TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠP TẠNG

BỘ CHƯ TÔNG

SỐ 1963 - TỊNH ĐỘ LUẬN

Ngài Ca Tài soạn sớ thích này tại chùa Hoằng Pháp ở Đế đô.

MỤC LỤC

SỐ 1963 - TỊNH ĐỘ LUẬN

BÀI TỰA

SỐ 1963 - TỊNH ĐỘ LUẬN

QUYỂN THƯỢNG

CHƯƠNG I:

CHƯƠNG II

CHƯƠNG III

QUYỂN TRUNG

CHƯƠNG IV

CHƯƠNG V

QUYỂN HẠ

CHƯƠNG VI

CHƯƠNG VII

CHƯƠNG VIII

CHƯƠNG IX


BÀI TỰA

Phàm đối với pháp môn Tịnh độ nhiệm mầu, cả mười phương thế giới đều tán thán; cõi nước thật báu của Đức Phật Di-đà, Phàm Thánh cùng ưa thích. Nhưng mười sáu phép quán thì thịnh hành ở Tây thổ, còn ở Đông hạ giáo lý chín phẩm vãng sinh lại suy đồi. Tôi mỗi khi xem xét tường tận lời Phật dạy trong các kinh, thiết nghĩ một tông này chính là con đường thiết yếu. Vì thế bậc thông đạt chọn lấy mà kính lạy, người chưa ngộ xem vào vẫn còn do dự. Nếu không nương tựa pháp này để định tâm thì e rằng cuối cùng mãi trầm luân trong đêm dài sinh tử. Nay tôi xem xét hết các kinh và các luận khác, rút ra những điều cốt yếu, soạn thành một bộ gọi là Tịnh độ luận.

Nhưng các bậc minh triết tiền bối thời thượng cổ như pháp sư Tuệ Viễn và Ông Tạ Linh Vận... tuy đều kỳ hẹn nơi cõi Tây phương, nhưng rốt cuộc chỉ là riêng lợi bản thân, người học về sau không có chỗ noi theo tu tập. Thời cận đại có thiền sư Đạo Xước soạn An Lạc tập một quyển, tuy rộng dẫn các kinh, lược bày đạo lý, nhưng văn nghĩa xen tạp, chương phẩm lẫn lộn, người hậu học khi đọc đến tập ấy cũng do dự không thể quyết đoán. Vì vậy, nay tôi bèn tìm xét các kinh, trích dẫn đầy đủ đạo lý, khắc làm chín chương, phân chia văn nghĩa phẩm mục thứ lớp, ngõ hầu người xem được rõ ràng như thấy vật trong lòng bàn tay vậy. Nguyện cầu giáo lý ba phước lan rộng dài lâu, bốn hoằng thệ nguyện mãi làm phép tắc, mười sáu phép quán lan rộng khắp nơi, chín phẩm vãng sinh mọi người cùng quay về. Khiến cho sáu đường chúng sinh chỉ lo sao vĩnh viễn thoát khỏi cõi nhơ, bốn loài hàm linh được ở đài sen mãi mãi, những ai chưa thành tựu cũng đều về Tịnh độ.

Kính lạy cõi Cực lạc phương Tây
Đức Phật A-di-đà, Thế Tôn
Khéo lập thệ rộng cứu chúng sinh
Con đầu mặt lạy nguyện vãng sinh
Ngồi tòa đài sen báu đoan nghiêm
Thân phóng quang minh mầu tám phương
Ngũ nhân khắp soi vô biên cõi
Con đầu mặt lạy nguyện vãng sinh
Năm phần tròn sáng tánh thường trụ
Đại bi tiếp dẫn sống vô cùng
Dùng vô duyên từ độ chúng sinh
Con đầu mặt lạy nguyện vãng sinh
Cõi Thật trang nghiêm muôn màu sắc
Đều từ châu ngọc như ý sinh
Năm trần thanh tịnh tiêu muôn tội
Con đầu mặt lạy nguyện vãng sinh
Nước chim rừng sáo ca thanh nhã
Âm thanh diễn nói pháp sâu mầu
Chúng sinh nghe rồi được bất thoái
Con đầu mặt lạy nguyện vãng sinh
Bồ-tát Quán Âm đại từ bi
Nhìn khắp chúng sinh đồng là con
Tay vàng tiếp dẫn như mẹ hiền
Con đầu mặt lạy nguyện vãng sinh
Bồ-tát Thế chí đại tự tại
Đứng ngồi khuynh động cõi đại thiên
Hóa Phật Bồ-tát đều vân tập
Con đầu mặt lạy nguyện vãng sinh
Chúng đệ tử họp đông như biển
Như những vì sao quanh Bắc đẩu
Quán khắp ba cõi cứu khổ đau
Con đầu mặt lạy nguyện vãng sinh
Con nay xem xét đại tạng Phật
Chung chia câu nghĩa làm chín chương
Người đọc đều phát tâm Bồ-đề
Nguyện khắp vãng sinh nước An Lạc.

SỐ 1963 - TỊNH ĐỘ LUẬN

Ngài Ca Tài soạn giải thích tại chùa Hoằng Pháp ở Đế đô.

QUYỂN THƯỢNG

Có một công tử Tục gia tâm nhiều vướng mắc đến hỏi vị Tiên sinh Tịnh độ rằng:

- Tôi từng nghe Phật giáo rỗng không, đường ngôn ngữ dứt bặt, pháp môn u huyền chỗ tâm hành mất. Còn quyển luận này là những lời phát xuất từ vọng tình tâm hạnh, không lời nào chẳng là ý tưởng đảo điên. Nay ngài muốn gửi thân về cõi Tây phương, chuyên tán thán Đức Phật Di-đà thì lời "đường ngôn ngữ dứt" chứa đựng sai lầm, "chỗ tâm hành mất" ít phải. Chỉ vì tôi tình thức còn thiển cận ngưng trệ chưa thông phương lớn, xin gõ cửa mầu mong Ngài mở bày chỗ kín. Nhưng trong cõi nước chẳng có uế, tịnh. Nếu tâm mình chuyên chú tưởng niệm Tây phương, hiểu cho được chỗ chưa hiểu, thì mười phương thế giới đều thanh tịnh, tại sao phải quy về Tây phương? Tôi mang tâm trạng thắc mắc như thế, mong ngài khai mở giúp.

Tiên sinh đáp: Hay thay lời ông hỏi! Chẳng phải hàng triết sĩ tinh tường thì ai có thể chỉ bày được. Pháp môn u huyền thật là ý chỉ của Như Lai, hết lòng hổ thẹn vì không đủ sáng suốt để thử luận việc này. Phàm bậc đạt ngộ có cái nhìn thông suốt thì thấy cái gì cũng đều phải, còn phàm phu trí cạn thì gặp việc liền sinh ngưng trệ. Nhưng Thánh giáo phạm vi rộng rãi, giai vị gồm có tám vạn, song luận một cách tóm tắt thì không ngoài lý và sự. Hai môn này giống như xe có hai bánh, chim có hai cánh, thiếu một thì không thể đi xa được. Như Khởi Tín Luận có hai môn chỉ quán, Chỉ là duyên lý, Quán là duyên sự, nếu chưa thông đạt hai môn này thì mù mờ sinh trệ. "Đường ngôn ngữ dứt, chỗ tâm hành mất" là lý, niệm Phật kỳ hẹn vãng sinh Tây phương là sự. Ba cõi đều do tâm tạo, cõi chẳng có nhơ, nếu chưa đến bậc Thập địa thì hãy nương nơi cảnh để tịnh tâm mình, tuy mười phương đều thanh tịnh nhưng đó là chỉ chung cho các cảnh giới. Còn ở đây chỉ muốn chuyên tưởng vãng sinh, vì thế chỉ về Tây phương vậy.

CHƯƠNG I:

Định thể tánh Cõi Tịnh độ: Có hai phần:

- Nói rõ thể tánh.

- Nói rõ thuộc về hoặc không thuộc về ba cõi.

Hỏi: Cửa Tịnh độ Phàm Thánh cũng muốn vào, cõi nước báu của Đức Phật Di-đà mười niệm có thể lên. Đã cho người tu Đại thừa, Tiểu thừa đều về, muôn loài đều được vãng sinh, chưa biết thể tánh, tướng trạng cõi đó như thế nào?

Đáp: Phàm sắc đẹp thì hoa mắt, lời khéo thì lý mờ, nay muốn cho người trí, kẻ ngu cùng rõ, vì thế hãy bỏ lời hảo, chỉ nói vào điểm cốt yếu vậy.

Nói rõ Thể tánh có ba môn:

- Pháp thân Tịnh độ.

- Báo thân Tịnh độ.

- Hóa thân Tịnh độ.

1. Pháp Thân Tịnh độ có hai nghĩa: a. Nêu ra thể của người An Lạc (năng trụ). Thể của người an trụ:

Theo Khởi Tín luận giải thích thể Như Lai tạng gồm đủ ba nghĩa đại:

Thể đại: Tất cả pháp đều chân như bình đẳng, vì không tăng, không giảm, đây tức là Nhất vị chân như. Thể này không những bao hàm các pháp trong ngoài mà còn quán thông cả Phàm Thánh.

Tướng đại: Như Lai tạng đầy đủ công đức vô lậu, đây tức là nghĩa hằng sa muôn đức sai khác. Nơi hữu tình thì có Phật tánh, nơi vô tình thì không, nên kinh Niết-bàn nói: Các vật vô tình như tường, vách, ngói, đá, chẳng có Phật tánh.

Dụng đại: Có thể sinh nhân quả thiện thế gian, xuất thế gian, đây tức là dụng của tướng.

Nay đã lấy hai nghĩa tướng đại và dụng đại làm của người năng trụ ân, nếu luận về sự sai biệt thì tất cả pháp đều nương vào Nhất vị chân như mà được thành lập. b. Nêu ra thể của cõi đã an trụ vào:

Tức lấy nghĩa thể đại của Nhất vị chân như làm thể của cõi đã trụ, nghĩa là làm chỗ nương cho hằng sa muôn đức, ở đây nhân (người) và độ (cõi nước) cùng thể mà nghĩa thì có hai.

2. Báo Thân Tịnh độ có hai loại:

a. Thật báo độ.

b. Sự dụng độ.

- Thật báo độ: Người và cõi cùng thể, nghĩa là lúc mới sinh khởi muôn đức làm thể của cõi. Như trong mười tám pháp viên tịnh của Nhiếp Đại thừa luận nói: Đại không, vô tướng... là cửa, ba tuệ là đường, và trong kinh Duy-ma nói tổng trì như vườn tược các pháp vô lậu như rừng cây...

Luận về người năng trụ, nếu muôn đức đầy đủ thì thành Phật. Đối với người và cõi này, tất cả Bồtát địa vị dưới cho đến Bồ-tát Kim cang tâm cũng không thấy được, chỉ có Phật thấy Phật mà thôi.

- Sự dụng độ.

Ở đây người và cõi khác thể, nghĩa là lấy thế giới Lưu ly kha Liên hoa tạng... làm thể của cõi đã trụ, nên Nhiếp Đại thừa luận nói: Cõi Tịnh độ lấy hoa sen vương làm chỗ nương, lấy đại định, đại bi, sắc mầu, tướng tốt... làm thể của người năng trụ, Nhiếp Đại thừa luận nói: Ứng thân lấy đại định, đại bi làm thể.

Đối với người và cõi này Bồ-tát từ Sơ địa trở lên thấy tùy phần cho đến Bồ-tát Thập địa đều thấy được nhưng không đồng; Vì địa vị có trên và dưới, nên sự thấy cũng có thô diệu khác nhau. Nhiếp luận nói: Nếu lìa Ứng thân, thì tư lương Bồ-đề của Bồtát Sơ địa trở lên không đầy đủ. Thân này hoặc gọi là Báo thân, Thọ dụng thân hay Ứng thân. Đáp trả gọi là Báo, đáp lý gọi là Ứng. Đem pháp thân nội chứng truyền dạy cho thập địa Bồ-tát gọi là Thọ dụng thân, hoặc thực thân. Thực thân và Thọ dụng thân nghĩa như nhau.

3. Hóa Thân Tịnh độ có hai loại:

a. Thường tùy Hóa thân.

Đem cái thân làm lợi ích cho chúng sinh trải qua ba đại A-tăng-kỳ kiếp thường hành rộng lớn gọi là Thường tùy hóa thân. Thân này có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, bao lần tái sinh, bao thuở Niết-bàn, hoặc một trăm năm, hoặc một kiếp, thường hiện không dứt tại cõi này hay cõi khác.

Vô nhi hốt hữu Hóa thân (thân vốn không mà chợt có).

Nghĩa là nương Thường tùy hóa thân liền hiện nhiều hóa thân khác. Như Đức Thích Ca Như Lai là Thường tùy hóa thân liền khởi phân thân gọi là Vô nhi hốt hữu hóa thân, vì có lúc hiện khỉ, vượn, hươu, ngựa, các thứ thân hình chứ không phải chỉ có hiện thân Phật. Thân đã có hai, cõi cũng như thế. Như các hoa sen báu mầu, trong thế giới Diệu Hỷ, là Thường tùy hóa Tịnh độ, trong kinh Duyma, mỗi khi Đức Như Lai ấn ngón chân xuống đất, ba ngàn thế giới đều thanh tịnh đó là Vô nhi hốt hữu hóa Tịnh độ. Hai thân và hai Tịnh độ này Bồtát trước thập địa, hàng Nhị thừa, phàm phu đều thấy được, nên Nhiếp Đại thừa luận nói: Nếu lìa Hóa thân, thì hàng Thanh văn còn thô thiển và chúng sinh mới phát tâm tu hành cầu giải thoát đều không thành tựu. Huệ nhãn, Pháp nhãn, Phật nhãn trong ngũ nhãn thấy được pháp thân, pháp thân Tịnh độ; nhục nhãn, Thiên nhãn thấy được Báo thân, Báo thân Tịnh độ và Hóa thân, Hóa thân Tịnh độ.

Hỏi: Cõi đã có ba, chưa biết Tây phương là cõi nào?

Đáp: Tây phương cũng có đủ ba loại: Như cõi mà Bồ-tát nhập Sơ địa trở lên Bồ-tát Chánh thể trí thấy là Pháp thân Tịnh độ; (ở địa vị hồi hướng thứ mười) sau khi gia hạnh được trí thấy là Báo thân Tịnh độ; Bồ-tát trước thập địa, hàng Nhị thừa, phàm phu thấy là Hóa thân Tịnh độ. Như Bồ-tát Long Thọ... vãng sinh thấy đủ ba loại là pháp thân Tịnh độ, Báo thân Tịnh độ, và Hóa thân Tịnh độ. Vì lẽ cõi trên thấy được cõi dưới nên trong các kinh luận hoặc bảo là Báo thân Tịnh độ, hoặc bảo là Hóa thân Tịnh độ, đều không sai tôn chỉ.

Hỏi: Đã biết Tây phương có đủ ba cõi, chưa biết nay phàm phu niệm Phật cầu vãng sinh, được về cõi nào?

Đáp: Theo Nhiếp luận thì chỉ những ai sinh về Hóa độ thì không thấy Pháp độ và Báo độ.

Trong Hóa độ có hai loại:

- Thai sinh độ.

- Hóa sinh độ.

1. Thai sinh độ có hai:

a. Người còn nghi ngờ sinh vào cung điện bằng bảy báu trong thành ở ngoài biên cõi Cực lạc, năm trăm năm không thấy Phật nên gọi là thai. (Đây là kinh Vô Lượng Thọ nói).

b. Thật có cha mẹ gọi là thai. Như kinh Cổ Âm Thinh Vương Đà-la-ni nói: Đức Phật A-di-đà cũng có cha mẹ... và thành tên Thanh thái rộng mười ngàn do-tuần, trong thành đầy chủng tộc Sát-lợi. Cha tên Nguyệt Thượng Chuyển luân Thánh vương, mẹ tên Thù Thắng Diệu Nhan; con tên Nguyệt Minh, đệ tử phụng sự tên Vô Cấu Xưng, đệ tử trí tuệ tên Lãm Quang, đệ tử thần túc tên Chủ Hóa, ma tên Vô Thắng; Đề-bà-đạt-đa (khi ấy) tên là Tịch.

(Cõi này là do Đức Phật Di-đà tự biến hóa ra, tất cả chúng sinh chẳng phải nay niệm Phật được vãng sinh về đó. Cõi này tuy là một, nhưng thấy thì có khác).

2. Hóa sinh độ.

-Theo kinh luận, Hóa sinh độ có đủ ba loại:

a. Cõi thuần Đại thừa: Chúng sinh tu học thuần theo Đại thừa được sinh về cõi này, tức những người thuộc ba phẩm bậc thượng trong chín phẩm vãng sinh, nên Vãng sinh luận nói: Các cõi thiện căn Đại thừa không khinh chê người nữ và hàng Nhị thừa căn khuyết, vì cho rằng mọi người đều có thể vãng sinh.

b. Cõi thuần Tiểu thừa: Chúng sinh tu học thuần theo Tiểu thừa sinh về cõi này, tức những người thuộc hai phẩm đầu của bạc trung trong chín phẩm vãng sinh, nên trong Trí độ luận nói: Có Tịnh độ vi diệu ra ngoài ba cõi, các vị A-la-hán sẽ sinh về đó.

c. Cõi chung cho Đại thừa, Tiểu thừa: Chúng sinh nào tu học Đại thừa lẫn Tiểu thừa sinh về cõi này, tức những người thuộc phẩm cuối bậc trung và ba phẩm bậc hạ trong chín phẩm vãng sinh. Như kinh Trung Phẩm hạ sinh nói: Đó là những người hiếu dưỡng cha mẹ, ở đời làm việc nhân từ, gặp được thiện tri thức dạy cho bốn mươi tám đại nguyện của Đức Phật Di-đà... Người đó nghe bốn mươi tám đại nguyện với tâm chưa nhất định hướng theo Đại thừa hay Tiểu thừa, sinh về cõi này rồi, tuy chứng quả A-la-hán, nhưng về sau mới hồi tâm hướng về Đại thừa. Những người sinh vào ba phẩm bậc hạ cũng được nghe bốn mươi tám đại nguyện, mười hai bộ kinh hoặc niệm danh hiệu Đức Phật A-di-đà, sinh về cõi này rồi, mọi người đều phát tâm Bồ-đề.

Luận chung, Tịnh độ có ba cõi. Nếu phân chia một cách chi li thì do tâm hạnh chúng sinh đã có muôn ngàn sai khác, Tịnh độ vãng sinh cũng có muôn ngàn sai khác. Để giải thích rõ ràng, trong các kinh luận gọi là Báo độ hoặc Hóa độ đều không trở ngại; nên biết rằng chư Phật tu hành viên mãn, cảm đủ Báo độ và Hóa độ. Theo Nhiếp luận, Gia hạnh vị cảm Hóa độ, Chánh thể trí cảm Hóa độ, các cõi như Báo độ hoặc Hóa độ cũng đều muốn thành tựu đạo nghiệp cho chúng sinh mà thôi. Thế thì Tịnh độ được lập bày chẳng dối gạt, hạnh nguyện tu hành ở cõi này chẳng trống không, tin lời Phật dạy, y kinh chuyên niệm danh hiệu Đức Phật Diđà liền được vãng sinh, cũng chẳng phải lo tính sinh về Báo độ hay Hóa độ.

Hỏi: Pháp thân Tịnh độ lý rộng khắp còn có thể biết, còn Báo độ, Hóa độ phải có bờ cõi. Nếu nói Tây phương đã có đủ Báo độ, Hóa độ, căn cứ vào văn kinh nào làm chứng?

Đáp: Báo độ, Hóa độ hoặc có bờ cõi, hoặc không.

1. Báo độ:

- Như Thật báo độ trong Báo độ không có bờ cõi, nghĩa là Đức Như Lai đầy đủ tám muôn hạnh nguyện, trải qua ba thời A-tăng-kỳ nói đủ hai giáo, năm phần pháp thân sáng tỏ, đức tướng cùng khắp núi sông, tam minh tỏ rõ, hai trí cùng soi. Giống như rồng ngậm thì mây hiện, hổ gầm thì gió theo, đâu được lấy của báu thù diệu trang sức, không thể lấy giới hạn đối chứng. Cõi này chỉ có Phật tự tuyên dương sự tráng lệ, các bậc Bồ-tát (từ Sơ địa trở lên đến Bồ-tát kim cang tâm) cũng không thể biết được.

- Sự Báo độ: Nghĩa là dưới được nâng bằng trụ kim cang, trên có đất lưu ly lấp lánh, bên ngoài có lan can bảy báo vây quanh, bên trong có ao trong mát đầy nước tám công đức, chiếc bè kết bằng châu ngọc ở rừng xanh, những mành lưới báu quấn quanh cung điện đã được như vậy, thân cũng đầy đủ muôn đức hoa lệ như quốc độ thì có bờ cõi.

2. Hóa độ.

Nếu căn cứ vào đại bi nguyện lực của chư Phật thì tất cả cõi chúng sinh không đâu không cùng khắp thì không thể đối chứng. Còn căn cứ vào thân giáo hóa chúng sinh, lúc thị hiện, lúc Niết-bàn, thì có bờ cõi.

Nhưng nói Tây phương là Báo độ thì dựa vào kinh Đại thừa Đồng Tánh nói: Ngài Bồ-tát Trí Thông hỏi Đức Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Những gì là Báo thân của Như Lai?"

Đức Phật đáp: "Như nay ông hiện thấy ta thì là Báo thân của Như Lai. Lại trong cõi thanh tịnh có Bồ-tát đã thành Chánh giác và sẽ thành Chánh giác thì tất cả thân đó đều là Báo thân."

Giải: Trong cõi Tịnh độ, người đã thành Phật được xem là Báo thân, đồng thời cũng được xem là Thọ dụng thân, nhưng chẳng phải là Thật báo thân. Còn phần Hóa thân, tức là vi tế Hóa thân vậy.

Kinh nói: "Ông nay hiện thấy ta thì thân này là Báo thân của Như Lai." Nghĩa là trong cõi uế cũng thấy được Báo thân vậy. Kinh này lại nói: "Trong đời ngũ trược thành Phật, giáo pháp trải qua ba thời: Chánh pháp, tượng pháp và mạt pháp, thì thân Phật là Ứng hóa thân." Như thế kinh phán trong cõi uế thành Phật đều là Hóa thân mà cũng tức là Báo thân. Trong cõi uế đã thấy được Báo thân, thế thì trong cõi tịnh lẽ nào không thấy được Hóa thân? Cho nên biết rằng trong hai cõi tịnh, uế đều có đủ hai thân vậy.

Còn nói rằng quốc độ đó được hóa hiện là dựa vào kinh Quán Thế Âm thọ ký. Kinh này nói: Này Thiện nam tử, Đức Phật A-di-đà thọ mạng vô lượng trăm ngàn ức kiếp, nhưng sẽ có ngày nhập Niết-bàn. Sau khi Phật nhập Niết-bàn, chánh pháp trụ ở đời ngang bằng với thọ mạng của Phật. Thiện nam tử, sau khi chánh pháp của Đức Phật A-di-đà diệt, qua nửa đêm khi tướng sáng xuất hiện, Bồ-tát Quán thế Âm ngồi dưới cây Bồ-đề thành Đẳng Chánh Giác, hiệu là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Như Lai. Cõi nước ấy không nghe có tên Thanh văn, Duyên giác, và có tên là Chúng Bảo Phổ Tập Trang Nghiêm. Đức Phổ quang Công đức Như Lai nhập Niết-bàn, sau khi chánh pháp diệt, Bồ-tát Đại Thế Chí ở trong nước thành Phật hiệu là Thiện Trụ Bảo Vương Như Lai; cõi nước sáng suốt, thọ mạng của Phật cũng bằng với cõi nước Chúng Bảo Phổ Tập trang nghiêm không khác. Lại dựa vào kinh Cổ âm Thinh vương Đà-la-ni thì Đức Phật A-di-đà có cha mẹ, con và các đệ tử như ngài Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên và Đề-bà đạt-đa...

Nói rõ thuộc về hoặc không thuộc về ba cõi

Hỏi: Báo độ thuần thanh tịnh vi diệu dứt hẳn ba cõi, chúng sinh được giáo hóa đã vượt khỏi phần đoạn sinh tử. Cõi này ra ngoài ba cõi, lý ấy cũng dễ tin, còn Hóa độ tuy tịnh nhưng sự thanh tịnh chưa được diệu dụng, chúng sinh được giáo hóa lại ở trước thập địa, thế thì cõi này có thuộc về hay không thuộc về ba cõi?

Đáp: Nếu đứng về Phật mà luận thì cõi này dứt hẳn tam giới, còn từ chúng sinh mà nhìn thì có đủ hai nghĩa: Hoặc thuộc về hay không thuộc về. a. Nói rõ nghĩa nhiếp.

Nếu căn cứ vào phàm phu và những bậc hữu học Thanh văn vãng sinh thì Tịnh độ thuộc về tam giới, vì những chúng sinh này chưa ra khỏi tam giới.

Hỏi: Nghĩa này có thể hiểu như thế nào?

Đáp: Như kinh Vô Lượng Thọ nói: Ngài A-nan thưa Đức Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Cõi kia đã không có núi Tu-di... thì các cõi trời như Tứ Thiên vương, Đao lợi nương vào đâu mà trụ?"

Đức Phật đáp: "Nương nghiệp lực mà trụ. Đã có người, lại có các cõi trời như Tứ Thiên vương v.v..., nên biết tức có Dục giới."

Kinh này lại nói: "Đức Phật bảo Bồ-tát Di-lặc rằng: Như Ông thấy từ đại địa trở lên cho đến cõi trời Tịnh Cư, những nơi đó có các việc trang nghiêm chăng?"

Bồ-tát Di-lặc thưa: "Bạch Đức Thế Tôn! Con đã thấy". Vì thế nên biết có hai cõi là Dục giới và Sắc giới, nhưng không bàn đến Vô sắc giới.

Hỏi: Vì sao không luận về Vô sắc giới?

Đáp: Ý muốn tán thán Tịnh độ mầu nhiệm trang nghiêm, là cõi tiếp dẫn muôn loài vãng sinh, vì thế không luận về Vô sắc giới, nhưng thể của nó vẫn có vậy.

Hỏi: Thân và Tịnh độ này đều là Dục giới, vì sao Phật dạy mọi người vãng sinh?

Đáp: Tịnh độ tên tuy đồng là Dục giới nhưng nghĩa thì có khác. Ở đây Dục giới có đủ hai nghĩa: Một là thượng tâm dục, hai là chủng tử dục. Do đủ hai nghĩa này nên có nam, nữ tạp nhiễm, ham muốn đuổi theo sắc đẹp, tiếng hay, ưa thích ở trong nhà lửa tam giới. Tây phương Dục giới chỉ có chủng tử dục, không có thượng tâm dục. Vì không có thượng tâm dục nên không có các lỗi vừa kể ở trên, cũng không có tâm ác và tâm vô ký, chỉ có tâm thiện. Cho nên, đoạn nói về mười tám món viên tịnh của Báo thân Phật trong Nhiếp luận nói: Cõi Tịnh độ chỉ có lạc thọ, không có khổ thọ và xả thọ. Như kinh Đại Pháp Cổ nói: Khổ thọ là bất thiện, lạc thọ là thiện, xả thọ là vô ký. Vì chỉ có tâm thiện nên không còn khởi tâm ác nữa, nên kinh Vô Lượng Thọ nói: Trong cõi nước của Đức Phật Di-đà không cho tạo ác dầu bằng một mảy lông. Vì vậy, tuy nói Tây phương là Dục giới, há có thể giống nhau ư? Như Dục giới, Sắc giới cũng nên hiểu như thế.

