩm trở xuống đều gọi là chẳng được, sáu căn tịnh vi tuy không có ích ba luân khẩu mật, nhưng có thể truyền âm mầu cùng khắp Đại thiên giới. Chẳng hỏi về Phật hóa nên nói năng truyền, người bẩm giáo vẫn không thầm được lợi ích. Kế từ nếu người tu quán trở đi là y cứ sở hóa mà nói được, chẳng được. Trước nói chẳng được nên nói phát chỗ tu hiển. Hiển là ba chỉ quán như đốn v.v.... Người bẩm giáo, chẳng được tu mật nên nói chẳng phát người chẳng tu, huống chi cái mà Mật giáo giải thích đồng hiển, thì không có nghĩa lập riêng tu Mật quán, nếu nói chẳng tu. Kế phát túc tập trở đi, là y cứ nghĩa sở hóa mà lập. Như tu sanh diệt mà phát vô tác, hiển bày bất định giống như Mật bất định. Nghĩa lập Mật quán nên nói được luận. Hỏi trước cạn sau sâu là tiệm gồm chung mà luận. Thiện ác cho đến đạt thường trụ lại được gọi chung là tiệm. Đáp là bất định. Lý sâu sự cạn y cứ bốn tất mà nói, cũng có thể y cứ tiệm xoay vần so nhau cùng là sâu cạn. Hỏi: Tiểu thừa cũng là v.v... là lại hỏi đáp trước. Tiểu thừa cũng là Như lai trước nói ý gì mà cho là chẳng phải. Trong đây có hai lớp ý hỏi: một là hỏi đại tiểu đều là Phật nói vì đâu riêng nói ba là chẳng phải tiểu, hai là tiệm của đại, ba đã nói là tiểu, đâu riêng chẳng phải ý đáp là tiểu có hai nghĩa. Nếu y cứ giáo đạo cũng là cách xa, cho nên nói chẳng phải. Pháp ở tiệm sơ người vốn biết là đại, tư vi đến trứ còn nhiếp trời người, y cứ xích cướp lời vì tiểu là chẳng phải. Cứ vào chưa khai quyền mà chẳng biết thật. Cho nên trong tiệm cho đến mảy may điều thiện đều thuộc về đại. Cho nên được gọi là từ Vi đến trứ.
Hỏi: bày ba văn giả Đẳng giác. Hỏi trong chỗ bày cho bày ba văn, ba văn này là gì? Trước song định, sắc là môn ấy, sắc là chẳng phải môn. Nếu môn ấy trở đi là song nạn (hai câu hỏi). Trước hỏi môn ấy, môn gọi là năng chung, thất tướng thành sở, sao gọi là Môn. Nếu chẳng phải môn trở đi là kế hỏi chẳng phải môn sắc gọi Trung đạo, đạo gọi năng thông, năng thông tức là môn sao gọi chẳng phải môn. Kế ý trong văn đáp là sắc pháp, sắc cũng là thật tướng. Nếu văn là môn, môn là pháp giới, pháp giới tức thật nên nói đều là. Từ chúng sanh nhiều điên đảo trở đi là giải thích lý do của môn. Vì văn là sắc làm môn năng thông. Chỉ vì chúng sanh mê thật tướng nên gọi văn là môn. Ở văn thấy lý nên văn tức thật tướng, đâu có năng sở. Cho nên xét văn và môn thì đều là ba đế. Văn tức tục đế chẳng phải văn tức thật cả hai đều chẳng đúng, tức là Đệ nhất nghĩa đế. Quán môn làm ba so sánh sẽ thấy. Như thế khi quán văn và môn đâu khác, đều gọi năng thông, đều là sở chí (chỗ đến). Nói điên đảo, điên tức là đảnh, đảnh ngã xuống nên gọi là điên đảo. Kế nói gồm là kết, là lấp, đóng cửa lại. Túi có quát kết thâu ở một túi, chương có đại ý nắm hết đầu cuối. Thích Danh là đầu, chỉ qui là cuối. Cho nên biết đại ý như túi có nấp đựng đầy kết thúc mười chương. Quán đãi trước sau quan là đầu, đãi là sau. Đại ý có phát tâm nên quán đầu. Đại ý có chỉ qui nên đãi sau. Đã thông suốt trước sau nên nói ý chậm. Có người chép: quán tượng ở trời, đãi tượng ở đất. Chương đại ý này cũng như khoảng trời đất che chở, nếu làm giải thích này thì phải đổi chữ Đãi. Nay từ trước giải thích nên chẳng cần đổi. Nắm chín rộng dưới xem là năm lược. Bày ý chỉ chín chương, nên nói đại ý, cho nên năm lược này đều lấy đại làm tên. Trước giải thích chung, sau giải thích riêng. Hoặc chung hoặc riêng đều dụ cho nang quát. Trong sanh khởi nói làm sao đến hạ hóa là năm chương, tuy là phát tâm đứng đầu, cũng duyên chúng sanh mà làm thệ cảnh. Tối tăm điên đảo chẳng tự thấy biết. Bồ-tát khuyên bỏ nên nói sai ngộ, làm sao đến Tam-muội, là tuy lại hẹn tâm năm trăm do tuần nhìn đường báu mà chẳng chịu tiến đến, cho nên khuyên thực hành bốn thứ Tammuội. Vì sao đến tâm ấy, là phát tâm chẳng chỉ cầu quả báo thật, vô minh hết rồi thì quả này tự được. Vì người phát tâm tình nhiều muội chỉ? Cho nên nói quả báo mà làm vui, vì giúp người sơ tâm thêm cố gắng. Cho nên Đại kinh quyển hai, Thuần-đà hỏi Văn-thù làm bần nữ thí dụ rằng: thí như cô gái nghèo không có nhà và ai cứu giúp lại thêm bịnh tật đói khát ép ngặt, đi khắp nơi xin ăn, ngủ tạm nhà người mà sanh một đứa con, lại bị chủ nhà đuổi đi, bị muỗi mòng, ong độc cắn chích. Khi đến bờ sông ôm con lội qua, do đó mẹ con cùng chết. Như thế cô gái nhờ niệm công đức ấy chết rồi được sanh cõi trời Phạm thiên. Tuy chẳng cầu Phạm thiên mà Phạm thiên tự ứng. Chương An giải thích rằng như là dụ vô duyên. Từ, sanh con là dụ viên giải, luận trước sau phải đủ sáu từ. Sanh lên trời tức là phần chân rốt ráo từ Chương An chung lấy từ, v.v... mà đối. Nếu theo ý của Đại kinh ấy, thì mỗi tế hợp thì không có công đức pháp tài nên gọi là nghèo. Lý từ nhu hòa nên gọi là gái, chưa khế thật lý nên nói không nhà ở, chưa có muôn hạnh nên gọi không ai cứu giúp, đầy đủ tám khổ nên nói bịnh khổ lại không có định tuệ nên nói đói khát bức ngặt, năm tuần cầu giải nên gọi đi khắp nơi xin ăn phương tiện mà giải khởi, gọi là ở nhờ nhà người. Nhân phát viên giải gọi là sanh nhờ. Quyền chẳng nhận thật là đuổi đi, cũng có đủ hoặc kiến tư gọi là ruồi muỗi cắn, trải qua hai chết gọi là đến bờ sông
Hằng, chẳng bỏ viên giải gọi là ẵm con lội qua. Khi chân giải sanh giống như giải mất trước gọi là đều chết nương năng lực bản giải gọi là Từ công đức. Chân chứng khai phát gọi là sanh Phạm Thiên. Nói báu Diệu là đường chung bắt đầu từ Sơ trụ. Cũng có chúng sanh chẳng nghe báu diệu công đức gọi là uổng chân mất công ấy, nên nói báu diệu mà an ủi cho vui. Thế nào là xé toang lưới, lớn thoát ra khỏi lồng? Phá là xé rách. Đã cảm quả báo nếu dạy lợi người phá lưới nghi người khác, tuy vốn là mở mắt trí cho chúng sanh, nhưng thật là cơ chưa hiển bày. Như trước kinh Pháp Hoa, chúng sanh đối với giáo quyền thật, không hữu, sự lý mê mờ lẫn nhau. Nếu đã phán khai quyền bày thật sai quyền thật chẳng lạm, khiến biết bản ý của giáo. Phá lưới nghi chấp giáo thấu suốt không ngoài lý một, hiểu đại thể pháp môn, biết các giáo có chỗ về, nghe tuyết nghĩa là hạnh đến động là dẫn chứng người chấp giáo mê chỉ, cho nên Đại kinh quyển mười ba chép: Ở trong Phật pháp trộm lấy phần ít luống dối chấp có thường lạc ngã tịnh. Như người mù từ mới sanh chẳng biết mầu sữa. Liền hỏi người rằng sữa giống như cái gì? Người đáp: Mầu trắng như vỏ ốc. Người mù lại hỏi: Mầu sữa có như tiếng vỏ ốc chăng?
Đáp: không phải. Lại hỏi giống như cái gì? Đáp như bột gạo. Người mù lại hỏi như bột gạo mềm chăng?
Đáp: không phải. Người mù lại hỏi: bột gạo giống như cái gì?
Đáp: như tuyết. Lại hỏi có như tuyết lạnh chăng?
Đáp: không. Lại hỏi giống như cái gì? Đáp: như con hạc. Lại hỏi giống như hạc động chăng?
Đáp: không. Người mù tuy nghe bốn lần nói như thế nhưng trong không thể thấy được mầu thật của sữa. Ngoại đạo cũng thế, tuy nghe bốn tên mà không thể biết thường lạc ngã tịnh, nói chỗ sở qui. Như người mù kia mê nên không biết mầu sữa thật. Nay người không biết giáo so đây mà biết. Nay dung thông v.v... là lý vốn không nói, nói sẽ bị cơ. Bốn tất, bốn môn các quán các đế, thích thời lợi vật chẳng bằng thông phương. Liền chấp một ngung tình chấp chưa phá. Nay vì dung hội trùng nghi đáp nhiên (lại càng nghi), như bị chim nhốt, trong lòng không thỏa thích, tháo kết chấp trệ, mở lồng quyền giáo, như dạo cõi thái hư dẫu rộng mà vô ngại, khiến mù có trí, dẫu chưa biết sữa, lại chẳng chấp vỏ ốc v.v... mà tranh cãi. Làm sao về đại xứ đến tự tại, là hóa vật đã khắp về với Bí tạng. Thể của Bí tạng không có đầu cuối. Không đầu mà đầu, đầu tu ba quán, không cuối mà cuối, cuối đến ba đức, không bít mà bít giả gọi ba chướng, không thông mà thông giả gọi ba đức. Văn trước là lý pháp. Nếu biết rồi trở đi là tu đắc. Nếu được ý này đâu chỉ đến quả tự tại vô ngại? Nhân thời thể mà hiểu đầu cuối chẳng hai. Vì nói đại ý nên bàn chung. Ý văn chỉ tại hai lược trước. Sanh khởi năm lược hiển mười rộng là đối hiển.
Sanh khởi năm lược bày mười thứ lớp. Dù nói, năm mươi chẳng ngoài tự hành nhân quả hóa tha năng sở.
Kế trong phần giải thích rộng mà nói phương ngôn. Hai địa phương Đường, Phạm tiếng nói khác nhau. Kế là trong giản phi thì trước tiên giản tâm. Hữu tình ấy đều có thể phát, cho nên chỉ phân biệt chưa nhóm cỏ cây, hai thứ tuy gọi tâm mà chẳng có phát này. Vì các chúng sanh từ vô thỉ hoành kế, chỉ có hoành kế này sẽ phát. Đạo cũng có trở đi là phân biệt đạo. Tên đạo đã thông phải lấy các phân biệt trái mà khiến cho phải. Nay lược làm mười điều là chỗ phân biệt. Tâm là năng làm, đạo là năng thông, như đường ở thế gian. Người là năng đi, đường là năng thông. Nói chung riêng, chỉ là năng thông đều nói là Đạo. Nay mười thứ chẳng phải tâm gọi chung là Đạo, là đường dài xa cũng có thể đến, như con đường cái chung cả bốn phương kia. Nếu tâm ấy niệm niệm, tức là y cứ mạnh mẽ mà nói thuộc đạo ấy. Trước tham sân si tướng nó rất rõ nên gọi là Chuyên. Dùng chỉ chẳng dứt nên gọi là nhiếp, chẳng còn, dùng quán chẳng phá nên gọi là nhổ chẳng ra. Lại buông lung duyên ngoại cảnh nên nhiếp chẳng lại, nội tâm bay nhảy nên nhổ chẳng ra. Y cứ đại phần nói ngày tháng thêm nhiều, theo lý thì phải nói niệm niệm thêm mạnh. Cảnh mạnh tâm nặng, nói thuộc thượng phẩm. Ý ba hạnh bảy nên thành mười ác. Phần tiếp theo căn cứ vào đâu mà biết.
Nói năm người phiến-đề-la, là kinh Vị Tằng Hữu quyển hạ chép: xưa có năm vị Tỳ-kheo biếng nhác chẳng tu kinh sách. Lúc đó, ở đời lúa gạo rất mắc mỏ, bị người khinh nên chẳng được cúng dường. Năm người bàn nhau rằng người đời thường chấp theo hình dáng bên ngoài, mạng sống rất quý không nên để cho chết, phải cùng xin ăn. Bèn đem giường dây đến chỗ trống, quét trước sạch sẽ, ngồi trang nghiêm theo thứ lớp. Bên ngoài giả ngồi thiền, bên trong thì nghĩ lăng xăng. Người thấy chẳng rằng bậc Thánh, nhờ đó mà được cúng dường đầy đủ có dư.
Có một cô gái tên là Đề-vi, nghe tin thì tâm rất vui mừng sửa soạn đẹp đẽ đến lễ cúng mời về nhà, năm người liền nhận lời. Đề-vi có mười khoảnh vườn rừng ao suối, nhà cửa đầy đủ, mời về cúng dường trọn đời. Năm người lại nghĩ người đời có nhiều cách tìm cầu tài vật, tuy được thí chủ cung cấp thì ngày giàu mà năm nghèo. Bèn sai một người đi khắp xóm làng bảo mọi người rằng: bốn vị Tỳ-kheo kia đã thành A-La-hán, khen ngợi bằng nhiều cách. Mọi người nghe xong đều mang đồ đến cúng dường, cứ như thế trong nhiều năm. Đề-vi tâm ngay thẳng cúng dường cầu phước, vì thế người phải trải qua tám ngàn kiếp đền nợ cho thí chủ. Tuy làm người mà các căn ngu tối, không có Thạch nữ nam căn, nữ căn (bộ phận sinh dục nam nữ). Nên gọi là gái bất dục, trải qua nhiều kiếp như thế mà đền nợ thí chủ. Phật bảo Nặc Vương (vua Ba-tư-nặc) rằng Đề-vi lúc đó nay là Hoàng hậu, năm Tỳ-kheo ấy nay là năm người khiêng kiệu. Vua hỏi: Vì sao nay chỉ có bốn người? Phật bảo: Còn một người kia ở trong cung lo việc nhà cầu. Phu nhân (Hoàng hậu) nghe rồi thì khắp mình nổi ốc. Phu nhân có phước đức nên được như thế. Làm lành thì được báo tốt, làm ác thì bị tai ương. Phật giải thích xong, phu nhân thưa: Khi nào thì hết tội xin Phật nói rõ. Phật bảo gọi năm người, cả người coi cầu xí trong cung đến. Phút chốc họ đến trước Phật, Phật hỏi: Các ông có an ổn vui sướng không khổ chăng? Năm người giận đáp: Phật chẳng biết ngày đêm siêng khổ mà roi đánh chẳng dứt, có vui vẻ gì, Phật há chẳng biết việc như thế hay sao mà còn hỏi. Phật hỏi khổ của thân, nay so với khổ của thân trước tội cũng chưa hết nên phải sám hối tu thiện mà dứt lỗi. Năm người nghe xong giận ghét Phật không chịu nghe lời. Phật biến hóa thân ở trước họ mà an ủi, khuyên bảo, như thế khắp bốn phương tám hướng trên dưới đều thấy Phật, họ liền lớn tiếng gào khóc vì sao ép phải chịu mãi thế này?
Phật thâu hóa thân lại bảo mọi người rằng: Tội có hai thứ nghiệp chướng và báo chướng. Vì đầy đủ hai thứ nên chẳng chịu hóa độ. Phu nhân thấy vậy bảo năm người rằng từ nay trở đi mặc tình các thầy đi đâu thì đi. Năm người thưa rằng: chúng con bị tội gì mà đuổi đi? Xin dung thứ mà tiếp tục sai khiến, ba lần như thế đều không chịu đi, Hoàng hậu bạch Phật, Phật bảo: lúc hết họ sẽ đi. La-vân nghe xong liền thưa: Con là trẻ con chẳng dám thọ người cúng dường, muốn bỏ đạo mà về nhà. Phật bảo: không nên như thế. Như ăn no quá độ. Người trí thì đến thầy thuốc, thầy thuốc làm cho ói mửa túc thực bụng ra đồ ăn đêm qua người vô trí thì bảo là quỉ mị tiêu phí gia tài túc thực chẳng tiêu, chết rồi đời sau đọa vào địa ngục chịu các khổ, Phật bảo La-vân: Con sợ tội trở về nhà thì như người vô trí kia, cho nên người trí phải luôn gần gũi bậc thầy sáng suốt, cho nên biết không có đức mà nhận cúng dường thì như bọn Đề-la kia.
Đi đường lửa: như kinh Tứ Giải Thoát gọi ba đường là hỏa, huyết, đao. Đồ là đường, ngục nhỏ thì có nóng và lạnh. Ngục lớn thì chỉ có nóng, lại từ nóng mà nói nên gọi hỏa đồ (đường lửa). Ưa thích nhiều quyến thuộc, là loài súc sanh phần thì nhiều ưa hợp thành đàn bầy. Cho nên phá giới thì gồm quyến thuộc tốt cảm được. Thôn lưu là muốn người khác về với mình như biển nuốt sông suối. Muốn mình nhiếp người khác như lửa đốt củi.
Chung đủ ba độc tham dục làm gốc. Nay nói theo chung nên có mười ác, khác văn khác so lời này. Như Điều-đạt là nói đủ như trong Đại kinh, Đại luận và các văn luật. Nay tạm lược y Đại luận mà phụ ý các văn, tức là dạy vua giết cha mà làm vua mới, còn mình hại Phật làm Phật mới. Y-tu-đà được hữu lậu thông mà khuyên bảo vua, hóa thành trẻ con ngồi trên gối vua. Vua do đó mớm cơm cho ăn, hại Ni Liên Hoa, xô đá đè Phật, đủ ba mươi tướng chỉ thiếu hai tướng sợi lông trắng và bánh xe ngàn căm mà thôi. Liền lấy vòng sắt mà đốt thật nóng rồi ấn vào chân để làm tướng bánh xe ngàn căm, chân phỏng sưng đau khổ chịu không nổi. Anan bạch Phật: Anh con như thế xin Phật cứu giúp. Thế tôn thương xót đến phòng lấy tay xoa thì các đau đớn đều hết. Bảo Thế tôn rằng dòng giống vua Tịnh Phạn có đạo thuật, như thế đủ để nuôi thân. Khi bình phục rồi bèn theo Phật đòi chúng. Phật quở rằng người ngu vô trí, ta còn chẳng giao chúng cho Thân Tử và Mục-liên, huống chi ông là người ngu ăn đàm dãi của người. Do đó mà kết hận, bèn đặt ra năm pháp để dạy chúng của Phật, năm pháp ấy, Bà-sa nói: Một là y phấn tảo: Hai là thường khất thực: Ba là ngồi ăn một bữa: Bốn là thường ngồi ngoài trời: Năm là chẳng ăn muối và năm vị, năm pháp này chẳng đồng với chánh lý. Chánh Lý chép: Một là chẳng ăn năm vị: Hai là bỏ ăn thịt: Ba là bỏ muối: Bốn là chẳng nhận y đã cắt may: Năm là chẳng ở chùa ven làng xóm. Phật ở Vương xá có nhân duyên nhóm họp tăng. Điều-đạt đứng dậy, đưa ra năm pháp Xa-la rằng: Nhận năm việc này là Tỳ-ni. Lúc đo, có năm trăm người mới học vô trí cầm thể, A-nan đứng dậy bảo ai nhận năm điều này là phi pháp, không phải tỳ ni. Điều-đạt nói năm trăm vị này không cần đến Phật và tăng bèn đem đến chùa Gia-da cùng làm Yết ma. Lúc đó các Tỳ-kheo bạch việc này lên Đức Phật, Phật bảo người ngu diệt bỏ tâm lành phải ở trong địa ngục một kiếp không cứu được. Ta chẳng thấy ông ấy có chút tâm lành nào dẫu bằng sợi tóc. Thân Tử và Mục-liên đến núi Già-da, Điều-đạt an ủi nói: Lành thay các đệ tử trước tuy chẳng nhận này đã nhận rồi chăng? Tuy sau cũng là tốt, bảo Thân Tử hãy nói pháp cho chúng nghe, nay ta đau lưng phải nằm nghiêng bên hông phải. Mục-liên hiện thần thông, Thân Tử nói pháp rồi đem năm trăm người này bay đi. Điềuđạt ngồi dậy, thấy mất chúng thì tức giận, v.v... Nếu nói về tạo tội nghịch phải đọa vào A-tỳ, lại y cứ vào lời dạy chúng nên bảo là tâm súc sanh. Lại như Nan-đà thị hiện dục, Thân Tử thị hiện sân, Điều-đạt thị hiện si. Lại y cứ si nên thuộc về súc sanh. Lại nói lục súc thì lấy sáu mà nhiếp hết các loài nên nói là sáu. Trịnh Huyền chú giải sách lễ nói trâu, ngựa, dê, chó, heo, gà cũng y cứ và nuôi trong nhà mà nói. Từ tướng ăn nuốt lẫn nhau nên gọi là huyết đồ.
Bốn xa, tám phương, Nhĩ Nhã gọi là bốn chỗ rất xa là Đông đến Thái viễn, Tây đến bản quốc, Nam đến Nghiệp bồn, Bắc đến Chúc lật. Đây là nói rất xa. Bác Vật Chí chép: Đông đến chín Di, Nam đến sáu Loan, Tây đến bảy Nhung, Bắc đến tám Địch. Kế là nước Hoang. Chu Lễ nói tám loan, sáu nhung các thứ khác đồng với bác vật. Bốn duy bốn phương là tám hướng cũng gọi là tám cực, cũng gọi là tám mang. Khen tên gọi là xưng, khen đức gọi là dương. Tâm kính gọi là khâm, miệng hứa gọi là vịnh. Biết mình không có đức mà muốn người khác xem là thánh như Ma-kiềm-đề, là Đại luận quyển hai nói người ấy khi sanh làm kệ vặn hỏi Phật rằng: Trong pháp quyết định bỗng sanh các tưởng đều bỏ làm nội diệt vì sao ở đây nói là Đạo. Phật đáp không phải nghe thấy biết chẳng từ giới mà được, cũng chẳng phải chẳng thấy nghe chẳng phải chẳng trì giới mà được. Như thế luận đều bỏ, cũng bỏ ngã và ngã sở. Lại hỏi Phật rằng: nếu không phải thấy nghe v.v... không phải trì giới mà được, hãy như tâm ta quán sát thực hành pháp câm mà được đạo. Phật đáp: ông y theo tà kiến, ta biết ông tu theo đạo ngu si. Nếu chẳng thấy các tướng, khi ấy ông sẽ tự câm. Lại quyển ba chép: Ma-kiềnđề chết, đệ tử dời thây để trên giường đem ra chợ chỗ đông người bảo rằng nếu người có mắt thấy thây của Ma-kiền-đề thì người ấy đều được đạo thanh tịnh, huống chi là bễ bái cúng dường. Lúc ấy có nhiều người tin theo các đệ tử nghe việc ấy liền bạch Phật, Phật bảo: người nhỏ mắt thấy cầu thanh tịnh, như thế không lợi không thật đạo, các kết phiền não đầy trong đêm, làm sao mắt thấy được thanh tịnh? Nếu có mắt thấy được thanh tịnh, thì đâu (cần gì) trí tuệ công đức báu. Từ bị đuổi xô ép bức làm tên nên gọi là đao đồ. Pháp Hoa thí dụ người trẻ mạnh hống hách. Tục giáo còn nói cao lấy thấp làm nền tảng, sang lấy hèn làm gốc, tự ỷ có đức thì sẽ khinh người, huống chi mình không có đức mà muốn hơn người. Cho nên biết đây còn muốn hơn đó há là hạ mình đối với người khác. Tự dẹp đức mình gọi là hạ, há con điêu há bay cao mà hơn chim công? Chẳng vì quý mình sai người khác, đều kém mà bên ngoài khen nhân nghĩa lễ trí tín. Lấy từ nuôi vật là nhân. Lấy đức suy dời là nghĩa, tới lui họp nghi là lễ, quyền nhờ siêu bạt là trí, lời nói có (không) thể lật ngược là Tín. Lão Tử chép: Mất đạo mà sau đức, mất đức mà sau nhân, mất nhân mà sau nghĩa, mất nghĩa mà sau lễ, mất lễ mà sau trí, mất trí mà sau tín. Ý Lão Tử lấy đạo làm gốc, tín chẳng thể quên. Đạo chẳng phải ngoài đời ý còn ở năm đức. Đây là ý văn nội đức đều đủ mới thành đạo người. Khinh mạn mạnh mẽ mà không có đức thì thuộc về tu-la. Lại y cứ vào tâm lành vẫn ở hạ phẩm, ngoài khen năm đức vốn là khinh người. Tu-la có nhiều thứ là ở bờ biển, bờ đê, v.v... như bốn thứ Bà Trĩ, v.v... đều ở dưới biển hai muôn do tuần, vì là một cung tuy ở chỗ ở tốt đẹp, phải gồm nhiều phước mới được sanh lên đó. Trong nhân đạo nói vui người tâm si, hễ nói si là ở trong thiện ác, đã khác nhau ở trong bốn đường ác này chẳng bằng thiện của các trời, lại không có nhân xuất thế thì xếp vào si. Nếu thế thì nào khác súc sanh?
Đáp: súc thì gồm mười điều ác hạ phẩm, si gồm dạy chúng làm càn. Nếu không có nhân xuất thế thì sáu đường đều một khác. Thiên đạo, đây là các tầng trời cõi Dục, nếu ở đất thì nghiệp ắt chẳng tu định. Nay nói theo thắng (hơn) thì nói gồm ở trên không, cho nên quan căn trần chẳng để ra vào. Kế ở các tầng trời cõi Dục mở riêng dục chủ là Ma-lađạo dân và chủ tâm khác nên mở riêng. Cũng như Phạm Vương là riêng có một. Mười thiện Thượng phẩm gồm một không ngăn báo làm Ma-vương, tánh thường ganh ghét, bất luận việc làm thân khẩu bên ngoài, ý muốn người khác theo, thuộc về đạo này. Nhưng ắt cũng chưa đến định lực mới sanh cảnh ấy để làm dục chủ. Sáu hợp là trời, đất và bốn phương. Ngung ngung là kính ngưỡng, Kinh Thi chép: Vạn nhân ngung ngung, tức là muôn người kính ngưỡng vậy. Ni kiền là tên chung của ngoại đạo. Tam thiền vui như suối đá, Đại luận nói vui có hai thứ: nội lạc và ngoại lạc vui bên trong tức là Niết-bàn, chẳng từ ngoại trần, cũng như nước từ suối đá sanh. Vui của Phạm hạnh cũng giống như thế. Luận văn thí dụ riêng về vui Niết-bàn nay dụ chung vui tam thiền cũng là thọ bên trong. Hỏi: đã nói Sắc, Vô sắc sao miệng chỉ tam thiền?
Đáp: Vui trong hai cõi chẳng hơn tam thiền. cầu sanh lên cõi trời là lấy vui làm gốc. Vả nêu cái vui này các thứ khác đều so với đây. Thiện ác xoay vần v.v... là thiện thông đến phi tưởng ác tột là vô gián. Lên rồi lại xuống nên gọi là Bánh xe, vô thỉ vô cùng dụ cho xoay vần. Phá ác do tịnh tuệ, v.v... do nhờ Nhĩ Nhã nói là giúp. Ba pháp xoay vần lại do nhờ nhau. Lấy cạn giúp sâu suy rộng ở giới.
Nhị thừa còn như thế, Bồ-tát càng hơn. Vì hộ người khác cho nên chê bai thì gấp. Tiểu thừa tự độ tánh nặng thì gấp cho nên Bồ-tát nặng nhẹ đều từ giữ, giới tựa nói Thanh Văn tiểu hạnh còn tự quý kính Mộc-xoa, Đại sĩ còn mang, người sao chẳng biết trì giới phẩm. Nay giới là gốc hạnh, cũng là Tiểu thừa bỏ mà chẳng từ thì đại tiểu đều lỗi. Kế hoặc tâm, hoặc đạo trở đi là nêu lược mà bày rộng. Dùng ít nhiếp nhiều trong một đạo không phải tướng vô biên. Cho nên nói rất nhiều. Hoặc khai trên hợp dưới là nói khai hợp. Trên là Nhị thừa, dưới là Tu-la. Từ quỷ súc ra khai trên hợp dưới chuẩn, lời này rất dễ hiểu. Pháp Hoa nói sáu đường, Tịnh Danh nói năm đường vì Tu-la khai hợp nên như thế. Mười là số phương ý như trước nói. Kế nói dùng mười tâm, trong ý ở trước nêu ý, nêu một thứ làm ngữ đoạn v.v... Nói thẳng là nói, luận bàn là ngữ. Nay nói được mất là ngữ. Đoan là đầu mối, đầu từ mạnh mà được tên. Từ mạnh tức không có niệm khác. Khi qua đời chịu báo lại từ mạnh kéo dắt đi. Cho nên khởi một tâm, đều là chín thứ kia. Trong mười theo một nên nói một thứ. Kế như luận trở đi là dẫn chứng, đọa phải từ mạnh. Hoặc trước khởi đi đến chỗ, hòa trộn nhau là đối phải mà nói quấy. Trước là pháp, kế là dụ. Trong pháp nói trước khởi. Nếu chưa phát tâm thì gọi là Trước quấy, sau mới phát tâm gọi là sau phải. Đây chính là thể đang hiển soa được trong thí dụ mà gọi là đều trược; nay đây phân biệt chung phát tâm rồi mới sanh quấy sanh phải. Cho nên nói là thuộc quấy, hai tâm kia lý thuộc về quấy. Lại đã nói trước phải thì có sau quấy. Nếu không có sau quấy thì cũng là một bề hiện tướng của phải. Cũng chẳng phải hạn phân biệt. Lại đều khởi chẳng lẽ có hai tâm đều duyên cảnh ư? Chỉ y cứ tế niệm trước sau đều duyên thì gọi là đều khởi. Nếu thô lậu thì xếp thuộc trước sau, kế dụ tượng trở đi thì trước là dụ, kế là họp. Trong họp có hai thứ. Trước dùng nội ngoại hợp ba dụ trước, nội phải ngoại quấy, nội ngoại đều duyên gọi là đều khởi. Kế dùng ngay tâm quấy mà hợp với nội trước, nghĩa là nội quấy ngoại quấy cho đến đều quấy. Chín buộc một thoát tức là hai bên. Vì hai bên động nên gọi là quấy. Hỏi: hai văn có gì khác? Đáp: Trước tuy nội ngoại chỉ thí dụ nội tâm, sau nói nội ngoại tâm là cảnh đối nhau. Cho nên biết trước nói nội tâm cảnh đối nhau và trước nói nội tâm phải quấy đối nhau, nay một bề quấy, nội ngoại đối nhau. Đây đều một lần từ gượng nói riêng. Rốt ráo mà nói thì phải giả hòa hợp mới thành tướng quấy. Chữ tượng chẳng phải từ người, kế lại chín trở đi là chỉ y cứ bốn đế. Trong đó văn đầu y cứ thẳng bốn đế. Sanh tử Niết-bàn tức là khổ diệt. Kế động và bất động tức là Tập Đạo. Kế hữu vi trở đi là lại y cứ các pháp. Trước nêu, kế theo. Kế chín trở đi là cây, khổ tập đồng với khổ hữu vi hữu lậu. Tuy trước nói nếu đối nhau mà nói thì phải nói hữu vi hữu lậu là khổ đế. Vô vi vô lậu là diệt đế. Văn tuy chẳng nói nhưng ý ắt gồm hai. Khúc tức là chiết trí lòng vòng, truất tức là sanh diệt vụng qua. Thán là thân tro trí diệt, cận là chỉ đến hóa thành. Dưới trở đi là so sánh. Kế hữu vi hữu lậu, v.v... nếu đối nhau mà nói thì phải nói hữu vi vô lậu là đạo đế. Văn tuy nêu riêng nhưng ý phải gồm hai, kế thiện ác nhiễm tịnh v.v... nếu riêng nêu thì phải nói thiện tịnh và tập đối nhau, cho nên nêu cả hai thứ. Văn tuy nêu cả hai mà nghĩa qui về một bên. Kế phược thoát, v.v... là y theo đạo rất dễ hiểu. Đều là tục ngữ tiện, hoặc đơn hoặc phức. Kế là nếu được trở đi là tổng kết ấy thì niệm niệm thường phân biệt phải quấy. Nếu khởi tâm quấy thì phải dùng đương giáo là tâm mà diệt. Phi tâm tức là đường hiểm các hoặc, nếu thấy ý này v.v... là kết khen. Giống như mới đầu hỏi người tu trở đi là y cứ phải phân biệt quấy. Trước ý hỏi, là tuy không có mười quấy. Nếu kể tánh lỗi cũng đồng thuộc quấy. Kế ý đáp là tánh kể có lỗi cho nên nói chẳng thể. Chỉ là trở đi là nhờ đây mà nói phải. Lìa tánh lỗi đã y cứ không thể nghĩ bàn mà luận cảm ứng, nên gọi là phải. Thánh đã chẳng ứng mà ứng để đến bốn cơ. Thọ là chẳng cảm mà cảm ứng. Thiên tánh tương quan nghĩa đồng cảm ứng, kế dẫn hai kinh để chứng cảm ứng. Từ ác cơ mà nói cho nên nói là con bịnh. Rộng như huyền văn ba mươi sáu câu. Động núi của pháp tánh v.v... là kết nghĩa cảm ứng. Pháp tánh bất động như núi, điều ác chúng sanh sâu như biển. Không phải thệ nguyện lớn thì không mưu thiện quyền, làm sao có thể động núi khó động, vào bể khó vào, đồng thiện đồng ác, bày nghịch bày thuận đồng ác nên có hạnh bịnh, đồng thiện nên có hạnh trẻ thơ. Từ bi từ nhân cảm ứng từ quả. Vì có nhân nên quả mới vào được. Thiền kinh nói trở đi là giải thích thành cảm ứng. Cảm ứng chỉ là thuận theo vật cơ, cho nên dùng bốn tùy để giải thích cảm ứng. Đem hộ ý ưa thích ấy mà phụ vào thói quen tiện nghi đời trước. Xem binh nặng nhẹ mà đối trị, đạo (nói?) cơ thời thục đệ nhất nghi. Tùy và tất tên khác mà nghĩa đồng. Cho nên dẫn Đại luận để giải thích Thiền kinh. Năm lại nữa là Đại luận nói trong nói kinh Duyên Khởi. Hỏi rằng: có nhân duyên gì mà nói kinh này? Đáp trong đó có hai mươi mốt lần "Lại nữa". Nay dẫn năm thứ ấy để chứng bốn tất và năm nhân duyên năm lại nữa này vẫn không phải thứ lớp. Tùy nghĩa tiện cho nên trước là nói các hạnh của Bồ-tát, nên nói kinh Ma-la Bát-nhã Ba-la-mật, là lại nữa nhất, kế là sai Bồ-tát tăng tu Tam-muội niệm Phật là lại nữa hai, ba là nói tướng mạo Bạt Chí là lại nữa sáu, bốn là nhổ hết ác tà của đệ tử là lại nữa năm. Năm là nói Đệ nhất nghĩa, là lại nữa thứ mười. Năm thứ này là hội năm nhân duyên. Lược hội đầu là trong luận nhân nói Đệ nhất nghĩa cho nên giải thích bốn tất. Nay mở ra bốn tất cùng năm lại nữa để làm hai môn và bốn tùy năm lược bốn khoa pháp môn đồng là nghĩa cảm ứng. Nghĩa bốn tất đàn rộng như Pháp Hoa, Duy-ma đã giải thích. Nay bỏ cảm ứng nên chẳng nói đủ. Lăng-già cũng nói Phật bảo Đại Tuệ, đối với tất-đàn của mình phải khéo tu học. Nếu mê chung riêng thì nhà này an tâm sáu mươi bốn phen, tự hành bốn tất làm sao có thể biết được. Tự hành sẽ thành cảm ứng nếu chẳng tùy cơ v.v... là nói ý cảm ứng, năm lần lại nữa bốn tùy bốn tất và năm nhân duyên này đã là pháp cảm ứng xứng cơ, đều là đại bi ích vật. Luận trở đi là dẫn chứng. Chân pháp mà nói là nói diệu ứng khó cảm, thính chúng khó được, diệu cơ khó phát. Khó được cho nên ba chữ kết chung ba thứ diệu pháp, diệu ứng, diệu cơ ở trên. Như thế trở đi là giải thích chân pháp diệu ứng cái gọi là diệu cơ sở cảm đều là Trung đạo, Cho nên chẳng phải chẳng phải có không phải không tức là song phi chân tục. Tuy nói song phi mà ý ở tương tức chẳng khó chẳng dễ cũng hiển bày thể trung. Chẳng phải trí nê hoàn cho nên nói không phải, không phải trí phân biệt nên nói không phải khó. Có ba tất ích, lại dùng bốn tất mà kết thành chân pháp, ý nói bốn tất chỉ là ý hai đế và cảm ứng tức hiển bày Trung đạo xem là chân đế khác với chỉ chân Cho nên song phi. Nên biết cảm ứng chẳng ngoài hai đế. Nên biết duyên khởi trở đi là nói diệu cảm ứng làm được Phật sự. Nhưng bốn tùy bốn tất trở đi là riêng gặp chung. Vì đại bi nên thuận theo vật cơ được tên bốn tùy, vì thương xót nên bày khắp thuốc pháp mà được gọi là bốn tất. Đại bi cùng thương xót là một thể mà khác tên, như một vật chẳng khác. Bên trái thì bảo vật là bên phải, ở bên phải thì bảo vật là bên trái. Nhân duyên tức là năm lược. Hai chữ nhân duyên lại đắp đổi mà lập. Nếu chúng sanh phát tâm mạnh mẽ, tuy giả thánh ứng thì dùng chúng sanh làm nhân còn bậc Thánh làm duyên. Nếu chúng sanh gốc lành yếu kém, bậc Thánh có đốc thúc, tức dùng thánh ứng làm nhân, còn chúng sanh làm duyên. Thân sanh làm nhân, sự trợ làm duyên. Cho nên từ mạnh yếu mà đặt tên bất định. Phải biết trở đi là kết, bốn tùy bốn tất và năm nhân duyên, danh và nghĩa hợp nhau, cho nên phải hội. Nói là tên khác của ngôn giáo, vị là nghĩa vị, là đồng với nghĩa. Danh hợp với nghĩa nên nói hợp nhau. Hán Thư phong công thần lấy trúc dài sáu tấc mà hợp làm tin, cho nên chữ từ trúc. Từ cỏ là tên cỏ mắt quỉ ở đây không dùng. Tùy ưa thích trở đi là tên khác của thứ hội. Trước hội tùy tất, lạc dục là ưa thích, nên nói từ nhân. Thế giới là ấm nhập, nên nói từ quả. Thế giới lấy ngăn cách làm nghĩa, lạc dục tức ưa thích khác nhau, nhân quả tuy khác mà nghĩa là một. Tiện nghi là biện pháp năng phó nghi bị người nào. Vì người là quán người sở bị người thích pháp nào. Quán người sẽ chọn sở nghi, chọn pháp sẽ định khả năng chịu đựng được, năng lân sở phó cùng thành một nghĩa, hai thứ kia tên đồng chẳng cần hội khác. Lại năm nhân duyên trở đi là kế hội nhân duyên nghĩa đồng với tùy tất. Trước nói chúng sanh có tín nhạc v.v..., là ấm nhập là thế giới, tín nhạc là lạc dục (ưa thích), hai thứ này làm nhân cảm Phật nói pháp tánh, pháp giới làm duyên phát tâm, nên phát đại tâm. Thiền kinh lạc dục Đại luận thế giới tên khác mà nghĩa đồng. Chúng sanh có đại tinh tấn, là chúng sanh phải tu bốn pháp Tam-muội cảm Phật nói ra hạnh không thể nghĩ bàn, cho nên tụ đại hạnh. Thiền kinh tiện nghi Đại luận vì người tên khác mà nghĩa đồng. Chúng sanh có đại tuệ bình đẳng, là trí nhất thiết chủng vì nó năng phá. Chúng sanh phải chứng tuệ này làm nhân cảm Phật vì nói, sở bị đều phá khắp hoặc được quả, thông kinh dứt nghi, đều là đối trị. Cho nên đem cảm quả cho đến xé lưới nghi đều là đối trị. Lại cảm quả tự phá tế hoặc thông kinh xé toang lưới nghi cho người, mình người tuy khác mà đều gọi là phá ác. Chúng sanh có mắt Phật trí, là chúng sanh một tâm ba trí ba mắt phải vào bí tạng. Lấy đó làm nhân cảm Phật vì nói chỉ qui ba đức thì tự hành diêu mãn (đầy đủ), hóa tha khéo thành, đều gọi là rốt ráo. Thành mãn này chỉ là cực lý. Cho nên cùng đồng với Đệ nhất nghĩa của kinh luận. Mỗi pháp đều nói nhất thiết đẳng là khác ở năm duyên thiên tiểu. Lại năm duyên trở đi là kế hội năm duyên cùng năm thứ. Trước nói nhánh vốn là phát tâm dắt hạnh, cành phải từ gốc, hạnh vốn ở nguyện, gốc phải nhờ cành. Cành gốc tuy khác nhưng đồng thành cây đạo. Vì bốn Tam-muội thâu hết các hạnh, nên gọi là Chung. Tam-muội niệm Phật trong các hạnh là một nên gọi là riêng. Chung riêng tuy khác nhưng đều là diệu hạnh. Lại bốn Tam-muội chung đều niệm Phật, nên gọi là Chung, chỉ nói niệm Phật nêu riêng một hạnh nên gọi là riêng. Cho nên Bốn niệm xứ nói rằng: bốn đều niệm Phật. Chỉ tùy giáo riêng sở niệm khác nhau, nên gọi là riêng. Ba giáo trước đều niệm một thân nghĩa là sanh ứng báo, viên niệm pháp thân, các thân đầy đủ. Lại bốn Tam-muội chung cho bốn giáo, nên còn gọi là Chung. Có người cãi rằng: bốn Tam-muội riêng niệm Phật là chung, là chưa mất đại ý sao giả trái văn. Kế hôi quả báo cùng bạt trí là đồng. Nói quả báo tức chỉ cho bốn độ, bốn phải có chánh, báo phải có tập. Cho nên quả báo phải gồm hai đôi. Nếu nói bạt trí, bạt trí chỉ là tập quả một lẽ, tập sẽ với báo, chánh sẽ có y, hiện tuy nói lẽ phải đủ đôi, hai văn tuy khác mà chung thành ý một vị vô sanh. Trừ nghi kinh luận, kinh luận là chỗ đệ tử là người. Người khởi tà ác phải nương kinh luận, chỗ có nghi trệ phải do người tà, nhổ dẹp tà nghi thì không trước sau nên thành một ý. Gốc ngọn rốt ráo, v.v... thì phát tâm là gốc, đồng qui về là ngọn. Cho nên quyển ba nói mình người trước sau đều được tu vào. Tu tức mới phát, vào tức chứng sau. Cùng Đệ nhất nghĩa tên khác mà nghĩa đồng. Cho nên luận lại nữa cùng duyên nghĩa không khác nhau. Mỗi văn dưới đều nói khác mà thôi, là bội nghĩa đã đồng văn cũng là khác. Lại thánh nói, là kết ba chỉ quán. Cảm ứng văn nhiều phải dùng ba kết. Nếu văn nghĩa hẹp thì chỉ dùng một kết. Như bốn hoằng sáu tức sau hoặc chỉ dùng ba kết, đủ như văn dưới hiển bày bốn đế và bốn Tam-muội, hoặc lúc đó ba một đều lược, như ba lược dưới, hoặc lúc đó ba một đều dùng, tức như văn này. Một là chung, ba là riêng, chung nghĩa là chung ba, riêng nghĩa là đều một. Chẳng thấy ý này thì sanh ra nhiều mối lạ. Hỏi vì sao phải lấy chỉ quán mà kết? Đáp: ba pháp này đứng đầu tất cả, nay năm lược này văn thông khắp, cho nên chỗ nào văn cũng dùng ba một mà kết. Lại còn bộ này gọi chung là Chỉ quán. các văn nghĩa đều là Chỉ quán chẳng thể thấy kết tên Chỉ quán này, đều gọi là pháp tu hành. Như trong sáu tức lý và danh tự, đều kết chỉ quán. Nay trong văn này chỉ kết cảm ứng, đâu lại phán ngoài ba có một, ấy là biết lý giáo hạnh quả phát tâm cảm ứng đều là chỉ quán. Lại bộ này gọi chung là Chỉ quán, từ thích danh trở đi thì văn tướng riêng biệt, lại chẳng dùng ba văn mà kết. Nay trong ba kết có nêu có giải thích. Năm chữ trước là nêu ứng, từ hoặc thứ trở đi là nêu ứng. Thứ tức là tiệm, cụ tức là đốn, tạp tức là bất định, chẳng thứ tức là bất định và đốn, đối nhau mà đến. Chẳng cụ chẳng tạp cũng giống như thế. Chúng sanh được lợi ích khác nhau là nêu cảm. Từ hoặc thứ trở đi là nêu cảm. Loại ứng mà nói sẽ được ý. Từ hoặc bốn tất trở đi là giải thích. Kế giải thích trong cảm ứng hai câu đầu là Tiệm, hai câu kế là bất định, hai câu sau là đốn. Bốn tất năm duyên mỗi đối nhau nên gọi là Tiệm. Hoặc một hoặc bốn nhiều ít lẫn lộn nên gọi là bất định. Hễ nêu bất cứ một pháp nào đều đủ tất cả nên gọi là Đốn. Cho nên chỉ kết văn thành ba chỉ quán, đâu được tức lấy tu hành mà giải thích. Như thế v.v... trở đi là nêu tướng các pháp. Y theo trước rất dễ biết. Vừa chỉ kết trước năm duyên bốn tấc, lại nữa bốn tùy tất cả mà so sánh. Kế vì trở đi là một kết chỉ quán. Trong văn đã dùng phát tâm làm quán, tà dứt là chỉ. Phải biết năm duyên, lại nữa, bốn tùy bốn tất đều là phát tâm, tà dứt. Cho nên ba chỉ quán cũng chẳng ngoài phát tâm tà dứt. Vì thế biết ba một chỉ là chung riêng. Năm lược chỉ là mười rộng, là kết chương rộng lược, như văn trước nói sanh khởi năm lược hiển ở mười rộng, dùng lược sanh khởi, hiển rộng sanh khởi. Nay ở đây lại dùng năm chương mà nhiếp mười chương, cho nên nói chỉ là. Nói năm chương đầu gọi là phát tâm, là đại ý năm lược tuy có tu hành cho đến quả báo, chỉ là đường chung chỉ rõ ngọn ngành. Nếu chẳng như thế thì sao gọi là phát tâm. Bốn thứ thích danh sau chính là sở phát, Cho nên năm chương chung thuộc về phát tâm. Phương tiện tuy không phải thân tu chánh hạnh thêm phương tiện chung thuộc về hạnh. Quả báo một chương đến quả báo, là từ quả báo trở đi là rộng lược nghĩa đều, không còn rộng hẹp. Cho nên ngay đó mà hiểu, chẳng còn đối biện, trái tức là thiên không thiên giả, trái ở trung viên nên nói hai bên thuận, nghĩa là viên trung viên Lý Thuận đối với thật tướng nên nói thăng diệu. Vô minh chưa hết đều ở ba độ vì thọ y chánh nên gọi chung là quả báo. Nói báo hai bên là từ không ra giả mà làm có bên, nên cảm độ phương tiện. Nếu vì phàm phu ba tạng Bồ-tát mà làm có bên thì chiêu cảm cõi đồng cư. Thông giáo Nhị địa, người Biệt mười Tín, người viên năm phẩm, cho đến các giáo còn sót thấm nhuần đều chiêu cảm đồng cư. Nếu dùng Nhị thừa chung bảy địa bỏ Biệt, bảy trụ bỏ Viên, bảy
Tín cho thông là không biên, thì ở phương tiện.
Văn nay lại nói thiên không, thiên giả chiêu cảm quả báo chẳng bằng Sơ trụ, Sơ địa trở lên ở độ quả báo. Nếu nói chung, thì trụ tiền tuy cảm quả báo viên thì cũng ở phương tiện. Khởi giáo v.v... là tự chứng diệu lý, xứng cơ nói pháp. Giáo do cơ sanh nên nói khởi giáo. Đây là y cứ làm chủ đối cơ mà nói. Phật tuy ra đời phải nhờ đại quyền gõ cơ mà đánh phát. Cho nên nói khởi giáo. Đây là y cứ làm bạn đối chủ mà nói hoặc làm thân Phật v.v... là pháp thân tám tướng đủ như Thích-ca từ đầu đến cuối một đời hóa nghi. Chín giới, v. v... là như trong Hoa Nghiêm, Văn-thù, Phổ Hiền, tám Bộ, v.v... là đối bày ra đốn. Tu bốn A-hàm trở đi cho đến Bát-nhã không sanh Thân Tử, Đế-thích, Vănthù hàng tám bộ v.v... là đối bày tiệm, như trong Hoa Nghiêm thêm bốn Bồ-tát liền chuyển thành đốn. Khi Phật mới thành đạo sai các Tỳ-kheo nơi nào cũng hóa độ người. Còn trong Phương đẳng thì Văn-thù, Tịnh Danh không sanh Thân Tử, v.v... tức là chuyển thành tiệm. Như các kinh sau được Phật chúc lụy phát thệ hoằng kinh tức là hoằng thông. Văn tuy chẳng nói khai tiêm hiểu đốn nhưng ý cũng rất dễ hiểu. Nhưng trong Pháp Hoa không nói thêm, thiếu nghĩa chuyển. Đây đều nói theo quyến thuộc.
Hỏi: Đại Chương gọi là khởi giáo, năm lược gọi là xé lưới, vì sao đồng được?
Đáp: Đối khen lợi vật nên gọi là khởi giáo giúp người hết nghi gọi là xé lưới. Khởi giáo vốn là dứt lưới nghi cho người cho nên đồng.
Phân biệt quấy xong, kế là nêu lên phải. Trước nói về bốn đế. Bốn thứ bốn đế tức là văn của phẩm Thánh hạnh trong Đại kinh quyển mười một trước dùng tám khổ để giải thích, khổ là khổ sanh diệt. Khổ đế phần cuối văn nói ra y cứ bốn đế phân biệt rằng: phàm phu có khổ mà không có đế, Thinh văn có khổ, có khổ đế. Bồ-tát hiểu khổ là không khổ. Ba thứ kia cũng thế. Tức là Bồ-tát thông giáo đối ba tạng mà phân biệt, quyển mười hai trước dùng thiện, bất thiện, ái và chín dụ, nghĩa là chủ nợ có vợ con La-sát. Vì giải thích tập đế tức sanh diệt tập. Tập đế văn cuối y cứ bốn đế phân biệt rằng phàm phu có khổ, có khổ đế, Bồ-tát hiểu khổ, không khổ mà có chân đế. Ba đế cũng như thế. Sớ rằng: Văn khổ đế ở trước cuối cùng chẳng nói có chân, cho nên biết là thông, nay nói có chân, chân là chân thật, nên biết là thứ lớp, không thứ lớp hai thứ chân thật. Đây là biệt viên đối với ba tạng mà phân biệt. Còn giải thích diệt đế thì văn cuối chỉ chép: thấy dứt phiền não loạn cho nên thường, không phiền não cho nên lạc, Phật Bồ-tát nhân duyên gọi là
Tịnh, không có hai mươi lăm hữu nên gọi là Ngã. Đạo đế văn cuối chỉ nói thường, vô thường, hữu vi, vô vi v.v... diệt đạo văn cuối chỉ nói bốn đức. Đã chẳng sánh với Nhị thừa mà quyết, cho nên biết riêng y cứ với biệt viên mà giải thích. Tự không phải một nhà viên hội kinh chỉ. Lời Phật khéo lược nhờ đâu cơ thể thông. Sau lại nhân Văn-thù hỏi, Phật đáp rộng bảy thứ hai đế, kế rộng nói một thật đủ như huyền văn. Nay trước nói bốn đế sanh diệt. Đế nghĩa là đủ như huyền văn thứ ba. Nói ba tướng là chẳng lập trụ tướng cùng dị nói chung vì người phần nhiều ở trụ mà khởi chấp thường. Cho nên Tịnh Danh chép: Tỳ-kheo các thầy nay cũng sanh cũng già cũng diệt mất. Già là đổi khác. Nghĩa trong đây gồm một hẹn niệm niệm hai thứ ba tướng. Nói bốn tâm tức là bốn phần phiền não. Bốn phần tức là ba tướng dời đổi. Cho nên nói lưu động, lưu động tức là sanh diệt. Bốn tướng tuy thuộc bất tương ưng hành tức là phiền não kia là sanh v.v... vì hiển nghĩa sanh diệt trong đây, Cho nên phải nói là sanh v.v... vì thật có đạo trị khổ tập thì không có đạo, nếu khi có đạo thì dứt được khổ tập. Cho nên nói dễ đoạt. Diệt có nhân quả lại qui về vô dư, nên cũng sanh diệt. Cho nên trong kinh A-hàm nói bốn đế nghĩa khắp tất cả pháp. Như nói biết lậu, biết lậu tập, biết lậu diệt, biết lậu diệt đạo, mười hai nhân duyên, mười hai đầu-đà, mỗi pháp đều sanh nghĩa bốn đế. Đủ như trong Pháp Hoa sở giải thích Ca-diếp. Tuy thế xuất thế v.v... chung kết bốn đế đều thành sanh diệt. Nhưng Thông giáo đủ như văn kinh Tư Ích Thích Châm đã dẫn nghĩa riêng. Trước chánh giải thích trong khổ trước nói cảnh. Kế chính là trở đi là nói chung xuất năng lực giả của Bồ-tát.
Kế từ vị trở đi là lược nêu một giới để so sánh giải thích. Pha là lột da cắt thịt chặt xương. Như khổ ấy có vô lượng hình tướng. Cho nên chẳng phải dưới, nêu kém hiểu hơn. Ba để sau thì y theo đây mà biết. Hỏi: Trong văn khổ đế y cứ mười pháp giới, trong văn tập đế chỉ nói các thứ. Trong văn đạo đế chia tích thể, v.v... trong văn diệt đế phân ra bốn giáo riêng là sao?
Đáp: Khổ tập nghĩa chung, phải y cứ mười giới, là sở trị nên phải chung nói là mười, đạo cũng phải bốn. Lại cứ vào khổ tập năng đoạn nội ngoại cho nên chỉ nói hai diệt, nếu nói hai đối với lý không ngại nhờ giới hạn của giáo phân rõ bốn khác. Đây thì khổ tập đều mười, đạo diệt đều bốn, hai thứ nhân quả đều đồng loại. Trong tập đế nói thân khúc v.v..., là thân như tập, ảnh như khổ, tiếng như tập, vang như khổ. Tang Đạo Đế nói chiết thể khéo vụng chia giới nội ngoại. Phương tiện chỉ chung các vị hiền thánh dứt hoặc dụng trí đều nói phương tiện khác nhau, thẳng cong dài ngắn là hóa thành đảo châu báu đều có cong ngay, năm trăm là dài, ba trăm là ngắn. Nói quyền thật, như quyển ba trong thiên viên nói. Tục giải thích quyền là trái thường thì hợp đạo. Lại nói tích gần mà hạnh xa, hòa quang mà chẳng đồng trần, lại diệt trở đi là trong diệt đế nói chừng ấy chánh trợ, nghĩa chung bốn thứ diệt. Lại như thế trở đi là trong biệt diệt đế nói trần sa vĩ như không biết thì số nhiều, người khác hiểu thì chỉ có hai: một là nhiễm ô, hai là bất nhiễm. Chẳng nhiễm là tập khí. Nay ý tôi thì tập khí Tiểu thừa tức là hoặc riêng, cho nên nay giải thích. Chia giới nội ngoại mười sáu môn biết bịnh biết thuốc và trao thuốc cho. Lại ba tất trở đi là bốn tất đàn phán vô lượng. Biệt giáo thỉ chung lập nghĩa bốn tất tức sơ địa trở lên gọi là Đệ nhất nghĩa. Nay vô lượng này là từ nghĩa bên ba tất Địa tiền của đặt tên vô lượng, nên nói từ nhiều. Trong tứ đế vô tác mà nói, đều là đó, chẳng phải chỉ đạo biệt mà khổ tập cũng thật. Trước sau chẳng hai nên gọi là Vô tác. Khác nhau vô lượng nên gọi là vô phục. Lại chỉ riêng ba tất tức Đệ nhất nghĩa, nên nói vô phục. Ở khắp các kinh chẳng thể ghi hết. Kế đối độ mà nói ngang dọc, dọc là y cứ lập giáo đối cơ, cơ đã thêm bớt khác nhau, nên khuyến giáo có khác.
Bốn độ đối giáo hơn kém nhiều ít nên gọi là dọc. Thể của độ đối địch không có hơn kém nên gọi là Ngang.
Hỏi: Trong cõi phương tiện đã không có thông hoặc đâu cần Thông giáo, hai nghĩa ngang dọc đều nói dụng chung?
Đáp: Đại thừa sơ môn điều cơ vào đốn là biết học cũ chẳng phải dùng đoạn ngắn. Như các Thanh văn đến hội Phương đẳng, bị thiền xích dĩ
@@@đều tu tập thông môn. Nếu đến Phương đẳng thì đến Pháp Hoa, ở cõi phương tiện phải cần Thông giáo, đây là y cứ người chẳng đến hội Phương đẳng. Hỏi: Nếu là thật báo đâu cần dùng Biệt giáo ư? Đáp: y cứ giáo đạo nói chứng đạo thì không. Hỏi: Tịch quang đã cùng cực, đâu cần dùng giáo, hai văn ngang dọc đều dùng vô tác. Đáp: trong giáo bị trở đi chẳng bao trùm rốt ráo. Sơ trụ trở lên gọi Tịch quang là hạ, Đẳng giác là trung, Diệu giác là thượng, đây là trích từ Tịnh Danh sớ. Lại nói chung trở đi là dùng riêng mà giải thích chung. Cho nên lìa khổ tập đế làm mười hai chi diệt coi là diệt đế. Cho nên Đại kinh trở đi là dẫn chứng, quyển hai mươi lăm nói quán nhân duyên trí phàm có bốn thứ, đó là hạ, trung thượng và thượng thượng. Hạ trí quán, là chẳng thấy Phật tánh, vì chẳng thấy, nên được Thanh văn Bồ-đề. Trung trí quán, là chẳng thấy Phật tánh, vì chẳng thấy Phật tánh nên được Duyên giác Bồ-đề. Thượng trí quán là thấy không rõ ràng, chẳng rõ ràng nên trụ vào địa vị Thập trụ. Thượng thượng quán là thấy rõ ràng thì được A-nậu Bồ-đề. Vì nghĩa ấy nên mười hai nhân duyên gọi là Phật tánh. Phật tánh là Đệ nhất nghĩa không. Đệ nhất nghĩa không gọi là Trung đạo. Trung đạo gọi là Phật, Phật gọi là Niết-bàn. Nhân duyên chẳng khác, bốn quán chẳng giống. Đối với trong hạnh từ trụ vào không, cho đến Thập địa mới vào, đều y cứ giáo đạo. Nếu không có bốn giáo thì văn này khó tiêu. Đến thiền cảnh sẽ lại nói rộng, lại trong luận trở đi, là lìa luận bốn câu để chứng bốn giáo, vì bốn câu nhân duyên này ở cõi. Cho nên đem nhân duyên để đối Sơ giáo. Có hai ý: một là dùng sơ đối sơ, hai là dùng sự đối sự. Lại nhân duyên là gốc các pháp, tùy quán khác nên thành không giả trung, cho nên chứng giáo riêng đồng quán nhân duyên. Kế lại giải trở đi là lại dùng câu đầu để giải thích bốn thứ bốn đế. Trong bốn thứ bốn đế đều quán nhân duyên nên dùng nhân duyên đối bốn khổ tập diệt khổ phương tiện không chia tích thể và giả trung khác nên thành bốn khác. Giải thích trước giống mà đối với văn thì hơi khác, Cho nên lại giải thích. Lại kệ nói trở đi, lại đối với nhân duyên, là trước tuy bốn câu đối bốn nhân duyên, chưa chia ra duyên cho đến sở sanh dụng câu (câu đầu) là sơ quán (quán đầu). Riêng ba câu dưới là dẫn một bộ luận đều quán nhân duyên. Cho nên văn trở đi là dẫn một bộ luận đều quán nhân duyên, y cứ văn trước sau mà phân ra đại tiểu. Đây là y các thầy xưa phán luận giáo rằng: giáo có hai thứ: một là chung, hai là riêng. Chung là trùm khắp trọn vẹn chẳng hai. Riêng như kinh Pháp Hoa ba thừa đều khác. Nay văn luận này chỉ bày Biệt giáo, trong Biệt giáo trình bày Đại thừa tức hai mươi lăm phẩm, bao gồm Nhị thừa tức hai phẩm sau. Nhân duyên bày trung tà kiến bày tiểu. Nay lại dùng nên nói là chỉ. Nhưng nay ý tôi khác với người xưa. Người xưa tuy dùng hai mươi lăm phẩm riêng thuộc Đại thừa mà chẳng biết có gồm chung và riêng, đem phẩm nhân duyên riêng đối Trung thừa mà chẳng biết luận nhân duyên làm tông. Phải biết trở đi là kế kết đế duyên chẳng khác với kệ. Đã phân biệt trở đi là kế y cứ các kinh nói tướng phát tâm. Trước nói bốn đế, bốn đế là lý. Tất cả phát tâm đều y theo lý, cho nên dẫn mười thứ để lý ở đầu. Tùy sự đã nhiều chẳng thể dẫn đủ. Lại đến mười thứ này để làm sự đoan. Trước nêu, kế giải thích. Trong phần nêu, phải biết kinh luận nhiều ít khác nhau, như Thập trụ Bà-sa, chỉ có bảy thứ phát tâm. Trước nói ba thứ: một là Chư Phật sai phát, hai là vì hộ pháp nên pháp, ba là vì đại bi nên phát. Lại có bốn thứ: một là vì Bồ-tát giáo cho nên phát, hai là thấy hạnh Bồtát nên phát, ba là thấy phát ra ánh sáng mà phát, bốn là thấy tướng Phật mà phát. Chư Phật dạy sai đồng với nghĩa nghe pháp của văn nầy. Hộ pháp nghĩa đồng với thấy pháp diệt của văn nầy. Nghĩa đồng văn thấy chịu khổ. Thấy hạnh hạnh và tướng đẹp phát ra ánh sáng tên đồng với văn nay. Văn khác cũng thiếu vô lượng thọ, quán báo ân... các kinh cũng có nhiều phát, so với nay cũng thiếu chẳng thể ghi đủ. Giới Ưu-bà-tắc có mười thứ phát: một là chẳng ham gần pháp ngoại đạo mà phát, hai là nội thiện nhân duyên (trong có nhân duyên lành), ba là thấy lỗi sanh tử, bốn là thấy nghe điều ác, năm là tự trách phiền não, sáu là thấy năm thần thông, bảy là muốn biết thế gian, tám là nghe việc mầu nhiệm của Phật, chín là thương xót, mười là yêu mến chúng sanh. Nhìn nay cũng thiếu so đây rất dễ thấy. Kinh Hoa Nghiêm quyển sáu nói Bồtát sơ trụ phát tâm khác nhau, hoặc thấy tướng tốt, hoặc thấy thần biến của Phật, hoặc nghe Phật nói pháp, hoặc nghe Phật dạy răn, hoặc thấy chúng sanh chịu khổ, hoặc nghe nói rộng pháp phát tâm Bồ-đề cầu trí nhất thiết. Sơ Trụ cùng với nay tuy có cao thấp khác nhau, nhưng sau phải do trước, lấy trước mà lệ sau. Cho nên nay mười ý này hơi giống với kia.
Hỏi: Mười văn trong đây có thứ lớp gì?
Đáp: Suy lý đủ cho nên kế được tướng tốt, được tướng tốt nên hay khởi thần biến, đã dùng thân luân hiện thần biến, kế dùng khẩu luân mà khai đạo. Thân miệng hai lợi ích, chỉ là chánh báo, chánh báo phải cần y báo là cõi nước. Đã có y chánh năng bị thân miệng, thì có đồ chúng sở hóa khác nhau, chúng ắt học giáo tu hành chánh pháp, chánh pháp sắp mất thì gặp thời tượng mạt. Pháp dần yếu, chúng sanh gây lỗi, gây lỗi là nhân sẽ chiêu cảm các khổ, thứ lớp tuy thế nhưng phát tâm là theo với mỗi thứ mà sinh bốn thứ giải thích.
Kế giải thích trước nói suy lý. Văn bốn nghĩa hai, ý ở một. Chín pháp sau đều lệ theo đó, mượn cảnh mà phát tâm thì tùy suy tùy phát. Nếu luận tu hành thì sơ môn khác nhau, cho nên Chương An nói Thanh Văn lấy Khổ đế làm đầu, Duyên giác lấy Tập đế làm đầu, Bồ-tát lấy Đạo đế làm đầu. Đây là y cứ ba tạng ba thừa sanh diệt bốn đế. Thông Bồtát lấy giới nội diệt đế làm đầu. Biệt Bồ-tát lấy giới ngoại đạo đế làm đầu. Viên Bồ-tát lấy giới ngoại diệt đế làm đầu. Nay vì thành hiển là bất luận Nhị thừa, lại không phải là hạnh biệt. Toàn nương bốn đế mà làm thứ lớp. Bồ-tát khác nhau nên chia làm bốn khác đều là quán pháp tánh bốn giải khác nhau. Người đời đều chép: suy lý pháp tánh chẳng hề phân biệt. Lý Chân Ngụy phải quấy ở đây ba tạng cũng chép: pháp tánh tự trời như thế, đâu khác với biệt. Cho nên phải phân ra quyền thật pháp tánh. Ba tạng đã chép: Tập chẳng thể nhiễm, cho đến diệt chẳng thể tịnh. Cho nên ngoài bốn đế lập riêng pháp tánh. Phải biết khổ tập chỉ có thể che đậy mà không thể não nhiễm đạo diệt năng hiển mà lý vốn tịnh. Pháp tánh như mặt trăng, khổ tập như mây, đạo như dứt trừ, diệt như dứt thôi. Cho nên dẫn so sánh rằng: diệt còn chẳng phải lý, Bồ-đề phiền não lại trái nhau nên gọi là sanh diệt. Suy vô sanh, là chẳng khác pháp tánh, tức chẳng có khác. Băng nước mà dụ bỗng giống ở Viên. Nhưng chỉ dùng sáu đường, nhân quả dụ cho băng, chân đế pháp tánh dụ cho nước là khác. Tức tên tuy bằng nhau mà chẳng thấy tâm tánh ba ngàn thế gian lý ba đế. Nêu dẫn kinh đồng khác y theo nói sẽ biết. Suy vô lượng là lý pháp tánh ở hai bên, hai giáo trước còn mất chẳng có. Phật mười dụ phú hiển tự đồng, nhìn ba tạng ấy lý thể rất khác. Suy vô tác, là thực thành pháp còn thế, Thông giáo khổ tập còn thế. Tương tức tự đồng, năng tức sở tức rất khác đế cảnh, nếu chẳng phân biệt thì y theo đâu mà phát, rộng phân biệt dị đồng mới không ngoài, phát tâm vắng lặng, muôn hạnh uổng bày. Nếu suy trở đi là lại bày công năng. Cho nên ở suy lý, v.v... là từ đây cho đến chịu khổ gây lỗi mỗi thứ đều phải phân biệt như nay. Chẳng muốn văn nêu trong đây chỉ rõ tướng trạng ở dưới chỉ nói trên cầu dưới hóa, nói theo suy lý thì ý rất dễ hiểu.
Hỏi: Trong suy lý này có gì khác bốn đế?
Đáp: Trước nói bốn đế là y theo lời chung, nay nói suy lý là riêng y cứ pháp tánh bốn thứ người tu suy hai pháp tánh. Tỳ-thủ-yết-ma là Đại luận quyển năm giải thích tướng tốt Phật nói ở hai chân cơ, lòng bàn chân có bánh xe ngàn căm, ba sự đầy đủ, tự nhiên thành tựu không đợi thợ làm. Thợ ở đời là Tỳ-thủ-yết-ma chẳng thể làm được.
Hỏi: Vì sao không làm được?
Đáp: thợ trời là trí chẳng ẩn mất, luân tướng là do báo nghiệp lành mà được, thợ trời do báo mà được. Luân tướng là trí thiện hành. Thợ trời chỉ một đời, luân tướng thì vô lượng kiếp. Cho nên chẳng thể dùng thợ trời mà làm luân tướng. Nay văn lộ đó, ba mươi hai tướng thợ trời chẳng làm được, như kinh A-hàm nói Phật lên cõi trời Đao Lợi dùng năng lực thần túc mà chế, các đệ tử chẳng biết chỗ. Hai vua nhớ Phật, do đó bịnh nặng. Đại thần bạch vua tạo tượng cúng dường. Vua Ưu-điền lấy gỗ chiên đàn thơm mà làm. Vua Ba-tư-nặc dùng vàng ròng mà đúc, tượng đều cao năm thước (5x0.4=2m). Trước mời thợ khéo hứa trọng thưởng nhưng không làm được. Tỳ-thủ-yết-ma hóa thành người đến tạo tượng cho vua. Tiếng búa đẽo gỗ vang lên đến cõi trời Đao-lợi, người nghe đều giải thoát. Y theo vào đây hai vua tuy cảm được thợ trời nhưng chỉ làm tượng giống như Phật, túc luận thấp nhất còn chẳng thể làm, huống chi làm các tướng khác. Hơn vua Chuyển luân là trong Thụy ứng chép: Tiên A-tư-đà chắp tay tâu rằng: Đại vương nên biết Thái tử Tất-đạt-đa chắc chắn thành Phật, chẳng ở nhà mà làm vua Chuyển luân, tướng rất rõ ràng. Do đó Luân vương đủ mà chẳng sanh, Bạtâu-cơ thì chẳng đủ. Cho nên biết tướng pháp phương Tây xuất xứ từ Đại quyền tướng tốt trang nghiêm thân, nên nói triền lạc nguyện ta thành Phật, là Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành. Ta độ chúng sanh, là chúng sanh vô biên thệ nguyện độ vì độ sanh nên phải tu tập pháp môn, vì thành Phật đạo phải dứt phiền não. Cho nên trong văn chỉ nêu hai hoằng thệ để thu nhiếp hai nguyện kia. Dưới là lệ theo đó, lại bốn hoằng thệ đắp đổi nhau mà thành. Vì độ chúng sanh nên phải có ba hoằng thệ, vì dứt hoặc nên phải có ba thứ kia. Hai hoằng thệ kia theo nói rất dễ hiểu cho nên biết nêu hai mà thu nhiếp hai thệ kia. Thấy chung tướng Phật, chỉ là thấy ba tạng tướng tốt không thật có. Như lai là sở nghiêm, tướng tốt là năng nghiêm. Sở nghiêm đã không, đâu có năng nghiêm. Năng sở là cảnh biết thuộc người tu. Nói không, là tướng tức phi tướng, phi là vô tướng. Đời lạm dụng nên phải cẩn thận. Triệu chép: các tướng đầy mắt mà chẳng phải hình, các tiếng đầy tai mà chẳng phải tiếng, ứng hóa chẳng phải chân thật, cũng chẳng phải người nói pháp và quán kinh v.v... cũng thuộc về Phật. Tướng tốt thật là vì được pháp tánh thân gương sáng cho nên không tượng nào chẳng hiện. Mỗi tướng tốt phàm thánh chẳng được bên ấy, hai giáo trước là phàm thánh, và đương giáo là Địa tiền đều chẳng ở bên tướng của báo thân. Như Tây Vực Ký chép: xưa có Bà-la-môn dùng một gậy trúc dài một thước sáu muốn đo thân Phật. Vừa đo thân Phật thì trên gậy cũng có Phật nhiều như số lượng gậy lượng đã chẳng chống đất, mà đi thì gậy mọc thành rừng. Sau ở đó mà lập tinh xá gọi là rừng gậy. Phạm Thiên chẳng thấy đảnh đâu, là Phạm ở cõi Sắc, từ cõi trời ấy đến cũng chưa hề thấy tướng đảnh đầu Thế tôn. Như Bồ-tát Ứng trì muốn đo thân Phật. Phật thành đạo rồi đi khắp nước Ba-lanại, cách rất xa về phương Đông có Phật hiệu Tư Duy Hoa, thế giới tên là Hoài Điều, có Bồ-tát tên Ứng Trì đến lễ dưới chân Phật và đi nhiễu ngàn vòng xong, suy nghĩ muốn đo thân Phật, bèn tự biến thân cao ba trăm ba mươi muôn dặm thì thấy thân Phật cao năm trăm bốn mươi ba muôn triệu cai ức dặm, nhờ thần lực Phật. Ứng Trì lên phương trên cao đến một trăm ức Hằng sa, có thế giới tên là Liên Hoa Trang Nghiêm, Phật hiệu là Liên Hoa Thượng, đến thế giới ấy vẫn không thấy được đảnh đầu của Thế tôn không thấy thân Phật xa gần là bao nhiêu. Bèn đến hỏi Phật ấy. Phật ấy chép: cách Hằng sa kiếp cũng chẳng thấy được đỉnh đầu Thế tôn, trí tuệ ánh sáng lời nói đều như thế, xuất xứ từ kinh Kim cương Mật Tích, đây còn chẳng thấy, huống chi Phạm Thiên, Mục-liên chẳng biết mức dừng của tiếng ấy: là Phật trụ tại Linh thứu, Mụcliên tự nghĩ muốn biết tiếng Phật vang xa đến đâu, bèn đứng dậy lên đỉnh núi Tu-di thì nghe tiếng Như lai nói như ở trước mắt. Bèn dùng thần lực đến đỉnh núi Thiết vi cách Đại thiên mà nghe vẫn chẳng khác. Phật nghĩ Mục-liên muốn thử âm thanh thanh tịnh của ta, nay ta muốn hiện. Lúc đó Mục-liên nương thần lực Phật đi xa đến cõi nước phương Tây cách chín mươi chín Hằng sa cõi Phật. Cõi đó tên là Minh phan, Phật hiệu là Quang Minh Vương, đến cõi ấy thì vẫn nghe tiếng Phật như ở trước mặt. Phật ấy thân cao bốn mươi dặm, thân Bồ-tát cao hai mươi dặm. Bát ăn của Bồ-tát cao một dặm. Mục-liên đi trên miệng bát ấy, Bồ-tát ấy bạch Phật rằng: đây là con sâu gì mà mặc áo Sa-môn đi trên miệng bát của con như thế? Phật bảo chớ xem thường bậc hiền này, bậc hiền này tên là Đại Mụcliên là đệ tử thần thông bậc nhất của Thích Tôn. Phật ấy bảo Mục-liên rằng: Bồ-tát và Thanh văn cõi này thấy thân ông nhỏ mà sanh tâm khinh mạn, bèn nương năng lực Thích Tôn mà hiện thần lực, ở dưới chân Phật ấy đi nhiễu bảy vòng rồi thôi. Nay con kết già ngồi đấy mà đất chẳng nhận. Phật nói tùy ý, Mục-liên liền bay lên hư không cao trăm ức nhân, hóa ra giường mà ngồi, các thứ châu báu anh lạc sáng rỡ tự trang nghiêm, đều đến ức trăm ngàn. Hiện xong liền đến trước Phật, các Bồ-tát đều ngạc nhiên thấy việc chưa từng có, bạch Phật rằng: Vì sao Mục-liên đến đây? Phật bảo muốn thử tiếng Phật gần xa, Phật bảo Mục-liên rằng: ông chẳng nên thử tiếng Phật gần xa vì sẽ rất sai, dù cho trải qua Hằng sa kiếp mà làm thì cũng chẳng thể biết được. Mục-liên liền lạy dưới chân Phật mà sám hối. Phật bảo Mục-liên: ông đến đây là nhờ thần lực của Đức Thích tôn, nếu muốn trở về thì tự thân ông dẫu một kiếp cũng không về đến được. Mụcliên nói nay con mê lầm chẳng biết chỗ đi. Đức Phật ấy chép: ở phương Đông. Mục-liên khoanh tay trở về và nói kệ rằng: câu mong đấng Thiên Nhân tôn thương xót, xin hiện bày cõi nước sai con sắp trở về. Lúc ấy Thân tử ở Linh Thứu, nghe lời nói lấy làm lạ. A-nan hỏi Phật ai nói kệ như thế. Phật bảo: ấy là Mục-liên đang ở thế giới Quang Minh Phan, Phật bèn phát ra ánh sáng chiếu đến, nhờ ánh sáng ấy mà trở về và sám hối. Thân và tiếng của Phật đã như thế thì các tướng lệ theo mà biết. Đây trích từ Đại luận quyển mười một văn đồng với Kim cương Mật Tích, ngồi đài Liên hoa ở Sắc Cứu Cánh, v.v... đều là tướng này. Luận nói rằng trở đi là tám mươi hàng tụng văn Bát-nhã, vô hình là pháp tánh, trang nghiêm là phước trí, cảnh trí tương xứng ứng khắp pháp giới. Chỉ có đồng loại thấy không phải trang nghiêm. Nay từ giáo đạo bên tha thọ dụng cũng gọi là báo thân, tức là Bồtát Đăng Địa thấy được. Trong tướng pháp thân nói biết trí Như lai, thì trí xứng với pháp thân, cho nên gọi là đạt sâu, tức chỉ cho pháp thân là gốc các tướng, cho nên nói pháp thân có ba mươi hai tướng, như trong Hoa Nghiêm nói mỗi tướng tốt bằng với hư không, bốn giáo chủ này chưa khai thành khác, chỉ là một thân bốn thấy đều khác. Cho nên Đại luận quyển mười một dẫn kinh Mật Tích chép: tất cả trời người thấy sắc lượng Phật hoặc như vàng ròng bạc trắng và các báu, v.v... hoặc thấy trượng sáu hoặc thấy một dặm hoặc mười dặm, cho đến trăm ức vô lượng vô biên đầy khắp hư không, ấy gọi là thân mật của Như lai, cơ thấy khác nhau. Vì cảnh thề lớn nên nói nguyện bằng, v.v... mỗi văn đều chép: nếu thấy Như lai, thì đều dùng ba tạng Như lai mà làm cảnh gốc, đối với sắc tướng ở trên bốn thấy khác nhau. Thấy thần biến, là Sử ký nói thức dụng gọi là thần. Dịch nói lợi dụng ra vào gọi là Thần, cho nên biết Tục giáo lời xa mà ý gần cho nên dịch nói âm dương chẳng lường được gọi là thần. Tuy nói chẳng lường và thức dụng, v.v..., nhưng chỉ là thức thứ sáu, người ở trong dục thì âm dương không lường được. Biến cũng là âm dương thay đổi, nóng lạnh kịp đổi, như ý giải thích ở đây thì biến chẳng khác thần, còn chưa bằng trời huống chi là thánh ba tạng. Ba tạng thần biến y vào một tâm căn bản làm một đẳng. Như hóa chủ nói thì hóa sự liền nói, hóa chủ nín thì hóa sự nín, nói nín đã thế, thì các nghi khác cũng như thế. Cho nên không phải nhậm vận chân hóa. Nếu phát ra một luồng ánh sáng, thường ánh sáng một tầm thì chẳng nói là phát ra. Ánh sáng ngoài một tầm (mười trượng?) thì nói là thần biến.
Bắt đầu từ A-tỳ cho đến Ni-tra mặt trăng mặt trời là ánh sáng nhiều lớp. Nếu Phật phát ra ánh sáng thì khiến cho biến mất chẳng hiện. Kinh Báo Ân nói ánh sáng của Phật như ánh sáng mặt trời, chẳng nói chẳng hiện. Thế gian không có vật để dụ cho ánh sáng của Phật. Ở đây chỉ dụ một phần, cho nên kinh ấy chép: Đức Thế tôn phát ra ánh sáng như ánh mặt trời, rực rỡ che lấp hết các sao, mắt thấy sáng lòa mà hết hồn, nếu Phật phát ra ánh sáng khiến cho tất cả ánh sáng khác không hiện ra (thì không thấy các ánh sáng khác). Đại Luận chép: Muốn so sánh mà biết thì ánh sáng của Ca-diếp so với vàng diêm phù giống như các vết đen trên vỏ ốc, còn ánh sáng thân của Ca-diếp so với Tứ thiên vương lần lượt đến các trời Phạm Thiên thì cũng giống như vết đen, nên nói biến mất chẳng hiện. Đại Luận hỏi vì sao Như lai thường phát ra ánh sáng một trượng?
Đáp: Căn chẳng chịu nổi, nếu nhiều ánh sáng quả thì hư mắt. Lại hỏi: nếu phát ra ánh sáng có ích, thì sao chẳng phát ra ánh sáng mà nói giới, thiền v.v...?
Đáp: Chúng sanh được lợi ích khác nhau, như thành có nhiều cửa vào cửa nào cũng được. Thắng ứng thần biến: trong đây y theo lý cho nên khác ba tạng y thiền căn bản. Không có hai tướng nên khác với ba tạng, tâm là một, đều thấy Phật riêng ở trước, khác nhau đều thấy là tượng Tỳ-kheo già.
Kinh Tịnh Danh chép: thấy Thế tôn ở trước mắt như khi Niết-bàn thì thấy Như lai chỉ nhận một mình mình cúng dường. Bát-nhã thường nói ánh sáng. Tịnh Danh nói như núi Tu-di hiện ra trên biển cả, Quán Đảnh thì nói cao vòi vọi (nguy nga đồ sộ) đều là thắng ứng thần biến, báo Phật thần biến. Nói y Như lai tạng, tạng là lý tánh chẳng thể hiện biến, phải đợi Đặng Địa duyên tu đã mãn, chân tu phát rồi thì mới hiện biến được. Chỉ khác căn bản và lý Vô sanh. Tam-muội chánh thọ tức chỉ cho Sơ địa, làm Phật sự ở trăm cõi trong mười phương. Phật pháp thần biến, là pháp Phật Như lai cùng sự thần biến chẳng hai chẳng khác, cho nên nói tương tác. Vô ký hóa hóa v.v... là Đại luận quyển tám hỏi: Đức Thích-ca hóa thành vô lượng ngàn ức các Phật, vì sao nói pháp cùng một lúc được? Như trong Tỳ-đàm nói cùng một lúc không có hai tâm, hóa chủ hóa sự nói nín khác nhau, vì sao cùng lúc mà nói sáu độ? Đáp: Như ở đây nói, là sự biến hóa của ngoại đạo, Thanh văn mà thôi. Còn Như lai biến hóa là năng lực vô lượng Tam-muội không thể nghĩ bàn, cho nên vô lượng trăm ngàn một lúc cùng nói nín. Lại Thanh văn hóa ra người chứ chẳng thể hóa ra làm. Cho nên Thanh văn diệt rồi thì chẳng để lại hóa sự còn Như lai diệt rồi cơ thể để lại hóa sự như chư Phật chẳng khác, cho nên nói hóa lại làm hóa, quyển một văn đồng. Lại thần biến thì không phải chỉ có thân mà tất cả nói năng ý khéo léo đều gọi là thần biến. Cho nên kinh Đại thần biến nói Phật hiện mười tám biến rồi lúc đó có thương chủ Thiên tử bạch Phật rằng: lại có thần biến nào hơn đây chăng? Phật bảo Văn-thù nói rộng biến hóa đủ như trong phẩm bất tư nghì của kinh Tịnh Danh. Văn-thù bạch Phật: Như thế mà (dẹp bỏ) ác ma, cũng khiến cho Bồ-đề ở lâu trên đời. Như thế chưa phải là cao quý. Nếu không tên, không tướng, không tiếng, không chữ, như thế trải qua mười tám giới đều nói như thế, không ba thoát nói ba thoát cho đến sáu độ đều chẳng thật có. Tất cả chúng sanh nói không chúng sanh. Cõi Phật, thân Phật cúng nói như thế. Đó gọi là thần biến. Thương chủ Thiên Tử chép: Nếu thế thì tất cả các pháp đều gọi là thần biến. Thân tử hỏi Thiên Tử rằng: ông nghe thần biến này có sợ hãi không? Thiên tử đáp: Ta tức là thần biến thì còn sợ gì. Vănthù chép: tất cả thiện ác, động và bất động đều là tướng thần biến. Bất động là pháp tánh, động là sự thần biến. Mỗi văn sau đều phải kết rằng: trên cầu dưới hóa, văn không có là lược. Cho nên biết Phật hiện và Văn-thù nói trước cũng thuộc về thần biến thông biệt. Làm nghĩa bốn hoằng thệ y theo nên biết. Trong nghe pháp có hai: một là chánh nghe pháp, hai là dùng kệ mà kết. Một văn nói hoặc từ Phật, v.v... là nói nghe pháp từ Phật chỉ khi Ngài còn tại thế, hoặc các tri thức thì chung cả hiện tại vị lai. Kinh quyển diệt rồi, nghe sanh diệt trở đi là pháp bốn giáo. Mỗi giáo đều sanh ra bốn giải khác nhau. Chỗ nghe pháp nầy chẳng ngoài bốn đế. Trước nghe sanh diệt trong sanh bốn giải. Sơ sanh sanh diệt là thế và xuất thế chỉ là bốn đế đời đời chẳng thôi nên gọi là mới mới, bốn tướng sở tướng nên gọi là dời đổi, tức là khổ tập. Giới tuệ lược nêu đạo đế, giải thoát lược nêu diệt đế, tức là hai thứ giải thoát hữu vi, vô vi. Tịch tịnh tức là lý diệt được chứng. Được Phật trên cầu nói đạo dưới hóa độ, trong sanh giải vô sanh nói là vô thích. Đây là dẫn Đại kinh quyển hai mươi bảy. Trong pháp tánh không vì sao nói có mũi nhọn khổ tập mà nói khổ dục mà tu đạo diệt ư? Bốn thứ đều vô chủ nên nói là ai. Vô chủ nên không, nên nói là thanh tịnh. Năng tức là đạo diệt, sở tức là khổ tập. Năng sở chẳng hai nên nói tịch nhiên sanh, vô lượng giải, là không phải ở hai bên, giáo đạo chỉ trung. Phiền hoặc chẳng nhiễm nên nói riêng nhổ. Biên chẳng phải tức trung, trung do biên biểu thị. Cho nên ý dụ dưới như hoa Trung đạo, lìa nước hai bên, sanh ra trăng trí triền ở trong khoảng hư không pháp tánh, trong sanh viên giải biến chẳng phải song chiếu, là tuy ba tương tức trung tánh song phi, ba-một tức nhau, bằng với pháp giới, tên khác mà nghĩa đồng. Thường lạc là lược nêu hai thứ trong bốn đức. Đủ tất cả pháp nên nói đầy đủ. Nếu cứ dựa vào ý này thì thấy tướng thần biến, mỗi tướng đều phải sanh bốn giải. Chỉ ở Thanh giáo cõi này phải từ nghe làm tiện lợi, cho nên ở đây nói rõ mười sáu, huống chi là nghe chung cạn sâu, thấy đều chẳng thế. Chấp đá, v.v... là đá độc và thuốc báu tánh vốn chẳng hai tùy người cảm được, đều thấy khác nhau. Các pháp cũng như thế, vốn là pháp giới. Người ba giáo trước gọi là khổ tập, viên đốn trí chiếu nghĩa nó như chấp, tức là pháp giới như thành báu, v.v..., về thuốc độc, đủ như Thích Ma Nam Duyên trong Đại kinh. Kế nghe vô sanh sanh bốn giải, tức nghe Vô sanh sanh sanh diệt. Bồ-tát đồng phàm nên chưa vô sanh, sanh Vô sanh là ba thừa cùng học đều dứt thông hoặc nên đều Vô sanh. Sanh vô lượng là nếu dứt kiến tư nói là vô sanh. Là Nhị thừa có phần, đây là dứt vô minh mới gọi vô sanh, nên nói phi phần. Bồ-tát dứt hoặc thứ lớp trước sau, cho nên hai tử thứ lớp vô sanh. Sanh vô tác, là nghe môn chữ A liền hiểu tất cả, tức là viên giải. Kế nghe vô lượng sanh bốn giải, là đều lấy phục vi và xuất giả vị, gọi là vô lượng. Dứt hoặc chứng chân chẳng phải vô lượng, nên trước sanh sanh diệt, là Nhị thừa phương tiện Bồ-tát ba kỳ, gọi chung là Vô lượng, nên nêu phàm vị mười sáu đế quán. Trong sanh vô lượng chia làm hai câu, câu đầu ở hạnh, câu kế ở hướng. Trong mỗi câu đều nói "cũng" là câu đầu giới nói chưa hết, lại phục nấp giới, ngoại nên nói là cũng. Câu dưới trần sa chưa hết, lại phục (nấp) vô minh, lại nói là cũng cho nên Tứ Niệm Xứ chép: Trụ dứt kiến tư, lại dứt giới ngoại thượng phẩm trần sa. Mười hạnh trung phẩm mười hướng hạ phẩm, nay nói vô lượng, chẳng lấy mười Trụ. Trong sanh vô tác nói phục đoan, là vào trụ chánh đoạn, không phải nghĩa vô lượng. Bốn thứ đều được gọi là vô lượng, như các sông y theo biển đều được gọi là nước ấy vô lượng, mà lượng nước ấy đều có nhiều ít. Trong vô tác sanh bốn giải, câu đầu là nêu chung trước sanh sanh diệt, là Bồ-tát chẳng dứt chẳng chứng vô tác. Trong sanh vô sanh là ba thừa đồng chứng lý Vô sanh. Trong sanh vô lượng, thì địa tiền là quyền, đăng địa là thật. Dứt rồi chẳng làm gọi là Vô tác. Trong sanh vô tác, thì Địa tiền hai đế tức là đăng địa Trung đạo. Cho nên nói quyền thật tức nhau, một nói trở đi là luận kệ mà kết. Đây là nêu chung. Kế nếu nói trở đi là trong mỗi giáo đều được bốn câu, nghĩa ở một giáo mà sanh bốn giải. Trước tuy đầu sanh chưa y cứ pháp mà nói. Cho nên y cứ nói kệ lại biện tướng trạng. Cho nên mượn lời tức nhau của luận văn mà kết bốn giải. Đây là sau này làm nghe một câu sanh ra các thứ pháp giải mà thử. Trước kết trong sanh diệt, sao gọi phương chẳng phải tức không, như người rơi xuống vực sâu tuy chưa đến đất cũng được gọi là chết. Phương là cũng sẽ, thường tu vô thường tuy chưa tức không, nhưng phải là nghĩa không hiện ở trên cảnh, cảnh tức phải không nên nói tức không nhờ duyên gia, nhưng trong bốn giáo đều nhờ duyên lập quyền hai giả, tướng trạng đều khác. Trong không cũng thế, nay đây hư giả nhờ các duyên thành chẳng phải từ không mà ra, bày quyền để lợi vật. Trong lìa đoạn thường Nhị thừa cũng được. Quả Phật là hơn, các đệ tử ba thừa được gọi là Trung. Rộng như nói trong khai hợp thứ ba. Nên hiểu như thế. Dưới là muốn nói giáo sau. Trước là bác bỏ, kế là kết. Như trong kinh A-hàm Vô Tránh Phật bảo Tỳ-kheo chớ tìm dục lạc và đó là pháp thấp kém nhất, cũng chớ khổ hạnh thái quá. Lìa hai bên này thì có Trung đạo. Lại khi Phật ở Xá-vệ, Xá-lợi-phất nói rằng con giống như đất, các thứ khạc nhổ ỉa đái trên đó đều không ngại, cho đến như nước, như lửa, như gió. Phật nói: Kinh này tên là Sư Tử Hống. A-nan nói điều thân tử nói là diệu trong diệu. Lại khi Phật ngự tại nhà Lộc Tử Mẫu, Thượng đường tuy không, nhưng có chẳng không chỉ các chúng Tỳ-kheo thường nghĩ một thứ vô sự, nghĩa là không có nhân tưởng nhưng có chẳng không là một vô sự. Trong Bà-sa chỗ nào cũng nói pháp tánh thật tướng và pháp thân bằng nhau, tên bằng nhau như thế, đồng với Đại thừa, cho nên phải dùng nghĩa mà xếp vào loại. Do đó bốn giáo đều không giả trung mà tùy giáo môn nói có khác. Cho nên ở đây chê rằng: ngay không đẳng v.v... còn chẳng thành giải thích tức không, chẳng được trở đi là chê chẳng có pháp tánh diệu quả diệu trung. Từ thiết tác trở đi là cho có thường giáo hai tên giả trung, chưa thấy lý riêng khác, chỉ chỉ cho trung. Trong có tám địa xuất giả hóa vật, một lúc đặt bày chẳng phải nhậm vận hóa, tuy khác nhân người đặt tên Trung đạo, chỉ lìa đoạn thường, cuối cùng trở về lý không. Ba phen này trở đi là kết chê kết trong kết vô lượng. Trước kết, là thật có ba đế, chẳng đồng với tạng thông, cho nên chẳng bác bỏ chỉ chê thứ lớp chưa được gọi Viên. Cũng thuận theo luận văn ba lời tức nhau. Tuy ba đế đều không, đều giả, đều trung thứ lớp rõ ràng. Vô chủ nên nói không là không trong chân đế, đồng với vô chủ không trong ba tạng trước, giả tức không, vì tức không tâm mà sanh ra giả, đối bịnh giả khác giả bày thuốc pháp, Cho nên thuốc bịnh đều tức không. Đây là không trong tục đế. Trung tức không, là trung lý vô biên tức rốt ráo không, đây là không của Trung đạo. Cũng được gọi là một không thì tất cả không. Tuy là ba đế đều được gọi là không mà đều thứ lớp, nên thuộc về biệt. Ba thứ đều trung, giống như một trung thì tất cả đều trung, mà thứ lớp rõ ràng. Quyền đặt tên trung, Cho nên ba đế cũng thành thứ lớp. Lìa đoạn thường nên gọi là Trung chân, vị ở Mười Trụ, với cơ không khác, gọi là Trung cơ, vị ở hạnh tướng. Pháp tánh thật tế gọi là trung thật, vị ở Thập địa. Ba thời đều khác nên cũng khác. Tuy là ba đế đều không giả trung chỉ là tướng thứ lớp ba đế. Kế kết thành viên, là nói bờ đạo nầy đã không thể nghĩ bàn. Lại tức thật tướng nên chẳng có đồng khác, ba thứ đều giả, cũng nói ba đế đồng có tên gọi. Đây ba tức một chỉ có tên ba, hai tên giống đồng mà thể nó rất khác. Phải biết trở đi là kết ý. Pháp tức là cảnh, cảnh là bốn đế. Bốn cảnh mà khởi giải, nương giải mà khởi nguyện. Nguyện nên gọi là phát tâm Bồ-đề. Người đời phần nhiều dùng ngồi thiền an tâm gọi là phát tâm. Người này chưa biết cảnh sở duyên, không quả y cứ hẹn, toàn tìm vô thượng, chẳng biết đại bi không hề có hạ hóa. Cho nên phát tâm từ đại bi mà khởi, nói các thứ chẳng qua là bốn nhân bốn là mười sáu giải. Tịnh độ đồ chúng ấy là mười khoa nói phát rồi giải thích bốn thứ, còn sáu thứ kia lược, chỉ so sánh mà thôi. Nay lại so sánh trước mà bày tướng trạng. Nói tịnh độ, là hoặc từ kinh điển nghe nói các cõi, hoặc ánh sáng hay tiếng Phật sai thấy các độ, hoặc có cơ duyên thấy khác độ này, hoặc được bậc Thánh ngầm che chở mắt thấy các cõi, chẳng thể nói đủ lược thuật giềng mối. Nếu một chất một thấy khác chất khác thấy, đủ như suy lý thấy tướng, v.v... khác chất một thấy một chất khác thấy, đủ như nghe pháp bốn nghĩa, cùng thông đều thành một ý. Như Pháp Hoa hội đầu và trong Tịnh Danh Bồ-tát Hương Tích đến đây nghe pháp. Đây là thấy đồng cư uế. Trong hội này đại chúng thấy nước Diệu Hỷ và trong pháp ba biến ruộng đất, đây là thấy đồng cư tịnh. Thanh văn Bồ-tát cùng là Tăng, đây là thấy cõi phương tiện. Như trong Tịnh Danh ngay chân ấn đất mà đều tự thấy ngồi hoa sen báu. Và trong Pháp Hoa thấy cõi Ta-bà này toàn là các Bồ-tát. Đây là thấy cõi thật báo. Như trong kinh Tịnh Danh Đại sĩ nhà trống và trong Pháp Hoa ở Phương dưới có tháp báu trong hư không, đây là thấy thường Tịch quang cho đến tượng pháp quyết nghi, đất rừng Ta-la, bốn cái thấy khác nhau. Cũng như Huyền văn giải thích cõi nước diệu tích có bốn khác, tức là tướng ấy. Thấy tướng các cõi trên cầu dưới hóa. Cõi nước là sở y, chúng sanh và Phật là năng y. chúng sanh và Phật đối nhau cho nên cũng có bốn hoằng thệ. Dưới thấy chúng v.v... là năm khoa khác nhau. Cũng phải nói rõ bốn câu như chất v.v.... Nói thấy chúng là như các kinh trước nêu chúng đồng nghe tùy giáo nhiều ít lớn nhỏ, hơn kém chính là tướng ấy, năng lực mình năng lực người nghe nói ngầm che chở, lệ trước khá biết. Nếu một chất khác thấy một chất một thấy, là thấy đại chúng tụ tán sanh diệt, hoặc thấy đại chúng tụ tán như huyễn, hoặc thấy đại chúng nối tiếp Phật pháp, hoặc thấy đại chúng như Thường Bất Khinh cũng như huyền văn nói quyến thuộc về diệu trung. Kế thấy tu hành cũng bốn thấy, là tu hạnh sáu độ, bốn Tam-muội v.v... đều dùng tâm hẹn cảnh trí mà khen, bốn tướng tự khác. Nếu một chất khác thấy v.v... là tự thấy bỏ thân cắt mình vì chúng sanh, vì đạo phục, hoặc tu hành tạng. Hoặc thấy chỗ bỏ các thông như huyễn hóa, v.v..., vì thường trụ cho nên Biệt, vì pháp giới cho nên Viên. Cũng như huyền văn làm Diệu Trung mà nói. Nếu y theo các bộ kinh luận khác nhau, ba kỳ sáu đồ là tạng. Như kinh Thỉnh Quan Âm, Văn-thù vấn đều có ba thừa cộng hạnh là thông, như Hoa Nghiêm nói Bồ-tát phát tâm chẳng vì một người cho đến Hằng sa, vì độ tất cả mà phát tâm tu hành là Biệt. Đạo tràng Phổ Hiền và hạnh Phổ Hiền trong Hoa Nghiêm là Viên. Y cứ năm vị trải qua nhiều ít khác nhau. Y cứ theo nói rất dễ hiểu. Trên hai dưới ba mà rất dễ thấy. Đồ chúng tu hành thuộc về đạo đế. Đạo là nghĩa trên cầu gồm dưới hóa. Kế trong pháp diệt cũng có bốn là Thập Trụ Bà-sa nói Bồ-tát Ma-hatát khi thấy pháp diệt thì khởi tâm hộ pháp, theo lệ phải có bốn thứ Bồ-tát hộ pháp khác nhau. Nếu lập tượng chánh cho đến mạt pháp lưu thông mà hộ trì là tạng thông. Nếu thấy pháp tạng thì ở mười phương hết đời vị lai vì hộ pháp cho nên Biệt. Nếu thấy pháp diệt liền biết pháp giới thường trụ chẳng diệt, hết đời vị lai hộ pháp thường trụ là viên. Một chất khác thấy v.v... so nói rất dễ hiểu. Pháp diệt hộ pháp nghĩa gồm trên cầu dưới hóa v.v... Trong thấy chịu khổ sanh ra bốn giải, là nếu thấy ba cõi sáu đường là luân hồi sanh diệt. Nếu thấy luân hồi không có tướng bức não, là Thông. Mười giới tướng khổ mỗi tướng có vô lượng, là Biệt. Trăm giới ngàn giới khổ ở một niệm, là viên. Nếu một chất khác thấy, v.v..., là như thấy sai sai đánh đạp trói cột cũng sanh bốn giải, phát tâm khác nhau. Cũng như bốn đế bốn khổ khác nhau. Kế trong thấy khởi lỗi mà sanh bốn giải, là trong bốn thứ bốn đế, bốn tập khác nhau, tức là khởi lỗi. Một chất khác thấy so nói rất dễ hiểu. Chịu khổ gây lỗi thuộc nghĩa dưới hóa mà gồm trên cầu. Cũng đủ bốn nghĩa. Người tu sơ tâm rất cần phải có. Nếu phát tâm mà chẳng chân thật là do ở chánh cảnh công đức cũng nhiều. Vì sao? Vì phát tâm Bồ-đề là việc ít có. Như trong Thủ-lăng-nghiêm chép: Phật bảo Kiên Ý rằng sau khi ta diệt độ năm trăm năm có nhiều Tỳ-kheo vì lợi dưỡng mà phát tâm xuất gia, với tâm đùa giỡn mà nghe Tam-muội là phát tâm Bồ-đề. Vì ta biết tâm ấy cũng làm duyên xa cho Bồ-đề huống chi là thanh tịnh phát tâm. Cho nên biết nếu không chánh cảnh dẫn không dối trá cũng chẳng thành giống. Kế dùng ba chỉ quán mà kết, là mười thứ phát tâm suy lý đứng ở hai đầu, cho nên y cứ suy lý, chín thứ kia thì lệ theo. Cho nên văn sau chép: Nếu thấy ý này lệ thấy tướng nghe pháp cho đến khởi lỗi, cho nên mỗi văn đều sanh mười sáu, mỗi thứ đều dùng ba chỉ quán tánh trở đi là chánh giải thích. Trước là giải thích đốn, lý pháp tánh không phải số lượng, nếu chấp nhất định ở ba quán bốn giáo xem là năng phát thì càng thêm mê mờ điên đảo. Từ nay nói trở đi là đến nội, hoặc nên làm sâu dần (tiệm sâu). Pháp trước nói, là nói một hai ba bốn, chỉ ba chỉ quán và bốn giáo thứ lớp càng chồng chất, cho đến bốn nầy là nói lý do của thứ lớp. Kế nói pháp tánh trở đi là nói về tướng bất đồng. Giới nội giới ngoại, hai lý quyền thật đều có hai căn tánh nên bốn thứ khác nhau. Kế từ nếu người giới nội độn trở đi là giải thích có bốn lý do, do mê giải (không hiểu và hiểu) nên có nặng nhẹ, khéo vụng. Chân và pháp tánh là tên khác mà nghĩa đồng. Giới nội lợi độn mê mờ Chân đế, giới ngoại lợi độn mê ở Trung đạo. Mê chân mê trung, sở mê sở giải tuy đồng pháp tánh mà năng mê, năng giải khéo vụng khác nhau, cho nên thành bốn thứ. Mê chân mê trung có hai khổ tập, giải chân giải trung có hai đạo diệt. lợi gọi là tức, độn gọi là lìa. Khéo vụng cũng như thế. Ly nghĩa là lìa pháp tánh có khổ tập riêng. Bốn nghĩa là tức pháp tánh, tức khổ tập. Sở giải là do năng giải vụng. Sở giải tức là do năng giải kheo.
