TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠP TẠNG

BỘ CHƯ TÔNG

SỐ 1958 - AN LẠC TẬP

Thích Đạo Xước biên soạn.

MỤC LỤC

SỐ 1958 - AN LẠC TẬP

QUYỂN THƯỢNG

QUYỂN HẠ


QUYỂN THƯỢNG

Trong "Tập An Lạc" này, tổng cộng có mười hai phần lớn, tất cả đều dẫn kinh luận để chứng minh, nhằm khuyên mọi người phát tín tâm cầu sinh Tịnh độ.

PHẦN 1

Trước hết là nói rõ về phần lớn thứ nhất. Văn nghĩa phần này tuy nhiều, nhưng đại thể có chín nội dung. Sau khi phân mục rồi sẽ trình bày rõ:

I. Nói rõ nguyên do hưng khởi giáo nghĩa, xét theo căn cơ và thời điểm thích hợp để khuyên người cầu về Tịnh độ.

II. Căn cứ vào các bộ kinh Đại thừa để nói rõ phương pháp và quy tắc xưa người nói và chúng nghe.

III. Căn cứ vào các bộ Đại thừa Thánh giáo để nói rõ chúng sinh phát tâm đã lâu hay mới, cúng dường nhiều hay ít, nhằm khiến thính chúng ở trong hội nổ lực phát tâm.

IV. Luận về tôn chỉ khác nhau trong các bộ kinh.

V. Nói rõ về cách đặt tên gọi khác nhau của các kinh, như kinh Niết-bàn, kinh Bát-nhã v.v... căn cứ theo Pháp mà lập danh. Có kinh theo Dụ mà lập danh, có kinh theo sự mà lập danh, cũng có kinh theo Thời và Xứ mà lập danh. Ở đây không chỉ nêu ra một loại. Nay kinh Quán này là dựa theo Nhân và Pháp mà lập danh, trong đó, "Phật" là Nhân danh, còn "Thuyết quán vô lượng thọ" là Pháp danh vậy.

VI. Phân biệt về người nói: Các kinh khởi sự nói không ngoài năm loại: 1) Phật tự nói.

2) Thánh đệ tử nói.

3) Chư thiên nói.

4) Thần tiên nói.

5) Biến hóa nói.

Trong kinh Quán này, chính do Đức Thế Tôn tự nói.

VII. Nói rõ về chân, ứng nhị thân, và biện giải về chân, ứng nhị độ.

VIII. Nói rõ cõi Tịnh độ của Phật A-di-đà có các phẩm bậc trên dưới, Phàm Thánh cùng ở.

IX. Nói rõ cõi Tịnh độ của Phật A-di-đà có thuộc về ba cõi hay không.

I. Nội Dung Thứ Nhất:

Ở trong nội dung thứ nhất, nói về lý do hưng khởi giáo pháp, xét theo căn cơ đương thời, khuyên người quy hướng về Tịnh độ.

Nếu giáo hợp thời cơ thì dễ tu dễ ngộ. Nếu giáo và thời cơ trái nhau, thì khó tu khó nhập. Thế nên, ở trong kinh Chánh Pháp Niệm có nói: "Hành giả một khi nhất tâm cầu đạo, thường phải quán sát về phương tiện và thời cơ." Nếu không đắc thời, không phương tiện, thì gọi là mất, không gọi là lợi. Vì sao? Như dùi củi ướt để lấy lửa, lửa không thể có; đó là chẳng phải thời. Chặt củi khô để tìm nước thì nước cũng không thể có; đó là vô trí.

Thế nên, trong kinh Đại Tập Nguyệt Tạng có nói: "Sau khi Phật diệt độ, năm trăm năm đầu, hàng đệ tử của ta học Tuệ được kiên cố; năm trăm năm thứ hai sau thì học Định kiên cố; năm trăm năm thứ ba, học đa văn đọc tụng kiên cố; năm trăm năm thứ tư thì tạo lập tháp chùa, tu phước sám hối kiên cố; năm trăm năm thứ năm thì bạch pháp ẩn tích ngưng trệ, nhiều tranh cãi, ít có thiện pháp kiên cố."

Và cũng trong kinh ấy nói: "Chư Phật xuất thế, có bốn cách độ chúng sinh." Đó là bốn cách gì?

1) Miệng thuyết mười hai bộ loại trong kinh, tức là pháp thí độ chúng sinh.

2) Chư Phật Như Lai có vô lượng tướng tốt quang minh. Tất cả chúng sinh có thể để tâm quán sát mà đạt được lợi ích. Đây tức là thân nghiệp độ chúng sinh.

3) Có vô lượng đức dụng, đạo lực thần thông, các loại biến hóa. Đó tức là thần thông lực độ chúng sinh.

4) Chư Phật có vô lượng danh hiệu có tổng có biệt, tùy theo tâm niệm chúng sinh xưng niệm, thì hết thảy đều trừ nạn chướng gặp nhiều lợi ích, đều sinh ra đời có Phật. Đó gọi là danh hiệu độ chúng sinh.

Tính theo thời gian bây giờ thì chúng ta cách Phật đã bước qua giai đoạn năm trăm năm thứ tư, chính là thời kỳ sám hối tu phước, là thời nên xưng danh hiệu của Phật. Nếu một niệm xưng danh hiệu "A-di-đà Phật", tức tiêu trừ hết tội lỗi trong tám mươi ức kiếp sinh tử. Một niệm còn như vậy, huống chi là thường tu thường niệm, tức là người thường sám hối vậy. Lại như cách đời Thánh đức chưa bao xa, tức là người trước lấy việc tu định tuệ làm chánh học, còn người sau thì kiêm cả. Nếu cách Phật đã xa, thì người sau lấy việc xưng danh là chánh, người trước thì kiêm cả.

Ý này là thế nào? Chính là do chúng sinh cách Phật lâu xa đó thôi, nên căn cơ phần nhiều đã ám độn. Cho nên Vi-đề phu nhân từ đó mà đem lòng thương xót chúng sinh trong thời mạt thế ngũ trược, luân hồi trong nhiều kiếp, phải chịu nhiều nỗi thống khổ, cho nên Ngài gặp cảnh khổ duyên thì liền khai mở. Bậc đại Thánh gia từ khuyến hóa để người quy về Cực lạc. Nếu như muốn tiến thú ở đây, thì bậc Thánh, quả khó mà đạt được. Duy chỉ có cõi Tịnh độ là nơi dễ tu tập quy hướng. Nếu như truy tìm ở trong các kinh điển, thì nên đem tập chân ngôn trợ tu để được thêm ích lợi.

Vì sao? Vì muốn đem lời người trước dẫn dắt cho người sau. Người sau noi theo người trước liên tục không ngừng, nguyện không gián đoạn, cho đến khi dứt tận hết nghiệp sinh tử khổ hải.

II. Nội Dung Thứ Hai:

Căn cứ trong các bộ Đại thừa, nói rõ quy tắc về người nói, người nghe. Gồm có sáu quy tắc.

1) Kinh Đại Tập nói: "Đối với người thuyết pháp, nghĩ tưởng là vị y vương (thầy thuốc) cứu hết bệnh khổ chúng sinh. Nghĩ tưởng nói ra các pháp cam lồ, là pháp đề hồ. Người nghe thì nghĩ tưởng tăng trưởng thắng giải, nghĩ tưởng tiêu trừ bệnh khổ. Nếu được như thế thì người nói người nghe đều có thể kham lãnh thiệu long Thánh chủng, xiển dương chánh giáo, thường sinh ra đời có Phật."

2) Trong Đại Trí Độ luận nói: "Người nghe nhìn thẳng Pháp sư như người khát muốn uống nước, nhất tâm thu nhận nghĩa ngữ và, nghe pháp xong tâm vui mừng hoan hỷ. Đối với người như thế thì nên nói pháp."

3) Trong luận Trí Độ lại nói: "Có hai loại người đạt được phước vô lượng vô biên: Thứ nhất là người thích nghe pháp; thứ hai là người thích nói pháp." Cho nên, Tôn giả A-nan bạch Phật rằng:

- Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên, vì sao lại được trí tuệ và thần thông đệ nhất? Ở trong các vị Thánh đệ tử lại là người thù thắng hơn cả?

Phật bảo A-nan:

- Hai người này, ở trong thời gian tu nhân, vì nhân duyên nói pháp mà ngàn dặm chẳng ngại khó, cho nên nay là bậc Thánh thù thắng đệ nhất trong chúng.

4) Kinh Vô Lượng Thọ nói: "Nếu người không có căn bản thiện, thì không nghe được kinh này. Người thanh tịnh giữ giới, mới được nghe chánh pháp."

5) Nếu từng thấy Đức Thế Tôn, thì có thể tin được việc này. Phụng sự Đức Như Lai, thích nghe thuyết giáo pháp.

Kinh Vô Lượng Thanh Tịnh Giác có nói: "Thiện nam, thiện nữ nghe thuyết pháp môn Tịnh độ, tâm sinh vui mừng bi thiết, thì lông trên người thẳng đứng như nhổ lên vậy. Nên biết, người này, trong thời quá khứ, bổn mạng đã từng tu Phật đạo. Nếu lại có người nghe khai pháp môn Tịnh độ không sinh lòng tin, nên biết người này đời trước từ tam ác đạo đến, ương nghiệp đã lâu chưa dứt, cho nên không tin hướng theo vậy, ta nói hạng người này chưa thể được giải thoát."

Thế nên, trong kinh Vô Lượng Thọ có nói: "Người kiêu mạn, giải đãi khó mà tin được pháp này."

III. Nội Dung Thứ Ba:

Căn cứ vào Đại thừa Thánh giáo, nói rõ chúng sinh phát tâm đã lâu, hay gần đây, học Phật nhiều hay ít.

Như kinh Niết-bàn nói: Phật bảo Bồ-tát Cadiếp:

-Nếu có chúng sinh đã từng phát tâm Bồ-đề ở trong hằng hà sa kiếp, thì sau sinh vào đời ác thế nghe kinh Đại thừa, không sinh hủy báng. Nếu ở trong hằng hà sa chư Phật phát tâm Bồ-đề, thì sau ở trong đời ác nghe kinh Đại thừa sẽ không khởi lên tâm niệm hủy báng pháp này, mà lại sinh lòng yêu thích. Nếu ở trong hằng hà sa chư Phật phát tâm Bồ-đề, thì sau ở trong thời ác thế không sinh tâm hủy báng, mà lại tín lạc chánh giải, thọ trì đọc tụng. Nếu ở trong hằng hà sa chư Phật phát tâm Bồ-đề, thì sau ở trong đời ác sẽ không sinh phỉ báng chánh pháp, mà lại biên chép kinh quyển. Tuy vì người nói, mà thâm nghĩa chưa thể hiểu rõ nghĩa sâu xa.

Vì sao cần phải như lời kinh đây mà so lường? Vì làm rõ ngày nay người biết nghe kinh này là, từng đã phát tâm cúng dường hằng hà sa chư Phật, lại hiển bày uy lực kinh điển Đại thừa bất khả tư nghì. Cho nên trong kinh nói: "Nếu có chúng sinh nghe kinh điển này, trải qua trăm ngàn kiếp không đọa vào địa ngục ác đạo." Vì sao? Vì kinh điển vi diệu được lưu truyền nơi đó, thì biết đất đó là Kim cang, người sống ở trong đó cũng như Kim cang. Vậy người nghe kinh sinh lòng tin đó, đều đạt được lợi ích bất khả tư nghì vậy.

IV. Nội Dung Thứ Tư:

Kế đến là luận về tông chỉ bất đồng của các bộ kinh.

Nếu căn cứ kinh Niết-bàn thì lấy Phật tánh làm Tông; Kinh Duy-ma thì lấy Bất khả tư nghì giải thoát làm Tông. Nếu y vào kinh Bát-nhã thì lấy "Không tuệ" làm Tông; Kinh Đại Tập, thì lấy Đàla-ni làm Tông. Nay trong Kinh quán này thì lấy quán Phật Tam-muội làm Tông. Nếu luận về sở quán, chẳng qua là căn cứ vào y báo và chánh báo, như trong Kinh quán phần dưới có nói rõ. Nếu y vào kinh Quán Phật Tam-muội thì nói:

Phật nói với phụ vương:

Chư Phật ra đời có ba điều lợi ích:

1) Miệng nói mười hai bộ loại trong kinh, ban pháp thí làm lợi ích chúng sinh, trừ hết mọi vô minh ám chướng, mở ra con mắt trí tuệ, khiến chúng sanh ra đời đều có chư Phật, sớm đắc quả Vô thượng Bồ-đề.

2) Chư Phật Như Lai có thân tướng quang minh, vô lượng diệu hảo. Nếu có chúng sinh quan sát xưng niệm, nếu là tổng tướng biệt tướng, không hỏi Phật thân trong hiện tại, quá khứ, đều có thể trừ diệt tứ trọng ngũ nghịch của chúng sinh, vĩnh viễn xa lìa tam đồ ác đạo, tùy niệm mà được thọ vui, thường sinh Tịnh độ, tu hành cho đến thành Phật đạo.

3) Phật khuyên Phụ vương hành trì pháp niệm Phật Tam-muội. Phụ vương bạch với Phật:

- Nếu quả đức của Phật địa là thật tướng chân như Đệ nhất nghĩa Không, sao lại không bảo đệ tử hành trì theo?

Phật bảo phụ vương:

- Quả đức của Phật có vô lượng cảnh giới thâm diệu, có thần thông giải thoát, chẳng phải là cảnh giới hành trì của phàm phu, cho nên chỉ khuyên phụ vương niệm Phật Tam-muội.

Phụ vương bạch Phật: Công đức niệm Phật, hình trạng như thế nào?

Phật bảo: Như rừng Y lan, vuông vức bốn mươi do-tuần, có một cây Khoa-ngưu-đầu chiên-đàn, tuy là có rễ mầm, mà vẫn chưa ra khỏi mặt đất. Trong rừng Y lan duy chỉ có mùi hôi mà không có hương thơm. Nếu ai ăn phải hoa quả ở đó thì phát cuồng lên mà chết. Sau đó cây chiên đàn mầm rễ lần lần phát triển, gần như thành cây, khí hương tỏa đầy, có thể làm cải biến hết, cả rừng cây này tỏa ra mùi hương thơm ngát. Chúng sinh trông thấy, đều sinh lòng tâm tưởng là việc hy hữu.

Phật bảo Phụ vương:

- Tất cả chúng sinh, tâm nghĩ đến Phật của họ ở trong sinh tử cũng như thế, hễ buộc niệm không ngừng, nhất định sẽ sinh ra đời có Phật. Một khi được vãng sinh, liền thay đổi hết ác nghiệp, thành tựu tâm đại bi, như cây tỏa hương làm thay đổi cả rừng Y lan vậy.

Nói rừng Y lan đó là dụ cho tam độc, tam chướng, vô biên trọng tội ở trong thân chúng sinh. Nói chiên-đàn là dụ cho tâm niệm Phật của chúng sinh. Vừa muốn thành cây đó nghĩa là tất cả chúng sinh hễ niệm Phật không dứt đoạn, thì nghiệp đạo ắt sẽ thành tựu.

Hỏi: Công đức niệm Phật của chúng sinh bao nhiêu cũng có thể tính biết, vì sao chỉ do một niệm mà có thể đoạn trừ ác nghiệp? Như một loài cây tỏa hương có thể làm thay đổi cả rừng cây bốn mươi do-tuần, làm cho cả khu rừng đều tỏa hương thơm ngát?

Đáp: Đó là căn cứ vào các bộ kinh Đại thừa mà hiển bày ra công năng niệm Phật Tam-muội là bất khả tư nghì. Vì sao? Như kinh Hoa Nghiêm nói: "Ví như có người dùng gân sư tử để tạo ra đàn huyền, âm thanh một khi tấu lên, thì các âm thanh khác đều bị tan biến mất hết. Nếu người phát tâm Bồ-đề, thực hành niệm Phật Tam-muội, thì tất cả phiền não, tất cả hoặc chướng thảy đều đoạn diệt. Cũng như có người vắt hết sữa trâu dê, lừa ngựa cho vào trong cái chậu. Nếu lại vắt sữa sư tử đổ vào, thì các loại sữa kia đều biến thành nước lã. Nếu người ở trong tâm Bồ-đề mà hành trì niệm Phật Tam-muội thì tất cả ác thú đều trở thành vô hại."

Và cũng trong kinh ấy nói: "Thí như có người, trong thân họ tẩm thuốc tàng hình, nếu có đi du hành qua lại các nơi, thì tất cả mọi người đều không ai nhìn thấy họ. Nếu người ở trong tâm Bồđề hành niệm Phật Tam-muội, thì tất cả ác thần, các thứ chướng ngại đều không nhìn thấy họ. Tùy theo chỗ đến, đều không làm chướng ngại."

Vì sao lại có thể được như thế? Vì niệm Phật Tam-muội là vua trong tất cả các pháp Tam-muội.

V. Nội Dung Thứ Năm: Như trên đã nói, kinh quán vô lượng thọ Phật được đặt tên theo người và Pháp. Người là Phật. Pháp là pháp.?

VI. Nội Dung Thứ Sáu: Phân biệt người nói tức Phật tự nói.

VII. Nội Dung Thứ Bảy:

Lược nói rõ về nghĩa ba thân, ba độ (cõi).

Hỏi: Hiện nay thân của Phật A-di-đà là thân gì? Nước Cực lạc là cõi nào?

Đáp: Thân Phật A-di-đà hiện nay là Báo thân. Nước Cực lạc trang nghiêm là Báo độ. Nhưng xưa nay tương truyền đều cho Phật A-di-đà là Hóa thân, cõi nước cũng là Hóa độ. Đây là sự sai lầm lớn. Nếu như vậy thì cõi Uế độ này cũng là nơi cư trú của Hóa thân, cõi Tịnh độ cũng là Hóa thân ở. Vậy thì Báo thân của Như Lai ở trong cõi nước nào? Nay y vào kinh Đại thừa Đồng Tánh mà biện luận về Báo, Hóa, Tịnh và uế độ.

Kinh nói: "Người trong cõi Tịnh độ thành Phật, chính là Báo thân.

Trong cõi uế độ thành Phật thì là Hóa thân."

Kinh kia lại nói: "A-di-đà Như Lai, Liên Hoa khai phu Tinh Vương Như Lai, Long Chủ Vương Như Lai, Bảo Đức Như Lai v.v... ở nơi cõi Phật thanh tịnh niên đắc đạo quả đạo quả, tất cả các đức Như lai như thế là Báo thân của Phật cả. Thế nào là Hóa thân Như Lai. Như ngày nay có các Đức Như Lai: Dõng Giới Thuộc Như Lai, Ma Khủng Bố Như Lai. Các Đức Như Lai này ở trong đời uế trược hiện thành Phật, sẽ thành Phật, từ cung trời Đâu-suất giáng sinh xuống, cho đến trụ trì tất cả thời chánh pháp, tượng pháp, mạt pháp, tạo các sự nghiệp giáo hóa thế đều là Hóa thân Phật.

Thế nào là Pháp thân Như Lai? Đó là chân thân của Như Lai, là vô sắc, vô hình, vô hiện, vô trước, không thể nhìn thấy được, không nói năng, không trụ xứ, không sinh không diệt, đó là nghĩa chân Pháp thân.

Hỏi: Báo thân của Như Lai là thường trụ. Vì sao trong kinh Quán Âm Thọ Ký lại nói: "Phật Adi-đà sau khi nhập Niết-bàn thì Quán Âm Bồ-tát là vị Bổ xứ thành Phật tiếp sau?"

Đáp: Báo thân này, thị hiện tướng ẩn giấu, không phải là diệt độ vậy.

Kinh nói: "Phật A-di-đà sau khi nhập Niết-bàn, lại có chúng sinh có thiện căn sâu dày, thấy Phật như cũ không khác." Tức là tu chứng.

Lại trong luận Bảo Tánh nói: "Báo thân có năm loại tướng thuyết pháp và có thể nhìn thấy, các nghiệp không ngưng nghĩ, và ngưng nghĩ ẩn giấu, và thị hiện không phải là thực thể." Tức là chứng vậy.

Hỏi: Báo thân và Báo độ của đức Thích-ca Như lai thì ở tại phương nào?

Đáp: Kinh Niết-bàn nói: "Cõi Tây phương cách đây bốn mươi hai hằng hà sa quốc độ, có thế giới tên là Vô thắng. Cõi này cũng thật trang nghiêm như nước Cực lạc Tây phương vậy. Ta hiện thân ra ở cõi Ta-bà để giáo hóa chúng sinh, nhưng chẳng phải hiện thân ở cõi này. Tất cả các Đức Như Lai cũng đều như thế." Đây là chứng vậy.

Hỏi: Trong kinh Cổ Âm nói: "Phật A-di-đà có cha mẹ." Vậy đủ biết là chẳng phải Báo thân, Báo độ vậy.

Đáp: Ông chỉ nghe nói mà không nghiên cứu kỹ trong kinh. Sự nghi lầm này có thể gọi là "Sai một ly đi ngàn dặm". Nhưng Phật A-di-đà cũng có đầy đủ ba thân. Thân hiện ở cõi Cực lạc chính là Báo thân. Nay nói Phật có cha mẹ đó, là ở trong cõi uế độ thị hiện Hóa thân ra có cha mẹ vậy. Cũng như Phật Thích-ca, ở trong cõi Tịnh độ thành tựu được Báo thân, ứng hiện ra cõi này có cha mẹ, đó là Hóa thân. Phật A Di-đà cũng vậy.

Lại như trong kinh Cổ Âm có nói: "Bấy giờ Phật A-di-đà cùng đầy đủ chúng Thanh văn, trong cõi nước có tên là Thanh thái, là nơi ở của bậc Thánh vương. Kinh thành này rộng dài đến mười ngàn do-tuần, cha của Phật làm Chuyển luân Thánh vương, tên là Nguyệt Thượng, mẹ tên là Thù Thắng Diệu Nhan, ma vương tên là Vô Thắng, con Phật tên là Nguyệt Minh, Đề-bà-đạt-đa tên là

Tịch Ý, đệ tử thị giả tên là Vô-cấu-xưng."

Các việc nói ở trên đều là hiện tướng Hóa thân. Nếu là Tịnh độ, há lại có Luân vương thành trì và người nữ sao? Văn nghĩa này rất rõ ràng, đâu cần phải phân biệt? Do không khéo tìm tôi nghiên cứu, từ đó mê muội chấp lầm theo danh tự.

Hỏi: Nếu Báo thân có tướng ẩn mất ngưng nghỉ thì cõi Tịnh độ có việc thành hoại sao?

Đáp: Câu hỏi này, từ trước đến nay, nghĩa vẫn khó thông. Tuy nhiên, nay dẫn trong kinh ra để làm chứng, nghĩa cũng có thể biết. Ví như thân Phật thường trụ, chúng sinh thấy có Niết-bàn. Tịnh độ cũng thế, thể chẳng có thành hoại, tùy theo chỗ thấy của chúng sinh mà có thành hoại. Như trong kinh Hoa Nghiêm nói: "Như thấy bậc Đạo sư có vô lượng thân sắc, tùy theo tâm hành của chúng sinh, nên thấy cõi Phật cũng vậy." Cho nên trong Tịnh độ luận nói: "Một chất không thành, nên Tịnh và uế có thiếu có đủ. Khác chất không thành nên tìm nguồn thì hợp với một." Vậy căn cứ vào pháp tánh Tịnh độ, thì không luận là thanh hay trọc; mà căn cứ vào lòng đại Bi báo, hóa, thì không phải không có tịnh hay uế.

