TẠP TẠNG
SỐ 1973 - LÔ SƠN LIÊN TÔNG BẢO GIÁM
SỐ 1973 - LÔ SƠN LIÊN TÔNG BẢO GIÁM
LỜI TỰA LÔ SƠN LIÊN TÔNG BẢO GIÁM
NÓI VỀ CHÁNH GIÁO CỦA NIỆM PHẬT
NÓI VỀ CHÁNH TÔNG CỦA NIỆM PHẬT
NÓI VỀ NIỆM PHẬT LÀ CHÁNH PHÁI
NÓI VỀ CHÁNH TÍN CỦA NIỆM PHẬT
NÓI VỀ CHÁNH QUYẾT NIỆM PHẬT VÃNG SANH
LỜI RĂN DẠY ĐẠI CHÚNG NIỆM PHẬT CỦA HÒA THƯỢNG SỞ SƠN Ở TÂY THỤC (TỈNH TỨ XUYÊN)
BÀI CHÂM KHUYÊN TU TỊNH NGHIỆP CỦA HÒA THƯỢNG HIỂU SƠN Ở HOÀI DƯƠNG
Thiền môn và Tịnh môn, mỗi môn đều có các Tổ làm hưng thạnh pháp môn mình, cơ đồng với Địch quốc. Thiền sư Từ Giác Tông Trách có ví dụ làm ruộng mở kho, tùy theo ý muốn của mọi người đều được như ý, đây cũng là lời phương tiện hòa hợp. Hai vật có thể hòa hợp, nếu vốn chẳng phải hai thứ hòa hợp thì làm sao có Như Lai Thiền, Tổ sư Thiền? Tổ sư Thiền cũng là lời Phật.
Thiền-na, Hán dịch là Tĩnh lự, đó là tám Thiền tám Định. Tam-muội niệm Phật chép: "Nhất tâm bất loạn, nhiếp cả lục căn, tịnh niệm nối nhau chẳng phải là tĩnh định ư? Vả lại, niệm Phật và xướng Phật khác nhau, xướng Phật thuộc về miệng, niệm Phật thuộc về nhớ nghĩ, mẹ nhớ con, con nhớ mẹ, là miệng hay là tâm? Phật sở niệm là chiên-đàn hay là vàng Diêm-phù-đàn? Do trời Tỳthủ-yết-ma làm ra chăng? Là ứng thân hay là Báo thân? Hay là Pháp thân? Là Phật quá khứ? Hay là Phật hiện tại? Là Tịnh độ ở Tây phương chăng? Giở chân, hạ chân tức đạo tràng? Quán kinh do miệng vàng của Phật nói ra: Tâm này làm Phật, tâm này là Phật, cho nên quán tâm tức quán Phật, quán Phật tức niệm Phật. Nói một cách cùng cực thì niệm vốn vô niệm, Phật cũng vô Phật, năng niệm không, sở niệm cũng không, Như Lai Thiền tức Tổ sư Thiền. Cho nên, Bồ-tát Đại Thế Chí thì niệm Phật vô sinh, Bồ-tát Quán Thế Âm nghe lại tự tánh, hai Bồ-tát dường như mỗi vị đều có viên thông riêng nhưng đồng về An dưỡng, hầu cận Đức A-di-đà, tiếp dẫn chúng sinh ở Đông độ. Rõ được lý này thì ngay nơi Tịnh là Thiền, các Thánh đồng về một mối, nhưng các Thích tử đời sau lại phân chia môn hộ, thí như phòng nhà của Tổ tông vốn chỉ có một gian, nhưng con cháu ở trong đó lại ngăn chia ra tường vách, cắm cây làm rào trồng gai nên không qua lại với nhau được, đó là do chấp mê điên đảo cùng cực.
Có người hỏi rằng: Tam Thánh tiếp dẫn thì Tịnh độ ở Tây phương là rõ ràng, có mâu thuẫn với ý chỉ tự tánh duy tâm hay không? Tôi nói: Di Đà là Di-đà của chúng sinh, chúng sinh là chúng sinh của Di-đà, Cực lạc là duy tâm của Di-đà, duy tâm là Cực lạc của chúng sinh, cho nên biết ý chỉ tự tánh duy tâm nghĩa là Tây phương có Phật Di-đà, có thể nói Đông độ đều có Di-đà, cũng có thể nói Pháp thân, Báo thân là Phật, có thể nói Liệt ứng thân cao trượng sáu và Phật do trời Tỳ-thủ-yết-ma làm ra đều là Phật. Cũng có thể nói niệm Phật quá khứ, có thể nói niệm tất cả Phật hiện tại, vị lai, cũng có thể nói đâu có sự khác nhau nào giữa Thiền và Tịnh.
Bộ sách Liên Tông Bảo Giám do Hòa thượng Ưu Đàm ở Lô Sơn biên tập, nêu lên chỗ chánh ngụy, theo mùi hương tìm gốc, thật là chỉ nam của Tịnh độ. Nhân đó vì Pháp sư Lăng-nghiêm Bạch mà khắc in truyền bá, thay thế dắt dẫn.
Đệ tử là Tử Bá Tiền Sĩ Thăng viết tại Cánh Vũ đường ở am Phóng Hạ.
-Tổ đường Thiện pháp, tông Bạch Liên ở Lô Sơn Đông Lâm Thiền tự khuyên tu Tịnh nghiệp.
Thần là tăng Phổ Độ kính cẩn biên tập bộ Liên Tông Bảo giám. Bộ Liên Tông Bảo Giám này đã phát minh ra pháp môn niệm
Phật Tam-muội của chư Phật, chư tổ. Rất mong chư tôn túc, chư Thiện tri thức đề bạt, ấn chứng để được đưa vào đại bộ. Xin đảnh lễ, Đáp sư phụ, công ban nước Kế tân, người đứng đầu làm cho Phật pháp được tôn sùng nhận được tông chỉ giáo pháp, chỉ dạy pháp Bát-nhã cho trưởng lão Thấtlợi, Hiền-da, Na-thất-lợi lại truyền rộng rãi khắp các ty thừa. Ngày mười một tháng mười Đại Nguyên đến cung Giáng Phước. Nay thời hoàng đế Tiềm Long, phân nguyệt, hải khiếp tiết, ngày thứ nhất đích thân tôn thờ quyển Liên Tông Bảo Giám, dâng sách lên sắc lệnh bảo người khắc bản ấn hành. Sự cung kính này ngang với Đại bộ; nghĩa lý rõ ràng không thể bỏ qua công của thừa tướng ban bố đến chùa Vô Lượng Thọ Pháp Vương. Công việc khắc bản đã xong, nhân đây xin chúc triều đình:
Chúc Hoàng đế Thánh thọ vạn an! Hoàng Thái hậu, hoàng hậu trai niên! Thái tử và chư vương thiên thu văn võ quan liêu cao tăng lộc vị, hoàng đồ vĩnh cố! Phật nhật tăng huy, phàm nhật kiến văn đồng thành Phật đạo!
Ngày trăng tròn tháng giêng niên hiệu Hoàng Khánh năm Giáp tý, Ưu-Đàm Phổ Độ kính dâng.
-Xét trong kinh nói ở phương Tây có cõi nước tên là Cực lạc, cõi ấy có Phật hiệu là A-di-đà, vòi vọi mênh mông, vượt ngoài thái hư, không hẹp không rộng, tự nhiên hóa độ, ao quỳnh đất vàng, không nhiễm một hạt bụi, cây rừng, nước chim đều giảng nói khổ không, nguyện lực của Phật thâu nhiếp các chúng sinh đó, một niệm tương ưng liền bước lên đài vàng, dù là phẩm hạ hạ cũng là thai hoa sen. Tôn giả Nhạn Môn kết xã, răn nhắc luôn tu Tịnh nghiệp, cho nên đạo niệm Phật đề xướng thạnh hành ở thế gian, đến nay gọi đó là Liên Tông, cách xưa đã lâu xa, dòng pháp thành tệ, tà đạo lẫn lộn, lời lẽ nhiệm mầu thành mờ tối. Do đó, Hòa thượng Ưu-Đàm nương nguyện lực xưa, noi theo chánh tông, phấn phát tâm chân thật, tìm kiếm yếu chỉ, sắp xếp đầu cuối, chia ra chân ngụy, lập thành mười môn, gọi là Bảo Giám tặng cho những người tham học.
Năm Giáp dần, niên hiệu Diên hựu, tại núi Đại ngưỡng, Thiền sư Đại Viên Phật Giám truyền pháp, Sa-môn Hy Lăng ghi chép.
Tâm tánh bị sai sử bởi trần lao phiền não nhưng không bị trần lao phiền não nhận chìm, như sen mọc từ bùn nhơ mà không bị bùn nhơ làm nhiễm ô tinh chất, cho nên chỉ thẳng là "Liên". Tâm tánh chung cho các pháp Tam Thừa nhưng không bị các pháp Tam Thừa lăng đoạt, từ tông chia ra chi phái, nhưng không do chi phái mà đánh mất căn bản. Cho nên niệm Phật là "Tông". Tâm tánh hư không trùm chứa dưỡng nuôi muôn vật, thí như trong biển cả có kho báu vô tận xuất hiện bốn thứ châu, cho nên gọi là "Bảo". Tâm tánh sáng suốt thanh tịnh, chiếu soi rõ ràng các sắc tượng, dụ như một chiếc gương ở trên đài có công năng phân biệt đẹp xấu, nên gọi là "Giám". Hòa thượng Ưu-Đàm là người họ Tưởng ở Đơn Dương, gia đình nhiều đời thờ Phật, chứa nhóm điều lành, sinh ra thông minh lanh lợi. Năm hai mươi tuổi, sư nhàm chán duyên đời cạo tóc xuất gia, ban đầu tham học với Thiền sư Tuệ ở Bảo Sơn thuộc Long Hoa, Thiền sư vừa thấy Sư liền biết là pháp khí. Sư lần lượt tham học với các Thiền lão, giũa mài gạn lọc, đạt tâm Tịnh độ, thấy tánh Di đà, rất tiếc cho đạo tổ đã bị chìm đắm, nên biên tập Niệm Phật Cảnh Yếu, đặt tên là Liên Tông Bảo Giám, mỗi lời đều phá hoặc, mỗi điều đều cảnh tỉnh. Thiền sư Viên Ứng Nhật ở Đông Nham thuộc Thiên Đồng vừa thấy Sư liền chứng minh nói rằng: "Lành thay, lành thay, đúng vậy, đúng vậy." Sau đó, sư khai pháp tại Pháp Vương Thiền tự ở kinh đô, quốc sư Quán Đảnh dâng Bảo Giám lên vua.
Vua Kim Luân hưng khởi chánh tông và ban hạ ngọc chỉ, quên mình vì pháp, làm khuôn phép cho đời sau, khai đạo trời người, chứa nhóm tuệ mạng của Phật, là vật báu trong thật tăng, từ gốc đến ngọn, dẫn dắt chúng trở về tông, không bỏ bi nguyện, dung hợp chân tục, thị hiện sen trong lửa, phấn phát lại ngọn gió Tịnh độ đã ngừng thổi trong ngàn năm của Tổ sư Tuệ Viễn ở Đông Lâm. Cái gọi là Lô Sơn Liên Tông Bảo Giám đâu phải là lời nói suông. Xưa, sư tên là Đức Công Đại nhân, soạn lời bạt khen ngợi tên phẩm, đầy đủ ở cuối quyển. Người tu Tịnh nghiệp về sau giở xem tập sách này thì rõ suốt chỉ thú của Phật tổ, mở mang đạo này, lưu lại vô cùng. Công đức to lớn không gì sánh bằng? Vì muốn kéo dài phước đức nên nhà vua đổi niên hiệu. Đầu mùa hạ năm Giáp dần tất cả Tỳ-kheo tăng ở Minh Trí, Sùng Thắng Thiền tự, đồng đảnh lễ viết lời tựa.
--------------------------------
Tánh pháp giới chân thật, chúng sinh và chư Phật bình đẳng không khác, không giống, tâm diệu giác sáng suốt, nhiễm, tịnh lẫn lộn nhưng chẳng phải một, chẳng phải hai, cho nên mỗi hạt bụi đều là Tịnh độ, cõi khác cõi này đều là nước Cực lạc; niệm niệm Di-đà thì côn trùng nhỏ nhít, muôn loại hàm linh đều là Phật pháp thân. Bởi vì tình sinh, nên trí cách, ý tưởng thay đổi nên thân thể khác nhau. Tâm theo sự thay đổi của sinh, trụ, dị, diệt, mà cảnh có cao thấp, gò nổng, hầm hố cho nên cõi tịnh cõi uế khổ vui có khác, chư Phật, chúng sinh, Thánh phàm không giống nhau. Do đây dẫn đến sáu đường, mênh mông lặn hụp trong chín cõi (cửu cư = Cửu hữu), bốn loài chúng sinh lên xuống trong ba cõi, từ mê đến mê, từ khổ vào khổ, thay hình đổi dạng trải qua số kiếp như bụi, không có lúc nào giải thoát. Thế nên Đức Phật mới mở ra pháp môn thuận tiện dạy mọi người Tam-muội niệm Phật; chỉ có tịnh Độ là chỗ quay về.
