TẠP TẠNG
SỐ 1966 - NIỆM PHẬT CẢNH
Vô Vi Tử Dương Kiệt thuật
VI. MÔN GIẢO LƯỢNG TRAI PHƯỚC:
VIII. MÔN THỆ NGUYỆN CHỨNG GIÁO:
MƯỜI ĐIỀU KHUYÊN TU VỀ TÂY PHƯƠNG
NIỆM PHẬT CẦU VÃNG SINH VỀ TÂY PHƯƠNG CHUNG
VĂN LÂM CHUNG CHÁNH NIỆM ĐƯỢC VÃNG SINH
BÀI TỰA KHẮC LẠI NIỆM PHẬT CẢNH
Ái không nặng chẳng sinh Sa-bà
Niệm chẳng nhất chẳng sinh Cực lạc.
Cõi Sa-bà nhơ uế, nơi Cực lạc thanh tịnh. Tuổi thọ của con người ở cõi Sa-bà có giới hạn, nhưng ở Cực lạc thì không giới hạn. Chúng sinh ở cõi Sabà bị nhiều đau khổ, nhưng ở Cực lạc thì hoàn toàn an vui. Chúng sinh ở cõi Sa-bà theo nghiệp xoay chuyển trong sinh tử luân hồi, nhưng một khi đã đến nước Cực lạc thì liền lên bậc Vô sinh pháp nhẫn; nếu muốn phát nguyện độ sinh thì tùy ý tự tại, không bị các nghiệp xoay chuyển. Như vậy thì tịnh uế, khổ vui, tuổi thọ dài hay ngắn, sinh tử hay không sinh tử đều do quả báo khác nhau, nhưng chúng sinh mờ mịt không biết. Thật đáng buồn thay!
Đức Phật A-di-đà là người đứng đầu nhiếp thọ chúng sinh ở Tịnh độ.
Đức Phật Thích-ca Như Lai là vị thầy chỉ đường chúng sinh về Tịnh độ, Bồ-tát Quán Thế Âm, và Bồ-tát Đại Thế Chí giúp Phật giáo hóa. Cho nên giáo điển một đời của Như Lai chỗ nào cũng căn dặn, khuyên nên vãng sinh.
Người xiển dương Phật pháp, giáo hóa chúng sinh cũng chính là Đức Phật A-di-đà và Bồ-tát Quán Âm, Thế Chí nương thuyền đại nguyện: Đi trên dòng sông sinh tử nhưng không vướng mắc vào hai bên bờ, không lênh đênh giữa dòng, lấy cứu giúp làm Phật sự. Cho nên trong kinh A-di-đà có nói: "Nếu có thiện nam tín nữ nào nghe nói về Đức Phật A-di-đà mà chấp trì danh hiệu từ một ngày cho đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn thì người đó lúc sắp qua đời được Phật A-di-đà và các Thánh chúng hiện ra trước người đó. Người đó lúc qua đời tâm không điên đảo liền được vãng sinh về cõi Cực lạc." Lại nữa, kinh nói: "Chúng sinh trong mười phương nghe danh hiệu ta, nhớ nghĩ cõi nước ta, gieo trồng cội đức, chí tâm hồi hướng muốn được sinh về nước ta; nếu người ấy không được như nguyện, thì ta không trụ thành Chánh giác." Cho nên viện Vô thường ở tinh xá Kỳ-hoàn khiến cho người bệnh mặt xoay về hướng Tây khởi tưởng ánh sáng Di-đà chiếu khắp pháp giới nhiếp giữ chúng sinh niệm Phật không bỏ, Phàm Thánh đồng một thể, căn cơ cảm nhận tương ưng nhau. Trong tâm chư Phật, cõi trần chúng sinh cũng là cõi cực lạc. Trong tâm chúng sinh niệm Tịnh độ cũng là niệm đức Phật. Quán sát điều đó tôi cho rằng trí tuệ
768 BỘ CHƯ TÔNG 11 dễ sinh ra vì dứt trừ được nghi ngờ; thiền định dễ sinh vì tâm thường an tịnh; trì giới dễ sinh vì xa lìa các nhiễm trước; bố thí dễ sinh vì dẹp bỏ xan tham; nhẫn nhục dễ sinh vì thường nhu hòa; tinh tấn dễ sinh vì không lui sụt; không làm điều lành, không tạo việc ác dễ sinh vì niệm thuần nhất, những việc ác đã gây, nghiệp báo đã hiện thì dễ sinh vì sợ hãi xấu hổ thật sự. Tuy có tu điều lành nhưng không có tâm kính tin, không tin sâu, không có tâm hồi hướng, không phát nguyện thì không được sinh lên bậc thượng phẩm thượng sinh. Ôi! Danh hiệu Diđà vô cùng dễ trì, cõi Tịnh độ cũng dễ đến. Chúng sinh không thể trì, không thể đến thì Phật bằng với chúng sinh sao? Tạo ác nghiệp thì vào đường khổ, niệm Di-đà thì sinh Cực lạc, đây là điều Phật nói. Người đời sợ đọa địa ngục lại nghi ngờ việc vãng sinh thì có đúng chăng?
Pháp sư Tuệ Viễn cùng các cao sĩ Lưu Di Dân v.v... đời Tấn kết Bạch Liên xã ở Lô sơn rồi dốc sức tinh thành niệm Phật. Sau đó bảy trăm năm tu trì nối nhau, tăng tục đều được cảm ứng, chẳng ai không thấy cõi Tịnh độ và họ đã ghi lại. Há là bịa đặt ư? Những sách tán thán giáo quán Di-đà gom lại cao như núi.
Niệm Phật Kính của Đại sư Thiện Đạo có mười một môn, là đứng đầu trích dẫn lời Thánh để khai thị các hoặc, căn nhà tối muôn năm nay được tia sáng dọi đến; dạo trên sông dài ngàn dặm mà không cần nhọc sức. Nếu chẳng phải là thân sau của ngài Pháp Tạng thì không thể đến nơi này. Tôi từng có bản văn này nơi thành đô. Nếu ai có sự hiểu biết, đọc đến những lời văn trong quyển sách này thì đều sinh tín tâm. Từ khi gặp phải hình phạt nặng tôi cảm ngộ được lợi ích sâu xa ấy, nên muốn truyền rộng bổn này. Nhân đây tôi viết lời tựa dẫn. Giữa thu, năm Bính thìn, niên hiệu Hy Ninh thứ chín.
Trúc Song Nhị Bút của Đại sư Liên Trì ở chùa Vân Thê đời Minh chép: Hai thầy Đạo Cảnh và Thiện Đạo đã viết Niệm Phật Kính, dùng niệm Phật và các pháp môn khác để đối chiếu nhau. Hai ngài nói: "Công đức niệm Phật vượt hơn công đức các pháp môn khác cả trăm ngàn muôn ức lần." Có thể gọi là niềm tin vững chắc và lời lẽ sáng tỏ, có công đức rất lớn đối với pháp môn Tịnh độ. Trong chương nói về Thiền tông đã nói rằng Công đức niệm Phật hơn công đức tu thiền, quán tâm, quán Vô sinh cả trăm ngàn muôn ức lần. Nếu người học nghi ngờ pháp môn này thì tôi xin làm chứng. Còn như nói có Thiền không có Tịnh độ là còn chấp quán tâm mà không tin có cõi Tịnh độ. Quán Vô sinh mà không tin có cõi Tịnh độ vãng sinh thì chưa đạt được: Ngay nơi tâm là cõi, không biết "Sinh tức là vô sinh", nghiêng về "Chấp không" chẳng phải thiền viên đốn. Trái lại không bằng lý tánh tuy chưa được sáng tỏ nhưng niệm Phật đã
770 BỘ CHƯ TÔNG 11 thành Tam-muội, đâu có gì làm lạ? Nếu quán tâm mà khéo hiểu được tâm mình, quán vô sinh mà đắc được Vô sinh nhẫn, đây chính là cùng người niệm Phật sinh lên thượng phẩm thượng sinh. Đã cùng ở một nơi thì có ai cao, ai thấp?
-Bản cổ ghi:
Mộ Sinh Nhất diệp ký ghi vào đầu mùa thu năm Kỷ Hợi, niên hiệu Ninh Ngũ năm thứ hai đời Thanh.
Sa-môn Pháp Quảng, Đại đức Hoằng Luật, ở phía Đông chùa Chương Nghĩa, châu Phụng Thánh kiểm duyệt.
Đại phu Sùng Nhiếp kiểm giảo, Đại sư Thái Bảo Viên Giáo được vua ban tặng ca-sa tía.
Sa-môn Tri Chiêu xem xét kỹ càng.
Ôi! Niệm Phật Tam-muội giống như chiếc gương lớn chiếu soi muôn vật. Tám vạn bốn ngàn pháp môn như bóng trong gương, hàng ba thừa năm thừa từ đây mà được ngộ nhập. Thiết nghĩ đây là then chốt của Hải tạng, là diệu môn đi vào đạo. Giống như giữ mẹ để biết con, có gốc biết được ngọn. Nâng tấm lưới thì lỗ lưới đều động, nắm áo thì các sợi chỉ đều theo. Cho nên trong kinh Hoa Nghiêm có ví dụ: Ví như dùng gân sư tử làm dây đàn, khi khảy lên thì các âm thanh khác đều bặt. Ở đời có những vị sư xem thường niệm Di-đà, nghiêng về tu hạnh Bồ-tát, trì Đà-la-ni, tu thiền định. Đây là việc rất sai lầm. Ngoài Tây phương không có riêng cõi của Quán Âm, chín phẩm đến ứng đều nâng đài sen. Hình tượng Diệu Quán nói: "Tâm này là Phật", cho nên các ngài Bách Trượng, Trí Giác... đều khai triển pháp môn Tịnh độ, khuyên mọi người niệm Phật. Lời nói gom lại cả muôn quyển, sách đầy cả lòng biển, đặc biệt có thể đầy đủ kim bài cho người khinh thường ư? Riêng quyển Niệm Phật Kính của hai thầy chia ra mười một môn để hướng dẫn mọi tầng lớp tu tập. Người nghi ngờ thì có thể lấy quyển sách báu này tưới tẩm vào tâm hồn họ cho tươi mát. Đại sư Vân Thê rất thán phục sách này. Nếu ai dốc lòng tin, hiểu rõ, có công phu tu Tịnh độ thì được công đức rất lớn nơi cõi Tịnh độ.
Những bản khắc gỗ phần nhiều sai, nay được bản ở chùa Quốc hoan, nên chuyên theo bản này. Nếu còn nghi ngờ bài tựa của Dương Kiệt thì dựa vào sự chuyển dụng và lời giảng giải của bạn đồng tu rồi đối chiếu với bản gốc, truyền bá chân lý cao tột, mục đích để nhập vào biển trí mà thôi.
Thượng tuần tháng chạp năm Quý Sửu, Diên Bảo Nguyên Long biên tập.
Học trò Lữ Đại Cốc ở Giang Đông kính ghi.
----------------------------------
Khắc bản: Vị Tăng tên Như Hiền chùa Quốc Hoan Ghi chép: Đệ tử phụng giới là Lâm Sĩ Du Cùng biên tập: Sa-môn Đạo Cảnh và Thiện Đạo
Từ viên thành đến giác ngộ biển trí (Phật) vì không cách nào thích ứng khắp mọi căn cơ chúng sinh, nên phá núi mê, mở đường giải thoát, từ âm diễn khắp; người đích thân nghe chứng đắc ba không; hiểu được nghĩa mầu, tin chắc thì tâm rõ tám đế, mở bày năm thừa đốn tiệm, tiếp độ hai loại phàm Thánh. Người nhận biết đạo lý này liền về quê hương thường lạc, còn mê hoặc thì mãi mãi đắm chìm nơi trong luân hồi. Thế nên Đức Như Lai chỉ thẳng cảnh Tây phương, mở cánh cửa Cực lạc, nói rõ danh hiệu Đấng Từ Tôn. Do vậy trời người đều kính ngưỡng, Phàm Thánh đồng quay về. Đây là bến bờ then chốt của Hoa tạng, là con đường tắt chứng Niết-bàn. Thực hành tuy đơn giản mà công đức rất sâu xa. Từ xưa các bậc danh hiền đều y cứ vào pháp môn niệm Phật như: Ngài Tuệ Trì, Tuệ Viễn lúc qua đời có cờ phướn, lọng báu đón rước; ngài Đạo Xước, Đạo Trân được các vị trời nam, nữ xinh đẹp khôi ngô đến dẫn đi. Tăng tục cảm được ánh sáng vô tận này rất nhiều, mỗi trường hợp đều rõ ràng, truyện có ghi rõ, không nhọc chép nhiều. Nay, Niệm Phật Kính noi theo gương người niệm Phật để dứt trừ mê hoặc. Căn cứ vào đây để riêng làm thì chắc chắn thoát khổ luân hồi, còn người nghi ngờ thì xem rõ văn dưới.
-Tất cả chia làm mười một môn:
1. Môn khuyên tấn niệm Phật.
2. Môn tự lực, tha lực.
3. Môn niệm Phật đắc ích.
4. Môn Dĩ đắc vãng sinh.
5. Môn Giảo lượng công đức.
6. Môn Giảo lượng trai phước.
7. Môn Nghi báng đắc tội.
8. Môn Thệ nguyện chứng giáo.
9. Môn Quảng nhiếp chư giáo.
10. Môn Thích chúng nghi hoặc.
11. Môn Nhất niệm Phật xuất tam giới.
Ôi! Phật là thầy của ba cõi, là cha lành của bốn loài. Người quy y, tôn kính Phật, được diệt Hằng sa tội chướng. Người xưng niệm danh hiệu được vô lượng phước đức, người muốn niệm Phật phải khởi tín tâm.
Nếu có lòng tin thì chắc chắn đạt kết quả. Cho nên kinh nói: "Lòng tin là sơ tông vào đạo, trí là huyền thuật của rốt ráo. Đầu tiên gọi tin như thế, sau phụng hành là trí. Cho nên kinh A-di-đà nói: Nếu có người tin tưởng thì nên phát nguyện sinh về nước kia. Đây là nơi Đức Bổn sư Thích-ca Mâuni khuyến khích chúng ta kính tin. Kinh ấy lại nói: Các ngươi nên tin tưởng, đọc tụng ngợi khen thì được công đức không thể suy nghĩ bàn luận. Đây là nơi các Phật sáu phương khuyến khích chúng ta kính tin. Phần khuyến tin của kinh Pháp Hoa nói: Tùy thuận kinh này do lòng tin mà được vào.
Lại nữa, nếu có người gieo trồng gốc lành mà nghi ngờ thì hoa sen không nở; người tín tâm thanh tịnh thì hoa sen nở, liền thấy Phật. Đây là chỗ luận Thập Trụ khuyến khích chúng sinh kính tin. Còn người không tin cũng như đứng trên xe không bánh, không dè, không nhíp thì không thể chạy được. Đây là chỗ mà sách ngoài khuyên tin. Tin là thuận với lý đã nói, thuận thì đạo thầy trò thành tựu, kinh không phong ước, người không tin không thể truyền đạo. Đây là điều pháp sư Tăng Triệu khuyến tin. Hòa thượng Đại Hành nói: "Pháp môn niệm Phật, bất luận là đạo tục, nam nữ, giàu nghèo, sang hèn, đều phải tin chắc." Đây là điều Hòa thượng Đại Hành khuyên tin.
Hỏi: Đã nói là tin nhưng chẳng hay tin vào pháp nào?
Đáp: Ý của tin là tin những lời trong kinh nói:
1. Tin Niệm Phật chắc chắn sinh về Tịnh độ.
2. Tin niệm Phật chắc chắn diệt các tội.
3. Tin niệm Phật chắc chắn được Phật chứng.
4. Tin niệm Phật chắc chắn được Phật che chở.
5. Tin niệm Phật khi sắp qua đời được Phật đến đón rước.
6. Tin niệm Phật bất luận là chúng sinh nào đều được vãng sinh.
7. Tin niệm Phật sinh về Tịnh độ chắc chắn được ba mươi hai tướng tốt.
8. Tin niệm Phật sinh về Tịnh độ chắc chắn ở địa vị không lui sụt.
9. Tin niệm Phật sinh về Tịnh độ, chắc chắn được tự tại, vui sướng, trang nghiêm.
10. Tin niệm Phật sinh về Tịnh độ chắc chắn ở địa vị bất tử.
11. Tin niệm Phật sinh về Tịnh độ làm bạn với các vị Bồ-tát.
12. Tin niệm Phật sinh về cõi Tịnh độ không lìa Phật.
13. Tin sinh về Tịnh độ, từ hoa sen hóa sinh.
14. Tin Phật A-di-đà hiện đang nói pháp.
15. Tin sinh về Tịnh độ không đọa ba đường ác cho nên khuyên niệm Phật.
Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: "Niệm Phật một câu chắc chắn diệt được tội nặng trong tám mươi ức kiếp sinh tử; được hưởng công đức nhiệm mầu trong tám mươi ức kiếp." Cho nên Hòa thượng Đại Hành dạy:
Người niệm Phật chỉ tin Phật, thì:
- Phật liền biết, Phật có tha tâm thông,
- Miệng chỉ xưng danh hiệu Phật, thì Phật liền nghe, vì Phật có thiên nhĩ thông.
- Thân chỉ kính Phật, thì Phật liền thấy, vì Phật có thiên nhãn thông.
Cho nên đây là chỗ khuyên tin niệm Phật của Hòa thượng Đại Hạnh.