Lại nói rộng về Phật độ đối với cơ cảm bất đồng, thì có ba loại sai biệt là:

1) Theo Chân đưa đến Báo, nên gọi là Báo độ. Như ánh sáng mặt trời chiếu khắp nơi, Pháp thân như mặt trời, Báo thân, Hóa thân như ánh sáng.

2) Không mà chợt có gọi đó là Hóa. Như trong Tứ Phần luật có nói: "Định Quang Như Lai hóa ra thành Đề-bà cùng thành Bạt-đề. Hai thành này ở gần nhau chung sống hòa thuận qua lại. Về sau đột nhiên hóa thành lửa thiêu đốt, là muốn cho chúng sinh thấy được sự vô thường, sinh tâm nhàm chán, quy hướng về đạo."

Vì vậy kinh nói: "Hoặc hiện ra kiếp lửa, trời đất đều rõ ràng, để cho chúng sinh thấy biết sự thể là vô thường. Bồ-tát vì cứu kẻ nghèo khéo hiện, lập ra kho tàng, tùy duyên chỉ dẫn rộng bày, khiến chúng sinh phát tâm Bồ-đề."

3) Ẩn uế hiển tịnh. Như trong kinh Duy-ma nói: "Phật dùng ngón chân ấn xuống đất, làm cho ba ngàn quốc độ đều được nghiêm tịnh. Nay cõi nước Vô lượng thọ này thật là quốc độ theo Chân hiện báo mà thôi."

Làm sao biết? Dựa vào kinh Quán Âm Thọ Ký nói: "Đời vị lai Đức Quán Thế Âm thành Phật, thay vào chỗ Đức Di-đà." Cho nên biết đó là Báo thân vậy.

VIII. Nội Dung Thứ Tám:

Thứ tám là nói rõ về cõi Tịnh độ của Phật Adi-đà; quả vị bao quát cả thượng hạ, phàm Thánh cùng ở chung. Nay đây ở cõi nước Vô lượng thọ là báo Tịnh độ. Do nguyện lực của Phật mà bao quát cả trên dưới, để cho chúng sinh tu thiện pháp cầu vãng sinh về. Do bao hàm các bậc thiện căn mà ngài Thiên Thân, Long Thọ cùng các bậc Thượng địa Bồ-tát cùng cầu sinh về. Cho nên, trong Đại kinh nói rằng: Bồ-tát Di-lặc hỏi Phật:

- Không biết ở cõi Cực lạc có bao nhiêu Bồ-tát bất thoái được sinh về đó?

Đức Thế Tôn bảo:

- Ở thế giới Ta-bà này có sáu mươi bảy ức Bồtát đều được vãng sinh về.

Hỏi: Tịnh độ của Phật A-di-đà đã gọi là bao quát cả thượng căn hạ căn, thì Phàm Thánh đều chung ở. Không chỉ những vị tu vô tướng được vãng sinh, mà hạng phàm phu hữu tướng cũng được sinh về sao?

Đáp: Phàm phu trí cạn, dựa nhiều vào tướng mà cầu, quyết được vãng sinh, nhưng do lực thiện còn yếu nên chỗ sinh ra, duy chỉ thấy Báo thân và Hóa Phật. Cho nên, phẩm Bồ-tát Bản Hạnh của kinh Quán Phật Tam-muội nói: "Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng: Trong vô lượng kiếp quá khứ, khi con còn là phàm phu, ở trong đời đó có Đức Phật tên là Bảo Uy Đức Thượng Vương Như Lai, khi Phật xuất thế cũng như ngày nay vậy. Đức Phật đó thân cao sáu trượng, tỏa sắc vàng tía, thuyết pháp Tamthừa như Đức Thích-ca vậy."

Bấy giờ ở cõi nước kia có vị đại trưởng giả, tên là Nhất Thiết Thí. Vị trưởng giả có một người con, tên là Giới Hộ. Khi mẹ mang thai, lòng bà rất kính tin, dự định sẽ cho con thọ Tam quy y. Khi con sinh ra, vừa lên tám tuổi, cha mẹ thỉnh Phật về nhà cúng dường, người con thấy Phật liền làm lễ, tâm cung kính Phật thật sâu xa, mắt chiêm ngưỡng không rời. Một khi đã nhìn thấy Phật, liền tiêu trừ hết tội trong vô lượng na-do-tha kiếp sinh tử. Từ đó về sau, thường sinh về cõi Tịnh độ. Tức liền gặp được hằng hà sa số chư Phật, đều là những bậc Thế Tôn có đầy đủ tướng hảo độ thoát vô số chúng sinh. Bấy giờ, Đồng tử mỗi mỗi đều theo hầu Phật, lễ bái cúng dường, chấp tay quán Phật. Vì nhân duyên đó, nên được gặp trăm vạn A-tăng-kỳ Phật. Chư Phật kia cũng có sắc thân tướng hảo hóa độ chúng sinh. Từ đó về sau, thường đắc trăm vạn ức niệm Phật Tam-muội, lại có được A-tăng-kỳ pháp môn Đà-la-ni.

Khi đã đắc ngộ, thường ở trước chư Phật, được thuyết pháp vô tướng. Chỉ trong khoảnh khắc đắc được Thủ-lăng-nghiêm Tam-muội. Bấy giờ, Đồng tử chỉ thọ tam quy, vừa lễ Phật rồi, được quán tưởng thân Phật, tâm không nhàm chán. Do nhân duyên này, mà được gặp vô số Phật. Huống gì luôn buộc niệm tư duy đầy đủ, quán sắc thân Phật. Bấy giờ Đồng tử lúc ấy, đâu là người khác, mà chính là thân con. Bấy giờ, Đức Thế Tôn tán thán ngài Văn-thù rằng:

- Thiện tai! Thiện tai! Ông chỉ lễ Phật một lần mà được gặp vô số chư Phật, huống gì chúng sinh ở đời vị lai, hàng đệ tử của ta, nếu siêng năng quán Phật, niệm Phật!

Phật lại bảo A-nan:

- Ông đem lời của Văn-thù nói lại cho mọi người biết trong hiện tại này và đời vị lai sau, nếu người nào có thể lễ Phật, có thể niệm Phật, quán tưởng Phật, nên biết người này cùng Văn-thù-sưlợi không khác. Xả thân ở đời này, sẽ cùng trụ xứ với Văn-thù.

Do văn này làm chứng, nên biết cõi Tịnh độ đó bao quát hết các quốc độ và sự vãng sinh là không sai. Nếu biết lấy vô tướng lìa niệm làm thể, mà duyên vào đó cầu sinh thì phần nhiều là hạng thượng phẩm vãng sinh.

Cho nên, Bồ-tát Thiên Thân mới luận rằng: "Nếu có thể quán hai mươi chín loại trang nghiêm thanh tịnh, tức tóm lược đi vào một câu pháp. Một câu pháp đó có nghĩa là câu thanh tịnh. Câu Thanh tịnh, tức lấy trí tuệ vô vi Pháp thân. Vì sao cần phải rộng lược hòa nhập vào nhau? Vì chư Phật Bồ-tát có hai loại Pháp thân: Một là pháp thân pháp tánh; hai là pháp thân phương tiện.

Do Pháp tánh Pháp thân mà sinh ra phương tiện Pháp thân. Do Phương tiện Pháp thân, mà hiển xuất ra Pháp tánh Pháp thân. Hai loại Pháp thân này, khác mà lại khó phân biệt ra, một mà không thể đồng. Đó chính là rộng lược hòa nhập vào nhau. Bồ-tát nếu không biết rộng lược tương hòa, thì không thể tự lợi lợi tha. Pháp thân vô vi đó tức là Pháp tánh thân. Vì Pháp tánh tịch diệt nên tức là vô tướng Pháp thân và Pháp thân vô tướng nên không có gì không là tướng. Cho nên tướng hảo trang nghiêm tức là Pháp thân. Pháp thân vô tri, mà không gì không biết. Vậy nên, tất cả chủng trí chính là chân thật trí tuệ vậy. Tuy biết do duyên quán hai câu tổng, biệt, nhưng chẳng gì không phải là thật tướng. Vì biết thật tướng, tức là biết tướng hư vọng của chúng sanh trong ba cõi mà khởi lên chân thật tánh từ bi. Vì chân thật từ bi đó, tức là khởi ra chân thật quy y vậy."

Nay hành giả, bất kể tăng tục, nếu có thể biết sinh vô sinh không trái với nhị đế, thì phần nhiều sẽ được vào hạng thượng phẩm vãng sinh.

IX. Nội Dung Thứ Chín:

Nói rõ về cõi Tịnh độ của Phật A-di-đà có thuộc ở trong ba cõi hay không.

Hỏi: Cõi nước An lạc thuộc cõi nào trong ba cõi?

Đáp: Cõi Tịnh độ rất thắng diệu, thể của nó vượt ra ngoài thế gian. Ba cõi này là nơi nhà tối của phàm phu sinh tử. Tuy có khổ vui ít khác dài ngắn có khác, nhưng nhìn chung đều là bến hữu lậu lâu dài xoay chuyển tuần hoàn không bờ mé, lẫn lộn các loài sinh ra, tiếp xúc thọ nhận bốn thứ, nơi tứ điên đảo cấu uế; lâu ngày nào là nhân, nào là quả, hư ngụy tập tành thói quen, thật là đáng chán. Cho nên cõi Tịnh độ không thuộc trong ba cõi.

Lại nữa, theo Trí Độ luận nói: "Quả báo của cõi Tịnh độ là vô dục, nên không phải Dục giới. Vì cõi Địa cư nên không phải Sắc giới; có hình sắc, nên không phải Vô sắc giới. Tuy nói là Địa cư, nhưng cõi này tinh thắng diệu tuyệt."

Thế nên, trong Thiên Thân luận có nói: "Xét thấy tướng thế giới kia, vượt xa ba cõi, cứu cánh như hư không, rộng lớn không biên hạn."

Thế nên, Địa kinh có lời tán thán rằng:

Tịnh độ rộng lớn siêu số hạn

Tự nhiên bảy báu cùng hợp thành

Do nguyện lực của Phật mà trang nghiêm Kính lễ bậc thanh tịnh đại nhiếp thọ.

Thế giới quang huy diệu thắng tuyệt, Cùng vui an lạc không bốn thời,

Tự lợi lợi tha lực viên mãn,

Kính lễ phương tiện xảo trang nghiêm.

-----------------------------

PHẦN 2

Trong phần thứ hai này được chia làm ba nội dung:

I. Nói rõ về phát Bồ-đề tâm.

II. Phá dị kiến tà chấp.

III. Rộng nếu vấn đáp để giải thích và trừ bỏ nghi tình.

I. Phát Bồ-Đề Tâm:

Phát Bồ-đề tâm gồm có bốn ý:

- Nêu công dụng của tâm Bồ-đề.

- Nêu danh thể của tâm Bồ-đề.

- Nói rõ phát tâm có khác biệt.

- Vấn đáp giải thích.

1) Công dụng của tâm Bồ-đề.

Trong Đại kinh nói: "Phàm muốn vãng sinh về cõi Tịnh độ, cần phát tâm Bồ-đề làm căn bản." Thế nào là Bồ-đề? Đó là tên gọi của Vô thượng Phật đạo. Nếu muốn phát tâm làm Phật, thì tâm này phải rất rộng lớn, biến cùng khắp pháp giới; tâm ấy phải rốt ráo bình đẳng như hư không; tâm này phải sâu xa rộng lớn cho đến tận vị lai; tâm này phổ biến lìa hết chướng Nhị thừa. Nếu một khi phát tâm này, thì liền tiêu trừ mọi sự sinh tử khổ hải từ vô thỉ, mọi đủ công đức, đều hồi hướng Bồ-đề, về lâu có thể thành tựu Phật quả, không sợ thoái chuyển. Ví như loài hoa đẹp có năm đặc tính thanh tịnh, gió thổi, nắng soi cũng không rơi rụng, như nước sông thuỷ vân không bao giờ cạn.

2) Danh thể của Bồ-đề.

Bồ-đề có ba loại:

a) Pháp thân Bồ-đề.

b) Báo thân Bồ-đề.

c) Hoá thân Bồ-đề.

- Nói Pháp thân Bồ-đề là nói chân như, thật tướng, đệ nhất nghĩa Không, tự tánh thanh tịnh; thể của nó không có uế nhiễm, lý vượt ra ngoài thiên chân, không mượn thân đó để thành tựu sự tu hành, nên gọi là Pháp thân; vì nó là bản thể của Phật đạo nên gọi là Bồ-đề.

- Nói Báo thân Bồ-đề đó, tu đầy đủ vạn hạnh, có thể cảm quả báo Phật, lấy quả để đáp nhân nên gọi là Báo thân; vì nó viên thông vô ngại nên gọi là Bồ-đề.

- Nói Hóa thân Bồ-đề đó, nghĩa là từ báo khởi dụng, có thể hướng đến vạn cơ, nên gọi là Hóa thân; vì nó viên thông đầy đủ, nên gọi là Bồ-đề.

3) Nói rõ sự phát tâm có khác biệt.

Nay nói, hành giả muốn phát tâm tu nhân thì cần phải hiểu đầy đủ ba thứ:

- Cần thông suốt Có-Không từ xưa đến nay tự tánh đều thanh tịnh.

- Duyên tu vạn hạnh tám vạn bốn ngàn các pháp môn Ba-la-mật.

- Phải lấy đại Từ bi làm căn bản, thường nghĩ đến việc cứu độ chúng sinh làm bổn hoài.

Ba nhân này có thể cùng tương ưng với đại Bồđề, cho nên gọi là phát tâm Bồ-đề.

Lại căn cứ vào Tịnh độ luận có nói: "Nay nói phát tâm Bồ-đề đó, tức là nguyện thành Phật tâm. Nguyện thành Phật tâm đó tức là tâm nguyện độ chúng sinh. Tâm độ chúng sinh đó tức là nhiếp giữ chúng sinh, có tâm Phật quốc độ. Nay đã nguyện sinh Tịnh độ, cho nên trước tiên cần phải phát tâm

Bồ-đề."

4) Vấn đáp giải thích.

Hỏi: Như tu vạn hạnh đầy đủ, có thể cảm quả Bồ-đề, thành tựu Phật đạo. Vì sao trong kinh Chư Pháp Vô Hành nói: "Nếu người cầu Bồ-đề, tức không có Bồ-đề, là xa rời Bồ-đề, cũng như trời với đất vậy sao?"

Đáp: Chánh thể của Bồ-đề, tức cầu vô tướng. Nay tạo tướng cầu, không phù hợp với lý thật, cho nên gọi là người xa rời Bồ-đề. Vì vậy trong kinh nói: "Bồ-đề đó, không thể dùng tâm mà đạt được, cũng không thể dùng thân mà đạt được."

Nay cho rằng, hành giả tuy biết tu hành tướng để cầu, biết rõ ràng lý thể là không có thể cầu nhưng vẫn không hoại giả danh, cho nên tu hành đầy đủ cả vạn hạnh, chắc chắn có cảm ứng. Do đó, trong Đại Trí Độ luận nói: "Nếu người thấy Bátnhã, liền bị buộc ràng, nếu không thấy Bát-nhã thì cũng bị ràng buộc. Nếu người thấy Bát-nhã thì được giải thoát; nếu không thấy Bát-nhã thì cũng được giải thoát."

Ngài Long Thọ Bồ-tát nói: "Nếu không lìa bốn câu này là bị triền phược. Nếu lìa bốn câu này thì được giải thoát."

Nay cầu Bồ-đề, thì cần phải tu như đây, tức là không hành mà hành. Không hành mà hành đó là không trái với đại đạo lý của Nhị đế vậy.

Lại y vào Tịnh độ luận của ngài Thiên Thân nói "Phàm muốn phát tâm hội nhập quả Bồ-đề Vô thượng thì có hai nghĩa: Một là phải xa lìa ba thứ trái với đạo Bồ-đề; hai là phải hiểu rõ hai pháp thuận với đạo Bồ-đề."

Ba thứ trái với đạo Bồ-đề gồm những gì?

1) Nương trí tuệ môn, không cầu tự lạc, xa lìa ngã tâm và sự tham trước của tự thân.

2) Nương vào từ bi môn, bạt trừ hết khổ não của chúng sinh, xa lìa tâm bất an phiền hoặc.

3) Nương vào phương tiện môn, tâm gần gũi thương tất cả tâm chúng sinh, tâm xa lìa cung kính cung dưỡng của tự thân.

Đó gọi là xa lìa ba pháp trái Bồ-đề.

Thuận Bồ-đề môn đó, tức là khi Bồ-tát xa lìa ba pháp trái Bồ-đề thì sẽ đạt được ba pháp thuận Bồ-đề môn. Đó là ba pháp gì?

1) Được tâm thanh tịnh vô nhiễm, không vì tự thân cầu các sự khoái lạc. Bồ-đề là chỗ thanh tịnh vô nhiễm; nếu vì tự thân cầu lạc, tức là trái với Bồđề môn. Cho nên tâm thanh tịnh vô nhiễm là thuận Bồ-đề môn.

2) Được tâm thanh tịnh an ổn, vì muốn bạt trừ khổ não của chúng sinh. Tâm Bồ-đề an ổn tất cả chỗ thanh tịnh của chúng sinh. Nếu không đem tâm khiến cho chúng sinh xa lìa khổ não của chúng sinh, thì trái với Bồ-đề. Như vậy thì bạt tất cả khổ não sinh tử của chúng sinh là thuận với Bồ-đề môn.

3) Được tâm thanh tịnh an lạc, khiến cho tất cả chúng sinh được thường lạc cứu cánh, đắc đại Bồđề, nhiếp thủ họ sinh về nước kia. Vì Bồ-đề là cứu cánh lạc xứ, nếu không làm cho chúng sinh đắc quả thường lạc cứu cánh là trái với đạo Bồ-đề. Như vậy thì quả thường lạc cuối cùng do đâu mà đạt được. Đại nghĩa môn là cõi Cực lạc Phật quốc vậy. Vậy chúng ta cần phải phát tâm nguyện sinh về nước kia để sớm được hội nhập quả Vô thượng Bồ-đề.

II. Phá Dị Kiến Tà Chấp:

Trong nội dung này có chín ý:

- Phá vọng kiến cho Đại thừa là vô tướng và các dị kiến cố chấp khác.

- Nói rõ tâm đại bi ái kiến của Bồ-tát.

- Phá những thắc mắc cho rằng ngoài tâm không có pháp.

- Phá bỏ tâm nguyện sinh uế độ mà không nguyện sinh Tịnh độ.

- Phá tâm cho rằng nếu sinh về Tịnh độ chỉ đắm trước hỷ lạc.

- Phá tâm cho rằng, cầu sinh Tịnh độ không phải là pháp của Tiểu thừa.

- Phá tâm chỉ cầu sinh Đâu-suất chứ không cầu sinh Tịnh độ.

- Nói rõ nếu cầu Tịnh độ mười phương thì không bằng cầu về Tây phương.

- Lược nói về các ý riêng biệt.

1) Phá vọng chấp cho Đại thừa là vô tướng. Trong đây lại có hai ý nhỏ:

a) Thứ nhất là nói tổng quát về sinh khởi, nhằm giúp kẻ hậu học hiểu rõ phải trái để bỏ tà quy chánh.

Thứ hai là rộng nói về sự ràng buộc, hiển bày chánh để phá trừ nghi hoặc.

Nói tổng quát về sinh khởi, thì trong thâm tạng Đại thừa, danh nghĩa nhiều vô số. Vì vậy trong kinh Niết-bàn có nói: "Một tên có vô lượng nghĩa; một nghĩa có vô lượng tên."

Nên cần xem nhiều kinh điển, mới hiểu tôn chỉ. Chẳng phải như các sách thế tục Tiểu thừa, xét theo văn mà đầy đủ nghĩa. Ý này là như thế nào? Là chỉ cho cõi Tịnh độ sâu xa rộng lớn, kinh luận ẩn hiện, khiến cho các loại phàm tình đều được cứu độ; chỉ sợ rằng nghe theo những lời đàm tiếu, gây nên bao sự mê mờ lầm chấp tạp loạn vô tri, làm phương ngại sự vãng sinh. Nay nêu ra một vài điều để từ từ phá chấp.

Hỏi: Hoặc có người nói rằng: "Đại thừa là vô tướng, chớ niệm kia đây." Nếu nguyện sinh Tịnh độ, đó là chấp tướng, làm tăng thêm lậu hoặc, thì cần gì phải để cầu?

Đáp: Nếu kể như vậy thì thật không phải. Vì sao? Chư Phật thuyết pháp cần đầy đủ hai duyên: Một là nương vào thật lý của pháp tánh; Hai là cần thuận theo Nhị đế. Kia chấp Đại thừa vô niệm là chỉ nương vào pháp tánh, nhưng hủy báng không có duyên cầu, tức là không thuận với Nhị đế. Như chỗ kiến giải này, là đọa vào chỗ diệt không. Cho nên trong kinh Vô Thượng Y có nói: "Phật bảo Anan: Tất cả chúng sinh nếu khởi ra ngã kiến như núi Tu-di, thì ta vốn không sợ. Vì sao? Người này chưa được xa lìa ngay nên không hoại nhân quả, không bị mất quả báo. Nếu khởi lên Không kiến như hạt cải, thì sự chấp ngã Không ấy là không nên. Vì sao? Vì kiến chấp này phá tán hết nhân quả, phần nhiều đọa vào ác đạo, nên chỗ sinh ra trong đời vị lai, ắt trái với sự giáo hóa của ta."

Nay xin khuyên chư hành giả, lý tuy là vô sinh, nhưng đạo lý của Nhị đế không phải vô duyên cầu mà tất cả được vãng sinh.

Thế nên trong kinh Duy-ma nói: "Tuy quán tưởng quốc độ của chư Phật và chúng sinh đều không, nhưng vẫn thường tu Tịnh độ, giáo hóa mọi chúng sinh."

Lại nữa, kinh đó cũng nói: "Tuy làm mà không làm, và hiện ra thọ thân, là hạnh Bồ-tát. Tuy hành mà không khởi, và khởi ra tất cả thiện hạnh, đó là Bồ-tát hạnh." Đó thật là tu chứng chân chánh.

Hỏi: Nay thế gian có người hành Đại thừa vô tướng, cũng không giữ tướng nào, tại ở kia đây, hoàn toàn không hộ trì giới tướng, việc này là như thế nào?

Đáp: Tính theo đây, thì điều tệ hại càng nhiều. Vì sao? Trong kinh Đại Phương Đẳng nói: "Phật vì hàng Ưu-bà-tắc mà chế giới là không được lui tới nhà các quả phụ, nhà của xử nữ, tửu quán, nhà ép dầu, thuộc da v.v...

A-nan bạch Phật:

- Bạch Đức Thế Tôn! Vì những người nào mà Phật chế ra những giới này?

