TẠP TẠNG
SỐ 1969 – (TT) LẠC BANG DI CẢO
Sa-môn Thạch Chi Tông Hiểu, đất Tứ minh soạn.
SỐ 1969 – (TT) LẠC BANG DI CẢO
1. VUA TỊNH PHẠN VÀ BẢY MUÔN NGƯỜI HỌ THÍCH ĐỀU VÃNG SANH TỊNH ĐỘ:
2. TÔN HIỆU CỦA TẬP NHỊ QUANG NHƯ LAI
3. Ở TỊNH ĐỘ NƯỚC CHIM CÂY RỪNG ĐỀU NÓI PHÁP
4. KỆ SÁM HỐI KHEN NGỢI PHẬT TRONG KINH ĐẠI BẢN DI ĐÀ.
5. VUA BA TƯ NẶC QUÁN THẬT TƯỚNG PHẬT.
6. NĂM PHÁP MÔN PHƯƠNG TIỆN NIỆM PHẬT CỦA ĐẠI SƯ TRÍ GIẢ
7. NIỆM PHẬT THIỀN MÔN BỐN GIÁO LÌA NIỆM PHẬT CỦA ĐẠI SƯ TRÍ GIẢ.
8. QUÁN BA MƯƠI HAI TƯỚNG CỦA DI ĐÀ SÁU TRƯỢNG.
9. QUÁN TƯỢNG DI ĐÀ TRƯỢNG SÁU ĐỨNG TRÊN AO
10. NIỆM DANH HIỆU PHẬT SẼ THÀNH TỰU TAM MUỘI
11. PHÁT TÂM BỒ ĐỀ CẦU SANH TỊNH ĐỘ.
12. DƯƠNG VÔ VI ĐỀ LỜI CHO TỊNH ĐỘ SÁM PHÁP
13. NĂNG LỰC NIỆM PHẬT DIỆT ĐƯỢC CÁC CHƯỚNG.
14. LUẬN VỀ NGƯỜI ĐỜI ĐIỀU LÀNH NHẸ, ĐIỀU ÁC NẶNG
15. LỜI ĐỀ TRÊN VÁCH TẠI ẢNH ĐƯỜNG THỜ PHÁP SƯ TUỆ VIỄN CỦA ĐẠI SƯ MINH GIÁO KHẾ TUNG
16. LỜI ĐỀ CỦA ĐẠI SƯ TỀ DĨ TẠI ẢNH ĐƯỜNG THỜ NGÀI TUỆ VIỄN
17. ĐẠI SƯ VĂN THÔNG ĐỀ BÚT Ở ĐÔNG LÂM.
19. NGÀI TĂNG HIỂN RẤT VUI MỪNG ĐƯỢC KINH THẬP LỤC QUÁN
20. LƯU DI DÂN NHÀM CHÁN CHỨC QUAN
22. TÂY VỰC VÀ TỊNH ĐỘ TÂY PHƯƠNG KHÁC NHAU.
23. LỜI BẠT NIỆM PHẬT TAM MUỘI LUẬN BẢO VƯƠNG
24. TỊNH ĐỘ CÓ BA MƯƠI THỨ LỢI ÍCH
25. BÀI TỰA LUẬN TỊNH ĐỘ THẬP NGHI CỦA PHI SƠN GIỚI CHÂU
26. KỆ KHUYÊN NIỆM CÁC ĐỨC PHẬT BA ĐỜI CỦA THIÊN TRÚC SÁM CHỦ.
27. KỆ NÓI TƯ TUỆ PHẠM HẠNH PHÁP MÔN CỦA LUẬT SƯ ĐẠI TRÍ.
28. BA VỊ ẨN SĨ Ở CHÙA QUỐC THANH
29. PHÁP SƯ VIÊN TRẠCH BÁO DUYÊN SANH TỬ.
30. THỪA TƯỚNG TỪ LĂNG PHÁT NĂM THỆ NGUYỆN
31. BÌNH VỀ VIỆC TRIỀU THÁI PHÓ CHO TỊNH ĐỘ LÀ TIỂU THỪA.
32. Ở ĐỜI CÓ SÁU HẠNG NGƯỜI TỰ CHƯỚNG VỚI TỊNH ĐỘ
33. BÁC NGƯỜI CHO RẰNG TU TỊNH ĐỘ LÀ CHẤP TƯỚNG
34. NÓI VỀ DÙNG SẮC, THANH MÀ CẦU PHẬT THÌ ĐÓ LÀ TÀ ĐẠO
35. Ở ĐỜI CÓ MƯỜI HẠNG NGƯỜI KHI SẮP QUA ĐỜI KHÔNG NIỆM PHẬT ĐƯỢC
36. TRẢ LỜI CÂU HỎI CHO RẰNG TỊNH ĐỘ LÀ PHÁP QUYỀN NÓI CHO HÀNG ĐỘN CĂN
37. NIỆM PHẬT THÀNH TỰU BA NĂNG LỰC THÌ DỂ VÃNG SANH
38. LUẬN VỀ BAN CHU NÓI NIỆM PHẬT MÀ CÓ TƯỞNG THÌ SI
39. LUẬN VỀ CHÍ CÔNG NÓI NGƯỜI NGU THÍCH VÃNG SANH TÂY PHƯƠNG.
40. LUẬN VỀ TÂM TỊNH THÌ CÕI NƯỚC TỊNH
41. CẦU SANH TỊNH ĐỘ NƯƠNG NGUYỆN LỰC PHẬT THÌ DỂ
41. ĐẠO MÔN THÀNH TIÊN KHÔNG RA KHỎI LUÂN HỒI
Kẻ ngu này quyết chí với Tịnh nghiệp, thề muốn độ hết tất cả hữu tình cùng về cõi báu, nên biên tập văn Lạc bang để truyền bá trên đời. Ngoại trừ bài văn có nghĩa riêng, còn lại tùy chỗ thấy nghe mà được lợi ích. Giúp người tu Tịnh nghiệp nên nói tiếp và ghi lại thành Lạc bang Di Cảo. Bởi tôi bắt chước nhà Nho góp nhặt ghi chép các bài trong các sách vỡ, hoặc các lời nói có liên hệ thì nêu sơ lược cương yếu. Tuy nói là chưa đủ nhưng cũng giúp được người xem ít nhiều.
Mùa Xuân năm Giáp Tý khởi soạn, kính ghi lời tựa.
Ngài Tông Hiểu biên soạn Lạc Bang Di Cảo trước sau hai quyển, tùy việc mà nêu tựa đề. Lắng lòng mà xét thì sách này chuyên dẫn dắt chúng sinh về Tịnh độ, cũng có thể gọi là Lạc Bang Quy Chí. Nhưng mọi người vốn có duy tâm Lạc quốc thì đâu cần phải chịu khó nhọc tu chứng. Than ôi, luống vào các đường lâu nên quên, người xưa mời xem mộ bên đường chôn xương rã mục trong đó có nhiều người chưa về là ý này. Nay may mắn được
Phật Tổ mở mang bến bờ vượt tắt ra khỏi sinh tử, nên góp nhặt lại mà giúp người phát lòng tin, khiến mạnh mẽ trên đường tu, nhờ đó hiểu rõ đường về, chẳng vướng chân vào đường rẽ sinh tử. Thật là yếu đạo. Lại quy chí là do đây vậy. Người xem quả không phụ rảy việc trở về quê xưa, mới tin rằng bạn lành hoa sen chờ đợi đã lâu. Hãy chắp tay mà đem thân tâm cùng trở về. Cố gắng, cố gắng lên.
Kinh Đại Bảo Tích bảy mươi sáu chép: Phật bảo vua cha Tịnh Phạn rằng: Phụ vương nên đối với Phật pháp mà tinh tấn siêng tu, chớ nên buông lung. Này Đại Vương! Tất cả các Pháp đều là Phật pháp. Vua nói: Nếu tất cả các Pháp đều là Phật pháp thì tất cả chúng sinh cũng phải đều là Phật. Đức Phật nói: Nếu không buông lung và thấy điên đảo thì chúng sinh tức là Phật. Này Đại vương, tất cả các Pháp đều không sinh, không động, không lay chuyển, không lấy, không bỏ, không có tướng mạo, không có tự tánh. Nay Đại vương hãy đối với Pháp này mà an Tâm mình, chớ tin các thứ khác. Khi Phật nói Pháp này thì vua và bảy muôn người họ Thích đều được Vô sinh nhẫn! Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn mỉm cười, Tỳ-kheo Mã Thắng dùng kệ hỏi Phật, Phật đáp rằng:
Ta hiện cười vắng lặng
Mã Thắng hãy lắng nghe
Nay ta nói như thật
Các thứ trí quyết định
Các Pháp không thật có
Họ Thích đều biết được
Cho nên đối Phật pháp
Quyết định tâm an trụ
Làm người khi chết rồi
Được sinh nước An lạc
Gặp Phật Vô Lượng Thọ
Vô úy thành Bồ-đề.
Trong kinh Vô Lượng Thọ Đại Bổn chép: Phật bảo ngài A-nan rằng: Đức Phật Vô Lượng Thọ có ánh sáng tôn quý bậc nhất. Tất cả các Đức Phật có ánh sáng không bằng ánh sáng của Đức Phật ấy, chiếu sáng trăm thế giới Phật, chiếu sáng ngàn thế giới Phật, nói tắt là có thể chiếu khắp hàng hà sa số các cõi Phật. Cho nên, Phật Vô Lượng Thọ còn gọi là Phật Vô Lượng Quang, Phật Vô Biên Quang, Phật Vô Ngại Quang, Phật Vô Đối Quang, Phật
Diệm Vương Quang, Phật Thanh Tịnh Quang, Phật Hoan Hỷ Quang, Phật Trí Tuệ Quang, Phật Bất Đoạn Quang, Phật Nan Tư Quang, Phật Vô Xưng Quang, Phật Siêu Nhật Nguyệt Quang. Nếu có chúng sinh nào gặp được ánh sáng này, thì ba cấu tiêu trừ, thân tâm nhẹ nhàng.
Nước Phật A Di Đà nói pháp ba thừa
Luận Đại Trí Độ chép: Phật ra đời ở cõi ác năm trược, đối với đạo Nhất thừa mà chia làm Ba thừa. Nếu vậy, Phật A-di-đà không thọ sinh trong cõi đời ác có năm thứ vẩn đục thì sao lại lập ra Ba thừa?
Đáp: Các Đức Phật khi mới phát tâm, thấy chư Phật dùng Ba thừa độ sinh, nên tự phát nguyện rằng: Nay tôi cũng dùng Pháp Ba thừa mà độ sinh.
Luận Đại Trí Độ lại nói: Ở Tịnh độ gió thổi cây bảy báu phát ra tiếng, là muốn khiến chúng sinh dễ dàng nghe Pháp. Nên hỏi rằng: Các Đức Phật có vô lượng thần thông sao không biến hóa ra, cần gì phải dùng tiếng cây rừng?
Đáp: Chúng sinh rất nhiều, nếu nơi nơi Phật đều hiện thân thì chúng sinh không tin cho là huyễn hóa (ảo thuật), tâm không kính trọng. Có chúng sinh nghe Pháp với người thì không ngộ, mà nghe Pháp với súc sinh thì tin nhận cho là ít có. Lại tâm súc sinh thì ngay thẳng không dối trá, nên có người bảo súc sinh là vật hữu tình nên có dối lừa, còn cây rừng là vô tâm mà có tiếng thì đều tin nhận (Luận Văn quyển chín mươi ba).
-Tăng hỏi vị Chủ tọa giảng kinh Di-đà.
Trong Truyền Đăng Lục có ghi vị tăng hỏi Chủ tọa giảng kinh Di-đà rằng: Nước, chim, cây, rừng vì sao đều niệm Phật, niệm Pháp niệm Tăng? Chủ tọa đáp: Pháp sư Cơ nói bạn thật chẳng đợi giảng, như mẹ đối với con thơ. Tăng hỏi: Thế nào là bạn thật chẳng đợi giảng. Pháp Nhãn nói thay rằng: Đó là lời của Pháp sư Cơ.
Trong luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa do Bồ-tát Long Thọ soạn ở quyển bốn nêu Pháp Hoa sám là lễ danh hiệu mười phương Phật đều có kệ khen. Kệ sám tán Phật trong Đại Bản Di-đà trích ra từ đây. Ngài Từ Vân bèn nhặt lấy đổi lời văn, cho rằng Phật đạo đều giống nhau, nên để khen Phật Di-đà mà thôi. Kệ ấy nói rằng: "Sắc tướng như núi vàng", đây là khen Phật Thiện Đức ở Phương đông.
Câu: "Mặt như trăng tròn đầy" là khen Phật Chiên Đàn Đức ở Phương Nam. Câu:
"Thân quang trí tuệ sáng
Chiếu khắp vô biên cõi
Phá dẹp các ma oán
Khéo độ các trời người."
Bốn câu này là khen Phật Vô Lượng Minh ở phương Tây. Bốn câu:
"Nương thuyền Bát Chánh đạo
Qua được biển khó qua
Nghe tên được không lui
Thế nên cúi đầu lạy."
Bốn câu này là khen Phật Tướng Đức ở phương Bắc, luận này ở hòm chữ Tư.
-Kệ sám hối khen ngợi Phật trong kinh Di-đà Tiểu Bản.
Kinh Thắng-man nói: Vua Ba-tư-nặc ở nước Xá-vệ. Con gái của Phu Nhân Mạt-lợi tên là Thắng-man là vợ của vua A-du-xà. Phu nhân Mạtlợi nói con gái ta thông minh lanh lợi, nếu gặp Phật sẽ mau hiểu Pháp. Liền sai sứ đem thư, Thắng-man được thư liền nói kệ rằng:
Ngưỡng mong Phật Thế Tôn
Khắp vì thế gian hiện
Cũng nên rủ lòng thương,
Khiến cho con được thấy.
Nói kệ xong thì Đức Phật Thích-ca hiện ra lên hư không. Thắng-man lại nói kệ khen rằng:
Như Lai sắc thân mầu
Thế gian không ai bằng
Không so sánh nghĩ bàn
Thế nên con kính lễ
Sắc Như Lai vô tận
Trí tuệ cũng như thế
Tất cả Pháp thường trụ
Nên con kính quy y.
Thắng-man nói kệ bày tỏ ý nguyện mình, nên Phật liền thọ ký cho hiện là Phổ Quang Như Lai... Ở Thiên trúc, Tiểu Bản Tứ Thánh Sám dùng kệ này để khen Phật. Từ "Đại trí đại nguyện lực" trở đi là phần sám chủ Từ Vân soạn ra.
Trong kinh Nhân Vương, Phật hỏi vua Ba-tưnặc rằng: Ông dùng tướng nào quán Như Lai?
Vua thưa: Con quán thật tướng của thân, quán Phật cũng thế. Không có khoảng trước, không có khoảng sau cũng không có khoảng giữa, chẳng có ba khoảng, mà cũng chẳng lìa ba khoảng. Không ở năm uẩn cũng không lìa năm uẩn, không ở bốn đại cũng chẳng lìa bốn đại, chẳng ở sáu xứ cũng chẳng lìa sáu xứ, chẳng ở ba cõi cũng chẳng lìa ba cõi. Cho đến không có thấy nghe hay biết, chỗ tâm hành diệt, đường ngôn ngữ bặt, đồng với mé chân, ngang với Pháp tánh, con dùng tướng đó mà quán thân Như Lai. Phật bảo: Nên quán như thế, nếu quán khác thì gọi là tà quán.
Đại sư Thiên Thai Trí Giả dạy người niệm Phật có năm pháp môn phương tiện lễ này, hễ người quán tưởng Tây phương mà cầu sinh thì chẳng thể chẳng tu trị. Cho nên văn nói:
1. Phàm trụ tâm một cảnh thì gọi là Ngưng tâm thiền, nghĩa là hành giả khi niệm Phật phải quán kỹ sợi lông trắng tướng mầu của Như Lai ngưng đọng, yên tịnh, trong veo, rỗng suốt.
2. Trước tuy đã ngưng tâm nhưng các thói quen bất giác nổi lên tán loạn. Nay chế phục nó trở lại duyên chắc với tướng sắc vàng của thân Phật, gọi là Chế tâm thiền.
3. Kế chế phục tâm được định, không phải lý quán, đều thuộc về sự tu. Thể này vốn không thì ai ngưng, ai chế phục. Không Phật, không niệm gọi là Thể chân thiền.
4. Trước tuy là thể chân nhưng vẫn còn dính mắc ở sự vắng lặng, có vô lượng danh tướng, mịt mờ không biết. Nay dùng "không thật có" làm phương tiện, từ không mà vào giả thì muôn tướng đều rỗng sáng, chẳng bị không trần làm mê loạn, nên gọi là Phương tiện thiền.
5. Trước tuy thể chân và dùng phương tiện tùy duyên đều căn cứ vào Không và Có chẳng lìa hai bên. Nay quán chắc Tịnh và Loạn vốn không tướng mạo, nên nói đường ngôn ngữ tư tưởng cũng bặt, nên gọi là Tức nhị biên phân biệt thiền. Năm môn này từ cạn đến sâu. Nếu hiểu rõ thể tánh viên giác vốn không cạn sâu mà cạn sâu rõ ràng.
Như trên, tuy dùng năm pháp môn Phương tiện mà quán chân thể Phật. Lại cần hiểu rõ lìa niệm của bốn giáo mà chỉ bày ý từ thiên mà lấy Viên. Cho nên văn nói: Tâm sinh không riêng lẻ mà nhờ các duyên khởi. Khi hành giả niệm Phật thì ý căn là nhân, ánh sáng từ sợi lông trắng của Như Lai là duyên. Niệm khởi lên tức là pháp sinh ra. Quán ba thứ này dời động, niệm niệm không dừng, phân tách thấy không, tức là Tiểu thừa Tạng giáo niệm Phật, tức quán tâm khởi niệm Phật. Năng sinh, sở sinh đều tức không mà vọng gọi là tâm khởi, thể nó tức không, tướng Phật được quán như ảnh trong gương. Không Phật, không niệm, tức là niệm Phật của Thông giáo Đại thừa, tức quán niệm Phật tâm khởi, tức là giả danh. Tâm giả gọi kia rỗng soi vô lượng danh tướng. Hiểu rõ tâm này từ Như Lai tạng, trải qua nhiều kiếp đoạn chứng, lìa biên, hiển trung, vô Phật vô niệm, là niệm Phật của Biệt giáo Đại thừa vậy, tức quán niệm Phật tâm khởi, tức không tức giả, tức trung. Hoặc căn hoặc trần đều là pháp giới trần sát của các Đức Phật một niệm chiếu sáng, chúng sinh sáu nẻo trong một sát-na ứng khắp, sơ tâm tức là đó, nay mới giác biết. Như kẻ có phước lớn cầm đá liền thành báu, tâm không bỏ niệm, riêng cầu lìa niệm, tức biên mà Trung, không Phật không niệm, đây là niệm Phật của Đại thừa Viên giáo. Kinh Anh Lạc nói đốn ngộ Như Lai là đây vậy.
Phần Quán tượng thứ tám trong Quán kinh có chép: Thế nên hành giả khi tâm tưởng Phật thì tâm ấy tức là ba mươi hai tướng và tám mươi vẻ đẹp. Cho đến bảo rằng: Tưởng Phật ấy trước phải tưởng tượng, nhắm mắt mở mắt đều thấy một tượng báu.
-Quán tám vạn bốn ngàn tướng tốt của Phật Di-đà.
Phần quán chân pháp thân thứ chín trong Quán kinh có chép: Thân Phật Vô Lượng Thọ như trăm ngàn muôn ức thân trời Dạ-ma. Thân Phật sắc vàng Diêm-phù-đàn cao sáu mươi muôn ức na-do-tha hằng hà sa do-tuần. Cho đến nói rằng: Phật Vô Lượng Thọ có tám mươi tư ngàn tướng, mỗi tướng đều có tám mươi tư ngàn vẻ đẹp...
Tứ Minh Diệu Tông Sao giải thích rằng: Phép quán tượng thứ tám ở trước thì giống như thân Phật, nay đối trước tướng ấy thì gọi là chân. Song sắc tướng này là thân thật báo ứng với cõi Đồng cư cũng gọi là Tôn đặc, cũng gọi là Thắng ứng mà nói là Pháp thân, lấy báo tu và ứng hai tu thì toàn là Tánh cụ. Cho nên ở văn sau lại nói: Di-đà tám muôn tướng tốt là Như Lai ấy hiện thân kỳ đặc để thêm lớn vị sâu của Tam-muội niệm Phật, tâm lực phàm phu không thể hiểu được. Lại nói hành giả nên biết từ quán mặt trời ba quán sở tu cùng với sự thiền hàng phục ba cõi, dùng diệu quán mà quán tượng, phá tư thì liền lên giai vị Thất Tín. Được vị này rồi thì mới có thể quán chân pháp thân của Phật được, tám muôn tướng tốt hiển bày, gọi là Tam-muội niệm Phật. Như đây mà viên quán tướng được quán mới gọi là kỳ đặc. Không phải là tướng thân Phật sống mà phàm phu Tiểu thừa thường thấy.
Phần quán Tạp tướng thứ mười ba trong Quán kinh có chép: nếu người muốn dốc lòng sinh Tây phương thì trước phải quán thân trượng sáu ở trên ao, như trước đã nói. Chiều cao thân Phật Vô Lượng Thọ là vô biên, tâm lực của phàm phu chẳng thể biết được (như trước đã nói là quán ba mươi hai tướng và tám mươi vẻ đẹp của Phật A-di-đà...). Diệu Tông Sao chép: Dùng quán Tạp tưởng mà quán thân Phật lược có hai ý:
1. Trước quán tám muôn tướng đẹp không thành thì nay bỏ thân lớn mà quán thân trượng sáu.
2. Trước quán tám muôn thắng tướng đã thành thì nay lại quán nữa, hóa dụng hơn kém sẽ trùm khắp các cõi mười phương, phẩm vị càng thêm tăng tiến.
