TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠP TẠNG

BỘ CHƯ TÔNG

SỐ 1969 - LẠC BANG VĂN LOẠI

MỤC LỤC

SỐ 1969 - LẠC BANG VĂN LOẠI

LỜI TỰA 1

LỜI TỰA 2

SỐ 1969 - LẠC BANG VĂN LOẠI

QUYỂN 1

LỜI TỰA

MỤC LỤC

I. Mục lục kinh luận chuyên nói về Tịnh độ trong Đại Tạng

II. Mười Đạo Thần Chú

III. Sáu mục về luận

IV. Nói Về Các Thần Chú

V. Nói về các luận

QUYỂN 2

VI. Tự và Bạt (gồm ba mươi hai bài).

VII. Về văn có mười ba bài

VIII. Về Tán (gồm 17 bài).

IX. Tựa và Bạt (gồm ba mươi hai bài).

BÀI TỰA TỊNH ĐỘ VÃNG SINH TRUYỆN

BÀI TỰA TAM-MUỘI NIỆM PHẬT BẢO VƯƠNG LUẬN

BÀI TỰA HOA NGHIÊM TAM-MUỘI NIỆM PHẬT VÔ TẬN ĐĂNG.

LỜI BẠT VÔ TẬN ĐĂNG

BÀI TỰA TỊNH NGHIỆP LỄ SÁM NGHI

LỜI BẠT KINH QUÁN CỬU PHẨM ĐỒ

BÀI TỰA THIÊN THAI TỊNH ĐỘ NGHI LUẬN TẬP

BÀI TỰA SAU CỦA TỊNH ĐỘ THẬP NGHI LUẬN

BÀI TỰA TRỰC CHỈ TỊNH ĐỘ QUYẾT NGHI TẬP

BÀI TỰA LONG THƠ TỊNH ĐỘ VĂN

LỜI BẠT LONG THƯ TỊNH ĐỘ VĂN

BÀI TỰA TỊNH ĐỘ BẢO CHÂU TẬP

LỜI BẠT TỰA BỐN MƯƠI TÁM NGUYỆN

TỰA TỊNH ĐỘ CẢNH SÁCH

TỰA TỊNH ĐỘ TỰ TÍN LỤC

LỜI BẠT TU HÀNH TỊNH ĐỘ PHÁP MÔN

LỜI BẠT MINH SƯ THẮNG ĐỊA LUẬN

BÀI TỰA BẢO THÀNH DỊ KÝ LỤC

LỜI TỰA VIỄN PHÁP SƯ TRAI KỴ LỄ VĂN

LỜI TỰA XƯNG TÁN TỊNH ĐỘ HẢI CHÚNG THI

BÀI TỰA TÂY QUY LIÊN XÃ

BÀI TỰA KHẮC IN VÃNG SINH HẠNH NGUYỆN LƯỢC TRUYỆN

BÀI VĂN THỆ NGUYỆN CỦA BẠCH LIÊN XÃ Ở LÔ SƠN

ĐÔNG HẢI NHƯỢC

LỜI BẠT Ở SAU ĐÔNG HẢI NHƯỢC

BÀI ĐIẾU VÕ THỊ NGỰ HỌA PHẬT

VĂN KẾT XÃ PHÁP TẬP

QUYỂN 3

QUYỂN 4

QUYỂN 5

BÀI TỰA SAU


LỜI TỰA 1

Thuở xưa, Đấng Thiện Thệ thương xót chúng sinh phải ở trong các cõi khổ, nên chỉ bày Lạc bang để trở về. Các bậc Thánh ngầm khen, các bậc kỳ túc được vãng sinh nhiều không phải một, đều chép trong các sách vở, sáng rỡ như sao. Về sau càng xa tông, dần dần bèn tìm ở thanh sắc, chẳng biết tìm ở tâm. Cho nên ngài Đại Giám chỉ bày Duy tâm, khiến cho biết rằng muốn được cõi Tịnh thì phải tịnh tâm mình. Cho nên đấng Thiện Thệ, nói quán Phật để chỉ ra ý chỉ tâm ấy là Phật. Ấy là có đủ ba tâm, mười tâm để làm pháp vãng sinh. Ấy là nhân hạnh, ngài Pháp Tạng phát nguyện cao siêu tâm ngài vắng lặng, chí không đắm trước. Về sau càng xa Tông bèn coi thường chín phẩm nên phàm phu bị trói buộc thì vẫn là trói buộc, cho nên các Đức Phật đâu cần phải ra đời độ sinh, chúng sinh phải bị trôi giạt không ngừng, chẳng cầu ở nơi tâm thì càng cầu càng xa. Quán ba vị Thánh đều là theo đuổi tướng bên ngoài. Bậc Thánh tùy bệnh cho thuốc, còn chúng sinh do thuốc mà bị bệnh, đáng thương thay! Thế nên Lạc bang do đó mà làm cho lý rõ ràng, nếu tu chứng thì cứu giúp kẻ trôi giạt biển khổ. Nói duy tâm do đó làm cho quán hạnh là vốn là Pháp thân mà được giải thoát, thấy ba Thánh là chân thường. Đấng Thiện Thệ chỉ cho người kho báu, còn ngài Đại Giám chỉ cho người khóa vàng. Ngài Đại Giám chỉ người bằng nhân hoa, Đấng Thiện Thệ tiếp người bằng quả địa. Vạch hoa mà sót quả thì giống như không có hoa, có kho mà không mở cũng như không kho. Lạc bang ở ngoài duy tâm chăng? Xưa nay tâm ra vẫn thế, suốt đến ba đời không có bờ mé, cõi trong tâm ta là vô biên không cùng. Tịnh thì thành bốn Thánh, nhiễm thì hóa sáu phàm. bốn Thánh sáu phàm chỉ là tâm ta. Nên không nói đem tâm ta mà cầu Lạc bang. Thật biết duy tâm chẳng thể không thờ Lạc bang. Các loài chúng sinh từ vô thỉ đối với vô sinh mà vọng sinh, đối với vô ngã mà chấp ngã, ba phược mười sử tập nhiễm đã lâu. Nếu không nhờ thuyền nguyện cứu độ lên ở cõi Linh Thánh thì Bồ-tát vẫn còn mê cách ấm, Thanh văn còn muội khi ra thai, còn những kẻ thấp kém chúng ta sao tránh khỏi không lui sụt? Ngài Văn-thù là thầy dẫn đường của bảy Đức Phật, Vô sinh nhẫn không phải không chứng mà thọ ký vãng sinh, ngài Thiện Tài một đời được quả của nhiều kiếp. Nghĩa bậc nhất đều nghe mà phát nguyện trở về, không theo Lạc bang thì lấy gì mà tu để biết hết cái diệu của duy tâm. Trong tâm

962 BỘ CHƯ TÔNG 11 ta là nhân địa trang nghiêm của Phật A-di-đà, trong tâm ta có cõi cao quý Lạc bang mà vốn xưa mình cùng Di-đà không hai không khác. Vì ta mê nên phải trôi giạt, làm chúng sinh ở trong tâm Phật. Còn Phật nhờ giác nên tu chứng mà làm Phật ở trong tâm chúng sinh. Tâm ta tức tâm Phật, ta chẳng thật có, tâm Phật tức là tâm ta, Phật cũng không thật có. Vì không thật có nên Phật niệm niệm độ sinh không đứt quãng đối với ta, còn chúng sinh chấp cái ngã huyễn không thật có. Ta thì bỏ giác hợp trần, nên luôn điên đảo trong ba cõi, thật đáng thương. Cho nên phải gắng tu Lạc bang, do đó mà gắng tu tâm ta. Tu tâm ta nên lìa được các điên đảo và chứng, ta đồng với Phật A-di-đà. Các Đức Phật không có chỗ chứng nào khác là Bản Tánh của chúng sinh. Hễ những gì Phật A-di-đà có đủ thì ta cũng có đủ, không lìa tâm ta, cho nên Lạc bang phi tướng, tức là tâm ta cho nên chẳng phải không. Vô tướng tức Tướng mà chẳng phải tướng cho nên tức tướng chẳng phải tướng, thì y chánh đều chân, chúng sinh và Phật đồng thể. Y chánh đều chân chúng sinh và Phật đồng thể thì Tôn Âm Vương Như Lai lạc bang ở quá khứ chưa từng nhập diệt, Công Đức Sơn Vương Như Lai ở vị lai thành Phật đã lâu, A-di-đà Như Lai hiện tại ở ngoài mười muôn ức cõi Phật mà chẳng cách xa. Tám mươi bốn ngàn tướng đẹp hễ niệm liền thấy. Tâm ta không cần đến đó, Phật ấy không cần lại đây, như đèn trong gương, như trăng trong nước. Gương không nắm đèn mà đèn tự hiện, trăng không vào nước mà nước chứa trăng. Nơi nơi là vậy, pháp pháp là vậy nên sợi lông trắng thường quán mà chẳng phải quán. Đài báu không sinh mà vãng sinh. Nếu như thế thì gọi là Duy tâm hay gọi là Lạc bang, ta cũng không biết được. Lộc Đình Thượng nhân và Tử Tống Hiểu Sư tập họp các văn viết về Lạc bang xin tôi vài lời nói về quyển ấy. Tôi bèn cúi đầu lễ Phật lễ Tổ, mà nêu sự thấy biết nhỏ hẹp của mình ra.

Tứ Tiến Sĩ, xuất thân là Lại bộ Thượng thơ, Võ Anh điện Đại Học Sĩ Hải Ngu Nghiêm kính soạn.

LỜI TỰA 2

Từ nhà Chu xưa có cả trăm nhà đều dùng thuyết mình tranh nhau với đời. Lâu ngày dần dần mất hết chỉ còn ba giáo Nho, Thích, Lão cùng truyền bá. Đại để ba giáo đều chủ trương việc khuyến Thiện, cấm Ác, dù lời chẳng đồng mà cùng về một chỗ. Song, đạo Phật so với đạo Lão thì thạnh hơn nhiều. Tôi không hề đọc sách Phật. Lúc đầu tôi không biết gì về Phật giáo nhưng vẫn dứt các điều ác không làm, các điều lành đều làm, luôn giữ trong lòng phút giây không bỏ. Bổn ý tôi chưa biết có Phật ra đời. Có người tu tập các giáo Tây phương Tịnh độ bảo rằng: Chúng sinh ở trong cõi đời có năm thứ

964 BỘ CHƯ TÔNG 11 vẫn đục lưới nghiệp giăng đầy, sinh tử không thể ra khỏi, biển khổ không dừng. Đấng Đại Hùng bất đắc dĩ chỉ riêng một phương cách khiến người buộc tâm chuyên chú, nhờ đó mà được chỗ không bờ bến. Tuy nhiên nếu không được cửa ấy mà vào thì rất uổng phí. Từng không biết pháp này là Nhất tâm. Nhất tâm chú ý vào sẽ thấy điều tốt. Phật dạy tâm ấy làm Phật, tâm ấy là Phật. Biến chánh biến tri của các Đức Phật từ tâm tưởng sinh ra. Thế nên phải nhất tâm giữ niệm. Nhân đó mà luận thì quả giác Di-đà tức là tánh ta, Cực lạc phương xa tức là tâm ta. Một niệm đến nơi, dụng công không thiếu sót thì đâu có cao thấp xa gần. Tỳ-kheo Tông Hiểu lưu tâm góp nhặt các giáo điển làm thành sách này gồm cả Đại tạng kinh luận, các sách của Nho, Thích xưa nay đều nói về giáo môn Tịnh độ, hoặc giảng rộng nghĩa sâu để nhắc nhở người chưa hiểu, hoặc làm sáng tỏ để dạy người mới đến. Toàn văn xuôi kệ ngắn, một chữ một câu đều giúp ích thân tâm đầy đủ. Một hôm, ngài mang sách đến tôi bảo rằng: "Tôi lưu tâm sách này, vài năm nữa sẽ khắc in, hóa một thành nhiều, rộng chỉ bày cho người mới học hiểu được một lời trong sách này mà khỏi lòng tin tưởng và tu hành thì công khổ nhọc biên soạn của tôi không uổng phí." Tôi đọc qua sách này thấy các bài của nhiều vị rất sâu sắc chỉ rõ ý lớn vãng sinh, mở rộng tâm lành cho mọi người, từ từ lại nghiên cứu lý ấy, bởi bản tánh của mỗi người vốn tự sáng suốt từ vô thỉ do bệnh mê vọng tham dục mà sinh ra các khổ. Vì khiến lìa khổ não được an ổn nên do đó mà phải đối trị. Ví như Thần y dùng thuốc thì gốc bệnh liền hết, bổn thể như xưa. Lại như gương sáng bị đóng bụi, nếu cố gắng chùi sạch thì gương sáng như cũ. Như thế thì sách này thật là phục tánh hoàn nguyên (khiến tánh trở về nguồn xưa) há bỏ đi ư? Than ôi, đạo ở rất gần đây chẳng cần tìm kiếm ở đâu cho xa xôi, rất dễ dàng không cần tìm cầu khó khăn. Xưa, ngài Vô Trước lễ núi Ngũ đài thấy ngài Văn-thù nói kệ có câu rằng: Tháp báu rốt ráo hóa thành bụi, một niệm tịnh tâm thành Chánh giác. Phật Pháp vô lượng, lời này bao trùm các cõi Phật. Đã lấy tâm làm gốc để cốt về Tây phương thì cần phải khéo tịnh tâm mình mà thôi, không còn cách nào khác.

Ngày rằm tháng 7, năm Canh Thân, niên hiệu Khánh Nguyên, phu văn các học sĩ, Tuyên Phụng đại phu trí sĩ Uông Đại Du kính lời tựa.

----------------------------------

SỐ 1969 - LẠC BANG VĂN LOẠI

Sa-môn Thạch Chi Tông Hiểu, ở đất Tứ minh biên soạn.

QUYỂN 1

LỜI TỰA

Trong niên hiệu Càn Đạo, Đức Thọ Cung Thân Lệ Thần Hào viết lớn hai chữ Liên Xã ban cho phòng Ngự Sứ Triết Tây Lộ tổng quản Trương Luân như rồng bay phụng múa tám Pháp đều bày, là điềm lành ít có trên đời ở Hà lạc. Trộm nghĩ Hoàng Đế Cao Tông dùng Pháp đường, ngu mà trị yên thiên hạ, khi công thành chẳng ở, cởi giày về ở ẩn, chuyên xem nội điển lại muốn theo núi Lô (Tuệ Viễn) mà niệm Phật nên nêu việc này. Lược khảo từ xưa các vua hưng thạnh thì đều phát triển Thích giáo hoặc xây dựng Tháp miếu hoặc kinh luận, hoặc rộng độ Tăng, Ni mà không hề nghe bày việc phát huy Tịnh Bang, giúp mọi người ra khỏi cõi đời có năm thứ vẫn đục như Vua ta. Đến nay, ở trong và ngoài nước các Tông xưa đều lập xã niệm Phật, tiếng vang rền cả tai. Mới biết bậc chí đức như gió, dân đen như cỏ, không mong mà được như thế. Xin thử luận về Phật ta, đấng Năng nhân sinh ra ở thành Ca-duy, chẳng mến tiếc ngôi báu vào thẳng núi Tuyết mà ngồi yên, lúc thành đạo rồi vì tùy cơ giáo hóa, nên khiến có giáo pháp Đại Tiểu, Thiên Viên khác nhau, cuối cùng là một hội Pháp Hoa cao tột, một đạo không thiên lệch mở quyền Thừa đều quy về chân thật. Thế nên bản hoài ra đời của Phật đến đây mới xong. Lại nghĩ người đời sau căn cơ ám độn, khó có thể tự tìm cách ra khỏi, nên Phật A-di-đà có bản nguyện lấy cõi Cực lạc làm nơi đường tắt ra khỏi sông ái, sinh lên đất Phật. Cho nên các kinh Đại thừa ân cần khuyên cầu sinh rất nhiều. Bởi Như Lai dùng phương tiện khéo léo khác lạ chẩn bệnh "Trầm luân", "Cha bỏ đi mà để thuốc lại" là ý này. Song khi đại giáo truyền đến Đông độ thì mọi người chưa biết mà Pháp sư Tuệ Viễn đời Đông Tấn đã thần cơ tú phát, mở lối đầu tiên dẫn nước trồng sen kết duyên Tịnh xã. Lúc đó có một trăm hai mươi ba vị, mười tám vị Đại hiền như Lưu Di Dân, ngài Tuệ Viễn là thượng thủ. Từ đó, đạo Tam-muội niệm Phật truyền bá đến nay đã hơn tám trăm năm mà vết xưa vẫn còn sáng chói. Cho nên Trương Luân tu hành nối gót Tuệ Viễn. Song người học thì phải cầu thầy, muốn tiến nghiệp thì phải nhờ Pháp, cho nên lập xã đều lấy Di-đà làm tông chủ, các kinh làm chỉ nam. Từ đời Tấn, Đường đến nay, các vị cao tăng, cự Nho đều có soạn các tác phẩm khen ngợi việc này. Tuy thuyết nghĩa có cạn sâu, lời văn có khéo vụng, nhưng ví như muôn dòng chảy về Đông cùng ra biển cả, khiến người uống nước biết được nhất vị. Tông Hiểu tôi nay vì tuổi đã già, biết đời chẳng bền chắc, xét kỹ Hoàng Đế Cao Tông đạo thông trời đất, đức sánh Hy Hiên còn tuyên dương chí giáo, mở bày khắp chúng sinh, huống là kẻ tăng hèn mọn nào dám biếng lười việc tư tu. Do đó mà góp nhặt các kinh tìm khắp các bài văn, đọc lại ý chỉ dẫn dạy, dẫu lời kín, nghĩa sâu, chưa dễ thấy biết nhưng nhiều năm nghiên cứu cũng hiểu qua đại ý tóm tắt. Lại nghĩ Tùy châu Hòa bích là vật báu trong thiên hạ lại dấu vào rương cất đi thì có ai được cùng hưởng? Nhân rỗi rảnh mà biên tập trước từ, kinh chú, sau đến thi từ, gồm mười bốn môn, có hai trăm hai mươi bài, chia làm năm quyển, đề tên là "Lạc bang văn loại". Bắt chước theo quyển Tây hán văn loại của nhà Nho Liễu Tông Trực mà soạn, nếu bài nào chưa chép hết thì có các đồng chí của tôi sẽ tiếp nối ghi thêm vào.

Kính ghi lời tựa.

---------------------------------------

MỤC LỤC

I. Mục lục kinh luận chuyên nói về Tịnh độ trong Đại Tạng

1. Kinh Pháp Hoa: Khởi đầu của việc hóa duyên trong sự tích Phật A-di-đà.

2. Kinh Bi Hoa: Nhân nguyện, Thọ ký. Danh hiệu của ba vị Thánh.

3. Kinh Xuất Sinh Bồ-tát: Nhân Hạnh của Phật Di-đà thành tựu chúng sinh.

4. Kinh Vô Lượng Thọ: Bồ-tát Pháp Tạng phát nguyện trang nghiêm cõi mầu.

5. Kinh Di-đà theo lối kệ: Tướng nhiếp lấy cõi nước của Bản nguyện Di-đà.

6. Kinh Thủ-lăng-nghiêm: Bồ-tát Đại Thế Chí được Niệm Phật Viên Thông.

7. Kinh Cổ Âm Vương: Nói về cõi nước, cha mẹ, thân thuộc của Phật Di-đà.

8. Kinh A-di-đà: Cực lạc ở cách cõi này mười muôn ức cõi Phật.

9. Kinh A-di-đà: Bảy ngày không loạn thì cảm ứng được Phật mà vãng sinh.

10. Kinh Quán Vô Lượng Thọ: Thực hành ba thứ nghiệp được vãng sinh Tây phương.

11. Kinh Quán Vô Lượng Thọ: Trước tiên tu quán mặt trời đưa tư tưởng về Tây phương.

12. Kinh Quán Vô Lượng Thọ: Y cứ vào tâm mà quán Phật thuộc pháp quán tượng thứ tám.

13. Kinh Quán Vô Lượng Thọ: Đủ ba thứ tâm liền được vãng sinh.

14. Kinh Quán Vô Lượng Thọ: Công phu mười niệm thành tựu thì Hạ phẩm hạ sinh.

15. Kinh Quán Vô Lượng Thọ: Bà Vi-đề-hy và các gái hầu đều được vãng sinh.

16. Kinh A-di-đà: Do tâm nghi ngờ sẽ sinh ở biên giới của Tây phương.

17. Kinh Vô Lượng Thọ: Chẳng hiểu trí Phật sinh vào Thai Cung.

18. Kinh Bồ-tát Xử Thai: Có tâm đắm nhiễm sinh vào nước Giải mạn.

19. Kinh Bình Đẳng Giác: Thanh văn ở Tịnh độ tu hành chứng quả.

20. Kinh Vô Lượng Thọ: Gây năm tội nghịch, chê bai Chánh pháp không được vãng sinh.

21. Kinh Vô Lượng Thọ: Tướng tu nhân vãng sinh của ba bậc.

22. Kinh Vô Lượng Thọ: So sánh sự tu thiện khác nhau giữa hai cõi.

23. Kinh Vô Lượng Thọ: Nhiều chúng Bồ-tát vãng sinh Tịnh độ.

24. Kinh Vô Lượng Thọ: Khi Pháp diệt, lưu lại kinh này một trăm năm để độ người.

25. Kinh Vô Lượng Thọ: Khuyên mọi người tinh tấn gắng sức cầu sinh.

26. Kinh Vô Lượng Thọ: Phật Vô Lượng Thọ ánh sáng chiếu khắp.

27. Kinh Vô Lượng Thọ: Bát báu ăn uống tự nhiên đầy đủ.

28. Kinh Hoa Nghiêm: So sánh hai cõi ngày đêm dài ngắn.

29. Kinh Văn-thù Thuyết Bát-nhã: Tu Nhất hạnh Tam-muội, chuyên xưng danh hiệu Phật.

30. Kinh Ban-chu: Tu Tam-muội Phật lập, chuyên niệm Di-đà.

31. Kinh Phương Đẳng Đại Tập: Tu Tam-muội Phật lập, pháp quán Trung đạo.

32. Kinh Hoa Nghiêm: Trưởng giả giải thoát được pháp môn Duy tâm niệm Phật.

33. Kinh Hoa Nghiêm: Nương vào nguyện Phổ Hiền được sinh Cực lạc.

34. Kinh Pháp Hoa: Nghe kinh tu hành liền được vãng sinh.

35. Kinh Đại Bảo Tích: Phát mười thứ tâm được sinh Cực lạc.

36. Kinh Tùy Nguyện Vãng Sinh: Ta-bà vẩn đục, riêng khen Tây phương.

37. Kinh Đại Tập Nhật Tạng: Niệm Phật tùy tâm thấy lớn thấy nhỏ.

38. Kinh Mục-liên Sở Vấn: Cõi nước Vô Lượng Thọ dễ đến, dễ nhiếp lấy.

39. Kinh Thập Vãng Sinh: Người niệm Phật được Bồ-tát che chở, giữ gìn.

40. Kinh Quán Phật Tam-muội: Phật thọ ký ngài Văn-thù vãng sinh Cực lạc.

41. Kinh Văn-thù Phát Nguyện: Ngài Văn-thù phát nguyện cầu sinh Cực lạc.

42. Kinh Nhập Lăng-già: Phật thọ ký cho ngài Long Thọ vãng sinh Cực lạc.

43. Kinh Thiện Tín Ma Thân: Thiện tín nhàm chán thân nữ, cầu sinh Tây phương.

44. Kinh Thủ-lăng-nghiêm: Xét tình tưởng nhiều ít mà luận về quả báo cao thấp.

45. Kinh Thủ Hộ Quốc Giới Chủ: Thiện ác chiêu cảm quả báo hơn kém khi qua đời.

II. Mười Đạo Thần Chú

Vô Lượng Thọ tu quán hạnh cúng dường nghi quỹ (Trong nghi quỹ này trích ra ba bài chú sau):

1. Vô Lượng Thọ Như Lai Quyền Ấn Chân Ngôn.

2. Vô Lượng Thọ Như Lai Căn Bản Ấn Chân Ngôn.

3. Vô Lượng Thọ Như Lai Tâm Chân Ngôn.

Kinh Ô-sắt-nị-sa Tối Thắng Tổng Trì (trong kinh này trích ra một chú sau:)

4. Vô Lượng Thọ Như Lai Tổng Trì Pháp Môn.

5. Kinh Bất Không Quyển Sách Thần Biến

Chân ngôn (trong kinh này trích ra ba chú sau)

6. Nhất Tự Chân Ngôn.

7. Bạt Biến Giải Thoát Tâm Chân Ngôn.

8. Bất Không Đại Quán Đảnh Quang Chân Ngôn.

9. Di-đà Bất Tư Nghị Thần Lực Truyện.

10. Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn bản đắc sinh.

III. Sáu mục về luận

1. Luận Vô Lượng Thọ: Kệ vãng sinh và pháp tu năm môn.

2. Luận Tỳ-bà-sa: Niệm Phật là đạo dễ làm.

3. Luận Đại Trí Độ: Chứa nhóm nhiều công đức cầu sinh cõi Tịnh.

4. Luận Đại Trí Độ: Thích-ca, Di-đà mỗi vị đều có cõi nước tịnh và uế.

5. Luận Đại thừa Khởi Tín: Ta-bà chẳng gặp Phật, khuyên chuyên niệm Phật.

6. Tư Duy Yếu Lược Pháp: Hai căn Lợi Độn quán tướng tốt của Phật.

7. Tôn hiệu Phật A-di-đà.

Mục lục các kinh luận trong Đại Tạng chuyên nói về Tịnh độ.

Tôi biên tập các văn này là trước nêu các kinh luận để người muốn tu Tịnh nghiệp lấy đó làm gốc. Vì các kinh luận này đều ở rải rác trong Đại Tạng, nay ghi tên kinh và tên hòm để dễ xem xét.

1. Kinh Phật Thuyết Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác: Một bộ hai quyển. Hòm chữ Nải.

Ngài Tam tạng nước Nguyệt Chi, tên là Chi-lâuca-sấm, đời Hậu Hán dịch. Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng giác là tên khác của Phật Vô Lượng Thọ. Bốn chữ Thanh Tịnh Bình Đẳng là ý chữ Thọ, còn Giác là tiếng Hán dịch chữ Phật.

2. Kinh Phật Thuyết A-di-đà: Một bộ hai quyển, hòm chữ Nải. Ngài Tam tạng nước Nguyệt Chi, tên Chi Khiêm, đời Ngô dịch. Kinh này cũng gọi là kinh A-di-đà Tam-da-tam-Phật-tát-lâu-Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo.

3. Kinh Phật Thuyết Vô Lượng Thọ: Một bộ hai quyển, hòm chữ Nải. Ngài Tam tạng Khương Tăng Khải, đời Tào Ngụy dịch.

Kinh này còn có bản do ngài Trúc Pháp Hộ, đời Tấn dịch vào niên hiệu Vĩnh Gia ở trong Bản tạng, nay đã mất. Trong Quán kinh sớ ngài Thiên Thai gọi là Đại Bản tức là bản ngài Pháp Hộ dịch.

4. Kinh Đại Bảo Tích, Vô Lượng Thọ Như Lai Hội.

Quyển thứ mười bảy, mười tám hòm chữ Sư. Do ngài Bồ-đề-lưu-chi, đời Đại Đường dịch. Kinh Bảo Tích gồm các kinh Đại thừa Phương Đẳng. Gồm bốn mươi chín hội, hội thứ bảy tức Hội Vô Lượng Thọ.

5. Kinh Phật Thuyết Đại thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm: Một bộ ba quyển, hòm chữ Binh, do Tam tạng Pháp Hiền, người Tây thiên, đời vua Đại Tông thuộc Đại Tống vâng chiếu dịch.

Năm quyển kinh trên, Bình Đẳng giác và A-diđà đều dịch Tỳ-kheo Pháp Tạng có hai mươi bốn nguyện, còn Vô Lượng Thọ và Đại Bảo Tích Hội thì dịch có bốn mươi tám nguyện. Ở đời có một bản riêng gọi là kinh Bốn Mươi Tám nguyện, một quyển. Nhưng chính là từ kinh Vô Lượng Thọ chép ra chứ không phải là bản kinh riêng. Lại kinh Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm dịch có ba mươi mốt nguyện. Phụ Hành nói: Số nguyện khác nhau vì bộ khác thì thấy khác, không cần hòa hội. Nhưng đọc kỹ năm kinh thì đại khái hầu hết đều giống. Hình như cùng bản chữ Phạm mà người dịch thấy khác nên tùy nghi rộng, tóm. Ngài Kinh Khê gọi là khác bộ thấy khác là giảng lời Phật nói thì đồng mà tùy cơ thấy có khác. Còn việc kiết tập mà phiên dịch đều không giống nhau. Vậy thì nói giống hay khác chưa dám quyết định, xem rồi sẽ thấy rõ. Trong năm bản, dịch lời văn trong sáng là bản Tào Ngụy, nên văn các tổ sư phần nhiều đều trích dẫn từ bản này.

6. Kinh Phật Thuyết A-di-đà: Một quyển, hòm chữ Dưỡng, ngài Tam tạng Pháp Sư Cưu-ma-lathập, đời Diêu Tần dịch. Trong Thiên Thai Quán kinh sớ gọi kinh này là Tiểu bản, trước đó kinh Vô Lượng Thọ gọi là Đại bản. Còn bộ Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh, vì ở giữa hai quyển kia nên gọi là Trung Bản.

7. Kinh Xưng Tán Tịnh độ Phật Nhiếp Thọ:

Một quyển, hòm chữ Dưỡng. Ngài Tam tạng Pháp Sư Huyền Trang, đời Đại Đường dịch.

Hai kinh trên (6-7) cùng bản Phạm mà khác tên người dịch. Bản đời Tần nêu các Đức Phật sáu phương khen gợi, còn bản đời Đường thì nói đủ các Đức Phật mười phương khen ngợi. Đây cũng là do người dịch tùy thời mà rộng, hẹp khác nhau. Văn Long Thư Tịnh độ nói: Bản dịch đời Tần lược bỏ bốn phương chẳng hiểu bộ phiên dịch có khác chăng?

8. Kinh Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật, một quyển, hòm chữ Dưỡng, do ngài Cươnglương-da-xá dịch vào niên hiệu Nguyên Gia đời Tống. Kinh này là một bản riêng trong Tạng không có dịch trùng, cũng gọi là kinh Tịnh Trừ Nghiệp Chướng Sinh Chư Phật Tiền.

9. Kinh Hậu xuất A-di-đà Phật Kệ, một quyển, hòm chữ Dưỡng, dịch vào đời Hậu Hán, mất tên người dịch. Kinh này chỉ có năm mươi sáu câu kệ tụng, văn thể đơn giản. Xưa nay không có ai bình.

10. Kinh A-di-đà Cổ Âm Thinh Vương Đà-lani, một quyển, hòm chữ cao, mất tên người dịch. Hai kinh, có người không hiểu cho là "Thất dịch" là không dịch sách Phạm.

11. Kinh Ban-chu Tam-muội, một bộ ba quyển, hòm chữ Tội. Tam tạng nước Nguyệt Chi là Chilâu-ca-sấm, đời Hậu Hán dịch. Trong tạng có kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ, kinh Bạt Pha và kinh Ban-chu là cùng bản Phạm mà khác tên người dịch. Là kinh chuyên nói về hiện tại Phật đang lập Tam-muội, trong chín mươi ngày quán tưởng xưng tụng Di-đà, Ma-ha chỉ quán, thường hành Tam-muội.

12. Kinh Phật Thuyết Như Lai Ô-sắc-ni-sa Tối Thắng Tổng Trì. Một quyển, hòm chữ cao. Tam tạng Pháp Thiên, người Tây thiên thời vua Thái tông đời Đại Tống vâng chiếu dịch. Kinh này Phật Vô Lượng Thọ nói thần chú giúp chúng sinh sống lâu, khi qua đời liền được vãng sinh Cực lạc.

13. Vô Lượng Thọ Như Lai Tu Quán Hạnh Cúng Dường Nghi Quỹ, một quyển, hòm chữ Hành. Ngài Tam tạng Bất Không, chùa Đại Hưng Thiện vâng chiếu dịch. Nghi quỹ này kết đàn tụng chú, chuyên cầu vãng sinh.

14. Vô Lượng Thọ Luận Ưu-ba-đề-xá, một quyển, hòm chữ Đường. Bồ-tát Bà-tẩu-lũ-đậu (Thiên Thân) soạn ra, vào đời đầu nhà Ngụy, Tam tạng Bồ-đề-lưu-chi, người Thiên trúc dịch. Bà-tẩulũ-đậu, Hán dịch là Thiên Thân, trong Luận Thập Nghi của ngài Thiên Thai gọi đó là luận Vãng sinh. Luận này nói chung về các kinh Tịnh độ, nói về pháp quán tưởng giúp người tu Tịnh Nghiệp.

15. A-di-đà kinh Bất Tư Nghị Thần Lực Truyện, hòm chữ Dưỡng. Truyện này mất tên người soạn. Truyện này và Tiểu Bản kinh Di-đà đều có thần chú vãng sinh.

16. Tập Chư kinh Lễ Sám Nghi hai quyển, hòm chữ Quần.

Ở quyển thượng thì Sa-môn Trí Thăng đời Đường tập hợp nửa quyển trước về Lễ chung các Đức Phật, nửa quyển sau thì nêu riêng các kệ tụng lễ tán Tây phương và các văn sám hối, phát nguyện... Ở quyển Hạ thì Tỳ-kheo Thiện Đạo chọn ghi các yếu nghĩa tu Tây phương và ghi chép sáu thời lễ tán kệ tụng Tịnh độ... của các Tổ.

Các kinh, luận, truyện trên gồm mười sáu thứ, đều chuyên nói về Tịnh độ. Cho nên Luận Thập Nghi nói. Trong tạng có hơn mười bộ Kinh Luận ân cần dạy khuyên vãng sinh Tây phương. Các bậc Tiên Hiền nói Tịnh độ chỉ có bảy kinh là chưa xét kỹ.

1. Kinh Pháp Hoa: Khởi đầu của việc hóa duyên trong sự tích Phật A-di-đà.

Trong Phẩm Hóa Thành Dụ nói: Thuở quá khứ có Đức Phật hiệu là Đại Thông Trí Thắng. Phật này khi chưa xuất gia có mười sáu con đều là trẻ con xuất gia làm Sa-di. Khi Phật nói kinh xong liền vào tịnh thất suốt tám mươi bốn ngàn kiếp. Lúc ấy mười sáu Bồ-tát biết Phật vào tịnh thất bèn lên tòa vì nói rộng giải thích kinh Diệu Pháp Liên Hoa cho bốn chúng nghe, mỗi Bồ-tát đều độ sáu trăm tám mươi muôn ức na-do-tha hằng hà sa chúng sinh, các chúng sinh do mười sáu vị này hóa độ đều đời đời cùng sinh với Bồ-tát. Mười sáu vị Sa-di ấy hiện đang nói Pháp ở khắp mười phương. Cho đến nói rằng ở Tây phương có hai vị Phật cùng một tên Adi-đà, vị thứ mười sáu là Phật Thích-ca Mâu-ni ta. Các chúng sinh được hóa độ lúc ấy là Tỳ-kheo các thầy, sau khi ta diệt độ ở trong đời vị lai chính là các đệ tử Thanh văn. Khi Như Lai tự biết mình sắp Niết-bàn bèn nhóm họp các chúng Bồ-tát và Thanh văn mà nói kinh ấy.

Tông Thiên Thai nói rõ về Bổn Tích của Pháp Hoa. Trong Tích thì tôn Đức Phật Đại Thông Trí Thắng làm đầu. Văn này có ba ý:

1. Từ thuở xưa đã kết duyên với nhau (lúc đó mười sáu Bồ-tát...)

2. Ở khoảng giữa gặp nhau (mười sáu Bồ-tát ấy...)

3. Ngày nay lại nói kinh Pháp Hoa (Các Đức Như Lai...)

Ba việc này bao gồm trong Tích, hẹn độ hết chúng sinh. Đức Thích-ca như thế, Đức Di-đà cũng thế. Bởi mười sáu vị Vương tử thời Phật Đại thông Trí Thắng đã được kết duyên. Các Vương tử mỗi vị đều được thành Phật, vị thành Phật ở Tây phương hiệu là A-di-đà. Lấy quả nghiệm nhân thì

Di-đà lúc ấy là Vương tử thứ chín, giảng nói cho chúng sanh nghe nên biết Phật Di-đà kết duyên với mọi người rất sớm. Cho nên Diệu Huyền thứ sáu có nói: Phật Đại Thông là người đầu tiên kết duyên Đại thừa, Phật ấy nói kinh trong tám ngàn kiếp, mười sáu vị Vương tử giảng lại trong tám mươi tư ngàn kiếp. Bấy giờ, thính chúng hoặc ngay chỗ ngồi liền ngộ hoặc trong khi nghe được vào, hoặc gần gũi hóa độ đây mới được, tức là ý ấy. Như thế mà cân nhắc, không phải chỉ hiển bày việc các Phật hóa độ đều đồng một Đạo mà cũng biết xưa nay các người vãng sinh Tịnh độ chính là số chúng sinh đã kết duyên từ xưa với Vương tử thứ chín rồi vậy.

2. Kinh Bi Hoa: Nhân nguyện, thọ ký, danh hiệu của ba vị Thánh.

Thuở xưa, cách nay hằng hà sa A-tăng-kỳ kiếp, có thế giới tên là San-đề-lam, kiếp tên Thiện trì, có vị vua Chuyển luân tên là Vô Tránh Niệm, làm chủ bốn thiên hạ. Có một vị Đại Thần tên là Bảo Hải, thuộc giòng Phạm chí. Lúc đó sinh người con có ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, thường có ánh sáng chiếu xa một tầm. Khi sinh có trăm ngàn các vị trời đến cúng dường. Nhân đó đặt tên là Bảo tạng. Sau cạo bỏ râu tóc xuất gia thành Đạo Bồ-đề hiệu là Bảo Tạng Như Lai, vì Thánh vương nói rộng Chánh pháp. Vua thỉnh Như Lai và Thánh chúng cúng dường ba tháng. Vua có một ngàn người con. Vua và các con cúng dường Như Lai suốt hai trăm năm mươi năm. Ai nấy đều hướng về Phật và các Tỳ-kheo tăng mà sám hối các tội. Khi ấy, Như Lai bèn vào Tam-muội (Định), phát ra ánh sáng rực rỡ, hiện ra các thế giới ở mười phương. Hoặc có thế giới đầy năm thứ vẩn đục, hoặc có thế giới thanh tịnh nhiệm mầu... Vua bạch Phật rằng: "Các Bồ-tát nhờ nghiệp gì mà được thế giới thanh Tịnh, do nghiệp gì mà chịu thế giới bất tịnh?" Phật nói: "Bồ-tát do có nguyện lực nên được cõi thanh tịnh lìa bỏ năm thứ vẩn đục, lại có Bồ-tát do có nguyện lực mà cầu cõi có năm thứ vẩn đục." Vua thưa: Nay con thành thật muốn được quả Bồ-đề, nhưng không nhận lấy cõi Phật bất tịnh. Con trong mười năm trước đây luôn ngồi thẳng suy tư, trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh, nay con phát nguyện khi thành Đạo rồi thì trong thế giới của con không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Chúng sinh trong nước con đều có màu vàng ròng; trời, người không khác nhau, không có người nữ, cùng một loại hóa sinh, tuổi thọ vô lượng. Thế giới thanh tịnh, không có nhơ bẩn hôi hám, có các thứ cung điện trang nghiêm như ở tầng trời thứ sáu. Các thế giới Phật khác nếu có chúng sinh nghe danh hiệu tôi mà tu các gốc lành, muốn sinh về cõi tôi thì khi chết liền được sinh về. Chỉ trừ người gây ra năm tội nghịch, chê bai bậc Thánh, phá hoại chánh pháp (An dưỡng ký nói: Kinh Bi Hoa có hai mươi tư nguyện, nhưng văn lược bỏ), khi Luân vương phát nguyện lớn xong, Đức Phật liền bảo rằng: Đại vương! Ông hãy nhìn về phương Tây cách trăm ngàn muôn ức cõi Phật có Tôn Âm Vương Như Lai, có thế giới Thanh tịnh trang nghiêm, đều như lời nguyện của Đại vương. Như thế có bốn Đức Phật ra đời rồi nhập diệt, qua một hằng hà sa A-tăng-kỳ kiếp. Vào hằng hà sa A-tăng-kỳ kiếp thứ hai, lúc đó thế giới ấy đổi tên là An lạc, lúc đó ông sẽ được thành Phật hiệu là Vô Lượng Thọ Như Lai. Khi ấy, Bảo Tạng Như Lai thọ ký cho Thái tử thứ nhất là Bất Thuấn rằng: Ông xem thấy trời người trong ba đường ác, tất cả chúng sinh mà sinh tâm đại Bi, muốn dứt hết các khổ não cho chúng sinh, muốn giúp cho chúng sinh trụ vào An lạc, nên nay ông sẽ làm Quán Thế Âm. Khi Phật Vô Lượng Thọ nhập Niết-bàn rồi thì cõi nước ấy đổi tên là Nhất thiết trân bảo sở thành tựu thế giới, có các thứ trang nghiêm, mà thế giới An lạc không bằng được. Ông thành Đạo Bồ-đề hiệu là Biến Nhất Thiết Quang Minh Công Đức Sơn Vương Như Lai, Phật lại bảo thái tử thứ hai là Ni-ma rằng: Nay ông nguyện nhận lấy đại thế giới đúng như nguyện, ông sẽ thành Đạo Bồ-đề hiệu là Thiện Trụ Trân Bảo Sơn Vương Như Lai. Do ông lấy Đại thế giới như điều nguyện, do đó mà ông được làm đại Thế chí. (Các thứ nhân nguyện, thọ ký, tên kiếp, tên nước... của ba vị Thánh đến lần hai lần ba chỉ ghi lược).

3. Kinh Nhất Hướng Xuất Sinh Bồ-tát: Nhân hạnh của Phật Di-đà, thành tựu chúng sinh:

Phật nói ta nhớ thuở quá khứ cách vô lượng, vô biên A-tăng-kỳ kiếp, có Đức Phật hiệu là Bảo Công Đức Oai Túc Kiếp Vương. Khi Phật ấy sắp vào Niết-bàn, đã vì chúng sinh nói rộng Pháp bổn Đà-la-ni. Lúc đó, có Luân vương tên là Trì Hỏa. Vua có Thái tử tên là Bất Tư Nghị Thắng Công Đức, mới mười sáu tuổi đã nghe Pháp bổn với Như Lai đến bảy muôn năm, rất siêng năng tu tập, không hề ngủ nghỉ, cũng chẳng nghiêng ngã, ngồi thẳng một chỗ. Chẳng tham của báu và ngôi vua, không ưa thích thân mình. Đã từng gặp chín mươi ức trăm ngàn na-do-tha vị Phật và Pháp giải thoát của các Đức Phật đã được nghe hết và đặc biệt tu tập, nhàm chán gia đình, xuất gia làm Sa-môn. Lại ở trong chín muôn năm tu tập Đà-la-ni này. Lại giảng nói phân biệt cho chúng sinh nghe, trong một đời gắng sức chuyên tinh giáo hóa, khiến tám mươi ức trăm ngàn na-do-tha chúng sinh được phát Đạo tâm, chứa nhóm công đức trụ vào địa vị không lui sụt. Tỳ-kheo Bất Tư Nghì Thắng Công Đức lúc ấy không phải ai khác, chính là A-di-đà Như Lai đây vậy. (Kinh Đại Tạng hòm chữ Tri).

4. Kinh Vô Lượng Thọ: Tỳ-kheo Pháp Tạng phát nguyện trang nghiêm cõi mầu.

Trong thời quá khứ lâu xa, Đức Phật Đỉnh Quang ra đời, như thế thứ lớp đến Phật thứ năm mươi ba tên là Thế Tự Tại Vương. Trong đời Phật ấy có một vua nghe Phật nói pháp tâm rất vui mừng, bỏ nước bỏ ngôi làm Sa-môn, hiệu là Pháp Tạng, là người tài giỏi sáng suốt hơn đời. Đức Phật ấy nói pháp như biển lớn, người suy lường nhiều kiếp không thể đến đáy mà lấy được của báu. Có người dốc lòng tinh tấn cầu đạo không ngừng thì nguyện nào mà chẳng được. Phật nhân đó nói rộng hai trăm mười ức cõi Phật, trời, người thiện ác, cõi nước thô diệu, Tỳ-kheo Pháp Tạng nghe Phật nói đều thấy rõ. Bèn phát thắng nguyện, tâm rất yên vắng, chí không mê đắm. Lại bạch Phật rằng: Cúi mong Phật nghe xét, như điều con nguyện sẽ nói đầy đủ: Nếu con thành Phật mà trong nước con có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh thì con không thành Chánh giác... Tỳ-kheo Pháp Tạng nói bốn mươi tám lời nguyện xong thì mặt đất rung chuyển, trời rãi hoa đẹp như mưa. Tỳ-kheo Pháp Tạng chắc thật không luống dối, vượt ngoài thế gian, chuyên chí một mực trang nghiêm cõi mầu, giáo hóa an lập vô số chúng sinh, đều khiến an trụ trong Vô thượng chánh chân. Nay đã thành Phật hiện đang ở thế giới An lạc Tây phương. Cõi nước ấy ấy bảy báu kỳ lạ, đẹp đẽ vượt hơn các cõi nước trong mười phương. Cõi nước ấy không có núi Tu-di, mặt trời, mặt trăng, biển rộng khe lớn, hang giếng... không có bốn đường ác, không có Xuân, Hạ, Thu, Đông, không nóng không lạnh, luôn điều hòa thích ứng với các chúng sinh. Đó là do công đức, Thiện lực đức và sức hạnh nghiệp lành mà được như thế.

5. Kinh Di-đà theo lối kệ: Tướng nhiếp lấy cõi nước của bản nguyện Di-đà.

Nhớ Tỳ-kheo, Pháp Tạng nhiều đời đều làm vua, phát nguyện cùng các Phật, phát hai mươi bốn lời nguyện. Đời đời gặp các Phật, trải qua vô số kiếp. Chẳng bỏ hạnh Túc mạng. Công đức đủ bèn thành, thế giới tên Thanh tịnh. Phật có tên Vô Lượng, cõi nước đẹp bằng yên, có nhiều bậc Thượng thiện. Phật tuổi thọ vô lượng, ánh sáng cũng vô biên. Bồ-tát và đệ tử đông không thể tính đếm. Nếu muốn thấy Phật ấy, chớ nghi cũng chớ lo, ai nghi ở trong thai, năm trăm năm chẳng thấy, không nghi thì liền sinh. Khoanh tay hầu trước Phật. Xin nguyện khắp mười phương. Phút chốc liền cùng về.

6. Kinh Thủ-lăng-nghiêm: Bồ-tát Đại Thế Chí được niệm Phật Viên Thông

Pháp Vương tử Đại Thế Chí và năm mươi hai vị Bồ-tát cùng tu một pháp môn đồng đứng dậy đảnh lễ Phật và bạch rằng: Con nhớ hằng hà sa kiếp xưa có Phật ra đời tên là Vô Lượng Quang. Mười hai Đức Như Lai kế tiếp nhau ra đời trong một kiếp. Vị Phật sau cùng tên là Siêu Nhật Nguyệt Quang. Phật ấy dạy con niệm Phật Tam-muội. Ví như có một người lúc nào cũng nhớ, một người lúc nào cũng quên. Như thế hai người gặp nhau cũng như không gặp, thấy nhau cũng như không thấy. Nếu có hai người cùng nghĩ nhớ nhau, nhớ nghĩ sâu sắc cho đến đời này đến đời khác cũng như hình với bóng không trái nhau. Các Đức Như Lai trong mười phương thương nhớ chúng sinh như mẹ nhớ con. Nếu con trốn chạy dầu mẹ nhớ có làm gì được. Nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con thì dầu trải qua nhiều đời cũng không xa cách. Không nhờ phương tiện mà tự được tâm khai. Như người dính dầu thơm thì thân có mùi thơm. Đây gọi là hương Quang trang nghiêm. Nhân địa gốc của con là dùng tâm niệm Phật mà vào Vô sinh nhẫn, nay ở cõi này dẫn dắt người niệm Phật về Tịnh độ. Phật hỏi Viên Thông con không chọn lựa, nhiếp cả sáu căn, Tịnh niệm nối nhau, được Tam-ma-đề đây là bậc nhất.

Trường Thủy sớ chép: Vô Lượng Thọ cũng gọi là Vô Lượng Quang. Một người lúc nào cũng nhớ là Phật, một người lúc nào cũng quên là người không niệm Phật. Chúng sinh như thế chắc chắn không thấy Phật. Cho nên nói: Nếu gặp cũng như không gặp. Phật và chúng sinh nhớ nghĩ khớp nhau cho đến như hình với bóng. Tâm niệm Phật lúc đầu tức dùng tâm sinh diệt mà duyên với tướng tốt của Phật chuyên chú một cảnh, tâm không gián đoạn, thấy tướng tốt của Phật như ảnh trong gương. Lại quán việc niệm Phật đều là luống dối, vốn không tự tánh. Từ niệm tưởng hiện cho nên tâm năng niệm đã khởi hay chưa khởi từ đâu mà chẳng thấy có một pháp, rốt ráo vắng lặng, xưa nay lìa niệm.

Lìa tướng niệm giống như hư không, không có riêng một tướng pháp giới nào, tức là Pháp thân Như Lai bình đẳng nên nói là vào Vô sinh nhẫn. Ta đã được độ, chúng sinh không khác với ta. Tánh không khác quan hệ với nhau. Cho nên người niệm Phật ta đều dẫn dắt. Niệm thuộc về ý căn. Ý là chỗ nương của các căn, cho nên nói nhiếp cả, Niệm tức vô niệm, cho nên nói Tịnh niệm, không có khoảng cách giữa các niệm nên nói nối nhau. Tập giải nói do chứng nghiệm mà tu, tâm niệm Phật không thể chỉ nói về sự mà hiểu, niệm giữ ba thứ quán, Phật đủ ba thứ thân, tâm phá được ba hoặc, địa vị Vô sinh nhẫn mới được vào.

7. Kinh Cổ Âm Vương: Cõi nước, Cha mẹ và thân thuộc của Phật Di-đà.

Khi Phật ở tại Pháp Hội trong Đại thành Chiêm-ba thuyết giảng về thế giới Cực lạc ở Tây phương của Phật A-di-đà có nói rằng người nào trì niệm danh hiệu Phật ấy thì khi sắp qua đời, Phật và đại chúng sẽ đến chỗ người ấy khiến cho thấy, thấy rồi thì vui vẻ được sinh, lìa hẳn bào thai, thân hình uế dục, tự nhiên hóa sinh trong hoa sen báu. Cõi nước ấy tên là Thanh Thái Thánh vương, thành rộng mỗi bề mười ngàn do-tuần. Trong đó tràn đầy người thuộc dòng Sát-lợi. Cha của Phật A-di-đà là Chuyển luân Thánh vương Nguyệt Thượng, mẹ ngài tên là Thù Thắng Diệu Nhan, con tên là Nguyệt Minh. Đệ tử ngài là Vô Cấu Xứng, đệ tử trí tuệ tên là Lãm Quang, thần túc, tinh tấn, tên là Đại Hóa, Ma vương tên là Vô Thắng, có Đề-bàđạt-đa tên là Tịch Tĩnh. Nếu ai tụng Cổ Âm Thanh Vương Đại Đà-la-ni trong mười ngày mười đêm, suốt sáu thời chuyên niệm, kính lễ Phật ấy, chánh niệm bền chắc, thảy đều trừ bỏ tâm loạn. Niệm niệm không ngớt, thì trong mười ngày sẽ thấy Đức Phật ấy và thấy các Đức Như Lai mười phương cùng chỗ ở của các ngài. Chỉ trừ người có chướng nặng và độn căn thì không thấy được (Thần chú dài nên ở đây không chép vào).

Ngoài ra Lô Sơn Di-đà sớ có nói kinh Cổ Âm Vương nói: Có người nữ và kẻ ác nghịch há chẳng phải Di-đà hiện ra cõi uế ư? Thiên Trúc quyết nghi nói: Luận Thiên Thân nói người nữ và người căn thiếu không được sinh. Còn kinh Cổ Âm Vương thì cho rằng Phật mẫu khi Phật mới giáng sinh đã thành chánh giác, thì cõi nước ấy thanh tịnh theo, hẳn không có người nữ, hoặc Phật mẫu đã đổi thành người nam giống như Long Nữ ở cõi này. Hoặc lại chết như mẹ của Tất-đạt-đa. Thuyết của hai nhà nói thì lấy Thiên trúc làm chánh, vì kinh đã nói xa lìa bào thai uế dục. Vì Phật khuyên người cầu vãng sinh nên chỉ đối cơ khác nhau, có sai khác chút ít với các kinh.

8. Kinh A-di-đà: Cực lạc ở cách cõi này mười muôn ức cõi Phật:

Từ đây về phương Tây cách mười muôn ức cõi Phật có thế giới tên là Cực lạc. Cõi ấy có Đức Phật hiệu là A-di-đà hiện đang nói pháp. Tháp Xuyên Tân sớ nói: Cõi Cực lạc có bốn cõi khác nhau, đó là Đồng cư, Phương tiện, Thật báo và Tịch quang. Ba cõi trước có khổ có vui. Chỉ riêng cõi Tịch quang là vui rốt ráo. Trong Đồng cư có hai: Đồng cư uế và Đồng cư tịnh. Nay kinh này nói là Đồng cư tịnh, vì ý Phật khiến người tu đến thẳng cái vui của Tịch quang, nhưng vì người ấy chưa thể nên khiến lấy Đồng cư tịnh. Đã đến được cái Tịnh ấy thì có thể đến được cái vui rốt ráo của Tịch quang. Lớn lao thay việc khéo quyền biến của bậc Thánh nhân.

Trong luận Thập Nghi có hỏi:

- Tây phương cách đây mười muôn ức cõi Phật, kẻ phàm phu yếu kém làm sao đến được?

Đáp rằng:

- Vì đối với phàm phu mắt thịt có tâm lượng sinh tử nên nói thế. Chứ Tây phương cách đây mười muôn ức cõi, chỉ cần chúng sinh khi nghiệp Tịnh độ thành thì lúc sắp qua đời, tâm ở trong định tức là tâm thọ sinh Tịnh độ khi động niệm liền sinh Tịnh độ, Thế nên kinh Quán nói: Nước Phật cách đây không xa. Lại nghiệp lực không thể suy nghĩ bàn luận chỉ một niệm liền sinh không phải lo xa. Lại như người nằm mộng thân tuy ở trên giường mà tâm ý thức đến khắp phương khác. Sinh Tịnh độ cũng thế, chẳng nên nghi ngờ.

Tự Tín Lục nói: Cực lạc cách đây mười muôn ức cõi. Kẻ phàm phu chết rồi thì khoảnh khắc liền đến là do tâm mình vốn nhiệm mầu mà thôi. Như kinh Lăng Nghiêm nói: Ông cũng chưa biết rõ tất cả phù trần các tướng huyễn hóa, ngay chỗ sinh ra thì ngay đó diệt mất, do nhân duyên luống dối hòa hợp gọi là có sinh, do nhân duyên luống dối chia lìa gọi là có diệt. Thật chẳng biết sinh diệt xưa nay vốn là Như Lai tạng thường trú diệu minh. Trong tánh Chân thường mà tìm kiếm cái tới lui mê-ngộ sinh-tử thì không thật có. Lấy đây mà suy thì khi sắp qua đời do duyên lìa các nhiễm vẫn đục mà Tabà huyễn mất và duyên họp các thanh tịnh mà Cực lạc huyễn sinh, đây diệt kia sinh không cách nhau một sợi tóc thì sao có khoảnh khắc mà luận. Hoặc thấy cả ngày lấy bỏ mà không hề lấy bỏ vậy.

9. Kinh A-di-đà: Bảy ngày không loạn thì cảm ứng được Phật mà vãng sinh.

Không thể với nhân duyên phước đức gốc lành ít ỏi mà được sinh về cõi nước ấy. Nếu ai nghe nói Phật A-di-đà mà chấp trì danh hiệu Phật ấy từ một ngày cho đến bảy ngày mà nhất tâm bất loạn thì khi người ấy qua đời, Phật A-di-đà cùng các Thánh chúng sẽ hiện ra trước mắt, khi chết người ấy tâm không điên đảo liền được vãng sinh.

Trong Lô Sơn sớ nói: Không thể với chút ít gốc lành mà được sinh, tức nói phải có nhiều gốc lành mới được sinh. Chút ít gốc lành nghĩa là phát nguyện cho có, xưng danh tán loạn. Còn nhiều tức là chấp trì danh hiệu định kỳ nhất định. Chấp nghĩa là vâng lãnh, trì nghĩa là làm theo. Do tín nên vãng sinh trong lòng, vì niệm lực nên giữ mãi không quên.

Trong Tráp Xuyên Sớ chép: Phước đức dù nhiều nhưng đại khái như trong kinh Quán nói ba thứ Tịnh nghiệp. Ngài Thiên Thai nói ba thứ Tịnh nghiệp làm tán tâm, chỉ mười sáu Diệu Quán mới gọi là chánh thọ, lấy đây mà nêu kia. Phước đức nhân duyên tức là tán tâm, nhất tâm bất loạn là chánh thọ. Ngài Lô Sơn nói kinh này là tán thiện, còn kinh Quán thuộc định thiện. Tôi không theo thuyết ấy. Vả lại Phổ môn phẩm Sớ giải thích nhất tâm xưng danh có sự có lý. Nếu chú tâm luôn niệm không gián đoạn là sự nhất tâm, nếu hiểu rõ tâm này bốn tánh không sinh, cùng không tuệ tương ứng nhau thì gọi là lý nhất tâm. Dùng kia nghiệm đây thì Nhất tâm cũng thế. Song trong Phẩm Phổ Môn không có hai chữ bất loạn. Ngài Trí Giả còn đem không tuệ để giải thích, ở đây nói nhất tâm bất loạn sao lại chê là tán thiện.

10. Kinh Quán Vô Lượng Thọ: Thực hành ba thứ nghiệp được vãng sinh Tây phương.

Người muốn sinh về cõi nước ấy phải tu ba thứ phước:

1. Hiếu dưỡng cha mẹ, thờ kính thầy tổ, từ tâm không giết hại, tu mười nghiệp lành.

2. Thọ trì tam quy, đầy đủ các giới, chẳng phạm oai nghi.

3. Phát tâm Bồ-đề, tin sâu nhân quả, đọc tung kinh điển Đại thừa, khuyến khích, sách tấn hành giả.

Ba thứ nghiệp này là chánh nhân tịnh nghiệp của các Đức Phật ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai. Thiên Thai Quán kinh sớ nói rằng: Nghiệp thứ nhất của phàm phu, nghiệp thứ hai của hàng Nhị thừa, nghiệp thứ ba là của Đại thừa, có pháp chẳng chung (Bất cộng):

1. Kính trên nhường dưới, từ tâm tu mười điều lành đó, là chỉ hạnh thân trừ ba tà, miệng lìa bốn lỗi, ý dứt ba ác.

2. Giới tại gia cũng tức mười giới, các giới đầy đủ tức người xuất gia, tại gia thọ đủ các giới vi tế, không phạm oai nghi có ba ngàn oai nghi đều chẳng thiếu phạm.

3. Phát tâm Bồ-đề. Phát khởi ý thú gọi là phát tâm, Phật quả viên thông gọi là Bồ-đề. Đọc tụng kinh điển Đại thừa là nói về tu giải, còn Hạnh vận thông gọi đó là Thừa. Ngài Diệu Tông nói ba thứ nghiệp này, nếu ai được nghiệp trước thì chưa được nghiệp sau, còn ai được nghiệp sau thì sẽ gồm được nghiệp trước.

11. Kinh Quán Vô Lượng Thọ: Trước tu quán mặt Trời tưởng về Tây phương.

Phật dạy bà Vi-đề-hy rằng: Bà và chúng sinh nên khởi niệm quán tưởng ngồi xây mặt về hướng Tây mà quán nhất định mặt trời lặn, khiến tâm bền chắc, chuyên tưởng không dời đổi, thấy mặt trời sắp lặn như chiếc trống treo.

Quán kinh Sớ nói: Mặt trời sắp lặn như chiếc trống treo là cách đưa tư tưởng về Tây phương. Ngài Diệu Tông nói phép cột tâm là quán mặt trời lặn, tức muốn cho tư tưởng luôn nhất định hướng về Tây phương, là nơi ở của Phật A-di-đà thì lấy mặt trời lặn làm cảnh mà tưởng. Nay khởi quán thấy mặt trời tròn thì biết tâm năng tưởng vốn sẵn có tất cả y chánh. Ở đây lấy tâm vốn có mặt trời mà duyên với mặt trời tức tâm, khiến mặt trời tánh hiện ở trước, ở đây là lấy tâm pháp giới duyên với cảnh Pháp giới mà khởi lên mặt trời Pháp giới thì đều là Pháp giới, há chẳng phải tức không, giả, trung trụ chắc vào tâm này ư? Khi đã rõ ràng rồi thì việc quán mặt trời đã thành tựu.

12. Kinh Quán Vô Lượng Thọ: Y cứ vào tâm mà quán Phật thuộc pháp quán tượng thứ tám.

Kế đến tưởng Phật, vì sao? Vì các Đức Phật Như Lai là thân pháp giới mà nhập vào tâm tưởng của tất cả chúng sinh. Thế nên khi tâm các ông tưởng Phật thì tâm ấy tức là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Tâm ấy làm Phật, tâm ấy là Phật.

Biển Chánh biến tri của các Đức Phật từ tâm tưởng sinh ra. Thế nên phải nhất tâm giữ niệm quán kiên trì Đức Phật ấy.

Quán kinh sớ nói: "Từ các Đức Phật Như Lai" trở đi là nói chung về các Phật. Thế nên từ "phải nên" trở đi là quán riêng Di-đà. Thân Pháp giới tức là thân Pháp tánh của Báo Phật. Chúng sinh tâm Tịnh là Pháp Thân tự tại, nên nói là vào. Như mặt trời sáng giữa trời. Ảnh hiện trăm sông là nói thân Phật tự tại tùy vật mà hiện ra. Lại thân Pháp giới là thân Phật, không đâu chẳng khắp, lấy Pháp giới làm thể. Được Tam-muội Quán Phật này mà giải nhập tương ưng, cho nên nói là nhập vào tâm tưởng. Tâm ấy làm Phật, Phật vốn là không, vì tâm tịnh cho nên có. Tâm ấy là Phật, vừa rồi hỏi Phật vốn là không vì tâm tịnh cho nên có, bèn cho rằng như thế cho nên nói "tức là", mới học thì gọi là làm, cuối cùng thành tựu thì gọi "Là". Ngài Diệu Tông giải thích rằng: Muốn tưởng thân Phật thì phải biết quán thể. Thể là bổn giác khởi thành, năng quán, bổn giác chính là thân pháp giới của các Đức Phật. Vì các Đức Phật không có chỗ chứng nào riêng khác mà hoàn toàn là chứng bản tánh của chúng sinh. Nếu thỉ giác có công phu thì bổn giác liền hiển bày, nên nói là Pháp thân từ tâm tưởng sinh ra. Hơn nữa, Đức Phật Di-đà cùng tất cả các Đức Phật là một thân một trí, ứng dụng cũng thế. Tướng Di-đà hiển hiện tức là thân của các Đức Phật. Thân các Đức Phật sáng rõ tức là thể của Di-đà. Thế nên nói chung các Đức Phật để làm quán thể Di-đà. Từ "Thân Pháp giới" trở đi là nói về đạo cảm ứng giao nhau mà giải thích. Từ "Lại thân Pháp giới" trở đi là giải nhập tương ứng mà giải thích. Dung Tâm giải thích rằng: Nếu không có giải thích đầu thì quán không phải là quán Phật. Nếu không có giải thích sau thì chúng sinh và Phật thể khác nhau. Hai giải thích thành tựu cho nhau. Pháp quán này tâm ấy làm Phật, là nói tức tâm biến toàn tánh thành tu. Tâm ấy là Phật là ngoài tâm không Phật, ngoài Phật không tâm. Tâm đã hoàn toàn là tâm ấy. Tâm há thấy tâm. Như ngón tay không chạm dao thì không bị thương. Ban-chu gọi là Ngã Sở niệm tức thấy tâm làm Phật. Chẳng biết chỉ quán của tâm y cứ theo đây mà lập trung quán. Ban-chu và văn này đồng nhau. Như Lai sợ người chấp tướng quán Phật cho nên ở trước chân tượng bày việc quán thể. Khiến y theo Pháp này mà quán thân Phật. Diệu Tông lại nói: Nay quán tâm, không phải ở ngay nơi ấm mà quán Bổn tánh Phật, phải nhờ Phật khác mà hiển bày Bổn tánh, cho nên trước nói ứng Phật nhập vào tâm tưởng ta, kế nói thân Phật hoàn toàn là Bổn giác, cho nên ứng Phật hiển rõ thì biết Bản tánh sáng, nghĩa nhờ bên ngoài mà thành thì quán Duy tâm được lập. Nếu luận "Làm" và "Là" tức là ba quán không thể nghĩ bàn. Nếu hoặc phá hoặc lập gọi là "Làm" thì tức là hai quán không và giả.

Còn chẳng phá, chẳng lập gọi là "Là", đó là quán Trung đạo. Toàn "là" mà "làm" thì ba đế đều phá, đều lập. Toàn "làm" mà "là" thì cả ba đế đều không phải phá, lập, tức là không giả của Trung. Gọi làm thì phá được ba hoặc thành được ba pháp, cho nên cảm ba thân viên ứng của Phật khác mà có thể thành tâm ta. Ba thân của hiện quả tức là Trung của không, giả. Gọi "là" thì toàn hoặc tức là trí, toàn chướng tức là đức, cho nên tâm là Ứng Phật, tâm là quả Phật, cho nên biết "làm" là một tâm. Tu ba quán này thì đó là tổng thể của mười sáu pháp quán. Diệu tông của một kinh thì văn trích từ đây, nghĩa trùm khắp trước sau. Thế nên người tu phải thực hành ý này. Người tu nhân Tịnh độ chẳng thể không biết.

13. Kinh Quán Vô Lượng Thọ: Đủ ba thứ tâm liền được vãng sinh.

Nếu có chúng sinh nguyện sinh về nước ấy, thì phát ba tâm liền được vãng sinh. Ba tâm ấy là gì?

1. Tâm chí thành.

2. Tâm sâu xa.

3. Tâm phát nguyện hồi hướng.

Người có ba tâm này quyết định vãng sinh nước ấy.

Quán kinh sớ nói: Tâm chí thành, tức là nói chúng sinh thật hành. "Chí" là chuyên, "Thành" là thật. "Sâu xa" là quả Phật cao sâu, lấy tâm mà cầu, nên nói là tâm sâu xa. Cũng từ lý sâu mà sinh, cũng từ gốc lành vui sâu dày mà sinh. Nên kinh Thập địa có nói vào tâm sâu rộng. Kinh Niết-bàn nói: Gốc sâu khó nhổ, nên nói là tâm sâu xa. Ngài Thiện Đạo giải thích rằng: Thân lễ bái Đức Phật ấy, miệng khen ngợi Đức Phật ấy, ý quán sát Đức Phật ấy. Vì ba nghiệp chân thật nên gọi là tâm chí thành. Vì tín tâm chân thật tin biết tự thân mình đầy dẫy phiền não, phải trôi giạt trong ba cõi. Tin biết bổn nguyện Di-đà, xưng danh dù chỉ mười câu cho đến một niệm không có tâm nghi ngờ, nên gọi là tâm sâu xa. Phàm tu được tất cả gốc lành thảy đều hồi hướng nguyện cầu vãng sinh, nên gọi là tâm phát nguyện hồi hướng. Đủ ba tâm này chắc chắn được vãng sinh. Nếu thiếu một tâm thì chẳng được sinh.

14. Kinh Quán Vô Lượng Thọ: Công phu mười niệm thành tựu thì hạ phẩm hạ sinh

Về Hạ phẩm hạ sinh, gây ra nghiệp ác, như năm tội nghịch, mười điều ác, vì nghiệp ác thì phải đọa vào đường ác. Người ngu này khi sắp qua đời gặp được Thiện tri thức nói cho nghe pháp mầu, dạy niệm Phật. Người này bị khổ bức bách nên chẳng tỉnh táo mà niệm Phật. Có bạn lành bảo rằng: Nếu ông chẳng niệm được thì nên xưng danh Phật Vô Lượng Thọ. Như thế mà dốc lòng khiến cho từng tiếng không dứt, đầy đủ mười niệm, xưng niệm Nam-mô A-di-đà Phật. Vì xưng niệm danh hiệu

Phật nên trong mỗi niệm trừ được tội nặng trong tám mươi ức kiếp sinh tử. Khi qua đời thấy hoa sen vàng liền được vãng sinh.

Quán Kinh Sớ nói: Tâm lành nối nhau đến mười niệm hoặc một niệm thành tựu liền được vãng sinh. Vì niệm Phật diệt trừ tội chướng, nên lấy niệm Phật làm duyên tốt.

Hỏi: Vì sao chỉ với tâm lực trong một thời gian ngắn mà có thể thắng được việc tạo ác của cả cuộc đời ư?

Đáp: Đại luận có nói tâm này tuy thời gian ít mà tâm lực rất mạnh mẽ nhanh chóng, tâm chắc chắn quyết đoán hơn cả nguyện lực trăm năm. Tâm ấy gọi là Đại tâm, vì bỏ thân là việc gấp, như người vào trận chẳng tiếc thân mạng gọi là người mạnh mẽ. Diệu Tông nói: Người này tuy gây ra nghiệp ác nhưng đã có tu quán, nên khiến cho khi sắp qua đời khuyên niệm với định tâm thì sẽ thành, cũng là người thừa gấp giới chậm. Dẫu hiện đời không tu Tam-muội thì cũng là hạt giống đời trước nay đã chín. Cho nên trong luận Thập Nghi nói rằng: Khi sắp qua đời gặp được Thiện tri thức mà niệm được mười niệm thì đều do nghiệp lành đời trước rất mạnh mẽ nên mới gặp được tri thức. Giải thích như thế này thì mới hợp với nghĩa định thiện. Nếu người trước kia vốn chẳng tu Tam-muội thì thuộc tiền hối, có nghĩa khinh trọng.

Kinh Quán Vô Lượng Thọ: Bà Vi-đề-hy và thị nữ đều được vãng sinh

Phật nói xong lời ấy, bà Vi-đề-hy và năm trăm cô gái hầu nghe lời Phật nói liền thấy Cực lạc thế giới, tâm rất vui mừng, được Vô sinh nhẫn. Đức Thế Tôn thọ ký cho đều được vãng sinh.

Quán kinh sớ hỏi: Luận nói người nữ và căn thiếu không sinh còn kinh này nói bà Vi-đề-hy và năm trăm cô gái hầu đều được vãng sinh là sao? Đáp rằng: Luận nói người nữ và căn thiếu không sinh, là nói người sinh về nước ấy thì Tịnh căn lìa dục không có thân nữ, các căn đều tinh vi, nên không có căn thiếu. Kinh nói mới sinh cho nên có tâm lành tất cả đều được vãng sinh. Luận Thập Nghi nói: Ở đó không có người nữ và không có người mù, điếc, câm, ngọng. Nhưng ở cõi này thì tất cả người nữ và những kẻ điếc, đui, câm, ngọng mà tâm niệm Di-đà thì đều được sinh về nước ấy.

15. Kinh A-di-đà: Do tâm nghi ngờ sẽ sinh ở biên giới của Tây phương.

Đức Phật nói người bậc trung tuy không bỏ nhà lìa tục nhưng thọ trì kinh giới, lập đàn bố thí, thường tin lời Phật, muốn sinh về nước Phật ấy, người này khi chết sẽ thấy Phật A-di-đà, sẽ được sinh về cõi nước Phật ấy mà có được trí tuệ mạnh mẽ. Nếu người giữa chừng có tâm ăn năn hoặc nghi ngờ không tin, chỉ lập đàn bố thí, làm các điều lành được phước mà không tin vãng sinh về nước Phật Di-đà. Người này niệm nối nhau không dứt nhưng lúc tin lúc không, chẳng chuyên chú nhất định. Nhưng căn cứ vào các nguyện lành làm gốc cho nên cũng được vãng sinh. Nhưng người này chết rồi không được đến chỗ Phật A-di-đà. Tiện đường thấy biên giới nước Phật A-di-đà trong thành toàn bảy báu nên tâm rất vui mừng bèn ngừng ở đây. Hóa sinh nơi hoa sen trong ao hoa bảy báu. Thành rộng mỗi bề hai ngàn dặm, vui sướng như cung trời Đao lợi nhưng không thấy Phật, chỉ thấy ánh sáng, tâm rất ăn năn, người này ở trong thành ấy năm trăm năm rồi mới được sinh đến chỗ Phật A-di-đà mà nghe pháp được ngộ.

16. Kinh Vô Lượng Thọ: Không hiểu trí Phật sẽ thọ sinh trong Thai cung.

Phật bảo ngài Từ Thị rằng: Người dân nước ấy (Cực lạc) có thai sinh, ông có thấy chăng?

Thưa: Con đã thấy ở trong thai sinh ấy như ở trong cung điện rộng một trăm do-tuần hoặc năm trăm do-tuần, đều ở trong ấy mà thọ hưởng sự vui sướng như cung trời Đao lợi. Ngài Từ Thị bạch Phật rằng: Do đâu mà người cõi nước ấy hóa sinh thai sinh?

Phật bảo: Nếu có chúng sinh tâm nghi ngờ, tu các công đức nguyện sinh về nước ấy mà không hiểu trí Phật, trí Bất tư nghì, trí Bất khả xưng, trí

Đại thừa rộng lớn, Thắng trí Vô đẳng vô luân tối thượng... Đối với các trí ấy mà mê hoặc không tin. Song còn tin tội phước mà tu tập gốc lành, cầu sinh về nước ấy. Các chúng sinh này sinh vào cung điện ấy sống năm trăm năm, thường không thấy Phật, không nghe Pháp, không thấy Tăng. Thế nên gọi là thai sinh. Nếu có chúng sinh tin rõ trí Phật cho đến trí thù thắng, làm các công đức, tín tâm hồi hướng thì các chúng sinh này sẽ hóa sinh trong hoa sen bảy báu, ngồi kiết già, phút chốc thân tướng sáng suốt, trí tuệ công đức thành tựu đầy đủ như các Bồtát. Này Di-lặc, phải biết người hóa sinh ấy vì trí tuệ cao quý nên Phật nói người ấy, sau khi làm việc đó nếu trong tâm có ăn năn nghi ngờ, không tin làm lành đời sau được phước, không tin việc vãng sinh nước Phật, người này dù thế vẫn được vãng sinh. Người này khi qua đời, Phật A-di-đà liền khiến người ấy nằm mộng thấy nước Phật A-di-đà, tâm rất vui mừng tự nghĩ rằng ta ăn năn, không biết lợi ích làm các điều lành nay được vãng sinh. Người này chỉ nghĩ, miệng không nói được, liền tự hối lỗi, nghi ngờ giảm ít, ăn năn vô cùng. Người này khi chết liền sinh về nước Phật A-di-đà nhưng không đến trước, tiện đường thấy thành bảy báu rộng hai ngàn dặm, tâm rất vui mừng bèn nghỉ lại ở đấy. Ở trong ao bảy báu mà hóa sinh vào hoa sen, như cung trời Đao lợi thứ hai, sống trong thành ấy năm trăm năm, về sau được ra mới đến chỗ Phật A-diđà. Người này nghe kinh nhưng tâm không hiểu, trí tuệ không sáng. Nhà cửa trên đất, không thể tùy ý khiến nhà cửa cao rộng ở trên hư không. Lại cách Phật A-di-đà rất xa không thể gần được, cũng như hạng người nghi ngờ thứ hai. Người này lâu sau trí tuệ cũng được khai giải, hiểu kinh mạnh mẽ như hạng người thứ nhất. Vì sao? Vì đời trước khi cầu Đạo giữa chừng thì ăn năn, hồ nghi, chợt tin chợt không, không tin làm lành được phước đức, đều tự nhiên được như thế. Phải biết người sinh nghi ngờ bị mất lợi lớn. Thế nên phải sáng suốt tin tưởng vào trí tuệ vô thượng của các Đức Phật.

Quán kinh sớ có giải thích rằng: Trong pháp quán mặt trời dạy khiến chánh quán để trừ tâm nghi. Đại Bản nói với tâm nghi ngờ mà tu các công đức thì sẽ lạc vào biên địa (biên giới) lại chịu thai sinh, cho nên thực hành quán này để khiến dứt bỏ nghi ngờ. Diệu Tông nói: Kinh nói không hiểu trí Phật liền sinh nghi ngờ. Sớ nói: Cho nên thực hành pháp quán này khiến dứt bỏ nghi ngờ, nếu pháp quán này hiển sáng thì liền hiểu trí Phật. Nếu không dùng ba quán mà quán mặt trời lặn thì mê trí Phật. Quán mặt trời như thế mà các phép quán khác cũng như vậy. Cho nên biết Đại sư y vào trí Phật mà lập ra pháp quán này. Nếu phàm làm ít điều lành đến khi sắp qua đời mà hồi hướng trí Phật lại làm các điều ác, thì phải nương trí Phật mà cầu diệt hết các tội chướng. Đã có thừa chủng thì khi sinh về nước ấy sẽ nhanh mau được thấy Tam bảo, không sinh vào biên địa và thai cung.

18. Kinh Bồ-tát Xử Thai: Có tâm đắm nhiễm thì sinh vào nước Giải mạn.

Phật nói ở phương Tây cách cõi này mười hai ức na-do-tha, có cõi nước Giải mạn, vui sướng an ổn. Người muốn vãng sinh về nước Phật A-di-đà, thì phải qua nước này. Người nhiều đắm nhiễm liền nguyện sinh về nước ấy thì không được đến cõi Phật Di-đà. Nếu người thấy đây mà không tham, không đắm thì được vượt qua mà đến nước An lạc.

Di-đà kinh sao nói: Nước Giải mạn này tức kinh Vô Lượng Thọ gọi là Nghi thành. Phật sợ chúng sinh niệm Phật sinh nghi ngờ nên hiện ra nước này.

Hỏi: Đã nói là giải mạn sao lại vui sướng được? Đáp: Đối với Cực lạc tức là giải mạn, còn đối với Ta-bà thì là vui sướng.

19. Kinh Bình Đẳng Giác: Thanh văn ở Tịnh độ tu hành chứng quả.

Cõi Phật vô lượng thanh tịnh. Các Bồ-tát, A-lahán đều ở trong ấy mà hành đạo. Có người ở trên đất giảng kinh, tụng kinh, ngồi thiền, có người ở trên hư không mà giảng kinh, đi kinh hành. Trong đó ai chưa chứng quả Tu-đã-hoàn thì chứng quả Tu-đà-hoàn, ai chưa chứng quả Tư-đà-hàm thì chứng quả Tư-đà-hàm, ai chưa chứng quả A-nahàm thì chứng quả A-na-hàm, ai chưa chứng quả A-la-hán thì chứng quả A-la-hán, ai chưa được Aduy-việt trí thì được A-duy-việt trí không lui sụt. Ai nấy tự hành đạo đều rất vui mừng. Lại kinh Adi-đà nói đệ tử Đức Phật ấy đều là A-la-hán đông không xiết kể. Lại trong kinh Quán nói: Người trong ba bậc vãng sinh về nước ấy nghe pháp đều chứng quả A-la-hán.

Trong luận Thập Nghi chép: Cõi nước ấy không có người có tâm nhị thừa, thuần nhất là bạn lành Đại thừa thanh tịnh.

Quán kinh sớ hỏi: Theo luận Vãng Sinh thì hàng Nhị thừa không sinh, còn trong kinh Quán thì nói hàng Tiểu thừa được sinh là sao?

Đáp: Đúng ra thì hạnh Tiểu thừa không sinh, bởi do muốn phát triển hạt giống Đại thừa nên mới được sinh! Vì trước kia thường học Tiểu thừa đến đó nghe Khổ, Không, Vô thường mà phát sinh sự hiểu trước đây đã chứng Tiểu quả. Chứng Tiểu quả rồi thì không trụ ở Tiểu bèn vào Đại thừa. Diệu Tông chép: Do hồi tâm mà được sinh, do thói quen mà chứng Tiểu. Biết Đại thì chứng Tiểu sẽ cũng không chấp thiên chân, nên sau đó không lâu sẽ chứng Đại thừa.

20. Kinh Vô Lượng Thọ: Gây năm tội nghịch và chê bai chánh pháp thì không được vãng sinh.

Trong bốn mươi tám nguyện thì nguyện thứ mười tám nói: Nếu tôi thành Phật, chúng sinh trong mười phương dốc lòng tin ưa muốn sinh về nước tôi, dù cho chỉ niệm mười niệm, nếu không sinh thì tôi không thành Chánh giác, chỉ trừ người gây ra năm tội nghịch và chê bai Chánh pháp. Lại quyển sau có nói: Những ai nghe danh hiệu Phật tin chắc vui mừng dù chỉ một niệm hồi hướng nguyện sinh thì liền được vãng sinh, chỉ trừ người gây ra năm tội nghịch và hủy báng Chánh pháp.

Quán kinh sớ nói: Đại Bản nói: Năm tội nghịch và chê bai chánh pháp không được sinh. Còn kinh Quán này thì nói năm tội nghịch được sinh. Giải thích có hai nghĩa, nói về người tạo tội có thượng căn, hạ căn: Như thượng căn, ở đời theo phép Vua, phạm năm tội nghịch thì bị tội nặng, nếu có hối lỗi thì tội tiêu mỏng nên cho được sinh. Còn Hạ căn tạo tội phần nhiều không hối lỗi, nên không được sinh; hai là nói về hạnh, thì hạnh có định và tán. Quán Phật Tam-muội gọi là định. Tu các nghiệp lành khác gọi là tán. Sức tán thiện yếu không trừ được năm tội nghịch nên không được sinh. Đại Bản theo đây nên nói không sinh. Còn kinh này nói về quán nên được sinh.

21. Kinh Vô Lượng Thọ: Tướng tu nhân Vãng Sinh của ba bậc.

Phật nói chúng sinh trong mười phương nguyện sinh về nước ấy gồm có ba bậc: Bậc

Thượng, là bỏ nhà, lìa dục làm Sa-môn, phát tâm Bồ-đề, một bề chuyên niệm Phật Vô Lượng Thọ, tu các công đức và nguyện sinh về nước ấy. Người ấy khi chết thì Phật Vô Lượng Thọ cùng các đại chúng hiện ra trước mặt, người ấy liền theo Đức Phật kia mà sinh vào trong hoa bảy báu, an trụ không lui sụt, trí tuệ mạnh mẽ, thần thông tự tại. Bậc Trung: Dốc lòng nguyện sinh về nước ấy, tuy chẳng làm Sa-môn nhưng tu công đức lớn, phát tâm Bồ-đề Vô thượng, lúc nào cũng chuyên niệm Phật Vô Lượng Thọ, tu điều lành nhiều ít, vâng giữ trai giới, xây tạo tháp tượng, cúng dường Sa-môn... Các thứ ấy đều hồi hướng nguyện sinh nước ấy. Người này khi sắp qua đời, Phật Vô Lượng Thọ sẽ hóa hiện thân cùng các đại chúng hiện ra trước mặt. Người ấy liền theo Hóa Phật vãng sinh về nước ấy, an trụ vị không lui sụt, công đức trí tuệ đứng sau bậc Thượng. Bậc Hạ: Dốc lòng muốn sinh về nước ấy. Giả sử không làm các công đức nhưng phải phát tâm Bồ-đề Vô thượng, chuyên ý một mực cho đến chỉ mười niệm. Nếu nghe pháp sâu vui mừng tin ưa, không sinh nghi ngờ cho đến một niệm luôn nghĩ về Đức Phật ấy, người này khi sắp qua đời mộng thấy Đức Phật ấy, cũng được vãng sinh. Công đức trí tuệ kế sau bậc Trung.

Quán kinh sớ nói rằng: Chín phẩm của kinh Quán là khiến cho biết giai vị thượng, trung, hạ, tức là ba bậc của Đại Bản, Lô Sơn San Chánh Ký chép: Ba bậc của Đại Bản chỉ bằng sáu phẩm của kinh Quán. Vì ba bậc ấy thuần nói về hạnh lành không có người ác. Ngài Linh Chi bảo ba phẩm của Đại Bản đều có phát tâm có thể so với bậc Thượng của kinh Quán, còn hai bậc Trung và Hạ thì không so sánh được. Huống là việc tạo nhân sau đây hoàn toàn khác. Phụ Chánh giải rằng: Ngài Thiên Thai dùng chín Phẩm của kinh này xem đồng với ba bậc của Đại Bản. Bèn y cứ vào đại vị cao, thấp, kia, đây, đồng nhau mà hiểu, chứ không y cứ theo tướng của hạnh nhân phát tâm để hiểu ba phẩm.

22. Kinh Vô Lượng Thọ: So sánh sự tu thiện khác nhau giữa hai cõi.

Phật nói: Người đời sau gặp được lời Phật, kinh Phật nói nên suy nghĩ chín chắn. Ở trong đó mà giữ tâm hạnh ngay thẳng, chủ trương làm lành và hóa độ kẻ thấp kém khiến ai nấy tự giữ gìn, gieo trồng gốc đức, thi ân bố đức, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ, chánh tâm chánh ý, trai giới thanh tịnh, một ngày một đêm hơn ở cõi Phật Vô Lượng Thọ làm lành trăm năm. Vì sao? Vì cõi Phật ấy vô vi tự nhiên, đều làm các điều lành, không có mảy may điều ác. Ở cõi này mà tu điều lành mười ngày mười đêm thì hơn ở cõi nước khác của các Đức Phật làm lành một ngàn năm. Vì cõi nước của các Đức Phật ở phương khác người làm lành thì nhiều, kẻ làm ác thì ít. Cho nên chỉ ở cõi này nhiều người ác mà không có tự nhiên, thân tâm khốn nhọc, ăn khổ uống độc. Ta thương xót các ông nên hết lòng khuyên dạy, các ông nên gắng sức tu điều lành.

23. Kinh Vô Lượng Thọ: Nhiều chúng Bồ-tát Vãng sinh Tịnh độ Bồ-tát Di-lặc bạch Phật rằng: Ở thế giới này có bao nhiêu Bồ-tát không lui sụt vãng sinh Cực lạc? Phật bảo ngài Di-lặc rằng: Ở thế giới này có sáu mươi bảy ức Bồtát không lui sụt vãng sinh cõi nước ấy. Mỗi Bồ-tát đã từng cúng dường vô số các Đức Phật thứ tự như Di-lặc. Các Bồ-tát tiểu hạnh và những người tu tập ít công đức sinh về đó thì đông không kể hết. Lại chẳng phải chỉ các Bồ-tát ở cõi ta vãng sinh mà ở các cõi Phật phương khác như cõi Phật Viễn Chiếu có một trăm tám mươi ức Bồ-tát đã vãng sinh cho đến không chỉ mười bốn cõi Phật có các Bồ-tát vãng sinh, mà ở thế giới mười phương có vô lượng cõi Phật, người vãng sinh đông vô số. Nếu kể đủ một kiếp cũng không hết được. Nay chỉ nói sơ lược.

24. Kinh Vô Lượng Thọ: Khi Pháp diệt, lưu lại kinh này một trăm năm để độ người.

Nếu có người nghe kinh này thì đối với Đạo Vô thượng sẽ không lui sụt. Thế nên phải chuyên tâm nói và làm. Ta nói kinh pháp này khiến thấy Phật Vô Lượng Thọ và cõi nước của ngài. Nếu ai có thắc mắc gì nên thưa hỏi, không được, sau khi ta diệt độ rồi lại sinh nghi ngờ. Ở đời vị lai khi các kinh sách đã diệt hết rồi thì ta thương xót, đặc biệt lưu lại kinh này trong một trăm năm, để có chúng sinh nào gặp kinh này thì tùy ý cầu nguyện sẽ đều được độ. Trong đó nếu có người không tin việc đọc tụng, xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà lại chê bai, hủy báng thì trong năm kiếp bị đọa địa ngục chịu đủ các khổ.

25. Kinh Vô Lượng Thọ: Khuyên mọi người tinh tấn gắng sức cầu sinh.

Phật bảo Bồ-tát Di-lặc rằng: Các trời, người ở cõi nước Phật Vô Lượng Thọ rất vi diệu, an vui thanh tịnh. Người ở cõi này sao không cố gắng làm lành, niệm đạo tự nhiên, không đắm trước trên dưới, thông đạt không bờ mé. Ai nấy đều nên tinh tấn gắng sức tự cầu thì sẽ được vượt lên mà vãng sinh nước An lạc, dứt hết năm đường ác, nẻo ác tự nhiên đóng bít. Đạo rất dễ đến mà không có người. Nước ấy chẳng có trái nghịch, đến được tự nhiên. Sao không bỏ việc đời mà siêng năng cầu Đạo đức; có thể được thì sống rất lâu, vui vẻ vô cùng cực.

26. Kinh Vô Lượng Thọ: Phật Vô lượng Thọ ánh sáng chiếu khắp

Phật bảo A-nan: Phật Vô Lượng Thọ có ánh sáng oai thần cao quý bậc nhất. Ánh sáng của các Đức Phật khác đều không sánh bằng. Có Phật ánh sáng chiếu trăm cõi Phật, hoặc chiếu ngàn thế giới Phật. Nói tóm lại là chiếu về phương Đông hằng hà sa cõi Phật. Các phương Nam, Tây, Bắc và bốn góc, trên, dưới, cũng giống như thế. Hoặc có ánh sáng Phật chiếu xa bảy thước, hoặc chiếu xa một do-tuần, hoặc gấp bội như thế cho đến chiếu xa cả một cõi Phật. Thế nên, Phật Vô Lượng Thọ còn gọi là Phật Vô Lượng Quang, Phật Vô Biên Quang, Phật Vô Ngại Quang... Nếu chúng sinh nào gặp được ánh sáng này thì ba cấu tiêu trừ, thân ý nhu hòa vui vẻ, thiện tâm sinh lớn. Nếu ở trong ba đường dữ mà thấy ánh sáng này thì không bị các khổ não, chết rồi đều được giải thoát.

27. Kinh Vô Lượng Thọ: Bát báu ăn uống tự nhiên đầy đủ.

Ở cõi nước Phật ấy, những người vãng sinh nơi ở, cung điện, y phục, đồ dùng quý báu đều tự nhiên hiện ra, như các bát vàng, bạc, lưu ly... tùy ý hiện ra, đủ cả trăm vị ăn uống tự nhiên đầy đủ. Tuy có ăn mà như không ăn, chỉ thấy sắc nghe hương, ý cho là ăn, tự nhiên no đủ. Thân tâm nhu hòa không hề mê đắm. Việc ăn uống xong liền biến mất đến giờ khắc thì hiện ra. Kinh Bình Đẳng Giác và kinh Đại A-di-đà đều nói Phật A-di-đà, Bồ-tát, A-la-hán đều tự nhiên có bát bảy báu, trong bát đủ cả trăm vị, thức ăn ở thế gian hoặc trên trời và cả tám phương trên, dưới, thức ăn tinh vi, hương vị không gì sánh được, tự nhiên hóa sinh. Muốn ăn liền có không nhiều không ít, cũng chẳng nói ngon dở, ăn xong liền biến mất, sạch sẽ thanh tịnh, không đắm nhiễm việc ăn uống, vì chỉ dùng làm khí lực mà thôi. Luận Vãng Sinh nói: Ưa thích vị Phật pháp, Thiền Tam-muội làm thức ăn.

An dưỡng Ký chép: Trước nói thật không có ăn uống. kế hai kinh cho là dùng làm khí lực nên ăn. Y cứ theo cõi Dục thì chưa bỏ cách ăn từng phần (đoàn thực), nên cần phải ăn. Theo ngài Mãn Nguyện tử thành Phật có thức ăn bằng Pháp hỷ, Thiền duyệt thì không tưởng thức ăn khác, vậy ở Tịnh độ cũng không thật có ăn. Nên biết ở cõi ấy trăm vị và bốn thứ vi diệu đều tùy ý mà có đủ, ăn và không ăn cũng là một, cách nói của hai kinh tùy lúc mà hiểu.

28. Kinh Hoa Nghiêm: So sánh sự dài ngắn của ngày đêm ở hai cõi

Trong phẩm Thọ Lượng, Bồ-tát Tâm Vương nói: Một kiếp ở cõi Phật Thích-ca thuộc thế giới Ta-bà này bằng một ngày một đêm ở Cực lạc Thế giới cõi Phật A-di-đà. Một kiếp ở thế giới Cực lạc bằng một ngày một đêm ở cõi Phật Kim Cang Kiên thuộc thế giới Ca-sa Tràng. Lần lượt như thế qua trăm muôn A-tăng-kỳ thế giới thì một kiếp ở thế giới sau cũng bằng một ngày một đêm ở thế giới Thắng liên hoa thuộc cõi Phật Hiền Thắng. Lại kinh A-di-đà nói cõi Phật ấy sáu thời trong một ngày đêm.

Trong Di-đà Thông Tán, ngài Từ Ân nói: Tịnh độ ngày đêm đều có sáu thời.

Hỏi: Người ở Tịnh độ dứt bặt vô minh, cõi nước ấy không có sáng tối, sao lại nói có ngày đêm?

Đáp: Hoa nở ao vàng hóa sinh là trời sáng. Chim ngủ rừng ngọc, Bồ-tát khởi tưởng là đêm. Tráp Xuyên tân sớ chép: Phải biết sáu thời là ngày ba, đêm ba. Chúng sinh nước ấy thân có ánh sáng, không có núi Tu-di nên không có mặt trời mọc lặn mà chia ngày đêm. Như Thích Thiêm nói các vị trời lấy hoa nở hoa khép mà biểu thị ngày đêm, thì thuyết của Từ Ân có lẽ đúng. Kinh này mượn giờ khắc ở cõi này mà chia thời gian. Như việc kinh Hoa Nghiêm nói Tây phương có sáu thời thì không thể dùng thời gian giờ Dần, giờ Mẹo mà tính thời gian dài ngắn. Có chỗ chẳng theo thuyết của ngài Từ Ân vì không có chứng cứ. Nên tôi xem kinh Bi Hoa nói về thế giới của Tôn Phật Liên Hoa rằng: Phật ấy thường có ánh sáng, lấy hoa khép chim đậu Bồ-tát vào định thì biết là đêm. Nếu gió thổi, hoa bay, chim hót Bồ-tát xuất định thì biết là ngày.

29. Kinh Văn-thù Thuyết Bát-nhã: Tu Nhất hạnh Tam-muội chuyên xưng danh hiệu Phật.

Ngài Văn-thù nói: Vì sao gọi là Nhất hạnh Tam-muội? Phật nói Pháp giới nhất tướng hệ duyên với Pháp giới đó gọi là Nhất hạnh Tam-muội. Muốn vào Nhất hạnh Tam-muội phải ở chỗ vắng vẻ bỏ các loạn ý, chẳng chấp hình tướng nào, giữ tâm vào một Đức Phật, chuyên xưng niệm danh hiệu. Tùy theo chỗ Phật mà ngồi thẳng hướng về, niệm niệm nối nhau. Tức là trong một niệm thấy đủ các Đức Phật quá khứ, hiện tại.

Vì sao? Vì công đức niệm một Đức Phật cũng bằng công đức niệm các Đức Phật, không khác nhau, đều thành Nhứt như, thành tối Chánh giác.

Thiên Thai Chỉ Quán nói: Thường tọa Tam-muội xuất xứ từ kinh Văn-thù Thuyết Văn-thù Vấn, gọi là Nhất hạnh Tam-muội lấy chín mươi ngày làm một hạn kỳ, ngồi kiết già hướng về một Phật trong thời gian nối nhau. Nếu ngồi lâu mỏi mệt hoặc bị bệnh tật gây khốn, hoặc buồn ngủ, nội ngoại chướng xâm phạm... thì phải chuyên niệm một danh hiệu Phật mà hổ thẹn, sám hối, thân mạng tự quy với công đức chánh đẳng của danh hiệu các Đức Phật mười phương. Phụ hành thích rằng: Tùy theo chỗ một Đức Phật là theo phương hướng của Phật ấy là hướng Tây. Nếu chỉ rõ Phương hướng của Đức Phật ấy, thì tùy kinh không hạn cục, nhưng khiến hướng Tây mà chuyên xưng niệm một danh hiệu Phật vì các phần Giáo nhiều đều khen Phật A-di-đà, nên lấy phương Tây làm chuẩn, cùng các Đức Phật mười phương mà giải nghi, e có người nghi vì sao chỉ khen niệm Phật Diđà, cho nên giải thích là vì công đức đồng nhau.

