TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠP TẠNG

BỘ CHƯ TÔNG

SỐ 1921 - QUÁN TÂM LUẬN SỚ

Sa môn Quán Đảnh ở núi Thiên Thai đời Tùy soạn.

MỤC LỤC

SỐ 1921 - QUÁN TÂM LUẬN SỚ

QUYỂN 1

QUYỂN 2

QUYỂN 3

I. ĐỦ NGŨ DUYÊN:

II. CHÊ TRÁCH NĂM DỤC

III. BỎ NĂM THỨ CÁI:

IV. ĐIỀU NĂM VIỆC:

V. HÀNH NĂM PHÁP:

QUYỂN 4

QUYỂN 5


QUYỂN 1

Luận gồm có ba phần: Tựa, chánh tông và lưu thông.

Từ đầu hỏi: Kinh Phật vô lượng trở xuống cho đến một năm bốn tháng, có ba trang rưỡi: luận văn và phần tựa.

Từ "Hỏi quán tự sinh tâm, thế nào là bốn thứ không nói trở xuống cho đến vắng lặng không nói năng", cả thảy 36 bài kệ là phần chánh tông.

Từ: "Nay y cứ vào quán nhất niệm trở xuống có 10 hàng 3 chữ là phần lưu thông.

Phần tựa lại chia làm hai: một là hỏi; hai là đáp.

Trong phần hỏi: gồm có năm ý: một hỏi Kinh Phật là vô lượng, hai hỏi Luận cũng rất nhiều. Ba hỏi, người mở mang đầy dẫy khắp nơi. Bốn, hỏi, chúng nghe pháp không chỗ nào không có. Năm, phần hỏi kết thúc, rằng, mưa pháp rưới khắp, lợi ích vô lượng vô biên; thế thì sự thấy nghe nào, với lợi ích gì mà lại soạn luận nầy?

Năm ý nầy, mới đọc qua luận đều đã thấy, không cần giải thích thêm.

Trong phần thứ hai, phần đáp: có hai: một là bằng văn kệ trả lời ngắn gọn; hai bằng trường hàng, trả lời chi tiết đầy đủ.

Trong văn trường hàng lại chia làm hai: một với hai câu hỏi, kinh Phật vô lượng, luận cũng rất nhiều. Điều nầy đúng như câu hỏi, cho nên luận nói, việc đó đều đã biết. Hai hỏi vặn cho rằng ba câu hỏi kia là sai. Vì sao? Một là, chính vì người mở mang cho thêm nước vào sữa là một lỗi. Hai là người mở mang tự mình có lỗi khiến người nghe pháp mất đi đạo vị chân thật, là một lỗi. Ba là nói do người nói, người nghe đều có lỗi cho nên bốn chúng lộn xộn, Phật pháp suy đồi.

Vì ba lỗi nầy mà lòng buồn thương muốn soạn luận; ý ở chỗ nầy.

Vì sao? Kinh nói: tướng các pháp vốn vắng lặng; không thể dùng lời nói mà trình bày được. Nay lại trình bày là muốn rằng, các vật nhờ sự tuyên bày mà thông hiểu lý trở về nguồn cội. Song, nghĩa văn kinh sâu kín nên Bồ tát soạn luận để trình bày rõ ràng hơn, giúp người học hỏi nhìn thấy mặt trăng mà quên ngón tay, lòng nghiêm tầm đế lý; do vậy, trong cái không thể nói lại nói đầy đủ các pháp khiến Tam sư của Luật, Pháp và Thiền thấy rõ là sai với Thánh ý, chẳng những không thể làm sáng tỏ Tam bảo lại còn khiến cho Phật pháp bị ô nhục. Cũng do vậy, trong kinh Tượng pháp quyết nghi có nói việc Tam sư phá Phật pháp.

Hỏi: Tam sư có lỗi gì?

Đáp: Lược có 10 lỗi:

(1) Mười lỗi của Pháp sư: chỉ lo tìm hiểu ý nghĩa bên ngoài, không nội quán tu tâm. Thích luận chép: có văn không tuệ thì những điều được nói ra không nên nghe.

(2) Không dung thông hội kinh, chấm dứt sự tranh cãi để tiến đạo, chỉ cho mình đúng, người sai, ngã mạn, tự cao, không biết thấy tâm khổ tập.

(3) Không theo di chúc, không nương vào bốn niệm xứ để tu đạo, không giữ gìn giới luật, chẳng phải đệ tử của Phật.

(4) Kinh chép: không thiền thì chẳng có tuệ; thiên tuệ thì không có thiền; một cánh một vòng, làm sao tiến xa được.

(5) Pháp vốn không thể nói; nói là phá bỏ tham cầu. Chỉ mưu cầu danh lợi mà nói, làm sao hội được Thánh ý.

(6) Chú trọng nghe để nói, thì lợi ích cho việc tu tập của bản thân. Kinh chép: như người đếm bạc giúp, tự không có một đồng.

(7) Không thực hành, chỉ nói và nói thì làm sao lợi ích cho người được.

(8) Cho quá nhiều nước vào sữa, không có lời dạy, giáo lầm năng sinh.

(9) Bốn chúng mất đi lợi ích chân thật của pháp trở nên lộn xộn.

(10) Chẳng những không thể làm rạng rỡ, lại còn phá hoại Phật pháp.

Mười lỗi của Thiền sư:

(1) Kinh chép: giả danh A-luyện-nhã, Áo vá tại chỗ tịnh; tự nói báu nhân gian, nói lỗi của chúng ta.

(2) Cậy vào việc thực hành của mình mà chê bai kẻ khác, không biết đó là phiền não khổ tập của giới thủ.

(3) Không có tuệ mà tu định, đó là thiền mù không mắt, đâu thể ra khỏi được sinh tử.

(4) Không theo di chúc, không nương vào bốn niệm xứ để tu tập; tu đạo không giữ gìn giới luật, lại dựa vào các thứ không phải của Phật.

(5) Thiền mà không có tuệ, phần nhiều là phát khởi định quỷ; hiện tại pháp hoại Phật pháp, chết rồi đọa vào được quỷ.

(6) Ngồi thiền vì mưu cầu danh lợi chẳng khác nào phiền-đề-la, chết đọa địa ngục.

(7) Dù chứng được thiền cũng bị nạn Trường Thọ thiên.

(8) Thêm nhiều nước vào sữa (nhiều giáo vào thiền), đem dạy cho người học, tạo giống ba đường.

(9) Bốn chúng không thấm nhuần môn chân pháp, trở nên lộn xộn.

(10) Chẳng những không thể làm rạng rỡ Tam bảo, lại còn phá Phật pháp.

Mười lỗi của Luật sư:

(1) Chỉ chấp luật lệ bên ngoài, không biết giới luật bên trong, cho nên bị ngài Tịnh Danh quở trách.

(2) Chấp chặt danh tương của luật, tranh cãi phải trái, không biết đó là khổ tập của chấp tâm.

(3) Giới, định, tuệ giúp nhau mới tiến đạo được; chỉ có Luật, thiếu tuệ, thiếu thiền, thì làm sao tấn đạo được.

(4) Hoằng pháp chỉ mong cầu tiếng tăm, không có chút tâm đạo, kết quả là đọa ba đường.

(5) Không theo di chúc, không nương vào niệm xứ, không giữ gìn giới luật.

(6) Chấp luật, phương tiện Tiểu giáo cho là chánh lý, khiến trở ngại lớn cho đại đạo.

(7) Mỗi vị thầy chấp lấy giới luật không giống nhau, nên hoằng hóa thêm nhiều nước vào sữa.

(8) Không nương vào Thánh giáo mà truyền thọ thì khiến hậu sinh nhầm lẫn.

(9) Bốn chúng không thấm nhuần chân pháp trở nên lộn xộn.

(10) Chẳng những không thể làm rạng rỡ Tam bảo, lại còn phá hoại Phật pháp. Song hậu sinh lại tôn sùng, theo gót tam sư nhận làm thấy dẫn đường; Thầy tà, không có đạo, đệ tử làm sao chánh được. Cho nên, Kinh chép tam sư pháp Phật pháp.

Kệ nói rằng:

Đại sư sắp Niết-bàn;
Cha làm có di chúc
Bốn niệm xứ tu đạo
Và giữ gìn giới luật.

Bài kệ này nói đến cha lành Thích-ca Mâu-ni khiến bốn chúng nương vào bốn niệm xứ để tu đạo; đồng thời giữ gìn giới luật. Cho nên Thích luận nói rằng, khi Đức Như Lai sắp Niết-bàn, A nan thưa hỏi Đức Phật rằng, sau khi Đức Như Lai diệt độ, các tỳ kheo nương vào đạo mà tu tập, nương vào pháp mà an trú. Phật đáp: nương bốn niệm xứ để tu đạo, nương giới luật mà an trú...

Hỏi: Các Đức Phật vào đạo, pháp môn là vô lượng, vì sao chỉ dạy nương hai pháp đó là bốn niệm xứ mà mộc xoa mà an trú?

Đáp: Hai pháp nầy tuy là sơ lược nhưng lý thì gồm nhiếp tất cả các pháp môn, nên riêng khuyên bảo. Nay, nói qua hai pháp môn nầy bao gồm như thế nào. Bốn niệm xứ là tuệ tánh là con mắt; giới mộc-xoa là chân. Kinh chép: mắt chân đầy đủ thì đến được ao mát mẻ. Lại nữa, niệm xứ là giải; mộc xoa là hạnh; niệm xứ là trí tuệ trang nghiêm, giới mộc xoa là phước đức trang nghiêm; niệm xứ là bát-nhã độ, hành (giới mộc xoa) là năm độ; niệm xứ là phép tắc quán chiếu, hành là phép tắc giúp thành; do hai phép tắc nầy hiển bày phép tắc chân tánh; tuệ là Niết-bàn viên tịnh, hành là phương tiện Niết-bàn tịnh; do hai thứ Niết-bàn nầy có công năng hiển bày Niết-bàn tánh tịnh; Tuệ là liễu nhân, hành là duyên nhân; Tuệ là đức Bát-nhã, hành là đức giải thoát; do hai đức nầy có công năng hiển bày thành ba đức pháp thân; niệm xứ là quán chiếu Bát-nhã, hành là phương tiện Bát-nhã; do hai giải thoát nầy có công năng hiển bày tánh tịnh giải thoát.

Cho nên, Tuệ niệm xứ, giới mộc xoa, tóm tắt có 10 nghĩa, vì thế đặc biệt khuyên tu. Nhưng phàm phu lại cho thân là thanh tịnh, thọ là vui, tâm là thường và pháp có ngã. Do bốn thứ điên đảo nầy khiến sinh khởi tham ái; do tham ái vô minh làm sinh khởi các hành, cho đến già chết, một đường khổ tập, tám mươi bốn ngàn phiền não rực cháy trong ngôi nhà năm Ấm. Cho nên kinh Pháp Hoa chép: đồng lúc bốn mặt, phừng phừng lửa dậy, tức là ví như bốn đảo. Tiểu thừa quán nhân tức quán thân bất tịnh, đối trị tịnh đảo tưởng, quán thọ là khổ, đối trị lạc đảo tưởng, quán tâm vô thường, đối trị thường đảo tưởng, quán pháp vô ngã đối trị đảo tưởng pháp tham ái. Nay, quán biết thân là bất tịnh cho đến khổ, vô ngã thì không còn khởi sinh tham ái, vô minh, hành, thức cho đến già chết. Từ đó, sông sinh tử khô cạn, sông Niết-bàn đầy lên; lớp lớp cùng nhau tranh ra khỏi nhà lửa, đến chỗ vô úy. Vì nhân duyên đó nên khuyên những người hành theo pháp Tiểu thừa, nương theo bốn niệm xứ để tu tập.

Tiếp đến, nói về niệm xứ Đại thừa. Kinh chép: phiền não tức là bồ đề, sinh tử tức là Niết-bàn; đạo bồ đề, Niết-bàn vốn vắng lặng vô tướng, chẳng phải tịnh, chẳng phải uế, chẳng phải khổ, chẳng phải vui, chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, v.v... Nay, đã nói thân sinh tử tức là thân bồ đề Niết-bàn, là thể của thật tướng pháp giới chân như. Kinh chép: không hoại nơi thân mà tùy theo nhất tướng. Lại chép: quán thân thật tướng, quán Phật cũng vậy; tất cả chúng sinh tức là tướng Niết-bàn, không còn diệt nữa. Đây là nghĩa chẳng phải khô, chẳng phải tươi, thường ở nơi rừng song thọ, điềm nhiên vắng lặng đối với hai thứ khổ chết. Nhưng, chúng sinh ôm lấy tuệ mà lại thường đi đêm, đâu biết tri kiến của Phật ở ngay trong thân; say mèm bởi rượu vô minh nên đâu biết được hạt châu quý trong túi áo. Do đó khuyên tu tập niệm xứ Đại thừa, quán thân chẳng tịnh, chẳng uế; quán thọ chẳng phải khổ, chẳng vui; quán tâm chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán pháp chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Cho nên, chẳng phải khô, chẳng phải tươi, đều quy về Niết-bàn vắng lặng hoàn toàn, an trú trong kho tàng bí mật của ba đức Niếtbàn Như Lai. Kinh chép: Đặt các con trong kho tàng bí mật, ta cũng chẳng bao lâu ta sẽ an trú mãi trong đó. Vì nhân duyên như vậy nên khuyên nương vào bốn niệm xứ để tu tập. Khuyên nương vào giới mộc xoa để tu tập, giữ giới Tiểu thừa có mười điều lợi ích: một là nhiếp tăng. Tăng là chúng, chúng có nghĩa là hòa hợp. Tuy khác nhau về nơi chốn, nhưng đều xuất gia với Phật, đều thọ giới cụ túc, tài pháp đều thâu nhiếp, không để trái ngược, đó là sự hòa. Giới vô tác giúp phát sinh định tuệ, phù hợp với vô lậu, đồng quy về nhất cực, tức là lý hòa. Hai là cực hảo nhiếp, đồng bẩm thụ tịnh giới, đều giữ gìn ba nghiệp thì không bị não hoại bởi đảo tưởng, tức cực hảo nhiếp. Ba, tăng an lạc trú, do giới giữ gìn thân, miệng nên không bị các đảo tưởng não loạn, do đó Tăng được an trú trong vui. Bốn, bẻ gãy tâm cống cao. Năm, có hỗ có thẹn được an trú trong an vui. Do có tịnh giới khiến phát sinh định tuệ, bên trong giữ gìn sự hỗ thẹn đó là thành tựu được an trú. Sáu, người chưa tin thì được niềm tin thanh tịnh tức là nội phàm đắc giả danh định tuệ khiến ngoại phàm không tin tưởng. Đã tin thì làm cho niềm tin lớn thêm, tiến tu thật pháp không; được ba pháp noãn, đảnh, nhẫn, tín giải trở nên sâu xa. Tám, ngăn dứt phiền não đời nầy, đây là pháp thế đệ nhất, đạo chiết phục đã đầy đủ. Chín, dứt trừ cái ác đời sau, từ khổ nhẫn sơ tâm đạt được La hán kim cương tâm, do hoàn toàn dứt hoặc một cách đúng đắn. Mười, phạm hạnh tồn tại lâu dài, chữ phạm cũng gọi là tịnh, cũng nói là Niết-bàn, đây là cực quả La hán, những điều cần làm đã xong. Đây là nói về người giữ giới Tiểu thừa được mười điều lợi ích. Tức là khuyên nương vào giới luật để tu tập. Kế đến, nói về giữ giới Đại thừa, tức là giới mà người trí khen ngợi, tự tại giới, cụ túc giới, chư Ba-la-mật giới. Người giữ giới nầy cũng có mười lợi ích. Tên gọi giống như ở trước nhưng ý nghĩa thì rất khác. Là như thế nào? Một nhiếp tăng, tức là tăng nhất thế, Tam bảo, ba trí cùng ba đế lý hội dung, đó là nghĩa chữ Tăng. Trí soi chiếu cảnh, không cảnh thì không sáng, tức trí thuộc về cảnh, cảnh phát ra trí, không trí thì không phát, tức cảnh thuộc về trí, cảnh trí lệ thuộc dung hòa lẫn nhau, cho nên gọi là nhiếp tăng. Hai, cực hảo nhiếp: trí chiếu soi cảnh, không cảnh nào không có ở trong đó; cảnh phát ở nơi trí, không trí nào lại không trọn vẹn. Cho nên gọi là cực hảo nhiếp. Ba là Tăng an lạc trú: trí ba quán nương vào cảnh ba đế, cảnh trí tương xứng dung hòa, cho nên gọi là an lạc trú. Bốn là chiết phục người có tâm cống cao: Đắc giới Đại thừa thì có khả năng trừ dẹp được tâm cống cao thuộc hạ hoặc của ba đế. Năm, có hỗ thẹn được an lạc trú: tàm thiên tức là tàm đệ nhất nghĩa thiên; quý nhân tức là người hổ thẹn với đạo phương tiện; cho nên nói hỗ thẹn được an lạc trú. Sáu, khiến người chưa tin có được niềm tin thanh tịnh: người chưa tin đế lý khiến đều được tin hiểu rõ ràng. Bảy, người đã tin khiến niềm tin vững chắc thêm, tăng tiến trung đạo tín. Tám, ngăn ngừa phiền não đời nầy: tức đầy đủ đạo Đại thừa, bẻ gãy các phiền não. (9) Dứt ác đời sau: dứt bỏ năm trú hoặc, được tâm kim cương. Mười, phạm hạnh tồn tại lâu dài: diệu giác đại Niết-bàn mới gọi là cực tịnh, tức phạm hạnh tồn tại lâu dài. Người giữ gìn giới pháp Đại thừa được mười lợi ích, cho nên khuyên phải nương vào giới luật để tu tập.

Kệ nói:

Chúng ta chẳng phải Phật tử
Không nhớ di chúc nầy
Thừa hoãn, trong không đạo
Giới hoãn đọa ba đường.

Bài kệ nầy có bốn câu, nói những pháp luật trên, Ba sư và bốn chúng, không vâng lời Phật dạy, không tu bốn niệm xứ, tu đạo không nương vào giới luật, khiến Phật pháp bị hoại diệt, Tam bảo suy đồi. Kinh Niết-bàn chép: đối với giới hoãn, không gọi là hoãn; đối với thừa hoãn mới gọi là hoãn. Song, giới Đại thừa thì thừa và giới đều cấp, tức là thừa cấp. Vì sao? Giới nầy là năng động, năng xuất. Trung đạo Đại thừa, thừa nầy tức là giới. Vì sao? Thừa nầy là ngừa quấy ngăn lỗi. Thừa gấp tức giới gấp. Nay chỉ giữ gìn các giới ba quy, năm giới, mười giới, v.v... bất động bất xuất là giới thủ; quán niệm xứ năng động năng xuất là Thừa, cộng chung thành bốn câu, vả lại, giới cấp được thân trời người; giới hoãn phải làm thân bốn loài thú. Thừa cấp mới đắc đạo, thừa hoãn không thể đắc đạo. Câu đầu: thừa cấp giới hoãn, thừa cấp cho nên đắc đạo. Giới hoãn cho nên đọa ba đường. Nay trong kinh nói tứ thú thân thọ đạo, tức là nghĩa ấy. Câu hai: giới cấp thừa hoãn; giới cấp được thân trời người; thừa hoãn không thể đắc đạo. Nay được thân trời người mà không đắc đạo, tức là việc ấy. Câu ba: thừa gấp, giới gấp: nay rõ ràng có thân trời người đắc đạo là nghĩa ấy. Câu bốn: thừa hoãn, giới hoãn: nay thấy có thân trong ba đường, không đắc đạo tức là việc ấy. Kế đến nói, Tam sư và Bốn chúng không nương vào bốn niệm xứ, tu đạo không nương vào giới luật, tức chẳng phải đệ tử Phật, không nghĩ đến di chúc của Ngài là câu thứ tư, thừa giới đều hoãn. Bên trong, tự chuốc lấy khổ độc, ngoài thời phá hủy Tam bảo, khiến người khác không tin. Trong luận có bài kệ: chúng ta chẳng phải đệ tử Phật, không nhớ nghĩ đến di chúc của Ngài, thừa hoãn thì trong không có đạo, giới hoãn đọa ba đường; do không hỏi quán tâm, khiến lòng tin của những người khác dần dần mỏng bạc.

Hỏi: Từ đây trở xuống, vì lý do gì mà luận đầu nói không biết hỏi quán tâm, các hạnh đều không thành; nếu biết hỏi quán tâm thì các hạnh đều thành chăng?

Đáp: Kinh Bát-nhã chép: Bát-nhã, nếu dẫn dắt được năm Ba-la-mật cho đến muôn hạnh khiến có thể đạt đến quả Phật; nếu không được Bát-nhã dẫn dắt thì muôn hạnh đều là đảo tưởng tà vạy. Nay nói hỏi được quán tâm tức là tu tập Bát-nhã, tức là tu bốn niệm xứ, thành tựu trọn vẹn ba quán. Dùng quán nầy dẫn dắt muôn hạnh thì muôn hạnh đều chánh, nếu không thì muôn hạnh trở thành tà. Do đó, từ đầu đến cuối, luận đều nói, hỏi quán tâm.

Hỏi: bốn niệm xứ, thân là sắc pháp, làm sao nói là tâm tà?

Đáp: Kinh chép: trong ba cõi, không có pháp nào khác, tất cả đều do một tâm hiện bày ra cả.

Lại chép: tâm như người họa sĩ, vẽ ra các thứ năm Ấm. Cho nên biết rằng, tâm là gốc.

Kệ nói:

Không cho quạ đen ăn
Đâu báo ơn quạ trắng
Chẳng phải ruộng không tốt
Không hạt giống bình đẳng.

Bài kệ nầy nói, không quán Niệm xứ tức là không có hạt giống bình đẳng; không an trú trong Ba-la-đề-mộc-xoa tức là không có ruộng tốt. Vì sao? Vì người quán Đại thừa niệm xứ, quán thân năm Ấm sinh tử chẳng phải khô, chẳng phải tươi, tức Niết-bàn vắng lặng. Kinh chép: Sắc giải thoát Niết-bàn cho đến thức cũng giải thoát Niết-bàn. Biết tu quán niệm xứ nầy tức là quán tất cả sáu đường chúng sinh đều là thường, lạc, ngã, tịnh đại Niết-bàn, đầy đủ tri kiến của Phật. Như Thường bất khinh thành tựu viên tín. Kinh chép: Bố thí cho người nghèo khổ nhất trong thành ngang với bố thí cho Như Lai Nan Thắng. Thế thì đâu có phân biệt ruộng hay không phải ruộng đáng thí hay không đáng thí đâu. Cho nên quán niệm xứ tức là hạt giống bình đẳng; nếu không tu thì thấy sinh tử và Niết-bàn khác nhau, phàm Thánh khác nhau. Thánh là kính điền, nên tôn sùng kính mến cúng dường; phàm là bi điền, nên thấp hèn không đáng thí xả, cho nên không có hạt giống bình đẳng. Nay lấy vua mà ví dụ, dụ cho không có hạt giống bình đẳng. Vì sao? Vì ngày xưa, có một vị vua, trong một cuộc đi chơi, đã nằm nghỉ trong đám cỏ, sắp bị rắn cắn. Bấy giờ, có một con quạ trắng bay đến mổ một cái; Vua tỉnh thức, về cung. Sau đó, lệnh cho các quan trong triều, tìm con quạ trắng kia, để đền ơn nó. Các quan trong triều thưa, nếu tìm quạ trắng thì không biết đâu mà tìm, nhà vua nói cho tất cả quạ đen ăn tức là đền ơn quạ trắng. Mượn quạ trắng để dụ cho bậc Thánh, quạ đen dụ cho phàm phu; vua dụ cho chúng sinh là người không biết tu hạt giống niệm xứ bình đẳng. Từ đó phân biệt hai loại ruộng là bi điền và kính điền. Song, phàm phu, trong không có hạt giống bình đẳng, đạo viên quán cứ ở bên ngoài, thì không thể thành Phật, hóa độ Đại thừa, nói pháp bình đẳng cũng đâu báo được ơn Phật. Lại nữa, còn phá hủy giới cấm của Như Lai thì không có ruộng tốt. Việc nầy như kệ nói:

Nếu không rưới mưa pháp
Giống pháp sẽ tiêu khô.

Nửa bài kệ nầy nói về căn cơ bốn chúng không có giới và tuệ nên Thánh không thể ứng được. Vì sao? Vì kinh Niết-bàn chép: Thuần đà tự nói, thân nầy của con là mảnh ruộng tốt, không bị bỏ hoang, cúi mong Đức Như Lai rưới mưa pháp cam lồ lên thân con khiến nảy sinh mầm giống Phật pháp. Bốn chúng không nương vào niệm xứ tu tập thì không có giống tuệ; không an trú trong mộc xoa thì không có ruộng tốt. Không có hạt giống thì chúng sinh không có cơ hội cảm ứng bậc Thánh, làm sao có được mưa pháp; mầm giống Phật tánh nơi chúng sinh làm sao khỏi khô.

Kệ nói:

Không tư lương đời sau
Mất ba lợi, còn khổ
Đại pháp sắp suy đồi
Buồn thay, thấy việc đó.

Bài kệ nầy nói, trong không có căn cơ tốt, ngoài không có mầm giống pháp để ứng với bậc Thánh. Khô thì mất đi ba cái vui lợi ích của Niết-bàn; chẳng những mất đi ba cái lợi như vậy mà còn chuốc lấy sự khổ trong ba đường. Cho nên, pháp không có người mở mang khiến ngày càng suy đồi.

Buồn thay.

Vì nhân duyên như vậy
Nên soạn luận Quán tâm.

Đây là nửa bài kệ kết thúc đoạn trên. Kệ nói:

Nếu biết hỏi quán tâm
Không đi không đến được
Nếu biết hỏi quán tâm
Đi được và đến được.

Từ đây trở xuống năm bài kệ nói về việc tín thuận di chúc của đấng cha lành, là đệ tử chân chánh của Phật. Trái với mê ở trước, ở đây là giải hành. Nói chân pháp giới bình đẳng, không thể đi, không thể đến, nhưng, lý trung đạo chân pháp giới vắng lặng, vô tướng, vô vi, vô nhân, vô pháp, phi cảnh, phi trí, đâu có người năng hành, pháp năng đáo. Tuy vô hành, vô đáo nhưng nếu hết lòng tu tập trọn vẹn bốn niệm xứ ba quán thì đạt đến rốt ráo Niết-bàn ở bờ bên kia.

Kệ nói:

Tức bốn niệm xứ nầy
Khéo an trụ mộc xoa
Thừa gấp, trong có đạo
Giới gấp sinh trời, người
Đây là chân Phật tử
Không trái lời cha dặn.
Trời rồng đều vui mừng
Tất cả đều ưa thích.

Hai bài kệ nầy nói, người biết hỏi quán tâm, không đi mà đi; không đến mà đến, tức là nương vào bốn niệm xứ, khéo an trú trong mộc xoa. Có tu tập niệm xứ tức thừa cấp, bên trong có đạo; khéo an trụ trong mộc xoa tức là giới gấp, sinh về trời người. Đó chính là hữu hành, hữu giải.

Y giáo tu tập, lý là chân Phật tử. Không trái lời dặn của cha lành, người nầy đầy đủ hai đức tự hành và hóa tha; tất cả trời rồng ẩn hiện đều nhờ đó mà được độ. Do vậy mà ưa thích.

Kệ nói:

Để đền ơn quạ trắng
Cho khắp quạ đen ăn
Đã có mảnh ruộng tốt
Có hạt giống bình đẳng
Mưa pháp đúng thời rưới
Giống pháp đều lớn lên
Có tư lương đời sau,
Đều được ba lợi lạc.
Hai bài kệ nầy nói:
Có hạt giống bình đẳng
Lại có mạnh ruộng tốt
Cho khắp quạ đen ăn,
Tức đền ơn quạ trắng.

Vì sao? Vì Phật là bậc Thánh giác ngộ chúng sinh khiến ba thứ phiền não rắn độc khỏi nhiễu hại, cũng giống như quạ trắng thức tỉnh nhà vua, khỏi bị rắn độc làm hại. Kinh chép: theo giáo pháp tu hành gọi là báo đền ơn Phật; thường giúp Phật tuyên hóa cũng gọi là báo đáp ơn đức bậc Thánh. Nay, hành giả đối với niệm xứ quán tuệ; an trú trong mộc xoa tức là y giáo tu hành gọi là báo đền ơn Phật. Lại nữa, lấy sự tu hành của mình mà hoằng hóa chúng sinh, tức là cho khắp quạ đen ăn. Đó cũng là báo ơn quạ trắng vậy. Lại nữa, có ruộng giới tốt, có hạt giống tuệ, cơ có hành có giải sẽ được cảm ứng bậc Thánh, cảm ứng thì được lợi ích. Vì nhân duyên như vậy, nên soạn luận Quán tâm.

Kệ nói:

Những người đến cầu pháp
Muốn nghe đạo vô thượng
Nếu không hỏi quán tâm
Văn tuệ không thành được.

Từ đây trở xuống ba bài kệ nói muốn cầu được ba tuệ, nếu không biết hỏi quán tâm thì cả ba tuệ đó không thể thành tựu. Vì sao? Vì người tu quán niệm xứ thật tướng tuệ thì biết, tánh của văn tự là lìa, vô hình vô tướng, tức là giải thoát. Kinh chép: không lìa văn tự mà nói giải thoát. Nhưng dùng văn tự, tuy có nhưng không thật. Văn tự tức là giải thoát. Tuy không nhưng chẳng phải là trống rỗng cho nên cũng có thể giảng nói. Vì hữu vô ở trong thường nên văn tự chẳng phải tuyên, chẳng phải giải thoát. Đây chính là cảnh của văn tự, có công năng phát sinh quán huệ của ba trí. Dùng diệu tuệ nầy gom chung thần nhĩ. Tất cả ngôn ngữ âm thanh của giáo lý đều thành văn tuệ.

Kệ nói:

Những người đến cầu pháp
Muốn nghĩ đạo vô thượng
Không biết hỏi quán tâm
Tư tuệ sẽ không thành.

Tư: là suy nghĩ văn tự năng thuyên, sở thuyên đều là thật tướng trung đạo. Nhưng vì thật có đó tức là không; muôn pháp không thể có tướng của nó, vì là giả có. Các pháp không thể đoạn diệt, trong đó không có lý do, nên thường xa lìa hai bên. Cho nên, lý ba đế của văn tự, phát khởi tròn đầy sự suy nghĩ của ba tuệ, cho nên nói là tư tuệ. Tự tuệ chẳng có tướng, cũng không phải là vô tướng; Tướng, vô tướng đều không thật có; rốt ráo hoàn toàn vắng lặng; cảnh trí bất khả tư nghì gọi là tư tuệ.

Kệ nói:

Các người đến cầu pháp
Muốn tu đạo vô thượng
Nếu không hỏi quán tâm
Tu tuệ không thành được.

Bài kệ nầy nói về tu tuệ: Tu là nghiên tầm thật lý, hướng đến hành dụng; do vì thật lý, tuy chiếu soi nhưng lại vắng lặng; do đó nói, không nhân ngã, không người thọ nhận. Tuy vắng lặng mà lại chiếu sáng, do đó siêng năng tu tập muôn điều lành. Kinh nói: nghiệp thiện ác không mất đi đâu cả, vì thật lý chính là trung; do đó, phước tuệ không hai, hai tướng không thật có. Kinh chép: là phước đức nên không trú trong vô vi; vì trí tuệ nên không trú ở hữu vi; hữu vi, vô vi đều không thật có. Lại nữa, văn tuệ lấy 12 bộ kinh làm cảnh, ở nơi văn mà hiểu nghĩa; tư tuệ và văn nghĩa hợp thành cảnh, tìm văn mà lấy được nghĩa lý. Tu tuệ chỉ lấy nghĩa làm cảnh, quên văn lấy lý.

Kệ nói:

Những người đến cầu pháp
Siêng tu bốn Tam-muội
Không biết hỏi quán tâm
Khốn khổ không được gì.

Bài kệ nầy nói về bốn thứ Tam-muội. Sau sẽ nói, Bốn thứ Tam-muội tuy thực hành khác nhau nhưng đều lấy tuệ của viên quán niệm xứ làm thể. Kinh nói: gieo trồng cội gốc phước đức là nhân của Bát-nhã trong sáu độ, để làm thầy dẫn đường, đều được gọi là Ba-la-mật, đến bờ Niết-bàn bên kia. Nay không tu quán tuệ niệm xứ, hướng dẫn Tam-muội cho bốn chúng, tuy khổ nhọc thân tâm, nhưng chẳng được lợi ích gì. Do đó ngoại đạo, tuy gieo trồng các thứ khổ hạnh, vẫn không có đạo Bát-nhã, không thoát khỏi ba đường. Nay, không có tuệ, chỉ khổ hạnh thì chẳng khác gì ngoại đạo kia. Kinh nói: cũng không rơi vào khổ hạnh vô ích của thế gian tức là vậy.

Kệ nói:

Những người đến cầu pháp
Được nghe nhiều hiểu rộng
Không biết hỏi quán tâm
Chưa được chân pháp lạc.

Bài kệ nầy nói về người nghe, chuyên tâm để ý ngôn từ, không biết tìm tòi nghĩa lý, là lỗi vậy. Vì sao? Vì kinh chép: sinh sinh không thể nói cho đến bất sinh bất sinh đều không thể nói. Tướng các pháp vốn vắng lặng, không thể dùng ngôn ngữ để giảng bày; nay phương tiện giảng bày, lý nằm ngoài ngôn từ. Cũng như y phương là duyên bên ngoài giúp trừ bệnh. Nếu người học chỉ lo cầu danh chấp tướng, rồi tự thị khinh người, thêm lớn ngã mạn, không tu bốn niệm xứ, nội quán chiếu để soi thấy rõ ràng lý ở ngoài lời nói, trừ bệnh phiền não, thì có ích gì. Như tìm cách chữa bệnh mà không chịu uống thuốc thì chẳng có ích gì cho việc trị bệnh. Nếu đã bệnh thì phải uống thuốc mới lành; người học phải nội quán mới đắc đạo được.

Kệ nói:

Những người đến cầu pháp
Tu Tam-muội, được định
Không biết hỏi quán tâm
Thiền mù, không thấy gì.

Bài kệ nầy nói về thiền mà không có tuệ thì không có sở kiến nào. Kinh chép: phi trí thì không thể là thiền; phi thiền thì không thể là trí; hai thứ định và tuệ giúp nhau mới có thể tiến xa được. Chỉ vận dụng thiền, không tuệ thì không thể vượt qua được biển sinh tử. Vì sao? Vì tu tập bốn thiền, tám định, Thích Luận đều nói rằng, đó là nạn Trường Thọ thiên, không thể đắc đạo. Huống gì thứ định cạn cợt, rỗng không lại không có tuệ, làm sao không gọi là thiền mù được. Còn như, Nhị thừa tu quán luyện các thiền vô lậu Tam-muội, nhập định diệt tận còn bị ngài Tịnh Danh quở trách rằng: Hễ ngồi yên thì không ở nơi ba cõi hiện thân ý, vẫn còn là mù, không hiểu biết gì. Nếu người biết hỏi quán tâm, tu Tam-muội định, tức là Tam-muội Thủ lăng nghiêm. Vì sao nay tuy quán không mà không trống rỗng, soi hữu mà không thật; vì soi hữu mà không thật có nên chiếu soi mà thường vắng lặng, tức động mà thường tịnh, không ở trong ba cõi hiện thân ý. Quán không mà trống rỗng, tức vắng lặng mà thường chiếu soi, cũng là tịnh mà thường động, tức định không khởi diệt, hiện các oai nghi; đó là chiếu soi mà thường vắng lặng, là phi hữu; vắng lặng mà thường chiếu soi là phi vô. Thế thì, phi hữu, phi vô, phi tịch, phi chiếu gọi là Trung đạo, tức Tam-muội Thủ lăng nghiêm. Do đó, Tịnh Danh đem viên quán, định Thủ lăng nghiêm, vặn hỏi Thân Tử. Ngồi yên không thành tức là thiền mù, không thấy biết gì. Huống nữa, bây giờ, với thứ thiền vô tuệ làm sao không bảo là mù được.

Kệ nói:

Những người đến cầu pháp
Muốn sám hối các tội
Không biết hỏi quán tâm
Tội chẳng trừ hết được.

Bài kệ nầy nói, không biết hỏi quán tâm thì sám hối, tội lỗi cũng không thể hết được. Song, sám hối có ba cách, một là tác pháp sám hối, nhưng trong luật đã nói rõ, tùy theo tội đã phạm nặng nhẹ; hoặc đối thú tác pháp; hoặc hai mươi vị tăng xuất tội tác pháp, pháp thành thì nói là tội diệt. Pháp sám nầy trái với pháp sám tội vô tác. Hai là, quán tướng sám, như trong Kinh Phương đẳng Pháp Hoa nói về bán hành bán tọa sám pháp; v.v... quán thấy được tướng hảo, hoặc trên hư không có tiếng nói tội đã tiêu trừ v.v... tức là tội diệt. Đây là pháp sám tánh tội. Ba là quán vô sinh sám. Kinh nói: ngồi ngay ngắn, nghĩ đến thật tướng, các tội như sương mù, mặt trời tuệ có công năng tiêu trừ, đây là pháp sám các tội phiền não.

Hỏi: ba pháp sám tội nầy có gì khác nhau?

Đáp: Đại luận chép: như cắt cỏ, đoạt mạng chúng sinh, tuy đồng phạm tội ba dật đề, nếu khi đối thủ sám hối, cả hai là vô tác, tội chướng đạo tiêu trừ, nhưng quả báo sát sinh vẫn không thể hết. Nên biết rằng, sát sinh thuộc tánh tội, bất luận thọ giới hay không thọ giới, nếu phạm thì mắc tội; về giới chặt cỏ, người có thọ thì phạm mới bị tội, không thọ thì không có tội. Các giới khác cũng giống như vậy. Nên biết, hai tội khác nhau. Tội Phiền não làm chướng lý hoặc, thuộc về tội phiền não. Như vậy, ba tội khác nhau thì ba cách sám hối cũng khác nhau.

Hỏi: Tác pháp sám hối không thể trừ được tánh tội; quán tướng sám cũng không thể diệt, vậy trái với vô tác tội chướng ư?

Đáp: Thắng có công năng bao gồm liệt. Vô sinh sám lệ theo đó có thể hiểu.

Hỏi: Tác pháp sám hối, rút ra từ trong văn luật; quán tướng sám hối rút ra từ trong các kinh Phương Đẳng. Có thể giải thích, còn các tướng của pháp sám vô sinh là thế nào?

Đáp: Trước dẫn Phổ Hiền quán văn tức việc đó. Lại nữa, như ngài Tịnh Danh vặn hỏi Ưu ba ly rằng, nên trực tiếp trừ diệt, không nên làm nhiễu loạn tâm người kia. Vì sao? Vì tánh của tội kia không ở trong, không ở ngoài, không ở giữa.

Hỏi: Tâm kia như vậy, tội cũng như vậy, các pháp như vậy, không ra ngoài như; như Ưu ba ly, tâm tướng được giải thoát, liệu có còn cáu bẩn không? Ba ly nói không. Tịnh Danh nói: tất cả chúng sinh, tâm tướng vô cấu cũng giống như vậy. Vọng tưởng là cấu, không vọng tưởng là tịnh; chấp ngã là cấu, không chấp ngã là tịnh. Tất cả các pháp như tướng huyễn hóa, tức là tướng ấy. Cho nên không thể như vậy. Tuy sám nhưng không thể trừ, việc như trong kệ đã nói.

Kệ nói:

Những người đến cầu pháp
Ý muốn dứt phiền não
Không biết hỏi quán tâm
Phiền não không hết được.

Hỏi: Bài kệ nầy và bài trước có gì khác nhau?

Đáp: Bài kệ trước nói về pháp sám hối chung các tội, bài lệ nầy nói muốn quán sát phiền não lúc bình thường khởi lên, đó là chỗ khác nhau. Song, gỗ đá vô tâm thì không có phiền não, cho nên biết, do có tâm nên mới có phiền não, tâm là gốc của sinh tử, là nguồn của tội cấu. Nay muốn dứt phiền não, nếu không quán tâm tánh thì đâu thể lìa hoặc được; nếu thể tánh của phiền não là thật, không luống dối thì dù có quán chiếu cách nào đi nữa cũng không thể dứt bỏ được. Do thể tướng của phiền não vốn không thật, từ vọng tưởng nhân duyên hòa hợp mà có nên kinh nói: Bệnh tình hiện nay của ta đều từ phiền não vọng tưởng điên đảo đời trước sinh; do các hoặc không thật nên có thể quán chiếu để dứt bỏ, nếu không quán chiếu tướng của hoặc thì nhánh nhóc phiền não, không thể chặt bỏ.

Kệ nói:

Những người đến cầu pháp
Vốn muốn lợi ích người
Không biết hỏi quán tâm
Lui sụt, khiến người chê
Những người đến cầu pháp
Muốn hưng hiển Phật pháp
Không biết hỏi quán tâm
Lui sụt, rất hủy tổn.

Hai bài kệ nầy nói, người hành đạo muốn hưng hiển Phật pháp, muốn làm lợi ích cho người, nếu bên trong không có quán tuệ thì trở lại vô cùng tai hại. Kinh chép: vô tuệ phương tiện phược: nghĩa là Bồ tát trú nơi tham dục, sân nhuế mà thành tựu chúng sinh, thanh tịnh cõi nước Phật đó gọi là vô tuệ phương tiện phược. Vì sao? Vì đây nói rằng, bên trong không có tuệ để tự dứt bỏ phiền não mà lại muốn giáo hóa bên ngoài, kết quả, chẳng những chúng sinh không được thành tựu mà chính mình lại tăng thêm phiền não, cho nên nói là phược. Vì sao? Vì nếu không có nội quán mà soi rọi bên ngoài thì sẽ mờ tối đối với sáu trần, tất tham tài, đắm sắc; vả lại, ngày nay, hóa độ bên ngoài chỉ là tham cầu lợi dưỡng; trải qua nhiều lợi dưỡng thì không thể không khởi tham ái lợi kỷ; lợi kỷ thì không thể không tổn hại đến tâm hỷ xả của người. Do đó, nếu không có nội quán mà đi khuyến hóa sẽ trở thành đại tổn hại. Như kệ đã nói. Lỗi lầm như thế nầy không phải chỉ có một. Cho nên, bài kệ kết thúc rằng: như những được mất nầy, kệ không thể nói hết. Đã có những được mất, không có người giác ngộ; vì nhân duyên như vậy, nên soạn Luận Quán Tâm.