Phật bảo A-nan:

Vì hai loại người: Một là, người hành động ở thế gian. Hai là người hành động xuất thế gian. Với người xuất thế thì ta không chế ra giới trên. Với người tại gia nên ta mới chế ra giới này. Vì sao? Tất cả chúng sinh đều là con ta. Phật là cha mẹ của tất cả chúng sinh, nên phải dùng giới luật khuôn phép để khuyến hóa, để cho các con mau sớm ra khỏi thế gian, đắc quả Niết-bàn."

2) Nói rõ tâm đại bi ái kiến của Bồ-tát.

Hỏi: Theo Đại thừa Thánh giáo, Bồ-tát đối với chúng sinh, nếu khởi lòng đại bi ái kiến, tức phải nên lìa bỏ. Nay khuyên chúng sinh cùng sinh về Tịnh độ, há chẳng phải là ái kiến chấp tướng sao? Nếu thế tránh sao khỏi bị trần lụy?

Đáp: Bồ tát hành pháp có hai công dụng: Một là chứng không tuệ Bát-nhã. Hai là đầy đủ lòng Từ bi.

Nhờ lực tu Bát-nhã tu Không tuệ, nên dù ra vào trong sáu đường sinh tử mà không bị trần nhiễm ràng buộc.

Vì đem lòng đại bi nghĩ tưởng đến chúng sinh, nên không trụ ở Niết-bàn. Bồ-tát tuy ở nơi Nhị đế, mà thường khéo xả ở Có-Không. Thủ xả đắc trong đạo mà không trái với đạo lý Đại thừa.

Cho nên trong kinh Duy-ma-cật nói: "Như có người ở nơi đất trống, tạo lập ra cung điện nhà ở, đều được tùy ý vô ngại. Nếu ở nơi hư không, thì không thể làm được. Bồ-tát cũng như thế, vì muốn thành tựu cho chúng sinh, nguyện giữ lấy Phật quốc, chẳng phải nơi hư không vậy."

3) Phá vọng chấp ngoài tâm không có pháp.

Trong đây gồm có hai ý: Một là Phá chấp tình.

Hai là giải thích các câu hỏi đáp.

Hỏi: Phá chấp Hoặc có người nói: "Tịnh cảnh, sở quán là căn cứ ở nội tâm, cõi Tịnh dung thông chính la tâm tịnh; Ngoài tâm không có pháp nào cả, sao lại cầu về Tây phương?

Đáp: Chỉ có pháp tánh Tịnh độ, về lý thì hư dung, thể không có biến đổi. Đây là sinh của vô sinh, là chỗ thâm nhập của bậc Thượng sĩ.

Cho nên, Kinh Vô Tự Bảo Khiếp nói: Mà "Thiện nam tử! Lại có một pháp, Phật đã giác ngộ ra. Đó là các pháp bất khứ bất lai-vô nhân vô duyên-vô sinh vô diệt-vô tư vô bất tư-vô tăng vô giảm."

Phật bảo La-hầu-la:

- Ông nay thọ trì giới của ta, có nghĩa chánh pháp không?

Bấy giờ, mười phương thế giới gồm có chín ức Bồ-tát liền bạch Phật rằng:

- Chúng ta đều phải gìn giữ pháp môn này, nên vì chúng sinh lưu truyền ra đừng để cho dứt.

Thế Tôn đáp:

- Này thiện nam! Hai vai gánh vác đạo Bồ-đề, thì ắt không đoạn trừ biện tài, được thể nhập thế giới thanh tịnh của chư Phật. Khi mạng chung, liền thấy Đức Phật A-di-đà cùng chư Thánh chúng ở trước mặt, liền được vãng sinh.

Như những người, căn cơ trung hạ chưa thể phá tướng, cần nương vào nhân duyên tin Phật, cầu sinh về Tịnh độ. Tuy có sinh về nước kia, nhưng vẫn đi lại nơi cõi này.

Lại nói: "Nếu nhiếp duyên từ gốc, tức là ngoài tâm không có pháp. Nếu phân rõ nghĩa Nhị đế, thì cõi Tịnh độ không ngại là pháp ở ngoài tâm vậy." Giải thích vấn đáp:

Hỏi: Trước nói sinh vô sinh là chỉ bậc Thượng sĩ mới có thể nhập, bực trung hạ không thể vào được, ấy là căn cứ nơi người, hoặc pháp mà phán định như thế, hay là có Thánh giáo làm chứng?

Đáp: Theo Trí Độ luận có nói: "Hàng Bồ-tát mới phát tâm, căn cơ lý giải còn yếu, tuy nói là phát tâm, phần nhiều đều nguyện sinh về Tịnh độ." Đây là ý gì? Ví như đứa trẻ, nếu không gần cha mẹ để được dạy dỗ khuyên răn, thì hoặc là rơi hầm lọt giếng, gặp nạn lửa thù, hoặc thiếu sữa rồi chết, nên cần có cha mẹ tắm rửa dạy bảo mới có thể lớn khôn, thừa tiếp gia nghiệp.

Bồ-tát cũng như thế, nếu có thể phát tâm Bồđề, nguyện sinh về cõi Tịnh độ, gần gũi chư Phật, tăng trưởng Pháp thân, thì mới nối tiếp gia nghiệp của Bồ-tát, mười phương đều được lợi ích cứu độ, cho nên phần nhiều nguyện sinh về Tịnh độ.

Lại nữa, trong luận ấy cũng nói rằng: "Ví như chim quạ con lông cánh chưa đủ, không thể vỗ cánh bay cao. Trước tiên cần chuyền từng cành cây tập bay. Khi lông cánh đã đủ đầy, thì mới có thể rời rừng bay lên không trung. Các vị tân học Bồtát cũng như thế, trước cần nương nguyện cầu sinh về Phật quốc, Pháp thân dần trưởng thành, tùy cảm mà tu tiến đắc ngộ."

A-nan lại bạch Phật:

- Pháp môn vô tướng Ba-la-mật này Phật nói ở đâu? Phật bảo:

- Pháp môn này, ta nói ở trong A-tỳ-bạt-trí địa. Vì sao? Vì có các hàng tân phát tâm Bồ-tát nghe pháp môn Ba-la-mật vô tướng này, nếu có thiện căn thanh tịnh, thảy đều diệt hết. Lại khi nào đến cõi kia, thì tất cả các sự việc đều xong, đâu cần tranh luận nghĩa lý sâu cạn.

4) Phá tâm chấp nguyện sinh uế độ, không nguyện sinh Tịnh độ.

Hỏi: Hoặc có người nói: "Nguyện sinh vào cõi uế trược để giáo hóa chúng sinh, không nguyện sinh về Tịnh độ." Ý này là như thế nào?

Đáp: Người này ý cũng chỉ có một. Vì sao? Như thân đã trụ nơi bất thoái rồi, vì để hóa độ chúng sinh ở nơi tạp ác, nên có thể nơi chỗ nhiễm mà không nhiễm, gặp điều ác cũng không biến đổi. Như loài ngỗng vịt bơi trong nước, mà không bị ướt. Những người này, có thể vào cõi uế trược để cứu khổ. Nếu còn là hàng phàm phu, chỉ sợ hạnh của bản thân chưa đứng vững, gặp khổ thì biến tâm, muốn cứu giúp người khác, e rằng cùng họ sa vào nẻo ác. Cũng như bắt gà cho vào nước, lẽ nào không bị ướt sao?

Cho nên trong Trí Độ Luận nói: "Nếu là hàng phàm phu phát tâm, nguyện ở cõi uế trược cứu giúp chúng sinh, thì không phù hợp với Thánh ý." Ý này là như thế nào? Bồ-tát Long Thọ giải thích: "Ví như một tảng băng dài bốn mươi dặm, như có một người lấy một thăng nước sôi đổ vào, lúc ấy dường như băng giảm lạnh đi; nếu trải qua đêm cho đến sáng, thì khí lạnh càng cao hơn trước. Hàng phàm phu giữ lấy phát tâm cứu khổ này cũng lại như thế. Vì các cảnh tham sân trái thuận nhiều, nên trái lại tự mình khởi tâm phiền não, mà phải đọa vào ác đạo."

5) Phá vọng chấp cho rằng, sinh vào Tịnh độ là đắm trước lạc cảnh.

Hỏi: Hoặc có người nói: "Trong cảnh Tịnh độ chỉ có việc vui, nhiều đắm trước vào lạc cảnh, sẽ ảnh hưởng trở ngại sự tu đạo. Như vậy tại sao lại cầu vãng sinh?"

Đáp: Đã gọi là Tịnh độ, thì không còn uế trược. Nếu nói đam trước sự vui, thì chính là tham ái phiền não, đâu gọi là tịnh? Cho nên trong Đại kinh nói: "Chúng trời người ở cõi kia tiến lui qua lại, đều không buộc tình đắm trước."

Lại trong nguyện thứ bốn mươi tám có nói: "Mười phương hàng trời người cầu sinh về nước ta, nếu tâm khởi niệm tham chấp nơi thân, thì ta thề không giữ Chánh giác."

Đại Kinh lại nói: "Người và trời ở cõi kia vốn chẳng có chỗ nào mà không thích hợp, làm gì có lý đắm trước?"

6) Phá vọng chấp cho rằng, cầu sinh Tịnh độ là pháp Tiểu thừa.

Hỏi: Hoặc có người nói: "Cầu sinh Tịnh độ chính là tu theo Tiểu thừa." Vậy sao lại tu theo đó? Đáp: Lý này cũng không phải vậy. Vì sao? Chỉ có giáo pháp Tiểu thừa hoàn toàn không nói về Tịnh độ.

7) Nói rõ nguyện sinh Đâu-suất và khuyên cầu sinh Tịnh độ.

Hỏi: Hoặc có người nói: "Nguyện sinh Đâusuất, không nguyện sinh về Tây phương." Việc này là như thế nào?

Đáp: Nghĩa này không đồng, chỉ có ít phần tương tợ. Căn cứ vào thể đại khái có khác bốn loại:

1) Đức Di-lặc vì Thiên chúng mà chuyển pháp luân bất thoái, người nghe pháp sinh lòng tin mà được lợi ích, gọi là tương tự giống với vãng sinh cực lạc. Nhưng người đắm trước lạc cảnh mà không tin số chẳng phải ít. Lại nữa, dù sinh vào cung trời Đâu-suất, nhưng ngôi vị vẫn còn thoái chuyển, cho nên trong kinh nói: "Ba cõi không an, dụ như nhà lửa."

2) Vãng sinh về Đâu-suất, thọ mạng bốn ngàn tuổi. Sau khi mạng chung, thì vẫn không tránh khỏi bị thoái đọa.

3) Cõi trời Đâu-suất tuy cũng có nước, chim, cây rừng hòa tiếng kêu hòa nhã. Nhưng cùng với chư Thiên lấy sự vui chơi làm chính thuận theo ngũ dục, không mong cầu Thánh đạo. Nếu hướng về cõi Di-đà Tịnh quốc, một khi được vãng sinh về, nhất định sẽ đạt đến A-tỳ-bạt-trí, không còn thoái chuyển và không có tạp cư. Ngôi vị lại ở nơi vô lậu, vượt qua ba cõi, vĩnh viễn không còn luân hồi. Luận về thọ mạng, thì cũng đồng với Phật, chẳng thể dùng toán số mà tính biết được. Trong đây có chim, nước, rừng cây v.v... đều có thể thuyết pháp, khiến cho người ngộ giải, chứng vào hội Vô sinh.

4) Căn cứ vào "Đại kinh", tạm dùng một loại âm nhạc để so sánh. Trong kinh tán thán rằng:

Từ vua cõi thế đến Lục Thiên
Âm nhạc hòa reo đến tám trùng
Thánh thót giao hoà tăng vạn bực
Nhạc hoà cây báu cũng vang đưa
Lại có nhạc trời hoà trong gió
Pháp âm trong lành vui tâm thần
Ánh sáng uyển chuyển chiếu mười phương
Vì vậy kính lễ cõi thanh tịnh.

8) Nguyện sinh về mười phương Tịnh độ không bằng quy hướng Tây phương.

Hỏi: Hoặc có người nói: "Nguyện sinh về mười phương Tịnh quốc, không nguyện quy về Tây phương." Điều đó là nghĩa gì?

Đáp: Có ba nghĩa không đồng:

1) Mười phương Phật quốc tuy chẳng phải là nơi bất tịnh, nhưng cảnh rộng thì tâm mê muội; cảnh hẹp thì ý mới chuyên. Vậy nên trong Thập phương tùy nguyện vãng sinh có nói: "Bồ-tát Phổ Quảng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Mười phương Phật độ đều là nghiêm tịnh, tại sao trong các kinh chỉ riêng tán thán cõi Tây phương Cực lạc của Phật A-di-đà, khuyên cầu vãng sinh?

Phật bảo Bồ-tát Phổ Quảng:

- Tất cả chúng sinh, phần nhiều đều bị não loạn phiền trược, chánh niệm thì ít. Muốn khiến cho chúng sinh chuyên tâm vào đó, cho nên mới tán thán cõi này một cách đặc biệt vậy. Nếu có thể y vào nguyện mà tu hành, thì lợi ích thật vô cùng.

2) Mười phương Tịnh độ tuy đều là nghiêm tịnh, mà sâu cạn khó biết. Tịnh quốc của Phật Adi-đà là cửa ngõ của cõi Tịnh độ. Sao biết được điều này?

Trong kinh Hoa Nghiêm có nói: "Một kiếp ở thế giới Ta-bà, bằng một ngày một đêm ở thế giới Cực lạc. Thế giới Cực lạc một kiếp, bằng thế giới Ca-sa-tràng một ngày một đêm." Như thế, so sánh hơn kém, mới có mười A-tăng-kỳ. Vậy nên biết vì là sơ môn của cõi Tịnh độ mà chư Phật cùng khuyên cầu sinh về đó. Các cõi Phật khác đều không bằng, cho nên người tin ngưỡng, phần nhiều đều nguyện sinh về.

3) Tịnh độ của Phật A-di-đà đã là sơ môn của Tịnh độ, thế giới Ta-bà tức là cõi uế độ. Vì sao lại biết như thế? Như trong kinh Chánh pháp niệm có nói: "Từ đây đi về phía Đông bắc, có một thế giới tên là Tư-ha. Đất đai chỉ có cát đá ba góc; mỗi năm mưa ba lần; mỗi lần mưa ướt thấm không quá năm tấc đất. Dân chúng ở đó duy chỉ ăn cây trái, vỏ cây làm y phục, cầu sống không được, cầu chết cũng không xong. Lại có một thế giới, tất cả các loài hổ báo cầm thú, cho đến loài rắn, bò cạp, thảy đều có cánh bay, hễ gặp nhau là ăn thịt, không phân thiện ác. Đây há chẳng gọi là uế độ đầu tiên sao?"

Tuy vậy, xét về y báo thì cõi Ta-bà này vốn cùng hàng với Hiền Thánh. Mặc dù là uế độ, nhưng đây là cõi uế độ cuối cùng. Thế giới An Lạc đã là Tịnh độ sơ môn, tức là cảnh giới nối tiếp với phương này, cầu vãng sinh qua đó rất tiện lợi, vì sao lại không đi?

9) So sánh sự khác nhau giữa Nhiếp luận và kinh này.

Căn cứ vào Nhiếp luận thì nói là "Biệt thời ý ngữ". Trong Kinh quán, Phật nói hạng Hạ phẩm sinh tạo ra nghiệp trọng, khi lâm chung gặp Thiện tri thức chỉ bảo niệm mười niệm thành tựu mà được vãng sinh. Còn theo Nhiếp luận nói: Đây là biệt thời ý ngữ của Phật (Phật nói ý trong thời gian đặc biệt mà thôi). Xưa nay, các Luận gia, phần nhiều đều phán định bài văn này: "Khi lâm chung chỉ có mười niệm, chưa chắc là được vãng sinh. Như lấy một đồng tiền vàng mà đổi được ngàn đồng tiền vàng, chẳng phải một ngày mà có được." Cho nên mười niệm thành tựu đó, chỉ là tác nhân, chưa được vãng sinh, cho nên gọi là "Biệt thời ý ngữ".

Nếu giải thích như thế thì cũng chưa thật đúng. Vì sao? Phàm Bồ-tát, làm luận giải thích kinh, đều muốn xa thì phò trợ ý Phật, khế hợp với Thánh tình. Nếu luận văn trái với kinh, thì không có điều ấy. Nay giải thích "Biệt thời ý ngữ" đó, nghĩa là Phật thường thuyết pháp đều nói rõ về nhân trước quả sau, lý số đều rõ ràng. Nay trong kinh này chỉ nói một đời tạo tội, khi lâm chung một niệm thành tựu mà được vãng sinh. Bất luận người ấy trong quá khứ có nhân hay không có nhân cầu vãng sinh. Đây chỉ là đức Thế Tôn muốn tiếp dẫn chúng sanh tạo nghiệp ác ở đương lai, khiến cho khi đến ngày lâm chung, bỏ ác quy thiện, nương niệm đó mà được vãng sinh. Đó chính là do ẩn nhân đời trước. Đức Thế Tôn ẩn thỉ hiển chung, ẩn nhân nói quả, gọi là "Biệt thời ý ngữ".

Vì sao biết chỉ khiến cho mười niệm thành tựu là đều có nhân trong thời quá khứ? Như kinh Niếtbàn có nói: "Nếu người ở trong thời quá khứ đã từng cúng dường chỉ nửa hằng hà sa chư Phật. Lại từng phát tâm, mà lại có thể trong đời ác trược nghe thuyết Đại thừa kinh giáo, chỉ là không hủy báng chứ không có công đức gì khác. Nếu từng cúng dường một hằng hà sa chư Phật và từng phát tâm, về sau nghe Đại thừa kinh giáo, đã không hủy báng, lại thêm yêu thích."

Dẫn chứng qua các bộ kinh này, đủ biết là trong mười niệm thành tựu, đều thật là nhân trong quá khứ. Nếu không có nhân trong quá khứ, thì không thể gặp được Thiện tri thức, huống gì mười niệm lại thành tựu được sao?

Luận nói: "Lấy một đồng tiền vàng mà đổi được ngàn tiền vàng, chẳng phải một ngày mà được." Nếu căn cứ vào ý Phật, muốn khiến cho chúng sinh tích tụ nhiều nhân thiện, rồi nương theo niệm mà được vãng sinh. Như theo cách giải luận chủ, nương hết vào nhân quá khứ, lý cũng không trái. Nếu giải theo đây, thì trên thuận với kinh Phật, dưới hợp với ý luận, tức là phù hợp với kinh luận, thì sự vãng sinh sẽ thông suốt, không còn nghi hoặc.

III. Rộng Nêu Vấn Đáp Để Trừ Bỏ Nghi Tình:

Từ đây về sau chính là rộng bày nghĩa vấn đáp ở trong Trí Độ luận.

Hỏi: Tất cả chúng sinh từ vô lượng kiếp đến nay, tạo ra đủ các nghiệp hữu lậu, hệ thuộc trong ba cõi. Vì sao lại không đoạn trừ hết các nghiệp ràng buộc này mà chỉ một ít thời gian niệm Phật A-di-đà, liền được vãng sinh ra khỏi ba cõi? Vậy nghĩa nghiệp ràng buộc muốn nói là gì?

Đáp: Có hai cách giải thích:

- Y theo pháp để đả phá.

- Dùng thí dụ để làm rõ.

Nói y theo pháp để đả phá tức là chư Phật có bất khả tư nghì trí, Đại thừa quảng trí, Vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí. Bất tư nghì trí lực đó là lấy ít làm nhiều, lấy nhiều làm ít; lấy gần làm xa, lấy xa làm gần; lấy khinh làm trọng, lấy trọng làm khinh. Có các loại trí như thế, vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn.

Cách thứ hai sau đây; đều mượn bảy thí dụ để làm rõ.

1) Ví như có trăm kẻ tiều phu tích chứa củi cả trăm năm cao cả ngàn thước, rồi cho một mồi lửa vào, chỉ trong nửa ngày là đốt sạch. Lẽ nào không được nói chứa củi trăm năm chỉ đốt trong một ngày mà hết?

2) Thí như người bị què, đi trên thuyền của người, nhờ gió to thổi, trong một ngày đi được cả ngàn dặm. Há không thể nói một ngày người què đi cả ngàn dặm?

3) Cũng như người nghèo có được báo vật đem dâng cho vua, vua rất vui liền trọng thưởng cho. Trong khoảnh khắc người này bỗng trở nên giàu có. Lẽ nào không được nói cực khổ bao nhiêu năm, liền đạt được như vậy. Nói sự phú quý đó, là việc chẳng có.

4) Cũng như kẻ hèn yếu dùng hết sức mình cưỡi lừa bay lên mà không được. Nếu nương theo Luân vương mà đi thì liền bay lên hư không, qua lại tự tại. Há không được nói là sức kẻ hèn yếu có thể bay vào hư không?

5) Lại như bị dây quấn cả mười vòng, cả ngàn người không kiềm chế được, nhưng đứa bé vung kiếm ra liền đứt làm đôi. Lẽ nào không được nói lực của đứa trẻ có thể cắt đứt được sao?

6) Lại như loài chim chạm vào nước, thì các loài trai đều chết. Tê giác chạm bùn, người chết liền sống lại. Há không được nói tánh mạng một khi dứt đi là có thể sống lại?

7) Ví như hạc vàng kêu Tử An, Tử An liền sống lại. Há không được nói người chết là thiên thu, mà có thể sống lại? Tất cả vạn pháp đều có tự lực và tha lực, tự nhiếp và tha nhiếp, có thiên khai vạn bế, vô lượng vô biên, ông há lại dùng thức hữu ngại, nghi pháp vô ngại kia sao?

Lại nữa, trong năm thứ bất tư nghì, thì Phật pháp là nghĩa tối bất tư nghì hơn hết. Ông lấy nghiệp ràng buộc ba cõi làm trọng, nghi việc niệm Phật chút ít thời gian là khinh. Người đã nhập vào Chánh định tụ, không được vãng sinh Cực lạc, thì sự việc ấy không thể có.

Hỏi: Trong kinh Đại thừa nói: "Nghiệp đạo như cái cân, bên nặng thì kéo trước." Tại sao chúng sinh từ một thân hình ấy, hoặc trăm năm, hoặc mười năm, cho đến ngày nay không lúc nào là không tạo việc ác. Tại sao khi lâm chung gặp được Thiện tri thức, niệm liên tục mười niệm, thì được vãng sinh? Nếu như thế thì đối với nghĩa nêu ra trước, lấy gì để làm tin?

Đáp: Ông cho một đời ác nghiệp là trọng. Người Hạ phẩm vãng sinh chỉ có mười niệm thiện cho là nhẹ. Nay đem nghĩa khinh trọng để so sánh, chính rõ ở tại tâm, tại duyên, tại nơi sự quyết định, mà không dựa vào thời tiết ít nhiều lâu, mau.