Các Đức Phật nhân tu sáu độ muôn hạnh, quả chứng vốn có một thể, ba thân, Di-đà trượng sáu là Ứng thân. Còn sáu mươi muôn ức na-do-tha hằng hà sa do-tuần là Báo thân vậy. Không phải Báo không phải ứng biến khắp mọi nơi là Pháp thân vậy. Song Báo thân của Phật Di-đà đã cao lớn như thế, mà tâm kẻ hạ phàm thấp kém thì không thể theo đây mà quán Phật được. Khi Phật còn tại thế, người lợi căn như bà Vi-đề-hy được Phật chỉ dạy mười sáu cảnh quán thì theo lời nói mà tiến tu. Đến quán tượng thứ tám thì chứng vào thất tín mới được quán khắp. Như nay đời Mạt pháp độn căn theo lý không thể quán được thắng tướng (tướng cao quý) thì trước phải quán thân trượng sáu. Thế nên Kinh nói: Người dốc lòng muốn sinh Tây phương thì trước phải quán tượng trượng sáu ở trên ao. Chiều cao thân Phật Vô Lượng Thọ là vô biên, tâm lực kẻ phàm phu không thể biết được. Đây là Phật Thích-ca có phương tiện hay, dạy chỉ khiến cơ duyên từ nhỏ mà quán lớn. Cho nên có người nói nếu không như thế lại đối với Báo thân Phật mà tu tập thì không tránh khỏi việc hoang đường. Ngày nay, người xuất gia tại gia phần nhiều chẳng hiểu rõ ý này. Hễ lễ tán, xưng tưởng thì lời đầu tiên đều nói tám mươi tư ngàn tướng đẹp. Lời của Phật tổ trên đây mà bàn thì há chẳng vượt bực mà mất ý chỉ ư? Kẻ ngu này chắc chắn chẳng dám ức đoán. May gặp Thánh giáo đầy đủ mà khảo xét từ nay về sau chớ nên bỏ lời Phật dạy, xin hãy theo giáo lý mà mở bày.
-Nếu niệm một Đức Phật thì các Đức Phật tự hiện.
Luận Bảo Vương có dẫn Luận Khởi Tín chép. Theo phương hướng nên mê mà phương hướng thật ra chẳng đổi dời. Như thế thì người ngộ, ngộ ở một phương thì các phương khác tự đúng. Người niệm niệm một Đức Phật thì các Phật khác hiện tiền. Cái gọi là nước chẳng chảy đi lên, trăng không đi xuống mà do nhân duyên hư không quang tạnh nên trăng sáng trên hư không liền hiện ở nước trong. Phật kia chẳng lại, thân ta chẳng đi, do nhân duyên niệm Phật mà trăng sáng Như Lai hiện ở nước tâm trong. Cho nên bài tụng nói:
Bồ-tát như trăng sáng Dạo trong rốt ráo Không Nước tâm chúng sinh lắng Ảnh Bồ-đề hiện vào.
Luận Bảo Vương nói rằng: Tắm ở biển cả là đã dùng nước trăm sông. Niệm danh hiệu Phật sẽ thành tựu Tam-muội. Cũng giống như hạt châu sáng bỏ vào nước đục, nước đục chẳng thể nào chẳng trong. Tưởng Phật gieo vào tâm loạn, loạn tâm chẳng thể nào chẳng thành Phật. Sau khi khế hợp thì tâm và Phật đều mất. Tâm, Phật đã mất thì muôn duyên muôn cảnh đều là Tam-muội.
-Bài tựa Tịnh Hạnh Pháp Môn của Pháp sư Văn.
Đạt được hữu tâm của vô tâm, biết được vô niệm của hữu niệm. Hữu vô đều không trụ, năng sở đâu còn. Cho nên niệm niệm tròn sáng, tâm tâm vắng lặng. Nếu mê muội ý chỉ này thì các pháp đều thành lạ. Khế với Tông thì các môn đều thông diệu, nay có thể không trái thật tế mà chỉ bày viên tu, khiến kẻ được thì dứt trôi giạt, người ở bến mê được lên bờ giác người trước không tu Tây phương Tịnh nghiệp niệm Phật Quán môn. Cho nên kinh Tịnh Danh chép tuy biết các cõi Phật và chúng sinh là không mà thường tu Tịnh độ, giáo hóa các chúng sinh, là nói đây vậy. Tôi vẫn luôn vì các nam nữ tại gia rộng góp nhặt đại cương các kinh luận mà soạn thành Tây phương Tịnh Hạnh Pháp môn, để chỉ bày việc tu hành mà được ý thú. Nếu có người xem văn này mà không thể khởi tín nguyện tu hành thì là loại cuồng nhiệt nhảy xuống hố xí, chỉ chừa một sợi tóc muốn cứu vớt, thì biết làm sao đây!
Trong Tịnh hạnh pháp môn chép: Phàm người tu Tịnh độ phải khéo phát tâm. Như tự mình chán ghét năm thứ vẫn đục, ưa thích chín phẩm là trái với tâm Bồ-đề, là hạnh Thanh văn không nên phát. Nếu vì chúng sinh mà khởi tâm đại bi cầu sinh về nước ấy, mong mau thành tựu đạo lực, thần thông, đến khắp mười phương cứu độ tất cả khiến cùng thành Phật đạo thì thuận theo tâm Bồ-đề. Đó là hạnh Bồ-tát nên phát.
-Người niệm Phật như gặp được Minh quân. Trong Tịnh hạnh pháp môn chép: Sám hối như siêng mài gương xưa, làm sạch các bụi tối nhiều đời, niệm Phật như gặp được Minh quân, một ngày nọ sẽ được mời làm quan cao. Trong các mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, lúc đi đứng ngồi nằm đều siêng nghĩ việc trang nghiêm Tịnh độ, đều nhớ Phật A-di-đà. Như thế thì Tam-muội niệm Phật sẽ hiện tiền.
Luật sư Pháp Tuệ Bảo Các Chiếu ở Tiền Đường vì năm chúng xuất gia mà tu Tịnh độ sám pháp, ông Vô Vi tử thấy vậy bèn đề lời ở phía sau rằng: Cõi Cực lạc thanh tịnh nếu không nhờ nguyện lực thì chẳng thể sinh. Đời vẩn đục tội nhiều, nếu không có sám hối thì tội chẳng hết như gạch đá ném xuống nước thì chìm, còn nguyện lực làm ghe chở thì cứu được mà vượt bờ kia, niệm niệm Bồ-đề, oai thần Tam bảo thì các điều ác đều tiêu mất. Như thế mà quán là Hạ phẩm sám hối. Tội như băng tuyết chứa nơi rất tối. Mặt trời lên dung hòa, băng tuyết tan chảy. Một khối ngưng đọng thay đổi mà thấm nhuần làm muôn vật nảy mầm. Như thế mà quán là Trung phẩm sám hối. Như Hư không rộng lớn trong suốt trống vắng, bụi không thể bám, nước không thể rửa. Đi, đứng, ngồi, nằm ai không phải Di-đà, sống chết tới lui cái gì chẳng phải Tịnh độ. Như thế mà quán là Thượng phẩm sám hối. Nếu ngộ đây thì tâm diệt tội mất. Nếu chưa viên thành thì trước hết sám pháp chỉ bày cho năm chúng phải vâng lời chỉ dạy này (của sám pháp).
-Trần Liễu Ông nói về Duy tâm Tịnh độ.
Liễu Ông húy là Quán Thư cùng Pháp sư Minh Trí luận về ba ngàn pháp của tông Thiên Thai, chỉ bày nghĩa của Duy tâm Tịnh độ rằng: một niệm tâm khởi ba ngàn tánh tướng cùng lúc đều khởi, một niệm tâm diệt ba ngàn tánh tướng cùng lúc đều diệt. Ngoài niệm không có một chút pháp nào có thể được, ngoài pháp không có mảy may niệm nào thật có. Đây chính là pháp của bổn tánh không dời, là thể của trung lý viên minh. Thể này lấy như lý làm mạng sống, sống lâu vô lượng, không phải báo mà được mạng căn, cũng không duy trì, vốn không có danh tự mà không chống lại các danh tự. Tên cõi ấy là nước Cực lạc, gọi thân ấy là A-di-đà, thân và cõi giao nhau, dung hợp thành một diệu, cho nên nói được pháp âm mà chẳng lìa cõi ấy. Tướng lưỡi rộng dài đầy đủ trùm khắp. Sự đầy đủ như thế là thể đầy đủ, hay Phật đầy đủ hay chúng sinh đầy đủ. Nếu có người biết được cái vui đầy đủ mà không nguyện vãng sinh thì ở trong thật tế cần ở chỗ không đến mà đến, ở trong phương tiện thì có ngại gì đi về còn khi căn cơ chín muồi cảm sâu thì đủ để thành việc.
Thiền sư Đạo Xước đời Đường có soạn An lạc Tập ba quyển khen ngợi Tây phương. Trong đó có hỏi rằng do nhân duyên gì năng lực niệm Phật có thể dứt hết tất cả các chướng?
Đáp: Như kinh nói ví như có người dùng gân sư tử làm dây đờn, một khi khảy lên thì tất cả các dây đờn khác đều đứt. Như người ở trong tâm Bồđề mà thực hành Tam-muội niệm Phật thì tất cả các phiền não chướng đều dứt trừ. Cũng như có người đổ các thứ sữa trâu, dê, lừa, ngựa vào trong một cái bình, nếu nhỏ vào đó một giọt sữa sư tử thì tất cả các sữa kia đều hóa thành nước. Nếu người ở trong tâm Bồ-đề thực hành Tam-muội niệm Phật thì tất cả các ma chướng đều qua đi không khó.
-Người niệm Phật khi qua đời chắc chắn không có việc ma.
Trong Niệm Phật Chánh Tín Quyết của Pháp sư Văn có người hỏi:
Có người bảo khi qua đời thấy Phật, Bồ-tát phát ra ánh sáng, bưng đài vàng đến rước vãng sinh thì đều là việc ma. Lời nói này như thế nào?
Đáp: Có người y theo kinh Thủ-lăng-nghiêm tu tập Tam-muội mà bị phát động Ấm ma, có người nương theo luận Ma-ha Diễn tu tập Tam-muội mà bị phát động Ngoại ma, có người nương chỉ quán tu tập Tam-muội mà bị phát động các quỷ mị, thì những người này đều y cứ vào tự lực của mình mà tu thiền, nên trước đó có các thứ ma phá định phát ra. Nếu sáng suốt hiểu rõ đối trị thì sẽ thành tựu được Thánh pháp. Nếu người không hiểu rõ mà tọa si thiền thì bị chướng ngại. Nay việc tu Tam-muội niệm Phật là nhờ năng lực Phật, như người gần vua thì ai dám xâm phạm? Bởi Phật Di-đà có năng lực Từ bi thệ nguyện, oai thần Tam-muội... có sức mạnh phá tà, có sức mạnh hàng phục các ma. Có thiên nhãn thấy xa, có thiên nhĩ nghe xa, biết được tâm người khác. Sáng suốt rỗng soi chiếu khắp giữ gìn tất cả chúng sinh. Có các năng lực công đức như thế há chẳng có khả năng che chở người niệm Phật giúp cho khi qua đời không bị chướng ngại ư? Nếu Phật không che chở thì các sức từ bi làm sao có, cho nên kinh nói: Phật A-di-đà có tám mươi bốn ngàn tướng tốt, tia sáng, mỗi tia sáng chiếu khắp thế giới mười phương, nhiếp giữ gìn chẳng lìa bỏ chúng sinh niệm Phật. Nếu người không tin Phật có những năng lực như thế thì người này đối với biển công đức của Phật đều chê bai hủy báng. Hơn nữa, việc bưng đài vàng đến rước đều xuất phát từ kinh Quán chính do miệng vàng Phật nói ra, sao dám cho là cảnh ma được? Nay tôi vì họ quyết phá tà nghi, giúp cho sinh chánh tín.
Trong Di-đà Tây Tư Sao của Pháp sư Cô Sơn có chép: Xem người đời làm lành thì tâm hời hợt xem nhẹ, còn làm việc ác thì tâm chú trọng xem nặng, vì thế làm sao được sinh Tịnh độ. Xin lấy việc hiện tại mà nghiệm ra. Như đối với tượng Phật thì không kính trọng bằng tiếp khách quý. Như học kinh pháp thì không siêng năng bằng cầu tiền bạc danh vọng. Chê người khác thì hơi sức mạnh mẽ, nói năng lưu loát, còn khen họ thì chậm rãi tiếc từng lời lẽ. Đối với người ta ghét thì che thiện bày ác, đối với người ta thích thì giấu dở khen giỏi. Hoặc mình làm ác thì giận người chỉ ra, còn làm việc lành nhỏ lại hận người chẳng biết đến. Làm việc ác thì ngầm bỏ ngàn vàng mà vẫn im tiếng, làm việc lành thì dẫu cho người một bữa ăn cũng lớn tiếng khoe công. Hễ dụng tâm như thế thì chắc chắn đọa vào đường ác, với chút ít đều lành mà cầu sinh Tịnh độ thì khó lắm vậy.
Sự tích ngài Tuệ Viễn kẻ học tuy thấy nhưng ít người biết tường tận, khiến cho người đời không thấy rõ đức của bậc Tiên hiền và lỗi của kẻ hậu học. Tôi đọc Cao Tăng truyện, Liên Xã ký và Cửu Giang Tân Cựu Lục thì rất mến Tuệ Viễn có sáu việc có thể khuyên đời. Nay dẫn ra trên vách ở ảnh đường để chỉ bảo cho người đến thăm:
1. Lục Tu Tĩnh là học giả của tôn giáo khác mà đưa tiễn vượt quá Hổ Khê, đấy là không vì người mà bỏ lời.
2. Đào Uyên Minh mê uống rượu mà vẫn giao du, đây là bỏ tiểu tiết mà lấy người thấu đạt.
3. Cao tăng Bạt-đà đã nêu điều lạ bị tội tẩn (đuổi) nhưng vẫn đón về và khen ngợi, bởi trọng người có trí thức mà bị ganh ghét.
4. Tạ Linh Vận vì tâm tạp mà không nhận vào xã bởi biết người tài mà cẩn thận sau này.
Lô Tuần muốn làm phản mà vẫn cầm tay bạn cũ, bởi tự tin vào đạo.
5. Hoàn công uy vũ mà vẫn đối kháng không khuất phục, là vì có khí tiết lớn. Nói chung, xưa nay tình người đều sợ uy vũ, hoặc quên nghĩa vì tránh hiềm nghi, háo danh vì mê muội sự thật thật, ham đời mà chịu đựng đơn côi, giữ tiết hạnh mà sợ phiền lụy, tự khoe chê cười. Ai có đạo tôn quý một đời là thầy bậc Hiền, lại chịu dùng một lời nói theo người ấy? Ai có bẩm tánh đức hạnh cao quý sáng sạch mà lại chịu giao du với kẻ say sưa vì trọng cái đạt của người ấy? Ai có sự tôn quý khuất phục thầy người đối với người bị đuổi lại khen là hiền? Ai chống lại với kẻ có danh tiếng mà không cho nhập giáo vì muốn bảo toàn sau này? Ai có nghĩa chẳng tránh họa? Ai dốc một niềm hòa mục, bạn cũ vì tin đạo? Ai gặp oai tướng soái trong cõi sát phạt bạo ngược, giữ đạo chẳng bị quấy nhiễu mà giữ tròn tiết hạnh? Đó là Tuệ Viễn, người có hiểu biết rộng lớn có một xưa nay. Nếu người gánh vác chí giáo, mở rộng Thánh đạo, dạy dỗ, dắt dẫn trời người không phải là người, ấy thì còn Thánh hiền nào cao tột vĩ đại hơn? Ôi, năm khí hợp gió mát là danh tiếng của ngài Tuệ Viễn vậy, Non thần sừng sững trong bốn biển sắc thu là sự thanh cao của Tuệ Viễn. Người rồng Tăng phụng cùng nhóm họp là do phong cách khuôn phép của Tuệ Viễn. Mây trắng, núi đỏ, cây ngọc, rèm châu là nơi ở của Tuệ Viễn. Được sinh sau Tuệ Viễn, tuy kính mến mà rất hận. Trước di tượng ngài con kính cẩn đảnh lễ nguyện đem lời văn thô kệch của mình mà đề lên vách.
Tôi nhớ trong Liên xã thỉ tổ Viễn Pháp sư Truyện có câu "Tề Dĩ, Đào Lệnh vì say nhiều nên không mời được, tiếc thay chẳng được chu toàn". Kẻ học sau là Hiền Lương Trần Thuấn đã vượt núi Lô mà ghi lại rằng:
Bên ao sen trắng, ảnh đường cũ
Lưu, Lôi cốt cách hết Long Chương
Cùng khinh Thiên Tử các chư hầu
Đồng thương thầy ta một pháp trường
Đào lệnh say nhiều mời chẳng được
Tạ công tâm loạn vào chẳng hại
Những ai đến đây nghĩ vết cao
Gió động vết rêu, bụi đầy tường.
Trong Lô sơn Chí có ghi "Vị tăng tên Khuông Bạch đề lời Đông Lâm" rất thích câu ấy đẹp mà có chí kính mến Tây phương nên chép ra đây:
Đông Lâm cảnh đẹp thật rộng dài
Lan Tuệ mọc nhiều đất cũng thơm
Khá trách người đời đến chẳng được
Lại theo mây, cây, già ngại gì
Cửa ngỏ nương trời tạnh xanh tốt
Miệng hang nước chảy đêm quanh thềm
Đến đây chỉ mong được kết xã
Ngoài ra bỏ hết đều chẳng màng.
Trong Lô Sơn Thập Bát Hiền Truyện chép: Sư Tuệ Trì là em ngài Tuệ Viễn, sâu sắc nghĩ xa, thần sáng tài giỏi. Một hôm, từ giã anh đi về đất Thục. Tuệ Viễn giữ lại không được, bèn than rằng: Người đời thích sum họp, chỉ có ông thích chia lìa. Trì đáp: Nếu người vướng tình ái mà nhóm họp thì không nên xuất gia. Nay đã cắt ái cầu đạo chính vì hẹn Tây phương mà thôi. Rồi bùi ngùi từ biệt.
Xưa, có vị tăng tên Tăng Hiển được kinh Thập Lục Quán mới được dịch ra chữ Hán nêu ba nhân Tịnh độ, nguyện vãng sinh chín phẩm rất mừng bảo rằng: Tôi thân ở trong cõi đời có năm thứ vẫn đục, các khổ trói cột. Nay được kinh này như vượt khỏi cảnh lầm than cơ cực, bay liệng giữa hư không. Từ nay trở đi đã có chỗ về. Do đó quyết chí tu tập suốt chín tháng. Một hôm, bỗng thấy Phật A-di-đà phát ra ánh sáng dắt dẫn, thân lên ngồi trên đài Kim cương mà hóa.
Vãng sinh Truyện ghi: Lưu Di Dân đời Đông Tấn, lúc mới đến Lô sơn tới chào ngài Tuệ Viễn. Tuệ Viễn nói: quan lộc vòi vọi, muốn điều gì mà chẳng chịu làm quan? Lưu thưa: Vua tôi nghi nhau, cười nhau vô dụng. Nhà Tấn không phải là tảng đá lớn chắc chắn, vật tình ắt có cái nguy của trứng chất nhiều lớp, tôi biết làm sao? Tuệ Viễn nghe lời cho là người cao quý bèn mời vào Bạch Liên xã.
-Ghi việc các Pháp sư đều sinh Tây phương.
A-di-đà kinh Bất Tư Nghi Thần Lực Truyện chép: Xưa ở Trường An, các vị Pháp sư Tăng Duệ Tuệ, Sùng, Tăng Hiển, Tuệ Thông. Gần đây đời Hậu Chu thì có Thật Thiền sư, Loan Pháp sư ở Tây Hà... hơn trăm vị đều sinh Tây phương. Thiền sư Đạo Xước ở Tây Hà nhân thấy Thần Loan được sinh Tịnh độ đều dẫn dắt người có duyên chuyên tu Tịnh nghiệp. Đạo Xước lại soạn bộ Tây Phương Ký Nghiệm, gọi là An lạc tập mà truyền bá ở đời.
Pháp Uyển Châu Lâm chép: Thế giới sáng sạch gọi là Tịnh, nơi tịnh mà ở thì gọi là cõi. Nhiếp luận nói: nơi ở không có năm thứ vẫn đục gọi là cõi Thanh tịnh.
-Danh nghĩa của Liên xã.
Thích Thị Yếu Lãm chép: Pháp sư Tuệ Viễn đời Đông Tấn người Nhạn Môn, ở Hổ Khê thuộc Lô sơn, nhóm hợp mười tám bậc Hiền tu Tây phương Tịnh nghiệp. Đào ao trồng sen trắng. Lại ở cõi nước Phật Di-đà dùng hoa sen chia làm chín phẩm thứ lớp tiếp độ người nên gọi là Liên xã. Có người nói: Các người trong xã này không bị bùn nhơ danh lợi dính vào, dụ như hoa sen cho nên lấy đó đặt tên. Lại có người nói: Ngài Tuệ Viễn có đệ tử tên là Pháp Yếu khắc gỗ làm mười hai hoa sen để ở trong nước, rồi chế tạo máy khiến nở ra một cánh là một giờ. Thời khắc không sai với đồng hồ, khiến lễ niệm không sai giờ giấc nhân đây mà đặt tên xã là Liên xã.
Ở Trung Quốc các sách Nho phần nhiều đều có nói về Tây phương như Chu Thư Dị Ký nói Tô Do tâu với Chu Chiêu Vương rằng: Có bậc đại Thánh sinh ở Tây phương. Lại trong Liệt Tử, Thương Thái Tể hỏi Khổng Tử, Khổng Tử đáp rằng: Tây phương có bậc Thánh. Văn Trung Tử nói: Phật pháp là tôn giáo ở Tây phương, các sách Nho ở đây xem Phật giáo là Tây phương. Đây là cõi Tây năm nước Thiên Trúc không phải để gọi Tịnh độ Tây phương. Lại, một cõi tam thiên đại thiên thế giới tức phạm vi hóa độ của Phật Thích-ca, đối với năm nước Thiên trúc ở trong cõi Diêm-phù thì Thần châu ở về phía Đông nam, cõi này mà nhìn thì gọi năm nước Thiên Trúc là Tây phương. Còn Tịnh độ Tây phương của Phật A-di-đà ở ngoài đại thiên Thế giới lại cách mười muôn ức cõi Phật (một cõi Phật được định là một Tam Thiên đại thiên Thế giới). Tức biết cùng với năm nước Thiên Trúc ở cõi Diêm-phù-đề thuộc phía Nam này thì khác như trời với đất, không được lẫn lộn.