Kệ nói:

Đời mạt tu quán tâm
Được định tà, sinh chấp
Biện tài không cùng tận
Tự nói, báu nhân gian
Người vô trí nghe qua
Khí chồn hoang xông mắt
Ngoắc đuôi, cùng theo nhau
Tuần tự rơi xuống hố
Vì nhân duyên như vậy
Nên soạn Luận Quán tâm.

Mười một bài kệ trước nói những người đến cầu pháp, không biết hỏi quán tâm, các hạnh đều không thành. Từ bài kệ nầy trở xuống, hai bài kệ nói, tu tập tà định phát khởi tà định, biện thuyết không cùng, không người nào khác. Song, nói 96 đạo, chỉ một đạo là chánh, ngoài ra, đều là tà ngụy. Cho nên biết rằng, các tà quá nhiều, rất khó phân biệt. Tự chẳng phải là minh sư, người trí thì ai là người chứng thực điều ấy. Ngày xưa, có người từng tu quán phát khởi ma quỷ tà định, biện thuyết vô cùng vô tận.

Hỏi: Tất cả Thiền sư, pháp sư đều không thể phân biệt được ư? Không thể suy nghĩ bàn luận, địa vị cao xa an ổn, đã được người tốt thì có thể dời. Lại tự nói rằng: Vật báu của người đời, tà tâm chuyển mạnh, chỉ có Nam Nhạc sư, mới khéo phân biệt. Nay, nội quán chiếu rõ xét cùng, nếu là pháp tốt tự sẽ trong sáng thanh tịnh, như đốt vàng ròng; nếu là ma tà tự sẽ diệt mất, như vàng giả vậy; do đó mà quán thì ma tà sẽ tự diệt hết; sau khi đi thì không biết gì hết. Như người bị thuốc độc nói năng đủ thứ, sau khi giải độc, người bệnh không nói một lời. Người không có trí, cho đó là được đà-la-ni, kính quý sự tu hành thứ lớp rơi xuống hố ba đường. Cho nên nói kệ: người vô trí mũi ngửi, tuần tự rơi xuống hố, vì nhân duyên như vậy, nên soạn Luận Quán Tâm.

Kệ nói:

Giữ mũi cách an ban
Và tu quán bất tịnh
An ban đắc tứ thiền
Không thoát nghiệp nê-lê
Bất tịnh là vô học
Úp bát, nhận cơm nữ
Dù được tùy thiền sinh
Bị nạn Trường thọ thiên
Vì nhân duyên như vậy
Nên soạn Luận Quán Tâm.

Hai bài kệ nầy nói về sự tướng tu thiền điên đảo. Câu "Giữ mũi cách an ban" chỉ cho thấy tu hữu lậu, các pháp môn của tứ thiền. Câu "Và tu quán bất tịnh" tức nói tu vô lậu, các môn thiền. Giữ mũi cách tức an tâm nơi mũi. An ban là đến hơi thở, nhờ đếm hơi thở có thể đạt được bốn thiền tám định. Xưa, có một thầy tỳ kheo tu đếm hơi thở, chứng đặng Tứ thiền, liền tự cho mình là La hán, không còn tái sinh. Khi qua đời, thấy chỗ sinh của thân trung Ấm, liền báng bổ cho Đức Phật là người nói dối rằng, La hán là vô sinh, tại sao nay ta lại thấy chỗ sinh. Vì báng bổ Đức Phật nên bị đọa vào địa ngục. Cho nên, kệ nói: An ban đặng tứ thiền, không khỏi nghiệp nê-lê. Ngày xưa, có một thầy tỳ kheo học pháp quán bất tịnh, trong một thời gian ngắn, điều phục được tâm, khiến tướng dục không khởi, liền tự nói là đắc La hán. Sau đó, vào xóm khất thực, được cô gái dâng cơm, tâm dục phát khởi, tình mê tâm say tức là nghĩa úp bát nhận cơm người nữ. Song, đếm hơi thở chứng thiền dù không khởi lên báng bổ, không bị đọa vào địa nhưng thiền thọ sinh, vẫn bị nạn, đó là Trường Thọ Thiên. Cho nên kệ nói: dù theo thiền thọ sinh, bị nạn Trường Thọ thiên. Nay, khuyên tu tập thiền định, muốn dựa vào tịnh tâm, khiến tuệ quán chiếu thấy rõ lỗi lầm hoạn nạn của sinh tử luống dối, biết được duyên do phát khởi của chúng liền dùng tuệ dứt bỏ, nhổ gốc sinh tử. Kinh chép: Tỳ bà xá na phá được phiền não, vì cớ gì lại tu tập xa-ma-tha? Phật dạy: Trước dùng định động, sau dùng tuệ để nhổ, chẳng phải tham muốn cái vui của thiền mà tu tập. Kinh chép: tham trước thiền vị là sự trói buộc của Bồ tát.

Kệ nói:

Nương sự pháp dụng tâm
Không tuệ sinh định quỷ
Bày lạ động tâm chúng
Sự phát, hoại Phật pháp
Khi chết sinh đường quỷ
Quyến thuộc chín lăm thứ
Đời tượng pháp quyết nghi
Tam sư phá Phật pháp
Vì nhân duyên như vậy
Nên soạn Luận Quán Tâm.

Hai bài kệ rưỡi nầy nói về sự sai lầm của sự pháp dụng tâm; lại là pháp an ban sổ tức ở trên. Lại nữa, vô lý mà quán chiếu rõ nên nói là sự pháp. Đại luận gọi là ám chứng vô ký. Hữu cấu tức bốn thiền tám định. Song, cách trộm thì phải nương vào đêm tối mà thực hiện trộm cắp. Kinh nói: thí như trâu chó, ban đêm vào nhà người; nay tà ma siểm quỷ muốn trộm giết pháp thân tuệ mạng của hành giả, trộm tài sản xuất thế, thì phải nhập thiền vô tuệ, nhà tối năm Ấm. Kệ nói, nương sự pháp dụng tâm, không tuệ sinh định quỷ; song thiền ma định quỷ cũng đạt được 7 ngày, 14 ngày, cho đến vô lượng thời gian nhập định. Lại có tất cả các thứ thần dị. Người đời thấy như vậy, ai chẳng nói đó là Thánh. Chỉ có điều, pháp của tà ma, thế lực của nó không dài lâu, ngay nơi việc mà sinh ra bại hoại, khiến người sinh lòng báng bổ, không tin Phật pháp. Nên kệ nói, bày lạ động tâm chúng, sự phát, hoại Phật pháp. Song, tự có thiền ma quỷ, khi ma đi rồi thì thiền cũng mất. Tự có thiền định chân chánh, nếu có ma quỷ nhập vào, khi chúng đi rồi, thiền vẫn tồn tại. Hai thứ thiền ma quỷ tuy sinh khởi khác nhau nhưng đều bị chúng sai sử, sau khi chết sẽ làm quyến thuộc của chúng. Cho nên kệ nói, khi chết sinh loài quỷ, làm quyến thuộc 95 thứ. Trên đây là hợp chung ba bài kệ nói về việc được mất cũng không ra ngoài Tam sư pháp Phật pháp.

Kệ nói:

Trong tâm không vì đạo
Tà nịnh, nghĩ danh lợi
Dối bày tướng ngồi thiền
Thành quyến thuộc danh lợi
Sự phát, người mất tin
Hủy tổn chánh đạo Phật
Đây là phiến-đề-la
Chết đọa ngục Vô gián
Vì nhân duyên như vậy
Nên soạn Luận Quán Tâm.

Trước nói chung về lỗi của tam sư; từ đây trở xuống, nêu riêng lỗi của mỗi sư. Trước hết gồm hai bài kệ rưỡi nói rõ về lỗi của Thiền sư. Là sao? Thuở xưa có năm người cùng nhau thỏa thuận vì lợi dưỡng, phát tâm vào núi ngồi thiền. Một người đi vào làng, bảo với mọi người rằng, bốn người ngồi thiền trên núi đều được bốn thiền tám định, chứng đắc bốn quả tư, tu, a và la hán, các vị nên cúng dường. Việc cáo thị đưa đến kết quả, tâm lợi dưỡng nhân đó được thỏa mãn. Năm trăm đời đọa địa ngục; năm trăm đời làm người ở cho thí chủ. Kệ nói, phiến-đề-la, tức là tên một người trong năm người đó. Cho nên kệ nói: trong lòng không vì đạo, tà nịnh, người thô tâm không biết, kẻ tế ý xét thấy, rất khó ra khỏi. Thật tâm vì đạo e rằng quá ít. Quân tử chẳng phải không ưa tài, nhưng lấy đó là vì đạo; nếu chẳng phải đạo ấy thì quân tử không làm; huống gì hận tu đạo không thể thông cảm thần Thánh, đạt được vô sinh, nếu có đạo đức thì danh kiến lập; không cầu Phạm thiên, Phạm thiên tự đến. Đến thì trở ngại cho đạo, nên phải lìa đi. Sao lại có tâm, chợ miếu, ở trong thế tình mà rơi đọa.

Kệ nói:

Nói pháp được giải thoát
Chúng nghe pháp cũng vậy
Không biết hỏi quán tâm
Như người đếm bạc giùm
Người nói, hỏi quán tâm
Không nói, cũng không bày
Người nghe, hỏi quán tâm
Không nghe, cũng không được
Vì nhân duyên như vậy
Nên soạn Luận Quán Tâm.

Hai bài kệ rưỡi nầy nói việc được mất của Pháp sư. Phần trước nói chung về lỗi của pháp sư vì lợi mà hoằng pháp. Lỗi mất vị chân đạo như đã nói. Ở đây, lại tóm tắt riêng về được mất. Tuệ của viên quán tiềm lưu mà nói, nêu bày thần khẩu của kia; đây thời tình lự trống rỗng, du tâm phù hợp, được giải thoát. Người nghe, nội tu viên quán, lý là thần ngự, tiềm thống thần nhĩ, khai phù hưởng hội. Cho nên, kệ nói: chúng nghe pháp cũng vậy. Nếu không có lý nầy mà nói, thì dù cả năm nghe ngóng, đến suốt cuộc đời, chẳng có lợi ích gì cho cả người nói lẫn người nghe. Cho nên kệ nói: không biết hỏi quán tâm, như người đếm bạc giùm. Tâm có nội quán thì suốt ngày nói mà không nói; suốt ngày nghe mà không nghe; đầy là nói như huyễn; nói nghe như tiếng vang trong hang trống. Cho nên, kệ nói: người nói, hỏi quán quán tâm, không nói, cũng không bày; người nghe, hỏi quán tâm, không nghe cũng không được.

Kệ nói:

Giới để ngăn tâm ngựa
Dù hành năm bộ luật
Không biết hỏi quán tâm
Không điều phục tâm ngựa
Luật trụ trì Phật pháp
Hiểu ngoài, không hiểu trong
Tịnh Danh quở thượng thủ
Gọi là thật giữ luật
Vì nhân duyên như vậy
Nên soạn Luận Quán Tâm.

Hai bài kệ rưỡi nầy nói về việc được mất của Luật sư. Song, Đức Phật lúc ban đầu ở nơi đạo tràng tịch diệt, thành Đẳng chánh giác, vì các bậc đại căn, đại hạnh mà chế giới; nói mười giới trọng và 48 giới khinh, chính là ngăn ngừa nơi ý cho nên tâm là giới thể. Tiếp đến, vì tiểu căn tiểu hạnh mà chế giới, nói 250 giới; hoặc ngăn ngừa thất chi tác pháp phát vô tác giới; Do đó lấy vô tác làm giới thể, ý muốn dắt dẫn hàng tiểu căn, dần dần vui vẻ nên nói tiểu giới. Kinh Pháp Hoa chép: mới thấy thân ta, nghe ta nói liền sinh lòng tin nhân, vào tuệ của Như Lai; trừ người mới đầu tu tập, hỏi hỏi Tiểu thừa, nay ta cũng muốn cho họ được vào tuệ của Phật. Thỉ kiến, tức Hoa Nghiêm nhập vào Như Lai tuệ; tiệm nhập tức trải qua năm vị trong ba tạng, đối với Pháp Hoa nhập vào tuệ của Phật. Cho nên biết rằng, Luật trong năm bộ là một tạng trong phương tiện của Tiểu thừa. Vả lại, tâm là gốc của sinh tử Niết-bàn, nguồn của muôn vật, do đó giới Đại thừa chính là ngăn ngừa ý, chế phục tâm ngựa. Nay các thầy học luật không tìm hiểu bổn ý của Đức Phật mà chỉ tồn chấp các giới phương tiện cho là chánh đạo; không nghiên cứu tâm, niệm xứ quán hành chế tâm; cuối cùng không được trở về nguồn tịnh, điều phục tâm ngựa. Thất chi để đề phòng bên ngoài; ý địa để đề phòng bên trong; Ba ly hiểu ngoài mà không hiểu trong, bị Tịnh Danh vặn hỏi. Thời nay, người thông thạo luật e rằng quá ít; thế thì đâu thể làm người giữ gìn Phật pháp được.

Kệ nói:

Tụng kinh được giải thoát
Chẳng vì lợi thế gian
Nếu biết hỏi quán tâm
Đập vỡ hạt bụi nhỏ.
Lấy quyển kinh Đại thiên
Thọ trì và đọc tụng
Nghe giữ, không quên mất
Tâm mở, được khai thoát
Vì nhân duyên như vậy
Nên soạn Luận Quán Tâm.

Hai bài kệ rưỡi nầy nói việc được mất của việc tụng kinh. Tại sao Đức Phật đối với những điều không thể nói mà lại tạm nói? Vì muốn chỉ bày gốc bệnh của chúng sinh, chỉ bày phương pháp trị liệu đặc biệt mà khuyên răn bốn chúng đọc tụng; khiến thường đọc tụng; khiến thường nghe; thường thâu tóm nơi thần tâm, thường uống thuốc hay, dứt bệnh phiền não, giải thoát sinh tử; chẳng phải khiến đọc tụng để nghĩa đến lợi dưỡng. Cho nên, kệ nói: tụng kinh được giải thoát, chẳng vì tài lợi thế gian. Kinh nói: Đập vỡ hạt bụi nhỏ, lấy quyển kinh Đại thiên tức là hạt bụi tâm lấy ra Đại thiên kinh. Xưa nói: Kinh, Ấn Độ gọi là Tu-đa-la, danh bao gồm năm nghĩa; nói về tâm là Tu-đa-la, bao gồm 15 nghĩa, nên không thể phiên dịch. Vì sao? Vì xưa nói: một là gốc của pháp, nay nói là gốc giáo, gốc nghĩa, gốc hành. Song, gốc đâu có thể vượt qua tâm? Kinh chép: ba cõi không có một pháp nào khác, đều do một tâm tạo; bàn về giáo lý Niết-bàn và sinh tử thì tâm là gốc của giáo; nghĩa sinh tử Niết-bàn cũng chính tâm là gốc; nêu bày hành tướng sinh tử, Niếtbàn, cũng chính tâm là gốc. Cho nên biết, tâm bao gồm gốc của ba pháp. Xưa nói: hai, bao gồm vi phát. Nay nói giáo vi phát, nghĩa vi phát, hành vi phát. Vi phát, từ vi đến đại là nghĩa vi phát. Nay tâm có giáo, hạnh, nghĩa, ba sự vi phát. Xưa nói: ba, bao gồm dũng tuyền; nay nói giáo dũng tuyền, nghĩa dũng tuyền, hành dũng tuyền. Tâm nầy năng lưu xuất ba pháp vô tận, ví như suối phun không khô cạn. Xưa nói: bốn, là bao gồm dây mực, cắt đứt tà ngụy ái kiến; nay nói giáo tiệt tà, nghĩa tiệt tà, hạnh tiệt tà, tức nghĩa dây mực. Vì sao? Vì tâm chánh nên lời nói chánh, tức tâm giáo tiệt tà; tâm chánh nên nghĩa chánh, tức tâm nghĩa tiệt tà; tâm chánh nên hạnh chánh, tức tâm hạnh tiệt tà. Xưa nói: năm, là gồm kết man, như kết tràng hoa khiến không bay tán; nay nói tâm, giáo, hạnh nghĩa, ba tràng hoa kết lại, khiến không bay tán. Cho nên biết rằng, tâm kia bao gồm 15 nghĩa không thể dịch, không thể luận bàn, là tâm kinh nói. Cho nên, năng quán tâm trần tức không, xuất Thanh văn pháp tạng; quán tâm tức giả, tức xuất Bồ tát pháp tạng; quán tâm tức trung, tức xuất Chư Phật pháp tạng. Đây là ba thứ pháp tạng, kinh nào không thâu nhiếp, luận nào không bao dung, tức tâm đầy đủ tám mươi bốn ngàn pháp tạng. Trì tụng nghiên cứu quán tâm kinh, có gì quên sót. Đó là quán kinh, trong trôi chảy sáng suốt, thống nhiếp tình lự, khiến tâm khai, giải thoát phiền não.

Kệ nói:

Khuyến hóa tu cúng dường
Hưng hiển an hành nhân
Mật tâm là tự lợi
Nương gá để giúp thân
Hoại tâm hỷ xả người
Làm ngửa lừa trả nợ
Nếu biết hỏi quán tâm
Thì như con ngựa khỏe
Vì nhân duyên như vậy
Nên soạn Luận Quán Tâm.

Hai bài kệ rưỡi trước nói về việc muốn hưng hiển Phật pháp trở lại bị ô nhục tổn hoại, căn cứ vào người hoằng hóa các nơi. Hai bài kệ rưỡi nầy nói về biết việc được mất. Song, trừ phi tự bên trong hiểu rõ quán hành, biết nhân, biết quả, sợ tội, sợ nghiệp, thệ không lợi mình. Người quán quán tâm biết muôn pháp là huyễn hóa thì có vật gì để tham, có thân nào để vì nó; tuy như huyễn hóa nhưng nhân quả không sai; trộm đến năm tiền như cây đa la bị chặt gốc, là người đã chết trong Phật pháp, không dự vào tăng số; hiện bày thì trời người chê bai, ngầm thì bậc Thánh quở trách; hiện tại thì sắc tâm sầu lo, đời sau làm kiếp lừa ngựa trả nợ. Một khi mất thân người muôn kiếp khó được lại, được lợi rất nhỏ, quả báo rất lớn; làm sao có người quán trí nào lại phạm điều nầy được. Còn như ngựa khỏe rốt cuộc cũng không vì lợi mình mà mắc lỗi xâm đoạt của chúng.

Kệ nói:

Các đạo đều có pháp
Rõ không tự nghiên tầm
Bỗng dòm trộm Thích giáo
Trải qua mười mấy năm
Chẳng phải pháp kia vụng
Ắt có tâm mưu hoại
Đây là Ca-tỳ-lê
Tiên Thánh đâu đồng minh
Vì nhân duyên như vậy
Nên soạn Luận Quán Tâm.

Hai bài kệ rưỡi nói về sự được mất của ngoại đạo. Ngoại đạo trộm đọc Thích giáo không ra ngoài hai ý: một là tự cho pháp của họ là vụng kém; hai là vì âm mưu phá hoại Phật pháp. Trộm đọc để tìm chỗ sai, chẳng phải vì tâm tốt mà tìm đến Phật giáo. Ngày xưa, ngoại đạo khó lòng phá hoại tất cả pháp sư, chỉ có một Thiền sư, có bà mẹ khuyên rằng, nếu ngươi đem các thiền sư ra luận nên nhục mạ cho rằng, thứ đầu lừa đầu ngựa, đầu thú..., thì sẽ thắng được ngoại đạo; liền theo kế của bà mẹ được thắng; về sau phải làm thân Ca-tỳ-lê, một thân ngàn đầu; đã dùng tâm ác, các chư Thánh đâu thể đồng tình. Vấn đề như kệ nói.

Kệ nói:

Giàu có mà vô đạo
Tăng thêm nhiều kiêu căng
Nếu biết hỏi quán tâm
Được chân thật giàu sang
Tuy cao mà không nguy
Tuy đầy mà không tràn,
Không tham đời giàu có
Tâm thường ở đạo pháp
Vì nhân duyên như vậy
Nên soạn Luận Quán Tâm.

Hai bài kệ rưỡi nầy nói về sự được mất của giàu có. Vì sao? Vì giàu sang chẳng chung với kiêu căng mà kiêu căng tự đến; cho nên, kệ nói: giàu có mà vô đạo, tăng thêm nhiều kiêu căng; nếu biết hỏi quán tâm mà quán sát thật tướng các cảnh; cảnh phát khởi ở nơi diệu trí, tức là chủng tánh quý; vả lại thật tướng cảnh trí đầy đủ bảy Thánh tài cho đến đầy đủ muôn đức muôn hạnh cho nên gọi là giàu. Pháp Hoa chép: có vị Đại Trưởng giả nhà rất giàu, tức là nghĩa đó. Được đạo giàu sang nầy, giữ gìn vững chắc thể tính, tức như kệ nói: tuy cao mà không ngay, tuy đầy mà không tràn, không tham đời giàu có, tâm thường ở đạo pháp, v.v...

Kệ nói:

Nghèo hèn nhiều gian nịnh
Dòm ngó gây các ác
Hiện bị phép vua trị
Chết đọa vào ba đường.
Nếu biết hỏi quán tâm
Sẽ chịu nghèo giữ đạo
Có đạo tức giàu có
Vô vi tức giàu vui
Vì nhân duyên như vậy
Nên soạn Luận Quán Tâm.

Hai bài kệ rưỡi nầy nói về sự được mất của người nghèo. Vì sao? Vì nếu bên trong không có đạo quán tuệ chiếu sáng lòng dạ thì hẳn là tối tăm. Do tâm tối nên không biết nhân quả sinh tử Niếtbàn của thế gian và xuất thế gian; lại còn bị nghèo hèn đói rét bức bách nên sinh ra dòm ngó, gian nịnh gây ra các việc ác. Kệ nói: hiện bị phép vua trị, chết đọa vào ba đường. Nếu có tâm quán chiếu liền biết do nhân xưa đến quả báo hiện tại; không gây thêm các điều ác để phải chịu lấy khổ trong ngày sau nữa. Chỉ lo an thần dưỡng đạo. Cho nên, kệ nói: có đạo thì giàu có, vô vi tức giàu vui.

Kệ nói:

Bốn chúng đều Phật tử
Đều là quyến thuộc pháp
Vì tranh chấp pháp lành
Tạo oán kết đời sau
Nếu biết hỏi quán tâm
Hòa hiệp như nước sữa
Đều là con sư tử
Đều là rừng chiên đàn
Vì nhân duyên như vậy
Nên soạn Luận Quán Tâm.

Hai bài kệ rưỡi nầy nói việc tam sư, mỗi vị tự chấp lấy các pháp do mình mở mang truyền bá mà sinh khởi đúng sai, chồng chất thêm oán hận cho đời sau. Ở trước, luận đã nêu lỗi một cách tóm tắt; nhưng các ngoại đạo vẫn chấp chặt quan điểm riêng của mình. Cho nên nói: việc đó là thật, còn các việc khác đều nói dối; cho nên phần lớn các đạo đều tà vạy, mà chỉ có một đạo thật tướng ấn của Phật pháp là chánh. Kinh chép: đạo rốt ráo, duy nhất; không có nhiều rốt ráo. Cho nên kinh lại chép: tuy chỉ bày nhiều đạo nhưng kỳ thật chỉ có Nhất thừa. Nay, các sư không nắm lấy nhất đạo đó để cùng nhau thoát khỏi thân bằng pháp quyến trong ngõ tối sinh tử, chỉ bo bo chấp lấy đạo lý chung chung, kết buộc đúng sai, thêm oán hận, còn gì ngu hơn. Cho nên kệ nói: kết oán cừu cho đời sau; chẳng những luống uổng một đời, còn tự trói khổ vào mình; lại khiến học đồ lầm lẫn, đánh mất tuệ, thầy trò đều chẳng khác ngoại đạo. Cho nên nói: các luận có đầu mối khác nhau nhưng tu hành lý vốn không hai. Thông đạt đúng sai thì không trái chống; các sư chỉ chấp mà không thông đạt. Nếu quán tâm thật tướng, tu tập một đạo, bốn chúng đều là pháp quyến. Việc như kệ nói.

Kệ nói:

Tuổi cao thân thường bệnh
Mắt mờ, ta lểnh lảng
Tâm trí thường quên sót
Mỗi năm một khác đi
Thần chết chim cánh vàng
Chẳng lâu, huống mạng căn
Một mai, dây nghiệp đứt
Đâu còn có nói năng
Vì nhân duyên như vậy
Nên soạn Luận Quán Tâm.

Hai bài kệ rưỡi nầy nói việc Sư tự tuyên bố rằng đã đến lúc Niết-bàn. Song, từ đầu cho đến đây, còn thuộc phần tựa, tuy chưa nói về ý nghĩa sâu xa, nhưng trước cũng đã nói về sự được mất của ba sư, bốn chúng. Lời nói tuy thấp cạn nhưng chính nơi yếu hạnh sở hành là chướng ngại lớn của Đạo gia. Hành giả biết được những lỗi lầm, nếu sửa đổi thì gọi là người chân hành đạo; tuy chưa chứng vô sinh nhưng vô sinh không còn xa. Hai muôn Đức Phật đăng minh trong một kỳ sẽ xong; vả lại nói Pháp Hoa liền nhập Niết-bàn. Đức Thích-ca cũng vậy, đặc biệt vì một nhân duyên mà nói Niết-bàn. Nay Đại sư một lúc tùy duyên, nói nhiều thứ khác nhau; do vậy, khi sắp Niết-bàn, tóm tắt thành một bộ luận. Vì sao? Vì luận nầy đầu cuối khiến người ta quán tâm chỉ là tâm, là Như Lai tạng, đầy đủ tất cả Phật pháp mà chúng sinh không biết trong túi áo có hạt châu báu vô giá, nay luận chỉ bày trong tâm chúng sinh vốn có tri kiến Phật; Thị và Ngộ chúng sinh không khác với Pháp Hoa. Nói suy già là ý muốn nhập Niết-bàn, do đó nói xong luận nầy thì quy chân diệt độ, không nói năng nữa.

Từ "Cúi lạy Phật mười phương trở xuống bốn bài kệ là nói về quy mạng kính thỉnh. Vì sao? Vì thông thường, muốn soạn luận thì phải quy kỉnh Tam bảo, nhờ oai thần che chở kiến lập.

Kệ nói:

Cúi lạy Phật mười phương Thương xót người quán tâm Khuyên khéo quán sát kỹ Khởi diệu lạc Chánh giác.

Bài kệ nầy là quy thỉnh Phật. Song Tam bảo đều đầy đủ bốn tâm vô lượng, nhưng, Từ là ban vui. Lòng tử của Phật rất lớn nên thỉnh Phật ban vui.

Kệ nói:

Cúi lạy pháp mười phương
Được xót người quán tâm
Khuyến khéo quán sát kỹ
Được thật pháp, khỏi khổ.

Bi là dứt khổ; pháp bảo là chân diệu lạc, thể có tính cứu khổ cho nên thỉnh pháp giúp người quán tâm khỏi khổ.

Kệ nói:

Cúi lạy Tăng mười phương
Nếu hay khéo quán sát
Vào biển đạo hòa hợp
Tâm vui mừng vui lượng.

Tăng là hòa hợp, tức đồng nghĩa với tùy hỷ, nên đối với Tăng luận và hoan hỷ.

Kệ nói:

Cúi lạy ngài Long Thọ
Xin che chở quán tâm
Khiến mau được giải thoát
Và khiến xả ba tâm.

Nhưng Long Thọ chính là phá chấp, trừ kiến mà hưng khởi. Thỉnh Long Thọ che chở cho để xả bỏ ba tâm: từ, bi, hỷ, và sự đắm trước kiến ái. Lại nữa, tông bổn là ở Long Thọ cho nên thỉnh che chở. Kệ nói:

Nay nương lực Tam bảo trở xuống một hàng nói, sau khi quy kỉnh Tam bảo, kế đến nương nhờ năng lực Tam bảo, nêu lên ba mươi sáu câu hỏi. Ba mươi sáu câu hỏi nói ý nghĩa vừa tóm lược đầy đủ nêu nêu lên. Nếu tùy duyên đối sự mà vấn biện thì không thể đếm được.

Kệ nói:

Nếu quán một niệm tâm trở xuống một hàng nói nếu người quán nhất niệm tâm đáp được những câu hỏi nầy thì nên biết người đó, tâm nhãn đã khai mở, được vào ao mát mẻ.

Kệ nói:

Không thể đáp được những câu hỏi nầy trở xuống một hàng là nói người mê hoặc không thể đáp được.

Buồn thay trong đời mạt pháp trở xuống một hàng là lời thương than, nói về đời mạt pháp không có người hành đạo.

Dầu có được ba lần, đâu khác những câu hỏi, là lời thương than.

Kệ nói:

Cho nên sinh tâm thương xót trở xuống một hàng là e ngại cho hậu sinh không có người biện giải nên sinh lòng thương soạn Luận Quán Tâm nầy khiến cho người quán được khai mở.

Xin những người thấy nghe trở xuống một hàng là lời khuyên chẳng nên nghi ngờ, chê bai. Vì sao? Vì như trong kinh Pháp Hoa có nói vắn tắt rằng, sợ sinh điều nghi ngờ, chê bai báng bổ cho nên ba lần bảo ngưng, ngưng sự báng bổ kia. Bởi vì đã không được hiểu biết lại còn mắc phải tội nặng. Trong phần sau nói rất rộng, tuy nghiêm khắc khuyên bảo vẫn có năm ngàn người rời đứng dậy khỏi chỗ ngồi ra đi, không tin lời Phật.

Nay muốn khai mở đầu mối của luận, sợ có người nghi báng cho nên khuyên nhắc trước.

Từ hỏi rằng trở xuống có mười ba dòng trường hàng với bốn chữ là hỏi lại, soạn luận là người nào; đáp ý không phải là hai người mà lại hai người. Không là hai người: một là văn tự ngoại học, như người nghèo đếm bạc, chỉ biết vào ta ra miệng, không thường nghiêm tâm nội quán, chưa đủ để luận bàn về viên đạo. Hai là dù người được bốn thiền tám định cũng chưa hoàn toàn biết Phật pháp, huống là kẻ sơ tâm an ban sổ tức, làm sao có thể cùng nhau luận bàn diệu đạo được. Nói là hai người, một là người ngồi thiền, chứng định, phát khởi hiểu biết, biện thuyết nói là đắc; chưa chứng nói là chứng, rơi vào tăng thượng mạn. Hai là vì lớp học đồ không biết đạo ở trong tâm, đắm trước văn tự bên ngoài, mang kinh luận đi khắp nơi, không được lợi ích. Không biết đập vỡ một hạt bụi hiện ra quyển kinh đại thiên. Vì hai hạng người nầy nên soạn luận.

QUYỂN 2

Luận nói: kinh Ma ha Bát-nhã Ba-la-mật nói về bốn mươi hai tự môn. Trước hết nói: nếu nghe được tư môn A thì hiểu tất cả các nghĩa; đó là tất cả pháp vốn bất sinh. Nay luận nầy nói về bốn không thể nói tức là nghĩa bất sinh. Cho nên dẫn văn đó kế đến dẫn tám bất của Long Thọ: 1. Luận kia nói về tám bất, tức bất sinh là đầu; đồng với luận nầy.

2. Luận kia nói về các pháp bất tự sinh, cũng không từ tha sinh, không cộng, không vô nhân cho nên nói là Vô sinh. Luận chủ dùng bốn cú để giải thích tám bất; giải thích các pháp bất sinh, dùng để làm rọ Kinh. Nay luận nầy căn cứ vào một câu tự sinh kia nêu lên 36 câu hỏi, có hai nghĩa cho nên dẫn văn của luận kia.

Hỏi: Thế nào gọi là Long Thọ dùng tám bất phá lập, trình bày tướng của kinh; lại nữa, thế nào là bốn câu tự tha giải thích tám bất, trình bày tướng của kinh. Thế nào là y cứ vào một câu tự sinh, nêu lên 36 câu hỏi?

Đáp: theo thứ lới giải thích ba câu hỏi nầy.

Đầu tiên nói về sự phá lập trong kinh, sau nói về sự phá lập trong luận.

Vì sao? Vì kinh Niết-bàn nói rõ, ngày xưa dùng bốn khô để phá bỏ kiến chấp tà thường của ngoại đạo; nay dùng bốn tươi để phá chấp ba tu đoạn là vô. Dứt được hai bên mới đẳng chẳng khô chẳng tươi, nhập đại Niết-bàn; vả lại tươi khô dùng 2 con chim bay song song. Người lợi căn, nhờ đây mà nhập vào tạng bí mật. Kinh chép: Đặt các con trong tạng bí mật, rồi chẳng bao lâu sau, ta cũng tự an trú trong đó. Kinh Pháp Hoa trước cũng phá bệnh bốn khô của ba thừa cho nên nói không hai cũng không ba, sau đó, đồng quy về thường, lạc, ngã, tịnh cho nên nói, ngươi là con ta, nay ta thường trú bất diệt, người cũng đầy đủ bốn tươi; đã biết khô tươi thì ngộ được chẳng khô chẳng tươi. Kinh nói, rốt cuộc quy về không, tức chẳng phải khô, chẳng tươi, nhập vào cái không của Niết-bàn vắng lặng hoàn toàn, có thể dùng cả khô tươi. Kinh chép: Tất cả tài vật, ngươi phải trông coi tất cả; đối với người vô trí, chớ nên vọng truyền; đối với người trí, có thể truyền bá rộng rãi. Vì sao? Vì ba căn đều ngộ; bọn năm ngàn người còn chưa tin tưởng. Các Đại thừa phá lập, người được ý đã ngộ; người mê còn chấp vào giáo, chưa hiểu. Sau đó Long Thọ mới soạn luận, đầu tiên nói về tám bất phá bỏ kiến chấp hai bên tà vạy, chỉ bày chính giáo trung đạo của Phật. Song luận tuy nói về tám bất, hợp lại để luận cũng chỉ là hai câu bất sinh bất diệt, phá bỏ hai bên đoạn thường. Vì sao? Vì bất thường tức là bất sinh; bất đoạn tức là bất diệt, bất nhất tức bất sinh, bất dị tức bất diệt; bất lai tức bất sinh, bất khứ tức bất diệt. Thế thì, bất sinh tức là không của bốn khô; phá trừ kiến chấp về hai mươi lăm cõi, chấp sinh bệnh của thường lạc ngã tịnh. Bất diệt tức là giả của bốn tươi, phá bệnh diệt đoạn vô của Nhị thừa. Do đó, chúng sinh do việc Long Thọ dùng bất sinh, bất diệt phá trừ bệnh hai bên, hiểu được trung đạo, rồi sau mới hiểu ý nghĩa của khô, tươi, chẳng khô, chẳng tươi ở trong kinh; diệu dụng ba quán, mở bày tri kiến Phật, biết hạt châu quý trong túi áo. Cho nên, trong luận biện giải tên ba quán rằng: pháp do nhân duyên sinh, ta nói tức là không; cũng gọi là giả danh; cũng là nghĩa Trung đạo.

Hỏi: nếu vậy, bốn pháp do nhân duyên sinh có hội thông với ba quán bất sinh bất diệt không?

Đáp: Pháp do các duyên sinh chỉ cho các pháp hữu lậu sinh diệt trong 25 cõi; trước nêu lên cảnh sở phá, kế đến nói: Ta nói tức là không, chỉ cho các pháp bất sinh; tức là phá trừ các pháp hữu lậu sinh khởi từ các duyên, nêu rõ bất sinh. Cho nên chúng là không. Kế đến nói: cũng gọi là giả danh tức là bất diệt, phá trừ đoạn diệt hoàn toàn, cho nên nói: cũng gọi là giả danh. Kế đến nói: cũng là nghĩa trung đạo, tức là bất sinh cho nên bất thường; bất diệt cho nên bất đoạn. Bất thường, bất đoạn, phi hữu, phi vô, nên cũng gọi là nghĩa Trung đạo. Do đó, luận dùng không giả của bất sinh bất diệt để phá bỏ mê chấp; chỉ này trung đạo viên diệu tam quán của Phật.

Luận bác bỏ ngoại nhân nói rằng: nếu như cái chấp của ông thì không có Tam bảo, bốn đế; nếu như sự bác bỏ của tôi thì không mất Tam bảo bốn đế, Tam bảo bốn đế tức là dụng của cây tươi một con chim. Hai phẩm sau của luận nói rõ bề pháp Tiểu thừa tức là dụng của câu khô một con chim. Cho nên hai chim đều qua lại hai cây khô tươi; đó là diệu dụng của luận nầy. Lại nữa, luận nói về hai quán tức là luận dùng trung, tức là thể của luận nên gọi là luận Trung đạo.

Hỏi: nay chính là giải thích về bốn thứ không thể nói của luận, tại sao lại giải thích Trung luận để phá ý trình bày?

Đáp: Các pháp duy duyên sinh, bất sinh bất diệt v.v..., bốn câu phá trình bày tức là bốn không thể nói phá chấp nầy. Trình bày đồng với Phật giáo. Trước giải thích luận kia, kế đến giải thích nay. Vì sao? Vì kinh nói: sinh sinh không thể nói tức là các pháp hữu lậu được sinh tử nhân duyên trong luận kia. Kinh nói: sinh, bất sinh không thể nói Ta nói tức là không ở trong luận kia. Kinh nói: bất sinh sinh không thể nói cũng gọi là giả danh ở trong luận kia. thế thì tên khác mà nghĩa giống. Trình bày một.

Hỏi: Đã là đồng nhất, kinh đã nói rõ; ở đây nói lại làm gì?

Đáp: Tuy đồng, nhưng khác xa. Vì sao? Vì trong kinh phá trừ mê chấp đối với tất cả các pháp, không phải chỉ phá tâm, biện tâm, nêu lên tri kiến của tất cả Phật pháp. Do đó, người học phần nhiều đánh mất tông bổn. Nay nói, tâm là gốc của muôn pháp cho nên từng câu, từng câu căn cứ trên tâm mà phá, nêu bày trong vốn có đầy đủ Phật pháp, khiến chúng sinh biết được hạt châu quý nằm trong túi áo, chấm dứt sự mong cầu mệt nhọc vô lý, so với luận kia khác xa.

Trả lời câu hỏi trên, rằng: sao dùng bốn câu tự tha để giải thích tám bất, lại dùng để trình bày kinh. Trước hết giải thích một câu bất sinh, vì sao? Vì sự mê hoặc của chúng sinh là không thể kể, chấp ba cõi, 25 Hữu mà khởi sinh tứ đảo; chấp vào thần ngã sinh khởi ba độc, tánh mươi bốn ngàn phiền não mê hoặc, vô minh duyên hành cho đến khổ tập, già chết, trôi lăn trong biển khổ sinh tử mênh mông; chết rồi sống lại, sống lại rồi chết, chịu lấy vô cùng khổ cực trong ba đường một cách luống dối, chẳng biết lúc nào chấm dứt. Bồ tát Long Thọ thương xót chúng sinh mê muội nên soạn luận giải thích kinh, chỉ cho chúng sinh thấy nguồn gốc các pháp vốn thanh tịnh, không sinh không diệt, giúp cho trở về nguồn cội. Nói tất cả các pháp bất sinh v.v..., nhưng chúng sinh vốn chấp trước quá lâu, chưa thể ngộ ngay lý vô sinh. Cho nên người ngoài tôn giáo bắt bẻ nói rằng, hiện thấy thế gian có tất cả muôn vật như bình, y, trụ địa, thần ngã v.v... Tại sao luận chủ phá trừ nói là không? Luận chủ nói: sao có thể tin vào sự ngu si của ông được; những điều mà mắt của trâu dê thấy tức gọi là hữu, như mắt bệnh thấy hoa đốm giữa hư không. Mắt bệnh đâu thể đem ra làm chứng. Luận chủ vì các chúng sinh không thể tin ngộ nên căn cứ vào bốn câu tự tha, mỗi mỗi xem xét tận cùng, khiến kia tình lý cùng cực, mới ngộ được lý vô sinh. Cho nên nói: dùng bốn câu tự tha giải thích thành tám bất. Nay tóm tắt nêu lên bốn câu tự tha, tức là sự trách phá. Nhưng tất cả chúng sinh đều chấp có ngã của tâm thần, hai là chấp muôn vật đều có. nay, xét phá tâm thần thì xin hỏi rằng, kiến chấp tâm sinh, bất sinh bốn câu đó là tự sinh, là tha sinh, là cộng sinh hay là vô nhân sinh? Nếu cho rằng, nhất niệm tâm khởi không từ cảnh vật bên ngoài, chỉ từ tự tâm sinh ra thì thuộc về tự sinh... Như vậy là thường sinh, làm sao đối cảnh; sinh mà không đối cảnh thì không thể sinh. Kinh nói: hữu duyên thì tư sinh, không duyên thì tư không thể sinh. Cho nên biết rằng, tâm không thể tự sinh. Nếu bảo là từ cảnh mà sinh thì tức tha sinh; nếu tha sinh tức là lìa khỏi nội tâm mà sinh ra; nếu lìa mà dứt khoát không thể sinh khởi thì không thể nói là tha sinh. Nếu bảo do bên trong có tâm, bên ngoài có cảnh, trong ngoài hòa hợp cộng sinh, thì nay tôi hỏi, trước đã nói không thể tự sinh tức là bên trong không thể sinh; trước nói không thể tha sinh tức là ngoại cảnh không thể sinh khởi. Vậy, cả hai trường hợp trong ngoài đều không thể sinh, thì hợp lại làm sao sinh được? Ví như một hột cát đã không có dầu, hợp lại hai hột cát cũng không thể có dầu. Nếu trong ngoài đều sinh, thì khi hợp lại đã thành ra lưỡng sinh. Lại nữa, nếu mỗi mỗi là tự sinh, thì cần gì dùng sự hợp lại để sinh. Do vậy, cộng sinh có đến ba lỗi. Nếu bảo lìa tâm, lìa cảnh, không cần nhân duyên mà sinh thì đã nói rằng, có nhân duyên sinh còn không thể được, huống là không nhân, không duyên mà có thể sinh được ư. Cho nên, Trung luận nói: các pháp không thể tự sinh, cũng không từ tha sinh, không cộng sinh, không vô nhân sinh, nói là Vô sinh. Phá trừ một cách rộng rãi thì như trong luận. Kế đến, phá trừ tất cả các pháp vô tình, cầu sinh không thật có, đã gửi gấm vào sự xét phá, thì tất cả các pháp còn lại cũng giống như vậy. Vì sao? Nay hỏi hạt lúa là tự sinh, tha sinh, cộng sinh hay vô nhân sinh? Nếu bảo rằng, hạt lúa tự sinh thì không nên nhờ vào đất, nước mà sinh; thật sự thì không phải như thế, cho nên biết, hạt lúa không phải tự sinh. Nếu bảo từ đất nước sinh ra tức là tha sinh, thì nếu không có hạt lúa, chỉ đất và nước lẽ ra vẫn có thể sinh, thật sự thì không phải như vậy, nên biết, hạt lúa không phải từ tha sinh. Nếu bảo rằng, trong nhờ hạt lúa, ngoài nương vào đất, nước tức do nhân duyên cộng sinh thì như trước đã bác bỏ tự tha đều không thể sinh, thì cộng chung làm sao sinh; nếu bảo không cần nhân duyên vẫn sinh thì, có nhân có duyên còn chưa sinh được huống là vô nhân duyên ư. Cho nên nói, các pháp không tự sinh, v.v...