Cái gọi là Tam-muội niệm Phật: Tiếng Phạm là Phật-đà, Hán dịch là Giác (giả). Giác là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, cho nên gọi là Phật. Giống như người đang ngủ say tỉnh giấc, như hoa sen nở, là khiến cho hữu tình chiếu soi lại mình, tịnh niệm nối nhau, lâu ngày thuần thục, dứt hết hoặc chướng, một niệm không sinh, mé trước mé sau đều dứt ngộ, được tánh giác này trong không có tâm năng niệm, ngoài không có tâm sở niệm, năng sở đều quên thì chúng sinh và Phật không hai, nên gọi là niệm Phật.
Niệm Phật: Tiếng Phạm là Tam-muội, Hán dịch là chánh định. Nghĩa là tư duy chuyên nhất, ý tưởng vắng lặng, thần trí sáng suốt. Kinh nói: "Nếu có người nào niệm Phật thì nên biết người đó là hoa Phân-đà-lợi trong cõi người."
Tổ sư Tuệ Viễn đời Đông Tấn nhân nghe Pháp sư Di Thiên giảng kinh Bát-nhã hoát nhiên đại ngộ, nhập vào vô lượng Tam-muội sâu xa, đến trụ ở Lô Sơn cùng với các cao tăng và kẻ sĩ của triều đình kết thành xã tu hành. Cho nên gọi "Chư giáo Tammuội". Tên gọi ấy có rất nhiều, công đức cao mà dễ tiến thì niệm Phật đứng đầu. Vì nhân duyên trước nên đặt tên xã này là "Bạch liên". Những vị sư ở xã này trước tác bài tựa "Niệm Phật Tammuội" vì để nêu cao đạo lý này.
Phán giáo của Ngài Thiên Thai Trí giả như Kinh Quán Vô Lượng Thọ là lời dạy chứng thực của tất cả Đại thừa, dùng "Tam quán Trừng tâm" để tỏ rõ yếu chỉ niệm Phật. Tôn giả Pháp Chiếu đảnh lễ Ngài Văn-thù xin Ngài chỉ dạy cho pháp yếu này. Thiền sư Tỉnh Thường kết xã Tịnh Hạnh, tể tướng và các quan nổi tiếng quy về cùng tu tập. Bởi vì đạo tràng này cũng là đạo tràng của Thiền sư Trường Lô Tông Trách kết Liên hoa thắng hội cảm được hai vị Bồ-tát Phổ Hiền và Phổ Tuệ vào hội để chứng minh đạo tràng này.
Tông chỉ của Ngài Từ Chiếu là dùng năng lực bổn nguyện để thị hiện ở thế gian, phát tâm rộng lớn dùng phương tiện để dắt dẫn chúng sinh vào thật chứng. Ngài tùy theo căn cơ của chúng sinh mà giáo hóa. Vì Ngài muốn người căn trí sáng suốt hay ngu đần gì cũng đều hiểu được đạo lý này. Mọi người đều nhóm họp ở Bạch Liên để sám hối, khai thị cho cả bốn độ, dùng tín hạnh nguyện làm tư lương, lấy Giới Định Tuệ làm then chốt để lập nên chánh tông niệm Phật này. Vua Cao Tông đời Tống chính tay viết hai chữ "Liên xã" vì tôn sùng pháp môn này. Cúi mong đại nguyên phổ thiên thống nhất các nước, lòng mọi người ưa thích điều thiện.
Thiền sư Viên Ứng Phật trụ Đông Lâm Thiền tự ở Lô Sơn, vâng theo Thánh chỉ trụ trì đạo tràng, sửa sang chùa chiền, nhóm hợp các bậc cao tăng hiền tài để truy tìm những việc xưa mà chỉnh đốn những người kế vị tông môn, bắc cầu đại pháp gọi là Tông Viễn mà khai mở Đạo Tổ. Ngoài việc hành đạo của Tổ, mười tám năm đề xướng tông thừa, còn thường dùng "Tam-muội niệm Phật" để khai mở dẫn dắt trời người. Đầu mùa Thu năm Nhâm thìn, sắc chỉ truyền đến Quảng Lợi Thiền tự ở núi Dục vương thỉnh Ngài Tốn Tịch khai mở Tiên Duyệt đường.
Tháng giêng năm Trinh Nguyên thứ 1, Thiền sư Khuê kế vị trụ trì, mọi người mời Ngài lên pháp tòa khai đường thuyết pháp.
Cư sĩ Thuật Minh, Hòa thượng Yến Giác, Đạo Phá y kính vâng Thánh chỉ ban tặng "Bạch Liên Tông Thiện Pháp Đường" để hộ trì giáo pháp vào tháng giêng niên hiệu Trinh Quán thứ 2.
Lại nữa, vào tháng 10 niên hiệu Trinh Quán năm thứ 5 vâng theo Thánh chỉ ban tặng cho Đại sư Thông Thọ làm chủ Bạch Liên Tông và còn ban cho Đại đức chiếc ca-sa Kim Lan.
Kính vâng Thánh triều ban giáng ngự hương kim toàn đến chùa. Từ đời Tấn đến nay mới chỉ ngàn năm cảm được ân này được vẻ vang rạng rỡ. Những phương xa ở vùng khác nếu có người hiền kẻ ngu đều theo giáo hóa họ để họ đồng tâm niệm Phật. Kính chúc:
Hoàng đế Thánh thọ vạn an.
Thiên hạ thái bình, bánh xe pháp thường quay, thiên hạ hớn hở vui hòa như thời vua Thuấn, vua Nghiêu, thời tiết ở thế giới này là thế giới Cực lạc, độ khắp tất cả con cháu dòng họ Thích làm lợi ích cho giáo môn. Người đã từng thấy xưng tán Liên Tông, chưa am tường yếu chỉ niệm Phật mà đã bỏ gốc theo ngọn, kẹt vào tướng tu tập chánh nhân Tịnh nghiệp đều sẽ chìm đắm trong luân hồi. Đều nghĩ đến vật báu mà quên nước, trái chân hướng ngụy. Người quấy nhiễu việc này nhiều như lông bò, người đầy đủ chánh giác hiếm như sừng thỏ, đến nỗi khiến cho học trò của những người có tâm nghĩ đến vật báu nói trên khinh thường đạo Phật ta. Buồn thay! Mọi người đã bỏ nề nếp của thời xưa, quấy nhiễu giáo pháp, lâu ngày sẽ hư hoại chánh pháp. Tà pháp nhỏ nhiệm lâu ngày sẽ tăng trưởng nhanh trong lòng người. Lý giải sai lệch, đi vào đường tà, không tư duy pháp môn Tịnh độ là mở ra đường tắt cho luân hồi, chúng sinh mau bước vào. Trong đó sáng như mặt trời, yếu chỉ sâu xa trong kinh điển, trong lúc sám hối lại không gặp minh sư khai ngộ. Giống như những người mù sờ voi mỗi người nói mỗi cách, từ tối vào tối, mãi ràng buộc bởi tà kiến. Thật đáng thương thay!
Nay cung kính gặp Thiên tử có tâm Phật, dùng chánh pháp cai trị nhân dân, lúc vua tôi khánh hội thì chánh trị và Phật pháp có tiếp cận lưu thông được không? Dùng Tam-muội niệm Phật của Tổ sư để khai thị cho trời người, dùng làm con mắt cho tương lai, giúp cho mọi người ngộ nhập tri kiến Phật. Đệ tử mới khởi tâm Tịnh độ tìm lại Tông môn trước, tập hợp những lời chí tình then chốt của Tổ sư và những điều mắt thấy viết quyển Bảo Giám để xét rõ chân ngụy (đúng sai).
-------------------------------
Chương 1: Nói về Chánh nhân niệm Phật, nghĩa là vào nhà phải từ cửa.
Chương 2: Chánh giáo, chỉ dạy pháp môn niệm Phật Tiệm Thiên, Đốn, Viên, khiến cho người tinh tấn tu tập tùy theo căn cơ mà đến với đạo.
Chương 3: Chánh Tông. Vì chỉ bày lý niệm Phật Tam-muội chánh tâm, giúp cho người tu tập hiểu rõ tông của mình và đạt đến gốc rễ của nó.
Chương 4: Chánh phái. Vì muốn nói rõ gốc rễ ngọn ngành của Sự đắc đạo mà chư Phật, chư Tổ ấn chứng cho các sư của Tông phái, giúp cho người hậu học biết tông chỉ mà noi theo.
Chương 5, 6, 7: Chánh Tín, Chánh hạnh, Chánh nguyện, giúp cho hành giả kính tin chánh pháp, tin Chánh hạnh, phát chánh nguyện cầu sinh Tây phương.
Chương 8: Chánh quyết vãng sinh. Vì muốn chỉ con đường lúc qua đời sinh về Tịnh độ.
Chương 9: Chánh báo. Vì muốn nói rõ sở đắc của việc tu hành ở cõi Tịnh độ, y theo công đức trang nghiêm của Chánh báo.
Chương 10: Chánh luận. Vì dẫn chứng lời chân thật của chư Phật để phá các tà kiến sai lầm khác, khiến cho chúng sinh bỏ ác làm lành chứ không dám để họ giúp đỡ tông phong, vì lợi ích của người chưa nghe: Người có tư tưởng uẩn khúc giúp họ có cái nhìn chính xác ngay thẳng. Người tà kiến thì giáo hóa cho họ quay về chánh kiến. Người nghi ngờ thì giải bày cho họ khỏi nghi ngờ; người mê mờ giúp họ tỏ ngộ, làm cho mọi người ở trên mặt đất đối với pháp môn niệm Phật đều được Tammuội niệm Phật, đồng chứng Bồ-đề, không trái với bổn nguyện, người tu Tịnh nghiệp có lòng Từ bi thử lật quyển sách này xem, vui theo khen ngợi, lưu thông. Nếu Phật, Tổ chưa xuất hiện ở thế gian thì xin những bậc cao tăng để mắt vào.
Đại Đức cửu niên Ất tỵ, Di-đà thị Tướng Nhật Giang Châu, Lô Sơn Đông Lâm Thiền tự Bạch Liên Tông Thiện pháp đường, Tăng Ưu-Đàm Phổ Độ Tề Mộc kính đề.
--------------------------------
Từng nghe, trong hằng hà sa số các Như Lai, Đức Di-đà là bậc nhất, trong các cõi Phật nhiều như số bụi nhỏ ở mười phương thì Cực lạc là nơi trở về chí lý nhất. Vốn chỉ là duy tâm, nên người mới học phải do nhân địa, nên biết có chăm bón cây thì cây mới phát triển xanh tốt, đi ngàn dặm phải bắt đầu từ bước thứ nhất, muốn vượt thoát sinh tử cũng phải lấy Tịnh độ làm nơi hướng về để chứng Niết-bàn. Nên niệm Phật là yếu chỉ để chánh tâm. Tin sâu Cực lạc, diệu môn chân giải thoát, nhớ tưởng Đức Phật Di-đà, đấng cha lành đáng quý của chúng sinh, xưa đã nói rõ về cảnh giới này, nên nhìn quả để tu nhân, dần dần đến con đường huyền diệu. Ấy cũng chính là từ nhân đến quả. Các Bậc hiền đức nhóm họp kết xã, dựa vào yếu chỉ này chuyên niệm Phật và khuyên bảo người cùng tu tập giáo môn này. Nhân rộng thì quả lớn, sông dài thì nguồn sâu, hình ngay thì bóng thẳng, tiếng dội vang theo âm thanh, Ngài Thế Chí chỉ ra tông yếu để chứng viên thông. Đức Thế Tôn dạy: Tu nhân Tịnh nghiệp từ văn, tư, tu chứng Tam-ma-địa. Nương tín, hạnh, nguyện vào pháp giới môn. Cho nên một niệm sinh khởi, muôn loại đều biết. Tín tâm sinh thì chư Phật hiện, vừa xưng danh hiệu tôn quý đã gieo giống ở thai sen, một khi đã phát tâm Bồ-đề thì tên ghi ở đất vàng ròng. Người có duyên gặp pháp môn này thì tự tu tự ngộ, niềm tin cạn mỏng không tu trì là rất ngu và lầm to. Cho nên nói Nhất thừa xướng cao, cuối cùng đạt đến Lạc bang. Tu muôn hạnh tròn đầy tối thắng, riêng xưng danh hiệu quý báu thì tội nặng trong tám mươi ức kiếp đều tiêu diệt, những phương xa vời hơn mười vạn ức cõi, phút chốc liền đến, giống như có cánh. Tưởng niệm chuyên chú tức là quán tâm mà thấy thân Phật. Tâm cảnh giao xen nhau tức là cửa của nhân. Nếu tâm duyên cảnh thành quả tốt thì tất cả tịnh, uế, thư thái, mệt mỏi đều ở nơi đầu mối nhỏ nhiệm này, tánh bao dung, bén nhạy bao trùm khắp pháp giới.
