TẠP TẠNG
SỐ 1918 - TỨ NIỆM XỨ
Đại sư Trí Giả ở chùa Tu Thiền Núi Thiên Thai đời Tùy thuyết giản.Đệ tử là Chương An Quán Đảnh ghi
II. NÓI VỀ NĂM PHÁP QUÁN DỪNG TÂM:
A. Nói về những phiền não thuộc ái.
B. Phá phiền não thuộc về kiến:
C. Kế quán niệm xứ thọ phá sinh kiến:
III. NÓI VỀ BỒ TÁT TU DUYÊN NIỆM XỨ:
e. Các công đức chung và chẳng chung:
Tất cả các pháp đều chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể nghĩ bàn, đo lường, chẳng thể nói năng thương lượng. Vì sao? Vì đường ngôn ngữ dứt nên không thể nghĩ, chỗ tâm hành diệt nên không thể suy.
Đại kinh chép: "Sinh sinh chẳng thể nói, sinh bất sinh chẳng thể nói, bất sinh bất sinh chẳng thể nói, đã chẳng thể nói cũng chẳng thể bàn". Kinh Đại phẩm chép: "Sắc chẳng thể nói, cho đến thức chẳng thể nói. Mắt chẳng thể nói, cho đến ý chẳng thể nói. Sắc chẳng thể nói, cho đến pháp chẳng thể nói. Nên biết năm Ấm, mười hai nhập, mười tám giới đều chẳng thể nói". Đây là chỉ cho Tục đế chẳng thể nói.
"Bốn niệm xứ chẳng thể nói, cho đến căn, lực, giác, đạo đều chẳng thể nói. Tu-đà-hoàn chẳng thể nói, cho đến A-la-hán cũng chẳng thể nói". Đây là chỉ cho chân đế chẳng thể nói, cho đến A-la-hán cũng chẳng thể nói". Đây là chỉ cho chân đế chẳng thể nói.
Mười lực của Phật chẳng thể nói, bốn vô úy, mười tám bất cộng, ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp v.v... đều chẳng thể nói". Đây là chỉ cho Trung đạo nghĩa đế bậc nhất chẳng thể nói.
Đại luận chép: "Thật pháp chẳng điên đảo, niệm tưởng quán đã trừ, pháp ngôn ngữ đều dứt, vô lượng tội trừ, tâm thanh tịnh thường nhất. Bậc tôn quý diệu mầu như thế thì có thể thấy Bát-nhã." Đây là chỉ chung cả ba đế chẳng thể nghĩ bàn.
Pháp Hoa chép: "Tướng vắng lặng của các pháp chẳng thể dùng lời bày tỏ." Lại nói: "Pháp này chẳng thể nghĩ lường phân biệt mà hiểu được." Nên biết chẳng thể dùng tâm nghĩ, miệng bàn. Cũng chẳng thể dùng không tâm và miệng để nghĩ bàn. Chẳng thể dùng có không, chẳng thể dùng chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải phương, chẳng phải số, chẳng phải pháp, chẳng phải dụ, lặng lẽ vô vi, là thuyết cùng tột của các kinh, là lời chân thành của các bậc Thánh. Sâu xa như đây, rõ ràng như kia. Cảnh trí đều ẩn, năng sở đều lặng. Các Bồ-tát trong kinh Tịnh Danh dùng lời để nói chỗ không lời, Văn-thù dùng không lời để nói chỗ không lời, Tịnh Danh không dùng lời, không dùng không lời, lặng thinh chẳng nói. Vănthù khen rằng: Chân thật nhập vào pháp môn không hai. Nên biết rất mầu nhiệm, mầu nhiệm không thể nghĩ bàn. Lại chẳng thể nghĩ bàn chỉ có thể thầm ngộ, chẳng thể đem phân biệt sáng tỏ.
Hỏi: Nếu chẳng thể nói, chẳng thể nói, vì sao lời đầy ắp cung rồng? Nếu chẳng thể nghĩ, chẳng thể nghĩ, vì sao ở núi Tuyết nghĩ sâu nghĩa này?
Đáp: Phật thường ưa lặng lẽ mà thương xót người ngu muội. Muốn chậm lụt ở lời nói mà bén nhạy ở hạnh. Từ bi quyền xảo chỉ vẽ hư không. Dùng cách chỉ bày mặt trăng mà tạo ra mọi thứ thuyết. Hoặc nói sinh sinh, hoặc nói bất sinh sinh. Như lúc nói sinh sinh thì chẳng phải một loại, hoặc nói có, hoặc nói không, hoặc nói vừa có vừa không, hoặc nói chẳng phải có chẳng phải không, dẫn các căn tánh theo cửa bốn phương mà vào ao mát mẻ. Nghe vui thích thì thiện sinh, ác mất, lý hiển, được bốn lợi ích. Ba câu còn lại cũng như thế. Pháp môn rất nhiều, nói rộng thì khiến trí lui sụt, nói lược thì nghĩa chẳng tròn, nay tôi nói vừa chừng, rộng thì bốn câu, lược thì nhân quả. Nghe mà tu hành gọi là nhân, tương ứng với pháp gọi là quả. Theo quả tu nữa gọi là nhân nhân. Từ nhân lại được quả nên gọi là quả quả. Hoặc đầu hoặc cuối, rốt ráo vắng lặng nên nói là không phải nhân, không phải quả. Bốn môn sinh sinh đầu tiên cũng tạo bốn thuyết nhân quả. Trong mỗi thuyết làm vui lòng một loại chúng sinh, lập các thứ thiện căn, trị mọi loại tội cấu. Từ mọi loại nhập vào nghĩa bậc nhất, nên đầu, giữa và cuối lặp lại không có lỗi. Thuyết tức là giáo, vâng theo giáo mà tu quán. Vì tu quán nên gọi là tu bốn niệm xứ. Nghĩa này rộng hãy suy nghĩ về nó.
Đức Phật ra đời vì một việc nhân duyên lớn, là khai phát các kho báu giác ngộ cho chúng sinh. Ví như mặt trời mọc, trước hết chiếu trên đỉnh núi cao, vui trước, lợi trước, trị trước, ích trước. Đại kinh chép: "Nếu muốn chứa đầy, trước phải dùng vật sạch sẽ hoàn toàn. Nếu muốn cày bừa khai khẩn, thì trước phải trồng ruộng đất phì nhiêu tươi tốt. Nếu muốn cỡi xe, thì trước phải chọn ngựa mập mạnh, thuần thục. Nếu muốn dạy dỗ, thì trước dạy hiếu minh. Đây đều là do chứa nhóm sâu dày, chướng phiền não mỏng nhẹ. Nghe sấm rền trước, tắm mưa ngọt trước, ra khỏi lồng bẫy trước, được chánh quán trước, đều do thuở trước thường siêng năng tu tập. Đời này đạo được thành bốn lợi ích đầu tiên. Người chưa độ, lại bày phương tiện mà tô bồi cho. Ẩn thần đức vô lượng của mình, dùng pháp người nghèo ưa thích mà đến Ba-la-nại, liền có âm thanh Niết-bàn, tên Pháp, Tăng khác nhau, ắt là Đốn, kế đó là Tiệm mà làm thuần thục cho. Nay theo nghĩa nầy tạm chia bốn thuyết để nói, tức là dạy nương giáo tu quán, tức là bốn loại bốn niệm xứ. Nghĩa là: Sinh sinh bốn niệm xứ cho đến Bất sinh bất sinh bốn niệm xứ, cũng gọi là Tam Tạng, Thông, Biệt, Viên Bốn niệm xứ.
Như Tam Tạng Bốn Niệm Xứ lại có ba: Đại ý, năm đình, bốn niệm.
Chỗ nói Tam (ba), có tám nghĩa: Lý, giáo, trí, đoạn, hạnh, vị, nhân, quả.
1. Lý. Có ba: Thanh Văn là lý ở ngoài chánh sử, Duyên giác là lý ở ngoài tập khí, Bồ-tát là lý ở ngoài chánh tập. Ba bậc nầy ra ngoài ba loại mới thấy lý, nên nói lý có ba.
2. Giáo. Có ba: Thanh Văn nương theo lý Tứ đế, Duyên Giác nương theo mười hai nhân duyên, Bồ-tát nương theo sáu độ.
3. Trí. Có ba: Thanh Văn tu trí tướng chung, Duyên Giác tu trí tướng riêng, Bồ-tát tu biệt trí tướng chung riêng.
4. Dứt: Có ba: Thanh Văn dứt chánh, Duyên Giác dứt tập, Bồ-tát dứt Chánh-Tập.
5. Hạnh: Có ba: Thanh Văn là tự tu giới định tuệ, Duyên Giác là tự tu độc thiện tịch, Bồ-tát vì chúng sinh tu sáu độ năm thông.
6. Vị. Có ba: Thanh Văn trụ Học, Vô học, Duyên Giác trụ Vô học, Bồ-tát ba tăng-kỳ lên đạo tràng.
7. Nhân. Có ba: Thanh Văn mang quả hành nhân, Duyên Giác vọng về quả mà hành nhân, Bồtát hàng phục hoặc để hành nhân.
8. Quả. Có ba: Thanh Văn dứt chánh như đốt củi thành tro, Bồ-tát chánh tập dứt sạch như đốt cây không còn tro than.
Đủ tám thứ ba này nên nói là ba.
Tạng: Là tạng Tu-đa-la, tạng Tỳ-ni, tạng A-tìđàm.
1- Tạng Tu-đa-la là bốn A-hàm:
Tăng nhất A-hàm nói về nhân quả trời người.
Trường A-hàm phá tà kiến.
Tạp A-hàm nói về các thiền.
Trung A-hàm nói về các nghĩa sâu xa. Đầy đủ như trong đó.
2- Tạng Tỳ-ni nói về trì phạm, nặng nhẹ, như trong luật tạng nói.
3- Tạng A-tỳ-đàm gọi là vô tỉ phân biệt vô tỉ phân biệt, v.v...
Đại kinh chép: "Đây là nghĩa rất sâu của khế kinh, đây là nghĩa nặng nhẹ của giới luật. Đây là A-tỳ-đàm phân biệt pháp cú." Đều là Phật tự giải thích tên của ba tạng. Nay chẳng nói đủ, nhưng khi Phật sắp Niết-bàn, ngài A-nan tâm chìm trong biển buồn phiền, ngài A-nậu-lâu-đà bảo rằng: Ông là người giữ gìn Phật pháp, nên hỏi việc tương lai, tại sao lại khóc lóc. A-nan liền tỉnh ngộ, bèn hỏi bốn việc, Phật đều đáp đủ. Nay đưa ra hai việc: Tỳ-kheo nên nương bốn niệm xứ hành đạo và nương Ba-la-đề-mộc-xoa.
a. Trụ Mộc-xoa có hai: (1)-Cựu. (2)-Khách. Cựu lại có hai: (a)-Tà. (b)-Chánh.
Chánh là mười điều lành.
Tà là giống như gà, chó, trâu, ngựa...
b. Định có hai: (1)-Cựu. (2)-Khách. Cựu lại có hai: (a)-Chánh. (b)-Tà.
Chánh là ba trăm bốn mươi hai, tà là tà thiền, quỷ định, v.v...
c. Tuệ có hai: (1)-Cựu. (2)-Khách.
Cựu lại có hai: (a)-Chánh. (b)-Tà. Chánh là biết nhân biết quả. Tà là bác không nhân quả. Ba loại cựu tà đọa vào ba đường ác. Phật bỏ đi không dùng. Ba loại cựu chánh sinh vào ba đường lành.
Phật hội lại mà lấy.
Lại nói ba loại pháp khách:
(a). Khách giới: ba quy y năm giới cấm, hai trăm năm mươi giới, v.v...
(b). Khách định: Cửu tưởng, tám bối xả, v.v...
(c).
Khách tuệ: Bốn đế trí.
Phật di chúc lấy giới làm thầy, thầy dạy bảy chi, đệ tử vâng làm không cho ô nhiễm, nhân nhượng, trinh tín, hòa nhã, chân chánh. Chăm chăm chú chú, động tĩnh hài hòa, nên nói lấy giới làm thầy.
Nương mộc-xoa mà trụ:
Mộc-xoa gọi là bảo đảm được giải thoát. Nếu người nương mộc-xoa trụ thì bảo đảm thoát được sự nóng bức thế gian. Chỗ nói ở nhà ép ngặt, có sự nóng bức của lao ngục. Vợ con lôi thôi, có nóng bức của cột trói, của cải tài sản có cái nóng bức của cướp bóc, nóng bức về nạn vua ép ngặt, nước, lửa. Nếu nương mộc-xoa thì bảo đảm thoát khỏi sự nóng bức như thế.
Lại nữa, trụ là vị lai trụ chỗ an vui. Nếu người trụ giới, nhẫn chịu tiếng ác, chỉ ưa pháp lành, vị lai bảo đảm trụ ở trụ xứ của Bốn vị thiên vương. Nếu người trụ giới hẳn là cúng dường Tam bảo, cúng dường cha mẹ, vị lai bảo đảm trụ cõi trời ba mươi ba. Nếu người trụ giới phát sinh thô trụ, bảo đảm được trụ ở trụ xứ trời Diệm-ma. Nếu người trụ giới mà phát tế trụ, thì bảo đảm trụ ở cõi trời Đâu-suấtđà. Nếu người trì giới sinh định cõi dục, bảo đảm được trụ ở trụ xứ của các vị trời cõi Sắc và Vô sắc, đó gọi là nương Ba-la-đề-mộc-xoa trụ.
Nương niệm xứ hành đạo:
Nếu không có tuệ niệm xứ thì tất cả hành pháp đều chẳng phải Phật pháp, chẳng phải người hành đạo. đều là người cạo đầu suông, như người chăn bò. Mặc áo nhuộm suông như cờ đầu cây. Tuy ôm bát cầm gậy mà như người bệnh xin đồ vật. Tuy đọc tụng kinh sách như người mù tụng phú. Tuy lễ bái mà như cối gạo lên xuống. Tuy ngồi thiền mà như cây cối. Tuy là tạo dựng mà mưu khoe khách, trồng cây đổi chác bán buôn, đắm chìm sinh tử. kén tằm tự buộc không ngày giải thoát. Bỏ thân mạng tài sản chỉ được danh bố thí, chẳng phải ba-la-mật. Tuy là trì giới mà không khỏi làm gà, chó. Tuy là tinh tấn mà tinh tấn không đẹp đẽ. Tuy ngồi thiền mà như gốc cây. Tuy hiểu biết mà trí tuệ cuồng điên, thường ở bờ này, chẳng đến bờ kia. chẳng hàng phục ái kiến, chẳng phá chấp tướng. chẳng được nhập đạo phẩm. Chẳng phải địa vị hiền Thánh, chẳng thành bốn cây khô, chẳng phải Ba-la-mật. Vì sao? Vì không có niệm tuệ. Vì niệm tuệ có thể phá tà hiển chánh. Đại kinh chép: "Thuốc sữa của thầy thuốc cũ thật là độc, như trùng ăn cây tình cờ thành chữ. Trùng này chẳng biết là chữ hay không phải chữ. Lại có thầy thuốc mới từ phương xa đến hiểu tám thứ thuật là bốn khô bốn tươi, dùng bốn loại khô mới để phá sữa cũ." Pháp Hoa cũng chép: "Lửa lớn từ bốn mặt nổi lên" là dụ cho đây.
Chấp điên đảo lược có ba loại:
1. Nhất thiết trí: Là sáu vị giáo chủ ngoại đạo, sáu đại thần tâu với vua: "Thầy tôi là bậc Nhất thiết trí, nếu vua trông thấy thì tội cấu sẽ tiêu diệt." Đây là chấp thế tánh. Đại luận chép: "Được túc mạng trí, thấy việc trong tám muôn kiếp, hơn nữa thì dừng, không thể biết được, chỉ thất thức của thân trung Ấm khi mới thọ thai, mà tự suy nghĩ thức này, chẳng nên không có nhân duyên. Do nhớ tưởng phân biệt nên có tên gọi là Pháp, thế tánh thì năm tình không biết được. Vì rất sâu kín, nên đối với thế tánh minh sơ sinh giác. Giác tức là thức của trung Ấm. Từ giác sinh ngã, từ ngã sinh năm trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc. Từ thanh trần sinh không đại, từ thanh xúc sinh phong đại, từ sắc xúc sinh hỏa đại, từ sắc-thanh-xúc vị sinh thủy đại, từ sắc-thanh-xúc-vị-hương sinh địa đại. Từ không sinh nhĩ căn, từ phong sinh thân căn, từ hỏa sinh nhãn căn, từ thủy sinh thiệt căn, từ địa sinh tỉ căn. Như thế dần dần từ tế đến thô, lại từ thô đến tế. Ví như trong cục đất có tánh của bình, bồn v.v..., Bình, bồn v.v... bể ra lại trở thành đất, đều không mất thể tánh, là thường không từ đâu đến. đây là chỗ chấp của ngoại đạo Tăng-khư.
Lại có người chấp hạt bụi, hạt bụi thường không thể phá. Rất nhỏ nhiệm nên đợi nhân duyên tội phước. Nhân duyên hòa hợp nên có thân, như trời, người, địa ngục v.v... do cha me, tội phước hết thì tan hoại.
Lại có người chấp tự nhiên là khởi thỉ của thế giới. Nghèo giàu, sang hèn không phải do hạnh nguyện mà được.
Lại có người nói Thiên chúa là chủ tể thế giới. Đầu tiên tạo ra tốt, xấu, lúc diệt trời lại thâu lấy.
Lại có người nói: Đời đời chịu khổ vui, khi hết tự đến bờ mé. Ví như trên núi ném cuộn tơ, tơ hết tự dừng, chịu tội phước mạng trở về chỗ tận diệt. Các tà mạng nầy đều ở trong thiền định mà thấy biết, không nghe từ người khác, cũng chẳng nghe theo kinh Vệ-đà. Chấp đây là sáng suốt, bén nhạy nên nói: "Việc nầy thật, ngoài ra là nói dối." chính là lý này.
Lại chấp trời Tự Tại, lại chấp cha mẹ v.v..., đều chấp về Nhất thiết trí.
2. Thần thông: Sáu vị giáo chủ ngoại đạo tu được ngũ thông.
Ngưng sông tại lỗ tai mười hai năm, biến hóa thành dê ngàn căn tại thân mình, như là thành Tỳphú-la biến thành đất mặn...
3. Vệ-đà: Sáu vị hiểu thiên văn địa lý, mười tám kinh lớn, biết lành dữ, v.v... là đây. Tuy biết thế tánh không có thần thông là biết thế tánh thông một ít.
Tiếp theo là biết ba loại đầy đủ, là đại lục sư trong A-tỳ-đàm nói về ba loại niệm xứ là: Tánh, cộng, duyên, đối phá. Ba loại ngoại đạo nầy, có người giải thích.
- Tánh niệm xứ là quán vô sinh cạn gọi là sinh sâu, quán kỹ vô sinh thấy pháp vi tế đều là khổ đế sinh tử, gọi là Tánh niệm xứ.
Có người chuyên dùng tuệ số duyên lý không, vô sinh, phát chân dứt kiết, đắc A-la-hán tuệ giải thoát. Đối phá nhân duyên tà, chấp tánh điên đảo không nhân duyên là loại ngoại đạo nhất thiết trí.
- Cộng niệm xứ là dùng thiền định giúp đạo. Chánh và trợ hợp tu cũng gọi là sự lý cọng quán, phát được vô lậu ba minh, sáu thông, tám giải, thành A-la-hán câu giải thoát, đối phá căn bản ái mạn của ngoại đạo đắc năm thông.
- Duyên niệm xứ, là duyên ba tạng, mười hai bộ kinh của Phật và tất cả danh tự thế gian. Chỗ để duyên rộng rãi không phải như Bích-chi-phật ra đời lúc không có Phật, chẳng vâng theo lời dạy, chỉ hiện thần thông làm vui chúng sinh, chẳng thể nói pháp. Người duyên niệm xứ liễu đạt căn tánh, khéo biết bốn biện tài, đủ sức kiết tập pháp tạng, thành đại La-hán không nghi. Đối phá Vệ-đà thế gian, văn tự thiên văn địa lý nhỏ hẹp. Nên biết tà chánh, chân ngụy giống như vàng so với sắt, đom đóm so với mặt trời, vết chân trâu với biển cả. Nên đại kinh nói: "Trong các tưởng, vô thường là hơn hết. Trong việc canh tác, cày cấy vào mùa Thu là hơn hết. Trong các dấu chân, dấu chân voi là hơn hết. Vô thường ví dụ cho tánh, cày cấy dụ cho thần thông, vết chân dụ cho văn tự. Kinh nói: Các Ưu-bà-tắc khéo hiểu nghĩa các pháp đối trị, đó là thường, vô thường, v.v... Nên biết tâm hạnh ngoài lý thì chưa nhập vào chánh chân. Nghĩa phá tà rất dễ hiểu.
Là quán sổ tức, bất tịnh, từ tâm, giới phương tiện, nhân duyên.
Đình là dừng trụ. Người tu hành nghe Bốn đế sinh diệt, phát tâm quán khổ đế muốn ra khỏi sinh tử, bị gió phiền não làm dao động đèn trí tuệ, chiếu soi cảnh không rõ. Vì trừ chướng này nên tu năm pháp quán dừng tâm. Môn sổ tức (đếm hơi thở) có sổ, tùy, quán v.v... môn bất tịnh có chín tưởng, tám bối v.v... Từ tâm, giới phương tiện, mười hai nhân duyên đều như trong thiền môn có nói rộng, nay không nói luận rõ. Môn năm dừng này lại có năm ý: Đối chuyển bất chuyển, cũng kiêm đối, vừa chuyển vừa bất chuyển.
-Cũng kiêm đối là sổ tức đối trị giác quán, bất tịnh đối trị tham dục, phương tiện đối trị ngã, nhân duyên đối trị si. Nếu đối trị thành thì phiền não chẳng khởi, lại phát sinh thiền định. Thiền định giữ cho tâm an ổn ra vào nên nói là năm dừng tâm. Tâm đã điều hòa ổn định thì sẽ tu tập quán. Nếu đối trị chưa có ích, lại phải dùng bốn loại sau để trị.
Hành giả khéo dùng bốn phương tiện khéo léo kèm theo để tu năm môn đối trị, phiền não không thể ngăn chướng, quán tâm dừng trụ liền nhập địa vị Sơ thiền, đầy đủ như Thiền môn có nói rộng.
Hỏi: Ở đây sao không dùng niệm Phật để dừng tâm?
Đáp: Dùng năm độ môn thì không dùng sáu độ môn. Tức phải dùng nhân duyên để đối trị đẳng phần, niệm Phật để đối trị chướng ép ngặt.
Hỏi: Dừng tâm được trụ gọi là Sơ thiền, nay người tu sổ tức (đếm hơi thở) hoặc quán được bất tịnh, hoặc quán được hai, ba, bốn, năm có phải là Hiền chăng?
Đáp: Nếu dùng tâm ái kiến tu thiền cho đến cõi Phi tưởng còn không phải Sơ thiền huống chi là đếm hơi thở hay quán bất tịnh, là phát khởi pháp cạn cợt mà gọi là Hiền sao? Kinh nói tu phước đức nhiều gọi là ngu, tu trí tuệ nhiều gọi là cuồng. Há có thể cho cuồng ngu là Hiền hay sao? Người xưa nói: Gần Thánh là Hiền. Lời này quá cao, nay nói khôn khéo ngay thẳng là Hiền. Nên chia làm bốn câu:
1. Tùy ái kiến phá giới loạn tâm, đây không phải ngay thẳng, không phải khéo léo như không mắt, không chân. Chẳng thể xuống ao mát mẻ.
2. Gần giới tu thiền mà sinh tà kiến. Đây là khéo léo mà không ngay thẳng, cũng không gọi là Hiền, như có chân không có mắt cũng không thể xuống được ao mát mẻ.
3. Tín tâm chánh niệm mà phá giới, tâm loạn, ở đây ngay thẳng mà không khéo léo, cũng không phải là Hiền, như có mắt không có chân, không thể xuống ao mát mẻ.
4. Tin hiểu chánh trí, được ý Phật dạy, giữ giới thanh tịnh, tu quán An-ban, bất tịnh v.v... tâm được dừng trụ, gọi là ngay thẳng là khéo léo, có mắt có chân, có thể xuống ao mát mẻ.
Điều thứ bốn này, nghĩa là khéo léo, ngay thẳng được thành. Hỏi: Vì sao gọi là được ý Phật dạy?
Đáp: Trung Luận chép: Sau khi Phật nhập diệt, người trong thời Tượng pháp, căn tánh càng chậm lụt dần, đắm sâu các pháp, cầu mười hai nhân duyên, năm Ấm, mười hai nhập, mười tám giới, v.v... Tướng quyết định chỉ chấp văn tự. Đây là không biết ý Phật. Ý là sinh sinh chẳng thể nói, vì có nhân duyên nên tạo ra thuyết Sinh sinh, giúp chúng sinh lìa sinh tử được Niết-bàn. Nếu chấp văn tự thì nảy sinh hủy báng cạnh tranh, ắt lửa ba cõi bùng lên không được ý Phật, chẳng phải Hiền nhân.
Tứ là số; Niệm là quán tuệ; Xứ là cảnh. Số có chia, có hợp:
- Nếu mê tâm, không mê sắc thì sổ là năm Ấm.
- Nếu mê sắc, không mê tâm thì sổ là mười hai nhập.
- Nếu mê cả hai thì sổ là mười tám giới. Như Tỳ-bà-sa nói, v.v...
- Nay nói Bốn là người đối với năm Ấm khởi bốn điên đảo, đối với sắc phần nhiều khởi điên đảo, cho là thanh tịnh. Đối với thọ phần thường khởi điên đảo cho là vui. Đối với tưởng, hành thường khởi điên đảo cho là có ngã. Đối với tâm phần nhiều khởi điên đảo cho là thường. Nêu bốn điên đảo nên nói Bốn, nếu theo thứ lớp sinh ra lẫn nhau, đáng lẽ nói Thức, thọ, tưởng, hành, sắc; nếu theo thứ lớp thô tế, nên nói sắc, hành, tưởng, thọ, thức. Nay theo sự thuận tiện của lời nói nên gọi là thân, thọ, tâm, pháp. Văn theo khởi đảo phần nhiều như trước đã nói.
1. Nhưng ý cốt yếu của Ba tạng chính là nhàm chán sinh tử, ưa thích nhập Niết-bàn. Phải tin hiểu chánh nhân duyên ba đời, hai đời, một đời. Mười hai nhân duyên, chi nhân duyên là Tứ đế: Vô minh, hành, ái, thủ, hữu là Tập đế. Năm quả là Khổ đế. Biết khổ dứt tập là Đạo đế. Không tập-khổ là Diệt đế thức. Vô minh, già chết này phá tà không nhân duyên của ngoại đạo, sinh ra tất cả pháp, mọi thứ điên đảo. Chẳng theo hư tưởng, tà đạo quái dị, tin sâu nhân duyên chân chánh.
2. Chân chánh phát tâm: Cảnh giác lửa vô thường thiêu đốt các thế gian, một lòng cầu thoát ra, trong sát-na cũng không lười nhác. Chẳng nghĩ danh lợi, như nai con trong vòng vây, nhảy càn mong thoát ra, giống như nghé mất mẹ buồn bã.
Than ôi! Tu tập thiền tuệ như cứu lửa cháy đầu, v.v...
3. Khéo tu định tuệ: Hành xuất thế mà ở cõi Dục loạn tâm như đèn trước gió, cho nên nương tĩnh cầu định. Nếu định không tuệ như trong tối không thấy được gì. Khéo tu hai pháp như hai tay lau chùi lẫn nhau, cũng như cỡi ngựa vừa thương, vừa thúc.
Khéo dùng bốn tùy tin pháp, thực hành cả hai, tám câu được chỗ, v.v...
4. Phá pháp khắp: Quán nhân duyên sinh diệt, phá tất cả các pháp ái kiến hý luận, biết khắp trong mỗi ái kiến có bốn đế, mười hai nhân duyên, sáu Ba-la-mật. Dùng thuốc nầy trị bệnh.
5. Khéo biết thông bít: Biết tất cả pháp ái kiến đều có lý Đạo, Diệt gọi là thông, đều có Khổ-Tập gọi là bít.
6. Khéo tu đạo phẩm: Đối với các kiến động mà tu niệm xứ. Hoặc riêng hoặc chung, cho đến ba môn giải thoát, v.v...
7. Khéo tu trợ đạo: Tức là năm dừng tâm, cộng niệm duyên niệm sáu phen. Thiền quán là tám niệm, chín tưởng, mười tưởng, tám bối xả, tám thắng xứ, mười nhất thiết xứ, v.v...
8. Khéo biết vị thứ: Khéo biết bảy địa vị thiền, chẳng xen lẫn, tăng thượng mạn thành hổ thẹn, tăng có hổ thẹn. Trong ngoài soi rõ, khéo biết tà chánh, Phật pháp hay chẳng phải Phật pháp. là phá các tà ma ngoại đạo.
9. An Nhẫn: Hai giặc mạnh mẽ và nhu nhuyến. Ngoài thì quyến thuộc tên gọi xấu ác. Nếu người không nhẫn sẽ bị hoại. Trong nhẫn mọi thứ chứng đắc các thiền, chấp thì sinh ái, bị cảnh giới giặc nhu nhuyến hại, ép ngặt là giặc mạnh.
10. Thuận đạo pháp: Ái chẳng phát sinh. Ngoại phàm, nội phàm mọi thứ thuận đạo, phát thiện tâm không đắm mến cũng là ý quan trọng.
Đời mạt pháp, người cầu Thanh Văn biết mười pháp này rõ ràng, không mắc vào văn tự nói suông. Trong có trí tánh cầu Thánh đạo. Chán khổ ba cõi, tu năng dừng tâm, nhập địa vị sơ thiền, tức là khéo biết lời Phật dạy, phát sinh các cảnh giới thiền. Hoặc có xúc tăng ích, hoặc có xúc tăng bệnh, hoặc có mười hai loại xúc hoại thiền, hoặc có mười loại giác hành thiền. Hành giả nhờ năm dừng tâm nên được định cõi Dục, hoặc được đối trị tâm ở trong tĩnh, công đức pháp môn khởi liền quán sát. Quán sơ lược là mười một cảnh Ấm, giới, nhập cho đến mười cảnh của Bồ-tát. Tự có hành giả hoặc thứ lớp, hoặc chẳng thứ lớp, hoặc thiện hoặc tà. Nay làm mười cặp phân biệt: Một là thứ lớp, không thứ lớp cho đến thứ mười là ba chướng bốn ma.
Thứ lớp là như trên.
Chẳng thứ lớp là không như trên, có chỗ xuất xứ riêng, v.v...
Hỏi: Theo Đại thừa, sinh tử tức Niết-bàn có được nghĩa lý tức cho đến sáu Tức. Ba tạng cũng có được sáu Tức chăng?
Đáp: Muốn làm thì cũng được. Ba thừa đồng ý có lý thiên chân, là lý tức. Trong Ba tạng, học tập danh tướng, ngôn ngữ là Danh tự tức. Năm dừng tâm, tướng chung, tướng riêng niệm xứ là Quán hành tức. Bốn thiện căn là Tương tự tức. Khổ-nhẫn-chân minh đến vô ngại đạo thứ chín là Phần chân tức. Đến ba mươi bốn tâm dứt phiền não và tập khí của Phật là Cứu cánh tức v.v... Đã biết ý quan trọng của Ba tạng phải biết niệm xứ của ba bậc khác nhau.
Trước hết nói về Bốn niệm xứ riêng của Thanh Văn, sau nói về bốn niệm xứ chung.