Hỏi: Cõi Tịnh độ thù thắng vi diệu, muôn loài đều ưa thích, kính ngưỡng, Đức Phật đã muốn khuyên mọi người vãng sinh về đó, vì sao lại nói là thuộc về tam giới?

Đáp: Đây là kinh nói, chẳng quan hệ gì với người. Lại nữa, nếu Tịnh độ thuộc về tam giới thì chúng sinh chưa đoạn hết lậu hoặc tam giới cũng được vãng sinh. Còn nếu ra ngoài tam giới thì phàm phu và những bậc hữu học Thanh văn đều mất phần, vì không thể đem chúng sinh còn đầy dẫy phiền não trong tam giới khiến sinh trong Báo độ ngoài tam giới được. Do Tịnh độ ở trong tam giới cho nên vãng sinh thì dễ, lại không có thượng tâm dục nên rốt ráo không thoái chuyển nơi đạo Vô thượng Bồ-đề.

Hỏi: Tịnh độ đã thuộc về Tam giới thì chúng sinh trong đó phải thoái chuyển, vì sao gọi là không thoái chuyển?

Đáp: Tam giới tên tuy chung với Tịnh độ, nhưng hai cõi không phải chỉ một loại. Như thế giới Diệu Hỷ ở phương Đông có cõi Diêm-phùđề, cõi trời Đao lợi, có nam lẫn nữ nhưng vẫn gọi là Tịnh độ, há ra ngoài tam giới, đã tại tam giới có người nữ nên cũng là cõi dục, có thể đồng với Dục giới cõi Sa-bà sao? Nhưng Thế giới Diệu Hỷ là cõi tịnh, còn Dục giới là cõi uế vậy. Nay phán định, vì Hóa Tịnh độ chỉ giáo hóa chúng sinh trong cõi giới nên đều ở trong tam giới, còn như Báo Tịnh độ giáo hóa chúng sinh ngoài cõi giới nên ra ngoài tam giới. Vì Tịnh độ có ba phẩm hơn kém nên có các cõi khác nhau. Như thế giới Diệu Hỷ ở phương Đông là Tịnh độ phẩm hạ, vì có nam lẫn nữ. Thế giới Cực lạc ở phương Tây là Tịnh độ phẩm trung, vì gồm cả Nhị thừa. Thế giới Chúng hương ở phương trên là Tịnh độ phẩm thượng, vì không có Nhị thừa. Ba phẩm Tịnh độ này đều ở trong Dục giới, vì đó là những cõi riêng cho loài người và trời vãng sinh. Thế giới Diệu Hỷ có người, trời, như kinh Duy-ma nói: Từ cõi Diêm-phù-đề đến cõi trời Đao lợi. Thế giới Cực lạc có người, trời như kinh Vô Lượng Thọ nói: Đức Phật bảo Bồ-tát Di-lặc rằng: Như Ông thấy từ đại địa trở lên cho đến trời Ngũ Tịnh Cư, những nơi đó có các việc trang nghiêm chăng? Thế giới Chúng Hương có người, trời, như kinh Duy-ma nói: Khiến các loài người và trời được vào luật hạnh. Các Tịnh độ này đã là cõi riêng cho người, trời vãng sinh, nên biết các cõi đó đều ở trong Dục giới. Còn như ở Sắc giới tuy có trời mà không có người, vì Sắc giới ở trên, loài người không thể lên được. Nếu Tịnh độ ra ngoài tam giới thì không có cõi riêng cho loài người và trời vãng sinh vậy. Như Tịnh độ Dục giới có ba phẩm, uế độ cũng có ba phẩm.

Như kinh nói: Từ đây về phương Đông có một thế giới tên là Tư-ha, ruộng ba phần chỉ toàn cát đá, một năm mưa có hai lần, đất thấm ướt không quá năm tấc. Chúng sinh ở cõi này chỉ ăn mầm cỏ, lấy vỏ cây làm áo, cầu sống không được, muốn chết cũng không xong. Cõi này là uế độ phẩm trung. Lại có một thế giới đầy rẫy loài thú độc như cọp, sói cho đến rắn rít, bò cạp, thảy đều có thể bay, đi qua lại, gặp nhau liền bắt ăn thịt, không phân biệt điều thiện ác. Cõi này là uế độ phẩm hạ. Còn thế giới Sa-bà thường có chư Phật ra đời, có chúng sinh phát tâm Bồ-đề, từ đất sinh ra lúa gạo, thức ăn, con người biết lễ nghĩa. Cõi này là uế độ phẩm thượng vậy. Tịnh độ tuy có ba phẩm nhưng khi sinh về đó thì đều được bất thoái, còn uế độ cũng có ba phẩm nhưng khi sinh về đó thảy đều thoái chuyển. Vả lại Tây phương Tịnh độ có bốn nhân duyên chỉ có tiến đạo, không có sự thoái chuyển:

1. Vì thọ mạng dài lâu nên không thoái chuyển. Như kinh nói: Thọ mạng vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, trải qua ba đại A-tăng-kỳ tinh tiến tu đạo thì được thành Phật, huống nữa là vô lượng A-tăngkỳ.

Còn uế độ vì thọ mạng ngắn ngủi nên thoái chuyển.

2. Có chư Phật, Bồ-tát làm thiện tri thức nên không thoái chuyển.

Như kinh nói: Được câu hội một chỗ với các bậc thượng thiện như thế.

Uế độ có nhiều ác tri thức nên thoái chuyển.

3. Không có người nữ, sáu căn sáu trần đều là duyên tiến đạo nên không thoái chuyển.

Như kinh Vô Lượng Thọ nói: Mắt nhìn thấy sắc liền phát tâm Bồ-đề, cho đến ý căn duyên pháp trần cũng phát tâm Bồ-đề.

Uế độ vì có người nữ, sáu căn sáu trần đều là duyên thối đạo nên thoái chuyển.

4. Chỉ có tâm thiện nên không thoái chuyển.

Như kinh nói: Không hề tạo ác dầu bằng mảy lông.

Uế độ vì có tâm ác, tâm vô ký nên thoái chuyển. b. Nói rõ nghĩa không thuộc về ba cõi:

Nếu là Tịnh độ mà các bậc Bồ-tát từ Sơ địa trở lên và các bậc vô học như La-hán, Bích-chi vãng sinh thì không thuộc ba cõi, vì các vị đó đã trừ hết chánh sử, ra ngoài ba cõi. Như Đại Trí Độ luận nói: Có Tịnh độ vi diệu ra ngoài ba cõi, các vị A-la-hán sẽ sinh về đó. Trong luận chỉ nói đến A-la-hán mà không nói bậc hữu học, cho nên biết Tịnh độ các bậc hữu học vãng sinh đều ở trong ba cõi vậy.

CHƯƠNG II

Định người vãng sinh

(Người bậc nào được vãng sinh)

Hỏi: Đã biết thể tánh cõi Tịnh độ thông với Báo độ và Hóa độ, chưa biết người bậc nào được vãng sinh?

Đáp: Nay dựa vào kinh luận, nương theo ý Phật, thì người nào dựa vào kinh luận tu hành, không luận phàm hay Thánh, nam hay nữ cho đến người tạo tội thập ác, ngũ nghịch, người đó khi thọ mạng sắp hết, nếu hiện tiền chánh niệm, tâm không loạn động thì đều được vãng sinh, chỉ trừ người phỉ báng Đại thừa thì không được vãng sinh, đó là theo kinh Quán. Nếu nói theo kinh Vô Lượng Thọ thì trừ người tạo tội ngũ nghịch ra.

Hỏi: Hai kinh này đều chỉ do mỗi Đức Phật Thích-ca thuyết, vì sao kinh Vô Lượng Thọ thì trừ hai hạng, còn kinh Quán chỉ trừ có một?

Đáp: Trước chế sau khai là pháp thường của chư Phật. Kinh Vô Lượng Thọ Đức Phật thuyết trước để nói rộng nhân duyên của Ngài Tỳ-kheo Pháp Tạng và nói rõ việc vãng sinh. Còn kinh Quán Đức Phật thuyết sau vì chỉ luận việc vãng sinh thôi. Hỏi: Như kinh Vô Lượng Thọ nói: Chúng sinh sinh về cõi đó thảy đều trụ nơi chánh định. Còn kinh A-di-đà nói: Này Xá-lợi-phất! Đối với cõi nước Cực lạc, nếu có chúng sinh sinh về đó rồi thì đều là bậc A-bệ-bạt trí. Căn cứ hai kinh này, các bậc Bồ-tát từ Thập giải (mười trụ) trở lên mới được vãng sinh, vì sao lại nói cho đến người tạo tội thập ác, ngũ nghịch cũng đều được vãng sinh?

Đáp: Chánh định hay A-bệ-bạt trí đều gọi là bất thoái, nghĩa bất thoái là thông, chẳng phải chỉ hạn cuộc từ Thập giải. Nay dựa vào sự giải thích của kinh luận thì bất thoái có bốn loại.

1. Niệm bất thoái: Nghĩa là các bậc Bồ-tát từ Bát địa trở lên.

2. Hạnh bất thoái: Nghĩa là các bậc Bồ-tát từ Sơ địa trở lên.

3. Vị bất thoái: Nghĩa là các bậc Bồ-tát từ thập giải trở lên.

4. Xứ bất thoái: Nghĩa là cõi Tịnh độ phương Tây.

Cho nên kinh Vô Lượng Thọ nói: Cõi kia không có tên tà định và bất định. Lại trong bốn mươi tám đại nguyện của Đức Phật Di-đà nói: Nếu như sau khi ta thành Phật, các hàng trời, người trong cõi nước của ta không trụ chánh định cho đến ngày diệt độ thì ta nguyện không thành chánh giác. Đã nói bất thoái thì địa vị bao gồm bốn loại, há có thể chỉ nêu ra một loại bất thoái để quyết định mà bỏ ba loại kia ư?

Hỏi: Phàm luận về bất thoái thì phải căn cứ vào hạnh vị, vì sao nói nương vào xứ mà được bất thoái?

Đáp: Hạnh vị bất thoái là vì trong tâm không còn phiền não, còn xứ sở bất thoái là vì bên ngoài không có cảnh duyên phiền não, mỗi loại đều căn cứ một nghĩa, há lạ lắm ư?

Hỏi: Ba bất thoái trên kinh luận đã minh chứng rõ, điều này có thể tin được. Còn xứ sở bất thoái thì không có văn kinh chứng minh, thế thì biết lấy gì làm tin?

Đáp: Nay dẫn Tỳ-bà-sa luận làm chứng. Như trong luận này nêu ra sáu loại chủng tánh:

1. Thối chủng tánh.

2. Tư chủng tánh.

3. Hộ chủng tánh.

4. Vị chủng tánh.

5. Thăng tiến chủng tánh.

6. Bất động chủng tánh.

Như hạng người chủng tánh lui sụt, giả sử đắc quả La-hán nhưng cũng có khi trở lại khởi thoái tâm, cho đến khởi phiền não tu đạo trong tam giới, vì căn tánh của họ yếu mềm. Người này tuy thể tánh là thoái căn nếu người này là loài người trong Dục giới, khi gặp ngũ thoái cụ, tâm liền thoái chuyển. Còn như sinh vào cõi trời Lục dục, Sắc giới hay Vô sắc giới, tuy căn tánh là lui sụt nhưng nếu không có thoái cụ vẫn không thoái chuyển, vì xứ sở không có nhân duyên khiến tâm thoái chuyển nên được bất thoái. Ngũ thoái cụ là:

1. Bệnh tật lâu dài.

2. Đi xa.

3. Tụng kinh.

4. Lo công việc làm ăn.

5. Giảng hòa việc tranh cãi.

Năm loại này chỉ có trong loài người, còn các cõi trời thì không. Ba điều tụng kinh, tri sự, giảng hòa sự tranh cãi tuy là việc thiện nhưng phế bỏ việc nhập quán nên tâm vẫn thoái chuyển. Qua những việc trên, khi so sánh ý nghĩa bất thoái mà luận này và các kinh luận khác nói đến cũng có thể giống nhau. Như tất cả phàm phu chưa đến địa vị Thập giải, tuy niệm Phật nhưng vì còn ở ngoại phàm nên chủng tánh vẫn là hàng thoái chuyển. Người này như ở trong uế độ Sa-bà, vì gặp năm thoái duyên nên liền thoái chuyển, còn nếu sinh về Tây phương, không có năm thối duyên nên được bất thoái. Năm thoái duyên là:

1. Thọ mạng ngắn ngủi lại nhiều bệnh tật.

2. Có người nữ và sinh tâm đấm nhiễm sáu trần.

3. Người hay làm ác, nghĩa là ác tri thức.

4. Tâm bất thiện và tâm vô ký.

5. Thường không được gặp Phật.

Vì trong cõi Tịnh độ không có năm thoái duyên này nên chúng sinh rốt ráo không còn thoái chuyển. Đây là dẫn Thánh giáo để chứng minh cho xứ sở bất thoái được rõ ràng vậy. Lại căn cứ kinh Quán và kinh Vô Lượng Thọ, hai kinh đều nói nếu người nào vãng sinh thì được bất thoái mà không nói bậc bất thoái mới được vãng sinh. Cho nên kinh Vô Lượng Thọ nói rằng: Nếu có chúng sinh nào sinh về cõi kia thì thảy đều trụ nơi chánh định. Vì sao vậy? Vì cõi kia không có tên Tà định và Bất định. Kinh A-di-đà cũng nói: Chúng sinh sinh về cõi đó rồi đều là bậc A-bệ-bạt trí mà không nói bậc A-bệ-bạt trí mới được vãng sinh. Cũng như cõi Sabà này loài người thọ đủ ba thọ, nhưng nếu được sinh về cõi kia rồi thì không có khổ thọ và xả thọ, chỉ có lạc thọ thôi, vì cõi kia không có khổ thọ và xả thọ vậy.

Hỏi: Như kinh Quán nói: Người sinh vào thượng phẩm thượng sinh, khi sinh về cõi kia liền ngộ Vô sinh pháp nhẫn, đây chính là Bồ-tát Bát địa. Nên biết những bậc sinh vào bậc hạ là các Bồtát từ Thập giải trở lên. Như thế, nếu là các vị trước Thập giải được vô sinh pháp nhẫn, chẳng những đã trái Thánh giáo mà địa vị còn khác nhau xa lắm.

Đáp: Không phải như vậy. Vô sinh pháp nhẫn cũng có bốn loại:

Nương vào giáo pháp mà được Vô sinh pháp nhẫn, nghĩa là tất cả phàm phu và các bậc Bồ-tát thập tín đọc kinh luận Đại thừa sinh khởi vô sinh giải. Đây tức là Văn Tuệ.

Nương vào quán tưởng được vô sinh pháp nhẫn, nghĩa là các bậc Bồ-tát từ thập giải trở lên cho đến thập Hồi hướng, quán về ba vô tánh, không mà rõ được vạn pháp vô sinh. Đây tức là Tư Tuệ.

Chứng lý được vô sinh pháp nhẫn, nghĩa là các bậc Bồ-tát từ Sơ địa trở lên, vì chứng được nhị không chân như cùng khắp pháp giới. Đây tức là Tu Tuệ.

Ước theo địa vị được Vô sinh pháp nhẫn, nghĩa là các bậc Bồ-tát từ Bát địa trở lên, vì chứng được chân tục song hành mà đạt được trí vô công dụng. Đây tức là Tu Tuệ vậy.

Vô sinh pháp nhẫn đã thông bốn loại này, há có thể cho một loại nào là cao quý mà loại trừ các loại khác sao?

Như ngài Tuệ Viễn pháp sư phán định: Bậc thượng phẩm thượng sinh là các Bồ-tát từ Tứ địa đến Bát địa. Còn Nhiếp Đại thừa luận nói: Nhân duyên sinh tử trong biến dịch sinh tử của Bồ-tát Tứ địa thì cõi Tây phương là phần đoạn sinh tử. Thế nào là Bồ-tát thọ biến dịch sinh tử còn phải chịu phần đoạn sinh tử?

Kinh Quán Thế Âm thọ ký nói: Đức Phật Adi-đà thọ mạng vô lượng mà cũng phải nhập Niếtbàn, nên biết chúng sinh thọ mạng tuy vô lượng nhưng tất có ngày chết, vì kinh A-di-đà cũng nói: Chúng sinh cũng gọi là A-di-đà. Nay dựa vào kinh Quán để phán xét những vị được sinh vào chín phẩm như sau:

Các bậc Đại đức từ xưa đến nay như ngài Tuệ Viễn pháp sư... xét quả mà những vị đó đạt được và phán xét địa vị thì rất cao, nhưng nay căn cứ trên nhân tu để đạt quả vị đó lại hơi thấp.

Như vị ở thượng phẩm thượng sinh chỉ phát ba loại tâm liền được vãng sinh. Ba loại tâm đó là:

1. Chí thành tâm.

2. Thâm tâm.

3. Hồi hướng phát nguyện tâm.

Theo Khởi Tín luận, ba tâm này được phán xét là tâm đầu của Thập giải. Như Khởi Tín luận nói: Tin thành tựu mà phát tâm, đây là tâm cuối của thập Tín. Phát ba loại tâm mới được vào địa vị Thập giải, đó là:

1. Trực tâm: Nghĩa là chánh niệm pháp chân như, tâm này tức tâm chí thành trong kinh Quán. Tâm chí thành và Trực tâm nghĩa thì giống nhau nhưng tên lại khác. Như kinh Duy-ma nói rõ: Hạnh đầu trong hai hạnh của Tịnh độ đạo tràng đều có ba tâm, giống như kinh Quán. Khi xét các kinh luận thấy nói rõ hạnh đầu của tất cả hạnh thảy đều phát ba tâm này, vì thế nên biết ba tâm này là hạnh đầu trong muôn hạnh, cho nên hễ được sinh về cõi kia liền ngộ vô sinh đến ngay Bát địa.

2. Thâm tâm: kinh Quán cũng gọi là thâm tâm. 3. Đại bi tâm: kinh Quán gọi là Hồi hướng phát nguyện tâm. Nếu không có tâm đại bi thì không thể phát nguyện hồi hướng. Đại bi tâm và Hồi hướng phát nguyện tâm nghĩa cũng giống nhau nhưng tên lại khác.

Ba tâm mà Khởi Tín luận nói đến đã được Bồtát ở địa vị cuối thập Tín phát, thế thì nên biết thượng phẩm thượng sinh trong kinh Quán rõ là tâm đầu trong Thập giải vậy. Nói sinh đến cõi kia được vô sinh pháp nhẫn, tức là nhờ quán mà được vô sinh pháp nhẫn vậy. Nếu như ngài Tuệ Viễn Pháp sư phán xét Bồ-tát Tứ địa là bậc thuộc thượng phẩm thượng sinh thì nguyện được sinh về cõi kia không phải trải qua thời tiết liền ngộ vô sinh pháp nhẫn. Bồ-tát từ Tứ địa tu đến Bát địa phải trải qua nửa A-tăng-kỳ kiếp vậy.

Thượng phẩm trung sinh là Bồ-tát ở vào tâm ban đầu trong thập Tín. Kinh nói: Tin sâu nhân quả, không phỉ báng Đại thừa. Cho nên nếu chưa đến thập Tín, ở trong tà định thì không tin nhân quả, phỉ báng Đại thừa. Lại nữa, địa vị tín có mười tâm, trước hết là tín tâm. Nói sinh đến cõi kia trải qua một tiểu kiếp được vô sinh pháp nhẫn, đây là nương vào lý được vô sinh pháp nhẫn vậy. Vì ngày tháng ở cõi Cực lạc rất dài nên kinh nói: Một ngày một đêm ở thế giới Cực-lạc bằng một kiếp ở thế giới Sa-bà. Nếu ngài Tuệ Viễn pháp sư khẳng định rằng Bồ-tát Sơ địa như thế, thì vì sao nói chỉ trải qua một tiểu kiếp liền đến được Bát địa? Nên biết nếu số kiếp tính theo thế giới Sa-bà, Bồ-tát từ Sơ địa muốn tu đến Bát địa phải trải qua một đại Atăng-kỳ kiếp.

Người sinh vào thượng phẩm hạ sinh bao gồm hết thảy phàm phu hướng thiện trước thập Tín, chỉ quy y Tam-bảo, thọ Bồ-tát giới trở lên đều được vãng sinh. Kinh nói: Những vị đó cũng tin nhân quả, nhưng không phỉ báng Đại thừa, chỉ phát tâm đạo vô thượng. Nghĩa là ở tâm đầu bậc thập Tín phát tâm Bồ-đề được vào bất định vị, vị đó khi sinh về thế giới Cực lạc, trải qua ba tiểu kiếp đến được Sơ địa, số kiếp ở đây được tính theo cõi Cực lạc mà không theo cõi Sa-bà. Một kiếp ở thế giới Sabà bằng một ngày một đêm ở cõi An Lạc. Đã trải qua ba tiểu kiếp, lý là bậc Bồ-tát Sơ địa. Nếu ngài Tuệ Viễn pháp sư phán xét Bồ-tát Thập giải như thế, thì thế nào trải qua ba tiểu kiếp đến được Sơ địa? Bởi vì, Bồ-tát từ Thập giải muốn tu đến bậc Sơ địa phải trải qua A-tăng-kỳ kiếp thứ nhất. Ba phẩm bậc thượng đều là người tu theo Đại thừa, ba phẩm bậc trung phần nhiều là người tu theo Tiểu thừa.

Người sinh vào phẩm thượng bậc trung là bốn phương tiện sau trong bảy phương tiện của Tiểu thừa, tức địa vị Noãn, Đảnh, Nhẫn, Thế đệ nhất pháp. Kinh nói: Người nào thọ trì năm giới cho đến không tạo các tội lỗi ác nghiệp, do vì đạt được bốn phương tiện này và nhờ sức thiền định sẽ hàng phục Lậu hoặc Dục giới nên không khởi phiền não phá giới và ác nghiệp, vì phiền não phá giới và ác nghiệp ở trong Dục giới. Người này nếu sinh về Tịnh độ liền đắc quả A-la-hán, chỉ một đời đạt được quả Sa-môn thứ tư, tức là bậc đã chứng Niếtbàn ngay trong hiện tại. Như đối với ba quả Tu-đàhoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, bậc hữu học Tiểu thừa chứng đắc tuy không định lúc nào nhưng vẫn được ngài Tuệ Viễn pháp sư phán xét rất cao.

Sinh vào Trung phẩm trung sinh là ba phương tiện trước từ Ngũ đình tâm quán trở đi. Kinh nói: Người nào một ngày, một đêm giữ giới Bát quan trai, cho đến một ngày, một đêm giữ giới cụ túc và oai nghi đầy đủ không cho thiếu sót, vì địa vị này tâm còn tán loạn chưa được định nên đối với phiền não phá giới không có pháp đối trị, không thể giữ giới và oai nghi lâu dài mà không thiếu sót được, thì ít nhất phải giữ gìn giới luật và oai nghi trải qua một ngày, một đêm thanh tịnh, sau đó dầu có phạm giới nhỏ cũng được vãng sinh. Vị này sinh về Tịnh độ, trải qua nửa kiếp đắc quả A-la-hán. Đây cũng là bậc chứng đắc Niết-bàn trong hiện tại, và thọ mạng ở cõi Tịnh độ rất lâu dài vậy. Như ngài Tuệ Viễn pháp sư giải thích là có thể nhờ sức thiền định của bốn địa vị Noãn, Đảnh, Nhẫn, Thế đệ nhất sẽ hàng phục lậu hoặc Dục giới. Vì sao vậy? Vì trì giới được một ngày một đêm không phạm, như thế cũng được quả vị rất cao.

Sinh vào trung phẩm hạ sinh là tất cả phàm phu hướng thiện đã thọ ngũ giới trở đi chưa đến địa vị Ngũ đình tâm quán của Tiểu thừa. Kinh nói: Người hiếu dưỡng cha mẹ, ở đời làm việc nhân từ, tuy chưa có thể nhập đạo quán hạnh nhưng có thể ở đời làm việc nhân từ. Ngoài ra bậc này cũng được phán xét như hai phẩm trước, như ngài Tuệ Viễn pháp sư phán xét là từ địa vị Ngũ đình tâm quán đến Tổng tướng niệm xứ, ba địa vị này hoặc được Văn tuệ, Tư tuệ hay Tu tuệ. Ở đời chỉ làm việc nhân từ, hiếu dưỡng cha mẹ mà cũng được vãng sinh thì thật là địa vị rất cao vậy. Nếu luận ba phẩm bực hạ thì bao gồm tất cả phàm phu khởi ác tâm, chỉ tạo tội thập ác, ngũ nghịch hoặc dùng vật của thường trụ tăng, không biết hổ thẹn, giá như có bắt chước người khác mà thọ giới thì thọ rồi liền phá. Những người này khi lâm chung nếu gặp Thiện tri thức, dũng mãnh phát tâm Bồ-đề, chánh niệm nối nhau thì ngay lúc ấy liền được vãng sinh. Nếu không gặp thiện tri thức thì không thể dũng mãnh phát tâm Bồ-đề, nhất định đọa địa ngục. Nên kinh Quán nói: Người này phải đọa địa ngục, trải qua nhiều kiếp thọ khổ vô cùng. Nhưng chúng sinh đến lúc thọ mạng sắp hết, ác nghiệp oan gia, các khổ tranh nhau sinh khởi, niệm mười câu Phật hiệu cũng rất khó thành tựu, nếu được thành tựu người này nhất định vãng sinh Tịnh độ. Vả lại, hai đường thiện ác thay đổi mau chóng như trở bàn tay; ngửa tức được vãng sinh, úp tức đọa địa ngục, trong lúc này cần phải nhờ sức hộ niệm của Thiện tri thức. Nếu người phá giới tâm sinh hổ thẹn, nương kinh Đại thừa sám hối tội lỗi tướng tội tiêu diệt, chuyên tâm niệm Phật và khởi quán hạnh thì đều được sinh vào hai bực trên, không vào bực dưới. Như ngài Tuệ Viễn pháp sư phán xét, đó là hàng phàm phu bình thường còn vướng thế tục.

Hỏi: Cửa Tịnh độ Phàm Thánh đều được vãng sinh, nay tôi muốn biết tông ý vãng sinh chính là hạng người nào?

Đáp: Xem xét việc bà Vi-đề-hy thưa thỉnh và ý nghĩa câu trả lời của Đức Như Lai, duy chỉ nói rằng Đức Như Lai vì tất cả phàm phu trong đời vị lai bị giặc phiền não làm hại mà thuyết giảng cõi nghiệp thanh tịnh, dạy mọi người vãng sinh, không nhất thiết phải là Bồ-tát. Nếu luận về các vị Bồ-tát thì các ngài phát tâm nguyện sinh vào ác đạo mà không nguyện sinh về Tịnh độ. Như các vị Bồ-tát từ Thập giải trở lên còn tự lưu hoặc thọ sinh, nhưng chỉ nguyện sinh vào ác đạo cứu chúng sinh khổ, mà không nguyện sinh về Tịnh độ. Văn nói về các vị Bồ-tát lưu hoặc thọ sinh, như kinh Duy-ma nói: Có vị Bồ-tát tâm không còn dính mắc vào các cảm thọ nhưng thị hiện bệnh tật và thọ nhận các cảm thọ, chưa đủ Phật pháp, cũng không diệt hết cảm thọ mà chứng đắc. Đây là văn kinh nói về Bồ-tát lưu hoặc thọ sinh. Lại Địa trì luận, Nhiếp Đại thừa luận đều có văn nói về các vị Bồ-tát lưu hoặc thọ sinh.