-Ghi chép về Lô sơn Liên xã
Bạch Liên xã Đồ do Long Miên Lý Lân Bách niên hiệu Hy Ninh làm ra. Dùng mây thông suối đá làm đạo tràng mà không có nhà cửa làm che mắt. Kẻ mang kinh cỡi ngựa đi vào là Tạ Khang Lạc Linh Vận. Người xách giỏ rượu đi ra là Đào Tiềm Uyên Minh. Còn người vòng tay chào hỏi cười nói ấy là Pháp sư Tuệ Viễn cùng với Giản Tịch Tiên Sinh Lục Tu Tĩnh. Ngồi trên đá đối đáp, nhau là người nước Kế Tân Tôn giả Phật Đà-da-xá và Tôn giả Phật-đà-bạt-đà-la, bày tượng vàng sư tử mà khen ngợi Phật sự là Đạo Tổ Chu Tục Chi, ở Nhạn Môn, cùng với Pháp sư Đàm Thường Đạo Ngang, người ngồi vây quanh đài đá mà lật xem kinh là
Lưu Di Dân Trọng Tư ở Bành Thành, Nam Dương Trương Thuyên Tú Thạc, Tây Lâm Thích Giác Tịch Đại sư Tuệ Vĩnh cùng Pháp sư Tuệ Trì, Tuệ Duệ. Người nhìn giòng thác mà rửa chân là Nam Dương Trương Dã Lai Dân. Người ngồi dựa ghế là Đông Lâm Phổ Tế Đại sư Trúc Đạo Sinh. Người ngồi trên mảnh da thú mà cầm chiếc lông trắng là Dự Chương Lôi Thứ Tông Trọng Luân. Người trải pháp cụ mà ngồi là Pháp sư Đàm Tiên và Đạo Kỉnh. Người chống gậy đi tắt lên núi là Pháp sư Đàm Thuận, Nam Dương Tông Bính Thiếu Văn. Bởi Lôi Trọng Luân, Lưu Trọng Tư, Chu Đạo Tổ, Tông Thiếu Văn, Trương Lai Dân, Trương Tú Thạc... đều mến mộ danh đức của Viễn Sư mà theo vào xã. Như Thích Tuệ Vĩnh Đạo Sinh, Tôn giả Da-xá, Tôn giả Bạt-đà-la, Tuệ Duệ... đều có đạo đức khế hợp với với Viễn Sư. Tuệ Trì là em ruột ngài Tuệ Viễn. Còn Đàm Thuận, Đàm Thường, Đạo Bính, Đạo Kỉnh, Đàm Tiên... đều là đệ tử của Tuệ Viễn. Đó là mười tám vị Hiền. Còn như Lục Tu Tĩnh thì Tuệ Viễn mỗi khi giao du thường đưa qua khỏi Hổ Khê. Còn Đào Uyên minh thì Tuệ viễn đặt rượu mời mà không chịu vào Xã. Tạ Linh vận thì thường trồng sen nguyện vào xã nhưng Tuệ Viễn ngăn không cho. Ở phía phải có ba người cố gắng cầm kinh cùng kẻ tục và trẻ hầu tất cả mười bảy người cùng phụ vào tranh vẽ. Từ Tuệ Viễn trở đi mười tám vị hiền thì Trần Thuấn Thâu Lệnh có nêu trong Lô sơn Ký, từ khi có Truyện Long Miên Lý Đức Tố soạn sách thì lược bỏ. Ngày 5 tháng 12 năm Tân Hợi, niên hiệu Thiệu Hưng năm đầu kính ghi.
Phu tử nói: Đứng thì thấy nó ở trước, ngồi xe thì thấy nó dựa vào đòn ngang. Về sau, Hán Thư nói ngồi thì thấy Nghiêu ở trên tường, ăn thì thấy Nghiêu ở trong canh, nói không hết được, phút chốc thì lìa như thế, tuy nhiên ở trong cõi đặc biệt này, kinh Lăng Nghiêm chép: Nếu các chúng sinh nhớ Phật, niệm Phật thì hiền tiền, tương lai chắc chắn được thấy Phật, không nhờ phương tiện mà tự được tâm khai. Tôi bảo tu Tam-muội niệm Phật cũng phải tham dự xe trước cùng nghĩa thấy Nghiêu. Đi đứng nằm ngồi đều phải nhớ niệm thì lo gì chẳng thấy Phật. Đây là bến yếu thành đạo chân xuất thế. Đâu chỉ thấy Nghiêu trên tường và ở canh, chỉ là tưởng luống dối. Ngày ba tháng mười một niên hiệu Chánh Hòa thứ bảy tại Cảnh Phù Ly, tôi ở trong thuyền nhân xem luận Niệm Phật Tam-muội Bảo Vương của ngài Phi Tích, bèn nghĩ về Phu tử ta cùng lời trong Hán sử và Phật rất phù hợp. Bèn ghi vào đây mong khi xem sẽ tự sách tấn mình. Hễ ai thấy nghe cũng nên cố gắng.
Huỳnh Bá Tư Trưởng Nho Phụ kính ghi.
-Phát tâm quyết định chắc chắn được sinh.
Thiền sư Trí Giác Thọ trong Thần Thê An dưỡng Phú có chú văn rằng: chỉ người phát tâm chắc chắn thì sẽ được sinh. Chỉ lo lòng tin không bền chắc, trước sau đứt quãng. Lời nói này của Thiền sư rất thành thật mong người đọc hãy khắc sâu vào tâm.
Trong luận Quần Nghi có nói: Tịnh độ Tây phương gồm có ba mươi thứ lợi ích:
1. Thọ dụng cõi Phật thanh tịnh.
2. Được đại pháp lạc.
3. Gần gũi thân Phật.
4. Đến khắp mười phương cúng dường các Đức Phật.
5. Được các Đức Phật thọ ký trước.
6. Phước tuệ đầy đủ.
7. Mau chứng Bồ-đề.
8. Trời, người cùng nhóm họp.
9. Luôn không thoái chuyển.
10. Hạnh nguyện thêm nhiều.
11. Chim linh nói pháp.
12. Gió cây âm nhạc.
13. Nước nói khổ không.
14. Tiếng nhạc hay ho.
15. Dứt hẳn ba đường.
16. Thân màu vàng ròng.
17. Thân không xấu xí.
18. Đầy đủ năm thông.
19. Thường ở trong Chánh định.
20. Không có các điều bất thiện.
21. Tuổi thọ dài lâu.
22. Cơm áo tự nhiên có.
23. Chỉ hưởng các điều vui.
24. Có ba mươi hai tướng tốt.
25. Không có người nữ.
26. Không có Tiểu thừa.
27. Lìa dứt tám nạn.
28. Được ba pháp nhẫn.
29. Thân luôn có ánh sáng.
30. Được thân Na-la-diên.
-Quyết định cầu sinh phải khởi tâm ưa thích, nhàm chán.
Trong Thập Nghi luận của Thiên Thai có nói: Nay muốn quyết định cầu sinh không biết phải thực hành hạnh nghiệp nào. Lại người thế tục đều có vợ con, chẳng dứt dâm dục thì được sinh cõi ấy chăng?
Đáp: Nếu quyết muốn sinh thì phải có hai hạnh:
1. Hạnh nhàm chán xa lìa. Luôn xem thân này máu mủ phẩn tiểu nước dơ hôi hám. Một là quán thân dâm dục do tham ái sinh ra tức là các hạt giống bất tịnh. Hai quán cha mẹ giao hội tinh huyết hòa hợp tức là thọ sinh bất tịnh. Ba là trong thai mẹ tức là chỗ ở bất tịnh. Bốn là ở trong thai mẹ, chỉ ăn nuốt máu mẹ tức là ăn nuốt bất tịnh. Năm là khi đủ tháng thì từ sản môn chui ra tức là nơi sinh bất tịnh. Sáu là trong thân có máu mủ tức là cả thân thể bất tịnh. Bảy là chết rồi sình chương rã nát tức là rốt ráo bất tịnh. Quán mình đã như thế, quán người mình thương yêu cũng như thế. Như thế mà quán thì việc phòng the dù không dứt ngang được cũng dần dần giảm bớt.
2. Hạnh nguyện ưa thích. Sở dĩ cầu sinh là vì muốn cứu khổ cho tất cả chúng sinh sau mới khởi tâm duyên tưởng tướng đẹp mầu vàng của Phật Adi-đà. Lại quán cõi ấy bảy báu trang nghiêm đầy vui sướng. Đây gọi là Hân nguyện môn.
Việc khó thấy thì có nghi, nhiều nghi thì thành cảm. Không chỉ ở mọi người mà như ngài Xá-lợiphất ở Tiểu thừa nhàm chán mà theo Đại thừa rồi cũng lại nghi. Ở cõi tịnh uế thì nổi nghi hỗn tạp cuồn cuộn. Có những điều ẩn kín không thể biện biệt thì nghi và có những việc dường như giống nhau không thể giải quyết được. Bởi Thu Tử là người có trí tuệ cao nhất mà không thể quyết nghi được lý hỗn tạp ấy, há có việc chưa nghĩ xét kỹ ư? Vì Phật pháp rất khó suy xét những chỗ chưa đến được. Cho nên nói: Sự sáng suốt của bốn quả không thể biết được chỗ sâu kín của Như Lai, các Thánh ở Thập địa cũng không thể được cái mầu của quả cùng cực. Huống là kẻ phàm phu không có mắt tuệ lại bị giam nhốt trong ba cõi thì có nhân gì. Vọng chỉ Tịnh độ nhầm lẫn, cái nghi khó chuyển mà nghi. Đối với thân biết năm uẩn chưa diệt mà nghi, đối với tâm biết có muôn hoặc lậu chưa dứt được mà nghi. Đối với hạnh có sáu độ biết chưa làm xong, do hạnh trôi dạt chưa cứu giúp những người mong cứu giúp, chính ở đây còn lầm lẫn huống là người khác. Tình vật này khó tin nên người xuất gia tại gia cùng nghi. Đại sư Trí Giả đời Tùy, tâm thầm mong với chúng sinh, trí cùng hội, với thần nhân, lúc giúp giáo có dấu lạ rất nổi tiếng, nêu nhân chỗ khác lạ, khảo cứu chỗ chứng, không biết, ngài là Tam hiền hay Thập Thánh mà việc làm của ngài ngang bậc Chánh đẳng giác, thần hóa rất khó lường, bởi dẫu nghĩ lường cũng không biết được. Chỉ có Đại sư niệm Định tổng trì sáng tỏ. Hạnh nghiệp cầu sinh Tịnh độ rất kiên định. Tìm thấy Đại sư còn văn luận Thập Nghi. Văn ấy xa thì lấy các kinh, gần thì lấy các luận, về ý thì lấy ở các truyện. Không lìa kinh mà đủ việc, không trau chuốt lời mà văn hay. Thấu lời đạt ý, đến cực chín phẩm mới thấy dụng tâm của ngài. Người thấy dụng tâm ngài đối với Tịnh độ mà còn nghi ư? Đó gọi là giữa khoảng trời cao không mây các sao đều hiện, cách lý mầu khác nhau, mối manh cũng khác, không phải một mà rất ẩn kín. Tôi được văn ấy chép lại, nghĩ Đức Năng Nhân khen Tịnh độ rất nhiều, các Đức Phật chứng mà thành. Hoặc tướng lưỡi rộng dài che khắp đại thiên, hoặc triều âm mà Phạm thuyết, tôi và Đại sư nhiều năm xa cách, không được một lúc cùng soi sáng cho nhau, sao ngày nay còn không nói? Cho nên ở đầu luận xin lược nêu vài việc để mừng hoài bão của Đại sư. Dẫu lời thô ý cạn không đủ nêu hết cái chỗ giáo hóa của ngài, nhưng trước đối nghĩa Phật chứng thành mà có chỗ về.
-Lời bạt về khắc bản Luận Tịnh độ Thập Nghi.
Huỳnh Công Tiên ở Ngô Hưng từng khắc in luận Thập Nghi của Thiên Thai, đề ở phía sau rằng: Người xưa do tâm sợ thúc bách bắn tên vào đá, khí giận dữ dội làm núi non suối rừng thành một. Do đây mà vật vô tình còn cảm được, huống gì trừ lưới nghi, ngưng kết tín căn, Tam-muội niệm Phật tinh tấn không dời đổi thì Tịnh độ dẫu xa vẫn chắc chắn được sinh. Nhưng người đời nghi, phân vân thì phải dùng vấn đáp của ngài Trí Giả có tựa dẫn của Vô Vi mà in ra thí khắp để truyền bá rộng, mong giúp các bạn lành tín tâm bền chặt vậy.
Các Như Lai quá khứ
An trú kho bí mật,
Phật mười phương hiện tại
Thành đạo xoay pháp luân
Các Thế Tôn vị lai
Trong Ba thừa sáu đường
Do chấp đắm vọng tưởng
Triền kết cái phiền não
Mê thành thân sáu nẻo
Luống chịu khổ ba cõi
Chỉ niệm Phật quá khứ
Chẳng kính Phật vị lai
Kết oán thù với Phật
Hoặc giết hại, chưng nấu
Chẳng hiểu tướng chúng sinh
Toàn là thân pháp tánh
Xưa, có Thường Bất Khinh,
Hay lễ bái mọi người
Nói ta chẳng khinh ngài
Các ngài sẽ thành Phật
Nếu nghĩ rằng mình, người
Đều là Phật vị lai
Hiện tại tăng phúc thọ
Đời đời sinh nước Phật.
Rượu, thịt và dâm dục
Ba thứ không lìa nhau
Người ăn thịt, uống rượu
Sắc lực sẽ sung mãn
Liền nghĩ đến dâm dục
Nếu người luôn dâm dục
Khí huyết sẽ khô khao
Sẽ nghĩ đến rượu thịt
Nếu người bỏ rượu thịt
Tự nhiên lìa dâm dục
Nếu người lìa dâm dục
Tự nhiên quên rượu thịt
Trừ được ba việc ấy
Tất cả giới đầy đủ
Nếu chẳng dứt ba việc
Ở mãi ngục ba cõi
Bàn thiền và nói giáo
Đều là hủy Phật pháp
Thiền sư Trí Giác nói
Nếu chẳng cấm ăn thịt
Dứt hẳn giống Từ bi
Nếu chẳng bỏ uống rượu
Đoạn hẳn giống Trí Tuệ
Nếu chẳng cấm dâm dục
Dứt hẳn giống thanh tịnh
Cấm thịt hiển gốc bi
Cấm rượu phát vốn tuệ
Cấm dâm sinh gốc tịnh
Gốc tịnh tức Pháp thân
Gốc tuệ là Bát-nhã
Gốc từ là giải thoát
Ba thân và ba đức
Đều do ba việc sinh
Thế nên pháp môn này
Tên Từ Tuệ Phạm hạnh
Đều y giáo Đại thừa
Đều là lời các Phật
Nguyện khắp làm đúng lời
Cùng sinh nước Cực lạc.
-Dâm dục, giết hại giúp nhau phát sinh.
Long Thơ Tịnh độ chép: Dục vọng lớn là ăn uống và quan hệ nam nữ phải nên tiết chế. Nếu không có các việc này thì là bậc Thánh, giảm bớt không buông lung các việc này thì là bậc Hiền, còn buông lung không tiết chế là kẻ hạ ngu. Bởi hai việc này giúp nhau tạo nghiệp. Vì uống rượu ăn thịt nhiều thì huyết khí đầy mạnh, khiến dâm dục nhiều. Nếu dâm dục càng nhiều thì hao tổn huyết khí, lại phải nhờ ăn uống mà tẩm bổ. Nếu giảm bớt cả hai việc này thì là đạo an thân và sống lâu. Sư Từ Giác nói: Việc ăn uống đối với người dài theo ngày tháng, tinh thô tùy phần là để ngăn bệnh đói gầy. Vừa nuốt qua khỏi cổ thì là vật gì? Sao tâm không so lường suy xét kỹ mà cốt lấy việc thật. Dã Phu có nói: Da bao xương thịt và phẩn tiểu, gượng làm đẹp đẽ để gạt người. Ngàn xưa anh hùng đều do đây. Trăm năm rốt chỉ một nắm đất.
Nếu ngăn được hai việc này thì ở đời đâu có bệnh tật, chết yểu. Chết rồi đâu có địa ngục, quỷ, súc sinh. Nếu quyết muốn cầu sinh Tịnh độ thì phải cẩn thận gìn giữ việc này.
Vào niên hiệu Trinh Quán đời Đường có Hàn Sơn, Thập Đắc và Phong can là ba vị ẩn sĩ chùa Quốc thanh ở Thiên Thai. Đầu tiên là Chánh Gián đại phu Lư Khưu Dẫn ra làm Thứ sử ở Thai châu. Khi chưa lên đường thì bị bệnh nặng lâu ngày không dậy được. Bỗng thấy một vị tăng bảo: "Tôi là Phong Can ở Thiên Thai thấy ông bệnh bèn đến thăm", phun nước vào mặt dẫn thì liền tỉnh lại, nhân được sống lại ông xin rằng: Thiên Thai thuộc ấp tôi có bậc Hiền nào nên gần gũi chăng? Phong Can nói: Được gần mà chẳng thể thấy là Hàn Sơn, được thấy mà không thể nương bám là Thập Đắc, đó là hai Đại sĩ Văn-thù và Phổ Hiền vậy. Khi dẫn đến quận năm ngày liền hỏi, vị tăng tên Đạo Kiều đáp rằng "Viện Phong Can ở sau kinh tàng (Kho kinh) nay đã không có người. Hàn và Thập thấy ở nhà bếp đang đốt". Lại hỏi "Phong Can làm hạnh nghiệp gì?" Thì đáp: Chỉ thờ cúng, đêm thì ca hát làm vui, có lúc cỡi hổ qua lại dưới rừng thông. Ông đến nhà bếp gặp liền làm lễ thì hai ông mắng chửi rằng: Phong Can lắm lưỡi, người ấy là Di-đà mà không biết, lại lạy ta làm gì? Đồ chúng thấy vậy kinh sợ thì hai vị liền biến mất. Người xưa có nói Thánh hiền hiện thân ở chung mà người đời không biết, phải là người này chăng? Ba vị ẩn sĩ trên có thơ cảnh tỉnh người đời rất nhiều, thấy đủ ở Bản tập.
-Bình luận các bài tụng của Thiền sư Long Nha.
Truyền Đăng Lục có ghi bài tụng của Độn Thiền sư Long Nha rằng:
Niệm Phật nhiều người thành Phật ít
Niệm hoài ngày tháng sẽ thành ma
Anh nay muốn được tự thành Phật
Tâm kia không niệm không hiệu quả.
Phần nhiều thấy người tu thiền dùng tụng này để ngăn người niệm Phật, bởi họ chuyên lấy vắng lặng làm tông (gốc), bèn cho người niệm Phật là chấp tướng, rất không biết kinh Thắng Thiên Vương Bát-nhã có nói: Dùng vô sở niệm mà tu niệm Phật há bị bệnh chấp tướng ư? Xin họa một bài tụng để phá lầm rằng:
Niệm Phật nhiều người thành Phật nhiều
Ai nói niệm lâu sẽ thành ma
Châu trong nước đục đã dụ rõ
Gọi chẳng quay đầu, tranh nổi gì?
Kẻ sĩ Lý Nguyên và vị tăng Viên Trạch về đạo rất khế hợp nhau. Nên một hôm cùng hẹn dạo chơi Tây Thục. Lý thì muốn đi đường từ Kinh châu, còn Trạch thì muốn đi đường từ Trường an. Trạch bất đắc dĩ phải theo ý của Lý. Thuyền đến Nam Phố thuộc Kinh châu, bỗng thấy có người phụ nữ mặc quần gấm gánh nước Trạch thấy bèn khóc rằng: Tôi chẳng muốn đi là vì việc này, đây là Vương thị, tôi phải làm con ở trong thai ba năm, tôi đã đến thì không trốn được. Quá ba ngày tắm con, ông đến thì tôi sẽ cười một cái để làm tin, mười hai năm sau đêm Trung Thu, hãy gặp nhau ở ngoài chùa Thiên trúc tại Hàng châu. Nói xong thì ngồi mà chết. Người phụ nữ sau khi sinh xong ba ngày thì Nguyên đến xin gặp thì quả nhiên đứa bé cười một tiếng. Mười hai năm sau, đến kỳ hẹn Nguyên tới Tây hồ bên bờ sông Cát hồng. Bỗng nghe mục đồng gõ sừng ca rằng:
Ba sinh trên đá tỉnh hồn xưa
Thưởng gió ngâm trăng chẳng luận bàn
Hổ thẹn tình người xa hỏi nhau
Thân này tuy khác tánh mãi còn.
Nhân đó Nguyên hỏi rằng: Ông Trạch có khỏe chăng? Cậu bé đáp: Ông Lý thật là người đáng tin, nhưng vì tục duyên chưa hết, xin chớ gần nhau. Chỉ xin siêng tu không biếng lười rồi lại gặp nhau. Nói xong lại ca rằng:
Thân trước thân sau việc mênh mông
Muốn nói nhân duyên sợ đứt ruột
Ngô Việt giang sơn nay đã khắp
Đường về khói đóng mái chèo xưa.
Hát xong bỏ đi.