Riêng là thân, thọ, tâm pháp
1-Quán thân thế nào?
Tất cả sắc gọi là thân, nội thân, ngoại thân, nội ngoại thân. Mình gọi là quyến thuộc nội thân, người gọi là ngoại thân, vừa mình vừa người gọi là nội ngoại thân. Ba loại sắc này, đều từ đời trước tạo nghiệp bất thiện mà sinh. Đời trước không sợ sinh tử, không nhàm chán buộc ràng, trồng nghiệp điên đảo. Nghiệp trói buộc thức, sắp vào thai mẹ, thì có năm loại bất tịnh, là chỗ sinh, hạt giống, tướng, tánh, và rốt ráo.
a. Chỗ sinh: Thân người nữ là một khối bất tịnh, trùng, mủ dơ bẩn nhóm lại mà thành lập, gân cột, máu tô, da bao phía ngoài, như vách đất kia mượn bùn tô trét luống dối. Trải qua mười tháng ở giữa hai tạng nhỏ hẹp như ngục tù. Thích luận chép: Thân này chẳng phải hoa sen, cũng chẳng do chiên đàn, được nuôi lớn bằng phẩn uế, chỉ theo đường tiểu mà ra, v.v...
b. Hạt giống bất tịnh: Tóm hai giọt trắng đỏ của di thể mà trụ trong đó. Thức nầy theo hơi thở của mẹ. Đó là hạt giống đầu tiên thọ thân bất tịnh.
c. Tướng bất tịnh: Sáu phần đầu v.v... Từ đầu đến chân toàn là vật dơ bẩn, như con chó chết, dùng hết nước biển để rửa, rửa thây chết sạch hết, chỉ còn một hạt bụi, hạt bụi cũng hôi thúi giống như phẩn uế. Nhiều ít đều hôi thúi từ đầu tới chân. Đều là tướng bất tịnh.
d. Tánh bất tịnh: Căn bản từ nghiệp cấu uế sinh, nương vật cấu uế mà nuôi lớn tánh này. Tự như thế chẳng thể sửa đổi. Trong thân có ba mươi sáu vật, trong có mười hai món gọi là tánh bất tịnh. Ngoài có mười hai món gọi là tướng bất tịnh. Giữa có mười hai món chung cả tánh tướng.
e. Rốt ráo bất tịnh: Nghiệp hết, báo tận bị ném ra gò mả, như khúc cây mục, những chất bất tịnh đại tiện tiểu tiện chảy tràn ra ngoài. Thân sinh trùng rúc rỉa cắn ăn, chồn sói quạ, kên kên cắn xé phần ngoài, còn không thể dùng mắt nhìn, tai nghe, huống chi dùng mũi ngửi mê đắm. Nên Tỳ-Đàm có bài kệ:
Thân này tướng bất tịnh, Tánh chân thật thường không.
2. Niệm xứ thọ:
Lãnh nạp gọi là Thọ. Có nội thọ, ngoại đạo, nội ngoại thọ. Duyên bên trong gọi là nội thọ, duyên bên ngoài gọi là ngoại thọ, duyên trong ngoài gọi là Nội ngoại thọ. Lại, ý căn thọ gọi là Nội thọ; Năm căn thọ gọi là Ngoại thọ; Sáu căn thọ gọi là Nội ngoại thọ. Mỗi căn có thọ thuận, thọ nghịch, thọ chẳng nghịch chẳng thuận.
Đối duyên thuận sinh thọ vui. Đối duyên nghịch sinh thọ khổ. Đối duyên chẳng thuận chẳng nghịch sinh thọ chẳng vui chẳng khổ. Ở sáu căn tức có mười tám thọ, căn trần năng và sở họp thành ba mươi sáu thọ. Theo ba đời có một trăm lẻ tám, các thọ đều khổ. Thọ vui là khổ hoại, khổ thọ là khổ khổ, thọ bất lạc bất khổ là khổ hành, khổ thọ là khổ khổ, thọ bất lạc bất khổ là khổ hành. Các thọ thô hay tế đều là khổ. Như có ăn thì vui, thức ăn không tiêu thì khổ; lạc thọ hoại thì khổ. Như gãi ghẻ ban đầu đã ngứa sau khổ. Thọ lạc hoại khổ cũng giống như thế. Hai khổ còn lại có thể biết, v.v...
3. Niệm xứ tâm:
Nếu theo thô tế thì trước phải là niệm xứ pháp, nhưng nay thuận theo lời nói nên nói về niệm xứ tâm.
Tâm là tâm vương, khác với tâm gỗ đá. Theo trên thì có nội tâm, ngoại tâm và nội ngoại tâm. Tâm vương không dừng trụ, thể tánh lưu động. Hoặc thô hoặc tế, hoặc trong hoặc ngoài đều là vô thường, không dồi dào, không thiếu thốn. Hôm nay tuy còn rõ ràng nhưng cũng khó bảo đảm. Một Tỳ-kheo không bảo đảm bảy tháng, cho đến không bảo đảm một ngày, Phật quở đều là biếng nhác. Một Tỳ-kheo nói hơi thở ra không bảo đảm thở vào. Phật nói lành thay! Khoảng sát-na ngắn ngủi vô thường, già chết đến gần là một kỳ hạn vô thường, Phật pháp sắp diệt, là chuyển biến vô thường như nước chảy dốc núi, như đá nháng lửa, nếu không kịp thời sau hối hận vô ích...
4. Niệm xứ pháp:
Pháp là khuôn phép, có pháp lành, pháp ác, pháp vô ký. Người đều theo pháp mà chấp ngã. Ta có thể làm lành, làm ác, làm vô ký. Nếu đối với tâm vương mà chấp ngã thì thuộc về niệm xứ tâm. Nếu đối với tâm sở chấp ngã, từ chín tâm sở, tất cả thiện số, ác số, chung với đại địa số đều thuộc hành Ấm niệm xứ pháp. Trong các pháp này mà cầu ngã nhất định không thể được, lông rùa sừng thỏ chỉ có tên gọi không thể có thật. Nếu pháp lành là ngã, thì pháp ác lẽ ra vô ngã. Lại pháp ác là ngã thì sao lại dung cho ác hại mình. Nếu vô ký là ngã thì vô ký không thể khởi nghiệp. Nếu gọi nhân v.v... khởi, nhân vô ký này khởi thiện, hay khởi ác? Nghiệp thiện ác còn chẳng phải ngã nhân, v.v... khởi làm sao là ngã được? Nên biết đều không có ngã, chỉ là hành Ấm. Kinh chép: Khởi chỉ là pháp khởi, diệt chỉ là pháp diệt. Chỉ là Ấm pháp khởi diệt, không nhân không ngã, chúng sinh, thọ mạng, dù có pháp khởi cũng là điên đảo. Điên đảo tức là thân kiến và biên kiến, gọi là ô uế. Năm Ấm vô ký cũng là ô uế. Năm Ấm vô ký duyên báo pháp mà khởi nên đều là vô ngã. Tuy tâm vương, tâm sở cùng khởi đồng thời mà dụng có mạnh, yếu. Nếu tâm mạnh thì thuộc niệm xứ tâm. Nếu số mạnh thì thuộc niệm xứ pháp. Thích Luận chép: Giác quán tuy đồng thời nhưng khi giác thì quán không rõ, khi quán rõ thì giác không sáng. Nên chia ra giác, quán khác nhau. Nay tâm niệm và pháp niệm theo sự mạnh yếu cũng giống như thế. Các pháp thiện ác như vậy tìm ngã không thật có nên gọi là niệm xứ pháp.
Trên đây là nói niệm xứ tướng riêng đã xong.
Duyên một cảnh chung làm bốn quán. Trong đây phải có bốn câu phân biệt:
- Cảnh, quán đều riêng.
- Cảnh, quán đều chung.
- Cảnh riêng, quán chung.
- Quán riêng, cảnh chung.
Câu một là bốn niệm xứ quán riêng, ba câu sau là bốn niệm xứ quán chung, nói sơ lược như thế.
Tất cả chúng sinh, sinh tử trôi lăn đều do điên đảo. Điên đảo ngang dọc như heo thích phẩn, thịt béo, trong ăn no, ngoài sơn giáp tổ tiên v.v... thật là mê hoặc! Giống như cá nuốt câu, như thiêu thân đâm đầu vào lửa, lấy khổ để bỏ khổ, thật là mê hoặc! Chớp loè, sóng nắng, bọt nước, đá nháng, cho vô thường là thường, thật là mê hoặc! Lông rùa, sừng thỏ, con của hoàng môn, gái bất dục, không người bảo là có người, không vật nói là có vật, thật là mê hoặc! Nay dùng trí tuệ niệm xứ để phá. Biết thân, thọ, tâm, pháp là biết khổ; không khởi mê hoặc điên đảo là biết tập; chán khổ dứt tập là Tu đạo; khổ tập vắng lặng là biết diệt. Đại kinh chép: Xưa ta cùng các thầy chẳng thấy bốn chân đế, vì thế trôi lăn mãi trong biển lớn sinh tử. Nếu thấy được Tứ đế, liền dứt được sinh tử. Sinh hữu đã dứt, không bao giờ còn thọ trong thân các cõi. Trung Luận chép: quán thân, phá mười hai thứ thân kiến, đắc Tu-đà-hoàn. Quán thân là biết khổ, thân kiến không khởi là không tập, phá hai mươi loại thân kiến là có đắc đạo, đắc Tu-đà-hoàn là chứng diệt. Kinh luận đều đồng, nên biết trí tuệ của niệm xứ có lợi ích lớn.
Cộng niệm xứ quán: Đại Luận chép: Quán thân là nhân duyên đầu tiên sinh ra đạo, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu; niệm xứ thọ-tâm-pháp cũng giống như thế. Đạo từ nhân duyên sinh tức là nghĩa cộng; quán thân là đầu tiên. Nhân ba lần bốn là mười hai tức là hữu lậu sinh. Cộng tám bối xả, tám thắng, mười nhất thiết xứ tức là cộng vô lậu sinh. Sư Nam Nhạc nói: Chín tưởng, tám bối, các thứ đối trị để giúp khai phá ba môn giải thoát nên gọi là niệm xứ cộng.
Kinh nói: Cũng nên niệm pháp không, tu tâm quán bất tịnh, tức là ý này, v.v...
Tỳ-đàm hữu môn quán sinh không gọi là Không pháp. Tu tâm bất tịnh từ bất hoại. Dùng tâm bất tịnh quán nội ngoại sắc gọi là Sơ bối xả. Nếu nội ngoại sắc thêm rộng từ một thôn đến nhiều thôn, một cầm thú đến tất cả chim bay thú chạy đều là bất tịnh, gọi là Đại bất tịnh. Hoặc bên trong không sắc tướng, dùng tâm bất tịnh quán ngoại sắc, nhập vào hai bối xả cho đến tám bối xả, tám thắng, Nhất thiết xứ, chín thứ đệ, Sư tử phấn tấn, siêu việt cõi Dục. Sơ thiền đều bất tịnh thì phá được điên đảo về Tịnh. Dùng sự trợ đạo nên gọi là niệm xứ Cộng. Lúc phát chân, lý tuệ thành tựu, sự định đầy đủ, ba minh sáu thông đều giải thoát thành La-hán, có thể kiết tập Pháp tạng, phá thần thông của ngoại đạo. Có người truyền bá kinh điển nói: Chẳng phải thiền thì không có trí tuệ. Từ thiền năm dừng sinh ra bốn niệm xứ, là khai phát trí tuệ. Nếu không phải trí tuệ thì chẳng có thiền. Đây là từ bốn niệm xứ sinh ra bốn như ý túc. Riêng bảo thiền và tuệ này cùng tu chứng, cùng tu niệm xứ thì tiện lợi.
Niệm xứ duyên.
Đại Luận chép: Tất cả sắc pháp gọi là Thân. Một nhập và một ít phần của mười nhập. Đã là sắc thì sắc thuộc về Thân. Sáu thọ là thọ sáu thức, là hai Ấm tưởng và hành của tâm và pháp vô vi gọi là pháp thông. Tất cả cảnh giới đều gọi là duyên niệm xứ quán. Có người nói: Mười hai nhân duyên cảnh từ, bi đều duyên gọi là Duyên niệm xứ. Sư Nam Nhạc nói: Kinh dạy tất cả nhập, giới, sự lý, danh nghĩa, ngôn ngữ, âm từ, nhân quả, thể dụng quán đạt vô ngại, sinh ra vốn biện tài. Đối với tất cả sắc tâm không chướng ngại, thành tựu quả Lahán giải thoát, không còn nghi ngờ; phá ngoại đạo Vệ-đà.
Trên đây là theo ái sử làm ý quán.
Tiếp theo phá kiến hoặc, nói về ba loại niệm xứ. Đại Luận chép: Người chân không cũng phá tất cả pháp, người tà kiến cũng phá tất cả pháp, vì sao có khác?
Đáp: Tà kiến có ba loại:
1-Phá nhân không phá quả. 2-Nhân quả đều phá.
3-Phá nhân quả và phá tất cả pháp.
Chỗ giận sinh giận, chỗ yêu sinh yêu, chỗ si sinh si, đó là tà kiến. Người chân chánh không phá các pháp, chỗ giận, yêu, si không sinh, cho nên khác chỗ này, v.v...
Có người phá hai môn có, không nói: Đạo chẳng phải có-không, rốt ráo không thể nói. Nay hỏi "không-có là đoạn thường", đây là chỗ giận sinh giận, đồng với ngoại đạo kia. "Rốt ráo không thể nói", đây là chỗ yêu sinh yêu, lỗi đồng với tà kiến, cũng là lối chấp tự nhiên.
Kinh nói: Đối với các kiến chấp chẳng động, mà tu ba mươi bảy phẩm". Ở đây chia làm bốn câu:
- Động tu.
- Bất động tu.
- Vừa động vừa bất động tu.
- Chẳng phải động, chẳng phải bất động tu. Bốn câu đối với bốn môn:
- Đều động tu là Chiết pháp đạo phẩm.
- Bốn câu đều bất động tu là Thể pháp đạo phẩm. Nếu nói về kiến thì bốn câu đều kiến, vì sao bỏ hai?
Đáp: Là đoạn thường lấy một câu nói là thanh tịnh.
Nếu nói về tu đạo phẩm thì bốn câu đều tu được, tại sao nói một câu là tu đạo, hai câu chẳng phải tu đạo?
Nếu biết bốn câu đều là thân-biên, năm Ấm thân-biên. Năm Ấm tức có tập, đã biết khổ tập tức có thể tu đạo phẩm. Nếu không biết bốn câu: thân, biên, giới, thủ, tà, nghi thì không biết khổ tập, tức là ngu si đâu khác Trường Trảo.
Đại Phẩm chép: Sắc hoặc thô, hoặc tế, hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến phi thường phi vô thường, kiến chấp này đều nương sắc mà khởi lên. Nếu khởi ngã kiến hoặc thọ, hoặc tế, hoặc thường, hoặc vô thường, cho đến phi thường, phi vô thường. Kiến chấp này đều nương sắc mà khởi tức là thân kiến. Thọ, tâm, pháp cũng giống như thế.
Trường kiến có ba giả, một giả có bốn câu, ba giả là mười hai câu, bốn giả thì bốn mươi tám câu. Năng và sở hợp lại có chín mươi sáu câu. Thọ, tâm, pháp mỗi thứ đều có chín mươi sáu câu.
Quán tánh niệm đã vậy, cộng niệm và duyên niệm cũng như thế. Nếu người A-tỳ-đàm khéo biết sáu nhân, bốn duyên trong kiến hữu, nhân duyên không có tánh, vô thường, sinh diệt. Tứ đế có thể đắc đạo, có công năng phá sáu mươi hai kiến. Nếu Luận Thành Thật thì thấy không, khéo biết bốn duyên trong kiến không, ba giả bốn đế có công năng phá sáu mươi hai kiến. Thấy có, thấy không đều đắc đạo là đây. Đối với các kiến, không động mà tu ba mươi bảy phẩm, thành bốn khô niệm xứ. Nếu người không biết thì chỉ là thấy có, thấy không, đều chưa nhập thiền huống chi là ở Thánh vị, dù tu cùng cực chỉ được trời, người. Nếu lại cho ba đường ác là nhà thì không có phần với Phật pháp. Nên biết bốn niệm xứ quán tà chánh phân môn. Nếu được bốn niệm xứ thì tất cả pháp là chánh, nếu không được thì tất cả pháp là tà. Người tu hành đời nay chẳng biết ý này, đau thương khó tả! Gặp các bậc thầy nghe nhiều kinh luận, người không thể rõ còn chẳng thành bốn khô, há được bốn tươi, càng đáng thương hơn...!
Bốn niệm xứ chung:
Có người nói cọng niệm xứ là niệm xứ tướng chung, nay bảo không đúng, nên làm bốn câu phân biệt: Trước đã nói rồi, nay lại trình bày thêm:
1- Cảnh riêng quán riêng.
2- Cảnh riêng mà quán chung. 3-Cảnh chung mà quán riêng.
4-Quán chung cảnh cũng chung.
1. Cảnh riêng quán riêng: Chính là niệm riêng tướng tánh.
2,3. Cảnh riêng quán chung và quán riêng cảnh chung: hai loại này là phương tiện của bốn niệm xứ tướng chung.
4. Cảnh quán đều chung là bốn niệm xứ tướng chung.
Nếu quán một niệm xứ thân, hoặc chung hai Ấm cho đến chung năm Ấm, đó là cảnh quán đều chung. Niệm xứ thọ, tâm, pháp cũng giống như thế. Tướng chung duyên niệm xứ, niệm xứ tướng chung cũng giống như thế, rất dễ hiểu.
Nếu hiểu phương tiện trước nhập vào niệm xứ tu tướng chung, chánh cần, như ý, căn, lực, giác, đạo đều như trước rất dễ hiểu. Tổng tướng pháp sâu, vi tế là khác. Nếu an ổn thực hành tám chánh đạo, có thể quán Tứ đế sinh noãn pháp. Nên Đại Luận chép: Thực hành tám chánh đạo được năm Ấm thiện hữu lậu, gọi là Noãn pháp. Nên biết người có phương tiện được ba mươi bảy phẩm.
Hỏi: Tám chánh đạo, bảy giác chi là Tu đạo, nay vì sao nói không bốn niệm xứ?
Đáp: Tát-bà-đa nói: Tám chánh ở trước, bảy giác ở sau quyết định là vô lậu. Nếu bảy giác ở trước, tám chánh ở sau thì chung cả hữu lậu và vô lậu. Đây là người thuộc Tam hiền đều gọi là Càn Tuệ địa. Chưa chứng năm Ấm thiện hữu lậu. Ý thì tương tự mà nước định chưa thấm nhuần gọi là càn, đã có quán hành, hàng phục các kiến chấp gọi là Tuệ, giữ gìn sinh pháp lành gọi là Địa. Nên gọi là Càn tuệ địa, cũng gọi là Ngoại phàm vị.
* Nói về chi Phật quán:
Phật là giác. Giác có hai loại: Độc giác và Duyên giác, đều có lớn nhỏ. Nhỏ thì sinh trong loài người. Thời đó không Phật, tự mình có thể đắc Tuđà-hoàn. Bảy đời đã mãn, không thọ tám đời, tự tánh thành đạo. Người này không gọi là Phật, cũng chẳng phải A-la-hán. Nói về đạo lực thì không bằng Xá-lợi-phất, mà các đại La-hán gọi đây là Tiểu Bích-chi-ca-la. Lớn thì trong hai trăm kiếp thực hành trí tuệ, trí tuệ càng thêm, lại mạnh được ba mươi hai tướng hoặc ba mươi mốt tướng, hoặc ba mươi tướng, hai mươi chín tướng cho đến một tướng. Hơn cả chín loại La-hán. Ở tướng chung, tướng riêng có thể biết, có thể nhập. Tu tập không đã lâu, thường ưa ở chỗ vắng một mình, đó gọi là Đại Bích-chi-ca-la; đều trải qua ba thứ nhân duyên, mười loại, mười hai loại nhân duyên. Phân biệt lớn nhỏ.
- Nếu nghe nhân duyên tu tánh niệm xứ, quán mười hai nhân duyên, thiện căn thuần thục, nhân ở xa lìa, tự nhiên giác ngộ một mình thành Tiểu CA-la.
- Nếu tu cộng niệm xứ, duyên niệm xứ, sự lý thiện căn thuần thục, độc giác tự ngộ, đầy đủ ba minh tám giải, sáu thông thành Đại Ca-la.
Nên kinh nói: Vì người cầu Bích-chi-phật nói pháp mười hai nhân duyên. Pháp Hoa chép: Nếu người có phước từng cúng dường Phật, chí cầu thắng pháp, thì nói Duyên giác cho họ nghe.
* Nói về quán mười hai nhân duyên:
1. Ban đầu từ ái chi làm đầu: a-Truy tầm. b-Quán phá.
a. Truy tầm là người này nghe pháp chánh nhân duyên sinh diệt, tin hiểu rõ ràng, biết tất cả thuộc ái phiền não đều là mười hai nhân duyên. Quán đó nhập không, dứt tâm đạt cội nguồn, cầu tuệ tự nhiên, ưa độc thiện, lặng lẽ tu năm pháp đình tâm, được các thiền định. Ở trong định biết thuộc ái phiền não, tức là tu suy tìm ngược lại. Thấy mười hai nhân duyên, suy tham ái này do đâu mà sinh? Tức biết thân nầy do thọ mà sinh. Thọ do đâu sinh? Tức biết do xúc. Xúc do sáu nhập, sáu nhập do danh sắc, danh sắc do thức, thức do hành, hành do vô minh, vô minh do tất cả phiền não quá khứ. Lại thuận suy: Ái này sinh ra thủ, thủ sinh hữu, hữu sinh hai mươi lăm cõi sinh tử vị lai. Do sinh mà có già, lo buồn khổ nhóm, luân hồi không dứt. Nếu do dừng tâm thì nhập sâu thiền định.
Như thế suy tìm ngược lại, hoặc thấy Ca-la-la mới thọ thân. Cho đến thấy thân quá khứ lúc khởi nghiệp phiền não cho đến hai đời, mười đời, trăm đời, nghìn muôn vô lượng thế giới. Thuận suy tìm thủ, hữu. Nếu nhờ năng lực thiền định, hoặc thấy một đời vị lai cho đến mười đời, trăm ngàn vô lượng đời; hoặc thấy việc quá khứ vị lai, tâm sinh buồn vui, đạo tâm tinh tấn, càng thêm tăng thạnh.
b. Quán phá mười hai nhân duyên thuộc ái, tức là tánh niệm xứ, qua quán riêng mười hai duyên. Tánh niệm xứ như trước đã nói. Quán ái tức là năm Ấm ô uế tánh bốn niệm xứ. Nếu quán thọ, xúc, sáu nhập, danh sắc tức là quả báo vô ký năm Ấm tánh niệm xứ. Nếu quán vô minh tức phiền não ô uế quá khứ năm Ấm tánh bốn niệm xứ. Nếu quán về thủ, tức là phiền não ô uế năm Ấm tánh bốn niệm xứ.
Nếu quán ở hữu, tức thiện bất thiện năm Ấm tánh bốn niệm xứ, nếu quán sinh tử vị lai thì quả báo sinh tử vô ký tánh bốn niệm xứ. Đó gọi là nghịch thuận quán sát. Phá bốn điên đảo, điên đảo diệt thì vô minh diệt. Tất cả phiền não hành cho đến gia chết lo buồn khổ diệt. Đó là dụng tánh niệm xứ, trải qua quán riêng ái phiền não mười hai duyên quán.
2. Nói về phá mười hai duyên thuộc kiến. Có hai: a-Suy tìm b-Quán phá. a-Suy tìm: Nếu thấy thần và thế gian thường hay vô thường, vừa thường vừa vô thường; phi thường phi vô thường, cho nên hiện tại sinh bốn kiến chấp thân biên. Do bốn kiến chấp thân biên nầy mà sinh ra mười bốn nạn, sáu mươi hai kiến.
Bốn kiến chấp thân biên nầy tức là bốn thủ nghịch thuận, tìm xét bốn thủ này do bốn ái, bốn ái do bốn thọ, bốn thọ do bốn xúc, bốn xúc do bốn nhập, bốn nhập do bốn danh sắc, bốn danh sắc do bốn thức, bốn thức do bốn hành, bốn hành do bốn vô minh. Lại tìm xét thuận bốn thủ. Bốn thủ sinh bốn hữu, bốn hữu sinh tất cả hai mươi lăm hữu, sinh tử lo buồn khổ nhóm. Nếu biết sâu kiến hoặc, việc đời quá khứ vị lai, thì cũng như trước đã nói.
Nói về tánh niệm xứ: Quán phá bốn thủ, bốn kiến thân biên v.v... Như thế thứ lớp cho đến vô minh phá quá khứ: như khứ, chẳng như khứ, vừa như khứ vừa chẳng như khứ; phi như khứ phi chẳng như khứ; thân kiến và biên kiến làm ô uế năm Ấm.
Lại quán thuận bốn thủ, cho đến sinh, già, chết vị lai, phá hữu biên, vô biên; vừa hữu biên vừa vô biên; phi hữu biên phi vô biên. Thân kiến, biên kiến ô uế năm Ấm. Dùng tánh niệm xứ như thế phá thân kiến, biên kiến ba đời. Tứ kiến tức phá mười bốn nạn, sáu mươi hai kiến, tất cả thuộc kiến, phiền não một lúc đều diệt tức vô minh diệt. Cho đến già, chết diệt thuộc kiến. Phiền não đã diệt thì lại dùng quán ái mười hai nhân duyên tánh niệm xứ trước quán phá Dục ái, Sắc và Vô Sắc ái, ba cõi phiền não đạo, nghiệp đạo, gọi là Niết-bàn hữu dư. Nếu khổ đạo diệt tức là Niết-bàn vô dư. Đó gọi là trí tuệ tánh niệm xứ, quán mười hai nhân duyên nhập Niết-bàn.
Kinh nói: mười hai nhân duyên nghĩa rất sâu xa, khó hiểu khó biết. Lúc Phật nói kinh Niết-bàn, có ngoại đạo tên là Phú-na hỏi: Làm sao khiến tôi biết thần và thế gian là thường, cho đến phi thường, phi vô thường?
Phật đáp: ông hãy dứt cũ mà không tạo mới, thì sẽ biết thế gian thường hay vô thường; cho đến phi thường, phi vô thường.
Phạm chí ngộ hiểu và xin xuất gia làm đệ tử
Phật. Lại trong Trung Luận nói Thanh văn nhập đệ nhất nghĩa. Nếu được sâu ý nầy thì không phải chỉ phá ngoại đạo mà thôi. Nếu đệ tử Phật học ngồi thiền phát xuất nhiều kiến thủ tranh luận để khỏi phiền não tạo nghiệp sinh tử của hai mươi lăm hữu đều thuộc về kiến phiền não mười hai nhân duyên. Nếu ngộ hiểu biết thì có thể dùng Tánh niệm xứ, xem xét thì được giải thoát. Người mê điều này thì trôi lăn sinh tử không có bờ mé. Nên Trung Luận chép: Chân pháp và người nói, người nghe khó được. Thế nên sinh tử chẳng phải hữu biên, chẳng phải vô biên. Cộng niệm xứ, duyên niệm xứ quán mười hai nhân duyên, so với trước rất dễ biết.
Hỏi: Đời trước tự nhiên có thể ngộ, đâu cần Phật nói!
Đáp: Nghe nói thì mau được, không nói thì chưa ngộ được. Ví như trái chín, tuy tự chúng rơi được, nhưng lay nhanh thì rụng liền.
Hỏi: Sao không chế quả Bích-chi-phật?
Đáp: Thanh văn độn nên chế quả; Bích-chiphật lanh lợi, học tập trí huệ lâu nên không cần chế quả. Dụ cho hai người cùng đi, người ốm yếu phải có chỗ nghỉ ngơi; người thân mạnh khỏe thì đến thẳng nên không chế quả.
Lại nữa, tướng chung dứt kết, trí tuệ thô nên chỉ trừ chánh sử gọi là Thanh văn. Nếu tướng riêng, trí tuệ tế trừ tập khí gọi là Bích-chi-phật.
Lại nữa, Thanh văn độn nên trước quán khổ đế; Duyên giác lợi căn nên trước quán Tập.
Hỏi: Thanh văn cũng tướng riêng là thô, tướng chung nên là tế.
Nay đâu được nói tướng chung là thô, tướng riêng là tế?
Đáp: Nếu trong Tứ đế trước nói tướng riêng là thô, nay trải qua mười hai nhân duyên riêng biệt nên riêng là tế hơn.
Lại nữa, Thanh văn có năng lực thiền định cao, thiên nhãn chỉ thấy một tiểu thiên; Bích-chi-phật đã trồng lâu, năng lực định sâu, thiên nhãn vượt ngoài Tam thiên, thấy thế giới phương khác.
Hỏi: vì sao Bích-chi-phật thừa không có phương tiện đạo?
Đáp: Bích-chi-phật căn tánh lanh lợi nhưng chưa gặp Phật đã ngộ đạo, đâu cần phương tiện trước để nhập đạo!
Hỏi: Bích chi tự ngộ, đắc đạo cộng giới, có cần thọ giới không?
Đáp: Người thọ thì hòa hợp với tăng. Nay ba tạng hữu môn, Duyên giác quán mười hai duyên phá thuộc ái kiến, quán môn chẳng nói đầy đủ. Nếu người tu hành phải tự khéo suy nghĩ. Ba môn còn lại đâu có thể thấy.
* Nói về Bồ-tát khác phàm Thánh:
Khác Thánh thì khác về bốn thệ nguyện rộng lớn, thực hành hạnh sáu độ, nhị thừa dứt phiền não chứng chân; Bồ-tát chẳng dứt hoặc, chẳng chứng chân nên khác bậc Thánh.
Phàm phu mặc theo dòng phiền não, Bồ-tát thì hàng phục phiền não, chế phục sinh tử làm Phật sự nên khác phàm phu.
Đối với Đàn ba-la-mật tu Tánh niệm xứ quán, khác với Nhị thừa dứt phiền não chứng chân. Cũng chẳng đồng với phàm phu trôi lăn theo sinh tử. Chế phục phiền não, trụ ở hạ nhẫn tu bố thí, học tất cả thế trí để điều phục chúng sinh. Nếu người vì tham đáng đọa địa ngục, Bồ-tát ở niệm xứ thực hành bố thí phá tham tệ, khiến thoát khổ địa ngục. Nếu chúng sinh phá giới đáng đọa địa ngục, Bồ-tát tu trì giới khiến thoát địa ngục. Nếu chúng sinh sân nhiều đáng đọa địa ngục, Bồ-tát tu nhẫn nhục để phá, khiến thoát địa ngục. Nếu chúng sinh thường biếng nhác đáng đọa địa ngục, Bồ-tát thực hành tinh tấn để phá, khiến thoát địa ngục. Nếu chúng sinh loạn tưởng đáng đọa địa ngục, Bồ-tát tu thiền để phá; tự mình hành và dạy người, khen ngợi người tu hành bốn pháp trên và một dưới đều như thế. Bồ-tát tu niệm xứ quán cho đến thực hành Bát-nhã Ba-la-mật, phá tất cả chúng sinh ái, phiền não tham đắm quả báo, gây ra hai mươi lăm hữu nghiệp, thọ quả khổ sinh tử. Bồ-tát tu ba loại niệm xứ phá sáu tệ, nhân thuộc ái hai mươi lăm hữu, tức là cứu khổ, dạy tu ba loại niệm xứ tức là Đạo, đó gọi là "ban vui". Tu Tánh niệm xứ thành tựu bốn Ba-la-mật, tu cộng niệm xứ thành tựu Thiền ba-lamật, tu duyên niệm xứ thành tựu Bát-nhã Ba-lamật. Bốn độ trước sức tu tánh yếu không thành, lại tu thêm cộng niệm xứ thành phá ái. Lại, tu tánh niệm xứ nên thành đại bi cứu khổ, tu cộng niệm xứ thành đại từ ban vui, tu Duyên niệm xứ thành tựu cả hai thệ nguyện. b. Quán phá thuộc kiến phiền não:
Nếu chúng sinh nói tâm tham nầy có hay không, cho đến chẳng phải có chẳng phải không. Lúc ấy Bồ-tát tu niệm xứ hành bố thí phá ba giả trong hữu kiến, ba giả trong vô kiến, cho đến ba giả trong phi hữu phi vô, tự-tha-cọng-vô nhân..., bốn mươi tám câu.