Tại sao nói là tại tâm? Nghĩa là người kia lúc tạo nghiệp, là đã y chỉ vào chỗ hư vọng điên đảo do tâm sinh ra. Mười niệm này, là nhờ sự khuyến tấn an ủi của Thiện tri thức, nghe được thật tướng pháp tánh. Một thật một hư, lẽ nào lại đem so sánh được. Vì sao? Ví như ngàn năm ở trong nhà tối, nếu như có chút ánh sáng thì liền tỏ rõ ngay, đâu có thể nói người ở trong nhà tối mãi không ra? Thế nên trong kinh Di Nhật Ma Ni Bảo có nói: "Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp: Chúng sinh tuy muôn lượng kiếp trôi lăn trong ái dục, do tội chướng che lấp. Nếu nghe được kinh Phật trở lại niệm thiện, thì tội liền tiêu diệt vậy." Đây là chính do tại tâm.

Vì sao nói là tại duyên? Nghĩa là, người kia tạo tội là do vọng tưởng khởi lên, vì phiền não quả báo mà thành chúng sinh. Nay mười niệm này là y vào Vô thượng tín tâm; nương vào danh hiệu công đức vô lượng, thanh tịnh chân thật của Phật A-di-đà. Ví như có người bị tên độc thấm vào gân cốt, nếu nghe được tiếng trống nhạc diệt trừ, thì tên độc liền được rút ra. Như vậy đâu có thể nói là bị tên độc đã thấm sâu, nghe được âm thanh cũng không thể nhổ ra được? Đây gọi là tại duyên.

Tại sao nói là do quyết định? Vì lúc người kia tạo tội, tự y chỉ vào có hậu tâm có gián tâm. Nay trong mười niệm này, là do vô hậu tâm, vô gián tâm khởi lên, đó là quyết định.

Lại như trong Trí Độ luận có nói: "Tất cả chúng sinh khi lâm chung, gió đao vây bủa lấy mình, ma tử khổ lại đến bức bách, sinh tâm rất lo sợ. Nếu như gặp được Thiện tri thức, phát tâm dõng mãnh, tâm tâm tương tục trong mười niệm, tức là tăng thượng thiện căn, liền được vãng sinh."

Ví như có người ra trận đối đầu phá quân địch, đem hết sức mình ra chiến đấu; mười niệm thiện cũng như thế. Còn như người khi lâm chung khởi sinh một niệm tà kiến, tăng trưởng ác tâm, thì làm tiêu hết phước trong ba đời, liền rơi vào ác đạo.

Hỏi: Đã gọi là niệm mười điều lành trước lúc lâm chung, làm tiêu hết mọi chướng nghiệp, được sinh Tịnh độ, vậy biết lúc nào là mười niệm?

Đáp: Như trong kinh nói: "Trăm lần sinh diệt thành một sát-na; cứ sáu mươi sát-na là một niệm." Nay y vào kinh luận mà giải về niệm này vậy.

Giải về niệm này là không chỉ về thời tiết, mà chỉ nhớ niệm A-di-đà. Như đối với tổng tướng và biệt tướng, tùy theo sở duyên mà quán, trải qua mười niệm, không có niệm khác xen tạp vào, ấy mới gọi là mười niệm. Lại nói mười niệm tương tục đó là bậc Thánh trong các bậc Thánh, chỉ do nơi tích niệm, ngưng hết mọi suy tư, không duyên vào việc khác, thì khiến cho nghiệp đạo thành tựu. Lại nói nếu hành niệm lâu ngày, phần nhiều y vào đây. Nếu người mới hành niệm, nhớ số cũng tốt. Ở đây cũng y vào Thánh giáo mà nói. Lại hỏi: Nay muốn nương vào đó để khuyên người hành trì niệm

Phật Tam-muội, chưa biết niệm đó tướng trạng như thế nào?

Đáp: Ví như có người đi giữa đồng trống trở về, bỗng gặp bọn cướp, đang hùng hổ cầm dao muốn giết. Người này băng qua đường tắt bỏ chạy, nhìn thấy một dòng sông. Chạy chưa tới người ấy đã vội nghĩ rằng: "Ta mau chạy tới bờ sông này, vậy cởi áo lội qua sông hay mặc áo để lội? Nếu cởi áo e rằng sẽ không kịp. Nếu không cởi y phục thì e rằng khó bảo toàn." Bây giờ chỉ có nhất tâm tìm phương tiện để vượt qua sông, không có tâm tưởng nào xen tạp. Hành giả tu tập cũng như thế. Khi niệm: "A-di-đà Phật", cũng như người nghĩ sẽ lội qua sông, niệm niệm tương tục, không có tâm nào xen vào. Hoặc niệm Pháp thân Phật; hoặc niệm thần lực Phật; hoặc niệm trí tuệ Phật; hoặc niệm tướng bạch hào của Phật; hoặc niệm bổn nguyện của Phật. Xưng danh cũng như thế, chỉ có thể chuyên một niệm không dứt, thì nhứt định sẽ được vãng sinh.

Nay khuyên người học về sau, muốn hội nhập vào Nhị đế, chỉ biết niệm niệm là bất khả đắc, đó chính là cửa trí tuệ. Nếu có thể buộc niệm liên tục không đứt đoạn tức là cửa công đức. Cho nên trong kinh nói: "Đại Bồ-tát hằng đem công đức trí tuệ để tu dưỡng tâm." Nếu người mới học, chưa thể phá tướng, chỉ có thể y tướng mà chuyên tu thì chắc chắn được vãng sinh không còn nghi ngờ gì nữa.

Lại hỏi: Trong Đại kinh Vô Lượng Thọ có nói: "Mười phương chúng sinh đều nhất tâm tin ưa, muốn sinh về nước ta, nhẫn đến mười niệm, nếu không vãng sinh về Tịnh quốc, thì ta không thành Chánh giác."

Nay có người nghe được lời Thánh giáo, hiện đời không có một tâm niệm nào, đến khi gần lâm chung mới tu niệm, đó là việc gì?

Đáp: Việc này là không đúng. Vì sao? Kinh nói: "Mười niệm tương tục tưởng như không khó. Nhưng chúng sinh phàm phu, tâm như ngựa hoang, thức như loài khỉ, níu kéo theo lục trần, biết bao giờ mới dừng nghĩ." Vậy cần phát tín tâm, để khắc niệm, khiến cho tích tập lâu ngày thành tánh, từ đó mà thiện căn thêm kiên cố. Như Phật bảo với Đại vương: "Người tích tụ hạnh thiện, khi chết không khởi lên ác niệm. Như cây trước khi nghiêng, tất phải tùy theo hướng cây cong mà ngã. Như gió đao một khi thổi đến, thì trăm sự khổ sẽ theo bức bách thân." Nếu không tích tập tu thì hoài niệm lấy gì để biện luận? Vậy khuyên các vị đồng tu, nên dự kết lấy lời ngôn yếu này, lúc lâm chung cần nhất tâm xưng niệm A-di-đà Phật, nguyện sinh về nước An lạc. Mỗi mỗi nối tiếp tức sẽ thành mười niệm, như vậy cho đến khi dứt hơi thở, liền được vãng sinh về Tịnh quốc. Một khi đã nhập vào chánh định tụ, thì còn lo âu gì nữa. Các vị nên so sánh các điều lợi lớn, tại sao lại không dự bị khắc niệm!

Lại hỏi: Trong tất cả các kinh luận Đại thừa đều nói, tất cả chúng sinh, cuối cùng là vô sinh, dụ như hư không. Vậy sao nói các vị Long Thọ, Thiên Thân lại nguyện vãng sinh?

Đáp: Nói chúng sinh cuối cùng cũng trở thành vô sinh như hư không là có hai nghĩa:

1) Như sở kiến của người phàm phu, thì thật là chúng sinh, thật là sinh tử vậy. Nếu căn cứ vào sự vãng sinh của Bồ-tát mà nói, thì cứu cánh như hư không, như sừng thỏ.

2) Nay nói sinh đó là do nhân duyên sinh. Nhân duyên sinh chính là do giả danh mà sinh ra. Giả danh sinh tức là vô sinh, tức không trái với lý đại đạo. Chẳng phải như phàm phu, nghĩa thật là chúng sinh, thật là sinh tử.

Lại hỏi rằng: Phàm sinh ra phải có căn nguyên, đó là căn nguyên của khổ lụy. Nếu biết lỗi này, thì bỏ sinh mà cầu vô sinh, tất sẽ được giải thoát. Nay đã khuyên sinh về Tịnh độ, tất là bỏ sinh để cầu sinh, thì sinh nào có thể dứt tận?

Đáp: Nhưng cõi Tịnh độ là nơi vãng sinh vô sinh của Phật A-di-đà thanh tịnh bản nguyện, chẳng phải như chúng sinh trong ba cõi chấp trước trong chỗ sinh hư vọng ái nhiễm. Vì sao? Phàm pháp tánh thanh tịnh cứu cánh ấy là vô sinh, mà nói sinh đó chính là do phàm tình sinh ra.

Lại hỏi: Như trên nói thì biết sinh vốn là Vô sinh, đó là những bậc sinh trong hàng Thượng phẩm. Như vậy, người sinh trong Hạ phẩm nương vào mười niệm mà được vãng sinh, há chẳng phải là chấp chỗ thật sinh sao? Nếu thật sinh đó tức là rơi vào hai lưới nghi: Một là sợ không được vãng sinh; Hai là tướng thiện này không thể làm nhân cho vô sinh vậy.

Đáp: Để giải thích điều này, gồm có hai ý:

1) Ví như đem hạt ma-ni châu tịnh khiết đặt dưới nước bùn nhơ. Nhờ uy lực của hạt châu liền làm cho nước lắng trong ngay. Như vậy, dù người bị tội nghiệp sinh tử vô lượng, nếu nghe danh hiệu Phật A-di-đà chí cực thanh tịnh vô sinh như bảo châu, đem ném vào tâm ô trược, thì trong mỗi niệm tội diệt, tâm liền thanh tịnh, liền được vãng sinh.

2) Như ngọc ma-ni trong suốt, gói vào trong vải màu vàng huyền ném xuống nước, nước liền trở thành màu vàng đen, màu sắc như vật vậy. Cõi Phật thanh tịnh có danh hiệu A-di-đà Như Lai Bảo Châu Vô Thượng, được vô lượng công đức bao bọc thành tựu, nếu ném tâm vào trong cõi vãng sinh, há không thể chuyển từ sinh thành Vô sinh sao? Cũng như băng ở trên lửa, lửa lớn thì băng tan, băng tan thì lửa tắt. Nếu vãng sinh trong cõi Hạ phẩm, tuy không biết pháp tánh Vô sinh, nhưng do xưng danh hiệu Phật, tác ý vãng sinh, nguyện sinh về cõi kia, đã đến thời Vô sinh giới, thì thấy lửa sinh tự nhiên diệt.

Lại hỏi rằng: Nương vào thân nào để nói vãng sinh?

Đáp: Ở đây nói người giả danh tu các hạnh môn, niệm trước cùng niệm sau làm nhân. Người giả danh ở uế độ thì Tịnh độ cũng giả danh, không nhất định là một, không nhất định khác. Tâm trước tâm sau cũng như thế. Vì sao? Nếu quyết định là một, thì không có nhân quả; nếu quyết định là khác, thì chẳng phải tương tục. Vì nghĩa đó, mà ngang dọc tuy có khác, trước sau cũng chỉ một người hành trì.

Hỏi: Nếu người chỉ có thể xưng danh hiệu Phật, thì hoặc chướng sẽ tiêu trừ hết. Cũng vậy, ví như người lấy tay chỉ mặt trăng, thì ngón tay này nên có thể phá trừ hết tăm tối vậy?

Đáp: Vạn pháp đều sai biệt, không thể một lần mà khái quát cả. Vì sao? Từ có danh mà có pháp, tự nơi có danh mà khác pháp. Có danh tức là pháp đó. Cũng như danh hiệu của chư Phật và Bồ-tát là do phiên âm từ tiếng Phạm mà ra; chương cú Tuđa-la cũng vậy. Như từ ngữ Phạm chú nói: "Mặt trời xuất hiện ở phương Đông, khi đỏ khi vàng, giờ Dậu giờ hợi thì lại lặn", người gặp hoạn nạn cũng qua khỏi. Như có người bị chó cắn, nấu cao hổ cốt thoa vào thì hoạn đó liền giảm. Hoặc không có xương cốt, gặp lúc nguy hiểm, tay nắm lại miệng nói hổ đến hổ đến, thì bệnh cũng dứt. Hoặc có bị đau từ chân chuyển vào gân, thì nấu cây Mộc qua xức vào, hoạn kia liền hết. Nếu không có Mộc qua, thì lấy tay chà lên đó miệng gọi "Mộc qua, Mộc qua" thì bệnh cũng hết. Thân ta đạt được công hiệu như vậy là vì sao? Vì danh tức là pháp vậy. Có danh mà khác pháp đó, như lấy tay chỉ vào mặt trăng vậy.

Lại hỏi rằng: Nếu người chỉ xưng niệm danh hiệu Di-đà, có thể làm tiêu trừ vô minh hắc ám của chúng sinh thì được sinh qua đó. Nhưng có chúng sinh xưng danh nhớ niệm, mà vô minh vẫn còn, không đủ như sở nguyện, là ý thế nào?

Đáp: Do tu hành không như thật, cùng danh nghĩa không có tương ưng. Vì sao? Là do không biết thân của Như Lai là thật tướng.

Lại có ba loại bất tương ưng:

1) Tín tâm không dừng, như còn như mất.

2) Tín tâm bất nhất, nghĩa là không quyết định.

3) Tín tâm không tương tục, vì xen tạp các niệm khác, mất đi tướng thâu nhiếp. Nếu có thể tương tục thì là nhất tâm. Chỉ khi nhất tâm mới có thể dừng tâm. Ba tâm này một khi đã có đủ, nếu không vãng sinh là không có vậy.

----------------------------------

PHẦN 3

Trong phần thứ ba này được chia làm bốn nội dung:

- Nói về việc nan hành đạo, dị hành đạo.

- Nói về kiếp lớn nhỏ không đồng.

- Nói về vô thỉ kiếp đến nay, ở trong ba cõi năm đường, nương theo hai nghiệp thiện ác, thọ hai báo khổ vui, luân hồi đến vô tận, thọ sinh tử vô số.

- Đem Thánh giáo chứng thành, khuyên chúng sinh đời sau gắng siêng tin tưởng cầu vãng sinh.

I. Nói Về Nan Hành Đạo Và Dị Hành Đạo:

Trong nội dung này gồm có hai ý:

1. Nêu ra hai thứ đạo nan và dị.

2. Phần vấn đáp giải thích.

Ta đang ở trong nhà lửa, nghĩ thật đáng sợ. Ngưỡng mong ba xe của Đại Thánh chiêu cảm an ủi. Vả lại, các loại xe nai, xe dê rằng khó đạt được đến đích. Phật quở trách tà chấp, làm chướng ngại cầu quả Bồ-đề, về sau có hồi hướng cũng là quanh co. Như đi đường tắt bằng xe lớn cũng chỉ một đường, chỉ sợ là ở nơi hiện cư thối vị, đường hiểm lâu xa, đức quả chưa lập, khó mà tiến tới được. Cho nên, Bồ-tát Long Thọ nói: "Cầu quả A-bệ-bạt trí có hai thứ: Một là Nan hành đạo; Hai là Dị hành đạo."

Nói Nan hành đạo đó, nghĩa là ở trong đời ngũ trược, vào thời không có Phật, cầu quả A-bệ-bạt trí thật là khó. Khó này là do có nhiều đường, lược thuật lại thì có năm thứ:

1) Làm thiện như ngoại đạo, làm não loạn đạo Bồ-đề.

2) Chúng Thanh văn tự lợi, làm chướng tâm đại Bi.

3) Bị ác nhân phá hết thắng đức.

4) Hàng nhân Thiên thiện quả điên đảo, làm hoại phạm hạnh của người.

5) Chỉ có tự lợi, không trì tha lực. Như các việc này, chạm mắt đều thấy rõ.

Ví như trên đất bằng, đi bộ thì khổ, cho nên nói là Nan hành đạo. còn gọi là Dị hành đạo tức là lấy nhân duyên tin Phật, nguyện sinh về Tịnh độ, khởi tâm lập đức, tu các hạnh nghiệp, nhờ nguyện lực của Phật, liền được vãng sinh. Vì Phật lực trụ trì, liền nhập vào Đại thừa Chánh định tụ. Chánh định tụ đó tức là A-tỳ-bạt-trí bất thoái vị. Ví như đường thủy, đi thuyền thì vui, cho nên nói là Dị hành đạo.

Hỏi: Bồ-đề là một, tu nhân chẳng phải là hai. Tại sao ở đây nói tu nhân hướng Phật quả thì tên gọi là Nan hành còn vãng sinh Tịnh độ, đắc đại Bồđề thì gọi là Dị hành đạo?

Đáp: Các kinh Đại thừa đều nói, tất cả hành pháp, đều có tự lực tha lực, tự nhiếp, tha nhiếp.

Sao gọi là tự lực? Ví như có người sợ việc sinh tử, phát tâm xuất gia, tu định phát thông tuệ, du hành khắp bốn phương, đó gọi là tự lực.

Sao gọi là tha lực? Như có hạng phàm phu, tự thân mình không thể vươn lên. Nếu nương theo bánh xe của Luân Vương thì có thể bay lên hư không, du hành khắp thiên hạ. Đây là nhờ vào uy lực của Luân Vương, cho nên gọi là tha lực.

Chúng sinh cũng như vậy, ở đây khởi tâm lập hạnh, nguyện sinh về Tịnh độ, đây là do tự lực. Khi sắp lâm chung, Phật A-di-đà phóng quang tiếp dẫn, liền được vãng sinh đó tức là tha lực. Cho nên trong Đại kinh nói: "Trời người trong mười phương muốn cầu sinh về nước ta, đều nhờ nguyện lực của Phật A-di-đà làm tăng thượng duyên." Nếu không như thế, thì bốn mươi tám nguyện làm sao có thể lập được? Người học Phật nhờ có tha lực để nương nhờ, không còn tự hạn chế nơi mình ở trong nhà lửa.

II. Nói Về Đại Kiếp Và Tiểu Kiếp:

Như trong Trí Độ luận nói: "Kiếp có ba loại:

Một là tiểu kiếp; hai là trung kiếp; ba là đại kiếp."

Ví như một kinh thành, vuông vức rộng bốn mươi dặm, cao, rộng cũng vậy. Trong thành đó chứa đầy hạt cải, có chư Thiên trường thọ, cứ ba năm thì gieo một hạt cải, cho đến khi nào hết số hạt cải ấy thì đó là một tiểu kiếp.

Hoặc thành vuông tám mươi dặm, cao rộng đều như thế, có đầy hạt cải ở trong, rải cho hết như ở trên, đó là một trung kiếp.

Hoặc có thành cao rộng đều một trăm hai mươi dặm, chứa đầy hạt cải trong đó, và cũng đem rải hết như đã nói ở trước, đó gọi là một đại kiếp.

III. Nói Về Vô Thỉ Kiếp Đến Nay:

Chúng sinh từ vô thỉ đến nay, luân hồi sinh tử không dứt, thọ thân vô số. Như trong Trí Độ luận nói: "Loài người ở trong đó, hoặc từ nhà họ Trương chết đi rồi sinh vào nhà họ Vương; hoặc từ nhà họ Vương chết đi rồi sinh vào nhà họ Lý. Cứ như thế sinh cùng trong pháp giới. Hoặc sinh vào trùng nhà, hoặc sinh vào khác nhà, hoặc chết ở cõi Diêmphù-đề rồi sinh vào cõi Tây Câu-da-ni. Các cõi khác cũng như thế. Hoặc như người trong bốn châu thiên hạ chết đi, sinh lên cõi trời Tứ Thiên vương như thế. Hoặc người ở Tứ Thiên vương chết, sinh vào Đao lợi thiên. Người ở Đao lợi thiên chết lại sinh vào cõi Tứ Thiên cũng đều thế cả. Sắc giới có mười tám cõi trời; Vô sắc giới có bốn tầng trời. Ở đây chết thì sinh vào nơi kia, mỗi mỗi đều biến cũng thế. Hoặc trong cõi Sắc giới chết lại sinh vào trong A-tỳ địa ngục. Trong A-tỳ địa ngục chết lại sinh vào các địa ngục nhẹ hơn. Trong các địa ngục nhẹ hơn khi chết lại sinh vào loài súc sinh. Trong loài súc sinh chết lại sinh vào ngạ quỷ. Ngạ quỷ chết hoặc lại sinh vào trời người. Như thế, chúng sinh luân hồi trong lục đạo, thọ hai quả báo khổ vui, sinh tử vô cùng. Trong loài thai sinh đã như thế, ba loài khác cũng thế. Cho nên trong kinh

Chánh Pháp Niệm có nói: "Bồ-tát hóa sinh bảo chư Thiên chúng: Phàm phu trải qua trăm ngàn lần sinh, đắm trước phóng dật trong lạc thú không lo tu đạo; không biết là khi phước hết, sẽ trở lại đọa trong tam đồ khổ não." Cho nên, trong kinh Niếtbàn nói: "Thân này là tích tập các điều khổ, tất cả đều là bất tịnh, triền phược, cho đến thân của hàng chư Thiên ở trên cũng lại như thế."

Vì vậy kinh ấy cũng khuyên tu bất phóng dật. Vì sao? Vì phóng dật là căn bản của tội ác. Không phóng dật là cội nguồn của điều thiện.

Như ánh nhật nguyệt là tối thượng trong các thứ ánh sáng, pháp bất phóng dật cũng như thế, ở trong các pháp thiện nó là tối thượng. Cũng như Tu-di là vua trong các núi, pháp bất phóng dật cũng như thế, là tối thiện trong các pháp thiện. Vì sao? Vì tất cả pháp ác đều do phóng dật sinh ra; tất cả pháp thiện đều lấy bất phóng dật làm căn bản.

Hỏi: Tuy nói là từ vô thỉ kiếp đến nay chúng sinh luân hồi vô tận, mà chưa biết ở trong một kiếp thọ biết bao nhiêu là thân chúng sinh?

Đáp: Như kinh Niết-bàn nói: "Đem cây cỏ trong ba ngàn đại thiên thế giới, cắt ra thành bốn tấc, để đếm số thân cha mẹ đã làm ở trong một kiếp cũng không thể hết." Hoặc nói: "Một kiếp uống sữa mẹ nhiều hơn bốn biển lớn." Hoặc nói: "Trong một kiếp tích thân cốt như núi Tỳ-phú-la." Như thế, từ kiếp lâu xa đến nay, chúng sinh luân hồi sinh tử cho đến nay không thể tính hết. Thật là thương xót! Lại hỏi: Đã nói là từ vô thỉ kiếp đến nay, chúng sinh thọ thân vô số ấy là nói tổng quát, làm cho người nghe nhàm chán, hay là cũng có kinh luận làm chứng?