Lại dụ tín tâm ví như trồng cây ăn trái: Rễ cây cắm sâu vào lòng đất thì gió thổi không lung lay, sau ra hoa trái mới cứu người đói khát được. Người niệm Phật cũng như vậy, cần phải tin sâu mới được đến Tây phương thành bậc Chánh giác, cứu độ mọi khổ nạn nguy ách. Còn nếu không tin thì không đạt được gì. Cho nên kinh nói: "Hàng Bồ-tát Thập trụ một khi đã khởi tín tâm niệm Phật, thì cho dù gặp chướng duyên đến tan thân mất mạng cũng không lui sụt."
Kinh Duy-ma nói: "Tin sâu vững chắc giống như báu pháp kim cương chiếu khắp như mưa cam lộ", người niệm Phật phải tin sâu.
Kinh Vô Lượng Thọ nói: Niệm Phật có năm môn:
1. Môn lễ bái: Thân chỉ đảnh lễ Đức Phật A-diđà.
2. Môn tán thán: Miệng chỉ xưng danh hiệu Phật A-di-đà.
3. Môn tác nguyện: Tất cả công đức lễ bái, niệm Phật chỉ nguyện sinh về thế giới Cực lạc.
4. Môn quán sát: Đi, đứng, nằm, ngồi đều quán sát Đức Phật A-di-đà để mau sinh về cõi Tịnh độ.
5. Môn hồi hướng: Công đức niệm Phật, lễ Phật chỉ nguyện sinh về cõi Tịnh độ, mau đắc vô thượng Bồ-đề.
Tu hành có bốn loại:
1. Trường thời tu: Tự mình phát tâm niệm Phật, về sau được sinh về Tịnh độ, thành Phật không bao giờ lui sụt.
2. Kính xứ tu: Chỉ hướng về Tây phương, chuyên tưởng không dời đổi.
3. Vô gián tu: Chỉ chuyên niệm Phật, không có niệm tạp thiện, nào khác chen vào, cũng không có phiền não tham sân tạp ác xen vào.
4. Vô dư tu: Không có một niệm tạp thiện khác chen vào làm gián đoạn việc tu. Vì sao? Tu các điều lành khác, vì tự lực nên phải trải qua nhiều kiếp mới thành tựu; còn nương vào nguyện lực của Phật A-di-đà, chuyên tinh niệm Phật, từ một đến bảy ngày liền được vãng sinh về Tịnh độ, ở địa vị không lui sụt, mau được vô thượng Bồ-đề. Cho nên không tu những điều lành khác. Thượng phẩm thượng sinh trong kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: Nếu có chúng sinh nào muốn sinh về nước kia thì nên phát ba thứ tâm:
1. Tâm chí thành: Người nào chí thành, thân chuyên lễ Đức Phật A-di-đà, miệng thường niệm danh hiệu Phật A-di-đà, ý kính tin pháp môn niệm Phật thì chắc chắn được sinh về Tịnh độ.
2. Thâm tâm: Khởi lòng tin chân thật, chuyên niệm danh hiệu Phật, nguyện sinh về Tịnh độ. Từ lúc phát tâm đến khi thành Phật đều không nghi ngờ gì nên gọi là Thâm tâm.
3. Tâm hồi hướng phát nguyện: Tất cả các công đức lễ bái, niệm Phật chỉ nguyện vãng sinh về Tịnh độ, mau được Vô thượng Bồ-đề.
Có đủ ba thứ tâm này chắc chắn được sinh về cõi Cực lạc. Lại nữa, kinh Văn-thù Bát-nhã không quán tướng mạo, chỉ chuyên xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà, thực hành "Nhất hạnh Tam-muội"; muốn mau thành Phật cũng tu "Nhất hạnh Tam-muội"; muốn đầy đủ tất cả trí tuệ cũng tu "Nhất hạnh Tam-muội"; muốn thấy Phật cũng tu "Nhất hạnh Tam-muội"; muốn mau sinh về Tịnh độ cũng tu "Nhất hạnh Tam-muội". Đây là pháp niệm Phật vãng sinh trong Kinh Văn-thù Bát-nhã.
Kinh A-di-đà nói: "Xá-lợi-phất, nếu có thiện nam, tín nữ nào nghe danh hiệu Phật A-di-đà rồi chuyên tâm niệm Phật, từ một ngày cho đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn thì người đó lúc sắp qua đời, Đức Phật A-di-đà và các Thánh chúng hiện ra trước mặt người đó. Người đó lúc qua đời tâm không tán loạn liền được vãng sinh về thế giới Cực lạc của Đức Phật A-di-đà."
Hỏi: Nếu niệm Phật một ngày được vãng sinh, cần gì phải niệm đến bảy ngày?
Đáp: Niệm từ một ngày đến bảy ngày đều là lúc sắp qua đời vãng sinh về Tịnh độ. Mau thì một ngày, chậm thì bảy ngày. Đây là pháp thượng phẩm vãng sinh trong kinh A-di-đà.
Lại theo kinh Quán, về hạ phẩm hạ sinh nếu có chúng sinh nào gây ra đủ các nghiệp bất thiện, mười điều ác, năm tội nghịch. Người ngu vì nghiệp ác mà phải đọa vào đường ác, trải qua nhiều kiếp chịu khổ vô cùng; người này lúc sắp qua đời nếu gặp Thiện tri thức dạy niệm Phật A-di-đà dù chỉ mười câu cũng trừ diệt tội nghiệp, được vãng sinh. Lại nữa, kinh Vô Lượng Thọ nói: "Dù chỉ một niệm cũng vãng sinh Tịnh độ." Đây là pháp hạ phẩm hạ sinh.
Hỏi: Niệm Phật từ một niệm đến mười niệm thì được hạ phẩm hạ sinh, thì cớ gì từ một ngày đến bảy ngày được thượng phẩm thượng sinh?
Đáp: Từ một niệm đến mười niệm là số ít, công đức cũng ít, cho nên sinh về hạ phẩm hạ sinh còn từ một ngày đến bảy ngày thì số lần niệm nhiều, công đức cũng nhiều, cho nên sinh về thượng phẩm thượng sinh. Lại từ một niệm cho đến mười niệm là dụ cho người phát tâm muộn; còn từ một ngày cho đến bảy ngày là dụ cho người phát tâm sớm. Cho nên niệm từ một niệm cho đến mười niệm, hay từ một ngày cho đến bảy ngày đều được vãng sinh Tịnh độ ở địa vị không lui sụt, thẳng đến Vô thượng Bồ-đề.
Niệm Phật dụ như trẻ con khóc, cha mẹ nghe được lập tức đến vỗ về: Nếu đói thì cho ăn, lạnh thì cho mặc, nóng thì cho mát. Đây là năng lực của cha mẹ chẳng phải là năng lực của con. Người niệm Phật cũng giống như vậy, chỉ biết niệm Phật, lòng đại từ bi của Phật sẽ tìm âm thanh mà cứu ngay. Tất cả tội nghiệp Phật khiến tiêu diệt; tất cả bệnh hoạn Phật khiến tiêu diệt; tất cả tội chướng Phật khiến phủi sạch, giống như cha mẹ nuôi con.
Kinh Pháp Hoa nói: "Tất cả chúng sinh đều là con ta, ta tức là cha. Các con nhiều kiếp bị các khổ thiêu đốt, ta đều cứu vớt khiến cho ra khỏi ba cõi." Người tu đạo phải siêng năng niệm Phật. Kinh Duy-ma nói: "Muốn dứt phiền não thì phải chánh niệm."
Hỏi: Nói về các pháp môn, số nhiều vô lượng.
Pháp môn nào là tự lực? Pháp môn nào là tha lực?
Đáp: Tuy Đức Như Lai nói tám vạn bốn ngàn pháp môn nhưng chỉ có một pháp môn niệm Phật là tha lực, còn các pháp môn tu khác đều là tự lực. Hỏi: Tự lực tu đạo, theo kinh giáo của Phật thì khi nào mới được thành tựu? Tha lực tu đạo khi nào mới được thành thục?
Đáp: Về tự lực, theo kinh giáo của Phật: Từ lúc mới phát tâm trải qua một đại A-tăng-kỳ kiếp tu đạo mới đến Sơ địa. Từ Sơ địa lại trải qua một đại A-tăng-kỳ kiếp tu đạo mới đến Bồ-tát Bát địa. Theo pháp môn niệm Phật trong kinh A-di-đà, nhanh thì một ngày, chậm thì bảy ngày. Niệm Phật A-di-đà được vãng sinh Tịnh độ tức là Bồ-tát Bát địa, vì sao phải nương vào bổn nguyện Phật A-diđà? Vì trong Kinh A-di-đà chúng sinh sinh về đó đều là A-Bệ-Bạt-trí, A-Bệ-Bạt trí tức là Bồ-tát Bát địa.
Hỏi: Tự lực tha lực là gì?
Đáp: Tự lực: giống như đứa trẻ lên ba, tự bỏ nhà đi, một mình băng qua cả ngàn dặm để đến kinh thành cầu quan chức thì không biết từ đâu để tìm được? Vì chỉ là một đứa trẻ. Các pháp môn tu hành khác cũng như vậy, phải nhiều kiếp tu đạo mới thành, giống như đứa trẻ bỏ nhà kia.
-Tha lực: Giống như đứa trẻ tuy nhỏ nhưng dựa vào cha mẹ và xe ngựa, xe cộ, không bao lâu đến kinh thành, có được quan chức. Vì sao? Vì nhờ tha lực. Niệm Phật tu đạo cũng như vậy, lúc sắp qua đời nương vào nguyện lực của Phật A-di-đà, chỉ trong khoảng một niệm được vãng sinh về Tây phương, được địa vị không lui sụt; giống như cha mẹ đem voi ngựa, xe cộ đến chở đứa trẻ, không bao lâu sẽ đến kinh thành, tìm được chức quan. Tự lực giống như người nghèo, lại đến nhà người nghèo làm công, tuy tốn hao sức lực nhiều mà được rất ít tiền. Các pháp môn tu khác cũng giống như vậy, dụng công phu rất nhiều mà công đức rất ít. Còn tha lực thì giống như đến nhà vua làm công, tuy ít tốn hao sức lực mà được rất nhiều tiền. Vì sao? Vì nương vào sức lực của vua. Niệm Phật cũng giống như vậy, nương vào nguyện lực của Phật, dụng công rất ít mà công đức vô biên. Từ một ngày đến bảy ngày chuyên tâm niệm Phật, chóng được sinh về cõi Cực lạc, sớm chứng Vô thượng Bồ-đề. Giống như làm công cho nhà vua.
Tự lực, tha lực giống như con kiến đậu vào cánh chim. Chim sẽ mang kiến bay lên cao đến núi Tu-di, hưởng thọ các vui sướng. Phàm phu niệm Phật cũng giống như vậy, nương vào nguyện lực của Phật mau đến Tây phương, hưởng vui an lành. Các pháp môn khác giống như kiến tự bò lên núi, không biết bao giờ mới đến đỉnh. Đây là tự lực. Tự lực giống như tôm cua, tha lực giống như rồng lớn. Có những loài bám vào vảy rồng, rồng mang nó mau ra biển lớn. Niệm Phật cũng giống như vậy, Phật dẫn chúng sinh mau về Tây phương.
Tự lực cũng giống như chân phàm phu bị đau, không thể đi nhanh được.
Tha lực giống như vua Chuyển luân bay trên hư không đi khắp mọi nơi, vì nương vào năng lực của bánh xe báu. Cho nên nương vào nguyện lực của Phật cũng giống như thế, chỉ trong một niệm liền vãng sinh về Tây phương, trụ ở địa vị không lui sụt. Các pháp môn khác giống như đi bộ trên đất liền, niệm Phật giống như đi thuyền trên sông, đi đến rất nhiều nơi mà không tốn công nhiều. Niệm Phật vãng sinh cũng giống như thế, dụng công rất ít mà mau đến Bồ-đề. Pháp môn niệm Phật nhờ nương vào nguyện lực của Phật A-di-đà cho nên mau thành quả Phật, nhanh hơn các pháp môn khác cả trăm ngàn lần.
Hỏi: Niệm Phật A-di-đà vãng sinh về cõi Tịnh độ cao quý, được bao nhiêu lợi ích?
Đáp: Theo sách của A-xà-lê Thiện Đạo, pháp môn niệm Phật có hai mươi ba lợi ích:
1. Diệt tội chướng nặng.
2. Ánh sáng nhiếp thọ.
3. Đại sư che chở.
4. Bồ-tát thầm che chở.
5. Chư Phật che chở.
6. Tám bộ che chở.
7. Chứa nhóm công đức báu.
8. Nghe nhiều được trí tuệ.
9. Không lui sụt tâm Bồ-đề.
10. Phụng thờ, gần gũi Đức Phật.
11. Được cảm ứng, các bậc Thánh đến đón rước.
12. Ánh sáng từ bi soi chiếu vào thân.
13. Các bạn Thánh đồng khen ngợi.
14. Các bạn Thánh đón rước.
15. Thần thông đi trong hư không.
16. Thân tướng xinh đẹp cao quý.
17. Tuổi thọ kéo dài.
18. Được sinh về chỗ tốt đẹp.
19. Được thấy Thánh chúng.
20. Thường nghe pháp mầu.
21. Chứng Vô sinh pháp nhẫn.
22. Đi đến các nơi khác được thọ ký.
23. Trở về bổn quốc được Đà-la-ni.
Đây là những lợi ích trong Niệm Phật Tập của A-xà-lê Thiện Đạo ở Tây kinh.
-Theo Hòa thượng Đại Hành, niệm Phật có mười lợi ích:
1. Nương nhờ Phật lực.
2. Dễ thực hành.
3. Công đức rất nhiều.
4. Tự tha cực hỷ.
5. Mau được gặp Phật.
6. Chắc chắn được không lui sụt.
7. Chắc chắn sinh về cõi Cực lạc.
8. Không xa Phật.
9. Tuổi thọ kéo dài.
10. Không khác bậc Thánh.
-Theo các kinh thì niệm Phật vãng sinh Tịnh độ có ba mươi lợi ích:
1. Diệt trừ các tội.
2. Công đức vô biên.
3. Đối với Phật pháp được thù thắng.
4. Chư Phật đồng chứng minh.
5. Chư Phật cùng che chở.
6. Chư Phật mười phương đồng khuyên tin niệm.
7. Tất cả tật bệnh nhờ niệm Phật mà được tiêu trừ.
8. Lúc sắp qua đời tâm không điên đảo.
9. Một pháp môn niệm Phật thâu nhiếp nhiều pháp môn.
10. Lúc qua đời được Phật đến đón rước.
11. Công đức diệu dụng mau đến Tịnh độ.
12. Từ đài hoa sen hóa sinh. 13. Thân có mầu vàng ròng.
14. Tuổi thọ kéo dài.
15. Sống lâu không chết.
16. Thân có ánh sáng.
17. Có ba mươi hai tướng tốt.
18. Được sáu thông.
19. Đắc Vô sinh pháp nhẫn.
20. Thường gặp chư Phật.
21. Làm bạn với các bậc Thánh.
22. Hương hoa âm nhạc sáu thời cúng dường.
23. Thức ăn, đồ mặc tự nhiên đầy đủ.
24. Tùy ý vận dụng tiến đạo thẳng đến Bồ-đề.
25. Thường được trẻ mãi không có tướng già.
26. Lúc nào cũng khỏe mạnh.
27. Không đọa vào ba đường ác.
28. Sống tự tại.
29. Đêm ngày thường nghe pháp mầu.
30. Trụ ở địa vị Bất thoái.
Kinh Niết-bàn: có năm trăm tên giặc trộm cướp ở chỗ vắng, bị vua Ba-tư-nặc bắt được, sau đó ông cho móc mắt, chặt tay chân rồi bỏ xuống hố.
Lúc đó, trong bọn giặc đó có một người lúc trước đã từng nghe danh hiệu Phật; niệm Phật cứu người khổ nạn. Bèn xoay người bảo các bạn phải đồng tâm niệm Phật. Khi đó, bọn giặc cùng phát nguyện niệm Phật, nhờ đó hai mắt được bình phục, tay chân đầy đủ trở lại như cũ. Cho nên biết lợi ích của niệm Phật không thể suy nghĩ bàn luận.
Trong kinh ấy lại nói: Có một Ưu-bà-di ở nước Thiên trúc kính tin Tam bảo, thường cung kính cúng dường tất cả chúng tăng. Một hôm, trong chúng tăng có một Tỳ-kheo bị bệnh rất nặng, thầy thuốc xem bệnh rồi nói: Phải dùng thịt người làm thuốc để trị thì bệnh mới lành.
Lúc đó, Ưu-bà-di vì cung kính Tam bảo cho nên liền cắt thịt trên người mình để cúng dường, Tỳ-kheo uống thuốc ấy rồi bệnh liền lành. Lúc đó, Ưu-bà-di kia thân thể bị thương đau đớn thống thiết liền niệm Phật, tự nhiên sự đau đớn vơi dần, thân thể bình phục trở lại như cũ. Cho nên biết rằng công đức niệm Phật không thể suy nghĩ bàn luận.
Kinh Nguyệt Đăng Tam-muội chép: Chuyên ròng niệm Phật chẳng những thân thể bình phục mà tất cả các bệnh hoạn cũng được hết hẳn.
Kinh ấy lại chép: Nếu bị bệnh nặng khó chết, đau khổ ép ngặt không thể chữa trị được mà chuyên niệm Phật Tam-muội thì tất cả bệnh tật đều trừ diệt. Cho nên, Xà-lê Thiện Đạo và Hòa thượng
Đại Hạnh đã nói ở trên này: "Những người niệm Phật thì tất cả bệnh tật đều tiêu trừ", số đó rất nhiều không thể nói hết. Chẳng những niệm Phật tật bệnh được tiêu trừ mà thời gian gần đây, có người niệm Phật trước sau cảm được xá-lợi, rồi đem xá-lợi cúng dường Tam bảo. Cho nên biết lợi ích của niệm Phật không thể suy nghĩ bàn luận được.