Thế nên chư Phật và chúng sinh không khác, cõi tịnh và cõi uế khắn khít nhau. Người ngu tối và người thông thái đồng hiểu được, sự lý vô ngại giống như thần châu bao gồm các thứ của báu, như lưới trời đan xen tỏa ngàn tia sáng. Tâm ta đã như thế thì chúng sinh và Phật cũng giống như vậy. Cho nên biết thần thức đi qua ức cõi thực ra sinh từ trong tâm của mình. Gá chất vào chín phẩm thai sen, chẳng lẽ trốn chạy trong mé sát-na. Nếu những Bậc hiền nhị thừa hồi tâm liền sinh đến đất vàng ròng, hạng phàm phu phạm tội ngũ nghịch chỉ nhất tâm niệm Phật mười niệm liền được sinh về thế giới Bảo liên.
Than ôi! Hiểu ý sai, nghiệp chướng nặng, lòng tin ít, nghi ngờ nhiều, chê bai Tịnh nghiệp là Quyền thừa, chê bai việc tụng trì là hạnh thô, há khỏi chìm vào nhà lửa ư? Một khi đã chìm trong bể lửa thì tự mình cam chịu, muôn kiếp đắm chìm. Làm trái lời dạy của đấng cha lành thì phải chịu đau khổ suốt đời, nên phải có lòng tin Phật. Nếu không nương vào tha lực dứt trừ tội chướng thì không biết nhờ đâu để dứt trừ? Nếu không gặp được pháp môn này, tu tập giải thoát sinh tử thì không phát thệ nguyện giống như chư Phật, nên theo lối mòn của chư Phật thuở xưa tu tập, sau khuyến khích những người tu Nhị thừa đã thật tôn sùng pháp môn này. Đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện, làm bất cứ một công đức gì đều hồi hướng về cõi Phật Di-đà. Nếu đã sinh về cõi Tây phương, đang sinh, sẽ sinh về cõi Tây phương thì niệm niệm đều hồi hướng về Tịnh độ. Nếu muốn dùng việc trong một đời để giải thích thì cũng ở trong tất cả thời. Bởi lẽ, một ngàn chiếc xe đều lăn trên một con đường, trong bốn oai nghi, muôn điều lành hồi quy đồng lên diệu môn Cực lạc, mau thành Tammuội niệm Phật, do vậy bước đầu tiên phải rõ ràng sau đó mới thẳng đường đến Tây phương.
1. Nhân địa của Phật A-di-đà.
Kinh Cổ Âm Vương nói: Trong kiếp quá khứ có nước tên Diệu Hỷ, vua nước ấy là Kiều-thi-ca, ông nội là quốc vương nước Thanh Thái, vua cha là Nguyệt Thượng Chuyển Luân vương, mẫu hậu là Thù Thắng Diệu Nhan. Hai người sinh được ba người con, con trưởng là: Minh Nguyệt, con thứ là Kiều-thi-ca, con út là Đế Chúng.
Lúc ấy, Đức Phật Thế Tự Tại Vương thị hiện ở đời, Kiều-thi-ca Phát tâm về nương Phật, lìa bỏ ngôi vị, đầu Phật xuất gia hiệu là Tỳ-kheo Pháp Tạng.
Kinh Đại Di-đà nói: Tỳ-kheo Pháp Tạng ở chỗ Đức Phật Thế Tự Tại Vương Phát tâm vô thượng, tất cả người thế gian không thể sánh bằng. Nhân lúc Đức Phật Thế Tự Tại Vương giảng về hai trăm mười ức cõi nước chư Phật, Pháp Tạng cảm thấy thích ứng với tâm nguyện của mình liền cúi đầu lễ Phật, phát bốn mươi tám nguyện lớn (kinh này có chép)... "Nếu không được như vậy thì thề không thành Phật."
Lúc ấy mặt đất rung chuyển, chư thiên rải hoa đẹp, trong hư không đồng thanh khen ngợi rằng chắc chắn sẽ thành Phật.
2. Bổn nguyện nhân địa của Phật A-di-đà và Phật Thích-ca.
Kinh Bi Hoa nói: Trong kiếp xa xưa có vua Chuyển luân tên là Vô Tránh Niệm, đại thần tên Bảo Hải là Thiện tri thức. Hai vị cùng ở chỗ Đức Phật Bảo Tạng phát tâm Bồ-đề. Ngài Vô Tránh Niệm phát nguyện:
"Ta tu Đại thừa nguyện ở nơi cõi tịnh thành Anậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề. Chúng sinh ở cõi nước ta không có các khổ não. Nếu không tạo được cõi Phật như thế thì ta nguyện không thành Chánh giác." Nay đã mãn nguyện, hiệu là A-di-đà đang ở cõi Tịnh độ. Còn đại thần Bảo Hải nguyện ở ngay cõi uế trược giáo hóa thành thục chúng hữu tình. Nay đã mãn nguyện, hiệu là Thích-ca Mâu-ni ở trong cõi đời ô trược này chứng thành quả Phật Bồ-đề.
3. Phật giảng Chánh nhân Tịnh nghiệp cho Thánh hậu Vi-đề-hy nghe.
Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật nói: Bấy giờ, bà Vi-đề-hy rơi lệ bạch Phật:
- Bạch Đức Thế Tôn, cúi mong Ngài nói rộng cho con nghe nơi nào không có lo buồn, con sẽ vãng sinh về đó, con không thích ở cõi đời dơ uế Diêm-phù nữa.
Lúc đó, Đức Thế Tôn từ giữa hai đầu chân mày phát ra ánh sáng chiếu khắp vô lượng thế giới ở mười phương. Các cõi nước của chư Phật đều hiện trong luồng ánh sáng ấy.
Vi-đề-hy xem xong bạch Phật rằng:
- Các cõi nước chư Phật tuy thanh tịnh và đều có ánh sáng nhưng nay con thích sinh về thế giới Cực lạc, chỗ của Phật A-di-đà, cúi xin Đức Thế Tôn dạy con tư duy, dạy con chánh thọ.
Phật bảo Vi-đề-hy:
- Cõi Phật A-di-đà cách đây không xa, bà hãy buộc niệm quán kỹ cõi nước kia. Nay ta sẽ nói rộng cho bà nghe, cũng khiến cho hàng phàm phu ở đời sau tu Tịnh nghiệp được sinh về cõi nước Cực lạc Tây phương. Người muốn sinh về cõi kia phải tu ba thứ phước:
1. Hiếu thảo, nuôi nấng cha mẹ, kính thờ sư trưởng, có từ tâm không sát hại, tu thập thiện nghiệp.
2. Vâng giữ ba quy y, giữ đủ các giới, không phạm uy nghi.
3. Phát tâm Bồ-đề, tin sâu nhân quả, khen ngợi Đại thừa, khuyên người tinh tấn tu tập. Ba điều này gọi là chánh nhân Tịnh nghiệp.
Phật bảo A-nan và Vi-đề-hy: Lắng nghe, lắng nghe, tư duy điều ấy.
4. Hiếu thảo nuôi nấng cha mẹ.
Niệm Phật là hạnh quan trọng trong các pháp, hạnh hiếu đứng đầu trong trăm hạnh; tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Muốn đắc đạo như chư Phật trước phải hiếu thảo, nuôi nấng cha mẹ. Thế nên Thiền sư Tông Trách nói: Hiếu là cánh cửa của những điều tốt đẹp, lời Phật lấy hiếu làm tông, kinh Phật lấy hiếu làm giới, trong lời nói không có sai lầm, miệng phát ra ánh sáng của giới ngay đó đốn khai tâm địa một cách rõ ràng. Hiếu có hiếu tại gia, hiếu xuất gia.
Hiếu ở tại gia thì được cha mẹ thương yêu, vui mừng và luôn nhớ nghĩ đến. Còn nếu con không hiếu thảo thì cha mẹ la rầy, buồn phiền nhưng không oán giận. Cha mẹ thường chìu ý con, hết lòng dạy dỗ và nuôi dưỡng.
Còn hiếu xuất gia thì cắt dứt tình thân ái, giã từ cha mẹ, ăn uống đạm bạc cốt để thâm nhập đạo lý vô vi, trên báo ơn sâu nặng, hướng đến con đường chính của Sự giải thoát, là con đường ngắn nhất báo đáp ân cha mẹ, không chỉ ở đời vị được lợi ích mà ngay đời hiện tại cũng được thành công. Vì thế, Đức Như lai vào lúc nửa đêm vượt thành xuất gia và chứng đạo trên đỉnh núi Tuyết. Ngài Tuệ Năng để lại tiền bạc và người mẹ già, nối pháp Tổ Hoàng Mai. Nhưng dùng giáo pháp để dứt ân ái thì phải tư duy báo đức. Thế nên Ca-tạp-tước, cha tuy già nhưng vẫn hết lòng lo lắng phụng dưỡng hầu hạ không để cha mẹ phải chịu cơ hàn thiếu thốn. Tấtlăng-già hết lòng giữ giới, Đại sư Nhẫn có nhà dưỡng mẫu, Trần Mục Châu dệt giày nuôi cha mẹ, Pháp sư Lãng cõng mẹ cha đi khắp nơi học đạo. Người xuất gia lấy pháp vị làm ngon ngọt mà không quên ơn bú mớm ẵm bồng của cha mẹ, lấy Phật sự làm cần lao mà chưa bỏ quên lễ nghi thế đế. Chẳng những báo ân cha mẹ trong một đời, mà cha mẹ trong nhiều đời cũng đều báo ân. Không chỉ độ cha mẹ hiện đời mà cha mẹ trong pháp giới cũng đồng độ lên bờ giác. Đâu chỉ xứng với Chu công mà khắp trời chỉ bày bến mê? Đạo hiếu của người xuất gia vượt qua sự thuần hiếu của cha chú. Thế nên lợi ích ấy rất rộng lớn. Còn nếu nhân duyên chưa đủ, cha mẹ không cho phép xuất gia thì ở tại gia hết lòng nuôi nấng cha mẹ, tinh tấn tu nhân xuất gia. Nếu được như vậy thì "Tục" mà "Chân" cũng có con đường thành Phật.
Cha mẹ luôn mong mỏi con mình nên người tốt, không phụ công dạy dỗ nuôi dưỡng của mình. Vì thế phận làm con phải hết lòng báo đáp công ơn sâu dày của cha mẹ.
Người xuất gia chứng đến quả vị Nhất thừa viên mãn, giúp cho Bồ-tát tại gia tu tập hiểu được chánh nhân niệm Phật, không còn nghi ngờ, còn những người xuất gia cao hạnh cũng nhờ đây mà noi theo. Bởi vì có những người chuyên tâm thờ Phật nhưng không hết lòng nuôi nấng cha mẹ, nhân thấy tấm gương này sinh tâm cảm động mà hết lòng hiếu thảo mẹ cha.
Than ôi! Thời gian dễ qua, ân cha mẹ khó quên. Cha mẹ còn sống như Phật còn tại thế, lấy đó báo đáp ân đức cha mẹ, viên thành công phu niệm Phật. Nên biết cha mẹ vui thì chư Phật vui, tâm này thanh tịnh tức là cõi Phật. Thanh tịnh có thể gọi là màu sắc hoang dã, không còn bị núi sông ngăn cách, ánh sáng mặt trời soi thẳng xuống đáy sông sâu.