Kinh Ban-chu: Tu Tam-muội Phật lập chuyên niệm Di-đà Phật nói: Vì sao các Đức Phật hiện tại đều trước hết lập ra Tam-muội? Vì có bốn chúng giữ giới cùng ở riêng một chỗ chú tâm niệm Phật A-di-đà Tây phương. Hiện cách đây ngàn ức muôn cõi Phật, nước ấy tên là Tu-ma-đề, ở giữa chúng Bồ-tát mà nói kinh tất cả thường niệm Đức Phật ấy. Ví như trong mộng thấy thân thuộc Kim Bảo cùng vui đùa, thức dậy liền nói: Nếu ai niệm Phật ấy một ngày đêm hoặc qua bảy ngày đêm thì Phật A-di-đà khi thức không thấy chỉ thấy trong mộng. Khi tâm niệm Phật thì cõi nước của các Đức Phật, chỗ núi Tu-di to lớn sâu kín tối tăm đều mở toang ra. Không cần thần túc mà vẫn đến được cõi Phật ở nay, ngồi thấy Phật ấy, nghe kinh Đức Phật ấy nói. Ví như nước Xá-vệ có ba dâm nữ. Lúc ấy, ở nước La-duyệt có ba người nam, vốn không hề nghe thấy việc dâm, ý liền vọng động mộng thấy cùng ba nàng đến lầu ngủ đêm mà giao tình. Rõ ràng là do niệm, nên thấy Phật, sinh thường niệm thân Phật có ba mươi hai tướng tốt, đoan chánh không ai sánh được. Nhờ niệm Phật mà được Không Tam-muội: Lại như trong mộng thấy ăn thức ăn ngon, thức dậy thì bụng đói. Tự nghĩ tất cả đều là mộng. Phật ở trong Tam-muội có lập ba việc là giữ gìn năng lực oai thần của Phật, giữ gìn năng lực Tam-muội của Phật, giữ gìn năng lực của bổn công đức. Vì giữ gìn ba thứ này nên được thấy

Phật, nghĩ rằng Phật từ đâu đến rồi đi về đâu? Tự nghĩ Phật không đến đây ta cũng không đến đó. Ta niệm Phật tức là thấy tâm làm Phật, Tâm tự thấy tâm là tâm Phật, là Hằng-tát-a-kiệt, tâm là thân ta, tâm thấy tâm Phật chẳng biết tâm, tâm không tự thấy tâm. Tâm có tưởng là si, tâm vô tưởng là Nêhoàn, là pháp không đáng ưa thích, đều nhớ việc đã làm, dù cho niệm là trống không. Lại có bốn việc mau được Tam-muội.

Một là không được có tư tưởng thế gian, như cái búng móng tay trong ba tháng.

Hai là không được nằm ngoài ba tháng, như cái búng ngón tay.

Ba là đi kinh hành không được ngưng nghỉ, không được ngồi ba tháng, trừ khi ăn uống trước sau. B

Bốn là nói kinh cho người nghe không được trông mong y phục ăn uống. Năng lực oai thần của Phật trong Tam-muội mà lập ra, nhìn về hướng Đông có trăm ngàn Phật, trăm muôn Phật, trăm ức Phật. Như thế mười phương đều thấy các Đức

Phật.

Chỉ Quán nói: Tam-muội thường hành xuất xứ từ kinh Ban-chu. Ban-chu dịch là Phật lập. Phật lập có ba nghĩa (như kinh). Nếu Tam-muội này thành thì có thể ở trong Định mà thấy các Đức Phật hiện ra trước mắt. Tam-muội này có ba: Một là thân khai già. Thân khai thì thường hành tránh ác tri thức, thường ở riêng một chỗ, thường đi khất thực, không nhận lời thỉnh riêng, luôn trang hoàng đạo tràng. Tắm rửa thân thể, thay đổi y phục. Chỉ trong vòng chín mươi ngày làm hạn định. Cần thệ nguyện dẫu gân xương khô mục thì việc học Tam-muội này vẫn không ngưng nghỉ, hai là miệng nói nín: Trong chín mươi ngày miệng thường xướng danh hiệu Phật A-di-đà không ngưng nghỉ. Chín mươi ngày tâm thường niệm Phật A-di-đà không ngưng nghỉ, hoặc trước xướng sau niệm nối nhau mãi không ngưng nghỉ. Lúc đó, nếu xướng danh hiệu Phật A-di-đà tức là xướng danh hiệu Các Đức Phật mười phương, công đức đều bằng nhau. Nếu chỉ chuyên niệm Di-đà làm Pháp môn thì nói vắn tắt là từng bước, từng tiếng, từng niệm chỉ là Phật A-di-đà. Ba là Ý chỉ quán. Trong ba tháng thường niệm Phật A-di-đà, tưởng ba mươi hai tướng tốt, từ tướng bánh xe ngàn căm dưới lòng bàn chân tưởng ngược lên cho đến tướng Vô kiến đảnh, rồi từ đảnh quán tưởng ngược xuống lòng bàn chân khiến cho tưởng rành các tướng ấy. Lại nghĩ ta từ tâm mà được Phật, từ thân mà được Phật. Phật chẳng dùng tâm mà được, cũng chẳng dùng thân mà được. Chẳng dùng tâm mà được sắc Phật, chẳng dùng sắc mà được tâm Phật. Bậc trí giả hiểu rõ vốn không bị hư hoại, vốn tuyệt bặt ngọn ngành (không). Như trong mộng thấy bảy báu, thức rồi thì không biết nó ở đâu. Cũng như dâm nữ đêm nằm mộng thấy hành dâm thức rồi thì nhớ lại không đến không đi, việc vui rõ ràng. Lại như nằm mộng thấy ăn thức ngon, thức rồi thì bụng đói. Tự nghĩ tất cả các pháp đều như mộng, gọi đó là như tướng niệm (giả). Tự nghĩ Phật không từ đâu đến, ta cũng không đến đâu. Ta niệm tức thấy tâm làm Phật. Tâm tự thấy Tâm, tâm thấy Phật tâm là tâm Phật, tâm ta thấy Phật, tâm chẳng tự biết tâm, tâm chẳng tự thấy tâm. Tâm có tưởng là si tâm, không tưởng là Nê-hoàn, là pháp không thể chỉ bày, đều do niệm làm ra. Nếu có niệm cũng rõ ràng không thật có (Trung). Nếu người muốn được trí tuệ, như biển lớn, ngồi ở đó mà không vận thần thông đều thấy các Đức Phật đang tu Tam-muội ấy. Tam-muội ấy là bậc nhất trong các công đức. Tam-muội này là cha mẹ của Đức Phật. Tất cả Như Lai đều từ pháp ấy sinh ra. Phụ Hành giải thích rằng: Ý trong Chỉ Quán, trước tưởng ba mươi hai tướng tốt làm cảnh để quán. Lại nghĩ nay ta trong cảnh sáng rõ mà tu ba quán. Trong các câu ta niệm, chữ Phật thì một là tụ tâm Tam-muội được thấy Phật, hai là Tây phương từ nhân cảm quả. Phật nay có hai nghĩa, cùng thuộc một cảnh là thuận lý. Từ nghĩa đầu mà giải thích, Tam-muội đã thành thì hễ niệm liền thấy. Thấy tâm tánh ấy gọi là tâm làm Phật. Phật đã do tâm làm, cho nên khi thấy Phật thì gọi là thấy tự tâm. Nếu thấy tự tâm tức liền thấy tâm Phật. Vì tâm Phật ấy là tâm ta. Cho nên ý trong đây chỉ quán tự tâm và việc thấy Phật không ngoài pháp tánh. Cho nên thấy tâm Phật tức là thấy tâm mình. Tâm mình, tâm Phật tức là Trung đạo. Tứ Minh Dung Tâm giải thích rằng: Chỉ Quán phán văn Ban-chu rằng tâm và Phật không thể đều là Không. Việc mộng rõ ràng là giả, tâm chẳng thấy Tâm là Trung. Nói thì ba trướng rõ ràng, tu thì một niệm đầy đủ.

31. Kinh Phương Đẳng Đại Tập: Tu Tam-muội

Phật Lập,

-Pháp quán Trung Đạo.

Phật bảo ngài Hiền Hộ: Nếu muốn thành tựu Tam-muội của các Đức Phật hiện tiền thì hễ lúc nào niệm liền thấy Như Lai. Như lấy dầu trong, nước sạch, thủy tinh, gương sáng, dùng bốn vật này mà quán hình tượng, thiện, ác, tốt, xấu ảnh hiện rõ ràng, mà các hình tượng ấy không từ bốn vật ra, cũng không phải chỗ khác đến, chẳng phải tự nhiên có, chẳng phải do người làm. Nên biết hình tượng ấy không từ đâu đến, không đi về đâu, không sinh không diệt, không có chỗ ở. Bồ-tát cũng giống như thế. Liền lại suy nghĩ nay Phật này từ đâu đến còn thân ta thì từ đâu ra. Xem Như Lai kia rốt không có chỗ đến, không có chỗ đi. Thân ta cũng giống như thế, vốn không có chỗ đi há có chỗ về. Lại suy nghĩ như thế, nay đây ba cõi chỉ do tâm mà có, vì sao? Vì tùy theo tâm niệm lại tự thấy tâm. Nay ta từ tâm thấy Phật, tâm ta là Phật, tâm ta làm

Phật, tâm ta là Như Lai, Tâm ta là thân ta, tâm ta thấy Phật, tâm không biết tâm, tâm không thấy tâm. Tâm có tưởng niệm thì thành tâm sinh tử, tâm vô tưởng niệm liền là Niết-bàn. Chỗ suy nghĩ đã mất, năng tưởng cũng không. Nên biết Bồ-tát nhờ Tam-muội này mà chứng Đại Bồ-đề. Kinh này và kinh Ban-chu ở trước cùng bản Phạm nhưng khác tên người dịch. Trong đây nói về pháp quán trung đạo văn rất sáng rõ nên ở đây chép lại.

32. Kinh Hoa Nghiêm: Trưởng giả Giải Thoát được pháp môn Duy tâm niệm Phật.

Ông Trưởng giả nói: Này người thiện nam! Nếu ta muốn thấy thế giới An lạc của Như Lai Vô Lượng Thọ thì tùy ý liền thấy. Cũng như thế ở mười phương tất cả các thế giới nào có Như Lai, nếu ta muốn thấy thì tùy ý liền thấy. Ta có thể thấy rõ tất cả cõi nước của các Như Lai trang nghiêm thần thông... Các việc không từ đâu lại cũng không đi về đâu, không đi không ở. Vậy các Như Lai ấy không lại đây mà ta cũng không đến đó. Nên biết tất cả Phật và tâm ta đều như mộng. Cho nên biết việc thấy trong mộng từ phân biệt mà sinh ra thấy, tất cả Phật đều từ tâm khởi lên. Lại biết tâm mình như nước ở trong bình, ngộ giải các pháp như bóng in đáy nước. Lại biết tâm mình cũng như ảo thuật. Biết tất cả Phật như ảo thuật tạo ra. Lại biết tâm mình cùng các Đức Phật, Bồ-tát đều như âm thanh vang. Ví như hang trống tùy tiếng mà có tiếng vang, mà hiểu rõ tâm mình tùy niệm thấy Phật. Ta như thế mà biết, mà nghĩ nhớ, thấy các Đức Phật đều do tâm mình.

Trong Trinh Nguyên sớ, ngài Thanh Lương nói: Không từ đâu đến... là luận về Duy tâm, tức tâm, vô tâm liền vào Chân như, hiểu rõ tướng luống dối chỉ do tâm hiện. Vì ta tức là duy tâm vắng lặng, mà đã rõ nó tức là diệu dụng của thể, năng niệm, sở niệm đâu có tương can với động tịnh, đã rõ duy tâm, rõ tâm là Phật nên hễ niệm đều là Phật. Huống là chí chẳng bị quấy nhiễu, chuyên tinh tu tập, Phật sẽ ắt thành. Sao không thấy sau đây nêu bốn dụ, hiển bày chung về duy tâm. Dụ cho không tới lui dụ riêng gồm nói chẳng ra vào, bốn dụ đều có bốn quán:

1. Chính là duy tâm.

2. Vì duy tâm nên không.

3. Vì duy tâm nên giả.

4. Vì duy tâm nên trung.

Dung nhau mà không ngại tức là ý của kinh Hoa Nghiêm: Mộng dụ cho chẳng tới chẳng lui, ảnh (hình bóng) dụ cho chẳng ra chẳng vào, Huyễn dụ cho chẳng phải có chẳng phải không. Tiếng vang dụ cho chẳng phải hợp chẳng phải tan, ba quán cùng xua đuổi, lấy tánh dung tướng thì nhập vào lớp lớp, cảnh giới niệm Phật đẽ thấy được Đức Vân.

33. Kinh Hoa Nghiêm: Nương vào Nguyện Phổ Hiền được sinh Cực lạc

Trong phẩm Hạnh Nguyện, Bồ-tát Phổ Hiền ở cuối hội tại rừng Thệ-đa phát mười đại nguyện vương. Trong mỗi nguyện đều nói: Cõi hư không hết, cõi chúng sinh hết, mà đại nguyện này của tôi không cùng tận. Người ấy khi sắp qua đời, ở sátna sau cùng, tất cả các căn đều không còn tác dụng, tất cả oai thế đều tan mất, các quan lớn, đại thần, cung điện trong ngoài, voi ngựa xe cộ, kho tàng châu báu không đem theo được. Chỉ có nguyện vương này thì không lìa xa, trong mọi lúc đều dẫn trước, trong một sát-na liền được vãng sinh về thế giới Cực lạc. Đến rồi liền thấy Phật A-di-đà. Người này tự thấy sinh trong hoa sen được Phật thọ ký. Được thọ ký rồi, trải qua vô số kiếp ở số thế giới khắp mười phương nhiều không thể nói, dùng năng lực trí tuệ tùy tâm chúng sinh mà làm lợi ích. Cho đến ở trong biển lớn phiền não mà cứu giúp chúng sinh, đưa họ ra khỏi đó mà đều được vãng sinh thế giới Cực lạc. Lại kệ dưới có nói: Nguyện con khi sắp qua đời diệt trừ hết cả các chướng ngại, được thấy Phật A-di-đà liền được vãng sinh cõi An lạc. Khi con đã sinh nước ấy rồi, hiện tiền thành tựu nguyện lớn này, tất cả dứt hết không còn sót, lợi lạc tất cả các chúng sinh.

Trinh Nguyên sớ hỏi: Chẳng cầu sinh Hoa Tạng lại cầu sinh Cực lạc là sao?

Đáp: Có bốn ý:

1. Người có duyên.

2. Muốn khiến chúng sinh cùng về một chỗ.

3. Vì chẳng lìa Hoa Tạng.

4. Vì Bổn sư. Hạnh Nguyện Sao nói:

1. Về người có duyên, vì Phật Di-đà có nguyện riêng dắt người ở cõi Ta-bà.

2. Cùng về một chỗ, vì nếu nghe mười phương đều nhiệm mầu, kia đây cùng dung thông thì người mới phát tâm thấy mênh mông, không biết nương vào đâu, nên phương tiện nêu ra.

3. Không lìa Hoa Tạng, vì Cực lạc cách đây chỉ mười muôn ức cõi Phật. Trong Hoa Tạng có bao nhiêu cõi Phật đều là số bụi nhỏ nên không lìa Hoa Tạng.

4. Tức là Bổn sư. Như kinh thứ ba mươi chín nói: Hoặc thấy Phật Vô Lượng Thọ, Quán Tự Tại... cùng vây quanh. Sớ phán rằng: Khen đức của Bổn tôn Giá-na. Sớ lại nói cõi nước Hoa Tạng nhiều như số giọt nước biển đều là cảnh Giá-na. Vô Lượng Thọ Phật, cách đây mười muôn ức cõi cũng chưa ra khỏi sát chủng, há chẳng phải là Bổn sư tùy tên mà giáo hóa khác.

Pháp sư Đạo Thuần nói: Hỏi Phổ Hiền Hạnh Nguyện là phần lưu thông Hoa Nghiêm vì sao ở trong biển thế giới lại riêng chỉ thế giới Cực lạc. Đã tin hiểu Viên tông thì các cõi Phật mười phương đều có thể vãng sinh, kết hẹn về Tây phương ắt có ý sâu?

Đáp: Ngài Phổ Hiền vì Thiện Tài hải chúng mà nói nguyện vương xong đã kết quy Tây phương. Bởi người tin hiểu Viên tông, vào trí Văn-thù mà tu hạnh Phổ Hiền, thì phước, tuệ, sự, lý đều xứng với pháp giới. Người có đại tâm này tuy diệu ngộ Bổn minh, đốn đồng với các Thánh, nhưng còn lực dụng chưa đầy đủ, chưa bằng Như Lai khi xuất hiện khắp lợi ích chúng sinh. Do đó mà phải tạm nương Tịnh độ, gần gũi Di-đà hải chúng, thẳng đến thành Phật. Nên kinh nói: Đích thân thấy Như Lai Vô Lượng Quang, hiện tiền thọ ký con quả Bồ-đề. Được Như Lai thọ ký rồi liền hóa ra vô số thân hằng trăm câu-chi, trí lực rộng lớn khắp mười phương, lội lạc khắp tất cả cõi chúng sinh. Tức là ý này vậy.

34. Kinh Pháp Hoa: Nghe kinh tu hành liền vãng sinh thế giới An lạc.

Phật nói nếu có người nữ nghe kinh điển này đúng như lời nói mà tu hành, thì khi qua đời liền sinh về thế giới An lạc. Phật A-di-đà và các Đại Bồ-tát vây quanh, người ấy được sinh trong hoa sen ngồi trên tòa báu, không còn bị tham dục quấy nhiễu, cũng không bị tức giận ngu si, kiêu mạn, ganh ghét và các cấu làm phiền não nữa. Được thần thông Vô sinh pháp nhẫn của Bồ-tát.

Trong Pháp Hoa ký, ngài Kinh Khê nói: Nếu có người nữ... Trong đây chỉ nói: nghe kinh điển ấy, đúng lời nói tu hành tức là nhân Tịnh độ, không cần nêu kinh Quán… nữa.

Hỏi: Tu hành như thế nào?

Đáp: Đã nói đúng theo lời nói mà tu hành tức là y kinh mà lập hạnh, đầy đủ như trong phẩm Phân Biệt Công Đức mà quán thẳng bốn cõi này đầy đủ. Cho nên thân Phật đây tức là cả ba thân, đại chúng này là tất cả đại chúng. Vì hoặc chưa dứt hết cho nên An lạc hạnh là khí phần của hạnh Đồng cư Tịnh độ, không lìa Đồng cư uế mà vẫn thấy Đồng cư tịnh.

Hỏi: Đồng cư có nhiều loại sao chỉ nói Cực lạc? Đáp: Do giáo thuyết nhiều, do trình độ của người, vì nhiếp sinh, vì khiến chuyên chú, vì duyên trước sâu dày... nên có nhiều phần.

35. Kinh Đại Bảo Tích: Phát mười thứ tâm được sinh Cực lạc Ngài Di-lặc bạch Phật rằng: Như Phật đã nói về Phật A-di-đà ở

Thế giới Cực lạc có công đức lợi ích... Nếu có chúng sinh nào phát mười thứ tâm, tùy theo từng tâm một mà chuyên hướng về Phật thì người ấy khi qua đời sẽ được vãng sinh. Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là mười thứ tâm. Phật bảo ngài Di-lặc rằng: Mười tâm ấy, hàng phàm ngu bất thiện, hạng trượng phu còn nhiều phiền não không thể phát được.

Mười tâm ấy là:

1. Đối với các chúng sinh khởi tâm đại Từ, không làm tổn hại.

2. Đối với chúng sinh khởi tâm đại Bi, không có khổ não.

3. Tâm đối với Chánh pháp của Phật không tiếc thân mạng, có tâm ưa thích giữ gìn.

4. Đối với tất cả các pháp khởi tâm thắng nhẫn không chấp đắm.

5. Tâm không ham lợi dưỡng luôn cung kính tôn trọng và ưa thích sự thanh tịnh.

6. Cầu hạt giống trí của Phật trong mọi lúc không quên mất.

7. Đối với các chúng sinh luôn khởi tâm cung kính tôn trọng không coi thường.

8. Không ham luận đời, đối với Bồ-đề sinh tâm quyết định.

9. Khởi tâm thanh tịnh trồng các gốc lành không có tạp nhiễm.

10. Khởi tâm tùy niệm, đối với các Như Lai lìa bỏ các tướng, khởi niệm tùy thuận.

Đó gọi là Bồ-tát phát mười thứ tâm. Nhờ các tâm ấy mà được vãng sinh. Nếu người nào đối với các tâm này mà có bất cứ một tâm nào, ưa thích vãng sinh về thế giới Phật ấy nếu chẳng được sinh thì không có lý ấy.

36. Kinh Tùy Nguyện Vãng Sinh: Ta-bà vẩn đục, riêng khen Tây phương.

Bồ-tát Phổ Quảng bạch Phật rằng: Vì sao trong kinh chỉ khen ngợi cõi Phật A-di-đà lầu các, cung điện, cây rừng đều toàn bảy báu. Các người nguyện sinh đều tùy ý muốn theo niệm mà sinh về. Phật bảo Phổ Quảng rằng: Ông không hiểu ý ta. Người ở cõi Ta-bà có nhiều tham đắm. Kẻ tin tưởng hướng về thì ít mà kẻ quen muốn thói tà thì nhiều, không tin Chánh pháp, chẳng thể chuyên nhất. Khiến các chúng sinh chuyên tâm vào đó, nên chỉ khen ngợi cõi nước Phật ấy. Các người vãng sinh đều tùy nguyện của họ mà đều chứng quả.

37. Kinh Đại Tập Nhật Tạng: Niệm Phật tùy tâm thấy có lớn nhỏ Phật nói: Muốn sinh cõi Phật thanh tịnh không có chướng ngại thì chúng sinh này phải tắm gội sạch sẽ, áo quần sạch sẽ, ăn chay trường không ăn đồ tanh nồng, ở chỗ yên tịnh vắng lặng ngồi kiết già, hoặc đi kinh hành nghĩ nhớ thân tướng Phật, không có các duyên khác. Hoặc một ngày đêm, hoặc bảy ngày đêm, dốc lòng niệm Phật, cho đến thấy Phật. Niệm nhỏ thấy nhỏ, niệm lớn thấy lớn, cho đến vô lượng niệm thì thấy Sắc thân Phật vô lượng, vô biên. Thân Phật có ba mươi hai tướng, mỗi tướng vừa niệm vừa quán đều cho rõ ràng. Tùy theo tướng trông thấy mà thấy ánh sáng xanh. Ở trong tướng sáng ấy chuyên tinh buộc ý, tâm không loạn động. Ánh sáng ấy phát ra, vào đảnh của người tu. Lúc ấy, an tâm chớ sợ sệt. Nghĩ ánh sáng xanh này ở trong thân ta đi khắp các nơi, thấy thân cháy sáng rực lên cho đến thành tro, gió thổi biến mất. Khi niệm như thế không có một tướng nào, mười phương đều trống không. Như thế người tu có thể trong một khoảnh khắc liền đến cõi Phật và vô số cõi khác.

Kinh này nói niệm Phật tuy không nhất định chỉ cho Tây phương, nhưng trộm thấy trong phương pháp niệm Phật, ngài Từ Vân sám chủ có dẫn chứng về ý nghĩa niệm Phật lớn nhỏ, nên chép vào đây để nhiều người cùng xem mà biết đầu cuối của kinh.

38. Kinh Mục-liên Sở Vấn: Cõi nước Vô lượng thọ dễ đến, dễ nhiếp lấy.

Phật bảo ngài Mục-liên: Ví như trên sông dài muôn dặm có đám cỏ khô trôi nổi, trước chẳng thấy sau, sau chẳng thấy trước, đều chảy ra biển cả. Thế gian cũng thế. Tuy có kẻ giàu sang vui sướng tự tại nhưng đều không tránh khỏi sinh, già, bệnh, chết. chỉ do không tin kinh Phật đời sau làm người rất khốn khổ, chẳng thể được sinh về cõi nước của ngàn Phật. Thế nên ta nói nước cõi Vô lượng thọ dễ sinh, dễ nhiếp lấy, mà người chẳng thể tu hành vãng sinh, lại thờ chín mươi sáu phái tà đạo. Ta bảo người ấy là người không mắt không tai.

39. Kinh Thập Vãng Sinh: Người niệm Phật được Bồ-tát che chở, giữ gìn.

Phật nói: Nếu có chúng sinh niệm Phật A-diđà nguyện vãng sinh thì Đức Phật ấy liền sai hai mươi lăm vị Bồ-tát che chở giữ gìn người tu, hoặc đi đứng nằm ngồi, hoặc ngày hay đêm, bất cứ lúc nào và bất cứ nơi nào đều chẳng để ác quỷ ác thần có dịp làm hại.

40. Kinh Quán Phật Tam-muội: Phật thọ ký ngài Văn-thù sẽ vãng sinh Cực lạc

Ngài Văn-thù bạch Phật rằng: con nhớ thuở quá khứ thời Phật Bảo Oai Đức Thượng Vương, có vị Trưởng giả tên là Nhất thiết trí. Trưởng giả có người con tên là Giới Hộ. Khi ở trong thai mẹ vì kính tín nên dự bị vì con mà thọ ba quy y. Khi đứa bé sinh ra mới tám tuổi đã được gặp Phật và đảnh lễ. Vì một lần thấy Phật trừ được tội trong trăm ngàn muôn ức kiếp sinh tử. Từ đó về sau thường sinh Tịnh độ được trăm ngàn ức pháp môn Tam-muội niệm Phật. Cho nên, nay Đức Thế Tôn lại thọ ký rằng: Văn-thù-sư-lợi! Ông sẽ vãng sinh về thế giới Cực lạc, chứng nhập vào Sơ địa.

41. Kinh Văn-thù Phát Nguyện: Văn-thù phát nguyện cầu sinh Cực lạc.

Nguyện khi tôi qua đời
Diệt hết các chướng ngại
Được thấy A-di-đà
Vãng sinh nước An lạc
Sinh nước Phật ấy rồi
Tròn đủ các nguyện lớn
A-di-đà Như Lai
Hiện tiền thọ ký con
Nghiêm Tịnh Hạnh Phổ Hiền
Đầy đủ nguyện Văn-thù
Đến hết kiếp vị lai
Rốt ráo hạnh Bồ-tát.

42. Kinh Nhập Lăng-già: Phật thọ ký cho ngài Long Thọ vãng sinh Cực lạc.

Đại Tuệ ông nên biết!
Khi Phật Niết-bàn rồi
Đời vị lai sẽ có
Người trì pháp của ta.
Ở nước Nam Thiên trúc
Tỳ-kheo Đại Danh Đức
Có hiệu là Long Thọ
Phá được tông Hữu, Vô
Ở thế gian hiển bày
Pháp Đại thừa Vô thượng
Được Sơ Địa hoan hỷ
Vãng sinh nước An lạc.

Kinh Lăng-già có ba bản, bài kệ này xuất xứ từ quyển bảy, do ngài Thật-xoa-nan-đà dịch, ở hòm chữ Tứ.

43. Kinh Thiện Tín Ma Thân: Thiện Tín nhàm chán thân nữ cầu sinh Tịnh độ.

Khi Phật ở nước Xá-vệ có cô con gái trưởng giả tên là Thiện Tín, trí tuệ rộng sáng, thường có nguyện lớn, không thích đời tục. Tự nghĩ muôn vật vô thường rồi đều sẽ chết, trời đất cũng hư hoại, huống là thân người. Nghĩ cha mẹ anh em ta không biết tội phước, không thỏa mãn tham dục. Tuổi ta mười lăm đã hứa gả cho người khác anh em nhà ta đã nhận quà biếu vải lụa. Thân ta rồi sẽ gặp các khổ nạn, chẳng bằng ngày nay thanh tịnh, nên phát nguyện cao thượng tìm thấy nơi an ổn vui vẻ mãi để tự vui thú. Bèn nhất tâm đem thân mạng ra thề. Lúc đó, Thiên Đế hiện ra trên hư không bảo Thiện Tín rằng: Nếu muốn sinh về cõi thanh tịnh Tây phương an ổn, thì trước phải hướng về mười phương lễ bái, từ tâm kính ý thì sẽ đạt được như ý. Cô gái rất vui mừng bèn tắm rửa đốt hương hướng về mười phương lễ bái. Trời lại bảo rằng: Ngươi nên đọc bài kệ khen ngợi Phật A-di-đà. Thiện Tín liền y theo lời dạy. Thiên Đế bèn hóa thành một người nam tay cầm vàng ròng nói kệ trêu ghẹo, Thiện Tín đáp bằng bài kệ quở trách lỗi nam nữ. Thiên Đế bèn vòng tay hỏi muốn cầu việc gì mà trong đời không ai bằng, có công đức mênh mông không thể đếm kể như thế? Thiện Tín vui mừng, mặt đất rung chuyển, liền nói kệ quy Phật. Phật liền cùng Đại chúng bay đến nhà ấy. Thiện Tín lễ Phật. Phật liền phát ra ánh sáng mỉm cười trao cho hai mươi bốn giới. Thiện Tín nghe xong liền được Thất Trụ. Rồi ở trước Phật mà hóa thành người nam. Cha mẹ anh em nàng sau đó đều thọ năm giới.

44. Kinh Thủ-lăng-nghiêm: Xem tình tưởng nhiều ít, mà luận về quả báo cao thấp.

Phật bảo A-nan rằng: Tất cả thế gian sinh tử nối nhau. Sinh từ thuận tập, tử từ biến lưu. Khi qua đời chưa bỏ hơi ấm thì cả thiện, ác trong một đời đều hiện ra. Nếu lúc đó thuần tưởng thì liền sinh lên cõi trời. Nếu tâm lúc ấy có phước gồm cả tuệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm mở sáng sẽ thấy các Đức Phật mười phương, tất cả Tịnh độ đều tùy nguyện vãng sinh. Nếu tình ít tưởng nhiều thì nhẹ nhàng bay đi xa, tức là loài tiên biết bay; tình tưởng bằng nhau thì không bay không rơi, bèn sinh làm người, Tưởng sáng thì thông minh. Tình tối thì đần độn. Nếu tình nhiều tưởng ít thì vào chỗ bàng sinh, nặng thì làm thú, nhẹ thì làm chim. Nếu bảy phần tình ba phần tưởng thì chìm xuống đáy nước, sinh vào vòng lửa chịu thân nóng dữ, làm ngạ quỷ luôn bị thiêu đốt, mà nước luôn hại mình, không ăn không uống, trải suốt trăm nghìn kiếp. Nếu chín tình một tưởng thì rơi vào vòng lửa, nhẹ thì đọa ngục Hữu gián, nặng thì đọa ngục Vô gián. Nếu thuần là tình thì đọa vào ngục A-tỳ. Nếu trong tâm hủy báng Đại thừa, trái phạm giới Phật, lừa dối nói pháp, ham hố lạm dụng của tín thí, khinh khi mọi người, gây ra năm tội nghịch, mười điều ác thì liền đọa vào ngục A-tỳ ở khắp mười phương.

45. Kinh Thủ Hộ Quốc Giới Chủ: Thiện, ác chiêu cảm quả báo hơn kém khi qua đời.

Phật nói nếu người lúc qua đời dự biết trước mà chánh niệm rõ ràng, tắm gội, thay áo mới nằm kiết tường mà chết. Ánh sáng chiếu thân, thấy tướng tốt của Phật, các điều lành đều hiện thì chắc chắn biết người này vãng sinh Tịnh độ. Nếu người niệm Phật giữ giới không tinh tấn, khi qua đời không có tướng lành, tướng dữ hiện ra, địa phủ không thâu, An dưỡng không nhiếp, như đang ngủ mê. Vì người này tâm Nghi chưa dứt, nên sinh vào Nghi thành suốt năm trăm năm hưởng vui, lại tu Tín Nguyện thì mới về Tịnh độ. Nếu người khởi tâm thương xót Chánh niệm hiện tiền, tâm đối với tiền của, vợ con không mến tiếc, mắt nhìn sắc thanh tịnh, ngước mặt mỉm cười, nghĩ cung trời sẽ đón ta, tai nghe nhạc trời, mắt thấy Thiên đồng, bỏ báo thân này chắc chắn sinh lên cõi trời. Nếu người sống ở đời hòa ái, khởi tâm phước đức, thân không bệnh khổ, nhớ nghĩ cha mẹ vợ con nhưng tâm đối với Thiện, ác không lầm lẫn. Tâm luôn ngay thẳng di chúc gia tài từ biệt ra đi thì chắc chắn sinh vào cõi người. Nếu người đối với vợ chồng con cái mà nhìn bằng ánh mắt dữ dằn, tay quờ quạng, tiểu tiện không biết, thân luôn hôi hám, hai mắt đỏ chạch, ngồi ngây mặt hoặc nằm co quắp bên trái khắp người đau nhức. Hoặc thấy tướng dữ, miệng không nói được chỉ ú ớ, nợ oan hiện ra, tâm thức tán loạn, mê cuồng điên đảo. Khắp mình lạnh giá, tay nắm chặt cứng, thân cứng như đá. Người này qua đời chắc chắn đọa vào địa ngục, Nếu người ưa liếm mép, thân nóng như lửa luôn lo sợ đói khát, thích nói chuyện ăn uống, miệng không khép kín, ham tiếc tiền của, mạng chết khó khăn, nhìn trừng trừng mà mất. Người này chắc chắn đọa vào ngạ quỷ. Nếu bị bệnh nặng như ở giữa mù sương, tâm thần hôn tán, sợ nghe danh hiệu Phật, thích ăn uống cá thịt, không nghe lời khuyên bảo, mến tiếc vợ con, tay chân co quắp, khắp mình mồ hôi rít rắm, tiếng nói phều phào. Tướng ấy hiện ra thì người này chắc chắn đọa vào súc sinh.

IV. Nói Về Các Thần Chú

1. Vô Lượng Thọ tu Quán hạnh cúng dường nghi quỹ. (Xuất xứ từ Đại tạng, hòm chữ Hành).

Bấy giờ Bồ-tát Kim Cang Thủ ở trong Đại Tập Hội Tỳ-lô-giá-na bạch Phật rằng: Con sẽ vì chúng sinh đời sau ở trong thế giới tạp nhiễm, ác thú mà nói Vô Lượng Thọ Đà-la-ni, tu pháp môn Tam Mật, chứng Tam-muội niệm Phật mà được sinh Tịnh độ, vào giai vị Bồ-tát. Không thể lấy phương tiện chút ít phước đức, vô tuệ mà được sinh về nước ấy. Y theo giáo pháp này thì chắc chắn được sinh Thượng phẩm Sơ địa.

Trước hết phải vào Mạn-trà-la được Quán đảnh, rồi sau đó mới theo thầy mà thọ nghi quỹ này. Phải ở chỗ đất cao tốt, quét dọn sạch sẽ tịnh thất, lập đàn vuông, phía trên treo lọng báu chung quanh treo phướn. Trên đàn phân bố tám Mạn-tràla, mài hương bạch đàn thoa lên chỗ Phật. Ở phía Tây đàn bày tượng Phật Vô Lượng Thọ. Người trì tụng đứng ở phương Đông, quay mặt về hướng Tây, ngồi trước tượng. Người tu mỗi ngày tắm gội sạch sẽ lên đàn ba lần rải các thứ hoa, đặt hai chén báu đựng đầy nước thơm ở trên đàn. Bốn góc đàn chưng bốn bình hoa, hương hoa và thức ăn uống tùy sức, mỗi thứ gia trì đều ân cần cúng dường. Người tu quan sát tất cả hữu tình có bổn tánh thanh tịnh nhưng bị các khách trần che lấp nên chẳng ngộ chân lý. Thế nên nói Tam Mật gia trì này có công năng giúp mình người đều thanh tịnh.

Quyển Nghi Phạm trên do Tam tạng Bất Không dịch. Từ văn này lại nêu Tịnh ba nghiệp và lễ khắp pháp giới, lập tòa quán tưởng và kiết ấn tụng chú, gồm hai mươi bốn chương, đều rất khẩn thiết nguyện y pháp vân làm. Nay trong đây ghi chép những điều đơn giản có thể thực hành được, gồm ba chương giúp nhiều về Tịnh nghiệp.

2. Vô Lượng Thọ Như Lai quyền ấn chân ngôn. Kế là kiết ấn Như Lai Quyền, bốn ngón tay trái nắm lại thành quyền duỗi ngón cái ra. Lấy tay phải làm nắm Kim cương nắm ngón tay trái lại, liền thành ấn này. Dùng quyền ấn này đọc chân ngôn gia trì bảy biến, biến ra thế giới ấy Như Lai quyền chân ngôn như sau: Án Bộ Khiêm. Do kiết ấn này mà oai lực của chân ngôn biến đại thiên thế giới này thành cõi Cực lạc, bảy báu làm đất, nước, chim, cây rừng đều giảng nói Pháp âm, vô lượng trang nghiêm như kinh đã nói. Người tu do tập nhiều định này nên mỗi khi ở trong định đều thấy thế giới Cực lạc của Phật Vô Lượng Thọ, ở trong chúng hội nghe nói Khế kinh. Khi qua đời tâm không tán loạn, Tam-muội hiện tiền, trong chốc lát liền hóa sinh vào hoa sen báu, chứng giai vị Bồ-tát.

3. Vô Lượng Thọ Như Lai Căn Bản Ấn Chân Ngôn

Kế là kiết ấn Vô Lượng Thọ Như Lai Căn Bản, hai tay nắm lại chìa bốn ngón giữa như cánh hoa sen-Kết ấn này tụng Vô Lượng Thọ chân ngôn bảy biến. Đặt ấn này trên đỉnh đầu tụng Đà-la-ni rằng: Nẳng-mô la đát nẳng dạ da na mô a rị dã nhị tri bà da đạt tha nghiệt tri dạ ra hát đế tam miệu tam một đà da đát nể dã tha án a mật lật đế a mật lật đố nạp bà phệ a mật lật đa tam bà phệ a mật lật nghiệt bệ a mật lật đa tất để a mật lật đa đế tế a mật lật đa vĩ ngật lân đế a mật lật đa nga nga nẳng kiết để ca a mật lật đa nộn nổ tỳ ba phược tát phược ra tha bà đà ninh tát phược ma ngật lễ xá khất lệ dựng ca ta-phược-hạ.

Chân ngôn này vừa tụng một biến thì mười điều ác, bốn tội trọng, năm tội Vô gián, tất cả nghiệp chướng nơi thân đều tiêu tan. Nếu các Bí-sô, Bísô-ni phạm tội căn bản tụng bảy biến thì tức thời được thanh tịnh. Tụng đủ một muôn biến thì được không quên mất tâm Bồ-đề Tam-muội, tâm Bồ-tát hiển bày, trong thân sạch sẽ sáng suốt như vầng trăng sáng. Khi qua đời sẽ thấy Phật Vô Lượng Thọ cùng đại chúng đến đón rước khuyến tấn, liền sinh về Cực lạc Thượng phẩm thượng sinh.

4. Vô Lượng Thọ Như Lai Tâm Chân Ngôn.

Chú ấy như sau: Án a mật lật đa đế tế hạ ra hồng, chân ngôn này nếu tụng đủ mười muôn biến thì được thấy A-di-đà Như Lai. Khi qua đời chắc chắn quyết định được vãng sinh Cực lạc.

5. Kinh Ô-sắt-nị-sa Tối Thắng Tổng Trì. (Xuất xứ từ ở Đại tạng, hòm chữ Cao).

Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ngự trong Đại Thiện Pháp đường ở cõi nước Cực lạc. Lúc bấy giờ Đức Như Lai Vô Lượng Thọ bảo ngài Quán Tự Tại rằng: tất cả chúng sinh đều bệnh tật đời sống ngắn ngủi. Có "Nhất thiết Như Lai Ô-sắt-nị-sa tối thắng tổng trì pháp môn", nếu người nào thọ trì đọc tụng thì mau được không bệnh tật, sống lâu, an vui. Khi ấy Quán Tự Tại thỉnh Phật tuyên nói (chú dài ở đây không chép). Nếu ai viết chép chú này để trong tháp, rộng lớn cúng dường, đi nhiễu quanh ngàn vòng, cung kính lễ bái thì được trí tuệ, nếu tuổi thọ bảy ngày thì kéo dài đến bảy năm, nếu tuổi thọ bảy năm thì kéo dài đến bảy mươi năm, được sống lâu an vui, không có các bệnh tật, được Túc mạng thông.

6. Vô Lượng Thọ Như Lai Tổng Trì Pháp Môn.

Lúc bấy giờ Vô Lượng Thọ Như Lai nhập vào Tam-ma-địa phổ chiếu kiết tường. Khi xuất định, ngài liền nói nhất thiết Như Lai Vô Lượng Thọ tổng trì pháp môn rằng: Án a mật rị đế a mật rị đế a mật rị đổ nại bà phệ a mật rị đa vĩ ngật lan đế a mật rị đa nga di nể a mật rị đa rị na nhĩ nga nga nẳng kế rị đế yết rị tát rị phược kiết lê xá xoa diễn yết rị duệ Ta-phược-ha.

Nếu người dùng pháp môn này mà gia trì, xây tháp Tịnh độ, lại viết tổng trì này mà đặt vào tháp và hương hoa cúng dường thì tuổi thọ kéo dài và tăng trí tuệ. Nếu người ở trước tháp này mà cúng dường lớn hơn, ngày ngày tụng trì đủ tám trăm biến, phát tâm bình đẳng tự lợi lợi tha. Y pháp thực hành như thế thì tiêu trừ tám nạn. Người này khi qua đời sẽ không đọa vào địa ngục, súc sinh, cõi Diệm-ma-la, như rắn lột da liền sinh Cực lạc, được quả báo lớn, hưởng vui thắng diệu.

7. Bất Không Quyên sách Thần Biến Chân Ngôn kinh Nhất Tự Chân Ngôn

Bồ-tát Quán Thế Âm nói chân ngôn Nhất Tự rằng: Án, chân ngôn như thế là đại Bi Tâm Quán Quán Thế Âm đúng pháp thọ trì. Người khéo tu hành thì có công năng dứt trừ các tội nặng ở quá khứ và hiện tại, tất cả cấu chướng đều tiêu mất. Sẽ được tất cả các Đức Phật, Bồ-tát, trời, tiên, rồng thần đều vui mừng. Khi qua đời sẽ sinh về cõi nước Cực lạc ở Tây phương, trụ ở Cực hỷ Địa, hóa sinh vào hoa sen.

8. Bạc Biến Giải Thoát Tâm chân ngôn.

Lúc bấy giờ, Bồ-tát Quán Thế Âm ở trước Phật xem kỹ tất cả, nói Bạc Biến Giải Thoát Tâm chân ngôn rằng... bài chú này gồm hai trăm mười hai câu, vì nhiều nên không chép (Ba chú sau đây ở trong kinh có đủ các việc Kết đàn, bắt ấn, lập tượng... gồm một quyển).

Lại, Bạc Biến Giải Thoát Tâm chân ngôn rằng: Úm một ra kha ma phế lệ đà ra đà ra đà ra địa rị địa rị độ lỗ độ lỗ sai mạn đan nhập phược ra mẫu khư sa phược ha.

Lại, Bạc Biến Giải Thoát Tâm Nhất Tự chân ngôn rằng: Án ác sa phược hạ.

Nếu ai sáu thời càng thêm tinh tấn, đúng pháp trang nghiêm thân mình, y theo pháp trì tụng đủ một Lạc-xoa thì nghiệp ấy thuần thục. Bồ-tát Quán Thế Âm sẽ hiện thân mầu vàng ròng mà diệt tất cả tội căn bản từ vô thỉ. Nếu Bồ-tát không hiện ra thì cần phải càng cố gắng tinh tấn tụng hết hai hoặc ba lạc xoa thì nghiệp ấy thuần thục, Bồ-tát Quán Thế Âm chắc chắn sẽ hiện thân, cầm tay chỉ bày Tây phương Tịnh độ, Phật A-di-đà ngồi trên tòa sư tử trong hoa sen báu, lại được Phật A-di-đà xoa đầu bảo rằng: đồng phước mạng công đức với tất cả Bồ-tát ở cõi ấy. Sau khi bỏ thân mạng này thì sinh về cõi nước An lạc ở Tây phương, hoa sen thượng phẩm, đủ các tướng tốt, có trí Túc mạng, được không lui sụt.

9. Bất không Đại Quán Đảnh Quang chân ngôn.

(Xuất xứ từ kinh ở Bất Không Quyên Sách Thần Biến thứ hai mươi tám, ở hòm chữ Khiết).

Khi ấy, Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai duỗi tay xoa đầu Minh Vương Thanh Tịnh Liên Hoa. Lúc đó, cả đại thiên thế giới rung chuyển sáu cách, ở các phương cõi nước quá khứ, hiện tại, vị lai, tất cả Như Lai, Tỳ-lô-giá-na Như Lai cùng một lúc đều hiện ra và đồng trao cho Minh Vương Thanh Tịnh Liên Hoa Tam-muội-da quán đảnh. Bấy giờ, tất cả Như Lai, Tỳ-lô-giá-na Như Lai trong ba đời ở khắp mười phương đều duỗi tay xoa đầu Minh Vương Thanh Tịnh Liên Hoa, đồng nói Bất Không Đại Quán Đảnh Quang chân ngôn rằng: Úm chiên mô già phế lổ giả na ma ha mẫu nại ra ma ni bát đầu ma nhập phược ra ba ra mậu đan dã cáp.

Nếu có người ở quá khứ gây ra các tội như mười điều ác, bốn tội nghịch, bốn tội trọng mà được nghe Đại Quán Đảnh Quang Chân Ngôn này hai mươi mốt biến thì được trừ hết tất cả tội chướng. Nếu các chúng sinh gây ra đủ các tội như mười điều ác, năm tội nghịch, bốn tội trọng... nhiều như bụi nhỏ đầy khắp thế giới này khi chết rồi phải đọa vào các đường dữ. Nếu lấy cát mà gia trì chân ngôn này một trăm lẻ tám biến rồi đem cát này vào rừng rải trên thây chết, hoặc hài cốt, hoặc trên mộ, trên tháp thì người chết này nếu đọa trong địa ngục, ngạ quỷ, Tu-la, súc sinh thì nhờ năng lực gia trì của chân ngôn Nhất Thiết Bất Không Như Lai Tỳ-lôgiá-na Như Lai mà tức thời liền được ánh sáng chiếu đến thân, trừ hết các tội báo, lìa hết các khổ, sẽ sinh về thế giới Cực lạc Tây phương, hóa sinh trong hoa sen, cho đến chứng quả Bồ-đề không còn đọa lạc.

Ông Thích Trí Viên, trụ Viện Phổ Chiếu ở Hải giám, thuộc Tú Châu mẹ bị chết, lấy di cốt để trong cái quách nhỏ, hằng ngày tụng chú Tỳ-lô Quán Đảnh, gia trì rải cát lấp hài cốt khoảng một thước. Một hôm, xương đảnh đầu bỗng nhô lên khỏi mặt đất, lúc đầu cho là chẳng có gì bèn lấp lại như cũ. Sáng hôm sau lại như thế, mọi người đều kinh hãi. Lúc đó Võ Di Công Quyền làm ký nói rõ việc ấy. Luật Sư Đại Trí soạn làm bài tán khen ngợi, vẫn còn ghi trong Chi Viên tập.

10. Chú bạt nhất thiết nghiệp chướng căn bản đắc sinh Tịnh độ. (Trích trong Di-đà Bất Tư Nghị Thần Lực truyện, hòm chữ Dưỡng).

Thần chú Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn

Bản Đắc Sinh Tịnh độ, vào niên hiệu Nguyên Gia, đời Tống, ngài Cầu-na-bạt-đà vâng lệnh vua dịch ra, gồm có năm mươi chín chữ mười lăm câu. Nếu người nào, tụng chú này thì Phật A-di-đà thường ở trên đỉnh đầu ngày đêm che chở người ấy, không bị kẻ thù trả thù, hiện đời luôn được an ổn, khi chết liền được vãng sinh. Bồ-tát Long Thọ nguyện sinh An dưỡng, khi nằm mộng cảm được chú này. Tam tạng Na-xá tụng chú này ở chùa Thiên bình, Pháp sư Tú được Na-xá truyền miệng cho chú này bảo rằng: Kinh Bản ở nước ngoài (Ấn-độ) không truyền đến, nếu muốn thọ trì phải tước cành dương xỉa răng cho sạch, lấy nước đậu súc miệng, đốt hương trước tượng Phật, quỳ gối chấp tay thọ trì sáu thời, mỗi lần tụng hai mươi mốt biến. Nếu có các tội như bốn tội trọng, năm tội nghịch, mười điều ác, chê bai kinh Đại thừa... thì đều diệt hết. Hiện đời có mong cầu gì đều được, chẳng bị các thần quỷ dữ quấy phá. Nếu tụng đủ hai mươi muôn biến thì liền cảm được mầm Bồ-đề phát sinh. Tụng đến ba mươi muôn biến liền được thấy Phật A-diđà.

Nam-mô a di đa bà dạ đa tha dà đa dạ đa địa dạ tha a di rị đô bà tì a di rị đa tất đam ba tỳ a di rị đa tỳ ca lan đế a di rị đa tỳ ca lan đa dà di nị dà dà na chỉ đa ca lệ ta bà ha.

Chú này có sáu chữ "Đa", trong tạng kinh vốn chú âm "Đa hát thiết (Đát)" đây là chánh gọi. Văn Long Thư sợ người đọc không đúng âm này bèn đổi chữ "Thiện" thành "Xuyết", đổi văn chú này, người đời chẳng chịu. Có hai chữ "Tha" đều là "Thấu qua thiết", chữ "Đa" đều "Đô Ngạ Thiết", chữ "Địa" là "Trừng mãi thiết", chữ "Rị" là thượng thanh, cùng "Lý" đồng âm, "Chỉ" đọc là "Chỉ".

Người tu tụng trì chú này nếu không khớp với mười lăm câu trên thì không đúng bản chánh.

Muốn hiệu nghiệm nên đọc theo câu trên.

V. Nói về các luận

1. Luận Vô Lượng Thọ:

Kệ vãng sinh và Pháp tu năm môn.
Thế Tôn, con nhất tâm
Quy mạng khắp mười phương
Vô Lượng Quang Như Lai
Nguyện sinh nước An dưỡng
Thấy tướng thế giới ấy
Vượt hơn cả ba cõi
Rốt ráo, như hư không
Rộng lớn không bờ mé
Đức Chánh Giác Di-đà
Pháp vương khéo trụ trì
Các tịnh hoa Như Lai
Hóa sinh hoa Chánh giác
Ưa thích vị Phật pháp
Tam-muội là thức ăn
Lìa hẳn não thân tâm
Được vui thường vô gián
Gốc lành cõi Đại thừa
Bình đẳng không ghét ganh
Người nữ và căn thiếu
Giống Nhị thừa chẳng sinh
Điều chúng sinh ưa thích
Thảy đều được thỏa mãn
Nên con nguyện vãng sinh
Cõi nước Phật Di-đà
Ta soạn luận nói kệ
Nguyện thấy Phật Di-đà
Khắp cùng các chúng sinh
Đều sinh nước An lạc.

Nếu người tu hành năm niệm môn này thành tựu thì cuối cùng sẽ được sinh về nước An lạc được thấy Phật A-di-đà.

1. Lễ bái môn: Thân nghiệp lễ bái Phật A-di-đà là chủ ý muốn sinh nước ấy.

2. Tán thán môn: khẩu nghiệp khen ngợi ánh sáng trí tướng Phật ấy, là muốn như thật tu hành tương ưng.

3. Tác nguyện môn: Tâm thường phát nguyện nhất tâm chuyên niệm rốt ráo vãng sinh, muốn như thật tu hành Xa-ma-tha.

4. Quan sát môn: Là dùng trí tuệ mà quán sát, muốn như thật tu hành Tỳ-bà-xá-na.

a. Quán sát cõi nước ấy trang nghiêm.

b. Quán sát Đức Phật ấy trang nghiêm.

c. Quán sát các Bồ-tát ấy trang nghiêm.

5. Hồi hướng môn, có bao nhiêu công đức gốc lành, dùng phương tiện mà hồi hướng che chở chúng sinh, không bỏ tất cả thế gian.

Lại, quán sát môn ba thứ trang nghiêm lược nói vào một câu Pháp gọi là câu thanh tịnh, chân thật trí tuệ vô vi pháp thân. Cho nên Bồ-tát như thế mà tu năm môn, tự lợi lợi tha mau được thành tựu Bồđề.

2. Luận Tỳ-bà-sa.

Niệm Phật là phương pháp dễ thực hành (của Bồ-tát Long Thọ).

Phần thứ tư nói: Phật Pháp có vô lượng pháp môn. Như đường đi ở thế gian có dễ có khó. Đường đất đi bộ thì khổ, đường thủy ngồi thuyền thì khỏe. Đạo Bồ-tát cũng thế. Khó đi thì lâu mới đến, hoặc có người siêng năng tinh tấn lấy tín làm phương tiện. Dễ đi thì mau đến, nên phải niệm Phật, xưng danh hiệu, Phật A-di-đà có bổn nguyện như thế. Nếu người nào xưng niệm danh hiệu ta mong trở về với ta thì chắc chắn được A-nậu Bồ-đề. Thế nên thường phải nhớ niệm, kệ rằng:

Nếu người nguyện thành Phật
Tâm luôn niệm Di-đà
Tức thời liền hiện thân
Thế nên con quy mạng
Nếu người muốn mau đến
Địa vị không lui sụt
Nên dùng tâm cung kính
Chấp trì, xưng danh hiệu
Phật ấy có bản nguyện
Các Bồ-tát mười phương Đến cúng dường nghe pháp Thế nên con đảnh lễ.
Các Bồ-tát cõi ấy
Đầy đủ các tướng tốt
Cùng tự trang nghiêm thân
Nay con quy mạng lễ
Các Đại Bồ-tát ấy
Hằng ngày đều ba thời
Cúng dường Phật mười phương
Thế nên con kính lễ
Nếu người gieo thiện căn
Nghi thì hoa không nở
Người Tín tâm thanh tịnh
Hoa nở liền thấy Phật
Phật hiện tại mười phương
Dùng các thứ nhân duyên
Khen công đức Phật ấy
Nay con quy mạng lễ
Nước ấy đủ trang nghiêm
Khác xa các cung trời Công đức rất sâu dày Thế nên con lễ Phật.
Nếu người sinh nước ấy
Không hề đọa ba đường Cùng với A-tu-la Con nay quy mạng lễ.

Luận Thập Nghi chép: Đạo khó hành là ở giữa cõi đời có năm thứ vẫn đục mà cầu A-bệ-bạt trí (Không lui sụt) thì rất khó được. Nói lược có năm:

1. Các ngoại đạo khéo phá rối pháp lành của Bồ-tát.

2. Những người vô lại xấu ác phá đức tốt của người khác.

3. Quả lành điên đảo làm phá hoại phạm hạnh.

4. Thanh văn tự lợi làm chướng ngại đại từ.

5. Chỉ có tự lực (sức một mình) ví như người có tật ở chân đi bộ một ngày chẳng được mấy dặm. Còn đạo dễ thực hành thì tin lời Phật dạy Tam-muội niệm Phật, nương vào năng lực thệ nguyện của Phật Di-đà thì chắc chắn vãng sinh. Như người đi đường sông ngồi thuyền chỉ chốc lát mà vượt ngàn dặm. Cũng như kẻ yếu kém nương năng lực vua Chuyển Luân mà một ngày một đêm đi khắp bốn thiên hạ, không phải năng lực của mình mà do năng lực của Luân vương vậy.

3. Luận Đại Trí Độ.

Người ưa chứa nhóm công đức cầu sinh Tịnh độ.

Luận quyển bốn mươi ba hỏi: Pháp Bồ-tát là phải độ sinh, vì sao lại đến cõi Phật Thanh Tịnh Vô Lượng Thọ?

Đáp: Bồ-tát có hai loại,

1. Người có tâm từ bi, thường vì chúng sinh. 2. là Bồ-tát ưa chứa nhóm nhiều công đức của các Đức Phật. Người ưa chứa nhóm nhiều công đức thì thích đến cõi nước Nhất thừa thanh tịnh Vô lượng thọ. Người thích thường vì chúng sinh, luôn đến các chỗ không có Phật pháp mà khen ngợi Tam bảo. Lại Luận bốn mươi lăm nói: Bồ-tát có hai loại, một loại trước tự thành tựu công đức mình rồi sau mới độ chúng sinh, loại thứ hai trước thành tựu chúng sinh rồi sau mới thành tựu công đức mình.

Diệu Tông Sao hỏi: Thượng phẩm của kinh Quán là ra khỏi vị, giả hợp với cõi uế mà lợi ích hữu tình, vì sao lại cầu sinh Tịnh độ?

Đáp: Nay Bồ-tát Thập Hướng cầu sinh Tịnh độ chính là loại Bồ-tát trước tự thành tựu công đức cho người mà Đại Luận đã nói. Cho nên Luận Thập Nghi nói người chưa được Vô sinh nhẫn thì cần phải thường không lìa Phật mà cầu sinh về nước ấy.

4. Luận Đại Trí Độ.

Phật Thích-ca, Phật Di-đà mỗi vị đều có cõi nước uế và tịnh.

Luận ba mươi sáu nói: Nên biết Phật Thích-ca Văn cũng có cõi thanh tịnh như nước Phật A-di-đà, còn Phật A-di-đà cũng có cõi nước không trang nghiêm thanh tịnh như cõi nước của Phật Thích-ca Văn.

Lại quyển ba mươi tám nói: Cõi Diêm-phù vẫn đục nên Phật Thích-ca tuổi thọ ngắn, còn cõi nước kia tốt đẹp nên Phật Di-đà sống lâu.

Lại kinh Niết-bàn quyển hai mươi hai nói: Tây phương cách đây ba mươi hai hằng hà sa cho đến có cõi Vô thắng tất cả trang nghiêm như thế giới An lạc, ta ở nước ấy xuất hiện ra đời.

Quán kinh sớ nói: Ứng Phật đều có hai thứ tùy duyên theo vật, dài ngắn khác nhau. Diệu Tông giải thích: Các Phật đều có ba thân viên chứng, Ứng thân độ sinh, tuổi thọ chúng sinh dài ngắn, vì thuận theo mà bày hai thứ. Cho nên Phật Di-đà hiện tuổi thọ dài thì cũng hiện tuổi thọ ngắn, còn Phật Thíchca hiện thứ xấu thì cũng hiện tuổi thọ dài.

5. Luận Khởi Tín.

Ta-bà chẳng gặp Phật nên chuyên khuyên niệm Phật (của Bồ-tát Mã Minh)

Lại nữa, chúng sinh mới học pháp ấy muốn cầu Chánh tín, nhưng tâm tánh yếu đuối vì ở cõi Ta-bà này sợ chẳng thể thường gặp Phật mà hầu hạ cúng dường, sợ tín tâm khó thành tựu, ý muốn lui sụt. Nên biết Như Lai có phương tiện hay khéo giữ gìn tín tâm. Dạy rằng do nhân duyên chuyên niệm Phật mà tùy nguyện được vãng sinh về các cõi nước Phật phương khác, được thường thấy Phật mà cầu lìa đường ác. Như kinh nói: Nếu người chuyên niệm Phật A-di-đà ở thế giới Cực lạc, Tây phương, tu các gốc lành đều hồi hướng phát nguyện cầu sinh về thế giới ấy thì liền được vãng sinh, thường được thấy Phật, nên không bao giờ lui sụt. Nếu quán chân như pháp thân của Phật ấy, thường siêng năng tu tập thì rốt ráo được sinh, trụ vào Chánh định.

Hiền Thủ Khởi Tín Sớ chép: Vãng sinh có ba bậc.

1. Như hoa sen chưa nở, tín hạnh chưa đủ, chưa gọi là không lui sụt. Chỉ ở chỗ duyên không lui sụt nên gọi là không lui sụt.

2. Tín vị đầy đủ rồi, hoa nở thấy Phật, bước lên giai vị Thập trụ, được phần ít pháp thân, trụ bậc Chánh định.

3. Địa vị Tam hiền đã mãn, lên bậc Sơ địa, chứng biến mãn Pháp thân, sinh vô biên cõi Phật, như Phật đã thọ ký cho ngài Long Thọ... sinh Tịnh độ, trụ bậc Sơ địa... Trong đây rốt ráo đều là hai bậc sau. Tứ Minh Dung Tâm giải thích rằng: Cõi này vẫn đục nặng nề, bậc Thập tín mới thoát vòng khổ, còn cõi kia là thắng cảnh nên cả chín phẩm đều không lui sụt. Nay nương cảnh thù thắng kia mà tu quán, dẫu lý chưa hiện, kiến ái vẫn còn đủ, nhưng bỏ báo thân này thì liền sinh về nơi không lui sụt. Luận Khởi Tín dạy quán Chân như pháp thân của Đức Phật ấy, vậy nếu không phải dùng một tâm ba quán thì lấy gì mà quán. Nay tôi dùng ba quán giải thích kinh và ý của ngài Mã Minh là không có chút gì khác nhau. Cho nên Thập Nghi Luận dạy quán tưởng Phật Di-đà có Pháp thân, Báo thân sáng suốt tướng tốt. Cho nên biết hạnh của vãng sinh chính là ba quán, tưởng ba thân ấy, bỏ cõi này cầu cõi kia, sơ tâm không lui sụt, nghĩa ấy đều thành.

6. Pháp Tư Duy Yếu Lược:

Hai căn lợi, độn, quán tướng tốt của Phật.

Quán Phật Vô Lượng Thọ có hai; về người độn căn thì trước tự quán sát cách trán một tấc, trừ bỏ da thịt chỉ thấy xương đỏ. Buộc niệm ở duyên chẳng nghĩ các niệm khác, nếu tâm duyên theo vật khác thì nhiếp khiến trở về. Kế quán kỹ một tấc xương đỏ khiến trắng như ngọc kha. Lại tưởng cả thân hình thành bộ xương trắng không có da thịt. Lại tưởng bộ xương ấy trong suốt như lưu ly có ánh sáng trong suốt thanh tịnh. Lại tưởng từ bộ xương lưu ly ấy phát ra ánh sáng trắng, phát xa thu gần rồi khắp cõi Diêm-phù-đề chỉ thấy ánh sáng không thấy các vật. Lại tưởng ánh sáng ấy chui vào thân. Khi vào rồi thì từ ánh sáng mà quán thấy Phật Vô Lượng Thọ ngồi kiết già, dung nhan vòi vọi như núi vàng ròng chói lọi. Rồi giữ tâm ở Phật, không nghĩ các duyên khác, luôn như ngồi đối diện trước Phật. Còn người lợi căn, thì trước nên quán tưởng ánh sáng trong suốt sáng sạch. Rồi trong ánh sáng tưởng thấy Phật thì sẽ thấy. Người tu nếu muốn sinh về nước ấy nên thực hành pháp quán này. Kế quán các pháp đều là vắng lặng. Đối với chúng sinh luôn sinh khởi tâm đại bi. Có bao nhiêu gốc lành đều hồi hướng hết cả, nguyện sinh nước ấy thì liền được vãng sinh.

Pháp trên thấy trong Đại tạng hòm chữ Đồ. Xét rõ văn ấy không phải Phật nói, lại chẳng ghi chép Bồ-tát nào viết ra, đây là bài dịch của ngài Cưuma-la-thập, chắc cũng là loại giáo điển ở Tây Trúc. Nay chép lại để giúp việc tư tu.

7. Tôn hiệu của Phật A-di-đà

Nam-mô Tây phương Cực lạc thế giới tam thập lục vạn ức nhất thập nhất vạn cửu thiên ngũ bá đồng danh đồng hiệu A-di-đà Phật.

Thuở xưa Phật Thích-ca Mâu-ni ở đời đi hành hóa đến một ngôi nhà nọ, thấy hai ông bà đem một đấu gạo để ghi số niệm Phật A-di-đà mà nguyện sinh Tịnh độ. Phật bảo: Ta có cách khác khiến các ngươi trong một tiếng mà niệm được nhiều gạo. Bèn dạy niệm danh hiệu Phật.

Nói về danh hiệu Phật trên, các kinh Tịnh độ chẳng thấy nói. Đầu tiên nhân Thiền sư Phi Tích, đời Đường trong Luận Bảo Vương, lấy hiệu Phật này làm pháp môn Nhất niệm đa Phật. Kế đó, quan thị lang họ Vương xưa trong Trực Chỉ Tịnh độ Quyết Nghi Tập cũng dùng theo. Sau cùng trong Văn Long Thơ Tịnh độ rộng khuyên người thọ trì danh hiệu ấy, bảo rằng: Có lần đem các thứ lúa so sánh thì một hợp có một ngàn tám trăm hạt. Nếu một lần xưng niệm danh hiệu ấy thì có gấp hai ngàn lần số hạt thóc. Từ đó dạy người niệm danh hiệu ấy thì công đức không thể suy nghĩ bàn luận. Xét luận Bảo Vương không ghi trích ở kinh luận nào. Nay nghĩ rằng người tụng niệm muốn biết nên chép ra đây.

QUYỂN 2

VI. Tự và Bạt (gồm ba mươi hai bài).

1. Bài tựa bằng thơ về Tam-muội niệm Phật của Pháp sư Viên Ngộ Tuệ Viễn.

2. Bài tựa Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh Sớ của Thiền sư Trí Giả.

3. Bài tựa A-di-đà kinh Thông Tán Sớ của Từ Pháp sư Ân Khuy Cơ.

4. Bài tựa A-di-đà kinh Sớ của Pháp sư Lô Sơn Trí Viên

5. Bài tựa A-di-đà kinh Tân Sớ của Pháp sư Tịnh Giác Nhân Nhạc.

6. Bài tựa Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh của Thiền sư Từ Giác Tông Tránh.

7. Bài tựa A-di-đà kinh Khuyến Trì của Từ Vân Sám Chủ Tuân Thức.

8. Bài tựa vãng sinh Tây phương lược truyện của Từ Vân Sám Chủ Tuân Thức.

9. Bài tựa vãng sinh Tịnh độ Sám Nguyện Nghi của Từ Vân Sám Chủ Tuân Thức.

10. Bài tựa vãng sinh Quyết Nghi Hạnh Nguyện Nhị Môn của Từ Vân Sám Chủ Tuân Thức.

11. Lời tựa Tịnh độ Vãng Sinh Truyện của Thiền sư Phi Sơn Giới Châu.

12. Lời tựa niệm Phật Tám Muội Bảo Vương Luận của Pháp sư Thảo Đường Phi Tích.

13. Lời tựa Hoa Nghiêm Tam-muội niệm Phật Vô Tận Đăng của Pháp sư Viên Trường Nghĩa Hòa.

14. Lời bạt Vô Tận Đặng của Tham Chánh Phạm Thành Đại.

15. Lời tựa tịnh Chúng Lễ Sám Nghi của Luật Sư Đạo Trí Nguyên Chiếu.

16. Lời bạt kinh Quán Cửu Phẩm Đồ Hậu của Luật Sư Đạo Trí Nguyên Chiếu.

17. Lời tựa Tịnh độ Nghi Luận Thập của Đề Hình Dương Kiệt.

18. Lời bạt Tịnh độ Nghi Luận Thập của Thị Chế Trần Quán.

19. Lời tựa trực Chỉ Tịnh độ Quyết Nghi Tập của Đề Hình Dương Kiệt.

20. Lời tựa Long Thơ Tịnh độ Văn của Trạng Nguyên Trương Hiếu Tường.

21. Lời bạt Long Thơ Tịnh độ Văn Bạt của Thiền sư Đại Tuệ Tông Cảo.

22. Lời tựa Tịnh độ Bảo Châu Tập của Thị Lang Vương Cổ.

23. Lời bạt Tứ Thập Bát Nguyện Hậu của Pháp sư Tuệ Giác Tề Ngọc.

24. Lời tựa Tịnh độ Cảnh Sách của Pháp sư Ngô Hưng Nguyên Dĩnh.

25. Lời tựa Tịnh độ Tín Lục của Vô Công Tẩu Vương Điền.

26. Lời bạt tu Hành Tịnh độ Pháp Môn của Thị Lang Mạc Trọng Khuê.

27. Lời bạt Minh Sư Thắng Địa Luận Bạt của Cư sĩ Độc Tinh Lâm Cao.

28. Lời tựa Bảo Thành Dị Ký Lục của Thị Chế Trần Quán.

29. Lời tựa Viễn Pháp Sư Trai Kỵ Lễ Văn của Chánh Ngôn Trầm Duệ.

30. Lời tựa Xưng Tán Tịnh độ Hải chúng Thi của Phủ Phán Phương.

31. Lời tựa Tây Quy Liên xã của Pháp Sư Nguyệt Đường Tuệ Tuân.

32. Lời tựa in Vãng Sinh Hạnh Nguyện Lược Truyện của Cư Sĩ Khải Am Ngô Khắc Kỷ.

VII. Về văn có mười ba bài

1. Lô sơn Bạch Liên xã Thệ Văn của Dật Sĩ Lưu Di Dân đời Tấn.

2. Đông Hải Nhã của Liễu Tử Hậu thuộc bộ Lễ đời Đường.

3. Lời bạt Đông Hải Nhã của Văn Trung Công

Tô Thức.

4. Lời bạt Đông Hải Nhã của Thiền sư Quất Châu Bảo Đàm.

5. Điếu Võ Thị Ngự Họa Phật Văn của Văn công Hàn Dũ đời Đường.

6. Kết Xã Pháp tập của Tăng Lục Thông Tuệ Tán Ninh.

7. Liên Hoa Thắng Hội Lục Văn của Thiền sư Tuệ Giác Tông Trách.

8. Niệm Phật Phòng Thoái Phương Tiện của Thiền sư Tuệ Giác Tông Trách.

9. Văn Niệm Phật Hồi Hướng Phát Nguyện của Thiền sư Tuệ Giác Tông Trách.

10. Văn Niệm Phật Sám Hối Phát Nguyện của Từ Vân Sám Chủ Tuân Thức.

11. Văn Kết Liên xã Phổ Khuyến của Tổng Quản Trương Luân.

12. Văn Tây Tư Xã Đồng Thệ của Chứng Thông Pháp sư Sư Hữu.

13. Văn Vãng sinh Tịnh độ Thập Nguyện của Pháp sư Đồng Giang Trạch Anh.

VIII. Về Tán (gồm 17 bài).

1. Kim Ngân Nhi Họa Tịnh độ Biến Tướng Tán của Hàn Lâm Lý Bạch, đời Đường.

2. Tú Tây phương Tịnh độ Tranh tán của Thị Lang Bạch Cư Dị đời Đường.

3. Tú A-di-đà Phật Tán của Thị Lang Bạch Cư Dị đời Đường.

4. Tây phương Tịnh độ Tán của Pháp sư Lô Sơn Trí Viên.

5. Vô lượng Thọ Phật Tán của Luật sư Đại Trí Nguyên Chiếu.

6. Họa A-di-đà Tượng Tán của Văn Trung Công Tô Thức.

7. Lý Bá Thời Họa Di-đà Tán của Thiền sư Tịch Âm Tuệ Hồng.

8. An lạc quốc tám tam thập chương của Đề Hình Dương Kiệt.

9. Thiện Đạo Di-đà Đạo Tràng Tán của Đề Hình Dương Kiệt.

10. Bạch Liên Hàm Giáo Chủ Chân Tán của Đề Hình Dương Kiệt.

11. Hiệu Thiền Nguyệt Tác Viễn Công Vịnh của Thái Sử Huỳnh Đình Kiên.

12. Viễn Pháp Sư Tán của Cấp Sự Trình Câu.

13. Lưu Di Dân Tán của Cấp Sự Trình Câu.

14. Đào Tinh Tiết Tán của Cấp Sự Trình Câu.

15. Tạ Khang Lạc Tán của Cấp Sự Trình Câu.

16. Lục Đạo Sĩ Tán của Cấp Sự Trình Câu.

17. Lâm Hạnh Tự Tiễn của Pháp Sư Tra Am Tuệ Viễn.

IX. Tựa và Bạt (gồm ba mươi hai bài).

1. Bài tựa tam muội niệm Phật thi: Pháp sư Lô sơn Tuệ Viễn.

Bài tựa nói: Tam-muội niệm Phật là gì? Nghĩa là tư tưởng hoàn toàn vắng lặng. Tư chuyên nhất thì chí không tạp nhiễm. Tưởng vắng lặng thì khí hư mà thần sáng, khí hư thì trí tuệ chiếu soi, Thần sáng thì không pháp nào mà không thấu triệt sâu xa. Hai nghĩa này là sự phù hợp huyền diệu một cách tự nhiên, hội lại thành một dụng. Cho nên sự tinh chuyên ngày đêm nhàn du khắp trong thiên hạ mà cảm vật thông linh, chế ngự được tâm chánh đạo, nhất cử nhất động thể nhập vào lý nhiệm mầu. Ở đây nếu tu đến chỗ ngưng thần, chứa nhóm để đổi tánh thì cũng giống như thế. Huống chi quên hết sự vật, đạt sâu đến chỗ chí cực, trí rơi vào trong vũ trụ mà thầm qua lại các phương?

Xin nói lại từ đầu, Bồ-tát mới chứng đạo vị, thấu triệt lý huyền môn, thể tịch vô vi mà không chỗ nào không đến. Và đạt đến chỗ thần biến thì khiến cho điều chỉnh lại các pháp thường độ. Lớn nhỏ đều trái nhau, tam quang xoay lại cảnh để cùng tỏ chiếu, trời đất lo gì không thể hội.

Lại các Tam-muội, tên gọi thì rất nhiều; nhưng công cao dễ tiến thì chỉ có niệm Phật là trên hết. Đạt đến chỗ huyền diệu cực vắng lặng, thần thể đều hợp biến, ứng với mọi phương hướng. Cho nên nay nhập vào định này, phải quên hết trí, tức là dùng sở duyên mà thành sự soi sáng. Đã được soi sáng thì bên trong chiếu soi xuyên suốt sắc của chúng sinh, tai mắt chẳng thể thấy nghe hành trì. chỗ thấy ấy sâu xa, thể cảnh vắng tịch, thì tướng giác ngộ sâu xa rõ ràng tự nhiên. Quán sát chỗ nghi vấn huyền âm, tâm nghe thì trần lụy đều tiêu hết, nghi tình đều dung hóa tỏ sáng. Nếu chẳng phải là bậc chí diệu ở trong trời đất, thì ai có thể đạt đến chỗ này? Xét theo đây, một khi cảm nhận được, bèn phát ra lý sâu tu tập lâu dài, ra khỏi sự hôn mê trần tục. Nếu làm mất đi sở duyên của các định, thì không thể gọi là hơn kém, điều này có sự nhận biết.

Cho nên phụng trì thành ý của các bậc hiền, đều là đạo lý khế hợp, cảm được sự thay đổi suy tàn của ngày tháng, sợ không báo đáp được. Cho nên trước pháp đường sám hối tự tâm, y áo ngay ngắn thanh tịnh hướng về, đêm quên cả ngủ nghỉ, trọn ngày cần mẫn siêng năng, dụng công chú mục, chí thông ba thừa, cứu giúp chúng sinh đến bờ giác, đồng trụ trong chín cõi. Mong đưa người vượt ra bể khổ, cứu vớt sinh linh. Phụ dẫn ra đây để cảnh tỉnh người sau, viết ra mấy lời này, đâu phải chỉ là văn thơ suông mà thôi?

2. Bài tựa quán Vô Lượng Thọ Phật kinh sớ:

Thiền sư Trí Giả.

Nước vui và cõi khổ, vàng báu và đất bùn, địa ngục và ao hoa, quỳnh thọ và gai góc, đều do tâm phân ra có cấu tịnh, nên thấy sự lên xuống ở hai cõi. Mở ra sự thiện ác, nên thấy có sự thô diệu ở hai nơi. Cũng như hình ngay thì bóng thẳng, nguồn đục thì dòng đen tối. Cho nên biết muốn sinh về cõi Cực lạc, thì phải tu mười sáu pháp quán. Nguyện thấy Đức Thế Tôn Di-đà, phải hành trì ba nghiệp thanh tịnh. Nhưng việc hóa nhân phải dần dần, giáo hóa phải nhờ duyên mới có, như A-xàthế giết vua soán nghịch, hoàng hậu Vi-đề ai bi cầu thỉnh, Đại Thánh rủ lòng Từ, tùy cơ nói pháp. Tuy rộng khai thị nhiễu cõi báu, mà tông quy về An dưỡng, khiến cho chúng sinh có duyên trong thời mạt pháp vâng theo diệu quán này. Mặt trời sắp lặn như chiếc trống treo, dùng đó mà suy tưởng. Nước lớn kết thành băng, thật là biểu hiện cho mặt đất lưu ly. Gió thổi cây báu, cùng nhạc trời đồng trổi lên. Sóng động ao báu, đem khế kinh mà hợp âm hưởng, quán nhục kế mà chiêm ngưỡng, nhớ nghĩ lông trắng để thấy Đức Như Lai. Đến ngày qua đời, bước lên đài ngọc được vãng sinh. Văn thành thì ấn hoại, ngồi sen vàng mà hóa sinh, nương ba bậc mà được thoát ra ba cõi chiều ngang, vượt khỏi năm khổ, đúng gọi là vi hành diệu quán, thật là yếu thuật của chí đạo.

Kinh này lấy tâm quán làm tông, lấy thật tướng làm thể, nói Phật thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật, Phật là thắng cảnh sở quán, nêu chánh báo để gồm thâu y quả, nói hóa chủ để gồm thâu đồ chúng.

Quán tuy có mười sáu pháp, mà lời của Phật đều trùm khắp, Cho nên nói Phật thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh.

Kinh là huấn pháp huấn thường, do miệng vàng của bậc Thánh nói ra.

3. Bài tựa A Di Đà kinh thông tán sớ: Từ Ân Pháp Sư-Khuy Cơ.

Lý bặt hết các giải thích, há ba thừa có thể nhiếp. Trí đầy đủ cả muôn đức chẳng phải Thập địa dùng năng quán. Rải mây từ che chở cả bốn loài. Mưa pháp tưới nhuần để cứu vớt chúng sinh trong chín cõi. Do đó Bồ-tát giáng thần từ cung trời Đâu-suất, đản sinh vào nước Xá-vệ. Chán cảnh dục lạc ở cung vua, đạt được chân thường dưới cội Giác.

Bởi chúng sinh nghiệp hoặc, bè đảng Ma tăng mạnh; vượt biển khổ, tránh ba đường, chìm mất thuyền từ mà nuốt cả muôn điều lành.

Cho nên, Phật giăng cao lưới pháp, chỉ thẳng về cõi tịnh, đó là huyền môn nhập Thánh, siêu xuất huyền diệu. mười lớp Tịnh độ, y cứ theo địa vị thì có khác nhau, chín phẩm đài sen, do căn khí khế hợp mà lần lượt bước lên. Thật vĩ đại thay!

Phật là bậc đã giác ngộ viên mãn.
Nói là tâm từ nói pháp.
A-di-đà nghĩa là Vô Lượng Thọ.
Kinh là thường pháp nhiếp quán.

Thường thì trăm vua không dễ làm, pháp thì ngàn đời đồng noi theo nhiếp thì bao gồm cả ngôn từ, quán thì thông suốt lý mầu.

Cho nên nói: "Phật thuyết A-di-đà kinh".

4. Bài tựa A Di Đà kinh sớ:

Pháp sư Lô Sơn Trí Viên

Tâm tánh là thể, sáng suốt ư? Vắng lặng ư? Chỉ có một mà thôi. Không có phàm Thánh, không có y chánh, không có dài ngắn, không có tịnh uế.

Còn như sự cảm vật là do duyên mà biến hiện, là sáu phàm, là ba Thánh, là y chánh. Y chánh đã tạo thì tuổi thọ có dài ngắn, cõi nước có tịnh uế.

Đức Phật là bực Đại Thánh trong loài người, đã đạt đến chỗ minh tĩnh như một, là mượn đạo ở tâm từ, gá nương ở tâm bi, là muốn cứu vớt quần mê giúp cho trở lại với chân tướng của mình. Thế là ở trong chỗ vô thân mà thị hiện thân, không cõi nước mà thị hiện cõi nước. Tuổi thọ vô lượng, cõi nước thanh tịnh an vui, thật đáng cầu sinh. Trái lại, cõi này thì tuổi thọ ngắn ngủi, cõi nước đáng chán, không nên ở mãi. Đã có sự ưa chán, thì dần dần khuyến hóa sách tấn hành trì.

Cho nên, Đức Thích-ca Mâu-ni thị hiện tuổi thọ có hạn lượng mà giữ lấy cõi uế. Chẳng phải muốn cho chúng sinh nhàm chán hay sao? Di-đà thị hiện ra tuổi thọ vô lượng, giữ lấy cõi Tịnh, chẳng phải muốn cho chúng sinh cầu vui hay sao? Do đây là chiết phục, từ kia mà nhiếp nhập, khiến cho quay về bổn tâm mà tỏ được tánh. Cho nên kinh Tịnh Danh nói: "Tùy theo chúng sinh được điều phục, mà giữ lấy cõi Phật." Dù lầu báu đất vàng làm cho vui mắt, nhưng không bị sắc làm cho mê hoặc, thì có thể đạt đến chỗ duy tâm vô cảnh. Tuy tiếng chim, gió cây có làm cho êm tai nhưng không bị âm thanh chế ngự, nhờ đó mới có thể nhớ nghĩ về Tam bảo. Được như thế thì thể minh tịnh rõ ràng như chỉ tay trong lòng bàn tay.

Trong kinh nói: "Chúng sinh sinh về đó, đều là bậc A-bệ-bạt trí."

Cao cả thay! Sự khéo léo của bậc Thánh là như thế, cho nên trong các kinh luận đều tán dương về cõi Tịnh độ, đều là có yếu chỉ. Vậy kinh Phật Thuyết A-di-đà nghĩa là thiên tán ư?

Tôi thì thích từ đơn giản mà lý rõ ràng, văn ngắn gọn mà sự đầy đủ. Đủ lấy đó để dẫn dụ cho kẻ ngu mông trí cạn. Y cứ theo Tông môn ngài của Long Thọ, chuẩn theo thuyết của ngài Trí Giả, y theo kinh mà biện lý, lấy đó làm nghĩa sớ. Nếu nghiên cứu một cách sâu xa thì chúng ta hầu như dám hỗ trợ cho chân phong? Vì muốn lợi ích cho người sau.

5. Bài tựa A Di Đà kinh tân sớ:

Tịnh Giác Pháp Sư-Nhân Nhạc.

Hoặc cho là hư không, không có bờ bến, thế giới là vô lượng, trong đó có phàm có Thánh, có tịnh có uế, vì sao lại như thế?

Đáp: Do vọng niệm mà như thế. Chân thì không như thế. Chư Phật chứng chân, thế giới hư không tan hết. Còn nói về việc ứng hóa thân và cõi nước, cũng tùy vọng niệm chúng sinh mà cảm ra, vì muốn cho chúng sinh bỏ phàm thành Thánh, xả uế về tịnh, sau đó dần dần được chứng quả giống như các Đức Phật vậy.

Ôi! Vọng tưởng của chúng sinh sâu dày, cho nên Đức Phật Thích-ca khởi lên tâm từ bi vô duyên, xuất hiện ở thế giới Kham nhẫn này, dùng biết bao nhiêu phương tiện, khai thị các pháp môn như năm thời thiết giáo, ba thừa thọ đạo. Tuy là đốn tiệm khác nhau nhưng đều quy về lý, lại có những vị Phật chưa độ mình mà đã độ tha ở cõi Phật khác thì gọi là Bổ xứ như Từ Thị Di-lặc, có Phật Di-đà ở Cực lạc, cho đến các cõi Phật thanh tịnh ở mười phương bày ra như ảnh tượng, trong gương, dẫn dắt như cầu bến, tùy theo sở ứng mà làm lợi ích chúng sinh. Nhưng bổ xứ tuy gần, mười phương thì xa, các kinh Đại thừa đều xưng tán cõi Cực lạc là trên hết, Di-đà là cao quý. Y-chánh đã khác mà tuổi thọ cũng dài lâu, chúng sinh tín niệm và nguyện sinh về cũng nhiều, lưu lại dấu tích thần hóa, sáng lập từ nơi chúng sinh.

Phật dạy: "Đời vị lai khi chánh pháp diệt, chỉ còn lại kinh Vô Lượng Thọ ở đời thêm một trăm năm."

Ngài Thiên Thai nói: "Nên biết là Đức Phật Diđà, đối với cõi đời có năm thứ trược ác rất có nhân duyên."

Bộ kinh này, đầu tiên do Pháp sư Từ Ân có giải thích, lại bản có sớ, cũng ghi tên ngài Khuy Cơ. Tương truyền rằng: đây là do một vị tăng Vô Danh mượn để thực hành, so với ý chỉ của văn thì đại thể là đồng mà chi tiết thì khác. Đến Lô Sơn Trung Dung tử chương cú về sau lại hiển xuất ra lưu truyền hưng thạnh ở đời. Do đó nên từ ngữ thì giản dị mà nghĩa tóm lược, dùng lời phu huấn giống như chưa nói hết nghĩa ở nơi phương đẳng! Do phương hướng chưa rõ ràng nên tôi tham giáo các vị trí giả. Lại vì tuổi cao nên muốn lấy pháp yếu một nhà cùng các thuyết Tịnh độ để nói lại văn này. Vì sợ nhiều người ganh ghét, nên chưa được như ý muốn. Khi tuổi cao sức yếu bèn lui về quê cũ, lại nhớ đến sự báo ân ngọc tuyền, lưu ở khuê phong nghĩ việc báo hiếu, tháng bảy hiến cúng Vu lan bồn chỉ giữ sự thanh nhàn mà dứt hết cấu nhiễm. Khi sách đã viết xong, chia làm thượng hạ, viết lời tân sớ mục, để phân biệt với cựu chương. Lời nói không văn, tôi đâu dám sánh với người trước, hoặc nói lý càng thêm thô thiển, cũng có chỗ không bằng.

6. Bài tựa quán Vô Lượng Thọ Phật kinh:

Thiền sư Từ Giác, Tông Gi.

Biển Chánh biến tri từ tâm tưởng sinh ra, thế giới các Đức Phật tùy tâm Tịnh độ. Thế nhưng Phật Di-đà là bậc chí Thánh, không cách xa hạ phàm, Cực lạc tuy xa, cũng đâu lìa cõi này! Cho nên, niệm Phật thì được thấy Phật. Cầu sinh thì liền được vãng sinh.

Kinh Quán Vô Lượng Thọ là dùng tâm pháp giới mà chiếu cảnh thật tướng, dùng ba thứ tịnh nghiệp mà nói rõ pháp hạnh chánh nhân, dùng mười sáu diệu quán làm phương tiện tịch chiếu. Pháp thân và hóa thân đều tùy lượng; y báo, chánh báo cùng quán. Cho nên hoàng hậu Vi-đề-hy thoát nhiên đại ngộ, thọ ký được vãng sinh. Đức Thế Tôn đích thân khuyên thọ trì, nói rộng lời này.

Kinh truyền ở cõi này, ít có người lưu thông, không có đầy đủ căn cơ, thì ai nêu bày pháp thí? Các vị Tỳ-kheo như Quỳnh An ở Thường sơn… vì thương xót chúng sinh trong cuộc sống hằng ngày không ra khỏi trần lao, khen ngợi sự vô biên của diệu cảnh, nguyện làm vị hướng đạo, đồng tâm in ấn chạm khắc, rộng khắp thọ trì. Nếu chẳng phải là những vị đồng tu một pháp môn với ngài Thế chí cũng là cựu xả của ngài Tuệ Viễn. Nay tạm ghi ra lời tựa dẫn, phổ cáo những điều chưa nghe.

7. Bài tựa A Di Đà kinh khuyến trì:

Từ Vân Sám Chủ Tuân Thức.

Kinh này văn cú tuy đơn giản, nhưng ý không khác với đại bổn, các bậc thượng Thánh vì phó duyên nên rộng lược có ít nhiều sai khác.

Y chánh, chủ bạn ở cõi này đều có đủ, phương quy nguyện hành thì có nói thêm. Từ giản đơn mà nghĩa thì rộng, phúng tụng dễ mà công lực thì nhiều, thật là một điều tốt đẹp ở cõi này. Đầu tiên thì rộng khen ngợi các pháp y báo chánh báo, dẫn đến sự ưa thích mong cầu. Kế đến thì sáu phương đều dẫn lời chư Phật, khuyên sinh lòng tín. Sau cùng thì nêu ra việc khó dễ, khiến cho người nghe biết quy hướng.

1. Rộng khen ngợi y chánh, có hai phần:

a. Khen ngợi.

b. Khuyến tu nguyện hành:

Từ "Phật bảo Trưởng lão Xá-lợi-phất..." trở xuống... là lập đối tượng được khen.

Từ "Nước kia vì sao tên là Cực lạc..." trở xuống... trước khen ngợi quả y, tức là lưới châu che khắp trời, quỳnh lâm đầy mặt đất. Nước trong ao có tám công đức, sen phát ra ánh sáng bốn mầu nhạc trời tấu đủ sáu thời, hoa rải khắp hằng hà sa ức cõi nước. Các loài chim giảng nói đạo phẩm, gió thổi vào cây truyền thụ pháp âm.

Từ "Xá-lợi-phất! Ý ông thế nào..." trở xuống... là khen ngợi về chánh báo, trước khen ngợi hóa chủ, có tám vạn tướng tốt, ánh sáng trùm khắp. Công đức dụ cho cát, nói tuổi thọ là tổng quát, thành Phật đã mười kiếp, giản lược qua chưa giải thích hết nghi. Lại từ Xá-lợi-phất trở xuống, là lời khen ngợi quyến thuộc. Chúng Thanh văn tuy đông, nhưng đều đã phát tâm rộng lớn. Bồ-tát thì nhiều cũng đều đã Nhất sinh bổ xứ. Khi vãng sinh về đó đều quy về Định tụ, quy hướng về tức đã dự vào hàng bất thoái.

Kế đến từ "Chúng sinh nghe..." trở xuống... là khuyến tu nguyện hành, trước tiên phải lập nguyện. Không thể với chút ít gốc lành trở xuống... là nói sự tu hành, "một ngày"... chính là chỗ dụng tâm dày mỏng, không dựa vào thời gian lâu mau, nên vâng theo nhất tâm bất loạn.

Từ "Khi người ấy sắp qua đời..." trở xuống... là nói về đắc quả. Từ "Ta thấy có lợi ích ấy" là tổng kết khuyến khích.

Kế đến là từ "Như ta ngày nay..." trở xuống sáu phương đều dẫn đồng, khuyến hóa chúng sinh tín niệm, trước là dẫn đồng. Kế đến là "ý ông" trở xuống, là lời khuyến tín, cũng là khuyến trì.

Từ "Như ta ngày nay..." trở xuống lần thứ ba là nêu khó để so sánh với dễ ở cõi. Đời có năm thứ ác trược đắc đạo thật khó, ở Tịnh độ tu hành thì dễ. Đều như văn mà khuyến thỉnh, trước chia ra từng chương đoạn, sau mới là văn tụng. Đây là khởi tận chúng hữu luân, công đức không luống uổng.

Hoặc như sáng yên tối lặng, người xem nghe đều thấy rõ đầu mối, miệng tụng tâm an, tinh thần sáng tỏ ở nơi u cực, tịnh cảnh chẳng mê. Lưỡi rộng dài khuyên người tu trì, há không như thế sao?

8. Bài tựa vãng sanh tây phương lược truyện:

Chỉ ở cõi Tây phương Tịnh độ, lưới báo quỳnh lâm, vượt xa ngọc hào ở các phương khác, tốt đẹp hơn ngàn lần ở nơi trần sa thế giới. Các Đức Phật đồng khen ngợi, các bậc hiền đều tôn trọng, ngài Mạn Thù nguyện sinh về nước kia, ngài Thiên Thân, Di-lặc, đều thệ vãng sinh. Các vị Thánh hiền còn như thế, huống chi hàng phàm tình?

Còn như người định nghiệp tán nhân, ít thiện nhiều phước, cắt đức năm đường mà cầu vãng sinh, chín phẩm cao thăng, thẳng đến quả Phật, không còn lui sụt.

Cho nên Phật kia có bổn nguyện rằng: "Nếu ta thành Phật, chúng sinh mười phương đều dốc lòng tin ưa, muốn sinh về nước ta, dù chỉ mười niệm, nếu không được sinh về thì ta không thành Chánh giác, chỉ trừ kẻ phạm năm tội nghịch và hủy báng chánh pháp."

Nay ta đã may mắn không phạm năm tội nghịch, không hủy báng Đại thừa, chẳng lẽ nguyện cầu mà không được toại chí hay sao?

Huống chi trong mười sáu pháp quán, nói trong hạ phẩm hạ sinh, có đủ bốn tội trọng, năm tội nghịch, hủy báng Phương Đẳng, khi sắp qua đời lửa địa ngục hiện ra, xưng mười câu hiệu Phật thì lửa dữ địa ngục hóa thành luồng gió mát, liền được sinh về nước kia. Đây là nói cho hạng người phạm tội nghịch chỉ nhờ mười niệm mà được vãng sinh, huống chi đây là đối với người không có tội?

Nói theo đây, thì mỗi người nên tự có niềm tin, hễ có nguyện sinh về, thì không ai không được toại ý. Cho nên ngài Thiên Thai Trí Giả khi sắp qua đời có nói bài tán rằng:

"Bốn mươi tám nguyện trang nghiêm cõi Tịnh, ao sen cây báu không người sinh về, xe lửa cùng hiện ra, một niệm sửa đổi liền được vãng sinh, huống chi người có giới định huân tu, đạo lực tịnh hạnh thật không luống uổng."

Lại trong bổn nguyện có nói: "Chúng sinh trong mười phương nghe danh hiệu ta, hướng niệm về nước ta, hồi hướng vãng sinh, nếu không được như ý thì ta nguyện không thành Phật."

Lại nên so sánh nghiệp hạnh lâu dài: Mười niệm tín ưa còn sinh về nước kia, huống gì một ngày tín ưa, cho đến một tháng, một năm, một đời đều tín ưa?

Lại nên so sánh về diệt tội nặng nhẹ: Một niệm diệt trừ được tội nặng trong tám mươi ức kiếp sinh tử. Một niệm xưng hiệu Phật diệt tội còn như thế, huống chi mười niệm, cho đến một ngày, một tháng, một năm, một đời niệm Phật lại được diệt tội là bao nhiêu? Tội trọng còn diệt, huống gì là tội khinh?

Lại nên so sánh công đức niệm Phật và tướng hơn kém của các gốc lành khác!

Kinh nói: Nếu ngươi đem bốn việc và các vật thực thật tốt cúng dường khắp các vị A-la-hán, Bích-chi... đầy khắp trong tam thiên đại thiên thế giới, thì được phước đức không bằng có người chắp tay xưng một câu Nam-mô Phật-đà. Người như thế được phước đức vô lượng, dù Thánh phước khắp đại thiên cho trăm phần, ngàn phần cũng không thí dụ hết được. Một niệm xưng danh hiệu Phật công đức còn như thế, huống chi niệm mười câu, cho đến một ngày, một tháng, một năm, một đời niệm Phật A-di-đà thì được biết bao nhiêu công đức.

Lại nữa! Nên biết, người niệm Phật, hiện đời được an ổn, các vị Thánh đều che chở, lìa hết mọi tai ách.

Lại so sánh các phong tục trong thời nay, các việc cúng tế quỷ thần, cầu được phước lộc, cầu được an ổn. Rồi tin tà sát mạng, tạo tội kết oán, đều chẳng có lợi cho người, nên không được phước đức, chiêu vời tội báo địa ngục đời sau. Trong kinh Dịch có nói: "Nhà làm các điều bất thiện, chắc chắn sẽ có tai ương."

Sát sinh hại mạng, để cúng tế quỷ thần, không phải một ngày, một buổi, đó chẳng phải là chứa nhóm những điều bất thiện hay sao? Tội lỗi tai ương như thế vì sao còn nghi ngờ?

Nếu nói sát sinh chẳng phải là bất thiện thì xưa nay các bậc Đế vương, vì sao có lòng nhân từ hóa thế, thắng hung tàn, dứt bỏ nghiệp sát. Loài cầm ngư theo tánh, khiến cho lên cõi thọ, đều xứng với thiện?

Nhưng pháp cúng tế, ở bên Thiên trúc có hộ pháp Vi-đà ở Trung quốc tế điển chưa thoát được thế luận, thật là quyền phương theo thế tục. Chu Công tuy xưng là thờ thần, mà không hiểu đạo gần xa Trọng Ni thờ quỷ thần? Bởi mê theo cội nguồn sáu đường, họ Lão bị đắm chìm trong chín cõi, Trang Tử chưa dời được trăm họ, chỉ có đạo Thích tôn là thấu suốt chân lý. Trời ngụ ở cõi trên, kế đến là người, Tu-la ở giữa, quỷ súc ở dưới. Nay đem người thờ quỷ, cũng giống như cúi đầu xuống chân, bắt vua phụng sự dân rất trái nghịch thay! Lại quỷ có năng lực tà vạy, việc đó đã lâu, các phương loại vật đãng, chết đọa vào trong đó.

Vậy mà đời còn mê sao?