Hỏi: Kinh A-di-đà nói: Hoặc đã (vãng sinh), đang vãng sinh, và sẽ vãng sinh, tuy khuyên niệm Phật A-di-đà nhưng chẳng biết hiện nay vãng sinh được bao nhiêu và tự họ đã được vãng sinh chưa?
Đáp: Theo kinh Tịnh độ thì thế giới Sa-bà đã có sáu mươi bảy ức Bồ-tát không thối lui việc niệm Phật A-di-đà, vãng sinh về cõi Cực lạc. Cũng giống như vậy, người vãng sinh thì vô lượng vô số.
Kinh Hoa Nghiêm chép: Tỳ-kheo Đức Vân niệm Phật A-di-đà được vãng sinh về Tịnh độ.
- Kinh A-di-đà nói: A-nan, Xá-lợi-phất nghe lời Phật dạy vui mừng, tin nhận liền được vãng sinh.
- Lại theo kinh Quán bà Vi-đề-hy cùng năm trăm thể nữ niệm Phật A-di-đà được vãng sinh về Tịnh độ. Đâu chỉ có các Bồ-tát và Thanh văn được vãng sinh!
Gần đây, ở phía Bắc đô thành (Trung Quốc)
Thiền sư Đạo Xước, Tây kinh có luật sư Tây Kinh, Xà-lê Thiện Đạo, Hoài Cảm, Hòa thượng Đại Hạnh cùng pháp hội tăng hơn mấy trăm tăng chúng chuyên niệm Phật A-di-đà được vãng sinh về Tịnh độ. Chẳng những các vị tăng được vãng sinh mà ở Tây kinh, Đông kinh và những nơi khác có một số ni sư cũng được vãng sinh về Tịnh độ. Chẳng những ni được vãng sinh Tịnh độ mà ở Đông kinh, Tây kinh và một số nơi khác cũng có một số người tại gia, hiền giả và Ưu-bà-di v.v... niệm Phật A-diđà đến lúc qua đời được (thấy) cảnh giới tốt đẹp, vãng sinh về Tịnh độ. Như vậy phẩm loại không thể nói hết, như Vãng Sinh Truyện. Đây tức là các phàm phu, nhị thừa và các Bồ-tát đồng hạnh có tu pháp môn niệm Phật đã vãng sinh.
Hỏi: Trong kinh A-di-đà có nói: Không thể với chút ít gốc lành phước đức nhân duyên mà được vãng sinh về nước kia, chẳng hay thế nào là chút ít gốc lành, thế nào là nhiều gốc lành?
Đáp: Tám vạn bốn ngàn pháp môn của Như Lai chỉ có pháp môn niệm Phật là nhiều gốc lành, nhiều phước đức. Vì sao biết được? Vì theo kinh Quán Vô Lượng Thọ người được sinh về hạ phẩm hạ sinh chỉ cần niệm thành tựu thì liền sinh về. Một câu niệm Phật Di-đà chắc chắn trừ được tội nặng trong tám mươi ức kiếp sinh tử. Một niệm đã có công năng diệt trừ được tội nặng trong tám mươi ức kiếp sinh tử, được công đức nhiệm mầu trong tám mươi ức kiếp. Nên biết pháp môn niệm Phật được rất nhiều gốc lành. Ngoài ra, các pháp môn tu thiện khác là tự lực, tu hành phải trải qua nhiều kiếp mới thành. Còn niệm Phật là nương vào bổn nguyện của Phật A-di-đà: Mau thì một ngày, chậm thì bảy ngày liền được sinh về Tịnh độ, trụ ở địa vị không lui sụt. Cho nên trong kinh A-di-đà có nói: "Nếu có thiện nam, tín nữ nào nghe danh hiệu Đức Phật A-di-đà mà chấp trì danh hiệu, từ một ngày hai ngày cho đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn thì người đó lúc sắp qua đời được Đức Phật A-di-đà cùng các Thánh chúng hiện ra trước mặt người đó. Người đó lúc qua đời tâm không điên đảo được vãng sinh về cõi nước Cực lạc của Phật A-di-đà." Nên biết, pháp môn niệm Phật là nhiều gốc lành, nhiều phước đức.
Hỏi: Niệm Phật một câu có công năng tiêu diệt tội nặng trong tám mươi ức kiếp sinh tử, chẳng hay bao nhiêu lâu là một kiếp?
Đáp: Một kiếp là thời gian không thể tính đếm được.
Theo giáo thì có tảng đá rộng mỗi bề bốn mươi dặm. Trên cõi trời Đao lợi có các vị trời, y của họ mỗi phân nặng ba thù, cứ ba năm phất một lần, phất đến khi tảng đá mòn hết thành bụi là một đại kiếp. Có người gây ra nhiều tội nghiệp như: sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói hai lưỡi, nói ác khẩu, tham, sân, tà kiến, năm tội nghịch, bất hiếu, phỉ báng Đại thừa, tất cả các nghiệp ác như thế đều bị đọa vào địa ngục trải qua tám mươi ức kiếp. Nếu niệm Phật thì tất cả các tội sinh tử đều tiêu diệt, còn được hưởng công đức nhiệm mầu trong tám mươi ức kiếp. Nên biết pháp môn niệm Phật được rất nhiều công đức, rất nhiều gốc lành. Còn tính số kiếp, thì mười ngàn kiếp mới thành một muôn kiếp, mười muôn kiếp mới thành một ức kiếp. Nếu có người mỗi ngày niệm mười muôn lượt danh hiệu Phật A-di-đà, hoặc có người mỗi ngày niệm hai mươi muôn danh hiệu Phật A-di-đà thì được công đức từ mười ức kiếp đến tám mươi ức kiếp.
Kinh A-di-đà nói: "Niệm Phật từ một ngày đến bảy ngày được công đức vô lượng vô biên." Do nhiều công đức được vãng sinh về cõi Tịnh độ, tức là đã lên bậc Bồ-tát Bát địa. Cho nên trong Kinh A-di-đà nói: "Chư Phật Mười phương đều khen ngợi là không thể suy nghĩ bàn luận." Còn tự tu các công đức lành khác cũng được đến bờ mé, nhưng công đức có thể tính đếm được, nên gọi là ít gốc lành.
Công đức niệm Phật rộng lớn vô cùng không thể dùng tâm suy nghĩ, không thể dùng miệng bàn luận, cho nên kinh nói: "Không thể nghĩ bàn." Nên biết pháp môn niệm Phật nếu ai tu theo thì được rất nhiều gốc lành, vượt hơn các pháp tu thiện khác rất nhiều. Còn so sánh công đức niệm Phật thì chia thành ba trường hợp:
1. Niệm một niệm.
2. Niệm mười niệm.
3. Niệm từ một ngày đến bảy ngày.
Trong kinh Quán nói: "Niệm Phật một câu diệt được tội trong tám mươi ức kiếp sinh tử, được hưởng công đức vi diệu trong tám mươi ức kiếp." Chỉ công đức trong một kiếp còn không thể suy nghĩ bàn luận huống chi là trăm kiếp? Công đức trong trăm kiếp còn không thể suy nghĩ bàn luận huống chi là ngàn kiếp? Công đức trong ngàn kiếp còn không thể suy nghĩ bàn luận huống chi là muôn kiếp? Công đức trong muôn kiếp còn không thể suy nghĩ bàn luận huống chi là ức kiếp? Cho đến công đức trong tám mươi ức kiếp thì không thể tính được, cho nên nói: "Công đức không thể suy nghĩ bàn luận."
Trong kinh Vô Lượng Thọ nói rộng về tội năm tội nghịch, phỉ báng. Kinh điển Phương Đẳng khi sắp qua đời niệm danh hiệu Phật A-di-đà mười niệm thì liền được sinh về Tịnh độ. Đây là pháp Hạ phẩm hạ sinh. Một niệm công đức còn vô lượng huống chi hai niệm, cho đến mười niệm. Theo kinh Quán thì người ấy hủy báng, kinh Phương Đẳng, dùng vật của thường trụ tăng, phá nhiều giới, tạo nhiều nghiệp ác thế gian, lúc sắp qua đời niệm danh hiệu Phật A-di-đà. Do công đức niệm Phật này mà tất cả các tội nghiệp đều tiêu diệt, được vãng sinh về Tịnh độ. Cho nên kinh nói trong một niệm diệt được tội trong tám mươi ức kiếp sinh tử, đây là pháp hạ phẩm hạ sinh.
Hỏi: Tội chướng đã gây ra nhiều vì sao chỉ niệm Phật mười câu mà trừ diệt được tội nghiệp trong nhiều kiếp?
Đáp: Niệm mười câu danh hiệu Phật chắc chắn diệt trừ tội nghiệp trong nhiều kiếp. Vì sao biết được? Vì dùng một ví dụ để giải thích: Ví như có người chất củi một ngàn ngày mà không đốt, chỉ cần châm lửa đốt thì củi cháy sạch trong nửa ngày. Tội nghiệp phiền não cũng giống như đống củi này. Công đức niệm Phật cũng y như lửa mạnh đốt cháy tội chướng đã chứa chất trong nhiều kiếp. Do đó niệm mười câu danh hiệu Phật A-di-đà thì diệt trừ hết tất cả tội chướng. Lại nữa, tội chướng giống như căn nhà tối, niệm Phật giống như ngọn đèn sáng. Ngôi nhà u ám ngàn năm, nay ánh sáng vừa dọi đến, bóng tối liền tiêu tan. Công đức niệm Phật cũng giống như thế, vô lượng tội chướng chất chứa trong nhiều kiếp đến nay nhờ công đức niệm Phật A-di-đà mà tất cả tội nghiệp ấy đều tiêu sạch. Nên biết, niệm Phật chắc chắn dứt trừ được tất cả tội nghiệp trong nhiều kiếp.
Kinh Quán nói: vì ngươi xưng niệm danh hiệu Phật, tội được tiêu diệt, nên ta đến đón rước người. Niệm mười câu danh hiệu Phật công đức còn vô biên, huống chi có người một ngày niệm được mười muôn câu Phật A-di-đà một ngày niệm được hai mươi muôn câu danh hiệu Phật A-di-đà. Một ngày niệm Phật công đức còn vô biên, huống chi hai ngày, cho đến bảy ngày. Về công đức niêm Phật, theo kinh A-di-đà thì lúc sắp qua đời, nhanh thì một ngày, chậm thì bảy ngày, liền được vãng sinh về Tịnh độ. Lại nói, chúng sinh sinh ra đều là A-bệ-Bạt-trí tức Bồ-tát Bát địa. Đây là pháp thượng phẩm thượng sinh? Vì sao biết được? Vì như cánh cửa thứ hai ở thế gian, tài sản nhiều thì làm cửa cao lên, tài sản ít thì làm cửa thấp xuống. Người niệm Phật nhiều thì sinh về Tịnh độ, được lên thượng phẩm thượng sinh. Người niệm Phật quá ít thì sinh hạ phẩm hạ hạ. Đức Như Lai tuy nói công đức của các điều lành và tám vạn bốn ngàn pháp môn tu nhưng chỉ có niệm Phật là pháp môn trên hết. Đức Như Lai tuy nói công đức của các điều lành nhưng chỉ có niệm Phật là được gốc lành phước đức nhiều nhất. Niệm Phật là pháp môn thật mầu nhiệm, nên biết pháp môn niệm Phật được gốc lành phước đức rất nhiều. Kinh A-di-đà nói, pháp môn niệm Phật rất khó gặp. Vì sao biết? Vì kinh Đại A-di-đà nói: Thời quá khứ có một vị quốc vương thường khởi tín tâm, nhớ nghĩ pháp yếu niệm Phật, bèn đến chỗ bậc Thiện tri thức, dốc lòng cầu pháp. Lúc đó thiện hữu mới tâu đại vương rằng: Pháp yếu niệm Phật này rất khó được nghe. Đại vương là bậc Thánh cao quý, đâu thể học được? Vua nói:
-Thưa Đại sư, con thiết tha mong ngài nói cho con nghe pháp yếu niệm Phật, con sẽ suốt đời cung cấp hầu hạ ngài.
Đại vương định tu pháp yếu niệm Phật thì hãy xả bỏ ngôi vị quốc vương, đến đây cung cấp hầu hạ ta trong một thời gian rồi ta mới nói pháp yếu niệm Phật.
Lúc đó vua liền bỏ hết tất cả, đến hầu hạ thiện hữu để được tu học! Bấy giờ người dân nước ấy sống lâu vô lượng, trải qua tám ngàn năm, không hề mệt nhọc, không sinh lui sụt, trong thời gian đó hai lần nghe nói niệm Phật Tam-muội, đời sau được gặp hai vạn tám ngàn vị Phật đồng nói pháp niệm Phật Tam-muội cho vua nghe. Vua nghe pháp niệm Phật liền đắc thành quả Phật. Còn ngày nay, nghe rồi chí thành tin niệm, há không được vãng sinh về thế giới Cực lạc ư? Ức ức chúng sinh bị đắm chìm trong đường ác không được thành Phật. Chỉ vì không gặp pháp môn niệm Phật, nên biết pháp môn niệm Phật rất khó gặp.
(Môn So lường phước báo trì trai).
Hỏi: Pháp môn niệm Phật có phải trì trai hay không? Pháp niệm Phật cũng phải trì trai.
Đáp: Hòa thượng Đại Hạnh trì trai, ngày ăn một bữa trong thời gian dài không bỏ dở.
Hỏi: Trì trai được bao nhiêu công đức?
Trong kinh Đại Vân Mật Tạng, kinh Trai Pháp Thanh Tịnh, kinh Giảo Lượng Trai Phước Lợi... đều nói có năm thời:
1. Người trì trai vào giờ Dần, được thức ăn dư dã hơn tám vạn bốn ngàn ức năm.
2. Người trì trai vào giờ Mẹo, được thức ăn dư dã trong tám vạn ức năm.
3. Người trì trai vào giờ Thìn, được thức ăn dư dã trong sáu vạn ức năm.
4. Người trì trai vào giờ Tỵ, được thức ăn dư dã trong bốn vạn ức năm.
5. Người trì trai vào giờ Ngọ, được thức ăn dư dã trong năm trăm ngày.
Ăn sau giờ ngọ không thành trì trai. Nếu ai ăn sau giờ ngọ thì bị tội, không có một mảy may công đức nào. Nói thức ăn dư dã là: Dư tức là không hết. Nghĩa là ngày nay được nhiều y phục, thức ăn, đều do nhân quá khứ trì trai mà có được. Cho nên Hòa thượng Đại Hành nói: Người niệm Phật phải trì trai. Giả như một ngày được thức ăn còn không thể suy nghĩ bàn luận huống chi được thức ăn trong mười năm. Mười năm được thức ăn còn không thể suy nghĩ bàn luận huống chi một trăm năm được thức ăn, cho đến trăm ức, ngàn ức, tám muôn ức năm, đã theo kinh nói, cho nên biết công đức trì trai không thể suy nghĩ bàn luận, người niệm Phật cần phải trì trai.
(Nghi ngờ hủy báng bị mắc tội).
Hỏi: Khen ngợi niệm Phật được bao nhiêu công đức? Hủy báng niệm Phật thì mắc tội gì?
Đáp: Kinh Tạp Tập nói: Người một lần hủy báng niệm Phật thì bị đọa vào địa ngục Nê-lê một ngàn kiếp. Người một lần khen ngợi niệm Phật diệt được tội nặng trong một trăm kiếp. Hòa thượng Đại Hạnh nói: Người không chí thành niệm Phật nên cũng lại hủy báng Phật, bèn Hủy báng pháp bị đọa thẳng vào địa ngục A-tỳ, chịu các khổ đau không có lúc nào ra khỏi.
Hỏi: Địa ngục A-tỳ kết cấu như thế nào?
Trong kinh Quán Phật Tam-muội nói: Địa ngục A-tỳ rộng mỗi bề tám ngàn do-tuần, xung quanh có bảy lớp thành sắt, bảy lớp lưới sắt, có bảy cột sắt, tám vạn bốn ngàn rừng đao, tám vạn bốn ngàn ngàn vạc đồng sôi; chó đồng, rắn sắt, chim sắt đầy đủ trong địa ngục này. Một người bị đọa vào địa ngục thì cũng cùng khắp, nhiều người bị đọa vào địa ngục thì cũng đầy khắp. Một khi bị đọa vào địa ngục này thì chịu khổ trong thời gian dài không có ngày ra, không có xen hở, trải qua tám muôn đại kiếp, sau đó mới được ra. Sau khi ra khỏi địa ngục A-tỳ thì bị đọa vào loài súc sinh. Vì hủy báng pháp môn niệm Phật nên đọa vào địa ngục chịu khổ vô cùng không lúc nào ngừng nghỉ. Nếu không hồi tâm niệm Phật thì tội ở địa ngục Vô gián không biết từ đâu thoát khỏi. Nếu chí thành niệm Phật không gián đoạn thì sẽ dứt trừ tất cả tội nghiệp.
Trong kinh Pháp Hoa nói: Nếu người nào thấy người tán tụng, trì kinh, viết kinh mà xem thường, ganh ghét, giận hờn thì người đó sẽ đọa vào địa ngục Vô gián, huống chi phỉ báng người niệm Phật. Tội người đó nặng gấp trăm ngàn muôn lần người phỉ báng tán, tụng trì kinh, chép kinh. Cho nên Hòa thượng Đại Hành có nói: Nếu ai làm trái ý mình thì nên nhẫn nhịn; bị người ta đánh đập, chửi mắng, chớ có báo thù vì e rằng chuốc tội vào thân. Kinh Di Giáo nói: Sân hận mạnh hơn lửa dữ, nó thiêu đốt tất cả công đức, sân hận mạnh hơn giặc cướp vì nó cướp mất các công đức lành. Vì thế chúng ta nên ngăn ngừa đừng để nó xâm nhập.