5. Kính thờ sư trưởng.
Người xưa nói: Người sinh ra ta là cha mẹ, người dạy dỗ ta nên người là thầy bạn. Nên biết thầy là bậc đạo sư sáng suốt, hướng dẫn chúng ta ra khỏi đường mê; là ngọn đuốc tuệ trong ngôi nhà đen tối; là con thuyền trên biển khổ; là đôi mắt của trời người. Ân ấy lớn hơn cha mẹ; đức ấy sánh bằng trời đất. Do vậy, đệ tử phải hết lòng kính thờ sư trưởng, cho dù lìa bỏ thân mạng để cầu nửa bài kệ; chặt đứt cánh tay để thưa hỏi chân thừa; dùng thân làm giường ghế cho thầy ngồi suốt bốn mùa để kế thừa tôn chỉ, lìa bỏ tất cả kiến thức thế gian để học Bát-nhã, lao mình vào đống lửa để chứng Bồ-đề. Người xưa vì mến đạo nên quên mình, thờ thầy để được tu học, ngày nay chúng ta không cố gắng tu học ư?
Nên biết xuất gia thờ thầy để cầu chánh kiến, lúc tham vấn chớ khen ngợi tà tông, phải hiểu rõ nguyên do tội phước, xét đoán lợi hại của chánh, tà. Chánh thì thành Phật, tà thì thành ma. Tu tập mà không gặp thầy giỏi thì tu đến già cũng không được gì. Thế nên, Đức Như lai nói thầy là bậc cao cả không gì sánh bằng. Người xưa đã lìa bỏ tất cả để chọn thầy học đạo, còn ngày nay chúng ta sao không như thế? Huống chi đời mạt pháp, có nhiều tà sư, chúng ta muốn tu hành cũng không biết gần gũi ai, chỉ giữ chánh niệm. Phải hiểu rằng: Gặp được minh sư không phải dễ. Thế nên đệ tử kính thờ thầy tổ. Đồng với kính thờ Phật, có thể nói: Cúng dường bốn việc cần dùng cho dù muôn lượng vàng ròng cũng tiêu được.
6. Quy y Tam bảo.
Phật là bậc Đại sư của ba cõi, pháp là con mắt của chúng sinh; tăng là lục Hòa thượng sĩ, cũng là ruộng phước chân tịnh. Nếu trái với đây là tà, thuận theo đây là chánh, công năng của thần không bằng. Năng lực của bậc Thánh khó nghĩ bàn, việc dứt khổ, như trống có bôi thuốc, tên bắn thoát nạn, như gươm bén phá vòng vây, biến khổ thành vui, chỉ trong khoảnh khắc chuyển phàm thành Thánh. Thế nên tướng xe lửa hiện, nhờ quy y Tam bảo nên liền được mát mẻ; sắp đọa vào địa ngục, niệm danh hiệu Phật liền xa lìa khổ. Đức Phổ Minh cho các vua thoát khổ nạn mà không định công, Đế Thích khước từ uy nghiêm Đảnh sinh, năng lực của Bátnhã cũng giống như vậy. Thế nên, Phật tử có tín tâm quy y Tam bảo, chân thật từ tâm đem hương hoa cúng dường Phật tăng, khen tụng truyền bá làm cho pháp bảo phổ cập nhân gian, chứa nhóm các công đức lành hồi hướng về Vô thượng Bồ-đề, độ khắp chúng sinh đồng sinh Tịnh độ. Há không thấy nói chim Ca-lăng-tần-già xưng niệm cũng được sinh về Tây phương. Chư Thiên, Đế Thích vui mừng phát thệ nguyện cầu Thánh đạo, đều có khả năng trên thành Phật, dưới thoát vòng khổ. Có thể gọi Thiền là đại quy, thơ là Phác, Đại Đường Thiên tử chỉ cho ba người.
7. Phát tâm Bồ-đề.
Quả Phật vô thượng gọi là Bồ-đề. Nếu ai phát tâm này thì chắc chắn thành Phật. Pháp môn Tịnh hạnh gọi là tu Tịnh độ. Người tu Tịnh độ phải phát tâm, khổ là do mình chán ghét ngủ trược, ưa thích chín phẩm hoa sen thì trái với tâm Bồ-đề, đó là nghe pháp môn này rồi hành trì chứ không phát tâm. Nếu là chúng sinh khởi tâm đại bi cầu về nước kia, mong mau thành đạo lực, thần thông trùm khắp hư không mười phương, cứu độ tất cả chúng sinh làm cho họ cùng thành Phật thì thuận với tâm Bồ-đề. Bồ-tát này tu tập nên phát tâm Bồ-đề, nay khuyên người khác tu Tịnh nghiệp. Hạng thượng lưu muốn được lợi mình, lợi người thì phải lập chí, đến trước Tam bảo chí thành dâng hương hoa, dốc lòng phát nguyện.
Nam-mô Phật, Nam-mô Pháp, Nam-mô Tăng. Đệ tử tên... hôm nay phát tâm rộng lớn không vì mình mà cầu phước báo trời, người, cũng không cầu Thanh văn, Duyên giác, cho đến Bồ-tát quyền thừa, chỉ y theo pháp tối thượng thừa phát tâm Bồđề, cầu nguyện cho cha mẹ hiện đời và cha mẹ nhiều đời, pháp giới chúng sinh, tất cả bà con xa gần đồng sinh về cõi Tịnh, đồng lên giai vị không lui sụt trên đường tiến đến quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề. Nói như vậy ba lần.
Lúc nào cũng nguyện, luôn giữ tâm như vậy, cho nên Thiện Tài chỉ một đời chứng quả, Long nữ tám tuổi thành Phật. Bị đọa trong địa ngục mà phát tâm này thì liền vượt lên Thập địa. Sa-di khởi ý liền vượt khỏi Nhị thừa, có thể nói một khi quay đầu thì ân đức thấm nhuần muôn vật thêm sâu.
8. Thọ trì giới pháp.
Đã phát tâm Bồ-đề còn phải tu hạnh Bồ-tát. Đầu tiên thọ ba quy y, sau đó năm giới rồi dần dần tiến tu thập thiện đến viên mãn ba nhóm luật nghi. Các căn không bị ngoại cảnh lôi kéo, vâng giữ tất cả giới luật, các căn còn giao động trước ngoại cảnh thì chia ra thọ trì: mỗi năm có ba tháng tu tập, mỗi tháng có sáu ngày trai giới. Như vậy. Năm giới khó thực hành, còn bỏ hai giới uống rượu và ăn thịt thì dễ phạm mười tội trọng nên phải giữ giới không sát sinh. Nên biết nhiều hạt bụi tụ lại thành ngọn núi cao; sương rơi từng hạt ven sườn núi cuối cùng cũng về biển cả. Cho nên kinh Niết-bàn nói: "Phật còn tại thế thì tôn Phật làm thầy, sau khi Phật diệt độ thì lấy giới làm thầy."
Kinh Phạm Võng nói: "Giới như ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, cũng như châu anh lạc, các vị Bồ-tát nhiều như bụi nhơ đều do giới mà thành Chánh giác." Cho nên rồng không có tâm phạm giới sát, chó sói có ý trì trai, Tỳ-kheo khổ nhọc tiết chế đến nỗi cây cỏ cũng giúp đỡ. Cư sĩ Nga bệnh đến chết cũng không uống rượu, ăn thịt, cho nên biết gốc của các điều lành thì năm giới đứng đầu. Vua đã để lại cương kỷ để trị nước thì người Quân tử phải vâng giữ để lập thân, không thể tạo ra một cương kỷ thứ hai mà xa lìa năm giới, không thể trong khoảng khắc mà phát huy. Phật gọi là năm đức; Nho gọi năm thường, ở cõi trời gọi là ngũ tịnh; ở đất gọi là năm nhạc, ở người gọi là năm tạng; ở xứ gọi là năm phương. Nói rộng ra không chỗ nào mà không hợp nhất; ngửa mặt trông lên, cúi xuống sát đất đều chẳng thể thêm được. Cho nên Pháp Uyển Châu Lâm nói: Ở thế tục còn có nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, bao gồm trong nhận thức riêng: sát, đạo, dâm, vọng, tửu. Đạo và tục tuy trái nhau nhưng giáo lý gần như thông nhau. Trong chánh pháp dạy: Tất cả mọi việc chắc chắn bắt đầu từ Nhân. Đây là thật pháp, chỉ cho Sự, lời thẳng thắn không dựa vào lời nói trau chuốt mà nói sai ý hiện thực. Như thế mà tu nhân, không mong quả mà chứng quả, là từ tu nhân mà vào đạo, chứ không muốn trau chuốt ngôn từ cho hay. Nay giữ được giới không sát sinh, không cầu lòng nhân từ mà lòng nhân vẫn hiển bày ở sự giữ giới; giữ giới không trộm cắp, không vui vì nghĩa tình mà tình nghĩa vẫn trang trải; giữ giới không dâm dật, không cầu lễ nghi mà lễ nghi vẫn có; người giữ giới không nói dối, không chuộng chữ tín mà vẫn được người tin tưởng; người giữ giới không uống rượu, không tu trí mà trí vẫn sáng ngời. Chẳng những luật đã ngăn phòng những điều sai lầm mà còn lấy đó để giữ nước dạy dân. Người muốn tu Tịnh hạnh thì phải giữ gìn giới căn. Có thể nói muôn điều lành đều hoà dung, đồng với cõi Phật. Mọi người hớn hở vui hòa, an hưởng thái bình.
9. Từ bi không giết hại.
Loài noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh; những loài côn trùng, chim bay thú chạy v.v... đều sẽ là những vị Phật tương lai, hoặc là cha mẹ nhiều đời của chúng ta. Họ đều ưa sống sợ chết, tham cuộc sống an nhàn, tránh né khổ nhọc, ham thích thân mình. Tất cả các loài hữu tình ấy đều cầu mong một cuộc sống an ổn để nuôi thân mạng mình. Nếu phân tích lý do thì có cả ngàn, sao ta nỡ nghe tiếng kêu đau thương mà cầm dao đâm vào mình nó; mắt chằm chằm đuổi theo con vật đến cùng. Hoặc căng lưới nhử thú mắc vào, hoặc giăng bủa lưới ở các ngọn đồi, hoặc đốt lửa trên đỉnh núi để trên cao không thoát dưới thấp cũng không biết chạy đi đâu; khói bay mịt trời, chim cắt, ngựa không ngừng tranh nhau tuôn chạy để săn bắt. Vượn trông thấy cung tên thì hồn bay phách lạc, nhạn nhìn thấy dây cung thì rớt tim bể đầu đổ não, đau thấu tận tim gan, làm sao chịu được tình cảnh này, huống tất cả mọi loài cùng bẩm thọ năm hành; đều gồm chứa bốn tượng, đồng thấm nhuần Phật tánh, đồng có thần minh, làm sao nỡ phơi bày núi thịt này, bắt lấy thú vật xẻ thịt lột da, nấu nướng ăn cho Sướng miệng, thỏa thích lòng tham. Họ không biết cắt đứt mạng sống sinh vật là làm cho thân Phật ra máu. Ăn thịt chúng sinh có lẽ nào không phải là thân cha mẹ; tạo nghiệp sát hại quá sâu dày làm dứt mất hạt giống từ bi thì lúc còn sống phước thọ sẽ ngầm tiêu mòn, sau khi chết bị đắm chìm trong núi đao rừng kiếm. Hết nghiệp ấy trở lại làm thân heo, gà, cá, thỏ... lần lượt bồi thường tội giết hại, nấu nướng này, nhân quả giống nhau, quán sát kỹ ăn thịt có thể nói là đáng sợ, dù cho tiêu thụ thịt ở nhà đồ tể cũng khó tránh khỏi tội nặng. Vì thế hàng Bồ-tát thà chịu chẻ xương chứ không ăn thịt chúng sinh. Thế nên thỏ trắng đốt thân mà vị tiên vẫn không màng đến; cỏ cây còn không nhổ huống chi là nếm mùi vị thịt chúng sinh. Người có lòng Từ bi thường tránh xa việc bếp núc, họ nghe tiếng kêu đau thương của nó, không nỡ ăn thịt. Còn như nuôi súc vật để bán cũng giống như khẩu giết tâm ăn. Bậc đại Thánh rủ lòng Từ bi cho nên chế giới để dứt trừ sát hại. Như vậy đức ấy rất lớn. Thế nên người tu Tịnh độ phải giữ giới, mới được gọi là không tham đắm hương vị, mới là rồng ở đầm báu.
10. Tu thập thiện nghiệp.
Ôi! Huyền yếu của Đại thừa vốn không lìa nhất tâm, chánh nhân Tịnh nghiệp trước phải tu thập thiện, dứt trừ bảy tội nặng của thân, miệng. Bảy hành vi này thành tựu thì diệt trừ được gốc rễ ba độc (tham, sân, si) của ý thức, ba học đầy đủ. Trong kinh A-di-đà nói: Người cầu sinh Tịnh độ phải tu.