Nay lược nêu đại cương, bề người đắc ý cũng đủ để trừ nghi. Nếu muốn hiểu biết đầy đủ, nên tự tìm trong luận. Thích luận nói: đối với tất cả các pháp, chỉ có danh và sắc; nếu muốn như thật quán, chỉ nên quán danh sắc. Song, danh tức là tâm, thâu nhiếp được tất cả các pháp hữu tình; sắc tức bên trần ngoài, thâu nhiếp tất cả các pháp vô tình. Nay y cứ vào tự tha của hai pháp sắc tâm, dùng tứ cú để xem xét về sinh không thật có, nên biết tất cả muôn pháp đều là bất sinh. Chúng sinh dùng bốn cú nầy để xem xét bác bỏ, tìm sinh không thật có mới hiểu được tất cả các pháp vô sinh, liền được trở về nguồn cội, quy chân vốn tịnh mới hiểu muôn vạn pháp đều là luống dối, không còn chấp nữa. Độn căn chưa liễu ngộ nghe nói phá trừ, các pháp là vô sinh, liền cho đó là hữu diệt. Luận chủ lại dùng bốn câu để xem xét diệt. Vì sao? Nếu bảo pháp thể tự diệt tức là tự diệt, hoặc cho pháp thể bị ba tướng diệt tức là tha diệt, hoặc cho pháp thể do ba tướng hòa hiệp, tức là cộng diệt, hoặc cho pháp thể lìa ba tướng diệt tức là vô nhân diệt; tứ cú đều không thể cầu, xem xét không thật có hiểu được các pháp vốn tự bất sinh, nay thì vô diệt, biết ngay nơi sắc là không, chẳng phải sắc diệt là không. Đây là phá trừ sinh diệt của 25 Hữu, trở về thiên chân tự tánh không. Đây chưa hiển bày Trung đạo. Nay dùng bất diệt phá tự tánh không, nếu bảo diệt sắc tự không hòa hiệp tức là cộng diệt. Nếu bảo không thể cả tự tha tức vô nhân diệt. Như vậy, dùng bốn câu xét tự tánh không cũng không thật có, tức là các pháp bất tự diệt; cũng không phải từ tha diệt, bất cộng, bất vô nhân. Cho nên biết vô diệt, bất thường, bất đoạn, bất nhất, bất dị, bất lai, bất khứ; ví như dùng bốn câu để xét đều không thật có. Cho nên biết bất diệt là lưỡng dụng. Song, đã dùng bốn câu bất diệt xét tự tánh không thật có tức là phi không mà không gọi là đệ nhất nghĩa; tức là bốn khô bốn câu bất sinh; xét tự tánh hữu không thật có tức là phi hữu mà hữu gọi là sắc của pháp tánh. Kinh nói: xả vô thường sắc, được thường sắc, tức là bốn tươi. Dùng bốn câu tự tha để xét cầu sinh diệt, bất thường, bất đoạn, bất nhất, bất dị, bất lai, bất khứ; chúng sinh nhờ đó ngộ được khô, tươi, chẳng khô chẳng tươi ở trong kinh; Ba quán trung đạo đó gọi là tự tha bốn câu. Trong Thích luận, không dùng tám bất để trình bày kinh Phật.

Tiếp đến, trả lời câu hỏi thứ ba: thế nào là căn cứ vào một câu tự sinh để nêu lên ba mươi sáu câu hỏi?

Kinh nói: không phải nội quán đắc là trí tuệ, cho đến chẳng phải là nội, ngoại quán đắc là trí tuệ; cũng không lìa nội ngoại quán đắc là trí tuệ. Nay cũng như vậy. Bốn câu cầu sinh không thật có, cũng không lìa bốn câu tự tha. Luận chủ lại nói, bất sinh thì bất hữu bất diệt, tức bất vô, được y cứ vào một câu tự sinh để nêu lên ba mươi sáu câu hỏi. Tha sinh, cộng sinh, vô nhân sinh cũng giống như vậy.

Luận nói:

Hỏi quán tự sinh tâm Thế nào bốn không nói? Lìa nói suông tranh cãi Tâm tịnh như hư không.

Bài kệ nầy trở xuống là phần thứ hai chánh thuyết: có tất cả 36 bài kệ là 36 câu hỏi. Phần chánh thuyết chia làm 10 chương: một, có một bài kệ nói về giáo lý viên diệu không thể nói. Hai, có hai bài kệ nói quên lý giáo, khởi lên kiến hoặc, tư hoặc. Ba, có bốn bài kệ, nói về ngộ lý có sâu có cạnh nên xó sự khác nhau về bốn giáo. Bốn, có một bài kệ, nói về việc muốn tìm hiểu lý trong giáo nên dựa vào phương pháp của bốn thứ Tam-muội mà tu tập. Năm, có một bài kệ, nói về diệu lý là không thể vượt thứ bậc, mà trước tiên nên tu tập hai mươi lăm phương tiện. Sáu, có một bài kệ, nói về rõ tâm quán lý, thực có các cảnh, tạp phát khác nhau. Bảy, có một bài kệ nói về việc quán bất cứ một cảnh nào, dùng mười pháp thành thừa. Tám, có bài bài kệ, nói về thập pháp quán thành, chứng các địa trú, đầy đủ các pháp môn khác nhau. Chín, có 14 bài kệ, nói về việc giáo hóa chúng sinh, khởi dụng pháp không giống nhau. Mười, có bốn bài kệ, tổng kết pháp môn tự hành hóa tha, cùng chỗ nhất tâm ngôn ngữ hoàn toàn dứt bặt.

Kệ nói: bốn không thể nói: một là sinh sinh không thể nói, hai là sinh bất sinh không thể nói, ba là bất sinh sinh không thể nói, bốn là bất sinh bất sinh không thể nói. Luận Thích chép: sinh sinh cho nên là sinh, sinh cho nên bất sinh, làm sao có thể nói, nên lệ theo lời nầy; sinh sinh cho nên sinh; bất sinh sinh cho nên bất sinh bất sinh, làm sao có thể nói ý chỉ viên diệu. Lại nữa, sinh sinh tức tam Tạng giáo; sinh bất sinh tức Thông giáo; bất sinh sinh tức Biệt giáo; bất sinh bất sinh tức Viên giáo tức là Nhất giáo. Nhất giáo tức tam giáo, làm sao có thể nói. Cho nên, phần đầu luận nói về bốn thứ không thể nói, kế đến mới nói về bốn giáo. Lại nữa, kinh giải thích rằng: sinh sinh là pháp hữu lậu, cho nên nói sinh sinh, tức là pháp do nhân duyên sinh của Trung luận. Sinh bất sinh, giải thích rằng, khi thế đế chết đi gọi là sinh bất sinh, tức Trung luận nói: Ta nói tức là không. Bất sinh sinh, giải thích rằng: ban đầu mới ra khỏi thai gọi là bất sinh sinh, tức Trung luận nói: cũng gọi là giả danh. Bất sinh bất sinh giải thích rằng, đại bát Niết-bàn có nói bất sinh bất sinh, tức Trung luận nói: cũng gọi là nghĩa trung đạo.

Thế thì, bốn câu của Trung luận tức là ba quán của Trung luận; ba quán tức một quán; một quán tức ba quán. Làm sao có thể nói riêng; nói riêng thì lầm vậy, đâu lãnh hội được huyền chỉ. Kinh nói: đừng, đừng, không nên nói, pháp của ta nhiệm mầu, khó suy nghĩ bàn luận, tức là nghĩa ấy vậy. Do đó, ở đầu nói về bốn không thể nói, sau nói về diệu lý ba quán. Lại nữa, kinh nói: tất cả chúng sinh cũng mà một, chẳng phải một, chẳng phải một, chẳng phải chẳng phải một. Cũng là một, tức tất cả chúng sinh là nhất thừa, tức là nghĩa Phật pháp. Chẳng phải một tức là các pháp ba thừa, tức ba pháp số của Thanh văn, bích chi Phật bà Bồ tát. Chẳng phải chẳng phải một là số ấy bất định, tức 6 đường pháp giới. Lại nữa, nói chúng: chúng sinh thân có cỏ độc, lại có mầu. Cỏ độc tức sáu đường; cỏ mầu tức thế giới tứ Thánh. Sáu đường là sinh sinh; nhị thừa tức sinh bất sinh; Bồ tát giới tức bất sinh sinh; Phật giới tức bất sinh bất sinh. Kết thúc bốn câu tức một câu đều tại nhất tâm; chín giới tức nhất giới, ở trong một niệm. Văn nghĩa hợp lại kết thúc, sáu đường là sinh tử; thế giới tứ Thánh tức Niết-bàn; Niết-bàn tức sinh tử; sinh tử tức Niếtbàn; chín giới tức một giới, một giới tức chín giới; tức là cảnh không thể suy nghĩ, bàn luận, làm sao có thể nói. Lại nữa, sáu đường sinh tử tức là tội; tứ Thánh Niết-bàn tức là phước. Đó là mười giới, bốn không thể nói ở trong thức tâm.

Cảnh bất tư nghì, tức là biết sinh tử chẳng phải diệu lý Niết-bàn, thâm đạt tướng của tội phước. Kinh Pháp Hoa chép: thâm đạt tướng tội phước, chiếu khắp cả mười phương; pháp thân tịnh vi diệu, đầy đủ 32 tướng. Long nữ liễu ngộ viên lý nầy liền đắc Phật đạo. Thường bất khinh viên tín diệu lý nên đặng sáu căn thanh tịnh. Thế thì, cảnh trí lý diệu là không thể nói. Do đó, ở đầu nói về không thể nói, sau nói về tâm đầy đủ mười giới, nói rõ về cảnh không thể suy nghĩ bàn luận.

Tổng kết văn tự các giáo; tứ cú giáo, thập pháp giới, ba quán.

Luận nói: văn tự tức giải thoát; giải thoát tức diệu lý; diệu lý làm sao có thể nói được. Cho nên trước nói về không thể nói; sau kết thúc nói rằng, tất cả ngôn ngữ bặt dứt, rốt ráo không thật có. Song, bốn thứ không thể nói, các pháp v.v... đều căn cứ vào nhất niệm. Nhất niệm tâm tức là nhân duyên sở sinh tức không, tức giả, tức trung. Tức không cho nên thường vắng lặng, tức giả cho nên thường chiếu soi, tức trung cho nên chẳng phải vắng lặng chẳng phải chiếu soi; nhân do nhân duyên sinh cũng chính là không giả song chiếu. Kết thúc tứ cú nầy tức bốn không thể nói; như trước đã luận giải thì nên biết như bốn câu tịch chiếu. Đã tịch mà chiếu, tức chiếu mà tịch; tức tịch chiếu mà chẳng tịch chẳng chiếu, mà là song tịch chiếu. Một câu tức bốn câu, cho nên lý viên làm sao có thể nói được. Vì thế nói bốn không thể nói.

Hễ tự được viền lý nầy thì chấm dứt mọi sự tranh chấp kiện tụng, tâm tịnh như hư không, như kệ nói vậy.

Hỏi: sao không căn cứ vào các pháp khác để nêu lên 36 câu hỏi?

Đáp: Kinh chép: ba cõi không có pháp khác, tất cả đều do tâm tạo. Lại chép: tâm như người thợ vẽ, vẽ tất cả các thứ năm Ấm. Tất cả mọi sự trong thế gian, không có gì là không do tâm tạo; cho nên biết rằng, tâm là gốc của hai con sông; là cội nguồn của muôn vật. Nay, chỉ thực hành tất cả thiền tuệ, người học không biết quán tâm, trừ gốc bệnh phiền não. như chặt cây chặt cành không nhổ tận gốc, kết cục mầm vẫn còn; cũng như sửa chữa đê bao, không lấp các lỗ, nước rò rỉ kết cục không hết; cũng như con chó ngu đuổi theo hòn đất, không biết đuổi theo người quăng hòn đất, không bao giờ ngừng nghỉ. Các ví dụ như thế, có thể biết. Cho nên, căn cứ vào tâm mà phân biệt. Kinh nói: năng quán tâm tánh gọi là thượng định.

Hỏi: nếu vậy, sao Đức Phật lại không dạy, chỉ quán tâm mà thôi?

Đáp: vì chúng sinh độn căn nên có những thuyết khác nhau như vậy. Người trí nên hiểu ý. Như cô gái nghèo, không biết tìm cầu hạt châu báu trong nhà mà lại đi tìm cầu bên ngoài; vì căn cơ người kia thuộc loại chậm chạp, nên khởi giáo Niết-bàn để chỉ bày cho trong tâm phục hàng Thanh văn túy nên không biết hạt châu quý trong túi áo. Khởi giáo Pháp Hoa để chỉ bày điều nầy. Cho nên nói: vì muốn khiến cho chúng sinh mở bày tri kiến Phật mà xuất hiện ở đời. Kinh Duy ma cũng vậy, nên nói: sự giải thoát của các Đức Phật nên tìm cầu ở trong tâm hành của chúng sinh. Luận nầy cũng vậy, cũng chỉ bày cái phục tàng trong tâm chúng sinh, nên căn cứ vào tâm nêu lên 36 câu hỏi. Nếu đáp được thì biết tất cả các pháp đều ở trong tâm..

Hỏi: Nếu vậy, chỉ nên hỏi tâm, có ra tất cả các pháp; tại sao lại hỏi tâm, nên lên kiến hoặc, tư hoặc?

Đáp: Chỉ vì không biết quán tâm mà kết sinh tám mươi bốn ngàn thứ băng phiền não; nếu dùng quán trí chiếu soi liền dung hội, nêu lên tám mươi bốn ngàn nước ba-la-mật, mà băng và nước không hề bị hiểu là khác nhau; vọng hoặc làm sao có tự thể riêng. Vì không hiểu biết nên chỉ bày những lỗi của tâm, khiến biết tội để sửa đổi, mau dứt bỏ vọng hoặc; chỉ bày pháp môn của tâm khiến biết phước mà không quên tu tập. Vì nghĩa đó nên y cứ vào tâm quán ngoại hoặc. Vả lại, tâm là một pháp dễ quán. Muôn pháp muôn cảnh, theo sự vật mà ý đổi thay, rất khó chiếu soi. Luận nói: hỏi quán tự sinh tâm, thế nào là ma hạnh; nghiệp phiền não trói buộc, ba cõi nhà lửa thiêu. Hỏi quán tự sinh tâm, thế nào là ngoại đạo, các chấp nghiệp phiền não, trôi lăn trong sáu đường. Hai bài kệ nầy nói rằng, do không hiểu rõ một niệm tâm tự sinh tức là không, không hiểu lý của bốn không thể nói, khởi lên kiến hoặc tư hoặc. Tư hoặc tức là ma, chẳng phải thiên ma tầng trời thứ sáu. Kiến hoặc tức ngoại đạo, chẳng phải lục sư. Kinh nói: chúng ma vì ưa thích sinh tử; Bồ tát thì đối với sinh tử vẫn không bỏ. Ngoại đạo ưa thích các kiến chấp; Bồ tát đối với kiến chấp thì bất động. Đây đều căn cứ trên tâm kiến hoặc tư hoặc mà luận về ma và ngoại đạo. Nay y cứ sáu trần luận về ma tư hoặc, không hiểu rõ tâm nhất niệm tức là không, nên thấy dễ thương một cách luống dối, sáu trần mê đắm triền miên khởi tham, phát sinh hai mươi một ngàn thứ hoặc, là ma nhuyến tặc. Thấy sáu trần đáng sợ sinh lo sợ, khởi lên sân, phát sinh mười một ngàn thứ hoặc, tức mà cường. Sáu trần bình bình lại sinh khởi si mê, phát sinh hai mươi mốt ngàn ma bình phẩm. Đẳng phần lại sinh ra hai mươi mốt ngàn ma đẳng phần. Tất cả đều do không hiểu rõ tâm nhất niệm là không, nên gặp duyên đối cảnh bị ba độc đẳng phần, tám mươi bốn ngàn ma tặc bủa vây. Bị trói buộc bởi nghiệp phiền não nên lại bị thiêu đốt trong nhà lửa ba cõi. Cho nên, kệ nói: hỏi quán tự sinh tâm, thế nào là ma hành v.v... là ở đây. Kế đến, giải thích kiến hoặc: chính do suy cầu tìm tòi đế lý nhưng không kham được, tâm hành ngoài lý mà sinh phiền não, gọi là kiến hoặc, ngoại đạo. Vì sao? Nếu quyết định bảo rằng, một niệm tâm đầy đủ muôn pháp là Như Lai tạng, tức đồng với ngoại đạo Ca-tỳ-la, kiến chấp trong nhân đã có quả trước. Nếu quyết định nói rằng, tâm vốn không có muôn pháp, do tu tập mới có thì đồng với ngoại đạo Âulâu-tăng-ca, kiến chấp trong nhân không có quả. Nếu quyết định nói rằng, tâm vừa đầy đủ vừa không đầy đủ thì đồng với ngoại đạo Lặc-sa-bà, kiến chấp trong nhân vừa có quả vừa không có quả. Sáu vị giáo chủ ngoại đạo đều có định chấp cho đến đơn tứ cú, phúc tứ cú, đầy đủ các kiến v.v... đều là kiến chấp của ngoại đạo. Căn cứ vào đó để suy luận mà biết. Sở dĩ nghe nói tâm đầy đủ muôn pháp là Như Lai tạng tức có nghĩa như bao đựng cát. Nghe nói tâm không có muôn pháp tức nói đó là như sừng thỏ. Đây đều là những người cứ mãi chấp chặt tà kiến làm sao có thể luận đạo được. Trải qua sự chấp thủ, cũng giống như âm thanh của đàn khổng hầu không thể quyết định là thật, mà lại mong cầu tứ cú hữu vô. Hoặc như nhà vua si mê, bứt dây đàn mong tìm âm thanh tiếng đàn đàn không hầu, người nầy mong cầu lý tứ cú hữu vô đều là tà kiến. Nếu chấp năng như trí thần khéo chấp lấy âm thanh, khéo léo lãnh hội chân thật, tứ cú đều là đắc môn. Môn gọi là năng thông thì không pháp nào không đủ. Một sắc một hương đều là trung đạo; Dở chân, đặt chân đều là đạo tràng. Nếu chấp môn kia là bị bít lấp, bít lấp thì không pháp nài mà không phải là là hoặc, là sở kiến của của tâm mê mờ. Một sắc một hương đều là điên đảo, tà kiến ngoại đạo. Lược nêu tám mươi tám sử kiến hoặc. Nếu quán tâm nhất niệm mà ưa đắm pháp quán, kinh nói, pháp là vô nhiễm, nếu nhiễm các pháp cho đến Niết-bàn đều là pháp nhiễm. Đây là tham sử, do tham ái cho nên khen ngợi pháp quán thì sinh vui mừng, chê trách thì lại nổi sân. Đây là sân sử. Nếu chưa phát chân đế tức là vô minh ám hoặc, đây là si sử. Đã có vô minh hôn ám, nghi ngờ đế lý tức là nghi sử. Cậy vào quán giải của mình mà lăng nhục người khác là mạn sử. Còn có tâm năng quán tức là thân kiến. Chưa thấy được Trung đạo tức là biên kiến. Chấp kỷ kiến là đúng, tha kiến là sai tức là tà kiến. Quyết định cho rằng, quán giải của kia là nhân Niết-bàn tức là giới thủ. Quyết định có lý sở kiến là quả Niết-bàn, tức là kiến thủ. Đây đều là do quán tâm nhất niệm tự sinh chưa rốt ráo khiến khởi lên mười hoặc sử. Mười sư, tại cõi dục tứ đế có 32; cõi sắc, Vô sắc tứ đế đều có 28; ba cõi tứ đế cộng lại thành 88 sử, gọi là tập đế. Kiến phải nương sắc tức là khổ đế. Song, Trường Trảo lợi căn còn không biết sự kiến tâm kia, khổ tập, ngã mạn tự cao. Hành giả thời nay đâu thể biết được. Do đó, hành giả chưa ngộ lý ở trước, thì đâu được phi kiến. Nên rỗng tâm quên nghĩ, hối lỗi tự xem xét lại, không nên cầu chấp các quan điểm đúng sai, tranh chấp mà sinh ngã mạn, khởi lên 88 sử, tự buộc mình bởi vọng hoặc; để bệnh cũ chưa trừ, bệnh mới lại sinh. Song Bốn giáo đều có bốn môn hợp thành 16 môn; một môn tu quán kiến hoặc như đây; mười lăm môn còn lại căn cứ vào đó có thể biết.

Hỏi: tám mươi tám sử chỉ chướng ngại Tiểu thừa, đâu có ngại cả Đại thừa?

Đáp: Riêng thì đúng như câu hỏi đã nói, nhưng chung thì có đầy đủ cả, có nhưng với nghĩa khác. Những ngoại đạo kiến hoặc nầy đều do không liễu ngộ tâm nhất niệm, vọng buộc hoặc khổ, trôi lăn sinh tử. Cho nên kệ nói, hỏi quán tự sinh tâm, thế nào là ngoại đạo v.v... chính là đây. Luận chép: Hỏi quán tự sinh tâm, thế nào là ba thừa vụng độ.

Luận nói:

Hỏi quán tự sinh tâm,
Thế nào là ngoại đạo
Dứt bỏ kiến tư, hoặc
Ra khỏi nhà lửa ba cõi.

Ba bài kệ trước nói về việc không liễu ngộ tâm nhất niệm tự sinh, không thấu đạt nghĩa lý bốn không thể nói, cho nên khởi lên kiến hoặc tư hoặc, như trước đã nói. Từ đây trở xuống gồm bốn bài kệ, là phần thứ ba, nói về lý có sâu có cạn. Nếu giải ngộ tâm nhất niệm tự sinh, thấu đạt lý bốn không thể nói thì hiểu rằng có khéo vụng, đại tiểu, có tiệm đốn, cạn sâu, nên có sự khác nhau về bốn giáo. Tức là bốn bài kệ.

Hỏi: giáo vốn được dùng để giải thích nghĩa lý; sở thuyên chỉ có hai; giáo năng thuyên làm sao có bốn được?

Đáp: Giải thích hai lý đều có cong thẳng khéo vụng mà thành bốn thứ. Sau sẽ thấy.

Hỏi: bảo sở, hóa thành, sở thuyên hai lý, nay ở chỗ nào, nếu biết nơi chốn thì tìm dễ dàng hơn.

Đáp: một sắc một hương đều là Trung đạo, đều là bảo sở; tức sắc là không, đều là hóa thành. Đây là biện luận chung, tức gần tức tâm mà luận. Kinh nói: tất cả các chúng sinh tức là tướng Niết-bàn, không còn diệt nữa. Giải thoát của các Đức Phật nên tìm cầu ở trong tâm hành của chúng sinh. Vì muốn khiến chúng sinh mở bày tri kiến Phật; chỉ vì chúng sinh không biết được trong túi áo có hạt ngọc vô giá, làm sao biết lý bảo sở ngay ở trong tâm. cũng như cô gái nghèo không biết kho tàng sẵn có trong nhà; chúng sinh đâu liễu ngộ cội nguồn Trung đạo ở trong thân. Kinh chép: sinh tử tức Niết-bàn, phiền não tức bồ đề; thế thì lý bảo sở, đâu phải năm trăm do tuần ở bên ngoài. Kinh nói: ngay nơi sắc là không, thiên chân hóa thành cũng chẳng phải ba trăm ở ngoài. Vậy thì hai lý đều ở trong một niệm tâm, không phải mệt nhọc đi xa.

Kinh nói: khéo quán tâm tánh gọi là thượng định. Song, chúng sinh tìm cầu hai lý, căn có lợi độn, khéo vụng bốn duyên, giáo tùy theo duyên nên có bốn giáo khác nhau.

Ở đây, trước giải thích sơ kệ của tam tạng giáo, chỉ vì chúng sinh điên đảo cho rằng thân tâm là thường lạc ngã tịnh; theo tưởng điên đảo mà khởi lên kiến hoặc tư hoặc, tạo tác vô biên sinh tử tội lỗi quả báo, thường phải chịu ở trong nhà lửa, bị phiền não bức hại, thường chịu khổ não. Kinh nói: lửa đến đốt thân, đau khổ thống thiết. Tuy bị khổ dữ dội nhưng chẳng cho đó là hoạn nạn, chỉ lo chuyện ngược xuôi, nhìn cha mà thôi, không có ý muốn ra khỏi. Trưởng giả tuy tự đưa tay ra nhưng vô dụng, liền phương tiện bày ra các thứ xe hưu, xe dê v.v... Vì các vị ba thừa nói về đế duyên độ, gọi là tam tạng thuyết giáo ba thừa. Kinh nói: Liền đến Ba-la-nại quay bánh xe pháp tứ đế; vì năm vị tỳ kheo nói về sự sinh diệt của năm chúng. Năm chúng tức là nói năm Ấm sinh diệt, rằng Tam tạng sinh diệt giáo. Nếu nay hành giả muốn bẩm thừa ba tạng sinh diệt quán thì quán tâm nhất niệm tự sinh là ba tướng sinh, trú, diệt, niệm niệm vô thường; vô thường cho nên khổ; khổ cho nên vô ngã; vô ngã cho nên không. Do quán biết vô thường, khổ, không vô ngã tức phá bốn đảo thường, lạc, ngã, tịnh. Phá được bốn đảo thì không khởi kiến hoặc tư hoặc, dứt được kiến tư gọi là hỏa diệt, thì tranh nhau hàng hàng ra khỏi nhà lửa. Cho nên vì có gốc hoặc nên sinh niệm diệt hoặc, gọi là sinh diệt quán. Tu quán sinh diệt nầy cho nên ngộ được tâm không, chứng lý hóa thành; đó gọi là ba tạng vụng độ, khúc chứng chân lý. Cho nên kệ nói, hỏi quán tự sinh tâm, thế nào là ba thừa v.v... là ở đây.

Luận nói:

Hỏi quán sự sinh tâm
Thế nào là khéo độ
Ba thừa không dứt hết
Được vào hai Niết-bàn.

Một bài kệ nầy nói về Thông giáo. Hành giả vâng theo thừa giáo mà tu quán quán tâm nhất niệm tự sinh tức là không, chẳng phải do tâm diệt mà không, đây là tự tánh không. Kinh nói: tự tánh lìa, tự tánh không thật có, tự tánh không thể được. Kinh nói: ví như nhà ảo thuật thấy người huyễn hóa ra, Bồ tát quán chúng sinh cũng giống như vậy. Như người trí thấy mặt trăng đáy nước, như nhìn các ảnh tượng trong gương; như hơi nóng khi rựa lửa; như tiếng dội của âm thanh, như mây trên hư không; như bọt trên mặt nước; Bồ tát quán chúng sinh cũng giống như vậy. Kinh nói: thể tánh vô minh vốn không tự có, vọng tưởng nhân duyên hòa hợp mà sinh. Chúng sinh không biết luống dối, cho rằng thân ta là thật, nói là thường lạc ngã tịnh mà khởi sinh kiến chấp tứ đảo, các hoặc, trôi lăn trong sinh tử... Nay, hành giả quán thân tâm mình luống dối, không thật, đâu có thường lạc ngã tịnh, thì không khởi đảo tưởng, phiền não tự dứt. Như người trong mộng, thấy người khen chê; khen thì vui vẻ, chê thì buồn rầu. Tỉnh dậy mới biết, vui buồn trong mộng lại sinh vui sợ. Bồ tát hành giả quán tự sinh tâm vui giận mà sinh các hoặc, cũng như huyễn hóa. Kinh chép: hãy quán sát như những điều thấy ở trong mộng, liền ngộ lý không của nhất niệm tự sinh tâm; đó gọi là Thông giáo thể pháp vô sinh khéo độ, giải thích lý hóa thành.

Hỏi: Thế nào gọi là quán thể pháp vô sinh khéo độ?

Đáp: Lấy thí dụ để giải thích: 1. Như hình bóng thật ngoài gương.

2. Như hình bóng trong gương mà chính mắt người đời có thể không cho ảnh tượng ngoài gương là thật có; hình bóng trong gương là hư vô ư. Nếu vâng thừa ba tạng giáo hạnh thì pháp quán của thân tâm như hình bóng thật bên ngoài gương chỉ vì ba tướng dời đổi, vô thường, khổ, không, vô ngã. Nếu quán như vậy thì liễu ngộ lý vô thường, khổ, không. Nay, hành giả Thông giáo nhận biết thân tâm chỉ như hình bóng trong gương vốn là luống dối. Thế mà với hình bóng trong gương lại không thể ngay với hình bóng là không, làm sao diệt hình bóng mới thành không. Cho nên kinh nói: ngay nơi sắc là không, chẳng phải sắc diệt mới không, tự tánh của sắc vốn không. Thế thì không có sự diệt mất của hình bóng trong gương. Kinh nói: vốn tự không sinh, nay cũng không diệt. Pháp quán nầy là khéo léo cho nên gọi là thể pháp vô sinh khéo độ quán. Lấy gương để ví dụ; các dụ tiếng vang, hình bóng, v.v... có thể biết. Pháp quán nầy so với ba tạng tức là các bậc lợi căn trong tam thừa mới có thể tu quán khéo độ nầy. Kinh nói: giải tập, vô tập mà có chân đế. Đã nói giải tập, vô tập thì có phiền não nào để đoạn mà có chân đế, tức là đắc được hai Niết-bàn. Như bài kệ nói: ba thừa không đoạn dứt hết, được vào hai Niết-bàn.

Luận nói:

Hỏi quán sự sinh tâm
Thế nào là Biệt giáo
Cầu quả thường Đại thừa
Bồ tát dứt biệt hoặc.

Bài kệ nầy nói về Biệt giáo? Là sao? Người tu tập Biệt giáo, tâm ban đầu liền biết quả Phật thường trú, phát tâm mong cầu; nhưng quả Phật huyền diệu không thể ngay nơi sự mà đốn tu nên phải từ ẩn kín đến rõ ràng, từ cạn đến sâu; ban đầu quán thân tâm sinh diệt, khổ không vô thường, vô ngã, tu tập quán sinh diệt không khác pháp quán của Ba tạng ở trước. Chỉ có điều, Ba tạng không biết quả Phật thường trú, do vậy có khác. Vả lại, Biệt giáo, trước tu tập quán sinh diệt để điều phục bốn trụ hoặc, kế đến mới tu tập vô sinh để dát trừ bốn trụ hoặc, gọi là từ giả vào không quán. Kinh Anh Lạc chép: Từ giả vào không gọi là nhị đế quán. Trung luận chép: pháp do nhân duyên sinh, ta nói chính là không. Kế đến là xuất giả quán: quán tâm nhất niệm tự sinh, nếu là rốt ráo không tức là đoạn vô. Kinh nói: tuy không mà không đứt quãng, tuy có cũng không thường, thiện ác cũng không mất. Cho nên biết tuy không mà là Như Lai tạng, đầy đủ trăm giới ngàn như, sinh tử Niết-bàn đều ở trong tâm, muôn pháp vạn hạnh đều ở trong đó. Do vậy, nên tu học Hằng sa Phật pháp, tập tành vô lượng bốn Thánh đế, phá vô tri trần sa hoặc, hiển bày ra lý Như Lai tạng trong tâm. Đó gọi là từ không vào giả quán. Kinh Anh Lạc chép: Từ Không vào Giả gọi là bình đẳng quán. Trước chỉ phá giả, chưa phá không; nay lại phá không nên gọi là bình đẳng quán. Trung Luận chép: cũng gọi là giả danh. Tịnh Danh chép: chưa đủ Phật pháp, không nên diệt thọ mà thủ chứng. Thế thì hai kinh một luận cùng chứng minh cho giả quán. Ba là tu Trung đạo quán: Bất hữu cho nên bất thường; bất vô cho nên bất đoạn. Bất thường, bất đoạn tức là Trung đạo. Lại nữa, bất hữu cho nên phi hữu; bất vô cho nên phi vô; đó gọi là Trung đạo. Lại nữa, bất hữu mà hữu tức là Trung đạo chân thiện diệu hữu pháp tánh thường sắc. Kinh nói: xả sắc vô thường, đạt được sắc thường; thọ tưởng hành thức cũng lại giống như vậy. Lại nữa, bất vô mà vô tức là đệ nhất nghĩa, không gọi là Trung đạo, tức đại Niết-bàn không. Đây chính là hữu vô đều là tên gọi khác của Trung đạo. Cho nên nói rằng, từ giả vào trung. Kinh Anh Lạc chép: hai quán kia là phương tiện để vào Trung đạo đệ nhất nghĩa đế quán. Trung luận chép: cũng gọi là nghĩa Trung đạo. Tịnh Danh chép: nay bệnh nầy của ta, chẳng phải chân chẳng phải hữu; phi chân mà chẳng phải không; phu hữu mà chẳng phải giả, gọi là Trung đạo; cho đến chẳng phải phàm phu hạnh chẳng phải Thánh hiền hạnh, là Bồ tát hạnh v.v...; cho đến có các kinh khác, văn kinh nói cả hai chẳng phải đều xả, hiển bày ở Trung đạo. Thế thì hai kinh một luận đều cùng chứng thành Trung đạo. Quán đây là Bồ tát hành giả bẩm thừa quán của Biệt giáo. Quán tâm nhất niệm tự sinh, tu tập trải qua lý ba quán của Biệt giáo, chí cầu đại thừa Phật quả thường trú mà dứt trừ vô minh biệt hoặc; đó gọi là Biệt giáo khúc thuyên trung đạo lý. Cho nên kệ nói: Hỏi quán tự sinh tâm, thế nào là Biệt giáo, v.v... là ở đây.

Luận nói:

Hỏi quán tự sinh tâm
Thế nào Viên giáo thừa,
Không phá hoại pháp giới
Trú ba đức Niết-bàn.

Bài kệ nầy nói về Viên giáo. Là sao? Kinh nói: sinh tử là Niết-bàn, phiền não là bồ đề, ba quán viên quán, một niệm tâm sinh tử, tâm tức là Niếtbàn trung đạo. Tâm phiền não là bồ đề trung đạo.

Kinh nói: Bồ tát chưa thành Phật, bồ đề là phiền não; khi Bồ tát thành Phật, phiền não là bồ đề. Cho nên biết rằng, tâm mê là sinh tử phiền não, tâm ngộ là bồ đề Niết-bàn. Thế thì bồ đề và phiền não vốn không phải là hai pháp; như lạnh thì nước đóng thành băng; Ấm thì băng tan thành nước, tên gọi khác nhau nhưng thể chỉ là một. Cũng chẳng ngại gì tên khác mà thể đồng. Kinh nói: có thân là hạt giống, vô minh hữu ái là hạt giống, tham si là hạt giống, bốn điên đảo là hạt giống v.v... cho đến tất cả đều là hạt giống Phật. Thế thì, phiền não ác pháp đã là hạt giống Phật, pháp thiện, vô ký, lý nên như vậy. Đây thời tất cả đều là Phật pháp; mộ sắc một hương đều là Trung đạo. Kinh nói: bất hoại nơi thân mà tùy nhất tướng, tức là khổ đạo, pháp thân đức. Bất diệt si ái, sinh khởi minh thoát tức phiền não đạo, Bát-nhã đức. Tướng năm tội nghịch là nghiệp đạo, tức là giải thoát đức. Thế thì kinh nói, không hủy hoại ba đường sinh tử tức là ba đức bí mật đại bát Niết-bàn. Cho nên nói: tất cả chúng sinh là đại Niết-bàn, không còn diệt nữa là nghĩa nầy. Vả lại, ba đức tức là ba Bát-nhã, ba pháp thân, ba ngôi báu v.v... cho đến tất cả tám mươi bốn ngàn pháp môn các ba-la-mật, muôn đức vạn hạnh tất cả Phật pháp đều ở trong nhất niệm ba đường sinh tử, cho nên gọi tâm nầy là Như Lai tạng; cho nên biết, đạo rất gần những dễ quên, lý tức sự mà khó hiểu. Kia tuy lĩnh hội ý nầy nhưng do viên đạo thần thống ấy thì mắt nhìn đối cảnh cái gì chẳng phải là diệu đạo. Kinh nói: sản nghiệp nuôi sống đều chẳng trái với thật tướng. Trong bốn oai nghi đều là đạo cả; giở chân, đặt chân đều là đạo tràng. Thế thì, vàng ngọc lấy ra từ cát đá; đạo có từ vô đạo. Cho nên kinh nói: thực hành phi đạo, thông đạt Phật đạo, lửa sinh hoa sen gọi là ít có. tự chẳng phải là người đại hạnh, đại căn tánh làm sao thân thức dạo chơi trong đạo nầy được, đều là chúng sinh lý có những tình mê. Cho nên nói, cô gái nghèo có kho báu nhưng không ai biết, không biết trong túi áo có hạt ngọc vô giá. Phàm phu không biết để lấy đó để trở thành giàu có, cho nên gọi là cô gái nghèo. Nhị thừa không thể lấy đó để tự làm dồi dào cho nên gọi là gã nghèo. Kho báu nầy không thể trao truyền cho người một cách không đúng. Cho nên nói, cần thiết phải im lặng lâu dài, không vội vàng nói. Hơn 40 năm chưa hiển bày nghĩa lý chân thật, nay mới nói, do vì, pháp không thể nói không đúng thời.

Đáp: Kinh nói: chúng sinh năm trược chướng nặng cho nên không được nói.

Hỏi: Năm trược lấy gì làm chướng đại?

Đáp: Chúng sinh do nhân duyên năm trược nên cho rằng sinh tử là thường, lạc, ngã, tịnh, khởi lên vọng hoặc, đọa lạc ba đường. Nay, lại nói thân kia là Như Lai tạng thường, lạc, ngã, tịnh, khiến tăng thêm sư mê mờ điên đảo, làm sao ra khỏi được sinh tử. Chỉ có người thực hành không quán môn có thể nói việc ấy. Vì sao? Vốn nhiều tham dục ba độc, nghe kinh nói dâm dục tức là đạo; sân nhuế, si mê cũng vậy. Trong ba pháp đó đầy đủ vô lượng Phật pháp. Chúng sinh không thấu triệt ý chỉ nầy khiến cho tâm càng mê hoặc, tăng thêm điên đảo, đâu thể nói cho họ nghe một cách bừa bãi được.

Hỏi: Nay nói thân có thường lạc ngã tịnh của Như Lai cùng với thường lạc ngã tịnh mà chúng sinh chấp nê, có gì khác nhau?

Đáp: Kinh Niết-bàn chép: Chấp rằng thường, lạc v.v... là mới ăn gỗ tình cờ thành chữ; con mối chẳng biết chữ hay không phải chữ. Kinh dùng giải thích nầy bác bỏ quan điểm kia. Nay cũng mượn ví dụ kia để giải thích. Song, Đức Phật lúc mới thành đạo ở đạo tràng tịch diệt đã muốn đem lại đại pháp để trao cho chúng sinh, nhưng chúng sinh không có căn cơ thích hợp để thọ nhận giáo hóa, cho nên trong phẩm Tín giả giải thích rằng, Trưởng giả ngồi ở trên giường sư tử thấy con liền biết, liền sai người bên cạnh chạy theo bắt về; gã nghèo bị bắt kêu oan rất thống thiết, tôi có tội gì sai lại bắt tôi. Nếu ta gượng nói thì chúng sinh sẽ phá pháp, đọa vào đường ác, rằng ta thà không nói pháp, mau vào Niết-bàn; đây tức toàn sinh như sữa; liền nghĩ các Đức Phật trong quá khứ đã thực hành phương tiện, nay ta cũng như vậy, phương tiện độ chúng sinh, liền đến Ba-la-nại nói thuyết pháp cho năm vị tỳ kheo nghe; nói về giáo lý sinh diệt để dứt bỏ tứ trụ hoặc. Cho nên nói, lại sai hai người tìm bắt đem về. Trong hai mươi năm trừ bỏ cáu bẩn kiến hoặc tư hoặc. Tức là từ phàm lên Thánh, chuyển sữa thành bơ; kế là nói về Phương đẳng, mạng phương tiện ba giáo nói Viên giáo điều phục, cho nên ngài Tịnh Danh dùng hai giáo Biệt Viên để bắt bẻ 10 vị đại đệ tử; dùng viên vặn hỏi thiên, hành hạnh lịch biệt của Bồ tát khiến điều phục dần dần. Vì sao? Vì xưa đối với chúng sinh nói pháp đại phá mà không tin, khiến không được nói; nay đã được Thánh đạo Nhị thừa nghe kia nói Đại liền tự thương bại chủng, cho nên tiếng vang cả Đại thiên, khen pháp mầu của Bồ tát rất khó suy nghĩ; tuy chưa được liễu ngộ nhưng không khởi lên tâm ý hủy báng. Cho nên nói, từ nay về sau, tâm tướng thể tin, xuất nhập không khó; song, chỗ dừng nghỉ của kia vẫn còn ở am tranh, tâm thấp hèn cũng chưa bỏ được. Đây là chuyển bơ thành bơ sống; tức là sau Tam tạng nói phương đẳng giáo. Tiếp đến nói về Bát-nhã, mang hai phương tiện Thông, Biệt nói Viên giáo để điều phục, vì các vị Bồ tát nói về Bát-nhã. Phẩm Tín giải chép: Trưởng giả biết con dần dần thông thái mà bảo cho biết về gia nghiệp. Cho nên bài kệ nói: Phật dạy chúng ta vì các Bồ tát nói về Ba-la-mật mà ta không có ý mong có được một bữa ăn. Đây là chuyển bơ sống thành bơ chín; tức sau Phương đẳng nói về Bát-nhã. Sau Bát-nhã nói về Pháp Hoa Viên giáo. Kinh nói: bỏ ngay phương tiện mà nói đạo vô thượng tức là nói viên quán nầy. Quán một niệm tâm tức là Trung đạo Như Lai bảo tạng, là tri kiến Phật thường lạc ngã tịnh. Cho nên nói: vì nhân duyên lớn mà xuất hiện ra đời. Xá lợi phất hỏi rằng: sao gọi là việc nhân duyên lớn? Phật đáp: vì khiến chúng sinh mở bày tri kiến Phật; thị, ngộ, nhập, cũng giống như vậy. Cho nên trong phẩm Tín giải chép: Trưởng giả tự biết mình sắp qua đời, bèn hội họp thân tộc, nói rằng, ta là cha của nó, nó kia là con của ta; tất cả tài vật, ta trao cho nó; tức sau thời Bát-nhã, nói Pháp Hoa Viên giáo. Cho nên biết rằng, ba giáo trước đều là phương tiện của Viên giáo diệu quán; điều phục cho thọ nhận được diệu quán. Cho nên biết quán vi mà lại diệu, đâu thể so sánh với ba giáo kia. Cho nên kinh khen rằng: mới phát tâm liền ngồi đạo tràng. Lại nói: khi mới phát tâm đã vượt qua Tịch mặc. Thí như vương tử mới sinh đã ở trên trăm quan. Mới phát viên tâm tức đã ở trên ba giáo. Công đức của người thứ 50 còn không thể đo lường, huống là người tùy hỷ đầu tiên. Tức nay là người viên quán, sinh tử ba đường tức là ba đức Niết-bàn. Như trước đã giải thích; đó chính ba đường tức là pháp giới. Pháp giới chỗ nào bị phá hoại. Cho nên kệ nói: hỏi quán tự sinh tâm, thế nào là Viên giáo, không phá hoại pháp giới, trụ ba đức Niết-bàn. Ý nghĩa là ở đây. Các hành pháp thì nhiều mà chỉ nói bốn.