Hỏi mê và giải chỉ phải nói là Tập và Đạo, sao lại nói khổ và diệt? Đáp: Vì nhân vời lấy quả theo nhau mà nói. Giới ngoại nhìn nội chân tuy khác, khéo vụng tức lìa tên ấy chẳng khác. Kế sở dĩ trở đi là nêu thí dụ, chung là giới nội giới ngoại làm thí dụ, dùng người đi đường làm cha con, giáo lý tức, lấy cha con làm người đi đường gọi là lìa. Vì sao thế? Vì thể của khổ tập vốn là pháp tánh cũng giống như cha con. Nếu bảo pháp tánh khác khổ tập thì gọi là người đi đường, cho nên nói khổ tập rất khác pháp tánh để dụ cho người của hai giáo Tạng và Biệt. Thể tánh tuy đồng nhưng việc rất khác tên, chẳng phải cốt nhục nhưng ở người khác mà ép tưởng là cha con thì nói khổ tập tức là pháp tánh, cho nên dụ cho người hai giáo Thông và Viên. Từ thô tế trở đi là dẫn lệ họp thí. Nếu dựa vào văn thí dụ thì trong ngoài phải đều có thô tế và khó dễ. Nay vì sanh sau chẳng có tướng nhất định văn tướng mà đối nói dễ. Nay vì sanh sau chẳng có định tướng nhất, đối nói dễ, chỉ vì giới nội là thô, giới ngoại là tề, nhánh gốc khó dễ v.v... y theo đây sẽ biết. Như thế thô tế đều có các dụ khéo vụng cha con. Nên nói cũng giống như thế. Từ hoặc nói giới nội trở đi là đến chỗ sâu, trong đây hai cặp là giải thích tướng tiệm. Cho nên dưới kết rằng: Nếu làm cạn sâu nặng nhẹ thì là tướng tiệm thứ. Có chỗ nói: Vì không xen lẫn nhau nên chẳng gọi là bất định. Kế từ hoặc nói giới nội trở đi là sáu đối cùng giao nhau mà giải thích tướng bất định. Sau cùng khó dễ tuy không giao nhau, chỉ là văn lược nghĩa suy phải có. Nên nói hoặc giới nội sơ tâm năng phá cho nên dễ dứt, còn giới ngoại hậu tâm mới phá nên gọi là khó dứt. Các câu xen nhau chẳng thể ghi rõ, người đọc chớ coi thường. Từ như thế trở đi là kết thúc bất định trước gồm chỉ rộng. Từ nếu làm trở đi là tổng lược kết bày. Đều nói nếu làm, là ba thứ chỉ quán, tức là tướng riêng, chỉ nói các giáo tức là tướng chung, dùng riêng nói chung nên nói nếu làm. Cạn sâu nặng nhẹ là chỉ hai đối trước, nhất thật bốn đế chỉ cho pháp tánh trước. Lại cùng nặng nhẹ là chỉ cho sáu cặp trước. Kế đều Đại thừa trở đi là khuyên cố gắng. Người phát tâm vì cầu viên thừa. Viên thừa khác nhau, hạnh chia ra ba khác. Khen khuyên hạnh, là chẳng thể chẳng biết. Kế từ hơi thở trở đi là phân biệt, trước hỏi, là hỏi suy lý trước tập đã có bốn quả khổ sao chỉ có hai thứ phần đoạn và biến dịch. Nhân quả phải đồng vì sao bốn nhân chỉ chiêu cảm hai quả?
Đáp: Trong ý, một là chánh đáp, hai là nêu ví dụ. Trong một chánh đáp lấy nghĩa mà nói sao quả chỉ có hai mà tập cũng phải hai. Nay nói bốn là y cứ phá mê sanh giải, hai tập đều có hai phá khéo vụng để thành bốn riêng. Hoặc này tùy người giải thích khác nhau, cho nên nói hoặc tùy ở giải. Nếu thuận theo sanh tử bốn tập chỉ chiêu cảm hai thứ khổ quả, cho nên nói giải tùy ở hoặc. Nay lấy giải hỏi mê nên nói bốn tập mà cảm hai quả, lấy thật mà nói giải thì đều có bốn, như bốn đế thì có bổn khổ, mê thì đều hai như hoặc chung riêng chỉ thành hai nhân, đâu cần chỉ y cứ nhân giải mà hỏi quả mê. Kế như trở đi là ví dụ đáp Như, hoặc giới nội tùy ở Tiểu thừa hai giải khác nhau nên gọi là kiến tư. Nếu các phàm phu thuận theo mê tình hai nhân giới nội, chỉ chiêu cảm một quả phần đoạn giới nội. Ví dụ này chưa thiết, tùy mê chỉ chiêu cảm một quả phần đoạn. Đây thì có thể được. Nếu lệ ở giải mà sanh hai tập thì ý ấy chưa bằng nhau. Trước đối với một tập mà sanh ra hai giải, nay đối với tập khai ra thành kiến tư. Lại có văn trước ở một khổ đế giải thích cũng phải hai. Trong đây dẫu chia làm hai thứ kiến tư, thì quả khổ chẳng thể chia làm hai thứ. Nếu thiết yếu mà nói, thì phá kiến hoặc nên lìa ác bốn thú phá tư hoặc nên lìa sanh ba cõi, đều lại từ giải để phân ra hai thứ khác nhau. Kế hỏi khổ tập có thể là nhân duyên, v.v... Hỏi: Trong luận kệ kết trước dùng luận câu đầu đối với bốn đế ba tạng, đều thuộc pháp nhân duyên sanh. Khổ tập là mê có thể cho là từ duyên, còn đạo diệt phá mê vì sao nói cũng từ nhân duyên sanh. Lý ý đáp là chỗ phá khổ tập thể là duyên sanh, nếu chẳng có khổ tập thì không có đạo diệt, tên từ pháp khác mà được nên cũng từ duyên. Do đó bốn thứ ba tạng đều sanh diệt, cho nên Đại kinh trở đi dẫn Đại làm ví dụ. Vô minh là Tập, Bồ-đề là Đạo. Do diệt tập nên mới có Đạo, là ý Biệt Viên. Đạo diệt Biệt viên còn từ duyên sanh, huống chi là ba tạng. Nêu sâu so sánh cạn để đáp câu hỏi trước. Kế hỏi: Trong văn hỏi đối với một pháp tánh làm sao chia làm hai lý quyền thật, lại phân ra tức lý mà làm bốn ư? Đáp ý: Khai quyền hiển thật chỉ một pháp tánh, vì thật bày quyền nên phân ra quyền thật. Đối với quyền thật lấy giải căn làm khác, cho nên sai quyền thật đều có lợi độn, kế là từ nếu thấy ý này trở đi là nêu để so sánh chín cái kia. Suy lý đã có ba kết chỉ quán và ba phen hỏi đáp phân biệt. Chín cái kia y theo lệ đều cũng phải thế.
Kế nói bốn hoằng thệ. Hoằng là rộng, thệ là y cứ. Thích danh nói thệ là chế, nay dùng bốn pháp mà chế sơ tâm sai trên cầu dưới hóa cho nên nói phát Tăng-na ở tâm đại bi thỉ chung để phó nạn. Tăng-na là tiếng Tây Trúc, xứ này dịch là Hoằng thệ, Khởi hạnh làm tròn nguyện, nên nói phó nạn. Trước chép: Trước suy lý đi đến bốn hoằng, là kết trước sanh sau, nghĩa đủ hiển kết ở trước, vì chưa hiểu trở đi là sanh sau. trước tuy y cứ đế nói rộng phát tâm, nhưng chưa hiểu chẳng hiểu bốn đế chỉ là cảnh bốn hoằng. Cho nên lại nói hoằng thệ. Lại trong bốn đế kế nói đồng khác. Bốn đế là cảnh, từ cảnh sanh giải, cho nên nói y cứ giải. Bốn hoằng y giải mà sanh nguyện, cho nên nói y cứ nguyện. Lại đế có nhân quả, cho nên chung ba đời, nguyện đều ở đó, cho nên thuộc về vị lai. Lại bốn đế y cứ lý lý chung ba đời, bốn hoằng là nguyện, nguyện vị lai thành, hoằng và đế đều phải trên cầu, có trên cầu mới có dưới hóa. Trong trên cầu vì có Phật đạo, mới có pháp môn, cho nên mỗi đều phải nói Phật. Lại phải y cứ chín đời mà nói. Cho nên trên ba đời đều có nhân quả, đều nói Phật. Lại bốn đế có khổ tập, khổ tập có sáu căn. Hoằng thệ y cứ tâm hẹn, tâm hẹn chỉ ở lý. Lại bốn đế chung cho ba nghiệp, ba nghiệp chung sáu căn. Nguyện không cần phải thân miệng, cho nên chỉ ở ý. Đây y cứ vào phần Đại nếu nói kỹ cũng nên đủ ba. Tâm duyên cảnh, miệng nói lời thệ, thân hiện tướng kính. Lại trong ba phen không phải không có nghĩa khác nhưng lặp đi lặp lại phải vậy thôi. Cho nên đều nói nhiều. Hỏi: Nếu có khác đây y cứ đế khởi nguyện trước đã gồm đủ đâu cần nói lại?
Đáp: Thệ gọi là Đại, Đế chung cho đại tiểu. Diệt khổ tự độ gọi là Tiểu. Bi cứu người khác gọi là gồm đại. Đế tên gọi nhiều có lạm nên nói bốn hoằng. Lại hoằng chung cả thiên viên, tức gọi là chỉ viên. Cho nên bốn hoằng sau lại nói sáu tức. Từ rộng đến hẹp mới hiển được. Cho nên văn dưới nói lần lượt sâu xa. Như thế trở xuống là kết ý.
Hỏi: trước nói mười khoa, nay ở đây vì sao chỉ đối Đế mà phân biệt?
Đáp: Bốn đế là chung mười khoa y cứ Biệt. Cho nên giải thích mười khoa thì Đế ở đầu, mười khoa chẳng lý sự đồng với ma nói. Cho nên chỉ y cứ nghĩa mà nói, gồm mười thứ kia. Trước trong giải thích sanh diệt bốn hoằng, trước nói thệ cảnh tức là bốn Đế tâm chẳng cô sanh bỏ cảnh tập đế. Trước y cứ Đế trung từ thô đến tế cho nên khổ ở trước. Nay trong bốn hoằng từ tế đến thô, cho nên tập ở trước. Đạo diệt cũng như thế. Lại bốn Đế trước y cứ nhân quả, tướng quả vì thô cho nên trước bày. Nay trong bốn hoằng y cứ ở ý địa, tập ở tại ý cho nên nói trước. Nói tâm chẳng cô sanh, là nói tâm nay khởi pháp sở sanh. Từ căn trần này trở xuống là bày. Chánh bày tâm này thành tướng sanh diệt, Căn là năng sanh thuộc về nhân, trần là sở duyên thuộc về duyên. Nhân duyên hòa hợp thành pháp sở sanh. Nhân duyên sanh ra đều là sanh diệt. Nói ba tướng, tức chẳng lấy trụ, y theo trước mà nói bốn tâm lưu động, cũng có thể nói bốn đường khởi diệt ẩn kín nên gọi là ngầm. Niệm niệm tiếu tục khởi nên nói là mới mới. Viêm thước trở xuống là nêu dụ. Viêm là thấy lóe lên thật nhanh. Thy cứ là sáng, niệm niệm nhanh chóng khởi trong nháy mắt, nên như điện xẹt, sáng lòe mà dụ. Cho nên biết niệm khởi nhanh ở đây. Thuyên là nhanh chóng, là dụ cho sát-na chẳng dừng. Kế sắc bào trở xuống là cảnh khổ đế. Đủ như trong Đại phẩm, Đại luận giải thích rộng. Bọt bèo là trong dụ Tiểu thừa. Diệm là trong dụ của Đại thừa. Đây là cộng bộ (bộ chung) cho nên gồm đủ. Mưa rơi xuống nước nổi bọt gọi là bào nước vỗ vào nước gọi là mạt. Mặt trời ở chỗ trống (sa mạc) thấy có hơi nóng. Thành là Càn thành, tục gọi là thần khí, là buổi sáng ở biển xa thấy như có lầu gác, người vật, mà thật ra không có. Cho nên trong mười dụ khen rằng: Thế pháp trống không như thành quỉ, phàm phu ngu si định đánh chiếm. Thuốc v.v... hòa hợp khiến thấy khác góc cũ nên gọi là huyễn. Đại luận chép: Trong pháp Thanh văn không có dụ thành này, chỉ có các dụ về vô thường. Trong đây tuy dùng cũng thuộc về sanh diệt, đến quyển năm lại nói khác. Một hộp mà khổ riêng, là trong hộp không có vui nên gọi khổ riêng. Đại Kinh quyển hai mươi bốn chép: Rắn độc bốn đại ở đầy trong hộp, người phải nuôi lớn chăm nom, nằm ngồi. Nếu làm cho một rắn giận dữ, thì ta phải theo pháp mà giết chết. Bốn đại thành thân giống như một cái hộp, một đại chẳng điều hòa thì khiến phạm tội trọng nên nói đô thị. Từ nhân khổ lại đến quả khổ nên gọi là riêng.
Bốn núi hợp lại trở xuống là cảnh Đạo đế. Đại Kinh quyển hai mươi tám chép: Phật hỏi Nặc Vương (vua Ba-tư-nặc), có bốn núi lớn từ bốn phương đến muốn hại người dân, thì phải làm sao? Vua nói chỉ nên chuyên tâm giới, định, tuệ, Đạo phẩm chẳng ngoài ba pháp này. Nói núi đến, đây là dùng không phải dụ làm du, bốn núi là bốn đại, bốn phương là sanh, già, bịnh chết. Nếu muốn khỏi đây thì chỉ y theo Đạo phẩm. Phá dọc trở xuống là nói cảnh diệt đế, phá dọc điên đảo là diệt tập, cắt ngang biển khổ tức là diệt khổ. Hoặc diệt ắt trước thô sau tế nên nói là phá dọc. Khô mất rồi thì không còn trước sau, nên nói cắt ngang. Khổ phần nặng nhẹ cũng có thể nói dọc. Kiến-tư đều phá cũng có thể nói ngang. Nay từ nhiều phần cho nên lại nói. Đảo nghĩa là thường, v.v... bốn đảo (thường lạc ngã tịnh) khác nhau, trải giới thì có các phẩm cạn sâu, rộng lớn chỉ là phần đoạn mà thôi. Biển dụ cho sanh tử vô biên. Tục giáo chẳng biết tử phải có sanh. Cho nên Thích Danh chép: Thần hết gọi là tử (chết). Ở đây thuộc đoạn kiến của ngoại đạo. Hữu là ba cõi, Lưu là bốn dòng. Ở đây ba chỗ nhân quả chẳng mất nên gọi là Hữu, bốn pháp này nổi chìm chẳng dứt nên gọi là Lưu. Kiến lưu là kiến ba cõi, dục lưu là tất cả các hoặc cõi Dục, trừ kiến và si. Hữu lưu là tất cả các hoặc ở hai cõi trên (Sắc, Vô sắc) trừ kiến và si. Vô minh lưu là si của ba cõi. Kinh nói trở xuống là dẫn chứng. Đại Kinh quyển 14 giải thích Kỳ-dạ rằng: Phật bảo các Tỳ-kheo: Xưa, ta cùng các thầy ngu si không có trí tuệ, chẳng thể thấy bốn chân đế như thật, cho nên chết chìm lâu dài trong biển khổ lớn. Dưới Phật lại dùng kệ đáp Ca-diếp rằng: xưa ta và các thầy. Chẳng thấy bốn chân đế. Cho nên trôi giạt mãi, trong biển khổ sanh tử. Đây là chứng do thấy bốn đế sanh tử đã hết. Nhà lửa trở xuống là quở trách, chẳng thấy đế lý thì chỉ chìm trong khổ tập. Mê đắm kiến gọi là Hỷ, mê đắm ái gọi là Hý. Cho nên dưới là chánh phát thệ. Như Đức Thích-ca trở xuống là dẫn sự làm ví dụ. Đây tức là ví dụ của ba tạng về phát tâm; Canh là cày, tức đất này đã cày bừa từ trước. Đọc y Ứng nói: Thái tử Tất-đạt chán ngấy năm dục, dạo chơi bốn cửa thành. Thiên đế ở cửa Đông hóa thành người bịnh, ở cửa Nam hóa thành người già, ở cửa Tây hóa thành người chết, ở cửa Bắc hóa thành Sa-môn, Tất-đạt thấy rồi bèn hỏi Thiên đế. Thiên đế đều đáp theo ý. Thái tử chép: Như Samôn đây thì chỉ là vui. Nửa đêm, Thái tử bèn vượt thành đến ruộng ngồi nghỉ dưới cây, vua cha đuổi theo, thấy bèn đảnh lễ. Thái tử thưa rằng: Con cầu tự nhiên muốn dứt các khổ. Các thứ không thoát con muốn thoát ra, các thứ không hiểu con muốn hiểu rõ, các thứ không yên con muốn được yên, ai chưa được đạo con muốn cho được. Nguyện khi con được đạo thì chẳng quên lời thề này. Vua biết ý của Thái tử bèn trở về cung. Thái tử vẫn ngồi dưới gốc cây, thấy người cày xới làm lộ ra các giun dế chim chóc giành nhau mổ ăn. Cảm thương chúng sanh ăn nuốt lẫn nhau muốn ra mà không thoát. Y cứ vào Văn kinh khi xem cày ruộng thì đã phát thệ rồi. Nhân xem cày bừa mà thương xót chúng sanh, cũng là nhân cảnh mà phát thệ ví dụ như thế dẫn ra. Giống như Di-lặc: kinh Di-lặc thành Phật nói: trước khi chán đời, vua Thươngkhư cúng thí ngài Di-lặc, một đài báu. Di-lặc nhân rồi thí cho Bà-la-môn, Bà-la-môn nhận rồi đem phá bỏ mà phân tán. Di-lặc thấy vậy biết tất cả pháp đều sẽ hư hoại, bèn xuất gia học đạo, ngồi dưới cây long hoa, ngay trong một ngày liền thành Phật. Rộng như kinh chép: Đây thì Di-lặc chính do đài hư mà phát tâm. Vì minh liễu trở xuống là phân biệt quấy, hiển bày phải. Kế chỉ quán trở xuống là nói hoằng thệ Vô sanh. Quán sanh ra tâm cùng gieo trồng chẳng khác, Năng quán quán trì tức không là khác. Thế nào là tức không? Vì bốn tánh xem xét, tánh tướng nghĩa không, đến quyển năm có giải thích rõ. Lúc khởi chẳng từ Tự tha, đã không có bốn tánh thì sanh diệt không thật có. Tới lui chỉ là tên khác của sanh diệt. Tâm này chẳng ở trong ngoài, vì không có mình nên chẳng phải trong, không phải người nên không phải ngoài, không phải chung nên không phải hai khoảng. Chẳng phải không nhân nên chẳng phải thường tự có. Chỉ có trở xuống là tánh tướng không. Sanh tức Vô sanh gọi là hữu tịch, cũng không Vô sanh, gọi là vô tịch. Trước là tánh không, cũng chẳng trở xuống là tướng không. Phàm phu chấp thật nên gọi là có, tất cả trí quán nên gọi là Trí giả. Biết tánh tướng không nên nói biết không. Lại, pháp vốn chẳng sanh nên gọi Hữu tịch, nay thì không diệt nên gọi Vô tịch. Kể như trăng trong nước trở xuống là nêu thí dụ. Đại luận chép: Trăng trong nước thì tiểu nhân chấp lấy còn Đại nhân cười. Vì thân kiến nên thấy có các thứ. Lại Luận quyển ba mươi sáu nói: Ví như trẻ con thấy trăng dưới đáy nước, xuống nước mà bắt lấy chẳng được liền khóc. Người trí nói tánh nó như thế, chớ nên buồn giận. Kinh Tư Ích nói trở xuống là dẫn chứng. Thí dụ trước thông chung, dẫn chứng thì riêng. Quyển một chép: Biết khổ mà không khổ gọi là khổ Thánh đế, tập mà không hòa hợp gọi là Tập thánh đế. Trong rốt ráo không chẳng sanh chẳng diệt gọi là Diệt thánh đế, đối với tất cả pháp bình đẳng chẳng hai gọi là Đạo thánh đế. Ở đây thì bốn đế đều Vô sanh. Kế dẫn Đại kinh tức bốn đế trước là văn đầu đã dẫn. Tập trở xuống là dụ riêng bốn đế. Mỗi đế đều trước pháp kế dụ, chỉ thiếu thí dụ về diệt. Trước Tập Dụ nói nai khát nước đuổi theo dương diệm do nóng, khoảng không và bụi ba nhân duyên mà sanh ra diệm. Vì khát nên gọi là nước, trong có si ái ngoài thêm cảnh dục, do năng lực nhân duyên nên khởi tưởng dục. Phàm phu chẳng hiểu gọi là luân hồi dụ về khổ đế như bắt trăng đáy nước. Luật Tăng-kỳ quyển tám nói: Khi Phật ngự tại thành Vương-xá. Các Tỳ-kheo đề cử Điều-đạt làm pháp Yết-ma. Nhóm Tỳ-kheo sáu vị đồng kiến với Điều-đạt, Phật bảo các Tỳ-kheo rằng: Vào đời quá khứ, ở chỗ vắng nọ có năm trăm con khỉ đi khắp chốn nhân gian, có một cây Ni-câu-loại, dưới cây có cái giếng, dưới giếng có ánh trăng. Khỉ đầu đàn thấy rồi bảo các bạn rằng: Trăng chết rơi xuống giếng phải lấy lên để đêm thế gian khỏi tối. Các khỉ hỏi làm sao lấy lên. Khỉ đầu đàn bảo: Ta có cách lấy, ta sẽ nắm cánh cây, chúng bây nắm lấy đuôi ta rồi lần lượt nối nhau mà lấy ra. Các khỉ nghe lời. Vừa đến gần nước thì khỉ nặng cành cây yếu nên gãy và rơi xuống giếng. Khỉ đầu đàn lúc ấy chính là Điềuđạt bây giờ, năm trăm khỉ kia là nhóm Tỳ-kheo sáu vị. Trong rốt ráo không có mặt trăng chân thường, kết nước sử mà sanh ra ảnh ấm nhập. Khỉ ngu phàm phu gọi đó là thật, uổng gọi nói chân mà không hiểu rõ ấm nhập. Vì thầy mê nên dạy nhiều người mê. Cho nên biết đều do chẳng hiểu rõ khổ, luật ấy tuy dụ chủ bạn đồng tà cũng là do chẳng hiểu rõ ấm nhập. Trong đạo đế nói chẳng phải là làm tức không v.v... là tất cả đều không, đâu thể thực hành mà giản bất tức, tức ngoài chẳng khác chẳng tức. Nếu có phân biệt thì như tránh không mà tìm không. Thí dụ nói như Bè, v.v... kinh Trung A-hàm quyển 54 Kinh Dụ Bè chép: vì biết dục này làm chướng đạo và biết pháp này chẳng chịu cực khổ cũng chẳng mệt mỏi. Vì chẳng điên đảo cho nên suốt đêm ta vì các thầy nói kinh Dụ Bè, muốn cho các thầy bỏ chẳng để các thầy nhận. Như nước trong núi rất sâu không có thuyền cầu. Có người từ đây muốn đến bờ kia, nghĩ nước chảy gấp sẽ bị nhận chìm, dùng phương tiện nào mà đến bờ kia. Nay ta sẽ thu nhặt cỏ cây cột làm bè ngồi trên đó mà qua, qua đến bờ kia bèn nghĩ bè này rất có ích, phải mang theo mãi. Rồi cứ vác mà đi. Ý nói làm thế có ích gì chăng? Tỳ-kheo đáp: Không. Người ấy chép: Tôi được bè có ích, nếu bỏ sợ thành vô ích. Phật nói: Ta dụ bè là nói pháp còn bỏ huống chi là phi pháp. Kinh ấy ý dụ nói dục chướng đạo là pháp hay dục là phi pháp. Nay mượn dụ ấy đồng với kinh Kim cương. Tức không còn bỏ huống chi là chẳng tức. Như Dụ Bè, bè còn phải bỏ huống chi không phải bè. Trong Diệt thiếu Dụ. Nếu muốn lập thì phải chép: Diệt đã tức không, chẳng phải ở không hoa kia mà cầu diệt thật. Họa còn không hoa thì diệt chẳng phải diệt. một hẹn gọi là thọ, liền kéo dài gọi là mạng. Chúng sanh vốn không tức khổ Vô sanh, chẳng phải nói có chúng sanh thọ mạng, chỗ khổ tập diệt thì gọi là diệt này, tức chỉ diệt đế gọi là diệt kia. Khổ vốn Vô sanh, nên nói là ai. Vô sanh vốn không, không Vô sanh nên gọi ai chứng diệt ấy. Bút ngữ lại đổi chữ ai. Nếu nói đầy đủ phải là ai ở diệt này, ai chứng diệt kia? Ai là chủ tể, kia đây vốn không thì chủ tể đâu còn. Kinh nói trở xuống là lại dẫn chứng Trung. Nói ta chẳng muốn cho là Đại phẩm chép: Trong pháp Vô sanh nói là ba mươi bảy phẩm tức là đạo đế, xưa nay Vô sanh. Bốn quả là diệt đế, xưa nay Vô sanh. Kế y ví dụ trở xuống tức là Đại sư y theo ví dụ mà chép: Đạo diệt còn không có huống chi có khổ tập. Cho nên nghĩa chép: Chẳng muốn có năm ấm như sắc, v.v..., tức là khổ đế xưa nay Vô sanh. không có sân si tức là tập đế xưa nay Vô sanh. Kinh vì lợi căn nêu hơn gồm kém. Chỉ nêu đạo đế thì biết khổ tập. Đại sư lại so sánh đã không đạo diệt thì không có khổ tập. Chỉ thường xót trở xuống là chánh nói phát thệ. Văn thiếu thệ do đó dùng thương xót mà gồm. Cái gọi là thương xót chúng sanh, chẳng biết đế lý Vô sanh huyễn hóa cho nên khởi thệ, vì văn hẹp nên chẳng phân. Kế vì đạt khổ tập trở xuống là phân biệt quấy hiển bày phải. Khổ tập là không cho nên khác nhau chín phược. Nay lại đạt không, lại khác ba tạng. Ba tạng Nhị thừa tuy là hay đạt, chẳng thể tức không, không chẳng phải không bình đẳng, v.v... Đạo diệt vì không nên chẳng phải thoát. Nay đạt được không lại khác ba tạng. Ba tạng của Bồ-tát mà chẳng thể đạt đạo diệt tức không. Kế Biệt giáo vô lượng hoằng thệ, trước nói chung Đế cảnh, chiếu biết một tâm, khởi vô lượng tâm. Tâm vô lượng nên mê giải vô lượng. Mê tức mười giới khổ tập, giải tức bốn thứ đạo diệt. Cho nên nói bốn đế có vô lượng tướng. Kinh Lăng-già quyển năm chép:, Như lai tạng là nhân thiện và bất thiện. Tức lý tánh Như lai là gốc thiện ác phải dùng mười giới và làm thiện ác. Đại luận quyển mười một nói như khi voi xuống ao thì nước đục, bỏ châu xuống thì nước trong. Phải biết nước ao là gốc của trong đục, châu và voi là duyên của đục trong. Nhưng riêng bốn đế nhiếp bốn thứ Tứ đế, tự tha thỉ chung phải học khắp. Chỗ học rất nhiều nên nói Vô lượng.
-Kế ba giới không có pháp nào khác trở xuống là nói bốn đế, trước nói khổ tập, kế nói đạo diệt. Trong khổ tập trước là chung, kế là riêng. Trong trước chung tuy chưa giải thích tướng khổ tập, nhưng trong nói đã có riêng khổ tập nói. Ba cõi không có pháp nào khác là khổ. Chỉ là tâm làm tập. Tâm như thợ vẽ là thí dụ tập, tạo mầu sắc là thí dụ khổ. Tâm tạo ra tức là tập, sáu đường tức là khổ. Đã nói các thứ riêng, phải biết sáu đường chỉ là lược nói mà thôi. đầy đủ thì phải nói là mười giới khổ tập. Nghĩa là như thế trở xuống là nói riêng về tập. Như thế sanh tử trở xuống là nói riêng về khổ. Khổ tập là cái bị phá cho nên nói đủ mười giới. Đạo diệt là cái năng phá. Năng phá có hay dỡ trong ngoài thể, v.v... cho nên biết trước chung lược nói sáu đường. Ngược lại trở xuống là nói chung đạo diệt. Lại tâm khổ tập sanh đạo diệt cho nên văn trước nói là gốc của mê giải. Thí như thợ vẽ trở xuống là ví dụ chung. Thợ vẽ là thân Bồ-tát, tay như tâm tánh của Bồ-tát, bút (cọ vẽ) như tâm sở quán các sắc sáu đường nhân quả. Rửa sạch là phá nhân quả, mầu vẽ là đạo diệt. Lại tu Không, giống như rửa sạch, quán giả là như vẽ mầu, cũng là thứ lớp tướng ba đế. Sở vị trở xuống là nói riêng đạo diệt, trong mỗi đế nêu đủ thứ lớp tướng bốn giáo. Trong đạo đế là nói đi vòng thẳng đến hóa thành, tức là sanh và Vô sanh hai thứ đạo phẩm. Hoặc nói Bến báu, cũng gọi là bờ nước. Đạo đế đầy đủ phải nói bảy khoa, lại nói Bốn niệm xứ còn sáu khoa kia thì lược không có. Đi vòng đi thẳng đến hóa thành là phá hoặc kiến tư, trong đi thẳng chẳng nói bất tịnh, lại nói thân không v.v... là vì quán khéo nên khác nhau, vụng trước. Hai thứ đi thẳng đi vòng trong Bến báu. Trước nói đi vòng. Nói đầy đủ thì phải chép: Vô thường và thường, chẳng phải thường chẳng phải vô thường. Trong văn nay nói cho đến, là lược bỏ thường, do đó lại nói vô thường. Vô thường tức không, đây là y cứ môn hóa tha mà nhắc lại đi thẳng đi vòng đến hóa thành ở trước. Chẳng nói bất tịnh, cũng là nêu chung hai pháp quán dầu nhiếp bất tịnh, v.v... đều là vô thường, vô thường là sanh diệt. Vô thường tức là không, Vô sanh, vô lượng vô tác v.v... đối với thỉ chung, phân biệt rất dễ hiểu. Thường là phá trần sa, cùng chẳng sai là phá vô minh cho đến bất tịnh cũng giống như thế. Người ấy thấy diệt trở xuống là nói riêng về diệt đế. Trong văn đều lấy đoạn vị làm diệt. Trong đó cũng có diệt vị của bốn giáo tuy là có tên vô tác diệt vị chỉ là vị Sơ Địa của người Biệt giáo mà thôi. Nếu thế tại sao Đạo đế lại nêu đủ đi thẳng đi vòng đến đảo châu báu?
Đáp: Đây là y cứ giáo chứng hai đạo mà nói, cho nên trong bốn niệm xứ hỏi rằng: Người Biệt giáo đã có tứ đế vô tác, vô tác đã hơn, sao chẳng duyên theo mà phát tâm?
Đáp: Người Biệt giáo vì vô tác là quả, quả chẳng chung nhân nên chẳng duyên. Tuy trong hạn xa, chánh ý là duyên vô lượng phát tâm. Sơ địa vô tác do đây mà được, nên nói về quả mới thành vô tác. Nếu thế, chỉ nên nêu địa để làm vô tác, vì sao lại nêu đủ viên vị thỉ chung?
Đáp: Khi ở giáo đạo chỉ nói là địa thượng, nếu vào chứng đạo tức là Sơ trụ. Địa Tiền tức thành các vị Trụ tiền, cho nên trong đây nêu đủ các vị. Trước là vị sanh diệt. Kế từ người ấy thấy diệt đến Chư Phật là vị Vô sanh. Từ người ấy thấy diệt đến Diệu giác là Biệt vị. Từ người ấy thấy diệt đến Diệu giác là Viên vị. Phân biệt trở xuống là tổng kết bốn đế đều từ tâm sanh. nói mười sáu môn đạo diệt, là bốn giáo bốn môn, mỗi môn đều có bốn đế, cho nên được mười sáu đường diệt và tất cả, tức là tất cả Phật pháp ở các cõi mười phương. Từ quán một tâm này trở xuống là nói y cảnh mà khởi giải, một tâm hay thông tâm chẳng thể nói và pháp chẳng thể nói, là như văn trước chép: Là gốc của mê giải. Nay đây lại dùng xuất giả phân biệt gọi là tâm pháp, chung đến pháp tánh gọi là chẳng phải tâm pháp. Chín phược trở xuống là phân biệt phi. Trong phiền não có Như lai tạng cho nên nói ngồi trong. Phàm phu mù đui đồng với tạng mà chẳng có tri kiến. Vì chẳng thấy cho nên trôi giạt trong sanh tử, tức là biển Tạng nên nói là bị thương. Nhị thừa nhìn xa thiên chân bịnh nóng nên nói tạng là khuôn phép, v.v... bốn thứ là dụ cho bốn trụ hoặc. Chẳng biết bốn trụ thể là quý báu, trái bỏ lênh đênh, cay đắng. Nói hơn năm mươi năm là chỉ do trái báu, phiền não được dịp san khi bỏ Đại thừa thì luân hồi trong năm đường. Tu-la là ở giữa quỉ, súc nên gọi là dư. Tuy phược-thoát, là phàm phu Nhị thừa nổi chìm tuy khác là nghĩa mất tạng. Khởi đại bi trở xuống là chánh phát hoằng thệ ấy là dưới hiện bày phải.
Kế nói hoằng thệ vô tác của Viên giáo. Thể của bốn đế chỉ là ba đế, cho nên dùng ba đế mà nêu chung cảnh thệ, một niệm tâm khởi chẳng khác với trước, năng quán quán trí hoàn toàn khác với trước. Ngay một niệm này tức là ba đế chẳng còn nói gốc mê-giải. Hoặc căn hoặc trần đều là pháp giới. Pháp giới là tên khác của ba đế. Kế đều là trở xuống là ba đế dung chứa lẫn nhau, nên nói đều là. Tạng đủ các pháp tức là Tục. Trong không tin đồng, chẳng cần giải thích riêng, vì sao phải giải thích lại. Đều là duyên sanh, nghĩa là một niệm tâm có đủ trăm giới ngàn như v.v... duyên sanh Như thế đều là vô chủ, vì vô chủ cho nên không. Tức ngàn như này tên là Diệu giả, tức là pháp tánh tên là Diệu trung. Kết qui như văn. Chẳng phải ba mà ba trở xuống là lại sơ ba đế lại thành ba đế. Không phải ba mà ba là giả, ba mà chẳng ba là không. Cũng phải chép: Chẳng phải ba chẳng phải chẳng ba là Trung. Văn không là lược. Chẳng phải hợp chẳng phải tan, Trung đạo cùng chẳng sai mà hợp tức không, mà tan tức giả, chẳng phải chẳng hợp, chẳng phải chẳng tan, chẳng phải cùng chẳng sai ở trên tức là cùng chiếu. Trước nói cùng chẳng sai, sau nói cùng chiếu, trong hai văn mà nói hai đế, vì Văn Viên này chẳng trước sau, cho nên chẳng thể một. Khác tức là Trung, mà một là không, mà khác là giả. Như ba đế này ở căn ở trần Như lai tạng tức là phải giả, há Như lai tạng mà không có Phật tánh. Nghe viên đốn này chẳng phải Tông trọng. Bởi do đời gần đây người tu tập Đại thừa lẫn lộn huống chi đời tượng mạt tình rối, tín tâm ít mỏng, viên đốn giáo pháp tràn đầy kho rương, chẳng tan nghĩ suy liền đến mắt mù, sống suông chết uổng, đau đớn thay! Có người chép: Nghe mà chẳng làm ông định làm gì, đó là do chưa biết được lợi ích sâu xa. Như kinh Thiện Trụ Thiên Tử, Văn-thù bảo Xálợi-phất rằng: Nghe pháp mà bác bỏ bai phải đọa địa ngục còn hơn là cúng dường Hằng sa Phật, vì Tuy đọa địa ngục, từ địa ngục ra lại được nghe pháp, ở đây lấy cúng dường Phật chẳng nghe pháp mà xét lường thì nghe mà bác bỏ bai còn là hạt giống xa, huống chi là nghe rồi suy nghĩ siêng năng tu tập ư? Ví như trở xuống là nêu dụ. Phàm dùng sự dụ pháp đều là phần dụ, ở trong dụ gương ý rất thân. Vì sao? Vì khắp gương là sáng, khắp sáng là hình bóng, chẳng cùng chẳng riêng, chẳng dọc chẳng ngang. Có khác chữ y là mắt trời. Chẳng hợp chẳng tan trở xuống là nhắc lại thí dụ đầu, như trước có thể hiểu. Chẳng một, hai, ba là tuy thứ lớp tăng nhưng chỉ là ba đế, ba pháp chẳng thật có gọi là chẳng một hai ba. Hai ba không ngại, đây là tiện theo lời nên lược bỏ chữ một. Người trí nhân dụ lời này có y cứ. Một niệm tâm này trở xuống là hợp thí. Muốn nói lý bình đẳng lại nói chúng sanh và Phật cũng giống như thế. Nay hỏi người đời rằng quán chân như làm sao quán trong thân chúng sanh và Phật và chúng sanh đồng chân như, v.v... Hoa Nghiêm trở xuống là dẫn chứng lý ngang nhau.
Nên Hoa Nghiêm khen ngợi tâm Sơ trụ, nói rằng:
Như tâm, Phật cũng như thế,
Như Phật, chúng sanh,
Tâm, Phật và chúng sanh
Ba pháp không khác nhau,
Chư Phật đều hiểu biết,
Tất cả từ tâm chuyển,
Nêu hiểu được như thế,
Người ấy thật thấy Phật,
Thân cũng chẳng phải tâm,
Tâm cũng chẳng phải thân,
Làm tất cả Phật sự,
Tự tại chưa hề có,
Nếu người muốn biết được,
Tất cả Phật ba đời,
Nên hành quán như thế
Tâm tạo các Như lai.
Nếu không có văn ý viên của ta nay thì ý chỉ của kệ kinh kia thật khó hiểu. Dẫn kinh Tư Ích, là chẳng hiểu ấm giới bình đẳng với chúng sanh và Phật thể tức pháp giới, nên gọi là Ngu. Dẫn kinh Tịnh Danh là ba thứ giải thoát, ba thứ Bồ-đề, ba đức Niết-bàn, chẳng lìa chúng sanh, chẳng thể tìm riêng. Cho nên dẫn lại mà hiển thành nghĩa trong Tư Ích. Dẫn Phổ Hiền Quán, Tỳ-lô-giá-na Hán dịch là Biến nhất thiết xứ (ở khắp mọi nơi) phiền não thể tịnh, các đức đầy đủ, thân cõi xứng nhau, khắp tất cả mọi nơi nói lên lý chúng sanh khắp ở hai kinh trước, chẳng hiểu điều đó là còn cách vô tình. Phải biết trở xuống là kết chung không ngoài. Nếu thế trở xuống là giải thích nghi ngờ. Ở đây trước nghi rằng: Nếu đủ ba đức vì sao nghĩa chỉ nói như không và trong Đại Phẩm nói là rốt ráo không. Ở đây nêu trở xuống là giải thích nghi ngờ. Văn Thiên Ý Viên chẳng nên hỏi riêng. Kinh Hoa Nghiêm quyển ba, Bồ-tát Phổ Hiền muốn cho chúng vui mà nói kệ rằng:
Tâm khắp pháp giới như hư không,
Là người biết được cảnh giới Phật.
Tức đã nói Phật giới có đủ cả ba đế, cho nên nay trình bày rằng. Nếu không làm đầu mối. Không tức đủ ba nên nói không tức chẳng không, v.v... sao chỉ không này giả trung cũng như thế cho nên dẫn vi trần và dùng Trung đạo thảy đều đủ ba. Nói trong hạt bụi có quyển kinh lớn bằng cõi đại
Thiên thế giới. Luận Bảo Tánh chép: Người có thần thông thấy Phật pháp diệt, đem quyển Kinh to bằng cõi Đại Thiên chứa trong một hạt bụi. Sau có người chẻ hạt bụi mà lấy quyển kinh ra. Phẩm Như lai Tánh trong Kinh Hoa Nghiêm chép: Này Phật tử, ví như có một quyển kinh ghi chép tất cả các việc của thế giới Đại thiên hai ngàn tiểu thiên núi chúa Tu-di cho đến cung trời sắc dục đều ghi chép các việc v.v... Lúc đó có một người ra đời có Thiên nhãn thấy quyển kinh ở trong một hạt bụi, bèn nghĩ rằng: Vì sao quyển kinh ở trong một hạt bụi mà chẳng lợi ích cho tất cả chúng sanh. Ta phải phương tiện phá hạt bụi này lấy kinh ra. Người ấy liền dùng mọi cách lấy kinh ra. Nầy Phật tử! Như lai đầy đủ trí tuệ ở trong thân chúng sanh, bị hoặc che lấp chẳng thấy chẳng biết. Như lai dùng thiên nhãn thấy rồi bảo rằng: Lành thay, lành thay! Vì sao Như lai ở trong thân mà chẳng biết? Ta phải dạy ngươi ấy giác ngộ Thánh đạo, khiến lìa điên đảo, thấy tánh Như lai. Tức thời khiến người ấy tu tám Thánh đạo thấy tánh Như lai. Một đất trồng nhiều giống, một hoàn nhiều khí đều là dụ cho có. Chớ giữ lời, v.v... là khuyên răn chớ giữ lời thiên lệch vì hại cho viên dung. Nếu được giải này trở xuống là nói cảnh bốn đế, tám mươi bốn ngàn chẳng ngoài một tâm. Nói tám muôn bốn ngàn, là kinh Luận Tiểu thừa như Bà-sa thường nói rằng: Phật vì chúng sanh trước sau nói pháp, coi là một tạng, như thế cho đến tám muôn. Có người chép:
Một lần ngồi nói pháp được coi là một tạng, lại chép: Nửa tháng nói giới xem là một tạng. Lại nói Phật tự nói sáu mươi sáu ngàn bài kệ là một tạng. Lại nói trần lao có tám muôn, nên nói tám muôn thuốc pháp. Lại nói chẳng có số nên gọi là tám muôn. Đầy đủ phải nói tám mươi bốn ngàn. Như văn đầu Câu-xá chép: Mâu-ni nói pháp uẩn số đến tám mươi ngàn, sau dẫn Bà-sa y cứ tùy miên, v.v... thành tám muôn bốn ngàn. Đây là môn Tiểu thừa không phải chánh ý. Lại kinh Báo Ân quyển sáu cũng có nhiều giải thích: Một là bốn mươi hai chữ xem là một tạng, các thứ khác đồng với nhiều hiện khác. Như kinh Hiền Kiếp từ khi Phật mới phát tâm đến phân chia xá-lợi phần có ba trăm năm mươi độ môn, mỗi môn đều có sáu độ hợp thành hai ngàn một trăm. Lại đối bốn phần hợp thành tám ngàn bốn trăm, biến là mười họp thành tám muôn bốn ngàn. Kết thứ hai của kinh ấy nói mỗi tên Độ vô cực, kết tên chỉ có một trăm chín mươi sáu, như lưu ba mươi bảy Đạo phẩm, chỉ kết thành một số, nếu đều khai tức là ba trăm năm mươi, cũng chẳng nói riêng đối với sáu độ. Chỉ văn đầu nêu có hai mươi pháp đều lấy sáu làm tên. Xưa nay nêu thích đều phải có đủ sáu. Như Pháp Hoa Sớ chép: Phật Địa ba trăm năm mươi, mỗi địa đều có mười thiện, đối bốn phần sáu căn nên thành tám muôn bốn ngàn. Bà-sa, Lăng-già ý đều đồng, hợp chung tất cả giáo Đại Tiểu thừa thì có nhiều tám muôn bốn ngàn. Họp mà nói thì chẳng ngoài bốn đế. Pháp tạng là khổ, trần lao là tập, đối trị là đạo, Ba-la-mật là diệt. Đại luận quyển hai mươi sáu nói Tam-muội và Đà-la-ni có gì khác nhau? Đáp: Đà-la-ni là tuệ tánh, Tam-muội là Định tánh. Cho nên xếp định tuệ vào đạo đế, tám muôn bốn ngàn số ấy chẳng khác, chỉ vì sở trị cho đến năng trị, sở trị diệt, v.v... thì được gọi là bốn đế. Trước nói Phật pháp giới, v.v... là căn Phật pháp giới đối với trần pháp giới mà khởi thức pháp giới nhưng vốn mê mà nói nên gọi là căn, đồng tên pháp giới liền không khác nhau. Cho nên biết tám muôn đều là sanh tử, gồm cả Niết-bàn. Tập Đạo cũng như thế, cho nên đều là pháp giới. Vô minh chuyển, v.v... là tổng kết bốn đế. Hai đế Khổ, Tập đều là vô minh, tức là pháp giới, tức là bình đẳng, tên chuyển làm minh. Dụ nước và băng rất hợp huyền lý. Dụ châu như ý rất hợp với nước và băng. Chúng sanh ở đây trở xuống là kết trách. Ở trong dung diệu một pháp giới này mà phân biệt, tức là có phàm thánh chân tục, hữu tình vô tình nên nói là tư tưởng. Văn này cũng gọi là lý do khởi thệ. Vì tư tưởng, cho nên trở xuống là chánh phát thệ nói dưới là hiển bày phải, ba trước trở xuống là nói về khác bày tướng, ba văn giáo ở trước là chỉ thẳng bốn đế, nay mỗi đế có tám muôn bốn ngàn, vì thế biết văn này là viên minh. Cho nên nói rõ ràng, thấp trong cao, cao trong thấp nên gọi là uyển, hiển bày rõ ràng rất dễ thấy. Bốn thứ bốn hoằng mỗi thứ đều nói là quán một niệm tâm, chỉ là tâm khởi lên do căn trần đối nhau, chia làm bốn khác, là hai giáo trước khéo dụng tuy khác nhưng đều là diệt tâm, lấy đó làm cực quả. Người Biệt giáo xem là gốc mê giải, người viên giáo liền biết tâm là pháp giới, duyên phát tâm này rõ ràng rất dễ thấy, người đời việc gì mà một bề cố chấp. Kế hỏi trở xuống là phân biệt, là chánh y cứ bốn tất để làm phân biệt. Trước ý hỏi là. Hỏi trước là phân biệt phi, chín phược một thoát đều phân biệt là phi (quấy). Thoát đã gồm Nhị thừa hai giáo nay trong hiển bày phải vì sao bốn giáo cùng nói. Đáp: Trong ý ấy có ý ba tất, cho nên lấy hai thứ trước. Tuy là lấy mà chỉ ở Bồ-tát chẳng ngại hai thứ Nhị thừa trước vẫn là phi, đối với Bồ-tát cho ba giáo là đồng với trên cầu, cần phải ủy tiêu. Tướng trong văn này khiến thuận ba tất chẳng thể ghi nhớ hết. Có người chép: Trong hỏi đáp này, hỏi xếp trước thuộc về phi văn, không đúng như thế, nếu y theo đó mà hỏi, thì phải nói trước đã thị phi đều phi, nay sao thị phi đều phải, theo đáp ý đều chẳng đúng. Đáp ý chỉ đáp lấy ba Bồ-tát, sao lại nói thị phi đều phải, cho nên trong hỏi chung nói đều phi, mà chẳng nói thị phi đều phi. Trong đáp chỉ nói Bồ-tát đều phải, chẳng nói chín phi đều thị. Nếu theo ý khác thì chín phi cũng phải đều thị. Nếu rốt ráo trở xuống là kế xếp quyền thật. Thật tức nghĩa bậc nhất. Cùng ba tất trước tức bốn tất, vì bốn tất nên nói bốn phát tâm. Thí như trở xuống đến rất dễ hiểu là nêu nhiều văn thí để du cho thật, Bí phương dụ cho giáo, Giàđà dụ cho trí, Nhũ mê dụ cho hạnh, Như ý du cho lý, cũng là ý bốn tất. Bí phương là thế giới, Già-đà là đối trị, Nhũ mê là sanh thiện, như ý là nghĩa bậc nhất, cho nên y cứ bốn tất mà khen phát tâm. Kinh Hoa Nghiêm chép: Chúng sanh thấy thuốc A-giàđà thì các bịnh đều hết. Kinh Hoa Nghiêm quyển hai mươi mốt chép: Như Đại ma-ni đầy đủ mười sự, có công năng sanh ra tất cả nên nói đầy đủ: Một là ra khỏi biển lớn, hai là thợ giỏi giũa mài, ba là càng tinh diệu, bốn là dứt các nhơ bẩn, năm là lửa luyện, sáu là trang nghiêm, bảy là xỏ chuỗi các báu, tám là đặt trên cột lưu ly, chín là ánh sáng chiếu bốn bên, mười là thỏa mãn ý vua. Quyền thật là đồng nhau, tức dùng chung bốn giáo đều gồm quyền thật. Đều hiển thì đầy đủ như trong đáp, ý ấy rất dễ thấy. Lại một trở xuống là nói một là tên khác, vì trong hỏi đáp phân biệt hiển bày ba giáo ở trước đồng thành một thật, cho nên nay khác tên chỉ đối với thật mà hiện. Cho nên một thật cũng gọi là đại sự, cũng gọi là không thể nghĩ bàn, cũng gọi là vô tác. Trước giải thích một đại sự. Một thật là lý mầu chẳng dối, một đạo thanh tịnh Diệu Trí Hạnh, tất cả người vô ngại v.v..., người nương ở đạo vì (để) khế lý, nghĩa ở Vị mầu ý gồm ba pháp. Đây là y cứ tự hành nhân quả để giải thích. Kế giải thích đại. Đây là đại của một nhà. Tánh rộng là lý, Trí dứt là hạnh, đại nhân là khế. Sư tử v.v... là mình đã vào vị nói giáo lợi ích người khác, cho nên sư tử gầm thét nói pháp mầu này quả nhân sở thuyết (dẫn người quả nói ra) không phải chỉ lợi ích cho phàm vị bốn giáo cho đến bác địa tất cả phàm phu cũng lợi ích bốn giáo vào địa vị bậc Thánh. Tự hành nhân quả hóa tha chung cực, khai quyền bày thật, thêm đạo tổn sinh đều là việc của đại nhân Chư Phật. Việc của một đại nên nói là Đại sự. Nói nhân duyên tự tha nhân quả đều là nhân duyên. Văn nêu Phật, là Phật hạnh nguyện mãn hóa đạo chưa cùng, kế giải thích không thể nghĩ bàn, là Tự tha đại sự đều là ba đế ba đế đều nói và nghĩ đều dứt, tức là trình bày Đại sự ba đế vô tác. Kế, lại hiển bày trở xuống là giải thích vô tác. Trước Thích Danh chép: Chẳng phải tác pháp cho đến sở tác. Hỏi cái không phải Phật làm khác nhau thế nào với không phải Phật làm trong ba tạng? Đáp: Tên chung mà lý riêng, đâu có gì đáng nghi. Kế Thường Cảnh trở xuống là giải thích thể vô tác, thể tức thật tướng, thật tướng vô tướng, vô tướng cũng không. Thật trí vô duyên vô duyên cũng dứt mất. Vì sao? Cảnh tuy vô tướng thường làm trí duyên, trú tuy vô duyên thường làm cảnh phát. Trí tuy duyên khởi cảnh, xứng cảnh vô tướng, cảnh tuy phát trí khiến trí vô duyên. Không duyên mà duyên chiếu cảnh thường không xen hở. Cho nên nói dùng trí vô duyên mà duyên cảnh vô tướng, không tướng mà tướng phát trí rõ ràng. Cho nên chép: Dùng cảnh vô tướng mà tướng trí vô duyên. Cho nên kinh Kim Quang Minh quyển một chép: Trí như như ấy chẳng thấy tướng và tướng xứ. Cho nên cảnh giới thanh tịnh thì trí cũng thanh tịnh. Xứ tức là cảnh, cảnh trí đều thanh tịnh. Lại nói pháp như như, trí như như tức là Trí cảnh tương xứng. Cảnh như như ở trí, Trí như như ở cảnh, cho nên cảnh trí đều nói như như. Có người đọc rằng: trí Vô duyên là người Trí chưa khéo đọc câu, hỏi người quán tâm, tâm trí như thế nào, gọi là hợp một với cảnh. Người ấy tự đáp. Lại Thị trở xuống là dẫn chứng vô tác gọi là phát tâm. Đây có ba kinh đồng một quyển. Quyển đầu tên là Văn-thù Vấn, quyển kế tên là Già-da Sơn Đảnh, quyển sau tên là Tượng Đầu Sơn, nay văn dẫn phần nhiều là kinh Già-da Sơn Đảnh. Ba kinh đều do Văn-thù Phát Vấn nghĩa lý đồng nhau. Cho nên nay dẫn kinh Văn-thù Phát Vấn. Kinh chép: Phật bảo Văn-thù rằng: Tướng Bồ-đề vượt ngoài ba cõi, các tên gọi nói năng đều dứt, (hơn) tất cả phát, diệt các phát, nên nói là phát tâm trụ Bồ-đề. Cho nên Đại Bồ-tát vượt (hơn) tất cả phát là phát, tâm trụ Bồ-đề. Vô chướng ngại phát như pháp tánh phát, không phát là phát, không mê đắm tất cả, không phá thật tế, chẳng dời chẳng ích, chẳng khác chẳng một, như hình ảnh trong gương. Mỗi mỗi câu trở xuống đều là nói phát tâm trụ Bồ-đề. Trụ là chỗ nương. Câu đầu ngay nơi phá là lập. Từ pháp tánh trở xuống là chẳng phá chẳng lập mà nói phá lập. Như thế đều gọi là nương cảnh phát tâm, nên nói phát tâm trụ Bồ-đề. Lập tức là Tùy, pháp tánh tức là cùng chẳng sai cùng chiếu. Nay văn chỉ là phụ ý kinh ấy. Văn gồm nghĩa thích, cho nên tiểu khác nhau. Lại kinh ấy chép: Bảo ta tu vô tướng, đây không phải là tu vô tướng, khiển mê dính mắc nói phá nói (hơn), vô tác bốn hoằng thật chẳng phải phá (hơn), như quá phá không nên nói quá phá. Như trong kinh Tịnh Danh chép: Bồ-đề chẳng thể dùng thân mà được, chẳng thể dùng tâm mà được. Trước rộng phá xong, kế là lập rằng: vắng lặng là Bồ-đề, v.v... Lại tùy tức là giả, phá tức là không cùng chẳng sai cùng chiếu tức là Trung đạo. Đây y cứ pháp giới vô duyên đại từ mà phát tâm. Lại y cứ sự lý để đối phá tùy, nghĩa không giả v.v... đều phải hiểu. Kế nếu ví dụ trở xuống là trích dẫn nói rộng. tất cả pháp đều như vừa nói hoặc là hoặc tùy song phá tùy. Lại ba thứ trước trở xuống là thảy đều phân biệt, quyền thật thô diệu. Trong đây chính là bỏ thô khen thật, cũng cách lượng khen, gồm chung mười ba phen ba trước, một sau. Trước thượng trung hạ v.v... là y cứ quán trí nhân duyên để xếp quyền thật. Viên là thượng thượng. Cộng, bất cộng là y cứ vị mà xếp. Biệt trụ hạnh vị và Nhị thừa tạng thông trước là cộng, chỉ viên là bất cộng. Biệt hướng tuy tức cũng quán Trung đạo, nhưng phải phân Biệt giáo, kế cạn gần v.v... là y cứ hạnh để xếp. Hai hạnh trước gần, Biệt hạnh cũng cong vạy, Đại tiểu chí thật y cứ giáo để xếp, Thông, Biệt là đại trong tiểu, Viên là đại trong đại, quả đầu của ba giáo là viên trong thiên, quả đầu của Viên giáo là Viên trong viên. Thông Biệt là mãn trong bán, Viên là mãn trong mãn. Biệt giáo là giáo quyền lý thật, là thật trong quyền. Viên giáo là giáo lý đều thật, là thật trong thật. Vọng trở xuống là Thiên viên năm cặp, chỉ thiếu một cặp tiệm đốn phải nói Biệt giáo Diệu giác là đốn trong tiệm, tức là Sanh Công đã lập nghĩa đốn ngộ. Viên giáo trước sau là đốn trong đốn. Chân trong chân y cứ đế để xếp, tạng thông chân tục nếu đối với giáo sau thì gọi là chân trong tục, cũng đều gọi là tục. Biệt giáo phá tục cũng là chân trong tục. Viên giáo tức tục gọi là chân trong chân. Liễu nghĩa, v.v... y cứ với nghĩa để xếp. Tạng thông nghĩa quyền là bất liễu nghĩa. Biệt đối với giáo đạo mà nói trong đó là liễu trong bất liễu. Viên giáo đối với Biệt gọi là liễu trong liễu. Ba thứ như huyền, v.v... là y cứ tên khen lý để xếp. Biệt lý là huyền, viên lý lại huyền. Biệt y cứ chứng đạo gọi là diệu trong thô. Tiếng tăm Viên giáo là diệu trong diệu. Thiên lý gọi là không thể nghĩ bàn trong nghĩ bàn. Viên lý gọi là không thể nghĩ bàn trong không thể nghĩ bàn. Cho nên Đại luận quyển 67 chép: Không thể nghĩ bàn cũng không thể nghĩ bàn, ai đáng tin, chỉ không thể nghĩ bàn cũng không thể nghĩ bàn huống chi là không thể nghĩ bàn lại không thể nghĩ bàn ư! Người phát tâm lâu thì có thể tin thọ. Thế nào là lâu? Đối với tất cả pháp chẳng sanh phân biệt gọi là lâu, so với các nghĩa trước đều như thế. Nếu hay trở xuống là kết chung các ý. Chẳng chấp ở quyền lầm cho là thật gọi là thể quyền. Biết quyền là quyền, ngoài quyền không thật gọi là biết thật, gồm mười ba thứ trước, ba thứ trước đều là quyền, một sau là thật y thật phát tâm, sanh ra Chư Phật gọi là hạt giống Phật, cũng lại ở trong giáo viên diệu mà sanh Pháp chủng, Tăng chủng. Cho nên kinh Hoa Nghiêm quyển 7 chép: Phát tâm Bồ-đề để hạt giống Phật chẳng dứt, mở bày pháp tạng để hạt giống pháp chẳng dứt. Trì giới đầy đủ không thiếu oai nghi để hạt giống Tăng chẳng dứt. Lại nói gieo hạt giống Phật xuống ruộng chúng sanh, nẩy mầm Chánh giác để hạt giống Phật chẳng dứt. Chẳng tiếc thân mạng giữ gìn chánh pháp để hạt giống pháp chẳng dứt. Khéo ngự đại chúng tâm không sầu khổ để hạt giống tăng chẳng dứt. Lại chép: Khen ngợi đại nguyện khiến Phật chủng chẳng dứt. Nói mười hai bộ kinh để hạt giống pháp chẳng dứt, thực hành sáu hòa kính để hạt giống tăng chẳng dứt. Một trước gồm tự hạnh, hai sau gồm hóa tha. Nay ý văn này gồm nghĩa ba Phật chủng, chính ở tự hành, vì hạnh tự tha đều giúp cho Tam bảo chẳng dứt. Thí như trở xuống là nêu mười thí dụ khen đức. Đây tức y cứ lý để khen đức sanh thiện ác. Vì tâm Bồ-đề đều y lý như Kim cương, v.v... năm đức sanh thiện, như đàn sư tử v.v... năm đức diệt ác. Trước nói Kim cương từ tánh Kim cương sanh. Đại luận ba mươi sáu chép: Như núi Kim cương từ trên xuyên xuống, đến lớp mé Kim cương tự tánh liền ngưng. Tất cả Kim cương đều lấy lớp Kim cương làm tự tánh. Lại, tòa Kim cương cùng từ tự tánh mé Kim cương mà khởi. Cho nên Phật Bồ-đề Đại Bi làm tánh từ đại bi mà khởi. Thuốc A-bà-la chưa rõ tướng trạng, nếu muốn uống thì trước phải nước trong, muốn phát tâm Bồ-đề thì trước phải vận tâm đại bi, nếu mạng căn còn thì các căn trụ. Luận này hữu lậu dị thục các căn. Nếu Đại bi còn thì tâm Bồ-đề chẳng mất. Có công năng giữ gìn các căn nên gọi là Thắng. Như Thái tử, v.v..., Đại luận bốn mươi chép: Như Luân vương Thái tử tuy chưa thành tựu, phước lực oai đức hơn các vua khác, huống chi là lớn lên nối ngôi Luân vương. Bồ-tát cũng như thế. Tuy chưa thành Phật phước hơn Nhị thừa trụ cực quả. Cho nên kinh Phổ Minh Bồ-tát chép: Thinh văn tuy sanh không phải hạt giống Như lai. Như phu nhân của vua chung với hạ tiện, sanh ra không gọi là Vương tử. Bồ-tát sơ tâm gọi là Phật tử chân thật. Như vua Sát-lợi dẫu thông với giặc nhưng mang thai vẫn là tôn quý nên gọi là Vương tử. Cho nên biết chân tánh phu nhân hợp với giáo Nhị thừa sanh tâm Nhị thừa không phải là đệ tử Phật. Giáo pháp Vô thượng dẫu hợp với phu nhân giặc chúng sanh sanh tâm Bồ-đề thì gọi là thật đệ tử Phật. Sơ tâm Bồ-đề và rốt ráo v.v... gọi là có tướng Vương nghi. Ca-lăng-tần-già trong Đại luận quyển hai mươi tám và bốn mươi chép: Chim này còn trong trứng thì tiếng hót đã hơn các loài chim khác. Đại Bồ-tát cũng giống như thế, chưa ra khỏi vỏ trứng vô minh mà pháp âm đã hơn Nhị thừa. Kế trong diệt ác khảy đờn Viên giáo thì dây đờn thiên lệch dứt mất. Tấu là tấu nhạc. Được sữa Nhất thừa ba bệnh tự tiêu vận chùy chủng trí đập nát ngọn núi Thiên sơn, mũi tên Na-la-diên đâm thấu Thiết-vi, Vô duyên đại bi phá khắp tất cả. Ba trâu xanh lớn nhỏ, phàm dã tám nha. Hương Tuyết sơn thơm trăng xanh vàng đỏ và Ưu-bát, câu-vật, Phân-đàlợi như thế mười sáu lớp. Đại lực trong loài người tên là Bát-kiện-đề đều mười mười tăng, Na-la-diên sau cùng, như ý ở trước nói phát tâm Đại thừa còn hơn công đức quả địa Nhị thừa. Nói cốt yếu trở xuống là kết yếu khen ngợi. Chư Phật ba đời đâu có vị nào chẳng từ phát tâm Bồ-đề sanh. Nếu giải trở xuống là dùng một chỉ quán mà kết. Cũng kết phát tâm gọi là chỉ quán. Chỉ quán trở xuống là nói tên khác. Tên khác nghĩa đồng cho nên tức nhau. Bảo Lương trở xuống là y cứ sự để nói sanh thiện diệt ác, khen ngợi tâm Bồ-đề. Trước dẫn Bảo Lương tức là sanh thiện. Kinh ấy, phẩm Tỳ-kheo và phẩm Sa-môn chép: Tỳ-kheo có ba mươi sáu cấu, tức là sân nhuế cõi Dục, tự khen mình, bác bỏ người, cầu lợi nhân lợi cầu lợi tổn hại người khác, che giấu tội lỗi, gần gũi kẻ tại gia, gần gũi người xuất gia, thích ồn ào, chẳng kính Tam bảo, v.v... Như thế những không chẳng tu pháp Tỳ-kheo, mà còn làm ô nhục hạnh Tỳ-kheo. Kinh lại chép: Như chẳng phải phạm hạnh nói là phạm hạnh, phá giới nói là trì giới, nhận người giữ giới lễ bái cung kính, chẳng biết xấu ác, là Tỳ-kheo ấy tám pháp khinh gọi là si, ngọng câm, thân xấu xí, bị bịnh cùi, nghèo hèn làm tôi tớ, chết yểu, người chẳng kính bị tiếng ác xấu, chẳng thấy Phật. Người ấy cho đến đất bằng không khạc nhổ, huống chi là tới lui co duỗi. Vì sao? Vì quá khứ đại vương thí đất này cho Tỳ-kheo trì giới, người có đức ở trong đó hành đạo, huống chi lại các vật dụng khác như tăng phòng, bốn thứ cúng dường. Nếu chẻ một sợi lông ra một trăm phần thì người ấy không thể được một phần, vì chẳng thể đền ân thí chủ. Lúc đó, trong chúng. Có hai trăm người có tịnh hạnh lìa sắc dục bạch Phật (nay văn nói sáu mươi, tức là phiên dịch trước sau khác nhau chưa xem các bộ khác) nói rằng chúng con chợt chết đi, chẳng vì không được quả mà thọ nhận người khác thí cho một bữa ăn. Phật nói: Lành thay, lành thay! Như thế là người biết hổ thẹn, sợ tội đời sau. Phật nói có hai hạng người đáng thọ nhận. Một là người siêng năng, hai là người giải thoát. Phật nói nếu được giải thoát làm pháp lành, trì giới bền chắc, quán tất cả là vô thường mà cầu Niết-bàn vắng lặng. Như thế Tỳ-kheo ăn của người cúng thí nhiều như núi Tu-di thì phước cũng có thể báo đáp được ơn thí chủ. Kinh ấy nói đối với một công đức nhỏ còn như thế, huống nay chỉ quán thì sẽ báo được ân thí chủ. Lại như Thần Nghiệm Ký nói có ngoại đạo nghe kinh Phật nói thọ nhận của tín thí sau làm trâu ngựa để đền. Bèn thỉnh năm trăm vị Tỳ-kheo, lúc đó Thượng tọa biết liền bảo năm trăm vị Tỳ-kheo tụng kệ rồi ăn cơm Xong, ngoại đạo chép: Đền nợ đã xong trâu ngựa nào thấy thì Ngoại đạo liền phát tâm. Thượng tọa chép: Nói một lời pháp có thể tiêu hết núi Tu-di huống gì một bữa ăn. Một lời nói còn thế, huống chi là phát tâm muốn lợi ích tất cả. Nếu không có đức mà thọ nhận cúng thí, như luận nói luống thọ của tín thí sau làm núi thịt, tự xét trong thân làm nấm mốc thì biết của tín thí tiêu hay không tiêu. Như lai Mật tạng trở xuống là đức dứt ác. Văn trước là nói ác được diệt. Kinh ấy Ca-diếp hỏi Phật thế nào là ác trong mười ác. Phật nói: Có một người cha được quả Duyên giác bị con giết là tội giết nặng nhất, trộm của Tam bảo là tội trộm nặng nhất. Nếu người có mẹ xuất gia được quả A-la-hán mà cùng làm việc bất tịnh thì là tội dâm nặng nhất. Dùng việc chẳng thật mà bác bỏ bai Như lai là tội nói dối nặng nhất. Hoặc nói hai lưỡi phá hoại hiền thánh tăng là tội hai lưỡi nặng nhất. Nếu mắng chửi bậc Thánh là tội ác miệng nặng nhất. Nếu nói hoại loạn người cầu pháp là tội nói thêu dệt nặng nhất. Trong năm tội nghịch, nghiệp đầu giận dữ là nặng nhất. Nếu cướp vật của người trì giới là tội tham nặng nhất. Biên kiến là nặng nhất trong tà kiến. Kinh nói năm tội nghịch nghiệp đầu là sân giận nặng nhất, là khi thân miệng chưa làm thì trước đã khởi ý tìm cách giết cha, thì tướng giận này phải nặng nhất. Nếu khởi mười ác ở trong cảnh trung hạ, đã gọi là ác thì đối với ruộng ân đức kia gọi là ác trong ác. Cho nên Đại luận chép: Người đánh mà đánh lại thì gọi là ác, người chẳng đánh mà đánh người thì gọi là đại ác, người có ân với minh mà đánh thì gọi là ác trong ác. Lại trong mười thứ này, bốn thứ ác trước là tâm cảnh lý giáo trong Đại Tiểu thừa thì bốn thứ này đều nặng, huống chi là giết cha lại thêm nghịch thánh, sáu ác sau thì Đại Tiểu thừa có khác, cho nên miệng ba ác và ý sân thì Đại thừa đều nặng. Vì nói lỗi người, khen bác bỏ và bác bỏ bai cùng miệng ba lỗi liên quan nhau Tiểu thừa thì nhẹ, hai lỗi ý kia thì trong Đại Tiểu thừa ba thứ tâm, cảnh, lý đều nặng cả. Chỉ có giáo gọi là nhẹ. Như các tội này chẳng phải ruộng ân đức còn là nặng huống chi gia thêm ruộng ân đức. Nếu hay trở xuống là nói diệt Bồ-đề. Trước pháp kế dụ, trong pháp trước nêu kế xếp. Trước nêu, kinh nói nếu có người đủ mười điều ác trên, nếu biết rõ Như lai nói pháp nhân duyên chẳng có chúng sanh thọ mạng trời người trượng phu, vô ngã vô chủ, không có người làm người thấy, người biết (Sơ giáo), không sanh, không diệt, không hạnh, ấy là tận pháp, không đắm nhiễm, không thiện và bất thiện (Thông giáo), bản tánh thanh tịnh (Biệt giáo), tất cả pháp bản tánh thanh tịnh (Viên giáo) Giải tri tín nhập chẳng nói người ấy tiến đến đường ác. Vì sao trở xuống? Là văn nay giải thích ra nghĩa đầu của tâm Bồ-đề. Như trăm năm trở xuống là nêu dụ diệt ác. Kinh ấy chép: Như trăm ngàn năm ở mãi trong nhà tối chẳng đốt đèn sáng, không có cửa lớn, cửa sổ. Cho đến không có một lỗ nhỏ như kim có ánh sáng mặt trời, mặt trăng và ngọc sáng. Nếu trong nhà tối này mà đốt đèn thì tối trước sẽ không đúng nói trăm ngàn năm ta vẫn ở đây không đi. Này Ca-diếp, nếu khi đốt đèn tối ấy đã đi thì muôn kiếp tội chướng tu ở định tuệ thì đèn vô ngã chiếu sáng đen tối chẳng còn. Ấy là văn kinh lại dụ sơ tâm Bồ-đề mà thôi. Kinh này đủ bốn trở xuống là xếp văn kinh trước để đối bốn giáo như chú văn ở trước. Sơ Bồ-đề trở xuống là nêu cạn so sánh sâu. Khi chưa làm tôi đều chấp ngã nhân, ngã thêm sanh tử, nay quán sanh diệt tìm ngã không thật có, phát bốn hoằng thệ rộng lợi ích cho người, còn đến Bồđề sao chỉ có mình diệt tội mà thôi. Sơ giáo vụng độ mà công còn thế huống chi là ba giáo sau giảng môn Bồ-đề. Hành giả trở xuống là khuyên cố gắng. Như chỗ tối trở xuống là nếu thí dụ khuyên gắng. Đại Kinh quyển mười tám nói: Xà-vương hiểu rằng: "Y Lan Tử tức là thân (con), không có tín căn ". Phật khen ngợi rằng: Đại vương đã ở thời Phật Tỳ-bà-thi mới phát tâm bình đẳng. Từ đó đến khi ta ra đời không hề đọa địa ngục chịu khổ. Tâm Bồ-đề có quả báo như thế. Đại vương phải tu tâm Bồđề. Vì sao? Vì từ khi được tâm Bồ-đề thì diệt vô lượng tội. Giải thích rằng: Tội thân như y lan, ba ác như chỗ tối, phát tâm như chiên đèn, quán hạnh như ánh sáng. Hỏi: trở xuống là phân biệt. Hỏi: Trong bốn hoằng trước, bốn giáo quán chung nhân duyên mà sanh tâm, vì sao chỉ riêng Mật tạng sơ giáo mà đối nhân duyên? Đáp: Trong hai ý, thì ý đầu đối bốn câu thứ lớp mà đáp, ở đầu trong bốn pháp sanh diệt nhân duyên lại ở đầu trong bốn câu, lấy đầu đối đầu nên chỉ nói tên đầu tiên mà thôi. Kế từ nhân duyên trở xuống là y cứ pháp tướng chung biệt mà đáp. Pháp nhân duyên đã là sự tướng, quán trước quán sự đối đầu là tiện, sự tướng là thông, chung cho bốn giáo là cảnh được quán. Nếu nói trở xuống tức là từ biệt. Sơ giáo cũng do từ biệt mà được tên, ba thông sau lấy nhân duyên làm cảnh. Vô sanh vô lượng cho đến vô tác tức là từ biệt. Kế y cứ sáu tức. Đời có người giảng đều cho Sơ trụ là quả Phật, là cũng do ý mất ở sáu tức. Người giảng còn như thế huống chi là ám thiền. Trước nói lý do sáu tức, cho nên trước hỏi rằng: Đó là sơ tâm hay hậu tâm, trước tức là lý, sau là rốt ráo. Hỏi: Nay phát tâm là y cứ lý cụ gọi là hiển bày hay y cứ rốt ráo mới gọi là hiển bày? Đáp: Trở xuống là y cứ Đại luận mà đáp. Đại phẩm Tu-bồđề hỏi Phật là dùng sơ tâm được Bồ-đề hay dùng hậu tâm mà được Bồ-đề. Luận bảy mươi lăm giải thích rằng: vì sao Tu-bồ-đề hỏi câu này? Đáp: Tubồ-đề nghe các pháp trên không thêm không bớt tâm tự sanh nghi. Nếu pháp chẳng thêm bớt vì đâu được Bồ-đề? Chỉ có Phật được như thế, đâu quan hệ gì đến Bồ-tát. Phật dùng nhân duyên sâu đáp rằng: Nghĩa là chẳng chỉ sơ tâm, chẳng lìa sơ tâm. Vì sao? Vì nếu chỉ sơ tâm thì Bồ-tát sơ tâm phải là Phật, nếu không sơ tâm thì làm sao có hai tâm được. Hậu lấy sơ làm gốc, sơ lấy hậu làm hẹn. Phật dùng hiện dụ mà dụ trước sau này. Thí như đốt đèn, chẳng phải sơ mà chẳng lìa sơ, chẳng phải hậu mà chẳng lìa hậu. Đèn dụ cho đạo Bồ-tát, tim dụ cho lửa vô minh, như Sơ địa tương ưng với trí tuệ cho đến Kim Cương Tam-muội tương ưng với trí tuệ. Đốt hoặc vô minh chẳng phải trí đầu mà chẳng lìa trí đầu, chẳng phải trí sau mà chẳng lìa trí sau. Nói chung ba giáo cho nên y cứ đoạn vị. Nay chuyên y cứ viên nên chung phàm thánh. Lý tánh còn được gọi là Bồ-đề và chỉ quán, huống chi danh tự cho đến rốt ráo. Nay nói phát tâm ở tại địa vị danh tự. Đây gọi y lý hẹn tâm quả đầu. Lý quả đầu trước sau chẳng khác, y cứ sự sai phần sáu vị đều giáng, gọi là Lục gọi là Tức, chẳng tức chẳng lìa, nghĩ rất dễ hiểu. Cho nên Bồ-đề chẳng phải sơ chẳng lìa sơ, chẳng phải hậu, chẳng lìa hậu. Kinh luận y cứ đoạn, văn nay thông lý, lý chẳng thể phát gọi là chẳng phải lý, phát ắt y lý gọi là chẳng lìa lý. Phát tâm ở nhân gọi là chẳng phải hậu. Hẹn tâm quả sau gọi là chẳng lìa hậu. Cho nên phát tâm này phải biết sáu tức. Sơ chỉ gọi là lý cho nên chẳng phải sơ, lý tức là cố nên chẳng lìa sơ. Tên sau ở cực cho nên chẳng phải hậu, đến hậu mới cực nên gọi chẳng lìa hậu. Ở đây và đoạn vị nghĩa tuy khác chẳng tức chẳng lìa, ý ấy nhã hợp. Nếu trí tín trở xuống là giải thích ý. Tín sơ tâm đủ chẳng bác bỏ nói không trí cực mới mãn chẳng sơ không phần, thì sơ hậu đều phải, nói là cùng cực ở Phật, phàm phu thì không hẳn gọi là hậu phi, nghĩa là phàm có lý, lý tức là Phật gọi là sơ phi. Lìa sơ hậu phi phải biết sáu tức. Sơ tâm tuy tức nhưng chỉ gọi là lý. Cho nên lìa sơ phi cực quả tuy xa cũng nên có phần, cho nên lìa hậu phi. Nghĩa sáu tức này khởi từ một nhà, rất phù hợp viên chỉ, không bao giờ có các lỗi. Ám thiền là có nhiều Tăng thượng mạn. Văn tự là suy công người trên đều do chẳng hiểu sáu mà lại tức nghĩa, lý trở xuống là nêu tên. Sáu thứ này trở xuống là giải thích tên lìa lỗi. Tức cho nên phàm cũng đủ. Sáu cho nên cực chỉ ở Phật, cho nên thỉ phàm lý đủ mà chẳng nghi, không thú cầu, không khiếp sợ. Trọn thánh ở Phật mà không tăng thượng mạn vì sanh tự đại. Phàm là thường, cũng chẳng phải một, phẩm kế có nhiều. Thánh: Phong tục gọi chung Thánh là tiếng, vì nghe tiếng biết tình thông trời đất, suốt muôn vật. Kinh Dịch chép: bậc Thánh, là hợp với trời đất, đức hợp sáng với nhật nguyệt, hợp thứ lớp với bốn thời, hợp lành dữ với quỉ thần. Nay Thánh ra đời chẳng nghe tiếng ấy, biết chín giới tình thông đế lý, sướng các cơ hợp đức với Phật giáo, hợp sáng với hai trí, hợp tiết với bốn cơ, hợp minh hiển với các thành. Lý tức trở xuống là giải thích sáu tức. Trước giải thích lý tức, y cứ lý Như lai tạng mà giải thích ba đế. Tất cả chúng sanh có Như lai tạng, ba đế không thiếu. Như trong Viên giáo là trên bốn đế, bốn hoằng mà nói, từ vô thỉ lý đủ không hề nghe tên. Lý này không mảy may khác với Phật. Kế cũng là trở xuống là hiểu tên khác. Kế tức Tịch trở xuống là dùng một chỉ quán mà kết. Văn dưới rất giống. Danh tự trở xuống là giải thích tên gọi, tức vì có lý nên có sanh từ. Sanh tử dùng lý, chẳng biết sanh tử tức là lý, cho nên tên nhật dụng chẳng biết, như người đời dùng mặt trời mà chẳng biết ân ánh sáng. Chưa nghe tên gọi nên chẳng biết lý tánh đủ ba đế. Cho nên, chẳng biết Phật pháp ở trong phàm. Như trâu dê trở xuống là nêu thí dụ chẳng biết. Bốn phương gọi là phương, bốn duy gọi là ngung, trâu dê tuy thấy mà không biết rõ. Cho nên biết phàm tiểu chẳng các pháp thật tướng phương ngung. Thật trong thật như phương, quyền trong thật như ngung. Đây là nêu chẳng biết để nói lên biết. Kế hoặc từ nhân sau mà nghe cho nên biết, là biết lý thật tướng ở trên đã nói. nếu chẳng nghe tên thì do đâu mà hiểu. Người đời xem thường giáo là còn lý quán, lầm thay lầm thay. Quán hạnh trở xuống là giải thích quán hạnh, tức trước dùng hơn bác bỏ kém, cho nên làm thắng nghe, nghe ý ở làm, chẳng phải miệng nói. Cho nên nêu thí dụ như mọt đục gỗ. Như Đại Kinh quyển hai nói thầy thuốc bảo vua rằng: nay ông chẳng nên nói như thế, như mọt đục gỗ tình cờ được thành chữ. Sâu này chẳng biết là chữ hay không phải chữ. Người trí chẳng hề nói là mọt biết chữ, cũng chẳng ngạc nhiên. Các ngoại đạo được tên thường lạc mà chẳng hề hiểu nghĩa thường lạc. Nay cũng như thế. Nghe chẳng tu, hạnh chẳng hiểu, văn chỉ như nét mọt ăn, cho nên phải khiến nghe làm đầy đủ. Phải trở xuống là lại khuyên răn. Tâm quán rõ ràng là khuyên hiểu. Phải trước đối với lý mà khởi hạnh, lý tuệ tương ưng, khuyên hạnh phải trước ở lý mà sanh (hiểu), tâm này quán tương ưng với lý, Sở hạnh là y lý khởi quán, Sở ngôn là y hạnh mà nói. Dẫn hoa đầu, là đây trách nói mà chẳng làm, không phải bảo chẳng cần nói. Cho nên lại dẫn luận văn tuệ bốn câu. Đại luận quyển chín mươi ba chép: Có tuệ mà không học rộng thì cũng chẳng biết thật tướng. Ví như trong tối đen có mắt cũng chẳng thấy được học rộng mà không trí tuệ cũng chẳng biết thật tướng. Ví như trong sáng có đèn mà không chiếu không nghe, không trí tuệ, ví như trâu có thân người. Cho nên Đại luận nói như có người sanh ở vùng biên giới nước An Tức, tuy sanh ở giữa nước mà không thể giáo hóa, căn chẳng đủ, chi chẳng trọn, chẳng biết nghĩa lý, chấp tà kiến, v.v... thì đều gọi là trâu thân người. Có nghe có trí tuệ là chỗ nói nên chịu. Danh tự là nghe, quán hạnh là tuệ. Cho nên quán hạnh tức là người câu thứ tư. Nếu nghe thắng chân mà không hiểu ba đế thì nghe này chẳng phải tức. Nếu ở trong tối tăm mà chứng, thì không bằng ở trong tuệ mà không nghe, chẳng phải thứ tư mà sợ là thứ ba. Như mắt được mặt trời, đây là lại nêu thí dụ, thí dụ câu thứ tư. Đây là dẫn kinh Kim cương như người có mắt, ánh sáng mặt trời chiếu sáng. Mặt trời như học rộng, mắt như quán tuệ, văn tuệ đầy đủ, thấy ba đế lý gọi là các thứ sắc, tuy nói thấy sắc mà chẳng phải chứng đắc, tuy chẳng phải chứng đắc mà chứng phải do đây. Nên dẫn kinh Hoa-nghiêm để khuyên tập quán. Như kinh Lăngnghiêm v.v..., quyển thượng nói rằng: Vì sao phải học Tam-muội ấy? Phật nói: Thí như học bắn tên trước phải tập bắn chuẩn lớn, kế bắn chuẩn nhỏ. Kế học bắn đích, kế học bắn tiền kế học bắn gậy, kế học bắn lông, kế bắn một lông, kế bắn 1/100 của lông. Như thế gọi là học bắn khéo thành. Âm thanh nghe được trong đêm tối, nếu người chẳng phải người không dùng tâm lực mà bắn thì đều trúng. Người tu Tam-muội cũng giống như thế. Trước học ái lạc, học ái lạc xong kế học thâm tâm, học thâm tâm xong, kế học tâm đại bi, học tâm đại bi xong thì học bốn vô lượng, học bốn vô lượng xong thì học năm thần thông, học năm thần thông xong thì sẽ tự thành tựu sáu Ba-la-mật. Sáu Ba-la-mật xong rồi thì liền thành tựu quán đất thứ ba. Chuẩn là vòng tròn lớn nhỏ bao quanh. Đích là hình con thỏ trong vòng. Văn kinh nói bắt đầu từ ái lạc, cuối đến Ba-la-mật, thành tựu ba địa, phải biết đích dần dần sẽ trúng, giống như vị Thông giáo. Địa quán thứ ba tức là đoạn kiến gọi là một phần thành. Nay mượn dụ ấy mà chẳng dùng pháp ấy. Cho nên người viên tức quán đốn lý. Như lúc đầu bắn trúng đích từ thân sơ, bắn là không hai. Cho nên kinh ấy văn dưới tự nói ý viên. Kiên Chí lại hỏi Thiên Tử Hiện Ý rằng: Bồ-tát phải tu pháp nào để được Tammuội ấy. Thiên Tử đáp: Muốn được Tam-muội phải thực hành pháp phàm. Nếu thấy pháp phàm chẳng họp chẳng tan, đó gọi là tu hành Tam-muội Lăng-nghiêm. Lại hỏi: Trong các Phật pháp có hợp tan chăng? Thiên Tử đáp: Pháp phàm còn chẳng hợp tan, huống chi là pháp Phật. Tu tập thế nào? Nếu thấy pháp phàm và pháp Phật chẳng hai, ấy là tu tập. Lại hỏi: Tam-muội ấy đến chỗ nào?
Đáp: Đến tâm hạnh chúng sanh, tùy tâm hạnh chúng sanh mà chẳng bị ô nhiễm, tùy đến chỗ Phật là chỗ Tam-muội đến. Đây là tướng Tam-muội viên đốn. Nếu không có sáu tức thì làm sao tu tập mà chẳng lạm, cho nên mượn dụ bắn đích là sáu tức. Tương tự trở xuống là giải thích tương tự tức. Đã nói càng quán càng sàng. Càng chỉ càng tịnh, như bắn đích gần cho nên khác nhau. Trước học bắn chuẩn sau mới học bắn đích, tất cả thế gian trở xuống là dẫn kinh Pháp Hoa, chỉ là thuận theo tương tự thật tướng gọi là chẳng trái nghịch. Chỉ nói tư tưởng đều là trong kinh Phật nói trước mà chẳng được nói cái gọi là kinh. Nếu thế thì phần chân tám tướng thành Phật, tức như kinh Tịnh Danh tuy xoay bánh xe pháp vẫn gọi là hạnh Bồtát, tức Sơ trụ trở xuống là hạnh Bồ-tát. Phần chân trở xuống là giải thích Phần chân tức. Vào Đồng Luân, là kinh Bản Nghiệp Anh Lạc quyển thượng ý dùng sáu nhân vị mà dụ cho sáu luân, cho đến sáu tánh, sáu kiên, sáu nhẫn, sáu định, sáu quán, v.v... đều đặt tên Anh Lạc, vì lấy vị này để trang nghiêm pháp thân. Nói sáu Luân, tức là Thiết luân Mười Tín, Đồng luân Mười Trụ, Ngôn luân Mười Hạnh, Kim luân Mười Hướng, Lưu ly luân Mười Địa, Ma-ni luân Đẳng giác. Luân là nghĩa nghiền nát và dẹp bỏ các hoặc. Trước phá một phẩm thấy ba Phật tánh, khai ba đức tạng, hiển một phần lý. Cho đến Đẳng giác dần sâu dần rõ là Tiệm của viên gia. Như từ trở xuống là nêu Nguyệt Dụ Phẩm của Đại Kinh mà dụ cho vị. Như Pháp Hoa Huyền bốn câu phân biệt, khai trước hợp sau, như tầng trời ba mươi ba, khai sau hợp trước như mười bốn Bát-nhã, v.v... trước sau đều hợp như khai thị ngộ nhập. Trước sau đều khai như bốn mươi hai chữ. Nếu người phải trở xuống là giải thích phần chứng vị ngoại công dụng. Thân Cõi Phật: cho đến chín giới đủ như Tam-muội Phổ Hiện sắc thân, ba mươi ba thân mười chín nói pháp. Văn kinh đầy đủ ý mười giới. Tám bộ là: trời, quỉ, súc, A-tu-la cho đến đáng dùng địa ngục để độ thì liền ở cõi địa ngục mà độ. Bốn chúng là người và Bồ-tát, Nhị thừa diệu âm thêm Phật mười giới đầy đủ. Nói Phổ Môn, là như Pháp Hoa Sớ mười nghĩa giải thích khắp. Rốt ráo trở xuống là giải thích rốt ráo tức Trí Quang tròn đầy cũng là dụng ý Nguyệt Ái trong Đại Kinh. Bồđề thuộc về trí đức, Niết-bàn thuộc về đoạn đức. Cho nên nói Đại Niết-bàn đoạn. Hai đức Trí-Đoạn không còn khác lúc, Bồ-đề dịch là Đạo, phải đặt tên trí, Niết-bàn vắng lặng phải đặt tên đoạn. Chỗ trí đức mãn lại có đoạn đức. Cho nên nói quả và quả quả rốt ráo mà luận. Ba Bồ-đề mãn tức ba đức mãn, quả và quả quả vẫn thành giáo đạo. Quá đồ vô đạo, đạo vốn năng thông cho đến sở thông, sở thông đã rốt thì năng thông cũng hết. Rông như đầu quyển. Lại đạo là nghĩa nhân, vì quả mãn nên chẳng có nhân. Vì bốn mươi hai chữ rốt ráo cùng tột. Lại trong mỗi tức đều nói Bồ-đề cũng gọi chỉ quán, tức lá tên khác. Trong mỗi tức cuối cùng đều dùng một chỉ quán mà kết. Cho nên biết ở lý danh tự và quả đều gọi là chỉ quán. Đều dùng trở xuống là chung làm sáu tức mà nêu thí dụ. Đây là bần Nữ Dụ trong Đại Kinh ý có đủ sáu ý, nhà có kho báu lý tức, tri thức chỉ cho danh tự tức. Làm cỏ dứt các uế là Quán hạnh tức. Dần dần được gần là Tương tự tức. Gần rồi mở kho là Phần chân tức, lấy hết mà dùng là rốt ráo tức. Cho nên thứ tám nói ta tức là nghĩa Như lai tạng. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh tức là nghĩa Ngã. Từ vô thỉ đến nay bị phiền não che lấp chẳng thấy được. Thí như trong nhà cô gái nghèo có kho vàng, người trong nhà lớn nhỏ đều không biết. Lúc đó có người lạ khéo biết cách bảo cô gái rằng: nay ta nghĩ đến cô, cô nên vì ta mà quét sạch các thứ dơ bẩn. Cô gái đáp tôi chẳng thể làm được. Nếu chỉ cho con tôi kho vàng thì tôi mới nhanh chóng làm cho ông. Người ấy đáp: Tôi biết phương tiện có thể chỉ bày cho con cô. Người nữ chép: Nhà tôi lớn nhỏ còn chẳng biết, huống chi ông biết. Người ấy chép: nay ta xét biết. Cô gái đáp: Tôi cũng muốn thấy vậy có thể cùng chỉ cho tôi. Người ấy liền ở trong nhà mà đào kho lấy vàng ra. Cô gái thấy rồi tâm rất vui mừng, nghĩ việc lạ lùng khiến bao gồm khắp nhà. Dụ này trước sau chẳng ngoài sáu tức, là gồm hết ý dụ. Thích Châm quyển năm dẫn sớ giải thích rõ, v.v... Hỏi trở xuống là phân biệt. Có ba lớp hỏi đáp. Một là hỏi: Sáu tức đã được tên sáu Bồ-đề phải biết Bồ-đề cũng dính thỉ chung. Lý chung phàm hạ nên bỏ chẳng nói, năm thứ tức kia gọi là năm Bồ-đề, cùng nói đâu khác. Cho nên luận quyển năm mươi tám chép: Một là phát tâm Bồ-đề, ở trong vô lượng sanh tử thành A-nậu Bồ-đề. Hai là phục tâm Bồđề, là đối với các phiền não điều phục tâm ấy, khiến thực hành các Ba-la-mật. Ba là sáng tâm Bồđề, là quán pháp ba đời, tướng chung tướng riêng các pháp thật tướng, các Ba-la-mật. Bốn là xuất đáo Bồ-đề, là đối với Bát-nhã chẳng mê đắm Bátnhã, dứt được các hoặc, thấy Phật mười phương ra khỏi ba cõi, đến Tát-bà-nhã. Năm là Vô thượng Bồ-đề, nghĩa là ngồi ở đạo tràng mà được Bồ-đề. Ý đáp, là trước xếp khác nên nói khác nhau. Kế hiểu nghĩa tuy vốn là khác, nay hiểu khiến đồng là sao, Luận chẳng nói tức cho nên thành khác, lấy năm cặp năm nghĩa hơi đồng. Phát tâm vô hạnh đồng với danh tự, phục tâm chưa dứt, đồng với quán hạnh, sáng tâm trừ tối đồng với tương tự, Xuất đáo tát vân đồng với phần chân, Vô thượng không ai hơn, đồng với rốt ráo. Tìm kỹ luận văn để đối năm tức, từ dung đối đương, lý rõ ràng bằng nhau. Lại dùng trở xuống là dùng năm danh để đối năm tức, nên có thể dùng năm danh mà đối viên vị. Nói viên vị là vị viên đoạn. Trụ đối phát tâm cho đến Mười Địa Đẳng giác để đối xuất đáo, Diệu giác đối Vô thượng. Kế hỏi: Vừa giải thích đối viên vị nghĩa các giáo điều phục trước, dứt sau. Vì sao văn này nói mười trụ dứt sau mà làm đối phục?
Đáp: Trong đó nói chân đạo phục là Sơ trụ trở lên, đều là chân đoạn. Sao ngại trụ trở xuống là dứt trước phục sau. Như thế, cho đến Đẳng giác cũng còn phục. Tên gọi Phổ Hiền do đó ở đây. Ví như trở xuống là nêu Tiểu thừa lệ với dứt trước phục sau, thứ lớp riêng đối với đây mà dọc hội (hiểu). Lại từ trở xuống là hội ngang, mỗi vị đủ năm, nên gọi là ngang. Cho nên nghĩa trở xuống là kế dẫn Địa Luận, trong mỗi địa có các công đức, cùng trong các vị có năm nghĩa đồng. Kế hỏi: Sáu đã y cứ vị cũng phải gồm Biệt, sao ý dùng riêng Viên vị mà giải thích. Ý đáp là ba giáo trước các pháp chẳng phải tức, Thông tuy gọi tức chỉ là giới nội. Cho nên tên tức chỉ ở Viên giáo. Như các kinh luận nói sanh tử tức Niết-bàn, nếu không có sáu vị thì đâu khỏi tăng thượng mạn, nếu chẳng sáng thì lấy gì mà nói, Viên khác ba thứ trước nên nói chẳng như thế. Ở giáo ấy trở xuống là từ nghĩa dung mà giải thích, chẳng phải chánh ý của văn. Phải ba giáo trước, mỗi giáo đều đặt tên sáu tức, cái gì mà dung chẳng được, hồ giống như sao. Nói cạn gần, một là sáu nghĩa chẳng phải tức; hai là giáo trước chưa sâu, như trong ba tạng dúng chân đế làm lý tức, thuyên chân là Danh tự, ngoại phàm là Quán hạnh, nội phàm là tương tự kiến đạo là Phần chân, La-hán là rốt ráo. Ba tạng Bồ-tát đến, dưới cây cũng ở tự vị, ba mươi bốn tâm phần chân rốt ráo. Hai giáo Thông, Biệt so sánh, nói rất dễ hiểu. Nhưng từ trên trở xuống là kết thúc hiển bày.
Trong phân biệt phi ở trước, chín phược y cứ khổ đế là Trầm, một thoát y cứ khổ đế là Thăng, tuy có thăng trầm mà đều chẳng phải hiển bày. Thị cho nên đều phân biệt chấp y cứ trí bốn đế, là trong bốn thứ bốn đế đều dùng phát tâm, nhìn chung Tiểu thừa đều là cong vạy, v.v... Kế y cứ bốn hoằng, là trước y cứ bốn đế ở cảnh khởi giải đã có hơn kém, phân biệt kém từ hơn để hiển bày. Nay y cứ bốn hoằng từ giải khởi nguyện, biết phải lấp làm. Lại cũng tùy cảnh khác nhau khác nhau. Cho nên y cứ bốn hoằng hạnh nguyện mà phân biệt. Dẫu có hạnh nguyện thì ba trước chẳng phải diệu. Cho nên lại dùng sáu tức mà phân biệt. Cho nên nói xoay vần càng sâu bèn mới hiển bày. Cho nên biết trăng sáng thần châu v.v... là dụ ở văn kết thúc hiển bày. Đại luận quyển thứ chín mươi chín chép: Minh nguyệt ma-ni, châu này phi thường nên gọi Thần châu. Nay nói chín lớp là cùng cực của số dương, cho nên nêu ra để dụ cho rất sâu, cũng chẳng cần dùng văn này mà phối chín. Ly Long là mầu đen chẳng có sừng, là rồng cái. Lại ly ngựa mầu đen, nay vì mầu đen nên gọi là long. Lãnh là xương dưới đầu gọi là lãnh xa cốt. Luận nói châu này ở trong não rồng, người có phước mới được, như đồ tra khảo ở địa ngục, người có tội mới gặp. Châu này bay sanh ra bốn sự, cho đến lửa chẳng đốt cháy v.v... Cho nên biết rồng ở cực châu, châu ở cằm rồng. Rồng ấy lại độc, kẻ bạc đức đâu có được. Như thế hiển bày, trước chỉ y cứ khổ đế, kế y cứ bốn là bốn đế, kế y cứ bốn thứ bốn hoằng, sau y cứ sáu tức. Từ rộng đến hẹp, từ thô đến tế, mới là hiển bày ở viên diệu, chín chỉ hiển bày sâu chẳng nhọc đối riêng. Phàm lập thí dụ đâu cần phải lấy hết. Như đối số (đếm) thì chẳng tiện, huống là đem rồng ở vực mà hợp dụ. Pháp thì nặng ở nghĩa chẳng phải gấp, huống chi sáu tức chẳng khác bốn đế. Lại trong bốn hoằng thứ tư vô tác, nếu khai quyền rồi ba thứ trước đều thật. Cho nên văn cuối bốn hoằng phân biệt rằng: Nay hiển bày vì sao đều nói thị. Khai quyền hiển thật thì bốn thứ đều thị, lấy gì mà phân biệt nên chẳng thật có. Một lần chung lấy phân biệt phi làm một, hai. Bốn là tám hợp thành chín lớp. Sáu tức xem là hiển bày Bồ-đề, dùng ngọc làm dụ có gì chẳng được. Nhưng bốn đế, bốn hoằng, cho đến sáu tức đều là năng hiển, phát tâm Bồ-đề đều là sở hiển, vì mỗi pháp đều hiển bày tâm Bồ-đề, đều là thần châu, cho nên cũng bất tiện. Nói có chí có đức mới được là như Đại luận quyển mười bốn chép: Năng thí Thái tử hay tìm ngọc này để cứu chúng sanh. Trước sanh cung rồng mà làm Thái tử, cha mẹ yêu thương tức dùng thân mình mà nuôi chim cánh vàng, sanh vào cõi Diêm-phù-đề làm
Thái tử gọi là Năng thí. Sanh rồi liền đòi vật để bố thí, kho tàng trống rỗng chẳng đủ. Nghe nói châu rồng bèn muốn xuống biển tìm. Cha mẹ chép: Cho con một kho tàng, mặc tình bố thí, v.v... Hẹn ngày, cùng năm trăm người lái buôn ra biển. Có mười người mù từng bảy lần ra biển, v.v... Đến núi bảy báu mọi người muốn lấy. Bồ-tát chép: Chẳng lấy. Các người được rồi đem về, Bồ-tát riêng đi một mình, bảy ngày đi nước đến rún, bảy ngày đi nước đến eo, bảy ngày đi nước đến gối, bảy ngày đi bùn, bảy ngày đi hoa, bảy ngày đi đầu rắn dữ, qua đây thì đến thành bảy báu, có bảy lớp hào rãnh, hào có rắn độc, thấy Bồ-tát bèn nói: Đây không phải là người phàm, ắt là Bồ-tát có phước đức lớn. Trước nghe vào cửa. Rồng này mất con chưa bao lâu cũng than khóc. Thấy Bồ-tát đến, vợ có trí thông minh biết là con mình, hai vú chảy sữa, cho Bồ-tát bú, bảo rằng ngươi là con ta. Bồ-tát cũng biết là cha mẹ mình. Hỏi: Ngươi sanh ở đâu? Đáp: Sanh ở Diêm-phù-đề, làm Vương Thái tử, thương xót chúng sanh tìm ngọc Như ý. Mẹ chép: Trên đầu cha con chỉ có hạt ngọc này để trang năng lực, rất khó thể được. Các kho cứ mặc tình mà lấy. Bồ-tát chẳng chịu liền đến gặp cha. Cha thương con nên nói cứ mặc tình lấy. Ngọc này khó được. Người ở cõi Diêm-phù-đề vì phước mỏng nên chẳng thấy được. Thái tử chép: trước lấy ngọc thí, kế dùng pháp dẫn dắt. Người Cha chép: Khi ngươi chết rồi phải trả ngọc lại cho ta. Đáp rằng xin vâng. Bồ-tát được ngọc bèn bay lên hư không mà trở về trước trường biểu thượng lập thệ mưa báu cho nên ít phước mà chẳng thể phương, nếu chẳng cùng ở trong vực sâu sanh tử rồng độc phiền não, thì do đâu mà được rốt ráo Bồ-đề. Cho nên dùng khổ đế thăng trầm khúc chiết hạnh nguyện sáu tức v.v... mà phân biệt mới hiển bày Viên Thị. Tranh chấp v.v... là lại nêu thí dụ, so sánh. Đại Kinh quyển hai bác bỏ ba tu rằng: Các ngươi phải biết trước chỗ tu tập vô thường, khổ v.v... không phải chân thật. Ví như mùa xuân có nhiều người xuống ao tắm, ngồi thuyền dạo chơi, mất báu lưu ly chìm sâu dưới đáy nước. Khi đó mọi người đều xuống nước, tranh nhau mò lấy ngói đá, gạch sõi đều tự bảo đã được châu lưu ly và vui mừng vớt lên, mới biết là không phải thật. Lúc đó, châu quý vẫn còn dưới đáy nước. Cũng như ngay cứ nhìn trăng trên hư không. Bấy giờ, mọi người dùng năng lực phương tiện từ từ xuống nước, liền lấy được hạt ngọc. Cho nên chẳng cần phải tu vô thường, khổ, v.v... vì là chân thật. Chương An chép: Mùa xuân vui thích là dụ cho cảnh Dục, mọi người là dụ cho đám người chơi bời lêu lỏng. Ao lớn dụ cho sanh tử, tắm dụ cho sân mạn, ngồi thuyền dụ cho các nghiệp, dạo chơi dụ cho ái quả, mất báu dụ cho không hiểu, xuống nước dụ cho Sơ giáo, mò lặn dụ cho kém ba tu, ngói gạch dụ cho chứng kém ba tu, đều nghĩ là mình đã được diệt độ. Trong chấp ấp ủ nên gọi là vui mừng, hướng Phật ngợi khen nên nói đem ra, mới biết chẳng phải thật là dụ cho thường hiểu. Nay lấy ba giáo lệ chung cho ba tu, tức dùng cảnh sở quán của ba giáo gọi là cảnh dục. Các văn khác thứ lớp dùng ý ba giáo mà thay thế ba tu kia, cũng rất dễ hiểu. Nếu lấy chung bốn giáo Bồ-tát, cũng phải bác bỏ ba tu Thanh văn. Thế nên, cùng với ví dụ ao rất là phù hợp. Từ xưa, người giảng nên dụ văn này. Chưa phải đúng lắm, kẻ học thấp học ngoài da. Người đời sau học cạn chẳng biết hiển bày cái đúng chỉ ở viên diệu, cho đến khai hiển trong một tâm, thì sẽ lấy gì làm kỳ hạn cho phát tâm. Kỳ hạn ấy đã không, thì phát hướng về đâu? Phát đại tâm đã xong.