Trong kinh Hoa Nghiêm nói: Bậc Ly Cấu Địa có khả năng gần gũi trời, người, cho đến cõi trời Hữu Đảnh thì phải lấy Thập thiện làm duyên thọ sinh. Hàng Thanh văn cho đến quả vị Phật cũng do thập thiện làm gốc mà vào đạo. Nếu không vâng theo lời Phật dạy thì đọa vào ba đường. Nếu được thân người lại gặp hai thứ ác báo, đều do không tu thập thiện. Kính thờ thập thiện làm mười giới chính là nền tảng của Tịnh độ, khuyên mọi người thường tu thập thiện. Thực hành pháp môn này là vườn pháp của Bồ-tát khiến cho mọi người an trụ trong vườn pháp ấy, có thể đến đại thành vô úy để chứng đến địa vị không lui sụt. Công đức lớn không thể suy nghĩ bàn luận. Đây là điều Phật tử nên học.
11. Tin sâu nhân quả.
Giữ tâm trong sạch để đạt đến đại đạo, tin sâu nhân quả thế gian, bước theo con đường huyền diệu. Nghiên cứu tường tận cội nguồn ấy, chắc chắn phải ở yếu chỉ này. Về mặt dụng thì đối với tâm pháp gọi là tâm. Tâm ấy càng đủ muôn hạnh hội thông nơi chúng sinh. Bởi vì lấy tâm vô thường để chuyên chở thiện ác, thay nhau dùng tội phước làm ảnh hưởng, cho nên nhân quả không trái nhau. Thế nên, biết cảnh động gọi là nhân; do cảnh động thức sinh gọi là duyên, duyên khởi thì có tướng nghiệp, có nghiệp thì chắc chắn có quả báo. Cho nên nhân thiện, ác ở thế gian, cũng là cái quả bốn sinh, chín hữu, ba cõi, sáu đường ở đời sau. Pháp môn niệm Phật là nhân xuất thế gian, chín phẩm hóa sinh Tịnh độ thành Phật là quả xuất thế gian. Đối với nhân quả trên thì trong tâm đã rõ nên không ưa thích pháp thế gian. Còn đối với pháp xuất thế gian thì tâm, hạnh không trái nhau; niệm niệm không quên Tịnh độ, tâm tâm không lìa chữ Di-đà. Vì sao biết như vậy? Vì như nay niệm Phật là nhân, lúc qua đời được về Tịnh độ là quả. Phải tu nhân lành thì mới được quả quý. Điều đó không sai.
Ôi! Thiện ác, khổ vui đều do Tam nghiệp gây nên, do bốn duyên sinh ra, nhân sáu đường thành tựu thì thuộc về năm quả. Nếu một niệm sân nhuế khởi lên tức là nghiệp địa ngục; san tham là nghiệp ngạ quỷ, ngu si ám độn là nghiệp súc sinh, ngã mạn cống cao là nghiệp A-tu-la; giữ chắc năm giới là nghiệp của người, tu thập thiện là nhân của cõi trời; chứng ngộ nhân không là nghiệp Thanh văn; biết tánh duyên khởi là nghiệp Duyên giác; Lục độ cùng tu là nghiệp Bồ-tát. Chân từ bình đẳng là nghiệp Phật. Nếu tâm tịnh thì liền hóa sinh về cõi thanh sạch, hương thơm, cây báu; Tâm uế thì rơi vào cõi nhơ uế, hầm hố gò đồi. Chịu thân hình nào đều là quả báo đẳng luân, thường cảm duyên tăng thượng. Thế nên xa lìa tâm xấu để được hình thể tốt đẹp. Kinh Duy-ma nói: Muốn được cõi thanh tịnh phải rửa sạch tâm mình, nên biết tất cả duy tâm, vạn pháp duy ngã. Ta muốn được quả tịnh thì phải tu nhân tịnh. Nên biết: Xiển-đề bị tà ma xúi giục nên tâm uế khởi lên, phải đọa vào địa ngục một ngàn kiếp. Người phỉ báng nhiễu loạn, không tin nhân quả là quyến thuộc của tà ma. Quán xét quả báo như bóng theo hình, tin nhân quả thì không dám làm điều sai trái.
12. Đọc tụng kinh điển Đại thừa.
Đã mến cảnh Tây phương nên cầu liễu nghĩa Đại thừa. Trong bóng tối có vật báu mà không có đèn soi thì cũng không hề biết được. Gương cũ bụi phủ đầy, nếu không lau chùi thì làm sao sáng? Đọc tụng kinh điển Đại thừa, Tam nghiệp thanh tịnh được nhất tâm; tôn kính Đức Phật, gần gũi bậc Thánh, thâm nhập kinh tạng, tâm khen ngợi đọc tụng thọ trì kinh điển mà hiện đời không đắc đạo thì cũng giống như cây thông mọc trên đỉnh núi cao chót vót, nhờ nhân tốt mà được xanh tươi và có nhiều lợi ích cho đời, còn cây quế sống trên đỉnh núi một trận mưa nhỏ thấm nhuần mới đơm bông tỏa hương, hoa sen mọc trong bùn lầy nhưng không bị bụi trần làm ô nhiễm. Tuy tánh hoa sen tự trong sạch và bản chất cây quế vốn cao quý đều do chỗ nương tựa (đất). Cao thì vi diệu, muôn vật đều có chỗ nương nhờ, đục trong không thể thấm vào.
Ôi! Cỏ cây vô tri còn nhờ điều lành mà thành. Con người có ý thức mà không nhân tâm để chứng tâm Phật, há không nghe Ngài Trí Giả tụng kinh Pháp Hoa thấy hội Linh Sơn chưa tan. Ngài Khuê Phong tụng kinh Viên Giác bổng nhiên tâm địa thanh thoát, đạt lý quên tình, khắp am khế hợp với yếu chỉ của kinh Hoa Nghiêm. Nghe câu "ưng vô sở trụ" Lục Tổ ngộ tông Bát-nhã. Hãy nhìn lại những bậc tiền bối mà noi theo. Người đời nay há có thể không học mà gọi là qua sông ư? Muốn qua bờ bên kia phải nương vào mái chèo, khi đến bờ thì không cần thuyền nữa.
13. Khuyên người tinh tấn.
Người mới học Phật, thì tâm đại bi là con đường chính của Bồ-tát hạnh lợi tha phải tu tập tinh tấn mới là Tịnh nghiệp. Do đây các Bậc hiền đời Tấn cầu sinh về nước An dưỡng, hải chúng ở mười phương đều ưa thích lìa bỏ cõi Ta-bà. Than ôi! Sinh tử khó trốn tránh, vô thường qua nhanh, có thể nào không kính mến và tu tập theo những bậc trí tuệ để dẫn dắt con cháu đời sau ư? Khuyên một người, hai người, cho đến nhiều người tu theo pháp môn này, mỗi ngày niệm một câu cho đến ngàn câu danh hiệu Đức Phật sẽ đến được chỗ nhiệm mầu của cõi Cực lạc. Mỗi ngày niệm một ngàn danh hiệu Phật, chứa nhóm cho đến một tháng, một năm thì niệm được ba mươi sáu vạn câu danh hiệu Phật. Cứ chứa nhóm dần dần cũng đến được đất Phật. Mỗi ngày làm một việc lành nhỏ, chứa nhóm đến một tháng, một năm thì có ba trăm sáu mươi việc lành, cứ chứa nhóm lần lần thì cũng bằng người quân tử. Kẻ ngu kẻ tiểu nhân, không chịu sám hối thì cũng giống như cầm thú, do không học cũng không khuyên người học. Kinh nói: Nếu có người dùng bảy chất báu trong bốn thiên hạ cúng dường Phật, Bồ-tát, Duyên giác, Thanh văn được phước đức rất nhiều, nhưng không bằng người khuyên người khác niệm danh hiệu Phật một câu, phước đức ấy rất lớn. Ấy là những điều Đức Thế Tôn khuyến khích tu tập. Cũng nói rằng: Mình muốn lập chí cũng muốn người lập chí, mình muốn thành đạt cũng muốn người thành đạt. Đây là sự khuyến tấn cố gắng của Trọng Ni. Do vậy chúng ta phải cố gắng cùng nhau niệm Phật, tôi luyện tịnh hạnh, hoặc vào tháng giêng, tháng năm, tháng chín cùng nhau nhóm họp lại để tu tập hoặc nửa năm, một năm, ba năm là một kỳ niệm Phật để trồng sâu thiện căn, đồng hồi hướng công đức này đến tất cả mọi người, nguyện họ thường làm bạn đạo với mình. Nếu có ai thoái chí rút lui thì cùng nhau khuyên bảo động viên họ, còn nếu ai nguyện lìa bỏ phàm tục tu tập thì quan tâm gần gũi. Tuy không thể hoằng giáo lợi tha nhưng cũng có thể ôn cũ biết mới, lẽ nào thấy người nghèo mà không bố thí một xu? Người xứng đáng được nhận ân huệ để làm lợi ích cho người mà ta cũng không nói giúp một câu. Người kia lẽ nào không biết tài thí cứu được sự nghèo thiếu trong một đời; bố thí thức ăn thì cứu được thân mạng trong một ngày, pháp thí thì giúp người ra khỏi trần thế; công đức ấy rất lớn không gì so sánh. Tài thí như ánh sáng ngọn đèn chỉ chiếu sáng một gian phòng; pháp thí giống như ánh sáng mặt trời chiếu soi cả đại thiên. Sẻn pháp không khuyến khích người khác tu thì nhiều kiếp đọa vào địa ngục hắc ám. Tự mình thúc liễm thân tâm và thực hành hóa đạo thì hiện đời là A-di-đà, dám mong vận dụng lòng từ khuyến khích mọi người đồng phát tâm bi này, nguyện kết Tịnh duyên này, nhổ gốc khổ đắm chìm, vượt thoát luân hồi, mau lên Tịnh độ để báo ơn Phật. Có thể gọi là người chưa được độ khiến cho được độ.
Pháp giới vốn không có chúng sinh; có chúng sinh do vọng kiến. Như lai vốn không ngôn giáo; có ngôn giáo là vì hữu tình. Vọng kiến là bệnh của chúng sinh; dùng lời nói để cảnh tỉnh vọng tâm thì vọng tâm được cảnh tỉnh. Hàng ngày phàm phu thường dùng tâm vọng mà không biết. Lời của Như lai rất ít có, cho nên Đấng Năng Nhân Đại Giác thương chúng sinh chưa ngộ, rủ lòng đại Bi đưa ra khuôn phép nhiệm mầu. Dạy yếu chỉ đốn ngộ, trong kinh Hoa Nghiêm nói: hàng Thanh văn nghe còn giống như đui như điếc. Kinh A-hàm nói: Bồtát không mong được lợi ích; kinh Phương Đẳng khen ngợi pháp môn niệm Phật; kinh Đại Bát-nhã thì nêu cao trí tuệ, trở về tánh không; kinh Niếtbàn: Đường đi khác nhau nhưng mục đích giống nhau, kinh Pháp Hoa thọ ký rộng khắp. Tất cả các kinh như thế đều thiên về khen ngợi Tây phương.
Bởi vì nguyện lực của Phật A-di-đà rất rộng lớn, nhân duyên mạnh mẽ, giáo pháp tôn quý, chân lý đầy đủ. Người tu theo giáo nghĩa này sẽ đến cõi Phật, về nơi đất báu, ao hoa thắng diệu trang nghiêm, khiến cho hành giả ưa thích cõi ấy, chán ghét cõi Ta-bà này. Nghĩa lý ấy chỉ ra tự tánh Diđà, niệm niệm tròn sáng, tâm tâm Thật tướng giống như trăm sông đều chảy về biển cả. Thực hành pháp môn ấy, mở bày mười sáu pháp quán thâu nhiếp tâm diệu cảnh, hiểu rõ tánh tướng là không, giống như gương sáng soi rõ hình bóng mình; quả chín phẩm lần lượt hóa sinh, thâu nhiếp tất cả hạng lợi căn và độn căn đồng chứng lên giai vị không lui sụt, đến vô thượng Bồ-đề.
Thế nên, chúng sinh chín cõi dùng tâm vô sở đắc tu diệu hạnh để sinh về cõi Phật cũng là hợp nghi. Bản hoài xuất hiện ở đời của Như lai là độ hết tất cả chúng sinh, thiên về khen ngợi là có yếu chỉ của nó.