Nêu một cách tóm tắt, các bậc Thánh nhân và địa vị bảy phương tiện trong Tam thừa cho đến các vị đạo tiền phương tiện, hoặc nam hoặc nữ, không căn, hai căn cho đến các loài như rồng, quỷ và bát bộ, miễn là phát tâm Bồ-đề, chuyên niệm danh hiệu Đức Phật A-di-đà, nhàm chán cõi uế, ưa thích cõi tịnh, khi thọ mạng sắp hết, nếu chánh niệm hiện tiền thì đều được vãng sinh. Nếu vị nào dũng mãnh tinh tấn, quán hạnh phân minh, tâm tối hậu lúc lâm chung bất loạn thì đều được sinh vào bậc thượng, cho đến tâm tối hậu khi lâm chung, niệm được mười câu Phật hiệu nối nhau rõ ràng đều sinh vào hạ phẩm bậc hạ. Trong đây, Bồ-tát vãng sinh có chín phẩm ba bậc, Nhị thừa vãng sinh có ba bậc thượng, trung, hạ, phàm phu vãng sinh cũng có ba bậc thượng trung hạ, mỗi mỗi đều có chín phẩm. Trong kinh không thể phân chia một cách chi li mà hiệp cả Đại thừa, Tiểu thừa và phàm phu để luận chung, nhưng chín phẩm vãng sinh thì thật có vô lượng sai biệt. Muốn biết rõ hãy xem bốn mươi tám đại nguyện của Đức Phật Di-đà và kinh Quán. Nếu luận về tông chỉ rộng lớn thì việc vãng sinh lấy phàm phu làm chính, còn Thánh nhân là thứ yếu, vì phàm phu nếu đọa vào ác đạo ở trong cõi uế thì không thể tu đạo phát tâm. Chỉ có kẻ phàm phu nào phỉ báng Đại thừa thì không được vãng sinh, vì đoạn mất thiện căn. Những hạng hữu học ngu pháp trong hàng Nhị thừa cũng không được vãng sinh, vì không tin có mười phương Tịnh độ. Những vị Bồ-tát không phát nguyện cầu sinh thì không được vãng sinh vì không có tâm ưa thích. Nếu là hàng Nhị thừa vô học thì không luận ngu pháp hay không ngu pháp, cầu sinh hay không cầu sinh đều được vãng sinh, vì không thể thọ sinh trong uế độ của Tam giới. Trí độ luận nói: Có Tịnh độ vi diệu ở ngoài ba cõi, các vị A-la-hán sẽ sinh về đó. Ở đây không luận các bậc hữu học.

CHƯƠNG III

Định Nhân Vãng Sinh.

(Tu hạnh nghiệp gì được vãng sinh tịnh độ).

Hỏi: Đã biết Phàm Thánh đều được vãng sinh, nhưng tôi chưa biết những vị này tu hạnh nghiệp gì mà được vãng sinh?

Đáp: Nay tôi dựa vào kinh luận nói ra hai loại nhân:

- Trước dẫn kinh luận rộng nói nhân này.

- Bỏ sự phiền toái mà ước lược nói rõ nhân này. 1. Trước trích dẫn kinh luận.

Như kinh Vô Lượng Thọ nói: Sinh về cõi kia gồm có ba bậc: a. Sinh vào bậc thượng phải tu ba nhân:

- Phải phát tâm Bồ-đề.

- Phải xuất gia.

- Phải chuyên niệm danh hiệu Đức Phật A-diđà và gồm tu các điều phước thiện, hồi hướng phát nguyện thì được vãng sinh.

Xét về tông ý kinh này thì những vị sinh vào ba phẩm bậc thượng đều là người xuất gia. b. Người sinh vào bậc trung cũng tu ba nhân:-Phải phát tâm Bồ-đề.

- Phải chuyên niệm danh hiệu Đức Phật A-diđà.

Phải thọ trì trai giới, xây tháp tạo tượng, lo các thức ăn uống cho chúng tăng, đốt hương rải hoa, đèn nhang cúng dường. Ngoài ra hành giả còn phải tu tập các hạnh nguyện khác như đã nói ở trước.

Những vị này đều là người thế tục. Kinh nói:

Vì không thể từ bỏ thế tục làm vị Sa-môn. c. Người sinh vào bậc hạ cũng tu ba nhân:-Phải phát tâm Bồ-đề.

- Phải chuyên niệm danh hiệu Đức Phật A-diđà, cho đến mười niệm.

- Phải nghe nghĩa sâu mầu, tin ưa không có nghi ngờ. (Bậc này thông cả người đạo kẻ tục, đây là ý chỉ kinh Vô Lượng Thọ).

Lại như kinh Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác nói: Muốn sinh vào bảo quốc Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng, gồm có ba bậc:

Bậc thứ nhất: Những ai muốn sinh vào nước này phải từ bỏ vợ con, cắt đứt ái dục làm vị Samôn, không được giao phối với người nữ, thực hành sáu pháp Ba-la-mật, trai giới thanh tịnh, luôn giữ tâm chí thành, nếu trong lúc chiêm bao thấy Phật thì được vãng sinh.

Bậc thứ hai: Những vị sinh vào bậc này phải trì kinh, thọ giới, bố thí, lo các thức ăn uống cho các vị Sa-môn, tâm từ bi không sân hận, dùng hương hoa cúng dường, giữ tâm như thế nếu một ngày một đêm không dứt thì được sinh về cõi này.

Bậc thức ba: Những vị sinh vào nước này phải đoạn ái dục, tâm từ bi không sân hận, giữ trai giới thanh tịnh, nếu nhất tâm niệm Phật mười ngày mười đêm không dứt liền được vãng sinh.

(Đây là điểm giống nhau chủ yếu giữa kinh Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác và kinh Vô Lượng Thọ).

Lại như kinh A-di-đà Cổ Âm Thanh Vương nói: Như có người thọ trì danh hiệu Đức Phật Adi-đà, luôn giữ cho tâm mình kiên cố, nhớ niệm không quên, sao cho mười ngày mười đêm, trừ bỏ tán loạn, tinh cầu tu tập niệm Phật Tam-muội, biết Đức Phật A-di-đà thường ở thế giới An Lạc mà nhớ niệm nối nhau liên tục, chớ để dứt mất; Ngoài ra những vị này còn phải thọ trì đọc tụng kinh Cổ Am Thanh Vương này mười ngày mười đêm, sáu thời chuyên tụng niệm, kính lễ Đức Phật năm vóc sát đất, niệm niệm nối nhau không dứt thì trong khoảng mười ngày ắt được thấy Phật, ngoại trừ những kẻ bị nghiệp chướng trầm trọng. (Đây là kinh Cổ Âm Thanh Vương, kinh này nói rõ hiện tại khi chưa chết được thấy Phật).

Lại như kinh Quán nói: Một là phải giữ ba nghiệp thanh tịnh, hai là phải thực hành mười sáu phép quán. Hai nhân này vì giảng bày rộng rãi không thể trích dẫn đầy đủ nên chỉ nêu ra một cách tổng quát thôi.

Lại như tiểu kinh A-di-đà nói: Như có thiện nam, thiện nữ nào nghe nói về Đức Phật A-di-đà rồi chấp trì danh hiệu của Ngài hoặc một ngày cho đến bảy ngày, niệm danh hiệu A-di-đà Phật cho được nhất tâm bất loạn, người này khi sắp mạng chung được Đức Phật A-di-đà và Thánh chúng hiện ra trước mặt, nếu khi đó người này tâm không điên đảo thì được vãng sinh. (Đây là kinh A-di-đà nói: Nếu người nào trong bảy ngày niệm Phật nhất tâm bất loạn thì được vãng sinh).

Lại như kinh Đại Tập nói: Đức Phật hỏi Bồ-tát Hiền Hộ rằng: Sao gọi là Tam-muội hiện tiền? Nếu có vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nào trì giới thanh tịnh, ở một mình nơi thanh vắng, dầu ở nơi đâu vị đó nếu nghe nói về Đức Phật Adi-đà ở cõi Tây phương, nghe rồi liền nghĩ như vầy: "Như mình được nghe về Đức Phật A-di-đà, hiện nay Ngài đang ở cõi Tây phương thuyết pháp cho các vị Bồ-tát." Người đó nương vào những điều mình nghe rồi nhớ nghĩ tư duy quán sát không thôi một cách rõ ràng, cuối cùng cũng được thấy Đức Phật A-di-đà. Ví như có người nam, người nữ đang nằm chiêm bao thấy đủ các thứ, như vàng, bạc, trân bảo, những điều người đó thấy hoặc trái hoặc thuận, hoặc buồn hoặc vui. Lúc thức dậy đem kể hết cho người khác, rồi theo các việc nghĩ nhớ trong chiêm bao mà sinh vui buồn. Cũng giống như thế, này Hiền Hộ, thiện nam, thiện nữ kia tưởng niệm Đức Phật A-di-đà có tướng tốt, oai nghi như thế, đại chúng và sự thuyết pháp của Ngài như thế, rồi buộc niệm tư duy hoặc một ngày, hoặc một đêm, nhờ niệm tưởng đầy đủ nên chắc chắn thấy Đức Phật A-di-đà. Nếu như ban ngày không thể thấy được thì khi ngủ, Đức Phật A-di-đà ắt sẽ hiện ra trong mộng. (Đây là kinh Đại Tập Hiền Hộ Bồtát. Trong kinh này Phật dạy mọi người tưởng Phật ắt được thấy Phật).

Lại như Vãng sinh luận nói: Nếu vị nào tu pháp môn năm niệm thì được vãng sinh. Những gì là năm niệm?

1. Lễ bái.

2. Tán thán.

3. Phát nguyện.

4. Quán sát.

5. Hồi hướng.

(Vãng sinh luận dạy mọi người tu hành Năm niệm thì được vãng sinh, luận này do Bồ-tát Thiên Thân tạo).

Lại như Đại thừa Khởi Tín luận nói: Lại nữa, chúng sinh vì mới học pháp này nên trong tâm sinh ra khiếp nhược lo sợ, tín tâm khó có thể thành tựu, ý muốn thối lui. Vì vậy Đức Như Lai lập ra phương tiện thù thắng để nhiếp hộ tín tâm, nghĩa là lấy nhân duyên chuyên tâm niệm Phật, rồi tùy theo bổn nguyện mà được sinh về cõi Phật ở phương khác.

Như kinh nói: Nếu có người nào chuyên tưởng niệm Đức Phật A-di-đà ở cõi Tây phương, tất cả việc lành mình tạo ra đều đem hồi hướng, nguyện cầu sinh về thế giới Tịnh độ thì người đó sẽ được vãng sinh. (Đây là bộ Khởi Tín luận do Bồ-tát Mã Minh tạo, luận này dạy mọi người niệm Phật phát nguyện hồi hướng thì được vãng sinh).

Lại như trong Đại thừa Thập Trụ Tỳ-bà-sa luận, Bồ-tát Long Thọ dạy mọi người lễ bái, tán thán Đức Phật A-di-đà thì được vãng sinh. (Văn lễ tán này được trình bày đầy đủ ở trong chương Dẫn Thánh giáo môn thứ năm. Ở đây chỉ trích dẫn sơ lược ý của chương ba, chương năm và chương đầu).

2. Bỏ chỗ phiền toái, ước lược nói rõ nhân này. Hỏi: Như trên ngài đã trích dẫn kinh luận để nói rõ nhân duyên vãng sinh, nhưng văn nghĩa lại quá rộng tôi khó có thể cứu xét. Nay mong Ngài rút ra những điều cốt yếu, lược nói nhân này khiến các hành giả dễ tu, dễ học.

Đáp: Đúng vậy. Như trên tôi đã trích dẫn kinh luận nhưng vì đối cơ lập giáo nên ông khó có thể cứu xét. Nay hãy bỏ chỗ rộng nhiều mà ước lược nói ra nhân này. Nhân này có hai loại: Đó là Thông nhân và Biệt nhân. a. Thông nhân: Như trong kinh Vô Lượng Thọ đã nói, những vị sinh vào ba bậc đều phải phát tâm Bồ-đề, và trong kinh Quán nói mọi người đều phải tu đủ cả tam phước tịnh nghiệp mới được vãng sinh. Những nhân này đều là thông nhân. Thông nhân có hai:

1. Thấu rõ mười phương Tịnh độ.

2. Thấu suốt Tịnh độ ba đời.

Cho nên kinh Quán nói: Như các nghiệp quá khứ, vị lai, hiện tại, ba loại nghiệp này là chánh nhân tịnh nghiệp của chư Phật ba đời. b. Biệt nhân: Nhân này có vô lượng, nhưng cốt yếu chỉ có hai. Đó là sở cầu và năng cầu.

1. Sở cầu có hai loại:

Phải nêu riêng một phương để tâm chúng sinh có nơi quy hướng. Như nêu riêng thế giới Cực lạc ở phương Tây và cầu vãng sinh về đó. Đây tức là khí thế gian tịnh.

Riêng niệm mỗi một Đức Phật và tôn Đức Phật đó làm bậc sư phạm, còn mình nguyện làm đệ tử để được thân cận cúng dường. Đây tức là chúng sinh thế gian tịnh.

2. Năng cầu: Trong các nhân vừa được nêu ra thì nhân này là chính. Nhân này được phân làm sáu:

1. Chỉ niệm mỗi một danh hiệu Đức Phật A-diđà.

2. Phải lễ bái.

3. Phải tán thán.

4. Phải phát nguyện.

5. Phải quán sát.

6. Phải hồi hướng.

-Đối với việc niệm Phật, lại có hai phương pháp: Đó là tâm niệm và khẩu niệm:

1. Tâm niệm: có hai.

- Niệm sắc thân Phật: Nghĩa là thân Đức Phật A-di-đà có tám vạn bốn ngàn tướng, mỗi tướng có tám vạn bốn ngàn đức tốt, mỗi đức tốt có tám vạn bốn ngàn quang minh...

- Niệm trí thân Phật: Nghĩa là Đức Phật A-diđà có năm phần pháp thân, đại Từ đại bi, đầy đủ sức vô úy...

2. Khẩu niệm: Nếu tâm không có khả năng niệm tưởng thì phải nhờ khẩu niệm giúp sức, nhờ khẩu niệm để dẫn tâm, khiến tâm không tán loạn. Như kinh nói: Nếu có người niệm danh hiệu Đức Phật A-di-đà được trăm vạn biến trở lên thì người đó quyết định sẽ sinh về thế giới Cực lạc. Thiền sư Đạo Xước kiểm xét và thấy đúng như kinh đã nói. Nếu người nào trong bảy ngày có thể chuyên tâm niệm Phật thì sẽ được trăm vạn biến. Do nghĩa này mà trong kinh phần nhiều nói "Thất nhật niệm Phật" vậy.

- Phải lễ bái: Mặt phải hướng về Tây phương tưởng niệm Đức Phật A-di-đà như đang đối trước tôn nhan của Ngài, tay dâng hoa hương một cách trang nghiêm, miệng xưng danh hiệu Phật, đảnh lễ ba lạy, năm vóc sát đất, nguyện sinh về Tây phương, đồng thời nên tán thán và đảnh lễ Bồ-tát Long Thọ mười hai lạy. Nghĩa là kính lạy Đức Phật A-di-đà, đấng Lưỡng túc tôn, được trời, người cung kính, là giáo chủ cõi nước An Lạc vi diệu có vô lượng chúng đệ tử nhiễu quanh... (Phần này do ngài Thiền-na Tam tạng riêng dịch ra).

- Phải tán thán: Phải riêng tán thán Đức Phật Adi-đà, hoặc sắc thân, trí thân hay chánh báo, y báo của Ngài. Khi đứng, ngồi đều hướng thẳng phương Tây như đối trước tôn nhan, nhất tâm tán thán nguyện sinh Tịnh độ. Có thể tụng đọc văn tán thán này trong vãng sinh luận và kệ tụng của Bồ-tát Long Thọ trong Đại thừa Thập trụ Tỳ-bà-sa luận.

- Phải phát nguyện: Chỉ phát nguyện cầu sinh Cực lạc, hoặc nguyện mình vãng sinh, chúng sinh vãng sinh, hoặc nguyện khi lâm chung Đức Phật Thích-ca đưa tiễn, Đức Phật Di-đà đến rước, hoặc nguyện thường dạo chơi Tịnh độ, hoặc nguyện mãi mãi lìa bỏ thai hình, hoặc nguyện khi lâm chung thân tâm an ổn, hoặc nguyện chánh niệm hiện tiền. Đó là tùy tâm mà phát mỗi mỗi sở nguyện như thế. Như bài kệ trong Bảo Tánh luận phát nguyện rằng:

Nhờ các công đức này.
Nguyện vào lúc mạng chung.
Được thấy Phật Di-đà.
Thân vô biên công đức.
Con cùng các tín giả.
Đã thấy Đức Phật rồi.
Nguyện được mắt trong sáng.
Chứng vô thượng Bồ-đề.

- Phải quán sát: Phải riêng nêu y báo, chánh báo cõi Tây phương, mỗi mỗi đều quán sát. Như mười sáu pháp quán trong kinh Quán, bảy pháp trước là y báo, chín pháp sau là chánh báo. Lại như trong Vãng sinh luận, về y báo có mười bảy việc trang nghiêm, còn đối với chánh báo thì Phật có tám việc trang nghiêm, các vị Bồ-tát chỉ có bốn. Trong các việc trang nghiêm của y báo, chánh báo của Phật mỗi mỗi quán sát, nếu quán một pháp được thành tựu thế nhất định vãng sinh.

- Phải hồi hướng: Trong pháp này có hai:

1. Đem công đức của mình hồi hướng cho chúng sinh cùng sinh Tịnh độ.

2. Đem công đức mà mình tạo ra từ trước đến nay và công đức đời này, hoặc nhiều hay ít, hoặc phước hay trí đều nguyện hồi hướng cầu sinh về cõi Cực lạc.

Hỏi: Như trên ngài đã nói rõ Thông nhân và Biệt nhân, nhưng tu cả hai nhân này là điều rất khó. Vì phàm phu trí cạn sức yếu, e họ nghĩ rằng mình sẽ mất phần. Vì thế nay mong Ngài rút ra những điều cốt yếu và nói một cách sơ lược.

Đáp: Trên nói rõ Thông nhân và Biệt nhân là đã đầy đủ cho bậc thượng căn, còn như đối với hàng trung căn, hạ căn thì tóm yếu chỉ có năm pháp:

a. Trước phải sám hối tất cả ác nghiệp chướng đạo từ vô thỉ đến nay, vì sợ rằng những ác nghiệp này sẽ ngăn trở việc vãng sinh Tịnh độ. Đây là những điều mà kinh Phương Đẳng, kinh Phật Danh đã nói.

b. Phải phát tâm Bồ-đề: Nếu không phát tâm Bồ-đề thì hành giả sẽ tránh khổ chạy theo thú vui, e rằng không được vãng sinh. Tâm Bồ-đề lược có ba:

- Tâm đoạn tất cả điều ác.

- Tâm tu tất cả điều thiện.

- Tâm hóa độ tất cả chúng sinh.

(Đây là dựa vào kinh Vô Lượng Thọ. Như vãng sinh và ba bậc, bậc nào cũng đều nói đến việc phát tâm Bồ-đề). c. Phải chuyên niệm danh hiệu Đức Phật A-di-đà, trang nghiêm riêng một đạo tràng, đốt hương rải hoa, đèn nhan đầy đủ, thỉnh một tôn tượng Đức Phật A-di-đà an vị trong đó. Mặt tôn tượng hướng về phía Đông, hành giả hướng về phía Tây, hoặc trong bảy ngày (kinh A-di-đà nói bảy ngày), hoặc mười ngày (kinh Cổ Âm Thinh Vương, kinh Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác nói mười ngày), giảm bớt ngủ nghỉ, trừ bỏ tán loạn. Chỉ trừ khi đại tiện, tiểu tiện và ăn cơm. Phải nhất tâm chuyên niệm, lúc phiền muộn liền khởi niệm, không phải lễ bái, đi nhiễu. Chỉ niệm Phật trong bảy ngày đầy đủ kỳ hạn, sau khi rời đạo tràng, dù có đi đứng ngồi nằm, hoặc lúc nhàn hạ cũng phải luôn luôn niệm Phật, thường niệm danh hiệu Phật có ba lợi ích:

- Do thường niệm nên các giác quán ác rốt ráo không sinh, cũng được tiêu trừ chướng nghiệp.

- Do thường niệm nên thiện căn tăng trưởng, cũng là gieo trồng nhân duyên thấy Phật.

- Do thường niệm nên sự huân tập được sâu dày sắc bén, đến khi mạng chung chánh niệm hiện tiền.

d. Phải quán sát tổng tướng thế giới Cực lạc, nghĩa là quán sát đất ao, lầu gác, vườn rừng như thế, Đức Phật A-di-đà như thế, tòa sen, tướng hảo như thế, đồ chúng và sự thuyết pháp của Ngài như thế (đây là cách giáo hóa chúng sinh trong kinh Đại tập Hiền Hộ). Người nào quán sát tổng tướng như thế thì nhất định được vãng sinh, vì tam giới do tâm tạo vậy.

e. Đem các công đức mình tạo ra hoặc ở quá khứ hoặc trong đời này đều hồi hướng nguyện sinh về cõi nước An Lạc.

Nếu hành giả có thể tu hành đầy đủ năm pháp trên đây thì ắt được vãng sinh, xin chớ nghi ngờ. Như kinh Pháp Hoa nói: "Ta nay vì ông mà bảo đảm việc này, nhất định không hư dối." Tôi cũng như thế, xin bảo đảm việc này, nhất định không dối gạt các ông vậy.

QUYỂN TRUNG

CHƯƠNG IV

Nêu đạo lý: Gồm hai phần:

- Nương đạo lý gì được vãng sinh Tịnh độ.

- Hỏi đáp phân biệt để giải thích những điều vấn nạn.

Nương đạo lý gì được vãng sinh Tịnh độ.

Hỏi: Phàm vì hạnh nghiệp có nhiều phức tạp nên phàm phu chẳng biết mối manh. Khổ vui hai đường sai khác, hàng Nhị thừa chưa đạt được cội nguồn. Còn luân hồi thì quanh quẩn sáu đường, được xuất thế thì tam thừa riêng lối. Nếu căn cứ nơi lý thì vạn pháp đều bình đẳng nhất như, còn đứng về giáo thì có liễu nghĩa và bất liễu nghĩa. Nay cõi Tây phương Tịnh độ chính là do thệ nguyện rộng lớn của ngài Pháp Tạng tạo thành, đấng Pháp vương siêu việt các Thánh. Thế giới Cực lạc lấp lánh ngàn trân bảo, đấng Thánh chúa muôn đức tướng rõ ràng. Đối với nhân và độ này, các bậc Bồ-tát dưới thập địa đều chẳng thể thấy biết đặt chân, tuy kinh luận có nói tất cả chúng sinh đều được vãng sinh, nhưng e rằng đó là lời bịp thời ý. Nay nương đạo lý gì phán định tất cả chúng sinh đều được vãng sinh? Điều này khiến người đạo, kẻ tục đều nghi, mong được nghe Ngài khai mở ý chỉ. Đáp: Chỉ vì Thánh giáo phạm vi rộng rãi nên thật khó cứu xét, hạnh nghiệp buộc chặt ai có thể nghiên tầm? Nay tôi lại kiểm xem Thánh giáo, cứu xét đạo lý khiến con đường vãng sinh được rõ ràng như thấy vật trong lòng bàn tay. Như Nhiếp Đại thừa luận nói: Phàm muốn chứng minh ắt phải nhờ đến hai giáo môn kinh và luận. A-tỳ-đạt-ma lấy lý làm thù thắng, còn Tu-đa-la thì lấy giáo làm chính. Trong giáo ắt có lý, lý ắt thuận giáo. Nay hãy xét lý, sau mới dẫn giáo. Đối với việc xét lý thì khi xem kinh tạng thấy trong đó có ẩn, hiển hai thuyết, nghĩa là kinh liễu nghĩa và kinh bất liễu nghĩa. Kinh liễu nghĩa thì rốt ráo không phá, còn đối với kinh bất liễu nghĩa, trải qua các thời Đức Phật thuyết pháp cho đến trên hội Niết-bàn, các kinh này đều được dẫn ra nhưng chưa quyết định phá. Duy một giáo môn Tịnh độ là không bị liệt vào những quan điểm bị phá, nên biết kinh này là kinh liễu nghĩa vậy. Lại các vị Bồ-tát tạo luận là để giải thích kinh Phật, đối với kinh bất liễu nghĩa thì phá, còn kinh liễu nghĩa thì các ngài tán thán. Một giáo môn Tịnh độ này ở trong các bộ luận, các vị Bồ-tát đều tán thán mà không phá điểm nào, thế thì nên biết kinh này là kinh liễu nghĩa vậy.

Hỏi: Như Nhiếp Đại thừa luận giải thích là biệt thời ý, há chẳng phải là phá ư?

Đáp: Những điều mà luận kia nói rõ là có biệt thời và có chẳng biệt thời. Như chỉ có phát nguyện thôi tức là biệt thời, còn hạnh nguyện đều tu thì chẳng phải là biệt thời. Nếu Bồ-tát Thiên Thân phán là biệt thời ý, thì vì sao đoạn văn phần sau trong Nhiếp luận nói về việc đem công đức tạo luận hồi hướng cho chúng sinh, nguyện vãng sinh Tịnh độ? Vì sao ngài trước tác vãng sinh luận khuyên người ta vãng sinh? Lại nữa, như kinh Quán dạy phải khởi ý nguyện cầu vãng sinh, là do chuyện bà Vi-đề-hy sinh A-xà-thế, người con tạo tội ngũ nghịch, nhân đó nhàm chán thế gian đầy ngũ trược mà nguyện sinh về Cực-lạc, Đức Phật vì nhân duyên đó bèn nói ba phước tịnh nghiệp và mười sáu pháp quán khuyên chúng sinh cầu vãng sinh. Cho đến kẻ tạo tội thập ác, ngũ nghịch, hết thảy đều khuyên vãng sinh, đó là ý nguyện của giáo chủ cõi Tịnh độ. Thế nên thân ở thế gian ngũ trược, lại sinh con ngỗ nghịch, mà Phật cũng bảo là đều được vãng sinh, vậy nên biết rằng phàm phu hiện ở trong thế gian ngũ trược, cũng đều được vãng sinh. Lý này đã rõ ràng vậy.

Hỏi: Bà Vi-đề-hy là đại Bồ-tát, vì muốn hóa độ chúng sinh mà thị hiện thọ nữ thân, sinh nghịch tử, há thật là phàm phu ư?