Nếu có chúng sinh nói tâm phá giới này có hay không, cho đến phi hữu phi vô, Bồ-tát tu tánh niệm xứ hành trì giới phá hữu kiến, cho đến ba giả trong Phi hữu phi vô kiến.
Chúng sinh nói tâm sân nầy có hay không, cho đến Phi hữu phi vô, Bồ-tát tu tánh niệm xứ thực hành nhẫn nhục để phá.
Nếu chúng sinh nói loạn tâm có không, cho đến phi hữu phi vô, Bồ-tát tu thiền để phá ba giả có-không, cho đến phi hữu phi vô v.v... bốn mươi tám câu để phá.
Nếu nói tâm si có không cho đến phi hữu phi vô, thực hành Bát-nhã để phá, từ có không cho đến bốn mươi tám câu để phá. Vô sinh thuần thục, sau đó ba mươi bốn tâm dứt kiết thành đạo, xoay bánh xe pháp ba tạng vào Niết-bàn.
Ở đây ứng với bốn môn: Tỳ-đàm là Hữu môn, Luận Thành Thật là Không môn, Côn-lặc là môn vừa hữu vừa vô, Na-đà Ca-chiên-diên là Phi hữu phi vô môn, hai môn chẳng độ.
Đại Luận nêu tên để chỉ. Luận Câu-xá phá nói về phi không phi hữu trong Bạt-hòa phất-đa la bộ, chính là để giải nghĩa này.
Đại Luận dẫn phẩm Bồ-tát trong Tỳ-bà-sa hành nhân chứng quả. Luận Thành Thật không có văn (nói về việc này). Nếu luận sư phá những người "chấp có", không đắc đạo và nói rằng "thấy không" mới đắc đạo, nói như thế là lẫn lộn đúng sai. Nói chung về hai kiến chấp này, "thấy có" chỉ là thường kiến, "thấy không" chỉ là đoạn kiến, hai kiến chấp đoạn thường há không phá lẫn nhau? Nên Long Thọ nói: Nếu không được phương tiện Bát-nhã để nhập Tỳ-đàm thì rơi vào Có; nếu nhập Không thì rơi vào Không, đều chẳng đắc đạo. Nếu không dùng bốn tất-đàn thì đối duyên khác nhau, hoặc dùng thế giới để vào lý, nên nói "thấy có" đắc đạo. Đại Luận chép: Sắc hoặc thô hoặc tế, gồm chung mà quán vô thường, vô ngã tức phát chân được sinh, không hữu môn đều nhập đạo. Thô là sự quán, tế là lý quán, chỉ được "sinh" mà không được "pháp". Như kinh nói: Nên khởi pháp tưởng, chỉ có năm Ấm, không có pháp dùng. Tất-đàn vị nhận phá hữu bày không, Bồ-tát tùy căn cơ hữu ích cần nghe hữu môn đắc đạo. Nay cần nghe không môn nhập đạo, cho nên phá hữu để nói về không. Vì thế, hai Bồ-tát soạn hai luận trình bày hai môn không hữu trong Ba tạng. Trước sau tuy khác mà đắc đạo thì đồng. Nên nói người đoạn kiến cho là một niệm đoạn, người thường kiến nói khác niệm đoạn. Dứt kiết (sử) tuy khác, đắc đạo là một. Ba giả nhập Sinh không, năm Ấm không là Bình đẳng không, là hai hạnh Thánh. Sinh không là giả danh không. Pháp không là thật pháp không. Là già chết và ai già chết, cả hai đều là tà kiến. Trong kinh Thanh văn nói sinh và pháp cả hai là tướng không. "Là già chết" là sinh không, "ai già chết" là pháp không; là trong Ba tạng giải thích thành bốn. Duyên ba giả nhập vào không mà Hữu môn đều là độn, chỉ được sinh không ở trong chuyết độ (độ vụng về). Không môn là lợi nên được Pháp không. Cộng niệm xứ, duyên niệm xứ cũng giống như thế. Thì biết đại ý, tế tác rất dễ hiểu. Nhưng không có nghĩa Bồ-tát, chỉ nói về hai mươi bảy địa vị Hiền Thánh. Nếu làm bốn câu thì đây là một vòng thuyết pháp.
Trong bốn môn của ba tạng giáo, tu bốn niệm xứ của Tứ Thánh đế sinh diệt đã xong.
Hỏi: Sao không nói bốn niệm xứ của Đại thừa trước?
Đáp: Trong kinh có đủ hai nghĩa. Nếu mặt trời chiếu trên đỉnh núi cao thì Đại thừa trước, còn ban đầu đến vườn nai thì Tiểu thừa trước. Nay trước nói Tiểu thừa có mười ý:
Vì dụng. Như Tịnh Danh vì vua chúa, Trưởng giả nói về vô thường, khổ, không, v.v...
Vì phá. Không có chày thì đâu vung vồ được, như Tịnh danh phá mười đệ tử, v.v...
Vì nhiếp. Như Tịnh Danh ở trong thất nói thân có khổ mà không ưa ở Niết-bàn, v.v...
Vì hội. Như Đại phẩm hội tông nói các pháp đều là Đại thừa.
Vì khai. Như Pháp Hoa giải quyết xong pháp Thanh văn, đứng đầu trong các kinh, Đại Kinh nói: Vì các Thanh văn khai phát mắt tuệ. Vì người học:
Biết ngoại tà nội khúc không bị tà, khúc làm lầm, v.v...
Vì người Thanh văn phá khúc (cong vạy). Biết họ mất phương tiện Phật, nghe thuyết hẹp hòi thời Mạt pháp; biết họ lẫn lộn Bán và Mãn. Như có người nói Tỳ-đàm "thấy có" đắc đạo, Luận Thành Thật "thấy không" đắc đạo. Đạo chẳng phải có-không, thấy có-không làm sao đắc đạo? Nếu theo lối nói của Sư nầy thì người hai môn Hữu-Vô thuộc Tiểu thừa giáo của Phật cho nên là vô dụng. Nếu là vô dụng, thì sao Trung Luận lại nói muốn nghe trong pháp Thanh văn nhập vào Đệ nhất nghĩa? Như hai phẩm sau nói vị thầy che lấp Phật.
Giáo lý bốn khô, nay lại trình bày, v.v...
Thiền nhân đời mạt nội chứng không, hiểu đồng với bọn ni-kiền-tử phá giới, làm ác, ăn phẩn, lõa thể nói là Đại thừa; đồng giới thủ ni-kiền-tử lẫn lộn phương tiện đạo của Phật pháp, nay đưa ra cả hai, v.v... Vì người học khiến biết thuyết trong ngoài mạnh mẽ, hạnh mạnh mẽ, pháp môn tinh minh tươi khô, v.v...
Vì giúp người học lúc nội chứng, phân biệt môn hộ tà khúc, tiểu đại khác xa thủ xả, nên được nghi pháp chẳng lầm, cầm ngói gạch cho là hạt châu lưu ly.
Vì mười ý này phải nói bốn khổ quán. Tư Ký ghi rằng:
Niệm xứ của Thanh văn lấy Khổ đế làm đầu.
Duyên giác lấy Tập đế làm đầu.
Bồ-tát lấy Đạo đế làm đầu.
Bồ-tát Thông giáo lấy Diệt đế làm đầu.
Bồ-tát Biệt giáo lấy giới ngoại đạo đế làm đầu. Bồ-tát Viên giáo lấy Giới ngoại diệt đế làm đầu.
Lại,
Thanh văn dùng tướng chung quán.
Duyên giác dùng tướng riêng mà quán.
Bồ-tát quán cả chung riêng.
Chung riêng giới nội-ngoại thứ lớp quán.
Viên giáo giới nội-ngoại viên quán.
Lại,
Thanh văn nhân thành giả quán làm đầu.
Duyên giác tương tục giả làm đầu.
Bồ-tát tương đãi giả làm đầu.
Hỏi: Đạo phẩm sáu độ, độ nào chính?
Đáp: Đại Kinh chép: Nhất địa đến Thập địa gọi là trí tuệ trang nghiêm. Sáu độ ba-la-mật là phước đức trang nghiêm. Pháp Hoa nói về năm phẩm, một niệm tùy hỉ là chính. Hành thêm sáu độ là trợ đạo. Tịnh Danh chép: Đạo phẩm, thiện tri thức, sáu độ là bạn. Cả ba kinh đều cho sáu độ là trợ đạo. Đại luận nói: ba mươi bảy phẩm là chánh đạo, ba giải thoát trợ khai môn cho đến bất tịnh trợ để phá tham, thắng xứ trợ bất tự tại trong duyên, thập nhất thiết xứ trợ không rộng khắp trong duyên; vô lượng tâm trợ phước đức và trợ khai môn pháp.
Hỏi: Đạo phẩm là hữu lậu hay vô lậu?
Đáp: Đại luận đối theo địa vị mỗi thứ có khác nhau, hoặc hữu lậu hoặc vô lậu v.v... Luận Thành Thật nói niệm xứ không lui sụt số người; nói Noãn pháp lui làm xiển đề, Đảnh pháp lui thành năm tội nghịch. Luận Thành Thật nói niệm xứ hàng phục hoặc, thành giả danh không, số người chỉ là văn tuệ. Nay nói chung từ đầu đến cuối đều là đạo phẩm, theo chỗ hơn mà chia phẩm, tiết, cấp được gọi tên, v.v...
Đại Luận nói ban đầu thọ từ thầy, trước dùng niệm giữ gìn gọi là niệm xứ, bốn thứ tinh tấn gọi là Chánh cần, bốn thứ định sinh gọi là Như ý túc, năm thiện căn sinh gọi là năm căn, năm phiền não bị phá gọi là năm lực, phân biệt đạo dụng gọi là bảy giác, an ổn đi trong đạo gọi là tám chánh đạo. Đây là lấy cái hơn để đặt tên đều chung cả niệm xứ. Địa vị chỉ là hữu lậu. Nên luận nói: Hành trong tám chánh đạo, ban đầu được năm Ấm thiện hữu lậu gọi là Noãn pháp. Nếu không cho bốn niệm xứ chung đến tám đạo thì cũng không được tám đạo thông với bốn niệm xứ. Nên Bà-sa nói: Nếu tám chánh đạo ở trước bảy giác chi thì quyết định là vô lậu, còn nếu tám chánh ở sau bảy giác thì vừa hữu lậu vừa vô lậu. Đây là lời tu chung. Nếu tám chánh là kiến đạo vị thì xếp vào trước bảy giác, ở sau là vị chứng đạo, v.v...
Chia làm ba chương:
- ĐẠI Ý
- DỪNG TÂM
- NIỆM XỨ
Tánh, cọng và duyên niệm xứ trước chỉ thấy lý sinh diệt, phát chân dứt kiết là quả cùng tột, vẫn là bốn khô độ vụng. Nay Bốn Thánh đế Vô sinh ngay sự mà chân, thô tế quán như nhau, đều như huyễn hóa là bốn tươi độ khéo. Đại kinh chép: Thanh văn có khổ, có khổ đế. Bồ-tát hiểu khổ nên không khổ, mà có chân đế. Đại phẩm chép: Muốn được Thanh văn, muốn được Duyên giác, muốn được Bồ-tát đều nên học Bát-nhã. Nên gọi là bốn niệm xứ Thông giáo.
Thông có tám nghĩa: lý, giáo, trí, đoạn, hạnh, vị, nhân, quả. Lý thông: Đồng duyên tức sắc là không.
Giáo thông: Đồng vâng theo thuyết Vô sinh.
Trí thông: Các pháp chẳng sinh thì Bát-nhã sinh.
Đoạn thông: Nếu Tu-đà-hoàn dứt, thì đồng là pháp nhẫn vô sinh. Hành thông: Đồng nương Đại thừa.
Vị thông: Đồng là Càn Tuệ địa cho đến Phật địa. Nhân thông: Đồng học Bát-nhã Ba-la-mật.
Quả thông: Đồng đến Tát-bà-nhã.
Ba hạng người trên có tám nghĩa chẳng khác, nên gọi là Thông. Lại nữa, thông có ba nghĩa:
- Nhân quả đều thông.
- Nhân thông, quả chẳng thông.
- Thông Biệt, thông Viên.
Nhân quả đều thông: Như tám thông trên đã nói. Cận thông thiên chân, bốn khô độ vụng.
Nhân thông, quả chẳng thông: Là quả riêng đến tiếp, Thông nhờ được thấy Phật tánh thành song thọ bốn tươi.
Thông Biệt, thông Viên: Biệt-Viên nhân quả đều khác với Thông, nhờ Thông mở đường được nhập vào nhân Biệt-Viên, thành quả song thọ chẳng khô chẳng tươi.
Nếu thông nhân quả chính là tiểu-đại-bán-mãn. Chia môn cũng là phân tích thể khéo vụng. Thanh văn tạng, Bồ-tát tạng, dê nai khác đường. Cái gì là Ba tạng? Chưa dứt hoặc vẫn là phàm phu trụ hạ nhẫn vị hàng phục hoặc Kiến tư, dùng thệ nguyện nương năm thông, trụ sinh tử để giáo hóa chúng sinh. Nhị thừa dứt chính sử độ vụng, giữ Niết-bàn, chẳng thể tiến lên trước, nên từ đây chia môn. Nếu ba hạng người đồng dùng đạo, không nói năng, thì người dứt phiền não là Mãn tự. Cửa Đại thừa phần nhiều bao dung, tức mở thành ba: 1. Thông. 2. Biệt. 3. Viên. Thể các pháp như huyễn hóa, không sinh không diệt, không đoạn mà đoạn. Ba người thông vị từ Càn Tuệ tánh địa là phục đạo, Kiến địa đến Thất địa dứt chánh đã trọn. Duyên giác căn tánh lanh lợi có thể hàng phục tập khí, địa vị ngang với Bát địa. Nếu Bồ-tát đã dứt chánh hết, lưu tập khí trợ giúp thệ nguyện chịu sinh tử để giáo hóa chúng sinh. Bát địa, Cửu địa dứt trần sa, vô tri, học đạo chủng trí. Đây tức là ý người Thông giáo chung cho ba thừa.
Nếu thông ở Biệt, ban đầu nhân Thông môn được nhập Thập Trụ, dứt hết hoặc giới nội; Thập hạnh dứt trần sa giới ngoại, học đạo chủng trí; Thập hồi hướng học Trung đạo; Thập địa phá vô minh thấy Phật tánh. Đó là ý thông ở Biệt.
Ý thông ở Viên: Ban đầu nhờ Thông môn nhập vào Thập tín, dứt hoặc giới nội, hồn nhiên tự hết lậu hoặc đăng Trụ vị thấy Phật tánh, dứt vô minh. Thập hạnh, Thập hồi hướng đều dứt hoặc riêng. Đây là ý thông Viên.
Nên biết Đại thừa đoạn phục khác hẳn Tiểu thừa. Như trong Tập ứng, Bồ-tát từ Sơ phát tâm tương ưng với Tát-bà-nhã, là ý Thanh văn nhất thiết trí thông Thông giáo.
Nếu Bồ-tát từ sơ phát tâm du hí thần thông thanh tịnh cõi nước Phật, thành tựu chúng sinh là ý thông Biệt.
Nếu từ sơ phát tâm liền ngồi đạo tràng, xoay bánh xe pháp, độ chúng sinh là Bồ-tát làm như Phật, là ý thông Viên.
Đại luận nêu ví dụ ba người đi bộ, cỡi ngựa và thần thông. Cỡi ngựa tuy mau hơn đi bộ mà không bằng thần thông, một niệm liền đến. Ví như Viên giáo sức lớn không ngại các giáo khác.
Lại Đại Luận, nói Đăng Chú rằng: Càn Tuệ là sơ viêm, Phật địa là hậu viêm. Đây là Thông giáo gọi Càn Tuệ chẳng phải đoạn đạo mà là sơ viêm. Chính là luận chủ nêu ra bao dung dẫn người hiểu như thế, dùng tương tự bấc đèn làm sơ viêm. Nếu nói Nhị địa là Bồ-tát đoạn đạo, ở đây giữ tánh địa là đoạn đạo. Đến Lục địa bằng A-la-hán. Hoặc giữ tám nhân địa là đoạn đạo, ở đây lấy Tam địa làm đoạn đạo, Thất địa bằng A-la-hán, mà nay chẳng lấy Nhị địa, Tam địa mà lấy Càn Tuệ, nên biết là Thông. Ban đầu của ba người lấy tự đạo làm sơ viên.
Lại có người nói: Hoan hỷ là Sơ viêm, Phật địa là hậu viêm, đây là theo Biệt giáo, đoạn đạo là sơ viêm. Theo Biệt giáo, Sơ địa thấy lý thường trụ, dứt vô minh, thấy Trung đạo nên gọi Hoan hỉ là Sơ viêm.
Lại có người nói: Sơ trụ là Sơ viêm, Phật địa là Hậu viêm. Đây là ý của Viên giáo. Sơ trụ thấy trung tánh viên, dứt một phẩm vô minh, nên Sơ trụ là Sơ viêm. Đây là nghĩa Thông giáo, Thông biệt, Thông viên.
Bốn môn của Thông giáo:
Đại Luận chép: Tất cả thật, tất cả chẳng thật, tất cả vừa thật, vừa chẳng thật, tất cả chẳng phải thật, chẳng phải chẳng thật, vì nói với đạo nhân, nghe liền được ngộ, đều gọi là tất đàn Đệ nhất nghĩa, v.v...
Phẩm Quán Pháp của Trung Luận chép: Lại tạo bốn câu chứng thật tướng các pháp; ba người cùng được tức lệ này. Nếu huyễn hóa hữu môn thì chung cho năm người. Bốn môn mỗi môn có năm người, thế thì có hai mươi người. Ba Tạng tuy bốn mà phần nhiều dùng Hữu môn, Thông phần nhiều dùng Không môn, Biệt phần nhiều dùng môn vừa không vừa hữu; Viên phần nhiều dùng môn phi không phi hữu. Thiên Thân tuy nói Biệt-Viên mà phần nhiều nói về giai cấp Biệt. Long Thọ nói về minh ảnh tượng huyễn hóa, dùng mười dụ để dụ, lại là giáo lý có chẳng lìa không, không chẳng mất có, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng thể nghĩ bàn.
Hỏi: Nếu vậy cũng có Ba Tạng ba người đồng nhập, sao chẳng gọi là Thông? Thông cũng có khác nhau giữa ba người, sao không gọi là Biệt?
Đáp: Ba Tạng ba người mà một người không vào nên không gọi là Thông. Thông tuy ba người mà đều vào không nên gọi là Biệt.
Hỏi: Thông là môn Mãn tự, mà người xưng Thông vì sao lại dừng, như tro, đoạn ư?
Đáp: Ví như cửa đài Chu Tước, tuy chung cả sang hèn, có người dừng ở thất riêng, có người đến phủ tỉnh, có người gặp được vua. Như trước đã giải thích, Thông chung với Biệt, chung với Viên, nghĩa này có thể biết. Lại ví như do tâm mà có ngủ, có mộng. Mộng dụ cho không, ngủ dụ cho giả, tâm dụ cho trung. Thanh văn quán Tứ đế vô sinh, như huyễn như hóa để nhập Không. Duyên giác quán mười hai nhân duyên vô sinh, như huyễn như hóa để nhập Không, Bồ-tát quán sáu độ vô sinh, như huyễn như hóa để nhập Không, chẳng thấy sâu Giả-Trung, nên đồng trụ hôi đoạn (dứt bặt như tro nguội). Nếu tìm mộng biết được ngủ, tìm ngủ biết được tâm thì chẳng những thấy không mà còn thấy chẳng không, cũng thấy phi không phi bất không.
Giải thích Đại ý xong.
Danh số đồng với trước, vì sao có khác?
Mắt cá và ngọc sáng đồng chất mà lý chia ra cong thẳng, thể phân ra khéo vụng, đã phân biệt ở trước. Đại Kinh nói về quả báo năm Ấm, sắc-thọ-tưởng-hành-thức cũng là một pháp. Phàm phu bị khổ bị não; Nhị thừa duyên bất tịnh, vô thường ra khỏi sinh tử; Bồ-tát quán Ấm tức là ở chân, lại không có lý khác. Như người phước mỏng thấy vàng thành rắn bị nó hại. Người có phước thấy báu được lấy dùng. Khổ đế như thế, ba đế kia cũng vậy. Chúng sinh không biết, chìm trong khổ, gây ra hai mươi lăm hữu, xoay vần lên xuống không có ngày giải thoát. Vì thế Bồ-tát khởi lòng đại bi, phát thệ nguyện rộng lớn; cứu khổ ban vui. Tuy phát thệ nguyện mà sở độ như độ hư không, tuy thề đoạn như chiến đấu với hư không, tuy an như ở trên không mà trồng cây, tuy diệt mà thật không đắc độ. Quán tất cả pháp không thật có, không thật có nên không, không nên chẳng sinh, chẳng sinh nên chẳng diệt, rốt ráo thanh tịnh. Hành giả tuy quán như thế mà tâm trôi dạt như con chó chạy theo cục đất. Nếu muốn nhiếp phục tán loạn, ngủ vùi, như cá sấu được Ấm áp, nên biết không tu dừng tâm, thì tâm không được trụ, tuy hiểu là làm lành ngay mà như người có mắt không chân thì không xuống ao được. Nếu khéo dùng bốn tất-đàn, tu năm dừng tâm liền được trụ quán. Như nhà kín, không gió, chiếu soi vật rõ ràng. Nên biết A-na-ba-ma là cửa đầu tiên vào đạo của Chư Phật ba đời. Lại nói:
Cũng là cửa cam lộ. Kinh Kim Quang Minh nói: Tức mở cửa cam lộ, vào xứ thực v.v... Đã tin hiểu nên tu năm dừng tâm là A-na-ba-na. Người giác quán nhiều nên quán hơi thở vào chẳng sinh, hơi thở ra chẳng diệt. Chẳng sinh chẳng diệt thì hơi thở tức là rỗng không, năng quán sở quán đều chẳng thật có, chẳng thật có tức là chân, chân tức tâm dừng. Người nặng về tham dục nên quán tham dục không phải cấu uế, tham dục chẳng phải sạch, chẳng phải dơ nên không sinh, chẳng phải sạch nên không diệt. Chẳng sinh chẳng diệt nên tức là không. Không tức chân, chân nên tâm dừng. Người nhiều tức giận nên quán từ bi. Từ bi thì giận chẳng sinh cũng chẳng diệt. Chẳng sinh chẳng diệt tức là không. Không tức chân, chân nên tâm dừng. Lại quán người mắng là ai, ai là người bị mắng, thế nào là mắng. Người mắng đồng với Chư Phật, người bị mắng đồng với rốt ráo không, pháp mắng đồng với tát-bà-nhã. Người đánh, người bị đánh và pháp đánh cũng giống như thế. Mỗi âm thanh không thể thấy mắng, nhiều âm thanh cũng không thể thấy mắng. Chỉ nên tự trách quá khứ nhiều phiền não, đời nay tức giận lẫy lừng, nếu không nhẫn được, tâm sẽ bị nọc độc sinh tử không bờ mé, phải nên dứt cho nó dừng. Người nặng về chấp ngã, nên quán thân mình, như xẻ trâu làm bốn phần, chỉ thấy bốn đại, sáu chủng, năm Ấm, mười hai nhập, mười tám giới, chỗ nào có ngã? Liền phá được ngã kiến.
Người nặng về ngu si, đối với nhân duyên, quán nhân duyên ba đời. Phá hai đời đoạn thường, phá quả báo, ngã một đời phá tánh, ta khéo dùng năm pháp trị tâm. Tâm sẽ an trụ, được quán vô sinh, vô sinh hiện tiền thì phá được phiền não. Có chân, có thiện gọi là Sơ thiền. Đại Luận chép: Quán hành là tánh trí tuệ, vì sao nói là Tam-muội?
Đáp: Nếu trong tâm bất định mà tu, đây là trí tuệ điên đảo, như trước nói người cuồng ngu, há là ý chân thiện của Hiền Thánh. Lúc tu như thế, các thứ cảnh phát ra một cảnh Ấm, giới, nhập cho đến cảnh Bồ-tát, khéo nên biết rõ, lấy bỏ thích hợp, chánh quán vô sinh phá nó, mỗi mỗi đều là Đại thừa, cho đến hai mươi loại hoại thiền giác, mười thứ thành thiền giác, đều phải hiểu biết. Nên Đại Kinh chép: Quả ca-la-la có chín phần, quả trấnđầu-ca mới có một phần, người trong thành không biết ăn phải thì chết. Nếu hành giả rõ mười pháp tức là trấn-đầu-ca. Mười pháp là:
Khéo biết vô sinh chánh nhân duyên cảnh: như không, không tướng, không phương hướng trên dưới, tâm tánh cũng như vậy.
Chân chánh phát tâm.
Chỉ quán tu tập, phá ái kiến các pháp nghiêng lệch.
Khéo biết thông, bít. Trong ái kiến, khổ tập là bít, diệt đạo là thông.
Dùng ba mươi bảy phẩm điều hòa thích hợp.
Tu trợ đạo khai mở ba môn giải thoát.
Khéo biết vị thứ.
An nhẫn.
Thuận theo đạo, pháp ái không sinh.
Mười pháp này thành tựu tức vào địa vị Bồ-tát, được đạo Ba thừa, v.v...
Hỏi: Những phiền não nào làm chướng định tuệ?
Đáp: Có người nói ái sinh phiền não chướng tuệ, tán loạn vô tri tướng định. Lại có người nói một trăm lẻ tám phiền não chướng định, tánh đắc ràng buộc chướng tuệ. Nay chẳng như thế, chỉ tùy chỗ nào nghiêng về đó nhiều thì là chướng.
Hỏi: Những nhà Thông giáo nói về sáu tức thế nào?
Đáp: Vô sinh là Lý tức, Huyễn hóa là Danh tự tức, Càn tuệ địa là Quán hành tức, Tánh địa là Danh tự tức, Bát địa trở lên là Phần Chân tức, Phật địa là Cứu cánh tức.
Niệm là vô sinh quán tuệ, xứ là cảnh bị quán.
Đại Phẩm chép: Ngay nơi sắc là không, chẳng phải sắc diệt thành không, tự tánh của sắc là không. Không tức là sắc, sắc tức là không, quán không chẳng có sắc, quán sắc chẳng có không. Quán trí cảnh đều không sinh không diệt. Trí tức là cảnh, cảnh tức là trí. Chẳng phải trí diệt có cảnh mà tánh của trí tự là cảnh. Ngay nơi sinh mà chẳng sinh nên gọi là vô sinh. Chẳng phải nói không có sinh gọi là Vô sinh. Quán nội thân, ngoại thân, nội ngoại thân, tất cả sắc pháp hoặc thô hoặc tế đều như huyễn hóa, tức là theo thân mà tu tánh niệm xứ. Thọ, Tâm, Pháp đều là tánh khổ. Tánh khổ tức không, đều như huyễn hóa. Nếu tu cộng niệm xứ cũng nên niệm pháp không để tu tâm. Quán bất tịnh, bối xả, thắng xứ, nhất thiết xứ đều tức là không. Đó là ý cộng. Duyên niệm xứ, duyên Phật vô sinh phương đẳng, mười hai bộ kinh, cho đến biết căn tánh chúng sinh tức là không, v.v...
* Thế nào là tu thân tánh niệm xứ sắc? Hoặc thô hoặc tế đều quán chung như mộng huyễn, như tiếng vang, như biến hóa. Thức này duyên bất tịnh như thân nầy của ta lúc còn là ca-la-la, hai giọt tinh cha huyết mẹ làm duyên, nghiệp phiền não làm nhân. Nhân duyên hòa hợp sinh ra báo thân này, chín lỗ thường chảy mủ đàm, mũi dãi. Ba mươi sáu vật, tánh, tướng, hạt giống rốt ráo bất tịnh, tham đắm chấp là sạch là cái thấy điên đảo. Nếu thấy là bất tịnh thì phá được chấp tịnh điên đảo. Trung Luận nói hạt lúa kiếp đầu tiên vô sinh vì thế gian hiện thấy, hạt lúa kiếp sơ không diệt vì thế gian hiện thấy. Nhân duyên nhóm họp gọi là sinh, nhân duyên tan gọi là diệt. Tan nên không thường, nhóm nên không đoạn, đó gọi là thế gian không thường không đoạn. Văn này chính là biểu thị hạt giống bên trong, mười hai nhân duyên hòa hợp không sinh không diệt.
Hỏi: Nếu hạt giống sinh tức là từ tự sinh. Nếu từ tinh cha huyết mẹ sinh tức là tha tánh sinh. Tự hạt giống và tinh cha huyết mẹ hòa hợp tức là cọng sinh. Nếu không phải hạt giống cũng không phải tinh cha huyết mẹ thì là vô nhân sinh. Nếu từ hạt giống sinh thì đâu cần tinh cha huyết mẹ. Nếu từ hòa hợp thì thuộc về duyên nào? Nếu không có tha (cha mẹ) thì làm sao có được tự (hạt giống)? Không tự thì từ ai sinh ra hạt giống của ông, để có thể tự sinh? Khi chưa có tha (cha mẹ) không có tự (hạt giống). Nếu đã có tự (hạt giống) thì không từ người (tha).