Thật ra, yếu môn của trăm ngàn Tam-muội là nói thẳng cảnh giới nhất quán, nói về sự nghi thì sám hối lục căn, trừ sạch Tam nghiệp.
Nghiên cứu tông chỉ thì không có muôn pháp, hiểu rõ nhất tâm là con thuyền vượt qua biển khổ, là thuốc hay cứu người bệnh nặng. Người tin lời này là khai tâm bổn giác, ra khỏi khổ ngủ trược, đạt đến chân Tịnh độ, hiểu rõ tánh Di-đà. Như vầng trăng sáng trên hư không, như hoa sen không dính nước. Cho nên Liên giáo lấy hoa sen làm tên. Dương Vô Vi nói: Hoa sen mọc từ bùn dơ, như việc không bỏ thế giới chúng sinh, chỗ nhiễm ô phơi bày thể tánh thanh tịnh. Hoa có hạt chẳng phải cảnh ma. Hoa quả đồng thời, nhân quả như một. Hoa nở sen hiện, bày quyền hiển thật. Hoa rụng, sen thành, bỏ quyền lập thật. Một hoa sinh vô lượng hoa, kiến lập tất cả các pháp. Thập phương đồng ẩn trong một hoa, chỉ bày cảnh Phật không khác. Nghĩa của Liên giáo chính là được mất, cho nên phát khởi lòng Từ, vận dụng tâm Bi đi khắp trong thế giới Thường quang. Giới châu nghĩa hải là biển cả chứa vị giải thoát, cho nên trời rồng hộ trì, vua quan cung kính, xưa nay không biếng trễ, tất cả sĩ thứ đều kính mến môn phong giáo hóa này. Nếu không phải nguyện lực đại bi vỗ về thương xót thì người nào có khả năng đến đó được? Thế nên, Ngài Long Thọ luận chứng điều này, Ngài Phổ Hiền tu theo pháp môn ấy, Ngài Thiên Thai quyết chọn pháp môn này, Ngài Từ Ân thông tán, Ngài Từ Chiếu nhóm họp các Bậc hiền đức lại để cùng nhau sám hối, Ngài Tông Thản sớ giải. Túc Nạp là một danh Nho nhưng vẫn mến mộ pháp môn niệm Phật nên có Bảo Châu tập, những Cao Hiền, Đạt sĩ tu tập pháp môn này, ở đây chỉ nêu sơ lược đề mục. Đại pháp đi đến chỗ suy giảm, con người cách xa bậc Thánh. Người thờ Phật rất ít, phần đông đều mưu cầu đạo để tranh giành danh lợi về mình, xem truyền bá là trò chơi trẻ con. Do vậy khiến cho pháp môn điêu tàn, suy yếu, làm đảo lộn cương yếu giáo môn. Thế nên các Bậc hiền đời sau phải có trách nhiệm với giáo môn mình. Khắp mong vì pháp quên mình, nên giữ tâm trong sạch nương tựa vào thầy; vì muốn cầu thông hiểu chân thừa nên phải gần gũi cổ điển (sách xưa) Vâng theo lời dạy của các bậc Thánh mới có thể hiểu rõ nghĩa lý. Đã hiểu rõ nghĩa lý rồi thì mới tu tập, hạnh nguyện không thiếu, đạo quả mới có thể chứng. Nên biết: Tai nghe, mắt thấy phải nương vào bốn pháp, cùng tư duy tu tập. Nếu miệng tụng, tâm buông lung, thì cho dù hiểu cả ngàn chương cũng có ích gì? Ở đây thì tâm dùng giáo quán chiếu, Phật thì dùng niệm giữ gìn; chẳng phải dùng giới ngăn ngừa, tội căn cứ vào sám hối mà được rửa sạch, đạo do thực tiễn, động dùng lễ hành; gần thì mong được lập thân nổi tiếng; xa thì mong chuyển phàm thành Thánh, phát huy đạo của Phật Tổ, bỏ rơi bọn ta là ai? Cầm dao trí tuệ cắt dứt lưới ma, uống nước cam lồ chánh pháp, chặt rừng rậm tà kiến, tránh bạn ác như tránh hổ báo; tôn trọng bạn hiền như tôn trọng cha mẹ; cẩn thận giữ gìn chí tiết không lui sụt. Người có đại tâm chánh giác đáng tôn trọng; người có hành vi không đúng với đạo thì ta không noi theo. Nếu ta có lỗi thì phải mau sửa đổi; làm được việc tốt chớ có khoe khoang. Được như thế thì tự nhiên tránh xa tai họa; lễ nghĩa hội đủ; hiện tại đang ở trần thế thì được người kính trọng, trời che chở, một ngày kia sinh về Tây phương Tịnh độ thì các bậc Thánh trông chờ, đạo nghiệp thành đạt, đâu thể ở nơi hình tướng hỏi vận mệnh rồi dua nịnh để cầu thời vinh quang thành đạt. Đâu cần phải xem cảnh đoán vận số, bói toán cả ngày. Vì việc này chẳng phải là kiến thức của đạo nhân mà là vọng tình của phàm phu. Thế nên chớ vọng cầu nơi người khác, phải nương vào bổn phận của mình. Ở đời nên nhân mà không nhượng, thấy người khác vãng sinh thì cũng tu làm sao cho mình được vãng sinh, danh lợi không làm lay động hoài bão, sinh tử không đáng nhọc nghĩ suy. Muốn công thành chí toại thì sẽ được trọn vẹn. Do vậy phải nghiệm quả để suy nhân; tin có làm là có quả báo; trí tuệ đầy đủ thì chiếu soi mê mờ, ánh sáng đầy đủ thì phá tan bóng đêm, lời nói đúng pháp thì việc làm thường an vui, đức nghĩa đáng tôn trọng; tiến thoái có thể đo lường; phân biệt điều đúng, điều sai giống như thử vàng và đá, trừ mê mờ soi sáng muôn vật, giống như chiếu ngọn đèn chánh pháp ở thế giới Ta-bà. Đây là điều đấng đại Tôn Sư làm người bạn không mời, lấy ra vật báu dưới cung rồng, ban đều cho tất cả chúng sinh, mở cánh cửa môn phong của Tổ để những người sau trừ sạch bệnh tà kiến, chỉ cho họ pháp trở về nguồn mầu nhiệm, khiến cho gương mờ sáng lại, giống như áo bẩn mà giặt sạch khiến cho chân phong hưng thịnh, phước đến đại thiên, khiến cho mặt trời trí tuệ sáng hơn xưa, có thể gọi là đệ tử chân chánh của Đấng Pháp vương; có thể gọi là đại trượng phu, đó là phụng thờ giáo pháp Đại Thánh Tây phương, đâu có gì hổ thẹn?
1. Phật giảng pháp môn niệm Phật cho vua cha nghe.
Kinh Bảo Tích nói: Vua cha của Thế Tôn đảnh lễ dưới chân Phật, nhất tâm chắp tay mà bạch Phật rằng: Phải tu hành thế nào để được đạo của chư Phật?
Phật bảo: Tất cả chúng sinh đều là Phật, đức vua hãy niệm danh hiệu Phật A-di-đà ở thế giới phương Tây. Hãy tinh tấn tu tập sẽ được Phật đạo.
Vua hỏi:
- Vì sao nói tất cả chúng sinh đều là Phật?
Phật đáp:
- Bởi vì tất cả các pháp không sinh, không dao động, không lấy, không bỏ; không có hình tướng, không có tự tánh, đức vua hãy an trụ tâm mình trong pháp của chư Phật này, chớ tin ở người khác. Bấy giờ, vua Tịnh Phạn cùng bảy muôn người dòng họ Thích nghe Phật nói pháp rồi tin hiểu vui mừng, ngộ Vô sinh nhẫn. Phật mỉm cười nói kệ. Dòng họ Thích chắc chắn được trí tuệ cho nên chắc chắn sinh tín tâm đối với Phật pháp, an trụ trong cõi người; sau khi qua đời sinh về cõi nước An lạc, tận mặt thấy Đức Phật A-di-đà, không còn sợ hãi, chứng thành Bồ-đề.
2. Thiện Tài tham vấn năm mươi ba vị Thiện tri thức, đầu tiên là tham kiến Tỳ-kheo Đức Vân, nghe giảng pháp môn niệm Phật.
Phẩm Nhập Pháp Giới trong kinh Hoa Nghiêm chép: Tỳ-kheo Đức Vân nói với Thiện Tài rằng:
-Này thiện nam! Ta được tự tại quyết định giải lực, tín nhãn thanh tịnh, ánh sáng trí tuệ chiếu soi, quán khắp cảnh giới, lìa tất cả chướng, đầy đủ hạnh thanh tịnh. Đến khắp mười phương cúng dường chư Phật, thường nhớ nghĩ tất cả chư Phật Như lai, tổng trì chánh pháp của tất cả chư Phật, thường gặp tất cả chư Phật, tùy theo tâm ưa thích của chúng sinh mà thị hiện giúp họ thành chánh giác, ở trong đại chúng rống lên tiếng rống sư tử.
Này thiện nam! Ta chỉ được sự nhớ nghĩ này, tất cả cảnh giới chư Phật, ánh sáng trí tuệ thấy khắp pháp môn, đó là: Trí quang phổ chiếu niệm Phật môn, Linh nhất thiết chúng sinh niệm Phật môn, Linh an trụ lực niệm Phật môn, linh an trụ pháp niệm Phật môn, chiếu diệu chư phương niệm Phật môn, Nhập bất khả kiến xứ niệm Phật môn, Trụ ư chư kiếp niệm Phật môn, Trụ nhất thiết thời niệm Phật môn, Trụ nhất thiết sát niệm Phật môn, Trụ nhất thiết thế niệm Phật môn, Trụ nhất thiết, cảnh niệm Phật môn, Trụ tịch diệt niệm Phật môn, Trụ viễn ly niệm Phật môn, Trụ quảng đại niệm Phật môn, Trụ vi tế niệm Phật môn, Trụ trang nghiêm niệm Phật môn, Trụ năng sự niệm Phật môn, Trụ tự tại tâm niệm Phật môn, Trụ tự nghiệp niệm Phật môn, Trụ thần biến niệm Phật môn, Trụ hư không niệm Phật môn.
3. Bồ-tát Trí Thủ nói về niệm Phật.
Kinh Hoa Nghiêm nói: Trong tất cả oai nghi thường nhớ nghĩ công Đức Phật, đêm ngày không dừng nghỉ. Việc như thế nên làm.
4. Đại sĩ Long Thọ khuyên niệm Phật.
Luận Đại Trí Độ ghi: Phật là Đấng Pháp Vương vô thượng, các Đại Bồ-tát là pháp thần. Người được chư thần tôn trọng chỉ có bậc Pháp vương, cho nên Bồ-tát phải nên niệm Phật.
Lại ghi rằng: Có các Bồ-tát tự nghĩ lại mình xưa kia đã hủy báng Bát-nhã đọa vào đường ác trải qua vô lượng kiếp, tuy tu các pháp môn khác cũng chưa thể thành đạt được. Sau cùng gặp bậc Thiện tri thức dậy tu pháp niệm Phật Tam-muội liền đắc đạo, diệt trừ tội chướng mới được giải thoát. Lại nói kệ rằng:
Nếu người mong làm Phật
Tâm niệm A-di-đà
Tức thời sẽ hiện thân
Nên ta quy mạng lễ.
5. Niệm Phật có bảy công đức cao quý.
Cam Lộ Sớ nói:
1. Từ thiểu dị hành thắng: Chỉ xưng một câu "Nam-mô A-di-đà Phật", mọi người đều niệm được.
2. Niệm duyên Phật cảnh thắng: Nhất tâm duyên niệm tướng tốt của thân Phật thì cõi nước thanh tịnh là đất.
3. Ly nạn hoạch an thắng: Chư Phật Bồ-tát che chở người niệm Phật, không có các hoạn nạn, an vui tốt lành.
4. Xưng danh diệt tội thắng: niệm Phật một câu diệt trừ tội nặng trong tám mươi ức kiếp sinh tử.
5. Trì niệm hoạch phước thắng: Xưng niệm một câu danh hiệu Phật, phước đức hơn cả phước đem bảy chất báu trong thiên hạ cúng dường chư Phật và A-la-hán.