Đáp: Dầu bà thật là Bồ-tát thị hiện thọ thân nữ hóa độ chúng sinh, thì ắt phải ẩn thật đức của mình, thị hiện giống như phàm phu để nhiếp hóa đồng loại, như năm trăm thị nữ của bà cũng được Phật huyền ký là được vãng sinh, và vị lai, tất cả nữ nhân, nam tử dù là hạn phàm phu cũng vãng sinh. Như các vị Bồ-tát, hoặc hiện thân địa ngục để dẫn dắt chúng sinh trong địa ngục, như trong kinh Phương Đẳng có Bà Tẩu tiên nhân... Hoặc hiện thân súc sinh để dẫn dắt chúng sinh trong đường súc sinh, như các con ong chúa, ngỗng chúa, kiến chúa trong kinh Niết-bàn. Hoặc hiện thân làm người tạo tội ngũ nghịch để dẫn dắt chúng sinh ngũ nghịch như vua A-xà-thế, Đề-bà đạt-đa... Những vị này đều thuộc Bồ-tát năng hóa là giả hiện còn chúng sinh sở hóa là thật. Như bà Vi-đề-hy thị hiện làm thân phàm phu trong hiện tại ở thế gian ngũ trược, phải biết như thế là để dẫn dắt phàm phu trong thế gian ngũ trược được vãng sinh Cực lạc. Nên kinh Quán nói: Đức Phật bảo bà Vi-đề-hy rằng: Bà là phàm phu chưa được thiên nhãn không thể thấy xa, nhưng Như Lai có phương tiện thù thắng khiến bà được thấy. Lại nữa, nguyện đầu trong bốn mươi tám đại nguyện của Tỳ-kheo Pháp Tạng, thì nguyện đầu tiên đều là vì tất cả phàm phu, sau kế mới vì các bậc Thánh tam thừa; cho nên phải biết tông ý của pháp môn Tịnh độ vốn là vì phàm phu, sau mới vì các Thánh nhân vậy. Lại nữa, như các vị Bồ-tát từ Thập giải trở lên lưu hoặc thọ sinh chốn ác đạo, nguyện cứu khổ chúng sinh mà không nguyện sinh về Tịnh độ, vì tùy ý vận dụng nghiệp lực của mình nên không bị đọa vào ác đạo. Cho nên phải biết rằng hàng phàm phu do chưa khỏi ác đạo nên phải nguyện sinh về Tịnh độ còn các vị Bồ-tát từ Thập giải trở lên không sợ sinh vào ác đạo nên các ngài không nguyện sinh về Tịnh độ. Vì vậy nên biết ý nguyện thiết lập Tịnh độ là vì phàm phu, chẳng phải vì Bồ-tát vậy.

Lại một môn Tịnh độ này trong các kinh, các luận đã nói rõ, nếu là lời bất liễu nghĩa thì vì sao chư Phật và các vị Bồ-tát khuyên dạy chúng sinh một cách ân cần như thế? Thậm chí mười phương chư Phật, nơi đâu các Ngài cũng đều xuất tướng lưỡi rộng dài để chứng minh những lời Đức Phật Thích-ca nói và khuyên dạy chúng sinh. Thế thì đây há là lời bất liễu nghĩa ư? Lại nữa, từ thời thượng cổ trở lại, các bậc đại đức danh tăng và các vị nho sĩ sáng suốt trong đời đều tu hạnh Tịnh độ, như pháp sư Tuệ Viễn ở Lô sơn, pháp sư Tăng Duệ, các ông Lưu Di Dân, Tạ Linh Vận, cho đến thời cận đại có thiền sư Đạo Xước, những vị này khi lâm chung đều cảm được đài sen rực rỡ, nhiều tướng lạ và Thánh chúng đến tiếp rước. Những việc này được chép ra từ những truyện riêng của các ngài. Các bậc Đại đức, trí nhân này đã ưa thích cõi Tịnh độ như thế, người tu đời sau chỉ cần noi theo các bậc minh triết tiền bối, chẳng nên nghi ngờ.

Lại trước có hỏi: Cõi Tịnh độ lấp lánh ngàn trân bảo, Đức Phật Di-đà muôn đức tướng rỡ ràng, đối với nhân và độ này các bậc Bồ-tát dưới thập địa đều chẳng thể thấy biết đặt chân?

Đáp: Theo nghĩa này, nếu luận về Thật báo nhân độ thì đúng như điều ông đã hỏi, nhưng nếu là sự Tịnh độ và hóa Tịnh độ thì, lý không phải như thế. Như sự độ báo thân thì đó là cõi mà các vị Bồtát từ thập địa trở lên thấy được, còn Tích thân hóa độ thì đó là cõi mà các vị Bồ-tát trước thập địa thấy biết đặt chân. Nếu cả hai chẳng phải là cảnh giới của các vị Bồ-tát dưới thập địa thì Thánh nhân không thể hóa độ chúng sinh, còn chúng sinh sẽ mất phần chứng Thánh. Nếu đầy đủ hai nghĩa sau thì được vãng sinh:

1. Tất cả chúng sinh lấy việc tu hành làm nhân duyên.

2. Lấy bổn nguyện của Đức Phật Di-đà làm tăng thượng duyên. Hai nghĩa này nếu đầy đủ thì được vãng sinh.

Cho nên Khởi Tín luận nói: Các pháp Phật có nhân có duyên, nhân duyên đầy đủ mới được thành tựu. Đã có các đạo lý như thế nên chúng sinh tu hành đều được vãng sinh vậy. b. Hỏi, đáp phân biệt để giải thích những điều vấn nạn.

Hỏi: Chư Phật thuyết pháp tùy theo căn cơ chúng sinh, ý thú khó hiểu, nếu chẳng luận bàn giải thích thì ý chỉ u huyền khó thông. Như Thành Thật luận nói: Vì luận về kinh nên nghĩa kinh hiểu được dễ dàng. Cho nên, Bồ-tát Vô Trước âm thầm thấu triệt tâm Phật, tỏ rõ yếu chỉ các kinh, trình bày sơ lược nghĩa bốn ý, bốn ý, như đối với một pháp môn Tịnh độ, Ngài nêu ra biệt thời ý. Nay lại nói nếu chúng sinh niệm Phật tu hành thì được vãng sinh là nghĩa thế nào?

Đáp: Như luận kinh nói là biệt thời, còn các kinh khác nói chẳng phải biệt thời, há có thể đem nghĩa biệt thời vấn nạn nghĩa chẳng biệt thời ư?

Hỏi: Vì sao luận thì nói là biệt thời, còn các kinh khác lại nói chẳng phải là biệt thời?

Đáp: Vì luận kia chỉ căn cứ vào việc phát nguyện suông mà không bàn về việc tu hành, còn các kinh khác bàn cả việc tu hành nữa. Như trong kinh Phật nói nếu chúng sinh nào phát nguyện thì được vãng sinh, đó đều là lời biệt thời ý chứ không phải sinh ngay lập tức. Như tiểu kinh A-di-đà nói: "Nếu có người đã phát nguyện, nay phát nguyện, sẽ phát nguyện sinh về cõi nước kia, thì người đó hoặc đã vãng sinh, hoặc nay vãng sinh, hoặc sẽ vãng sinh." Các kinh nói như nguyện đều là lời biệt thời ý chứ không phải sinh ngay lập tức. Còn như các kinh Tịnh độ hoặc nói rõ ba phước tịnh nghiệp, mười sáu phép quán, hoặc dạy chúng sinh phát tâm Bồ-đề, bảy ngày niệm Phật, hoặc dạy phát nguyện hồi hướng, mười niệm vãng sinh, nếu tu hành theo lời dạy của các kinh này thì tất cả chúng sinh đều được vãng sinh, tức chẳng phải biệt thời. Cho nên luận kia nói: Vì chỉ phát nguyện nên đó là biệt thời ý. Đã phát nguyện suông, lý là biệt thời vậy.

Hỏi: Như Vãng Sinh luận nói: Người nữ, người thiếu căn và hàng Nhị thừa không được vãng sinh, vì sao ở đây nói người nữ… ba hạng người này cũng được vãng sinh?

Đáp: Đúng vậy. Ba loại nghiệp chủng này theo lý thì không được vãng sinh. Nếu chúng sinh không thuộc ba loại nghiệp này thì nhất định vãng sinh. Ba loại nghiệp chủng là gì?

1. Người nữ: Trong cõi Sa-bà có nam lẫn nữ, vì gieo trồng nhân nữ nên quyết định chiêu cảm quả nữ tướng, người này dầu có tu hạnh Tịnh độ cũng không được vãng sinh, vì trong cõi Tịnh độ không có người nữ. Nghiệp này là tịnh nghiệp không thể cải đổi, đây tức là nghiệp chướng.

2. Người thiếu căn: Nếu trong cõi này con người gieo trồng các nhân như đui điếc, câm, ngọng cũng không được vãng sinh, vì trong cõi Tịnh độ mọi người đều đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu. Đây cũng là nghiệp chướng.

3. Nhị thừa: Nếu là bậc hữu học Nhị thừa và bậc trong Nhị thừa phương tiện đạo, vì những vị này gieo trồng định nhân Nhị thừa, không tin có Đại thừa và mười phương Tịnh độ, cũng không được vãng sinh. Vì những vị này là hàng ngu pháp Nhị thừa không tin có mười phương chư Phật và mười phương Tịnh độ nên không chịu phát nguyện hồi hướng vậy. Đây tức là hạng người quyết định Tiểu thừa, chướng ngại Đại thừa.

Nghiệp chủng mà luận kia nói là định nghiệp chủng, những vị nào không thuộc ba loại định nghiệp này thì đều được vãng sinh vậy.

Hỏi: Nếu ba loại định nghiệp kể trên của cõi này không được vãng sinh, thì vì sao trong kinh Quán lại nói: Người nào thọ trì năm giới... thì được vãng sinh, sinh về cõi kia nghe Đức Phật nói lý Tứ đế ngộ được quả A-la-hán... những vị này há chẳng phải là định chủng Tiểu thừa?

Đáp: Đây là hạng người chẳng ngu pháp tin có mười phương chư Phật, và vì cầu vãng sinh Tịnh độ mà phát nguyện hồi hướng mới được vãng sinh. Những vị này sau khi được chứng quả rồi, Đức Phật sẽ thuyết kinh Pháp Hoa cho họ nghe, để họ hồi tâm hướng về Đại thừa. Đây là văn của Luận Trí Độ. Còn như luận về bậc Vô học Nhị thừa thì bất luận là hàng ngu pháp hay không ngu pháp, tất cả đều được sinh về cõi Tịnh độ, vì những vị này chỉ thọ biến dịch sinh tử, không còn thọ sinh vào cõi nào trong tam giới nữa.

Hỏi: Ác nghiệp của chúng sinh tích chứa nhiều như núi, các ác nghiệp này chướng ngăn việc vãng sinh Tịnh độ, vì vậy không thể dùng chút ít thiện căn để tiêu trừ ác nghiệp, thế thì vì sao kinh Quán nói rằng khi thọ mạng sắp hết chỉ cần niệm mười danh hiệu Phật thì được vãng sinh?

Đáp: Tâm là chủ của nghiệp, là gốc của việc dẫn sinh. Tâm lúc lâm chung cũng như con mắt, nó có thể dẫn tất cả các nghiệp. Nếu tâm lúc lâm chung là ác, thì nó có thể dẫn tất cả ác nghiệp sinh vào ác đạo, còn nếu tâm lúc lâm chung là thiện thì nó có thể dẫn tất cả thiện nghiệp sinh vào thiện đạo. Thí như rồng bay thì mây theo, tâm hướng về Tây phương Tịnh độ thì nghiệp cũng đi cùng. Đây là văn của các kinh luận.

Hỏi: Như mười niệm mà kinh Di-lặc sở vấn nói: Chẳng phải là niệm của phàm phu mà là niệm đã gạn lọc kiết sử. Nay chúng sinh cõi này thể là phàm phu, kiết sử chưa đoạn thì làm sao niệm Phật mà được vãng sinh?

Đáp: Nếu như kinh kia nói không còn kiết sử mới được vãng sinh thì chỉ có Phật mới vãng sinh mà thôi, ngoài ra tất cả đều không thể, vì các bậc Bồ-tát sau thập địa cũng còn hai loại vô minh. Cho nên nay giải thích kinh kia rằng:

Niệm của phàm phu: nếu không phát tâm Bồđề mà cầu ra khỏi tam giới làm Phật, chỉ lo niệm Phật cầu sinh Tây phương, làm lợi cho riêng mình, tránh khổ tìm vui thì đây là phàm phu niệm, cũng không được vãng sinh. Thế nên ba hạng người vãng sinh mà kinh Vô Lượng Thọ nói đều phải phát tâm Bồ-đề.

Niệm không còn kiết sử xen tạp: Duy phải nhất tâm nối nhau quán tưởng tướng tốt của Phật. Nếu miệng niệm Phật mà tâm lại chạy theo ngũ dục thì đó là niệm còn kiết sử xen tạp. Niệm Phật tâm phải thuần tịnh, tâm này trái với tâm kiết sử, nếu được như thế thì việc niệm Phật đúng như kinh kia đã nói.

CHƯƠNG V

Dẫn Thánh Giáo Làm Chứng. (Dẫn hai Giáo Kinh Luận) Kinh, dẫn mười hai bộ:

1. Kinh Vô Lượng Thọ. kinh Quán.

2. Kinh Tiển Di-đà.

3. Kinh Cổ Âm Thanh Vương.

4. Kinh Xưng Dương Chư Phật Công Đức.

5. Kinh Phát Giác Tịnh Tâm.

6. Kinh Đại Tập.

7. Kinh Thập Phương Vãng Sinh.

8. Kinh Dược Sư.

9. Kinh Ban Châu.

10. Kinh Đại A-di-đà.

11. Kinh Vô Lượng Thanh Tịnh Giác.

-Luận, dẫn bảy bộ:

1. Vãng Sinh luận.

2. Khởi Tín luận.

3. Thập trụ Tỳ-bà-sa luận.

4. Nhất thiết kinh trung Di-đà kệ.

5. Bảo Tánh luận.

6. Long Thọ Thập nhị lễ.

7. Nhiếp Đại thừa luận.

Hỏi: Như trên ngài đã nêu ra đạo lý, tôi đã biết được nguyện và hạnh giúp nhau mới được vãng sinh Tịnh độ, điều này chẳng phải là biệt thời ý, nhưng chưa biết có Thánh giáo nào để làm chứng chăng?

Đáp: Nay tôi sẽ dẫn hai giáo kinh luận làm chứng.

A. Dẫn kinh.

1. Kinh Vô Lượng Thọ.

Như kinh Vô Lượng Thọ quyển 1 nói về các lời nguyện của Đức Phật A-di-đà:

Sau khi tôi thành Phật, nếu trong cõi nước tôi có ba đường ác: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, thì tôi nguyện sẽ không ở ngôi Chánh giác.

Sau khi tôi thành Phật, nếu các hàng trời người trong cõi nước tôi còn nghe đến tên bất thiện thì tôi nguyện sẽ không ở ngôi Chánh giác.

Sau khi tôi thành Phật, các hàng trời người trong cõi nước tôi nếu sau khi mạng chung lại đọa vào ba đường ác thì tôi nguyện sẽ không ở ngôi Chánh giác.

Sau khi tôi thành Phật, các hàng trời người trong cõi nước tôi nếu không trụ chánh định cho đến ngày diệt độ thì tôi nguyện sẽ không ở ngôi Chánh giác.

Sau khi tôi thành Phật, các hàng trời người trong cõi nước tôi thọ mạng không thể hạn lượng, trừ bổn nguyện của những vị đó muốn kéo dài hay thâu ngắn một cách tự tại, nếu không như thế thì tôi nguyện sẽ không ở ngôi Chánh giác.

Sau khi tôi thành Phật, chúng sinh trong mười phương chí tâm tin ưa muốn sinh về nước tôi, niệm danh hiệu Phật đến mười lần, nếu chúng sinh đó không được vãng sinh thì tôi nguyện sẽ không ở ngôi chánh giác, chỉ trừ những người tạo tội ngũ nghịch cùng phỉ báng Chánh pháp.

Sau khi tôi thành Phật, có chúng sinh nào trong mười phương phát tâm Bồ-đề tu các công đức, chí tâm phát nguyện muốn sinh về nước tôi, khi sắp mạng chung, nếu tôi không cùng đại chúng hiện thân nhiễu quanh trước người đó thì tôi nguyện sẽ không ở ngôi Chánh giác.

Sau khi tôi thành Phật, có chúng sinh nào trong mười phương nghe danh hiệu tôi, luôn nhớ nghĩ đến nước tôi mà gieo trồng các công đức, chí tâm hồi hướng muốn vãng sinh, nếu chúng sinh đó không được toại nguyện thì tôi nguyện sẽ không ở ngôi Chánh giác.

Sau khi tôi thành Phật, vô lượng chúng sinh trong các thế giới của chư Phật mười phương nếu nghe đến danh hiệu tôi mà không được vô sinh pháp nhẫn, các pháp Tổng trì sâu xa thì tôi nguyện sẽ không ở ngôi Chánh giác.

Sau khi tôi thành Phật, nếu có người nữ nào trong vô lượng thế giới của chư Phật mười phương không thể nghĩ bàn nghe danh hiệu tôi, hoan hỷ tín mộ phát tâm Bồ-đề, nhàm chán thân nữ mà sau khi mạng chung còn sinh lại làm thân nữ nữa thì tôi nguyện sẽ không ở ngôi Chánh giác.

Sau khi tôi thành Phật, những tịnh lạc mà các hàng trời người trong cõi nước tôi hưởng thụ nếu không như các vị Tỳ-kheo đã được lậu tận thì tôi nguyện sẽ không ở ngôi Chánh giác.

Giải thích: Theo văn bốn mươi tám đại nguyện này thì trong hầu hết các nguyện đều nói đến các hàng trời người, cho đến người nữ ở mười phương, mà không kể là các vị Bồ-tát bất thoái trở lên, còn những nguyện khác là vì các vị Bồ-tát; như thế đủ biết những nguyện trước là chính yếu, những nguyện sau là thứ yếu vậy.

Lại như kinh Vô Lượng Thọ quyển hai nói: Đức Phật bảo ngài A-nan rằng: Nếu chúng sinh nào được sinh về nước kia thì hết thảy đều trụ chánh định. Vì sao?

Vì trong cõi nước của Đức Phật A-di-đà không có tên tà định và bất định. Hằng sa chư Phật, Như Lai trong mười phương đều cùng tán thán công đức oai thần không thể nghĩ bàn của Đức Phật Vô Lượng Thọ. Có chúng sinh nào nghe đến danh hiệu của Ngài, tín tâm hoan hỷ nhẫn đến một niệm chí thành hồi hướng nguyện sinh về nước kia liền được vãng sinh, đến địa vị bất thoái chuyển, chỉ trừ người tạo tội ngũ nghịch và phỉ báng chánh pháp.

Đức Phật bảo Ngài A-nan rằng: Các hàng trời, người v.v… trong mười phương thế giới những ai chí tâm nguyện sinh về nước kia thường có ba bậc: Sinh vào bậc thượng là những ai từ bỏ gia đình và thú vui ngũ dục, làm bậc Sa-môn phát tâm Bồ-đề, một lòng chuyên niệm danh hiệu Đức Phật Vô Lượng Thọ, tu các công đức nguyện sinh về nước kia. Những vị này lúc lâm chung, Đức Phật Vô Lượng Thọ cùng đại chúng hiện ra trước mặt, liền theo Phật sinh về nước của Ngài, tự nhiên hóa sinh trong hoa thất bảo, trụ bất thoái chuyển, phước tuệ dõng mãnh thần thông tự tại. Thế nên, này A-nan! Nếu chúng sinh nào muốn thấy Đức Phật Vô

Lượng Thọ ngay trong đời này thì nên phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tu các công đức nguyện sinh về nước ấy.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng: Sinh vào bậc trung là dân chúng trời, người trong mười phương thế giới chí tâm nguyện sinh về nước kia, tuy không thể xuất gia làm bậc Sa-môn tu các công đức lớn, nhưng phải phát tâm vô thượng Bồ-đề, một lòng chuyên niệm danh hiệu Đức Phật Vô lượng Thọ, bao nhiêu công đức tu thiện như vâng giữ trai giới, xây tháp tạo tượng, cúng dường các thức ăn uống cho các vị Sa-môn, giăng lụa thắp đèn, rải hoa đốt hương đều đem hồi hướng nguyện sinh về nước ấy. Khi lâm chung, Đức Phật Vô lượng Thọ sẽ hóa thân có đầy đủ tướng tốt, quang minh rực rỡ như chân thân Phật cùng các đại chúng hiện ra trước mặt, vị đó liền theo Phật sinh về nước của Ngài, trụ bất thoái chuyển. Nhờ thắng duyên tu hành ở đây nên công đức trí tuệ mỗi ngày thêm lớn, về sau vị này sẽ được sinh vào bậc Thượng vậy.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng: Sinh vào bậc hạ là dân chúng trời, người trong mười phương thế giới chí tâm muốn sinh về nước kia, giả sử không thể tạo các công đức cũng phải phát tâm vô thượng Bồ-đề, một lòng chuyên niệm nhẫn đến niệm mười niệm Đức Phật Vô Lượng Thọ để nguyện sinh về nước Ngài. Nếu khi nghe diệu pháp hoan hỷ tin ưa không sinh tâm nghi hoặc, nhẫn đến niệm danh hiệu Đức Phật kia một niệm thành tâm nguyện sinh về nước kia, người này khi lâm chung trong mộng thấy Phật, cũng được vãng sinh. Về sau, công đức trí tuệ của vị này cũng được như người sinh vào bậc trung vậy.

2. Kinh Quán.

Như trong kinh Quán có đoạn nói: Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Thái hậu Vi-đề-hy rằng: Bà nay có biết chăng? Cõi nước của Đức Phật A-di-đà cách đây không xa, bà nên để tâm xét kỹ tịnh nghiệp mà nước kia thành tựu. Ta nay sẽ nói rộng các thí dụ cho bà nghe, cũng khiến cho tất cả phàm phu đời vị lai, muốn tu tịnh nghiệp được sinh về cõi nước Cực lạc ở phương Tây. Những ai muốn sinh về nước kia phải tu ba loại phước nghiệp:

1. Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, tâm Từ bi không sát hại, tu mười nghiệp lành.

2. Thọ trì tam quy, giữ gìn giới luật đầy đủ, không sai phạm oai nghi.

3. Phát tâm Bồ-đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa, khuyên bảo người tu hành tinh tấn.

Ba việc như thế gọi là tịnh nghiệp.

Đức Phật bảo Thái hậu Vi-đề-hy rằng: Bà nay có biết chăng? Ba loại nghiệp này là chánh nhân tịnh nghiệp của chư Phật quá khứ, vị lai và hiện tại. Đức Phật bảo ngài A-nan và Thái hậu Vi-đề-hy rằng: Hạ phẩm hạ sinh là các chúng sinh tạo nghiệp bất thiện như năm tội nghịch, mười điều ác, đủ các điều bất thiện; người ngu như thế vì tạo nghiệp ác nên phải đọa ác đạo, trải qua nhiều kiếp thọ khổ vô cùng. Người đó khi sắp mạng chung, gặp thiện tri thức an ủi đủ điều, thuyết diệu pháp cho nghe và dạy niệm Phật. Lúc ấy, bị khổ đau bức bách không kịp niệm Phật, được thiện hữu bảo rằng: "Ông nếu không thể niệm Phật thì phải xưng danh hiệu Đức Phật Vô Lượng Thọ". Nếu chí tâm niệm đủ mười lần câu "Nam-mô Phật" không gián đoạn, thì trong mỗi niệm trừ được các tội trong tám mươi ức kiếp sinh tử. Sau khi mạng chung thấy hoa sen vàng rực rỡ như vầng thái dương ở trước mặt, trong khoảng một niệm liền được sinh về thế giới Cực lạc. Ở trong hoa sen, đủ mười hai đại kiếp hoa sen mới nở, lúc đó Bồ-tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí dùng âm thanh đại bi nói rộng thật tướng các pháp cho nghe để diệt trừ các tội. Nghe rồi hoan hỷ liền phát tâm Bồ-đề, như thế người đó được hạ phẩm hạ sinh. Đây là tướng vãng sinh của hạng người bậc hạ, cũng gọi là phép quán tưởng thứ mười sáu. Giải thích: Căn cứ việc vãng sinh vào chín phẩm thì đều chia ba phẩm phán tịnh nghiệp đầu ra làm nhân chín phẩm, nhưng một người cũng chẳng phải tu đủ ba phẩm phước tịnh nghiệp mới được vãng sinh.

3. Kinh Tiểu Di-đà.

Kinh Tiểu Di-đà nói rằng: Này Xá-lợi-phất! Chúng sinh nghe rồi nên phát nguyện sinh về nước kia. Vì sao? Vì được cùng tụ hội với các bậc thượng thiện như thế đồng một chỗ.

Này Xá-lợi-phất! Không thể lấy chút ít thiện căn phước đức làm nhân duyên sinh về nước kia. Xá-lợi-phất! Nếu có người thiện nam, người thiện nào nghe nói về Đức Phật A-di-đà rồi chấp trì danh hiệu Ngài hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày nhất tâm bất loạn thì người đó khi sắp mạng chung, Đức Phật A-di-đà cùng Thánh chúng hiện ra trước mặt, người đó khi mạng chung tâm không điên đảo liền được sinh về cõi nước Cực lạc của Đức Phật A-di-đà. Này Xá-lợi-phất! Ta thấy lợi ích như thế nên nói những lời này, nếu có chúng sinh nghe rồi nên phát nguyện sinh về cõi kia.

Giải thích: Theo kinh này, chút ít thiện căn là chỉ phát nguyện suông, còn thiện căn rộng lớn là bảy ngày niệm Phật. Nếu có thể trong bảy ngày niệm Phật đủ trăm vạn biến thì được vãng sinh vậy. 4. Kinh Cổ Âm Thanh Vương.

Kinh Cổ Âm Thanh Vương nói: Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Đức Phật cùng tụ hội với chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người tại ao Già Linh trong đại thành Chiêm-ba. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các vị Tỳ-kheo rằng: "Nay ta sẽ nói rộng về thế giới An Lạc ở phương Tây cho các ông nghe, cõi đó hiện có Đức Phật hiệu là A-di-đà. Nếu tứ chúng có thể thọ trì danh hiệu Đức Phật ấy thuần tịnh thì nhờ công đức này, lúc sắp mạng chung Đức Phật A-diđà cùng đại chúng đến trước người đó để cho người đó thấy, khi thấy Phật rồi liền sinh tâm vui mừng, tăng trưởng công đức. Nhờ nhân duyên này, khi sinh ra nơi nào, người đó cũng vĩnh viễn lìa khỏi bào thai với hình hài ô uế chứa nhiều ham muốn, thuần tự hóa sinh trong hoa sen báu tịnh diệu, đủ đại thần thông quang minh rực rỡ." Bấy giờ hằng sa chư Phật trong mười phương đều tán thán thế giới An Lạc, nơi mà Phật pháp không thể nghĩ bàn, thần thông hóa hiện đủ các phương tiện không thể nghĩ bàn. Nếu người nào có thể tin những việc như thế, phải biết người đó không thể nghĩ bàn, quả báu mà họ đạt được cũng không thể nghĩ bàn.