QUYỂN 3

Luận nói:

Hỏi quán tự sinh tâm
Thế nào là Niết-bàn
Tu bốn thứ Tam-muội
Đặng chân vô sinh nhẫn.

Đây là phần thứ tư, gồm một bài kệ, nói rằng muốn quán tâm nhất niệm tự sinh phải được lý chứng, dựa vào phương pháp của bốn thứ Tammuội mà tu tập. Kinh dạy: lại thấy các Phật tử tu tập các hạnh để mong cầu Phật đạo. Các công hạnh tức bốn thứ Tam-muội; tu hạnh không giống nhau nên gọi là các thứ. Bốn thứ: một, thường tọa Tam-muội; hai, thường hành; ba, bán hành bán tọa; bốn, phi hành phi tọa. Tam-muội: gọi là điều trực định. Thích luận chép: khéo trú tâm một chỗ, bất động gọi là Tam-muội. Đại kinh nói: buộc tâm vào một cảnh gọi là Tam-muội. 1. Thường tọa Tam-muội: rút ra từ kinh Văn Thù Thuyết Bát-nhã, cũng gọi là nhất hạnh Tam-muội. Chia làm ba: 1. Sự tướng. 2. Quán pháp. 3. Khuyến tu. Sự tướng: người thực hành muốn quán tâm nhất niệm tự sinh thì phải nương tựa. Nương tựa cái gì? Hoặc ở trong chúng, hoặc ở một mình trong tịnh thất, sắp đặt giường, ngồi tọa thiền, ngay ngắn, không động đậy. Thề không nằm nghỉ. Kinh dạy: một lần ngồi mười tiểu kiếp, thân thể, tay chân hoàn toàn vắng lặng, yên ổn, bất động, xa lìa tất cả các vọng tưởng, không xem thường Phật, không phụ tâm, không dối gạt chúng sinh. Vì sao? Luận rằng: tu sám học đạo là các Đức Phật sơ tâm. Kinh dạy: Phật biết chúng sinh hành đạo, không hành đạo, đâu thể có tâm dối trá; tội cũ chưa dứt lại tăng thêm tội mới. Do đó phải nêu chuyên nhất tâm kia. Nếu niệm một Đức Phật, công đức ngang bằng với công đức niệm các Đức Phật mười phương; lại nên xưng niệm danh hiệu Phật để giúp sức cho hai nghiệp thân tâm; như người buồn vui, cất tiếng la to thì tình cảm buồn vui kia được khoan khoái, siêng tu ba nghiệp dầu có mệt mỏi, kinh dạy: nếu thân bị khổ thì nên nghĩ đến tất cả sự đau khổ của chúng sinh; lấy cái khổ nặng nề của chúng sinh để trừ cái khổ nhỏ nhẹ của mình sẽ hết mỏi mệt. Vả lại, ta đã tạo ra nghiệp nhân ba đường, nay mới nghe Phật, sám hối rửa sạch tội lỗi, với một ít mỏi mệt mà không chịu được thì làm sao chịu nỗi cái khổ nơi ba đường. Vì sao? Kinh dạy: Trên không, dưới biển, trong núi, giữa chợ, không chỗ nào có thể thoát khỏi sự thọ báo. Làm sao tránh được. Gõ băng cá nhảy; khóc trúc măng mọc; người hiếu chí tình, vẫn còn cảm động; huống gì, người có lòng tin vững chắc đối với Tam bảo thì có hoạn nạn nào mà không trừ được. Hai, nói về pháp quán: tức là nhất niệm pháp giới hệ duyên pháp giới. Pháp giới: một sắc một hương đều là Trung đạo, đều là Phật pháp, cho nên đều là pháp giới. Vả lại, niệm tâm duyên tất cả các pháp đều là Phật pháp, tức là chân diệu thật tướng pháp giới. Cho nên nói, hệ duyên pháp giới là nhất niệm pháp giới. Kinh chép: nói pháp giới nghĩa là, tin tất cả pháp đều là Phật pháp. Phật pháp là không trước không sau, không có bờ mé; đồng là một cõi Phật. Pháp giới của Phật nầy không thể biết, không thể nói, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải biết, chẳng phải không biết, lìa hai bên nầy, an trú nơi vô sở trú, như các Đức Phật an trụ nơi pháp giới vắng lặng; nghe nói như vậy, chớ nên sinh lòng sợ hãi. Lại nữa, pháp nầy cũng gọi là bồ đề, cũng gọi là cảnh giới không thể suy nghĩ bàn luận, cũng gọi là trú xứ Bát-nhã, cũng gọi là bất sinh bất diệt. Nếu có thể quán pháp giới như vậy là nhạo quán Như Lai. Khi quán Như Lai không cho rằng Như Lai là Như Lai. Nếu quán tướng chúng sinh như tướng các Đức Phật, giới lượng chúng sinh như giới lượng các Đức Phật. Giới lượng các Đức Phật là không thể suy nghĩ bàn luận, giới lượng chúng sinh cũng không thể suy nghĩ, bàn luận. Chúng sinh giới vô trụ như hư không trú, lấy pháp bất trú mà an nơi Bát-nhã; lấy vô tướng hiện tướng nơi Bát-nhã. Nếu không thấy pháp của phàm phu, làm sao xả bỏ được pháp của phàm phu; nếu không thấy được pháp của bậc Thánh thì làm sao đắc được Thánh pháp. Sinh tử, Niết-bàn, nhớ sạch cũng giống như vậy; không bỏ không lấy, an trú trong mé thật, như vậy mà quán chúng sinh chân pháp giới. Nếu quán phiền não, tham, sân, si là hạnh vắng lặng, là hạnh bất động, chẳng phải pháp sinh tử, chẳng phải pháp Niết-bàn, không lìa bỏ các kiến mà tu Phật đạo; phi tu đạo, phi bất tu đạo, đó gọi là chánh trụ phiền não pháp giới. Nếu quán nghiệp nặng không ngoài 5 tội nghịch; 5 tội nghịch tức bồ đề; bồ đề tức 5 tội nghịch, vốn không có hai tướng riêng khác, vô giác, vô tri, vô phân biệt. Tướng của năm tội nghịch, tướng của thật tướng đều không thể suy nghĩ bàn luận, đều không thể phá hoại, vốn không có bổn tánh. Tất cả các nghiệp duyên đều trú nơi thật tướng; không đến, không đi, không nhân, không quả. Đó gọi là quán nghiệp, tức là pháp giới. Bốn pháp giới ấn nầy, bốn ma không thể tìm dịp phá hoại. Vì sao? Vì ma tức là pháp giới ấn, pháp giới ấn làm sao hủy hoại pháp giới ấn được. Dùng ý nầy để hiểu tất cả các pháp cũng giống như vậy. Song, pháp quán bốn Tam-muội nầy đều nên thủ đắc pháp quán Viên giáo ở trước. Nay lại lấy thêm pháp quán của kinh kia để giúp sức. 3. Khuyên tu: mỗi pháp giới nầy là chân pháp của Phật, là ấn bồ đề. Nếu nghe pháp nầy mà không kinh sợ, không lo thì đó là người đã gieo trồng thiện căn với ngàn Đức Phật, cho đến trăm ngàn muôn ức Đức Phật. Thí như Trưởng giả mất hạt châu ma ni, lo buồn khổ não; nếu tìm được trở lại thì tâm vui mừng khôn xiết. Nếu bốn chúng có tâm tin ưa mà không nghe pháp nầy thì sinh ra khổ não; nếu nghe mà tin hiểu, tâm rất vui mừng thì nên biết người đó tức đã thấy Phật, gần gũi cúng dường. Như người xỏ chuỗi, bỗng gặp ma ni, tân rất vui mừng. Nên biết người nầy đã từng thấy. Nếu người tu học pháp khác, bỗng nghe kinh nầy, sinh tâm vui mừng, nên biết người nầy đã từng nghe pháp nầy với Văn thù sư lợi. Thân tử nói: nếu đối với nghĩa nầy hiểu biết chắc chắn, quyết định gọi là Đại Bồ tát. Di Lặc nói: Được nghe đầy đủ pháp tướng như vậy tức là gần gũi tòa Phật. Vì sao? Như Lai hiện giác pháp tướng nầy. Văn thù nói: Được nghe pháp sâu xa mà không kinh hãi tức là Phật. Phật dạy: nếu nghe pháp nầy, không kinh hãi, không lo sợ, tức an trú nơi địa vị không lui sụt; đầy đủ sáu Ba-la-mật; cũng đầy đủ pháp Phật. Nếu người muốn học tất cả Phật pháp, tướng hảo, oai nghi, vô lượng pháp thức, muốn liễu giải tất cả các pháp tướng, muốn biết hết tất cả các tâm của chúng sinh, muốn an trú ở giai vị a bệ việt trí (giai vị không lui sụt), mau thành tựu Tam bồ đề, đều phải tu tập Tam-muội nhất hạnh nầy; siêng năng không hề biếng nhác thì sẽ thành tựu. Như xử lý châu ma ni tùy theo sức mài mà ánh sáng của ngọc thấu suốt trong ngoài. Khi chứng đắc công đức không thể suy nghĩ bàn luận thì biết tướng các pháp, ánh sáng chiếu khắp, không chút thiếu sót. Bồ tát có thể nhẫn được như vậy, mau thành tựu bồi đề. Tỳ kheo, tỳ kheo ni nghe mà không kinh hãi, lo sợ tức là xuất gia với Phật. Tín sỹ, tín nữ nghe mà không kinh sợ tức là chân quy y; xét cho cùng công đức ở trong văn đó. Thứ hai, Tam-muội thường hành, cũng chia làm ba: một là, sự tướng; hai là, pháp quán; ba là, khuyến tu. Một là sự tướng: hành giả muốn quán nhất niệm tự sinh tâm nương vào việc thường thực hành Tam-muội. Pháp nầy rút ra từ kinh Bát chu Tam-muội gọi là Phật lập Tam-muội. Phật lập có ba việc: một, oai lực của Phật; hai, oai lực Tam-muội; ba, oai lực của bổn công đức. Có thể ở trong định thấy các Đức Phật mười phương ở hiện tại đứng ngay trước mắt, như người có mắt sáng ban đêm nhìn sao trên trời; thấy Phật mười phương cũng giống như vậy. Khi thực hành nhiều pháp nầy thì nên xa lánh ác tri thức và người ngu si, cũng nên xa lìa bà con, xóm làng; thường ở một mình, không nên trông mong điều gì ở nơi phương khác, thường đi khất thực, không nhận thỉnh riêng; sửa sang đạo tràng, chuẩn bị đầy đủ các thức ăn ngon, hương hoa, quả ngọt. Tắm gội sạch sẽ; ra vào phải thay đổi y phục như cách thức thường lệ; chỉ thực hành toàn vô ba oai nghi, nên có minh sư khéo léo mở bày dẫn dắt hiểu rõ luật trong ngoài để tránh các chướng ngại. Ở chỗ đã nghe Tam-muội, kính thầy như Đức Thế Tôn. Nếu thấy chỗ dễ của thầy thì cầu Tam-muội nầy không bao giờ đạt được, nên cắt gân cốt cúng dường, huống gì các thứ khác. Lại cần có người ngoài hộ ngày đêm điều dưỡng, siêng năng, nhẫn nhục như mẹ nuôi con. Lại cần có người đồng hành rất nghiêm túc trong các thời khóa tu tập, như cùng đi qua con đường nguy hiểm. Cần lập kỳ hạn, thệ nguyện cố gắng chịu cực nhọc, luôn luôn tinh tấn, dù cho gân cốt tiều tụy, việc tu tập Tam-muội cũng không bao giờ lui sụt. Phát khởi đại chánh tín không gì có thể làm cho nó bị hoại. Tinh tấn không hề biếng nhác. Thành tựu trí tuệ không người nào sánh bằng. Thường theo thờ thầy lành. Thực hành bốn pháp nầy mau chứng đặng Tam-muội: 1. trong suốt ba tháng, không được nghĩ tưởng về các mong muốn thế gian, dù trong khoảnh khắc. 2. Trong suốt ba tháng, không được ra ngoài dù trong khoảnh khắc. 3. Trong suốt ba tháng, kinh hành không được ngừng nghỉ, không được ngồi, trừ khi ăn cơm. 4. Giảng kinh cho người, không được mong cầu áo cơm. Thực hành bốn pháp nầy mau chứng được Tam-muội. Hai là nói về quán ý: Kinh kia nói: làm sao để có được Tam-muội nầy? Đó là giữ giới đầy đủ, ở yên một chỗ, nghĩ đến Đức Phật. Giáo chủ cõi Tây phương, ở cách đây mười muôn ức cõi Phật, ở giữa chúng Bồ tát nói kinh. Thường niệm tưởng suốt cả ba tháng. Thế nào gọi là niệm? Là nghĩ đến mỗi tướng của Đức Phật kia, từ tướng bánh xe ngàn căm dưới lòng bàn chân cho đến Vô kiến đảnh tướng; ta đều thấy; ta từ nơi tâm thấy Phật, từ thân thấy Phật. Không thể dùng tâm để sắc Phật, không thể dùng thân để đắc Phật. Không thể dùng tâm để đắc sắc tướng Phật; không thể dùng sắc tướng để đắc tâm Phật. Vì sao? Vì tâm Phật vốn vô sắc. Vì sắc Phật vốn vô sắc. Không dùng sắc tâm nầy để đắc Tam bồ đề. Phật sắc đã hết cho đến Phật thức cũng hết; những điều Phật dạy cũng hết. người ngu si không thấy không biết. Người trí hiểu rõ. Không dùng thân, miệng đắc Phật; không dùng trí tuệ đắc Phật. Vì sao? Vì trí tuệ, tìm cầu không thật có. Tự tìm cầu ngã không thật có. cũng không thấy điều gì. Tất cả pháp vốn không hoại diệt; vốn không có gốc. Ví như mộng thấy bảy báu và thân thức vui vẻ. Khi tỉnh rồi, nhớ nghĩ lại chẳng biết nó ở chỗ nào. Nên biết, đó là niệm Phật. Như trong thành Xá vệ có người dâm nữ tên là Tu môn. Nghe nói sinh tâm vui vẻ; đêm về mộng thấy hành dâm. Khi tỉnh giấc, nhớ nghĩ lại thấy rằng, dâm nữ không đến, ta không đi, thế mà việc vui thích hành lạc vẫn rõ ràng. Cũng niệm Phật như vậy. Như người đi qua đầm lớn, đang khi đói khát, mộng thấy được ăn các thức ăn ngon; khi tỉnh dậy, bụng vẫn trống rỗng. Tự nghĩ, tất cả mọi thứ sở hữu đều như mộng huyễn. Nên niệm như vậy, nối nhau không ngừng nghỉ, dùng niệm nầy để sinh về cõi nước của Đức Phật A di đà; đó gọi là tướng không. Như dùng bảy báu để trên lưu ly, hình ảnh hiện trong đó. Cũng như tỳ kheo quán cốt, khởi lên các thứ ánh sáng; ánh sáng nầy không phải từ đâu lại, cũng không phải từ cốt sinh ra mà do sự tác ý. Như ảnh trong gương, không phải từ ngoài đến, không phải từ trong ra; do gương sạch, tự thấy các hình tượng. Hành nhân, khi sắc thanh tịnh thì tất cả mọi thứ cũng thanh tịnh. Muốn thấy Phật liền được thấy. Thấy Phật liền hỏi, nghe kinh lòng rất vui mừng. Tự nghĩ, Phật từ đâu lại, ta cũng không đến đâu. Sở niệm của ta tức thấy tâm thành Phật. Tâm tự thấy tâm là Phật. Tâm là Phật, tâm là ta, tâm thấy Phật. Tâm không tự biết tâm. Tâm không tự thấy tâm. Tâm khởi tưởng là si mê; vô tưởng là Niếtbàn. Pháp nầy không vững bền, thường ở tại tâm ta. Do hiểu được không, cho nên tất cả không có tưởng niệm; các pháp không thể được. Quán sát một cách như thật thì hiện bày Phật đạo không có chỗ hướng về. Bồ tát Điểm Tuệ thường hiểu rõ năm đường nầy là chẳng tinh khiết nên không thọ sắc. Hiểu được điều nầy sẽ thành tựu đại đạo. Ba là khuyến tu: hành nhân muốn có được trí tuệ như biển lớn, nay không thể làm thầy ta, trong khi ngồi, không vận thần thông đều được thấy Phật, nghe Phật dạy. Nghe rồi thọ trì. Muốn được công đức như vậy, luôn luôn thực hành Tam-muội là công đức trên mọi công đức. Tam-muội đó là Phật mẫu, Phật nhãn. Luận Thập Trụ tỳ bà sa chép: Bát chu Tam-muội là cha; đại bi vô sinh là mẹ. Tất cả các Đức Như Lai đều từ hai pháp nầy sinh ra. Lại nói: kết quả của Tam-muội nầy là không còn bị lui sụt đối với đạo Vô thượng. Nghiền nát các vật như cỏ, cây, cát đá trong Đại thiên thế giới thành bụi nhỏ. Mỗi hạt bụi là một thế giới Phật. Châu báu đầy cả thế giới như vậy đem bố thí thì phước đức rất lớn, nhưng cũng không bằng nghe được Tam-muội nầy mà không kinh hãi, lo sợ. Huống gì tín tâm thọ trì, đọc tụng, giảng nói cho người nghe. Đây mới chỉ là nghe mà không sợ hãi, huống gì là định tâm tu tập. Như dắt trâu lấy sữa, đây là thắng tín giải, huống gì là thành tựu Tam-muội. Kinh vô lượng chép: thực hành Tam-muội nầy, chỉ nghe trong khoảnh khắc thì công đức không thể nói hết. hiện tại được an vui, liền nhập bồ đề vị. Luận Bà sa chép: trong kiếp tai, nạn quan sự, oán tặc, độc hại, các bệnh v.v... không thể xâm hại người tu tập Tam-muội nầy. Người nầy thường được các Đức Phật, trời, rồng, tám bộ cùng hộ niệm, khen ngợi; đều muốn thấy, muốn cùng đến chỗ người nầy. Nếu nghe được bốn thứ Tam-muội như trên đều tùy hỷ. Các Đức Phật, Bồ tát ba đời thực hành Tam-muội nầy ta cũng tùy hỷ hồi hướng bồ đề. Chỗ nào trong kinh chưa được nghe liền được nghe. Phước đức của sự tùy hỷ lại hơn cả những người thí dụ trên. Nếu không tu tập chân pháp như thế thì mất đi vô số báu vật quý giá; trời, người buồn thương. Như đối với hương chiên đàn, không nhìn, không ngửi được hương thơm, lại cho là hôi. Như người làm ruộng dùng hạt ma ni muốn mua một con trâu. Hành giả nghe được Tam-muội nầy mà không nỗ lực siêng năng tu tập hay sao?

Thứ ba, Tam-muội bán hành bán tọa cũng có ba phần: (Một), sự tướng. (Hai), quán pháp. (Ba), khuyến tu. Một, sự tướng: hành giả muốn quán tâm nhất niệm tự sinh, dựa vào Tam-muội bán hành bán tọa, rút ra từ hai kinh nầy. Phương đẳng chép: vòng quanh 120 vòng, ngồi xuống tư duy. Kinh Pháp Hoa: hoặc đi, hoặc ngồi, đọc tụng kinh nầy; hoặc ngồi tư duy kinh nầy, Ta cỡi voi trắng sáu ngà, đến trước người kia. Cho nên biết rằng, hai kinh kia nói về phương pháp bán hành bán tọa. Phương đẳng là cao nhất không có gì cao hơn. Nếu muốn tu tập, thần minh làm chứng, trước cầu mộng vương. Nếu được thấy một lần, là cho sám hối. Ở nơi chỗ nhàn tịnh, trang nghiêm đạo tràng; hương thơm bôi đất. Trong ngoài thất làm đàn tròn, vẽ phướn năm mầu treo lên, đốt hương hải ngạn, thắp đèn. Trải tòa cao, thỉnh 24 tôn tượng, nhiều cũng không trở ngại; thiết bày thức ăn ngon quý, đem hết tâm lực, mặc y áo mới, giày mới; ra vào, mặc cởi không để lẫn lộn. Trường trai bảy ngày, mỗi ngày tắm gội ba lần. Buổi sáng cúng dường tăng tùy ý, nhiều ít cũng được. Thỉnh riêng một vị hiểu rõ luật trong ngoài làm thầy. Thọ 24 giới và Đà la ni. Đối trước thầy rõ bày sám hối; phát thệ nguyện, lấy ngày mồng tám, ngày 15 trong tháng, lập kỳ bảy ngày, không được ít hơn. Nếu có thể tăng thêm tùy theo năng lực của mình. Mười người trở xuống, không được hơn. Người thế tục vẫn được. Phải sắm sửa đầy đủ ba y, các pháp thức của Phật, chuẩn bị tụng một biến Đà la ni để có sự lợi ích. Ngày đầu, mọi người cùng tụng ba biến triệu thỉnh Tam bảo, thập Phật, phương đẳng, cha mẹ, 10 Pháp vương tử. Triệu thỉnh xong, đốt hương, vận niệm ba nghiệp cúng dường. Cúng dường xong, lễ thỉnh Tam bảo. Lễ xong chí thành sám hối tội chướng, bày tỏ lỗi lầm; xong rồi kinh hành 120 vòng. Mỗi vòng tụng một bài chú, không nhanh, không chậm, không cao, không thấp. Xong, lại tiếp lễ thập Phật phương đẳng, thập Pháp vương tử. Làm như vậy xong, ngồi xuống tư duy. Tư duy xong, đứng dậy. Kinh hành, đọc chú, tư duy... liên tục trong bảy ngày. Ngày thứ hai, triệu thỉnh nhất pháp, ngoài ra thực hành như thường.

Hai, là quán pháp. Kinh hiệp tư duy, ma ha đản trì đà la ni, dịch là đại bi yếu, ngăn ác hành thiện. Bí yếu chính là thật tướng Trung đạo chánh không. Kinh chép: Ta từ trong chân thật đến. Chân thật là tướng vắng lặng. Tướng vắng lặng là không có sở cầu. Cầu cũng là không. Cho đến Niết-bàn cũng đều là không. Nhất thiết giới phận hư không cũng đều là không. Trong vô sở cầu, ta cố cầu. Pháp không không chân thật như vậy nên cầu chỗ nào? Tìm cầu trong sáu Ba-la-mật. Điều nầy giống với thập bát không trong Đại phẩm. Dùng không tuệ nầy trải qua tất cả mọi việc, đều không thành tựu quán. Phương đẳng còn gọi là Quảng bình. Phương có nghĩa là pháp. Bát-nhã có bốn phương pháp; đó là bốn môn nhập thanh lương địa tức là phương. Đại tuệ khế hợp với lý bình đẳng gọi là đẳng. Nay cầu mộng vương tức hai quán tiền phương tiện. Đạo tràng tức cảnh giới thanh tịnh. Đối trị năm trụ khang (võ trấu), hiện bày hạt gạo thật tướng, cũng chính là định tuệ dùng trang nghiêm pháp thân. Hương nê tức là thi la vô thượng. Năm sắc cái là quán năm Ấm khỏi ràng buộc, khởi đại bi bao trùm cả pháp giới. Đàn tròn tức thật tướng bất động địa. Phướn lụa tức dịch là trên pháp giới; mê sinh động, phát ra hiểu biết. Đàn phướn không lìa nhau, tức động xuất bất động, xuất không lìa nhau. Hương đèn tức giới tuệ. Tòa cao tức các pháp không. Tất cả các đức Phật đều trụ trong không nầy. 24 tượng tức giác liễu trí quán nhân duyên theo hai chiều thuận nghịch. Hào thiện tức vô thường khổ tạc trợ đạo quán. Y mới sạch tức nhẫn tịch diệt. Sân hoặc chứa nhóm gọi là cố; ngược với sân, khởi nhẫn gọi là Tân. Bảy ngày tức bảy giác phần. Một ngày tức nhất thật đế. Tam tẩy, tức quán nhất thật, tu ba quán, rửa ba chướng, tịnh ba trí. Nhất sư tức nhất thật đế pháp. 24 giới tức mười hai nhân duyên thuận nghịch, phát khởi đạo cộng giới. Chú là chúc đối. Kinh Anh lạc chép: mười hai nhân duyên có mười loại tức có 120 chi. Một chú chú một chi, gom lại mà nói. Chỉ ba đường nầy gọi là khổ nghiệp phiền não. Nay chú nhân duyên nầy tức là chú ba đạo mà luận về sám hối. Sự sám hối là khổ đạo, nghiệp đạo. Lý sám hối là phiền não đạo. Văn nói: phạm giới Sa di cho đến giới tỳ kheo, nếu không sinh trở lại là chuyện không thể có. Tức là văn sám nghiệp đạo. Các căn nhãn, nhĩ, v.v... thanh tịnh tức văn sám khổ đạo. Ngày thứ bảy, thấy Phật mười phương, nghe pháp, thành tựu không lui sụt tức văn sám phiền não đạo. Ba chướng trở đi tức cây mười hai nhân duyên bị gãy đổ, cũng chính là ngôi nhà năm Ấm thành không. Tư duy thật chướng chính là phá bỏ ở đây; cho nên gọi là thật pháp sám hối của các Đức Phật.

Ba là khuyến tu: đạo của các Đức Phật đều từ pháp nầy, pháp nầy là cha mẹ của các Đức Phật, là Đại bảo vô thượng ở nhân gian. Nếu tu hành được thì đắc toàn phần bảo, chỉ đọc tụng thì đắc trung phần bảo, chí cúng dường hương hoa thì đắc hạ phần bảo. Phật và Bồ tát Văn Thù nói về hạ phần bảo, nói chẳng thể hết, huống gì là nói trung phần và thượng phần bảo. Nếu dùng của báu từ Địa tích cho đến Phạm thiên để dâng cúng Phật, cũng không bằng bố thí cho người trì kinh một bữa cơm, như kinh đã nói,...

Kinh Pháp Hoa cũng lại chi làm 3: sự tướng, quán tướng và khuyến tu. Một là về sự tướng: hành giả quán tâm tự sinh, dựa vào kinh Pháp Hoa mà tu Tam-muội. Phương pháp gồm có 10: 1. Nghiêm tịnh đạo trường. 2. Tịnh thân ba nghiệp. 3. Cúng dường. 4. Thỉnh Phật. 5. Lễ Phật. 6. Sám hối sáu căn. 7. Đi nhiễu. 8. Tụng kinh. 9. Ngồi thiền. 10. Chứng tướng. Còn có một quyển khác tên là Pháp Hoa Tam-muội, là tác phẩm của Đại sư Thiên Thai, được truyền bá ở thế gian, hành giả có thể lấy nó làm tông chỉ. Hai là quán pháp: Phổ Hiền quán chép: "Chuyên tụng Đại thừa không nhập Tammuội, ngày đêm 6 thời sám tội sáu căn"; còn ở phẩm An lạc hạnh thì nói rằng: "Đối với các pháp, vô sở hành, cũng không thực hành không phân biệt". Cả hai kinh vốn thành tựu lẫn nhau, sao lại chấp vào văn tự mà tranh cãi nhau làm gì. Bởi vì duyên trước sau có ra lẫn nhau, chẳng khác gì mấy. Phẩm An lạc hạnh nói về sự hộ trì, đọc tụng, thâm tâm lễ bái... há chẳng phải là "sự" hay sao? Quán kinh thì nói về Sám hối vô tướng, tâm ta tự không, tội hay phước đều không có chủ, mặt trời trí tuệ làm tiêu trừ tội chướng, há chẳng phải là "Lý" hay sao? Ngài Nam Nhạc nói: Về Hữu tướng An lạc hạnh, Vô tướng An lạc hạnh, há chẳng là ở sự lý mà nói như vậy sao. Hành giả trải qua sự tu sám sáu căn, do sự ngộ nhập mà phát dẫn, cho nên gọi là Hữu tướng. Nếu quán thẳng "Tất cả pháp không" làm phương tiện, gọi là Hữu tướng. Khi diệu chứng thì cả hai đều xả. Nếu hiểu được ý nầy thì không còn nghi ngờ gì đối với hai kinh kia nữa. Tu quán Lý; qua Sự để tu quán, nói voi trắng 6 ngà là sáu thần thông vô lậu của Bồ tát ngà bén nhọn như sự xuyên thông. Voi có sức mạnh rộng lớn biểu thị cho pháp thân gánh vác vô lậu. Đầu mầu trắng là chỉ cho sự vô nhiễm, trên có 3 người, một người cầm chày kim cương, một người cầm bánh xe kim cương, một người cầm hạt châu Như ý, biểu thị cho 3 trí cư ở đỉnh Vô lậu. Chày khiến voi đi biểu thị cho tiện chỉ đạo cho Hạnh, Bánh xe quay biểu thị cho giả. Châu Như ý biểu thị cho Trung. Trên ngà voi có hồ nước biểu thị cho Bát giải. Bởi thiền thể chung cho Định dụng, Thể và Dụng không lìa nhau. Trên đầu ngà voi có hồ nước, trong hồ nước có hoa. Hoa biểu thị cho Diệu nhân, lấy năng lực thần thông làm thanh tịnh cõi nước Phật, lợi ích chúng sinh tức là Nhân, Nhân từ Thông mà sinh ra như hoa do từ hồ nước mọc ra. Trong hoa có người nữ biểu thị cho Từ, nếu không có vô duyên từ thì làm sao dùng năng lực thần thông làm cho thân hình nhỏ lại, nhập vào thế giới ta bà nầy. Thông do Từ vận chuyển. Hoa đỡ người nữ, người nữ cầm nhạc khí, biểu thị cho bốn nhiếp. Lấy Từ tu thân miệng hiện các thứ đồng sự lợi hành, bố thí tài pháp gỡ sự rối rắm như 500 nhạc khí âm thanh vô lượng. Thị hiện cái thân thích nhìn (hỷ kiến thân) là phổ hiện sắc thân Tam-muội, tùy theo sự vui thích mà hiện ra. Ngôn ngữ Đà la ni tức là Từ hun đúc miệng nói các thứ pháp, đều là tên khác của Tam-muội Pháp Hoa. Nếu đắc được ý nầy thì tự tại mà tác pháp môn ở trên thân voi. Ba là khuyến tu; Phổ Hiền quán chép: "Nếu 7 chúng phạm giới, muốn chỉ trong khoảnh khắc như búng ngón tay trừ diệt tội trong năm ngàn muôn ức A-tăng-kỳ kiếp sinh tử, muốn phát tâm Bồ đề, không dứt bỏ phiền não mà nhập Niết-bàn, không lìa năm dục mà thanh tịnh được các căn, muốn thấy phân thân Phật Đa Bảo, Thích-ca, muốn đắc tất cả các Đà la ni của Tam-muội Pháp Hoa, nhập vào nhà của Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi trên tòa ngồi của Như Lai, nói pháp ở trong chúng, tám bộ trời rồng, muốn được các Đại Bồ tát như Văn Thù, Dược Vương cầm hương hoa đứng trong hư không dâng hầu thì phải tu tập Kinh Pháp Hoa nầy, đọc tụng Đại thừa, nhớ việc Đại thừa, khiến tuệ thuộc tính không tương ưng với tâm, nhớ nghĩ phương tiện cao sâu vô thượng của mẹ các Bồ tát, từ sự suy tư về thực tướng mà sinh ra thì các tội tiêu trừ như mặt trời trí tuệ làm tiêu tan những hạt sương đọng, thành tâm các việc như vậy thì đầy đủ tất cả. Người hiểu được kinh nầy thì thấy ta, cũng thấy người, cũng cúng dường Phật Đa Bảo và phân thân, khiến các Đức Phật vui mừng. Như kinh đã nói, ai nghe pháp như vậy mà không phát tâm Bồ đề, trừ những kẻ chẳng ra gì, si mê vô trí.

Thứ tư là nói về Tam-muội phi hành phi tọa. Ở trên đều dùng hành tọa, đây thì lại khác trên, làm thành bốn câu, cho nên gọi là Phi hành phi tọa. Thực sự thì chung cho cả hành, tọa và tất cả pháp. Nam Nhạc sư gọi là Tùy tự ý, ý khởi tức tu Tammuội. Đại phẩm gọi là Tam-muội giác ý. Xu hướng của ý đều có công năng giác thức rõ ràng, tuy có 3 tên gọi khác nhau, thực ra là cùng một pháp. Nay dựa theo sự giải thích kinh, gọi là giác tức là chiếu soi rõ ràng, ý tức là tâm sở. Danh từ Tam-muội như giải thích ở trước. Hành giả quán Nhất niệm tự sinh tâm (cái tâm tự sinh khi nhất niệm), khi tâm sở khởi thì phản chiếu quán sát, không thấy cội nguồn chuyển động, chỗ đến chỗ đi rốt ráo, cho nên gọi là Tam-muội giác ý, tùy ý phi hành phi tọa, y cứ theo đây thì có thể hiểu được.

Luận viết:

Hỏi quán tự sinh tâm
Thế nào là khéo thành tựu
Hai mươi lăm phương diện
Điều tâm nhập chánh đạo.

Đây là bài kệ thứ 51, Diệu lý không thể nhanh chóng ngộ được, nếu muốn hướng lên trên đường chánh đạo thì phải có phương tiện khéo. Nay giải thích hai chữ phương tiện. Phương tiện gọi là khéo léo. Hành giả quán nhất niệm tự sinh tâm, khéo tu hành để thiện căn ít ỏi có thể khiến cho vô lượng hạnh thành, phát giải nhập vào Bồ tát vị. Lại nữa, phương tiện là sự hòa hợp của các duyên, các duyên hòa hợp lại thành nhân, cũng có thể hòa hợp lại mà gặt quả. Kinh chép: thân Như Lai không từ một nhân nhân một duyên, mà từ vô lượng công đức sinh ra thân Như Lai, để hiển hiện khả năng khéo léo đó cho nên luận về phương tiện. Nếu y theo thứ lớp thì có 4 thứ phương tiện, có phương tiện gần, phương tiện xa. Như A tỳ đàm nói năm đình tâm là xa, bốn thiện căn là gần. Viên giáo cho rằng giả danh các địa vị trong ngũ phẩm quán hành còn cách xa với chân lý nên gọi là phương tiện xa. Sáu căn thanh tịnh gần kề với chân lý nên gọi là phương tiện gần. Nay y cứ cảnh giới là phương tiện gần. Đan xen lẫn nhau, 10 quán đầy đủ. Thành tựu quán hành vị có thể phát chân, dường như là phương tiện. Nay xin giải thích phương tiện xa, gồm có 5 phương tiện; 1. Đủ 5 duyên, 2. Quở trách 5 dục, 3. Bỏ năm thứ cái, 4. Điều hòa năm việc, 5. Thực hành 5 pháp. Bởi đạo không vận hành đơn lẻ, mở rộng nó là ở tại người. Người mở mang thắng pháp mượn duyên để tiến đạo, cho nên cần đủ 5 duyên, duyên lực đã đủ nên cắt đứt các dính mắc, mọi sự dính mắc thèm muốn bên ngoài đã dứt thì bên trong nên thanh tịnh cái tâm. Tâm đã vắng lặng thì nên điều hòa 5 việc. Năm sự đã điều rồi thì thực hành năm pháp, thì chắc đạt đến nơi đến chốn. Thí như người thợ gốm muốn làm được đồ gốm tốt, thì trước phải chọn một địa điểm tốt. Nơi không có cát, không có đất mặn, cây cỏ xanh tốt; há đến là ngừng các việc khác. Nhiều việc không yên thì làm sao thành công. Tuy ngừng các việc bên ngoài mà trong thân lại bị bệnh thì không làm được; thân tuy khỏe mạnh nhưng bệ quay không điều hòa; cũng không thành đồ vật. Các duyên trên tuy đủ cả, nhưng không chuyên làm, phế bỏ nửa chừng, cũng không thành tựu được. Tu hành năm duyên cũng giống như vậy. Lấy thân này làm nơi tu tập như địa điểm tốt của người thợ gốm, nhàm chán trần dục như cắt đứt các duyên. Bên ngoài vứt bỏ năm cái như trị bệnh trong thân, điều hòa thích hợp với năm việc như bắt chước bệ quay. Thực hành năm pháp như làm mà không phế bỏ. Chuyện nhở ở thế gian chẳng đủ duyên thì chẳng hợp, huống gì là đạo xuất thế gian, nếu không dẫn khởi thì khó lắm thay. Bởi vậy, trải qua 25 pháp, y cứ vào sự thực hành quán, điều thô nhập tế, xả tán khiến tịnh là những phương tiện xa cho người sơ tâm. Năm pháp ba khoa này rút ra từ Đại luận. Một loại xuất từ thiền kinh, một loại do các thiền sư lập.

I. ĐỦ NGŨ DUYÊN:

(1) Giữ giới thanh tịnh.

(2) Ăn mặc đầy đủ.

(3) Nhàn cư nơi thanh vắng. (4) Ngừng nghỉ các việc làm bận rộn. (5) Được thiện tri thức. Thiền kinh chép: "Bốn duyên tuy đầy đủ, dắt dẫn bởi thầy hay" vì vậy mới biết dùng năm pháp làm bước thang nhập đạo. Chỉ thiếu một pháp thì chướng ngại cho sự.

1. Giữ giới: Xuất xứ rất nhiều kinh luận, dựa vào Thích luận thì có 10 loại giới: Bất khuyết, Bất pháp, Bất xuyên, Bất tạp, Tùy đạo, Vô trước, Trí sở tán, Tự tại, Tùy định và Cụ túc. 10 tịnh giới thông dụng này là cội gốc. Đại luận nói tính giới là 8 loại Thi la về thân miệng. Nghĩa là thân có 3 giới, miệng có 4 giới, thêm giới không uống rượu là để tịnh mệnh phòng ý; lại nói 10 điều lành là Thi la, dù Phật không xuất hiện ở thế gian thì thế gian vẫn thường có những giới đó, cho nên gọi là giới cũ (cựu giới). Dù Phật không xuất hiện ở thế gian thì phàm phu cũng vẫn tu 8 môn thiền, bởi thế gọi là cựu định (định cũ). Ngoại đạo tà kiến 62 cách chữa trị cũ, nhũ dược (phương thuốc dùng sữa) gọi là cựu tuệ (tuệ cũ). Nay lấy ba quy năm giới, 250 giới làm khách giới, căn bản tịnh thiền quán luyện huân tu là khách định. Tứ đế tuệ là khách tuệ, Phật ra đời mới có. Các giới thuộc về Tánh (tánh giới), dù có thọ hay không thọ giới, hễ phạm tức là tội, giữ gìn là điều lành, nếu người đã thọ giới, giữ gìn thì sinh phước, trái phạm thì bị tội. Người không thọ giới thì không có phước, không thọ giới mà phạm thì không tội. Như chặt cỏ, hại súc vật, đều đối thú sám hối, cả hai tội đều diệt. Định cộng giới thì không có tác giả, cùng phát ra chung với định. Có người nói, khi nhập định thì có, khi xuất định thì không. Lại có người nói, vô tác nương theo định. Định còn thì không mất, định mất thì mất. Đạo cộng vô tác giả, vô tác nầy nương theo đạo cho nên đạo không mất, cũng không mất giới, định. Đạo cộng thông với giới, lấy Tính giới làm gốc. Cho nên kinh chép "Nhờ dựa vào giới này mà sinh ra các thiền định và trí tuệ diệt khổ" là ý đó vậy. Giữ 10 loại giới nầy tức là gồm nhiếp tất cả các giới.

Bất khuyết giới tức là giữ gìn tính giới, cho đến bốn giới, thanh tịnh giữ gìn như yêu quý ngọc sáng. Nếu hủy phạm thì như đồ vật đã bị khuyết mẻ, không thể dùng được, chỉ là người đứng ngoài bờ mé Phật pháp, chẳng phải là sa môn đệ tử Phật Thích-ca, mất pháp tỳ kheo, cho nên gọi là khuyết. Bất phá tức là giữ gìn 13 giới tăng tàn không bị phá tổn, nếu có sự hủy phạm thì như đồ vật đã bị vỡ bể.