6. Quả cảm kiến Phật thắng: Chúng sinh niệm Phật chắc chắn được thấy Phật.
7. Thân nghinh vãng sinh thắng: Hóa thân Phật và Bồ-tát phát ra ánh sáng đón rước hành giả vãng sinh Tịnh độ.
6. Pháp môn tu trì.
Cảnh giới vô vi dứt bặt tên gọi. Nếu có sắc tâm hữu lậu thì phải dựa vào tu chứng chân như bao gồm các đức, phương tiện có nhiều môn. Trên từ lìa tướng bình đẳng, dưới đến xưng danh mười niệm, thảy đều không lìa Tam Thừa. Vãng sinh thầm hợp với chín phẩm; hữu niệm rốt cuộc cũng trở về vô niệm; hữu sinh thẳng đến vô sinh. Có thể nói một câu A-di-đà mọi căn cơ đều thích ứng.
Pháp môn lìa tướng niệm Phật Tam-muội vô trụ.
Tông chủ Từ Chiếu nói: Tam-muội về lìa tướng niệm Phật, người có trí tuệ thượng căn ngộ sâu lý này thường vận tâm bình đẳng như hư không, không có tướng ngã, nhân, chúng sinh và thọ giả. Kinh nói: "Lìa tất cả các tướng là chư Phật."
Luận nói: Ta vì chấp bên trong là nhân, bên ngoài là chúng sinh, cái theo trước là năng thọ, cái theo sau là nghĩa. Đã không có tâm chấp trong ngoài, trước sau thì tất cả tướng đều vắng lặng.
Kinh nói: Biết không có ngã, nhân thì ai chịu luân chuyển, cũng không có thân tâm để chịu sinh tử kia, cho nên gọi là "Tam-muội lìa tướng niệm Phật". Đây là thấy bản tánh của tất cả chúng sinh giống như Phật Di-đà. Đã không chấp hai bên hữu tướng và vô tướng, cũng không có thuyết thường kiến và đoạn kiến là niệm niệm Di-đà vượt ra thế giới, nơi nơi đều là Cực lạc. Hiện tiền như thế, niệm là niệm của vô niệm, niệm là sinh của chân như vô sinh, sinh là Thật tướng. Nên biết vô niệm tức là ly niệm, Thật tướng là vô tướng, vô tướng là vô trụ, vô trụ là vào cảnh giới Phật. Đây là đạo Vô thượng chánh chân Đại Bồ-đề. Nếu đến địa vị này tức là vô tu vô chứng, không có sinh tử để giải thoát; không có Niết-bàn để cầu, tánh tướng đều không, phàm Thánh bình đẳng; không có Phật đạo để thành, không có chúng sinh để độ; không có điều kỳ diệu để đắc. Không có một pháp đã có, không có một pháp mới thành. Tự tha đều bặt dứt, sự lý không ngại, mỗi hạt bụi đầy đủ, mỗi cõi đều toàn bày pháp vốn như vậy. Suy nghĩ bàn luận cũng không đến được. Có thể gọi là một con đường đến cửa Niết-bàn của các Đức Bạc-già-phạm ở mười phương.
8. Pháp môn niệm Phật Tam-muội tam quán của Ngài Thiên Thai.
Nắm không tròn, rải ra không bung
Xem đi xem lại thành ngớ ngẩn
Người người nếu đến đất ngớ này
Ba quán vốn dĩ là họa thai.
Đại sư Trí Giả nói: Giáo lý của chư Phật đã nói rõ chẳng phải quán hạnh, chẳng phải vì trở lại bản tánh mới căn cứ vào lý nhất tâm ba đế chỉ ra "ba chỉ, ba quán", mỗi một quán tâm, niệm niệm không thật có. Trước hết quán không, kế đến quán giả, sau cùng quán trung, lìa hai bên, quán nhất tâm, giống như trăng ra khỏi mây. Đây là hành tướng của Biệt giáo. Lại nói: Phá tất cả hoặc chẳng gì hơn không; lập tất cả pháp chẳng gì hơn giả. Rốt ráo tất cả tánh chẳng gì lớn hơn trung. Cho nên nói một trung tất cả trung, vô giả, vô không; vô bất trung; không, giả cũng như vậy, tức là hành tướng của Viên giáo. Như ba điểm của chữ "Y" Tây Thiên, ba mắt của trời Thủ-la, chẳng phải dọc, chẳng phải ngang, và khác nhau. Cho nên ba quán viên thành pháp thân bất tố tức là khác xa với cùng tử. Bồ-tát Long Thọ nói kệ rằng:
Pháp do nhân duyên sinh
Ta nói tức là không
Cũng gọi là giả danh
Cũng gọi nghĩa trung đạo.
Đây tuy khác với kinh Lăng-nghiêm, kinh Viên giác nói ba quán: Xa-ma-tha, Tam-ma-bát-đề, Thiền-na, danh mục tuy khác nhau nhưng đồng đi đến một điểm. Cũng gọi là ba đế, là đức tánh của thiên nhiên.
Trung đế: Bao gồm tất cả các pháp. Chân đế:
Dứt bặt tất cả pháp.
Tục đế: Lập tất cả pháp.
Đưa ra một tức là ba chẳng có trước sau, hàm sinh sẵn đủ, chẳng phải sở đắc của tạo tác. Bí tàng không hiển bày vì bị ba hoặc che lấp. Vô minh che lấp pháp tánh, trần sa chướng ngại việc hóa đạo; kiến tư làm trở ngại vắng lặng. Nhưng ba hoặc này là hư vọng về mặt thể. Do đây lập ra "Ba quán", phá "Ba hoặc", chứng "Ba trí", thành "Ba đức".
Không quán: Phá kiến hoặc, tư hoặc, chứng trí nhất thiết, thành đức bát-nhã.
Giả quán: Phá hoặc trần sa, chứng trí đạo chủng, thành đức giải thoát.
Trung quán: Phá hoặc vô minh, chứng Nhất thiết chủng trí, thành đức pháp thân, chẳng phải đều khác nhau, cũng chẳng phải khác thời; lý thiên nhiên đầy đủ các pháp, nhưng tánh ba đế này tự nó đã cùng tột lý tánh. Vì thế nó và Thiền tông khác mà chẳng khác. Lúc hành giả niệm Phật thì ý căn là nhân, bạch hào viên quang là duyên, niệm sinh khởi tức là pháp sở sinh, đế quán tâm niệm Phật khởi tức là giả danh, quán suốt thể tức là không, tâm này có Như lai tạng, lìa biên hiển trung. Hoặc căn hoặc trần đều là pháp giới, chư Phật, chúng sinh một niệm ứng khắp, ngang nơi biên là trung, không Phật, không niệm. Đây là Đại thừa tu tập viên mãn ba quán niệm Phật. Có thể gọi là vô tướng, vô không, vô bất không, tức là tướng của Như lai chân thật.
9. Pháp môn Không quán niệm Phật Tammuội vô niệm.
Về Không quán niệm Phật Tam-muội, bài tựa của Tổ Sư nói: Chuyên nghĩ nhớ vắng lặng, tâm chuyên nhất không xao động, khí hư thần minh, không tối tăm nào thấu suốt, nhập vào định này quên cả tri kiến, trần lụy mau tiêu trừ, tình thức ngưng đọng đều dung hòa sáng tỏ, không phải là chí diệu trong thiên hạ thì ai có thể đến được chỗ này ư? Đại sư Trí giả lấy "không quán" để tẩy sạch tất cả pháp. Cho nên nói: "Một không tất cả không". Không có giả và trung nào chẳng phải không, nhập vào quán này là xét thật chân đế. Nay muốn làm cho hành giả bỏ vọng về chân nên nói pháp này: Từ giả quán vào không quán, vì giả là phương tiện để nhập không. Trước quán tất cả pháp là giả, cho đến bốn đại, năm uẩn, lục căn, lục trần, sáu thức, cho đến cùng tận các thế giới mười phương, núi sông đất đều không có một vật. Hiểu rõ luống dối thì hiểu được chân, cho nên gọi là nhị đế quán.
Người tu pháp quán này trước phải nhiếp tâm tĩnh tọa, quét sạch không dính mắc vào tất cả cảnh giới luống dối không thực ở thế gian, chỉ quán "không", cho nên kinh Bát-nhã nói: Trong không, ngoài không, trong ngoài đều không không, cái không không, cũng không thật có. Như thế đốn nhập vào biển không Bảo Minh của Như lai.
Tánh giác chân không tức Như lai tạng, tánh không tròn sáng, linh quang chiếu khắp pháp giới tánh. Như hạt châu ma-ni tùy ý sinh ra, giống như biển cả sâu rộng gồm nhiếp, bình đẳng tánh trí gọi là Phật tri kiến; có thể gọi là các hành pháp vô thường, tất cả không tức là Như Lai đại viên giác.
10. Pháp môn Nhất quán niệm Phật Tammuội chuyên tưởng. Kinh Quán Vô lượng Thọ nói:
-Phật bảo Vi-đề-hy: Phu nhân và chúng sinh nên chuyên tâm buộc niệm một chỗ, tưởng về Tây phương. Khi thực hành tưởng thì tất cả chúng sinh nếu không phải là người mù bẩm sinh, là người có mắt thì đều thấy mặt trời lặn, phải khởi tưởng niệm đang ngồi hướng về phương Tây, quán kỹ mặt trời, khiến cho tâm an trụ vững chắc không dời đổi. Lúc mặt trời sắp lặn giống như chiếc trống treo, đã thấy mặt trời rồi mở mắt nhắm mắt đều rõ ràng. Đây là tưởng mặt trời, gọi là sơ quán. Hành giả nhập vào quán này, phải ở chỗ vắng lặng, cắt dứt mọi duyên bên ngoài, ngồi ngay thẳng nhiếp tâm quán kỹ vầng mặt trời hiện ở trước mắt, chú tâm vào một cảnh thì tâm sẽ lắng đọng yên tĩnh, giống như soi gương thấy mặt của mình. Nếu tâm rong ruổi thì chế ngự khiến cho trở về, tâm ngưng nghì thì đó là trụ nơi định tức là đắc Tam-muội, có thể gọi là quạ vàng đáy biển (thấy) mặt trời trên hư không, con ngươi trong mắt (nhìn) người trước mặt.
11. Pháp môn tham Thiền niệm Phật rốt ráo.
Bài tựa Thiền kinh của Tổ sư Tuệ Viễn nói: Thiền chẳng nhờ trí thì không thể đến chỗ tột cùng của Sự vắng lặng của nó. Trí chẳng nhờ thiền thì không thể soi chiếu sâu xa. Sự soi chiếu và vắng lặng của thiền và trí giúp đỡ nhau. Chiếu không lìa tịch, tịch không lìa chiếu, cảm thì cùng xa, ứng thì đồng hướng đến. Ngài Từ Chiếu nói: Tịch mà thường chiếu, chiếu mà thường tịch. Thường tịch, thường chiếu, gọi là thường tịch quang. Người niệm Phật muốn tham thiền thấy tánh thì hãy căn cứ vào pháp này, phải ở trong ngôi nhà vắng lặng, ngồi ngay thẳng, quét sạch các duyên ràng rịt, cắt dứt tình trần, mở to hai mắt.
Ngoài không dính mắc ngoại cảnh, trong không trụ nơi định, soi chiếu trở lại mình, trong ngoài đều vắng lặng. Sau đó liên tục niệm "Nam-mô A-di-đà Phật" năm ba câu, soi xét trở lại mình nói: Thấy tánh thì thành Phật rốt ráo là A-di-đà trong bản tánh của ta. Lại quán chiếu "nhất niệm" khởi ở đây từ nơi nào khởi, quán phá một niệm này, lại nói phá một niệm này là ai?
Tham vấn hồi lâu lại đề cử niệm "Nam-mô Adi-đà Phật", lại quán như thế, tham như thế, tha thiết thực hành công phu, đừng để gián đoạn. Tỉnh táo không mê muội, như gà ấp trứng, không câu chấp trong bốn uy nghi, cũng đề cử như thế, quán như thế, tham như thế, bỗng nhiên ở nơi hành sử khi nghe tiếng thấy sắc bỗng nhiên sáng tỏ, đích thân thấy bản tánh Di-đà. Trong ngoài thân tâm nhất thời thông thoát, tận cùng trời đất là Tây phương, muôn tượng sum la đều là tự kỷ. Tĩnh không mất chiếu, động không rời tịch. Sau đó phát khởi lòng từ, vận dụng tâm bi, dìu dắt những người chưa biết, bi trí viên dung, nhập vào vô công dụng hạnh, được sinh lên thượng phẩm, gọi là Thật báo trang nghiêm độ, được Nhất thiết chủng trí. Có thể gọi là trăng hư không trên đầm xanh muôn xưa, nhiều mò vớt mới biết được.