Tôi thấy ông Trạch ra vào sinh tử không mê muội, lại là người thấu đạt. Tuy nhiên cũng vì sinh tử chưa hết, do đó phải bị khổ trong thai ngục, từng nghe bậc Thánh sơ quả của Tiểu giáo còn bị dục mê hoặc lôi kéo bảy lần trở về làm trời người lần lượt bị sinh tử. Cho nên trong Đại luận có nói Sơ quả còn sinh làm con nhà hàng thịt. Đến Nhị quả thì còn một lần sinh về cõi Dục. Nay chẳng biết Trạch sư là người thuộc thượng vị Đại thừa mà quyền hiện sinh tử như thế hay là căn tánh Tiểu thừa thật sự lần lượt chịu sinh tử. Nếu thật là người Sơ quả Tiểu thừa tuy chưa ra khỏi ba cõi thì cũng mặc tình ra khỏi ba cõi, tuy chưa vào Đại thừa thì ở trong cõi phương tiện cũng mặc tình vào Đại thừa, chắc chắn không lo lắng gì. Nếu chẳng thế thì trôi lăn trong năm đường không bờ bến song ở trong sinh tử thì khó ra, được như người này thì giống với việc tu theo đường tắt của Tịnh độ. Hãy cố gắng!
* Pháp sư Bố nói Tịnh độ không phải là sở nguyện của tôi.
Theo Tục Cao Tăng Truyện thì Pháp sư Tuệ Bố người ở Quảng Lăng, họ Hác, thuộc giòng tướng soái. Thuở nhỏ, sư đã có chí theo đạo. Bèn theo thầy xuống tóc đối với đạo nghiên cứu sâu xa. Lúc đó có hiệu là Tuệ Bố. Các Vua đời Trần từng có đến thọ giới với sư. Sư có nói: Tịnh độ Tây phương tuy tịnh nhưng không phải là nguyện của tôi. Dầu mười hai đại kiếp ở trong hoa sen không được thấy Phật chỉ hưởng các vui thì không bằng ở trong ba đường mà cứu khổ chúng sinh. Khi sư mất, thì suốt bảy ngày mặt đất rung chuyển, sư ngồi mà hóa, co ba ngón tay, Thái sử tấu vua rằng người đắc đạo thì sao rụng.
Bố công ở đây nói chắc chắn phát từ tâm trí tuệ. Song đây là người đã được vị Vô sinh, và thô cấu trước đã hết thì mới được như thế. Dưới bậc này và bạc địa thì tự cứu còn chẳng được huống gì cứu người khác. Cũng như không có thuyền không biết lội thì cả hai cùng chết chìm. Nay thấy Tuệ Bố qua đời mà co ba ngón tay thì dẫu chưa phải là ứng sinh Bồ-tát thì cũng nguyện sinh ở quả vị vô ngại. Nếu chưa được địa vị này thì phải luôn không được lìa Phật pháp. Đợi khi đạo lực đã thành rồi trở thì lại cõi năm trược mà cứu độ chúng sinh mới được. Nếu không như thế thì Đại Luận nói hạng phàm phu còn bị trói buộc có tâm đại Bi nguyện sinh trở lại đời ác để cứu khổ, thì không có việc này há chẳng cẩn thận ư?
Trong Quốc Thanh Bách Lục ghi: Tể tướng nhà Trần phát nguyện rằng: Đệ tử là Lăng Hòa Nam nghĩ muốn thoát khỏi lồng phên không do cánh mà được đã yếu kém thiện căn thì mong nguyện lực được trang nghiêm. Nay nguyện:
1. Khi qua đời được chánh niệm thành tựu.
2. Nguyện không đọa vào địa ngục ba đường.
3. Nguyện thác sinh vào nhân gian chỗ không cao không thấp.
4. Nguyện được đồng tâm xuất gia giữ giới đúng pháp.
5. Nguyện không rơi vào hàng Tăng lưu tục. Tâm nguyện này để sách tấn việc tu Tây phương. Lòng son đã nguyện xin được chứng minh.
-Bàn về người thế tục nguyện đời sau được xuất gia.
Trong Quán kinh nghĩa sớ, Luật sư Linh Chi Đại Trí có nói rằng: Có người phát nguyện, nguyện khi chưa được Đạo, thì sinh ở chỗ nào cũng gặp Phật nghe Pháp, xuất gia từ bé. Nay nói nếu sinh Tịnh độ thì mặc tình gặp Phật xuất gia làm tăng. Đó là do không biết Tịnh độ có nguyện này. Cũng như Từ Lăng nguyện rằng: Nguyện kiếp sau được thác sinh vào nhân gian chỗ không cao không thấp, được xuất gia từ bé. Đây vì họ là nhà Nho nên không đáng trách. Còn các bậc Tông sư giảng Thiền nhiều người lại có cách nghĩ như vậy. Tôi từng nói rằng: Ông nay đã được làm nam tử xuất gia rất hợp với việc cầu thoát ly sao lại còn cầu làm nam tử xuất gia lại, bỏ đi dịp may thẳng tiến.
Ngài Linh Chi bình luận Thừa tướng Từ Lăng không đáng trách mà thật ra lại trách cứ sâu xa. Tuy nhiên Từ là hạng nhà Nho phi thường, bởi từng theo học với tổ Thiên Thai ta, ông rất am tường giáo quán. Với năm lời nguyện trình lên bậc trí, nên thấy ghi trong Bách Lục. Bởi ông có chí vì chúng sinh rất rộng lớn nên như thế. Đợi khi đổi báo thì được quả như nguyện xưa làm tăng học đạo, nối ngài Chương An làm Tổ thứ sáu của Thiên Thai, gọi là Tôn giả Pháp Hoa Trí Oai. Cho nên sư Trí Thuần người Cao ly khen rằng: Thân gặp bậc trí trình nguyện tốt, quả làm Tông sư như nguyện xưa. Linh Chi sớ ký như thế là muốn cứu mối tệ chứ nào phải ngọc, đá chẳng phân.
Trong Mạo Trí Di Thư Triều Thái Phó có nói: Thực hành Pháp quán Tịnh độ là quyền thuật của Tiểu thừa. Có năng có sở, có lấy có bỏ đều là sinh tử luân hồi, người thấy Đại thừa phải tự hiểu biết.
Triều công làm quan ở triều Nhân Miếu, nhiều năm rảnh rang, rộng xem sách vở trong ngoài tìm rõ lý vị, rất mến việc siêu xuất trần thế. Ông có soạn Đạo Viện Tập và Pháp tạng Toái Kim. Độc giả ai chưa từng cảm thấy lý thú, chỉ lấy nhất chân hư tịnh làm chỗ đến. Về già có soạn sách Mạo Trí, trong đó có nói Tịnh độ là Tiểu thừa quyền thuật. Đây là lời nói mất ý chỉ. Triều Công cao minh trác thức mà chẳng hiểu Phật giáo Đại, Tiểu thừa, khi nói lời này thì ngựa hay chẳng đuổi kịp. Tôi vốn không nhanh nhẹn chỉ vì muốn cùng ông kết duyên Tịnh độ nên gắng gượng mà luận bàn thôi: Giáo lý Tiểu thừa là giáo vụng về thiên lệch chỉ nói về nhất chân không. Nếu hoặc kiến, tư phá rồi thì thân nhập vào thái hư, cũng không có cõi nước nào để sinh về, đâu được nói là Tiểu thừa quyền quán Tịnh độ. Phải biết Đại thừa mới nói lý mầu trung đạo, thân và cõi giao nhau cho nên có nói trần trần Phật sát (cõi Phật nhiều như bụi). Nếu luận về thọ sinh thì sinh tức Vô sinh, Vô sinh tức sinh. Cho nên Dương Vô Vi nói: Có niệm đồng không niệm, Vô sinh tức là sinh, chẳng nhọc dời một bước, thấu triệt thành Hoàng giác, là thế. Nói rộng nghĩa này thì như bộ Thiên Trúc Hạnh Nguyện Quyết Nghi và Thư đáp Dương Văn Công của ngài Tứ Minh, các vị quân tử cảm thấy lý thú thì thử xem xét rõ.
Quán kinh Nghĩa Sớ chép: Nói sơ lược có sáu loại người tự chướng với Tịnh độ:
1. Bảo rằng Tịnh độ khó sinh, mình không có sức, không dám quá trông mong, chỉ đừng mất thân người là đủ.
2. Bảo rằng tôi phá giới hủy trai, nghiệp ác sâu nặng, Tịnh độ làm sao sinh được.
3. Cho rằng Phật nói Tây phương là để quyền dụ chúng sinh, lại khiến làm lành đều không thật, thấy người tu Tịnh nghiệp lại sinh chê cười.
4. Cho rằng mình là bậc thông minh lợi trí, thẳng ngộ tâm mình, các việc mình làm đều hợp đạo, há lại cùng kẻ dưới mà niệm Phật ư?
5. Nói rằng phàm phu huyết khí nhóm họp, giả gọi là thân, đến khi chết thì trăm xương về không, đâu có Tịnh độ mà về.
6. Bảo rằng khi sắp qua đời quán tưởng cướp lấy thai ấm, chỉ sát-na là đổi báo, chẳng trải qua bào thai.
Than ôi! Phật ta đại Từ bi chỉ dẫn pháp môn Tịnh độ, ân cần khuyên cầu sinh, mà lại tự cam chịu chìm đắm. Như Lai bảo đây là hạng người đáng thương. Pháp sư Từ Ân nói: Chỉ có An dưỡng Tịnh nghiệp là nhanh tắt đáng tu. Ai muốn khi qua đời lìa các sợ hãi, Thánh chúng hiện tiền trao tay dắt dẫn... thì phải học pháp này. Lời pháp của các bậc hiền xưa mà không theo ư?
Quán kinh Nghĩa Sớ nói: Có người cho rằng cầu sinh Tịnh độ, niệm Phật, tu quán đều là chấp tướng, rất không phải là pháp siêu việt. Nay cho rằng Phật nói không chấp tướng là đừng chấp trước ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, chẳng trụ vào pháp tướng sở tu, dứt sạch chấp nhân và chấp pháp. Tức đạt hai thứ Nhân, Pháp đều không, nào từng cho buộc niệm tiến tu mà là chấp tướng ư? Nay cho rằng nếu tu Tam-muội niệm Phật chắc chắn là không phải chấp tướng, vì thân Phật vô tướng thì có gì để chấp. Bát-nhã chân không vốn để người tu sáu độ không trụ tướng, sáu độ chẳng tu thì Bátnhã sao dùng kẻ chân học đạo, thì đạt được tu mà không tu, hiểu niệm mà không niệm. Cả ngày tu mà không hề tu, cả ngày niệm mà không hề niệm. Nên kinh Kim Cang nói không có ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả. Tu tất cả pháp thiện thì được A-nậu Bồ-đề. Cho nên biết người liễu đạt thì đâu từng chẳng tu điều thiện.
Quán kinh Nghĩa Sớ hỏi rằng kinh nói: "Nếu dùng sắc thấy ta, dùng âm thanh cầu ta, người đó hành tà đạo, chẳng thấy được Như Lai". Nay quán Phật, niệm Phật há chẳng phải dùng sắc thấy dùng tiếng cầu ư?
Đáp: Ba mươi hai tướng cũng như vầng trăng sáng hiện vào trăm sông, như bốn biện ở tám tiếng, như tiếng vang phát ra ở hang sâu. Nếu có người xuống đầm mò trăng, vào hang tìm tiếng thì chẳng hiểu tánh không nên chẳng được thấy Phật. Người đạt ngộ thì không như thế, hiểu sắc không phải sắc thì có ngại gì. Quán tưởng hình Phật, thấu suốt tiếng chẳng phải tiếng thì ngại gì suy lường mà nghe Pháp mầu. Cho nên kinh Hoa Nghiêm nói sắc tướng không phải là Phật, âm thành cũng giảng như thế, cũng chẳng lìa sắc thinh mà thấy được năng lực thần thông của Phật, đối với lời nhiệm mầu này. Sao còn sinh nghi chướng ư?
Luận Quần Nghi chép: Tôi thấy trong thế gian này có mười hạng người khi sắp qua đời không niệm Phật được.
1. Bạn lành chưa ắt gặp được nên không khuyên niệm Phật được.
2. Nghiệp khổ trói chặt thân không rảnh niệm Phật.
3. Bị trúng phong líu lưỡi không niệm Phật được.
4. Điên cuồng mất tâm, chú ý khó thành.
5. Gặp nạn nước trôi lửa cháy chẳng rảnh chí mà niệm.
6. Gặp sài lang thú dữ không có bạn lành.
7. Khi sắp qua đời bị các bạn ác phá hoại tín tâm.
8. Ăn uống quá độ hôn mê đến chết.
9. Vào trận đánh nhau mà chết.
10. Té từ trên cao xuống mà chết.
Đây là mười chúng sinh khi qua đời không niệm Phật vãng sinh được. Vậy nên dự bị tu Tịnh nghiệp trước, để khi vừa gặp nạn duyên thì sẽ được Di-đà dắt dẫn vãng sinh.
Vào niên hiệu Long Hưng, Tông Thiên Thai có Tư Phạm giảng chủ ở lâu tại núi Lâm Bình Sơn, hạnh giải rất cao sáng, tạo ra một tông giáo quán sâu xa. Thường giao du với các sĩ đại phu, tùy chỗ hỏi đáp mà giải thích rõ ràng (thấy đủ trong hội tông tập). Một hôm, có Thông phán Trịnh Công hỏi: Trong kinh giáo nói niệm Phật Di-đà cầu sinh Tịnh độ phải chăng là vì kẻ độn căn mà phương tiên quyền nói. Thượng căn một khi siêu vượt Phật địa thì há lại nhờ năng lực Phật khác ư?
Sư đáp rằng: Những bậc tiên đạt của tông ta quở trách lời nói ấy rằng khi Phật còn tại thế thì có Văn-thù, Phổ Hiền. Khi Phật mất rồi thì có Mã Minh, Long Thọ, ở Trung Quốc thì có Trí Giả, Trí Giác đều nguyện vãng sinh, đó đều là độn căn ư? Đức Thích-ca khuyên vua cha Tịnh Phạn và sáu muôn người họ Thích vãng sinh, đó đều là người tầm thường cả ư? Nếu cho đây là quyền thì cái gì là thật? Xưa, Tôn Tân Lão cũng nghi ngờ việc này. Khi gặp Dương Thứ Công, Vương Mẫn Trọng biện luận mới dứt mối nghi này, bèn bảo: Ắt biết Tịnh độ không phải là quyền thiết của bậc Thánh mà là nơi nương tựa của chân Thiền lữ. Phải biết Triều ta kẻ hiểu sâu về Tịnh độ thì chỉ có hai bậc Hiền họ Dương và họ Vương trên. Dương soạn tựa cho Quyết Nghi tập có dẫn kinh Hoa Nghiêm nói rằng: Biết tất cả pháp cũng như ảnh tượng, tâm mình như nước, Phật không đến ta, mà ta cũng không về đó. Nếu ta muốn thấy Phật A-di-đà thì tùy tâm liền thấy. Thế mới biết người chú niệm thì chắc chắn thấy. Đây gọi là nói thật tánh mà không phải quyền giáo.
Hội Tông chép: Thường thấy người thế gian trước thì niệm Phật nhưng đến khi bệnh khổ sợ sệt nói chết, chỉ niệm Quán Âm mà cầu cứu. Tôi cho rằng người này rất điên đảo. Nay xin nói ba năng lực để dứt nghi tình giúp cho niệm Phật có ý vị.
1. Năng lực chúng sinh vốn sẵn có Phật tánh. Tâm chúng sinh vốn sẵn có Phật tánh, không khác với Phật A-di-đà. Như kinh Như Lai Tạng chép: Phật thấy trong tâm phiền não của tất cả chúng sinh đều có thân Như Lai ngồi kiết già, nghiễm nhiên bất động, đức tướng đầy đủ, tức là nghĩa này vậy.
2. Năng lực Di-đà Từ Quang Nhiếp Thủ. Kinh nói: Tâm của Phật là đại từ bi, tức dùng Vô duyên từ mà nhiếp các chúng sinh. Lại Phật có tám mươi bốn ngàn ánh sáng nhiếp giữ chúng sinh niệm Phật tâm không buông bỏ. Ấy là nghĩa này.
3. Năng lực công huân do tín tâm niệm Phật. Người tín tâm niệm Phật như con gọi mẹ, mẹ sẽ bảo hộ. Kinh nói: Nhớ Phật niệm Phật, hiện tiền và tương lai chắc chắn thấy Phật
Năng lực này như ba mối dây xe lại thành sợi dây lớn có thể kéo vật nặng đến nơi khác. Lại như gương, nước, lửa. Nếu gương đối trước mặt trời, dùng bùi nhùi mà dẫn thì được lửa, gương đối với mặt trăng thì được nước cũng giống như thế. Nay thể của gương có đủ tánh nước, lửa nên có thể dụ cho năng lực chúng sinh có đủ Phật Tánh, cần nhờ ánh sáng của mặt trời, mặt trăng chiếu đến thì dụ cho sức từ quang của A-di-đà nhiếp giữ chúng sinh. Vì gương và bùi nhùi hay dẫn nước và lửa nên dụ cho năng lực công huân do tín tâm niệm Phật.
Cả ba vật này hòa hợp lại thì nước lửa mới sinh, dụ cho ba năng lực giúp nhau thì dễ sinh Tịnh độ.
Hội Tông hỏi rằng:
Trong kinh Ban-chu dạy niệm niệm tưởng Phật A-di-đà. Đó là tâm có tưởng vậy, mà sau đó kinh lại nói: Tâm có tưởng thì si, không tưởng tức Niếtbàn. Trước sau trái nhau là sao?
Đáp: Kinh trước nói quán tưởng Di-đà thì chẳng thể không niệm. Sau nói về Tam-muội công thành thấy các Đức Phật mười phương đứng trên hư không. Lúc này phải hiểu tâm ta và tâm Phật đồng một chân tánh không thể nghĩ bàn. Cho nên nói có tưởng thì si, không tưởng tức Niết-bàn. Không phải nói từ đầu không được quán tưởng. Lại, trí vô niệm Vô sinh thì Phật địa mới thành, người thời nay chưa vào môn quán hạnh đã nói Vô sinh vô niệm, đâu biết Mã Minh đã dạy từ niệm đến vô niệm, từ nói đến không nói. Kinh Văn-thù Bát-nhã chép: Như người học bắn tên tập lâu liền khéo, sau không cần để ý, tên bắn đều trúng. Nếu người muốn vào Tam-muội nhất hạnh chuyên xưng niệm danh hiệu, niệm niệm nối nhau thì sẽ ở trong niệm mà thấy các Đức Phật mười phương. Thế mới biết lấy niệm dừng niệm, lấy lời khiển lời, đều là đường chánh tu hành của Phật Tổ cả.
Hội Tông chép rằng: Kinh giáo có nói người trí rõ ràng cầu sinh Tịnh độ. Trong Thiền Tập thì nói Chí Công bảo rằng người trí biết tâm là Phật, người ngu thích vãng sinh Tây phương, thế thì người tu Tịnh độ là ngu chăng?
Đáp: Đây có lẽ là do người sau nói ra. Dẫu là lời Chí Công nói ra thì bởi ý lấy duy tâm tức Phật chứ không lấy việc quán niệm Di-đà. Đây gọi là lấy lý đoạt sự. Như các bậc Tiên đức nói: Nếu dùng lý đoạt sự thì không có tịnh, uế, lấy, bỏ khác nhau. Nếu dùng sự đoạt lý thì có bỏ khổ, được vui khác nhau. Nên lại hỏi rằng nếu sự lý như một thể, không đoạt nhau thì sinh về đâu? Đáp rằng: Cũng biết chỉ sở trên sông thu, trăng sáng hoa lau biết đâu tìm.
-Ba vị Bồ-tát nguyện sinh về tầng trời Đâusuất.
Luận Thập Nghi chép: Tầng trời Đâu-suất là chỗ ở của ngài Di-lặc, lại có người nữ và các trời ái trước, chẳng bằng cõi Tịnh độ của Di-đà... Xưa, ở cõi Tây có ba vị Bồ-tát Vô Trước, Thế Thân, Sư Tử Giác kết hẹn đồng sinh cõi Đâu-suất. Nếu ai đi trước gặp ngài Di-lặc thì thề trở về báo cho nhau biết. Sư Tử Giác qua đời trước, mấy năm chẳng thấy trở lại. Sau, Thế Thân mất đã ba năm mới trở lại. Ngài Vô Trước hỏi vì sao lâu thế? Ngài Thế Thân nói: Tôi đến đó ngồi nghe ngài Di-lặc nói Pháp, đi nhiễu quanh một lúc rồi về liền, bởi ngày ở đó rất dài cho nên bằng ở đây ba năm. Còn Sư Tử Giác sinh về đó, ở bên ngoài cung trời, đắm mê năm dục không được thấy Di-lặc, thế nên chẳng trở lại. Các Tiểu Bồ-tát sinh lên đó còn đắm mê năm dục huống là phàm phu. Vì thế khuyên sinh Tây phương chẳng khuyên sinh Đâu-suất.
Ở đời có Tịch Thất Tịnh độ văn là quyển sách nhỏ, xem lời lẽ biết rõ ràng là văn của Vương Long Thơ. Tôi đọc thì rất thích lời bình của ông về người tu Thiền tông không chịu tu Tịnh nghiệp rằng: người dạo tâm thiền định ngộ tánh tông khi được người chỉ bày Tịnh độ sẽ nói: Tịnh độ duy tâm, tâm ta đã tịnh thì cõi nước tịnh cần gì phải cầu sinh cõi khác. Nay lại hỏi: Như kinh Tịnh Danh nói: Như Lai lấy chân ấn xuống đất thì thấy cõi Ta-bà đều trang nghiêm thanh tịnh, mà chúng hội không thấy, chỉ có Loa Kế Phạm vương thấy được. Nay người tu thiền có bằng Phạm vương mà thấy được cõi thanh tịnh chăng? Huống là chỗ các ông ở là nhà cửa thấp xấu thì mong nhà cao cửa lớn, ăn rau dưa thì mong thức ăn ngon quý, áo quần xấu rách thì mong lụa là xinh đẹp. Nếu nói tâm tịnh cõi tịnh thì không giống như sự phân biệt trên. Huống lại bị khổ già bệnh chết, tình trái thế gian thì lúc đó vẻ mặt sẽ giống với kẻ chưa ngộ, miệng nói Tịnh độ mà thân thì bị khổ não của cõi uế buộc ràng. Ấy là tự dối mình lắm vậy. Nếu thế thì phải tin theo giáo lý Tịnh độ chọn điều lành mà tu.