Kế giải thích: Tu đại hạnh. Trước nói ý nghĩa phát tâm chẳng có hành chẳng có vị để luận, cho nên nói tu hành vào vị Bồ-tát gọi là tu Đại hạnh chỉ quán là nêu, tự phàm phu trở xuống là giải thích. "Khéo hiểu trở xuống là nêu thí dụ. Vị Lạc phải luyện mới thành vị tô, như khuấy cho chín. Cho nên Đại Kinh quyển hai mươi sáu nói: Như sữa phải có công người làm, đổ nước vào bình sữa chế luyện sẽ thành bơ lạc, bơ đã xong thì vị đề hồ sẽ được. Trụ hạnh tiền hạnh cũng như chế luyện. Phàm phu năm phẩm đồng dụ cho sữa, sáu căn như lạc và sanh tô thục tô. Sơ trụ trở lên gọi là đề hồ. Khéo có thể điều đình bốn thứ Tam-muội. Phải biết sáu căn Sơ trụ có thể được. Từ (hơn) mà nói, nên gọi là đề hồ. Dẫn chứng như văn hành pháp trở xuống là nêu lược nhiếp rộng để nêu bốn tên, gọi chung trở xuống là giải thích tên. Gọi Tam-muội là chung, ngồi v.v... là riêng. gọi Đại luận trở xuống là dẫn chứng. Luận nói tất cả tâm thiền định đều gọi là Tam-ma-địa, đời Tần dịch là Chánh tâm hành xứ chỗ hành của chánh tâm, tâm ấy từ vô thỉ thường cong chẳng ngay, vào chỗ chánh hạnh thì tâm ngay thẳng, như rắn thường bò cong mà vào ống thì bỏ thẳng. Nay văn còn lược, nên nói tâm khéo trụ một chỗ (tâm khéo trụ một chỗ). Trước giải thích lại lược. Chỉ nói điều trực. Luận lại chép: Tam-muội là chung, một trăm lẻ tám là riêng. Nay chỉ đối bốn để nói chung riêng. Pháp giới trở xuống là giải thích luận văn. Bốn hạnh chung y pháp giới một chỗ, lại trong tên riêng mà nói thường ngồi. Cho đến chẳng phải đi chẳng phải ngồi là y cứ thân nghi làm tên. Nếu từ pháp làm tên thì thường ngồi gọi là Nhất hạnh, thường đi gọi là Phật lập, nửa đi nửa ngồi gọi là Phương Đẳng Pháp Hoa, không đi không ngồi gọi là Tùy tự ý v.v... Một thường ngồi trở xuống là nói giáo được theo, giáo ấy đặt tên giáo lý Nhất hạnh. Cắt bỏ thân nghi chẳng gồm việc khác gọi là Nhất hạnh, chẳng phải lý được duyên được gọi là nhất hạnh. Nếu lý được duyên gọi là nhất hạnh thì bốn hạnh đều duyên thật tướng. Nay trước trở xuống là khai chương. Phương pháp trở xuống là nêu tướng phương pháp phải đủ ba nghiệp. Thân trong khai giá nói hoặc có thể ở trong chúng tức là ở, chỗ riêng cao quý nhất nên gọi là di thiện (thiện lớn). Ngồi kiết già, thì chân trái trước, chân phải sau cùng đặt lên đùi. Đại luận quyển chín hỏi: Có nhiều cách ngồi sao chỉ dạy ngồi kiết già? Đáp đó là rất an ổn, giữ chặt tay chân tâm không tán động. Ma vương sợ hãi, nên kệ chép: "Người được đạo hổ thẹn, ngồi yên như rồng phục, thấy dáng ngồi kiết già, Ma vương đều kinh sợ." Chẳng đồng cách ngồi thế tục và khác ngoại đạo đứng kiểng chân. Tự Thư chép: Kiết già là ngồi lớn, cho nên biết xứ này chưa hiểu cách ngồi, chỉ nói đại tọa. Nay Phật pháp ngồi tướng ấy như kết, hai chân gài vào nhau nên gọi là kiết già. Thân phải hẹn đến thấy lý chẳng tạm nằm, huống chi là như thây chết. Nói thi ngọa là nằm ngửa, cũng gọi là dâm nữ nằm, Tu-la nằm sắp, đều chẳng nên làm. Thánh cho nằm nghiêng hông phải, còn chẳng nên làm, huống chi là như thây chết (Lễ chép: Chết nằm trên giường là thi, nằm trong quan tài gọi là cửu) đây là ý riêng của người giảng, không phải văn này. Trừ khi đi kinh hành, để khỏi buồn ngủ nên Phật, khai cho đi kinh hành. Nếu đi kinh hành thì phải tánh đất có côn trùng, luật Thập Tụng chép: Nếu đi kinh hành thì phải đi thẳng, không chậm không nhanh. Lại Kinh Tam Thiên Oai Nghi chép: Kinh hành có năm chỗ: Một là chỗ vắng; hai là trước nhà; ba là trước giảng đường; bốn là dưới tháp; năm là dưới giác. Luật Tứ Phần chép: Đi kinh hành có năm lợi ích: Một là đi được xa; hai là có thể suy nghĩ; ba là ít bịnh; bốn là tiêu thực; năm là được định trụ lâu. Ăn và tiện lợi, v.v... đồng với chỗ cho phép, chẳng được do đây mà lợi dụng kéo dài chậm trễ. Nếu ngủ rồi dậy, ăn xong các việc thì chẳng phải việc được khai. Tùy một phương mà nhìn thấy Phật. Hướng phải theo phía Tây. Nếu khởi niệm Phật thì chỗ hướng về Phật là tiện. Kinh tuy chẳng bắt buộc phải hướng về phương Tây, nhưng chướng khởi đã khiến đọc tên một. Các giáo phần lớn đều khen Di-đà, nên dùng phương Tây làm chuẩn. Về Thời khắc, trong một ngày đêm có một trăm khắc, lại phụ tục nghi nên nói khắc. Nói tu du, một ngày một đêm có ba mươi Tu-du, chưa hẳn chỉ cho đây, chỉ là nói chung chẳng cho tạm bỏ nên gọi là Tu-du, còn chẳng cho cách một sát-na, huống chi là khắc hay Tu-du. Cho nên trong truyện Đại sư chép: Nói chẳng dối thì hơi thở chẳng hư, chỗ khai ở sau lại răn khai già ở trước. Chẳng khinh Phật, khinh vật gọi là lăng. Luận Ngữ nói quân tử còn chẳng lừa, huống chi là Phật? Đại luận sáu mươi mốt chép: Khi Bồ-tát cầu Phật đạo thì chẳng tiếc thân mạng, Chư Phật các Đại Bồ-tát mười phương đều cùng hộ niệm, thành tựu Phật đạo. Nếu làm Bồ-tát mà biếng lười, là tham đắm danh đời chẳng chuyên siêng cầu, ấy là tự dối lừa mình mà cũng dối lừa Chư Phật và các Bồ-tát. Vì sao? Vì tự nói ta vì chúng sanh mà cầu Phật đạo lại làm tạp hạnh, nên ma được dịp làm hại. Chẳng phụ tâm, phụ là chẳng khắc, sau chẳng toại trước, gọi là chẳng khắc, cũng là tự dối mình. Chẳng lừa dối chúng sanh, trá là khi, là lừa dối, lầm lẫn, tức làm cho người khác hiểu sai, trái với lời nói trước mà làm tạp hạnh. Cho nên lừa dối là tự phụ tâm mình, phụ tâm mình tức là lừa dối Phật. Miệng nói nín thuận hành nên nín, trừ chướng nên nói. Bì là mỗi một biếng lười. Câu dưới nói tật bịnh là bốn đại chẳng điều, chẳng do ngồi mà mệt mỏi, nên nói là bịnh tật. Nội ngoại chướng, là phiền não, kiến mạn v.v... gọi là nội chướng, ma ác tri thức v.v... gọi là ngoại chướng. Chỉ được chuyên xưng niệm danh hiệu Phật là sám, suốt đời không hối, nên nói dùng mạng tự qui y. Cùng xưng niệm Phật mười phương, là giải thích nghi, sợ có người nghi rằng vì sao chỉ khiến niệm Phật A-di-đà. Cho nên giải thích rằng: Công đức Chánh đẳng dứt loạn nên chuyên. Vì sao trở xuống là nêu thí dụ. Như người quá buồn khóc lớn lên thì thoải mái, nếu có việc quá vui hát lên thì thoải mái. Niềm vui nỗi buồn trong lòng chưa tiết lộ ra nên phải dùng miệng mà ca mà khóc lớn để giúp. Người tu trở xuống là hợp thí, Đại luận quyển sáu mươi giải thích dụ tiếng vang nói rằng: Như người khi nói thì hơi trong miệng phát ra, gọi là Ưu-đà-na đụng rún mà đi lên, hơi ấy đụng bảy chỗ là đầu, lợi, răng, môi, lưỡi, cổ họng và ngực. Từ đó, lời nói sanh ra. Người ngu chẳng hiểu đây, đắm mê mà sanh tham si. Trong người có trí tuệ chẳng sân cũng chẳng mê đắm, cũng lại không ngu si, chỉ tùy các pháp tướng, cong ngay, co duỗi, tới lui, nhìn nói đều không có tác giả. Năm câu trước là nói thân nghiệp, câu thứ sáu là nói miệng nghiệp, một câu hai hàng sau là xếp vào tướng ngu trí. Tuy dùng thân miệng giúp ý thành cơ nhưng phải hiểu rõ tướng ngu trí, tức là ba nghiệp cùng làm cơ. Huyền văn tuy lập nghĩa cơ ý nghiệp nhưng không phải ý văn này. Ý nay chỉ duyên, ý riêng chẳng thành, cho nên khiến tu mà giúp. Kinh Bộ tuy tức nghĩa chung ba thừa, ý nay ở viên chẳng chung cho Thông Biệt. Nay là trừ chướng tuy niệm ứng Phật. Ý dưới chỉ quán khiến nhớ nghĩ pháp thân cho nên chỉ ở viên. Như người trở xuống là dụ giúp ý. Người tu trở xuống là hợp. Nếu đối với pháp môn chưa hiểu trở xuống là vì dứt mê nên gần gũi hiểu rõ giải, vì hai kinh ấy là Bộ Bát-nhã, nên khiến gần gũi hiểu Bát-nhã, Ý thì chung với hạnh môn Đại thừa. Lại trong Bát-nhã có nói nhiều về pháp quán hạnh của Bồ-tát. Tụng kinh, v.v... là nêu so sánh. Việc này tuy là thường ngồi bị bỏ đi chớ dùng lời này mà so sánh ba Tammuội. Cho nên trong thường ngồi còn bỏ tụng kinh, huống chi là lời thế tục, ngăn tụng hạn cục ở đây, ngăn nói thông bốn, vì thế bốn Tam-muội đều phải dứt việc tiếp xúc người ngoài, không đi không ngồi, y kinh cũng chế. Tuy chung cho tác thọ nhưng nhiễm tục chẳng khai, ý chỉ quán. Đây cho đến không đi không ngồi đều là thô chuẩn. Kinh nầy chỉ bày quán môn. Dẫu dường như có tướng mười quán mà văn đều y cứ lược, chưa thể phân biệt quán pháp trước sau. Mới phát đại tâm trở xuống là ba lược cũng giống như thế. Cho nên năm chương này chỉ gọi đại ý. Văn này chỉ y hai kinh thô nêu, lời gọn ý xa chẳng nên xếp lầm. Nếu muốn tiêu thích thì khéo trở xuống là văn quán pháp mười thừa mới có thể lìa nhầm lẫn. Nếu y cứ vào văn sau là không có bốn hành tướng thì văn sau thành lược. Nay y cứ vào quán pháp mười thừa chưa trọn thì trong đây thành lược. Cho nên năm lược từ quán mà lược chớ chẳng từ sự. Trong văn này dùng nghĩa mà suy mười thừa lược đủ pháp giới v.v... tức gọi là diệu cảnh. Vì giáo hóa chúng sanh tức là phát tâm, buộc duyên trong một niệm tức là chỉ quán. Quán ở ba đường gọi là phá pháp, trải khắp tất cả pháp tức là thông bít, mà tu Phật đạo tức là đạo phẩm, quán nghiệp khổ tức là trợ đạo, thức quán chẳng lạm tức là thứ vị. Trong thứ vị gồm hai thứ kia, ba Tam-muội dưới ý văn chỉ quán phụ sự tùy lược. Nếu dùng nghĩa mà nói y theo đây rất dễ hiểu. Trước ngồi thẳng là chung cùng chỉ quán mà lập ra tướng thân tâm. Kế dứt trừ trở xuống là pháp tu quán. Từ đầu đến loạn tưởng là nói trị của chỉ, từ chớ tạp đến tướng mạo là nói tự của quán, từ chỉ chuyên đến quán ấy là nói về Năng quán, tịch chiếu chỉ quán. Tuy buộc tuy niệm chẳng ngoài pháp giới, tuy chỉ quán tuy tịch chiếu đồng thời, tin tất cả pháp trở xuống là chẳng khuyên tin. Phải tin pháp giới chẳng phải nghiệp ba đời, cho nên chẳng có trước sau. Pháp giới thể khắp nên không có bến bờ. Nội chứng là biết, hóa tha là nói, năng tri năng thuyết chẳng khác pháp giới, cho nên nói không biết, không nói. Pháp giới không bờ mé nên chẳng phải có không, chẳng phải tục nên chẳng phải biết, chẳng phải không nên chẳng phải chẳng biết. Từ thắng mà nói nên nói lìa bên, trung biên tức nhau nên trụ ở vô trụ. Tất cả Chư Phật đều dùng pháp giới làm chỗ an. Ta trụ pháp giới như Chư Phật đã trụ. Cho nên nói chỗ an, nghe đây trở xuống là khuyên răn khiến phàm phu này trụ ở chỗ Chư Phật, chớ sanh quái lạ. Pháp giới này trở xuống là tên khác của pháp giới. Như thế trở xuống là kết các tên khác đều đồng pháp giới. Hay như thế trở xuống là kế quán pháp thân. Đây tức là nêu cảnh sở quán ở trước để làm khuyến tiến lên, kết pháp cảnh ở trước để thành mười hiệu. Văn này là quán pháp giới bình đẳng, hay quán mười hiệu ấy như thế. Tướng mười hiệu là thế nào? Đáp: Chỉ quán pháp giới tức thấy Ứng thân Như lai mười hiệu bằng với pháp giới. Cũng biết pháp thân Như lai mười hiệu. Vì sao? Vì nương trí không hai mà lại hợp chánh cảnh nên gọi Như lai, dùng lý không hai khắp vào các pháp gọi là ứng cúng, rõ trí chẳng hai, trí thể không (thiên lệch) nên gọi là Chánh biến tri, biết pháp không hai chung với pháp giới, tuy không qua lại (tới lui) nhưng vào khắp ba cõi, nên gọi là Minh Hạnh Túc. Pháp không hai tánh ngầm chứa ba đức nên gọi là Thiện thệ, lý khắp tất cả, đủ cả ba thế gian, hiểu lý này nên gọi Thế gian giải. Hiểu lý này thì không hoặc nào chẳng dứt, lại hơn tất cả nên gọi là Vô thượng sĩ. Vì hiểu lý nay điều phục việc khó phục trong mười pháp giới, nên gọi là Điều ngự. Liễu pháp trong pháp giới nên gọi là Trượng phu. Khế hợp lý này nên tất cả kính ngưỡng, trên cả ba giáo trời người, gọi là Thiên nhân sư. Biết lý này nên gọi là Phật. Hiểu lý này nên được ba thế gian tôn kính, nên gọi là Thế tôn. Trí khế pháp thân, đủ hiệu pháp giới, cho nên hiện bày Ứng thân mười hiệu. Pháp ứng một hiệu một thể không hai. Tên mười hiệu này kinh luận nói khác nhau. Đại Kinh giải thích thành mười một câu. Đại luận thứ ba hợp Vô thượng sĩ và Điều Ngự Trượng phu thành mười câu. Cho đến Thế tôn là câu thứ mười. Kinh Bổn nghiệp Anh Lạc chép: Một là Như lai cho đến mười là Phật-đà. Đầy đủ mười hiệu gọi là Thế tôn, lại dịch ý khác chẳng phải tiêu hội. Quán Như lai trở xuống là nói cảnh trí chẳng hai. Văn trước nhắc lại pháp thân trước làm cảnh. Làm sao biết cảnh do quán trí? Cho nên lập ở trước nói: Chẳng gọi Như lai, chẳng gọi tức là trí chẳng thật có, không có trở xuống là nói cảnh vô tướng, cũng không có Như lai Trí trở xuống là nói Trí vô tướng. Như lai và Trí trở xuống là nói cảnh trí chẳng hai. Cho nên kinh chép: Như lai chẳng tức ấm, Như lai chẳng ở tai ấm. Kia đây chẳng cùng ở, chỗ nào có Như lai cảnh trí ngầm một gọi là tướng không hai? Cảnh trí thể khắp, gọi là tướng vô động, cảnh trí vốn có gọi là tướng bất tác, khắp không khắp tướng gọi là chẳng ở phương, không tướng mà khắp gọi là chẳng lìa phương. Không phải thế tục nên gọi là chẳng phải ba đời, chẳng phải ngoài thế tục nên gọi là chẳng phải không ba đời. Trung đạo cùng chẳng sai, gọi là chẳng phải hai tướng. Trung đạo cùng chiếu, gọi là chẳng phải chẳng hai, chẳng chung với hoặc, gọi là chẳng phải Cấu, chẳng cùng trí đủ gọi là chẳng phải Tịnh. Quán này trở xuống là kết khen quán trí. Riêng dứt bất cộng gọi là ít có vì khắp vì mất là dụ như hư không, chẳng ý theo thứ lớp gọi là không lỗi lầm. Tiến vào tùy khế gọi là thêm lớn chánh niệm. Thấy tướng tốt Phật trở xuống là nói quán thành thấy Phật. Do quán này nên nói thấy sắc thân Phật, vì không phải vốn năng lực quán khiến cho như thế, nên chỗ thấy cũng như hình ảnh trong gương, chẳng vận thần thông mà thấy mười phương. Trụ trong pháp giới thấy được Chư Phật. Cho nên nghe chỗ nói chẳng trái nghĩa thật. Vì chúng sanh trở xuống là nói năng lực Bi trí thệ nguyện trang nghiêm, dùng năng lực đại bi vì thấy chúng sanh, dùng năng lực đại trí mà chẳng chấp tướng. Niết-bàn trang nghiêm cũng giống như thế. Nói trang nghiêm, chỉ là bi trí phước tuệ trang nghiêm, cũng là duyên rõ định tuệ, v.v... cho nên luận Bát-nhã chép: chẳng phải trang nghiêm mà trang nghiêm cõi Thường tịch quang pháp thân thanh tịnh, không có sở trang nghiêm, không có năng trang nghiêm, vì chúng sanh mà lấy ba cõi, quên sở quán nên vô hình vô tướng. Pháp thể nói biểu ngoài hình là tướng, tuy thấy Như lai và nghe nói pháp, biết pháp nghĩa thật không có thấy nghe, v.v... Phật chẳng chứng đắc trở xuống là dẫn ví dụ. Phật tự đối với pháp không có chỗ chứng đắc, vì sao người tu lại gọi là đắc ư? Vì sao trở xuống là giải thích dẫn ví dụ trên? Phật sở chứng là chỉ một pháp giới, pháp giới không chứng cũng không đắc, lấy quả làm chứng, đắm pháp làm đắc, quên hai thứ này nên gọi là Không. Quán chúng sanh trở xuống là nói quán ba đạo. Trước quán chúng sanh tức là khổ đạo. Trước nói quán sanh như Phật, là ba đức lý bình đẳng, nên nói là Như. Nói chúng sanh và Phật lượng bình đẳng tức chúng sanh và Phật không khác nhau về ranh giới và số lượng. Vì lý bình đẳng nên số loại cũng bình đẳng chớ chấp nghĩa sự mà ngại nhau. Nói chúng sanh và cõi Phật lượng không thể nghĩ bàn. Lại giải thích văn ở trước nói Như, vì chúng sanh như Phật, nay không thể nghĩ bàn vì Phật như chúng sanh. Lại trước y cứ số lượng và tướng bình đẳng y cứ lý chẳng hai nên gọi là Như. Nay khen Như ở trước nên nói không thể nghĩ bàn. Chúng sanh giới trụ trở xuống vì quán sanh chánh ý lại kết văn trước. Trước nói chúng sanh và Phật tướng Như, ý ở quán chúng sanh như Phật, thể Như vô tướng nên dụ như hư không. Tuy như hư không, lấy trí như hư không mà cảnh quán hư không, nên nói dùng pháp bất trụ mà trụ trong Bát-nhã. Vì chúng sanh như Phật nên không có phàm để bỏ, vì Phật như chúng sanh nên không có Thánh vô tác để lấy. Sanh tử Niết-bàn y cứ Khổ đế, diệt đế, cấu tịnh y cứ Tập đế, đạo đế. Bốn đế vô tác không có chỗ lấy bỏ cũng giống như thế. Chẳng lấy bỏ là do trụ thật tế. Như thế trở xuống là tổng kết khổ quán. Quán phiền não ở trong hai phen, trước là y cứ ba đế mà nói hành tướng. Hạnh vắng lặng tức là hạnh chân đế. Hạnh vô động tức là hạnh tục đế. Chẳng phải sanh tử, v.v... tức là hạnh Trung đạo. Chẳng bỏ trở xuống là y cứ ba quán khế lý. Chẳng bỏ các kiến tức giả, chẳng bỏ vô vi tức không, mà tu Phật đạo tức Trung. Như trên nói chẳng bỏ tức là cùng chiếu, nay chẳng phải tu trở xuống tức là cùng chẳng sai. Cho nên trong kinh Tịnh Danh chẳng bỏ các kiến mà tu ba mươi bảy đạo phẩm. Đó nói kiến tức là đạo phẩm Trung đạo. Đây nói Biên tức là đạo phẩm Trung đạo, nghĩa Biên đồng với kiến, cho nên dùng ý đó mà làm văn nầy, kế quán nghiệp, lấy nghiệp cực nặng mà làm cảnh quán, cho nên chỉ năm tội nghịch tức là bình đẳng. Nói năm tội nghịch là giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá hòa hợp tăng làm thân Phật chảy máu, ba giết, một nói dối, một sát sanh gia hạnh. Nói về nặng nhẹ, Như Ưu-bà-tắc giới kinh trong nghiệp phẩm, vì nghiệp sau nặng hơn nghiệp trước. Lại tâm cảnh đối nhau phân biệt bốn câu, và ba thời như phương tiện, v.v... chẳng phải đệ tử chẳng phải chánh ý này nên không phân biệt rõ. Nếu trong Đại thừa tự mình giết Hòa thượng và A-xà-lê cho đến bảy tội nghịch, năm tội nghịch này thể tánh vắng lặng. Cho nên Kinh Vô Hành chép: Năm tội nghịch tức Bồ-đề, Bồ-đề tức năm tội nghịch. Nếu ở quán hạnh mà nói năm tội nghịch, thì năm pháp nghịch ở đời gọi là năm tội nghịch, cho nên Lăng-già quyển ba chép: Giết cha vô minh hại mẹ tham ái, dứt bỏ tùy miên ái hoại ấm hòa hợp, cắt dứt bảy thức thân. Nếu có tác giả hiện chứng thật pháp thì nghịch này thuận, chẳng phải cảnh quán nay. Y cứ đây tức là quán Năng quán, kinh ấy ý gồm, văn này hiển riêng. Nghịch và Bồ-đề chẳng ngoài tâm tánh. Cho nên gọi là giác giả. Giác giả cũng không, không tên giác giả. Đối cảnh gọi là giác, trong liễu gọi là tri. Tri và giác một thể, ý nghĩa chẳng khác. Không phân biệt chủ tể trong ngoài nên gọi là không phân biệt. Lại nói biết tánh năm tội nghịch gọi là giác giả, soi rõ Bồ-đề gọi là Tri giả. Tri hai pháp này gọi là phân biệt. Đây đều quên nên nói là đều không. Nghịch và thật tướng, thể đã chẳng hai nên chẳng thể hoại. Vì nghịch xưa nay vốn không có tự tánh. Cho nên tất cả trở xuống là so sánh nhẹ với nặng. Năm tội nghịch đã như thế, các nghiệp cũng như thế. Cho nên trụ ở thật tế, chẳng tới chẳng lui nói nghịch mà không sanh diệt, không nhân không quả, nói là quán không thỉ chung. Pháp giới ấn trở xuống lại dùng bốn ma mà giải thích thành năm tội nghịch. Trước lập thuận theo ba đạo nên ma được dịp làm hại, quán pháp giới nên chẳng thể hoại. Ma tức ấn, khổ tức thật tướng, hai ma ấm, chết tức ấn pháp giới. Phiền não tức thật tướng là ma phiền não tức ấn pháp giới. Nghiệp tức thật tướng, là ma Thiên tử tức ấn pháp giới. Kế trong giải thích ma đã tức ấn, ấn đâu hoại ấn. Như Đại luận chép: Có Bồ-tát dạy người tu không, dứt tất cả niệm, lúc sau vừa khởi một niệm có tâm liền là ma động, liền nhớ lại vốn tu Không thì ma liền biến mất. Tu không còn như thế huống chi là quán, tức ấn pháp giới. Cho nên Thiền sư Tín vốn dùng tâm này để làm tâm yếu. Người sau nhân dùng tình kiến khác nhau, đến nỗi khiến Giang Biểu, Kinh Hà Thiền tông trái nhau. Kế khuyên tu, trước nói nghe chẳng kinh sợ v.v... là do đời trước trồng gốc lành sâu. Kế thí như trở xuống là nêu dụ. Hạt giống lành kiếp xưa như châu, trong quên như mất, nghe pháp sanh vui như lại được châu, bốn chúng trở xuống là hợp dụ. Chẳng nghe là hợp mất, châu nghe tin hợp lại được. Phải biết thấy Phật là xưa từ Phật nghe, nay lại nghe lại, nghĩa đồng với thấy Phật. Từ Văn-thù nghe, là Phật cũng nghe từ Văn-thù. Thân Tử trở xuống tức là kinh ấy ba người hiểu rõ. Cho nên nay dùng pháp mà xếp người ấy. Vì Đại Bồ-tát hiểu sâu chắc nghĩa này cho nên năng liễu nói là Đại Bồ-tát gần tòa Phật, tòa là chỗ nương, nương vào thật lý nghe pháp này là gần với thật lý, nên nói gần tòa Phật là Năng giác, pháp là sở giác, gần sở giác của Phật nên gọi là gần tòa Phật. Nếu sự mà giải là ngồi tòa nói pháp, nghe pháp Phật, nên gọi là gần tòa Phật. Tuy có sự giải thì mất Phật giác là nghĩa pháp này. Cho nên chỉ y vào sơ giải làm chánh, nghe pháp chẳng kinh, thấy pháp thân Phật, Phật nói trở xuống là dẫn lời Phật nói thành. Nếu được Sơ trụ thấy pháp thân Phật thực hành niệm bất thối, sáu căn thanh tịnh, tương tự thấy Phật, thực hành hạnh vị bất thối. Ba thứ bất thối này đầy đủ các độ, gọi là Ba-la-mật. Nếu thuật chung thành, người tu đời sau, tức là nghĩa chung nên đều được dự vào hàng bất thối. Vì viên sáu tức nêu tên ba bất thối và Ba-la-mật thông tra sau. Nếu người trở xuống là chánh khuyên tu. Từ đầu đến được vào là đủ như phẩm khuyên học của Bát-nhã, vì Tam-muội này tức là hạt giống trí Bát-nhã. Như tự ma-ni trở xuống là nêu dụ. Kinh ấy nói như được ma-ni khiến thợ ngọc mài giũa. Cho nên kinh Hoa Nghiêm quyển hai mươi mốt chép: Đầy đủ mười việc phải là thợ khéo giũa mài khiến cho càng đẹp, sau mới phát ra ánh sáng mưa báu, v.v... Một là ra khỏi biển lớn; hai là thợ khéo giũa mài, ba là đổi thành tinh diệu; bốn là dứt nhơ; năm là lửa luyện; sáu là trang nghiêm; bảy là xỏ thành chuỗi báu; tám là đặt trên cột lưu ly; chín là ánh sáng chiếu bốn phía; mười là tùy ý vua mưa xuống. Người tu Nhị thừa như giũa mài ngọc phàm, Tam-muội Nhất hạnh như giũa mài ma-ni, ánh sáng như giải sanh, mưa như hạnh đủ. Bồ-tát hay biết, v.v..., là Bồ-tát ba giáo tuy có phát tâm mà chẳng gọi là mau được nghe Nhất hạnh này mới gọi là mau được. Từ pháp xếp người, ý như giải thích ở trước. Tỳ-kheo, v.v... cũng giống như thế. Hai chúng chưa nghe chẳng gọi xuất gia. Cho nên kinh Tịnh Danh chép: Người xuất gia thực hành pháp vô vi ra khỏi hai thứ chết, mới gọi là vô vi. Nếu chẳng như thế, vì sao hai chúng nghe pháp này xong gọi là xuất gia? cũng như kinh Thiện Trụ Thiên Tử chép: Thiên tử hỏi Văn-thù rằng: Nếu có người đến xin xuất gia thì phải đáp thế nào? Văn-thù nói: Nếu chẳng phát tâm xuất gia thì phải dạy ông phát chân xuất gia. Vì sao? Nếu cầu xuất gia là cầu báo vị lai ở ba cõi và năm dục, người ấy chẳng thấy tâm nên chẳng chứng pháp. Vì tâm vô vi nên chẳng phát tâm. Nếu cạo tóc làm người xuất gia là còn mê đắm ngã nhân, cho nên biết hình thức không phải là chân xuất gia. Tín sĩ, v.v... cũng dùng ý vừa rồi rất dễ thấy, nghe chân pháp mới được gọi là chân qui y. Kế giải thích Thường hành, trước khai chương. Kinh này nhân Bồ-tát Bạt-đà-hòa chép: Trí Luận và các kinh gọi là Bạt-đà-bà-la, âm nặng nhẹ, đó là Bồ-tát tại gia. Kế pháp này trở xuống là nói chỗ phát ra kinh. Ba lực là chẳng thể nói khắp. Nhân duyên hòa hợp, đường cảm ứng giao nhau, cho nên phải ba lực. Kinh ấy chép: Hễ phương nào Phật muốn thấy liền thấy. Vì sao? Vì năng lực Tammuội của Phật như thế mà thành, thấy Phật đứng trong Tam-muội, có ba việc là năng lực Phật ấy gia trì, năng lực Tam-muội gia trì, năng lực bổn công đức gia trì. Dùng ba việc này nên thấy Phật, ở trong định thấy Phật mười phương, là do ba năng lực nên Tam-muội thấy Phật. Cho nên kinh này cũng gọi là hiện tại Phật lập định kinh, được ba năng lực ấy nên thấy Chư Phật. Trong kinh ấy hỏi từ chỗ nào được Tam-muội ấy. Đáp: Từ niệm Phật mà được. Nếu người chẳng niệm Phật, khen ngợi thân Phật thì là mất hẳn. Đời nay đời sau lợi lạc nhân duyên, bộ thuộc Phương Đẳng, cơ chung bốn người. Nhị thừa bị bác bỏ không phải ý chánh văn, cho nên Bồ-tát bốn giáo cũng chung làm. Ý nầy ở viên. Cho nên ý chỉ quán mượn sắc thân Phật để thành ba quán. Trong kệ nói chỗ ở tương ưng với Tammuội, tương ưng khác nhau, Tam-muội chẳng giống nhau, kinh nói hoặc khi nói có giác có quán v.v... ba địa tương ưng. Hoặc nói Hỷ lạc, v.v... năm thọ căn tương ưng, hoặc nói các chi tương ưng, hoặc nói giới hệ tương ưng, hoặc nói chẳng phải giới hệ, v.v... Như thế giúp niệm Phật Tam-muội tương ưng với pháp trụ xứ. Chẳng được không nói chỗ cạn sâu. Cho nên nói phải luận nghị. Văn giải thích ý kinh nên từ chung mà nói. Tuy nói các tướng có giác, v.v... nhưng đều khác nhau. Vì ni Phật cho nên hoàn toàn khác căn bản. Trong thân khai giá nói tránh người si, v.v... là tránh làm bạn với ác tri thức, vì có thể sanh bất thiện căn cho người. Cho nên kinh Bảo Tích chép: Có bốn pháp nên mau lìa bỏ: Một là lợi dưỡng, hai là bạn xấu ác, ba là các điều ác; bốn là ở chung với người hoặc giỡn cười, hoặc giận hờn, đấu tranh, phải cách xa một trăm do-tuần. Ưa quấy não người khác nên gọi là si nhân, người lân gần gũi thuộc, hoặc cùng làm việc, phải mau xa lìa, chẳng được trông mong đến thỉnh riêng. Kinh nói chuyên đi khất thực tự nuôi sống, có nhiều thành tựu. Luận Thập Trụ Bà-sa nói khất thực có mười điều lợi: Một là nuôi sống, tự thuộc mình không thuộc người khác; Hai là người thí cho ta ăn thì khiến trụ vào Tam bảo sau mới nhận; Ba là chúng sanh bi tâm; bốn là thuận theo lời Phật dạy. Năm là dễ thỏa mãn dễ nuôi dưỡng, sáu là phá kiêu mạn, bảy là gốc lành vô kiến đảnh; Tám là thấy ta khất thực nhiều người lành khác bắt chước; chín là chẳng có các việc với nam nữ lớn nhỏ. Mười là thứ lớp khất thực tâm bình đẳng. Như trong kinh Tịnh Danh chép: Ca-diếp bỏ giàu theo nghèo, Không Sanh bỏ nghèo theo giàu, ngoài hiện dấu riêng, chỉ bày quở trách. Văn các luật nói khất thực không phải ở một chỗ mà đủ, vì làm phước cho người nên phải đến bảy nhà thuận theo pháp ít muốn chẳng hao tốn thí chủ. Chẳng nhận thỉnh riêng, là khiến khắp mười phương đều được lợi ích. Cũng thuận theo Phật giáo ít muốn và khiến thí chủ được phước bình đẳng. Cho nên kinh Ưu-bà-tắc giới nói: "Phật dạy Lộc mẫu tuy thỉnh Phật và năm trăm vị La-hán, cũng chẳng được gọi là thỉnh ruộng phước tăng. Nếu ở trong tăng mà thỉnh một vị giống Tỳ-kheo cực ác thì được vô lượng phước. Tuy là người ác cũng có khả năng nói giới, định, tuệ và ba Bồ-đề, cho người nghe, có nhân có quả, chẳng hủy báng Tam bảo, giữ gìn thắng phướn Vô thượng của Như lai, Thắng phướn là áo ca sa. Vì nghĩa ấy nên chẳng nhận thỉnh riêng. Luật mở cho nhiều duyên Phạm Võng chỉ ngăn cấm, Luật bộ tuy cho tăng Thích-ca làm, nay vào Tam-muội tất cả đều cấm. Huống chi Đại thừa này phải thuận theo Phạm Võng. Đại luận chép: Ở trong tăng mà ăn thì sanh các lậu duyên. Nếu nhận người thỉnh riêng thì chướng ngại tu Tam-muội. Luận nói hoặc được người thỉnh hoặc được chỗ thỉnh, cho ta là người có phước đức. Nếu chẳng được thì sanh giận hờn, tức là người ấy chẳng biết nên thỉnh mà chẳng thỉnh, chẳng nên thỉnh mà thỉnh, hoặc tự phiền não. Nếu vào chúng mà ăn thì phải theo pháp chung mà lo liệu việc tăng, tâm thì tán loạn ngại bỏ ra đạo cho nên khiến khất thực. Trang nghiêm đạo tràng, tràng là nơi người thế tục dùng làm chỗ tế Thần, nay dùng chỗ cúng dường Phật gọi là Đạo tràng. Tả hữu là tả thì ra, hữu thì vào. Ra từ nhỏ, vào từ tịnh. Luật nội ngoại, luật nghi thân và miệng là ngoại, luật nghi ý là nội. Nói Đại Tiểu thừa đều có ý, chỗ khởi phương xa liền tội và trong mười thiện ác ba thứ sau chính là đó. Đời chép: Tiểu thừa ngăn thân miệng, Đại thừa ngăn ý. Chẳng phải hoàn toàn như thế, phải biết hai thừa Đại Tiểu nếu kết tội đều từ thân miệng. Phương xa đều phòng ở ý. Cho nên biết hai thừa Đại Tiểu đều ngăn cấm để đề phòng ở ý. Nếu chế theo ý riêng nghĩa là tu định tuệ thì Đại Tiểu đều như thế. Ngoài ra, tâm niệm pháp khác và sám cấu nhẹ đều thêm thân miệng chắp tay giảng nói. hoặc có đãn tâm như sám hối tội cát là nhẹ, hoặc Đại thừa quán lý sám tội nặng, cũng thêm thân miệng. Lại, Tiểu thừa là ngoại, Đại thừa là nội. Nếu chỉ giỏi luật nghi chẳng am tường chướng ngại, cũng không phải sư vị, đối với Tammuội đã nghe như thấy Thế tôn, là cũng xuất từ kinh ấy. Lại Đại luận quyển bốn mươi chín chép: Bồ-tát nhân thấy mà được Bồ-đề, vì sao chẳng kính, đâu có người thượng trí cao minh nào chẳng kính thầy. Nếu chẳng kính thầy thì mất lợi lớn. Như giếng mà không dùng gàu kéo thì nước không nhờ đâu mà có. Người có kiêu mạn như trước không ở trên đỉnh núi. Nếu nương vào Thiện sư thì ba học thêm lớn, như cây có rễ nhánh lá sẽ mọc nhiều, cho nên Phật nói kính thầy như Phật. Luận hỏi: Thiện sư còn chẳng thể kính. Ác sư làm sao kính mà bảo kính thầy. Đáp: Chớ thuận theo thế pháp đắm thiện mà xa ác. Nếu khai thích thâm Bátnhã thì kính hết chẳng nghĩ điều ác khác, chẳng vì túi hôi mà bỏ vàng trong ấy. Như ban đêm đi trên đường hiểm, có người ác cầm đuốc, chẳng vì người ác mà chẳng nhờ ánh sáng đuốc. Bồ-tát cũng như thế, được ánh sáng trí tuệ chẳng kể điều ác ấy. Như trên hư không có tiếng bảo Ba luân rằng: Đối với thầy chẳng nghĩ điều ác ấy, lại nữa, chỗ tốt xấu của thầy có can dự gì đến mình. Ta cầu pháp lợi chẳng cầu điều ác. Như tượng đất gỗ không có công đức, vì nghĩ đó là Phật nên có vô lượng phước đức, huống chi là đối với người. Lại xem thầy như Phật, xem các pháp đều rốt ráo không xem các chúng sanh như thấy Phật, huống chi là với thầy. Luận Thập Trụ Bà-sa chép: Từ người khác cầu trí tuệ chẳng tiếc thân mạng nên phải kính thầy. Nếu thầy khinh miệt cho đến yêu kính tâm cũng không khác, chẳng nhân thầy mà cầu lợi. Thầy có lỗi thì phải giấu, lỗi thầy bày ra thì phải phương tiện giấu đi. Thầy có công đức thì nên khen ngợi truyền khắp. Vì sao? Vì người tu Tam-muội phải khéo giữ tâm, sợ khinh thầy mà Tam-muội chẳng thành. Cho nên văn dưới chép: Nếu đối với thầy mà sanh ác cầu thì Tam-muội sẽ khó được. Nhưng người làm thầy thì phải không có lỗi. Nay nói thầy phàm, chưa thể thiện hết, cho nên răn người học chớ thấy lỗi phải, giỏi dở của thầy. Phải cắt, v.v... là nêu nặng so sánh nhẹ. Cơ là da, các thứ khác ở ngoài thân là y báo. Bộc là tôi tớ. Xưa, nam nữ bị tội đều bắt làm tôi tớ, phải ngoại hộ là chẳng no như vừa yêu vừa đốc thúc. Kẻ đồng hành như cùng đi đường hiểm, mất một thì đều chết. Đồng hành phải như thế, phải cần y cứ hẹn, dùng nguyện tự hẹn tâm Tam-muội. Khởi Đại Tín, là tin tất cả pháp đều là Phật pháp, cho nên chẳng thể động, vì pháp này mà tinh tấn gọi là Đại tinh tấn. Đối với pháp không nhiễm gọi là Tinh, niệm niệm mong cầu gọi là Tấn. Trí Nhất thiết chủng dẫn dắt các hạnh nên không gì bằng. Thường cùng thầy giỏi, là cầu thầy phải tốt. Thờ thầy phải quên lỗi thầy. Vì Tam-muội nên phải hộ tâm, sợ luống bỏ ngày tháng cho nên phải phân biệt. Lại nói thiện là khéo hiểu tướng Tam-muội thông bít, dắt dẫn người tu khiến thì giờ không luống uổng. Nằm xuất: có người nói chỉ gọi nằm là xuất có gì chẳng được. Nhưng chỉ được nằm mà thiếu xuất, xuất chưa hẳn là nằm, khi nằm phải xuất. Cho nên phải ra mà giải thích. Văn kinh chỉ nói ngủ nghỉ. Luận nói có bốn pháp sanh ra Tammuội: Một là ba tháng không hề ngủ trừ lúc tiểu tiện ăn uống, đi ngồi; hai là ba tháng cho đến trong khoảng búng ngón tay chẳng sanh tâm ngã; ba là trong ba tháng kinh hành không nghỉ ngơi; bốn là trong ba tháng gồm nói pháp không cầu lợi dưỡng. Nay văn tùy tiện không theo thứ lớp, lấy thứ hai ngã tâm làm dục tưởng, thứ nhất ngủ nghỉ làm nằm xuất để dứt tiểu tiện v.v... cùng ba bốn hợp nói. Một bài kệ gần gũi thiện tri thức, v.v.... Luận lại hỏi: Pháp báu như thế Tam-muội nào có thể được? Đáp: Chính là một bài kệ Gần gũi thiện tri thức. Kệ đủ bốn nghĩa: Một là tri thức; hai là tinh tấn; ba là trí tuệ; bốn là tín lực. Lại có Tam-muội giúp pháp tu tập có năm mươi pháp v.v... Kế miệng nói nín: trước từ chín mươi ngày trở xuống dốc lòng niệm A-di-đà không nghỉ. Giáo dụng ba nghiệp, kế hoặc xướng niệm trở xuống là giáo dụng niệm pháp, tuy nói trước sau và tâm đều vận, trong niệm niệm không để thiếu một. Cho nên nói nối nhau. Kế như xướng trở xuống là giải thích nghi, đủ như giải thích ở trước. Trong đây lại thêm pháp môn chính. Nêu yếu trở xuống là kết khuyên ba nghiệp, mỗi bước là thân nghiệp, mỗi tiếng là miệng nghiệp, niệm niệm là ý nghiệp. Đại ý trong chỉ quán trước nghĩ ba mươi hai tướng để làm cảnh quán. Nói Phật sát, nói đủ phải là sát-ma, Hán dịch là Điền, tức là chỗ một Đức Phật làm vua pháp pháp. Có chỗ nói biểu sát, là dùng gậy nói lên cho sát là chỗ ở. Ba tháng thường niệm, là kinh ấy nói Bồ-tát nhập vào Tam-muội liền thấy Phật A-di-đà, bèn hỏi Phật ấy nhờ nhân duyên gì mà được sanh về cõi nước ấy. Phật liền đáp: người Thiện nam, tu Tam-muội niệm Phật chẳng quên mất, nên được sanh về nước ta, cho đến ba mươi hai tướng. Nay văn nói vì sao niệm tức là văn hỏi Bồ-tát ở trong Tam-muội thấy Phật. Từ niệm ba mươi hai tướng trở xuống đến tướng ngàn bánh xe căm là văn trong Tam-muội Phật đáp. Vì ba mươi hai tướng nghịch duyên, thuận duyên, khiến ta cũng có tướng ấy, là văn phát nguyện trong Tam-muội thấy Phật. Thấy tướng tốt từ thân phát ra ánh sáng khắp các cõi mười phương. Như đống vàng ròng, như núi Tu-di ở trong biển lớn, mặt trời chiếu sáng. Người tu bấy giờ dứt bỏ các ý tưởng khác gọi là núi rừng, v.v... Chỉ tướng thân Phật như trong lưu ly có tượng vàng đỏ. Kế lại niệm trở xuống là chánh nói cảnh để tu ba quán. Trước là quán không, văn trước nói lược, suy thân tâm ta và Tam-muội Phật. Sắc tâm của Phật từ ai mà được, hai câu đầu là chánh suy. Kể từ Phật chẳng dùng trở xuống là suy mình, tức biết tâm Phật không thật có, há do sắc tâm của ta mà thấy sắc tâm Phật. Đây là nêu bốn câu: Một là nói Phật chẳng dùng tâm mà được là chẳng dùng tâm ta mà được tâm Phật. Chẳng dùng thân mà được là chẳng dùng thân ta mà được thân Phật. Chẳng dùng tâm mà được sắc Phật, v.v... hai câu giao nhau, là chỉ lược bỏ chữ Ta mà thôi. Vì sao trở xuống là giải thích? Sắc tâm của Phật là vô tướng vô đắc, sắc tâm ta cũng giống như thế. Thân miệng là sắc, trí tuệ là tâm. Sắc tâm có là do có (ngã), vì ngã không nên nói pháp vốn không. Phá gốc không này nên nói phá hoại gốc. Cũng dứt hoại này nên nói dứt gốc. Kế quán giả, văn nêu sáu dụ ba mộng, một báu, một xương, một tượng. Ý nó đại đồng, chỉ nói lại mà thôi. Nay đều lược hợp. Mộng là tâm tánh như cảnh quán, như duyên tưởng, quán thành như mộng. Đây là thuần y cứ người mà hợp. Lại pháp thân như cảnh, Báo thân như tưởng, Ứng thân như mộng. Đây là thuần y cứ cảnh Phật mà hợp. Lại Phật ấy như cảnh, người tu như tưởng, thấy Phật như mộng. Đây là y cứ cảm ứng mà hợp luận. Ba mộng đều như thế, cho nên hễ khởi quán tưởng, tưởng thành thì thấy tướng đều đủ ba ý. Rốt ráo trong không cầu, Phật không thật có. Cho nên biết trước sau hai mộng nói thấy mà chẳng thật có. Trung gian một mộng (một mộng ở giữa) nói chẳng thật có mà thấy. Cho nên mộng đầu nói thức rồi đuổi theo niệm, chẳng biết ở đâu. Mộng sau cùng nói thức rồi lại không, mộng ở giữa nói chẳng đi chẳng đến mà có việc vui rõ ràng. Cho nên Đại luận quyển bảy chép: Như khi Phật còn ở đời có ba người bạn, nghe ở Tỳ-xá-ly có dâm nữ tên là Am-la-bà-lợi, nước Xá-vệ có dâm nữ tên là Tu-man-na, thành Vương-xá có dâm nữ tên là Ưubát-la-bàn-na xinh đẹp không ai sánh bằng, ba người đều nghe, luôn nghĩ tâm mê đắm liền ở trong mộng mà làm việc, thức rồi thì tâm niệm nó không qua lại với ta, mà việc dâm được thành. Nhân đó liền ngộ các pháp cũng như thế. Do đó cùng đến chỗ Bồ-tát Bạt-đà-bà-la mà hỏi việc ấy. Bồ-tát đáp rằng: Các pháp thật như thế, đầu tư niệm sanh. Bồtát dùng phương tiện nói pháp cho nghe, thì được địa bất thối. Văn nầy chỉ dẫn một trong ba. Bát-chu văn đồng. Ba thứ báu như v.v... rất giống với mộng. Bảo như tâm năng duyên, lưu lý như cảnh sở duyên, ảnh hiện như việc trong mộng. Quán xương, gương, tượng đều có ba nghĩa, cũng giống như thế. Nếu làm khác chỗ gọi là y theo không mà hiện giả. Lưu ly như hư không, ảnh hiện như giả, không xương như không, khởi ánh sáng như giả, gương sạch như không, ảnh hiện như giả. Ba thứ trước cũng đủ hai nghĩa không, giả. Vì mang tâm không mà xuất giả. Người tu trở xuống là kinh lược hợp. Cảnh dụ cho khởi quán. Hạnh tức sắc của người tu, sắc tức là thân. Do niệm tướng hiện gọi là chỗ có, thấy rồi liền hỏi. Phật đáp chỗ hỏi nghe Phật nói tâm rất vui mừng, tuy ở trong Tam-muội người nói đó là Phật, nên nói nghe kinh. Kế quán văn trước, tức là kinh ấy Bồ-tát được Tam-muội rồi liền nghĩ, nay văn còn lược và tùy nghĩa tiện lợi nói cũng khó thấy. Trước đối ghi văn ấy, khiến văn này có thể hiểu. Kế lại giải thích văn này. Nay nói từ niệm đến không chỗ đến. Kinh ấy nói Bồ-tát nghĩ rằng: Phật từ đâu đến, ta cũng không có chỗ đến. Tức biết Chư Phật không từ đâu đến ta cũng không có chỗ đến. Nay nói chỗ ta niệm tức là thấy. Kinh ấy nói khi nghĩ như thế thì ba cõi đều không, đều do tâm làm ra. Vì sao? Vì hễ tâm nghĩ thì đều được thấy. Nay chép: Tâm làm tâm Phật, tự thấy tâm mình là thấy tâm Phật. Kinh ấy nói, vì tâm thấy Phật, tâm thành Phật. Nay nói tâm Phật ấy là tâm ta thấy Phật. Kinh ấy nói tâm tức là Phật tâm tức thân ta. Nay nói tâm chẳng tự biết tâm, tâm chẳng tự thấy tâm. Kinh ấy nói tâm chẳng tự biết tâm cũng chẳng tự thấy tâm. Nếu lấy tướng tâm thì đều là vô trí, đều từ vô minh sanh ra. Nhân tướng tâm ấy liền vào thật tướng các pháp. Được trí tuệ Tammuội ấy, vì hai lực cho nên tùy ý hai nguyện định tuệ hai lực.
Kế giải thích văn nầy, câu đầu y theo kinh rất dễ hiểu. Kế là chỗ ta nghĩ, v.v... trong các câu của Phật nói... đều có hai ý: Một là tự tâm Tam-muội chỗ thấy Phật, hai là phương Tây từ nhân cảm quả Phật. Nay gồm đủ hai nghĩa cùng làm một cảnh là thuận lý, cho nên từ nghĩa đầu mà giải thích. Tammuội đã thành, tùy niệm liền thấy. Thấy là tâm tánh gọi là tâm thành Phật. Phật đã tâm làm cho nên khi thấy Phật gọi là thấy tự tâm (tâm mình). Nếu thấy tự tâm tức là thấy tâm Phật, vì tâm Phật kia là tâm ta, là tâm Phật cho đến thấy Phật là nói chỗ thấy Phật chẳng khác tâm ta. Tâm chẳng tự biết tâm cho đến thấy tâm là nói tuy thấy Phật cầu năng kiến, và ý duyên biết, rốt ráo không thật có. Cho nên ý trong đây chỉ quán tự tâm và chỗ thấy Phật chẳng ngoài pháp tánh. Cho nên thấy tâm Phật tức là thấy tâm mình. Tâm mình, tâm Phật tức là Trung đạo, chẳng cần phải nói cùng chẳng sai. Từ tâm có tưởng đến Nê-Hoàn là giải thích tâm trên không thật có tức là Niết-bàn. Pháp ấy chẳng thể bày, là chẳng phải nói chỗ biết. Đều niệm đến không mà thôi, là nói Niếtbàn lìa niệm. Nếu có niệm cũng biết, năng sở đều vắng lặng. Kế là bài kệ năm chữ tức bài tụng, văn trước đối rất dễ thấy. Kế Chư Phật trở xuống là kệ bảy chữ, lại chuyển giải thích kệ bốn chữ. Câu đầu là tất cả Chư Phật do quán tâm mình chẳng khác tâm Phật, nên được thành Phật. Câu kế, là giải thích câu đầu, tâm được quán tâm như tâm Phật, tâm Phật không cấu, tâm mình cũng không. Câu kế: Năm đường do tâm, tâm thể vốn tịnh. tuy khắp năm đường chẳng thọ sắc ấy. Như người bịnh mắt thấy hoa đốm cùng khắp. Hoa tuy đầy khắp hư không, hưng hư không chẳng hề nhận. Băng sóng nước ướt cũng giống như thế. Câu kế là tổng kết ý quán. Hiểu đây thì thành đạo viên dung. Phật Ấn là giải thích chỗ quán ở trước. Đã là thật tướng nên gọi là Phật ấn. Không tham trở xuống là giải thích tướng xuất quán, chẳng tham ở có, chẳng đắm ở không, chẳng cầu ở trung, chẳng có ba tưởng, nên có chỗ muốn đều đã nói hết. Có là cảnh quán, muốn là quán trí, năng sở đều mất, vì mất không sanh nên chẳng từ đâu sanh, vì chẳng sanh nên cũng chẳng có diệt, bị hoại gọi là diệt, tự diệt gọi là hoại, thể nó vốn không nên gọi là không diệt, vốn diệt tự không nên gọi là không bại hoại, đến được với đạo phải nhờ lý này, gọi là đạo yếu, từ thỉ đến chung, lý này là gốc, gọi là gốc đạo. Là ấn v.v... là nêu tiểu sánh với mê, Tiểu thừa dứt hoặc nghĩa như hoại ấn. Nhị thừa tự gọi sanh diệt độ tưởng mà làm ấy vốn là Phật đạo. Nhị thừa diệt hẳn còn chẳng thể hoại, huống chi là cõi ma thuận với sanh tử. Thể của sanh tử tức là Niết-bàn, đâu có Niết-bàn lại hoại Niết-bàn ư? Bà-sa nói trở xuống là dẫn luận mà xét lường. Luận nhờ thứ lớp, cho nên trước niệm sắc lại nhờ giáo tướng mà nói thể tướng, tạng thông tu được, biệt viên phát được, riêng còn giáo đạo chỗ nương hơi khác. Lại nếu dùng chỗ nương, tạng nương phước đức, chung nương không tuệ, riêng nương duyên tu, viên nương thật tướng. Đây tức là bốn tướng nhân khác nhau. Nhờ giáo tuy thế, văn luận phần nhiều y vào nghĩa hai giáo sau. Lại vì hạnh đầu khiến quán sắc tướng. Lại nhân ba tạng văn cũng chẳng nhất định. Hoặc một nhân một tướng, như Đại Kinh quyển ba mươi sáu, Sư Tử Hống hỏi: Làm đâu được ba mươi hai tướng của Phật, Phật nhân đó đáp rộng nhân đều khác nhau. Nếu Đại luận quyển năm thì có chung có riêng đầy đủ như: Pháp giới thứ lớp, Báo Ân bảy, Thiên Vương quyển bảy. Gọi là nhân tức là tướng nghiệp, nói tướng quả tức là ba mươi hai, kết thúc trong một bài kệ rằng:
Cả hai tay chân ngón nhọn dài Tay chân mềm mại đều có màng Gót tròn mu cao bắp vế dài Thân ngay các lông đều xoáy lên
Trượng sắc vàng bảy chỗ tròn đầy Nách đầy ngực thẳng tròn đủ trắng Răng má vị lưỡi phạm như tần
Mắt vàng mị trâu hào nhục kế.
Nên phải dùng pháp giới thứ lớp, tra xét thì biết mức độ thế nào. Khi tướng này hiện tức là Tạng thông cực quả, Biệt viên chân như. Chỗ chứng lý thể mà làm thể tướng. Nói tướng dụng, là mỗi tướng đều có dụng lợi tha. Biệt viên phần quả tuy ở địa trụ, mà dụng lợi tha lại thắng tạng thông nên khiến cho chúng sanh đến chỉ cực diệu. Cho nên của Đại Kinh Phẩm Tánh chép: Phật tánh không thể nghĩ bàn như thế, thì ba mươi hai tướng cũng không thể nghĩ bàn. Văn Bà-sa không có ý Tiểu thừa. Chỉ là thỉ hành bàng tích tiểu tông. Trong pháp bốn mươi bất cộng phải nói Báo thân. Nói Pháp thân, tức là dùng Báo thân bất cộng pháp gọi là Pháp thân. Kế nói thật tướng tức là Pháp thân. Luận quyển sáu chép: Đã nghĩ ba mươi hai tướng sanh thân rồi kế niệm công đức của pháp, tức là bốn mươi Bất cộng, kệ rằng:
Pháp thân của Chư Phật
Không phải chỉ nhục thân,
Phật pháp tuy vô lượng,
Không giống với mọi người.
Nếu người nhớ nghĩ
Thì được vui vẻ,
Tóm tắt trong bài kệ rằng:
Bay đi tự tại
Biến hóa vô lượng
Như ý vô biên
Thanh văn tự tại
Trí biết tâm người
Tâm được tự tại
Thường ở an tuệ
Thường chẳng quên lầm
Tam-muội Kim cương
Biết việc bất bình
Biết sự vô sắc
Thông suốt các sự.
Biết tâm chẳng tương ưng
Ba-la-mật Đại thế
Vô lượng Ba-la-mật
Nghe được Ba-la-mật
Đủ ba luân nói pháp
Chỗ nói chẳng luống uổng
Nói pháp không nhầm lẫn
Không có người năng hại
Đại tướng trong Thánh
Hiền Bốn chẳng hộ là bốn
Bốn vô úy là bốn
Mười lực ấy là mười
Đều giải thoát vô ngại
Đó là bốn mươi pháp.
Bốn chẳng hộ là thân miệng ý và tư sanh. Văn luận giải thích rộng bốn mươi pháp này, nay lược dẫn tên. Như Phẩm Thành Thục của luận Địa Trì có một trăm bốn mươi pháp bất cộng tức là ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, mười lực, bốn vô ngại giải, bốn vô sở úy, ba niệm xứ, bảy vô thượng: một là thân vô thượng, tức là tướng tốt, hai là hạnh vô thượng tức là độ người, ba là chánh vô thượng, tức là chánh kiến oai nghi tịnh mạng, bốn là trí vô thượng, năm là thần lực vô thượng tức là sáu thông, sáu là đoạn vô thượng tức là hết phiền não, bảy là trụ vô thượng tức là thánh Phạm Thiên, v.v... các trụ. Các văn như Đại luận nói: Mười tám pháp bất cộng, mười lực, bốn vô úy, bốn vô ngại, ba niệm xứ đại bi là bốn mươi bất cộng. Nay dùng văn Bà-sa lại y Bà-sa, số tuy khác nhau nhưng ý nghĩa chẳng khác. Bà-sa chép: Niệm Phật càng sâu thấy thật tướng của thân. cho nên kệ chép: Chẳng tham đắm sắc pháp hai thân, v.v... là trụng tụng về ba thân. Khéo biết tất cả pháp thường vắng lặng như hư không. Luận rằng: Các pháp xưa nay vốn không sanh không diệt. Bồ-tát tin ưa sắc pháp hai thân cũng như hư không, nên ở tất cả chỗ được không chướng ngại. Chướng ngại tức là núi Tu-di v.v... Vì sao? Vì người ấy chưa được thiên nhãn, niệm Phật phương khác, được pháp thiền định, được vui Tam-muội cao quý ấy tướng thành thì tùy ý thấy Phật. Trong khuyên tu thật trí là mẹ Phật, trong thấy là mắt Phật, phương tiện Thiện quyền là cha, đại bi Vô duyên là mẹ. Hỏi: Mẹ đâu có hai.
Đáp: Đại trí là chỗ sanh, Đại bi là chỗ nuôi, Bi trí chẳng đủ thì con thật chẳng thành. Tất cả Chư Phật đều như thế. Như làm sữa, trong một lát thì có được một thùng. Cấu là làm, nghĩa là lấy sữa trâu. Nếu nghe Tam-muội ấy như trên bốn phen công đức. Nay văn và luận ít có qua lại, là có ý sâu. Nay văn luận kế nói tướng giúp nhau. Luận chép: như người nhanh nhẹn, nói nhanh như gió đi trăm năm không ngưng nghỉ, ở khắp mười phương. Người ấy đi chỉ trừ Như lai, còn ai đều chẳng biết số ấy người ấy đến đâu đều bố thí vàng ròng. Nếu người ấy ở trong Tam-muội bốn thứ tùy hỷ hồi hướng Bồ-đề, thường cầu học rộng. Như Chư Phật quá khứ khi hành đạo Bồ-tát tùy hỷ Tam-muội ấy, ta cũng tùy hỷ như thế. Ở vị lai hiện tại cũng giống như thế, Phật ba đời là ba phen, ba đời Bồ-tát là một phen, thì phước tùy hỷ cao hơn phước thí vàng gấp trăm ngàn ức lần, chẳng bằng một phần. Cho nên nghe Tam-muội ấy chẳng kinh sợ, được vô biên quả báo. Nếu rơi vào kiếp lửa thì lửa liền tắt, nếu gặp việc quan hoặc sư tử cọp sói thú dữ, rồng dữ và các trùng độc, dạ-xoa, la-sát, Cưu-bàn-trà, v.v... đều bị hủy hại, thì không có việc đó. Chỉ trừ nghiệp báo phải chịu. Nếu bị các bịnh như: Tai mắt phong thì không có việc đó. Thường được tám bộ trời rồng che chở, các vị trời và Phật đều đến chỗ người ấy, dẫu một kiếp cũng nói chẳng thể hết, huống chi là tin chắc mà tu tịnh tâm, rồi được thành tựu, đó là so sánh phước. Lại có bốn phen quả báo: Một là chẳng sợ, hai là tin nhận, ba là tu định tâm, bốn là thành tựu. Kế nói giúp nhau, nay văn dùng đi nhanh làm trần giới, thí vàng cho bàu tên khác mà ý đồng. Trước đem quả báo bốn phen để xét lượng công đức thí báu. Kế dùng bốn phen tùy hỷ để xét lường quả báo bốn phen. Nghĩa là tự thành chẳng bằng tùy hỷ, có phước nhiều hơn. Kinh này chung Tiểu thừa. Nếu chẳng hồi hướng và tùy hỷ v.v..., chỉ tự tu thì thành Tiểu thừa, cho nên phải hồi hướng bốn phen hình bác bỏ quả báo bốn phen. Đây là lời một lần khuyên giúp mà thôi. Nếu chẳng tu là Tam-muội trùng bảo chẳng tu pháp này ở trong trời người, có tu Tam-muội ấy thì bị buồn khổ, buồn là có khổ thì mất lợi lớn. Như người nghẹt mũi là dụ cho người chẳng thực hành pháp này. Nghẹt mũi thì không biết mùi vị. Kinh sách như chiên-đàn, gặp kinh ấy như tay cầm, phá giới không tin như mũi nghẹt, chẳng chịu tu hành như chẳng ngửi. Như người làm ruộng là dụ cho người chẳng biết pháp. Tam-muội hành pháp như ngọc ma-ni mà người không biết, như người làm ruộng, bỏ pháp Diệu hạnh, trở lại tham năm dục, như trâu châu bác. Cho nên kinh ấy quyển thượng chép:
Như con người ngu si cho đầy chiên-đàn mà chẳng chịu nhận, tức là bất tịnh, hương chủ nói rằng: đây là chiên-đàn, chẳng gọi là bất tịnh lại lấy mà ngửi.
Người ngu như thế nhắm mắt quay lưng chẳng nhìn chẳng ngửi. Người nghe Tam-muội chẳng nhận, bỏ mà chẳng trì giới, bỏ kinh mầu ấy. Lại nói như có khách buôn được châu ma-ni đưa cho người làm ruộng xem. Người ấy hỏi khách buôn giá bao nhiêu tiền, khách buôn đáp: Đêm ở chỗ tối thì nó chiếu sáng đầy báu trong đó. Người ấy chẳng hiểu mặt trái châu này, bèn hỏi: Đổi được một đầu trâu chăng? Khách buôn không chịu đổi, lại đem cho người ấy. Cũng như kinh Thí Dụ nói có con vị Trưởng giả chẳng có tài sản riêng. Cha sai ra nước ngoài buôn bán. Ban đầu, chở chiên-đàn đến xứ người, bán lâu mà chẳng được. Bèn hỏi người khác ở đầu chợ có gì quý. Người ấy đáp ở chợ có than quý. Bèn đem chiên-đàn đốt thành than.
Kế nói nửa đi nửa ngồi: Trước giải thích Phương Đẳng, cũng chung bốn giáo, cho nên văn kinh ấy nghe Tam-muội kết được Đạo ích chung cho ba thừa và bốn chúng. Kinh và văn này ý cũng khác theo, chỉ là thành viên, cho nên ý chỉ quán bí mật. Nương vào tu hành này sự nghi chưa đủ. Trong văn tự chỉ trăm lục, v.v... Liên là được, trước cầu mộng vương, v.v... là như Pháp Hoa Sớ có dẫn năm thứ mộng, nhân tâm nghi phân biệt học tập đều hiện sự, không phải người đến nói với, nhân mộng năm việc này tức chẳng phải người đến nói với. Liệt tử có sáu mộng tức là Chánh mộng, Ngạc mộng, Tư mộng, Ngộ mộng, Cụ mộng v.v.... đây tức là Chánh mộng, Tư mộng. Cho nên Chu Lễ chép: Bói sáu mộng lành dữ. Phương Đẳng chép: Phật bảo Văn-thù và tín nam tín nữ mà nói rộng chín mươi hai ức các Đà-la-ni, mỗi Đà-la-ni lại có chín mươi hai ức môn Đà-la-ni. Phật bảo Hoa Tụ: Chớ dối tuyên truyền, phải dùng thần minh làm chứng. Ví sao? Vì Thần minh có mười hai mộng vương, gặp một vương có thể nói cho nghe Đà-lani này. Thế nào là mười hai mộng vương? Là xưa Lôi Âm bị chín mươi hai ức ma bắt trói rất khổ não, liền lớn tiếng niệm Tam bảo mười phương ba đời, Chư Phật mười phương đồng thanh nói rằng: Ai cứu khổ được Bồ-tát này. Có Bảo Vương Như lai, cùng nhắc lại lời hỏi của các Bồ-tát, thì có Bồ-tát Hoa Tụ bạch Phật rằng: Phải dùng pháp nào đến cứu? Phật bảo: Phải dùng Ma-ha Đãn-trì Đà-la-ni chương cú mà hàng phục ma vương ấy. Hoa Tụ đến chỗ ấy hàng phục ma rồi khiến các ma thọ trì Đà-la-ni này. Các ma đều cởi áo cúng dường, đoạn đến chỗ Phật tự chép: Chúng con mười hai vương đều thọ trì. Hoa Tụ hỏi: Mười hai vương là gì? Bèn nói tên mười hai vương. Đến phẩm Mộng Hành thì nói mười hai tướng mộng. Phật bảo Văn-thù: Nếu cầu pháp này thì dạy cầu mười hai mộng vương. Nếu được thấy một vương thì trao pháp bảy ngày: Một là nếu ở trong mộng được thần thông bay đi có phướn lọng theo sau, gọi là Đãn trà-la tướng; Hai là nếu thấy hình tượng tháp miếu đại chúng nhóm họp, đó gọi là Cân-đề-la tướng; Ba là nếu thấy có vị thần mặc áo sạch sẽ cỡi ngựa trắng, đó gọi là Mậu-trì-la tướng; Bốn là nếu thấy ngồi voi trắng mà lội qua sông thì gọi là Càn-cơ-la tướng; năm là nếu thấy ngồi lạc đà đi lên núi cao thì gọi là Đa-lâm-la tướng; Sáu là nếu thấy ngồi trên tòa cao mà chuyển Bát-nhã, đó là Ba-lâm-la tướng; Bảy là nếu thấy dưới cây đèn đàn thọ giới, ấy gọi là Đànlâm-la tướng; Tám là nếu thấy bày tượng Phật, thỉnh tăng cúng dường thì gọi là Thiền-lâm-la tướng; Chín là nếu thấy cây trổ hoa nhập vào Thiền định, đó gọi là Cùng-lâm-la tướng; mười là nếu thấy Đại vương mang kiếm đi dạo thì gọi là Calâm-la tướng; mười một là nếu thấy vua tắm gội thoa hương thơm mặc áo sạch đó gọi là Già-lâm-la tướng; mười hai là nếu thấy vợ vua ngồi xe xuống nước gặp rắn, đó gọi là Bà-lâm-la tướng. Trước phải phát tinh tấn mạnh mẽ, sanh ý tưởng khó gặp, tự thương mình thương người như bị tội tử hình từ người mà cầu thoát. Như thế niệm niệm cầu về mộng vương. Nếu chẳng được cảm, thì dù làm cũng vô ích, phải hết năng lực phá san tham (bỏn xẻn) mà tu cúng dường. Đời nhiều trực hạnh cũng thành vô ích. Ở chỗ vắng lặng, là phải ở tăng-giàlam, lan-nhã mà dựng lập đạo tràng. Nếu có sự duyên cũng cho ở nhà thế tục, tức là hai chúng tại gia. Cho nên kinh chép: A-nan bạch Phật rằng: Người ấy bỏ nhà thì phải nói thế nào? Phật bảo: Nói cha mẹ rằng con thực hành pháp Đà-la-ni, nếu cha mẹ cho thì con sẽ ra đi. Nói thế rồi trong tâm nghĩ thầm ta muốn bỏ vợ con gia thuộc mà thực hành pháp Đà-la-ni. A-nan bạch Phật: Cha mẹ, v.v... không cho thì lại uống thuốc gì đến đạo tràng? Phật nói: Phải hướng về cha mẹ đốt hương mà xin ba lần, nếu cho thì phải ở trong nhà mà thầm nghĩ tụng kinh này. Nếu khi tu hành thì ở trong nhà sạch mà đốt hương cúng dường, mỗi việc như pháp người vào đạo tràng. Nếu làm được như thế thì trong bảy ngày. Bồ-tát Quan Âm sẽ nói pháp cho nghe. Nếu ở trong mộng thì hiện trước người ấy không khác với đạo tràng. Nếu tâm tán loạn lại bị đọa vào ba đường. Ở ba đường ra rồi lại làm tôi tớ. Phải dốc lòng sau có hối cũng vô ích. Nếu chỗ tăng-già-lam, trước phải có đạo tràng nghiêm sạch y theo phương pháp của kinh, nếu không thì phải xây mới. Ngoài đàn trong nhà cho đến ngoài nhà đều phải thoa hương cho nên nói trong ngoài nhà. Làm đàn tròn. Lễ nói: xây đất mà làm. Phật pháp y theo đây làm hình hoa sen. Cho nên nói hình tròn và sơn vẽ, v.v... phướn năm mầu là nêu chung năm mầu, cũng không vẽ mầu trung gian. Chữ phải làm phướn, phướn là gọi chung cờ xí. Trong kinh thường nói làm phướn này, là phướn chữ nô. Nay Phật pháp đồ cúng hình dạng giống đó, nên nói là phướn. Cách làm phướn không được để tượng Phật, Bồ-tát. Phướn là vật cúng dường ở chỗ cúng, vì sao lại đề hình tượng. Hải Ngạn Hương, kinh nói bờ biển này có hương chiên đàn. Thỉnh hai mươi bốn tượng, hễ lập đạo tràng trước phải nghiêm tịnh sau mới thỉnh tượng. Người đời miệng nói cầu đạo diệt chướng. Khi lập đạo tràng thì sai đứa trẻ khờ trần truồng nói đem tượng đến, thấy việc nầy mà buồn. Phần sau Niết-bàn, A-nan hỏi Phật: Phật diệt độ rồi cúng dường thế nào. Phật nói khi ta diệt độ rồi thì cúng dường tượng cũng với ta ở đời không khác. Cho nên cúng dường phước giúp Chánh đạo, sanh thiện tiêu chướng đâu có lỗi ư? Tục Lễ còn nói: địa vị quá tôn quý sẽ đổ xô đến, tuy đặt đạo tràng mà ngạo mạn tôn tượng thì lại vời lấy tội, diệt chướng ngại sẽ khó. Như chỗ vừa dẫn là văn Phương Đẳng. Hào soạn, hào như trước đã giải. Soạn là ngọc Thiên ý nói bày thức ăn uống ra, cũng là đồ ăn uống. Hài lý tức là dép guốc. Trong ngoài đạo tràng đều để riêng, bảy ngày ăn chay trường. Văn nay thông tục nên nói bảy ngày, trai là sạch. Húy Khang Bá chép: Rửa tâm gọi là Trai, phòng hoạn nạn gọi là Giới. Cho nên biết sách tục chưa hiểu ý về rửa phòng. Có lời không ý, cạn thấp thô mỏng. Trong đây lại cấm chẳng ăn quá ngọ. Ba lần rửa là dẫu không có duyên khác cũng phải rửa ba lần, vì có chỗ nói lên. Nếu thêm xuất nhập thì tùy việc mà làm. Ngày đầu cúng tăng, tuy thân miệng tinh thành nhưng phải giả lấy phước giúp. Hằng ngày làm thì càng tăng thượng, sợ năng lực chẳng kịp nên cho từ ngày đầu, trước khi khoa lễ phải bỏ hết tiền của. Cho nên văn kinh nói hết năng lực phá bỏ bỏn sẻn (keo kiệt). Thỉnh tăng riêng: Nam Sơn nói phải y Đại luận nói giải luật trong ngoài mà y theo đó nêu tội ra, cho đến bảy chúng cũng như thế. Thọ hai mươi bốn giới là kinh chép: Bấy giờ
Thượng Thủ rộng vì Hằng-già nói hai mươi bốn giới. Nhưng giới này là thuận luật nghi Bồ-tát đều gọi là tội nặng, dẫu trước đã có thọ giới Cụ túc, hoặc trước đã có thọ giới Phạm Võng, thì cũng phải thọ lại. Nặng nhẹ khác nhau, khai giá khác nhau. Lại người trao giới cũng phải có thọ không thể vội y kinh mà trao cho người, đủ ở kinh ấy phải xem lại. Kinh chép: Lại phải thọ sáu trọng như pháp Ưu-bà-tắc đã nói trong kinh Ưu-bà-tắc; tức năm chúng cũng thọ. A-nan hỏi rằng: Người nữ có được đắp y chăng? Phật nói được, chỉ không được mặc nữ sắc. Lại hỏi: Chẳng thọ sáu trọng được vào đạo tràng chăng? Phật nói: Tùy ý nay khi hành sự phần nhiều đều không thọ, chỉ thọ hai mươi bốn giới, tức y theo văn này. A-nan lại hỏi: Như vừa nói có nhất định như thế chăng? Phật nói Chư Phật ba đời đều do pháp này mà được thành bình đẳng. Chỉ trừ hai người là bác bỏ Phương Đẳng và dùng tóc tăng cho đến một vật của Tỳ-kheo, nói kịp Đà-la-ni, là y theo kinh cả bốn phen đều thuận tụng đủ ở văn kinh. Kinh chép: Nếu có người trì Đà-la-ni ấy, nếu có lửa bùng lên sẽ biến thành hoa báu. Người tu nghe công đức vô thượng ấy như chết mà được sống lại. Đối trước thầy nói tội. Cho nên biết phải thanh tịnh hiểu rõ giáo tướng. Biết phòng chướng là nếu tự thân phạm tội chẳng hiểu phòng chướng thì làm sao thực hành được cảnh diệt tội. Ngày 15 tháng 8, trắng đen hai tháng đều có hai ngày, phần nhiều dùng tháng trắng. Pháp Hoa sám nghi lấy chung ngày trai phải dùng bảy ngày, v.v... ít nhất chẳng thể ít hơn đây. Nếu muốn tiến hành thì tùy ý nhiều ít. Cho nên Nam Nhạc bảy năm, mười người trở lên, là kinh nói mười người chẳng được hơn. Nam Sơn chép: Tôi thấy người đi kinh ấp, hoặc trăm hoặc phân nửa ồn ào hỏi luận lại thêm tội lỗi. Thỉnh chỉ y kinh chỗ phàm không hiểu được. Bỗng có nhiều người riêng bày đàn tràng có gì chẳng được. Người tục cũng cho phép, là kinh chép: Khi đến đạo tràng phải đúng như pháp Tỳ-kheo tu hành tịnh hạnh, đủ ba pháp y, dương chi, nước tắm, đồ ăn uống (bình bát), tọa cụ. Đã nói khi đến đạo tràng, nên biết khi ra đạo tràng cũng phải mặc đủ áo tục. Kinh chép: Pháp y này khi ra phải thường theo bên thân, nếu lìa xa hai trượng thị mắc vô lượng tội. A-nan hỏi: Nếu khi bỏ nhà ra đi có cần cạo tóc không? Phật nói không, nay thì hành sự có ít người cạo đầu chẳng biết lấy từ đâu. A-nan hỏi: Nếu thế, đâu cần ba y. Phật nói: Ba y: Một là đơn phùng, hai là áo tục, còn áo người xuất gia phải làm nghi thức ba đời Phật. Áo tục là khi ra khỏi đạo tràng thì mặc; ba y là khi vào đạo tràng thì mặc, gang tấc chẳng lìa, nếu lìa áo này thì bị tội chướng đạo. Trước nói hai trượng, là hai y kia. Chỉ nói bị tội không nói chướng đạo. Nói đơn phùng, là không có khước thích, nếu khước thích tức là y của Đại tăng thọ trì. Cho nên y này phải làm riêng. thế gian có người mượn áo xuất gia rất không được.
Cho nên biết tuy chế ba y mà không phải y phục xuất gia. Trong miệng nói nín: nói khác miệng đồng âm là ở phần đầu trong ngày gọi là buổi sáng. Trong chúng phải lấy âm thinh mà hiểu, xem là người dẫn đầu. Dẫn hỷ tiếng hét thì người khác tiếp họa theo mười Phật ở trong Bách Lục gọi là Phật Vân Lôi Âm Vương ở Quá Khứ v.v... đều là bảy
Phật. Cha mẹ Phương Đẳng: kinh nói Bồ-tát Lôi Âm được lìa ma rồi bạch với Hoa Tụ rằng: Trì Đàla-ni này đến cứu tôi làm cho tôi tăng thêm tuổi thọ. Trong Phật pháp sống như chết rồi sống lại, ông là mẹ các pháp. Hoa Tụ chép: Ta không phải mẹ các pháp, Đà-la-ni ấy có thể là cha, cũng có thể là mẹ. Cho nên biết Đà-la-ni này chính là thật tướng, thật tướng có đủ hai trí quyền, thật, cho nên cha mẹ năng sanh vì Phương Đẳng chánh là không. Mười pháp Vương tử: Phật là Pháp vương, Bồ-tát là tử, tức là Văn-thù, v.v... Bách Lạc và Nam Sơn thành nghi đều nêu mười hai Bồ-tát. Tức kinh ấy trước nêu chúng Bồ-tát đều được gọi là Pháp Vương tử. Nói Bách Lục, là Đại sư khi còn ở đời chưa có ý này. Khi Đại sư mất rồi, Chương An mới tập hợp sự tích của Sứ, có đến trăm điều nên gọi là Bách Lục. Khi nói chỉ quán thì chùa chưa xây, khi sửa chữa thì chùa đã xây xong, soạn Bách lục rồi nên có ý chỉ này. Ba nghiệp cúng dường là thân quì lạy, miệng đọc, ý vận tưởng Nam Sơn chép: Từ xưa truyền cho nhau không khác chuẩn đích, như lập ở đây. Vận tưởng sự nghi đủ như trong Thiên Thai Phổ Hiền Sám chép: Lễ thỉnh ý đều phải rất tinh thành, thân rất kính lễ. Pháp lễ phải hai gối hai cùi chỏ và trán đều đụng đất, gan mật tưởng ở dưới chân Phật, tay rờ chân Phật như đối trước mắt. Quì xuống ba chỗ ngay thẳng, cúi mình chắp tay mắt nhìn chân dung. Đời gần đây bạc bẽo đều không quì, khinh mạn chưa dứt, thì biển nghiệp khó cạn, còn buông lung uế thân, sao mong được đại đạo.
Trần Hối: Trần là bày ra, kể ra riêng thì nhớ lỗi vừa phạm, chung thì từ vô thỉ đến nay tùy ý nói rộng, theo trí lực mình, chẳng chậm chẳng nhanh, phải khiến hành truyền cùng chú đều hết. Tư duy là trong như ý chỉ quán. Từ thời thứ hai tức là buổi sáng thời thứ nhất vừa xong thì thời thứ hai bắt đầu không cần mời gọi. Ngay đó lễ Phật. Ý chỉ quán là trong nghi Nam sơn nói tu pháp quán, cần phải y theo đây chẳng dám làm khác. Nay trước nói pháp quán thật tướng, kế nói pháp quán sáu việc. Nhưng trải việc quán pháp kinh luận đều nói thế, không phải chỉ có văn này. Như Đại kinh chép: Đầu là Điện Đường, v.v... Pháp Hoa nói áo nhẫn nhục, v.v..., Tịnh Danh nói vợ Pháp Hỷ, v.v..., trong Đại luận chép: Sư tử gầm thét v.v... Đâu chỉ có Thích giáo, sách tục cũng như thế. Như Đông A Vương hỏi Tử Hoa rằng: Quân tử có cây cối không? Tử Hoa chép: Nhổ cỏ nuôi mầm mống nhà, là người nông dân làm cỏ. Tu chánh tánh, đổi hạnh ác là quân tử làm cỏ. Bàn-đặc quét rác, chi Phật hoa bay đều là mượn sự mà thấy lý, văn rất rõ ràng. Người chẳng thấy chỉ bảo Đại sư trong hợp mà thôi. Văn trước nói tư duy, tức là chánh quán. Ma-ha v.v... là chánh cảnh, nói lên không phải thiên tiểu nên gọi là Đại. Tất cả pháp tức một pháp nên nói là Bí, một pháp nhiếp tất cả pháp nên nói là Yếu. Thể ngăn ba hoặc, tánh giữ ba trí. Không phải hai thứ Biên, Thiên nên gọi là Chánh. Chánh thể vô tướng nên gọi là Không. Kinh nói trở xuống là kế nói quán pháp. Kinh nói Phật vì Lôi Âm nói nhân duyên xưa của Hoa Tụ xong, lại nói quá khứ có Đức Phật hiệu là Chiên-đàn Hoa. Phật ấy niết-bàn đã lâu, lúc ấy ta như ông chẳng khác. Lúc đó, có Bồ-tát hiệu là Thượng Thủ là một vị khất sĩ, vào thành khất thực. Lúc đó, có vị Tỳ-kheo tên là Hằng-già hỏi khất sĩ rằng: Ông từ đâu đến. Đáp rằng: Ta từ chân thật đến. Lại hỏi: Thế nào là chân thật.
Đáp: Vì tướng vắng lặng nên gọi là chân thật. Lại hỏi trong tướng vắng lặng có chỗ cầu hay không có chỗ cầu?
Đáp: Không có chỗ cầu. Lại hỏi không có chỗ cầu thì dùng cái gì mà cầu. Đáp: Không có chỗ cầu mà ta cầu. Lại hỏi: Không có chỗ cầu thì dùng cái gì mà cầu?
Đáp: Có chỗ cầu thì tất cả đều không, được cũng không, mê đắm cũng không, thật cũng khác nhau mà cầu cũng không, nói cũng không, hỏi cũng không. Vắng lặng Niết-bàn tất cả hư không phần giới cũng đều là không. Ta thực hành pháp không thứ lớp như thế mà cầu chân thật. Lại hỏi Bồ-tát ở chỗ nào mà cầu?
Đáp: Ở trong sáu Ba-la-mật mà cầu. Hằng-già nghe xong thì bán thân mà cúng dường. Thượng Thủ nói Đà-la-ni cho nghe, nghe rồi lại hỏi làm sao vâng giữ? Thượng Thủ lại nói pháp hai mươi mốt ngày đủ như văn nay đã nói phương pháp. Nay văn lược nêu, phải y theo rộng kia cũng rất dễ hiểu. Trong tu quán pháp kia lại trở về không chỗ cầu, văn vì ở sau, là muốn hết các văn không chỗ cầu. Nay y theo đây mượn văn quán kia mà thành Tammuội nay cầu tức là người cầu Tam-muội. Mê đắm là đối với Tam-muội mà mê đắm. Thật là năng hành, sở hành chấp ngã ngã sở. Đến là người thực hành Tam-muội ra vào tới lui. Nói hỏi là y theo lời nói rất dễ hiểu. Đây đồng với mười tám không của Đại phẩm. Dẫn là nêu. Vì sao tới lui cho đến Niếtbàn tất cả đều không? Cũng như mười tám không trong Đại phẩm thì pháp nào chẳng không. Mười tám không đến quyển năm có giải thích. Đại kinh trở xuống là dẫn Đại Kinh nghĩa không cũng đồng. Như lai Niết-bàn còn tự đều không, huống chi là các pháp khác. Cho nên quyển hai mươi bốn chép: Phật bảo Đức Vương: Ông nói thấy không, không là pháp vô thì làm sao thấy. Bồ-tát thật không có chỗ thấy, nếu có chỗ thấy thì chẳng thấy Phật tánh, chẳng thể tu tập Bát-nhã Ba-la-mật, chẳng thể vào Niết-bàn. Bồ-tát chẳng những nhân không mà thấy Bát-nhã cũng không. Sáu Ba-la-mật, năm ấm Như lai Đại Niết-bàn v.v... tất cả đều không. Xưa Như lai ở tại thành Ca-tỳ-la bảo A-nan rằng: Ông chớ sầu khổ. A-nan thưa: Nay con thân thuộc đều chết hết, làm sao chẳng buồn. Như lai và con sanh ở tại thành này, cũng là quyến thuộc dòng họ Thích, vì sao chỉ có Như lai chẳng sầu khổ mà nhan sắc càng sáng. Ta lại bảo rằng: Ông thấy có thành chứ ta thấy trống không, ông thấy thân thích, còn ta tu không nên tất cả đều thấy không. Vì nhân duyên ấy mà ta càng sáng. Do đây nên ta tu quán trong trải việc. Trước y cứ kinh gọi Phương tiện, kế y cứ tôn dung đạo cụ. Trước Phương Đẳng trở xuống là trước y cứ kinh gọi tu quán. Khiến cầu trở xuống là y cứ phương tiện tu quán. Sự nghĩ đã trước cầu Mộng Vương, Tập Quán cũng trước tu không giả, là mượn sự làm quán. Lại nói trước tu là chẳng Biệt, mà Biệt tức là thắng Biệt, nghĩa là trước tu chẳng thật có không, cho đến giả sự nghi. Do phương tiện này để vào Đãn Trì. Tràng là chỗ nương, nói lên cho cảnh tịnh. Ở đời dùng để làm lúa và để cúng tế Thần, đều gọi là Tràng. Thuyết văn nói chẳng cày ruộng gọi là tràng. Thi nói tháng chín lập tràng kho để làm lúa. Nay nương cảnh tịnh để trị năm trụ nên gọi là Đạo tràng, cũng là đó. Tràng là sở nghiêm, năng nghiêm tuy nhiều như chẳng ngoài định tuệ, đồ cúng tuy nhiều nhưng chẳng ngoài động và chẳng động. Rốt ráo giới hương khắp xoa thật lý, quán ấm vốn không là cột thỏ con, vô duyên từ ấm cho nên cùng khắp pháp giới, lật lại ba hoặc mê quán hoặc pháp giới. Mê tức pháp giới nên gọi bất ly, giới hương xông khắp, đèn trí viên chiếu, cùng tịnh cảnh đẳng phương nên nói cùng khắp. Trí Phật giác ở lý cảnh quán không hai mươi bốn chi nghịch thuận. Từ cảnh lập số nói là hai mươi bốn. Như trong Pháp Hoa quán vô minh cho đến già chết, quán vô minh diệt đến gài chết diệt, Như thế mà lập là thuận quán nhân duyên. Trung A-hàm quyển năm mươi bốn nói già chết duyên sanh cho đến vô minh, vô minh duyên hành cho đến già chết đó là nghịch thuận quán nhân duyên sanh. già chết diệt cho đến vô minh diệt, vô minh diệt cho đến vô tướng diệt, ấy là thuận nghịch quán nhân duyên diệt. Cho nên nghịch thuận nhân duyên sanh diệt đều có hai mươi bốn phen trí giác liễu. Cảnh tuy gởi trí xưa phải nương Viên hào soạn các vị như kinh Pháp Hoa nói muối giấm. Văn ấy dụ quyền nay dùng giúp thật tịch, đó xứng với thể như áo trên thân, đối nhẫn làm tên nên gọi là sân. Sân gồm các hoặc toàn trái gọi là Tân, bảy ngày quán ở Đản Trì như dùng bảy trí quán thật, chỗ trừ như hoặc, tẩy trừ gọi là quán.
Thân không nhơ nên năng sở đều tịnh. Thầy cũng chỗ nương nên đồng nghĩa đế. Cũng y chỗ quán mà thuận nghịch theo số, nên lập hai mươi bốn thứ vô đường ác cộng thuộc đối tên chú nghĩa đặt tên này. Nếu pháp chẳng sai nên gọi là thuộc đối. Chú phá ba đạo, chẳng sai gọi là đối. Anh Lạc mười thứ, trong bổn nghiệp Anh Lạc quán pháp duyên khởi thì quán mười hai duyên có mười thứ: Một là ta thấy chẳng hai; hai là tâm làm; ba là vô minh; bốn là tướng duyên; năm là giúp thành; sáu là ba nghiệp; bảy là ba đời; tám là ba khổ; chín là tánh không; mười là duyên sanh. Kinh ấy giải thích đủ chẳng thể chép hết. Kế nói phá chướng, sự lý đầy đủ như trong sám tịnh thứ tư nói. Đủ ở sự lý mới sám ba đạo. Văn nói đẳng (v.v...) là dẫn chứng sự lý. Kinh Hư Không Tạng Thần Chú chép: Nếu Đại Tỳ-kheo dốc lòng đối với Phương Đẳng Tụng Đàla-ni mười ngàn bốn trăm biến là một sám, như thế thứ lớp tám mươi bảy ngày hành đạo. Tỳ-kheo-ni thì bốn mươi chín biến một sám, chín mươi bảy ngày hành đạo. Sa-di, Sa-di ni, tín nam tín nữ bốn trăm biến một sám sáu mươi bảy ngày hành đạo. Trong kinh tùy chúng đều có tiểu chú. Văn trước đã dùng bảy ngày làm giới hạn. Lại nói hành đạo tám mươi bảy ngày, v.v... tức là tám mươi lần bảy cho đến sáu mươi lần bảy. Nguyện hạnh thì đủ như bảy ngày hành pháp, chỉ có chú là khác nhau mà thôi. Ni chúng đều phải nhờ Đại tăng làm sanh.
Như thế người sám đều luận tội ba-la-di, phạm tội này rồi như người chết trong Phật pháp, nay lại thanh tịnh nên giới thể sống lại. Nếu hối pháp thành thì không tội nào chẳng diệt, nên nói nếu chẳng sống lại thì không có việc đó. Nhưng giáo môn Tiểu thừa còn chẳng khai sám, tuy nói sống lại mà không nhậm vận tăng dụng. Sa-di phạm rồi sám thành tựu mới cho thọ giới cụ túc. Đại thừa cho phép sự có thể chung làm. Nếu nghe Đại tăng gọi mời mà gian trá, huống chi bảo lương thành chế đủ số mà vô văn. Tin Đại Tiểu chia riêng, Thính chế điều khác, tiểu không nói sám trong vẫn thành tội nặng chưa mất, sao dùng Đại giáo mà sám di cho đủ, Tiểu thừa tăng số y vào đại sám rồi trong, tiến lên đạo, Đâu cần hỗn loạn để hoặc thời tình. Nhãn, v.v... thanh tịnh, là chỉ đến sáu căn mới gọi tương tự khổ Đạo tịnh mà thôi. Ngày thứ bảy thấy Phật mười phương, là kinh ấy hằng ngày đều có tướng trạng. Trước khổ đạo tịnh, vị ở sáu căn, trong đây địa vị Bất thối ở Sơ trụ, phá vô minh gọi là phiền não tịnh, ba chướng trở xuống tức cây nhân duyên chết, v.v... là Luận Bà-sa nói hai chi quá khứ là gốc, năm chi hiện tại là chất, ba chi hiện tại là Hoa, ba chi vị lai là quả. Có hoa có quả gọi là phàm phu, không hoa có quả gọi là người học, không hoa không quả gọi là vô dư, nghĩa suy cũng ứng. Lại chép: Thiếu hoa có quả gọi là người học, không hoa có quả gọi là hữu dư. Đây chính là tạng thông y cứ giới nội mà nói. Nếu theo Luận Bảo Tánh duyên tướng sanh hoại, bốn việc đều không mới gọi là hoại hẳn, nghĩa là duyên là gốc, tướng là chất, sanh là hoa, hoại là quả, tức giới ngoại hai thứ mười hai duyên. Cũng là năm ấm nhà không, v.v... là các giáo khác nhau, ấm không cũng khác, v.v... Nay lại bỏ Biệt mà giữ Viên. Kinh Tịnh Danh chép: Chẳng quán sắc, chẳng quán sắc như, sắc giả, như không tức cùng chẳng sai. Không giả để hiển bày Trung đạo. Bốn ấm cũng như thế. Đại phẩm nói sắc tịnh cho đến Thức tịnh. Phẩm Kim cương trong Đại kinh nói: Thân Như lai không phải ấm, giới, nhập mà chẳng lìa ấm giới nhập, chẳng thêm chẳng bớt v.v... đều là quán ấm rốt ráo không. Cho nên biết nhân quả đều nói ấm không. Trong quán tu ba phần báu, là lý thật tướng không có giai cấp, tâm hành hơn kém nên khiến cho khác nhau. Tu vọng trung hạ tuy gọi toàn phần, phải phân ra sáu tức để xếp vào cạn sâu. Cho nên kinh ấy văn nói rộng công năng đã xong, kế văn kết rằng: Nếu tu hành thọ trì tụng đọc phải biết người ấy được toàn phần báu. Nếu lại có người chỉ tụng đọc, phải biết người ấy được trung phần báu, các thứ cúng dường là được hạ phần báu. Cho nên biết toàn phần đủ thì cần phải tu hành và đọc tụng. Cứ theo lý cũng phải gồm cúng dường. Trong văn kinh khác nói rộng hạ phần, v.v... Nếu từ địa, v.v... là kinh nói Phật bảo
Xá-lợi-phất rằng: Có người bỏ đầu mắt, thân thể, vợ con, bảy báu cúng dường ta thì không bằng người ấy lễ bái kinh này. Nếu người chứa báu đầy cả bốn thiên hạ, lên đến Phạm thiên cúng dường ta, thì chẳng bằng cúng dường người trì kinh này một bữa ăn để nuôi thân. Nếu lại có người chứa báu đến trời Phạm thiên cúng dường ta thì chẳng bằng trì chương cú này một ngày một đêm v.v... Chỉ cúng dường người trung phần báu mà công đức còn như thế huống chi là cúng dường người được thượng phần ư? Lại như xưa có Trưởng giả tên là Cưu-lưu, không tin nhân quả, năm trăm người cùng đi xa thấy rừng cây tưởng là nhà ở, đến đó chỉ thấy thần cây, làm lễ xong nói mình đói khát. Thần liền chỉ tay năm ngón tự nhiên sanh ra rất nhiều thức ăn uống ngon quý. Ăn xong bèn khóc rống lên. Thần hỏi vì sao? Liền đáp: Có năm trăm người bạn cũng rất đói khát. Thần bảo gọi đến bèn cho ăn như trước, mọi người no đủ. Trưởng giả hỏi vì đâu được phước như thế. Thần đáp ta xưa vào thời Phật Ca-diếp rất nghèo khổ, mài gương trước cửa thành, mỗi khi có Sa-môn khất thực ta thường dùng ngón tay chỉ đường chỗ khất thực và tinh xá Phật, như thế không phải một, chết rồi sanh lên đây. Trưởng giả tỉnh ngộ, mỗi ngày cúng cơm tám ngàn vị tăng, nước vo gạo chảy ra ngoài thành sông, có thể đi thuyền được. Chỉ chỗ người thường khất thực mà phước còn như thế, huống chi là đích thân cho ăn và trì kinh này. Kế giải thích kinh Pháp Hoa. Bộ thuộc đề hồ chẳng Thông giáo khác. Trước trong khai chương nói gồm nói nín, cũng có thể nói gồm ý chỉ quán, văn biệt hành đó chỉ suy bốn câu, cho nên trong văn này rộng tu quán tượng. Để làm rộng đó, trước dẫn Quán kinh để làm chứng có tướng, kế dẫn hạnh An lạc để chứng tướng không. Quán Kinh chép: Nếu có bốn chúng, tám bộ tụng Đại thừa, là người tu Đại thừa, người phát ý Đại thừa, người ưa thấy sắc thân Phổ Hiền, người ưa thấy Phật Đa Bảo, Thích-ca và phân thân, người ưa sáu căn thanh tịnh... phải học quán ấy. Công đức quán này dứt trừ các chướng ngại, thấy sắc thượng diệu, không vào Tam-muội vì chỉ tụng trì nên gọi là có tướng. Kinh này đầy đủ như hạnh An lạc mười tám câu, cho nên biết tướng và vô tướng đều thành phương tiện, chỉ tùy nghi ưa thích làm môn mới vào. Hai kinh trở xuống là giải thích ý trái nhau. Hạnh An lạc trở xuống là là dẫn văn gồm đủ. Bốn hạnh trong văn hạnh An lạc dòng thứ nhất tuy dạy quán tất cả không, như thật tướng, v.v... Văn đầu lại chép: Ở đời ác sau này mà hộ trì đọc tụng. Trong văn thứ ba chép: Các Đại Bồ-tát ở mười phương thường phải thâm tâm cung kính lễ bái. Nói đẳng: đẳng là dùng đáp câu hỏi lìa não loạn v.v... Trong văn Quán kinh tuy nói đọc tụng cũng gồm vô tướng. Nam Nhạc trở xuống là hạnh An lạc, văn chép:
Tu tập các thiền định
Được các Tam-muội
Phật Sáu căn tánh thanh tịnh
Bồ-tát học Pháp Hoa
Đầy đủ hai thứ hạnh
Một là hạnh hữu tướng
Hai là hạnh vô tướng
Hạnh An lạc Vô tướng
Sâu xa mầu thiền định
Quán sát sáu tình căn
Hạnh An lạc hữu tướng
Đây y tha khuyến phát
Tán tâm tụng Pháp Hoa
Chẳng vào thiền Tam-muội
Ngồi đứng đi một tâm,
Tụng văn tự Pháp Hoa
Nếu như hạnh thành tựu
Liền thấy thân Phổ Hiền.
Đây cũng là một lần phân ở hai người, rốt ráo mà nói hai hạnh cùng hiển. Đặc thị trở xuống là nói hai người này đều là chứng tiền nói theo phương tiện. Có tướng soạn tựa, là như Nam Nhạc tụng kinh cảm được Phổ Hiền, Người trí thì ở đạo tràng thấy đời trước. Vô tướng làm tựa, là cũng như Nam Nhạc một hạ khuyên quán đủ phát các thiền. Người trí một hạ hàng mà tiến hạnh v.v... Diệu chứng trở xuống là nguyên ý văn. Mục đích là chứng pháp, chứng ở chân tợ. Tợ tức là gần vào vị Tương tự, chân tức là xa vào vị Sơ trụ. Vì trong phẩm đầu thì quyền thật lý tức trong thứ năm sự lý không hai.
Nay trải văn trở xuống là trải sự tu quán, thí dụ như
Đại luận quyển hai mươi tám pháp môn Sư Tử Hống, Đại Kinh quyển hai mươi bảy pháp môn Balợi-thọ v.v..., pháp môn tượng thân nghĩa rất rõ ràng, chỉ phải tìm văn ý thú thứ lớp. Sáu thông như trở xuống là nói trong trợ đạo, tám giải như trở xuống là nói trong thiền cảnh. Bốn nhiếp: Là bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự. Bố thí là đúng pháp cầu tiền của, thường nghĩ bố thí. Ái ngữ là bố thí rồi an ủi khiến trụ an vui. Lợi hành là tự lợi lợi tha bình đẳng nhiếp lấy. Đồng sự là vì lợi ích nên đồng sự nghiệp. Lại như hạnh mà nói là bố thí, vô nhiễm tâm mà nói là ái ngữ, dạy người không mệt mỏi gọi là lợi hành. Lìa lỗi, an ổn người, gọi là đồng sự. Trước là nói về tài, sau là nói về pháp. Cho nên hai thí tài, pháp phải đủ bốn giáo khai hiển. Cho nên nói dẫn vật nhiều mối, v.v... Pháp Hoa trở xuống là kết. Như văn trong khuyên tu nói tiếu, Thuyết Văn chép: Cốt pháp tương tự, nghĩa là trừ nó ra thì không cùng Phật thừa cốt pháp tương tự. Kế giải thích không đi không đứng. Trước giải thích lý do được tên. Do là đối bốn câu. Thật thông v.v... là y cứ hạnh thật mà nói. Kế Nam Nhạc Đại Phẩm đều giải thích tùy hạnh đặt tên. Nam Nhạc tức là Biệt Hành một quyển, tên là Tam-muội Tùy tự ý. Đủ y cứ bốn nghi ăn và nói nín. Văn đó hỏi rằng: Đây lấy từ kinh nào ra.
Đáp: Từ kinh Thủ-lăng-nghiêm. Cho nên văn sau giải thích các thiện cũng dẫn đủ Thủ-lăngnghiêm. Đại phẩm chép: Nếu được Tam-muội ấy khiến cho các Tam-muội biến thành vô lậu. Như một cân nước đá biến thành ngàn cân đồng bằng vàng. Người trí cũng có Biệt hành giác ý Tammuội. Tuy lại trở xuống là hội thông. Tuy có chẳng đi chẳng ngồi v.v... ba tên khác nhau mà chỉ là pháp bốn nghi tu quán. Nay y trở xuống là lại y theo giáo giải thích tên có bằng cớ. Các số trở xuống là hỏi. Kinh Đại thừa, Tiểu thừa số các tâm sở đều chẳng phải một, vì sao chỉ lấy ý làm cảnh quán. Cùng các trở xuống là đáp. Các số đã nhiều chẳng thể nêu hết. Ý là năng tạo, nêu một mà nói các thứ. Đối cảnh trở xuống là giải thích tên khác của ý. Quán tâm tánh là thể đồng mà tên khác, tùy tâm tưởng thấy cho nên có ba thứ khác nhau, cho nên văn sau chẳng phải một, chẳng phải khác. Hỏi: Lý tánh nếu thế sao lại lập ba. Như trong Bà-sa hỏi: Ba thứ này có gì khác?
Đáp: Khác hoặc chẳng khác. Nói chẳng khác, là tâm tức ý thức. Như lửa gọi là ngọn lửa cũng gọi là cháy bùng, cũng gọi là củi cháy, chỉ là một tâm mà khác nhau. Nói có khác tức tên khác nhau. Hoặc nói quá khứ gọi là ý, vị lai gọi là Tâm, hiện tại gọi là thức. Hoặc nói ở giới gọi là Tâm, ở nhập gọi là Ý ở ấm gọi là Thức. Hoặc nói nhiều mầu gọi là Tâm, như sáu đường do tâm, hệ thuộc gọi là ý, như năm căn thuộc ý. Nói tưởng gọi là Thức, như phân biệt thuộc về Thức. Câu-xá nói tập khởi gọi là Tâm, trù lượng gọi là Ý, liễu biệt gọi là Thức. Lại y theo Tiểu tông, thì ba tên chỉ là một pháp khác tên mà thôi. Cho nên nay nói ba-một họp tan chẳng thể chấp nhất định. Như thế, v.v... là muốn quán lược. Tâm tưởng thấy trái ngược, là Bà-sa chép: Vô thường gọi là thường là tưởng điên đảo, tâm điên đảo, thấy điên đảo. Ngã lạc tịnh cũng giống như thế. Xưa chép: Trong bốn ấm ba tâm không đảo, thức tâm có đảo. Có người nói thức tâm không đảo, ba tâm có đảo. Nghĩa là tưởng có tưởng đảo. Thọ có tâm đảo, hạnh có kiến đảo. Có người nói chung ở bốn tâm, thức có tâm đảo, tưởng thọ có tưởng đảo, hành có kiến đảo. Có người chép: Sơ tâm vọng chấp gọi là Tâm đảo, tâm kế tưởng thành gọi là Tưởng đảo, tưởng thành ngoại chấp gọi là Kiến đảo. Trước Bà-sa giải thích: Chính lúc văn này rơi vào tâm tưởng kiến đảo để thấy ba khác. Chấp là thường v.v... chẳng gọi là giác, biết rõ đảo này không phải tướng một-khác. Chỉ quán pháp tánh mới gọi là Giác. Giác là hiểu biết trở xuống là chánh lập quán. Ba tên đối nhau đều thành sáu câu, có nêu đủ trong kinh Bát-chu Tam-muội. Phân biệt ba tên đã chế là quấy (không đúng), phải quán thể nó tánh lìa văn tự, nên trong sáu câu nói chẳng thật có, tức là thể đồng, nói chẳng phải không tức là tên khác. Lại phải chớ (chấp) danh thể đồng khác, cho nên lại biết rằng: Chẳng phải một mà nói ba, chẳng phải ba mà nói một. Các hợp tam khác y cứ theo đây mà biết. Nếu biết tên chẳng phải tên trở xuống là chung có sáu câu, phức tạp nêu giải thích lại. Sáu thứ này đều là cùng chẳng sai cùng chiếu. Giả danh và tánh đều chẳng thật có. Nếu mượn văn này lập ba quán, là chẳng phải một mà lập ba là giả, chẳng phải ba mà nói một là không, danh chẳng phải danh, tánh chẳng phải tánh là Trung. Năm thứ kia y cứ theo đây, do đó phức sơ đạt được tâm tánh mới là không thể nghĩ bàn diệu cảnh ba đế. Nếu quán trở xuống là ý đặt tên. Ý có công năng tạo khắp, cho nên chỉ quán ý là nhiếp tất cả. Nếu phá trở xuống là phá các sử, như thế là viên quán chẳng phải chỉ quán ý làm gốc các pháp, cũng phá hết nguồn vô minh các hoặc, cho nên biết không phải chỉ ý nhiếp tất cả. Cũng chính là ý tức vô minh, khi vô minh hết thì các hoặc sao còn, vì thế đều hết cho nên các trở xuống là nhiếp lược kết tên. Tuy có các tên cho đến các số, nay chỉ đặt tên Tam-muội giác ý là do đây. Tùy tự trở xuống là hai tên chỉ là tên khác của giác ý, tên ấy tuy khác nhưng nghĩa đồng giác ý. Ở đây trở xuống là khai chương. Hễ có hình lụy khi dứt việc rất hiếm có, ba Tam-muội trên duyên đủ thật khó, nếu chẳng tùy cảnh dùng quán ý khởi thì tăng thêm. Ba tánh không sót, bốn vận xem xét, trải duyên đối cảnh đều gặp như một, đâu có khắc kỳ đại đạo. Trong các kinh đầu, trước nói chương này nhiếp rộng. Kế chánh giải thích. Trước kinh thỉnh Quán Âm cũng thuộc Phương Đẳng, văn chung ba thừa cho nên trong ý chỉ quán nêu đủ ba tướng. Nếu dùng hai mươi lăm Tam-muội nghĩa chỉ có Viên Biệt. Trước y cứ sự nghi, hai âm chữ thỉnh thọ thí là âm tịnh, hỏi Tôn là âm thỉnh. Nay văn chánh ở nghĩa thứ hai. Thỉnh đủ ba nghĩa một là tự, hai là tha, ba là hộ chánh pháp. Trong kinh trước mượn Ưu-ba-tư-na tức là tự thỉnh, nguyệt cái là tha, Kệ bảy chữ là hộ pháp, cũng phải đủ ba mươi sáu câu. Văn nay chỉ là hiển cơ hiển ứng, vừa ngầm vừa hiển cơ hiển ứng. Thỉnh lại có ba nghĩa. Diên thỉnh là thân nghiệp, kỳ thỉnh là miệng nghiệp, nguyện thỉnh là ý nghiệp. Lại năm thể là thân nghiệp. Bốn bài kệ là miệng nghiệp, buộc niệm là ý nghiệp. Lại diên là thỉnh người, kỳ là thỉnh pháp, nguyện là gồm cả người và pháp. Cơ đã khai thì ba ứng cũng như thế, ba nghiệp cũng phải đều có hai câu cơ ứng khác nhau. Ba Tammuội trước y cứ đây so sánh mà biết. Tên Quán Âm cũng y cứ với bốn tất-đậu-vật khác nhau. Đủ như phẩm Phổ môn trong Pháp Hoa Sớ có giải thích rõ. Lại y theo Quán Âm Sớ mà nói phương pháp rằng: Xưa chia làm mười: Một là nghiêm tịnh (làm sạch) đạo tràng; hai là làm lễ; ba là đốt hương rải hoa; bốn là buộc niệm; năm là có nhành dương; sáu là thỉnh Tam bảo, bảy là tụng chú, tám là tỏ bày, chín là lễ bái, mười là ngồi thiền. Y theo Phương Đẳng trước đều phải có hai giải lý sự. Văn nay có ý, sự lý cũng đủ, thứ lớp hơi khác, ở trong Bách Lục. Lập cành dương là đặt bên tay trái Quan Âm là cành dương, tay phải là bình nước, cho nên thỉnh phải đủ hai vật. Nếu làm nói lên thì cành dương phất là nói lên cho tuệ, tịnh bịnh lắng trong nói lên cho định. Năm vóc sát đất, như các vị tăng thường làm, theo Địa trì, A-hàm đều dùng hai gối, hai cùi chỏ và trán sát đất gọi là năm vóc sát đất, cũng gọi là năm luân, năm chỗ hướng hạ là trong năm vóc như cây đổ nhào. Lại Lý quán giải, Quán Âm Sớ chép: Nếu khởi năm ấm lìa Tát-bà-nhã gọi là bình lập đứng thẳng chân trái như sắc, chân phải như thọ, tay trái như tưởng, tay phải như hành, đầu như thức. Nếu vào Tát-bà-nhã thành năm phần gọi là sát đất, thì giới như sắc, định như thọ, tuệ như tưởng giải thoát như hành, giải thoát tri kiến như thức. Phải nói đủ lý do nghĩ rất dễ hiểu. Buộc niệm đếm hơi thở là văn nay theo kinh chỉ đến số mười. Sớ nhân hơi thở mà khởi các hành. Vì sao? Vì hơi thở gió là sắc, lãnh nạp hơi thở này, duyên tưởng hơi thở này, các tâm sở là hành, tâm vương là thức. Trong quán hơi thở này năm ấm bốn niệm thành pháp Thanh văn. Nếu quán hơi thở là quá khứ vô minh nhân duyên thành hiện báo hơi thở đến vị lai, đó gọi là quán hơi thở thành pháp Duyên giác. Lại chẳng mê đắm thọ, hơi thở gọi là đàn (bố thí), chẳng khởi bất thiện gọi là thí (giới), đến được hơi thở này gọi là Nhẫn, niệm niệm tiếp nối gọi là Tấn, ở duyên chẳng loạn gọi là Thiền. Phân biệt hơi gió, biết rõ tà chánh gọi là Trí. Đây gọi là quán hơi thở thành pháp sáu độ của Bồ-tát. Nếu quán hơi thở thành các tuệ vô tướng gọi là quán hơi thở thành pháp Thông giáo. Thấy hơi thở chẳng phải không chẳng phải tục, Trung đạo Phật tánh, trước sau mà quán, đó là pháp Biệt giáo. Nếu quán hơi thở này một tâm ba đế là pháp Viên giáo. Đếm hơi thở đã như thế thì các hành cũng so sánh như thế. Cho đến các văn khác cũng phải phân biệt. Ba là xưng niệm Tam bảo là nói lên trừ ba chướng, nói rõ xưng niệm Tam bảo là nói lên trừ ba chướng, nói rõ hành pháp đều có đủ trong Bách Lục và Nghi Chánh Hạnh đều ở trong kinh ấy. Cho nên nói có thể tìm kinh bổ ích. Văn nay Bách Lục và Chánh Hạnh Nghi đều chẳng chép bốn bài kệ hạnh, kệ rằng:
Nguyện cứu khổ ách con
Đại bi che tất cả
Phát ánh sáng tịnh khắp
Diệt trừ si tối tăm.