Đức Phật A-di-đà Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri cùng tụ hỏi cùng với các vị Thanh văn. Cõi nước đó hiệu là Thanh thái, thành của Thánh vương ở dài rộng mười ngàn do-tuần, bên trong đông đủ các hàng người thuộc dòng Sát-đế-lợi. Đức Phật A-di-đà Như Lai Ứng cúng Chánh Biến tri có cha tên Nguyệt Thượng. Chuyển luân Thánh vương, mẹ tên Thù Thắng Diệu Nhan, con tên là Nguyệt Minh, các đệ tử phụng sự tên là Vô Cấu

Xứng, đệ tử trí tuệ đệ nhất tên là Lãm Quang đệ tử thần thông đệ nhất tên là Đại Hóa. Bấy giờ Ma vương tên là Vô Thắng, còn Đề-bà-đạt-đa tên là Tịch Tịnh. Khi ấy, Phật A-di-đà câu hội với chúng đại Tỳ-kheo hai vạn người. Như có người thọ trì danh hiệu Đức Phật kia một cách kiên cố, nhớ niệm không quên thì trong mười ngày mười đêm sẽ trừ bỏ tán loạn. Tinh cần tu tập niệm Phật Tam-muội, biết Đức Như Lai kia thường ở thế giới An Lạc mà nhớ niệm tương tục, đừng để đứt đoạn, đồng thời thọ trì đọc tụng kinh Cổ Âm Thanh Vương đại Đàla-ni này mười ngày mười đêm, sáu thời chuyên tụng niệm, năm vóc sát đất kính lễ Đức Phật, giữ chánh niệm kiên cố thì tất cả tán loạn đều được tiêu trừ. Nếu có thể khiến tâm mỗi niệm mỗi niệm không dứt thì trong khoảng mười ngày ắt được thấy Đức Phật A-di-đà, thấy các Đức Như Lai trong mười phương thế giới và cõi nước của các Ngài, chỉ trừ người độn căn chướng nặng thì trong khoảnh khắc hiện tại không thể thấy được. Nếu ai đem tất cả các việc thiện hồi hướng nguyện sinh về thế giới An Lạc thì lúc lâm chung Đức Phật A-diđà cùng đại chúng hiện ra trước mặt an ủi khen ngợi người đó liền được vãng sinh.

Giải thích: Theo kinh này thì niệm Phật trong khoảng mười ngày sẽ thấy Đức Phật A-di-đà, không kể là lúc mạng chung.

5. Kinh Xưng Dương Chư Phật Công Đức.

Kinh Xưng Dương chư Phật công đức nói: Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Từ đây về phương tây cách mười muôn ức cõi Phật có thế giới tên là An Lạc, trong cõi đó có Đức Phật hiệu A-di-đà Như

Lai, Chí chân, Đẳng chánh giác, Minh hạnh túc,

Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự, Thiên nhân sư, Thế Tôn cứu độ vô lượng chúng sinh. Nếu có người nghe được danh hiệu Đức Như Lai Vô Lượng Thọ thì phải một lòng tín mộ thọ trì, phúng niệm, khởi tâm hoan hỷ vô lượng, an lập ý mình, hết lòng chân thành tin tưởng triệt để niệm Đức Như Lai với mười muôn ức tín tâm. Người đó sẽ được vô lượng phước báo, mãi mãi xa lìa khổ ách tam đồ, sau khi mạng chung sẽ được sinh về cõi nước của Ngài. Lúc thọ mạng sắp hết mà một lòng tín mộ, luôn nhớ niệm không quên, thì Đức Phật A-di-đà sẽ cùng các vị Tỳ-kheo đến trước người đó, vì thế các loài ma quỷ trọn không thể phá hoại tâm Đẳng chánh giác này được. Vì sao vậy? Bởi vì Đức Phật kia đã phát khởi tâm đại bi thệ độ tất cả vô lượng chúng sinh đồng thời cũng hộ trì tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới. Nếu người nào sinh về thế giới An Lạc thì người đó sẽ được đầy đủ trí tuệ chánh giác của Như Lai.

Này Xá-lợi-phất! Do sức thệ nguyện của Đức Phật Thế Tôn kia, nếu có người cầu thừa thứ hai thì khi sinh về thế giới của Ngài người đó sẽ đầy đủ các pháp của chư Phật Như Lai, đủ chánh giác phần, còn cầu Thanh văn thừa thì sẽ đắc quả A-lahán ở cõi Phật đó. Nếu có người sinh về cõi Phật kia, theo sở nguyện của mình cầu Đại thừa hay Tiểu thừa thì hết thảy được đầy đủ. Nếu có người tâm tối hậu lúc lâm chung nghe được danh hiệu đức A-di-đà Như Lai và những lời tán thán, một lòng kính tin không có nghi ngờ, chí tâm nhớ nghĩ về Ngài như con thơ nhớ cha mẹ, khởi ý như thế thì khi ở cõi Phật kia các nguyện vọng thảy đều đầy đủ. Còn những ai không tin công đức tán thán xưng dương danh hiệu Đức Phật A-di-đà lại hủy báng thì người đó trong năm kiếp phải đọa địa ngục, thọ đủ các khổ.

Giải thích: Theo kinh này, niệm Phật như con thơ nhớ cha mẹ mới được vãng sinh.

6. Kinh Phát Giác Tịnh Tâm.

Kinh Phát Giác Tịnh Tâm nói: Lúc bấy giờ Bồ-tát Di-lặc bạch Đức Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Như Lai tán thán Đức Di-đà Như Lai và mười thứ phát tâm, trong đó tùy theo tâm phát nguyện, nếu muốn sinh về thế giới kia thì sẽ được vãng sinh. Mười phát tâm nguyện sinh về cõi kia là những gì?

Đức Phật bảo ngài Di-lặc rằng: Mười phát tâm này chẳng phải là điều của hàng tiểu trí, đó là đại sự vậy. Mười phát tâm nguyện sinh về cõi của Đức Phật A-di-đà Như Lai là:

1. Vì tất cả chúng sinh mà phát tâm từ, không sinh sân hận. Do phát tâm này nên sẽ sinh về cõi Phật A-di-đà Như Lai.

2. Vì tất cả chúng sinh mà phát tâm bi. Do phát tâm này nên sẽ sinh về cõi kia.

3. Lìa tâm sát sinh, thọ trì chánh pháp. Do phát tâm này nên sẽ sinh về cõi kia.

4. Thà bỏ thân mạng quyết không nhiễm trước tất cả các pháp. Do phát tâm này nên sẽ sinh về cõi kia.

5. Phát tâm nhẫn nhục sâu xa, tu hành với lòng tin thanh tịnh. Do phát tâm này nên sẽ sinh về cõi kia.

6. Không nhiễm danh thơm lợi dưỡng, tất cả tiền của vật báu. Do phát tâm này nên sẽ sinh về cõi kia.

7. Vì tất cả chúng sinh mà sinh tâm quý kính, không có khinh chê. Do phát tâm này nên sẽ sinh về cõi kia.

8. Không kinh hãi, không lo sợ, không nghe những lời lẽ phàm tình. Do phát tâm này nên sẽ sinh về cõi kia.

9. Nhập Bồ-đề phần, đủ các thiện căn. Do phát tâm này nên sẽ sinh về cõi kia.

10. Không rời niệm Phật. Do phát tâm này nên sẽ sinh về cõi kia, xa lìa các tướng.

Này Di-lặc! Đối với mười tâm này, nếu các vị Bồ-tát đều phát tất cả mà giữ được một nguyện đầy đủ thì sẽ được sinh về cõi Phật A-di-đà; nếu như chẳng vãng sinh thì không có lẽ đó.

Giải thích: Mười tâm này chẳng phải là mười niệm trong kinh Quán. Mười tâm thì được phát lúc hiện tiền, còn mười niệm trong kinh Quán nói được phát nguyện lúc sắp mạng chung vậy.

7. Kinh Đại Tập.

Như kinh Đại Tập nói: Đức Phật bảo Bồ-tát Hiền Hộ rằng: "Trong đó, những pháp Tam-muội gì hay sinh các công đức như thế? Đó là, tư duy các pháp Tam-muội hiện tiền của chư Phật hay sinh các công đức như thế. Lại nữa, này Hiền Hộ, Bồ-tát tư duy các pháp Tam-muội hiện tiền của chư Phật như thế nào? Này Hiền Hộ, như có vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nào trì giới thanh tịnh, các hạnh đầy đủ, ở một mình nơi thanh vắng, tư duy như sau: Đối với mọi nơi, tùy ở nơi nào, như nghe nói Đức Phật A-di-đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng chánh giác đang ở cõi Tây phương, bấy giờ liền phải khởi tưởng niệm như sau.

Như ta nghe, từ đây về phương Tây cách hơn trăm nghìn ức các cõi Phật có một thế giới tên là An Lạc, hiện Đức A-di-đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác đang thuyết pháp giáo hóa đại chúng ở đó, được các vị Bồ-tát vây quanh. Thế rồi người này theo những điều được nghe, buộc niệm tư duy, quán sát rõ ràng không thôi cuối cùng cũng được thấy Đức Di-đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác.

Lại nữa, này Hiền Hộ, ví như thế gian, có người nam, người nữ nào khi ngủ, chiêm bao thấy đủ các thứ như vàng, bạc châu báu, tiền của đầy kho; hoặc thấy bạn bè các bậc tri thức; hoặc có những điều khiến tâm không vui; tiếp xúc các cảnh hoặc trái hoặc thuận; hoặc vui hoặc buồn; có lúc nói năng hoan hỷ vui mừng, có lúc xúc cảm bi ai thống thiết. Người đó thức dậy tư duy nhớ nghĩ những gì đã thấy trong mộng rồi đem kể hết cho người khác nghe, đoạn theo đó lại sinh tâm nghĩ tưởng vui, buồn.

Cũng như thế, này Hiền Hộ, thiện nam tử, thiện nữ nhân kia liền ngồi ngay ngắn để tâm chuyên niệm, quán tưởng Đức A-di-đà Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác có tướng tốt như thế, oai nghi như thế, đại chúng như thế và sự thuyết pháp của Ngài như thế. Buộc niệm, nhất tâm tương tục, trước sau không loạn động, hoặc được một ngày, một đêm như thế, nhẫn đến bảy ngày bảy đêm, niệm tưởng đầy đu, như ta đã nghe, thì người ấy ắt thấy Đức A-di-đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác. Nếu ban ngày không thể thấy được thì về đêm, hoặc trong chiêm bao, Đức Phật A-di-đà ắt sẽ hiện ra cho thấy.

Giải thích: Theo kinh này, chỉ cần quán tưởng, niệm Phật suốt bảy ngày thì sẽ thấy Phật ngay trong hiện tại, chứ chẳng cần đợi đến lúc mạng chung.

8. Kinh Vãng Sinh.

Như kinh Vãng Sinh nói: Đại Bồ-tát Phổ Quảng lại bạch Đức Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Các quốc độ tịnh diệu của chư Phật trong mười phương có khác gì nhau không?"

Đức Phật bảo: "Này Phổ Quảng! Các cõi đó không có sai khác."

Bồ-tát Phổ Quảng lại thưa: "Bạch Đức Thế Tôn! Vì sao trong kinh tán thán cõi nước của Đức Phật A-di-đà, trong cõi đó các hàng cây, cung điện, lầu gác đều được làm bằng bảy báu trang nghiêm nên chúng sinh nguyện sinh về đó, hết thảy tùy theo sở nguyện đều được vãng sinh?"

Đức Phật bảo Phổ Quảng đại Bồ-tát rằng: "Ông chưa rõ ý ta. Thế giới Sa-bà con người phần nhiều tham luyến, người có lòng tin, có chí nguyện thì ít, còn người học tập theo tà kiến thì nhiều, họ không tin chánh pháp, không thể chuyên tâm, hoạt động không có chí hướng. Các thế giới như Phật trong mười phương thật không có gì sai khác, vì muốn cho chúng sinh chuyên tâm một chỗ, nên tán thán cõi nước kia vậy. Những người cầu vãng sinh hết thảy đều tùy theo sở nguyện của mình, không ai không được kết quả."

Giải thích: Theo kinh này, nếu người nào nhất tâm chuyên tưởng cảnh giới Tây phương thì được vãng sinh.

9. Kinh Dược Sư.

Như kinh Dược Sư nói: Đức Phật bảo rằng: "Như bốn hàng đệ tử Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện tín nam, thiện tín nữ thường tu ăn chay một tháng sáu ngày, một năm ba tháng trường trai, hoặc ngày đêm tinh cần nhất tâm khổ hạnh cầu nguyện vãng sinh cõi Tây phương của Đức Phật A-di-đà, nhớ niệm ngày đêm, hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày hoặc bảy ngày, nếu trong những ngày đó lại sám hối, nghe ta giảng kinh Lưu ly Quang Phật bổn nguyện công đức này, thì đến khi thọ mạng hết, lúc lâm chung có tám vị Bồ-tát là Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát, Quán Thế Âm Bồtát, Đại Thế Chí Bồ-tát, Bảo Đàn Hoa Bồ-tát, Vô Tận Ý Bồ-tát, Dược Vương Bồ-tát, Dược Thượng Bồ-tát, Di-lặc Bồ-tát đều sẽ thân hành đến tiếp rước, tinh thần không bị rơi vào tám nạn, được sinh trong hoa sen, hưởng niềm vui thú với các loại âm nhạc tự nhiên.

Giải thích: Theo kinh này, bảy ngày niệm Phật lại thêm sám hối, đồng thời nghe danh hiệu Phật Dược Sư thì chóng được vãng sinh hơn.

10. Kinh Ban Châu.

Kinh Ban Châu nói: Đức Phật bảo Bồ-tát Bạtđà-hòa rằng:

"Chúng sinh trong cõi này phải luôn luôn tưởng niệm Đức Phật A-di-đà, vì tưởng niệm như thế nên được thấy Phật."

Sau khi được thấy Phật rồi, Bồ-tát Bạt-đà-hòa bèn đến thưa Đức Thế Tôn rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Chúng sinh phải hành trì những pháp gì để được sinh về nước của Đức Phật A-di-đà?"

Bấy giờ Đức Phật A-di-đà bảo Bồ-tát rằng: "Chúng sinh nào muốn sinh về nước ta thì phải luôn luôn trì niệm danh hiệu Ta, thường phải chuyên niệm danh hiệu Phật. Công đức đạt được so với các hạnh khác thì thù thắng hơn."

Giải thích: Theo kinh này, chỉ một pháp niệm Phật cũng được vãng sinh.

11. Kinh Đại A-di-đà.

Kinh Đại A-di-đà nói: Phải giữ gìn trai giới một lòng thanh tịnh, đêm ngày thường tưởng niệm nguyện sinh về cõi Phật A-di-đà, trì niệm như thế mười ngày, mười đêm không dứt, Ta đều thương xót khiến cho tất cả sinh về cõi Phật A-di-đà. Hoặc giả người đó chưa có thể vãng sinh, bấy giờ nên tự nghĩ suy cho kỹ, lo tính muốn độ thoát thân mình thì không thể dừng tưởng niệm. Phải từ bỏ ái dục, chớ nghĩ nhớ đến việc gia đình, không được chung giường với phụ nữ. Thân ngồi ngay thẳng, tâm đoạn ái dục, một lòng giữ trai giới thanh tịnh, chí tâm nguyện sinh về cõi Phật A-di-đà. Nếu một ngày đêm người đó trì niệm không dứt thì lúc mạng chung sẽ được sinh về nước kia, được hóa sinh trong hoa sen ở ao thất bảo.

Giải thích: Theo kinh này, người nào có thể niệm Phật trì giới, không nằm chung giường với người nữ dù chỉ một ngày một đêm cũng được vãng sinh.

12. Kinh Vô Lượng Thanh Tịnh Giác.

Kinh Vô Lượng Thanh Tịnh Giác nói: Như có thiện nam, thiện nữ nào nghe ta nói về pháp môn Tịnh độ mà tâm sinh bi cảm vui mừng, tóc lông dựng đứng thì phải biết người này thân mạng nhiều kiếp trong quá khứ đã hành Phật đạo. Như có người khi nghe trình bày pháp môn Tịnh độ mà không phát khởi tín tâm thì phải biết người đó mới được tái sinh từ ba ác đạo, tội lỗi chưa hết, nên đối với pháp môn này không có tin theo; ta nói người này chưa có thể giải thoát được.

Giải thích: Theo kinh này, người nào nghe nói về pháp môn Tịnh độ liền sinh tâm tín mộ thì trong quá khứ, người này đều đã từng cúng dường chư Phật, nhờ nhân duyên kiếp trước mà trong đời hiện tại, người này chỉ niệm Phật mười niệm cũng được vãng sinh.

B. Dẫn Luận, có bảy bộ:

1. Vãng Sinh Luận.

Như Vãng Sinh Luận nói: Như có thiện nam, thiện nữ nào tu hành pháp môn năm niệm thành tựu thì rốt cục cuối cùng được sinh về cõi nước An Lạc, được diện kiến Đức Phật A-di-đà. Năm niệm là những gì?

1. Lễ bái.

2. Tán thán.

3. Phát nguyện.

4. Quán sát.

5. Hồi hướng.

(Giải: Đây là Nhân môn).

Nên biết lại có năm loại môn thứ lớp dần dần thành tựu năm loại công đức.

-Năm môn là gì?

1. Cận môn.

2. Đại hội chúng môn.

3. Trạch môn.

4. Ốc môn.

5. Viên lâm du hý trì môn.

Trong năm loại môn, bốn loại môn đầu nói về việc thành tựu nhập công đức (tu tạo công đức), môn thứ năm nói về việc thành tựu xuất công đức (đem công đức tu tạo hồi hướng chúng sinh).

Môn thứ nhất lấy lễ bái Đức Phật A-di-đà làm nhân duyên vãng sinh nên được sinh về thế giới An Lạc, đó gọi là nhập Đệ nhất môn.

Môn thứ hai lấy việc tán thán Đức Phật A-diđà, tùy thuận danh nghĩa mà xưng danh hiệu Như Lai, y theo đức tướng, trí tuệ quang minh của Như Lai mà tu hành nên được vào trong số lượng của hội chúng lớn; đó gọi là nhập Đệ nhị môn.

Môn thứ ba lấy nhất tâm chuyên niệm phát nguyện sinh về cõi kia, tu Xa ma tha, thực hành Tam-muội tịch tĩnh nên được nhập thế giới Liên hoa tạng, đó gọi là nhập Đệ tam môn.

Môn thứ tư lấy việc chuyên niệm quán sát sự vi diệu trang nghiêm của cõi kia, tu Tỳ-bà-xá-na nên được sinh về cõi kia, thọ dụng đủ các pháp lạc, đó gọi là nhật Đệ tứ môn.

Môn xuất thứ năm là dùng tâm đại từ bi quán sát tất cả khổ não của chúng sinh mà thị hiện ứng hóa thân, vào rừng phiền não, vườn sinh tử, dùng Du hý thần thông đến nơi giáo hóa đem sức bổn nguyện hồi hướng cho chúng sinh, đó gọi là môn xuất thứ năm.

Như thế, Bồ-tát tu bốn loại môn đầu thì hạnh tự lợi được thành tựu, hành môn thứ năm thì lợi ích cho chúng sinh, thành tựu hạnh nguyện hồi hướng. Nên biết Bồ-tát tu hạnh năm môn tự lợi, lợi tha như thế thì mau thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tambồ-đề. (Giải thích: Đây là quả môn).

2. Khởi Tín luận.

Như Khởi Tín luận nói: Lại nữa, chúng sinh mới học pháp này muốn cầu chánh tín nhưng trong lòng khiếp nhược, vì còn ở thế giới Sa-bà nên tự lo không thể thường gặp chư Phật, được đích thân vâng mệnh cúng dường; e sợ rằng tín tâm khó có thể thành tựu, ý muốn thoái lui. Nên biết Đức Như Lai có phương tiện thù thắng để nhiếp hộ tín tâm, nghĩa là lấy nhân duyên chuyên tâm niệm Phật, tùy theo sở nguyện được sinh về cõi Phật phương khác, thường thấy chư Phật, vĩnh viễn xa lìa ác đạo.

Như Tu-đa-la nói: Như có người chuyên niệm Đức Phật A-di-đà ở thế giới Cực lạc phương Tây thì sẽ được vãng sinh, vì thường thấy Phật nên cuối cùng không có thoái lui. Nếu biết quán sát pháp thân chân như của Đức Phật kia, thường siêng tu tập thì cuối cùng sẽ được vãng sinh, trụ nơi Chánh định.

Giải thích: Theo luận này nếu người nào ở đây (Sa-bà) tu hành mà lòng tin không vững chãi thì dạy họ nương về Tây phương tu tập. Như vậy người đó đâu phải là Bồ-tát từ Thập giải trở lên?

3. Thập trụ Tỳ-bà-sa luận.

Như trong Thập trụ Tỳ-bà-sa luận Bồ-tát Long Thọ nói: Đối với Đức Di-đà Thế Tôn, hành giả phải tôn kính và tán thán Ngài bằng bài kệ này:

Đức Phật A-di-đà có bổn nguyện như vầy: Nếu người nào nhớ tưởng ta, xưng niệm danh hiệu ta và nguyện trở về nương tựa ta thì người đó sẽ được nhập định, đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Vì thế chúng sinh thường phải nhớ niệm và xưng dương tán thán Ngài bằng bài kệ:

Tuệ chói sáng Vô lượng
Thân như quả núi vàng
Con đem thân khẩu ý
Chắp tay con kính lạy
Sắc vàng chói sáng rực
Khắp các cõi chan hòa
Muôn vật thêm tươi tốt
Thế nên cuối đầu lạy
Nếu người lúc lâm chung
Được sinh về cõi kia
Liền đủ vô lượng đức
Thế nên con kính lạy
Người nào thường niệm
Ngài Được công đức vô lượng
Tức thời nhập bất thoái
Thế nên con thường niệm
Người cõi ấy mạng chung
Giá như phải chịu khổ
Vẫn không đọa địa ngục
Nên con kính lạy
Ai sinh về cõi ấy
Quyết không đọa ác thú
Và loài A-tu-la
Con nay cung kính lạy
Người, trời thân như nhau
Tựa như đỉnh núi vàng
Nơi trở về thù thắng
Vì thế con đảnh lễ
Người sinh về cõi đó
Đủ thiên nhãn nhĩ thông
Mười phương đều vô ngại
Kính lạy đấng Thánh vương
Các chúng sinh cõi đó
Thần biến thân tự tại
Đều đủ túc mạng trí
Thế nên quy mạng lễ
Người sinh về cõi ấy
Không ngã và ngã sở
Không còn tâm phân biệt
Thế nên cúi đầu lạy
Vượt khỏi ngục tam giới
Mình như lá hoa sen
Chúng Thanh văn vô lượng
Thế nên cúi đầu lạy
Các chúng sinh cõi kia
Bổn tánh đều nhu hòa
Tự nhiên hành thập thiện
Kính lạy các Thánh vương
Từ thiện sinh trong sáng
Trong các cõi vô biên
Đấng phước trí bậc nhất
Thế nên con quy mạng
Nếu ai mong làm Phật
Lòng tưởng niệm Di-đà
Tức thì Ngài hiện thân
Thế nên con quy mạng
Bản nguyện lực của Phật
Chư Bồ-tát mười phương
Đến cúng dường Thánh pháp
Thế nên con kính lạy
Đại Bồ-tát cõi kia
Đầy đủ các tướng tốt
Đều tự trang nghiêm thân
Con nay quy mạng lễ
Đại Bồ-tát cõi kia
Mỗi ngày trong ba thời
Cúng dường mười phương Phật
Thế nên cúi đầu lạy
Nếu người trồng thiện căn
Còn nghi hoa không nở
Lòng tín thành thanh tịnh
Hoa nở thấy Phật liền
Phật hiện tại mười phương
Dùng đủ các nhân duyên
Tán thán công đức Ngài
Con nay quy mạng lễ
Cõi kia thật trang nghiêm
Hơn cả các cung trời
Công đức rất sâu dày
Thế nên lạy chân Phật
Chân Phật nghìn bức luân
Sắc hoa sen dịu dàng
Người thấy đều hoan hỷ
Cúi đầu lạy chân Phật
Hào quang trắng giữa mày
Tựa như ánh trăng thanh
Rạng ngời trên sắc diện
Đầu mặt lạy chân Phật
Khi xưa cầu Phật đạo
Hành các hạnh diệu kỳ
Như các kinh đã nói
Cúi đầu kính lạy Ngài
Pháp mà Phật đã giảng
Phá trừ các tội căn
Tốt đẹp nhiều lợi ích
Con nay cúi đầu lạy
Nhờ chánh giáo nhiệm mầu
Cứu các bệnh ái nhiễm
Đã độ nay còn độ
Thế nên cúi đầu lạy
Quý nhất trong trời người
Chư thiên đầu mặt lạy
Ma-ni hơn các báu
Thế nên con quy mạng
Tất cả chúng Hiền Thánh
Và các chúng nhân thiên
Con xin cùng quy mạng
Thế nên con kính lạy
Thường cỡi thuyền Bát chánh
Vượt qua biển não phiền
Độ mình và độ người
Con lễ Đấng Tự Tại
Chư Phật vô lượng kiếp
Tán dương không cùng tận
Công đức, cõi nước Ngài
Quy mạng Đấng Thanh Tịnh
Con nay cũng như thế
Xưng tán đức vô lượng
Nhờ phước nhân duyên này
Mong Phật thường đoái tưởng
Nguyện đem mọi phước đức
Ít nhiều trong quá khứ
Xin nguyện ở bên Phật
Tâm thường được thanh tịnh
Nhờ phước nhân duyên này
Đạt được đức thượng diệu
Nguyện muôn loài chúng sinh
Đều sẽ được như thế.

Kệ tán thán hai vị Bồ-tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí:

Quán Âm, Thế Chí đại danh xưng
Công đức trí tuệ đều vô lượng
Đầy đủ từ bi cứu Thế gian
Dạo khắp tất cả biển chúng sinh
Bậc Thánh như thế rất khó gặp
Nhất tâm cung kính cúi đầu lạy
Chúng sinh ngủ mãi trong tăm tối
Nhờ đức Đại bi đánh thức họ
Tùy duyên hiển hiện tướng sắc thân
Cũng như cha lành thương con một
Xin nguyện từ bi cứu độ con
Nhất tâm cung kính bậc soi đường
Nam-mô Quán Âm, Đại Thế Chí
Thường vào thế gian không ngừng nghỉ
Nguyện vào lục đạo cứu quần sinh
Sắc thân tuyệt diệu như vàng tía
Oai nghi đĩnh đạc chẳng ai bằng
Bình báu, hóa Phật, trong thiên quan
Nhất tâm cung kính bậc phương tiện
Chấn động vô lượng cõi tam thiên
Đứng đi thường có hoa nâng gót
Thường đưa tay báu rước chúng sinh
Nhất tâm cung kính Thí Vô Úy
Vô lượng vô biên vô số kiếp
Rộng tu nguyện lực giúp Di-đà
Thường tuyên giáo pháp giữa đại chúng
Chúng sinh nghe rồi liền sáng mắt
Xin nguyện đời đời thường thân cận
Nên con nhất tâm đầu mặt lạy
Thần thông biến khắp mười phương cõi
Hiện thân ở trước mọi chúng sinh
Chúng sinh nếu thường chí tâm niệm
Thảy đều được dẫn về An Lạc
Thương con! Đấng Từ phụ thế gian
Xin nguyện nhất tâm cúi đầu lạy
An tọa trên tòa sen siêu việt
Như núi Tu-di soi biển cả
Điều phục chúng sinh được vô úy
Nhất tâm cung kính Nhân sư tử
Con đã tùy thuận Tu-đa-la
Tán thán Quán Âm công đức báu
Công đức như thế không cùng tận
Tựa như biển cả chứa trăm sông
Giả sử chư Phật khắp mười phương
Tán thán cùng kiếp cũng không hết
Như thế vô biên vô tận tạng
Nên con nhất tâm cúi đầu lạy
Tán thán Quán Âm, Đại Thế Chí
Là khen Bồ-tát khắp mười phương
Nguyện trải công đức khắp thế gian
Con cùng chúng sinh về An Lạc.