Vả lại, đấng Đại sư trong ba cõi, đấng Từ phụ muôn đức, trở về với người, thì được diệt tội, còn được phước sinh. Điều này trong kinh có nói đủ. Nếu quy y Tam bảo thọ trì một danh hiệu Phật, hiện đời này sẽ được mười điều tốt đẹp.

1. Ngày đêm thường được các vị trời, các vị thần tướng có sức mạnh, dẫn hằng hà sa các quyến thuộc ẩn hình đến giữ gìn che chở.

2. Thường được hai mươi lăm vị đại Bồ-tát, như Quán Âm, Thế Chí... thường theo hộ niệm.

3. Thường được các Đức Phật ngày đêm hộ niệm, Phật A-di-đà thường phát ra ánh sáng nhiếp thọ người này.

4. Tất cả các ác quỷ như Dạ-xoa, La-sát đều không thể làm hại. Tất cả loài rắn độc xà, rồng dữ, thuốc độc, đều không bị trúng.

5. Tất cả nạn lửa cháy, nước lụt, kẻ thù oán tặc, đao tên, lao ngục, chết ngang trái, chết uổng đều không vướng phải.

6. Những tội đã gây ra đều tiêu trừ. Nếu có giết oan mạng đều được giải thoát, không còn chấp đối.

7. Ngày đêm chánh trực, hoặc trong mộng thấy Phật A-di-đà sắc tượng đẹp đẽ.

8. Tâm thường vui vẽ, vẻ mặt sáng sủa, khí lực sung mãn, mọi việc làm đều được lợi ích.

9. Thường được nhân dân trong các cõi thế gian cung kính cúng dường, vui mừng lễ bái, cũng như kính Phật.

10. Khi qua đời, tâm không lo sợ, chánh niệm an nhiên, hiện tiền được thấy Phật Di-đà và các Thánh chúng tay cầm đài hoa sen, tiếp dẫn được vãng sinh về Tịnh độ, cho đến tận đời vị lai đều được thọ hưởng niềm vui nhiệm mầu.

Những người có trí mời quán niệm Phật, được công đức phước lợi trong hiện đời, há đồng với các pháp cúng tế của người đời, hiện tại không có lợi ích, đời vị lai phải chịu quả khổ?

Lại nên tin tất cả kinh điển Đại thừa, đều khen ngợi cõi Tịnh độ trang nghiêm ở Tây phương, khuyên nên cầu vãng sinh, như các bộ kinh Hoa Nghiêm, Phương Đẳng, Bát-nhã, Pháp Hoa, Niếtbàn đều khai thị hành tướng và khen ngợi công đức. Lại các Bồ-tát, Thiên Thân, Long Thọ, đều có soạn luận để khen ngợi cõi Tịnh độ. Các vị Pháp sư, Thiền sư Trung Quốc, đều soạn luận, soạn sớ, khen ngợi Tây phương, Pháp sư Đạo An soạn Luận vãng sinh, sáu quyển.

Pháp sư Tuệ Viễn soạn Quán kinh sớ, một quyển, ngài Thiên Thai Trí giả soạn "Luận Thập Nghi", "Quán kinh sớ", "Di-đà kinh sớ" mỗi bộ một quyển. Thiền sư Đạo Xước soạn "An lạc Tập" ba quyển. Hòa thượng Thiện Đạo lập ra ngũ hội giáo, khuyên người niệm Phật, soạn "Quán kinh sớ" một quyển, "Nhị thập tứ tán", "Lục thời lễ văn" mỗi bộ một quyển.

Pháp sư Hoài Cảm đắc Tam-muội niệm Phật soạn "Luận quyết nghi" bảy quyển. Tam tạng Từ Mẫn soạn "Tịnh độ từ bi tập", ba quyển. Pháp sư Từ Ân soạn "Di-đà kinh sớ" hai quyển. Sa-môn Trừng Quán soạn "Quán kinh sớ", một quyển. Nếu có người nghe các Thánh chúng xưng tán khuyến hóa vãng sinh ai mà không tín ưa, trừ những người bất tiếu, si ám vô trí mà thôi.

Ở đây lại dẫn ra ba mươi ba việc chứng nghiệm rõ ràng về sự vãng sinh của các vị Đạo, tục ở các cõi Tây thiên, Đông hạ, khai thị đầy đủ các vị hiền đạt ở vị lai, nguyện cùng vãng sinh.

9. Vãng sanh tịnh độ sám nguyện nghi tự của Từ Vân Sám Chủ

-Tuân Thức:

Các Đức Phật thương xót chúng sinh bị mê mờ lầm lạc, mới lập ra các phương tiện để dẫn dắt hóa độ. Nhưng chỉ có cõi An dưỡng tịnh nghiệp là con đường nhanh chóng nên tu trì.

Các bộ kinh Đại thừa đều khai sáng yếu nghĩa này, các Đức Phật mười phương đều khen ngợi. Nếu có các Tỳ-kheo bốn chúng và thiện nam, tín nữ, các căn thiếu đủ, muốn vĩnh viễn mau phá trừ hết vô minh hắc ám, những kẻ mắc năm tội nghịch, mười điều ác và các lỗi nhẹ khác nếu muốn vĩnh viễn tiêu trừ, thì nên tu pháp này. Muốn được thọ trì các giới luật lớn nhỏ thanh tịnh trở lại, hiện tiền được Tam-muội niệm Phật và có đầy đủ các Bồ-tát tu pháp môn Ba-là-mật đều nên học pháp này. Muốn khi qua đời lìa hết sự sợ hãi, thân tâm đều được an ổn như được trở về, ánh sáng tỏa rực khắp nhà, các thứ âm nhạc, mùi thơm lạ, Phật Di-đà, Quán Âm, Thế Chí hiện ra trước mặt, đưa tay tiếp dẫn lên đài vàng tía. Từ đây xa lìa chín cõi, cắt đứt năm đường, trừ hết nóng bức, được an ổn mát mẻ. Bắt đầu là lìa hết trần lao, cho đến chứng quả không lui sụt, không cần phải trải qua nhiều kiếp đã chứng quả vô sinh, nên học pháp này. Nếu người muốn tu ít pháp mà cảm được quả báo, mầu nhiệm, các Đức Phật trong mười phương đồng thời khen ngợi, hiện tiền được thọ ký, trong một niệm đi cúng dường vô số các Đức Phật, trong khoảnh khắc liền được trở về bổn quốc, cùng tọa thực bên Đức Phật Di-đà, nghị luận với Quán Âm, hành bộ với Thế Chí. Tai mắt đều nghe thấy thấu triệt, thân lượng đến vô cùng, bay lên hư không tự tại, túc mạng rõ ràng, thấy khắp năm đường như soi mặt vào gương. Niệm niệm chứng nhập vào vô tận Tam-muội, xưng tán không thể cùng tận, nên biết là nhờ tu tập thắng pháp này. Như sở thuyết này, đều thật không luống dối các Đức Phật mười phương đều xuất ra tướng lưỡi rộng dài; khen ngợi việc tốt đẹp này, để nói lên không phải luống dối. Vậy tại sao chúng ta lại không tin Phật? Nay lấy các kinh Tịnh độ lập ra hành pháp này. Nếu muốn biết rõ, tìm xem rộng các kinh.

10. Vãng sanh quyết nghi hạnh nguyện nhị môn tự của Từ Vân Sám Chủ-Tuân Thức:

Từ Vân Sám Chủ Tuân Thức.

Cõi báu An dưỡng các bậc Đại giác đều khen ngợi, ba bậc cao thăng. Chiều gá vào hoa vàng, mà túc mạng còn tạm ở nơi biển trích, sớm dạo ao ngọc, ngọn đèn chiếu thế còn dụ ở cát sông sáng. Bởi do mười phương chưa đến, tứ sinh đã qua. Tuy chiếu ánh hào quang để khai thị, cuối cùng cúi đầu mà riêng cầu. Cho nên các xứ Hoàng châu, Trúc quốc, từ nay quán xét lại xưa. Cõi kia thì chư Hiền chí Thánh đều dùng văn chương để làm minh cõi này thì các bậc giác đức, hồng nho đều đưa ngọn bút mà viết lời thệ. Từ đây hồi hướng lâu dài, cùng hòa xướng sưu tầm thành ra thông suốt đạo dức, thẳng đến con đường an vui mãi mãi. Chỉ bởi người đời phần nhiều gây ra hoặc nghiệp, chưa nhận thức được phương hướng, hoặc chỉ lạm suy, cho pháp này là Tiểu giáo, hoặc cười chê là quyền thừa. Nói những lời này là đã trái với kinh, người mê hoặc thường điển. Kinh Dịch chẳng nói là: "Ở trong nhà, ra ngoài nói những điều bất thiện thì trái ngoài ngàn dặm, huống chi là cách xa."

Do đó liền soạn Vãng sinh Tịnh độ quyết nghi hạnh nguyện nhị môn, thẹn không văn từ, lý vẫn còn mê hoặc, chặt hết cây xú uế trong rừng y lan, trồng thêm hương chiên đàn. Tín giải, hạnh nguyện, từ trước đến sau, dù nói muôn lời cũng không thể đủ. Đây thật là nhị môn.

11. Tịnh độ Vãng Sinh Truyện Tự của Phi Sơn Thiền sư-Giới Châu.

BÀI TỰA TỊNH ĐỘ VÃNG SINH TRUYỆN

Thiền sư Phi Sơn Giới Châu.

Trong vườn Cấp cô độc, các Thánh hiền nhóm họp đầy đủ, lúc ấy thính chúng không một lời kính thỉnh, Đức Như Lai chợt bảo rằng: "Từ cõi này đi về phương Tây mười muôn ức cõi Phật có Tịnh độ, cõi nước đó rộng lớn, do một trăm báu hợp thành." Lại nói: "Chúng sinh tư duy nhớ niệm, cầu vãng sinh, đều được như nguyện."

Thuyết là nói mười hai phần giáo, đây là một phần trong Vô vấn tự thuyết. Còn nghĩa thì thế nào? Ví như mẹ bồng bế con thơ không đợi nhắc, chỉ muốn trông nom tay chân, khi cho bú no khi ẵm bồng gìn giữ.

Nhưng Đức Như Lai từ cung trời Đâu-suất giáng sinh vào nước Ca-tỳ-la. Phật thuyết giáo trong năm mươi năm, để lại bao lời từ bi thương xót, tùy cơ truyền trao. Trong vô lượng kiếp, ngài giáng sinh làm Trời, Rồng, Thích, Phạm, Thanh văn, Duyên giác, Đại Bồ-tát, xả bỏ hết đầu mắt, tay chân, tủy não. Ngoài thì bỏ cả quốc thành, châu báu, ân cần cầu thỉnh ba lần, Như Lai hoặc từ chối, hoặc im lặng. Nhưng rồi ngài lại tự nói ra kinh này, là vì thương xót chúng sinh luân hồi trong nhiều kiếp, hễ nhàm chán cõi đời ác trược, cầu sinh về Tịnh độ, thì phải ở nơi sự chuyên niệm. Niệm có chí thiết, thì mới buộc tư tưởng vào trong mười sáu pháp quán.

Trong kinh khen ngợi biển chánh biến tri của chư Phật từ nơi biển tâm tưởng sinh ra. Vì sao? Nói về sự khởi đầu thì nêu ra dần dần. Hành bắt đầu ở nơi có tu, trí bắt đầu nơi có tập, Vô thượng cực quả bắt đầu từ thâm tâm. Thâm tâm đó rất vững chắc không thể đánh bạt. Cho nên một niệm có thể chuyển được khổ ba đường, mười niệm thì bước lên chín phẩm hoa sen. Điều này trong các kinh Đại thừa phương đẳng đều cùng trình bày, cùng phát huy, chẳng phải chỉ một bộ kinh nói ra.

Từ thời Hán Ngụy đến nay, chí thành hướng về Tây có người thật dùng đại pháp, ban đầu chưa lưu hành văn kinh chưa đầy đủ. Thời Tây Tấn, Khấu Đãng, Lưu Diệu ở kinh lạc, vị Tăng tên Hiển Tịch ở đất Giang đông, bắt đầu do ba điều nhân nguyện, cảm được nhiều điềm lạ, từ đó khư khư giữ lấy chí nguyện, gặp thời loạn lạc nên dời đổi thắng nghiệp, nhiều người hầu như không nghe biết.

Cuối thời Đông Tấn, có ngài Tuệ Viễn ở tại Lô sơn, có pháp sư Thích Đạo Bính đồng lòng mở hội và các vị như Trúc Đạo Sinh, Phật-đà-da-xá, cùng các vị tài giỏi ở tại gia như Lưu Di Dân, Lôi Thứ Tông, Chu Tục... gồm một trăm hai mươi ba vị đồng kết du ở bên ngoài cùng nhóm hợp lại. Ngài Tuệ Viễn cho rằng thân này ở trong huyễn mộng không thể lâu dài, do đó hướng về cõi nước Vô lượng thọ, làm chốn nhàn du tu tập. Lại nói rằng ở cõi thanh tịnh đó không có ba đường, không có sáu thú, chúng sinh nương về đó chẳng phải là ít. Khi được vãng sinh về đó, có cờ báu dẫn đường đi trước, thác sinh vào hoa sen vàng. Thế là cùng nhau mở hội Liên xã. Từ đó các hội Liên xã bắt đầu ra đời. Hoặc có khi gọi là Tịnh xã, ý nghĩa cũng giống như vậy.

Từ thời ngài Tuệ Viễn về sau, pháp môn tu Tịnh độ càng được chấn hưng phát triển. Cho đến đời Tống thì có Đàm Hoằng; đời Tề có Tuệ Tiến; đời Lương có Đạo trân. Khoảng cuối đời Đường, xuất hiện các vị đĩnh ngộ thông thức như Đạo Xước, Thiện Đạo. Chúng ta sinh vào đời Tượng pháp, gặp được di pháp của Phật, hướng về Tịnh nghiệp, cũng đã được một năm. Mỗi khi đọc qua sự tích của các vị tiền hiền, tản mát trong các truyện ký, trải qua nhiều thời đại không thể nêu ra hết, điều này có thể khảo sát. Lại khảo xét từ đời Lương, đời Tùy về sau có Tuệ Kiểu, Đạo Tuyên soạn ra các truyện ký, gồm có mười hai nhà. Lại đến đời Tống có Tân truyện của Đại sư Thông Tuệ, được hiển đạt có bảy mươi lăm vị. Những tập truyện sáng tác đó về lý thì có chỗ còn mờ mịt, từ ngữ còn nhiều lủng củng, về nhân thì do sự tu chân chánh mà phát minh ra. Bên ngoài thì có Hồng Nghiệp, Tuệ Minh, gồm có sáu mươi hai vị, lúc còn sống thì ghi nhớ, đến khi qua đời không hề được chiêm ngưỡng thắng tướng, không đáng để khởi lòng tin sâu.

Các vị minh triết về sau hoặc do những chỗ không đủ thêm vào cho đủ, tôi cũng có bổ khuyết thêm vào.

12. Niệm Phật Tam-muội Bảo Vương Luận tự của Thảo Đường Pháp Sư-Phi Tích.

BÀI TỰA TAM-MUỘI NIỆM PHẬT BẢO VƯƠNG LUẬN

Pháp sư Thảo Đường Phi Tích.

Khách có vị cao tín, đến nơi thiền tọa của tôi, làm lễ xong rồi thưa hỏi, lời lẽ thật thanh tao.

Hỏi: Người tu tâm, con đường thành đạo ngắn nhất: Như Tam-muội Pháp Hoa, hành trì không dễ, Tam-muội niệm Phật, Tông môn Ban-chu, tất cả đều là thiền môn vô thượng thâm diệu, xin nghe vài lời chí thành.

Đáp: Tôi ẩn mình trong chín ngọn núi cách xa cuộc đời, sách vở không đọc đến. Từ chùa Thảo đường núi Tử các, khiến cho kinh điển ngàn phước, Pháp Hoa thắng tràng, mới đây mà đã ba mươi năm rồi. Ở nơi yên tịnh chẳng có gì để ông hỏi. Nay ông muốn bước đến bến rồng vô sinh, nâng cánh chim bằng về Nam, tôi không được linh mẫn cũng thử luận bàn.

Ở đây chỉ xin lược khai ra hai mươi môn để nói rõ yếu chỉ này.

13. Hoa Nghiêm Niệm Phật Tam-muội Vô Tận Đăng của Pháp sư Viên Trừng, Nghĩa Hòa.

BÀI TỰA HOA NGHIÊM TAM-MUỘI NIỆM PHẬT VÔ TẬN ĐĂNG.

Pháp sư Nghĩa Hòa Viên Trừng.

Sáu đường phàm phu, ba Thừa Hiền Thánh, căn bản đều là linh minh thanh tịnh, cùng một tâm pháp giới, tánh giác bảo quang soi sáng, mỗi mỗi đều viên mãn, vốn không có tên gọi chư Phật, cũng không có tên gọi chúng sinh. Nhưng tâm này linh diệu tự tại, không giữ tự tánh, tùy duyên mê ngộ, tác nghiệp chịu khổ, gọi là chúng sinh.

Nếu tu đạo chứng chân, thì gọi là chư Phật. Phật thương xót chúng sinh bị điên đảo vọng tưởng chấp trước nên không chứng được. Cho nên Phật xứng tánh pháp giới mà nói kinh Hoa Nghiêm, muốn giúp cho chúng sinh biết rõ tất cả pháp tức là tự tánh của tâm, thành tựu được Tuệ thân, không do người khác mà ngộ. Còn như đồng tử Thiện tài chứng nhập pháp giới, tham học với Thiện tri thức các nơi. Đầu tiên thọ học với Tỳ-kheo Kiết Tường Vân môn Vô ngại trí tuệ niệm Phật. Lại đến trưởng giả Giải Thoát học "Duy tâm niệm Phật môn", lại đến Phổ Biến Kiết Tịnh Quang Dạ thần dạy cho quán đức tướng niệm Phật môn.

Sau hội Hoa Nghiêm, các Tổ chuyên về niệm Phật, đều không được yếu chỉ. Các Thiện tri thức ở trong cửa giải thoát lại lập bày ra các pháp môn, ý muốn chúng sinh cùng thấu triệt như chư Phật. Cõi Tịnh và cõi uế dung thông, pháp pháp kia đây đều gồm thâu, trần trần đều bao quát, trùm khắp pháp giới. Tương tức tương nhập, vô ngại viên dung. Nếu đắc được pháp môn ấy thì khế hợp với chư Phật. Không được yếu chỉ thì tu nhân trong muôn kiếp cũng không bằng, như cùng một loại thuốc trị nứt nẻ mà có kẻ suốt đời bị vằn vện, có kẻ da thịt nhẵn thín… Bởi dụng có khéo vụng, mà lợi thì có lớn nhỏ, đó là pháp môn niệm Phật.

Nếu có sự trải qua lâu dài, gắng sức cũng nhiều, mà mất đi yếu chỉ quy hướng lúc bình thường, nên bị cảnh khác khởi dậy mạnh mẽ, tước đoạt thân tâm, dù có siêu ngộ chút ít thì trong đời này cũng không thể vượt qua được.

Trong kinh Hoa Nghiêm, quán hạnh viên mãn cho đến đạt được công lực chỉ trong khoảnh khắc, thấy cảnh Phật chỉ trong mảy bụi. Chúng sinh ở trong tâm chư Phật, mỗi chúng sinh đều có khả năng thành Phật, chư Phật ở trong tâm chúng sinh, niệm niệm đều chứng chân, thật là đơn giản dễ hiểu.

Tuy nhiên, tâm chư Phật nhổ gốc khổ và ban vui chỉ có một, năng lực không thể nghĩ bàn cũng là một. Chỉ có Đức Phật Di-đà, thì nguyện lực thiên trọng tiếp dẫn chúng sinh ở cõi Ta-bà. Cho nên Đức Bổn Sư trong phần lưu thông của bộ kinh, hạnh nguyện của Phổ Hiền là chỉ riêng Đức Phật A-di-đà, thật là chí thiết.

Nghĩa Hòa này về già thoái tịch về Bình Giang Năng nhân, chuyên sưu tầm ghi chép về sách Tịnh độ và các bộ luận tán, nhưng không hề có bộ pháp môn niệm Phật Hoa Nghiêm viên dung, nên không đáng nói.

Than ôi! Pháp môn bất tư nghì đã bị thất lạc, trong phần Đại kinh và Sớ ký đã không còn nghe ở đời, lìa đây mà tìm cầu, chẳng khác nào muốn đi về hướng Nam mà dong xe lên hướng Bắc. Cho nên tôi sao lục lại các sách đầy đủ, soạn thành một tập, đủ cho người thấy nghe hiểu rõ mà quy hướng

Tịnh độ, đâu cần đợi đến thứ bậc tu hành? Chẳng phải tư lương mà chứng được Di-đà, há còn có ngôn niệm? chư Phật bỏ trần theo giác cho nên tỏ sáng. Chúng sinh thì bỏ giác theo trần cho nên mê mờ. Muốn cho người mê được tỏ ngộ, sự tỏ sáng đó cuối cùng vô tận. Nhờ mắt mà thấy khắp, cho nên nói là vô tận đăng.

14. Vô Tận Đăng Hậu Bạt của Tham Chánh Phạm-Thành Đại

LỜI BẠT VÔ TẬN ĐĂNG

Tham Chánh-Phạm Thành Đại.

Tam-muội niệm Phật rất sâu xa nhiệm mầu, ở thế gian chỉ dùng âm thanh làm Phật sự. Sách này đã xuất bản nên người biết được bến bờ.

Mùng bảy, cuối Hạ, năm Đinh hợi, niên hiệu Càn Đạo. Phạm Thành Đại ở quận Ngô kính ghi.

15. Tịnh Nghiệp Lễ Sám Nghi Tự của Đạo Trí Luật Sư-Nguyên Chiếu.

BÀI TỰA TỊNH NGHIỆP LỄ SÁM NGHI

Luật sư Đại Trí Nguyên Chiếu.

Nguyên Chiếu từ khi hạ đàn đến nay mới biết học luật. Nhưng bản tánh vốn vụng về nên hành trì không ra gì. Sau đó, nhờ gặp được Pháp sư Thiên Thai Thần Ngộ hết lời dạy bảo, nên biết sửa đổi. Từ đó mới hết lòng tham cầu lời dạy của Tổ, nghiên cứu rộng Phật thừa; đối với lời vi ngôn của Phật tổ, có lãnh hội đôi chút, liền trộm nghĩ: "Sơ tâm học muộn, là do không có gốc lành đời trước chăng? Cũng bởi không gặp được bậc thầy giỏi, cho nên làm ác không biết xấu hổ, luống uổng một đời, chịu khổ nhiều kiếp."

Thế rồi bèn phát thệ nguyện rộng lớn, thường sinh vào cõi Ta-bà có năm thứ ác trược, thông đạt được Phật lý, làm đại đạo sư, để khuyến hóa chúng sinh, khiến cho tất cả đều thể nhập vào Phật đạo. Lại thấy trong Cao Tăng truyện, Pháp sư Tuệ Bố có nói: "Cõi này tuy tịnh, nhưng chẳng phải sở nguyện của ta. Nếu như mười hai kiếp ở trong hoa sen thọ hưởng sự vui sướng, đâu bằng ở trong ba đường cực khổ này cứu độ chúng sinh."

Do đó mà giữ vững thấy biết của mình, trải qua nhiều năm, đối với pháp môn Tịnh độ không hề quy hướng. Thấy người tu tịnh nghiệp lại còn phỉ báng, xem thường. Sau gặp cơn bệnh nặng, sắc lực hao mòn yếu ớt, thần trí mê mờ, không biết quy hướng về đâu? Khi bệnh đã bớt, chợt nhớ lại tội lỗi trước kia, lòng cảm thương rơi lệ, thầm tự trách mình. Chí tuy to lớn, mà năng lực chưa thể kham nổi, nhờ xem luận Thập Nghi của ngài Thiên Thai, nói Bồ-tát sơ tâm chưa chứng Vô sinh nhẫn, thì không được xa lìa Phật. Lại trong luận Trí Độ có nói: "Hàng phàm phu còn bị trói buộc có tâm đại Bi, nguyện sinh vào cõi đời có năm thứ ác trược, cứu khổ chúng sinh, thật không phải chỗ. Ví như đứa bé không được rời cha mẹ, cũng như loài chim non bé nhỏ phải tập chuyền cành."

Thế là tội bỏ hết những sở học từ trước tới giờ, chuyên tâm tu pháp môn Tịnh độ, trong hơn hai mươi năm không hề tạm bỏ. Nghiên cứu tỏ tường lý giáo, bao gồm cả xưa nay, chợt tan biến các thắc mắc, càng thêm tin sâu.

Lại thấy Hòa thượng Thiện Đạo nói về hai pháp tạp và chuyên. Nếu chuyên tu thì trăm người tu, trăm người được vãng sinh. Nếu tạp tu thì muôn người tu chỉ đắc đạo một hai người. Tâm thức bị tán loạn, quán hạnh lại khó thành, cần phải nhất chí chuyên trì danh hiệu bốn chữ. Cả đời lầm lạc, nay mới biết chỗ quay về, do đó lấy chỗ sở tu, lần hồi hóa đạo cho đến tận đời vị lai. Phương tiện có nhiều cửa, để cho người tin được nhập vào. Như Bồ-tát Đại Thế Chí, dùng tâm niệm Phật, ngộ được viên thông, nhập Tam-ma-địa.

Lại tự suy nghĩ đến vô lượng tội nghiệp đã gây ra từ trước, không tin Tịnh độ, hủy pháp báng người. Nay nghiệp nhân đã thành, quả khổ chắc chắn khó tránh khỏi. Dù cho trăm ngàn kiếp, việc đã làm không mất, nghiệp tánh tuy là không, nhưng quả báo không mất. Trong lòng cảm thấy hổ thẹn, sớm tối bàng hoàng lo sợ. Thế rồi, thân liền đối trước Thánh tượng thố lộ tâm can, năm thể gieo sát đất, hết lòng sám hối.

Bèn phát đại nguyện, độ khắp chúng sinh, đồng tu niệm Phật, đều sinh về Tịnh độ. Muốn thường tu tập, phải lập ra nghi quỹ, cho nên gom tập các sách soạn thành tập sách này, từ đầu đến cuối có chia ra mười môn, đều y cứ theo lời Thánh, vâng theo nghi thức của người xưa, sự cũng lược đơn giản, pháp ở chỗ tinh chuyên, chỉ quý ở chỗ đầy đủ cho sự tu trì, đâu dám vượt qua các bậc tiên đạt? Các vị hậu bối có xem qua, xin hiểu cho ý chí của tôi.

16. Kinh Quán Cửu Phẩm Đồ Hậu Tự của Đạo Trí Luật Sư-Nguyên Chiếu.

LỜI BẠT KINH QUÁN CỬU PHẨM ĐỒ

Người học Phật ở đời, mới đầu ai cũng cho là vì việc lớn sinh tử. Lại bảo rằng bị tiếng tăm danh lợi làm động, bị duyên đời cuốn theo, thì việc lớn sinh tử chẳng cần nói đến. Hoặc bị người níu kéo thì sự từ chối không thể tự quyết định, hoặc nói đây không cần hỏi, hoặc nói không cần phải biết, hoặc nếu phù hợp thì vâng làm theo, chẳng cần suy lường tính toán. Hoặc nói tùy chỗ thọ sinh, ra vào tự tại. Hoặc nói sinh vào nhà không cao không thấp, lại là thân người nam. Hoặc nói tinh thần yên định, hiện các tướng thiện ác, không được tùy tiện bỏ, hoặc khiến cho biết trước thời gian, hoặc dạy khi sắp qua đời thì đoạt ấm, hoặc nói trăm xương cốt phân tán, một vật linh thiêng mãi. Hoặc nói hình tán khí tiêu, trở về chỗ vắng lặng. Các loại thức ức lường rối loạn như thế, đều không ra khỏi phàm phu, giống như hai kiến chấp thường, đoạn của ngoại đạo. Đến khi bốn đại phân giải, bệnh khổ ép ngặt, thần thức vô chủ, theo nghiệp luân hồi, điều này không còn nghi ngờ gì nữa. Dù cho định được thời khắc ngồi yên thoát hóa, thì thuật thế gian có thể làm được, chẳng đáng là kỳ diệu. Ở đây nếu không thấy "kinh Thập Lục Quán", không biết được tướng sinh chín phẩm, không tin nguyện lực Di-đà, mà cố chấp giữ sự thấy biết, tự cam chịu khổ sở, há không đáng thương xót sao!

Cô Tô Dật Thượng nhân, trải qua chốn tòng lâm đã lâu, không dính mắc thiên kiến, chú ý vào "kinh Quán" cũng cả năm rồi. Vì sợ hàng Đạo tục chưa xem qua kinh bổn, bèn mời thợ vẽ lại tướng chín phẩm, dẫn đầy đủ như trong văn kinh, khai thị mấy lời, xếp vào phía sau bộ kinh, dùng làm kệ tụng để khuyến đạo, lại cũng giúp cho người biết được việc lớn sinh tử. Thấy rõ con đường chân chánh mà không bị đắm mê trong dị kiến, uổng chịu luân hồi. Như nhân tướng đã nêu, do theo văn mà cảm hoài, thì sẽ có niềm tin. Hiểu thì là tu hành, còn nghi ngờ là hủy báng. Không chỗ nào mà không là gieo giống vãng sinh. Văn này ở đời há lại không có chút bổ ích hay sao?

17. Tịnh độ Nghi Luận Thập Tự của Đề Hình Dương Kiệt:

BÀI TỰA THIÊN THAI TỊNH ĐỘ NGHI LUẬN TẬP

Đề Hình Dương Kiệt.

"Ái không nặng, không sinh vào cõi Ta-bà, niệm không chuyên nhất thì không sinh về Cực lạc."

Ta-bà là cõi uế, Cực lạc là cõi Tịnh. Tuổi thọ ở Ta-bà có hạn lượng, tuổi thọ ở Cực lạc thì không có hạn lượng. Ta-bà có đủ sự khổ, cõi kia thì An dưỡng không còn khổ não. Ta-bà theo nghiệp luân hồi trong sinh tử. Cực lạc hễ đã vãng sinh thì mãi mãi chứng Vô sinh pháp nhẫn. Nếu nguyện độ sinh thì nhậm ý tự tại, không bị nghiệp xoay chuyển. Như vậy thì tịnh uế, thọ lượng, khổ vui, sinh tử, đều có khác nhau, mà chúng sinh vì mê mờ nên không tỏ biết, thật đáng thương biết bao! Đức Phật A-di-đà là chủ nhiếp thọ cõi Tịnh độ. Đức Thíchca Như Lai là thầy chỉ đường về cõi Tịnh độ. Quán Âm, Thế Chí, giúp Phật giáo hóa quần mê. Cho nên giáo điển một đời của Đức Như Lai, chỗ nào cũng đều khuyến người cầu vãng sinh Tịnh độ. Phật Di-đà cùng Quán Âm, Thế Chí, nương thuyền đại nguyện vào biển sinh tử, mà không đắm trước bờ này, không lưu bờ bên kia, không dừng lại ở giữa dòng, chỉ lấy việc cứu giúp chúng sinh làm Phật sự.

Cho nên trong kinh A-di-đà nói: "Nếu có người thiện nam, thiện nữ nào nghe nói về Đức Phật Adi-đà, chấp trì danh hiệu, từ một ngày cho đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn, thì người đó khi sắp qua đời, tâm không điên đảo, liền được vãng sinh về nước Cực lạc."

Lại trong kinh Vô Lượng Thọ nói: "Chúng sinh trong mười phương nghe danh hiệu ta, nhớ nghĩ đến nước ta, trồng cội công đức, dốc lòng hồi hướng, muốn sinh về nước ta, nếu không toại ý thì ta không thành Chánh giác."

Cho nên tại viện Vô thường trong tịnh xá Kỳhoàn, Phật bảo người bệnh xoay mặt về hướng Tây, tưởng quán vãng sinh Tịnh độ. Bởi Đức Diđà phát ra ánh sáng chiếu khắp pháp giới, nhiếp thủ các chúng sinh niệm Phật không lìa bỏ. Thánh phàm một thể, cơ cảm tương ưng. Chúng sinh trong tâm chư Phật, mỗi hạt bụi đều là Cực lạc, Tịnh độ trong tâm chúng sinh, niệm niệm đều là Di-đà. Tôi cho rằng pháp quán đó, người có trí tuệ rất dễ sinh, vì dứt được nghi ngờ. Người tu thiền định dễ sinh, vì không bị tán loạn. Người giữ giới dễ sinh vì không nhiễm trần lụy.

Người Bố thí dễ sinh vì không còn ngã hữu. Người nhẫn nhục dễ sinh vì không còn sân nhuế. Người tinh tấn dễ sinh vì không còn lui sụt. Người không làm điều lành, không gây điều ác dễ sinh vì niệm thuần nhất. Các việc ác đã gây, nghiệp báo đã hiện dễ sinh vì thật sự biết sợ hãi sám hối. Tuy có làm nhiều việc lành nhưng nếu không có tâm thành tín, không có tâm sâu xa, không có tâm hồi hướng phát nguyện, thì không thể vãng sinh bậc thượng thượng.

Ôi! Niệm Di-đà thật dễ trì, Tịnh độ thật dễ vãng sinh, mà chúng sinh lại không thể trì, không thể vãng sinh, là vì sao? Chúng sinh gây ra nghiệp ác, sa vào đường khổ, niệm Di-đà sinh về Cực lạc, cả hai điều này đều do Phật nói ra. Người đời sợ đọa địa ngục, mà nghi ngờ việc vãng sinh, cũng không phải là mê lầm hay sao?

Pháp sư Tuệ Viễn đời Tấn, là người hiểu thông giáo thừa, là bậc xuất thần túc đức, thường cùng Tôn-giả Da-xá và Lưu Di Dân cùng các bậc tài giỏi, lập ra Bạch Liên xã ở Lô sơn, cũng bởi lòng tinh thành ở đây. Sau đó bảy trăm năm, các triều đại Lương, Chu, Tùy, Đường các hàng tăng tục tu tịnh nghiệp được sự cảm ứng chẳng phải một, các việc này có chép trong "Tịnh độ Truyện Ký", chẳng lẽ giả dối hay sao? Nhưng lời tán phụ Di-đà giáo quán, đều rút các tích từ trong sách ra. Nhưng "Luận Tịnh độ Thập Nghi" của Đại sư Trí Giả là quan trọng nhất. Trích dẫn lời Thánh, để mở bày khai sáng nghi ngờ của mọi người. Muôn năm ở trong nhà tối, khi ánh mặt trời sáng tỏ thì tăm tối không còn. Ngàn dặm bơi trong nước, gặp thuyền thì không còn nhọc tự lực. Sau các tạng giáo phi pháp thì thân không thể đến được.

Tôi ở kinh đô, từng đọc qua văn này. Đọc qua rồi hiểu biết, không ai không sinh lòng tin. Từ lúc bị hình phạt tàn khốc, sự cảm ngộ càng sâu, nguyện đem truyền bá rộng. Nhân lấy đây dẫn làm bài tựa.

Giữa mùa thu niên hiệu Hy Ninh thứ 9, kính ghi.

18. Tịnh độ Thập Nghi Luận Tự Của Thị Chế Trần Quán

BÀI TỰA SAU CỦA TỊNH ĐỘ THẬP NGHI LUẬN

Tâm người vô thường, pháp cũng vô định. Tâm pháp đều khác nhau, nhưng căn bản vẫn tại đây. Tín đây thì tin khắp, đó là Thập tín trong kinh Hoa Nghiêm. Nghi đây là nghi khắp, ngài Trí Giả gọi đó là Thập nghi.

Bỏ nghi nhập vào tín, một nhập thì tất cả đều nhập, không lìa ở đây, mà được chỗ rốt ráo.

Tịnh độ là nơi rốt ráo. Ở cõi này có vị đứng đầu nói pháp tên hiệu là Vô Lượng Thọ. Đức Phật nói pháp ở đây không hề đứt quãng. Nghi chướng ở tai thì tai điếc không nghe, Nghi chướng ở nơi tâm thì mê muội không hiểu. Không nghe không biết, an trụ vào ác tập, khen ngợi bất niệm, tùy hỷ thô tâm, vọng nói gá sinh hoa sen là điều luống dối. Cuối cùng không tự niệm thì thân bị phần đoạn, từ đâu mà đắc được, từ đâu mà đến? Thai ngục uế vẫn đục, chân thân an trụ ở đâu? Tín dựa vào nghiệp thức, tự làm ngăn chướng chân tâm. Đối với nhất huyễn cảnh chẳng chấp kia đây, sinh sinh bất linh, mãi mãi xa lìa đường Thánh.

Vì vậy mà Đức Thích-ca khởi tâm từ bi thương xót, ở trong cõi uế trược này, ngài phát ra âm thanh lớn, hết lời ca ngợi sự vui sướng thượng diệu ở Tịnh độ. Ở trong sinh tử, Phật là Đại thuyền sư, đem thuyền pháp chở chúng sinh qua đến bờ bên kia, ngày đêm Phật lo độ sinh không hề ngừng nghỉ. Nhưng bến bờ của Phật Di-đà, vốn không có kia đây. Thuyền của Phật Thích-ca thật chẳng phải đến đi. Ví như một ngọn đèn, phân chiếu trong tám gương. Gương có đông tây, bóng sáng không hai. Di-đà nói pháp, chiếu khắp trong cảnh giới, mà phương tiện của Phật Thích-ca, riêng chỉ gương ở Tây. Cho nên người đã đến bờ bên kia, thì có thể quên kia đây. Người chưa nhập vào pháp giới làm sao thấu triệt hết đông tây? Đối với pháp này nếu chưa đạt rốt ráo, thì chớ dính mắc vào phương hướng, chớ phân ra kia đây, chỉ nên chánh niệm tín tâm mà thôi. Ý của hai vị Thánh này, mà ngài Trí Giả gọi đó là tín.

Tín: là mẹ sinh ra muôn pháp lành, nghi là cội gốc của muôn điều ác. Nếu thuận theo mẹ, thì nhổ hết cội rễ, cái gọi là chúng sinh chướng duyên, kẻ bị điếc sẽ được nghe, mê muội lại được biểu biết, chưa ra khỏi sinh tử sẽ được ra khỏi, chưa sinh về Tịnh độ sẽ được sinh về Tịnh độ. Chúng sinh thuận theo lời dạy của Đức Phật Thích-ca thì vãng sinh tận mặt thấy Phật Di-đà, theo nguyện của Phật Diđà đến giúp Đức Thích-ca. Ở cõi này mà trùm khắp mười phương, tức là từ hướng Tây đi khắp các cảnh giới. Từ khi nhị Thánh (Thích-ca, Di-đà) kiến lập đến nay, người được sinh về đó nhiều như số các sông Hằng.

Thế nào là bất tín? Thế nào là nghi? Nếu tự tin mình, lại bày ra các phương tiện, giúp cho người chưa tin thì sinh khởi lòng tin. Đây chính là lòng Từ bi của người trí.

Đại sư Minh Trí (Trung Lập), học đạo của ngài Trí giả, không thuận theo văn, mà thuận theo lòng từ bi, do đó lại ấn hành luận này, nhờ tôi viết cho lời tựa này, thêm cho phần truyện ký.

Ngày 11 tháng 07 niên hiệu Nguyên Hựu thứ 8.

19. Trực Chỉ Tịnh độ Quyết Nghi Tập Tự của Đề Hình Dương Kiệt

BÀI TỰA TRỰC CHỈ TỊNH ĐỘ QUYẾT NGHI TẬP

Đề Hình Dương Kiệt.

Bậc Thánh vì đại nguyện nên từ Tịnh độ đến đây. Đến mà thật ra là không đến. Hàng phàm phu thâm tâm đi về cõi Tịnh độ, đi mà thật không đi. Kia không có đến đi. Đây không qua lại, mà Thánh phàm lại gặp nhau, cả hai cùng dung hợp. Vì sao? Vì Đức Di-đà phát ra ánh sáng như vầng trăng tròn chiếu khắp mười phương. Nước trong mà yên tĩnh, thì mặt trăng hiện ra toàn thể. Mặt trăng không phải theo nước mà đến. Nước đục mà lại xao động, thì mặt trăng không thể chiếu sáng. Mặt trăng chẳng phải bỏ nước mà đi. Tại nước thì có trong đục, động tịnh. Ở mặt trăng thì không có lấy bỏ, đến đi. Cho nên trong kinh Hoa Nghiêm, Trưởng giả Giải Thoát có nói: "Biết tất cả chư Phật giống như ảnh tượng, tự tâm như nước, chư Phật Như Lai không đến đây, ta cũng không đến kia. Ta muốn thấy cõi Phật A-di-đà, thì tùy ý liền thấy." Cho đến biết chúng sinh chú niệm, chắc chắn thấy Phật Di-đà. Phật Di-đà đến đón rước, cõi Cực lạc không xa. Là lời thật xứng tánh, chẳng phải quyền giáo. Cõi Tịnh độ không có dục, nên chẳng phải cõi Dục, là cõi địa cư chẳng phải là cõi Sắc, chúng sinh nơi ấy có hình tướng nên chẳng phải cõi Vô sắc. Tất cả chúng sinh, chưa ngộ được chánh giác, ở trong cơn đại mộng, lên xuống trong sáu đường, không hề dừng nghỉ. Cảnh giới các vị trời tuy là vui sướng, nhưng quả phước báo hết thì hiện ra tướng suy. Cõi Tu-la đầy sân hận, cùng các trời tranh đấu thắng bại, loài bàng sinh bay chạy, ăn thịt tàn sát lẫn nhau. Quỷ thần ở chốn u minh, bị đói khát ép ngặt. Đêm dài ở cảnh địa ngục, đâu khổ kêu gào. Được sinh vào cõi người thật là may mắn! Nhưng rồi khó tránh được sự ràng buộc của sinh già bệnh chết. Chỉ có cõi Tịnh độ, hoàn toàn không còn các điều khổ, gá sinh vào đài sen, không còn khổ sinh, nóng lạnh không thay đổi, không có khổ già, thân chẳng còn phần đoạn, không còn khổ bệnh. Tuổi thọ vô lượng, không còn khổ chết. Không có cha mẹ vợ con, nên không có khổ ái biệt ly. Các bậc thượng thiện cùng nhóm họp, không còn khổ oán tắng hội. Ăn bằng hương hoa, thọ dụng châu báu, không còn khổ mong cầu không được, không có nỗi cùng khốn. Quán chiếu vắng lặng, không có khổ uẩn.

Dùng lòng Từ bi thương xót chúng hữu tình, muốn sinh thì sinh, không trụ vào vắng lặng, không có Nhị thừa. Trí chiếu sinh tử, được không lui sụt, chẳng phải là phàm phu. Ba cõi mênh mông, ví như bốn bể, gò cao hầm hố, các thứ uế trược mục nát chứa nhóm lại. Sông ngòi ngăn cách, lấy ai làm cầu đò. Do đó mới có kẻ cuồng nhân mê vọng nơi này, loài ác thú dữ ly mị não hại trong cảnh tạp cư. Nạn chiến tranh, nước lụt lửa cháy có lúc nổi lên làm thương hại sinh linh. Gió sương, mưa gió bất thường, lại thêm sấm chớp ghê trời đáng sợ, không biết thành trì nhà cửa có đủ để che chở hay không. Ăn uống, y phục không đầy đủ, cam chịu ở trong cảnh đau khổ, mà không chịu cầu sinh Tịnh độ an vui.

Có Đức Phật Thích-ca, là đấng Đại đạo sư, chỉ cho chúng sinh biết cõi Tịnh độ thanh tịnh, là nước an vui Phật Vô Lượng Thọ là thầy cõi Tịnh độ. Như vậy chúng sinh chỉ cần phát thành tâm, niệm danh hiệu Di-đà, liền được vãng sinh. Nếu sinh về cõi nước kia thì không còn khổ não. Người không nghe biết thật đáng thương xót. Cũng có bậc thiện sĩ phát nguyện ba thứ tâm bất tín, không cầu vãng sinh cũng đáng thương xót. Ba thứ tâm bất tín đó là:

1. Ta nên vượt hơn cả Phật Tổ, Tịnh độ không đáng để sinh về.

2. Nơi nào cũng đều là Tịnh độ, Tây phương không cần phải sinh về.

3. Cõi Thánh Cực lạc, hàng phàm phu chúng ta không thể sinh về.

Biển nguyện thật vô tận, Bồ-tát Phổ Hiền còn nguyện thấy Di-đà, cõi Phật tuy là không, ngài Duy-ma thường tu cầu Tịnh độ.

Các Đức Như Lai mười phương có xưng tán tướng lưỡi rộng dài. Bồ-tát mười phương có tâm đồng vãng. Thử ngẫm nghĩ suy lường, ai có thể bằng với các bậc Thánh?

Nói không đáng sinh, vì sao lại tự xem thường như vậy! Ví như Tổ sư Long Mãnh, trong kinh

Lăng-già có bài văn dự ký. Ngài Thiên Thân là bực giáo tôn, trong "Vô lượng luận" có bài kệ cầu sinh. Ngài thông tán của ngài Từ Ân, đầu tiên xưng tụng mười điều thù thắng. Ngài Trí Giả có bài "Triết lý", nói về mười điều nghi. Những vị ấy đều là bậc thượng triết, đều tinh tấn tu cầu vãng sinh.

Nói không cần phải sinh thật là quá khinh mạn, xe lửa có thể diệt, thuyền đá không thể chìm.

Hiện ra hoa báo, chẳng có khả năng đối với mười niệm mà vượt lên.

Đọa vào địa ngục, không ai mau hơn Hùng Tuấn sống lại mà chứng diệu nhân. Người đời tội lỗi, chưa hẳn như thế.

Cho là không thể sinh, vì sao lại tự bỏ?

Trong kinh Ban-chu Tam-muội nói: "Bồ-tát Bạt-đà-hòa, hỏi Phật Thích-ca: Chúng sinh ở đời vị lai làm sao thấy được chư Phật mười phương? Phật dạy niệm A-di-đà Phật thì thấy tất cả chư Phật mười phương."

Lại trong kinh Đại Bảo Tích nói: "Nếu chúng sinh ở phương khác nghe danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ, cho đến phát một niệm tịnh tín, vui mừng ưa thích, đem hết gốc lành hồi hướng nguyện sinh về nước Vô Lượng Thọ, tùy nguyện đều được vãng sinh, không lui sụt."

Đây đều là lời Phật nói, không tin lời Phật, sao lại nói đáng tin?

Không sinh Tịnh độ, thì cõi nước nào đáng có thể sinh? Tự khinh tự mạn là tự bỏ tánh linh của mình, trôi vào luân hồi, thì lấy gì để cứu? Bốn mươi tám lời nguyện của Phật, đều vì độ sinh, mười sáu pháp quán, đồng quy về buộc niệm. Một niệm đã tin, là đã trồng nhân nơi ao báu. Các pháp lành cùng giúp sức, chắc chắn sẽ được hóa sinh nơi đất báu, chúng sinh không hối đọa ngay, ngộ nhận nghi thành. Tức thời hoa sen nở, được đạo giải thoát. Duy tâm Tịnh độ, tự tánh Di-đà, ở trong ánh sáng rực rỡ không còn việc ma.

Tập văn "Trực chỉ Tịnh độ quyết nghi" này do một người bạn tên Vương Cổ Mẫn Trung biên tập. Ông là người thông hiểu giáo điển, bao gồm cả xưa nay, cởi bỏ mọi nghi tình, vượt tắt lên tín, địa chép lại yếu chỉ của Thánh hiền, trong các sách ở cõi Diêm-phù này thật rõ ràng thiết yếu, bởi đây là bực hướng đạo ở cõi An dưỡng. Nếu đến bời bên kia, thuyền còn phải quên, sao còn hỏi bến, lời này không nên xem thường.

Ngày mười tháng chín niên hiệu Nguyên

Phong thứ bảy, kính ghi lời tựa.

Phụ chú: Bài tựa của Thứ Công đây ý nghĩa thật rõ ràng. Ở đây nói luận về ba thứ không cầu sinh. Thật là một lời răn nhắc tốt lành. Nhưng cho Tịnh độ chẳng phải là ba cõi và nói thân chẳng phải phần đoạn, thì trái với kinh luận. Đây chỉ dẫn có hai văn, để sửa chữa lại sự sai lầm, "Thích Thiêm" có nói: "Như trong Đại luận, nói Cõi An dưỡng chẳng phải là ba cõi, chỉ là không phải ba cõi Ta-bà này thôi, nếu vậy thì cõi kia có đủ ba cõi."

Kinh Vô Lượng Thọ chép: "A-nan bạch Phật: Cõi An dưỡng kia không có núi Tu-di, chư Thiên Đao lợi y vào đâu mà trụ? Phật lại hỏi: Cõi trời Dạma cho đến Sắc giới y vào đâu mà trụ? A-nan mặc nhiên lãnh hội."

Ý hỏi lại đó là nói về cõi Dạ-ma và các tầng trời đã nương vào hư không, thì đâu làm phương hại đến cõi kia? Đã rõ được tướng của cõi đó, lại có nhiều thứ chung riêng khác nhau, như thế giới Vô động. Tuy là Tịnh độ, vẫn còn có nam nữ và núi Tu-di... Đồng cư Tịnh độ này đã là khác nhau. Đồng cư uế độ cũng khác nhau.

Thích luận nói: "Ngoài ba cõi còn có Tịnh độ, Thanh văn, Bích-chi-Phật... thọ thân pháp tánh, chẳng phải phần đoạn sinh."

20. Long Thơ Tịnh độ Văn Tự của Trạng Nguyên Trương Hiếu Tường.

BÀI TỰA LONG THƠ TỊNH ĐỘ VĂN

Trạng nguyên Trương Hiếu Tường.

Đức A-di-đà Như Lai dùng nguyện lực để nhiếp thọ chúng sinh. Sự buộc niệm tu tập thật đơn giản, việc chứng quả thật nhanh chóng. Nếu có người nghi ngờ, tôi cũng thường nói cho họ nghe:

Phật Di-đà tức là tánh của ông, nước Cực lạc là tâm của ông. Chúng sinh do bỏ giác theo trần cho nên luân hồi trong bảy đường, lập ra ngã, cách xa Phật một trời một vực. Vì vậy mà Phật khởi tâm từ bi, lập ra phương tiện khai thị cho chúng sinh được ngộ nhập, hiện ra vô lượng như huyễn Tam-muội trang nghiêm cõi nước, đầy đủ hoa báu cực đẹp. Lại dùng biện trí để giảng nói, khiến cho chúng sinh khởi tâm vui mừng tin ưa, ở trong cuộc sống hằng ngày có thể phát sinh nhất niệm, nghĩ nhớ Đức Phật Di-đà và muốn cầu sinh về đó. Tức là niệm này thanh tịnh bền chắc, trở lại bản tánh thanh tịnh ban đầu, không khác với Phật. Đương lúc niệm đó không khởi thì ở trên tòa, cõi nước Cực lạc của Đức Phật Di-đà liền hiện tiền. Tu tập như thế cho đến thuần thục, đến khi huyễn thân này hoại diệt thì tánh này sẽ trở nên bất hoại. Đài hoa sen vàng do tánh chủng sinh, vãng sinh trong đó. Như trở về nhà mình chư Phật, Bồ-tát đều là quyến thuộc của ta, tánh không hề thay đổi, tự thân ái với nhau.

Bạn hữu là Long Thư Vương Hư Trung, bẩm tánh thanh tịnh đơn giản, thông suốt các kinh sách, truyền tụng sáu kinh của các nhà Hiền triết số đến mấy mươi muôn lời. Một hôm ông đem vứt bỏ hết và nói: "Đó đều là nghiệp tập, chẳng phải là pháp rốt ráo, nay ta trở về quy hướng niệm Phật, cầu sinh Tây phương."

Từ đó ông càng tinh tấn tu niệm Phật. Đến năm sáu mươi tuổi chuyên ăn rau, mặc vải bố. Đi bộ cả một ngàn dặm để giáo hóa người, dù mưa gió nóng lạnh cũng không quản ngại khi rảnh thì hằng ngày lễ Phật cả ngàn lạy, đến nửa đêm mới ngủ. Da mặt ông rất hồng hào, đôi mắt sáng, người ngoài nhìn vào đều tin đây là một kẻ sĩ có đạo.

Mùa Thu, năm Tân Tỵ, niên hiệu Thiệu Hưng. Tôi có ghé nhà ông ở Tuyên thành, ở lại hai tháng, mới thấy được tập văn Tịnh độ của ông. Trong đó viết đầy đủ từ đầu đến cuối các pháp môn tu tập cùng sự cảm nghiệm từng chương từng câu. Mong cầu các tín hữu khắc bản lưu hành và ông có nhờ tôi viết lời tựa, nên viết đầu đề rằng: Hư Trung tên Nhật Hựu.

Tháng 10, dương lịch Trương Hiếu Tường kính ghi lời tựa.

21. Long Thơ Tịnh độ Văn Bạt của Đại Tuệ Thiền sư – Tông Cảo

LỜI BẠT LONG THƯ TỊNH ĐỘ VĂN

Thiền sư Đại Tuệ Tông Cảo.

Long Thư Vương Hư Trung Nhật Hựu là người thông cả ngoại điển, lại lưu tâm theo Phật thừa, lấy việc lợi người làm tâm nguyện của mình, thật là ngọn hoa sen trong lửa. Phật dạy: "Tự mình chưa được độ, trước đã độ người, đó là Bồ-tát phát tâm.

Tự mình đã giác ngộ viên mãn, có thể giác ngộ cho người, đó là Như Lai ứng thế."

Tôi cảm phục chí khí của ông, nên ghi vài lời bạt đặt ở sau sách. Nếu thấy được tự tánh Di-đà, thì rõ được Duy tâm Tịnh độ. Nếu chưa được như thế thì công lao của tập văn này của Hư Trung thành ra luống uổng.

Ngày 20 tháng 08 năm Canh Thìn.

22. Tịnh độ Bảo Châu Tập Tự của Thị Lang Vương Cổ

BÀI TỰA TỊNH ĐỘ BẢO CHÂU TẬP

Thị Lang Vương Cổ.

Tâm chúng sinh thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh. Pháp tánh vô sinh, mà không có chỗ nào không sinh. Có Đức Phật hiện nay đang nói pháp tại nước Cực lạc, hiệu là A-di-đà. Cõi Phật này có nhân duyên cao quý, tuổi thọ lâu dài, lòng Từ bi sâu xa, nguyện lực lại rộng lớn. Phật phát ra ánh sáng đến tận vô biên cõi nước, nhiếp thọ các chúng sinh. Cõi nước ấy bất tư nghì, vắng lặng trang nghiêm, lưới châu giăng khắp hư không, rừng vàng đất báu, ao sen đầy đủ nước tám công đức. Hoa phát ra bốn ánh sáng bốn mầu, trổi âm nhạc cả sáu thời, tán hoa cả ngàn ức cõi. Chư Phật cùng khen ngợi, mười phương đều quy hướng về. chúng sinh ở trong tâm Phật Di-đà, thời thời đều nhiếp hóa.

Cõi Tịnh độ ở trong tâm chúng sinh, niệm niệm đều vãng sinh. Thần thức gá sinh vào sen báu, không lìa đương xứ, thần thức vượt qua các cõi nước, đâu ra ngoài tự tâm? Như gương bao trùm cả muôn vật tượng mà không có đến đi, tựa như mặt trăng soi bóng cả ngàn sông mà vẫn không lên xuống.

Căn cơ viên đốn ở cõi nước ấy đều là những vị Nhất sinh bổ xứ. Bày rõ môn phương tiện, thì có chín phẩm khác nhau. Niệm Vô lượng quang của bổn tánh, xưa nay vốn không niệm. Sinh về nước An dưỡng là duy tâm, là chân thật vô sinh. Giải thoát ra khỏi khổ nạn luân hồi, mười niệm cũng sinh về đất báu. Hội quy về thật tế, Nhị thừa cuối cùng cũng chứng được Bồ-đề. Như thuyền lớn chở đá mà khỏi bị đắm chìm. Nếu giương buồm thuận gió, thì không bao giờ gặp nạn. Nếu ngộ được thì thật gần gũi không xa, còn mê lầm thì càng xa muôn dặm.

Than ôi! Người học ít mà chướng đạo thì nhiều, nghi sâu mà quán niệm lại cạn, chê bai cho là quyền tiểu. Cho ngài Mã Minh, Long Thọ, là chưa được thế; ngài Thiên Thai, Trí Giả là chưa đạt, không tin sẽ được thọ ký đạo Bồ-đề, không chịu sinh về nhà Như Lai thì lồng chim ao cá khó mà tránh khỏi, luống thọ một báo thân, uổng sinh vào đường khổ. Đâu biết đấng Đại hùng khen ngợi khuyến hóa, miệng vàng căn dặn hay sao? Được làm bạn với Thánh hiền trong khoảnh khắc, đầy đủ tướng tốt, thọ vui trong giây lát thì bỏ hẳn cõi đời năm trược. Lòng từ bi tăng trưởng thì hồi hướng cứu vớt ba đường. Chúng sinh ở đay lại không biết, thật đáng thương xót.

Từ thời Ngụy Tấn, Đại kinh bắt đầu xuất hiện. Khi ấy có ngài Tuệ Viễn và các bậc hiền nối nhau truyền lưu đạo hóa, mọi việc đều có nêu trong sách, sự chứng nghiệm đều rõ ràng đầy đủ. Phước Đường Thích Giới Châu truyện ký ghi rõ mười hai nhà, được bảy mươi lăm người, sưu tập bổ sung vào, làm cho ngày càng dồi dào. Tính thêm các vị sưu tập bổ sung thì được một trăm lẽ chín vị, ẩn hiện đầy đủ, tăng tục đều nêu ra, hội cả trăm sông về biển cả. Nêu ra đây để chứng nghiệm đạo cả bao la, mãi mãi làm ngọn đền soi sáng cho hậu lai.

Ghi vào ngày mười lăm tháng tám niên hiệu Nguyên Phong thứ bảy.

23. Tứ Thập Bát Nguyện Hậu Tự của Tuệ Giác Pháp Sư-Tề Ngọc.

LỜI BẠT TỰA BỐN MƯƠI TÁM NGUYỆN

Pháp sư Tuệ Giác Tề Ngọc.

Có người cho rằng: Tịnh độ là quyền biến phương tiện của bậc Thánh, cho nên chỉ tiếp dẫn người độn căn, hóa giáo hàng phàm khí. Nếu một lần vượt lên thì vào thẳng cảnh địa Như Lai, thì cần gì phải nhờ vào tha lực?

Đáp: Khi Phật còn tại thế thì có, Bồ-tát Vănthù Phổ Hiền. Sau khi Phật diệt độ thì có Mã Minh, Long Thọ, ở Trung Quốc thì có ngài Trí Giả, Trí Giác đều nguyện sinh về Tịnh độ. Các vị này nào phải là hạng độn căn?

Phật Thích-ca khuyến hóa vua cha Tịnh Phạn cùng sáu muôn người dòng họ Thích, đều nguyện sinh về Tịnh độ, đâu phải chỉ là hàng phàm khí? Các vị Thánh hiền này không bằng với hàng lợi căn thắng khí bây giờ hay sao? Nếu cho đây là quyền giáo thì lấy gì làm thật? Phê phán quyền, chẳng phải chỉ một đường. Nếu không nhìn xa thì lấy gì để soi sáng?

Nếu có sự hiểu biết thì nên tin lời Phật nói, chiêu vời quả báo chẳng phải nhẹ, vậy xin chớ xem thường. Xưa có lão học sĩ Tôn Tân, ban đầu cũng có mối nghi này, nhờ gặp được Dương Thứ Công, cùng có vị khách là Vương Mẫn Trung Thị Lang luận đạo rất khế hợp, bèn cởi mở được sự nghi lầm này. Do đó mà Tân lão nói: Ở bốn phương nói về thiền chỉ có ngài Hoàng Bá, Tuệ Lâm là hưng thịnh nhất. Sau Lâm tế thì có Từ Minh. Từ Minh truyền đạo cho Hoàng Bá ở Giang Tây. Sau Vân môn chỉ có Tuyết Đậu, Tuyết Đậu truyền cho Nghĩa Hoài, Nghĩa Hoài truyền cho Bổn. Bổn Công ở vào thời Tuệ Lâm. Mẫn Trung sớm đắc được pháp yếu. Thứ

Công, Mẫn Trung đều là nhà Nho học thiền, được sự khuyến hóa nên quy hướng về Tịnh độ. Vậy đủ biết Tịnh độ chẳng phải là quyền thiết của Thánh nhân, mà thật là nơi an trụ của các vị tu thiền. Nếu có thể tức tâm là Tịnh độ, bổn tánh là Di-đà. Sinh thì niệm vãng sinh, đến thì thật không chỗ đến. Tuy cũng có kia đây khác nhau, không có tướng ngang dọc, đúng sai trong đó.

Xét lời của Tân lão, tin thật bậc Thiện tri thức không trái với lời dạy của Phật, không tự khinh thường bản tâm, sự lý đều viên dung, thật đáng tôn ngưỡng. Nguyện các nhân giả nên lấy việc lớn sinh tử làm tâm, không để cho nhân tình lấy bỏ làm ngăn ngại. Nguyện lực được như thế, lại niệm Phật Di-đà, phát khởi niềm tin quyết định, muốn thoát ra khỏi lộ trình hiểm ác ở cõi Ta-bà, làm khách vân thủy nơi Tịnh độ, bước vào ao sen có nước tám công đức, cầm tích trượng đi bảy bước dưới gốc cây chốn tòng lâm, nhập vào trong hải chúng thanh tịnh, tham học Thiện tri thức Di-đà, quán thắng cảnh mà được không lui sụt, nghe pháp mầu mà dễ ngộ vô sinh, bên lầu bảy báu, bên bờ ao hoa bốn mầu ưu phiền tan hết, vui vẻ tột cùng. Nếu có được nguyện này làm bằng cứ, lộ trình phía trước chắc chắn sẽ không bị ngăn trở. Nếu có người nói không phải như thế, thì tôi cũng không biết phải làm thế nào!

24. Tịnh độ Cảnh Sách Tự của Ngô Hưng Pháp Sư – Nguyên Dĩnh

TỰA TỊNH ĐỘ CẢNH SÁCH

Pháp sư Ngô Hưng Nguyên Dĩnh.

Tất cả chư Phật đều trải qua muôn kiếp tu hành mới thành tựu được cõi nước, an lập cho chúng sinh. Bởi chúng sinh cứ mãi trôi lăn trong cõi sinh tử, chưa gặp được bậc Thiện tri thức, chưa được nghe pháp yếu, nên không thể thoát khổ. Chúng sinh vì mãi gặp những khổ nạn ép ngặt, cho nên bậc Thánh khởi tâm đại bi cứu vớt tất cả. Chúng sinh nào nên dùng những điều vui dẫn dụ, thì bậc Thánh khởi tâm đại bi nhiếp thọ. Nhiếp thọ thì tạo ra các cảnh giới trang nghiêm tốt đẹp, lầu các quý báu. Được tướng đại trượng phu, muôn sự đều an ổn. Triết phục thì có bốn sinh chín hữu, trăm ưu nghìn não, tướng năm khổ tám khổ. Nhưng với tâm bậc Thánh, thì đâu có sai khác? Vả lại Đức Thíchca Mâu-ni người cũng có cõi nước thanh tịnh như Cực lạc Tây phương. Phật A-di-đà cũng có thế giới năm thứ trược ác kham nhẫn như Ta-bà. Cho nên nhất kỳ hóa vật mà có kia có đây, có tịnh có uế. Do sự kết duyên của chư Phật có khác, do chúng sinh thệ nguyện có khác. Nếu đạt đến bờ bên kia, bước lên quả vị, thì vững chắc. Bậc Thế trí hạ phàm không gọi là phân biệt, mà có thể giác biết sao? Không gọi là thủ xả, mà có thể tạo mượn sao? Trong các kinh điển có những lời răn nhắc, đều là khen ngợi cõi Tịnh độ Tây phương của Phật Di-đà.

Nay sưu tập lại, bổ sung vào để giáo hóa khuyến đạo cho hàng đạo tục ở cõi này.

Than ôi! Việc sinh tử thật lớn lao, há không đau xót sao? Mà người đời hoặc bị chìm trong biển khổ, cam chịu cả đời; hoặc đắm mê nơi giàu sang, tự cho là sở đắc, mà không biết sinh tử, tử sinh, biến đổi nhanh chóng.

Cho đến có gọi là tâm tịnh thì cõi nước tịnh, không thân tức là pháp thân, chợt tới lúc qua đời không có chỗ an lập. Ngay lúc ấy cùng với người giữ chí thuần nhất, chấp tướng tu hành, thì ức kiếp vẫn không bằng. Cho nên xem qua kinh này, quý vị có phát tâm hay chưa!

25. Tịnh độ Tự Tín Lục Tự của Vô Công Tẩu Vương Điền:

TỰA TỊNH ĐỘ TỰ TÍN LỤC

Vô Tông Tẩu Vương Điền.

Bậc Đại Thánh thuở xưa, lập ngôn khuyến giáo. Trùm khắp trăm đời, mà chí còn chưa đề xướng hết, vẫn còn mờ mịt chưa rõ ràng. Vì vậy nên Đức Phật mới nói về cõi Tịnh độ ở Tây phương.

Tôi xem khắp các kinh, thâm cầu được yếu chỉ, hiểu rõ công đức vãng sinh, một lời giúp cho phàm phu được không lui sụt. Sự tu hành ở cõi này, đều là sơ tín của Viên giáo, là sơ quả của Tiểu thừa, tà kiến và tà ba độc mãi mãi không còn sinh khởi. Đây là do dứt hoặc mà phát ngộ, nhập vào dòng Thánh, vượt qua sinh, không mê muội sở chứng. Vượt lên bốn đường, mà không mất cõi trời, người. Còn như trong phàm phu, tuy nhờ hàng phục các hoặc mà phát ngộ. Bồ-tát một lần trải qua bị sinh tử vô thường biến đổi, thì quên mất sở chứng, sở tu của mình. Do đó mà gặp duyên liền lui sụt, dễ bị sa vào đường khổ. Nhưng nếu phàm Thánh đồng cư Tịnh độ, như nước Cực lạc, tuy cũng có đủ ba cõi, nhưng chỉ là trời người, cho nên tất cả loài hàm thức đều được sinh về, xa lìa bốn đường, lại được trợ duyên lớn, tuổi thọ vô lượng dù cho là kẻ độn căn, một đời huân tu, thì không ai mà không chứng quả Thánh, vì sao lại có sự lui sụt? Bổn ý xưng tán Đức Như Lai, chẳng qua là như thế. Vả lại thể đạo viên cơ là tịnh nghiệp trên hết. Nếu có thêm nguyện đạo thì được dự vào phẩm ưu.

Nếu là hàng phàm ngu, chỉ có thể phát nguyện xưng danh hiệu Phật, cũng được vãng sinh.

Than ôi! Quán pháp môn Tịnh độ, thì biết là bậc Thánh cũng không thể bỏ chúng sinh. Chúng sinh do si ám, nên vô ngại vô tu, khởi tâm chướng đạo, bặt hết con đường học Phật, lại lớn tiếng nói: "Tịnh độ là việc ngọn ngành, đâu đáng nói." Thật đáng thương thay!

26. Tu Hành Tịnh độ Pháp Môn Hậu Tự của Thị Lang Mạc Trọng Khuê.

LỜI BẠT TU HÀNH TỊNH ĐỘ PHÁP MÔN

Thị Lang Mạc Trọng Khuê.

Ta-bà là cảnh khổ, muốn thoát hết các khổ thì phải cầu sinh về Tây phương. Tây phương là nước An lạc. Muốn sinh về Cực lạc, thì phải tin lời Phật nói. Nếu có người đi vào chốn hoang vắng, đêm hôm tăm tối, có bọn giặc cướp đuổi cầm vũ khí bén theo sau lưng rất gấp. Người kia nhìn bốn phía bàng hoàng, không còn nơi để trốn chạy, kêu trời khóc đất biết ai đến cứu? Chợt gặp một ông lão bảo rằng: "Cách đây không xa có nhà một vị trưởng giả, có uy lực phước đức, giặc cướp không thể xâm phạm. Nơi ấy lầu gác chân thật, tự tại vui sướng, không còn gì chướng ngại, ngươi nên quyết định, ta không lừa dối."

Người kia nghe nói, lòng rất vui mừng, nhanh chân chạy về phía nhà Trưởng giả không hề quay lại, lại nhất tâm chú mục, không nghĩ tưởng điều khác. Chỉ trong khoảnh khắc đã đến nhà vị trưởng giả, đám giặc khổ não, tìm mãi không thấy.

Đức Di-đà nhiếp thọ chúng sinh chính là nơi ở của trưởng giả, an ổn mà sao không ở? Đức Thíchca là bực thầy dẫn đường cho chúng sinh mê mờ là lời ông lão nói, vì sao không tin? Đối với Người thế gian khi nói về Tây phương, họ thật không thể biết, so ra cũng giống như thế.

Biết mà không tin, tin mà không tu, tu mà không có năng lực thì mười người cũng hết tám, chín người. Nay tôi nói lại những lời ví dụ này để cho những người không biết có thể lãnh hội và những người không tin, không tu, không cố gắng thì hãy cố gắng lên.

27. Minh Sư Thắng Địa Luận Bạt của Độc Tinh Cư Sĩ Lâm Cảo

LỜI BẠT MINH SƯ THẮNG ĐỊA LUẬN

Cư sĩ Độc Tinh Lâm Cảo.

Tôi có đọc qua "Chí đức kinh" của Trung Hư, mà hiểu được ngôn từ của lâm loại. Cho rằng chết ở đây sao biết không sinh về kia? Tuy biết là tử và sinh là một lần đến một lần đi, nhưng chỉ cầu lý thuyết mà chưa được ngộ. Ý cho rằng việc chết đó, chẳng qua là xả bỏ báo thân mà thôi.

Sinh ở nơi kia, thì rốt cuộc sẽ rơi vào nơi nào? Ở đây, sở dĩ cầu ở nơi lời nói nên chưa thể được.

Nay xem qua "Luận Minh Sư Thắng Địa" của Thiền sư Phước Thanh, mới biết ở ngoài thế gian còn có nội viện Đâu-suất, Tây phương Tịnh độ là nơi nương gá của mọi người. Nếu không nhớ nghĩ chứa nhóm thì không thể đạt đến. Tôi nhân đó nói lại ba lần, cuối cùng ở trong chỗ bản tánh vắng lặng, chẳng có tướng đoạn diệt. Ở đây khi sinh báo hết, lại sinh về cõi khác. Nếu còn có nguyện lực vững chắc, thành tựu được gốc lành, thì không còn lo bị đắm chìm trong đường ác, chắc chắn sẽ được siêu thăng lên cõi thắng báo.

Từ nay về sau, mới biết ở cung trời Đâu-suất và Tây phương không hề ngăn cách. Cõi này thường hiện ra trước mặt, chỉ cần tâm bền chắc thì sẽ thấy được Phật.

Như Diệu Hỷ nói: "Thấy tự tánh Di-đà, rõ được tâm Tịnh độ." Đây thật là một lời nói bao trùm cả luận này.

Sư là con cháu của Diệu Hỷ, đối với minh sư được nơi nương gá. Cho nên có thể dùng ba chỗ chánh luận để làm lợi ích chúng hữu tình. Tham chánh đại tư Chu Công Quỳ được lời tựa cho là lời của thầy, tin là có chứng cớ. Lại yêu thích tông thông thuyết thông, đối với thật tướng giáo tướng không trái. Tâm từ bi tha thiết mới dặn dò kỹ lưỡng như thế. Các nhân giả hãy nhân nơi bài tựa của Chu Công mà cầu tâm của lão sư, thì Đâu-suất, Tây phương không phải lao nhọc hiểu tìm, mà cứ thẳng đường bước tới.

Cư sĩ Độc Tĩnh Lâm Cảo kính ghi lời tựa. Trong Càn Đạo, ở Lan khê đất Vụ, Thích Quang Đạo hiệu là Vân Thủy, thuở nhỏ học theo giáo pháp Thiên Thai, sau đến phương Nam tham phỏng, đắc pháp nơi Tuệ Cảo, cuối đời sống ở Phước thanh, Bồ điền, trước tác ba quyển Y thác Minh sư Thắng địa luận, được lưu hành ở đời. Trong đó đại khái nói đến sự cao xa vi diệu của Phật pháp, như thắng duyên tăng thượng thì chỉ có Minh sư Thắng Địa mới xứng đáng làm chỗ nương tựa. Bởi vì phàm kẻ học đạo quý nhất là ở kiến tánh. Kẻ kiến tánh quý ở tu tập. Kiến tánh chưa tỏ thì cần phải cầu thầy. Tu tập chưa thành tựu thì phải nhờ vào cơ địa. Được thầy dạy thì học được điều chính đáng. Được cơ địa thì dấu vết của tâm được an.

1. Nơi trung tâm đất nước, nơi các Thánh hiền cư trú.

2. Trời Đâu-suất-đà nơi Di-lặc thuyết pháp.

3. Tịnh độ Tây phương nơi Di-đà hoằng dương giáo hóa.

Ba nơi này đều là nơi chốn thù thắng (Thắng địa). Nếu được nương tựa tu hành, đến hai quyển giữa và sau, thì chuyên nói rõ pháp môn Tây phương, khuyên người tu tập. Lời văn dài dòng không thể viết hết, chỉ viết lời bạt cho họ Lâm, thuật lại ý chí lớn của luận.

28. Bảo Thành Dị Ký Lục Tự Của Thị Chế Trần Quán:

BÀI TỰA BẢO THÀNH DỊ KÝ LỤC

Đãi Chế Trần Quán.

An dưỡng không ở tại kia, phù vân cũng chẳng phải ở ta. Nay Tốc Vĩnh Công gọi đó là An dưỡng độ.

Tự đã đắc tội ở Thai châu, từ tháng tám năm Nhâm Thìn, có gom góp các kinh sách, không còn vì văn, tận tâm sửa đổi, chuyên chú ở cõi này. Con đường còn dài, thân lại già yếu, chỉ tiếc là phát tâm quá muộn. Ở đây xem lại "Đạo viện tập luận" của Nguyên Công luận về không, bất không Tam-muội, do buộc ở nơi từ ngữ nên nói: Cái gọi là "Từ" đó, là do quán tâm để dễ ghi chép, "từ" ấy có bốn câu kệ. Văn của Nguyên Công thâm nhập biển Phật, ngôn từ không rườm rà. Cho đến dùng từ quán tâm thì cũng chưa quên, mà lại muốn dễ ghi. Công cho là dễ ghi đâu phải chỉ chú ý vào từ ngữ ghi chép mà thôi? Tôi nghĩ hễ là từ quán tâm là muốn vì mình mà chưa thể vì mình, hạ bút xuống đây tạm đặt tên là "Bảo thành dị ký lục". Liễu Trai nương nơi pháp sư Minh Trí Diên Khánh mà được sự uyên nguyên của giáo pháp Thiên Thai. Cuối đời một lòng hướng về Tây phương, thành tâm lấy đó làm chỗ đến. Đầu mối của pháp thực hành theo là dựa theo Quán tâm dị lý của Triều công. Ngài nói: Tôi từ ngày nay quyết định hàng ngày theo pháp này, trước tiên vào Không Tam-muội, diệt tất cả vọng niệm, như hoa đốm, như tiếng vang trong hang, vẫn tháy nghe mà không bị chướng ngại. Lại vào Bất không Tam-muội, an trụ trong Nhất chân pháp giới như châu trên trán, như báu trong búi tóc, thường ưa mang theo mà không rơi mất. Pháp này giúp nhau mà không có thời khác, chặt chẽ dài lâu, không pháp nào bằng. Quán tâm dị ký, buộc niệm vào đây thì tâm rỗng rang như hư không, mênh mông không thể chạm. Trong Nhất chân pháp giới linh chiếu thường an trú.

29. Viễn Pháp Sư Trai Kỵ Lễ Văn Tự của Chánh Ngôn Trầm Duệ:

LỜI TỰA VIỄN PHÁP SƯ TRAI KỴ LỄ VĂN

Đức Phật Thích-ca xuất hiện ở đời, nói pháp độ sinh. Trong các pháp môn, pháp môn thẳng tắt nhất không gì dễ bằng niệm Phật cầu sinh nước An dưỡng ở Tây phương.

Than ôi! Nếu không có bốn mươi tám lời nguyện của Phật Di-đà thì cảnh Tây phương không dễ gì khai phát. Không có sự nói pháp của Đức Phật Thích-ca, thì nguyện lực của Phật Di-đà sẽ không được lưu truyền nơi dương thế. Phật trước phát nguyện trước, Phật sau nói kinh ở sau. Đạo lý này có nói rõ ràng, rất đáng tin chớ có nghi ngờ. Nhưng pháp môn có rất nhiều, hoặc chọn ra mà không tinh, người tinh tường, hoặc truyền bá mà chưa tu tập.

Ghi chép những văn từ đơn giản, có lựa chọn mà tinh truyền, truyền lưu mà tu tập, vì để khai ngộ đời sau, ân này bố thí này, cùng với chế ra thì mới ở nơi tâm, chép ra thì mới thành sách, như vậy thì sách dày mỏng phải như thế nào? Chỉ có sự tu hành này mới là An dưỡng, là do Phật Di-đà chế định, Đức Thích-ca thật sự ghi chép, chọn lựa, truyền bá tu tập, di giáo lại cho người sau Tuệ Viễn đời Đông Tấn.

Lý Tế Tú sĩ ở Tây hồ, là bạn hữu đồng niên của tôi. Lạc Thanh lệnh doãn là Lý Công Tố, con của Tố gặp lúc gia đình bị nạn, tuổi nhỏ không nơi nương dựa, cha mẹ mất sớm. Trong cảnh cô khổ, bèn tiến tu đạo pháp. Xưa từ chứng thông chủ nhân thầy bạn, lập ra Tây tư xả, bởi có ý di pháp của Tuệ Viễn. Ba năm trở lại đây, người nhóm về tu tập ngày một đông. Nếu tham dự hội này tinh tấn không biếng nhác, thì sẽ gặp nhiều điềm tốt đẹp, đắc được quả mầu cao quý, như kinh có nói. Ngày nay Lý Quân chỉ niệm như thế, tuy trước Phật sau Phật có khai mở pháp môn, rộng lớn mà đức của Tuệ Viễn, làm sao có thể quên được? Trở lại khảo cứu các sách truyện ký, viết lễ văn để khai thị cho các vị đồng tu, tôi cho là cần hiểu biết trước sau. Do đó mà nói: các đạo của đời Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Chu, đều do Trọng Ni mà sau được rõ ràng hơn, được lưu truyền rộng ra và thâm nhập đạo từ một số bậc Thánh, mà Người đời sau kế tục thì có Mạnh Kha. Xem qua giáo pháp Tây phương, thì Tuệ Viễn cũng giống như Mạnh Tử. Vì sao ông lại tị hiềm? Tuy nhiên, văn của Lý Quân, tôn lên nói là của Tuệ Viễn để mọi người theo học, như nhà Nho đối với Mạnh Tử. Nếu bái tụng mà không quán xét, thì chẳng phải là điều mong mỏi của Lý Công đối với đồng xã vậy.

30. Xưng Tán Tịnh độ Hải Chúng Thi Tự

Của Phủ Phán Phương Thứ

LỜI TỰA XƯNG TÁN TỊNH ĐỘ HẢI CHÚNG THI

Phủ Phán Phương Thứ.

Tịnh độ và Ta-bà là pháp đối trị giữa phàm và Thánh. Nói theo sự khổ vui thì Tịnh độ là vui mà Ta-bà là khổ. Nói theo trong đục thì Tịnh độ là trong mà Ta-bà là đục. Nói về sự sinh tử thọ yểu thì Tịnh độ là thọ nên thường sinh; Ta-bà yểu nên chắc chắn sẽ chết. Nhưng chúng sinh phần nhiều đắm mê đối với cảnh Ta-bà, nên ít có biết con đường vãng sinh Tịnh độ là được an vui, cũng do nghiệp báo che lấp.

Đấng Pháp vương Thích-ca, là Đấng Đạo Sư giáo hóa ở cõi này. Đức Di-đà Thế Tôn là từ phụ tiếp dẫn ở Tây phương. Mà các vị Thánh, các bậc Hiền lại phát minh ra đại nguyện của Đức Thíchca; và cả Đức Di-đà, chỉ bày cho chúng sinh, khiến họ tu tịnh nghiệp mà ra khỏi luân hồi. Như thế thì Ta-bà là nơi ràng buộc phiền não, Tịnh độ là cảnh giới trang nghiêm, Như Lai khai dụ chỉ bày ra rất rõ ràng, các bậc thượng thiện mở mang càng đầy đủ. Nay Lý Tử Tế y theo đó mà làm thơ xưng tán và vịnh sử, gồm một số thiên, mỗi lần giở tập thơ ra thì Di-đà hải chúng, thắng cảnh Tịnh độ như hiện ra trước mặt, giúp cho người tâm khai ý ngộ, liền nguyện vãng sinh. Như vậy thì công của Tử Tế há là nhỏ sao?

Tử Tế là hàng Nho gia, bốn đời đều đăng khoa, có tiếng tăm trong quan trường, nhưng đời sống thanh bạch, thông hiểu Phật lý. Ông để tâm vào giáo điển Tây phương, như đói thì ăn, khát thì uống, mùa hạ thì áo đơn, mùa đông thì áo kép, có hay không là do tự mình. Bởi đất có thể động, vàng có thể biến đổi, nhưng tín tâm của Tử Tế rất kiên cố rõ ràng không lay động. Như vậy thì sự hóa sinh ở đời khác, chắc chắn sẽ làm người trong chín phẩm. Tôi kính xem qua bèn tùy hỷ viết lời tựa

31. Tây Quy Liên xã Tự Của Nguyệt Đường Pháp Sư-Huệ Tuân

BÀI TỰA TÂY QUY LIÊN XÃ

Pháp sư Nguyệt Đường Huệ Tuân.

Xưa, Pháp sư Tuệ Viễn ở Lô sơn, cùng ngài Tuệ Trì, Đàm Thuận liên kết với Lưu Di Dân, Lôi Thứ Tông, Chu Tục... gồm mười tám vị và các vị cùng chí hướng một trăm hai mươi ba người tu tịnh nghiệp, lấy Tây quy làm minh thệ, lập ra Bạch Liên xã. Từ đây cùng chán cảnh Ta-bà, ưa thích tịnh lạc, nối nhau tu tập. Cho nên từ đời Tấn, Tống đến Tùy, Đường, các bậc cao tăng hiền sĩ, đời đời đều hành trì theo. Do đó mà đến lúc qua đời thấy đài vàng tía hiện ra, có cả đài bạc sen vàng, có ánh sáng dịu mát điềm lành. Có âm thanh khen ngợi ở trên hư không, có nghe mùi thơm lạ đầy thất, cho đến mắt thấy Di-đà qua lại đón rước, sự cảm ứng chẳng phải ít, rõ như trong bổn truyện. Cho nên các vị cao nhân thời hoàng triều của ta đều là bực hiền triết, ưa thích tịnh tu ngày càng hưng thạnh. Huống chi tiểu am này, suối reo bên nhà cỏ, thông xanh đầy cửa môn, ao tịnh sen hồng, nước soi bóng trăng, cảnh yên lắng u huyền, là chốn ngựa xe không qua lại. Như vậy mới sách tấn việc tu hành, là nơi để thân này gá sinh vào hoa sen chín phẩm, chỉ vâng theo quy tắc xưa, mộ được một trăm mười tám vị cùng tu Tam-muội niệm Phật quy hướng về Liên xã, giữ tâm bền chắc trọn đời không thay đổi. Trụ trì chùa Diên Khánh-Nguyệt Đường Huệ Tuân khuyến lục thư.

32. Khan Vãng Sinh Hạnh Nguyện Lược Truyện Tự của Khải Am Cư Sĩ Ngô Khắc Kỷ.

BÀI TỰA KHẮC IN VÃNG SINH HẠNH NGUYỆN LƯỢC TRUYỆN

Cư sĩ Khải Am Ngô Khắc Kỷ.

Tôi có khảo sát các vị đại sĩ phu đời trước học pháp xuất thế, mới biết Đức Như Lai bổn ý thuyết giáo, không bị vướng mắc vào Không và Có. Vào đời Tấn thì có Lưu Trung Tư, đời nhà Đường có Liễu Tử Hậu, vào triều đại ta thì có Dương Thứ công. Trung Tư gia nhập vào Liên xã của Tuệ Viễn, khi sắp qua đời duy chỉ thỉnh chư tăng tụng kinh Vô Lượng Thọ và kinh Pháp Hoa. Tử Hậu soạn "Vô tánh Hòa thượng bia", khen ông chỉ tụng "kinh Pháp Hoa". Đồng thời chỉ ra cõi nước Cực lạc là con đường để chúng sinh quy về. Thứ Công soạn "Thiên thai Vô tướng viện bia" cũng khen ngợi Trí Giả là bực Đại sĩ xây dựng, giáo hóa Thiên thai, lấy Tam-muội Pháp Hoa làm cực trí, lấy cõi An dưỡng làm nơi trở về. Bởi không tụng Pháp Hoa thì không thể rõ được tâm ta vốn đầy đủ diệu pháp. Không sinh An dưỡng thì không chứng được tâm ta vốn sẵn có diệu pháp. Đức Như Lai ân cần chỉ dạy, ngài Trí Giả tha thiết trì kinh, mới biết Phật tổ rủ lòng Từ bi như lúc đầu không khác.

Nay hàng sĩ phu lưu tâm đến Phật thừa, cố gắng cầu xuất ly, chắc chắn không phải là ít. Nhưng người bị dị kiến xâm đoạt còn chưa tránh khỏi. Pháp sư Ấn Quang, khuyên hàng tín sĩ phát tâm quyên tiền vàng để truyền bá "Từ vân Sám chủ

Tịnh độ Hạnh Nguyện pháp môn và Lược truyện", đâu phải chỉ cầu những điều này hay sao? Tôi nghe lòng vui mừng đến không ngủ được, bèn nêu ra ba thứ ngôn hành của quân tử để chứng minh, ngõ hầu các vị thật tâm hiền đạt biết có Phật pháp chánh tông mà cùng nhau tu tập, để sớm ra khỏi luân hồi. Còn muốn làm loài trùng trong thân sư tử, tự ăn thịt sư tử, thì dù Nam Dương quốc sư có tái sinh, cũng không thể làm gì được, huống chi mấy lời tôi nói ra đây.

X. Về văn có mười ba bài.

1. Lô sơn Bạch Liên xã Thệ Văn Của Dật Sĩ Lưu Di Dân Thời Đông Tấn:

BÀI VĂN THỆ NGUYỆN CỦA BẠCH LIÊN XÃ Ở LÔ SƠN

(Dật sĩ đời Đông Tấn là Lưu Di Dân.)

Kẻ sĩ đương triều là Tạ Linh Vận, cao nhân Lưu Di Dân cùng một trăm hai mươi ba vị lập ra Liên xã, đề cử Di Dân viết bài phát nguyện.

Bài phát nguyện nói rằng: Từ tháng bảy năm Bính thìn cho đến ngày hai mươi tám tháng giêng năm Ất mùi ở tại Nhiếp đề cách, Pháp sư Thích Tuệ Viễn, chân cảm được đạo lý sâu mầu, lòng ôm ấp phát nguyện, cùng với các vị sĩ phu đồng tu có tâm tịnh tín gồm một trăm hai mươi ba vị nhóm hợp tại vùng Lô sơn. Nơi tịnh xá đài Bát-nhã, phía trước tượng Di-đà. Đều dùng hương hoa kính hiến mà lập thệ nguyện, chỉ có chúng trong hội này lý duyên hóa đã rõ ràng, thì truyền tụng cả ba đời. Sự cảm ứng đã phù hợp thì quả báo thiện ác phải có. Sự đắm chìm trong biển khổ, ngộ Vô thường trong khoảnh khắc, xét ba thứ báo luôn thúc dục, biết hiểm nguy khó tránh khỏi. Vậy khuyên các vị hiền sĩ đồng chí hướng ngày đêm nên siêng năng tu tập, mong cầu tế độ bởi vì có thể cảm đến thần nhưng không thể mong cầu, ắt cảm đến vật thì đường tối cận kề. Nếu không cầu vãng sinh thì mênh mang nơi bến bờ nào?

Nay chúng ta may mắn mà không chịu phát tâm cầu về Tây phương, lễ bái khai tín tâm, lương tình đều phát khởi, thì cơ tượng sẽ thông ở trong mộng, vui mừng hơn trăm lần khi ta đến.

Khi ấy, linh đồ biểu huy, cảnh tượng do thần tạo, công do lý hài hòa, sự chẳng phải là người chuyển vận. Đây thật là do trời sáng khởi mà thành, minh vận cuối cùng sẽ đến! Lẽ nào không khắc tâm khắc niệm, lại tinh tường suy nghĩ, để dừng hết lo âu? Nhưng cảnh tục có nhiều sai khác, công đức phước báo chẳng phải một. Tuy sớm cầu thì nói là đồng, mà tối quy thì lại có ngăn trở. Tức quyến thuộc của thầy bạn ta, thật đáng thương xót. Vì thương xót nên ta chỉnh y áo ngay ngắn lên pháp đường, đẳng thí nhất tâm, mong cầu chốn u cực, thệ nguyện với đồng nhân ở đây, đều đi về nơi tuyệt cực. Trước tiến và sau thắng, cố gắng tinh chuyên đạo vị. Sau thì đại nghĩa của diệu quán khải tâm trong sạch tỏ chiếu, thần thức giác ngộ, hình do đây mà thay đổi. Nương phù dung ở nơi trung lưu, ẩn quỳnh kha để làm ngôn vịnh, nổi có mây ở nơi bát cực, thổi gió hương đến cùng năm, thể vọng an càng hòa mục, tâm siêu lạc để tự vui, đến ba đường mà từ tạ, dạo cõi trời mà từ giả hẳn. Nối tiếp các linh, noi theo thái tức, để làm khóa kỳ nghiên cứu đạo này há không lớn sao? Bỏ hết trần lao, nếu lời di huấn cầu sinh Tây phương, cuối cùng cảm Phật đến tiếp dẫn.

2. Đông Hải Nhược của Đường Lễ bộ Liễu Tử Hậu

ĐÔNG HẢI NHƯỢC

(Lễ bộ Liễu Tử Hậu).

Đông Hải Nhược đi chơi trên đất liền, bước đến một gò lớn, được hai cái bầu cắt riêng ra để vui chơi, một cái dùng để đựng nước biển và các thứ bùn đất tạp uế và các phẩm vật, mùi hôi thối bay ra không thể tả. Dùng đá lấp kín, lại bèn giở ra ném hết xuống biển. Tôi có lúc qua đó chơi nói: "Ta là biển lớn", Đông Hải Nhược cười nói: Lạ thật! Nay nói biển lớn đó, kỳ thực đông không ra đông, tây không ra tây, bắc không ra bắc, nam không ra nam. Sáng thì tắm mặt trời mà xuất hiện ra, tối thì tràn ngập các vì sao, trùm chứa cả thái âm, lửa dương âm đem ánh sáng báu mà tỏ soi, làm cho bầu trời đầy tạp nhiễm u ám, hẳn ghé lại nơi bến sông phía Tây. Vì thế cho là lớn lao, là sâu xa, là trong sáng, là tỏ soi, đó chính là vô ngã nhược này. Nay ông đem bỏ những giọt nước biển đồng thể với phẩn hoại, ô nhiễm cùng gặp, giun dế cùng ở, thật hẹp hòi chật chội. Lại u ám như thế mà biển vẫn đồng, cũng không hề biết xấu hổ, thật đáng thương xót! Nếu ông muốn, tôi sẽ đem đá phá tan cái bầu của ông, bày các thứ nhơ uế nơi đảo hoang lớn, rồi cùng ông trình bày những điều vừa rồi được chăng?

Phân nước lạnh lùng không vui nói: "Tôi cố nhiên là đồng ý, ông vì sao lại mong cầu như thế đối với Nhược? Tánh của ông cũng giống như Nhược mà thôi. Nhơ uế thì tự nó đã nhơ uế, không đủ sức để làm hại sự trong sạch của ông. Hẹp thì tự nó cũng hẹp, cũng không thể hại được chỗ rộng của ông. U huyền thì có u huyền, không đủ để hại tánh sáng của ta. Ô uế cũng là biển, tăm tối chật hẹp cũng là biển. Bỗng nhiên đến, rồi cũng tự nhiên đi, lại chấp không phải là biển sao? Ông đi đi, chớ làm loạn ta!"

Kia nghe Nhược nói, liền kêu lên: Ông phẫn nộ là quá đáng! Tôi cho đó là điều cố nhiên, không thể khác được. Nay ông bảo ta biển là rộng lớn, lại cho rằng ta nhìn biển chỉ là đồ phẩn uế, ta càng thêm nóng ruột. Bọt nước của ông có dậy sóng cũng không đủ lấp kín được. Đem hết cả bọt sóng của ông, cũng không đủ để đổ đầy cái bầu của ta, có khả năng làm như thế quanh năm suốt tháng, mong ông mà thương xót tôi!

Đông Hải Nhược bèn dùng đá đập vỡ bầu, ném xuống đất, rửa hết chỗ nhơ uế ngoài đảo hoang, mà nước lại trở vào biển, trình bày hết những việc vừa rồi, mà một khi đã hướng về, cuối cùng chỗ xú uế nào mà không biến mất.

Nay có hai người học Phật, đều xuất xứ ở nơi biển Tỳ-lô-giá-na, mà đắm chìm nơi năm trược nhơ uế, rơi vào bầu ba cõi tăm tối, mà lấp đá vô minh, ở trong mười hai chỗ giun dế bẩn thỉu, có người hỏi thì một người nói:

"Đức Phật là Đấng Tỳ-lô-giá-na, năm trược ba hữu, vô minh mười hai loại đều là không. Tất cả đều là vô thiện vô ác, vô nhân vô quả, vô tu vô chứng, không Phật, không chúng sinh, tất cả đều là vô, ta làm sao mà cầu."

Người hỏi nói rằng: "Chỗ ông nói đó là tánh, là hữu sự. Tánh và sự, một mà hai, hai mà một. Ông giữ một mà định, thì tai họa lớn sẽ đến."

Kia nói: "Ông đi đi, chớ làm loạn ta."

Người khác nói: Than ôi! Ông chứa độc đã lâu, ta gắng sức mà không thể phá trừ được vô minh của ông. Phơi bày trí tuệ của ông không đủ để vượt lên ba hữu, lìa năm trược, vượt qua mười hai chủng loại. Nếu vậy thì nhiều đại kiếp tiểu kiếp, cũng không thể biết được.

Người hỏi bèn trình bày những việc ở Tây phương, khiến tu Tam-muội niệm Phật mà nói pháp Không-Có. Thế là bậc Thánh thương xót tiếp dẫn về cõi Cực lạc Tây phương, xa lìa các việc ác, tu tập muôn hạnh, ở nơi đất Thánh, đồng với tri kiến Phật. Một người khi hướng về đó, cuối cùng cùng với mười hai loại, không biến đổi. Hai người trái nghịch, thì không như nước trong hai cái bầu sao? Nay không biết bỏ một mà lấy một, là rất dở.

3. Đông Hải Nhược Hậu Bạt Của Văn Trung Công Tô Thức Và Quất Châu Thiền sư Bảo Đàm.

LỜI BẠT Ở SAU ĐÔNG HẢI NHƯỢC

Hai người Đông Pha, Quất Châu.

Thức này (Đông Pha) từ lâu muốn có tập thư về "Đông Hải Nhược" do Liễu Tử Hậu sáng tác, đem in ấn để đặt vào trong nhà thờ Phật Vô Lượng Thọ ở viện Tịnh trụ. Ngày chín tháng hai niên hiệu Nguyên Hựu thứ 6, cùng Tào Phụ ở Hải lục, Khai Phong Lưu Quý Tôn, Vĩnh Gia Hầu Lâm nhóm họp ở Phật đường, rồi đem sách do vị tăng gởi cho đem in ấn:

Mi Sơn Tô thức kính ghi.

Yếu chỉ của Tịnh độ, không thiện ác, không lấy bỏ, không tĩnh loạn, không nam nữ. Một niệm chân chánh, thì chắc chắn được vãng sinh. Hoặc giả nghi ngờ vào lúc đó, Phật trước há không thể sao?

Tập "Đông Hải Nhược" của Liễu Tử Hậu, cũng dùng từ tương tự như trong bài của Trang Tử nói về chuyện mất dê, ông nên kính tin chớ có nghi ngờ, lo gì không sinh về Tịnh độ? Đem sách này phổ biến khắp để khuyến khích người hậu lai.

Ngày rằm tháng 3 niên hiệu Thiệu Hy thứ 5.

Quất Châu lão nạp Bảo Đàm kính ghi.

5. Điếu Võ Thị Ngự Họa Phật Văn Của Đường Văn Công Hàn Dũ.

BÀI ĐIẾU VÕ THỊ NGỰ HỌA PHẬT

Văn công Hàn Dũ.