Hỏi: Nghiệp quá khứ và sáu thức tâm của ông đều không phải. Nếu vặn hỏi rằng việc nầy diệt, nghiệp gá vào tâm thức đến hiện tại. Sáu thức sinh diệt, nghiệp cũng sinh diệt, không phải là tự sinh. Nếu diệt thì chẳng nên phụ vào tâm mà đến. Nếu không nương thức a-lại-da thì nghĩa không thành. Nếu vặn hỏi rằng từ cha mẹ sinh là từ tha sinh. Ông tự sinh còn chẳng thể sinh, làm sao từ tha sinh? Nếu có tự tánh thì có tha tánh năng sinh, nếu không tự tánh cha mẹ thì ai làm "tha"? Nếu tự tha chung lại có thể sinh. Ông ở tự tha, nếu năng sinh cùng với cái bị sinh cả hai đã không thể hòa hợp cũng không thể sinh. Nếu có thể sinh thì mắc hai lỗi: Tự đã chẳng sinh, tha cũng chẳng sinh. Tức hai thứ không thể sinh, hai pháp giúp nhau thành sinh thì là tự hay là tha? Như hai hạt cát không có dầu, hợp lại cũng không có dầu. Nếu tự-tha không thể sinh, lúc hợp cũng không thể sinh. Nếu hợp mà có thể sinh, thì đáng lẽ hai hạt cát không có dầu, lúc hợp phải có dầu. Nếu hợp cả hai không có dầu, nên biết tự tha vốn không thể sinh, hợp cũng không thể sinh. Như một người mù không thấy, hai người mù cũng không thấy. Nếu vặn hỏi rằng không phải hạt giống cũng không phải cha mẹ sinh, mà từ vô nhân sinh. Không nhân được quả, quả lẽ ra lại không. Như không đất mà có thể sinh ra bình thì cũng nên từ cây sinh v.v... là vô nhân. Nên từ nhân duyên sinh còn không thật có huống chi là vô nhân. Cho nên, nhân quả đảo lộn, người tội mà được phước v.v... Phá hoại pháp thế gian. Nếu không có thế đế thì không có xuất thế, là người tà kiến nguy hiểm. Nếu bốn câu trách sinh có thể được thì là vô sinh. Vô sinh mà sinh thì gọi là giả sinh. Giả sinh chẳng phải sinh, chỉ có danh tự. Chữ này không sinh cũng chẳng phải bất sinh. Chữ này không chỗ có nên tự, tha, cộng, vô nhân, rốt ráo không thấy chỗ thân sinh chẳng thật có. Nếu không chỗ sinh cũng không chỗ diệt, sinh diệt chẳng sinh diệt, không phải sinh diệt không phải chẳng sinh diệt, thanh tịnh bình đẳng chánh quán. Quán sắc nhỏ nhiệm của thân như lân hư trần thì có mười phương phần. Nếu có mười phương phần tức đủ bốn vi sắc, hương, vị, xúc tạo thành. Sắc là tự, hương vị là tha, tức là nhân làm thành nghĩa giả. Nếu từ sắc sinh tức là tự tánh sinh; nếu từ hương vị sinh tức từ tha tánh sinh; hợp lại là cộng sinh, lìa sắc lìa hương vị là Vô nhân sinh. Bốn câu xem xét lại thì sinh không thật có, cho nên nói Vô sinh. Vô sinh mà nói sinh, đó là giả sinh, gọi là tế sắc vô sinh. Như luận chép: Nếu có sắc cực vi tế thì bốn vi tạo thành. Lại nói: Nếu có sắc cực vi tức là có, mười phương phần thì không gọi là cực vi. Bốn vi thành sắc, đây là nhân thành giả. Quán nhân giả nầy thành như mộng huyễn. Sắc tế, sắc thô không sinh là khổ Thánh đế. Kinh Tư Ích nói: Bồ-tát biết khổ vô sinh là Khổ Thánh đế. Sắc thân nầy xét trong bốn câu nhân thành vô sinh gọi là niệm xứ thân.
Hỏi: Sắc này từ diệt sinh hay từ bất diệt sinh? Từ diệt bất diệt sinh, hay từ lìa diệt bất diệt sinh? Nếu từ bất diệt sinh là tự sinh, còn từ diệt sinh thì từ tha sinh, nếu từ diệt bất diệt sinh là cộng sinh. Còn lìa sinh thì vô nhân sinh?
Luận nói: Không tự, không tha, không cộng, không vô nhân, bốn câu sinh đều không thật có, cho nên nói Vô sinh. Vô sinh mà nói sinh gọi là giả sinh. Sắc bất tịnh để phá cái điên đảo cho là Tịnh.
Lại hỏi: Sắc này là nhờ sắc hay nhờ Vô sắc cho đến cộng, lìa đều chẳng thật có, cho nên không sinh. Không sinh mà nói sinh, cho nên giả sinh đều là bất tịnh, phá tịnh điên đảo là Tánh của niệm xứ thân, dùng Trí tuệ tánh quán thuộc ái thân sắc sinh tướng, được tuệ giải thoát Tu-đà-hoàn. Cho đến tuệ giải thoát A-la-hán. Nếu lúc quán như thế mà chưa thể đắc đạo, đối với pháp nầy sinh đắm trước là ngu si. Pháp là vô nhiễm, nếu nhiễm ở pháp cho đến Niết-bàn, thì là đắm nhiễm theo tình. Ba loại niệm xứ như trong "Ba Tạng" ở trước nói. Nếu theo lý thì ba loại niệm xứ tức như trong "Thông" nói. Theo tình là sự tướng, theo lý là Vô sinh. Niệm xứ cho đến tâm-pháp cũng giống như thế.
- Cộng niệm xứ: Hành giả quán niệm xứ tu tám bối xả, các Thiền trong sự cho đến huân tu v.v... như mắt sáng mở to thấy lúa gạo, các thứ bất tịnh khác nhau. Đại Luận nói về tưởng xương, tức giải thích mười lực, bốn vô sở úy, mười tám bất cộng, v.v... cho đến tưởng thiêu đốt. Các luận sư nghi văn lầm, vì sao từ tưởng xương lại giải thích mười lực, vô sở úy? Nay Sư nói người không hiểu được ý luận, trong đây là tu cộng niệm xứ, lại xương người chẳng hư hoại đều thành giải thoát, ba minh, sáu thông, tám giải thoát đều đầy đủ. Thọ, Tâm, Pháp cũng giống như thế. Vì thành tựu Đại thừa nên chẳng phải luận lầm.
- Duyên niệm xứ: Duyên mười hai bộ kinh của Phật, bốn biện tài nói pháp đều vô ngại, giáo hóa chúng sinh, tâm duyên trùm khắp. Bốn loại tinh tấn của bốn niệm xứ gọi là bốn chánh cần. Bốn thứ định gọi là bốn như ý túc. Năm thiện sinh gọi là căn, phá phiền não gọi là lực. Phân biệt đạo dụng gọi là bảy giác chi. An ổn đi trong đạo gọi là tám chánh đạo.
Quán thân như huyễn hóa, chẳng dơ chẳng sạch. Nếu khởi kiến chấp cho là tịnh hay bất tịnh, vừa tịnh vừa bất tịnh, chẳng tịnh chẳng bất tịnh, đó là sự thật, nói khác là nói dối. Kiến chấp nầy là nương vào sắc. Nếu nói các thứ tịnh này quá khứ như khứ, chẳng như khứ, vừa như khứ vừa chẳng như khứ, chẳng phải như khứ chẳng phải chẳng như khứ. Vị lai hữu biên, vô biên, vừa hữu biên vừa vô biên, không phải hữu biên không phải vô biên, tức Ấm, lìa Ấm. Mười bốn câu vặn hỏi theo năm Ấm ba đời, sáu mươi hai thân kiến. Năm Ấm vô ký vô uế nầy đều có đủ ba giả.
Tịnh pháp trần đối với ý căn sinh ra ý thức, là ý sinh hay trần sinh? Là hợp sinh hay là sinh? Nếu ý sinh là tự sinh, cho đến lìa sinh là vô nhân, tức phá "nhân thành giả".
Nếu ý căn diệt sinh, chẳng diệt sinh, vừa diệt vừa chẳng diệt sinh, chẳng phải diệt chẳng phải chẳng diệt sinh đều rơi vào bốn câu thì phá "tương tục giả".
Nếu đợi không mà thức sinh, hoặc đợi có mà thức sinh, hoặc đợi vừa có vừa không mà thức sinh, nếu đợi chẳng phải có chẳng phải không mà thức sinh đều rơi vào bốn câu thì phá "tương đãi giả".
Sở phá năng phá có mười hai câu là phá mười bốn câu vặn hỏi, sáu mươi hai kiến bất tịnh trong hữu kiến. Trong vô kiến cũng có mười hai câu tam giả năng phá. Cũng có mười hai câu phá kiến chấp vừa tịnh vừa bất tịnh, vừa hữu vừa vô. Mười hai câu năng giả phá ba quán, cũng có mười hai câu phá kiến chấp chẳng phải tịnh chẳng phải bất tịnh, chẳng phải hữu chẳng phải vô. Cũng mười hai câu phá năng quán, cũng mười hai câu phá, dụng tánh niệm xứ quán nó để phá. Niệm xứ thân, chín mươi sáu câu phá sinh kiến chẳng thật có, thành vô sinh, thân tánh niệm xứ.
Kinh nói: Thọ thọ, thọ bất thọ, thọ vừa thọ vừa bất thọ, thọ chẳng phải thọ chẳng phải bất thọ. Lại nói: Hành cũng bất thọ.
- Thế nào là thọ thọ, bất hành cũng bất thọ?
- Thế nào là thọ bất thọ, hành bất hành cũng bất thọ?
- Thế nào là thọ vừa thọ vừa bất thọ, chẳng phải hành chẳng phải bất hành cũng bất thọ?
- Thế nào là thọ chẳng phải thọ chẳng phải bất thọ?
+ Thọ thọ nên là hữu kiến, là kiến nương thọ mà khởi.
+ Thọ bất thọ cho nên là vô kiến, là kiến nương thọ mà khởi.
+ Thọ vừa thọ vừa bất thọ nên là vừa hữu kiến vừa vô kiến, là kiến nương thọ mà khởi.
+ Thọ chẳng phải thọ chẳng phải bất thọ, nên là phi hữu phi vô kiến, là kiến nương thọ mà khởi.
Đây là sự thật, ngoài ra là nói dối, quá khứ như khứ, bất như khứ, vừa như khứ vừa bất như khứ, chẳng phải như khứ chẳng phải bất như khứ. Vị lai hữu biên, vô biên, cho đến chẳng phải hữu biên, chẳng phải vô biên, tức Ấm lìa Ấm là mười bốn câu vặn hỏi. Theo ba đời có sáu mươi, tức Ấm lìa Ấm họp thành sáu mươi hai. Trong hữu kiến tam giả năng sở có hai mươi bốn câu phá sinh kiến. Trong vô kiến tam giả năng sở cũng có hai mươi bốn câu phá kiến chấp vô sinh. Trong vừa hữu vừa vô kiến, tam giả năng sở có hai mươi bốn câu phá kiến chấp vừa sinh vừa vô sinh. Trong kiến chấp phi hữu phi vô, tam giả năng sở có hai mươi bốn câu phá phi sinh phi vô sinh, hợp thành chín mươi sáu câu phá sinh kiến thành vô sinh. Thọ tánh Tứ niệm xứ.
Quán tâm thường, vô thường cho đến Phi thường phi vô thường, là kiến nương thức mà khởi.
Quá khứ như khứ cho đến phi như khứ phi bất như khứ. Vị lai hữu biên vô biên, cho đến phi hữu biên phi vô biên, tức và lìa là mười bốn câu vặn hỏi; theo ba đời là sáu mươi, tức và lìa là sáu mươi hai kiến.
Trong thường kiến, tam giả năng sở có hai mươi bốn câu. Trong vô thường kiến, tam giả có hai mươi bốn câu.
Trong vừa thường vừa vô thường kiến, tam giả năng sở có hai mươi bốn câu.
Trong phi thường phi vô thường kiến, tam giả năng sở có hai mươi bốn câu, là chín mươi sáu câu phá sinh kiến thành vô sinh.
Quán hữu ngã, vô ngã, vừa hữu ngã vừa vô ngã, phi hữu ngã phi vô ngã là kiến đều nương theo pháp mà khởi. Bốn kiến quá khứ, bốn kiến vị lai, tức và lìa là bốn câu vặn hỏi trên. Theo năm Ấm ba đời là sáu mươi hai kiến. Trong hữu kiến tam giả năng sở phá có hai mươi bốn câu phá, ở sau cũng lệ theo đó, chín mươi sáu câu phá ngã kiến, đó gọi là bốn niệm xứ cho đến tám chánh đạo là ba mươi bảy phẩm trong phá thuộc kiến. Nên kinh nói: Ta dứt tất cả các kiến trói buộc v.v..., dùng đao trí tuệ cắt đứt.
Nếu Cộng niệm xứ quán chín tưởng, tám bối, v.v... tất cả thiền cũng được gọi là giải quán chẳng phải thật quán. Ba mươi bảy phẩm kể như trước, Thọ, Tâm, Pháp cũng như như thế.
Duyên niệm xứ quán trong kiến có tất cả Phật pháp, vô sinh, bốn đế, giáo lý, danh tự, cú nghĩa thông đạt không trệ ngại, tùy căn tánh ưa thích của chúng sinh mà đối trị thích hợp, dùng nghĩa Đệ nhất mà nói pháp cho họ. Đó là phá thuộc kiến, trong phiền não tu ba loại bố niệm xứ tướng riêng. Hỏi: Vì sao Thông giáo nói phi khổ phi lạc là ba mươi bảy phẩm kế ở trước, Thọ, Tâm, Pháp cũng giống như thế. Quả khổ chẳng phải khổ chẳng phải lạc, lẽ ra là lạc?
Đáp: Đây làm bốn câu. Nên nói chung phi khổ phi lạc. Đây khác bốn câu chẳng thể nói của Thông giáo, vì có nhân duyên nên nói phi khổ phi lạc, kết thành khổ vui sinh diệt, là ý của Ba Tạng. Nếu phi khổ phi lạc kết thành khổ vui của không khổ không vui thì thuộc về Thông giáo.
Tịnh Danh nói năm nghĩa của Ca-chiên-diên:
Năm thọ Ấm thông đạt không, không có chỗ khởi là nghĩa khổ, kết niệm xứ Thọ.
Như quán Bất Tịnh trong Đại Phẩm, tức là Đại thừa đều không thật có, nên dùng tâm bất tịnh này quán sắc. Tự nghĩ thân ta chưa thoát khỏi pháp này. Chưa khỏi sinh trong ba cõi, còn phải thọ trăm ngàn sinh tử, nên nói chưa thoát pháp này. Dẫn phẩm Quảng Thừa thành niệm xứ Thân.
Các pháp bất sinh bất diệt là nghĩa vô thường, kết thành Tâm niệm xứ quán.
Đối với ngã vô ngã mà chẳng hai là nghĩa vô ngã, kết thành Pháp niệm xứ quán.
Nếu kết phi thường phi vô thường thành thường, phi cấu phi tịnh kết thành tịnh; phi khổ phi lạc kết thành lạc; phi ngã phi vô ngã kết thành ngã tức thành nghĩa của Biệt giáo. Thường, lạc, ngã, tịnh dứt hoặc, trải qua Biệt giáo mà chứng.
Nếu làm phi cấu phi tịnh chiếu soi cả cấu tịnh, phi khổ phi lạc chiếu soi cả khổ lạc, phi thường phi vô thường chiếu soi cả thường, vô thường, phi ngã phi vô ngã chiếu soi cả ngã vô ngã, kết thành Viên giáo. Viên tâm tu tập chẳng dứt phiền não mà nhập Niết-bàn.
Ở trong Càn Tuệ địa tu ba thứ bốn niệm xứ tướng chung. Như trong Ba tạng trước phân biệt. Nhưng có khác thể như huyễn như hóa, pháp tức không. Đó là vô sinh bốn niệm xứ tướng chung. Nếu là niệm xứ tướng chung tu thân tức không, tất cả pháp Ấm-nhập-giới cũng giống như thế. Đó là niệm xứ thân. Thọ, tâm, pháp cũng giống như thế. Quán vị này là niệm xứ tướng chung.
Tu bốn chánh cần, như ý, căn, lực, giác, đạo, ba mươi bảy phẩm. Cộng và duyên niệm xứ cũng giống như thế. Tuy chưa phát tướng noãn, mà tương tự nước pháp vô lậu. Mà quán năm Ấm Tổng tướng, trí tuệ sâu xa, bén nhạy hơn niệm xứ Biệt tướng. Cho nên gọi niệm xứ tướng chung, thuộc càn Tuệ địa ngoại phàm.
Bích-chi-ca-la danh mục lớn nhỏ, như trước cũng tu ba thứ niệm xứ mười hai nhân duyên. Vô minh quá khứ chỉ là phiền não bất tịnh. Các hành năm Ấm chỉ là năm Ấm thiện ác. Từ thức cho đến thọ là quả báo năm Ấm vô ký. Hoặc thô hoặc tế, đều quán như huyễn như hóa. Đó gọi là Tánh niệm xứ nhân duyên giác. Cộng và duyên niệm xứ theo như trước.
Cũng có ba loại tánh, cộng, duyên để quán ba hạng người Đại, Tiểu.
Bồ-tát phát tâm Bồ-đề, từ bi, thệ nguyện quán ba loại niệm xứ Thân, Thọ, Tâm, Pháp này. Lúc tu tánh thân, quán thân sắc nầy đều vô sinh, như huyễn, như hoá có thể phát các pháp Noãn, Đảnh, v.v... thành tựu năm pháp quán dừng tâm.
Bốn niệm xứ tướng chung của Biệt giáo gọi là Phục nhẫn. Bốn thiện căn gọi là Nhu thuận nhẫn. Tám nhân địa phát chân dứt kiết gọi là Vô sinh nhẫn. Tu-đà-hoàn gọi là quả Vô sinh pháp nhẫn, Tư-đà-hàm gọi là Du hý thần thông. A-na-hàm gọi là Ly dục thanh tịnh. A-la-hán gọi là Dĩ biện địa (việc làm đã xong). Bát địa gọi là Bích-chi-phật địa. Tánh niệm xứ quán thành tựu, phá giới nội kiến-tư hoặc chung, được nhất thiết trí, bằng với A-la-hán.
Bát địa tu giới nội đạo chủng trí, phá giới nội trần sa, vô tri là Cộng niệm xứ.
Cửu địa trở lên học nhất thiết chủng trí là Duyên niệm xứ.
Thập địa nên biết là như Phật, Phật là Phật của Thông giáo, thành tựu bốn khô, trang nghiêm song thọ; nên nói Bốn niệm xứ ngồi đạo tràng, dứt hoặc chung, chánh tập dứt, thấy được lý thiên chân (chân lý còn thiên lệch). Đối với Nhị đế quán chiếu thuần thục, đó là ngồi đạo tràng.
- Bát Niết-bàn là hai loại Niết-bàn hữu dư và vô dư.
- Xoay bánh xe pháp là xoay bánh xe pháp thiên chân vô sinh của Thông giáo, khiến tất cả chúng sinh đồng nhập pháp tánh thiên chân, chẳng phải pháp tánh Trung đạo bất không. Kinh Pháp Hoa chép: Chúng ta đồng vào pháp tánh, chẳng thấy Phật tánh. Nhị thừa đều được lý này và có ngồi đạo tràng, xoay bánh xe pháp. Mà La-hán chẳng dứt tập khí, chỉ là bốn khô, trang nghiêm song thọ. Nhưng Ba Tạng là quán môn độ vụng, đã vụng mà hiểu không cũng cạn. Như năm nghĩa của Cachiên-diên là thể của Thông giáo, quán môn giả nhập vào không đã sâu. Ba Tạng là sự quán, là sơ sài. Thông giáo là lý quán, là dày kín. Ba Tạng gá sự là ngụy, Thông giáo duyên lý là chân. So sánh đến lúc chứng được chân thì không còn khác nhau.
Chia làm ba phần:
1. Đại ý.
2. Năm dừng.
3. Niệm xứ.
Bốn câu tuy lược, nhưng thu nạp hết, hoặc dứt hoặc nói, hoặc thế, xuất thế đã nói như trên. Nay nương bất sinh mà sinh để nói về Biệt giáo. Trung Luận gọi giả danh tức là câu này.
Bốn môn của Biệt giáo còn chỉ cho đại thừa. Kinh nói Phật tánh như nhà tối, bình-bồn, bảy báu trong giếng là hữu môn. Phật tánh chúng sinh ví như hư không, rốt ráo thanh tịnh là Không môn. Ví như trong sữa cũng có tánh lạc, cũng không có tánh lạc, là môn vừa có vừa không. Phật tánh chẳng phải không chẳng phải có, là môn thứ tư. Tuy kể bốn môn nhưng nói hay hành phần nhiều dùng môn vừa có vừa không.
Hỏi: "Môn Hữu" có thể nói về Phật tánh. "Môn Không" tại sao có tánh, lại lạm vào Thông giáo?
Đáp: Biệt giáo là chẳng những không, do đó được thấy Phật tánh. Thông giáo chỉ hạn cuộc không, "chẳng những không" hạn cuộc rộng rãi, làm sao lạm qua nhau được?
Các môn của các kinh kể vị thứ, số vị thêm bớt, Kinh Hoa Nghiêm ban đầu không có Thập Tín, sau không có Đẳng giác, đối với Thập Trụ phần nhiều nó về nghĩa Viên giáo. Ở trong phần Đăng địa, phần nhiều nói về nghĩa Biệt giáo. Dù Trụ, dù Địa đều nêu hạn vị của giới ngoại, không nói giới nội, v.v...
Phương đẳng, phần trước đối duyên nói tản mác về đắc đạo mà thôi, chưa nói về địa vị. Đến kinh Anh Lạc thì tổng kết cấp bậc, nói về năm mươi hai địa, số trước sau tề chỉnh, giới nội cũng rõ ràng.
Các kinh Bát-nhã, phần trước cũng đối duyên mà nói tản mác, cũng chưa có giai cấp. Kinh Thắng Thiên Vương chỉ nói về Thập Địa, trước không có ba mươi tâm, sau không có Đẳng giác. Kinh Tân Kim Quang Minh không trước không sau chỉ nói về Thập địa. Kinh Nhân Vương, Bát-nhã nói năm mươi mốt vị, không có Đẳng giác. Suy ý các kinh như Quân Soái đánh giặc xong, mới trình bày công lao, định tước lộc, do đó trước tản sau kết.
Hỏi: Pháp Hoa là kinh sau, sao không nói về địa vị?
Đáp: Trước nói về trước sau của một bộ. Pháp Hoa là sau của một kỳ, vì Anh Lạc kết các kinh Phương Đẳng, Nhân Vương, kết Bát-nhã xong, Pháp Hoa ở sau không nói về vị thứ, chỉ quyết rõ các quyền mà vào thật. Kinh Niết Bàn cũng chẳng nói về vị thứ, đồng khai Phật tánh nhập tạng Bí mật. Nhưng nghĩa của các địa rất sâu xa, không phải Thánh chứng thì không rõ được, phàm phu thấp kém chẳng biết, đối duyên thêm bớt, tùy cơ rộng lược, xuất hiện hay chìm lặng phải như thế. Chỉ thuận theo lời Phật, nương Tu-đa-la, không được chấp đây trách kia, mỗi bên ganh đua phi pháp, chê người, vu Phật báng kinh v.v... Sư Nam Nhạc giải thích Đại phẩm có ba chỗ nói về địa vị. Trước tiên có bốn mươi hai tự môn, trước chữ A, sau chữ Trà, đều đủ tất cả pháp, phán thuộc bốn mươi hai vị của Viên giáo. Kế nói về Sơ địa tu trị địa nghiệp cho đến Thập Địa tu trị địa nghiệp, thuộc về vị của Biệt giáo. Sau cùng nói về Càn Tuệ địa cho đến Phật địa, thuộc về vị của Thông giáo. Đây thật được sâu ý kinh; nghĩa văn sáng sủa. Nhưng các kinh Đại thừa một đời của Phật, các môn khác nhau, vị số khác. Người tu hành chọn dùng mỗi người một khác. Nếu luận số đúng đắn nhất nên y theo kinh Anh Lạc. Nếu theo thứ lớp ba quán, thì phải nương Đại phẩm. Nếu phàm phu được thọ ký phải nương kinh Niết-bàn, số hoàn chỉnh có thể hiểu.
Người tu theo Ba quán, muốn đem tuệ đạo để làm đầy đủ đạo chủng tuệ thì nên học Bát-nhã. Muốn dùng đạo chủng tuệ đầy đủ Nhất thiết trí, thì nên học Bát-nhã. Muốn dùng Nhất thiết trí để đầy đủ Nhất thiết Chủng trí, nên học Bát-nhã. Muốn dùng nhất thiết chủng trí để dứt phiền não và tập khí, nên học Bát-nhã. Năm phương tiện đầu hàng phục hoặc kiến, tư, quán từ giả vào không. Thập trụ là tuệ đạo, dứt kiến tư, từ không vào giả học đạo chủng tuệ, dứt hoặc trần sa. Nếu từ giả vào không là phá thiên giả, từ không vào giả là phá thiên không. Đến Thập Hồi Hướng học Nhất thiết trí chẳng giả chẳng không, hàng phục vô minh. Đăng địa được Nhất thiết chủng trí. Hoặc đến Đẳng giác cùng lúc dứt phiền não và tập khí. Hoặc không nói về Đẳng giác, chỉ Thập địa dứt phiền não. Cho nên Ba quán nâng đỡ nhau, v.v... hoặc kinh Anh Lạc nói về Thập Tín, Thập Trụ là Tập chủng tánh, Thập hạnh là Đạo chủng tánh, Thập hồi hướng là tánh chủng tánh, Thập địa là Thánh chủng tánh, Đẳng giác tánh, Diệu giác tánh. Sơ lược thì có bảy vị, rộng thì năm mươi hai vị. Nương Niết-bàn năm hạnh, mười công, năm vị; Bán Mãn thứ lớp giúp nhau. Bắt đầu từ phàm phu được thọ ký tu học có đủ Biệt, Viên, giới nội, giới ngoại. Ý của bốn loại Tứ đế:
Bồ-tát trụ Kham nhẫn địa, trong vị Thiết luân tu Tứ đế sinh diệt.
- Trong Thập trụ tu Tứ đế vô sinh.
- Trong Thập hạnh tu Tứ đế vô lượng.
- Trong Thập hồi hướng tu tương tợ Tứ đế Vô tác.
Bồ-tát Đăng địa, trong kiến được nhất thiết chủng trí, năm hạnh, mười công.
Hỏi: Tạng, Thông vì sao được nhập vào Niếtbàn tu học?
Đáp: Niết-bàn đề cao luật mà nói nên gọi là chuộc mạng, nếu Biệt, Viên có pháp thân tuệ mạng, thì đâu cần chuộc mạng? Chuộc mạng ý tại mạng của Tạng, Thông, dứt như tro nguội, để được pháp thân thường trụ.
Hỏi: Ba tạng là tuệ sinh diệt, làm sao chuộc thành tuệ thường trụ.
Đáp: Nay Niết-bàn dẫn trong Tạng, Thông dứt tâm như tro nguội, chẳng rõ Phật tánh. Nay đều dẫn cho thấy Phật tánh, nên biết ba tuệ được phán đoán khác nhau. Lúc trước nếu nói về giới thì các giới năm chi Tiểu thừa không có. Nếu nói theo tám bối xả, trong Thập tín hàng phục Thông hoặc, trụ Kham nhẫn địa, giáo hóa chúng sinh, đâu đồng với nhị thừa?
Hỏi: Làm sao biết được?
Đáp: Một là vì nghĩa suy rất dễ thấy, hai là vì tướng Thanh văn khác.
Hỏi: Biệt giáo Đăng địa vẫn dùng tên gọi Thông giáo ở giới nội gọi là nghĩa Tứ y. Vì sao mà không dùng phương tiện giới nội?
Đáp: Tức dùng được, đã dùng tên của Thông giáo gọi là Đoạn đạo, sao lại không dùng phương tiện hàng phục đạo những vị như Noãn, v.v... Lại nữa, Phật pháp gọi là Giáo. Thông giáo dùng Tiểu thừa gọi là Giáo, trong phương tiện vẫn dùng Đại thừa phương tiện đạo, thấy đế đoạn đạo vì sao không dùng? Cái gọi là Biệt giáo có tám nghĩa: Lý, giáo, trí, đoạn, hạnh, vị, nhân, quả, v.v...
- Lý biệt là lý của Ba đế. Lý riêng không cho tin mà tu, từ cạn tới sâu trải qua Biệt có khác. Từ cạn khác với sau, sâu khác với trước, ngay thể gián cách, đó là lý biệt.
- Giáo biệt là Phật nhật chiếu Bồ-tát trước, nhị thừa còn câm điếc huống chi là phàm phu. Kinh Anh Lạc, Nhân Vương, Địa Luận, Nhiếp Luận chẳng nói về giới nội nên phàm Thánh nghe khác. Đại Luận nói:
1. Cùng thuyết với Thanh văn. 2. Chẳng cùng thuyết. Chẳng cùng thuyết tức là Giáo biệt. Đại kinh năm hạnh chẳng dung. Đại phẩm ba tuệ thuộc ba hạng người. Thích luận giải thích rằng thật là một pháp. Vì hướng về người mà nói cho dễ hiểu. Ba tuệ là ba, như cùng lúc nói ba tướng, đây là Giáo biệt.
- Trí biệt là ý của Viên giáo khó hiển bày, phải nhờ phương tiện rồi mới thấy, như nhờ tác để nhập vào vô tác, nhờ vô thường để nhập thường. Ngoại đạo vặn hỏi nhân vô thường quả làm sao thường? Phật đáp: Ông nhân là thường mà quả vô thường, vì sao chẳng chấp nhận trong pháp ta nhân vô thường mà quả là thường?...
- Bồ-tát Biệt giáo muốn học Phật tánh thường trụ, trước tu Tứ Thánh đế vô lượng, sau quán thật tướng Trung đạo của các pháp. Phật tánh bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, thứ lớp tầng bậc, trước quán không, kế học Hằng sa Phật pháp, sau mở Như lai tạng. Lần lượt tu ba nhãn, ba trí. Đó là Trí biệt.
- Dứt hoặc biệt là như kinh Vô Lượng Nghĩa chép: Tánh dục của chúng sinh vô lượng, vì tánh dục vô lượng nên nói pháp vô lượng, nói pháp vô lượng nên thuốc bệnh vô lượng, thuốc bệnh vô lượng nên thông, bít vô lượng. Phân biệt tính toán, sinh diệt, không sinh diệt, vô lượng vô tác, khổ-tập-diệt-đạo đều vô lượng, che đậy Như lai tạng tăm tối nên gây ra nghiệp hai mươi lăm cõi, chịu các sinh tử, thương xót đêm dài này, phát tâm Bồđề, phát bốn thệ nguyện rộng lớn, tự thoát khỏi vô lượng trói buộc, cũng giải thoát vô lượng trói buộc cho chúng sinh. Đó là dứt hoặc biệt.
Các hạnh, vị, nhân, quả v.v... rất dễ biết.
Hỏi: Vô tác đã cao siêu, sao không duyên vô tác mà phát tâm Bồ-đề?
Đáp: Biệt giáo cho vô tác là quả; quả chẳng chung nhân, nên chẳng phải ý chính phát tâm. Ý là duyên vô lượng phát tâm, đến quả mới thành vô tác.
Hỏi: Nếu vậy, Sơ địa đã được vô tác, sao ý không duyên để phát tâm?
Đáp: Sơ địa được một phần, đến Diệu giác mới rốt ráo, cũng như ba tạng, ban đầu sinh diệt, đến quả mới Vô sinh. Thông giáo thì không như thế, phát tâm liền quán vô sinh. Biệt giáo thì ban đầu duyên vô lượng, sau mới vô tác. Viên giáo phát tâm, ban đầu phải vô tác.
Đại ý đã xong
Ba tạng trước, sổ tức, bất tịnh v.v..., dừng tâm sơ sài việc luống dối. Thông giáo do quán dứt, chẳng sinh chẳng diệt, dừng tâm ngay sự mà lý gần khít chân thật. Nay Biệt giáo dùng căn bản trì giới. Nếu ta trụ thế cũng không khác đây tức Phật, nương đây mà trụ tức tăng, tuy vậy, nhìn về ba tạng là khít là chân. Nhìn về thật tướng thì chẳng gần, chẳng khít, chẳng chân, chẳng lý, khác với trước, khác với sau, giữa, cuối và đầu, nghĩa này rất dễ biết, v.v...