Giải thích: Theo luận này, chỉ tán thán lễ bái Đức Phật A-di-đà cũng được vãng sinh.

4. Nhất thiết kinh trung Di-đà Phật kệ.

Như Nhất thiết kinh trong Di-đà Phật kệ nói:

Niệm Tỳ-kheo Pháp Tạng
Là theo Thế nhiêu vương
Phát nguyện như chư Phật
Thệ hai mươi bốn điều
Đời đời thấy chư Phật
Vô số không thể lường
Không chướng hạnh đời trước
Công đức được thành tựu
Cõi nước hiệu Thanh tịnh
Thành Phật hiệu Vô lượng.

Và kệ:

Thế giới thật bằng phẳng
An Lạc nhiều thượng nhân
Cây báu vô số loại
Chen chút nhau la liệt
Gốc thân cành hoa lá
Hương tỏa diệu khác nhau
Gió mát ngày ba lần
Thoang thoảng đưa hương bay
Mặt đất như rải lông
Trên mặt trong bằng phẳng
Hoàn toàn không các núi
Không biển cả suối nguồn
Chỉ có dòng sông trôi
Âm thanh như thuyết pháp
Trời người vui trong nước
Theo ý mình mong muốn
Khiến nước chỉ ngang mày
Tùy tâm, nguyện thành tựu
Phật thọ mạng vô lượng
Quang minh chiếu vô biên
Bồ-tát và đệ tử
Không thể nào tính hết
Như muốn thấy Đức Phật
Chớ nghi cũng chớ mong
Còn nghi, ở trong thai
Trải qua năm trăm năm
Không nghi sinh dưới tòa
Chấp tay đứng trước Phật
Nếu muốn đến mười phương
Giây lát liền trở về
Duy niệm Bồ-tát kia
Nhiều kiếp tạo công đức
Do bản hạnh mà được
Danh hiệu Phật Thế
Tôn Phật ra đời khó gặp
Dù gặp không dễ nghe
Cõi giảng nói khó gặp
Thân đủ căn khó được
Đời mạt pháp sau này
Lúc pháp sắp suy vi
Phải cùng nhau ủng hộ
Thực hành pháp vô dục
Phật hay nói pháp này
Thường suy nghĩ hành trì
Thọ Pháp bảo vô lượng
Đời đời kính tuân thủ
Nên biết tất cả kinh
Đều có văn kính lễ

5. Bảo Tánh luận.

Như Bảo Tánh luận nói:

Nhờ các công đức này
Nguyện vào lúc mạng chung
Được thấy Phật Di-đà
Thân vô biên công đức
Con và các tín giả
Đã thấy Đức Phật rồi
Nguyện lìa mắt cấu uế
Chứng vô thượng Bồ-đề.

6. Long Thọ thập nhị lễ.

Như ngài Tam tạng Thiền-na-quật-đa dịch văn tán thán Đức Phật A-di-đà của Bồ-tát Long Thọ, trong đó có mười hai bài tụng nói về việc lễ bái: chí tâm quy mạng lễ Đức Phật A-di-đà ở cõi Tây phương.

Kính lạy đấng trời người cung kính
Phật A-di-đà lưỡng Túc tôn
Giáo chủ cõi An Lạc vi diệu
Chúng đệ tử vô lượng vây quanh
Nguyện cùng các chúng sinh
Vãng sinh cõi An Lạc
Thân kim sắc đẹp như núi chúa
Hành chánh định như voi bước đi
Hai mắt đẹp như hoa sen xanh
Nên con đảnh lễ Phật Di-đà
Nguyện cùng các chúng sinh
Vãng sinh cõi An Lạc
Mặt hiền đầy đặn như vầng trăng
Oai quang sáng tợ nghìn nhật nguyệt
Tiếng như trống trời Câu-sí-la
Nên con đảnh lễ Phật Di-đà
Nguyện cùng các chúng sinh
Vãng sinh cõi An Lạc
Trong mũ Quán Âm đội trên đảnh
Đủ các tướng vi diệu trang nghiêm
Hàng phục ngoại đạo, ma kiêu mạn
Nên con đảnh lễ Phật Di-đà
Nguyện cùng các chúng sinh
Vãng sinh cõi An Lạc
Vô cấu thanh tịnh không đâu bằng
Đức tướng trong sáng như hư không
Làm việc lợi ích rất tự tại
Nên con đảnh lễ Phật Di-đà
Nguyện cùng các chúng sinh
Vãng sinh cõi An Lạc
Bồ-tát danh tiếng khắp mười phương
Vô lượng quỷ chúng thường tán thán
Vì các chúng sinh phát thệ nguyện
Nên con đảnh lễ Phật Di-đà
Nguyện cùng các chúng sinh
Vãng sinh cõi An Lạc
Trong ao bảy báu hoa thường sinh
Thành tựu tòa cao nhờ thiện căn
Ngồi trên tòa sen như núi chúa
Nên con đảnh lễ Phật Di-đà
Nguyện cùng các chúng sinh
Vãng sinh cõi An Lạc
Biết bao Phật tử khắp mười phương
Hiển hiện thần thông đến An Lạc
Chiêm ngưỡng tôn nhan thường cung kính
Nên con đảnh lễ Phật Di-đà
Nguyện cùng các chúng sinh
Vãng sinh cõi An Lạc
Các pháp vô thường và vô ngã
Như trăng đáy nước, chớp, bóng, sương
Vì chúng thuyết pháp không danh tự
Nên con đảnh lễ Phật Di-đà
Nguyện cùng các chúng sinh
Vãng sinh cõi An Lạc
Nước Ngài vô lượng cảnh trí đẹp
Không có ác đạo, ác tri thức
Vãng sinh bất thoái đến Bồ-đề
Nên con đảnh lễ Phật Di-đà
Nguyện cùng các chúng sinh
Vãng sinh cõi An Lạc
Cõi Phật không có danh từ ác
Cũng không người nữ và ác đạo
Mọi người chí tâm kính Thế Tôn
Nên con đảnh lễ Phật Di-đà
Nguyện cùng các chúng sinh
Vãng sinh cõi An Lạc
Con nay tán thán công Đức Phật
Việc thiện vô biên như nước biển
Căn lành thanh tịnh con có được
Cúng dường chúng sinh sinh nước Phật
Nguyện cùng các chúng sinh
Vãng sinh cõi An Lạc.

7. Nhiếp Đại thừa luận.

Như Nhiếp Đại thừa luận nói:
Cõi Phật trang nghiêm rất nhiệm mầu
Câu nghĩa con nói khiến sinh thiện
Nương nhờ nguyện này thấy Di-đà
Do được tịnh nhãn thành Chánh giác.

QUYỂN HẠ

CHƯƠNG VI

Dẫn chứng tung tích những người hiện được vãng sinh

(Gồm người đạo, kẻ tục được vãng sinh để bảo cho người tu học biết).

Đời, đạo, đều được vãng sinh Tịnh độ lược có hai mươi người.

Tỳ-kheo tăng sáu người, Tỳ-kheo-ni bốn người, Ưu-bà-tắc năm người, Ưu-bà-di năm người. Hỏi: Trên ngài đã dẫn hai giáo kinh luận để chứng minh cho việc vãng sinh, đây thật là kết quả tốt lành. Nhưng vì chúng sinh trí còn cạn cợt chẳng rõ được Thánh chỉ, chi bằng ngài hãy dẫn tung tích những người hiện được vãng sinh để khuyên mọi người ngay ngày hôm nay một lòng tin theo, ưa nghe lời dạy của ngài mà tinh tấn tu hành.

Đáp: Theo kinh luận, những người được vãng sinh đều cảm được đài sen rực rỡ và nhiều tướng lạ, số này thật là vô lượng. Nay tôi lược dẫn hai mươi người để bảo cho người tu học biết mà một lòng tin theo.

I. Tỳ-Kheo Tăng Được Vãng Sinh, có sáu người:

1. Pháp sư Phương Khải: Người Hoa âm. Năm Trinh Quán thứ chín, ngài cùng Pháp sư Huyền Quả ở chùa Ngộ chân, huyện Lam điền, suốt một mùa hạ niệm Phật A-di-đà. Ngài bèn lấy một nhành dương tươi đem để trong tay Bồ-tát Quán Thế Âm thệ rằng: "Như tôi nay niệm Phật được vãng sinh thì nguyện nhành dương này trong bảy ngày không héo."

Đúng như thệ nguyện của ngài, trong bảy ngày nhành dương không héo. Ngài lại vì tất cả chúng sinh mà cầu xin: "Như trong Nhiếp luận phán định là "Biệt thời ý", còn kinh Quán nói là "Lập tức vãng sinh", vậy mong trong mộng được thấy Đức Phật Di-đà để tỏ rõ điều nghi này."

Ngay đêm hôm đó, chỉ ở một nơi mà Ngài ba lần chiêm bao.

Lần đầu thấy tại một ao lớn, phía Tây nam có một cái lầu cao cửa mở về phía Đông, ngài từ trên lầu bước xuống đi đến bờ Đông bắc ao, liền thấy một bảo trướng cao hơn hai trượng. Bỗng ngài bay vào trong trướng, nửa thân vào rồi lại ra. Ngài đi vào phía Tây, nơi đây có một ngôi điện lớn, bên trong thấy một Đại đức, bảo rằng: "Những người chỉ tu hạnh Tịnh độ đều sinh trong trướng này", Đại đức tăng nói xong, Ngài liền tỉnh giấc rồi thiếp ngủ.

Lần thứ hai ngài thấy ở bờ ao phía Bắc, Bồ-tát Quán Thế Âm ngồi kiết già mặt hướng về phương Bắc, Ngài bèn lấy tay đỡ chân Bồ-tát đội trên đầu, thấy dưới chân có tướng thiên bức luân, thân Bồtát bằng sắc vàng Diêm-phù-đàn, bỗng nhiên ngài thức dậy.

Lần thứ ba, ngài mộng thấy mình đang đứng phía Nam của ao, mặt hướng về Tây, từ ao trở về phía Tây toàn là mặt nước mênh mông đầy hoa sen trong đó. Bỗng thấy Đức Phật A-di-đà từ hướng Tây đi đến trước ngài, ngài liền đầu mặt bái lạy sát đất, bái lạy xong, quỳ xuống trước Phật chắp tay bạch rằng: "Chúng sinh thế giới Sa-bà nếu y kinh tu hành có được sinh về cõi nước của Đức Thế Tôn chăng?"

Đức Phật đáp: "Này Thiện nam tử! Tất cả chúng sinh chỉ cần tu hạnh Tịnh độ đều sinh về nước Ta, chớ có nghi ngờ."

Lại trong một đêm khác, ngài mộng thấy thân mình ở thế giới Sa-bà vọng hướng về Tây, thấy cõi nước Đức Phật Di-đà bằng phẳng như mặt gương, rồi nhìn lại thế giới Sa-bà chỉ toàn là sông núi; Đông, Tây khác biệt. Trông về hướng Nam, thấy đất sông bằng phẳng, trong sông có mười lăm cái bảo trướng đều hướng mặt về phương Tây. Ngoài ra, những trướng khác đều được làm bằng bảy báu, duy một cái ở chính giữa là Bạch ngân trướng, dưới trướng đều có âm nhạc ca vịnh tán thán.

Ngài hỏi:

- Đây là trướng gì? Người ở dưới trướng đáp:

- Nơi đây đều là người được vãng sinh.

Ngài hoan hỷ phóng mình lên không bay về hướng Tây, trong giây lát liền trở về ở trong đó.

Lại vào một đêm khác Ngài mộng thấy mình đang ở trong một Phật đường, đứng ngay trước Phật, bỗng có một vị Tăng tên là Pháp Tạng, ngự trên một chiếc xe lớn đi vào Phật đường, đón Ngài lên xe rồi chở thẳng về phương Tây. Ngài Pháp Tạng tức là Đức Phật A-di-đà, xe là bốn mươi tám đại nguyện.

Lại vào một đêm, ngài mộng thấy thân mình ngồi trên tòa Liên hoa vương trăm báu, mặt hướng về Nam, ngồi thống chân thành Chánh giác.

Lại vào một đêm, ngài mộng thấy Đức Thích Ca Như Lai cùng Đức Văn-thù-sư-lợi ở trước ngài tán thán kinh Pháp Hoa.

Lại vào một đêm khác ngài mộng thấy có ba con đường lớn hướng ngay phương Tây, trên con đường thứ nhất chỉ có các vị Tăng và Ni, trên con đường thứ hai đều là người tục, cả nam lẫn nữ, trên con đường thứ ba chỉ có một vị Tăng. Những vị này đều đi về phương Tây, tức là những người được vãng sinh vậy. Ngài hiện nay vẫn chưa viên tịch.

2. Sa-môn Đàm Loan Pháp Sư: Người làng Vấn Thủy, huyện Tinh Châu, vào cuối đời Ngụy đầu năm Cao Tề ngài vẫn còn tại thế. Ngài là vị thần trí cao siêu, nhiều nước biết danh, là bậc thông hiểu các kinh, có trí tuệ hơn người nên vua nước

Lương là Tiêu vương thường hướng về phương

Bắc lễ lạy ngài.

Bồ-tát Đàm Loan có chú giải Vãng Sinh luận của Bồ-tát Thiên Thân, phân làm hai quyển. Pháp sư còn soạn tập kinh Vô Lượng Thọ, làm kệ tán gồm một trăm chín mươi lăm câu, mỗi câu bảy chữ và Vấn đáp một quyển, nay vẫn còn lưu hành ở đời để khuyên dạy người đạo kẻ tục quyết định vãng sinh, được thấy chư Phật. Ngài thường thưa thỉnh Bồ-tát Long Thọ mong lúc lâm chung được Bồ-tát khai ngộ y như những gì ngài cầu nguyện. Khi báo thân đã mãn, trong hư không bỗng hiện hình một Thánh tăng đi vào thất.

Vị tăng đó nói: "Tôi là Long Thọ đây."

Bồ-tát bèn nói với ngài rằng: "Lá đã rơi không thể gắn lại cành, lúa chưa bó không thể tìm trong bồ, bạch câu chạy ngang qua khe hở không thể lưu lại dầu trong giây lát, quá khứ đã qua không thể trở lại, vị lai chưa đến không thể truy tìm, hiện tại là thời khắc nào? Thời gian không bao giờ trở lại."

Pháp sư liễu đạt ý chỉ thâm diệu này, biết là mình sắp mạng chung. Nửa đêm hôm đó, ngài sai các sứ giả bảo đệ tử xuất gia và đệ tử bạch y khắp nơi trong các thôn làng khoảng hơn ba trăm người, nhất loạt tụ họp về chùa. Pháp sư tắm gội, đắp y mới, tay bưng lư hương, ngồi hướng mặt về phương Tây, dạy bảo môn đồ nên cầu tịnh nghiệp Tây phương. Lúc mặt trời vừa mọc, đại chúng đồng thanh niệm Phật Di-đà, khi đó ngài liền mạng chung.

Về phía Tây chùa ngoài năm dặm có một ngôi chùa Tỳ-kheo-ni cũng đều là môn đồ của ngài, sau khi minh tướng xuất hiện, chúng cùng vào Trai đường ăn cháo, bỗng mọi người cùng nghe trên hư không có âm nhạc vi diệu từ Tây đi về hướng Đông, trong đại chúng có một trí giả bảo chúng rằng: "Pháp sư Hòa thượng cả một đời dạy người tu hạnh Tịnh độ, nay những âm thanh này đi về hướng Đông ắt có điều cảm ứng hiện ra đón rước ngài." Đại chúng ăn xong bảo nhau đến hầu lúc ngài ra đi, rồi cùng đợi phía trước nhưng chưa ra khỏi sân chùa thì nghe âm nhạc từ xa trên hư không đi về hướng Tây. Ni chúng đến chùa thì thấy ngài đã vãng sinh rồi. Y theo kinh luận thì điều này quyết định ngài đã được vãng sinh về Tây phương vậy.

3. Đăng Pháp Sư: Người đời Tùy ở chùa Hưng quốc huyện Tịnh châu. Ngài xuất gia từ thuở nhỏ, tinh tấn tu hành, đạo tâm rất kiên cố, giảng kinh Niết-bàn, đạo tục người lớn kẻ nhỏ đều đến nghe, hễ từ Sa-di trở lên ngài không cho đứng mà bảo phải ngồi để nghe thuyết diệu pháp, ngài truyền trao đại chúng danh hiệu Phật A-di-đà, khuyên dạy mọi người cùng vãng sinh Tây phương Tịnh độ. Lại một đời tu hành, đốt hương thanh tịnh tụng niệm tu tạo phước nhiều, Từ bi vô lượng, các loài chim như tu hú, bồ câu thường đậu trong lòng bàn tay ngài mà ăn. Vào khoảng năm Khai Hoàng thứ 12 đời Tùy, ngài mạng chung ở Bổn tự, lúc đó đại chúng đều nghe có mùi hương lạ. Ngài lên đường có mây thơm ở phương Tây đến rước. Mọi người trong làng cũng như trong thành, hễ ai nghe tin thì bất kể già hay trẻ, nam hay nữ đều đến tiễn ngài vào rừng. Đã có tướng này ắt được vãng sinh Tịnh độ vậy.

4. Hồng Pháp Sư: Người Tinh Châu, đời Tùy là chủ nội đạo tràng Hán vương vào khoảng năm Nhân Thọ thứ tư ngài xuất gia, lúc còn nhỏ tuổi, một đời tinh tấn, tay không cầm tiền bạc, cúng dường Tam bảo, nhiếp hóa người có duyên, thường chuyên tâm tu tịnh nghiệp kỳ hẹn được thấy Phật Di-đà. Lúc lâm chung, tâm nhân sáng suốt thanh tịnh, Ngài được thấy thiện nam, thiện nữ trên cõi trời Đâu-suất xuống đón rước, họ đến bên Pháp sư, tay bưng cà sa, thỉnh ngài mau về trời. Pháp sư quở rằng: "Tôi không hẹn cõi này", rồi không chịu đi. Trong khi đó, đồ chúng ở một bên niệm Phật Diđà, bỗng thấy Hóa Phật Bồ-tát cõi Tây phương Tịnh độ đến rước, Ngài liền bảo đại chúng: "Bồ-tát trong cõi Tịnh độ mà tôi kỳ hẹn nay đã đến rước." Lúc đó ngài liền mạng chung.

5. Pháp Sư Tăng Diễn: Người làng Vấn Thủy huyện Tinh Châu, ngài xuất gia từ thuở nhỏ, chuyên tâm tu học, giảng bốn bộ kinh luận Niếtbàn, Nhiếp luận, Thập Địa và Địa Trì thảy đều tinh tường thuần thục. Ngài viên tịch năm 96 tuổi, nhằm năm Trinh Quán thứ 16. Khoảng năm, sáu năm ngài chuyên niệm Phật A-di-đà, sau khi quay về với pháp môn Tịnh độ, trong một ngày đêm Ngài lạy Phật A-di-đà kỳ hạn năm trăm lạy, về sau dần dần tăng thêm. Vào những ngày biết mình sắp mất, trong một ngày đêm ngài lạy một ngàn lạy, niệm danh hiệu Phật A-di-đà được bảy, tám vạn biến, chưa từng giải đãi. Ngày lâm chung, ngài bảo đệ tử rằng: "Đức Phật A-di-đà đến trao y thơm cho tôi, Bồ-tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí v.v... cùng Thánh chúng đầy khắp hư không, từ đây về phương Tây thuần là Tịnh độ." Nói xong ngài viên tịch. Trước đó, pháp sư hoàn toàn chưa có chí nguyện cầu vãng sinh nhưng đến khi được chín mươi tuổi trở đi, ngài gặp Pháp sư Đạo Xước giảng kinh Vô Lượng Thọ và kinh Quán mới bắt đầu hồi tâm, khoảng bốn, năm năm. Cảnh tượng xảy ra khi lâm chung như nói ở trên.

6. Sa-Môn Đạo Xước Pháp Sư: Cũng là người Tấn Dương huyện Tinh Châu, ngài chính là đệ tử huyền tôn dưới ba đời của Pháp sư Đàm Loan, một bậc cao đức đã nói ở trên. Mỗi khi giảng bộ kinh Niết-bàn, ngài thường tán thán Pháp sư Đàm Loan là bậc trí đức cao siêu và tự than rằng: "Ngài cách ta ngàn dặm cao vời, thế mà còn bỏ giảng thuyết, tu hạnh Tịnh độ, đã được vãng sinh. Huống chi ta đối với Ngài chỉ là đứa trẻ, những điều hiểu biết có là bao?" Noi theo đức của Pháp sư mà tu theo đại nghiệp, khoảng năm năm trở lại ngài bèn bỏ giảng thuyết tu hạnh Tịnh độ, một lòng chuyên niệm Phật A-di-đà, lễ bái cúng dường tương tục không gián đoạn. Từ năm Trinh Quán trở đi, vì khai ngộ cho kẻ hữu duyên nên ngài luôn luôn diễn nói kinh Vô Lượng Thọ và một quyển kinh Quán để chỉ bày và khuyên dạy mọi người ở khắp nơi, người đạo kẻ tục từ bảy tuổi trở lên trong ba huyện Tấn dương, Thái nguyên, Vấn thủy đều biết niệm Phật Di-đà. Dùng hạt đậu nhỏ để tính số, người tinh tấn bậc thượng niệm Phật A-di-đà được tám mươi thạch hoặc chín mươi thạch; người tinh tấn bậc trung niệm được năm mươi thạch, còn người tinh tấn bậc hạ niệm được hai mươi thạch. Ngài thường dạy những kẻ hữu duyên không được hướng về phương Tây khạc nhổ và đại tiểu tiện, mỗi khi ngồi hay nằm cũng không được quay lưng về phương Tây.

Ngài soạn An Lạc tập hai quyển còn lưu hành ở đời. Khoảng năm Trinh Quán thứ mười chín nhằm ngày 24 tháng 4 năm Ất Tỵ, hết thảy người đạo kẻ tục nếu tính riêng môn đồ trong ba huyện đến tiển biệt thì người trước kẻ sau nối nhau không dứt, khó có thể tính kể. Đến ngày 27 thì Ngài thọ chung ở chùa Huyền Trung. Lúc đó có đám mây trắng từ phương Tây bay đến biến làm ba đường bạch quang từ trong phòng Ngài chiếu suốt ra bên ngoài, đến khi nhập liệm mới hết. Về sau lúc thiêu nhục thân để nhập lăng mộ, lại có ba đường hào quang ngũ sắc chói sáng hiện ở trong hư không nhiễu quanh vầng mặt trời, nhiễu xong mới dừng. Lại có đám mây sắc tía hiện ba lần ở trên lăng mộ, chúng đệ tử dự đám tang đều thấy điềm lành này. Nếu y theo kinh mà suy thì đều là do căn lực từ thiện của chư Phật khiến chúng sinh thấy những việc như thế. Lại theo bài kệ trong kinh Hoa Nghiêm nói rằng:

Thấy ánh quang minh là thấy Phật
Quang minh giác ngộ người mạng chung
Niệm Phật Tam-muội ắt thấy Phật
Sau khi mạng chung sinh Phật liền.

II. Tỳ-Kheo-Ni Được Vãng Sinh, có bốn người.

1. Ni sư Pháp Thạnh: Họ Nhiếp người Thanh

Hà. Vào năm Nguyên Gia 10, Ni sư xuất gia ở chùa Kiến Phước, đạo đức cao dày, thường nguyện sinh về nước An Dưỡng. Ni sư nói với pháp hữu là Đàm Kính, Đàm Ái rằng: "Tôi lập thân hành đạo, chí nguyện chỉ cầu sinh về Tây phương mà thôi." Năm Nguyên Gia thứ 16, ngày 27 tháng 9, trong khi lễ Phật dưới tháp thì nhuốm bệnh, lúc đầu nhẹ nhưng lại kéo dài và ngày càng nặng thêm. Vào một đêm cuối tháng, đầu đêm Ni tỉnh thức thấy Đức Như Lai cùng hai vị đại sĩ từ trên không xuống, rồi cùng đại chúng cỡi hoa sen thơm hoan hỷ đến thăm bệnh của Ni, hào quang sáng ngời. Cả chùa đều thấy việc như thế đến hỏi Ni rằng: "Đó là hào quang gì thế?" Pháp Thạnh bèn nói rõ cho đại chúng biết điềm lành vừa hiện ra, nói xong rồi mệnh chung, năm đó Ni sư đã được bảy mươi hai tuổi. Các ông như Dự Chương Thái Thú, Ngô Quận, Trương Biện hết lòng tôn kính bèn đem việc này truyền thuật với mọi người.

2. Truyện ni Pháp Thắng: Ở Nam Tự, Ngô Quận chép rằng: "Ni Pháp Thắng xuất gia sau khi trụ ở chùa, bèn đến kinh sư tiến tu thiền luật, gồm thông định tuệ, tham cứu chỗ sâu nhiệm một cách rõ ràng, dạy dỗ những người bà con, không cần nhắc nhở mà họ vẫn thành tựu." Đối với các pháp thiền tịnh thì lấy pháp niệm Phật cầu sinh Tây phương làm hạnh nghiệp. Lúc lâm chung, ni sư được Đức Phật Di-đà phóng hào quang soi chiếu rồi viên tịch.

3. Truyện ni Quang Tĩnh: Ở Trung Tự, Quảng Lăng chép: Ni sư Quang Tĩnh họ Hồ người Ngô Hưng. Ni sư xuất gia từ thuở nhỏ, lúc thiếu thời đã có đức hạnh cao vời, thường tu tập thiền định trí tuệ, không ăn món béo ngọt, thiền giả theo tu học có hơn một trăm người. Ni sư thường lấy pháp niệm Phật thanh tịnh làm hạnh nghiệp, lúc lâm chung được hương thơm và nhiều tướng lạ đầy khắp hư không đến đón rước mà tịch.

4. Ni sư Đại Minh Nguyệt: Là người Bình Diêu Giới Châu, thuở nhỏ xuất gia trụ ở chùa Độ Thoát. Khoảng năm đầu niên hiệu Trinh Quán lúc ni sư gần sáu mươi tuổi, gặp pháp sư Đạo Xước ở chùa Huyền Trung giảng kinh Vô Lượng Thọ và dạy pháp niệm Phật. Ni sư hễ mỗi khi niệm Phật thì trước đắp y sạch, miệng ngậm trầm thủy hương, đốt hương thơm khắp tịnh thất rồi tụng niệm, liên tục như vậy ba, bốn năm liền không dứt. Lúc sắp lâm chung, niệm Phật cũng không giảm, đại chúng đều thấy quang minh, trong quang minh nghe có mùi hương trầm thủy đến tiếp rước, lúc đó ni sư liền mạng chung. Pháp đệ là Thiếu Minh Nguyệt bấy giờ cũng như ni sư, lấy pháp niệm Phật làm hạnh nghiệp. Lúc vô thường đến cũng cảm được các tướng tốt lành... khó mà kể hết. Người đạo kẻ tục nghe việc này đều cùng niệm Phật.