Vì tránh khổ độc hại
Phiền não và các bịnh
Ắt sẽ đến chỗ con
Cho con an vui lớn.
Nay con cúi đầu lạy
Nghe tên cứu nguy ách
Nay con tự qui y
Thế gian cha từ bi.
Cúi xin chắc chắn đến
Thương con ba khổ độc
Cho con vui đời này
Và cho đại Niết-bàn.
Trong bốn bài kệ này hai bài kệ đầu là chánh thỉnh, hai bài kệ kế là kết thỉnh. Hai bài kệ đầu lại có hai: Một là thỉnh chung, hai là thỉnh riêng. Hàng đầu lại có hai: Câu đầu chỉ tự thỉnh, ba câu kế chung tự tha. Khổ ách là bịnh của sáu căn. Che tất cả, là chẳng riêng nhà, lìa chung mười giới. Hai câu kế là thỉnh trị si. Kế trong thỉnh riêng là thỉnh trừ ba chướng. Độc tức là nghiệp. Phiền não như văn, các bịnh là báo, vui là Niết-bàn. Niết-bàn là ba đức, ba đức phá ba chướng, kết thúc như văn. Tụng bốn bài kệ này là chuyển chương duyên cũng là vào gốc quán tương ưng, cho nên phải lược biết. Lại tụng ba bài chú, chú là văn ở kinh Thỉnh Quán Âm, nếu người tu hành đến đó tìm. Phát lồ rửa giặt, như áo dơ thì phải giặt rửa phát lồ như chỉ cho người, sự nghi như nước tro. Lý quán như nước trong, lý thể như áo sạch. Che giấu nhơ chẳng sám hối phải đọa đường ác mãi. Trước ngọ v.v... phương giống như pháp, ngày đêm hai thời đều lấy phần đầu nên nói là ngọ tiền và sơ dạ (trước giờ ngọ và đầu đêm) các thứ khác gọi là bốn thời, phải theo thường nghi chẳng nên bỏ. Kinh nói trở xuống là chánh nói tu quán. Trước y cứ sáu trần cho đến năm ấm mà thực hành quán. Trước quán sáu trần, tuy dẫn Đại Tập như không như tâm, vẫn gọi là thông chung. Cứ trở xuống là quán ấm chỉ lìa tánh tướng thành Thanh văn không. Cho nên kế lại phải tu huyễn hóa và thật quán. Đất không cứng trở xuống là kế quán năm ấm. Trong đây trước quán sắc ấm, sắc tức bốn đại. Trước quán địa đại, địa là sự bền chắc, nhân duyên mà thành, có vốn chẳng thật có, mà tình cho là có, có là bền chắc. Cho nên ở Địa đại mà khởi tình chấp chặt. Nay mượn sự cứng để phá tình chấp. Cho nên nói có là nghĩa cứng. Hai câu không v.v... và ba đại kia lệ theo mà biết. Kinh ấy nhân Ưu-ba-tư-na hỏi, Thân Tử đáp. Trong phần đáp chép: Phải quán Địa đại không bền chắc, thủy đại không dừng, phong đại vô ngại, từ điên đảo sanh. Hỏa đại chẳng thật, giả nhân duyên mà sanh. Thọ tưởng hành thức, mỗi ấm tánh đồng nhau, ở bốn đại đều vào bờ cõi như thật. Ưu-ba-tưna được bốn Đại định, thông suốt năm ấm, được quả La-hán. Văn nay y theo kinh dùng nghĩa khai thác làm pháp quán. Cho nên ở bốn đại đều dùng bốn tánh suy khiến như không. Đời mạt pháp độn căn khác nhau Phật nhật. Cho nên y theo Trung Luận mà quán hai không. Như trong Địa đại câu đầu nói có là nghĩa cứng. Đây thì chỉ gọi địa là nhất định có vì phòng chuyển chấp phá ba câu. Chấp rằng: Có đã là cứng, không đâu được cứng. Cho đến chuyển nhập câu thứ tư chấp chẳng phải có, chẳng phải không, cũng gọi là không bền chắc. Nay đều phá đều chấp bền chắc. Nhưng mặt đất này vốn chẳng phải bốn câu, không danh tự bền chắc nhân tình mà gọi bền chắc, cho nên dụng bốn câu nhờ bền chắc mà phá chấp. Ba đại kia y theo Địa đại suy nghĩ mà biết. Đó gọi là sắc ấm để vào tánh không. Như trong Địa đại ban đầu nói rốt ráo chẳng thật có. Kế trong Thủy đại, Phong đại đều nói cũng chẳng trụ không có bốn câu, cũng chẳng trụ trong chẳng thể nói đều là văn tướng không. Chỉ có trong Hỏa đại thì tướng không văn lược. Tánh tướng của các ấm như thọ v.v... y theo đây cũng rất dễ thấy.
Hỏi: Suy ra ba đại trước đều dùng bốn câu như có v.v... mà phá. Đến Hỏa đại thì văn bèn dùng Bốn câu như tự v.v... mà phá là sao?
Đáp: Có hai nghĩa: Một là y theo kinh, kinh nói Hỏa đại chẳng thật, từ nhân duyên sanh. Nhân duyên phải làm tên tự tha mà nói; hai là tên khác nghĩa đồng. Có chỉ là tự, không chỉ là tha, cho đến cùng chẳng sai chỉ là không nhân. Văn kinh còn lược các ấm khác chẳng nói. Phải nói thọ không lãnh nạp tánh chẳng thật có. Nếu bảo thọ là có là lãnh nạp cho đến bảo thọ chẳng phải có chẳng phải không, cũng là lãnh nạp. Cho đến thức là liễu biệt cũng giống như thế. Đầy đủ phải như trong quyển năm mà phá giả bốn câu. Như thế mà quán là pháp Thanh văn, tức dùng chân đế gọi là như thật.
Hỏi: Nếu pháp Thanh văn phải quán bốn đế? Đáp: Ấm là khổ đế, tánh chấp là tập, quán pháp là đạo, thật tế là diệt. Quán ấm đã thế trở xuống là kế nói quán pháp Duyên giác. Đầu tiên từ vô minh, cuối đến già chết, đều như tiếng vang trong hang trống đều phá tánh tướng, vì sao? Vì nếu có bốn câu tức là vô minh cho đến già chết. Nếu vào thật tế gọi là quán không đã thành. Gốc của quán tuệ v.v..., nếu không có quán tuệ bèn thành khổ hạnh vô ích. Cho nên phải dùng các quán Như Huyễn v.v... mà được tánh tướng không, vào mé như thật. Mé thật có hai. Nhị thừa y thông, thông tức chân đế. Biệt viên y trung, chẳng chung với Tiểu thừa. Nay lại từ thông đến dưới (thấp nhất) sáu chữ ba Đà-la-ni mới từ Trung đạo huống chi văn dưới quán ác thường dùng Viên quán. Phải biết văn nay bổn ý ở viên. Tỏa phục trở xuống là y cứ ba Đà-lani đối phá ba chướng. Nói tiêu phục, tiêu là tiêu trừ, phục là điều phục độc của báo chướng giết hại người tu, dùng tổng trì này mà chiết phục. Người Tỳ-xá-ly trở xuống là nói công năng phá chướng. Kinh chép: Bấy giờ, ở nước Tỳ-xá-ly tất cả người dân bị bịnh truyền nhiễm: Một là mắt đỏ như máu; hai là hai lỗ tai ra mủ; ba là mũi chảy máu; bốn là lưỡi sưng nói không ra tiếng; năm là thức ăn biến thành rắn rít; sáu là thần thức u mê như người say. Sớ nói: Năm căn bịnh làm cho ý thức hôn mê. Cho nên chép: ý thức cho đến như say. Kinh nói: Có năm quỉ dạ-xoa ăn tinh khí người. Sớ chép: Như là bịnh quỉ từ năm căn vào, kẻ gây ra bịnh gọi là năm Dạ-xoa. Kinh chép: Khi ấy, Trưởng giả tên là Nguyệt Cái cùng năm trăm trưởng giả đều đến chỗ Phật bạch Phật rằng: Người dân nước này bịnh dữ, thầy thuốc Kỳ-bà dùng hết đạo thuật cũng không cứu được. Cúi mong Đức Thế tôn cứu cho bịnh khổ này. Phật bảo Trưởng giả rằng: Cách đây không xa ở về phương Tây có Phật hiệu là Vô Lượng Thọ, ở đó có Bồ-tát hiệu là Quán Thế Âm và Đại Thế Chí, thường dùng đại bi mà cứu giúp khổ ách. Nay các ông nên thỉnh. Khi nói lời này thì trong ánh sáng thấy Phật Vô Lượng Thọ và hai vị Bồ-tát. Nhờ năng lực Như lai nên Phật và Bồ-tát đều đến thành này đứng ở trước cửa thành phát ra ánh sáng chiếu khắp. Do đó, Trưởng giả nói bốn hàng kệ, xưng danh Tam bảo tụng Đà-la-ni nên bình phục như xưa. Sớ chép: Ở phương Tây cực xa, sao nói không xa. Có nói rằng: Ở phàm thì xa, ở Thánh không xa, nay nói nếu cơ hợp thời tuy xa mà gần, nêu cơ chưa thục tuy gần mà xa.
Hỏi: Vì sao chẳng thỉnh phương Tây?
Đáp: Nếu y cứ ngũ hành thì phương Tây đứng đầu về kim là nghĩa quyết đoán. Nếu y cứ bốn đế thì Đông tập, Nam khổ, Tây đạo, Bắc diệt. Phương Tây thuộc đạo là nghĩa năng thông. Nếu thế, Đông Tây đuổi nhau với Pháp Hoa Sớ để ví cho khổ tập chẳng trái nhau ư?
Đáp: Đều tùy nghĩa tiện lợi cũng chẳng trái nhau. Nếu là ngạ quỉ đối nhau để phối thì Đông tập, Tây khổ, Nam đạo, Bắc diệt, đây thì y cứ nhân quả thứ lớp sanh nhau, đều có lý do để thành chỗ nói lên. Nếu y cứ nơi chốn thì mặt trời mọc ở Đông mà lặn ở Tây, nói lên ở Đông độ Thích-ca sanh ra vật thiện, ở Tây độ Di-đà dứt trừ các hoặc, sanh Vô Lượng Thọ, có nói Phật có hai thân sanh-pháp, hai cõi hai Phật đều có hai thân sanh pháp. Ở trong sanh thân vì hóa duyên nên tuổi thọ này có lượng mà tuổi thọ kia vô lượng. Có thứ làm Bổn tích mà giải thích, có thứ làm Chân ứng mà giải thích. Thấy ứng tích chẳng thể dứt chướng, thấy chân bổn thì sẽ trừ chướng. Ở đây đều chẳng thể. Chỉ tùy cơ phải dùng đây làm nhân, dùng kia làm duyên, chẳng cần giải thích riêng.
Hỏi: Vì sao thỉnh ba?
Đáp: Vì cơ duyên ở ba, nếu y cứ theo sự nói lên thì Phật là nói lên cho pháp thân, Quan Âm nói lên cho trí, Thế Chí nói lên cho phước. Thông luận đầy đủ lại từ Biệt nói.
Hỏi: Vì sao thỉnh ba, kinh đề từ một?
Đáp: Vì Trí làm tiêu độc, tức nghĩa phá hoặc, từ nghĩa tiện nên lại đề từ một. Phật nói điều phục Đà-la-ni xong, bảo: Nếu có bốn Bộ Trì tên Bồ-tát ấy và tụng chú thì tất cả bất thiện như lửa đốt củi. Phá ác trở xuống là phá ác thuyết Đà-la-ni thích danh mà biết. Phá phạm hạnh trở xuống là kế nói công năng. Kinh chép: Người phá phạm hạnh làm mười nghiệp ác khi nghe chú này thì trừ sạch các uế cấu mà được thanh tịnh. Nếu có nghiệp chướng các ác bất thiện, mà xưng danh hiệu Bồ-tát ấy và tụng Đà-la-ni thì liền phá nghiệp chướng, hiện tiền thấy Phật, sáu chữ trở xuống là kế giải thích sáu chữ Đà-la-ni. Nói sáu chữ có người nói xưng danh Tam bảo. Hai chữ Nhất bảo tức là Phật-đà, Đạtma, Tăng-già. Có người nói Tam bảo là ba chữ, Quán Thế Âm là ba chữ. Đây đều không có nêu chương kết cú, cho nên chẳng dùng. Sớ xét văn kinh phải làm ba thứ nghĩa sáu chữ: Một là y cứ quả báo để làm sáu chữ. Nói kệ xong bảo rằng: Có bốn bộ chúng nghe sáu chữ này liền nói rộng công năng cứu khổ sáu đường; Hai là y cứ tu nhân dùng làm sáu chữ. Như Ưu-ba-tư-na nghe chương cú sáu chữ khiến quán tâm mạch liền nói rộng sáu Diệu môn; Ba là y cứ sáu căn để làm sáu chữ. Như Xálợi-phất ở trong rừng lạnh đáp lời hỏi của Tư-na rằng: Mắt tương ưng với sắc, v.v... liền nói rộng sáu căn; Ba văn sau mỗi căn kết rằng: Vì nghe chương cú sáu chữ này, cho nên nghĩa sáu chữ chẳng ngoài ba thứ này. Nay văn chánh dùng hai nghĩa trước sau. Đại bi v.v... là nói các nhà hiện nay lập nghĩa. Tịnh trở xuống là nói công năng sáu chữ. Ở trong văn đầu trước y cứ năng phá hoặc căn bản, ba độc là gốc gọi là gốc ba độc. Ba thứ này sanh ra tất cả bất thiện, lý chung tất cả. Cho nên nay văn này tịnh căn ba độc, vì thế phá rồi rất dễ thấy Phật đạo. Lại lấy vô minh làm gốc ba độc cho nên phá rồi sẽ thấy Phật đạo. Sáu chữ tức là trở xuống là chánh giải thích công năng sáu chữ, có thể phá sáu đường ba chướng, hai mươi lăm hữu, thành hai mươi lăm Vương Tam-muội. Nói sáu đường thì các luận và A-hàm Chánh Pháp Niệm Xứ nói rộng tướng ấy. Đại luận quyển ba mươi ba hỏi: Vì sao sáu đường lại nói năm đường.
Đáp: Sau khi Phật mất năm trăm năm thì tụng bộ riêng khác nhau đều trả kinh Phật mà theo nghĩa của mình cho nên khiến một đường Tu-la có không khác nhau. Trong đây nói chung ba chướng nặng nhẹ khác nhau, nên phải nói sáu đường ba chướng. Địa ngục từ nghĩa đặt tên, nghĩa là ngục ở dưới đất nên gọi Địa ngục. Tiếng Phạm là Nại-lạc-ca, Hán dịch là khổ cụ. Tám ngục lạnh tám ngục nóng nói đủ như Thích châm quyển bốn. Quỉ, tiếng Phạm là Xà-lê-di, Hán dịch là Tổ phụ. Nhĩ Nhà nói quỉ là về, Thi Lữ chép: Người xưa gọi người chết là người về (qui). Lại chép: Nhân thần gọi là quỉ, Địa thần gọi là kỳ, Thiên thần gọi là linh. Có người nói đói khát gọi là ngạ quỉ, thường bị xô đuổi sai khiến, đường này ở dưới cõi Diêm-phù năm trăm do-tuần, có cõi Diêm-phù là chỗ ở căn bản, cũng có thứ ở châu Diêm-phù. Có đức thì ở trong rừng cây hoa quả, không có đức thì ở chỗ bất tịnh-hai châu Đông Tây cũng có quỉ. Ở Bắc châu chỉ có quỉ oai đức. Các trời cũng có, tùy chỗ sanh hình. Trong tục có Nguyễn Tịch anh của Tôn Chiêm thường nói là không có quỉ. Bỗng có khách đến nói việc quỉ thần. Khách đuối lý đổi sắc mặt bảo rằng: Quỉ thần xưa nay Hiền thánh cùng chấp nhận, sao ông lại nói không? Đáp rằng: Nay có người thấy quỉ nói mặc áo lúc còn sống, vậy người có áo quỉ cũng là có quỉ sao. Người luận đuối lý. Đây cũng người luận chẳng biết quỉ hóa thành áo, khiến giống áo người ấy còn sống đã mặc. Tục tuy nói có chẳng phải đều biết. Cho nên trong tục giáo chỉ thấy phần nhỏ người súc, chẳng thấy bốn đường kia. Cho nên Khổng Tử chép: Sống cùng người việc này còn chưa biết, chết cùng quỉ thần ta làm sao biết được. Súc sanh tức Lục súc, là trâu ngựa gà heo chó dê thì nhiếp thú chẳng hết. Nay nói chung đạo này chẳng hạn cục ở sáu. Bà-sa chép: Bàng sanh thân đi ngang nên nói Bàng sanh hoặc nói khắp có, là khắp trong năm đường đều có. Vô minh nặng chẳng loài nào hơn súc sanh. Lại Đại luận dùng ba loại mà nhiếp, tức đi ban ngày, đi ban đêm, đi cả ngày đêm. Lại có ba là ở trên đất, ở dưới nước, ở trên hư không. Trường A-hàm nói rộng về A-tu-la: A là không, tu-la là trời, tức không phải trời. Lại Tu-la, Hán dịch là đoan chánh, vì nó không xinh đẹp nên gọi là Thế. Lại nói không rượu. Khi thế giới mới thành ở trên đỉnh núi Tu-di cũng có cung điện. Sau trời Quang Âm xuống, như thế lần lượt đến trời thứ năm. Tu-la giận bèn tránh đi không sanh đến đây nữa. Lại ganh ghét Phật nói pháp. Phật vì các trời nói bốn niệm xứ, thì nói năm niệm, xứ Phật nói ba mươi bảy phẩm thì nói ba mươi tám phẩm, thường làm tâm tà vạy mà che. Tinh là nghi sợ. Thi truyền rằng: Vì sắc thì nói đố, vì hạnh thí nói kỵ, hai hiền thì nói tật. Nghi như giải thích ở sau, cho nên biết Tu-la có thói xấu là ganh ghét người Hiền. Người, tiếng Phạm là Ma-hiểu-xa, Hán dịch là Ý, vì người khi làm việc đều phải suy nghĩ. Kinh Dịch chép: Chỉ người là loài linh thiêng của muôn vật. Lễ chép: Người là tâm của trời đất, đầu mối của năm hành. Đây cùng chưa biết năm đường. Bà-sa chép: Năm đường nặng về ngạo mạn không loài nào hơn loài người. Lại chép: Trong năm đường hay tức ý cũng không gì hơn loài người. Chỗ ở có bốn. Phá ba chướng người mà nói trời người, vì trong nhân đạo có sự lý, cho nên thêm trời mà hàng phục người. Nói trượng phu, là một người cao một trượng nên nói trượng phu, đây chỉ người hơn hết mới gọi trượng phu. Bạch Hổ Thông nói phu là phò (nâng giúp) dùng đạo mà tiếp giúp. Nay cũng như thế. Dùng lý mà phò nên gọi là trượng phu. Thấy lý Phật tánh mới gọi Trượng phu. Nên kinh Niết-bàn chép: Người thấy Phật tánh tuy là người nữ cũng gọi là người nam, người nam tức trượng phu. Nếu y cứ vào ý này. Thiên đạo cũng phải có nghĩa bậc nhất thiên và hai thứ sự lý để giải thích thiên (trời), thì tục giải thích như quyển một. Tục cũng chưa biết ba cõi các trời cho nên chỉ dùng đục trong mà phân. Nay trong sách giải thích nói Thiên (trời) cũng gọi là tối thắng, cũng gọi là quang minh, dục sắc và vô sắc. Nêu chúa được quan. Đại Phạm Thiên Vương đứng đầu ba cõi, các trời khác đều thuộc về đại thần. Nay chỉ nêu chủ mà nhiếp Thần. Thần là tiện xưng nam tử, nhượng chủ là quí sáu thứ này được tên hoặc từ đối trị như bốn đường ác và người mới giải thích. Hoặc từ lý mà nói như giải thích người sau. Thiên từ tiện nghi rộng sáu trở xuống là trong y cứ hai mươi lăm Tam-muội nói bốn thứ như huyễn v.v.... Nam dùng như huyễn, Đông dùng nhật quang, Tây dùng nguyệt quang, Bắc dùng nhiệt diệm. Mười bảy thứ như bất động v.v..., là Dục giới dùng sáu, Sắc giới dùng bảy, Vô sắc giới dùng bốn. Dục có sáu là bất động phá bố vương, nam phục phá Đao-lợi, Duyệt ý phá Dạ ma, Thanh sắc phá Đâu-suất, Huỳnh sắc phá hóa lạc và Xích sắc phá tha hóa. Sắc giới có bảy là Bạch sắc phá Sơ thiền, các thứ phá Phạm vương, song phá Nhị thiền, Lôi Âm phá Tam thiền, Chú Vũ phá Tứ thiền, Chiếu cảnh phá Na-hàm, Như hư không phá vô tưởng. Vô sắc có bốn, vô ngại phá không xứ, thường phá thức xứ, lạc phá bất dụng xứ, ngã phá phi tưởng phi phi tưởng xứ. hai mươi lăm hữu chung làm bài tụng rằng:
Bốn vức bốn đường ác
Sáu dục và Phạm vương
Bốn thiền bốn Vô sắc
Vô tưởng năm A-hàm.
Hai mươi lăm Tam-muội phá hai mươi lăm hữu, ở phẩm Thánh Hạnh trong đại kinh đủ như trong Huyền Văn quyển bốn giải thích. Kinh này chung ba thừa trở xuống là kết thành ba thừa dụng quán khác nhau. Sáu đường và hai mươi lăm hữu nghĩa ấy là một, vì hay quán trí khác nhau nên phân ra ba người khác nhau. Tuy nói ba thừa giáo nhưng phải chia làm bốn: trước nói pháp Nhị thừa, pháp này chung với hai Bồ-tát. Nay phá hai mươi lăm hữu thấy ngã tánh. Cho nên trong Bồ-tát thừa chỉ ở Biệt Viên, phá chướng là chung ba, phá hữu thì riêng. Tự điều là từ nhân làm tên, tự độ là từ quả làm tên. Sát tặc (giết giặc) là từ nghĩa đặt tên, tức hại vật thì nói là giặc, vì phá hại bậc Thánh. Nhĩ Nhã chép: Trùng ăn mầm tiết là giặc ba giới, kết trùng ăn mầm vô lậu, nên A-la-hán dịch là Sát tặc. Phước dày là trăm kiếp tu phước, nên nói phước dày. Phước nhiều giúp trí cho nên căn cơ lanh lợi. Nếu khởi trở xuống là do khởi đại bi duyên mé như thật được không lui sụt. Vị này phải ở Sơ trụ Sơ địa niệm không lui sụt. Hỏi: Như thế, vì sao kinh ấy nói Phật bảo Kiên Ý rằng: Định Thủ-lăngnghiêm không phải Sơ Địa mà được, cho đến không phải Chín địa mà được, chỉ có Thập Địa mới được.
Đáp: Đây thì Biệt giáo giáo đạo mà nói, vì Thủlăng-nghiêm tên là Kiện Tướng, cho nên hạ địa không được. Nghĩa viên đủ như cuối quyển I. Sơ tâm còn được quán Niết-bàn chẳng lẽ không được quán Thủ-lăng-nghiêm ư? Bảy Phật, tám Bồ-tát, v.v... là kế y cứ các kinh. Bảy Phật trong kinh thần chú trước nói bảy Phật đều có Đà-la-ni và nói công năng để thực hành sám pháp. Kế văn nói tám Bồtát: Một là Văn-thù, hai là Hư Không Tạng, ba là Quán Thế Âm, bốn là Cầu Thoát, năm là Bạt-đàhòa, sáu là Đại Thế Chí, bảy là Kiên Dũng, tám là Thích-ma-nam, cũng đều có thần chú và công năng hối pháp. Cho đến kinh dưới văn lại có Bồ-tát Phổ Hiền và tám vị Long Vương, cũng đều có chú diệt tội. Lại như bảy Phật Cu-chi Đà-la-ni và tám Đại Bồ-tát trong Du-già đều có Đà-la-ni, tức là Quan
Âm, Thế Chí, Văn-thù, Phổ Hiền, Hư Không Tạng, Kim cương Tạng, Trừ Chướng Cái, Di-lặc. Hư Không Tạng tám trăm ngày dọn dẹp nhà xí, xí nghĩa là xen lẫn. Trên cõi người ở chỗ ấy rất tạp uế nên gọi Thế. Kinh Hư Không Tạng chép: Ở đời vị lai người giỏi tỳ-ni phải dạy chúng sanh nói pháp, trị tội có ba mươi lăm Phật cứu thế đại bi, phải lập đạo tràng, đủ các thứ cúng dường. Trước lễ Phật mười phương xưng ba mươi lăm danh hiệu Phật, riêng xưng tên Đại Bi Hư Không Tạng. Vì sao? Vì
Hư Không Tạng trên đầu có mão trời, trong mão có châu như ý, có ba mươi lăm vị Phật hiện. Bồ-tát ấy ngồi kiết già hoặc có lúc hiện làm tượng tất cả sắc. Người tu hoặc ở trong mộng, hoặc trong lúc ngồi thiền khi thấy tướng này là do Ma-ni châu ấn chúng người tu, trên vách làm chữ diệt tội. Tướng Phật này lại vào trong tăng đúng pháp nói giới. Nam Sơn Hành Nghi cũng dùng văn này. Nếu y theo ý này đủ số thì được. Cho nên trong phó pháp tạng diệt tội nặng rồi, người thời ấy gọi là Luật Sư Thanh Tịnh. Nếu Ưu-bà-tắc được chữ chẳng chướng thọ giới. Cho nên sao chủ y đối tục mà nói đều có bằng cớ. Nếu chẳng được chữ trong không xướng rằng tội diệt, tội diệt. Lại không có tướng này. Người giỏi tỳ-ni mộng thấy Hư Không Tạng bảo rằng: Tỳ-ni-tát, Tỳ-ni-tát. Tỳ-kheo và Ưu-bà-tắc lại bảo sám hối. Một ngày đến bảy ngày lễ ba mươi lăm Phật, nhờ năng lực Bồ-tát nên tội ấy nhẹ dần. Người biết pháp lại dạy tám trăm ngày dọn dẹp nhà xí. Ngày ngày bảo rằng: Ông làm việc bất tịnh hết lòng chùi rửa tất cả nhà xí, chớ để người biết. Chùi rửa xong, tắm gội mà lễ ba mươi lăm Phật, xưng tên Hư Không Tạng, hướng về mười hai bộ kinh, năm vóc sát đất tự nói bày tội lỗi trải hai mươi mốt ngày mà nhóm họp thân ở trước tượng Phật mà xưng danh hiệu ba mươi lăm vị Phật. Bồ-tát Văn-thù kiếp hiền làm chứng minh, bạch bốn lần Yết-ma như trước thọ giới lại. Đây cũng là văn phạm trọng mất giới. Nếu không mất vì sao sám hối rồi khiến thọ lại. Kinh chép: Phật bảo Ba-ly: ông vì người ở vị lai không hổ thẹn nhiều phạm giới, phải đúng như pháp sám hối này, có đủ trong Nam Sơn Nghi. Nói nhóm họp bạn thân là không phải quyến thuộc thế tục, so với những người phạm tội nặng đến thẳng mà thọ chưa thấy ích phương. Nếu thọ rồi mà sanh hổ thẹn thì cũng hơn trần tục. Tự bảo chẳng bỏ lại vào trong tăng. Căn bản đã không thì chỗ ngồi đâu còn. Văn này lại thuận ý Hư Không Tạng. Nếu theo luật văn một chi một cảnh, tuy đã hoại, khác chi khác cảnh cũng chuyển như cũ. Cho nên y luật thì chỗ ngồi chẳng không.
Kế trong các thiện, trước phân biệt bốn vận. Vận là động. Từ vị đến dục, từ dục đến chánh, từ chánh đến dĩ. Cho nên nói chung là động. Lại Quốc Ngữ chép: Chở bằng đường bộ gọi là vận, chở bằng đường thủy gọi là Tào. Chữ Tào thường vì chín giới bốn tâm mà chuyên chở nên gọi là Vận. Nay nhiếp chín vận khiến Vô sanh vào Phật vận, nhưng vẫn xem Phật vận chẳng ngoài chín vận. Thể của Phật vận tánh vốn không. Cho nên phải phân biệt bốn vận. Đây là phân biệt môn quán trở xuống tác thọ, trước chẳng nói về quán tâm vô thác, cho nên chép: Tâm thứ vô minh dùng bốn tướng mà phân biệt. Lại vì người đời phần nhiều nói sanh tâm là vọng, tu quán diệt tâm chẳng phải vọng, đều chẳng quán mà bảo là Vô sanh là rất lầm. Người đời tu thiền đều quán Vô sanh chẳng biết Vô sanh ở đâu, là trước có hay không. Nếu trước có thì đã chứng Vô sanh, nếu trước không thì sao gọi Quán. Nếu biết chín giới làm cảnh quán, thì giới Bồ-tát đã khởi chưa khởi còn phải quán sát, huống chi các thứ khác. Nay nói đã là y cứ duyên trong ngoại có tâm, không tâm. Có tâm, không tâm xưa nay là hữu lậu, đâu cho y cứ theo đây mà phán Sanh, Vô sanh. Như người phòng lửa tất cả đều phòng, nếu chỉ phòng phát chẳng phòng chưa phát thì sẽ bị lửa chưa phát đối tiêu, quán rồi dùng tâm Phật phòng ở dục sanh, chánh sanh. Người quán Vô sanh chỉ quán ở tâm chánh khởi, khiến tâm chẳng khởi, chẳng khởi quán ở tâm chưa khởi, tâm thể vốn không đã vốn không, khởi cũng chẳng khởi. Đây là đối sáu trần trong nhân gian mà khởi diệt tâm sanh Vô sanh. Như diệt tâm này còn chẳng tự biết huống chi là biết, tâm Dục Sắc Vô sắc, huống chi lại chiết thể và thiên tiểu. Viên Vô sanh tâm còn phải quán sát, huống chi lại các thứ khác. Lại quán bốn vận, là tùy tự ý mình, từ sự mà tu quán pháp. Như thường ngồi hoặc chỉ quán lý, nghĩa là tất cả pháp đều là pháp tánh. Cho nên phải biết người tu Tam-muội ở hai đường này chẳng thể bỏ một. Cho nên kinh Chiêm Sát chép: Quán có hai thứ: Một là duy thức, nghĩa là tất cả chỉ là tâm (duy tâm); hai là Thật quán, nghĩa là quán chân như. Duy thức thì trải việc, chân như thì quán lý. Nay văn quán mười giới bốn vận, nghĩa phải xem xét tất cả duy tâm. Cho nên văn nay chép: Hiểu rõ được bốn thứ này thì vào vô tướng. Nếu cũng thứ lớp quán mười bốn vận gọi là cảnh không thể nghĩ bàn. Đạt chín giới tức là Phật pháp giới thì gọi là không thể nghĩ bàn, nhưng vẫn phải phát tâm cho đến lìa ái, mới thành tướng một nhà vào đạo. Cho nên Phó Đại sĩ có bài thơ rằng:
Riêng mình tự hỏi tâm ta mê đắm gì.
Xem xét bốn vận và Vô sanh,
Muôn ngàn mối manh sao cột được.
Phải biết Đại sĩ Vô Cấu cũng dùng bốn vận mà làm tâm yếu, Đại sĩ tuy tức chẳng nói mười giới, đã nói muôn mối ý cũng gồm. Như sáu mươi bốn câu sau lần lượt suy tìm. Cho nên Đại sĩ cũng nói xem xét. Nói nhất tướng, vô tướng, là chín giới bốn tướng đều chẳng thật có gọi là một tướng. Một tướng tự không gọi là vô tướng.
Hỏi: trở xuống là phân biệt hai tâm đã và chưa ý hỏi là bác bỏ người, chỉ quán chánh khởi, cho nên trước chép: Hai thứ vô tâm này làm sao quán được.
Đáp: Trong hai phen trước đáp chưa niệm, kế đáp đã niệm, hai phen đều có pháp thị hợp. Pháp đầu, chỉ là vị khởi, gọi là không, đã chẳng phải hẳn không cho nên phải quán. Như người trở xuống là thí, làm và chẳng làm tự y cứ sự trước, sự tuy có không nhưng người chẳng thể diệt. Tâm cũng trở xuống là hợp. Niệm và chưa niệm, tự y cứ duyên trước. Duyên tuy có không nhưng tâm chẳng thể diệt. Tâm đã chẳng diệt thì do đây mà có thể rộng khởi tất cả tâm. Cho nên quán nó chẳng khiến duyên hoặc, hoặc tức chín giới quán vào tâm Phật.
Tác tác là làm việc nên gọi tác tác. Kế niệm dĩ trở xuống là đáp phen thứ hai. Nhìn sự làm tâm mình chẳng thể không. Như người trở xuống là thí, niệm dĩ trở xuống là hợp. Kế hỏi, là dẫn kinh Kim cương Tâm ba đời chẳng thật có, Dĩ tức quá khứ, vị tức vị lai, hiện tại còn không, làm sao nói quán tâm ba đời.
Đáp: ở trước đều không phải. Nếu quá khứ trở xuống là đáp riêng. Trước nhắc lại câu hỏi trước, kế hỏi vì sao trở xuống là chánh đáp. Như điều ông hỏi chẳng quán ba đời, vì sao bậc Thánh quán tâm ba đời. Quỉ thần trở xuống là nêu kém bày hơn. Vì sao trở xuống là bác bỏ ngược lại, quỉ thần là loại thấp còn biết ba đời, chẳng lẽ trong Phật pháp khiến không có ba đời.
Hỏi: vì sao Quỉ thần biết ba đời?
Đáp: Như trong Bà-sa có quỉ nhập vào cô gái. Thầy bùa hỏi vì sao quấy nhiễu người khác, thì đáp: Cô gái trong năm trăm đời là kẻ thù của ta, vì thường giết ta, ta cũng thường giết nó. Nếu nó bỏ âm, oán thì ta cũng bỏ. Người ta liền bảo cô gái bỏ tâm oán, cô gái nói bỏ rồi. Quỉ thấy cô gái tuy miệng nói bỏ mà tâm chưa bỏ, liền giết chết cô gái. Đã biết mình người quá khứ, hiện tại, vị lai thì y theo đây mà biết. Đề phòng oán vị lai nên giết hiện tại. Lại như địa ngục là thấp nhất, cũng biết quá khứ, như nói xưa làm vua nước Bà-la-môn, vì ta nói pháp mà chẳng chịu tin nhận nên phải chịu khổ này. Lại biết cùng tạo tội ấy mà vào địa ngục. Quỉ và địa ngục còn biết nhân quả cách sanh ba đời, vì sao làm người mà chẳng biết sát-na sanh diệt ba đời. Lông rùa sừng thỏ lấy hai vật này dụ cho đoạn kiến. Ông dẫn ba đời đều chẳng thật có, liền bảo không tâm như hai vật kia, một bề đều không. Đây gọi là đoạn kiến. Cho nên Thành Luận chép: Lông rùa sừng thỏ, muối thơm chân rắn, mầu gió, v.v... nên gọi là không. Đây là lấy thỏ chạy rùa nước làm dụ, nếu thỏ bay rùa đất thì cho có lông sừng. Cho nên Đại Kinh chép: Như lông rùa nước như sừng thỏ chạy. Phải biết trở xuống là kết. Tâm ba đời là cảnh quán. Không phải đoạn không phải thường vì sao? Vì chẳng phải thường cho nên không thật, chẳng phải đoạn cho nên có thể quán. Vì chẳng thật mà nói mãi không, vì chẳng thật cho nên có thể làm cảnh quán. Cho nên dẫn kệ. Lời Phật nói ra đều không phải đoạn thường, vì sao lại khởi kiến chấp đoạn diệt. Nếu khởi trở xuống là kết thúc bác bỏ. Khởi kiến đoạn diệt không có cảnh quán. Cảnh quán đã không, tất cả nhân quả muôn hạnh đều mất, cho nên phải quán hai tâm Vị Dĩ, vì thế mà biết kinh ông dẫn chẳng hợp giáo chỉ. Cái gọi là ba đời chẳng thật có. Chỉ nói không thật ai bảo mãi không. Cho nên phải biết hai đế của Phật pháp. Tục đế cho nên có, chân đế cho nên không. Chẳng thể vì không mà khó có. Cho nên Kim cương quán tục đế, Tục thể chẳng thật gọi là chẳng thật có. Hành giả trở xuống là khuyến tấn, đã biết tâm có mười giới bốn vận tùy khởi mà quán, thiện ác tức là sáu đường, các niệm chung bốn thánh. Chẳng trụ chín giới tức quán chín cõi, nên gọi phản chiếu. Lại, thiện ác là bày sự thiện ác, đều phải quán sát. Cho nên văn sau liền dùng thiện trải tác thọ mà làm cảnh quán. Cho nên trải mười giới để hiển bày vô trụ. Kế trải trở xuống là chánh y cứ các thiện. Trước bày bỏ rộng theo lược. kế nói ý trải mười hai sự, trải mười hai sự và luận bàn. Thọ nghĩa là lãnh nạp sáu trần. Tác là làm, thực hành đây là sáu tướng.
Hỏi: vì sao im lặng gọi là thực hành?
Đáp: Là thực hành sự im lặng, chẳng ngoài mười giới. Trước nói nếu có các trần, trần sanh thọ, cho nên khiến có trần là y cứ thọ khởi quán. Nên nói phải bỏ. Tuy dùng bỏ nêu trước ắt sáu độ đầy đủ rộng như giải thích ở sau. Nếu không có tài vật, v.v..., là tài vật tuy nhiều mà không ngoài sáu trần. Cho nên không có tài vật lại bỏ các trần, chỉ chuyên sáu tác để đủ sáu độ. Tu sáu tác là đều quán trần, tùy giới hạn mà tu quán cho nên tu quán, vì vậy cùng nói. Trong ba chánh giải thích trước thọ kế tác, tác thọ cùng tu, trong sự đàn thiện khiến thành pháp giới. Sau đều luận sáu sáu cũng như thế, mới gọi là tùy tự ý quán. Ba quán trọng thọ, trước không kế giả, sau nói Quán trung. Trong trước quán không còn trước nhắc lại bốn vận mà làm cảnh quán. Lại quán ngược trở xuống là chánh nói không. Trong quán chép: Trong ra chẳng đợi nhân duyên, đây là theo lời nói tiện, đáng lẽ nói trong ra, nhân chẳng đợi duyên. Chỗ quán trở xuống là quán không thành tướng.
Hỏi: kinh Tịnh Danh chép: sắc Sở quán và người mù. Nay vì sao nói sở quán như không, năng quán như người mù?
Đáp: kinh Tịnh Danh chép: Sở chánh hiển năng, năng như mù nên sở thấy như không, sở thấy không nên năng như mù. Bản dịch đó là khéo dùng sở mà nói năng. Nay giải thích ý đó nên phân ra năng sở không minh đều chẳng thấy, khi mắt thấy sắc thì năm duyên hòa hợp mới thấy được. Gọi là không minh là căn cảnh thức tai mũi lưỡi thân chẳng nhờ duyên minh. Bốn duyên kia chẳng khác với mắt. Nay văn nói lược nên chẳng nói Thức. Cũng là thức đủ như các duyên trên mà được thành thấy. Chẳng đồng Tiểu thừa hoặc nói thức thấy hoặc nói căn thấy. Nhân duyên trở xuống là kế nói quán giả. Văn đầu nhắc lại quán không ở trước, từ duyên sanh pháp, vì mười giới mà làm nhân chung, lại dùng vô gián diệt ý để làm nhân căn trần không minh để làm duyên. nhân duyên hòa hợp mà sanh nhãn thức. Nhãn thức nhân duyên sanh ý thức, là nhãn thức làm nhân cũng dùng căn trần không minh làm duyên. Vô gián thứ lớp sanh từ ý thức, nương ý thức mà có nhãn thức. Chỉ do ý thức vô gián diệt nhân thành ý căn, khi đối các cảnh khác lai sanh nhãn thức. Cho nên hai thức lại làm nhân cho nhau. Kế nói riêng mười giới, trước trong bốn đường, nhãn thức năng thấy v.v... Đây là y theo Kinh bộ, nương gần Tiểu thừa nên nói thức thấy. Do đây mà lần lượt lại làm nhân duyên cho nhau. Thứ lớp như thế sanh ở mười giới, tham nhiễm ở sắc, v.v..., tham là hoặc gốc, hủy giới đọa địa ngục. Hủy giới nói đủ như trong Thiên tụ trì phạm. Thật yêu mà nói thì chẳng rơi vào siễm cuống. Chấp ngã, ngã sở. Hỏi: tất cả phàm phu ai được khỏi mà riêng xếp vào súc sanh bốn vận.
Đáp: Lời chung mà ý riêng. Nếu ngang với thánh mà dứt thì đây là thuộc ý chung, trong đây dùng quyến thuộc làm sở. Kế trong trời, người, tha tuệ ngã sắc chẳng cho thì chẳng lấy, tha tuệ bèn lấy lìa chẳng cho mà lấy. Câu dưới hiển trên thành nghĩa tha tuệ. Chẳng tuệ chẳng lấy nên nói chẳng cho thì chẳng lấy. Vì lễ mà quên tiền tài gọi là tha tuệ. Nếu vì cha mẹ, người chồng mà hộ trì Phật pháp, thì chẳng tuệ mà lấy gọi là chẳng cho mà lấy, tha tuệ lại lìa phi thời, phi xứ, phi lý, phi lượng và huyễn mại v.v... Luận riêng tuy như thế, ý chung rất dễ hiểu. Sắc kia trần kia giới kia đều như thế. Cho nên phải nói về năm thứ như nhân nhượng, v.v.... Nhượng là nghĩa, Trinh là chánh, thanh chánh tự giữ tức là lễ, là qui cũ trong động. minh là trí có quyền biến. Các tên xưa, năm thường nếu đủ, năm giới sẽ toàn, nếu mười thiện đủ, thì mười ác sẽ dứt. Bắt đầu là cõi Dục địa cư trời người, cõi Dục không cư và Sắc, Vô sắc, văn lược nên chẳng nói. Quán bốn vận trở xuống là nói Nhị thừa bốn vận. Trong văn trước nêu bốn niệm xứ quán, hiển bày Thanh văn thừa, vô thường nên sanh diệt, bất tịnh nên chẳng trụ, khổ nên ba thọ, vô ngã nên chẳng tự tại. Kế một câu nhân duyên hiển bày Phật giới. Quán rồi trở xuống là trong giới Bồ-tát mở ba Bồ-tát. So sánh với văn sau các cảnh của Bồ-tát nghĩ bàn cũng có ba. Trước là sáu độ, Tự thương xót nên tổn hại mình, thương kia nên quán khác. Vì sao trở xuống là giải thích tướng sáu độ. Bỏ chẳng thể mất một câu bác bỏ ba tạng gồm ý minh thông. Bác bỏ ba tạng là cũng gồm phàm phu, vì các phàm phu cũng làm sự độ. Tuy tức chẳng kịp, Bồ-tát ba tạng là y cứ nghĩa chẳng thể mất. Nay quán trở xuống là chánh nói là quán chung ba việc đều không. Trong đây ba việc tùy cảnh khởi quán, không gọi là người thí và tài vật. Phải nói căn trần cho đến người nhận. Kim cương trở xuống là dẫn chứng. Kinh chép: Chẳng trụ chánh đáng, chẳng trụ sáu trần thực hành thí. Nếu chẳng trụ trần tức là chẳng trụ căn và thọ giả. Bố thí đã như thế thì năm thứ kia cũng như thế. Lại trần tức tài vật thấy trần là không cho nên thí và nhận đều không. Cho nên nghĩa hai chỗ ba việc bằng nhau. Như người trở xuống là nêu thí dụ. Trụ tướng như tối thì trí nhãn (mất trí) chẳng mở, chẳng thể thấy tất cả đều vô tướng. Không trì như mắt, chẳng trụ như mặt trời có mắt mặt trời nên thấy ba việc là không. Cho nên biết hai nghĩa vô trước và không tuệ đều cần, mới thấy ba việc là không. Cho đến sáu mươi hai kiến tất cả đều không, nên nói các thứ. Nói thẳng trở xuống là trùng tiêu kinh ý, kinh bị lợi căn nói thẳng chẳng thấy. Vì nói lược nên tướng cũng khó hiểu. Cho nên nay lại giải thích chẳng trụ bốn câu mới gọi là chẳng trụ, cho đến chẳng trụ sáu mươi hai kiến gọi là đàn vô tướng, cho nên biết văn trước không có bốn tướng, chỉ lìa sáu mươi hai kiến thành Kim cương lìa ngã nhân, v.v... gọi là Bồ-tát, không phải chỉ có Sơ quả phá kiến mà thôi. Cho nên biết chỉ là chân đế vô tướng. Nói sáu mươi hai kiến, thì Đại Kinh quyển hai mươi tám giải thích công đức thứ tám có nói bảo lìa năm việc tức năm kiến, nhân năm kiến ấy sanh sáu mươi hai. Chương An chép: ở đây có hai ý: Một là ngã kiến có năm mươi sáu, nghĩa là năm ấm cõi Dục đều kể bốn câu, hợp thành hai mươi, cõi sắc cũng như thế, Vô sắc trừ sắc chỉ có mười sáu. Cho nên biết ba cõi hợp thành năm mươi sáu y. Biên kiến có sáu, ba cõi đều có hai, đó là đoạn thường kiến hợp thêm trước thành sáu mươi hai kiến; Hai là năm ấm ba đời đều kể đoạn thường, dùng hai kiến có không làm căn bản. Ở đây y theo văn Đại luận quyển sáu mươi tám, nghĩa là sắc như trở xuống v.v... bốn câu, bốn ấm cũng như thế, hợp thành hai mươi câu, đây là kể đời quá khứ. Lại kể sắc thường, v.v... bốn câu, bốn ấm cũng như thế, hợp hai mươi câu, đây là chấp hiện tại. Lại chấp sắc có biến, v.v... bốn câu, bốn ấm cũng như thế hợp thành hai mươi câu, tức chấp vị lai. Mỗi câu sau đều nói thần và thế gian, ba đời sáu mươi đều có không hai. Luận Thích nói phàm phu chấp trước có thần ngã. Nếu người chấp thường thì tu phước diệt tội, nếu người chấp vô thường thì vì danh lợi thế gian nên có chỗ làm. Nếu chấp vừa thường vừa vô thường thì chỉ là song chấp hai câu một và hai, cho nên đối với thần ngã vì chấp thô tế làm câu thứ ba. Chấp thần thô thì thân chết vô thường. Chấp thần tế thì thân chết bất diệt. Chấp cùng chẳng sai thì thấy chấp thứ ba, hai thứ đều có lỗi. Vì sao? Vì thường thì chẳng biến cũng như hư không gió mưa chẳng động. Nếu vô thường thì có biến động, như mưa ở da thì có hư rã. Lìa hai lỗi này do tâm ta nên lại nói có thần, thần chỉ có chẳng phải thường chẳng phải vô thường mà thôi. Phật nói bốn thứ đều tà kiến, đây là chấp thần. Thế gian tức là cõi nước. Cho nên thần ở thế gian cũng có bốn kiến. Nói chấp thường, thì hỏi rằng nếu cõi vốn không thì chấp phải có lầm. Thế gian là có vì sao tà kiến.
Đáp: Phá thế gian là phá tư tưởng thường. Chẳng phá thế gian như người không có mắt lấy rắn làm đẹp. Người có mắt nói đó là rắn, không phải chuỗi anh lạc. Phá đảo cũng như thế. Hiện thấy vô thường chẳng được nói là thường. Hai câu ba, bốn y theo nói mà biết. Có biên, v.v... là người ngoài cầu độ không được thỉ ấy liền nói không có chung. Trong vô thỉ mà chung thì gọi là không biên, chấp có ba thứ này gọi là có biên. Như người có thiền chấp tám muôn kiếp. Hai câu ba, bốn chuẩn đây mà biết. Cũng có người chép: Câu thứ ba là tám phương có biên giới, trên dưới không biên giới. Có người chép: Trên đến trời Hữu Đảnh, dưới đến địa ngục mà tám phương không biên giới, là chấp thần hoặc như hạt cải, v.v... Cũng có chấp độ và dùng thần ngã cùng chấp có không thành hai câu ba, bốn. Y theo đây rất dễ hiểu. Như đi, v.v... là như người ấy tới lui đến đời sau gọi là như đi, nghĩa là đời trước không đến, chết rồi cũng không đi thì gọi là chẳng như đi. Nếu bảo chết rồi là đi mà thần vẫn không đi thì gọi là câu thứ ba. Thấy đều có lỗi chấp câu thứ tư. Luận văn rất rộng, phải ở trong đó mà tìm. Như trong Bà-sa cũng lập sáu mươi lăm kiến, tức ở trong năm ấm đều chấp bốn ấm làm ngã sở, gọi sắc là ngã, thọ là tôi tớ, anh lạc là nhà cửa. Ba ấm cũng như thế. Hợp ngã và ngã sở đều có mười ba câu; Ba là ngã sở, do đó Phật nói lìa sáu mươi lăm, vì nói Đạo phẩm thành đạo Thanh văn, cho đến Bồ-đề. Cho nên biết phá kiến được pháp khác nhau. Nay đây chưa đủ Hằng sa
Phật pháp, lại có thể lợi tha thành thông Bồ-tát, mới bắt đầu (vượt qua) ở phần đoạn bờ kia. Nói tất cả pháp thú. Nói trong đây Thông giáo vì sao nói tất cả pháp thú. Nhưng chỉ nói thú chẳng nói thú ấy chẳng lỗi và chẳng thật có. Cho nên thuộc về Thông giáo. Do đó tất cả nói pháp thú tên ấy cũng thông. Như Huyền Văn chép: Đi khắp các cõi mười phương, trở lại như ở trong bình. Nay văn dưới nơi nơi dẫn tất cả pháp thú, v.v... để chứng ba đế, ý nói thì viên. Lại dùng Luận ấy không phải chuyên một văn, vì theo nghĩa nên chẳng thể chấp văn. Đại phẩm chép: Tất cả pháp thú là một pháp. Đại luận hai văn cùng giải thích câu này. Câu đầu nói vì sao Bồ-tát là thế gian thú, cho nên phát tâm Bồ-đề? Bồtát vì chúng sanh nói sắc thú là không, cho đến chủng trí, vì chúng sanh cho nên sắc chẳng phải thú, chẳng phải chẳng thú, cho đến chủng trí. Kế văn chép: Vì chúng sanh nên nói tất cả pháp thú không, vô tướng, vô nguyện, thú ấy chẳng lỗi. Vì sao? Vì trong không, vô tướng, thú và chẳng thú không thật có. Vãn đầu lấy năng thù làm giả, trải đủ sắc tâm cho đến chủng trí. Cho nên biết tất cả pháp tức là giả. Sở thú là không, chẳng phải thú chẳng phải chẳng thú là trung. Văn kế năng từ sở làm không Thú ấy bất quá là giả, thú chẳng thú chẳng thật có là trung. Sau đây các văn dùng lời tiêu dị. Hai ý trong giả toàn là nương luận văn, kế chỉ so sánh ra. Cho nên nói tất cả pháp thú sắc sắc còn chẳng thật có, làm sao có thú và chẳng phải thú. Vì sao? Vì tất cả pháp thú sắc năng sở đều giả, sắc chẳng thật có, tất cả pháp cũng chẳng thật có. Năng sở đều không, thú chẳng thú chẳng thật có, tức chẳng trụ hai bên là chánh hiển bày Trung đạo. Lời khác mà ý đồng suy nghĩ sẽ thấy. Lại quán trở xuống là Phật bốn vận Thông giáo, nên bốn đức danh nghĩa chẳng chẳng liên quan với Biệt. Chân đế như không, chẳng thay đổi nên Thường, chẳng chịu ba khổ giới nội nên lạc. Chẳng bị sáu đường khởi nghiệp nên Ngã, chẳng bị kiến tư làm ô nhiễm nên Tịnh. Cho nên biết tức là chung bốn đức của Phật. Như thế trở xuống là nêu giả bốn vận. Tuy như Thông giáo quán ở tức không, trong không thấy đủ mười giới bốn vận. Cho nên nói các thứ, ở đây thuộc Biệt giáo, cho nên nói giả danh. Nếu lấy bốn đức làm viên Phật giới, trong văn Bồ-tát hoàn toàn không có Hằng sa tướng trạng Biệt giáo. cho nên thông bốn đức Phật của chỉ nói hư không cho đến chẳng nhiễm. Đến đây mới gọi là giả danh bốn vận. Nếu không trở xuống là Trung đạo bốn vận, cho nên biết Trung đạo phải ở mười giới không giả mà nói về trung, mới gọi Viên Trung. Trung là Phật giới đối trước mà thành mười, do đó chín thứ trước nghĩa là nghĩ bàn, còn Phật giới là không thể nghĩ bàn. Trong so sánh với năm trần khác chỉ dùng viên tâm mà giác liễu ba đế, v.v... Kế quán trở xuống là y cứ sáu tác. Trung Chu cũng nói xuất xử nói nín, xuất xử tức là đi đứng ngồi nằm, nhưng Trang Chu chẳng nói lấy làm cảnh quán. Nay có ba quán, quán không y theo ý trước cũng rất dễ thấy. Nhưng do trở xuống là quán giả. Do tâm động dịch làm. Do mười giới nghĩa là do tâm này làm việc gì đi đứng, v.v... Hủy giới là địa ngục, gạt người là quỉ, quyến thuộc là súc, thắng người khác là tu-la, nghĩa nhương là người. Thiện là mười trời thiện dục. Thiền là Tứ thiền sắc thiên. Lược không có Vô sắc, Niết-bàn là Nhị thừa. Từ bi trở xuống là sáu độ Bồ-tát. Phương tiện trở xuống là Bồ-tát thông giáo. Huống gì là so sánh dáng mạo vô hình chẳng thật. Giở chân, hạ chân cùng không tương ưng, vì thế mất năng sở, cho đến gần xa. Hễ có làm gì, nếu có một niệm chẳng phải ở không thì gọi là chết uổng. Như thế trở xuống là Biệt giáo. Không tâm vào giả, nên nói như thế, nhiếp không thành giả nên nói Hằng sa. Tướng Văn đã hẹp nghĩa cũng gồm Thông giáo xuất giả, vừa nói Thông giáo chỉ nói không gian, chẳng chia ba thừa không giả khác nhau. Lại người Biệt giáo chỉ chín giới trước nên nói như thế. Chín giới đã không, không tức chín giới. Cho nên thành Biệt giáo Hằng sa Phật pháp. Lại quán một vận trở xuống là quán Trung đạo. Chẳng phải một chẳng phải mười, y theo trước nói. Cho nên Pháp Hoa trở xuống là dẫn chứng. Hỏi: Sao dẫn bỏ y để thọ đàn chứng tác. Đáp: Văn thế theo nhau, chung dẫn bỏ phục để thọ đàn chứng tác, và dẫn Phật đạo để chứng Viên trung. Trước y cứ trở xuống là y cứ mười hai việc đều nói sáu. Trước nêu đồng khác. Mười hai sự trước đều nói đàn (bố thí) nên nói cộng. Nay mỗi việc đều nói đủ sáu, nên nói là đều. Lại trước nói chung về đàn ở mười hai sự, mỗi chỗ đều nói tướng đàn mười giới. Nay đều trong luận y cứ ví dụ cũng phải đầy đủ như trước nêu mười hai việc. Mỗi chỗ đều nói sáu độ mười giới. Văn vì theo lược, có khi chín giới có khi chỉ có Phật giới. Rộng lược đồng hình cùng thành viên ý. Lại vì sao chỉ mười hai mỗi có sáu, trong sáu mỗi đều đủ sáu, cho nên mỗi cõi dùng năm thứ kia để trang nghiêm tức là dùng năm nghiêm để đàn cho đến dùng năm để nghiêm, trí năng sở hợp nói chung đều gọi đủ sáu. Các kinh Đại thừa, Thủ-lăng-nghiêm, Đại luận, Đại Phẩm v.v... sáu độ đều như thế. Cho nên nay y theo đó để nói tướng của độ. Văn này dùng Thủ-lăng-nghiêm cũng như phẩm nhiếp nhau của Đại luận chép: Phú-lâu-na bạch Phật rằng: Nay con muốn nói hạnh Bồ-tát. Phật bảo: Tùy ý ông nói. Bèn nói rộng sáu độ, lại hiển bày nhau, bèn thành sáu lần sáu là ba mươi sáu (6.6 = 36) độ. Cho nên chép: Hoặc dùng thí làm tên mà nói các Ba-la-mật. Cho đến hoặc dùng Bát-nhã làm tên mà nói các Ba-la-mật.
Năm độ vào một, từ một làm tên. Lại luận Nhiếp Đại thừa cùng hiển chương. Phẩm Vô Đoạn trong kinh Anh Lạc thì ý đồng với Lăng-nghiêm. Đại luận quyển tám mươi hai hỏi rằng: Nếu trang nghiêm nhau, vì sao chỉ dùng đàn làm đầu? Đáp: Do nhiếp sanh tiện, sang hèn cho đến súc sanh thì đàn đều nhiếp, cho đến xoay vần làm thân các tướng tốt Phật đều từ thí mà sanh, như nói này thì vẫn thuộc giáo đạo. Nếu nói theo chứng đạo thì đều là pháp giới. Nhiếp không trước sau, ai nói thứ lớp, trong hành văn đầu đủ sáu đàn cùng năng nghiêm văn tướng thứ lớp chẳng giả, nói riêng năng nghiêm sở nghiêm. Văn đầu nói mắt đại bi, như Thắng Thiên Vương nói Bồ-tát khi đi nhìn về trước sáu thước, song chỗ đất bằng phẳng chẳng nhìn hai bên, chẳng khuấy não chúng sanh, thấy các chúng sanh như con ruột không nghiêng lệch gọi là mắt đại bi. Cho nên biết Bồ-tát nhìn các chúng sanh, tự tướng muốn ban cho nó một vui thật và cứu hai khổ. Mắt nhìn đã thế thì năm căn cũng theo đó. Ở Bồ-tát được vô úy, thì chánh đáng không tài, vận ở sáu tác, vì thí vô úy nên gọi là Đàn. Ở chúng sanh không thương tổn là xứng lý mà quán chẳng nghiêng lệch không giả, chẳng làm hoại thật tướng nên nói không tổn. Tổn cũng là giảm bớt. Tức là Ương-quật chẳng bớt tu. Thấy tội phước pháp giới gọi là không tội phước, chẳng thuộc về không giả gọi là tâm tưởng chẳng khởi. Tưởng chẳng khởi nên gọi là không lay động. Khắp tất cả chỗ gọi là vô trụ. Âm là pháp giới nên cũng bất động. Tâm không có nghĩ trước, v.v... là niệm niệm xứng lý không chấp ngang trái tư sau mới giác liễu. Cho nên Khởi Tín chép: Biết niệm trước khởi ác, cấm ngăn niệm sau khiến nó chẳng khởi. Tuy gọi giác nhưng tức là chẳng giác. Tư tức pháp giới thì người giác là ai. Tuy là chẳng giác nhưng gọi là giác. Đối với tất cả pháp v.v... niệm niệm pháp giới. Cho nên chẳng bị sanh diệt làm đứt quãng. Chẳng có thân tâm v.v... Chẳng được hai biên, biên tức là Trung. Trong thiền đã thế. Trước sau lệ theo đó, lời khác mà ý đồng, phải khéo phân biệt. Không thọ, v.v... là chẳng lãnh thọ biên, chẳng nghĩ chấp Trung, chẳng vì Niết-bàn, chẳng loạn sanh tử, đầu v.v... là sáu phân. Hành thời (khi đi) như ảnh (bóng), chẳng bảo lại có hai tay hai chân thân và đầu khác nhau. Như mây như ảnh trở xuống là trong mười dụ mà nói. Tuy đủ pháp giới mà có tới lui. Tới lui không thật nên gọi là như ảnh (bóng). Chẳng đồng Thông giáo, huyễn hóa tức không. Không có sanh của sanh tử, diệt của Niết-bàn, Nhị thừa không đoạn phàm phu chấp thường. Năm ấm tức là rốt ráo không. Cho nên không có hai bên buộc và thoát. Đủ như trở xuống là chánh chỉ Lăng-nghiêm để bày công thức cùng trang nghiêm nhau. Kinh ấy Phật bảo Kiên Ý rằng: Làm sao trong một niệm mà thực hành sáu độ?
Đáp: Bồ-tát ấy tất cả đều bỏ, tâm không tham đắm nên gọi là Đàn. Tâm khéo vắng lặng rốt ráo không ác, nên gọi là Thi (giới). Biết pháp tướng hết ở trong các trần mà không có sự thương tổn, gọi là sằn-đề, siêng quán chọn tâm, hay biết lìa tướng nên gọi Tỳ-lê-da. Rốt ráo thiên tịch điều phục tâm ấy, gọi là Thiền-na. Biết tâm không tâm, thông suốt tướng tâm gọi là Bát-nhã. Văn nay rộng theo ý văn kinh ấy. Cho nên cùng nó đại đồng mà tiểu khác.
Hỏi: Lời văn đã thông, vì sao biết được văn ấy ở Viên mà dẫn ra chứng viên.
Đáp: Trong kinh ấy Phật vì Kiên Ý mà nói rộng văn thứ lớp xong, Phật hỏi Kiên Ý vì sao một niệm mà thực hành đủ sáu độ. Kiên Ý bèn dùng văn này đáp lời Phật. Cho nên biết thứ lớp sau giải thích viên mà nói. Chẳng thấy ý kinh này liền bảo giải thích này là vọng đoán. Cho nên đời gần đây giải thích mười lực đều bỏ văn này. Khiến kẻ học sau viên hạnh không có chỗ gửi gắm. Văn này y theo đó trải qua tất cả pháp đều là tướng sáu độ vô tác. Cho nên Pháp Hoa chép: xưa nhân giả nhận châu báu anh lạc pháp thí nầy. Anh lạc là tài, tài tức pháp. Lại trong hạnh trở xuống là biện lại thiền tuệ Ba-la-mật, đều trước nêu lỗi, sau nói đức. Văn trước tức là nêu lỗi của thiền. Tuy nói Lăngnghiêm ở pháp khởi mê đắm nên nói sanh nhiễm. Nay quán trở xuống là nói đức, quán tâm năng trước, trước còn không tâm, chẳng lẽ lại chấp Lăng-nghiêm là chỗ nhất định. Phải biết trở xuống là xếp lại. Nói có định là từ điên đảo sanh, như thế trở xuống là kết. Có tướng định loạn chẳng lẽ lại thấy không và chẳng không, tức phá tướng định, sanh nhiễm tức lìa phược tham đắm thiền vị. Thể đồng pháp giới, ứng khắp tất cả, gọi là phương tiện sanh. Hành giả trở xuống là nêu lỗi tuệ. Có người hay chấp mình là thô, huống chi là tự cao đâu gọi là tuệ.
Trước tâm chướng trí gọi là trí chướng ngại. Tất cả ngoại đạo đều tự cho là đúng. Nay đã tự cao lại đồng ngoại đạo đâu chỉ lỗi trong trí mà thôi. Đại luận chép: Nếu có Bồ-tát đối với các Bồ-tát khác nghĩ rằng: Ông không có việc đó, chỉ riêng ta có. Vì nhân duyên ấy nên lại mất đạo. Cho nên Đại Phẩm chép: Có Bồ-tát kia khinh các Bồ-tát khác trải một niệm, trải qua một kiếp xa với Phật đạo. Lại trải một kiếp tu hành Phật đạo. Cho nên chẳng tự cao, cũng chẳng hạ thấp người khác. Tức phản trở xuống là nói đức. Phản quán năng tâm trước là trung trí. Người quán là ta, người không phải quán là người tán tâm, tâm trung trí không có hai đối đãi đó. Người quán đã không trở xuống là rõ chấp, không có chỗ quán cũng phá. Chẳng được trở xuống là lại phá năng chấp. Đây là ý chánh nên lại nói. Đại luận trở xuống là dẫn chứng phá tưởng chấp năng quán có trung trí gọi là hý luận. Niệm tưởng ở ý hý luận thường ở miệng. Nói hẳn giả tâm gọi là Tâm hý luận. Nay diệt gốc ấy nên niệm tưởng dứt hết gọi là hý luận diệt. Do hý luận mà sanh các tội, nên hý luận diệt thì gọi là các tội trừ. Gốc tu trung trí do dính mắc, chướng ngại trung.
Cho nên các tội trừ, còn gốc thường là một. Như thế, v.v... người vô trước ở đây mới thấy diệu trí. Đại Tập quán tâm tâm, tức là tâm sở quán và tưởng năng quán, gọi là quán tâm tâm. Nếu chẳng đều quán lại sanh hý luận. Chiếu được như thế thì cũng gọi là Thường một. Cho nên nói tức tưởng này. Như thế trở xuống là kết thành văn trước thành ba Tam-muội. Sau đạo phẩm đã mở ba thoát sáu độ đạo phẩm tên khác mà nghĩa đồng. Cho nên sáu độ sau kết thành ba thoát sáu độ đạo phẩm là tướng đồng khác, đến quyển thứ bảy trong Trợ Đạo có nói. Nay sáu độ này đã là vô tác, nên ba Tam-muội phải từ viên mà giải thích, cũng như quyển bảy giải thích đạo phẩm sau. Lại phá trở xuống là kết thành các Ba-la-mật, phá đảo cho nên độc diệt, đạo diệt cho nên việt, có việt nên có hàng ma, hàng ma cho nên đủ Ba-la-mật, ba đảo tức là tâm, tưởng, kiến nầy thuộc về kiến hoặc. Ba độc tức là tham, sân, si. Đây thuộc tu hoặc. Ba hữu lưu, tức là Dục, Sắc và Vô sắc nhân quả chẳng dừng nên gọi là lưu (dòng chảy), nhận chìm hành giả nên gọi là lưu. Bốn ma tức là phiền não, v.v... ở dưới cảnh ma. Ma là kẻ thù của Phật nên gọi ma oán. Ba đảo này văn gần mà nghĩa xa, nên phân làm hai ý. Nếu thô hoặc, tức là người viên thô hoặc trừ trước. Nếu tế hoặc, thì phải cùng y cứ giới ngoại mà giải thích đồng thể, kiêm tu biến dịch ba cõi, giới ngoại bốn ma cho đến thô tế thể một, mới gọi là Viên Ba-la-mật.
Nhiếp thọ trạch diệt là huống thích còn thành tất cả, huống là chỗ phá ba đảo như trên và phá bốn ma, thành ba Tam-muội. Kế lại trở xuống là dùng Thi làm đầu, dùng năm trang nghiêm trải mười hai việc. Trước nói thi để trải mười hai, là trước nói trong đàn dẫn đầu là Lăng-nghiêm nghĩa viên lời chung. Trong nói thi này nêu riêng tướng quán. Trước y cứ tác thọ để nói cảnh quán. Quán cảnh kể lại sự tướng mà thôi. Đối trần chế tâm nên dụ bát dầu. Sáu tác cử động nên nói oai nghi. Nói bát dầu là Đại Kinh quyển hai mươi chép: Thí như ở thế gian có các đại chúng đầy khắp hai mươi lăm dặm, vua ra ví dụ cho một vị quan cầm một cái bát dầu để đi ngang qua đó mà không làm đổ dầu, nếu mất một giọt sẽ bị giết chết. Lại sai một người vác dao theo sau. Ông quan vâng lịnh vua đi mà hết lòng giữ gìn, đi qua giữa chúng đông, tuy thấy năm dục mà tâm luôn buộc niệm, nếu buông lung mà bỏ giữ gìn mạng sống thì hết cứu. Cho nên người này sợ sệt chẳng đổ một giọt dầu. Bồ-tát cũng như thế, ở trong sanh tử chẳng mất niệm tuệ. Tuy thấy năm dục mà tâm chẳng tham đắm. Chỉ quán ấm khổ chẳng sanh chẳng diệt năm căn thanh tịnh mà được giới căn. Kinh Hoan Hỷ Hành lời khác sự đồng. Chỉ gọi trở xuống là bác bỏ sự. Sự tướng trì giới chỉ có thể thoát khỏi ba đường, trời người yêu kính, chẳng gọi là ba đế Tam-muội hai chết bờ kia. Theo lý cũng phải bác bỏ trì giới đọa ba đường ác. Như trong Đại kinh nói có ba thiên sự đọa ba đường ác. Nay chưa rảnh để nói sanh lên cõi trời cõi người còn bác bỏ vô lý, huống chi là việc này ư, cho nên chẳng luận. Nếu được trở xuống là nói ý dùng quán, phải đủ như đàn trong sáu độ, chỉ ứng nghĩa mà giải thích khiến năm nghiêm thi, bốn dưới cũng như thế, Bảo quán dưới là quán không, người chưa thấy lại nêu trước sáu thọ, sáu tác văn lược, tức là cho sáu đường bốn vận làm cảnh, hai thánh bốn vận làm quán, bốn vận bốn câu cho đến bốn vận sáu mươi bốn câu, cho nên nói các thứ. Chỗ khởi tức là sáu đường bốn vận. Năng quán gọi là suy ra quán tuệ. Năng sở đều mất mới thành môn Đại thừa. Chẳng trong ngoài, là nói sáu thọ không. Chẳng tới lui là nói sáu tác không. làm được như thế trở xuống là kế nói quán giả. Nêu thẳng mười giới chẳng ngoài mười pháp giới. Sự giới còn bác bỏ thành cảnh quán, cho nên chẳng nói lại. Tịnh như hư không là nhắc lại cảnh sở quán của quán không ở trước, bảy chi vô nhiễm dụ như hư không. Nếu dùng mười giới mà đối ba quán, v.v... đến quán thứ tư phải tự giải thích. Tâm đã trở xuống là Quán trung. Sắc là sắc pháp trở xuống là kế nói dùng để năm nghiêm thi. Văn tướng dần lược. Sắc tức là năng thấy biết. Sắc pháp là sắc được thấy. Thọ là phân biệt lãnh nạp. Ba sư chỉ là sắc, v.v... ba thứ nầy đều y cứ viên ý mà giải thích. Lệ như trước dẫn văn Thủ-lăng-nghiêm. Sau đàn nêu nhẫn. Thi là chỗ nghiêm nên chẳng nói lại. Sắc sắc, v.v... ở đây văn lược. Đầy đủ phải nói như văn trước nêu sắc và sắc pháp, cho đến thọ trở xuống lệ như thế. Đây trở xuống là kết thành ba Tammuội. Văn lược ví dụ trước. Sao chỉ trở xuống là so sánh ra tất cả, ý cũng đồng trước. Quán sắc trở xuống là lệ với tác thọ kia. Theo văn chỉ phải lại nói sáu tác, hoặc là văn lầm. Dẫn Pháp Hoa: là oai nghi chứng thành Phật đạo ý thông. Kế trải trở xuống là nói nhẫn độ làm đầu để năm trang nghiêm. Văn tướng rất lược. Chỉ nêu sự nhẫn, cho đến quán không. Các thứ khác đều lược không có. Trước vừa ý hay không vừa ý tức là sự nhẫn. Kế ở vi trở xuống là quán không, chẳng thấy nêu riêng sáu thọ ở trước, vô tác nêu chung sáu tác. Kiến là năng kiến, sở kiến, nghĩa là thấy sắc phân biệt mà chấp ngã. Tác cũng như thế, còn bao nhiêu nhờ quán trung và kết thành đều lược bỏ. Kế trải tinh tấn trở xuống là dùng tấn làm đầu đề trang nghiêm năm độ kia. Ở trong tác phẩm giải thích cũ nói không phân biệt thể, là chỉ siêng thực hành năm độ thì gọi là Tinh tấn. Tức chỉ năm độ làm các hạnh. Nghĩa mà suy trở xuống là muốn nêu biệt thể, trước hoặc bác bỏ cũ, nghĩa chung không phải vô lý, không phải hoàn toàn đúng. Cho nên ung dung nói nghĩa suy mà thôi. Nếu chỉ chung thì lẽ ra chỉ có năm độ, vì sao các giáo đều nêu sáu? Như Đại luận quyển mười tám chép: Đại Bồ-tát lấy tinh tấn làm đầu đối với năm độ gọi là tinh tấn. Đây đủ cả hai ý chung riêng. Cho nên ý nay phải có tự thể riêng. Lệ vô minh trở xuống là ví dụ giải thích. Như vô minh hoặc cũng có chung riêng. Chung là tương ưng vào các sử, riêng là độc đầu, chẳng vào các sử. Vì so với tinh tấn mà nói rất dễ hiểu. Nay lại trở xuống là chánh nêu tướng riêng. Lưu truyền không phải chỉ dựa vào tụng kinh, đã không phải năm thâu xét mà biết là có riêng, chẳng phải bác bỏ trở xuống là bác bỏ sự. Tam-muội là định, hai pháp định, tuệ dẫn dắt tất cả pháp, cho đến thành Ba-lamật. Nếu Đại sư tụng kinh quán pháp thì sự lý đều đầy đủ. Như niên hiệu Khai Hoàng một có vị tăng ở Dương Châu tụng thuộc Niết-bàn tự kiêu nghiệp mình. Lại ở Kỳ Châu có Sa-di ở Lâm Tự dưới núi Đông sơn chỉ tụng một phẩm Quan Âm. Cả hai cũng chết đồng gặp vua Diêm-la. Diêm-la bèn mời Sa-di ngồi tòa vàng và rất cung kính. Còn vị tăng tụng kinh Niết-bàn mời ngồi tòa bạc không kính trọng lắm. Việc xong hỏi rằng: Cả hai đều còn tuổi thọ nên đều được thả về. Vị tăng tụng kinh Niếtbàn rất hận, ỷ mình tụng nhiều, do đó bèn hỏi Sa-di chỗ ở rồi từ biệt mà tỉnh dậy. Tăng tụng kinh Niết-bàn bèn đến Kỳ Châu hỏi thăm thì quả gặp được Sa-di, hỏi lý do thì Sa-di chép: trước tụng Quan Âm, riêng áo riêng tòa, đốt hương phát nguyện, sau rồi mới tụng pháp ấy không biếng lười, không còn có việc gì khác. Vị tăng tụng Niếtbàn tạ rằng tội mình rất nặng. Khi tụng Niết-bàn oai nghi không nghiêm chỉnh, thân miệng bất tịnh, chỉ mong khỏi quên. Cho nên người xưa nói nhiều mà ác, không bằng ít mà thiện, nên xét vào đây. Đây cũng tinh tấn không phải Ba-la-mật. Nay quán trở xuống là lý quán. Trước nêu quán không. Niệm niệm trở xuống là lược nói Trung đạo. Phiền não chẳng xen vào gọi là Tinh, Niệm niệm lưu nhập gọi là Tấn. Hỏi: Chỉ nhờ tụng kinh vì sao phải suy xét sáu thọ sáu tác mà nói thọ giả, tác giả. Đáp: Nói chung tác thọ đâu cần đủ sáu, cho nên tác thọ, nhiếp tất cả thiện. Nhờ khiến riêng y cứ tụng kinh mà nói tức đối sáu trần tụng không đứt quãng, tức là ở thọ mà làm tinh tấn. Chỉ đối sáu tác thiếu ở nằm im, khi bịnh mở tụng nên cũng được nằm. Tụng thầm không đứt quãng ở lý cũng được. Cho nên biết tụng kinh tác thọ đầy đủ. Kế trải các thiền trở xuống là lấy thiền làm đầu trang nghiêm năm độ. Văn đầu nêu chung sự thiền. Chỉ là trở xuống là bác bỏ sự, quán nhập định trở xuống là chánh nói lý quán. Dùng tâm so sánh định, tâm là tán tâm, tán tâm còn không huống gì là chấp định. Định tức chín tưởng, tám bối xả, v.v... chẳng chấp định tán là thấy thiền thật tướng. Thật tướng nhiếp khắp tất cả pháp. Cho nên luận thứ năm trở xuống là dẫn luận chứng thành, thiền là thật tướng, trước dẫn văn luận. Kế các sư trở xuống là nói các luận sư giải lầm ý luận. Ý luận chánh vì quán chín tưởng tức là thật tướng. Cho nên tám tưởng sau tức nói mười lực, bốn vô sở úy. Vì sa? Vì như chẳng hoại pháp nhân tu thứ tám xong đối với tưởng xương còn đủ tất cả thần thông biến hóa. Cho nên người Đại thừa ở đây lại có thể đủ các Phật pháp, đâu phải chỉ có luận văn. Phẩm Quảng Thừa trong Đại Phẩm chép: Thân niệm xứ, Phật vì Tu-bồ-đề giải thích rộng. Giải thích chín tưởng xong, kết rằng đó gọi là Đại Bồ-tát kế giải thích rộng ba mươi bảy phẩm cho đến mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng. Đại luận quyển ba mươi tám văn dưới vẫn giải thích kinh. Luận sư chép: Rất lầm lẫn.
Hỏi: Bảy tưởng kia cũng có thể phát chăng?
Đáp: Nếu luận bất định và như dụng trợ, cũng có nghĩa phát mà phần nhiều ở quyển tám. Vì tưởng thứ tám sanh các thiền. Kế trải trí tuệ trở xuống là dùng trí làm đầu năm trang nghiêm kia. Vì văn lược nên nói thẳng rằng: Đại luận có tám thứ giải có đủ sự lý. Đại luận mười một trong giải thích pháp bất trụ có hỏi rằng: Bát-nhã là gì?
Đáp: có người nói là căn vô lậu, vì tuệ vô lậu là bậc nhất. Có người nói khi đến cây đạo thì nói dứt hoặc, trí hữu lậu trước chỉ là phước đức. Vì phiền não chưa dứt chỉ là hữu lậu. Có người nói từ mới phát tâm đến cây đạo đều gọi Bát-nhã, đến khi thành Phật thì gọi là Tát-bà-nhã.
Có người chép: Hữu lậu, vô lậu gọi chung là Bát-nhã. Vì sao? Vì thường quán Niết-bàn hành đạo nên gọi vô lậu, kết trước chưa dứt nên nói hữu lậu. Có người nói Bồ-tát Bát-nhã vô lậu vô vi chẳng thể thấy là vô đối. Có người nói Bát-nhã dứt bốn câu, cũng như ngọn lửa bốn bên chẳng thể lấy, chẳng thể chạm. Có người chép: Từ trước các lời nói đều có lý. Như năm trăm vị Tỳ-kheo đều nói hai bên và nghĩa Trung đạo. Phật nói đều có đạo lý. Có người chép: Cuối cùng là đúng vì có pháp như mảy may đều có lỗi. Nhân tuy có tám nghĩa mà chỉ có sáu, cái thứ bảy là hứa chung sáu thứ trước, thứ tám chỉ còn thứ sáu, thứ nhất trong sáu thứ đã chỉ riêng vô lậu, không ngoài Nhị thừa. Nhân thứ hai là hữu lậu chỉ thành Bồ-tát ba tạng. Quả thứ ba gọi là Tát-bà-nhã. Phần nhiều thuộc ý thông. Thứ tư nghĩa thông Viên Biệt đắc là Bátnhã, là Ba-la-mật. Thứ năm cũng thuộc Bồ-tát cộng giáo nhưng vẫn chung Tiểu thừa. Thứ sáu nghĩa chung ba giáo nên cũng lý sự đầy đủ. Bảy, tám hai Sư cùng cho sáu trước cũng chung Viên Biệt. Cho nên lược dẫn để chứng ý nay. Nay lại trở xuống là chánh giải thích. Văn trước là sự nên thuộc cái biết của đời. bốn vận suy trở xuống tức là y cứ lý. Lý là ba trí nên nói như trên. Trải mười một việc nên gọi là kia. Phải nói tất cả pháp thiện mỗi pháp phải trải mười hai sự, chỉ là văn lược. Hỏi: Trở xuống là phân biệt chính phải phân biệt sáu Ba-la-mật. Chỉ quán nhân tiện lấy đây làm câu hỏi. Lại còn sáu độ chẳng ngoài chỉ quán như trong pháp nhiếp lại dẫn Đại Phẩm thành tướng sáu độ để làm lời đáp này. Nhưng sự sáu độ nếu không cùng nghiêm còn gọi chẳng kín, huống chi là lý ư? Vì sao? Vì như đàn không giới chẳng sanh đường lành, không nhẫn thì cảm báo thấp kém, không tấn thì hình chất nhỏ bé. Không thiền thì liền thành tán thiện. Không trí thì chẳng hiểu vô thường. Cũng như người giàu việc khác đều thiếu, năm thứ còn lại không có năm y theo nói rất dễ hiểu. Như mặc áo giáp vào trận, là tưởng thí dụ hành. Luận hỏi vì sao một độ phải năm trang nghiêm.
Đáp: Đều là hạnh giúp làm có sức. Như người không tập luyện thì không có sức chiến đấu. Đại quân đều trang nghiêm đầy đủ khí trượng (binh khí) thì có thể phá trận. Bồ-tát cũng như thế, sáu độ cùng nghiêm mới phá được hoặc, mau được Bồđề. Đại luận quyển mười chín giải thích rằng: Một niệm tâm đầy đủ sáu độ, tất cả pháp và sáu độ nhiếp nhau đều là ý này. Quán như trở xuống là kế đáp chỉ quán. Nói nhà kín là có tuệ mà không có định, như đèn trong gió chiếu vật chẳng rõ cho nên dùng nhà định mà tránh gió cuồng tán. Đèn tuệ mới phá được đêm tối vô minh khiến cho báu thật tướng hiển bày sáng tỏ rất dễ thấy. Cho nên nói tu tuệ nhiều nên thêm lớn tà kiến, nhiều tu định nên thêm lớn ngu si, nên phải tu bằng nhau thì không bị nạn này. Nếu tu không bằng thì Tiểu thừa còn thiếu huống chi là Đại thừa. Cán y v.v... là Đại Kinh quyển hai mươi chín chép: Đại Bồ-tát có đủ hai trang nghiêm làm lợi ích lớn, một định hai tuệ, như giặt áo dơ trước phải xả nước tro (xà bông) rồi mới dùng nước trong. Nay dùng tro định Lăng-nghiêm nước tuệ chủng trí, giặt dơ ba hoặc, sạch áo thật tướng. Như cắt ống tre, cầm gấp thì đứt, đứt là năng lực vận. Nếu vật thể đã lìa không phải ý ở đây so người chẳng hiểu một khái mà dùng Đại luận quyển hai mươi bảy chép: Như cầm ống tre nếu nắm lỏng thì đứt tay, nếu nắm chặt thì không bị thương, ngại là cắt lấy, cũng là giết. Nhĩ Nhã chép: "Bạch Hoa dã quản" Quách Bộc nói thuộc cỏ tranh, tay định nắm yên, dao tuệ cắt đứt. Như chặt gỗ cứng, trước phải dùng tay định mà động sau mới dùng tay tuệ mà nhổ. Đại kinh ấy văn đều có tám dụ, mỗi pháp đều hợp định tuệ của Bồ-tát. Lại Bátnhã trở xuống là nhắc lại Bát-nhã chánh nêu ý viên. Pháp tướng thứ lớp phải nêu đủ sáu. Nếu nói về pháp thể mỗi pháp đều nhiếp tất cả pháp, đâu cần dùng sáu. Lại Bát-nhã trở xuống là nói lại điều pháp giới nhiếp tất cả pháp. Tất cả pháp cũng tức là sáu độ. Cho nên giải thích lại rằng: các pháp Bát-nhã kia đây tức nhau cũng đâu phân biệt ở một và sáu. Muốn nêu viên chỉ cho nên làm câu hỏi này mà sanh đáp ấy.
Kế trong các điều ác, trước nói cảnh quán nói rằng: Thiện ác không nhất định, v.v... trước nói tướng chung của thiện ác. Đây thì chưa thể lấy hết làm cảnh quán. Vì sao? Vì xoay vần nhìn nhau được tên gọi thiện ác thì người nào không thiện người nào không ác, cho nên chẳng dùng làm cảnh quán. Nay nói đâu khởi, v.v..., tâm hung là ác, thân bịnh là cùi hủi. Chợt khởi tâm ba đường, chẳng sanh niệm Nhị thừa. Độc khí là Đại luận bác bỏ Bồ-tát Tam Tạng rằng: Còn đủ ba độc, làm sao nhóm hội vô lượng công đức? Ví như bịnh độc dù chứa đầy cam lộ cũng chẳng nên ăn. Bồ-tát tu các công đức thuần tịnh mới được thành Phật. Nếu có xen lẫn ba độc làm sao có thể còn đủ pháp môn thanh tịnh. Thân Bồ-tát cũng như bình độc, đầy đủ phiền não gọi là có độc, tu tập Phật pháp như chứa cam lộ. Pháp này dạy người khiến người mất mạng thường trụ. Đại Kinh chép: Từ đây, v.v... là dẫn chứng Biệt giáo. Cho nên trong phẩm Bốn Tướng, Ca-diếp nói tựa rằng: trước khi ta nghe bốn đức thì đều là tà kiến. Đây là Ca-diếp khiêm nhường tự bác bỏ trách. Nghĩa đồng ở tà, chẳng lẽ từ đây trở về trước đốn đồng ba thứ bên ngoại. Nay cũng như thế chưa hiểu lý nên nói là tà kiến. Tá tức là ác. Cho nên phải biết chỉ có viên là thiện. Lại có hai ý: Một là lấy thuận làm thiện lấy trái làm ác, là ý đối đãi. Kế là nêu thấu suốt làm thiện, là đối đãi dụng đối đãi, đều phải lìa ác, mê đắm viên còn ác huống chi là các thứ khác. Như thế trở xuống là kết thành tướng chung. Nay ở trở xuống là nói riêng cực ác để làm cảnh quán. Trong đây trước nêu thể ác tức sáu tế. Pháp thiện trở xuống là kết trước sanh sau. Trước tuy trở xuống là nói quán ý ác, vì thuần ác nên chẳng thể chẳng quán. Nếu chẳng quán thì chỉ có ác không có thiện, mình người đều thế, nên phải tu quán. Dẫu chẳng trở xuống là giải thích. Người khác dẫu chẳng hoàn toàn khởi bất thiện, thiện ác chẳng không, xuất gia lìa đời trở xuống là huống thích khởi riêng. Xuất gia chẳng đủ lý đáng thiện ác, cư sĩ tại gia thuần ác huống là thiện ư? La-hán tập khí thừa cũng vẫn còn ác. Phàm phu trở xuống là nói nguyện do dùng quán, thánh còn tập khí thừa, phàm phu làm sao có thể buông lung. Như Phật ở đời trở xuống là trước nêu Phật ở đời dùng quán có ích dẫn người làm chứng. Trong trước quán ác ý mà nói chẳng thể tưởng vui, trong Đại luận quyển mười tưởng giải thích tất cả thế gian chẳng thể tưởng vui, nói rằng: Thế gian có hai thứ:
Một là chúng sanh, hai là cõi nước. Nói chúng sanh chẳng thể vui là ba ác, tám khổ, mười bốn ác v.v... hoặc nghèo mà ưa bố thí, nhiều tiền mà keo kiệt, hoặc nghèo mà đẹp, giàu mà xấu, hoặc kiêu ngạo chẳng khiêm nhường, hoặc tiếp người thì dối gạt. Như thế vô lượng chẳng thể nói hết. Cõi nước chẳng thể vui là hoặc nhiều suy không tốt, đói khát lạnh nóng dịch bịnh khí độc, các thứ như thế, cho đến thượng giới (cõi trời) cũng có những khốn khổ hơn ở hạ giới, như ở trên cao rớt xuống thấp thì khổ chẳng nói được. Văn nói không có người tốt là lời lược chúng sanh lấy người khác mà so mình chỉ thuần chẳng thiên lệch. Cho nên chẳng thể chẳng quán ác. Kế trong Túng thích nói nhiều keo kiệt, là lược nêu sáu tế để giải thích Thiên khởi. Bốn thứ trước như văn. Rượu là nguồn loạn tức loạn ý tê, căn tánh dịch đoạt tức là ngu si tế. Nếu người có tuệ thì chẳng bị ác đổi hay sanh là căn, sác tập thành tánh, thường thường đổi trao nên nói dịch đoạt. Lại tùy cảnh mà chuyển thành dịch, hoặc ép mất chân gọi là đoạt, hoặc lấy ngu thay trí là dịch, trí bị chân chế là đoạt. Kế trong huống thích nói La-hán tập khí dư thừa, là Thân tử có tập khí sân. Vì từ đời quá khứ từ rắn mà sanh, có tập lăng mạn vì đời trước từng làm Bà-la-môn mà đến. Như khi Phật còn tại thế có một vị Tỳ-kheo thường soi gương là đời đời làm thân nữ mà sanh. Có một Tỳ-kheo thường thích theo nhiễm là đời đời làm thân khỉ mà sanh. Dẫn người làm chứng ở tại gia, tức lại nêu chung có người ác. Ương-quật trở xuống là nêu riêng người ác. Trước nói người ác có đạo, Ương-quật, v.v... là kinh Ương-quật chép: Thôn phía Bắc của thành Xá-vệ tên là Tát-na có con gái của Bà-la-môn nghèo tên là Bạt-đà, có một con trai tên là Nhất Thiết Thế Gian Hiện nhưng sớm mất cha, đến năm mười hai tuổi thì năng lực vóc đầy đủ thông minh khéo ăn nói. Có thôn khác gọi là Phá-ha-tư, có vị Bà-la-môn tên là Ma-ni-bạt-đà rất giỏi bốn bộ Vi-đà. Nhất Thiết Thế Gian Hiện theo ông ấy học, thầy được vua mời bèn nhờ Thế Gian Hiện coi nhà. Vợ Bà-la-môn thấy Thế Gian Hiện đẹp trai bèn sanh tâm nhiễm đến nắm áo. Khi đó, Thế Gian Hiện nói Bà là mẹ con, con đâu thể đối với bậc tôn túc mà sanh bất thiện. Bà ấy hổ thẹn buông áo lánh xa, rồi tự lấy móng tay cào trầy y cứ mặt mày, lại lấy dây tự cột mà chân không rời đất. Khi người chồng về, bà sợ Thế Gian Hiện kể lại việc xấu, bèn dùng lời ác mà vu cáo Thế Gian Hiện, khi ông đi rồi nó đã có điều không phải với tôi. Thầy nói: "khi Nó mới sanh đã có điềm lạ, chắc chắn không có lỗi ấy," liền bảo Hiện rằng: "ngươi hãy đi giết mười ngàn người thì khỏi tội." Thế Gian Hiện nghe nói thì bạch rằng: "Than ôi, việc giết ngàn người con không làm được." Thầy nói "ngươi là người ác, chẳng thích sống làm Bà-la-môn hay sao? Đáp rằng: "Lành thay! Con xin vâng lời" rồi lễ dưới chân thầy, thầy thấy vậy nghĩ là người ít có, ông là người đại ác chẳng chết hay sao? Bèn sai giết mỗi người rồi lấy ngón tay làm tóc đội trên đầu thì thành Bà-la-môn. Do duyên đó nên gọi Ương-quật-ma, khéo vâng lời dạy. Tăng Nhất chép: Như thế lần lượt giết ngàn người lấy ngón tay làm tóc. Có người tâu vua Ba-tư-nặc trong nước có người rắn giết hại vô số người. Tỳ-kheo tu hạnh khất thực nghe xong liền bạch Phật. Phật tìm đến chỗ ấy. Các người lấy củi và bắt trâu dê đều chẳng qua được bảo là có giặc. Phật cứ tiến lên từ xa thấy Phật đến bảo ngón tay làm tóc của ta chưa đủ số. Người Mẹ nhân đem đồ ăn đến, lại tự nghĩ thầy ta nói giết mẹ thì sanh lên cõi trời. Liền nắm đầu mẹ rút kiếm định giết. Phật phát ra ánh sáng. Quật chép: Chẳng phải trời phạt ta sao? Mẹ nói: Không phải ánh sáng của mặt trời mặt trăng, chính là ánh sáng của Thế tôn. Quật nghe tên Phật, bảo rằng thầy ta có nói giết Sa-môn cũng được sanh lên cõi trời. Bảo mẹ đứng đây, tôi đi giết Sa-môn, bèn bỏ mẹ mà rượt theo Phật, thấy Phật như núi vàng. Phật cứ đi trên đường, rượt theo không kịp, bạch Phật nói kệ, đồng với kinh Ương-quật. Kinh Ươngquật chép: Ngừng lại đi Đại Sa-môn con vua Tịnh Phạn, tôi là Ương-quật-ma nay đến xin một ngón tay. Như thế gồm có ba mươi chín bài kệ chỉ đổi câu thứ hai nói rằng:
Người nhuộm áo không tham, Người cạo đầu hủy hình, Người biết đủ ôm bát.
Phật dùng hai trăm sáu mươi bảy hàng kệ đáp rằng:
Dừng lại Ương-quật-ma
Ông phải trụ tịnh giới,
Ta là Đẳng Chánh Giác
Hơn ông kiếm trí tuệ.
Chỉ đổi câu thứ ba, các câu khác đều đồng, các câu thứ ba khác nói:
Ta trụ mé Vô sanh,
Ta trụ ở mé thật,
Ta trụ mé vô tác.
Đều dùng chỗ chứng mà đáp Ương-quật, Ương-quật nghe rồi bèn dùng Phật lực mà khiến cho ngộ. Trong bản Phạm chép: Như lai ra đời ức kiếp mới được gặp, kẻ chưa độ thì đều độ (bốn hoằng). Có người thấy Phật liền vì nói diệt, rượt theo không kịp hẳn là Như lai, bỏ kiếm hầm sâu liền lễ Phật, Phật nói lành đến, liền thành Sa-môn được pháp nhãn thanh tịnh. Vua Tịnh Phạm thống lãnh bốn binh đến đánh. Vua nghĩ trước phải gặp Thế tôn mà chưa rõ mọi việc. Phật hỏi có ý gì, vua đáp đầy đủ ý mình. Phật bảo vua rằng: Thấy người xuất gia hành đạo thì phải làm sao? Vua nói: Phải cúng dường lễ bái. Nó không có chút thiện, làm sao phát được tâm này. Bấy giờ Ương-quật ngồi kiết già chánh ý, cách Phật rất xa. Phật chỉ cho vua thấy. Vua lễ bái cúng dường rồi khen Phật khéo hàng phục người ác ấy. Sau Phật nói pháp cho nghe mà được quả A-la-hán, đủ sáu thần thông. Vào thành khất thực, có người thấy biết. Có người đàn bà thai sản rất khó gặp Phật, Phật nói Hiền thánh xưa nay không hề giết người, người đàn bà ấy không ai khác. Có Tỳ-kheo hỏi Phật bổn duyên v.v... vốn là Bà-la-môn muốn cầu pháp sanh lên cõi trời chẳng trái với lời thầy dạy, gồm bảo vệ người bà dối trá kia mà giết hại. Cho nên văn chép: "giết lắm mà từ cũng lắm" Kỳ-đà-mạt-lợi, v.v... là y theo kinh Vị Tằng Hữu quyển hạ chép: Thái tử Kỳ-đà bạch Phật rằng xưa thọ năm giới, giới cấm rượu là khó giữ bèn muốn bỏ năm giới mà giữ mười điều lành. Phật nói: Khi uống thì có lỗi gì. Đáp: Trong nước các bậc Hào Hiền mang đến cùng uống cũng không có lỗi khác. Phật nói: Như thế thì trọn đời không lỗi. thiện có hai thứ: Hữu lậu và vô lậu. Uống mà chẳng khởi nghiệp ác là thiện báo, gọi là thiện hữu lậu. Phật nhân đó nói nhân duyên xưa. Xưa, ở nước Xá-vệ có vị vua, vì tranh việc nhỏ mà có thù oán lớn, bèn dấy binh đánh nhau. Có vị Đại thần tên là Đề-vi-la ỷ mình giàu sang mà khinh mạn. Lúc đó, Thái tử muốn giết đi. Cha không cho bèn ôm hận buồn rầu. Thái hậu thấy bèn mang rượu ngon đến khuyên. Con nói Tổ tiên từ trước đến nay chẳng hề uống rượu. Nếu uống rượu thì trời Na-la giận, Bà-la-môn phạt con. Thái hậu giữa đêm sâu mở cửa cung khuyên con ba lần, uống rồi thì quên ưu phiền. Trong ba ngày rất vui sướng, do đó mà dứt oán cừu. Vua cha lại can phàm phu đức trải nhiều đời sao vì việc nhỏ mà gây oán như thế. Nếu chẳng nhẫn thì mất nước, do đó mà hòa bình, đó là năng lực của uống rượu. Mạt-lợi, kinh nói: Vốn tôi tớ Bà-la-môn Da-nhã-đạt ở thành Vương-xá tên là Huỳnh Đầu, thường biết giữ vườn, nhân đem lương khô mà cúng Phật cầu phước. Sau, vua Ba-tư-nặc đi săn vào vườn mà gặp, người tớ ấy cung cấp cho vua và xoa bóp rất vừa ý vua hỏi Bàla-môn có bán không thì đáp: Kẻ tôi tớ hèn của tôi sao kham được. Vua lại hỏi thì đáp rằng bán ngàn lượng vàng, vua đem trăm ngàn lượng vàng mà mua về làm phu nhân bậc nhất. Kinh Vị Tằng Hữu chép: Nặc vương bạch Phật: Như Phật nói tâm rất vui mừng, chẳng khởi nghiệp ác gọi là thiện hữu lậu. Việc ấy chẳng đúng, như người uống rượu tâm rất vui vẻ, chẳng sanh phiền não. Vì chẳng sanh phiền não nên chẳng giết hại. Con nhớ thuở xưa khi đi săn, quên đem người nấu bếp theo, vào rừng, khi đói thì các người hầu nói: lúc sáng Vua chẳng bảo đem đầu bếp theo nên bây giờ không có gì ăn. Ta nghe rồi phóng ngựa về cung sai đem đồ ăn. Người đầu bếp tên Tu-ca-la thưa: Hiện không có đồ ăn, bây giờ mới làm. Vua đói quá nổi giận, ra lệnh giết người đầu bếp, các quan cùng bàn cả nước chỉ có một người đầu bếp này, giết rồi không ai nấu ăn vừa ý vua. Lúc đó, phu nhân Mạt-lợi nghe xong liền khiến đem rượu quý, thức ăn ngon, rồi tắm gội sạch sẽ, xức hương thơm, tô điểm thân thể xinh đẹp cùng các kỹ nữ đến chỗ con, con thấy phu nhân thì liền hết giận dữ. Phu nhân vội sai Huỳnh môn chớ giết đầu bếp. Đến sáng thì con hối hận buồn rầu chẳng vui. Phu nhân hỏi con: Vì sao chẳng vui? Con đáp: Hôm qua bị lửa đói thiêu đốt mà giết lầm người đầu bếp, nên nay hối hận chẳng vui. Phu nhân cười, nói: "Người ấy còn sống, xin vua chớ buồn." Vua hỏi "chuyện thật hay đùa?"