Võ Thị Ngự Vũ, năm trước vợ mất, an táng xong thì gom hết tư trang, y phục, lược, trâm cho vào rương, cứ đến ngày rằm thì lấy ra xem một lần rồi ôm con thơ mà khóc, có thầy pháp đến làm lễ cầu phúc cho họ Vũ mới khuyên rằng: Khóc như vậy đâu có ích gì? Thầy ta dạy là: "Người chết thì thành quỷ, quỷ trở lại làm người, tùy việc thiện ác đã làm mà chịu báo, xoay chuyển không ngừng. Ở bên Tây phương có Phật Di-đà, cõi nước ấy rất an vui, hàng thân thích nên họa tượng lễ Phật, cầu nguyện cho người mất được vãng sinh, chắc chắn sẽ được như ý." Họ Vũ khước từ nói: "Tôi là nhà Nho, đâu thể làm như vậy."

Thế là cứ đến ngày rằm, lại đem di vật của vợ trong rương bày ra rồi ôm con khóc, cuối cùng thì hối hận nói: "Thật chẳng có ích gì. Ta không thể không tin Phật, thì làm sao biết là không có như vậy?"

Thế rồi đem bỏ tất cả y phục, lược trâm cùng các thứ đồ vật, thỉnh Pháp sư tụng kinh Phật cầu nguyện.

Hàn Dũ nghe chuyện này liền làm bài điếu nói: Rõ ràng hề mắt thấy Dặn dò hề tai nghe

Chợt không thấy, hề không nghe Ai biết rõ hề cội nguồn

Họa cảnh Tây phương hề đạo ta

Do vọng ngăn trở lòng bi hề an ủi hồn người mới mất Than ôi! Vì sao hề làm lời điếu này.

6. Kết Xã Pháp Tập Của Thông Tuệ Tăng Lục Tán Ninh:

VĂN KẾT XÃ PHÁP TẬP

Thông Tuệ tăng lục Tán Ninh.

Vào đời Tống, đời Tấn có Pháp sư Tuệ Viễn, hành hóa ở đất Tầm Dương. Các vị cao sĩ ẩn dật đều nhóm hợp ở Đông lâm, cùng kết nguyện hương hỏa.

Bấy giờ, có Lôi Thứ Tông, Tông Bính, Trương Thuyên, Lưu Di Dân, Chu Tục... cùng kết Bạch liên hoa xã, lập tượng Di-đà, cầu nguyện vãng sinh về nước An dưỡng, gọi là Liên xã. Từ đó bắt đầu có tên Liên xã. Tề Cảnh Lục, Văn Tuyên Vương khuyến mộ tăng tục thực hành pháp Tịnh trụ, cũng gọi là tịnh trụ xã.

Ngài Tăng Hựu đời Lương có lập pháp xã, soạn văn công đức ấp hội. Trải qua nhiều thời đại cho đến nay, ở các chùa tăng đều có làm pháp hội xã.

Pháp của xã, cho rằng các điều khinh thành một điều trọng, giúp việc được thành công, chớ gần ở Liên xã. Nay đem việc cung ứng cúng dường cho Liên xã, cùng làm ruộng phước, tu hành nghiêm minh, còn hơn công pháp. Hành nhân sách tấn nhau, khuyên nhau tu tập, thì Liên xã có công sinh dưỡng rất lớn. Gần đây nghe ở đất Chu Trịnh, kết rất nhiều ấp xã. Hội xã vào năm Canh Thân có tập minh não bạt, ca tán xướng Phật. Mọi người niệm Phật hành đạo, suốt đêm không ngủ, để tránh Tam Bành tấu với Thượng đế khỏi bị trị tội. Nhưng đây thật ra là pháp của đạo Lão, vẫn thường có những người Phật tử không hiểu nên gia nhập vào, mưu cầu lợi nhỏ, nên không rõ được căn bản, lầm thực hành theo pháp tà, thật đáng thương!

7. Văn Liên Hoa Thắng Hội Lục của Thiền Sư Từ Giác Tông Trách:

Cho niệm là niệm, cho sinh là sinh là lỗi chấp thường, lại cho vô niệm là vô niệm, vô sinh là vô sinh là bị tà kiến mê hoặc. còn niệm mà vô niệm, sinh mà vô sinh là đế nghĩa bậc nhất. Ấy là vì về lý thật tế thì không chấp mảy bụi, trên không có Phật để niệm, dưới không có cõi để sinh. Trong cửa Phật sự không bỏ một Pháp thì nhiếp hết các căn. Bởi có Tam-muội niệm Phật là yếu thuật về nguồn mở ra pháp môn Vãng sinh. Do đó cả ngày niệm Phật mà không trái với vô niệm, rõ ràng vãng sinh mà chẳng trái với vô sinh... Cho nên phàm Thánh đều ở vị trí mình mà đường cảm ứng giao nhau, Đông Tây không cần qua lại mà thần chuyển về cõi tịnh. Đều này chẳng thể gạn hỏi được. Cho nên kinh nói: Nếu ai nghe nói Phật A-di-đà mà chấp trì danh hiệu cho đến người ấy khi qua đời mà tâm không điên đảo thì liền được vãng sinh về cõi nước Cực lạc của Phật A-di-đà. Xét Như Lai Thế Tôn tuy lập ra Chiết môn và Nhiếp môn, hiện ở hai cõi Uế, Tịnh. Song ý của Bổn Thánh há vì cõi nước Ta-bà đồi núi hầm hố, năm nẻo ở chung các núi đất đá uế ác dẫy đầy mà chán bỏ. Còn thế giới Cực lạc đất bằng vàng ròng, cây vượt trời xanh lầu đài bảy báu, hoa khoe bốn mầu mà ham thích ư? Bởi vì kẻ sơ tâm vào Đạo, sức nhẫn chưa thuần phải nhờ tịnh duyên để làm tăng thượng. Vì sao? Vì cõi nước Tabà Phật Thích-ca đã diệt độ, Phật Di-lặc chưa sinh, còn Phật A-di-đà ở thế giới Cực lạc đang nói pháp. Ở cõi nước Ta-bà thì chỉ xướng nghe danh hai vị Quán Âm, Thế Chí, nhưng ở thế giới Cực lạc thì hai vị ấy lại là bạn thân. Ở cõi nước Ta-bà các ma tranh nhau phá rối người tu, còn ở thế giới Cực lạc trong ánh sáng rực rỡ quyết không có việc ma. Ở cõi nước Ta-bà tiếng tà hỗn tạp, sắc gái đẹp dâm, còn Thế giới Cực lạc thì nước chim, cây rừng đều nói Pháp mầu, Chánh báo thanh tịnh, không có người nữ, cho nên sự tu hành duyên đủ, không như người cạn tin Tây phương sinh nghi báng một cách ngang trái. Người ở phương này đều nhàm chán cảnh ồn ào của thế tục ham thích cảnh Lan Nhã yên tịnh. Cho nên có kẻ bỏ nhà xuất gia thì ân cần khen ngợi. Nhưng các khổ ở Ta-bà đâu chỉ là nhà tục ồn ào, còn Cực lạc ưu du đâu chỉ có sự yên tịnh của Lan nhã. Biết xuất gia là tốt mà chẳng nguyện vãng sinh là việc sai lầm thứ nhất. Người muôn dặm khổ nhọc xa tìm tri thức, bởi muốn phát sáng việc lớn dứt bỏ sinh tử, mà Di-đà Thế Tôn nghiệp Sắc Tâm thù thắng, nguyện lực rộng sâu, giảng nói bằng một âm thanh nhưng tất cả đều hiểu rõ, Nguyện tham vấn tri thức mà chẳng muốn thấy Di-đà là sự sai lầm thứ hai. Tòng lâm chúng đông đều thích đến ở, Đạo tràng ít chúng chẳng thích nương nhờ, mà Thế giới Cực lạc Nhất sinh bổ xứ số ấy rất đông, các bậc Thượng Thiện đều cùng ở một chỗ, đã muốn gần gũi Tòng lâm, mà chẳng mến thích thanh tịnh hải chúng là sự sai lầm thứ ba-Người ở cõi nước này sống lâu lắm chẳng hơn trăm tuổi, mà trẻ dại già lẫn, bệnh tật liên miên, tối tâm ngủ nghỉ.. thường chiếm hơn một nữa. Bồ-tát còn bị hôn mê khi cách ấm, Thanh văn còn bị ám muội lúc ra thai thì vách thước bóng tấc mười phần mất hết chín mà chưa lên bậc Bất thoái, thật là đáng sợ. Còn người ở Tây phương thọ mạng vô lượng gá sinh trong hoa sen mà không có khổ về chết. Nối nhau không đứt quãng, thẳng đến Bồ-đề, do đó mà được A-duyviệt trí (Bất thoái địa) thì thềm Phật quyết định có lúc bước lên. Còn trôi lăn trong cõi Ta-bà cảnh ngắn ngủi mà quên đi cảnh dài lâu ở Tịnh độ là sự sai lầm thứ tư. Nếu ở địa vị không lui sụt, quả chứng Vô sinh, ở cảnh dục trần mà không đắm nhiễm, khởi lòng Từ vô duyên, vận đồng thể bi mà trở vào lại cõi trần, hòa ánh sáng với cõi đời có năm vẩn đục. Còn như học ít tuệ cạn hoặc chỉ có chút ít điều lành rồi cho rằng mình đã thoát hẳn bốn dòng, vượt lên bậc Thập địa, chê bai Tịnh độ, mê thích Ta-bà nhắm mắt quay về không thì rõ ràng trôi giạt, sánh vai cùng trâu ngựa, giao tiếp với Nêlê (Địa ngục). Chẳng biết mình là ai mà dám sánh với Bồ-tát đại quyền, là sự sai lầm thứ năm. Cho nên kinh nói: Phải phát nguyện nguyện sinh về nước ấy, vậy chẳng tin lời Phật nói thật mà không cầu sinh Tịnh độ há là chẳng mê lầm lắm ư? Nếu tin lời Phật nói mà cầu sinh Tịnh độ thì nghiệp nhiều đời không thể trói buộc. Sóng kiếp chẳng thể hại. lìa tám khổ của nhân gian, không có năm suy của trời, còn không có danh từ đường ác huống là có thật. Chỉ hiển bày pháp Nhất thừa, quyết định không có ba thừa. Quy y nhất thể Tam bảo, kính thờ các Đức Như Lai trong mười phương. Ánh sáng Phật chiếu thân, muôn hoặc tiêu trừ, pháp vị thấm thần, sáu thông đầy đủ. Ba mươi bảy phẩm Trợ đạo tùy niệm viên thành, ba mươi hai tướng đẹp theo thân biến khắp các cõi nhiều như bụi nhỏ, quanh quẩn trong năm đường, trùm khắp các căn, nhất tâm bất động, hành khắp Tam-muội. Rải nước định ở tam thiên, dẫn chúng sinh rồi nhà lửa. Tự lợi lợi tha thảy đều đầy đủ. Song, duy tâm Tịnh độ tự tánh Di-đà. Bởi yếu môn giải thoát, là đường tắt tu hành. Ấy vì liễu nghĩa Đại thừa đều chỉ quy về Tịnh độ. Các bậc Tiền hiền, Hậu Thánh mình, người đều nguyện vãng sinh. Hễ muốn độ người trước phải tự độ. Than ôi, người không lo xa ắt có buồn gần, một khi mất thân người thì muôn kiếp khó tìm lại. Mong hải chúng đều niệm Phật A-diđà trăm câu ngàn câu cho đến muôn câu, mà hồi hướng kẻ đồng duyên nguyện sinh về nước ấy, cùng lên thắng hội Liên trì, đất vàng pháp sáng, cùng nhờ giúp nhau, chắc chắn hài hòa nguyện ấy. Như thuyền xuôi nước lại thêm chèo chống, thì mười muôn đường xa không nhọc mà đến.

Mùa Đông niên hiệu Nguyên Hựu thứ 4, Tông Trách mộng thấy có một người nam đầu chích khăn đen, mặc áo trắng, khoảng ba mươi tuổi, phong mạo thanh tú, cử chỉ nhàn nhã, vái chào hỏi Tông Trách rằng muốn xin vào hội Di-đà của ngài xin ghi cho một tên. Tông Trách bèn giở sổ Thắng Hội Liên Hoa cầm bút hỏi tên gì. Người ấy thưa tên Phổ Tuệ. Viết xong người ấy hỏi có lệnh huynh cũng muốn ghi tên vào hội. Trách hỏi tên gì, người ấy thưa là Phổ Hiền, rồi biến mất. Khi thức dậy, Tông Trách thưa hỏi các bậc kỳ lão thì đều bảo trong phẩm ly Thế Gian kinh Hoa Nghiêm có tên hai Đại sĩ Bồ-tát này. Tông Trách cho rằng hễ Phật tử làm Phật sự giúp Phật mở mang thì sẽ được Hiền Thánh ngầm yểm trợ. Song người tham dự hội này há vì duyên nhỏ mà ngài Phổ Hiền thay tên đổi hiệu chẳng biết là ai. Nay đặt tên hai vị Đại Bồ-tát ở đầu hội.

8. Niệm Phật phòng thối phương tiện của Từ Giác Thiền sư-Tông Trách:

Niệm Phật là phương tiện đề phòng lui sụt của Tông Trách.

Khuyên khắp các bạn Đạo rằng: Niệm Phật Adi-đà hoặc trăm câu ngàn câu, cho đến muôn câu mà nguyện sinh Tịnh độ Tây phương. Ai nấy hằng ngày cứ mười chữ ghi nhớ. Khi niệm Phật thì nhất tâm chuyên chú, chẳng được theo duyên khác. Luôn nghĩ cõi Ta-bà nhiều khổ, năm thứ vẫn đục nấu đốt. Huống là một khi mất thân người thì biết khi nào được lại. May mắn gặp các bạn đạo trước sau chuyên cần thì trong hoa sen báu chắc chắn thấy Phật.

9. Niệm Phật Hồi Hướng Phát Nguyện Văn của Từ Giác Thiền sư Tông Trách:

Văn Niệm Phật Hồi Hướng Phát Nguyện của Tông Trách.

Nguyện đệ tử tên là... khắp vì bốn ân ba cõi chúng sinh pháp giới từ nay trở đi mà an trú vào Đệ nhất nghĩa đế, tu hành Tịnh nghiệp, hiếu thảo nuôi dưỡng cha mẹ, kính thờ thầy tổ, từ tâm không giết hại, tu mười nghiệp lành, thọ trì ba quy, đầy đủ các giới, chẳng phạm oai nghi. phát tâm Bồ-đề, tin sâu nhân quả, tụng đọc kinh điển Đại thừa, khuyên người tu cố gắng. Niệm Phật, Pháp, Tăng hiểu rõ Đệ nhất nghĩa đế cho đến thành tâm xưng niệm danh hiệu Phật, quán y báo chánh báo của Phật, mười sáu diệu cảnh. Niệm Phật vốn khởi bốn mươi tám nguyện bao gồm ba bậc, vào sâu năm niệm môn, thuận theo ba pháp môn Bồ-đề, tin nhận lời dạy của các Đức Phật mười phương. Dùng tán tâm, định tâm mà tu định thiện, tán thiện. Y kinh mà khởi hạnh lấy chết làm kỳ hẹn. Cúi mong Phật A-di-đà pháp lực ngầm che chở, thần thông hiển bày lợi ích, khiến chúng con ngưng thần nẻo giác, ngầm dẫn đạp đất đại phương, tới lui oai nghi không lìa thấy Phật, như cầm gương sáng tự thấy mặt mình, ở trong mộng được thấy cõi ấy, các việc vui mầu nhiệm an ủi tâm con, khiến càng tinh tấn. Nhờ oai thần Phật xa lìa việc ma. Từ bao nhiêu kiếp nay nghiệp hoặc trần lao đều là phạm hạnh. Gốc lành công đức đồng vào biển tánh, chứa nhóm các duyên đều hồi hướng. Khi qua đời không có các chướng nạn, trước đó bảy ngày đã tự biết trước ngày chết. Thân không đau đớn, tâm chẳng điên đảo, thân tâm an vui như vào Thiền định. Gặp Thiện tri thức dạy xưng niệm mười câu A-di-đà Phật, cùng các Thánh chúng hiện ra trước mặt, phát ra ánh sáng rực rỡ trao tay dắt dẫn. Tự thấy thân mình ngồi đài Kim cương theo sau Phật, chỉ trong phút chốc liền sinh về nước ấy. Sinh về nước ấy rồi thì thấy sắc thân Phật, các tướng đầy đủ. Rừng báu ánh sáng giảng nói Pháp mầu, nghe rồi liền ngộ Vô sinh pháp nhẫn. Trụ vào nhóm chánh định không bao giờ còn lui sụt, rốt ráo đến Nhất sinh bổ xứ, hóa thân tự tại cùng khắp mười phương, trong Vô lượng cõi nước, thành Đẳng chánh giác. Trong chỗ rất khổ sở nặng nề luôn biến hóa dạo chơi. Trong các niệm khiến chúng sinh phát tâm Bồ-đề không thể nói không thể nói, trong mỗi niệm khiến vô số chúng sinh trụ vào hạnh Phổ Hiền, Phước tuệ tư lương đều được viên mãn, đồng thành vô thượng Bồ-đề, mỗi mỗi đều trang nghiêm Tịnh độ, các thứ đều nhiếp hóa chúng sinh, như Đức Thế Tôn ta không khác. Tất cả thế giới trong hư không có cùng tận, chúng sinh và nghiệp phiền não có cùng tận, tất cả như thế không có cùng tận, nguyện tôi rốt ráo thường không cùng tận.

10. Niệm Phật Sám Hối Phát Nguyện Văn của Từ Vân Sám Chủ Tuân Thức.

Văn: Niệm Phật sám hối, phát nguyện của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức.

Nay con xưng niệm Phật A-di-đà công đức chân thật danh hiệu Phật, cúi mong Từ bi thương nhiếp thọ, chứng biết con sám hối phát nguyện, xưa con đã gây các nghiệp ác, đều do tham sân si vô thi, từ thân miệng ý mà sinh ra, tất cả nay con xin sám hối, nguyện con sắp đến lúc qua đời, diệt trừ hết cả các chướng ngại, tận mặt thấy Phật A-diđà, liền được vãng sinh nước An lạc, Phật ấy, chúng hội đều thanh tịnh, khi con sinh trong hoa sen báu, liền thấy Như Lai Vô Lượng Quang, hiện tiền thọ ký con Bồ-đề được đức Như Lai thọ ký xong, hoá thân vô số trăm câu chi, Trí lực rộng lớn khắp mười phương, lợi ích khắp cõi trước chúng sinh.

(Từ "Con xưa đã gây…" trở đi là trích trong phẩm Hạnh Nguyện của kinh Hoa Nghiêm).

11. Kết Liên xã Phổ Khuyến Văn của Tổng Quản Trương Luân:

Văn: Kết Liên xã khuyên khắp của Tổng Quản Trương Luân.

Tôi nghe như vầy ở Tây phương có Phật hiệu A-di-đà, tên khác là Vô Lượng Quang, tên khác là Vô Lượng Thọ. Lại có hai vị Bồ-tát Quán Âm, Thế Chí giúp Phật giáo hóa, đều dùng năng lực nguyện lớn cứu độ các chúng sinh. Nước ấy dùng bảy báu trang nghiêm thanh tịnh tự nhiên không có các tạp uế, nên gọi là Tịnh độ. Người ở cõi ấy đều hóa sinh trong hoa sen, tuổi thọ vô lượng, y phục thức ăn thọ dùng tùy ý hiện ra. Lại không có các khổ, cũng không bị luân hồi, nên gọi là thế giới Cực lạc. Lấy đây mà quán xét lại mình, chúng ta thấy thân đang mang này và thế giới chúng ta đang ở so với cõi nước ấy thì tịnh uế, tuổi thọ, khổ vui, sinh tử đâu chỉ cách nhau như trời với đất. Nhưng mê muội không biết, hoặc biết mà chẳng tin, tự làm các chướng ngại điên đảo chấp mê, chẳng suy nghĩ đến giải thoát, bỏ đây sinh kia, há chẳng đáng buồn thương ư? Cho nên hôm nay tôi xin khuyên các vị có duyên nên kết Liên xã này. Như việc khó biết khó làm, còn phải hết sức cố gắng siêng làm, huống là danh hiệu Phật rất dễ trì, Tịnh độ rất dễ sinh về, trong tám muôn bốn ngàn pháp môn, không có con đường nào thẳng tắt bằng. Chỉ cần chút rảnh rang sớm chiều kính niệm mà làm tư lương cho nhiều kiếp chẳng hư hoại. Ấy thì dụng công rất nhỏ mà kết quả vô cùng. Chúng sinh có khổ gì sao mình lại bỏ mà chẳng làm? Ôi, mộng huyễn chẳng thật, thọ yểu khó giữ, chỉ trong hơi thở đã qua đời sau. Một khi mất thân người thì muôn kiếp khó được lại. Lúc này không ngộ thì Phật như chúng sinh, sao không nghĩ sâu về vô thường, chớ sống luống uổng mà sau sẽ ăn năn.

Cư sĩ Tịnh Lạc Trương Luân kính khuyên.

12. Tây Tư Xã Đồng Thệ Văn của Chứng Thông Pháp Sư Sư Hữu: Văn: Tây Tư Xã cùng thề nguyện.

Ngày tám tháng tư Năm Quý Mùi thuộc niên liệu Long Hưng thứ nhất Thích Sư Hữu tôi hội họp đại chúng quy mạng thế giới Cực lạc A-di-đà Phật, Bồ-tát, hải chúng xin rũ lòng Từ khắp xét chí nguyện. Chúng con trộm nghĩ do phước đời trước sâu dày mà được sinh ở nơi đô hội, được thấy Đại Tạng bảy kinh, thuần bàn y, chánh trang nghiêm Tịnh độ, công đức cao quý. Xem lại cõi này thì ba ác tám nạn, ít có nhóm thiện, sinh, già, bệnh, chết, tuổi thọ ngắn ngủi, mau chóng. Sức mình tu hành khó tiến dễ lùi. Bậc Tiên Thánh thương xót chúng con nên lập ra Pháp môn niệm Phật này dễ tu, dễ đến, khuyến khích cầu sinh. Thánh hiền xưa nay mở rộng pháp môn này, các sách viết ra lấp được biển sâu, chất cao như núi đều sùng kính pháp môn này, đời không thiếu người, chúng sinh mười phương vãng sinh về nước ấy nhiều như mưa rào. Do đó chúng con với lòng trong sáng, không ước hẹn mà đồng chí hướng phát nguyện sinh về Tây cảnh. Niệm niệm không quên, khi hết báo thân này quyết được vãng sinh, chúng con còn lo thói quen khác nhau, việc đời còn chộn rộn. Miệng nói Cực lạc mà ý mến Ta-bà, lý sự không sáng, hạnh nguyện còn thiếu, sáng nguyện đồng nhau mà chiều cách biệt. Do đó chọn ngày lành tháng tốt, hội họp đầu thành kính lễ Phạm dung mà lập lời thề lớn cúi mong Đấng Từ Tôn rũ tay vàng xoa đầu chúng con mở lưỡi sen hồng ngầm thọ ký cho chúng con. Từ nay trở đi chúng con nguyện. Các điều ác chấm dứt, các điều lành vâng làm, không theo tà sư, không mất chánh niệm. Khi qua đời không bệnh không khổ, thân tâm an vui, theo sau Như Lai cùng về An dưỡng hoa sen sớm nở, ngộ Vô sinh nhẫn. Đến khắp các cõi mười phương, kính thờ các Đức Phật, cứu khổ chúng sinh đồng thành đạo Vô thượng. Hư không có cùng tận nguyện con vô cùng. Nếu ai thấy nghe cũng được lợi lạc.

(Trầm Đại Khanh ở Hồ Châu hội họp hơn một trăm vị lập ra Pháp hội này từ năm Canh thân thuộc niên hiệu Khánh Nguyên đến nay suốt ba mươi năm không hề bỏ phế...)

13. Vãng sinh Tịnh độ Thập Nguyện Văn của Đồng Giang Pháp sư Trạch Anh.

Văn: Mười Nguyện Vãng Sinh Tịnh độ của Pháp Sư Đồng Giang Trạch Anh.

Nguyện con lìa hẳn, ba đường ác.

Nguyện con mau dứt tham, sân, si.

Nguyện con thường nghe Phật Pháp Tăng.

Nguyện con siêng tu giới định tuệ.

Nguyện con luôn học theo các Phật.

Nguyện con không thoát tâm Bồ-đề.

Nguyện con mau thấy Phật Di-đà.

Nguyện con chắc chắn sinh An dưỡng.

Nguyện con phân thân khắp bụi cõi.

Nguyện con rộng độ các chúng sinh.

XI. Về Tán (gồm mười bảy bài):

1. Khen về: Mài vàng bạc vẽ biến tướng Tịnh độ của Hàn Lâm Lý Bạch.

Tôi nghe về phương Tây nơi mặt trời lặn cách Trung Hoa mười muôn ức cõi Phật có thế giới Cực lạc. Phật ở cõi ấy cao sáu mươi muôn ức hằng sa do-tuần. Giữa hai đầu chân mày có sợi lông trắng xoay về bên phải như năm núi Tu-di, mắt trong sáng như nước bốn biển lớn, ngồi thẳng nói Pháp, vắng lặng thường còn. Ao sáng cát vàng, bờ bày cây báu. Lan can bao quanh, lưới giăng khắp chốn. Xa cừ lưu ly trang hoàng cung điện, pha lê mã não lát sáng thềm đường. Lời Phật chân thực không hề nói dối. Dùng vàng, bạc, vẽ Tịnh độ biến tướng, Phùng Dực quận Thái phu nhân vì người chồng đã chết làm quan Thứ sử Hồ châu là Vi công mà làm ra. Phu nhân trong ngần như băng tuyết, theo lời Thánh dạy, vì nghĩa lớn vợ chồng mong cứu độ nơi U đồ, vì ân sâu cha con nên sửa sang lại cảnh phước, thề bỏ của báu tìm người thợ giỏi, tô vàng thếp bạc mà vẽ tranh họa tượng, nước tám công đức sóng động ao hoa sen hương hoa bảy báu chiếu sáng đất vàng ròng. Gió mát phất phơ như sinh năm âm thanh, trăm ngàn nhạc hay cùng ngưng động tác. Những ai đã phát nguyện và chưa phát nguyện, đã vãng sinh và chưa vãng sinh. Chuyên niệm bảy ngày sẽ sinh về nước ấy, công đức rất lớn không gì sánh được. Khen rằng:

Chỗ trời lặn hướng Tây
Xa trông dáng đại bi
Mắt trong như nước biển
Thân sáng như núi vàng
Siêng niệm sẽ vãng sinh
Thế nên gọi Cực lạc
Lưới châu, cây chân báo
Hoa trời rơi thơm ngát
Vẽ tranh mắt thấy rõ
Nguyện nhờ đạo tràng ấy
Mà đem công đức này
Làm cầu bến cứu độ
Tội tám mươi ức kiếp
Như gió thổi sương tan
Luôn quán Vô Lượng Thọ
Phát ánh sáng lông trắng.

2. Tú Tây phương Tịnh độ tán của Đường Thị Lang Bạch Cư Dị.

Khen bức thêu mầu Tịnh độ Tây phương của Thị lang Bạch Cư Dị.

Phật Di-đà ở Tây phương cùng cõi Diêm-phùđề có Nguyện, chúng sinh ở cõi này có duyên với Đức Phật kia. Nên ai bị các khổ trước hãy niệm danh hiệu ta, ai cầu tất cả phước nên vẽ nhiều tượng ta. Còn như do chí thành mà có cảm ứng, tùy nguyện mà vãng sinh, nhanh chóng biến thông, không trái với các Đức Phật ba đời ở khắp mười phương. Phật đâu chỉ nguyện chừng ấy mà thôi. Có người nữ đệ tử ở quận Hoằng nông họ Dương, hiệu là Liên Hoa Tánh, phát nguyện lớn bỏ tịnh tài thêu tranh Phật A-di-đà năm mầu cùng cõi nước Tây phương và các quyến thuộc, để cầu nguyện cho chị cả Lý Thị là Dương phu nhân diệt hết tội nghiệp đời trước. Tranh thiếp bằng vàng, bạc không công phu tinh xảo bằng thêu chỉ năm mầu. Tưởng hình, niệm danh hiệu không gần gũi bằng thấy tướng tốt. Người tạo ra chí thành thì không thể không cảm ứng, cảm ứng thì không thể không thông. Nên tội phải chịu kia không thể không hết, phước không thể không sinh, Khi ấy Liên Hoa Tánh Khắp hương, chắp tay quỳ xuống đọc lời tán rằng:

Cõi Tây phương
Thân màu vàng
Nhờ sức Thánh
Phước u hồn
Người tạo tranh
Hoằng nông quận
Người nhận phước
Dương phu nhân.

3. Tú A-di-đà Phật Tán của Đường Thị lang Bạch Cư Dị.

Khen: Tranh thêu Phật A-di-đà của Thị lang Bạch Cư Dị

Bức tranh thêu Phật A-di-đà Tây phương. Có Nữ đệ tử là Đỗ Thị ở kinh Triệu vì mẹ đã chết ở Dương huyện là Thái quân Lô phu nhân, làm nhân ngày giỗ 11 tháng 8. Con kính dâng bức tranh thêu năm mầu này để trang nghiêm, một lòng cung kính nguyện cầu vong linh mẹ hết tội được phước, để báo đền bốn ân. Khen rằng:

Khéo niệm một niệm
Ngàn niệm nối nhau
Mới thêu một sợi
Muôn sợi nối nhau
Công đức thành tựu
Tưởng tốt đầy đủ
Thân vàng búi tóc
Lông trắng mắt xanh
Báo ân sâu nặng
Được phước vô lượng.

4. Tây phương Tịnh độ Tán của Lô Sơn Pháp sư Trí Viên.

Khen: Tây phương Tịnh độ của Pháp sư Lô Sơn Trí Viên

Nói rằng lý trời vắng lặng, sao có tịnh có uế, có dài có ngắn, có kia có đây mà suy lường bàn luận ư? Nhưng ngộ thì là Thánh, là chân là tu đức, là hợp giác, là về nguồn, là Niết-bàn. Còn mê thì là Phàm, là vọng, là tánh đức, là hợp trần là theo dòng là sinh tử việc lớn. bậc Thánh là người giác trước, thương kẻ chưa giác, do đó mà hiện cõi thanh tịnh tuổi thọ vô lượng. Quay về Đông với mắt từ nhìn khắp khiến cho chúng sinh chín uế ưa tịnh, nhàm bỏ cõi Ta-bà này mà thích nước An dưỡng kia. Rồi lên cõi báu nhìn thấy Pháp vương, mắt thần biến, tai nghe giỏi, thì tánh vắng lặng không bao lâu sẽ được thấu suốt mười phương hư không đều là tâm ta hiện ra, huống chi nương cõi lực không đâu có gì khó. Ôi như người chứng ngộ, nếu không do tâm chán uế ưa tịnh, ghét ngắn ưa dài, bỏ đây lấy kia thì là gì ư? Huống lại thấu suốt chán ham mà không chán ham hiểu rõ ghét ưa mà không ghét ưa, biết lấy bỏ mà không lấy bỏ ư? Thế nên, Đức Thích-ca hiện cõi uế để cho chán, Đức Di-đà hiệu cõi tịnh để cho ưa, ắt là ý ấy.

Mẹ Từ bi họ Mã của ta sống thì chán cảnh uế, chết thì ham cảnh tịnh, thọ bảy mươi mốt tuổi mà cuối cùng bị bệnh nằm hoài. Bèn tạo tượng Tịnh độ Vô Lượng Thọ dặn dò chúng tôi cúng dường suốt mười năm như thế. Than ôi đức của mẹ chỉ tránh cho con rơi vào vòng nước lửa mà thôi, mẹ ta mới có thể bỏ ta, làm đệ tử Phật, kế giúp ta học pháp, sau cùng lại hẹn ta việc vãng sinh khuyên dạy ta về đạo, lời than Lục Nga, tâm bi Phong Thọ, năm tháng đã xa, tâm ta không bỏ phế việc thiết trai, đốt hương, đánh khánh mà làm bài Tịnh độ Tán (Khen Tịnh độ) mong mẹ ta chứng quả Thánh.

Biển giác lắng trong, rộng lớn vô biên, không thêm không bớt.

Chúng sinh mất Đạo, tự cướp gia bảo, sinh tử mênh mông.

Đại Giác Từ bi, ở cõi nước tịnh, khiến ta nghĩ nhớ.

Bước lên đài vàng, thấy hình tượng Phật, ngộ tánh màu ta.

Tượng do thấy tướng, khen để được Đạo mẹ ta được Phước.

5. Vô lượng Thọ Phật Tán của Luật sư Đại Trí Nguyên Chiếu:

Khen Phật Vô Lượng Thọ của Luật sư Đại Trí Nguyên Chiếu.

Tám mươi bốn ngàn Diệu tướng chẳng phải Diđà Bản Tánh mười muôn ức cõi phương xa, đích thị là Duy tâm Tịnh độ. Tịnh uế tuy khác nhau nhưng đâu vượt khỏi tâm mình! Chúng sinh và Phật dẫu cách biệt há trái với tánh mình. Tâm thể vắng lặng chẳng ngại tới lui. Tánh vốn bao dung đâu lo lấy bỏ. Cho nên khởi niệm liền lên cõi báu trở về đất tổ quê xưa, chỉ khoảnh khắc liền đối trước Từ dung, thật gặp cha con Thiên chân, cơ sinh trái đức, luống chịu đắm chìm. Ngày nay chí thành sẽ được cứu độ, ba tâm phát đủ một chí quyết về Tây. Hết cả đời vị lai luôn vâng làm, khắp cõi trần mà khen ngợi.

6. Họa A-di-đà Tượng Tán của Văn Trung Công Tô Thức:

Bài khen ngợi vẽ tượng A-di-đà của Văn Trung

Công Tô Thức. Vợ của Tô Thức là Vương Thị tên

Nhuận Chi, tự là Quý Chương, bốn mươi sáu tuổi. ngày mồng một tháng tám niên hiệu Nguyên Hựu thứ tám mất tại kinh đô. Vào đêm qua đời bà dặn dò bỏ tiền của bảo con vẽ hình Phật A-di-đà. Ngày chín tháng sáu niên hiệu Chiêu Thánh thứ nhất thì tượng vẽ xong, được thờ tại chùa Thanh Lương ở Kim Lăng. Khen rằng:

Phật tử còn sống trăm phiền não
Ra đi một niệm biết về đâu
Miệng niệm Nam-mô A-di-đà
Mặt trời lên, muôn nơi sáng tỏ
Huống gì tự bỏ phần xài dùng
Vẽ hình Thiên nhật tròn đầy này.
Thấy nghe vui theo đều thành Phật
Bất luận trời người hay chim, thú
Chỉ nên thường quán tưởng bình đẳng
Vốn không buồn vui và thọ yểu
Toàn thân trượng sáu đâu phải lớn
Ngàn Phật tấc vuông đâu là nhỏ
Tâm này bình đẳng là Tây phương
Nhắm mắt liền đến không ma nhiễu.

7. Lý Bá Thời Họa Di-đà Tán của Tịch Âm Thiền sư Huệ Hồng:

Khen Lý Bá Thời vẽ tượng Di-đà của Thiền sư Tịch Âm Huệ Hồng.

Ngày rằm tháng 5, niên hiệu Chánh Hòa thứ 8, Nghi Xuân Huỳnh Tiên Chi mang tượng Phật Adi-đà do Lý Bá Thời vẽ đến Đông Sơn mà bày ra. Tôi xem Bá Thời vẽ rất nhiều lần. Đại khái vẽ ý mà không phải vẽ hình thái, nên không bày năm màu, chỉ Bá Thời biết mà thôi. Hỏi được từ ai thì đáp được từ Lý Trọng Nguyên. Trọng Nguyên được Viên pháp quan dạy nghề ấy rất giỏi do trước đó đã do khổ công mà được. Tôi nhìn kỹ nét nét vẽ của Bá Thời thì người đời nay khó vẽ được. Bèn cúi đầu khen rằng:

Lấy Từ làm nhà
Lấy Nhẫn làm áo
Pháp Không làm tòa
Bày đồng thể bi,
Bốn mươi tám nguyện
Để đời theo về
Như mặt trời lặn
Chim xếp cánh bay
Lớn thay cam lộ
Diệu Pháp Tổng trì
Khiến quán môn ta
Mở rộng bằng phẳng
Quán kỹ tâm mình
Dứt bặt nghĩ suy
Là chỗ nương về
Thật không nghĩ bàn,
Giữ ngựa ý lại
Không để ruổi rong
Ánh sáng hiện ra
Thấy ao sen trắng
Không nhờ trung ấm
Co duỗi tức thì.
Vui vẻ hóa sinh
Như trẻ tám tuổi
Sao đến được đây
Xin nghĩ kỹ xét
Do ta tinh tấn
Gắng sức chuyên trì
Kính lễ Diệu trạm
Bất động vòi vọi
Khiến tất cả chúng,
Dứt nghi si ám
Có người cùng nguyện
Chỉ thấy Đạo sư
Thoát nhiên lột xác
Ra khỏi năm trược.

8. An lạc Quốc Tám tán tam thập thất chương của Đề Hình Dương Kiệt:

Khen An dưỡng quốc ba mươi chương, mỗi chương bốn câu của Đề Hình Dương Kiệt

Tịnh độ Châu Sa giới
Như phải riêng chỉ Tây
Chỉ từ một mà vào
Nơi nơi là Bồ-đề.
Có niệm đồng vô niệm.
Vô sinh tức là sinh.
Chẳng nhọc dời một bước
Thấy suốt thành Giác vương.
Chán phiền cầu Tịnh độ
Chẳng phải không Từ bi
Muốn trị bệnh người khác
Trước phải trị bệnh mình.
Di-đà nguyện lực nặng
Ánh sáng chiếu cõi trần
Nếu một niệm tương ưng
Liền sinh nhà Như Lai.
Cõi trời nhiều năm dục
Cực lạc dứt ba đường
Sinh liền không lui sụt
Như Lai đâu dối ta.
Người kém theo Thánh vương
Ngày đi bốn thế giới
Sức Thánh không nghĩ bàn
Ví dụ sẽ được hiểu.
Chớ nghi nghiệp trước nặng
Công đức mười niệm nhẹ
Nhà tối suốt muôn năm
Mặt trời soi liền sáng.
Tuy biết các cõi Phật
Và chúng sinh đều không
Dạy người tụ Tịnh độ
Ma-kiệt có phi dong.
Ái luyến phải quyết dứt
Như trời lên băng tan
Người chưa chứng Tam-muội
Phải nên quán như thế.
Nước bùn nhơ năm đục
Chẳng dính hoa sen trắng
Vì sao kẻ lang thang
Tuổi già chưa về nhà.
Giáo quán A-di-đà
Đời trược có duyên sâu
Đời mạt tiêu trừ hết
Kinh này lưu trăm năm.
Chớ bảo mười muôn ức
Đường xa mà chán mỏi
Như cảnh ở ngàn dặm
Mộng chốc lát đi khắp.
Chớ cho tội nhiều kiếp
Một niệm không tiêu được
Ví như củi cả rừng
Đóm lửa nhỏ đốt tan.
Chim non không lìa cành
Trẻ con không xa mẹ
Niệm niệm A-di-đà
Quyết định sinh Tịnh độ
Các Như Lai mười phương
Một âm, lưỡi rộng dài
Phát nguyện liền được sinh
Nói lời thành thật khen
Nước chim và tiếng gió
Pháp âm không đứt quãng
Bồ-tát là bạn thân
Chắc chắn không lui sụt.
Tội ác sẽ phải đọa
Như bỏ đá xuống nước
Nguyện lực như thuyền to
Chở người được an ổn.
Có niệm chẳng Vô lậu
Vô tâm chưa là tinh
Cất nhà trên hư không
Biết ngày nào thành công.
An dưỡng hưởng các vui
Sa-bà đủ các khổ
Phải phát tâm Vô thượng
Nguyện được sinh Tịnh độ.
Lan can và lưới giăng
Cây báu đều bảy lớp
Trang nghiêm không gì sánh
Nhạc trời hương gió thơm
Ao nước tám công đức
Đáy toàn bằng cát vàng
Trên có lầu các báu
Hoa to như bánh xe
Trời rãi hoa Mạn-đà
Đựng đầy trong giỏ hoa
Cúng dường Phật mười phương
Đúng giờ ăn về nước
Tâm tịnh thì cõi tịnh
Lời Đại sĩ đâu sai
Cõi cõi thấy Như Lai,
Na-già luôn trong định
Đã chứng Vô sinh nhẫn
Lại ngồi thuyền Bát-nhã
Dạo chơi biển sinh tử
Cứu vô biên kẻ chìm
Lý sinh không thật có
Tức là chân Vô sinh
Mình, người, Phàm và Thánh
Đều gắng gượng gọi tên
Tức cõi Ta-bà này
Phàm Thánh ở xen nhau
Bụi bụi toàn thể hiện
Vọng động liền sai khác
Phật nói nước Di-đà
Cách đây thật chẳng xa
Bảo khắp người tu hành
Chớ sinh kiến chấp khác
Khi Bồ-tát Pháp Tạng
Phát bốn tám lời nguyện
Nguyện nguyện độ chúng sinh
Dắt dẫn không hạn lượng
Nếu có các chúng sinh
Niệm một câu hiệu ta
Nếu không sinh cõi Tịnh
Ta quyết không thành Phật.
Cha thường nghĩ nhớ con
Con luôn nghĩ nhớ cha
Nếu niệm niệm tương ưng
Liền về nhà mà ở.

9. Thiện Đạo Hòa thượng Di-đà Đạo Tràng Tán của Đề Hình Dương Kiệt:

Khen: Đạo tràng A-di-đà của Hòa thượng Thiện Đạo của Đề Hình Dương Kiệt.

Đàn tràng cao vút ngọn núi Đông
Mười câu Phật kia tin chẳng ngoa.
Thiện Đạo sau y thiện trước Phật
Di-đà nay là Phật xưa
Nhất tâm chánh niệm vượt ba cõi
Một ánh trăng côi chiếu muôn sóng
Cỡi thuyền Bát-nhã về Tịnh độ
Muốn độ sinh trở lại Ta-bà.

10. Bạch Liên Hàm Giáo Chủ Chân Tán của Đề Hình Dương Kiệt:

Khen hình tượng Bạch Liên Hàm giáo chủ của Đề hình Dương Kiệt

Ở Núi Đông Dịch thuộc Thai Châu, có Pháp sư Hàm thuộc giáo phái Thiên Thai ở tại Đạo tràng Bạch Liên, vào ngày 11 tháng 7 niên hiệu Nguyên Hựu thứ bảy đã họp đại Chúng mà chia y bát, bảo rằng ngày hai mươi ba sẽ về Tịnh độ. Đến ngày hẹn, Sư ngồi thiền ngoài cửa phương trượng mà viên tịch. Trước đó sáu ngày sư có để thư lại cho Tịnh nhân Nghiêm Diệu Quán, rồi về kinh đô từ giã tôi và để lại bài chân tán gởi cho các đồ chúng trong núi rằng: Ba quán thông suốt, niệm niệm tròn, Tổ sư thắp hương chỉ tâm truyền, thư gởi dán rồi ngồi kiết già. Chẳng ở Bạch Liên sinh bạch liên.

11. Hiệu Thiền Nguyệt Tác Viễn công vịnh của Thái sử Huỳnh Đình Kiên:

Bắt chước Thiền Nguyệt làm bài vịnh Viễn công (và lời tựa) của quan Thái sử Huỳnh Đình Kiên.

Pháp Sư Tuệ Viễn ở Lô sơn giữ luật rất tinh khổ, quá ngọ không uống nước đường mà làm thơ đổi rượu uống với Đào Bành Trạch. Đưa khách không phân biệt sang hèn đều không qua khỏi Hổ Khê. Vậy mà cùng Lục Đạo sĩ đi qua Hổ Khê một trăm bước cười lớn mà giã biệt. Nên Thiền Nguyệt làm thơ rằng: Thương Đào Trưởng Quan say ngất ngất. Đưa Lục Đạo sĩ đi thong thả, mua rượu qua khe đều phá giới, người ấy là ai Sư là ai? Nên bắt chước đề thơ rằng:

Đón Đào Uyên Minh cầm chén rượu
Đưa Lục Tu Tĩnh quá Hổ Khê
Mấy lượt Cửu Lưu trong như kiếng
Nhân gian muôn việc say như bùn.

12. Viễn Pháp Sư Tán của Cấp Sự Trình Câu:

1. Khen Pháp Sư Tuệ Viễn của Cấp Sự Trình Câu (có bốn bài):

Pháp sư Hoằng Đạo
Nói toàn Thật Tướng
Tượng nổi bến sông
Thần vận già lam
Giới châu nghĩa biển
Tột thế kính nhìn
Mở lớn Tịnh Nghiệp
Liên xã các Hiền.

13. Lưu Di Dân Tán của Cấp Sự Trình Câu:

2. Khen Lưu Di Dân:

Trọng Tư hiểu rộng
Lãnh tụ hai nơi
Đại Hóa hiện tiền
Không quên chánh thọ.

14. Đào Tinh Tiết Tán của Cấp Sự Trình

Câu:

3. Khen Đào Tĩnh Tiết:

Uyên Minh cao bước
Tánh hợp với đạo
Bậc thế, xuất thế
Chớ nên thân sơ.

15. Tạ Khang Lạc Tán của Cấp Sự Trình Câu.

4. Khen Tạ Khang Lạc:

Khang Lạc cao quý
Hào khí không bỏ
Tuệ nghiệp thì có
Chẳng phải tịch diệt.

16. Lục Đạo Sĩ Tán của Cấp Sự Trình Câu:

5. Khen lục Đạo Sĩ:

Ông Lục Huyền Hư
Thấu triệt tịch diệt
Quên tướng giang hồ
Cười lớn chẳng trái.

17. Lâm Hạnh Tự Tiễn của Tra Am Pháp Sư-Hữu Nghiêm:

Lâm hạnh tự tiễn của Pháp sư Tra Am Hữu Nghiêm: Ta nghe Tây phương có bậc Vô thượng

Chánh biến tri, tuổi thọ vô lượng A-tăng-kỳ kiếp.

Ánh sáng chiếu khắp vô biên cõi. Từ bi che khắp chúng sinh không hạn kỳ. Ai nghe danh xưng niệm đều không lui sụt ai quy mạng phát nguyện các khổ đều lìa. Đất vàng hoặc lưu ly làm đất. Ngày đêm sáu thời trời rải hoa bay bay như mưa. Lầu gác cờ phướn ngàn muôn khắp hư không. Rừng báu lưới châu âm nhạc gió nhẹ thổi, trang nghiêm tuyệt diệu không thể suy nghĩ bàn luận. Cả nước không mặt trăng, mặt trời mà luôn sáng rực, thế nên người giữ niệm thì thần hồn về Tây. Nước mẹ cha thường nghĩ về. Tánh không cõi khổ, này thuận tánh mà bỏ Tánh ấy. Có Lạc bang nay thuận tánh mà nhiếp lấy. Cách hơn mười muôn ức cõi Phật không phải là xa. Trong nhờ nguyện lực, ngoài nhờ oai Phật, chỉ một sát na liền đến ao hoa sen bảy báu.

Cụ Tra Am lúc bình sinh học Phật giữ giới luật sạch như băng tuyết, thích văn chương luận bàn như ngọc bích. Diễn giảng nhiều mà giữ niệm cũng không gián đoạn, tịnh nghiệp đã thành. Một hôm, thấy trên ao vàng có mấy người như muốn trổi nhạc để đón rước, mấy hôm sau thì mất. Trước đó có làm một bài tự tiễn mình, cho nên biết quyết định về Tây. Người nghe đều khen ngợi, cho là mình không bằng. Than ôi, Duy Tâm bổn tánh người người đều đủ. Sao cá tươi nhiều mà chẳng kết lưới bắt được ư? Tử Vân bảo: Con tò vò khấn rằng: Loại chúng ta lâu ngày thì giống, đâu có người chẳng tu mà chứng được ư? Đây là ý tự tiễn chắc chắn đủ để người ra đi khuyên bảo người đến học. Năm Nguyên Hựu đem văn cho tôi xem, nhân đó tôi làm lời Bạt ở sau. Tra Am kính đề.

QUYỂN 3

-LOẠI BI KÝ (có mười chín bài)

1. Bài Ký về Viện Tu Tịnh độ chùa Hưng long của Lễ Bộ Liễu Tử Hậu.

2. Bài Bia về Hòa thượng Vô Tánh ở Nhạc châu của Lễ Bộ Liễu Tử Hậu.

3. Bài Ký về vẽ tranh Tịnh độ Tây phương của Hàn Lâm Bạch Cư Dị.

4. Bài Bia về người đứng đầu Bạch Liên xã ở Tiên đường của Pháp sư Lô Sơn Trí Viên.

5. Bài Ký về tượng Di-đà bảy ở Tịnh từ của Đề Hình Dương Kiệt.

6. Bài Ký về xây giác báu Di-đà của Đề Hình Dương Kiệt.

7. Bài Ký về Viện Tịnh độ chùa Diên khánh của Đãi Chế Trần Quán.

8. Bài Ký về sửa sang lại viện tu Tịnh độ ở chùa Diên khánh của Thủ Tọa Phác Am Thanh Triết.

9. Bài Ký về xây dựng tượng ba vị Thánh ở chùa Khai nguyên của Luật sư Đại Trí Nguyên Chiếu.

10. Bài Ký về tạo tượng Di-đà ở viện Vô Lượng của Luật sư Đại Trí Nguyên Chiếu.

11. Bài Ký về am An dưỡng ở Linh sơn của Cấp Sự Trình Câu.

12. Bài Ký Hoàng Đế Cao Tông viết tặng Liên xã của Tổng Quản Trương Luân.

13. Bài Ký về tháp Di-đà ở núi Nam nhạc của Thiền sư Mục Am Pháp Trung.

14. Bài Ký về đạo tràng Tịnh độ ở Trừng giang của Thiền sư Pháp Chân Thủ Nhất.

15. Bài Ký về tranh vẽ ở trên vách của Liên xã ở Viện Bảo Tích của Ty Phong Chung Ly Tòng.

16. Bài Ký về Kinh Vương Việt Quốc phu nhân vãng sinh của Thân Các Huỳnh Sách.

17. Bài Ký về Mã Thị Lang vãng sinh của Thân Các Huỳnh Sách

18. Bài Ký về Quảng Bình phu nhân vãng sinh của Đãi Chế Vương Dĩ Ninh.

19. Bài Ký về tháp xá-lợi của chim Anh Võ ở Hà đông của Duẫn Vi Cao ở Thành đô.

-Loại Truyện (Mười bốn bài).

1. Truyện về Bồ-tát Ngũ Thông ở Thiên trúc thỉnh Phật.

2. Truyện về Pháp sư Tuệ Viễn là Thỉ Tổ Liên xã đời Đông Tấn.

3. Truyện về năm vị Tổ Pháp sư nối nhau nhiều đời của Liên xã.

4. Truyện về ngài Pháp Duyệt Tăng Chủ ở kinh đô thời Lương.

5. Truyện về Pháp sư Bích Cốc Thần Loan Hậu Ngụy.

6. Truyện về Thiền sư Lô sơn Đạo Trân đời Lương.

7. Truyện về Pháp sư Thiên Thai Pháp Trí đời Tùy.

8. Truyện về Thiền sư Vĩnh Minh Trí Giác đời Đại Tống.

9. Truyện về Trinh Tiết Xử Sĩ Dũ Tiên đời Lương.

10. Truyện về Vô Vi Tử Dương Đề Hình đời Đại Tống.

11. Truyện về Vương Ty Sĩ ở Quang châu đời Đại Tống.

12. Truyện về Hồ Tuyên Nghĩa ở Tiền đường đời Đại Tống.

13. Truyện về cư sĩ Long Thơ Vương Hư Trung đời Đại Tống.

14. Truyện về Chu Thị Như Nhất đời Đại Tống ở Minh Châu của Thiền sư Quất Châu bảo Đàm.

1. Bài Ký ở Viện Tu Tịnh độ chùa Long hưng của Lễ Bộ Liễu Tử Hậu:

Về phía Tây Trung Châu mấy muôn dặm có nước tên Thân Độc, là nơi thị hiện của Đức Thíchca Mâu-ni Như Lai. Đức Phật ấy nói về phương Tây cách mười muôn ức cõi Phật có Thế giới tên là Cực lạc, Phật hiệu là Vô Lượng Thọ Như Lai. Nước ấy không có ba độc tám nạn, có các báu để trang sức. Người ở nước ấy không có mười triền, chín não. Các Thánh đều là bạn lành. Là cõi nước nên thành tâm Đại Nguyện quy tâm. Nếu niệm lực đầy đủ thì liền vãng sinh về nước ấy, sau sẽ ra khỏi ba cõi, đối với Phật đạo không còn lui sụt. Lời ấy không luống dối. Pháp sư Lô sơn Tuệ Viễn đời Tấn có làm thơ vịnh niệm Phật Tam-muội khuyên khắp thời ấy. Về sau có Đại sư Thiên Thai Trí Khải soạn luận thích, Tịnh độ thập nghi, mở rộng giáo pháp, rất sâu kín nhiệm mầu, người mê đều nhờ cậy. Bởi kẻ lưu lại dấu lạ mà đi thì rất đông. Chùa Long Hưng ở Vĩnh châu trước do Thứ sử Lý Thừa Xi và Tăng Pháp Lâm lập Tịnh độ Đường ở phía Đông chùa, kính thờ đến nay đã hơn hai mươi năm, góc rèm hư nát, cốt tượng ngã nghiêng. Bèn chọn thượng nhân đến ở để sửa sang coi sóc. Thượng nhân tu tối Thượng thừa, hiểu rõ nghĩa bậc nhất. Vô thể tích không, dấu sắc mà tạo, chân nguyên thông giả có mượn tên không mà vào. Đối với thật tướng thì cảnh hợp với trí, sự khớp với lý. Cho nên tuy là nhân Vãng sinh mà tướng dụng không bỏ. Nên sửa sang lại ngôi nhà này để dắt dẫn kẻ hậu học. Có tín sĩ vẽ hình tượng Phật, pháp tướng rất đầy đủ. Nay Thứ sử Phùng Công lập cửa lớn để biểu thị địa vị! Tôi đưa bốn a hoàn để mở rộng hai nhà thờ tượng hai Đại sĩ, vẽ cờ phướn lọng báu để thành tựu. Than ôi, nếu có người hay cầu cái sinh của vô sinh, biết sự có mặt của thuyền bè, bèn soạn luận Thập Nghi của Thiên Thai lên vách khiến người xem mà khởi lòng tin.

2. Bài Bia về Hòa thượng Vô Tánh ở Nhạc Châu của Lễ Bộ Liễu Tử Hậu:

Ngày ấy tháng ấy tại Nhạc Châu có Đại Hòa thượng ở chùa Thánh An làm Tăng bao nhiêu năm có tên mà không họ. Đời không biết quê quán họ hàng và đời sống của ngài. Có người hỏi thì bảo tánh ta là họ, gốc không đầu mà trụ không cuối. Nương họ Đạo sư Thích mà hệ Đạo ta vốn không họ. Pháp Kiếm là tên ta. Thật lại không có tên mà ghét ta có tên. Tánh hải là quê ta, pháp giới là nhà ta, giới làm tường rào, tuệ làm cửa ngõ để bảo hộ thì chắc chắn là chỗ ở yên. Cửa làng chẳng đủ, độ môn, đạo phẩm số ấy vô cực, Bồ-tát Đại sĩ nhiều vô số, ta thân thích với họ không khác gì ta. Dòng họ ta chẳng lớn ư? Đạo ấy đáng nghe. Như thế mà chỉ đọc tụng kinh Pháp Hoa, Kim Cang, Bát-nhã số hơn ngàn muôn. Có kẻ chê là hữu vi bảo rằng: Ta không hề làm. Than ôi, Phật đạo càng xa, các mối lạ tranh nhau nổi dậy. Chỉ có Đại sư Thiên Thai là được thuyết ấy. Hòa thượng là người được thừa kế gốc ấy, vì thuận theo trung đạo. Phàm người thọ giáo không muốn mất gốc, sinh vật lưu động, thú hướng lẫn lộn thì chỉ có đường chánh Cực lạc là được chỗ về ấy. Hòa thượng bèn cần cầu quyết thành chí nguyện. Phàm người tin nghe chẳng lầm đạo ấy. Nếu có kẻ chê là có dấu vết thì bảo là ta không hề làm. Lúc đầu, Hòa thượng ở chùa Long hưng ở Phòng châu rồi dời về châu này lập đạo tràng ở ngọn Bắc Lăng-già, năm mươi năm không ra khỏi cổng... Hòa thượng kính thờ các bậc cao đức ở đời.

Người đầu tiên ngài nương tựa xuất gia là sư Trác Nhiên ở Nam dương an táng bên núi Nhạc châu. Người đến thọ giới là sư Đạo Dĩnh ở Kinh châu. Đệ tử đứng đầu là sư Hoài Viễn trụ chùa An quốc ở Trường sa. Khi đến Nam Nhạc truyền giới thì sư mất bèn chọn ngày an táng ở phía Đông tháp ngài Trác Nhiên cách đó mấy bước. Có lời minh rằng:

Đạo vốn ở một
Lìa là môn khác
Lấy tánh làm họ.
Bèn trở về gốc
Không tên làm tên
Sư giáo làm tôn.
Giả chỉ chỉ người
Chẳng phải ta còn
Quê lớn chẳng ở
Họ lớn chẳng gần
Ý sâu trong sáng
Trong rỗng ngoài nhân
Thánh có Di ngôn
Là rốt là siêng
Chỉ siêng chỉ im
Chết như mây nổi
Giáo lâu lợi nhiều
Đời ít người dạy
Bèn có trí lớn
Xuất từ chân môn
Gần để hiển bày
Giúp dân đổi mới
Tình động sinh biến
Vật bị đắm chìm
Bèn trao Lạc quốc
Mến nơi nguồn hóa
Sư bèn dạy dắt
Khiến dân chẳng mê
Dụng đạo bất tác
Lời thần không dấu
Sáng tối đều như
Sinh tử đều vắng
Pháp trao hậu học
Bày ra không dấu
An táng ở bên thầy
Không quên nhà thật
Viết bài minh này
Khắc ở đá đeo.

3. Bài ký về vẽ tranh Tây phương Tịnh độ của Hàn Lâm Bạch Cư Dị:

Thầy ta là Thích-ca Như Lai nói từ đây đi về phương Tây qua mười muôn ức cõi Phật có thế giới tên là Cực lạc. Vì không có tám khổ bốn đường ác cho nên nước ấy gọi là Tịnh độ. Vì không có ba độc năm nghiệp vẩn dục. Phật ở cõi ấy hiệu là Adi-đà vì sống lâu vô lượng, vì nguyện vô lượng, vì công đức, tướng tốt, ánh sáng vô lượng. Xét kỹ cõi Ta-bà này có nhiều chúng sinh như bụi nhỏ không kể hiền ngu, sang hèn, già trẻ, nếu ai khởi ý quy y Phật, trước hết đều chắp tay hướng về phương Tây. Nếu ai bị tai ách khổ não thì trước hết đều niệm Adi-đà Phật. Lại đúc khuôn nặn đất khắc đá dệt thêu cho đến vạch nước, nhóm cát, trẻ thơ chơi đùa... đều coi Phật A-di-đà là Thượng thủ. Không biết vì sao như thế. Như thế mà xét thì Đức Như Lai ấy có nguyện lớn với chúng sinh cõi này, chúng sinh cõi này có nhân duyên lớn với cõi nước ấy. Nếu không phải thế thì các Phương đông, Nam, Bắc, chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai rất nhiều sao chỉ riêng phương Tây như thế ư? Sao chỉ riêng phương Tây như thế?

Đời Đường, Đại Phu Thái Tử Thiếu Truyện thượng trụ quốc huyện Phùng dực, Khai quốc hầu được vua ban đãy cá vàng tía (Bạch Cư Dị) rất đau buồn vì bị bệnh phong tê. Bèn bỏ bổng lộc ba ngàn lượng nhờ nhà thơ giỏi là Đỗ Tông Kỉnh xét hai kinh A-di-đà và Vô Lượng Thọ mà vẽ một bộ hình thế giới Tây phương cao chín thước rộng một trượng ba. Phật A-di-đà ngồi giữa, hai Đại sĩ Quán Âm và Thế Chí đứng hầu hai bên, Trời người chiêm ngưỡng, quyến thuộc vây quanh. Lầu đài kỹ nhạc, cây, nước, hoa chim, bảy báu trang sức, năm màu phô bày lộng lẩy rực rỡ, công đức thành tựu. Con là đệ tử Cư Dị đốt hương cúi đầu quỳ trước Phật, khởi tâm từ bi phát thệ nguyện lớn. Nguyện đem công đức này hồi hướng bố thí cho tất cả chúng sinh. Tất cả chúng sinh những ai già như con, bệnh như con, nguyện đều lìa khổ được vui, bỏ việc ác tu việc lành, chẳng vượt khởi Nam Thiệm bộ mà thấy được Tây phương, sợi lông trắng sáng rực, tùy niệm liền cảm ứng. Sen xanh thượng phẩm theo nguyện vãng sinh. Từ thân hiện tại đến cùng tận đời vị lai thường gần gũi Phật để cúng dường. Muốn nhắc lại nguyện trên bèn có kệ khen rằng:

Thế giới Cực lạc là cõi thanh tịnh.
Không có đường ác và các khổ,
Nguyện ai thân già bệnh như tôi.
Đồng sinh nước Phật Vô Lượng Thọ.

4. Bài Bia về người đứng đầu Bạch Liên xã ở Tiền đường của Pháp sư Lô Sơn Trí Viên:

Ngày 12 tháng giêng mùa Xuân niên hiệu Thiên Hi đời Tống, người đứng đầu Bạch Liên xã là Đại sư Viên Tịnh Thường Công, viên tịch tại thượng phương thảo đường chùa Chiêu Khánh ở Tây hồ thuộc Tiền đường, tho sáu mươi hai tuổi, bốn mươi bốn hạ lạp. Đến ngày 3 tháng 2, nhóm đệ tử Hiệu Yết đem toàn thân an táng ở núi Linh Ẩn bên mộ của Thiền sư Ô Sào, bên trên xây tháp để ghi chép. Mùa Đông năm ấy môn nhân thượng thủ là Hư Bạch nối tiếp đạo của sư, muốn biết hành tung của thầy bèn đến am tôi xin vài lời khắc bia đá lại nói đó là di chỉ của người xưa. Tôi từ chối chẳng được, bèn viết lời tựa, cho giáo pháp Phật thanh tịnh vô vi, nhân từ không giết hại, lại lời kín, ý rộng bèn chỉ rõ đầy đủ, khiến những người được hóa độ, kẻ được nhỏ, gần thì làm lành lánh dữ, kẻ được lớn xa thì trở về nguồn phục hồi chân tánh. Ôi, Tuệ Viễn ở Lô sơn là người được lớn xa vậy. Khảo sát kỷ, lời lẽ hay hiểu biết thật đủ để biểu trưng hạnh, đủ để làm khuôn phép. Cho nên kẻ hiền thời ấy ngưỡng mộ sự cao minh của người mà từ đó có việc kết xã. Đến nay người khen ngợi mà không thể nối pháp được. Duy công lý hạnh nghiêm cẩn tu tâm trong trắng, nghe phong độ của Lô sơn mà mừng vui. Lại bảo mong làm ngựa ký hoặc cỡi ngựa ký. Ta tuy chẳng giống như thế nhưng chẳng dám quên việc làm sao cho được bằng người. Do đó mà trang sức thân, mổ xẻ tâm mà thề kết xã. Phàm noi theo đạo thì phải nương vào đất, tôn trọng thần thì phải nhờ tượng, muốn hành hóa thì phải bằng lời. Nói xem chốn Tây hồ là cảnh đẹp dạo chơi của thiên hạ, thích u nhàn mà bày ra tốt xấu. Phật Vô Lượng Thọ là đấng kính ngưỡng của chúng sinh, bèn khắc gỗ chiên đàn làm tượng. Phẩm Tịnh Hạnh trong kinh Hoa Nghiêm nói "Vì cơ yếu của việc thành Phật nên mới chích máu để viết các chương cú kia", sao đất đã được, tượng đã thành, lời đa hành, triều hiền cao. Lại nghe phong độ của ông mà vui mừng. Hoặc tìm chỗ vắng mà hỏi đạo, hoặc thấy tướng mà biết chân, hoặc khảo xét kinh mà được ý, hơn ba mươi năm, không trái nghịch. Người dự vào Bạch Liên xã gồm một trăm hai mươi ba vị được độ thành. Như thế có thấy Xã Tây Hồ mới biết việc nối nghiệp Lô sơn không tủi thẹn. Có lần, thử luận với ngài Tuệ Viễn là Thánh bậc thượng địa, còn ông là Hiền sơ tâm, địa vị khác nhau, tên hiệu có khác. Song Tuệ Viễn thì sinh ra từ thời Tấn suy, còn ông sinh ra ở Thánh triều này (Đường?). Nên Tuệ Viễn chiêu dụ các bậc Hiền ở ẩn còn người đến với ông là những bậc hiển đạt, toàn những vị giỏi xưa nay đều ngang nhau. Không thể bảo thạnh và tốt cùng theo nhau. Ông thường bảo các học trò rằng: Từ lúc bắt đầu lập nước đến nay. Tiến thân tiên sinh nói theo xưa làm văn đại khái bắt chước Thối Chi mà bài bác Phật giáo. Cho nên tôi mượn dấu Tuệ Viễn mà kết xã vãng sinh. Kẻ theo sự dạy dỗ của ta sẽ soạn nhiều bia lắm tụng mà khen ngợi Đạo pháp, kết lời quy hướng, đạp đổ đường gai góc khác để bước đi trên giáo pháp ta, Đời chẳng biết ta hoặc lấy ta làm điều khen lạ, ta không phải hạng người ấy. Quân Tử nói: Xưa Dược Sơn Duy

Nghiễm rút lại tâm bay cao, giúp biết Phật mà Tăng truyện khéo viết. Nay các Hiền nhờ thật tướng kính phục Đại giác. Hồi tông nơi biển tánh, không có sức của ông thì cùng ai có công hộ pháp thay kẻ không ngang bằng? Ông húy là Tỉnh Thường, tự là Tạo Vi, họ Nhan là người ở Tiền Đường. Bảy tuổi chán tục xuất gia, mười bảy tuổi thọ giới cụ túc. Khi sinh ông có điềm lành. Học với sư Bảo Truyền, tu thiền rất giỏi, dồi mài danh tiết thì có xã khách và các bậc Hiền. Bia Tự thì có học trò ghi rõ hành trạng của ông, ở đây không nhắc lại. Nay nói về đạo của xã ấy, văn rằng:

Sự lớn lao của Phật ở Tây phương chỉ có Tuệ Viễn là biết được, chỗ cao của Lô sơn chỉ có ông là vui thích. Tây hồ xã đều các bậc Hiền kính mến, có đầu, có cuối, chẳng mài chẳng sâu. Duyên ta đã trọn, ta mất ở đây. Thần ta dạo nơi không dấu vết, tên nên khi tán dương bậc Thánh, muốn biết đạo ta thì xem phong bia này.

5. Bài Ký về tượng Di-đà bảy báu ở Đạo

Tràng Tịnh Tư của Đề Hình Dương Kiệt:

Đạo Tràng Tịnh Từ ở Nam Sơn thuộc Hàng Châu có Tỳ-kheo Pháp Chân, Đại sư Thủ Nhất kết đồng chí, cùng Đàn-việt dùng vàng bạc, trân châu, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não... tạo tượng Phật A-di-đà. Thánh tướng đẹp lạ, cảm ứng rất nhiều. Vô Vi tử nay chiêm ngưỡng ngợi khen, nghiền bảy báu thành bụi, nhóm bụi báu làm thân Phật. Thấy bụi báu tức là thấy Phật. Phật không gì chẳng phải báu. Thấy thân Phật tức là thấy báu, báu không gì chẳng phải Phật. Bảy báu là báu thế gian, chúng sinh tham lấy chẳng thỏa mãn, chẳng được liền sân si, chẳng biết đây là nhân của đường dữ. Bảy báu đã làm thành tôn tượng thì không phải vật dụng của thế gian mà là báu xuất thế. Người gặp tượng báu nên sinh tâm cung kính, giữ nghiêm giới cấm, thuần chắc định lực, thấu suốt trí tuệ, đây là nhân Tịnh độ. Thân Phật lớn bằng cả hư không, nên không lập năm tạng, không lấy tâm chúng sinh làm tâm. Cho nên, người trong hội mỗi người viết một nguyện Di-đà, bốn mươi tám người thì nguyện Diđà trọn đủ. Tất cả đều đem chứa trong thân tượng để nói lên nguyện nguyện không quên chúng sinh. Búi tóc có một ngàn hai trăm sợi, mỗi sợi thật là nguyện lực vững chắc của xá-lợi. Ngày tượng hoàn thành thì dùng tám thứ nước thơm mà tắm rửa Như Lai biểu thị cho nước tám công đức. Mọi người tùy ý lấy uống đều là vị cam lồ. Một thân thanh tịnh thì tất cả thân thanh tịnh, một niệm thanh tịnh thì tất cả niệm thanh tịnh. Nhưng chẳng lìa Ta-bà mà liền vượt lên Cực lạc. Một khi thấy tượng báu thì thành tựu duyên há có thể suy nghĩ bàn luận được ư? Bèn làm kệ rằng:

Hòa nhóm bảy báu
Thành thân Như Lai
Báu tức là Phật
Ngoài Phật không báu
Phật tức là báu
Ngoài báu không Phật
Không phải hai cảnh
Hiện các Tịnh độ
Đi quanh khen ngợi
Niệm niệm Di-đà
Cùng với hữu tình
Đồng sinh Cực lạc.

6. Bài Ký về xây gác báu Di-đà của Đề Hình Dương Kiệt:

Ai không nguyện sinh Tịnh độ thì thôi, đã nguyện sinh Tịnh độ thì ai cũng được sinh, một khi đã sinh thì không bao giờ lui sụt. Đức Thế Tôn gọi là A-bệ-bạt trí, hay A-duy-việt trí, phàm phu hữu lậu còn bị trói buộc dựa vào tín niệm mà được sinh về nước ấy. Nhưng ba độc tà kiến không thể mất liền, làm sao biết không lui sụt? Bởi vì nguyện lực của Phật Di-đà luôn nhiếp giữ, ánh sáng rực rỡ luôn chiếu soi, các bậc Thượng thiện thường nhóm họp, tuổi thọ dài lâu suốt kiếp. Cây, rừng, chim, nước, tiếng gió reo nhạc luôn giảng nói diệu pháp. Người nghe tâm liền niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, nghe mãi không dứt. Chúng sinh bệnh, Phật là vua thầy thuốc, Pháp là thuốc hay, Tăng là người nuôi bệnh, ba thứ có đủ bệnh liền tiêu tan. Thế nên nói một khi sinh về Tịnh độ do đâu mà có lui sụt. Tăng giám Pháp bảo Tiền Đường là Đại sư Tùng Nhã, lúc bình sinh tu giáo quán Di-đà, tham cứu tông phong, vui với kệ tụng và được chỉ thú. Lại giỏi y thuật thường cho thuốc cứu người. Có ai đem của tiền đáp tạ thì bảo không phải do tôi mà do công đức Tam bảo. Bèn chuyển của thí sang Tam bảo mà xây gác báu và tạo tượng lớn Di-đà. Lại lập chín phẩm Bồ-tát, Hải Tạng kinh điển chứa ở sau, có ao sen thanh tịnh ở trước, có thất định, quán ở hai bên. Nguyện đón rước người đi đường, cấp dưỡng người sám hối để kết duyên Tịnh độ. Đâu phải chỉ có một mình Tỳ-kheo mến việc trị bệnh cho thuốc như Phật mà còn vận dụng lòng Từ bố thí trị liệu. Chỉ nghĩ tâm niệm Tam bảo mà gọi là chẳng dám để gián đoạn. Người vào đạo tràng ấy phải quán tất cả tướng là chẳng phải tướng thì mới thấy được toàn thể Di-đà. Quán tất cả pháp là pháp như huyễn thì mới vào được chân cảnh Tịnh độ. Quán thân mình là vô ngã thì mới có chánh kiến của Tỳ-kheo. Cho nên từ một Như Lai mà thấy vô lượng Như Lai, một Tịnh độ mà thấu khắp cùng vô lượng Tịnh độ, ngộ một Pháp thân mà dung được cả vô lượng Pháp thân. Không niệm mà niệm, không chứng mà chứng, không tu mà tu, biển quả Tịnh độ há dễ suy lường ư? Tăng giám Pháp Bảo xây dựng gác báu Đạo tràng Tịnh độ, dẫn dắt các bạn đồng tu tịnh nghiệp, hẹn khi báo duyên đã hết thì sinh An dưỡng được tròn sở nguyện.

Ngày rằm thượng nguyên niên hiệu Nguyện Hựu thứ nhứt, Tả triều Tán lang Thượng thư chủ, khách là Viên ngoại lang khinh xa Đô úy được vua ban cho đãy cá vàng tía là Vô Vi Dương Kiệt-kính thuật.

7. Bài Ký về viện Tịnh độ chùa Diên khánh của Đãi Chế Trần Quán:

Tại chùa Diên khánh ở Minh châu, Tỳ-kheo trụ trì Thế Hữu diễn giảng dùng Thiên Thai quán hạnh làm Tông. Từ Đại sư Pháp Trí tri lễ, hạnh học đều cao, người nghe pháp đều hướng tâm, được người nối nghiệp khá đông, đến nay hơn trăm năm. Trong thời gian ấy có người khổ hạnh tinh tu, đến nương Đạo tràng. Trong niên hiệu Nguyên Phong, Tỳ-kheo Giới Nhiên tu pháp Tây phương Tịnh độ, chỉ ngồi không nằm, kỳ hạn ba năm. Hết kỳ hạn bảo các Tỳ-kheo cùng tu là Huệ Quán, Trọng Chương, Tông Duyệt rằng chúng ta ở chung một thất để tu duyên tốt này. Người đến sau càng đông nhưng nhà cửa không thêm. Nay ở góc Tây Diên Khánh còn đất trống nếu được tiền hơn hai ngàn muôn mà xây sáu mươi gian nhà, trong đó lập (gác báu) thờ Phật Di-đà trượng sáu và Quán Âm, Thế Chí. Có mười sáu thất, mỗi thất có hai gian, ngoài bày tượng ba vị Thánh, trong là nơi thiền quán. Điện ở bên ao, trong ao có sen đẹp. Trong không lìa trần nhiễm, ngoài mở rộng cảnh đời, chỗ niệm đều vắng, không có duyên khác. Dùng định tâm kiên quyết để hiển bày cõi An lạc. Nhân đó thuận lòng Từ của Phật lại báo ân đất nước, đâu phải chỉ riêng tôi mà cả bốn chúng ta đều như thế, với lòng mong mỏi như thế chắc chắn sẽ thành tựu. Các vị Huệ Quán... cùng đáp rằng: lấy tâm nhậm vận vô tác mà làm việc lợi ích hữu vi. Ở Tứ Minh có nhiều tín thí lo gì chẳng thành. Từ đó, tháng ngày chứa nhóm được bảy năm thì việc liệu toan của Giới Nhiên đều như ý. Lúc đầu Giới Nhiên đốt hai lóng tay để cầu việc thành. Đến tháng ba niên hiệu Nguyên Phù thứ hai thì làm lễ lạc thành. Bày ngàn Phật mà cúng dường. Lại đốt thêm ba lóng tay nữa để cầu thành việc khó thành, lại bỏ việc khó bỏ mà vốn chỗ dụng tâm không vị kỷ. Do đó người nghe kẻ thấy đều vui theo, các vị tu Tịnh độ đều vui mừng. Cả mười sáu thất đều đông chật người tu. Kẻ xong hẹn ra đi thì người phát tâm liền đến. Người nương cảnh tốt mà được lợi lành thì đông vô số kể. Giáo pháp Tịnh độ, Phật xưa đã nói, chỉ người thành tâm tin chắc không nghi. Như Lai xếp chín phẩm thì lấy tâm chí thành là trên hết. Ngài Trí Giả soạn Thập luận phá tâm nghi bị trói buộc. Mở trói thì quên tình, thức tan thì trí hiện, Di-đà tịnh cảnh đâu cần tìm ở nơi khác. Như soi gương thì thấy mặt mũi, hình ảnh, người được không do thức nhận, kẻ mê chẳng phải do tình hiểu. Vượt thức tâm mà chẳng lầm, suy tình trần mà tạo riêng, ấy chỉ là thành, nên gọi là thành. Vừa tự thành tựu, vừa thành tựu cho người thì chỉ có đây mà thôi. Cũng như vầng trăng tròn sáng, hiện bóng khắp trên các mặt nước, bóng trăng vô số nhưng trăng chỉ là một. Nhiếp phân bố các nơi cùng về, gặp ở mười phương mà chỉ có một. Cũng như có mười chiếc gương vây quanh một ngọn đèn thì ánh sáng giao chiếu nhau, đông tây khó biết. Nhưng phương có vị trí nhất định thì chẳng phải không có gương tây, tên tùy tướng mà lập, Tây chẳng phải tự nó là Tây. Trí và lý dung nhau thì cảnh lấy gì mà chấp. Sao có thể lấy cái phương chấp chặt mà suy lường cái cảnh vô ngại của Như Lai. Ngài Từ Ân nói: Kẻ phàm phu nghiệp nặng chỗ nào cũng sinh tham đắm, nếu không chỉ một phương nhất định thì lấy gì để cột tâm chuyên chú. Đây là Thiện tri thức tùy phương trợ giáo, chuyên giữ gìn tướng tông. Nhưng luận về An dưỡng thì biết đủ hơn kém chỉ khuyên vãng sinh là hơn hết.

Từ đó ta biết người thông suốt thì không mến tiếc. Mến tiếc thì nhiều riêng tư. Cảnh mạnh mà thói quen nặng là do quán tưởng cạn, tâm thô phù; dễ đến mà không người là bởi nghi sâu, chướng nặng. Nếu muốn trừ hết cấu chướng thì phải dùng tâm quyết định. Đống củi như núi chỉ đốm lửa có thể đốt tan, nhà tối ngàn năm mặt trời soi thì liền sáng. Đức Thích-ca Văn phương tiện rất sâu, Phật Vô Lượng Thọ nói Pháp không gián đoạn. Quán Thế Âm như mẹ nhớ con, Đại Thế Chí như con nhớ mẹ. Dấu xe Thánh xưa sao lại chẳng tuân theo, huyễn cảnh trống không vì sao chẳng bỏ. Trưởng giả Giải Thoát nói chẳng đến cõi An lạc, Phổ Hiền đích thân thấy Vô Lượng Quang. Đích thân thấy là vốn không dời động, "Chẳng đến" là như thế mà đến. Khắp dung vô ngại, sau đó mới không, giả đều trung. Phân biệt chưa quên há tránh khỏi quyền, thật. Tranh nhau như thế thì làm sao có ngày tâm an, được nhẫn, ngày nào mới biết niệm niệm hiện tiền, sau đó quyết chẳng lui sụt. Nên nói nếu không chắc chắn thành Đẳng Chánh giác, ta thề chẳng chứng Bồ-đề. Đối với tâm Bồ-đề có lui sụt, ta thề không thành Chánh giác. Đây chính là bổn nguyện của Tỳ-kheo Pháp Tạng mà các bậc Thượng thiện đều theo học. Phát tâm như thế, thực hành hạnh như thế, khởi nguyện như thế, chứng quả như thế mà chẳng trái thệ lớn của Pháp Tạng thì ai nương thân ở cõi này, gởi tâm ở nhà này đều là bậc A-bệbạt trí. Lợi ích cao quý đó đâu thể cùng tận. Tỳ-kheo Giới Nhiên khởi lên một niệm lành, tất cả tín sĩ ở Tứ Minh đều hưởng ứng, do đó mà lợi ích một phương rộng khắp. Như thế mà không ghi việc ấy ư? Nay thầy trụ trì chùa Diên khánh là Đại sư Minh Trí (Trung Lập) là cháu chắt của Pháp Trí, hạnh nghiệp hoàn toàn chắc thật được người tin phục, dùng tâm thành mà tu quán Tịnh độ, đối với Giới Nhiên có giúp đỡ rất nhiều, nên nay cũng ghi vào đây, ngày mồng một tháng tám niên hiệu Đại Quán thứ nhất. Diên Bình Trần Quán ghi.

Thảo Am Lục chép: Trần Oánh Trung soạn Tịnh độ viện ký là một bài sâu sắc về Phật tổ. Nay nói Tịnh độ nếu được Phật thì mất Tổ, hoặc được lý thì mất sự, được đây thì mất kia, mà Liễu ông chứa chẳng mấy trăm chữ lại nói được toàn thể Tịnh độ, há chẳng phải là có Thiên tư cao ư? Song bài ký này cao là do người khen. Còn như Triều Công (Thuyết Chi) soạn bài bia thờ Pháp sư Minh Trí thì đầy dãy văn chương của Thai tông, cứng cõi thịnh hành ở đời, suy ra ký của ngài và Liễu Ông ngang nhau. Ký ấy có nói: Sư thường dùng Pháp môn Tịnh độ khuyên dạy người học, muốn mọi người biết Thích-ca có Tịnh độ, Di-đà có uế độ. Lúc khác chí ở nơi tâm, một ngày nào đó ắt quán kỹ, bèn y theo kinh Thập Lục Quán mà hiện ra tượng lớn Di-đà ở bên ao. Dùng mười sáu quán mà thấy chim le bơi trong ao sen, phụng trời bay múa.

Người quán tưởng ngồi trên cao, dứt hết tiếng đời, người hợp với cảnh ấy thì đạo tâm thêm nhiều, sao luận tin hay không tin? Cho nên nghi thân ấy chẳng phải Thánh chẳng phải phàm. Phí tổn vạn vạn dựng xây nhà cửa càng thêm. Đến ở bên sông nhiều năm rồi lạc thành chẳng đầy một năm, có vị tăng cùng làm việc bảo rằng Giới Nhiên chẳng nhọc chẳng lo, như không hề có việc ấy. Bởi cảnh ấy xưa chưa có mà nay chẳng biết vì sao mà có. Cả hai vùng Triết giang không có thì thiên hạ cũng không có. Pháp Hoa đạo tràng ở núi Chi Hình do Tuân Công tạo ra thì có thể hơn đây.

8. Bài Ký ghi việc sửa sang lại viện Tịnh độ chùa Diên Khánh của thủ tọa Phác Am Thanh Triết:

Tịch Quang chân thường, xưa nay sáng soi mầu nhiệm, bỗng niệm khởi lên, phải chịu trôi giạt, Đấng Đại Giác Thánh nhân muốn cho bỏ vọng về gốc nên khéo léo khuyên dạy. Thế nên Phật Thíchca hiện cõi uế khiến nhàm chán, Phật Di-đà hiện Tịnh độ khiến ưa thích. Nếu ưa thích mà tu tịnh hạnh thì sẽ sinh nước ấy. Cảnh giới tốt đẹp đều giúp phát triển chân thường. Thế nên, nghe gió thổi cành cây mà chánh niệm thành, lên lầu báu mà Tam-muội bày. Chẳng nhờ phương tiện tự nhiên được Đạo. Vì vậy, pháp môn Tịnh độ cũng là đường tắt trở về nguồn. Song người phát triển rộng pháp môn Tịnh độ chỉ có Tuệ Viễn ở Lô sơn cùng các bậc Hiền kết Liên xã ở dưới núi Lô, tu Tam-muội niệm Phật hẹn vãng sinh về cõi Tịnh, do đó mà đời sau đều quý chuộng. Thiền sư Nam Nhạc lúc đầu ở núi Đại Tô truyền tông Nhất Tánh của ngài Long Thọ, lập riêng thiền thất dạy người tu chứng. Cho nên ngài Thiên Thai Trí Giả lúc đầu đến núi này trao cho Đạo Tràng Phổ Hiền, tu Tam-muội Pháp Hoa, nhân đó mà phát đại Tổng trì, vào cảnh giới Phật. Từ đó bốn phương đều lấy đây làm nguyên tắc, có như vậy là do thấy người xưa dạy tuy khác nhau mà đồng quy về một. Giữa năm Nguyên Phù đời Tống, có Tỳ-kheo Giới Nhiên nối phép xưa lập việc Phật hóa ở góc phía Tây chùa Diên Khánh nơi vắng vẻ u nhàn, lập nên gác bái lớn gồm mười sáu thất, gọi tên theo Thập Lục Quán. Hoa cỏ che mát, ao ngọc lắng trong giống cảnh Lạc bang thanh tịnh, khắc tượng chiên-đàn, trong ao trồng sen theo cách của Lô sơn Liên xã. Sám thất tinh nghiêm, thiền đường thâm tịch theo phép của đạo tràng Đại Tô. Chỉ chứa người giữ chí thờ đạo, sớm tối hương nên, Phật sự vô sinh lắng thần xét chiếu, bỗng nhiên rất nhiều người ngộ được tâm mình ở cảnh Tịch Quang cho nên là đất cao quý ở Tứ Minh. Nhưng năm tháng dần xa nhà cửa nghiêng xiêu, người tu Tam-muội không thể yên tâm. Năm Đinh Sửu thuộc niên hiệu Thiệu Hưng có Tỳ-kheo Thanh Nhuận buồn thấy thắng cảnh điêu tàn bèn nghĩ việc sửa sang, phục hưng. Nhưng thấy sức yếu khó vận động người, nên bạch việc thầy trụ trì Pháp sư Giác Vân. Sư nói: Việc quý ở chỗ chân thành. Chân thành một khi phát ra còn có thể cảm được các Đức Phật thì đàn tín sao không động được. Huống ông đã sáng lập thất Diệu Xúc Tuyên Minh, giúp cho người đều ngộ nhận được bổn nhân thành Phật, ông trụ ở đây chẳng chí thành được ư? Thanh Nhuận khi nghe lời ấy thì chăm chăm để bụng, khi nêu ra với đàn tín thì tất cả đều theo, mà đưa các gỗ quý đến làm kèo cột. Nếu nghiêng đổ thì chống đỡ, mối mọt thì làm mới, sửa sang xây tường lợp ngói, dột trên ngập dưới, bốn bề sửa chữa, cửa lớn cửa nhỏ, tường rào thềm bậc đều đủ. Gác báu sừng sững bên hồ, tường cao khiến người trong thất quản lý không biết có sự ồn ào của chợ búa, hồng trần. Tất cả đều mới mẻ rực rỡ giống ngày lạc thành thuở xưa, đủ để vén rèm trăng, đốt hương bách. Kẻ ở thì tu tập không ngừng, người cúng thì gieo trồng ruộng phước vô tận. Ngõ hầu phong cách Đông Lâm, đạo Nam Nhạc chẳng xa mà lại thịnh là công do đây vậy. Xây cất suốt bốn năm thì việc xong. Bèn dùng ba ngàn quan tiền khắc hai ngàn tên, giúp cho người phương này liền thấy mười muôn ức cõi ngoài. Gió ngâm lá báu, sóng động bờ vàng, trong suốt như giếng ngọc mùa thu: Mới biết đã về nước cũ, nhanh chóng quên hết khách trần, sao những trốn chạy hư không, kịp nghe tiếng chân há chẳng vui sướng sao? Khiến tất cả mọi người nhận đây mà quán An dưỡng, Y, Chánh đều do cảnh này dẫn phát, hăng hái mạnh mẽ, so với công đức tăng tu thì chẳng lớn bằng. Bây giờ là niên hiệu Càn Đạo thứ năm, ngày Nam Chí.

Tỳ-kheo Thanh Triết kính ghi.

9. Bài Ký về xây dựng tượng ba vị Thánh đứng ở chùa Khai nguyên của Luật sư Đại Trí Nguyên Chiếu:

Tượng ba vị Thánh đứng, thấy trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật. Đức Thế Tôn Thích-ca vô duyên đại từ thương xót người chưa được độ ở cõi Ta-bà, bèn mở rộng pháp môn Tịnh độ, chỉ bày Tam-muội niệm Phật, khiến gởi thần thức về cõi Tịnh. Cho nên dạy quán tưởng duyên Thánh, mười sáu diệu quán do đó mà lập ra. Việc mặt trời lặn như chiếc trống treo để chỉ phương hướng, tưởng nước ngưng thành băng để giống đất báu. Kế quán rừng, suối, lầu gác đều dùng trăm báu trang nghiêm trên đời khó gì sánh bằng. Ánh sáng rực rỡ chẳng thể tả xiết. Rồi nói quán thân Phật ấy tướng tốt chói sáng, chúng hội đầy đủ. Bỗng ba vị Thánh hiện trên hư không, khiến Vi-đề-hy nhìn làm nguyên do phát thỉnh. Kinh rằng: Phật bảo Vi-đề-hy rằng ta sẽ phân biệt giải nói pháp trừ hết khổ não cho bà nghe. Khi nói lời ấy thì Phật Vô Lượng Thọ hiện ra trên hư không, có Quán Thế Âm và Đại Thế Chí đứng hầu hai bên. Bà Vi-đề-hy bạch Phật rằng: Con nhờ năng lực Phật nên thấy được Đức Phật ấy và hai vị Bồ-tát. Chúng sinh đời vị lai sẽ quán thế nào mà thấy được? Phật dạy: Trước quán đài hoa, kế quán hình tượng, sau quán thân Phật, người hầu hai bên, chín phẩm đồ chúng, Tam-muội niệm Phật do đây mà đầy đủ. Từ Lô sơn, Tuệ Viễn đến nay thì các tăng phường trong nước kết hệ niệm Tịnh Xã, lập tượng Di-đà tam Thánh đều xuất phát từ văn kinh này. Lan nhã Phước Nguyện ở nơi núi Linh quy, Từ Khê thuộc Tứ Minh có Thích tử Giới Thâm, từ khi vào đạo luôn trì kinh ấy, dốc chí Tinh nghiệp được mấy năm bảo rằng: Tu một mình không bằng khuyên bảo người khác cùng tu, thực hành một lúc không bằng lâu dài. Do đó mà kêu gọi mọi người tin tưởng cùng đến Tiền Đường, sai thợ giỏi điêu khắc tượng ba vị Thánh đứng. Núi sông ngàn dặm luôn tới lui xây cất, ròng rã suốt mấy năm mới được thành tựu, tốn phí mấy ngàn. Lập Sám đường thuộc Viện kinh Tạng chùa Khai nguyên tại phía Nam thành, bốn chúng đều chiêm bái khen ngợi chưa từng có. Một hôm ông ngồi thuyền vượt sông đến Lan nhã Chi Viên, cởi đãy kiết hạ niệm hương, cúi đầu mời tôi viết cho bài văn ghi việc ấy. Tôi hiểu ý lời nói này nên vui lòng viết ngay. Có kẻ hỏi: Kinh nói các Đức Phật Như Lai là thân pháp giới, nhập vào tâm tưởng tất cả chúng sinh. Nay khắc gỗ làm tượng là vật thế gian mà đem làm Phật chẳng biết có được chăng? Đáp rằng: Thân Phật không tướng cũng không lìa tướng vì là vô tướng nên thế gian, xuất thế gian không có một pháp nào là Phật, tám vạn bốn ngàn ba mươi hai tướng tốt cũng tức là không tướng, huống là vật khác ư? Cho nên lìa tất cả tướng tức gọi là chư Phật. Vì lìa tướng cho nên thế, xuất thế gian không có một pháp nào chẳng phải là Phật, huống lại là tướng hảo ư? Thế nên nói: Phải biết tất cả các pháp đều là Phật Pháp. Nếu hiểu tướng này là chẳng phải tướng, chẳng phải tướng tức là tướng thì tất cả núi sông, cõi nước, cây cỏ, bụi nhỏ bốn loài, sáu đường bò bay máy cựa đều là thể Pháp thân của các Đức Phật cả, huống lại đúc vàng nặn đất, khắc gỗ, vẽ thêu... trang nghiêm tướng tốt mà không phải Phật ư? Những người trí quán tượng này do gỗ đá, tro đất, sơn keo, kim loại, mầu vẽ... nhờ các duyên hòa hợp mà thành tìm thấy các duyên thì đều là vật thế gian, đều có tên và thể chất, vậy cái gì là Phật ư? Song, duyên không có tướng nhất định, vật không có tên nhất định, mà đã gọi là Phật thì tất cả chúng duyên không gì chẳng phải là thể Phật, đâu thể bỏ đây mà riêng tìm Phật ư? Kinh Hoa Nghiêm nói sắc tướng không phải là Phật, âm thanh giống như thế. Nhưng cũng chẳng lìa sắc thinh mà nhìn thấy năng lực thần thông của Phật. Nếu quán đây mà không chấp ở tướng, cũng chẳng lìa tướng, lý sự như một, Chân tục không hai thì đối tượng mới là thật thấy Phật. Kinh nói: Nếu Phật diệt độ rồi mà ai tạo hình tượng để cúng dường thì đời sau sẽ được Tam-muội niệm Phật thanh Tịnh. Thế nên biết đời mạt pháp mà giữ gìn hình tượng là hơn hết, các căn thượng, trung, hạ đều được lợi ích. Do vậy, Tử Đàn khắc tượng vua Ưu-điền là người mở đầu ở Tây càn, lông trắng dệt vẽ Ca Trúc là kẻ bày đầu ở Đông Hạ. Phép truyền đã rộng, điềm lành càng nhiều. Sinh linh thấy tướng mới biết quy về, Phật hóa nương vào phong tục mà tồn tại lâu dài, có người thành tâm thấu gốc mà gieo tạo hạt giống Thượng Thừa. Cho đến ai giở tay, cúi đầu thì đều trọn thành tựu hạt giống nhân duyên, hay như luận về sự cứu giúp đâu thể nào nói hết. Nên phàm khi đến Đạo tràng phải rất cẩn trọng.

10. Bài Ký về tạo tượng Di-đà ở viện Vô Lượng của Luật Sư Đại Trí Nguyên Chiếu:

Giáo Quán Di-đà chép trong Đại Tạng rất nhiều. Song Phật hóa truyền sang Đông Độ mấy trăm năm nay người thế gian hầu như không ai biết. Pháp sư Tuệ Viễn đời Tấn trụ ở chùa Đông Lâm ở Lô sơn, thần cơ vì thiên hạ chủ trương việc đào ao trồng sen, xây chùa lập thệ, tôn sùng tịnh nghiệp, gọi là Bạch Liên xã. Các bậc danh Tăng cự Nho đương thời không hẹn mà tự đến. Tuệ Trì, Đạo Sinh là người tài của Thích môn, Lưu Di Dân, Lôi Thứ Tông là bậc tài giỏi của làng văn sĩ đều phục giáo mà dự vào Liên xã. Thế nên, đời sau nói Tịnh Xã thì đều lấy Đông Lâm làm trước. Sau đó Thiện Đạo, Hoài Cảm mở rộng ở Trường An, Trí Giác, Từ Vân phát thạnh ở Triết Hữu. Đời sau vì cuồng vọng nên chánh đạo bị mất. Hoặc bị trói cột ở danh tướng, hoặc chìm sâu ở chấp không. Cho nên có người chê niệm Phật là thô hạnh. Bỗng Tịnh nghiệp trở thành con đường nhỏ, tự chấp chặt mà mắt lấp tai ngơ. Nếu nghe cũng không tin, có tin cũng chẳng tu, có tu cũng chẳng siêng. Do đó mà giáo môn Tịnh độ hầu như dứt mất. Than ôi, biết rõ giáo quán ai bằng Trí Giả khi qua đời thì đọc kinh Quán, khen Tịnh độ mà hóa. Thấu suốt pháp giới ai bằng Đỗ Thuận, khuyên bốn chúng niệm Phật, cảm tướng đẹp mà về Tây. Tham Thiền thấy tánh ai bằng Cao Ngọc Trí Giác, đều kết xã niệm Phật mà cùng chứng Thượng phẩm. Nghiệp nho có tài ai bằng Lưu, Lôi, Liễu Tử Hậu, Bạch Lạc Thiên, song đều cầm bút viết lời thành thật mà nguyện sinh về cõi ấy. Xem đó thì biết nếu chẳng phải là hạng cao kiến cứng rắn, hiểu thấu số biến hóa của sinh tử thì ai tin được điều này. Đời gần đây tông sư công tâm không bè đảng, đem pháp này dạy dỗ học trò. Do đó mà ở đây xây điện đúc tượng, kết xã lập hội không phân biệt sang hèn, già trẻ đều chí thành quy về Tịnh độ, hoặc quán tưởng, hoặc trì danh, hoặc lễ tụng, hoặc trai giới. Cho đến có người thấy hoa sáng, thấy tướng tốt, thân sống lưu xá-lợi, người khi qua đời cảm tướng lành thì rất đông không thể đếm biết. Tịnh nghiệp thạnh hành từ xưa không gì hơn, người thời nay chẳng biết được. May sao đến huyện Lâm An là ấp lớn của đất Hàng. Núi Cửu Tiên là cảnh đẹp của ấp. Viện Vô Lượng lại là cảnh tinh xá đẹp nhất. Ở phía Đông nam viện có xây Quán Âm đường. Ở sau đường có lập điện Di-đà. Học trò là Dụng Uyên quyên mộ được ba trăm lượng của một ngàn nữ sĩ để khắc tướng Phật Di-đà cao tám tấc. Ngày Thượng ngươn niên hiệu Nguyên Hựu thứ tám họp chúng chiêm lễ, Uyên chí thành làm kệ phát thệ nguyện rộng lớn đặt trong bụng tượng. Ngày đó cúng dường năm trăm La-hán, cúng trai chư tăng làm lễ lạc thành. Ngày tám tháng bốn sang năm sau thì trang nghiêm đầy đủ, nghi tướng rất đẹp, lộng lẫy rực rỡ. Do đây người một cõi cùng quy hướng, trong trăm đời được truyền bá. Có ai lễ bái, chiêm ngưỡng, xưng danh quán tưởng thì dứt hết nghiệp căn nơi biển khổ mà sinh về hoa sen ao báu. Bởi hễ vạch đất nhóm cát thì đều thành Phật Đạo, do cúi đầu, giở tay thì đều cùng về Nhất thừa. Huống gì hết sức xây dựng, chí thành giữ Niệm thì lợi ích nào có thể lường được. Nghe xong Uyên mời tôi theo ý đạo ghi văn. Tôi bèn vâng mạng viết ngay.