Đáp: Đây đều là Thánh giáo văn từ rõ ràng. Vì sao? Như kinh Pháp Hoa có nói: "Trong kiếp quá khứ lâu xa không thể nói, có Đức Phật ra đời hiệu là Đại Thông Trí Thắng Như Lai. Bấy giờ có mười sáu vị vương tử, cùng thăng toà thuyết pháp, giáo hóa chúng sinh. Mỗi vị vương tử đều giáo hóa sáu trăm vạn ức na-do-tha hằng hà sa chúng sinh. Từ khi Đức Phật diệt độ đến nay, thật là lâu xa, vẫn không thể tính biết." Vì sao? Kinh nói: "Thâu lấy tất cả đại địa trong tam thiên thế giới mài làm mực." Phật nói: "Có người đi qua một ngàn nước lấy mực chấm một điểm. Trải qua như thế cho khắp hết các đại địa." Phật bảo: "Người đó đi qua các quốc độ, nếu có chấm hay không chấm, cho đến hết các vi trần, mỗi trần là một kiếp. Từ khi Đức Phật ấy diệt độ đến nay, trải qua các số vi trần hơn thế. Chúng sinh ngày nay chính đã từng thọ giáo pháp của mười sáu vị vương tử kia." Cho nên trong kinh nói: "Vì bản nhân duyên như thế, nên Phật thuyết kinh Pháp Hoa."

Kinh Niết-bàn lại nói: "Dù là vương tử, là người nghèo, hai người như thế cùng qua lại." Nói vương tử đó chính là Đức Thích-ca bây giờ, là vị vương tử thứ mười sáu vậy. Nói người nghèo đó, là chúng sinh vậy.

Hỏi: Ở đây nói chúng sinh luân hồi trong nhiều kiếp. Nhưng ở trong ba cõi, vào nẻo (thú) nào nhiều?

Đáp: Tuy nói là lưu chuyển, nhưng thọ nhận trong ba nẻo ác là nhiều. Như kinh nói: "Ở trong hư không lấy vuông vức tám khuỷu tay. Từ đất cho đến trời Sắc cứu cánh, ở đây có thể nhìn thấy chúng sinh rất nhiều trong tam thiên đại thiên thế giới." Như vậy đủ biết thân chúng sinh ở trong ba nẻo ác rất nhiều. Vì sao? Vì ác pháp dễ khởi, thiện tâm khó sinh. Nay chỉ xem những chúng sinh trong hiện tại, nếu được phú quý thì duy chỉ phóng dật phá giới mà thôi. Trong cõi trời lại đắm trước vào lạc cảnh. Cho nên trong kinh nói: "Chúng sinh lưu chuyển, thường lấy ba nẻo ác làm nhà. Cõi trời người chỉ tạm đến rồi đi, nên gọi đó là khách xá vậy."

Nay dựa vào Đại Trang Nghiêm luận, khuyên tất cả chúng sinh cần nên buộc niệm hiện tiền. Kệ nói:

Khi đương thời chẳng lo
Giải đãi không tinh tấn
Tham làm việc mưu sinh
Không tu thí giới thiền
Đến khi sinh tử đến
Mới hối cầu tu thiện.
Người trí nên quán xét
Trừ đoạn năm dục tưởng.
Tinh cần tu tập tâm
Trọn đời không hối hận
Tâm ý đã chuyên chú
Không một niệm thác loạn
Người trí cần chuyên tâm
Lâm chung ý không tán.
Không tập tâm chuyên chú
Lâm chung ắt tán loạn
Nếu lúc tâm tán loạn
Như điều ngựa, dùng cương
Như lúc đang chiến đấu
Xoay chuyển không đi thẳng.

Hỏi: Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Vậy thì muôn số kiếp đến nay, đáng lý phải gặp nhiều Đức Phật ra đời, cớ sao cứ mãi luân hồi trong sinh tử, chưa ra khỏi nhà lửa?

Đáp: Xét theo Đại thừa Thánh giáo, bởi chúng sinh không đạt được hai loại thắng pháp để thoát ly sinh tử, cho nên không thể ra khỏi nhà lửa. Hai thắng pháp đó là gì? Một là Thánh đạo; hai là vãng sinh Tịnh độ. Nói Thánh đạo đó thì đời nay rất khó chứng. Bởi thứ nhất là do cách bậc Thánh đã lâu; thứ hai là do lý sâu mà hiểu cạn. Cho nên trong kinh Đại Tập Nguyệt Tạng nói: "Trong đời mạt pháp, tuy có ức ức chúng sinh tu đạo khởi hạnh, nhưng chưa có người nào đắc đạo". Nay đời mạt pháp ngũ trược ác thế, chỉ có nhị môn Tịnh độ là có một thể thông nhập cho tất cả chúng sinh. Cho nên trong Đại kinh nói: "Như có chúng sinh, một đời tạo nghiệp ác, khi sắp lâm chung, niệm liên tục mười niệm, xưng danh hiệu của ta, nếu không vãng sinh về Cực lạc thì ta không thành Chánh giác."

Lại có chúng sinh không thể tự lượng. Nếu căn cứ vào các pháp, Chân như, Thật tướng, Đại thừa Đệ nhất nghĩa không thì họ chưa từng dựa vào tâm. Nếu luận theo Tiểu thừa, tu nhập vào kiến đế tu đạo, thì từ Tu-đà-hoàn cho đến A-na-hàm, A-lahán, từ đoạn năm phần hẹ kiết sử, đến trừ năm phần thượng kiết sử, không kể đạo tục, chưa có thể phân định. Giả như có quả báo của hàng nhân Thiên, đều là do tu năm giới, mười thiện mà chiêu lấy báo này, nhưng người đạt được rất ít. Nếu luận về khởi ác tạo nghiệp, thì chẳng khác gì mưa to gió lớn! Vì lòng Từ bi mà chư Phật khuyên tu Tịnh độ. Giả như một đời tạo nghiệp, chỉ có thể buộc niệm chuyên tinh, thường có thể niệm Phật, thì tất cả chướng ngại tự nhiên cũng được tiêu trừ, nhất định sẽ được vãng sinh. Vì sao chúng ta không tư duy suy lượng, mà tất cả lại không dụng tâm vậy?

IV. Dẫn Kinh Làm Chứng, Khuyến Tín Vãng Sinh:

Nội dung thứ tư từ đây trở đi. Đều dẫn kinh luận làm chứng, khuyên chúng sinh phát tín tâm cầu vãng sinh.

Theo kinh Quán Phật Tam-muội nói: "Bấy giờ, trong hội có Bồ-tát Tài Thủ bạch Phật rằng:

- Bạch Đức Thế Tôn! Con nhớ trong quá khứ vô lượng kiếp, có Phật ra đời, cũng danh hiệu là Thích-ca Mâu Ni. Sau khi Đức Phật ấy diệt độ, có một vị vương tử tên là Kim Tràng, kiêu mạn tà kiến, không tin chánh pháp.

Có Tỳ-kheo tri thức tên là Định Tự Tại, bảo Vương tử rằng:

- Đời có tượng Phật, rất là đẹp, có thể tạm vào trong tháp, quán hình tượng Phật."

Bấy giờ vương tử theo lời thiện hữu, vào tháp quán tượng, thấy tướng hảo của tượng, bèn nói rằng:

- Thưa Tỳ-kheo, tượng Phật đoan nghiêm, còn đẹp như thế, huống là thân Phật thật.

Tỳ-kheo bảo:

- Vương tử nay thấy tượng Phật đó, nếu không đảnh lễ thì nên xưng Nam-mô Phật. Vương tử trở về cung suy nghĩ, nghĩ tượng ở trong tháp, tức thì sau đêm đó Vương tử mộng thấy tượng Phật, tâm rất hoan hỷ, xa lìa tà kiến, quy y Tam bảo. Nhờ đó, sau khi mạng chung, do công đức lúc trước vào tháp xưng danh hiệu Phật, liền gặp được chín trăm ức na-do-tha Phật. Đối với chư Phật thì chuyên cần tinh tấn, thường đắc niệm Phật Tam-muội, được lực niệm Phật Tam-muội, chư Phật hiện tiền đều cùng thọ ký. Từ đó đến nay, trăm vạn A-tăng-kỳ kiếp, vương tử ấy không đọa ác đạo, nhẫn đến hôm nay đắc được Thủ-lăng-nghiêm Tam-muội. Vương tử đó nay chính là Tài Thủ con vậy.

Bấy giờ, trong hội liền có chư Đại Bồ-tát mười phương, số nhiều vô lượng, mỗi vị đều nói về bổn duyên, đều do niệm Phật mà được. Phật bảo A-nan:-Quán niệm Phật Tam-muội, là vị thuốc trị cho tất cả chúng sinh phạm tội, bảo hộ người phá giới, hướng đạo người lạc đường, mắt cho người bị mù lòa, là trí tuệ cho kẻ ngu si ám độn, là ngọn đèn nơi tăm tối, là vị tướng đại dũng mãnh đối với giặc phiền não. Nơi chư Phật thường qua lại là Thủlăng-nghiêm, các đại Tam-muội thường xuất ra ở đây.

Phật lại bảo A-nan:

- Ông nên khéo thọ trì, chớ để quên mất. Ba đời chư Phật trong quá khứ, hiện tại, vị lai đều thuyết giảng về Tam-muội này như vậy.

Ta cùng với mười phương chư Phật và một ngàn vị Phật trong đời Hiền kiếp, từ sơ phát tâm, đều nhân có lực niệm Phật Tam-muội mà được Nhất-thiết-chủng-trí.

Lại như trong kinh Mục-liên Sở Vấn, Phật bảo Mục-liên:

- Ví như vạn dòng sông chảy dài, có bọng cây nổi lên, trước không nhìn sau, sau không nhìn trước, cùng tuôn vào biển lớn. Thế gian cũng như vậy, tuy là có người hào quý, giàu có sung sướng tự tại, thảy không tránh khỏi sinh, lão, bệnh, tử. Chỉ do không tin vào kinh Phật, đời sau làm người, lại càng khốn khổ hơn, không thể được sinh vào ngàn Phật quốc. Cho nên ta nói nước Vô lượng thọ là nơi dễ đến dễ giữ. Mà nếu người không tu niệm cầu vãng sinh, lại tin theo ngoại đạo, ta cho đó là người vô trí không có mắt, không có tai.

Kinh giáo đã nói như vậy, tại sao chúng ta lại không bỏ việc khó, y vào sự dễ để hành đạo?

QUYỂN HẠ

PHẦN 4

Trong phần thứ tư này gồm có ba nội dung chính:

- Dựa vào Tam tạng Pháp sư ở Trung Quốc, cùng các vị Đại đức ở đây, đều xét kỹ ở trong Thánh giáo, tán thán quy hướng về Tịnh độ. Nay lấy đó để khuyến tấn quy hướng theo.

- Căn cứ vào các kinh thuộc Tịnh độ và các bộ kinh Đại thừa, thì sự tu nhập của phàm Thánh, phần nhiều lấy niệm Phật Tam-muội làm môn trọng yếu.

- Vấn đáp giải thích: Nói người niệm Phật được nhiều công đức lợi ích, không thể nghĩ bàn.

I. Nội Dung Thứ Nhất:

Y vào chỗ sở hành quả chư vị đại đức ở đây và Trung Quốc, tôi chỉ biết đưa quạt che mặt vào tường, há lại dám tự thị. Chỉ vì lúc đi tham học, tôi được thừa giáo của chư sư. Đó là ai? Là Tam Tạng Lưu Chi, là một vị Pháp sư Đại thừa của Trung Quốc. Kế đến thì có Đại đức xa tránh các điều danh lợi là Tuệ Sủng Pháp sư. Kế đến là các vị Đại đức thường diễn pháp, mỗi lần đều cảm được Thánh tăng đến nghe, thì có Pháp sư Đạo Tràng, tiếp theo thì có Đại đức Hòa Quang Cô Đậu. Cả hai nước đều ngưỡng mộ thì có Pháp sư Đàm Loan. Lại có vị Đại đức thiền quán đều nổi bật là Đại Hải Thiền sư. Kế đến thì có Đại đức thông tuệ giữ giới, thì có Tề Triều Thượng Thống. Nhưng sáu vị Đại đức trước đều là những bậc Thần cảnh nhị đế, chính là giềng mối của Đạo pháp, chí hạnh đều thù thắng, xưa nay thật ít có. Chư vị đều thông suốt Đại thừa, cùng tán thán việc quy hướng Tịnh độ, đó là Vô thượng yếu môn.

Hỏi: Đã nói các Đại đức đó tán thán việc quy hướng Tịnh độ là yếu môn, vậy chẳng biết lúc lâm chung, các vị Đại đức đó có chứng nghiệm được không?

Đáp: Tất cả đều có, không hề hư dối. Như Pháp sư Đàm Loan, bình thường đều chuyên tu Tịnh độ. Mỗi khi có người quở trách Pháp sư rằng: "Mười phương chư Phật đều là cõi Phật thanh tịnh, Pháp sư sao chỉ cầu về Tây phương, há chẳng phải là thiên kiến sao?"

Pháp sư đáp:

-Ta đã là phàm phu, trí tuệ cạn cợt, chưa đắc quả vị, cho nên cần niệm Phật cho đều. Cũng như đàn trâu ăn cỏ đều buộc tâm vào trong máng cỏ, lẽ nào buông lung thì làm sao có chỗ quy về.

Tuy là có sự phân vân khó giải, nhưng Pháp sư vẫn quyết định tu niệm cầu sinh. Bất kể là tăng hay tục, mỗi khi gặp Pháp sư đều được Ngài khuyến hóa. Nếu người chưa sinh chánh tín, khuyến cho họ được phát sinh. Nếu đã sinh chánh tín rồi, đều khuyên quy về Tịnh quốc. Cho nên, Pháp sư khi lâm chung, hai bên chùa, hàng đạo tục đều thấy phướn hoa ánh sáng chiếu tỏ khắp tự viện. Lại nghe mùi hương lạ, cùng âm nhạc đến nghênh tiếp, ngài liền được vãng sinh. Các vị Đại đức khác, khi lâm chung đều có ứng hiện điềm lành. Nếu muốn nói rõ hết các tướng vãng sinh này thì đều chẳng thể nghĩ bàn.

II. Nội Dung Thứ Hai:

Các kinh điển phần nhiều đều lấy niệm Phật Tam-muội làm tông. Trong đây có tám ý. Hai ý đầu nói về tướng Tam-muội; sáu ý sau chính là duyên y vào tướng mà rõ niệm Phật Tam-muội.

1) Căn cứ vào kinh Hoa Thủ.

Phật bảo Bồ-tát Kiên Ý: Tam-muội có hai loại:

- Nhất tướng Tam-muội.

- Chúng tướng Tam-muội.

Nhất tướng Tam-muội là có Bồ-tát nghe ở thế gian đó, có Đức Phật hiện nay đang thuyết pháp. Bồ-tát giữ lấy Phật tướng, ở trước mặt Phật, hoặc ngồi nơi đạo tràng, hoặc chuyển pháp luân, đại chúng cùng vây quanh. Giữ tướng như thế, thì thâu nhiếp hết các căn, tâm không tán loạn, chuyên niệm một vị Phật, không xả bỏ duyên. Bồ-tát như thế, đối với tướng Như Lai và tướng thế giới là hiểu, là không có tướng. Thường quán như thế, hành như thế không lìa, đó là duyên. Khi đó, Phật tượng đang hiện tiền ở trước mặt, liền vì đại chúng thuyết pháp.

Bồ-tát lúc này rất sinh lòng kính mộ, nghe giáo pháp đó, hoặc sâu hoặc cạn, càng thêm sự thâm trọng. Bồ-tát trụ vào Tam-muội, nghe thuyết các pháp đều là tướng hoại, nghe rồi liền thọ trì, từ Tam-muội khởi dậy, vì đại chúng mà diễn thuyết pháp đó.

Phật bảo Kiên Ý: Đó là Bồ-tát nhập vào Nhất tướng Tam-muội môn.

2) Căn cứ kinh văn-thù Bát-nhã để nói rõ Nhất hạnh Tam-muội.

Bấy giờ Văn-Thù-sư-lợi bạch Phật rằng:

-Bạch Thế Tôn! vì sao gọi là Nhất hạnh Tam-muội?

Phật bảo: Nhất hạnh Tam-muội là nếu có thiện nam, thiện nữ ở nơi trống trải, xả hết loạn tưởng, tùy theo hướng của Phật, đoan thân chánh niệm, không giữ tướng mạo, chuyên tâm nhất niệm danh hiệu Phật không dừng nghĩ, thì trong niệm đó có thể thấy cả ba đời chư Phật trong quá khứ, hiện tại, vị lai. Vì sao? Vì công đức niệm một vị Phật là vô lượng vô biên, không khác với công đức niệm vô lượng chư Phật. Đó gọi là Bồ tát hành trì Nhất hạnh Tam muội.

3) Căn cứ vào kinh Niết-bàn.

Phật bảo: Nếu người thường luôn tu niệm Phật Tam-muội, thì chư Phật mười phương luôn luôn hiện ra trước mặt

Vì vậy, trong kinh Niết-bàn nói, Phật bảo Bồtát Ca-diếp: "Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, thường chí tâm chuyên niệm Phật, dù ở trong núi rừng hay trong thôn xóm; dù là ngày hay đêm, lúc ngồi hay nằm, chư Phật thường hiện ra trước mặt người này, hằng thọ thí của vị này."

4) Căn cứ kinh quán và các kinh khác.

Y vào Kinh quán Vô lượng Thọ Phật và các bộ khác thì nói, muôn hạnh đã tu ấy, hễ luôn hồi hướng phát nguyện, thì không ai là không vãng sinh. Nhưng một hạnh niệm Phật mới là con đường chín yếu. Vì sao? Vì xét lường trong Thánh giáo thì nó có lợi ích cả trước và sau. Nếu muốn sinh thiện khởi hạnh, thì phải tu hết các độ. Như muốn diệt ác tiêu tai, thì tổng trị hết các chướng. Cho nên trong kinh nói, chúng sinh niệm Phật thì nhiếp tâm không buông xả, khi lâm chung ắt được vãng sinh. Đây chỉ mới là lợi ích ban đầu. Căn cứ y vào kinh Quán Âm Thọ Ký nói: "Phật A-di-đà trụ thế rất lâu, đến muôn kiếp, rồi cũng diệt độ. Khi Phật nhập Niết-bàn, duy chỉ có Quán Âm, Thế Chí trụ trì cõi An lạc để tiếp dẫn chúng sinh mười phương. Thời gian Phật đó khi diệt độ, cũng đồng như trụ thế. Tất cả chúng sinh ở trước Phật kia đều không nhìn thấy Phật; chỉ có ai một lòng chuyên niệm A-di-đà Phật, cầu vãng sinh thì mới thường thấy Phật A-di-đà hiện tiền, không hề diệt độ." Đây chính là lợi ích chung cuộc vậy. Nếu tu các hạnh môn khác, hồi hướng thì cũng được vãng sinh, nhưng khi Phật diệt độ sẽ có được gặp hay không gặp. Còn tu môn niệm Phật thì luôn luôn gặp Phật, cho dù đức Phật diệt độ. Cho nên khuyên người đời sau cân nhắc mà tu khiến cho được lợi ích lâu dài.

5) Căn cứ vào kinh Bạn Chu.

Bấy giờ có Bồ-tát Bạt-đà-hòa, nghe ở cõi nước này có Phật A-di-đà, nên thường nghĩ niệm đến Phật. Do sự niệm này nên thấy Phật A-di-đà hiện ra trước mắt, Bồ-tát nhìn thấy Phật liền hỏi:

- Nên hành pháp gì để được sinh về Cực lạc? Bấy giờ Phật A-di-đà nói với Bồ-tát:

- Muốn sinh về cõi nước ta, thì nên niệm danh hiệu ta chớ cho dứt đoạn, nên niệm thân Phật có ba mươi hai tướng hảo, đầy đủ đức tướng, ánh sáng tỏa chiếu rực rỡ, đoan chánh không gì bằng.

6) Dựa vào Đại Trí độ luận có ba cách giải thích:

a) Phật là Đấng Pháp Vương Vô Thượng, còn Bồ-tát là Pháp thần. Sự tôn trọng hơn hết, duy chỉ có Đức Phật, cho nên thường phải niệm Phật vậy.

b) Có các Bồ-tát tự nói lên rằng:

-Con từ vô thỉ kiếp đến nay, được nhờ Phật trưởng dưỡng nên có Pháp thân này, cùng với trí thân, đại Từ bi thân, mọi thiền định, trí tuệ, vô lượng hạnh nguyện, cũng đều do Phật mà được thành tựu. để báo ân đó, nên chúng ta luôn nguyện được gần Phật. Cũng như chư đại thần được nhờ ân sủng của vua, thường nghĩ về chủ nhân của mình vậy. c) Có các Bồ-tát lại nói thế này:

-Chúng ta trong nhân địa tu hành gặp phải ác tri thức, nên đã phỉ báng Bát-nhã, đọa vào ác đạo. Trải qua vô lượng kiếp, tuy tu các hạnh khác, mà vẫn chưa ra được. Cuối cùng, được gặp với Thiện tri thức, còn được dạy cho hành trì niệm Phật Tam-muội, tức liền lúc ấy có thể tiêu trừ các hoặc chướng, được giác ngộ giải thoát. Có được sự lợi ích này, cho nên con nguyện không rời xa Phật.

7) Căn cứ vào kinh Hoa Nghiêm.

Dựa theo kinh Hoa Nghiêm nói: "Thà ở trong vô lượng kiếp, chịu đủ mọi điều thống khổ, ta quyết trọn không xa rời Đức Thế Tôn, không thấy được lực tự tại."

Lại nói: "Niệm Phật Tam-muội nhất định thấy Phật. Sau khi mạng chung được sinh về cõi Phật. Cho nên, thấy người lâm chung, phải khuyên họ niệm Phật chỉ cho họ tôn tượng Phật để cung kính chiêm ngưỡng.

Lại Đồng tử Thiện Tài đi các phương cầu Thiện tri thức. Ngài đi đến chỗ Tỳ-kheo Công Đức Vân, mà thưa rằng:

- Bạch Đại sư! Thế nào là tu Bồ-tát đạo, rồi quy về hạnh nguyện Phổ Hiền?

Tỳ-kheo công đức vân bảo Thiện Tài rằng:

- Tôi ở trong biển trí tuệ của Đức Như Lai, duy chỉ biết có một pháp, đó là niệm Phật Tam-muội môn. Vì sao? Ở trong Tam-muội môn này thấy đều có thể quán thấy tất cả chư Phật và quyến thuộc, cõi Phật nghiêm tịnh, có thể khiến cho chúng sinh xa lìa hết điên đảo. Pháp môn niệm Phật Tam-muội đó, ở trong cảnh giới vi tế thấy tất cả cảnh giới tự tại của chư Phật, muôn kiếp không bị điên đảo. Niệm Phật Tam-muội môn đó, có thể khởi lên tất cả Quốc độ của Phật không hề bị hoại diệt. Thấy được tất cả chư Phật, được ba đời không điên đảo.

Lại nói: Phật pháp sâu xa, rộng lớn vô biên, chỗ tôi biết đó, chỉ có một môn niệm Phật Tam-muội; còn vượt qua hết mọi cảnh giới vi diệu khác, thì ta chưa thể biết vậy.

8) Căn cứ vào kinh Hải Long Vương. Bấy giờ Hải Long vương bạch Phật rằng:

- Bạch đức Thế Tôn! Đệ tử cầu sinh về cõi Tịnh độ của Phật A-di-đà, cần nên tu hạnh gì?

Phật bảo Long vương:

- Nếu muốn sinh về nước Cực Lạc kia, nên hành trì tám pháp. Đó là:

1) Thường niệm chư Phật.

2) Cúng dường Như Lai.