Đáp: "Thật". Rồi gọi người đầu bếp đến, con rất vui mừng. Vua bạch Phật rằng: "Phu nhân thọ năm giới, mỗi tháng đều ăn sáu ngày chay. Trong năm giới thì phạm hai giới rượu và nói dối. Trong tám giới thì phạm năm giới là ăn quá ngọ, thoa xức hương thơm, ca múa, nằm giường cao rộng, uống rượu, nói dối. Tội phá giới ấy nặng hay nhẹ. Phật nói: Người phạm như thế được công đức lớn. Vì sao? Vì làm lợi ích. Đây là y cứ phạm giới vì cứu người. Bồ-tát lợi tha được gọi là trong ác có thiên. Cho nên chép: Chỉ có rượu chỉ có giới muốn từ đây làm ví dụ khéo tự châm chước. Nếu thuận theo tâm tham thì chẳng phải trì giới. Hòa-tu-mật-đa v.v... Thuyết Văn chép: Dâm là tư thông, ở truyện nói là tham sắc. Kinh Hoa Nghiêm chép: Kế lại đi về phái Nam có thành tên Trang Nghiêm, có con gái của Thiện tri thức tên Hòa-tu-mật-đa. Thiện Tài đến đó xin gặp cô gái ấy. Trong thành có người chẳng biết nói đồng tử này các căn vắng lặng trí tuệ sáng suốt, quán kỹ một tầm mắt nhìn chẳng nháy, tâm chẳng lay động, chẳng có tâm tham nhiễm với cô gái ấy. Đồng tử này chẳng làm ma cột, v.v... Trong đó có người biết trước cô gái ấy có trí tuệ, bèn bảo Thiện Tài rằng: Lành thay, lành thay! Nay Ông hãy gặp cô gái ấy, ông đã được gốc lành rộng lớn, ông phải quyết định cầu quả Phật các thứ khuyên răn. Phá tất cả chúng sanh có tâm tham nhiễm với nữ sắc. Này người thiện nam, cô gái này ở phía Bắc thành thường ở trong nhà. Nghe rồi thì vui mừng đến trước nhà cô thấy nhà cửa các thứ trang nghiêm, thấy cô gái dung mạo xinh đẹp nói năng khéo léo, vào trí Như huyễn pháp môn phương tiện, các thứ trang nghiêm thân, từ thân phát ra ánh sáng rực rỡ chiếu sáng khắp nhà. Ai thấy ánh sáng thì thân thể được thanh tịnh, đến lạy dưới chân chắp tay bạch rằng: Kính Thưa bậc Thánh, con vì trước phát, v.v... cô gái nói tôi được giải thoát tên là Ly Dục Tế, hễ muốn hiện thân thì hiện thân, đều khiến thấy khác nhau. Nếu người bị ý dục ràng buộc đến chỗ tôi nghe pháp, gặp gỡ, chắp tay, ngồi tạm trên giường, thấy tôi mà khấn vái, thấy tôi mà nháy mắt, v.v... thì đều được lìa dục, ôm ấp hun hít chạm môi đều được pháp môn. Tôi vào thời quá khứ, ở chỗ Cao Hạnh Vương Như lai là một vị Trưởng giả, cúng thí một đồng tiền vàng. Khi ấy, Văn-thù là thị giả Phật nói pháp cho tôi nghe, khiến phát tâm Bồ-đề. Do đó mà được pháp môn Ly Dục Tế của Bồ tát. Cho nên biết năng hóa sở hóa đều là nhờ dục mà được lìa dục. Cho nên nói trong ác có thiện. Lại, như kinh Tuệ Thượng Bồ-tát quyển thượng chép: A-nan vào thành khất thực, thấy Bồ-tát Trọng Thắng Vương ngồi cúng dường với người nữ. Tôi bảo phạm uế chẳng khác mọi người, người tu học phạm hạnh phải dùng giáo Như lai mà tưởng thấy nghe không phạm. Khi nói thế thì Đại thiên rung chuyển. Bồ-tát tức thì bay lên hư không cách mặt đất bốn trượng chín thước bảo A-nan rằng: Người phạm dục thân có bay lên hư không được chăng? A-nan nằm mọp sát đất tự sám hối, như thế ở chỗ rồng lớn mà tìm lỗi được chăng? Đây cũng vì dục mà làm pháp môn. Sợ thấy hổ thẹn hoặc gọi vô ngại hoặc nói lý dung. Nếu người được lý phải như hàng Mật-đa Tuệ Thượng, thân bay lên hư không y chánh đều nghiêm đẹp, khiến người ấy ngộ nhập vô lượng pháp môn. Nếu có hiện thần thông còn nên hỏi rằng thông do đâu mà được. Nếu tự chứng pháp môn thì gọi là gì, từ chỗ Đức Phật nào mà phát tâm đầu tiên từng cúng dường bao nhiêu Phật? Ở vị lai lúc nào sẽ thành Bồ-đề, từng ở chỗ Phật được thọ ký, ở vị lai thanh tịnh cõi Phật ở phương nào, thánh Phật hiệu gì, mấy hội nói pháp, thị giả Bổ xứ tên gì, Phật thọ bao nhiêu kiếp, chánh pháp tượng pháp trụ được bao lâu? Nếu chẳng thể đáp câu hỏi như thế thì là quỉ thông, ngoại đạo căn bản, thần thông hữu lậu. Sanh tâm nhiễm rồi thì thần thông này mất, hoặc người nói dối không biết hổ thẹn. Như bảo thân này tức là Phật. Thích Tôn đã diệt, Từ Thị chưa ra đời lại không phải là Phật từ phương khác đến, nếu không phải ma tặc thì gọi là gì? Nếu ông chẳng tin có Phật mười phương tự gọi là Phật thì rất trái nghịch. Cho nên biết người này tự diệt đạo tâm phá gốc thiện của người khác. Nếu đại quyền nghịch hóa thì chẳng tự xưng ta làm vô ngại. Kinh Tuệ Thượng Bồ-tát lại chép: Quá khứ vô số kiếp có Phạm chí tên là Đăng Quang ở trong rừng rậm thực hành nguyện cát tường trải qua bốn trăm hai mươi năm, đến nước Ma-kiệt, có con gái người thợ gốm thấy Phạm Chí khôi ngô bèn nằm mọp trước Phạm Chí. Phạm Chí đáp: Ta chẳng thích. Cô gái nói nếu chẳng được thì tôi sẽ tự sát. Phạm Chí tự nghĩ ta thường giữ giới, nếu phạm vài giới thì chẳng phải cát tường, bước ra bảy bước liền khởi tâm từ bi mà sắp phạm giới, chẳng thế thì cô gái chết, thà khiến cô gái được yên mà ta vào địa ngục bèn làm theo nguyện ấy. Mười hai năm sau thì chết, sanh lên cõi trời Phạm. Trước là pháp thân hóa hiện không thể nghĩ bàn, đây là thật hạnh quên phạm cứu người. Người bắt chước đây nên tự xét nghĩ. Thế gian khổ nhỏ còn chẳng thể chịu nổi mà có thể phạm giới để vào địa ngục ư? Đề-bà-đạt-đa tà kiến tức chánh. Hai chữ Đa Đâu tùy còn một chữ, nếu còn cả hai thì e văn lầm. Lược như quyển một chép: hiện ở A tỳ chịu khổ vô gián. Pháp Hoa lại chép: do Điềuđạt nên đầy đủ tướng tốt, thọ ký sẽ được thành Phật hiệu là Thiên Vương. Trừ Pháp Hoa ra còn tất cả giáo chỉ nói đời đời bị tướng ác quấy rối. Đây chính là giáo pháp quyền thật khác nhau. Nếu các trở xuống là kết. Đại quyền bày tích sâu cạn khó lường. Một lần xem văn như Ương-quật, v.v... giống như phàm phu, như Hòa-tu-mật vào vị đã lâu, tuy đã vào vị tức chỉ lúc đầu làm vợ Khi ấy Trưởng giả có thể lìa dục, gọi là trong ác có thiện. Nếu mãi mãi là phàm, chẳng chứng được pháp môn lìa dục. Cho nên biết Ương-quật lại nói theo tích, nếu nói theo bổn, thì cũng lúc xưa ở trong giết ác mà lìa bỏ được. Cho nên trong tích cũng dùng giết mà làm pháp môn lợi tha. Lại hễ nói chỉ bày, thì thị là thực hành khiến vô lượng người chẳng còn làm ác. Nói theo thực hành thì đối với lý không thương tổn, người đời phần nhiều mê ý quyền tích. các thắng hạnh đều bác bỏ quyền. Nếu như thế thì việc làm của các Bồ-tát đồng với hư cấu. Chỉ duyên thật ác thì rớt, bỏ ác thì lên. Cho nên bậc Thánh bày việc rớt lên, khiến người thực hành đổi ác theo thiện. Cho nên văn chép: Tuy làm các tệ mà được thành Thánh. Nói chẳng ngăn ngừng, nghĩa là ác có thể đổi, khiến đối với ác mà tu chỉ quán. Chẳng thể mặc tính làm ác mà mãi mãi làm phàm phu. Chẳng phải nói còn ác mà gọi là không ngăn ngừa. Lại đạo chẳng năng ngừa ác trở xuống là nói tuy được đạo mà cũng có dư ác. Tu-đà-hoàn: kinh Xuất Diệu quyển mười một chép: Xưa, có người chứng sở quả, ý duyên nữ sắc mà tư thông trong mộng. Người vợ đem tệ này gặp tri thức Tỳ-kheo bà con hỏi rằng: Tôi muốn trình bày sự tình ra đây được chăng? Tỳ-kheo chép: Không khổ nào bằng che giấu việc kín. Người vợ nói chồng tôi nặng về dục chẳng màng ăn uống, do đó sanh bịnh e mạng khó toàn. Tỳ-kheo chép: Hễ nếu khi gần ngươi thì ngươi phải nói pháp Tu-đà-hoàn thế sao? Sau làm theo lời dạy, người chồng nghe nói thì hổ thẹn mà được quả thứ ba, bèn không làm việc ấy nữa. Bà vợ hỏi chồng vì sao dứt hẳn. Chồng nói ta xét thấy bà vì sao đến đây. Vợ nói tôi có lỗi gì mà ông nói xét thấy. Bèn nhóm hợp bà con lại nói chồng thấy sơ khí dứt hẳn tình thân. Chồng nói dẫn chứng tự rõ, bèn làm một cái bình trong đựng đầy cứt đái, bịt miệng lại mà chơi. Rồi lấy gậy đập bể bình chất dơ tuôn ra, bà có lấy chơi nữa được chăng? Vợ nói thà ôm thây chết, hầm lửa nước sâu trên núi cao rơi xuống, chớ chẳng gao giờ dám gần. Chồng nói ta quán thấy thân bà con hơn như thế. Bèn nói kệ rằng:
Người mạnh vào định quán Chỗ thân tâm khởi trụ Thấy rồi sanh oán ghét Như bình vẽ hình kia.
Tất-lăng kiêu mạn: là qua sông nước chảy gấp khó qua, liền quát rằng: Tiểu tỳ hãy ngừng chảy, thần sông nổi giận đến chỗ Phật trách rằng: Tất lăng mắng con. Phật khiến Tất-lăng-già đến sám hối thần sông. Tất-lăng chép: Tiểu Tỳ đến, ta sám hối ngươi. Mọi người cười rằng: Sám hối mà còn mắng. Phật hỏi Thần sông: Ông có thấy Tất-lăng chắp tay chưa? Đáp rằng thấy, Phật nói sám hối xong thì không còn kiêu mạn mà có lời nói này. Phải biết người ấy trong năm trăm đời làm Bà-lamôn, lại thấy thần sông đời trước làm tôi tớ cho mình thường hay cao mạn, khinh bác bỏ người khác, xưa nay quen miệng mà thôi. Thân Tử nổi giận, lúc đó La-vân theo Phật kinh hành. Phật hỏi La-vân vì sao gầy ốm như thế? La-vân dùng kệ đáp Phật:
Nếu người ăn dầu thì có sức khỏe
Nếu người ăn bơ thì xinh đẹp
Ăn mè rau thì không khỏe đẹp
Đại Đức Thế tôn tự nên biết.
Phật hỏi La-vân: Ở trong chúng ấy ai là Thượng Tọa? La-vân đáp Hòa-thượng Xá-lợi-phất. Phật nói Xá-lợi-phất ăn bất tịnh. Lúc đó, Xá-lợi-phất nghe lời nói ấy, liền nhổ đồ ăn ra, thề rằng ta từ nay chẳng thọ người nữ thỉnh. Khi ấy vua Ba-tư-nặc, Tu-đạt-đa, v.v... đến chỗ Thân Tử, Phật chẳng vì vô sự mà thọ thỉnh. Nay chẳng thọ thỉnh ta, vì đâu được thanh tịnh tín. Thân Tử kể lại lời Phật bác bỏ trách vua. Vua bạch Phật, Phật sai trở về thọ thỉnh như cũ, nhưng vẫn chẳng thọ. Phật bảo người ấy tâm bền chắc chẳng thể lay chuyển. Vì xưa từng làm rắn hại vua. Thầy thuốc bắt phải uống nọc độc, nếu chẳng uống phải nhảy vào lửa. Suy nghĩ mà bảo rằng độc tôi đã bỏ vì sao phải uống, bèn nhảy vào lửa mà chết. Vì thiện ác chẳng ngại nhau, cho nên được cực quả cũng còn có ác. Thí như trở xuống là nêu thí dụ. Trong hư không lớn đều không có sáng tối. Sáng tối y cứ sắc nên có trừ nhau. Pháp tánh Hư không vốn không thiện ác. Phàm phu theo tình bảo là thiện ác trừ nhau. Cho nên Ký Tiểu Thừa và các phàm phu. Hai pháp thiện ác chẳng hại nhau, vì thể tánh vốn chẳng hai. Người thấu suốt như thế mới hiển bày Bồ-đề. Sở dĩ ở ác khiến tu chỉ quán thấu suốt ác, chẳng ác. Thấy thể tánh ác liền biết thể tánh vốn không thiện ác. Nếu người trở xuống là chánh nói ác tu quán. Đây lại nói chung đối ác mà lập quán. Tuy dùng chín tưởng, v.v... chiết phục càng dữ dội, nên phải dùng bốn vận mà suy xét mặc ý chế thân miệng để quán suy cùng. Nay muốn phá hoại nên nói tệ, nếu chẳng khởi chẳng được tu quán. Thí như trở xuống là nêu thí dụ. Câu pháp giống luân nên nói luân câu. Đại luận chép: Cá nuốt lưỡi dù ở trong ao nhưng ở dưới nước không lâu. Người ta cũng như thế, tin sâu Bát-nhã phải biết là ở trong sanh tử không lâu. Ở đây quán tham dục, Luận chép: Sanh tử là trong nhân nói quả nên nói sanh tử. Dục nặng như cá mạnh, quán yếu như bị dây trói. Sợ năng lực quán yếu mà dục được dịp làm hại. Chẳng cần dứt dụng tứ chi ngay. Cho nên khuyên răn chẳng thể tranh kéo, quán pháp là lưỡi câu, tha hồ khởi là mồi, mồi là đồ ăn. Muốn vượt quán gọi là vào miệng. Thời gian dài là xa, thời gian ngắn là gần. Tăng mạnh là phù, yếu là trầm. Thường dùng quán này mà đuổi theo chẳng bỏ, chẳng để thành nhân đến ở quả sau, gọi là chẳng lâu. Dục dứt quán thành gọi là thâu hoạch. Mới thành là thâu, vào vị là hoạch. Ở tế trở xuống là lời trong hợp. Nếu vô đẳng, là quán này có công năng trị dục, khởi nặng về dục nặng, càng bày Diệu quán. Cho nên nói có cá lớn nhiều chỉ tốt, thường dùng Diệu quán mà theo chẳng bỏ, khởi nhiều là nhiều, sâu nặng là lớn. Tệ này chẳng lâu, v.v... là mượn dụ để kết văn pháp. Ngự là tiến, Đại kinh quyển chín chép: Như dùng chú thuật chú khiến cho lành bịnh, dùng chất thoa da giày khiến chạm trùng độc, độc sẽ tiêu. Tệ cũng như thế, lấy quán mà quán, tệ ấy chẳng lâu cũng làm quán được. Thể tệ toàn chuyển nên gọi là kham nhậm. Dục như da giày, quán như thuốc tốt. Dùng pháp pháp dục nghĩa giống như thoa. Quán thành vào dục, dục đều phá bỏ. Như chạm độc trùng thì độc liền tiêu. Dục chuyển thành trí, trí có thể tiến đạo. Vận đến Niết-bàn gọi là có khả năng ngồi. Vì sao trở xuống là nói dụng quán? trước tham dục ở trong sáu tệ tức thuộc tệ đầu, tham dục tức là thí dụ về san. Ở trong ba độc chính là độc đầu, tức là ba quán chú cả ba là đó. Trước trong quán không, văn đầu bốn vận dùng phương pháp quán. Vi đương trở xuống là chánh dùng quán suy nay. Trước là vận đầu đối với vận thứ hai, bốn câu suy pháp. Trước nêu bốn câu, nếu chưa trở xuống là liền xem xét, tức diệt mà sanh. Sanh diệt trái nhau, tức diệt trái với sanh. Nếu tức diệt sanh nên thành trái nhau thì như chỗ đèn tắt tức là sáng thì không có việc đó. Nếu lìa sanh thì không nhân, tức lìa chỗ diệt này thì cố nhiên tự sanh nên thành không nhân. Như lìa chỗ đèn tắt thì tự nhiên sanh ra ngọn lửa. Lại nếu cho không nhân mà có sanh thì các chỗ không nhân cũng phải có sanh. Như chỗ không sữa cũng phải có lạc, cho đến gỗ đá cũng phải có tâm sanh. Kế là chưa tham cho đến vô nhân: Tham tuy chưa khởi, thể tánh là sanh. Lập câu đầu xong, kế tức là lìa, là trước định. Nếu tức trở xuống là câu hỏi kế. Câu hỏi trước chính là đó. Chẳng diệt mà sanh, tức chẳng diệt này lại sanh dục tham. Cho nên thành chưa tham cùng dục tham đều có. Nếu cho cả hai đều có thì phải ở bên sanh lại sanh ở sanh. Cho nên nói vô cùng. Nếu lìa trở xuống là khó lìa câu. Không nhân đồng trước nên nói cũng. Nếu cũng diệt trở xuống là câu (hỏi), nếu đều còn thì như nhân trái nghịch mà sanh quả. Nghĩa ấy không đúng. Pháp trái nghịch nhau là hai pháp chẳng cùng có, đâu chung làm nhân mà sanh được quả. Cho nên lại trách rằng: Chẳng cần nhau cũng ở diệt, lại là chẳng diệt, nên nói bất định. Nhân bất định này đâu sanh mà muốn sanh quả quyết định. Nhược kỳ trở xuống là lại dùng một lớp khác mà trách nhân. Nếu nói pháp thể một trái nhau thì thể chẳng phải một. Nếu nói thể khác diệt và chẳng diệt thì chẳng liên quan nhau, đâu được hai pháp cùng là một nhân mà sanh ra quả. Như nói sữa vừa diệt vừa chẳng diệt mà sanh lạc, thì không có việc đó. Nếu chẳng phải trở xuống là hỏi câu bốn, phàm câu cùng chẳng sai vốn cũng phá hai, hai cũng tức là câu ba cho nên thứ ba bị phá lại đến thứ tư, nên cũng trách là có hay không, nếu là có là không thì đồng với thứ ba, riêng có riêng không lại đồng với thứ hai. Ấy thì cùng chẳng sai chẳng khác ba ở trước, đâu cần lập lại. Cho nên kết vì sao gọi là cùng chẳng sai, lấy sữa làm thí dụ y theo trước rất dễ hiểu.
Môn Diệu Quán này giả lập chủ khách, niệm niệm xem xét, không để một sát-na trốn thoát, tánh tướng đều mất mới gọi tức không. Không cho nên chẳng thấy dục tham, dục sanh. Kế lại chuyển trở xuống là y cứ theo nghĩa phải có sáu mươi bốn câu, hiện văn chỉ có mười sáu câu, như hướng bốn câu tức là trách dục tham dục sanh chẳng thật xong được. Lại chuyển hướng pháp bốn câu, suy ba câu dưới chỉ phải hợp rằng chẳng sanh, cho đến chẳng phải sanh, chẳng phải chẳng sanh, văn nay nói sanh, cho đến chẳng phải sanh, chẳng phải chẳng sanh, hoặc nêu lại hoặc là văn thừa.
Hỏi: Vì sao lại suy ba câu sau. Trước tuy suy ở dục tham, dục sanh đã chẳng thấy sanh, sợ chấp Vô sanh cho đến chuyển chấp chẳng phải sanh chẳng phải Vô sanh cho nên lại phải suy ba ở dưới. Nếu suy Vô sanh phải nói là chưa tham muốn diệt dục, tham dục chẳng sanh sẽ là chưa tham dục chẳng diệt dục tham dục chỗ sanh vi đương chưa tham dục chẳng phải diệt chẳng phải chẳng diệt dục tham dục chẳng sanh. Mỗi pháp cũng phải phức suy trách, lại có không tức lòa cho đến tánh v.v..., đủ như câu đầu chỉ dùng chẳng sanh để giúp sanh là khác mà thôi. lại phải dùng chưa tham muốn diệt v.v... đối suy dục tham dục vừa sanh vừa chẳng sanh, chẳng phải sanh chẳng phải chẳng sanh, cũng như thế. Đây gọi là suy ở tướng, đầy đủ bốn câu, nên lại phải suy chánh tham dục cho đến đã và chưa lại sanh ba cái mười sáu câu. Cho nên biết văn nay chỉ suy câu đầu, câu đầu đã thế thì ba câu kia cũng y theo đó mà biết. Đều dùng trong bốn câu chưa tham dục mà mê đắm, trong một câu dục tham dục ở sau tức dùng bốn dục như sanh, v.v... tham dục đối bốn cái chưa tham dục ở trước nên thành mười sáu câu. Nay lại làm đủ ba bản đồ mười sáu câu, giúp văn rất dễ thấy, thì đã nhìn chưa mà so y cứ, sẽ biết. Mười sáu câu đầu như vừa giải thích. Lại làm bản đồ.
1. Chưa tham muốn diệt
Chưa tham dục chẳng diệt
-Dục tham dục sanh
Chưa tham dục vừa diệt vừa chẳng diệt Chưa tham dục chẳng diệt chẳng bất diệt.
2. Chưa tham muốn diệt
Chưa tham dục chẳng diệt
-Dục tham dục chẳng sanh
Chưa tham dục vừa diệt vừa chẳng diệt Chưa tham dục chẳng diệt chẳng bất diệt.
3. Chưa tham muốn diệt Chưa tham dục chẳng diệt
-Dục tham dục vừa sanh vừa chẳng sanh Chưa tham dục vừa diệt vừa chẳng diệt Chưa tham dục chẳng diệt chẳng bất diệt.
4. Dục, tham muốn diệt Dục, tham dục chẳng diệt
-Chánh tham dục chẳng sanh chẳng bất sanh Dục tham dục vừa diệt vừa chẳng diệt
Dục tham dục chẳng diệt chẳng bất diệt.
Ba câu dưới ví dụ bốn câu đầu mà làm.
Ba câu dưới ví dụ bốn câu đầu mà làm phải được giải thích cho nên trong văn nay chẳng cần viết rõ, như thế xem xét. Trong Chưa tham dục cầu bốn câu dục tham dục không thật có, còn chẳng thấy có tâm dục tham dục chẳng phải sanh chẳng phải chẳng sanh, huống chi là sanh. Tuy đây có suy dục tâm thô mạnh, hoặc lại chưa suy tâm dục tham dục cho đến chánh khởi. Tuy thế, không phải thân trao cảnh gọi là chánh, chỉ là khởi tâm suy khiến chẳng khởi, cho nên phải dùng mười sáu câu trong dục, tham dục vừa rồi để cầu chánh tham dục không bao giờ. Vi sao? Vì chánh khởi này phải nhờ dục khởi, cho nên suy dục khởi cầu chánh chẳng thật có.
1. Dục, tham muốn diệt Dục, tham dục chẳng diệt
-Chánh tham dục sanh
Dục, tham dục vừa diệt vừa chẳng diệt Dục, tham dục chẳng diệt chẳng bất diệt.
2. Dục, tham muốn diệt Dục, tham dục chẳng diệt
-Chánh tham dục chẳng sanh Dục, tham dục vừa diệt vừa chẳng diệt Dục, tham dục chẳng diệt chẳng bất diệt.
3. Dục, tham muốn diệt Dục, tham dục chẳng diệt
-Chánh tham dục cũng sanh cũng chẳng sanh
Dục, tham dục vừa diệt vừa chẳng diệt Dục, tham dục chẳng diệt chẳng bất diệt.
4. Dục, tham muốn diệt Dục, tham dục chẳng diệt
-Chánh tham dục chẳng sanh chẳng bất sanh Dục, tham dục vừa diệt vừa chẳng diệt
Dục, tham dục chẳng diệt chẳng bất diệt.
Như thế xem xét còn chẳng thấy chánh tham dục chẳng sanh chẳng bất sanh, huống chi là thấy sanh. Tuy chẳng còn khởi hoặc đã chưa đoạn, chỉ là tạm dứt và duyên cảnh tạ gọi là tham dục rồi. Phòng sau khởi nên lại suy. Nếu gọi tâm này là Vô sanh, thì rất sai lầm.
1. Chánh tham muốn diệt Chánh tham dục chẳng diệt
-Tham dục đã sanh
Chánh tham dục vừa diệt vừa chẳng diệt Chánh tham dục chẳng diệt chẳng bất diệt.
2. Chánh tham muốn diệt Chánh tham dục chẳng diệt
-Tham dục đã chẳng sanh
Chánh tham dục vừa diệt vừa chẳng diệt Chánh tham dục chẳng diệt chẳng bất diệt.
3. Chánh tham muốn diệt Chánh tham dục chẳng diệt
-Tham dục cũng sanh cũng chẳng sanh Chánh tham dục vừa diệt vừa chẳng diệt Chánh tham dục chẳng diệt chẳng bất diệt.
4. Chánh tham muốn diệt Chánh tham dục chẳng diệt
-Tham dục đã chẳng sanh chẳng bất sanh
Chánh tham dục vừa diệt vừa chẳng diệt
Chánh tham dục chẳng diệt chẳng bất diệt.
Tham dục trước này tuy lại tạm dứt gọi là tham dục, nhưng khi đối cảnh khác lại gọi là chưa. Đã chưa tuy tức đồng là chẳng khởi, đối cảnh lúc khác thì đối đãi nhau mà thành khác. Trước dứt gọi là đã, dứt rồi gọi là chưa. Cho nên tâm chưa này chung đối mười giới, sau nếu khởi riêng thì chưa này thuộc về riêng. Sợ thuộc riêng cho nên cũng phải đối khởi đã quán. Phải nói rằng là tâm đã tham muốn diệt, tâm chưa tham dục sanh, hay tâm đã tham dục chẳng diệt, tâm chưa tham dục sanh. Tâm đã tham dục vừa diệt vừa chẳng diệt, tâm chưa tham dục sanh, tâm đã tham dục chẳng diệt chẳng phải chẳng diệt, tâm chưa tham dục sanh. Cho đến tâm chưa tham dục chẳng phải sanh, chẳng phải không sanh, thành mười sáu câu. Hỏi: Đã chỉ gọi là diệt, chưa gọi là chẳng sanh, vì sao đều đủ bốn câu sanh, v.v....
Đáp: Nay quán niệm niệm đều là ở sanh, chỉ nhìn cảnh tạm dứt cho đến chưa khởi, đã được tên chưa, ở đã chưa này sợ chấp sanh v.v..., cho nên lại phải dùng bốn câu mà suy. Nếu nói tâm đã chỉ gọi là diệt, thì chánh tâm cũng phải chỉ gọi là Sanh, đâu được cũng có ba câu như không, v.v.... cho nên phải biết đều dùng bốn câu. Lại ở tâm đã nói mà suy tâm chưa, một là đề phòng sẽ khởi, hai là chưa khế chân. Phòng lỗi vào lý, cho nên phải xét, đều mười sáu này hợp thành bốn cái mười sáu câu. Nếu vừa quán liền ngộ, một câu liền đủ, đâu phải khổ đến sáu mươi bốn ư. Vì người độn căn xoay vần sanh chấp. Cho nên đủ phá sáu mươi bốn câu. Nếu đủ nêu tướng chuyển chấp. Đến quyển thứ năm ba giả bốn câu nói đầy đủ. Nếu luận ý văn liền phải suy nhanh từng ý một, khiến thành cảnh không thể nghĩ bàn. Văn nay đã nhờ thứ lớp nói riêng, cho nên sáu mươi bốn câu chỉ gọi là vào không, huống chi lại biết trước. Lý không thể nghĩ bàn. Dục tâm vừa phá Diệu giác rõ ràng. Sự trợ còn phải chánh trợ hợp thành huống chi đây suy cùng thà chẳng tức lý. Khi tức lý mới thấy bốn vận tâm tánh chân như. Quán tham dục trở xuống là kết thành quán không. Nói cùng chiếu, tham dục là giả, suy phá là không. Không chẳng có tướng không, không tức là giả, giả chẳng có tướng giả, giả tức là không. Nhưng vong cùng chiếu, không giả như thế ai chẳng bảo là ba quán một tâm, phải khéo suy nghĩ, lời đồng ý khác. Cho nên nay chỉ là vào quán không. Đều như trên nói, là dây lại chuyển câu, đây đều như văn đầu quán ở câu sanh. Nếu là một trong ba quán mà nói thành lý do không. Cho nên viên quán sẽ nói rằng: Trăm giới là không giả trung. Nếu nói không này tuy nói một thứ, thì trong không đã đủ quán giả, Trung. Hai quán Giả trung nêu ra cũng như thế. Văn trong quán giả vì sao nêu thẳng mười giới mà thôi. Nếu tệ luôn khởi sau quán thành khí phần. Hằng khởi, v.v....
Hỏi: Bốn câu xem xét, tham dục, đâu được lại nói mà khởi mà chiếu?
Đáp: Nói khởi chiếu, là chánh nói có khởi thì không lúc nào chẳng chiếu, khi chiếu thì phải khởi, nay nói quán này có công năng phá tệ, cho nên phải nói mà khởi mà chiếu. Lại khi phòng khởi thì phải phòng chiếu. Cho nên lại nói mà khởi mà chiếu. Lý phải khởi chẳng khởi đều chiếu, chiếu chẳng chiếu đều mất, mất chẳng mất dứt, dứt chẳng dứt đều trống không. Như thế mới thành đạo nhập không. Cho nên nay chép: Chẳng thấy khởi chiếu mà khởi chiếu rõ ràng. Lại quán trở xuống là quán giả, lại nêu tác thọ mười hai sự, thứ mười giới gọi đó là giả. Một nhà giáo môn Tạng thông liền y cứ sáu đường mà nói giả. Dụng quán liền có tức chẳng tức khác nhau, pháp ấy tức là Tạng thông nhập môn. Biệt viên quán giả phải y cứ mười giới, chỉ vì thứ lớp và chẳng thứ lớp khác nhau, tâm một tâm khác nói cảnh thô diệu. So sánh là từng nghe quán trụ duyên sanh. Duyên sanh tức không, không và giả chẳng hai, gọi là ba quán, làm và nói này còn chưa thành thông. Thông phải bốn câu thành tánh tướng không. Nếu có tên Trung là khác Thông giáo. Thông giáo sau không hề có tên Trung đạo, huống chi là Thông giáo vẫn phải bốn môn, mỗi môn đều có mười thừa mới gọi là thông quán, người chẳng thấy đây nào khác ám không. Vì sáu độ trở xuống là kết thành ba Tam-muội, v.v... hằng sa Phật pháp.
Như thế trở xuống là Quán trung. Trước nói tướng quán lại nắm hai quán không giả trước đây tức bên mà trước mới gọi là Diệu trung. Cho nên trước chép: Như thế khi quán chỉ hai quán trước, đều ở tác thọ suy thành không giả. Nay ở không giả mà thấy tức trung, nên nói rõ ràng. Huyễn hóa tức mười pháp giới giả ở trước, cùng không tức tánh tướng. Không giả và tánh ba pháp tức nhau, cho nên không ngại có hại. Cho nên biết Trung nầy tên cùng chiếu rất khác với trước. Phó Đại Sĩ tự làm thơ rằng: Riêng tự tinh, thật ra lìa thanh danh ba quán, một tâm chứa muôn phẩm, gai góc bụi rậm đều tự bằng. Cho nên biết Đại sĩ cũng ở Tát-thọ dùng tu ba quán. Vì sao trở xuống là lại giải thích tướng tức nhau của ba quán? Trong quán không ở trước chỉ nói khởi chiếu, chẳng kịp thấy, v.v..., trong đây pháp tánh cùng tệ tức nhau cho nên Trung quan rất khác với không. Tham dục cực thô, còn tức pháp tánh huống chi là các pháp khác mà không phải ba đế. Nếu tệ ngại pháp tánh, v.v... thì pháp tánh chẳng ngại với tệ là nói theo lý, như nước và sóng chẳng ngại nhau. Cho đến pháp tánh và tệ khởi dứt tức nhau, là chánh nói khiến quán pháp tánh trong tệ. Pháp tánh không khởi cũng không tức. Vì tệ khởi (dứt) nên nói khởi tức. Nếu thế, tánh không khởi tức tệ thì có khởi tức, tánh đó rất khác sao gọi một thể?
Đáp: Chỉ vì tệ tánh thể nói không hai, nên nói pháp tánh không còn khởi tức. Cho nên theo lý đều không khởi tức. Nói theo sự thì tệ, có khởi tức, tánh không khởi tức. Nếu dứt đối đãi thì không tệ không tánh cũng không khởi tức. Nếu được ý này thì chỉ quán tham dục tức là pháp tánh, pháp tánh vô tánh, nên gọi là Thế đế, phá tánh tức là tánh không. Tánh này tức pháp, pháp thể tức không, nên gọi là tướng không. Kinh Vô Hạnh nói trở xuống là dẫn chứng. Kinh nói tham dục tức là đạo, sân si cũng như thế, như thế trong ba pháp, vô lượng các Phật pháp, nếu có người phân biệt, dâm nộ si và đạo thì người ấy cách Phật xa như trời và đất. Là ý kinh chánh nói tệ tánh chẳng hai, cho nên phải răn chẳng cho phân biệt. Tịnh Danh trở xuống là lại dẫn Tịnh Danh. Phi đạo là ví dụ, Phật đạo là tánh, chúng sanh tức Bồ-đề Niết-bàn, là phải nói đủ rằng tất cả chúng sanh tức là Bồ-đề, chẳng còn được nữa. Tất cả chúng sanh tức tướng Niết-bàn chẳng còn diệt nữa. Bồ-đề trở thành đạo chứng đắc. Đã tức chúng sanh nên không hề được Niết-bàn, tức là quả vắng lặng, đã tức chúng sanh cũng chẳng diệt khác. Bồ-đề, Niết-bàn là quả thượng pháp, còn tức chúng sanh, đâu thể khiến pháp tánh lìa tham dục. Vì tăng thượng trở xuống là dứt nghi. Nghi rằng: Nếu thế sao trong kinh dạy dứt tham dục, cho nên làm dứt nghi rằng vì tăng thượng mạn mà nói dứt tham dục. Phàm phu gọi là chứng, Nhị thừa gọi là cực, vì hai người này mà nói lìa dâm nộ. Vì sao? Vì phàm phu si mạn nên dạy phải dứt, Nhị thừa cơ gần nên nói dứt. Nếu không có hai thứ này mà thuận theo các
Bồ-tát thì phải nói tánh dận nộ si tức là giải thoát. Cho nên nay quán tệ, chẳng bảo hai thứ người thượng mạn này. Tất cả trần lao là hạt giống Như lai. Kinh sau đều nói ba thứ chủng tánh. Trần lao tức là hạt giống liễu nhân, năm vô gián, v.v... là hạt giống nhân duyên, sáu nhập bảy thức là hạt giống chánh nhân, nên biết dục tệ tức pháp tánh chủng. Văn kinh riêng đối, văn này theo chung. Cho nên chỉ chép: Tệ tức pháp tánh. Núi biển sắc vị v.v... là nêu thí dụ, như mầu núi Tu-di, như vị biển lớn. Tỳđàm, Câu-xá đều chép: núi Diệu Cao bốn mặt mỗi mặt đều có một mầu, phía Đông mầu vàng ròng, phía Nam mầu lưu ly, phía Tây mầu bạc trắng, phía Bắc mầu pha-lê. Tùy phương của mặt mà nước đồng mầu núi. Chúng sanh vào đó đều đồng mầu nước. Đại luận quyển một trăm nói: Sách ngoài nói núi này toàn mầu vàng ròng, chúng sanh nhảy vào đó mầu ấy không hai, nên nói là mầu núi. Về vị biển, Đại Kinh chép: Các sông chảy ra biển đồng một vị mặn, nên nói vị của biển Văn cách chữ đối nên chép: Núi biển sắc vị. Pháp tánh cũng như thế, các pháp vào trung đồng một lý vị. Cho nên ngoài pháp tánh chẳng có một pháp nào khác. Cho nên nói chẳng hai chẳng khác. Thường tu quán trở xuống là kết vị, tức quán tham dục, nếu chẳng kết vị sợ người mê lạm, cho nên phải kết. Trong sáu tức chẳng nói lý, vì hiện tu quán, lý sở quán tức là lý. Phá tệ căn bản, quán pháp tuy viên, Đồng Luân trở xuống là trước thô hoặc đi trước, cho nên đến vị này mới phá căn bản. Ở trong tham tệ trở xuống là kết thành ngang dọc. Sáu tức cạn sâu, nên gọi là dọc. Các độ nhìn nhau không có trước sau nên gọi là ngang. So sánh sáu độ trên đều phải kết. Trong thiện ít lạm nên chẳng kết. Kế quán tệ sân rộng phải đồng trước. Văn này dẫn lược. Văn trước lập cảnh, tức lại chỉ sân làm cảnh quán nay. Đương tứ nhậm trở xuống là khởi quán phương tiện.
Lệ với tham dục ở trước có thể dùng y cứ mà biết. Kế khởi quán, ví dụ trên cũng phải sáu mươi bốn câu. Trong văn lược còn tám câu đầu trong mười sáu câu, đó là sanh và Vô sanh, mười hai câu (ba, bốn) đều lược văn từ, tiện nói chỉ nói đã chẳng được sanh, cũng chẳng được diệt, diệt tức chẳng sanh. Nói từ ai, v.v... là qua mười hai sự phải thuộc một sự, chung suy tể chủ nên chỉ nói ai. Tướng mạo vắng lặng là quán không, mười giới là quán giả bốn đức là quán trung. Đó là trở xuống là dẫn chứng, trước dẫn vô hạnh, nói đủ ba độc cho nên trong đây chẳng dẫn lại. Tịnh Danh nói chúng sanh, Bồ-đề, Niết-bàn, ý đồng như trước. Quán phạm giới trở xuống là lược so sánh tệ khác, độc khác, thuộc độc tệ khác, nên nói tất cả. Si trệ ở tà nên nói tà si. Cho nên dùng nhân duyên làm năng trị là nhân duyên một pháp trị tà si, nên nói vào sâu duyên khởi, dứt các tà kiến.
Bốn là quán vô ký, là trước bày quán cảnh nêu tướng vô ký, khác với hai tướng các thiện, các ác ở trước. Sở dĩ trở xuống là dụng quán ý. Có một cơ này nên nay biết đây là vô ký, lại có khả năng làm cảnh, cho nên được quán. Đại luận nói trở xuống là dẫn chứng. Tâm vô ký giống như không biết. Trong luận đã nói, vì có Bát-nhã cho nên phải quán. Vừa nói biết làm sao là tánh vị ấy kém, khác nhau với thiện ác, lại phải chiết phục nên nói biết làm sao. Lại dẫn luận mà cho phép là sao, là pháp hữu lậu ba tánh gồm thâu, đã nói thiện ác phải nói vô ký. Nếu chẳng thế thì cảnh quán chẳng khắp. Lại nếu nhậm thiện ác cũng quán không tuệ sao chỉ vô ký. Nếu có Bát-nhã thì được tu quán đâu riêng thiện ác, lại y cứ vào một lần thiện ác dễ động, vô ký khó nâng, khó dễ tuy khác nhưng đều phải dùng quán. Lại vừa từ Báo pháp đại khái mà xếp. Nếu nói rõ thì ngoài tệ độ ra tất cả tâm khác đều gọi vô ký. Cho nên vô ký chẳng thể chẳng quán. Quán này trở xuống là suy thành cảnh quán. Tâm tướng chẳng hiển cảnh ấy khó duyên. Nếu cùng thiện ác đối biện đồng khác thì vô ký nên biết liền thành cảnh quán. Cho nên nói đồng thì chẳng phải vô ký. Khác trở xuống là dùng bốn câu mà suy. Ký tức thiện ác nên đối mà suy, tánh nó mịt mờ bốn vận chẳng hiểu. Cho nên chỉ đối bốn câu thiện ác mà suy. Hiện văn chỉ có bốn câu mà suy, nếu phòng chuyển kế cũng phải dùng đủ mười sáu câu, tức là vô ký sanh chẳng sanh, cũng sanh chẳng sanh, chẳng phải sanh chẳng phải chẳng sanh, cũng đều có bốn câu. Đã không bốn vận chẳng cần chuyển suy, đến sáu mươi bốn câu. Cầu ký chẳng thật có, là cầu ở thiện ác còn không thật có, thì vô ký cùng ai đối biện đồng khác. Đã không đồng khác thì sanh tức Vô sanh, cho nên chẳng thật có. Nếu chuyển kế thì theo câu sanh này. Văn nay còn lược cho nên chỉ phức nói không, phải họp không phải tan và không phải sanh diệt. Cho nên tâm tánh vô ký chẳng khác với tâm tánh thiện ác ở trước. Thể đồng mà tên khác, cho nên gọi là chẳng phải họp tan v.v... Tánh đã như thế cho nên vô ký có khả năng làm cảnh quán. Lại trải trở xuống là kế đem vô ký mà trải mười hai việc, tức chỉ cho mười hai sự gọi là xứ vô ký cập, là lệ theo trước rất dễ hiểu. Như thế trở xuống là kết thành ba quán. Trước là quán không, mười giới là giả, pháp tánh là trung. Pháp tánh thường vắng lặng trở xuống là kết một chỉ quán. Ở vô ký trở xuống là dẫn chứng, ý cũng đồng ở trước. Cũng phải dẫn đủ các kinh Vô Hành, vô ký tức phải si tệ. Cũng phải dùng ý trong Tịnh Danh: Vô ký tức là Bồ-đề, Niết-bàn. Chỉ suy vô ký và ký đồng khác liền thấy lý vô ký pháp tánh. Cũng phải đối tăng thượng mạn là nói đoạn vô đoạn và kết nhiếp, v.v... y cứ trước rất dễ hiểu. Cho nên nói so sánh với trên, lại kế trở xuống là dùng ba chỉ quán kết ba chương trước. Thiện sau cùng là chỉ các ác mới chung tướng thiện ác, xoay vần nhìn nhau chỉ viên là thiện. Viên ở sau cùng cho nên thành tiệm. Như cảnh nghĩ bàn sau rốt là quả Phật, trước trải chín trước nên thành nghĩ bàn, huống chi lại kết văn không phải tướng tu hành, chẳng cần lại vì viên tiệm làm ngại. Thiện ác đều bình đẳng, tướng riêng là ác, sáu độ là thiện, mỗi pháp đều là ba quán pháp giới. Cho nên gọi là Đốn, đủ như trước nói. Nhiếp nhắc lại thiện là chẳng thuộc hai thứ trước mà chẳng ngoài hai thứ trước, khởi không thuộc không, khởi có thuộc có. Trung đạo từ bi cũng giống như thế. Cho nên nhiếp nhắc lại gọi là bất định, cùng quyển thứ năm ở dưới nhiếp nhắc lại bốn câu. Văn khác nghĩa đồng. Đó chỉ là thành bốn câu.
"Kế lại bốn thứ" trở xuống là phân biệt. Văn trước lược xếp hạnh khác mà lý đồng, vì tùy ý mình đối ba mà biện riêng. Vì sao? Vì nói chỗ phát động chướng khác nhau mà lý quán chẳng riêng. Hỏi: Thường ngồi quán ở ba đường v.v... thường thực hành quán ba mươi hai tướng của Phật, v.v... Phương Đẳng nói quán ở Ma-ha Đản Trì Tôn dung Đạo cụ, v.v... Pháp Hoa nói quán voi trắng sáu ngà, v.v... Tùy ý mình quán thiện, ác vô ký, v.v... bốn quán đều khác, vì sao gọi là đồng? Đáp: Đây đều căn cứ chỗ sự trãi qua mà nói. Nếu năng quán mà quán thì đều một tâm, lý của sở duyên đều là ba đế. Cho nên được nói lý quán đồng. Nếu chỉ trở xuống là nói phải cần lý để thấu suốt sự làm. Lại chẳng được ý lý quán trở xuống là nói phải dùng lý làm chỗ nương cho sự. Nếu sự tướng trở xuống là dùng ba đối này mà phân biệt gián và vô gián. Phương pháp hạn cục ở ba, là đối ba để xếp vào lý sự chung riêng. Trong đây y kinh đều có phương pháp. Huống ba Tam-muội chỗ chẳng nhiếp thì đều thuộc ở đây. Không phải gọi trong đây chẳng cần phương pháp. Chỉ Tam-muội này chẳng cần phương pháp, cho nên phương pháp hạn cục ở ba thứ trước. Hỏi phân biệt bốn Tam-muội có khuyên hay không khuyên? Ý hỏi rất dễ thấy. Ý đáp là trong Tam-muội này tuy chung các kinh và các điều thiện để cho đối với ác mà tu chỉ quán, vì ngăn ngừa độn căn chẳng hiểu ý văn, cho nên nói thẳng quán mà không nói tu. Nếu y cứ theo văn trước mà khởi mà chiếu cũng là ở khởi mà khuyên tu quán, chẳng được bày nói hiển liễu thưởng khuyên. Cho nên nhìn trước gọi là không khuyên tu. Nếu y cứ vào các kinh năng diệt tội nặng, vì có lỗi nặng nên càng khuyên tu. Cho nên thỉnh Quan Âm chép: Trừ sạch dơ bẩn, khiến được thanh tịnh. Các kinh lệ theo đó nên không phải hoàn toàn không. Sông hoài tối thắng là nói Sư có lỗi tự làm. Sông Hoài ở phía Bắc Hà Bắc người tà không lạm gọi là Đại thừa, vào ác quán không cho nên dụng dụ không cấm bắt rắn. Tham dục như rắn pháp quán như cấm, dùng quán dục như bắt rắn. Bốn câu bất thiện như không cấm. Như kinh A-lê-tra chép: Phật ở chỗ ông Cấp Cô Độc vì sao Lê-tra-già-đà-bà-lợi sanh ác kiến: " tôi biết Thế tôn nói hành dâm dục chẳng chướng đạo." Tỳ-kheo ba lần khuyên can chẳng bỏ, bèn đến bạch Phật, Phật bảo gọi đến. Khi đến Phật hỏi thì tăng nói đúng thế. Phật hỏi các Tỳ-kheo, thì đều nói Phật chỉ nói dục như lửa, như rắn, như thuốc độc, v.v... Phật bảo ông ấy hiểu trái ngược, nhiễm người muốn bắt rắn luôn đi tìm rắn ở trong khu rừng vắng, gặp một con rắn rất lớn, liền nắm eo rắn, rắn ngoẹo đầu cắn vào tay chân và các nơi khác vì không biết cách bắt rắn, nên phải chịu khổ dữ. Hiểu nghĩa điên đảo cũng như thế. Muốn giỏi bắt rắn, tay cầm gậy sắt, thấy con rắn lớn trước phải lấy gậy sắt đè đầu tay nắm cổ, thì đuôi rắn có quay lại cũng chỉ nắm lấy tay chân và các phần khác, chẳng làm hại được người bắt rắn vì giỏi biết cách bắt rắn. Nay không có quán pháp mà vào ác cũng. nói ác chẳng chướng lại bị ác hại. Nếu dùng gậy Diệu quán vào rừng sáu trần, gặp rắn tham dục đè đầu bốn vận dùng quán nắm cổ chẳng để độc hại đến thành thân nghiệp, mà mất thanh tịnh thường trụ pháp thân. A-lê kia không có gậy chánh quán mà chỉ nói tham dục không chướng, nghĩa vừa muốn đồng nên mượn dụ này. Nay ở dưới đây tức Tiên sư nói tướng không cấm bắt rắn, là Tiên sư vì kẻ độn căn chướng nặng tu thiện không thành tạm cho vào ác tưởng giống quán không nghĩa là hiểu không này xem là chứng sâu tức lỗi tự hành. Chẳng biết trở xuống là lỗi giáo tha. Thiện mình chẳng sanh nên bỏ thiện theo ác. Thuần đem không giải vào ác mà dạy người. Người cũng có lúc sanh không giải, liền lấy làm y cứ, nghĩa là cho ác là thật, từ đây trở xuống không giải cũng quên. Chỉ gây tạo nhiều ác. Mù không mắt trở xuống là lỗi đệ tử học lầm. Mắt không giáo gọi là mắt mù, tu thiện chẳng thành gọi là căn độn, khởi nhiều phiền não là nặng về phiền não. Những người như thế lại nghe sư nói hoàn toàn khiến vào ác, thuận dục thuận tình tạo nhiều các ác. Bèn khiến trăm họ trở xuống là nói lỗi tự tha. Lỗi tự tha cho nên dân khinh vua mất. Nay thời Ngô Việt, các phong tục hãy còn đem cô giới làm Tiểu thừa, để họp tạp làm vô ngại. Đời Tùy cũng có nên nói chưa cải. Sử ký trở xuống là dẫn sư nêu lỗi. Trước dẫn Sử Ký để nêu lỗi sư dối trao. Chu là quốc hiệu họ Cơ. Đế vương Thế Kỷ chép: Vợ Khốc Đế là Khương Nguyên gặp vị Thần mà có thai cho là không tốt, bỏ vào hẻm quê, trâu dê chẳng đạp, bỏ vào băng lạnh chim xòe cánh che, Nguyên xem là Thần nên đem về nuôi. xem là Nông hầu. Thuấn dâng lên vua Nghiêu cho làm tắc quan (quan coi việc lúa thóc) nên gọi là Hậu tắc, ban họ là Cơ, trước Võ sau Noãn, gồm ba mươi bảy vua. Tụng rằng: Võ Thành Khang Thiệu Mục cung Ý, Hiếu Vi Lệ Nghi Thuyết Huề Bình, Hằng Trang Hy Tuệ Tương Hạng Uông, Định Phân biệt Linh Cảnh
Trác Kính Nguyên, Trinh Ai Tư Triết Oai An Liệt, Hiển Thuận Noãn (tên ba mươi bảy vị vua nối nhau) Huề làm vua không quá một năm. Có chỗ nói ba mươi tám. Tả Truyện chép: trước Bình vương dời về Đông Tân, có Địch Y Xuyên thấy đội tóc mà tế ở Dã giã rằng: chẳng kịp trăm năm. Đây là rợ nhung ư? Lễ nó trước mắt. Nói Chu Mạt, chỉ là lời cuối của cuối chớ không phải cuối cùng. Nói Đại Nhung là sáu Nhung, Trước gọi sáu Hỗn, nay thì đất ở huyện Lục Hỗn. Tức là Đường Ngu về trước có Khuyển Nhung v.v... ở biên giới phía bắc nước Hán. Theo chăn nuôi mà dời đi, theo cỏ cây mà dời đến. Không cày cấy có chăn nuôi đều có địa phân mà không văn thư, cho nên nói năng theo thắt nút con trai hay cỡi dê bắn cung, tập cung tên, không lễ nghĩa, Quân vương trở xuống đều ăn thịt súc vật, trẻ thì ăn đồ ngon béo, già thì ăn đồ dư, nhỏ sang già hèn. Cha chết thì lấy mẹ làm vợ, anh chết thì lấy chị dâu làm vợ. Từ nhà Ân Chu trở xuống thì xâm lấn Trung quốc chẳng dứt giống như diên. Nhà Chu bị xâm lấn, Tông Xã sắp tận, còn bất tận giả, thì giống như diên. Sau Tây Bá đánh Khuyển Nhung đuổi về Lạc Bắc. Luôn luôn vào cống gọi là Hoang Phục. Từ đó trở xuống Khuyển Nhung chẳng đến, Bị Đãn từ đó nhà Chu suy tàn đâu nên bắt chước. Lúc đó, quấy nhiễu như cuối đời Chu, Tà sư như thay áo chánh giáo như thức giả, phá giới như thất lễ, dục cảnh như Khuyển Nhung, phá hại chánh quán như xâm lấn Trung quốc, chánh nhân chẳng dứt như giống một Diên. Duyên liễu dần mất nghĩa như dần hết. Lại Nguyễn Tịch trở xuống là lỗi đệ tử lầm nhận. Trong đó, trước nêu Công Khanh hiệu Nguyễn làm loại. Liệt
Truyện chép: Nguyễn Tịch tên là Từ Tông, là người họ Trần Lưu Úy, dung mạo khôi ngô chí khí rộng lớn, riêng được nhận tánh chẳng nhờ ai, vui giận chẳng đổi sắc mặt, hoặc đóng cửa đọc sách nhiều ngày chẳng ra, hoặc dạo chơi núi sông, ở đêm quên về, thích uống rượu say, quên mất hình hài. Người thời ấy thường gọi là gã khờ. Đời Tấn Ngụy thiên hạ có nhiều danh sĩ mà ít người hoàn hảo. Nhân chẳng giao tiếp việc đời, thường uống rượu đến say nhè. Đến khi Văn Đế phụ chánh mời làm Đông Bình Tướng, cỡi trâu mà đến, được một tuần lễ thì về. Tuy tánh chí hiếu mà chẳng câu chấp lễ giáo. Mẹ chết thì đánh cờ với người, người xin thôi thì quyết giữ lại để đánh bạc. Đánh bạc xong thì uống rượu hai thăng, hô lên một tiếng ói máu mấy thăng. Bùi Giai đến điếu chỉ ngồi say nhìn thẳng mà thôi. Chỉ nhìn người tục lễ bằng đôi mắt thờ ơ, nên người lễ tục ghen tức như kẻ thù. Có lúc vội đến nằm bên thiếu phụ ở cạnh nhà, nếu có người chết không thân thuộc thì đến điếu. Đi không theo đường, cùng đường thì khóc mà trở về. Tông tập chẳng còn dùng bôi ngồi vây quanh chậu cùng uống. Như thế mà xa đản đâu thể bắt chước. Đó là Tư Mã Thị diệt (tướng mất của họ Tư Mã). Ny cứ là Tấn họ Tu Mã, con của Cao Dương Lệ, làm hạ quan. Khi Chu làm quan Tư Mã nhà Hạ thì lấy đó làm họ. Hoài Mẫn đến Hiếu Võ năm thứ mười lăm, vua thời Mẫn Đế nước Tấn mất, do các Hiền đạt chẳng tập binh qua, còn Văn thì xa đản. Sau con cháu Công Khanh bắt chước, bèn bị Ngũ Hồ xâm lấn. Nhân đi Giang Đông, nên có Đồng dao rằng: Năm ngựa nổi trên sông, một ngựa hóa thành rồng. Do đây con của Tuệ Đế là Duệ dời đô về Kiến Nghiệp hiệu là Đông Tấn, xưng là vua đầu tiên. Đến thời Hiếu Võ lại đam mê tửu sắc. Do đây mà nước suy. Nhà Tấn mất do con cháu công khánh bắt chước Nguyễn Tịch. Trước có nạn ganh người Hiền lánh đời giả điên sau không có ánh kỵ tài, đâu cần bắt chước Đản. lại con của anh Nguyễn Tịch là Hàm, con thứ của Hàm là phù, thời Nguyên Đế làm Tham quân, gục đầu uống rượu mà chẳng lo việc vua, thường bị Sở ty xét xử, Đế tha cho. Sau cho làm trưởng sử Dương châu. Vua bảo khanh trấn giữ quân phủ phải bớt uống rượu. Thưa rằng: Bệ hạ chẳng vì thần bất tài mà giao cho trọng trách quân binh. Thần chẳng dám nói gì. Nay Vương vị làm oai, phong giáo hiển hách Hoàng Trạch rảnh rang, giặc cướp mất dấu, khí xấu đã lắng thì, nhật nguyệt sáng tỏ. Cũng có thể lửa đuốc chẳng dứt. Chính phải Đoan Cũng ngâm vịnh, để vui suốt năm, vừa bị Tô Tuấn làm nạn, đây cũng do lỗi không sửa soạn binh giáp. Tập Tam-muội cũng giống như thế, bị nạn gặp chướng ở ác mà tu quán, không có nạn đâu cần bỏ thiện theo ác. Y giáo tu quán như dùng văn võ, vô cớ mà vào ác bắt chước buông lung, quên trao tà pháp như Nguyễn cuồng rượu, đệ tử vọng nhận như con của Công Khanh.
Vũ văn trở xuống là nói Chu Võ tin lời sấm để nêu vọng nhận. Trước Viên Đế họ Thần Nông bị Huỳnh Đế diệt, con cháu chạy trốn ở tại Sóc dã. Tiên Tỳ thờ làm chúa, sau gọi Phổ Hồi, nhân đi tuần thú được ấn, Phổ Hồi cho là trời trao cho, Tục gọi trời là Vũ, nên gọi là Vũ Văn. Khi mới lên ngôi cũng tin Phật pháp. Sau tin theo sấm vĩ nói rằng áo đen là vua, bèn trọng Đạo sĩ, vâng theo bùa chú, mũ đen áo vàng thường mặc, tâm ghét đạo Phật, muốn giết sạch hết, nhưng sợ người tin Phật quá nhiều chưa dám chuyên chế. Có Đạo sĩ Trương Tân dối trá quá quắt, biết ý đó bèn ngầm đưa Lý Tông bác bỏ đạo Phật. Sấm Vĩ như ác sư, Chu Võ như đệ tử, cũng do Nguyên Tung ma nghiệp v.v... Chu Võ đã kỵ lại thêm Nguyên Tung cho nên nói cũng do Nguyên Tung ma nghiệp. Nguyên Tung ép vua phải thâu nhận lời mình muốn chế kinh dìm Phật bèn mời tăng vào cung hành đạo bảy đêm, vua cùng đồng dụ bảy đêm không lỗi. Lại sai Tư Lê Đại Phu Chân Loan, biết rõ hai giáo Phật đạo. Loan dâng lên luận Tiếu Đạo ba mươi sáu thiên để cười ba mươi sáu bộ. Lúc đó, có Pháp sư An có tình nặng với vua, có làm luận Nhị Giáo mười hai bài, nói Đạo giáo nằm trong chín lưu, không được làm giáo chủ riêng. Cho nên giáo chỉ có hai. Pháp sư Viễn có luận Kháng Đế. Sau vua đi tuần phía Đông đã nhậm đạo lâm mở Phật pháp. Lại nhân vua nói mà dâng biểu xin mở Phật pháp, vốn là người ở Hà Đông, cùng gốc với Nguyên Tung. Viễn Tổ từ hoạn gia đến Thục Xuyên. Lương Mạt đống đô ở Đông thành tức Hậu Lương Tiêu Sát. Sát chết thì quy lập. Đến niên hiệu Thiên Bảo thứ mười hai, tức đời Trần Thái Kiến thứ sáu, tức niên hiệu Vũ Văn Kiến Đức ba thì mất. Hai giáo Phật, đạo Vũ Văn trải qua bảy năm, đến niên hiệu Thiên Hòa năm thứ hai, Tung dâng biểu tâu rằng: Đời Đường Ngu không có Phật giáo mà nước yên, Tề Lương có chùa tháp mà nước mất. Chỉ lợi dân ích nước thì xứng tâm Phật. Phật lấy đại từ làm gốc, chẳng hề làm khổ dân đen, kính trọng tượng gỗ đất thỉnh tạo Bình Diên chùa lớn, dung chứa bốn biển muôn tánh, chẳng khuyên lập khúc, thấy già-lam. Riêng an Nhị thừa năm điển. Chùa Bình Diên, không ngớt đạo tục, không phân biệt oan thân, lấy Thành Hoàng làm chùa tháp, tức Chu Võ là Như lai, dùng thành ấp làm tăng phòng, hòa vợ chồng làm thánh chúng. suy khiến đức làm ba cương, tôn tuổi già làm Thượng tọa, chọn nhân trí làm chấp sự, tìm dõng lược làm Pháp sư. Ấy vì sáu hợp không tiếng oán trụ, tám phương có khúc ca chu. Loài bay lội ở yên trong hang ổ, nước đất trường sanh đều đủ năm mươi mốt việc, dâng biểu rồi sau sanh nhọt độc mà chết. Ung là yêu quái diệt pháp, liên quan gì với tùy ý mình. Nguyên Tung như thầy ác, Chu Võ như đệ tử, vì sao thế trở xuống là Thích tin lầm? Người tuy Tam-muội cũng giống như thế. Một là trong không tuệ giải; hai là tin vào thầy mình; ba là tham ưa biết trước. Cho nên biết phải dùng giáo tự làm khuôn phép mới tin thầy, nếu không thì toàn làm ác mà cho là chánh đạo. Biết rồi sửa đổi đến lý không xa. Như kinh Thí Dụ chép: Có lừa kéo xe ngày đi mấy trăm dặm. Ở chỗ nghĩ gặp anh, anh bảo em rằng: Chớ để lừa này gặp các lừa khác. Em nói: Cũng như người thiện chơi với nhau, kẻ siểm nịnh gặp nhau, vật cùng loại gặp nhau, ắt đều vui mừng. Người em bèn cho lừa này gặp các lừa khác. Thấy rồi thì lại chẳng kêu chẳng ăn chỉ ngửi nhau mà thôi, sau anh cỡi liền nằm chẳng đi. Người anh nổi giận cắt đuôi và tai, bị khổ liền đi. Lừa nói Đại gia ôi, ông thả tôi gặp các ác tri thức. Tôi hỏi sao các anh béo tốt như thế, thì đáp: được cấp cho ông đào chở đất. Nếu gặp đường xấu thì liền nằm chẳng đi, ông ấy bèn chất gánh nặng ra thả ta ở bên đường, ăn được cỏ tốt, trở về được cỏ non nên mập ra. Hỏi tôi sao ốm nhom thế, tôi đáp kéo xe ngày đi mấy trăm dặm ăn uống cực khổ, nay tôi bắt chước nó để được thả ra nhưng bị cắt đuôi mà chẳng dám nằm, xin được tha sống. Chủ thương bèn thả. Người cũng như thế tin vào thầy ác phải vời lấy quả ác. Thí như Tây Thi nhăn mày than đau bịnh. Trang Tử chép: Tây Thi đau tim nhăn mặt trong làng, người xấu trong làng thấy đẹp, bèn về vỗ ngực mà nhăn mặt, người giàu trong làng thấy thì đóng chặt cửa chẳng ra, người nghèo thấy thì đánh vợ con mà bỏ chạy. Người ấy biết nhăn đẹp mà không biết lý do nhăn đẹp. Huyệt là chìm sâu, phi là bay cao hai câu này ở trong văn Mao Tường Lệ Cơ nói: Như một cô gái người thấy thì yêu thích, chim thấy thì bay cao, cá thấy thì lặn sâu. Nay văn đem hai câu này cùng thành văn Tây Thi, người ấy chú văn Tây Thi rằng: Lễ nghĩa đương thời mà dùng thì Tây Thi, quá thời mà chẳng bỏ tức là lân nữ. Phàm lễ nghĩa pháp độ của Tam Hoàng Ngũ Đế cũng như thô lê quất tụ, vị nó trái nhau mà đều ăn ngon. Cho nên lễ nghĩa pháp độ phải hợp thời mà dùng. Nay lại lấy áo khỉ vượn mà mặc cho Chu Công. Ấy thì răng nứu xé rách (cắn nát) hết. Xem người xưa cùng người nay cũng như khỉ vượn khác Chu Công. Tùy ý mình cũng giống như thế. Phải đúng lúc mà biến, biết nên làm hay không nên làm, đâu chỉ bắt chước vào ác mà không biết lý do vào ác. nay dùng dụ Tây Thi là để nói người vào ác tu quán. Căn lợi được lúc như Tây Thi, tánh nhiều tham dục như bịnh tim. Ở dục khéo tu như nhăn mày đẹp, càng thêm sáng sạch như càng đẹp. Căn độn thất thời như cô gái lân cận. Trí không phải khéo léo như vốn xấu, vào ác như bắt chước nhăn mày chỉ làm lớn ác tà như di kịch. Có người làm Tướng quốc, vua Đại thần, v.v... họp người nghèo thì cách xa văn, lời không tương đương, lại không phải văn kế. Nay thử hợp thì thuận ý văn. Người Tiểu thừa như kẻ nghèo, người Đại thừa như người giàu. Người tu thiện như ở trong hang, người tập tu định như đang bay, là bốn thứ người chẳng ưa thấy ác, thấy ác ấy thì càng tự cố gắng. Niết-bàn Tiểu thừa là dời xa, Bí Tạng Đại Thừa như đóng cửa, giữ giới bền chắc là lặn sâu, tâm mong hẹn thượng giới là bay cao. Văn trước là nêu lỗi của bổn sư, văn này là nêu lỗi của đệ tử. Như thế mà nêu lên giải thích thì gặp văn. Các người ấy trở xuống là lại trách. Tham dục điên nên đuổi theo sấm sét dữ, phàm phu quán không như ruồi xanh mà mà chuyên vào ác là dục đờm dãi. Lỗi thầy trở xuống là nói lỗi thầy mê ý chỉ sai cơ, vị thầy này chẳng hiểu lời nói vào ác. Kế dẫn ý Phật có pháp thí hợp. Pháp đầu như văn. Thí như trở xuống là nêu thí dụ. Nóng nhiều cấm miệng phải dùng huỳnh thang mà trị, chẳng thể tiếc răng mà phải chết. Khởi tham dục nặng như quá nóng, chẳng nhầm đối trị như cấm miệng, pháp theo ý mình như huỳnh thang. Ở ác tu quán như cạy răng. Vào ác tuy xấu nhưng để giữ gìn tuệ mạng. Theo ác chẳng quán như đổ thuốc không vào. Phật cũng như trở xuống là hợp. Chung hợp đậu cơ. Trước trong ác cơ nói như ngựa chạy nhanh, v.v..., kẻ lợi căn như ngựa chạy nhanh, khởi ác như lạc đường, nghe nói như bóng cây roi, dục dứt như đường chánh. Tạp A-hàm chép: Phật bảo Tỳ-kheo có bốn thứ ngựa: Một là thấy bóng roi liền sợ mà theo ý người cỡi; hai là roi chạm lông thì liền như trên; ba là roi phải chạm vào thịt thì mới sợ; bốn là thấu xương rồi mới biết. Kinh Hợp Dụ rằng: Ngựa đầu như trong xóm khác có người chết thì liền chán sợ, ngựa kế như trong xóm mình có người chết thì chán sợ, ngựa ba là người thân của mình chết mới sợ. Bốn là phải chính thân mình bịnh khổ mới sợ. Trong Giải Thích Điều Ngự của Đại Kinh quyển mười sáu cũng dùng dụ bốn ngựa nghe sanh già bịnh chết. Cho nên biết hai kinh đều dùng ý dụ của ba tạng. Nay mượn dụ này để đối bốn giáo. Ngựa chạy nhanh tức là viên cơ, tham dục tức đường đi. Nếu lấy ý tránh song mà thực hành tham dục thì đều không phải bốn giáo. Nếu người căn cơ cạn thấp kế dùng Biệt giáo cho đến thông tạng như ba ngựa kia ở trong viên cơ cũng phải xứng cơ mà phải có thiện, phải có ác. Nếu có trở xuống là cơ thiện. Phật nói có hai thứ trở xuống là kết bác bỏ. Công chống Phật mà sai vật cơ. Lại nữa, trở xuống là nêu thời kết lỗi. Văn đầu nêu thời nghi ở trong ác mà tập chỉ quán. Nay ông trở xuống là dẫn dụ dẫn sự. Ba phá hoại trở xuống là kết lỗi. Không phải lúc có nạn chẳng nên dùng ác, sao ý thuần dụng v.v... là dẫn kinh nêu giải thích. Sự chẳng được nên khiến ở ác mà tu, ông chẳng quán cơ thuần khiến dùng ác như các ngoại đạo thường dùng tà thường. Nên Đại kinh nói thí như thầy thuốc xưa thường dùng thuốc sữa, như ngoại đạo kia chỉ nói tà thường. Khách thầy thuốc Như lai cấm uống sữa, như nói vô thường để phá tà thường. Thành vô thường rồi lại dùng chân thường mà phá vô thường. Hai sữa mới cũ, tên sữa tuy đồng mà nghĩa tà chánh khác, tiến thoát thích hợp, không đồng ngoại đạo chỉ dùng tà thường, đầu độc tuệ mạng người. Nay cũng như thế. Đã dùng chẳng phải nghi mà tổn hại tuệ mạng người. Cho nên Ahàm trở xuống là dẫn việc trong kinh để chứng hợp thời là ý kết lỗi. Kinh Tăng Nhất quyển bốn mươi sáu chép: Trâu hợp bầy có lợi ích lâu dài. Kết dùng bài tụng rằng:
Hiểu sắc và tương ưng
Chà sạch vết lở loét
Thả khói và cỏ tốt,
An ổn và qua khỏi
Thời nghi để lại dư
Hộ nhau ở trâu lớn
Tỳ-kheo cũng như thế
Biết sắc bốn đại tạo
Khéo biết tướng trí ngu
Chà sát sáu tình căn
Khéo che mười tưởng lành
Truyền chỗ tụng làm khói
Bốn ý chỉ cỏ tươi
Mười hai bộ chỗ an
Tám chi Thánh chỗ thoát
Chớ nhận thỉnh xem thường
Gọi là biết thời nghi
Biết đủ là dư thừa
Kính hộ là tướng hộ.
Phật nói kệ rằng:
Thả trâu không buông
Người chủ sẽ được phước
Sáu trâu trải sáu năm
Xoay vần sáu mươi trâu
Tỳ-kheo giới thành tựu
Đối thiền được tự tại
Sáu căn mà vắng lặng
Sáu năm thành sáu thông.
Nay văn dẫn kinh an ổn chỗ thoát qua tức là bờ bến, tức là chỗ lội nước qua sông. Đây gồm Tự hành hóa tha. Tự hành có nạn nên cho theo hiểm, như việc vua v.v... khiến ở ác mà tu, không nạn ác dứt thì phải theo thiện. Căn cơ khác cũng lệ theo như thế. Cần phải xét rõ. Lại nữa, trở xuống cho nên dùng các việc nước lửa mà xét. Lại chẳng trở xuống là trách sai cơ toàn khiến dùng ác. Tịnh Danh trở xuống là dẫn chứng. Nêu Nhị thừa để so sánh với phàm sư. Từ đó trở xuống là thương than. Thì biển giới, v.v... là dụ những người này ở trong Phật pháp gọi đó là chết. Luật chép: Ví như thây chết kia biển lớn không dung chứa, bị gió mạnh thổi giạt vào bờ. Phạm tội nặng như thây chết, các biển chẳng nhận. Làm pháp tẩn đuổi đi như gió mạnh thổi, ra khỏi chúng như giạt vào bờ gồm bày
Tự tha. Cho nên nói Hành, nếu chưa hành chỉ nói thì đồng lê tra, trái với tăng bình gián. Chỉ kết đề cát, nghĩa là đối với ác chứng đọa lỗi nhân pháp. Tự hành miệng nói. lại nói chứng đắc thì hai Di một Đề. Văn y cứ vào trọng Di cho nên nói đuổi bỏ. Nếu chỉ tự hành giáo tha thì một Di một Đề. Không khiến cây độc là dẫn dắt đuổi bỏ. Đại Kinh quyển ba chép: Ví như chỗ ở của Trưởng giả ruộng vườn nhà cửa sanh các cây độc, Trưởng giả biết rồi chặt phá dứt sạch. Nhà Trưởng giả là chỗ chúng thanh tịnh ở, cây độc là Tỳ-kheo phạm tội trọng, sanh ra sẽ chặt hết tức phạm thì phải đuổi bỏ. Kinh có ba dụ: Một là nước gần đến đánh trong cây độc có nhà; một là đầu có tóc bạc. Chương An hai giải thích chính dùng ý sau. Một là đối ba hoặc mà giải thích. Ny cứ gần đến đánh là dụ cho bốn trụ hoặc trí đánh nhau. Trừ tên cây độc, ví như trừ trần sa hoặc ngoại thể. Nhổ bỏ tóc bạc, ví như trừ bỏ vô minh hoặc đồng thể. Kế đối đuổi bỏ mà giải thích là trị đồng trụ đều học mà làm việc quấy. Tóc bạc là dụ trị đồng trụ đồng học mà làm quấy. Văn tuy dẫn một ý cũng gồm ba. Đồng trụ đều trụ, hoặc làm hoặc nói đều phải đuổi bỏ. Lại nữa, xét ác hạnh trở xuống là bác bỏ thầy tự làm hạnh riêng trái tâm. Trước dụng vặn hỏi mà nạn hạnh riêng. Thí như trở xuống là ví hạnh riêng ấy mà có chúng uế thanh. Nạn trở xuống là vặn hỏi trái tâm. Sở dĩ trở xuống là nói ý khuyên răn của phân biệt này vào ác giống dễ mà còn răn kiêng kỵ, đâu được ở đây mà khuyên tu. Như uống thang Huỳnh trở xuống là dụ răn kiêng kỵ. Vào ác xứng bịnh như uống huỳnh thang, chỉ ác làm đạo gọi là quá độ, cần phải luật giáo mà bổ để ngăn.
Hỏi: Chánh quán như nước, lý tánh như ngọc, các hạnh như gió, gió nhiều sóng dậy. Sự nghi xao động đổi dời khiến quán nổi đục, sao phải dùng bốn Tam-muội này. Hai phen trong đáp đều có thí hợp: Một là dụ người nghèo trách chẳng đủ. Nếu một trở xuống là hợp, nếu ở một thứ Tam-muội quán tâm liền đủ. Nếu tâm lạc hành và các nghi khác, vì sao lại vui với tâm lạc dục này. Nếu dụng trở xuống là hóa tha, tu hành đã như thế, hóa tha y theo tự hành này, thì trước sau khác nhau, tha cơ thì đó đây chẳng phải một thí như trở xuống là lại thí dụ. Lại cho tự hành một thức làm được, nếu dùng hóa tha chuyên nhất thì lỗi. Phiền não trở xuống là hợp. Trước y cứ một người, nếu hóa tha thì phải đủ bốn tất, bèn thành bốn phen bốn thứ Tam-muội, đâu chỉ là bốn. Kế y cứ nhiều người. Trước y cứ chung bốn thứ Tam-muội. Nếu là nhiều người thì đó đây đối nhau, lại phải 4.4, lại y cứ trở xuống là sao chỉ như vừa rồi bốn thứ Tam-muội đối nhau là bốn. Mỗi Tam-muội còn có bốn tất huống chi lại là bốn ư? Nếu lạc hành v.v... lạc hành trở xuống là thế giới, nếu gốc lành trở xuống là người, nếu khi ngồi trở xuống là đối trị, nếu khi đi trở xuống là nghĩa đệ nhất. Trước y cứ thường đi mượn ngồi đối mà nói, nếu chẳng đối nói chẳng thể chỉ nói thích đi thì đi chẳng thích chẳng đi. Ở đây lại mở môn biếng lười, sao gọi là cần đủ bốn thứ Tam-muội. Cho nên trước nêu rằng: Một thứ đủ bốn. Dưới lại kết rằng ba thứ kia lệ theo đó. Thường đi đã thế, nếu nói thường ngồi cho nên lại phải đối đi v.v... mà nói. Hỏi: Thiện phu trở xuống là phân biệt căn già. Thiện tức là ba thứ trên và tùy trong tự ý các kinh và thiện. Thiện này thuận lý có thể tu chỉ quán. Như luận Khởi Tín chép: đã biết pháp tánh thể không san tham, thuận theo tu hành đàn Ba-la-mật, v.v... Ác đã trái ý, sao chẳng bỏ ác ở thiện mà tu tập lại khiến ở ác tu chỉ quán ư? Đáp: Chỉ y cứ bốn câu nên phải quán ác. Đại luận quyển hai mươi bốn chép: Thế tôn trí lực biết chúng sanh căn thượng trung hạ, là người căn lợi thì vì kết chỗ già, cũng như Ương-quật, là người căn lợi chẳng vì kết giá cũng như thân tử, là người căn độn mà không kết giá cũng như Bàn-Đặc, là người căn độn mà vì kết giá, tức là các phàm phu. Luận nhờ Tiểu thừa cho nên dẫn bốn thứ này mà nói chung bốn giáo, so sánh phải có. Lại Luận văn nói chung Như lai khéo biết các căn chẳng vì căn lợi không quá làm đầu, nay nói tu hành cho nên dùng riêng căn lợi không giá mà làm thượng phẩm. Trước Thân Tử một nghe ba đế mà được sơ quả gặp cậu đọa phụ chúng A-la-hán. Đến Hội Pháp Hoa trước được thọ ký. Người đi trở xuống là nêu, nay dùng ví dụ, chuẩn nay mà biết xưa, dẫn hiện tại biết vị lai. Cho nên biết văn nay hai tu thiện ác tức là có giá không giá khác nhau. Vì phá giá nên phải có tu tập. Xưa không hai nghĩa, là xưa đã chẳng từng ở thiện tu tập, cho nên thiếu căn lợi không giá. Câu kế như Xà vương Ương-quật là nói đã nhờ tiểu nên không có Xà vương. Nay hiện có gió cho nên đều nêu, Xà vương gây ra tội nghịch buộc rất chặt, ngồi trong hội Pháp Hoa là chướng chưa phát, là chúng phàm phu nghe Diệu kinh này. Ở hội Niết-bàn cô phát chướng động tâm, sanh hối nhiệt khắp thân sanh ghẻ. Đời không có thuốc hay để trị thân tâm, là sáu thần tuy dẫn lời của sáu sư, (chẳng biết) có thể trị được bịnh nặng của ta (chăng), anh là Kỳ-bà dẫn đến chỗ Phật chỗ Phật cứu mạng mà hổ thẹn sợ sệt. Nghe nói ấm huyễn biết tội không sanh, như từ y lan sanh cây chiên đàn. Chướng trừ cơ thục, vô căn tín thành, phát tâm Bồ-đề nói nguyện rộng của mình. Nói vô căn tín, tức là vị Sơ quả của Tiểu thừa, Đại thừa tức là Biệt trụ viên tín. Ương-quật là như trong kinh Ương-quật được Vô sanh nhẫn. Trong kinh A-hàm trước nghe kệ Phật liền được sơ quả Nặc vương chết sau được A-la-hán. Chướng tuy chẳng bằng Xà vương gây ra tội nghịch, đã thành phương tiện hại Phật và mẹ gồm giết chín trăm chín mươi người, như thế trọng giá bất chướng thì chứng pháp. Nhờ lợi căn nên khiến được như thế. Roi để khuyên cố gắng. Người tu thời nay trở xuống là nêu nay để so sánh, chính là để đáp lại câu ở ác tu quán trước. Khéo tự xét lường xem có thể làm được hay không. Nêu phải vào ác chuyên thiện lại lỗi, giống xưa khó biết chẳng thể nói thế. Thứ lớp ba câu như Bàn-đặc. Kinh Pháp Cú quyển một chép: Phật ở nước Xá-vệ có người tà kiến tên là Bàn-đặc mới xuất gia, bản tánh ngang bướng. Phật khiến năm trăm La-hán hằng ngày chỉ dạy, ba năm mới được một bài kệ. Văn nay y theo A-hàm Đại luận nên nói chín mươi ngày. Phật biết thương xót bèn gọi đến dạy cho một bài kệ, kệ rằng:
Giữ miệng nhiếp ý thân chớ phạm Như thế người tu được thoát đời.
Bàn-đặc cảm ân sâu của Phật mà tụng thuộc từ miệng. Phật bảo Bàn-đặc: Nay ông tuổi đã già chỉ tụng được một bài kệ. Người đều biết chẳng chẳng có gì kỳ lạ. Phải giải thích nghĩa ấy. Nói thân ba, miệng bốn, ý ba, quán chỗ khởi, xét chỗ diệt. Do đó mà sanh lên cõi trời, mà đọa xuống vực sâu, do đó mà được đạo Nê-hoàn tự nhiên. Phân biệt cho đến vô lượng pháp mầu. Tâm khai ý giải được A-la-hán. Do không già cho nên căn tuy độn mà dễ được đạo quả. Được đạo quả rồi thì năm trăm Tỳ-kheo thỉnh Ngài nói pháp chỉ dạy. Kế, Bàn-đặc đến đó ăn xong, các ni đều cười. Lên tòa xong tự hổ thẹn nói rằng: Tôi đức mỏng may được làm Samôn, trước rất ngu ngơ, học được một bài kệ chỉ biết sơ nghĩa lý nay sẽ nói. Các ni trẻ biết trước kệ ấy muốn đọc trước nhưng miệng không mở ra được, nên rất sợ sệt hối lỗi. Bàn-đặc do đó y lời Phật nói thứ lớp nói bày, các ni đều được quả A-la-hán. Sau Nặc vương thỉnh Phật và các Tỳ-kheo ngồi trong chánh điện. Phật muốn thử thần lực khiến tay Bàn-đặc cầm bát đến trước trước cửa cung, người giữ cửa không cho vào, bèn ở ngoài cửa mà thò tay đưa bát. Vua kinh sợ hỏi Phật: Tay ai thế? Phật nói tay Bàn-đặc. Vua hỏi chỉ tụng một bài kệ đâu được như thế? Phật nói: Tuy tụng ngàn chương mà không hiểu nghĩa thì có ích lợi gì, chẳng bằng một yếu nghe mà diệt được ý, tuy tụng ngàn chương không hiểu nghĩa thì có ích lợi gì, chẳng bằng mười yếu nghe làm được độ. Tuy tụng ngàn chương không hiểu thì có ích gì, hiểu một câu câu pháp, nghe có thể được đạo. Hai trăm Tỳ-kheo nghe xong liền được A-la-hán, vua và phu nhân không còn nghi. Kệ này đối kẻ cực độn mà mà nói đâu thể so với người học rộng tăng trí tuệ. Đọc nhiều các luận khác thì biết ý của Trí Giả. Như thế đều có ý chớ dối lấy bỏ. Như kinh Tăng Nhất quyển sáu chép: Anh thấy em tụng pháp cú khó khăn nên nói rằng: Ông nếu chẳng thể tụng pháp cú thì trở lại làm người tại gia, người em nghe liền đến trước cửa Kỳ-hoàn đứng khóc. Phật thấy hỏi thì đáp đủ như lời anh nói. Phật bảo thành Bồ-đề có thể do anh ông. Phật nắm tay dắt về Tịnh thất khiến tụng Tảo-chửu, còn gọi là Trừ Cấu. Bàn-đặc nghĩ rằng: Tro đất ngói đá trừ sẽ được thanh tịnh, trói buộc là cấu, trí tuệ là trừ, nay dùng trí tuệ mà quét ty cứ trừ hết các cấu. Văn nay đã dẫn văn kệ tức ở Đại luận và Đại Kinh quyển hai mươi bốn. Kinh chép: Bốn sự là nhân Niết-bàn, nếu nói siêng tu khổ hạnh là nhân Niết-bàn thì không có việc ấy. Cho nên Bàn-đặc suy nghĩ một bài kệ thì được quả thứ tư. Nói Cưu-ma-la, Hán dịch là Đồng Chân, cũng dịch là Hào Đồng, cũng dịch là Danh Đồng, tức Đồng Kệ Chân Vô Nhiễm. Ba nghiệp vô nhiễm thì được quả vô nhiễm. Nếu y cứ vào được quả thì quá khứ cũng chẳng phải hoàn toàn chẳng tập quán. Năng lực quán mỏng yếu cho nên căn vẫn độn. Vì không ngăn cho nên nghe dễ được đạo. Thứ lớp bốn câu, rất dễ hiểu dưới là kết khuyên. Đạo là Thừa chủng, hai hạnh Tín pháp có thể đều là thừa, cũng đều được gọi là chỉ quán, cho nên khuyên người tu chẳng thể bỏ mà chẳng tu tập Thừa chủng. Đại kinh chép: Trở xuống là dẫn thừa giới bốn câu giải thích thành căn già bốn câu. Thứ sáu chép: Nếu người không giữ giới thanh tịnh thì thêm tổn bớt, nếu có người giữ giới thanh tịnh thì chẳng mất bày giới. Nầy người thiện nam! Đối với thừa mà hoãn thì gọi là hoãn, đối với giới hoãn thì không gọi là hoãn. Bồ-tát đối với tâm Đại thừa này chẳng lười biếng, đó gọi là vâng giữ giới. Văn kinh trước nêu sự giới. Kế người thiện nam trở xuống là nêu thừa huống chi giải thích. Nếu không có Đại thừa dầu có sự giới cũng không gọi là vâng giữ giới. Nếu có thừa dầu nói giới hoãn cũng chẳng gọi là hoãn. Chính ý muốn cho thừa giới đều gấp. Nay thừa nhà đây mở thành bốn câu để đối căn già, căn già là quả, thừa giới là nhân. Cho nên có giá do giới hoãn, căn độn do thừa rộng. Đều gấp thì căn lợi không giá, đều hoàn thì căn độn có giá giới cấp thừa hoãn thì căn độn không giá, thừa gấp giới hoãn thì căn lợi có giá. Kinh nói thà làm v.v... là dẫn chứng về thừa. Cho nên Nguyện Văn của Lương Võ Đế nói: Thà làm Đề-bà-đạt-đa chìm mãi trong địa ngục, chẳng làm Uất-đầu-lam-phất tạm được sanh lên cõi trời. Cho nên biết Điều-đạt tụng kinh rồi là Tín hạnh thừa chúng, tuy đọa địa ngục nhưng cũng do đây mà được thoát. Còn Sư Lamphất Định không thừa xuất thế, dẫu được sanh lên cõi trời thì vẫn phải chìm trong đường ác. Phải siêng nghe, v.v... là khuyên tu thừa. Nghe tức là tín hạnh, tư tức là pháp hạnh, hai hạnh đã siêng thì trí căn sẽ lợi. Như Bà-la-môn say rượu đi là dẫn chứng về giới. Đại luận quyển mười ba chép: Khi Phật ở tại Kỳ Hoàn có một vị Bà-la-môn say rượu đến chỗ Phật muốn làm Tỳ-kheo. Phật sai các Tỳ-kheo cạo tóc và mặc ca-sa cho. Khi tỉnh rượu rồi thì sợ hãi thấy thân bỗng biến thành Tỳ-kheo, liền bỏ chạy. Các Tỳ-kheo hỏi Phật. Vì sao cho Bà-lamôn say làm Tỳ-kheo rồi cho trở về, Phật nói Bàla-môn này trong vô lượng kiếp không có tâm xuất gia. Nay do say mà tạm phát tâm chút ít. Do duyên này nên về sau sẽ xuất gia. Các thứ nhân duyên xuất gia mà phá giới như thế còn hơn tại gia mà trì giới. Vì giới tại gia chẳng phải giải thoát. Cô gái giỡn chơi mặc áo ca-sa, Như kinh Uất-bát Tỳ-kheo Bản Sanh chép: Khi Phật còn tại thế, Tỳ-kheo ni này đã được quả A-la-hán có sáu thần thông vào nhà người giàu sang thường khen xuất gia, bảo vợ và con gái các nhà giàu sang rằng: Chị hãy xuất gia. Các cô gái chép: Tôi còn trẻ đẹp sợ sẽ phá giới. Tỳ-kheo ni chép: Muốn phá thì phá. Các cô gái hỏi phá giới có đọa địa ngục chăng? Tỳ-kheo ni nói muốn đọa thì đọa. Các cô gái cười nói đọa địa ngục thì phải chịu khổ. Tỳ-kheo-ni nói: Ta nhớ kiếp xưa, lúc ta là cô gái giỡn chơi mặc các y phục. Có lúc mặc áo Tỳ-kheo-ni mà đùa giỡn. Vì nhân duyên ấy mà thời Phật Ca-diếp ta làm Tỳ-kheo ni, tự ỷ mình sang trọng xinh đẹp, tâm sanh kiêu mạn mà phá giới cấm. Vì Phá giới bị tội nên phải đọa địa ngục chịu các khổ. Chịu tội xong rồi gặp Phật Thích-ca, xuất gia đắc đạo, thành A-la-hán, sáu thần thông tự tại. Cho nên biết xuất gia thọ giới đều ở từ xưa, xem là nhân xa. Cho đến khi gặp Phật được quả đều do nhân xưa, cho nên cô gái đùa giỡn còn xa giúp thừa chủng, huống chi là giới ư?
Trong quả báo thứ ba ở trước là chánh nói quả báo là ở cõi Thật Báo. Nếu nói cõi Thật Báo Vô Chướng Ngại thì ngoài Phương Tiện Hữu Dư. Nếu nói quả báo riêng thì tên ấy cũng chung. Cho nên ở Biệt phân biệt thông đối mà hiện diệu, trái rộng mà thuận hẹp. Diệu khắc bên thông thâu giáo, bèn nhiếp khắp người mới khắp. Cho nên đối Phương Tiện Đồng Cư gọi là biên, riêng dùng Thật Báo thuận gọi là Diệu, cho nên nếu chưa phá vô minh, chưa chứng Trung đạo thì đều gọi là trái. Sơ trụ trở lên chỗ pháp thân ở mới gọi là thuận. Cho nên sáu đường Bồ-tát Tam Tạng thông ở hai địa đầu, hai giáo vị phương tiện Nhị thừa. Biệt viên ngoại phàm, đây đều thuộc có biên. Báo ở giới nội, người học hai giáo biệt bảy trụ về trước, viên bảy trí về trước tàn tư chưa hết cũng có quả báo Hữu Biên quả báo, hai giáo Nhị thừa chung bảy địa trở lên, biệt bảy trụ trở lên, viên bảy tín trở lên, thuộc về không biên, báo ở trong cõi Phương Tiện, Biệt giáo Hạnh Hướng, viên bảy tín trở xuống dẫu phá trần sa và hàng phục vô minh, trần sa đã chẳng nhuận sanh giới ngoại, kéo bào đều do vô lậu làm nhân. Sở dĩ ở cõi Phương Tiện đều thuộc về không biên. Chỉ có Sơ địa, Sơ trụ của Biệt viên mới được diệu quả báo. Không có hai bên gọi chung là quả báo. Thông có báo do nhân cảm quả chưa vào thật báo nên gọi là Thô. Nếu chưa xuất trở xuống là nói Tập quả, nói quả báo là từ báo quả làm tên. Nếu phá vô minh được Vô sanh nhẫn. Nếu chưa ra khỏi phần đoạn cũng chưa vào diệt, độ ở gọi là hoa báo. Nói khác bảy thứ phương tiện, là đồng y cứ nói theo hoa báo. Nếu bảy phương tiện sanh cõi Phương Tiện. Tướng độ cũng phải chẳng kém Hương Thành. Đại luận chép: Từ đây đi về phía Đông năm trăm do-tuần có một tòa thành lớn tên là Chúng Hương, thành ấy có bảy lớp báu trang nghiêm, bảy lớp hàng cây báu. Thành ấy rộng mỗi bề đều hai ngàn do-tuần có năm trăm chợ búa đường đi, tòa cao năm dặm, các thứ trang nghiêm. Mỗi ngày ba thời nói Bát-nhã, trăm ngàn chúng sanh nghe Bátnhã, thường siêng cúng dường, đã nói năm trăm do-tuần phải biết cách năm trời chẳng xa. Luận hỏi Bồ-tát Đàm-vô-kiệt là sanh thân hay hóa thân? Nếu là hóa thân, sao dùng sáu muôn thể nữ, vườn rừng ao tắm để tự vui chơi. Nếu là sanh thân, vì sao có thể khiến đồ cúng ở trên hư không hóa thành đài báu, vào các Tam-muội, trải qua bảy năm. Có người nói được các pháp thật tướng và các Tammuội, năng lực thần thông vì muốn độc thoát chúng sanh thành này. Như các Bồ-tát khi các thiền thì cũng vào dục pháp, nhiếp các chúng sanh, cho nên thọ dục lạc mà chẳng mất thiền định. Như tránh nóng vào nằm trong bùn, tăm gội thì như cũ. Phàm người căn độn chẳng thể như thế. Cũng nói hóa thành đài báu tuy là sanh thân chưa lìa phiền não mà tu tập được tất cả pháp lành. Có người nói là pháp thân, nếu sanh thân vì sao khiến Phật mười phương khen ngợi, lại khiến ba luân được sáu muôn Tam-muội. Nay nói đã dứt vô minh sẽ ra khỏi phần đoạn, nếu là chúng sanh thì chưa ra khỏi phần đoạn. Hoa báo như thế, bảy phương tiện tức là trời người, Nhị thừa, Bồ-tát ba giáo riêng lấy giáo đạo Địa tiền vị. Nghĩa này sau chỉ rộng đến chương lớn thứ tám mới nói rộng. Sau rốt tuy duyên thiếu chẳng nói nhưng ngại gì đến đây lại chỉ văn sau. Thứ chín thứ mười chỉ sau cũng. Hỏi trở xuống là phân biệt. Ý hỏi trong thiền thứ nhất đại chương thứ bảy là nói tu chứng. Do tu mà được chứng nên nói tu chứng. Chứng tức là quả, có đồng khác gì với quả báo này. Trong ý đáp rằng: Tu và chứng tuy giống nhân quả nhưng chỉ là tập nhân tập quả. Cho nên chép: Tu gọi là tập hạnh, tức là tập nhân. Chứng gọi phát đắc, tức là tập quả, đều ở hiện đời. Nay nói quả báo, v.v..., quả báo đã ở đời sau nên khác nhau với thiền môn. Nhị thừa chỉ có tập quả, v.v... là xếp Đại Tiểu thừa. Tên quả báo nói chẳng hợp tiểu, tuy được La-hán nhưng chỉ gọi là tập quả. Tập quả mất rồi chẳng nói có sanh. Cho nên giáo pháp Tiểu thừa chẳng nói Nhị thừa còn có chỗ. Nói cõi Phương Tiện là xuất phát từ đại giáo. Bốn là nói xé rách lưới to. Xé rách là phá chấp lưới nghi ở quyền giáo. Văn trước cùng dứt lưới nghi tự tha, cho nên nói chung là xé rách. Cho đến phải hiểu các giáo Tiệm Đốn xuất xứ từ một tâm, nếu chẳng khéo dùng quán không thể nghĩ bàn mà cảnh quán một tâm không thể nghĩ bàn thì do đâu mà xé rách được nghi lớn chấp giáo. Nếu muốn trở xuống là vì lợi tha cho nên xé rách lưới nghi cho người. Nay nói quả báo lại nói Sơ trụ vì mới được. Vượt bỏ khoảng giữa nên nói cho đến Thánh Phật tức chỉ Diệu giác. Sơ trụ trở xuống có thể thông tám tướng mà xé lưới nghi lớn, nên nói xé lưới. Từ đây trở xuống mỗi tiết sanh khởi mười hóa pháp giới. Cho nên Pháp vương cho đến tám bộ đều nói hoặc. Nói đốn tiệm là đều như nay Phật trước đốn sau tiệm. Đối dương và chuyển được phân biệt như trước. Chúng sanh căn cơ thuần thục phải nhờ Bồ-tát nương năng lực Phật mà đáp, Và lập câu hỏi, v.v... thì Như thế tự tha đều do Diệu quán kế với diệu cảnh, cho nên có diệu dụng như thế. Thứ năm là qui đại xứ, văn trước chỉ qui, lại ý trong tựa chung nói: Hễ keo dính tay, v.v... là tâm tánh như tay, hoặc trước như keo, tùy văn đối trệ mê ở chỉ thú. Luận Bà-sa quyển hai mươi bốn chép: Thí như có núi người và thú cùng ở, chỗ khỉ vượn ưa đi thợ săn phủ cỏ lên trên keo dính, khỉ thông minh thì tránh xa, khỉ ngu không biết, lấy tay rờ nhẹ thì keo dính tay, lấy tay kia gỡ ra thì keo lại dính luôn tay ấy, bèn cả chân và miệng đều bị kính keo, nằm dài dưới đất, thợ săn dùng gậy gánh về. Tỳ-kheo cũng như thế, chẳng giữ căn môn bị ma Ba-tuần gánh về. Đại Kinh quyển hai mươi ba đồng. Nay người tu cũng như thế. Chẳng biết giáo tướng, chẳng hiểu chỉ qui, tùy văn mà chấp dính tướng đúng sai, chẳng những không đến được mà mộng sẽ ngủ say, ngủ say thì khó thức. Pháp tánh chấp nặng khó dứt gọi là khó thức. Phong văn, Phong là đóng, là lấp. Các giáo, các môn, các đế, các tất tùy một đều chấp, nên nói tề ý. Cạnh chấp, v.v... đây tức là ý dụ ao xuân của Đại kinh như trước đã giải thích. Cận sự, v.v... như người ngu si chỉ điểm hiện sự, lời bày thế gian còn chẳng biết, huống chi là lý Trung đạo xa viên thường, Mật giáo đâu thể hiểu. Đây bèn một lần nêu mà so sánh bác bỏ. Cũng có người chẳng hiểu lời thế gian mà đạt lý xa như Thiền sư Đốn Ngộ chùa Đạo Thọ ở Cối Kê ngộ được lý sâu mà chẳng hiểu việc gần làm trích từ sớ kinh Niếtbàn, v.v... Chỉ qui trở xuống là giải thích tên. Văn là giáo, chỉ là ý, qui là thú (chỗ đến). Ý giáo chỗ đến gọi là chỉ qui. Như nước trở xuống là nêu thí dụ. Ny cứ lửa như giáo pháp, thú hướng như văn ý, biển Không như chỗ đến. Cho nên biết, nếu Mật giáo hiểu lý xa thì chẳng xét Hiển giáo, chẳng dính mắc lý gần. Thí như trở xuống là lại thí dụ Mật giáo. Thần, Thuyết Uyển chép: hạnh của thần có sáu chánh sáu tà: Một là dấu băng chưa hiện thấy, cơ còn mất gọi là Thánh thần; Hai là tiến thiện thông đạo, công thuộc về vua, gọi là Đạo thần; Ba là thân hèn tiến hiền xứng cổ làm việc để khích ví dụ ý chúa, gọi là Trung thần; Bốn là xét trước thấy cuối không lo lắng, gọi là Trí thần; Năm là giữ văn vâng pháp, ăn uống tiết độ, gọi là Trinh thần; Sáu là quốc gia rối loạn mà chẳng nghiêm sắc răn dạy thì chúa phạm lỗi. Nói lỗi của chúa mà thân chết nước an thì gọi là Trực thần. Nay tuy nói nghĩa trí gồm Thánh đại, các thứ kia chẳng phải là ý văn. Nói Mật ngữ, Đại Kinh chép: Muối, nước, bình, ngựa, một tên mà bốn thật. Trí thần khéo biết, khi rửa thì dâng nước, khi ăn dâng muối, khi uống dâng bình, khi đi dâng ngựa. Vua đều chỉ chép: đem Tiên-Đà-bà đến. Câu-xá cũng dùng chín nghĩa mà lập một tiếng Cù. Chương An chép: Bốn nghĩa này cũng cùng bốn giáo, bốn môn, bốn câu ý đồng. Đều phải thứ lớp đối bốn thứ muối v.v.... Văn kinh tự hợp. Trước đối bốn thứ vô thường, kế đối bốn thường, đó là bất động, vô tướng, bất biến, Phật tánh. Bốn thứ này cũng là tên khác của bốn môn, cũng có thể dùng đối lý bốn giáo. Tùy nghĩa mà nghĩ, cũng có thể hiểu. Lại như bốn thứ bối mạt, v.v... trong kinh Hợp Dụ, Dụ cho bốn thứ Thường, v.v... có lúc mượn dụ mà dụ cho bốn môn. Ý kinh dẫu khác mượn dùng không lỗi, huống ý dụ này kia đây chẳng khác. Nói Mật là như bốn giáo bốn môn đồng tên có đẳng. Bốn giáo chỉ khác chỗ nói khác nhau. Nếu chưa khai quyền chẻ thật thì gọi là Mật. Nếu khai quyền rồi không ngoài thì nói là mật. Tự chẳng phải Bồ-tát mật biết khai quyền giáo trở xuống là chỉ qui, do đâu mà hiểu được chỉ qui ba đức, làm chỗ nương của trí gọi là Trí, gọi là Trí địa, sanh ra trí nên cũng gọi là Trí địa. Đây là y cứ hoằng giáo mà giải thích. Lại tự nhập trở xuống là y cứ tự hành hóa tha, phân chữ để giải thích. Kế là trong rộng giải trước, chánh giải thích ba đức, kế mượn hai chữ "chỉ qui" để giải thích. Văn trước là nói hai giải chung riêng. Nhưng trong văn này y cứ nhiều nghĩa mà làm chữ chỉ. Chỉ là chuyển biến, năng chỉ là giáo, y cứ vào năng hóa mà khiến người khác trở về ý chỉ của ba đức. Nên viết chữ chỉ, ý năng hóa là ý ở ba đức, nên nói là an trí. Các con trong Tạng Bí Mật là hóa xong cũng tự vào ba đức, nên nói ta chẳng bao lâu cũng trụ trong đó. Nói tướng chung là chỉ chung cho ba đức, chưa ở ba đức lại đều mở ba. Đại Kinh trở xuống là dẫn chứng. Hỏi: Nếu thế, Như lai chứng ba đức đã lâu, vì sao nay mới nói chẳng bao lâu tự vào trong đó. Đáp: Y cứ hóa nghi mà nói không phải hoàn toàn tự hành. Từ chân mà khởi phải bày đồng phàm phu, hóa đạo muốn nhiếp trọn vẹn thì phải về gốc. Cho nên bày diệt để nói lên tự hành diệt. Trong rừng Song thọ nói lên bốn niệm xứ cũng giống như thế. Cho nên Phẩm Ai Thán chép: nay Ta phải khiến tất cả chúng sanh và bốn bộ chúng các con của ta đều an trụ vào kho Bí Mật. Ta chẳng bao lâu cũng tụng trong đó mà vào Niết-bàn. Kế là nói tướng riêng, đối với đức đều khai ba đức, như thân có ba, hai thứ kia cũng như thế. Chẳng lẽ có khởi ứng mà không có hai đức, hai thứ kia cũng như thế. Nói dứt hóa, là hóa duyên đã hết liền bày vào Niết-bàn, tức là bày về ba Đức Bí Tạng. Kế y cứ không thể nghĩ bàn là cùng ý chung riêng, trước cũng rất giống, chỉ chẳng nêu riêng tên ba thân, ba trí, ba thoát. Ngay đây gọi là thân chẳng phải thân. Vì sao như thế? là nói chung riêng, trước đều làm sáng tỏ nhau. Lại các kinh luận hoặc có lúc gọi thẳng là thân, chẳng phải thân, v.v... tức là một đức có đủ ba đức không thể nghĩ bàn. Kế lại y cứ sự lý trước sau mà giải thích. Ý không thể nghĩ bàn cũng trước chung sau riêng. Trước nói chung là chung y cứ ba tướng cho đến ba đức, đức chướng đối nhau, chẳng khác mà khác. Nếu y cứ lý nói đức chướng, chẳng hai cũng chẳng nói. Nhưng y cứ sự mà nói tên chướng chẳng mới, y cứ bản mà nói tên đức chẳng cũ, y cứ tu được nói sự lý không hai, chẳng hai mà hai. Cho nên mỗi câu đều nói chẳng phải mới chẳng phải cũ mà mới mà cũ. Y cứ tu mà được, nên từ đức đặt tên y cứ tánh mà được, nên gọi là ba chướng. Cho nên có năng chướng, sở chướng, có xưa có nay, có thỉ có chung. Nếu y cứ lý thì không có năng sở, cho đến thỉ chung. Lại nói trở xuống là dùng riêng ba hoặc mà đối ba đức. Nếu đạt trở xuống là kết chung riêng trên. Nói ngang dọc khai hợp, v.v... là nêu ví dụ văn nêu phải trước pháp thân, kế nêu Bát-nhã, sau nêu giải thoát nên gọi là tụng. Y cứ nghĩa mỗi nghĩa lại mở thành ba, nên gọi là (ngang), cũng gọi là khai, ba chỉ là một nên gọi là hợp. Phát tâm làm đầu, rốt ráo làm cuối, lại vườn Nai là đầu, Song Lâm là cuối. Như thế ngang ngang khai hợp thỉ chung (đầu cuối) đều phải dùng không thể nghĩ bàn và mới cũ mà giải thích hành tướng. Cho nên nói ví dụ đều như thế. Kế là nói theo hai chữ chỉ qui. Năng chỉ cho năng qui tức là giáo ba đức, sở chỉ sở qui tức là lý ba đức. Cho nên lại một thứ này mà giải thích. Ba đức chỉ qui trở xuống là hội tên khác. Ba đức đã được thâu khắp các pháp, cho nên phải hội tất cả tên khác. Phải biết trở xuống là kết. Tương là pháp thân. Thuyết là Bát-nhã, lực là giải thoát. Ba đức đều nói các thứ là trong mỗi đức đều có tất cả pháp, lại gồm thâu nhau nên nói các thứ. Tuy nói các thứ mà chẳng ngoài ba đức, một kho Bí Mật, sao chỉ pháp môn ba đức nhiếp hết. Hóa nghi nói lên cũng chẳng ngoài ba. Như trong Hoa Nghiêm, Giá-na là pháp thân, Xá-na là Bát-nhã, Thích-ca là Giải thoát, Phật là Bát-nhã, đài là pháp thân, tọa là giải thoát. Trong Tịnh Danh tự nghĩ nằm bịnh ngủ trên giường. Giường là pháp thân. Ngủ là Bát-nhã, bịnh là giải thoát. Giường là chỗ nương, nằm ngủ là năng khế, bệnh là thị hiện. Trong Bát-nhã thì thân là pháp thân, ánh sáng là Bát-nhã. Nói là giải thoát. Trong Pháp Hoa thì y (áo) là pháp thân, là Bát-nhã, (nhà) là giải thoát. Lại Bản là pháp thân, tích là giải thoát. Bản tức chẳng hai, là Bát-nhã. Trong Niết-bàn thì nói ba đức như trước đã nói. Nếu sở biểu, thì bốn khô là Bát-nhã, bốn tươi là giải thoát, cùng chẳng sai là pháp thân. Như chỉ qui Phật này nếu chưa hiểu Bồ-tát còn muội huống chi là Nhị thừa. Nay vận ở Tượng mạt, nhìn kỹ chân văn này. Nếu không phải do đời trước đã trồng nhân tốt thì thật là khó gặp, huống chi là mười thừa, mười cảnh, phát xuất từ một nhà. Mười giới mười phi ở chỗ chưa phân biệt. Giáo hạnh không y cứ làm sao chỉ qui. Lại như sáu tông tình hẹn rất đồng, chín tông nói bày hơi khác. Trang sanh qui ở tự nhĩ. Lão tử chuyên khen bỏ xa xí huống chi cúng tế dê ngựa, nhân vời ba ác. Cúng tế nem chả quả bị đốt cháy. Như thế chỉ qui sơ thú chẳng xa, còn chẳng bằng trời người, có quan hệ với tạng thông lậu tận. Như chỗ chấp trước đâu biết phàm có nói gì đều trộn như một. Nguyện các người đồng gặp nên sanh tâm mừng rất may mắn, mong đời sau lại được nghe mà sớm khế Vô sanh nhẫn.