Ở thế gian thường quý châu báu. Sân tâm là ngọn lửa dữ thường thiêu đốt bảy Thánh tài. Cho nên người niệm Phật phải nhẫn nhục.
Kinh Hoa Nghiêm nói: "Một niệm tâm sân khởi, trăm ngàn cửa chướng sinh."
Kinh Quán chép: Khen ngợi điều tốt của người khác thì tự được công đức, còn dùng lời thô ác chửi mắng người thì chịu tội báo. Vì sao biết được? Vì kinh Báo Ân nói: "Sa-di Quân Đề vì chê một Thượng tọa tụng kinh tiếng như chó sủa. Do đó mà sa-di ấy phải bị đọa làm chó trong năm trăm kiếp." Lại nữa, trong kinh Tạp A-hàm nói: "Có một người khen ngợi người tu đạo, khen ngợi việc làm tốt đẹp của người, người đó trong năm trăm đời thường được thân hình xinh đẹp, miệng xinh xắn, hơi miệng thơm như hương của hoa Ưu-bát-la, ngược gió bay khắp bốn phương." Nên biết khen ngợi người thì được quả báo tốt.
Kinh Pháp Hoa chép: "Không khen ngợi người làm việc tốt, không chê người làm việc xấu; không chê người thấp xấu, không chê người cao đẹp, chỉ chuyên niệm Phật thì mau được vãng sinh về Tịnh độ."
(Tướng lưỡi dài của chư Phật chứng minh lời nguyện).
Hỏi: Chuyên niệm danh hiệu Phật A-di-đà thì chắc chắn được sinh về Tịnh độ, chắc chắn được vô lượng công đức, nhưng chẳng biết có bảo chứng gì để hành giả khỏi mất tín tâm không?
Đáp: Tướng lưỡi rộng dài (một trong ba mươi hai tướng tốt của Phật) của chư Phật và Bồ-tát không hề nói dối chúng sinh. Lời thành thật ấy bao trùm khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật không bao giờ dối gạt chúng sinh. Nên tin tưởng vào lời nói của Đức Bổn sư Thích-ca Mâuni: "Niệm Phật chắc chắn được vô lượng công đức. Từ một ngày đến bảy ngày chuyên niệm danh hiệu Phật A-di-đà thì chắc chắn được vãng sinh về Tịnh độ." Nương vào lời dạy này tu tập mà không được vãng sinh về Tịnh độ thì tướng lưỡi rộng dài kia đã bị hoại rã, không còn. Đây là tướng tốt để chứng minh bổn nguyện của chư Phật sáu phương.
Kinh Đại Bảo Tích nói: Đức Phật A-di-đà, lúc làm Tỳ-kheo Pháp Tạng có phát bốn mươi tám lời nguyện rộng lớn:
- Nếu khi ta thành Phật, chúng sinh trong mười phương nghe danh hiệu ta, chuyên niệm thọ trì mà không được Vô sinh pháp nhẫn của Bồ-tát và tổng trì các pháp thì ta không thành Chánh giác.
- Nếu ai sinh về nước ta mà, không được ba mươi hai tướng tốt thì ta không thành Chánh giác.
- Mười niệm thành tựu mà không sinh về nước ta thì ta không thành Chánh giác.
- Nếu sinh về nước ta mà còn đọa vào địa ngục và ba đường ác thì ta không thành Chánh giác.
- Nếu sinh về nước ta mà tướng mạo không bình đẳng còn có đẹp xấu thì ta không thành Chánh giác.
- Nếu sinh về nước ta mà không được sáu thông như: thiên nhãn, thiên nhĩ... tự tại thì ta không thành Chánh giác.
- Chúng sinh trong mười phương xưng danh hiệu ta mà không được chư Phật mười phương khen ngợi danh hiệu ta, thì ta không thành Chánh giác.
- Nếu người nữ chán ghét thân nữ, cầu sinh về nước ta, nếu lúc sắp qua đời không chuyển thân nữ thành thân nam thì ta không thành Chánh giác. Nói Chánh giác cũng là nói Bồ-đề.
- Nếu tất cả chúng sinh nương vào nguyện lực ta mà, không được quả báo như trên thì ta không chứng quả Vô thượng Bồ-đề, tức là dối gạt tất cả chúng sinh, ta nguyện ở trong đường ác không được Vô thượng Bồ-đề.
Kinh A-di-đà nói: Từ khi Đức Phật A-di-đà thành Phật đến nay đã mười kiếp. Phật A-di-đà đã được thành Phật thì niệm Phật quyết chắc sẽ được vãng sinh.
Lại nữa, Đức Bổn sư Thích-ca Mâu-ni nói: "Chuyên niệm Phật cũng là việc khó." Ta tu hành pháp môn niệm Phật này được vô thượng Bồ-đề. Nói kinh A-di-đà cũng là nói đến lời phát nguyện của Phật Bổn sư Thích-ca. Cho nên trong kinh Pháp Hoa nói: Ta vốn lập thệ nguyện, vì muốn cho tất cả chúng sinh đều giống như ta, không khác như ta xưa đã nguyện, nay đã mãn nguyện rồi, giáo hóa tất cả chúng, khiến đều vào Phật đạo.
Kinh Quán Âm nói:
Nguyện rộng sâu như biển
Nhiều kiếp không nghĩ bàn,
Hầu nhiều ngàn ức Phật
Phát nguyện lớn thanh tịnh.
Đây là lời phát nguyện của Bồ-tát Quán Thế Âm.
Xà-lê Thiện Đạo và Pháp sư Kim Cương so sánh sự hơn kém của niệm Phật ở tại chùa Tây kinh rồi lên tòa cao phát nguyện. Theo các kinh thì Đức Thế Tôn nói: Tu pháp môn niệm Phật được vãng sinh về Tịnh độ. Niệm từ một niệm đến mười niệm, niệm từ một ngày đến bảy ngày chắc chắn được sinh về Tịnh độ. Nếu đây là lời chân thật không dối gạt chúng sinh thì khiến cho hai pho tượng trong giảng đường này đều phát ra ánh sáng. Còn nếu phép niệm Phật là luống dối không được sinh về Tịnh độ, chỉ dối gạt chúng sinh thì khiến cho Thiện Đạo ở trên tòa cao này liền đọa vào đại địa ngục chịu khổ trong thời gian dài, không bao giờ có lúc được thoát. Nói xong, Ngài cầm gậy như ý chỉ vào pho tượng trong giảng đường, hai pho tượng đều phát ra ánh sáng. Đây là lời phát nguyện của Xà-lê Thiện Đạo. Hòa thượng Đại Hạnh nguyện: Nếu có người thường y theo kinh A-di-đà niệm Phật không chấp tướng mạo, tâm chỉ tin Phật, miệng chỉ niệm Phật, thân chỉ cung kính Phật; gặp tình cảnh trái ngang thường nhẫn chịu, áo xấu thì mình mặc trước, thức ăn dở mình cũng ăn trước; hiếu nghĩa và nhân từ, chuyên tâm niệm Phật; gặp duyên không thối chí, đến chết vẫn không dời; các việc lành, việc ác cũng đều không làm, chỉ chuyên tâm niệm Phật. Nếu người làm được như thế thì Đại Hành sẽ lột da mình ra cho họ làm y phục, xẻo thịt mình cho họ làm thức ăn. Nếu y kinh niệm Phật mà không sinh về Tịnh độ, niệm một câu Phật mà không diệt được tội nặng trong tám mươi ức kiếp sinh tử; không được hưởng công đức nhiệm mầu trong tám mươi ức kiếp thì Hòa thượng không lột da cho họ làm áo; không cắt thịt cho họ làm thức ăn. Nếu dối gạt, mê hoặc chúng sinh thì Đại Hành xin chịu giao báo: Sáu căn hư hoại, khắp thân sinh ghẻ lở, khiến cho đau đớn thống thiết, tương lai đọa thẳng vào địa ngục không thể thoát ra được. Lại dụ thệ nguyện giống như xe báu; có nhiều xe báu chở nhiều châu báu định đến chỗ vua để cầu tìm quan chức, xe chở vật báu buộc dây kỹ càng, mắc trâu vào ách cho vững chắc thì xe đi đến kinh thành mới không bị chao đảo, châu báu không mất. Vua nhận châu báu mới cho làm quan chức. Niệm Phật cũng giống như vậy, nhưng phải phát nguyện, thực hành thì mới được thành tựu. Không mất công đức châu báu niệm Phật thì mới được đến cảnh Tịnh độ, mau chứng Bồ-đề. Nếu tu hành mà không phát nguyện thì không biết do đâu mà đạt được.
Cho nên kinh A-di-đà nói: "Nếu có người nào tin thì nên phát nguyện sinh về cõi nước kia."
Niệm Phật tổng trì, biện tài vô ngại, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, và phương tiện, nguyện lực trí không có pháp nào không đầy đủ. Niệm Phật cũng giống như hạt châu như ý, hễ cầu gì thì được nấy. Nếu tự mình niệm Phật, bố thí cho người, dạy người niệm Phật thì đó chính là bố thí. Vì niệm Phật diệt trừ được các tội nghiệp nên đó là trì giới. Vì niệm Phật nên các pháp ác không sinh là nhẫn nhục. Đi đứng nằm ngồi niệm danh hiệu Phật, tâm miệng không xen tạp, đó là tinh tấn. Tin sâu, không nghi chí thành niệm Phật sẽ được sinh về Tịnh độ, không sinh lui sụt đó là thiền định. Nhờ dụng công niệm danh hiệu Phật lâu ngày thì tất cả kinh giáo, hễ xem thì hiểu ngay, đó là trí tuệ. Cho nên niệm Phật tổng trì biện tài vô ngại. Lại nữa, niệm Phật bao gồm cả sáu độ. Vì sao? Vì niệm Phật được vãng sinh về Tịnh độ: Thức ăn đồ mặc tự nhiên; tài bảo đầy đủ tức là thuộc về bố thí.
- Nhờ niệm Phật nên được vãng sinh Tịnh độ, được thân người nam, đầy đủ sáu thông tức thuộc về trì giới.
- Nhờ niệm Phật được vãng sinh Tịnh độ, được thân hình xinh đẹp vui vẻ, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tức thuộc về nhẫn nhục.
- Nhờ niệm Phật nên được sinh về Tịnh độ. Ở đó dòng sông, rừng cây, chim chóc, chư Phật và Bồ-tát thảy đều nói pháp. Người nghe âm thanh này rồi tự nhiên sinh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, đó là tinh tấn.
- Nhờ niệm Phật nên được sinh về Cực lạc. Ở đó không có các duyên khác, thường trụ trong Tam-muội, nên tức là thiền định.
- Nhờ niệm Phật, nên được vãng sinh Tịnh độ. Ở đó tự nhiên hiểu rõ tất cả muôn pháp, tức là trí tuệ, cho nên pháp môn niệm Phật thâu nhiếp cả quả báo trong sáu độ; công đức gấp trăm ngàn muôn lần bố thí tài bảo.
Kinh Niết-bàn nói: "Niệm Phật một câu chia làm mười sáu phần công đức", nếu có một người bố thí cho chúng sinh trong một thế giới, suốt trong ba tháng nhưng cũng không bằng một phần trong mười sáu phần công đức của niệm Phật. Nên biết công đức niệm Phật gấp trăm ngàn muôn lần công đức tài thí.
(Giải thích các nghi ngờ).
Hỏi: Nếu có nghi ngờ thì xin dứt trừ, cho nên kinh Bát-nhã nói:
Nếu dùng sắc thấy ta,
Dùng âm thanh cầu ta,
Người này hành tà đạo
Không thể thấy Như Lai.
Vì sao niệm Phật A-di-đà, vãng sinh về Tịnh độ lại được thấy Như Lai?
Đáp: Bát-nhã ngăn không cho thấy Như Lai vì: Dùng tướng mạo và âm thanh để tìm, đều là cầu "nhân, ngã" chứ không "cầu vãng sinh", không cầu quả "Vô thượng Bồ-đề". Nên nói:
"Người đó hành tà đạo
Không thể thấy Như Lai".
Kinh Quán, kinh A-di-đà... nói nên khởi tưởng niệm và chuyên xưng danh hiệu, không cầu nhân, ngã, chỉ cầu sinh về Tịnh độ, mau chứng quả vô thượng Bồ-đề, được thấy Như Lai. Gọi đó là chánh đạo. Nếu coi pháp thân vô tướng là chính, sắc tướng, âm thanh để đắc là tà, rồi lấy đó để cầu được thấy Như Lai là tà, đây là đối với hàng Bồ-tát từ Thập địa trở lên. Kinh Quán và kinh A-di-đà nói: Quán một tướng hảo và nhờ nghe danh mà thấy Báo thân Như Lai, đây là đối với hàng phàm phu. Còn đối với hàng phàm phu, nhị thừa và tiểu Bồtát thì chỉ quán chiếu một tướng tốt và vì nghe danh hiệu Phật nên thấy được báo thân Như Lai.
- Nếu cho rằng báo thân, quán Phật, xưng danh là chánh, vô tướng là tà.
- Nếu đối với pháp thân tất cả đều nói là vô tướng, thì tại sao kinh Bát-nhã nói:
Xưa kia, Đức Thế Tôn lên cõi trời
Đao lợi nói pháp để độ cho
Thánh mẫu Ma-da rồi trở về cõi Diêm-phù-đề? Tu-bồ-đề nhớ Đức Thế Tôn nhập định quán xét rồi, bèn đến cung trời ấy. Lúc đó, một thiên nữ không biết do đâu đến gặp Phật trước, hỏi:
- Con được thấy Phật đầu tiên phải không? Phật bảo: Ngươi thấy sau.
Tiên nữ thưa:
- Khi con mới đến thì chưa có ai đến gặp Phật, vì sao nói sau? Thế Tôn nói:
- Có Tu-bồ-đề trước đã nhập định, dứt bỏ nhân ngã, quán thấy Pháp thân trước thiên nữ nên nói là thấy trước. Vì ngươi khởi tâm nhân ngã, quán sắc thân ta, nên thấy Thế Tôn sau và nói kệ cho thiên nữ rằng:
Nếu dùng sắc thấy ta
Dùng âm thanh cầu ta
Người đó hành tà đạo
Không thể thấy Như Lai.
Bài kệ này có lợi ích cho ngoại đạo ở hiện tại và không trái với thế sự ở tương lai, nhưng không giống quan điểm của kinh Quán. Hơn nữa Bát-nhã vì ngăn chấp bốn đại năm uẩn là thường của ngoại đạo. Chấp sắc là ngã, chấp âm thanh là ngã.
Kinh Bát-nhã ngăn chấp ấy nên nói: "Không thấy Như Lai?".
Nay theo kinh Quán v.v... thì nhàm chán cửa họa hoạn, nguyện lìa sinh tử, mau sinh về Tịnh độ, sớm chứng quả Bồ-đề, không quán ngã tướng, liền thấy Như Lai, không giống như Bát-nhã.
Hỏi: Luận Vãng Sinh nói: Người nữ và kẻ thiếu căn, Nhị thừa không được sinh về Tịnh độ. Vì sao kinh Quán nói: Vi-đề-hy và năm trăm thể nữ đồng được vãng sinh, trung phẩm ba người nhị thừa vãng sinh?
Đáp: Theo luận Vãng Sinh nói: Người nữ, Nhị thừa không được vãng sinh là nói không có tánh chắc chắn vãng sinh. Tính người nữ là thường yêu thân nữ, không cầu sinh Tịnh độ, không chịu niệm Phật. Cho nên luận mới ngăn, nói người nữ không được vãng sinh; hàng nhị thừa và người thiếu căn cũng không được vãng sinh, chỉ trụ ở tiểu quả. Nói không được sinh về Tịnh độ vì không biết niệm Phật nên không sinh.
Kinh Quán, kinh A-di-đà... nói: Người vãng sinh bất luận là nhị thừa, căn thiếu, hay người nữ, chỉ cần hồi tâm niệm Phật, chán ghét thân nữ, ở đây pháp lại chia làm sáu môn như sau:
- Môn niệm Phật đối với ba bậc.
- Môn Niệm Phật đối với Di-lặc.
- Môn Niệm Phật đối với tọa thiền.
- Môn Niệm Phật đối với giảng thuyết.
- Môn Niệm Phật đối với giới luật.
- Môn Niệm Phật đối với sáu độ.
1. Môn Niệm Phật đối với ba bậc. (So sánh pháp niệm Phật và ba bậc).
Hỏi: Trong pháp ba bậc: Không được ngồi giường tăng, không được ăn thức ăn của tăng. Còn trong pháp niệm Phật chẳng biết có được ăn thức ăn của Tăng không? Có được ngồi giường tăng không? Và có được ăn quá ngọ không?
Đáp: Trong pháp niệm Phật, được ăn thức ăn của tăng, cho ngồi giường tăng và quá giờ thọ trai. Vì sao? Vì niệm Phật giống như quốc vương. Cũng như Vương tử được nhận bổng lộc của quốc vương, được Như Lai che chở. Lại nữa, Phật giống như cha mẹ. Người niệm Phật giống như con cái đều được cha mẹ cho đầy đủ các thứ: thức ăn, quần áo, giường gối, mền chiếu... cho nên được phép ngồi giường của tăng, ăn thức ăn của Tăng và quá giờ thọ trai. Lẽ nào không ngồi giường Tăng, không ăn thức ăn của Tăng là người tu đạo? Vậy Biên địa, hạ tiện chính là người tu đạo. Vì sao? Vì biên địa, hạ tiện không ngồi giường tăng, không ăn thức ăn của tăng. Vì biên địa, hạ tiện kia chẳng phải đạo, cho nên "ba bậc" này cũng không phải tu đạo. Hỏi: "Ba bậc" gọi là chúng sinh ác, niệm Phật là chúng sinh thiện, làm đúng cũng là chúng sinh ác ư?