11. Bài Ký về am An Dưỡng ở Linh Sơn của Cấp Sự Trình Câu:

Trong hà sa cõi có một thế giới gọi là nước An Dưỡng có Phật hiệu Vô Lượng Thọ Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế gian giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Cảnh giới nước ấy đều dùng bảy báu trang sức, thành tựu rộng khắp trang nghiêm. Chúng sinh nước ấy do đời trước đầy đủ phước đức trí tuệ nên hóa sinh vào hoa sen mà trụ ở địa vị không lui sụt. Nước ấy tuổi thọ không hạn lượng, một ngày một đêm cõi ấy bằng một kiếp ở cõi này. Nước ấy sáu thời trong một ngày đêm đều có nhạc trời, tiếng nghe tuyệt diệu và có tán rãi hoa đẹp như mưa để cùng đùa vui. Nước ấy hoa cỏ đều là hoa sen to như bánh xe, có hàng cây báu lồng chiếu ánh sáng cùng khắp. Nước ấy các chim đều do Như Lai hóa ra, mọi lúc đều giảng nói vô lượng nghĩa giáo. Vì các thứ ít có như thế nên gọi là An Dưỡng. Ở phía Đông cõi An dưỡng cách mười muôn ức cõi nước có thế giới tên là Ta-bà. Trong vô số già-lam trong nước có một già lam tên là Linh Sơn, lại có tinh xá tên là am An dưỡng. Trong đó có người mặc áo hoại sắc, có chúng khất sĩ cạo bỏ râu tóc, gọi là Tu Ý. Am ấy không có hóa sinh trong hoa sen, chỉ có thai, noãn, thấp, hóa, các loài hữu tình là chúng sinh. Am ấy không có tuổi thọ vô biên, chỉ có tuổi thọ năm mươi bảy mươi cho đến một trăm tuổi, am ấy trong sáu thời không trọn, rải hoa đẹp như mưa và các nhạc trời, chỉ có ngày đêm ăn cơm ăn cháo khua chuông gõ trống. Am ấy chung quanh không có cây báu và hoa sen to, chỉ thấy trong núi có cỏ cây hoa lá xinh tươi. Am ấy không có biến hóa các chim giảng nói nghĩa vô lượng, chỉ nghe tiếng chim và côn trùng tự kêu hót. Vì có các thứ hiện tiền ấy cũng gọi là An Dưỡng. Khất sĩ ấy đến các cõi nước, gần gũi các Thiện tri thức, được pháp tạng rồi thọ dùng tự tại, trở về núi này kết am ở yên. Lúc đó ở Bắc sơn, có một cư sĩ thăm viếng già lam vừa đến am An dưỡng gọi đại chúng bảo rằng: Các thứ hiện tiền như trên vừa nói cùng thế giới An dưỡng ở tất cả mọi nơi không phải là nước An dưỡng. Nếu theo đoạn kiến thì Phật Thích-ca việt nam kia há nói lời luống dối. Nếu lấy pháp tướng thì các ông cô phụ Phật Vô Lượng Thọ. Ôi này các thiện sinh, nên y chỗ mà ngồi trong đại đạo tràng. Nếu không tin xin mời đến thành Tỳ-gia-ly mà đợi Loa kế Phạm vương giảng nói cho các ông. Ngày Giáp tý tháng tám, niên hiệu Ninh thứ năm Bắc Sơn Trình Câu kính ghi.

Kinh Duy-ma cật chép: Muốn được Tịnh độ thì phải tịnh tâm mình, hễ tâm mình tịnh thì cõi Phật tịnh. Ngài Xá-lợi-phất nghĩ rằng: Thế Tôn ta há ý chẳng tịnh mà Phật độ ấy chẳng tịnh ư? Lúc đó Loa

Kế Phạm Vương nói. Tôi thấy cõi nước Phật

Thích-ca thanh tịnh như cung trời Tự Tại. Ngài Xálợi-phất nói: Tôi thấy cõi này uế ác đầy dẫy. Phạm Vương nói: tâm Nhân giả có cao thấp không nương Phật tuệ nên thấy chẳng sạch. Phật liền ấn ngón chân xuống đất thì lúc đó cả cõi Đại thiên châu báo trang nghiêm. Phật nói: Cõi nước ta luôn thanh tịnh như đây, vì độ các căn cơ yếu kém nên hiện bày các điều ác. Ví như các vị trời cùng dùng chén báu ăn cơm, tùy phước đức mỗi vị mà mầu cơm có khác. Nếu người tâm thanh tịnh liền thấy cõi này trang nghiêm. Ngài Thiên Thai trong Duy-ma sớ có giải thích rằng: Phạm Vương thấy nó giống cõi trời Tự Tại là thuộc tầng Trời cõi Dục, là cõi Đồng Cư Tịnh trang nghiêm đẹp lạ, còn Tịnh độ Tây phương cũng là Đồng Cư Tịnh, mà kinh ấy cũng nêu giống như tầng Trời thứ sáu. Phạm vương thấy cõi uế là tịnh. Còn Xá-lợi-phất ở trong sinh tử Niết-bàn có cấu tịnh cách nhau vì không nương Phật tuệ nên chỉ thấy cấu. Chén báu là ví dụ cho Tịch Quang, còn cơm khác mầu là dụ cho ba cõi kia, đối với Tịch Quang mà thấy khác nhau.

12. Bài Ký về Hoàng đế Cao Tông viết tặng Liên xã của Tổng quản Trương Luân:

Thần có đọc sách Thiên trúc biết xuất thế gian có cõi nước Cực lạc. Cõi nước ấy có Đức Phật hiệu A-di-đà là tiếng Phạm, Hán dịch là Vô lượng. Vì tuổi thọ và ánh sáng các Đức Phật ấy vô lượng, nên còn gọi là Vô Lượng Thọ hoặc Vô Lượng Quang. Khi xưa, Phật bỏ ngôi vua, siêu vượt Độc Giác, ngộ tâm chứng Thánh, dùng năng lực đại nguyện mà độ khắp tất cả. Cõi nước ấy dùng các báu vật quý nhất mà trang sức vô cùng đẹp đẽ. Đất đều bằng vàng ròng, không có núi sông, gò hầm, các thứ hiểm trở. Thời tiết luôn là mùa Xuân, không có mặt trăng, mặt trời, nóng lạnh biến đổi. Không có các khổ đói lạnh sinh, già, bệnh, chết, không có sự vẩn đục của năm đường cùng ở chung. Các thứ thần thông phương tiện, hiện ra các việc ít có để dẫn dắt chúng sinh ưa thích tin tưởng. Hằng ngày ai phát một niệm niệm danh hiệu Đức Phật ấy, thì từ một niệm ấy liền thanh tịnh thuần thục viên mãn, hiểu rõ chân như đồng một pháp tánh. Khi huyễn thân này hết nhưng tánh này không mất. Trong một sátna cõi Phật hiện tiền, như cầu vật mà chỉ cho người. Thần kính nghe thuyết ấy mà cố gắng siêng năng không gián đoạn chỉ luôn niệm Phật được hơn một năm. Cả nhà lớn nhỏ đều theo. Bèn cất lều tranh, phía Đông lều thì đào ao trồng sen, là bắt chước di ý kết xã của ngài Tuệ Viễn. Hằng ngày bảo vợ con lễ Phật muôn câu. Tuổi đã già nên chọn ngày lành tháng tốt cùng những người tin đạo ở Tinh xá Phổ Tĩnh thấy nghe cùng đến niệm Phật, tiếng như sóng nhảy bờ. Phàm ngài Tuệ Viễn lập Xã này cách nay đã mấy trăm năm, trong thời gian ấy các đạo tục mến mộ phong cách của ngài, nối chí cao của ngài rất đông, về sau họ dần dần mất đi không ai biết, rã mục cùng cỏ cây. Riêng thần nay may được thái thượng Quang Nghiêu Thọ Thánh hoàng đế rửa bút viết hai chữ Liên xã thật lớn để ban thưởng. Sao Khuê từ trời cao chiếu xuống ánh sáng rực rỡ, muôn người vui mừng việc chưa từng có. Thần kính lạy tạ ân bệ hạ được thêm ba kỷ, thương cõi Nam Bắc, Nhân khắp cỏ cây, Đức thấm côn trùng, như Phật mà độ khắp tất cả. Rực sáng như ánh mặt trời chiếu khắp giống như ánh sáng của Phật, vô lượng công thành, dạy khuyên tự yên. Đức Thánh quân Đại Bảo, giống như Phật siêu nhiên Độc giác ngộ tâm chứng Thánh. Còn như Xuân Đài cõi Thọ, tám dây mà không có thần cổ vũ, dân chúng do đó không biết. Bởi cùng cõi nước Cực lạc không hề gián cách. Do đó nhìn rõ tâm Thánh tâm Phật chỉ một không hai, há Phật Di-đà có tâm khác. Đạo nhãn rỗng suốt vô ngại, biết trong Viêm Tộ chẳng có lỗi thương chúng sinh sao lại hiện thân Đế vương để ứng vận cứu đời. Không phải thế sao khế hợp được với Phật như thế. Thế nên, Phật thọ vô lượng thì Thánh thọ cũng vô lượng, như thế mà biết. Thần rất quý kính vật vua ban, là vật phi thường chẳng truyền riêng cho ai. Rừng mây có dời ngàn muôn thuở một gặp. Giúp cho thiên hạ đời sau hễ có chiêm ngưỡng liền được Tam-muội niệm Phật, rốt ráo thành tựu Vô Thượng Bồ-đề thì lợi ích lớn đâu thể nào lường được. Cung kính khắc đá vàng, khắp bày rộng truyền đến trọn đời.

Ngày lành tháng tốt niên hiệu Càn Đạo thứ hai. Quân châu, Phòng ngự sử Lưỡng Triết, Tây lộ phó đô tổng quản. Tú Châu Chú đáp, thần là Trương Luân kính ghi.

13. Bài Ký về Tháp Di-đà ở Núi Nam Nhạc của Thiền sư Mục Am Pháp Trung.

Các khổ của sinh linh không gì khổ hơn giết hại. Từ vài năm trở lại đây trộm cướp bốn bề nổi lên, binh lửa giao tranh, chết chóc phi lý, đầu rơi máu đổ nhiều vô kể ở khắp nơi. Lại thêm dịch bệnh hành hạ khiến dân càng khổ. Có Tín sĩ Trịnh Tử Long đã đeo mang hạt giống lành, lòng Từ bi đặc biệt phát sinh thấy cảnh khổ ly loạn mà biết oán nghiệp này, chỉ lấy oán báo oán mà thôi. Muốn dứt bỏ nó thì phải có năng lực Phật cứu giúp. Bèn tinh thành vận động người đồng tu hơn muôn vị cùng niệm danh hiệu Phật A-di-đà ở thế giới Cực lạc Tây phương được tám muôn bốn ngàn tạng đã tròn đủ. Lại khuyên đàn việt xuất tiền của nhờ thợ giỏi chẻ đá, xây tháp bảy tầng cao ba trượng hai ở phía Nam động La hán, bên phải đài Diệu Cao, chứa tên người niệm Phật trong tháp, đem lợi ích cao quý này cầu quốc thái dân an, phẩm vật cúng dường. Phàm kẻ chết trận và dịch bệnh đều thoát khỏi đường khổ tối tăm cùng sinh về cõi Tịnh. Lớn lao thay! Đạo của đấng Giác Hoàng, có hai môn: Chiết môn và Nhiếp môn, tùy cơ cứu vật. Cho nên Đức Thích-ca hiện cõi uế, dùng Chiết môn khiến cho khởi niệm Chán khổ. Đức Di-đà hiện Tịnh độ dùng Nhiếp môn khiến khởi chí "ưa vui". Cõi uế thì gò nổng, hầm hố cao thấp, đao binh đói bệnh khổ não. Cõi tịnh thì ao báu đất vàng trang nghiêm, pháp hỷ, thiền duyệt an vui. Nên ngài Thiên Thai nói: Lạc bang và cõi khổ, vàng báu với sình bùn, Thai ngục so với ao hoa như rừng gai sánh với cây ngọc. Thật do tâm chia ra cấu tịnh mà thấy có hai cõi xuống lên, mà thấy có hai phương thiện ác thô diệu. Nhân đây mà luận thì biết tịnh uế ở đây mà không ở kia. Thể nhập chánh quán mà thấy thì các khổ: Đao binh, dịch bệnh v.v... kia là mỗi mỗi nghịch hóa. Song ở cõi khổ này mà kẻ phàm tình mê mộng còn cho khổ là vui, lắm điên đảo, thật rất đáng thương. Có người nói: Ưa tịnh chán uế, lấy bỏ chưa quên, há bậc Thánh dùng Đạo thấy có hai mà dạy người ư? Đáp rằng: Kinh chẳng nói. tuy biết cõi nước của các Đức Phật và chúng sinh đều rỗng không mà luôn tu Tịnh độ để giáo hóa chúng sinh hay sao? Bởi rõ ràng ưa chán mà không thấy có tư tưởng ưa chán. Đây là chỗ được vậy. Tháp xây xong vào năm Quý Sửu, ngày Trọng Hạ thuộc niên hiệu Thiệu Hưng. Bí-sô Mục Am Pháp Trung ghi việc.

Bèn cúi đầu khen rằng:

Kiếp thạch tiêu hết
Chỉ có Tháp này
Không xiêu không đổ.
Cùng núi Nhạc này
Trời đất dài lâu
Chẳng mòn chẳng hoại
Kẻ chết binh, dịch
Đều thoát vòng khổ
Siêu thăng Tịnh độ
Chỉ người Xã này
Các loài sinh linh
Cùng với Vựng chinh
Lành thay Phật tử
Làm việc tốt này
Khen làm sao cùng.

14. Bài Ký về đạo tràng Tịnh độ ở Trừng Giang của Thiền sư Pháp chân Thủ Nhất.

Ngài Thiên Thai Phụng Sư học giáo truyền với ngài Trí Giả, truyền ở Trừng Giang, người đã thuận hóa, bèn nghĩ các độ môn ở đời này môn khéo léo, ngắn gọn, cốt yếu nhất thì chỉ có pháp môn Tịnh độ là được mà thôi. Do đó giúp họ ưa thích bố thí, tạo lập tôn tượng, xây dựng đạo tràng, dạy người tu hành Tam-muội niệm Phật, cùng chúng cầu nguyện cúng tế. Giao cho tôi viết lời Ký. Tôi nói thuyết Tịnh độ trong kinh luận đều còn, các Sư luận nói cũng đã rất rõ. Các chứng nghiệm hiện ra không hề dối gạt ta. Vậy mà đời còn nhiều người nghi ngờ. Ấy là vì vô minh che lấp, lý sự không hiểu. Xét trong kinh Pháp Hoa có nói: "Dầu người tâm tán loạn mà vào tháp miếu, xưng niệm một câu Nam-mô Phật thì đều đã thành Phật đạo", huống là nhất tâm bất loạn mà cầu sinh, sao riêng mình chẳng như thế. Vả lại thấy điều lành không rõ, dụng tâm bất nhất, thì ở thế gian có muôn pháp, nào có đến được mà chẳng nghi, nào có tu hành mà đến được. Lời Phật nói rất thiết yếu chỉ nên tin chắc mà thôi không nên nghi ngờ có hay không. Song Tịnh độ bảo quả là có ư? Không phải bảo là không ư? Cũng không phải. Bảo là chẳng phải có chẳng phải không ư? Cũng không phải. Thế thì Tịnh độ quả vẫn tồn tại, lìa các thấy trên thì gọi là Tịnh độ, liền thấy Như Lai. Nếu ai nghe lời ấy mà không kinh ngạc sợ hãi thì phải biết người ấy chắc chắn được vãng sinh, không sinh mà sinh vì lấy không trang nghiêm mà trang nghiêm. Tín tâm thanh tịnh một niệm hoa nở. Toàn thể hiện tiền, các tướng đầy đủ. Tâm ấy là Phật tức Bổ xứ nào nghi. Đã vượt khỏi sinh diệt được sống lâu vô lượng. Nếu đối việc này chưa thể tin hiểu thì các phương tiện khác trong chín phẩm có đủ, ngang sức mà tu thì cũng không uổng phí.

15. Bài Ký về tranh vẽ trên vách của Liên xã ở viện Bảo Tích của Ty Phong Chung Ly Tòng.

Đầu niên hiệu Tuyên Hòa, Thiền sư Từ Thọ ở chùa Tuệ Lâm luôn hết lời dạy người rằng: đường tắt tu hành không gì hơn Tịnh độ. Lúc đó, có Ngụy cư sĩ xoay vần hóa đạo quên lo, Giang Dân Bi Củ làm chức Tả ty công muốn làm thơ Tam-muội niệm Phật rộng khuyên dạy đời. Khi tôi chưa đầy hai mươi đã thọ nghiệp ở trường trên, sớm tham dự vào Liên xã. Lại do Tăng huynh là thủ tòa Mộc Nột khẩn thiết khuyên răn sách tấn, biết có tự tánh là Di-đà, chính tâm này là An dưỡng, đến năm nay đã bảy mươi, tuy chiến tranh phiêu linh mà sớm chiều chẳng lười nhác, vì chỗ đắc lực không ít, huống chi tôi lại từng có các kinh nghiệm khác, châu báu tràn đầy, nhưng Thượng thư Vương Mẫn Trung (cổ), đại phu Cát Trung Thẩm (Phồn), đề hình Mã Trung Ngọc (can) đều là những người thân cận tốt đẹp, sự tích sáng rỡ mọi người đều nghe, thì có lẽ nhà tôi còn có Tịnh duyên này. Mùa hè năm Canh Dần niên hiệu Càn Đạo, tôi thọ ơn phụng thờ, ngụ tại Tô Đài, không hẹn mà gặp giảng sư thật ở Bảo Tích, mãi nghĩ đến ngọn gió mát Liên xã, đuổi theo dấu chân cao của cả Đông Lâm, gặp các bậc danh đức Lý Hầu… ở Đông Bình, mọi người đều quyết tâm tu tập, trải qua nhiều năm chẳng nghịch với lòng, cùng lập xã, đồng thanh niệm Phật, cùng lập thệ nguyện, trải qua nhiều năm viết thành một tập, đủ biết đời này không trái với tự tánh vốn có, báo thân đã tận quyết có chỗ về chân chính, vậy chẳng tốt đẹp ư! Một hôm bạn trong xã họ Ngô than rằng: Muốn phát tâm Bồ-đề thì phải đủ hai hạnh bi, trí. Muốn cầu sinh đất Thánh thì cần phải khai dẫn quần mê. Phải viết về mười cõi chín phẩm để muôn người chiêm ngưỡng, kính trọng và biết tỉnh giác để làm lợi ích rộng lớn vô cùng. Nói chưa hết câu, mọi người đều cùng khen hay, do đó mọi người trong xã đều quyên tiền để làm, người nghe thấy đều tùy hỷ trợ giúp, tuyển thợ làm, huyễn tạo hai bức tranh nơi hai dãy nhà hai bên, lại nhặt nhạnh giáo tạng, phát minh chỉ thú, một là để chỉ bày muôn pháp duy tâm, một là để chỉ đường tắt Tây phương, so với các công đức khác thì trong trăm ngàn muôn ức phần không bằng một phần. Oi! Tấc bóng như điện chớp, nhân quả như bóng theo hình, chớ ỷ khỏe mạnh mà luống qua ngày, chớ buông lung mà tạo tội. Nhìn pháp môn giản dị này mà có thể tức thời soi xét lại lòng mình thì không lìa nơi đây mà vượt khỏi vòng khổ, cảnh giới chư Phật đều hiện ra trước. Họ Ngô tên là Khắc Kỷ, tự là Phục Chi, một kẻ sĩ tốt của Đông dương. Thuở nhỏ thông minh kiệt xuất, thông suốt cổ kim, đặc biệt hiểu biết sâu xa kinh Dịch, nội điển tường tận, từng luận bàn về nhân duyên lớn ra đời của Đức Phật, đã hưng khởi việc đó lại xem xét kỹ càng. Việc vẽ hình đã xong, qua lại sửa đổi xem xét, lại ghi tên các bạn lữ đàn-việt để không quên mất. Tôi nhân viết lời Tựa tóm tắt rằng: Ngày mồng 1 tháng 9 năm Quý Tỵ thứ 4, tả mười đại phu chủ quản Thai châu trước đây là Chung Ly (Tòng) vốn tôn sùng đạo quán viết Tiên quân ti phong trong khoảnh khắc thờ phụng người họ Ngô, niệm Liên xã có thể quy tâm nên đã tập họp làm lại. Hội có mấy trăm người, có nhiều phong cách của Lô ấp, vẽ hai bức tranh trên vách và chép lại việc này, lập ra Tinh xá Bảo Tích bằng đá, trải qua mười một năm, tiên quân không bệnh mà mất, hưởng thọ tám mươi sáu tuổi, cách nay đã mười lăm năm rồi. Hiểu kỹ các bài văn về Lạc bang rồi thì tạo Tông môn để học theo. Tôi mừng cho chí hướng của ông, vì muốn bản văn nam này không bị hư mất bèn đem ra mà truyền bá. Chung Ly kính can ghi.

Ký về việc vãng sinh của phu nhân Kinh vương nước Việt-Trực Các Hoàng Sách.

Tôi thấy chúng sinh đều vọng tưởng điên đảo, đam mê năm dục không cầu ra khỏi, chưa có ai có thể phát tâm quyết định nguyện sinh về thế giới Cực lạc Tây phương. Đến khi gặp sự oán ghét phải gặp nhau, ái ân chia lìa, tướng già, bệnh, chết bức bách một cách nguy hiểm, đảo điên ngập chìm trong các độc đau đớn không thể chịu đựng nổi, rồi sau khóc lóc thở than, quy y Phật bảo để hy vọng thoát chết. Do đó phàm là tâm niệm miệng nói thì quy mạng Từ tôn, nguyện tiếp dẫn sinh về Tịnh quốc. Chỉ có phu nhân họ Vương nước Việt thì không thế. Phu nhân là vợ của Kinh Vương lẽ ra phải đắm mê năm dục không cầu ra khỏi, trái lại dốc lòng hẹn quy y Phật Vô Lượng Thọ, nguyện cùng chồng được sinh Tây phương. Những kẻ thấy các khổ hiện tiền không thể chịu nổi mới cầu xuất ly, đâu thể cùng ngày mà nói. Người đời cho rằng phu nhân đời trước gieo trồng phước đức được Phật thọ ký, trở lại nhân gian mà thay Phật giảng đạo, thuyết giáo dẫn dắt kẻ giàu sang cùng tu Tịnh quán, đồng về cõi Phật, lý ấy có thể đúng như thế. Phu nhân thờ Tây phương tinh thành nghiêm khiết, ngày đêm không bỏ mọi người trong nhà đều một lòng, chỉ có một nàng hầu luôn rong ruổi, chỉ lười biếng không siêng, phu nhân khuyên rằng cả nhà ta đều siêng chỉ có người biếng nhác không theo. Người cho là huyễn hoặc ở trong hội e làm mất đạo tâm, người không phải là người hầu của ta nữa. Người thiếp nghe quở, sợ hãi hối lỗi, và tinh tấn tư duy tịnh niệm nối nhau. Lâu sau người thiếp nói với bạn bảo: "Ta sắp đi." Một tối mùi hương lạ đầy nhà không bệnh mà mất. Sáng hôm sau, người bạn thưa cùng phu nhân rằng hôm qua mình mộng thấy người thiếp đã hóa sinh về cõi tịnh, nhờ phu nhân quở trách mà người ấy siêng tu Tây phương nay được vãng sinh, cảm đức vô lượng. Phu nhân bảo báo mộng cho ta thấy ta mới tin. Đêm ấy phu nhân nằm mộng thấy người thiếp đến tạ ân như trước. Phu nhân hỏi "Tây phương có đến được chăng? Người thiếp bảo xin hãy theo tôi. Phu nhân đi theo thì thấy ao bên đường có hoa sen trắng lớn nhỏ xen nhau, hoặc héo hoặc tươi, các thứ khác nhau. Phu nhân hỏi vì sao như thế? Người thiếp nói đây đều là cảnh của người thế gian tu niệm Tây phương. Vừa phát một niệm thiện căn thì liền mọc ra một hoa, do siêng năng, lười biếng không đồng nên héo tươi khác nhau. Bởi siêng năng thì tươi, biếng lười gián đoạn thì khô héo. Nếu cố gắng niệm mãi, định quán hoàn thành thì khi qua đời đều hóa sinh vào hoa sen ấy. Trong đó có một đóa hoa, cánh hoa bỗng rụng, lại có một người mặc triều phục ngồi, áo phất phơ theo gió, đội mũ quan đeo chuỗi anh lạc để trang nghiêm thân. Phu nhân hỏi đây là ai? Người thiếp nói đấy là Dương Kiệt. Lại có một hoa nở có người mặc triều phục ngồi, nhưng hoa ấy héo chỉ còn lá. Phu nhân lại hỏi, người thiếp đáp: đây là Mã Can. Phu nhân hỏi còn ta sinh ở đâu. Người thiếp dắt phu nhân đi khoảng mấy dặm, Thiếp chỉ phu nhân nhìn xa thì thấy một cái đàn, vàng ngọc sáng chói rực rỡ. Thiếp nói phu nhân hóa sinh ở đấy, đàn vàng là Thượng phẩm thượng sinh. Khi thức dậy, phu nhân buồn vui vời vời. Bèn hỏi thăm thì Dương Kiệt đã mất Mã Can vẫn còn. Nhân ngày mừng thọ, phu nhân cầm lò hương đứng bên Quan Âm. Các lúc đó con cháu đông vầy vây quanh, chúc Thọ xong thì đứng mà hóa. Than ôi kỳ lạ thay! Kẻ giàu sang đối với Phật sự có rảnh rang mà không rảnh, đối việc không đáng tin mà lại tin. Lại sợ không thể dứt nghi ngờ. Còn như kẻ khốn khổ phát tâm phần nhiều đều có lỗi chậm trễ. Cho nên biết nghe chánh tín, phát chánh niệm, tu duyên lành há là việc dễ ư? Dương Kiệt Thứ công thấu suốt tông thuyết mà người không biết, ông ngầm tu Tịnh Quán, khi qua đời có bài kệ đâm lao theo lao. Tôi nghe câu chuyện của phu nhân nay xin nhắc lại để giúp người tin nhận vãng sinh, kẻ chưa tin sẽ chiêu cảm, phát ra văn này mà cùng quy hướng về Tịnh quán cõi Phật.

Tiết quý Đông (tháng 12) Niên hiệu Truyền Hòa thứ năm-Tùy Duyên Cư Sĩ Huỳnh Sách Tử Hư soạn lời Ký. (Kinh Vương (chồng của phu nhân) tức là chú của Hoàng đế Triết Tông).

16. Bài Ký về Mã Thị lang vãng sinh của Ty Phong Chung Ly Tòng:

Mùa Đông niên hiệu Tuyên Hòa thứ năm tôi biết được việc Việt Quốc phu nhân vãng sinh Tịnh độ bèn soạn lời ký này. Niên hiệu thứ sáu, Ngô Tư

Đạo hỏi Mã Can ở phía Nam sông Hoài đã khảo thật biết nhiều lời Ký trước. Bởi họ Mã, từ khi Thiếu Sư Trung Túc Công trấn thủ Hàng Châu, một hôm, ngài Từ Vân Tuân Thức Sám chủ trao cho Phật sự ở An dưỡng. Từ đó cả họ đều phụng hành tiếp nối không trái. Đại Phu Công húy là Can, tự Đông Ngọc, là cháu ông. Ông từ nhỏ đã dốc chí tu Phật. Vào niên hiệu Nguyên Phong, có vị tăng tên Quảng Sơ đem luận Thập Nghi của Thiên Thai Trí Giả trao cho. Ông rất vui mừng bảo tôi đã có chỗ nương cậy, lại được Pháp Thập Niệm Hồi Hướng của ngài Từ Vân mà làm theo, suốt hai mươi lăm năm không chút mỏi mệt. Thượng Thư Công Vương Cổ chỉ ông Liên xã Đồ, Quyết nghi tập, Vãng sinh truyện. Do đó ông tụng niệm càng tinh tiến, lại phóng sinh làm Phật sự, khuyên dẫn mọi người tin tưởng rất đông. Khi ông làm Phó Đương Đồ ở Truy châu thì dân chúng ở Tân Định đều được ông dạy dỗ. Bình thường ông không hề tức giận mà đánh đập một người nào. Luật sư Chiếu ở Tiền Đường khuyên ông giữ niệm, làm quan thì vẫn xem Giáo tạng, tụng kinh chú, đều có phép tắc. Niên hiệu Sùng Ninh năm đầu ông bị bệnh, trải suốt mùa hạ ông rửa tay chải đầu niệm Phật, rồi thay áo chít khăn ngồi thẳng mà hóa. Có hơi nước hình dạng như cái lọng xanh ở trước ngõ rồi bay lên không. Người nhà lớn nhỏ, sang hèn đều mộng thấy ông vãng sinh Thượng phẩm, mười mấy ngày sau đều đúng y, lúc đó, ánh sáng hiện ở chiếu ngồi. Vào tháng tám có người hầu gái bệnh cũng niệm Phật mà mất, ông Giáo thọ húy là Vĩnh Dật, tự là Cương Dữu, là con của ông hành trì theo Thiên Trúc Thập Niệm, tu tập mười sáu pháp Quán hơn ba mươi năm. Tụng Quán Âm thường thấy tướng ngài. Tháng tư năm nay bị bệnh, sai người lo việc chôn cất, bèn thấy Phật Di-đà Quán Âm Thế Chí hiện ra tiếp dẫn, bèn kết ấn mà mất. Đầu nóng, có mùi hương lạ, có xá lợi như ngọc châu. Người em mộng thấy ông nói mình đã sinh Tịnh độ, mười ngày hoa sẽ nở. Trên áo quan ông có hoa sắc vàng năm mầu. Từ đó các điềm lành càng nhiều. Phu nhân họ Vương cũng hành trì pháp mười niệm và tụng kệ phá địa ngục, niệm Phật A-di-đà, có lần mộng thấy chủ địa ngục cảm ơn đã vì chúng ở địa ngục đọc kệ. Sau bà bị bệnh, tu trì không ngớt, niệm Phật mà hóa. Tất cả thân thích, kẻ hầu cũng mộng thấy Vương thị sinh về Cực lạc. Phu nhân cùng chị dâu là Phương Thị có tên trong Báo Ứng Vãng sinh truyện. Tôi nhân việc Việt Quốc phu nhân mà biết Mã Công sinh Tịnh độ. Do Mã Công mà biết vợ con ông cũng sinh Cực lạc. Cho nên lại kể cho mọi người tin tưởng, cũng là kết nhân vị lai. Tùy Duyên Cư Sĩ Huỳnh Sách Tử Hư kính ghi.

17. Bài ký về Quảng Bình phu nhân vãng sinh của Đãi Chế Vương Dĩ Ninh:

Tôi có nghe đạo với Thiền sư Chánh Giác. Sư mời tôi đọc Luận Khởi Tín. Lúc đó khắp nơi lộn xộn, trong khi bôn tẩu trận mạc chưa rãnh để tỉnh xét. Đến khi bị đày làm quan ở Thiên Thai mới được Bộ luận Khởi Tín của vị tăng gần bên dịch ra, xem qua ba lượt bỗng có nghi. Ngờ rằng đây là sách dạy người Đại thừa thực hành pháp phá Đản Không, một pháp chẳng lưu giữ mà ở chương cuối lại giữ niệm Di-đà cầu sinh Tịnh độ vậy ý chỉ ấy là sao? Khi về già tôi qua Tuyết Phong hỏi Thiền sư Thanh Liễu. Sư nói: Về mặt Thật tế chẳng chấp một mảy may, nhưng trong cửa muôn hạnh chẳng bỏ một pháp. Ông muốn phá tướng thế gian mà bỏ Có đắm Không, sau mới chứng Bồ-đề ư? Tôi nói: "Thà là có". Liễu nói: "Như thế thì tu Tịnh độ đối với đạo nào có hại gì"? Tôi mới được yên tâm. Từ đó, làm phước tu hành. Nghe các tri thức gần xa nói việc của Phùng phu nhân rất phù hợp với lời của Thiền sư Liễu, có thể tin là không luống dối.

Phu nhân tên Pháp Tín, là con gái của Chánh Hòa môn Ty Tặng Thiếu Sư húy Tuân. Được mười sáu tuổi thì gã cho Trấn Đào Quân Thừa Tuyên Sứ, nay là vợ của Cư sĩ Diệu Minh Trần Tư Cung. Phu nhân vốn thể chất gầy ốm bệnh hoạn. Khi về với họ Trần thì bệnh càng trở nặng, gọi thầy hốt thuốc, nhưng có ý đợi vô sinh. Thầy thuốc từ tạ rằng thuốc tôi không thể trị bệnh phu nhân được. Lúc đó, Thiền sư Từ Thọ Thâm là Pháp thí chủ ở vương thành. Phu nhân đến thất ngài cầu hết bệnh. Ngài Từ Thọ thương xót dạy cho trì trai niệm Phật nguyện cầu. Phu nhân liền tin tưởng không nghi ngờ. Trai giới chưa được một tháng bỗng bảo người thân rằng: Sáng ăn chay, chiều ăn mặn sẽ tạp loạn ý người. Từ đó bỏ ăn mặn, bỏ cả phấn sáp. Mặc áo quét tháp, chuyên lấy Tịnh quán Tây phương làm Phật sự. Đi cũng Tây phương, ngồi cũng Tây phương, nghỉ ngơi ăn uống cũng Tây phương, nói im động tịnh cũng Tây phương, rót nước dâng hoa cũng Tây phương, xem kinh hành đạo cũng Tây phương. Một niệm sát-na, làm được mảy may điều lành cũng đều hồi hướng Tây phương. Từ năm Nhâm Dần đến Nhâm Tý suốt mười năm quên cả bệnh tật, quên cả buồn lo mà tâm an thân mạnh, thần khí hớn hở, người trong vương thành đều kính trọng. Một hôm, bỗng lấy bút đề mấy chữ rất lạ như nhàm chán cuộc đời, muốn lên tiên, rằng (thơ, dịch đại ý):

"Tùy duyên học nghiệp trải nhiều năm
Uổng làm trâu già mà cày ruộng.
Thu xếp thân tâm sớm giải thoát
Để lỗ mũi khỏi bị người lôi."

Mọi người đều quái lạ. Phu nhân nói: Trong cõi Thanh tịnh vì mất chánh niệm mà đến đây, cõi Chi-na duyên hết hạnh dứt thì về Tây hợp với nguyện của tôi nào có lạ gì. Tháng chín năm Nhâm Tý, phu nhân bị bệnh, lâu sau mới dứt hơi. Một chiều tháng mười hai năm Nhâm Dần thì tỉnh dậy bảo người hầu rằng: Thần thức ta đã về Tịnh độ, lạy Đức Từ Tôn, Quán Âm bên trái, Thế Chí bên phải, có cả trăm ngàn muôn ức Phật tử thanh tịnh cúi đầu mừng tôi vãng sinh về nước ấy. Tất cả cung điện, ao rừng, ánh sáng, thần thông Phật nói pháp v.v... y như trong kinh Thập Lục Quán đã mô tả không khác, chỉ chứng mới biết. Người hầu gấp báo, Diệu Minh bèn cùng chắp tay khuyến khích giữ niệm chớ quên. Sáng hôm sau, là ngày Giáp Thìn, phu nhân bèn ngồi yên và nằm theo thế cát tường mà mất. Ba ngày sau khi liệm, người nhà luôn nghe có mùi hương lạ thơm nức. Khi trà-tỳ thì thân thể như còn sống, tươi tắn không biến đổi. Phu nhân thọ được ba mươi sáu tuổi, được phong làm Quảng Bình quận phu nhân. Diệu Minh nói với tôi rằng Tư Cung lúc đầu chưa biết đạo, phu nhân đã thật sự khuyến phát. Lại nhờ bị bệnh lâu gần một kỷ (mười hai năm) nên gần gũi người thân dạy dỗ con cháu mỗi mỗi đều có ẩn ý. Đến ngày chết người khóc thất thinh và đốt liều trên đầu, đốt cánh tay... để cầu phước âm phủ, nếu phu nhân không được lòng người thì đâu được như thế. Tư cung rất nghèo, ông từng đẩy xe măng một mình đi xa hai ngàn dặm để xin lúa của anh mình là Chiêu Tuyên Quân Đức Dụ. Lúc đó ở đất Mân trộm cướp tung hoành, phu nhân sai mọi người qua lại ứng biến phương kế như kẻ nam nhi mạnh khỏe ở đời. Phu nhân ý chí cứng rắn khó thể lay chuyển, liệu toan về đạo rất mạnh mẽ quyết được thành tựu cũng thế, đó là việc tốt. Tôi đã già lại bệnh, đối với cõi nước Vô Lượng Thọ mà hỏi đường. Nghe việc của phu nhân rất vui mà viết ký này, không uổng tin lời của hai Thiền sư Giác, Liễu. Cũng xem là lời khuyên huân tu ở tương lai. Niên hiệu Thiệu Hưng thứ ba, ngày hai mươi mốt tháng hai, A-di-đà, đệ tử Phật ở am Chánh Tín là Vương Dĩ Ninh Đãi Chế kính ghi.

18. Bài Ký về tháp Xá-lợi của Anh Vũ ở Hà Đông của Duẫn Vi Cao ở thành đô:

Nguyên Tinh trao năm khí cho muôn loài cá tôm, chim thú ắt có cảm. Kẻ Thanh anh thuần túy hoặc sáng chói nhờ lửa, hoặc vốn nhờ Thương Tinh đều ứng hợp với nhân văn để tùy thời sửa trị mà có thay đổi. Loài cầm thú kia tập quen thì biết nói, hiểu rõ tướng không ở một niệm mà để lại chân cốt khi đã chết, sợ không phải Nguyên Thánh thị hiện, cảm tâm người đồng là duyên khác phải dùng nhất chân mà hóa độ.

Năm trước có người đem cho con chim anh vũ bảo rằng: chim này dáng vẻ đẹp, biết nói. Tại Hoa Hạ, Hà Đông có Bùi Thị ưa thích Đạo Kim Tiên (Phật) nghe Tây phương có các loài chim quý giảng nói tiếng pháp. Tên loài chim này có ghi trong kinh Phạm, khôn hơn các loài chim khác. Do Phật hóa ra thường gần gũi mà đáng kính. Lúc đầu đem khuyên cấm Lục Trai, kế nói không ăn phi thời, không nhìn kẻ chọc ghẹo, dạy chửi rủa. Có vị Tăng trang nghiêm dạy kết niệm danh hiệu Phật, bảo rằng từ có niệm cho đến không niệm thì nghễng đầu đập cánh như lắng nghe. Sau có người bảo niệm thì làm thinh không đáp. Có kẻ bảo không biết niệm Phật thì liền nói A-di-đà thử mãi vẫn thế không đổi khác. Tôi hỏi: lấy "có" niệm làm duyên sinh hay lấy "không" niệm làm chân tế duyên sinh thì không đáp, có lẽ do duyên khởi. Chân tế tuy nói năng mà nói năng vốn không. Khi nhà vắng hoặc sáng sớm thì thường phát tiếng hót dịu dàng như tiếng sáo hòa cùng tiếng trống trời cao thấp, niệm niệm nối nhau. Người nghe đều vui vẻ làm lành. Tháng bảy năm nay chim yếu mệt không vui, người nuôi biết là chim sắp chết bèn đánh khánh bảo rằng người sắp về Tây phương chăng? Ta vì ngươi đánh khánh, mỗi tiếng khánh niệm một câu A-di-đà Phật, mười tiếng khánh thì mười câu. Chim xếp cánh co chân, không run không ngã, rồi sau đó im lặng mà chết. Xét trong kinh, mười niệm thành thì vãng sinh Tây phương. Lại nói được Phật tuệ thì khi chết sẽ có xá-lợi. Biết thuyết ấy chẳng phân biệt là khác loại bèn đem hỏa thiêu, sau đó nhặt được mười hạt xá-lợi óng ánh như ngọc. Kẻ thấy người nghe đều kinh dị, đều bảo gương này dạy người mê lợi ích cho đời, chẳng phải là Bồ-tát hóa thân ư? Lúc đó, có vị Cao Tăng là tuệ Quán đến núi Ngũ đài lễ Thánh tích. Nghe nói chim này bèn khóc lóc thỉnh xá-lợi về Linh sơn, dùng bình sành xây tháp mà thờ để nêu việc lạ. Tôi nói chim này sống thì làm đạo, chết thì có linh nghiệm. Do đó, mà xưa chung cho cả Thánh Hiền, đều làm việc chí hóa, như Nữ Oa thân rắn nối dòng vua, Trung Diễn thân chim nối họ Hầu, đâu có sách vở nào nói là quái lạ. Huống chim này có hoằng đạo và chứng quả rõ ràng, há im lặng hổ thẹn mà chẳng viết kể ra ư?

Ngày mười bốn tháng tám niên hiệu Trinh Nguyên thứ 19, kính ghi.

Bài ký trên đây xuất xứ từ Đường Văn Túy. Tôi xem các sách lại thấy ở trong Dị Loại, Tiến Tu Tây phương Hoạch Cảm Nghiệm. Gồm có ba chuyện như văn Long Thơ nói:

Ở Đàm châu có người nuôi một con két, gọi là Bát Bát Nhi, thấy chư Tăng niệm Phật A-di-đà bèn bắt chước niệm theo không dứt, người ta bèn đem cho vị Tăng. Sau chim chết bèn làm quan mà chôn, thì trong miệng chim mọc ra một cành hoa sen. Có bài tụng rằng:

Có một con chim tên Bát nhi
Bắt chước theo Tăng niệm A-di,
Chết chôn dưới đất hoa sen mọc
Chúng ta loài người chẳng biết ư?

Giới Sát Tụng có nói: hai người đánh cá là Lưu Thành và Lý Huy, mùa Xuân niên hiệu Thiên Bảo chở cá đến Đơn Dương ghé thuyền vào bến, Lý đi công việc, Lưu một mình ở lại thì thấy trong thuyền có con cá lớn vẩy râu nghếch đầu niệm Adi-đà Phật. Lưu kinh hãi chạy lên bờ thì nghe có ngàn vạn cá khác đều quẩy đuôi niệm Phật tiếng vang trời đất. Lưu sợ quá đùa hết cá xuống sông. Lý trở về không tin. Lưu đem của riêng ra đền. Hôm sau, Lưu thấy trong đám lau sậy có số tiền một muôn năm ngàn đồng, đề là "Trả ông tiền cá".

Tự Tín Lục nói: Chùa Chánh Đẳng ở Huỳnh

Nham có Quán Sư nuôi một con Cù dục (con Yểng) biết nói. Vừa nghe niệm Phật liền bắt chước theo, sau chỉ nghe niệm A-di-đà Phật. Một hôm nó đứng mà chết. Người ta bèn đào đất chôn. Không bao lâu ở lưỡi nó mọc lên cành hoa sen tía. Sư Linh Chi có làm bài tán có câu rằng: "Đứng chết trong lồng quên mọi việc, hóa hoa sen tía thật lạ thay." Lớn lao thay! Ôi loài vật còn lạ lùng như thế. Tôi nghe kinh Đại Di-đà nói: Phật A-di-đà hiện ở các thế giới mười phương giáo hóa vô số trời người, dưới đến loài bò bay máy cựa đều được độ. Thế mới biết Phật hóa độ không phân biệt phẩm loại. Hễ ai có tâm lành thì đều được độ. Còn con người là linh vật của muôn loài làm sao kẻ nghe thấy mà chẳng cảnh tỉnh. Bởi kẻ kính mến cũng nhiều. Nay loài cầm thú bắt chước mà còn hiệu nghiệm há loài người mà không bằng ư?

-VỀ LOẠI TRUYỆN:

Sự tích các bậc Tiên hiền vãng sinh Tịnh độ được soạn truyện gồm có mấy nhà. Số người được ghi chép cũng khoảng năm trăm vị. Thường thường xưa nay là người xuất gia hoặc tại gia, thấp nhất là kẻ tôi tớ, nếu ai biết bổn nguyên nhiếp sinh của Phật ta mà ngầm tu thì khi qua đời kẻ được chiêu cảm rất đông không biết bao nhiêu mà kể. Hơn nữa, làm sao có thể ghi chép hết được kẻ vào môn ta ư? Nay chỉ nêu khoảng mười truyện về số người đã được nói đến hoặc chưa được nói đến. Bởi muốn người sau biết ngọn ngành phép tắc không phải là phát khởi tín tâm mà thôi.

1. Truyện về Bồ-tát Ngũ Thông ở Thiên Trúc thỉnh Phật:

Trong Lịch Đại Tam bảo Cảnh Thông Lục của luật sư Nam Sơn Đời Đường có nói: Xưa, chùa Kê đầu ma ở Thiên Trúc có Bồ-tát Ngũ Thông đến thế giới An lạc thỉnh Phật A-di-đà rằng: Chúng sinh cõi Ta-bà nguyện sinh Tịnh độ, nhưng không có hình tượng Phật xin Phật thùy từ giáng hứa. Phật bảo: Ông nên về trước ta và các Bồ-tát sẽ hiện ra. Khi hiện ra thì có một Phật và năm mươi Bồ-tát đều ngồi tòa sen dưới cội cây. Bồ-tát Ngũ Thông bèn lấy lá cây vẽ ra mà truyền bá khắp nơi. Từ khi Hán Minh Đế mộng thấy Người vàng liền sai người cầu pháp thì được Ca-Diếp, Ma-đằng... đến Lạc Dương. Sau con của chị Ma-đằng làm Sa-môn, đem pho tượng này truyền bá đến cõi này, không bao lâu thì mang tượng về Tây trúc, cõi này tượng vẽ không truyền khắp Nam, Bắc cho nên nhiều kinh tượng bị mất sợ không còn thấy được nữa. Khi Tùy Văn Đế khai giáo thì có Sa-môn Minh Hiến từ Pháp sư Đạo Trưởng đời Cao Tề được một bản, nói về nhân ý phù hợp với ở trên do đó mà lại truyền bá ở đời. Lúc đó, gặp người thợ vẽ đời Bắc Tề là Tào Trọng Đạt vẽ rất khéo, nhiều tượng Phật truyền khắp kinh ấp hay các chùa am ở Chánh dương còn lưu lại di bút của ông. Trong Pháp Uyển Châu Lâm cũng ghi như thế. Lại Đường Tục Cao Tăng truyện có ghi rằng: Tại chùa An lạc ở Giang độ có vị tăng Tuệ Hải chỉ chuyên tu nghiệp Tịnh độ. Bỗng cảm được Tăng Đạo Thuyên ở Tề châu mang tượng Phật Vô Lượng Thọ để tặng lại. Đây cũng là tượng do Bồ-tát ngũ thông ở Thiên Trúc bay lên không trung thỉnh tôn dung Phật đã ngầm giúp. Ông ở trước tượng luôn ân cần lễ sám, tượng ấy bỗng phát ra ánh sáng rực rỡ, nên đã khẩn thiết nguyện sinh, lấy cái chết làm kỳ hẹn. Một đêm, bỗng trổi dậy xoay mặt về hướng Tây đảnh lễ rồi ngồi kiết già mà tịch vào năm Đại Nghiệp thứ năm đời Tùy. Gần đây, vào khoảng niên hiệu Càn Đạo, Tây hồ cư sĩ Lý Tử Tế xin vị tăng Chí Hiệp vẽ lại tượng này trên lá bối truyền bá ở đất Ngô, ngài Tông Hiểu có nhân duyên được tặng, tưởng tượng như Phật sống. Khi nhàn nhã kể rõ đầu đuôi mà mãi phát tín tâm.

2. Truyện về Pháp sư Lô Sơn Tuệ Viễn:

Thời giáo là do Phật nói nhưng người truyền rộng Thời giáo thì Thiên Thai là Thỉ tổ. Luật tạng tuy do Phật dạy nhưng người mở rộng Luật tạng thì Nam Sơn là thỉ tổ. Thiền Tông vốn là tâm Phật nhưng người truyền tâm Phật thì Đạt-ma là thủy tổ. Khuyên sinh Tịnh độ tuy do đấng Đại giác Từ tôn chỉ dạy nhưng khiến người cõi này biết có Tam-muội niệm Phật thì Pháp sư Tuệ Viễn là thỉ tổ. Pháp sư húy là Tuệ Viễn, họ Cổ, người ở Nhạn môn. Từ nhỏ đã đi học các nơi thông thạo kinh sử Lão Trang. Hơn hai mươi tuổi hỏi đạo nơi Pháp sư Đạo An, nhờ nghe giảng kinh Bát-nhã mà hoát nhiên khai ngộ, bèn bảo rằng cả nghị luận của Cửu lưu đều là trấu cám. Nhân đó bèn cạo tóc xuất gia. Đến năm hai mươi bốn tuổi thì hiểu rõ kinh luận, các nghi ngờ đều tan biến. Trong niên hiệu Kiến Nguyên đời Ngụy Tần, ở Tương dương có giặc loạn, nhân chịu khuất ở Tầm dương, thấy núi Lô cao đẹp rất vừa ý. Thứ sử Hằng Y liền lập chùa

Đông Lâm để sư ở. Từ đó suốt ba mươi năm không hề xuống núi bước vào nhà tục. Mỗi khi tiễn khách chỉ đến Hổ Khê mà thôi. Hoàn Huyền Chấn Chủ rất oai vệ gặp sư liền chí kính. Vua An Đế đời Tấn từ Giang lăng trở về kinh đô có người khuyên sư ra chào nhưng ngài cáo bệnh không đến, vua phải sai sứ đến viếng. Lúc đó, có Lưu Di Dân, Lôi Thứ Tông, Tông Bính… một trăm mười tám vị cao tăng đều bỏ tục nương theo Sư. Sư lập một trăm hai mươi ba vị vào Liên xã, bảo Di Dân soạn lời thệ ở trước tượng Di-đà, chí thành lập thệ nguyện sinh An dưỡng. Tạ Linh Vận một kẻ ỷ tài kiêu ngạo khi gặp Sư liền tâm phục. Ông đào hai ao dẫn nước trồng sen trắng xin vào Liên xã, nhưng vì tâm tạp nên ngài ngăn không cho. Đào Uyên Minh, Phạm Ninh nhiều lần vời vào Xã nhưng không được. Nên Tề Kỷ có thơ rằng: "Nguyên Lương say nhiều khó vào Xã, Tạ Công tâm loạn vào ngại gì?" Tuệ Viễn đối với Tịnh độ rất chuyên cần. Trong mười một năm đầu lắng tâm hệ tưởng ba lần thấy Phật mà Sư vẫn im lặng không nói với ai. Mười chín năm sau đến ngày tối trời tháng bảy, ngài ở bên Đài Bát-nhã xuất Định thì thấy thân Phật đầy khắp hư không, trong ánh sáng có các Hóa Phật, Quán Âm, Thế Chí đứng hầu hai bên. Lại thấy dòng nước chảy có ánh sáng chia làm mười bốn nhánh từ trên chảy xuống, từ dưới chảy lên giảng nói khổ, không. Phật bảo Tuệ Viễn rằng: ta dùng năng lực Bổn nguyện đến khuyên khích ông, bảy ngày nữa ông sẽ sinh về nước ta. Lại thấy Phật-đà-da-Xá, Tuệ Trì, Đàm Thuận đứng bên Phật, đến trước chào Viễn thưa rằng: Chí sự trước chúng tôi sao lại đến trễ thế rồi biến mất. Sư bảo đồ chúng rằng: Ta từ trước nay ở Tịnh độ ba lần thấy Phật, nay lại thấy nữa, vậy chắc chắn ta vãng sinh. Ngày hôm sau sư bị bệnh, hẹn bảy ngày thì hóa, khuyên các đồ chúng nên cố gắng không để buồn thương vướng lụy. Đến ngày hẹn thì quả sư hóa, thọ tám mươi ba tuổi, vào ngày mồng 6 tháng 8 niên hiệu Nghĩa Hy thứ 12. Sư di chúc nên để lộ thi hài sư dưới rừng thông. Nhưng các đệ tử an táng sư ở ngọn núi phía Tây. Tạ Linh Vận làm lời minh, Trương Dã làm lời tựa, năm Đại Trung thứ hai đời Đường, có hiệu là Biện Giác Đại sư. Năm Thăng Nguyên thứ ba, đổi hiệu là Chánh Giác. Đại Tống năm Hưng Quốc thứ ba, tuy hiệu là Viên Ngộ đại sư, xây tháp Ngưng Tịch.

Sư có tạp văn hai mươi quyển, tên là Lô sơn tập. Luật sư Nguyên Chiếu Linh Chi viết tựa, khắc bản in để trong phủ Thiếu Hưng. Kẻ thức giả rất kính.

3. Truyện về năm vị Tổ pháp sư nối nhau nhiều đời của Liên xã:

Lập Liên xã Tuệ Viễn Công là thỉ tổ. Từ khi sư quy tịch đến nay là năm kỷ niên hiệu Khánh Nguyên thứ năm đời Đại Tống đã được tám trăm lẻ chín năm. Trong khoảng đó người nối đạo có năm là ngài Thiện Đạo, ngài Pháp Chiếu, ngài Thiếu Khang, ngài Tỉnh Thường và ngài Tông Sân, đều kính lễ Phật từ, mở rộng Độ môn. Khác đời đồng dấu đều là bậc dẫn dắt giỏi, truyện ký có ghi chép đủ không thể giấu cho nên ghi lại.

1. Sư Thiện Đạo:

Chẳng biết sư là người ở đâu. Vào niên hiệu Trinh Quán đời Đường gặp Thiền sư Đạo Xước tại Cửu Phẩm Đạo Tràng ở Tây Hà giảng tụng kinh Quán. Sư rất mừng bảo rằng: Đây mới thật là nẻo tu thuyết yếu tu vào Phật, các môn khác đi vòng khó thành, chỉ có quán môn này mau thoát khỏi sinh tử. Do đó mà dốc chí, tinh chuyên cần khổ như cứu lửa cháy đầu. Sau Sư đến kinh đô kích phát bốn chúng vào Phật thất quỳ thẳng niệm Phật, nếu chưa kiệt sức thì chưa thôi. Dầu trời rất lạnh cũng phải đợi ra mồ hôi. Nói pháp Tịnh độ cho người nghe suốt ba mươi năm thề không ngủ nghỉ. Hành Đạo Ban-chu, lễ Phật Phương Đẳng. Có người cúng thí bao nhiêu đều dành dụm viết kinh Di-đà hơn một trăm ngàn quyển, vẽ biến tướng Tịnh độ hơn ba trăm bức. Đạo, Tục ở Kinh Hoa chịu sự giáo hóa của sư đông không kể hết. Có người hỏi sư rằng: Niệm Phật có sinh Tịnh độ chăng? Sư đáp: Ông hãy niệm thì sẽ toại nguyện. Rồi sư tự niệm một tiếng Phật thì có một luồng ánh sáng từ miệng phát ra. Niệm mười câu trăm câu ngàn câu thì cũng có trăm ngàn tia sáng như thế. Sau sư bảo người: Thân này đáng chán, các khổ biến đổi. Rồi sư leo lên câu liễu xoay về hướng Tây nguyện rằng: Nguyện Phật dắt dẫn con, Bồ-tát giúp con không mất chánh niệm, không bị lui sụt. Nói xong thì gieo mình xuống đất mà hóa. Vua Cao Tông biết miệng sư phát ra ánh sáng tinh anh như thế, bèn tặng tấm biển ngạch đề là Quang Minh. Thiên trúc vãng sinh lược truyện chép Phật A-di-đà hóa thân tự đến Trường An, nghe có tiếng nước róc rách Hòa thượng bèn bảo: "Có thể dạy niệm Phật". Bèn đi khuyến hóa rộng khắp. Ba năm sau thì khắp thành Trường An đầy tiếng niệm Phật. Sau có Đại sư Pháp Chiếu tức là hậu thân của ngài Thiện Đạo.

2. Sư Pháp Chiếu:

Niên hiệu Đại Lịch thứ tư thời vua Đại Tông đời Đường, tại chùa Hồ Đông ở Hành châu, sư mở Đạo tràng ngũ hội niệm Phật, cảm được mây lành năm sắc che trên mái chùa. Trong mây có lầu các, thấy Phật A-di-đà và hai Bồ-tát thân cao lớn đầy khắp hư không. Lại ở ngoài đạo tràng gặp một ông lão chỉ cho thấy Đức Văn-thù. Sư bèn đến núi Ngũ đài, Đại Thánh hiện ra chùa Trúc lâm. Sư vào giảng đường thì thấy Đức Văn-thù ở phía Tây, Phổ Hiền ở phía Đông, nói pháp cho chúng nghe, bèn đảnh lễ hỏi rằng: Chúng sinh phàm phu đời mạt sự hiểu biết yếu kém, Phật tánh tâm địa không do đâu mà hiển bày, chẳng biết tu pháp môn nào là cần thiết nhất. Văn-thù nói: Lời ông hỏi rất là đúng lúc, các môn tu khác không bằng niệm Phật. Ta ở quá khứ nhân niệm Phật mà được Nhất-thiết-chủng-trí. Sư lại hỏi: Niệm như thế nào. Đức Văn-thù đáp: Về phương Tây thế giới này có Phật A-di-đà, nguyện lực khó suy nghĩ bàn luận, ông nên giữ niệm không để gián đoạn thì khi qua đời chắc chắn vãng sinh. Nói xong liền xoa đầu Sư rồi biến mất. Sư tiếp đến Tinh Châu lập hội dạy người niệm Phật. Vua Đức Tông ở trong cung Trường An thường nghe hướng Đông Bắc có tiếng niệm Phật. Liền sai sứ đi tìm. Khi đến Thái Khang thì quả thấy sư Pháp Chiếu đang khuyến hóa rất thạnh hành. Vua bèn ban sắc đón vào cung dạy cho người trong cung niệm Phật, cũng đủ năm hội, xét bia của Nam Nhạc Di-đà Hòa thượng có nói: Đời vua Đường Đại Tông có sư Pháp Chiếu là Quốc sư. Trước ở Lô sơn, trong chánh định đến nước An lạc thấy người áo xấu hầu Phật, Phật bảo đây là người thừa kế Tuệ Viễn ở Hành sơn. Xuất định sư liền tìm đến gặp người giống y, bèn theo học mà truyền giáo trong thiên hạ. Sư theo pháp của Tuệ Viễn.

3. Sư Thiếu Khang:

Sư là người ở Tiên đô thuộc Tấn Vân. Đầu niên hiệu Trinh Nguyên, sư đến chùa Bạch Mã ở Lạc dương thấy kinh sách trong điện phát ra ánh sáng. Bèn đưa tay lấy bất cứ một quyển nào thì gặp văn Tây phương hóa đạo của ngài Thiện Đạo. Sư nói: nếu tôi có duyên với Tịnh độ thì xin cho bài văn này lại phát sáng nói chưa dứt lời thì quyển sách lại phát sáng. Sư nói kiếp đá có thể mòn chứ nguyện tôi không đổi. Sư bèn đến Ảnh đường thờ ngài Thiện Đạo ở Trường an trình bày hết nguyện vọng thì ảnh tượng ngài Thiện Đạo bay lên hư không bảo rằng: Ngươi nên theo việc ta mà lợi lạc hữu tình, thì công đức của ngươi sẽ được sinh An dưỡng. Lại giữa đường, Sư gặp một vị Tăng bảo nếu muốn độ người thì hãy đến Tân Định, nói xong thì biến mất. Tân Định nay là Nghiêm châu. Khi Sư đến thì người ở đấy chưa biết gì cả... Sư bèn xin tiền dụ trẻ con bảo: Phật A-di-đà là Bổn sư các con, nếu ai niệm một câu Phật thì ta cho một tiền. Trẻ con ham tiền bèn theo Sư niệm Phật. Sau một tháng rất nhiều trẻ đợi được tiền. Sư bèn bảo niệm mười câu thì cho một tiền. Được một năm thì già trẻ, sang hèn đều niệm Phật đầy đường. Sư bèn đến núi Ô Long lập đạo tràng Tịnh nghiệp. Xây đàn có ba bậc, nhóm hợp mọi người sau giờ Ngọ hành đạo. Sư niệm lớn một tiếng A-di-đà Phật thì cả chúng cùng hòa theo. Sư niệm một câu, Phật thì mọi người thấy từ miệng sư bay ra một vị Phật. Niệm mười câu thì có mười vị Phật bay ra nối nhau như xâu chuỗi. Sư bảo ai thấy Phật thì chắc chắn được vãng sinh, chúng đông cả mấy ngàn, cũng có người không thấy. Sau sư di chúc cho đạo tục đối với An dưỡng nên phát tâm tăng tấn, đối với Diêm-phù-đề nên sinh tâm chán lìa. Nói xong thì phát ra mấy luồng ánh sáng rồi an nhiên mà hóa. Tháp thờ sư ở đài Tử Nham. Ngài Thiên Thai có sửa sang lại tháp sư. Đời cho sư là hậu thân ngài Thiện Đạo.

4. Sư Tỉnh Thường:

Vào niên hiệu Thuần Hóa đời Đại Tống, sư trụ ở Tiền đường phía Nam viện Chiêu Khánh, chuyên tu Tịnh nghiệp, kết xã Tịnh Hạnh. Vương Văn Chánh Công Đán là Xã thủ (người đứng đầu Liên xã), Hàn Lâm Thừa Chỉ Tông Bạch soạn văn bia, Hàn Lâm Học Sĩ Tô Dị Giản soạn bài tựa Tịnh độ Phẩm, Trạng nguyên Tôn Hà đề Xã Khách, ở mặt sau bia cũng có soạn lời ký. Sĩ phu dự hội đều gọi là Tịnh Hạnh xã Đệ tử. Xã hữu có tám mươi vị Tỳ-kheo, một ngàn đại chúng. Lô Sơn Trí Viên làm ký về hạnh nghiệp của sư và bia của Liên xã, trong đó Bi ký dẫn lời tựa của họ Tô rằng: Tôi từng trải tóc để lót chân ngài, cắt thịt để thưa hỏi Pháp, ngài cũng không tức giận huống là lời lẽ quê mùa học cạn mà tiếc ư? Trong Tống Bia có nói: Sư mến việc Tuệ Viễn mở Liên xã ở Lô sơn bèn đổi chữ Liên hoa thành Tịnh Hạnh. Tuệ Viễn ở thời suy yếu cuối đời nên kết nạp các sĩ phu phân nửa là ẩn cư, còn sư đây thuộc thời thanh bình nên phần nhiều người theo đều có địa vị cao hiền. Phương trước thì danh sĩ lại đông, dạy nhiều thì bến cầu nào dứt. Nhận lời của hai ông nghĩ sự hưng thạnh đương thời cũng có thể thấy rõ khái quát.

5. Sư Tông Trách:

Sư được vua ban hiệu là Từ Giác. Vào niên hiệu Nguyên Hựu, sư trụ chùa Trường Lô tại Chân châu. Sư thuyết đều thông dốc lòng khuyến hóa mọi người. Có Vi Giang Tập lưu hành ở đời, trong đó nêu các thứ Phật Sự, đều vận dụng từ niệm. Bởi Sư đều làm lợi ích, cho mình và người sức nguyện rộng sâu, cho nên xa nối tiếp Phật hóa. Người như thế kẻ không biết trở lại ganh tị. Buồn thay, khi sư ở Trường Lô, hải chúng nhóm hợp như mây. Bèn nghĩ vô thường như lửa cháy bốn phía, đâu thể ngồi yên mà đợi chết. Bèn theo phép Lô sơn lập ra thắng hội Liên hoa khuyên khắp tu hành Tam-muội niệm Phật pháp. Đó là ngày niệm Phật trăm câu ngàn câu cho đến muôn câu mà hồi hướng nguyện cầu vãng sinh Tịnh độ Tây phương. Mỗi ngày ít nhất cũng mười hơi ghi nhớ, liền cảm được hai vị Đại Bồ-tát Phổ Hiền, Phổ Tuệ dự hội chứng minh việc cao quý. Nếu không phải chỗ vì tu khế hợp thì sao bậc Thánh hiện đến. Ngài Linh Chi khen sư là Đại thừa sư trong các Đại thừa sư ở đời cận đại.

Như trên là năm vị nối thạnh hạnh nghiệp Đại Pháp như thế mà nối nghiệp tổ Tuệ Viễn, ai bảo là không phải?

4. Truyện về ngài Pháp Duyệt Tăng Chủ ở kinh đô đời Lương:

Ngài Pháp Duyệt ở kinh đô đời Lương, trụ chùa Chánh giác làm Tăng chủ cuối đời Tề. Rất tinh tu phước nghiệp, bốn bộ chúng đều kính nương. Sư có nghe Tống Minh Đế tạo tượng vàng cao trượng tám, bốn lần đúc không thành. Do đó sửa thành một trượng tư. Sư bèn cùng sư Trí Thanh ở chùa Bạch mã cùng sửa lại làm tượng Phật Vô Lượng Thọ cao trượng tám để nói lên chí mình. Bèn tập hợp vàng, đồng từ cuối đời Tề loạn ly đến đầu đời Lương mới đem việc tâu lên vua. Vua bèn ban sắc cho làm và thợ khéo tùy ý mà dùng. Vào ngày ba tháng năm niên hiệu Thiên Giám thứ tám tại chùa Tiểu Trang Nghiêm đúc thân Phật bốn mươi ngàn cân đồng chảy, nhưng chỉ mới đến ngực.

Bá tánh bèn ném vàng vào lò nhưng đổ vẫn không đầy. Vua lại nghe tâu, bèn sai đem ba ngàn cân đồng đến, khi đến thì lò đúc đã nghỉ vì thấy truyền chiếu chở đồng đến bèn nấu thêm một canh nữa. Mọi người ở trong Đài khi đồng đến mới biết. Trước đó đã có linh cảm mà ra. Đến khi khai mạc đo tính lại tượng cao một trượng chín mà quang tướng không sai khác. Có hai đồng tiền lớn ở trên áo thật thần dị khó lường. Lúc đầu, khi tượng mới đúc thành có sư Đạo Chiêu giữa đêm lễ sám bỗng thấy có ánh sáng rực rỡ. Sau khi đúc ba ngày có vị Tăng tên Đạo Độ giúp tiền để khai mạc, xa trông thấy có hai vị tăng mở búi tóc của tượng rồi biến mất. Khi dời tượng thì ánh sáng đầy nhà. Đã lâu không mưa lại đầy bụi bặm, bỗng đêm có mưa nhẹ thấm ướt sư Tăng Hựu đi kinh hành chỗ tượng, bỗng thấy bên tượng có ánh sáng trên dưới như đèn đuốc. Đêm ấy ở Hoài Trung những người đi buôn đều nghe trên cầu có tiếng hò reo như tiếng của mấy trăm người. Từ khi Phật pháp truyền về phía Đông thì tượng vàng linh cảm không đâu hơn tượng này.

5. Truyện về Pháp sư Bích Cốc Thần Loan đời Hậu Ngụy:

Thích Đàm Loan, người ở Nhạn môn. Thuở nhỏ dạo chơi núi Ngũ đài nhân cảm điều linh dị bèn xuất gia, ba thừa đốn tiệm, Lý Văn đều thông suốt. Tánh sư thích Phương thuật. Nghe ở Giang nam có Đào Ẩn Cư có pháp sống lâu bèn muôn dặm tìm cầu. Đào bèn trao cho mười quyển kinh Tiên đã học. Sư vui mừng tự đắc cho rằng thần tiên sẽ có thể đến được. Sau sư trở về Lạc hạ gặp Tam tạng Bồ-đề-lưu-chi, bèn hỏi Chi rằng: Đạo Phật có pháp sống lâu có thể xua đuổi được già chết chăng? Chi cười đáp: Sống lâu không chết là đạo của Phật ta, đạo gia làm gì có. Bèn lấy kinh Thập Lục Quán trao cho, bảo rằng: Ông tụng kinh này thì không còn sinh ba cõi, sáu đường không còn đến, phiền não vắng lặng. Họa phúc thành bại không còn đến. Về sống lâu thì có kiếp thạch, có hà sa. Nhưng số hà sa còn có hạn lượng chớ sự sống lâu kia thì vô cùng. Vì đây là sự sống lâu của Phật ta. Loan nghe nói bỗng khởi tâm tin sâu bèn đốt hết sách tiên đã học mà chuyên tu nghiệp ba thứ phước, quán tưởng chín phẩm sen. Dẫu nóng lạnh cũng không dời đổi, bệnh tật cũng không lười mỏi. Ngụy chúa mến chí sư bèn ban hiệu là Thần Loan. Một đêm, đang lúc trì tụng bỗng thấy một Phạm Tăng (Tăng Ấn độ) chợt vào thất bảo rằng: Ta là Long Thọ ở Tịnh độ. Vị ông có tâm Tịnh độ nên đến thăm ông. Loan thưa: Có điều gì khuyên dạy? Thọ nói: "Đã qua không thể kịp. Chưa đến không thể theo. Hiện tại nay ở đâu. Ngựa câu khó cùng về." Nói xong thì biến mất. Loan cho việc thấy là rất lạ, biết là chết đã đến kỳ hẹn. Bèn nhóm chúng trình bày mọi việc và khuyên dạy rốt ráo. Rồi bảo lớn tiếng niệm Adi-đà Phật, bèn xoay mặt về Tây, nhắm mắt mà hóa. Cả chúng cùng nghe có tiếng đờn sáo ở trên hư không từ phía Tây vọng đến, rất lâu mới im bặt. Ngụy chúa cảm kích, sắc an táng ở Phần Tây và theo hạnh nghiệp của sư mà lập bia.

Văn Long Thơ Tịnh độ nói: Xét kinh Lăng Nghiêm nói có mười thứ tiên đều sống ngàn tuổi. Số hết thì trở lại luân hồi, không hề rõ được chân tánh, cho nên cùng chúng sinh sáu đường đồng gọi là bảy đường, đều là loài còn trong luân hồi. Người đời học tu tiên muôn người không được một. Dẫu được thì cũng chẳng khỏi luân hồi vì đắm nhiễm ở hình thần chẳng thể bỏ được. Vả lại hình thần là do vọng trưởng trong chân tánh hiện ra không phải thật. Nên thơ Hàn Sơn nói: Dẫu ngươi được thành tiên, giống như quỷ giữ thây, không phải như nhà

Phật, sinh tử tự như như, không có gì ràng buộc. Từ xưa người được Tiên chỉ có Chung Ly, Lữ Công, mà kẻ học hai ông đâu phải chỉ ngàn muôn. Chính tôi thấy nghe số cũng chẳng ít, nhưng cuối cùng thì đều chết chôn dưới đất. Bởi bình sinh uổng phí tâm lực không hề được ích lợi gì. Muốn cầu trường thọ không gì bằng Tịnh độ. Người sinh về Tịnh độ thì sống lâu vô lượng, đó là sống lâu vậy. Chẳng tu pháp này mà học phép tiên là bỏ ngọc thật trước mắt mà tìm kiếm thứ ngọc giả (đá giả ngọc) chẳng thể được, há chẳng lầm ư?

6. Truyện Thiền sư Lô sơn Đạo Trân đời Lương:

Thích Đạo Trân, đời Lương, vào niên hiệu Thiên Giám, sư đến ở Lô sơn. Nghe thuở xưa ngài Tuệ Viễn kết Xã Tịnh Phương thì tâm rất kính mến, nhưng sự thực hành tâm còn dụ dự. Lúc khác, bỗng mộng thấy mấy mươi người ngồi thuyền trên biển đi về phía trước. Trân hỏi thì bảo về nước Diđà. Trân hỏi: Cho theo được chăng? Thì đáp: Không dám từ chối ý ông, chỉ vì ở cõi này công tu trong một ngày thì vượt vĩnh kiếp mà ông chưa tụng một kinh Di-đà, lại chưa từng làm nhà tắm cho chúng Tăng thì làm sao đi được. Trân thức giấc hổ thẹn buồn lo. Bèn chuyên trì kinh và lập nhà tắm lớn. Hai năm sau, một hôm bỗng nhà vắng cửa mở toang, có người bưng đài bạc đến nói: Pháp Hoa báo hết nên bước lên đài này. Lại bảo: Công hạnh của Sư đáng ngồi Đài Vàng nhưng vì tâm ban đầu còn do dự nên ngồi đài bạc này. Trân tạ ân bảo: Chỉ cần vượt năm khổ, ra khỏi ba cõi thì Trân được thấy Phật, cần gì đài vàng. Trân ít nói năng, dẫu thấy việc này vẫn không bảo ai, chỉ viết ra giấy dấu trong rương kinh. Đêm sư tịch thì ở bên sườn núi có cả trăm ngàn ngọn đuốc chiếu sáng rực một vùng. Dân làng trông thấy rất kinh dị. Sáng hôm sau hỏi ra mới biết Trân mất, đó là điềm vãng sinh. Một hôm mở rương ra thì được lời ghi ấy bèn viết thành truyện.

7. Truyện Pháp sư Thiên Thai Pháp Trí đời Tùy:

Sư Pháp Trí đến học ở Đông Việt, kẻ thông suốt kinh nghĩa Đại, Tiểu thừa thì Trí đáng bậc thầy. Vì học rộng nghe nhiều nên ít người làm bạn. Tuổi về già Sư thấy pháp môn nhanh chóng thẳng tắt không gì bằng niệm Phật. Sáng làm chiều nghỉ giữ niệm không dứt suốt bảy năm rồi luận rằng: Phạm một tội kiết-la là chịu tội suốt một trung kiếp, đây thật đáng tin, lấy cớ đó mà làm. Niệm một câu A-di-đà Phật mà diệt hết trong tội trọng ức kiếp thì tôi thiệt có nghi. Có người bảo Trí đừng nghi, bèn dạy Trí niệm Phật: "Lâu thì có công, có công thì có hóa, hóa thì Tam-muội hiện tiền. Nay ông nghi là nghi Phật vậy. Phàm lời Phật nói đâu thể nghi ngờ. Đức Thích Tôn phát ra tướng lưỡi rộng dài, các Đức Phật mười phương cùng khen ngợi Tịnh độ, chính là vì chúng sinh Tín căn khó lập cho nên khuyên phát ra. Pháp Trí dứt nghi, bèn ở chùa Quốc thanh mà dứt hết các duyên, một lòng niệm Phật, Tưởng niệm đã rốt bèn cảm được Quán Âm, Thế Chí hiện thân. Ngày nọ lại cảm được Bình báu trên thiên quan ánh sáng chiếu thân. Pháp Trí bảo đạo, tục rằng: Tôi sẽ sinh Tịnh độ, ai có thể nấu thức ăn ngon tiễn tôi? Chúng nghe đều cười bảo rằng: Chỉ sợ Đạo nhân không thể làm được việc ấy mà thôi, chúng tôi không từ nan. Rồi hẹn ba ngày sau họp lại làm yến tiệc. Tiệc xong thấy Trí không có gì khác, chúng đều nghi ngờ bèn bảo nhau đêm đến cùng rình xem. Chưa đến nửa đêm thì Trí ngồi trên giường dây niệm Phật mà hóa. Đêm ấy có ánh sáng vàng từ hướng Tây chiếu đến khắp mấy trăm dặm. Ngư dân trên sông tưởng trời sáng gọi nhau cùng dậy, trông thấy đều kinh sợ.

8. Truyện về Thiền sư Vĩnh Minh Trí Giác đời Đại Tống:

Sư húy là Diên Thọ, vốn người ở Đơn dương. Sau dời về Dư Hàng. Tuổi còn để chỏm tụng kinh Pháp Hoa chỉ sáu tuần là sư thuộc làu. Sư có làm thuế vụ Bắc Quách Chuyên Tri quan, gặp cá tôm liền bỏ tiền ra mua phóng sinh. Sau thâm lạm của công vì mua vật phóng sinh mà bị tội chết giữa chợ. Tiền chủ (Tùy Dạng Đế) sai người rình xem nếu sư có vẻ buồn sợ thì chém, còn không thì thả. Thấy sư tự nhiên không đổi sắc mặt nên ra lệnh thả. Nhân đó vào chùa Thúy nham ở Minh châu xuất gia. Kế đó tham vấn Thiều Quốc sư mà phát sáng tâm chính yếu. Lúc đầu, đến chỗ ngài Thiên Thai Trí Giả tập định chín tuần, có chim yến làm tổ trên vạt áo của sư. Ở chùa Quốc thanh khi hành trì Pháp Hoa sám, thì đêm thấy vị thần cầm kích đi vào, sư quở sao dám tự tiện vào ngang, thì đáp: Tích lũy Tịnh nghiệp đã lâu nên đến đây. Nửa đêm sư đi nhiễu đến trước tượng Phổ Hiền cúng dường thì bỗng thấy trên tay mình có hoa sen. Vì nghĩ trước có hai nguyện: Nguyện trọn đời thường tụng Pháp Hoa và nguyện trọn đời rộng độ chúng sinh. Nhớ hai nguyện này lại ưa thích Thiền định vắng lặng, rồi tấn thối lưỡng nan không thể tự quyết. Bèn lên Thiền Viện Trí Giả làm hai lá thăm. Một là nhất tâm thiền định, hai là tụng kinh, làm muôn điều lành Trang nghiêm Tịnh độ. Rồi tự hẹn hai đường chọn một, công hạnh sẽ thành. Quyết bắt thăm bảy lần để làm chứng. Bèn tinh thành cầu Phật Tổ mà đưa tay lấy, thì cả bảy lần đều được lá thăm Tụng kinh, làm muôn điều lành vãng sinh Tịnh độ. Do đó một lòng chuyên tu Tịnh nghiệp. Bèn chống gậy Kim Hoa lên ngọn Thiên Trụ tụng kinh suốt ba năm. Trong khi thiền quán thì thấy Quán Âm rót cam lộ vào miệng. Từ đó phát Quán Âm biện tài. Trước sư ở núi Tuyết bảo. Về già, vua ban chiếu về trụ chùa Vĩnh minh đồ chúng đến hai ngàn người, nhật khóa hằng ngày làm một trăm lẽ tám việc. Người học đến thưa hỏi thì sư chỉ: Tâm làm tông, lấy ngộ làm quyết. Sư sáng tối đến ngọn núi riêng hành đạo niệm Phật. Người chung quanh nghe trong núi có tiếng nhạc trời bằng loa ốc. Trung Ý Vương khen rằng từ xưa nay người cầu Tây phương chưa ai chí thiết bằng sư. Bèn xây dựng cho sư điện Tây phương Hương Nghiêm để sư trọn thành chí nguyện. Ngày hai mươi sáu tháng hai niên hiệu Khai Bảo đời Đại Tống, buổi sáng dậy sư đốt hương, cáo biệt chúng rồi ngồi kiết già mà hóa.

9. Truyện về Trinh Tiết Xử Sĩ Dữu Tiên đời Lương:

Dữu Tiên tự là Ngạn Bảo, người ở Tân Dã. Thuở nhỏ thông suốt kinh sử, hiểu rõ triết lý của trăm nhà hiền triết. Còn như bói toán cơ xảo đều nổi tiếng một thời. Mà tánh sư thì giản dị, thích cảnh suối rừng. Vườn nhà mười mẫu ở bên ao, ăn rau dưa mặc áo xấu chẳng chú trọng sản nghiệp. Có lúc ngồi thuyền theo sông Thư về có chở một trăm năm mươi thạch gạo, có người gởi thêm ba mươi thạch. Về đến nhà, người gởi nói của ông ba mươi thạch, của tôi một trăm năm mươi thạch. Tiên vẫn làm thinh không nói, để anh ta lấy đủ số. Phàm xử sự đều như thế cả. Thuở nhỏ, Võ Đế chơi rất thân với Tiên. Đến khi khởi binh thì phong cho Tiên làm Bình Tây Phủ Ký Thất. Đến niên hiệu Phổ Thông thì vua ban chiếu cho tiên làm Huỳnh Môn Thị Lang. Ông đều thoái thác vì bệnh từ chối không nhận. Về già rất trọng Thích giáo, trong nhà có lập đạo tràng sáu thời lễ sám. Tụng kinh Pháp Hoa một ngày trọn một bộ. Bỗng đêm sau, thấy một Đạo Nhân xưng là Nguyện Công, dung nghi kỳ lạ gọi Tiên là Thượng Hạnh tiên sinh, trao hương rồi bỏ đi. Đến niên hiệu Đại Thông thứ tư trong lúc ngủ bỗng mộng thấy Nguyện Công lại đến bảo chẳng thể sống lâu, nói xong thì ông mất. Ông thọ bảy mươi tám tuổi. Cả nhà đều nghe trên hư không có tiếng gọi lớn: Tiên sinh Thượng hạnh đã sinh cõi Tịnh Di-đà. Võ Đế nghe tin rất kính phục bèn ban Thụy hiệu là Trinh Tiết Xử Sĩ nói lên sự mạnh mẻ cao vời (xuất xứ từ Nam Sử).

10. Truyện về Vô Vi Tử Dương Đề Hình đời Đại Tống:

Ông húy là Kiệt, tự Thứ Công, người ở quận Vô vi, đạo hiệu là Vô Vi Tử. Văn tài cao nhã, tuổi trẻ thi đậu làm quan đến chức Thượng Thư Chủ Khách Lang, coi về hình ngục ở Lưỡng Triết. Nhưng ông rất tôn kính Phật Pháp, thấu ngộ Thiền tông những vị gánh được sự đánh, hét của Lâm Tế ở Giang tây ông còn gọi họ là hạng tầm thường. Ông lại mở rộng giáo quán Di-đà, dắt dẫn kẻ mới đến, bao gồm chỗ luận bàn, ông Bảo rằng căn cơ chúng sinh có lợi độn, gần mà dễ biết dễ làm thì chỉ có Tây phương Tịnh độ vậy. Chỉ cần nhất tâm quán niệm, gồm nhiếp tán tâm thì nhờ nguyện lực Di-đà mà sinh thẳng về An dưỡng, không có cõi nào khác, quyết chắc thành công. Ngài Long Thọ gọi đó là Đạo dễ làm vì nương vào năng lực người khác. Ông soạn lời tựa luận Thập Nghi của Thiên Thai, tựa Trực chỉ Tịnh độ Quyết Nghi Tập của Vương Cổ. Ông soạn Pháp Bảo Tăng Giám, Di-đà Bảo Các Ký, An lạc Quốc Tam Thập Tán, Bị Trần Tây phương Yếu Tân, Thành Vi Vạn Thế Vãng Sinh Quy Giám. Ông có soạn Phụ Đạo tập, Chuyên Kỷ Phật Thừa, Tô Đông Pha soạn lời tựa lược nói rằng: Vô Vi Tử vốn xưa là Linh Cơ tham học khắp các tri thức, phàm kẻ gọi là có mắt Thước-Ca-la thì Thứ Công mục kích mà Đạo còn. Tuổi về già ông làm Giám Ti quận thú, bèn vẽ Tượng Di-đà trượng sáu để khi đi đường quán niệm, đến lúc qua đời cảm được Phật đến rước ngồi thẳng mà hóa.

Có bài tụng rằng: Sinh cũng không đáng ham, Tử cũng không đáng bỏ, trong khoảng hư không rộng lớn, đâm lao theo lao Cực lạc Tây phương. Niên hiệu Tuyên Hòa, thần Kinh Vương phu nhân thức đến Tịnh độ thấy ông ngồi trên hoa sen thì chắc chắn được vãng sinh vậy. Song ở Triều Tống ta kẻ sĩ đại-phu rộng khen Tịnh Phương vào nhóm chánh định thì chỉ có hai người là ông và Vương Mẫn Trọng Thị Lang mà thôi. Há không phải là trời muốn đạo tồn tại lâu dài trên thế gian mà sinh ra người ấy ư?

11. Truyện về ở Vương Ty Sĩ Quang Châu đời Đại Tống:

Đời Đại Tống, Ty Sĩ Tham Quân Vương Trọng Hồi là người ở quận Vô vi. Vì ở quận Trần bổn đắp đê ngăn nước làm thủy lợi, Đại Ty Nông khảo biết được sự thật bèn mời về triều đình. Sau gia ân cho làm việc ấy. Tánh ông rất trung tín, không hề xét việc hay dở của người. Ông lại thông suốt toán số (bói toán) đến già tay vẫn không rời sách. Thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài lúc đó ở Đạo Thiết Phật tràng cũng thường thưa hỏi ông mà xem ông là người tốt trong làng đáng nương cậy. Vào những năm cuối niên hiệu Hy Ninh, tôi đem thi hài mẹ là Trường Thọ Thái Quân về an táng ở quê nhà, nhân rãnh rỗi mà xem Đại Tạng giáo điển. Bèn lấy duyên Tịnh độ vi diệu chỉ bày cho các cụ già. Lúc đó Ty Sĩ rất thành tín kính mến, nhưng chưa sâu chắc lắm. Đến đầu niên hiệu Nguyên Hựu, tôi tự là Tỉnh Vi xin làm thú ở Đơn Dương, đợi trên khe Cẩm Tú. Ty Sĩ lúc đó thấy người học hỏi không hề chống cự. Hỏi rằng kinh điển phần nhiều dạy niệm Phật sinh Tịnh độ, còn Tổ sư thì nói Tâm tức là Tịnh độ, không cần phải cầu sinh Tây phương, hai lời dạy không giống nhau là sao?

Đáp: Thật tế lý địa không có Phật, không có chúng sinh, không vui không khổ, không thọ không yểu thì sao lại có tịnh, uế, há lại lấy sinh và chẳng sinh làm tâm ư? Đây là dùng Lý đoạt Sự. Nhưng ở cõi này thì là chúng sinh hay là Phật. Nếu là cảnh Phật thì chẳng phải chúng sinh Lại đâu có khổ vui, sống lâu, chết yểu, tịnh, uế, thử tự suy nghĩ, hoặc là hoàn cảnh chúng sinh chưa ra khỏi sinh tử thì đâu thể chẳng tin giáo điển dốc lòng niệm Phật mà cầu sinh Tịnh độ ư? Tịnh thì không uế, vui thì không khổ, thọ thì không yểu. Ở trong vô niệm mà khởi niệm, ở trong vô sinh mà cầu sinh. Đây là dùng sự mà đoạt lý. Cho nên kinh Duy-ma nói tuy biết các cõi Phật và chúng sinh là không mà thường tu Tịnh độ, giáo hóa chúng sinh, là nói điều này vậy.

Hỏi: Làm sao biết được niệm không gián đoạn? Đáp: một khi tin rồi sau đó không còn nghi ngờ nữa, tức là chẳng gián đoạn. Ty Sĩ vui vẻ ra đi. Đến đêm tháng 12 năm thứ 2 thì tôi làm Thú ở Đơn Dương bỗng mộng thấy Ty Sĩ nói: Được ông chỉ cho Tịnh độ nay đã được sinh nên xin đến tạ từ. Bèn lạy rồi lui ra. Sáng hôm sau, mời Đơn Đồ Lệnh Trần An Chỉ đến kể lại giấc mộng. Bởi Trần Lệnh rất tin sâu Tịnh độ. Sau đó được con của Ty Sĩ đưa cáo phó đến mới biết Ty Sĩ đã mất trước đó bảy ngày, biết trước ngày mất nên từ biệt các người quen cũ. Em tôi là Tác cũng ở đó nghe lời từ biệt, cho nên biết ông chắc chắn sinh Tịnh độ.

Ngày 8 tháng 4 niên hiệu Nguyên Hựu thứ 4. Vô Vi Tử kính ghi.

Truyện này của Thứ Công thật chẳng thể bỏ. Chỉ việc luận sự lý đoạt nhau thì chẳng như Thai Tông gọi là "Viên quán sự lý một niệm đầy đủ câu nói một khi tin rồi sau đó không còn nghi ngờ nữa tức là không gián đoạn, là Ty Sĩ chuyển thân chỉ nói một lời này. Xưa, ngài Thiện Đạo hóa độ người có nói: Nếu người muốn mau được vãng sinh nên Khởi tu không gián đoạn, đó là cung kính, lễ bái, xưng danh khen ngợi, nhớ kỹ, quán sát, hồi hướng, phát nguyện, tâm tâm nối nhau không để các nghiệp khác làm đứt quãng. Cho nên nói là tu không gián đoạn. Lại nếu tham, sân, si đến cách ngăn thì hễ lúc nào phạm thì liền sám hối. Không khiến cách niệm, cách ngày, cách giờ. Luôn khiến thanh tịnh cũng gọi là tu không gián đoạn. Nếu đến chết thề không bỏ nửa chừng thì chắc chắn vãng sinh. Bài văn này xuất xứ trong Đại tạng, Tập Chư kinh Lễ Sám Nghi ở hòm chữ Quần, Thứ Công xem tạng, lấy duyên Tịnh độ mà chỉ bày cho Ty Sĩ không phải thế sao?

12. Truyện về Hồ Tuyên Nghĩa Tiền Đường ở đời Đại Tống:

Tuyên Nghĩa húy là Nhân, tự là Đạt Phu, con của Hồ Thị Lang. Tánh rất thông minh, tâm địa sáng suốt. Chuyên sử sách, thích ngâm vịnh. Về già cai quản Tây hồ, ngày ngày thường dạo vui chơi thú. Tánh bình dị đơn giản. Phật thừa tuy đã tin nhưng không hề chuyên tu. Một hôm, con ông đến mời Luật sư Thanh Chiếu rằng: Cha con bệnh nặng xin thỉnh sư khuyên dạy. Sư đến gặp bảo: Tuệ Hanh tôi quen với Đạt Phu rất thân nhưng không hề nói, Nay việc lớn ở cuối đời há chẳng biết chỗ an thân lập mạng ư? Đạt Phu nói: Tâm tịnh thì cõi tịnh. Sư nói: Tuyên Nghĩa trong lúc này có tạp niệm nhiễm ô chăng? Đáp đã ở thế gian sao khỏi tạp niệm. Sư nói: nếu như thế thì đâu thể tâm tịnh cõi tịnh được. Đạt Phu liền hỏi: một câu xưng niệm A-di-đà Phật có công năng diệt hết trọng tội tám mươi ức kiếp sinh tử là sao? Sư nói: Phật A-di-đà kinh Pháp Hoa nói thì ngài đã trải qua trần kiếp tu hành, kinh Lăng nghiêm nói: Ta nhớ thuở xưa hằng sa kiếp số có Phật ra đời hiệu là Vô Lượng Quang.

Phật A-di-đà đã trải qua thời gian như thế sẽ thành tựu thân, thành tựu nước, y, chánh trang nghiêm có đại oai đức, có thệ nguyện lớn, ánh sáng thần lực chẳng thể suy nghĩ, bàn luận. Do đó một câu xưng niệm hồng danh muôn đức thì chúng sinh từ vô thỉ có trọng tội tám mươi ức kiếp sinh tử cũng tiêu trừ như mặt trời sáng rực rỡ làm tiêu tan sương mù. Đạt Phu bèn tỉnh ngộ, mới biết nguyện lực Di-đà công đức lớn như thế... Bèn nhất tâm niệm Phật. Lại nhiều ngày thỉnh tăng trợ niệm. Luật sư Tuyên Bạch gọi Hồ Công Tuyên Nghĩa, Đạt Phu liền nói: Phải xưng danh Hồ Nhân. Ngày hôm sau lại thỉnh các học trò đến trước, Luật sư đến sau. Đạt Phu hỏi: Sao đến muộn, đã làm phiền Quán Âm, Thế Chí giáng lâm từ lâu. Sư cùng đại chúng liền rất trịnh trọng niệm Phật. Hồ Công an nhiên mà hóa, thọ tám mươi bốn tuổi. Ngày thường không hề tu tập, một hôm bệnh khổ ép ngặt thì không chỗ nương nhờ. Vừa nghe Di-đà Pháp lợi liền dứt nhanh nghi tình mà siêu sinh Lạc quốc. Đó gọi là một niệm hồi quang lập tức đổi tà thành chánh, tức là người này vậy. Mới biết đạo này nối vết xe trước, ngõ hầu không cô phụ đời này.

13. Truyện về cư sĩ Long Thư Vương Hư Trung đời Đại Tống:

Quốc học tiến sĩ Vương Nhật Hưu tự là Hư Trung. Có trí tự hành, có bi dạy người, đã thấy trong bài tựa của Trương Vu Hồ, ở đây không kể lại. Ông là người ở Long Thư (Thơ) có soạn văn Tịnh độ, nhân đó lấy làm hiệu, văn của ông thịnh hành trên đời, thiên hạ tu Tịnh nghiệp đều đọc sách này. Vào niên hiệu Càn Đạo, Lý Ngạn Bật ở Lô Lăng bị bệnh thời khí đã liệm vào quan tài. Bỗng mộng thấy một người dáng vẻ thanh tao dùng, tay xoa khắp thân thể. Bật kinh hãi hỏi thì đáp là cư sĩ Long Thơ. Bật hỏi về bệnh của mình thì ông bảo ăn cháo trắng sẽ hết. Lại nói: Ông có nhớ Trọng Nhã đã dạy ông đường tắt chăng? Bật nói mỗi ngày tôi niệm Phật không ngớt. Bật tỉnh dậy bèn đòi cháo trắng, ăn xong thì bệnh lành. Sau đó thấy tượng vẽ ông giống y trong mộng. Bật kính trọng ông gọi là sinh tử cốt nhục. Bèn sai con cháu từ xa đến học với ông. Một hôm, con cháu Bật trở về bảo rằng đêm ấy cư sĩ giảng sách xong, như thường lệ lễ niệm, đến canh ba bỗng lớn tiếng niệm A-di-đà Phật mấy câu, rồi bảo Phật đến rước ta, và đứng sững mà hóa. Người trong nước đêm ấy có người nằm mộng thấy có hai người áo xanh dẫn ông đi về hướng Tây. Lại trước đó ba ngày ông từ biệt khắp các đạo hữu, khuyên cố gắng tu Tịnh nghiệp, có lời giã biệt sẽ không còn thấy nhau nữa. Ôi nếu chẳng phải hiểu đạo bổn tánh duy tâm, thấu suốt sự biến hóa của sinh tử thì không thể được như thế. Có kẻ nghi Bật nằm mộng là do tưởng mà thành. Bật nói:

Việc chỉ ăn cháo trắng mà lành bệnh thì sao dối được. Lúc đó, Thừa tướng Ích Quốc Châu công là Tất Đại thấy việc lạ của ông bèn làm bài tán rằng: "Rực rỡ nhưng không cầu, kinh dị cũng không lo. Thương suy đồi sắp đến, nắm các thiện cùng hòa. Dắt dẫn nguồn nhân nghĩa, Dạy dỗ lấy vắng lặng làm vui. Đời biết ông có làm nhưng không biết vô vi ấy, trung đạo an nhiên, chỉ bày cho người chân giác." Ông Bật rất kính trọng không gì để báo ân bèn vẽ hình ông (Cư sĩ Long Thơ) mà thờ cúng và truyền khắp. Từ đó, xứ Lô Lăng nhà nhà đều thờ cúng ông. Chín năm sau, Hu Di Quân có Tín sĩ Nhiếp Duẫn Địch Khâm Công, cảnh hạnh siêu trác vượt hơn mọi người, muốn mãi mãi không hư hoại bèn khắc đá ở điện Di-đà để báo ân. Đến niên hiệu Khánh Nguyên thứ tư ở đất Việt có Chí Chánh Liễm Phán Tăng Công Tấn biết đời là hư huyễn, bèn ở nơi thanh tịnh kính mến chí của Long Thơ, Nguyện sinh về Tây. Có người anh ra làm quan nhặt được miếng đá này. Lại muốn mọi người tiến bộ, nhân đó lại khắc gỗ mà truyền khắp Giang Triết. Lòng dạy dỗ hướng thiện thật hợp cả trong ngoài với Vương quân. một hôm Tông Hiểu gõ cửa nhà ông mong được chỉ bày. Nhân đó góp nhặt đầu đuôi để truyền bá không để mất.

14. Truyện về Chu Như Nhất đời Đại Tống ở

Minh châu của Thiền sư Quất Châu Bảo

Đàm.