Chương lớn thứ hai giải thích tên. Hễ đặt tên khác nhau. Như Đại Kinh chép: Hoặc có nhân duyên như Mục-liên, v.v... hoặc không nhân duyên như Đào mận, v.v... Niết-bàn cũng như thế. Không có nhân duyên gượng ép đặt tên. Chỉ quán cũng ép đặt chỉ quán. Tức đây không nhân gọi là có nhân, vì chúng sanh nên tùy cơ mà lập gọi. Như y theo tên thế gian mà gọi là xuất thế. Cho nên các Thánh trước đặt tên thế gian làm tên xuất thế để làm phương tiện. Mà tên thế gian ấy vốn là xuất thế. Cho nên Kim Quang Minh nói tên thế gian đều xuất phát từ kinh Phật. Cho nên biết các tên pháp lý mà đặt tên, đã pháp lý thì lý cũng do tên. Cho nên giả mượn Diệu danh để nói diệu lý. Trang Tử nói "đời quý nói truyện thư chẳng đáng quý." Trang đã dùng nói truyện Thư thì Trang chẳng đáng tự quý. già chết chép: Biết thì chẳng nói, nói thì chẳng biết mà có nói thì đồng chẳng biết. Ý muốn thiên hạ không nói, chỉ riêng bày lời nói của mình. Bất ý lại dùng không nói mà tự bác bỏ người đời, bị lời tự bác bỏ này mà ngầm bác bỏ, lại coi là rất lầm. Ở đây thì chẳng thế. Do bẫy được thỏ được rồi quên bẫy, bẫy nào có mất cái gọi là thỏ. Chữ nghĩa giải thoát mà gọi đây chăng. Đặt tên chỉ quán, ví dụ theo đó sẽ thấy. Trong phân biệt trước gọi là nói rộng, cũng gọi là chung riêng. Chung riêng hai văn làm sáng tỏ lẫn nhau. Cho nên văn trước nói sanh khởi năm lược, hiển ở mười rộng. Lại trước lược sau rộng là giải nghĩa, trước rộng sau lược là nhiếp trì. Nay giảng nói trước lược giúp nghĩa dễ hiểu, nếu vì hai người lợi độn thì khác nhau. Như Đại Kinh quyển ba mươi mốt, Phật bảo Xá-lợi-phất rằng: Ông cẩn thận chớ vì người lợi căn mà nói rộng pháp, vì người độn căn mà lược nói pháp. Xá-lợi-phất chép: Con vì thương xót mà nói, không phải vì đầy đủ căn lực. Phật nói: Rộng lược nói pháp, các Thanh văn Duyên giác không thể biết được. Kinh chép: Đậu cơ nên bác bỏ Thân Tử, nay luận giải thích gồm vì hai người, huống chi văn lược ở trước lại làm sanh hiểu, hiểu cũng chưa đủ cho nên ở đây luận rộng. Lại văn rộng này cũng cùng năm lớp huyễn nghĩa ý đồng. Năm lớp thì huyền đàm giáo chỉ. Nay thì y kinh khởi hạnh. Do đó kia là giải thích kinh, đây là thành quán. Cho nên thứ lớp hơi khác với kia.
Trước Thích Danh là nêu tên, kế Thể tướng là bày thể. Nhiếp pháp chỉ nói pháp, nhiếp thể phương tiện trở xuống ba tức là nói tông. Khởi giáo là dụng Thiên Viên xếp giáo. Đó là giải thích Pháp Hoa, lý phải phân Biệt giáo môn một đời. Cho nên giáo ở sau phân biệt bốn trước, đó là thành quán, quán do hiểu sanh. Danh thể thiên viên đều thuộc hiểu. Do giải lập hạnh. Cho nên kế giải, sau mới phương tiện chánh quán. Hạnh đầu là nhân, hạnh cuối là quả. Cho nên kế chánh quán thì nói quả báo. Tông là tự hành (lợi mình). Dụng là ích tha (ích người). Do tự hành đã tròn nên hay khởi giáo. Chỉ qui chỉ là tự tha khế nhau. Cho nên huyền văn kia dẫn phẩm Thần Lực mà y cứ giáo thứ lớp. Cho nên danh là dụng, thể là tông, nếu dẫn Phẩm Tựa mà y cứ hạnh thứ lớp, nên danh là thể, tông là dụng. Nay văn chánh ở hạnh y cứ thứ lớp, chỉ dùng giáo tướng ở tông, trước nên y theo trước sau như vừa nói. Nay giải thích tên, trước kết trước sanh sau cũng là ý đến thứ lớp. Đại đồ trở xuống là kết trước, lại vì trở xuống là sanh sau. Đồ là đường chưa luận rõ khê kính nên nói là đại đồ. Ngạnh là lược, khái là bình. Chỉ là thô lược nêu đại cương. Như ý lớn trước tự tha nhân quả hạnh giải lược đủ. Lại vì sao gọi là chỉ quán. Nên văn nay chia thành bốn môn. Nếu không giải thích này thì lấy gì mà nói công đức của danh thể. Cho nên bốn đoạn. Ba thứ trước chánh nói tên năng thuyên, một thứ sau là phụ lập lấy sở để hiển bày năng. Đợi thuyên thì thứ lớp, bặt thuyên thì không thứ lớp. Hội dị chỉ là tên khác của bặt đãi. Tướng đầu là (đối đãi) thì kia đây làm hình cho nhau, gọi là tướng, lấy người khác so với mình là đãi. Như dài ngắn lớn nhỏ cùng đặt tên. Trang Tử chép: Người cao bảy thước chẳng cho là lớn, kiến môn bảy tấc lại được gọi là lớn. Câu-xá Sớ chép: Đãi nghĩa là quán đãi. Quán trước danh sau là quá, quán sau danh trước là chưa. Cha con anh em lại cùng nhau được tên, so sánh đây sẽ thấy. Nay sám Pháp Hoa chỉ có hai diệu, đó là Đãi và Tuyệt. Nói Đãi là chỉ có đãi thô thành diệu, không có Đãi diệu thành thô. Nếu tích so với bản cũng có thể hổ hình. Nếu Bộ so với Bộ thì một bề chỉ là diệu. Nay y cứ Pháp Hoa Lý tích mà đặt hỗ hình. Do đó Huyền Văn đãi tuyệt đều gọi là Diệu. Cho nên lấy tướng bộ giáo mà so sánh thì lại có ngang dọc, so sánh bốn thời trước gọi là Dọc đãi. Viên so sánh ba giáo gọi là Ngang đãi. Văn này đã y theo ý kinh Pháp Hoa mà giải thích danh, v.v... đại khái y cứ theo đó. Tương đãi là thô nghĩa phải đãi thô nói diệu. Bặt đãi là diệu, nghĩa phải khai thô nói diệu. Hai thứ này cũng gọi là phế thô, khai thô cho nên trong Pháp Hoa chỉ nói hai Diệu, lại không có tên chẳng phải đãi, chẳng phải tuyệt. Đó là xếp giáo cho nên đãi và tuyệt đồng gọi là diệu. Nay tương đãi thì xếp vào thô, chỉ nói Tuyệt quán không có bộ để đãi thì không có dọc đãi, không có giáo để so sánh thì gọi là không ngang đãi. Cho nên chỉ một tuyệt để làm năng thuyên, tuy lập tương đãi để hiển bặt đãi còn không ở tuyệt, thì làm sao có đãi. Vì nói ba đức nên giả gọi là Tuyệt. Mượn tên tương đãi xếp vào nghĩ bàn cho nên chỉ bặt đãi mới gọi là Diệu. Do đó cảnh nghĩ bàn sau Phật giới tuy diệu, ở cuối giới gọi chung là thô, nên đều xếp vào không phải chỗ dùng nay. Kế cùng chẳng thứ lớp ý cũng như thế. Cho ý thứ lớp chỉ nói Diễn môn, dụng chung dụng riêng chỉ nói tợ chung tợ riêng. tuy nói chẳng dụng chẳng y cứ nghĩ bàn mà nói không thể nghĩ bàn. Khai ở Sở đãi để thành Năng tuyệt, tức là ý Diệu quán của văn nay Thích danh trở xuống là các nghĩa đều thế. Sở dĩ Thích Danh nói về, Đãi Luận tuyệt, thể tướng chỉ luận thứ và chẳng thứ. Nhiếp pháp sáu nghĩa, thiên viên năm môn cũng giống như thế. Tuy không Bộ hội để dùng đối luận. Lại mượn giáo vị để hiển bày Viên diệu. Cảnh cảnh mười quán chỉ ứng chỉ diệu còn mượn ngang dọc để hiển không phải ngang dọc. Cho nên biết văn một bộ cùng thành viên thừa khai quyền diệu quán, đâu chỉ một câu mà nói riêng cao sâu. Nếu y cứ đó khác nhau thể đạp. Bốn đoạn trong đây văn bốn nghĩa hai, ý chỉ ở một. Đãi tuyệt là hai, ý ở tại tuyệt. Lại sở một năng ba, cũng gọi là nghĩa một, dùng sở hiển năng nên nói ý một. Ba chỉ, tuy khai ba tên, tên cũng chung nhau, bao gồm ba đế chưa xếp cạn sâu đến trong Hiển Thể mới phân hơn kém. Ba nghĩa trong quán cũng giống như thế. Các quán ác giác, v.v... là nói giống kiết tư ý, lại nói chung, chỗ dẫn Tịnh Danh cũng lại chứng chung, Nếu mượn thể tướng văn đến đây dự nói, nghĩa là chỉ dứt kiến tư, dừng tâm ở chân lý. Chân lý không phải chỉ và chẳng chỉ. Nếu chỉ dứt trần sa dừng tâm ở tục lý, tục lý chẳng phải chỉ và chẳng chỉ. Nếu chỉ dứt vô minh dừng tâm ở trung lý. Trung lý chẳng phải chỉ và chẳng chỉ. Ở đây thì ba đế đều có ba chỉ. Quán cũng như thế. Y theo lời nói rất dễ hiểu. Cho nên văn dưới chép: Ba trước thành ba kế, một sau có đủ ba trước. Thứ lớp đã thế, một tâm cũng lệ theo đó. Kế trong đình chỉ duyên tâm lý đế và dẫn Nhân vương vào Lý Bátnhã, chung mà chưa riêng, ý cũng như trước. Cho nên trong đây nói lý. Chỉ nói Trí năng nhập, chưa nói Lý sở nhập.
Quán trung cũng như thế. Thứ ba trong chỉ nói lời chung mà ý khác. Trong đây cũng nói đối với chẳng phải chỉ mà nói chỉ. Lời giống văn trên, hai thứ chỉ trên là dứt đối chẳng dứt, dừng đối chẳng dừng. Nay dùng vô minh đối với pháp tánh một lượt xem qua vô minh dường như chẳng dứt chẳng dừng, pháp tánh dường như dứt dường như dừng. Cho nên lời chung ở trên. Ý thì chẳng thế, vô minh tức pháp tánh, pháp tánh tức vô minh. Thể đồng mà tên khác, đối nhau mà đặt tên.
Cho nên khác hẳn hai chỉ trên, hai thứ trên chẳng thể nói tức nhau. Cho nên nay y cứ riêng, chính là nêu chỉ tướng thứ ba. Nói riêng là vì hai thứ chỉ trên chỉ thuộc đường chung. Nói đường chung, là hai trì đều có một trí một dứt, bên dứt có trí, lại đối sanh tử. Tức y cứ Niết-bàn mà đặt tên dứt. Bên trí có dứt, lại đối lý ngoại. Tức y cứ Bátnhã mà đặt tên Trí. Đoạn nên gọi dứt, trí nên gọi dừng, trí y cứ năng đoạn. Đoạn y cứ sở đoạn cho nên trí đoạn nói chung hai chỉ. Nay thì chẳng như thế, chuyên y cứ đế lý, lý chẳng phải năng sở, chỉ do đủ hoặc. Hoặc tức là pháp tánh, hoặc tánh đối đãi nhau không liên quan đến trí đoạn. Cho nên thứ ba không đồng hai thứ trước. Lại chỉ thứ ba y cứ lý đặt tên mà chỉ chẳng phải lý. Hai chỉ trước chỉ y trí đoạn, trí đoạn là chỉ, cho nên thứ ba khác nhau hai thứ trước. Lại trí đoạn y lý mà trí đoạn chẳng phải lý. Cho nên hai chỉ trước chỉ dùng trí đoạn mà làm thân y, khác nhau thứ ba chuyên dùng đế lý làm thân y. Cho nên thứ ba khác nhau hai thứ trước. Lại thuận nghĩ bàn cho nên có khác này. Nếu không thể nghĩ bàn ba thể vốn là một. Như kinh trở xuống là dẫn chứng. Dẫn chung các kinh chưa làm chứng riêng, cho nên không y cứ chỉ. Vô minh, pháp tánh đều chẳng phải sanh diệt. Lý tuy đều không phải, nếu nói pháp tánh phải nói vắng lặng. Nếu nói vô minh phải nói sanh diệt, đây thì hai tên đều chung ba đế. Tên đều đối lập, lý đều không sai. Cho nên như Thích Danh lại ở Tiêu Thích, hai chữ chỉ quán danh tức là quán, chưa rảnh nói rõ năng sở cạn sâu. Cho nên văn sau chép: Chẳng thể tìm tên chung lại tìm thể riêng. Ba chỉ đã thế thì ba quán cũng theo đó. Trong quán đầu nói lợi, bừa lớn gọi là Sừ, đây là đồ mài ngọc. Không phải ý nay phải làm đấu này, đấu là phá. Đá lớn gọi là bàng, đá bột gọi là cát, đá nhỏ gọi là thước. Đại Kinh quyển mười tám Tánh Phẩm chép: Thí như có người khéo biết kho tàng ngầm, bèn dùng cuốc bèn mà đào đất, đào đá lớn, đá nhỏ, qua thẳng không khó. Chỉ không thể xuyên qua lớp Kim cương. Nay mượn dụ ấy gồm chung ba hoặc chuẩn chỉ rất dễ hiểu. Phải bỏ Kim cương chỉ còn xuyên qua tức là ý ở đây. Kế dẫn Pháp Hoa về nghĩa đục qua để chứng xuyên qua. Chưa phân ra khô ướt nên cũng chung. Kế giải thích quán đạt trung mà dẫn văn Dọc y Ứng. Nói tuy có dứt, ý còn bên đạt kế chẳng quán quán và dẫn kinh, v.v... chuẩn chỉ rất dễ hiểu. Cho nên dưới kết như văn.
Kế giải thích Bặt đãi. Trước nêu chung ý văn, kế phá ngang dọc. Kế chánh nói tuyệt. Y văn đầu, là dùng pháp ngang phá phá, khiến thành ngang, khiến biết ngang đãi, chẳng gọi là tuyệt. Dùng pháp dọc phá phá khiến thành dọc. Khiến biết dọc đãi chẳng gọi là tuyệt. Nói ngang là bốn câu đối nhau chưa có cạn sâu, nên gọi là ngang. Sanh sanh đẳng bốn, bốn câu so sánh nhau có sâu cạn nên gọi là dọc. Trước trong ngang phá hai câu trước, đều nói chiếu cảnh làm chánh, trừ hoặc làm phụ. Bàng tức là người, chánh tức là mình. Muốn xếp lỗi tánh trước lập bàng chánh. Bàng chánh là sao? Chỉ là một chỉ mà được tên khác chỗ. Y cứ phá hoặc, liền gọi là dứt, y cứ vào trí, liền gọi là dừng, y cứ thể tánh gọi là chẳng chỉ mà chỉ. Cho nên khiến được tân bàng chánh khác nhau. Vì sao? Vì hễ nói nhập đạo, chánh là dung trí, bàng là dứt hoặc. Nếu từ dứt hoặc mà đặt tên, thì tên từ bàng lập. Nếu từ chiếu cảnh mà đặt tên thì tên từ chánh lập. Chỗ phá là hoặc, hoặc so sánh trí, hoặc tức là người, cho nên chỉ tức chỉ, từ chỗ phá mà lập, liền rơi vào tha tánh. chỉ của năng phá lại từ năng chiếu, chiếu so sánh hoặc chiếu tức là tự, cho nên đỉnh chỉ chỉ từ năng chiếu mà lập, tức rơi vào tự tánh. Trong đây cái gọi là chiếu cảnh, v.v... là y theo lời tiện. Theo lý phải chép: Y đế là chánh, dứt hoặc là bàng. Đến giải thích quán sau mới có thể nói chiếu. Từ nếu chẳng trở xuống là nếu lấy chung tự tha liền rơi vào tánh cộng. Văn dường như Cùng chẳng sai, ý thật lấy chung. Nên nói trí đoạn nhân duyên nên chỉ, chẳng dùng riêng một nên dường như cùng chẳng sai. Chẳng chỉ mà chỉ, nghĩa rơi vào tánh vô nhân. Chánh ra cùng chẳng sai chỉ là đều lìa tự tha. Không phải chỉ là lìa tự, không phải chẳng chỉ là lìa tha. Lìa tha là lìa sở phá, lìa tự là lìa năng y. Cho nên chỉ thứ ba rơi vào tánh vô nhân. Quán cũng như thế, có thể so sánh mà biết. Nhưng năng thuyên gọi là thật chẳng ngoài ba chỉ ba quán này. Cho nên trong bặt đãi và trong hiển thể cũng y cứ tên này mà dùng để biện đốn, vì trừ tình chấp nên phải phá tánh. Cho nên dẫn Long Thọ chẳng tự sanh, v.v... chứng lìa tánh lỗi. Vô sanh trở xuống là kết, bặt đãi Vô sanh chẳng từ tương đãi bốn câu đặt tên. Bốn câu đặt tên trở xuống là bác bỏ thành nghĩa đãi. Hỗ tương nhân y đối đãi mà lập. Có thể nghĩ, có thể nói tức có thể nghĩ bàn. Chấp tánh chưa dứt gọi là kết hoặc. Do kết hoặc nên chưa chứng Vô sanh, gọi là kết hoặc sanh bị ngang pháp phá gọi là năng phá. Hai không nghĩa thành, đối nhau nghĩa hoại gọi là năng hoại. Khởi diệt trở xuống là riêng y cứ ba chỉ ba quán mà phá. Lược nêu khoảng giữa một chỉ một quán. Đầy đủ phải nói ba chỉ ba quán thảy đều chẳng thành. Trong so sánh trước sau nên lược bỏ chẳng nói. Lại thọ trở xuống là kế phá dọc. Vì từ trước tự tha bốn tánh mà sanh, cho nên là sanh sanh, năng sở đều sanh, nên gọi sanh sanh. chẳng khỏi tánh lỗi tức là hữu vi. Hữu vi tức là bốn tướng đổi dời, đại sanh sanh tiểu sanh, nên gọi là sanh sanh. Lại nhân sanh quả sanh nên gọi là sanh sanh. Nếu ở Trung đạo mà khởi tánh lỗi thì cũng thuộc về sanh tử huống chi là các thứ khác ư? Tuy ba chỉ quán gọi chung là ba đế, nếu khởi bốn chấp còn không có quán đầu, cho nên thuộc về sanh tử, gọi là sanh sanh. Phá đây sanh vào Niết-bàn, gọi là chẳng sanh. Chẳng sanh này (đối) đãi sanh nên được gọi là sanh chẳng sanh, (đối) đãi chân chẳng sanh, nói ở tục sanh, gọi là chẳng sanh sanh. Ở bên đãi nói trung sanh, hai bên đều sanh, phá hai sanh này, gọi là chẳng sanh, chẳng sanh trong mỗi văn đều phải có ba chỉ, ba quán. Trong văn chỉ có tên hai chỉ mà thôi. Trước nói chỉ tức kiến tư, tức chỉ tức chỉ, dừng trụ chân đế tức đình chỉ chỉ. Dưới là hai ví dụ cho nên biết ba đế đều thiếu, chẳng chỉ, mà chỉ cho đến ba quán. Vì chẳng chỉ mà chỉ, chỉ là đế lý cho nên chẳng nói. Nghĩa quán so chỉ cũng rất dễ hiểu. Bốn câu xoay vần sanh, tên là hậu hậu. Cho nên bốn câu đều gọi tương đãi. Cho nên phải đem ngang vào dọc, mỗi câu dọc đều có ngang. Cho nên chỉ tức các tên khắp ở dọc, cần phải ngang dọc hai phá mới hiển bày bặt đãi, tên không thể nghĩ bàn. Đều là trở xuống là bác bỏ chung. Ngang dọc khác nhau nghĩa năng chấp, v.v... cho nên cũng gọi đối đãi cho đến phá hoại, v.v... Hỏi: Chấp ngang tự tha cho đến vô nhân cho nên sanh hoặc. Dọc đến Trung đạo vì sao cũng nói kết hoặc sanh, v.v...? Đáp: Sau sau đều là trước trước kết hoặc, nên đều là Sanh. Lại Trung đạo chưa cực cũng còn thuộc giáo đạo. Giáo đạo có hoặc nên cũng là Sanh. Lại tín giáo đạo ở trong sơ tâm dự kế thứ lớp xoay vần năng Sanh. Cho nên xếp vào sơ tâm sanh kết hoặc v.v... Còn chưa phải trở xuống là cũng bác bỏ riêng. Chấp tên Tương đãi thành Bặt đãi rồi lại dùng tên đãi mà xoay vần so sánh nhau. Cho nên sau so sánh trước, tuy được tên chỉ lại so sánh ở sau lại thành chẳng chỉ. Cho nên gồm ba thứ trong Tương đãi ấy còn chưa thành chỉ, tức đình chỉ trong Bặt đãi huống chi là chẳng chỉ mà chỉ. Quán cũng như thế. Trung đạo tuy là không khác, Đế cảnh được xem là sau. Nếu so sánh với Thật đạo không thể nghĩ bàn thì cũng chưa thành chỉ. Cho nên ba đế chỉ đều chưa gọi chỉ. Vì sao trở xuống là giải thích ý bác bỏ trước trái chấp bất tận? Giải thích trong đối đãi ngang dọc bốn câu tánh chấp chẳng dứt, đường nói năng chẳng dứt, giải thích sự xoay vần sanh nhau thành có thể nghĩ bàn. Nghiệp thích hoặc, quả thích sanh. Cũng có thể hai thứ nghiệp quả đều sanh. Nói chẳng tuyệt là giải thích có thể phá, có thể hoại. Nay nói trở xuống là chánh giải thích bặt đãi. Trước nói sở tuyệt, sở tuyệt tức là các đãi ngang dọc trên. Phiền não chỉ là chấp bốn tánh. Do tánh chấp nên có nghiệp có quả, Bẩm giáo tu quán thứ lớp chứng đắc. Như thế đều thành có thể nghĩ bàn, cho nên phải phá. Thảy đều trở xuống là kế nói năng tuyệt tức là chỉ quán. Tuy nói năng tuyệt có thể nói ở sở. Vì sao? Vì đã nói bặt đãi, dứt đãi gọi tuyệt nên gọi là chỉ. Chỉ cũng tự mất, tên chẳng thật có. Quán cũng như thế, chẳng phải ngoài sở quán có cái gọi là sở. Cho nói quán minh như cảnh. Quán cũng tự mất, nên nói đâu được có quán. Chỉ quán còn không, đẳng là bác bỏ tương đãi. Bặt đãi còn không, đâu lập tương đãi. Cho nên chỉ quán này không phải chỉ không sở trừ ám tán, cũng bởi thể chỉ quán tự vốn mất. Vì sao? Có sở phá nên nói có năng phá. Sở tức năng nên không có năng để luận, chẳng được gọi như trong tương đãi kia. Đãi năng nói sở, đãi sở nói năng. Lại thứ ba chỉ quán đãi ở vô minh, nói ở pháp tánh gọi là Chỉ, đãi ở pháp tánh, nói ở vô minh gọi là chẳng chỉ. Pháp tánh chẳng phải chỉ và chẳng chỉ, cho nên nói theo pháp tánh thì đãi thứ ba ở trước là khác. Cho nên nói đãi chỉ chẳng chỉ, nói chẳng phải chỉ, chẳng phải chẳng chỉ tức là đãi ở trước hai chỉ nói chỉ thứ ba, hai chỉ đều đối chẳng chỉ mà nói. Cho nên nói chỉ chẳng chỉ. Nếu nói theo dọc, nay bặt đãi chỉ quán còn không bặt đãi, đâu được đãi sanh sanh chẳng chỉ. Nói chỉ quán sanh chẳng sanh, cho đến đãi chẳng sanh sanh chẳng chỉ. Nói chẳng sanh chỉ quán chẳng sanh đâu được hai chữ quán trở xuống ba câu. Cho nên biết trở xuống là kết giải thích ý tuyệt. Trước trong chỉ nói đều chẳng thật có, đãi tức tuyệt, không có đãi để nói. Cho nên nói chỉ cho đến chẳng phải chỉ, chẳng phải chẳng chỉ đều chẳng thật có. Ngang dọc đều thế, nghĩ kỹ mới thấy. Đối đãi đã dứt trở xuống là tổng kết ngang dọc đều dứt, bác bỏ ngang dọc đó đều hữu vi. Nay đã dứt thì nó không phải hữu vi. Chẳng thể nghĩ bàn là chẳng thể lấy bốn câu ngang dọc ở trước, suy nghĩ sẽ thấy. Không phải nói năng, v.v... là nói bặt đãi (dứt đối đãi) chẳng thể nói đã không có bốn câu danh tướng ngang dọc, cho nên trong bốn câu ngang dọc trước chỗ sanh kết hoặc, v.v... tất cả đều diệt, diệt là bặt đãi, cho nên nói diệt tuyệt, năng diệt cũng không nên nói tuyệt diệt. Kế là kết điên đảo trong quán, bốn câu ngang dọc đều gọi là Tưởng. Cũng là bặt hữu vi, là kết thúc được tên khác. Năng tuyệt thể một, tùy chỗ tuyệt mà được tên khác nhau. Bặt đãi chỉ quán là kế nói lợi tha, trước nói ý đã tự chứng tuyệt có thể tùy bốn cơ, không nói mà nói nên nói có thể nói. Nếu thế sao chỉ ba đều là pháp hóa tha. Nghĩa bậc nhất cũng là hóa tha, cho nên dùng bốn chương để đối bốn tất. Nếu có trở xuống là chánh giải thích.
Hỏi: Nay nói thuyết bặt nên chỉ nói bặt mà dùng bốn chương đối bốn tất, nghĩa ấy là sao?
Đáp: Tự hành chỉ bặt tha nên khác nhau nên dùng lìa bặt đãi làm bốn thuyết. Cho nên trong huyền văn phân biệt dụng rằng: Ông là tự hành nên phải phân biệt tha. Dụng là ích tha cho nên cùng lấy không thể nghĩ bàn, dùng còn lấy phương tiện huống chi là viên bặt đãi, chẳng được làm viên bốn tất mà nói ư? Cho nên Huyền Văn cuối quyển sáu chép: Khai bốn tất rằng khai thế giới thô thành thế giới diệu, cho đến khai Đệ nhất nghĩa thô đồng thành đệ nhất nghĩa Diệu, cho nên không nói mà thôi. Nói thì bốn tất. Vì sao? Vì dị là cách biệt hơi thành viên dị, chẳng dị mà dị, cho nên đối thế giới, thông là nghĩa sanh, gọi là lý năng thông. Cho nên dùng lý thiện mà đối làm người, đối có năng sở dứt không năng sở, cũng mượn năng sở làm viên đối trị. Bặt đãi y cứ lý, lý tuy không nói, cũng y cứ tuyệt lý nói nghĩa bậc nhất. Nói là chỉ quán. Bốn chương như thế đều là chỉ quán, đều đến Lý bặt đãi. Lại y cứ hóa nghi để nói bặt, như trong Tịnh Danh ba mươi hai Bồ-tát, đều tự nói chỗ nhập môn của mình, môn đều thông lý, nên lý gọi là tuyệt. Cho nên các Bồ-tát nói xong, bảo Văn-thù rằng: Nhân giả phải nói. Văn-thù nói cho đến không có nói năng, chữ nghĩa là thật vào pháp môn không hai, được gọi là diệt tuyệt. Thiền định ngậm miệng không nói, được gọi là tuyệt diệt.
Hỏi: Đồng được tuyệt đãi, vì sao khác nhau? Đáp: Gồm có sở hiểu nêu bày đường khác, các Bồ-tát nói lên năng thuyên khác nhau. Văn-thù nói lên sở thuyên chẳng khác. Tịnh Danh nói lên sở thuyên không nói. Lại, các Bồ-tát chỉ nói lên hóa tha, Văn-thù nói lên tự hành, hóa tha. Tịnh Danh chỉ nói lên tự hành. Đều nêu một bên cùng thành diệu sự. Bốn tất bặt đãi, y theo đây rất dễ hiểu. Lại Đại Kinh chẳng thể nói. Đại Tập không nói Bátnhã thanh tịnh. Pháp Hoa chỉ khen, Niết-bàn chẳng sanh đều là tên khác của bặt đãi. Nhưng lại phải biết các giáo dứt khác,, khai hiển không ngoài mới gọi văn nay. Thử chi trở xuống là kết bặt đãi này để thành hai không. Trước lập, kế là chữ trở xuống là giải thích. Trước nói tánh không. Cũng chẳng trụ trở xuống là kế nói tướng không, tức phá ngang dọc lại đến bốn cơ. Bặt lý vì sao gọi là thật tướng, thể của thật tướng đầy đủ hai không, khác hẳn hai không ở trước từ giả vào không. Chữ ấy chẳng thật có trở xuống là kết tên. Cũng gọi trở xuống là nói tên khác của bặt đãi. Cho nên Như thế trở xuống là giải thích tướng bặt đãi.
Thể bặt đã khắp thì không có chỗ đối, cho nên chẳng do Tiểu gọi là đại. Thí như trở xuống là nêu thí dụ rất dễ hiểu. Chỉ quán cũng như thế, trở xuống là hợp thí. Chẳng nhân ngu nên gọi là quán, chẳng nhân loạn nên gọi là Chỉ. Người đời trở xuống là phá lầm lẫn, trước phá chung người đời, y tâm thế gian mà nói, dùng lời phá lời, lời chẳng thể dứt giải thích bặt chẳng thành, cho nên phải biết lý bặt. Vì sao trở xuống là giải thích người đời nói chẳng thành, ý bặt nói tùy tưởng đổi nên nói chẳng phải bặt, cho nên tuy nói ngộ, chẳng ngộ, v.v... chẳng khởi hoặc nhiễm, đối đãi nhau không thôi nên gọi là luân chuyển. Ngộ y cứ trí chứng, tâm y cứ hoặc cảnh có tâm chẳng phải ngộ, ngộ thì dứt tâm. Chẳng phải chỉ là không, không tâm chín cõi nên gọi là chẳng tâm. thuận tưởng hư đàm, bặt lại thành đãi, không có lý để nương nên nói vô ký. Nếu được ý trở xuống là nêu chánh thể bặt đãi. Đã đạt được lý bặt thì ai còn phân biệt. Tuy là duyên dứt lý, phân biệt chẳng mất, đều gọi là đãi. Ấy thì chỉ chứng gọi là chân tuệ khai. Lại được ý trở xuống là nói bặt chẳng thể luận bàn. Tâm hành trở xuống là nói bặt chẳng thể suy nghĩ. Tuy trí trở xuống là lại nêu bặt vị. Cũng chẳng trở xuống là trái ngược hiểu lầm của người trước. Đẳng là đẳng thủ luân hồi, v.v... Các thứ trở xuống là lại bác bỏ. Chân tuệ trở xuống là lại nêu công năng của vị. Như trước trở xuống là lại nêu thí dụ mà thí dụ bặt. Trước là tiến (dâng lên) nghĩa là tiến gậy lửa, gậy tiến lửa xong thì cũng tự thiêu. Dứt các đối đãi rồi thì tuyệt cũng tự dứt. Cho nên Đại luận hỏi: Chẳng phải nói tướng không. Vì sao? Nếu nói vô tướng tức là ở tướng, nếu không vô tướng thì chẳng phải lại năng phá tướng các pháp. Nếu có vô tướng thì chẳng phải nói tất cả vô tướng?
Đáp: Dùng vô tướng mà phá các tướng, nếu có tướng, vô tướng thì rơi vào các pháp, vô tướng diệt các tướng cũng tự diệt vô tướng. Như lửa gỗ trước đã đốt củi rồi cũng lại tự đốt. Cho nên bậc Thánh tu Tam-muội vô tướng vô tướng để phá vô tướng, Tam-muội không không Tam-muội vô tác vô tác cũng giống như thế, bặt rồi lại bặt ý cũng đồng. Nếu thế trở xuống là giải thích nghi. Nghi rằng: Chân tuệ khai phát mới gọi là tuyệt, bèn bị Sơ trụ có ích gì sơ tâm. Nay vì trở xuống là giải thích ở sơ tâm thì không chỗ mất, Thánh ở cực vị chẳng thể lạm sơ.
Ba là Hội dị, Hội các kinh luận đều thành bặt chỉ quán. Văn đầu lại Hội tên khác của tuyệt đãi. Các kinh trở xuống là hội tên khác của chỉ quán, tuy gọi chung là tuyệt mà tịch chiếu rõ ràng. Nên các tất cả tên khác của kinh luận đều là tên khác của tịch chiếu. Cho nên dị danh trở xuống đều nói tuyệt đại không thể nghĩ bàn. Vì sao trở xuống là giải thích ý Hội khác? Tất cả đều là tên khác của ba đức, cho nên hội khiến ba đức. Trước Bát-nhã trở xuống là quán tên khác tức là đức Bát-nhã, giải thoát trở xuống là tên khác của chỉ, là đức Giải thoát. Như hư không trở xuống là tên khác của chỉ quán chẳng hai, tức là đức Pháp thân. Bát-nhã là một pháp, tức là kệ văn khen Bát-nhã. Giải thoát cũng như thế có rất nhiều tên, tức là Đại Kinh câu văn thứ năm trăm về giải thoát. Gần bảy tám trang, xưa nay giảng là nói dài mà thôi. Tam tạng Chân đế có một quyển ghi giải thích trăm câu này. Đại sư Thiên Thai từng ở chùa Linh Thạch, một mà hạ giảng trăm câu Giải thoát này, mỗi câu đều dùng trăm câu giải thích, trăm câu bèn thành một muôn pháp môn, một muôn tên gọi. Chương An nói trước học tự no mà chẳng ghi chép, nay không có truyền. Tiếc thay tiếc thay, vì đời sau không được nghe. Hư không v.v..., thí như hư không cũng có bốn tên: Một là hư không, hai là không thật có, ba là bất động, bốn là vô ngại. Hư không vô hình còn có bốn tên, huống chi là không thể nghĩ bàn chẳng phải chỉ chẳng phải quán.
Hỏi: Trong đây chỉ hội tên khác chỉ quán, sao phải nêu dị pháp thân này.
Đáp: Văn sau là đức chung, đã dùng chỉ quán mà chung ba đức, cho nên Hội dị nêu ở pháp thân. Cho nên biết các kinh tuy là nhiều tên nhưng chẳng ngoài chỉ quán. Lại vì chẳng hai cho nên biết chỉ là tên khác của ba đức. Phải biết trở xuống là kết ba đức chỉ là một pháp thật tướng, tùy loại chúng sanh mà đặt tên khác. Nếu nghe trở xuống là khuyên răn. Bặt đãi ý sâu khuyên chớ kinh sợ, gặp tên khác rộng khuyên chớ sanh nghi. Tương đãi nghĩa gần nên chẳng cần khuyên, đức chung chỉ là bặt đãi được chung nên cũng chẳng khuyên. Lại chỉ quán tự gặp nhau sau, nay đã dứt các tên đối đãi nhau ở trước, cho nên tên tương đãi đều thành bặt đãi. Do đó lại nhờ chỉ tức các nghĩa để tự gặp nhau. Chỉ cũng gọi là quán tức đình chỉ chỉ, quán cũng gọi chỉ, tức quán xuyên suốt. Chẳng chỉ tức chẳng chỉ mà chỉ. Chẳng quán tức là chẳng quán mà quán. Đều phải y cứ Viên để giải thích tức. Ba hoặc thể vắng lặng gọi là tức, ba đế lý khắp gọi là đình. Đế lý chẳng phải chỉ và chẳng chỉ, không hoặc có thể phá gọi là không trí có thể chiếu gọi là quán đạt quán. Đạt lý chẳng phải quán cùng chẳng quán. Nếu tin bặt đãi tự gặp nhau, chỉ cũng gọi là quán, tịch tức chiếu, cũng gọi chẳng chỉ, tịch thể tự mất. Quán cũng gọi là chỉ, chiếu tức tịch, cũng gọi chẳng quán, chiếu thể tự mất. Như không chẳng sáng tối, sáng tối tức không, không sáng chẳng phải sáng, không tối chẳng phải tối, chẳng phải tối mà tối, chẳng phải sáng mà sáng. Tịch chiếu chỉ quán ví dụ theo đây sẽ biết.
Bốn là trong chung ba đức, văn đầu trước nói ý dụng tên trước hỏi, vì đối trở xuống là đáp, kế các pháp trở xuống là lại hỏi. Đại luận trở xuống là lại đáp. Tự Tha trước sau, v.v... là Bồ-tát sơ tâm thường quán Niết-bàn là tự hành mới tu, cũng khiến chúng sanh thường quán Niết-bàn là hóa tha mới tu. An trí các con trong kho Bí Mật là hóa tha hậu nhập (vào sau). Ta cũng chẳng bao lâu tự trụ trong đó là tự hành hậu nhập (vào sau). Cho nên biết tự tha sơ tâm đều tu, tự tha hậu tâm đều vào, tức là một bộ chánh ý, văn nay trước sau chỉ là quán ba đức. Vào ba đức là sao? Lại trong năm lược, mới phát đại tâm trở xuống là tự hành mới tu. Xé rách lưới lớn trở xuống là hóa tha mới tu. Trở về chỗ lớn trở xuống là tự tha hậu nhập. Kế trong giải thích rộng là Thích danh thì tự hành sơ. Khởi giáo thì hóa tha sơ. Chỉ qui thì tự tha hậu. Nếu nói riêng thì nước chỉ quả, nay từ nghĩa chung nên khắp sơ hậu. Cho nên dùng đối để làm hạnh gốc. Kế nêu trở xuống là chánh nói tướng chung. Trước dùng hai chữ cũng chung ba đức, nếu phân hai chữ chẳng thể đủ Đức cho nên phải hai hợp nghĩa mới đủ ba. Hỏi: Trở xuống là giải thích nghi. Phàm tên năng thông, thông ở sở thông. Năng sở tương xứng hẹn chỗ đến. Chỉ dùng hai pháp làm tên năng thông, làm sao chung đến ba pháp sở thông?
Đáp: Tạng thông Chỉ quán hai pháp khác nhau, còn chẳng năng thông ba Đức riêng khác. Nếu không thể nghĩ bàn một tâm chỉ quán thì năng thông ở một tâm ba Đức, hai, ba tuy khác không thể nghĩ bàn một chẳng hai mà hai, vì chung hai đức, hai mà chẳng hai vì chung pháp thân. Lại Đại Phẩm trở xuống là dẫn chứng. Cho nên Đại luận quyển năm hai chép: Đều ví dụ thích rõ một trăm lẻ tám Tam-muội xong tức nói mười tám không ở trước. Giải thích Bát-nhã xong, nay dùng một trăm lẻ tám Tam-muội giải thích thiền. Đã là Thủ-lăng-nghiêm Thiền Chủng Trí Bát-nhã, cho nên biết hai thứ này chẳng phải riêng một mình, thế thì trong mỗi không tất cả không, trong mỗi không tất cả định, trong mỗi định tất cả định, trong mỗi định tất cả không. Kinh luận nêu số từ sự mà lập. Phá mười tám có nói mười tám không đối một trăm lẻ tám tán nói một trăm lẻ tám định. Như lửa thiêu vật tùy vật được tên đâu có chỗ thiêu khác khiến lửa riêng khác. Cho nên dẫn mười tám không để chứng ở quán, dẫn một trăm lẻ tám Tam-muội để chứng ở chỉ. Hai mà chẳng hai chứng được pháp thân. Cho nên trở xuống là lại dẫn Đại Kinh, chứng lại hai tên, nghĩa gồm ba đức. Quyển hai mươi lăm chép: Tất cả chúng sanh đều có Định Thủ-lăng-nghiêm. Định Thủ-lăng-nghiêm cũng gọi Bát-nhã, cũng gọi Tam-muội Kim cương, cũng gọi Sư Tử Hống, cũng gọi Phật Tánh. Kinh nói Định Thủ-lăngnghiêm có năm tên. Lăng-nghiêm cũng ở trong năm tên. Nay dẫn Phật tánh có năm tên.
Phật tánh cũng ở trong năm tên. Nay chỗ dẫn lấy chung gồm riêng, ý ấy thế nào?
Đáp: Kinh giải thích chúng sanh có định Lăngnghiêm, nên nói Lăng-nghiêm có năm tên, nếu luận chung thì nói Sư Tử Hống có năm tên cho đến biếng nhác có năm tên. Đối với lý thì không lỗi. Tuy đều không lỗi nhưng trong năm tên gọi Phật tánh là chung, chung cho định tuệ nên bốn tên gọi kia hai hai ký cục. Bát-nhã Sư Tử Hống từ tuệ làm tên, Kim cương Thủ-lăng-nghiêm từ định làm tên. Nay nói Phật tánh chẳng phải định chẳng phải tuệ mà định mà tuệ. Cho nên nói Phật tánh có năm tên, gọi để chứng văn nay chẳng hai mà hai. Lại kế trở xuống là đều thông. Trước nói ý đều thông. Chỉ và quán cùng nhau mà có cho nên được đều chung. Như chỉ có quán cũng lại tự có, không phải chỉ không phải quán. Quán nếu có, chỉ cũng lại tự có chẳng phải chỉ chẳng phải quán. Cho nên chỉ quán đều được chung cả ba. Như chỉ tức trở xuống là kế chánh đều chung trước chỉ quán. Lại văn trước cùng chung vì từ tên tiện, nay đây đều chung là từ nghĩa tiện. Cho nên hai chỉ để đối hai đức. Chẳng chỉ chỉ nghĩa giống chẳng phải chỉ quán nên chung cho pháp thân. Quán cũng như thế, có thể y cứ mà biết. Lại nữa, chỉ quán trở xuống là nói cùng thông, khác nhau hai chữ cùng thông ở văn trước. Nay đây chỉ quán đều có ba nghĩa, hai hai đều chung nên gọi là cùng. Lại nữa, ba đức trở xuống là lại dùng ba đức mà chỉ chung cho quán. Hỏi: Chỉ quán chung đức là năng thuyên chung đến sở thuyên vì sao lại dùng đức chỉ chung cho quán.
Đáp: Danh vời ở lý tên là đức chung, lý ứng ở tên, tên là đức thông. Lý chẳng ứng tên, tên chẳng chỗ thông. Tên không vời lý, lý không thể hiển. Lại tên tức lý nên chỉ quán chung đức, lý tức tên nên đức chung cho chỉ quán. Lại chỉ quán đều có nghĩa ba đức, cho nên chỉ quán chung đức. Ba đức cũng có nghĩa chỉ quán nên đức chung chỉ quán. Vì ba nghĩa này lại phải đức thông, vì hiển lý giáo dung thông vô ngại. Cho nên cùng biện rốt ráo văn nay. Tên chánh lý phụ như trước đã nói. cũng phải lại y cứ hạnh mà nói chỉ quán và đức cùng thông nghĩa ở văn sau nên nay chưa biện. Ở trong đó cũng trước cùng chấp đầu. Cùng nghĩa là ba đức cùng chung chỉ quán và không phải chỉ quán, đều nghĩa là ba đức có đủ ba, như văn rất dễ thấy. Nếu tin trở xuống là nêu ví dụ khuyên tin. Trước nêu tên khác khuyên tin ba đức. Chỗ nói chỉ quán cùng chung nhau là gốc bày chỉ quán tuyệt diệu. Năng thông tuyệt diệu, đức không thể nghĩ bàn. Đã tin ba đức phải tin chỉ quán. Nếu tin trở xuống là dẫn dụ khuyên tin. Mà các kinh trở xuống là tên Thiên ý viên. Các kinh đầu Lăng-nghiêm, Trí Độ như trước dẫn chứng. Chẳng hai mà hai đã lược biết rồi. Mỗi kinh đã đầy đủ các pháp ấy, phải biết đều là kho Bí Mật. Nói Lăng-nghiêm, người khác nói là tên báu, các đại Bồ-tát đều dùng báu này để trang sức đầu. Bồ-tát được trang báu sức đầu này đầy đủ Tammuội, từ báu làm tên, tên là Định Lăng-nghiêm. Đại Kinh chép: Thủ-lăng là tất cả sự xong, nghiêm là kiên cố. Tất cả rốt ráo mà được tên kiên cố Thủlăng-nghiêm. Đại luận quyển mười tám dịch là Kiện tướng. Đại kinh Đại luận đều dùng ba chữ, đều là tiếng Phạm, đều gọi Tam-muội. Hai giải thích Đường, Phạm không thấy chỗ dựa. Nên biết tên kinh chẳng từ chỗ trang năng lực đầu. Chỉ quán cũng như thế trở xuống là dẫn chỉ quán để so sánh các kinh. Thiên cử trở xuống là so sánh giải thích. Các kinh thiên cử còn đủ ba đức, huống chỉ quán nay là viên cử. Đây là viên cụ chẳng phải viên đốn, nghĩa tuy viên đốn mà lời ý lại như thế. Kế chung các tên khác như văn. Lại chung ba tên, ba tên vô lượng nên nói là tất cả. Nay y theo Kim Quang Minh, Quán Âm Huyền, Tịnh Danh Sớ, v.v... đều dùng mười ba ví dụ giải thích ba đức. Nói mười ba, là tụng rằng: Đạo Thức (biết) Tánh Bát-nhã. Bồ-đề Đại Thừa Thân. Niết-bàn ba Đức báu, mỗi đều ba pháp. Nay văn lược nêu ba thứ Bồ-đề, mà vẫn lược chẳng giải thích. Nay y vào bộ lược ấy mà thuộc đối ba đức như trước. Ba Bồ-đề là thật tánh tức pháp thân, thật trí tức Bát-nhã, phương tiện tức giải thích. Ba Phật tánh là, Chánh nhân tức thực hành,
Liễu nhân tức Bát-nhã, Duyên nhân tức Giải thoát.
Nói Tam bảo, pháp bảo tức pháp thân, Phật bảo tức Bát-nhã, Tăng bảo tức Giải thoát. Ba đạo là: Phiền não tức Bát-nhã, Kết nghiệp tức Giải thoát, Khổ tức pháp thân. Nói ba thức là: Tam Tạng Chân đế nói thức thứ bảy A-đà-na, Hán dịch là chấp ngã thức. Đây là hoặc tánh thể là nhân duyên. Thức thứ tám A-lại-da, Hán dịch là Tạng thức vì hay giữ chắc trí chủng chẳng mất. Thể là vô một vô minh, tánh của vô minh là tánh Liễu nhân. Thức thứ chín A-ma-la, Hán dịch là thanh tịnh thức, tức là Chánh Nhân Đường Tam Tạng chẳng chịu giải thích này, bảo rằng: Thức thứ chín là tên khác của thức thứ tám. Cho nên Nhiếp Luận Tân Dịch chẳng giữ địa thứ chín. Trong Luận Văn cũng không có thứ chín. Chỉ dùng thứ tám mà đối Chánh nhân, thứ bảy đối Liễu nhân, thứ sáu đối Duyên nhân. Nay y theo Chân Đế vẫn hợp chung sáu, bảy làm duyên nhân. Vì trong thứ sáu sự thiện ác cũng là hoặc tánh. Giải thích nghĩa thức không phải chỗ luận ở đây. Chỉ lấy ba thức thể tánh mà đối với ba đức, ba nhân ở lý là đủ. Luận gia tuy dịch thức là trí mà chẳng tức chiếu ba thức một tâm, tức một tâm này ba trí đầy đủ. Ba Bát-nhã là thật tướng chánh nhân quán chiếu Liễu nhân văn tự nhân duyên đối đức rất dễ hiểu. Ba Đại thừa, lý thừa là pháp thân, tùy thừa là Bát-nhã, Đắc thừa là giải thoát. Nói ba thân, như trong chỉ qui, ba Niết-bàn là tánh tịnh tức pháp thân, viên tịnh tức Bát-nhã, phương tiện tức giải thoát. Người xưa chẳng lập viên tịnh, vẫn dùng phương tiện đối với báo thân. Các văn có phá v.v... Nhưng mười ba thứ này xoay vần đối nhau ý nghĩa chẳng khác. Nghĩa tuy chẳng khác, mà sanh khởi thứ lớp đều có trước sau. Vô thỉ trôi lăn chẳng ngoài ba đường, trôi lăn do thức, trong thức đủ tánh, chiếu tán học đạo trí, trí đủ thành đạo, đạo từ thừa đến, đến nên thân hiển, hiển sẽ là Niết-bàn. Niết-bàn đủ nên gọi là Tam bảo. Bảo thì đủ đức, cho nên trước sau lại so sánh với mười nầy.
Hỏi: Vì sao ở dưới rộng phân biệt đức. Trước nêu giải xưa lại dẫn Đại Kinh hỏi khởi ý ấy. Trong kinh ấy nghĩa tông cực: Lại là một nhà Hạnh giải chỉ qui, cho nên phải phân biệt. Đủ dẫn các sư xưa nay Đại Tiểu thừa so sánh xét lường mới hiển bặt đãi ba đức Bí Tạng, cho nên Phẩm Ai Thán chép: Thế nào gọi là Kho Bí Mật? Cũng như chữ Y ba điểm nếu ngang nhau thì thành chữ y, nằm dọc thì chẳng thành. Như Ma-hê-thủ-la trên mặt có ba mắt mà thành chữ Y. Nếu ba điểm riêng cũng chẳng thành chữ y. Ta cũng như thế, pháp giải thoát cũng chẳng phải Niết-bàn, thân Như lai cũng chẳng phải Niết-bàn, Ma-ha Bát-nhã cũng chẳng phải Niếtbàn, ba pháp đều khác, cũng chẳng phải Niết-bàn. Nay ta an trụ ba pháp như thế. Vì chúng sanh gọi là Nhập Niết-bàn, chữ Y như thế. Chương An nói sách tục ở Tây Trúc Y có mới cũ. Chữ y cũ có tung ngang như Ngang Xuyên có thể dụ kinh ấy. Chữ y mới chẳng dọc chẳng ngang, ở đất Hán có thể lấy cỏ mà dụ cho Viên kinh. Muốn giải thích chữ Y mới, trước phải hiểu rõ cách hiểu khác của người mới tránh khỏi lỗi tung ngang của chữ y cũ. Cho đến các lỗi Tà Tông Ngang kế. Cho nên ngoại đạo Đồ Thán cũng chấp trời Đại Tự Tại. Có đủ ba Đức rằng: Pháp thân đầy khắp pháp giới, báo thân ở trời Tự tại ba mắt tám tay tức Ma-hê-thủ-la. Hóa thân tùy hình sáu đường huống chi Đại Tiểu thừa các sự giải thích nghĩa vì nghĩa ấy nêu rõ các sư, là các sư Tiểu thừa. Nói chủng trí đã viên, nghĩa là khi ba mươi bốn tâm dứt kết. Đã có Bát-nhã gọi là Chủng trí. Cha mẹ sanh thân cũng chưa diệt độ gọi là quả phược. Tuy dứt tử phược nhưng quả phược chưa dứt thì chỉ là hữu dư, chưa được vô dư, nên nói chưa đủ. Tuy dứt hoặc chung, chưa có pháp thân, thân là vô thường cũng giúp đoàn thực. Đoàn thực chẳng phải một, nên nói là tạp. Vì ba tạng Phật đồng phàm báo. Một là ưu, nghĩa là Bát-nhã đức chủng trí đã viên; hai là liệt, nghĩa là giải thoát chưa đủ, thân là tạp thực. Hai thứ này tuy kém đã có phần ít, đủ ở chẳng lâu nghĩa phải một lúc. Dụ ở Ngang xuyên cho đến tẩu hỏa. Tẩu hỏa là lửa dữ, là một bức vẽ dài các bức vẽ khác ngắn. Ba đức cũng như thế, tuy đều có hơn kém khác nhau. Lại nói trong sư thứ hai, trước được tướng tốt, tức là trăm kiếp đã hết. Kế được chủng trí, tức là ba mươi bốn tâm. Hậu diệt thân trí tức là tám mươi tám diệt.
Vô dư ở đó nên nói mới đủ. Ý thí dụ rất dễ hiểu, nhưng Sanh công nói: Bát-nhã cư tông ở trên, toàn lạm Tiểu thừa sư đầu ba đức. Dù khác Tiểu thừa nhưng trọn thành nghĩa dù. Vẫn đồng sư kế. Nếu nhập trở xuống là sư thứ ba. Nếu nhập diệt định, v.v... đã có thân ở đó gọi là pháp thân, thọ tưởng tâm sở thức tri chẳng làm, gọi là không Bát-nhã nên nói vô trí. La-hán ở vô sắc, là vô sắc bao gồm ở Vô sắc đó mà được Hữu Dư, gọi là La-hán. Chỉ có tâm trí mà không có sắc thân, giống như có Bátnhã mà không pháp thân. Nếu vào Vô dư, thân tro cho nên không thân, diệt trí cho nên không trí, riêng một giải thoát nên nói "cô điều." Đây thì ba pháp đều thuộc một người, nói là chẳng tương quan. Nếu khiến ba pháp đều ở một người, tức là diệt định khởi có trí dứt kiết, chẳng ở Vô sắc lại nói có Thân. Định ở vô dư gọi là có giải thoát. Đồng ở một người nên gọi là Đều. Nếu dùng ba pháp lụy ở một người, tức trước được Vô sắc, kế ở diệt định, sau vào vô dư, nên gọi là Tung. Đây thì Tiểu thừa ba sư thiếu hẳn nghĩa chữ y. Kế thầy đầu Đại thừa nói pháp thân là chánh thể pháp thân vốn có thể nên ở đầu, hai đức phải có cho nên ở kế, trong hai đức, Bát-nhã ở trước vô lụy, nên thành nghĩa Tung. Hai Di Hoàn này là Bát-nhã và Giải thoát. Di là đầy, Hoàn là khắp, tuy tu chủng trí, chủng trí chưa đủ mà phần được Giải thoát. Giải thoát chưa đủ cũng được gọi Tịnh, cũng được gọi uế, xoay vần đối nhau cùng làm tịnh uế. Cách vô lượng đời vượt vô lượng kiếp, đời kiếp không khác văn thêu dệt cho nên như thế. Trải nhiều thời gian, ba đức thứ lớp, nên gọi là Tung. Sư kế nói ba đức không có trước sau. Sư đầu chép: Thể chỉ pháp thân, sư này thể đủ ba đức. Tuy đủ ba đức nghĩa đồng sư đầu. Y cứ vào thể đủ lại chẳng làm rõ nhau, nên thành nghĩa Ngang. Vì vốn có nên gọi là thể ngang. Từ tu mà được nên gọi nghĩa dọc. Sư sau chép: Thể nghĩa đều chẳng khác, tức thể và nghĩa đều từ vốn có nên gọi là chẳng khác. Y cứ vào hạnh chứng đắc lại giống trước sau, nên nói ẩn hiển. Pháp thân một đức ở triền là ẩn, ra khỏi triền là hiển. Hai đức kia hạt giống đủ lâu nên gọi là ẩn, rốt ráo quả mãn nên gọi là hiển. Ba đức có đủ hai nghĩa này vốn có ba pháp đều gọi là ngang, đều có Ẩn Hiển nên gọi là Dọc. Vì ẩn hiển mà có trước sau, cho nên thành dọc. Các giải thích như kết sau đều bác bỏ. Đại tiểu sáu thích đều chẳng hội với văn đại kinh. Nay nói trở xuống là nhà nay chánh giải thích, vì ba nghĩa nên mới ứng với (ý) chỉ kinh. Lý tánh ba đức bao gồm tất cả pháp, nên gọi là Tạng. Một đều đủ ba, ba ba tương minh, ba chỉ là một, một một không một. Cho nên tạng này chẳng thể ba một, ngang dọc một khác, mà nói nghĩ bàn cho nên đều nói không thể nghĩ bàn và na-hốt, v.v... một khác đều là tên khác của biệt, đối khác tiện nói nên gọi là một. Thân thường v.v..., đây là hành nhân tu hướng lý tạng đến khi được quả thì pháp thân đã trọn, nên gọi là thân thường, chủng trí đã thành nên gọi Trí viên, phiền não dứt hẳn nên gọi đoạn cụ, Lý Tạng Thích, là trong sáu tức thì phải lý tức. Hạnh Nhân Thích, là trong sáu tức riêng ở rốt ráo, chung đủ năm tức. Nay đối lý tức riêng từ rốt ráo tuy thân thường mà được chẳng phải trước sau cho nên chẳng thành tụng. Lý cùng tu, nhân cùng giả đều cùng một lúc đầy đủ mà đều dùng lẫn nhau, làm sáng tỏ nhau nên không phải nghĩa ngang. Nói làm sáng tỏ nhau là từ hạnh mà chép: Vì lý tánh sáng mới khiến hạnh sáng. Hành làm hiển lý, cho nên từ hạnh mà nói. Năng chủng chủng là không phải chỉ ba đức có dụng lợi tha mà pháp thân cũng như thế. Cho nên y cứ hóa dụng thì một thân là tất cả thân một trí là tất cả trí, một thoát là tất cả thoát. Cho nên gọi là (các thứ) kiến lập. Dứt hóa luận qui, đồng về minh tịch, cho nên nói nghĩa bậc nhất. Kế tức một trở xuống là y cứ tự nghĩa mà giải thích. Chỉ là ba điểm đồng là một y, tuy là một y mà có ba điểm. Cho nên chữ y không phải dọc không phải ngang, khác nhau nghĩa cũ, nên nói chân y. Phải biết Đại Kinh trước sau ba đức nên ở phẩm Ai Thán đầu kinh dùng nghĩa chữ Y mà giải thích ba đức này. Quyển ba mươi sáu hỏi rộng hiển ba đức. Do đó trong tựa nói về ba đức, phẩm Thuần-đà nói về Niết-bàn là chánh nói ba đức. Từ Trường thọ trở xuống trong mười bốn phẩm nói nghĩa Niết-bàn giải thích ba đức. Nói đem Phật pháp chẳng giao cho Thanh văn mà giao cho các Bồ-tát, chính là giao ba đức Bí tạng này. Từ hiện bịnh trở xuống gồm có năm phẩm, nói Niết-bàn hạnh tu ba đức này. Từ Sư Tử Hống trở xuống đến phẩm Trần Như gồm có ba phẩm là nói dụng của Niết-bàn, tức công năng của ba đức. Nếu hiểu rõ ba đức này ở trong một tâm thì Đại Kinh một bộ ở trong gang tấc, huống chi Pháp Hoa khai hiển mười phương ba đời đồng nói ba quĩ, vì ba quĩ diệu, nên nói Diệu pháp. Hoa Nghiêm Pháp Giới, Tịnh Danh Giải Thoát chẳng cùng Bát-nhã, một thể không khác với ba đức này. Nếu biết ý này, văn này có thể hiểu mười phương Phật pháp ở một sátna.
Hỏi: Trở xuống là phân biệt. Có hai lớp hỏi đáp. Văn đầu là chánh xếp, văn kế là khai thông. Văn đầu hỏi: Ba đức, bốn đức đều ở Niết-bàn, đồng khác thế nào?
Đáp: ý Ba, bốn giống khác đều ở Niết-bàn. Niết-bàn chẳng khác, thì ba, bốn chẳng khác. Cho nên hội thông khiến biết chẳng hai. Ở trong đó lại có hai hội chung riêng. Trước hội thông, là ba đức mỗi đức đều có bốn tính chất nên gọi là chung. Chung lại có hai cách giải: Một là dẫn Đại kinh, pháp thân Thường nên hai đức cũng Thường. Đã có thường há không có Lạc, v.v... Đây bèn so sánh y cứ mà giải thích. Pháp đã có Thường thì có ba thứ kia. Lại lấy hai thứ kia mà lệ với pháp thân. Phật là giác liễu, giác liễu là trí nên thuộc Bát-nhã. Lại hay tùy hình đều phục ở tha, cho nên thuộc giải thoát. Vì thế chữ Phật có đủ hai đức. Kế dẫn Đại Kinh nhân diệt năm ấm có đủ bốn đức. Ấm là pháp thân. Pháp thân đã thế, hai thứ kia cũng lệ như thế. Cho nên biết ba đức đều có đủ bốn đức. Thế thì đối chung có hai giải thích này. Kế nếu y theo dưới lại chuyển năm ấm và bốn niệm xứ để thành bốn đức. Riêng khác đối nhau, nên gọi là khác. Ấy thì riêng đối cũng có hai giải thích tức là ấm và niệm xứ khai hợp khác nhau. Y cứ văn sẽ thấy. Ấy thì kết dưới y viên là nghĩa đốn. Như hướng chỗ đối hai giải chung riêng. Chỉ lấy pháp đối pháp không nói về hành tướng. Nếu sơ tâm quán liền thành nghĩa đốn. Hậu tâm mới hội liền thành nghĩa riêng. Kế trong khai thông là ý hỏi đầu. Cuối quyển hai ở trước nói có phát tâm trị được ba chướng. Cho đến rốt ráo trị được ba chướng. Lại nói có phát tâm mà được ba đức, cho đến rốt ráo được ba đức. Ở đây thì ba chướng, ba đức đều chung chí cực. Nay đem ba đạo, bốn đảo đều làm ba chướng. Chướng và đạo cho đến bốn đảo tên khác mà nghĩa đồng. Che giấu thánh đức gọi là chướng, chung đến sanh tử gọi là Đạo, kiến giải xa lý thì gọi là Đảo. Đảo nên hay chướng, chướng nên sanh tử. Cho nên nay dùng ba đạo, bốn đảo đều có ba chướng khai, tức là mở ra từ gần đến xa. Trong đáp trước cho hỏi, kế vì giải thích. Trước cho hỏi rằng: Đảo đạo và lệ, ba nghĩa đã đồng, đều phải chí cực. Kế vì sao trở xuống là giải thích. Đảo ý vì nghĩa đồng, trong đó lại nói nghĩa chung ba chướng. Thông chí cực cho nên cực mới phá hết, nên nói chí cực. Vì cho ba đạo cũng chí cực. Do đó nghiệp báo phiền não mỗi thứ có mở ra ba. Nói báo do ba thứ phiền não là sợ văn lầm. Phải nói nghiệp do ba thứ phiền não. Từ lại y cứ trở xuống là kế bày bốn đường bốn đảo chí cực, tức là hoặc kiến tư là phiền não đạo, phiền não nhuận nghiệp gọi là nghiệp đạo, giới nội sanh gọi là khổ đạo. Phương tiện ba đạo tức trần sa hoặc, phiền não đạo. Vì nghiệp vô lậu gọi là nghiệp đạo, sanh tử biến dịch gọi là khổ đạo. Thật báo ba đạo, tức là vô minh hoặc, là phiền não đạo. Chẳng phải lậu chẳng phải nghiệp vô lậu là nghiệp đạo. Độ ấy biến dịch gọi là khổ đạo.
Hỏi: Sao chẳng cảm tịch quang. Đáp: Nay nói cảm báo chẳng nói tịch quang. Tịch quang không báo nên chẳng nói. Y cứ ba phiền não đều mở bốn đảo. Phiền não kiến, tư có bốn thứ như thường, v.v.... Trần sa phiền não có vô bốn thứ như thường, v.v.... Vô minh phiền não lại có bốn thứ như thường, v.v....
Hỏi: Văn nay trong ba chướng đã nói khổ và phiền não, sao chẳng nói nghiệp mở làm ba?
Đáp: Nghiệp do phiền não, cho nên cảm báo, đã nói hai thứ kia nghiệp ở đó cho nên chẳng cần nói.
Hỏi: Vì sao các đảo chỉ nói có bốn mà chẳng ba chẳng năm? Trong kinh chỉ chép: Thường và vô thường phải chăng?
Đáp: Lý vốn không tên, gượng ép đặt tên, tuy gượng mà lập, đức chẳng ngoài bốn. Phật diệt độ rồi người ngoài trộm của Phật bốn tên như thế thường, v.v... để chấp thần ngã. Cho nên Phật trước nói vô thường v.v... để phá thường. Nhị thừa không hiểu nên chấp vô thường, v.v... để làm cực. Cho nên Phật lại nói, bốn đức như thường, v.v.... Nói vô thường v.v... Bồ-tát xuất giả khác với Nhị thừa gọi là thường, v.v... Bồ-tát chẳng đạt chỉ chấp giáo đạo, lại chép: Chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, v.v... để phá thường v.v... Đây là y cứ tiệm giáo hóa nghi để nói. Nếu đốn giáo tức đối với thường, v.v... mà nói vô thường, v.v..., mà đạt vô thường, tức đạt Trung đạo Kho Bí Mật. Y viên là đốn ý, biệt là tiệm ý, cũng đồng ở đây. Chỉ Biệt giáo thứ lớp có khác đôi chút với hóa nghi, suy nghĩ rất dễ thấy.
Kế trong giải thích thể tướng mà chép: Thể được hiển của chỉ quán này. Tuy dùng chỉ quán để làm năng hiển. Chỉ quán là hạnh, hạnh nhờ giáo mà hưng, giáo là năng thuyên, hạnh là lý sở thuyên. Hạnh đối với lý lại làm năng hiển. Năng hiển lại chung nhân quả, được, mất. Đắc tức là năng hiển diệu thể nay, thất tức là chỉ thuộc phương tiện phàm tiểu, cho nên văn bốn chướng hiển bày thể. Trong đó trước nói ý đến, cũng là kết trước sanh sau. Từ đầu đến nếu hướng là kết hai chương trước. Đã biết đến như trước là kết thúc đại ý trước. Danh tự đến nếu hướng là kết thích danh ở trước. Phải biết trở xuống là sanh sau hiển thể. Đại ý chung với nhân quả tự tha, nên gọi là rộng lớn. Thích danh khắp ở Thiên viên, ngang dọc nên nói rộng xa. Rộng ngang là rộng, xa dọc là sâu. Như trong Thích Danh nói đối đãi nhau tức là vừa ngang vừa dọc. Bặt đối đãi tức là ngang dọc chẳng hai. Đây là y cứ ngang dọc mà nói chẳng hai. Trước nói như trước, kế nói nếu hướng. Trước cùng với hướng đều đã qua, nghĩa mà suy, thì (hơi xa) là trước, vì (hơi gần) là hướng. Cho nên Phẩm Bất Khinh kinh Pháp Hoa nói bác bỏ bai hủy báng bị tội như trước chép: Chỉ phẩm Pháp sư ở quyển bốn công đức có được như vừa nói. Chỉ ở đầu phẩm sáu Pháp sư công đức phải biết thể lý sâu kia. Lại dùng thể tướng mà so sánh hai trước, hai trước đều ngang, thể tướng chỉ dọc. Cho nên nói uyên huyền. Uyên là sâu, huyền là kín. Cho nên trong phân biệt nói thể tướng dọc, tám thứ kia ngang. Y cứ đây một lược đại phân mà nói. Cho nên trong Thích Danh lại chung ngang dọc và chẳng hai. Kế trong mở chương giải thích riêng. Sở thuyên, đế lý gọi là thể, phân biệt quyền thật đại tiểu khác nhau nên gọi là Tướng. Cũng nói hiển thể, thì thể là sở hiển, giáo tướng nhãn trí tức là năng hiển. Năng từ sở nên nói hiển thể. Trước nói Thô ký bốn ý thô là lược. Thể tướng khó bày lược ký bốn ý mới biết được thể. Lý tạ trở xuống là nói dụng của chương sở y và sanh khởi. Giáo nói lên lý nên giáo ở đầu. đến lý phải thực hành, thực hành tức nhãn trí, cho nên ở kế. Kế nói về chỗ đến tức là lý cảnh, cho nên ở kế. Nói về lý người, tự tha đắc thất cho nên ở kế. Nếu từ sanh khởi giống như bốn chương cùng thành thể tướng, giải thích văn ý chỉ của văn phải phân ra cao sâu, đều hiển bày thể đâu phải nhờ nhau. Hỏi: trước chương Giáo tướng có gì khác với Thích danh. Đáp: Chương ấy giải thích tên chung chỉ được tên giáo. Nay xếp đồng khác nên nói Giáo tướng. Hỏi: Đã nói thể tướng sao nêu giáo tướng? Đáp: Tuy nói năng thuyên mà ý ở sở thuyên, chẳng y cứ năng thuyên không dùng biện sở, y cứ chương nhãn trí năng sở cũng như thế. Nếu chung đức trước đức là sở thuyên, nói hay chung tên, hay đến với sở, dùng sở hiển năng, nên nói đức chung. Cho nên Thích Danh bốn đoạn ý ở bặt đối đãi. Thể tướng bốn chương ý ở cảnh giới. Cho nên bốn chướng, văn bốn nghĩa hai ý chương ở một. Pháp Hoa trở xuống nói ý dụng chương trong Thích Danh trước đã tụng hai diệu Huyền văn, Đãi tuyệt, cho nên nay hiển thể lại dùng trong sớ bốn, một hiển thật. Thật chẳng khác đó cho nên liền dùng tên bốn, một này vốn xuất xứ từ Quang Trạch. Quang Trạch Sớ ý dùng ba ba làm quyền chỉ ở giáo xưa, dùng bốn, một làm thật chỉ ở Pháp Hoa. Ba xưa không quả cho nên ba chỉ là ba. Nay giáo không ba, bốn thứ đều một, cho nên nói bốn, một. Nay Nhà hòa xưa cũng làm bốn, một. Giáo đồng tên khác chẳng toàn đồng xưa. Xưa nói quả một, nay nói lý một. Nếu không lý ấn tức đồng mà nói. Xưa nói nhân một, nay nói hạnh một, nhân nói thì đơn hạnh chung nhân quả. Người giáo hai, một chẳng khác với xưa. Huyền văn có phá nay chẳng nói đủ. Huyền văn lại dùng mười diệu mà làm mười, một, nay lại y bốn để đối bốn chương. Cho nên kinh chép: Vì giúp chúng sanh khai tri kiến Phật, lấy sở tri kiến mà làm lý một. Chỉ giáo Bồ-tát tức là người một. Thường làm một sự, tức là hạnh một, vì chúng sanh nói tức là giáo một. Sớ thích lý một y cứ sẽ thấy biết. Lại vì bốn thích tức là bốn trí, bốn môn, bốn vị quán tâm, năng sở đối nhau, bốn chương nghĩa đủ. Trí là nhãn trí, môn là giáo tướng, quán tâm chỉ là bẩm giáo, chứng trí vị kế chỉ là thềm hoặc nhãn trí để khế với lý. Trong đó trước nói giáo tướng. Văn trước lại nói ý đến.
Danh tức là giáo nên nói giáo tướng, chỉ là Thích Danh ở trước, Danh chung Phàm Thánh, Đại Tiểu Thiên Viên chẳng thể tìm, cầu ở thể riêng, thể riêng chẳng hiển, muốn bỏ thiên theo viên, không do đâu đến được. Nay nói chướng này chia ra tướng khác. Tướng của giáo gia nên nói giáo tướng. Nói chung riêng là như Đại Kinh quyển ba mươi ba chép: Phật nói Tu-đà-hoàn gọi là Nghịch lưu. Ca-diếp hỏi rằng: Nếu thế thì A-la-hán cho đến Phật cũng được gọi là Tu-đà-hoàn ư? Phật cho đến Tu-đà-hoàn cũng gọi là Phật ư? Ca-diếp dùng tên chung mà hỏi thể riêng. Vì tên chung Nghịch lưu là chung cho tất cả. Nếu nói đã dứt ba kiết gọi là Tu-đà-hoàn, cho đến ba mươi bốn tâm gọi là Phật thì tên thể đều riêng. Tên chỉ quán ở trước tên ấy đã chung. Nay dùng thể riêng xét tên chung, cho nên không cần danh thể đều riêng. Lại biết thành luận chỉ quán dị thời, tông Tát-bà-đa chỉ quán đồng thời tuy nói đồng thời, dị thời, đâu thể dùng đồng thời đó làm viên, dị thời làm khác. Cho nên phải dùng giáo tướng để phân biệt. Trong Thích danh trước, ý lại gần nói Diễn môn ba đế, cũng có thể nghĩa gồm Tam Tạng Chân đế. Nay trong hiển thể, muốn phân biệt rõ từ rộng đến hẹp. Do đó bắt đầu từ phàm phu mà rốt đến viên cực đều gọi Chỉ quán. Trước nói hữu lậu là pháp giới nội. Chỉ thiện mà trị tức sát, đạo, v.v..., Hành thiện mà sanh tức là phóng sanh, v.v... do hành do chỉ nên được gọi là thiện, tên chỉ hành thiện bốn thiền, v.v... là y theo nhiếp pháp ở dưới, đây y cứ vào phần nhiều. Nếu nói rõ ra thì như trong bốn thiền đều có một tâm gọi là chỉ tướng, các thứ khác đều thuộc về quán. Lại thiền thứ tư lại là tướng, các thứ khác đều thuộc tướng quán. Nay gọi chung chỉ là chung thuộc định. Bốn tâm Vô lượng thì ba thứ trước là tướng quán, xả tâm là tướng chỉ. Lại Bi khiến lìa khổ, cũng là tướng Chỉ, Từ khiến ban vui là tướng Quán. Tâm Hỷ có hai gồm cả chỉ quán. Nay nói chung là chỉ, là bốn tâm này không phải nhất định chẳng khắc. Sáu hạnh quán là nói riêng có thể chán dưới là chỉ, thích trên là quán. Gọi chung quán là có hân yểm. Cho nên Đại luận trở xuống là y cứ dụ mà bác bỏ. Đại Kinh cũng nói trừ núi Ma-lê mọc cây chiên-đàn, các núi khác không có. Lại dùng xuất thế ba thừa mà nhìn hữu lậu gọi là chân trí tuệ, nên pháp hữu lậu chẳng phải là chỗ nay dùng. Kế nếu Nhị thừa trở xuống là nói Tam Tạng chiết pháp tất cả pháp môn, tất cả sự định phần lớn thuộc chỉ. Lại từ định mười tưởng kiến đạo có ba, là: Vô thường, khổ, vô ngã. Tu đạo có bốn tức là: Thực bất tịnh thế gian chẳng thể vui, chết, bất tịnh, bảy thứ này thuộc về quán. Đạo Vô học có ba là Đoạn-Ly-Tận, ba thứ này thuộc chỉ, cũng có thể đều quán. Mỗi văn sau đều nói trí tuệ tương ưng. Pháp là chỉ là đã gọi sự thiền, thiền phải thuộc chỉ. Lại vô học sau ba tên ấy gần chỉ, nên xếp thuộc chỉ. Tám bối cũng có thể ba thứ trước thuộc quán, năm thứ sau thuộc chỉ. Sắc đối với vô sắc, vô sắc phải làm tên chỉ mà nói. Chín định thứ lớp luyện tám bốn xả, cũng có thể tùy nó để phân ra chỉ quán. Đã đều nói định nên xếp thuộc về chỉ. Chẳng đồng với đây cho nên trong văn đều nói một lượt, nói có làm bốn đế tuệ v.v... một lượt lại từ thiền mà xếp chỉ. Trong Đại Kinh ấy chín tưởng các căn đều ở trong tuệ thánh hạnh. Đã dùng tuệ làm tên lại xếp thuộc quán. Ở đây sau bác bỏ là pháp chuyết độ, dùng khéo so sánh với vụng, vụng chẳng gọi quán, là hai pháp chỉ quán vì đồng diệt sắc cho nên diệt danh (tên diệt), lại dùng cho chỉ. Kế giải thích như văn.
Kế nói Xảo Độ. Trước nêu tức thứ lớp ba quán tên chung là xảo (khéo), vụng mà được tên. Như trong Đại luận dẫn Hỷ căn, v.v... gọi là Xảo Độ, tức chỉ ba giáo, ấy thì thứ lớp cùng chẳng thứ lớp, đều gọi là Khéo. Nay từ đầu nói nên cũng gọi xảo. Kế chánh giải thích. Trong thứ lớp đầu, trước là chỉ sau là quán. Trước trong nói chỉ thể đầu là chân chỉ. Thích văn giải thích văn ấy còn lược đủ khởi phải dùng bốn tánh mà xem xét. Phá tánh kể rồi đủ hai không, cho nên mới gọi đắc không. Thứ lớp hai chỉ, trước lại nói chung ba thừa chỗ chứng mà giống nhiều khác ít. Nếu Nhị thừa trở xuống là giải thích chẳng cần phương tiện. Kế dẫn kinh chép: Động chỉ tâm một, chỉ tức là không, động tức vào giả, không tâm vào giả, nên nói thường một. Trong thứ lớp ba chỉ nói thiên hạnh, v.v... là bác bỏ hai chỉ trước. Chỗ ý đến gọi là hạnh, chỗ ý nương gọi là Dụng. Thể trước chân chỉ đều quán hai đế. Thiên thú ở chân, nương chân khởi hạnh. Kế phương tiện chỉ cũng đều quán hai đế. Thiên thú ở tục, tuy nương tục khởi hạnh nhưng vì chưa quán Trung đạo nên đều gọi là Thiên. Nên nay bác là không gặp Trung đạo. Lại Niết-bàn trụ không gọi là Thiên hạnh, xuất giả lưu động gọi là Thiên dụng. Lại biết tục chẳng phải tục nghĩa chung hai thứ. Duyên sanh tục và xuất giả tục, hai tục đều vắng lặng, nên nói tịch nhiên. Ba tên chỉ này, v.v... là giải thích nghi. Đây là lời khiêm nhường của Đại sư. Kế là giải thích luận dưới, chứng ý ba chỉ sao chỉ ánh vọng ba quán, khiến tên có bằng cớ. Đại luận cũng cho tùy nghĩa đặt tên. Nói y quán lập ba chỉ, là kinh Đại Tiểu thừa đều lập hai tên Chỉ Quán, huống chi chỉ quán, chỉ là tên khác của Định Tuệ. Đã tên Định Tuệ mọi chỗ đều nêu, cho nên nay so sánh quán để đặt tên chỉ. Do đó, Anh Lạc ba quán nghĩa phải gồm chỉ, cho nên trong Thành Luận có phẩm Chỉ Quán, trong bốn A-hàm hễ có Phật giáo khiến tu hai pháp tức là chỉ quán. Lại Bà-sa quyển bảy mươi chép: Các Tỳ-kheo hỏi Thượng tọa rằng: Nhàn phòng dưới cây là tu pháp gì? Thượng tọa đáp: Phải tu hai pháp, đó là chỉ quán. Lại hỏi tu nhiều chỉ quán thì được gì.
Đáp: Được sơ quả cho đến quả A-la-hán. Như thế thứ lớp hỏi năm trăm Tỳ-kheo đều nói tu hai pháp chỉ quán. A-nan bạch Phật, Phật cũng nói tu hai pháp chỉ quán. A-nan khen rằng: Lành thay lành thay. Như lai và đệ tử nói ra đều giống, cú nghĩa vị đồng. Lại Tịnh Danh chép: Pháp thân từ chỉ quán mà sanh. Đại Anh Lạc chép: Nếu muốn học các pháp vào sâu Thiên bổn, phải thấy năng lực Bồ-tát tu tập chỉ quán. Đại tiểu kinh luận tất cả đều thế. Kế rõ dưới đây là cùng Thích Danh phân biệt đồng khác. Nói phảng phất là chẳng phải hợp đồng cho nên nói thế. Nói đồng, trước nói chỉ, tức y cứ phiền não (dứt). Nay nói thể chân, thể vọng tức chân. Trước nói đình chỉ y cứ tâm đến lý. Nay nói tùy duyên, là tâm tùy lý tục. Trước chẳng chỉ chỉ là y cứ lý chẳng phải chỉ và chẳng chỉ. Nay dứt hai bên, bên không như chỉ, giả như chẳng chỉ. Trung đạo chẳng phải hai bên không giả giống như chẳng chỉ chỉ. Tướng nói khác là ba chỉ trước cùng thành một đế, nay ba chỉ này đều thành một đế. Ba thứ trước thành ba thứ kế là kế, và sau đều chỉ thể tướng. Văn thêu dệt cùng nói cho nên khác nhau. Ba là Thích Danh trước thành ba thể tướng, cho nên ba thể tướng mỗi thứ tướng đều giả, Thích Danh ba thành. Vì sao như thể chân chỉ thì dứt kiến tư, dừng tâm chân đế và thấy chân lý chẳng phải chỉ chẳng chỉ. Thể chân đã tế, hai thứ kia lệ theo như thế. Cho nên mỗi đều đủ ba trước. Câu dưới chép: Một sau đủ ba trước, câu phức ở trên chép: Một trong thể tướng đều đủ ba trong Thích Danh.
Kế nói ba quán. Trước y kinh nêu. Ở kinh Bổn Nghiệp Anh Lạc kia văn có hai chỗ nói ba quán này, quyển hạ Phật vì bảy Bồ-tát như Văn-thù, Phổ Hiền, v.v... nói đủ như quyển một đã dẫn. Quyển thượng nói một trong mười hồi hướng, một hồi hướng đều có mười cảnh giới sở duyên. Quán thứ mười trong mười hướng gọi là vô tướng, Đệ nhất nghĩa quán được vào sơ địa. Sơ địa trở lên ba quán một tâm. Nói ba quán, là từ giả vào không gọi là Nhị đế quán, từ không vào giả gọi là quán Bình đẳng, hai quán là phương tiện nhân là hai quán không được vào Trung đạo đệ nhất nghĩa đế quán. Chiếu soi cả hai đế, tâm vắng lặng tự nhiên tiến vào Sơ địa pháp lưu thông trung gọi là Ma-ha-tát. Văn nay y đó lược năm ba chữ. Từ chỗ nói trở xuống là giải thích ý kinh. Trước giải thích vào không, còn gọi hai đế. Văn có năm lớp: Một là con đường chung, y cứ thuyên năng sở cùng luận. Là sao, tục là năng thuyên, không là sở thuyên. Nếu không có năng thuyên thì không nhờ đâu biết được sở thuyên. Cho nên phải đặt tên hai đế. Lại hội không trở xuống là thứ hai y cứ chứng, huống chi tu mà nói. Trước là pháp kế là dụ, sau là hợp. Trong pháp trước nói ngày hội chẳng những phải thấy không, còn không giả đều thấy, huống chi do quán giả thấy chân mà chẳng được, nói hai đế quán ư? Cho nên chẳng được chẳng lập hai đế. Như mây trừ, v.v... kế là nêu dụ, mây tức là chướng, chướng trừ thì tên phát, phát tức là khai mở. Như khi mây tan hết thì trên hư không hiển bày một sắc, dưới muôn tượng sẽ sáng. Trên biển là dụ thấy chân, dưới sáng là dụ thấy tục. Mây là dụ cho hoặc kiến tư. Trên hiển thì dưới sáng. Cho nên phải hai đế. Do chân dưới hợp dụ, do chân hợp trên hiển, giả biển hợp dưới sáng. Do thấy chân nên giả ấy lại hiển. Nay do trở xuống là so sánh giải thích, là nói khi chứng chân còn thấy hai đế. Này trước (mới) tu chân do quán giả mà được, vì sao chẳng gọi hai Đế quán. Cho nên nói nay do, v.v... Lại tục trở xuống là thứ ba y cứ phá dụng mà nói. Nếu có sở phá thì có năng phá. Năng phá tức là chân đế sở dụng, năng sở chẳng lẻ loi cho nên đều lập. Lại phân biệt trở xuống là thứ tự y cứ Tình trí mà nói. Nay (ta) giải thích để làm Đại Tiểu Thừa đều đối Tình Trí, nghĩa mới hết lý. Cho nên dùng Đại Kinh để giải thích Văn Anh Lạc. Đại Kinh quyển ba mươi hai chép: Tùy tự ý, tức như năm trăm Tỳ-kheo đều nói thân nhân, năm trăm Tỳ-kheo đều hỏi Xá-lợi-phất rằng: Phật nói thân nhân là sao? Xálợi-phất chép: Các thầy cũng đều được Chánh giải thoát tự phải biết, sao duyên phương tiện mà hỏi như thế... Có Tỳ-kheo chép: Khi chúng con chưa được Chánh giải thoát thì ý bảo vô minh xem là thân nhân, khi quán như thế thì được A-la-hán. Có người nói ái, có người nói hành, có người nói ăn uống và năm dục, v.v... Như thế năm trăm vị đều nói xong, cùng đến chỗ Phật đi nhiễu bên phải xong thì đều nói cái của mình. Thân Tử bạch Phật ai nói đúng? Phật bảo năm trăm Tỳ-kheo đều nói đúng, đều nói chỗ mình chứng gọi là tùy tự ý, cũng gọi là Tùy trí. Như Trưởng giả Ba-tra-la gọi Phật là người huyễn. Phật do đó rộng nói tất cả pháp huyễn, các thứ khác nhau. Thuận theo vật tình mà gọi, theo ý nói, cũng gọi là tùy tình. Như nói tâm thấy của người đời gọi là Thế đế, tâm thấy của người xuất thế gọi là nghĩa đế Đệ nhất. Thế đế thì thuộc tình, nghĩa đế Đệ nhất thì thuộc trí. Tình trí đều hợp thì được tên hai đế, t tùy ý tự tha (mình người) cũng gọi là tùy Tình trí. Đây y cứ hai đế, hai giáo Tạng Thông nghĩa là ý quán đều văn nay. Hai giáo sau chuẩn nói rất dễ hiểu. Như nói ba đức rằng: Danh hiệu Như lai mười muôn khác nhau, Bát-nhã một pháp nói các thứ tên. Giải thoát cũng như thế, phần nhiều các danh tự là gọi tùy tình, an trí các con cũng tự ở trong đó, nên gọi tùy trí. Đức tu, đức tánh tên tùy tình trí. Nay y theo quán đầu còn đủ tình, v.v... ba thứ hai đế, huống chi là một thứ.
Hỏi: Đã chưa khế chân, chỉ phải tùy tình đâu được hai thứ kia.
Đáp: Chung trước sau nên phải nói khắp. Nay văn chánh dùng hai thứ giáo, hạnh để hiển sơ tu thành nghĩa hai đế. Kế hỏi trở xuống là phân biệt. Có tám pháp hỏi đáp.
Hỏi: Đầu là dùng quán đầu thứ ba mà giải thích ý hỏi quán thứ hai, quán đầu phá tục dùng chân, quán kế phát chân dùng tục, hai quán đã đều phá một dùng một. Cũng phải đều được gọi là hai đế quán, sao tên thứ hai lại là bình đẳng?
Đáp: Đều gọi Đế quán đối với lý thì thật thông, chỉ tên trước sau đồng hơn kém lẫn lộn. Cho nên cái thứ ba từ (hơn) mà đặt tên. Nói thắng là được chỉ dùng chân nay có thể dùng tục. Chân chỉ tự lợi, tục thì lợi tha. Tự hành gồm người nên gọi là Thắng.
Hỏi: kế Dùng quán thứ ba mà hỏi quán thứ hai, quán hai trông đầu từ thắng mà được tên, thứ ba trông đầu sao chẳng từ thắng? Thứ hai dùng khắp còn gọi Bình đẳng. Thứ ba dùng đẳng phải gọi Bình đẳng mà chỉ gọi là Trung đạo quán ư?
Đáp: Hai quán trước đều có phá dụng phải quán mà luận đều chẳng bình đẳng. Thứ hai nhìn đầu trước sau hợp nói, cho nên đến thứ hai mới gọi Bình đẳng. Đây từ phá dụng đối nhau mà gọi tên, nay quán thứ ba phải quán mà luận đã tự bình đẳng nhìn hai quán trước lại làm cuối cho nên chỉ thành lại phá lại dụng. Nay đây đều chiếu chẳng đối phá dụng, cho nên chỉ từ năng dụng mà gọi tên. Vì thế thứ ba, hai thứ này đều không dính mắc. Dẫu ở Địa Tiền chưa vào Trung đạo, bèn dính mắc rồi phá chỉ dùng ở Trung. Lại Trung đạo quán không phải chẳng bình đẳng lại gọi bình đẳng, lại thành lẫn lộn. Kế hỏi: Song nạn hai thứ trước đều quán hai đế cũng phải đều vào, vì sao trước chỉ vào chân, kế chỉ vào tục? Đáp: Chỉ đáp quán đầu y cứ biết thứ hai. Trước đã đều quán mà chẳng đều vào. Thứ hai cũng vì phá không dụng giả, phá dụng chẳng bình đẳng, vào cũng khác nhau. Hỏi: kế trước đã hỏi chân tục phá dụng nay dùng chân trung mà hỏi Tục đế, trong ba đế chỉ nêu chân trung mà hỏi một tục, hai đều gọi tục sao chỉ hỏi riêng. Chân trung tức là giới nội ngoại chân tức có chỗ phá giới nội ngoại tục. Chân trung là lý dung có thể gọi Đế. Chỗ phá chẳng phải lý đâu được gọi đế. Đáp ý: Pháp tánh là lý, lý tức là đế. Dã đều pháp tánh nên đều gọi là đế. Hỏi kế: Đế cho nên không, hoặc cho nên không sanh tử. Đã đều gọi đế thì đều nhập Niết-bàn chăng?
Đáp: ý Chân tục tuy khác, đều được gọi đế, thế xuất thế khác, đều gọi là Niết-bàn. Niết-bàn tức là xuất thế an vui, cho nên thế an vui cũng gọi là Niếtbàn. Kế hỏi: Niết-bàn tức là vô lậu vô vi, hai đế đều được gọi là Niết-bàn, cũng phải đều được gọi là vô lậu?
Đáp: ý: Phàm vào vô lậu thì phải chánh kiến, đã cho thế gian cũng có chánh kiến tức gọi là thế gian không hề rõ rĩ (lậu thất). Câu Hỏi kế: Vì vô lậu cho nên là Vô sanh, đã cho chân tục đều gọi vô lậu, thì cũng phải chân tục đều gọi Vô sanh. Tên Vô sanh cũng chung cho hai đế, cho nên mượn Đại Kinh quyển ba mươi hai. Văn ngoại đạo chấp mà đáp. Cũng như thế gian có bốn thứ không: Một là chưa sanh gọi là không, cũng như bùn không có bình; hai là đã diệt gọi là Vô, như bình đã bể; ba là lẫn nhau là không, như trâu ngựa đều không; bốn là rốt ráo nên không, như lông rùa sừng thỏ. Nay mượn thứ ba cùng không mà đáp, tức là xuất thế không sanh thế gian, thế gian cũng không sanh xuất thế. Cái gọi là mượn, là tuy không phải chánh nghĩa nhưng y cứ Thế đế, bốn không chẳng phải nhầm, quyền mượn để làm thích thời mà đáp. Dưới cũng lệ như thế. Hỏi kế: Nói từ giả là phá hay chẳng phá? Đáp: Trong đó khai làm câu ba mươi sáu câu, đủ như văn dưới trong cảnh phiền não. Nay trước lại bốn câu trong đối văn, phá là phá giả, vào là vào không, chẳng phá mà vào tức là thể pháp vô học, phá vào tức là chiết pháp vô học. Phá mà chẳng vào gọi là Đắc thiền ngoại đạo, chẳng phá chẳng vào tức là tất cả phàm phu. Phá và chẳng phá đều gọi từ giã, cũng đều vào không tức là hai câu trước. Tức là phá chẳng phá đều gọi từ giả, mà chẳng vào không tức hai câu sau. Kế đơn thích quán thứ hai, khác thời đối nhau gọi là bình đẳng, quán thứ hai này được gọi bình đẳng, chẳng phải riêng từ quyển hai này mà được. Quán đầu dùng chân mà phá tục, ở đây lại dùng tục phá chân, gồm trước bèn thành song dụng, song phá. Trước sau đối nhau gọi là khác thời, đến đây thứ hai mới gọi là bình đẳng. Kế nay sẽ trở xuống là có hai lớp thí họp. Trước là dụ vào không, kế là hiển vào giả. Phàm phu đui mù chân tục đều chẳng thấy. Mắt tuệ mở rồi thấy chân đế không, cũng thấy tục sắc. Từ giả trở xuống là hợp vào không dụ. Tuy thấy hai đế chỉ có thể dùng chân, chưa thể phân biệt chẳng thể dùng tục. Cho nên trong dụ chép: Chẳng thể phân biệt các thứ, v.v... bốn thứ bốn đế gọi là các thứ. Mãng là tên chung của các thứ cỏ, đều nêu ba cỏ. Mộc là tên chung các thứ cây, đều nêu hai cây, thân rễ nhánh lá trong sớ là dụ cho Tín giới định tuệ, bốn giáo đều có bốn pháp này. Bốn thứ đạo diệt gọi đó là thuốc, bốn thứ khổ tập gọi đó là Độc. Bốn giáo phân riêng nên chủng loại khác nhau. Cho nên mới vào không, chưa thể phân biệt. Cho nên gọi là chẳng thể dùng giả. Lớp thí dụ kế, mắt tuệ mở rồi tức khi vào giả cũng thấy hai đế gọi là thấy không sắc, phân biệt từ trước nay về sắc được phá thì thấy suốt các sắc căn đều khác nhau, rõ bốn thứ bốn đế gọi là thức chủng loại. Biết rõ thuốc và bịnh, nhân khởi khác nhau, gọi là hiểu nhân duyên, xoay vần nhìn nhau cùng nói thô tế. Bên trị khổ tập gọi đó là Thuốc. Thuốc giúp pháp thân nên gọi là ăn. Biết thuốc biết bịnh, gọi là đều biết, khéo hay trao thuốc gọi là đều dùng. Khắp bốn thứ bốn đế nên nói là đều. Chỗ phá chín giới gọi là ích tha. Thí dụ này trở xuống là hợp. Trước sau hai quán đều quán chân tục, ở đây hay phân biệt nhìn trước cho nên đẳng. Kế giải thích Trung đạo. Trước chánh nêu văn kinh Anh Lạc, trong kinh giải thích hai quán trước đã xong, tức nói nhân là hai không, quán là đạo phương tiện, được vào Trung đạo, chiếu cả hai đế. Tâm tâm vắng lặng tự nhiên tiến vào Sơ địa. Nay trước giải thích phương tiện. Có hai thứ, một là mất cả hai, hai là chiếu cả hai. Trước nói hai không. Không giả không không, không tức là giá, giá tức là mất do khác thời trước, song vong phương tiện. Nay vào Trung đạo nhậm vận song vong. Vong tức là trung, cho nên nói tâm tâm vắng lặng. Lại quán đầu trở xuống là kế giải thích cùng chiếu. Khi hai quán trước dùng không dùng giả. Do khác thời trước, song dụng phương tiện. Dung tức là chiếu, chiếu tức là trung. Cho nên dẫn kinh nói: Nếu tâm ở trong định thì sanh tức là tục, diệt tức là chân. Cho trụ Trung đạo biết được sanh diệt. Biết chỉ là chiếu ý ở tại đây. Vì đều trung nên được nhậm vận. Nhậm vận này do tác ý ở trước, lại cùng vong chiếu mà làm phương tiện. Khi vào Trung đạo nên được như thế. Câu Hỏi kế: Dẫn kinh giải thích ngại để chứng văn nay: Khi vào Sơ địa mới gọi là đẳng. Cho nên trước hỏi tướng Thiên như thế nào. Đáp ý: Cái gọi là Thiên phần nhiều chẳng thấy tánh là y cứ nghĩa thứ lớp. Kế hỏi hướng đáp văn. Hướng đáp: Hai quán thuộc thiên định tuệ cho nên chẳng thấy tánh. Lại dẫn Đại kinh đế hỏi đáp ở trước. Mắt tuệ ở trước pháp nhãn còn được gọi là thấy, chỉ nói không rõ vì sao mà nói hai toàn chẳng thấy. Văn này là Đại Kinh Phật đáp Sư Tử Hống rằng mắt tuệ thấy mà chẳng rõ ràng, Phật dùng mắt Phật thì thấy rõ ràng. Hạnh Bồ-tát thấy cũng không rõ, nếu vô hạnh thì thấy rõ ràng. Trụ vào Thập Trụ nên chẳng thấy rõ, chẳng trụ chẳng đi thì thấy rõ ràng. Vì sao mà nói các giai vị hạnh hướng cũng chẳng thấy ư? Đáp: ý nói hai mắt đều chẳng thấy là y cứ nghĩa thứ lớp, hai quán đã thuộc thiên quả thiên không, thì mắt tuệ mắt pháp đều chẳng thấy tánh. Ông dẫn kinh mắt tuệ thấy, tuệ tuy ở vị Mười trụ, nhưng mượn tên riêng viên nên nói mười trụ và mắt tuệ thấy, y viên mà nói. Sợ trụ trở xuống thật là mắt Phật. Cho nên biết đây mượn viên trụ gọi là mắt tuệ, chẳng phải gọi mắt tuệ mười trụ rất dễ thấy. Kế dẫn Pháp Hoa để chứng mắt tuệ. Thế tôn rốt ráo còn gọi mắt tuệ huống chi là Mười trụ mà chẳng được gọi là tuệ hay sao? Mắt tuệ của Phật thì thấy rốt ráo không. Không tức là trung, mắt tuệ tức là Mắt Phật. Nói như thế là chỉ mắt tuệ trong trụ chẳng thấy rõ, chẳng bằng mắt tuệ rốt ráo của Thế tôn. Như đêm vô minh mà thấy sắc Trung đạo, vô minh khác còn nên thấy không rõ, ngỗng nhạn trong hư không cũng như thế. Có vô minh khác làm chướng cho mắt, nên khiến thấy ngỗng nhạn trong hư không chẳng rõ. Cho nên Đại Kinh quyển tám nói: Ví như nhìn xa ngỗng nhạn trên hư không, đó là hư không hay ngỗng nhạn, nhìn kỹ chẳng thôi thì thấy hơi giống. Bồ-tát Mười trụ đối với Như lai tánh phần ít tri kiến cũng giống như thế. Không như vô minh, ngỗng nhạn như tánh. Nói chẳng rõ là Bồ-tát Thập Trụ Mắt tuệ đó đâu liên quan đến Nhị thừa Thiên không tuệ nhãn. Ấy thì Biệt giáo Địa tiền đều chẳng thấy huống chi là Bồ-tát thông giáo và hai Nhị thừa. Lại dẫn ví dụ đào giếng v.v... trong kinh Pháp Hoa, chứng cho quán thứ ba viên trụ mới thấy. Trong Pháp Hoa sớ vì tiêu văn kinh nên quán y cứ bốn giáo, giáo y cứ năm thời, phải biết giáo quán đều thành y cứ giáo, mới hiển bày ấy gọi là Độc diệu. Nó nhờ bốn giáo để giải thích quán. Trước Tam Tạng giáo lấy chúng sanh làm đất cao (cao nguyên), tập quán làm đào giếng, chứng lý làm nước trong. Thông quán lấy càn tuệ làm đất khô, tánh địa làm đất ướt thấy chân làm nước trong. Biệt quán lấy quán không làm đất khô, quán giả làm đất ướt, thấy trung làm nước trong. Viên quán lấy năm phẩm làm đất khô, lấy sáu căn làm đất ướt, Sơ trụ làm nước trong. Trong y cứ giáo đó có bốn thời giáo thông, ước, tiệm, trung. Ba tạng là đất khô, Phương Đẳng Bát-nhã là đất ướt, Pháp Hoa là bùn, thấy trung là nước. Hai nghĩa đều dùng Sơ trụ làm nước, nay y cứ tu quán, chỉ tu đốn quán. Viên giáo sơ tâm đều gọi là nước trong. Chẳng đồng sớ ấy khắc lấy Sơ trụ mới gọi nước trong. Xếp vị tuy khác, trước sau chẳng hai. Cho nên nay tức là y kinh Khởi Quán hai giáo trở xuống là kết y cứ giáo trước. Nói hai giáo là Tạng và Thông, nên hai giáo ấy như đất khô ướt hoàn toàn chưa có nước. Biệt giáo như bùn, giáo đạo xen lẫn nên chẳng gọi là nước trong. Sơ tâm biết trung, cho nên chỉ nói hai giáo chẳng nói, hai hạnh chẳng đến. Hạnh tức là quán. Kết thúc y cứ quán trước tức là hai quán không giả, tức là Nhị thừa thông biệt vào không, thuộc về hạnh không. Bồ-tát Tam Tạng Thông Biệt xuất giả, nhiếp thuộc giả hạnh. Cho nên nói chung hai quán chẳng đến. Trong quán thứ lớp Trung đạo tuy chẳng phải chỗ dùng của văn nay, vì đồng chứng đạo cho nên lại nói hai hạnh chẳng đến. Quyền giáo còn như thế huống chi là các thứ khác. Nên nói khắp không, cho đến không có việc ấy. Kế ba quán này trở xuống là cùng Thích Danh ở trước ba quán nói khác. Giải thích theo ý ba chỉ cũng rất dễ hiểu. Đây y theo Đại thừa là xếp vào khéo độ trước, thứ lớp ba quán, tuy có không giả đều thuộc Diễn môn. Cho ba quán này dùng danh nghĩa đối đãi nhau trong giáo xưa để làm giải thích chung, thứ lớp giáo tướng để làm năng hiển, thứ lớp ba đế để làm sở hiển. Vì nghĩa đó nên chẳng phải tướng viên đốn. Tuy chẳng phải viên đốn mà vốn là Viên đốn. Lại chẳng phải Biệt giáo, chỉ nói y diễn. Cho nên dưới kết nhân vị chung cho đại tiểu. Vì nghĩa ấy, ở đây y đại phẩm Đại thừa môn giải thích tướng ba quán. Đã chưa bị hội chỉ thành thứ lớp, lấy nghĩa thứ lớp mà tùy tướng thứ lớp. Ba quán rõ ràng, mỗi quán đều khác. Đây là nêu chung tướng riêng. Nếu luận trở xuống là y cứ người trí quán để giải thích tướng riêng. Nghĩa tức là giáo, giáo tùy tướng riêng, hiển thể khác nhau.
Cho nên khiến quán, v.v... chưa thể dung tức; hai quán trước là quyền, Trung đạo quán thật. Ba quán xoay vần kịp làm cạn sâu. Quán và nhân trí là quả, nhân đã khác nhau quả cũng như thế, nên khiến ba trí xoay vần hơn kém có trước có sau, quán pháp tuy thông, người tu đều khác. Cho nên khiến ba quán thuộc về Đại Tiểu. Tất cả các vị đều vào trong đó. Gồm chung hai giáo cho nên nói các vị, phụ hẹp Thanh văn nên chung ở tiểu. Cho nên nếu nói thứ lớp thì chỉ ở Đại. Nếu nói về người thì gồm chung Đại Tiểu, vì thế quán trí sau lại luận ở người. cho nên biết quán không Nhị thừa chỉ tiểu, Bồ-tát Thông giáo nghĩa chung ở Đại. Biệt tuy vào không mà một bề ở Đại. Thông biệt đều có Bồ-tát vào giả cũng một bề đại. Thông giáo lợi căn hậu tâm có phần tức là bị kiếp, là người sơ địa Biệt giáo mới là hiện tiền. Cho nên các vị Đại Tiểu khác nhau. Nếu nói về quyền môn chỉ phải phế tạng. Lại từ thứ lớp nên cũng bỏ viên. Kế nói viên đốn dùng tên gọi tuyệt đãi để làm năng thuyên, một đế ba đế để làm sở hiển. Văn trên dưới đối nhau phải rõ ràng. Trong đó trước chỉ, kế quán, sau nói đồng thời. Trước nói trong chỉ có pháp dụ hợp. Pháp đầu trong văn, chỉ là năng duyên, đế là sở hệ. Cho nên kinh chép: Hệ duyên pháp giới, pháp giới chẳng khác, năng sở là một chấp trong thí dụ, là song thí chỉ đế ba, một chẳng hai. Chỉ đế trở xuống là hợp. Pháp đầu trong nói, chỉ cùng đế đều ngay nơi một là ba. Trong thí thí chung ba, một chẳng hai. Hợp trung đế thì ngay nơi một là ba, chỉ thì ngay nơi ba là một. Văn giống chẳng đồng, ý hiển Chỉ đế ba. Một chẳng hai, chẳng hai mà hai. Vì quán trở xuống là nói quán, quán và cảnh tuy cùng thực hành quán phát tên. Vì quán nên phát, vì phát nên quán. Đồng thời thể khắp, năng sở đều ngay nơi một mà ba. Kế trong dụ cũng dụ ba, một chẳng hai. Hợp chỉ y cứ đế ngay nơi một là ba, quán và cảnh cũng ngay nơi một là ba. Sở quán là cảnh, sở phát là quán. Hợp quán và chỉ văn lại trái ngược. Cũng chỉ nói thể ở ba, một, v.v... Nhưng chỉ quán đã một, duyên chiếu chẳng khác. Đế cảnh tên khác vốn là một pháp, pháp ở chỉ quán khiến không khác nhau, vẫn phân ra năng sở vừa một vừa ba. Cho nên chẳng nên trước sau chấp nhất định. Trong dụ nói Ma-hê-thủ-la, là Sắc Đảnh Thiên Chủ một mặt ba mắt, nghiêm thiên nhan mà chiếu đại thiên. Nghiêm thiên nhan là ví các đức đầy đủ. Chiếu đại thiên là ví thấy khắp. Chẳng quyền chẳng thật trở xuống là hiển diệu bày thô, chẳng quyền chẳng thật là chê ba quán trước quyền thật cạn sâu. Chẳng hơn chẳng kém là chê ba trí trước hơn kém trước sau, chẳng cùng chẳng khác, mượn chữ y mà dụ chung chê quán trí. Chẳng đại chẳng tiểu là bác bỏ ba người mê đắm các địa vị Đại Tiểu. Kế dẫn Trung Luận là chứng ba quán ba chỉ tức nhau dung nhau. Kế dẫn Kim cương dụ chỉ quán cùng cảnh thể không hai mà hai. Nhãn dụ trở xuống là hợp thí rất dễ thấy. Nhưng chỉ quán đế cảnh chẳng hai mà hai, nghĩa ý dường như đồng mà đều khác nhau. Chỉ quán hai pháp tuy tức là chẳng hai, tịch chiếu rõ ràng. Hai pháp đế cảnh tuy đối chỉ quán chia làm hai tên. Nhưng thật không có hai thể khác nhau. Cho nên văn dụ này phân ra chỉ quán để dụ cho Nhật Nhãn. Hai tên đế, cảnh đồng dụ một sắc. Nhãn nhật sắc ba chẳng trước chẳng sau. Nếu thấy trở xuống là kết khuyến. Khuyên hiểu ý văn, đâu chỉ trở xuống là nói chung khai hiển. Khai trước các tên đồng một thật tướng. Đây tức nêu lên so sánh chung, đâu chỉ viên này ba, một tức nhau. Tất cả thứ lớp trong chung trước gọi là đồng khai vào thật. Tướng nó trở xuống là kế bày tướng khai. Trước khai hiển bày thể thứ lớp ba chỉ ba quán đồng thành bặt đãi một diệu chỉ quán. Giáo đã khai rồi thể không thô nữa. Kế thể chân trở xuống là y cứ hiển bày danh. Khai trong Thích Danh là Tương Đãi tên thô tức thành tên diệu. Danh đã tức diệu, thể cũng chẳng thô. Lại ở thể chân đủ Thích Danh trước ba chỉ ba quán. Y cứ ví dụ cũng phải tùy duyên phương tiện và dứt hai bên, đều nói các diệu ba chỉ ba quán. Chẳng nói lại nữa là thể chân đã diệu, tức là hai sau, cho nên chẳng nói nữa. Người đời phần nhiều mê lấy tên gọi đối đãi nhau mà hiển thể đối đãi nhau, há lại đến đây biết khai thứ lớp và tên gọi tương đãi đều thành bặt đãi ư? Nếu được ý này để tiêu biểu thì văn sau các nghĩa tự hiển bày. Như thế trở xuống là kết. Đã nói các nghĩa chỉ một niệm tâm phải biết một lý ứng hẳn là tên (danh). Cũng là một lý ứng tất cả lý. Cho nên nói bất động cho đến khác nhau. Kinh nói trở xuống là dẫn kinh Tịnh Danh làm chứng. Tuy nhiều trở xuống là dẫn Bát-nhã làm chứng. Các tên trở xuống là kết thành. Đã khai trước đây tất cả danh nghĩa, ngoài viên không pháp nên nói đều viên, đốn ngộ như tên này hiển ở diệu thể. Cho nên danh là giáo tướng hiển thể. Tương đãi Bặt đãi v.v... là kết khen. Tương đãi Bặt đãi kết thích danh ở trước thành không thể nghĩ bàn, đối thể kết trước thứ lớp giáo tướng chỗ hiển thành không thể nghĩ bàn. Pháp đặt tên đều đứng đầu sở thuyên nên nói đối thể. Nay khai hiển xong, danh không có thú riêng, thể không có lý riêng, đều khắp tất cả, chẳng chướng tất cả, nên nói vô ngại đều nhiếp tất cả, không chỗ nào giảm ít. Cho nên đầy đủ không giảm. Đầy đủ cho nên đốn, không giảm nên viên. Như thế mới có thể hiển thể chỉ quán.