Tịch Thất chép: Chúng sinh tu nhiều nghiệp lành chỉ nương tự lực nên khó thành tựu, còn Tịnh độ y theo nguyện lực của Phật thì dễ lập thành, tự lực khó thành là vì tâm chí chúng sinh yếu kém, mà nghiệp ác lại sâu nặng. Vì tâm yếu kém mà nghiệp nặng sâu nên khó thắng. Huống gì bên ngoài lại bị bạn xấu ngoại ma kích bác, hoặc bị tửu sắc, tiền của nhận chìm, việc tu pháp thiện đâu dễ được thành. Còn nương nguyện lực Phật thì dễ lập là bởi nguyện lực của Phật Di-đà độ sinh ít nhất là mười niệm công thành thì liền vãng sinh, nương nhờ Phật lực là nguyện nên tu pháp thiện liền dễ lập nên. Ví như hai người muốn vượt biển khơi đến núi báu để lấy ngọc, một người trồng cây, đợi lớn, làm thuyền mà đi. Nhưng không lo việc cây kia bị sương tuyết mưa bão, người vật phá hại, cuối cùng không thành gỗ được. Nếu có thành gỗ thì năm tháng rất dài lâu. Làm sao liền có thuyền được. Tự lực tu hành cũng giống như thế rất là khó. Còn người kia không tạo được thuyền đứng đợi trên bờ bỗng gặp người lái buôn ngồi trên thuyền lớn. Người này liền gọi theo mãi. Người chủ thương tình bèn dắt tay mời lên thuyền, kéo buồm hứng gió đi nhanh thoáng chốc đã đến núi báu, nương nguyện lực Phật được vãng sinh Tây phương cũng giống như thế. Người lái buôn là dụ cho Như Lai dắt dẫn chúng sinh. Chiếc thuyền lớn là đại nguyện của Phật độ khắp tất cả. Vượt biển là vượt biển khổ sinh tử. Núi báu là cõi nước Cực lạc Trong luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa ngài Long Thọ khen Phật rằng: Ngồi thuyền Bát Chánh đạo, vượt qua biển khó vượt, là ý này vậy. Lớn lao thay, Phật A-di-đà và hai vị Bồ-tát, ngồi thuyền nguyện lớn nổi trên biển sinh tử đến quê hương khổ não Ta-bà này kêu gọi dẫn dắt tất cả chúng sinh lên thuyền đại nguyện vượt biển sinh tử đến bờ Tây phương Niết-bàn.
Nên tin chớ thắc mắc.
Thọ Thiền sư An dưỡng Phú Chú Văn chép: nói Cõi Phật ở Tây phương, vua báu mười cõi, lưỡi dài khen ngợi, khác với sách của Đạo môn đều nói chim xanh, núi đá băng lở, đã không có người nói được, cũng không có chỗ nói được. Đủ biết là dối trá gạt gẫm chẳng đáng nương nhờ. Nếu được bay lên làm Tiên thì cũng không ra khỏi ba cõi luân hồi.
1. Giải thích không thể chỉ với chút ít thiện căn mà được sinh về cõi nước ấy.
Trong Di-đà Thông Tán sao ngài Từ Ân có nói: Kinh nói không thể chỉ với chút ít nhân duyên phước đức thiện căn mà được sinh về nước ấy. Là vì sợ chúng sinh nghe Phật nói khi sắp qua đời chỉ niệm mười câu Phật liền được vãng sinh, rồi cho rằng nay ta mạng trời chưa hết rồi buông lung chơi bời. Để ngăn việc này nên nói như thế. Nói mạng trời ta chưa hết là cái thấy của người ngu, bởi mạng số vô thường như đổi đuốc nào có được lâu. Như khi Phật còn tại thế, các Tỳ-kheo quán tưởng vô thường, Phật hỏi thì các Tỳ-kheo đáp như hơi thở ra không bảo đảm sẽ thở vào lại. Phật nói đó đúng là tướng vô thường.
2. Thiền sư Hải Tuệ chỉ bày tâm tịnh thì cõi tịnh.
Truyền Đăng Lục chép: Thiền sư Hải Tuệ một hôm có người học đến hỏi: Việc nguyện sinh Tịnh độ không biết là thật có Tịnh độ chăng? Thiền sư đáp: Muốn được Tịnh độ thì phải tịnh tâm mình, hễ tâm mình tịnh thì cõi Phật liền tịnh. Nếu tâm thanh tịnh thì chỗ nào cũng là Tịnh độ. Ví như sinh vào nhà hoàng tộc thì chắc chắn sẽ nối ngôi vua. Phát tâm hướng về Phật đạo thì sẽ sinh cõi tịnh của Phật. Nếu tâm kia không tịnh thì chỗ sinh nào cũng là cõi uế cả. Tịnh, uế là ở tâm chớ không phải ở cõi.
-Luật sư Đại Trí chỉ dạy sự lý không hai.
Sư có soạn bài tựa Tịnh độ Tập cho Pháp sư Từ Tuệ Văn ở Sơn âm, lược nói rằng: Xưa nay nhiều người học Phật mê lầm sự lý. Cho rằng lý thì mảy may cũng không lập, còn sự thì dẫy đầy muôn việc. Lắng tâm ở chỗ trống lặng là quán lý, động dụng tạo tu là hành sự. Bèn dẫn lời người xưa nói: Về mặt thật tế chẳng chấp mảy may, còn trong cửa Phật sự thì không bỏ một pháp. Đây chính là lý sự đối lập, không hữu cùng theo. Tôi từng đổi lời ấy rằng: Thật tế lý địa chẳng thiếu một trần, trong Phật sự môn không lập một pháp. Sao do thật tế lý đủ tất cả pháp mà thiếu một mảy ư? Còn do cửa Phật sự lìa tất cả tướng, há còn một pháp ư? Như thế thì mới thấy lý sự như một, không-có, chẳng hai vậy.
3. Cô gái ngồi mất, xương mọc hoa sen.
Trong Tạp Thuyết có nói: Ở Ôn châu, trong dân gian có một cô gái bỗng ngồi chết. Sau trong bình tro xương của cô mọc lên một hoa sen xanh. Người nhà rất lấy làm lạ: Lúc đó Thiền sư Trí Giác Thọ nghe việc ấy có làm kệ khen rằng:
Trong cửa tâm tánh
Ngàn Thánh đồng hàng
Thần về Tịnh độ
Sen mọc bình tro.
-Pháp sư Viên Biện nói về duy tâm Tịnh độ.
Pháp sư Viên Biện ở Diên Khánh có bài nói về duy tâm Tịnh độ được khắc in ở sáu lục trước. Nay trong Bảo Châu Tập lại có chỗ cốt yếu: Duy tâm Tịnh độ chỉ một mà thôi. Bởi do Di-đà biết cõi báu ở trong tâm ta. Tâm ta có đủ Lạc bang của A-diđà. Tuy xa mà gần, vì không lìa một niệm. Tuy gần mà xa vì cách mười muôn ức cõi. Ví như trăng sáng giữa trời xanh in bóng xuống các mặt nước. Nước chẳng lên mà trăng cũng không xuống. Nước, trăng cùng ở một nơi mà tự nhiên chiếu sáng nhau.
4. Pháp sư Giải Không khen tôn tượng Diđà.
Tại đạo tràng Bảo Vân ở Tứ Minh có vị tăng
Nghĩa Học Tư Giác nhờ thợ vẽ một bức tượng Phật A-di-đà tiếp dẫn hóa độ để mong tăng trưởng Tam-muội niệm Phật. Ông mang đến gặp ngài Diên
Khánh Trúc Am Khả Quán, ngài cúi đầu nói kệ khen rằng:
Vàng ròng chiếu sáng Ánh sáng lông trắng Duy tâm bổn tánh Cảnh giới chẳng cao Ba bậc chín phẩm Tám đức bốn sáng Một niệm thanh tịnh Liền thấy Tây phương.
-Phụ thêm Tịnh độ lễ văn Pháp bảo tán.
Tại núi Bạch Vân ở Thiên Thai có Pháp sư Tịnh Viên truyền Thiên Thai giáo quán, có làm Tây phương lễ văn, Luật sư Linh Chi Đại Trí soạn lời tựa mà truyền bá, ngài bảo với Tạo Thiên Thành rằng sánh ngang hàng với Sám Bản của Thiên Trúc, song trong đó chỉ nêu bốn Thánh mà thiếu chương khen pháp. Cư sĩ pháp Xuyên Lý Tập chí tu Tịnh nghiệp bèn bổ túc rằng:
Dốc lòng quy mạng lễ, cõi An lạc Tây phương, tất cả pháp môn mầu nhiệm, viên thừa thanh tịnh pháp tạng.
Phật giảng viên thừa nay mười kiếp Pháp môn vô tận như hư không
Gió reo lá báu hợp chân kinh Sóng lay khe vàng nói diệu điển Biến hóa lại nghe tiếng anh vũ Tuyên bày lại có giọng Tần-già
Bảy kinh chuyên khen nghĩa rộng sâu Pháp tánh như không, chẳng ngôn thuyết.
5. Thiền sư Hoài Ngọc ngồi đài vàng vãng sinh.
Đại Tống Cao Tăng Truyện chép: Ở Thai châu có Thiền sư Hoài Ngọc giữ nghiêm luật pháp, danh tiết cao tột. Chỉ mặc áo vải, ngày ăn một bữa ngồi hoài chẳng nằm. Mỗi ngày niệm Phật A-di-đà năm muôn câu, tụng kinh Di-đà đến ba mươi muôn quyển. Một hôm, bỗng thấy Thánh chúng Tây phương số đông như cát sông Hằng. Có một người bưng đài bạc từ cửa sở đi vào. Ngọc nói: Tôi muốn được đài vàng mà vãng sinh. Người ấy liền ẩn mất. Ngọc càng cố gắng tinh tấn hơn. Sau đó nghe có tiếng trên hư không bảo rằng: Sư trên đầu đã có ánh sáng, xin ngồi kiết già bắt ấn. Lúc đó, ánh sáng Phật đầy nhà. Sư bảo ta đi. Đệ tử hỏi thầy đi về đâu? Sư nói kệ rằng: Thanh tịnh sáng sạch không trần cấu.
Hóa sinh hoa sen là mẹ cha,
Ta tu đến nay đã mười kiếp
Chỉ thoát Diêm-phù chán các khổ
Một đời khổ hạnh vượt mười kiếp
Lìa hẳn Ta-bà về Tịnh độ.
Nói xong mỉm cười mà hóa.
Thái Thú Đoan Hoài Nhiên thấy lạ bèn làm kệ khen rằng:
Thầy ta một niệm lên Sơ địa
Cõi Phật sênh ca đến hai lần
Chỉ có cây hòe xưa trước cửa
Cành trĩu nặng vì mang đài vàng.
6. Pháp sư Hiến Chương thề lấy đài vàng vãng sinh.
Trong niên hiệu Chánh Hòa có sư Hiến Chương Trọng Mân, người ở Tam Cù, theo học với Quận Chi ở chùa Tường Phù. Thuở nhỏ mang cặp đến thất Pháp sư Vĩnh Gia Trung. Lâu sau băng lạnh làm nghẽn lối. Bèn đến Tiền Đường học đến tốt nghiệp với Nam Bình Văn Công. Chúng rất phục tài nghị luận của sư bèn gọi là Hổ tử. Sau, Sư trở về quê ở Đổng Phù Thạch Sơn, ngoài cửa đầy dấu giày (nhiều người đến học). Sư nói lớn, rằng: Dưới tòa ta nếu không đủ năm trăm chúng thì không giảng bốn bộ. Sau khi nói lời ấy thì một đời Sư chỉ giảng tiểu bộ mà thôi. Khi sư sắp mất bèn gấp trở về chùa Bổn nghiệp, nhóm họp đại chúng lên pháp đường, sư lên tòa sư tử vừa soạt chân ngồi bỗng thấy đài bạc ở Tây phương đến, bèn hét lên một tiếng bảo rằng: Bình sinh ta hiểu nghĩa bậc nhất thề lấy đài vàng vãng sinh vì sao chẳng được thế, rồi nhắm mắt mà hóa. Kẻ nghe thấy đều kinh sợ, cho rằng tòa sư tử chạm trổ bằng gỗ mà thành cao hơn một trượng, bên trên đặt tòa hoa sen, chùa ấy có nhiều các bậc cao đức đều lên ngồi. Khi sư lên ngồi tòa sư tử ấy rồi thì không ai lên ngồi tiếp. Nay chùa đổi tu Thiền nên tòa ấy bỏ ở một góc điện. Có Sư Chí Chiêu thuộc tông ta đến chùa gặp được một bậc kỳ túc mà biết chuyện này.
-Sinh tử vốn không, tùy nghiệp mà có.
Trong Nhàn Cư Biên ngài Cô Sơn có nói: Cây có rễ, nước có nguồn, sinh thật là cội nguồn của tử. Đã có sống lẽ nào không có chết. Nên Đại kinh nói: "Công đức hắc ám, chị em theo nhau, người trí làm chủ, cả hai không nhận" đây là chẳng nhận cái sinh nên không có cái tử. Nếu xét lý trời vắng lặng không hề có sinh diệt, chỉ do vọng tình khuấy động nên liền thấy có dấu vết tới lui. Ví như mắt sáng (thanh tịnh) nhìn trời sáng trong không dấu vết, còn mắt bệnh trừng mắt nhìn lâu thì đầy hoa lăng xăng. Hoa đã có sinh thì cũng có diệt. Kẻ ngu thì thích hoa nở lại ghét hoa tàn, mà chẳng biết hoa vốn tự không cho nên kinh Lăng Nghiêm chép: Tất cả chúng sinh đều chẳng biết thường trụ vào chân tâm thì tánh tịnh thể sáng. Còn theo các vọng tưởng thì tưởng này không chân nên bị trôi lăn.
7. Vua Đường Túc Tông hỏi đạo Nam Dương Quốc sư.
Trực Chỉ Tịnh độ Quyết Nghi Tập chép: Một hôm, vua Đường Túc Tông mời Nam Dương Trung quốc sư đến hỏi rằng: Bỏ ấm thân này thì sinh về đâu? Sư đáp: Một tánh chân mầu tròn đồng với Thái hư, vốn không sinh diệt. Nếu tùy vật mà ứng hiện thì cũng tùy chúng sinh khởi niệm tới lui mà thôi. Nếu vậy niệm hợp với chân tánh thái hư, sau khi bỏ thân này thì tùy ý vãng sinh cõi Phật mười phương. Như người xưa nói mỗi người đều tự gắng sức sẽ gặp nhau ở hội Long Hoa. Xưa, có ba vị Bồ-tát như Vô Trước… cùng tùy nguyện mà vãng sinh cung trời của ngài Từ Thị. Nếu người thấy tánh, bỏ uế thân này thì trở về trong hội của các Đức Phật.
Hỏi ý rất thân mà đáp cũng rất thông suốt. Lại câu tùy ý vãng sinh và trở về trong hội của các Đức Phật thì nếu không chuyên tu hạnh cõi Phật thì do đâu mà gá thức ở phương khác. Tôi thích bài tụng của Dương Vô Vi rằng:
Tịnh độ khắp sa giới Sao chỉ hướng về Tây Chỉ cần từ một vào Chỗ nào cũng Bồ-đề.
Đây là chỉ bày chung mà không ngại tu riêng. Người đời chẳng kính mến Tây phương mà nhất chí tu ư?
-Thượng Thư Ôn Tạo đời Đường hỏi đạo Thiền sư Khuê Phong
Truyền Đăng Lục ghi: Thượng thư Ôn Tạo hỏi ngài Khuê Phong Tông Mật rằng: người ngộ lý dứt vọng, chẳng kết nghiệp, khi hết báo thân này thì linh tánh sẽ nương về đâu?
Sư đáp: Tất cả chúng sinh đều có sẵn giác tánh linh minh không khác với Phật. Chỉ vì từ vô thỉ không hề liễu tánh mà vọng chấp ngã tướng. Cho nên sinh ra các phiền não ái ố, rồi theo phiền não mà tạo nghiệp nên bị ở mãi trong luân hồi. Song trong thân giác tánh không hề bị sinh tử. Nếu ngộ sáng tánh này tức là Pháp thân, vốn tự không sinh, đâu có nương gá. Chỉ do sinh nhiều tập tánh mừng giận, buồn vui, nhỏ nhiệm các thứ sinh ra, dứt khó trừ hết. Cần phải luôn xét biết đâu thể chỉ tu một đời mà lực dụng bằng các Đức Phật. Chỉ nên lấy vắng lặng làm thể chớ chấp sắc thân, lấy linh tri làm tâm chớ chấp vọng niệm. Nếu vọng niệm khởi đều chẳng nên theo, thì khi mệnh chung tự nhiên nghiệp không ràng buộc được. Tuy có trung ấm nhưng đi lại tự do, trên trời cõi người tùy ý nương gá. Nếu các niệm ái ố đã mất thì không còn chịu thân phần đoạn. Chỉ là đại trí viên giác sáng suốt tồn tại, gọi đó là Phật.
Nếu nói trên trời cõi người tùy ý nương gá thì chỗ tu chưa vượt ba cõi, đã chưa vượt ba cõi thì còn đọa trong luân hồi. Người xưa nói lửa đồng cháy khó tắt, gió xuân đến lại sinh. Nếu nói chẳng chịu thân phần đoạn, rốt ráo người này gá sinh vào đâu? Nếu nói đại trí sáng suốt tồn tại gọi đó là Phật. Thì cuối cùng bốn giáo của Phật này sẽ thành thân Phật nào. Cho nên biết nếu bất thiện. Thì Tông Thiên thai ta dùng kinh luận về năm trụ, hai tử, ba thân, bốn độ chưa thể nói đạo tu hành chứng quả. Xưa, ở Diệu Khê Luận tịch có phân giải rõ ràng nghĩa này, lược nói rằng Đại sĩ lục trụ còn sinh thân phần đoạn, chân nhân bốn quả còn cái chết biến dịch. Nếu hiểu rõ lời nói này thì siêu thoát bờ kia, tự sẽ có đường tắt, thật khó lầm lẫn mà tu thứ khác.
8. Thiền sư Chân Hiết dạy chúng.
Thiền sư Chân Hiết Liễu dạy chúng rằng: Ngộ được việc dưới áo giấy thì chỉ đi thế nào. Sáng được một việc ngoài sắc vẫn chưa từng hiểu ý tiên sư. Ngoài ra thì ẩn phong nghiêng ngã, quán khê bước về, không có nghiệp hỏi người theo sau. Đại Điện nói vô thinh Tam-muội. Hoặc nghe chuột rút mà liền thoát, hoặc vì ngu si mà trở lại, hoặc dựng đứng ngón tay mà ngưng, hoặc lật thuyền mà đến. Mỗi mỗi ngồi chết, đứng hóa, người người đều trình hiện thần thông, hiển bày thì thấy rõ chánh dung, hỗn độn thì mất hết dấu vết, dụng được thuần thục, chỉ bày tự do, đầy đường sinh ánh sáng mãi không nương đắm. Đây chính là tăng bình thường chuyển thân cũng chưa đáng lấy làm lạ. Nếu cái thấy chưa sáng thì khi qua đời sẽ như rùa sống lột mai, như khúc gỗ vuông nương tròn bị hình xác ngăn trệ, bị gió lửa bức bách. Bởi một đời niệm niệm tán loạn, tâm thức lăng xăng. Khi chết tạm muốn lắng lòng không lo nghĩ, nhắm mắt khép mi, ý chẳng bị huyễn vọng mài mòn thì há dễ được ư? Cần phải cứng rắn vùng vẫy, đứng trên vách cao ngàn nhẫn, một niệm làm sao triệt để dứt hết, hơi thở đều không, chẳng còn bên nào đi thẳng như đường chim bay, như ngồi trên hư không, không tưởng cũng không. Cái điểm linh minh xa vời siêu tột không hề biến đổi. Chỉ như ngày nay, lại còn có kẻ khi chết không mê muội sinh tử chăng? Hồi lâu nói rằng: Thân năm ấm nguyên vẹn còn không biết, trăm xương sau khi tan rồi thì biết tìm ở đâu?
-Văn Vương Triêu Tán khuyên tu Tây phương.
Bảo Châu Tập chép: Gia Hòa Vương Trung ở Tây hồ thuộc Tiền Đường, vào niên hiệu Chánh Hòa sống đời ẩn dật, được triều đình ban thưởng là xử sĩ. Ông có kết Liên xã, soạn văn khuyên dụ rằng: kẻ ngu có tham học với Thiền sư Tiểu Bản, sư đều nghiêm trang chống cự. Chỉ có trung ba lần cho tiến một bước. Song trong lúc tự tỉnh xét cũng chưa rõ ràng tại chùa Sùng Ninh Ở Tú Châu, buổi sáng bỗng nghe tăng chúng tụng kinh Di-đà tâm bỗng có chỗ cảm rằng: Ta ở Thiền môn dụng tâm cả năm, tự hận không có chỗ dừng chân. Nay nghe Phật A-di-đà ở Tây phương khiến ta tín nguyện cầu sinh, há chẳng phải là chỗ rốt ráo ư? Do đó phát tâm mà tu đã mười chín năm, không hề một ngày bỏ sót. Bởi ở tâm có được cảnh ngộ như chỗ liễu đạt ở thiền tông. Đã có điều này rồi lại nghĩ việc lợi tha. Xưa, có vị tăng tên Pháp Trì chuyên tu Tịnh nghiệp, khi sắp qua đời nghe có nhạc trời và mùi hương lạ rất lâu, sống lại bảo rằng: Tôi lúc bình thường tu Tịnh nghiệp mà chẳng có lợi tha nên rất ân hận. Tôi chết rồi xin để lộ thấy tôi ở dưới rừng tùng để thí cho chim thú và sâu kiến ăn máu thịt tôi đều sinh Tịnh độ. Nói xong thì nhắm mắt. Tăng trong chùa thấy có mấy bức phướn thần từ mặt trời đi về phương Tây. Phướn chiếu ra ánh sáng lạ mà đốt thất ông. Thế mới biết tự lợi phải lợi người. Nay Trung tôi ở đây kết Xã Bạch Liên mời đón người cùng tu. Ai muốn vào đều được, không hạn chế sang hèn, lớn nhỏ, dân thường, tăng ni, chỉ phát tâm nguyện về Tây thì xin mời vào xã. Tả triều tán Đại phu Xử Sĩ Vương Trung kính khuyên. Xử Sĩ lập chỗ tu này trải một năm, ra công hạnh nguyện. Sau quả nhiên không bệnh xoay mặt về hướng Tây mà hóa. Kinh giáo Tịnh độ thật không phụ người, chỉ sợ người đời chẳng chịu làm theo kinh giáo mà thôi.