Trước đây tôi có qua nơi gọi là Đạo tràng Lahầu-la, đến Khởi Tín Đường thì có vị Tỳ-kheo bảo tôi rằng: Chùa có việc vui ông biết chăng? Tôi ngoái nhìn bốn gốc cây dưới nhà đáp: được năm không lạnh mặt mũi mình chẳng hề gì phải không? Tỳ-kheo nói không phải. Rồi dẫn tôi lên nhà sám hối đưa hộp kinh Diệu Liên Hoa bảy quyển thêu bằng chỉ màu. Tôi chắp tay khen ngợi chưa từng có. Vị Tỳ-kheo nói: Do vợ của Tiết Quân là đạo nhân Chu Thị pháp danh Như Nhất làm ra. Chu thị tức là cháu hai đời của hoàng hậu Khâm Thành trong cung Uyên Thánh. Từ khi về ở với họ Tiết thì bà xem đời như bùn sình. Nên hơn hai mươi tuổi liền bảo với chồng là thích chốn thanh tịnh, ăn chay mặc áo đạo. Có lần bà dùng lụa vàng sai kinh Sinh viết kinh ấy rồi thêu chỉ xanh, đường chỉ khít mượt bóng như nét vẽ mới khô mực trải qua mười năm mới xong, sau lại có bức thêu Di-đà, Quán Âm không khác tranh vẽ. Từ tên kinh kính lạy đến tám mươi bốn ngàn lạy, một câu một chữ phàm xướng lễ đều lễ ba lạy. Văn kinh Pháp Hoa có mấy muôn chữ, chỉ trong ba tháng là lạy xong. Xem kinh Hoa Nghiêm, Bát-nhã, Lăng Nghiêm, Viên Giác cũng có hơn mấy ngàn bài kệ. Từng khắc gỗ thành tranh khuyên người tụng kinh A-di-đà đục lỗ làm dấu hơn mười muôn câu mới hết số. Hơn hai mươi muôn người được giáo hóa. Đạo nhân mỗi sáng tụng kinh, đêm đêm lạy Phật không chút mỏi mệt, ý rất vui mừng. Cất nhà bên mộ, một gian thờ Phật, một gian để ngồi thiền, một gian để viết kinh. Có một tỳ nữ dâng cơm chay cùng chịu khổ nhọc mà sức đàn ông có người không làm nổi. Mùa xuân năm nay đổi hết hộp cũ (bán nữ trang) đủ cho ba ngày hội hội kẻ đạo người tục mấy muôn người, cúng dường cả ngàn bí-sô, làm cờ báu, chứa kinh Pháp Hoa và tên tuổi người đồng niệm Phật đưa về chùa. Trong ngoài thành đều rúng động, các vợ đại sĩ phu đều kinh sợ. Tháng 12 bị bệnh, thầy thuốc đem đơn sa dâng, đạo nhân không dậy. Trong lúc nằm nhắm mắt bỗng trổi dậy ngồi kiết già. Tiết Quân bảo: Nhà ta không có cách ấy bèn mời nằm xuống. Việc chôn cất theo nghi thức, đạo nhân nằm nghiêng hông phải mà mất, thọ ba mươi bảy tuổi vào ngày 11 tháng 12 niên hiệu Chiêu Hy thứ 4. Tôi nghe vị Tỳ-kheo nói mà bùi ngùi. Tôi biết việc này vì đời sau khuyến kính nên viết lời tán rằng.

Đạo nhân mặt như trăng rằm, ý chỉ sau cùng của Linh sơn, tâm hồi hướng Tịnh độ tha thiết tôi biết sẽ không trở lại thế gian. Lão Bàng Uẩn nói chẳng phải Thánh hiền rõ việc phàm phu. Lời nói này có ý tứ thay!

QUYỂN 4

Loại Tạp Văn (Ba mươi ba bài).

1. Duy-ma sớ: Chỉ rõ bốn thứ cõi Phật do Thiên Thai Trí Giả Đại sư giảng.

2. Quán kinh sớ: Nói Tông chỉ của bốn cõi Tịnh Độ.

3. Vạn Thiện Đồng Quy Tập: Chọn bày Tây phương của Thiền sư Trí Giác Diên Thọ.

4. Di-đà Thông Tán: Riêng khen Tây phương của Pháp sư Từ Ân Khuy Cơ.

5. Tịch Chiếu Tập: Chọn ra yếu nghĩa Tây phương, xuất xứ từ Trực Chỉ Tịnh độ Quyết Nghi tập.

6. Tây Tư Sa. Chọn bày riêng khen ngợi Tây phương của Pháp sư Lô Sơn Trí Viên.

7. Thư thỉnh Pháp sư Tứ Minh trụ lại thế gian của Văn Công Dương Ức.

8. Trả lời thư thỉnh trụ lại thế gian của Dương Văn Công của Pháp sư Tứ Minh Trí Lễ.

9. Đáp lời hỏi của Dương Văn Công của Pháp sư Tứ Minh Trí Lễ.

10. Sớ Diên Khánh khuyên mọi người niệm Phật của Pháp sư Tứ Minh Trí Lễ.

11. Vãng sinh Tịnh độ Quyết Nghi môn của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức.

12. Nghĩa Học Biên Luận Tịch Giải Phấn của Pháp sư Tịnh Giác Nhân Nhạc.

13. Giải đáp về tu nhân Tịnh độ của Pháp sư Tra Am Hữu Nghiêm.

14. Giải đáp về ma và Phật của Tịnh độ của Pháp sư Tra Am Hữu Nghiêm.

15. Nói về duy tâm Tịnh độ của Pháp sư Viên Biện Đạo Sâm.

16. Bài duy tâm Tịnh độ của Thiền sư Cô Tô Thủ Nột.

17. Nói về khuyên tu Tây phương của Pháp sư Giải Không Khả Quán.

18. Tịnh độ Lược Nhân của Đãi Chế Triều Thuyết Chi.

19. Các thuyết khác về Tịnh độ của Pháp sư Thảo Am Đạo Nhân.

20. Tịnh độ Tự Tín Lục Ký của Vô Công Tẩu Vương Điền.

21. Nói về chuyên tu và tạp tu Tịnh nghiệp của Tỳ-kheo Thiện Đạo ở kinh đô.

22. Luận rõ về Hoành xuất và Thụ xuất của Pháp sư Đồng Giang Trạch Anh.

23. Phép mười niệm buổi sáng của Thiên Trúc Sám Chủ Tuân Thức.

24. Phương pháp niệm Phật của Thiên Trúc Sám Chủ Tuân Thức

25. So sánh công đức niệm Phật của Thiên Trúc Sám Chủ Tuân Thức.

26. Pháp quán Thiền vãng sinh của Thiên Trúc Sám Chủ Tuân Thức.

27. Thuật niệm Phật tu tâm của Pháp sư Sơn Đường Ngạn Luân.

28. Luận Bảo Vương: Chọn bày nghĩa vãng sinh của Thiền sư Thảo Đường Phi Tích.

29. Niệm Phật phương tiện văn của Tư Gián Giang Công Vọng.

30. An tượng Phật A-di-đà ở viện Vô Thường, xuất xứ Vô Tân Đăng.

31. Lâm Chung Chánh Niệm Quyết của Tỳ-kheo Thiện Đạo ở kinh đô.

32. Khi sắp qua đời thỉnh tăng niệm Phật được cảm ứng xuất xứ trong Bảo Châu Tập.

33. Nhập Quán khi ngủ, phát nguyện thấy Phật, xuất xứ trong Đại Tạng Tập Chư Kinh Lễ Sám Nghi.

34. Khánh sáu lễ Phật hội sớ của Pháp sư Thảo Am Đạo Nhân.

1. Duy-ma kinh Sớ chỉ rõ bốn thứ cõi Phật do đại sư Thiên Thai Trí Giả Giảng:

Tướng các cõi Phật khác nhau vô lượng vô biên, ở đây nói sơ lược có bốn:

a. Cõi nhiễm tịnh, Phàm Thánh ở chung.

b. Cõi khác, người phương tiện ở.

c. Cõi quả báo, thuần là pháp thân ở.

d. Thường tịch quang, nơi bậc Diệu giác ở.

Hai thứ cõi trước thuộc về ứng là nơi ứng Phật ở, cõi thứ ba thuộc về ứng, vừa thuộc về báo, là nơi báo thân Phật ở. Cõi thứ tư chỉ thuộc về chân tịnh, chẳng thuộc ứng thân, chẳng thuộc báo thân, là nơi Pháp thân Phật ở.

- Cõi nhiễm tịnh: Có hai: Đồng cư uế và Phàm Thánh đồng cư.

Phàm Thánh đồng cư lại có hai loại:

- Phàm cư: Bốn đường, tức chúng sinh ác ở và cõi trời người tức chúng sinh thiện ở.

- Thánh cư: Bậc Thánh thật sự tức bốn quả Thanh văn, Bích-chi-Phật, Thông giáo cho là lục địa, Biệt giáo cho là Thập trụ, Viên giáo cho là sau Thập tín. Thông giáo cho là ở đây kiết hoặc đã hết nhưng báo thân vẫn còn. Quyền Thánh: Nơi Pháp thân Bồ-tát và Diệu giác Phật vì lợi ích kẻ có duyên mà ứng sinh Đồng cư, đều là quyền.

Đây là các Phương tiện độ, Thật báo độ và Tịch quang độ. Vì cùng kẻ phàm ở chung nên gọi là Phàm Thánh đồng cư. Cùng ở với bốn đường chúng sinh nên gọi là cõi uế. Cõi Đồng cư Tịnh độ là nước Vô Lượng Thọ, tuy có quả báo thù thắng khó thể ví dụ nhưng vẫn là cõi Phàm, Thánh, nhiễm tịnh đồng ở. Vì sao? Tuy có bốn đường chúng sinh nhưng có trời ngươi, vì kẻ sinh về đó chưa hẳn hoàn toàn là kẻ đắc đạo, kinh nói: Kẻ phạm trọng tội, khi lâm chung biết sám hối, niệm Phật thì nghiệp chướng chuyển đổi liền được vãng sinh. Nếu chỉ là nơi bậc Thánh sống thì kẻ phàm phu nguyện sinh về được. Nên biết, tuy đủ các thứ mê hoặc, nhiễm trước nhưng cũng được ở chung. Cõi các bậc Thánh quyền thật cũng vậy. Chỉ cần không có bốn đường ác thì gọi là tịnh. Hỏi cõi uế chiêu cảm mười điều ác, bốn đường y, chánh lại chợt khác biệt.

Đáp: Hai nơi tu nhân thiện tên gọi tuy đồng nhưng vì Tịnh độ tu nhân thiện tinh vi hơn nên y, chánh của Phàm Thánh khác hơn cõi uế.

- Cõi khác: Là nơi hàng Nhị thừa và ba loại Bồtát chứng đạo phương tiện ở. Vì sao? Nếu tu hai quán dứt hết các hoặc chung, hằng sa hoặc riêng vô minh chưa dứt hết, bỏ thân phần đoạn mà sinh cõi ngoài (ngoài ba cõi) nhận thân pháp tánh liền có chỗ ở của biến dịch thì gọi là cõi Hữu dư, cũng gọi là cõi Phương tiện, vì người hành phương tiện ở đấy. Cho nên luận Nhiếp Đại thừa nói bảy thứ sinh tử. Đây là phương tiện sinh tử thứ tư.

- Cõi Quả báo, tức là Hoa Tạng thuần Pháp thân các Bồ-tát ở đấy. Phá vô minh, hiển pháp tánh, được quả báo chân thật, mà vô minh chưa dứt, thấm nghiệp vô lậu nhận pháp tánh, Báo thân nên gọi là cõi Quả báo. Vì quán thật tướng phát chân vô lậu mà được quả báo nên gọi là thật, tu nhân vô định, sắc tâm vô ngại, cũng gọi là cõi Thật báo vô chướng ngại. Kinh Hoa Nghiêm nói thế giới Nhânđà-la Võng là đó.

- Cõi Thường tịnh quang là bậc Diệu Giác trí tột cùng chiếu ra lý Như như Pháp giới gọi là cõi nước, cũng gọi là cõi Pháp tánh, đều là Chân như Phật tánh. Không phải thân không phải cõi mà nói thân, cõi, lìa thân không có cõi, lìa cõi không có thân. Gọi cõi ấy là một pháp mà hai nghĩa. Ngài Phổ Hiền quán Tỳ-lô-giá-na trụ xứ gọi là Thường Tịch Quang.

Hỏi: Kinh Hoa Nghiêm nói mười thứ cõi Phật thì bốn thứ này có bao gồm hết chăng?

Đáp: Đâu chỉ nhiếp đủ mười, cho đến có người nói kinh viết hai mươi bảy thứ cõi Phật. Cõi Vô Lượng Thọ (Cực lạc) chỉ là cõi thứ sáu. Hiện bốn thứ nói trong văn này đều nhiếp hết tất cả.

Hỏi: Sao không y theo mười cõi và hai mươi bảy cõi?

Đáp: Có một văn xưa muốn mượn ý để đối với bốn giáo nên ý khó thấy.

2. Quán kinh sớ: Nói về tông chí của bốn cõi.

Kinh này lấy tâm quán tịnh thì cõi Phật tịnh làm tông chí. Bốn thứ cõi Phật là Phàm Thánh đồng cư độ, Phương tiện hữu dư độ, Thật báo vô chướng ngại độ và Thường tịch quang độ. Mỗi thứ đều có tịnh uế, năm trược khinh, trọng. Đồng cư uế, tịnh phân tích về thể có khéo, vụng: Hữu Dư tịnh, uế thứ lớp đốn nhập. Thật Báo tịnh, uế có phần chứng rốt ráo. Tịch Quang tịnh, uế cõi Ta-bà, tạp ác gai gốc, ngói đá, bất tịnh dẫy đầy là đồng cư uế; cõi An dưỡng thanh tịnh, ao nước tám đức, cây bày bảy báu, kế sau Nê-hoàn đều là nhóm chánh định, là cõi Phàm Thánh đồng cư thượng phẩm Tịnh độ vậy. Cõi Phương tiện hữu dư là nơi ở của người tu đạo Phương tiện, vì dứt bỏ bốn trụ hoặc nên gọi là Phương tiện. Vì vô minh chưa hết nên gọi là Hữu dư. Thích Luận có nói: Ra ngoài ba cõi thì có Tịnh độ. Thanh văn, Bích-chi-Phật sinh về đó, được thân pháp tánh, không phải phần đoạn sinh. Trong đó lại có lợi, độn, cõi trên là tịnh, cõi dưới là uế. Cõi Thật báo vô chướng ngại là thực hành pháp chân thật mà cảm được quả báo tốt, sắc tâm không ngại nhau, nên nói là vô chướng ngại, toàn là các Bồ-tát ở đấy, không có Nhị thừa. Kinh Nhân Vương nói: Tam Hiền mười Thánh ở quả Báo tức là nghĩa này. Kinh Hoa Nghiêm nói "Vô lượng hương vân đài" tức là năm trần diệu tịnh ở cõi ấy. Lại luận thứ lớp có đốn ngộ, thượng hạ uế tịnh...

Cõi Thường tịch quang: Thường tức là pháp thân, Tịch tức là giải thoát, Quang tức Bát-nhã, ba điểm này ngang dọc không khác nhau, đều gọi là Bí mật tạng, là chỗ ở của Đức Phật Như Lai là cõi tịnh, chân thường rốt ráo cực vị. Phần đắc, rốt ráo, trên dưới, uế tịnh... Cho nên tu tâm diệu quán thì cảm được Tịnh độ là tông chỉ của kinh.

Tứ Minh Diệu Tông giải thích rằng: Pháp Đại thừa là cốt yếu ở tâm. Tâm đầy đủ thì dễ biết, sắc đầy đủ thì khó hiểu, cho nên quán mình quán người đều tu tâm quán. Nay quán Tịnh độ phải cầu ở tâm. Vì tâm hay đầy đủ nên tâm có khả năng tạo tác, cho nên tâm cấu thì độ cấu, tâm tịnh thì độ tịnh. Đây cũng chỉ chung, chưa phải là đích luận ở một tâm đốn tu ba quán. Quán này là quán y chánh ở An dưỡng, rốt ráo thanh tịnh gọi là Tâm quán tịnh. Quán này có công năng khiến bốn cõi Phật thanh tịnh như thế mới là tông chí của kinh này. Năm thứ trược đầu nhẹ thuộc về đồng cư tịnh. Tịnh này rất chung cần biết ý riêng, như giới giữ tốt thì bốn giáo phàm vị đều có thể khiến năm trược nhẹ mỏng, cảm Đồng cư tịnh, Viên quán trược nhẹ cảm Đồng cư tịnh, y chánh rất thanh tịnh như kinh này nói: Quán đất trở đi, mỗi mỗi tướng trạng so với các kinh khác tu các hạnh lành cảm được cõi An dưỡng, tướng nó rất khác. Kinh này vốn do Vi-đềhy chán cõi Đồng cư uế mà cầu Đồng cư tịnh. Cho nên nói là diệu quán quán y chánh kia, nếu ba quán thành thì thô cấu hết trước, không phải hữu dư tịnh thì còn sinh nơi nào? Nên biết chính là sinh Đồng cư tịnh. Cho nên nói ba quán bởi do quán diệu dứt bỏ được ba hoặc, chẳng phải chỉ cảm được cõi Đồng cư tịnh. Mà tùy theo sự dứt hoặc sâu cạn tự nhiên cảm được ba thứ hữu dư v.v.. Như bệnh cần uống thuốc vốn để thân yên, nay cầu được thuốc tiên cần phải uống vào, không chỉ thân an mà được cả khinh cốt. Thân an thì dụ cho sinh Đồng cư tịnh, còn khinh cốt thì dụ cho cảm được ba cõi trên. Chỉ là thuốc hay công hiệu như thế, thì một diệu quán thanh tịnh được cả bốn cõi.

3. Vạn Thiện Đồng Quy Tập: Chọn bày Tây phương (Sáu lớp vấn đáp) của Thiền sư Trí Giác Diên Thọ.

Hỏi: Duy tâm Tịnh độ trùn khắp cả mười phương sao lại gá chất đài sen, gởi thân An dưỡng mà khởi niệm lấy, bỏ. Há thấu suốt pháp môn Vô sinh, tâm còn sinh ham, chán thì làm sao thành bình đẳng?

Đáp: Duy tâm Phật độ là hiểu rõ tâm mới sinh. Kinh cảnh giới không thể suy nghĩ bàn luận của Như Lai nói tất cả Đức Phật ba đời đều không thật có, chỉ y vào tâm mình, nếu Bồ-tát hiểu rõ được các Đức Phật và tất cả pháp đều do tâm lượng, được tùy thuận nhẫn, hoặc vào Sơ địa, bỏ thân liền sinh về cõi Phật Cực lạc. Cho nên biết rõ tâm mới sinh duy tâm Tịnh độ. Còn đắm cảnh chỉ rơi vào cảnh sở duyên. Đã biết rõ nhân quả không sai, thì biết ngoài tâm không pháp. Lại pháp môn bình đẳng, ý chỉ vô sinh, tuy liền ngưỡng giáo sinh tín, năng lực chưa đủ mà quán cạn, tâm phù động, cảnh mạnh, thói quen nặng thì phải sinh về cõi Phật để nhờ duyên tốt, nhẫn lực dễ thành, mau hành đạo Bồ-tát. Luận Khởi Tín nói: Chúng sinh mới học Pháp ấy muốn cầu chánh tín mà tâm khiếp nhược, vì ở cõi Ta-bà không thường gặp Phật, nên tín tâm khó thành, ý muốn lui sụt. Phải biết Như Lai có phương tiện hay, giữ gìn được tín tâm, đó là chuyên ý niệm Phật nhân duyên, tùy nguyện được sinh cõi Phật, thường được thấy Phật, xa lìa hẳn đường ác. Nếu người chuyên niệm Phật A-di-đà Tây phương thì liền được vãng sinh, thường được thấy Phật, cho nên không bao giờ lui sụt. Luận Vãng sinh nói người dạo chơi cửa địa ngục sinh lên cõi nước ấy được Vô sinh nhẫn, rồi trở lại cõi sinh tử mà giáo hóa cứu khổ chúng sinh trong địa ngục, do duyên cớ này mà cầu sinh Tịnh độ. Luận Thập Nghi nói: người trí hăng hái cầu sinh Tịnh độ, thấu rõ thể của sinh không thật có thì liền là chân vô sinh. Đây gọi là tâm tịnh nên cõi Phật tịnh. Còn người ngu bị sinh ràng buộc nên khi nghe sinh liền cho là có sinh, nghe không sinh liền cho là không sinh, mà chẳng biết sinh tức là không sinh, không sinh tức là sinh. Chẳng hiểu rõ lý này nên bị vướng phải thị phi, phải quấy. Đây là người tà kiến chê bai pháp vậy.

Hỏi: Cả một đời thói quen tội ác chất đầy, làm sao khi sắp qua đời mười niệm liền sinh ngay được?

Đáp: Kinh Na-tiên nói: Quốc vương hỏi Samôn Na-tiên rằng: Người ở thế gian làm ác đến trăm tuổi, khi qua đời niệm Phật thì được sinh về cõi nước Phật, ta không tin điều ấy. Na-tiên thưa: như đem tảng đá nặng để trên sông, nhờ có thuyền nên không chìm. Còn người tuy có gốc ác nhưng lúc niệm Phật thì chẳng vào địa ngục. Viên đá nhỏ mà chìm thì cũng như người làm ác mà không biết niệm Phật thì liền phải vào địa ngục. Lại, Trí Luận có hỏi rằng: Khi sắp chết, tâm trong một thời gian quá ngắn làm sao thắng được việc làm ác trọn đời? Đáp: Tâm này tuy trong một thời gian ngắn nhưng rất mạnh mẽ quyết liệt như lửa, thuốc độc tuy ít nhỏ mà làm ra việc lớn. Tâm khi sắp chết quyết là dũng mãnh cho nên hơn cả gắng sức làm suốt trăm năm. Hậu tâm ấy gọi là đại tâm và các căn trong lúc gấp, như người vào trận chẳng tiếc thân mạng nên gọi là mạnh mẽ. Cho nên biết thiện ác không định, thể của nhân duyên là không, dấu vết có lên xuống, việc phân ra hơn kém. Như vàng ròng một lượng thì hơn cả trăm lượng bông khô, một đốm lửa nhỏ đốt cháy tan cả đám cỏ muôn nhận.

Hỏi: Ngoài tâm không có pháp, Phật chẳng tới lui sao có việc thấy Phật đến rước?

Đáp: Duy tâm niệm Phật. Dùng duy tâm mà quán khắp cả muôn pháp. Đã hiểu rõ cảnh chỉ là tâm, hiểu rõ tâm tức là Phật, cho nên hễ tâm niệm chỗ nào thì đều là Phật cả. Kinh Ban-chu nói: Như người nằm mộng thấy bảy báu, bà con vui vẻ. Khi thức dậy rồi thì tìm nhớ chẳng biết là ở đâu. Niệm Phật cũng thế, đây là dụ chỉ do tâm làm tức có mà không, cho nên không có tới lui. Lại như huyễn không thật thì tâm và Phật cả hai đều mất. Đều là huyễn tướng thì không hư hoại tâm và Phật, và hữu không vô ngại, thì không tới lui, chẳng ngại thấy khắp. Thấy tức không thấy, thường hợp với trung đạo. Do đó Phật thật chẳng đến, tâm cũng chẳng đi, đường cảm ứng giao nhau chỉ tâm tự thấy. Như chúng sinh gây ra tội thì chiêu cảm ra tướng địa ngục. Luận Duy Thức nói: Tất cả như ở địa ngục cùng thấy có ngục tốt... các việc hành hạ khổ đau, đều là tâm nghiệp ác của người tội hiện ra. Không phải ngoài tâm mà thật có chó đồng, rắn sắt v.v… Ở thế gian tất cả các việc cũng giống như thế. Tất cả đều có đủ cõi Phật Giá-na, không hạn cục ở Đông, Tây. Nếu hiểu đúng đắn rõ ràng như thế thì các thói quen nhiều đời đều hết, lý lượng cùng thân.

Hỏi: Bàng Cư sĩ nói: Về mặt sự thì nói cõi nước

Phật cách đây mười muôn dặm, biển lớn mênh mông vô biên hễ động thì nổi gió, người đi tuy ngàn muôn nhưng kẻ đến chẳng được một, hai. Bỗng gặp người xưa nay chẳng ở nhân duyên làm sao thông hiểu mà chứng vãng sinh?

Đáp: Nếu nêu tông khảo thì còn không nói có Phật có cõi, há nói là đến hay không đến. Cho nên thiên chân sẵn có, không nhờ nhân duyên, chẳng động mảy lông, thường ngầm thấy được chân thể. Nếu nói về sự thì chẳng phải có một thứ chín phẩm vãng sinh, trên dưới đều đến (đạt). hoặc du hóa ở các cõi nước mà thấy Ứng thân Phật, hoặc sinh Báo độ mà thấy chân thể Phật, hoặc chỉ một tối mà lên Thượng địa, hoặc trải qua nhiều kiếp mới chứng Tiểu thừa, hoặc độn căn, lợi căn, hoặc định ý, tán ý, hoặc ngộ mau chậm, căn cơ khác nhau hoặc hoa nở sớm muộn, thời hạn có khác, xưa nay có ghi chép đủ. Phàm Thánh đều sinh, hạnh tướng rõ ràng, chứng nghiệm thấy Phật, tiếng Phạm âm chẳng dối gạt người, kinh khen ngợi Tịnh độ nói: "Hằng hà sa số các Đức Phật ở mười phương phát ra tướng lưỡi rộng dài che khắp cả đại thiên" chứng nghiệm có vãng sinh đâu phải là nói dối.

Hỏi: Kinh Duy-ma-cật nói: Đầy đủ tám pháp, ở thế giới này hành không sai sót sẽ sinh Tịnh độ, những gì là tám? Một là làm lợi ích chúng sinh mà không mong báo đền, thay thế tất cả chúng sinh chịu các khổ não. Làm các công đức đều đem cho hết. Bình đẳng tâm đối với chúng sinh, khiêm tốn vô ngại. Đối với các Bồ-tát đều xem như Phật, các kinh chưa nghe đều nghe không nghi ngờ, không trái với Thanh văn, cũng không ganh ghét về lợi dưỡng. Ở trong đó điều phục tâm mình, luôn xét lỗi mình, không nói lỗi người khác. Luôn một lòng cầu các công đức.

Hỏi: Vì sao người hành kém, thiện ít mà được vãng sinh?

Đáp: Theo lý thì cần phải đầy đủ. Đây thuộc hàng đại căn, tám pháp không sai sót, thành tựu bậc Thượng phẩm, còn bậc Trung hạ chỉ có đầy đủ một pháp, quyết chí không dời đổi cũng được Hạ phẩm. Hỏi: Kinh Quán nói mười sáu pháp quán đều là nhiếp tâm tu định, quán tướng tốt của Phật, hiểu chắc đế lý mới sinh cõi Tịnh, thì làm sao tán tâm mà được vãng sinh?

Đáp: Văn kinh nói chín phẩm có lên xuống, trên dưới thâu gồm không ngoài hai tâm:

1. Định tâm như tu định, tu quán thì vãng sinh Thượng phẩm.

2. Chuyên tâm chỉ niệm danh hiệu, huân tập các điều lành đều hồi hướng phát nguyện thì được thành phẩm cuối. Nếu cả một đời đến chết quy mạng tinh tu, trong lúc ngồi nằm đều xây mặt về hướng Tây, hành đạo kính lễ. Khi niệm Phật phát nguyện thì chí thành khẩn thiết không có các niệm khác. Như đang lúc bị hành hình, bị giam trong tù ngục, bị giặc cướp đuổi gấp, bị nước lửa ép ngặt... mà một lòng cầu cứu nguyện thoát vòng khổ, được mau chứng Vô sinh, rộng độ chúng sinh, nối thạnh Tam bảo, thề báo đáp bốn ân. Như thế mà chí thành thì sẽ không luống uổng. Nếu như lời nói việc làm không ăn khớp, tín lực yếu kém không niệm niệm nối nhau, luôn có ý bỏ, đặc biệt biếng lười. thì khi qua đời mong sinh, ắt bị nghiệp chướng ngăn cản, sợ khó gặp được bạn lành, bị gió lửa bức bách, chánh niệm không thành. Vì sao thế, vì như nay là nhân, khi lâm chung là quả. Nếu tu nhân thật thì quả mới không dối. Tiếng hòa thì vang thuận, hình ngay thì bóng thẳng. Chủ yếu khi qua đời đầy đủ mười niệm, phải lo trước bến cầu, chứa góp công đức. Bây giờ niệm niệm không thiếu thì chẳng còn lo lắng gì. Phàm thiện, ác hai dòng, khổ, vui hai báo đều do ba nghiệp làm ra, bốn duyên tạo thành, sáu nhân gây nên, năm quả nhiếp nhau. Nếu một niệm tâm tức giận, tà dâm thì tức là nghiệp địa ngục; nếu san tham không thật tức là nghiệp ngạ quỷ, nếu ngu si tối tăm tức là nghiệp súc sinh. Ngã mạn cống cao tức là nghiệp Tu-la. Giữ vững năm giới tức là nghiệp người. Tinh tu mười điều lành tức là nghiệp trời. Chứng ngộ nhân không tức là nghiệp Thanh văn. Biết duyên tánh lìa tức là nghiệp Duyên giác. Sáu độ đều tu tức là nghiệp Bồtát. Chân từ bình đẳng tức là nghiệp Phật. Nếu tâm tịnh thì đài hương, cây báu cõi Tịnh hóa sinh. Nếu tâm cấu thì gò, đồi, ham, hố uế độ thác chất. Đều là quả Đẳng luân, chiêu cảm được duyên tăng thượng. Ấy là lìa nguồn tự tâm thì chẳng có tự thể riêng. Kinh Duy-ma nói: Muốn được cõi Tịnh độ thì phải tịnh tâm mình, hễ tâm mình tịnh thì cõi Phật liền tịnh. Lại kinh nói: Tâm cấu nên chúng sinh cấu, tâm tịnh nên chúng sinh tịnh. Kinh Hoa Nghiêm nói: Ví như báu tâm vương, tùy tâm mà thấy chúng sinh, vì tâm chúng sinh tịnh nên được thấy cõi thanh tịnh. Kinh Đại Tập chép muốn tịnh cõi ông chỉ nên tịnh tâm ông. Cho nên biết tất cả trở về tâm, muôn pháp do ngã, muốn được quả tịnh chỉ nên gây nhân tịnh. Như tánh nước chảy xuống, tánh lửa bốc lên. Thế số như thế còn có nghi gì.

4. Di-đà Thông Tán: Chỉ bày yếu nghĩa Tây phương của Pháp sư Từ Ân Khuy Cơ.

Hỏi: Cõi Phật khắp mười phương vui sướng đều đồng nhau, sao chỉ riêng Tây phương khuyên người sinh lên đó?

Đáp: Bởi vì phàm phu nghiệp nặng nơi nơi sinh tham đắm. Nếu không chỉ riêng một phương thì sẽ không buộc tâm chuyên chú. Do đó, kinh Pháp Hoa nói: Chúng sinh nơi nơi đều mê đắm nên dẫn dắt khiến thoát ra. Lại giáo chủ Tịnh độ Tây phương thù thắng, có nguyện rộng lớn mạnh mẽ, khuyên khắp vãng sinh, mau thành quả Thánh nên phải chỉ riêng một phương.

Hỏi: Tầng trời của Từ Thị vui sướng không ít, bạn lành lại đông thì cần gì khuyên cầu sinh Tây phương?

Đáp: Nếu luận về Đâu-suất thì hơn cõi nhân gian nhưng so với Tây phương thì rất thua kém. Nên khuyên sinh Tây phương là bỏ kém tìm hơn. Về hơn kém thì Tịnh độ có mười hơn, cõi trời có mười kém. Mười hơn của Tịnh độ là:

1. Nơi Hóa chủ ở.

2. Người được hóa sinh sống lâu hơn.

3. Cõi nước không bị ba cõi ràng buộc.

4. Cõi tịnh không có dục.

5. Không có người nữ.

6. Tu hành không lui sụt.

7. Cõi tịnh không uế.

8. Cõi nước trang nghiêm.

9. Niệm Phật nhiếp căn.

10. Mười niệm vãng sinh. Mười kém của cõi trời là:

1. Cõi nước chỗ ở kém.

2. Người được hóa sinh mạng sống ngắn.

3. Cõi nước phải lệ thuộc ba cõi.

4. Cõi ấy có dục.

5. Nam nữ ở chung.

6. Tu hành có lui sụt.

7. Cõi uế không tịnh.

8. Cõi nước không trang nghiêm.

9. Niệm thiện nhiếp tình.

10, Tu hành cực khổ.

Vì có mười hơn, mười kém nên khuyên sinh Lạc quốc.

Hỏi: Chúng sinh cõi nước ấy không có các điều khổ, chỉ hưởng các điều vui. Vì sao không có các khổ?

Đáp: Chúng sinh cõi nước ấy hóa sinh trong hoa sen nên không có khổ sinh. Bốn mùa không đổi nên không có khổ chết. Không còn bị thân phần đoạn nên không có khổ bệnh. Tuổi thọ không hết nên không có khổ chết. Không có cha, mẹ, thân, sơ nên không có khổ ghét mà gặp nhau. Muốn gì đều được như ý nên không có khổ cầu không được. Dung mạo xinh đẹp nên không có khổ các căn bị thiếu. Bốn mùa như một nên không có khổ lạnh, nóng. Thế giới Ta-bà có hình xác hữu lậu, bốn rắn đuổi thân, ba rồng hại mạng, gây bao khổ não. Báo hết thì chết đến, có thương ắt lìa, không oán thì chẳng gặp. Nếu mê lý này thì phải chịu các ấm trói buộc. Nay thương cứu mọi người khỏi hẳn không bị các thứ này cho nên nói không có các khổ, đâu phải chỉ gần chết mới lìa các khổ, trong khi quả mầu lại chẳng còn xa.

Hỏi: Khi sắp chết làm điều lành liền được vãng sinh, đâu cần tu trước các nghiệp lành?

Đáp: Người đời thọ yểu khó lường, hoặc bị bệnh liền hôn mê, hoặc chết tốt không đúng lúc. Đã thiếu các điều lành thuở sinh tiền thì khó tránh các nạn đời sau, làm trước các duyên lành để đề phòng lỗi này.

Hỏi: Mười niệm Di-đà liền sinh Tịnh độ, căn cứ vào lời nói này thì quả nhiều, nhân ít. Sao kinh Di-đà lại nói không thể với chút ít nhân duyên phước đức gốc lành mà được sinh về cõi ấy?

Đáp: Mười niệm được sinh là để dắt dẫn chúng sinh biếng lười từ kiếp trước có nhiều nhân duyên lành và đã tinh cần, có khi nói rộng, có khi nói tóm lược, lý chẳng trái nhau.

Hỏi: Người vãng sinh có thân trung hữu không?

Đáp: Trong luận Quần Nghi có hai thuyết:

a. Cực thiện cực ác thì không có thân trung hữu.

b. Không cần thiện hay ác chỉ bỏ báo thân mà thọ sinh thì đều có thân trung hữu. Vì truyền thức cho nên chỉ trừ biến thân hiện đời không có trung hữu, ở đây nói có là đúng.

5. Tịch Chiếu Tập: Chọn ra yếu nghĩa Tây phương.

(Văn này không biết của sư nào soạn, chỉ thấy xuất xứ từ Trực Chỉ Tịnh độ Quyết Nghi Tập).

Hỏi: Ngài Từ Ân soạn Di-lặc Thượng Sinh kinh sớ rất khen nội viện Đâu-suất, bảo rằng: cõi trời có mười điều dễ sinh, Tịnh độ có bảy điều khó sinh. Thánh sư nói ra ắt không hề gạt người, chẳng hay phải hiểu thế nào?

Đáp: Ông chỉ biết Từ Ân soạn Thượng Sinh sớ khuyên nên sinh cõi trời mà không biết Di-đà Thông Tán nói Tịnh độ có mười việc hơn, việc Thánh sư soạn ra có trái nhau chăng? Bởi diễn giáo tùy cơ mà bày phương tiện. Ở đây cùng với Như Lai nói trong kinh Di-đà và Vô Lượng Thọ v.v… đều khuyên sinh Tây phương. Lại nói kinh Di-lặc Thượng Sinh khuyên sinh nội viện thì ý thú phải đồng nhất, còn cơ duyên chúng sinh mỗi người đều khác nhau nên cõi Phật nhiếp thọ cũng thế. Ví như có người sinh ở phía Nam nơi có nhiều thuyền bè, muốn đi Ngô Việt bèn chuẩn bị đồ đạc hỏi đường... Người biết đường thì đáp lời hỏi, há lại khen việc đi đường bộ tiện lợi, khen ngợi sự hưng thạnh hành ở Tần, Thục ư? Như thế thì chỉ thêm rối loạn, lợi ích không thành. Kẻ thông suốt thì tùy nguyện mà biết về, người thấy cạn sẽ nghi ngờ mà cưỡng sinh Hồ, Việt.

Hỏi: Ở cõi trời sống lâu đủ để tu hành, trong cõi người chứa góp nhiều điều lành thì cũng tự siêu việt, còn như ba đường ác A-tu-la, rồng, quỷ chính nên cứu khổ lợi sinh, sao lại chỉ biết có Cực lạc?

Đáp: Các tầng trời cõi Dục đam mê diệu lạc, say đắm tửu dục, phước hết liền đọa như tên bắn. Các tầng trời cõi Sắc tuy đi một mình không giao tiếp nhưng chưa hết các khổ của thân. Trời Vô Sắc cũng không ra khỏi luân hồi, trong kinh xếp vào loại nạn. Truyền Đại sĩ cho rằng sống đến tám mươi kiếp cuối cùng rồi cũng rơi vào không. Lại có một loại thần tiên sống đến ngàn muôn tuổi. Kinh Lăng-nghiêm gọi là tinh nghiên bảy thú, đều là hôn trầm các tướng hữu vi, vọng tưởng thọ sinh, trải qua vô lượng kiếp chẳng được chân tịnh. Tu-la giận dữ, cõi rồng sợ sệt, loài quỷ tối tăm, ba đường khổ não khó thể nói hết. Nghĩ xa trên cõi trời có năm suy, gần thấy nhân gian có bốn tướng, ai có trí mà thích vào biển khổ? Nếu cầu mau thoát khỏi luân hồi, thì không gì hơn cầu sinh Tịnh độ. Người sinh Tịnh độ tự nhiên thân quang sáng rực, đủ sáu thần thông, làm bạn với Thánh chúng. Trong một sát-na vượt khỏi ba cõi mà thường vui. Nên Phật nói cõi nước Vô Lượng Thọ vui sướng vô cực, hòa hợp lâu dài cùng đạo đức, dứt bặt cội gốc sinh tử.

Hỏi: Thấy tánh ngộ đạo liền thoát khỏi sinh tử, đâu cần phải niệm Phật cầu sinh?

Đáp: Thông suốt và mê muội tâm người Thánh, phàm sao lường được, trừ phi biết khắp, được thọ ký rất khó. Người chân tu hành nên tự xét. Này nhân giả, ông nên tự xét mình có thấy tánh ngộ đạo được vào địa vị bậc thầy bằng Mã Minh, Long Thọ chăng? Được đại Tam-muội có bằng Nam Nhạc Trí Giả chăng? Tông Thuyết đều thông có bằng Thọ Thiền sư, Trung Quốc sư chăng? Các sư trên đều là các bậc sáng suốt, ngôn giáo sâu xa nhưng đều khuyên cầu sinh về Tây phương, há lại lừa dối người ư? Huống chi từ kim khẩu của Phật khen ngợi rành rành. Các bậc Hiền xưa đều kính trọng vâng theo lời Phật dạy chắc chắn không sai lầm. Lại tự so sức mình khi qua đời có tự tại chăng, các nghiệp ác từ vô thỉ chẳng hiện ra chăng? Khi bỏ báo thân này có chắc chắn thoát luân hồi chăng? Ba đường hiểm nạn có được ra vào tự do chăng? Trên trời, nhân gian, thế giới mười phương có thác sinh vô ngại chăng? Nếu được như thế thì may mắn thay. Nếu chưa được như thế chớ nên cống cao mà chẳng tu Tịnh độ.

Hỏi: Lục Tổ Đàn kinh chép: Phàm ngu chẳng hiểu tự tánh chẳng biết Tây phương ở trong thân lại cầu đây, kia. Người giác ngộ cùng ở một chỗ. Ngài Chí Công nói: Người trí biết tâm là Phật, kẻ ngu thích đến Tây phương, nếu đạo này quả là chân chánh thì cớ gì hai vị Đại sĩ lại bài bác, khiển trách? Đáp: Phật nói pháp có ẩn, hiển, giáo có quyền, thật, căn cơ người có lợi, độn, Tông sư có hạ thấp, đề cao. Ví như bệnh khác nhau thì thuốc thang phải khác. Nay có người bệnh khác phát da vàng sinh điên loạn.

Có người giỏi thuốc sẽ lấy thuốc hàn mà trị, đâu thể không khen nhũ thạch, quế phụ có công năng trừ hàn mà phế bỏ công năng của nó? Có kẻ thiên kiến nghe thuốc hàn có công trị nhiệt, bèn nói nhũ thạch, quế phụ vĩnh viễn không thể dùng, há chẳng lầm ư? Đức Đạt-ma riêng truyền tâm ấn, ngài Chí Công ngầm giúp Đại thừa. Người đương thời còn chưa tin, đâu thể lại bỏ dạy người niệm Phật cầu sinh Tịnh độ, kẻ viên cơ đạt sĩ cố nhiên tự không nghi. Kẻ cầu pháp sơ tâm chắc chắn sinh do dự. Chỉ nên được ý mà quên lời, dung thông hiểu rõ thì không còn mâu thuẫn nữa.

6. Tây Tư Sao: Chọn bày riêng khen ngợi Tây phương của Pháp sư Lô Sơn Trí Viên.

Cầu sinh Tịnh độ là nhờ tha lực. Đức Di-đà nguyện nhiếp, Đức Thích-ca khuyên khen, các Đức Phật che chở, ba thứ ấy đầy đủ, nếu người có tín tâm thì vãng sinh rất dễ, cũng như qua biển lớn mà có thuyền to, có người dẫn đường giỏi, lại thêm thuận gió thì sẽ nhanh chóng đến bờ kia. Nếu chẳng chịu lên thuyền mà ở mãi nơi nước dữ thì lỗi về ai? Trong mười phương đều có Tịnh độ, Đức Thích-ca trong các kinh cũng ngợi khen mà người tu hành đời mạt pháp cũng ưa thích cầu sinh nước Cực lạc, nguyện về cung trời Tri Túc. Há không phải Di-đà và Thích-ca hóa đạo có liên quan nhau, Di-lặc là Bổ xứ của Thích-ca. Do đó, chúng sinh nguyện thích rất đông, người ít hoặc lậu khá nhiều.

Người đời sau biết cạn, không thể gia thêm công hạnh, chỉ luống cùng nhau bài bác người ưa thích Tịnh độ. Hoặc người khinh tri túc, tôn sùng nội viện thì chê bai Tây phương kia, đâu biết Hấp môn và Dẫn môn cùng về một nẻo. Xin khuyên kẻ hậu học phải tự suy nghĩ.

Có kẻ hỏi: Trí giả và Từ Ân đều là Thánh sư mà đều chỉ khen một phương, sa ông không chịu?

Đáp: Thánh sư chỉ khen một phương, ý dẫn khắp thích khiến cho tâm quyết định mà thôi. Cho nên người được lợi ích rất đông. Nhưng đời biến, người bạc đến nỗi riêng khen thành tệ. Cho nên tôi lại dung hòa để dứt tranh cãi mà được lợi ích, sở thích của mình mà cầu sinh thì hoặc ở đời sau lại cho dung hòa là một điều tệ hại. Lại mong các bậc Hiền điều khiển thế gian chỉ khen mà cứu cho. Tùy bệnh cho thuốc, cốt làm lợi ích chúng sinh mà thôi. Từ lúc bé tôi đã tụng kinh này tuy tưởng khắp mười phương mà cuối cùng hẹn tâm ở Tịnh độ. Bèn biết Di-đà rất có duyên với người đời. Có người nói pháp giới trọn đồng nhau, ai chia kia đây, Duy tâm nhất quán đâu cần lui tới. Nay bảo người đời có người hiểu như thế thì phải chọn chúng tốt mà nương, danh sư mà thân, mặc áo đẹp, ăn cơm ngon. Nếu bốn thứ ấy không ngại thì pháp giới vốn đồng, duy tâm nhất quán thì ngại gì dắt dẫn tịnh chúng ở Cực lạc, gần gũi danh sư Di-đà, mặc thiên y diệu thượng, ăn thức ngon Thuần-đà, há chẳng hơn ở cõi này ư? Lại có người nghe nói cách mười muôn ức cõi Phật thì nhìn đường mà sợ xa người vãng sinh phần nhiều là Bổ sứ thì sợ mình không kịp. Đâu biết hư không giới mười phương đều là tâm mình. Tâm tịnh thì mười muôn ức chẳng xa, tâm cấu thì chớp mắt cũng xa. Chỉ cần tâm tịnh lo gì đường xa. Sao chẳng nghĩ trong mộng chỉ thời gian ngắn là đi xa ngàn dặm, đâu thể đem thời gian thường ngày mà so sánh! Lại há chẳng nghe kinh Thủ-lăng-nghiêm nói: hư không mười phương sinh trong tâm ông cũng như áng mây trên bầu trời cao, huống là các thế giới ở trong hư không ư? Nay nếu sợ đường xa là sợ tâm mình chứ chẳng sợ đường. Lại nếu bảo ta là kẻ hạ phàm mà ở đó có nhiều Bổ xứ, chỉ tự tâm mình tức Phật, nhân quả lý đồng, nhưng ở đây là cõi uế ác, có mạng sống ngắn ngủi mà chỉ một đời thì vượt lên mười Địa, còn ở cõi ấy thì thanh tịnh lại sống lâu vô lượng. Đã cảnh đẹp, thời gian lâu dài thì lo gì chẳng đến Bổ xứ. Rất mong người trí lắng lòng suy nghĩ để khỏi phụ ân Phật Tổ, không coi thường mình. Hãy cố gắng, cố gắng!

7. Thơ Thỉnh Pháp Sư Tứ Minh trụ lại thế gian của Văn Công Dương Ức.

Tôi xin thưa, gần đây nghe Đại sư có hẹn kết xã với mười vị Tăng vào sám lễ trong ba năm, sau đó sẽ quyết nhận lấy Tịnh độ mà vãng sinh. Thân thấy đốn không, nguyện lực thật rộng lớn mạnh mẽ. Lên tuyệt chín phẩm hoa, sau nghe pháp âm cây báu. Việc này không phải luống không, Phật trước đã chứng biết. Nhưng con niệm liên tục tha thiết có nguyện tâm thành kính thưa: Đại sư vốn thông suốt chỉ quy ba quán, được bốn chúng kính ngưỡng. Hãy là người nối tiếp tuệ mạng của Thiên Thai mở rộng độ môn nhiệm mầu. Dùng mười điều lành dạy người, cuối cùng chỉ còn bạch nghiệp, một âm thanh giúp giáo, giảng rộng lời vàng (lời Phật) bóng Từ che khắp, đạo phong thấm hòa. Nhưng cõi Cực lạc là do đấng Giác Hoàng phương tiện quyền bày, mà thân đại hoạn thì người trí không ưa thích. Nhưng nếu còn ham chán thì sẽ khởi yêu ghét, đã có tâm lấy bỏ thì liền sinh cái chấp có sở năng. Rất mong Sư thông ngộ đã rốt ráo chân thường hãy thương kẻ sơ cơ mà khuyên gắng về tịnh hạnh. Lại mong theo ân chiếu mà mở rộng ruộng phước, kéo dài tuổi thọ, khôi phục lại hóa duyên. Vẫn mong sám kỳ đã xong thì sẽ nương theo dấu pháp, ngỏ hầu bắt chước Thuần-đà kính dâng lần sau cuối, nguyện cùng mừng rỡ tâm cởi bỏ cấu trần. Mong ngài chớ sớm tịch diệt, xin hãy thương xót nhận lời. Kính xin đáp lời, con nguyện lắng lòng nghe kỹ.

Trả lời thư của Dương Văn Công thỉnh trụ lại thế gian của Pháp sư Tứ Minh Tri Lễ.

Tôi trân trọng theo Sám Giảng của Bổn Tông giáo quán mà kính đáp Bí-giám Đại Đàn-việt. Tri Lễ tôi đội ân lời thật khuyên tôi sám lễ xong sẽ ở lại diễn giảng, vâng hành theo tôn ý mà sửa lại nguyện xưa. Nhưng vì chuyên thành môn này đã lâu, chí hèn thật khó thể đổi dời. Huống là dịp may khó gặp, việc tốt dễ qua cho nên muốn gác lại tâm xưa thì quả chẳng thể vâng theo nghiêm mạng. Vì như việc truyền Pháp công đức lợi người là việc lợi ích của thân này nên chọn Tịnh độ là nơi giáo hóa. Ngài nói Tri Lễ tôi thông suốt chỉ quy ba quán là lời nói quá. Lại bảo Cực lạc là do bày quyền, người tu đạo phải quên bỏ ưa chán, thành thật thay lời nói ấy. Nay Tri Lễ tôi ưa thích Tịnh độ, chán ghét thân bệnh hoạn cũng có lý do sẽ trình bày sau. Dẫu một tâm ba quán không thấu suốt nào dám chẳng tựa nương? Tri Lễ tôi hơn bốn mươi năm tìm học khi thần căn đã độn thì không do đâu mà chứng nhập, ở chỗ then cửa làm ra thời gian trôi qua cũng khá lâu, cũng nói sơ qua để biết rõ. Nay mong được hồi âm nên khó im tiếng, bày tỏ ngọn ngành mong xét cho. Nói về ba quán là một niệm tức không, tức giả, tức trung. Mở bày sửa mình ở diệu ngộ Như Lai. Gần đây do ngài Trí Giả chỉ ra. Toàn cho tánh phát, thật chẳng phải tu thành. Cho nên ở một tâm rõ ràng có ba dụng. Nói không là tất cả đều không, tức ba quán đều bày cái dụng phá tướng. Nói giả là tất cả đều giả, tức ba quán đều nói cái công lập pháp. Nói trung thì tất cả đều trung, tức ba quán đều là thể dứt bặt đối đãi. Ấy thì cả ngày phá tướng mà các pháp đều thành, cả ngày lập pháp mà mảy may đều dứt, cả ngày dứt bặt mà hai đế rõ ràng. Thế nên, Bát-nhã nói không mà tám mươi pháp môn hiển rõ, Duy-ma lập Pháp mà kiến ái ba cõi đều tiêu. Pháp Hoa nêu tướng Nhất thừa thế gian thường trụ là đều do ba quán tương tức mà khiến các pháp không trái nhau. Cho nên ba tức chẳng phải ba, mà một tức chẳng phải một. Chẳng phải thứ lớp mà vào, chẳng phải cùng khác mà quán, chẳng thể lấy có không mà tìm, chẳng thể lấy giữa bên mà nhận. Cho nên nói chẳng cùng chẳng khác chẳng dọc chẳng ngang. Bởi ba-một đều viên dung, tu và tánh ngầm mất. Há thức tâm có thể tìm, lời nào có thể nói.

Cho nên gượng nói là diệu quán không thể suy nghĩ nói năng. Nói tức chẳng nói, không nói mà nói. Có thể biết đây đối với tất cả cảnh lấy đây mà quán chiếu rõ ràng, lập tất cả hạnh thì lấy quán này để dắt dẫn đạt đến. Làm tất cả việc thì lấy quán này mà thành tựu. Bày tất cả giáo thì lấy quán này mà xiển dương. Người tu quán này thì năng sở đều quên, lấy, bỏ đều mất. Cho nên chân như vô niệm thì tâm dứt, cả ngày nói bày mà chẳng khác không nói. Bỏ đây thì đồng với các ma, lìa đây thì chưa vượt các ngoại đạo. Cho nên Long Thọ nói trừ thật tướng các pháp, các thứ khác đều là việc ma. Ngài Ca-diếp nói: Trước khi nghe Đại Niết-bàn đều là tà kiến. Lớn lao thay diệu tông một tâm ba quán. Cho nên Tri Lễ tôi cầu về An dưỡng mà sinh, chỗ muốn đốt cháy hết mà chết, nương ba quán này để dứt trăm lỗi. Nói cõi Cực lạc là đấng Giác hoàng bày quyền, là kinh luận đã lấy giáo Tịnh độ làm phương tiện tốt, Nghiệm biết là Như Lai khéo dùng quyền. Nhưng danh từ quyền không hạn cục, thật lý cũng thông điều này, cần phân biệt. Mới biết lấy bỏ cái quyền ngoài thể thì phải phá, phương tiện trong thể cần phải tu, lý lìa sự thì thô, thật tức quyền mới diệu. Cho nên Tiểu thừa không nói Phật khác, Đại giáo thì có nói về biển cõi. Bởi tâm tánh cùng khắp mà không ngoài pháp giới. Lý tột cùng nên khiến sự rộng, hoa lớn nên mở rộng ao sâu viếng cõi, như mành lưới trời Đế Thích xuất hiện, lớp lớp vô tận mới hiển bày lý tịch quang, thân loại, tiệc trời chiêu cảm quả báo các thứ khác nhau là biểu thị tánh Giá-na. lẽ nào nên Cực lạc chẳng liên quan. Duy tâm, nên trong Như Lai tạng Niết-bàn đầy đủ, tùy duyên mà phát hiện. Nên lường xét mà biết. Đã bày được địa ngục, cõi trời há chẳng tạo uế bang, tịnh quốc. Bổn tánh tuy đầy đủ do tâm phát sáng. Di-đà dùng Vô duyên từ nhận lấy cõi Cực lạc. Thích-ca bày lạc thuyết mà chỉ môn vãng sinh. Đây đều là quyền phương khéo léo nhiếp độ kẻ đắm chìm. Nay kẻ sợ lui sụt sẽ không lui sụt khiến người không giỏi quán thì quán được. Tịnh độ, quyền tướng khá nhiều nay chỉ lược nói sơ lược, ở đây có hai. Luận Khởi tín nói kẻ mới học Đại thừa chánh tín, ở cõi này chẳng thường gặp, Phật sợ bảo tín tâm thiếu duyên mà lui sụt. Phải biết Như Lai có phương tiện hay khiến không lui sụt, chỉ cần chuyên niệm Phật A-di-đà thế giới Cực lạc chân như Pháp thân thì sẽ sinh về nước ấy mà trụ vào chánh Định. Người chuyên niệm pháp thân chân như đâu khác gì Đại thừa chánh tín, vì nương Phật ấy làm cảnh cho nên khiến sinh về cõi Tịnh. Đây là Như Lai quyền xảo vậy. Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật nói: Phàm phu tâm tưởng yếu kém, chưa được thiên nhãn chưa thể quán xa. Các Đức Phật Như Lai có phương tiện lạ giúp họ được thấy. Đây là do thần lực của Đức Thích-ca và nguyện tâm của Phật A-di-đà. Nếu có người quán thì sẽ quán thấy. Đây cũng là phương tiện khéo của đấng Giác hoàng. Phương tiện quyền xảo này là nói theo viên giáo, tức không hai không khác với phương tiện vi diệu của Pháp Hoa. Các Trời, người, cùng Thanh văn, Duyên giác và các Bồ-tát Đại sĩ tiệm tu, đầy khắp thế gian số nhiều như hằng sa, nghĩ suy so lường cũng không biết hết được. Chỉ có Phật và Phật mới có thể tin hiểu đầy đủ, mới có thể tu tạo mà thôi. Tri Lễ tôi dẫu là độn căn nhưng cũng thấm đượm Viên giáo, không lìa đương niệm, nguyện được sinh về cõi nước ấy.

Ngõ hầu là phàm phu thấp kém mà lên vị Bất thoái. Lại nghe Phật Đại Thông cùng mọi người kết duyên ở đời trải các trần kiếp đến nay trụ ở bậc Thanh văn đều do lui sụt Đại thừa mà phải trải nhiều thời gian. Ngài Thân tử còn sáu tâm lui sụt xuống năm đường huống là kẻ học Phật sơ sài. Bởi do cõi này gặp nhiều duyên lui sụt. Cho nên nói Bồ-tát Ngư Tử Am-la-hoa khi mới phát tâm ba việc, trong nhân thì nhiều mà kết quả thì ít. Còn nếu cầu sinh An dưỡng thì dầu bát địa cũng gặp duyên tốt vừa được vãng sinh thì liền không bao giờ lui sụt. Nghe lợi ích này thì đâu được chẳng mong cầu. Phải dùng một tâm ba quán làm thuyền bè, lại lấy sáu thời, năm hối làm chèo chống cầu đến Duy tâm Tịnh độ, mong thấy bổn tánh Di-đà, sau rồi sẽ vận dụng đồng thể đại bi mà độ sinh trong pháp giới thuận với quyền xảo của Phật mà cầu sinh Lạc bang, ý tóm tắt như thế. Nay nói tôi còn ưa thích chán bỏ thì liền khởi yêu ghét, sinh tâm lấy bỏ, sinh cái chấp sở năng là tướng gây lỗi. Thật như lời ông nói, cái duyên lập đức ấy nay xin nói sơ lược. Đem ưa chán, lấy bỏ khéo khởi lỗi, thành công, nên ngài Mã Minh lập làm nền thỉ giác, ngài Trí Giả gọi là tiệm Tịnh độ, ngài Duy-ma xem kiến ái là thị giả, ngài Văn-thù lấy tham nhuế làm công năng. Đây đều là cách dùng cho người mà thực hành theo đó có phương pháp. Vả lại, chúng sinh nhiều kiếp ở cõi Ta-bà này tham sắc, thanh thô tệ, đắm nơi y, chánh thấp kém, đã không có niệm chán lìa mà chỉ tăng thêm duyên trói buộc thì dẫu có huân tu cũng ít được toại nguyện. Vì ở cõi này pháp bị nhiều chướng ngại khiến đạo hạnh khó thành. Nên kinh Niết-bàn nói: Được thân người như đất dính ở đầu móng tay, mất thân người như đất đại địa. Cho nên các Đức Phật thương xót các chúng sinh này dùng công đức hạnh nguyện nhiếp lấy cõi thanh tịnh, khiến chúng sinh khởi tâm ưa thích để làm nhân thọ sinh, dùng lời lẽ thiết yếu nói về tướng cấu uế để khiến chán ghét mà muốn ra khỏi. Nếu không có tâm này thì không thành thỉ hạnh. Cho nên nếu chẳng nhàm chán lìa bỏ cõi này thì không có nguyên do khởi tâm ưa thích mong cầu mà được sinh về cõi ấy. Bởi pháp thọ sinh là lấy ái làm duyên. Trước tiên từ sơ tâm, cuối cùng đến Đẳng giác. Thân biến dịch chưa hết thì ưa chán làm sao quên, huống gì là thỉ hạnh. Nay cầu Tịnh độ không vì thân hưởng các vui, tâm đắm nhiễm các diệu trần, mà muốn nhờ tịnh duyên kia để mau tăng trưởng thắng đạo. Vì tuổi thọ ở cõi ấy vô tận, y báo tự nhiên, không có người nữ và căn thiếu. Tuy Thánh phàm cùng ở nhưng không có danh từ đường ác, tuy Thanh văn nhiều vô biên nhưng lại lìa kiến chấp về chân. Di-đà là thầy dẫn đường giỏi, Quán Âm là bạn tốt. Một khi sinh làm Bổ xứ thì rất nhiều vị Thập địa, bậc Thánh vô số, gió lay cây báu, sóng động hoa vàng đều phát ra tiếng mầu nhiệm, nói toàn diệu lý. Đã không trái thuận, dứt hẳn tham sân. Phàm có thấy nghe thì đều nhờ tịch chiếu, đều đến chánh định, do công phu ở đây khiến nên. Chứng viên còn cầu sinh cõi báo mình há chẳng nguyện sinh? Chỉ biết Tịnh độ dạy tâm, uế bang tức tánh. Ngay nơi chán mà không chán, ưa mà không ưa, cho nên chánh trợ cùng tu, giải hạnh gồm đủ, là thuận theo chánh giáo của Phật, không phải tình vọng của riêng mình. Huống là kinh Quán có nói: nhân sinh Thượng phẩm cần phải hiểu rõ Đại thừa, tu thêm sáu độ gồm khuyên chúng sinh. Nên Tri Lễ tôi nay dùng ba quán để công tâm, năm hối để giúp đạo, vẫn còn sợ tịnh nhân chưa đủ. Nên lấy cái chết để nương duyên mạnh sau cùng mà làm định nghiệp vãng sinh. Lại nếu chẳng thiêu thân, đốt tay thì không phải là Bồtát xuất gia mà kinh Phạm Võng đã dạy rõ. Bỏ thân mạng tài sản là chân pháp cúng dường như Pháp Hoa đã nói. Kinh Lăng-nghiêm nói đốt một nén hương, nợ xưa đều trả đủ. Luân Vương khoét thân đốt ngàn ngọn đèn mà quả mầu liền được. Cho nên biết sơ tâm hậu vị trên Thánh dưới phàm đều có thể vâng tu và hiển bày chí giáo. Chỉ cần chánh giải tự tránh tà tu, nên biết tánh lửa chân không thì đâu có tướng năng thiêu, thì sở thiêu sẽ tự mất. Lại biết thể Phật viên diệu đâu còn người sở cúng, năng cúng cũng tự tiêu. Cả hai lớp năng sở đã mất thì tất cả công đức đều thành. Đây gọi là pháp môn khổ hạnh. Bảo rằng ánh sáng chánh thọ, tịnh cảnh bốn cõi liền hiện tâm này. Các đạo tràng Phật đều chỉ bày, tùy theo sở nguyện sẽ được vãng sinh. Nên ngài Trí Giả nói: Khi qua đời tâm ở trong định tức là Tịnh độ, động niệm tức là giờ khắc vãng sinh Tịnh độ. Như đây bỏ thân uế thì các cấu uế đều hết lý nào chẳng bày. Như đây nhận lấy Tịnh độ là chỗ Vi-đề-hy ưa thích, nghiệp báo thanh tịnh, liền chứng vô sinh. Tát-đỏa bỏ thân đầy bệnh hoạn bảo là cầu thường vui. Ở đây lấy bỏ và chẳng lấy bỏ thể không hai thứ, dụng cũng đồng thời được gọi là ba thứ pháp môn, tức là: Pháp môn lấy, pháp môn bỏ, Pháp môn không lấy không bỏ, cũng gọi là Pháp môn ba Độc, đủ tất cả pháp. Cho nên, kinh Vô Hành nói: Tham dục tức là đạo, sân si cũng giống như thế. Như thế, trong ba pháp ấy đầy đủ tất cả công đức, ngài Văn-thù nói: Ta là tham dục Thi-lợi, ta là sân nhuế Thi-lợi, ta là ngu si Thi-lợi. Hiểu sâu ý này tức là một tâm ba quán, dẫn dắt tất cả hạnh, làm tất cả việc. Vì tất cả pháp là không nên bỏ uế sẽ hết, vì tất cả pháp là giả cho nên nhiếp lấy tịnh không sót. Vì tất cả trung nên không lấy không bỏ, ba pháp này tất cả Như Lai đều chứng, tất cả Bồ-tát đều tu. Cho nên Tri Lễ tôi nay bỏ uế thân, ưa cầu Tịnh độ đâu dám không bắt chước. Song tu tâm muôn hạnh, vào đạo có nhiều cửa. Tùy ưa, tùy nghi, tùy tu, tùy ngộ, nào dám đem cái thấy cục bộ mà nhìn thái hư. Chỉ vì Tri Lễ tôi từ bé đã có chí này. Nay đã già yếu, Trải nhiều sự duyên, tâm này luôn hiện tiền đối cảnh càng thêm tinh tấn. Tin do nguyện xưa đâu dám chẳng đáp trả... Năm rồi tôi xây dựng đạo tràng, chúng tin cùng gầy dựng, cúng dường vật liệu ba năm, các duyên tạm đầy đủ. Số Tăng có hạnh nguyện ngẫu nhiên mà đồng đầy. Nay gặp Bí Giám rõ biết tánh danh, trước sau dám mời, cúi mong vì đàn việt vận chuyển bánh xe sức mạnh khiến các điều lành mau thành, giúp tịnh nguyện sớm toại, sau đó giúp tông giáo tôi truyền bá rộng, giúp người chưa nghe được nghe khiến kẻ chưa ngộ được ngộ. Lại mong giúp cho sau khi công thành, báo thân đã mãn thì tùy nguyện cầu sinh thế giới Cực lạc mong được cùng ở một nơi, cùng họp nhân xưa cùng hóa độ chúng sinh, cùng lên đại giác. Tri Lễ tôi vốn không văn học, nguyên là vị Tăng quê mùa, nói năng ngây ngô trình bày thiếu vụng. Bởi đọc thư trước bảo là tinh tu sám pháp, đạt đến gốc tịnh, kế viết rằng Tịnh độ không phải dối vì các Phật trước đã chứng. Mong Bí-lãm thấu rõ ngọn nguồn khổ hạnh, lại biết Tịnh bang xưa nay tức lý. Bởi muốn Tri Lễ tôi rộng đem thành giáo dạy kẻ chưa nghe. Cho nên dám đem Bổn tông mà trình bày chút ít ngu kiến, gây phiền chán cho người, sợ sệt không xiết kể.

9. Đáp lời hỏi của Dương Văn Công của Pháp sư Tứ Minh Trí Lễ:

Theo sư có nói: Tây phương Tịnh độ gió lay lá báu, sóng động sen vàng, đây là cảnh giới của ai vậy?

Đáp: Thấy nghe ở đâu đều không có lý lẽ. Đã nêu giáo nghĩa đâu dám không trình bày. Phàm y chánh Tịnh độ đều giảng nói Pháp mầu hợp với người nghe căn trần đều bặt dấu, vật ngã như một, huống là chấp có người đối với cảnh giới khác. Trong đây, người tu hạnh Viên đốn, căn đối với trần mà khởi thức liền hiểu. Còn lấy Pháp giới đối pháp giới mà khởi pháp giới thì thật chẳng phải là cảnh ở ngoài tâm, tâm ở ngoài cảnh thì tâm tự biết tâm, cảnh tự thấy cảnh cảnh đâu thấy cảnh tâm há biết tâm? Sự (thấy biết) đã quên thì nói năng cũng dứt. Cho nên gượng gọi là cảnh quan không thể suy nghĩ ngói năng. Phàm vị tu thì chuộng đây, còn Thánh vị thì chứng kia. Lại nếu gượng luận cảnh phải lìa thì tướng khác nhau, thô trong thô. Là cảnh giới phàm phu, còn Tế trong tế là cảnh giới Phật, đó là do giáo và đạo phân biệt. Như nay Viên luận không lìa mà lìa, kẻ sơ tâm là năng ly, Phật là sở ly. Vì một tâm ba quán tức trí Phật cho nên thư trước nói: đối tất cả cảnh lấy đây quán chiếu mà hiểu rõ là nói việc này vậy.

10. Sớ Diên Khánh khuyên mọi người niệm Phật của Pháp sư Tứ Minh Tri Lễ.

Phàm một niệm vốn dung thông các pháp vô ngại gặp huân đã khác, cảm báo thành sai. Do đó thuận tánh mà tu thì hiển bày Tịnh độ của các Đức Phật. Làm theo tình thì phải đi vào vòng khổ năm đường. Do đó đối với Ta-bà ra khỏi rất khó mà đọa lạc thì rất nhiều. Cho nên kinh nói: Được thân người như đất dính trong móng tay, mất thân người như đất đại địa. Đợi ba Thừa thực hành đủ thì mới tránh được sự thọ sinh bốn đường. Bởi cảnh giới thô xấu, phiền não mạnh mẽ phải tự lực cầu thoát khỏi rất khó. Nếu như sinh An dưỡng thì cõi nước trang nghiêm, thân tâm thanh tịnh thẳng đến thành Phật chẳng đọa ba đường. Kinh nói còn không có danh từ đường ác huống là thật có. Lại nói chúng sinh ở đó đều là bậc A-bệ-bạt trí. Nếu muốn sinh về cõi ấy phải xưng niệm danh hiệu Đức Phật ấy, tu theo tâm Từ bi của Đức Phật ấy thì được bổn nguyện của Đức Phật ấy nhiếp giữ. Bỏ báo thân này chắc chắn sinh về cõi nước ấy, đủ như kinh nói, thật chẳng phải nói càn (đoán mò). Nay kết muôn người làm thành một xã, tâm tâm giữ niệm, ngày ngày ước hẹn. Mỗi năm vào tiết giữa Xuân (tháng hai) đồng nhóm hợp tại một nơi đồng tu cúng dường, đồng nghe pháp âm. Hội lấy muôn lòng là một chí, giúp thành định nghiệp thề được vãng sinh. Huống là báo được ánh sáng, giống như đuốc trước gió một hơi thở chẳng vào thì ba đường hiện tiền, sao được dần dà, chẳng nghĩ quả báo đời sau, phải y theo lời Phật, chẳng thuận tình người, mau dứt các duyên, chỉ siêng niệm Phật.

11. Vãng sinh Tịnh độ Quyết nghi môn của Từ Vân Sám Chủ Tuân Thức.

Phải giải bỏ nghi ngờ. Vì nghi ngờ làm chướng ngại niềm tin. Việc lành nhỏ ở thế gian còn chẳng thành huống gì là đạo lớn Bồ-đề. Xưa nay, các Sư quy tâm cõi Tịnh, hoặc soạn sớ giải kinh, hoặc nương kinh soạn luận, hoặc tùy việc giải thích, hoặc Già-đà khen bày, tuy khác nẻo nhưng cùng quy về một chỗ, mà cùng trình bày chỗ thấy, soạn bài biên sách, sưu tầm nghiên cứu rất khó. Nay gồm nhiếp trăm nhà ấy, dùng ba điều thắc mắc thâu tóm tất cả:

1. Nghi thầy.

2. Nghi pháp.

3. Nghi mình.

1. Nghi Thầy: Có hai loại: 1. Các tà sư ngoại đạo, điên đảo mê lầm dạy người, không nên theo. 2. Thầy chánh pháp, Lại có nhân quả phàm, Thánh và nhân vị chưa hoàn toàn rõ biết giống như Thanh Biện cho rằng Di-lặc chưa phải là biết khắp, đợi đạo Long Hoa sau mới hỏi luật. Tức là việc ấy. Nay hiển bày Tây phương khiến hồi hướng thì chỉ có quả Phật, Thánh sư Thích-ca Như Lai và các Đức Phật mười phương phát ra tướng lưỡi rộng dài nói lời thành thật khuyến khích khen ngợi vãng sinh thì còn mê hoặc gì?

2. Nghi pháp: Phật pháp có hai: 1. Tiểu thừa, pháp Bất liễu nghĩa.

2. Đại thừa, Pháp liễu nghĩa. Trong Đại thừa lại có Liễu và Bất liễu nghĩa. Nay nói Tịnh độ là chỉ cho Đại thừa, là pháp liễu nghĩa trong liễu nghĩa. Vả lại, kinh bộ Tiểu thừa thì gồm hết các sách, không hề có một chữ khuyến khích khen ngợi vãng sinh Tịnh độ phương khác. Nên trong luận Thiên Thân có nói: Người nữ và căn thiếu, Nhị thừa đều không sinh. Đây là chứng cứ rõ ràng.

Hỏi: Kinh Tiểu Di-đà... đều nói: Nước ấy có đệ tử là Thanh văn và kinh Cổ Âm Vương nói: Phật Mẫu tên Thù Thắng Diệu Nhan cũng là người nữ.

Đáp: Phật Mẫu là chỉ lúc xưa khi Thái tử giáng sinh, khi Thái tử thành Chánh giác thì cõi nước cũng tịnh, nên không có người nữ. Mẹ ngài chuyển thành thân nam như Long nữ ở cõi này. Hoặc lại qua đời như mẹ của thái tử Tất-đạt (Ma-da). Có người chú luận dẫn văn kinh này mà bảo rằng: cõi ấy cũng có người nữ là không đúng. Còn Thanh văn như Quán kinh sớ và luận Thập Nghi cùng giống nhau. Nay nói Đại thừa, lại có ba thứ:

1. Ba thừa Thông giáo; pháp môn này tuy chung cho Đại thừa, mà khá gần Nhị thừa. Lại đương giáo Bồ-tát tuy lại độ người, tịnh cõi nước Phật mà Độ xong thì trở về đồng với Nhị thừa. Lý sâu Tịnh độ họ không biết được, vì không phải liễu nghĩa.

2. Đại thừa Biệt giáo. Ở đây nói Đại thừa riêng cho pháp Bồ-tát tuy nói thật lý sau mới chứng đạo, mà nhân quả không dung nhau, Tịnh độ thì ngoài lý tu thành, muôn pháp vì thế chẳng có đủ mười tâm. Tuy trải qua nhiều kiếp tu đạo, đến nhiều các cõi Phật chỉ cho nhân quả của Tịnh độ ấy chỉ là phương tiện ngoài thể, đây cũng chưa rốt ráo.

3. Phật thừa Viên giáo. Giáo này giải thích ý chỉ viên dung nhân quả đầy đủ, là chỗ nhiệm mầu của Phật pháp. Đây là vì xưa không biết chỗ biểu thị. Kinh nói rằng: Mười phương tìm khắp nhưng không có thừa nào khác, chỉ một Phật thừa là nói đây vậy. Vậy thì Đại thừa của Đại thừa, liễu nghĩa của liễu nghĩa. Mười phương tịnh uế hoại mất đồng một sát-na, một niệm sắc tâm bày khắp trong pháp giới. Đồng thời thiên chân sẵn có không phải duyên khởi mới thành. Một niệm đã thế thì một trần cũng vậy. Cho nên hay ở trong mỗi hạt bụi mà có tất cả cõi, ở trong mỗi tâm mà có tất cả tâm. Mỗi tâm và bụi lại cùng khắp, lớp lớp vô tận không chướng ngại, cùng một lúc hiện ngay không có ẩn hiển, tất cả viên thành không có hơn kém. Như loại Thần châu, bao hàm các báu, cũng như mành lưới của trời Đế Thích giao chiếu ngàn tia sáng. Tâm ta đã thế thì Phật và chúng sinh thể đồng. Như thế thì mới hiểu rõ hồi thần nhớ cõi nước, thật sinh trong tâm mình gá vào chín phẩm sen há tránh khỏi chỉ trong mé sát-na. Còn nếu sự lý cách xa thì, tịnh uế ngại nhau, làm sao khiến cho phàm phu gây tạo năm tội nghịch mà mười niệm liền sinh về cõi báu? Hàng Nhị thừa hồi tâm liền được ở ao vàng? Tin vào Viên đàm đây thì sự nào chẳng đạt, mê lý tột này thì gặp việc đều mê. Cho nên kinh Hoa Nghiêm nói: Tâm như người thợ vẽ, tạo ra các thứ năm ấm, tất cả thế gian đều do tâm tạo. Phật cũng như tâm, chúng sinh cũng như Phật. Tâm, Phật và chúng sinh, ba thứ không khác nhau. Lại luận Khởi Tín chép: Nói về pháp, nghĩa là tâm chúng sinh, tâm này tức nhiếp tất cả pháp thế gian và xuất thế gian, y vào tâm này mà hiển bày nghĩa Ma-ha-diễn. Thập Lục Quán nói các Đức Phật Như Lai là thân Pháp giới nhập vào tâm tưởng tất cả chúng sinh, cho đến tâm ấy làm Phật, tâm ấy là Phật. Lại kinh Ban-chu Tam-muội nói rằng: Phật là tâm ta, tâm ta thấy Phật, tâm ta làm Phật... Nói về ý chỉ này trong kinh Đại thừa có nêu rõ ràng. Còn trong kinh Pháp Hoa nói Như Lai đích thân thọ ký vãng sinh. Kinh Hoa Nghiêm thì nói ngài Phổ Hiền trình bày hồi hướng. Đó cho nên biết nhân địa A-di-đà, quán lý này mà đại thệ khắp thâu, Đức Thích-ca thành tựu đạo quả khen ngợi lý này, mà việc bày tướng lưỡi rộng dài khen ngợi thì các Đức Phật ba đời ở khắp mười phương đều như thế.

Hỏi: Như trên đã nói lý mầu viên cực, người đều phải quán hạnh đầy đủ thì mới sinh ư?

Đáp: Không phải thế. Nay chỉ cởi mở nghi tình khiến cho biết Tịnh độ trăm báu trang nghiêm, nhân quả chín phẩm đều ở trong tâm hiện hiền của chúng sinh, lý tánh đầy đủ mới có thể được, ngày nay việc tu hành vãng sinh tùy nguyện tự nhiên, cho nên khắp mười phương chẳng lìa đương niệm, tới lui pháp giới chánh hợp với duy tâm, chớ tin theo thói thường chấp đây kia, không phải tướng hạnh nguyện ấy chính ở tại phần sau không phải điều hỏi ở đây. Huống là tướng sinh chín phẩm đều có hạnh loại khác nhau. Ba phẩm bậc thượng phải có giải (hiểu) có hành (làm). Nên văn nói rằng: Ông thực hành Đại thừa hiểu nghĩa bậc nhất, tức là người này vậy. Nay học giả thấy người hiền mà nghĩ cố gắng làm sao mình phải bằng họ, mong được lên cao thì chỉ phải nhờ diệu quán. Nếu sinh nhân ở sáu phẩm dưới là giữ giới cấm, thực hành hạnh nhân từ ở thế gian. Cho đến phẩm sinh thấp nhất là chúng sinh ác nghịch mà khi qua đời chí thành mười niệm thì liền sinh về nước ấy, chỉ cần biết có Tịnh độ rồi hồi tâm nương về. Nếu không phải thế thì đâu thể tự vào chín phẩm khác nhau.

3. Nghi mình, hỏi rằng: Mình là phàm phu bạc địa, duyên đời trói cột, làm sao thân này được sinh về các Tịnh độ của Phật, vào được biển Thánh hiền, đồng ở trong nhóm chánh định ư?

Giải thích rằng nếu hiểu rõ pháp tánh thông suốt như hư không ở trên và tin chắc bổn nguyện Di-đà dắt dẫn thì, chỉ khuyên làm công đức đâu đợi phải hỏi. Huống người mười niệm được sinh chỉ trừ người gây ra năm tội nghịch và hủy báng chánh pháp. Lại người định tâm mười niệm mà gây tội nghịch và hủy báng thì cũng được sinh. Nay may mắn mình không phải kẻ ác lại chánh nguyện mong cầu thì còn nghi ngờ gì nữa?

12. Nghĩa Học Biên Luận Tịch Giải Phấn của Pháp sư Tịnh Giác Nhân Nhạc.

Không Danh Cư sĩ, tức là Pháp sư Vô Kỷ nói: Trong các truyện ký có ghi: Đầu tiên từ đời Tấn có Lô sơn Tuệ Viễn cùng các Tín sĩ kết xã hương lửa nguyện sinh Tây phương. Bèn thỉnh người trong Xã là Lưu Di Dân soạn lời thề. Có kẻ hỏi đây là phương tiện của Giáo môn quyền tiệm. Nếu quán xét rốt ráo căn ấy thì chỉ thấu đạt nguồn gốc của tâm là chánh tu hành. Đời Đường ở Ung châu có Giám điền Thích Pháp Hỷ chuyên tu thiền nghiệp, biết trước lúc chết. Đại chúng bỗng nghe ở khu rừng phía Bắc có tiếng âm nhạc bèn báo với Hỷ. Hỷ nói: Quả báo ở thế gian lâu ngày cũng hết vì sao phải sinh vào chỗ vui. Bèn im lặng nhập định, phút chốc tiếng nhạc liền ngưng, Hỷ cũng ngồi thẳng mà hóa. Lại đời Đường, ở kinh đô có Thích Đàm Luân khi qua đời có người hỏi vãng sinh về đâu thì đáp: "Vô tận thế giới", rồi im lặng mà hóa. Nay nêu rõ hai Sư chết tốt như trên chính là cảnh cao siêu Nê-hoàn. Sao những người một đời cầu sinh Tịnh độ lấy kia so đây, sao còn thô sơ dùng dằng ở hai điều mà chưa ngộ. Pháp sư nói: Tôi vừa đọc sách của Dương Công nói Cực lạc là quyền bày. Thật là thuyết ưa chán, lấy bỏ. Không đợi hỏi lại muốn trích dẫn mà trình bày. Nay được hỏi như cung gặp tên đâu được chẳng nói: Cực lạc là quyền, quyền thì đối lại với thật, xin thử trình bày thì Tiểu thừa là quyền, Đại thừa là thật. Vì "Pháp có là quyền, pháp không" là thật. Như nói Tiểu thừa là quyền, vì trong kinh Thanh văn không có một chữ nào khuyến khích khen ngợi vãng sinh Tịnh độ mười phương. Nên ngài Ca-diếp nói: Chỉ niệm Không, Vô tướng, Vô tác. Đối với pháp du hý thần thông tịnh cõi nước Phật, thành tựu chúng sinh của Bồ-tát tâm không vui mừng. Nếu bảo có pháp là quyền thì sao chỉ có Cực lạc là quyền, còn như Niết-bàn thì cũng là quyền. Cho nên ngài Tu-bồđề nói: Nếu có pháp nào hơn Niết-bàn thì ta cũng nói là như huyễn, như mộng. Do đây mà nói thì ưa thích Niết-bàn mà nhàn chán Cực lạc thì cũng như trốn núi cao mà chạy vào vực sâu thì đâu cũng chết. Lại nói không lấy Cực lạc cũng không lấy Nêhoàn, trống không chẳng dấu vết chẳng thể nghĩ bàn. Như thế thì chết rồi không sinh, khác gì ngoại đạo có kiến chấp diệt tận. Lại có thuyết ta diệt độ rồi thì các thế giới ở mười phương đều là thân ta thì sao chắc chắn phải sinh Tây phương Cực lạc làm gì? Nếu thế thì lại đồng với bậc Thánh hiện khắp hình sắc. Chưa chứng nói chứng là tội nói dối nghiêm trọng thì ai dám làm. Ngài Thiên Thai Trí Giả nói: người thường nghe sinh liền cho là sinh, nghe không sinh liền cho là không sinh, chẳng biết sinh tức là vô sinh, vô sinh mà sinh. Ngang bướng phải quấy, trợn mắt cầu sinh Tịnh độ thật lầm lạc biết bao nhiêu! Nên biết Pháp Hỷ chẳng cầu chỗ vui. Đàm Luân trở về vô tận, đây là những lời khiến tình lìa mê đắm, không phải là chết rồi thì diệt mất như hư không. Phàm phu thì thọ sinh theo nghiệp, bậc Thánh cũng tùy cơ mà làm lợi ích. Huống Pháp Hỷ chết rồi giáng thần vào đệ tử bảo rằng: Ta muốn để lộ thi hài ta ngoài trời để chim thú, côn trùng ăn... Há chẳng phải thân này tuy thức bỏ đi rồi vẫn còn sống ư? Mà chỉ là cảnh cao siêu Nê-hoàn, lấy gì mà nghiệm. Lại Nê-hoàn, Hán dịch là diệt độ, gồm hết các giáo cũng chỉ hai chữ này. Nếu Nê-hoàn Thanh văn thì dứt được phiền não kiến tư, vượt khỏi phần đoạn sinh tử, chứng lý thiên không. Lý đã thiên (lệch) thì "Không" không thể có. Cho nên thân và cõi đều mất. Đây là nói phương tiện. Nếu các Đức Phật Nê-hoàn thì dứt vô minh phiền não, vượt khỏi biến dịch sinh tử, chứng lý trung đạo. Lý đã trung thì chẳng phải không, chẳng phải có, nên ứng hóa vô cùng. Đây là nói về liễu nghĩa. Nay chưa xét kỹ hai Sư Luân, Hỷ ở Niết-bàn nào. Nếu là thiên không thì chưa khỏi thô sơ, còn trung đạo thì sao gọi là cảnh cao siêu. Nay người học ai chẳng bảo ngay nơi tâm là Phật, chạm mắt đều chân, sao cực nhọc mà chuyển vật đồng như, mình vượt hơn Tỳ, Thích và căn tự sát hạch, trở về trống rỗng, mịt mờ như đi đêm. Thật còn đủ tham, sân thì sao ưa, chán mà chẳng khởi? Xem cõi giàu sang như cốt nhục, nhìn nghèo hèn như ghẻ bướu. Đối với ta thì thiện là muốn lên bậc cao, ác là hận chẳng giết hết người trong chợ. Phàm những loại người này hổ thẹn mà tu Tịnh độ tự bảo là người ưa chán chẳng biết có làm được không. Trong Tăng truyện ở thiên Tập thiền có rất nhiều người khổ hạnh trọn đời, cẩn trọng tu hạnh An dưỡng, hoặc ưa cầu tri túc. Như Tuệ Chân tuyệt thực mà hành sám Tịnh độ, đốt thân làm đèn, Tăng Hiển hiện đời cảm được Di-đà, Trí Hy thấy rõ cõi Đâu-suất. Không ai bảo đây là hạng người tập tục thô sơ. Lô sơn Tuệ Viễn là tăng bảo ở đời ít có. Phạm chúng ở Tây Vực đều khen đất Hán có Đạo sĩ Đại thừa. Mỗi khi thắp hương đều hướng về phía Đông mà cúi đầu lễ bái, há quên giáo viên đốn, chuyên do pháp môn quyền tiệm. Các vị Lưu Di Dân Lôi Thứ Tông đều là bậc tài giỏi đời Tấn sao dám quỷ quyệt dối trá chạy theo mà chẳng biết. Tiệm tu thường mê muội về vãng sinh, kẻ đốn giáo lại luôn khen Tịnh độ. Phật nói: Ai thường đọc tụng kinh điển Đại thừa hiểu rõ nghĩa thú bậc nhất sẽ không kinh động với nghiệp vãng sinh Thượng phẩm này. Lại, ngài Thiên Thân nói: Hàng Nhị thừa không sinh Cực lạc. Kinh Hoa Nghiêm có nói khuyên sinh. Kinh Pháp Hoa có lời thọ ký vãng sinh. các Đức Như Lai mười phương phát ra tướng lưỡi rộng dài, đều khen ngợi vãng sinh về nước ấy. Ngài Di-lặc hỏi Phật rằng: Ở thế giới này có bao nhiêu Bồ-tát sinh nước ấy? Phật bảo: Có sáu mươi bảy ức Bồ-tát không lui sụt, mỗi Bồ-tát đã từng cúng dường vô số các Đức Phật như Di-lặc kế đây vậy. Phật lại nói: Đời mạt pháp diệt rồi, chỉ lưu lại kinh Vô Lượng Thọ trong một trăm năm để dắt dẫn chúng sinh. Lấy đây làm chứng. Vì sao lại xem thường người vãng sinh, vì sao ngăn lấp đường Cực lạc. Gây thiệt hại rất lớn, há không cẩn thận ư?

Lại bài tựa sau có nói: Lại có người dẫn truyền đăng là Hòa thượng Đại Châu nói: Bỏ cấu lấy tịnh là nghiệp sinh tử. Cư sĩ Bàng Long Uẩn nói: Bỏ phiền não vào Bồ-đề chẳng biết phương nào có Phật địa. Vì câu kệ này mà khinh thường Tịnh độ. Chắc chắn không thể được. Lại nói chẳng cấu chẳng tịnh là nghĩa tức tâm tức Phật. Phàm theo Thích giáo thì ai chẳng biết, sao lấy lời Chân như bình đẳng mà phí bỏ pháp nhân duyên tu chứng. Lục trụ Đại sĩ còn sinh phần đoạn, bốn quả chân nhân cũng còn có tử biến dịch, đâu gọi là chết hẳn tức là Nê-hoàn. Phải biết Bồ-tát chưa chứng Diệu giác trở lại thường lấy tâm không để khắp tu muôn hạnh. Cả ngày quán Phật mà không có Phật để quán, trải nhiều kiếp độ sinh mà không có chúng sinh để độ. Tạm ở vào Tịnh độ, như hóa đốm trong hư không, quyền nương vào huyễn hóa Di-đà. Phá trần trong mộng hôm qua mà vào địa vị thành Cànthát-bà, cho đến thành Phật. Tuy tự hành vắng lặng mà lợi tha rõ ràng. Cho nên dụ thì lấy thân làm gương sáng, hiện thì lấy ảnh tùy loại. Người đời không hỏi đại nghĩa chỉ ưa thích đốn ngộ, vào thẳng Vô sinh mà chẳng nghĩ ngài Vĩnh Gia Nhất Túc Giác bảo rằng: nếu thật vô sinh, vô bất sinh. Đã thoát ngộ mà chấp không, sợ mênh mông mà vời họa. Loại này ở Việt Trung tập bắn tên mà chẳng vượt qua mấy bước, du mục ở Lũng Tây lại chìm trong sóng nước. Như đây mà tri thức chưa thể tham tìm.

13. Trả lời về tu nhân Tịnh độ của Pháp sư Tra Am Hữu Nghiêm.

Có người hỏi: Sinh lên các tầng trời cõi Dục thì mười điều lành là nhân, sinh lên cõi trời Sắc thì thiền định là nhân, giỏi thiền chẳng tu mà mong sinh lên các tầng trời cõi Sắc cõi Dục thì không hề có. Hễ người sinh Tịnh độ thì phải tu Vô sinh diệu quán mới có thể được. Nếu diệu quán mà không hẹn tương ứng thì lý sinh Tịnh độ phải dứt. Nay người học đều mịt mờ giáo chỉ, cho rằng sinh lên cõi trời là khó mà sinh Tịnh độ là dễ. Cho điều lành có tướng mà ngẩng cổ hướng về Tây, theo gió phát nguyện. lại đợi chân bước lên sen báu, đích thân gặp Thánh chúng là lầm. Nếu cho rằng sinh lên cõi trời là khó thì giống như còn đủ bốn chân để chạy thì càng rất khó. Nếu bảo Tịnh độ là dễ thì cũng giống như không có hai cánh mà liệng trên không, dễ thì ai tin?

Đáp: Tịnh độ không phải khó dễ, khó dễ là do người. Khó là bởi nghi tình, gang tấc trở thành muôn dặm. Dễ là nhờ tín tâm thì muôn dặm cũng thành gang tấc. Nói tu Vô sinh diệu quán được sinh, thành thật thay lời nói ấy. Nhưng chính ý là muốn chỉ bậc thượng căn mới được sinh mà thôi. Song, không thể mở một pháp môn mà lấp nhiều pháp môn. An lạc tập nói: Người sinh Tịnh độ có hai loại, một là tâm có tướng nghĩa là chấp tướng ưa vui; hai là tâm không tướng, nghĩa là lý quán tương ưng. Như nay trong đời kẻ trung, hạ độn căn, ngu mê chướng nặng, đợi khi lý, quán tương ưng mới được sinh thì chỉ được một số ít ỏi, Phật Từ bi độ vật phương tiện nhiều môn, có định thiện, và tán thiện, có năng lực Phật pháp; có việc phước và nhờ nguyện lực mà hồi hướng; có người lúc qua đời quá sợ nên nhờ vả cầu cứu, các loại như thế có số trăm ngàn muôn, có một trong những điều đó thì sẽ được vãng sinh. Định thiện là tu tâm Diệu quán, định Thủ-lăng-nghiêm... Còn Tán thiện như kinh Bốn Mươi Tám Nguyện nói người tu thập niệm đều nhiếp cả sáu căn, chỉ tiếng tiếng nối nhau mà thôi. Vì chưa gồm lý định nên gọi là tán. Về năng lực Phật, như Luận Thập Nghi nói: Phật Adi-đà có đại Bi nguyện lực che chở chúng sinh niệm Phật liền có thể phát tâm Bồ-đề, thực hành Tam-muội niệm Phật... nhờ nguyện lực liền được vãng sinh. Như kẻ yếu kém nương theo Chuyển luân vương mà một ngày một đêm đi khắp bốn thiên hạ, không phải là năng lực của mình mà do năng lực của Luân Vương. Về năng lực của pháp, như Phật bảo Bồ-tát Liên Hoa Minh Vương tụng Quán đảnh thần chú gia trì vào cát đất để rải vào thây người chết hoặc rải trên mộ. Nếu bị đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh thì nhờ chân ngôn này mà sinh về Cực lạc. Làm phước nhớ hồi hướng, là từ tâm cứu vật, giữ đủ các giới, giỏi thọ trì bí chú, tụng đọc kinh điển Đại thừa, các thứ phước lành mà hồi hướng trang nghiêm thành nhân Tịnh độ, như tiếng thổi vào sừng thì xa lãng nghe được, sinh Cực lạc cũng vậy. Lúc qua đời cầu cứu là khi qua đời, tướng xe lửa hiện ra, nhờ năng lực xưng niệm danh hiệu Phật nên lửa dữ biến thành gió mát. Như Tăng nhân Hùng Tuấn khi vào vạc dầu sôi và người có nghề giết trâu ở Phần châu khi qua đời thấy bầy trâu húc vào thân rất đau đớn, Trương Chung Húc giết gà, khi chết thấy vị thần xua bầy gà mổ hai mắt chảy máu đầy giường, niệm Phật lúc ấy đều sinh Tịnh độ là vậy, kinh Tùy Nguyện Vãng Sinh nói: Nếu đem y phục châu báu của người chết và nhà cửa ruộng vườn mà cúng thí Tam bảo thì phước rất nhiều, có thể cứu được khổ địa ngục mà vãng sinh Tịnh độ. Lại, kinh Vô Lượng Thọ nói: Bồ-tát Tiểu Hạnh và người tu công đức nhỏ đông không kể hết, đều được vãng sinh. Lại kinh Phạm Võng dạy thỉnh Pháp sư giảng giới Bồ-tát, phước giúp người chết thấy được các Đức Phật Ví như đất nước kén chọn người tài, bèn bày hai khoa thi văn, võ mà chọn người, không phải một khoa. Ngoài ra lại có tấu ấm, dùng dụ cho năng lực Phật, học tập là dụ cho hạnh nguyện. Kia có nhiều quan nhân văn chức thì đây có muôn hạnh thành Thánh. Phật nói dễ đến. Khổng tử nói khó sinh. Có thể nói thuận giáo nói dễ đến mà mở cửa giải thoát cho người, Chẳng cần phải chấp mê nói khó sinh mà lấp đường Bồ-đề. Khổng Tử nói người học rộng có nghi phải cẩn thận lời nói, thì các trường hợp khác ít lỗi.

14. Trả lời về Phật và Ma của Tịnh độ của Pháp sư Tra Am Hữu Nghiêm.

Hỏi: Thấy có nhiều người đời phát nguyện khi qua đời được Phật dắt dẫn sinh về Tịnh độ. Nếu Phật dắt dẫn đâu chẳng phải là ma ư? Tôi cho rằng người đời phát nguyện ngông cuồng.