Đại Kinh chép: Bồ-tát nghĩ rằng: Xuất gia rộng lớn như hư không, tất cả pháp lành do đó tăng trưởng. Tại gia ép ngặt như lao ngục, tất cả pháp ác do đó mà sinh. Vào đến tăng phường, nghe Phật có đạo vô thượng, Chánh pháp vô thượng, Chánh hạnh của đại chúng liền cầu xuất gia. Phật là bậc Quả của chẳng phải quả. Vô thượng đạo là tuệ, Thánh hạnh, chánh pháp là định, Thánh hạnh, đại chúng là giới, Thánh hạnh. Đây là nhân của chẳng phải nhân. Lúc Bồ-tát thọ trì như ôm phao nổi lội qua biển lớn. Bấy giờ, La-sát Ái-kiến đến xin phao nổi, hoặc xin hết, hoặc xin một nửa, hoặc bằng cánh tay, hoặc ngón tay, hoặc bằng hạt bụi. Khiến ông an ổn được vào Niết-bàn, vừa lòng vui thích gọi là Niết-bàn. Độn sử làm ác phần nhiều rơi vào ba đường; Lợi sử chấp cái thấy của mình, phá giới cũng đọa ba đường; hoặc tuy chấp kiến mà tu thiện thì phần nhiều được sinh lên trời, lâu sau lại bị đọa, nếu không theo ái kiến sẽ sinh ra năm chi nhánh của giới:
Căn bản nghiệp thanh tịnh giới: Bốn giới trọng.
Trước sau quyến thuộc, dư thanh tịnh giới: Trước sau là phương tiện Thâu-lan-già, v.v... Dư là các thiên, v.v... Chẳng phải các ác giác.
Giác thanh tịnh giới là định cộng giới.
Hộ trì chánh niệm niệm thanh tịnh giới là đạo cộng giới.
Hồi hướng Bồ-đề là giới Đại thừa.
Sau có chín loại tương tự với mười loại của Thích luận.
Giới thanh tịnh là thọ trì được thanh tịnh.
Giới thiện pháp là động và bất động đều là Tỳ-ni.
Nếu hộ trì chẳng phạm, sinh hai thiện chỉ và hành là pháp.
Giới bất khuyết: Ngũ thiên không phá.
Giới bất tích: Tách giả nhập không và thể giả nhập không đều là đạo cộng giới.
Giới Đại thừa: Tức Bồ-tát Sơ tín tâm. Kinh nói: Các ông chỉ phát tâm Bồ-đề thì cấm giới xuất gia đã đầy đủ.
Giới bất thối: Tức Thập trụ không lui sụt.
Giới tùy thuận: Đối với Thập hành tùy theo đạo giới.
Giới cứu cánh.
Giới hồi hướng: Đoạn tập khí chánh của giới nội.
Giới Cụ túc chư ba-la-mật: Lên Sơ địa cho đến Đẳng giác.
Trong một giới đầy đủ từng ấy pháp môn, tức là dừng tâm của Biệt giáo, như sổ tức ở trước là điều quan trọng của thân mạng. Nay giới là gốc của pháp, là cội nguồn của đạo, nên dùng giới để dừng tâm. Bồ-tát tuy tin Phật pháp, đối với lý thường trụ đã hiểu rõ ràng, nhưng vẫn còn tự giác quán, không trụ là chân mà chẳng phải thiện. Bấy giờ, lại học Định Thánh hạnh dừng tâm, tức là cộng niệm xứ. Y kinh tức là Tùy tức dừng tâm. Đây biết A-na (quán) thở ra thở vào, dài biết dài, ngắn biết ngắn; Trước tiên trị giác quán phát tịnh căn bản, thông sáng đặc biệt, v.v... trong sạch như mở kho thấy lúa thóc. Kinh nói: Lại có phạm hạnh là thấy ba mươi sáu vật trong thân, là tu thật quán niệm xứ. Kế đó, quán bất tịnh trị tham dục. Kinh nói: Lại có Thánh hạnh là trừ bỏ da thịt, quán kỹ xương trắng trong mỗi đốt có ngã hay chăng? Lúc quán như thế liền thấy trong xương có các màu xanh vàng đỏ trắng là bối xả định tướng cõi Dục, bốn sắc chuyển sáng, tâm hợp với mầu xanh nên tất cả đều xanh. Những mầu khác cũng vậy, là tướng của Vị đáo địa. Bấy giờ chẳng hoại nội sắc, chẳng hoại ngoại sắc, trong ngoài đều chẳng diệt sắc tướng. Dùng tâm bất tịnh nầy quán sắc trong ngoài liền thấy tám mầu trong xương trên trán, ánh sáng chói lọi chiếu ra khắp thiên hạ, tức là tướng Sơ thiền giác chi. Thanh văn chỉ có ánh sáng không thấy Phật, Bồ-tát tu niệm Phật nhiều thì thấy Phật, hoặc được nghe nói pháp, tức thuộc về Sơ bối xả sơ thiền; bên trong không sắc tướng.
Dùng tâm bất tịnh nầy quán ngoại sắc: Bên trong diệt xương người, dùng tâm bất tịnh quán ngoại sắc. Ngoại sắc có hai:
Sắc ngoài thân tức là thây chết, v.v...
Xương người phát ra ánh sáng tám mầu là sắc giới ngoại.
"Sở dĩ phải quán" là bỏ cõi Dục dùng gần để ngừa lỗi, nên nội sắc ngoại sắc của cõi Dục đều bất tịnh.
Nên nói dùng tâm bất tịnh quán ngoại sắc.
Nếu làm phương tiện của người tu thì tự có pháp quán diệt bỏ xương người. Nay cái gọi là chứng pháp thấy xương người, tự nhiên tiêu mất chẳng thấy, chỉ có tám mầu và bên ngoài bất tịnh nên nói nội vô sắc ngoại quán sắc. Lúc xương người nầy diệt thì có tướng của Vị đáo địa; cùng là Sơ thiền diệt, Nhị thiền nội tịnh khởi. Lúc khởi tám mầu càng sáng theo, xanh vàng đỏ trắng không phải như trước. Cũng có nội tịnh hỷ lạc, nhất tâm. Bốn chi khác nhau căn bản, thông sáng đặc biệt, thuộc về nhị bội xả, nhị thiền.
Tam tịnh bối xả lúc thân tác chứng là tướng Tam thiền. Luận cũ chép: Tam thiền không có thắng xứ, Tứ thiền không có Bối xả. Thích luận nói tịnh bối xả thân tác chứng, Tam thiền khắp thân vui thích là chứng, Tứ thiền không lạc, thân tác chứng chỗ nào? Các nhà luận Thành Thật cộng chung ba thiền làm một tịnh bối xả. Nay cộng hai thiền Tam và Tứ thung dung thành một tịnh bối xả cũng được. Tam thiền thân chứng là cửa đầu tiên của tịnh bối xả, thành tựu ở thiền thứ tư, thứ tứ thiền đầy đủ thắng xứ.
Vì sao nói là Tịnh? Đại luận chép: Duyên tịnh nên tịnh. Tám màu là tịnh. Pháp chưa được luyện không được tịnh. Nay pháp Tam thiền, Tứ thiền khởi lên chạm tám mầu này là duyên tịnh Tam thiền, Tứ thiền, v.v... Đây là sắc cực tịnh của cõi Sắc. Dùng đây làm duyên nên nói là duyên tịnh xúc, tám mầu càng tịnh nên nói duyên tịnh là lạc khắp thân thọ. Nên biết tịnh trong Tam thiền nầy có bốn nghĩa: Ba nghĩa Như lai bối xả trước, tức là duyên tịnh nên tịnh ý này.
Bốn không, Bốn bối xả, Vô sắc không còn có pháp khác, chỉ dùng tâm không, vô tướng để tu. Như phàm phu từ địa địa ái nhiễm, bậc Thánh tâm sâu xa trí tuệ bén nhạy, đi thẳng không trở lại, nên gọi là Bối xả.
Hỏi: Luận cũ nói: Ở đây không có pháp khác, chỉ dùng vô lậu tu.
Điều này có thể được. Còn ở trước vì sao không có pháp khác?
Đáp: Không thể chỉ thiền cũ là pháp khác, không thể chỉ Tà thiền, quỷ định, việc ngoại đạo là pháp khác v.v... Nay Tứ thiền được tu nếu không đắc thiền thì quán không thành, dù tu tuy không phát vô lậu cũng gọi là tu Bối xả mà không gọi là giải thoát. Nếu có tập khí cũ phát ra thì đây đâu có ngại gì. Chỉ có một Bối xả Diệt thọ, nếu không được vô lậu thì tu không thành, nên không luận sự phát tập khí cũ.
Chín thứ đệ sư tử siêu vượt, v.v... trong Ba tạng không có phàm phu tu được định này. Đại thừa thì có, v.v...
Kế đến là Đại bất tịnh, cũng gọi là đại bối xả. Vì giả tưởng, sức chán ghét nhỏ. Nếu giả tưởng chán ghét lớn đều do sở duyên rộng hẹp. Nếu quán xương người bất tịnh trừ bỏ thịt da, hoặc quán một thây, một cặp, thành ấp xóm làng v.v... tất cả chánh báo, nên nói tiểu bất tịnh, tiểu bối xả. Nếu đại bất tịnh thì là y báo, cõi nước, tiền tài, thóc lúa tơ lụa, núi sông, vườn rừng, sông rạch, ao hồ, đất đai, tất cả sắc pháp đều là bất tịnh. Trùng mủ chảy ra hôi tanh nhơ nhớp. Núi như đống mủ, sông biển dơ đục, y phục như da thây chết hôi thúi, thức ăn uống đều như trùng dịch. Đại Kinh nói: Quán canh ngon ngọt tưởng như nước dơ, cơm như đống trùng, nhà như gò mả, đất đai không chỗ nào đáng yêu. Như huyễn thuật gạt người, nay thần thông đắc đạo lý của pháp nên bơ sáp, vàng sắt gặp Ấm thì chảy, gặp lạnh thì kết băng. Phàm phu gặp duyên tịnh thì thành tịnh, gặp duyên bất tịnh liền bất tịnh. Đạt được đạo lý này thì được sự chuyển biến của nó. Vì xưa từng tu được, nay phát tu tập xưa, nên đất đai y báo, chánh báo đều bất tịnh. Sơ học chợt có hưng phế, vài lần tập thành tánh, tự nhiên bất tịnh, thí như dùi lửa phát cháy không chọn củi. Cho đến sông ngòi khô cạn, quán này cũng như vậy. Ban đầu chỉ một thây, hai thây, một hai làng xóm. Nếu thành thế lực lớn, tất cả y báo, chánh báo đều bất tịnh cả. Nên nói là đại bất tịnh quán. Lại, người có phước cảm được sắc thân thanh tịnh, lại người tâm chấp tịnh nặng, cấu uế nhẹ. Phá chấp lớn này đều là bất tịnh, không nên cố chấp, núi sông đất nước mà nói là tịnh. Như Tăng Hộ thấy địa ngục, có một trăm hai mươi lăm chỗ. Thấy mặt đất là thân bị người ta cày, kêu là khổ não. Đây gọi là địa ngục ruộng. Lại thấy thân là cây, các khổ chứa nhóm, cong queo lắt léo như núi như nhà, các pháp sự như quần áo, nhà tắm, v.v... thảy đều chịu khổ. Vì sao? Xưa gặp cảnh sinh tâm dính mắc khởi tâm yêu thích, nay gặp cảnh dơ xấu chịu khổ. Bây giờ, vì chuyển sự ái nhiễm này mà tu quán đại bất tịnh, phá tịnh điên đảo cũng gọi là đại bất tịnh đại bối xả. Nếu là phàm phu tu tám thiền, chỉ từ địa dưới, không trừ địa của mình, còn đệ tử Phật tu có thể trừ địa bên dưới cũng trừ cả địa của mình; chưa phải là vô lậu không thể trừ địa trên. Nếu duyên vô lậu thông thì địa của mình, bên dưới, bên trên đều sẽ trừ hết.
Nếu bên trong quán xương người, bên ngoài quán sắc gọi là Sơ bối xả thuộc về Sơ thiền. Nếu bên trong Vô sắc ngoài quán sắc, tám sắc bên ngoài y báo chánh báo đều bất tịnh thì gọi là Nhị bối xả, thuộc về Nhị thiền. Hai bối xả này theo y báo, chánh báo mà định ra đại, tiểu. Nếu Tam thiền nhập tịnh bối xả thì bất luận. Vì sao? Vì căn bản là Tiểu thì được bất tịnh thành Tiểu bối xả, nếu căn bản là Đại thì thành Đại bối xả. Cho đến Bốn không, Diệt thọ cũng theo như thế, v.v... Nếu theo hai bất tịnh làm thắng xứ, lại nương y báo, chánh báo mà định ra đại, tiểu. Nếu theo nhiều ít, đẹp xấu thành tiểu thắng xứ. Cũng theo y báo, chánh báo, nhiều ít, đẹp xấu thành đại thắng xứ. Sở dĩ tâm chán ghét chưa thể chuyển biến tự tại, thắng xứ lại chưa thuần thục. Một thây ít, hai thây nhiều; mười ít, trăm nhiều; một nước ít, đại thiên nhiều; cơm áo nhiều ít cũng vậy.
Ban đầu chưa thể nhiều, tập ít đã thành liền có thể nhiều. Nay phát trở lại. "Hoặc đẹp hoặc xấu": Đây là theo hai báo làm đẹp xấu, xinh đẹp, xấu xa; trí tuệ, ngu si; giàu nghèo, sang hèn mà nói về đẹp xấu, đẹp xấu đều bất tịnh, đây cũng là tiểu bất tịnh. Đại thì núi đẹp, núi xấu; nước đẹp, nước xấu; đẹp xấu đều bất tịnh, đây tức là Đại. Kế đó y báo, chánh báo đều xấu, xương người phát ra tám mầu là đẹp. Hai thứ nầy đều bất tịnh mà gọi là đẹp xấu. Đây là thắng xứ thuộc về Sơ thiền.
Nếu trong không sắc, ngoài quán sắc hoặc nhiều hoặc ít, hoặc đẹp hoặc xấu, thắng tri thắng kiến thuộc về Nhị thiền. Tuy không xương người mà ngoài có tám mầu, lại có y báo chánh báo, hoặc nhiều hoặc ít đẹp xấu như trước v.v... "Thắng tri, thắng kiến" là rõ tâm nầy đối với sắc không bị sắc trói buộc. Tâm có thể chuyển sắc nên nói là thắng tri, thắng kiến. Tịnh, bất tịnh v.v... đều ở tâm mình có thể được tự tại quán giải thành tựu nên nói thắng tri thắng kiến. Hành giả lúc quán thắng như thế, chẳng lẽ lại tham luyến ở đời. Thân mình còn chẳng tiếc, thì đâu có tham cái khác? Các bậc hiền Thánh xưa bỏ ngôi báu, nhường nước; dắt trâu rửa tai đều là xưa đã trải qua thành tựu điều này. Nay đối với năm dục không có ý nhiễm nữa. Nếu không được tâm này, tham năm dục sau khi chết. Bốn thắng xứ ở trong Tứ thiền, Tam thiền vị lạc nhiều không thể chuyển biến. Đối với pháp Thanh văn như thế, Bồ-tát há không có thắng xứ hay sao? Đại Luận nói: Xanh vàng đỏ trắng, Anh Lạc nói: Đất, nước, lửa, gió, ở đây cũng không đúng. Trong hữu kiến, tam giả năng sở phá có hai mươi bốn câu phá, sau cũng vậy, chín mươi sáu câu phá ngã kiến. Đó gọi là bốn niệm xứ cho đến tám chánh đạo, là ba mươi bảy phẩm trong phá thuộc kiến. Nên kinh nói: Ta dứt tất cả các kiến trói buộc, v.v..., dùng đao trí tuệ, chặt đứt.
Nếu cọng niệm xứ quán chín tưởng, tám bối, v.v... tất cả thiền cũng gọi là được giải quán chẳng phải thật quán. Ba mươi bảy phẩm kể như trước, Thọ, Tâm, Pháp cũng giống như thế.
Duyên niệm xứ quán trong kiến có tất cả Phật pháp, vô sinh, Bốn đế, giáo lý, danh tự, cú nghĩa thông đạt không trệ ngại, tùy căn tánh ưa thích của chúng sinh mà đối trị cho thích hợp, dùng nghĩa đệ nhất mà nói pháp cho họ nghe, đó là phá thuộc kiến, trong phiền não tu ba loại bốn niệm xứ tướng riêng.
Hỏi: Vì sao Thông giáo nói phi khổ phi lạc là ba mươi bảy phẩm kể ở trước, Thọ, Tâm, Pháp cũng giống như thế. Quả khổ chẳng phải khổ chẳng phải lạc, lẽ ra là lạc?
Đáp: Ở đây có bốn câu, nêu luận chung phi khổ phi lạc. Ở đây khác bốn câu chẳng thể nói của Thông giáo, vì có nhân duyên nên nói phi khổ phi lạc, kết thành khổ vui sinh diệt, là ý của Ba tạng. Nếu phi khổ phi lạc kết thành khổ vui của không khổ không vui thì thuộc về Thông giáo. Tịnh Danh nói năm nghĩa của Ca-chiên-diên:
Năm thọ Ấm thông đạt không, không sinh khởi là nghĩa khổ, kết niệm xứ thọ.
Như quán Bất tịnh trong Đại phẩm, tức là Đại thừa đều không thật có, nên dùng tâm bất tịnh này quán sắc. Tự nghĩ thân ta chưa thoát khỏi pháp này. Chưa khỏi rơi vào ba cõi, còn phải chịu trăm ngàn sinh tử, nên nói chưa thoát pháp này. Dẫn phẩm Quảng Thừa thành niệm xứ Thân.
Các pháp bất sinh bất diệt là nghĩa vô thường, kết thành tâm niệm xứ quán.
Đối với ngã vô ngã mà chẳng hai là nghĩa vô ngã, kết thành pháp niệm xứ quán.
Nếu kết phi thường phi vô thường thành thường; phi cấu phi tịnh kết thành tịnh; phi khổ phi lạc kết thành lạc; phi ngã phi vô ngã kết thành ngã thì thành nghĩa của Biệt giáo. Thường, lạc, ngã, tịnh dứt hoặc, trải qua Biệt giáo mà chứng.
Nếu thực hành phi cấu phi tịnh, soi chiếu cả cấu tịnh, phi khổ phi lạc chiếu soi cả khổ lạc, phi thường phi vô thường chiếu soi cả thường, vô thường, phi ngã phi vô ngã chiếu soi cả ngã vô ngã, kết thành Viên giáo. Viên tâm tu tập chẳng dứt phiền não mà nhập Niết-bàn.
Ở Càn Tuệ địa tu ba loại Bốn niệm xứ tướng chung. Như trong Ba tạng trước phân biệt, nhưng có khác thể như huyễn như hóa, pháp tức không. Đó là vô sinh Bốn niệm xứ tướng chung. Nếu là tướng chung niệm xứ tu thân tức không, tất cả pháp Ấm, nhập, giới cũng giống như thế. Đó là thân niệm xứ. Thọ, Tâm, Pháp cũng giống như thế. Quán vị nầy là niệm xứ tướng chung.
Tu Bốn chánh cần, như ý, căn, lực, giác, đạo ba mươi bảy phẩm. Cộng và duyên niệm xứ cũng giống như thế. Tuy chưa phát Noãn tướng, mà tương tự nước pháp vô lậu. Mà tướng chung quán năm Ấm, trí tuệ sâu xa bén nhạy hơn niệm xứ tướng riêng, cho nên gọi là niệm xứ tướng chung, thuộc Càn tuệ địa ngoại phàm.
Bích chi Ca-la danh mục lớn nhỏ, như trước cũng tu ba thứ niệm xứ mười hai nhân duyên. Vô minh quá khứ chỉ là bất tịnh phiền não. Các hành năm Ấm chỉ là năm Ấm Thiện ác. Từ thức cho đến Thọ là quả báo năm Ấm vô ký. Hoặc thô hoặc tế đều quán như huyễn như hóa. Đó gọi là tánh niệm xứ nhân duyên giác. Cộng và Duyên niệm xứ theo như trước.
Cũng có ba loại Tánh, cộng, duyên; quán ba hạng người Đại, Tiểu.
Bồ-tát phát tâm Bồ-đề, từ bi, thệ nguyện quán, ba loại niệm xứ Thân, Thọ, Tâm, Pháp này. Lúc tu tánh thân, quán thân sắc nầy đều vô sinh như huyễn, như hóa có thể phát các pháp Noãn, Đảnh, v.v... thành tựu năm dừng tâm.
Bốn niệm xứ tướng chung của Biệt giáo gọi là Phục nhẫn, bốn thiện căn gọi là Nhu thuận nhẫn. Tám nhân địa phát chân dứt kết gọi là Vô sinh nhẫn. Tu-đà-hoàn gọi là quả Vô sinh pháp nhẫn. Tư-đà-hàm gọi là Du hý thần thông. A-na-hàm gọi là Ly dục thanh tịnh. A-la-hán gọi là Dĩ biện địa. Bát địa gọi là Bích-chi-phật địa. Cửu địa gọi là Bồtát địa, Thập địa gọi là Phật địa.
Tánh niệm xứ quán thành công, phá hoặc chung kiến, tư giới nội được nhất thiết trí, bằng với A-la-hán.
Bát địa tu giới nội đạo chủng trí, phá giới nội trần sa, vô tri là cộng niệm xứ.
Cửu địa trở lên học Nhất thiết chủng trí là Duyên niệm xứ.
Thập địa nên biết là bằng như Phật. Phật là Phật của Thông giáo, thành tựu bốn khô, trang nghiêm Song thọ, nên nói Bốn niệm xứ ngồi đạo tràng, dứt thông hoặc, chánh tập dứt, thấy được lý thiên chân. Đối với Nhị đế quán chiếu thuần thục, đó là ngồi đạo tràng.
Bát Niết-bàn là hai loại Niết-bàn hữu dư và vô dư.
Xoay bánh xe pháp là xoay bánh xe pháp thiên chân Vô sinh của Thông giáo khiến tất cả chúng sinh đồng nhập pháp tánh thiên chân, chẳng phải pháp tánh Trung đạo bất không. Kinh Pháp Hoa chép: Chúng ta đồng vào pháp tánh, chẳng thấy Phật tánh. Nhị thừa đều được lý này và có ngồi đạo tràng, xoay bánh xe pháp, mà la-hán chẳng dứt tập khí chỉ là bốn khô, trang nghiêm song thọ. Nhưng ba tạng là quán môn độ vụng, đã vụng mà hiểu Không cũng cạn. Như năm nghĩa của Ca-chiêndiên là thể của Thông giáo, quán môn giả nhập vào Không đã sâu. Ba tạng là sự quán, là sơ sài, Thông giáo là lý quán, là dày kín. Ba tạng gá sự là ngụy, Thông giáo duyên lý là chân, so đến lúc chứng được chân thì không còn khác nhau.
Sắc là danh, đất nước là thể. Trong đây chỉ nhiều ít chuyển biến không có đẹp xấu. Vì sao? Sắc trong ngoài đều hết, chỉ tám màu tuôn ánh sáng nên không đẹp xấu. Bốn thắng xứ ở trong thiền thứ tư. Mười nhất thiết xứ cũng ở trong Tứ thiền. Sơ thiền giác quán nhiều, Nhị thiền hỷ động, Tam thiền lạc động không được rộng tất cả chỗ. Chỉ đây không động niệm tuệ thì sẽ khắp tất cả chỗ, dùng một mầu xanh khắp mười phương đều xanh. Các màu khác cũng giống như thế. "Như tất cả nhập" là nhập một mầu xanh vào một mầu vàng khắp tất cả chỗ. Một mầu vàng nhập vào mầu xanh cũng khắp tất cả chỗ mà xanh vàng chẳng mất. Các mầu khác nhập vào nhau cũng giống như thế, là tất cả nhập. Đây là tám mầu từ nội tâm phát ra khắp tất cả chỗ.
Vì sao nói lấy ít lá cây làm duyên khắp tất cả chỗ? Nếu nội tâm không có năng lực này thì ngoài chẳng thể khắp. Chẳng nên lấy sắc bên ngoài làm duyên. Đại Luận lấy hoa Ưu-bát-la là vì người không hiểu, phải mượn bên ngoài để dụ cho bên trong, chẳng thể cho dụ là đúng, cũng có nghĩa này. Nếu sáng suốt trong quán không xương người, không phát ra tám màu, lúc ấy tu tám giải thoát thì mượn ngoài làm duyên có thể được. Nay chẳng hoại pháp người có tám mầu tự không chịu dùng, lấy lá cây bên ngoài, ở đây không thành nghĩa, nay không dùng đến, v.v...
Đối với y báo, chánh báo chuyển biến tự tại đủ các ba-la-mật. Tâm san tham đã phá, còn không tiếc thân mạng đâu được vì thân mà tham cầu vật của người khác, đó gọi là bố thí (đàn). Lúc được quán này chẳng hề vì y báo, chánh báo nầy mà trộm cắp, giết hại, nói dối, gây nguy hiểm cho người để mình an ổn, tâm theo lý mà hành gọi là giới (thi). Nếu bị người xúc phạm mình không sinh tức giận, phát ngôn, động thân, miệng báo thù thêm gọi là nhẫn nhục, không hề nương bất tịnh nầy mà sinh sân, lười biếng buông lung, mê đắm, túng tình để mình bị uế tạp, đó là tinh tấn. Phương tiện khéo léo, tâm tùy chỗ được, chỗ quán điều hòa, niệm tuệ hiện tiền. Thành bất tịnh, bối xả, thắng xứ, thần thông biến hóa, nguyện trí huân tu, duy trì các thiền ở trong đó chuyển biến được thành Tam-muội, trăm ngàn biến hóa, tất cả đạo, tất cả định đều ở tại thiền nầy mà được đầy đủ, gọi là Thiền. Lúc quán như thế, Thân, Thọ, Tâm, Pháp chẳng phải nhân chẳng phải quả, chẳng phải thế gian, xuất thế gian, như khổ-tập-diệt-đạo đều là bất tịnh. Năng quán sở quán, tất cả các pháp đều chẳng thật có, không có gì cả, rốt ráo thanh tịnh không một pháp thật có, chẳng sinh chẳng diệt gọi là Bát-nhã ba-la-mật. Đó gọi là ở trong thắng xứ chuyển biến làm tất cả pháp môn. Tâm nầy định nên tùy ý tự tại, quán thắng xứ hễ thực hành pháp nào thì thành tựu pháp đó, như ngựa hay có thể phá trận trước, lại có thể điều phục chế ngự ngựa của địch, muốn đi muốn đứng, xoay chuyển tự tại, thực hành các pháp môn cũng giống như thế, không thể cùng tận. Đó là Bồ-tát đối với bốn niệm xứ tu thắng xứ quán. Trong quán rộng tu các pháp, đều đối với thắng xứ tu tập. Nếu lúc phát sinh thiện căn đời trước, thì ở trong thắng xứ phát. Lúc ấy quán tịnh không có ma nhập vào phá hoại pháp nầy. Vì sao? Vì tâm được tự tại không chướng ngại nên thực hành ở tâm, tâm là thầy sai khiến ma, ma không thể phá tâm. Người thực hành bốn Tam-muội phần nhiều chuyển nhập vào năm loại địa vị Phật tử, nhập ngay vào địa vị Năm phẩm Phật tử. Vì sao? Vì đều là năng lực giúp đạo rất lớn, là liều thuốc giúp nhiều cho sự mở cửa xuống ao mát mẻ. Đây là thiền quán phát tướng. Như chín định thứ đệ, Sư tử siêu vượt, v.v... Có hai địa vị nương Tạng giáo. Người A-na-hàm được vô lậu, tâm địa điều hòa mềm mỏng mới có thể tu chín định, phàm phu không tu được.
Người Đại thừa tu tập, như phát tâm cả hai không khác. Bồ-tát Biệt giáo, tu tập từng thứ riêng khác nhưng không chấp chứng. Nếu theo kinh thì trước hết có trì giới đối với sổ tức, kế đó có quán bất tịnh, giữa mỗi tiết tìm ngã chẳng được, tức đối với giới phương tiện, trong ánh sáng thấy Phật tức là thuốc niệm Phật dừng tâm. Đây là tánh niệm xứ đối với bốn dừng tâm. Kế nữa tu duyên niệm xứ quán, học bốn tâm vô lượng, tu pháp duyên từ định rõ ràng, khai phát pháp quán vô ngã chẳng thật có nên thuộc về giới phương tiện.
Quán bốn tâm vô lượng, nói chung từ bi đầu đuôi đều có vô duyên, tức lấy thật tướng làm từ. Từ tức Như lai, từ tức giải thoát, từ tức pháp thân. Đây chính là lý thật tướng, từ vô duyên, chẳng tu lòng từ duyên pháp chúng sinh, chẳng tu sự từ duyên pháp chúng sinh. Chính tu đại từ vô duyên, sự từ tự phát, cần phải hiểu biết.
Cái gọi là "sự từ" là chúng sinh duyên từ phát. Có hai nghĩa: Một là phát lòng từ này để huân tập định. Pháp định càng sâu, do đây từ định liền phát căn bản. Hai là hoặc trước được cõi Dục, hoặc được Vị đáo địa, hoặc được Căn bản, ở trong Căn bản có từ, cũng nói phát lòng từ nầy, tất cả chúng sinh được tướng của lạc, không oán trách, không não phiền, vui vẻ vừa lòng thích ý. Hoặc được lạc trong loài người hoặc được lạc cõi trời. Nếu tu được từ định rõ ràng tưởng được lạc, không một chúng sinh nào không được lạc. Đây gọi là từ tâm định. Nhưng định duyên chúng sinh nầy có ba loại: Nếu duyên người thân được lạc gọi là rộng, duyên người thường được lạc gọi là lớn, duyên người oán được lạc bằng với người thân gọi là vô lượng. Lại nữa, duyên chúng sinh một phương được lạc gọi là rộng, duyên bốn phía gọi là Đại, duyên mười phương gọi là Vô lượng. Định nầy có hai: một là chìm ẩn, hai là không chìm ẩn.
Nếu duyên chúng sinh được lạc, trong tâm trong sáng quyết định được chỗ duyên, thật chẳng phải thấy chúng sinh nầy được thọ ở lạc, chỉ tưởng mà thôi, đó là trong không chìm ẩn mà ngoài chìm ẩn.
Tự có nội tâm sáng sạch tạo được tưởng lạc mà mười phương chúng sinh được duyên bên ngoài, rõ ràng thấy họ được lạc, hoặc được trong loài người, hoặc được trên cõi trời, tướng ấy rõ ràng, thì gọi là trong ngoài không chìm ẩn.
Nếu trong Từ định thấy ba hạng người được tướng lạc này rồi, mới lại phát năm chi căn bản. Năm chi công đức hơn gấp bội căn bản. Như đường cát, đường phèn hòa với nước đâu có cách lạnh riêng?
Bi, hỷ, xả gá vào định mà khởi cũng giống như thế. Bồ-tát tu thiền định này năng lực tư duy bên trong mạnh nên trụ Kham Nhẫn địa. Trong địa vị Thập Tín, không điều gì chẳng làm. Nên Ca-diếp hỏi: Bồ-tát có duyên được phá giới chăng? Đáp: Có duyên thì được. Như Tiên-dự giết năm trăm người, ban cho trống cam lộ được thọ mười kiếp, cho đến làm chúng sinh địa ngục, v.v...
Tiếp theo, tánh cộng niệm xứ: hợp tu Bốn đế sinh diệt điều tâm quán xét Bốn đế vô sinh giúp đỡ hàng phục kiến hoặc, đến lúc dứt kiến lại dùng Tứ đế vô sinh để dứt. Nên Đại kinh chép: Khổ là tướng ép ngặt; Tập là tướng năng sinh; Diệt là tướng vắng lặng; Đạo là tướng Đại thừa.
Như trong Ba Tạng, phải có thiền để giúp hàng phục kiến hoặc, thì pháp Noãn mới phát được, nay cũng giống như thế, Bồ-tát biết hoặc chướng nầy sâu nặng, chẳng thể dứt ngay, phải mượn phương tiện sinh diệt phát pháp Thập Trụ noãn.