3) Tán thán Thế Tôn.

4) Tôn tạo hình tượng Phật, tu các công đức.

5) Hồi hướng nguyện vãng sinh.

6) Tâm không khiếp nhược.

7) Nhất tâm tinh tấn.

8) Cầu đạt được trí tuệ chân chánh của Phật. Phật bảo Long Vương:

- Nếu tất cả chúng sinh có đầy đủ tám pháp này thì thường không xa rời Phật.

Hỏi: Nếu không đủ tám pháp, có được sinh về cõi Phật không?

Đáp: Nhất định được sinh, không nghi ngờ. Vì sao lại biết? Như khi Phật nói kinh Bảo Vân, "Cũng có nói mười hạnh đầy đủ thì được sinh về

Tịnh độ, thường không lìa Phật."

Bấy giờ có Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:

- Không tu đủ mười hạnh, thì được vãng sinh không?

Phật bảo: Được vãng sinh. Chỉ cần ở trong mười hạnh ấy, hành trì không gián đoạn một hạnh, thì chín hạnh khác cũng được thanh tịnh, chớ có nghi ngờ!

Lại như trong kinh Đại Thọ Khẩn-na-la Vương có nói:

- Bồ-tát thực hành bốn loại pháp thì thường không lìa Phật. Bốn pháp đó là gì? Đó là:

1) Tự tu pháp thiện, cùng khuyến hóa chúng sinh đều muốn vãng sinh thấy Phật.

2) Tự khuyên và khuyên mọi người cùng vui thích nghe chánh pháp.

3) Tự khuyên và khuyên người phát tâm Bồ-đề. 4) Nhất tâm chuyên chí niệm Phật Tam-muội. Có đầy đủ bốn hạnh này, thì tất cả những nơi sinh ra đều gặp Phật hiện tiền.

Lại trong kinh nói: "Phật nói hành pháp của Bồtát có ba mươi hai loại khí: Bố thí là đại phú khí; Nhẫn nhục là đoan chánh khí, Trì giới là Thánh thân khí; ngũ nghịch bất hiếu là núi đao cây kiếm dầu sôi khí; phát tâm Bồ-đề là thành Phật khí; thường niệm Phật vãng sinh Tịnh độ là kiến Phật khí."

Lược nêu ra sáu thứ, còn các thứ khác không cần thuật ra. Thánh giáo đã chỉ như thế, hành giả nguyện sinh về, tại sao không thường niệm Phật?

Lại y theo kinh Nguyệt Đăng Tam-muội nói: "Niệm tướng hảo và đức hạnh của Phật, có thể khiến cho các căn bất loạn, tâm phù hợp với pháp không bị mê hoặc, được đa văn trí tuệ như biển. Trí trụ ở trong Tam-muội, nhiếp niệm hành trì, ở chỗ kinh hành, có thể thấy được ngàn ức Đức Như Lai, cũng gặp được vô lượng hằng sa Phật."

III. Nội Dung Thứ Ba:

Vấn đáp giải thích: Nói rõ về pháp niệm Phật Tam-muội có những thứ lợi ích. Nội dung này có năm nghi vấn cần làm rõ.

Hỏi: Nay nói thường tu niệm Phật Tam-muội, là không hành trì các Tam muội khác?

Đáp: Nay nói thường niệm, cũng không phải là không hành các Tam-muội khác, mà chỉ phần nhiều hành niệm Phật Tam-muội. Cho nên nói, thường niệm chẳng phải là hoàn toàn không hành các Tam-muội khác.

Hỏi: Như khuyên thường niệm Phật Tam-muội, so với các Tam-muội khác có hơn kém chẳng?

Đáp: Niệm Phật Tam-muội thù thắng chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao lại biết? Như trong Ma-ha-diễn nói: "Các Tam-muội khác chẳng phải là Tam-muội. Vì sao? Hoặc có Tam-muội chỉ có thể trừ tham không thể trừ sân và si. Hoặc có Tam-muội chỉ trừ sân mà không trừ tham và si. Hoặc có Tam-muội chỉ trừ si không thể trừ tham và sân. Hoặc có Tam-muội chỉ trừ chướng hiện tại mà không thể trừ chướng quá khứ, vị lai. Nếu thường tu niệm Phật Tam-muội, thì bất kể là quá khứ, hiện tại, vị lai, tất cả chướng ngại, thảy đều tiêu trừ."

Hỏi: Người niệm Phật Tam-muội đã có thể tiêu trừ nghiệp chướng, thì được phước, công đức, lợi ích lớn, nhưng không biết có giúp ích gì cho người hành trì được kéo dài tuổi thọ, sống lâu không?

Đáp: Tất nhiên là được. Vì sao? Như trong kinh Duy Vô Tam-muội nói: "Có hai anh em, người anh tin nhân quả, người em không có tín tâm, mà hay khéo biết tướng pháp. Nhân soi vào gương, người em thấy mặt mình hiện tướng sắp chết, không quá bảy ngày nữa. Lúc ấy có một người trí dạy đến hỏi Phật.

Phật bảo: Bảy ngày quả là không sai. Nếu nhất tâm niệm Phật tu giới, thì có thể vượt qua.

Người ấy liền y theo lời dạy của Phật mà nhất tâm buộc niệm. Đến ngày thứ sáu, liền có hai con quỷ đến, chúng nghe có tiếng niệm Phật, nên không tiến vào bắt được, trở về báo với Diêm-la vương.

Diêm vương xem lại sổ bộ rồi bảo:

- Người này do công đức niệm Phật trì giới nên sinh về cõi trời thứ ba (Viêm thiên)."

Lại trong kinh Thí Dụ nói: "Có một trưởng giả nọ không tin tội phước, tuổi đã năm mươi. Bỗng một đêm nằm mộng ông thấy quỷ La-sát cầm thẻ phù đến muốn bắt đi, sự chết chẳng qua là mười ngày nữa. Người ấy thức giấc, rất là lo sợ. Đến sáng tìm đến nhà thầy Tướng coi mộng. Thầy tướng số bói quẻ rồi nói:

- Quỷ La-sát sẽ bắt đi trong vòng mười ngày nữa.

Người ấy càng sợ hãi hơn nữa, mới tìm đến cầu thỉnh Phật.

Phật bảo: Muốn thoát nạn này, từ nay về sau, chuyên tâm niệm Phật, đốt hương trì giới, đốt đèn treo phướn, tin hướng Tam bảo, thì có thể tránh được.

Người ấy y theo lời Phật dạy, nhất tâm tin hướng. Quỷ La-sát đi đến cửa, thấy công đức tu như vậy, không thể bắt đi được, liền trở về. Người kia nhờ nhân duyên công đức này thọ đến trăm tuổi, khi chết được sinh lên trời. Lại có một vị trưởng giả, tên là Chấp Trì, hoàn trả giới lại cho Phật, hiện đã bị ác quỷ đánh chết."

Hỏi: Niệm Phật Tam-muội chỉ có thể đối trị các điều ác, chỉ nhận quả báo thế gian còn đối với quả báo xuất thế vô thượng Bồ-đề có chiêu cảm được không?

Đáp: Được. Vì sao? Như trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thập Địa nói: "Bắt đầu từ Sơ địa cho đến Thập địa, ở trong mỗi địa đều nói nhập địa gia hạnh đạo địa đầy đủ công đức lợi mình, không trụ vào đạo, rồi kết luận rằng: Chư Bồ-tát tuy tu hành khác, nhưng đều không lìa pháp niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, cúng dường Tam bảo, đầy đủ các thứ phương tiện diệu lạc." Văn này, chứng tỏ các Bồ-tát, cho đến thượng địa, vẫn thường học niệm Phật, niệm pháp, niệm Tăng, mới có thể thành tựu Vô lượng hạnh nguyện, đầy đủ biển công đức. Huống gì là Nhị thừa, phàm phu cầu sinh Tịnh độ, mà không học niệm Phật! Vì sao? Vì niệm Phật Tam-muội này tức đầy đủ Tứ Nhiếp, Lục Độ, làm bạn đồng hành.

Hỏi: Bồ-tát từ Sơ địa trở lên, cùng chứng lý Chân như đồng như Phật, gọi là sinh tại Phật gia. Tự có thể làm Phật, cứu độ chúng sinh, đâu cần niệm Phật Tam-muội, phát nguyện thấy Phật?

Đáp: Luận về Chân như, thì rộng lớn vô cùng, bằng như hư không, lượng chúng khó tính biết được. Thí như một ngôi nhà lớn tối tăm, nếu chỉ đốt một hai ngọn đèn, thì ánh sáng tuy tỏ chiếu mà không thể sáng hết được. Nếu để nhiều đèn, tuy gọi là đại minh (tỏ sáng) mà sao bằng với ánh sáng mặt trời? Chứng trí của Bồ-tát, đã chứng đắc, tuy so sánh trong từng Địa đều có thứ hạng đáng kể nhưng đâu có thể bằng Phật, như ánh sáng mặt trời.------------------------------

PHẦN 5

Trong phần thứ năm này có bốn nội dung chính sau:

- Lược nói về sự cần kíp tu đạo để khiến mau chứng quả Bất thoái.

- So sánh giữa Thiền và Tịnh, khuyến khích tin tưởng vãng sinh.

- Nói về hai cảnh Tịnh-uế, cũng gọi là hữu lậu và vô lậu.

- Dẫn kinh giáo chứng minh, khuyến hậu thế tin nguyện vãng sinh.

I. Lược Nói Về Cần Kíp Tu Đạo:

Trong nội dung này gồm có hai ý:

1) Nói rõ sự cần kíp phải tu đạo.

2) Nếu vấn đáp để giải thích.

Nói đến phải tu đạo cần kíp, tức là tất cả chúng sinh không ai mà không chán khổ cầu vui, sợ ràng buộc cầu giải thoát, đều muốn sớm chứng quả Vô thượng Bồ-đề. Muốn vậy thì trước phải phát tâm Bồ-đề, tâm này khó biết khó khởi. Nếu như đã phát tâm, tùy y theo kinh tu tập mười chủng hạnh, bao gồm: Tín, tấn, niệm, giới, định, tuệ, xả, hộ pháp, phát nguyện, và hồi hướng tiến đến Bồ-đề. Nhưng thân tu đạo, liên tục không ngừng, trải qua một vạn kiếp, mới chứng quả vị Bất thoái. Hàng phàm phu ngày nay, niềm tin nhẹ tợ lông, đó là giả danh, cũng gọi là Bất định tụ, là ngoại phàm phu, chưa ra khỏi nhà lửa.

Làm sao biết được như vậy? Theo kinh Bồ-tát Anh Lạc thì cần phải đầy đủ hạnh vị pháp vị mới nhập đạo, cho nên gọi là nan hành đạo. Lại chỉ lấy trong một kiếp, thọ thân sinh tử còn không thể biết hết, huống chi trong muôn kiếp chịu biết bao khổ hoạn? Nếu tin Phật kinh, nguyện sinh về Tịnh độ, tùy thọ mạng dài ngắn, một đời liền đến ngôi vị Bất thoái, bằng công đức tu cả vạn kiếp. Chư Phật tử vì sao không suy lường, không bỏ khó mà cầu dễ?

Như trong Câu-xá luận cũng nói rõ hai loại: nan hành, dị hành. Nan hành tức như trong luận nói: "Ở trong ba A-tăng-kỳ kiếp, trong mỗi mỗi kiếp đều có đủ phước trí tư lương, tất cả chư hành, sáu Ba-la-mật. Mỗi hạnh nghiệp đều có trăm vạn đạo nan hành, mới đầy đủ một vị, đó là nan hành đạo vậy." Dị hành đạo đó, tức trong luận nói: "Như riêng có phương tiện, có giải thoát, gọi là dị hành đạo."

Nay đã khuyên quy về Cực lạc, tất cả hạnh nghiệp đều quy hướng về kia. Nếu chuyên tâm nhất chí, thọ mạng tận nhất định sẽ được vãng sinh. Được sinh về Cực lạc rồi, tức là nơi cứu cánh thanh lương, há không phải là dị hành đạo sao? Cần hiểu rõ ý này.

Hỏi: Như nói nguyện sinh về Tịnh độ, phát nguyện rồi thì khi lâm chung sẽ được vãng sinh. Điều đó có Thánh giáo chứng minh không?

Đáp: Để trả lời câu hỏi này thì có bảy chứng cứ được rút ra từ kinh luận:

1) Như trong Đại kinh nói: "Phật bảo A-nan: Nếu có chúng sinh, muốn trong đời này thấy Phật Vô Lượng Thọ, nên phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tu hành công đức, nguyện sinh về nước kia, tức sẽ được vãng sinh." Cho nên trong Đại kinh có bài tán thán rằng:

Như nghe Đức hiệu Phật A-di đà,
Hoan hỷ tán ngưỡng tâm quy y,
Do nhất niệm được lợi ích lớn,
Thế là đầy đủ công đức bảo.
Giả như lửa tràn khắp đại thiên,
Cũng nên vượt qua nghe Phật danh,
Nghe Phật A-di-đà không thoái chuyển,
Thế nên chí tâm cúi đầu lễ.

2) Dựa vào Kinh quán, ở trong chín phẩm đều nói, khi qua đời mà chánh niệm thì liền được vãng sinh.

Như trong Khởi Tín luận nói: "Dạy chúng sinh quán Chân như bình đẳng nhất thật. Cũng có Bồ-tát mới phát tâm Bồ-đề còn yếu đuối, tự cho là không thể gặp được Phật, thân cận cúng dường, ý muốn thoái chuyển. Nên biết, Như Lai có phương tiện thù thắng, nhiếp hộ người có tín tâm. Nghĩa là lấy nhân duyên chuyên ý niệm Phật, thuận theo nguyện mà được vãng sinh. Vì thường thấy Phật, nên vĩnh viễn xa lìa ác đạo."

3) Trong kinh Cổ Âm Đà-la-ni nói: "Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: Ta nay vì các ông mà diễn nói về thế giới Tây phương an lạc. Hiện nay có Phật hiệu là A-di-đà. Nếu có bốn chúng có thể chánh thọ trì danh hiệu Phật, giữ tâm kiên cố, ghi nhớ không quên, sau mười ngày đêm, trừ bỏ hết sự tán loạn, tinh cần tu tập niệm Phật Tam-muội, nếu có thể niệm niệm không dứt, trong mười ngày liền được vãng sinh, tận mắt thấy Phật A-diđà."

4) Theo kinh Pháp Cổ lại nói: "Nếu người khi lâm chung mà không thể tác niệm, chỉ cần biết bên cõi Tây phương có Phật, liền có ý cầu vãng sinh, liền được vãng sinh."

5) Như trong kinh Thập Phương Tùy Nguyện Vãng Sinh có nói: "Nếu có người khi lâm chung, hoặc sau khi chết bị đọa vào địa ngục, hàng quyến thuộc vì người mất mà niệm Phật, chuyên tụng trai phước, thì người mất đó liền thoát khỏi địa ngục, vãng sinh về Tịnh quốc."

Huống chi bây giờ mọi người tự mình tu niệm, sao lại không được vãng sinh? Cho nên trong kinh nói rằng: "Hiện tại quyến thuộc vì người mất mà cầu phước, như cúng cho người, ắt sẽ được ăn."

6) Rộng dẫn chứng từ các kinh như trong kinh Đại Pháp Cổ nói: "Như có thiện nam, thiện nữ nào có thể chuyên tâm xưng danh hiệu chư Phật, thì mười phương chư Phật, tất cả các bậc Thánh hiền thường thấy người này, như hiện ra trước mặt. Vì thế mà kinh này được gọi là "Đại Pháp Cổ". Nên biết, người này ở trong mười phương Tịnh độ đều tùy nguyên vãng sinh."

Lại nữa, trong kinh Đại Bi có nói: "Sao gọi là Đại Bi? Nếu như người chuyên niệm Phật liên tục không gián đoạn, thì khi qua đời, nhất định sẽ được vãng sinh. Nếu cùng khuyên người hành trì niệm Phật, nên biết những người này được gọi là người hành Đại bi vậy." Cho nên trong kinh Niết-bàn nói: "Phật bảo Đại vương: Nếu như mở kho tàng lớn, bố thí cho tất cả chúng sinh trong một tháng, thì công đức đó không bằng người xưng niệm danh hiệu Phật một câu; công đức ấy rất lớn, không thể suy lường."

Lại như trong kinh Tăng Nhất A-hàm nói: Phật bảo A-nan:

- Có chúng sinh nào cúng dường cho hết thảy mọi người trong cõi Diêm-phù-đề này các thứ y phục, thức ăn, ngọa cụ, thuốc thang… thì bì, mọi công đức ấy có nhiều không?

A-nan thưa:

Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Rất nhiều! Không thể đo lường hết được.

Phật bảo A-nan:

- Nếu có chúng sinh thiện tâm liên tục, xưng danh hiệu Phật, thì trong khoảng thời gian vắt một đấu sửa công đức có được còn nhiều gấp bội, không thể đo lường hết được.

Trong Đại Phẩm kinh nói: "Nếu người tán tâm niệm Phật, cho đến khổ hết mà phước cũng không tận. Nếu người rải hoa niệm Phật, nhẫn đến hết khổ, mà phước cũng không tận." Cho nên biết, niệm Phật được công đức lợi lớn không thể nghĩ bàn. Trong kinh Thập Vãng Sinh và các kinh Đại thừa, đều có văn chứng, không thể dẫn chứng đầy đủ.

II. So Sánh Thiền Và Tịnh Để Khuyến Tín Vãng Sinh:

Thứ đến so sánh với Thiền quán, khuyên người cầu vãng sinh. Chỉ có người ở cõi uế độ này cảnh loạn tâm tưởng nên khó nhập định cho dù tu đắc cũng chỉ đạt được sự định, phần nhiều thích đắm vị thiền. Lại chỉ có thể hàng phục nghiệp báo, sinh về thượng giới, mạng hết phần nhiều bị thoái chuyển. Cho nên trong Trí Độ luận nói:

Đa văn trì giới thiền
Chưa đắc pháp vô lậu
Tuy có công đức này
Mà việc chưa thể tin.

Nếu muốn hướng về Tây phương tu tập, về cảnh sự thì thanh tịnh sáng suốt, định quán dễ thành, trừ tội nghiệp nhiều kiếp, vĩnh viễn tinh tiến, cứu cánh thanh lương thì, như trong Đại kinh đã nói rõ.

Hỏi: Nếu cảnh giới Tây phương thù thắng, có thể được thiền định chiêu cảm, thì sắc giới thiên này kém, không nên do thiền định chiêu cảm?

Đáp: Nếu luận về nhân tu định, thì thông suốt cả hai. Muốn đạt quả vị Bất thoái chuyển ở cảnh giới kia, thì phải nhờ tha lực hộ trì. Cho nên nói là thù thắng. Cõi này tuy cũng tu định, nhưng chỉ có nhân tự phần, không có tha lực nhiếp hộ, nghiệp hết thì khó tránh bị thoái đọa. Do đó mà nói là không bằng.

III. Nói Về Hai Cõi Tịnh Và Uế, Hữu Lậu Và Vô Lậu:

Nếu luận về cảnh giới ở xứ này, chỉ có ba đường khổ hãi, đất thì đầy núi hang sông rạch, cát đá, cây cỏ gai góc, gió to mưa lớn, sấm chớp dậy trời, độc xà thú dữ, tà đạo ác tặc, hỗn loạn phá tán, tam tai làm cho bại hoại. Nói về chánh báo thì có tam độc bát đảo, ưu bi tật đố, đa bệnh đoản mệnh, đói khát nóng lạnh, đầy cả sự ác xấu thật không thể nói hết được. Cho nên gọi là Hữu lậu, thật đáng nhàm chán vậy.

Vãng sinh về cõi Tịnh độ thật là thù thắng. Căn cứ vào Đại kinh nói: "Mười phương chúng trời người chỉ cầu xin về nước kia, đâu đâu cũng đạt được lợi ích an lạc. Vì sao? Vì khi sinh về nước kia, bước đi thì có sen vàng đỡ chân, ngồi thì có bảo tòa. Mỗi khi xuất hiện thì có Đế Thích trước mắt, người thì có Phạm vương theo sau. Tất cả Thánh chúng đều là bạn hữu với ta, Phật A-di-đà là Đại sư của ta; có thể qua lại du hành dưới các hàng cây báu rừng báu. Trong ao tám công đức ta đến rửa chân, thân thì sắc vàng, thọ mạng bằng với Phật, học thì các pháp môn đều tiến, dừng nghỉ thì có Nhị đế hư dung. Mười phương qua lại đều vận đại thần thông, an nghỉ tạm thời thì ngồi trên tam không môn; du hành thì nhập vào con đường tám Chánh đạo; đến thì đến bờ đại Niết-bàn." Tất cả chúng sinh khi sinh về nước kia, đều chứng được lợi ích này, vì sao ta lại không tư lương, không mau cầu sinh về đây?

IV. Dẫn Kinh Giáo Chứng Thành, Khuyên Hậu Thế Cầu Vãng Sinh:

Căn cứ vào kinh Quán Phật Tam-muội có nói: "Bấy giờ, trong hội có mười phương chư Phật, mỗi vị Phật ngồi trên đài hoa sen, kiết già phu tọa ở trên không trung hiện ra. Đức Như Lai ở phương Đông hiệu là Thiện Đức dẫn đầu, bảo với đại chúng:

- Các ông nên biết, ta nhớ từ trong quá khứ vô lượng kiếp, có Phật ra đời tên là Bảo Uy Đức Thượng Vương. Phật khi ra đời cũng như bây giờ, nói pháp Tam thừa. Sau khi Phật diệt độ, trong đời mạt pháp có một vị Tỳ-kheo đem chín người đệ tử, đi đến tháp Phật, lễ bái Phật tượng, thấy có một bảo tượng, trang nghiêm rực rỡ. Chư vị quán rồi thì kính lễ, mắt chiêm ngưỡng không rời, mỗi vị nói một bài kệ để khen ngợi Phật, rồi tùy thuận tu tập. Sau đó, mỗi vị khi mạng chung, liền sinh ra trước Phật. Từ đó đến nay, các vị ấy thường được gặp vô lượng chư Phật; ở trong cõi Phật rộng tu phạm hạnh, đều đắc niệm Phật Tam-muội. Khi đã đắc ngộ thì thường thấy chư Phật hiện tiền, và được thọ ký, thành bậc Chánh giác ở trong mười phương quốc độ. Phật Thiện Đức ở phương Đông đó, chính là ta đây. Còn chư Phật ở chín phương khác, chính là chín người đệ tử trước đó. Do lễ tháp, nói kệ tán thán mười phương chư Phật mà thành tựu đạo quả khắp trong mười phương quốc độ."

Khi ấy, mười phương chư Phật từ trên không trung phóng ra ngàn tia sáng chiếu soi rực rỡ, lại hiện ra sắc thân tướng tốt bạch hào. Mỗi vị đều ngồi tòa của Phật Thích-ca, và bảo với A-nan rằng:

- Ông nên biết, Phật Thích-ca Văn từng tu tinh tấn vô lượng, chịu trăm ngàn khổ hạnh, cầu trí tuệ

Phật, được quả báo ở thân này. Nay vì ông mà diễn thuyết, ông nên vâng giữ lời Phật nói. Trong đời vị lai, hàng Thiên long, bốn chúng đệ tử đều nên quán tướng hảo của Phật và niệm Phật Tam-muội.