Đáp: Không phải chúng sinh ác. Vì sao biết được? Vì theo một bộ kinh nói: Người niệm Phật là người giống như hoa Phân-đà-lợi. Trong các loài hoa, hoa này đẹp nhất. Trong tất cả hạng người, người niệm Phật là đẹp nhất. Vì diệt trừ tất cả các tội chướng cho nên nói chúng sinh thiện. Ba bậc vì tội chưa tiêu trừ cho nên nói là chúng sinh ác. Chẳng lẽ chúng sinh tội ác là người tu đạo; người bệnh hoạn là tu đạo. Vì sao? Vì chúng sinh ác này, và những người bệnh hoạn kia chẳng phải tu đạo. Thế nên, "ba bậc" này cũng chẳng phải tu đạo.
Hỏi: Pháp "ba bậc" không cho vào chùa, còn pháp niệm Phật có cho vào chùa hay không?
Đáp: Trong pháp niệm Phật cho trụ trì chùa. Vì sao? Vì hiện tại trụ ở xứ tốt, tương lai chắc chắn sinh về chốn lành, sẽ chứng Bồ-đề. Cho nên bảo: Trụ trì chùa cũng vào già lam tự là chỗ ở tốt đẹp. Chẳng lẽ già lam, tinh xá là chỗ ở tốt đẹp, hạng chúng sinh thấp kém không được ở, quả vô thượng cao quý, cho đến chúng sinh không đắc được ư?
Hỏi: Trong pháp ba bậc, gặp hình tượng và các kinh không cần phải cung kính, vì là khám đất. Còn chúng sinh bốn sinh là Phật chân thật, cho nên cung kính. Chẳng biết trong pháp môn niệm Phật có cung kính tượng Phật và các kinh điển hay không?
Đáp: Trong pháp niệm Phật thì gặp hình tượng Phật và các kinh đều phải cung kính. Vì sao? Vì theo kinh Báo Ân: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni lên cung trời Đao lợi vì mẹ là phu nhân Ma-da mà nói pháp trong chín mươi ngày. Vua Ưu-điền nhớ Đức Thế Tôn, không biết làm sao gặp được, bèn sai thợ khắc chạm hình tượng Thế Tôn. Đức Thế Tôn từ cõi trời xuống nhân gian, Vua Ưu-điền cùng các quần thần mang theo tượng Phật cùng đến đón rước Đức Thế Tôn. Tượng Phật và Thế Tôn cùng đứng một nơi tương tự nhau. Đức Thế Tôn dùng tay xoa đầu tượng Phật nói: "Không bao lâu nữa ta sẽ nhập Niết-bàn, người trụ mãi ở thế gian, giáo hóa chúng sinh."
Đức Thế Tôn còn cung kính tượng Phật, huống là chúng sinh tội ác mà không cung kính ư?
Theo kinh Thập Luân nói: Người thợ săn mặc ca-sa, voi thấy khởi tâm cung kính. Do công đức cung kính ca-sa này, mà qua đời được sinh lên cõi trời Đao lợi, hưởng thọ sự vui sướng trong chín mươi mốt kiếp. Vì sao? Vì hình tượng Phật cũng giống như tướng tốt của chư Phật, cung kính hình tượng Phật là cung kính chư Phật. Người tôn kính cảm được sự tôn quý vinh hoa nên được sinh lên cõi trời hay sinh về Tịnh độ. Vì thế trong kinh Phật Danh nói: "Phật Lô-xá-na còn tự mình cung kính tượng Phật Lô-xá-na." Huống chi là phàm phu, lẽ nào không cung kính?
Kinh Hoa Nghiêm nói: "Niệm Phật Tam-muội thì sẽ được thấy Phật. Sau khi qua đời được sinh ở trước Phật. Vì người kia lúc sắp qua đời có người đem hình tượng Phật đến và dạy nhìn lên tượng, niệm danh hiệu Phật, sinh tâm cung kính." Vì sao ba bậc nói tất cả hình tượng đều là bùn đất? Vì khi đem cơm đến tượng chẳng ăn được. Tất cả chúng sinh (trâu, bò...) là Phật chân thật, vì khi đem thức ăn đến chúng ăn được. Tất cả hình tượng đều là bùn đất. Vì cúng dường y phục, tượng không mặc được. Nếu tất cả chúng sinh đều là Phật chân thật thì sao côn trùng không mặc y phục được. Vậy nói tất cả chúng sinh đều là chân Phật là sai vì trong một năm số mất mạng nhiều vô số? Tội giết Phật, làm sao trừ được? Tất cả chúng sinh là thân Phật thật, sao không được đặt ở chỗ thắng diệu?
Bản thân mình ở nhà đẹp, còn đặt Phật ở nơi xấu xí, há là bình đẳng ư?
Hỏi: Ba bậc nói niệm danh hiệu Bồ-tát Địa Tạng thì bao nhiêu công đức có được? Bằng với công đức niệm Phật A-di-đà?
Đáp: Công đức niệm Phật A-di-đà nhiều gấp trăm ngàn muôn lần công đức niệm Bồ-tát Địa Tạng. Vì sao biết được? Vì theo kinh Quán Âm: "Một người cúng dường sáu mươi hai ức hằng hà sa Bồ-tát, công đức không bằng người lễ bái cúng dường Bồ-tát Quán Thế Âm trong thời gian ngắn." Kinh Thập Luân nói: "Nếu có người trong một trăm kiếp niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, thì công đức ấy không bằng người niệm danh hiệu Bồtát Địa Tạng trong khoảng một bữa ăn."
Luận Quần Nghi nói: "Có người niệm danh hiệu Bồ-tát Địa Tạng trong một đại kiếp, công đức ấy vẫn không bằng nghe danh hiệu Phật A-di-đà." Vì sao? Vì Phật là Pháp Vương, Bồ-tát là Pháp thần. Giống như lúc vua đi thì thần phải theo vua. Phật có năng lực rộng lớn, thâu nhiếp các tiểu Bồtát; quả Giác tròn đầy này vượt hơn các địa vị. Cho nên người niệm Phật công đức rất nhiều, nhiều gấp trăm ngàn muôn lần niệm danh hiệu Bồ-tát Địa Tạng. Bởi lẽ Bồ-tát Địa Tạng chưa đắc quả vị Phật; quả vị chưa viên mãn cho nên công đức ít hơn.
Hỏi: Niệm Phật là Nhất thừa, ba bậc chẳng phải
Nhất thừa. Vì sao? Vì nếu là một bậc thì cũng có thể là Nhất thừa. Còn đã nói là ba bậc thì chẳng lẽ thành tựu được nghĩa Nhất thừa ư?
Lại theo kinh Pháp Hoa nói: "Trong các cõi Phật ở mười phương chỉ có pháp Nhất thừa, không hai cũng không ba, trừ Phật phương tiện nói."
Nói không có hai là: Nếu hướng về Bồ-tát thì không có Duyên giác.
Nói không có ba là: Nếu hướng về Duyên giác thì không có Thanh văn.
Lại nói không hai: Nếu hướng về lời Phật dạy tức là Nhất thừa, không có Thanh văn, Duyên giác. Vì sao? Vì Nhị thừa là quả rất lớn; còn Đại thừa thì Sơ địa, cho nên không nói hai, cũng không nói ba, tức là không có Bồ-tát thừa mà là Thập địa nhân quả chưa cùng cực. Cho nên không nói ba. Theo kinh Pháp Hoa nói: "Chỉ có một Phật thừa, vì để ngơi nghỉ nên nói hai. Nay vì ngươi nói thật, chỗ ngươi được cũng chẳng phải "Diệt". Vì Nhất thiết trí của Phật nên phát tâm tinh tấn mạnh mẽ". Nên biết Phật là bậc Giác mãn quả viên vượt qua các địa vị; là bậc Tối thượng thừa, là Địa vị cao tột rốt ráo. Cho nên gọi là Nhất thừa, chẳng có thừa nào khác có thể bằng được. Cho nên lúc Hòa thượng Đại Hạnh còn sống có vài người trong ba bậc bỏ pháp ba bậc, quy y Hòa thượng tu pháp môn niệm Phật.
2. Môn Niệm Phật đối với Di-lặc.
(So sánh công đức niệm Phật A-di-đà với công đức niệm Phật Di-lặc).
Hỏi: Công đức niệm Phật A-di-đà như thế nào so với công đức niệm Phật Di-lặc?
Đáp: Công đức niệm Phật A-di-đà nhiều hơn trăm ngàn muôn ức lần công đức niệm Phật Di-lặc. Vì sao biết được? Vì theo trong kinh nói Phật Adi-đà hiện đã "Giác viên quả mãn", vượt qua các địa vị cho nên người xưng niệm danh hiệu Phật được rất nhiều công đức. Còn Di-lặc hiện đang ở địa vị Bồ-tát, chưa vượt qua các quả vị, quả chưa viên mãn, vì thế niệm danh hiệu Ngài công đức ít hơn.
Hỏi: Vì sao không niệm Phật Di-lặc để sinh lên cõi trời Đâu-suất mà phải niệm Phật Di-đà để được vãng sinh Tịnh độ?
Đáp: Vì cõi trời Đâu-suất còn nằm trong ba cõi. Khi thọ hết phước báo sẽ trở lại cõi Diêm-phù-đề. Cho nên không nguyện sinh về cõi trời. Còn khi đã vãng sinh Tịnh độ thì đã vượt ra ba cõi, năm đường, một khi đã sinh về cõi nước kia thì liền thẳng đến Bồ-đề, không còn đọa lạc. Vì thế nên nguyện sinh về Tịnh độ. Hơn nữa, ở cõi trời Đâusuất chỉ thọ vui trong thời gian ngắn, còn sự thọ vui ở cõi Phật A-di-đà rất tối thắng. Do vậy cõi Phật A-di-đà gọi là Cực lạc, nghĩa là hưởng vui mãi mãi, không có kỳ hạn. Cho nên do nhân duyên này cao quý hơn gấp trăm ngàn muôn ức lần cõi trời Đâu-suất. Vì sao biết được? Vì trong kinh nói:
1. Thân tướng thắng: Chúng sinh đã sinh về cõi Phật A-di-đà được đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, trời người ở cõi trời Đâu-suất không có tướng này. 2. Đồ chúng thắng: Chúng sinh đã sinh về Tịnh độ thì cũng làm bạn với các Bồ-tát, được làm thân nam, không có tướng nữ. Còn ở cõi trời Đâu-suất thì nam nữ ở chung lẫn lộn, không giống như Bồtát.
3. Thọ mạng thắng: Tuổi thọ ở cõi trời Đâusuất là bốn ngàn tuổi. Khi mãn kiếp thì sinh về cõi Diêm-phù-đề. Còn một khi đã sinh về cõi Cực lạc thì thẳng đến quả Phật, không còn sinh làm người trở lại.
4. Thần thông thắng: Bồ-tát ở cõi Phật A-di-đà có sáu thần thông, còn người ở cõi trời Đâu-suất thì không.
5. Quả báo thắng: tất cả những vật dùng như: thức ăn, áo quần, hương hoa, anh lạc... hễ cần là có; dân chúng ở đó không cần phải làm vẫn luôn đầy đủ, không bao giờ thiếu. Còn ở cõi trời Đâusuất thì không được như vậy trên cõi trời Đâu-suất phải làm mới có. Dù có y phục tự nhiên cũng không được lâu. Chỉ thọ bốn ngàn tuổi, khi tuổi trời sắp hết thì hiện ra năm tướng suy:
1. Hoa trên đầu héo.
2. Nách ra mồ hôi.
3. Ngồi đứng không nhất định.
4. Khí lực suy vi, quyến thuộc chư thiên lánh xa.
5. Thường điệu cử (đứng ngồi không yên).
Không bằng thế giới Cực lạc trăm ngàn muôn lần hơn.
Hỏi: Sau này Đức Di-lặc sẽ hạ sinh thành Phật, mở ba hội nói pháp, độ các chúng sinh đắc quả A-la-hán. Vì sao không nguyện sinh về chỗ Phật Dilặc mà lại nguyện sinh về cõi Phật A-di-đà?
Đáp: Ngài Di-lặc chưa hạ sinh, về tương lai thì không thể đợi được. Vì sao biết? Vì theo lời kinh: Sau khi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nhập Niết-bàn trải qua năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm, lúc đó con người thọ tám vạn bốn ngàn tuổi thì Đức Di-lặc mới hạ sinh. Còn theo Pháp Vương Bổn Ký thì từ khi Đức Phật Thích-ca nhập Niết-bàn đến nay mới hơn một ngàn bảy trăm năm nên hoàn toàn không dám nghĩ đến vị lai, cũng không thể đợi được. Bởi vì mạng người ngắn ngủi, chỉ sợ chìm trong biển khổ, nhiều kiếp chịu tai ương, không gặp Phật Di-lặc. Hiện tại chỉ có Phật A-di-đà đang nói pháp ở thế giới Cực lạc, độ khắp chúng sinh. Nếu quay về nương tựa cõi Cực lạc Tây phương thì sớm chứng được đạo quả. Như vậy sẽ nhanh hơn trăm ngàn muôn ức lần đợi Phật Di-lặc. Hơn nữa, Phật Di-lặc mở ra ba hội nói pháp rộng độ mọi người đắc quả A-la-hán. Đây là một quả rất lớn của Tiểu thừa, nếu hướng về Đại thừa thì mới đến được Sơ địa. Còn ức ức chúng sinh không gặp Phật Dilặc chỉ niệm Phật A-di-đà cầu sinh về Tịnh độ, tức là Bồ-tát Bát địa trở lên, mau thì một niệm đến mười niệm, chậm thì một ngày đến bảy ngày niệm danh hiệu Phật A-di-đà liền được vãng sinh về Tịnh độ. Như vậy sẽ nhanh hơn đợi Phật Di-lặc cả trăm ngàn muôn lần. Còn nữa, ngày Đức Phật Bổn sư nói kinh A-di-đà thì Bồ-tát Di-lặc cũng ở trong hội, Bồ-tát A-dật-đa chính là Bồ-tát Di-lặc. Bồ-tát Di-lặc còn niệm danh hiệu Phật A-di-đà, huống chi là chúng sinh đời vị lai há chẳng niệm Phật ư? Xưa kia, Hòa thượng Đại Hành mỗi ngày thường niệm danh hiệu Phật Di-lặc, sau chuyển sang niệm Phật A-di-đà và niệm pháp Phật. Hơn nữa, theo kinh dạy: "Sau này đến đời Mạt pháp, các pháp môn khác thảy đều tiêu diệt, chỉ còn chánh pháp niệm Phật, chỉ ở đời một trăm năm để giáo hóa chúng sinh." Nên biết pháp môn niệm Phật không thể suy nghĩ bàn luận.
3. Môn niệm Phật đối với tọa thiền.
(So sánh công đức niệm Phật và ngồi thiền).
Hỏi: Pháp môn niệm Phật A-di-đà so với pháp quán Vô sinh của thiền tông thì thế nào?
Đáp: Niệm Phật A-di-đà vãng sinh Tịnh độ mau đắc quả Phật đương nhiên là hơn pháp quán Vô sinh cả trăm ngàn muôn lần. Vì sao biết được? Vì theo kinh Duy-ma nói: "Thí như xây nhà cửa, cung điện ở trên hư không thì chắc chắn không thể thành tựu, còn trên đất liền thì tùy ý mình, muốn xây cất gì cũng không ngăn ngại. Vô sinh khán tâm cũng giống như vậy. Vì sao? Vì vô sinh tức là vô tướng, vô tướng tức là hư không. Cho nên khó thành. Pháp môn niệm Phật thì sự lý song tu, giống như trên đất liền xây nhà cửa cung điện, nên dễ thành tựu. Giống như người nghèo cùng mà học đòi như quốc vương xây nhà cao lớn. Tuy làm được một ít trụ gỗ rồi để đó, mãi đến hết đời xây cũng không xong. Sau đó, cây gỗ hư mục phí uổng công sức, tài của mà công trình vẫn không thành. Pháp quán vô sinh cũng giống như vậy. Công đức pháp tài không thành, chỉ luống uổng công phu, không lợi ích gì.
Pháp môn niệm Phật thì không phải như vậy. Bởi vì niệm một câu Phật A-di-đà sẽ tiêu trừ tội sinh tử trong tám mươi ức kiếp, còn được công đức nhiệm mầu trong tám mươi ức kiếp. Cũng giống như đứa trẻ giàu có xây nhà liền thành. Cho nên kinh Quán nói: Đúng như bổn nguyện lực của Đức Như Lai kia: Có nghĩ tưởng sẽ được thành tựu. Không giống với quán vô sinh. Vì sao? Vì kinh Pháp Hoa nói: "Đức Phật Đại Thông Trí Thắng trong mười kiếp ngồi tại đạo tràng mà Phật pháp chẳng hiện ra trước, cho nên không được thành Phật đạo." Không hiện ra trước mắt tức là Vô sinh. Đã như vậy thì mười kiếp cũng không được thành tựu. Nên biết: Muốn thành Phật thì phải niệm Phật. Nhanh thì một ngày, chậm thì bảy ngày liền sinh về Tịnh độ, tức là đã lên bậc Bồ-tát Bát địa. Vì sao? Vì nương vào nguyện lực Phật.