Hỏi: Trong Thập trụ, Thập Tín có lui sụt không?
Đáp: Kinh nói lục tâm lùi còn Thất tâm không lùi.
Hỏi: Biệt giáo chỉ dùng giới này có khác với Thanh văn không?
Đáp: Tuy đồng mà khác. Giới Bồ-tát đầy đủ năm chi và làm rốt ráo các ba-la-mật. Nhị thừa không thể rốt ráo. Hoặc thân và trí cùng mất, nhập vào vô dư, dứt mất như tro nguội.
Hỏi: Còn thiền thì sao?
Đáp: Trong pháp Thanh văn dứt cõi Dục mới được tu Sơ thiền, Bồ-tát thì không như thế. Ở Thập Tín tu Cộng niệm xứ quán, học Bối xả, an nhẫn thành tựu. Vì chúng sinh mà tu tất cả, giữ gìn chánh pháp. Sợ đạo Nhị thừa như người tiếc thân mạng, Nhị thừa đâu thể như thế. Kinh nói: Mười pháp làm đạo: một Tín có mười, thập Tín có trăm. Cho đến thập địa chỉ là mười pháp. Nhưng một lần nhận là chẳng mất, người hơn được tên. Bốn niệm xứ cũng giống như thế. Chỉ là quán giải càng sâu, tên càng hơn. Tức là địa vị Sơ thiền, càn Tuệ địa của Biệt giáo.
Hỏi: Thập Tín này và Thập Tín của Viên giáo thế nào?
Đáp: Viên giáo hàng phục vô minh, kiến tư tự hết. Sáu căn thanh tịnh đều có thể dùng lẫn nhau. Nên nói bao nhiêu loại một lúc đều biết cả. Thân như gương sáng sạch hiện các sắc tượng. Chỉ riêng mình tự sáng rõ, người khác không thấy được.
Hỏi: Mười quán của Biệt giáo và Thông giáo ra sao?
Đáp: Thông giáo dùng mười pháp truyền truyền đơn sơ. Như mười pháp của Tạng giáo, chỉ phá ngoại đạo thành người Ba thừa. Người ngoài không biết chỗ hành của người pháp Noãn, huống chi có mười pháp. Mười pháp của Thông giáo khác với Tạng giáo. Hậu tâm của Tạng giáo cũng không biết Sơ tâm của Thông giáo, sơ tâm của Thông giáo cũng không biết sơ tâm của Biệt giáo, huống chi là hậu tâm.
Mười pháp của Biệt giáo khác là:
Khéo biết chánh nhân duyên, cảnh của vô minh Phật tánh. Thông giáo chỉ biết chân đế vô sinh, cảnh huyễn hóa.
Chân chánh phát chân chánh, Tứ Thánh đế vô lượng, tâm cầu quả Phật thường trụ, có thể độ pháp giới chúng sinh. Thông giáo chỉ phát tâm duyên tứ chân vô sinh, khiến được Niết-bàn hữu dư, độ chúng sinh giới nội.
Chỉ quán điều hòa thích hợp: Chỉ thành tất cả thiền, quán thành nhất thiết chủng trí. Thông giáo chỉ chung Ba thừa cộng chỉ quán, nguyện trí Đảnh thiền.
Phá pháp khắp: Phá pháp nội giới, ngoại giới, lần lượt khắp. Thông giáo chỉ phá khắp giới nội nhị đế.
Khéo biết thông bít: Như lai tạng hiển là thông, giữ tướng trần sa chướng ngăn là bít. Thông giáo chỉ theo kiến ái của Tứ đế mà nói về thông bít.
Ba mươi bảy đạo phẩm điều hòa thích hợp: Đại Kinh nói: Tu vô lượng ba mươi bảy phẩm là nhân Đại Niết-bàn. Thông giáo chỉ là thiên chân, nhân của tiểu Niết-bàn.
Khéo tu trợ đạo: Tu mười ba-la-mật, tất cả muôn hạnh, Hằng sa Phật pháp, mở ba cửa giải thoát. Thông giáo chỉ mở Tứ đế, giúp cho ba cửa giải thoát.
Khéo biết năm mươi hai địa, bảy vị, rộng lược đều biết. Thông giáo chỉ Ba thừa cộng mười vị.
An nhẫn hai giặc, cứng cỏi mềm dịu: Nhẫn pháp giới chúng sinh, hai mươi lăm hữu, cứng mềm của Có và Không. Thông giáo chỉ nhẫn ái kiến là cứng mềm.
Thuận đạo pháp, ái chẳng sinh: Đối với Đại Niết-bàn chẳng sinh tham đắm, huống chi là tiểu Niết-bàn. Thông tạng giữ quả, yêu thích tiểu Niếtbàn là tham đắm sinh tử.
Phân biệt mười pháp như thế rất khác. Lại đủ mười phen quán môn, vào Thập tín, thành tựu kham nhẫn. Bồ-tát Sơ địa trở lên, vị cũng có thể dùng mười pháp đối với Thập tín. Bồ-tát tu ba loại niệm xứ, phát sinh các cảnh giới, đủ các thứ pháp, hoặc chân hoặc ngụy, hoặc ích hoặc tổn, chẳng ngoài mười. Mười là Ấm, giới, nhập, phiền não, bệnh hoạn, nghiệp tướng, ma thiền, kiến mạn, nhị thừa và Bồ-tát. Nay chẳng giải thích, như thế đủ rõ. Nếu không Đảnh đọa thì được nhập Sơ thiền vị. Hỏi: Sáu tức của Biệt giáo thế nào?
Đáp: Phật tánh Trung đạo là lý tức. Hiểu năm mươi hai địa, văn nghĩa thông suốt vô ngại là Danh tự tức. Thập tín là Quán hành tức. Ba mươi tâm là Tương tự tức, từ lên Sơ địa đến Đẳng giác là Phần chân tức. Diệu giác là Cứu cánh tức.
Quán niệm xứ thứ ba là: Xa duyên Như lai tạng lý, lý này khó rõ mà nhờ phương tiện, chân thật được khai mở. Còn như Tạng giáo và Thông giáo dùng phương pháp thế gian, hạnh thế gian, người có năm loại, bảy loại lấy làm phương tiện. Biệt giáo dùng phương pháp xuất thế, hạnh xuất thế, người có ba mươi tâm v.v... làm phương tiện. Ví như dùi lửa thì nóng trước, cũng như xuống biển trước thấy tướng bằng phẳng. Pháp Hoa dùng vô lậu làm tướng Niết-bàn. Nên biết mượn phân tích là phương tiện của Tạng giáo, mượn thể là phương tiện vô sinh. Tích và thể vô lượng là phương tiện của Biệt giáo. Tánh niệm xứ phương tiện hiển bày tánh niệm xứ chân thật. Phương tiện cộng niệm xứ hiển bày cộng niệm xứ chân thật. Phương tiện duyên niệm xứ hiển bảy duyên niệm xứ chân thật. Sinh diệt, vô sinh diệt vô lượng đều là phương tiện của Biệt giáo. Nếu phương tiện thành có thể xưng tướng lửa, tướng bằng, phương tiện không thành không có nóng, không biển lớn bằng phẳng khó được. Quán này thế nào? Ban đầu dùng năm dừng tâm để ngăn gió phiền não, khéo thành tựu ngay đèn tuệ chiếu rõ Ấm thân bất tịnh, năm thứ nhơ xấu, thọ có trăm lẻ tám đều là khổ. Đã vậy thuận nghịch niệm niệm vô thường, trong thiện không có ngã mà trong ác cũng không có ngã, không thiện không ác thì chỗ nào có ngã. Tướng riêng tướng chung xoay vần tịch nhập Niết-bàn. Lúc quán này thành tựu, khai năm dừng thành Mười tín, cũng gọi là ngoại phàm, cũng gọi là Càn Tuệ địa, cũng gọi là năm Ấm Thiện hữu lậu, có thể hàng phục bốn tịnh điên đảo, v.v... của giới nội, an nhiên chẳng động, Thanh văn chán khổ muốn mau Niết-bàn, Bồ-tát không như thế, bỏ quán Tứ đế sinh diệt, chính tu quán Tứ đế vô sinh. Quán khổ vốn chẳng sinh, chẳng sinh nên chẳng diệt. Chẳng sinh nên chẳng có, chẳng diệt nên chẳng không. Chẳng thường chẳng đoạn, rốt ráo thanh tịnh. Sạch như hư không, khổ còn không có, làm sao có điên đảo? Thọ, tưởng, hành, thức cũng giống như thế. Lúc quán này thành thì tiến vào Thập trụ, nhập lý hiểu tâm gọi là nội phàm, cũng gọi là Noãn pháp, cũng gọi là vừa hữu lậu vừa vô lậu. Theo giới nội gọi là vừa vô lậu, theo giới ngoại gọi là vừa hữu lậu, nên gọi là Tự giải Thập hạnh, Thập hồi hướng. Tự giải vừa lậu vừa vô lậu, đăng địa mới gọi là vô lậu. Chính là dùng tuệ Tứ đế vô sinh dứt kiến-tư giới nội. Nên Đại Kinh nói: Bồ-tát hiểu khổ, không khổ mà có ở Chân, ba đế kia cũng thế. Nên nói nhập lý Bát-nhã gọi là Trụ.
Có hai loại Bát-nhã. Nếu phát Trung đạo là Viên Bát-nhã, nếu phát không là Thiên Bát-nhã. Ở giới nội là chân, ở giới ngoại là giả, cũng gọi là nhất phẩm tương tự trung đạo. Nói về chỗ dứt, dứt giới nội thì hoặc của Thông giáo hết sạch, bằng với Thất địa của Thông giáo, cũng được giới ngoại tương tự tuệ nhãn. Nên Tu-bồ-đề nói: Tôi từ xưa đến nay được tuệ nhãn mà chưa hề được nghe kinh điển như thế, tức là nghĩa này. Lại dứt thượng phẩm trần sa của giới ngoại, lại hàng phục vô minh vẫn còn là Noãn pháp nội phàm. Địa nhân cho năm hạng đệ tử Phật là Tứ quả và Bích-chi-phật, khai năm làm mười, đối với Thập trụ, nay chẳng như thế, Đại Luận nói: Trước ở quả năm Phật tử khen trong loài người, nay vì sao chỉ khen bồ-tát?
Đáp: Thanh văn, các Bồ-tát chưa đắc quả, còn Bồ-tát Đại thừa đắc quả nên chỉ khen Bồ-tát. Nay chẳng dùng năm hạng Phật tử trước để đối Thập trụ. Nếu muốn làm thì lấy năm phẩm đệ tử trong kinh Pháp Hoa, khai ra năm phẩm thành mười để đối Thập tín. Nên kinh Nhân Vương nói: Bồ-tát Thập thiện phát đại tâm, cách xa biển khổ ba cõi. Thập thiện tức Thập tín, Thập tín còn dứt hoặc huống là Thập trụ v.v... nếu muốn tiến lên, nên xả Tứ đế vô sinh, chính tu Tứ đế vô lượng. Vô minh hợp với pháp tánh, khởi lên vô lượng tướng thủ; chiêu cảm vô lượng sinh tử; vô lượng trần sa vời lấy vô lượng quả báo; vô lượng vô minh chịu vô lượng báo thân, thì có sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều là Khổ đế; vô lượng thọ Ấm có phiền não đều là Tập đế; vô lượng trí năng quán đều là Đạo đế; vô lượng tập hết, khổ trừ đều là Diệt đế. Vô lượng căn tánh như thế thọ vô lượng phương thuốc, trao phương thuốc vô lượng phương tiện. Vì thế Bồ-tát mà khởi đại bi, phát bốn thệ nguyện rộng lớn; năm Ấm thuộc giới nội, giới ngoại chưa độ, cho đến còn có một chúng sinh đều khiến được độ. Người chưa hiểu kiến, tư, Tứ đế, trần sa, vô minh của Thông giáo và Biệt giáo đều giúp cho hiểu. Người chưa an thiên đạo đều giúp cho được an. Người chưa được nhập Tiểu Niết-bàn đều khiến được nhập. Bốn đức Thường, lạc, ngã, tịnh đầy đủ, lúc tu quán này tiến vào Thập hạnh, theo lý tiến thú mới tu tất cả các hạnh, nên gọi là hạnh, cũng gọi là Đăng đảnh dứt trung phẩm trần sa giới ngoại, được giới ngoại tương tự pháp nhãn, thấy hằng sa Phật pháp tương tự Như lai tạng, v.v... nếu người tiến vào Thập hồi hướng phải bỏ Tứ đế vô lượng, chính quán Tứ đế vô tác. Quán thế nào? Ban đầu từ hữu môn quán Phật tánh, nhưng vô minh nặng nên không thấy. Đại Phẩm nói: Các pháp có như thế, không như thế, cho nên việc này không biết gọi là Vô minh. Vô minh che tâm không thấy Phật tánh. Bốn cửa đều bít lấp, khéo dùng bốn tùy, bốn cửa đều mở. Cửa tuy có bốn, chỉ là pháp môn không hai. Quán vô minh này là từ vô minh sinh hay từ pháp tánh sinh? Kinh Anh Lạc và Địa luận đều giải thích rằng: Từ pháp tánh sinh. Nhiếp Luận chép: Từ vô minh sinh, nương thức A-lại-da khởi. Thức này là vô ký, như đất có vàng và đất. Nương nhiễm như đất, nương tịnh như vàng. Nên nói là Y tha. Thức A-lại-da nương nghiệp sinh nên nói Y tha. Nếu là tha y, sáu thức khởi nghiệp thiện ác, sáu thức diệt, hạt giống nương A-lại-da nhiếp trì được sinh nên gọi tha y. Luận nầy kệ rằng:
Thức này thời vô thỉ, tất cả đều nương tựa...
Người học ba Tạng vặn hỏi người Tiểu thừa rằng: "Trong sáu thức của ông khởi nghiệp thiện ác, sáu thức qua mất, thiện ác lẽ ra nên diệt theo. Nếu diệt thì hiện chẳng được khởi, còn nếu không diệt mất thì A-lại-da nương đâu được nhiếp giữ?"
Nay lại nạn hỏi, kệ của ông nói tha y sao ông lại nói nương A-lại-da? A-lại-da là vô minh, khách pháp là tha, pháp tánh là gốc. Pháp là tự, nếu pháp tánh là tự, A-lại-da thành tha. Nếu y tha thì chỗ nào có tự? Nếu tha là khách pháp, gọi sáu thức là tha, vì sao không gọi được A-lại-da là tha?
Lại vặn hỏi: Sáu thức nương A-lại-da, sáu thức là tha; A-lại-da nương pháp tánh, A-lại-da cũng là tha v.v... Nếu A-lại-da, tha là tự tánh thì tự tánh lẽ ra là tha. Lúc định như thế, tùy ý kia mà đáp, hoặc tự hoặc tha đều bị phá.
Hỏi: Tất cả thiện ác từ vô minh sinh ra hay từ pháp tánh sinh ra, hay vô minh pháp tánh cộng sinh? Hay lìa vô minh lìa pháp tánh sinh? Pháp tánh sinh là tự sinh; vô minh sinh là tha tánh sinh; vô minh pháp tánh hợp lại nên sinh là cộng tánh sinh; lìa vô minh, lìa pháp tánh sinh là vô nhân sinh.
Các pháp không tự sinh, cũng không từ tha sinh, không cộng, không vô nhân. Cho nên nói Vô sinh. Vô sinh mà nói sinh là giả sinh chẳng phải không sinh, chỉ có danh tự. Danh tự nầy chẳng trụ cũng chẳng không trụ. Danh tự này không thật có, nên vô minh là tự. Pháp tánh là tha cũng làm như thế để phá, v.v...
Sư nói: Tuy bốn câu chẳng lập mà người phần nhiều chấp cộng sinh. Ví như pháp ngủ và tâm ngủ hợp lại, liền sinh ngủ. Ngủ nên có vô lượng việc mộng diễn ra. Vô minh và pháp, tánh hợp sinh vô lượng việc trong sáu đường. Việc trong sáu đường đều từ vô lượng phiền não sinh, lại sinh vô lượng không thể nghĩ bàn trần sa phiền não, khởi vô lượng việc giới ngoại. Bồ-tát tu bốn niệm xứ suy tìm vô lượng phiền não này, vô lượng sự tướng nương vô minh mà khởi. Nếu được vô minh thì được pháp tánh, được pháp tánh nên thấy Phật tánh. Nếu Thông giáo chỉ tìm sáu thức, quán như huyễn như hóa tức không, chỉ chặt bỏ cành nhánh không tìm gốc rễ vô minh, chẳng thấy Như lai tạng. Vì không thấy nên không được vô minh, không được pháp tánh. Không được vô minh, không được pháp tánh nên không thấy Phật tánh. Như tìm mộng được ngủ, không được tâm ngủ vì trong sáu thức quán cạn cợt, chỉ là nghỉ ngơi tạm ở Hóa thành, chẳng thể quán sâu Như lai tạng có Hằng sa Phật pháp. Bồ-tát quán sâu Như lai tạng phá vô lượng tướng thủ, phá vô lượng trần sa, phá vô lượng vô minh, phá vô lượng thân tướng, phá vô lượng thọ tướng, vô lượng tâm tướng, vô lượng pháp tướng, biết vô lượng tướng bệnh, biết vô lượng thuốc. Lúc thực hành quán này liền nhập vào Thập hồi hướng; hồi nhân hướng quả, hồi sự hướng lý, hồi mình giúp người nên gọi là Hồi hướng. Vị này chính là tâm cuối cùng của giải hạnh. Hoặc thô đã tiêu dung, trí tuệ tương tự Trung đạo thanh tịnh, đoạn hạ phẩm trần sa giới ngoại, hàng phục vô minh càng mạnh, như nhắm núi hướng đến trước dần dần dễ thấy, tương tự Trung đạo thấy Hằng sa Phật pháp, dứt Hằng sa phiền não. Nhập tương tự là tự hành, xuất giới giả là hóa tha (giáo hóa người khác). Địa Trì giải thích tự tánh thiền là vị của ba mươi tâm, chưa đến Sơ địa. Đại Kinh nói người mới nương còn đủ tánh phiền não, có thể biết tạng bí mật của Như lai, chưa được chỗ trụ thứ hai, thứ ba, chính là vị ba mươi tâm. Lại nữa, Địa Trì nói ba mươi tâm có ba phần: 1. Quán phần, 2. Chỉ phần, 3. Hai phần đồng loại. Chính là trong đạo phương tiện trước khi đăng địa. Tu ba thứ niệm xứ: Quán phần là tu Tánh niệm xứ, Chỉ phần là tu Cộng niệm xứ, Hai phần đồng loại là tu Duyên niệm xứ, tương tự Trung đạo quán. Trong khoảng một sát-na, chân giải khai phát, lên Sơ địa, dứt một phẩm vô minh, được một phần Tứ đế Vô tác, hiểu năm hạnh thành tựu các công đức tròn đầy. Hoặc Thông giáo đối vị: Trong mỗi vị đều có ba thứ niệm xứ. Hoặc Biệt giáo đối: Thập trụ tu quán Tánh niệm xứ; Thập hạnh tu quán Cộng niệm xứ; Thập hồi hướng hồi biệt hướng viên tu quán Duyên niệm xứ. Đến Sơ địa, ba thứ niệm xứ phân chia thành tựu. Hoặc đối với Đại phẩm: Muốn dùng tuệ đạo, nên học Bát-nhã đối Thập Trụ, vị tánh niệm xứ. Muốn dùng tuệ đạo, đầy đủ đạo chủng tuệ đối Thập hạnh, vị cọng niệm xứ. Muốn dùng Nhất thiết trí, đầy đủ Nhất thiết chủng trí đối vị Thập địa. Qua một lần như thế, nếu lúc đăng địa Trung đạo hiển bày, chân tánh pháp thân từng phần thành tựu Nhất thiết thiền. Nhất thiết thiền có ba:
1. Hiện pháp lạc thiền.
2. Xuất sinh Tam-muội thiền.
3. Lợi ích chúng sinh thiền.
Lúc lên Sơ địa, danh vị đều chuyển. Quán phần chuyển gọi là Hiện pháp lạc thiền, sinh ra mười lực chủng tánh, tam-ma-bát-đề phá vô minh. Pháp thân hiển bày Phật tánh. Một pháp giới là tất cả pháp giới, tất cả pháp giới là một pháp giới; không phải một, không phải tất cả. Nhị đế tự tại, có thể thành Phật ở trăm cõi Phật, Chư Phật che chở cho; có thể nói pháp cho Bồ-tát Thập địa. Bồ-tát chẳng xét kỹ cho là chân cực. Trong kinh Pháp Hoa, Phật che chở hàng Thanh văn vì Bồ-tát nói pháp: Các Phật tử theo ta nghe pháp, được Phật thọ ký, ông ở đời sau sẽ được thành Phật. Các Thanh văn còn như thế, huống chi là che chở các Bồ-tát, sắc tâm thần thông, tướng tốt sáng chói, động trời động đất hình thể và tiếng nói cả hai đều lợi ích. Pháp nhãn mở sáng biết căn tánh chúng sinh, có cơ duyên liền cảm ứng, phân biệt khéo léo, giống như hư không chẳng thể cùng tận. Người nghe nói pháp đều được đắc quả. Đây là quán phần cũng là quán trong thân, lý pháp tánh hiển rõ gọi là năng lực của Tánh niệm xứ.
Chỉ phần chuyển: Gọi là Xuất sinh Tam-muội thiền, sinh ra một trăm lẻ tám Tam-muội, hiện khắp sắc thân gọi là Tam-muội vương, tất cả Tam-muội đều nhập vào đây, trụ Thủ-lăng-nghiêm tu trị, tâm giống như hư không; có thể một pháp môn thành tất cả pháp môn, tất cả pháp môn thành một pháp môn, chẳng phải một, chẳng phải tất cả, vô ngại tự tại, phá vô minh hiển bày ngã tánh chân thật, mười ba-la-mật, các môn đà-la-ni, việc trong biển lý Như lai tạng đều hiển rõ. Hoặc giáo hóa chúng sinh, tạm mượn tên gọi, nói các thứ năm Ấm, phá các thứ điên đảo; nói các thứ thuốc pháp, phá các thứ bệnh; làm vô thượng y vương, ứng bệnh cho thuốc, giúp được bình phục, đều khiến ngộ nhập chánh vị của Bồ-tát. Đó gọi là Đàn ba-la-mật, bố thí cho chúng sinh. Nên Kinh nói: Có pháp môn tên Vô Tận Đăng tức là ý nầy. Chín ba-la-mật sau cũng như thế. Kia giải mười ba-la-mật đối với Thập địa. Sơ địa, Đàn ba-la-mật viên mãn chỉ là y cứ theo vị. Ngay ở trong thiền tu, đủ trăm ba-la-mật quán pháp giới, thần thông chiếu khắp tất cả chúng sinh trong pháp giới. Chúng sinh nhờ ánh sáng, tội cấu phiền não đều được dứt trừ, đó là Chỉ phần, cũng là năng lực của Cộng niệm xứ v.v...
Hai phần đồng loại, dùng tu quán Duyên niệm xứ được pháp giới duyên khởi, dùng từ bi vô duyên để tu thân, theo căn cơ được một thân Như lai làm vô lượng thân, vô lượng thân làm một thân, chẳng phải một, chẳng phải vô lượng, có khả năng tự tại hiện hình mười pháp giới, ứng hiện khắp nơi chỉ đồng một năm Ấm, dụng có mạnh yếu. Sức giới nội yếu chỉ thấy thiên chân, sức giới ngoại mạnh, có thể thấy viên mãn. Bây giờ ba loại niệm xứ đầy đủ ba đức: Tánh niệm xứ hiển thành pháp thân, Cộng niệm xứ hiển bày gọi là Ma-ha Bát-nhã, Duyên niệm xứ hiển bày gọi là Giải thoát. Nghĩa là chỗ hàng phục chúng sinh gọi là giải thoát. Hơn nữa, cũng dùng niệm xứ Tánh làm Bát-nhã, niệm xứ Cộng làm Giải thoát, niệm xứ Duyên làm pháp thân. Pháp thân tức pháp tánh, thấy pháp tánh tức thấy Phật tánh, tức được Trung đạo, được Trung đạo tức được Bồ-đề, được Bồ-đề thì được trụ Đại Niết-bàn, tức được pháp giới Chư Phật. Pháp giới tức pháp thân, pháp thân cùng khắp pháp giới nên trụ Đại Niết-bàn. Các thứ thị hiện ba loại niệm xứ gọi là ba điểm chẳng ngang chẳng dọc, là Đại Niếtbàn, được sắc giải thoát, thọ tưởng hành thức, năm loại Niết-bàn, đủ hai mươi đức gọi là Bốn niệm xứ, ngồi đạo tràng, xoay bánh xe pháp, nếu viên mãn là song thọ. Chẳng phải thiên, chẳng phải viên, ở giữa nhập Niết-bàn; các hạnh công đức trang nghiêm gọi là thường, lạc, ngã, tịnh; là khen ngợi thầy thuốc mới, từ phương xa đến hiểu tám thứ thuật. Phương xa là từ đất pháp thân khởi từ bi thệ nguyện đáp ứng chúng sinh. Căn duyên chúng sinh khác nhau, cho nên hiện các thứ thân, nói các thứ pháp. Kinh Pháp Hoa chép: Trưởng giả xông vào nhà lửa vì độ lửa sinh, già, bệnh, chết, lo buồn khổ não, ngu tệ ba độc của chúng sinh, giáo hóa khiến được Tam Bồ-đề, v.v...
Lúc lên Sơ địa, được hai mươi lăm Tam-muội gồm mười phen phá hai mươi lăm hữu, phá hai mươi lăm không, phá hai mươi lăm vô minh, được địa vô úy, chẳng sợ ba ác bốn nẻo bên hữu, chẳng sợ Thanh văn, Duyên giác bên vô, chẳng sợ oai đức đại chúng, hai bên ở giữa đều chẳng sợ, vì tu Tánh niệm xứ. Được tự tánh địa, nếu đến địa ngục chẳng chịu những thứ khổ dữ dội nát thân; đến tất cả nơi không có tất cả khổ, có thể nhét Tu-di vào hạt cải, hạt cải chứa Tu-di, rót đầy bốn bể vào lỗ chân lông, một lỗ chân lông trong biển, do năng lực tu Cộng niệm xứ v.v... Được hai mươi lăm Tam-muội, tất cả Tam-muội đều nhập vào đó, tất cả sự, tất cả lý, đều không chỗ sợ, đều tự tại, đều gọi là Tam-muội Vương, vì vốn tu Duyên niệm xứ. Sơ địa đã như thế, từ Nhị địa cho đến Diệu giác có thể biết, chẳng cần nói thêm. Nên biết bốn niệm xứ có năng lực công đức lớn như thế, huống chi các pháp môn sau ư? Người có mắt có ý, tự nên ưa thích, đâu cần dặn dò.
Bốn niệm xứ của Viên giáo
- Đại ý
- Dừng tâm
- Niệm xứ
Chia ra bốn môn v.v... hoặc nói hoặc hành, phần nhiều dùng môn phi hữu phi vô v.v... pháp còn lại rất dễ biết. Biệt và Viên phải giải thích. a-Minh vị có cao thấp b-Minh pháp thiên hay viên c-Minh đoạn và bất đoạn d-Minh đủ và chẳng đủ e-Minh thông và chẳng thông
- Thập Tín của Biệt giáo hàng phục kiến-tư giới nội.
- Thập Trụ dứt kiến-tư giới nội, lại dứt thượng phẩm trần sa giới ngoại.
- Thập Hạnh dứt trung phẩm trần sa.
- Thập Hồi Hướng dứt hạ phẩm trần sa và hàng phục vô minh.
- Lên Sơ Địa thấy Trung đạo dứt vô minh.
- Cho đến Đẳng giác, Diệu giác dứt vô minh hết sạch.
Viên giáo ban đầu có năm phẩm đệ tử gọi là ngoại phàm. Thập Tín gọi là nội phàm đều viên phục vô minh mà kiến tư giới nội tự nhiên dứt sạch. Như lửa đốt sắt, sắt tuy chưa chảy, bụi bẩn khử trước. Chính tuệ quán vô minh, vô minh chưa trừ, kiến-tư hết trước. Nếu lên Sơ trụ dứt một phẩm vô minh, cho đến Thập trụ dứt mười phẩm vô minh bằng với Thập địa của Biệt giáo. Nếu lên Sơ hạnh thì bằng với Diệu giác của Biệt giáo. Nếu lên Tam hạnh thì dứt sở hữu trí, người Biệt giáo không biết tên gọi này huống chi là biết pháp. Tứ hạnh cho đến Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Đẳng giác, Diệu giác, dứt sở hữu trí đều chẳng phải cảnh giới, chỉ biết mười hai phẩm dứt vô minh là quả cùng tột của nhà mình, chẳng biết là hạ nhân của nhà kia. Ví như trộn ngói gạch làm nền, dùng báu vàng trang trí lên, chẳng lẽ từ nền đến nóc đều chất kim cương? Chẳng những cao thấp có khác mà cũng khác biệt giữa quý báu và không quý báu. Pháp thuyết thí dụ đơn giản rõ ràng, không nên nghi ngờ.
Giống như Tiểu thừa dứt hoặc của Thông giáo mà không trừ hoặc của Biệt giáo, nghe Chân-sa-la đàn cầm, Ca-diếp đứng lên múa may, Thiên-quán hỏi: Bậc kỳ lão giải thoát vì sao lại như thế? Cadiếp trả lời: Hoặc của Thanh văn tôi đã dứt. Đây là công đức thắng diệu của Bồ-tát nên tôi đối với việc nầy không thể tự an. Như gió bốn phương không làm động núi Tu-di, nhưng gió Tỳ-lam thổi đến thì nát bét như cỏ mục. Nên biết Thanh văn biết Thông mà không thể biết Biệt, năng lực vô lậu yếu không thể tự an. Sơ tâm Biệt giáo chỉ hàng phục kiến-tư. Địa Tiền chỉ dứt kiến tư giới nội. Đăng địa hàng phục vô minh từng phần, dứt vô minh từng phần. Đây là thiên đoạn chẳng phải Viên phục. Nếu tạo giới nội, thì Biệt giáo nói: Đăng địa dứt kiến hoặc của Biệt giáo, từ Nhị địa đến Lục địa dứt tư hoặc cõi Dục của Biệt giáo; Thất địa dứt tư hoặc cõi Sắc, cõi Vô Sắc của Biệt giáo. Đây cũng là nghĩa thiên đoạn. Lại người tạo nghĩa sáu trần không thể nghĩ bàn, nhập vô lượng thiền, tạo vô ký biến hóa sắc trụ, lại nhập lực thiền xả, lại nhập lực thiền khởi, lại nhập lực thiền vô lượng trăm ngàn ức kiếp, tu trở lại việc phàm phu. Đến Bát địa trở lên, vẫn là quả báo cõi Vô Sắc, sáu trần không thể nghĩ bàn. Vì sao biết được? Địa Trì giải thích: Đẳng giác Vô Cấu địa mới được lìa kiến, thấy thanh tịnh thiền, nên biết lìa hoặc cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, đến Đẳng giác mới hết, mới là nghĩa Viên. Nếu Bát địa mới lìa quả báo cõi vô sắc là nghĩa thiên đoạn. Nên Đại Kinh chép: Thập địa bị hoặc của bánh xe vô ngã chuyển. Vô ngã chỉ là kiến hoặc. Nếu kiến hoặc dứt trước không nên đến Vô cấu địa. Nếu thấy đến Vô cấu địa là nghĩa Viên. Lấy đây mà suy, thiên đoạn là ý của Biệt giáo. Viên đoạn hoặc bắt đầu từ nội ngoại phàm tức viên phục hoặc trong ba cõi. Sơ trụ tức viên đoạn vô minh. Từ Nhị địa đến Đẳng giác đều viên đoạn vô minh. Lấy đây mà suy, Viên và Biệt đoạn sẽ rõ.