9. Luận về duy tâm Tịnh độ có lý có tích.
Cư sĩ Long Thơ nói: Đời có người chuyên tham thiền bảo rằng duy tâm Tịnh độ há lại có Tịnh độ. Tự tánh Di-đà thì không cần phải thấy Di-đà. Lời nói này dường như phải mà không phải, ấy là vì sao? Vì Tịnh độ Tây phương có lý có tích. Luận về lý thì hễ tịnh tâm mình thì tất cả đều tịnh. Thật là duy tâm Tịnh độ vậy. Luận về tích thì thật có thế giới Cực lạc, Phật có nói rõ há là nói dối ư? Mọi người đều có khả năng thành Phật nên gọi là tự tánh Di-đà, chắc chắn không dối. Song cuối cùng chưa thể đến được. Ví như có gỗ tốt rồi có thể chạm trổ thành hình Phật, nhưng phải thêm công sức thì sau mới thành. Chẳng thể chỉ có gỗ tốt mà gọi là vật tượng đẹp đẽ. Nói duy tâm Tịnh độ mà không cần có Tịnh độ, nói tự tánh Di-đà mà chẳng cần thấy Đức Di-đà là sai. Lại hoặc tin có Tịnh độ nhưng câu nệ thuyết duy tâm, bèn nói Tây phương không đáng sinh. Bảo tham thiền ngộ tánh thì vượt Phật vượt tổ, A-di-đà chẳng đáng thấy đều là lầm lỗi. Bởi lời nói này rất cao, nhưng sự chẳng dễ dàng mà đến được. Cho nên tu Tây phương thấy Phật được Đạo thì dễ. Nếu ở tại thế giới này mà muốn tham thiền vượt Phật vượt tổ là rất khó. Huống gì tu Tịnh độ không ngại tham thiền, sao tham thiền lại tệ bạc với Tịnh độ?
10. Khuyên người tham thiền chẳng ngại tu Tây phương.
Cư sĩ Long Thơ nói: Tham thiền đại ngộ được thoát khỏi luân hồi sinh tử chắc chắn là cao quý. Nhưng người đạt đến trình độ này rất ít, nếu tu Tây phương thì cắt đứt luân hồi, muôn người không sót một. Cho nên nay khuyên người tham thiền mỗi ngày để chút khoảnh khắc rảnh rang mà tu Tây phương. Nếu được đại ngộ, thoát khỏi luân hồi nhưng cách Phật địa còn xa. Nếu vãng sinh thấy Phật A-di-đà mà lễ bái cung kính thì có gì chẳng được. Nếu chưa được đại triệt ngộ mà tuổi thọ bỗng hết thì đi tắt về Tây phương, thấy Phật nghe Pháp, thì lo gì chẳng đại ngộ. Nếu chẳng tu Tây phương thì sẽ theo nghiệp mà chịu quả báo khác.
- Tu Tây phương giống như hiện nhận chức quan.
Cư sĩ Long Thơ nói: Tham thiền để đại ngộ mà chẳng chịu tu Tây phương thì như người có một phẩm quan mà chẳng nhận, ắt là muốn tu học để đỗ đầu, chí ấy rất tốt. Song đỗ đầu chẳng thể dễ được không bằng như nhận một chức quan rồi một mặt cứ tu học, nếu được đỗ đầu thì áo gấm thêu hoa, còn nếu chẳng được thì chẳng mất chức quan. Người tu Tây phương gọi là người đang làm quan vậy; một mặt tu học tức gồm cả tham thiền. Không được đổ đầu là nói tham thiền chưa ngộ. Chẳng mất chức quan là nói thoát hẳn luân hồi, đã sinh Tây phương thì chẳng đại ngộ ư?
- Pháp sư Hoằng Giác là sư Đàm Đế.
Lương Cao Tăng Truyện có ghi: Vị Tăng tên Đàm Đế, người ở Ngô Hưng. Cha là Đồng, làm Biệt giá ở Ký châu, mẹ là Huỳnh Thị, ban ngày nằm mộng thấy có một vị Tăng gọi Huỳnh là mẹ lại gởi một phất trần và hai cái đe sách bằng sắt. Thức dậy thì thấy hai vật vẫn còn, nhân đó mang thai Đế. Đế năm tuổi thì mẹ trao cho hai vật. Đế bảo rằng: Thân đời trước con Tần Vương giảng kinh Pháp Hoa nên ông ấy đã tặng con. Đến mười tuổi thì Đế xuất gia theo cha đến gặp vị Tăng Đạo Khế ở Quang Trung. Bỗng gọi tên Khế. Khế bảo trẻ con sao dám gọi tên người lớn. Đế bảo: "Hòa thượng là Sa-di của Đế, vì hái thuốc cho chúng Tăng mà bị heo rừng cắn bị thương." Rồi bất giác nghẹn ngào. Khế tỉnh ngộ khóc rằng đây là Pháp sư Hoằng Giác thầy trước của tôi. Nhân đó hỏi ra ngày Hoằng Giác tịch cũng chính là ngày gởi hai vật ấy.
11. Thiền sư Thừa làm con của thứ sử Tiết.
Tục Cao Tăng Truyện chép: Vào thời Nguyên Ngụy, Thiền sư Thừa chuyên trì kinh Pháp Hoa. Khi chết thác sinh vào nhà họ Tiết ở Hà Đông. Sinh ra liền nói được việc đời trước, chẳng thích ở tục, lại mà nguyện làm Tăng. Cha làm quan thú ở Tứ Châu. Ông theo cha đến nhận chức quan, tiện đường đến chùa Thất Đế ở trong núi. Bỗng nhiên nhớ lại chỗ xưa. Nhân đó tìm đệ tử lúc ấy mà bảo rằng ông có nhớ khi theo ta lấy nước ở Lạng sơn chăng? Thiền sư Thừa lúc đó chính là ta vậy. Đệ Tử cho là phải. Cha mẹ sợ ông đi xuất gia bèn cưới vợ cho ông. Từ đó bèn quên việc đời trước.
-Thân đời trước của Tề Quân Tá là vị tăng giảng kinh.
Đại Tống Cao Tăng Truyện ghi: Người học trò tên là Tề Quân Tá ở Ngô Quận rất siêng học, làm thơ, thường nhàn du ở đất Ngô, Sở. Vào niên hiệu Nguyên Hòa ông đến Tiền Đường có ý đến xin ăn ở Thiên Trúc. Khi đến Cô Sơn thì bị đói không đi được nữa. Nhân đó khóc nức nở. Bỗng có vị Phạm tăng đi trước ngoái lại cười hỏi: Pháp sư tú tài dạo chơi mùi vị đã đủ chưa? Tá thưa: Mùi vị đã đủ rồi, Pháp sư gọi có việc chi? Vị Tăng nói ông chẳng nhớ việc giảng kinh Pháp Hoa ở chùa Đồng Đức ư? Tá thưa không nhớ. Vị Tăng bèn lấy trong đãy ra một trái táo đưa cho ăn thì Tá bỗng nhớ lại việc giảng kinh ở đời trước. Tăng nói lúc đó năm người chỉ có mình ta là được độ, còn ông là kẻ đói lạnh. Tá nói: hơn bốn mươi lăm ngày chỉ ăn một bữa, thân mặc một áo, phước đức chẳng có. Tăng nói do ông ở trên tòa Sư tử nói nhiều những việc dị đoan, khiến kẻ hậu học sinh nghi ngờ, giữ giới không bền chắc nên bị báo ứng như thế. Vị Tăng nói xong thì biến mất, Tá liền đến chùa Linh Ẩn xin xuất gia làm Tăng tên là Giám Không. Sau cũng lập hạnh cao khiết mà mất.
12. Thân sau của Thiền sư Vĩnh là Phòng Thái Úy.
Đường Minh Hoàng Tạp Lục chép: Phòng Quán, tự là Thứ Luật, vào niên hiệu Khai Nguyên, làm quan đứng đầu ấp Đồng Lô, cùng Hình chân nhân là Hòa Phác cùng dắt tay nhau nhàn du, đến làng Hạ Khẩu thì vào một ngôi chùa Phật bị hoang phế. Phác ngồi dưới gốc tòng lấy gậy gõ đất, sai người hầu đào sâu xuống mấy thước thì được một bình sành, trong đó đều là sách hình vẽ của Lâu Sư Đức và Thiền sư Vĩnh. Phác hỏi ông có nhớ cái này chăng? Quán bỗng nhớ lại đời trước là Thiền sư Vĩnh. Vị Tăng Trọng Thù làm thơ rằng:
Hèn thay Phòng Thứ Luật
Dần dà rơi vào tục.
Ấy là cười phòng mất chí.
-Thân sau của Trưởng lão Di Tốn là Lý Thị Lang.
Di Kiên Chí nói: Lý Thị Lang tên là Di Tốn, tự là Tự Chi, làm Thái thú ở Lâm xuyên. Một hôm, giỗ cha bèn đến Sơ sơn cúng cơm Tăng, cùng đường đầu là trưởng lão Hạnh Mãn ăn cơm mừng thọ hơn tám mươi tuổi. Bỗng nhìn chăm chăm Lý, hỏi rằng: Ông có phải là Tốn lão chăng? Lý bảo không phải. Mãn lại nói Tốn lão là sư huynh đồng môn của tôi, chữ trên, dưới đều giống như ông, từ khi ông trấn thủ đất này tôi đã nghi rồi. Nay xét thấy ông đi đứng nói cười đều giống y không khác, ắt ông là thân sau của ông ấy. Lý lên lạy vong Tốn thì thấy ngày chết là tháng giêng năm Mậu Thìn, niên hiệu Nguyên Hựu chính là ngày sinh của mình. Lý vốn hiệu Di Viễn, đêm nằm mộng thấy có người bảo đổi là Tốn, về sau đi thi sẽ đỗ, Lý tin bèn trở về nhà, làm bài thơ tên là Tiểu Vân Đường Phú, thấy ý nói:
Ông già vì sao một niệm sai
Mà chịu cạo tóc đổi ca-sa
Đồng tham còn có Mãn huynh đó
Khác đời vẫn khoe tên Tốn lão
Kiết tập chưa quên nên hay múa
Nhân duyên sao được thấy niêm hoa
Liền đem Tịnh nghiệp làm đường về
Đạm bạc sao bằng cư sĩ ta.
13. Vị ni tụng kinh Pháp Hoa bị đọa làm kỹ nữ.
Độn Trai Nhàn Lãm có ghi; Âu Dương Văn Trung Công coi sóc Dĩnh Châu, một hôm có quan nô là một cô gái rất đẹp lại rất ít nói cười, trong miệng thường có mùi hương hoa sen tỏa ra, mọi người ai nấy đều lấy làm lạ không biết vì sao. Bỗng có vị tăng đến từ đất Thục biết việc đời trước của người. Ông bèn hỏi việc ấy. Vị Tăng nói: "Cô gái này thân đời trước là ni cô tụng kinh Pháp Hoa suốt ba mươi năm, vì một niệm lầm lỗi nên bị đọa đến thế. Ông không tin bèn hỏi: Cô có từng đọc kinh Pháp Hoa chăng? Cô đáp: mất thân ở đây không rảnh rang. Ông bèn sai người đưa kinh cho thì chỉ đọc qua một lần liền thuộc làu, nhưng với kinh khác thì không thuộc. Việc vị Tăng nói thật đáng tin.
14. Thân sau của Thanh Thảo Đường là Tăng Lỗ Công.
Long Thơ Tịnh độ chép: Ở triều ta có hai vị Thanh Thảo Đường. Người trước tuổi hơn chín mươi. Có phụ nữ nhà họ Tăng thường trai tăng và bố thí y vật. Thảo Đường cảm ơn ấy bèn bảo rằng: Lão Tăng chết rồi sẽ làm con của phu nhân. Một hôm, người phụ nữ sinh con liền sai người đến xem thì Thảo Đường đã ngồi mà mất. Đứa trẻ ấy tức là Tăng Lỗ Công. Vì đời trước làm tăng tu phước tuệ nên tuổi trẻ đã đậu cao, sau làm tể tướng. Đây cũng là lầm lỗi, vì không ra khỏi sinh tử mà còn ở trong thế giới luân hồi, vì khư khư ân huệ mà làm con người, chẳng thoát được tham ái rất là sai lầm.
- Thân sau của Thiền sư Triết là người rất giàu sang.
Long Thơ Tịnh độ chép: Có Thiền sư Chân Như Triết, danh hạnh rất cao quý, trụ một ngôi chùa lớn ở kinh đô suốt bốn mươi năm, ngồi thiền không ngủ. Sau khi quy tịch thì cũng sinh xá-lợi nhưng còn mến thích ba mươi ngàn báu. Nếu Thiền sư tu Tây phương thì sẽ là Bồ-tát không lui sụt. Nhưng Thiền sư không tu nên chết rồi thì sinh vào gia đình rất giàu sang một đời sầu khổ, rất đáng thương. Ngài Vĩnh Gia nói: Hiểu rồi nghiệp chướng xưa nay không, chưa hiểu thì phải trả nợ xưa, chẳng hiểu việc lớn sinh tử thì sinh vào nhà rất giàu sang, thỏa mãn được nguyện lúc còn sống, nhưng tâm bị nhiều sầu khổ là phải trả cái nợ ở trăm đời ngàn kiếp.
- Thân sau của Trưởng lão Tuệ Cổ sinh vào nhà tể tướng.
Long Thơ Tịnh độ chép: Có trưởng lão Tuệ Cổ nói rằng trước mình ở Thái bình thuộc Thơ châu, sau dời về một ngôi chùa lớn ở Triết Đông, đạo đức danh tiếng đạo tục đều theo về. Sau khi chết liền thác sinh vào nhà Tể Tướng. Vì đời trước tu nhiều phước tuệ nên đời này đỗ cao, rất vinh dự trên đời. Nếu như Cổ Lão tu Tây phương thì thoát khỏi luân hồi, đâu phải đọa lạc như ngày nay. Kinh Lăng-già nói: Ở đời người tu hành như lắng đục. Nước lắng tuy trong nhưng chưa bỏ cặn đục thì khuấy lên sẽ đục, là nói Cổ Lão vậy. Nếu người sinh Tây phương thấy Phật được đạo lại trở về cõi này thì như đã bỏ cặn đục, khuấy lên không còn đục nữa.
15. Tề Quân Phòng gặp Phạm tăng biết được thân đời trước.
Toản Dị Ký chép: Tề Quân Phòng, người ở Quận Ngô. Từ nhỏ cố sức học nhưng ít tài nên bị nghèo khổ, đến yết kiến công hầu cũng chẳng đoái hoài. Vào niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường ông đến Tiền Đường có ý muốn xin ăn ở Thiên Trúc. Khi đến Cô Sơn thì đói quá không đi được nữa, bèn khóc lóc nức nở. Bỗng thấy một vị Phạm tăng gọi bảo Pháp sư Tú Tài: Đi xa mùi vị đã đủ chưa? Tề đáp: Mùi vị đi xa đã đủ rồi. Pháp sư gọi tôi có việc chi? Vị Tăng đáp: Ông chẳng nhớ việc giảng kinh Pháp Hoa tại chùa Đồng đức ở Lạc Trung ư? Tề nói: Tôi bình thường đến Ngô, Sở chưa từng đến Kinh Giang, sao lại nói Lạc Trung? Tăng nói: "Vì bị lửa đói áp bức nên chẳng nhớ đời trước." Vị Tăng bèn lấy trong túi ra một trái táo, bảo: "Đây là sản vật của nước tôi ăn đi thì biết việc quá khứ vị lai." Tề ăn xong vốc nước suối mà uống, gối đá mà ngủ. Bỗng nhớ thân đời trước như việc mới hôm qua. Nhân lễ vị Tăng hỏi Hòa thượng Chấn có an vui chăng? Thì đáp: Chuyên tịnh chưa đến nên lại làm vị tăng nước Thục, nay chắc đã dứt hết các duyên. Thần thượng nhân ở đâu, thì đáp nguyện trước chưa xong, nghe đã làm Pháp sư. Còn Pháp sư Ngộ ở đâu? Thì đáp: Há chẳng nhớ tại chùa Hương sơn ở trước tượng đá mà phát lời nguyện lớn nếu chẳng chứng Bồ-đề thì nguyện làm bậc sang quý trong triều, mới nghe đã làm Võ Tướng. Lúc đó năm vị Tăng chỉ có mình ta là được giải thoát, còn ông là kẻ đói lạnh. Tề nói: Tôi hơn bốn mươi năm nay chỉ ăn một bữa, thân mặc chiếc áo vải thô vì tôi chẳng tu phước đầy đủ, nên mới thế. Vị Tăng nói: Vì xưa kia ông ở trên tòa Sư tử nói nhiều việc dị đoan khiến cho người học sinh nghi ngờ mà giới hạnh có thiếu sót, không chịu tu thiền, hình vẹo thì ảnh cong nên báo ứng như thế. Tề nói giờ biết làm sao? Tăng bảo việc ngày nay thôi không tính nữa, việc đời khác ông nên cảnh giác. Rồi lấy ra một cái gương hai mặt đều trong suốt bảo ông muốn biết các việc quý tiện hay dở, Phật pháp hưng suy thì xem gương này. Tề cầm gương coi xong rồi bảo các việc đã xem xét xong. Vị Tăng lấy gương lại rồi bỏ đi mất. Tề đến chùa Linh Ẩn cạo tóc làm Tăng, đổi tên là Kính Không. Năm đầu niên hiệu Đại Hòa, Lý Mai tu nghiệp ở Thiên trúc thuộc Long môn. Kính Không chẳng ngại đem việc trên nói lại với Lý Mai bảo rằng tôi năm mươi bảy tuổi, còn chín năm ở đời, sau khi chết rồi thì Phật Pháp suy đồi. Mai nghe xong chẳng đáp. Bèn lấy bút viết ở Tường Bắc của kho chứa kinh rằng: Không phải lấy đi một hạt cát mà cát sông Hằng bị suy kém, dùng bẫy thỏ mà bẫy chó, trâu hổ giao đấu mất sừng nanh, bảo đàn không bao giờ mất hoa. Lời sấm này nghiệm với việc Đường Võ Đế phá bỏ đạo Phật về sau rất đúng.
Cố Huống mất con buồn thương liền sống lại.
Bắc Mộng Tỏa chép: Cố Huống tự là Thối Ông, có một con trai tên là Phi Hùng, về già bỗng người con bị bệnh nặng mà chết. Huống quá buồn thương không ngăn được than rằng:
Lão già mất con yêu
Sáng tối ngàn hàng lệ
Lão già tuổi bảy mươi
Không bao lâu sẽ mất.
Phi Hùng ở âm phủ nghe than bèn bảo minh quan. Minh quan thương xót liền cho sống lại. Sống lại ba năm mới nói được, rằng ở âm phủ nghe cha than khổ. Sau ra thi đậu ngôi cao, là người có tiếng tăm lừng lẫy.
16. Thân đời trước của Vi Cao là Gia Cát Võ Hầu.
Đường Minh Hoàng Tạp Lục chép: Ở Thành đô, Duẫn Vi Cao mới sinh được một tháng thì có vị Phạm tăng đến gặp bảo rằng: Biệt ly nhau đã lâu nay có bình an chăng? Đứa bé như có vẻ mừng rỡ. Mọi người hỏi nguyên do, vị Tăng nói: Đứa bé này là thân sau của Gia Cát Võ Hầu. Ta ngày xưa cùng ông ấy giao du nay lại gặp nhau.
Phạm tăng nguyện làm con của Vương Thị Trung.
Minh Tường Ký chép Đời Nam Tống, Thị Trung Vương Mân Thời cùng một vị Phạm tăng là bạn phương xa. Tăng thấy phong thái của Mân bất thường bèn bảo các bạn đồng tu rằng: Đời sau ta được làm con của người này cũng đủ nguyện rồi. Mân ngầm nghe. Một hôm, ông ấy nói đùa rằng Pháp sư tài cao hạnh tốt, ngày nào đó sẽ làm con của ai? Vị Tăng im lặng không đáp. Hôm sau bỗng bị bệnh mà mất. Hơn năm, vợ Mân sinh một đứa con trai, mới biết nói đã hiểu tiếng nước ngoài, còn như các vật lạ trong nước đều biết. Mân nhớ việc thân đời trước, bèn đặt tiểu tự là A-luyện. Sau trở nên người có danh tiếng.
17. Vị Tăng tên Huyền Cao thác sinh vào nhà họ Triệu.
Pháp Uyển Châu Lâm chép: Vào những năm cuối niên hiệu Trinh Quán đời Đường, ở chùa Trí Lực, huyện Phủ dương, thuộc Tương châu, có vị Tăng tên Huyền Cao, họ Mã. Ngày qua đời bảo mẹ rằng con với nhà họ Triệu có túc duyên, con sẽ đến đó làm con. Mẹ không tin bèn lấy mực điểm vào cánh tay trái, khi chết rồi thì vợ Triệu bỗng mộng thấy vị tăng này đến bảo tôi có nhân duyên với bà. Nhân đó cấn thai, khi sinh ra quả thật cánh tay trái có điểm mực. Đến ba tuổi không có ai dắt mà tự đến nhà họ Mã bảo: Đây là nhà cũ của tôi.
-Thân đời trước của Vương Ngạc là cậu bé chùa Bá Đường.