Bất xuyên là giữ gìn Ba dạ đề, nếu hủy phạm thì như đồ bị rò rỉ, không thể thọ nhận đạo, vì vậy gọi là xuyên.

Bất tạp là giữ định cộng giới. Tuy giữ gìn luật nghi mà nghĩ về việc phá giới. Gọi nó là Tạp định cộng, tâm giữ niệm dục không khởi lên, gọi là Bất tạp.

Tùy Đạo là thuận theo Đế lý, có công năng phá được kiến hoặc.

Vô trước giới tức là kiến chân thành Thánh (thấy chân lý thành quả Thánh) không đắm nhiễm tư duy hoặc. Hai giới này (Tùy đạo, Vô trước) y cứ vào chân đế mà giữ giới.

Trí sở tán giới và Tự tại giới: hai giới này y cứ vào Bồ tát Hóa Tha. Được Phật khen ngợi ở trong thế gian mà được tự tại, là y cứ vào đế mà luận về giữ giới.

Hai giới Tùy định và Cục túc tức là tùy theo định Thủ lăng nghiêm là định không khởi diệt, hiện các uy nghi, thị hiện hình tượng trong mười pháp giới, dẫn dắt làm lợi chúng sinh. Tuy uy nghi khởi động mà tùy ý thường tịnh, cho nên gọi là Tùy định giới.

Các giới luật nghi dùng để phòng ngừa, cho nên gọi là bất cụ túc.

Giới của Trung đạo, không có giới nào là không có đủ, cho nên gọi là Cụ túc. Đây là giữ gìn giới Đệ nhất nghĩa đế của Trung đạo. Dùng tuệ của Trung đạo nhập vào khắp các pháp. Trong kinh nói là Thức-xoa, Thức-xoa gọi là giới Đại thừa. Ý nghĩa như nhau. Các kinh luận nói về giới tướng cũng không ra ngoài 10 khoa này.

Tóm lại 3 giới đầu gọi là Luật nghi giới: bất khuyết, bất phá, bất xuyên, giữ lành ngăn ác, mảy may thanh tịnh tóm gọi là Luật nghi giới. Phàm tu tâm tán loạn đều có thể giữ gìn những giới đó. Kế đến là giới Bất tạp, định pháp trì tâm, tâm không vọng động, thân miệng đều vắng lặng, ba nghiệp như gương sáng, đó là Định cộng giới khi nhập định. Tùy ý tùy ý không tạp, xuất định thân miệng nhu nhuyến, cũng không tạp nhập định của phàm phu thì có thể giữ gìn được. Giới tùy đạo là sơ quả kiến đế phát chân thành Thánh, là sự giữ gìn của bậc Thánh. Phàm phu chẳng thể giữ được. Giới vô trước là giới mà người đắc quả thứ 3 giữ gìn, người Sơ quả chẳng giữ được. Giới Trí tán và giới Tự tại là 2 giới cần phải giữ của Bồ-tát, Nhị thừa chẳng giữ được. Còn 2 giới Tùy định và Cụ túc là những giới sở trì của người căn tính rộng lớn. Các Bồ tát Thông giáo sáu độ không thể giữ được, huống nữa là các phàm phu Nhị thừa.

Ở trên phân chia cao thấp. Sự khác nghĩa nhau, nhưng nếu quán nhất niệm tự sinh tâm, thì luận về sự giữ giới đều có thể giữ được 10 loại giới kể trên. Nay chia 10 giới mang 4 ý nghĩa: 4 giới đầu chỉ là pháp do nhân duyên sinh, chung làm quán cảnh. Hai thứ giới tiếp theo là pháp do Quán nhân duyên sinh ra, tức là không không quán trì giới. hai thứ giới tiếp theo là quá nhân duyên tức là giả, giả quán trì giới. Hai thứ giới kế nữa là quán pháp di nhân duyên sinh tức là Trung, Trung quán trì giới. Quán tâm là pháp do nhân duyên sinh. Nếu quán một niệm tâm từ duyên ác sinh khởi thì sẽ phá giới căn bản cho đến giới bất tạp, nó trái ngược với điều lành cho nên gọi là Ác. Niệm niệm đều lấy tâm Thiện thuận để ngăn ngừa tâm ác khiến cho giới căn bản cho đến các giới Bất tạp đều thiện thuận thành tựu, không bị hủy tổn, cho nên gọi là Thiện tâm. Gọi là phòng ngừa ác tâm, tức là chỉ Thân miệng cũng vậy, phòng ngừa tức là chỉ thiện, thiện thuận tức là hành thiện, hành thiện tức là quán, chỉ thiện tức là chỉ. Đó gọi là quán nhân duyên sở sinh, tâm giữ 4 loại giới, thừa giới hoãn gấp, sám tịnh... đã nói đầy đủ trong phần Chỉ quán.

2. Y phục, thức ăn đầy đủ.

Y phục để che thân, ngăn chướng xấu xí, ăn để duy trì mệnh sống lấp ghẻ đói khát. Thân an thì đạo thịnh, đạo thịnh thì gốc được lập, thân mạng và Đạo nhờ sự ăn mặc này, nên kinh nói: "Như Lai ăn xong đắc Tam bồ đề". Đây tuy là Duyên nhỏ nhưng làm được việc lớn.

Áo che thân xấu xí, che nóng lạnh, che ruồi muỗi, tô điểm thân thể. Y áo có 3 loại; Tuyết Sơn đại sĩ ẩn thân nơi núi sâu, không giao thiệp với thế giới loài người. Kết cỏ làm chiếu, mặc áo da nai, không có các việc thọ trì thuyết tịnh, v.v... sức chịu đựng đã thành, không cần sự Ấm no, không dạo chơi nhân gian, chẳng cần sự giúp đỡ, đó là bậc

Thượng nhân. 12 hạnh đầu đà chỉ có 3 y, không nhiều không ít, vào làng vô núi mặc y ngay ngắn, cho nên lập ra 3 y, đó là, đó là trung sĩ. Ở những xứ quá lạnh thì cần nhiều thứ trợ giúp thân thêm cần phải thuyết tịnh, cung sự đủ dùng, không được mong cầu nhiều, mong cầu nhiều thì vất vả cực khổ, giữ gìn đồ vật của cải càng khổ hơn, đã loạn hại hạnh mình, lại quấy nhiễu đàn việt. Có được một ít thì liền biết đủ, đó là hạ sĩ. Quán hành làm y. Kinh chép: "Tỳ khưu các thầy, tuy mặc cà sa, nhưng tâm vẫn còn chưa nhiễm áo pháp Đại thừa". Kinh Pháp Hoa chép: "Nhu hòa nhẫn nhục là y áo". Đó tức là tịch diệt nhẫn sinh tử Niết-bàn. Lý trung đạo và hai bên thô lậu không hai không khác cho nên gọi là Nhu hòa. An tâm trung đạo cho nên gọi là Nhẫn. lìa sự hai bên ồn ào, nên gọi là Tịch. Vượt qua hai tử, nên gọi là Diệt.

Ăn có công năng nuôi thân dưỡng đạo; có 3 chỗ nói về ăn: chỉ nuôi thân bằng rau quả, nước suối mà thôi, hoặc ăn tùng bách để giữ tinh khí. Ăn xong buộc tâm tư duy ngồi thiền, chẳng làm việc gì khác, người ăn như vậy là Thượng sĩ. Ở chốn A lan nhã, tu hạnh đầu đà, dứt các tiếng ồn ào náo nhiệt. Là nơi tu đạo, tự nuôi thân mình, bảy Đức Phật đều nói về pháp khất thực. Kinh Phương đẳng, kinh Bát chu, kinh Pháp Hoa đều nói về khất thực. Nếu đường đi khất thực quá xa thì mệt nhọc. Nếu gần người dân thì ồn ào huyên náo. Không xa không gần, khất thực tiện dễ, là bậc trung sĩ. Đã không thể dứt cốc ăn quả, lại không thể đầu đà khất thực. Đàn na hộ trì bên ngoài đem đồ ăn cúng dường. Cũng có thể nhận lấy được, lại trong tăng như pháp kết tịnh thực, cũng có thể thọ nhận, là hạ sĩ.

Nếu căn cứ Quán tâm nói về ăn. Đại Kinh nói: "Tỳ kheo các thầy tuy thực hành khất thực. Nhưng chưa nhập vào Đại thừa pháp thực". Đại thừa pháp thực là pháp hỷ, thiền duyệt của Như Lai; pháp hỷ này là trí tuệ bình đẳng, quán tất cả pháp không có chướng ngại. Kinh Tịnh Danh nói: "Đối với thức ăn bình đẳng thì đối với pháp cũng bình đẳng, đối với pháp bình đẳng thì đối với thức ăn cũng bình đẳng"; phiền não là củi, trí tuệ là lửa, từ nhân duyên đó thành món ăn Niết-bàn, khiến các đệ tử đều được ăn ngon". Thức ăn này nuôi dưỡng pháp thân, thêm lớn tuệ mệnh, càng không cần phải ăn cơm uống sữa, tức là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai. Dùng pháp hỷ thiền duyệt này, trải qua tất cả pháp đều cùng một mùi vị, một mầu sắc, một hương thơm, đều là Trung đạo. Pháp Trung đạo có đủ tất cả các pháp, tức là ý nghĩa "no đủ", "không cần gì". Như các bậc thượng sĩ ở núi sâu, chỉ rau cỏ trái cây là đủ nuôi thân. Đầu đà khất thực, hành giả không thể ngay nơi sự mà trung, tu trí tuệ thật tướng, thì nên theo thứ lớp ba quán, điều tâm nhập Trung đạo, theo thứ lớp mà quán cho nên gọi là khất thực, cũng thấy Trung đạo; lại gọi là "Bảo nghĩa" (nghĩa no), tức là bậc trung sĩ. Đàn việt đem thức ăn đến, nếu người không thể ngay nơi sự mà thông đạt, lại không thể trải qua các pháp thì kế là Quán tự mình không có "thực nghĩa" (ý nghĩa về ăn) thì cần phải theo Thiện tri thức nói về Bát-nhã. Khéo vì mình mà giải thích, nghe xong hiểu giải, thấy được Trung đạo. Người có căn thuần, nhờ nghe mà hiểu, gọi là "đắc thực". Nếu không được như cả hai việc trên, trong tăng kết tịnh thực, tức là chứng đắc được rừng công đức thiền định, nhờ định mà được ngộ, gọi là "ăn trong Tăng". Bởi vậy hành giả nên thường nhớ nghĩ về pháp thực Đại thừa, không nhớ nghĩ các món ăn khác.

3. Nhàn cư tịnh xứ:

Tuy đủ ăn mặc, chỗ ở, nhưng không thể ở đâu cũng an định trong 3 loại Tam-muội, phải có nơi chốn tốt.

Có 3 nơi chốn:

1-Núi sâu hang thẳm, 2-Đầu đà phủi dũ, 3-Lan nhã chùa viện.

Nếu ở núi sâu hang thẳm, đường sá xa xôi hiểm trở, chẳng có dấu tích người, chẳng ai não loạn mình, thả ý thiền quán, niệm niệm tại đạo, chẳng khởi lên sự chê khen, nơi này tốt nhất.

Đầu đà phủi dũ, gần nhất 3 dặm, quen biết qua lại cũng ít, ít bị phiền não, nơi này là thứ nhì.

Lan nhã chùa viện: chùa nhàn tịnh thanh vắng, một mình một phòng, không làm các việc, đóng cửa tịnh tọa, tư duy chánh đế, nơi ấy là thứ ba. Nếu lìa ba nơi đó thì không được.

Về quán tâm xứ (nơi quán tâm) thì: pháp Trung đạo sâu xa kín đáo, bảy thứ phương tiện không thể đến được, nên gọi là "Sâu". Cao lớn không lay động, gọi là "núi". Xa lìa hai bên, gọi là "Tịnh". Bất sinh bất khởi, gọi là "Nhàn". Đại phẩm chép: "Nếu người ở ngoài ngàn do tuần mà khởi tâm Thanh văn, thân tuy xa lìa nhưng tâm không xa lìa". Cho ồn ào là không ồn ào thì chẳng phải xa lìa. Tuy trụ ở bên thành nhưng không khởi tâm Nhị thừa, gọi là xa lìa, chính là chốn thượng tâm. "Nơi chốn của đầu đà" tức là quán xuất giả, quán này kề cận với không. Như nơi lan nhã và xóm làng đều cùng quán xuất giả, an tâm tục đế, phân biệt dược bệnh. Tịnh đạo chủng trí, đó là nơi chốn thứ nhì. "Chùa vắng 1 phòng" tức từ giả nhập vào không ba quán. Chùa là nơi chúng ở đông đúc, mà có thể an tịnh một phòng. Tức là nơi chốn thứ ba.

4. Không làm các việc bận rộn:

Việc làm bận rộn rất chướng ngại, tỳ khưu ở lan nhã là để tránh ồn náo, tìm chỗ thanh tịnh, sao lại bày đặt ra nhiều việc buôn bán làm hư hoại hạnh lan nhã, việc ấy chẳng nên. Duyên vụ gồm có 4: 1-Sinh hoạt, 2-Nhân sự, 3-Kỷ năng, 4-Học vấn.

Sinh hoạt duyên vụ: buôn bán tính kế sinh sống, tính toán so đo, được một mất một, mất đạo loạn tâm. Nếu kinh doanh nhiều việc thì thuộc về tự ý. Ở đây không bàn đến.

a. Nhân sự:

Khánh chúc, điếu tang, đón tiếp tiễn đưa, mời rước khách chủ, đây đó qua lại, tới lui không ngừng, huống nữa giao kết nhiều người, kẻ tìm người đón. Xa cha mẹ, lìa thầy tổ, vốn để cầu đạo, lại còn kết bạn khắp nơi, là ý muốn gì? Như lật áo tìm đai, quẹt lửa tìm trăng, là việc chẳng nên.

b. Kỹ năng:

Thuốc thanh bốc phệ, thợ mộc thợ nề, thêu thùa vẽ viết, phù bùa đọc chú, tô vẽ thêm bề ngoài cuộc sống, đã tự hại thân, huống gì là tu đạo xuất thế. Vả lại, cây rừng chim đậu, hôi thối ruồi đến, há lại chẳng bị gãy đổ, ô nhục hay sao?

c. Học vấn:

Đọc tụng kinh luận, tranh luận hơn thua, ghi nhớ kỹ càng, tâm chí mệt nhọc, nói bàn qua lại, nước đục ngọc mờ, làm sao rảnh tu quán tâm, việc này còn phải xả bỏ. Huống nữa là 3 duyên vụ trên. Về sinh hoạt quán tâm thì, Ái là pháp nuôi dưỡng nghiệp, như nước làm tươi nhuần hạt giống, vì ái nên có lo âu, vì lo âu mà sợ hãi. Nếu dứt được

Ái thì dứt sinh hoạt duyên Nghiệp, nhân là sự nghiệp, nghiệp sinh ba cõi. Nếu không có nghiệp, thì Ái không có cái để nó làm nhuận thêm. Về kỹ thuật, tập học, chưa đắc đạo Thánh, không được tu thông, pháp vọng tưởng làm chướng ngại Bát-nhã. Bát-nhã như hư không, không nói suông, không văn tự. Nếu đắc được Bát-nhã như được hạt ngọc như ý, chỉ nhất tâm mà tu, cần gì gấp gáp dụng thần thông học tập, chưa đắc vô sinh nhẫn mà tu thế trí biên thông, phân biệt đủ thứ thì đều là gạch ngói, chẳng phải châu báu thật. Nếu dừng trụ được thì nước sẽ trong xanh, thấy lưu ly dưới, từ từ lấy báu. Nếu muốn đi đường lớn thì không nên theo những con đường nhỏ đó, ấy là trung học.

5. Gặp thiện tri thức:

Là nhân duyên lớn, hóa độ dắt dẫn, giúp mình thấy được Phật. A nan nói: "Thiện tri thức là một nửa phần nhân duyên đắc đạo". Phật nói: "Không phải như vậy, đầy đủ cả nhân duyên". Tri thức có 3 thứ:

1. Ngoại hộ; 2. Đồng hành; 3. Giáo thọ. Nếu ở nơi núi sâu hang vắng, không ai nuôi dưỡng, không cần ngoại hộ. Nếu tu 3 thứ Tam-muội, phải có duyên tốt. (1) Ngoại hộ: Không phân biệt trắng đen, chỉ cần sắp xếp những điều cần thiết, không thấy lỗi lầm, không xúc não. Như mẹ nuôi con, như cọp mớm con, điều hòa vừa chừng, người hành đạo đã lâu mới làm được như vậy, gọi là ngoại hộ. (2) Đồng hành: hạnh sự tùy tự ý và an lạc hạnh thì chưa hẳn cần bạn. Các hành pháp trong kinh Phương đẳng, Bát chu phải cần có bạn tốt, khuyến khích lẫn nhau, không ngủ nghỉ, không tán loạn, mài giũa gọt đẽo, ngày càng mới mẻ, đồng tâm cùng chí, như đi một thuyền, kính trọng lẫn nhau, coi như Thế tôn, đó gọi là đồng hành. (3) Giáo thọ: Nói được Bát-nhã, chỉ rõ đạo và chẳng phải đạo, phương tiện trong ngoài. Những điều vướng mắc chướng ngại đều giải quyết được hết. Kinh nói: "Học theo thầy hay được thấy hằng sa Phật", đó gọi là Giáo thọ.

Tri thức Quán tâm, Đại phẩm chép: "Phật, Bồ tát, La hán là thiện tri thức, 6 Ba-la-mật, 37 phẩm là thiện tri thức. Pháp tánh thực tế là thiện tri thức". Như uy quang của Phật, Bồ tát che chở nuôi dưỡng, tức là ngoại hộ. Sáu độ đao phẩm là cửa vào đạo, tức là đồng hành, pháp tánh thực tế tức là Đế lý. Cảnh noi theo của các Đức Phật tức là giáo thọ. Trong mỗi thứ đều có đủ ba nghĩa, như trong Chỉ quán đã phân biệt.

II. CHÊ TRÁCH NĂM DỤC

Nghĩa là Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc. Thập Trụ Bà sa chép: "Cấm 6 căn như trói buộc chó, nai, cá, rắn, vượn, chim. Chó thích làng xóm, nai thích núi đầm, cá thích ao hồ, rắn thích ở hang, vượn thích rừng sâu, chim thích bay trong không trung, sáu căn thích sáu trần. Phàm phu trí cạn chí yếu không thể hàng phục được, chỉ người có trí tuệ rộng, vững tâm chánh niệm, mới hàng phục được". Tóm lại, là dụ cho sáu căn, nay xin nói thêm. Nhãn tham sắc; sắc có hình chất như làng xóm tụ lạc, mắt ví như chó, Nhĩ tham âm thanh, âm thanh không có hình chất như đầm không. Tai ví như nai, mũi tham hương như cá, lưỡi tham mùi vị như rắn, thân đắm xúc như vượn, tâm duyên với pháp như chim. Nay trừ ý, chỉ nói năm trần, năm trần chẳng phải dục, nhưng ở trong nó có vị có thể sinh ra tâm tham dục đối với hành nhân. Cho nên nói năm dục. Thí như người thợ gốm, khách mời tiệc nên không làm xong việc. Năm dục cũng vậy, thường muốn kéo người nhập các cảnh ma, tuy đủ các duyên kể trên, nhưng cũng khó nhiếp tâm. Vì thế cần phải chê trách năm dục. Sắc là đỏ trắng, dài ngắn, mắt sáng, mắt long lanh, cổ trắng mày liễu, răng trắng môi hồng. Cho đến các vật báu trân châu, hồng vàng đỏ tía của y báo, làm mê hoặc lay động tâm người. Như trong thiền môn đã nói sắc làm hại rất sâu xa, khiến người say cuồng; căn bản sinh tử là do đó. Chúng sinh tham lam tài sắc, ngồi thiền mà không đắc đạo. Quán kinh chép: "Bị sắc sai khiến làm nô lệ cho ân ái. Không được tự tại. Nếu biết sự tai hại của sắc thì không bị nó lừa". Đã chê trách sắc dục như vậy rồi thì sắc dục sẽ ngừng ngay, phan duyên không sinh, chuyên tâm nhập định. Thanh dục là những lời nũng nịu nịnh hót lẳng lơ tô vẽ, Thánh thót ngân nga,... Hương dục tức là những vật có mùi thơm tho, mùi thơm thân thể trai gái. Vị dục tức là rượu thịt vật ngon, béo ngọt chua cay,... Xúc dục tức là lạnh Ấm trơn láng, nhẹ nặng cứng mềm, áo tốt quần sang, phần thân nam nữ. Sự tác hại của 5 dục này là: Sắc như cục vàng nóng, cầm vào thì bị cháy tay. Thanh như mặt trống có bôi chất độc, nghe thì sẽ chết. Hương như hơi rồng chết, ngửi bị bệnh. Vị như mật ong sôi, làm lưỡi bị bỏng, như mật ong bôi trên dao, nếm thì lưỡi bị đứt. Xúc như sư tử nằm, đến gần bị rắn cắn. Năm dục này có được nó thì chẳng thỏa mãn, ác tâm càng thịnh lên, như lửa thêm củi, đời đời kiếp kiếp làm hại còn hơn kẻ thù. Từ nhiều kiếp thường cướp đoạt lẫn nhau bẻ hãy sắc tâm, nay chướng ngại thiền tịch, lại não loạn nhau, biết rõ lỗi đó, ngừng nghỉ thêm nhiễm. "Quán tâm" chê trách năm dục là: "Như trong sắc dục, tư vị vô lượng", ý nói thường, vô thường, ngã, vô ngã, tịnh bất tịnh, khổ, lạc, không, hữu thế đệ nhất nghĩa; đều là tư vị. "Thích Luận" chép: "Lấy Nhị thừa làm thiền nên chê trách việc sắc dục, không gọi là Ba-la-mật". Bồ tát chê trách sắc tức thấy thật tướng của sắc, thấy thực tướng của sắc tức là thấy thực tướng của thiền, nên gọi là Ba-la-mật, đến bờ bên kia của sắc, đến bờ kia của sắc tức là thấy Trung đạo. Kẻ phân biệt sắc tức là thấy cái tục của sắc. Kẻ ngay nơi sắc thấy không là thấy cái chân của sắc. Chê trách sắc như vậy là tận nguồn gốc của sắc, thành Tam đế Tam-muội, phát 3 thứ trí tuệ. Chê trách nặng đối với sắc là để làm phương tiện cho quán tâm, ý là ở đó, đã chê sắc rồi, bốn thứ kia cũng vậy.

III. BỎ NĂM THỨ CÁI:

Tham dục, sân nhuế, ngủ nghỉ, trạo hối và nghi là năm cái. Che đậy dài lâu, tâm thần tối tăm, định tuệ không phát, cho nên gọi là Cái. Ở trên trách năm dục chỉ là năm căn đối với năm trần hiện tại làm phát sinh năm thức. Nay vứt bỏ năm cái tức là năm thức chuyên nhập vào ý địa, đuổi theo quá khứ, nghĩ ngược vị lai; các pháp năm trần là chướng lớn trong tâm, dụ như thợ gốm trong thân bị bệnh không thể làm việc, năm cái cũng giống như vậy, tác hại đã sâu, nên phải bỏ. Như mũi tên độc, như trộm cướp, không thể giữ lại. Đại phẩm nói: "Lìa dục và pháp Ác". Dục là năm dục, pháp ác là năm cái, nên phải bỏ mau. Năm cái này, tướng của nó ra sao?

Tham dục cái là nhớ lại năm dục từng trải qua, nhớ lại các sắc sạch đẹp đẽ mà mắt đã nhìn, nhớ lại những âm thanh đáng yêu mà tai đã nghe, nhớ lại mùi hương thơm tăng thêm kết sử, nhớ những món ngon thèm thuồng, nhớ những xúc chạm làm rợn da người. Những thứ năm dục thô tệ như vậy, suy nghĩ tính toán tâm si mê hoặc say sưa, quên mất chánh niệm, hoặc thầm tạo ra phương tiện mong hưởng lại. Nếu chưa từng trải thì lại truy tìm; hoặc đang tìm cầu thì tâm nhập vào trần cảnh, niệm niệm không xen hở; thô giác đã che đậy thiền, thiền sao được nữa, đó là tướng của tham dục cái.

Sân nhuế là cái nhớ lại người làm khổ mình, làm khổ người thân của mình, ca ngợi người mình oán ghét. Ba đời chín não, oán đối kết hận, tánh nóng khí thô, tức giận liền nhau, trăm phương ngàn kế, để hại người thù, họ nguy mình an, hả lòng tức giận. Lửa giận như vậy, thiêu hết công đức, làm sao nuôi lớn rừng thiền định. Đó là tướng của sân cái.

Thùy manh cái: Tâm thần mờ ám, sáu thức tối tăm, tay chân ngủ buông thả, Miên gọi là pháp tâm sở tăng, đen tối bít lấp che phủ người, khó mà phòng vệ, 5 tình không hay biết y như người chết, nhưng còn chút hơi thở, gọi là chết giả. Nếu người thích ngủ mà ngủ thì thêm nhiều tối tăm. Bởi vậy kinh chép: "Nếu ngủ nhiều sẽ biếng nhác, chưa đắc sẽ không đắc, đã đắc rồi sẽ bị lui sụt. Nếu muốn thắng đạo phải dứt ngủ, buông thả". Luận chép: "Như người bị trói đem đi chém, làm sao ngủ được. Lại như ra trận giữa rừng đao kiếm, như ở cung hang với rắn độc, làm sao ngủ được". Cho nên kinh nói: "Nửa đêm tụng kinh, để tìm tin tức, cùng nhau tìm cầu tranh ra nhà lửa, thời giờ qua mau, nay tu đạo mầu sao lại tham ngủ" dừng mê muội lý, cần nên bỏ đi.

Trạo hối cái: nếu giác quán khởi lệch, thì thuộc về cái trước, nay giác quán sinh khởi duyên khắp các pháp, lúc duyên theo tham dục, lúc lại nhớ sân nhuế tà si, phừng phừng không ngừng, lúc khởi lúc nén, nhiều thứ rối rắm, thân ưa đi lang bang, miệng nói cười vô ích; đó gọi là trạo. Trạo mà không có hối thì không thành cái, bởi cái trạo đó mà tâm địa suy nghĩ cẩn thận không ngừng. Sao mình làm những việc vô ích, thật đáng thẹn, trong tâm lo âu hối hận, áo não kết nhiễu tâm thì thành ra hối cái. Cái che lấp thiền định, không phát mở được, bởi vậy mới nói "hối rồi chớ lo nữa, không nên thường nghĩ đắm, không nên làm mà làm, nên làm lại không làm, tức là ý đó. Ý nghĩa này chính là tướng của trạo hối cái.

Nghi cái: Đây chẳng phải là cái nghi kiến đế chướng lý, mà là nghi về chướng định, nghi có 3 thứ: 1-Nghi mình, 2-Nghi thầy, 3-Nghi pháp.

1- Nghi mình: cho là thân ta chẳng phải là đạo khí (đồ để chứa đạo) là nghi thân.

2- Nghi thầy: thân mạng của người đó không xứng với hoài bão của mình, chưa chắc đã có tuệ tốt thiền sâu, tôn họ làm thầy sẽ lầm lỡ mình.

3- Nghi pháp: Pháp đã thọ lãnh chưa chắc đã trúng lý.

Ba mối nghi thường ôm trong lòng, thiền định không phát, lại bị mất hẳn. Đó là tướng của Nghi cái.

Tướng của Vứt bỏ là sao? Hành giả thường tự tỉnh xét, nay trong tâm ta bệnh nào nặng, nếu biết bệnh thì nên trị trước. Như nặng về tham cái nên dùng Bất tịnh quán để bỏ đi. Vì sao cứ cho năm dục là tịnh, yêu đắm lâu dài, nay quán Bất tịnh máu mủ dãi đờm không đáng ưa thích. Cái đó đã bỏ tâm liền được an. Nếu sân nhuế nhiều, nên nghĩ nhớ tâm từ, diệt trừ lửa giận, lửa giận thiêu rụi công đức hai đời, người khác không thích vui khi thấy mình. Nay tu tâm từ xả bỏ điều ác đó. Quán tất cả mọi người tưởng như cha mẹ, người thân, khiến họ được vui. Khi thực hành quán này, tâm sân liền diệt, an tâm nhập thiền. Nếu Thùy cái nhiều, nên siêng năng tinh tiến, răn nhắc thân tâm, để ý ngăn ngừa, suy nghĩ, pháp tướng, đừng để nhân duyên ngủ nghỉ, làm mất đi niềm vui 2 đời. Sống luống chết uổng, chẳng được điều gì, như vào núi báu, tay không mà về, thật đáng thương tiếc. Nên khéo giữ tâm, cẩn thận phòng ngừa. Nếu trạo tán cái, nên dùng sổ tức. Vì sao vậy? Cái này rất lợi hại, khi đến không biết, lâu rồi mới hay, nay nếu sổ tức mà đếm không thành, nửa chừng lại quên thì, liền biết đã quên, biết rồi lại đếm, đếm tướng thành tựu thì giác quán bị chế phục, không trị nó thì suốt đời bị cái. Nếu 3 điều nghi cứ ôm trong lòng thì nghĩ rằng: thân ta là đứa bé mù con nhà giàu. Đầy đủ của báu pháp thân vô thượng, bị phiền não che lấp, mắt đạo chưa mở, đừng lấy sự nghi ngờ mà tự thương hủy. Nếu nghi thầy thì xét: ta nay vô trí, các thánh hiền xưa đều cầu pháp, không cầu người. Tuyết Sơn còn phải xin kệ nơi quỷ. Thiên Đế còn lạy súc sinh làm thầy. Nếu nghi pháp thì: pháp nhãn ta chưa mở, chưa phân biệt được đúng sai phải trái, chỉ dựa vào đức tin mà thôi. Phật pháp như biển, chỉ có lòng tin mới nhập vào được. Bởi vậy kinh nói "tuy bày nhiều thứ đạo, kỳ thực là Nhất thừa", đừng nghi những lời dạy, chỉ lấy thật lý của lời dạy đó. Lìa 3 nghi này thì cái vứt bỏ. Tách riêng năm cái là pháp ác sinh tử phiền não. Kinh nói: "Phiền não tức Bồ đề, sinh tử tức Niếtbàn". Nhưng sinh tử và Niết-bàn tùy theo sự mê ngộ của chúng sinh khiến có hai dòng sông khác nhau, mà theo Lý thực không có sinh tử. Năm cái có thể bỏ, pháp Niết-bàn có thể cầu, đây là không bỏ mà bỏ, gọi là bỏ năm cái.

IV. ĐIỀU NĂM VIỆC:

Là điều miên, điều thực, điều thân, điều tức và điều tâm.

1- Điều miên: Ngủ là thức ăn của mắt. Nếu ngủ quá nhiều thì tối tăm nặng nề tự hại mình. Vì vậy kinh nói: "Như người thích ngủ, thì ngủ càng nhiều, quá ít thì không sáng suốt", như A na luật. Nay điều khiến cho thuận tiện, ngồi niệm nhất quán tuệ minh tịnh. Trong hợp vô minh phiền não là miên. Nhị thừa dứt hết phiền não, cũng như điều miên thái quá. Phàm phu chưa dứt phiền não, cũng như không điều miên. Bồ tát khác với hai bên. Bởi thế kinh nói: "Không trú tâm điều phục, không trú tâm không điều phục là điều miên của Bồ tát".

2- Điều thực: ăn quá no thì chướng ngại cho ngồi niệm, ăn ít thì yếu sức, không no không đói là tướng điều thực. Giải thích theo Quán kinh: "Phân biệt pháp hỷ thiền duyệt là Thực, thiên lệch về không là quá đói, thiên lệch về giả là quá no, trung quán bình đẳng là tướng của điều thực".

3- Điều thân: Khi ngồi thân ưỡn ngực là tướng nóng vội, khi ngồi đầu cúi là tướng khoan hòa, không cúi không ngẩng là tướng điều thân. Theo giải thích của Quán, trong kinh chép: "Thân đầy đủ sáu Ba-la-mật vội khởi tinh tiến, là việc ma của Bồ tát, là tướng gấp vội của thân.

Không vội khởi cũng là việc ma, là tướng khoan hòa của thân. Không gấp không khoan là tướng điều thân".

4- Điều tức (hơi thở): Khi ngồi hơi thở vô ra quá trơn tru là tướng hoạt, hơi thở ra vào khò khè là tướng sáp, nếu hơi thở không rít không trơn là tướng điều tức. Theo giải thích của Quán thì kinh chép: "Lấy tuệ của Bát-nhã làm thọ mệnh, đó là Tức. Nay điều cái tuệ của Bát-nhã không sắc bén không cùn lụt tức là tướng điều tức".

5- Điều tâm: Tam nặng về phan duyên là tướng tâm phù, nặng nề hôn ám là tướng trầm, không trầm không phù là tướng điều tâm. Theo giải thích của Quán thì kinh chép: "Tâm Bồ đề nay nghiêng về Giả mà phát là tướng phù của tâm Bồ đề, nghiêng về Không mà phát là tướng trầm của tâm Bồ đề. Trung đạo phát tâm Bồ đề thì bất không; không giả, không trầm, không phù là tướng điều tâm.

V. HÀNH NĂM PHÁP:

5 pháp là: dục, tinh tiến, niệm, xảo tuệ, nhất tâm.

1- Dục: ưa muốn mong cầu Bát-nhã vô tướng, thắng quả viên diệu, như Tát đà ba luân cầu Bátnhã, muốn gặp bồ tát Đàm Vô Kiệt để nghe Bát nhà Ba-la-mật. Chỉ có tâm nhớ tưởng không mong cầu điều gì khác.

2- Tinh tiến: Như Tát đà ba luận mong cầu Bátnhã, thân tâm tinh tiến, không kể ngày đêm, không kể mệt nhọc, không nghĩ ăn uống, đêm ngày cố gắng cầu Bát-nhã, không có ý nguyện nào khác.

3- Niệm: Chỉ nghĩ đến lúc nào thì gặp Bồ tát Đàm Vô Kiệt, chỉ nghĩ khi nào nghe Bát-nhã Ba-la-mật, chỉ nghĩ lúc nào tương ưng với Ba-la-mật đó, không có niệm nào khác.

4- Xảo tuệ: Suy tư biết xả bỏ thân bại hoại vô thường mà cầu thể kim cương của Như Lai. Bỏ cái mạng vô thường mà cầu Bát-nhã, tuệ mạng thường trụ chẳng những được lìa cái thân đại họa, mà còn đạt được của báu lợi lớn vô thượng. Nghĩ như vậy rồi, dù cho suốt đời cực nhọc cũng không biết mệt nhọc. Cho nên chẳng kể mệt mỏi, chẳng kể ăn uống, chỉ nghĩ bán thân, khi nào bán được để cúng dường Bồ tát Đàm Vô Kiệt, được nghe Bát-nhã.

5- Nhất tâm: Chỉ giữ tâm Bát-nhã thật tướng Trung đạo, không có tâm hai bên gọi là Nhất tâm.

Những điều nói trên đã giải thích 2 điều Sự, Lý; giải 25 phương tiện rồi. Phương tiện này, ý nghĩa tuy không quá sâu xa nhưng là phương pháp quan trọng cho người mới phát tâm học đạo. Là sự hướng dẫn tốt cho người trở về nguồn, cả 25 phương tiện đều cần xảo tuệ, Nhất tâm. Phương tiện điều tâm được nhập chánh đạo. Bởi vậy kệ nói: "Hỏi quán tự sinh tâm, thế nào xảo thành tựu, hai mươi lăm phương tiện, điều tâm nhập chánh đạo" là ý nghĩa đó.

QUYỂN 4

Luận viết:

Hỏi quán tự sinh tâm
Thế nào là nhân tâm
Khởi mười thứ cảnh giới
Thành nhất tâm ba trí.

Đây là bài kệ thứ 61, nói về chánh Lý thực, các cảnh tạp phát khác nhau. Bốn thứ Tam-muội và 25 phương tiện kể trên đều nói về các phương tiện trước khi tu chánh quán. Từ đây trở đi, nói về phương pháp chánh quán.

"Nhân tâm" là quán tâm khởi 10 cảnh gọi là nhân tâm.

"Khởi mười thứ cảnh giới" là: 1. Ấm nhập cảnh, 2. Phiền não cảnh, 3. Bệnh hoạn cảnh, 4. Ma sự cảnh, 5. Nghiệp tướng cảnh, 6. Thiền định cảnh, 7. Chư kiến cảnh, 8. Tăng thượng mạn cảnh, 9. Nhị thừa cảnh, 10. Bồ tát cảnh.

Sơ quán Ấm giới cảnh, bởi tất cả chúng sinh thường đi chung với Ấm, giới, nhập cho nên trước tiên phải quán Ấm giới, rồi sau đó mới quán phiền não. Bởi chận dòng thì nước vọt, do quán Ấm cảnh làm kích phát phiền não, thì động ba độc, vượt khởi khác thường, nếu không nói, hành giả sẽ không biết, tất bị chìm đắm, nên thứ hai là nói về phiền não phát động, quán để trị nó. Kế là quán bệnh hoạn cảnh, bởi tất cả chúng sinh lấy rắn độc bốn đại, chung làm một thân, thường tự bị bệnh. Bệnh có nhiều loại, hoặc là bệnh nghiệp, hoặc về bốn đại không điều hòa, hoặc bệnh ma quỷ, hoặc vì ngồi dụng tâm không điều hòa mà bị bệnh. Nay quán Ấm, giới nhập cảnh không phát, mà chỉ phát các bệnh; nếu không nói về khi phát, hành giả không biết thì hư cái tâm ba quán, phá hủy thân xác, quên mất chánh niệm; bởi thế điều thứ ba được nêu lên là bệnh hoạn cảnh. Kế là quán nghiệp tướng cảnh. Bởi tất cả chúng sinh quá khứ đều có tất cả các nghiệp thiện, ác. Nhưng tâm chúng sinh như sóng mòi không lặng, nghiệp không hiện được. Nay nhân quán Ấm, giới, nhập mà tâm thần trong sáng vắng lặng. Nghiệp của quá khứ do tịnh tâm mà phát. Nếu tâm không rõ, khi phát không biết, thì bị phá hoại. Cho nên, điều thứ tư là nói về nghiệp phát tướng. Kế là quán Ma sự cảnh. Kinh nói: "Nếu Bồ tát thành đạo, thì sẽ hóa độ chúng sinh, cung điện sẽ trống không, bây giờ, đạo chưa thành nên phải phá". Bởi thế mới nói: "Đạo cao ma giả sẽ không biết, bị nó mê hoặc. Nên, phần thứ 5 là quán Ma sự cảnh. Kế nữa thiền quán định cảnh. Kinh nói: "Tất cả chúng sinh có 3 thứ định, là thượng, trung và hạ.

Hạ là định trong thập đại địa tâm sở. Trung là tất cả chúng sinh đều có Sơ địa vị thiền. Thượng định là tất cả chúng sinh đều có định Phật tính Thủ lăng nghiêm. Vì vậy quán được Ấm giới nhập cảnh thì tịnh tâm sẽ phát nhiều thứ thiền. Nếu không nêu lên, khi phát sẽ hành giả không biết thì bị phá mất. Nên phần thứ 6 là nói về Thiền định cảnh. Kế là quán Chư kiến cảnh; tất cả chúng sinh thường ở trong lưới các kiến chấp. Nay, quán cảnh Ấm nhập, đạt được nhiều thứ, phần lớn phát ra các kiến chấp. Nếu không nêu lên, khi phát sẽ không biết, bị các kiến chấp pháp hoại, cho nên thứ 7 là nêu lên Chư kiến cảnh. Kế là quán tăng thượng mạn cảnh, nay quán cảnh Ấm giới nhập, hoặc theo đó nói rằng đã chứng, bị rơi vào lỗi tăng thượng mạn. Nếu không nêu ra, khi phát sẽ không biết, bị nó làm chìm đắm, cho nên thứ 8 là nêu ra Tăng thượng mạn cảnh. Kế nữa là quán Nhị thừa cảnh. Kinh chép: "Ta thấy Hằng hà chúng sinh phát tâm bồ đề, ít có người nào được thành tựu, đa số rơi vào Nhị thừa địa". Nay hành giả mới quán cảnh Ấm nhập, phát tâm bồ đề, học đạo bồ đề. Nhưng đạo của Bồ tát khó thành, dễ lui sụt phát tâm Nhị thừa, nếu không nêu lên, khi phát không biết, làm hư đạo bồ tát, cho nên thứ 9 là nêu lên Nhị thừa cảnh. Kế nữa là quán Bồ tát cảnh, Bồ tát có 4 loại: 1. Bồ tát Tam tạng, 2. Bồ tát Thông giáo, 3. Bồ tát Biệt giáo, 4. Bồ tát Viên giáo. Nay quán cảnh Ấm nhập chính là nói loại thứ tư Bồ tát Viên giáo. Nhưng Viên giáo thì vi diệu, Bồ tát tu viên, hạnh vị khó thành, phần lớn rơi vào trong 3 giáo Bồ tát trước. Nếu không nêu ra, khi phát không biết, sẽ bị lui sụt mất Viên vị. Cho nên thứ 10 là nói về quán Bồ tát cảnh. Bởi nhờ quán cảnh Ấm giới nhập phát ra các cảnh, mỗi cách khác nhau. Vì sao? Hoặc phát theo thứ lớp như đã phân chia ở trên, hoặc không phát lẫn lộn nhau, hoặc phát một cảnh, thành tựu rồi lại phát thêm cảnh, hoặc chưa thành tựu lại phát thêm cảnh khác. Hoặc đã phát một cảnh rồi lại phát lại cảnh đó nữa, hoặc không phát lại, hoặc phát một cảnh, lâu rồi rơi mất, hoặc không lâu thì mất. 10 nghĩa như thế đã phân biệt về cảnh Ấm giới nhập, đã phát rồi, 9 cảnh khác phát cũng dùng 10 nghĩa để phân biệt. 10 cảnh tuy nhiều nhưng hợp lại mà nói thì chỉ thành một tâm, 3 trí, 3 quán. Vì sao? Vì 8 cảnh: Ấm nhập, phiền não, bệnh hoạn, nghiệp tướng, ma sự, thiền định, kiến, mạn, tức là giả quán, thuộc về trí Đạo chủng. Nhị thừa cảnh tức là không quán, thuộc về trí nhất thiết. Bồ tát cảnh tức là trung đạo quán, thuộc về trí nhất thiết. Ba quán 3 trí này đều cùng ở trong một tâm. Cho nên kệ nói: "Hỏi quán tự sinh tâm, khởi mười thứ cảnh giới, thành nhất tâm ba trí..." là vậy.