Biệt giáo chỉ nói về dứt, chẳng nói không dứt. Viên giáo có đủ hai nghĩa. Nếu giáo đạo nói dứt, chứng đạo chẳng dứt, ví như Tiểu thừa phương tiện nói dứt chứng, chân thật chẳng nói dứt hay không dứt. Nay cũng như thế. Nếu không thể nghĩ bàn quán nội, chẳng thấy có phiền não, chẳng thấy dứt phiền não, tánh chẳng chướng Bồ-đề, Bồ-đề chẳng chướng phiền não, phiền não tức Bồ-đề, Bồ-đề tức phiền não. Nên kinh Tịnh Danh chép: Phật vì người tăng thượng mạn nói dứt dâm-nộ-si gọi là giải thoát. Người không tăng thượng mạn thì tánh dâm-nộ-si tức là giải thoát. Kinh Vô Hạnh chép: Dâm nộ tức là Đạo. Lại nói: sáu mươi hai kiến là hạt giống Như lai, ngay sáu căn sáu trần mà không hạn ngại. Chỉ trong mắt thấy sắc cũng trong mắt nhập vào ba môn giải thoát. Hoa Nghiêm nói mười nhãn cho đến sáu căn đều sáng, ở trong một hạt bụi có đủ Chư Phật mười phương ba đời, tám tướng thành đạo, xoay chuyển bánh xe pháp, độ chúng sinh đều chẳng dứt mà rõ ràng.
Nếu chỉ làm một pháp, không làm tất cả pháp. Đây là ý của Biệt giáo. Nếu một pháp mà tất cả pháp thú hướng; tất cả thú hướng này, ngay thú hướng còn chẳng thật có, huống là có thú và chẳng phải thú. Một tức là pháp tánh, pháp tánh tức pháp giới, không một pháp nào nằm ngoài pháp giới. Nếu có một pháp nào hơn Niết-bàn, ta cũng nói pháp đó như huyễn như hóa. Nên biết một pháp đủ tất cả pháp, tức là ý của Viên giáo.
Nếu ý của Biệt giáo thì chỉ một địa không liên quan đến địa khác. Nếu ý của Viên giáo thì một địa đủ tất cả các địa. Nên Đại Phẩm nói: Nếu nghe tự môn A thì hiểu tất cả nghĩa, quá chữ Trà thì không có chữ để nói. Chữ A đầu tiên đầy đủ bốn mươi mốt chữ, chữ Trà sau cùng cũng đủ bốn mươi mốt chữ. Từ Sơ địa có đủ nghĩa trụ trì, sinh trưởng, gánh vác, đến rốt ráo sau cũng đủ ba nghĩa. Đại luận chép: Có Thỉ nhập, Trung nhập, Chung nhập. Thật là một nhập mà có đầu, giữa và cuối.
Hỏi: Hoặc làm theo ý Viên giáo hay phán định hao đế không thể nghĩ bàn?
Đáp: Thiên viên đều thông là tướng Thế đế.
Chẳng thông chẳng bít là tướng chân đế.
(Xong đại ý)
Nói riêng là Năm phẩm.
Ngay sự mà lý tướng này tự bày. Vì sao? Sơ giáo (Tạng) dùng việc đếm hơi thở để dừng tán loạn. Viên giáo dùng tin lý để dứt nghi hoặc. Lại, tin là đầu mối của đạo cho nên tương đương với Sơ phẩm. Lại, tin là mẹ công đức như hơi thở tánh mạng của kia. Lại, tin thuận chẳng động tức là dừng tâm, nên Tín phẩm là dừng tâm thứ nhất.
Sơ giáo dùng quán việc bất tịnh để dừng tham dục. Viên giáo dùng tụng đọc trừ uế nhiễm, nếu chấp vào văn tự thì nhiễm ô pháp tánh, đó là thực hành pháp nhiễm, chẳng phải cầu pháp. Văn tự tánh lìa tức là giải thoát. Giải thoát thanh tịnh là dừng tâm thứ hai.
Sơ giáo dùng Từ để dừng sân. Viên thì dùng Từ nên có nói, nói không giấu giếm không bỏn sẻn, bỏn sẻn thì có che giấu, giận thì không phải tướng Từ. Nên biết từ nên có thể nói là dừng tâm phẩm thứ ba.
Sơ giáo dùng quán nhân duyên để dừng si. Viên dùng sáu độ, độ sáu tệ, tối hết thì sáng sinh, là dừng tâm phẩm thứ tư.
Sơ giáo dùng niệm Phật để dừng ép ngặt. Viên dùng ngay sự làm lý. Lý tức pháp Phật, pháp Phật há chẳng lẽ ép ngặt Phật pháp. Không có năng bức và sở bức, không bức không người bức, không pháp bức là dừng tâm thứ năm.
Nên biết tin sự tức lý, văn tự tức giải thoát, từ tức rộng độ các tệ đến bờ kia, tất cả bình đẳng là năm dừng tâm của Viên giáo. Lấy Năm phẩm làm dừng tâm, nghĩa này đã hiển rõ. Lại nêu thêm bốn hoằng, bốn Tam-muội. Sinh tử khổ đế tức là Niếtbàn, không hai không khác. Đây thì tin sự thuận lý. Nguồn đạo, mẹ công đức, chưa độ khổ đế khiến độ khổ đế là Sơ dừng tâm. Phiền não tức Bồ-đề không hai không khác. Đó là chưa hiểu Tập đế khiến hiểu Tập đế, tức đọc tụng giải thoát dừng tâm thứ hai, đại bi cứu khổ hai thệ nguyện v.v... Chưa an đạo đế khiến an đạo đế, là dùng lòng từ không tiếc lẫn mà nói pháp, là dừng tâm thứ ba. Chưa nhập diệt đế khiến nhập diệt đế là kiêm hành sáu độ, độ tệ đến bờ kia, là dừng tâm thứ tư, đại từ hưng hai thệ nguyện... Lại chỉ dạy bốn Tam-muội là dừng tâm thứ năm.
Bốn Tam-muội nầy đều tu niệm Phật, phá tội chướng đạo, tự có người sổ tức mà giác quán không thôi, hoặc niệm Phật, hoặc xưng danh hiệu Phật, tức phá giác quán, khoan thai an định. Nên phẩm Phổ Môn chép: Nếu có chúng sinh nặng về tham dục, thường niệm Quan Âm liền xa lìa được, phá vô minh căn bản. Tịnh Danh nói: Một niệm biết tất cả pháp đó là ngồi đạo tràng, đều là pháp môn niệm Phật. Thường đi xuất xứ từ kinh BanChu, Chư Phật đứng ở trước mặt, thấy pháp giới Phật. Thường ngồi xuất xứ từ kinh Văn-thù Vấn Bát-nhã, cột duyên pháp giới, nhất niệm pháp giới mà niệm Phật. Nửa đi nửa ngồi xuất xứ từ Phương đẳng, Pháp Hoa. Làm như thế xong, lại ngồi tư duy pháp thật của Chư Phật. Pháp Hoa chép: Sẽ thành tựu bốn pháp:
Được Chư Phật hộ niệm... Lời này người sơ tâm thực hành, người hành đạo lâu như phẩm "An Lạc Hạnh" nói, thường thích ngồi thiền, ở chỗ nhàn vắng, tu nhiếp tâm mình. Quán tâm vốn không tâm, pháp không trụ pháp, tâm ta tự không, tội phước không có chủ. Sám hối như thế là đại sám hối, v.v...
Chẳng đi chẳng ngồi chung cả bốn pháp: (1) Chung chúng sinh.
(2) Chung với các thiện. (3) Chung với các ác, như Hiền giả quân giới, gia nghiệp v.v... chẳng ngại dụng tâm. (4) Chung với vô ký.
Đi đứng nằm ngồi, nói nín đều là Đại thừa vì không thật có. Người đạt thì hiểu sâu, người mê thì chưa ngộ. Như trong túi có của báu không lấy cho người xem, thì người không thấy. Nay lại điểm đối, mong được siêu nhiên. Trong ba Tạng ở trước dùng sự duyên. Sự là sổ tức, bất tịnh cho đến nhớ nghĩ tướng tốt... Nay thì không như vậy, dùng lý quán duyên. Lý là sinh tử tức Niết-bàn, phiền não tức bồ-đề. Sinh tử là hơi thở, mạng sống của chúng sinh. Niết-bàn là hơi thở, mạng sống của Pháp thân. Tuy không thể đếm mà có thể tán động, sáng lặng đối với đếm hơi thở; phiền não là uế ác tận đáy, Bồ-đề là lý tịnh cực tôn, đối trước hiển sau, nên dùng văn tự giải thoát đối với dùng bất tịnh để dừng tâm. Đại bi thệ nguyện, nhổ bỏ nhân quả khổ, nếu có ngã sở thì tự mình còn không ra khỏi, huống chi là cứu giúp khổ của người. Nếu không ngã sở dùng lòng từ bi tự cứu, cứu người đối trước hiển sau v.v... Đại từ thệ nguyên ban nhân quả vui. Như mười hai nhân duyên si mê còn không tự vui huống chi ban vui cho người. Nay tự không si nên có thể ban vui; đối trước, v.v...
Thực hành bốn Tam-muội đều là niệm Phật, phá tội chướng đạo, trước dạy niệm sinh thân nên có tướng tốt. Nay niệm tướng tốt của Pháp thân, sự lý khác hẳn. Nên nêu bốn Tam-muội làm dừng tâm thứ năm.
Kế tu quán thành năm dừng: Năm dừng trên cầu, trên cầu những gì?
-Tin thuận không thể nghĩ bàn, là thật tứ đế. Tin một niệm đủ mười pháp giới, sinh tử tức khổ đế. Một niệm đủ mười pháp giới, phiền não tức Tập đế, Tập đế tức Bồ-đề, Bồ-đề là Đạo đế, Sinh tử khổ đế tức Niết-bàn là Diệt đế. Bốn điều này chẳng phải bốn, một niệm nầy chẳng phải một mà gọi là Thật đế. Phiền não khắp tất cả chỗ, tất cả chỗ đều là Bồ-đề, bỏ Bồ-đề nầy thì còn chỗ nào là Bồ-đề? Như thế sinh tử khổ đế khắp tất cả chỗ, đều là Niếtbàn, bỏ Niết-bàn nầy thì tìm Niết-bàn ở chỗ nào? Rốt cuộc định dừng tâm. Trên phiền não nầy tìm Bồ-đề, hoàn toàn định dừng tâm. Trên sinh tử này cầu Niết-bàn, tin tức là cầu, không phải cầu gì khác. Đó là tin nhất thật đế thành ở dừng tâm.
Lại, dừng tâm thế nào? Dừng tâm muốn giáo hóa dưới, phải phát tâm chân chính, chúng sinh chẳng biết sinh tử tức Niết-bàn, chưa độ khổ đế. Bồ-tát vì thế khởi thệ nguyện đại bi giúp cho được giải thoát. Đã được giải thoát rồi tức là khiến độ khổ đế. Chúng sinh chưa biết phiền não tức Bồ-đề. Bồ-tát vì thế mà khởi đại bi khiến được giải thoát. Đã được giải thoát rồi tức là khiến độ Tập đế. Nếu chúng sinh hiểu phiền não tức Bồ-đề, tức là an ở Đạo đế. Nếu chúng sinh hiểu sinh tử tức Niết-bàn, tức là được Diệt đế, đó là Bồ-tát dưới hóa độ chúng sinh.
Nói "Chân chánh" là: Kinh Vô Hành chép: Nếu phát tâm cầu Bồ-đề, người này cách xa Phật như trời với đất. Vì chỉ phát ba tâm Bồ-đề phương tiện. Đây là tâm Bồ-đề ma. Đại Kinh chép: Từ đây về trước, chúng ta đều gọi là người tà kiến. Nếu người nói pháp nầy gọi là thiện tri thức ma. Kinh chép: Niết-bàn là sinh tử, là chỉ tham đắm Niết-bàn ngoại giới, thành sinh tử biến dịch. Kinh nói: Sinh tử tức Niết-bàn là chỉ sinh tử Phần đoạn tức đại Niết-bàn, huống là biến dịch mà chẳng phải Niết-bàn. Dùng tâm Bồ-đề chân chính là giáo hóa chân chính. Đem sự hạ hóa nầy để thành tựu dừng tâm.
Ban đầu gọi là trên cầu, kế gọi là dưới hóa, nương các pháp nào mà hướng trên hướng dưới. Cái gọi là "Khéo tu chỉ quán" sinh tử tức Niết-bàn, Niết-bàn gọi là Chỉ. Dừng tâm tâm tánh gọi là Đại định. Đại Niết-bàn là hang thiền định sâu nên Niếtbàn tức là Chỉ. Quán phiền não tức Bồ-đề tức là quán. Tuệ thật tướng gọi là Nhất thiết Chủng trí. Nhất thiết Chủng trí gọi là Bát-nhã. Pháp Hoa chép: Năng lực định tuệ trang nghiêm tức trên cầu. Dùng đây độ chúng sinh, tức là dưới hóa. Nên biết chỉ quán là pháp để chở. Chuyên chỉ quán này thành tựu ở dừng tâm, đã có thể chở hướng lên hướng xuống, hướng lên đáng đắc quả, hướng xuống đáng được độ. Đã không quả không độ thì có vật gì ngăn ngại? Mà nay không đạt được nên biết phá pháp không khắp.
Nên nghiên cứu sinh tử tức Niết-bàn ngang phá sự bít lấp của mười pháp giới, phiền não tức Bồđề, dọc phá bít lấp của mười pháp giới, đường Bồđề Niết-bàn tức thông. Nếu không tức là sáu pháp thì làm sao chợt tức là sáu pháp, cho nên phải phá. Không lìa sáu pháp làm sao chợt lìa sáu pháp, cho nên phải phá. Không tức không lìa, đường Bồ-đề thông, lấy đây phá pháp, thành tựu dừng tâm, v.v... Đã phá pháp khắp, thì lẽ ra hội với lý. Nếu vẫn không hợp thì sẽ xem xét kỹ hơn. Trong tất cả các pháp đều có tánh an vui, sao chợt phá hết, tất cả các pháp đều là lưới ma, sao chợt lấy hết? Phải biết rõ thông bít. Nếu mê sinh tử chẳng phải Niết-bàn, mười pháp giới đều bít. Mê phiền não chẳng phải Bồ-đề. Mười pháp giới cũng bít. Đạt sinh tử tức Niết-bàn, mười pháp giới vắng lặng gọi là thông. Phiền não tức Bồ-đề, mười pháp giới si như hư không chẳng thể cùng tận, già chết như hư không chẳng thể cùng tận, vô minh không thấy đầu thấy cuối, gọi là thông. Như thế khéo biết tướng thông bít của đường hiểm không thể nghĩ bàn để thành dừng tâm, v.v... Đã biết thông bít, thế nào ở trong đường bằng phẳng mà tu? Ở Đạo phẩm, nếu sinh tử thân bất tịnh cho đến tâm vô thường, đây là pháp phân tích (của Tiểu thừa) là bốn đạo phẩm khô. Niết-bàn tức sinh tử là chỉ ý này. Nếu ban đầu tu bất tịnh, sau tu tịnh. Cho đến ban đầu tu vô thường, sau tu thường, đây tức là bốn đạo phẩm tươi, sinh tử thành Niết-bàn là đây. Nếu tức bất tịnh, tức tu phi tịnh phi bất tịnh, cho đến tức vô thường. Đây là không khô không tươi, ở khoảng giữa này nhập Bát Niết-bàn là đây. Nên kinh chép: Từ sơ phát tâm thường quán Niết-bàn, hành đạo đủ trăm câu giải thoát gọi là trăm cân vàng. Phiền não tức Bồ-đề, gọi là Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, tu trị ở tâm giống như hư không, cũng gọi Tam-muội Vương. Đó là khéo tu đạo phẩm, tự sẽ trôi vào ba cửa giải thoát. Chưa vào mà khó khởi, vừa cứu người mà khó khởi đều là làm sao đối trị? Nếu bỏn sẻn ngăn che khó khởi, quán bỏn sẻn tức Bồ-đề (thọ, chẳng thọ, vừa thọ vừa chẳng thọ, cho đến năm bất thọ đàn [bố thí] tức nghĩa thuộc về pháp giới đàn. Ở lục tư sinh pháp vô úy, trong đó một hai ba là bỏn sẻn, tức Bồ-đề, không lấy không bỏ, các ngăn che khác cũng giống như thế. Lại, đối trị chuyển trị, bất chuyển kiêm phi đẳng v.v... đó là trợ đạo, thành ở dừng tâm, v.v...
Người tu hành chưa được nói được, chưa chứng nói chứng, tăng thượng mạn nổi lên, nên quán thế nào? Sinh tử tức Niết-bàn, phiền não tức Bồ-đề là lý Niết-bàn. Có thể hiểu như thế, hợp với Tu-đa-la là văn tự Niết-bàn. Sáu căn thanh tịnh là tương tự Niết-bàn. Vô minh phá, lý Phật tánh hiển là Phần chân Niết-bàn. Đồng đại giác như Chư Phật là rốt ráo Niết-bàn. Nên tự quán sát là những vị nào, xoa ngực nói tâm, chớ tự dối mình và dối người. Đó gọi là biết vị thứ, giúp thành dừng tâm.
Hành giả hành đạo sắp thành thục, chưa thành thục động nhiều, chướng nạn trong ngoài, cần phải an nhẫn khiến chướng trong ngoài không thể lay động, nhẫn được thì thành việc đạo, không động cũng không lui sụt, là tâm Bồ-tát. Ngoài là tám gió khen chê, trong là hai giặc cứng mềm. Sinh tử chẳng thể vầy, phiền não chẳng thể nhiễm. Kiến và ái trong mười pháp giới đều là thị giả. Hai tử phần đoạn và biến dịch đều lặng lẽ để an thị giả. Thị giả dùng cung cấp công việc, đó gọi là an nhẫn để thành dừng tâm.
Thuận đạo pháp ái chẳng sinh, hễ sắp lên ngôi mà băng, sắp qua mà rớt xuống, đây chẳng phải việc nhỏ, có nhiều chỗ sơ sót. Hành giả phải cẩn thận chớ khởi pháp ái. Nên nói Niết-bàn tức sinh tử vì tham đắm Niết-bàn. Sinh tử tức Niết-bàn chẳng lui sụt, chẳng sinh, nên không nhiễm một pháp nào trong mười pháp giới, gọi là Thuận ái bất sinh mà sinh Bát-nhã, Bát-nhã như người có mắt có thể tránh chỗ hiểm trở, theo lối bằng phẳng, đâu cần lời dạy của người chung quanh, đó gọi là Mười quán thành năm dừng tâm. Mỗi dừng tâm đều phải có mười quán, tổng cộng gồm năm mươi quán v.v...
Sơ phẩm quán chúng sinh mười pháp giới tức là Phật. Năm Ấm trong mười pháp giới là Pháp. Chúng sinh và Phật không hai không khác. Chúng sinh Ấm và Phật Ấm không khác mảy may. Việc Phật ba đời, bốn oai nghi của chúng sinh không đâu không đủ các Ba-la-mật, gọi đó là Tăng. Đại luận chép: Chúng sinh vô thượng là Phật, Pháp vô thượng là Niết-bàn, lại đến chỗ gọi là tăng thì nghĩa thứ nhất là tín thuận tùy hỷ không có nghi ngờ, đó gọi là phẩm Sơ tùy hỷ. Dùng tâm này đọc tụng gọi là Đệ Nhị Phẩm. Có thể nói chút ít phần gọi là Đệ tam phẩm, hành luôn sáu độ gọi là Đệ Tứ phẩm, đầy đủ sáu độ, tạo lập tăng phường, bốn việc như lý, cho đến Bát-nhã gọi là Đệ ngũ phẩm. Năm phẩm thành thục gọi là Quán hành Vị. Một phẩm đã tu mười quán. Bốn phẩm cũng giống như thế. Mười quán thành năm phẩm. Như trên nói, dùng tưởng tuệ thuần thục chuyển thành tâm Thập tín, Sơ tùy hỷ:
1. Lý của Thật, không hai không khác, chuyển thành Tín tâm. Tín tuệ phân biệt vững chắc không chướng ngại. Ở trong Tín này đầy đủ tất cả Phật pháp, như kho báu kim cương, không chút thiếu thốn.
2. Phát tâm chân chính dưới độ, trên tôn kính chuyển thành Niệm tuệ chân chính. Nên kinh chép: Trăm đời ngàn đời, ngàn muôn ức đời khiến tâm chánh niệm, do chánh niệm nên Như lai khéo che chở. Lại như trong bảy giác chi, tâm hôn trầm dùng niệm khởi lên, phá sinh tử tức Niết-bàn. Nếu lúc tâm tán loạn dùng niệm quán nhiếp lại, khiến phiền não tức Bồ-đề. Đó là chân chánh phát niệm.
3. Khéo tu chỉ quán chuyển thành tâm tinh tấn: Kinh nói nhất tâm siêng năng tinh tấn nên được tam-bồ-đề, tất cả các hạnh tinh tấn là gốc.
Chánh quán rõ ràng thuần nhất không xen hở, tạp loạn gọi là Tinh, không nhiễm ái kiến là Tấn, v.v...
Phá pháp khắp chuyển thành Định tâm: Niết-bàn tức sinh tử, Bồ-đề tức phiền não, là đại tán loạn, nay quán mười cõi sinh tử tức Niết-bàn, đạt tướng giải thoát của tất cả pháp, tướng thường vắng lặng rốt ráo, rốt ráo trở về không, thể thường vắng lặng. Đó gọi là ngang phá sinh tử, chuyển thành định tâm, không khởi nhiễm ái phiền não, phiền não tức Bồ-đề, là dọc phá mười pháp giới, vô ngại thấu suốt đến pháp tánh, chuyển thành Định tâm.
4. Khéo biết thông bít chuyển thành Tuệ tâm. Nếu khởi ngu si mười cõi gọi là sinh tử, nếu khởi tham sân mười cõi gọi là phiền não. Quán sinh tử tức Niết-bàn, phiền não tức Bồ-đề. Bồ-đề chẳng phải một, chẳng phải ba. Đó gọi là Tuệ tâm.
5. Khéo tu ba mươi bảy phẩm chuyển thành Bất thối tâm. Như bốn đạo phẩm khô, tuy không lui sụt, nhập vào phần đoạn mà không tiến lên biến dịch, vẫn gọi là Thối. Nay bốn đạo phẩm tươi và đạo phẩm chẳng tươi chẳng khô, qua đến bờ kia không sinh không diệt, nên gọi là Bất thối tâm.
6. Tu đối trị trợ đạo chuyển thành Hồi hướng tâm, hồi sinh tử hướng Niết-bàn, hồi phiền não hướng Bồ-đề, hồi nhân hướng quả, hồi sự nhập lý. Nên nói Hồi Hướng tâm.
7. Khéo biết vị thứ chuyển thành Hộ tâm. Nếu cãi trên lấn dưới, khởi tăng thượng mạn, tức là Bồtát Chiên-đà-la. Nay chẳng chấp sinh tử làm Niếtbàn, chẳng chấp phiền não làm Bồ-đề. Lại ba nghiệp ở Niết-bàn không nhiễm, ở Bồ-đề không chấp mắc, đó gọi là Hộ tâm.
8. An nhẫn cứng mềm trong ngoài chuyển thành Giới tâm. Giới Bồ-tát ngăn ngừa đủ thân và tâm, nếu khởi tâm Nhị thừa là phá giới. Biết các pháp không sinh, không tâm, không niệm, không ỷ lại, không dính mắc gọi là không phá giới. Kinh Đại Tập chép: Thà bỏ thân mạng chứ không cầu Tiểu thừa, gọi là Trì giới tâm.
9. Thuận đạo pháp ái chẳng sinh chuyển thành Nguyện tâm. Bồ-tát phát nguyện cầu Đại Niếtbàn, chẳng chấp chẳng chứng. Đại phẩm nói: Nguyện cầu Bồ-đề không lấy nhỏ làm đủ. Đủ tức trụ, vì không đủ nên Niết-bàn chẳng nên trụ. Dùng mười tâm này thành mỗi trụ. Thập trụ có một trăm, gọi là Bách pháp minh môn. Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, lần lượt tăng gấp bội thiên pháp minh môn, vạn pháp minh môn, ngàn vạn, trăm vạn không thể nói, không thể nói minh môn. Nên kinh Anh Lạc chép: Thập Tín là hơn hết trong các đạo, được gọi là Trụ-Hạnh-Hướng-Địa. Nếu lại trước suy Thập Tín là vị Nội phàm tương tự, gọi là Nhu thuận nhẫn, cũng gọi là Phục nhẫn, phiền não giới nội đã tiêu dung, vô minh viên phục, được sáu căn thanh tịnh. Tại sao trong mắt tịnh giữ tướng tịnh? Trần sa tịnh, vô minh tịnh cho đến ý căn cũng là ba loại tịnh, chẳng chướng ba thân ba đức? Ba thân ba đức đều tương tự với chân. Tương tự nên gọi là sáu căn thanh tịnh, nói rộng như kinh Pháp Hoa. Thế nào là sáu căn thanh tịnh lẫn nhau? Đại phẩm chép: mắt trong, mắt chẳng thể được; Tai trong mắt, chẳng thể được; cho đến trong mắt, mũi-lưỡi-thân-ý đều chẳng thể được. Đó là sáu căn thanh tịnh lẫn nhau. Lại nữa, tướng mắt trong mắt chẳng thật có, tướng tai trong mắt chẳng thể được, cho đến tướng mũi lưỡi thân ý trong mắt đều chẳng thể được. Đó là tướng sáu căn thanh tịnh lẫn nhau. Tánh mắt trong mắt chẳng thể được, tánh tai trong mắt chẳng thể được, cho đến tánh mũi lưỡi thân ý đều chẳng thể được. Đó là tánh sáu căn thanh tịnh lẫn nhau. Nếu danh không thể được là Tục thanh tịnh, tướng không thể được là chân thanh tịnh, tánh không thể được là Trung thanh tịnh. Lại, danh-tánh và tướng đều không thể dược là Tục thanh tịnh; không thể được cũng không thể được là Chân thanh tịnh; phi tục phi chân không thể được là Trung thanh tịnh. Nếu lấy mắt làm gốc, các căn thanh tịnh lẫn nhau. Tai-mũi-lưỡi-thân-ý mỗi thứ làm gốc, mỗi thứ thanh tịnh các căn lẫn nhau. Thanh tịnh lẫn nhau thì như trên đã nói, còn thế nào là sáu căn dùng lẫn nhau? Ở trong nhãn căn, có thể thấy vô lượng trăm, ngàn, muôn, ức chẳng thể nói, chẳng thể nói, chẳng thể nghĩ bàn sắc của chúng sinh mười pháp giới ở các thế giới bằng với hư không, hoặc y báo, hoặc chánh báo, hoặc nội, hoặc ngoại, hoặc trên, hoặc dưới đều thấy đều biết hết. Đó là dụng của nhãn căn. Ngay ở trong mắt nghe vô lượng trăm ngàn muôn ức chẳng thể nói, chẳng thể nói, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể nghĩ bàn chúng sinh mười pháp giới trong thế giới bằng với hư không, hoặc y báo, hoặc chánh báo, hai loại âm thanh, tiếng đốt nấu ở địa ngục. Đại luận chép: Tiếng tra khảo, tiếng voi ngựa, xe trâu đau khổ gay gắt, tiếng ngạ quỷ đòi ăn, tiếng to lớn của Tu-la đấu tranh, tiếng vô số loài người, tiếng ba thọ: Khổ thọ v.v... cho đến tiếng trời Hữu Đảnh nhập thiền, xuất thiền. Đại luận chép: Tiếng lúc yêu thương, tiếng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni đọc tụng, tiếng không-vô ngã; tiếng Bồ-tát nghĩa giải, tiếng Chư Phật nói pháp. Tai sáng nhạy nên có thể phân biệt biết. Đó là mắt có được dụng của tai.
Lại, ở trong mắt biết vô lượng trăm ngàn ức không thể nói không thể nghĩ bàn mười pháp giới hư không, hoặc y báo, hoặc chánh báo, núi Thiết Vi, biển lớn, trong đất v.v... Các chúng sinh, Tu-la nam nữ, Đại thế tiểu luân, các quan, các cung nhân, cho đến ở Phạm thế, Quang Âm và Hữu Đảnh, chúng Tỳ-kheo, chúng Bồ-tát, các Đức Thế tôn ở các phương, nghe hương đều biết. Đó là mắt có dụng của mũi.
Ngay trong mắt biết vô lượng trăm ngàn muôn ức pháp môn không thể nói không thể nghĩ các mùi vị trong thế giới như hư không, đối với thức ăn bình đẳng, đối với pháp cũng bình đẳng. Như tám thăng bốn đấu của Thuần-đà là Phật sự Niết-bàn, hoặc ngon chẳng ngon, hoặc tốt đẹp chẳng tốt đẹp, đến lưỡi này đều biến thành thượng vị. Như cam lồ cõi trời, không món nào chẳng ngon. Lại biết chúng sinh mười pháp giới sẽ nhận được pháp vị. Ở trong đại chúng phát ra âm thanh sâu mầu, có thể nhập vào tâm người đều khiến cho vui mừng, lại khiến trời, rồng, người, thần nghe ngôn luận đã nói lần lượt đều thích đến nghe nhận. Và Chư Phật, Bồ-tát thường thích hướng về chỗ người này nói pháp, nghe xong đều thọ trì, lại có thể phát ra tiếng sâu mầu. Đó là mắt có dụng của lưỡi.
Ngay trong mắt này biết chúng sinh trong mười pháp giới, trăm ngàn muôn ức chẳng thể nói năng chẳng thể nghĩ bàn đồng với hư không, chạm thân như gương sáng sạch, chúng sinh đều ưa thấy. Thân nầy thanh tịnh nên ba ngàn cõi trong ngoài, y báo, chánh báo, núi rừng, sông biển đều hiện trong thân. Địa ngục trở lên, trời Hữu Đảnh trở xuống, các y báo chánh báo lúc sinh lúc chết, hoặc tốt, hoặc xấu, đều hiện trong thân. Chỉ có mình rõ biết, người khác không thấy được. Chư Phật mười phương ba đời từ khi mới phát tâm, khoảng giữa tu hành, cho đến lúc thành đạo, xoay bánh xe pháp, nhập Niết-bàn đều hiện trong thân. Cảnh giới Phật đã vậy, huống chi là việc khác, đó là trong mắt có dụng của thân.