Hỏi: Khán tâm (quán tâm) so với niệm Phật thì được bao nhiêu công đức?
Đáp: Công đức niệm Phật nhiều gấp trăm ngàn muôn lần công đức quán tâm. Vì sao biết?
Theo kinh Quán nói: Một câu niệm Phật thì diệt được tội sinh tử trong tám mươi ức kiếp, được công đức vi diệu trong tám mươi ức kiếp; còn một lần khán tâm không biết diệt được bao nhiêu tội, sinh được bao nhiêu công đức? Đó là chưa hỏi đến diệt được tội trong bao nhiêu ức kiếp sinh tử, địa ngục đều diệt, mà vãng sinh Tịnh độ. Cho nên biết công đức niệm Phật nhiều gấp trăm ngàn muôn lần khán tâm.
Hỏi: Niệm Phật vãng sinh được quả báo gì? Quán Vô sinh thành tựu được quả báo gì? Hai quả báo này, quả nào cao quý hơn?
Đáp: Niệm Phật vãng sinh được ba mươi hai tướng tốt, đầy đủ sáu thông, sống lâu không chết, vượt qua ba cõi thẳng đến quả vị Phật, không còn đọa lạc, làm bạn với Bồ-tát và Thánh chúng, được nghe Đức Phật A-di-đà nói pháp. Còn quán Vô sinh thành tựu thì được sinh lên cõi trời Trường thọ, trải qua tám muôn đại kiếp rồi trở lại đọa vào đường ác. Trong một muôn người quán vô sinh không một người nào được thành tựu vì không hợp thời. Nếu có người được thành tựu, sinh lên cõi trời Trường thọ cũng không thoát khỏi ba cõi. So ra thì kém Tịnh độ cả trăm ngàn muôn lần.
Hỏi: Chính xác mà nói, quán vô sinh chỉ là khán tâm. Tâm ấy là đỏ, là trắng, là xanh, hay vàng? Người quán sẽ thành tựu hay không thành tựu?
Đáp: Quán vô sinh là khán tâm chẳng phải xanh, chẳng phải vàng, chẳng phải trắng, chẳng phải đỏ; cũng không nói thành hay không thành. Tâm không tướng mạo cũng không thành tựu. Có như vậy mới chẳng uổng phí công phu, nhọc công mà không có lợi ích gì. Không lẽ: lúc khán tâm tức là được thành Phật; nhìn áo thì liền được ấm; nhìn cơm thì sẽ được no; nhìn vàng sẽ được dùng thật thì đó là khi khán tâm cũng đắc đạo. Nếu nhìn áo mà không mặc thì không hết lạnh, nên lúc khán tâm cũng không đắc quả. Lại, trong kinh Tượng Pháp Quyết Nghi nói: Ngồi thiền chẳng phải là thời mạt pháp. Vì sao? Vì kinh ấy nói: Sau khi Phật diệt độ năm trăm năm là thời Chánh pháp, là thời kỳ Chánh pháp kiên cố. Kế đến là thời kỳ Tượng pháp, kéo dài một ngàn năm. Đây là thời kỳ thiền định kiên cố. Và cuối cùng là thời kỳ mạt pháp kéo dài một vạn năm, đây là thời kỳ niệm Phật kiên cố. Theo Pháp Vương Bổn Ký: Vào thời mạt pháp khoảng hơn hai trăm năm là thời kỳ niệm Phật chứ không phải thời Tọa thiền. Cho nên có nhiều môn đồ của các Thiền sư theo hòa thượng Đại Hành tu niệm Phật.
4. Niệm Phật đối giảng thuyết môn.
(So sánh công đức niệm Phật với giảng kinh).
Hỏi: Niệm Phật và nghe kinh, công đức nào nhiều hơn?
Đáp: Công đức niệm Phật nhiều hơn gấp trăm ngàn muôn lần nghe kinh. vì sao biết được? Vì trong kinh Quán nói: "Người ở hạ phẩm thượng sinh không có việc ác nào không làm. Do tạo quá nhiều nghiệp ác cho nên lúc sắp qua đời cảnh địa ngục lửa đốt gớm ghê đồng thời hiện ra. May thay lúc đó gặp được Thiện tri thức giảng về mười bộ kinh, người kia nghe rồi tội nghiệp trong hơn ngàn kiếp được tiêu trừ. Nhưng do năng lực nghe kinh tội nhỏ nên địa ngục vẫn chưa dứt trừ. Khi đó lại được người trí dạy cho niệm danh hiệu Phật A-diđà, dù chỉ mười niệm nhưng tội trong tám mươi ức kiếp sinh tử được tiêu trừ."
Hỏi: Khen ngợi kinh và niệm Phật, công đức nào nhiều hơn? Đáp: Công đức niệm Phật nhiều hơn.
Hòa thượng Đại Hành bảo: không niệm Phật tu trì, chỉ khen ngợi kinh thì cũng giống như khen đơn thuốc, còn niệm Phật cũng như uống thuốc. Chỉ khen đơn thuốc mà không uống thuốc thì làm sao lành bệnh được. Vì vậy công đức khen ngợi kinh ít hơn công đức niệm Phật. Người tu đạo phải niệm Phật, vì công đức niệm Phật rất nhiều.
Hỏi: Giảng kinh và niệm Phật công đức nào nhiều hơn?
Đáp: Công đức niệm Phật vẫn gấp trăm ngàn muôn lần công đức giảng kinh. Vì sao? Vì giảng kinh giống như đếm vật báu, còn niệm Phật như dùng vật báu. Đếm vật báu tuy nhiều nhưng không hết nghèo khổ, đó là không nói đến diệt tội và được công đức. Còn dùng vật báu tuy ít nhưng có thể cứu được thân mạng, được công đức vô lượng. Nên biết rằng: Niệm Phật tuy ít nhưng công đức nhiều gấp trăm ngàn muôn lần công đức giảng kinh, giảng kinh cũng giống như mài đá tuy bỏ ra rất nhiều công phu mà được lợi ích không bao nhiêu. Vả lại nhận người lễ bái, cúng dường thì tổn thất rất nhiều công đức. Cho nên luận nói: Ví như người nghèo ngày đêm đếm tiền cho người khác mà mình không được nửa đồng. Nghe nhiều cũng giống như vậy. Vì thế nên nói giảng kinh được công đức rất ít. Vì sao biết? Vì như người giảng về phá chấp ngã trong luận Duy Thức: Miệng tuy nói pháp nhưng tâm thường chấp ngã kẻ không khởi chấp ngã, trong muôn người không có một. Cho nên kinh Pháp Hoa nói: "Ngã mạn, tự cao, dua nịnh, tâm không chân thật thì trong trăm ngàn muôn kiếp không nghe danh hiệu Phật, cũng không nghe chánh pháp. Người như thế khó độ." Do việc này nên nói công đức giảng kinh ít hơn công đức niệm Phật cả trăm ngàn muôn lần. Thế nên các pháp sư: Hoài Cảm, Trí Nhân, pháp sư Uẩn đều đã bỏ giảng luận quay về niệm Phật.
5. Niệm Phật đối với giới luật.
(So sánh công đức niệm Phật với giữ giới).
Hỏi: Niệm Phật và giữ hai trăm năm mươi giới, ba trăm bốn mươi tám giới công đức nào nhiều hơn?
Đáp: Công đức niệm Phật gấp trăm ngàn muôn lần công đức giữ hai trăm năm mươi giới. Vì sao biết? Vì theo kinh nói: Trì giới chứng tiểu quả, mới đến Sơ địa. Còn theo kinh Di-đà: Nếu niệm Phật A-di-đà từ một ngày đến bảy ngày thì được vãng sinh Cực lạc, tức là đã lên Bồ-tát Bát địa. Cho nên, kinh nói: Chúng sinh sinh về đó đều là A-bệ-bạttrí. Nên biết công đức niệm Phật nhiều gấp trăm ngàn muôn lần trì giới.
Theo trong kinh nói: Thời mạt pháp chẳng phải là thời trì giới mà là thời niệm Phật. Làm sao biết được? Vì theo kinh Tượng Pháp Quyết Nghi nói: Sau khi Đức Phật Bổn sư diệt độ, thì thời chánh pháp năm trăm năm, giữ giới được kiên cố. Đến thời Tượng pháp một ngàn năm. Đây là thời tọa thiền được kiên cố. Thời mạt pháp mười ngàn năm là thời niệm Phật kiên cố. Từ khi Phật nhập Niết-bàn đến nay đã hơn một ngàn bảy trăm năm thì thời mạt pháp đã hơn hai trăm năm rồi. Cho nên biết rằng đây là thời kỳ niệm Phật chứ không phải thời kỳ trì giới.
Nếu như có người giữ giới thì được danh dự và sự cúng dường, đến khi người đó chết được sinh lên cõi trời chứ không chứng quả A-la-hán. Lại nữa, người trì giới thành tựu được sinh về cõi trời nhưng vẫn còn nằm trong ba cõi. Hơn nữa, trong muôn người không có được một người giữ giới trọn vẹn. Vì sao? Vì giới luật rất tinh vi, con người lại thô lậu nên đa số khó giữ trọn. Còn niệm Phật thì số chữ ít, dễ hành trì lại được nhiều công đức.
Hỏi: Niệm Phật và giữ giới, pháp môn nào được lợi ích nhiều hơn?
Đáp: Niệm Phật ít tốn hao công sức mà lợi ích nhiều, còn giữ giới tốn nhiều công phu nhưng lợi ích không bằng. Vì sao biết? Vì theo Kinh Mụcliên Vấn: Phá giới thiên đầu đọa địa ngục số năm bằng vị trời Trường thọ, bằng ở cõi nhân gian chín trăm mười lăm câu-ni, sáu trăm vạn năm bị đọa trong địa ngục. Trong Văn giới có năm thiên bảy tụ. Căn cứ theo đây để so lường thì thiên thứ nhất nặng gấp hai thiên thứ hai; thiên thứ hai nặng gấp hai thiên thứ ba; thiên thứ ba nặng gấp hai thiên thứ tư; thiên thứ tư nặng gấp hai thiên thứ năm. Thiên thứ năm, nếu phạm nhẹ nhất là phạm độtcát-la, đọa vào địa ngục chín trăm muôn năm; một đêm không sám hối là bỏ cái lợi ích vốn có. Và chắc chắn rằng: Phá giới mắc tội vô lượng vô biên. Trong một ngàn người không có một người giữ giới trọn vẹn. Nên biết: Giữ giới tốn công phu mà ít lợi lạc. Còn một câu niệm Phật diệt trừ được tội trong tám mươi ức kiếp sinh tử. Nên biết mắc tội phá giới mà niệm Phật A-di-đà, tội ấy cũng tiêu. Vì sao biết được? Vì theo kinh Quán chép: "Hoặc có chúng sinh nào hủy phạm năm giới, mười giới và giới cụ túc thì cũng như người ngu kia phải đọa vào địa ngục trải qua nhiều kiếp, chịu khổ vô cùng. Nhưng lúc sắp qua đời người ấy gặp được bậc Thiện tri thức dạy về uy đức mười lực của Phật Adi-đà và khen ngợi ánh sáng thần lực của Đức Phật kia. Rồi dạy bảo người ấy niệm Phật. Người ấy nghe rồi được diệt trừ tội trong tám mươi ức kiếp sinh tử được vãng sinh về hạ phẩm hạ sinh ở cõi Tịnh độ." Cho nên biết tội phá giới cũng được tiêu diệt.
Theo luận Quần Nghi: Niệm Phật là sự bảo hộ người phá giới, là kẻ dẫn đường của người lạc đường, là cặp mắt cho người mù. Nên biết niệm Phật thuần lợi ích, không có tổn hại. Cho nên các bậc luật sư ở phương bắc xưa kia đều xả giới luật quay về niệm Phật, được vãng sinh về thế giới Cực lạc Tây phương. Nên biết niệm Phật được lợi ích rất nhiều, trì giới khổ hạnh mà không bằng.
6. Niệm Phật đối sáu độ.
(So sánh công đức niệm Phật với tu sáu độ).
Hỏi: Niệm Phật và tu sáu độ Ba-la-mật công đức nào nhiều hơn?
Đáp: Công đức niệm Phật nhiều hơn gấp trăm ngàn muôn lần. Vì sao biết? Vì theo kinh Duy-ma: Người niệm định tổng trì, tự cầu sinh Tịnh độ thì đều được vãng sinh.
Hỏi: Có người còn nghi pháp môn niệm Phật như đánh trống miệng. Giải thích thế nào?
Đáp: Đánh trống miệng là nhân: Miệng tụng tâm nhớ. Nếu không có tâm miệng thì không biết do đâu mà thành tựu. Niệm Phật cũng giống như vậy. Tâm tin, miệng xưng tụng thì vãng sinh Tịnh độ, mau chứng vô thượng Bồ-đề. Nếu không có tâm, miệng thì không do đâu mà được vãng sinh. Cho nên giống như đánh trống miệng.
Hỏi: Vì sao không niệm Bổn sư Thích-ca mà chỉ niệm Phật A-di-đà?
Đáp: Niệm Phật A-di-đà vốn là lời dạy của Đức Bổn sư: Niệm Phật rồi mới bắt đầu quán tu. Giống như cha mẹ sinh con, sau đó giao cho thầy dạy. Nhờ thầy dạy dỗ mới thành đạt được. Phật A-di-đà cũng giống như vậy. Đức Phật Bổn sư nói kinh, khuyên bảo chúng ta niệm Phật A-di-đà để sinh về Tịnh độ, sớm chứng quả Bồ-đề. Đời tương lai niệm danh hiệu Phật là việc khó. Chính Đức Bổn sư cũng khuyên tất cả chúng sinh đồng niệm Phật. Nếu thường xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà thì chắc chắn được sinh về Tịnh độ, sớm chứng quả Bồ-đề. Đây là một việc ít có.
Niệm Phật A-di-đà giống như cha mẹ có nhiều con. Sắp đặt cho ở một nơi đẹp đẽ, rồi nuôi dưỡng không để bị đói chết. Đức Bổn sư cũng giống như vậy. Cõi Sa-bà dơ bẩn xấu xa nếu để chúng sinh ở lâu nơi này thì sợ chúng bị đắm chìm, đọa vào địa ngục. Thế nên Ngài muốn chúng sinh đồng về cõi Cực lạc, thọ hưởng sự an vui, không bị trôi lăn nữa. Cho nên Ngài dạy họ niệm Phật Di-đà chứ không bảo niệm Bổn sư. Chẳng những Đức Thích-ca nhờ niệm Phật được thành mà chư Phật ba đời mười phương cũng nhờ niệm Phật Tam-muội mà được thành Phật. Cho nên trong Kinh Nguyệt Đăng Tam-muội nói: "Chư Phật mười phương ba đời đều tu niệm Phật, mau chứng Vô thượng Bồ-đề." Nên biết chư Phật ba đời đều nhờ niệm Phật mà được quả Phật.
Hỏi: Vì sao không niệm chư Phật mười phương mà thiên về niệm Phật A-di-đà?
Đáp: Trong chư Phật mười phương, thì Phật Adi-đà là tối thắng, tối tôn, tối từ bi, là vị Phật kết duyên rất sâu với chúng sinh; nguyện lực của Phật A-di-đà là thâu nhiếp rất nhiều chúng sinh. Hơn nữa, trong các Tịnh độ của chư Phật mười phương thì cõi Tịnh độ của Phật A-di-đà là đẹp nhất. Thế nên bà Vi-đề-hy đã chọn cõi này rồi niệm Phật, được vãng sinh về đây. Trong các Tịnh độ của chư Phật mười phương thì Tịnh độ của Phật A-di-đà là gần nhất và trong các danh hiệu Phật mười phương thì niệm danh hiệu Phật A-di-đà được nhiều công đức nhất. Cho nên, chỉ chuyên niệm danh hiệu Phật A-di-đà.
Hỏi: Vì sao niệm Phật là một pháp mà có thể thâu nhiếp tất cả các pháp môn?
Đáp: Niệm Phật tuy là một pháp môn nhưng chắc chắn thâu nhiếp các pháp môn. Vì sao biết? Vì lấy một ví dụ để giải thích: Niệm Phật giống như hạt ngọc báu như ý. Tuy một hạt ngọc báu nhưng có thể thâu nhiếp tất cả các vật báu. Cho nên trong Kinh Pháp Hoa nói: "Long nữ vì dâng hiến hạt châu mà mau được thành Phật." Tuy niệm Phật là một pháp môn nhưng nó làm phát triển tất cả các công đức khác, được sinh về Tịnh độ, mau chứng Vô thượng Bồ-đề. Một pháp môn bao gồm tất cả pháp môn, cho nên Kinh Duy-ma nói: "Niệm Phật sinh định tức là Tổng trì bao gồm tất cả các pháp môn". Trong một pháp bao gồm các pháp.
(Niệm Phật được ra khỏi ba cõi).
Hỏi: Tịnh độ Cực lạc đã ra khỏi ba cõi hay còn ở trong ba cõi? Đáp: Tịnh độ Cực lạc chắc chắn đã ra khỏi ba cõi.
Ba cõi là:
- Cõi Dục: Từ cõi Diêm-phù-đề lên đến sáu tầng trời đều gọi là cõi Dục.
- Cõi Sắc: Gồm mười tám tầng trời từ tầng trời Phạm Chúng trở lên gọi là cõi Sắc.
- Cõi Vô sắc: Có bốn cõi trời: Từ Không vô biên xứ cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên. Tất cả đều gọi là cõi Vô sắc.