Thái Bình Quảng Ký chép: Đời Đường, Thượng thư Vương Ngạc là em của Tấn. Tây kinh xảy ra loạn lạc, Tấn dắt gia đình chạy vào đất Thục theo sông Gia Lăng đến trước chùa Bá Đường ở
Lợi Châu, Ngạc lúc đó bảy tuổi bảo rằng tôi có một quyển kinh để trong khám đá ở chùa này. Cha mẹ lấy làm lạ, do đó nhờ người theo hỏi tìm quả nhiên có thật, ngay cả cây cau thường dùng vẫn còn. Các vị Tăng trong chùa bảo đây là cậu bé của tôi. Hỏi năm chết thì đúng là ngày tháng năm sinh của Ngạc. Năm sinh Ngạc, cha mẹ đời trước vẫn còn sống, sau làm quan đến Lệnh lục?
18. Tướng quốc Bùi Hưu là con vua nước Vu-điền.
Bắc Mộng Tỏa chép: Thừa tướng Bùi Hưu ở đời Đường lưu tâm nhiều về Phật pháp, tinh thông Thiền giáo, phàm các tác phẩm của Khuê Phong Tông Mật thì Bùi đều viết lời tựa. Ông thường mặc áo nạp vào nhà chứa cầm bát khất thực. Tự nói không bị tục tình vấy nhiễm, có thể nói Pháp độ người. Thường phát nguyện đời đời làm quốc vương che chở giúp đỡ Phật pháp... Sau, vua nước Vu-điền sinh một thái tử, vân tay có hai chữ Bùi Hưu, tiếng đồn vang đến triều đình, con của Bùi nghe tin liền viết thư muốn mời về, nhưng không chịu, bèn thôi.
-Nạp tăng nguyện làm con của họ Thôi.
Ngọc Đường Nhàn Thoại chép: Xưa, có một vị tăng thường giao du với gia đình Thôi Thận. Thôi đem việc không con ra nói. Tăng bảo xin phu nhân đến các chùa viện lớn ở Trường An xin các lão tăng nếu không được đoái hoài thì đi chỗ khác, nếu được chú ý nhìn thì phải kết duyên thật dày khiến cho động tâm thì thân đời sau sẽ mặc tình làm con của ông. Thôi cùng vợ tin lời đến hai, ba chỗ đều không ngó ngàng. Sau đến một ngôi chùa thấy một vị Tăng-già, tuổi gần sáu mươi tiếp đãi ân cần. Thôi bèn cúng thí trọng hậu. Từ đó cung cấp không ngớt. Lão Tăng cảm ân tự xét không có gì báo đáp bèn phát nguyện đời sau làm con. Không mấy năm thì nghe vị Tăng mất, vợ thôi sinh ra một đứa con trai trên tay có hai chữ Nạp tăng, nhân đó đặt tiểu tự là Nạp Tăng, cũng gọi là Truy Lang.
19. Kỳ Vương được vị Tăng chùa Ái kính làm con.
Quảng Dị Chí chép: Vào niên hiệu Khai Nguyên đời Đường, Kỳ Vương Phạm vì không có con trai nên cầu Đạo sĩ Khí Tịnh Năng tâu lên, Thiên Tào đáp rằng: Phần của Phạm không có con. Tịnh Năng lại soạn điệp gởi Thiên Tào. Thiên Tào không từ chối được bèn khiến hai sứ giả bắt vị Tăng ở chùa Ái kính làm con. Hai sứ giả đến lộn chùa Thánh Thiện bắt một vị đại đức. Vị này nói tôi bình thường tu nghiệp Đâu-suất sẽ không làm con của loài người, hai sứ giả bèn bỏ đi. Khi đến chùa Ái Kính thì ngày đó có vị Tăng vừa mất. Năm sau, Kỳ Vương sinh được một con trai. Lúc sáu, bảy tuổi thường xin đến chùa Ái kính dạo chơi. Vương đi theo thấy mỗi khi thấy tăng thì cậu bé như thấy người cũ, bất luận lớn nhỏ, lại thích bắn tên. Đây cũng là theo vật thì ý dời.
-Đỗ Hồng Tiệm phát nguyện làm Tăng.
Tương Sơn Dã Lục chép: Tể tướng nhà Đường là Đỗ Hồng Tiệm ban đầu chấn giữ đất Ba Thục, bèn đến Ích Châu thưa hỏi Thiền sư Vô Trụ ở núi Bạch vân được đại ý Phật pháp, từ đó nương tâm thiền duyệt. Có bài thơ rằng:
Mãi nguyện nương thiền lý
Đâu thể tiếp nguồn hóa.
Tuổi già được làm tướng
Vì bệnh mà từ chối.
Lúc qua đời nhìn các con bảo rằng: Hãy tắm rửa rồi cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa cho ta, lại hỏa thiêu thân này là hợp nguyện ta, không nên trái.
20. Thạch Diên Niên đọa làm quỷ Tiên.
Tương Sơn Dã Lục chép: Tể tướng Thạch Diên Niên tự là Mạn Khanh, tánh nóng nảy, thích ngâm thơ, uống rượu. Vào niên hiệu Minh Đạo ông bị bệnh mà mất. Lúc còn sống làm bạn với Trương Sinh. Mới mến nhau được mấy ngày thì Trương nằm mộng thấy Mạn Khanh cỡi một con ngựa xanh đến nhà bảo rằng ta đã làm quỷ Tiên đến đây mời ông cùng đi. Trương lấy cớ mẹ già cố từ chối. Mạn Khanh giận bỏ đi, bèn bảo rằng: Sẽ gọi Bổ Chi cùng đi. Không đầy một ngày thì Bổ Chi liền chết. Bổ Chi tức là Phạm Phúng Tự. Việc này thấy khắc trên đá ở Nghi Hưng.
-Đạo sĩ Duẫn làm con của Lý Tông Cố.
Giá bộ viên ngoại lang Lý Tông Cố làm quan thú ở Hán Châu. Lúc đó, có Đạo sĩ Duẫn Khả Nguyên vẽ rất giỏi, vì để lửa cháy nên bị tội chết. Lý hoãn giam ngục, gặp đại xá nên được thả. Khả Nguyên lúc đó tám mươi mốt tuổi tự nguyện đời sau sẽ làm con của Lý Công để báo ân đức. Khi Khả Nguyên chết, trải qua hơn mười hai năm, thì con dâu họ Lý nằm mộng thấy Khả Nguyên vào phòng, quả nhiên sau sinh ra đứa bé đặt tên là Thục Tôn. Nhỏ mà vẽ rất khéo, lại thích đọc Lão Trang, vẫn lại làm Đạo sĩ tên là Diệu Ứng, thờ mẹ rất hiếu. Sự tả chân của ông rất hay. Có lúc Tô Đông Pha đã viết một bài rất dài về việc này, lược nói rằng:
Ngàn năm Tỵ tổ giữ quan môn
Một niệm trở thành cháu họ Lý
Hương lửa duyên xưa ngày nào hết
Tập vẽ đan thanh nay vẫn còn.
-Thái Nguyên Độ biết thân đời trước
Chu Hoặc Khả Đàm chép: Ông Thái Nguyên Độ biết được thân đời trước làm con của Dương Vương Gia ở Đơn Dương thuộc Nhuận Châu, tìm hỏi thì quả nhiên vợ con còn sống. Đến hỏi thăm kể rõ chuyện xưa thì đúng y. Tám, chín năm sau dần dần quen cảnh mới, quên việc cũ.
21. Con gái của Lý Thị biết đời trước mình là người nam.
Khả Đàm chép: Ung Binh Lý Tam Lễ có con gái tên là Tiểu Sư. Mới mấy tuổi bèn bảo thân đời trước tôi là con trai của Huỳnh Pha Điển. Lại Lôi Trạch tên là Đình Phủ, mới mười bảy tuổi do bệnh ghẻ ở chân mà chết. Lúc đó, Ủng Binh làm nghề buôn bán trâu thường ở tại Huỳnh pha tìm hỏi ra thì việc rất phù hợp. Ngày nọ, Lôi Trạch đến thăm Tiểu Sư, mới thấy liền gọi cha. Niên hiệu Chánh Hòa thứ tám, Tiểu Sư đến Huỳnh Pha ôm mẹ cũ mà khóc mãi không thôi. Lại thường kể chuyện xưa cho người trong ấp nghe đều đúng cả.
22. Thân đời trước của Nhạc Dương Vương là Hứa Huyền Độ.
Truyền Đăng Chú Văn nói ở Việt châu có Samôn Đàm Ngạn cùng Đàn-việt Hứa Tuân, tự là Huyền Độ cùng xây hai ngôi tháp. Ngạn có thần dị, trời giáng tướng luân, tháp chưa xây xong thi Huyện Độ chết. Ngạn sống hơn một trăm hai mươi tuổi, đợi Huyền Độ sinh lại. Lúc đó Nhạc Dương Vương đến trấn giữ Việt Châu. Ngạn dự báo Hứa Huyền Độ sẽ đến. Đệ tử gọi Lão sư bảo rằng Nhạc Dương Vương từng được Chí Công ngầm bày, vừa đến liền vào chùa tìm hỏi Ngạn. Ngạn ở xa thấy liền gọi Hứa Huyền Độ đến, thì Nhạc Dương Vương nói: đệ tử là Tiêu Đăng sao ông gọi thế? Ngạn nói: Không biết Túc mạng (mạng đời trước) ư? Biết thế, Ngạn liền dùng năng lực Tam-muội gia bị cho Vương, thì Vương chợt nhớ thân đời trước đã cùng Ngạn xây hai ngôi tháp. Do đó việc xây tháp lại được xây dựng.
-Thiền sư Hải Ấn thác sinh vào nhà Chu Phòng Ngự.
Vũ Khố chép: Hòa thượng Hải Ấn Tín nối nghiệp Lang Da, người ở Quế phủ, trụ chùa Định tuệ, ở Tô châu, tuổi hơn tám mươi. Hằng ngày, sư nhận sự cúng dường của nhà Chu Phòng Ngự, nhiều phen đến nhà. Một hôm, Chu hỏi: Hòa thượng đời sau thác sinh vào nhà tôi được chăng? Sư mĩm cười nhận lời. Trở về chùa cách mấy hôm thì mất. Ngày Sư hóa thì vợ Chu sinh một đứa con gái, bà hết sức buồn rầu. Lúc đó, Thiền sư Viên Chiếu Bổn ở Đoan Quang nghe việc bèn tìm đến hỏi thăm. Khi vừa ẵm ra mới thấy liền cười. Viên Chiếu gọi lớn: Hải Ấn, ông lầm rồi! Bé gái khóc lên mấy tiếng rồi chết.
23. Thiền sư Tuyên viết thư cho Quách Tường Chánh xin làm con.
Vũ Khố chép: Thiền sư Quy Tông Tuyên, người ở Hán châu, nối pháp ngài Lang Da Quảng Chiếu, giao du rất thân với Quách Công Phủ. Bỗng một hôm, quan thú ở Nam Khang có việc đến, Tuyên sai người đưa thư cho Quách Công Phủ, lại đưa chúc thư dặn rằng chớ để cho Huyện quân thấy... Lúc đó, Công Phủ trấn nhậm Nam Xương. Thư nói: Tôi còn sáu năm, duyên đời chưa dứt, ngày nay không chịu được bức ép muốn thác sinh vào nhà ông, xin ông xét cho, nói xong rồi hóa. Công Phủ được thư vừa mừng vừa sợ. Đến nửa đêm thì vợ nằm mộng mơ màng thấy Tuyên vào phòng, liền la lên rằng đây không phải chỗ Hòa thượng đến, Công Phủ liền hỏi cớ sự, vợ liền kể việc thấy trong mộng. Công phủ gọi đốt đèn lên rồi đưa thư Tuyên nói. Quả nhiên bà có thai. Khi sinh ra bèn đặt tên là Tuyên Lão. Vừa đủ một tuổi liền nhớ hỏi thì đúng như xưa. Ba năm sau, Hòa thượng Bạch Vân Đoan đến nhà, Công Phủ gọi cậu bé ra gặp, vừa thấy liền gọi sư điệt. Đoan hỏi: Giã biệt Hòa thượng đã mấy năm? Cậu bé (Tuyên) đưa bốn ngón tay ý nói bốn năm. Đoan hỏi: Biệt nhau ở đâu? Tuyên nói ở làng Bạch Liên. Đoan hỏi: Lấy gì làm bằng? Tuyên nói: Cha mẹ, sáng mai thỉnh Hòa thượng đến thọ trai. Bỗng ngoài cửa có xe đẩy qua. Đoan hỏi: Ngoài cửa có tiếng gì thế? Tuyên giả tướng đẩy xe. Đoan hỏi: Sau này thế nào? Tuyên nói: Hai cái hào trên đất bằng. Tuyên sáu tuổi không bệnh mà mất.
24. Thân đời trước của Trần Khang Bá là am chủ Dương Mao Bút.
Xưa, ở đất Mân có Trương Thánh Giả, lúc nhỏ từng chăn trâu ở trong rừng tre chợt thấy hai Đạo sĩ đánh cờ, Trương đến xem thì tàn cuộc. Đạo nhân thương Trương đói khát đã lâu bèn hái đưa cho một mụt măng đắng. Trương ăn vào, lúc đầu thấy ngọt, sau đắng, bèn vất bỏ và trở về nhà thì đã có con cháu bốn đời. Từ đó Trương không ăn các vật nướng đốt mà hay làm bài tụng những việc sinh tử, họa phúc... của con người. Do đó mọi người gọi là Trương Thánh giả. Sau ông làm Tăng du phương đến quận Hưng hóa. Lúc đó Trần Khang Bá chưa thi đậu đến xin bài tụng thì chỉ viết ba chữ Dương Mao Bút. Khang Bá không hiểu ý gì. Kế trung thu chọn tướng qua tỉnh, lại đến xin bài tụng thì vẫn viết ba chữ ấy. Từ đó hễ làm việc gì đều thành danh. Lúc đầu, làm quan úy ở một huyện, sau đến Chương Phủ ở Chương Châu. Để nghiệm việc, Bá dẫn theo các quan nhỏ ngày hôm sau, vào lúc ăn cơm buổi sáng đến am Dương Mao Bút, Khang Bá hỏi am chủ Dương Mao Bút ở đâu, viên quan nói: Xưa, có một đạo nhân ở đây rất cao hạnh, giỏi làm bút lông dê (dương mao) mỗi ngày chỉ bán hai mươi cây, được sáu trăm tiền để nuôi đạo chúng, về sau ngồi mà chết, mọi người kính trọng bèn lấy sơn mà sơn thi thể đến nay vẫn còn, do đây mà được gọi là Dương Mao Bút am. Khang Bá đến lạy và hỏi ngày chết của đạo nhân thì đúng là ngày sinh của Khang Bá, nhân đó mới biết thân đời trước của mình là am chủ Dương Mao Bút. Việc Trương Thánh Giả viết ba chữ không sai. Khang Bá bèn khắc đá ghi việc ấy. Rồi cấp ruộng vườn cho am để tiếp đón các khách đến ở, đến nay vẫn còn. Vào niên hiệu Thuần Hy, Khang Bá làm quan đến chức Tả thừa tướng.
25. Vương Chánh Ngôn hỏi Tân Lão việc đoạt thai mà sinh.
Vũ Khố chép: Vương Chánh Ngôn làm Tào ở Giang tây đến gặp trưởng lão Vân Nghiêm Tân hỏi rằng: Hai duyên hòa hợp mà thành thân người, lại nghe tức sinh tức tử vì sao lại có việc đoạt thai. Tân nói: Việc này như Chánh Ngôn làm Tào, hễ đến chỗ nào thì ở vào ngôi vị ấy. Chánh Ngôn ngay nơi lời nói liền hiểu.
-Ngụy Thừa Tướng phát nguyện làm vị Tăng thanh tịnh.
Hiếu Miếu Triều Đại thừa tướng Đoan Minh Ngụy Văn Tiết Công khởi về già rước tổ tiên về ở Tiểu Khê thuộc Tứ Minh. Ông là vị quan một đời lập nhiều kỳ công, ngôn hạnh cao tiết. Khi ở trong Triều hay ngoài dân dã, bình thường dốc tin Phật pháp. Thường phát nguyện đời sau làm một vị tăng thanh tịnh. Một hôm, sai thợ vẽ hình ông làm Tăng mà treo lên, ở nhà trên thường ngồi quán tưởng hình tượng này. Lúc đó, Thiền sư Dục Vương Phật Chiếu Quang đến thăm, nhân đó, khen rằng: Thân từ quả vị đến, địa vị hơn cả trăm quan, chỉ do chỗ cũ khó quên, cho nên hiện tướng Tỳ-kheo, ngàn năm hiếm lạ nêu gương xưa nay. Vụng về đặc biệt chứng minh cho để lại cho nhân gian cúng dường. Khi ông mất dặn con cháu rằng ta mất rồi phải cạo tóc mặc áo Ca-sa cho ta theo tướng tăng mà liệm. Các con vâng lời bèn ba y và một bát để trong quan tài.
26. Mân Sư làm con gái của Đổng Ty Hộ.
Di Kiên Chí chép: Vị tăng tên Thiện Mân người ở Trường Sa, trụ trì viện Quán Âm ở Hồng châu, rồi lui về Tây đường ở Quang hiếu. Mùa thu niên hiệu Thiệu Hưng thứ hai mươi ba sư bị bệnh. Bá Dương Đổng Thuật làm Ty Hộ mới nhận chức Kiến úy ở bên cạnh chùa, thương sư bệnh bèn cơm cháo thuốc men cúng dường. Mân ăn dùng ba lần cảm tạ. Quang Hiếu Chủ Tăng là Tổ Tuyền bảo rằng: Ông là người phương ngoài mà nhận người tục cúng dường sẽ quyến luyến có ý muốn báo đền. Tôi xem ra ngày nọ ông sẽ làm con của họ Đổng.
Mân tuy cảm lời nói ấy nhưng cuối cùng không tránh khỏi. Lúc đó, vợ Đổng là Chú Thị mới có thai, Mân bệnh càng nặng vào giờ Tỵ ngày mùng một tháng mười thì mất. Trong chùa đánh chuông niệm Phật. Có người ngoài vào bảo bà vợ của Ty Hộ đã sinh được một cháu gái đúng vào giờ mất của Mân. Mọi người rất tin.
-Ghi chung về thân đời trước và quả báo đời sau của các vị...
Lý Xương Linh có soạn Lạc Thiện Tập rất chuẩn mực. Trong đó có nói Phương Triều thỉnh trong năm đầu niên hiệu Chánh Hòa làm quan Huyện Hấp. Một hôm, ông bệnh nặng, thấy một Đạo sĩ nói: Ông là người thời Võ Hậu. Lúc đó, ở Hà Bắc có nạn dịch bệnh lớn, người chết như rừng, ông đem phương thuốc bí truyền mà đem treo ở ngã tư đường, người uống vào đều khỏi bệnh. Thượng đế mừng ông có công cứu người, nên cho ông làm Thượng Thanh Tiên Bá, sau ông cùng thị nữ của Tống Đạo Hoa khởi niệm vợ chồng ở nhân gian nên bị đày xuống trần. Triều Hướng Thái Truyền đời trước là Tịnh Cư Thiên Chủ, Vương Đãi Chế trước vốn là Ngọc Kinh Huỳnh Khuyết. Tây môn thị Lang Dương Văn Công nhớ thân đời trước là Võ Di Quân. Trần Khang Túc Công Nghiêu Tư đời trước là am chủ là Nam Am. Trương Văn Công Phương Bình thân đời trước là vị tăng tri tạng ở viện Sơn Tạng, Tăng tướng quốc đời trước là Hòa thượng Thanh Thảo Đường. Tô Văn Trung Công Thức tự nói mẹ mình khi mới có thai mộng thấy một vị Tăng đến ngủ nhờ, nhớ rõ là mù một mắt, đó là Thiền sư Thiểm Hữu Giới. Khấu Lai Công Chuẩn tự nói: Lúc mới sinh có hai trái tai dài đến vai, đều có hai vòng thịt, bảy tuổi mới liền lại. Vương Văn Chánh Công lại tự nhớ thân đời trước mình là vị tăng cùng tương tự như chuyện của Phòng Quán. Văn Chánh làm tể tướng Thái Bình trong hai mươi năm, khi chết mới nói nguyện đời đời làm chân tăng thanh tịnh. Tự vui mùi Đạo, không dám vào nhà giàu sang. Lại dặn dò con cháu hãy cạo tóc, mặc áo ca-sa cho mình khi liệm.
27. Thân đời trước của Trương Văn Định Công là vị tăng viết kinh Lăng-già.
Bài tựa kinh Lăng-già nói: Tưởng Chi Kỳ qua Nam Đô yết kiến Trương Công, nghe Trương công nói nhân duyên kinh Lăng-già. Đầu tiên Trương Công từ chức Tam Ty Sứ Hàn Lâm Học Sĩ ra trấn thủ ở đất Trừ. Một hôm, vào Tăng xá Lang Da thấy một hộp kinh lấy ra xem thì là kinh Lăng-già. Bỗng nhiên nhớ biết đây rõ ràng là nét chữ đời trước của mình, nét bút rất rõ ràng thần kỳ sáng lạ.
Nghe con của Dương Thúc mới năm tuổi bảo nhũ mẫu (người vú nuôi) lấy đồ chơi bằng vòng vàng. Vú nói: Đồ chơi của con không có vật ấy.
Hựu bèn tự đến nhà hàng xóm họ Lý bên, từ trong bọng cây dâu ở vách tường phía Đông mà lấy về. Chủ nhà kinh sợ bảo rằng đây là vật mất của con ta đã chết, sao lại lấy đi. Nhũ mẫu kể chuyện mới biết thân đời trước của Hựu là con họ Lý.
Bạch Lạc Thiên hồi mới sinh bảy ngày mẹ chỉ hai chữ "Chi vô" dẫu thử hằng trăm lần vẫn không biết. Năm chín tuổi tự ngầm biết luật làm thi, với tài văn chương này, Lạc Thiên tự cho là đã rèn luyện từ đời trước.
Người đời sống chết tới lui trong khoảng trời đất thì cây cối không tính đếm được. Nhưng do chìm trong sinh tử, thần thức bị mỏi mệt nên không nhớ được. Chỉ có người sáng suốt không mê muội như Trương Công ra vào triều đình hơn bốn mươi năm, sự nghiệp lẫy lừng mọi người đều biết thì thân đời trước từng là Thiện tri thức không đáng nghi ngờ.