III. Ưu-bà-tắc được vãng sinh, có năm người:

1. A Đàm Viễn: Người Lô giang. Ông vâng theo lời Phật dạy một cách tinh tấn, thọ trì giới Bồtát. Năm ông mười tám, mười chín tuổi, khoảng niên hiệu Nguyên Gia đời Tống bèn quay về tu theo pháp môn Tịnh độ, để mong được cảm ứng. Ông thỉnh mấy vị tăng, trong đó sư chủ là Tăng Hàm, Viễn thường thưa hỏi ngài về việc sám hối, vì sợ có tội lỗi nhưng rốt cuộc cũng không thấu đáo. Tăng Hàm thường khích lệ, khuyên ông chớ có giải đãi. Đến năm Nguyên Gia thứ 10, ngày 16 tháng 2, ban đêm khi tụng kinh xong, lúc chúng Tăng đã ngủ, vào canh tư ông tự xướng rằng: "Ca tụng! Ca tụng!" Tăng Hàm ngạc nhiên hỏi ông.

Ông đáp: "Tôi thấy thân Phật màu vàng ròng, thân hình lớn, nhỏ như pho tượng, kim quang khắp thân, phun hoa buông rải đầy cả hư không, Ngài từ phương Tây đến bảo tôi hãy đi mau."

Đàm Viễn thường bị bệnh khổ, hơi thở gấp gáp có khi muốn dứt, nhưng đêm hôm đó lại khỏe mạnh, điệu bộ vui vẻ liền đứng dậy thỉnh chúng Tăng. Tăng Hàm thoa hương thơm vào tay, lấy hoa từ xa rải cúng Phật.

Người mẹ bảo Đàm Viễn: "Như nay con đi, chẳng thương nhớ mẹ sao?"

Đàm Viễn không nói lời nào, chợt ông nằm xuống. Gia đình ông vốn đủ đức tin, khi nghe điềm lạ linh ứng này thảy đều vui mừng cung kính, không ai buồn sợ. Đến canh năm bỗng nhiên ông mạng chung, trong nhà có mùi hương thơm lừng mấy ngày mới hết.

2. Ngụy Thế Tư: Là người Lương Quận. Bộ Tuyên tường ký ghi chép việc ông và hai con, ba người được vãng sinh Tịnh độ. Ông hành theo Phật pháp một cách tinh tấn, các con noi theo tu hành, duy vợ còn mê muội lo buồn, không tin Phật pháp. Vào năm đầu Nguyên Gia đời Tống, cô con gái mười bốn tuổi mang bệnh mà mất, được bảy ngày thì sống lại, bảo ông hãy thiết lập một tòa cao và kinh Vô Lượng Thọ, Thế Tử liền vì con bày kinh tòa đầy đủ. Cô con gái trước đây tuy có giữ trai giới và lễ Phật nhưng chưa từng xem kinh liền lên tòa ngồi, tụng đọc chương cú rõ ràng và trôi chảy. Tụng xong cô bước xuống thưa cha rằng: "Trước đây con mất được sinh về cõi Vô lượng thọ, thấy cha, anh và con ba người sau này sẽ hóa sinh vào hoa phù dung lớn đã có trong ao, còn riêng mẹ thì không, vì thương mẹ quá nên con quay về thưa rõ." Nói xong cô lại mất. Mẹ cô nghe nói như vậy mới kính tin Phật pháp.

3. Trương Nguyên Tường: Là người huyện Vạn Niên Ung châu. Ông bẩm tánh thuần hậu ngay thẳng, giữ giới, thường tụng kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán và lấy pháp niệm Phật Di-đà làm hạnh nghiệp. Khoảng tháng 5, năm khai Hoàng 20, đời Tùy, ông ngã bệnh, đến ngày mồng 3 tháng 6, vào giờ thìn bỗng nhiên ông đòi ăn: "Thức ăn chay của tôi đâu mang đến gấp đây cho tôi." Ăn xong, ông đốt hương thơm niệm Phật, ngay lúc đó mạng chung. Sau khi ông mất, thi thể ông được giữ lại hơn hai hôm mới đưa vào rừng, mà sắc diện không khác gì lúc còn sống, mọi người không ai không khen đó là điềm lành, chắc nhờ sức thiện căn mà khiến được như thế.

4. Lại Có Một Lão: Ông người huyện Phần dương Tinh châu, người truyền thuật không rõ họ tên ông. Khoảng năm Trinh Quán thứ năm, khi nghe nói về công đức vãng sinh Tịnh độ ông liền đem lương thực nương chùa Pháp nhẫn trên núi, theo chúng Tăng xin ở một căn phòng, ngày đêm chuyên niệm Phật A-di-đà chẳng màng ngủ nghỉ. Khoảng mười lăm năm tu pháp niệm Phật, lúc sắp mạng chung đồ chúng sai sứ giả gọi cô con gái đến để chăm sóc ông.

Ông nói với chúng rằng: "Những ngày gần đây ở cõi Tây phương có vô lượng sư tăng đều từ phương tây theo hướng đông đi đến, giống như chúng Tăng đi phó trai vậy."

Lại bảo cô con gái rằng: "Ngày mai có ánh sáng soi chiếu thân ta, con chớ cho là điều kỳ lạ."

Hôm sau quả như lời ông nói, có ánh sáng chiếu đến khắp cả căn phòng, lão ông hướng về Tây như muốn leo lên vật gì. Ngay lúc đó ông liền mạng chung.

5. Nghe Nói Có Một Người Không Rõ Họ Tên: Tánh tình hiểm ác, lại không tin nhân quả, thường làm nghề săn bắn, giết hại. Ông mang bệnh, lúc lâm chung thấy các địa ngục đủ thứ khổ đau và những chúng sinh bị giết hại đều đến đòi mạng.

Ông ăn năn nói rằng:

- Tôi bình sinh không tin lời sư Tăng dạy, những gì tôi thấy hôm nay đúng như Kinh đã nói.

Bèn bảo người nhà:

- Các ngươi cứu ta. Vợ và các con nói:

- Làm sao cứu được? Người đó bảo rằng:

- Các người nếu như không thể cứu ta được thì hãy mau sai một người đến chùa thỉnh một thầy đến cứu ta vậy.

Người nhà liền y theo lời thỉnh được một thầy.

Người đó thấy vị thầy đến lòng bi ai khóc lóc nói:

- Xin thầy từ bi cứu con. Thầy bảo rằng:

Đàn-việt bình sinh không tin Tam bảo, hôm nay sắp mất mới cứu khó có thể cứu được.

Người đó nói:

- Đúng vậy! Thầy đọc kinh Phật, như con là người có tội, lúc sắp mất có pháp gì cứu được chăng?

Thầy đáp rằng:

- Kinh Quán có văn nói về pháp cứu tội. Người đó bỗng nhiên hớn hở vui mừng nói:

- Đức Phật dạy có địa ngục, y như lời Ngài tức có địa ngục; Đức Phật dạy được vãng sinh, con nhất định được vãng sinh vậy.

Rồi bảo người nhà:

- Hãy đem hương và lửa đến đây.

Người nhà đốt lửa và đem lò hương trao cho, người đó nói rằng:

- Ta nay trong chốc lát nữa phải đọa vào địa ngục, ở trong vạc sôi lò lửa, sao lại dùng lò hương, hãy đem lửa đến để trong tay ta.

Bên tay trái đốt lửa, tay phải cắm hương, mặt hướng về phương Tây chí tâm niệm Phật, chưa đầy mười niệm liền bảo mọi người rằng: "Đức Phật từ phương tây đến, đại chúng rất đông đều phóng quang minh, Ngài trao cho ta tòa sen." Nói xong liền mất. (Đây là mười niệm được vãng sinh).

IV. Ưu-bà-di được vãng sinh, có năm người:

1. Vợ của Tĩnh Văn: Huyện Úy Ôn không rõ họ gì, là người Tấn, Dương Tinh châu, sớm mang bệnh bán thân bất toại, thường nằm trên giường.

Chồng bảo vợ rằng:

- Suốt ngày nằm đất, sao không niệm Phật?

Vợ hỏi chồng:

- Niệm Đức Phật nào? Chồng đáp:

- Niệm Phật Di-đà.

Trong vòng hai năm miệng thường niệm Phật, bỗng nhiên tội chướng tiêu trừ, hiện tiền được thấy cõi nước Đức Phật Di-đà, bà vui mừng tạ ân chồng rằng: "Lúc bệnh hoạn dài lâu tôi làm khổ ông quá nhiều, nay may thay được Ông dạy cho pháp niệm Phật A-di-đà!"

Hôm sau liền đi mời cha mẹ anh em thiết riêng một bữa chay để từ biệt họ.

Chồng nghi ngờ hỏi:

- Lẽ nào có việc phàm phu mà được thấy cõi Phật, chẳng phải là cái thấy của kẻ phong tà điên loạn sao?

Vợ đáp:

- Quả nhiên chẳng phải là bị bệnh phong cuồng. Bà bèn thưa với cha mẹ và những người thân quyến rằng lúc bà thiết trai thì đến. Bà sai người trải năm tấm thảm ở phía trước phàm tăng, nghĩ định Thánh chúng sẽ ngồi. Đến thời bà xa thấy Thánh chúng ở trên hư không nhưng không xuống, liền thầm nghĩ rằng vì e Tăng còn tạp uế Thánh chúng không chịu ngồi chung nên bèn sai người đem thảm để trên bình đầu nhà để Thánh chúng ngồi rồi đem thức ăn dâng cúng. Lúc chúng Tăng ăn xong bà thúc giục cả nhà tập họp lại, rồi nói pháp chỉ dạy: "Tôi nay gấp theo Thánh chúng vãng sinh Tây phương, mong rằng cha mẹ bà con thảy đều niệm Phật, ngày sau sẽ vãng sinh Tây phương Tịnh độ không thể nghĩ bàn." Bà nói xong mặt hướng ngay phương Tây, cùng chúng niệm Phật, ngay đó liền mạng chung. Hạng người như thế thật không thể kể hết.

2. Lại trong khoảng năm Đại Nghiệp đời Tùy, ở Cú sơn huyện Vấn thủy Tinh châu có một làng, trong đó có lão ông và lão bà hai người không con cái. Trong nhà có mười lăm miệng ăn, lương thực đủ tự nuôi sống quanh năm. Hai vị đều hiểu rõ cuộc đời là khổ đau, không thật nên vào ngày 29 mỗi tháng thường thỉnh hai vị sơn tăng tụng kinh niệm Phật suốt đêm, sáu mươi gia đình trong làng đều đến tùy hỷ nghe pháp và thọ giới. Thường thường vào ngày cuối tháng đều thiết trai như thế. Hễ vào lúc thiết trai lão mẫu giữ gìn thanh tịnh, tự tay mình làm thức ăn.

Lão phụ bảo lão mẫu rằng? "Thân thể bà đã suy yếu, chỉ nên dạy bảo gia nhân, sao phải tự tay làm cho mệt nhọc?"

Lão mẫu nói lão phụ rằng: "Tôi sợ không biết nhắm mắt lúc nào nên không thể nhờ người khác, như dạy bảo gia nhân thì đó chỉ là phước thiện của họ mà thôi."

Vì thế hễ mỗi lúc thiết trai bà đều tự tay làm lấy. trong vòng hai, ba năm tương tục không dứt, công đức tu tạo, hạnh nghiệp tụng kinh niệm Phật, bà đều hồi hướng Tịnh độ. Ngày lâm chung người trong thôn đều đông đủ, đầu đêm bỗng có hào quang chiếu vào phòng khiến đèn nến mờ nhạt, ánh sáng giống như ban ngày, đâu đây đều vang tiếng niệm Phật, một lát sau thì thấy rất đông Bồ-tát cầm bảo cái trang nghiêm vi diệu đầy khắp trong sân, lúc đó lão bà liền mạng chung có tướng thắng diệu như thế.

3. Lại niên hiệu Trinh Quán đời Đại Đường: Trở lại, không rõ tháng năm nào, về phía Đông huyện Vĩnh An, châu Lạc tám dặm có một làng tên là Bàn Long, trong đó có một bà lão mù lòa, họ Lương. Nhân có thầy dạy bà niệm Phật A-di-đà, cũng nhờ đời trước có gieo trồng căn lành nên qua một lần chỉ dạy, từ đó về sau bà niệm Phật tương tục. Sau ba năm, hai mắt sáng trở lại, mắt đã sáng rồi bà càng thêm tụng niệm. Lại tròn bốn năm khi nghiệp báo cõi diêm phù đã hết, lúc sắp mạng chung, mọi người trong làng đều thấy chư Phật, Bồ-tát cầm tràng phan, bảo cái xuống nghênh rước, lúc đó bà liền mạng chung. Cả làng đều kính ngưỡng cho bà là bậc phi phàm nên không cho chôn cất mà cùng nhau xây tháp thờ bà ở phía Tây làng. Tháp nay hiện vẫn còn ở bên đường, những người trong thôn qua lại trước tháp không ai không hết lòng kính ngưỡng, người lớn kẻ nhỏ trong làng đều xưng tán Phật.

4. Lão Bà họ Bùi: Là người Tấn Dương Tinh Châu. khoảng niên hiệu Trinh Quán trở lại, gặp thầy dạy dùng hạt đậu nhỏ đếm khi niệm Phật, bà niệm Phật A-di-đà được mười ba thạch. khi báo thân đã hết bà tự biết cõi mình được sinh về, bèn từ biệt người đạo kẻ tục khắp nơi, nói sẽ ra đi vĩnh viễn. Hôm sau vào lúc thiết trai, bà bảo người trong nhà rằng: "Hãy lấy lửa đốt hương, Đức Phật A-diđà đem đến hai đài liên hoa và trao cho tôi một cái". nói xong bà liền mạng chung.

5. Diêu Bà: (lão bà họ Diêu) đã có chồng, là người huyện Lễ Tuyền Ung châu. Bà được thầy dạy lấy việc niệm Phật A-di-đà làm hạnh nghiệp, khoảng năm Trinh quán thứ hai mươi hai, ngày hai mươi tháng bảy, lúc bà mất, Đức Phật A-di-đà và Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí cùng vô lượng Bồ-tát đều đến nghênh rước. Vì chưa từ biệt Phạm bà (lão bà họ Phạm), vị Thiện tri thức của mình, bà thỉnh Phật cho đợi thêm giây lát, Đức Phật liền hứa khả, lát sau Phạm bà đến, bà ngoảnh về Phạm bà, nói xong từ biệt mà đi.

CHƯƠNG VII

So sánh sự hơn kém giữa cõi tây phương và đâu-suất.

Hỏi: Cõi Đâu-suất Thiên cung và Tịnh độ của Đức Phật A-di-đà, hai cõi này đều là cõi mà kinh Phật tán thán, nhưng tôi chưa biết cõi nào hơn, cõi nào kém?

Đáp: Hai cõi này đều có ba nghĩa, chưa biết ông hỏi về nghĩa nào.

Ba nghĩa đó là:

Hóa chủ: Là Phật.

Xứ sở: Là thế giới.

Chúng sinh được hóa độ: Là người vãng sinh.

Nếu nói về nghĩa Hóa chủ thì hai Phật như nhau, đồng là đấng Pháp vương, đều được tôn xưng là Đấng Thiện Thệ, thân tướng đầy đủ muôn đức, cõi nước vạn điều tốt đẹp cũng đều để hóa độ chúng sinh. Nếu như ở cõi uế thì gò nổng đầy khắp mọi nơi, còn ở cõi Tịnh thì các vật báu lạ khắp chốn. Nhưng nếu muốn so sánh về công đức thì hai Phật không có hơn kém, còn luận về cõi nước thì có sự hơn, kém. Vả lại Thiên cung cõi Đâu-suất thì được thành lập trên không, còn thế giới Cực lạc thì được an lập trên đất. Thế thì chỗ ở hư không (Đâusuất) và thật (Tịnh độ) khác nhau, nẻo người, trời sai biệt. Nếu căn cứ cõi này (Sa-bà) để luận về việc thác sinh, thì cõi trời là ưu việt, cõi người là hạ liệt. Còn luận về sự tịnh, uế thì Đâu-suất tuy là thiên cung nhưng vì có người nữ nên gọi là uế, cõi Cực lạc tuy là địa giới nhưng vì không có nữ nhân nên gọi là tịnh. Tịnh và uế này có mười loại khác nhau: 1) Có người nữ và không có người nữ khác nhau: Cõi Đâu-suất nam và nữ ở lẫn lộn, còn cõi Cực lạc chỉ có nam không có nữ.

2) Có dục và không dục khác nhau: Đâu-suất có thượng tâm dục, nhiễm trước cảnh, còn cõi Cực lạc không có thượng tâm dục nên thường phát tâm Bồ-đề.

3) Thối, bất thoái khác nhau: Cõi Đâu-suất có thoái chuyển, còn cõi Cực lạc thì không thoái chuyển.

4) Thọ mạng khác nhau: Cõi Đâu-suất thọ mạng bốn nghìn năm nhưng vẫn có thể chết yểu giữa chừng, còn cõi Cực lạc thọ mạng vô lượng Atăng-kỳ kiếp, không có người chết nữa chừng.

5) Tâm có ba tánh khác nhau: Cõi Đâu-suất thì tâm có ba tánh xen khởi nên ác tâm khiến đọa địa ngục, còn cõi Cực lạc chỉ có người thiện tâm sinh về đó nên vĩnh lìa ác đạo.

6) Ba thọ tâm khác nhau: Cõi Đâu-suất ba thọ xen khởi, còn cõi Cực lạc chỉ có lạc thọ.

7) Sáu trần cảnh khác nhau: Sáu trần cõi Đâusuất khiến người phóng dật, còn sáu trần cõi Cực lạc khiến người phát tâm Bồ-đề.

8) Thọ sinh khác nhau: Đối với cõi Đâu-suất thì nam sinh trên đầu gối cha, nữ trên đầu gối mẹ, còn cõi Cực lạc thì thọ sinh trên hoa sen trong ao bảy báu.

9) Thuyết pháp khác nhau: ở cõi Đâu-suất chỉ có Phật và Bồ-tát thuyết pháp, còn ở cõi Cực lạc nước, chim, rừng, cây đều có thể thuyết pháp.

10) Chứng quả khác nhau: Người sinh về Đâusuất hoặc chứng Thánh hoặc không, còn người sinh về Cực lạc nhất định chứng vô thượng Bồ-đề. Nếu đứng về nghĩa này mà so sánh thì cõi Tây phương rất ưu việt, cõi Đâu-suất rất kém cỏi vậy. Còn như luận về người vãng sinh thì vãng sinh về Tây phương dễ, sinh lên Đâu-suất khó. Sự khó và dễ này cũng có bảy loại khác nhau:

Xứ khác nhau: Cực lạc là cõi người, Đâu-suất là cõi trời. Thế thì sinh lên cõi trời (Đâu-suất) khó, sinh về cõi người (Cực lạc) dễ.

Nhân khác nhau: Đối với cõi Cực lạc người chỉ giữ năm giới cũng được vãng sinh, còn cõi Đâusuất phải tu đủ mười nghiệp thiện mới được sinh lên.

Hạnh khác nhau: Đối với cõi Cực lạc người niệm Phật nhẫn đến mười niệm thành tựu liền được vãng sinh (rút trong kinh Quán), còn đối với cõi Đâu-suất phải đủ ba pháp Bố thí, trì giới, tu nhân mới được sinh lên (trong kinh Di-lặc).

Tự lực, tha lực khác nhau: Đối với cõi Cực lạc hành giả nương tha lực bốn mươi tám đại nguyện của Đức Phật A-di-đà để vãng sinh, còn sinh về cõi Đâu-suất không có nguyện để nương, chỉ sinh lên nhờ tự lực.

Có thiện tri thức, không thiện tri thức khác nhau: Cõi Cực lạc có hai vị đại Bồ-tát là Quán Thế Âm và Đại Thế Chí thường đến Sa-bà khuyến tấn vãng sinh, lúc lâm chung tay bưng đài Kim cang đến đón rước hành giả, hết lòng tán thán khuyến tấn tâm mình, liền được vãng sinh. Còn cõi Đâusuất không có hai vị Bồ-tát này, chỉ do sự nỗ lực để được sinh lên.

Kinh luận khuyên vãng sinh nhiều ít khác nhau: Đối với cõi Cực lạc trong các kinh đều tán thán, trong các luận đều khuyên vãng sinh, còn đối với cõi Đâu-suất không những trong kinh ít tán thán mà trong luận cũng ít khuyên sinh lên.

Xét các Đại đức xưa nay, hướng về nhiều ít khác nhau: Đối với cõi Cực lạc các bậc đại trí, danh tăng từ thời thượng cổ đến nay hướng về đó rất nhiều, còn đối với cõi Đâu-suất, các bậc đại đức từ thời thượng cổ đến nay nguyện sinh lên thì ít.

Do nghĩa này nên vãng sinh Tây phương thì dễ, còn sinh lên Đâu-suất thì hơi khó vậy.

CHƯƠNG VIII

Nói rõ về thời điểm giáo thuyết hưng khởi chính là lúc sám hối niệm Phật.

Hỏi: Phật đạo rỗng không cần phải từ tuệ mà thành; Niết-bàn áo nghĩa sâu kín ắt cần nhờ định mà sinh. Thế thì định, tuệ là nền tảng của muôn hạnh, muôn hạnh là gốc của đại đạo. Nay bèn chuyên chú tôn sùng niệm Phật, quán tưởng cảnh giới Tây phương, như thế tôi vẫn còn do dự, mong ngài giải thích cho.

Đáp: Phật giáo vô lượng pháp môn, mối manh chẳng phải một; chúng sinh không đồng, căn tánh muôn ngàn sai khác. Không những pháp được phân biệt theo người nên giáo có cạn, sâu không đồng mà người cũng được phân biệt theo thời nên căn tánh có lợi, độn sai khác. Vì thế đối với giáo thì mở thành tám vạn bốn nghìn pháp môn, thời thì phân làm năm loại sai biệt. Do vậy mà bảo rằng hành giả tu đạo cần phải quán thời, nếu thời và giáo khế hợp thì Phật đạo dễ chứng, thời và giáo trái nhau thì Bồ-tát không thể chứng đắc. Cho nên kinh Chánh Pháp Niệm nói: "Lúc hành giả nhất tâm cầu đạo thường phải quán sát thời và phương tiện. Nếu không hợp thời và không có phương tiện thì gọi đó là trái, chẳng gọi là lợi."

Như kinh Đại tập, phần nguyệt tạng, thời ra làm năm trường hợp:

1. Sau khi Phật diệt độ, năm trăm năm thứ nhất các đệ tử của Ta Tu Tuệ được kiên cố, gồm tu các hạnh.

2. Năm trăm năm thứ hai tu định được kiên cố, gồm tu các hạnh.

3. Năm trăm năm thứ ba nghe nhiều, đọc tụng được kiên cố, gồm tu các hạnh.

4. Năm trăm năm thứ tư, tạo lập chùa tháp, tu phước sám hối được kiên cố, gồm tu các hạnh.

5. Năm trăm năm thứ năm thiện pháp bị ẩn tàng, ngưng trệ, phần nhiều có sự tranh cãi, ít có hiện pháp được kiên cố.

Nếu căn cứ kinh này thì nay là hơn năm trăm năm thứ tư, đã không có phần định, tuệ mà chỉ có tu phước sám hối, tu phước sám hối là điều hết sức thiết yếu. Khi xét các kinh, luận thì thấy rằng lễ Phật, niệm Phật, quán sát tướng hảo của Phật là pháp rất thù thắng vậy. Cho nên kinh Quán nói rằng: "Nếu hay chí tâm niệm Phật A-di-đà thì trong mỗi niệm diệt được trọng tội trong tám mươi ức kiếp sinh tử". Nay đã ước định thời và căn tánh, nếu hành giả không có phần định, tuệ thì phải chuyên niệm Phật A-di-đà cầu sinh Tịnh độ, đây là con đường cốt yếu vậy. Nếu tự biết mình có phần định, tuệ thì ở cõi này (Sa-bà) tu đạo cầu vô thượng Bồ-đề, còn tự biết mình không có phần định, tuệ thì phải tu hạnh Tịnh độ, đồng thời trong khi tu Tịnh độ lại cầu vô thượng Bồ-đề. Nên luận Trí độ nói: "Hành giả cầu A-bệ-bạt trí có hai con đường: Một là con đường khó đi, hai là con đường dễ đi, như đường thủy và đường bộ. Ở cõi này (Sa-bà) tu đạo thì khó cũng như đi đường bộ, sinh về Tịnh độ tu đạo thì dễ cũng như đi đường thủy vậy." Lại Đức Phật hóa độ chúng sinh tự có bốn pháp, như kinh Chánh Pháp Niệm nói: "Một là dùng thuyết pháp hóa độ chúng sinh, hai là dùng quang minh tướng hảo hóa độ chúng sinh, ba là dùng thần thông đạo lực hóa độ chúng sinh, bốn là dùng danh hiệu hóa độ chúng sinh." Trong bốn pháp, đối với tướng hảo và danh hiệu Phật thì chính lúc này phải quán sát tướng hảo Phật A-di-đà và xưng niệm danh hiệu Phật vậy. Như kinh Vô Lượng Thọ nói: "Vì chúng sinh đời vị lai nhận chịu năm thứ khổ, năm thứ đau đớn, năm thứ thiêu đốt nên muốn khiến chúng sinh tu hạnh Tịnh độ." Lại như kinh Quán nói: "Ta vì tất cả phàm phu đời vị lai bị giặc phiền não hại mà nói hạnh Tịnh độ." Như kinh Di-đà nói: "Vì chúng sinh đời ngũ trược mà thuyết hạnh Tịnh độ." Các kinh như Thanh Tịnh Giác, Cổ Âm Thanh Vương, Đại Tập đều thuyết như thế. Căn cứ các kinh này thì thấy rằng các kinh đều vì chúng sinh đời vị lai, cho nên biết rằng lúc này chính là lúc niệm Phật tu hạnh Tịnh độ vậy. Nếu sinh về Tịnh độ thì không những vĩnh viễn lìa xa ác đạo mà còn chóng được vô thượng Bồ-đề (Đây là đại ý các kinh luận).

CHƯƠNG IX

Dạy người pháp ưa, chán; khuyên tinh tấn thân tâm (khiến chán cõi uế, ưa cõi tịnh).

Hỏi: Nay đã là năm trăm năm thứ tư, chúng sinh không có phần định, tuệ mà chỉ sám hối niệm Phật kiên cố, vì sao ngài dạy người những pháp ưa thích và nhàm chán, khuyên tinh tấn thân tâm khiến tất cả chúng sinh đều chán cõi Sa-bà xấu ác cầu được vãng sinh Tịnh độ?

Đáp: Nay tôi dẫn kinh luận và đạo lý để dạy người về các pháp ưa thích và nhàm chán.