Đáp: Ma chẳng phải không có. Nếu bảo phát nguyện cầu sinh Tịnh độ được Phật dắt dẫn là Ma thì là Phật gạt người sinh vào cung ma. Ngài Phổ Hiền dạy người phát nguyện rằng: Nguyện con khi qua đời được thấy Phật A-di-đà. Bồ-tát Long Thọ, Thánh hiền nhiều đời đều có soạn các tác phẩm... chẳng lẽ đều khiến người phát nguyện ngông cuồng nguyện sinh vào cung ma ư? Ông nói thế là làm hư mất giống Phật. Ông không phải Ma thì là ai? Nay xin nói sơ lược cho ông nghe về tướng Ma và cách hàng Ma. Ma có bốn thứ; phiền não, ấm, tử và thiên ma. Nếu muốn hàng phục thì như kinh Đại Tập nói: Dứt bỏ Tập đế là hàng phục phiền não Ma, biết Khổ đế là hàng phục Ấm Ma, tu Đạo đế là hàng phục Thiên ma, chứng Diệt đế là hàng phục tử Ma. Lại Trí luận có nói được đạo Bồ-tát nên phá phiền não Ma, được thân pháp tánh nên phá ấm Ma, được pháp tánh lại phá tử Ma. Thường nhất tâm tất cả chỗ (xứ) tâm không mê đắm mà vào Tam-muội bất động, nên phá được thiên Ma, thiên ma rất là khó biết, vì chúng hay biến hiện thành Phật và Bồ-tát. Lại kinh Niết-bàn nói: Sau khi Phật diệt độ năm trăm năm thì ma đạo dần hưng thạnh, Ma làm Tỳ-kheo phá rối Phật pháp. Lại Thiền môn nói: Ma quỷ vào tâm phá chánh giới, phá chánh kiến, phá oai nghi, phá tịnh mạng, chẳng kính cha mẹ, thầy Tổ, Tam bảo hoặc hủy hoại kinh sách, hình tượng, chùa tháp, gây ra các tội nghịch, dứt bỏ gốc lành, hiện tướng bình đẳng, phá hủy người khác tu điều lành, bảo là không phải chánh đạo. Hoặc nói không nhân không quả. Tà thuyết như thế phá hoại chánh pháp, như chín mươi sáu thứ ngoại đạo. Trong kinh có phân biệt từng tướng ác ma, mà có ai biết. Lại ngài Trí Giả trong Thiền môn dạy người phân biệt ma có ba cách: một là, hiểu rõ thấy nghe hay biết đều không thật có, chẳng nhận lấy, chẳng mê đắm, cũng chẳng lo rầu, cũng chẳng phân biệt, nếu là ma thì nó tự mất. Hai là, quán ngược lại tâm thấy nghe hay biết chẳng thấy chỗ nó sinh, như thế mà quán thì Ma liền diệt mất. Ba là, nếu thực hành quán ấy mà Ma chẳng mất thì chỉ nên chánh niệm, chớ nên sợ sệt. Chánh niệm chẳng động biết cõi ma như cõi Phật, như một, như vô, Đối với ma không xả bỏ, đối với Phật không nhận lấy. Phật pháp hiện tiền, Ma tự tháo lui. Phân biệt rõ sự chân ngụy, giữa Phật và ma. người học giáo có giáo nhãn thì biết rõ. Nếu những người lơ là hoặc khi qua đời, gió đao cắt xẻ thân thể, tinh thần hoảng loạn kinh hãi thì nhờ đâu mà phân biệt rõ Ma và Phật chân hay ngụy ư? Lửa thì nóng khô, nước chảy thì ẩm ướt. Hoặc có người một đời dụng tâm thuần tịnh, bền vững tin chắc, chí thành lễ tụng, sám hối phát nguyện. Tôi biết người này hoặc thân hoặc tâm sẽ giao tiếp với khí loại Di-đà-Trí Luận chép: Như gió thổi cây nghiêng về Tây khi ngã thì sẽ ngả về Tây. Làm lành được sinh cũng thế. Như có người nguyện lực đã mỏng mà tội chướng lại nặng. Khi qua đời tướng ác hiện, niệm Phật được Phật đến cứu là do năng lực Phật, Ma không làm được. Nếu người được sinh An dưỡng Tịnh độ mà bị ma bắt thì là sức Phật không bằng sức ma ư? Cho nên Đại Phẩm Bát-nhã nói: Nếu người chép kinh Bát-nhã ba-la-mật cho đến tu hành là do năng lực Phật, ma không thể làm hại. Lại trong các kinh Đại thừa nói Bồ-tát Thiên Tiên, Kim cương, Lực sĩ đều có thệ nguyện giúp người tu hành, ma không có dịp làm hại. Cho nên ngài Nam Sơn nói: Di-đà tướng quân ủng hộ rất nhiều. Nếu thấy đám Ma phá rối Tỳ-kheo thì liền đến đúng lúc dẹp trừ. Nay người sinh Tịnh độ nếu bị ma phá, các Đức Phật, Bồ-tát, Hộ pháp thần tướng há chẳng cứu ư? Nguyên khi qua đời thấy Phật, Phật từ tâm hiện Tịnh độ rộng lớn cũng hiện từ tâm. Ông mê chỉ quy mà vọng bài bác, ta e ông sẽ bị cắt lưỡi đau đớn không tránh khỏi. Nếu như có người chết sinh cung ma thì do khi tu hành nhiều ma nghiệp. Ma nghiệp là nương nhờ Phật Pháp mà ham hố danh lợi, ngoài hiện tướng trong sạch mà bên trong hôi hám rã mục, dối gạt lừa đảo. Luôn tự cao, cắt cái hay ngàn thước của người còn nửa phân mà khoe cái ít một câu của mình là muôn hộc. Người này khí phần ắt giao tiếp với ma. Nên khi qua đời nếu không đọa ác thì sẽ sinh cung ma. Nếu khỏi đọa ba đường ác mà sinh ma cung thì đây cũng là may lắm. Huống cõi trời Đại Tự Tại vốn là đại quyền, nên kinh Tịnh Danh chép: Kẻ làm ma vương đều là Bồ-tát trụ vào Bất tư nghì giải thoát, dùng phương tiện mà giáo hóa chúng sinh. Cho nên trong kinh nói Ma Vương đem mười hai ngàn thiên nữ đến mê hoặc Bồ-tát trì thế, ngài Duy-ma-cật vì nói pháp cho nghe thì các ma nữ đều chứng Tam-muội Vô tận đăng. Nói may mắn là đây vậy. Rất mong người tu hành từ nay về sau hãy nên tự xét tâm tu Tịnh độ là tâm thuần tịnh hay là nghiệp ma. Muôn pháp duy tâm, tâm tịnh thì Phật rước, tâm cấu thì ma dẫn. Đối lý rất dễ hiểu có gì phải nghi? Lại một hạng người giáo nhãn bị mù, tham lam, mạn chật bụng, thị phi đầy hông, lúc bình an thì trong bốn ma hết ba thứ chẳng biết. Khi qua đời sợ sinh vào cung ma, miệng nói hàng phục thiên ma mà trong tâm còn pháp ngồi chết nguyện sinh vào nhà giàu sang, thật là một điều đáng cười.

15. Nói về Duy tâm Tịnh độ. Của Pháp sư Viên Biện Đạo Châu.

Có người hỏi: Duy tâm Tịnh độ bổn tánh Di-đà là sẽ vãng sinh hay là tức Tâm? Nếu vãng sinh sao bảo là duy tâm? Nếu Tức tâm vì sao kinh nói cách mười muôn ức cõi Phật?

Đáp: Sự và lý có khác. Nói theo sự thì sẽ vãng sinh còn dựa theo lý thì tức tâm. Nay bàn Viên gia sự lý một thể không khác, đâu thể chống đối, nhân, chia mà thông nghĩa này. Phải biết mười giới bốn cõi, hoặc Tịnh hoặc Cấu chẳng lìa tâm ta. Tâm này hoàn toàn là vọng niệm vì sẵn có. Cho nên đầy đủ trăm giới ngàn như. Các pháp y, chánh ở đây cũng đầy đủ mà thôi. Nếu đạt được toàn đủ là khắp. Khắp chúng sinh, Phật, các chúng sinh và Phật cùng khắp cũng giống như thế. Nêu một pháp thì cả pháp giới rộng lớn đều cùng đủ, riêng đủ, dung nhau, nhiếp nhau. Tham mà chẳng tạp, lìa mà không chia; một, nhiều tự tại, không lưu ngại nhau. Phàm như thế thì sao có Ta-bà của Thích-ca, Lạc bang của Di-đà mà lìa tâm ta ư? Cho nên Phù Hành có nói: lại người học dẫu biết nội tâm có đủ ba ngàn pháp mà không biết tâm ta khắp ba ngàn kia, mỗi mỗi ba ngàn cũng khắp như thế. Nếu thuận theo phàm tình mà sinh ra cái thấy trong ngoài, thì nên chiếu xét lý thể vốn không có bốn tánh, ba thứ tâm Phật và chúng sinh không khác nhau. Người biết rõ đây mà nương tựa thức tâm. Y theo đây thì biết ba ngàn vốn là pháp dung diệu, nhậm vận nhiếp đủ y, chánh sắc tâm, cõi nước tịnh, uế. Đã nói ba pháp không khác nhau thì duy tâm bổn tánh không còn đến nỗi phải nghi. Nay lại thí dụ để làm sáng tỏ. Như trong điện Đế Thích trên có mành lưới báu đính ngàn hạt châu, hình bóng của các hạt châu cùng chiếu vào một hạt châu, một châu có đầy đủ các hạt châu kia, khắp ngàn hạt châu đều cùng chiếu soi nhau. Cũng giống như thế, một tâm tức là một hạt châu trong ngàn hạt châu, cõi Phật Diđà kia cũng là một hạt châu trong ngàn châu. Có bao nhiêu chúng sinh trong mười cõi đều sinh đến một cõi, thì một cõi đều là một hạt châu trong ngàn hạt châu. Tâm ta đã là một hạt châu có công năng chiếu khắp các hạt châu. Trong tâm ta không có các hạt châu thì lìa ngoài tâm ta không có riêng Tịnh độ, vì sao? Vì Đức Thích-ca cũng là một hạt châu, Đức Di-đà cũng là một hạt châu. Nêu một mà gồm thâu tất cả, há ngoài tâm lại có Pháp. Cho nên nói duy tâm Tịnh độ, bổn tánh Di-đà. Song nói duy tâm là đủ, sao còn nói cách mười muôn ức cõi Phật ư? Phải biết ý chỉ của kính là dùng lý chọn tình mà nói. Vì sao? vì tình sinh thì mười muôn là xa xôi, còn duy tâm thì chỉ trong một niệm. Lý như thế thì chỉ Duy tâm mà thôi, sao nói Tịnh độ? Nên biết Thể nó không nhân quả, một niệm duy tâm mê ngộ đã khác, nhân quả rõ ràng như thế. Di-đà là quả ngộ, chúng ta là nhân mê. Sinh tâm ưa thích nhàm chán, thuận theo lời Phật khuyên cầu sinh. Nên nói Duy tâm lại nói Tịnh độ vậy. Song đã có lấy bỏ, ưa chán thì không thành giả dối chăng? Thưa rằng: Nên biết người tu Viên giáo hễ bỏ thì bỏ uế, hết cả ba cõi chín cõi đều bỏ. Hễ lấy thì lấy Tịnh cùng nguồn lấy thẳng Thượng phẩm tịch quang. Cho nên Diệu Tông chép: Nếu lấy bỏ cùng cực thì cùng với chẳng lấy bỏ cũng chẳng phải khác vết xe. Bởi vì tịch quang không lìa ba cõi, mười cõi chỉ là bốn cõi mà thôi. Nếu bốn nhãn hai trí mà quán thì muôn tượng sum la ba độ chín giới đều bỏ, nếu lấy Phật nhãn chủng trí mà quán thì chân không vắng bặt, không phải lìa ba cõi chín cõi mà có tịch quang riêng. Không phải ngoài tịch quang mà có Ta-bà riêng. Như người xưa nói chỉ duyên tức tâm là Phật, nhưng phải cần nhờ tu hành, là ý này vậy. Biết rõ duy tâm thì chẳng ngại mười muôn đường xa. Lấy lý chọn tình ý đó sâu lắm vậy. Lại còn phải biết đây là nói theo thuận thì rõ tánh là hạnh, nếu nói theo nghịch thì bỏ tánh thành mê, cũng có thể bàn về duy tâm địa ngục, địa ngục này cũng là một trong ngàn hạt châu. Cũng là Toàn Đủ biến khắp. Ngoài địa ngục vì không có pháp khác. Tất cả thú hướng địa ngục, thú hướng này không ngoài sáu thứ, tức ba ngàn đều là địa ngục, như thế thì giường sắt chẳng khổ, biến dịch không đổi dời. Tất cả đều là Tánh đức sẵn có tánh ác, pháp môn do đó mà biết. Hoặc thuận hoặc nghịch, nhân quả, mê ngộ, sự lý, tu tánh. Nếu rõ Duy tâm bổn tánh chỉ là một, ba ngàn pháp dung diệu, mười muôn đường xa đều chẳng ngại. Vì sao, vì chân cụ, vì dung nhiếp, cho nên được như thế. Như trên là lược nêu vài nét, nếu muốn chứng sâu lý này thì phải dẹp bỏ tình tưởng.

16. Duy tâm Tịnh độ của Thiền sư Cô Tô-Thủ một.

Thiền sư Cô Tô con của họ Trịnh, dòng họ này hiển quan sớm. Thuở nhỏ nương Thiền sư Viên Chiếu, được đại triệt ngộ, xướng đạo ở Tuyên thành, đạo tục đều khâm kính. Từ khi ở chỗ Thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài đến nay chuyên dùng pháp Tịnh độ gặp ai truyền trao đều được vãng sinh, đều có những chứng nghiệm rõ ràng, có chép đủ trong Bảo Châu tập. Sư có văn Duy tâm Tịnh độ, nay chép ở đây.

Phật nói Tịnh độ Cực lạc khắp khuyên chúng sinh cõi Ta-bà phải nên phát nguyện sinh về cõi nước ấy. Song người học đốn thì bỏ đi coi là quyền thuyết, người không thông lý tánh thì câu nệ vào sự tướng. Ta có học Duy Thức chỉ ngăn ngoại cảnh, thức biểu thị cho tự tâm. Ngoài tâm không cảnh, cảnh toàn là tâm. Tâm pháp cùng khắp, Tịnh độ đâu lìa đương niệm, chúng sinh và Phật đồng thể. Di-đà toàn là ở tự tâm mà nhiếp hết hữu tình, thật không có Phàm Thánh khác nhau, dung thông pháp giới đâu có phân chia ranh giới xa gần. Kinh Thủ-lăng-nghiêm nói tâm còn ngầm hiện cõi Phật cảnh Thánh, chỉ có Xiển-đề không có tín căn thì mười muôn ức cõi Phật xa cách ngoài phương khác. Thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài một đời hồi hướng Tịnh độ. Hỏi người học rằng: Nếu nói bỏ uế lấy tịnh, chán đây ham kia thì tình lấy bỏ trở thành vọng tưởng của chúng sinh. Nếu nói không có Tịnh độ thì trái lời Phật nói. Vậy người tu Tịnh độ phải tu như thế nào. Lại tự đáp rằng: Sinh thì chắc chắn sinh còn đi thì thật chẳng đi. Nếu hiểu rõ ý này thì Duy tâm Tịnh độ hiển rõ vô ngại. Luận nói: Trí tu Duy Thức thông, như thế mà chọn Tịnh độ, nguyện các đồng tu quyết định cầu sinh. Năm Quý Tỵ, niên hiệu Chánh Hòa thứ ba, Tỳ-kheo Thủ Nạp kính ghi lời tựa.

Trong luận Kim Cang Bát-nhã, ngài Thiên Thân có kệ rằng: Trí tu duy thức thông, như thế chọn Tịnh độ, không phải hình, thể bậc nhất, chẳng trang nghiêm trang nghiêm. Luận tự giải thích rằng: "Trí tu duy thức thông", đây là nói cõi chân, các Đức Phật không có việc trang nghiêm cõi nước. Các Đức Phật chỉ có trí tuệ chân thật, tu tập thức thông đạt, là tu tập trí không phân biệt, thông suốt tánh Duy thức chân thật. Như thế chọn Tịnh độ, là tu trí này, hàng Bồ-tát tu Duy Thức thông là lấy được quả Tịnh độ, không phải hình, thể là bậc nhất, câu này nói thể Tịnh độ không tư sinh diệt, là hình Tịnh độ do lý chân thật Đệ nhất nghĩa, là thể của Tịnh độ. Chẳng trang nghiêm trang nghiêm:

1. Hình tướng độ: Tức nước chim cây rừng... các việc trang nghiêm.

2. Pháp tánh độ: Tức là chánh trí, chứng khế hợp chân như vô lậu công đức không có hình tướng là trang nghiêm.

17. Thuyết khuyên tu Tây phương của Pháp sư Giải Không Khả Quán.

Đức Phật Thích-ca xuất hiện ở cõi Tà-bà, hóa độ cả cõi Đại thiên, ứng Tích ở Trung Thiên, tám tướng thành Đạo, rủ lòng từ với vật, ở trong các Đại giáo hoặc do nhân mà đến như kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa. Hoặc chuyên vì một duyên như kinh Thập Lục Quán, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Xưng Tán Tịnh độ, do La-thập dịch, tức kinh Tiểu Bổn Di-đà và kinh Cổ Âm Vương, khắp khen Tây phương, khuyên tu niệm Phật. Tất cả Đại giáo chánh tông đều giải thích về các đường lối tu hành. Nếu muốn y lời kinh nói mà thực hành. Nếu không phải bậc Đại căn đại trí, duyên đời trước thuần thục thì khó đến mà được mau phát ngộ ra khỏi sinh tử. Lại sợ sinh tử đâu hẹn, không thể trước an sau thuận. Thế nên Phật A-di-đà dùng năng lực bổn nguyện mà thị hiện thế giới Cực lạc Tây phương y chánh trang nghiêm, hoa sen thanh tịnh, ba bậc chín phẩm. Muốn dẫn dắt người niệm Phật, nhất tâm bất loạn, duyên niệm Đức Phật ấy, thời đến duyên đủ thì an nhiên qua đời, thấy ánh sáng Phật không lạc vào cảnh ma, quyết định vượt cao, không vào vòng khổ, đây là một việc. Nếu không có Đức Thích-ca xuất hiện ra đời thì do đâu mà được. Cho nên chắc chắn không phải duyên nhỏ. Nên biết chỉ khen ngợi Tây phương là pháp cấp cứu, sao để giữa dòng mất thuyền ngàn vàng. Chính như Phật nói kinh A-di-đà không đợi thời cơ phát khởi liền nói kinh, là ý ở đây vậy. Đời Đông Tấn tại Hổ Khê thuộc Lô sơn, Pháp sư Tuệ Viễn kết xã Bạch Liên, Hiền Sĩ Đại phu và các Tôn giả một trăm mười tám vị đồng tu Tây phương, niệm Phật Tam-muội, lúc qua đời thấy Phật, liền được vãng sinh. Tuy Tạ Linh Vận tạp tâm đã ngưng nhưng không cho vào xã. Từ đây truyền mãi đời sau luôn kính ngưỡng dấu vết ngài không thôi. Tất cả đều tin theo rất thịnh ở đời truyền bá Lục Tổ Đàn kinh. Người tu thiền gặp Lục Tổ nhân đó hỏi. Có pháp tu Tây phương, nó như thế nào? Lục Tổ đáp: Vì tự Tâm có Tây phương tức là chân Tây phương. Tâm tự có Tây phương còn tìm Tây phương ở đâu. Người phương Đông tạo tội gây nghiệp cầu sinh phương Tây. Nếu người phương Tây tạo tội gây nghiệp thì cầu sinh ở đâu? Chỉ ngộ được tánh thì việc gì chẳng được. Ôi như thế thì quê kệch đáng cười. Trộm gọi Tổ sư chẳng thể hành dụng. Có người nói đã ngộ tánh đây cũng có lý. Lý ấy thiên lệch đều là bệnh thiền. Tương truyền Cao ly đốt bỏ sách này. Bậc thầy người Liêu đông, hơi có mắt, xưa khen ngợi Minh giáo cao vọt, sao lại không giữ lời, lão này gốc giới bền chắc, khiến nêu lên để viết hành trạng. Lúc bình thường còn nhỏ, tiếng nói như chuông. Thân sau khi thiêu thì sáu việc không hư, có thể nói là Tăng bảo đời sau khó sánh kịp, không thể cầu đủ, cũng thấy việc này. Phải biết Tây phương niệm Phật Tam-muội rất dễ tu hành, chỉ cần hằng ngày nhất tâm bất loạn giữ niệm Phật ấy. Nguyện lực Phật ấy, tự niệm Phật lực, nhậm vận tương ưng. Dầu có lấy bỏ cũng chẳng lấy bỏ, không hề có dấu vết khác. Vì sao? vì niệm niệm lìa tướng, hoàn toàn không thật có. Như hạt châu để trong mâm lăn tròn tự tại vô ngại. Thân tâm thanh tịnh cũng như hoa sen, đạt duy tâm hiểu bổn tánh ở ta mà thôi, cách đây không xa.

18. Nói sơ lược nhân Tịnh độ của Đãi Chế Triều Thuyết Chi.

Triệu Tử Hòa Nhân Dục ở Lâm Truy, gửi thư cho Vĩ Thượng Lão Pháp Hoa rằng: Tôi vốn người Đông châu do đọc văn của ngài mới biết có Tịnh độ Tây phương có thể tu, nó phát nguồn từ Thiên Thai giáo. Ông nên ở Viên Diệu Đại giáo này chuyên nói một việc chân tu này mà làm lợi ích cho những người vô tình hữu tánh như chúng tôi. Bộc Xạ Chi nói: Những người phàm phu còn bị sự trói buộc cùng tôi đồng ở trong ba tai tám nạn nào dám đảm đương việc này. Tuy nhiên người bệnh chưa hẳn không biết đến thuốc. Trộm nghe có sinh ắt có tử, mà Phàm Thánh thì khác với vừa phàm vừa Thánh, mà thân cõi có khác với có thân thì có cõi, có cõi thì có thân, cái gì uế cái gì tịnh đâu chẳng phân biệt được ư? Phật Thích-ca Mâu-ni và Phật A-di-đà thương xót chúng sinh này nên đồng một nguyện lực ở ngoài vô lượng vô biên pháp môn mà lập ra một pháp môn này. Đức Thích-ca là khách, Đức Di-đà là chủ. Đức Thích-ca là sinh, Di-đà là nhà. Đức Thích-ca theo bệnh mà cho thuốc, Đức Di-đà khiến trọn đời không bệnh. Cõi của Thíchca là ở tạm, cõi của Di-đà là quê cũ. Từ Tây trúc nhìn sang An lạc cũng như ở Chấn đán ta nhìn về An lạc là một. Thế nên các ngài Văn-thù, Phổ Hiền, Di-lặc, Long Thọ, Hiền Hộ, Vô Trước, Thiên Thân... đều nguyện vãng sinh. Mà Quán Âm, Thế Chí vừa ở chỗ Thích-ca vừa ở bên Di-đà. Cõi nước chúng ta bắt đầu từ Bạch Liên xã do ngài Tuệ Viễn cùng Tạ Linh Vận, Lưu Di Dân... đề xướng. Nối sau có Đàm Loan, Đạo Trân, Hoài Cảm, Hoài Ngọc, Đạo Xước, Thiện Đạo... hạnh nguyện rất nổi tiếng lại có thể khảo cứu. Đại sư Thiên Thai Trí giả của ta đã nối tiếp Thánh hiền, đã mở mang Pháp Hoa, giáo bắt đầu rất đầy đủ mà thực hành càng xa, trước Pháp Hoa có kinh Duy-ma-cật đứng đầu khởi giáo Tịnh độ. Sau Pháp Hoa có luận Khởi Tín đều trọn chứng về Tịnh độ. Xét đề mục có mười thứ Phật độ, có hai mươi bảy phẩm cõi Phật. Nó hợp thành bốn cõi. Sau, từ ngài Trí Giả thì bắt đầu có tên gọi bốn cõi rải rác trong các kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Duy-ma, Nhân Vương, Phổ Hiền Hạnh Nguyện và luận Đại Trí độ. Chỉ ngài Trí Giả ta hợp lại mà sắp xếp thứ tự. Như trong kinh Duyma thì gọi là không thất, trong kinh Pháp Hoa thì gọi là tháp báu ở không trung, đó là cõi Thường Tịch Quang. Chúng sinh ở Duy-ma, chúng Bảo Liên Hoa ở Pháp Hoa đều là Bồ-tát ở cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Ở Duy-ma, Pháp Hoa thì Thanh văn, Bồ-tát cùng làm Tăng, tức là cõi Phương tiện hữu dư. Thấy nước Diệu Hỷ ở Duy-ma, ba lần biến mặt đất ở Pháp Hoa tức là Tịnh độ Đồng Cư. Duy-ma có Bồ-tát Hương Tích, Pháp Hoa đầu tiên phát ra ánh sáng rực rỡ là uế độ đồng cư. Phật bảo Trưởng giả Bảo Tích rằng: Bồ-tát tùy chúng sinh được hóa độ mà chọn lấy cõi Phật, tức là cõi Đồng cư. Tùy sự điều phục chúng sinh mà chọn lấy cõi Phật, là cõi Phương tiện hữu dư. Tùy chúng sinh dùng cõi nước nào để vào trí tuệ Phật mà chọn lấy cõi Phật tức là cõi Thật báo trang nghiêm. Tùy chúng sinh lấy nước nào để khởi căn Bồ-tát mà chọn lấy cõi Phật, tức là cõi Thường tịch quang. Văn ấy tuy ẩn kín mà nghĩa sáng tỏ. Tên tuy nhiều nhưng lý lại hợp. Nếu không phải do ngài Trí Giả nêu ra thì không biết làm sao. Xét ngài Tuệ Viễn, ở vào thời giáo Điển chưa đầy đủ, lúc căn cơ chưa thuần thục. Trí giả dẫn dắt các bậc Hiền mà sáng lập đạo, đạp sóng gió mà lắng sâu, mở ẩn bí mà làm bật sáng, trọn thành giáo này tặng lại người sau. Há chẳng đến từ Tịnh độ mà muốn cõi uế này thanh tịnh ư? Kinh Pháp Hoa trong phẩm Dược Vương chỉ bày thế giới An lạc, sinh trong hoa sen, còn ở phẩm Phổ Hiền thì bày cung trời Đâu-suất sinh về chỗ Di-lặc. Ngài Trí giả bỏ hạnh Phổ Hiền mà chuyên ý với sự chứng đắc quả Dược Vương. Sau đó, có pháp sư Từ Ân lại bỏ Dược Vương mà chuyên ý Phổ Hiền thì lại biết rõ là bốn cõi có phân biệt. Chỉ biết bốn cõi thì mười sáu quán gồm hết, ba thân, bốn giáo, muôn pháp đều không sót. Tuy nhiên có hai bệnh:

1. Nghi chẳng tin. Nếu họ nghi chẳng tự tin thì tin trong ta nào có bổ ích gì. Trí giả bị bệnh nên soạn luận Thập Nghi. Đời Đường, ở Vĩnh châu, Tốn Thượng nhân đặc biệt soạn luận ấy lên vách chùa Long Hưng mà cảm được rất sâu.

2. Tin mà cuồng điên ngu si, chẳng biết ngộ tâm nhập quán, nói nhân để chứng quả. Chỉ nói ta giữ tâm được tịnh còn ai cũng chẳng phải Tịnh độ, giống như hay nói lời Duy-ma thật mình là dân Thiên ma, há chẳng cẩn trọng ư? Đáng tiếc thay. Ở đời nay phát triển mạnh giáo này. Bởi có người, như Pháp sư Từ Vân về giáo hạnh, Pháp sư Tứ Minh về quán trí. Người gần đây như Luật sư Linh Chi về biện luận vì sao được chuộng, Vĩ Thượng lão Pháp Hoa xưa từ Pháp sư Minh Trí mà sinh tín.

Sau rất thong dong ở Linh Chi.

19. Các thuyết về Tịnh độ của Pháp sư Thảo Am Đạo Nhân.

Kinh chép: Di-đà là thân pháp giới. Thân cao sáu mươi muôn ức na-do-tha do-tuần, có thứ trượng sáu, có thứ trượng tám, có thành rộng mười ngàn do-tuần. Có ao tắm rộng tám mươi bốn ngàn dặm. Có nghi thành, có biên địa, có thai cung, có cơm ăn, có hoa lá hai trăm năm mươi do-tuần. Có thứ lớn như bánh xe. Có cha mẹ, có ma vương. Có cõi không trang nghiêm như của Đức Thích-ca, nhưng các kinh luận thường có sự khác nhau, há là một thời quyền biến phó cơ ư? Đáp rằng đâu thể gọi là quyền? Hơn nữa, Đức Thích-ca đứng đầu tam thiên đại thiên thế giới thì một tứ thiên hạ này quả báo còn có sai khác, há các nước đều đồng nhau? Ứng thân Đồng cư còn như thế, huống chi ba thân bốn cõi. Huống gì Di-đà dắt dẫn chúng sinh niệm Phật mười phương cao thấp, cạn sâu cũng chẳng đồng. Sợ chẳng những đại thiên thế giới mà thôi, há chỉ dừng lại ở mười ngàn do-tuần ư? Huống ba thân bốn cõi do đó mà biết thuyết chẳng đồng nên nói như thế. Song các kinh luận chẳng nói rõ. Đã muốn hành giả chuyên chú vào một cảnh, do đó không cần phải nhiều, huống là như vừa kể, là có nhiều tướng như thế. Song ở đây chỉ có ngài Tứ Minh thông đạt sâu xa, giải thích năm trược nặng nhẹ, đồng cư tịnh uế, bảo rằng tịnh này rất chung, phải biết ý riêng. Như ở bốn giáo, sơ tâm và giới thiện đều có thể năm trược mỏng nhẹ thì chiêu cảm đồng cư tịnh. Nay Viên quán khinh trược, y, chánh rất Tịnh so các kinh khác mà tu các hạnh lành thì tướng nó rất khác xa. Người khác nghe lời nói này bảo Tứ Minh là nghĩa gì. Phàm loài chim cánh vàng nuốt rồng ở chín vực, quán suốt bảy lầu vàng, dừng nghỉ trên núi thiết vi. Ếch ở giếng mà tin ư.

20. Ghi chép về tự tin Tịnh độ của Vô Công Tẩu Vương Điền.

Tôi thấy giáo truyền về phía Đông của Như Lai, nếu nói thuyết chỉ thắng bổn tâm khiến người rốt lý, có người hiểu biết nên đã tin theo, còn những người hiểu biết thấp kém cũng không dám bàn đến. Chỉ bày việc vãng sinh của luận Tịnh độ thì mọi người đều hoài nghi. Lại chúng sinh tâm vốn có bốn thứ Tịnh độ là Phàm Thánh đồng cư, Phương tiện hữu dư, Thật báo vô chướng ngại và Thường tịch quang Phàm Thánh đồng cư thì hàng phàm phu còn bị trói buộc có thể nương ở. Còn ba cõi kia, thì dứt hoặc bậc Thánh mới được chứng nhập. Pháp môn vãng sinh có hai tịnh nghiệp là: Chánh quán ngầm xét bổn tâm và trợ hạnh tu đủ muôn hạnh lành. Chánh quán và trợ hạnh đều tiến thì đạt đến bốn Tịnh, chỉ có nguyện làm các điều lành, gần thì sinh Phàm Thánh đồng cư, xa thì làm nhân sinh ba cõi trên. Theo luận này thì Tịnh độ chính là cảnh giới mà Bồ-tát rốt lý chứng được, bao gồm tất cả chúng sinh mênh mông hồi hướng tiệm tu. Họ tin lời Như Lai chỉ thẳng bổn tâm khiến người rốt lý mà nghi việc bày Tịnh độ vãng sinh là sao? Đại để là bổn tâm chúng sinh, thể không có một pháp có hình dụng, không một tướng nào chẳng đủ mà họ không biết, cho rằng thẳng như hư không vắng lặng, không còn y, chánh trang nghiêm. Lại trợ hạnh lấy chánh quán làm chính, chánh quán lấy trợ hạnh làm phụ. Hai là đối nhau mà lập, dường như trái nhau mà lại phù hợp, mà họ không biết, gọi là rốt lý quên duyên thì đâu cần phải thêm nguyện, thêm nguyện vãng sinh thì có ngại cho rốt lý, huống là Tịnh độ có đủ cả bốn phẩm. Người vãng sinh trên đến rốt lý Bồ-tát, dưới gồm tiệm tu chúng sinh thì loại nào chẳng thu, cơ nào chẳng nhiếp mà họ không biết. Nghe Thánh sư cao tăng vãng sinh thì tự cam mình không có phần. Thấy đàn bà trẻ con niệm Phật thì thẹn thùng mà làm theo. Ôi, Như Lai khen ngợi Tịnh độ có ý bảo rằng Tịnh độ mình người, Phàm Thánh, nhân quả tức tự tâm chúng sinh mà thôi. Vãng sinh Tịnh độ là dễ, tự tin tâm mình là khó. Đương thời các Đức Phật mười phương biết là nói Pháp tất cả thế gian khó tin, do đó mà bày tướng lưỡi khuyên tin. Rồi Như Lai lại dụ khiến nên tin nhận. Ý chỉ Từ bi của Đấng Đại

Giác có thể thấy ở đây mà chúng sinh chẳng hề tin, thật đáng trách. Một hôm, có người hỏi, tôi dùng giáo Tịnh độ, tùy chỗ vặn hỏi mà luận bày, khi rảnh tôi bèn biên lại thành sách được mười câu vấn đáp đặt tên là Tịnh độ Tự Tín Lục những ai hoặc thấy hoặc nghe hoặc y hoặc trái, chẳng rời Ta-bà đã về Cực lạc. Đây là chí của tôi.

Tứ Minh Vô Công Tẩu Vương Điền kính ghi.

21. Tịnh độ chuyên tu và tạp tu của Tỳ-kheo Thiện Đạo ở kinh đô.

Hỏi: Vì sao chẳng dạy quán tưởng mà dạy xưng niệm danh hiệu là có ý gì?

Đáp: Chúng sinh chướng nặng, cảnh tế, tâm thô, thức tán, thần động thì quán khó thành tựu. Ấy vì đại Thánh Từ bi thương xót khuyên thẳng chuyên xưng danh hiệu chính là do xưng danh thì dễ, nối nhau mãi liền sinh, nếu như trên mà niệm niệm nối nhau lấy cái chết làm kỳ hẹn, thì mười người tu mười người sinh, trăm người tu trăm người sinh.

Vì sao? vì không ngoài tạp duyên mà được chánh niệm, vì tương ưng với bổn nguyện của Phật, vì không trái với giáo, vì thuận theo lời Phật nói. Nếu bỏ chuyên niệm mà tu tạp nghiệp, thì trong một trăm người chỉ hy vọng được một, hai, trong ngàn người chỉ mong ba, bốn. Vì sao? vì do tạp duyên loạn động, vì mất chánh niệm, nên không tương ưng với bổn nguyện Phật, trái với giáo, không thuận theo lời Phật, vì giữ niệm không nối nhau nên tâm không liên tục nghĩ báo ân Phật, vì thế tuy thực hành hạnh nghiệp mà thường tương ưng với danh lợi nên thích gần tạp duyên, chướng mình chướng người. Vì chánh hạnh vãng sinh, so với đạo tục các phương khác thấy giải hạnh khác nhau, chuyên tạp có khác. Nếu chuyên ý thực hành thì mười người tu mười người sinh. Còn tu tạp chẳng dốc lòng thì ngàn người không được một. Ngưỡng mong tất cả người vãng sinh nên khéo tự suy lường mình nay thân này nguyện sinh về nước ấy, đi đứng nằm ngồi thân tâm hết sức cố gắng, ngày đêm không phế bỏ, đến chết mới thôi. Chỉ ở thân hình, dường như có chút khổ, niệm trước dứt rồi, niệm sau liền vãng sinh. Trong nhiều kiếp lâu dài luôn được pháp Vô vi cho đến thành Phật, không trở lui vào sinh tử, há chẳng vui sao?

22. Luận về hoành xuất và thụ xuất của Pháp sư Đồng Giang Trạch Anh.

Thụ Xuất là Thanh văn tu Bốn đế, Duyên giác tu mười hai nhân duyên, Bồ-tát tu sáu độ muôn hạnh. Các hạnh tu này bước lên giai vị như lên bậc thang, tự phải có tài học. Lại như ra làm quan cần phải có công lao. Hoành xuất là niệm Phật cầu sinh

Tịnh độ, ví như được phúc ấm, công do sức của ông cha và người khác, bất luận có tài học hay không. Lại như do vua ban ân chuyển khắp, công do quốc vương, bất luận trải qua các việc cạn sâu. Ở Hoành xuất có Định thiện và Tán thiện, nên Hòa thượng Thiện Đạo lập chuyên tu và tạp tu. Tạp tu nghĩa là tản mạn tu các nghiệp lành mà hồi hướng trang nghiêm. Còn chuyên tu là chuyên lễ Phật Adi-đà mà không xen các lễ các Đức Phật khác, miệng chuyên niệm danh hiệu Phật A-di-đà mà không niệm các danh hiệu khác, chẳng tụng các kinh chú khác, ý chỉ chuyên tưởng Phật A-di-đà không tu các quán khác. Nếu chuyên tu thì mười người tu mười người sinh, trăm người tu trăm người sinh. Còn tạp tu thì trăm người chỉ được một, hai người sinh, ngàn người chỉ được năm, ba người sinh. Nay thấy người đời có khi một ngày lễ Phật A-di-đà ba ngàn lạy, ngày niệm Phật A-di-đà mười muôn câu. Có người ngày đêm tập ngồi chuyên tưởng Phật A-di-đà và các cảm ứng, rất có linh nghiệm.

23. Pháp mười niệm buổi sáng của Thiên Trúc Sám chủ Tuân Thức.

Người tu Tịnh nghiệp mỗi ngày vào lúc sáng sớm phải rửa mặt chải tóc, mặc áo sạch, xoay mặt về hướng Tây đứng chắp tay xưng niệm nối nhau danh hiệu A-di-đà Phật hết một hơi là một niệm.

Như thế mười hơi gọi là mười niệm, chỉ tùy theo hơi dài ngắn không hạn chế câu Phật nhiều ít. Chỉ cần dài lâu hơi rốt làm mức. Niệm câu Phật không cao không thấp, không chậm không mau, điều hòa vừa chừng. Mười hơi như thế liền nhau không dứt ở ý, luôn khiến tâm không tán loạn, chuyên tinh thành công phu gọi là mười niệm, là chỉ rõ việc nhờ hơi cột tâm. Hết một đời này chẳng được một ngày bỏ phế, chỉ lấy không bỏ phế tự cần yếu ở tâm thì chắc chắn được sinh nước ấy. Niệm như thế xong, kế phát nguyện rằng:

Con đệ tử là... một lòng quy mạng Đức Phật Adi-đà ở thế giới Cực lạc. Xin chiếu ánh sáng thanh tịnh vào thân con, dùng thệ nguyện từ bi che chở con. Nay con chánh niệm xưng danh Như Lai, trong khoảng mười niệm, vì đạo Bồ-đề cầu sinh Tịnh độ. Phật xưa vốn thệ nếu có chúng sinh nào muốn sinh về nước ta, dốc lòng tin ưa, dù chỉ mười niệm mà chẳng sinh, thì ta không thành Chánh giác, chỉ trừ người gây năm tội nghịch và hủy báng chánh pháp. Nay con tự nhớ đời này, đời sau chẳng tạo tội nghịch, chẳng chê Đại thừa. Nguyện mười niệm này được vào biển thệ lớn của Như Lai, nhờ Từ lực Phật, các tội tiêu diệt, nhân lành thêm lớn. Nếu khi sắp qua đời thì được biết trước. Thân không bệnh khổ, tâm không tham luyến, ý chẳng điên đảo, như vào thiền định. Phật và Thánh chúng, tay bưng đài vàng, đến đón rước con. Trong khoảng một niệm, liền sinh Cực lạc. Hoa nở thấy Phật, liền nghe Phật thừa, mở nhanh Phật tuệ, rộng độ chúng sinh, tròn nguyện Bồ-đề.

24. Phương pháp niệm Phật của Thiên Trúc sám chủ Tuân Thức.

-Phàm đấng Đại giác Thế Tôn dùng bốn pháp độ các chúng sinh:

1. Thị hiện tướng đẹp đẽ, khiến người quán sát phát tâm Bồ-đề.

2. Thị hiện nói pháp khiến người được nghe khai ngộ vào đạo.

3. Thị hiện hóa độ khiến người thấy nghe được các pháp lợi.

4. Danh hiệu truyền khắp mười phương khiến người nghe chấp trì giữ niệm thì tội diệt, thiện sinh, mà được độ thoát.

Ở đây nói niệm Phật thì hoặc chỉ duyên với ba mươi hai tướng tốt mà giữ tâm được định, mở mắt, nhắm mắt đều thường thấy Phật, hoặc chỉ xưng niệm danh hiệu chấp trì không tán loạn, cũng ở hiện đời này được thấy Phật. Ở cõi này hiện thấy phần nhiều xưng niệm danh hiệu Phật là trên hết. Như Pháp sư Hoài Cảm chỉ một mạch xưng niệm danh hiệu A-di-đà Phật mà được Tam-muội, hiện tiền thấy Phật. Cho nên nay khắp bày pháp xưng niệm danh hiệu Phật, cần phải định tâm khiến không tán loạn, niệm niệm nối nhau, duyên với danh hiệu. Trong miệng từng tiếng thường đọc Adi-đà Phật, lấy tâm duyên theo từng chữ rõ ràng, khiến tâm và miệng cột nhau. Hoặc trăm câu, ngàn câu, muôn câu, hoặc một ngày, hai ngày hoặc bảy ngày. Chỉ khi niệm danh hiệu thì không quản nhiều ít, chỉ cần một lòng một ý, miệng và tâm nối nhau. Như ở cõi này một niệm diệt được trọng tội trong tám mươi ức kiếp sinh tử. Nếu không được thế thì diệt tội rất khó. Nếu sợ tâm tán loạn thì đọc lớn nhanh thì tâm dễ định, Tam-muội dễ thành. Cho nên Pháp sư Hoài Cảm trong luận Quyết Nghi có dẫn kinh Đại Tập Nhật Tạng kinh nói niệm nhỏ thấy Phật nhỏ, niệm lớn thấy Phật lớn. Luận giải thích rằng: Niệm lớn là lớn tiếng niệm Phật. Niệm nhỏ là nhỏ tiếng niệm Phật. Đây là lời Thánh dạy đâu có lầm lẫn, khuyên các người học chỉ cần cố gắng lên tiếng niệm Phật, Tam-muội dễ thành. Nếu nhỏ tiếng niệm Phật thì bị nhiều tán loạn. Đây chỉ người thực hành mới biết, người ngoài không hiểu được việc này, Đại sư Thiên Thai Trí giả trong khi giải thích kinh Quán có nói rằng: Khi người tội sắp qua đời xưng Phật hiệu mười niệm thì dập tắt được lửa địa ngục mà được sinh Tịnh độ, ý ấy rõ ràng. Như nói tâm ấy tuy thời gian ít ỏi nhưng năng lực rất mạnh, tâm quyết đoán chắc chắn thì năng lực hơn cả nguyện lực trăm năm. Tâm ấy gọi là đại tâm, chẳng tiếc thân mạng, gọi là người có sức mạnh. Đó nói niệm lớn thì đây gọi Tâm lớn. Đó nói gắng niệm hết sức thì đây nói mạnh mẽ không tiếc thân mạng. Đó nói niệm nhỏ thường bị tán loạn thì đây nói hơn cả nguyện lực trăm năm. Há không phải là đều khiến mạnh mẽ lớn tiếng niệm Phật, tuy ít mà công hiệu nhiều? Nếu nhỏ tiếng niệm Phật tuy nhiều mà công hiệu ít. Cho nên nói mười niệm hơn cả trăm năm. Thời nay phần nhiều thấy người đời niệm Phật đều không tinh chuyên, tán tâm, niệm chậm khiến cho hiện đời thành công rất ít, khi qua đời việc cảm ứng rất ít. Cho nên nay đặc biệt chỉ bày pháp này khẩn thiết khuyên khi niệm Phật thì phải nhất tâm bất loạn, lớn tiếng niệm Phật, từng tiếng nối nhau, không bao lâu sẽ được thành công.

25. So sánh công đức niệm Phật của Thiên Trúc Sám chủ Tuân Thức.

Kinh Đại Niết-bàn nói: "Giả sử trong suốt một tháng thường cúng dường y phục, thức ăn cho tất cả chúng sinh thì không bằng một phần mười sáu công đức của người niệm một câu Phật. Giả sử rèn vàng làm người dùng xe ngựa chở chuyên cho đến dùng trăm thứ báu mà bố thí mọi người thì không bằng công đức hướng trước Phật bước đến một bước. Giả sử có người đem voi xe lớn chở hết các báu vật chuỗi ngọc trong nước Đại Tần, số nhiều trăm muôn dùng để bố thí thì cũng không bằng phát tâm hướng trước Phật bước đến một bước. Nếu cúng dường bốn thứ cho tất cả chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới thì cũng không bằng phát tâm hướng trước Phật bước đến một bước, vì công đức này vô lượng vô biên." Vậy khuyên khắp các nam nữ tín tâm tại gia mỗi buổi sáng nên mặc áo sạch, tịnh tâm đảnh lễ tượng Phật xem như Phật thật không khác. Đừng để một ngày bỏ phế. Nếu công việc bận rộn gấp gáp thì cũng phải chú tâm vào Phật đường, đốt hương trước Phật lạy một lạy. Nếu được rảnh rang thì sớm chiều chớ bỏ. Chẳng nệ sớm tối, xin đem một niệm niệm Phật và bước đến chỗ Phật một bước công đức rất cao quý. Huống là từng bước, từng niệm, đi nhiễu niệm Phật thì diệt tội chướng và được công đức chẳng thể suy nghĩ nói năng được.

26. Pháp ngồi thiền quán tưởng vãng sinh của Thiên Trúc Sám chủ Tuân Thức.

Muốn tu quán vãng sinh thì phải ở một nơi, ngồi trên giường dây, xoay mặt về hướng Tây thì dễ quán tưởng, vì biểu thị đúng hướng. Cho nên ngồi kiết già thẳng cổ và xương sống thẳng hàng chẳng ưỡn chẳng khom, hơi thở điều hòa, tâm yên định. Nhưng môn tu quán trong kinh luận có nói rất nhiều. Kẻ sơ tâm phàm phu đâu thể tu tập khắp hết. Nay vì để dễ tưởng nên nêu hai thứ mà tùy nghi, không cần cả hai thứ. Nếu có quán tưởng khác đã thuần thục thì mặc tình thuận tiện, chỉ không lìa pháp môn Tịnh độ thì đều nên tu tập. Nói hai thứ:

1. Giúp ý quán khắp, ngồi xong thì tự tưởng, tức thời công phu đã tu hợp với vãng sinh thế giới Cực lạc. Khi đó khởi tưởng sinh về cõi nước ấy ngồi kiết già trong hoa sen, hoa sen khép lại, tưởng hoa sen nở ra. Khi hoa nở ra thì tưởng có ánh sáng năm trăm sắc (mầu) chiếu đến thân mình. Tưởng mắt mở ra, tưởng thấy Phật, Bồ-tát và cõi nước, tưởng ở trước Phật ngồi nghe Pháp mầu. Tất cả tiếng đều nói những pháp mà mình thích nghe, đều rất hợp với mười hai bộ kinh. Lúc đó phải giữ cho tâm bền chắc không loạn, tâm tưởng rõ ràng như thấy trước mắt, rất lâu mới đứng dậy.

2. Tưởng thẳng Phật A-di-đà thân vàng trượng sáu ngồi trên hoa, rồi chú tưởng vào giữa hai đầu chân mày có sợi lông trắng dài một trượng rưỡi, chu vi năm tấc, ngoài có tám cạnh (góc), bên trong rỗng, xoắn về bên phải ở giữa hai đầu chân mày rất trong suốt sáng sạch, không diễn tả hết được, ánh sáng của nó soi rõ mặt Phật rõ ràng. Khi thực hành tưởng này thì dừng tâm chú tưởng bền chắc không dời, sau khi thực hành quán tưởng này thì nghĩ việc thấy Phật hoặc chưa thấy đều là nhân duyên không thực, các tướng hiện ra đều là không, như mặt mày trong gương, như trăng trong nước, như mộng như huyễn, tuy không nhưng cũng thấy được, đều do tâm tánh hiện ra. Tất cả đều do tự tâm mà tâm không tự biết tâm, tâm không tự thấy tâm. Tâm có tưởng là si, không tưởng là Niết-bàn. Tâm có Tâm không đều gọi là có tưởng, đều gọi là si, không thấy pháp tánh. Pháp do nhân duyên sinh tức không, giả, trung, chẳng phải một, chẳng phải khác, chẳng phải ngang, chẳng phải dọc, chẳng thể suy nghĩ bàn luận. Tâm tưởng vắng lặng thì sẽ thành tựu niệm Phật Tam-muội, lâu rồi mới đứng dậy.

27. Thuật niệm Phật tu tâm của Pháp sư Sơn Đường Ngạn Luân.

Các kinh Đại thừa khuyên sinh Tịnh độ nhân chung cho hai thứ định và tán. Định là tức Tâm quán Phật, tưởng y chánh, chủ bạn của cõi Tây phương kia, chỉ tâm vốn đủ, vì tâm ta không nên Như Lai vốn không, vì tâm ta là giả nên Như Lai rõ ràng cũng thế, vì tâm ta trung nên Như Lai dứt đối đãi. Hoặc tưởng hoa sen nở ra khép vào ta ở trong ấy. Khép là biểu thị cho không, nở là biểu thị cho giả, bốn vi đồng thể biểu thị cho trung đạo. Nên kinh nói các Đức Phật Như Lai là thân pháp giới nhập vào tâm tưởng của tất cả chúng sinh. Nên khi tâm ta tưởng Phật thì tâm ấy tức là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Tâm ấy làm Phật, Tâm ấy là Phật. Đây chính là Như Lai đích thân chỉ bày duy tâm Tam-muội viên thường quán thể, hiểu rõ y chánh sắc tâm của Tịnh độ ấy đều từ tâm ta, tánh sẵn có công đức, tức cảnh là quán. Ngoài tâm không Phật, ngoài tánh không có cõi, quán mãi không thôi, chứng vô sinh nhẫn, hai là tán thiện, dùng tâm thuần thành chân thật tin có Tây phương, nhất tâm bất loạn, niệm Phật Di-đà một ngày đến bảy ngày từng tiếng không dứt, từng niệm không xen. Kinh nói chấp trì danh hiệu một ngày đến bảy ngày nhất tâm bất loạn. Khi người này qua đời thì Phật A-di-đà cùng các Thánh chúng hiện ra trước mắt. Song việc tưởng nước ấy không có ba pháp quán nên gọi là tán thiện mà thôi. Cho nên ba thứ tịnh nghiệp (thân, khẩu, ý) hồi hướng nguyện sinh đều chứng Cực lạc. Ngài Trí giả nói: Căn có lợi độn, hạnh có định, tán. Tam-muội quán Phật gọi là định tu các nghiệp lành khác gọi là tán. Năng lực của tán thiện yếu kém không thể diệt trừ được năm tội nghịch. Kinh này nói quán được vãng sinh là biết hoặc định hoặc tán, hoặc độn hoặc lợi đều là nhân Tịnh độ, đều đến vô sinh, không bao giờ lui sụt.

28. Luận Bảo Vương chọn bày nghĩa vãng sinh của Thiền sư Thảo Đường Phi Tích.

Hỏi: Người học đạo Phật mà tâm tán loạn khó kềm thúc, nay muốn được xuyên suốt, chuyên niệm Đức Phật Tây phương, bước lên giai vị không lui sụt, bỏ tâm hữu lậu, nương thuyền nhỏ mà về ao vàng, lễ Phật A-di-đà ở điện Bạch ngọc để thông ba cõi, suốt chín phẩm có được chăng?

Đáp: Luận Thập Trụ Bà-sa ngài Long Thọ nói: Đạo Bồ-tát có hạnh khó làm như đất bằng mà đi thuyền. Có hạnh dễ làm như đường nước mà đi thuyền. Năng lực bổn nguyện của Phật A-di-đà nếu có người nghe danh hiệu xưng niệm mà cầu sinh về nước ấy thì như thuyền gặp nước, lại gặp gió thuận, một khi ra đi thì ngàn dặm cũng dễ thì vua cha và sáu vạn người họ Thích quyến thuộc của Như Lai đều sinh cõi Cực lạc. Bởi Phật và chúng sinh ở thế giới này có duyên sâu, cho nên chuyên chú một cảnh cũng chẳng tốt sao?

Hỏi: Người đời phần nhiều lấy ngọc báu, thủy tinh, kim cang Bồ-đề gỗ đá làm chuỗi, tôi thì lấy hơi thở làm chuỗi. Xưng niệm danh hiệu Phật mà theo hơi thở là có chỗ nương cậy vững chắc, đâu sợ một hơi không trở lại thì thuộc đời sau. Tôi đi đứng nằm ngồi đều dùng chuỗi này, khiến khi ngủ ngậm Phật mà ngủ, khi thức dậy liền tiếp tục, thì ở trong mộng được thấy Phật. Phật như cái dùi lửa, khói bay lên trước lửa, mộng thấy không thôi thì Tam-muội sẽ thành, thấy được sợi lông trắng, được Phật thọ ký thì muôn người không sót một.

Hỏi: Một niệm, mười niệm vãng sinh Tịnh độ thì pháp nào là chánh?

Đáp: Chỉ cần một niệm vãng sinh trụ giai vị không lui sụt là chánh. Như Phật đã nói kẻ chê bai Phật, hủy kinh, đánh Tăng, chửi bậc Tôn trưởng, năm tội nghịch, bốn tội trọng đều một niệm nghiệp ác mà thành thì đọa địa ngục Vô gián cũng như tên bắn. Nay niệm Phật mà sinh Tịnh độ cũng một niệm nghiệp lành mà thành liền sinh về Cực lạc, cũng như thời gian co duỗi cánh tay một niệm trước năm ấm diệt, một niệm sau năm ấm sinh. Như ấn bằng sáp in vào bùn, giơ ấn lên thì chữ thành, còn chẳng cần hai niệm, há đến mười niệm. Lại một niệm thì như kinh nói: Sa-di thích tô lạc sinh một niệm yêu thích thì sau liền thành sâu trong tô lạc. Đây chỉ một niệm không phải mười niệm. Lại kinh Đại Vô Lượng Thọ nói một niệm niệm Phật đều được vãng sinh. Mười niệm của kinh Quán cũng do đây. Bởi bị bệnh gầy ốm sức yếu tâm kém cho nên phải mười niệm xưng danh Diđà để giúp sức niệm ấy. Nếu tâm mạnh mẽ không mê thì một niệm liền sinh. Cũng như vừa gieo trồng chút ít hạt giống mà phát triển thành vườn tược gấp trăm lần.

Hỏi: Trong kinh Phương Đẳng nói tu thiền định vô thượng sâu mầu để dứt bỏ vọng tưởng, quán tưởng sợi lông trắng gồm xưng niệm danh hiệu Phật để cầu thắng định. Từ sau khi khế hợp thì hai thứ tâm, Phật đều quên, tin điều đó là có. Chỉ thầm niệm suối trong tức Tam-muội tự đến. Cần gì phải tiếng tăm ồn ào làng xóm, chấn động núi rừng, sau đó mới là đạo?

Đáp: Thật như lời hỏi, tiếng cũng không cần câu nệ lắm. Vì sao? vì cốt yếu của tán là còn ở tiếng, tiếng không cố gắng hết sức thì tâm hời hợt lông bông không định. Tiếng mà cố gắng hết sức thì nhổ cả gốc rễ cỏ tranh, thúc dục ở sau, khi qua đời thì bỏ hết trăm lo là nghĩa thứ nhất. Gần thì lấy chỗ âm thanh và ánh sáng đến được mà muôn họa tiêu tan, công đức nhóm hợp như ngàn núi xinh tươi là nghĩa thứ hai. Xa mà nói thì kim dung rực rỡ, tung rải hoa báu mưa tí tách trên không như chỉ tay trong lòng bàn tay đều là tiếng gây nên cả, là nghĩa thứ ba. Như kéo gỗ đá nặng mà không tiến lên, khi hồng âm lên tiếng thì nâng nhẹ như bông là nghĩa thứ tư. Đánh nhau với ma quân, cờ, trống inh ỏi, dùng tiếng làm khí giới để định yên phá cường địch là nghĩa thứ năm. Đủ các nghĩa này còn sợ sệt gì. Nếu chưa yên tĩnh cả hai toàn chỉ quán cùng hợp mà chẳng được ý Phật đó sao? Định tuệ nếu bằng nhau thì quên cả tâm và Phật, thật như điều hỏi. Cho nên ngài Lô sơn Tuệ Viễn trong bài tựa niệm Phật Tam-muội có nói: Công cao dễ tiến thì Niệm Phật đứng đầu. Xét tiếng huyền đánh lên, tâm nghe thì trần lụy liền tiêu, trệ tình được sáng suốt, nếu không phải chỗ chí diệu trong thiên hạ thì ai có thể sánh với đây ư? Nói kẻ minh chứng chưa bằng như kệ Hoa Nghiêm nói thà chịu vô lượng khổ mà được nghe thanh âm của Phật, chứ không chịu hưởng tất cả điều vui mà không nghe danh hiệu Phật, song tiếng Phật chấn động xa khai mở mầm mống lành, cũng như tiếng sấm mùa xuân chấn động cả muôn loài thảo mộc. Đâu được khinh thường?

29. Niệm Phật phương tiện của quan Ty Gián Giang Công Vọng.

Ông là người ở Nghiêm Châu, trí thức cao sáng, tuổi nhỏ thi đậu, vào niên hiệu Sùng Ninh nổi tiếng là dùng lời thẳng can gián. Đương thời rực rỡ tông môn, tham học Thiện tri thức, ăn rau dưa mặc áo vải, dồi mài tiết hạnh. Tuổi già chuyên tu Tịnh nghiệp ngộ nhập Tam-muội niệm Phật, có văn niệm Phật phương tiện khắc đá, lưu truyền chỉ dẫn chúng sinh. Cuối niên hiệu Tuyên Hòa ông coi Quảng Tế quân. Một hôm, chẳng bệnh ngồi kiết già mà hóa. Biết là ông đã về Tịnh độ vậy. Văn ông viết:

Pháp thế gian xuất thế gian muốn được thành tựu, ít tốn sức thì không gì bằng giữ tâm vào một duyên, chỉ xưng niệm danh hiệu A-di-đà Phật. Nếu niệm ra tiếng lâu ngày không chỉ hao tổn tạng khí, răng lưỡi gõ khua, tâm niệm náo động, tai bèn phân biệt thức sinh, tánh nghe bị dao động, hễ ra rồi thì không trở lại, ba thứ ấy chứa nhóm lâu ngày thành nhọc; hoặc biếng lười, chỉ tâm niệm, không niệm ra tiếng, tâm có lóng lặng nhưng chưa được tuệ chiếu, đâu được phản văn. Ngoài căn chẳng kéo trong đối chẳng sinh, chìm trong mê tối, dễ thành quên mất. Có phương tiện khéo không cần động môi miệng, chẳng phát âm thanh. Lấy lưỡi gõ vào răng cửa, tâm niệm tùy ứng, tùy tâm định lượng, theo nghiệp phát hiện, lưỡi và ý căn, trong niệm niệm đều có bốn chữ A-di-đà Phật, âm thanh rõ ràng, có thể bày tiếng mà chẳng vượt tai nghe. Trong tánh chứa tâm, ứng với cơ lưỡi, cơ kéo niệm căn, tâm khiếu ở lưỡi, gõ động lỗ tai, cơ cơ lại niệm, gởi ở trong tai. Từ nghe vào dòng là nghe trở lại tịnh nguyên, vắng lặng mà nghe tánh không, ba thứ ấy dung hội nhau thì niệm niệm viên thông. Trái tim hiện bổn tánh Di-đà, thân năm trược dạo chơi cõi tịnh duy tâm. Lâu ngày bèn thành tựu duy tâm thức quán, hạng người lợi căn như thế thì niệm niệm không sinh, tâm tâm không có chỗ, sáu căn yên vắng, các thức tiêu tan. Pháp pháp toàn chân, môn môn bặt đối đãi. Nháy mắt liền thành chân như thật quán. Kẻ sơ cơ hậu học chỉ trừ khi có khách hỏi chuyện hàn ôn và lúc đại tiểu tiện thì có thể tạm dừng niệm. Nếu chưa khỏi việc ăn uống ngủ nghỉ, chưa đến khi ngủ mê cho đến làm các công việc nhà thì không phải bỏ việc, cũng chẳng ngại gì tâm miệng từng niệm từng tiếng xưng tụng Thánh hiệu. Lại nếu có những ý nghĩ xấu ác phát ra ở tâm thì tự nhiên thuần nhất không xen tạp. Nếu nhiếp cả sáu căn, Tịnh niệm nối nhau thì không quá một tuần trăng liền thành Tam-muội. Đó gọi là tâm ấy làm Phật, tâm ấy thấy Phật, tâm ấy là Phật. Bậc thượng căn dại khí một niệm liền siêu, kẻ bình thường thì phải khéo quán phương tiện.

Điếu Đài Giang Công Vọng trình bày.

Phương pháp niệm Phật như Từ Vân Sám chủ và luận Bảo Vương chỉ bày, còn trước thuật của Giang Công Vọng cũng có thể nhiếp một cơ riêng.

Bởi tất đàn độ khắp đều được.

30. An tượng Phật A-di-đà trong nhà Vô Thường, xuất xứ trong Vô Tận Đăng.

Phẩm Hiền Thủ trong kinh Hoa Nghiêm chép: Lại phát ánh sáng gọi là thấy Phật. Ánh sáng này giác ngộ kẻ sắp chết khiến nhớ nghĩ thấy Như Lai, khi qua đời được sinh cõi tịnh. Thấy khi có người sắp qua đời thì khuyên niệm Phật. Lại bày tôn tượng khiến kính lễ, dạy quy kính Phật, thế nên thành tựu được ánh sáng này. Khiến thấy Phật thì một là không sợ chết, hai là không sợ đường ác. Lại khi qua đời khuyên niệm Phật thì như luận Trí Độ 28 chép: Thời gian ít ỏi khi sắp qua đời mà hơn cả năng lực tu hành trọn đời vì nó rất mạnh mẽ nhanh chóng, ví như lửa, như chất độc. Y theo pháp ở Tây vực thì ở góc Tây bắc của Kỳ viên hướng mặt trời lặn là nhà Vô Thường. Nếu có người bệnh thì đặt trong viện ấy. Hễ người tham nhiễm nếu an trí họ trong phòng, nhìn thấy y bát và các đồ dùng liền sinh đắm trước mà không chán bỏ. Cho nên dạy để chỗ riêng gọi là nhà Vô thường. Người đi rất đông trở về chỉ một, hai, ngay nơi sự mà cầu pháp chuyên tâm niệm. Theo trong viện ấy đặt một tượng Phật đứng sơn thếp vàng ròng mặt hướng về Tây, tay phải tượng buông xuôi, trong tay cầm một cái phướn năm mầu, rủ xuống đến đất. Để người bệnh ở sau tượng, tay trái cầm lá phướn, với ý nghĩa là vãng sinh theo Phật. Người nuôi bệnh đốt hương, rải hoa, đánh khánh, niệm Phật để giúp trang nghiêm người bệnh. Nếu người bệnh có tiêu, tiểu, ói mửa thì liền dẹp đi, người ấy cũng không có tội. Huống Phật không hề yêu, ghét, hễ có người nào nương về thì đều cứu độ. Lại vì người bệnh tùy cơ nói pháp, khi chết để yên bên Phật không được dời đi. Đợi thần thức dạo cảnh tịnh thì để hay dời không ngại. Cố gắng làm theo như đây.

31. Lâm chung chánh niệm quyết của Tỳ-kheo Thiện Đạo ở kinh đô.

Tri Quy Tử đến hỏi Hòa thượng Tịnh Nghiệp rằng: Việc lớn ở đời không gì bằng sinh tử, một hơi thở không trở lại thì thuộc đời sau, nếu một niệm sai lầm thì đọa vào luân hồi. Tiểu Tử tôi rất mong ngài chỉ dạy cho pháp niệm Phật vãng sinh. Lý ấy tuy rất rõ ràng nhưng sợ người bệnh khi chết đến thì tâm thức tán loạn, lại lo người nhà làm mê loạn chánh niệm mà quên mất Tịnh nhân. Lại mong ngài chỉ cho đường tắt giúp mau thoát khổ đắm chìm.

Sư nói: Lạ thay lời hỏi. Hễ người sắp chết muốn được vãng sinh Tịnh độ thì trước phải chuẩn bị không được sợ chết ham sống. Luôn nghĩ rằng thân ta hiện tại bị rất nhiều các khổ, nghiệp ác, bất tịnh... các thứ cùng trói cột. Nếu bỏ được uế thân này mà vãng sinh Tịnh độ thì được vô lượng điều vui sướng, thấy Phật nghe pháp, lìa khổ giải thoát là việc rất vừa ý, như bỏ áo cũ rách, hôi hám mà được mặc áo quý đẹp. Bỏ hết thân tâm không còn tham đắm. Khi mới bị bệnh bất luận nặng nhẹ liền nghĩ vô thường, một lòng đợi chết. Cần dặn dò người nhà, người nuôi bệnh và người đến thăm viếng rằng: Hễ đến trước tôi chỉ nên niệm Phật giúp tôi, không được nói nhiều chuyện lặt vặt trong nhà, hay dở tốt xấu. Cũng không nên nhỏ nhẹ an ủi ta, chúc ta an vui. Những lời này đều là lời luống dối không thực, sẽ gây tai họa. Khi bệnh nặng sắp chết thì người nhà thân thuộc không được đến trước ta mà khóc lóc, lên tiếng than thở buồn thương, làm rối loạn tâm thần mà mất chánh niệm. Chỉ cần ghi nhớ lấy câu A-di-đà Phật cùng lúc lớn tiếng niệm Phật giúp tôi cho đến lúc tôi dứt hơi. Đợi dứt rất lâu rồi mới được khóc lóc. Nếu có người hiểu rõ Tịnh độ đến khuyên gắng là tốt nhất. Nếu làm được như thế thì ngàn muôn vãng sinh ắt chẳng nghi ngờ lo lắng gì. Điều này rất thiết yếu phải tin tưởng làm theo.

Hỏi: Cầu thầy trị bệnh cho thuốc chẳng cần ư?

Đáp: Đây là luận về dụng tâm. Còn việc thầy thuốc trị liệu không ngại gì cả. Nhưng thuốc chỉ cứu được bệnh mà không cứu được mạng. Nếu mạng hết thì thuốc có làm gì được.

Hỏi: Cầu nguyện thần linh, họa, phước thì như thế nào?

Đáp: Mạng người thọ yểu sinh ra đã định, sao lại nhờ quỷ thần kéo dài thêm được? Người đời mê lầm trở lại cầu tà giết hại chúng sinh cúng tế quỷ thần, chỉ thêm tội nghiệp, lại kết thêm oán thù mà còn tổn thọ. Nếu mạng số hết thì quỷ nhỏ cũng chẳng làm gì được. Càng luống sợ sệt mà chẳng cứu giúp được. Hãy rất cẩn thận. Đem bài văn này dán trong nhà ở chỗ ăn uống hoặc nơi nhiều người thường qua lại khiến luôn đọc thấy mà ghi nhớ vào lòng, để phòng khi gặp nguy mà quên mất.

Hỏi: Lúc bình thường chưa hề niệm Phật khi sắp chết niệm Phật có hiệu nghiệm chăng?

Đáp: Pháp lành này người xuất gia, người tại gia và người chẳng niệm Phật thực hành đều được vãng sinh, quyết không nghi ngại. Tôi thấy phần nhiều người đời lúc bình thường thì niệm Phật lễ bái, phát nguyện vãng sinh. Đến lúc bệnh hoạn sắp chết thì lại sợ chết, không thấy nói đến việc vãng sinh nữa. Đợi đến lúc hơi thở đã dứt, thần thức xuống âm phủ rồi mới niệm mười niệm, cũng như giặc cướp đã tràn qua cửa ải thì có làm gì được nữa. Huống chi chết là việc lớn, cần phải chuẩn bị trước. Một niệm dần dà thì muôn kiếp chịu khổ, có ai chịu thay ta. Hãy suy nghĩ kỹ, suy nghĩ kỹ.

32. Khi sắp qua đời thỉnh tăng niệm Phật có cảm ứng, xuất xứ từ Bảo Châu Tập.

Thời gần đây, Trưởng lão Ngộ Công ở Cô Tô lui về ở Dương châu mà dứt duyên đời, thường ngày niệm Phật rất siêng năng. Có người hỏi vì sao tin tưởng quá thế. Ngộ công vui vẻ bảo rằng: Khi tôi trụ chùa Vạn thọ gặp Tập Duy-na bị bệnh không lành, bèn hai lần thỉnh tăng chúng niệm Phật. Sau khi chết thì chúng trong liêu có người chê ông là ngạo mạn, vào nhà trên sắp ngủ, bỗng nghe trên rường nhà có tiếng bảo: "Tập đã sinh Tịnh độ". Bèn nghi ngờ rằng ông không tu tịnh nghiệp thì làm sao được vãng sinh. Thì lại có tiếng bảo: Khi ông ấy sắp chết đã hai lần thỉnh chúng niệm Phật, khen ngợi hồi lâu, tự đó đầu thành. Tôi nghe Ngộ nói xong, nhân nhớ lại Pháp sư Đạo Nhân bảo Đường Minh Hoàng rằng: "Sức Phật, sức pháp, ba hiền mười Thánh cũng không thể lường biết được", thì biết người trần thế khó lấy tình thức mà đoán biết. Nên chỉ tin chắc mà thực hành theo.

Một hạt hoàn đơn mà chỉ sắt thành vàng, một lời chân lý đổi phàm thành Thánh. Di-đà giáo quán thật là thuốc hay, điểm sắt thành vàng ròng. Phật ấy từ vô số kiếp đến nay tu hành thành tựu thân, thành tựu nước, phát bốn mươi tám lời nguyện, cuối cùng chứng quả oai đức, ánh sáng chẳng thể suy nghĩ bàn luận. Kinh Quán nói nghe một câu danh hiệu Phật thì diệt trừ được tội nặng tám mươi ức kiếp sinh tử. Còn như người gây năm tội nghịch, mười điều ác, lúc sắp chết gặp Thiện tri thức dạy xưng niệm mười câu Phật liền được vãng sinh. Thế mới biết thỉnh chúng niệm Phật liền có cảm ứng. Vì sao người đời chẳng biết niệm Phật là thuốc điểm sắt thành vàng mà cầu vãng sinh. Tuy có người biết mà không khởi lòng tin sâu chắc, nhân do dự biếng lười cam tâm chịu năm trược, trôi giạt trong sinh tử chịu các khổ, thật đáng thương xót! Nhân lúc người còn khỏe mạnh mà thỉnh chúng tăng niệm Phật, sám tội giải oan thực hành pháp quyết định vãng sinh. Huống gì khi bệnh nặng, lúc sợ sệt sinh tử mà có thể mạnh mẽ phát tâm, thỉnh người tu Tịnh nghiệp đã lâu làm Phật sự lớn để giúp vãng sinh Tây phương, đây là việc quan trọng. Xem việc tập Duy-na lúc qua đời niệm Phật thật là gương sáng cho người đời noi theo.

33. Lúc ngủ nhập quán, phát nguyện thấy Phật, xuất xứ từ Đại tạng tập Chư Kinh Lễ Sám Nghi.

Người tu Tịnh nghiệp hễ lúc ngủ và nhập quán thì trước phải đứng chắp tay một lòng hướng về phía Tây niệm mười câu A-Di-đà Phật, Quán Âm, Thế Chí, Thanh Tịnh Hải chúng, sau đó đối trước Phật mà phát nguyện rằng: "Đệ tử... hiện là phàm phu sinh tử, tội chướng sâu nặng, luân hồi sáu đường khổ chẳng thể nói hết. Nay gặp Thiện tri thức, được nghe danh hiệu, bổn nguyện Di-đà, một lòng xưng niệm cầu nguyện vãng sinh. Nguyện Phật thương xót, đưa tay dắt dẫn. Đệ tử chẳng biết Di-đà Thế Tôn thân tướng sáng rỡ, nguyện Phật, Bồ-tát thị hiện thân tướng, và thế giới kia trang nghiêm…". Nói xong, nhất tâm chánh niệm rồi nhập quán và ngủ. Hoặc có người ngay khi phát nguyện thì thấy các tướng đẹp. Hoặc ở trong quán được thấy, hoặc lúc ngủ mộng thấy. Nguyện này đến nay rất có hiệu nghiệm không thể kể xiết. Rất mong gắng chí cố làm mới tin là không luống dối.

34. Sớ hội mừng sám lễ Phật của Pháp sư Thảo Am Đạo Nhân.

Kính vì: Di-đà nương tâm chúng sinh mà phát hiện, chúng sinh nương nguyện trí của Di-đà mà thoát khỏi buộc ràng. Ngoài ứng vô cơ, tức chư Phật ở trong tâm chúng sinh. Ngoài cơ vô ứng tức chúng sinh ở trong tâm các Đức Phật. Chúng sinh và Phật như một, cảm ứng đồng giao. Trăm lỗi đều dứt, bốn vận cùng đẩy. Như thế thì từng niệm chẳng sinh nghi, từng tiếng đều giải thoát. May gặp được việc tốt, nguyện kết nhân lành, chứa nhóm tư lương, rộng hẹn đạo tâm của đại chúng xuất gia, tại gia cùng phát, thắng tập mười năm chợt viên, trong ngoài vui mừng rạp mình sám hối. Cúi mong Diđà cha lành, Thích-ca thầy tốt. một Chiết một Nhiếp mà cùng thành thục cơ duyên. Không bè phái không thiên lệch mà đồng thành nghiệp tốt. Mong xa gần tình hết, tịnh uế đều quên. Chẳng đợi Di-lặc hạ sinh, mau chứng thượng phẩm ở Tịch Quang. Móc sắt móc voi dạo chơi khắp Liên xã. Ấn sáp ấn bùn liền dự vào ao hoa báu, gieo mình đến chết, khắc cốt ghi tâm. Trên mong hồng ân từ bi chứng giám. Cung kính dâng sớ.

QUYỂN 5

Loại Phú và Minh:

1. Bài phú: Thần Thê An dưỡng của Thiền sư Trí Giác Diên Thọ.

2. Tấn An dưỡng Phú, phụng chế văn của Ngô Việt Tiền Vương Thục.

3. Bài Minh: Nhật Quán (Quán mặt Trời) của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức.

Loại kệ (6 bài).

1. Kệ vẽ tượng Phật A-di-đà của Cư sĩ Đông Pha Tô Thức.

2. Kệ khen ngợi của ngài Hiền Thủ trong kinh Hoa Nghiêm khen Phật của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức.

3. Kệ vãng sinh y kinh mà lập của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức.

4. Kệ phát nguyện viết kinh Di-Đà Ấn Thí của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức.

5. Kệ Diêu Hạnh Bà quán mặt trời thấy Phật.

6. Kệ Tán Dụ Di Tôn của Triêu Nghị Đại Phu Đinh Tánh.

Loại Tụng (20 bài):

1. Thập Lục Quán Tụng, hai mươi ba bài, của Từ Vân Sám Chủ Tuân Thức.

2. Thập Lục Quán Tụng, mười sáu bài, của Pháp sư Tra Am Hữu Nghiêm.

3. Thập Lục Quán Tụng, hai mươi bốn bài, của Luật sư Đại Trí Nguyên Chiếu.

4. Tụng khuyến hóa đường tắt tu hành của Tỳ-kheo Thiện Đạo ở Kinh đô.

5. Tụng khuyên niệm Phật của Thiền sư Từ Giác Tông Trách.

6. Tụng Tây phương Tịnh độ, mười ba bài, của Thiền sư Từ Giác Tông Trách.

7. Tụng Quán Phật Tam-muội của Pháp sư Tra Am Hữu Nghiêm.

8. Tụng khuyên niệm Phật của Thiền sư Từ Thọ Hoài Thâm.

9. Tụng chỉ bày Hạnh Bà, hai bài, của Từ Biện Pháp sư Tùng Giám.

10. Tụng khuyên tu Tịnh Nghiệp, hai bài, của Luật sư Đại Trí Nguyên Chiếu.

11. Tụng Hóa Đạo Niệm Phật, ba bài, của Luật sư Thanh Chiếu Tuệ Hanh.

12. Tụng Niệm Phật Tâm Yếu của Pháp sư Thảo Am Đạo Nhân.

13. Tụng khắc tượng thơm Di-đà của Pháp sư Giải Không Khả Quán.

14. Tụng Tịnh độ và Từ biệt đời của Pháp sư Pháp Cảnh Nhược Ngu.

15. Tụng khen ngợi Tây phương của Cư sĩ Huyễn Trụ Nhâm Bưu.

16. Tụng khuyên tu Tịnh độ của Pháp sư Đồng Giang Trạch Anh.

17. Tụng Bạch Liên Tịnh Xã của quan Hữu Nhai Giám Nghĩa Tùng Chánh.

18. Tụng Tịnh Nghiệp Phật Ma của Pháp sư Thọ An Lương Bật.

19. Tụng khuyên tu Tịnh Nghiệp của Xương Quốc Tể Vương Tồn Chi.

20. Tụng khuyên đời niệm Phật (mất tên người soạn).

Loại Thơ (22 bài):

1. Vịnh Tịnh độ của Tấn Khang Lạc Tạ Linh Vận.

2. Thơ Niệm Phật Tam-muội bốn bài của Tấn Lang Da Vương Kiều Chi.

3. Thơ Niệm Phật Tam-muội bốn bài của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức.

4. Thư giả biệt Lý Bí ở chùa Thỉ hưng của Cư sĩ Thảo Đường Đỗ Tử Mỹ.

5. Ngồi bên bờ nước chùa Đông lâm của Cư sĩ Hương Sơn Bạch Cư Dị.

6. Đại Sư Điếu Thiên Trúc Bảo Nguyệt của Cư sĩ Đông Pha Tô Thức.

7. Trừ Dạ và ba, bốn câu của Cư sĩ Hậu Sơn Trần Vô Dĩ.

8. Tiền Đường Thắng Sự Ký mã Thị Lang của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức.

9. Thụy Trúc Ngộ Lão trồng sen của Thứ Công Dương Kiệt.

10. Lô sơn Bạch Liên xã của Ngự Khê Thích Hoài Ngộ.

11. Tặng Di-đà Đạo giả của Trực Tác Hoàng Cáo.

12. Thơ Cận Thể về mười sáu pháp quán (mười sáu bài) của Sa-môn Xung Mặc.

13. Lô sơn Liên xã (hai bài) của Giám Bạc Du Lương Năng.

14. Thứ Vận Liên xã của Thích Hạt Thuần Tẩu.

15. Mười tám vị hiền ở Lô sơn của Đông Khê Thích Tổ Khả.

16. Thơ nhớ quê cũ An dưỡng (bốn bài) của Pháp sư Tra Am Hữu Nghiêm.

17. Thơ nhớ Tây phương, hai bài ngũ ngôn, của vị Tăng giảng kinh tên Khả Mân ở Bắc sơn.

18. Gác Giác Hải Di-đà ở Hồ châu của Từ Bộ Trương Cảnh Tu.

19. Thơ Tây Quy Hiên (mười bài) của Thiền sư La Nguyệt Đàm Oánh.

20. Thơ bên hiên Nhớ Phật (mười bài) của Thủ tọa Tuyết Khê Hy Nhan.

21. Đọc Vãng Sinh Truyện có xúc cảm của Pháp sư Vân Am Liễu Hồng.

22. Tịnh độ Vịnh Sử (hai mươi lăm bài) của Cư sĩ Tây Hồ Lý Tế. Loại từ (7 bài)

1. Họa Uyên minh Quy khứ lai hề của quan Cấp sự phùng tập.

2. Nghĩ Uyên minh Quy khứ lai hề của Huyễn Trụ Nhâm Bưu.

3. Truy Họa Uyên Minh Quy khứ lai của Luật sư Thuyết Am Giới Độ.

4. Tán Tây phương Ngư Gia Ngạo (hai mươi bài) của vị Tăng giảng kinh tên Khả Mân ở Bắc sơn.

5. Tám Tây phương Ngư Gia Ngạo của Thiền sư Tây Dư Pháp Đoan.

6. Ta-bà khổ vọng Giang Nam (sáu bài) của Pháp sư Bạch Vân Tịnh Viên.

7. Tây Quy Hảo Vọng Giang Nam (sáu bài) của Pháp sư Bạch Vân Tịnh Viên.

-------------------------------

1. Bài Phú: Thần nương An dưỡng của Thiền sư Trí Giác Diên Thọ.

Di-đà cõi báu, An dưỡng tên hay. Ở báo độ mà rất vui, ở mười phương mà rất tịnh. mười sáu pháp quán tu định ý mà ngầm đến, bốn mươi đại nguyện, vận tán tâm mà hóa sinh. Đây bèn trọn đời thọ trì, suốt kiếp quy mạng tiên nhân. Cỡi mây mà nghe pháp, cõi không tán tụng mà khen ngợi, thân bước lên đài vàng tím nên bổn nguyện không dối. Thần hóa trong sợi lông ngọc trắng mà nhất tâm tự mừng. Lành thay tướng lưỡi rộng dài mười cõi đồng khen nói. Chỉ nêu tâm khế hợp cả, không phải ý dối truyền luống. Cái trục trên mặt đất quay, hoa trời tung rải ở trước, một niệm hoa nở, thấy Phật mà đều lên quả mầu. Ngàn trùng chiếu sáng, chứng pháp mà hết cấu bẩn. Các bậc tiên hiền khảo xưa suy nay vãng sinh chẳng phải một. Vận đến mà thiên nhạc đầy trời, thời đến mà hương lạ đầy thất. Trong một chân cảnh hiện tướng mà nhờ uy Phật, trong ao bảy báu thấy cảnh đều từ tâm sinh ra. Cho nên biết Thánh chỉ khó lường, cảm ứng vẫn thường biến phàm thành Thánh. Mà khoảnh khắc tức mê là ngộ mà chiếu bày. Xuất phát từ sách tiên mà thật là thuật sống lâu chỉ quy về cõi Tịnh, ở mãi quê hương bất tử, lại có bậc cao nhân ra đời, đại sĩ ở giữa trần thế, đốt thân và tay để phát hạnh, treo ruột mổ tim mà lập phép. Nhạc tiên đến rước mà từ chối, thiên đồng đến thỉnh mà chẳng vui. Hoặc lửa bày đỉnh núi, trong cảnh sáng suốt mất hẳn tên đường ác. Bỏ luôn sự dơ bầu của thai ngục, mắt mỡ lưỡi chắc mà lập nghiệm. Trâu húc gà mổ mà bỗng ngưng ở thành sắt, chống lại lệnh vua. Phải chết theo lòng son ngồi đài sen mà nhờ ân Phật, khó bỏ chỗ chí lý. Hoặc kẻ chê bai Tam bảo, phá hoại luật nghi. Trong lúc gió cắt xẻ thân bén như dao, gương nghiệp soi sáng thi thể mà gặp Thiện tri thức hiện ra thật chẳng thể suy nghĩ bàn luận, rừng dao biến thành bảy lớp cây báu, xe lửa hóa ra ao sen nước tám đức. Địa ngục biến mất mà tâm sợ hãi tiêu tan, hoa trời bay phấp phới. Bỗng nhiên Hóa Phật đến đón mời. Tuệ nhãn sáng lòng, lò hương tay cầm. Ứng lời sấm mà hoa sen chẳng héo. Được thọ ký mà rừng báu chẳng lâu. Lạ thay năng lực Phật khó nay nghĩ bàn luận, xưa nay chưa từng có. Thiền sư một chí Tây phương hết lời ngợi khen. Như đây đến cả muôn đều lành cùng trở về, cũng cố sức khuyên tu trì. Mới biết kẻ thông suốt, chẳng tiếc tuệ lợi, nhiều cách khảo xét, mà lìa xa sự đắm chìm vắng lặng. Phú này sư có chú thích nhiều đây không chép ra. Nhìn chung đều là văn kinh lời mầu. Và các linh tích trong truyện vãng sinh. Kẻ học rộng chuộng đạo xem đây sẽ nắm được chỗ cốt yếu.

2. Lời vua gởi về người viết An dưỡng Phú của vua nước Ngô Việt là Tiên Thục.

Có nghe ở nước An dưỡng Phật Di-đà đem Tịnh độ hóa độ muôn loài, một niệm chẳng mê liền gá vào thai Thánh dễ như trở bàn tay. Tin và không tin đều là chân như. Ta luôn bình yên vui vẻ sáng suốt, sư dắt dẫn bốn chúng quyết chí Nhất thừa, khuyên ta bằng nhân trăng sáng, gi-úp ta bằng quả sen xanh. Bạn lành của trời người chẳng phải sư thì còn ai nữa. Ta luôn nhớ khanh, sớm tối để lòng. Nên ban lời khen thưởng để khiến biết rõ lòng ta.

Thư chẳng hết ý.

3. Lời Minh và lời tựa về am Nhật Quán của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức.

Ngày 13 tháng 2 mùa Xuân Canh Thân, thuộc niên hiệu Thiên Hy thứ 4, ở phía Nam ngọn kỳ xà Phi Lai chùa cổ Thiên trúc, Sa-môn Tuân Thức ở ngọn phía Đông chùa, bên động Hương Lâm xây cất Am Nhật Quán đã thành, nay khắc đá viết bài minh Nhật Quán: (Xuất xứ từ kinh Thập Lục Quán).

Ta đối Diệu Linh
Tâm luôn quỳ khuynh
Nước về hơn trượng
Sáu rồng ngưng làm
Như chiếc trống treo
Như ngọc tinh anh
Trừng mắt nhìn thẳng
Niệm mãi chú thành
Hình tròn đỏ chói
Hoảng hốt trung sinh
Đạp sương vững đến
Còn phần sáng tỏ
Dắt tưởng phương Tây
Giữ thần đi xa
Ở ngay tại nhà.
Trước mắt còn mãi.

LOẠI KỆ

1. Kệ vẽ tượng Phật A-di-đà (và lời tựa) của Cư sĩ Đông Pha Tô Thức.

Luật sư Nguyên Chiếu ở Tiền Đường khuyên khắp người tại gia, xuất gia chí thành nương về Thế giới Cực lạc Tây phương. Ở Mi Sơn, Tô Thức vâng lời người mẹ đã mất là Thục quận Thái quân họ Trình ở Thục quận, đem kỷ vật là cây trâm báu đổi tiền nhờ thợ khéo là Hồ Tích vẽ tượng Phật A-diđà để tiến vong linh cầu phước. Có kệ tụng rằng:

Phật có đại Viên giác
Tràn khắp mười phương cõi
Con vì tưởng điên đảo
Ra vào biển sinh tử
Vì sao chỉ một niệm
Được vãng sinh Tịnh độ
Ta tạo nghiệp vô thỉ
Một niệm lại có dư
Đã từ một niệm sinh
Liền theo một niệm diệt
Chỗ sinh diệt diệt hết
Thì ta với Phật đồng
Như rót nước vào biển
Như trong gió đánh trống
Tuy có trí Đại Thánh
Cũng không thể phân biệt
Nguyện cha mẹ đời trước
Cùng tất cả chúng sinh
Chỗ sinh đều Tây phương
Nơi gặp đều Cực lạc
Người người Vô Lượng Thọ
Không đến cũng không đi.

2. Giải thích bài kệ khen ngợi Phật của ngài Hiền Thủ trong kinh Hoa Nghiêm của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức.

Lại ánh sáng gọi là thấy Phật
Sáng này giác ngộ người sắp chết
Khiến tùy ngộ niệm thấy Như Lai
Chết rồi được sinh về Tịnh độ
Thấy người sắp chết khuyên niệm Phật
Và bày tôn tượng khiến kính lạy.
Khiến ở trước Phật rất quy kính
Như thế thì thành ánh sáng này.

Hai bài kệ này bốn câu trước khen Phật phát ra ánh sáng. Ánh sáng ấy tên là thấy Phật, có công năng khiến cho người sắp chết thấy Phật vãng sinh. Bốn câu sau khen Phật tu nhân ánh sáng này. Nhân ấy chỉ là khuyên người sắp chết niệm Phật và bày tượng Phật, nên khi thành Phật thì có được ánh sáng này. Nay rộng thí kệ này là khuyên người tin sâu chắc. Hễ gặp bà con và tất cả mọi người khi sắp chết thì trước giường bày tượng Phật để cho người ấy thấy Phật và khuyên niệm Phật. Nếu người bị đau đớn ép ngặt hoặc từ trước không có tâm tin tưởng không chịu niệm Phật, thì phải dùng các phương tiện dạy họ xưng niệm ít nhất là mười câu thì diệt hết các tội nặng mà vãng sinh Tịnh độ. Đây là một lợi ích chẳng thể suy nghĩ bàn luận. Nếu khuyên một người được sinh Tịnh độ thì nếu mình không tu hành cũng được cùng sinh về cõi Phật. Huống gì đều đương lai khi thành Phật thì sẽ phát ra ánh sáng này chiếu khắp tất cả chúng sinh khi qua đời sẽ được thấy Phật. Phần nhiều thấy người đời vì ân ái mà dụm đầu khóc lóc, chẳng lo việc cứu độ. Thật khổ thay, khổ thay! Gọi đó là bạn ác. Ân ái trói cột sẽ bị đọa vào đường dữ không có ngày ra. Ở đời có năm hạng người chẳng chịu niệm Phật.

1. Trước không có tín tâm.

2. Luyến tiếc tiền của.

3. Không bỏ vợ con.

4. Tự tiếc thân mạng mình.

5. Tội nghiệp ngăn che.

Chết rồi phải bị đọa địa ngục, xin sớm giác ngộ.

3. Kệ y theo kinh mà lập chánh tín Vãng sinh của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức.

Đảnh lễ cõi An lạc Tây phương
Di-đà Thế Chủ đấng Đại Từ Tôn
Nay con y theo Tu-đa-la
Thành tựu lòng tin chắc vãng sinh
Người trụ Đại thừa tâm thanh tịnh
Mười niệm niệm Phật Vô Lượng Thọ
Lâm chung mộng Phật chắc vãng sinh
Kinh Đại Bảo Tích dạy như thế.
Năm nghịch các lửa địa ngục hiện
Gặp Thiện tri thức phát tâm mạnh
Mười niệm niệm Phật liền vãng sinh
Kinh Thập Lục Quán dạy như thế
Nếu người vui vẻ tâm ưa thích
Ít nhất mười niệm liền vãng sinh
Nếu không như thế không thành
Phật Bốn mươi tám nguyện dạy như thế.
Những ai nghe tên mà dốc lòng
Một niệm hồi hướng liền vãng sinh
Chỉ trừ năm nghịch, chê chánh pháp
Kinh Vô Lượng Thọ dạy như thế
Khi chết không thể quán và niệm
Chỉ lo buôn bán biết có Phật
Người này dứt hơi liền vãng sinh
Kinh Đại Pháp Cổ dạy như thế
Một ngày một đêm treo lọng lụa
Chuyên niệm vãng sinh tâm không dứt
Ngủ mộng thấy Phật liền vãng sinh
Kinh Vô Lượng Thọ dạy như thế
Suốt ngày đêm niệm danh hiệu Phật
Siêng năng tinh tấn không đứt quãng
Lần lượt khuyên nhau cùng vãng sinh
Trong kinh Đại Bi dạy như thế.
Một ngày, hai ngày hoặc bảy ngày
Chấp trì danh hiệu tâm không loạn
Phật hiện trước mắt liền vãng sinh
Kinh A-di-đà dạy như thế.
Nếu người nghe A-di-đà kia
Một ngày, hai ngày hoặc hơn nữa
Giữ niệm hiện tiền liền vãng sinh
Trong kinh Ban-chu dạy như thế
Mười ngày mười đêm trong sáu thời
Năm vóc lạy Phật, niệm không dứt
Hiện thấy Phật ấy liền vãng sinh
Kinh Cổ Âm Vương dạy như thế.
Mười ngày mười đêm giữ trai giới
Treo phướn lọng lụa, đốt hương đèn
Giữ niệm không dứt được vãng sinh
Kinh Vô Lượng Thọ dạy như thế
Nếu người chuyên niệm Phật một phương
Hoặc đi hoặc ngồi bốn mươi chín ngày
Hiện thân thấy Phật liền vãng sinh
Trong kinh Đại Tập dạy như thế
Nếu ai tự thệ đi kinh hành
Trong chín mươi ngày chẳng ngồi nằm
Ở trong Tam-muội thấy Di-đà
Trong kinh Phật lập dạy như thế
Nếu người ngồi thẳng xoay hướng Tây
Trong chín mươi ngày luôn niệm Phật
Thành tựu Tam-muội sinh trước Phật
Văn-thù Bát-nhã nói như thế
Tôi đối các kinh trích làm vài tụng
Như thế mà nói mãi vô cùng
Nguyện ai cùng nghe sinh chánh tín
Lời Phật chắc thật không dối gạt.

Có người nghi hỏi:

-Thấy bài kệ này nói có mười niệm, cho đến chỉ một niệm sinh tin ưa, cho đến chỉ lo làm ăn nhưng biết có Phật thì cũng sinh về nước ấy. Lại có người bốn mươi chín ngày hay chín mươi ngày niệm Phật thì mới được vãng sinh. Há chẳng phải Tịnh độ là một sao nhân tu lại có khác?

Giải thích: Tịnh độ tuy một nhưng người sinh tự khác. Kinh Vô Lượng Thọ tự chia có ba bậc. Kinh Thập Lục Quán thì chia làm chín bậc. Nếu chia kỹ thì cũng vô lượng.

Lại có người nghi hỏi: Bậc hạ phẩm (bậc thấp nhất) do nhân tu cạn nên cũng có lui sụt phải không?

Giải thích: Không phải như thế. Chỉ chín phẩm hoa nở là có nhanh chậm, cách Phật có xa gần, được đạo có nhanh chậm mà người sinh nước ấy thì đều là bậc không lui sụt. Kinh nói: người sinh về đó đều trụ vào chánh định. Lại nói: Chúng sinh sinh về đó đều là A-bệ-bạt trí, nghĩa là không lui sụt. Luận Thập Nghi nói có năm nhân duyên không lui sụt.

1. Phật A-di-đà có nguyện lực đại Bi giữ gìn nên không lui sụt.

2. Ánh sáng Phật luôn soi chiếu, nên tâm Bồđề luôn tinh tấn không lui sụt.

3. Nước chim, cây rừng, tiếng gió, giọng nhạc nói khổ không, người nghe thường khởi tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng nên không lui sụt.

4. Nước ấy thuần là các Bồ-tát làm bạn lành không có duyên ác, cảnh ngoại không có quỷ thần tà ma, trong không có ba độc, phiền não rốt ráo chẳng khởi cho nên không lui sụt.

5. Người sinh về nước ấy tuổi thọ lâu dài bằng với Phật Bồ-tát cho nên không lui sụt.

Huống ở đời ác này chẳng những không có năm duyên ấy, mà còn bị ác tri thức, thanh sắc làm say loạn, ma quỷ mạnh mẽ, tuổi thọ ngắn gấp. năm thứ đều xấu ác phá hại tu đạo, uổng phí nhiều kiếp. Xin nghĩ kỹ, nghĩ kỹ!

Có người hỏi: Tất cả các Pháp vốn không sinh không diệt, bình đẳng vắng lặng sao phải gắng gượng khuyên bỏ đây cầu kia?

Giải thích: Nếu bảo cầu sinh Tây phương là lấy bỏ, trái với, lý bình đẳng thì anh lại bỏ kia chấp đây, há chẳng trái lý ư? Nếu cho rằng ta chẳng cầu sinh ở đó cũng chẳng cầu sinh đây thì đó là sinh "Kiến chấp đoạn diệt". Kinh Kim cang Bát-nhã nói: Há chẳng bàn về không, Phật răn Tu-bồ-đề rằng: Ông chớ nghĩ rằng người phát tâm Bồ-đề đối với Pháp chẳng nói tướng đoạn diệt. Kẻ thật hiểu không là đối với pháp nhân duyên hiểu rõ tánh sinh mà không sinh, tánh diệt mà không diệt. Không phải gọi là đoạn, vô vi chẳng sinh diệt vậy. Trung luận chép: Pháp do nhân duyên sinh, ta nói tức là Không, Không nói Diệt, Không nói sau Không.

Kinh Duy-ma nói: Biết các cõi Phật và chúng sinh không mà luôn tu Tịnh độ giáo hóa các chúng sinh.

Có người hỏi: Tịnh độ ở tâm đâu cần phải tìm ở bên ngoài. Hễ Tâm tịnh thì cõi Phật thanh tịnh. Há lại xa xôi cầu sinh Tịnh độ phương khác ư?

Giải thích: Ông lại chẳng hiểu rõ nghĩa của Tâm cõi. Tâm ông bị hạn cục ở nơi chốn nên mới thấy Tây phương là cõi ngoài cõi này. Sao lại nói tâm tịnh thì cõi Phật tịnh ư? Kinh Hoa Nghiêm nói: ba thứ Tâm, Phật và chúng sinh không khác nhau. Phật pháp đã khắp thì tâm pháp cũng khắp. Nếu đều có phương hướng thì đâu gọi là không khác. Lại nói tâm đi khắp pháp giới như hư không với hư không, đâu thể phân cách. Nếu rõ được một niệm tâm khắp, một trần cũng khắp, mười muôn ức cõi chỉ khoảng một bước, đâu ở ngoài tâm. Người đời nếu nói lý không liền bác bỏ nhân quả, nếu nói tự tâm thì chẳng tin có các pháp bên ngoài. Há chỉ chê pháp mà chê cả tâm mình, tội đáng đọa lạc muôn kiếp, thật đáng thương thay. Vọng nói phải trái mà ngăn người khác tu Tịnh độ, thật là ác tri thức. Kinh Vô Lượng Thọ có nói Phật bảo Bồ-tát Di-lặc rằng công đức trí tuệ của trời, người và các Thanh văn, Bồ-tát ở nước Vô Lượng Thọ không thể nói hết. Lại nước ấy nhiệm mầu an vui thanh tịnh. Như thế vì sao chẳng cố gắng làm lành, niệm đạo tự nhiên, phải đều tinh tấn gắn sức tự cầu sẽ được vượt lên, vãng sinh về nước An lạc. Dứt ngang năm đường ác, đường tự nhiên đóng, tiến đạo vô cùng. Rất dễ đến mà không có người đi. Nước ấy không có trái nghịch tự nhiên, sao chẳng bỏ việc đời mà siêng năng cầu đạo đức, sẽ được sống lâu, an vui vô cùng cực.