Lại nữa, ba cõi là: Từ cõi Diêm-phù-đề trở lên hai mươi tám tầng trời là Phi phi tưởng xứ thiên và trở xuống hai mươi tám tầng là địa ngục Vô gián. Người ở trong ba cõi giống như ở trong lao ngục. Kinh Pháp Hoa nói: "Ba cõi không yên, giống như nhà lửa, thường có sinh, già, bệnh, chết; lo sợ như lửa cháy mạnh không tắt." Cho nên bà Vi-đề-hy chán ghét thế giới Sa-bà, nơi có năm thứ ác trược.
Năm trược là:
1. Kiếp trược: Là kiếp bệnh dịch, đói rét, đao binh...
2. Phiền não trược: Tất cả chúng sinh chịu nhiều phiền não.
3. Mạng trược: Tuổi thọ ngắn ngủi.
4. Kiến trược: Phỉ báng, không tin Tam bảo.
5. Chúng sinh trược: Không có người tu hành.
Lại có các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, con người thì đầy dẫy những điều bất thiện. Vì thế nên bà chán ghét cõi Sa-bà, ưa thích sinh về thế giới Cực lạc Tây phương. Cho nên kinh nói: Có khả năng ở trong ngục ba cõi cố sức thoát ra khỏi, các chúng sinh trí tuệ rộng khắp, được trời người tôn kính; thương xót các loài chúng sinh đui mù; có khả năng khai mở pháp môn Cam lộ, độ khắp tất cả chúng sinh.
Luận nói: Người vượt qua ngục ba cõi, mắt như cánh hoa sen xanh, tai nghe được âm thanh của vô số chúng sinh, cho nên được các loài cúi đầu đảnh lễ.
Luận Vãng Sinh nói: "Xem tướng thế giới kia, vượt qua cả ba cõi, rốt ráo như hư không, rộng lớn không bờ mé."
Theo Luận Quần Nghi: "Nói về Tịnh độ, dọc vượt ba cõi, ngay thoát năm đường, hễ được vãng sinh thì không còn đọa trở lại ba cõi lao ngục mà thẳng đến quả Vô thượng Bồ-đề." Nên biết cõi Tịnh độ của Phật A-di-đà chắc chắn lìa khỏi ba cõi. Cho nên tu pháp môn niệm Phật mau ra khỏi ba cõi.
Nếu muốn niệm Phật A-di-đà mau được vãng sinh về Tịnh độ thì phải "Ba nghiệp thành tựu".
1. Tâm chỉ có niềm tin.
2. Miệng chỉ niệm Phật.
3. Thân chỉ cung kính Phật.
Bất luận là người già, trẻ, thấp hèn hay cao quý chỉ cần ngày đêm siêng năng chuyên niệm danh hiệu Phật, cung kính Phật thì được thành tựu. Không bàn luận điều hay dở của người, nói món ăn mà bụng vẫn đói, đếm châu báu cho người mà mình không có đồng nào, chỉ cần niệm Phật, tiếng tiếng không dứt, gọi là niệm thành tựu. Nếu như còn các thứ: phiền não tham, sân... não loạn, đánh đập, chửi mắng, hiềm hận, ganh ghét, sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối thì đọa vào ba đường ác. Do đó dạy cho pháp niệm Phật bất tương ưng: chỉ cần tin niệm Phật, không phân biệt đạo tục, nam nữ, giàu nghèo, tội nặng hay nhẹ, chỉ lấy tin làm gốc. Nếu người "thành tựu ba nghiệp" thì muôn bệnh đều tiêu trừ, không phải nhờ đến thuốc thế gian; muôn điều lành tự thành tựu, không phải nhờ lời dạy trong kinh sách thế gian. Muôn điều lành ấy được thành tựu chẳng phải là do khả năng của mình, cũng chẳng phải tự lực tu hành mà nương vào nguyện lực Phật A-di-đà.
Nếu theo văn kinh thì từ phàm phu đến quả vị Sơ địa phải trải qua một đại A-tăng-kỳ kiếp. Nếu nương vào năng lực Tam bảo thì không phải qua nhiều kiếp.
Theo văn kinh, nghe tụng danh hiệu Phật A-di-đà cho đến nhất tâm nhất niệm, hoan hỷ vui mừng, dốc lòng hồi hướng liền được vãng sinh về Tịnh độ, ở địa vị không lui sụt.
Kinh Pháp Hoa nói: Người trí nghe thí dụ liền hiểu. Ở thế gian chỉ có năng lực của mẹ mới làm cho con được an ổn. Còn xuất thế gian chỉ có chư Phật mới cứu chúng sinh thoát khỏi khổ trong ba cõi, được sinh về Tịnh độ, gặp Phật, nghe Pháp. Phật có lòng từ bi, hỷ xả: Lòng từ thường ban cho chúng sinh sự an vui, lòng bi thường xua tan nỗi đau khổ của chúng sinh, bất luận là trong đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh cho đến loài người. Nếu nương oai lực Phật, niệm Phật mà không thoát khổ thì không gọi là Từ bi. Giống như đứa con bị muôn ngàn đau khổ, mẹ không nề lao nhọc, vì sự an vui của con là chính. Há chẳng phải là tấm lòng bao dung của chư Phật đại Thánh đại từ đó ư? Bất luận là oán thân, đạo tục, nam nữ, Phật đều cứu độ bình đẳng, để tất cả đều thoát khổ. Nỗi thống khổ đau đớn ở địa ngục gấp trăm ngàn muôn lần thế gian chư Phật còn cứu, huống gì những nỗi khổ trong loài người mà ngài không cứu sao?
Đức Phật đã dạy: Phạm phải những điều sai trái ở nhân gian thì phải chịu quả khổ. Do vậy phải phát tâm sám hối, giữ các giới hạnh, làm các công đức để mau dứt trừ tội khổ, "tín" bắt đầu thành tựu, sinh tử lùi dần, không còn trở lại không còn bị các khổ trong loài người nữa.
Những nỗi khổ trong loài người: Tật bệnh kéo dài khó chữa lành, không có tín tâm v.v... Nếu có người phát khởi tín tâm không đầy một tuần trăng rồi lui sụt. Không thấy văn kinh. Vì không biết nỗi khổ của tương lai; tâm mình không định vì nỗi khổ ở hiện tại lại không diệt trừ được, tâm hủy báng khởi lên. Nếu y theo văn kinh để tu tập thì cái khổ hiện tại chắc chắn tiêu trừ, khổ vị lai cũng không phát sinh. Ở thế gian, có người tụng được kinh và làm những việc tương ưng với quốc vương, nhưng tóc thì cạo, thân mặc cà-sa, cũng không phải giới hạnh mà trên từ quốc vương dưới đến cha mẹ đều, cung kính họ. Đây là năng lực của ai? Há chẳng phải là năng lực của Tam bảo ư? Ở thế gian bất luận nam nữ, giàu nghèo, nếu siêng niệm Phật thì được tự tại, y thực tự nhiên, mọi người thấy đều cung kính không nề mệt nhọc. Vì nghĩa này nên biết tất cả đều do oai lực Tam bảo. Chỉ có lòng tin mới biết được. Người không tin thì không khác kẻ mù, điếc. Nên biết: Người niệm Phật, âm thanh không dứt thì không tật bệnh, không bị tội chướng, được phước và trí, chắc chắn không sợ hãi, cũng không lui sụt. Một ngày nào đó mắt tuệ tự khai, chuyển thêm tác ý, tương ưng với kinh giáo. Tất cả các hành động đi, đứng, ngồi, nằm đều không tán loạn, cũng không mất oai nghi. Nếu nghe qua các kinh luận liền tương ưng, tâm thực hành thêm hoan hỷ. Rồi sẽ dắt dẫn người có tín tâm, giống như mẹ cứu con không nề lao nhọc. Còn người không tin thì thà ngậm miệng mà chết chứ không nói. Vì sợ họ khởi tâm phỉ báng, chẳng phải phỉ báng người mà phỉ báng ngay cả Đức Phật. Lúc nói kinh A-diđà, Đức Phật Thích-ca nói: "Đây là pháp khó hiểu, ta vì tất cả chúng sinh mà nói." Nếu có người tin thì chư Phật sáu phương biết và đến che chở. Là "Pháp rất khó tin", sợ rằng sau này chúng sinh hủy báng không tin nên ta đưa tướng lưỡi dài rộng ra làm chứng, nói lên văn kinh này. Chắc chắn không luống dối.
Gần đây có nhiều hành giả nghi ngờ pháp môn này, thậm chí có người hủy báng. Cho nên, chư Phật lặp đi lặp lại lời huyền ký, Ngài biết chúng sinh ở đời mạt pháp không tin; nếu có người tin thì tất cả chư Phật đều che chở. Còn người tâm không tin Phật, không nói lời lành thì làm sao có thể vãng sinh đến địa vị không lui sụt được? Nếu không tạo nghiệp lành thì tự ngăn Thánh đạo. Đây là những điều trong kinh A-di-đà dạy. Kinh giáo nào cũng do Phật nói. Nếu tự nương theo giáo pháp tu hành thì được thiện thần che chở; Nếu tin sâu, cung kính, tu hành thì được chư Phật ủng hộ. Đây là bổn nguyện lực của chư Phật. Nếu hiện tại được nghe giáo pháp mà không tin thì đọa ngay địa ngục, không có ngày ra. Há không sai lầm ư? Còn gặp được kinh này, suy đi ngẫm lại rồi tương ưng niệm
Phật, giới hạnh thanh tịnh, quyết định tin sâu, chí thành không lui sụt, nghe danh hiệu Phật, bất luận đạo, tục, sang hèn, giàu nghèo, nam nữ, đẹp xấu, chỉ cần giữ tín tâm thành tựu thì chư Phật thường trụ không diệt độ, cũng không lui sụt. Còn như không tin vào lòng từ bi của chư Phật như mẹ cha thương con thì không thể vãng sinh được. Chỉ có lòng tin thành tựu, chư Phật thường trụ bất diệt, cũng không lui sụt, tin Phật Đại Thánh, tất cả hiền Thánh là bậc tối thượng, tối thắng, tối đại nên gọi là Thế Tôn. Bất luận là chúng sinh ở quá khứ, hiện tại, vị lai, bất luận là Đại thừa, Tiểu thừa, tâm thiện hay tâm ác, bất luận là hạng nào, hễ tin vào lòng đại từ, đại bi của chư Phật thì cứu được các tội chướng, ác nghiệp của chúng sinh ở quá khứ, hiện tại, vị lai mà phát tâm hối quá, liền được vãng sinh. "Cứu" cũng gọi là "Độ", nên gọi là "Đại Từ" "Đại Bi". Như người mẹ thấy con ở trong phẩn dơ uế, đói khát, lạnh lẽo thì không thể nào xa lìa, nên gọi là Từ bi mẫu.
Người thế gian không thể báo hết ân đức của mẹ. Tiểu từ mẫu này đối với con còn không nề lao nhọc; tấm lòng đại Từ, đại Bi của chư Phật thì hơn gấp bội, cứu cả trăm ngàn muôn ức chúng sinh; Chẳng những cứu khổ thế gian mà còn cứu khổ sinh tử. Nếu ở thế gian có người tin thì Phật liền cứu, bất luận là tội nặng hay tội nhẹ.
Trong kinh Pháp Hoa, Phật nói: "Tất cả chúng sinh là con ta, ta thật là cha. Các con nhiều kiếp bị khổ thiêu đốt ta đều cứu khiến cho ra khỏi ba cõi. Bất luận là đạo tục, nam nữ, giàu nghèo, sang hèn, đẹp xấu, già trẻ, tội nhẹ hay nặng ta đều cứu giúp." Vì nghĩa này cho nên luận Duy Thức nói: Người tin thường hay hối lỗi, tin sâu thành tựu; âm thanh niệm Phật không dứt đều được tất cả chư Phật che chở, đều đến địa vị không lui sụt, nên nói "Pháp khó tin, ít có". Chỉ cần giữ tín tâm, chứ không nói là người tội, cũng không nói là người nữ, không được vãng sinh mà chỉ nói là "Người tin". Nếu người giới hạnh thành tựu được vãng sinh thì chẳng phải khó tin và chẳng phải ít có. Nếu thiện nam, tín nữ, bất luận là tội nặng hay tội nhẹ, thường tin không mê muội thì bệnh tật đều tiêu trừ, tội chướng đều tiêu diệt; bất luận là xa gần, chỉ cần giữ vững tín tâm thì mau dứt nghi hoặc, mau được giác ngộ. Niệm Phật giống như mẹ cứu con, cho nên gọi là "Pháp khó tin, ít có".
Lúc Phật nói kinh này, hằng hà sa chư Phật ở sáu phương mỗi vị đều hiện tướng lưỡi rộng dài để chứng minh. Vì biết chúng sinh ở quá khứ, hiện tại, vị lai nghe pháp này đều sinh nghi ngờ, hủy báng, không tin Phật có oai lực như thế. Cho nên nói: "Pháp khó tin, ít có".
Hằng hà sa chư Phật hiện tướng lưỡi rộng dài trùm khắp tam thiên đại thiên thế giới để chứng minh. Kinh nói: niệm một câu Phật A-di-đà diệt được tội nặng trong tám mươi ức kiếp sinh tử; được tất cả chư Phật che chở.
Bất luận là đạo, tục, hễ ai sám hối lỗi lầm, phát tâm hồi hướng, phát nguyện, bất kể là lúc nào, Phật cũng đều cứu độ. Cho nên gọi là "Chư Phật đại Từ bi, bình đẳng cứu độ chúng sinh". Nếu niệm Phật được thành tựu thì không có tội gì mà không tiêu trừ; không có bệnh nào không hết không có khổ nào mà không hết; không có gì phải lo buồn. Người sợ hãi thì ngày đêm được an định. Tinh tấn, nhẫn nhục thành tựu tức là không phá giới, ngủ ngon giấc đúng giờ không mệt mỏi, mỗi lời nói đều y cứ vào chánh giáo khiến cho người vui, nghe rồi thực hành theo. Nên người hiếu thảo nuôi nấng mẹ cha đều phải học tập theo. Như vậy, tâm chí thành, trinh tiết, tự tại vô ngại chẳng phải nhờ năng lực tu tập của mình mà nhờ vào năng lực từ bi của Đức Thế Tôn. Nếu có người nghe liền hối lỗi chính là học, là hành, là niệm Phật. Đây chính là năng lực của chư Phật, chỉ người có đức tin mới hiểu được.
1. Thân nghiệp: Không được sát, đạo, dâm, cũng không được đánh, đập giết hại tất cả chúng sinh khác. Không được xoa các thứ dầu thơm, đeo tràng hoa đẹp, mặc gấm, tơ đủ các mầu sắc; lụa đào, lụa tím của thế gian. Nếu lúc quá lạnh thì dù đến chết cũng không mặc. Bởi vì những vật này làm chướng ngại đạo nghiệp ở tương lai, thường nhận chìm chúng sinh trong biển khổ; khiến cho người nghi ngờ hủy báng. Những vật ấy khiến cho người oán hận mà cũng khiến người khởi tâm yêu thích. Người nữ mặc áo đẹp, đánh phấn son đi ra đi vào khiến cho người khác phái sinh tâm buông lung; những người nam thường quyến luyến không bỏ, cha mẹ bị nhiều lo buồn nên sinh tâm tức giận; anh em không thuận hòa dẫn đến tức giận. Người thế gian mới nhìn qua gấm vóc lụa là liền sinh tâm nghi ngờ hủy báng; Nếu sư tăng thì phá tịnh giới, còn nếu kẻ trộm thấy thì liền khởi tâm trộm v.v... Những thứ chướng như thế đều do y phục đẹp không thể nói hết.
Nếu là người hiếu hạnh thì đến chết cũng không mặc y phục tốt.
Hiếu hạnh thành tựu đầy đủ.
-Thân hành chánh hạnh: luôn lễ bái, khen ngợi khi đi tay không được đánh đằng xa; không được đi nhanh; không được ngoái đầu nhìn lại; không được liếc ngó hai bên. Nếu ngồi thì không được duỗi chân, cũng không được vẽ dưới đất; không được dựa vào đồ vật mà ngủ. Nếu già bệnh thì ngoại lệ. Khi ngủ không được cởi áo, cũng không được nằm ngửa, không được duỗi chân và nói chuyện. Vì đó là tướng buông lung biếng nhác. Trừ già bệnh và lúc thiếu thốn thì tạm được. Ngủ trễ, dậy sớm, mỗi ngày đều như vậy thì tinh thần khoan khoái, thân thể mạnh mẽ, trí tuệ ngày một thêm lớn. Nếu không thực hành như vậy là buông lung.
Người không tin thì tội không tiêu diệt, làm việc gì cũng không thành công, tật bệnh làm sao tiêu diệt được? Và cũng không được vãng sinh.
2. Khẩu nghiệp: Không được uống rượu, ăn thịt, năm thứ rau cay nồng và các thứ hương vị thế gian như: giấm, men rượu, sữa lạc, tô mật, rượu nếp. Nếu gặp lúc quá đói thì thà chết chứ không ăn những thứ trên.