Chư Phật nói lời ấy rồi, đều đến chào hỏi Phật Thích-ca, xong rồi thì mỗi vị đều trở về bản quốc.

--------------------------------

PHẦN 6

Trong phần thứ sáu này gồm có ba nội dung chính:

- So sánh mười phương Tịnh độ với cõi Cực lạc.

- Suy rõ nghĩa lý.

- Nói về sự trụ diệt của kinh điển.

I. So Sánh Mười Phương Tịnh Độ Với Tây Phương:

Có ba ý:

1) Theo kinh Tùy Nguyện Vãng Sinh nói: "Mười phương Phật quốc đều rất nghiêm tịnh, tùy nguyện lực của chúng sinh mà được vãng sinh về đó. Tuy nhiên, tất cả cõi đó đều không bằng với nước Vô Lượng Thọ ở Tây phương." Ý này là gì? Khi Đức A-di-đà cùng Quán Âm, Thế Chí phát tâm trước tiên, từ cõi này đi đến thế giới kia, đối với chúng sinh ở đây, Phật riêng có duyên, cho nên Đức Thích-Ca tán thán khuyên cầu sinh về đó.

2) Căn cứ vào Đại kinh có nói: "Pháp Tạng Bồtát, nơi Phật Thế Nhiêu Vương, phát nguyện đầy đủ, xin giữ cõi Tịnh độ. Bấy giờ Phật nhân đó mà thuyết giảng về hai trăm mười ức cõi Phật, cùng nói rõ các cõi tịnh uế, thiện ác của hàng Thiên nhân. Khi ấy Bồ-tát Pháp Tạng, phát nguyện thành

Phật ở cõi Tây phương, hiện là nước Cực lạc."

3) Như trong Kinh quán có nói: "Phu nhân Viđề-hy lại cầu thỉnh sinh Tịnh độ. Như Lai phóng hào quang hiện ra mười phương Tịnh quốc." Vi-đề phu nhân bạch Phật:

-Chư Phật Quốc độ tuy đều thanh tịnh trang nghiêm, đều có ánh sáng tỏ chiếu rực rỡ. Con nay chỉ thỉnh cầu sinh về thế giới Cực lạc của Phật Adi-đà.

Như vậy đủ biết, trong mười phương Quốc độ, thì thế giới An lạc là thù thắng hơn cả.

II. Suy Biện Nghĩa Lý:

Hỏi: Vì sao lại cần phải ngồi xoay mặt về hướng Tây, lễ niệm quán Phật?

Đáp: Vì cõi Diêm-phù-đề được gọi là nơi mặt trời mọc, là sự sống. Mặt trời lặn là tử, mượn đó để gọi đất chết, thần minh thù nhập, cùng tương trợ nhau. Cho nên Bồ-tát Pháp Tạng nguyện thành Phật ở phương Tây, vì lòng Từ bi muốn tiếp độ chúng sinh. Do đó mà ngồi quán lễ niệm hướng về cõi Phật, đó là tùy theo lễ nghi ở đời. Nếu là Thánh nhân được phi báo tự tại, thì không luận phương sở. Nhưng hạng phàm phu, thân tâm cũng tùy theo đó. Nếu hướng các phương khác mà cầu vãng sinh về Tây phương thì khó. Cho nên trong luận Trí Độ nói: "Có một vị Tỳ-kheo, hằng ngày thường tụng kinh A-di-đà và niệm Bát-nhã ba-la-mật. Khi qua đời, Tỳ-kheo bảo với đệ tử: Phật A-di-đà cùng chư Thánh chúng đang ở trước mắt ta. Nói rồi, chấp tay quy y, trong khoảnh khắc liền mạng chung. Chúng đệ tử y pháp làm lễ táng thầy dùng lửa hỏa táng, mọi thứ cháy hết nhưng cái lưỡi vẫn còn nguyên, chúng đệ tử thu về xây tháp cúng dường."

Bồ-tát Long Thọ giải thích: "Người tụng kinh A-di-đà, khi sắp mạng chung, Phật sẽ đến nghênh tiếp. Vì niệm Bát-nhã ba-la-mật, cho nên thiệt căn không cháy." Lời văn chứng cớ này, đủ biết là tất cả hạnh nghiệp chỉ có thể hồi hướng, không nơi nào mà không vãng sinh. Cho nên, trong kinh Tudi Tứ Vực có nói: "Trời đất lúc sơ khai, chưa có mặt trời mặt trăng và các vì sao tinh tú. Nếu như có người cõi trời qua lại thì chỉ có thể dùng ánh sáng nơi cổ chiếu ra. Bấy giờ nhân dân phần nhiều sinh khổ não. Lúc ấy, Phật A-di-đà sai hai vị Bồtát, một vị tên là Bảo Ứng Thinh, một vị tên là Bảo Kiết Tường, tức là Phục Hy và Nữ Oa. Hai vị Bồtát này cùng thương nghị, hướng về Phạm thiên thứ bảy, lấy ra bảy báu đem đến cõi này, tạo ra vầng nhật nguyệt và hai mươi tám vì sao chiếu sáng khắp thiên hạ; định ra bốn thời Xuân Hạ Thu Đông. Lúc này, hai vị Bồ-tát cùng nói: "Sở dĩ mặt trời mặt, trăng và tinh tú đều nằm hướng Tây là vì tất cả chúng trời người đều cung kính lễ Phật A-di-đà, cho nên nhật nguyệt tinh tú đều xoay về hướng Tây."

III. Nói Về Sự Trụ Diệt Của Kinh Điển:

Biện kinh trụ diệt: Nghĩa là Đức Thích-ca Như Lai, suốt một đời thuyết pháp, để cho Chánh pháp trụ thế năm trăm năm, Tượng pháp một ngàn năm, Mạt pháp một vạn năm. Khi chúng sinh diệt tận, kinh điển cũng diệt. Như Lai vì thương xót ai mẫn chúng sinh, cho nên lưu lại kinh này, để nó được trụ thêm một trăm năm nữa. Lời văn chứng này, đủ biết cõi nước kia tuy là Tịnh độ, nhưng thể thông trên dưới, biết tướng vô tướng, thường sinh vào quả vị trên. Hàng phàm phu ở trong nhà lửa thảy đều quy hướng về đây để phát nguyện cầu vãng sinh.

----------------------------------

PHẦN 7

Trong phần thứ bảy này gồm có hai nội dung chính:

- Biện giải về chấp tướng hai cõi, cởi bỏ ràng buộc.

- Nói về dụng công tu đạo khinh trọng mà được quả báo chân hay ngụy, do đó khuyến tín cầu sinh Tây phương.

I. Nói Về Sự Chấp Tướng Hai Cõi:

Nếu chấp Tây phương tịnh tướng, mau được giải thoát, đốn thọ Cực lạc, trí nhãn khai sáng. Nếu chấp lấy uế tướng ở phương này, thì duy chỉ có vọng lạc, si ám buộc ràng ưu não.

Hỏi: Y vào các bộ kinh Đại thừa, đều nói vô tướng là con đường chính yếu xuất ly. Chấp tướng sẽ làm chướng ngại, không khỏi bị ràng buộc. Nay khuyên chúng sinh xả bỏ cõi uế độ này mà vui thích cầu sinh Tịnh độ, đó nghĩa là gì?

Đáp: Nghĩa này không nhất định. Vì sao? Phàm tướng có hai loại:

1) Ở trong năm trần dục cảnh vọng ái tham nhiễm, tùy cảnh chấp trước, đây đều là tướng, đều là sự buộc ràng.

2) Vì ưa thích Phật công đức mà nguyện sinh Tịnh độ. Tuy nói là tướng mà tên là giải thoát. Tại sao? Như trong kinh Thập Địa nói. "Bậc sơ địa Bồtát còn tự mình quán về Nhị đế; mọi chuyển tâm tác niệm, trước đều y vào tướng mà cầu, cuối cùng thành ra vô tướng. Dần dần tăng tiến lên thể đại Bồ-đề, cho đến địa thứ bảy thì tướng tâm mới bắt đầu dứt, nhập vào Bát địa, tuyệt ở nơi tướng cầu, đó mới gọi là vô công dụng vậy." Cho nên trong luận nói: "Từ Thất địa trở xuống thì lấy ác tham làm chướng, thiện tham để trị. Từ Bát địa trở lên, thì thiện tham là chướng, vô tham là trị." Huống gì nay nguyện sinh về Tịnh độ, hiện là ngoại phàm, sở tu thiện căn đều do ưa thích công đức Phật mà sinh ra, há lại cho là phược sao?

Trong kinh Niết-bàn nói: "Chúng sinh có hai loại ái: Một là thiện ái; hai là bất thiện ái. Ái bất thiện đó, chỉ hạng ngu si mới cầu. Ái thiện pháp thì chư Bồ-tát đều cầu."

Cho nên trong Tịnh độ luận nói: "Quán quốc độ Phật là Thanh tịnh vị; nhiếp thọ chúng sinh là Đại thừa vị, khởi hạnh nguyện là giữ Phật độ vị; trụ trì cứu cánh bất hư là Tác vị. Có vô lượng Phật đạo vị như thế."

Cho nên, tuy nói là thủ tướng, mà chẳng phải chấp phược. Lại nói, tướng trong cõi Quốc độ đó chính là tướng vô lậu, là tướng thật tướng vậy.

II. Nói Về Từ Sự Dụng Công Khinh Hay Trọng Mà Cảm Quả Báo Chân Hay Ngụy:

Trong nội dung thứ hai này nói về công dụng tu đạo khinh trọng của kia đây mà đạt được quả báo chân ngụy. Nếu muốn phát tâm quy hướng về Tây phương, nếu chỉ có một ít thời lễ quán niệm Phật, tùy thọ mạng dài ngắn, rồi khi lâm chung, Phật phóng quang tiếp dẫn, mau đến cõi kia, chứng vào ngôi vị Bất thoái.

Cho nên trong Đại kinh nói: "Mười phương trời người cầu sinh về nước ta, nếu cứu cánh không đến chỗ diệt độ và có thoái chuyển thì ta không thành Chánh giác."

Phương này phần nhiều mọi người tu các pháp Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ còn chưa rốt ráo. Từ cả vạn kiếp đến nay, họ chưa bao giờ tránh khỏi bị rơi vào trong nhà lửa điên đảo. Cho nên, gọi đó là sự dụng công mà gặp quả báo ngụy tà.

Trong Đại kinh lại nói: "Sinh về nước ta, đó là con đường tắt vượt qua năm ác thú." Nay ước theo đây để đối lại với Tịnh quốc Di-đà.

Năm đạo ở cõi Ta-bà, đều gọi chung là ác thú như địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh... cõi trời, người ở Ta-bà, do hướng theo tạp nghiệp, nên cũng gọi là ác thú.

Nếu y vào phương này tu niệm đoạn trừ, trước tiên cần phải đoạn kiến hoặc, lìa hết nhân trong Tam đồ, diệt quả Tam ác đạo. Sau đó đoạn trừ tu hoặc, lìa hết người trong cõi trời người, tuyệt cả quả trời người. Đây chỉ tạm đoạn trừ dần dần, cho nên không thể gọi là đoạn trừ nhanh chóng được. Nếu khi chúng ta được vãng sinh về Tịnh quốc, thì năm đạo trong Ta-bà này sẽ nhất thời dứt bỏ, cho nên gọi là đốn siêu, như vậy năm ác thú đó là dứt hết quả. Ác thú tự nhiên dứt thì nhân cũng dứt. Ý này nói rõ về xa lìa.

Thắng đạo vô cùng cực đó, là nêu bày chỗ sở đắc. Nếu phát nguyện hồi hướng về Tây phương, trên tận hết một đời, dưới cho đến mười niệm, đều được vãng sinh cả. Một khi đến cõi Cực lạc, liền nhập vào chánh định tụ, công đức đồng với một vạn kiếp tu đạo ở đây.

---------------------------------------

PHẦN 8

Trong phần thứ tám này gồm có ba nội dung chính:

- Nêu kinh dẫn chứng, khuyên bỏ Ta-bà, cầu sinh Tịnh độ.

- So sánh Đức Phật A-di-đà với Phật Thích-ca.

- Giải thích ý nghĩa của vãng sinh.

I. Nêu Kinh Dẫn Chứng, Khuyên Bỏ TaBà, Cầu Sinh Tịnh Độ:

Lược nêu các kinh điển Đại thừa do Phật thuyết để dẫn chứng, nhằm khuyên bỏ đây để cầu sinh kia.

- Trong núi Kỳ-xà-quật, Phật thuyết Đại kinh, gồm hai quyển.

- Ở trong Vương cung Kỳ-xà, Phật hai lần thuyết giảng trọn bộ Quán Vô Lượng Thọ kinh.

- Ở tại thành Xá-vệ, Phật thuyết giảng Tiểu Quyển Vô Lượng Thọ kinh, và Thập Phương Tùy Nguyện Vãng Sinh kinh.

- Lại có kinh Vô Lượng Thanh Tịnh Giác, hai quyển, do Phật thuyết.

- Lại có Thập Vãng Sinh kinh, một quyển, do Phật thuyết.

Còn các bộ kinh Đại thừa khác, phần nhiều là tán thán cõi Tịnh độ như "Thỉnh Quán Âm Đại Phẩm kinh" v.v...

Lại có các bộ luận của Bồ-tát Long Thọ, Thiên Thân, tán thán khuyên vãng sinh không phải một; và đều nói mười phương cõi Tịnh độ khác không bằng phương này.

II. So Sánh Đức Phật Thích-Ca Với Đức Phật A-Di-Đà:

Nghĩa là, Phật Thích-ca trụ thế tám mươi năm ở cõi này, tạm đến rồi đi, đi mà không trở lại. Ở đây so với trời Đao lợi thì không bằng một ngày.

Lại nữa, Phật Thích-ca lúc tại thế, việc cầu duyên cũng kém, như đến nước Tỳ-xá-ly cứu người mắc nạn v.v...

Vì sao? Lúc ấy ở nước Tỳ-xá-ly, nhân dân bị năm loại bệnh hiểm nghèo:

1) Mắt đỏ như máu.

2) Hai tai chảy mũ.

3) Mũi ra máu.

4) Lưỡi không phát ra tiếng.

5) Thức ăn đều bị hóa thành vật thô lậu.

Sáu thức bế tắc, chẳng khác gì kẻ say. Bấy giờ có năm con quỷ Dạ-xoa, hay còn gọi là Hất-nộ-cA-la, mặt đen như mực, có năm mắt, răng nanh lòi ra ngoài, hút tinh khí của người. Dù lương y tài giỏi dùng đủ đạo thuật mà vẫn không thể cứu được.

Khi ấy có vị trưởng giả tên là Nguyệt Cái làm thủ bộ lãnh của bệnh nhân, đều quy về Phật, khấu đầu cầu thỉnh. Bấy giờ Đức Thế Tôn khởi lòng từ bi vô lượng, bảo với người bệnh: "Ở phương Tây có Phật A-di-đà, cùng Quán Thế Âm và Đại Thế Chí Bồ-tát... ông nên chánh tâm hiệp chưởng cầu thỉnh." Thế là mọi người đều quy hướng về Phật, chấp tay cầu thỉnh.

Bấy giờ, Phật A-di-đà phóng hào quang chiếu sáng, có Quán Âm, và Thế Chí Bồ-tát ở hai bên, nói Đại thần chú, khiến cho tất cả bệnh khổ đều tiêu tan, dân chúng được bình phục trở lại.

Mặc dù thần lực của hai vị Phật đều như nhau, nhưng Thích-ca Như Lai không thể tự mình khuyến tấn, mà muốn tất cả chúng sinh quy hướng về Cực lạc. Cho nên, Pháp sư Đàm Loan chánh ý cũng quy về Tây phương, nên có làm bài tán trong Đại kinh rằng:

An lạc Thanh văn, Bồ-tát chúng
Trí tuệ trời người đều thông suốt
Thân tướng trang nghiêm không khác biệt
Chỉ thuận phương khác nên liệt danh
Dung nhan đoan chánh không gì bằng
Tinh vi thân diệu phi trời người
Thân hư vô không có cực thể
Cho nên đảnh lễ lực bình đẳng.

III. Giải Thích Ý Nghĩa Vãng Sinh:

Trong nội dung này gồm có hai ý:

1) Giải thích ý nghĩa vãng sinh.

2) Nêu vấn đáp để làm rõ.

Hỏi: Nay nguyện sinh Tịnh độ, chưa biết ý này thế nào?

Đáp: Chỉ muốn bệnh mau thành, tự lợi lợi tha, lợi vật đều sâu rộng. Hàng Thập tín, Tam hiền đều nhiếp thọ chánh pháp, khế hội bất nhị, kiến chứng Phật tánh, hiểu rõ được thật tướng, quán chiếu tự tâm, hữu vô Nhị đế, nhân quả trước sau, sự ưu liệt trong hàng Thập địa, Tam nhẫn, Tam đạo, Kim cang vô ngại, chứng đại Niết-bàn, Đại thừa soi sáng rộng lớn, nhưng đều muốn trụ thế lâu dài, để độ tận vô biên sinh tử cho chúng sinh.

Hỏi: Nguyện sinh Tịnh độ, vì muốn lợi lạc chúng hữu tình. Như thế, vì muốn cứu độ chúng sinh trong hiện nay cho nên phát tâm nguyện này. Vậy tại sao đã đắc được tâm này, trước phải nguyện sinh Tịnh độ, gần như là bỏ chúng sinh, tự cầu Bồ-đề An lạc cho riêng mình?

Đáp: Nghĩa này không đồng. Vì sao? Như Trí Độ luận nói: "Như có hai người, đều thấy cha mẹ quyến thuộc của mình rơi vào vực sâu. Một người nhảy xuống hết sức cứu giúp, không đủ sức nên cùng chìm. Một người chạy ra xa, kiếm một chiếc thuyền, bơi vào cứu hộ, nên đều được thoát nạn."

Bồ-tát cũng như thế, khi chưa phát tâm thì cũng chịu sinh tử lưu chuyển như chúng sinh. Nhưng khi đã phát tâm Bồ-đề, thì trước phải nguyện sinh về Tịnh độ, đem thuyền đại bi, nương pháp biện tài vô ngại, nhập vào biển sinh tử, để cứu độ chúng sinh". Đại Trí Độ luận lại nói: "Bồ-tát sinh về Tịnh độ, đầy đủ đại thần thông, biện tài vô ngại, khi giáo hóa chúng sinh, còn không thể khiến cho họ phát tâm sinh thiện diệt ác, tăng tiến đạo vị, xứng với ý của Bồ-tát. Nếu ở trong cõi uế trược này muốn cứu bạt chúng hữu tình mà không đạt được những điều lợi ích này, thì cũng như bắt gà cho vào nước, lý nào lại không bị ướt?"

Trong Đại kinh tán thán rằng:
Chư Bồ-tát ở nước An lạc
Có thể tuyên nói tùy trí tuệ
Ở trong vạn vật buông ngã sở
Tịnh như liên hoa không dính trần.
Qua lại dừng tiến nhờ thuyền từ
Lấy việc lợi an cầu lạc đạo,
Kia vẫn còn không đoạn nhị tưởng
Nhưng trí tuệ chiếu sáng đêm dài
Tam minh Lục thông đều đầy đủ.
Bồ tát tâm nhãn quán vạn hạnh
Như thế công đức vô biên lượng
Cho nên chí tâm nguyện sinh về.

--------------------------------------

PHẦN 9

Trong phần thứ chín này có hai nội dung chính:

- Nói về sự đối đãi giữa thiện ác và khổ lạc.

- So sánh làm rõ thọ mạng dài ngắn ở hai cõi.

I. So Sánh Sự Khổ Lạc Và Thiện Ác Ở Hai Cõi:

Trong nội dung này gồm có hai ý:

1) So sánh sự khổ lạc, thiện ác.

2) Dẫn Đại thừa kinh để chứng minh.

Nói khổ vui thiện ác tương đối đó, tức là ở cõi Ta-bà này tuy là có quả báo khổ vui, nhưng thường vui ít khổ nhiều. Nặng thì ba đường thống khổ, nhẹ thì ở cõi trời người chịu cảnh binh đao, bệnh tật không ngừng xảy ra. Từ vô lượng kiếp đến nay, không có lúc nào đoạn dứt. Giả như ở cõi trời người có chút điều vui, thì cũng là chút ánh điện quang bèo bọt, mau khởi thì mau diệt, cho nên gọi là duy khổ duy ác. Cõi Tịnh quốc của Phật A-diđà, các loại chim, nước, cây, rừng thường diễn ra pháp âm, minh tuyên đạo giáo, có đầy đủ sự trong sạch, có thể khiến cho người ngộ nhập.

Dẫn Thánh giáo ra để làm chứng.

Trong Tịnh độ luận nói: "Nếu người trời trong mười phương quốc độ được sinh về nước kia, tất sẽ cùng tịnh tâm như Bồ-tát không hai. Tịnh tâm Bồ-tát tất sẽ cùng Thượng địa Bồ-tát cuối cùng đạt được tịch diệt nhẫn, không còn thoái chuyển."

Lại dẫn chứng bốn mươi tám lời nguyện trong Đại kinh, thì có năm điều lợi ích là:

Trong Đại kinh nói: "Nếu có chúng sinh trong mười phương sinh về nước ta, nếu không được thân chân kim sắc, thì ta không thành Chánh giác." Lại nói: "Mười phương trời người sinh về nước ta, nếu hình sắc không đồng, có sự tốt xấu, thì ta không thành Chánh giác."

Hoặc nói: "Mười phương chúng sinh sinh về nước ta, nếu không đắc được Túc mạng trí, cho đến không biết việc trong trăm ngàn ức na-do-tha kiếp thì ta không thành Chánh giác."

Lại nói: Mười phương trời người sinh về nước ta, nếu không đắc được Thiên nhĩ thông, cho đến không nghe trăm ngàn vạn ức na-do-tha pháp chư Phật thuyết, không được thọ trì, thì ta không thành Chánh giác."

Lại nói: "Mười phương chúng sinh sinh về nước ta, nếu không đắc được Tha tâm trí, không biết tâm niệm chúng sinh trong trăm ngàn ức nado-tha chư Phật thì ta không thành Chánh giác."

Như vậy, muốn luận về sự lợi ích ở nước kia, thì khó mà nêu hết, chỉ nguyện sinh về cũng là chẳng thể nghĩ bàn. Cho nên, cõi Tịnh độ kia duy chỉ có việc thiện việc vui, không có sự khổ, sự ác xấu vậy.

II. Nói Về Thọ Mạng Dài Ngắn:

Phương này thọ mạng cao nhất cũng không quá trăm năm. Trong trăm năm đó, ít tăng mà phần nhiều lại giảm. Nhẫn đến tuổi nhỏ cũng bị mất thân, hoặc hư thai, đọa thai. Ý này là thế nào? Bởi do nhân chúng sinh tạo là nhân tạp, nên sự thọ báo cũng không đồng đều. Trong kinh Niết-bàn có nói: "Tạo nghiệp đen thì quả báo cũng đen, tạo nghiệp trắng thì quả báo sẽ trắng. Sự thanh tịnh và tạp loạn cũng như thế."