Kế nói Nhãn trí Y giáo khởi hạnh cũng là dùng năng mà hiển sở. Trước giải thích chung cũng gọi ý đốn, trước nói thể thì chẳng phải tri, chẳng phải kiến, v.v... thể được hiển thật không phải nhãn trí cho đến nhân quả. Nói chẳng phải, là chẳng phải do năng hiển mới có sở. Vì có sở nên khiến năng có công, lại do năng nên khiến sở thấy được. Cho nên nói tuy không phải thấy biết nhưng do Nhãn trí thì thấy biết được. Cho nên nhãn thấy trí biết. Ở đây dùng Mắt Phật Nhất thiết chủng trí làm năng tri kiến. Như diệu thể này y theo tên mà nói còn là khó, huống chi tên ở dưới thể mà có thể chỉ bày cho người. Tuy phả trở xuống là nói chung về năng hiển. Lý tuy như thế, y cứ sự thì phải Nhãn trí chỉ quán dùng làm năng hiển. Chỉ quán là nhân trở xuống là xếp riêng. Do chỉ quán mới được Trí nhãn, do Trí nhãn mới hiển được thể, cho nên chỉ quán gọi là nhân xa, Trí nhãn là nhân gần. Thể nó minh diệu trở xuống là giải thích ý năng hiển, thể nó đã diệu đâu thể phân biệt. Nhưng nhờ Nhãn trí mà thể thấy được. Ba chỉ trở xuống là chánh giải thích. Trước giải thích thứ lớp hai nhân gần xa, tức ba chỉ ba quán để đối ba đế mà thành ba nhãn, ba trí.
Trước nói ba chỉ là tùy duyên chỉ mà nói Đàla-ni, Tổng trì các pháp viên đốn ba chỉ đều được gọi là Đà-la-ni. Nay nói thứ lớp nên y cứ xuất giả trì pháp nghĩa tiện cho nên nói phân biệt thuốc bịnh. Lại Đại luận chép: Đà-la-ni thuộc tuệ tánh cho nên phải đối xuất giả. Nếu nói năm trăm Đàla-ni, mỗi đà-la-ni đều là Trung đạo chánh tuệ thì chẳng phải trong ý này. Pháp nhàn mở rộng phá chướng chung vô tri, là đủ rất dễ hiểu bịnh biết thuốc cho đến trao thuốc, phá được chướng ngại trong sự ở thần thông, hóa đạo vô tri, chẳng dùng hai tướng thấy các cõi Phật, là tuy dẫn văn nghĩa hơi khác. Đó vì Như lai phát được thiên nhãn đối bác bỏ tiểu tông tu được thiên nhãn, tức hiển Đại thừa trụ không thể nghĩ bàn, gọi là chẳng hai tướng mà cũng thấy được ba cõi khác nhau.
Nay phương tiện tùy duyên thường ở Tục đế, khác nhau với có của phàm phu, khác nhau với không của Nhị thừa, gọi là chẳng hai tướng. Xuất (ra khỏi) giả phân biệt nhân quả Tịnh độ, gọi là thấy các cõi Phật. Ấy thì trở xuống là kết thành ý thứ lớp.
Hỏi: Trở xuống là phân biệt. Trước y cứ mắt tuệ tất cả trí rộng bàn, kế hai nhãn hai trí kia mà lược hỏi trước rất dễ thấy, kế trong đáp thì trước y cứ bốn câu, y văn Đại Kinh. Kinh quyển mười lăm ấy giải thích rộng bốn câu, nay chỉ mượn tên Tri kiến, không phải hoàn toàn dùng ý đó.
Hỏi: Văn trước nhờ quán mà phát là trí, nay ở đây dùng nhân nghe mà sanh là tri. Văn đã khác nhau vì sao dùng đây mà giải thích?
Đáp: Tên khác mà nghĩa đồng. Nghe là tuệ tánh, quán cũng là tuệ tánh.
Hỏi: vừa tri vừa kiến đối Tiểu thừa xong, kiến mà chẳng phải tri, đâu được lại đối Bích-chi-phật. Đáp: trước là y cứ vào Phật thế gian giáo Nhị thừa, hai người đều là vừa tri vừa kiến. Kiến mà chẳng phải tri là y cứ vào Độc giác, Bích-chi, không có Phật ra đời. Cho nên lại dùng Bích-chi Phật mà đối riêng. Lại nữa trở xuống là lại y cứ tín pháp để đối tri kiến.
Hỏi: Trước nói Nhãn trí chỉ quán làm nhân, nay đâu được dùng tín pháp làm nhân.
Đáp: Nghe đồng với quán, nghĩ đồng với chỉ, nghĩa loại giống nhau nên đối được. Kế nói chẳng thứ lớp. Trước là bác bỏ chung rằng: Chẳng đúng như thế, là một tâm khác nhau vì là thứ lớp. Như trước trở xuống là mở lý do xa trước để thành chẳng thứ lớp. Kế được thể trở xuống là mở lý do gần trước mà thành chẳng thứ lớp. Kế nhãn cố trở xuống là nói lý do gần thể đồng, lý do xa là chỉ quán tức nhau, lý do gần cũng phải Nhãn trí chẳng hai, vì nhân quả thuận nhau. Mắt Phật trở xuống là giải thích Nhãn trí. Vương Tam-muội tác dụng là dẫn chứng Phật nhãn có đủ năm nhãn. Nên nói tất cả đều vào trong ấy. Đại Phẩm trở xuống là dẫn chứng trí Phật đủ ba trí, cho nên đều nói là học. Ba trí bốn trí ở sau sẽ giải thích.
Hỏi: Trở xuống là phân biệt trí nhãn. Trước hỏi, nói muốn được, là một người trước sau muốn được, hoặc là nhiều người đều muốn được, chỉ nói đương học thì đâu phải gọi một tâm. Đáp ý: Pháp ở một tâm, nói có thứ lớp, đâu nói thứ lớp khiến pháp tung ngang. Kim cương trở xuống là nói năm nhãn, đều nói Phật có nên ở một tâm. Chỉ y cứ một nhãn mà có năm dụng thì phải nói Mắt Phật mà có bốn dụng, sao lại nói năm.
Đáp: Ở đây y cứ năm nhãn mà nói về thể dụng. Cho nên Mắt Phật là thể, bốn nhãn là dụng. Nếu làm chung riêng thì như Niết-bàn là chung, ba đức là riêng năm nhãn cũng như thế. Chỉ là viên thường không thể nghĩ bàn gọi là Mắt Phật mà có năm dụng như thấy Trung, cho đến thấy sắc, v. v..., nên được năm tên. Thế thì Phật và mình một thể năm nhãn khai phát. Không phải là xưa, không đến Phật mới có. Vì sao trở xuống là giải thích? Nhưng năm nhãn này, Thiên Thân và Vô trước đều giải thích không bằng Trí Luận rất rõ ràng. Quyển ba mươi chín chép: Nhục nhãn của Phật thấy nhân duyên thô sắc, cho đến cũng hơn chỗ thấy của người. Gọi Nhục nhãn là thấy hình bày, sắc chẳng khác với người. Người thấy chẳng xa, chỗ thấy lại ngược (đảo), như gần xem nhỏ thì lớn, xa xem lớn thì nhỏ. Cho đến các sắc nếu xem xa thì chỉ thấy ở trên hư không bày một sắc. Đại Phẩm chép: Nhục nhãn của Như lai thấy cả Đại thiên. Luận hỏi: Vì sao Như lai chỉ thấy Đại thiên.
Đáp: Nhục nhãn Phật thấy hơn Đại thiên, chỉ vì phong luân che chướng nên chẳng thấy cõi khác. Lại có Bồ-tát ở trên Đại thiên. Y cứ lý cũng sẽ thấy ngoài Đại thiên.
Hỏi: Sao chẳng tu Nhục nhãn khiến thấy xa?
Đáp: Nếu không có Thiên nhãn thì ép tu Nhục nhãn khiến thấy xa. Lại nói Phật pháp khó nghĩ bàn, Nhục nhãn của Phật cũng có khả năng thấy xa. Nếu chẳng bằng Phật thì giảm dần dần, hai ngàn, một ngàn cho đến một châu, đó gọi là Nhục nhãn tiểu tịnh. Cho nên nói theo lý tận thì Nhục nhãn Phật thấy pháp giới thô sắc. Luận y giáo đạo gần gũi tiểu tông, cho nên chỉ nói thấy Đại thiên. Nếu chỉ vì đời trước thì đèn sáng v.v... cho đến Luân vương trọn chẳng bao giờ thấy đến trăm dotuần. Nếu tiểu Bồ-tát cũng chẳng hơn đây.
Hỏi: Mặt trăng, mặt trời cách đất bốn mươi hai ngàn do-tuần người đều thấy thì trăm do-tuần có gì lạ.
Đáp: Mặt trời, mặt trăng có ánh sáng khiến người thấy được các sắc khác không phải thế. Thiên nhãn mới thấy. Người tuy nói thấy mà chỗ thấy cũng trái ngược nhật nguyệt vuông tròn năm mươi do-tuần, thấy chẳng hơn cây quạt to. Bồ-tát thì chẳng như thế.
Hỏi: Thấy các sắc gì.
Đáp: Thấy các sắc gọi là Nhục nhãn. Trong luận chẳng nói pháp tu Nhục nhãn. Nếu muốn so với thí đèn sáng, v.v... nhân ở dưới. Bồ-tát lại gia thêm từ tâm phục hoặc, cho nên chỗ thấy rộng dần, cho đến Đại thiên. Cũng có khả năng thấy được sắc nhỏ trở xuống là nói Thiên nhãn. Như các bụi gọi là sắc nhỏ. Thiên nhãn các trời dưới chẳng thể thấy trên. Phạm vương chẳng thấy hơn Đại thiên. Phật thấy hơn đây gọi là Thiên nhãn của Phật. Đại Phẩm chép: Phật bảo Tu-bồ-đề rằng Thiên nhãn của Phật thấy ở Ni-tra, cũng thấy Hằng sa thế giới ở mười phương, chết đây sanh kia và các thiện ác, v.v... Luận tướng không tức như Na-luật duyên cũng là việc ấy. Nói hơn cõi trời là các vị trời quả báo được cao tột như Phạm Vương, nay thấy mười phương còn hơn Na-luật huống chi là Phạm Vương. Cho nên Tịnh Danh chính là chê Na-luật, chê bai Phạm vương. Đạt thô tế sắc trở xuống là nói mắt tuệ. Nói như chỗ thấy của Nhị thừa, lại y cứ thứ lớp một lượt mà nói. Cứ lý thì cũng phải nói hơn Nhị thừa, Nhị thừa chỉ thấy các sắc không thô tế trong Đại thiên mà Phật thấy. Pháp giới giả trung (trong giả) đều không. Đại Phẩm chép: Thế nào gọi là Đại Bồtát tuệ nhãn thanh tịnh? Phật bảo Xá-lợi-phất: Mắt tuệ Bồ-tát không nghĩ gì về hữu vi vô vi, thế xuất thế, lậu vô lậu tất cả tri kiến. Luận chép: Nhục nhãn thấy chẳng xa, cho nên tu thiên nhãn. Thiên nhãn dối gạt nên cầu tuệ nhãn. Luận Văn đã chép: Tất cả tri kiến (thấy biết) cho nên hơn Nhị thừa. Tướng tu là sao? Có người chép: Chính là chánh kiến trong tám chánh đạo, vì thấy được năm ấm trái ngược. Có người nói năng duyên với Niết-bàn. Có người chép: Ba môn giải thoát tương ưng với tuệ có công năng mở cửa Niết-bàn. Có người chép: quán sát thật tế đều biết thông suốt. Có người chép:
Định tâm biết các tướng. Có người nói không phải. Có người nói chính là mười tám không. Có người nói chính là thế, xuất thế. Đó gọi là tướng tu mắt tuệ. Lại có người nói ngôn hạnh ở Trung đạo.
Hỏi: Nhị thừa cũng có Mắt tuệ, sao chẳng nói không pháp nào chẳng thấy.
Đáp: Nhị thừa chỉ thấy tướng chung lại có hạn lượng. Phật thấy vô lượng không có bến bờ. Phật và Nhị thừa đã hai tướng khác nhau, nghiệm mà biết hai nhân tu pháp đều khác. Cho nên trong văn chỗ có các giải thích chẳng ngoài hư không, không thuộc Nhị thừa, Trung thuộc Phật. Di Hiền tu phát hai nghĩa khác nhau. Như ba giải thích đầu và ba giải thích thứ năm dưới là tướng tu cùng Nhị thừa. Vẫn là Thông giáo y tức không tuệ. Nếu ba tạng Nhị thừa phần nhiều nương căn bản, khác với đây. Giải thích thứ tư ở trước và giải thích ở sau cũng tức là Viên tu. Viên tu thật tế thời sau phát được mới gọi mắt tuệ. Cho nên cũng phải nói hơn Nhị thừa, chiếu đạt giả danh chẳng lầm gọi là pháp nhãn. Chỉ nói như chỗ thấy của Bồ-tát. Chính là như chỗ thấy của hạnh hướng trong Biệt Bồ-tát. Cũng nhờ thứ lớp nên gọi là giả danh. Giả danh tức là pháp mười sáu môn. Y cứ lý cũng phải nói là hơn Bồ-tát nhậm vận chân hóa rốt ráo thuốc bịnh, gọi là pháp nhãn của Phật. Đại Phẩm nói: Thế nào gọi là pháp nhãn của Đại Bồ-tát? Phật bảo Xá-lợiphất: Người có pháp nhãn là tùy tín tùy pháp ba không năm căn, nghiệp này quả này thọ thân ấy mà sanh chỗ đó, Bồ-tát đó: Thối, bất thối, được thọ ký chẳng được thọ ký, v.v... đều phải biết rõ. Luận nói: Khi Đại Bồ-tát khi mới phát tâm tuy được Nhục nhãn, Thiên nhãn, Tuệ nhãn, v.v... để thấy chúng sanh các thứ khác nhau, vì sao có thể được thật pháp như thế, cho nên cầu pháp nhãn dẫn dắt khiến vào. Cho nên gọi là pháp nhãn. Lại pháp nhãn có hai: Một là phân biệt Nhị thừa; hai là phân biệt Bồ-tát. Phân biệt Nhị thừa chỗ nào cũng có văn. Phân biệt Bồ-tát chính là văn này. Rộng nêu tất cả hành tướng nhân quả, tất cả các môn phương tiện, khiến chúng sanh vào đó gọi là pháp nhãn. Đã nói tất cả nhân quả, lại nói phân biệt Bồ-tát. Cho nên phải biết cũng hơn Bồ-tát. Đối với các pháp trở xuống Mắt Phật chỉ nói thấy pháp thật tướng, từ Thắng làm tên. Đại Phẩm chép: Thế nào là Mắt Phật. Phật bảo Xá-lợi-phất: khi Đại Bồ-tát cầu Phật đạo, vào Tam-muội Kim cương được trí Nhất thiết chủng thành tựu năng lực, vô sở úy, mười tám bất cộng, biết tất cả pháp, v.v... Đó gọi là Đại Bồ-tát được Bồ-đề, được Phật nhãn tịnh tướng. Luận rằng có người chép: Bồ-tát Thập trụ được Phật nhãn, không khác với Phật. Như Biến Cát Văn-thù có đủ công đức Phật mà chẳng làm Phật, rộng độ chúng sanh, cho nên sanh nghi. Vì thế nói Mắt Phật thấy khắp mười phương. Bồ-tát ấy đối với các Bồ-tát khác gọi là Đại, đối Phật cũng chẳng biết khắp nghe khắp, v.v...
Hỏi: Nhãn phải nói là thấy, sao nói là nghe? Đáp: Chúng sanh trí tuệ từ sáu tình mà vào nên biết sáu trần người gọi Mắt Phật có chỗ chẳng nghe. Nhưng các kinh luận đều nói Phật và Bồ-tát đều được năm nhãn, cho nên biết đều làm chẳng phải mở mắt. Cho nên trong văn nay tuy nói Phật có lý luận chúng sanh tất cả đầy đủ. Vì sao? Vì nhãn trí đã dùng chỉ quán làm nhân. Chỉ quán viên dung nhãn trí cũng như thế. Luận muốn nói khắp, cho nên luận rõ cạn sâu khác nhau. Cho nên kinh nói trở xuống là dẫn thỉnh Quan Âm để chứng Kim cương. Phật Bồ-đề đầy quyền thật trí đủ. Vì hai trí này mà được sanh ba hữu Bồ-đề Phật từ. Lại nói cha mẹ mà riêng khen trở xuống là ý Mắt Phật. Cho nên luận quyển bốn mươi lam phân biệt rằng: Phật thấy tất cả không phải là mắt tuệ, vì sao nói tuệ nhãn là thấy? Đáp: Mắt tuệ khi thành đồi tên là Mắt Phật, cho đến bốn nhãn mất tên cũ, như sông vào biển mất tên sông cũ. Vì sao? Vì nhục nhãn thiên nhãn là nhân duyên hữu lậu, tuệ nhãn, pháp nhãn là tập khí chưa hết cho nên bỏ vị cũ mà vào Mắt Phật. Đây vẫn mượn ở chỗ bỏ thô mà nói. Phật trí trở xuống là giải thích một tâm ba trí, cho nên biết trở xuống là kết lý do được tên. Cảnh và đế trở xuống là nói chỉ quán chẳng hai, trước dùng hai mắt phải trái làm thí dụ, đế và cảnh cũng như một vật mà được hai tên phải trái khác nhau. Một người ở phía trái của vật thì gọi vật là phải, người ở phía phải của vật thì gọi vật là trái, do chỗ người đứng mà phải trái sanh, mà một vật này vốn chưa hề khác. Đế cảnh cũng như thế, đối với chỉ thì gọi là đế, đối với quyển thì gọi là cảnh. Hai pháp nhãn, trí để dụ cho mắt (nhãn mục), chỉ là một vật mà lập hai tên. Nhãn thấy trí biệt cũng giống như thế. Chỉ là một pháp tuy từ hai pháp chỉ quán mà được tên. Viên đốn chỉ quán xưa nay chẳng hai, cho nên chỗ thành Nhãn trí một thể chẳng khác. Cho nên tri kiến (thấy biết) chỉ từ đương thể mà lập hai tên cũng như mắt. Đế cảnh tuy từ chỗ đối mà lập hai thứ, thì thành chỗ đối thể cũng không khác, đến nỗi khiến năng đối và Đế Cảnh chẳng khác. Nay đem trở xuống là lập khác để hiển bày thể, thể vốn chẳng hai, tạm mượn tên khác mà hiển thể không hai. Vì sao? Vì đế cảnh nhẫn trí thể tuy không hai, nhưng trí do quán mà thành. Quán vốn đối cảnh. Nay lại đem cảnh để hiển trí giúp quán dễ sáng, quán sáng tức trí thành, trí thành tức thể hiển. Nhãn do chỉ thành, chỉ vốn đối đế, nay lại đem đế để chỉ nhãn, khiến chỉ có thể hiểu, chỉ giải tức Nhãn khai, Nhãn khai tức thể hiển. Tuy mượn nhân hiển pháp mà chẳng phân chia. Cho nên nói tuy làm ba nói mà thật là một pháp. Dùng đây trở xuống là kết. Dùng năng hiển chánh dùng như hướng một pháp Nhãn trí mà hiển thể chỉ quán viên đốn. Như thế trở xuống là kết về pháp truyền của thầy trò. Kết các văn trên qui về chánh hạnh. Chánh hạnh có đậy là phát xuất từ bản sư. Nói thật không phải đọc kinh, an trí, v.v..., như quán không-giả-trung, trước nói thứ lớp sau chẳng thứ lớp, dẫn các kinh Đại thừa chứng thành môn hộ. Cho đến chỉ quán là nhân, nhãn trí là quả, tức một mà ba tức ma mà một. Các tướng như thế há do văn kinh mà an bày ư? Chỉ tránh chê bai nghi ngờ may phải dẫn chứng. Việc ngoài ý nên nói là may.
Ba là nói cảnh giới, chỉ là giáo tướng Nhãn trí hiển bày ra. Trước đã nói giáo tướng Nhãn trí hiển đủ điều nói chỗ biết điều thấy, không cần nói một khoa ra đây. Người độn căn tuy nói hai trước cũng còn chẳng hiểu, lại khoa này trình bày lại sở hiển. Cho nên biết đây là thân nói sở hiển. Nay trước nói ý đến chẳng nói giáo tướng mà chỉ nói Nhãn trí, là giáo tướng tuy đồng với năng hiển, nhưng giáo nhìn ở hạnh thì hạnh thân mà giáo sơ, nói theo thân, cho nên chỉ nói Nhãn trí. Chung mà nói thì đều có khả năng hiển thể. Phàm nói hạnh trở xuống là nhắc lại hai chương trước để nói ý đến. Tín hạnh nhắc lại giáo tướng, trước phải ở giáo tướng tên còn nghe nhiều (còn gọi học rộng). Viên diệu tức là Diệu cảnh giới nay. Pháp hạnh nhắc lại Nhãn trí trước phải ở định tuệ gọi là tông sâu quán chánh cảnh cũng là Diệu cảnh giới nay. Mượn văn trau chuốt câu nên lập hai tên, chính là hai thứ trước mà nói cảnh sở thủ, cho nên lại luận, kinh nói trở xuống là chánh nói ý cảnh. Việc gì phải có cảnh? Là khiến tự hành biết ba nhãn và đến ba trí các chỗ thấy biết. Biết chỗ thấy biết thì đến được y giáo tướng tu, nhờ chỉ quán mà được quả Nhãn trí. Cho nên phải nói cảnh giới. Nếu vì trở xuống là ý hóa tha, cho nên phải nói cảnh. Nếu chẳng nói cảnh thì lấy gì làm gốc nói pháp.
Gốc tức là cảnh. Tuy có cảnh gốc cũng phải tùy tình, cho nên nêu ba thứ tùy tình, tùy trí, v.v..., khiến người hóa vật y theo cảnh mà nói. Nói ở diệu cảnh là ý ở đây. Trước là ý của Đại sư, kế là ý của Chương An. Trước nêu văn, kế giải thích. Trước thí dụ người nghe là chấp môn mê giáo. Trong đây có bốn thí dụ là dụ trước chấp mê danh, văn kinh vốn dụ ngoại kế tà thường, các kinh trích dẫn đều đồng ý kinh. Văn này mượn dùng ý ấy hơi khác. tuy khác văn ấy lý cũng không mất ý nghĩa chẳng y lời cho nên đổi mà dùng. Là sao? Bối thinh tuy dối, bối thể là thật, nên dụ cho hữu môn. Cây lúa mềm yếu có thể dụ cho không môn, tuyết có mà không thật có nên có thể dụ cho vừa không vừa có. Hạc bay trên hư không mà chẳng ở trên hư không, có thể dụ cho chẳng phải không chẳng phải có. Phàm tình trở xuống là hợp. Lại có ba, trước là nói Đại bi làm thuyết. Kế tuy nghe trở xuống là nói phàm tình đều chấp. Ba là các v.v... là kết lỗi. Phàm phu đều chấp môn năng thông, mê ở chỗ đến nên chẳng thể thấy thường lạc ngã tịnh là mầu sữa thật.
Đây thì lại y vào Đại Kinh. Như các ngoại đạo chấp thường lạc, v.v... các lỗi môn năng thông, cho nên lại có lỗi lý sở thông. Cho nên thường đồ trở xuống là người nói mê giáo. Trước nói Sư phàm mê giáo, hạng người chấp giáo chẳng phải một. Như Lương Chiêu Minh viết lời tựa nói các sư nói nghĩa hai đế có hai mươi ba người đều giải thích không đồng. Ở Quảng Hoằng Minh Tập đều, chẳng đạt tùy tình đều trái với ý chỉ của Phật. Cho nên biết chỉ là phó tình tên khác, hai đế chẳng khác, vì thế chẳng thể đều chấp mất phương tiện Phật, đều chấp tên khác mà mất một lý phải hiểu một lý mà được các tên. Như trong Bà-sa có nói Thế đế và nghĩa dế đệ nhất. Tuy tên đồng Đại thừa mà nghĩa trọn qui về Tiểu, huống Đại Tiểu Thừa Đế đều có phó tình. Cho nên biết hai mươi ba nhà còn muội văn tùy tình, huống chi rất dễ hiểu Tình trí v.v... ư? Tuy uống cam lộ, v.v... Thuyết Văn chép: Chưa đến hai mươi tuổi mà chết gọi là thương (chết non). Lễ nói mười chín tuổi trở xuống mà chết gọi là Trưởng thương, mười lăm tuổi trở xuống gọi là Trung thương, mười một trở xuống gọi là Hạ thương, bảy tuổi trở xuống gọi là Vô phục thương. Cho nên gọi thương để nói sớm yểu. Yểu là trung tử. Cam lộ là thuốc bất tử của các vị trời. Cho nên dụ thường trụ như thuốc bất tử. Tuy đều chấp tên hai đế cam lộ là chân thường trụ tuệ mạng ý chỉ Phật. Kinh khen trở xuống là nói nhân xưa của hai thánh để nghiêm thuyết bất liễu tùy tình. Kinh Diệu Thắng định nói: Phật bảo Anan rằng: xưa Ta là người học rộng cùng Văn-thùsư-lợi tranh luận nghĩa hai đế, chết rồi đọa vào ba đường. Văn nói Di-lặc sợ lầm. Cho nên chỗ Huyền văn dẫn tức như kinh ấy. Tranh luận hai đế mà phải trải qua vô lượng kiếp nuốt hoàn sắt nóng. Từ địa ngục ra thì gặp Phật Ca-diếp giải thích cho ta nghe, hai đế có không. Phật Ca-diếp chép: Tất cả các pháp đều không có tánh nhất định, ông nói có không là nghĩa chẳng đúng. Tất cả muôn pháp thảy đều vắng lặng. Hai đế này vừa có vừa không, ông chỉ biết văn mà không hiểu nghĩa, ông đối nghĩa ấy như câm như điếc, làm sao hiểu được nghĩa sâu xa này. Ta nghe rồi liền vào thiền định liền thấy muôn pháp đều vắng lặng. Cho nên biết chẳng thấy lý vắng lặng đều chấp ở văn tùy tình còn đọa vào ba đường làm sao thấy đế được? Nếu nay được xếp ý tùy tình, các giải thích diệu dụng. Đời nay trở xuống là nói đời gần đây phàm phu chẳng hiểu tùy tình. Như thế trở xuống là kết như văn. Nếu biết trở xuống là thức giả đạt giáo (người biết hiểu giáo), biết Phật phó duyên chẳng mê thuyết lạ. Tùy tình trí trở xuống là giải thích trí tùy tình. Trước chánh lập một tình một trí cùng làm ba đế, nên gọi là Tình trí. Nói chẳng được một chỗ nói ba, là viên tu tuy tức, trước sau đều ba. Đã y cứ tình trì để nói ba đế, phải y cứ các vị nhìn nhau mà nói. Kế như tương tự trở xuống y cứ vị để xếp. Cho nên phân ra chân tục để thuộc ở tình vị ở sáu căn, nhượng ở Trung đạo để thuộc về vị trí ở Sơ trụ. Thì Thất Tín trở xuống là thuộc Chân, Bát Tín trở lên là thuộc tục. Ấy thì Sơ trụ trở lên Trung đạo cũng có đồng thể chân tục, sáu căn thanh tịnh cũng có tương tự Trung đạo. Cho nên sau Chương An làm cho lấy mà giải thích, tức là sáu căn đoạt tương tự Trung đạo, và tương tự chân tục. Tùy trí trở xuống là kế nói ba đế trong Tùy trí. Trước y cứ vị mà xếp đều thuộc chỗ chứng của Thánh cho nên từ Sơ trụ trở lên vẫn thuộc phần đắc. Phải biết đối tình, tình chẳng phải chẳng được tương tự ba đế. Chỉ đoạt Trung đạo mà suy cùng Sơ trụ. Không phải chỉ, v.v... là so sánh. Tùy trí ba đế chỉ ở tâm Thánh như trong phẩm không thể nghĩ bàn của Tịnh Danh, đây đều là Bồ-tát Tục không thể nghĩ bàn. Há là sở năng văn kiến hạ địa (chẳng thấy nghe của bậc thấp). Tục đã như thế thì chân cũng như thế. Bồtát Sơ trụ chỗ không có sắc thinh, cho nên phàm tiểu không thể thấy nghe. Ba đế trở xuống là khen giải thích ba đế. Từ Thắng mà nói cho nên chỉ nói cùng chẳng sai. Năng phi tức trung, sở phi tức hai, chẳng hai mà hai xem là năng sở. Trong thứ mười chín giải thích mười sự công đức. Trước nói chẳng cho Nhị thừa cùng chung, người nghe không thể nghĩ bàn rất kinh lạ. Cho đến không có tướng mạo thế gian cũng không có. Nay văn nghĩa nói trăm phi bốn câu. Văn kinh chánh khen Sơ địa trở lên chánh đồng Sơ trụ. Cho nên dẫn chứng tùy trí ba đế. Chương an giải thích đây nói rằng: Nghe sâu không đáy nên kinh nghe rộng không bờ nên lạ. Tánh chẳng tự hiển, nên chẳng phải trong, tánh chẳng tha hiển nên chẳng phải ngoài. Trong ngoài đây chung với nội ngoại giới. Chúng sanh tức như thế nên chẳng phải khó. Bảy phương tiện chẳng lường nên chẳng phải dễ. Chẳng phải sắc pháp nên chẳng phải tướng, chẳng phải tâm pháp nên chẳng phải không phải tướng, lại chẳng phải giới như cho nên chẳng phải tướng, chẳng phải lìa giới như cho nên chẳng phải không phải tướng. Chẳng phải ba đời cho nên chẳng phải thế pháp, không bên không giữa nên không tướng mạo, dứt bốn lìa trăm cho nên thế gian không có. Các chẳng phải đều trái cho nên nói chung là trăm, câu ấy đều mất nên lược là bốn. Bốn nhiếp các bốn nên lại nói bốn. Hỏi: Chương An giải thích câu chẳng giống cùng chẳng sai, sao làm chứng được? Đáp: Chánh nói Trung đạo chẳng phải hai bên. Vì Bát-nhã sâu, vì giải thoát rộng hai đức tức là hai đế chân, tục. Tự là nội chiếu, tha là tùy duyên. Đây cũng là chân tục khác tên mà thôi, chúng sanh tức là nói theo lý, phương tiện chẳng lường là y cứ sự mà nói. Sự lý cũng là chân tục khác tên. Sắc của trăm cõi, tâm của một niệm cũng là chân tục. Hai câu dưới lại làm phức sơ ba đế mà nói. Chỉ Phật trở xuống là dẫn Pháp Hoa cũng chứng tùy trí. Trước y cứ Sơ trụ nay chỉ ở Phật. Chỉ Phật tức là Thích-ca. Cùng Phật tức là mười phương ba đời, tuy có trước sau mà đồng thấy ba đế. Chẳng thể trở xuống là bác bỏ đoạt. Có pháp thí hợp. Trong Sơ trụ một là pháp tánh, ba là ba đế còn không phải sáu căn chưa lường biết được, huống chi là thế tình đồ tưởng rất dễ hiểu được sắc sửa Chân thiệu diệu của ba đế. Năm nhãn mở rộng mới thấy đế cảnh. Ấy là tương tự cũng thuộc mù, vì trong chướng vô minh chưa phá. Nếu y theo Pháp Hoa, phải y cứ ba giáo mà nói người chẳng biết. Như thế trở xuống là kết như văn. Nay lại trở xuống là dẫn hai đế trong kinh mà giải thích thành nghĩa ba đế văn nay. Văn trước lược bày hai đế để hiển ba đế. Hai khai hợp với ba giáo môn, cho nên được dùng hai dụng để hiển ba hai đã có hai, ba há không ba? Trước ba đế thô luận mà chép kỹ, nay y cứ hai đế làm rõ tướng trạng. Nghi giả trở xuống là giải thích nghi. Trước lập nghi rằng: Các Phật chỉ y hai đế mà nói pháp nên có ba phen. Làm sao được ví dụ khiến nói ba đế cũng có ba phen. Nay cũng ví dụ trở xuống là giải thích. Hoặc hai hoặc ba chỉ là khai hợp. Trước nói hai đế nghĩa đã gồm ba. Nay trong nói riêng ví dụ ở hai đế cũng làm ba, nghĩa là thường thích Trung đạo. Đại luận quyển năm nói:
Hỏi: Phật vì sao sanh ở cõi trời Đâu-suất.
Đáp: Phật thường ở Trung, trời Đâu-suất kia ở trong sáu tầng trời cõi dục và Phạm thiên. Từ tầng trời ấy trở xuống là sanh ở giữa nước. Giữa ngày giáng thần, nửa đêm vượt thành khi được bình đẳng cũng chứng Trung đạo, vì người nói Trung, nửa đêm nhập diệt. Đại Phẩm cũng chép: Một sắc một hương đều là Trung đạo. Trung này thêm trước lại thành ba phen. Vì sao? Giữa trời, giữa nước, giữa đêm, giữa ngày đều là tùy tha, hành trung, nói trung là tùy tự tha. Nửa đêm nhập diệt và được Trung đạo tức là tùy tự. Lại các Trung này đều là tùy tha. Tự chứng minh tịch gọi là tùy tự, tự tha đối nhau gọi là tự tha. Lại mỗi pháp trở xuống là lại y cứ ba thứ như tùy tình, v.v... mà nói tướng bốn tất. Nếu không có bốn tất thì lấy gì để hiểu tự hành hóa tha. Trước tùy tình rộng, còn hai văn kia lược. Văn đầu, trước là giáo, kế là quán, tức hai hạnh tín pháp. Văn đầu từ hoan hỷ cho đến phát triệt, phải tế y cứ ba đế mà lập mười lực bốn tất. Chớ để lộn lạo chẳng thể ghi (nhớ) đủ. Cho đến quán tâm trở xuống là y cứ quán. Văn lược ba trước nên nói cho đến. Y cứ nghĩa bậc nhất nói tướng bà đế. Tác dụng như thế, v.v... là nói giáo quán hai thứ tướng được lợi ích. Nói phải ở một, chẳng ở hai, v.v... là một là trong ba tùy một, hai là trong ba tùy hai. Theo lời cho tiện nên chẳng nói chân. Đến khi nhìn nhau được lợi ích khác nhau. phải làm bảy câu, nghĩa là phải ở tục chẳng ở chân, trung phải ở chân, chẳng ở trung tục, phải ở trung chẳng ở chân tục. Đây là phải ở một mà chẳng ở hai để thành ba câu, phải ở hai chẳng ở một cũng là ba câu phải ở đủ ba để làm một cú. Mỗi câu đều trung, ba đế đều như thế. Trong văn nêu chung đớn ích, phức ích hai thứ ba cách, họp ba một câu văn lược chẳng luận, đều y cứ sơ môn được lợi ích khác nhau. Bảy câu như thế đều y theo viên. Phải lạc đã khác phó cơ đều khác. Phật nói sanh pháp v.v... là phức giải thích văn tên về tướng khác nhau. Sanh tức là hai đế, Vô sanh tức là trung. Đây lại mượn Trung đạo là một, hai đế là hai. Các thứ khác có hai cái hai hai cái một và có ba, theo lời vừa nói. nếu làm hai đế thì sanh tức là tục, Vô sanh là chân. Nếu thực hành bốn đế thì sanh là ba đế, Vô sanh là diệt, tất cả các pháp so nói này rất dễ hiểu. Tùy được lợi ích vị gọi là được độ.
Hỏi: Phật nói sanh pháp, đối với pháp Vô sanh mà được độ, chính là chúng sanh tự độ, có liên quan gì đến Phật?
Đáp: Chính do nói sanh mà ngộ pháp Vô sanh chính là giám cơ biết nhân nói sanh mà ngộ Vô sanh thì công ở Phật, sao gọi là tự độ y cứ nghĩa bậc nhất nên được độ. Nếu y cứ ba tất cũng có thể nói rằng: Phật nói sanh pháp ở pháp Vô sanh mà sanh vui mừng, sanh thiện phá ác. Cho nên Pháp Hoa trở xuống là dẫn chứng bốn tất. Trong mỗi tất đều nói các thứ, là trong mỗi tất-đàn có đủ vô lượng. Nay y cứ tu quán lại dùng ba đế hai đế gọi là các thứ. Nếu nói ý kinh tám giáo bốn vị mới gọi là các thứ. Vì sao như thế trở xuống là giải thích kinh, trước đối bốn tất, kế vì sao tánh thuộc sanh thiện, v.v... là trong phân biệt lại ngăn cách hai tất. Văn trước là hỏi. Ý hỏi rằng: Tánh và hạnh đều chung thiện ác. Vì sao đối kinh thì tánh thuộc về người, hạnh thuộc về đối trị? Nếu thông luận trở xuống là đáp. Tánh là chẳng đổi, thiện xưa chẳng đổi, từ xưa đến nay có nghĩa năng sanh. Nay sanh thiện ấy nên thuộc về sanh thiện. Hạnh nghĩa là làm lành làm ác, nay dứt ác ấy nên thuộc về đối trị. Nói thông luận là làm thông giải, giải thích thông suốt Tánh tuy ở xưa nhưng ở nay cũng thành có minh có hiển. Thân miệng hiện làm là hiển, ngầm chứa ở tâm là minh hạnh tuy hiện tại minh hiển cũng như thế. Nay từ bốn tất nghĩa tiện cho nên theo riêng bỏ chung. Vì người sanh thiện là tìm phục, còn đối trị là trị ác đã hiện bày, nếu hiểu thiện đã sanh còn minh ác chưa khởi thì chẳng phải văn này. Bậc Thánh tùy tình mà đâu vật, như Phật chưa ra đời trở xuống là y cứ Phật Hóa Nghi để lệ cho tướng tánh thiện mà hành ác, ba thừa thiện căn ngầm chứa chẳng hiện, Phật giúp sanh nên gọi là sanh thiện. Phàm phu ngoại đạo hạnh ác lộ bày, Phật bèn đối trị nên gọi là trị ác. Các thứ ức tưởng là Đệ nhất nghĩa, là lại giải thích Đệ nhất nghĩa. Chưa thấy lý đến đều là ức tưởng. Nếu gặp Phật pháp tưởng đều thành tuệ. Trong ba đảo, tưởng đảo ở giữa. Vì trừ diệt chánh nên tâm thấy chánh. Đây là y cứ Đệ nhất nghĩa mà giải thích ba đế. Như bốn tất này đều tùy tình. Hai thứ kia thì lệ theo cũng rất dễ hiểu. Thế thì ba, bốn trở xuống là lấy hợp số này mà trách kia chấp nhầm, khuyên khiến thuận giáo bỏ mạn dứt tranh cãi. Nghiên tâm tu quán, quán thành thì thấy đế, có khả năng bày lời quyết định mà nói. Như mây tan, v.v... ba hoặc chướng dứt tên, hiển tức thấy trung, dưới sáng thấy hai đế. Sư Tử Hống, Đại Kinh nói Sư Tử Hống gọi là quyết định nói, nói các chúng sanh đều có Phật tánh. Phật tánh tức Trung đạo. Tư vị trở xuống là Chương An giải thích riêng. Tư là chẳng công. Đã chẳng phải Đại sư nói với chúng, lại không phải thân đối Đại sư mà ấn thuật nên gọi là riêng. Nếu luận hai đế chứng tuy ở Thánh, vốn dạy phàm phu, tuy dạy phàm phu mà thật chưa chứng đắc. Nói chứng thì đoạt, phàm phu không có phần, cho nên nói đều đoạt. Luận giáo thì cho là phàm phu đều được. Nếu ở bên phàm đoạt chân mà cùng với tục cho nên nói nữa cho nửa đoạt).
Hai là nói cảnh trí lìa hợp. Trước giải thích đế trung. Trước chung, kế riêng. Trước chung là tựa các kinh, là các kinh luận đế lìa hợp khác nhau. Nay lấy khác nhau y cứ chung bốn giáo. Ba tạng trở xuống tức riêng y cứ bốn giáo. Trong đó trước nói hai, ba lìa hợp, trước nói chỉ có hai, không có ba. Kế Bồ-tát trở xuống là mượn người mà xếp đế. Văn trước là tục, từ hậu tâm trở xuống tức là chân. Cho nên trước sau chỉ có hai đế. Nói khiến mỡ phiền não tan, v.v... là Đại luận chép: Bồ-tát này tuy có năm dục hấp dẫn mà chẳng mê đắm, vì có các quán vô thường, v.v... Ví như có vua có một đại thần tự che giấu tội. Vua muốn phạt tội, bảo rằng: Nếu được con dê mập không có mỡ thì sẽ tha tội cho ông. Đại thần có trí cột một con dê nuôi bằng nước cỏ, ngày ngày ba thời dùng sói đe dọa cho sợ, dê được nuôi mập mà không có mỡ. Vua hỏi vì sao làm được như thế? Bèn đáp rõ việc trên. Bồ-tát cũng như thế, soi thấy vô thường không, khiến mỡ kết sử tan, mà thân công đức mập mạp.
Lại Bồ-tát, này chưa dứt kiết sử, như có giặc chưa giết, nhốt chặt một chỗ, tự tu sự nghiệp. Bồ-tát tu quán vô thường cũng như nhốt giặc cũng là hữu lậu mà tự làm việc. Lại lìa năm việc: Một là lìa đường ác, hai là lìa nghèo cùng, ba là lìa thân nữ, bốn là lìa hình tàn, năm là hỷ vong. Mà được năm công đức: Một là sanh vào nhà giàu, hai là sanh lên cõi trời cõi người, ba là được thân nam, bốn là các căn đầy đủ, năm là biết rõ đời trước. Ba A-tăng-kỳ tu hành sáu độ. A-tăng-kỳ Hán dịch là Vô số, kiếp là thời, như trước đã giải thích. Câu-xá chép: Tám mươi Trung đại kiếp, Đại kiếp ba vô số, nghĩa là trong sáu mươi số thì số năm mươi hai gọi là Atăng-kỳ, nghĩa là chứa đại kiếp này thành vô số, nên nói ba A-tăng-kỳ Hạnh sáu Độ, là Bồ-tát tu sáu độ này đều có lúc mãn. Trước nói đàn mãn, như Bồ-tát Thích-ca xưa làm vua tên Tỳ-thi được Đàla-ni qui mạng cứu hộ, nhìn chúng sanh như mẹ thương con. Lúc đó, Thiên đế biết mạng sắp hết, liền, tìm Phật hỏi nghi, tìm hoài không được, liền trở về cõi trời mà buồn rầu khổ não. Lúc đó, Thiên Xảo Sư tên là Tỳ-thủ Yết-ma hỏi Thiên chủ rằng: Vì sao khổ như thế? Đáp rằng: Ta tìm bậc Nhất thiết trí mà không được. Tỳ-thủ chép: Có Đại Bồtát đầy đủ sáu độ không bao lâu sẽ thành Phật.
Thiên chủ nói kệ đáp rằng:
Bồ-tát phát đại tâm,
Hoa Ngư tử Am-la
Ba việc nhân thì nhiều,
Thành quả thì rất ít.
Tỳ-thủ đáp rằng:
Ưu-thi-na chủng
Sáu độ đầy đủ,
Không lâu thành Phật.
Đế-thích hỏi: Phải đến thử Bồ-tát này mới được. Ngươi làm bồ câu, ta làm chim ưng. Ngươi sợ bay núp vào nách vua. Tỳ-thủ chép: Đại Bồ-tát ấy làm sao dám quấy nhiễu. Đế-thích chép: Ta cũng không có tâm ác, như vàng thật phải thử. Liền theo lời nói mà bay núp vào nách vua, toàn thân run rẩy. Mọi người đều nói vua ấy rất nhân từ tất cả phải cứu giúp, như thế chim bồ câu nhỏ trở về như vào nhà. Bồ-tát ắt không lâu sẽ thành Phật. Lúc đó chim ưng đậu gần đó bảo vua rằng: Trả bồ câu cho tôi. Vua nói: Ta được con bồ câu này trước ngươi. Ta trước đây đã phát nguyện độ tất cả chúng sanh. Chim ưng nói muốn độ tất cả chúng sanh, còn tôi chẳng phải chúng sanh sao, mà lại cướp miếng ăn của tôi? Vua hỏi ngươi ăn gì. Ta trước đó thệ nếu có chúng sanh đến ta sẽ cứu hộ. Chim ưng nói tôi cần thịt máu tươi. Vua nói: đều do giết hại mà được, làm sao giết một mà cho một, suy nghĩ tâm định mà nói kệ rằng:
Thân thịt của ta đây, Thường bị già bịnh chết, Chẳng lâu sẽ thúi rã, Nó cần ta cho tặng, Cầm dao tự cắt đùi,
Lấy thịt trao chim ưng.
Chim ưng nói: Theo đạo lý phải cân đúng nặng nhẹ, chớ nên coi thường. Vua nói lấy cân đến cân. Liền đem cân nhưng chim câu càng nặng mà thịt vua càng nhẹ, cho đến hết thân mình. Các quan và thân thích đến xem, liền bảo vua như thế không thể xem. Vua nói cứ mặc tình xem. Nếu có thành Phật đạo, phải chịu đựng lớn này, vua dùng máu thoa tay muốn đứng lên cân cho ngang bằng chim câu. Chim Ưng nói ta không cần, hãy trả bồ câu cho ta. Vua nói chết thân vô lượng nay để cầu Phật đạo. Thịt hết gần đứt, vua muốn té xuống bèn tự trách rằng: Ta phải vững chắc chớ có hôn mê, chúng sanh rơi vào biển khổ cần được cứu giúp, đâu dám biếng lười, không bằng một phần mười sáu của khổ địa ngục, ta đặc biệt tinh tấn, chớ sợ khổ này, huống chi trong địa ngục không có người trí tuệ. Lúc đó, các vị trời khen rằng: Vì con chim nhỏ mà như thế. Lúc đó, trời đất rung chuyển, nước biển nổi sóng, cây khô sanh hoa, trời mưa nước thơm. Chư Phật đều đến khen chắc chắn sẽ thành Phật. Chim ưng bảo bồ câu rằng: Đây thật là Bồ-tát chân thật. Tỳ-thủ chép: Thiên chủ, Ngài có thần lực nên giúp cho vua bình phục. Đế-thích nói chẳng phải nhờ ta. Vua tự phát thệ, chiêu vời tất cả. Đế-thích hỏi vua rằng: Tâm chẳng buồn chăng? Vua nói tâm ta mừng vui chẳng hề buồn giận. Đế-thích nói lấy gì tin ông? Bồ-tát chép: Nếu nhất tâm chẳng rối loạn, chỉ cầu Phật đạo thì cho bình phục như xưa. Nói xong liền bình phục. Người trời thấy đều mừng đại bi, khen chưa từng có, chắc chắn sẽ thành Phật, chúng ta nên cúng dường.
Tướng Thi mãn là như vua Tu-đà-ma là vua tinh tấn thường y theo lời Phật. Muốn vào vườn dạo chơi. Vừa ra khỏi cửa thành thì có một Bà-lamôn đến xin rằng: Vua là người phước đức xin thương tôi nghèo đói. Vua nói: Phải đợi ta trở về, vua liền đến vườn thì có chim đầu đàn hai cánh tên là Lộc-túc, cùng Thần núi bắt lấy một ngàn vị vua, đã được chín trăm chín mươi chín vua rồi, chỉ thiếu Tu-đà-ma. Từ trên hư không bay xuống dùng chân quắp lấy vua mang đi, các thể nữ gào khóc một vùng, Lộc-túc bắt vua đến chỗ ở để trong các vua. Vua Tu-đà-ma khóc như mưa. Lộc-túc hỏi làm vua mà khóc như con nít, người có sống phải có chết, có hợp phải có tan. Tu-đà nói ta không sợ chết, tự tiếc rằng từ khi sanh ra đến nay không hề nói dối, nay phải thất tín. Vì hứa bố thí cho Bà-la-môn, phải phụ tâm xưa mang tội lừa dối cho nên ta khóc. LộcTúc chép: Cho ông về nhà bảy ngày, thí xong rồi đến chịu chết. Nếu chẳng đến ta sẽ bắt lấy. Vua trở về mặc tình bố thí, lập Thái tử lên làm vua hội họp người dân vua bèn tạ từ rằng trí ta chẳng cùng khắp, nhỏ mà chẳng đúng pháp, phải thấy giận dữ, nay thân ta chẳng phải của ta nữa, ắt phải ra đi. Nhân dân thân thích giữ vua ở lại ban phúc cho nước, chớ vì Lộc-túc quỉ vương mà lo. Bèn lập nhà sắt, kỵ binh canh gác. Lộc-túc là thần nên chẳng sợ. Vua nói kệ rằng:
Lời thật giới bậc nhất,
Lời thật bay lên trời,
Lời thật nhỏ thành lớn,
Nói dối vào địa ngục.
Nay ta giữ lời thật,
Thà mất mạng sống này.
Do đó ra đi đến chỗ Lộc-túc, Lộc-túc thấy vua đến rất vui mừng bảo: Ông là người rất biết giữ lời hứa. Mọi người đều tiếc thân mạng, thoát rồi lại đến, ông là bậc đại nhân. Lúc đó, vua Tu-đà rộng khen lời nói thật bác bỏ trách nói dối. Lộc-túc nghe xong thì tín tâm thanh tịnh. Bèn bảo Tu-đà rằng: Ông nói được như thế, nay ta thả hết, các vua đều trở về mình. Nói như thế xong, các vua đều đi v.v... Nhẫn thành tướng. Như vị tiên Sằn-đề ở trong rừng tu hành nhẫn nhục. Lúc đó, vua Kha-lợi đem các thể nữ vào vườn dạo chơi, ăn uống xong vua nghỉ ngơi. Các thể nữ đi hái hoa gặp vị Tiên này bèn kính lễ đứng một bên. Khi đó vị Tiên vì các người nữ khen ngợi từ nhẫn, lời lẽ rất hay, nghe mãi không chán nên quên về. Vua thức giấc chẳng thấy thể nữ đâu bèn vác kiếm đi tìm thấy thể nữ ở trước vị Tiên, bèn ghen tức dữ dội, rút kiếm chỉ vị Tiên hỏi: ông làm gì ở đây? Vị Tiên nói tôi tu từ nhẫn. Vua nói nay ta thử ông xem sao, bèn lấy kiếm bén chặt hết tay chân và thẻo tai mũi, nếu không giận thì mới là tu nhẫn. Vị Tiên nói mặc tình. Vua bèn chặt hết tay chân và thẻo tai mũi, hỏi rằng: Ông có động tâm chăng?
Đáp: Tôi tu từ nhẫn, tâm chẳng động. Vua nói ông ở đây một mình không có thế lực, tuy nói chẳng động nhưng có ai tin. Lúc đó vị Tiên liền phát thệ rằng: "Nếu tôi thật tu từ nhẫn thì máu biến thành sữa," máu liền biến thành sữa. Vua kinh hồn dắt các thể nữ chạy đi. Lúc đó, trong rừng Long thần vì vị Tiên này mà mưa gió sấm sét đánh chết vua, không trở về cung được.
Tướng Tinh Tấn: Thái tử Như Hảo Thí tìm châu như ý. Như cuối quyển một nói Thái tử được châu rớt xuống biển mà tát cạn biển lớn, khiến gân cốt khô hết, chẳng hề biếng lười, thể được châu như ý để cho chúng sanh cứu thân khổ. Các trời hỏi bèn đáp rằng: Đời đời chẳng nghỉ. Các trời thấy tinh tấn đó bèn giúp năng lực tạt cạn biển, nước biển còn phân nửa. Rồng thấy nước giảm sợ biển khô cạn bèn đưa châu trở lại.
Tướng thiền viên mãn: Như vị Tiên Loa Kế, còn gọi là Xà-lê. Có người làm tượng theo hình vị tăng là không đúng. Được thiền thứ tư, dứt hơi thở ra vào, ngồi dưới gốc cây sừng sững bất động. Chim thấy bất động cho là gỗ, bèn làm tổ trên đầu mà đẻ trứng. vị Tiên xuất định biết trên đầu có trứng chim, bèn nghĩ nếu ta đi lại chim mẹ không bay đến thì trứng sẽ hư. Liền nhập định trở lại, đến khi chim con biết bay bấy giờ mới đứng dậy đi.
Tướng Bát-nhã viên mãn: Như Đại thần Cù-tân chia đất Diêm-phù-đề thành bảy phần, thành ấp xóm làng đều bằng nhau để dứt đấu tranh. Chủng tướng trăm kiếp, là quá ba kỳ trăm kiếp chủng tướng, chủng tức là tu, tức trong trăm kiếp tu tướng nghiệp.
Hỏi: Tu ở chỗ nào?.
Đáp: Người ở trong cõi dục thân nam ở Nam châu, Phật ra đời không phải duyên người khác thì có thể tu. Dụng ý nghiệp thức thứ sáu. Hỏi trước tu tướng nào?
Đáp: Có người chép: Sơ chủng túc hạ bình, vì trước an lập sau mới tu các tướng khác, có người nói mắt xanh là trước dùng Đại bi mà nhìn chúng sanh. Tuy có lời nói này mà nghĩa không đúng. Khi hợp lại chủng lý không có trước sau.
Hỏi: Một nghĩ hay nhiều nghĩ.
Đáp: một nghĩ tu một tướng, một tướng dụng trăm phước.
Hỏi: Bao nhiêu là một phước?
Đáp: Có người chép: Luân vương trong bốn thiên hạ xem là một phước. Có người nói như Đếthích ở hai trời Tự tại là một phước. Có chỗ nói cho đến sáu trời. Có chỗ nói: Trừ Bổ xứ, tất cả mọi người đều có một phước. Có chép: Tất cả chúng sanh trong Đại thiên cùng là một phước. Có chỗ nói Đại thiên chúng sanh mù có thể trị lành là một phước. Có chỗ nói Đại thiên người uống thuốc độc mà trị lành là một phước. Có chỗ nói thấy tất cả người phá giới mà nói pháp khiến họ bỏ việc ấy là một phước. Có chỗ nói không thể thí dụ. Bồ-tát vào tăng-kỳ thứ ba, tâm nghĩ hạnh lớn chủng tướng nhân duyên, nêu phước vô lượng, chỉ có Phật mới biết được. Luận quyển hai mươi hai lại nói: Bồ-tát tu mười điều thiện đều có năm tâm, tức là hạ, trung, thượng, thượng thượng và thượng trong thượng. Mới phát năm tâm cho đến đầy đủ năm tâm, như thế một trăm tâm gọi là trăm phước thành một tướng. Như thế đến ba mươi hai gọi là thân thanh tịnh, văn đồng với Đại Kinh quyển hai mươi hai.
Được năm thần thông, vì chưa dứt hoặc nên không có vô lậu thông. Năm thông như trong trợ đạo đã nói. Ba mươi bốn tâm: nay lấy ý luận hơi khác với các kinh luận nói dứt. Trong Đại Kinh chép: Các hoặc hạ địa nhân khi chưa dứt, cho đến dưới cây bèn dùng chín địa chín phẩm tư hoặc gọi chung là một cửu. Cho nên nói Bồ-tát Tam Tạng vị đồng phàm phu vì chín vô ngại, chín giải thoát hợp thành mười tám, trong kiến đạo có tám nhẫn, tám trí hợp thành mười sáu tâm, chung các thứ trước hợp thành ba mươi bốn tâm. Câu-xá Bà-sa ý chép: hoặc tám địa dưới khi mới tu thiền thì trước đã dứt xong, chỉ có phi tưởng địa chín phẩm kiến tư còn nguyên dùng chín vô ngại chín giải thoát vì căn thắng, cho nên chẳng tu lại dưới tám địa định khác nhau Thanh văn cũng khác Duyên giác. Duyên giác trước có lìa tám địa hoặc, một tọa chứng giác. Lại ở chín địa thứ lớp mà tu lại khởi hai đạo vô gián, giải thoát. Trong tám địa dưới tuy chẳng dứt hoặc. Quán hạnh thứ lớp pháp như thế. Mỗi địa đều có mười tám tâm, chín địa liền thành mười trăm sáu mươi hai tâm. Kiến đạo mười sáu hợp thành một trăm bảy mươi tám tâm. Bồ-tát chẳng như thế, cho nên chỉ ba mươi bốn tâm. Ở đây và Câu-xá khác nhau ngài La-thập dịch và ý Long thọ đều chẳng phải lầm. Ý khác nhau là nay lấy một ý mà nêu chung khiến hai luận lý bằng nhau. Câu-xá thấy tu thiền khi đã dứt hoặc xong, chẳng còn dứt nữa. Trí Luận y theo các bộ khác, tuy dứt hữu lậu, nhưng chưa gọi là dứt. Đến cây Bồ-đề chỉ đoạn phi tưởng tám địa đều được gọi là vô lậu. Chỉ là từ bộ được tên khác nhau. Cho nên khiến hai luận dùng nghĩa chẳng bằng. Lại kinh nói trở xuống là dẫn Đại Kinh một niệm có sáu trăm sanh diệt. Và Luận sư Thành Thật giải số khác nhau, chỉ nói một niệm đầy đủ nhiều niệm để chứng vô gián ba mươi bốn tâm chưa đủ ngại. Kế trước đã trở xuống là biện dị lập trung, ba kỳ chiếu tục, dưới cây chiếu chân, nhìn trước gọi song dị ở Nhị thừa và Bồ-tát. Nhị thừa và Bồ-tát ở vị đệ tử. Cho nên nói cùng đệ tử dị mà giả lập ba đế. Bồ-tát chỉ chiếu trở xuống là giải thích tướng xuất giả lập Trung đạo. Đã tự không thể chỉ từ đều chiếu giả đặt tên là Trung. Tên trung đã giả thì chiếu trung nhẫn trí cũng là giả lập. Cho nên nói lại gia thêm. Ly thì trở xuống là nói về ly hợp, nếu phân thuộc đệ tử hoặc Phật tự phần, đã thuộc trước sau. Cho nên chỉ có hai, nếu toàn ở Phật thì người khác không có. Cho nên ở Phật được tên ba đế. Do đó trong năm lớp ba qui không có ba tạng, vì Trung đạo vô thể. Kế người ba thừa vì trong Bồ-tát có lợi căn. Lìa chân ra khỏi trung nên nói có khác. kế dẫn Đại luận, v.v... Người trí (người trí) tức là lợi căn thấy trung, gọi là thấy chẳng không. Chẳng không chỉ là chẳng chỉ không. Ba đức đầy đủ gọi là Đại Niết-bàn. Nhị thừa trở xuống là dẫn văn Đại Phẩm. Như mặt trời trí chiếu dụng. Kẻ độn thì trước sau chỉ thấy không, Pháp Hoa bị hội tức chẳng phải nghĩa trung khai hợp ở đây. Đã không khác trở xuống là chánh nói khai hợp. Chỉ có bất đãn không gọi là không dị. Nhất thiết trí chiếu chỉ không, Nhất trí thiết chủng chiếu chẳng chỉ không gọi là trí biệt. Chân đã gồm hai trí cũng hai biệt. Ở trong chân đế khai xuất (mở ra) Trung đạo. Cho nên nói thì có hai đế khác nhau, mà nay hợp là y theo Thông giáo, nên nói mà nay. Làm thường hai đế chỉ gọi là chân đế. Nhị thừa trở xuống là mở ra lợi độn Bồ-tát của Nhị thừa, quán đế riêng khác. Vì riêng khác nên có nghĩa bao gồm. Nói thanh tịnh cõi nước Phật là xuất giả Bồ-tát của Thông giáo cũng vì chúng sanh làm nhân Tịnh độ. nơi nơi kết duyên chúng sanh căn cơ thuần thục thì dứt tập thành Phật gọi là thanh tịnh cõi Phật. Khi kết duyên gọi là hạnh Tịnh độ. Cho nên kinh Tịnh Danh nói: Bồ-tát lấy Tịnh độ đều vì lợi ích các chúng sanh. Cho nên nói bố thí là Tịnh độ của Bồ-tát. Khi Bồ-tát thành Phật, thì bỏ tất cả chúng sanh sanh đến nước ấy, khi kết duyên thì dùng bố thí mà nhiếp. Khi thành Phật thì đất nhiều châu báu. Các người bố thí đồng sanh về nước ấy mà được năm thứ bố thí hóa ích, do khi nhiếp sanh có năm thứ khác nhau, cho nên gọi đó là trời người và bốn giáo. Tất cả các hạnh không phải hạnh Bồ-tát Tịnh độ, cho nên có bốn độ ngang dọc nhiếp vật, đây là y khoa tiết. Ấy là Tịnh độ nghĩa chung các giáo. Văn nay lại y Bồ-tát Thông giáo chỗ dứt trừ tàn tập làm quả Tịnh độ, chỉ là khác với Nhị thừa mà thôi. Như Đại Kinh quyển hai mươi hai chép: Nghĩa Tịnh độ chỉ nói nguyện nhiếp nghĩa ấy thì chung, các giáo quán riêng nhiếp sanh đều như thế. Bồ-tát Thượng căn trở xuống là nói Bồ-tát lợi căn khai chân xuất trung. Xưa trang nghiêm trở xuống là phá xưa. Trang Nghiêm nói xuất, Khai Thiện nói là chẳng xuất. Đây do Bồ-tát ba thừa cộng học có chỉ, chẳng chỉ. Người xưa chẳng hiểu hai căn lợi độn, chỉ tranh quả Phật xuất và chẳng xuất. Trọn chưa thấy ý nay khai hợp cho nên khiến hai nhà đều nói về kỷ kế. Nay văn đều bị như thế nên đều nói làm cho nghĩa chẳng thành. Cho nên biết hai nhà đều được văn, nay lợi độn một bên, cho nên nói phiến ý, nhưng chẳng thể biết ra ngoài biệt chiếu cảnh Trung đạo, dùng trí Trung đạo mà tiến phá vô minh, cho nên nói phiến ý. Nếu chẳng thể biết độn căn y giáo đồng chứng chân đế với người Nhị thừa, ấy cũng chỉ được phiến ý văn nay. Nếu toàn được ý nay xuất và chẳng xuất thì nghĩa đều thanh. Xưa nay gọi là các thứ này, mặc hai nhà nói đều cho là sâu kín. Đúng sai khó phân, xưa nay khó xếp. Cho nên người xưa hai thuyết song mỹ, gọi hai đế này là phong lưu. Nói phong lưu là cử động hợp nghi, nên cho hai nhà vào ra không lỗi. Ở nay bị phá, vào ra đều quấy, cử động thất nghi, phong lưu đâu còn. Nếu y nay dùng hàm hai đế trung, tới lui đều tốt, phong lưu có dư. Như trong Tăng Truyện có pháp sư Thừa trước cùng một Pháp sư ở chung chùa Khai Thái. Sư này nửa chừng rời chùa Khai Thái. Sau thừa ở chùa cũ khai giảng tựa nói quả Phật này xuất ra nghĩa hai đế. Sư này bèn hỏi là quả Phật sanh ra hai đế hay hai đế sanh ra quả Phật thừa hỏi lại rằng: Là Pháp sư sanh ra Khai Thái hay Khai Thái sanh ra Pháp sư. Đáp rằng: Như chim uyên ương không ở nhà xí (nhà vệ sinh). Thừa chép: Thích-đề-hoàn Nhân chẳng ở với quỉ. Đáp rằng: Chim Cưu-xí-la chẳng đậu cây khô. Thừa nói cũng như biển lớn không chứa thây chết. Đối qua đáp lại mà lý đẹp rốt chưa hiển. Lại như Đại Kinh cuối quyển ba mươi sáu, Phật nói quán nhân duyên trí bốn thứ khác nhau. Được Bồ-đề dị thuyết là nói lúc mười ngàn Bồ-tát được nhất sanh thật tướng, năm ngàn Bồ-tát được hai sanh pháp giới. Chương An chép: Ba thừa đồng quán nghĩa bậc nhất đế trí giải khác nhau một sanh hai sanh chính là phá vô minh một phẩm hai phẩm. Thật tướng là biệt lý, pháp giới là viên lý, tức là lợi căn tiếp vào Biệt Viên. Phá vô minh rồi tám tướng thành Phật, ấy là nghĩa quả Phật xuất ngoại, chỉ xem các kinh chưa hề được đạo, tức biết chỗ nói có ý chung riêng. Chỉ không trở xuống là nói về khác. Ấy là trở xuống là kết, như văn. Kế là Biệt giáo: trước nói có không là tục vì khác hai trước, hợp tạng thông trước chung cho hai đế chân tục, đồng là Biệt giáo một tục đế mà thôi. Tục trở xuống là giải thích nghĩa Tục đế. nói tục là cách biệt làm nghĩa, gồm có không nghĩa nhiếp phàm tiểu, có khác lạ này nên gọi là tục. Thắng-man trở xuống là chứng người Nhị thừa bị tục nhiếp, vì không loạn nên thuộc về tục. Dẫn Đại Kinh cũng giống như thế. Tục của Bồ-tát, Nhị thừa gọi là chân. Ba mươi hai nói ta tuy nói chúng sanh đều có Phật tánh, là Phật tự ý nói. Nói như thế là Bồ-tát Hậu Thân còn chẳng thể hiểu huống chi là Nhị thừa và các Bồ-tát khác. Một thuở nọ ta trụ núi Kỳ-xà-quật nói thế đế cho Bồ-tát Di-lặc, năm trăm Thanh văn như Xálợi-phất v.v..., đối với sự đều chẳng biết, huống chi là nghĩa đế bậc xuất thế. Ý văn kinh, là tùy tình mà nói tục đối với Biệt giáo còn chẳng biết huống chi lại là Tùy trí nghĩa đế bậc nhất. Chương An hỏi: Phật ở đâu mà nói cho năm trăm Thanh văn?
Đáp: Chính là trong Hoa Nghiêm nói như đui như điếc. Đây là Biệt giáo chân và tục Nhị thừa đều mê. Nếu luận trở xuống là chánh nói khai hợp. Tuy có khai hợp nhưng phải có hai giáo trung dị ở trước, khác nhau Thông giáo y cứ độn không khai. Kế nói trong Viên giáo ở trước dẫn Đại Kinh. Vốn thật không khai, vì chúng sanh nên phương tiện nói khai. Pháp Hoa cũng như thế. Nói giúp hiển, là ở một thật đế chia ra làm hai, ba tức gọi chỗ khai là phương tiện khác. Vì sao? Vì đã khai xong rồi lại dùng sở khai mà giúp hiển bày thật. Nếu y cứ lý còn không có một thật huống chi là hai, ba. Chỉ khen Phật thừa, sanh hủy báng chìm trong khổ vì nghĩa ấy nên phải nói giúp hiển. Phải dùng hai nghĩa giải thích dị phương tiện. Nói riêng thì Tam Tạng là dị, chung với chân, chứa đựng trung nên chẳng gọi dị, nói chung thì ba giáo đều gọi dị phương tiện. Biệt giáo giáo đạo chẳng phải hoàn toàn đồng, huống chi lại chung chân cùng mang mà thôi. Cho nên phải biết là tha nên khai, bày thật nên hợp. Kế nói trở xuống là y cứ hai bốn luận khai hợp cùng trước chỉ là ngang dọc khác nhau, nói về đế thể lại không khác. Lại ở trong bốn trước, xếp ngang dọc, chấp thì có trở xuống là nêu. Ba sanh diệt trở xuống là chánh nói khai hợp, bốn dùng luân kệ mà hợp. Hỏi vì sao gọi là ngang dọc?
Đáp: Ba đế đối nhau sâu cạn khác nhau, nên nói là dọc. Khổ tập, diệt đạo hai cặp đối nhau, không còn cạn sâu, nên gọi là ngang, lại dùng hai nhìn hai cũng không sâu cạn, chỉ là năng trị, sở trị khác nhau. Cho nên bốn đế gọi là ngang. Hỏi: trước ba, ba bốn dung có thể ngang dọc, viên dung ba bốn làm sao ngang dọc.
Đáp: Thật như chỗ hỏi, nay nói ngang dọc, như trong ba đế lại y cứ khai một để làm hai ba, tức gọi hai ba để làm phương tiện. Phương tiện nhìn thật cũng được gọi là dọc, khai quyền bày thật không còn hai ba. Chỗ nào mà nói dọc? Đã ở một thật chẳng phân mà phân, phân làm ba đế, ngại gì ba này không phải ngang không phải dọc mà gọi là dọc. Bốn đế cũng như thế. Y cứ giáo phương tiện. Không làm bốn đế xưa nay tức nhau cùng ai nói về ngang, cũng là chẳng phân mà phân, phân làm bốn đế, sao ngại chẳng phải ngang chẳng phải dọc mà gọi là ngang. Như vị sáu tức chẳng phải ngang chẳng phải dọc mà được gọi là dọc. Các Ba-la-mật không phải ngang không phải dọc mà được ngang. Cho nên biết ngang dọc cao rộng chẳng hai. Nay đem trở xuống là dẫn luận Quán trung. Chỉ là quán đế vụng khéo bốn cú, nhiếp trì các đế. Hai nói trở xuống là y cứ Trí luận khai hợp, là trí chẳng tự phân lại phải y cứ đế. Cho nên trong văn nay đều nói chiếu đế, Đế thể luôn ba, trí có thêm bớt. Lại y vào đại thể lấy ba làm chuẩn. Lại còn ba pháp các văn đều định. Nay trước lại y theo các kinh mà nêu trí, đề làm đầu mối mà hỏi. Trong giải thích trước đối một trí đến ba trí. Một trí trở xuống, là trước đối ba đế, trí có lìa hợp. Trước từ một trí cho đến bốn trí để quán ba đế, lấy một đối một, cho đến dùng bốn đối ba. Tướng văn có thể thấy, văn tuy rất dễ thấy, như trước một trí quán một đế, đế cùng bao gồm ba. Cho nên kế giải thích rằng: Trí này quán ba đế. Trí này tức là một trí vừa nói, lại dẫn một trí vừa đến, khai thành ba nghĩa, đã quán ba đế trí cũng thành ba. Nếu hai trí trở xuống, tức là hai trí quán hai đế. Trí đế tuy hai nghĩa đã gồm ba, như nói quyền tức Nhất thiết trí, lại dùng đạo chủng trí. Quán ở Tục Trung hai đế có không. Nếu lìa quyền trí xem là hai trí, lìa tục đế xem là chân tục thì trí đế đều ba, ba trí quán ba, mỗi trí chủ đối không khai hợp dị, cho nên nói rất dễ hiểu. Bốn trí, là bốn trí cũng là hai trí quyền thật, đối nhân quả, v.v... cho nên thành bốn, khai họp quán đế chẳng ra ngoài ba, đủ như vừa nói. Nói trí tuệ, nếu nói chung thì trí chỉ là tuệ, đều chung quyền thật cho đến nhân quả. Nếu nói Bát-nhã dịch là trí tuệ. Như Đại luận nói nhân gọi là Bát-nhã, quả gọi là Tát-bà-nhã, cho đến tu tập trí tuệ. Đây tức là trí tuệ đều ở nhân. Như nói chỉ quán là nhân, nhãn trí là quả. Trí tuệ Như lai, trí tuệ Chư Phật, v.v... đây thì trí tuệ đều ở quả.
Nếu nói phương tiện trí tuệ, đây thì trí tuệ ở quyền. Như nói trí tuệ sâu xa, đây thì trí tuệ đều ở thật. Nay theo nghĩa riêng nên phân ra nhân quả. Đối với nghĩa riêng mà đối với tuệ lại thêm đạo và chủng, ở trên trí ấy lại thêm tên Nhất thiết và chủng. Đạo nghĩa là nhân, hai văn nhân, quả đều thêm chủng, chủng là hạt giống khác nhau gồm hiển ở quyền, cho đến sự hoại. Nhân thời dụng quyền, quyền trí chưa trọn, đến quả thì trí mãn, nên còn gọi là chủng. Vì quả pháp khắp nên gọi Nhất thiết. Nếu được ý này bốn nghĩa rất dễ hiểu. Hỏi: Ba tuệ phẩm, Trung phẩm gọi là ba tuệ, trong văn đã giải thích đâu có đến bốn. Đáp: Nhân hai, quả hai, khai đều đủ ba, nên nói ba tuệ. Văn từ hợp mà nói, nhân quả cùng luận, nên thành bốn riêng. Trong văn giải thích lại có bốn lớp, đều nói về văn. Đều dính mắc hoặc nói, là khéo xếp văn kinh quyết đoán các giải thích, đâu hơn Long Thọ. Thường đối với một ở văn có nhiều giải thích mà cũng chẳng quyết đoán được chăng? Vì ý Phật có nhiều hàm thuận bộ loại người nay giải thích nghĩa chưa bao gồm hết ý kinh, cho nên phải một mà quấy nhiễu. Cái gọi là nhân trung lý thể là lý hai đế, một niệm đầy đủ. Quả trên đã mãn, vì mãn nên có dụng, cho nên thêm Nhất thiết. Nhân Trung đạo tuệ lý có đủ Trung đạo, nhân Trung đạo chủng lý đủ hai đế. Nếu khi đến quả, thì trí Nhất thiết thấy ở Trung đạo, trí Nhất thiết chủng thấy ở hai đế. Tên Nhất thiết này không đồng với Nhị thừa, đối nghĩa ý khác. Nhân Trung đạo tuệ là thật, đạo chủng là quyền. Nếu khi đến quả thì Nhất thiết là thật, Nhất thiết chủng là quyền. Nói chung riêng, là nói thẳng đạo tuệ Nhất thiết trí nên gọi là chung. Vì đều thêm chủng nên gọi là riêng. Nói thẳng đạo tuệ đạo chủng tuệ nên gọi là Đơn. Chuyển tuệ gọi trí đều thêm Nhất thiết cho nên gọi là phức. Cho nên một quyền tất cả quyền, một thật tất cả thật. Cho nên đơn phức đều chung nhân quả. Nay cũng từ riêng nên tuệ đơn mà trí phức. Như thế trở xuống là kết trí chiếu cảnh, hoặc nhân hoặc quả có đủ ba, lễ trước thể thấy, nên nói chỉ là. Nếu trong kinh trở xuống là nêu ví dụ. Nếu được trước đến một trí đến bốn chỉ quán ba đế, thì hiểu các kinh từ năm đến vô lượng đều thành ba đế, nên nói khiến vào. Cho nên biết Tiểu thừa tất cả các đế khiến vào ba đế, cho đến Đại Tiểu đều vào ba, hoặc hai hoặc một. Kế y cứ mười một trí, các kinh luận khác chỉ nêu mười trí, chỉ trong Đại Phẩm có thêm trí như Thật. Nói mười trí, thì tạng thông nghĩa đồng, chỉ phân khéo trong thông vì có cộng thừa, lại có bất cộng, nên thêm Như thật. Mười trí Tiểu thừa đây đủ như trong Trí phẩm của Câu-xá có nói, nghĩa là Thế trí tha tâm khổ tập diệt đạo, pháp so sánh đều Vô sanh, các trí khác nhau chiếu mười một cảnh. Hợp mà nói cũng chẳng ngoài ba đế. Thế và tha tâm vì chiếu tục, lại y cứ vô lậu, khổ tập v.v... tám thứ chiếu chân. Lại y cứ hai trước như thật một trí để chiếu trung, là cùng y cứ hai giáo. Đó gọi là đi là kết qui. Đã nói trí khai mà đế chẳng khai cho nên nói mà ba đế chẳng động. Kế lại nữa trở xuống là nói đều khai, là tùy nhiều ít như mười một trí chiếu mười một cảnh, cho đến như đối hai, ba đây thì rất dễ thấy. Đều chẳng khai, chỉ có Phật thừa, Phật trí chiều thật đã chỉ một thật cũng gọi khai quyền. Nếu trì bỏ kiết qui về hiển thể. Nay cảnh giới ý, ý ở thật cảnh, chỉ có khai hợp thật là chỗ hiển. Kế y cứ đế trí mà hợp nói, là đế trí cùng luận cho nên nói hợp. Bốn giáo gồm tiếp chung là năm đoạn. Trong mỗi đoạn đều trước nói cảnh phát trí, kế nói trí duyên đế. Duyên và phát đều hợp nói. Trước trong ba tạng nói hai đế cùng phát, là chỉ ba tạng Phật chiếu cả hai đế, giả đặt tên trung, nên gọi là cộng. Trong Thông giáo nói chân đế cùng phát hai nhãn hai trí là gồm trung. Kế trong tiếp nói khai chân xuất ra trung. Nếu đã bị tiếp được vào chứng đạo bèn thành ba đế.
Hỏi: Đâu riêng tiếp thông mà chẳng nói tạng, đâu riêng tiếp Biệt mà chẳng nói Viên. Đây là hỏi từ trên khai chân xuất ra trung. Trong đáp ở trước nói Thông giáo phải dùng Biệt tiếp, vì cơ Biệt, nếu trước sau chẳng nghe hoàn toàn thuộc hai trước, nếu từ trước tức nghe hoàn toàn thuộc ở hai sau. Lại có một người phá hết hai hoặc, đến địa thứ tám mới nghe Trung đạo. Nghe rồi tu quán tiến phá vô minh được gốc pháp thân, tám tướng thành Phật. Tuy thấy Trung đạo là giả, Thông giáo lấy hai quán không, giả làm phương tiện trước, phải đợi biệt lý mà tiếp mới nghe. Nay nói biệt tiếp, phải có hai nghĩa: Một là Biệt giáo giáo lân cận; hai là biệt lý lý dị chân. Không do đây trở xuống là nói ý chẳng tiếp các giáo khác. Trước nói chẳng tiếp ba tạng nói chẳng lấy quả Phật này, là nếu ở Sơ địa Sơ trụ tùy có tám tướng, nhưng chẳng chịu tên quả. Trong thông chín địa hai quán làm nhân đến địa thứ mười, tám tướng làm quả. Nếu bị tiếp (tiếp đủ) thì phá một phẩm vô minh cũng được tám tướng. Vẫn từ xưa nói nên cũng gọi là quả. Cho nên chỉ đem quả này mà tiếp thông. Chẳng dùng quả này tiếp ba tạng, là có bốn nghĩa: một là tiếp chỗ có thể tiếp, ba tạng do vụng nên chẳng thể tiếp; hai là được tên tiếp mới có thể dùng tiếp, nghĩa là dùng giáo trước có thỉ không chung, đã dùng bảy, tám chẳng đến chín, mười, tức dùng giáo sau có chung không thỉ. Chỉ dùng hướng địa chẳng cần trụ hạnh. Trong tiếp nối nên được gọi là tiếp; ba là chẳng cần tiếp nên cung chẳng gọi Tiếp. Như Sơ địa, Sơ trụ đã thành chân ngôn. Cũng phá vô minh, tám tướng thành Phật. Nhậm vận lưu nhập đâu cần Tiếp nữa; bốn là được gọi là tiếp, nghĩa là y cứ giới hạn của giáo. Nghĩa trước trong văn tức nghĩa thứ nhất này chẳng thể Tiếp, nghĩa thứ hai này chính là Thông giáo có thể tiếp. Nếu tiếp vào giáo đạo thì ở Hồi hướng, nếu tiếp vào chứng đạo thì ở Sơ địa. Nếu tiếp vào Viên cũng chịu ra giáo chứng, nói đó rất dễ biết. Ba kỳ trăm kiếp lại vào Biệt giáo chỉ ở Mười Tín, nếu lại vào Viên chỉ ở năm phẩm. cho nên chỉ thành hậu giáo sơ tâm. Từ trước (sơ) đến sau (hậu) có thỉ có chung. Tuy từ Tạng đến vẫn đồng với đương giáo. Cho nên ba tạng chẳng được gọi là Tiếp, tuy tiếp thông. Nhưng nếu từ Càn tuệ tánh địa mà đến thì cũng chẳng gọi là tiếp. Nghĩa đồng sơ hậu tâm của ba tạng. Cho nên bốn niệm xứ nói thông có ba thứ: Một là nhân quả đều thông, tức là Thông giáo; hai là nhân thông mà quả chẳng thông, tức là Bị tiếp; ba là thông biệt, thông viên, tức là Biệt viên. Dùng ở Thông giáo mà làm phương tiện, chỉ thành người nhân quả biệt viên. Cho nên Bồ-tát y cứ vị tuy đồng, Càn tuệ tánh địa quán tuệ cũng kém, cho nên cũng chẳng được gọi là tiếp. Văn nói chẳng đem quả này tiếp nhân mười địa tức là nghĩa thứ ba là Biệt tiếp Thông, vẫn chung bảy địa, tám địa làm nhân, cho nên gọi mười địa, tám tướng là quả, đâu đem quả này mà tiếp mười địa Biệt giáo đã phá nhân mười phẩm. Nhân này tự đến quả Diệu giác há chúng ta đến quả một phẩm. Nếu tiếp Sơ địa, sơ địa lại đồng đã phá một phẩm. Đã không hơn kém đâu cần dùng Tiếp, huống chi lại còn thành dùng Biệt tiếp Biệt. Tiếp biệt địa tiền tự dùng quả Diệu giác của Viên giáo, hoặc dùng quả Diệu giác của Biệt giáo, đâu cần dùng quả một phẩm ư? Huống chi Sơ địa giáo này không phải quả, huống chi lại Diệu giác giáo này vốn đối với quả này mà sanh tín tâm. Vì sao đến đây mới nói bị tiếp. Nói chẳng tiếp Thập trụ là mười địa của Biệt giáo tuy phá mười phẩm cũng còn đới giáo đạo, vẫn chưa phải tiếp, huống chi là đem phá một phẩm tám tướng tức tiếp vị Thập Trụ của Viên giáo ư? Nghĩa điên đảo cũng đồng mười địa. Nghĩa thứ tư, tức trong văn nói chỉ được lấy Biệt tiếp Thông, hẳn là lý riêng mà tiếp thông lý chung. Cho nên ý văn nay phải tu quán tiến phá vô minh, chẳng phân ra đãn trung, bất đãn trung khác nhau. Cho nên biết nói địa xong thì gồm có trụ, há có Sơ trụ lại tiếp Mười trụ. Văn nay nhắc lại chẳng tiếp mười trụ cho nên chẳng tiếp Viên. Vẫn còn Biệt giáo giáo đạo. Huyền văn dùng viên tiếp thông biệt, là phần giáo chứng vị hạnh biệt. Nay chẳng nói, là y cứ chứng đạo cho nên chỉ y cứ quán.
Hỏi: Tiếp và chẳng tiếp, cái nào là hơn.
Đáp: Bốn Niệm Xứ chép: Người tiếp bị như đất đá là, nền tảng, vàng báu chất lên trên. Há như từ dưới toàn chất kim cương. Đây là khen đầu cuối đều diệu cho nên như thế. Nếu các Bồ-tát trong hiền vị đều từ tiệm đến thì công đó còn gượng ép. Vì sao? vì các pháp trước thục tạng lý dễ sáng. Như trải cực giàu là từ nghèo đến. Cho nên Bồ-tát phương khác đều khen ngợi Bồ-tát sơ tâm cõi này chịu khổ cực nhọc, từ Hương Tích đến đây nghe pháp, là quyền pháp chưa thuần thục nên phải đi khắp.
Kế nói tung Đắc Thất, trước dùng nghĩ bàn và không thể nghĩ bàn cùng nêu đắc thất. Tự tha đều như thế, nên cùng nêu. Viên lìa tánh kế và năng hóa tha mới gọi là Đắc. Nếu nói trở xuống là tướng ra khỏi tánh lỗi, đây là giải thích nghĩa tánh chẳng khác các văn mà lời hơi khác. Vì trong các văn đều y cứ tự tha mà đơn nói. Như đơn y cứ trí chỉ nói trí tự là trí nên gọi là Tự tánh trí. Do cảnh cho nên trí gọi là trí Tha tánh. Lìa cảnh lìa trí nên gọi là Vô nhân trí. Nếu chỉ y cứ cảnh chuẩn trí rất dễ hiểu. Tuy lại đơn nói hẳn là cùng sáng. Cho nên trong đây cảnh trí đối nhau mà nói. Nay văn đầu nói chẳng phải do nhờ. Văn giống tự nhiên chính là tự tánh. Vì sao? Trí chẳng do cảnh là trí Tự tánh, cảnh chẳng do trí là cảnh Tự tánh, là đối nhau mà nói. Nên nói chẳng phải do nhờ. Cho nên trong trí nói trí do tâm sanh, tự năng chiếu cảnh. Như đuốc chiếu vật trở xuống là dụ cho cảnh tự tánh. Nếu nói trở xuống là cảnh trí Tha tánh. Nói do lẫn nhau mà có, là văn giống như cộng tánh, chính là tha sanh. Trí do ở cảnh gọi là trí Tha tánh, cảnh do ở trí gọi là cảnh Tha tánh, là đối nhau mà nói. Nên nói do nhau, thí như dài ngắn đối nhau cũng là hai hướng đối nói làm thí dụ, dài đối với ngắn như trí Tha tánh, ngắn đối với dài, như cảnh Tha tánh. Nếu nói cảnh chẳng tự cảnh trở xuống là nói cộng tánh cảnh trí. Văn giống không nhân nên là cộng tánh. Là sao? Là chẳng riêng do trí cho nên cảnh, cũng chẳng riêng do cảnh cho nên cảnh. Cảnh trí nhân duyên cho nên cảnh, y cứ trí cũng như thế cho nên thành cộng sanh. đã chẳng chuyên do, nên chẳng riêng. Cũng phải thí dụ rằng chẳng riêng do dài, chẳng riêng do ngắn. Do dài ngắn nên được có ở dài, cũng do dài ngắn nên được có ngắn, như nhân năm tấc cho đến một thước, hòa hợp mới biết một thước là dài. Cho nên cảnh trí đều gọi là nhân duyên. Nếu nói trở xuống là không có chân tánh, đều chẳng có ba thứ như trên. Như nói chẳng do trí cho nên cảnh, cũng chẳng do cảnh cho nên cảnh, cũng chẳng do cảnh trí nhân duyên cho nên cảnh, trí cũng như thế. cũng phải thí dụ rằng: Chẳng do ngắn mà có dài, chẳng do dài mà có dài, chẳng do dài ngắn mà được có dài. Ngắn cũng như thế. như nói chẳng do năm tấc một thước dài ngắn mà biết một thước là dài. Đây kể ý muốn chẳng phải ba thứ trước mà kể rất kém. Vì sao thế trở xuống là giải thích chấp với lỗi. Lỗi thêm khổ tập mà mất đạo diệt. Văn trước là tập từ nghiệp sanh cho nên trở xuống là khổ. Trong tập trước nói có bốn thủ, v.v..., là y bốn câu mà khởi chấp trước, cho nên gọi là nương tựa, có nương tựa cho nên mình đúng mà người sai gọi là ái nhuế, ái nhuế sanh cho nên cũng sanh si mạn. Thứ lớp như thế tám mươi tám sử, nên nói tất cả. Do ý đúng sai mà sanh hý luận, hý luận thì lấy cạnh tranh làm gốc. Cạnh tranh sanh nên khởi thân nghiệp chuyển đến biển khổ vị lai không thôi. Quả khổ sâu rộng nên gọi là biển. Phải biết trở xuống là kiết chấp thành lỗi là gốc sanh tử. Cho nên bốn chấp hay làm gốc sanh tử, gọi là gốc sanh tử. Cho nên Long Thọ trở xuống là y cứ phá tánh nói đắc. Phạt là nghiêng đổ, tức là phá, phá tha sanh nên nói đâu được là do, là cũng y cứ đối phá nên nói là do. Theo đây phá tự. Văn cũng phải chép: Các pháp chẳng phải tự, đâu được chẳng do cảnh trí. Nếu đơn nói, phá tự chỉ phải nói pháp chẳng tự sanh, đâu được tự cảnh trí cũng như thế. Phá tha phải nói pháp chẳng tha sanh, đâu được do trí cho nên cảnh trí cũng như thế, còn không tự tha cho đến cộng sanh, chẳng lẽ có vô nhân, phá được bốn tánh chẳng riêng phá tha ngoại chấp mà thôi. Long Thọ chánh dùng đây làm pháp quán, cũng là dùng đây chung bày ý Phật, thành các giáo quán mà người đời mê muội lập riêng pháp quán thật là chưa thể được. Cho nên Đại Kinh quyển ba mươi sáu, Phật bảo Tu-bạt nếu ông quán sát thật tướng, thì phá được tất cả các khổ. Tu-bạt chép: Thế nào là thật tướng. Phật nói tướng của vô tướng là thật tướng. Tu-bạt nói thế nào gọi là tướng của vô tướng? Phật nói tất cả không tự tướng, cũng không tha tướng không tướng tự tha chung nhau, cũng không có tướng vô nhân cho đến không có tất cả các tướng. Trong Sư Tử Hống Thán Phật thứ ba mươi nói: Như lai, Thế tôn phá tà đạo, chỉ bày chúng sanh đường chân chánh, người đi đường này được an ổn, cho nên gọi Phật là Đạo sư, không tự không tha là chỗ làm, cũng không cộng làm không nhân làm, nay Tu-bạt nghe thường giữ quả. Tức là ý Biệt Viên gồm tạng thông. Nếu Sư Tử Hống khen Như lai thì chỉ ở viên biệt, cho nên các giáo đều lìa tánh chấp. Chỉ ở chỗ phá cạn sâu khác nhau. Trong các kinh luận so sánh đây rất nhiều. Cho nên phá tánh này tuy ở Diễn môn, ba tạng thường quán nhân duyên sanh diệt. Đã phá sanh diệt cũng không có ba chấp tự, tha, cộng. Huống chi sanh diệt vốn phá tà không. Cho nên bốn giáo cũng có thể dùng chung. Nay trở xuống là chấp nói nhà nay dùng Long Thọ phá pháp, diệt khổ tập ở trước để thành hai khác nhau. Tánh phá tức tánh không, không y tức tướng không, hai bên không, phi nên nói Thường một, cho nên thấy được Trung Trí Bátnhã. Kế là cho nên trở xuống là không tự sanh v.v... để đối bốn giáo. Y cứ nên giáo giáo đều phá bốn tánh, vì tùy nghĩa tiên muốn dùng bốn này mà nhiếp bốn kia, cho nên dùng bốn tánh đối bốn giáo gồm biết bốn câu nghĩa ý chỉ rất sâu kín. Cho nên trước sau văn dùng bốn cú này mà đối chung đối riêng. Giáo giáo đều bốn, gọi là đối riêng. bốn câu đối bốn gọi là đối chung. Lại biết bốn giáo nhân duyên khác nhau, cho đến bốn giáo tự nhiên cũng khác, đều ở một niệm một lúc cùng phá. Vì sao?
Như ở cõi này sách tục có chấp nguyên khí mà sanh, tức là chấp tự, có chấp cha mẹ mà sanh tức là chấp tha. Có chấp do nguyên khí cho nên nhờ cha mẹ, tức là chấp cộng. Có chấp tự nhiên tức là Vô nhân. Cho nên Trang Tử chép: Thiên là vận, Địa là xứ, nhật nguyệt tranh chỗ nhau, Thục chủ họ trương, thục võng họ duy, Thục cư vô sự mà suy họ hành. Trang đã chẳng hiểu pháp duyên khởi mà cũng chẳng biết ai ở trời ai ở đất, ai suy trời trăng. Chẳng lường được nghiệp ấy, cho nên suy y báo mà thuộc tự nhiên. Lão Từ chấp thủ, tự nhiên vẫn mỏng. Như người chấp này là muốn so sánh phương Tây hơn kém cách nhau như trời vực. Cho nên biết cõi này hôn tục chấp tự nhiên, v.v... có nói mà không làm huống chi văn nay là chỗ chấp tự nhiên của người Viên giáo, cho đến tự sanh là chỗ chấp của người ba tạng giáo. Cho nên biết nghĩa khác mà tên đồng, phải khéo châm chước. Trong văn chỉ nêu trước sau, khoảng giữa y cứ mà biết. Lại quyển mười giải thích vua yếu kém quan cưỡng ép, v.v..., là chỉ lấy tự tha đều đối với hai giáo: nội giáo và ngoại giáo, như quyển bảy giải thích trong trợ đạo mà dùng sanh v.v... đối bốn giáo tiến. Chỉ vì tên sanh và nghĩa tiến đồng nhau, nhìn nay lại khác. Cho nên biết tùy nghĩa chẳng thể một tiêu chuẩn. Nay Ba tạng này đối với sanh sanh để làm tự. Người ba tạng chép: Cảnh thường sanh diệt đâu liên quan đến trí, cảnh nay sanh diệt gọi là cảnh Tự sanh, vô trí mà thôi, có sanh ắt có diệt, cũng chẳng do cảnh. Nay trí sanh diệt tự sanh trí. Lấy sanh chẳng sanh làm tha tánh, là người Thông giáo nói do trí Vô sanh chiếu cảnh Vô sanh là cảnh tha tánh, do cảnh Vô sanh phát trí Vô sanh là trí tha tánh. Như nói các pháp chẳng sanh cho nên Bátnhã chẳng sanh, Bát-nhã chẳng sanh cho nên các pháp chẳng sanh, lấy chẳng sanh sanh làm cộng tánh, là người Biệt giáo chép: Do vốn có lý thể làm tự, lại mượn duyên tu phương tiện làm tha, chân duyên hòa hợp sanh ra tất cả. Lại khi xuất giả do cảnh sở hóa cho đến đại nghiệp, trong ngoài hòa hợp mới lợi tha được. Lại do các pháp cùng tục trí hợp mới lợi tha được, vì chẳng sanh chẳng sanh làm vô nhân, là người Viên giáo chép: Không thể nghĩ bàn không phải cảnh, không phải trí, nếu chiếu, chẳng chiếu, chẳng tự thiên nhiên gọi là cảnh chẳng sanh. Nếu quán, chẳng quán trí thường vốn có, gọi là trí bất sanh. Cảnh và Trí thầm hợp một, giả lập thành tên. Trong văn lược dẫn Thân tử, Tịnh Danh để chứng minh trước, sau, khoảng giữa phải dùng ba thừa vô thuyết để chứng minh Thông giáo. Bồ-tát Vô Ngôn để làm chứng Nói giáo. Trong mỗi câu đều nói khổ tập chẳng sanh. Bác bỏ tánh chấp trước có tánh chấp nên khổ tập thêm lớn. Vì vậy nay dùng pháp tánh mà quán, cầu sanh mà sanh, tự chẳng thật có. Cho đến cầu vô nhân chẳng sanh, chẳng sanh cũng chẳng thật có. Nếu đương phần thì phải giáo chứng lý vô sanh. Cho nên mỗi câu đều nói chẳng thể nói, tuy chẳng trở xuống là vì tha lại làm bốn cái mà nói, trong mỗi câu tất đều làm bốn nói. Tuy làm trở xuống là kết thành hai không. Nói như trước, là đủ như vừa đến mới theo. Nếu nói trở xuống là cho đến chính là chỗ tâm hành diệt. Cho nên Kim Quang Minh trở xuống là dẫn chứng. Kinh ấy bốn quyển thì quyển thứ ba có phẩm Tán Chỉ chép: Trí quang Bất khả nghĩ bàn, Trí cự Bất khả nghĩ bàn, Trí hạnh Bất khả nghĩ bàn, Trí tụ Bất khả nghĩ bàn, Trí cảnh Bất khả nghĩ bàn. Văn này nói chiếu. Kinh lại nói Quang-Cự-Tụ, chỉ là khen trí đủ đức mà thôi. Trí hạnh chỉ là trí dẫn hạnh. Trí cảnh chỉ là trí chiếu cảnh. Nói chung chỉ là ba thứ Cảnh, Trí, Hạnh mỗi thứ đều nói không thể nghĩ bàn. Nói Cảnh trí hạnh lại làm rõ lẫn nhau, tuy làm rõ nhau, mà cảnh hạnh phải do trí chiếu, trí dắt dẫn. Cho nên mỗi câu đều nói trí. Văn này là nói trí cảnh tức nhau, lại lược bớt hạnh, lý cũng phải đủ. Nếu phá trở xuống là xếp quyền thật. Đây là quyền thật Không thể nghĩ bàn. Như thế trở xuống là y cứ giáo để xếp đắc thất, để nói lên không thể nghĩ bàn. Nay đây trước y cứ Ba tạng giáo, tức trong mỗi giáo đều có bốn tánh từ nghĩa riêng. Vì sao trở xuống là giải thích Tam Tạng giáo, cho nên đối phàm phu mà nói có bốn tánh. Ba giáo dưới đều phải có. Văn không có là lược. Phàm có tánh chấp thì thuộc phàm phu, phàm phu có chấp thành tự hành thất, cho nên ba giáo sau đều y cứ tự hành mà phá tánh luận đắc. Lại hai giáo trước là Thánh, ở sau đồng phàm. Nếu theo hóa tha có bốn tất, vì hay có hóa tha nên gọi là đắc, xoay vần đối với nhau, cho đến Viên giáo cùng làm đắc thất. Biệt giáo chấp nhân duyên v.v... bốn thứ thành tánh lỗi, là Chư Phật Bồtát phó duyên lợi vật, nếu chấp phó cơ thì nói khác nhau, đều nói mình thấy nên thành tánh lỗi, người chấp này đều từ sơ tâm, cho đến hồi hướng mới dần không chấp. Đến trong Viên giáo nói giáo chứng đều chứng thật ý hơi khó hiểu. Người nhiều mê khiến Biệt giáo này nghĩa nó ngăn lấp. Cho nên nay ta mượn Dụng Địa luận giáo chứng hai đạo để nêu Biệt môn. Trong đó trước biết hai ý: Một là theo hạnh thì Địa tiền là giáo, Đăng địa là chứng. Vì sao? Vì Địa tiền ngưỡng tín thì Đăng địa hiện tiền, đâu có thân chứng lại còn cách biệt; Hai là nói: Vì Địa tiền nói trước sau đầu cuối thuộc giáo, vì sao? Vì như nói chân như bị hoặc che lấp, hoặc dùng mười độ để đối mười địa chẳng thâu nhiếp nhau. Hoặc nói: Phải lìa hai bên tu quán chân như. Hoặc nói Đẳng giác vào Trùng huyện môn. Hoặc nói năm địa tập học thế pháp. Hoặc nói Bát địa vào Vô công dụng, một vị Đẳng giác hoặc có hoặc không. dứt mười hai phẩm gọi là Diệu giác. Như thế các ví dụ chẳng chép hết. Đều là quyền thi để dẫn phẩm hạ làm phương tiện nhập địa. Vào địa tự chứng huyền môn tự mở. Cho nên nói Sơ địa tức Sơ trụ vào chứng đạo vận. Lại nói Sơ địa chẳng biết Bồ-tát Sơ địa giở chân hạ chân. Nếu nói theo lý thì danh tự quán hạnh còn tự biết viên, đâu có Sơ địa chẳng biết Nhị địa. Nếu nói vị dưới chẳng biết vị trên, viên cũng xoay vần lần lượt chẳng biết nhau, làm sao chỉ người Biệt giáo nên phương tiện. Văn nay không phải chuyên xét giáo hơn kém, chỉ còn thứ lớp và chẳng thứ lớp mê là còn rộng. Nếu đọa thuyền văn phải khéo hiểu giáo này chứng hai đạo thì Biệt môn sẽ nêu. Nếu y giáo tu hành càng phải khéo biết cho nên văn nay thường lược dụng. Nếu chẳng hiểu, thì sơ tâm nói lý hai thuyết khác nhau. Nếu chẳng biết không có đất đặt tâm. Như nói chính là sơ tâm biết lý. Hoặc nói lý đủ muôn đức đối đãi hạnh. Hoặc nói hiểu viên hạnh phải có thứ lớp. Hoặc nói: Lý có chẳng dùng các pháp như thế nói chẳng phải Biệt, chẳng phải Viên, chẳng phải Thông chẳng phải Tạng. Giáo tướng chẳng nói thỉ làm suy? Vì sao trở xuống là giải thích giáo chứng. Không tự niệm trở xuống là chánh nói tướng tự tha của Viên giáo để nói văn nay không mất hiển thể.
Kế trong nhiếp pháp trước nói ý đến lập nghi, kế nay thì trở xuống là giải thích trung. Trước giải thích chung, chẳng vì danh lược mà khiến thể chẳng khắp. Vì sao trở xuống là giải thích. Chỉ quán đều dùng một dụ mà dụ, như đâu được một huyệt mà trị tất cả bệnh, như được châu như ý gọi là châu vương. Nên Đại Kinh quyển ba mươi mốt nói: Cũng như phương thuộc điều trị các bệnh. Đối với một tên trở xuống là nói vô lượng nghĩa, hoặc đối với một nghĩa mà nói vô lượng tên. Vì sao một tên mà nói vô lượng nghĩa? Như Đại Niết-bàn cũng gọi là vô sanh vô xuất, vô tác qui y, hang nhà giải thoát, đèn sáng không sợ, bờ kia v.v... Đại Phẩm trở xuống là đại chúng trung. Đã nói tất cả đều học và tất cả vào trung. Phải biết Chỉ quán nhiếp tất cả pháp như đã dẫn ở trước. Nay lại trở xuống là khai chương giải thích riêng. Thật thể Chỉ quán xem là năng nhiếp, sáu thứ như sự v.v... xem là sở nhiếp, sở thì theo năng nên nói nhiếp pháp. Tuy nói thiên viên thứ lớp, chẳng thứ lớp v.v... chỉ nói pháp sở nhiếp thật thể khắp, há sở nhiếp khác nhau khiến thể phân chia. Lại như Thành Luận ba tạng một môn. Trong phẩm Chỉ Quán trước đặt câu hỏi rằng: Trong kinh Chư Phật bảo các Tỳ-kheo tất cả đều phải tu hành hai pháp, đó là Chỉ quán. Hỏi: Tất cả phải tu, đâu chỉ hai pháp? Đáp: Chỉ là định, quán là tuệ. Tất cả pháp thiện hai thứ này nhiếp hết cho đến tán tâm, văn tư v.v... các tuệ cũng ở trong ấy, vì hai pháp này biện được đạo pháp. Vì sao? Chỉ là hay ngăn kết, quán là hay dứt diệt. Chỉ như tay nắm, quán như dùng cái liềm. Chỉ như quét sạch, quán như dẹp bỏ. Chỉ như lau bụi dơ, quán như nước trong. Chỉ như nước ngâm, quán như lửa nóng. Chỉ bác bỏ tâm trạo cử, quán khởi thì vọng tâm mất. Cho đến nhiều nghĩa không thể ghi hết. Trong đây nêu chương lý cho đến giáo. Đủ Y luận ấy sáu lớp nghĩa môn. Tuy Đại tiểu khác nhau hay nói các tên v.v..., tên chung nghĩa riêng tức là ý này. Người khác bảo Thành luận nghĩa chung Đại thừa, nay hỏi vì sao Hoa Nghiêm, Đại phẩm, Đại tập sanh khởi văn tướng rất dễ thấy. Từ sự lý trở xuống là lược bày vừa nêu sáu chương nhiếp nhau. Lược dùng sự v.v... nhiếp sáu chương. Trước sự tức nhiếp năm chương, lý chỉ là lý. Giải tức là trí, vị chung nhân quả. Nhân lại nhiễm lý hoặc, trí hạnh giáo tha chỉ tha, các khác đều là tự, tự hành hóa tha, nhân quả nhiếp hết sáu chương này. Văn sáu nghĩa hai đều có thứ lớp và chẳng thứ lớp. Ý chỉ ở một đồng thuộc về viên đốn chỉ quán nhiếp. Một dĩ trở xuống là giải thích văn trước là giải thích riêng. Nghĩa phải thứ lớp và chẳng thứ lớp. Văn kế nhiếp nhau, chỉ chẳng thứ lớp nghĩa sẽ khai hiển. Trong giải thích riêng trước nói lý. Lý chẳng ngoài hai, chỉ là quyền thật. Khai làm bốn là y cứ giáo Năng thuyên, nay y cứ Sở thuyên cho nên chỉ có hai. Dẫu tùy giáo tướng cũng chẳng ngoài hai. Kế trong nhiếp hoặc cũng y cứ hướng lý để nói hoặc. Cho nên y cứ mê ở hai lý quyền thật để nói hoặc thể chung riêng khác nhau. Gốc mê lý gọi là vô minh, vô minh xem là nhân duyên đầu, cho nên hoặc chung riêng đều y cứ nhân duyên. Trước giải thích mê mờ quyền lý. Trong mười hai duyên nói độc đầu, là trong Bà-sa nói: Bất cộng vô minh chẳng đi chung với sử.