Sát sinh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, ganh ghét, sân giận, ngã mạn, khinh chê, oán hận, nghi ngờ, hủy báng, lời nói cầu tài, nói hai lưỡi, nói điều hay dở của người, nói lời náo loạn, nói lời hủy báng, ngu si, chú thuật xấu ác. Những lời như vậy nhiều không thể kể hết. Nếu nghe người nói những lời thiện, ác thì không được nói: Đây là lời nói vô ích, vô tận, lời tranh đấu nhiều vướng mắc, khiến người thêm bực tức. Phải nói những lời tương ưng Phật dạy, không nhọc phải khen ngợi kinh sách. Trong mọi hành động, cử chỉ: đi, đứng, nằm, ngồi đều chuyên niệm Phật, từng niệm nối nhau, từng tiếng không dừng, cũng không dời đổi. Nhưng có việc khẩn cấp thì phải niệm lớn, âm thanh cần phải rõ ràng; giống như đứa bé gọi mẹ, mẹ vội vàng chạy đến. Bỏ các việc ác, ấy là định tâm. Ngồi thiền, niệm Phật mỗi thứ có nhiều môn. Đạo tục tu theo, chỉ cần được tâm thanh tịnh. Bất luận là nam nữ, sang hèn, hễ ai giữ tâm kính tin, hiếu thảo nuôi nấng, thường tu tập pháp môn niệm Phật thì tất cả các thứ khổ bệnh đều được tiêu trừ, đạo nghiệp thành tựu. Vì nghĩa này cho nên chư Phật sáu phương hiện ra tướng lưỡi rộng dài để chứng minh là không luống dối.
Lại nói: Người có lòng tin, chuyên niệm không bỏ thì được tất cả chư Phật che chở. Ấy là văn kinh A-di-đà hiện lưu hành, khắp nơi không dứt.
3. Ý nghiệp: Không được tham lam, si mê, phi đạo lý, không được sinh tâm nghi ngờ hủy báng, không được sinh tâm ganh ghét, oán hận, không được sinh tâm sát sinh, trộm cắp, tà dâm và nhớ tưởng các duyên ác; không được sinh tâm ngã mạn, cống cao, khinh thường người khác; không được tự thị, đam tài ái sắc. Nếu khởi những tâm như thế tức là buông lung, là tâm dối trá luống dối; chư Phật đều biết nhưng không đến cứu. Nếu có những tâm đó thì phát lồ, sám hối trọn đời, vì kỳ hạn tử sinh mà tâm không đổi dời. Những người như thế, niệm trước hồi hướng, niệm sau liền giác ngộ. Như con nhớ mẹ, mẹ nuôi nấng con không nề lao nhọc, không ngại gian khổ đắng cay. Hễ con cần thì mẹ liền đến. Người thường thực hành như thế mới gọi là đại từ bi, ý nghiệp thanh tịnh bình đẳng như hư không.
Những người ba nghiệp sáu căn như thế, thực hành y theo giới luật, đúng như pháp tu hành không trái phạm. Nhưng không thể mỗi mỗi đều đầy đủ rõ ràng, chỉ mong chánh niệm, chánh hồi hướng, từ bi, tin chắc, chí thành niệm Phật thì được Phật cứu, thoát khỏi luân hồi. Còn nếu cho lời Phật là không tương ưng thì cho dù có bảo niệm Phật thì Phật cũng không thể cứu, tội không thể tiêu trừ; khổ bệnh khó lành, hao tài mất đức. Đấy là điều cơ bản dẫn đến tai họa; giữ những điều phi đạo lý là cội gốc của điều ác. Người có lòng tin sâu, tin chắc thì nên phát nguyện:
Tất cả điều ác thệ nguyện dứt.
Tất cả điều lành thệ nguyện tu.
Tất cả công đức thệ nguyện đầy đủ.
Phật đạo Vô thượng thệ nguyện thành.
Đệ tử tên là... cúi đầu đảnh lễ: Nam-mô tận hư không biến pháp giới nhất thiết chư Phật, Thập nhị bộ kinh, chư Đại Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác, nhất thiết Hiền Thánh cho đệ tử thỉnh các vị vào đạo tràng để chứng minh. Đệ tử hôm nay, bây giờ nhờ lời dạy của Thiện tri thức, phát nguyện sám hối từ lúc chưa giác ngộ đến lúc giác ngộ, trong thời gian này ba nghiệp đã tạo ra vô số tội: Thân đã gây nghiệp bất thiện như: giết hại chúng sinh không thể tính kể được, trộm cắp tài vật nhiều như hằng sa, dâm dục lẫy lừng làm nhiễm ô tịnh hạnh.
- Miệng nói lời không hay: Nói dối, thêu dệt, hai lưỡi, phỉ báng Tam bảo làm náo loạn không cùng.
- Ý suy nghĩ những điều không tốt: Tham danh cầu lợi như biển thâu nạp các dòng chảy; sân nhuế mạnh hơn lửa, thiêu đốt các công đức lành, vì vô minh nên đã gây ra mười điều ác, tự mình tạo tội, xúi giục người tạo tội; thấy, nghe tạo tội đều vui theo. Bất luận là tội lớn, lỗi nhỏ gì con cũng không dám che giấu. Hôm nay con sám hối tất cả những lỗi lầm, nguyện Phật từ bi chứng minh nhiếp thọ, không trái với bổn nguyện của con.
Giờ này sám hối các tội nghiệp, nguyện tội chướng được tiêu trừ. Đệ tử nguyện đem công đức niệm Phật này báo đáp ân gia đình, ân thí chủ. Xin mọi người nhận lấy công đức này, một ngày gần đây sẽ lìa bỏ các uế, đồng sinh về Tịnh độ.
Dốc lòng quy mạng đảnh lễ Đức Phật A-di-đà.
Xưa nay cõi sinh tử
Chưa biết Phật, Pháp, Tăng,
Đã gây bao nghiệp ác
Sám hối nguyện tiêu diệt
Trong hằng sa cõi Phật
Phật quá khứ, hiện tại
Con dùng ba nghiệp tịnh
Ở lâu trong các cõi
Phàm Thánh cùng chí thành
Đều biết cõi thanh tịnh
Tâm vui đồng đảnh lễ
Đảnh lễ người niệm Phật,
Viết Niệm Phật Kính này
Góp nhặt nhân vô thượng
Hồi hướng khắp chúng sinh
Đồng sinh nước An lạc
Từ nay đến viên mãn
Ở các chỗ thọ sinh
Thường nhớ được túc mạng
Niệm Phật không đổi dời.
Niệm Phật vãng sinh không dễ nghe
Vượt qua nhiều kiếp chứng huyền môn
Con gọi cha lành phải tới rước
Chỉ lo vừa lòng e bất chân.
------------------------------------
Giờ Dần:
Mặc áo ra cửa giữ tâm thần
Đốt hương chắp tay hướng Cực lạc
Chí thành hướng lễ thân vàng ròng.
Giờ Mẹo:
Niệm Phật không nên tính nhiều ít
Chuyên tâm buộc niệm ở một duyên
Chớ để vọng cảnh làm xao động.
Giờ Thìn:
Niệm Phật trước phải dẹp ngã, nhân
Nếu dùng niệm Phật giúp nhân ngã,
Thì nhân Tịnh độ bao giờ thành?
Giờ Tỵ:
Tiến tu Tịnh độ phải quyết tâm
Như ngậm cam lồ tự biết ngọt
Chớ nên chê người nói không đúng.
Giờ Ngọ:
Tưởng niệm thầy mình như mắt thấy
Nghiệp chướng vô biên tự nhiên tiêu
Đâu cần gì phải luống cực khổ.
Giờ Mùi:
Sinh tử mênh mông đáng sợ thay
Không giữ Tây phương cửa diệu này
Biển trần sa kiếp phải đắm chìm.
Giờ Thân:
Mau mong tu trì nhân Tịnh độ
Ỷ khỏe không lo siêng niệm Phật
Một sớm uổng làm việc thế gian.
Giờ Dậu:
Tưởng biết bóng sáng chẳng còn lâu
Xem thấy vô thường liền đến ngay
Chớ dạy chữ Phật lìa miệng tâm.
Giờ Tuất:
Chớ để thân tâm nhiều lỗi lầm
Mười ác tuy vậy cũng vãng sinh
Đâu bằng sen thượng phẩm nở mau.
Giờ Hợi:
Thâm tâm niệm Phật chân Tam-muội
Hàng Thập địa còn tu pháp này
Nên biết không tin chính là tội.
Giờ Tý giữa đêm:
Sớm sớm niệm Phật thường như vậy
Đều nương hoa sen mà vãng sinh
Sinh rồi từ đây dứt sinh tử.
Giờ Sửu:
Đang trai tráng đó bỗng già suy
Mênh mang sát hải không người thân
Chỉ có Di-đà riêng vẫy gọi…
----------------------------
1. Thời lâu niệm Phật phải chân thật
Quy lời Phật chớ sinh nghi
Điều phục tâm mình chớ buông lung.
2. Một lòng niệm Phật chẳng niệm khác
Lắng tâm định nguyện đi Tây phương
Lâm chung tự thấy Như Lai rước.
3. Niệm Phật trước phải dứt ái tham
Lâm chung tâm tịnh thấy Như Lai
Giống như trăng sáng soi hồ lặng.
4. Đừng để tâm niệm Phật dời, quên…
Lâm chung hoa báu Cực lạc nghinh
Quán Âm, Thế Chí đón rước về.
5. Chớ ngại niệm Phật nhiều khổ sở
Suy nghĩ vòng sinh tử nhiều kiếp
Biết đối người nào cầu đường ra?
6. Niệm Phật, thời thời thường nối nhau
Nếu không niệm tức thuận phàm tình
Ngày nào thoát khỏi ngục tử sinh
7. Niệm Phật chớ để ba nghiệp lỗi
Chuyên tâm kính lễ, nguyện về Tây
Thẳng gặp Di-đà-bậc vô thượng.
8. Thích-ca dạy pháp tu niệm Phật
Nên phải tuân theo lời Bổn sư
Lâm chung được sinh cõi Di đà.
9. Niệm Phật, chân tâm là trên hết
Lâm chung hóa Phật cùng đến rước
Hoa sen bảy báu đẹp như nguyện.
10. Niệm Phật thường phải mau tâm, miệng
Suy lường biển nghiệp khổ chìm sâu
Sinh tử mịch mờ hối chẳng kịp.
------------------------------
Năm uẩn bọt bóng, thân giả, mộng
Mượn duyên dối hợp thân rỗng không
Ma chết đã đến sao chẳng nổi
Mau niệm Di-đà không nhọc lòng.
Tri Quy Tử hỏi Hòa thượng Thiện Đạo: Việc lớn ở thế gian không gì hơn sinh tử; một hơi thở ra không thở vào thì thân này không còn nữa, một niệm sai lầm liền rơi vào vòng luân hồi đau khổ. Đệ tử nhờ thầy dạy pháp niệm Phật vãng sinh rất rõ ràng, nhưng sợ rằng trong thời gian từ khi bệnh đến lúc chết tâm tán loạn lo nghĩ người khác khác, quên mất nhân Tịnh độ. Nay mong thầy chỉ dạy phương cách ngắn nhất để thoát khổ đắm chìm.
Sư bảo: Hay thay! Câu hỏi ấy.
Tất cả mọi người lúc qua đời muốn sinh về Tịnh độ thì phải "Không sợ chết"; thường nghĩ: Thân này thường bệnh khổ, bất tịnh, đủ loại nghiệp ác vảy buộc... Nếu được bỏ nó đi thì mau tới cõi Cực lạc, được vô lượng an vui, giải thoát sinh tử. Nhưng phải buông bỏ thân tâm, chớ nên luyến tiếc. Giống như cởi bỏ áo rách, mặc vào chiếc áo quý giá. Còn trong thời gian từ bệnh đến chết nên nghĩ đến vô thường, nhất tâm đợi chết, dặn bảo gia quyến và người nuôi bệnh, thăm bệnh đến bên cạnh tôi thì luôn niệm Phật, chớ nói những việc lặt vặt việc hay dở trước mắt, cũng không cần phải an ủi, chúc nguyện an vui. Vì đây là những lời sáo rỗng, không có ích lợi.
Bệnh quá nặng, sắp chết thì gia quyến không được khóc lóc, than thở, kể lể... vì sẽ làm cho người sắp chết loạn tâm, mất chánh niệm. Nên đồng thanh niệm Phật giúp họ vãng sinh. Khi tắt thở nên chờ một thời gian, khi nào toàn thân lạnh hết thì mới được tiến hành nghi lễ tẩn liệm. Bởi vì, cho dù còn vướng một ít quyến luyến thế gian, cũng làm trở ngại cho việc giải thoát. Nếu ta hiểu rõ điều này thì phải thường khuyến khích, trợ giúp cho người bệnh thì thật là may mắn. Vì họ sẽ được siêu sinh Tịnh độ.
Hỏi: Tìm thầy uống thuốc có được không?
Đáp: Tìm thầy uống thuốc lúc đầu không ngại gì, nhưng thuốc chỉ chữa được bệnh, không thể cứu mạng, nếu mạng đã hết thì thuốc nào trị được? Nếu giết chúng sinh để làm thuốc thì thật không nên.
Hỏi: Cầu thần ban phước thì thế nào?
Đáp: Mạng người dài hay ngắn đã định rồi, đâu thể nhờ vào quỷ thần để kéo dài mạng sống? Nếu mê hoặc tin theo tà thuyết, giết hại chúng sinh để cúng tế quỷ thần thì tội càng thêm, tuổi thọ càng bớt. Vả lại đại mạng đã hết, tiểu quỷ đâu thể kéo lại được, thế sao còn bàng hoàng sợ hãi tìm mọi phương cách kéo nó lại? Tôi viết bài văn này để thức tỉnh người đời tu tập, đến khi sắp qua đời khỏi sợ thất niệm.
Hỏi: Lúc bình thường không hề niệm Phật, người đó khi qua đời niệm Phật có được vãng sinh không?
Đáp: Bất luận là ai, cho dù lúc bình thường không hề niệm Phật nhưng lúc sắp qua đời nhớ tưởng đến Phật, niệm Phật vẫn được vãng sinh. Tôi thấy nhiều người bình thường hay niệm Phật, lễ Phật, khen ngợi phát nguyện, cầu sinh về Tây phương, nhưng đến khi bệnh lại sợ chết, không dám nói đến chuyện vãng sinh; cho nên khi qua đời sinh vào cảnh giới u tối.
Chết là việc lớn, cần phải cố gắng tu tập mới được. Nếu sai một niệm thì phải chịu khổ nhiều kiếp. Khổ đó ai thay được mình? Nếu lúc rảnh rỗi, nên cố gắng niệm Phật, đến lúc sắp qua đời con đường đến Tây phương hiện ra rõ ràng, cứ việc thẳng bước tiến về.
Đệ tử là Lâm Vân vất bỏ một lượng bạc để cầu được như ý.
Tín sĩ: Đường Tuấn.
Tín đồng: Đường Quỳnh Ca, Đường Bội ca.
Tín nữ: Trần Diệu Tịnh
Lâm Dẫn Sứ: đồng bỏ hai lượng năm tiền.
Chỉ cầu phước thọ đều thêm nhiều Nguyện chúng sinh trong pháp giới Đồng thành Chánh giác.
Nguyên bản ở chỗ Đại sư Liên Trì, Vân Thê, ở Hàng châu. Nay khắc lại tại Tàng kinh đường chùa Quốc hoan, ở Mãn điền. (Xuất Tạng kinh, hòm chữ Doanh, quyển thứ ba).
----------------------------------------
Tượng Vĩ Lệ, Thiên Hoãng Diệu không vượt hơn Quế Phách; sóng vỗ nước dồi đều bắt đầu từ vực nước sâu. Ấy là "Vạn pháp duy tâm", công thật sự chỉ còn giữ một niệm, một ngàn bánh xe hợp về một vết bánh lăn không ngoài môn Tổng trì. Đầy đủ diệu môn tối thắng, là con đường tắt vượt thoát luân hồi, chỉ là pháp môn niệm Phật.
Bởi, chính Đức Phật A-di-đà hiện thuyền từ cứu độ chúng sinh thoát khỏi kiếp luân hồi. Cánh cửa Tịnh độ mở ra, pháp giới kết hội không phân biệt ai. Đức Thế Chí nghĩ đến mà chứng viên thông, Đức Năng Nhân xưng tám mà xót thương nơi kham nhân. Chúng hội đông như biển đồng quy tụ. Trong rừng cây báu vẳng nghe các nhạc cụ, mười tám Hiền sĩ cùng kết xã Bạch Liêu Hương, tỏ rõ Chân tông, Bi trí song hành. Thánh phàm đều thâu giữ.
Do vậy, bậc y vương che chở thế gian thiết tha dạy bảo, khuyên chúng sinh niệm Phật Di-đà. Các ngài xem pháp môn niệm Phật như mặt trời treo trên hư không, xua tan bóng tối u ám, biến thế giới thành vàng ròng, đưa mọi người lên địa vị Bất thối, ngồi tòa hoa sen, gặp Phật chứng Vô sinh.
Thí như chín hạt ngọc sáng, dù một tấc tơ cũng xâu thành tràng; Như vị của trăm sông đều giống nhau. Muốn khô biển nghiệp phải niệm Di-đà. Những lời dạy khác bàng bạc bao la, e rằng khó khế hợp Thiền na tịch chiếu. E sợ đi qua đường rẽ, đâu bằng niệm Phật A-di-đà chẳng có chi lao nhọc, chỉ trong khoảng búng ngón tay đã đến cõi Tây phương. Muốn mở rộng pháp thí thì nên khắc in sách này phổ biến khắp nơi để mọi người tu tập, hiểu rõ lời văn trong quyển sách này.
Ngày đẹp trời, hoa nở rợp, mùa xuân Quý Sửu. Thích tử, như Hiền ở đỉnh lễ chí thành ghi chép thiền môn Quốc Hoan Sùng Phước, Liên Sơn.
Duy tâm Tịnh độ nên ghi lòng
Tự tánh Di-đà vốn sáng trong
Không khổ không lo chân Cực lạc
Không thương không ghét chính Tây phương
Hằng sa công đức xưa nay đủ
Diệu bảo trang nghiêm khó tính lường
Người chủ nhân tốt vô lượng thọ
Thấy nghe thanh sắc rõ đường đường.