4. Kệ viết kinh Di-đà Chánh Tín Phát Nguyện của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức.

Kính lạy Phật mười phương
Di-đà Thánh trong Thánh.
Phương đẳng Tu-đa-la
Tất cả kho pháp báu
Quán Âm và Thế Chí
Vô số Bồ-tát Tăng
Con đem tâm tín thành
Khắc in và ấn tống,
Quyển kinh A-di-đà
Và cả kệ chánh tín
Đều đủ cả một muôn
Thí bốn chúng thọ trì
Kệ để phát tín tâm
Kinh để giúp đọc tụng
Nếu ai trong mỗi ngày
Tụng ít nhất ba quyển
Năm tụng ngàn tám mươi
Mười năm muôn tám trăm
Huống lại tụng nhiều hơn
Và trải nhiều năm tháng
Như thế chứa công đức
Tự nhiên sinh trước Phật
Nay tôi muôn quyển kinh
Hễ nơi nào truyền đến
Được ít nhất một người
Tụng trì sinh Tịnh độ
Tôi nguyện nhờ sức này
Chắc chắn sinh nước ấy
Huống lại có nhiều người
Người mất kinh vẫn còn
Xoay vần truyền cho nhau
Gọi là đèn vô tận
Các ngọn chiếu sáng nhau,
Phá đêm dài sinh tử
Hiển sáng Phật Bồ-đề
Rốt ráo đều cùng sinh
Tịnh độ Thường Tịch Quang
Đem phước thanh tịnh này
Hồi hướng vua, cha mẹ
Thánh đế vua nước tôi
Cùng hoàng hậu Thánh vị
Tuổi thọ đều muôn năm
Che chở khắp chúng sinh
Cha mẹ bà con tôi
Oán thân, chẳng oán thân
Đều nhờ gốc lành này
Đồng sinh nước An dưỡng.

5. Kệ Diêu Hạnh Bà trong vầng mặt trời thấy Phật (và lời tựa) của Pháp sư Diệu Hạnh Pháp Di.

Phật A-di-đà ở Tây phương có bốn mươi tám nguyện trong đó có một nguyện nói rằng: Khi tôi thành Phật, chúng sinh mười phương muốn sinh về nước tôi, niệm danh hiệu tôi mười câu mà chẳng sinh thì tôi thề không thành Phật. Nếu ai mỗi ngày buổi sáng chắp tay xoay mặt về hướng Tây niệm danh hiệu Phật mười hơi thì hiện đời tiêu tai được sống lâu, tương lai chắc chắn được vãng sinh. Thấy Dụ Di-đà ở Tiền đường, vẽ tượng Di-đà mà Diêu Hạnh Bà thấy được trong mặt trời có hình Phật Adi-đà. Người nào dụng tâm chuyên chú thì cũng cảm ứng như thế. Tỳ-kheo Diệu Hạnh Pháp Di dùng kệ khen rằng:

Thế giới Cực lạc có nơi chốn
Chỉ ở nơi mặt trời thường lặn
Do đó Phật dạy Vi-đề-hy
Quán kỹ trời lặn như trống treo
Hay thay một bà lão họ Diêu,
Đã dùng tâm ấy cầu Tịnh độ
Sáng quán chiều tưởng không tháng năm
Ngồi niệm hành trì quên lạnh nóng
Di-đà bỗng từ tâm tưởng sinh
Trong lúc hoảng hốt lại thấy rõ
Lúc ấy, giữa trời không áng mây
Nằm yên hòa trên ngọn tang du
Mặt trời Phật chiếu sáng rực rỡ
Mắt xanh lông trắng tướng đẹp lạ
Mắt tâm kinh hãi mừng lại lo
Chạy bảo Đạo sư Di-đà Dụ
Thuật đủ các việc rất ít có
Nguyện vẽ kim dung gá lông trắng
Tôi nghe việc lạ khen ít có
Bèn viết lời kệ mở chưa ngộ
Nên biết cách Phật không hề xa
Xiển đề đâu được nói như thế.
Tuy qua mười ức cõi Phật Một
niệm vượt qua trong tích tắc Như
có người quên hỏi đường đi Vì
sao hướng đạo không chỉ thẳng.

6. Kệ khen Dụ Di-đà (và lời tựa) của Tả Triều Nghị đại phu Đinh Chú.

Tịnh Sư bỏ vợ con làm đồ đệ Như Lai, nhóm muôn người kết hội Tịnh độ. Người trong làng là Đinh Chú làm kệ khen rằng:

Tâm tịnh, cõi Phật tịnh
Pháp vương chẳng nói dối
Đem thân khỏi trần cấu
Bèn thấy sen trong lò
Một niệm khởi chẳng dứt
Cực lạc liền hiện tiền
Đại thiên đồng cảnh này
Há chỉ duyên muôn người.

7. Bài tụng về kinh Thập lục Quán của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức.

Phần tựa:

Vi-đề thành kính thỉnh Năng nhân
Nguyện nói nhân cõi tịnh Tây phương.
Mười sáu quán gồm ba tịnh nghiệp
Tu lành sẽ được thân vãng sinh.

Quán mặt trời:

Một, ngồi hướng Tây tưởng mặt trời
Thấy mặt trời lặn như trống treo
Thấy xong nhắm mắt và mở mắt
Đều hiện rõ ràng ở trong tâm.

Quán nước:

Hai, quán tưởng nước thấy Tây phương
Tất cả đều là nước Tịnh độ
Đã thấy nước rồi tưởng thành băng
Sáng lòa trong suốt đất lưu ly.

Quán đất:

Ba, chánh quán đất báu lưu ly
Quán kỹ rõ ràng nước Cực lạc
Tám thứ gió mát khua tiếng nhạc
Khúc "Khổ, không, vô ngã, vô thường".

Quán cây:

Bốn quán cây báu bảy hàng lớp
Hoa báu trưng bày cung điện báu
Cờ phướn, lọng báu hình lớp lớp
Cõi Phật mười phương hiện trong đó.

Quán ao:

Năm, tưởng ao bảy báu Tịnh độ
Trong ao có nước tám công đức
Tuôn chảy niệm rõ Phật, Pháp, Tăng
Hoa sen đẹp báu ngàn muôn ức.

Quán chung:

Sáu, quán cõi báu, lầu gác báu
Cây báu lại gồm cả ao báu
Đây là quán chung nếu được thành
Là thấy Cực lạc về phần thô.

Quán tòa hoa:

Bảy tưởng đài tòa hoa sen đẹp
Nguyện lực, Di-đà rộng lớn thành
Khi khởi quán này tâm không loạn
Tưởng chắc Cực lạc sẽ được sinh.

Quán tượng:

Tám, quán giới Phật Như Lai pháp giới thân
Khắp vào tất cả tưởng chúng sinh
Người trí phải quán tâm tưởng này
Tâm ấy tức tượng Phật, Bồ-tát.

Quán Vô Lượng Thọ:

Phật Vô Lượng Thọ thân màu vàng
Sáng suốt chiếu khắp các chúng sinh
Người trí siêng tu giữ tâm quán
Các Phật hiện tiền đồng thọ ký.

Quán Quán Thế Âm:

Bồ-tát Quán Âm thân sắc vàng
Hào tướng giữa mày màu bảy báu
Phát ra ánh sáng khắp mười phương
Trong có vô số ức Hóa Phật.

Quán Đại Thế Chí:

Kế quán thân Bồ-tát Thế Chí
Bằng với Quán Âm không gì khác
Chỉ ở nhục kế trong bình báu
Có đầy ánh sáng hiện Phật sự.

Quán vãng sinh khắp:

Ngồi tưởng thân sinh cõi Cực lạc
Hoa sen khép mở, mình ngồi trong
Hoa nở thấy Phật đầy hư không
Nước chim, cây rừng nói kệ pháp.

Quán Tạp vãng sinh:

Lại tưởng Di-đà hai Bồ-tát
Thần thông biến hiện việc như trước
Quán tạp mà thành vô lượng phước
Chắc sinh An dưỡng hầu Phật-đà.

Quán Thượng phẩm thượng sinh:

Tâm từ không giết, giữ các giới
Đọc tụng kinh Đại thừa Phương đẳng
Tu hành sáu niệm nguyện hồi hướng
Khi chết Hóa Phật đều đến rước.

Thượng phẩm trung sinh:

Người không thọ trì kinh Phương Đẳng
Hiểu Đệ nhất nghĩa, rõ nhân quả
Đài vàng tía hiện lúc qua đời,
Tự thấy thân mình ngồi trên đài.

Thượng phẩm hạ sinh:

Tin sâu nhân quả, tu Đại thừa
Chỉ phát tâm Vô thượng Bồ-đề
Hồi hướng công đức nguyện vãng sinh
Sinh rồi sẽ trụ Hoan hỷ địa.

Trung phẩm thượng sinh:

Thọ trì năm giới, tán giới trai
Tu hành các giới nguyện hồi hướng
Chết rồi vãng sinh nghe pháp âm
Ngay đó liền chứng A-la-hán.

Trung phẩm trung sinh:

Nếu người dốc lòng một ngày đêm
Giữ giới trì trai không thiếu sót
Hồi hướng công đức nguyện vãng sinh
Bảy ngày hoa nở được thọ ký.

Trung phẩm hạ sinh:

Hiếu dưỡng cha mẹ, hành nhân nghĩa
Khi chết lại gặp tri thức tốt
Nói rộng nhân nguyện lớn Di-đà
Trong khoảng duỗi tay sinh nước ấy.

Hạ phẩm thượng sinh:

Nếu người tuy chẳng chê tôn kinh
Gây các nghiệp ác không hổ thẹn
Sắp chết được khuyên niệm Di-đà,
Vãng sinh mười kiếp chứng Sơ địa.

Hạ phẩm trung sinh:

Nếu có chúng sinh phạm các giới
Trộm cắp các vật của Tam bảo
Sắp chết được khuyên niệm Di-đà
Chỉ trong một niệm sinh nước ấy.

Hạ phẩm hạ sinh:

Gây năm tội nghịch, mười điều ác
Đáng đọa địa ngục, chịu các khổ.
Sắp chết được khuyên niệm Di-đà.
Chắc chắn siêu sinh về nước ấy.

8. Bài tụng về mười sáu pháp quán của Pháp

Sư Tra Am Hữu Nghiêm

1. Quán mặt trời.

Mặt trời lặn hình chiếc trống treo
Ngồi kiết già xoay mặt hướng Tây
Thân tuy chưa đến trong ao hoa,
Trước đã đưa tâm về Cực lạc.

2. Quán nước.

Tưởng nước thành băng suốt đáy trong
Tiêu biểu lưu ly cột báu nâng
Sáng suốt rực rỡ trăm mặt trời
Đây gọi "nước tâm thiền" quán thành.

3. Quán đất.

Đất báu trong nghiêm khi mưa hoa
Cờ phướn lầu gác thích suy tư
Đất bằng huống là tâm ngàn pháp
Gá cảnh sáng tâm chẳng thể dời

4. Quán cây.

Cây báu lớp lớp tướng dựa cao
Trang nghiêm lưới châu giăng mấy lớp
Nếu hiểu rõ được cảnh do tâm
Tuy ở Tây phương đường chẳng xa.

5. Quán ao.

Tám đức lắng trong gọi ao đức
Đáy bằng cát vàng chiếu sáng trưng
Nước chảy lại nói kệ vô sinh
Nghe rồi đều quán tâm. Giữ niệm

6. Quán chung.

Cõi nước nghiêm báu bảy báu thành
Ở trong lầu gác nhạc trời trổi
Cây ngọc ao hoa gọi quán chung
Quán rõ diệt tội việc không nhỏ.

7. Quán tòa hoa.

Hoa sen tám mươi bốn ngàn cánh
Các mầu trang nghiêm vô số quang
Lấy hoa sen này làm tòa báu
Mở bày ngồi đợi pháp trung vương.

8. Quán Phật, Bồ-tát.

Quán chân thân Phật, tuệ chưa khai
Trước dạy quán tượng ngồi đài hoa
Phật, Bồ-tát thân đầy nước ấy
Phải rõ tượng kia từ đâu lại.

9. Quán Vô Lượng Thọ.

Phật kia vòi vọi thân cao quý
Sáng suốt chiếu khắp số như bụi
Chúng sinh được chiếu tâm quy Phật
Liền là người Tịnh độ Tây phương.

10. Quán Quán Thế Âm.

Bồ-tát tên là Quán Thế Âm
Tâm đại Bi trùm khắp mười phương
Ánh sáng vàng tím, sức oai thần
Biển thệ sâu, dắt dẫn chúng sinh.

11. Quán Đại Thế Chí.

Sức vô thượng gọi Đại Thế Chí
Sạch đẹp sáng gọi vô biên quang
Nếu người quán niệm Bồ-tát này
Chẳng ở bào thai đầy hôi hám.

12. Quán vãng sinh khắp.

Khi khắp quán thành liền có công
Tưởng thân về Tây rừng hoa đẹp
Hoa sen khép mở thấy rõ ràng
Bồ-tát, Như Lai đầy hư không.

13. Quán tạp tưởng.

Phật hiện oai quang thân lớn nhỏ
Quán Âm, Thế Chí ở hai bên
Nếu tu tạp quán được thành tựu
Đây lại gọi là nhân thanh tịnh.

14. Quán ba bậc thượng.

Bậc thượng có đưa ra ba phẩm,
Khi chết, các Phật phát ánh sáng
Đài hoa đón nước sinh An dưỡng
Biết là Viên tông thập tín tâm.

15. Quán ba bậc trung.

Bậc Trung chia làm năm hạng người
Ngoài tu giới phẩm trong tu chân
Chết rồi năm đường liền ra khỏi
Liền được thân vô lậu Tây phương.

16. Quán ba bậc hạ.

Phàm phu tuy gây rất nhiều nghiệp
Trời lặn bên ao luôn quán tưởng
Được gọi là người sinh Tịnh độ
Phải biết không dễ cũng chẳng khó.

9. Các bài tụng về mười sáu pháp quán của Luật sư Đại Trí Nguyên Chiếu.

Linh Sơn chúng hội
Núi Kỳ-xà mất
Cung vua hiện ra
Việc xong trở về
A-nan kể lại.
Vi đề hỏi pháp:
Nhốt ở cung sâu,
Phát khởi việc lớn
Chúng sinh ác trược
Đều khiến được ban

1. Quán mặt trời.

Trời lặn trống treo
Thoát đường sinh tử
Trong mười hai thời
Giữ niệm một chỗ.

2. Quán nước.

Nước lớn lắng trong
Đóng lại thành băng
Làm đất lưu ly
Trong ngoài trong suốt.

3. Quán đất.

Trên đất lưu ly
Các tướng trang nghiêm
Thấy rất rõ ràng
Trừ nghi phá chướng.

4. Quán cây.

Bảy lớp hàng cây
Lưới châu cung hoa
Giăng mắc rợp trời
Đẹp đẽ vô cùng.

5. Quán ao.

Nước ao tám đức
Sắc đẹp bảy báu
Sen nở chim hót
Rửa sạch phiền não.

6. Quán chung.

Nhạc trời trong lầu
Khen Phật Pháp Tăng,
Cây, đất, ao báu
Một niệm viên thành.

7. Quán tòa ngồi.

Tòa hoa sen lớn
Trang sức trăm báu
Đẹp đẽ khó lường
Nguyện lực Pháp tạng.

8. Quán tượng.

Mượn tượng ngưng chân
Thấy chân quên tượng
Ba Thánh sáng rõ
Vẫn gọi tưởng thô.

9. Quán Phật.

Quán Phật tướng tốt
Tông yếu một kinh
Tam-muội hiện tiền
Mới biết sâu mầu.

10. Quán Quán Âm.

Sáng đến năm đường
Mão có Phật đứng
Nghe tên được phước
Huống là quán kỹ.

11. Quán Thế Chí.

Sáng chung các Phật
Cứu giúp các khổ
Bình đầu đầy sáng
Hiện khắp cõi Phật.

12. Quán khắp.

Kiết già trong sen Hoa sen khép mở Y, chánh trang nghiêm Tất cả đều nhiếp.

13. Quán tạp.

Chót vót trên ao
Tượng một trượng sáu
Biến hiện lớn nhỏ
Rõ tướng vô định.

14. Thượng phẩm thượng sinh.

Ba tâm phát đủ,
Đế lý sáng sâu
Đài vàng theo về
Liền chứng vô sinh.

Thượng phẩm trung sinh.

Rõ các pháp không
Chẳng hề kinh động
Có nguyện liền sinh
Chẳng cần đọc tụng.

Thượng phẩm hạ sinh.

Chỉ phát tâm đạo
Chưa cùng lý mầu,
Đến đó mở sáng
Được ký Bồ-đề.

15. Trung phẩm thượng sinh.

Giữ lâu các giới
Vãng sinh như nguyện
Nghe nói khổ không
Chứng A-la-hán.

Trung phẩm trung sinh.

Một ngày một đêm
Giữ giới nguyện cầu
Hoa nở thấy Phật
Liền vào dòng Thánh.

Trung phẩm hạ sinh.

Hiếu nghĩa nhân từ
Tri thức khai ngộ
Gặp hai Bồ-tát
Nghe Pháp được độ.

16. Hạ phẩm thượng sinh.

Bình thường làm ác
Chết gặp thầy lành
Xưng một câu Phật
Sinh ao hoa sen.

Hạ phẩm trung sinh.

Phá giới nghiệp sâu
Lửa địa ngục hiện
Nghe pháp hồi tâm
Các Thánh rước đi.

Hạ phẩm hạ sinh.

Mười ác, năm nghịch
Khi chết khổ bức
Dạy xưng mười niệm
Hoa nở màu vàng.

10. Tụng: Khuyến hóa đường tắt tu hành của Tỳ-kheo Thiện Đạo ở kinh đô:

Dần dà da mồi tóc bạc
Lần hồi từng bước run run
Dẫu cho vàng ngọc đầy nhà
Ai khỏi suy tàn già bệnh
Mặc tình muôn ngàn vui sướng
Vô thường rốt sẽ đến nơi
Chỉ có đường tắt tu hành
Chỉ niệm A-di-đà Phật.

11. Bài tụng khuyên niệm Phật của Thiền sư Từ Giác Tông Trách:

Ba cõi nóng phừng như đống lửa
Chẳng phải chỗ an thân đạo nhân
Hoa sen bạn lành đợi đã lâu
Hãy thu xếp thân tâm trở về.
Mắt tưởng tâm luôn giữ hình Thánh
Cần phải niệm niệm chớ sinh nghi
Năm nào Tịnh độ hoa sen nở
Nhớ mãi lúc niệm Phật Ta-bà.
Cực lạc chẳng lìa chân pháp giới
Di-đà tức là vua tâm mình
Lông trắng giữa mày không nơi chốn
Cột lồng đèn cũng phát sáng.
Gấp tu trai giới chớ dần dà
Ngàn Thánh đồng mở pháp niệm Phật
Một mai công thành về Tịnh độ
Trong sáng lông trắng hầu Từ Tôn.

12. Bài tụng nói về Tịnh độ Tây phương của Thiền sư Từ Giác Tông Trách:

Tây phương nhiều việc vui
Nhiều kiếp khó nói hết
Tuổi thọ thật vô tận
Ánh sáng không bờ mé
Gió đạo thổi tuệ duyên
Nước định mọc sen hồng.
Hải hội cùng hội họp
Hoa trời rơi chỗ ngồi
Hải chúng đều thanh tịnh
Đạo Bồ-đề dễ thành
Tâm tâm đều chánh niệm
Vật vật hợp Chân thừa
Đất tánh ngọc lưu ly
Viên âm các chim hót
Cần phải lên bờ Giác
Chớ để theo nghi thành
Chân đạp đất Vô ưu
Thân ở không chỗ nơi
Sáu thời chầu Thánh chưa
Buổi sáng đến phương khác
Điện báu tùy thân đi
Hoa trời khắp cõi thơm
Trở về lại nơi ở
Thiền duyệt vị nào hơn
Chớ nói Tây phương xa
Tây phương trước mắt ta
Nhưng cách hơn mười muôn
Không hề lìa ba ngàn
Vừa mở miệng niệm Phật
Ao sen hoa đã mọc
Tín tâm luôn không lùi
Quyết định lễ Phật-đà
Ao lắng nước công đức
Gió động tiếng đờn sáo
Lưới báu khắp khoảng không
Lầu đài sáng rừng báu
Sáu căn thường hợp đạo
Muôn cảnh chỉ do tâm
Không phải người khó đến
Do tín tâm chưa sâu
Hạnh nghiệp chia ba bậc
Hoa sen cùng một ao
Rõ ràng lên Cực lạc
Quyết định được La-hán
Chướng hết, mặt trời sáng
Khi tâm mở thấy Phật
Trong đó vui vô hạn
Chỉ đồng đạo mới biết
Cực lạc lý chân như
Di-đà trí tuệ quang
Khi mê chìm cõi này
Lúc ngộ về Tây phương
Rỗng sáng luân hồi dứt
Mênh mông tuổi thọ dài
Tín căn vừa một niệm
Tâm địa đã mát trong
Tin sâu rồi sẽ đến
Nghi nhiều không thể biết
Tâm tịnh nương một niệm
Công hạnh vượt tăng-kỳ
Liền vào vị A-duy
Lại ngang hàng Bổ xứ
Tiến tu thật mạnh mẽ
Chẳng cần đợi tu lâu
Người hỏi người tu thiền
Tông môn muôn việc quên
Thì siêu sinh Cực lạc,
Cần gì đến Tây phương
Chẳng nghe nhà Thiền nói
Tây phương là quê xưa
Mã Minh đã dạy kỹ
Long Thọ cũng ngợi khen
Chớ nói Ta-bà khổ
Khổ Ta-bà giết người
Tham, sân, si loạn ý
Da thịt máu thành thân
Hang oán tắng la-sát
Làng ấm nhập vô minh
Hãy mau sinh Cực lạc
Nẻo về chớ dần dà
Chớ nói Ta-bà khổ
Ta-bà khổ rất sâu
Tà ma luôn là bạn
Tật bệnh thường xâm hại
Thanh sắc đất yêu dâm
Tâm Thiền-na lạnh nhạt
Hãy mau sinh Cực lạc
Nẻo về chớ trầm ngâm
Chớ nói Ta-bà khổ
Khiến người khóc sụt sùi
Xoay vần trong ba tai
Bị lửa năm thống đốt
Cây hạc sáng bị che
Hội Long Hoa còn xa
Hãy mau sinh Cực lạc
Nẻo về chớ từ nan
Chớ nói Ta-bà khổ
Vi-đề bạch Thế Tôn
Gặp kiếp phiền não trược
Con gọi Vi Sinh Oán Tâm
Điều-đạt nào nghịch
Hận Bình-sa chớ bàn
Hãy mau sinh Cực lạc
Ác này không hề nghe.

13. Bài tụng nói về Tam-muội Quán Phật của Pháp sư Tra Am Hữu Nghiêm:

Nếu người nguyện được sinh An dưỡng
Bậc trí khiến nên tu quán tưởng
Chân thân Di-đà thật khó quán
Người sơ tâm quán tượng vẽ khắc
Tưởng thành tướng khởi mắt tâm mở
Thân mầu vàng ròng như chỉ tay
Một niệm dứt ngang năm đường ác
Ai bảo không người khiến dễ đến?

14. Bài tụng khuyên niệm Phật của Thiền sư Từ Thọ Hoài Thâm.

Muôn người cùng chí niệm Di-đà
Các lực thành nhau nguyện lực nhiều
Hoa sen nở đích thân thấy Phật
Mới biết Tịnh độ hơn Ta-bà.
Cây rừng chim nước đều nói pháp
Lưới báu đài vàng đều đạo tràng
Hiểu được tiếng chuông và tiếng trống
Chỗ nào Di-đà cũng phóng quang.
Râu tóc dần dần điểm tuyết sương
Tâm vượn ý ngựa còn điên cuồng
Một ngày nhắm mắt trở về không
Mới biết Nê-lê tháng năm dài.
Nghiệp báo khác nhau việc bất đồng
Mệt nhọc cả đời không thoát lồng
Muốn biết tự tánh Di-đà Phật
Sớm chiều một niệm trong tâm ông.
Chúng sinh biển khổ nghiệp chìm sâu
Chẳng tin nhân duyên chìm đắm lâu
Nghe được âm thanh bèn niệm Phật
Mới hay vợ con tâm lão bà.
Chẳng phải sơn tăng nói đúng sai
Tu hành việc ma cần biết rõ
Ngay đây vứt hẳn đôi giày cỏ
Vượt thoát ao năm dục Ta-bà.

15. Bài tụng chỉ bày Hạnh Bà (và lời tựa) của Pháp sư Từ Biện Tùng Gián.

Hạnh Bà gặp sư, sư hỏi tu hành được bao lâu? Bà thưa tu hành đã nhiều năm. Sư hỏi từng thấy Anan chưa? Bà thưa đã gặp nhiều Thiện tri thức. Sư hỏi, họ chỉ bày như thế nào? Bà thưa: Cắt đứt cội gốc, cũng chẳng xem kinh, cũng chẳng niệm Phật. Sư nói: Lầm rồi! Nhân đó nói Pháp. Bà tin phục, Bèn nói hai bài tụng rằng:

Cắt đứt cội gốc chẳng cần tu
Đến nay các lời ít nguyên do,
Phải nên nắm gốc thoát sinh tử
Niệm niệm Di-đà chớ cầu ngoài.
Niệm Phật xem kinh là đường đi
Phải tin từ xưa nước là băng
Chỉ hướng cội nguồn nghiên cứu sâu
Từng tiếng đề khởi cho rõ ràng.

16. Bài tụng khuyên tu Tịnh nghiệp của Luật sư Đại Trí Nguyên Chiếu.

Nghe nói Tây phương rất dễ cầu
Muôn duyên từ đây buông bỏ hết.
Luân châu lớp lớp đều đầy đủ
Chỉ trước Di-đà xin cúi đầu.
Nghe giáo tham thiền tìm bên ngoài
Không hề quay đầu suy nghĩ lại.
Khi sắp qua đời, đường trước tối
Mới hay bình sinh dụng tâm lầm.

17. Bài tụng hóa đạo niệm Phật của Luật sư Thanh Chiếu Huệ Hanh:

Thích-ca như thật khen Tây phương
Y, chánh vượt xa ý đã bày
Tín nguyện trì danh không tưởng khác
Từng tiếng tâm trụ ánh sáng lông trắng.
Nhiều kiếp huân thành thân công đức
Vô biên quang, thọ lập tên tốt
Do đây các Phật đều khen ngợi
Vì sao chúng con chẳng cất tiếng.
Hồng danh bốn chữ miệng vàng nói
Công thành chỉ ở tâm ta bền
Pháp thần giản dị thật ít có,
Thoát rồi vui thay sen báu khắp nơi.

18. Bài tụng niệm Phật tâm yếu (và lời tựa) của Pháp sư Hoa Âm Đạo Nhân:

Đức Thích-ca Như Lai nói Phật A-di-đà là thân pháp giới. Ngài Thiên Thai Trí Giả lại nói: Thật tướng là thể. Dựa vào hai cách nói này xem là tâm yếu, thì mười muôn ức cõi như ở trong gương sáng. Nay làm bài tụng vụng về để ấn tâm. Kẻ tri âm nào đó có vui theo chăng?

Vô biên là biển cùng hư không
Biển, không toàn là cung hoa sen
Cung sen cùng khắp đầy biển, không
Biển, không riêng bày Phật Di-đà.
A-di-đà Phật chẳng sinh diệt
Khó tìm khó vớt trăng trong nước.
Dứt phi lìa cú thân như thế
Cảm thông như thế, nói như thế.
Ta và Di-đà vốn chẳng hai
Vọng giác ngầm sinh chợt thành khác
Từ nay quét sạch không có bụi
Cha con tự nhiên lại gặp nhau
Thệ tu ba phước hành sáu niệm
Nghiệp thân, miệng, ý không tỳ vết
Nay tôi do đó niệm Di-đà
Không thấy Di-đà không thỏa mãn.

19. Bài tụng khắc tượng thơm A-di-đà (và lời tựa) của Pháp sư Giải Không Khả Quan:

Ở Hồ tây thuộc Tứ Minh có Sùng giáo theo học với Phạm Cần Hành nhân. Vì nguyện xưa mà vào quán đường Diên Khánh hành trì sám Phổ Hiền, tụng kinh Pháp Hoa, trong mộng được xoa đầu mà không hay biết. Do đó hồi hướng Tây phương, thêm vững Tam-muội niệm Phật. Khắc gỗ Tử Đàn Hương làm tượng Phật A-di-đà như trăng trong nước, không bao giờ được. Bèn cầu Lão Trúc Am chứng minh cho, không lấy ra được cái gì, chỉ có cái đó.

Lông bạch ngọc trắng do tâm ta
Tướng sáng vàng tím là tánh ta.
Tướng sáng thảy đều không thật có
Ngay đó đều là định diệu thắng.

20. Bài tụng nói về Tịnh độ và bài Tụng nói về tạ thế của Pháp Cảnh giảng chủ Nhược Ngu:

Trong không ngàn hoa giăng lưới
Trong mộng bảy báu ao hoa
Yên ổn đạp lên đất Tây phương
Liền không một chút nghi ngờ.
Vốn không có nhà biết về đâu
Bên mây một nẻo có ai hay
Trăng non Tây sắp lặn nơi khen sáng
Chính là lúc mộng đầu tiên dứt.

21. Khen ngợi Tây phương của Cư sĩ Huyễn Trụ Nhậm Bưu:

Ao sen bảy báu nước công đức
Sáu thời chim cùng nói Pháp âm
Ánh Từ xen chiếu không ma não
Tự tại bay đi chẳng tử sinh.
Lầu gác trang nghiêm, đường bằng vàng
Hoa sen thơm sạch ánh sáng báu
Tràng hoa chuỗi ngọc cùng gặp gỡ
Đều nói do nhân niệm Phật sinh.

22. Bài tụng khuyên tu Tịnh độ của Pháp sư Đồng Giang Trạch Anh:

Khổ thay, khổ thay, thật khổ thay
Rốt cuộc lồng vòng chẳng chịu về
Nhà trên cha lành luôn buồn nhớ
Muốn giao gia nghiệp đợi con về.

23. Bài tụng nói về Bạch Liên Tịnh Xã của quan Hữu Nhai Giám

Nghĩa Tùng Chánh:

Về đi thôi, hãy về đi thôi
Tây phương Tịnh độ sen trắng nở
Từng đợt gió thơm thổi chẳng động
Tiêu dao vui sướng đài vàng tím.

24. Bài kệ nói về Phật và ma khi tu tịnh nghiệp của Pháp sư Thọ An Lương Bật:

Di-đà lễ Di-đà
Bước bước dứt Ta-bà
Phật còn chẳng được Phật
Ma chỗ nào là ma.

25. Kệ khuyên tu Tịnh nghiệp của Xương Quốc Tể Vương Tồn Chi:

Việc đời như giấc mộng
Người đời ai trăm năm
Niệm niệm Di-đà Phật
Sen báu mọc trong ao.

26. Bài tụng khuyên người đời niệm Phật (mất tên tác giả).

Kiếp người phù sinh việc ra sao?
Như én mùa xuân làm tổ cao
Lăng xăng sóng động lo sinh sống
Chẳng bằng an phận niệm Di-đà.
Văn chương luận giỏi đậu khoa cao
Cửa tía lầu son ý khí cao
Quan cao ai khỏi vô thường đến
Không bằng phương tiện niệm Di-đà.
Múa giáo bắn cung khó ai qua
Ngựa giỏi phóng nhanh mau như thoi
Sức địch muôn người cũng già bệnh
Chi bằng luyện giỏi niệm Di-đà.
Giàu sang tiền của chẳng thoả mãn
Sáng tối tính đếm sợ lầm lẫn
Ưu phiền bất giác đầu bạc trắng
Chẳng bằng biết đủ niệm Di-đà.
Âm thanh trong trẻo tiếng ngâm ca
Một bài ca mới nhạc dịu hòa
Bỗng cất cao giọng Hành Vân trụy
Chi bằng tịnh khẩu niệm Di-đà.
Mày liễu mắt sáng tợ hằng nga
Vóc ngọc lại trang điểm lụa là
Đẹp đẽ chỉ khi còn trẻ tuổi
Không bằng mau sớm niệm Di-đà.
Lắm khoe địch quốc lắm trí mưu
Nhiều bận tranh hơn lắm cam go
Thì giờ một nửa đành bỏ mất
Chẳng bằng ngồi thẳng niệm Di-đà.
Buôn bán bươn chải lắm bôn ba
Đất khách xa xôi đâu chẳng qua
Sông hồ sóng gió đầy nguy hiểm
Chẳng bằng trở về niệm Di-đà.
Quen việc công tổn hại người khác
Khéo bày lời lẽ đám lâu la
Gia tài dần phá bị người oán
Không bằng dẹp việc niệm Di-đà.
Nghiệp giết thù hận chứa càng nhiều
Ăn nói sao đây gặp Diêm-la
Dạy anh một pháp siêu sinh nhé
Hãy nên sám hối niệm Di-đà.

Loại Thơ

1. Ca vịnh Tịnh độ.

(Trích trong luận Bảo Vương) của Tấn Khang Lạc Tạ Linh Vận:

Pháp Tạng trong cung vua
Mang đạo ra khỏi thành
Phát ra bốn mươi tám nguyện
Thệ lớn cứu chúng sinh
Tịnh độ cõi diệu nào
Đến đó đều anh hào
Lời suy đâu thể gởi
Nương hóa ắt sớm đi.

2. Thơ niệm Phật Tam-muội của Tấn Lang Da Vương Kiều Chi:

Diệu dụng tại đây
Có thấy hay không
Thần do muội suốt
Thức bởi chiếu thô
Chứa vi tự dẫn
Vì công vốn dối
Mất ba quán kia
Quên lông trắng đây
Yên lặng gì đầu
Bước trên huyền vi
Chứa quên thích hợp
Thông suốt linh sáng
Tâm đến cõi xa
Được cơ chẳng hành
Dùng đó làm xung
Biết là rất hiếm
Thần đọng trời ngưng
Viên chiếu mây sáng
Cùng hóa mà gồm
Cùng các vật này
Chẳng nên dùng phương
Người nhận phân biệt
Nháy mắt gương vực
Vàng nước bụi phấn,
Đã từ một sinh
Có tuệ thức xưa
Nương người sâu kín
Nhờ có sức ngầm
Nghĩ chuyển hào công
Sâu xa chẳng lường
Còn khởi niệm này
Chú tâm Tây phương.

(Trích ở Lô sơn Tập).

3. Thơ niệm Phật Tam-muội (và lời tựa) của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức:

Tựa rằng: Tam-muội niệm Phật là đạo mầu của bậc Thánh. Phàm khích lê dòng pháp đâu gì hơn đây. Sư tuệ Viễn Đời Tấn, hóa đạo ở Tầm dương, nhóm họp các bậc hiền người thừa hành đúng quy tắc nhất có Lang điện da Vương Kiều Chi, đến khi các bậc Hiền đều làm thơ về niệm Phật Tam-muội thì Tuệ viễn soạn lời tựa. Hoàng Tông Bính Thân, Sa-môn Tuân Thức hội các khách cao thượng ở Tứ minh hơn một trăm vị hai tháng giữa Đông, giữa Xuân thì một ngày một đêm hợp ở giảng đường Bảo Vân quán tưởng Vô lượng giác hạnh. Thời Hán ngụy suốt năm Nhâm Dần đã bị phá bỏ ở. Đông Sơn Bỗng nghĩ thành tựu việc cũ. Sự tích không kể ở đây. Bèn định các bậc Hiền đời Tấn làm thơ gởi đề khắc đá truyền lại đời sau.

Muôn cảm ngoài hình hài
Nghiễm nhiên nhà trống vắng
Lông trắng sáng nhiều mầu
Thần tối nhờ nối sáng.
Tượng đẹp chẳng vốn dự
Xem tục há thấy tốt
Chặt bỏ hội nhập vi
Dạo chơi tâm không vui
Đá vàng muội thấy chân
Chánh nghe ngu tám tiếng
Huyền không chẳng nương giá
Can thiệp đâu có gắng
Sum la hiểu đều vắng
Hư không tiêu khí độc
Lành thay đạt quán này,
Cục sĩ còn nói gì.
Bao dung mà khúc chiếu
Đẹp như bóng trong gương
Xem kỹ không khiển tâm
Luống cầu không trệ tưởng
Theo mộng quên thỉ chung
Thông kín rõ như đến
Nhờ đây gặp dáng Thần
Tiêu dao hẹn đến Tây
Soi hết huyền tưởng cô
Động tịnh như là khu
Đại tượng nào hình nghi
Đại phương gì rèm góc
Chánh thưởng chẳng ngầm gồm
Bước diệu không vòng vo
Tâm lắng biết khắp biển
Gạo tốt thân vàng ròng.

4. Từ biệt Lý bí thư ở chùa Thỉ hưng của Cư sĩ Thảo Đường Đỗ Tử Mỹ:

Chẳng thấy bí thư tâm như mất
Thấy bí thư rồi liền mất tâm
Sao vì động chủ lý tin rõ,
Ta là độc giác thần sung thật
Lại nghe kinh Quán nói Tây phương
Thân già chùa cũ gió vi vu
Vợ con đợi gạo lại ra đi
Ngày nọ gậy lê đến nghe pháp.

Ngồi bên bờ nước ở chùa Đông lâm của Cư sĩ Hương Sơn Bạch Cư Dị:

Xưa là khách trong thành Đông dịch
Nay làm người ở xã Tây phương.
Tay nhành dương chi ngồi bên nước
Nhớ nghĩ việc qua như thân trước.

5. Điếu Đại Sư Thiên Trúc Bảo Nguyệt của Cư Sĩ Đông Pha Tô Thức:

Sinh tử cũng như duỗi cánh tay
Tình chung ta nhắp một chua cay
Lạc thiên chẳng phải Bồng Lai khách
Nương nhờ Tây phương làm chủ nhân.

6. Đêm trừ tịch (2) của Cư sĩ Hậu Sơn Trần Vô Dĩ:

Bảy mươi đã hơn nữa
Việc làm được bao nhiêu
Mới hay tối gấp đến
Liền biết nhiều đời sau
Lánh đời nhiều phiền lụy
Nhiều năm phải làm ma
Về Tây nên dấn bước
Chẳng sống mãi Ta-bà.

Cư sĩ Hậu Sơn lại có ba bài thơ cũng có chí Tây phương. Nay tóm tắt một vài câu. Như bài gởi Tham Liêu thì nói: Bình sinh nguyện Tây phương, duyên với việc lấy bỏ, chỉ theo người ngoài đời, từ đâu mà quên năm. Bài gởi Lý học sĩ: "Vừa tìm đến cõi Đông, luận việc này có nhờ, Tây phương làm xe sau": Bài giả biệt Thiền sư Viên Chứng nói:

Bình sinh theo Tây phương, đến già còn mê nhân gian là có ý gì? Năm nào Phật gặp Đầu-đà biết đó là Lão cư sĩ năm ấy. Cư sĩ Hậu sơn là người làm thơ cận đại nổi tiếng nhất chuyên chú với Lạc bang. Như thế thì những kẻ phong tao đâu thể chỉ vì một chữ mà kéo hết mấy cộng râu mép ư?

8. Việc tốt ở Tiền Đường, gởi người đứng đầu Giang Ninh Mã Thị Lang của Thiên Trúc Sám chủ Tuân Thức:

Vãng tuế Tiền Đường việc tốt thay
Trong đó An dưỡng rất chí thành
Ao tâm sen nở như còn mãi
Nên hành Tây phương Phật ở trên.

9. Đoan Trúc Ngộ Lão trồng sen của Vô Vi Tử Dương Kiệt:

Nghe nói Đông Lâm rừng suối đẹp
Hội xã xinh tươi nối trăm năm
Lệnh vật gì bằng trúc họ Thôi
Ao vuông trồng mới sen Tuệ Viễn
Hoa nghiêm mau tịnh tam thiên giới,
Non Lô lại cảm mười tám hiền
Đáng cười Đào Tiềm lại trở về
Bạch Vân chim hót bạn về vườn.

18. Lô sơn Bạch Liên xã của Sa-môn Ngự Khê Hoài Ngộ:

Nhà Tấn lăng trì vua chép bày
Người tài dấu cũ bóng khuông sơn
Lâu phiền Đại Sĩ còn sáng mãi
Mười bảy cao hiền chọn ghế ngồi
Tài cao ai bảo rồng trong chữ
Phản sử người kia nghĩ Tạ Công
Khói bay sương giọt ao ngọc vắng
Bóng sen nay tuyết gió thu lay.

19. Tặng Di-đà Đạo giả (tức Dụ Di-đà) của Trực Bí Các Hoàng Cáo:

Tịnh Công ngày nọ gọi lương y
Nhất ngộ chân không liền hết nghi
Hiếu hạnh không nên quên cha mẹ
Tín tâm không còn nhớ vợ con
Lộc môn so Bàng Cư sĩ
Liên xã may gặp Pháp sư Viễn.
Lại thành quán Tây phương thanh tịnh
Bạch hào luôn hiện năm Tu-di.

20. Thơ cận thể về mười sáu pháp quán của Samôn Xung Mặc:

1. Quán mặt trời.

Năm nay hương lửa tấc lòng sáng
Định vượt đường xa xôi mười muôn
Thường hướng về nơi mặt trời lặn
Ngưng tâm quán tưởng công phu thành
Linh đơn đâu riêng trị các khổ
Xương huyễn hãy nên hẹn năm thanh
Núi non trước mắt nào nước cũ
Trở về An dưỡng là thần kinh.

2. Quán nước.

Nước lớn ngưng băng không bến bờ
Sáng trưng trong suốt khắp sông hồ
Trên không chẳng biết trời đất lớn
Ngoài tâm vốn không có mây mù
Tự hận đời này vào đạo muộn
Nhân vì các vọng lạc không tà
Giữa rừng chẳng bỏ quán cây chuối
Chỉ đợi thuyền sen mau đến nhà.

3. Quán đất.

Chỗ dung tâm hết chẳng đất đai
Đường nhỏ làm sao có đất to
Nhạc trời đầy không vang kinh Phạm
Phướn vàng rủ đất ánh lưu ly
Không hề mắc mưu thần rỗng sáng
Chẳng sợ trôi nổi gấp bóng dời
Thử xem núi biển luôn còn mãi
Đâu bằng phút chốc về Liên Trì.

4. Quán cây.

Chớ dùng danh ngôn tìm ở ngoài
Biết cảnh giới trời rất cao sâu
Lớp lớp châu báu không vật khác
Mỗi tia sáng châu từ tâm ra
Vượt thoát chưa thành do thiếu tụng
Chứa công chẳng hề chán xỏ kim
Bạn vô sinh xã nên mời gọi
Cùng ta đồng tham ngộ tức thì.

5. Quán ao.

Nước chảy tám đức lạnh ngưng thần
Sen phát các sáng khiến lóa mắt
Trong hoa gương sóng truyền tuyệt âm
Chim bên bờ báu bóng theo hình
Nhiều năm dấu sóng quên việc về
Ngày nay nhớ lại định ở ao
Nghỉ chút giường kia như mộng tưởng
Giác rồi tâm địa riêng hân hoan.

6. Quán chung.

Trời dục giàu vui mấy từng cao
So cát sông Hằng chẳng là nhiều
Các tiên ẩn khuất vui lầu các
Tuyên dương Tam bảo thổi sinh tiêu
Chẳng có cảnh nào chẳng phàm tưởng
Trong ánh giải thoát chưa tự tại
Nhìn chung ân cần sư tử rống
Dã can sợ hãi phá tà yêu.

7. Tòa hoa.

Khắp biết nguyện xưa nhiều gò đồi
Đất bằng mọc sen hợp tự nhiên
Tòa báu vòi vọi khó sánh ví,
Cờ báu vượt cao vừa tròn vuông
Tưởng thành pháp pháp không dấu vết
Tận mắt trần trần vốn hư không
Kỵ nhất mảy may lạc lưới ma
Ngay đây dứt hết việc đời này.

8. Quán tượng.

Chân cảnh rất cao mắt phàm tối
Trước bày tượng quán nêu thường dung
Phải biết tướng tốt từ đâu khởi
Chỉ thẳng nguồn tâm có nẻo đường
Tướng vàng sáng rực như trời lên
Ánh sáng lông trắng mềm như nhung
Lại chúng sinh, Phật trong gang tấc
Bỗng phá bụi tối nghìn muôn lớp.

9. Chân thân.

Tám muôn tôn sùng toàn thể hiện
Ánh sáng luôn chiếu cõi như bụi
Sinh tử nhiều kiếp khó gặp gỡ
Thức ngủ chí thành vẫn không quên
Thề nguyện đục núi làm thắng nghiệp
Làm đồng hồ nước theo ánh dương
Phong lưu Liên xã nay ngàn năm
Cũng còn tiếng tăm thơm rất thơm.

10. Quán Âm.

Ba mươi sáu lớp đầy cảm ứng
Vớt hết chúng sinh thoát nổi trôi
Mũ trời hóa Phật lưu dấu vết
Sa giới tùy cơ nói tiếng mầu
Anh lạc đầy thân trăng lấp lánh
Cành dương trong tay bày vàng ròng
Đời ta nhiều bệnh thường quy ngưỡng
Chuột uống nước biển chẳng biết sâu.

11. Thế Chí.

Mão có bình vàng hoa trăm ức
Ni-mi báu lạ ánh xa cừ
Trong ánh có cõi nghiêm thân tướng
Gió động vạt áo ngọc leng keng
Niệm Phật viên thông công trước có
Nhiếp sinh phương tiện nghiệp trước bỏ
Chân Từ sáng sạch không bờ mé,
Cả ngày thần quang che lều tranh.

12. Quán khắp.

Quán Thánh vừa dung vọng hoặc nhẹ
Trong khoảng chớp mắt đến bờ hoa
Chín đài sen ẩn vượt phàm thế
Trăm tia sáng báu chiếu huyễn thân
Chim hót cây khua vang nhạc trời,
Ao vàng sóng động hợp lời kinh
Biết bao nhiêu kiếp linh đinh khổ
Rửa tai sáng nay thử lắng nghe.

13. Tạp quán.

Sáu mươi muôn ức cao vòi vọi
Dằng dặc phàm phu thấy gì đâu
Ao báu thường tưởng là thô tướng
Trần sát hình kia dáng lạ lùng
Lời Thánh nêu bày khó bàn luận
Thân Phật hơn kém nên biết trước
Tư lương ngày ngày tưởng Tây phương
Dè dặt chớ sinh tâm nghi lớn.

14. Ba phẩm Thượng.

Thoát được rừng gai chứng thượng phẩm,
Hoa Phân-đà-lợi nở trong lửa
Thiền kia vắng lặng đã không sóng
Gương tâm vốn sáng chẳng bụi trần
Bỏ đây liền thành vô thượng nhẫn
Mới dạo tranh nhau vượt quần tài
Các Thánh đầy không hoa sen nở,
Đặc biệt là đài mầu Kim cương.

15. Ba phẩm Trung.

Tiểu giáo đâu thể tu Tịnh nghiệp
Hồi tâm về đại mới nên biết
Do kính các giới không tỳ vết
Quả chứng tam minh dứt vọng si
Tai nghe Pháp xuất gia lìa khổ
Tâm giữ vô ngã là nền chắc
Co duỗi cánh tay ra ba cõi
Một đóa sen kia mọc ao báu.

16. Ba phẩm Hạ.

Bọn ngu làm ác đã thành quen.
Từ xưa nào biết dấu trắng đen
Đến khi sắp chết nghiệp ác hiện
Mới hay rắn dữ bốn con tranh
Nếu không sức thiện từ xưa có
Đâu có công phu xưng danh mạnh
Bỗng biết gió mát thổi lửa nghiệp
Trong ánh lông trắng có mặt Phật
Lô sơn Liên xã của Giám bạ
Dụ Lương Năng Tuệ Viễn kết xã chuyên thanh tu
Sáng mãi sấm tông cùng tuấn du
Ngàn xưa không khác tên tuổi cũ
Sen trắng rơi rụng chẳng hơn thu
Đời trước ta là thân Tỳ-kheo
Nơi nơi núi mây có nhân xưa
Ngày nào trần duyên đều sạch hẳn
Vì người trong xã lo lửa hương.

21. Thứ vận Liên xã của Thích Hạt Lưu Thuần Tẩu:

Mua rượu để khích Đào Uyên đến
Đóng cửa chẳng thả Tạ công ra
Phong lưu xưa nay không người hiểu
Nhàn ngắm sen kia mấy độ thu.

22. Mười tám bậc Hiền của Lô sơn, của Đông Khê Thích Tổ Khả:

Chẳng thể phò nhà Tấn đảo điện
Bèn làm người Liên xã Tây phương
Há ý một thời việc ít có
Lại khiến Nguyên Lượng giữa hai mày.

23. Thơ nhớ An dưỡng quê xưa của Pháp Sư Tra Am Hữu Nghiêm: Tôi xem An dưỡng là cố hương bởi ngay nơi tâm này là Tịnh độ, tuy nghĩ về đã lâu nhưng dời bước thật đáng buồn thay.

Nhân làm thơ này, xin người đọc chớ nên chê trách là lấy bỏ.

Người rõ thân tâm chẳng gần xa
Tuy rằng bốn biển đều là nhà
Sao bằng quê cũ dạo cây ngọc
Huống được thông thương với xe báu
Tính ra nhiều năm chẳng trở về
Luận việc phàm tình không bến bờ
Không phiền cha mẹ tựa cửa đợi
Đợi gá thai vào chín phẩm sen.
Mấy năm vạt áo lấm bụi trần
Chí khí cao xa khó tự bày
Nam nhạn mấy tiếng mộng quê dứt
Chiều đông gió thu lệ đầm đìa
Đây lại nếu chẳng nhớ trở về
Sau này cùng ai kết bạn lành
Xin xem bên đường chôn xương mục
Trong ấy phần nhiều người chưa về.
Tây phương chân tịnh vốn nhà ta
Nay nhớ đường về mười muôn xa.
Nẻo khách linh đinh đều đã khốn
Phong trần cô khổ rất thở than
Bảy lớp hàng cây ngàn muôn nhạc
Nước ao tám đức bốn màu hoa
Chớ lạ gần đây mộng quê cũ
Làm sao vinh nhục việc không bờ.
Vô ý mà nay tóc như tuyết
Nhớ nhung mang nặng ánh trăng Tây
Trong mơ bỗng nghĩ chim về tổ
Gian ngoài bỗng sợ lá thu bay
Một thỏi hương trầm một tiếng khánh
Trông xa bỗng lệ vội vàng rơi.

Pháp sư Tra Am chuyên tu Tịnh nghiệp, tâm tha thiết kính mến thấy rõ ở thơ, há ý: "Mà nay tóc như tuyết, nhớ nhung mang nặng ánh trăng Tây." Nếu chẳng phải là người biết sự nhiệm mầu thì đâu thấy được như thế. Song thơ này rất nhiều ở đây không chép hết. Riêng Bảo Phước Tuân Sư có. Đoản Cảnh chỉ than rằng: Cá ít nước mà đường dài, sợ voi không có móc. Lại khiến người nói cho sướng miệng mà Thảo Am Lục đã ghi lầm.

24. Thơ nhớ Tây phương của Pháp sư Bắc Sơn Khả Mân:

Góc trời nhà hướng mặt trời lặn
Ở giữa hàng cây cách khói mây
Tuy đến được chỉ trong chốc lát
Nhưng ba tăng-kỳ vẫn chẳng đến
Lưới châu bảy báu sáng mấy lớp
Hoa sen bốn mầu sắc xinh tươi
Lúc về bạn lành đều ra đón
Han hỏi cách xa đã mấy năm.
Chỉ luôn ưa chán mãi hành trì
Bổn tánh duy tâm há chẳng hay
Ba cõi rối bời tình nhiễm nặng
Bốn loài trôi dạt sức gầy mòn
Lồng lộng trăng kia vừa mới mọc
Vàng võ mặt trời khi sắp lặn
Mặt vàng lão thân luôn nhờ cậy
Mau sửa soạn xe mà trở về.
Đã biết từ xưa có lỗi gì
Đóng chặt cửa sài nhìn trời lặn
Ngọn trúc nhẹ lay trăng mới mọc
Rèm tre cuốn nửa mây xưa về
Núi rừng khí vị đầy hoài bão
Khói hương tòng bách thấm áo gai
Bồ đoàn trên đá luôn tĩnh tọa
Tấc lòng luôn gởi ráng chiều bay.
Tây chỉ hướng Tây lại hướng Tây
Hướng Tây về Tây có chiêu đề
Hoa sen tươi nở sáng không đêm
Đất trải lưu ly ngọc sạch bùn
Gió động Pháp âm rao tám vịnh
Ao tuôn nước đức hơn song khê
Qua đời sẽ được siêu sinh nhé
Chín phẩm sen vàng bước thẳng lên.

Lại hai bài thơ năm chữ:

Ta-bà cõi kham nhẫn
Trẻ nhỏ thích dạo chơi
Gởi tưởng về trời lặn
Thương tâm đã bạc đầu
Sen xinh tươi ngàn đóa
Vằng vặc một vầng trăng
Chưa biết ngày nào đến
Khoảnh khắc ở lầu quỳnh,
Rễ cành đều dứt đoạn
Ngàn hoa ai sánh bằng
Nở bày dưới chân Phật
Kỳ diệu vào kinh đề
Lá non trên nước vàng
Rễ linh ngọc dưới đáy
Thề hẹn ngày hết duyên,
Bước bước đi về Tây.

25. Gác Giác Hải Di-đà ở Hồ châu của Từ Bộ Trương Cảnh Tu:

Đầm tiên bể giác đường hưng thiện
Tượng bày ngọc quý từ xưa nay
Cột điện nghiêng sách sấm rền lửa
Vượt cầu kia tượng gỗ Quán Âm
Trước song bóng trúc lay chim vàng
Gió thổi hương sen chìm đáy nước
Huống có gác Di-đà mới lập
Động tâm người vãng sinh vô hạn.

26. Tây Quy Hiên của Thiền sư La Nguyệt Đàm Oánh:

Anh nói lạc quốc là nhà ta
Tự cười khách phiêu linh đường xa
Một điểm quy tâm mặt trời treo
Trăm năm việc huyễn gởi hoa đốm
Trống kia chẳng đánh kinh rèm cuốn
Mũi kia luôn thông, triện bị tà
Tướng chánh niệm thành không vật ngoài
Trước song hàng cây càng thêm xanh.

27. Thơ nhớ Phật làm bên mái hiên (và lời tựa) của Thủ tọa Tuyết Khê Hy Nhan:

Từ xưa có câu: đời người trăm năm được bảy mươi tuổi là ít có. Tôi mười sáu tuổi xuất gia làm Tăng đến nay được bảy mươi tuổi ở đời chưa phải lâu. Sớm chiều luôn tụng kinh niệm Phật chỉ hận là chưa thật chuyên chú. Bèn mở kinh Thủ-lăngnghiêm ở chương Thế Chí có câu: "Nếu người nhớ Phật, niệm Phật, thì hiện tiền tương lai chắc chắn thấy P, sai viết bài "Nhớ Phật" dán ở mái hiên nhỏ, ngõ hầu lâm chung thấy hình dáng của Phật mà thôi. Lại làm bài kệ để một bên. Kệ rằng:

Nhiều năm trốn chạy tóc như tơ
Nhớ Phật khó quên mười hai thời
Ủ dột tự than là đãng tử
Mấy phen hoa nở cành bên đường.
Tự thương nhớ Phật ngày càng sâu
Trừ Phật không ai hiểu lòng ta
Đường nào muôn kim mà làm khách
Chẳng bằng cơm rau ở nhà ta.
Lặn hụp theo sóng nhanh vun vút
Chỉ chốc lát đã bảy mươi năm
Há chẳng hướng về mà nhớ Phật
Sắp già đi rồi thêm gắng công
Quét sạch ý địa cho vắng lặng
Rồi đốt tâm hoa rực sáng người
Quyết định thân này như đã thấy
Sạch bụi, lột xác cười ha ha.
Có bạn tuổi già lại đến tìm
Chỉ là chăm chăm nhớ tâm Phật
Mấy nén hương xuân giờ đã lạnh
Một khám đèn đêm chiếu qua song
Khoảnh ruộng mưa thưa hương thấm đượm
Gió luồn khe sâu phát tiếng mầu
Tự hận không về đành tự bỏ
Đã về đâu cần hơn người ngâm.
Kèo cột đã cũ chịu an bần
Chỗ tốt không bằng nhớ Phật chân
Muôn việc rõ biết còn rơi nồi
Trăm năm chỉ đây mà nghỉ ngơi
Sườn núi đêm lặng trải bồ-đoàn
Dưới thông một mình bưng chén xuân
Đóng cửa chẳng quên thường nhớ Phật
Nguyện thường như thế bóng theo hình.
Ngày thường rừng thông thấy Tổ sư
Lại như nhớ Phật vào lúc này
Chỉ hay ở yên trong hang sâu
Bụng chẳng đeo theo mảy may nào
Đường tắt hoa rơi nổi khe nước
Song cửa nắng xế dưới cành thông
Vắng yên chân cảnh nào ai biết
Chỉ Phật thường hay vào mộng tưởng.
Sớm tìm Hán sử học làm văn
Tự nhủ còn sóng luôn học rộng
Bỏ mất thời gian theo nước chảy
Suy tư rốt lại chỉ mây trôi
Trong nhàn tự biết sống ẩn thân
Chỗ tốt ai hay siêng nhớ Phật
Ngầm bỏ uống ăn nay ở đây
Cỏ xanh ba thước chỉ mồ hoang.
Tôi muốn đời này thấy Phật đến
Phật nay đối tôi đâu luống dối
Chỉ giữ nhất niệm tâm không mỏi
Chẳng chờ tam kỳ mà mắt mở
Yến tía oanh vàng hót ý mầu
Khe xanh đá trắng bày đài báu
Nên biết hiện ra đường về nhà
Đường nào không người vì xoay lại
Danh lợi dây lông cắt oán cừu
Vườn sơn tự so với loài sên
Phù sinh rốt lại chỗ vô song
Nhớ Phật phải biết liêu lạc nhất
Mẹ con có thể ở cùng nhà
Gió bụi đâu cần đến phương xa
Đường trước chớ hỏi, nay bắt đầu
Trang giấy, trải bồ đoàn ngồi yên.

28. Đọc truyện vãng sinh có xúc cảm của Pháp sư Vân Am Liễu Hồng:

Sách ghi Phi Sơn
Phương Kim ở Tây
Hiền xưa trở về
Sao chẳng nghĩ bằng
Tóc bạc dễ già
Lữ khách không nhà
Ý chí trở về
Nương đây chỉ mê.

29. Thơ vịnh sử Tịnh độ của Cư sĩ Tây Hồ Lý Tế:

Cư sĩ đạo hiệu là Tây Quy tử, vốn là người ở Vũ Lâm, cư ngụ ở Đài Khê. Tiên tổ bốn đời thi đỗ, ăn ở thanh bạch. Hiểu rõ giáo pháp Tịnh độ. Thường làm các bài vịnh về sử và thơ khen ngợi các bậc thượng thiện Tịnh độ có hơn năm trăm bài. Bởi người ở Tịnh độ đúng lý mà tu thì đều nối hạnh nghiệp. Nêu sự tích ở bài dù thiện nhỏ cũng không bỏ sót, gọi là người vui đạo. Văn lưu truyền ở đời, này tóm tắt ghi lại, về Thánh sư có hai mươi lăm bài để giúp người thấy nghe.

1. Nối Phật hóa duyên.

Như Lai hiện uế cõi Ta-bà
Chiết nhiếp cang cường, phương tiện nhiều
Cắt ngang sông ái không pháp khác
Chỉ dạy chuyên chí niệm Di-đà
Vô biên cõi nước đều thanh Tịnh
Chỉ Phật Di-đà biển nguyện sâu
Mười niệm công thành được dắt dẫn
Chính như điểm sắt hóa vàng ròng.

2. Thuật nói tác ý.

Xưa qua nay lại đã nhiều kiếp
Hai vầng nhật, nguyệt gấp như thoi
Tuần hoàn sáu đường không ngơi nghỉ
Chẳng biết Tây quy thì thế nào
Xưa nay anh hùng chỉ một huyệt
Hiền xưa còn có tâm phải quấy
Nay ta kính đọc truyện vãng sinh
Bắt chước Chu Đàm làm sử thi.

3. Bồ-tát Văn-thù.

Cúi lạy Mạn-thù Đại Thánh sư
Bàn sâu niệm Phật dắt các cơ
Bèn khiến pháp chiếu truyền giáo này
Năm hội trong cung đạo càng sáng.

4. Bồ-tát Phổ Hiền.

Khắp dạy mọi người mười nguyện vương
Chỉ quy An dưỡng lý sáng trưng
Xưa nay từ giác Liên Hoa xã
Thường dùng hồng danh khuyên mọi người.

5. Bồ-tát Phổ Tuệ.

Trong hội Vi Giang hộp các hiền
Đại sĩ anh em đều tham dự
Cốt để tuyên dương chân Phật hóa,
Chỉ ứng bi nguyện rộng vô biên.

6. Bồ-tát Thiên Thân.

Duy Thức Luận sư có nói kệ
Di-đà lạc quốc nguyện vãng sinh
Chỉ do quả báo không các khổ
Các Thánh về tông hành hóa đạo.

7. Bồ-tát Mã Minh.

Soạn luận thông tông trăm lạc-xoa
Dẹp tà bày chánh nhiếp các ma
Dạy người chẳng lui có thuật lạ
Chỉ dạy chuyên tâm niệm Phật-đà.

8. Bồ-tát Long Thọ.

Khuông phò tượng vận làm huân dung
Nói kệ Bà-sa trong Đại luận
Nguyện cùng chúng sinh sinh nước ấy
Khắp khiến phàm phu thoát buộc ràng.

9. Bồ-tát Ngũ Thông.

Người Ta-bà chưa biết Di-đà
Lên thẳng Tây phương mà thỉnh cầu
Phật và Bồ-tát đồng thời hiện
Bèn đem lá báu khắp vẽ hình.

10. Pháp sư Lô sơn Tuệ Viễn.

Liên xã bày ra dẫn người sau
Hợp với đạo tục cùng quy ngưỡng
Mười năm ba lần thấy Phật hiện
Chắc chắn đài vàng sinh thượng thượng.

11. Đại Thiền sư Nam Nhạc Tuệ Tư

Mộng thấy Di-đà nói pháp nghe,
Không trung tượng báu hiển thần linh
Thiên đồng hầu hạ bình thường đầy
Bỏ thức thân được Thánh chúng rước.

12. Đại sư Thiên Thai Trí Giả.

Xưa cùng Nam Nhạc thấy ánh sáng,
Vừa tụng Pháp Hoa ngộ Dược Vương
Luận giải mười nghi truyền vạn đại
Đọc kinh huống lại bày Tây phương.

13. Pháp sư Bích Cốc Thần Loan

Lưu-chi chỉ thẳng Phật sống lâu
Đốt bỏ đào tiên mười quyển kinh
Long Thọ hiện hình căn dặn kỹ
Khi mất đều nghe tiếng đờn sáo.

14. Hòa thượng Thiện Đạo ở kinh đô.

Vẽ ba trăm bích hoạ Tịnh độ
Viết mười vạn quyển kinh Di-đà
Sang hèn chẳng luận đều khuyên dạy
Lại lên cây liễu mà cầu sinh.

15. Pháp sư Tân Định Thiếu Khang

Sách Lạc Dương nhiều lần phóng quang
Hành hóa Tân Định ở phương xa
Mở miệng niệm Phật, Phật bay ra
Lại được trẻ con ủng hộ theo.

16. Thiền sư Ngũ Đài Pháp Chiếu.

Thường thấy ba Thánh hiện hư không
Tạ ân Văn-thù chỉ bày công
Cảm được thần tăng đến dự báo
Ba năm ông sẽ sinh hoa báu.

17. Thiền sư Vĩnh Minh Trí giác.

Bảy lần rút nhằm thăm Tịnh độ
Suốt đời chẳng bỏ việc tinh tu
Thần nương An dưỡng nhân thành phú
Lại được từ dung treo địa ngục.

18. Pháp sư Lô Sơn Trung Dung

Thông kinh mười sớ luận nghiêng sông
Tuyệt bút Di-đà tịnh nghiệp thành
Hủ gốm trong mộ thân huyễn chất
Chiếu sáng rực rỡ quyết sinh Tây.

19. Pháp sư Tứ Minh Pháp Trí

Mười tăng cùng hẹn sám ba năm
Sám xong thiêu thân nguyện vãng sinh
Tuy rằng, Từ Vân thỉnh trụ thế,
Rốt tu Tam-muội để về Tây.

20. Thiên Trúc Từ Vân sám chủ.

Ban-chu Tam-muội chín tuần tu
Đại, tiểu Di-đà sám để lại
Sao rụng hương tan chợt về Tây
Khoảng không ngàn năm trọng đạo tốt.

21. Thiền sư Trường Lô Từ giác.

Phát minh năm hoặc soạn cao văn
Cần khiến người mê biết tịnh nhân
Cảm được Phổ Hiền và Phổ Tuệ
Hoa sen bạn tốt về Tây nhanh.

22. Luật sư Linh Chi Đại Trí.

Đạo nối Nam Sơn mở Luật tông
Chí lớn lạc độ quyết về Tây
Lâm chung kiết già nói kệ, hóa
Trên hồ đều nghe tiếng nhạc trời.

23. Pháp sư Nam Chiêu Khánh Thường.

Khách Xã Tây Hồ ngàn người họp
Sáng cả Lô sơn ai sánh tày
Phải biết việc đặc biệt năm ấy
Xin xem bia khắc đều bậc Hiền.

Họa bài Quy khứ lai hề của Đào Uyên Minh, của quan Cấp sự Phùng Cơ.

Quan Cấp sự ở đất Thục, người Ninh phủ, đạo hiệu là Bất Động cư sĩ. Thuở nhỏ đã nổi tiếng, đỗ đầu đại học, soạn các bài văn trường ốc. Phần nhiều dùng lời trong kinh Viên Giác, minh ngộ lý tánh, các sĩ luận khâm phục. Lại tham vấn khắp các thiền lâm, thấu suốt tông phái năm nhà. Về già dốc Tu-di-đà giáo, sớm tối chẳng ngủ, chuyên ý Tịnh nghiệp. Ông có làm lễ Tây phương ba quyển, Diđà Sám một tập. Ở Hương quận có lập hội Tịnh độ, cảm được Xá-lợi trong lò hương ứng hiện hào quang khắp trời từng lấy bổng lộc giúp tạo Đại Tạng kinh và bốn Đại bộ Tạng mỗi thứ đều có bốn mươi tám phần để cúng thí các chùa biểu thị cho thệ nguyện Phật. Một hôm, cảm hoài bèn họa bài Quy Khứ Lai của Uyên Minh để nói về pháp môn Tịnh độ. Lời từ rằng: Về đi thôi! Liên xã đã mở, sao không về. Nhớ ta năm nào đã già yếu, huống là thế thái rất đáng buồn! Buồn nghĩ di tích Đông Lâm, nhớ các Tiên Hiền. Hướng về đời này mà sám hối. Sáu mươi năm trước chẳng như đàn mới rửa, giặt mũ mặc áo mới, rửa sạch trần cấu để được thanh tịnh, tạo đạo mầu để thoát ly. Ngắm kỹ đường trước mà quy tâm. Hãy mau vào nhà từ bi, lên cửa giải thoát. Muôn cảnh đều vắng, nhất chân riêng còn. Lò hương đầy rót đầy chén nước sạch. Hướng về Tây phương tu quán, cầu mong mau thấy từ nhan, vào Tam-muội niệm Phật, biết thân tâm nhẹ nhàng. Sinh về phẩm thượng của chín sen, mở cửa tối, vượt sáu đường. Hội tinh thần ở chánh thọ, đóng tai mắt không nhìn bất chánh. Đợi báo thân này mất chỉ Cực lạc mà về nhanh, quanh cây báu mà kinh hành, dạo vườn hoa mà trở về. Về đi thôi, chỉ Tịnh độ mới nên đến, nghĩ Diêm-phù vẩn đục. Bỏ cõi này mà cầu chi. Mừng được sống lâu vô lượng, không hề khổ vì bào thai. Cùng các bậc thượng thiện gặp gỡ, cùng Bổ xứ làm bạn thân. Ao kia đủ bảy báu, vàng ròng làm thuyền. Đất lưu ly bằng phẳng, không gò hầm cao thấp. Âm nhạc gió lay cây, tiếng Phật dòng nước chảy. Người nghe vui cảm, niệm Phật Pháp Tăng, trần duyên tự dứt hết.

Ôi đời người như mộng, nào có bao lâu. Sao vì bả danh lợi mà lưu lại báo này. Hãy xem hết phù thế đều là huyễn cảnh. Còn cõi Cực lạc kia mới thật đẹp. Sen trồng trong ao, luôn niệm Phật để nuôi lớn. Mong khi qua đời được Phật rước, giã biệt để lại thơ. Từ đây địa địa tăng tiến, quyết chứng Bồđề, còn có nghi gì?

Làm theo bài Quy Khứ Lai của Uyên Minh của Cư sĩ Huyễn Trụ Nhậm Bưu.

Về đi thôi! Tịnh độ Tây phương thệ nương về. Đã thoát khỏi cõi năm trược sinh tử, cũng nương nhờ ba Thánh Từ bi. Than ôi, đời người là huyễn hóa, qua nhanh khó theo. Biết duyên đời như giấc mộng đêm qua, thương việc đã qua đều luống dối. Đến già mới học đạo, khác nào lúc lạnh lắm mới may áo ấm. Hồi lúc thanh xuân nhiều buông lung, lầm nghiệp trắng mà kém thiếu. Mê mãi dãi dầu trong ba đường khổ thì ức kiếp mê, làm sao được giải thoát. Có đại pháp môn mà nghi thì ắt xa. Người tin đây thì còn tin gì ở ai. Đức Di-đà Thế Tôn bày sợi lông trắng mầu ngọc, hiện dung nhan vàng ròng che khắp đại chúng đến nương, hiển sáng núi vàng ấy là giới thì phải bền giữ ba nhóm, trai thì siêng tu tám quan. Lại thêm niệm Phật để tinh tiến, lạy nhiều mà quán kỹ, may mắn được thân người mà không được thế, cũng giống như đến đảo châu báu mà về tay không. Dẫu Thánh phàm có siêu tuyệt cũng dụ như trăng nước có khó gì.

Về đi thôi. Tịnh độ Tây phương nhiều cảnh đẹp. Hàng cây lưới báu phát tiếng mầu, cơm thuầnđà áo trời chẳng cần cầu, chỉ hưởng các điều vui, dứt hẳn các điều khổ. Di-đà Thế Tôn phát bốn mươi tám nguyện độ chúng sinh, trăm ngàn Tam-muội mau huân tu. Ở biển thệ lớn nương thuyền đại nguyện, không bị ma Ba-tuần oán hại. Chỉ có Thanh văn Tỳ-kheo nghe các chim biến hóa nói tiếng pháp mà truyền bá. Quán Âm, Thế Chí sức bền bỉ dắt dẫn người tu không ngơi nghỉ. Than ôi, chúng sinh mạt pháp nhiều tệ ác, cảnh giới khổ nào kia há ở lâu. Hãy về đi thôi! Đâu-suất còn bị đọa, Long Hoa chưa hẹn ngày. Chỉ có cõi nước Cực lạc công đức trang nghiêm như thế, hoa sen mầu sáng nở chín phẩm, thanh tịnh hải chúng đợi từ lâu. Chỉ cần tín tâm không lui sụt thì chắc chắn vãng sinh, không có gì đáng nghi.

Truy họa theo bài Quy khứ lai từ của Uyên Minh (và lời tựa) của Chuyết Am Tông sư Giới Độ. Chuyết Am Dã Phu bị bệnh trong rừng. Một hôm, đọc bài từ Quy Khứ Lai Hề của Đào Uyên Minh bỗng ném sách mà than dài. Bởi ta có thể ôm nỗi lòng qua đời khác. Uyên Minh là một kẻ tục bị nghèo hèn ép bức mà còn chê năm đấu gạo chẳng chịu mọp lưng. Nơi quê nhà sống với lũ trẻ con mà từ bỏ chức tước, làm Lạc Phú để quay về. Huống bọn ta là con nhà Phật vì giải thoát mà cầu xuất gia lại rong ruổi trong cõi trần mà chẳng biết ngừng bỏ. Thật hổ thẹn với Uyên Minh. Tôi một lòng lấy An dưỡng làm quê cũ, muốn viết nên hoài bão thấp hèn để tự khuyên gắng. Bèn họa theo, người xem chớ cười là kẻ bắt chước nhăn mày thấy giống, cũng để nói lên chí mình. Ngày rằm, tháng cuối thu, năm Đinh Dậu. Viết lời từ rằng:

Về đi thôi! Quay đầu quê cũ ngày nào về. Biết lạnh đến thì nóng đi, nhọc mộng mơ mà ngầm buồn tiếc, bỗng tình cờ gặp mà từ biệt, nay hối hận là chẳng nhớ gì. Nhìn bạn lành ở ao sen thật thẹn mà chẳng biết ai. Than ôi, mấy đời phiêu bạc mất hạt châu cài vạt áo. Lại nghĩ sâu mà tỉnh ngộ mạnh mẽ, sao tiết tháo quá yếu hèn, muốn về liền về, một chí về Tây, sống mải không chết là cửa các điều nhiệm mầu. Chỉ tâm vốn đủ, chân tánh thường còn. Bỏ quên Chu Đỉnh, lại nhận chung rượu, không chịu tước ban. Ở nhà đẹp bỗng rơi lệ, đối từ thân cảm thấy các khổ ép ngặt sẽ bỏ chỗ nguy hiểm mà đến chỗ yên vui. Tuy không đến mà chẳng biết làm sao. Khách lỡ đường nương vào mười sáu cảnh mầu, vào Chánh Thọ quán xa, bỗng toàn tâm phát hiện, mừng châu về hiệp phố, trộn uế tịnh ở cõi bụi, tùy bước mà bàng hoàng. Về đi thôi, dứt hết các duyên ngoài, lại nép mình mà hoại phục (mặc áo nhà tu). Chí cầu giải thoát, sao chỉ bo bo theo vật, điềm nhiên mà chẳng lo mất của báu trong nhà. Vất bỏ ruộng vườn của Tổ phụ mà chịu đói khát, muốn cứu vớt kẻ chìm thuyền phải lội vào dòng tục. Nếu như thế thì bảo dẫu Tỳ-kheo nghe nghĩa mà chẳng dời. Bởi tìm nguồn mà chặn dòng. Xét muôn duyên vắng lặng thì sáu dụng nghỉ ngơi. Than ôi, đời người biến hóa theo bốn mùa. Chân trời, nhật nguyệt chẳng dừng lâu, từ đó mà tính việc yên thân. Có sinh phải có tử, trăm năm có ai hẹn. Ruộng đất phải cày bừa, cỏ Ái phải nhổ sạch, kết Tịnh Xã ở Lô sơn, ngâm thơ mới của Tra Am. Hướng tâm tưởng về nơi mặt trời lặn, vỗ cánh hóa thân, không còn nghi ngờ gì.

Khen Tịnh độ Ngư Gia Ngạo (và lời tựa) của Pháp sư Khả Mân ở Bắc Sơn.

Ngư phụ nhà tôi luôn chẳng rời thân một trượng sáu có ba mươi hai trướng đẹp nói là thông minh. Khổng Tử Trọng Ni đâu dám sánh vai luận đạo đức.

Lý Bá Dương phải rúc đầu dứt thiên võ lược mà một mình đánh tan tám vạn bốn ngàn ma là bậc tài ba, luận thắng cả chín mươi sáu thứ ngoại đạo đem thân thề ngồi bên nước, đoạn ái hà, khoác áo nhẫn nhục ngăn mưa khói vô minh, treo buồm Từ bi, thổi gió phương tiện, chống đỡ thuyền Bát-nhã, đạo thuyền trong biển khổ sinh tử, thề núi trăng sáng, biển giác gió thanh mà câu vớt chúng sinh chìm sâu, cho ở trong lồng Niết-bàn. Chỉ thú như thế tức là bình sinh tạm dứt cần câu. Bèn để thơ rằng:

Nhà cửa thường vắng vốn ưu du
Đến đầu biển khổ cầm cần câu
Đợi khi chúng sinh vào tay hết
Bấy giờ mới bỏ hẳn cần câu
Từng giảng Di-đà mười lượt
Lô Sơn sớ sao ra nhiều quyển
Nghĩa lý viên dung văn nghĩa sáng
Phương tiên nhiều
Đáo đầu chỉ khuyên sinh hoa sen
Bổn tánh Di-đà tùy thể hiện
Duy tâm Tịnh độ nào có xa
Mười vạn đường xa từ sự thấy,
Thôi phân biệt
Qua đời chỉ tự chuyển đổi mình.
1. Giữa sen bốn mùa xen màu lục
Mỗi hoa sen một Phật Di-đà
Chớ nghi Tịnh độ đường đi xa
Ngày ngày đời người nhiều mưa rơi
Phật ta hoa sen tùy bước đến
Vàng ròng tướng đẹp búi tóc xanh
Nhân địa có phát thệ nguyện lớn
Bốn mươi tám nguyện
Chúng sinh độ hết thành Bồ-đề
Cung điện hợp bóng cùng hương hoa
Thềm báu ba đường lưu ly rộng
Nước chim cây rừng đều niệm pháp
Tiếng rầm rì
Không trung hoa trời rơi như mưa.
2. Hàng cây rợp bóng bày bảy lớp
Hoa báu lưới châu ngọc leng keng
Trăm ngàn thứ nhạc cùng trổi lên
Trời mưa Mạn-đà khắp hư không
Cõi ấy vì sao tên Cực lạc
Hoa sen chín phẩm không ba ác
Tuy có Tần-già và hạc trắng,
Chẳng sáng bày
Như Lai biến hóa để tuyên lưu
Chín phẩm một đời lìa năm trược
Tự nhiên thân đeo chuỗi ngọc báu
Lông trắng mền mại ở trên trán
Chiếu sáng rực
Trăm ngàn nghiệp chướng đều tiêu tan.
3. Các Phật sáu phương đều khen ngợi
Tướng lưỡi tam thiên rộng khen bày
Trên ao thác sinh sen chín phẩm
Chưa biết sinh về ở cành nào
Phật khen Tây phương kinh hiện tại
Rộng dài tướng lưỡi cõi tam thiên
Cốt yếu chúng sinh sinh tín hiểu
Lâm chung xa
Chẳng tu Tịnh nghiệp còn đợi gì
Ao bằng bảy báu sóng lăn tăn
Hoa sen từng đóa như bánh xe
Trong hoa thác sinh chân tự tại
Chia ba bậc A-bệ-bạt trí không lui sụt.
4. Chỉ được trong hoa mà hóa sinh
Theo giáo trải kiếp hoa chưa nở
Trong hoa vui sướng như Đao lợi
Chẳng so thai mẹ ở nhân gian
Anh võ, Tần-già biết mấy con
Âm thanh hoa nhã hót sớm chiều
Giảng nói năm căn và năm lực
Khiến người nhớ
Tâm bay hận thân không mọc cánh
Từ đó Tây phương mười muôn ức
Nước xa núi cao ai hay biết
Chỉ là quán môn thẳng đường về
Thật dứt hết
Ngồi lắng kiếp nước ngọc lưu ly.
5. Ngồi sửng mới tu quán nước thành
Gió nhẹ chẳng động sóng xanh yên
Cảnh giới kín sâu ai người thấy
Một mảnh lưu ly chiếu sáng mắt
Lạc bang thanh tịnh quê cũ ta
Ta-bà trôi dạt do tham ái
Dần dà nghĩ về sương thấm tóc,
Hận sai lầm, Tắc Hồng không hiểu tin truyền âm
Mặt trời lặn rồi cát ẩn ẩn
Hướng Tây trông vời nên về gần
Lúc đó nhạc trời liền dắt dẫn,
Phải tinh tấn, trên đài vàng tím ai vô phần.
6. Lạc Bang thanh tịnh vốn nhà ta
Đã có hẹn về há lo xa
Định hội tu cần nên cố gắng
An nhiên không nghĩ ngợi mé trời xa
Lý tánh xưa nay luôn tự tại
Linh thông soi chiếu sáng vô ngại
Vì bị gió vô minh não hại
Biển chân như
Hiu hiu thổi động sóng ngàn sâu
Năm uẩn đầu non mây mù mịt
Ngăn trăng trong tâm chẳng chiếu sáng
Sáu giặc hội nhau biết sửa đổi,
Trừ tham ái, Sát-na thoát khỏi cõi Ta-bà.
7. Đông vầy Phàm Thánh đi cùng đường
Một điểm linh minh thể như một
Chỉ vì vọng tình chuyển theo vật
Đến nay điên đảo chưa trở về
Vì chán Ta-bà cầu Tịnh độ
Theo tình đón tưởng suốt sớm chiều
Ai tin chẳng nhọc dời một bước
Về Tây phương
Lâu đài ẩn hiện trong mây xa
Lưới châu mưa rơi các hoa sáng
Cát vàng trải đất không bụi đất
Chợt chẳng dạy người nghĩ đường về
Tâm chuyên chú
Ngồi quán trời lặn như trống treo.
8. Gió mát vì ta khởi vắng lặng
Chẳng chịu mây tàn che góc nhà
Sống thiền sâu che chắn không người
Ngồi xem vầng mặt trời đang lặn
Bốn tướng tranh nhau sinh bệnh chết
Ma chết không hẹn khó giữ được
Tranh nhau sớm tối trì Phật hiệu
Tây phương đẹp
Cây rừng chim nước niệm Tam bảo
Mài mòn các thứ râu tóc bạc
Lạc bang nên về sớm lo toan
Muôn ức cõi nước đường không xa
Dứt phiền não
Chỉ một khoảnh khắc liền đến nơi.
9. Kinh khen Di-đà nguyện lực mạnh
Dụ như người kém theo Chuyển luân
Một ngày đi khắp bốn thiên hạ
Về Tây đường xá chẳng hề xa
Người đời tội oán biết bao nhiêu
Đường trước chẳng phải không minh phủ
Tranh nhau mà đốt một nén hương
Không đi đứng
Từng câu xưng niệm cha Di-đà
Tội nghiệp tiêu hết có chỗ sinh
Di-đà nguyện lực đáng nương nhờ
Mười niệm nhất tâm luôn sáng tối
Đường Tây phương
Công thành chân bước đến sen hồng.
10. Ai biết ngồi thẳng mà lại đi
Khoảnh khắc tâm bay đến lầu ngọc
Bóng trúc ánh trăng dời đến ngõ
Liền ngỡ hàng cây ở đầu rèm
Muôn việc rốt lại đều vô ích
Nghĩ sâu chỉ phải nên tu hành
Nếu đưa tâm này dạo đất báu
Rất dễ dàng
Ngồi quán mặt trời lặn hướng Tây
Muôn tia sáng hồng thu vào mắt
Mở mắt nhắm mắt thấy rõ ràng
Quán này khi thành biết pháp vị
Tâm vui mừng, khi chết chắc chắn sinh trong sen.
11. Chín phẩm hoa sen thứ lớp bày
Sen kia lá xanh cùng chen chúc
Chẳng biết ngày nào sinh cõi sen
Ngại gì ngày đêm luôn đeo mang
Lạc bang trời Tây mây ngăn cách
Một vầng trăng trong chiếu sáng ngời
Ý muốn vãng sinh luôn khuyên gắng
Nhọc hồn phách
Di-đà một niệm tiếng trăm ngàn
Điện vàng lầu ngọc là nhà cửa
Bảy lớp hàng cây hơn tòng bách
Gá sinh trong hoa không mạch máu
Rất cao xa
Nhạc trời chẳng phải khách bồng lai.
12. Khắp xem trục ngọc và hộp ngọc
Nhọc lời khuyên gắng thoát phàm trần
Tịnh độ khéo tu lại chẳng chịu
Trong kinh nói nhiều về cõi Tịnh
Xích châu mã não để trang sức
Chúng sinh cõi ấy đang hiển sắc
Nâng vạt áo
Hoa đẹp cúng dường Phật phương khác
Trẻ con ham dạo chơi ngụp lặn
Ta-bà là khổ sao không răn
Ưa chán từ lâu mới có sức
Theo sớm tối, lặng đốt nén hương khói ngưng đọng.
13. Đã có thân tâm cầu Tịnh độ
Hãy bỏ đường lối đến Ta-bà
Tu hành cũng chỉ không nhiều kẻ
Mười niệm công thành một sát-na
Văn chương thi phú không chỗ dùng
Và xem danh lợi chỉ như mộng
Một xâu chuỗi kia thường trong tay
Dẹp ngàn thứ
Chỉ nghe niệm Phật tâm mạnh mẽ
Dìu dặt trên không nhạc gió đưa
Dịch tiêu sáo trúc gió vẳng đưa
Dắt dẫn phàm phu lên các chúng
Mây hương dâng
Nam nhi ngày này mới kính trọng.
14. Xem khắp kinh văn và luật nghi
Khắp nơi chỉ khuyên niệm Di-đà
Một câu tiêu hết nghiệp ngàn đời
Huống là nối nhau luôn trì tụng
Dứt hẳn tâm vượn và ý ngựa
Nắm chặt đầu dây luôn giữ niệm
Nói phá mười nghi do Trí Giả
Chép mà truyền
Lô sơn lại kết Xã Liên Hoa
Mười tám Đại hiền cùng nhóm họp
Công thành mây năm màu về Tây
Các bậc Thượng thiện đều ở đó
Cùng đón chào
Dụm đầu chỉ nói chuyện vô sinh.
15. Bên ao hàng cây không che khuất
Cong cong cầu vàng lộ nửa bên
Chợt thấy hóa sinh làm con Phật
Ở trong sen hồng ngồi kiết già
Ba mươi sáu thứ gồm một đãy
Túi nhỏ hôi hám đầy tham ái
Khác nào bọ hung đẩy hòn phân
Không dừng đợi
Sớm sớm ở trần luôn cố gắng
Lại phải bền tâm mà sám hối
Sao bắt ác nghịch và đao phủ
Một niệm tiêu trừ tội ngàn kiếp
Sinh trong hoa
Đầy thân chuỗi ngọc kêu leng keng.
16. Lăng xăng tình đời như hoa đốm
Ngoài giảng giải, không còn gì nữa
Một xâu chuỗi kia luôn lần hạt Phật
A-di-đà là kẻ thù
Một điểm thần hồn mới gá phách
Trong hoa sen xanh nhà lưu ly
Hào tướng pháp âm không đứt quãng
Tuy sáng rỡ
Đáo đầu chẳng giống khách đài vàng
Chín phẩm cao thấp tùy báo được
Hoặc trải mấy kiếp hoa mới nở
Nếu ta sinh tâm tánh chật hẹp
Phải gấp bỏ
Hoa sen chưa nở hãy mở ra.
17. Đọt cúc gừng non một bữa cơm
Ngoài ra nào dám phí công phu
Từ nay mười ngón không rảnh rỗi
Hết cả cuộc đời mà lần chuỗi
Tịnh độ quê xưa bỗng từ biệt
Góc trời trôi giạt mãi đến nay
Tuổi già mày râu cũng nhuốm bạc
Nghĩ trở về
Nghe tiếng nguyện gởi trăng trời xa
Luôn luôn nghĩ lo tu tịnh nghiệp
Khi chết chắc chắn Phật đến rước
Có thệ tiêu biểu lời nói thật
Lưỡi rộng dài
Tam thiên che khắp lá sen hồng.
18. Chỉ tụng, đốt hương làm việc thường
Đêm đêm đọc tụng một hai canh
Chiếc bóng tự thương ngoài trần thế
Dưới trăng gió nhẹ đi kinh hành
Thiện Đạo thở than nay đã qua
Dạy cho già trẻ đều về nhà Niệm
Phật một câu cho một tiền
Tiếng mới vang
Một câu một Phật trên hư không
Tám mươi bốn ngàn tướng nhiệm màu
Ánh sáng, tuổi thọ đều vô lượng
Rũ tay màu vàng ngàn muôn trượng
Tay ngỗng chúa
Thệ đến đón trước về An dưỡng.
19. Sáng gà chiều trống luôn thúc giục
Rụt rè dung mạo biến suy đồi
Chớ bảo tóc bạc là rảnh việc
Rốt lại vô thường đưa tin mời
Cõi Tây dệt thành cõi Đông hoại
Sao bay một điểm ngàn cõi đẹp
Chớ ngờ thần hồn sinh quái lạ
Không ngăn ngại
Lạc bang chỉ ở trong Đồng cư
Ao tám đức sâu, hoa lại lớn
Ngồi kiết già thẳng trên hoa sen
Tai nghe tiếng pháp tâm giải ngộ
Cúi đầu lạy
Từ nay thoát hẳn ngoài bào thai.

Khen Tây phương ngư gia ngạo của Thiền sư Tây Dư Pháp Đoan:

Trong ao bảy báu mà thả câu
Nước tám công đức khói sóng xa
Đáy ao cát vàng trải khắp chốn
Đi nhiễu quanh
Vàng ròng lót đất làm đường đi
Hạc trắng, chim công, anh võ hót
Di-đà tiếp dẫn lời khuyên
Chẳng phải tu hành sao đến được
Một loại tốt
Tây phương Tịnh độ không phiền não.

Bài hát theo điệu vọng Giang nam (12 bài) của Pháp sư Bạch Vân Tịnh Viên.

a. Ta-bà khổ:

Ta-bà khổ, nhiều kiếp chịu luân hồi
Chẳng dứt nhân khổ lìa nhà lửa
Chỉ theo nghiệp báo vào bào thai
Bội bạc Đài linh này
Sáng lại chiều, lạnh nóng thôi thúc
Một thân huyễn này được mấy ngày
Trăm mối khéo léo áo đầy bụi
Đâu được xuất đầu ra!
Ta-bà khổ, thân thế một cánh bèo
Trong mắt muỗi ong tranh lợi nhỏ
Trên sừng ốc sên nghĩ hư danh
Một điểm khí khó bằng
Ngày đầy nhân ngã đêm dài vô minh
Địa ngục tranh nhau nhào đầu vào
Tây phương không ai chịu tu hành
Chết uổng lại sống uổng.
Ta-bà khổ, tình niệm chợt như gió
Sáu giặc trong làng chẳng tạm yên
Bốn rắn trong tháp tranh nhau mổ
Ai là người chủ nhà
Không có tuệ lực, lưới ái đổi thành lồng
Một hướng bốn góc thấp dưới đất
Chẳng nghĩ hai chân muốn tiêu không
Đường trước càng phải gấp!
Ta-bà khổ, sinh già bệnh vô thường
Chín lỗ tanh hôi chảy nước dơ
Một bao máu mũ là đãy da
Tranh yếu lại tranh mạnh
Theo vọng tưởng, đắm dục lại hoang đường
Niệm Phật xem kinh bảo chấp tướng
Hủy giới phá trai không đề phòng
Chỉ sợ có Diêm vương.
Ta-bà khổ, suốt ngày theo trần hoàn
Chẳng biết ngày tháng theo nước trôi
Sao kham tóc bạc đổi má hồng
Sáu đường thường trôi lăn
Xưa và nay ai chịu chết trước nhàn
Lợi danh nguy ách vừa vào tay
Hư hoa tài sắc liền vinh theo
Vinh nhục mảnh thời gian.
Ta-bà khổ, thời gian như nước trôi
Vinh nhục buồn sợ ngày nào dứt
Phải quấy nhân ngã lúc nào thôi
Đường sinh tử mênh mông
Mặt nước ba cõi nổi một bọt
Giả sử anh hùng công trùm đời
Chỉ để xương trắng trên gò hoang
Sao bằng sớm quay đầu.

b. Tây phương vui:

Tây phương vui, tùy niệm liền vượt lên
Một điểm linh quang theo mặt trời lặn
Muôn mối việc đời giao mây nổi
Người đời tự lăng xăng
Chỗ ngưng trông, quyết định nương thần
Đất vàng kinh hành bước trong sáng
Lầu ngọc ngồi yên thân trong định
Mới ham được thiên chân.
Tây phương vui, cây ngọc vượt lên cao
Che khắp bảy lớp lưới châu báu
Trang nghiêm trăm ức cung hoa đẹp
Trong cung các thiên đồng
Đất vàng lan can rào lớp lớp
Hoa mưa phơi phới hương tản mạn
Âm nhạc dìu dặt trống xa đưa
Người nghe vui vô cùng.
Tây phương vui, bảy báu chạm trổ ao
Hoa sen bốn màu cùng khoe sắc
Nước tám công đức sóng lăn tăn
Hết khát lại hết đói
Trên bờ ao lầu điện cao chất ngất
Rào khắc bích ngọc trám mã não
Cột cao vàng rồng điểm pha-lê
Chỗ nào cũng sáng rực.
Tây phương vui, đàn chim hót tiếng hay
Dưới hoa cùng hót bài lục độ
Trong sáng hòa nhã khen tam thừa
Người nghe ngộ vô sinh
Ba đường ác còn chẳng có tên Đều là Phật
Từ bi hóa hiện Muốn nói lời pháp nhắc mê tình
Tâm địa mau sáng tỏ.
Tây phương vui, buổi sáng cúng rất tốt
Xa tít mây tiên theo gậy báu
Nhẹ nhàng vạc áo đầy hoa trời
Mười muôn đi chẳng xa
Các cõi Phật tùy niệm biến hà sa
Tay sen vỗ đầu thân thọ ký
Tiếng sóng trong veo vang tần-già
Đến giờ liền trở về.
Tây phương vui, Phật ta đại Từ bi
Chỉ đủ ba tâm tròn mười niệm
Liền lên chín phẩm vượt ba kỳ
Thần lực chẳng nghĩ bàn
Khi chết tiếp dẫn quyết không nghi
Nguyện khắp chúng sinh cùng giữ niệm
Đài vàng nhạc trời sẽ đón rước
Phút chốc đến ao sen.

-----------------------------------

BÀI TỰA SAU

Người tu Tịnh độ, phần nhiều được môn ấy mà đi đường tắt thì không có mấy người. Còn luận về Tịnh độ nhiều người được pháp yếu mà chỉ thẳng thì rất ít. Không hề nghe ai đem cái ngăn, cái che của mình mà nói ra. Vì cái tự ngăn không gì bằng ái, cái tự che không gì bằng nghi. Chỉ cần dứt hẳn hai thứ ái và nghi, không còn chướng ngại thì pháp môn Tịnh độ không hề gián cách.

Di-đà nguyện lớn thường tự nhiếp giữ đó là lý tất nhiên như thế. Xưa, Vô Vi tử soạn lời tựa cho Luận Thập Nghi của ngài Thiên Thai có nói: Ái không nặng thì không sinh Ta-bà, niệm bất nhất thì không sinh Cực lạc. Lời nói này có thể gọi là biết từ gốc rễ vậy. Xin thử lấy một việc mà đính ước.

Như Pháp sư Tuệ Viễn đời Tấn vang tiếng Tây phương, có kết Liên xã ở Lô sơn mời Uyên Minh xem là quý vì các vị đã dứt bỏ được ái, còn Tạ Linh Vận thì ngăn không cho vào xã vì ông còn tạp tâm mà niệm không chuyên. Há chẳng phải đây là bờ bến Tịnh độ. Tôi do đó được thuyết Tịnh độ, khác với xưa như thế mà thôi. Bởi có nói người mến mộ tu tịnh nghiệp như Đào Uyên Minh thì được, tuy mời nhưng không đến. Nếu nguyện thì sẽ đạt. Cần yếu là ở trong ngực rốt không có một vật. Cầu niệm còn chẳng được, làm sao đoạn được ái. Cho nên không cầu thì thôi, cầu thì lấy chống ngăn nào để đè nén. Tôi có nghĩ khen ngợi Tịnh độ rằng: Chỉ trừ mình tự chướng ngại, nếu cầu sinh thì liền sinh. Lại nói nếu không kéo dây neo chỉ uổng sức đẩy thuyền. Bởi cũng có lời khích rằng: Tông ta, giảng sư Tông Hiểu đã lấy Tịnh nghiệp làm sức mình lại suy ra các vật khác, biên tập văn Lạc bang từ kinh luận trở đi mà cùng với xưa nay nổi tiếng, còn văn của Phật ta hễ những gì có quan hệ đến Tịnh độ thì đều phát huy mà ghi chép vào làm sách, để khuyên rộng người tin rất rõ ràng. Còn việc chỉ rõ tu trì thì không phải một mối mà rốt được dụng tâm. Có thể nói là vừa siêng lại đẹp. Tuy nhiên ta sợ nhiều cách quá sẽ làm mê hoặc ý chí mà không nhất niệm, không dứt ái, để tự ngăn che mình rồi than thở đau buồn. Cho nên đặc biệt nêu ra thuyết ấy để được thông suốt. Nguyện các bạn đồng tu một là chuyên niệm mà dứt ái là gốc, hai là thêm nguyện lành thì pháp môn Tịnh độ đoán chắc sẽ đến. Văn này há luống uổng ư?

Ngày lành tháng tốt năm Canh Thân, niên hiệu Khánh Nguyên Bách Đình ở Nam Hồ, Thiện

Nguyệt kính ghi lời tựa.


[Đầu trang][Mục lục bộ Chư Tông][Mục lục tổng quát]