Lại, ở trong mắt có thể biết trăm, ngàn, muôn, ức chẳng thể nói, chẳng thể nghĩ mười pháp giới như hư không. Có bao nhiêu loại niệm, cùng lúc có thể biết hết. Đó là trong mắt có dụng của ý. Người này nghe tiếng biết mùi, vị xúc pháp cũng dùng lẫn nhau, đều như trên nói. Nên biết sáu thức có vô minh, có trí tuệ đều là nhân duyên, nhân duyên chủng, nhân duyên tánh. Bảy thức có vô minh, có trí tuệ đều là liễu nhân, liễu nhân chủng, liễu nhân tánh. Tám thức có vô minh, có trí tuệ đều là chính nhân, chính nhân chủng, chính nhân tánh. Ba loại chủng, ba tướng, ba tánh, như thế chưa phát gọi là Sáu căn thanh tịnh. Nếu ba loại phát tức chân chính khai kiến Phật tri. Nếu pháp môn Tiểu thừa thì phân tích, dứt trừ các căn, vào không, chấp chứng. Nay Đại thừa báo thân là pháp giới chẳng cần diệt nữa, có thể đối với các căn tạo sự dùng lẫn nhau này. Một căn đủ sáu, sáu lần sáu là ba mươi sáu pháp môn, chánh thọ thanh tịnh có thể có dùng lẫn nhau này. Nên kinh Tịnh Danh chép: có cõi Phật dùng ánh sáng làm Phật sự, có cõi Phật dùng âm thanh làm Phật sự, hoặc dùng hương, vị, y phục làm Phật sự, có chỗ dùng không lời, lặng lẽ làm Phật sự, đều là ý này. Đây có tương tự, có chân thật. Như điều nói trong Pháp Hoa tức tương tự, như chỗ nói của Hoa Nghiêm tức là chân thật. Nên sáng tối chẳng trừ nhau, hiển bày là Bồ-đề của
Phật. Chỉ nói dứt mà nói tức giải thoát, chỉ nói không dứt lại nói kiết sử, tập khí dứt sạch. Hoa không dính thân, đối với chẳng dứt, chẳng không dứt mà nói về dứt, đối với dứt nói về chẳng dứt. Đây là phương tiện viên dung không thể nghĩ bàn. Cần dứt thì dứt, như cõi này, đại sĩ độ chúng sinh bền chắc. Cần chẳng dứt thì chẳng dứt, như cõi Hương Tích nghe mùi hương liền nhập vào luật hạnh. Kinh Nhân Vương chép: Bồ-tát mười điều lành phát đại tâm, xa lìa biển khổ ba cõi. Mười điều lành tức Thập tín. Khổ ba cõi tức hoặc của giới nội viên dung. Đại kinh chép: Người học Đại thừa dù có mắt thịt nhưng gọi là mắt Phật. Kinh Pháp Hoa chép: Tuy chưa được vô lậu, mà có nhãn căn thanh tịnh. Như thế đều là văn nói về địa vị tương tự. Nếu quán Như lai tàng tâm địa pháp môn, tức là quán mắt, tai, mũi, lưỡi, thân của Như lai, hoát nhiên chân phát thấy được Phật tánh. Hoặc nhờ nghe phát ba trí, hiện tiền ba thân đầy đủ. Kinh Hoa Nghiêm chép: Lúc mới phát tâm liền thành Chánh giác có được thân trí tuệ không do người mà ngộ, được Như lai một thân thành vô lượng thân, vắng lặng mà ứng tất cả. Chúng sinh cơ cảm liền có khả năng ứng hiện, tạo tám tướng thành đạo, thành Phật ở trăm thế giới; hoặc hiện thân Nhị thừa lợi ích chúng sinh cho đến tạo thân địa ngục lợi ích chúng sinh. Chư Phật che chở có thể làm Đại Bồ-tát nói pháp. Đây là văn phát chân.
Trước hết theo kinh dạy, Đại kinh chép: Sau đó chẳng lâu vua lại bệnh, thầy thuốc đoán bệnh vua, quyết định phải uống sữa. "Vua" là chúng sinh có tám điên đảo. "Sau đó bệnh" là ban đầu điên đảo được hàng phục, sau điên đảo lại khởi lên. Nên nói "Chẳng lâu". "Quyết định uống sữa" là nên trao cho thuật "Bốn tươi". Chính là ý niệm xứ ở đây. Lại ví như có người bôi thuốc độc lên mặt trống, đánh lên giữa đám đông. Người đứng gần thì chết, người ở xa chưa chết. Sau đánh trống độc thì xa gần đều chết. Ban đầu bôi "Bốn khô", chỉ phần khô tàn diệt, nên nói chưa chết. Nay bôi "Bốn tươi", gốc vô minh dứt nên gần xa đều chết. Cũng là ý bốn niệm xứ ở đây. Lại nói, như chim ra khỏi lồng mới được rời khỏi lưới. Nay hai chim đều bay cao, vỗ cánh đến phương xa, khắp nơi tự tại. Chính là bốn niệm xứ ở đây. Lại nói, ban đầu sinh tử khô, không thể soi sáng Phật pháp, không thể khai ngộ chúng sinh; đối với Phật pháp không có công phu, đối với chúng sinh không có lợi ích. Nên nói Song thọ khô. Nay hiển bày tròn đầy Phật pháp, ích lợi lớn cho chúng sinh. Người có tâm đều sẽ thành Phật; tám ngàn Thanh văn được thấy Phật tánh, như thu thâu, đông chứa, thành quả trái lớn. Nên nói bốn tươi trang nghiêm song thọ. Đại kinh chẳng cho phép ăn bã rượu, cám hèm, chẳng đồng với trâu đực cùng một bầy không ở cao nguyên, cũng không ở dưới chỗ ẩm thấp. Chỗ ẩm thấp là bốn điên đảo của phàm phu tà đạo. Cao nguyên là bốn điên đảo của người Nhị thừa (nghiêng về bốn diệu đế). Bã rượu là ngu si, cám hèm là tức giận, trâu đực là tham dục. Chọn lựa trung nguyên để cho con mình ở yên. Pháp Hoa chép: Chính bỏ ngay phương tiện, chỉ nói đạo vô thượng, chẳng để Nhị thừa được diệt độ riêng, đều dùng diệt độ của Như lai mà diệt độ cho được khai thị ngộ nhập tri kiến Phật, vua ban cho hạt ngọc quý trên đỉnh đầu. Ta vốn lập đại nguyện khiến khắp tất cả chúng cũng đồng được đạo nầy. Người vô trí lầm lẫn, mê hoặc không tin nhận. Cho nên ngày nay, quyết định nói Đại thừa. Lại nói: Pháp của Chư Phật lâu dài về sau cần phải nói chân thật. Chân thật là chẳng phải sinh tử, chẳng phải Niết-bàn, không tà, không nghiêng, không điên đảo, không chánh. Than ôi! Trượng phu, chỉ dạy xưa cột hạt ngọc. Than ôi! Qua lại chỗ châu báu rất gần. Cho nên từ bổn mà hiện tích, cùng pháp thân quyến thuộc, ẩn thật nêu quyền, giấu cao bày thấp cùng giáo hóa chúng sinh, mở bày chánh đạo, kín trong nhìn ngoài, nay khai bày cho được vào chỗ mầu nhiệm. Chính là bốn niệm xứ này. Bốn là số không thể nghĩ bàn. Một tức là vô lượng, vô lượng tức một. Mỗi số đều là pháp giới. Ba đế đầy đủ, nhiếp tất cả pháp, ngoài pháp giới không còn có pháp giới. Không pháp giới đầy đủ pháp giới. Tuy không pháp mà đầy đủ các pháp, là số không thể nghĩ bàn. Kinh Hoa Nghiêm chép: Trong một hạt bụi đủ tất cả hạt bụi và tất cả pháp, trong một niệm đầy đủ tất cả niệm và tất cả pháp trần. Tức là sắc niệm, tức là tâm sắc tâm, tức tên khác của niệm xứ. Kinh Đại phẩm chép: Bốn niệm xứ tức Đại thừa, Đại thừa tức bốn niệm xứ. Ở một niệm xứ, không hai không khác với ba niệm xứ, tất cả pháp hướng về bốn niệm xứ. Sự hướng đến nầy chẳng qua ngay niệm xứ còn chẳng thật có, làm sao mà hướng về và chẳng hướng về. Ở đây cũng đồng với ý không thể nghĩ bàn. Kinh Phổ Hiền Quán nói: Quán tâm không tâm, pháp chẳng trụ pháp gọi là Đại sám hối, gọi là Trang nghiêm sám hối. Quán tâm đã như vậy, quán sắc cũng như thế. Đại kinh chép: Phật tánh là một, chẳng phải một; chẳng phải một chẳng phải chẳng một.
Một là tất cả chúng sinh đều là nhất thừa. Chẳng phải một là nói Ba thừa.
Chẳng phải một chẳng phải chẳng một là số chẳng phải số, không có quyết định.
Nên biết bốn số chẳng thể quyết định tức là bốn không thể nghĩ bàn. Trong kinh Pháp Hoa, tám ngàn Thanh văn được thấy Phật tánh. Đại kinh nói: Vì các Thanh văn mà mở phát mắt tuệ. Ngài Thiên Thân dùng bảy thứ Phật tánh để giải thích Pháp Hoa. Nên biết lý Phật tánh ở hai kinh này đồng: Đồng viên, đồng diệu, đồng đại, không có khác.
Mà Pháp Hoa dùng Nhất thừa làm tông, theo trí nói về pháp tướng. Niết-bàn lấy thường làm tông, theo định để nói về pháp tướng. Trí và định khác nhau chút ít. Pháp Hoa chỉ cho kinh trước, cũng nói: Dùng năng lực phương tiện nên nói cho năm Tỳ-kheo nghe. Văn kinh ấy chép: Chính bỏ ngay phương tiện, chỉ nói đạo Vô thượng. Niết-bàn khai kinh trước nói: Vì chuộc mạng nên nói Đại Niếtbàn, nói rõ ràng năm hạnh mười công đức riêng. Văn kinh chép: Lại có một hạnh là hạnh Như lai, cái gọi là Đại thừa Đại bát Niết-bàn. Nên biết hai kinh là đồng, nay dùng rốt ráo thật để nói về niệm xứ. Tức là bốn niệm xứ cùng cực viên mãn. (Giải thích về số 4 xong).
Niệm là quán vậy. Đại luận chép: Niệm, tưởng, trí là tên khác của một pháp. Ban đầu ghi nhớ vào tâm gọi là Niệm. Kế là tu tập hành là tưởng. Sau thành biện gọi là trí.
Xứ là cảnh, từ đầu chẳng lìa trí Tát-bà-nhã năng quán, chiếu mà thường vắng lặng gọi là Niệm; cảnh sở quán vắng lặng mà thường chiếu soi gọi là Xứ. Cảnh tịch trí cũng tịch, cảnh chiếu trí cũng chiếu, nhất tướng vô tướng, vô tướng nhất tướng tức là Thật tướng. Thật tướng tức là nhất thật đế, cũng gọi là Phật tánh hư không, cũng gọi là Đại bát niết-bàn. Cảnh và trí như thế không hai không khác. Cảnh như như tức trí như như. Trí tức là cảnh. Nói trí và trí xứ đều gọi là Bát-nhã. Cũng giống như nói xứ và xứ trí đều gọi là Sở đế. Là cảnh không phải cảnh mà nói là cảnh. Trí không phải trí mà gọi là trí, cũng gọi là Tam-muội tâm tịch, cũng gọi là Tam-muội sắc tịch, cũng gọi là Tam-muội minh tâm, cũng là Tam-muội minh sắc. Thỉnh Quán Âm chép: Thân phát ra ánh sáng đại trí, như đốt núi Tử Kim. Đại Kinh chép: Ánh sáng tức là trí tuệ. Kim Quang Minh chép: Trí cảnh không thể nghĩ bàn, trí chiếu không thể nghĩ bàn, các kinh nầy đều nói niệm chỉ là xứ; xứ chỉ là niệm; sắc tâm không hai, không hai mà hai. Vì hóa độ chúng sinh nên tạm đặt tên nói là hai. Quán tuệ nầy chỉ quán tâm một niệm vô minh của chúng sinh. Tâm này tức là pháp tánh. Do nhân duyên sinh tức không, tức giả, tức trung. Một tâm đủ ba tâm, ba tâm là một tâm. Quán này cũng gọi là Nhất thiết chủng trí. Cảnh này cũng gọi là Nhất viên đế. Một đế là ba đế, ba đế là một đế. Chư Phật vì một việc nhân duyên lớn này mà xuất hiện ở đời, muốn giúp cho chúng sinh khai mở tri kiến Phật. Việc ra đời của Chư Phật mới đầy đủ. Đại kinh chép: Vua đi đường bằng phẳng. Kinh Vô lượng Nghĩa chép: Đi đường thẳng lớn, không gặp nạn. Pháp Hoa gọi là Cụ túc đạo. Tuy nói ba trí, thật ra là một tâm. Vì nói cho người được dễ hiểu nên nói là ba. Nếu dạy đạo vì nói để dứt phiền não, nếu lật mặt đất thì sông biển đều sụp đổ, rễ cành cây lớn đều ngã nhào. Dùng trí nầy dứt hoặc cũng giống như thế. Thông-Biệt trần sa vô minh cùng lúc thanh tịnh, vô lượng công đức các Ba-la-mật, muôn hạnh pháp môn đầy đủ không giảm bớt, kho bí mật Phật pháp đều hiện ở trước. Đại Phẩm chép: Các pháp tuy không, một tâm đủ muôn hạnh. Đại Kinh chép: Phát tâm rốt cùng không hai không khác. Pháp Hoa chép: Bổn mạt rốt ráo bình đẳng nên gọi là đạo Diệu giác bình đẳng. Nên biết trí tuệ này là nguồn của pháp giới tâm linh, là mẹ pháp vô thượng của Chư Phật ba đời. Vì pháp thường nên Chư Phật cũng Thường, Lạc, Ngã, Tịnh cũng giống như thế; cũng gọi là đảo châu báu, cũng gọi là kho bí mật, là chỗ đồng trở về của Phật và tất cả Ba tạng trước (Tiểu thừa) đường hẹp không thể cùng đi. Thông giáo cùng vâng theo, cùng thực hành, cùng nhập vào, nhưng nhập không được sâu. Biệt giáo quanh co trải qua từng pháp riêng xa xôi, tức không thể đạt. Nay niệm xứ nầy rộng lớn như hư không, bờ mé ở chỗ không bờ mé, giống như sợi dây thẳng, thẳng vào bốn biển. Nên gọi là bốn Niệm Xứ của Viên Giáo. Trương Hành nói: Chim đại bàng ngẩng lên còn chẳng kịp huống là hạng chim xanh và sẻ vàng. Ngay ba niệm xứ trước còn chẳng thể kịp, chỉ niệm xứ của Viên Giáo, một mình bay vút lên trời xanh, vô thượng, vô đẳng, vô đẳng đẳng. Dọc không gì cao che nên nói vô thượng. Ngang không gì bằng nên nói vô đẳng, vô đẳng đẳng. Đối với Chư Phật mười phương ba đời mà nói Vô đẳng đẳng. Muốn nói lại nghĩa này lại dẫn Luận Duy Thức của Thiên Thân, chỉ là một thức lại có thức phân biệt và thức vô phân biệt. Thức phân biệt là thức, thức vô phân biệt là thức tự trần. Tất cả những vật như bình, áo, xe cộ v.v... có trong pháp giới đều là Thức vô phân biệt, thành ba vô tánh. Vô tánh gọi là Phi an lập đế. Như kia nói đủ. Long Thọ nói: Bốn niệm xứ tức Đại thừa. Đại thừa tức bốn niệm xứ, tức là nhất tánh. Sắc có sắc phân biệt và sắc vô phân biệt. Sắc phân biệt như nói ánh sáng tức là trí tuệ. Sắc vô phân biệt tức là pháp giới do bốn đại tạo thành, đều là vô phân biệt v.v... Sắc tâm nầy không hai. Kia đã được tên hai loại thức, đây cũng tạo thuyết hai loại sắc. Nếu sắc và tâm đối đãi nhau mà có thì lìa sắc không tâm, lìa tâm không sắc. Nếu không có sắc phân biệt và sắc vô phân biệt nầy thì làm sao có được thức phân biệt và thức vô phân biệt? Nếu Viên Giác nói thì cũng được duy sắc, duy thanh, duy hương, duy vị, duy xúc, duy thức. Nếu nói chung thì mỗi pháp đều đầy đủ các pháp bình đẳng trong pháp giới. Nên Bát-nhã bình đẳng, nội chiếu đã bình đẳng, ngoại hóa cũng bình đẳng. Tức là bốn tình thức đuổi theo vật có khó dễ. Đại luận chép: Tất cả pháp đều không, đâu cần dùng thêm mười dụ. Đáp: "Không" có hai loại. 1. "Không" khó hiểu. 2. "Không" dễ hiểu. Mười dụ là "không" dễ hiểu. Nay dùng "không" dễ hiểu để dụ cho "không" khó hiểu. Ý Duy Thức cũng giống như thế. Chỉ theo Duy Thức là đủ tất cả pháp môn, mà chúng sinh có hai loại:
1. Chấp nhiều sắc bên ngoài, chấp ít thức bên trong.
2. Chấp nhiều về thức bên trong, chấp ít sắc bên ngoài.
Như cõi trên chấp nhiều về nội thức, hai cõi dưới chấp ngoại sắc nhiều, nội thức ít. Như người học hỏi phần nhiều hướng ra bên ngoài để hiểu. Nếu theo thức khi làm luận giả Duy thức phá ngoài hướng vào trong. Nay quán rõ ràng pháp trong mười pháp giới đều là một thức. Thức không thì mười pháp giới không; thức giả thì mười pháp giới giả, thức trung thì mười pháp giới cũng trung. Chỉ dùng nội tâm phá tất cả pháp. Nếu ngoài quán mười pháp giới thì thấy nội tâm. Nên biết hoặc sắc hoặc thức đều là Duy thức. Hoặc thức hoặc sắc đều là duy sắc. Nay tuy nói hai kỳ sắc, tâm thực ra chỉ là một niệm. Vô minh pháp tánh, mười pháp giới tức là một tâm không thể nghĩ bàn, đủ tất cả pháp do nhân duyên sinh. Một câu gọi là nhất niệm vô minh pháp tánh tâm. Nếu nói rộng bốn câu thành một kệ, tức tâm do nhân duyên sinh, tức không, tức giả, tức trung. Nên kinh Bát-nhã nói: Thọ trì một bài kệ bốn câu thì bằng với mười phương hư không. Kinh Pháp Hoa nói: Nghe một bài kệ cũng được thọ ký Bồ-đề. Một câu cũng vậy, ba đời cũng thế. Nay quán chỉ một tâm không thể nghĩ bàn này, mười cõi thường hiện tiền, vào pháp môn Tâm địa. Nên có thể chẳng ra khỏi vắng lặng, mà hiện thân trong tám hội. Chỉ là một câu. Một câu có vô lượng, trong vô lượng chỉ một câu. Đó là không thể nghĩ bàn. Nên như tâm, Chư Phật cũng vậy; như Phật, chúng sinh cũng vậy, ba pháp không khác nhau. Giải thoát của Chư Phật nên tìm trong tâm tất cả chúng sinh. Tâm chúng sinh cũng nên tìm trong giải thoát của Chư Phật. Mới là Bát-nhã rốt ráo bình đẳng. Người chưa rõ tất cả pháp chánh, tất cả pháp tà, chẳng dùng tâm phân biệt tức tất cả chánh. Tâm khởi phân biệt tức si. Vô tưởng tức Nêhoàn. Sự không thể nghĩ bàn này chẳng phải xanh vàng đỏ trắng, vuông tròn dài ngắn, không danh không tướng, rốt ráo vắng lặng, chỉ ngay tâm biết, miệng không thể nói. Nếu có nhân duyên được phương tiện tốt, dùng tất-đàn cũng có thể nói được. Dùng năng lực phương tiện nói cho Tỳ-kheo, chúng sinh vô lượng kiếp tự tánh tâm không bị phiền não làm nhiễm. Chẳng nhiễm mà nhiễm, khó rõ biết được. Mê vọng tức nhiễm, nhiễm thì che tâm, không thấy tánh thanh tịnh. Cho nên ở lâu trong sinh tử, chẳng thể trở về nguồn cội. Nguồn thật khó hiểu, Nhị thừa còn không nghe đến tên, huống chi phàm phu. Nay Phật vì tạo nhân tu tập, như cột châu chỗ Phật Đại Thông Trí Thắng, đến thời Phật Thích-ca mới thành quả trái. Nay hạt giống này dần dần chứa nhóm. Sau gặp thanh quang phát hạt giống này, chuyển phàm lên Thánh, dần dần chứa nhóm công đức, đầy đủ tâm đại bi, đều đã thành Phật đạo. Nếu không như thế, thì vô minh che lấp pháp tánh, tạo ra năm Ấm mười pháp giới càng mê chồng chất. Nếu có thể siêu ngộ khởi lên năm Ấm Nhị thừa cho đến Phật Ấm. Kinh Hoa Nghiêm chép: Tâm như người thợ vẽ, tạo các thứ năm Ấm. Trong tất cả thế gian không gì chẳng do tâm tạo. Các Ấm chỉ do tâm làm ra. Quán tâm vô minh rốt ráo không thật có, mà năng sinh ra các Ấm trong mười cõi. Đây là không thể nghĩ bàn, như Hoa Nghiêm chép: Một niệm mộng, gây nhân được quả. Trong một niệm ngủ, tâm vô minh hợp với pháp tánh sinh ra vô lượng phiền não, tìm phiền não nầy thì được pháp tánh.
Hỏi: Biệt giáo và Viên giáo đều làm điều nầy, vì sao thí dụ khác nhau?
Đáp: Biệt giáo trải qua từng thứ, Viên giáo thì một niệm đủ. Như hạt cải chứa núi Tu-di nên gọi là không thể nghĩ bàn. Hoa Nghiêm Tánh Khởi chép: Trong một hạt bụi có quyển kinh lớn bằng cõi Đại thiên. Người trí mở hạt bụi lấy quyển kinh ra thì một niệm tâm vô minh có pháp phiền não, có pháp trí tuệ. Phiền não là ác trần, thiện trần, vô ký trần, mở ra pháp thân, Bát-nhã, giải thoát. Kinh Pháp Hoa chép: tánh tướng, v.v... như thế, một cõi, mười cõi, trăm ngàn pháp giới rốt ráo đều đồng. Nay quán tâm vô minh nầy từ đâu mà sinh? Từ vô minh hay từ pháp tánh? Là cộng hay lìa? Hoặc tự hoặc tha cả bốn đều chẳng thật có. Gọi là môn không giải thoát. Chỉ quán tâm tánh là có là không, là cộng là lìa, hoặc thường hoặc đoạn. Bốn điên đảo đều không thật có, gọi là môn Vô tướng giải thoát. Chỉ tâm tánh này là chân, là duyên, là cộng, là lìa, chẳng phải do bốn câu làm ra. Gọi là môn Vô tác giải thoát. Vô sinh mà nói sinh, sinh tướng tánh trong mười pháp giới. Tánh của vô minh là thật tánh. Cũng nói vô minh tức là minh. Minh cũng không thật có. Đó là nhập pháp môn không hai. Nhưng chúng sinh mê lầm điên đảo không thấy tâm đó không, nên tâm minh trở thành vô minh...
Hỏi: Chúng sinh tự tánh thanh tịnh, không bị nhiễm phiền não. Vì sao có vô minh sinh?
Đáp: Như trước đã trách, tướng sinh không thật có mà tạo mười bốn câu vặn hỏi. Phật đều chẳng đáp. Dù đáp chỉ làm cho tà kiến thêm lớn. Trong Đại phẩm hỏi có cũng không đắc đạo, không cũng chẳng đắc đạo. Cho đến bốn câu đều không đắc đạo, chẳng phải Thế tôn không đắc đạo sao? Phật đáp: Thật được chẳng phải bốn câu.
Kinh Kim Cương Bát-nhã nói: Tu-bồ-đề ở trong đó không thật, không hư. Đại luận Ma Càn Đề nói: Pháp câm trên được đạo. Phật đáp: nêu ông chứng pháp của ta, lúc ấy tự sẽ câm. Có lúc Phật biết lợi ích cũng có đáp mười bốn câu vặn hỏi, như đáp Tịnh Phạm Chí. Dứt hết cái cũ, không tạo ra cái mới. Ta đã biết, vì sao ông biết tên gọi vô minh nên thủ hữu gọi là mới. Nếu biết vô minh, chẳng khởi thủ hữu thì biết thần và thế gian là thường, vô thường. Chúng sinh chỉ vì ái kiến mê tự tánh, đuổi theo các vọng duyên, trôi lăn không dứt cách đạo rất xa năm trăm do-tuần. Phổ Hiền Quán chép: Vì ân ái mà nô lệ cho sắc, sai khiến mắt ta. Pháp Hoa nói: Tham đắm sinh ái thì bị thiêu đốt. Nhân của các khổ thì tham dục là gốc, không dứt phiền não mà nhập Niết-bàn. Vô minh phiền não là hạt giống Như lai. Nếu dứt phiền não tức là dứt hạt giống Phật. Nên nói bất động mà vận đại từ che khắp chúng sinh trong mười cõi. Chúng sinh vô lượng, từ bi cũng vô lượng. Chẳng phải một rộng lớn thì không thể hết được thệ nguyện. Không phải một rộng lớn thì không thể hết, đó là Duyên niệm xứ, ba loại một tâm đầy đủ. Tánh trí tuệ quán Thân, Thọ, Tâm, Pháp này gọi là Tánh niệm xứ. Một tánh niệm xứ gồm tất cả tánh niệm xứ. Quán Thân, Thọ, Tâm, Pháp, định tuệ ngang bằng có thể giúp cho đại đạo, gọi là Cộng niệm xứ. Một cộng niệm xứ, tất cả cộng niệm xứ, quán Thân, Thọ, Tâm, Pháp tất cả từ bi gọi là Duyên niệm xứ. Một duyên niệm xứ, tất cả duyên niệm xứ. Quán một niệm tâm vô minh này tức là chúng sinh, chúng sinh tức pháp tánh. Pháp tánh tức Đại thừa, Đại thừa tức mười pháp giới. Tánh niệm xứ lợi ích mười pháp giới.
Chúng sinh đồng ở bốn niệm xứ, ngồi đạo tràng xoay nhiều thứ bánh xe pháp không thể nghĩ bàn. Nhất thiết chủng trí làm căn bản. Vô lượng công đức để trang nghiêm, đều khiến chúng sinh ở yên trong Thập địa. Mười loại châu báu làm chân bước, trí tuệ khô tươi làm song thọ. Nếu thấy Phật tánh chẳng tươi chẳng khô, vì ở khoảng giữa mà nhập Niết-bàn, chiếu soi cả nhị đế. Tổng kết bốn niệm xứ. Tuy nói riêng để dạy người mà văn ngôn khó thấy. Chỉ một tâm sát-na, tức là pháp do nhân duyên sinh. Nhân duyên tâm sinh diệt tức là Tam tạng (Tạng giáo). Ba mươi bảy phẩm nhân duyên tâm Không là Thông (Thông giáo). Ba mươi bảy phẩm nhân duyên tâm giả là Biệt (Biệt giáo). Ba mươi bảy phẩm nhân duyên tâm Trung, chẳng không, chẳng giả tức là Viên (Viên giáo). Ba mươi bảy phẩm chỉ là một niệm tâm. Nếu ngang thì không bờ mé, dọc thì vô cùng tận. Nguồn ba đế như thế. Một niệm này không ngang không dọc. Nếu tâm tức không, tức giả, tức trung, là quán ngang. Tâm này trước thấy không, kế thấy giả, sau thấy trung tức là dọc. Nay quán kỹ ba câu trong tâm, thật chẳng dọc chẳng ngang, chẳng trước chẳng sau, rốt ráo thanh tịnh, pháp giới rộng lớn rốt ráo như hư không. Quán tâm thật tánh không có vi trần tri giác. Tức pháp tánh nầy gọi là bất giác, phiền não là đạo tràng. Dứt phiền não không gọi là Niết-bàn, chẳng sinh phiền não mới gọi Niết-bàn.
Phiền não tức Bồ-đề, sinh tử tức Niết-bàn. Ý ở ba thứ niệm xứ. Quán sắc mười cõi gọi là Thân, thọ mười cõi gọi là Thọ, thức mười cõi gọi là Tâm, tưởng-hành trong mười cõi gọi là Pháp. Pháp tánh sắc, một sắc là tất cả sắc, tất cả sắc là một sắc. Một thọ là tất cả thọ, tất cả thọ là một thọ. Một tâm là tất cả tâm, tất cả tâm là một tâm. Một tưởng-hành pháp là tất cả pháp, tất cả pháp là một pháp. Đem trí tuệ tánh quán mười pháp giới sắc tánh gọi là quán liễu đạt. Trong sắc không dơ không sạch gọi là xứ. Trí tuệ quán mười pháp giới thọ tánh gọi là quán liễu đạt. Trong thọ tánh không khổ không vui gọi là Xứ. Trí tuệ tánh quán mười cõi tâm tánh gọi là quán liễu đạt. Tâm tánh, tánh chẳng thường chẳng vô thường gọi là Xứ. Trí tuệ tánh quán mười pháp giới, pháp tánh gọi là quán liễu đạt. Pháp tánh chẳng phải ngã chẳng phải vô ngã gọi là. Năng sở hợp tiêu chuẩn gọi là quán Tánh niệm xứ.
Kế là giải thích quán Cộng niệm xứ. Quán mười pháp giới sắc, không dơ, không sạch, chiếu soi cả nhị đế, dơ cùng sạch tánh không hai. Tánh không hai tức là thật tánh. Kế quán mười thọ giới, chẳng khổ chẳng vui, chiếu soi cả nhị đế, khổ và vui tánh không hai. Tánh không hai tức là thật tánh. Kế quán mười giới tâm, chẳng thường chẳng vô thường, chiếu soi cả nhị đế. Thường và vô thường tánh không hai. Tánh không hai tức là thật tánh. Kế quán mười giới pháp, chẳng phải ngã chẳng phải vô ngã, chiếu soi cả nhị đế. Ngã và vô ngã tánh không hai. Tánh không hai tức là thật tánh. Đó gọi là quán Cộng niệm xứ.
Kế là giải thích Duyên niệm xứ. Bồ-tát quán Thân, Thọ, Tâm, Pháp này không duyên từ bi, không duyên vô niệm, như nam châm hút sắt, vắng lặng mà thường chiếu soi. Tuy vô niệm, bất giác mà gọi là Phật, đầy đủ hằng sa pháp tạng. Pháp môn như hư không, mười phương chẳng thể nói, chẳng thể nói, trong một hạt bụi chứa hết Phật, pháp, tăng trong pháp giới, thật tướng mà không chứa nhóm. Ví như người tham chất chứa nhiều gọi là kho. Giải thoát thì không như thế, không chỗ chất chứa. Không chỗ chất chứa tức là chân giải thoát. Giải thoát tức là Như lai. Không chỗ chất chứa gọi là hư không. Năng quán kho này là quyển kinh Đại thiên. Mở kho lớn này là mở tri kiến Phật. Tri kiến nên năm thứ mắt đầy đủ. Năm thứ mắt đầy đủ thì thành Bồ-đề. Bồ-đề tức Ma-ha Bát-nhã, tức được pháp thân. Pháp thân tức chân giải thoát. Ba chấm không ngang không dọc gọi là Đại Niết-bàn. Niết-bàn gọi là pháp giới Chư Phật. Thực hành quán tâm này là vào thất Như lai, mặc áo Như lai, ngồi tòa Như lai, giở chân đặt chân từ đạo tràng đến, trụ ở Phật pháp. Như lai di chúc khiến ở niệm xứ mà tu đạo, mục đích là ở đây.
Hỏi: Ở trước năm dừng tâm, sáu căn dùng lẫn nhau. Nay niệm xứ chứng công đức gì?
Đáp: Trước nói để hiểu, tướng mạo như trên. Nay tu niệm xứ, tiến phát địa vị chân thật của Thập trụ. Trước thấy tướng bằng phẳng khoáng đãng rộng lớn như thế. Huống chi biển lớn sâu rộng, mênh mông bao la, có thể dùng trí mà biết, không đợi nói thêm.