Luận chép:

Hỏi quán tự sinh tâm
Làm sao biết mười cảnh
Đều thành thập pháp thừa
Dạo bốn phương vui sướng.

Đây là bài kệ thứ 71. Nói trong 10 cảnh, quán bất một cảnh nào, cùng 10 pháp thành thừa, 10 cảnh thì có trăm pháp thành thừa. Nay quán một canh Ấm giới nhập trước, biện 10 pháp thành thừa.

Hỏi: Vì sao quán Ấm giới nhập trước?

Đáp: Ấm tức là năm Ấm, nhập tức là 12 nhập, giới tức là 18 giới, còn gộp cả sự đóng mở của 2 pháp sắc, tâm thành Ấm giới nhập. Chỉ là cái thân năm Ấm này. Nay quán trước, vì tất cả chúng sinh cùng theo với năm Ấm chiên đà la nhưng lại thường bị nó hại, hành giả đã giác biết, vẫn muốn đến bờ kia Niết-bàn, vì thế nên quán trước. Vả lại, trước sau quán tâm luận đều nói về hỏi quán tự sinh tâm, nay quán năm Ấm là quán nhất niệm tâm. Kệ chép: "Đều Thành Thập Pháp Thừa" tức là quán cảnh Ấm nhập. Rồi lại khai mở thập pháp thành thừa. Vì sao? Vì 1. Nói về cảnh bất tư nghị, 2. Phát tâm Bồ đề, 3. Nói về chỉ quán, 4. Nói về pháp phá biến, 5. Biết sự thông bít, 6. Nói về đạo phẩm điều đình, 7. Nói về sáu độ trợ đạo, 8. Nói về vị thứ, 9. Nói về an nhẫn, 10. Không khởi ái thuận đạo pháp. Bởi 10 pháp đó là phương pháp học đạo, là cách thức quan trọng để về nguồn, là bến bờ tốt để ra khỏi nhà lửa, là chiếc cầu để qua sông sinh tử, cho nên hành giả nên nhớ kỹ 10 pháp đó, chuyên tâm tìm tòi, mở ra 10 tri kiến kỳ diệu. Nói về "Thập pháp thành thừa": Thừa nghĩa là vận chuyển ra khỏi. Mười pháp ấy chung thành một Đại thừa, vận chuyển ra khỏi hai bờ sinh tử, Niết-bàn, nhập thẳng vào Trung đạo. Cho nên Kinh Pháp Hoa chép: "Ngồi thừa báu này, dạo khắp bốn phương, vui chơi sung sướng, thẳng đến đạo trường". "Bốn phương" là 40 vị thứ của 10 Trú, Thập hạnh, Thập hướng, Thập địa, "thẳng đến đạo trường" tức là Diệu giác. Nay thứ nhất quán tâm là Như Lai tạng, tức là cảnh Bất khả tư nghị. Chỉ bởi chúng sinh lý đủ nhưng tình mê, có mà không biết. Thứ hai là khởi thệ từ bi rộng lớn, để hiển ra kho báu Như Lai trong tâm, phải tu Định tuệ, Định tuệ chiếu soi, có chỗ bế tắc không thông thì phải phá đi. Thứ tư là nói về phá pháp biến, tuy lại phá khắp, nhưng đối với lấp bít thì cần phải phá, nơi thông suốt thì không cần phá, bởi thế thứ 5 là nói về "khéo biết sự thông bít", tuy đã biết sự thông bít, lại phải đạo phẩm điều đình, bởi thế thứ 6 là nói về 37 phẩm điều đình cho đúng lúc. 6 chương này phần nhiều nói về chánh đạo nhưng lại cần trợ đạo, cho nên thứ 7 là nói về sáu độ làm trợ đạo. Bởi chánh, trợ đã đủ thì chứng Thắng pháp. Hành giả không biết cho là đã cực Thánh, thường bị rơi vào tăng thượng mạn, bởi thế thứ 8 nói về Thức thứ vị. Tuy biết thứ vị, không bị rơi vào thượng mạn mà phát thắng pháp không thể không nói; nói thì phá hạnh Bồ tát, bởi vậy thứ 9 nói về an nhẫn. Tuy ngoại nhẫn chẳng nói mà nội tâm không thể không mê đắm, mê đắm gọi là Bồ tát đỉnh đọa. Bởi thế thứ 10 là nói về không khởi ái thuận đạo. Trên đây nói lược về tướng thứ tự 10 pháp như vậy.

Dưới đây xin nói rõ về 10 pháp:

1-Trước hết quán tâm là cảnh Bất tư nghị:

Tức là quán biết cái tâm nhất niệm tự sinh, là Như Lai tạng. Trong tâm nhất niệm đủ cả mười giới trăm như, sinh tử Niết-bàn, nhưng lại không chướng ngại nhau, gọi là cảnh bất khả tư nghị. Mười pháp giới là: 6 đạo là 6, 2 thừa là 8, Bồ tát là 9, Phật là 10. 10 pháp giới này cũng là pháp của thực tế chân như, cho nên gọi là Pháp giới; lại nữa, 10 pháp cách biệt khác nhau, cho nên gọi là pháp giới.

Trăm như là: 1 giới có 10, 10 giới có trăm, gọi 10 là theo Pháp Hoa nói: "Như nhị tướng, như thị tánh, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị bản mạt cứu cánh đẳng. Đó là 10, nắm cả danh tướng, không đổi tên họ, chất chính gọi là thể, chịu được gọi là lực, vận động là tác, Tập nhận là nhân, Báo nhân là duyên, tập quả là quả, Báo quá là báo, Sơ tướng là bản. Bản tức là không, giả, trung. Hậu báo là mạt, mạt cũng là không, giả, trung. Bản mạt như vậy cùng có ba quán như nhau, cho nên gọi là bản mạt cứu cánh đẳng (đầu tiên và cuối cùng rốt ráo bình đẳng). Nay y cứ vào địa ngục có 10 Như là: Về tướng: là ác tướng biểu thị đọa vào nơi bất như ý. Về tính: là Hắc nghiệp. Về thể là: thô ác bẻ gãy sắc tâm. Về lực: là công sức leo lên núi dao, rừng kiếm. Về tác: là vận động ba nghiệp làm việc ác. Về nhân: là tập nhân ác. Về duyên: là ác duyên trợ giúp. Về quả: là tập quả, như người nhiều dục vọng đọa địa ngục thấy núi dao là cảnh sắc đáng yêu, bèn chạy về đó. Sự tập quả lên núi bị khổ bởi núi dao rừng kiếm, tức là báo. Về Bản mạt cứu cánh đẳng là: Tướng như vậy là sơ, là mới bắt đầu, nên gọi là Bản. Báo như thế là sau, nên gọi là mạt. Tướng gốc khởi đầu là không, sự báo ứng cuối cùng cũng là không. Ở đây cứ vào không là bình đẳng, giả và trung cũng như vậy. Nay người xem xét tướng vừa thấy tướng liền thọ ký việc quả báo sau này sẽ chịu. Nguyên do là quả báo cuối cùng ở trong tướng mới khởi đầu. Cho nên thọ ký ngược. Đó là bản và mạt bình đẳng. Như Phật thọ ký ngược sau thân chim bồ câu là Bích chi Phật. Người xem tướng thấy quả báo ở sau thì biết việc ở tướng trước, nguyên do là tướng ban đầu nằm trong quả báo về sau. Đó là quả báo cuối cùng bình đẳng đối với với cái khởi đầu. Như Phật nhớ về việc đời trước của chim bồ câu, đó là y cứ vào giả mà luận về bình đẳng. Trước, sau đều đồng với chân như pháp giới tức là bình đẳng với trung luận. Cho nên nói: "Tức bản mạt cứu cánh đẳng" (đầu tiên và cuối cùng rốt ráo bình đẳng). Đó là y cứ vào pháp giới địa ngục để luận về tướng của thập như.

Lấy pháp giới của các Đức Phật để luận thập như thì Duyên nhân là Phật tướng, Liễu nhân Phật tánh? Chánh nhân là Phật thể. Tâm là Bồ đề Phật lực. Trí tuệ trang nghiêm là Phật nhân. Phước đức trang nghiêm là Phật duyên. Lãng nhiên đại giác là Phật quả. Đoạn đức của Niết-bàn là Phật báo. Sơ tướng hậu báo đều là ba quán ba đế, cho nên nói cứu cánh đẳng (rốt ráo bình đẳng).

Hỏi: Sao chỉ lấy 2 pháp giới địa ngục và Phật để biện luận về Thập Như?

Đáp: Địa ngục ác nhất, Phật giới thiện nhất. Nay lấy thiện ác để biện luận thập như, từ đó có thể biết thập như của 8 giới kia cũng giống như vậy, không cần nói nhiều, nếu hiểu được ý cũng đủ dứt nghi. Không hiểu được ý thì nói nhiều cũng vô ích. Nếu kể riêng ra thập giới bách như thì phân biệt như trên. Nhưng xét về mặt Viên luận thì tâm của Nhất niệm tức đủ trăm giới ngàn như, bởi thế mới gọi tâm này là cảnh Bất khả tư nghị.

Hỏi: Phàm phu tội tâm, làm sao đắc được thập như pháp giới thanh tịnh của Phật?

Đáp: Đúng như thế, việc khó làm, cho nên mới khởi ra giáo lý Pháp Hoa, vì thế cho đó là việc lớn. Bởi chúng sinh có tri kiến của thập Như pháp giới

Phật, nhưng chúng sinh lý đủ tình mê, lại bị vô minh làm say mê, có mà không thấy cho nên nói là "Bất giác", trong túi áo có hai ngọc vô giá. Nay chỉ bày ra hạt ngọc bị buộc đó, nên gọi là "Việc lớn". Vì sao? Vì khiến cho chúng sinh khai thị ngộ nhập vào Đạo tri kiến Phật, cho nên xuất hiện ở thế. Nếu chúng sinh không có tri kiến Phật thì khai ngộ ở đâu? Như cô gái nghèo không có của cải cất giấu gì cả thì làm sao chỉ bày ra, Phật còn cho đó là việc lớn thì phàm phu làm sao dễ hiểu được?

Như giải thích trên, đứng về mặt Viên giáo thì ý nghĩa giống nhau, có thể lấy đó để giải thích ở đây. Xin giải thích tóm lược: Kinh nói: "Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh", há chẳng phải là chúng sinh như thị tính của chư Phật sao? Kinh nói: "Phiền não tức bồ đề". Há chẳng phải là chúng sinh có 4 như: Như thị lực, Như thị tác, Như thị nhân, Như thị duyên của Phật sao? Kinh nói: "Sinh tử tức Niết-bàn", há chẳng phải là chúng sinh có 3 như: Như thị thể, Như thị quả, Như thị báo của Phật sao? Kinh nói: "Tâm của tất cả chúng sinh là 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, tâm này là Phật, tâm này thành Phật". Lại nói: "Ba đều Tâm, Phật và chúng sinh không khác nhau" những điều đó đủ chứng minh có Thập như pháp giới của Bản mạt Phật, xem kinh sẽ thấy. Thí dụ trong kinh, cô gái nghèo có kho tàng, hạt châu trên trán lực sĩ, viên ngọc trong túi áo, lưu ly trong nước, đều là để dụ cho cái đó. Đó là pháp giới của loài người có thập như của pháp giới chư Phật, nghĩa ấy đã rõ. Pháp giới loài người có nhị thừa, Bồ tát, sáu đường, tám giới, 10 như. Có thể tự suy ra mà biết, không cần nói thêm. Bởi thế kinh nói: "Thân chúng sinh có cỏ độc, lại có vua của loài thuốc nhiệm mầu. Sáu đường pháp giới thập như tức là cỏ độc. Tứ Thánh pháp giới thập như tức là vua thuốc.

Hỏi: Phật, Bồ tát, bốc bậc Nhị thừa tức là Niếtbàn. Sáu đạo mười như tức là sinh tử. Sinh tử, Niếtbàn thăng trầm khác nhau xa, sao lại cùng nói cùng ở trong một tâm?

Đáp: Lấy thí dụ để giải thích: Băng dụ cho sáu đường, nước dụ cho bốn lực, mà băng và nước cùng một chất. Đâu khác gì Niết-bàn cùng một thể, chỉ vì không-hữu không trở ngại nhau, hai sông không chướng ngại nhau, đều ở cùng trong một tâm, cho nên gọi là cảnh Bất khả tư nghì.

Lại hỏi: Chúng sinh có tri kiến Phật, có pháp giới mười như của Phật, sao chúng sinh lại không thấy. Sao lại không ngăn chặn cho chúng sinh khỏi đọa địa ngục?

Đáp: Trong kinh Niết-bàn, Ca Diếp và các Bồ tát thắc mắc thưa hỏi Đức Phật về việc ấy có hay là không có, thấy hay không thấy. Phật dụ, như âm thanh của cây đàn hầu. Vì sao? Bồ tát có phương tiện hay để tu tập, thấy được Phật tánh, bởi thế mới gọi là có, mới có thể ngăn chặn địa ngục; cũng như đàn giỏi thì âm thanh của cây đàn mới phát ra. Còn phàm phu không có phương tiện tu tập, không thấy Phật tính. Bởi thế mới đọa địa ngục. Tuy không thấy tính, nhưng không thể nói là không có, cũng như ông vua ngốc chặt đứt dây đàn để mong tìm âm thanh không được, nhưng cũng không thể nói cây đàn hầu không có âm thanh. Nay chúng sinh có pháp giới thập như của Phật. Có nó hay không có nó, tướng đó là như vậy. Thế thì khi nghe nói có thì đừng mong cầu nắm bắt được hình chất của nó. Khi nghe nói là không có thì cũng đừng cho tuyệt đối không có sừng thỏ. Cho nên kinh nói: "Phật tánh phi hữu, phi vô". Phi hữu để phá hư không, phi vô để phá sừng thỏ (tuyệt đối không có). Phật tính của chúng sinh cũng như thế đó, 9 như khác cũng vậy, cái ấy là có cũng được, là không có cũng được. Diệt hữu diệt vô, phi hữu phi vô. Nếu thủ tướng rồi sinh ra chấp vào bốn câu đều là tà kiến. Kinh nói: "Bát nhã Ba-la-mật, bốn bên không nên chấp lấy bởi lửa là tà kiến thiêu đốt. Nếu giữ được vô tướng, khi nghe Phật tứ thuyết, có thể ngộ được lý thì bốn câu đều là cửa vào. Bởi thế mới nói: "Bốn cửa Bát-nhã nhập vào thanh mát mẻ". Kinh Thọ ký Tát già Ni kiền tử chép: "Thân xác phiền não của tất cả chúng sinh tức là Như Lai tạng, nên biết tất cả phiền não đều có tàng chứa pháp thân Như Lai, đầy đủ vắng lặng, như dầu ở trong hạt mè, như lửa ở trong gỗ, như nước ở trong đất, như bơ trong sữa, như châu báu trong kho tàng, bởi thế chúng sinh tức Như Lai tạng". Những điều đó đều có nói rõ trong kinh.

Hỏi: Kinh luận chứng minh rõ, lý đáng tin được, nhưng Phật là người đã ra khỏi sinh tử, sao lại càn có sáu đường pháp giới mười như? Đáp: Nghĩa ấy sâu kín khó thấy, thực khó tin được. Kinh nói: "Năm nhãn đầy đủ thành Bồ đề" lại nữa Phật hỏi Tu bồ đề, Phật có nhục nhãn không,... cho đến hỏi có Phật nhãn không. Tu bồ đề đáp rằng có. Đã có nhục nhãn phàm phu, há lại không có sáu lục căn phàm phu, ấy tức là nhục nhãn, thiên nhãn và sáu căn tức là sáu đường pháp giới, tuệ nhãn tức

Nhị thừa pháp giới, pháp nhãn tức Bồ tát pháp giới, Phật nhãn tức Phật giới. Phật đã có đủ năm căn thì có mười pháp giới trăm như quá rõ rồi.

Hỏi: Sáu căn pháp giới mười như của chúng sinh đều vô thường.

Phật đã có thì cũng phải vô thường sao?

Đáp: Kinh nói: Cái gọi là nhãn căn, với các Đức Như Lai thường có đủ không thiếu hai, thấy rõ ràng phân minh. Cho đến ý căn đó, đối với các Đức Như Lai thường có đủ không thiếu, biết phân minh rõ ràng. Kinh nói: Chữ "Bỉ" là chỉ cho chúng sinh. thế thì sáu căn của chúng sinh và của các Đức Như Lai là thường, huống nữa là Phật có các căn như nhục nhãn, v.v..., là chẳng thường sao? Kinh nói: "Hễ những điều gì mà con người biết, gọi là Thế đế. Những điều Như Lai biết, gọi là Chân đế. Vậy thì tuy cùng chiếu một cảnh, cảnh tùy ở chiếu mà có sự khác nhau giữa chân và tục, tuy cùng có sáu căn như nhau mà có sự khác nhau giữa thường và vô thường.

Hỏi: Vì sao?

Đáp: Trung luận nói: "Pháp do nhân duyên sinh, ta nói tức là không, cũng gọi là giả danh, cũng gọi là nghĩa Trung đạo". Sáu đường mười như là pháp sinh bởi nhân duyên. Nhị thừa mười như tức là không, Bồ tát mười như tức là giả, Phật mười như tức là trung, không nhiễm bởi hai bên, cho nên Phật có mười giới đều là thường. Chúng sinh tuy có ba quán nhưng không có cái dụng của 2 quán không và trung, bởi thế mới bị nhiễm sáu trần, mà lại vô thường. Tuy không đắc được cái dụng của không quán và trung quán nhưng không thể nói là không có không quán và trung quán. Cô gái nghèo không biết nơi chôn dấu của cải, không thể nói là không có của cải. Như ông vua ngốc không khéo làm ra âm thanh, không thể nói là không có âm thanh. Từ hai thí dụ đó thì có thể biết vậy. Thành tựu viên tín như vậy gọi là người sơ tùy hỷ phẩm. Cho nên kinh Pháp Hoa đánh giá người đó công đức không thể suy nghĩ bàn luận, các Đức Phật cùng kiếp khen ngợi công đức đó cũng không hết, huống gì là phàm phu. Sự như kinh kể chuyện bởi Bồ tát Thường Bất Khinh sự viên tín đó, tưởng kính tất cả chúng sinh đều sẽ thành Phật. Cho nên chúng sinh trong sáu đường đều có các pháp mầu thuộc pháp giới, thể lực, tính, tướng của Phật, há có thể khinh thường được sao? Nhờ sự lấy viên mà tu, mau thành Tam bồ đề. Bởi thế kinh nói: "Ta vốn lập thệ nguyện, muốn khiến tất cả chúng đều nhập vào Phật đạo; nguyện ta đã đầy đủ, cùng lúc đã xong". Cho nên 2 muôn Đức Phật Đăng Minh nói Pháp Hoa xong, liền nhập Niết-bàn, nguyên nhân vì thế.

Hỏi: Một tâm chỉ là một pháp, làm sao đắc được đến 10 giới 100 như?

Đáp: Nếu nói cho đầy đủ thì có trăm giới ngàn như, e người nghe sẽ nghi ngờ mà phỉ báng, cho nên chỉ nói tóm lược như vậy thôi. Nếu tin 10 giới trăm như thì không nghi ngờ trăm giới ngàn như. Vì sao? Như nhân giới đã có mười giới trăm như của địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, tu la, người, trời, Thanh văn, Bích chi Phật, Bồ tát, Phật. Ở tại tâm người mà một giới đã có gồm đủ 10 giới. Như địa ngục lại cũng có 10 như: súc sinh, ngạ quỷ... Bởi có lẫn trong nhau, nên 10 giới mà có trăm giới ngàn như, đều cùng ở một tâm mà không chướng ngại nhau, bởi thế gọi là cảnh Bất khả tư nghì. Thí như cái tâm của một niệm mà có 8 mươi 4 ngàn tâm phiền não. Có trăm giới ngàn như, có gì đáng nghi đâu? Lại như một gương mà soi hiện muôn hình, vật vô tình còn vậy, huống là tâm linh, trí thác. Lại như phẩm An lạc hạnh chép: "Một niệm tâm ngủ nằm mộng", mới bắt đầu phát tâm hành đạo Bồ tát, sau thành Phật quay bánh xe pháp nhập Niết-bàn, trăm ngàn muôn ức A-tăng-kỳ sự việc, mà chỉ ở tại một niệm tâm mộng mà thôi. Từ thí dụ suy ra, có thể hiểu ý vậy, đừng nghi ngờ mà chướng ngại cho đạo. Nếu tâm chúng sinh không có trăm giới ngàn như thì Phật làm sai biết được kiếp trước, kiếp sau của chúng sinh, phải đọa vào sáu đường, hay đắc được bốn bậc Thánh, bởi tâm chúng sinh không mà thường giả, bởi có trăm giới ngàn như, và được chiếu soi bởi ba minh mười lực của Phật. Giả mà thường không, Như Lai tuy chiếu soi trăm giới ngàn như nhưng vắng lặng vô tướng. Bởi không, giả mà thường trung, Như Lai tuy là vắng lặng chiếu soi nhưng không có hai tướng của không và giả tuy không có hai tướng nhưng vẫn song chiếu, cho nên cảnh trí tương xứng, cảm và ứng tương quan. Cho nên tuy nói là tâm trăm giới ngàn như thì làm sao giữ được hữu và vô, phi hữu phi vô. Bởi thế mới nói: "Tâm là một pháp Bất khả tư nghì cảnh".

2-Phát tâm bốn thệ nguyện rộng lớn.

Quán tâm nhất niệm tự sinh có đủ cả mười giới trăm như mà sáu đường tức là hai đế Khổ, Tập của sinh tử. Bốn bậc Thánh giới tức là hai đế Đạo, Diệt của Niết-bàn, nhưng mười giới đều ở nơi một niệm thì Tứ đế cũng ở nơi một tâm. Tuy tên gọi 10 giới khác nhau nhưng thể cũng là một, thế thì Tứ đế tên gọi khác nhau nhưng lý giống nhau, dựa vào đâu mà biết thể? Mê thì Khổ, Tập. Ngộ thì Đạo, Diệt. Mê, Ngộ khởi ở tâm của hành giả, mà Đạo Diệt Khổ Tập không hề có hai, bởi thế mới nói: "Nhất thể". Nhất thể tức Thật đế. Bởi thế kinh nói: "Chỉ có một thật tế, phương tiện nói hai" ấy là Nhất thực Tứ đế. Như Lai bảo tạng ở trong một niệm tâm, ta xưa không biết, nay mới giác ngộ. Chúng sinh mê hoặc không hiểu vì sao. Đối với Tứ đế đó mà khởi tâm Tứ hoằng từ bi. Kinh nói: "Đệ tử các trần lao" chính là lấy tâm sở làm đệ tử. Tâm có sáu đường pháp giới tức là 8 mươi bốn ngàn trần lao, thành đệ tử chúng sinh giả danh, ấy gọi là Khổ đế. Liền khởi thệ tâm, "Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ" đó là Hoằng nguyện thứ nhất. 8 mươi 4 ngàn trần lao thực pháp gọi là Tập đế, bèn khởi thệ tâm "phiền não vô số thệ nguyện dứt", đó là Hoằng thệ thứ hai. Tâm có pháp giới Tứ Thánh tức có 8 mươi 4 ngàn pháp tàng chứa các Ba-la-mật, mà khởi thệ tâm "Pháp môn vô biên thệ nguyện tri", đó là Hoằng thệ thứ ba. Nắm cả các pháp môn đó gọi là chư Phật, nên khởi thệ tâm "Vô thượng Phật đạo thệ nguyện thành" đó là Hoằng thệ thứ tư. Như vậy mười giới trăm như đều ở một tâm. Kinh nói: "Duyên với Như Lai gọi là vô duyên". Nay quán 9 giới của tâm, tức Phật giới là duyên với Như Lai, tức là cùng thể vô duyên tứ hoằng từ.

Hỏi: Thế nào là từ Tư nghị?

Đáp: Thấy các khổ của bốn đường ác, nhổ đi nỗi khổ của tâm, tâm Từ cho sự vui lạc của trời, người gọi là chúng sinh duyên từ (tâm từ duyên với chúng sinh), thấy cái khổ của sinh tử xuống lên sáu đường Bi nhổ nỗi khổ, từ cho pháp vui Niết-bàn tức không, gọi là pháp duyên từ (từ duyên với pháp). Thấy nỗi khổ vô tri của Nhị thừa. Bị nhổ từ cho xuất giả pháp hỷ. Đa văn phân biệt lạc cũng gọi là chúng sinh duyên từ. Thấy nỗi khổ phân biệt của hai bên. Bi nhổ từ cho niềm lạc vui pháp thân Trung đạo của Như Lai, gọi là vô duyên; ấy là thứ lớp sự nhổ khổ cho vui. Bởi tuy duyên Như Lai nhưng chẳng đồng thể vô duyên, cho nên là từ Tư nghị mà thôi. Nay quán 9 giới tức là Phật giới, còn cần gì khổ tập cái vui khác mà nói là nhổ cỏ cho vui, cho nên đồng một thể. Quán 9 giới của tâm tức là Như Lai, gọi là từ vô duyên. Duyên với Như Lai giới mà không mất sự song chiếu khô tươi trong 9 giới, tức hạt ngọc báu của đại Niết-bàn. Kinh Đại Tự chép: "Bởi từ này tức là Đại pháp tụ, từ này tức là Đại Niết-bàn, cho nên Từ cũng Bất khả tư nghị". 3-Tu chỉ quán:

Nhất tâm có mười giới, mười giới tức ba quán. Như trên đã nói, ấy là lý của tâm tánh vắng lặng mà thường chiếu soi, chiếu soi mà thường vắng lặng. Bởi chúng sinh quên sự vắng lặng nên khởi vọng loạn. Bởi tự phá vắng lặng quên chiếu soi mà khởi ám hoặc. Bởi tự phá sự sáng của tuệ nhãn cho nên không thể chiếu soi cội nguồn. Bởi điên đảo tạo tội, lăng xăng bị hại, phá sự vắng lặng làm hoặc loạn hạt ngọc bên trong, nước tâm không trong, lưu ly không hiện. Muốn cho về nguồn vốn tịch cho nên khuyên tu chỉ. Khiến quay về với vốn chiếu soi nên khuyên tu quán. Cội nguồn không vắng lặng không chiếu soi, tán loạn không thể dừng, tối tăm không thể phá. Tuy tu chỉ quán, tán và ám rốt cuộc cũng không thể dứt trừ, cũng không đắc Thánh. Sự tán, ám hư giả không thật, cho nên có thể phá trừ, có thể dứt bỏ.

Hỏi: Làm sao biết là vốn vắng lặng?

Đáp: Thân là gốc.

Lại hỏi: Cái gì là gốc của thân?

Đáp: Ngài Tịnh Danh nói: Dục tham là gốc.

Lại hỏi: Cái gì là gốc của dục tham?

Đáp: Luống dối phân biệt làm gốc.

Lại hỏi: Cái gì làm gốc của luống dối?

Đáp: Điên đảo là gốc.

Lại hỏi: Cái gì là gốc của điên đảo.

Đáp: Vô trú là gốc.

Lại hỏi: Cái gì là gốc của vô trú.

Đáp: Vô trú thì không có gốc.

Từ gốc vô trú, lập ra tất cả pháp vô trú. Há chẳng phải là tứ vốn vắng lặng vọng khởi ra tất cả pháp hay sao? Lại nữa, đã ngộ tâm là Như Lai tạng, có đầy đủ tất cả Phật pháp. Nếu không tu chỉ quán để hiển hiện ra, cứ cất dấu ở trong nhà không đem ra sử dụng thì thường phải chịu nghèo. Khát gặp suối không uống, đói gặp bữa không ăn thì sự đói khát chẳng hết. Người muốn tu tâm nghiên tập, không gì hơn 2 bánh xe chỉ quán Định tuệ. Kinh nói: "Tì bà xá na có công năng dứt bỏ phiền não". Sao lại còn cần xa ma tha? Phật nói: "Trước dùng Định lay Động, sau lấy tuệ nhổ". Thích luận nói: "Gió giác quán thổi động, tâm thiền định có công trừ diệt", ấy là định dưỡng gió, quán chiếu hoặc ám tâm nghiêng về trầm thì dùng quán sát để khởi nó lên, tâm nghiêng về phù thì dùng chỉ để dứt nó; trầm, phù lần lượt hết, thì nên dùng bốn tất đàn, tu chỉ để trị nó.

4-Phá pháp biến:

Người nghiên tu chỉ quán như trên mà chưa nhập, là do bởi sự mê đắm trước các kiến chấp, tâm chấp trước đó phải phá đi. Văn có hai phần:

a. Pháp theo thứ tự dọc.

b. Phá không theo thứ tự dọc ngang. Phần a chia làm 3 phần:

1. Phá từ giả nhập không.

2. Pháp từ không xuất giả.

3. Phá đắc trung đạo.

Phần đầu lại chia làm hai:

- Phá kiến giả hoặc.

- Phá tự giả hoặc.

Phá hoặc giữ lý thì phải y theo phương pháp, nhưng phương pháp thì có nhiều thứ. Như 500 vị La hán Tiểu thừa. Mỗi vị nói mỗi nhân riêng của mình, tức có 500 pháp. Kinh Hoa Nghiêm chép: "Vô lượng không môn người vẫn chưa nhập". Lại như năm ngàn vị Bồ tát, mỗi vị đều nói nhập pháp môn không hai, tức có năm ngàn pháp môn. Kinh lược ra 32 vị Bồ tát thôi. Đầu tiên Bồ tát Pháp tự tại nói về sinh diệt, là pháp môn không hai. Vốn bất sinh nay cũng vô diệt, ấy là nhập pháp môn không hai, tức là đầu tiên nói về pháp môn vô sinh. Ngài Tịnh Danh cuối cùng im lặng, nhập pháp môn không hai, vẫn là pháp môn vô sinh. Về 42 tự môn: đầu tiên là chữ A, cuối cùng chữ Trà, đều là Bất sinh. Luận này đầu tiên cũng nói về bốn thứ không thể noi, tức đầu tiên là pháp môn Bất sinh. Bài kệ cuối cùng chép: "Vì sao không văn tự, tất cả ngôn ngữ dứt, vắng lặng không nói năng", tức giống với ngài Tịnh Danh, vô ngôn nhập pháp môn không hai.

Bây giờ xin tóm lược về vô sinh môn phá pháp biến; giống với Bồ tát Pháp tự tại, thể pháp vô sinh quán môn. Nay hội thông với bốn thứ không thể nói: pháp vốn bất sinh, nghĩa là bất sinh sáu đường trong tâm, sinh sinh tức hữu môn, nay thì vô diệt, nghĩa là vô diệt Nhị thừa trong tâm, diệt cái sinh ra bất sinh, tức là không môn, ấy là nhập pháp môn không hai, nghĩa là nhập vào pháp môn, không hai bất sinh bất sinh của Phật giới trong tâm tức pháp môn phi không phi hữu. Tuy nhập pháp môn không hai nhưng lại có khả năng song chiếu, nghĩa là Bồ tát giới trong tâm bất sinh sinh, tức là pháp môn diệt không diệt hữu. Nay theo quán tâm, thì sáu đường tức bốn Thánh giới, há chẳng phải là một môn tức ba môn, sinh sinh một câu tức là ba câu sao? Theo quán tâm, Nhị thừa giới tức tám giới, trong "quán tâm" tức chín giới há chẳng là một môn diệt không diệt hữu, tức ba môn Bất sinh sinh, một câu tức ba câu hay sao? Phật giới trong quán tâm, tức chín giới, tức là pháp môn phi không phi hữu, há chẳng là tức ba môn Bất sinh bất sinh, một câu, tức ba câu hay sao? Thế thì bốn câu, bốn môn, mười giới, dung thông vô ngại, tức là sở dụng của người Viên giáo. Như trên nói về ba quán thứ lớp phá theo chiều dọc.

Nay y cứ vào Hữu môn phá kiến hoặc: dứt bỏ khi thấy lý, nên gọi là kiến hoặc, từ nơi giải thích mà có tên. Chia làm 2 phần:

- Nói về lỗi của kiến hoặc.

- Nói về thể pháp quán môn (tức y cứ vào ba giả bốn câu để xem xét quở trách).

* Nay nói về lỗi của kiến hoặc: Do chỉ quán nên tâm có trăm giới ngàn như liền sinh. Nếu chấp không, cho rằng tâm có hình tướng của trăm giới ngàn như để phát ra nhân đó sinh 88 sử khổ tập. Vì sao? Vì do quán đó mà sinh tử không biết, kiến tâm khổ tập, bị nhà thiêu đốt, bị các trùng thú cắn. Nay xin chỉ rõ tướng đó. Người cậy vào giải quán đó mà lăng mạ người khác. Như các loài chim điêu, chim thứu, chim xi chim hươu trong kinh là dụ cho mạn sự. Khen các kiến giải đó thì vui, chê thì giận, như rắn, rắn hủy, rắn phục, bò cạp trong kinh là dụ cho sân sử. Không biết kiến tâm khổ tập tức si. như Thạch sùng trăm chân ở trong kinh là dụ cho Si sử. Triền miên tham ái kiến giải nầy như hồ ly, sói, dã can nói trong kinh là dụ cho tham sử. Giờ tuy không nghi nhưng sau sẽ đại nghi, hoặc bị người phá, bèn sinh tâm nghi, như những sự đấu tranh, công kích, đả kích nói trong kinh, là dụ cho Nghi sử. Vì vậy hữu kiến bài bác không có nhân quả tức tà kiến, như dạ xoa, ác quỷ ăn thịt người nói trong kinh là dụ cho Tà kiến sử. Cho đó là đạo, mong thông đến Niết-bàn tức giới thủ, như Quỷ cưu bà trà chiếm đóng đất đai trong kinh là dụ cho Thủ sử. Cho rằng Ngã năng giải tức thân kiến, như thân đó dài lớn lõa lồ ốm đen ở trong kinh là dụ cho Thân kiến. Cho rằng ngã sở chấp tức là Niết-bàn, tức là Kiến thủ. Như câu "lại có các quỷ cổ họng nhỏ như kim" là dụ cho Kiến thủ. Cho rằng Ngã đoạn thường, không đúng với lý Trung đạo tức là Biên kiến. Như "Lại có các quỷ đầu như đầu trâu" là dụ cho Biên kiến. 10 sử đó là y cứ vào bốn đế cõi Dục. Khổ 10, tập 7 trừ thân Biên giới, Đạo 8 trừ Thân biên, diệt 7 trừ thân biên, chung là 32. Cõi Dục bị lửa thiêu đốt.

Thượng giới chung trừ sân, Tứ đế cõi sắc có 28. Như "Ác thú, độc trùng, chuột cống, lỗ hang" trong kinh là nói về cõi sắc bị thiêu đốt. Tứ đế cõi Vô sắc có 28. Như các loài rết, sâu do diên, rắn độc trong kinh là dụ cho cõi vô sắc bị thiêu. Hợp cả ba cõi có 88 sử làm Tập đế, kiến ấy nương sắc khởi tức Khổ đế, 50 kiến chấp. Kinh nói: "nếu nhãn thấy sắc đẹp trong có Ấm trong có tập. Thấy sắc xấu trong có Ấm, trong có tập, thấy sắc bình đẳng trong có Ấm trong có tập, cho đến ý biết pháp tốt có Ấm có tập, các căn khác cũng vậy, thì Tập ấy tức Tập đế. Âm ấy tức Khổ đế". Thế thì do kế mà chấp đó. Lại nữa, trong 12 nhân duyên: có 5 là Tập đế: Ái, Thủ, Hữu, Vô minh, Hành. 7 là Khổ đế: Thức, Danh sắc, Sáu nhập, Xúc, Thọ, Sinh, già chết, là kiến tâm khổ tập, tức là 12 nhân duyên. Lại nữa, Vô minh, Ái, Thủ tức là Phiền não đạo; Hành, Hữu tức là Nghiệp đạo. 7 nhân duyên: Thức, Danh sắc, sáu nhập, Xúc, Thọ, Sinh, Tử tức là Khổ đạo. Lại nữa, 5 nhân tức là sáu tệ, Sinh, Già, Bệnh, Chết tức bốn khổ. Mong cầu ngộ được lý nhưng không ngộ tức khổ cầu mang mà không được. Khởi lên đảo hoặc, lại bị thiêu đốt tức khổ ghét mà gặp mặt. Thức, Danh sắc, sáu nhập, Xúc, Thọ tức khổ năm Ấm lừng lẫy, những thứ đó túc Tám khổ. Do bởi kế chấp mà định tên gọi. Chấp tâm có trăm giới ngàn như, nhân khởi 88 sử. Lửa trong các độc trùng, bốn đảo, tám khổ thiêu đốt nhà cửa năm Ấm, thường bị thiêu bởi lửa cực nóng. Biết lỗi lầm của chúng, là Khổ tập phiền não nung đốt, tự chướng đạo, làm sao ngộ lý cho được.

* Thể pháp quán:

Kinh nói: "Thể tướng vô minh" là y cứ vào ba giả bốn câu mà xét trách. Vì sao? Nhất niệm tâm khởi phải dựa vào pháp trần mà khởi, tức Nhân thành giả. Kiến tâm nối nhau mà khởi tức Tương tục giả. Tâm hữu kiến nầy đối đãi với vô kiến tức Tương đãi giả. Trong một giả lại tạo ra bốn câu Tự tha để xét trách, vì sao? Vì nay hỏi quán tâm nhất niệm tự sinh, cho rằng có trăm giới ngàn như, nó từ đâu sinh ra? Nếu nói từ nội tâm sinh ra tâm quán giải, tức là tự sinh. Nếu cho rằng tự sinh thì phải thường sinh, mà đã thường sinh rồi thì không cần đợi duyên với pháp trần tiền cảnh mà sinh ra?

Kinh nói: "Có duyên tư mới sinh, không có duyên tư thì không sinh", làm sao tự sinh được?

Kinh nói: "Chẳng phải nội quán mà được trí tuệ ấy". Sao lại tự sinh? Trong luận chép: "Các pháp không tự sinh", làm sao tự sinh được? Nếu cho rằng do duyên với pháp trần tiền cảnh mà sinh tức là tha sinh, ấy là không tự thể. Kinh nói: "Chẳng phải ngoại quán mà được trí tuệ ấy" thì làm sao từ cảnh mà sinh ra? Luận chép: "Cũng không từ tha sinh" thì làm sao tha sinh được? Nếu phải cho rằng tha sinh cảnh thì phải thường sinh ra quán trí, cần gì phải đợi nội tâm quán duyên mới sinh? Nếu cho rằng do nội tâm đối ngoại cảnh pháp trần mà sinh, thì quán trí tức là cộng sinh, thế cũng không thể xét trách trước đó, tự tha vô sinh, hợp với nhau làm sao sinh được. Như một hạt cát không có dầu thì dù có nhiều hạt cát cũng không có dầu. Nếu tự, tha trước đó riêng mỗi thứ có sinh, hợp lại thì phải có hai cái sinh. Lại nữa, nếu riêng mỗi thứ có sinh thì sao lại dùng Hợp sinh. Luận chép: "Các pháp không cộng sinh". Kinh nói: "Chẳng phải nội ngoại quán mà được trí tuệ ấy" sao lại cho rằng cộng sinh? Nếu cho rằng lìa tâm lìa cảnh mà sinh, tức là vô nhân mà sinh, điều đó cũng không thể. Luận chép: "Có nhân duyên mà sinh còn không thể được, huống nữa là không có nhân duyên mà sinh". Kinh nói: "Không lìa nội ngoại quán, mà được trí tuệ ấy" làm sao không nhân mà sinh được? Hành giả cứ như thế dùng bốn câu xét trách tìm tâm, tuy không thể đắc ý do chưa xong, nhưng cuối cùng cũng cho rằng có tâm nối nhau mà sinh.

Ở đây y cứ bào Tương tục giả để phá câu hỏi.

Là tâm trước diệt, tâm sau sinh, hay là tâm trước không diệt, tâm sau sinh, hay là vừa diệt vừa không diệt mà sinh, hay là chẳng diệt chẳng phải chẳng diệt mà sinh. Nếu tâm trước không diệt mà sinh tức tự sinh. Nếu tâm trước diệt, mà sinh tức là tha sinh. Nếu vừa diệt vừa không diệt mà sinh tức cộng sinh. Nếu chẳng diệt, chẳng phải không diệt mà sinh tức không có nhân mà sinh, bốn câu đều không thật có, cho nên luận chép: "Các pháp không tự sinh, cũng không tự tha sinh, không cộng, không vô nhân", sao bốn câu cho rằng có sinh? Tức lại thuộc về Tương đãi giả.

Ở đây y cứ vào Tương đãi giả để phá câu hỏi. Tâm ấy là do đối đãi sinh mà tâm sinh, hay đối đãi không sinh mà tâm sinh, là do đối đãi cũng vừa sinh vừa không sinh mà tâm sinh, hay là đối đãi chẳng sinh, chẳng bất sinh mà tâm sinh tức Tha sinh. Nếu đối đãi vừa sinh vừa bất sinh mà tâm sinh tức cộng sinh. Nếu đối đãi phi sinh, phi bất sinh mà tâm sinh tức Vô nhân sinh. Kiểm xét bốn câu đều không thật có. xem xét ba giả bốn cú như thế, sinh không thật có, liền tự biết sở chấp, chắc chắn cho rằng tâm có tướng trăm giới ngàn như, là vọng tưởng điên đảo. Hối lỗi tự trách, sám hối tội trước. Ấy là 88 Sử khổ tập, 12 Nhân duyên bị khuất phục, không khởi sáu tệ, gọi là Diệt đế. Có khả năng hàng phục được đạo khổ tập, gọi là Đạo đế. Biết lỗi của khổ tập nên không tạo thêm gọi là Người hành đạo. Phát một lớp giải không, định tâm trong lặng, không kiến càng sáng, tâm còn chẳng thấy, há lại có trăm giới ngàn như sao? Tìm đọc kinh luận, có nói về chỗ không, phù hợp với tâm, tâm chấp càng mạnh, do đó mà ngã mạn tự cao, khinh thường người khác, không hiểu được như mình, tức là Mạn sử. Người khác khen ngợi ca tụng về không thì vui, chê bai về không thì giận, tham ái không kiến, tức tham Vô minh, bất liễu tức là Si, nghi ngờ đế lý tức là Nghi, ngã năng giải tức là Thân kiến, do thân kiến khởi lên Biên kiến. Vì không kiến bài bác không có nhân quả, tức tà kiến, cho rằng không kiến năng thông Niết-bàn, tức là giới thủ. Cho rằng không kiến là đạo, tức kiến thủ. 10 Sử như thế y cứ vào ba cõi, có 88 sử làm Tập đế. Kiến ấy dựa vào sắc mà khởi, là Khổ đế. Vì khổ, tập đó mà chuyển trôi, sinh tử, bị lửa bốn đảo tám khổ thiêu đốt, bị tàn hại bởi các trùng độc độn sử, ma quỷ lợi sử. Thà được giải ngộ biết Đệ nhất nghĩa không.