Lại căn cứ vào kinh Tịnh độ Bồ-tát nói: "Người thọ trăm tuổi, thì hết một nửa là ban đêm, tức là giảm năm mươi năm. Trong năm mươi năm đó, mười lăm năm về trước chưa biết các điều thiện ác. Từ tám đến mười năm về sau thì hôn tưởng ám độn. Cho nên thọ lão là khổ. Ngoài số năm này ra thì chỉ có mười lăm năm là có sự hiểu biết; ở trong, ngoài thì vua quan bức bách, trường chinh phòng ngự xa xôi, hoặc bị ràng buộc trong chốn lao ngục. Trong thì nhà cửa kiết hung, các điều phiền hoặc buộc ràng, mong cầu không đủ."

Qua đây có thể thấy được mấy lúc để tu đạo nghiệp chăng? Tư duy như vậy, há không thương cảm ư? Vì sao không nhàm chán?

Lại kinh kia có nói: "Người sinh ở thế gian, trải qua một ngày một đêm, có tám ức bốn ngàn vạn niệm. Nếu một niệm khởi ác thì thọ thân ác; mười niệm khởi ác thì mười lần sinh ra ác thân; trăm niệm khởi ác thì thọ trăm lần ác thân. Tính ra thì một đời chúng sinh, trong trăm năm nghĩ ác, ác đó đầy khắp trong ba ngàn quốc độ, thọ muôn ác thân. Ác pháp đã vậy thì thiện pháp cũng vậy. Thọ một thân thiện do khởi lên một niệm thiện; thọ trăm thân thiện là do khởi lên một trăm niệm thiện. Tính ra, trong một đời chúng sinh, trong trăm năm niệm thiện, thọ ba ngàn quốc độ thân thiện cũng thế. Nếu có được mười năm, năm năm niệm danh hiệu Phật A-di-đà, hoặc nhiều năm hơn nữa, thì đời sau sẽ sinh về nước Vô lượng thọ, tức sẽ thọ được Pháp thân Tịnh độ, hằng hà sa vô tận không thể nghĩ bàn vậy.

Nay trong cõi uế trược ngắn ngủi này, mạng báo không lâu xa, nếu sinh về tịnh quốc A-di-đà, thọ mạng dài lâu không thể tính biết. Cho nên trong kinh Vô Lượng Thọ có nói:

Phật bảo Xá-lợi-phất:

-Phật kia vì sao lại gọi là A-di-đà? Xá-lợi-phất, mười phương chúng sinh vãng sinh về nước kia, thọ mạng thật là dài lâu đến trăm ngàn kiếp, bằng với Phật đó, cho nên hiệu là A-di-đà.

Do đây, nên biết sự lợi ích rất lớn, đều nên nguyện vãng sinh về vậy.

Lại trong Thiện Vương Hoàng Đế Tôn kinh nói: "Có người học đạo muốn cầu vãng sinh về nước Cực lạc của Phật A-di-đà, nhớ nghĩ cả ngày đêm, hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày cho đến sáu ngày, bảy ngày. Nếu trong thời gian đó có ý hối hận, chỉ cần nghe ta nói về công đức Thiện Vương, khi mạng gần dứt, có tám vị Bồ-tát đều đến tiếp rước, dẫn người này về cõi Tây phương của Phật A-di-đà, trọn không thể dừng."

Từ đây trở xuống, lại dẫn lời kệ trong Đại kinh ra để làm chứng.

Lời tán thán rằng:

Nếu chúng sinh cầu sinh An lạc
Tất đầy đủ ba mươi hai tướng
Trí tuệ viên mãn pháp sâu xa,
Tuyên xướng yếu đạo không chướng ngại.
Tùy căn lợi độn thành tựu nhẫn
Tam nhẫn cho đến bất khả thuyết
Túc mạng Ngũ thông thường tự tại
Đến thành Phật không còn sinh ác thú
Trừ hết các cõi trược ác thế,
Thị hiện đồng như Đại Mâu Ni
Sinh nước An lạc thành lợi lớn
Cho nên chí tâm nguyện sinh về.

-----------------------------------

PHẦN 10

Trong phần thứ mười này gồm có hai nội dung chính:

- Dẫn Đại kinh để chứng minh.

- Giải thích ý nghĩa hồi hướng.

I. Dẫn Đại Kinh Để Chứng Minh:

Mười phương chư Phật đều khuyên chúng sinh cầu sinh về Tây phương; mười phương Bồ-tát đều cầu sinh về; hàng trời người mười phương đều có ý quy hướng về. Cho nên biết, đó là việc chẳng thể nghĩ bàn vậy. Trong Đại kinh lại có lời tán thán rằng:

Thần lực vô cực A-di-đà
Chư Phật mười phương đều khen ngợi
Hằng sa cõi Phật ở phương Đông.
Vô số Bồ-tát cùng đến đây.
Cúng dường công đức nước An lạc
Chư Đại chúng Bồ-tát, Thanh văn
Nghe thọ kinh pháp cùng tuyên hóa
Nơi chín cõi khác cũng như thế.

II. Giải Thích Nghĩa Hồi Hướng:

Vì tất cả chúng sinh vốn đã có Phật tánh, người người đều nguyện thành Phật tâm. Nhưng y vào hạnh nghiệp sở tu, chưa đủ một vạn kiếp trở lại đây, vẫn còn chưa ra khỏi nhà lửa, chưa tránh khỏi luân hồi. Cho nên, bậc Thánh giả thương chúng sinh khổ mãi trong sinh tử, nên khuyên phát tâm hồi hướng về Tây phương để thành tựu lợi ích lớn. Nhưng công đức hồi hướng không vượt qua được sáu điều. Sáu điều hồi hướng ấy gồm những gì?

1) Đem công đức hạnh tu hồi hướng về cõi Phật A-di-đà. Một khi đã đến nước kia, đắc được Lục thông thì trở lại cứu độ chúng sinh. Đây tức là bất trụ đạo.

2) Hồi nhân hướng quả.

3) Hồi hạ hướng thượng.

4) Hồi chậm hướng mau, tức là không trụ thế gian.

5) Hồi thí bi nguyện hướng về chúng sinh tu thiện.

6) Hồi nhập tâm không phân biệt.

Công lực hồi hướng chỉ thành tựu sáu pháp này. Cho nên, trong Đại kinh nói: "Nếu có chúng sinh, sinh về nước ta, tự nhiên sẽ được thắng tiến siêu xuất mọi hạnh nghiệp tầm thường trong các cõi thế gian. Cho đến khi thành tựu Phật đạo cũng không mắc nạn hồi phục thoái chuyển."

Trong Đại kinh có bài tán thán rằng:

Chúng Thanh văn, Bồ-tát cõi An lạc,
Ở thế giới này không sánh kịp,
Biện tài vô ngại Đức Thích ca,
Ở đây khai thị chỉ ít phần.
Như kẻ nghèo hèn so Đế vương,
Đế Vương sánh với Kim Luân vương,
Như thế lần hồi đến lục Thiên,
Thứ bực các loại đều như thế.
Lấy trời sắc giới dụ cho kia,
Muôn vạn ức lần chẳng thể bì,
Đều do nguyện lực của Pháp Tạng,
Cúi đầu đảnh lễ đức đại tâm.

----------------------------------

PHẦN 11

Có hai nội dung:

- Khuyên tất cả chúng sinh, nương vào Thiện tri thức khởi tâm hướng về Tây phương.

- Sau khi chết, nói về thắng, liệt của sinh duyên.

I. Khuyên Nương Vào Thiện Tri Thức:

Khuyên nương vào Thiện tri thức là y vào kinh Pháp Cú nói: "Làm Thiện tri thức của chúng sinh.

Có Bồ-tát Bảo Minh bạch Phật rằng:

-Bạch Thế Tôn! Vì sao gọi là Thiện tri thức?

Phật bảo: Thiện tri thức là người có thể nói được thâm pháp là Không, Vô tướng, Vô nguyện. Các pháp đều bình đẳng, không nghiệp thì không báo, không nhân thì không quả, cứu cánh như như, trụ ở nơi thật tế. Nhưng ở trong chỗ cứu cánh Không, kiến lập rõ ràng tất cả pháp, đó là Thiện tri thức. Thiện tri thức là cha mẹ của ông, nuôi dưỡng thân Bồ-đề cho ông. Thiện tri thức là con mắt của ông, có thể giúp ông thấy được tất cả con đường thiện ác. Thiện tri thức là chiếc thuyền lớn của ông, đưa ông vượt qua biển khổ sinh tử. Thiện tri thức là sợi dây thắng có thể kéo ông ra khỏi sinh tử ác đạo."

Lại khuyên: Tuy vì chúng sinh làm bậc Thiện tri thức, tất cũng cầu quy về Tây phương. Vì sao?

Do ở trong nhà lửa, cảnh trái thuận rất nhiều, lại có nhiều sự thối đọa, khó mà ra khỏi được. Cho nên ngài Xá-lợi-phất ở đây phát tâm tu Bồ-tát hạnh, đã trải qua sáu mươi kiếp, nhưng có lần gặp ác tri thức xin mắt, do đó mà tâm ngài thoái chuyển. Cho nên biết là ở trong nhà lửa sự tu đạo rất khó. Vậy khuyên mọi người cùng quay về Tây phương. Một khi được vãng sinh, thì Tam học tự nhiên thắng tiến, vạn hạnh đều phổ bị. Cho nên trong Đại kinh nói: "Nơi cõi Di-đà tịnh quốc không tạo ác nghiệp, dù bằng cọng lông tóc."

II. Nói Về Chúng Sinh Sau Khi Chết Sinh Cõi Thắng Liệt:

Chúng sinh ở đây khi thọ mạng dứt, đều nương theo hai nghiệp thiện ác, hằng vì sinh mạng mà trôi lăn trong ngục phiền não vọng tưởng. Việc thọ sinh qua lại trong Lục đạo từ vô lượng kiếp đến nay chưa từng tránh khỏi. Nếu có thể sinh tín quy hướng Tịnh độ, sách tấn chuyên tu, thì khi lâm chung, Phật A-di-đà cùng Quán Âm, Thánh chúng, phóng hào quang đến tiếp dẫn. Hành giả rất hoan hỷ, nương theo ánh sáng chấp tay bước lên đài, trong khoảnh khắc liền vãng sinh về cõi An lạc, tu hành cho đến thành bậc Chánh giác.

Lại vì tất cả chúng sinh tạo nghiệp không đồng. Nghiệp có ba loại là Thượng, Trung, Hạ. Tất cả đều do Diêm-la phán quyết. Nếu người có nhân duyên tin Phật, thì nên nguyện sinh về Tịnh độ, đem tất cả hạnh nghiệp tu tập để hồi hướng cầu vãng sinh; đến khi lâm chung Phật sẽ nghênh đón về Tây, không còn ở trong sinh tử.

--------------------------------

PHẦN 12

Trong phần thứ mười hai này chỉ có một nội dung, tức lấy kinh Thập Vãng Sinh làm chứng để khuyên cầu vãng sinh. Như Phật nói, sinh về nước Tịnh độ của Phật A-di-đà, và vì đại chúng thuyết quán thân chánh niệm giải thoát.

Trong Thập Vãng Sinh kinh có nói: A-nan bạch Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Pháp quán thân của tất cả chúng sinh là thế nào?

Nguyện xin Đức Thế Tôn nói rõ?

Phật bảo: Pháp quán thân, là không quán Đông tây, không quán Nam bắc, không quán bốn phương trên dưới, không quán hư không, không quán ngoại duyên, không quán nội duyên, không quán thân sắc, không quán sắc thinh, không quán sắc tượng, duy chỉ quán vô duyên, đó mới là pháp quán thân chân chánh vậy. Pháp quán thân này mười phương đều mong cầu, nơi nơi chỗ chỗ đều không phân biệt pháp mà được giải thoát.

Phật lại bảo A-nan:

- Chỉ tự quán thân, thì thiện lực sẽ tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên. Vì sao? Ví như có người tinh tấn trực tâm mà được chánh giải thoát, kẻ đó không cần giải thoát thì giải thoát cũng tự đến.

A-nan lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chúng sinh ở thế gian, nếu có chánh niệm giải thoát như thế, thì không còn rơi vào ba đường ác.

Phật bảo A-nan:

- Chúng sinh ở thế gian không được giải thoát. Vì sao? Vì do đa hư mà ít thật, không có chánh niệm, do đó mà sa vào địa ngục thì nhiều mà sự giải thoát thì ít. Ví như có người đối với cha mẹ và sư tăng, bên ngoài thì tỏ ra hiếu thuận mà bên trong thì bất kính. Ngoài thì ra vẻ tinh thuần, trong thì không thật. Người này quả báo chưa đến, nhưng con đường tam ác nào có cách xa. Không có chánh niệm thì không được giải thoát.

A-nan lại bạch Phật:

- Như vậy thì cần tu thiện căn nào để được giải thoát? Phật bảo A-nan:

- Ông nên lắng nghe, ta nay vì ông mà diễn nói về mười pháp vãng sinh có thể đạt được sự giải thoát. Những gì là mười pháp?

Quán thân chánh niệm, thường ôm lòng hoan hỷ. Đem thức ăn, y phục cúng dường Phật và chư Tăng, phát nguyện vãng sinh về nước An lạc.

1) Chánh niệm đem các loại thuốc men lương dược cúng thí cho Tỳ-kheo và người bệnh, cầu vãng sinh về Tịnh quốc.

2) Chánh niệm bất hoại sinh mạng, đem lòng Từ bi ban trải tất cả, cầu sinh về nước An lạc.

3) Chánh niệm lãnh thọ giới pháp với thầy, pháp tuệ tịnh tu phạm hạnh, tâm thường ôm lòng hoan hỷ, cầu vãng sinh về nước An lạc.

4) Chánh niệm hiếu thuận đối với cha mẹ, kính phụng Sư trưởng, không khởi tâm kiêu mạn, cầu vãng sinh An lạc quốc.

5) Chánh niệm qua lại Tăng phòng, cung kính đối với tháp tự, nghe pháp hiểu nghĩa, cầu vãng sinh nước An lạc.

6) Chánh niệm trong một ngày một đêm, thọ trì tám trai giới, không phá một giới nào, cầu vãng sinh nước An lạc.

7) Chánh niệm giữ trai giới một tháng, một ngày, xa rời phòng xá, thường nghe pháp ở bậc thiện sư, cầu vãng sinh nước An lạc.

8) Chánh niệm thường trì tịnh giới, khuyến tu thiền định, hộ pháp không hề có ác khẩu. Nếu hành trì như thế, tất được vãng sinh về nước An lạc.

9) Chánh niệm ở trong đạo Vô thượng, không khởi tâm phỉ báng, tinh tấn trì tịnh giới, lại đem kinh pháp lưu hành, khuyến hóa người vô trí, giáo hóa vô lượng chúng sinh, người như thế tất cả được vãng sinh. Bấy giờ, trong tăng có một vị Bồ-tát tên là Sơn Hải Huệ, bạch Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Nước Cực lạc kia vì sao lại có các việc diệu lạc thù thắng, và tất cả chúng sinh đều nguyện sinh về?

Khi ấy, Phật bảo Bồ-tát Sơn Hải Huệ rằng:

- Ông nên chánh thân chấp tay niệm Phật hướng về Tây phương, chánh niệm quán nước Cực lạc của Phật A-di-đà, nguyện trông thấy Phật.

Bấy giờ, tất cả đại chúng cũng chấp tay khởi niệm quán Phật A-di-đà. Thế là Phật A-di-đà hiện ra Đại thần thông, phóng ánh quang minh, chiếu sáng khắp thân của Bồ-tát Sơn Hải Huệ. Bồ-tát cùng chư Đại chúng cũng nhìn thấy cõi nước Cực lạc và Phật, cùng các việc trang nghiêm diệu hảo. Khắp cõi Cực lạc đều là bảy báu, núi bảy báu, Quốc độ bảy báu, nước chim cây rừng thường diễn nói pháp âm. Cõi nước kia hằng ngày thường chuyển pháp luân, nhân dân không học theo ngoại sự, chánh tu nội điển. Miệng nói pháp Phương đẳng, tai nghe tiếng Phương đẳng, tâm giải nghĩa Phương đẳng.

Bấy giờ, Bồ-tát Sơn Hải Huệ bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chúng con nay được trông thấy cõi nước kia thật là thắng diệu, lợi ích không thể nghĩ bàn. Con nay nguyện cho tất cả chúng sinh đều được vãng sinh, sau đó con cũng phát nguyện sinh về đó.

Phật thọ ký và nói:

- Chánh quán, chánh niệm thì được chánh giải thoát, tất cả đều được vãng sinh. Nếu có thiện nam, thiện nữ nào, đem sự chánh tín ái lạc kinh này khuyến hóa chúng sinh, thì người nói người nghe đều được vãng sinh. Nếu có những người như thế, ta sẽ khiến cho hai mươi lăm vị Bồ-tát theo hộ trì, làm cho người đó không còn bệnh não. Nếu người hay loài phi nhân không làm hại được, hành trụ tọa ngọa, bất kể ngày đêm, đều được an ổn.

Bồ-tát Sơn Hải Huệ bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con nay lãnh thọ lời của Thế Tôn, không dám có lòng nghi. Nhưng nếu có chúng sinh nào, phần lớn ưa tranh chấp phỉ báng, không tin kinh pháp, thì về sau như thế nào?

Phật bảo: Về sau, ở trong cõi Diêm-phù-đề này, nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni thấy người đọc tụng kinh điển, hoặc có tướng sân giận, ôm lòng hủy báng, do sự hủy báng chánh pháp này thì người đó hiện ra thân tướng trọng bệnh xấu xa, thân căn không đầy đủ, câm ngọng đui điếc, gặp các loài quỷ mị, ngồi đứng không an, cầu sống không được, cầu chết không xong. Hoặc có chết liền đọa vào địa ngục, ở trong tám vạn kiếp chịu đại khổ não, trăm ngàn vạn đời chưa từng nghe tiếng ăn uống. Sau khi ra khỏi địa ngục, đọa vào trong các loài trâu ngựa heo dê, bị người giết hại, chịu thống khổ vô cùng. Sau đó được làm người, thường sinh vào chốn hạ tiện, trăm ngàn muôn kiếp không được tự tại, vĩnh viễn không nghe được Tam bảo. Cho nên, với người vô trí vô tín không nên nói kinh này.

Soạn tập lưu thông đức
Phổ thí khắp tất cả
Trước phát tâm Bồ-đề
Đồng quy hướng Tịnh quốc
Đều cùng thành Phật đạo.

------------------------------------

Tập này có cả kim lẫn cổ, bản cổ thời có nhiều chỗ sai lầm mà đang hiện hành ở đời. Bao gồm sáu quyển:

- Khoan Nguyên (Vãng Thành in).

- Hoằng An (Ngộ A in lại, nay gọi là cổ bản).

- Chánh Bảo, Minh Lịch, Khoan Văn (Ba bản này đều lấy cổ bản làm chuẩn).

Nguyên Lộc (do ngài Nghĩa Sơn khắc gọi là các bản hiệu, tầm hoằng... sữa chữa lại văn tự nay gọi là Sơn bổn). Lại chỉ có Kỳ Dương đã in một bổn (nay gọi là Kỳ Dương bổn, chẳng phân biệt theo điều đã ghi chép). Những quyển khác thì phần âm nghĩa của Huệ Lâm trở về sau các nhà chú giải cũng không làm rõ ràng, thường thường thì mỗi nhà biện biệt về Ngư Lỗ ắt có đôi chỗ thiếu sót. Chỉ đến khi lão sư Bổn Lập nối nhau qua đời thì học thuyết của hai vị giảng chủ được diễn rộng rãi, bèn đính chính lại bản sai lầm để làm căn cứ mà phân biệt rõ, hai bậc kỳ lão đồng thất đó là Phương Sơn và Tăng Phát, mỗi vị bổ vào chỗ sai sót của mình. Ngõ hầu gặp được cội nguồn của Song Hà và đã từng nói với lão sư bổn lập rằng: in ấn tỉ mĩ tập này để nối thạnh ý sư. Việc làm ấy mong một ngày nào đó được hoàn mãn tốt đẹp mà Tịch Lão sư tôi là tiên sư của nghĩa huynh tiên sư, cũng có chí hiệu đính và khắc in. Song ngài đã về già, mong ngài chấp nhận. Bởi khi thân này, đã trở thành tuổi già xế bóng thì hẳn phải nương nhờ quyến thuộc của mình. Đối với kẻ bất tiếu này vẫn nhớ việc ấy. Than ôi! Phác tôi là kẻ vô danh tiểu tốt nên không dám đương việc này, nhưng vì hoài bão của người quá cố nên không nỡ chối từ. Miễn cưỡng chấp nhận, bởi huyễn duyên xưa nay làm lao nhọc thân thể mà cũng hay bệnh hoạn, ốm yếu, thấm thoát đã ba canh và tang chế đã xong, bất giác mũi lòng tham rằng: Hai bị lão sư đã quy tịch mà một quyển cũng chưa khắc vào gỗ. Than ôi! Trong chuyện ấy có liên quan gì đến chuyện này, mà hoài bảo của người mất không phải như vậy. Tuy Phác tôi là kẻ bất tiếu, đâu đủ can đảm phế bỏ. Thế thì đối với bản thân sao không tự đắn đo để gắng gỏi làm việc, lại dựa cả vào bản hiệu đính lại của Diễn Từ Viện. Phán Thích và hiệu đính rõ lại những bản dị đồng, đồng thời sữa đổi cho văn nghĩa ăn khớp, thì tôi đâu dám. Còn trích những điểm thiết yếu đã sữa chữa thì tôi tự xét mình chưa được hoàn hảo như hai sư kia. Phác tôi đã phụ lòng ân sư vì đã không bằng quý ngài, mong rằng những người cùng chí hướng trong thiên hạ duyệt lại (gọt bớt hoặc thêm vào).

Khoan Chánh, Long tập thứ bảy, mùa thu năm Kỷ Mão.

Nam Hồ, Song Vinh huyễn trụ Thích Long Khê Phác Tố Khâm Thức.

Hai quyển Khoan Nguyên trong một tập An lạc trở về sau in ấn trang nhã để lưu hành ở đời, song văn nghĩa trong đó có sai lầm, nay ngần ấy bổn, tụ hội trong Hoành Xuyên quán như Tam Tỉnh Tôn Hoằng. Mỗ Vỹ Minh Huệ, Căn Lai Thâm Uyên, Mặc Cốc Huệ Trấn... chợt gặp để cùng đối chiếu với bổn kia. Song lúc đó không biện biệt mà chỉ phán bỏ cả phần kia nay để làm một bổn. Thế mà vẫn còn do dự chưa dám quyết trạch, vậy thì để mặc cho người học đời sau vậy. Còn ngắt câu (phẩy) mà kèm tứ thanh để khiến cho người đọc được dễ dàng.

Ngày 25 tháng giêng năm Bính Dần thứ 11 Nguyên Lộc. Thích Nghĩa Sơn ở Thiền Liên xã tập hợp để in ấn.


[Đầu trang][Mục lục bộ Chư Tông][Mục lục tổng quát]