28. Vương Văn Chánh Công nguyện đời sau làm Tăng.
Tương Sơn Dã Lục chép: Vương Văn Chánh Công là vị tướng giỏi của Tống Chân Miếu. Bình thường rất cần kiệm, phần nhiều mặc quần áo vải thô, áo cổn vá víu. Ông rất thông nội điển. Một hôm, nhân đọc Cao Tăng Truyện nói bỏ đời dứt tục. Ông bèn dâng biểu tâu vua rằng: Xưa, người có đạo dù công nghiệp lớn còn chẳng thể làm lụy chí mình, huống là danh tiếng của thân sau. Như Lượng Sư trốn tránh ở Tây Sơn, Thường Công lập am ở Đại Mai, Quy Tông mất dấu tích, Pháp Chánh không nói tên họ, những cụ già ấy đều làm đúng những điều nghe thấy. Lại tự nghĩ đắm chìm trong quan trường, hận rằng chẳng sớm làm con Phật. Bỗng ông bị bệnh nặng liền mời Nội hàn Dương Đại Niên vào dặn việc hậu sự rằng: Tôi rất chán trần tục, chí mộ sách Phật, nguyện đời vị lai sẽ được làm Tỳ-kheo ngồi yên trong rừng quán tâm làm vui.
Trong lúc sắp chết các ông hãy cạo tóc, mặc áo hoại sắc cho ta, chớ để các vật gấm vóc vàng bạc trong áo quan. Rồi dùng phép trà-tỳ, cất xương ở ngôi tháp tròn xây trước mộ để đáp nguyện xưa, ta đã rất răn cấm cháu con, sợ nó theo tục, nên ủy thác rõ ràng cho ông. Đại Niên nói: Các việc khác không dám trái ý ông, còn việc cạo tóc mặc ba y, thì khó vâng theo. Ông đã làm chức Tam công, nếu chết rồi thì xe loan ắt đầy đủ, liệm thêm áo cổn chứ đâu thể thêm tăng phục. Đến ngày ông chết thì Đại Niên cùng các người con cùng bàn bạc chỉ dùng ba y để vào quan mà không để vật báu.
29. Thân đời trước của Tô Đông Pha là Thiền sư Ngũ Tổ Giới.
Long Thơ Tịnh độ chép: Thiền sư ngũ Tổ Giới Diễn chính là thân đời trước của Tô Đông Pha, ứng nghiệm không phải một. Vì đời trước tu hành nên đời này thông minh hơn người. Nhưng vì thói quen chưa dứt hết nên đời này bị nhiều duyên thơ ngữ ngoài ý mà bị chỉ trích trong cõi đời chịu nhiều khổ sầu như thế. Nghe Tô Đông Pha khi bị đày về Nam có mang theo bên mình một tượng Phật A-di-đà. Người hỏi duyên cớ thì đáp đây là công cứ để sinh Tây phương của tôi. Nếu quả đúng thế thì Tô Đông Pha đời này có chước hay.
30. Thân đời trước của Huỳnh Sơn Cốc là người phụ nữ tụng kinh Pháp Hoa.
Long Thơ Tịnh độ chép: Nghe nói Lỗ Trực đời trước là người phụ nữ tụng kinh Pháp Hoa. Vì công đức tụng kinh nên đời này thông minh có quan chức. Đây là tùy nghiệp tùy duyên mà đến. Nếu sinh Tây phương thì đâu phải chỉ như thế mà thôi ư?
Thân đời trước của Vương Trạng nguyên là Thủ tọa Vạn Niên Nghiêm
Vĩnh Gia Vương Thập Bằng Trạng nguyên có thân đời trước là Thủ Tọa Nghiêm ở núi Muôn niên. Chính tay Nghiêm viết lời bia ở Thạch Kiều hiện vẫn còn. Trạng nguyên một hôm đi dạo núi, kế đến am Thạch Kiều lạy Phương Quảng vị tăng trong am là Ứng Chân, đêm ấy, mộng thấy Thủ tọa Nghiêm đến núi. Khi tỉnh mộng ông nghĩ rằng Nghiêm Công viên tịch đã lâu, duyên gì lại đến đây? Sáng ra thì Trạng Nguyên Vương Công đến. Vị tăng kể giấc mộng, Vương cũng nói bình thường nằm mộng cũng thấy đến đây nhiều lần. Tin biết không lầm, nhân đó làm hai bài thơ phú để tỏ ý rằng:
Tiên phàm cách nẻo nhưng ý thông
Thạch Kiều dung ta chiếc cầu vồng
Thần dạo lâu Phương Quảng bên cầu,
Không cần gậy dép mà leo núi
Thạch Kiều chưa đến trước đã đến
Mới ngủ liền như vào mộng ngay,
Tăng gọi ta là Thủ tọa Nghiêm
Thân đời trước ta từng viết bia này.
31. Duẫn Xá nhân ngồi dựa ghế mà hóa.
Bách Gia Thi Tuyển chép: Duẫn Thù tự là Sư Lỗ, người ở Lạc Dương. Vào niên hiệu Thiên Thánh thi đậu ra làm quan đến chức Khởi cư xá nhân. Trực Long Đồ Các Công một hôm cùng Nhất Phật Giả chuyện trò tự bảo: lấy yên tĩnh lui về làm vui. Người kia nói: Đó cũng còn có quan hệ, không bằng tiến lùi đều quên. Ông bỗng như tỉnh ngộ. Ngày ông lánh đời, Phạm Văn Chánh Công đến thăm thì ông ngồi tựa ghế nói rằng: Tôi từ biệt ông đâu cần phải đến, sinh tử là lẽ thường, mong lời nói chẳng quá cao xa. Rồi vái chào mà hóa. Trong khoảng khắc ông ngẩng đầu nói: Cũng không có quỷ thần, cũng không sợ sệt. Nói xong thì hóa. Hàm dưỡng của ông đến như thế có thể nói là có hiệu quả.
32. Lữ Trung Thư bệnh biết đường phía trước còn ít tư lương.
Bách Gia Thi Tuyển chép: Lữ Bổn Trung tự là Cư Nhân. Vào niên hiệu Tĩnh Khang ông thi đỗ làm quan đến chức Trung thư xá nhân. Từ chức để về nuôi cha. Bình thường ông rất mê thơ lại thích Thiền đến bị bệnh, rất gầy ốm đến không mặc nổi áo nên cả nhà buồn bã. Ông chỉ nghĩ về tư lương cho kiếp sau của mình. Nhân đó làm thi phú gửi Lưu Khí Chi rằng:
"Bệnh biết kiếp sau ít tư lương Già biết lúc sống sự nghiệp không Vô số núi xanh ngăn sông biển Cùng ai cùng đến lại cùng về."
Đến ngày mùng 6 mùa Hạ năm Bính Dần niên hiệu Thiệu Hưng, ông không bệnh ngồi kiết già mà hóa. Xét về việc tu của ông biết chắc chắn là bị buộc ràng (quyến luyến) mà đi. Riêng tôi cho rằng cuối cùng không biết đi về đâu!
33. Tần Thái sư đề lời cho chùa Linh phong ở Nhạn đãng.
Thái sư Tần Công Triều Cao Miếu, Cối Thái phu nhân ngày chưa sinh ra ông bỗng mộng thấy một vị tăng, dáng vẻ đạo mạo trang nghiêm vào nhà hóa duyên. Phu nhân hỏi ông ở đâu đến? Tăng đáp ta từ núi Nhạn ở Ôn châu đến, biết nhà này có duyên nên xin tá túc một đêm. Phu nhân vui vẻ nhận lời kế mang thai ông. Phu nhân nuôi dưỡng ông đến lớn thi đậu làm một quan nhỏ. Bỗng mộng thấy vào một hang đá ngồi thiền, lòng rất lạ lùng. Sau trên đường làm quan ông đến Thai ôn, ở Linh Phong dạo chơi động năm trăm La-hán. Ngó quanh thì hang núi sâu kín, vách cao chất ngất, bỗng thấy như vật cũ. Nghĩ việc thái phu nhân nằm mộng lúc mới sinh bèn làm thơ tuyệt cú trên vách rằng:
"Hang đá trong mơ vẫn như cũ
Dạo quan nay đã hai mươi năm
Muốn dứt duyên đời ngày nào dứt
Trong lòng chí giáo vẫn chăm chăm."
Đến khi ông qua đời, có một Tài nhân dâng sớ tiếp ông có câu. "Biển Thương ngăn trăm trận khó, khởi định Tam-muội trong hang đá" là việc ấy. Việc này thấy trong Bá Phương Tập.
Ngài Tông Hiểu là người xem nhiều sách, thấy xa hiểu rộng, tinh tu bạch nghiệp, muốn trốn bỏ sinh tử, thật có người ấy. Song sinh tử khó trốn mà cuối cùng số người không thể siêu việt cũng không phải ít. Do đó chép việc từ Đàm Đế trở đi hơn hai mươi vị, chỉ vì đời trước hạnh tu có khác nên khi sinh lại thì có giòng giống khác nhau. Lại ở địa vị cao, hưởng lộc lớn, nói theo pháp thế gian thì rất vinh, nhưng nói theo pháp xuất thế gian thì chưa thoát khổ trôi dạt sinh tử. Nếu đời trước biết có đường tắt Tây phương mà chú ý tiến công thì một niệm thác sinh về nước ấy, liền được không lui sụt. So với loại vào bào thai há chẳng cách nhau xa lắm ư? Chỉ trừ vì bi nguyện độ sinh thì sinh tử không làm lụy được. Nếu người chưa thoát khỏi sinh tử trở lại hưởng giàu sang mà không bị năm dục khuấy động thì có mấy người. Dẫu lại phát nguyện làm vị tăng thanh tịnh thì cũng chưa hẳn là được đúng nguyện. Trong đó dầu có ngồi mà hóa, đứng mà tịch cũng chưa hẳn đã được thác sinh vào nơi cao quý. Đâu không phải muốn thoát sinh tử mà lại trở vào sinh tử ư? Biển sinh tử rất sâu mà sóng to nguy cấp, phàm người tu tạo phải mau chóng tinh tấn. Nếu không thế thì hãy xem các hiền ra vào sinh tử há chẳng xem xét mà bước vào dấu cũ ư?
-Người tu Tịnh nghiệp như có chỗ ở yên.
Long Thơ chép: Ví như có người đi vào thành thì trước phải tìm chỗ ở yên rồi ra làm việc, để đêm hôm tối đen thì có chỗ nghỉ đêm.
Trước tìm chỗ ở yên là nói tu Tịnh độ, đêm tối là nói đại hạn đến. Có nơi nghỉ đêm là nói sinh trong hoa sen không rơi vào đường ác. Lại như tháng xuân đi xa trước phải lo đồ đi mưa, lỡ mưa rào đến thì không bị ướt át. Lo đồ đi mưa là nói việc tu Tịnh độ. Mưa rào đến là nói chết đến, không bị ướt át là nói khỏi bị chìm đắm trong đường ác chịu khổ. Lại trước lo chỗ ở yên là chẳng hại công việc, trước lo đồ đi mưa, thì chẳng hại việc đi xa, tức là tu Tịnh độ thì không hại gì đến tất cả việc đời. Vì sao người đời chẳng chịu tu?
34. Tu tất cả pháp thiện đều hồi hướng Tây phương.
Long Thơ chép: Cúng Phật trai tăng, xây tháp cất chùa, tụng niệm lễ sám, hiếu thảo dưỡng nuôi cha mẹ, thuận thảo anh em, kính nhường giòng họ, hòa mục với bà con hàng xóm, ân lễ giúp nhau. Làm vua thì hết lòng vì nước. Làm quan thì nhân từ làm lợi dân, làm người trên thì dùng điều tốt để giữ yên chúng, làm kẻ dưới thì siêng năng kính thờ bậc trên trước. Hoặc dạy dỗ kẻ ngu mê, hoặc giúp đỡ người cô độc yếu đuối, hoặc cứu người nạn gấp, hoặc bố thí kẻ nghèo nàn, hoặc đào giếng đắp đường. Hoặc cho cơm chia thuốc. Hoặc giảm bớt nuôi mình để lợi người, hoặc cho tiền người để thức tỉnh họ. Hoặc dạy người làm lành, hoặc giúp lành ngăn ác, bất cứ chỗ nào cũng làm tất cả việc lành thế gian và xuất thế gian mà không câu nệ việc lớn nhỏ nhiều ít, như cho người một tiền, giúp người một chén nước, dẫu một mảy may chút ít điều lành cũng đều khởi niệm rằng nguyện hồi hướng duyên lành này về Tây phương, niệm tâm không xen hở sẽ sinh lên Thượng phẩm.
-Nhất niệm với Tịnh độ chắc chắn được vãng sinh.
Long Thơ chép: Vua thầy thuốc trị được tất cả bệnh nhưng không trị được người hết số. Phật có khả năng cứu độ tất cả chúng sinh nhưng không thể độ người chẳng tin. Vì không tin thì như mạng đã hết, số đã cùng cực rồi vậy. Bởi tin tức là nhất niệm vậy. Như lúc sống tâm niệm muốn đi thì thân đi, tâm niệm muốn đứng thì thân đứng. Ấy là vì thân phải theo niệm (ý nghĩ). Cũng có niệm muốn đi mà thân bị cột trói, kéo dắt. Đến khi người chết thì chỉ còn một niệm mà thôi. Ấy vì một niệm ở Tịnh độ thì chắc chắn sẽ thác sinh vào hoa sen, huống gì Phật, Bồ-tát có thệ nguyện lớn dắt dẫn?
35. Người niệm Phật sinh vào hoa sen trong ao bảy báu.
Long Thơ chép: Có người thắc mắc hỏi rằng ở cõi này niệm Phật thì làm sao trong ao bảy báu ở Tây phương lại mọc ra một hoa sen được?
Tôi bảo rằng: Điều ấy chẳng khó biết. Ví như có tấm gương sáng lớn, phàm có vật gì thì ảnh đều hiện rõ trong gương, gương không hề có tâm muốn, chỉ vì nó sáng mà tự nhiên có mà thôi. Cõi Phật Di-đà thanh tịnh sáng sạch, chiếu khắp các thế giới mười phương cũng như gương sáng thì nhìn thấy hình ảnh mặt mày trong đó. Cho nên ở cõi này mà niệm Phật thì tự nhiên trong ao bảy báu mọc một hoa sen mà đợi khi thác sinh lên, không nên nghi ngờ.
37. Khuyên cha mẹ niệm Phật là hiếu xuất thế gian.
Long Thơ chép: Thiền sư Trường Lô Tông Trách làm văn khuyên hiếu một trăm hai mươi bài. Một trăm bài trước nói về phụng dưỡng ngon ngọt là hiếu thế gian, hai mươi bài sau nói khuyên cha mẹ tu Tịnh độ là hiếu xuất thế gian. Bởi hiếu thế gian thì chỉ một đời rồi ngưng, còn hiếu xuất thế gian thì không lúc nào hết, giúp cho cha mẹ sinh về Tịnh độ thì không có hiếu nào lớn hơn. Cha mẹ con sống mà không khuyên cố gắng, ngày nọ thì thương tâm lắm cũng luống làm lễ chôn cất thật trọng hậu cũng hoài công vô ích mà thôi nào có lợi gì? Quán kinh trước sau nói hai lần rằng hiếu dưỡng cha mẹ là Tịnh nghiệp tức ý này vậy.
38. Hiếu thảo dưỡng nuôi cha mẹ chỉ là trợ giúp vãng sinh lúc qua đời.
Khuyến Hiếu Văn chép: Khi cha mẹ tin biết niệm Phật là lúc trồng hoa sen. Khi cha mẹ nhất tâm niệm Phật là khi hoa sen mọc lên khỏi nước. Khi công phu niệm Phật thành tựu là lúc hoa nở thấy Phật. Người con hiếu xét đến lúc vãng sinh mà dự bị trước một sớ ghi chép việc cha mẹ lúc bình thường làm các việc lành lâu lâu đem ra đọc lên khen ngợi khiến cha mẹ vui lòng. Lại xin cha mẹ ngồi nằm luôn hướng mặt về Tây không quên Tịnh độ. Bày một tượng Phật A-di-đà luôn đốt hương đánh khánh niệm Phật không ngớt. Khi cha mẹ bỏ báo thân này phải quyết lòng không than khóc vì e làm cho cha mẹ mất chánh niệm. Cha mẹ được sinh Tịnh độ hưởng các thú vui há chẳng tốt sao? Bình thường hiếu thảo dưỡng nuôi chính là lúc này. Xin nhắn lời đến các con cháu hiếu thuận không nên quên việc này.
39. Người tu Tịnh nghiệp không được mượn cớ bận công việc mà chậm trễ.
Tịch Thất chép: Người tu Tịnh nghiệp không được nói tôi quá bận rộn phải đợi lúc rảnh rang. Nay tôi còn nghèo thiếu hãy đợi lúc khá giả, nay tôi còn trẻ tuổi hãy đợi lúc già. Nếu đã phân định lúc bận rộn, nghèo khó, chết yểu thì đối với Tịnh độ không có duyên tu tập rèn luyện. Bỗng cái chết đến thì có ăn năn cũng không kịp. Xin khuyên mọi người hiện đang mạnh khỏe hãy gắng sức tu hành.
40. Người đời chỉ lo nuôi thân này mà không lo báo đời sau.
Tịch thất chép: Người đời chỉ biết lúc sống lo nuôi dưỡng thân, cung phụng cho nó mà không lo lúc bỏ thân này, thần thức không chết-nếu không có nhân lành thì bị đọa lạc vào đường khổ thì làm sao? Lúc sống thương tiếc thân này thì khi thân này chết rồi tâm cũng thế, sao các ông không lo cứu độ nó. Lại người đời chuyên vì vợ, con, trai, gái, bà con, tôi tớ mà lo lắng cơm áo không biết mỏi mệt mà không nghĩ khi chết rồi thì con trai con gái dẫu thương tiếc thấu xương cũng không thể nào cứu nhau mà chỉ một mình mình ra đi. Nay khuyên người đời không vì lo sống mà quên việc chết.
Không nên vì người khác mà quên việc của mình.
41. Tu tịnh hạnh này công ở thuần thục.
Long Thơ chép: Mạnh tử nói: Phàm lòng nhân cũng ở trong sự thuần thục mà thôi. Cho nên người quân tử ngay cả khi ăn cũng không trái nhân. Lúc gấp rút cũng thế mà lúc hoạn nạn cũng phải thế. Muốn thuần thục thì ở đâu cũng làm nhân. Người tu Tịnh độ cũng thế-Cho nên đi đứng, ăn uống, thấy nghe, động tịnh đều ở Tịnh độ thì thân ở trong cảnh năm trược này mà tâm đã về cõi ấy.
-Thơ và lời tựa về Long Môn Liên xã.
Ở Long Môn thuộc Phú Dương có Cư sĩ Tôn Công Như Khuê, có hai người con tên là Ứng Thần và Ứng Tường đều theo nghiệp Nho, đều quyết được sự nghiệp hiển hách để làm rạng rỡ cha mẹ, lại noi chí cha mà tu cả Tịnh nghiệp, thật được đạo hạnh mà không trái lý. Lại thẹn chỉ riêng mình làm lành, bèn cùng các bạn đồng bối hơn ba mươi vị cùng nhau làm lời khuyến phát. Trong đó có câu "Ba cõi không yên như nhà lửa, chín sen siêu vãng tự có pháp môn". Lại nói: "Chẳng đợi già đến mới học đạo, ngay khi bận rộn vẫn có nhàn."
Tôi mới thấy qua rất vui mừng bèn xin nêu bài thơ có phong cách xưa để khen tốt. Vào thời gian thay đổi niên hiệu Khai Hỷ Ngày Trùng Ngọ-Đông Dương Ngô Khắc Kỷ kính ghi.
Tột thay Tây Thánh Thích-ca Văn
Miệng vàng nói Pháp truyền muôn đời
Mở bày nhất hóa không che dấu
Lại bàn Lạc độ vớt kẻ chìm.
Mã Minh, Long Thọ đều khen kể
Trước truyền Chấn Đán được Di Dân
Từ đó Nho quan thường kính mến
Đâu chỉ xuất gia được nhờ ân.
Cư sĩ Hà Đông có đủ chánh
kiến Phát huy đạo này rất rỡ
ràng. Cảnh vu từng thấy cùng soi
chiếu Có văn sáng rỡ gọi lược
nhân Dẫu theo tông khác cũng kéo
lại Dương Công, Trần Công là bạn
Luôn chỉ bày các việc chớ làm
Mênh mông có ai nối bụi thơm
Long môn bỗng gặp người họ Tôn
Chịu hẹn chung nhóm làm bạn nhân
Sớ ngắn đọc qua khởi tưởng xa
Như thấy được người ở Lô sơn
Bèn biết Nho giỏi rất dễ hiểu
Dẹp trừ bèn chuyển vào Đạo gia
Lại đem nhất thừa giúp chí trẻ
Vượt qua chín muôn ai thuần phục.
Trong Phó Pháp Tạng truyện Mã Minh, Long Thọ là tổ thứ mười hai và mười bốn đều có soạn luận khen ngợi Tịnh độ. Trong mười tám vị Hiền Lô Sơn thì Lưu Di Dân là Thượng thủ. Cư sĩ Hà Đông tức là Liễu Tử Hậu có làm lời bia Vô Tánh Hòa thượng, Long Hưng Tịnh độ Viện Ký, Đông Hải Nhược Văn. Cảnh Vu Nãi Triều Đãi Chế từng thấy Pháp sư Diên Khánh Lập, Luật sư Linh Chi Chiếu soạn Tịnh độ Lược Nhân. Dương Vô Vi và Trần Liễu Ông về già đều lưu tâm Tịnh độ. Dương có soạn tựa Luận Thập Nghi, Tựa Trực Chỉ Tịnh độ quyết Nghi Tập, còn Trần thì soạn Diên Khánh Tịnh độ Viện Ký, đều thấy ghi ở trong Lạc bang văn loại.