Hỏi: Cũng có bất cộng trạo triền v.v... chăng?
Đáp: không. Người bảo đã có bất cộng vô minh, cũng phải có bất cộng trạo v.v..., tất cả nhiễm đều có vô minh. Chỉ có vô minh có bất cộng riêng. Cho nên trong Pháp Hoa dùng con rít mà dụ cho Độc Đầu, dùng con chồn dụ cho tương ưng, đây chỉ dụ cho hai si khác nhau. Chẳng thấy lại có độc đầu trạo v.v... được các vui sướng. Là mười hai trở xuống, là cột mười hai để làm ba đường, mười hai nhân duyên trôi lăn sanh nhau, cho nên ba đường cũng trôi lăn sanh nhau. Đại luận, mười hai nhân duyên, luận Bà-sa, kinh Thập Địa v.v... đồng nhau. Câu-xá nói ba phiền não, hai nghiệp, bảy sự cũng gọi là quả. Lược quả và lược nhân do trung có thể so hai, từ hoặc sanh hoặc nghiệp, từ nghiệp sanh sự, từ sự hoặc sanh. Có lý chỉ đây. Bốn câu đầu dùng lược nhiếp rộng. Cho nên luận nói: Phải biết duyên khởi tuy có mười hai mà hai ba là tánh. Ba là hoặc nghiệp sự, hai là nhân quả. Trong đó lại có hai: Hai câu trước là nói nhiếp nhau, hai câu sau là giải thích ngại. Ngại rằng: Vì sao quá khứ, vị lai lược mà hiện tại rộng. Giải thích rằng: Do trung có thể dùng so biết hiện tại gọi là Trung. Kế từ hoặc sanh, hoặc tức là ái sanh, thủ từ hoặc sanh, nghiệp tức là thủ sanh hữu và vô minh sanh hành. Từ nghiệp sanh sự tức là hành sanh thức và có sanh sanh, từ sự sự hoặc sanh, tức là từ sự sanh sự, tức thức sanh danh sắc cho đến sanh thọ. Từ sự sanh hoặc tức thọ sanh ái. Thành Luận nói trở xuống là kế dẫn luận chứng tướng ba đường.
Hỏi: Ba chướng ba đường chỉ có khổ và báo hai tên thì khác. hai thứ Nghiệp, phiền não thì đồng là sao?
Đáp: Khổ là khổ báo, cũng báo tức là khổ. Cho nên biết tên khác mà nghĩa đồng.
Hỏi: Ba tên đã đồng, hai tên chướng và đạo khác nhau, là sao?
Đáp: Ngăn che các Thánh đạo nên gọi là chướng. Xoay vần chung nhau nên gọi là Đạo, đều từ công năng lỗi lầm mà đặt tên. Nay mười hai luân là ba đường, năng thông và trôi lăn nghĩa đồng nhau. Lại cùng Thành Luận cũng đồng. Luận tên Nghiệp đạo, nghiệp phải dùng phiền não làm năng chung, phải lấy khổ này làm sở chung. Văn tuy nêu nghiệp, nghĩa đã đủ ba, nên được dẫn làm chứng. Cho nên luận Phẩm mười Bất Thiện Nghiệp Đạo hỏi rằng: thế nào là Nghiệp đạo?
Đáp: Ý tức là nghiệp ở trong hạnh, nên gọi là Nghiệp đạo. Đi trước sau ba trung, đi sau trước bảy trung, ba là nghiệp chẳng phải đạo, bảy vừa là nghiệp vừa là đạo. Đây là chép đủ luận văn. Người chưa thấy luận chỉ thấy tiếp sau mười hai duyên thì thành mười hai nhân duyên mà giải thích rất chẳng thật có. Nay trước nêu luận văn kế hội ba đường. Luận phẩm tuy nêu tên gọi là phẩm nghiệp Đạo. Nay văn vẫn dùng ý chung ba đường. Ý tức là nghiệp, là ý địa suy nghĩ. Hành giả trong đó, hành là thân v.v... nên biết thân v.v... là ý làm ra gọi là Nghiệp đạo, hạnh trước v.v... là nói khởi trước sau, đem giáo mà nêu đối khởi trước sau. Văn nêu thứ lớp thân nghiệp là trước, ý ba ở sau. Nếu khởi thứ lớp ý ba ở trước, thân nghiệp ở sau, trước khởi ý địa, nên nói tiền hành, văn nêu ở sau nên nói hậu ba. Sau động thân nghiệp nên nói hậu hành. Văn nêu ở trước nên nói tiền bảy. Chữ trung chỉ là giúp câu mà thôi, nói ở đây có bảy và ba trung mà thôi. Cũng như năm ấm cùng nhau khởi thô tế. Bốn đế nhân quả cũng giống như thế. Song ý luận văn ba là nghiệp chẳng phải đạo, chẳng phải thân nghiệp, vừa là nghiệp vừa là đạo, hai nghiệp thân nghiệp là ý nghiệp làm. Lại gọi là Đạo. Năng văn nghĩa lập ý là Năng chung, cũng được gọi là Đạo. Cho nên ba sau chung đến thân nghiệp, nên nói có thể chung bảy. Bảy trước là nghiệp lại là ý hạnh. Cho nên luận rằng vừa là nghiệp vừa là đạo, văn nay trước bảy có lập hai nghĩa: Một là sở hành như ý luận văn, nên nói là nghiệp lại là đạo; hai là Năng chung, chung đến đời sau nên lại gọi Đạo. Ý ba tức là phiền não đạo. Hành ở thân nghiệp tức phiền não chung nghiệp. Nghiệp đến đời sau tức nghiệp chung khổ, cho nên biết chánh dụng thành luận ba nghiệp để giải thích ba đường, dẫn luận giải thích, thành ý ấy ở đây.
Khiên liên v.v... là Tăng Nhất quyển bốn mươi nói: Phật tự xem bệnh các tỳ-kheo, trách các Tỳ-kheo rằng: Các thầy vì cái gì mà xuất gia, vì sợ vua hay vì muốn bỏ mười hai khiên liên. Ba đời trói buộc nên gọi là khiên liên. Mười hai luận v.v... và văn Đại Anh Lạc xoay vần chẳng cùng, cũng như bánh xe. Cột trói trở xuống là giải thích tên. Ba đời trở xuống là kết thành nhiếp pháp. Nếu mê thật lý trở xuống là kế nói ngoại giới mười hai nhân duyên trước đối tiểu nói về khác, giới ngoại cũng có tương ưng độc đầu, cũng cùng giới ngoài các sử kiến tư gọi chung là tương ưng. Ngay đó bày lý gọi là độc đầu. Nói tương ưng, là như nói từ đây trở về trước đều gọi Tà kiến. Lại Đẳng giác trở lại tu lìa thấy thiền nầy tức là giới ngoại đồng thể kiến, hai cõi Phương Tiện, Thật Báo năm trần là giới ngoại tư. Như kiến tư này phải có vô minh gọi là tương ưng. Kế y luận mà giải thích tướng, cho nên trong văn nay dẫn luận Thật Tánh. Điên đảo tức là vô minh độc đầu, điên đảo là tương ưng, tức hai vô minh trong ba thứ ý sanh thân, ba thứ đều gọi thân ý sanh, là kinh Lăng-già, Đại Tuệ hỏi Phật thế nào gọi là ý sanh. Phật nói: Thí như ý đi nhanh chóng vô ngại gọi là ý sanh. Đây là từ thí dụ nên nói sanh thân, ví như ý đi. Kinh ấy hai nghĩa mà giải thích tên chung. Trước nói như nói ý thấy trước ngoài mười muôn do-tuần, niệm niệm nối nhau nhanh chóng đến đó. Kế nói Tam-muội như nhà ảo thuật nhớ bổn nguyện sanh vào các Thánh. Trước nói chỗ nhớ, kế nói nhớ nguyện, hai nghĩa đều là ý nhớ sanh gọi là ý sanh. Nay Sơn Môn ta tác ý sanh gọi là ý sanh. Kinh tức nói nhớ, nhớ là tác ý, cho nên nghĩa đồng. Kế quyển bốn giải thích ba tên riêng một, phẩm Vô Thường nói ý sanh ba thứ: Một là vào Tam-muội lạc ý thành thân, cũng gọi là Chánh thọ, tức ba-bốn-năm địa tâm vắng lặng chẳng động; hai là giác pháp tự tánh ý thành thân, tức là Bát địa vào khắp cõi Phật, nên dùng pháp làm tự tánh, ba thứ loại đều sanh vô tác ý thành thân, tức là liễu Phật chứng pháp thành cùng sanh đều nói theo quả. Đây là y cứ Thông giáo cho đến Biệt tiếp dọc phân ra thứ vị. Huyền Văn ở đây đều nói ở ba giáo trước, để chung các giáo mà giải thích nghĩa. Đã nói Bát địa là giác pháp tự tánh, xét biết văn đầu tuy nói Ngũ địa cũng gồm Thất địa tức vào không vị, tám vị tức sẽ vào giả vị. Chủng loại đều sanh, nói Liễu Phật chứng pháp, tức là vào trung, thuộc chủng loại Phật, chưa hẳn tự chứng. Nếu Tiếp vào Biệt Thất địa về trước vào Biệt mười trụ. Bát địa trở xuống là tiếp vào mười hạnh. Biết Phật chứng pháp là vào hồi hướng đều không phải chứng đạo, nên gọi ý sanh. Vẫn là tên (gọi) chẳng gồm tiếp, là cùng kết vị này nên đều nói địa. Tammuội lạc ý còn nhiếp người Nhị thừa ba tạng, huống chung với Nhị thừa. Huyền văn nay xếp kinh Lăng-già vị ý sanh, là lấy kém mà nhiếp hơn. Cho nên chỉ Nhị thừa nhiếp lấy Thông Biệt, nếu đối Biệt vị là chưa nhiếp chứng đạo. Cho nên chỉ từ Địa Tiền mà xếp vị. Cho nên biết nay xếp đồng với ý kinh. Văn kinh chưa nhiếp Biệt vị là khác. Nói năm thứ là y cứ khai hợp mà thôi, tên chỉ có ba nghĩa mà khai thành năm. Ở Tam-muội Chánh Thọ khai ra ba tạng Nhị thừa ở trong giác pháp khai ra Biệt giáo mười hạnh. Nếu làm bảy thứ hai giáo Nhị thừa đều khai làm hai. Mười Trụ của Biệt giáo nghĩa vẫn đồng với Thông giáo vào không. Cho nên văn sau nói: Phàm có nhiều thứ, nếu luận trên chín người sanh phương tiện thì lấy Viên giáo sáu căn thanh tịnh vị nhiếp vào ba thứ ý sanh thân, cũng phải dễ hiểu. Vì đều chưa dứt vô minh, chưa sanh Thật báo. Huyền văn chẳng nói nhiếp vào ba là vì quán hơn nên lại bỏ chẳng nói. Lại tên ý sanh phải ở giáo đạo. Ba thứ ý do dời v.v... là nhân dời quả đổi từ hạ sanh thượng. Bó đây trở xuống là y theo luận bó thành ba đường. Đây mười trở xuống là nói đồng khác. Hoặc này trở xuống là kết thành nhiếp pháp, rốt ráo như văn. Trong phân biệt nói và Bồ-tát v.v... Thông giáo đều lấy mười trụ của Biệt giáo. Trần sa tuy chẳng nhuận sanh v.v... là giải thích nghi. Nghi rằng: Giới ngoại nhuận sanh y cứ vào vô minh, đã chẳng do trần sa thì đâu phải trước dứt. Giải thích rằng: Vì chướng hóa đạo nên phải dứt trước, vì chân hóa phương tiện nên phải dứt trước hoặc này, dứt rồi mới được tiến tu Trung quán, phá Thật báo trung tương ưng độc đầu trần sa là nhánh, vô minh là gốc, nói sâu vị sau nên nói đều bỏ. Cho nên biết quán giả nhiếp được trần sa. Trong ba thứ sanh thân, người trước đã cõi ấy dứt được trần sa, nên nói chánh nhiếp. Phá trần sa rồi thì sẽ tiến phá vô minh nên cũng gọi là nhiếp. Nếu nói khác thì vô minh đầu cuối thuộc về Trung quán, nếu nói hai người Biệt, Viên vì y cứ nhiếp nhau mà nói nên lấy người Viên. Trong đây y cứ ý luận ở chủng loại giác pháp hai người tên là Biệt hoặc nghĩa gồm vô minh, nên nói bị phục. Nếu nói riêng Trần Sa giới nội đã dứt, đâu cần nói phục. Cho nên ở giới ngoại chỉ tu Trung quán mà phá vô minh ấy, nên nói ba đường. Từ đoạn vị mà nói nên nói Sơ địa. Đã chỉ nói địa, nên biết ý sanh lại nói quyền vị. Nếu chẳng như thế thì há viên sáu căn, lại vào Biệt địa. Hai mươi Trí huyền nghĩa Trí diệu mà nêu, tức là ba tạng có bảy: Một là Thế trí, hai là Ngoại phàm, ba là Nội phàm, bốn là Bốn quả, năm là Bích-Chi Phật, sáu là Bồ-tát, bảy là quả Phật.
Thông giáo có năm: Một là Bốn quả, hai là BíchChi Phật, ba là Bồ-tát Nhập Không, bốn là Bồ-tát Xuất Giả, năm là quả Phật. Biệt giáo có bốn: Một là mười tín, hai là ba mươi tâm, ba là mười địa, bốn là sáu căn, ba là bốn mươi tâm, bốn là quả Phật.
Văn ấy ba Phật đồng nêu ở sau, đồng là có giáo không người Thật quả lâu viên mãn. Như thế mà nêu thì lại y cứ vào phần lớn chưa được xong xuôi. Cũng thuộc ba quán, là ba quán có chung có riêng. chung là Tạng chung mười trí là thuộc không, Biệt giáo thuộc giả, Viên giáo thuộc trung. Biệt là tạng thông, Nhị thừa Nhập Không Bồ-tát của Thông giáo, Thập Trụ Bồ-tát của Biệt giáo, cho đến hai Phật trí của Tạng Thông cũng là thuộc về quán không, ba tạng Bồ-tát trí, Thông giáo xuất giả Bồtát trí, Biệt giáo hạnh hướng Bồ-tát trí đều thuộc về quán giả. Sơ địa trí của Biệt giáo trở xuống thì thuộc về Trung quán. Đây thì thứ lớp thuộc ba quán. Viên giáo trí tức là thuộc một tâm ba quán. Nếu nói từ một lượt cứ vị thì Thông giáo sáu căn trí bảy tín về trước cũng thuộc quán không. Tám tín trở lên cũng thuộc quán giả Sơ trụ trở lên chỉ thuộc Trung quán. Ba giáo trí trước nếu khai quyền hiển thật lại không thứ lớp. Nếu được ý này, một kỳ Phật giáo nói các trí đều là thuộc ba quán. Cho nên Chỉ quán nhiếp tất cả trí, kế nhiễm tất cả hạnh, chẳng ngoài chánh trợ. Cho nên phải bốn giáo đều nói hai hạnh Tỳ-bát-xá-na v.v... là dẫn chứng chánh trợ. Đại Kinh quyển hai mươi bảy nói: Nếu nói Tỳ-bát-xá-na phá phiền não, vì sao lại tu Xama-tha? Nay nói lấy định trợ tuệ, lại nêu phải trợ, cho nên phải dẫn, thật ra định tuệ đều là chánh tu. Từ v.v... sự quán mới gọi là trợ, bốn giáo đối nhau đều chung làm trợ trước giáo sau. Tự hành quán nhiếp hạnh bốn giáo. Chánh trợ trở xuống là nói trí dắt hạnh, nên hai giáo trước bó làm không hạnh, Biệt giáo là giả, Viên giáo là trung, tạng chung như văn trong quán giả nói tục lý, là duyên ở Tục đế Hằng sa Tam-muội. Nói Tục sự là duyên chúng sanh bệnh và các việc thần thông lợi sanh. Trong Trung Quán nói đều là Đại thừa, đủ như Đại phẩm rộng thừa phẩm, ở trong đó khéo chọn tướng chung riêng mới phải văn nay. Mười hai nhân duyên tức là Phật tánh, tức ba Phật tánh. Đại Kinh quyển hai mươi lăm nói: Vô minh có ái là hai trung gian tức là Trung đạo. Như thế Trung đạo hay phá tất cả sanh tử, cho nên phải phá hai tử ba đường thành ba Phật tánh. Đủ như thứ chín y cứ mười hai duyên nói trong mười thừa. Từ lại nữa trở xuống là nói rộng hành tướng chánh trợ của các giáo. Bắt đầu từ hữu lậu, cuối ở viên cực. Tìm văn sẽ thấy.
Trước nói sự thiền, kế bốn niệm trở xuống là nhập pháp không hành, bốn ý chỉ, chỉ là bốn niệm xứ. Trong kinh Nhân Vương gọi là bốn ý chỉ. Bốn cảnh chỉ tâm nên gọi là Định. Trong ba mươi bảy phẩm đến Ấm Cảnh mười thừa có nói. Trong bốn đế thì ba là hữu vi. Khổ tập là hữu vi hữu lậu. Đạo đế là hữu vi vô lậu. Tuy lậu, vô lậu mà chung thuộc hữu vi. Mười sáu hạnh, luận văn nói rộng nay lược nêu hành tướng. Khổ trở xuống bốn hạnh là vô thường, khổ, không, vô ngã, quán ấm duyên sanh, niệm niệm sanh diệt nên là vô thường. Bị vô thường ép bức nên khổ, tướng một tướng khác chẳng thật có nên không, ngã ngã sở chẳng thật có nên vô ngã. Tập trở xuống có bốn tức là tập nhân duyên sanh, hữu lậu hòa hợp hay vời lấy quả khổ, nên gọi là tập quán ở sáu, nhân sanh ra quả khổ, nên gọi là nhân. Quán ở bốn duyên sanh ra quả khổ nên gọi là duyên, lại chịu sau có khổ, nên gọi là sanh. Diệt trở xuống bốn hạnh, tức là tận diệt diệu ly, tất cả khổ hết nên gọi là tận các phiền não, diệt hết nên gọi là diệt. Tất cả đệ nhất nên gọi là diệu, vượt qua sanh tử nên gọi là ly. Đạo trở xuống bốn hạnh tức đạo chánh tích thừa. Đến được Niết-bàn nên gọi là Đạo, chẳng phải pháp điên đảo nên gọi là Chánh, chỗ bậc Thánh đi nên gọi là Tích, (chở) đến ba thoát nên gọi là thừa, tên kinh luận mới hơi khác với đây. Xưa nói không thì mới nói Bất tịnh. Xưa nói tận thì mới nói tịnh, xưa nói chánh thì mới nói như, xưa nói tích thì mới nói hạnh, xưa nói thừa thì mới nói xuất. Các tên kia đều đồng, đại ý rất dễ thấy. Bà-sa chép: Khi khổ cũng thấy vô thường, không, vô ngã, vì sao chỉ nói khổ.
Đáp: Cũng phải nói thấy vô thường v.v... Chẳng nói là vì có nghĩa khác. Lại nữa nếu nói khổ tức là nói các thứ kia, lại nữa, khổ chỉ ở khổ, còn vô thường ở khắp ba đế, không và vô ngã thì chung tất cả pháp. Ba đế kia trở xuống là hành tướng đều có phân biệt cũng như thế. Bốn hoằng trở xuống là hành pháp nhập giả, mười tám pháp Bất cộng thấp nhất là trợ đạo. Nay chỉ đối đương mà thôi. Đã đối chín pháp, chín pháp dư chín pháp gọi là Vô dị tưởng, đều là Định tâm, đều là Tri dĩ xã, đều là chỉ nhiếp. Dục tinh tấn niệm tuệ giải thoát giải thoát tri kiến không giảm, đều phải quán nhiếp ba Tam-muội, ba giải thoát, đến quyển bảy sẽ nói. Sáu độ như tùy tự ý và nói trong trợ đạo. Cho đến trở xuống là hành pháp nhập trung. Chín thứ Đại thiền đều ở Địa trì, trong pháp giới thứ lớp đã lược giải thích. Y theo đó mà nêu danh số, một tự tánh thiền ở Văn tư trước một tâm tu Chỉ Quán, hoặc pháp đồng loại với Chỉ Quán.
- Hai là tất cả thiền, trong đó có hai: Một là thế gian, hai là xuất thế gian. Thế và xuất thế có ba tên: Một là Hiện pháp lạc, hai là Xuất sanh Tam-muội công đức, ba là Lợi ích chúng sanh.-Ba là cái khó của thiền có ba: Một là bỏ thiền mà sanh cõi Dục là khó; hai là đủ tất cả công đức hơn Nhị thừa là khó; ba là y thiền mà được Bồ-đề là khó.-Bốn là tất cả các môn có bốn tức là bốn thiền, Năm là Thiện nhân thiền có năm, tức là bốn vô lượng và bất vị ở trước (không mê chấp vị).-Sáu là tất cả hạnh thiền có mười ba v.v...-Bảy là trừ não thiền, có tám.-Tám là thiền đời này đời kết quả, có chín.
- Chín là ly kiến thiền có mười, một trăm lẻ tám Tam-muội Lăng-nghiêm đứng đầu, tên lấy từ Đại phẩm Đại luận giải thích rộng. Mười tám không quyển năm giải thích rộng. Mười dụ, kệ nói huyễn, diệm, trăng, không, tiếng vang, thành, mộng, ảnh, tượng, hóa có lược giải ở sau. Và năm trăm Đà-lani, Văn Trì đứng đầu, tên ở Đại phẩm, Đại luận cũng giải. Ở đây nhiếp tất cả vị, trong ý đến trước nói vô vị. Muốn nói về có trước phải nói không. Phàm kế vị là xuất từ tâm Thánh, tâm Thánh vốn vắng lặng, vị kế sao bày. Đậu vật căn duyên thềm bậc đồng khác. Tự không phải tuyệt vị cực Thánh đâu thể xếp ở các thứ sau. Cho nên trước nói lý vô vị, kế mới y cứ sự mà nói các vị. Lại vô cớ y cứ chân có tức nhờ tục. Chân tục chẳng hai nên trước nói chân. Cho nên Lăng-già quyển bốn Phật nói phẩm tâm rằng trong nghĩa bậc nhất không có thứ lớp. Văn nay từ nghĩa nên nói vắng lặng chân như. Lại trong kệ văn ở dưới nói: Mười địa là mười, Sơ địa là tám, thứ tám thì là bảy, bảy cũng lại là tám, thứ hai là thứ ba, thứ tư là thứ năm, thứ ba là thứ sáu, không có thứ nào chỉ là kinh văn bốn quyển. Các thứ khác đã dẫn đều là văn quyển bảy. Kinh nói vô vị chỉ một văn này. Trên dưới văn đều y theo thứ vị. Nhưng nói nhiều về Thông Biệt mà ít nói Tạng Viên. Nếu nói Trí Hạnh thì chung đủ bốn giáo. Lấy bộ Phương Đẳng mà chê nhiều Tam Tạng, vị nghĩa lại ít. Phải biết Lăng-già y cứ vào viên lý mà nói vô thứ vị, y cứ sự chẳng phải không. Dẫu nói viên sự nhiều là giới ngoại pháp môn tương tức. Cho nên trong kinh Viên Vị lại ít, riêng trong tựa kinh ấy Thế tôn thọ thỉnh khi vào thành Lăng-già đã dùng thần lực làm vô lượng núi báu, núi đều có Phật, trước mỗi Phật đều có La-sát và chúng hội, mười phương cõi nước đều hiện trong đó. Đây hợp với Tịnh Danh, bởi hiện biến nào có khác, còn chưa kịp thỉnh Bát-nhã mười phương, đều gọi là Thích-đề-hoàn-nhân. Nói thêm đều gọi Thiện Hiện Thân tử xét biết bộ Phương Đẳng ấy nói. Thứ vị đã thế, pháp tướng cũng phải đủ bốn, cũng thiếu ba tạng, ý như vừa nói tức như La-sát Vương bổn cung tư Phật. Phật nói các pháp huyễn hóa tức là Thông giáo, phát được gốc lành lìa tâm ý thức, vào Như-lai-tạng tức là Biệt viên. Nếu theo ý này thì ví dụ kia sẽ biết. Riêng văn của tựa nêu Viên còn thiếu. Xét biết chính nói nghĩa viên không nhiều. Cho nên trong phần Chánh tông, Đại Tuệ hỏi rằng: Tịnh tất cả chúng sanh tự tâm hiện lưu là tiệm hay đốn? Phật nói đó là tiệm chẳng phải đốn. Văn dưới tuy nói Phật tịnh chúng tâm hiện lưu là đốn hiện tất cả. Đây là nói tiệm cực thì nói là đốn, tức riêng vị Diệu giác mà thôi huống chi văn lập năm thứ chủng tánh, nghĩa là Phật, Bồ-tát, Thanh Văn Bất Định Vô tánh, vì chưa khai quyền các tánh còn cách, đâu đồng Pháp Hoa bại chủng được thọ ký, huống chi năm pháp và ba tự tánh tám thức hai vô ngã hoàn toàn là nghĩa riêng, đâu được chấp một lời không có thứ vị ư? Lại Đại thừa trở xuống là nói có thứ vị, vừa nói vô vị cũng là Đại thừa. Nay lại nói có, nên nói lại. Bởi vì trở xuống là hòa hội có không. Như trước đã nói chưa chứng vô vị không thể nói vị. Lại ngại người ngu chấp riêng vô vị. Cho nên kết rằng thứ vị hiềm gì. Nếu chiết trở xuống là chánh nói thứ vị các giáo. Trước ba tạng nói bảy hiền bảy thánh, bảy hiền tức là bảy phương tiện, bảy thánh tức là tính hạnh pháp hạnh, Tín giải kiến đắc thân chứng thời giải thoát bất thời giải thoát, hai mươi bảy Hiền thánh, là khai sơ quả hướng làm ba tức là tín hạnh, pháp hạnh, vô tướng hạnh và sơ quả làm bốn, năm là quả hướng thứ hai, sáu là quả thứ hai, bảy là quả hướng thứ ba, tám là quả thứ ba. Trong quả này lại khai làm mười một tức là Trung sanh, Hành bất hành, Lạc định lạc tuệ, Chuyển thế hiện, Tín giải kiến đắc thân chứng và bảy thứ trước là học nhân mười tám, khai vô học là chín, tức là Thối hộ, Trụ tư, Tử bất thối, Tuệ giải thoát, Câu giải thoát bất hoại pháp. Câu-xá nói: Thế tôn nói học nhân mười tám tức là bốn hướng ba quả Tín pháp hạnh, Tín giải kiến đắc nhà nhà một gian năm hàm tức là Trung sanh, Hạnh bất hạnh thượng lưu vô học chín, tức là Thối hộ, Tư trụ, Đạt bất động, Bất thối tuệ giải thoát Câu giải thoát, hai mươi bảy tên gọi này là ruộng phước.
Hỏi: Duyên gì tự chứng chẳng nằm trong số ấy.
Đáp: ba học Vô lậu là nhân của bậc Thánh, Trạch diệt Niết-bàn và quả của bậc Thánh, Diệt định hữu lậu không phải y nhân nên không dự vào số ấy. Muốn hiểu rõ xin tìm Bổn luận. Trung Ahàm quyển bốn mươi, Trưởng giả hỏi Phật: Ruộng phước có bao nhiêu? Pháp đáp đồng với Câu-xá. Hai môn kia đều có luận, cũng phải có vị. Nay thiếu chẳng nói ba thừa cộng vị như sau trong thứ vị mà nói. Trong Thông giáo đã không có bốn môn luận bộ khác nhau. Cho nên chỉ y kinh mà nêu cộng mười địa. Kế là biệt vị, cũng như Lăng-già Bồ-tát Sơ địa là pháp thêm vào, trăm ngàn muôn kiếp tu tập các gốc lành dần vào các địa đế, địa Pháp Vân ngồi hoa sen lớn. Nay văn chánh dùng Anh Lạc nêu các vị bất đắc ý thành ba mươi tâm v.v... sự chẳng được rồi lập bày giáo đạo, quyền tiếp vật cơ, chẳng phải bổn ý của Phật. Ý ở Sơ địa Trung đạo thật tướng cũng ở Địa tiền phục hoặc, sáu cộng bảy bằng mười ba đều đồng Hoa Nghiêm bác bỏ là tà. Năm hành, đây là bắt đầu từ Huỳnh Đế cảm huyền nữ tinh tinh mà nói năm hành này. Bạch Hổ Thông nói: Hỏa là Dương tôn, thủy là Âm ty, cây là thiếu dương, kim là thiếu âm, thổ là đại bao, cho nên hai âm ba dương. Tôn phối với thiên, thủy là duy, nuôi dưỡng muôn vật. Cây là xúc, là xúc động muôn vật. Hỏa là hoa tức biến hóa muôn vật. Kim là cấm, tức cấm khởi đầu. Thổ là ói ra, là ngậm muôn vật. Cho nên muôn loại đều thuộc năm hành. Sáu giáp, giáp là đầu một giáp năm hành, một hành hai ngày, sáu giáp sáu mươi ngày. Trong một năm giáp trải sáu lần, hành ba mươi sáu lần. Bạch Hổ Thông nói: Giáp có mười can, thời có mười hai. Nói can là số, giáp là đầu muôn vật, như giáp chưa khai, ất là co lại. Như rồng cuộn chưa muốn ra. Bính là minh, tức là muôn vật sáng. Đinh là cương, mậu là thạnh, kỷ là khởi, canh là canh, tân là thỉ (bắt đầu). Nhâm là nhậm vận, quý là đô. Nói mười hai thời, tý là từ, sửu là sửu, dần là diễn, mẹo là mậu, thìn là chấn, tỵ là khởi, ngọ là trưởng, mùi là vị, thân là thân, dậu là thâu, tuất là diệt, hợi là hài. Can và thời này cũng gồm thâu tất cả cho nên nói. Cho đến thành nhuận độ số v.v... chẳng phải điều ở đây nói. Rộng như trong luật lịch. Âm dương là kinh Thái Huyền nói: Doanh đại công, sáng muôn vật gọi là Dương, sâu kín không thể lường gọi là âm. Dịch nói một âm một dương gọi là một Đạo. Âm dương chẳng lường gọi là Thần, tháng năm ngày giở v.v... cho đến năm hành, tám quái đều thuộc về âm dương. Cho nên pháp âm dương bày khắp thế gian, ý nghĩa bất tận. Bát quái là Chấn, đoái, ly, khảm, càn, khôn, cấn, tốn. Một quẻ có sáu hào, hào là biến đổi thích thời, lại hào là hiệu, tức là khí âm dương. Dịch nói: Quái một dùng tượng ba mươi có tám biến mà thành quái. Năm kinh, Bạch Hổ Thông nói: Khổng Tử gặp Chu Đạo Lăng Trì từ Vệ trở về Lỗ để định năm kinh mà làm đạo. Lễ Ký Kinh giải rằng: Ôn nhu đôn hậu là thi giáo, Sơ biết chung xa là thư giáo, Quảng bác dịch lương là (nhạc) giáo, Khiết tịnh tinh vi là Dịch giáo, Cung liễm khiêm kính là lễ giáo, thuộc từ tỷ sự là Xuân Thu giáo. Nay gọi Lễ Nhạc Thượng Thư Thi Dịch Xuân Thu. Có người gọi là truyện. Lễ có ba, tức là Chu Lễ, Nghi Lễ, Lễ Ký. Truyện có ba, tức là Công Dương, Cốc Lương, Tả Truyện, nên nói chín kinh. Tử là trăm nhà Hiền triết. Sử là Sử vắng lặng các nước, cho nên dùng bốn thứ để gồm nhiếp tất cả sách, tức là kinh Sử Tử Tập. Tập là các sao chép các bậc Hiền lương xưa nay, như loại Ngự Lãm. Nay vì lược biết Thế pháp đồng khác, chẳng phiền nêu rộng, ý ở biết chung đều từ tâm khởi. Vì sao trở xuống là nói giáo xuất thế hai luận khác nhau. Văn đầu có dụ có hợp, đủ như quyển một đã dẫn Hoa Nghiêm. Kế trong Không Kinh dụ gồm bảy giáo trong tám không bí mật, đủ như trước khai chương, sau phân biệt. Kế từ quán tâm nhân duyên, dưới đến bình đẳng với Như lai, tức là bốn giáo như Tạng v.v.... Kế lại quán tâm trở xuống là Đốn quán. Kế từ quán tâm nhân duyên đến kinh Thục Tô và Tiệm Quán. Pháp Hoa khác nhau các văn, chỉ là Hội tiệm qui đốn. Niết-bàn bốn người đều biết Phật tánh, cho nên bốn câu tức nhau. Nếu theo Đại kinh năm thời ý thì Hoa Nghiêm dụ cho sữa. Nay lại theo tiện liền dùng Hoa Nghiêm làm riêng một đốn. Trong tiệm vẫn còn bốn vị. Cho nên lấy ba tạng dụ cho vị sữa cộng thêm Bát-nhã như lạc, tuy không có bộ khác cùng văn Bát-nhã, bèn lấy Phương Đẳng Bát-nhã hoặc một hội một thời một chương. Nói riêng ý chung loại đó cũng nhiều. Lại nay luận quán lý nhiếp pháp gồm rộng. Cho nên từ dung ở Tiệm giáo mà nói Cộng Bát-nhã. Nếu y cứ xếp giáo thì chẳng dùng văn này. Trong giáo Tiệm thứ đối Phương Đẳng Bát-nhã đều nói tức không v.v... là Năng nhiếp thể tức, Sở nhiếp chưa tức. Tuy còn chưa tức lại từ năng nói, nên đều nói tức. Kế nói Pháp Hoa Niết-bàn, là ý hiển Chỉ quán đều nhiếp khai hiển lượm nhặt giáo ý Niết-bàn, bốn giáo kinh này đều biết thường trụ nên bổn ý ở viên, quyền dụng ba giáo để làm Tô tức. Thật chẳng bảo quyền xem là rốt ráo. Ý vốn biết viên cho nên tức nhau. Nếu Thô tâm dứt thì lại nương vào đốn quán. Hỏi: Phương Đẳng cũng làm bốn câu tức nhau thì có gì khác với Niết-bàn?
Đáp: Phương Đẳng chỉ Đại tiểu đối nhau, một thời cùng nghe bốn thứ chẳng lìa nhau, nghĩa đồng tức nhau, khác nhau Niết-bàn tức giải tức tu. Lại Phương Đẳng này cũng nhờ Trung luận bốn câu tức văn, chẳng phải gọi bốn giáo là tức nhau. Lại văn trong đây là nhờ năm thời thuận bộ kinh ấy hoặc tức hoặc lìa. Cho nên tu hành tùy dùng mấy câu mà được thấy thật. Lại nếu đem quyển kinh trong hạt bụi dụ cho tám giáo, văn ấy tuy lược, đại ý cũng đủ. Tức là trước tiểu sau đại là tiệm. Đại tiểu bất định là bất định. Trong tiệm bốn tức bảy kế trong quán bất định nói: Nếu quán nhân duyên, lại quán nhân duyên tức là Phật tánh. Đây có hai ý: Một là hiện tại tập duyên thành người bất định. Nghĩa là nguyên biết lý viên, hoặc khi quán nhân duyên sanh pháp lại quán nhân duyên tức thành Trung quán, tức thấy Phật tánh. Như trong ba Chỉ quán nói hoặc chỉ thế giới là nghĩa Đệ nhất, hoặc sự hoặc lý tức là tướng ấy; Hai là phát viên túc tập thói quen xưa như ở hiện tại Chỉ quán sanh diệt, sau lại thường quán duyên sanh, tức thấy Phật tánh. Cho nên trong quán nhân duyên như sữa, do quán nhân duyên mà được thấy Phật tánh nên nói như sữa giết người không giả đều có. Lại văn quán ý đều y theo đây. Đến quán Trung đạo cũng có. Lại nói quán thì thiếu một ý, chỉ là lợi căn vượt nhập thâm vị. Nếu làm phát tập thì như vị năm phẩm chỉ là phục hoặc. Nhờ túc tập phát nên phá vô minh, cũng là bất định. Lược nhiếp trở xuống là lấy lược lệ rộng. Lại nữa trở xuống là nói dùng tâm nhiếp ý các giáo. Văn có hai ý tức là Năng hóa, Sở hóa khác nhau: Một là Y cứ sở hóa, nghĩa phá tâm trần chúng, sanh ra tất cả pháp; Hai là Phật đã được trước, nay dạy chúng sanh tức là hóa tha, năng sở cùng thành, nghĩa chẳng thể thiếu. Trên sáu trở xuống là kế nói sáu pháp thu nhiếp lẫn nhau, tức không thể nghĩ bàn. Hỏi: Như trước nói lý cho đến giáo, tự tha nhân quả tất cả đầy đủ, sao lại phải nói mỗi pháp nhiếp năm? Đáp: Như trước nói trong mỗi môn đều có đủ Thiên viên, nghĩa nó dường như đủ. Trong mỗi pháp tự chẳng gồm thâu nhau, giống quyền chẳng nhiếp thật huống năm thứ kia. Nay nói nhiếp, là sáu pháp này chưa gồm thâu nhau, sáu nghĩa trước sau thứ lớp sanh nhau. Cho nên văn nay nói thứ lớp có thể hiểu. Nói thẳng ra là nêu một lệ các thứ, dùng thẳng một văn còn nhiếp tất cả, huống chi sáu ư? Như lý chẳng nhiếp hoặc trí hạnh vị, chỉ lý mà thôi chẳng đủ các pháp. Huống lý quyền thật giống như chưa thâu nhau. Cũng như sáu độ tuy đều tự Viên, vẫn phải mỗi đệ rõ ràng nhiếp nhau, đều là pháp giới, mới gọi đầy đủ. Cho nên sáu trước chỉ giống tương đãi, nên lại phải nói tướng bặt đãi. Vì sao? Vì một lý nhiếp tất cả các lý, nghĩa là quyền tức thật, tức lý luận hoặc, nên lý nhiếp hoặc. Tánh đức Bát-nhã chẳng ngoài lý, lại lìa tánh không có trí, nên lý nhiếp trí. Tánh đức giải thoát duyên nhân chẳng thiếu. Lại lìa lý không có hạnh nên lý thuộc hạnh. Lý tánh mười giới phàm thánh vị đủ. Lại lìa tánh không có vị nên lý nhiếp vị. Tâm trần gồm đủ quyển kinh lớn như cõi Đại Thiên. Lại lìa lý không có (nói), nên lý thuộc về giáo. Kế hoặc nhiếp tất cả, cũng phải nói một hoặc nhiếp tất cả hoặc, chỉ là văn lược. Cho đến giáo cũng giống như thế. Trước một hoặc tất cả hoặc, là tâm đủ ba hoặc như một tâm tham các hoặc đầy đủ, mạnh yếu (che) nhau mà chẳng hiện hành, cho nên hoặc nhiếp các hoặc. Thể hoặc là lý nên hoặc nhiếp lý, hoặc đã tức lý. Trí hạnh vị giáo y theo hoặc y cứ lý mỗi thứ mà nói. Kế trí nhiếp tất cả. Một không thì tất cả không. Không tức giả trung. Một trí nhiếp các trí, trí minh như cảnh, cảnh trí chẳng hai, nên trí nhiếp lý. Phiền não Bát-nhã thể tướng vốn một, lại dùng Năng phá đối Sở phá, dùng năng nhiếp sở, nên trí nhiếp hoặc. Bát-nhã tức giải thoát, duyên liễu thể đồng. Lại phàm có trí đều hay dắt hạnh, nên trí nhiếp hạnh. Tánh đức Bát-nhã chiếu mười giới vị. Lại nêu không có trí thì có vị để bước lên. Lại có hoặc thì có trí, hoặc mất thì trí dứt. Cho nên dùng trí nhiếp vị, hai trí quyền thật không giáo nào chẳng thâu. Cho nên trí nhiếp giáo. Kế hạnh nhiếp tất cả, sáu độ pháp giới gồm thâu tất cả hạnh. Thoát tức pháp thân, duyên chánh thể một. Lại y lý khởi hạnh mảy thiện lý đều, nên hạnh nhiếp lý. Buộc thoát thể một, nghịch tức Bồ-đề. Lại có hoặc tức có hạnh, hoặc cùng thì hạnh dứt. Cho nên được hạnh nhiếp hoặc. Giải thoát tức Bát-nhã. Hạnh thanh tịnh ở trí, cho nên được hạnh nhiếp trí. Không phải hạnh thì chẳng lên vị, vị mãn thì hạnh mới trọn. Cho nên được hạnh thâu vị. Y giáo để tu, hạnh giáo vốn bàn ở hạnh, nên được hạnh thâu giáo. Vị nhiếp tất cả. Tâm Phật và chúng sanh ba pháp không khác. Y cứ hạnh sơ phẩm còn đủ các vị. Nếu chứng đắc, thì Sơ trụ đủ tất cả, một trụ tất cả trụ, cho nên được một vị thâu khắp tất cả vị. Sơ trụ tức pháp giới cho đến vị sáu tức. Mỗi vị đều nói tức cho nên được vị thâu lý. Có vị do hoặc, hoặc cùng thì vị hết, cho nên được vị thâu hoặc. Không có vị thì không có trí, vị mãn nên trí cực. Lại do trí nên tiến vị, vị cùng thì trí mất, nên được vị thâu trí. Vào vị phải do hạnh, hạnh khắp tất cả vị, nên được vị gồm thâu hạnh. Tiến vị nên lập giáo, giáo bàn không ngoài vị, nên được vị thâu giáo. Kế giáo nhiếp tất cả, như nghe môn chữ A thì giải tất cả nghĩa, vì ở một Phật thừa mà phân biệt thành ba. Cho nên được giáo thâu giáo, giáo nói tất cả pháp. Văn tự tức thật tướng, cho nên gồm thâu tất cả lý. Mê giáo sanh các hoặc, giáo nói tất cả hoặc, cho nên được giáo thâu hoặc. Y giáo mà hiểu. Giải mãn nên giáo hưng, nên được giáo thâu trí. Y giáo nên sanh hạnh, hạnh cùng tất cả giáo, cho nên được giáo thâu hạnh. Giáo nói tất cả vị giáo sanh tất cả vị, nên được giáo thâu vị. Như trên nhiếp nhau vẫn y cứ giáo pháp sanh nhau mà nói. Nếu thẳng y cứ đốn một hướng mà nói, thì trong lý đủ năm, cho đến giáo thể tức năm, đều là pháp giới. Nghĩ sẽ thấy được. Chẳng phân biệt Thiên viên, mỗi đều thế. Cho nên sáu pháp này chẳng ngoài vắng lặng chiếu không thể nghĩ bàn trung một diệu chỉ quán. Chỉ quán nhiếp sáu, sáu cùng nhiếp nhau. Tức là lý tánh chỉ quán, cho đến giáo tha chỉ quán, kia đây chẳng hai. Sáu pháp này tức là thể trước tới chẳng thứ lớp. Thể trung nhiếp pháp không thể nghĩ bàn.
Kế nói Thiên viên Trung, trước nói ý đến. Trước nhắc lại chương trước, chính chỉ thể nhiếp pháp đến trước. Chỉ sáu phen trước, trong mỗi phen nhiếp tất cả pháp, và mỗi pháp lại nhiếp nhau, nên nói không pháp nào chẳng gồm thâu. Thâu pháp đãi nhiều trở xuống là chánh nói ý đến. Thâu pháp đã nhiều, nên mỗi pháp đều phải biết rõ Đại tiểu cho đến ý không thể nghĩ bàn. Đại tiểu tức là lược nêu hai môn một, hai. Cộng bất cộng nói dùng hai môn ba, bốn. Bán mãn và Đại Tiểu nghĩa đồng, nên chẳng nêu riêng. Cho nên biết Viên đốn thật ba, một bề bất cộng. Thiên Tiệm Quyền ba có cộng và bất cộng. Tạng chung là cộng. Biệt là bất cộng quyền thật tuy cùng bốn nghĩa trước đồng, phải đem quyền thật để phân biệt bốn trước. Tiểu bán một bề là quyền, mãn đại có quyền có thật. Hai thứ Viên đốn một bề là thật. hai thứ Thiên Tiệm một bề là quyền, lấy nghĩ bàn và bất nghĩ bàn lại quản năm cặp, lệ theo đây sẽ hiểu. Cho nên năm chương này văn năm nghĩa ba. Bán mãn đồng Đại Tiểu, tiệm đốn đồng Thiên viên. Quyền thật xếp bốn ý trước chỉ ở khai. Phàm đến lý trở xuống là nói ý chương. Ý, chỉ là không nói mà nói, không nói tức là tự hành vì người khác mà nói. Nói sẽ chẳng ngoài cặp này.
Hỏi: Đây là xếp thuộc về pháp trước hiển thể, vì sao lại nói vì người khác nói.
Đáp: Xếp tức là nói, cho đến quả thành, lấy năm song này vì người khác mà nói, nói chẳng ngoài năm. Vì tiểu trở xuống là nói ý dùng chương. Nói phải biết lý do, há vì phương tiện tên đồng mà khiến Đại Tiểu Lý một, huống chi là trong đại vẫn phải phân biệt. Cho đến quyền thật cũng giống như thế. Cho nên phương tiện các thứ khác nhau. Như Ba tạng giáo một bề là tiểu, toàn là phương tiện, huống chi ba tạng giáo lại có tên mới vào làm phương tiện. Cho nên có thể ngoài thể trong khác nhau, đủ như sớ văn giải thích phẩm Phương tiện, chẳng cùng Tịnh Danh Báo Ân Phương Tiện phẩm đồng. Như kinh Hoa Nghiêm có phẩm Thọ Lượng khác nhau với phẩm Thọ Lượng của Pháp Hoa. Tiểu trở xuống, là kế trong chánh giải thích trước giải thích về Tiểu. Trước tức tướng pháp quán của Tiểu thừa. Như Thích luận trở xuống là bày tướng tà chiết để hiển bày chánh, hai câu đầu là lập định, kế nêu trở xuống là hai câu giải thích trách. Kế nếu chiết trở xuống là phá. Nói phương phân là vô trần mà thôi, có phải là sắc, sắc ở tại phương, phương ắt có phần, có mười phương phân. Kế phá lại chiết cực vi, chiết cho nên hết. Nếu một trần hết thì các trần đều hết. Nếu hết thì làm sao hòa hợp mà thành thân. Cho nên hết chẳng thể. Nếu chẳng hết, nếu một trần là thường thì các thứ đều là thường. Nếu là thường thì thân phải chẳng diệt, cho nên chẳng phải Phật pháp chánh chiết tướng. Chiết tâm cũng như thế. Nếu một sát-na tâm chẳng thể hết thì làm sao lại có sát-na sau sanh, sát-na sau sanh, tâm trước sẽ diệt. Nếu diệt hẳn thì làm sao lại có sát-na sau sanh. Cho nên biết sát-na niệm niệm sanh diệt chẳng phải đoạn, chẳng phải thường. Luận văn dưới là bày tướng chánh chiết. Ba tạng chiết pháp không phải nói Bổn tông, nên nói vẫn sáng, cũng trước quán sắc, kế quán tâm. Khi quán sắc tâm thì chỉ quán thô tế vô thường, vô ngã. Chẳng cần nói hết và chẳng hết. Nói từ vô minh sanh là từ một niệm vô minh quá khứ mà sanh các hạnh. Lại do các hạnh khi đến Trung ấm, tâm ta một niệm vô minh lại cùng tâm cha mẹ một niệm vô minh hợp, sanh ra sắc thân. Y báo cũng do cộng nghiệp vô minh đồng cảm cát đá. Cho nên y chánh đều từ vô minh mà sanh, thể của vô minh từ nhân duyên mà có, cho nên khiến cho tạo sắc cũng từ nhân duyên. Phải biết nhân quả đều từ vô thường, như thế nào mà kể là hết và chẳng hết, quán tâm cũng như thế,. Sát-na quá khứ chiêu cảm sát-na nay, huống chi sát-na nay lại đối cảnh ngoại nhân duyên mà có. Cho nên niệm niệm đều vô thường. Như thế khi suy sao chỉ biết sắc tâm vô thường. Tiến suy tâm niệm xưa nay chẳng phải có bèn thấy pháp tánh chân như thường trụ như trước đã nói. Giáo tướng bất định nếu quán vô thường, lại quán vô thường thì thấy Phật tánh, tức là ý này. Nếu quán huyễn hóa cho đến giả v.v... cũng giống như thế. Thực hành quán ấy chính là vốn hoại, ba đường rốt ráo, đâu chỉ có giới nội vô minh là hoại. Chiết danh trở xuống được gọi là lý do, chiết danh này vốn ở ngoại đạo, xem sắc cực vi và một sát-na hết hay chẳng hết, nay quán vô thường v.v... cũng gọi chiết là vì đối phá ngoại đạo, ông chiết chẳng phải chánh, đâu chỉ trở xuống là nói công năng phá của chiết này cho đến Viên giáo bốn môn sanh mê đắm cùng có thể phá hết. Phật pháp như cam lộ, thấy trước như uống nhiều mất lý như chết yểu. Ở ngoài chấp sanh như khóa sắt ở trong, chấp sanh như khóa vàng. Kế do trong tâm nên gọi là tự mình khởi ngã nhân chẳng khác với ngoài, đều làm nhân sanh tử cả. Cho nên Đại luận trở xuống là nói dụng phá ý, nghĩa là phá năng chấp, năng chấp là chấp trước, chẳng phá sở chấp, sở kế là giáo. Cho đến chưa được Niết-bàn mà sanh chấp trước há phá Niếtbàn. Đây là nói công năng đối địch phá kiến. Nếu lại có người bỗng phải tu quán khác mà phá kiến. Như quyển mười dùng bốn thứ quán phá kiến khác nhau, phàm có trở xuống là y môn tu quán, quán tức mười pháp. Người đời cũng nói tu tập pháp quán nói chẳng dính mười. Thừa hoại xe lừa chánh Nam mà đi. Cho nên biết trở xuống là chánh nói ở Tiểu kế với đại cũng trước bày pháp quán. Đại nhân trở xuống là dẫn người năng thừa và giáo năng thuyên, xét mà biết là đại. Trong diễn trở xuống là dẫn chứng cộng thừa thí như trở xuống là dụ. Nay trở xuống là hợp, rất dễ hiểu, ví dụ như trở xuống là dẫn ví dụ, hễ có nghĩa lệ có nghịch có thuận, trong đây là nghịch lấy Tiểu thừa mà lệ Đại. Như trong Tiểu có Đại vẫn gọi là Tiểu. Sao ngại trong Đại có Tiểu vẫn gọi là đại. Cái gọi là trở xuống là đối nói pháp thể. Có hai lớp pháp thí. Trước là chiết, kế là thể. Trong trước chiết nói ba tạng gọi là giả v.v... là nắm chung năm ấm, giả gọi là chúng sanh. Sanh là giả danh, ấm là thật pháp, đã kế pháp thật thì chiết khiến nhập vào không. Nay Đại thừa trở xuống là kế nói thể. Ấm và chúng sanh đều chẳng thật có, cho nên đều giả. Trong đây tuy dùng cảnh tưởng để thí dụ, mượn Sử Thiếu Tông Nghi dụ gương ảnh cũng gọi là Thật. Như luận Bà-sa quyển bốn mươi hai hỏi rằng: Ảnh trong nước và gương là thật hay không thật? Thí dụ nói chẳng thật vì mặt gương chẳng vào. Tỳ-đàm nói ảnh là có pháp. Vì sao? Vì sắc đó là sắc vào nên nhãn thức có được. Hỏi: Đã chẳng vào nhau sao nói là thật? Đáp: đã có sắc như thế là sắc nhập, chẳng phải một thứ sanh sắc mà là sắc nhập. Như nhân mặt trời, do kính sanh lửa, do mặt trăng, do châu sanh nước. Tuy chỗ sanh đều khác, chẳng phải là không thật, duyên gương duyên mặt mà sanh ảnh, chẳng phải không có ảnh dụng, sanh ra nhãn thức, thì chẳng phải không thật, tiếng vang và hóa cũng như thế. Cho nên người tu theo Tỳ-đàm chấp ảnh duyên khởi có riêng một đủ bốn đại tạo sắc, cho nên thật có. Người nói chỗ thấy tất cả chẳng thật, lấy ảnh chẳng thật mà dụ cho ngoài chẳng thật, cho nên lấy dễ mà dụ cho khó. Nói Bàsa thí dụ sư tức là Chánh Lượng bộ khác chỗ sư thấy chấp là chẳng thật cho nên cũng giống chỗ thấy như huyễn của Đại thừa, chẳng phải là tông Bà-sa. Cho nên Tỳ-đàm Sư chẳng chịu cái thấy này. Dẫn Phật ở một phương trên cây, là chánh bày thể quán. Luận quyển mười hai chép: Khi Phật ở núi Kỳ-xà-quật cùng các Tỳ-kheo vào thành Vương xá giữa đường thấy có cây gỗ vuông lớn, Phật bèn trải tọa cụ Ni-sư-đàn ngồi trên cây ấy, bảo các Tỳ-kheo rằng: Nếu Tỳ-kheo vào thiền tâm được tự tại, khiến cây này làm đất thì thành đất thật Vì sao? Vì cây có địa thủy hỏa phong, như một sắc đẹp, người dâm thấy là người, người quán bất tịnh thấy là bất tịnh, người vô dư thì tâm không ưa thích. Cho nên tùy người thấy mà chấp lấy khác nhau. Nay văn theo nghĩa mà nói biến vàng thành đất, cũng vì trong vàng có đất, như cây là đất. Lại trích dẫn nhắc lại, luận giải thích trong ba thứ có trước nói nhắc lại mà chiết đến cực vi, nhìn chung thì vô thường vô ngã, ấy là phân tích không. Lại có quán không như quán nhắc lại này, nhắc lại vốn chẳng sanh nay cũng chẳng diệt. Cho nên cũng cùng vàng đất dụ đồng. Khi vàng là đất, vàng vốn không sanh, nay cũng chẳng diệt v.v... Cho đến mười tám không như quyển năm nói. Cho nên dẫn nhắc lại có không tánh như cây có tánh đất, để chứng tức không. Mười tám không này nghĩa chung với ba giáo v.v... Lại nữa trở xuống là giải thích tùy tình tùy lý. Trong văn đủ làm hai lý cộng và bất cộng. Lại lấy văn này mà giải thích Đại Tiểu. Trước nói tiểu không mà nói Phật tánh, cho nên biết ba tạng không việc, một bề xếp thuộc tùy tình. Đại thừa trở xuống là y cứ tùy lý để nói Đại không.
Vì sao? Vì Ba tạng tuy không, không này do diệt sự mà được, nên gọi là tùy sự. Nếu Đại thừa không, thì không này do tức sự mà được, nên gọi tùy lý. Lý tức sự cho nên tức nghĩa gồm thâu, cho nên trong tức không mà gồm chẳng không, gọi là Phật tánh. Cho nên huyễn hóa không, chung có cả chung riêng. Do đó, dụng ở các thí dụ tìm huyễn v.v.... Nói tìm huyễn được nhà ảo thuật, là thí dụ quán huyễn hóa vì thấy chung lý, nói tìm nhà ảo thuật được pháp huyễn. Là dụ quán lý không để thấy chẳng không. Mộng dụ cũng như thế, tìm mộng được ngủ, tìm ngủ được tâm. So với huyễn sẽ thấy. Nếu thế, tìm huyễn sắc tâm được vô minh trở xuống, tức là hợp văn. Vì sao dùng dụ mà chẳng tương ưng? Chỉ nói tìm huyễn được vô minh, tìm vô minh được Phật tánh, mà sao chẳng nói tìm huyễn được chân, tìm chân được Phật tánh ư?
Đáp: Lý chân đế tức là vô minh chỉ quán sâu chân liền thấy Phật tánh, tức là quán vô minh mà thấy tánh. Lại người đời chỉ nói tìm tâm thấy tánh chẳng nói tìm sắc mà được thấy tánh. Lại bỏ sắc ngoại thẳng đây quán ấm, người đời đâu hề thấy ấm Phật tánh. Kế nói thể pháp y môn tu quán. Cũng phải gồm đủ ba thứ bốn môn. Nay cũng từ chung nên chỉ nói bốn. Quán này trở xuống là chánh (nói). Đã nói các môn đại tiểu sanh mê đắm và dùng huyễn để phá, cho nên biết một bề thuộc Đại thừa. Trong tiểu môn ở trước tức nói các mê đắm đều là quán vô thường. Trong đây Diễn môn đã đủ ba giáo, tức ba giáo ấy đồng dùng huyễn hóa phá chấp, nếu dùng ba quán phá chấp khác nhau. Gồm trước thành bốn, toàn đồng với ý phá chấp thứ mười. Nếu được trở xuống là bác bỏ mà đoạt Đại thừa ba giáo mười hai môn, trước còn phải huyễn hóa, tức không mà phá chẳng bao giờ trở xuống là so sánh bác bỏ. Lão Trang còn tự chẳng biết năng trước sở trước, năng phá sở phá của Tiểu thừa huống chi trong Đại thừa hoặc trước hoặc phá. Cho nên chẳng đồng với Phật pháp. Song người giảng đời thì mê danh tướng, người lạm thiền thì mê lầm chánh lý, muốn đem đạo đức tên nêu dao mà nói ngang bằng với giải thoát của Phật pháp đâu có thể được? Vương Mục Dạ nói: Tiêu dao là ý điều sướng dật dự. Phàm chí lý trong đủ thì không lúc nào chẳng thích, quên hoài ứng vật, đi đâu chẳng chung, lấy đây mà đi khắp thiên hạ nên gọi là nêu dao. Lý không ẩn kín, rõ ràng gánh vác, hình không lớn nhỏ, dao nhiên đều thích nên gọi là tiêu dao, chẳng biết lấy gì làm lý, lấy gì làm hình, quên phiền não làm sao đi khắp thiên hạ,. Cho nên biết pháp đã chẳng bằng người cũng có thể xếp. Lại đặt pháp báo để so sánh với đây, hơn kém cách nhau trời vực phải quấy trái hẳn. Bỏ vị Kim luân Thánh đế, sao bằng mến tiếc trụ sử vi quan. Thân vàng trượng sáu quang minh tướng tốt, đâu bằng chất phàm dung sáu thước. Tướng lạ vô lượng chẳng thể nói hết. Rõ như Lý Trọng Khanh làm mười dị chín mê để bác bỏ Phật pháp. Nam Sơn làm mười dụ chín châm dùng hình tà ma nói. Nay lược còn năm dùng phân biệt tà chánh: Một là Lão Quân nghịch thường gá thai mục nữ mà ra đời, còn Thế tôn thuận hóa do mẹ hiền mà đản sanh; Hai là Lão Đam có sanh có diệt, sợ nạn sanh ra lại chịu bạc đầu, còn Thích-ca thùy tích bày sanh bày diệt trở về vắng lặng bèn sáng rỡ mình vàng; Ba là trẻ thơ giấu hình sanh ra ở huyện khổ Trần châu, còn Năng Nhân thì hiện thân ở Đông hạ thần châu; Bốn là chức quan nhỏ ở Bách dương sau lên Tạng lại (quan giữ kho) chẳng phải mặt trời ở Văn Vương cũng chẳng phải Thầy của Long Chu còn Thích-ca ở ngôi Thái tử, thân chứng đặc tôn, năm thành ở thời Chiêu Vương là Giáo chủ cõi Diêm-phù; Năm là lý thị ẩn ba hiển không giáo nào nói, dù cho năm trăm tuổi cũng kém tuổi rùa hạc, còn Pháp vương một sanh một diệt, thị hiện dung vi trần, tám mươi tuổi dẫn dắt Hằng sa chúng phàm các so sánh này đều là sự thật, đủ để phân biệt chánh luận chánh, Tiếu đạo tâm cảnh phá tà hai giáo, Mâu tử các luận nói rộng tướng lạ nay cũng thấy có xe chẳng ra gì, còn nói đồng đám xuất gia ấy có gì kia đây mà tướng phải trái, ánh sáng mặt trời với lửa đom đóm rất khác xa nhau. Viên môn sanh trước, trước tâm chẳng vào số Tiểu hiền, còn là ba tạng có môn bị phá, huống chi Trang Lão là chỗ thấy tầm thường không muốn kết bạn với viên lý Phật pháp, thì như đom đóm đối với mặt trời, như sợi lông tơ đối với quả núi. Trong Đại Phẩm chép: Thanh văn như lửa đom đóm, Bồ-tát như ánh sáng mặt trời, nay mượn đây mà ví với Lão Trang còn quá. Mảy may, sắp dứt, là Thiên Tề Vật nói: Mảy may chẳng nhỏ, núi Thái chẳng lớn, nay chẳng dùng nghi tề vật kia, mà mượn văn đại tiểu dứt hẳn cho nên nói sắp dứt. Tự nói Đạo chân v.v... là Ca-diếp thấy Phật hiện Đại thần biến, trong tâm đã biết sức Phật khó lường nhưng vẫn nói lời kiêu ngạo khinh Phật rằng: Cùđàm tuy Thần chẳng bằng đạo chân của ta như thế ta tránh mà chẳng phá. Như chỗ Ca-diếp khởi duyên rộng như trong luận văn và Thụy Ứng đã nói.
Kế nói Bán Mãn, tên ở Đại Kinh. Bồ-đề-lưuchi dùng đây xếp giáo chưa phải hết lý, cho nên huyền văn phá bỏ, khiến đây chỉ y cứ pháp môn để nói. Huống chi là bốn thứ kia cùng thành ý này. Cho nên lại đồng với môn đại tiểu, chẳng phải xếp nghĩa một kỳ mà có thể dùng chung. Một lượt lại dùng tự riêng mà xếp. Cho nên dùng chín và mười hai để chia Bán Mãn. Nghĩa chung đủ như trong Huyền văn phân biệt, hoặc đại tiểu đều chín đều mười một, mười hai. Theo truyền thuyết thế gian trở đi là phá xếp giáo nghĩa. Nhiều thầy chấp chung nói truyền thuyết thế gian. Niết-bàn là mãn nghĩa có thể hơi chung, các thứ khác gồm Pháp Hoa cho đến Hoa Nghiêm vì sao đều Bán? Lưu-Chi xếp ra lại chẳng phải chung phương Bát-nhã, bỏ Mãn chẳng chọn Tiểu thừa nghĩa lại chẳng thể. Ba tạng là nghĩa Bán có thể thế. Nay nói trở xuống là chánh nêu ý nay. Đã giúp thành đại tiểu y theo đó mà nói mãn chung hai lý gồm mang người tiểu. Bán chỉ ở tiểu, cách hẳn Đại thừa. Phương Đẳng thì đủ, còn Bán Mãn, Bát-nhã, Pháp Hoa, Niết-bàn, Hoa Nghiêm chỉ Mãn mà chẳng Bán. Vườn Nai chỉ Bán chẳng Mãn. Cho nên biết nói Bán Mãn là có gồm có toàn. Cho nên khác nhau người khác qui một hạnh nhất định.
Kế nói Thiên Viên. Đối hai chương trước để nói chung cục, gồm lấy thí dụ để hiển bày nghĩa tự sáng. Văn trước giải thích tên gọi. Nói chung riêng, nếu chung đường mà luận, gọi tiểu là thiên đối với lý chẳng lỗi, chỉ nghĩa thiên thì xa chẳng đồng với tiểu. Cho nên phải lấy môn này mà nói khác thí như trở xuống là thí dụ. Nếu cõi này luận trăng thì lấy ngày mười lăm làm Bán. Nay nói Bán: Một là lấy phương Tây trắng đen đều làm Bán; hai là lấy hình mặt trăng thêm bớt đến phân nửa (bán). Cuối tháng là hối, hối là tối. Đầu tháng là sóc, sóc là tô (sống lại?). Sóc là thí dụ mới đầu tức như chiếc cung. Ngài 15 gọi là vọng, tức ngày 15 mặt trăng, mặt trời thẳng góc nhau, tức trăng tròn, thí như dần đầy. Cho nên văn nói mặt trăng cũng gọi là vọng thư, trăng vọng thì thư. Nay nói Bán tức dùng ở cõi này trên dưới hai nửa gọi là Huyền. Mặt trăng như hình cây cung giương dây cung. Mặt trăng thượng huyền mùng 8 mùng 9, hạ huyền là ngày 20, 23. Do (trước tháng) mặt trăng lớn nhỏ khác nhau. Nếu như sau tháng hai dây xa gần khác nhau. Nay chỉ lấy dây mà dụ cho phân nửa nhỏ, thời khắc nhất định nên từ sóc đến vọng, các tháng khác thiếu một ngày đều dụ cho thiên, thiên nghĩa là dài. Cho nên nói bắt đầu từ cung ngạ đến đêm mười bốn. Vì mặt trăng bắt đầu giống như chân mày lại như chiếc cung đầy. Nên văn nói: Mặt trăng cũng gọi là Hằng nga, cũng gọi là Thường nga. Trăng đầu trăng cuối hằng luôn như nga. Nên biết hai nghĩa Thiên, Bán khác nhau nhau. Tiểu Bán trở xuống là hợp. Cho nên Đại Kinh trở xuống dẫn chứng rằng. Tà nên đồng thiên, phải biết Ca-diếp chưa nghe viên y thường trụ ở trước đó đều gọi là Thiên. Chỉ vì trở xuống là kết bày. Như văn.
Bốn là nói Tiệm Đốn. Trước giải thích tên. Ba quán ba trí thứ lớp mà vào. Tạ là do từ không vào giả, từ giả vào trung, nên nói tạ xiển (do cạn), vì Trung đạo nên trước tu hai quán, vì lợi tha nên trước dứt buộc mình, nên nói do sâu, đủ cực hai tên có chung có riêng. Chung thì đều chung trước sau, riêng thì tột sau đủ đầu. Sơ tâm chỗ quán muôn pháp đều đầy đủ. Hoặc hết đức mãn đến sau mới cực. Đây cũng trở xuống là nói đồng khác. Tiệm giúp thiên, đốn giúp viên. Bàng xuất nghĩa khác lại giúp nhau thành. Đại tiểu Bán Mãn cũng giống như thế. Ba giáo trở xuống là lược giải. Nay lại trở xuống là phân biệt cũng là giải rộng. Trong đó trước y cứ bốn câu mà phân biệt. Cho đến trở xuống là văn y cứ bảy giáo mà phân biệt, nghĩa chánh mở rõ, chỉ chưa như trong chương quyền thật tên ấy rõ ràng. Trong bốn câu đầu, hai giáo trước là tiệm chẳng phải đốn. Cứ lập ý giáo mà được gọi Tiệm. Không phải bẩm giáo mà được gọi Tiệm. Biệt giáo được làm câu thứ ba. Giải đốn mà hạnh tiệm. Giải chỉ biết lý đốn mà thôi, hạnh phải trải qua Hằng sa kiếp số, cho nên biết giáo này trước từ phương tiện. Cho nên phương tiện nói gồm đủ hai nghĩa: Một là tạ Địa tiền phương tiện; hai là Văn Đãn trung phương tiện. Lại nữa trở xuống là y cứ bốn pháp quán, giáo, hạnh, chứng mà phân biệt. Trong đó lại y cứ hai đạo giáo chứng để giải thích bốn pháp, cho nên khiến bốn pháp đều có quyền thật. Hai giáo trước bốn pháp đều quyền Biệt giáo thì ba quyền chứng thật. Viên giáo thì bốn pháp đều thật. Nói chỉ những thứ này là y cứ người thì đối bác bỏ Nhị thừa, y cứ lý thì đối bác bỏ hai đế. Giáo hạnh ở đây nói rất dễ hiểu. Nói vào thất là nhà từ giải thoát, áo nhẫn pháp thân. Tòa không Bát-nhã. Quán ba đức nên nói hạnh thật. Y cứ vị sáu tức lệ theo đó sẽ thấy. Kế hai quán trước trở xuống là y cứ bốn pháp giáo, hạnh, chứng, nhân, vì bốn pháp phân biệt trước đem ba pháp mà đối chứng để phân biệt. Trong đây hợp quán vào hạnh ba pháp đối giáo để phân biệt quyền thật, thì ba pháp và giáo nhân chung quả lấp, cho nên hai giáo trước ở nhân thì bốn pháp đều có. Bẩm ở quyền giáo, hạnh ở quyền hạnh, để vào nhân vị mà thành nhân người, ở quả thì chỉ có giáo thành Phật, không có người hạnh thật đến chứng quả này, cho nên không. Vì sao trở xuống là giải thích ý không? Vì thân tro lạnh nên đều không ở hạnh chứng và người, dù cho dùng ba mươi bốn tâm chỉ thành diệt hết. Không phải là tướng quả Phật. Lại người vào diệt nói chưa hội trước. Nếu đến Pháp Hoa chuyển thành nhân vị. Nhị thừa còn hiểu huống chi là ba kỳ. Biệt giáo có không giống đồng hai trước, chỉ đến Sơ địa tụ hội vào viên. Cho nên khác nhau biếm trước thành hội đoạn Sơ địa còn như thế trở xuống là nêu cạn so sánh sâu. Ở quả sau phải nói Diệu giác. Sơ địa còn không, huống chi là Diệu giác. Vì Biệt Sơ địa cũng có khả năng tám tướng chân nhân tợ quả, nên phải so sánh nó dùng nhân hiển quả, cho nên nêu nhân, lấy quả của mình mà thành nhân người khác nên nói không có người. Sơ địa vào trụ, đây là chánh văn đối với văn giáo đạo chẳng nên nghi. Lại tên giáo chứng cũng có thể chung Viên. Chưa vào Sơ trụ gọi là giáo đạo. Nếu phá vô minh mới gọi chứng đạo. Nếu xếp vào quyền thật thì khác với Biệt. Mượn nghĩa Địa để giải thích nghĩa Viên. Cho nên Bốn niệm xứ nói Biệt giáo chỉ dứt giáo đạo mà nói viên đủ hai ý. Giáo đạo nói dứt, chứng đạo chẳng dứt, cho nên biết người nhân chẳng đảo quả, là có hai nghĩa: Một là người nhân dẫn phá mười hai phẩm mất vị Diệu giác chỉ thành viên gia hạnh thứ hai; hai là Sơ địa tức vào Sơ trụ huống chi đảo Diệu giác. Cho nên văn nói, huống chi là quả sau. Lại nữa, ba trước trở xuống là y cứ khai hội mà phân biệt. Biệt cũng biết trung nay nói chẳng biết là ba trước chẳng biết lý viên. Pháp Hoa khai xong đều gọi là Đốn. Nói tuy chẳng phải, tức không phải gọi chỗ làm, khai vẫn không phải tức. Chỉ xếp người ấy chỗ làm ngày xưa nay khai thành đốn. Hạnh xưa được làm tiệm đốn gia, không phải ngày xưa tiệm tức là đốn, cho nên nói chẳng phải tức. Hạnh xưa chẳng khai còn chẳng gọi tiệm, đâu phải tiệm đốn cho đến tức đốn. Nay nếu khai xong tiệm tức là đốn. Cho nên nói là đạo Bồ-tát, chỉ vì khác với trước sau đều đốn.
Từ nhân xưa mà nói nên nói tiệm đốn, y bản tập mà vào nên nói các thừa. Vì gọi bản tập nên nói thích nguyện, khai sở tập ấy nên nói quyết liễu. Nếu pháp còn tiệm làm sao gọi kinh Vương? Kinh Vương vốn nói trước lúc chưa khai. Lý vốn viên diệu đâu đợi hội ư? Hội đã vẫn tiệm sao gọi được vào, huống chi từ đốn khai tiệm vì cơ sanh chưa chuyển. Cho nên đến nỗi có lời Biệt Tiếp. Nói Biệt lý là biệt của chung riêng, không phải Biệt của Viên biệt. Song lại nghĩa của Biệt lý chung với Viên biệt. Biệt đeo giáo đạo nay bỏ không nói. Cho nên Niết-bàn trở xuống là dẫn ví dụ giúp giải thích. Nếu Nhị thừa khai quyền chẳng được vào thì vì sao Đại kinh lại được quả Nhị thừa, tình mến viên thường. Chỉ Pháp Hoa trở về trước tình cách nên gọi là dị. Đại kinh chẳng cách, công đức do Pháp Hoa cho nên nói, cũng gọi là khai tiệm hiển đốn. Lại nói: Biệt tiếp thì nghĩa gồm hai ý: một là Pháp Hoa trở về trước phân tích đào thải. Ý này chánh đáng Biệt lý tiếp lấy. Chỉ thật ẩn ở quyền nói chưa rõ ràng, hai là đến hội Pháp Hoa gọi hội là Tiếp, đây là tiếp của tiếp dẫn, không phải tiếp của giao tế, cho nên hai nghĩa trước khác sau đồng. Lại kế bốn thứ trở xuống là y cứ bất định. Trước tiệm đốn bốn câu, nghĩa phải là hai thứ trong tám giáo, kế hai lớp bốn pháp nghĩa phải ở trong tiệm khai bốn. Cho nên lại y cứ bất định mà phân biệt. Chẳng nói bí mật ý ấy y cứ theo trước. Không cần đều độ v.v..., là người ba giáo trước tùy vị tiến vào phải là Bồ-tát, nên nói không cần đều đợi khai tiệm cho nên trở đi là thí dụ. Thí dụ xưa nghe liễu nhân tùy vị hay phát lời. Năm vị là nói vị biến nhưng vẫn giết người, không phải nói Pháp Hoa gọi vị thứ năm. Vì Pháp Hoa gọi là định, chẳng phải bất định. Đây là Pháp Hoa về trước y cứ hạnh năm vị. Nay trong văn này chỉ y cứ có duyên có tướng bất định. Cho nên chẳng phải hoàn toàn y cứ văn trước của Pháp Hoa. Chúng sanh trở xuống là hợp thí dụ nói xa xúc là lý giáo hạnh, chứng kịp luận xa xúc. Y cứ thời, y cứ hạnh hai thứ năm vị, tùy gần xa mà kịp luận xa xúc. Như Bích-chi-phật, là kế dẫn Bích-chi Phật để lệ lý phát, người Tiểu thừa đến đời không Phật chưa có giáo hạnh mà phát ngộ, nên gọi là lý phát. Lý phát cũng như thế trở xuống là dẫn đồng. Người viên tu cũng giống như thế. Hoặc Phật chưa ra đời, hoặc nghe Hoa Nghiêm, gọi chung là bất định đều được gọi là Nhũ. Vì sao? Vì phàm phu hoàn toàn sanh đạo lý như Nhũ. Hoa Nghiêm y cứ thời lại gọi là Nhũ. Trong Hoa Nghiêm nói bốn pháp lại xếp năm vị phát là văn giáo như nhũ phát, quán hạnh như lạc phát, tương tự như hai tô, tăng đạo như đề hồ. Tương tự phát chứng nên nói tương tự chứng phát. Ở chứng lại phát nên nói cũng như thế.
Hỏi: Tăng đạo là định, sao gọi bất định?
Đáp: Thứ lớp tăng đạo gọi là định, nếu vượt chứng thì gọi là bất định. Cũng có thể văn giáo và quán đều gọi là Nhũ phát. Trong vị tương tự gồm ba vị thì bảy Tín trở xuống gọi là lạc, Bát Tín trở lên gọi là hai tô. Nếu trước ba giáo trở xuống là y cứ ba giáo trước giáo hạnh các vị mà phát viên, gọi là ba nhà vào thì bất định, ấy là nhà Bác địa văn giáo gọi là giáo phát, trong ngoài phàm vì gọi là hạnh phát chí thánh vị mà phát thì gọi là chứng phát. Nói Hiền thánh tức là Thánh của hiền gia, phương tiện là hiền đâu lại từ hiền. Lại có trở xuống là lại đường chung mà giải thích nghĩa bất định. Bất định tên đồng mà nghĩa khác, nên chẳng phải giết người. Trước lệ hoán đế, như từ năm kinh là tu vô lậu phát được Hoãn giải không phải chỗ trông mong, cũng gọi là chẳng cầu tự phát. Khi giải này khởi thì cũng thuộc về hữu lậu, nên nói hữu lậu chẳng cầu tự phát. Ba hoặc hoàn toàn còn, nên nói toàn chẳng giết hai tử. Hoặc là nhân của tử, trong nhân nói quả, cho nên nói thế. Nếu tu Trung đạo trở xuống là y cứ ước tu trung để nói bất định, cũng chẳng phải giết người, từ mới phát tâm vốn tu viên thường. Thô hoặc trước trở xuống nghĩa đáng vô lậu, vô lậu này là chẳng cầu tự phát chẳng phá vô minh mà chẳng phải giết người. Người chẳng thấy gọi là Tiệm đốn. Lại nữa, bốn thứ chỉ quán trở xuống là y cứ Tiệm viên v.v... mà phân biệt đồng khác. Trước lập bốn giáo đều vì nhân vị gọi đó là tiệm, du kỳ cực quả gọi là viên, vì viên tiệm hai tên này lạm cho nên từ viên viên trở xuống là hai câu cùng phân biệt nhau. Cho nên biết trở xuống là kết. Tuy là phân biệt mà hai nghĩa vẫn còn, cho nên viên quả không phải là quả ba giáo, gọi Viên viên vì không phải Tiệm viên. Viên nhân khác nhau nhân ba giáo trước, nên gọi Viên tiệm, không phải là Tiệm tiệm. Cũng lại phải gọi Tiệm viên không phải là Viên viên, Tiệm tiệm không phải là Viên tiệm.
Văn dưới giải thích nghĩa bốn câu liền đủ. Pháp Hoa Sớ là chỉ trong Huyền Văn cũng nói đủ hai thứ Viên tiệm, lại Hiền thánh v.v... bốn phân biệt. Nhưng Tiệm tiệm trở xuống là phân biệt khai chung thì có thể khai chẳng thể khai, cho nên phải phân biệt. Ba giáo Phật người chẳng thể khai. Khai nhân vị người ba giáo trước đều vào Viên. Tiệm tiệm mà khai đều thành Viên tiệm. Sao thế trở xuống là giải thích. Ba quyền quả trước vốn là viên quả, thùy làm ba tích đâu có thể lại khai, khiến viên thành Phật. Lệ là lệ bốn chương kia, khai chung cũng như thế. Đại tiểu gồm được Bán Mãn, tiệm đốn lại gồm thiên viên. Vì vậy chỉ nói đại tiểu quyền thật. Cho nên nói chẳng rườm văn. Nhưng, đại tiểu Bán Mãn trước phải phân biệt, chung đồ mà nói. Như đại tiểu là hoặc chỉ người nhân ba giáo trong diễn hoặc chỉ người Nhị thừa trong diễn. Đại đại là hoặc chỉ người quả đầu ba giáo, hoặc chỉ người nhân vị Viên giáo hoặc chỉ chỉ người quả Viên cực. Tiểu đại là hoặc chỉ người Bồ-tát ba tạng, hoặc chỉ quả Phật ba tạng. Đại tiểu đã thế thì Bán Mãn cũng, cho nên khác nhau. Quyền thật ba thứ nay nếu khai chung y cứ lệ mà nói thì cũng nhìn giới hạn ba thứ kia mà nói. Nói Tiểu đại là Phật ba tạng, nói Tiểu tiểu là người nhân ba tạng. Nói Đại đại tức là chỉ quả Phật ba giáo. Nói Đại tiểu tức là người nhân ba giáo. Bán Mãn lệ nói cũng rất dễ hiểu, khai chung tiến chăng so sánh trước rất dễ biết. Quán tâm cho đến suy v.v... là Chư Phật khế tâm, như khế mà nói. Đại sư cũng là suy quán mà nói, tâm hợp với pháp. Cho nên quán tâm suy chẳng trái pháp tướng. Là bất tín, là lại dẫn chứng thành tựu nghĩa đốn tiệm, văn của bốn giáo phải phân ra tiệm viên. Thứ sáu xét văn chưa thấy sợ là văn lầm. Trong văn chẳng nói Bồ-tát, ví chẳng dứt hoặc đồng với phàm phu, văn ở quyển hai mươi hai đủ như đã dẫn, đồng với văn quyển chín. Kinh sau cùng nói: Này người thiện nam, như trâu mới đẻ máu huyết chưa khác, nay trở lại trước lấy nghĩa tiện nói vì hòa máu sữa với sữa sạch trước. Tuyết Sơn v.v... là văn ở quyển hai mươi bảy. Kinh nói núi Tuyết có cỏ tên là Nhẫn nhục, trâu ăn liền thành đề hồ. Thứ tám lại nói: Núi tuyết có cỏ tên là phì nị, trâu ăn vào thuần sạch đề hồ. Đề hồ không có mầu xanh vàng đỏ trắng, nhân duyên nước cỏ khiến có mầu khác. Cho nên chúng sanh cũng vì vô minh nghiệp nhân duyên mà sanh ra hai tướng, nếu vô minh chuyển tức biến thành minh văn, kế lại nói: Núi Tuyết có loại cỏ tên là phì-nị. Nếu trâu ăn vào liền thành đề hồ. Chúng sanh phước mỏng chẳng thấy cỏ ấy. Phật tánh cũng như thế, vì phiền não che lấp nên chẳng thấy Phật tánh. Ba văn đồng có tên đề hồ. Hợp văn khác chút ít. Văn trước tu tám Chánh Đạo kế nói chuyển tức là gọi, đều là viên ý chánh ở văn nay. Sau nói phiền não che tức là ý khác. Kinh nói: Ý mật khéo tu gương sáng. Thứ lớp tám văn chứng bất định, cũng sợ văn lầm. Ở kinh quyển hai mươi bảy, Sư Tử Hống hỏi rằng: Thân chúng sanh sáu đường khác nhau, vì sao nói Phật tánh là một. Phật nói ví như có người bỏ thuốc độc vào sữa, cho đến đề hồ đều có độc, sữa chẳng gọi lạc cho đến đề hồ, tên tuy đổi mà vị độc chẳng mất, nếu uống đề hồ thì cũng giết người, mà thật chẳng để thuốc độc vào đề hồ. Phật tánh cũng như thế. Tuy khắp năm đường chịu thân khác nhau mà Phật tánh ấy thường một chẳng đổi. Từ thí dụ năm đường nay thí dụ năm vị làm sao đồng được.
Đáp: Người phải y cứ pháp, Đại kinh y cứ người thân khắp năm đường, giống xưa chẳng dứt ở trong năm đường độc phát bất định, nay dùng năm đường nghe pháp trải vị nghĩa chẳng trái nhau. Đã y cứ nghe giáo phải trải năm vị, tức tám bộ các kinh trước. Phương Đẳng cũng có chúng ở địa ngục đến nghe, nên kinh lấy năm mươi mốt để dụ năm mươi hai đối với lý không thương tổn. Nay y cứ trở xuống là dẫn ví dụ. Lấy một khoa này mà lệ với văn trước sau, đều phải làm phân biệt mà dẫn chứng. Tuy có thể lệ với đây nhưng có hơi khác. Như ý văn vừa phân biệt khai chung, xem rất dễ hiểu.
Năm là quyền thật. Trước giải thích tên, quyền này vốn là diệu thể của Chư Phật, trong thể phương tiện nên gọi là quyền mưu. Như quyền không thể nghĩ bàn mà bày mưu nên gọi là quyền mưu. Mưu nghĩa là mưu độ. Đây là chẳng mưu mà mưu nên gọi quyền mưu. Không phải tạng chung v.v... có quyền mưu. Đây gọi quyền mưu nên dẫn Pháp Hoa để giải thích quyền thật, tức là quyền ở trong thể. Tạm dùng v.v... là tạm dùng văn thích danh của Pháp Hoa để giải thích tên gọi quyền thật.
Hỏi: Vì sao dùng quyền lại dùng thật?
Đáp: Trước nói chung về ý dùng giáo, chúng sanh căn cơ kém mỏng dùng quyền để thành dọc, nếu căn cơ thành dọc rồi thì khai quyền bỏ quyền, bày khai bỏ đều y cứ vào bốn tất. Vì nghĩa ấy nên dùng quyền thật. Kế nói về sự hưng phế, phán năm vị, nếu chẳng y cứ năm vị thì không do đâu để hiển bày Thật bộ của Pháp Hoa. Cho nên trở xuống là ý kết giáo. Nay lại trở xuống là khai. Trước y cứ bốn tất xoay vần hưng phế không phải theo thời theo bộ bỏ hẳn. Cho nên biết văn trước chỉ là xếp. Cho nên y cứ phân biệt để nói về khai, thì bốn giáo đều thật. Lại bốn thứ trở xuống là dùng giáo đối với lý mà nói quyền thật, thì lý Thật giáo quyền. Trong giáo tuy có tên quyền thật đều vì người khác chẳng được mà nói, nên gọi là gượng ép. Đẳng thị trở xuống là nêu lời vặn hỏi. Quyền thật trong giáo đều đã gượng gọi sao chẳng đem thật làm quyền gọi quyền làm thật. Vì có trở xuống là đáp. Nay nói gượng, là y cứ bèn nói có gọi là gượng nói. Gượng tức là quyền gọi nên gọi là quyền y cứ thẳng bên nói chẳng thể quyền thật lẫn lộn nhau. Lại đây trở xuống là lại xếp trong giáo hoặc quyền hoặc thật, đều chẳng phải quyền thật. Vì sao trở xuống là giải thích, vì quyền thật này chẳng phải quyền chẳng phải thật, chẳng thể làm quyền thật mà nói. Đây chẳng phải quyền, chẳng phải thật trở xuống là bày đồng. Tuy song phi quyền thật nhưng chẳng được khác với vừa nói là thật bỏ quyền. Vừa rồi trở xuống là lại bày lý chẳng khác. Vì khai quyền nên thấy ở thật lý. Thật lý này chỉ là vừa tới hai lớp song phi: Một là song phi quyền thật hai lý; hai là song phi nói quyền lý thật, đều là y cứ lý không thể nói. Cho nên biết lý này tức là thật lý ở trước.
Nếu khác trở xuống là ngăn nghĩa khác. Nếu lý song phi khác lý thật, thì ngoài lý thật phải có lý khác. Đã không có tuệ năng chiếu lý khác lại không có cảnh sở chiếu lý khác, cho nên ngoài thật lý không có song phi khác. Đối quyền trở xuống là giải thích không có lý khác, vì đối phá quyền giáo nên nói thật giáo, cho nên có quyền có thật. Thật cũng nói lý. Nếu bỏ giáo quyền thật thì nói chẳng phải quyền chẳng phải thật, bỏ giáo cũng là hiển một thật, đối phá lý giáo cũng là hiển một thật. Cho nên lý song phi chẳng khác lý một thật, tức giáo trở xuống là khai giáo hiển lý, bỏ giáo bỏ quyền còn tức hiển lý, huống chi tức văn tự là lý thật tướng. Phải biết giáo quyền thật cũng chẳng phải quyền thật. Song phi này lại chẳng khác với song phi ở trước, nên nói không hai không khác, tùy nói khác cho nên chẳng hợp, lý chẳng khác nên chẳng tan. Chẳng phải quyền chẳng phải thật trở xuống là dùng một chỉ quán mà kết. Quán cho nên trở xuống là nói tên khác. Đây không phải chỉ trở xuống là kết chung. Như vừa khai quyền thật đều là lý không quyền thật, cho nên đều chẳng phải quyền và thật. Cũng thuộc v.v... là sợ nghe song phi lại bảo thật lỗi. Cho nên kết rằng chỉ là hiển thật. Hỏi: Huyền văn các nghĩa đều trước khai sau phế, như chỗ vừa dẫn vì sao lại trước phế sau khai? Đáp: Huyền văn y cứ dụ như hoa sen ở đời là trước nở sau rụng, nay từ pháp tiện nên trước phế sau khai. Đã phế quyền rồi thì thật rất dễ thấy, nghĩa nó như khai. Lại văn phế này hơi khác với kia, nó y cứ Pháp Hoa mà phế bỏ giáo quyền trước bộ trước. Lại phải khai quyền bộ quyền giáo trước. Nay y cứ các văn xoay vần bế nhau, cũng giống như chưa khai, vì thế khai ở trước nay đủ hai nghĩa cho nên phế ở trước. Lại phế đồng với đãi khai, đồng với dứt tuyệt, đại trước tuyệt sau, chưa mất pháp thường. Lại người tu Lăng-già nói: Kinh này khai quyền nghĩa đồng với Pháp Hoa. Nếu thế sao các văn trước sau đều chê bai Nhị thừa và ngoại đạo. Cho nên thứ ba nói tất cả kẻ ngu thiền đều gọi là Nhị thừa. Đây là bác bỏ ba tạng; Hai là quán sát thiền, tức là lìa tự tha mà được người vô ngã, cũng lìa ngoại đạo, chẳng lẽ không phải Thông giáo; Ba là chân như thiền, tức là biết niệm chẳng khởi há không phải Biệt giáo; Bốn là Như lai thiền tức là vào Phật địa há không phải là Viên giác. Cho nên biết kinh ấn cũng còn quyền thừa. Dùng Đại mà bác bỏ tiểu, cũng cùng với nghĩa vị trước nói ý đồng. Quyển cuối lại nói: Đạo Nhất thừa chỉ có Như lai được, ngoại đạo, Nhị thừa, Phạm thiên không được, đâu cùng Pháp Hoa Nghiêm Vương Tà Kiến, năm nghịch Điều-đạt, Long nữ súc sanh mất giống Nhị thừa đều được thọ ký làm Phật ư? Hỏi: Vì Phật mà bày quyền trở xuống là lại phân biệt lý giáo tiếp nghĩa. Từ đầu đến tiếp vào vị nào gồm có năm câu hỏi. Dùng một chữ hỏi mà gồm năm văn: Một là hỏi quyền hay thật; hai là hỏi ý gì chẳng dự bốn số; ba là hỏi vì sao chỉ tiếp chung; bốn là hỏi vị nào bị tiếp; năm là hỏi tiếp vào vị nào. Trong đáp đáp đủ năm câu hỏi vẫn là hai lớp, một là y cứ giáo, hai là y cứ đế. Trong y cứ giáo đáp câu hỏi đầu là bị người biết tiếp ắt chẳng chứng hết, cho nên có quyền thật khác nhau. Bốn giáo trở xuống là đáp câu hỏi hai, vì biệt tiếp nên chỉ dùng chung của Biệt giáo như trước nói. Các giáo trở xuống là đáp câu hỏi ba, Huyền văn nói đủ dùng Viên tiếp Thông dùng Viên tiếp Biệt. Nó y cứ giáo đạo, trong giáo đạo hoặc dùng quyền giáo mà tiếp quyền, hoặc dùng thật giáo mà tiếp quyền. Nay chỉ y cứ giáo sở thuyên lý bên chỉ dùng quyền lý bị thật lý tiếp ở nghĩa lược đủ. Cho nên chỉ nói trong ngoài giao tế phải lập một tiếp, các thứ khác như trước nói. Nếu bằng trở xuống là đáp câu hỏi bốn, Bát địa mới tiếp, đây là y cứ theo hạ căn. Cửu địa trở xuống là đáp câu hỏi năm, là từ hạ căn đến phần nhiều là Sơ địa, người vào trung thượng ở đây thì bất định. Lại xét vị nào thì ở Địa tiền, người hơn tấn vào thì đến Sơ địa. Nói Cửu Địa phục, mười địa phá, là vẫn tên vốn lập gọi là Cửu Địa Thập địa, vào giáo biệt viên phải gọi là Sơ địa cho đến Sơ trụ. Nếu tới trở xuống là y cứ đế để đáp. Chỉ đáp bốn câu hỏi, đáp thiếu câu thứ hai, vì câu hỏi hai chỉ hỏi vì sao chẳng dự vào bốn số, không phải chánh hiển lý nên lược chẳng đáp. Trong đáp bốn câu hỏi vẫn chẳng thứ lớp. Trước đáp câu hỏi một, trung không họp luận, không tức là quyền, trung tức là thật. Phá kiến tư trở xuống là đáp câu hỏi bốn, tức địa thứ tám mới phá tiếp. Hỏi vì sao đến Bát địa mới tiếp đáp vì muốn bày trung ở trong chân, cho nên đợi chứng không mới điểm bày. Khiến quán sâu không liền thấy chẳng không. Nếu thế, hai căn trung thực hành nghĩa ấy thế nào?
Đáp: Hai căn trung thượng cũng thấy chân rồi mới bày trung chung. Nhưng hai căn trước chân không còn cạn. Cho nên nói giáo thường giúp hạ căn. Nghe rồi trở xuống là đáp câu hỏi năm. Chỉ nói vị khác chẳng nói tên vị. Một vì người nào bất định vị ấy; hai là riêng ở Sơ địa, vì vị Địa tiền cùng trước chung nhau, cho nên chỉ Sơ địa gọi là Biệt vị, cũng như Viên giáo thỉ chung đều Viên. Nếu xếp viên vị thì ở sở trụ. Bồ-tát Ba tạng trở xuống là đáp câu hỏi ba. Bồ-tát phục hoặc rồi như trước nói, Nhị thừa hai giáo Pháp Hoa mới hội, cũng chẳng nói tiếp.
Hỏi: Pháp Hoa Huyền nói tiếp không phải nghĩa hội nay y cứ Pháp Hoa chỉ phải nói hội, sao lại nói tiếp.
Đáp: Trước sau các văn hội không phải một nghĩa. Nay nói tu quán cũng có thể kể lại giáo trước Pháp Hoa để lệ với người tu. Nói ở giáo môn tướng chung bít, cho nên nói chưa ngại hội. Huống chi là tiếp ở Bồ-tát chẳng khác với hội. Lại văn trước sau chỗ nào cũng đều nói có thể nghĩ bàn là chỉ để hiển, không thể trước đãi sau tuyệt, thứ lớp như thế, đâu cần hỏi rằng chẳng nên nói tiếp.
Hỏi: Ba quyền trở xuống là phân biệt lý giáo cơ thật, có hai hỏi đáp văn đầu rất dễ thấy, kế là hỏi đáp trung. Trong câu hỏi đầu gồm hai ý, trước hỏi nếu biết vì sao gọi là quyền, hỏi: hai giáo Thông, Biệt cũng gọi là quyền phải không? Kế hỏi: Nếu nói chẳng biết hai kinh trái nhau, là hỏi ba tạng giáo trước sau chẳng biết, liền trái với Niết-bàn, Thắng-man. Hai kinh ấy đều có văn sáng tỏ nói trong đáp Tam Tạng trước, đáp ý đầu có phương tiện riêng, tuy trước nghe thật từ giáo thành quyền, Bát địa Thông giáo có thể tiếp mà biết, cho nên giáo cũng quyền. Nếu nói trở xuống là đáp ý thứ hai, trước là nhắc lại câu hỏi, kế Đại kinh trở xuống là chung nạn. Trong đó, trước chung Đại kinh, vẫn trước nêu Đại kinh về câu hỏi ấy. Y theo văn trước nêu hai kinh để làm lời hỏi. Sau mới kết nạn. Để tránh văn rườm rà nên ở trong đáp mới bắt đầu dẫn lời hỏi kinh, sau đó mới chánh đáp để bày ý kinh. Cho nên Đại kinh quyển ba mươi hai nói tuy tin khác tướng chẳng tin một thể không tướng khác nhau gọi tín chẳng có tín. Vì chẳng có tín nên tất cả cấm giới cũng chẳng đầy đủ, vì tín chẳng đủ nên tất cả họ rộng cũng chẳng đầy đủ. Thứ ba nói rằng: Người thiện nam phải tu tập Phật pháp và tăng mà nghĩ là thường, Tam bảo này không có tướng khác, không có tướng vô thường, không có tướng đổi khác. Nếu đối ba thứ này mà tu tướng lạ, thì phải biết người này thanh tịnh ba qui y không chỗ nương tựa, bao nhiêu giới cấm đều chẳng đầy đủ, chẳng bao giờ được Bồ-đề Thanh văn, Duyên giác. Nếu tu tưởng thường thì có chỗ về. Như chỗ lập câu hỏi, cứ hai văn này hợp thành một câu hỏi. Từ ngữ nhắc lại lời hỏi đã xong. Kế nghĩa này trở xuống nha nay làm chung. Trước nói không nghe thì chẳng biết. Nói tụ sức mình, là nếu không có sức nguyện của Chư Phật, Bồ-tát gia hộ cho khiến biết thì còn chẳng được ở Phương Đẳng nghe Bátnhã, huống chi ở Pháp Hoa mà đích thân được thọ ký. Kế nêu thí dụ. Thiên nhãn chưa mở, ví như sức mình chẳng biết, nếu nghe mà biết thí như bị đờn (đạn) v.v... La-hán trở xuống là đều chẳng biết.
Cho nên Pháp Hoa trở xuống là dẫn chứng sức mình căn bản, sức khác mới biết. Lại nói trở xuống là kết trước chẳng nghe thì sức mình chẳng biết. Gồm nêu Bồ-tát để so sánh Thanh văn. Kế kinh gọi trở xuống là chánh nêu ý kinh. Nếu nói chẳng biết thì làm sao chung. Cho nên kế nêu rằng cùng biết lý mình sở dĩ Đại kinh nói thế là nêu xưa mà bác bỏ nay. Thanh văn chẳng nghe Chân đế thường trụ một thể chẳng đổi, Tiểu thừa qui giới còn chẳng đầy đủ, huống chi là chưa nghe Đại thừa thường trụ, đâu có thể đầy đủ đạo bình đẳng cho nên y cứ phẩm từ đây về trước Phật nhãn chưa mở, chưa được thọ ký, vẫn ở chỗ được sanh nghĩ là diệt độ, cho nên trong kinh Tịnh Danh tự buồn hư giống. Nếu Phật diệt độ rồi dẫu sanh diệt tưởng cũng gặp bốn y mà nghe thường trụ. Nam Nhạc giải thích rằng: Phật kia là bốn y. Nếu quyết liễu rồi lại chẳng phải Nhị thừa, cho nên biết Pháp Hoa về trước chẳng được nói biết rõ ràng. Sở dĩ kinh nói biết, là chỉ biết Chân đế. Cho nên dẫn Tu-bồ-đề chẳng lễ sắc thân, vì ở hang đá thấy pháp thân Tiểu thừa không tới lui, cũng như Trần-như được chứng Vô sanh. Chứng Vô sanh chỉ là thường trụ, đây đều là chân đế thường trụ của Tiểu thừa mà thôi. Lại Luật nghi trở xuống là kế bày hai văn qui giới mà hỏi. Nếu thấy không, còn được luật nghi vô lậu đều phát, với đạo gọi là đầy đủ, huống chi là chẳng đủ sự luật nghi ư? Cho nên Hoa Nghiêm trở xuống dẫn chứng Chân đế được gọi thường trụ. Đã nói Thường trụ Nhị thừa cũng được, lại chẳng gọi Phật, phải biết lời chung thường trụ đâu cần phải hạn cục Đại thừa. Nếu chẳng trở xuống là kết thành bày ý hỏi. Nếu y cứ vào văn Thanh văn chẳng biết thì chẳng đủ ở giới cấm. Giới cấm đã đủ thì tên thường không hạn cục ở đại, lại nêu lệ trở xuống là dẫn lệ mà giải thích thành. Trước dẫn kinh. Muốn gọi trở xuống là lệ đều kết thành. Cho nên ba tạng trở xuống là kết đáp. Như chỗ giải thích trước thật chẳng trái với văn Niết-bàn. Cho nên văn kinh Niết-bàn ý gồm hai hướng. Xưa thì phải biết Tiểu thường, nay thì phải biết Diệu thường. Thắng-man trở xuống là chung ý kinh Thắng-man cũng trước nhắc lại lời hỏi, kế bày ý kinh. Nếu muốn làm sáng tỏ ý kinh Thắng-man thì phải làm hai thứ sơ nghiệp mà giải thích. Văn đầu đã nêu sơ nghiệp lâu xa nên nói căn bản, đều kết duyên với mười sáu Vương tử, lại chỉ tích hóa nên nói ra tìm. Nếu lấy trở xuống là chỉ gần đời này. Trước nghe bốn đế diệt lý chân thường, ý này đồng với trước. Nếu xa xưa trở xuống là lại giải thích lâu xa tức là thuận hỏi đáp trước. Ngày nay Thanh văn đầy đủ cấm giới, bởi sơ nghiệp lâu xa nghe thường. Nếu xưa chẳng nghe tiểu còn chẳng đủ huống chi là đại ư? Nếu hoàn toàn chưa hề nghe thường Đại thừa, đã không có Tiểu quả, làm sao nói giới cấm đủ hay chẳng đủ. Vì thật mà bày quyền, che tướng nói đủ, đậu lâu xa ấy, sơ nghiệp nghe thường. Đời này hiển luận được ký mới đủ. Sợ hãi sanh tử là như Xá-lợi-phất lội qua sông bố thí, cho nên Đại luận quyển mười hai nói: Xá-lợi-phất trong sáu mươi kiếp thực hành hạnh Bồ-tát, có Bà-la-môn đến xin mắt Ngài. Xálợi-phất nói: Phải xin cái cho được, mắt này không kham. Bà-la-môn nói không cần thân và tiền của, chỉ cần mắt. Nếu ông thật hành bố thí thì phải cho tôi mắt. Bèn móc một mắt mà cho. Bà-la-môn được rồi thì ngửi mà bảo rằng: mắt này thúi quá, rồi khạc nhổ bỏ đi và dùng chân đạp lên. Xá-lợi-phất nói: Người này quá tệ ác làm sao độ được. Thật không dùng mắt mà ép đòi cho được. Không bằng tự độ mà sớm thoát sanh tử, lui sụt Đại thừa rồi sau bị luân hồi sanh tử gọi là chẳng đến bờ kia. Pháp Tài Vương Tử, là kinh Bản Nghiệp Anh Lạc quyển thượng chép: Bồ-tát trụ thứ sáu, chỉ quán hiện tiền gặp Phật Bồ-tát và thiện tri thức che chở, vào Trụ thứ bảy rồi được bất thối, người vô ngã rốt ráo chẳng sanh. Nếu chẳng thế thì một kiếp cho đến thối tâm Bồ-đề như ta ở hội đầu có tám muôn người lui sụt, tức là Tịnh Mục Thiên Tử, Pháp Tài Vương Tử, Xá-lợi-phất v.v... Muốn vào Thất trụ gặp ác tri thức lui xuống phàm phu. Cho đến ngàn kiếp có tà kiến lớn và năm tội nghịch, không điều ác nào chẳng gây tạo. Và trong Niết-bàn thối chuyển Bồ-tát, là kinh thứ hai mươi sáu, Sư Tử Hống hỏi Phật rằng: Nếu Phật tánh thường sao có lui sụt? Phật nói: Ví như có hai người cùng nghe ở phương khác có núi bảy báu, một người sợ đường xa nhiều hiểm trở, ít thức ăn liền lui sụt chẳng đi. Một người liều mạng đến đó mà được nhiều châu báu. Người lui sụt thấy rồi thì tâm nóng nảy lại đi. Người lui sụt là dụ cho Bồ-tát thối, còn người không lui sụt là dụ cho Bồ-tát Bất thối. Đâu vì lui sụt mà làm cho đạo không thường. Thí như trở xuống là nêu thí dụ. Đại địa là mới phát tâm Bồđề, y vào mới phát tâm mà có Tiểu thừa sơ nghiệp các dụng. Tiểu thừa sơ nghiệp như cây mới nảy mầm, đều do đất Bồ-đề mà được thành tựu. Tiểu thừa trở xuống là hợp thí dụ. Nói Yết-ma chẳng thành, là gọi lâu xa, nếu không có đại thì khiến bỉnh pháp Tiểu thừa chẳng thành, vì không có (gốc) nên các hạnh chẳng thành, như cây không rễ chẳng ra hoa quả. Thời cơ chưa thuần dọc nên quyền đặt tên tiểu nhưng việc làm của các ông là đạo Bồ-tát, không phải mới được thọ ký mới được gọi là Đại nhân. Cho nên biết vô tâm là ở bến báu, đường đến hóa thành một bước chẳng thành đâu thể vào thành mà nghĩ là an ổn. Chẳng tin thường trụ, cấm giới Thanh văn đều chẳng đầy đủ. Lời này có bằng cớ. Đây là đều bác bỏ kẻ chưa phát đại tâm thì thành tựu không gốc. Tuy là không gốc mà y cứ vào tâm thọ giả, y cứ vào bổn hoài của Phật đã bày đại hóa, ý có không cần phải xét kỹ. Nếu có giải thích này, đây là hiển bày ý hai giải thích sở nghiệp. Bốn niệm sơ nghiệp chẳng trái với Tiểu thừa, sơ nghiệp lâu xa chẳng đạt đến Đại thừa.