Bây giờ xin phá kiến chấp ấy, lại y cứ vào ba giả bốn câu để phá, vì sao? Vì như nhất niệm tâm khởi phải nhờ không cảnh pháp trần mà sinh, tức là Nhân thành giả. Không kiến nối nhau mà sinh tức Tương tục giả. Không kiến đợi Bất không kiến sinh tức Tương đãi giả. Bây giờ hỏi tâm giải không kiến sinh, là từ nội tâm sinh ra hay từ ngoại không cảnh pháp trần sinh, hay là nội ngoại hợp lại cùng sinh, hay lìa nội ngoại mà sinh?

Nếu nội tâm sinh ra tức Tự sinh.

Nếu pháp trần sinh ra tức Tha sinh.

Nếu nội ngoại tâm hợp sinh tức là Cộng sinh.

Nếu lìa nội tâm ngoại pháp trần mà sinh tức là Vô nhân sinh.

Bốn câu đều có sự sai lầm, sự như trước đã phá.

Tâm chấp vẫn chưa hết, còn phải y cứ vào Tương tục giả.

Vì sao? Nếu cho rằng Nhất niệm không tâm, từ tâm bất diệt trước mà sinh tức là Tự sinh.

Tâm trước diệt rồi mới sinh, tức là Tha sinh.

Tâm trước vừa diệt vừa không diệt mà sinh tức là Cộng sinh.

Nếu tâm trước phi diệt, phi bất diệt mà sinh tức là Vô nhân sinh.

Bốn câu đều không thật có. Xem xét ba giả bốn câu như vậy, không kiến không thật có, mà tự biết chớp, chắc chắn tâm không, không có trăm giới, không có pháp mầu của bậc Thánh vẫn là Vọng đảo. Kinh chép: "Nếu cho rằng chúng sinh chắc chắn có Phật tính, tức báng Phật, Pháp, Tăng. Nếu cho rằng chúng sinh chắc chắn không có Phật tính, cũng là báng Phật, Pháp, Tăng". Cho nên biết tâm mà ngã chấp chắc chắn có, chắc chắn không có, tức hủy báng Tam bảo, hối lỗi tự trách, thẹn sám tội trước. Ấy là 88 Sử, Khổ tập, 12 nhân duyên, sáu tệ bất sinh, gọi là Diệt đế. Chế phục được đạo Khổ tập tức là Đạo đế. Lại nữa, suy nghĩ, nếu tâm chắc chắn có tức là Thường kiến. Nếu tâm chắc chắn không tức là Đoạn kiến, bèn chấp tâm vừa có vừa không, liền phát một phẩm định tâm sâu xa, vừa có vừa không thấy tâm thanh tịnh, bèn cho rằng đó là Nhân của Đạo. Tâm kiến đó lại khởi lên 88 sử, lưu chuyển khổ tập, tự chướng ngại đạo, cho nên y cứ vào ba giả bốn câu để xét trách, lệ theo trước thì biết, tìm xét cũng không thật có, bèn biết vừa hữu vừa vô kiến tâm, khổ tập đạo diệt tứ đế. Lại chấp cho tâm là phi hữu phi vô. Tâm khởi lên khổ tập, lại y cứ vào ba giải bốn câu để xem xét lại không thật có tức biết Tứ đế của kiến tâm phi hữu phi vô. Lại chấp tâm ra ngoài bốn câu không thể nói. Vì không thể nói nên tâm chấp lại khởi lên khổ tập, lại y cứ vào ba giả bốn câu, xét trách không thật có, tức biết tâm chấp không thể nói. Đủ cả bốn câu và đủ cả không thể nói ngoài bốn câu. Cứ như thế lần lượt khởi lỗi, lần lượt xét phá. Cho đến phá theo chiều ngang, phá theo chiều dọc cũng đều tìm xét không thật có, mới biết những điều đã chấp đều là điên đảo. Hối lỗi tự trách, thẹn sám hối trước. Tâm chấp tâm khổ tập đế bị chế phục gọi là Diệt đế. Trí dùng để chế phục gọi là Đạo đế. Biết được tâm chấp tứ đế, gọi là người hành đạo. Trong ấy lẽ ra có năm câu liệu giản:

1. Bệnh cũ không hết mà lại khởi thêm bệnh mới, như ngoại đạo bất đắc định.

2. Bệnh cũ đã hết, sinh ra bệnh mới, như ngoại đạo đắc thiền.

3. Bệnh cũ không trừ hết, bệnh mới bị chế phục, tức người có 5 phương tiện.

4. Bệnh cũ không hết mà bệnh mới diệt, tức là người chứng sơ quả.

5. Bệnh cũ bệnh mới đều dứt hết, tức bậc A la hán. Kế đến là y cứ vào giai vị để phân biệt:

Ngoại đạo đã khởi bệnh mới kiến hoặc thì không có chiếc xe Đạo đế, không thể vận chuyển ra khỏi sinh tử. Nếu hành nhân Tam tạng chế phục kiến hoặc, giống với đạo đế. Vận chuyển đến năm phương tiện, nếu hành nhân chế phục kiến hoặc theo Thông giáo, vận chuyển đến Càn tuệ địa tính địa. Nếu hàng Biệt giáo vận chuyển đến Thập tín. Nếu hàng Viên giáo vận đến năm phẩm. Nay hành giả quán tâm từ sáu đường xuất vận, đến Nhị thừa giới. Nếu dứt được kiến hoặc, thì tam tạng tức khổ nhẫn chân minh, Thông giáo thì kiến địa, Biệt giáo tức Sơ trú. Viên giáo thì Sơ tín.

Hỏi: phức đầy đủ bốn câu sao gọi là Thị kiến?

Đáp: Ca diếp là người đắc chứng, còn nói trước đó đều gọi là tà kiến, huống nữa là phàm tình hiện nay suy tính nên gọi là phi kiến. Nếu nói là phi kiến thì bây giờ phải đắc quả Thánh, nếu chưa đắc mà nói rằng đã đắc là tăng thượng mạn. Người đó chưa thể luận đạo. Nếu vỗ ngực luận bàn, trước khi tâm chưa đắc đạo thì dù có nói tuyệt hết trăm câu ngàn trùng muôn lớp đi nữa, cũng làm sao được phi kiến? Như Trường Trảo suy nghĩ các pháp đã lâu mà không được một pháp nhập tâm, bèn hỏi Phật rằng: "Tất cả pháp đều không thọ nhận, há chẳng lạm ở Đại thừa bất thọ Tam-muội hay sao?". Trường Trảo lợi căn như thế còn không biết tâm chấp khổ tập, huống nữa là kẻ phàm cạn cợt mà biết được sao?

* Phá Tư giả hoặc: Chia làm 2 phần:

- Lỗi của tư hoặc.

- Pháp quán.

Tư hoặc là tham, sân, si, mạn của cõi Dục, chung với 2 cõi trên trừ sân ra, mỗi 3 thứ hợp với 3 giới gồm có mười. Tư của cõi Dục có 9 phẩm. Bát thiền nhất thiền của cõi sắc và vô sắc có 9 phẩm. Thế thì ba giới chín địa, 9 lần 9 bằng 81 phẩm tư hoặc. Đã dứt bỏ sự suy tư lớp lớp, nên gọi là Tư. Tam quả còn bị mê hoặc, huống là phàm phu. Kinh nói: "Tham lam tiền tài sắc dục, ngồi đó không đắc đạo". Lại nói: Nhất niệm khởi sân, chướng ngàn cửa pháp". Ngài Tịnh Danh nói: "Từ si có ái nên bệnh ta sinh". Bởi thế kinh nói: "Nay ta bệnh đều do các phiền não vọng tưởng kiếp trước sinh ra" tức tham ái vô minh là gốc. Do vô minh mới có hành, thức, danh, sắc, sáu nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh. 12 nhân duyên trôi lăn trong sáu đường, vọng thêm độc khổ, 5 nhân làm Tập đế, 7 quả làm khổ đế. Cứ như thế từ 12 nhân duyên mà xuất ra ba đạo, bốn đảo, tám khổ, sáu tệ, tám mươi bốn ngàn đều từ ba độc sinh ra. Ba độc 10 sử làm tươi nhuần thêm ba nghiệp, tạo nhiều các trọng tội như thập ác v.v... Ấy là tư hoặc che chướng hành nhân, lý quán do đâu mà phát được. Cho nên cần phải phá. Tất cả vọng hoặc đều lấy vô minh làm gốc. Tất cả thọ sinh đều do vô minh làm khởi đầu. Thế thì hoặc của ngũ vị, giới nội, giới ngoại đều do vô minh làm gốc. Kinh nói: "Thế của vô minh, vốn tự không có, vọng tưởng nhân duyên hòa hợp mà có". Vậy thì gốc rễ của vô minh đã là hư giả không thực thì tất cả các hoặc không hư giả sao? Ba cõi quả báo há lại là thực? Thế thì cội nguồn của vô minh vốn tự không sinh, cũng không có cái để diệt ngay tại bây giờ. Bổn tính thanh tịnh, sinh tử tức Niết-bàn, duyên gì mà khởi vọng diệt hoặc.

Nếu vọng tình vận chưa dứt thì bây giờ cũng lấy ba giả bốn câu để xét trách.

Người ngoài nào đó hỏi: "Thế gian hiện thấy, sao nói rằng không có?".

Luận chủ phá rằng: "Sao tin được cái thấy bởi mắt trâu, mắt dê của ngươi mà cho là có?".

Đâu cần dùng bốn câu để xét phá? Vì tâm nhờ vào sáu trần mà sinh, tức Nhân thành giả. Tâm tham niệm niệm nối nhau tranh khởi, tức Tương tục giả. Đối với Bất sinh có cái sinh bây giờ, tức Tương đãi giả.

Nay hỏi: Tư hoặc sinh là tự nội tâm sinh hay từ ngoại sáu trần mà sinh. Là từ nội tâm, ngoại trần hợp sinh hay lìa nội tâm ngoại trần mà sinh? Bốn câu đều không thật có. Nếu nội tâm sinh tức tự sinh, như hạt lúa không nhờ nước, đất cũng vẫn sinh được. Nếu ngoại trần sinh tức tha sinh, như nước, đất không cần hạt lúa vẫn sinh được cây lúa. Nội ngoại vô sinh, hợp làm sao sinh? Như hợp 2 hạt cát đều không sinh ra dầu, nếu mỗi thứ đều có sinh thì khi hợp phải có hai cái sinh. Nếu lìa nội ngoại mà sinh tức Vô nhân sinh. Hữu nhân sinh còn không thật có, huống gì là Vô nhân sinh. Thế thì bốn câu đều không thật có, tuy đã phá Nhân Thành Giả, nhưng tâm vẫn cho rằng nối nhau mà sinh.

Nay hỏi, là tâm trước diệt rồi mới sinh, hay không diệt mà sinh. Là vừa diệt vừa không diệt mà sinh hay là chẳng diệt, chẳng phải bất diệt mà sinh. Nếu tâm trước không diệt mà sinh tâm tham ở sau, thì mắc lỗi tự sinh. Nếu sau khi tâm trước diệt, tâm tham sinh, thì mắc lỗi Tha sinh. Nếu vừa diệt vừa bất diệt mà sinh tâm tham ở sau, thì mắc lỗi cộng sinh. Nếu tâm trước chẳng phải diệt, chẳng phải bất diệt mà tâm sau sinh, thì mắc lỗi vô nhân sinh. Lỗi của bốn câu, theo thí dụ trên thì có thể biết. Vậy thì xét hết bốn câu, sự sinh ra tư hoặc không thật có. Tuy phá được nhưng tâm vẫn cho rằng tâm đối đãi với nhau mà sinh.

Nay hỏi, là đợi sinh tâm mà sinh hay đợi vô sinh tâm mà sinh. Là đợi vừa sinh vừa vô sinh tâm mà sinh, hay là đợi chẳng phải sinh, chẳng phải bất sinh tâm mà sinh? Nếu đợi sinh tâm mà sinh tức là tự sinh, nếu đợi vô sinh tâm mà sinh tức là cộng sinh, nếu đợi chẳng phải sinh, chẳng phải vô sinh tâm mà sinh, tức Vô nhân sinh. Lỗi của bốn câu lệ theo ví dụ trên có thể biết. Vậy thì bốn câu xét theo Tương đãi giả cũng rốt ráo là không vô. Ba giả bốn câu cầu tâm không thật có như vậy, liền ngộ Tâm không, không sinh chấp chặt, chắc chắn có sáu trần cảnh giới sắc thanh. Tư hoặc bị chế phục, gọi là Diệt đế. Trí có khả năng chế phục hoặc, gọi là Đạo đế. Bởi khổ tập diệt, nên vô minh cũng diệt, cho đến bởi già chết diệt, nhân duyên diệt, thì ba đường, sáu tệ, bốn đảo, tám khổ đều diệt. Bởi sáu tệ diệt mà được xe trâu, bởi khổ tập diệt mà được xe dê, bởi 12 nhân duyên diệt mà được xe nai. Cho nên kinh nói: "Vì Thanh văn mà nói Tứ đế, vì Bích chi Phật mà nói 12 nhân duyên, vì Bồ tát mà nói 6 Ba-la-mật. Cỡi 3 xe đó để ra khỏi căn nhà năm Ấm, để diệt lửa bốn đảo tám khổ, gọi là ra khỏi nhà lửa, liền nhập vào hóa thành, được trí nhất thiết, là tất cả pháp môn chân đế. Đó gọi là "Từ giả nhập không quán". Y cứ theo vị, thì tam tạng tức La hán vị, thông giáo tức Dĩ biện địa. Biệt giáo tức Thập trụ, Viên giáo tức Thập tín, y cứ theo quán tâm thì từ lục đạo giới nhập vào Nhị thừa giới.

Thứ hai là nói về "Từ không xuất giả quán". Kinh nói: "Không có Phật pháp, không nên diệt thọ mà thủ chứng. Dù thân có khổ, nên nghĩ đến tất cả chúng sinh khổ não. Ta đã điều phục, cũng nên điều phục tất cả chúng sinh", đó là ý nghĩa của xuất giả. Xuất giả có 5 ý nghĩa:

- Tâm từ bi nặng, trước người sau mình.

- Nhớ bổn thệ nguyện khi mới phát tâm, thề nhổ tất cả gốc khổ của chúng sinh, cho hết thảy niềm vui, từ giả nhập không, đã tự nhở tứ trụ khổ rồi, nay từ không xuất giả nên nhổ nỗi khổ của chúng sinh.

- Trí tuệ sắc bén, biết trụ không thì có sự lầm lỗi và vứt bỏ chúng sinh, không thể thanh tịnh cõi nước Phật, thành tựu chúng sinh, lại chưa đầy đủ giáo pháp của Phật.

- Có phương tiện khéo, tuy chưa nhập vào giả nhưng không bị nhiễm trần.

- Có tâm tinh tiến mạnh mẽ, đối với ý sinh tử mà có dũng.

Nay lấy 5 nghĩa trong Kinh Tịnh Danh, phối hợp với ý trên thì ý nghĩa giống nhau. Kinh nói: "Nhân bệnh của mình mà thương xót cho bệnh của người" tức đồng với từ bi. "Nên biết vô số ức khổ đời trước" chẳng phải là nhớ bổn thệ nguyện sao? "Nên nghĩ làm lợi ích cho tất cả chúng sinh" chẳng giống với trí tuệ biết trụ không là mắc lỗi làm mất lợi ích chúng sinh. "Niệm ở tịnh mệnh" tức giống với phương tiện khéo léo. "Thường khởi tinh tấn", tức là giống với tinh tiến. Kinh này nói về 5 nghĩa giống với 5 ý đó. Nhưng vì Nhị thừa không có 5 việc đó, nên không thể xuất giả.

Xuất giả có 3 việc: 1-Biết bệnh, 2-Biết thuốc, 3-Cho thuốc.

- Biết bệnh: tức biết các thứ bệnh khổ tập thế gian, xuất thế gian về kiến tư của chúng sinh. Kinh nói: "Khổ có vô lượng tướng, ta chưa nói đến trong những kinh đó. Thanh văn chẳng thể hiểu nỗi. Tập đế cũng vậy". Bởi biết hết vô lượng khổ tập đó, nên gọi là biết bệnh.

- Biết thuốc: Dụ như thầy thuốc giỏi. Khéo biết tất cả các thứ thuốc trị các thứ bệnh của chúng sinh, cũng chẳng phải chỉ biết một thứ thuốc, mà biết nhiều thứ thuốc đạo diệt của thế gian, xuất thế gian, học khắp Hằng hà sa Phật pháp. Kinh nói: "Đạo có vô lượng tướng, trong những kinh đó ta chưa nói đến. Các Thanh văn, Duyên giác chẳng biết nổi, diệt cũng vậy". Bồ tát học khắp hết vô lượng đạo diệt pháp môn đó, cho nên gọi là Biết thuốc.

- Cho thuốc theo bệnh: Kinh nói: "Xá Lợi Phất dạy con trai của thợ bạc thực hành pháp quán Bất tịnh, dạy con trai của thợ giặt ủi thực hành pháp quán đếm hơi thở, cả hai đều không ngộ đạo, chẳng những không ngộ mà còn tăng thêm tà kiến, đó là lỗi của việc không biết cho thuốc theo bệnh".

Phật đã nói pháp thì liền được ngộ đạo, đó là tướng của cho thuốc theo bệnh. Nay Bồ tát cũng vậy, học cách cho thuốc theo bệnh. Tùy theo sự chịu đựng của người đó, tương xứng với hoàn cảnh sống của người đó mà cho thuốc pháp, để khỏi mắc lỗi sai cơ. Vì 3 việc đó mà xuất giả vậy.

Trên là từ giả nhập không, phá khắp tư kiến, tuệ nhãn chiếu chân, gọi là phá pháp biến. Nay từ không nhập giả biến học Hằng hà sa Phật pháp, mà phá vô tri như cát bụi, pháp nhãn chiếu tục, cho thuốc theo bệnh mà không mắc lỗi sai cơ. Gọi là phá pháp biến.

QUYỂN 5

Thứ ba nói về Trung đại quán phá pháp biến: cũng nêu 5 ý:

- Để học vô duyên từ, trước giả nhập không phá chúng sinh duyên từ, kế là từ không xuất giả phá pháp duyên từ. Nay tu Trung đạo lìa hai bên từ, cho nên gọi là Vô duyên từ. Kinh nói: "Duyên Như Lai gọi là Vô duyên từ" đồng thể vô duyên với thật tướng che khắp pháp giới, trừ khổ cho vui, gọi là vô duyên đồng thể từ bi.

- Đầy đủ bản hoằng thệ. Kinh nói: "Ta vốn lập thệ nguyện, khiến tất cả chúng sinh đều đắc Phật đạo".

- Vì cầu học đại phương tiện, không nhu cầu quyền lực, trụ Thủ lăng nghiêm, thị hiện các thứ.

- Tu đại tinh tiến lực, kinh Pháp Hoa chép: "Như có sức khỏe, làm được việc khó, cầu hạt châu trên búi tóc của vua". Có việc đó, tu quán thứ ba quán này chính là để phá vô minh. Nhưng vô minh không có tướng mạo, làm sao quán? Nay vẫn quán trí của 2 quán trước, vì sao? Vì nhìn trước thì hai quán là trí, nhìn sau lại là trí chướng.

Hỏi: Sao gọi là Trí chướng?

Đáp: Bởi trí của trung đạo, dung hòa không hai, hai trí trước chưa thể dung hòa thành một, cho nên gọi là trí chướng. Dung hòa thành một là không mà thường giả, giả mà thường không, vắng lặng thì chưa từng không chiếu soi, chiếu soi thì chưa từng không vắng lặng. Ấy là không giả tịch chiếu, đi song song mà không hai, tức là Trung đạo không hai, mà hai tức là đi song song. Thế thì tên 3 quán khác nhau nhưng thể thì giống nhau. Tuy giống nhau nhưng không hề là một. Tuy khác nhau nhưng chưa từng là 3. Chẳng phải 3 mà là 3, gọi là ba đức. Chẳng phải là một mà là một, gọi là đại Niết-bàn. Do đó kinh nói: "Ba đức thành một Niếtbàn, chẳng ba chẳng một, chẳng ngang chẳng dọc không thể suy nghĩ bàn luận". Trí của ba quán viên dung huyền diệu, phi tướng vô tướng, đều là không thật có. Gọi là Trung đạo quán trí. Vì vậy phá cái trí của 2 tướng không dung hòa ở trước.

Nay xin nói về thứ lớp ba quán:

Hỏi: Sao nói là viên dung không hai, thế thì có khác gì với viên quán?

Đáp: Thứ đệ ba quán nếu nhập Trung đạo thì không khác với viên quán, bởi thế nói như vậy.

Nay lấy 3 pháp để xét phá:

- Quán vô minh.

- Quán pháp tánh.

- Quán chân duyên.

* Trước tiên quán vô minh:

Quán hai trí trước là trí chướng, tức là vô minh. Ở đây hỏi trí chướng đó từ đâu sinh ra, nếu cho rằng từ vô minh sinh ra, thì mắc lỗi tự sinh, lại nữa vô minh không thực, làm sao sinh ra. Nếu cho rằng từ pháp tánh sinh ra, tức là Tha sinh. Vả lại pháp tánh vô sinh, làm sao sinh ra được. Nếu cho rằng vô minh và pháp tánh hợp tức là cộng sinh. Nếu lìa tức là vô nhân sinh. Bốn câu đều không thể lệ theo trước mà phá.

* Thứ hai là pháp tánh phá:

Trước xét vô minh không thật có, nhưng vẫn cho rằng vô minh tức là pháp tánh. Nay hỏi, là vô minh diệt, pháp tính sinh, hay là vô minh bất diệt, pháp tính sinh. Là vừa diệt vừa bất diệt, pháp tính sinh, hay là chẳng phải diệt, chẳng phải bất diệt mà pháp tính sinh. Bốn câu đều không thể.

* Thứ ba là chân duyên phá:

Vô minh đó là từ duyên tu mà sinh hay là từ chân tu mà sinh, hoặc cộng sinh hay vô nhân sinh. Nếu duyên tu sinh thì duyên tu vô thường, làm sao sinh? Nếu chân tu sinh thì chân làm sao sinh? Cộng và vô nhân đều không thể được.

Hai sự giải thích khác nhau:

- Nói rằng: Duyên tu hiển chân.

- Nói rằng: Duyên tu diệt chân, tự hiểu tức tự sinh.

Nếu duyên tu hiển chân tu tức là tha sinh. Bốn câu đều không thể, đồng thời phá như trước. Trên đây đã nói qua về thứ lớp ba quán thụ phá pháp biến lược xong. Còn đi vào chi tiết thì đã nói trong chỉ quán.

Thứ hai là nói về Phi thụ phá:

Trên đã nói qua về viên môn, ở đây xin nêu lên thêm Viên quán tâm. Mười giới sáu đường tức hữu môn, là sinh sinh cú. Nhị thừa tức không môn, là sinh bất sinh cú. Bồ tát tức diệc không diệc hữu môn, là bất sinh sinh cú. Phật giới tức phi không phi hữu môn, là bất sinh bất sinh cú. Nay đã quán nhất niệm tròn đủ mười giới, há chẳng phải là một giới tức mười giới, một câu tức bốn câu, một môn tức bốn môn, gọi là viên môn hay sao? Nay xin nói về viên môn đó để tu quán; môn đã viên thông thì quán cũng viên dung. Viên quán nhập viên môn. Vì sao? Nay viên quán tâm trong sáu đường, y cứ vào sinh pháp tức đủ cả mười giới, giả tức chưa từng bất không bất trung, tức là viên đã chế phục năm trú hoặc.

Quán tâm Nhị thừa giới đủ cả mười giới, tức là không quán, không nhưng chưa từng bất giả, bất trung, viên phục năm trụ.

Quán tâm Phật giới đủ cả mười giới, quán Trung nhưng chưa từng bất không, bất giả, mà thường song chiếu, lại nữa, quán giả mà chưa từng bất không bất trung. Thế thì giả chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, tức viên phục năm trú. Quán không mà chưa từng bất giả bất trung, thế thì không chẳng phải vô tướng, chẳng phải hữu tướng, tức viên phục năm trụ. Quán trung mà chưa từng bất không bất giả, thế thì tướng, vô tướng mà đi song song mà chưa từng tướng vô tướng, thế thì một giả tất cả giả, một không tất cả không, một trung tất cả trung, chẳng phải một, chẳng phải tất cả.

Hỏi: Không phá giả, giả phá không, trung phá cả không và giả.

Làm sao đắc dụng một thể được?

Đáp: Các vật chất trên thế gian ngăn chặn trở ngại nhau, bốn đại cùng phá nhau, mà còn có thể cùng nhau hợp thành một thể. huống hồ là linh trí ba quán tuy tương phá nhau, mà vẫn cùng nương nhờ nhau thành ba đức, một đại Niết-bàn đáng để nghi ngờ sao? Vì sao? Vì không phá giả, giả không có tướng. Giả phá không, không chẳng có tướng. Trung phá không và giả, chẳng mắc lỗi hai bên. Song dụng phá trung, trung không bị mất đi khô tươi song chiếu. Không nương nhờ vào phương tiện giả mà có tuệ giải. Giả nương nhờ vào không tuệ mà có phương tiện giải. Trung nương nhờ vào không và giả. Hai tuệ đều vắng lặng. Không giả nương nhờ vào trung, trung thường song dụng, hai bên đều đi song song. Nay xin đưa thêm một thí dụ, băng tuyết dụ cho hoả, nước dụ cho không, lạnh ướt dụ cho trung, cho nên băng, nước, ướt, 3 tên gọi tuy khác nhau nhưng không phương hại đến thể một. Tên gọi ba quán tuy khác nhau nhưng đâu phương hại đến đồng một thể. thế thì một phá tất cả phá, không có hoặc bào mà không hết. Một nương nhờ tất cả nương nhờ, không có pháp nào mà không thành. Lại nữa, viên quán tâm mười giới: Phật giới tức đức pháp thân, cũng tức là y áo Như Lai. Nhị thừa giới là đệ nhất nghĩa không, tức đức Bát-nhã, cũng tức là tòa Như Lai.

Bồ tát giới tức là đức giải thoát, cũng tức là Như Lai. Vậy thì 3 đức thành đại Niết-bàn, gọi là hạnh An lạc. 3 thứ y, tòa, nhà của Như Lai là viên hạnh của Như Lai. Bởi hạnh ấy là hạnh Niết-bàn, cho nên gọi là hạnh An lạc. Kinh Niết-bàn nói rằng: "Lại còn có một hạnh là hạnh Như Lai" là gọi hạnh đó. Bởi thế mới biết viên quán tâm mười giới tức là thường quán Niết-bàn hạnh đạo, thực hành hạnh Như Lai, là hạnh An lạc. 3 đức tức 3 Bát-nhã, 3 Niết-bàn, cho đến mười thứ ba pháp đều tròn đủ trong mười pháp giới quán. Lại nữa, An lạc tức lý một, hạnh tức hạnh một, người tu quán tức người một. Giáo lý của Viên giáo tức giáo một, nghĩa của 4 cái một là huyền tông của Pháp Hoa. Bởi viên phá 9 pháp giới, cho nên gọi là phi hoành phi thụ phá pháp biến.

5. Nói về sự thông, bít:

Kinh Pháp Hoa nói rằng: "Có một đạo sư (người hướng dẫn) khéo biết sự thông bít. Hướng dẫn cho mọi người vượt qua con đường hiểm trở để đến nơi có chứa chất báu".

Kinh Tịnh Danh nói rằng: "Các trần lao đệ tử, theo ý bị xoay chuyển tức là đó. Hành giả khéo hướng dẫn tâm sở chúng sinh, vượt qua con đường hiểm trở".

Kinh nói: "Thà làm thầy của tâm, đừng làm học trò của tâm". Nay quán tâm mười giới, ba quán tịch chiếu, hướng dẫn các tâm sở lìa khỏi nạn Nhị thừa, là làm thầy của tâm, gọi là đại đạo sư khéo biết thông bít. Vì sao? Biết sáu đường trong tâm tức khổ tập, là bít đối với chân đế. Biết Nhị thừa giới trong tâm tức đạo diệt, tuy thông chân đế nhưng bít đối với Bồ tát thế đế. Biết Bồ tát trong tâm, tuy thông thế đế nhưng bít đối với Trung đạo đệ nhất nghĩa đế. Phật giới trong tâm đủ khắp ba đế. Đó là thứ lớp nói về sự thông, bít. Nếu biết 9 giới trong tâm tức Phật giới thì tất cả bít đều thông, nếu quên Phật giới trong tâm thì là 9 giới, tất cả thông đều bít. Một đạo viên quán tâm giả mà bất không, tức tăng thêm sự hủy báng. Bít quán tâm không mà bất giả, tức là bít của sự tổn báng. Nếu song chiếu không, giả mà bất trung, tức là tăng thêm sự bít lấp của tổn báng. Nhưng trung mà bất không, giả tức phi hữu phi vô, gọi là bít của sự ngu si luận bàn.

Nếu quán tâm không mà thường giả tuệ, có phương tiện giải, là thông chẳng bít. Quán tâm giả mà thường không, phương tiện có tuệ giải, là thông chẳng bít. Quán tâm không, giả mà thường trung, nhị tuệ song chiếu, là thông chẳng bít. Quán tâm trung và thường không, giả, song dụng tịch chiếu, là thông chẳng bít.

Hỏi: Sao chỉ lấy tâm để nói về sự thông bít?

Đáp: Người quán tâm như trên mà không ngộ là do không biết sự thông bít tá chánh trong tâm mà thành chướng ngại. Tất cả pháp môn cho đến 10 chương đều y cứ vào tâm mà luận, đâu chỉ một chương "Thông bít" này thôi sao? Nếu y cứ vào thứ khác để giải thích luận bàn, e rằng người học đạo sẽ bị mắc bệnh mong cầu ở ngoài tâm, không xứng với ý chỉ của luận này.

6. Ba mươi bảy (37) Đạo phẩm điều đình: Đạo phẩm gồm có 4 thứ:

1. Phân biệt đạo phẩm: Như bốn niệm xứ, bốn chánh cần...

Ai cũng đều lấy đó mà nhập đạo.

2. Tương nhiếp đạo phẩm: như Tương nhiếp sáu độ.

3. Ước vị đạo phẩm: như bốn niệm xứ vị, cho đến tám chánh đạo vị, tức kiến đạo vị.

4. Tương sinh đạo phẩm: là đạo phẩm Tương sinh điều đình sẽ nói sau đây.

Đáp: Ai nói như thế? Chú thích luận này chính là để chê trách ý đó. Kinh nói: "Đạo phẩm Thiện tri thức, nhờ đó thành Chánh giác". Kinh lại nói: "Tu tám chánh đạo thấy được Phật tánh", chẳng phải Đại thừa sao?

-Bốn niệm xứ: là quán một niệm tâm có mười giới trăm như.

Nay quán sáu đường năm Ấm trong tâm "tức không" là nhị thừa giới, gọi là "Bốn niệm xứ khô". Quán sáu đường năm Ấm trong tâm "Tức giả" là Bồ tát giới gọi là "Bốn niệm xứ tươi".

Quán sáu đường năm Ấm trong tâm tức Phật giới, tức "chẳng phải khô chẳng phải tươi", nhập Niết-bàn vắng lặng hoàn toàn.

Quán Phật giới trong tâm tức 9 pháp giới, tức khô tươi song chiếu, hai chim bay song song.

Như vậy, quán mười giới trong tâm, chiếu mà thường tịch, tức 2 cây Sa la ở trong tâm nhập Đại Niết-bàn, tạng Bí mật của ba đức. Bởi thế kinh nói: "Tất cả chúng sinh tức Đại Niết-bàn, không còn phải diệt nữa" chính là ý đó. Đầu luận này đã có giải thích về bốn niệm xứ, nay không nói thêm.

Lại Quán sáu đường trong tâm tức Nhị thừa giới, tức phá bốn điên đảo ma của Thường lạc.

Quán sáu đường trong tâm tức Bồ tát giới, là phá ma của bốn điên đảo Vô thường.

Quán sáu đường trong tâm tức Phật giới, là phá cả hai thứ bốn điên đảo Thường lạc và bốn điên đảo Vô thường, "chẳng khô chẳng tươi mà khô mà tươi", hai chim bay song song, tịch mà thường chiếu, tức ở tâm ấy mà ngồi đạo tràng. Bởi thế kinh nói: "Tu bốn niệm xứ, gọi là ngồi đạo tràng" là ý đó. Mười giới trăm như tại tâm gọi là không thể suy nghĩ bàn luận. Danh và Tướng đều dứt lặng, y cứ vào tâm để nói về ngồi đạo tràng nhập Niết-bàn, ý thú rất huyền vi cũng không thể suy nghĩ bàn luận.

- Bốn chánh cần:

Là Quán mười giới của tâm, khi chưa sinh ra tâm ác trong sáu đường thì siêng năng ngăn chặn khiến đừng sinh ra. Đã sinh ra rồi thì siêng năng chận đứng cho nó mất đi. Khi chưa sanh ra tâm làn của bốn bậc thì siêng năng khiến cho sinh ra rồi thì siêng năng làm cho lớn lên, đó gọi là bốn chánh cần. Lại nữa, siêng diệt 9 giới, siêng sinh Phật giới. Bốn như ý túc: Là Tịnh định.

Tu bốn niệm xứ, bốn chánh cần trên đều có tính chất thuộc tuệ. Nhưng tuệ nhiều thì tán, cho nên tiếp đến phải tu "Như ý túc định", dùng để chế ngăn hiện tượng tán đó, khiến cho Định và Tuệ cân bằng nhau, khiến quán chiếu minh liễu rõ ràng. Kinh nói: "Tất ca chúng sinh có 3 thứ định: Thượng định, Trung định, Hạ định. Hạ định là Tâm sở định. Trung định là Vị thiền định. Thượng định là Phật tánh Thủ lăng nghiêm định". Như vậy chúng sinh đều có bản tập của Tịch định. Nay tu Như ý túc định, khiến cho tán tâm quay về với gốc Định. Kinh nói: "Tất cả chúng sinh tức tướng của Bồ đề, tức vốn có trí sáng". Nay tu bốn niệm xứ khiến quay về với nguồn gốc vốn thanh tịnh.

- Năm căn: Nghĩa là 5 căn: Tín, tấn, định, tuệ, niệm.

Đã tu bốn niệm xứ và Như ý túc định như trên, Định tuệ tịch chiếu, mười giới trăm như trong nguồn tâm đã sáng tỏ rõ ràng, không còn nghi ngờ gì nữa, thì tín căn đã sinh. Cứ siêng năng chuyển tiến tức là Tinh tấn căn sinh ra. Tuệ của niệm chuyển sáng tức là tuệ căn sinh ra. Như ý túc càng tăng tiến thêm là Định căn ra. Định và Tuệ cân bằng nhau tức Niệm căn sinh ra.

- Năm lực: Nghĩa là 5 lực: Tín, tấn, định, tuệ, niệm.

Tín lực phá nghi chướng. Tấn lực phá giải đãi chướng. Định lực phá loạn chướng. Tuệ lực phá si chướng. Niệm lực phá tà chướng. Bởi phá được 5 chướng cho nên gọi là Năm lực.

- Bảy giác: gồm: Hỷ, tấn, trạch, trừ, xả, định, niệm.

Ở trên tuy định, Tuệ chiếu sáng nguồn tâm nhưng vẫn không ngộ, e là cho trầm phù bất nhất, cho nên phải dùng bảy giác để điều đình cho được nhất tâm. Kinh nói: "Giữ lấy một tâm, dạo chơi trên con đường tám chánh". Tâm nếu bị phù tán, nên dùng 3 giác phần Trừ, Xả, Định để dứt loạn tâm.

Nếu tâm không phù không trầm thì nên dùng Niệm giác phần để tịch chiếu nguồn tâm. lại nếu nghiêng về "Quán tâm không" tức là tướng trầm. Nếu nghiêng về "Quán tâm giả" tức là tướng phù. "Chánh quán trung đạo" tức không trầm không phù, gọi là nhất tâm. Nếu bảy giác mà cũng không nhập được thì nên tu thêm tám chánh đạo.

- Tám chánh đạo: Quán tâm mười giới trăm như, quán niệm xứ như trên, quán tâm chẳng khô chẳng tươi mà khô mà tươi song chiếu. Một tâm tròn đủ 3 quán, gọi là "chánh kiến". Suy tư nghiên cứu lý đó gọi là "chánh tư". Nói tâm chánh quán cho người nghe gọi là "chánh ngữ". Quán đó cảm được diệu quả gọi là "chánh nghiệp". Dùng tuệ đó gọi là "chánh mệnh". Nhất tâm trung đạo gọi là "chánh niệm". Quán đó phá được Hoặc của hai bên gọi là "chánh tuệ". Quán ấy làm ngưng Loạn của hai bên gọi là "chánh định".

Thí dụ: bốn niệm xứ như Hột giống, bốn chánh cần như nẩy mầm, năm căn như mọc rễ, năm lực như cành lá, bảy giác là hoa bông, tám chánh như quả trái. Bởi vậy kinh nói: "Hoa Giác ý tịnh diệu quả giải thoát trí tuệ".

Đạo phẩm sắp đến thành Niết-bàn thì có 3 môn: Không, Vô tướng, Vô giác. Cũng gọi là 3 giải thoát, cũng gọi là 3 Tam-muội. Từ Chánh kiến đến Nhập định mà phát trí Vô lậu, trí Vô lậu gọi là Đại thần. Định gọi là Đại vương. Cho nên gọi là "Tam Tam-muội phi trí bất thiền". Từ chánh định sinh chánh kiến, phát sinh định vô lậu. Định vô lậu gọi là Đại thần, chánh kiến là Đại vương, gọi là "Tam giải thoát phi thiền bất trí".

Hai pháp sau của Khổ đế trong ba tạng là Không và Vô ngã, là "Không môn". 4 pháp sau của Diệt đế là "Vô tướng môn". 2 túc sau của tám khổ Tập đạo là 10, gọi là "Vô tác môn".

Khổ đế và Tập đế của Thông giáo đều thuộc không, tức "Không môn". Cũng không chấp tướng Không gọi là "Vô tướng môn". Đã chẳng có tướng của không cũng chẳng có tướng của giả, tức nhập Trung đạo. Cũng không có tướng của Trung đạo để mong cầu, gọi là "Vô tác môn".

3 Tam-muội của Viên giáo tức viên dụng. Đã theo thứ lớp mà phá nhập. Nên theo ba môn Tammuội của Biệt giáo mà nhập Niết-bàn.

7. Tu Lục độ trợ đạo:

Vì sao tu đạo phẩm điều đình như trên mà chân minh vẫn không khai mở? Tâm tham tiếc, chăm sóc bảo vệ thân mạng tài sản là hoặc loạn tâm thần. Mong cầu làm chướng ngại lý quán. Kinh nói: "Tham lam tài sắc, ngồi mà không đắc đạo". Ấy bởi không thể xả 2 báo; Y báo và Chánh báo. Thèm muốn triền miên, há ngộ đạo được sao? Đến như ngài Tát đà ba luân xả cả tủy xương là thứ khó xả bỏ, bán luôn cả thân xác là thứ khó bán, để cầu Bátnhã, huống nữa là tiền bạc của cải. Đã thế mà không thỏa nguyện ở Hương thành, khế Bát-nhã ở Đông độ ư? (Trung Quốc). Nhiều kiếp luống chôn thân mạng tài sản mà không hề vì đạo. Nay nếu xả được cái thân chắc chắn phải mất này, lấy ra hết để cầu đạo thì lo gì không hội. Trên đời có người dũng cảm hy sinh thân mình ở chiến trận, kẻ chết theo kiểu ấy có hàng ức hàng triệu. Kinh nói: "Kẻ chết vì chiến tranh, chắc chắn đọa địa ngục" rốt cuộc có lợi gì đâu. Nếu nay có hành giả, có thể dũng cảm vong thân, đánh phá bốn ma vương, há vua lại chẳng gỡ hạt ngọc sáng trong búi tóc mà tặng cho sao? Hoặc đang khi tu quán, tâm phá giới khởi lên. Ba nghiệp trái ngược nhau, ô phạm giới luật, khiến Lý quán không khai mở. Kinh nói: "Thi la không thanh tịnh, Tam-muội không hiện tiền". Cho nên phải vướng tâm giữ giới để làm cầu, để làm chân giới qua sông lớn sinh tử mới có thể được độ. Cho nên Bồ tát vì vượt qua biển lớn sinh tử, mến tiếc phao nổi một chút cũng không cho. Hành giả nên lấy đó làm gương.

Hoặc khi tu quán, sân nhuế sinh ra. Thường suy nghĩ não làm chướng lý quán, lúc đó nên tu tâm nhẫn. Kinh nói: "Nhẫn nhục đạo bậc nhất, Niết-bàn Phật trên hết" người lấy cong vậy đối với ta, ta đàng sự thẳng thắn đối lại, thành tâm không sân, với lý tự thẳng. Kinh nói: "Sân thì thường mặc y

Như Lai". Y Như Lai là sự nhu hòa nhẫn nhục. Kinh lại nói: "Nếu các điều ác đến thì càng phải gia tâm niệm Phật". Bởi thế nên nhẫn nhục. Nếu thực hành được lời Phật dạy thì không việc nào mà không thành.