Nếu chúng sinh thọ nhận lời Phật dạy thì đối với thế giới Sa-bà sẽ rất nhàm chán, còn đối với thế giới Cực lạc lại sinh lòng ưa thích. Bởi vì nếu hay phát tâm Bồ-đề, chuyên niệm Phật A-di-đà, tất cả đều được vãng sinh Tịnh độ. Nếu chúng sinh đối với pháp môn này không sinh lòng tin ưa, khó dạy khó ngộ, khó vớt khó thoát thì người này không thể cứu được. Nên kinh Vô Lượng Thanh Tịnh Giác nói: "Nếu có thiện nam, thiện nữ nào nghe nói về pháp môn Tịnh độ, tâm sinh tha thiết vui mừng, tóc lông dựng đứng như sắp bứt ra, phải biết thân mạng người này nhiều kiếp trong quá khứ đã hành Phật đạo. Nếu lại có người khi nghe triển khai pháp môn Tịnh độ mà không sinh tâm tin ưa, phải biết người này mới từ ba ác đạo thác sinh, đến nay, tội lỗi chưa hết, Ta bảo người này chưa có thể giải thoát." Nay y theo các kinh Niết-bàn... để khuyến tấn kẻ hậu học có trí trong lúc đêm khuya thanh vắng nên ngồi kiết già tự tư duy: "Thân này của ta mong manh như bọt nước, niệm niệm không dừng, nhà lửa là nơi không an ổn, lẽ nào lại an nhiên không tự quán sát, không chút lo sợ?" Lại tự suy nghĩ: "Ta nay đang ở nơi đâu? Nghiệp thân khẩu ý thường khởi việc gì? Nếu vô thường chợt đến phải thọ sinh vào chốn nào? Những ác nghiệp từ vô thỉ, nghiệp nào mạnh sẽ dẫn dắt ta đọa lạc về đó, khoảng từ sớm đến chiều đã là người trong địa ngục, ta còn được an ổn ngủ nghỉ trên giường này được bao lâu nữa? Vô lượng vô biên chư Phật và chư Bồ-tát trong quá khứ đã thị hiện ở đời để độ thoát chúng sinh, còn ta trôi dạt nơi nào không cầu mong Phật giáo hóa? Cũng đều vì từ vô thỉ đến nay ta bất kính Tam bảo, không gần gũi thiện nhân, không vâng lời Thiện tri thức dạy, thường ở trong ba đường ác luôn không được gặp chư Phật. Đối với mười phương Tịnh độ không khổ không não ta vì sao không được vãng sinh mà thường rơi vào cõi uế này lắm điều đau khổ? Nay thân này khó được lại dễ mất, như kinh Niết-bàn nói: "Thân người khó được như đất dính trên đầu móng tay, còn thân đọa lạc trong ba ác đạo thì nhiều như đất đại địa." Ta thọ thân từ vô thỉ kiếp đến nay kiếp số không thể tính kể, ở trong mỗi kiếp thọ thân không thể tính kể, ở trong mỗi thân tạo nghiệp nhiều như vi trần không thể tính kể, quả báo mà mỗi mỗi ác nghiệp chiêu cảm không thể tính kể, trong mỗi quả báo thọ muôn vàn khổ não không thể tính hết. Thọ nhận các khổ như thế cũng đều do ta si mê không biết vâng lời Thiện tri thức, thường phải đọa trong địa ngục. Quá khứ đã thọ, hiện nay đang thọ, vị lai sẽ thọ chưa có khi nào ngừng nghỉ. Lại nay thân này từ khi thọ sinh đến giờ vì cầu cơm áo, hoặc là người tục phải nuôi sống vợ con, hoặc là xuất gia mà cầu danh tìm lợi, thường tạo đủ các ác nghiệp. Đối với các ác nghiệp như thế, nếu là nghiệp nhẹ cũng phải chịu quả báo trong năm trăm đời, còn như nghiệp nặng thì trải hàng mấy kiếp. Nếu không phát tâm Bồ-đề hổ thẹn sám hối, một khi đọa vào ác đạo sẽ không có ngày ra, khoảng từ sớm đến chiều liền đọa vào lò lửa vạc dầu, núi dao rừng kiếm, trăm kiếp ngàn đời thọ nhận tất cả các khổ sâu nặng dài lâu. Quá khứ thân tâm đã thọ các khổ, các khổ đời vị lai cũng không bờ mé, khó bỏ khó lìa mà không hiểu biết, phàm phu như thế thật là đáng thương. Người trí tư duy như thế phải giữ tâm ý cẩn thận, há có thể an nhiên mà buông lung thân tâm không tự suy xét? Lại suy nghĩ rằng: "Thân ta phước mỏng trí chậm, sinh sau thời Phật Thích-ca, trước Đức Di-lặc, há chẳng phải trong quá khứ vì ta kiêu mạn giải đãi, bất kính Tam bảo, khinh mạn thiện nhân, không vâng lời Thiện tri thức, thường ở trong ba ác tám nạn sinh ngu si vô trí? Lại nơi thân này khinh chê tam bảo, khi miệt thiện nhân, không vâng lời Thiện tri thức. Thế thì ở đời vị lai làm sao được gặp Tam bảo, được sinh vào cõi thiện? Lại nữa, thân này dầu muốn tu đạo cũng không được an ổn, vì ở thế giới Sa-bà này, con người thọ mạng ngắn ngủi, nhiều ác tri thức, luôn làm việc ác. Hoặc áo cơm không đủ, hoặc bị vua quan bức bách, người khác khinh chê, phỉ báng, thường bị não loạn không được an ổn, vừa khởi thiện tâm liền thối thất. Lại nữa, thân này chỉ là do ba mươi sáu thứ bất tịnh tạo thành, thường chảy nơi cửu khiếu, cũng như đồ phân tiểu không nên yêu thích. Còn có sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm thạnh khổ theo đuổi luôn luôn. Người trí nên phải quán sát thân này xem như vật oan gia, như đống phân; đối với nhà cửa đồ nằm xem như gò mả, như da người; đối với đồ ăn thức uống xem như giòi bọ, như nước bẩn; đối với vợ con quyến thuộc xem như quỷ lasát, như ác quỷ. Nếu tâm thường quán sát tư duy như thế thì đối với thân này hết sức nhàm chán, nguyện đời đời kiếp kiếp mãi mãi không thọ thân này, cũng không ưa thích cùng sống chung với thân này. Vì thân này là oan gia của ta, thường dẫn ta vào ba đường ác, có người trí nào đắm trước thân này? Như kinh Di Giáo nói: "Đây là vật tội lỗi nên bỏ, giả hợp gọi đó là thân, bị chìm đắm trong biển lớn sinh, lão, bệnh, tử, có người trí nào khi diệt trừ được nó mà không vui mừng?"

(Hết phần nhàm chán)

Bây giờ nói rõ phần ưa thích. Người trí lại khởi niệm rằng: Thân ta nay sinh vào năm trăm năm thứ tư, thời mà tất cả Thánh nhân đều ẩn hình không hiện, tuy muốn tu đạo nhưng không có phần định, tuệ nên đây chính là lúc sám hối niệm Phật. Như trong kinh nói: "Đức Phật A-di-đà chèo mái từ bi, cỡi thuyền đại nguyện hóa độ tất cả chúng sinh khổ não. Nếu có người chí tâm niệm Đức Phật A-di-đà thì mỗi niệm mỗi niệm diệt được tội lỗi trong tám mươi ức kiếp sinh tử, lúc mạng chung người đó nhất định được sinh về Tịnh độ, thọ hưởng an vui, đạt được ngũ thông, bước lên địa vị bất thoái. Cõi báu rừng hoa tùy ý ngao du, viên âm thật tướng mặc tình nghe nhận; trong đài Liên hoa Đức Phật thân sắc vàng chói sáng, trên tòa Kim cang ba mươi hai tướng đại trượng phu rạng rỡ; bên thềm thất bảo quỳ hỏi lời bất nhị, trong ao bát đức rửa sạch cấu nhiễm vô minh. Mặc áo nhung lụa vừa vặn thân thể, ăn cơm trăm vị đầy ắp chén bát, đi thì có hoa sen đỡ chân, ngồi thì hoa báu nâng mình, nơi chòm cây lá lưu ly lay động, ở trong rừng hoa mã não rung cành, hương thơm ngào ngạt khắp nơi, trái ngọt đong đưa óng ánh. Lan can được chạm bằng tứ bảo, mặt đất lấp lánh thất trân, sáo phát ngàn thanh, lầu tỏa muôn sắc. Các loài chim như Bạch hạc, khổng tước thường diễn pháp Ngũ căn; Anh võ, Xá-lợi thường tuyên Bát chánh đạo, Đức Phật Di-đà sắc tướng rõ ràng, Bồ-tát Quán Âm tướng tốt đầy đủ. Các việc như thế không thể nghĩ bàn, có người nào khi nghe những lời này mà không vui mừng? (Hết phần ưa thích).

Hỏi: Trên ngài đã dạy về pháp ưa thích và chán, đối với người trí thì đã ngộ, còn kẻ độn căn vẫn chấp mê chưa tỉnh, nếu nay dạy họ phát tâm tinh tấn thì có thể khiến họ vãng sinh Tịnh độ được không?

Đáp: Như phần cuối tiểu kinh A-di-đà nói: "Mười phương chư Phật đều đưa ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp ba ngàn đại thiên thế giới" đều khuyên dạy tất cả chúng sinh vãng sinh Tịnh độ. Nhưng có chúng sinh không thọ nhận lời Phật dạy khó dạy khó ngộ, khó cứu vớt, khó giải thoát, thì biết làm sao đây? Những chúng sinh này nếu dựa theo kinh Vô lượng thanh tịnh giác nói thì họ mới từ địa ngục sinh lên đậy, tội lỗi chưa hết. Cho nên kinh này nói: "Như có thiện nam, thiện nữ nào khi nghe nói về pháp môn Tịnh độ mà tâm sinh tha thiết vui mừng, tóc lông dựng đứng, phải biết những người này trong quá khứ đã hành Phật đạo. Nếu lại có người khi nghe nói pháp môn Tịnh độ mà không sinh lòng tin ưa, phải biết những người này mới từ ba ác đạo sinh đến đây, tội lỗi chưa hết, vì thế mà không có lòng tin và chí nguyện, Ta bảo những người này chưa có thể giải thoát được." Cho nên kinh Vô Lượng Thọ nói rằng: "Kiêu mạn, hại, giải đãi, không thể tin pháp này."

Lại kinh Vô Lượng Tịnh Giác và kinh Vô Lượng Thọ, mỗi kinh đều nói: "Đường thắng diệu vô cùng, dễ mà không ai đi."

Cõi Tây phương là con đường thắng diệu vô cùng. Như có người trong bảy ngày thường chuyên tâm niệm Phật, tất cả thiện căn tu tập thảy đều hồi hướng, thì người đó liền được vãng sinh, mãi mãi lìa xa ba đường ác, nhập địa vị bất thoái, đây gọi là dễ đi. Nhưng có chúng sinh không chịu tin thọ, đam mê ngũ dục, muốn vào ác đạo như trùng trong nhà xí, đây gọi là không có người chịu đi vậy. Lại Đức Phật A-di-đà cùng Bồ-tát Quán thế Âm, Đại thế Chí cỡi thuyền đại nguyện xuôi dòng sinh tử đến thế giới Sa-bà giáo hóa chúng sinh, khiến tất cả đều bước lên thuyền đại nguyện đưa về Tây phương. Nếu có chúng sinh nào bước lên thuyền đại nguyện thì tất cả đều được đưa về, đây gọi là dễ đi. Đấng Thích-ca Như Lai và mười phương chư Phật, chư vị Bồ-tát như các ngài Phổ Hiền, Vănthù, Thiên Thân, Long Thọ hoặc đưa ra tướng lưỡi rộng dài, hoặc phóng bạch hào quang, hoặc nói năm niệm huyền môn, hoặc dạy thập nhị tán lễ ân cần khuyến tấn khiến chúng sinh được sinh về Tịnh độ. Nhưng chúng sinh không sinh lòng tin ưa, không chịu về, đây gọi là không người vậy. Lại chúng sinh từ vô thỉ đến nay tạo các ác nghiệp còn hơn số cát sông hằng, mỗi mỗi ác nghiệp chiêu cảm quả khổ cũng hơn số cát sông hằng. Nếu có người trong bảy ngày hoặc trong mười ngày thường chuyên tâm niệm Phật thì trong mỗi niệm diệt được trọng tội trong tám mươi ức kiếp sinh tử, dứt hết khổ đau thẳng sinh Tịnh độ. Đây là dễ đi. Nhưng chúng sinh chạy theo tài sắc đẹp, tham đắm lợi danh không sớm phát tâm, khi vô thường chợt đến phải đọa tam đồ, trăm ngàn vạn kiếp không có ngày ra, đây gọi là không người vậy. Lại có chúng sinh tin lời chư Phật, Bồ-tát và các Thiện tri thức, không làm theo ác tri thức, nhẫn đến tin rằng những chúng sinh tạo tội thập ác ngũ nghịch, lúc lâm chung nếu mười niệm được thành tựu thì liền vãng sinh, đây gọi là dễ đi. Nếu có chúng sinh không tin lời Phật, Bồ-tát và Thiện tri thức, nương theo những vị Tăng không có học vấn và người thế tục vô trí, trích dẫn kinh luận, giải thích Đại thừa một cách sai lầm để dối gạt người khác, khiến Phật pháp rối loạn, mê hoặc chúng sinh phế bỏ việc niệm Phật, thối thất thiện căn phải đọa lạc Tam đồ không được vãng sinh, đây gọi là không người vậy. Nếu có người nghe nói ai chuyên niệm Đức Phật A-di-đà thì được sinh về Tịnh độ, liền sám hối ác nghiệp, tu tập thiện căn, giữ giới thanh tịnh, chuyên niệm danh hiệu Phật được nhất tâm bất loạn đến trăm vạn biến, lúc lâm chung chánh niệm hiện tiền, Phật liền đến rước, đây là dễ đi. Nếu có chúng sinh dầu nghe nói về Đức Phật A-di-đà mà vẫn cố tạo tội, tuy có niệm danh hiệu Phật, nhưng tâm còn duyên năm dục, đây là người tạp niệm bị kiết sử trói buộc, lúc lâm chung tâm bị điên đảo, Phật không đến rước, đây gọi là không người vậy.

Hỏi: Kinh tuy nói niệm Phật bảy ngày tức được vãng sinh, chưa biết phải niệm bao nhiêu danh hiệu Phật mới được vãng sinh?

Đáp: Như Thiền sư Đạo Xước khi xem xét văn kinh thấy rằng chỉ có thể niệm Phật nhất tâm bất loạn, được trăm vạn biến trở lên thì nhất định được vãng sinh. Lại Ngài y theo pháp bảy ngày niệm Phật trong kinh A-di-đà nói mà thực hành, trong lúc niệm Phật đếm được trăm vạn biến. Thế nên các kinh như kinh Đại tập, kinh Dược sư, kinh Adi-đà đều dạy mọi người bảy ngày niệm Phật. Ý này đã rõ ràng vậy.

Hỏi: Tội lỗi của chúng sinh tích chứa lâu đời sâu nặng như núi, vì sao chỉ có mười niệm mà có thể diệt được bao nhiêu ác nghiệp như thế? Dầu niệm đến trăm vạn biến đi nữa cũng là rất ít; ác nghiệp nếu không diệt hết thì vì sao lại được vãng sinh Tịnh độ?

Đáp: Đây có ba nghĩa:

1. Không cần diệt hết các ác nghiệp như thế, chỉ cần lúc lâm chung được vãng sinh Tịnh độ. Nếu lúc lâm chung chánh niệm hiện tiền thì tâm này có thể dẫn dắt các thiện nghiệp mà mình tạo tác từ vô thỉ đến nay, các thiện nghiệp này cùng trợ giúp lẫn nhau khiến liền được vãng sinh vậy.

2. Danh hiệu chư Phật thành tựu muôn đức, nên chỉ cần nhất tâm niệm Phật thì trong mỗi niệm gồm thâu muôn đức. Cho nên kinh Duy-ma nói: "Đối với nghĩa ba câu này chúng sinh trong ba nghìn thế giới đều như ngài A-nan, bậc đa văn đệ nhất, dầu trải qua kiếp số dài lâu cũng không thể thọ nhận hết.

Ác nghiệp vô thỉ từ vọng tâm sinh, công đức niệm Phật từ chân tâm hiện. Chân tâm sáng rỡ như mặt trời, vọng tâm u ám như đêm tối, chân tâm một khi vừa khởi thì vọng tâm liền diệt, cũng như mặt trời mới mọc, tất cả tối tăm đều được tiêu trừ.

Do ba nghĩa này cho nên lúc lâm chung mười niệm thành tựu thì nhất định được vãng sinh.

Hỏi: Tịnh độ thù thắng vi diệu là cõi đấng Pháp vương trụ; đài tạng Liên hoa chẳng phải là nơi phàm phu ở. Theo lẽ, hễ phàm phu thì sinh nơi cõi phàm, còn Thánh nhân thì ngao du cõi Thánh, chứ đâu có thể phàm phu thấp kém mà sinh vào cõi diệu?

Đáp: Căn cứ bốn mươi tám đại nguyện thì cõi Tịnh độ tuy vi diệu nhưng vốn để phàm phu thành tựu đạo nghiệp còn đài tạng Liên hoa nguyên là chỗ để thác sinh. Nếu là phàm phu thì không thể ngao du Tịnh độ. Còn đã là đấng Pháp vương thì sao phải dấn thân vào ngũ trược? Tuy nhiên, dù là đấng Pháp vương mà vì giáo hóa chúng sinh nên thị hiện nơi đời ngũ trược; cũng vậy, tuy là phàm phu nhưng vì cúng dường chư Phật nên sinh về Tịnh độ. Lý này đã rõ vậy. Lại Tịnh độ là cõi do chư Phật từ bi phương tiện lập riêng ở một phương để trừ bỏ nữ nhân và cảnh giới ngũ dục, khiến chúng sinh ở trong đó tu đạo, đây là cõi hóa sinh trong tứ sinh nên chẳng phải cực diệu. Cũng như trong thành ấp riêng dùng một nơi để xây dựng Già lam, trừ bỏ việc thế tục để chúng tăng tu đạo, chỉ có những chúng sinh vào Già lam mới dễ phát thiện tâm. Tịnh độ cũng như thế. Đến được cõi này cũng như sinh vào cung điện Lục dục thiên, ngôi nhà vi diệu tứ thiền, về y báo, tâm là trân báu lạ kỳ, còn chánh báo thì thân tướng quang minh thù diệu, y phục nhiệm mầu, thức ăn trăm vị, ngồi nằm trong cung điện hoa lệ, ngao du đó đây thỏa thích. Cõi như thế há chỉ là nơi của đấng Pháp vương cư trú, mà đều là do nhân lành của phàm phu chiêu cảm nên có các thứ kỳ diệu này hiển hiện vậy.

Hỏi: Như các kinh luận Đại thừa đều nói vô tướng vô sinh, vì sao kinh này khuyên dạy chúng sinh quán nơi tướng cầu sinh Tịnh độ?

Đáp: Nghi vấn như thế đều không thuận lý, lẽ ra nên bỏ qua, còn nếu muốn trả lời nên hỏi vặn rằng: "Chư Phật có tám vạn bốn ngàn pháp môn, ông hỏi pháp môn nào? Tây phương Tịnh độ thâu về pháp gì, vô tướng vô sinh nhiếp về môn nào?" Người kia nếu trả lời rằng hai pháp này chỉ là một môn thì tức là người ngu si, không thể bàn luận với họ. Còn như đáp rằng vô tướng vô sinh là lý, hữu tướng hữu sinh là sự thì nên đáp rằng: Như thế là ông đã rõ rồi, cần gì phải hỏi tôi nữa. Còn nếu muốn tôi trả lời, thì xin đáp rằng: Chư Phật có tám vạn bốn nghìn pháp môn, mỗi mỗi sai biệt không tạp loạn nhau. Nếu nhiếp chung lại thì tức là hai đế: chân đế và tục đế. Hai đế này, có Phật, không Phật, tánh tướng thường trụ, chẳng phải do người tạo tác. Nên Trung luận nói rằng: Chư Phật thuyết pháp thường y hai đế. Lại nói:

Như người không thể biết
Phân biệt làm hai đế
Tức nơi Phật pháp mầu
Không tỏ nghĩa chân thật.

Nay Tây phương Tịnh độ thông thường có ba loại:

1. Pháp thân Tịnh độ: đây tức vô tướng vô sinh. 2. Báo thân Tịnh độ: Y cứ nơi thật lý cũng vô tướng vô sinh, nhưng về sự thì hữu tướng hữu sinh.

3. Hóa thân Tịnh độ: Cũng là hữu tướng hữu sinh.

Nên Nhiếp luận nói: "Đối với Hóa thân chư Phật, lúc thì thị hiện lúc nhập Niết-bàn", nghĩa là sinh vào vương cung, tịch nơi song thọ. Nay khuyên dạy chúng sinh vãng sinh, nghĩa là sinh vào Hóa thân độ, như chúng sinh muốn vãng sinh thì chỉ quán nơi tướng. Trong pháp quán này có giả quán. Trước phải khởi giả tưởng quán khiến mỗi mỗi phân minh, rồi sau mới có thể khởi thật quán. Như hai pháp Nhật tưởng quán và Thủy tưởng quán trong mười sáu pháp quán là giả tưởng quán. Còn từ địa quán trở đi nương Tam-muội mà thành gọi là thật quán, thứ lớp phải như vậy.

Đây là cõi chúng sinh thọ sinh, tức là sự tướng, là tục đế, là pháp phải hành, là cõi thọ sinh, là thân phần đoạn, chết cõi này sinh về cõi khác, là pháp hữu lậu, hữu vi, nhiếp vào tam giới, có sống chết qua lại, trong tứ sinh nhiếp vào cõi hóa sinh, còn nếu khởi vô tướng vô sinh quán thì không có vãng sinh, vì theo lý thì pháp thân vô sinh vậy. Nếu muốn chỉ dạy cho người thì cũng có thể nói hữu sinh, cũng có thể nói vô sinh. Nếu lý và sự gồm tu thì được thượng phẩm thượng sinh vậy.

Hỏi: Như kinh Kim cang Bát-nhã nói:

Nếu thấy ta qua sắc
Tìm ta qua âm thanh
Người đó hành đạo tà
Không thể thấy Như Lai.

Lại kinh Phật Tạng nói rằng: "Người thấy Phật là đại tà kiến." Nay vì sao dạy người quán tám vạn bốn ngàn đức tướng của Đức Phật A-di-đà?

Đáp: Việc này trước đã trả lời rồi. Các kinh này đều đứng về lý pháp thân mà nói, nên trong kinh Kim Cang Bát-nhã có kệ.

Diệu thể Đức Như Lai
Tức pháp thân chư Phật
Pháp thể không thể thấy
Thức tánh không thể biết.

Nay quán tám vạn bốn nghìn tướng hảo của Đức Phật là quán sắc thân ứng hóa. Nếu khởi quán này thì phải tướng tướng phân minh, vẻ vẻ khác biệt, không được lẫn lộn làm một. Nếu có người nói, vạn pháp đều không thì còn lý, sự gì? Đây là người đại tà kiến, là người ngu si, là người không có học, là người dối gạt và mê hoặc thế gian, không nên bàn luận với họ. Vì thế, Trung luận nói:

Nếu thấy có Như Lai
Là người tà kiến nhẹ
Còn nói không Như Lai
Là người tà kiến nặng.

Đây có hai lỗi:

1. Phá sự an vui của thế gian.

2. Phá đạo Niết-bàn.

Luận này đều đứng về lý mà nói. Nếu đứng về sự thì thấy có Như Lai tức là chánh kiến, nhất định được vãng sinh. Lại luận Địa trì nói: "Thà khởi cái thấy "Có" lớn như núi Tu-di, chớ không khởi cái thấy "Không" dầu nhỏ như hạt cải."

Hỏi: Trước nói niệm Phật cắt đứt giòng thác khổ đau, được sinh Tịnh độ, ý này được rút từ văn kinh nào?

Đáp: Ý này được rút từ kinh Vô Lượng Thọ.

Kinh Vô Lượng Thọ nói:

Cắt đứt năm đường ác
Đường ác tự nhiên đóng
Tiến đạo không cùng cực
Dễ đi mà không người.

Hỏi: Trước nói niệm Phật không đọa vào ba ác đạo, ý này được rút từ văn kinh nào?

Đáp: Như kinh Độ Chư Phật cảnh giới nói: "Nếu các chúng sinh duyên tưởng Đức Như Lai, phát sinh các hạnh thì đoạn được vô số kiếp đọa trong địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Nếu có chúng sinh một niệm khởi ý duyên tưởng Như Lai thì công đức đạt được không thể đo lường, dầu có trăm nghìn vạn ức na-do-tha chư đại Bồ-tát cũng không thể tính đếm được bờ mé của nó".

Hỏi: Trước nói niệm Phật diệt tội lỗi, ý này được rút từ văn kinh nào?

Đáp: Như kinh Quán Phật Tam-muội nói: "Nếu đệ tử ta rời bỏ cảnh ồn náo, ngày đêm sáu thời, mỗi thời chia làm phần nhỏ, trong phần nhỏ khoảng tu du luôn quán niệm tướng bạch hào của Phật, khiến tâm rõ ràng, không có loạn tướng, mê lầm, chánh niệm chú ý, hoặc thấy tướng hảo, hoặc không thể thấy, người này trừ bỏ tội lỗi trong chín mươi sáu ức na-do-tha hằng hà sa vi trần số kiếp sinh tử.

Lại như kinh Đại bi, Đức Phật nói: "Này Anan! Như trong tam thiên đại thiên thế giới đầy ắp các Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, như có thiện nam, thiện nữ nào hoặc một kiếp, hoặc ít hơn một kiếp lấy tất cả đồ dùng ưa thích vừa ý, cung kính tôn trọng khiêm hạ cúng dường, ý ông thế nào? Thiện nam, thiện nữ đó được phước nhiều không?

A-nan đáp:

-Rất nhiều, bạch Đức Thế Tôn!

Đức Phật bảo A-nan: Nếu lại có người ở chỗ chư Phật chỉ một lần chắp tay, một lần xưng danh, phước đức như thế so với phước đức trên thì phước đức trên trăm phần không bằng một phần, ngàn phần không bằng một phần, trăm nghìn ức phần không bằng một phần, ca-la phần không bằng một phần. Vì sao? Phước điền của Như Lai là vô thượng."

Lại như kinh Địa tạng Bồ-tát nói: Như có người muốn sinh về

Tịnh độ hiện tại ở phương khác thì nên theo danh hiệu Phật trong thế giới ấy chuyên ý tụng niệm nhất tâm không loạn thì quyết định được sinh về Tịnh độ của Đức Phật kia, thiện căn tăng trưởng, chóng thành tựu địa vị bất thoái.

Tịnh độ chính là đường về cốt yếu mà ngài Pháp Tạng khéo dẫn dụ chúng sinh, là phương tiện nhiệm mầu Đức Thích-ca ôm ấp; sáu đường nương tựa tiêu dao, bốn loài ký thác an thần. Ở cõi Tịnh mãi mãi an vui, nhìn Sa-bà mãi mãi bỏ lìa. Đâu chỉ tu ba phước được lên thượng phẩm, mà phát mười niệm cũng được hạ sinh, thế thì muôn loài đều về không sót một người vậy. Nay luận giả giác ngộ mình bằng phương tiện nhiệm mầu, cứu mình bằng đuốc sáng, từ nay về sau vâng theo đó tu hành. Làm bài tụng tán thán rằng:

Ba cõi mênh mông
Bao la bốn loài
Đều là nhà lửa
Cùng gọi bọn mù
Đêm dài mê muội
Ngủ mãi không sợ
Nay trao đuốc này
Sáng cõi u minh
Đại nguyện Pháp Tạng
Chí còn dẫn dụ
Riêng bày Tịnh độ
Hiệu Vô Lượng Thọ
Mười sáu pháp quán
Sinh về chín phẩm
Lan rộng khắp nơi
Nghìn năm bất hủ.


[Đầu trang][Mục lục bộ Chư Tông][Mục lục tổng quát]