Hoặc khi tu quán, tâm biếng nhác sinh, không thể khai ngộ, nên càng tinh tiến. Hễ làm việc nhỏ mà tâm không quyết định đạt đến thì còn không thể thành, huống nữa là vượt qua cửa ải hiểm trở của năm trụ, vượt qua biển lớn của sinh tử mà không siêng năng cần cù thì làm sao hợp với diệu đạo? Đến như ngài Ba luân đứng ở bên đường, trải qua vô lượng thời gian, chẳng để ý đến sự mệt nhọc, chẳng để ý đến ngày đêm, chẳng để ý đến ăn uống, chỉ để đến khi nào thì gặp được Bồ tát Đàm Vô Kiệt, được nghe Bát-nhã, nhờ sự tinh tiến đó mà thầm cảm thông. Bởi thế kinh nói: "Bởi các Đức Phật nhất tâm siêng năng tinh tiến, cho nên đắc được Tam bồ đề" huống gì là các pháp lành khác. Cho nên vị Tiên lạy bộ xương trắng để cám ơn sự siêng năng của kiếp trước. Ngạ quỷ đánh xác chết để báo trả sự biếng nhác của kiếp trước. Nay không đánh thân mình để tiến đạo, sau này nghĩ ngợi nhọc nhằn có ích gì?

Hoặc đang khi tu Quán mà tâm tán loạn sinh ra, lúc đó nên tu thêm thiền tịch. Kinh chép: "Mười kiếp ngồi đạo tràng, thân thể và tay chân, tịch nhiên an bất động". Được như thế thì Lý quán làm sao không phát được? Thích luận chép: "Bụi che kín mặt trời, mưa rơi thấm mất đi, giác quán phong động tâm, thiền định diệt được đó. Thiền là. Thiền là nước trong ruộng phước công đức". Bởi thế mới biết Thiền có nhiều thứ công năng, nên gia tâm tu để giúp cho Lý quán.

Hoặc đang khi tu quán, tâm mờ tối sinh ra thì nên tu phương tiện khéo léo. Vì sao? Vì trên tu viên quán sinh tử tức là Niết-bàn, phiền não tức là Bồ đề, không sinh tâm sợ hãi đối với sinh tử, thường sinh biếng nhác kiêu mạn, cho nên phải tu Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã. Quán 5 thứ bất tịnh trợ đạo để thúc đẩy lý quán. Vì sao? Vì Lý tuy là Viên thông nhưng chưa thể chứng, đâu tránh khỏi vô thường sợ hãi?

Trên đây là nói sơ lược về sáu độ trợ giúp phát sinh Lý quán. Nếu vẫn không khai ngộ thì nên quán thêm Trợ đạo sáu độ sau đây, tức "Bất khả tư nghị nhiếp đạo phẩm Lý quán nhất thiết pháp môn", tức biết công lực của sáu độ rất lớn có công năng phá Hoặc, sự lý tu. Như xả giác phần trong Đàn độ nhiếp đạo phẩm, xả hai bên sinh tử.

Kinh chép: "Xả cho mé sau sinh tử, lìa sinh giả bệnh chết, được thường trú bất hoại". Trung luận chép: "Pháp do nhân duyên sinh ra, ta nói tức là không, cũng gọi là giả danh, cũng gọi nghĩa trung đạo". Nay quán tâm sáu đường sinh diệt mà xả phiền não tức là pháp sinh ra bởi nhân duyên, là đàn xả thuộc sự trong Tam tạng. Quán tâm nhị thừa giới tức là không, mà xả sinh ra mé trước sinh. Quán tâm Bồ tát giới là Giả, mà xả mé sau sinh tử. Quán tâm Phật giới tức trung đạo, mà lìa sinh già bệnh chết, được thường trú bất hoại. Ấy là nhất tâm viên quán mười giới, tức là Viên tu tứ giáo đạo phẩm, sự lý xả đàn. Viên xả mé sau sinh tử được thường trú bất hoại, được vậy thì sự lý đàn độ đều đầy đủ.

Nếu vẫn chưa ngộ, thì tu thêm chánh nghiệp, chánh mạng trong đạo phẩm, là sở nhiếp của giới độ.

Những điều được nói ở trên là lấy tâm biện về đạo phẩm sáu độ. Nay vẫn lấy tâm để biện về 10 loại giới của Sự Lý. Thế nào là Quán tâm lục đạo giới là pháp nhân duyên sinh, giữ bốn thứ giới từ bất khuyết giới cho đến đến Bất tạp. Quán tâm Nhị thừa giới tức giữ 2 thứ giới Tùy đạo và Vô trước. Quán tâm Bồ tát giới tức giữ 2 thứ giới Trí sở tán và Tự tại. Quán tâm Phật giới tức giữ tùy định cụ túc giới. Ấy là quán tâm sáu đường nhân duyên sinh diệt, đạo phẩm trong sự của tam tạng. Còn giới của Chánh nghiệp, Chánh mệnh thì Quán tâm tức Không, tức Giả, tức Trung. Giữ giới của Chánh nghiệp, Chánh mạng đạo phẩm trong lý của Thông giáo, Biệt giáo, Viên giáo, đó là Viên quán mười giới, tức Lý Sự trì giới.

Nếu vẫn chưa khai ngộ, nên suy tư thêm về niệm căn trong năm căn của đạo phẩm, niệm lực trong năm lực, Niệm giác trong bảy giác, Chánh niệm trong tám chánh, tức là thuộc về nhẫn độ. Ở đây lệ theo trước, lại y cứ vào Quán lục đạo giới trong tâm, tức "Phục nhẫn" trong sự của pháp do nhân duyên sinh, Quán nhị thừa giới trong tâm tức không, tức "Nhu thuẫn nhẫn". Quán Bồ tát giới trong tâm tức giả, gọi là "Vô sinh nhẫn". Quán Phật giới trong tâm tức trung, gọi là "tịch diệt nhẫn". 3 nhẫn đó là Lý. đó tức là Viên quán mười giới trong tâm. Cụ túc sự lý tu nhẫn.

Nếu vẫn chưa ngộ, thì nên suy tư thêm về tám tinh tiến của đạo phẩm. Quán thế giới sáu đường trong tâm, tức tinh tiến về sự. Quán thế giới nhị thừa trong tâm, tức tinh tiến về không. Quán thế giới Bồ tát trong tâm, tức tinh tiến của "xuất giả". Cho nên kinh nói: "Đối với ý sinh tử mà có dũng mãnh". Quán Phật giới trong tâm tức Tinh tiến về trung. Kinh nói: "Các Đức Phật nhất tâm tinh tiến, đắc Tam bồ đề". Đó là Viên quán mười giới trong tâm, đủ cả Sự lý tinh tiến.

Nếu vẫn chưa ngộ, suy tư thêm tám định của đạo phẩm, 4 như ý túc định, căn định, lực định, giác phần chánh định, là các định thuộc về Thiền độ. Quán thế giới 6 đường trong tâm là tu các định như bốn thiền bốn định trong sự. Quán thế giới nhị giới trong tâm là tu "Quán luyện huân tu chân đế Tam-muội định". Quán thế giới Bồ tát trong tâm là tu "Tục đế Tam-muội". Quán Phật giới trong tâm là tu 9 thứ đại thiền Thủ lăng nghiêm vương Tammuội. Đó là viên quán mười giới trong tâm tu đủ các thiền sự lý.

Nếu vẫn chưa ngộ, suy tư thêm mười tuệ trong đạo phẩm. Bốn niệm xứ tuệ, tuệ căn, tuệ lực, 2 giác phần trạch, hỷ, chánh kiến, chánh tư duy, các tuệ đó là sở nhiếp thuộc Bát-nhã độ. Như quán thế giới 6 đường trong tâm là sự, tu "Thế trí". Quán thế giới nhị thừa trong tâm là tu "Trí nhất thiết". Quán thế giới Bồ tát trong tâm là tu "Trí đạo chủng". Quán Phật giới trong tâm là tu "Trí nhất thiết chủng". Đó là quán mười giới trong tâm đủ các Ba-la-mật sự lý. Bồ tát Tam tạng đa số lấy sự siêng năng khổ cực trong sự để tu sáu độ mà không có sự sai lầm. Bồ tát Thông giáo đa số lấy lý "tức không" để tu sáu độ, cho nên 3 sự đều diệt mất. Bồ tát Biệt giáo đa số lấy "xuất giả" để tu sáu độ giáo hóa chúng sinh. Bồ tát Viên giáo đa số lấy "Trung đạo" để tu sáu độ. Đó là từ bốn câu thuộc nhau, phá nhau, tu lẫn nhau, tức lẫn nhau của Đạo phẩm sáu độ.

Thế nào là sáu độ điều phục các căn?

Quán thế giới sáu đường trong tâm là pháp do nhân duyên sinh, "Tức sự" sáu độ điều phục các căn.

Quán thế giới Nhị thừa trong tâm "tức không", để điều phục các căn, lìa sự ái nhiễm của các trần.

Quán thế giới Bồ tát trong tâm "tức giả", để điều phục các căn, lìa ái nhiễm hai bên.

Nhất tâm viên quán thập giới, tức như trên đã nói về sự lý sáu độ, viên điều phục các căn. Kinh nói: "Cái gọi là nhãn căn, ở các Như Lai thường đầy đủ không giảm" tu thì thấy rõ ràng phân minh, cho đến ý căn lấy viên giáo mà điều phục. Bởi thế mới nói năm căn đều gọi là Thường. Xét kỹ thì rõ. Thế nào là sáu độ nhiếp Phật uy nghi?

Mười lực: Thế giới sáu đường là pháp do nhân duyên sinh, tức "Sinh diệt tứ đế". Thế giới Nhị thừa trong tâm tức "Vô sinh tứ đế". Thế giới Bồ tát trong tâm tức "Vô lượng tứ đế". Phật giới trong tâm tức "Vô tát tứ đế". Nay tịch chiếu quán rõ khổ tập, sáu đường trong tâm trả về cho sáu đường thì vẫn có việc ấy. Nếu trả về Niết-bàn thì không có việc ấy. Mỗi mỗi đều chiếu rõ, khổ tập của 3 loại tứ đế khác cũng vậy. Đó gọi là "Xứ phi xứ lực". Chiếu biết tập của 4 loại tứ đế gọi là "Nghiệp lực". Chiếu biết khổ của 4 loại tứ đế gọi là "Căn lực". Đạo, Diệt cũng như vậy, chiếu tri tám định của đạo phẩm trong 4 loại đạo đế gọi là "Định lực". Biết khổ tập thời quá khứ của chúng sinh mười thế giới trong tâm gọi là

"Căn lực". Biết khổ tập vị lai của chúng sinh trong mười thế giới là "Tính lực". Biết 4 loại đạo đế là "Chí xứ lực". Biết 4 loại Diệt đế là "Lậu tận lực".

Bốn vô úy: Quán chiếu 4 thứ Khổ đế của mười thế giới trong tâm, giải thích khác nhau và để hiển bày sự sai lầm của chúng sinh tâm sở. Quyết định sư tử hống, không có một tướng nhỏ nào, không phá được. Là "Pháp phi pháp trí vô úy". Biết 4 loại Tập đế làm chướng ngại 4 thứ Đạo, Diệt. Quyết định sư tử hống, không có một tướng nhỏ sợ hãi nào cả, không có điều gì là khó diễn tả ra được, đó là "phi chướng đạo, tức chướng đạo vô úy". Biết 4 thứ đạo đế có thể hết khổ, nói một cách vô úy, là "Tận khổ đạo vô úy". Biết 4 diệt đế có thể chứng tất cả, nói một cách vô úy, gọi là "Lậu tận vô úy".

18 pháp bất cộng: Thân miệng không lỗi lầm là "giới", không có tâm bất định là "Định". Dục không giảm, tinh tiến không giảm, niệm không giảm, gọi là "tám tinh tiến". Tuệ không giảm, giải thoát không giảm, giải thoát tri kiến không giảm, 3 nghiệp thực hành theo trí tuệ, có 12 pháp bất cộng, là 10 thứ tuệ, nó còn nhiếp hết sáu độ đạo phẩm.

Bốn vô ngại: Biết ngôn từ của chúng sinh mười giới trong tâm là khác nhau, tức "bốn vô ngại". Biết pháp của 4 thứ Tứ đế, là "Pháp vô ngại". Biết 4 thứ Nghĩa đế, là "Nghĩa vô ngại". Nói mãi không bao giờ hết về Tứ đế, là "Lạc thuyết vô ngại".

Sáu thần thông: gồm 3 thông: Nhãn thông, Nhĩ thông, Như ý thông. Như đã nói trong phần Điều phục các căn. Và 3 thông: Tha tâm thông, Túc mệnh thông, Lậu tận thông, như đã nói trong phần Mười lực.

Ba minh: Như đã nói trong sáu thông.

Bốn nhiếp: Xả tức "Bố thí nhiếp" (thuộc về bố thí), Chánh nghiệp, Chánh ngữ, tức "Ái ngữ nhiếp" (thuộc về phần Ái ngữ), tám định tức "Lợi hành nhiếp" và "đồng sự nhiếp". Bởi định làm phát thần lực cho nên có thể đồng sự.

Đà la ni: Bốn chánh cần sinh ra điều lành tức Đà la ni.

Ba mươi hai tướng: Đạo phẩm của 4 thứ đạo đế làm chân, 12 pháp môn đã nêu trên đều thuộc về sáu độ trợ đạo. Huống nữa là Chánh đạo. Ba quán bốn giáo mỗi thứ đều có tất cả pháp: như Đạo phẩm, Sáu độ, Mười lực, Vô úy. Nay quán tâm đủ cả mười giới tức là ba quán bốn giáo, thế thì có Giáo nào, Lý nào, Hạnh nào, Trí nào, Vị nào, Hoặc nào, Pháp nào mà chẳng gồm nhiếp.

Bởi thế kinh nói: "Đập vỡ hạt bụi tâm, lấy ra quyển kinh Đại thiên". Lại nói: "Tâm của chúng sinh là Như Lai tạng, không có pháp nào không có đủ". Kinh Tịnh Danh chép: "Phải cầu sự giải thoát của các Đức Phật trong tâm chúng sinh". Kinh Pháp Hoa chép" "Để khiến cho chúng sinh khai Phật tri kiến". Kinh Pháp Hoa chép: "Để chỉ bày kho báu ẩn kín trong tâm cô gái nghèo". Như thế bởi tâm có đủ tất cả muôn pháp cho nên các kinh Đại thừa đều khen ngợi tâm chúng sinh là không thể suy nghĩ bàn luận, còn khuyên bảo cách quán sát để hiển rõ kho báu trong tâm. Nay dựa theo sự chỉ bày của các Thánh mà quán tâm, tự tâm là cảnh bất khả tư nghì. Ý là ở đó. Cảnh đã bất khả tư nghì, cảnh phát ở trí, trí cũng bất khả tư nghì. Cho nên kinh chép: "Cảnh bất khả tư nghì, chiếu bất khả tư nghì trí", là ý nghĩa đó. Kinh lại nói: "Các Đức Phật, Như Lai pháp giới thân đều từ tâm tướng của chúng sinh mà sinh ra". Tâm ấy tức là 32 tướng, tâm ấy là Phật. Cho nên kinh chép: "Tâm dạo chơi trong pháp giới như hư không, người ấy có thể biết được pháp giới của các Đức Phật".

8. Biết Thứ vị:

Trên đã nói tu đủ cả chánh đạo, trợ đạo, thì chắc chắn sẽ tùy phần mà chứng, thắng pháp đó nếu không biết thứ vị thì tự mình là Thánh, chẳng những chỉ mất đi chánh quán, mà còn vời thêm tội nặng, vì vậy cần phải biết thứ vị. Thứ vị là gì? Năm phương tiện thuộc ba tạng là tự (tương tự), bốn quả là chân. Các địa: Cản tuệ tánh địa... của Thông giáo là tựa, kiến địa trở lên là Chân. Ba mươi tâm của Biệt giáo là tự, Thập địa là chân. Thập tín của Viên giáo là tựa, Thập trú là Chân. Đó là bốn giáo đều có vị chân, tự. Đem pháp chứng được bởi tâm so với vị thì tự biết hành xứ của mình. Nhưng người muốn nhập viên vị còn phải tu thâm 5 sám hối trong 6 thời để trợ giúp hiển rõ lý quán.

1. Sám hối: Trước tiên cần phải biết rõ lỗi lầm của Mười tâm khi thuận theo dòng chảy sinh tử. Mười tâm đó là:

- Một là bên trong có vô minh, do quên Phật giới trong tâm nên không khởi lên 6 đường sinh tử.

- Hai là bên ngoài gặp bạn xấu (ác hữu); một là người xấu, hai là môi trường, hoàn cảnh xấu.

- Ba là không tùy hỷ vui theo những điều lành những việc làm tốt đẹp của người khác.

- Bốn là buông lung ba nghiệp thân, miệng, ý tạo tội. Bởi bên trong có vô minh, bên ngoài gặp hoàn cảnh môi trường xấu mà dẫn đến như vậy.

- Năm là việc tuy không phổ biến khắp nơi nhưng tâm lại phổ biến khắp nơi. Các tội dâm, đạo không thể thực hiện khắp nơi, nhưng tâm lại có thể tạo khắp các tội sáu đường.

Sáu là niệm ác nối nhau, tâm ác của ba độc bốn thú cứ lần lượt thay nhau tiếp nối.

- Bảy là che dấu tội lỗi của mình không sửa đổi: Bên ngoài thì không sửa lỗi sám hối với bậc phàm, Thánh. Bên trong thì không tu pháp mầu Phật giới trong tâm, phá sự che chướng 6 đường.

- Tám là không sợ đường ác, kiếp này thì không sợ bị thiêu nấu bởi ngọn lửa của phiền não, ba đạo, ba chướng bốn đảo, tám khổ. Kiếp sau thì không sợ bị đọa vào ba đường.

- Chín là không biết hỗ thẹn, thường khởi nghiệp ác của ba đường. Bên ngoài thì không biết thẹn với phàm, Thánh. Bên trong thì không biết thẹn với đệ nhất nghĩa thiên.

- Mười là bái bác cho rằng không có nhân quả, trở thành nhất xiển đề, không tin tâm có nhân quả khổ tập của sáu đường, nhân quả thuộc đạo, diệt của bốn Thánh, bởi người muốn sửa đổi thì phải biết 10 tâm thuận theo dòng chảy vào biển lớn sinh tử. Biết lỗi thì phải sửa đổi mới có thể hối lỗi.

Kế nữa là tu mười tâm ngược dòng biển sinh tử, để phá tan 10 tâm trước. Mười tâm ấy là:

- Một là tin một cách sâu sắc về nhân quả: tức là tin một cách trọn vẹn tâm có đủ mười giới. mê thì thoát ra nhân quả của khổ, tập thuộc sáu đường, như nước đóng thành băng. Ngộ thì thành nhân quả của đạo, diệt thuộc bốn Thánh, như băng tan thành nước. Mà băng và nước không hề khác thể. Sinh tử và Niết-bàn không hề có hai. Đây là phá tan tâm thứ 10 "bất tín" ở trên.

- Hai là hỗ thẹn: Trong thì thẹn là tâm có Phật giới, sao ta lại vọng tội nghịch cha mà nhập vào năm đường, hơn 50 năm vọng gây ra nhiều tội. Ngoài thì thẹn với các vị Thánh hiền. Đó là phá tan điều thứ 9 "không biết hỗ thẹn".

Ba là sợ đường ác: đã gây ra vô biên đại tội, thì phải đọa vào 3 đường ác, trốn giữa đá núi cũng chẳng tránh được, bởi thế mới nói sinh tâm sợ hãi để phá tan tâm thứ 8 "không sợ hãi".

- Bốn là phát lộ hối lỗi: vì mê mà che đậy tội lỗi thì sinh tử càng thêm, hối lỗi thì trở về nguồn cội vốn tịnh. Cho nên nói phát lộ ra ngoài tội lỗi của mình thì được an ổn, không phát lộ thì tội càng sâu nặng, phá tan tâm thứ 7 "che dấu tội lỗi".

- Năm là cắt đứt tâm nối nhau: hối lỗi xong rồi, ba quán nối nhau, giữ tâm hướng về bốn Thánh, đừng khởi niệm ác về sáu đường, phá tâm thứ 6 "niệm ác nối nhau".

- Sáu là bên ngoài phát khắp tâm từ, bên trong thề độ chúng sinh sáu đường trong tâm, để phá tâm thứ 5 "việc làm tuy chẳng khắp mà tâm thường khắp cả".

- Bảy là tu công đức để bù đắp lỗi lầm: siêng năng tinh tiến 3 nghiệp để hiển bày pháp môn bốn Thánh trong tâm. Bù đắp lại lỗi lầm của 3 nghiệp xưa kia đã gây ra, để phá điều thứ 4 "Buông lung 4 nghiệp tạo tội".

- Tám là vui theo những điều lành, những việc làm tốt đẹp của người khác. Đã tin bốn tánh trong tâm ta, cũng tin tất cả chúng sinh đều có tri kiến Phật. Vui mừng mà kính trọng họ, như Bồ tát Thường Bất Khinh, để phá điều thứ 3 "Không vui theo việc lành của người khác".

- Chín là gần gũi bạn lành, thường quán bốn Thánh trong tâm: Thế giới Nhị thừa có tám mươi bốn ngàn pháp thật "Không Ba-la-mật", gom tất cả pháp này thành tám mươi bốn ngàn giả danh Thanh văn. Thế giới Bồ tát tức có tám mươi bốn ngàn Bồ tát. Phật giới thì có tám mươi bốn ngàn Như Lai. Cho nên kinh chép: "Đạo phẩm thiện tri thức do đó thành Chánh giác". Kinh chép: "Tin những điều người nói là thấy ta, cũng thấy ở người và tỳ khưu tăng cùng các Bồ tát", đó là lấy tâm để phân biệt về Thánh chúng tri thức, phá tan điều thứ 2 "ngoài gặp bạn ác".

- Mười là Quán phá Vô minh: Quán 9 giới trong tâm tức pháp giới Phật: Nguồn gốc thanh tịnh, chẳng phải cái Hữu của sáu đường sinh tử, chẳng phải cái Vô của Niết-bàn thuộc Nhị thừa. Thấu đạt rõ tội phước hai bên, sáng và tối không trừ nhau, hiển rõ tâm Phật bồ đề, tức phá vô minh, quay về với nguồn gốc tịnh, phá điều thứ nhất "Bên trong có vô minh". Cho nên gọi những điều đó là "mười tâm ngược dòng", phá "mười tâm thuận dòng" ở trên. Đó gọi là Đại sám hối, gọi là Trang nghiêm sám hối. Cho nên kinh nói: "Ngồi ngay ngắn nhớ nghĩ thật tướng thì các tội như sương đọng, mặt trời trí tuệ làm tiêu tan".

2. Khuyến thỉnh: Bên ngoài thì thỉnh các Đức Phật độ chúng sinh, bên trong thì khuyên quán tâm. Phật nói pháp để hóa độ chúng sinh trong 9 giới, cả chúng sinh bên ngoài và bên trong đều nhờ vào sự lợi lạc của pháp.

3. Vui theo: Bên ngoài thì vui theo các công đức của các Đức Phật, Bồ tát, các việc lành hữu tướng tĩnh loạn của phàm phu. Bên trong thì vui theo các công đức lành của bốn Thánh chúng, tín sâu vui theo không làm ngược lại.

4. Hồi hướng: bên ngoài thì hồi hướng các điều lành tu được do ba nghiệp của phàm Thánh, hướng về Phật Bồ đề. Trong thì hồi hướng các điều lành của 9 giới, hướng đến quả Phật giới trong tâm.

5. Phát nguyện: Ngoài thì nguyện chúng sinh đều thấy Phật tánh, trong thì nguyện chúng sinh tâm sở mau chóng quay về nguồn tịnh. Hàng ngày thường tu 5 hối đó trong 6 thời, trợ giúp cho Viên quán sáng ra. Thỉnh các Đức Phật gia thêm uy lực cho viên tín được thành tựu. Gọi là "Sơ tủy hỷ phẩm". Lại thêm đọc tụng gọi là "Đệ nhị phẩm", gồm giảng nói cho người khác nghe, chuyển hóa trở về chính mình, trợ ích cho sự sáng sủa của Quán pháp, gọi là "Đệ tam phẩm", thực hành cả sáu độ gọi là "Đệ tứ phẩm", thực hành đủ sáu độ gọi là "Đệ ngủ phẩm". Kinh nói: "Giải thích các thứ cho người khác nghe, giữ giới thanh tịnh, nhẫn nhục không sân, thường quý ngồi thiền, tinh tiến mạnh mẽ. Lợi căn trí tuệ, thì nên biết người ấy đã hướng đến đạo tràng, gần với Tam bồ đề, tức Thập tín tâm".

Trên là 5 phẩm trong Phổ Hiền quán, chưa nói hết về Thập tín. Cứ theo thứ tự 52 vị như thế thì Cứu cánh Diệu giác không bị sai phạm, gọi là Biết thứ vị.

9. An Nhẫn:

Tâm năng nhẫn thành đạo, về sự thì không lay động cũng không lui sụt, tâm ấy gọi là Tát đỏa. Từ mục thứ nhất của nhất niệm là cảnh bất khả tư nghì cho đến mục 8 "Biết thứ vị", được như thế thì chướng hoặc chuyển thành tuệ tâm phát mở, hoặc đắc được tiến ngộ nhất phẩm, thần trí bén nhạy, tuệ tâm sáng suốt. Kinh luận vốn chưa được nghe qua chưa được học qua mà vẫn thông hiểu, muốn giải thích chỉ một điều trong kinh luận cũng biện luận thao thao bất tuyệt. Sự sáng suốt như mặt trời mặt trăng, như kho báu ôm ấp trong lòng. Nếu uẩn giải được gọi là Cân Sách. Nội tu sẽ càng tiến sâu vào, nhưng "dùi nhọn không thể bỏ trong bao vải", không thể An Nhẫn, hoặc được người khác lãnh chúng khen ngợi, tuy nói có ích, nhưng vẫn vì hạnh chưa được kiên cố, sẽ bị bại hoại bởi tám thứ gió.

Cho nên mới nói về sự An Nhẫn.

10. Không khởi ái thuận đạo pháp:

Đã vượt qua được các chướng ngại bên ngoài, các chướng bên trong đã kể trên, đáng lẽ phải được nhập vào chân, nhưng không thể nhập được, là vì có pháp ái, đắm mê dính mắc mà không nhập vào được. Kinh nói: "Pháp Vô nhiễm. Nếu nhiễm đối với pháp, cho đến Niết-bàn, đó là đam mê dính mắc, chẳng phải cầu pháp. Pháp là Vô trú. Nếu trú ở pháp, ấy là trụ pháp, chẳng phải cầu pháp". Tỳ Đàm chép: "Noãn pháp vẫn còn lui sụt": Nếu người thuận theo pháp vị mà khởi pháp ái, đáng được nhập nhưng chẳng nhập được, lui sụt thành bốn tội nặng, năm tội nghịch, Thông giáo và Biệt giáo đều có, đó là ý nghĩa của sự Thuận đọa. Đại luận chép: "3 Tam-muội là Tuệ đạo vị, khi chưa phát chân, mà vui mừng thì bị pháp ái, gọi là Thuận đọa". Hành giả thời nay, cả muôn người chẳng có một người đạt đến trình độ như vậy, nếu ai đạt đến trình độ như vậy thì nên khéo hộ trì. Đạt đến địa vị này thì không có chướng bên trong, không có chướng bên ngoài, chỉ có pháp ái, pháp ái khó dứt bỏ. Nếu cứ ôm giữ dính mắc thì đó chẳng phải là chuyện nhỏ. Nếu không có pháp ái thì tự nhiên chảy vào biển Tát bà nhã. Khi ấy tất cả trí tuệ của mình chẳng phải do từ cái ngộ của người khác. Công đức của người ấy chỉ có Phật mới biết được.

Trên đây là 10 pháp, hướng dẫn hành giả học đạo, là nguyên tắc để tiến thú trên đường đạo. Chỉ cần thực hành đúng như thế, các công đức nhập vào sau này, luận này không bàn đến.

Từ Sơ quán tâm là cảnh bất khả tư nghì cho đến pháp thứ 10 "Không khởi pháp ái thuận đạo".

10 pháp đó gọi là Đại thừa, gọi là Ma ha diễn.

Pháp Hoa chép: "Tặng mỗi đứa con một chiếc xe lớn, xe ấy cao rộng, các vật báu trang nghiêm, lan can bao quanh, chuông treo bốn mặt, bên trên có mái che" như kinh nói "Đại thừa ở đây cũng giống như vậy. Vì sao? Nay viên tu ba quán, sừng sững thấu suốt đến cội nguồn của ba đế, gọi là "Cao". Rộng thu cả 10 giới, gọi là "Quảng". Hai pháp chỉ và quán là 2 bánh của chiếc xe. Vô lượng đạo phẩm làm các vật báu trang nghiêm. Đà la ni có công năng chặn ác không khởi, giữ điều lành không mất, tức "Lan can bao quanh". Bốn biện tức là "chuông treo bốn mặt". Từ bi phủ khắp tức "mái che mười lực vô úy, 18 pháp bất cộng tức "đồ trang trí bằng các thứ quý giá. Bốn thệ nguyện rộng lớn, có thể trì giữ các hạnh tức là "dây báu đan chéo nhau". Bốn pháp nhiếp có thể làm vui lòng chúng sinh, tức là "rủ các hoa lạc đẹp. Bốn môn quy tông, ngừng nghỉ các hạnh gọi là "an trí đan chẩm". Tuệ của bốn niệm xứ có công năng phá tan sự đen tối của 8 đảo, tức là "kéo bởi bò trắng". Bốn chánh cần, siêng năng sinh ra hai thứ điều lành, tức là "to lớn sức mạnh. Bốn chánh cần chặn được hai thứ, tức là "da dẻ sạch sẽ". Bốn như ý túc tức là "hình thể đẹp đẽ", năm căn vững chắc không hề lay động tức là "có năng lực mạnh mẽ. Bảy giác điều đình, trầm phù vừa chừng gọi là "đi bộ". Tám chánh đạo, không bị nghiêng lệch hai bên gọi là "bình chính". Sáu lục độ trợ đạo tức là "Lại nhiều người hầu theo thị vệ". Không khởi pháp ái tức là "Nhanh như gió".

Đó là "Viên quán tâm thập giới nhất thiết pháp môn". Bởi nó có công năng vận chuyển hành giả ra khỏi hai bên sinh tử, thẳng đến quả Phật, cho nên gọi là xe Đại thừa. Pháp môn đã giải thích như trên. Nay quán Ấm, giới, nhập làm 10 pháp thành thừa, tướng của chúng như vậy. Cho nên kinh nói: "Ngồi chiếc xe qúy báu này, dạo khắp bốn phương, vui chơi sung sướng". Cho nên kệ nói rằng:

Hỏi quán tự sinh tâm

Làm sao biết mười
Đều thành mười thừa pháp
Dạo bốn phương vui sướng.
Là nghĩa đó vậy.

2. Quán cảnh phiền não:

Trước đã quán Ấm giới nhập, nếu vẫn không ngộ thì đó là không đúng, quán sát không thôi, tham sân phiền não phát tác, thế thì nên ngừng quán Ấm giới nhập, mà quán phiền não. Vì sao? Các hoặc của năm dục, năm cái, và Ấm giới đều là những phiền não bình thường. Nhưng Quán Ấm nhập là quán về hoặc bình thường của quả báo, ở trong đó mà tìm cầu sự cởi mở.

Nay Quán về ba độc phát tác một cách khác thường.

Gọi là Quán cảnh phiền não.

Các hoặc thông thường phát ra thì dễ phân biệt, dứt bỏ. Như nước chảy xuôi ngang bằng. Nếu cảnh phiền não phát thì không thể ngăn chặn nổi. Dục phát thì không tránh được cái chết. Như nước chảy xiết, chặn gạt nó thì nước bắn tung toé lên, cũng như người có sức mạnh mà mình không biết, xúc phạm họ, khiến họ tức giận. Cũng như đụng vào sư tử đang ngủ, sư tử rống lên vang dội cả trời đất. Đạo tràng sám hối, quán Ấm giới nhập mà phát cảnh phiền não, tướng nó cũng giống như vậy. Nếu người không biết bị bại hoại vì nó. Nó lôi kéo người ta gây ra các thứ tội nặng, chẳng những chánh quán không thành mà còn tăng thêm tội lỗi cực lớn. Bởi thế cần phải quán cảnh phiền não. Gồm 4 phần: 1-Phát tướng, 2-Nhân duyên, 3-Phép trị, 4-Tu chỉ quán.

1. Phát tướng:

Phiền não là pháp tối tăm, làm não loạn tâm thần, tức là "Kiến tư lợi độn hoặc". Độn sử đâu chỉ có tham sân, mà không kể cả ngã. Như các loài động vật, bò bay cựa động, thực không biết suy lý mà vẫn cứ vênh râu, lại như kẻ phàm phu thấp kém chưa từng chấp kiến tư nghị vẫn thường khởi ngã tâm. Bởi thế mới biết năm độn chẳng phải không có lợi. Mà năm lợi há lại chỉ có kiến thủ, giới thủ sao. Đâu từng không có tham sân. Khi vừa phát chấp bèn sinh ra nhuế độc. Bởi thế mới biết Danh từ Lợi và Độn chung với kiến tư. Nay y cứ vào vị để phân chia thuộc độn. Nếu khi chưa phát thiền khởi kiến, thì vẫn theo trí óc của thế gian mà suy lý, kiến tướng vẫn còn yếu kém, tất cả 10 sử đều thuộc phạm trù của Độn. Nếu khi đã phát định khởi chấp, tâm chấp mạnh mẽ sắc bén. Tất cả 10 sử đều thuộc phạm trù của lợi. Đây nói về quán cảnh phiền não khi chưa phát thiền khởi chấp. Còn khi đã phát thiền khởi chấp rồi sẽ Quán các kiến cảnh sau. Lại nữa, nếu gom cả Lợi, Độn thành 4 phần, khai ra 4 phần thành tám mươi bốn ngàn phiền não.

2. Nhân duyên: gồm 3 phần:

1. Tập chủng tử: Từ vô lượng kiếp đến nay, phiền não chứa nhóm dày đặc, hạt giống thành tựu, huân tập nối nhau, như đi thuyền thuận dòng chẳng biết nước đang chảy mạnh, đi ngược dòng mới biết dòng nước chảy mạnh khó ngăn, như trước đã nói. 2. Nghiệp lực: Việc ác từ vô lượng kiếp nghiệp hạnh thành tựu, như mắc oan nợ, đâu để bạn tu đạo thoát ra, bởi thế nghiệp ác vùng dậy phá quán tâm.

3. Ma: Nếu làm được khéo thì xuất ra khỏi cảnh ma, bởi thế ma mới đến làm cho động loạn. Nay đạo tràng hành đạo. Quán Ấm giới nhập, tu thoát ra khỏi nghiệp thế gian, muốn lìa khỏi giới đó, cho nên ma sai mười quân nhiếp cầm sự mê bởi lợi sâu, chợt đến phá loạn thành giả. Nay xin đưa thí dụ: Lửa tham sân si nổi lên cho hạt giống mới huân tập. Quạt gió dụ cho nghiệp lực xao động. Đổ thêm dầu dụ cho ma khởi, nghiệp và ma sau này mới nói, ở đây đang nói về Quán tập chủng tử phiền não phát.

3. Tại pháp:

Có nhiều pháp trị khác nhau. Pháp trị của Tiểu thừa có 5 thứ:

- Đối trị: Như tham dục thì thực hành Bất tịnh quán. Sân nhuế thì thực hành từ bi quán.

- Chuyển trị: như tham nhục dục lẽ ra phải tu bất tịnh quán. Quán bất tịnh mà giải thoát không được thì tu từ tâm quán. Gọi là chuyển trị. Bệnh không chuyển mà thuốc chuyển gọi là bất chuyển trị, thuốc và bệnh đều chuyển, gọi là chuyển trị.

- Bất chuyển trị: Bệnh không chuyển, thuốc cũng không chuyển, gọi là Bất chuyển trị.

- Kiêm trị: Như tham dục kiêm sân nhuế. Bất tịnh kiêm từ tâm, gọi là bệnh kiêm dược kiêm bệnh, hoặc kiếm một, hoặc kiêm hai ba, đều gọi là kiêm trị.

- Cụ túc trị: Dùng đủ tất cả các pháp trên để trị một bệnh.

Đó gọi là Tiểu thừa trước dùng 5 trị, sau dùng Đế trí, mới nhập được chân.

Như cách trị của Đại thừa thì chẳng đối, chẳng kiêm, chẳng chuyển, chẳng bất chuyển, gọi là Đệ nhất nghĩa trị, thư thuốc A kiệt đà có công năng trị tất cả bệnh. Tiểu thừa thường đều dùng Ba tất đàn để trị. Đại thừa thường dùng đệ nhất nghĩa Tất đàn để trị.

4. Tu chỉ quán:

Vẫn như chỉ quán Ấm giới nhập cảnh, mở ra thành 10 ý, chỉ chuyển tâm "Ấm nhập" thành "phiền não cảnh" là khác mà thôi, vẫn đủ cả 10 pháp. Kinh nói: "phiền não tức Bồ đề" mảnh ruộng trần lao là hạt giống Như Lai, cho đến 62 kiến. Tất cả phiền não đều là hạt giống Phật.

Tuy vọng hoặc của ba cõi là hạt giống sáu đường, hoặc nầy "tức không", là hạt giống Nhị thừa, "tức giả" là hạt giống Bồ tát, "tức trung" là hạt giống Như Lai. Cho nên mới biết một niệm phiền não là hạt giống của mười giới, sinh tử Niếtbàn trong mười giới tuy lên xuống cao thấp khác nhau hẳn nhưng đồng chung một loại, tức là cảnh bất khả tư nghì bậc nhất.

3. Quán tâm sáu đường "tức không" gọi là chỉ. Quán tâm sáu đường "tức giả" gọi là Quán.

Quán tâm sáu đường "tức trung" gọi là ưu tất xoa tức là tu quán Bình đẳng.

Đó gọi là pháp thứ ba "TU CHỈ QUÁN".

4. Quán tâm sáu đường tức Nhị thừa "không", phá tạt giống sáu đường.

Quán tâm sáu đường tức Bồ tát "Giả", phá hạt giống hai bên, hiển đạt giống Phật "trung đạo".

Đó gọi là pháp thứ tư "phá pháp kiến".

5. Hạt giống của sáu đường là bít, hạt giống của bốn Thánh là Thông. Lại nữa, hạt giống của 9 giới là bít, hạt giống của Phật giới là Thông, lại mười giới tức một giới, tức chẳng phải thông, chẳng phải bít.

Một giới tức mười giới, tức vừa thông vừa bít.

Đó là pháp thứ năm "khéo biết thông bít" (Đã trình bày ở trên).

6. Quán hạt giống sáu đường trong tâm "tức không", gọi là niệm xứ khô.

Quán hạt giống sáu đường trong tâm "tức giả" gọi là niệm xứ tươi.

Quán 9 giới trong tâm, "tức trung" tức niệm xứ chẳng khô chẳng tươi.

Quán chín giới trong tâm tức Phật pháp giới, bèn sinh ra năm căn, tín, tấn, định tuệ thuộc trung đạo, chín giới tức Phật giới, phá nghi chướng hai bên gọi là Tín lực, phá chướng biếng nhác hai bên, gọi là tấn lực, phá 2 niệm chướng chân và tục hai bên gọi là niệm lực. Phá trí chướng hai bên gọi là tuệ lực. Phá chướng trần tán hai bên gọi là Định lực, tức năm lực Trung đạo. 3 phần giác trừ, xả, định, trừ gạt giống phiền não tán loạn của sáu đường. 3 phần giác Hỷ, Tất, Trạch điều hòa sinh khởi hạt giống trầm không của Nhị thừa. Còn niệm giác phần chỉ Niệm về hạt giống chân chánh thuộc Trung đạo.

Đó là "Đạo phẩm điều đình" thứ 6.

7. Quán tâm chín giới tức Phật pháp giới, xả hai bên phân biệt giả biến dị sinh tử, gọi là đàn. Không bị nhiễm ô bởi sáu trần của hai bên gọi là Giới. Siêng năng cố gắng ra khỏi hai bên gọi là Tinh tấn. Không nhận phiền não bởi phù trầm của hai bên gọi là NHẪN, không bị loạn bởi hai bên gọi là THIÊN. Không bị ngu bởi hai bên gọi là NHÃ.

Ấy là "sáu lục độ trợ đạo" thứ bảy.

8. Hạt giống phiền não của 9 giới tức hạt giống Phật là "Lý tức". Văn Danh tức "Danh tự tức". Thường quán hạt giống của 9 giới tức là Phật, gọi là "Quán hành tức". Quán không ngừng Tương tự khai phát, gọi là "Tương tự tức", chân giải mở sáng, gọi là "chứng tức", chiếu suốt tận nguồn của Phật chủng, gọi là "cứu cánh tức".

Đó là "Tri biết thứ vị" thứ 8.

9. Quán hành giải an mà chưa nói, gọi là "An nhẫn", là pháp "An nhẫn" thứ chín.

10. Bên trong không ái nhiễm, gọi là "bất khởi Thuận đạo pháp ái" là pháp "Ái bất sinh" thứ 10.

Mười pháp ấy thành Đại thừa (cỗ xe lớn) dạo chơi bốn phương, thẳng đến đạo tràng. Ấy là 10 pháp Thành Thừa, Quán cảnh phiền não.

Còn thứ vị của Viên giáo thì không thể biết được, nói theo 6 thứ "Tức" thì: Nếu tâm thần của tất cả chúng sinh thần diệu không thể nắm giữ chỉ có danh từ, thì gọi là "Lý tức". Nếu lại đọc tụng gọi là "Danh tự tức", lại thêm Quán hành sáng trong, tâm không có một chút nghi tối gọi là "Quán hành tức". Nếu được sáu căn thanh tịnh dùng lẫn nhau, là "Tương tự tức". Cũng đối với Thập Tín vị, hoặc Thập Trụ vị. Một phát tất cả phát, khai mở Phật tri kiến là "phần chân tức" đạt đến Diệu giác Địa, gọi là "cứu cánh tức".


[Đầu trang][Mục lục bộ Chư Tông][Mục lục tổng quát]