12. Pháp môn Nhiếp tâm niệm Phật Tammuội điều tức.
Phẩm Hiền Hộ trong kinh Đại Tập nói: Người cầu vô thượng Bồ-đề phải tu niệm Phật Thiền Tam-muội có kệ chép: Nếu người chuyên niệm danh hiệu Phật A-di-đà gọi là thiền vô thượng thâm diệu. Lúc dốc lòng quán tưởng thấy Phật tức là pháp bất sinh bất diệt. Kinh Tọa Thiền Tam-muội nói: Bồ-tát tọa thiền không nhớ nghĩ gì cả, chỉ nhớ Phật thì được Tam-muội. Hàng sơ cơ tu tập không tránh khỏi hôn trầm tán loạn thì nên quán tất cả là giả để đối trị trời người. Bảo Giám nói rằng:
-Hễ tu thiền định phải nhập tịnh thất thân ngồi ngay thẳng, đếm hơi thở ra vào. Từ một đến mười, từ mười đến trăm, từ trăm đến ngàn muôn thì thân này an trụ, tâm này vắng lặng, bình đẳng như hư không... không nhọc công ngăn chặn. Quán như vậy một hồi lâu thì hơi thở tự an trụ, không ra, không vào. Lúc ấy biết hợi thở này từ trong tám vạn bốn ngàn lỗ chân lông như mây mù lan tỏa, những tật bệnh từ vô thỉ đến nay đều tự tiêu trừ, các chướng ngại tự tiêu diệt, tự nhiên tỏ ngộ. Giống như người mù bỗng được sáng mắt, lúc ấy thấy thấu suốt, không cần nhờ người chỉ đường. Nay nhiếp tâm niệm Phật này muốn mau thành Tammuội thì phải dùng pháp quán sổ tức để đối trị bệnh hôn trầm tán loạn. Lúc sắp ngồi thiền, trước nghĩ thân mình ở trong vầng ánh sáng tròn, quán ngay đầu mũi tưởng hơi thở ra, thở vào. Mỗi lần thở nên niệm thầm Nam-mô A-di-đà Phật. Cách điều hòa hơi thở là tâm không nhanh, không chậm, hơi thở và tâm nương nhau ra vào. Phương pháp này đi, đứng, nằm, ngồi đều thực hành được cả, đừng để đứt quãng, thường phải hành trì nối nhau cho đến lúc thâm nhập vào thiền định; hơi thở và niệm đều quên thì thân tâm này đồng với hư không. Thực hành lâu ngày, tâm thuần thục trí tuệ sáng suốt, Tam-muội hiện tiền tức là duy tâm Tịnh độ.
13. Pháp môn Nhất tưởng niệm Phật Tammuội chuyên niệm.
Kinh Đại Bát-nhã nói: Ngài Mạn-thù-thất-lợi bạch Phật rằng:
- Các Bồ-tát tu hành pháp môn gì để mau chứng Vô thượng Bồ-đề?
Phật đáp:
- Bồ-tát tu hành Tam-muội Nhất tướng trang nghiêm mau chứng Vô thượng Bồ-đề. Hành giả tu pháp môn này không nói chuyện vô ích, không nghĩ đến các tướng, chuyên tâm buộc niệm vào một Đức Phật, nhớ lấy danh hiệu, khéo nghĩ tưởng dung nghi của Phật, tức là quán khắp tất cả chư Phật ba đời thì được tất cả trí tuệ của chư Phật. Luận Thập Nghi của Ngài Thiên Thai nói:
- Tất cả chư Phật đều bình đẳng nhưng căn cơ của chúng sinh phần nhiều chậm lụt, vẩn đục, hỗn loạn. Nếu không chuyên tâm buộc niệm vào một danh hiệu Phật thì tâm sẽ tán loạn, lâu được định, khó thành Tam-muội. Cho nên phải chuyên niệm Phật A-di-đà, tức là nhất tướng Tam-muội. Luận Bảo Vương nói:
- Người tu trì Tam-muội Nhất tướng niệm Phật phải thường buộc niệm, trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi cũng nghĩ nhớ đến danh hiệu Phật A-di-đà. Lúc lên giường ngủ cũng niệm Phật, vừa mới thức giấc cũng niệm nối nhau, không để một việc khác xen vào làm đứt quãng; Không để tham sân làm gián cách. Tùy theo sự sai phạm mà sám hối; niệm niệm không xen hở, không nghĩ việc khác, không cách ngày, không cách giờ, niệm niệm thường không lìa Phật, niệm niệm thanh tịnh tròn sáng thì đó là được Tam-muội nhất tướng, cũng có thể gọi là. Nếu đã liễu ngộ thì muôn việc xong.
14. Pháp môn Lục thời niệm Phật công đức hồi hướng.
Tổ sư Tuệ Viễn kết xã ở Đông Lâm, tăng tục đồng tu Đại trí thượng hiền, thâm nhập thiền quán đắc Tam-muội niệm Phật. Kẻ sĩ trung lưu sáu thời tu tập lễ bái Tịnh độ hồi hướng Tây phương. Đời Đường có bài thơ rằng: "Tuệ Viễn riêng khắc liên hoa lậu, vẫn hướng về núi lễ bái sáu thời."
Hễ tu pháp môn này, thì trước phải ở trong tịnh thất thờ tượng Phật, cúng dường hương hoa đèn đuốc, quét dọn bụi bặm, mặc áo mới sạch, mỗi ngày vào buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều, đầu hôm, nửa đêm và gần sáng nên đối trước Tam bảo, ngồi thẳng chắp tay, tín lễ Tây phương. Mỗi thời lễ bái mắt phải quán tôn dung từ bi của Phật, xưng Thánh hiệu Phật A-di-đà một ngàn câu, tụng văn phát nguyện hồi hướng Tây phương rồi lạy Phật bốn mươi tám lạy. Ngày ba thời, đêm ba thời, hành đạo tinh chuyên không mệt mỏi, ý chí tu trì, hạnh nguyện vững chắc, Tịnh nghiệp viên thành, một ngày kia chắc chắn được trung phẩm trung sinh.
15. Pháp môn Sám tội niệm Phật công đức hệ niệm.
Kinh Đại Di-đà nói: Lúc ta thành Phật, dân chúng, chư thiên ở vô số thế giới chư Phật, trong mười phương nghe danh hiệu ta đều đốt hương, rải hoa, đốt đèn, treo phướn, cúng dường trai cho Samôn, xây dựng chùa tháp, trai giới thanh tịnh, làm các việc lành, nhất tâm buộc niệm vào danh hiệu ta, tuy chỉ trong một ngày đêm xưng niệm không dứt cũng được sinh về nước ta. Nếu không được như vậy thì ta nguyện không thành Phật. Lại nói:
Lúc ta thành Phật, các trời, nhân dân trong vô số thế giới, ở mười phương, cho đến các loài côn trùng nhỏ nhít đời trước gây ra nghiệp ác, nghe danh hiệu ta đều sám hối làm lành, vâng giữ kinh giới, nguyện sinh về cõi nước ta, thì lúc qua đời không đọa vào ba đường ác, thọ thân đời sau, tất cả những điều mong muốn đều được như ý. Nếu không được như thế thì ta nguyện không thành Phật.
Người tu trì, trước phải sửa soạn đàn tràng trang nghiêm sạch sẽ, đốt hương đèn cúng dường, thỉnh một vị Tỳ-kheo và các bậc Thượng thiện đồng lên đạo tràng để chứng minh rồi niệm hương bạch Phật, tỏ bày chí nguyện của mình; xua tan lo âu, tâm không lo buồn, chớ tham dự vào việc gia đình, đừng gần gũi người thân, nên trai giới tu trì, buộc niệm vào danh hiệu Phật; ngày đêm niệm Phật một ngàn câu, tụng kinh A-di-đà. Thực hành như thế mỗi ngày ba thời, dốc lòng sám hối hồi hướng; nói rằng: nay con tự nhớ, từ lúc sinh ra đến nay đã gây ra nhiều nghiệp ác, hôm nay nguyện nhờ công đức niệm Phật này mà được vào biển đại thệ của Như Lai, nương năng lực Từ bi của Phật, được tiêu trừ tất cả tội chướng, giải tỏa oan khiên, Tam nghiệp thanh tịnh, sinh ra các công đức lành, trang nghiêm thanh tịnh. Nguyện được phước trí hiện tiền, nguyện biết trước ngày giờ qua đời, lúc sắp qua đời thân không bệnh khổ, tâm không điên đảo như nhập vào thiền định; trong khoảnh khắc sinh về Cực lạc Tây phương, được Phật tiếp dẫn, ở trên đài sen trong ao bảy báu, được Phật thọ ký, được nghe giáo pháp, mau được trí tuệ Phật, độ tất cả chúng sinh, thỏa nguyện Bồ-đề. Có thể gọi là nước chảy bên vách đá, gió thổi hương hoa bay tỏa.
16. Pháp môn Thần hôn niệm Phật công đức tín nguyện.
Bồ-tát tại gia thờ Phật giữ giới, hằng ngày làm các việc nhà, chưa thể nhất tâm tu hành thì: Buổi sáng phải dậy sớm đốt hương, tham thừa pháp Tam bảo, tùy ý niệm Phật, buổi chiều cũng như thế. Lễ bái, niệm Phật phải là thời khóa hàng ngày. Nếu có hôm nào bỏ sót một thời thì ngày hôm sau phải tự sám hối trước Phật. Pháp môn này thích hợp cho mọi tầng lớp. Kẻ sĩ đọc sách vẫn tu trì được. Nhà nông trồng trọt vẫn tu trì được. Người thợ làm việc vẫn niệm Phật được, những người buôn bán vẫn niệm Phật được. Ngoài việc sáng xem kinh, chiều lễ Phật, còn phải tranh thủ thời gian mười hai thời trong ngày để công phu, trì danh hiệu Phật, từ trăm câu đến ngàn câu, lấy sự chí thành làm công phu để mong vãng sinh Tịnh độ. Hồi hướng rằng: Đệ tử... với công đức lễ bái niệm Phật nguyện lúc qua đời được sinh về Tịnh độ, bên bờ ao sen đích thân gặp Phật A-di-đà; trong những hàng cây báu gặp gỡ bạn lành, nguyện khắp cho cha mẹ, sư trưởng và chúng sinh trong pháp giới đều được như nguyện này. Có thể nói là nhiều hạt bụi thành ngọn núi lớn, một giọt nước nhỏ lâu ngày cũng thành dòng sông.
17. Pháp môn Giản kính niệm Phật công đức thập niệm.
Ngài Từ Vân Sám Chủ nói: Người ở thế gian, công việc bề bộn, mỗi ngày vào buổi sáng sớm nên mặc áo mới sạch, xoay mặt về phía Tây, chắp tay niệm danh hiệu Phật A-di-đà, niệm Phật luôn một hơi là một niệm. Cứ như thế đến mười hơi, tùy theo hơi thở ngắn hay dài, lấy dứt hơi làm chừng, tiếng niệm Phật không cao không thấp. Đặt tâm vào câu niệm Phật, như thế đến mười hơi nối nhau không đứt quãng, định tâm chuyên tinh niệm Phật thì công đức hiển bày. Đó là nương vào hơi thở để buộc tâm. Hồi hướng rằng:
Con pháp danh... một lòng quay về nương tựa Đức Phật A-di-đà ở Tây phương. Nguyện Ngài dùng ánh sáng thanh tịnh nhiếp thọ con. Nay con niệm danh hiệu Như Lai mười niệm, cầu sinh Tây phương. Phật xưa đã nguyện; nếu có chúng sinh nào muốn sinh về nước ta thì xưng danh hiệu ta dù chỉ mười niệm, nếu người ấy không được sinh về nước ta, thì ta nguyện không thành Phật. Nay con đem công đức mười niệm này nguyện lúc qua đời tâm không điên đảo, trong khoảng khắc sinh về cõi Cực lạc, nghe pháp nhiệm mầu của Phật, mau chứng Bồ-đề. Có thể gọi là nếu tín tâm không lui sụt thì chắc chắn sẽ được gặp Phật.
18. Bài tựa viên dung tứ độ tuyển Phật đồ của Từ chiếu tông chủ.
Tịch quang, Đồng cư là một không khác, nhưng tình sinh kia đây nên thấy có thân sơ. Trước mặt rõ tánh sắc không, là như như, vốn không hai đường mà tự thấy có diệu có thô, ta thì không như thế. Tất cả đồng một thể Tỳ-lô, trước phải biết gốc để khỏi bị những cặn bả dơ bẩn dính vào. Hành có hành tướng, trí có trí mô, nguyện có nguyện lực, tấn có lộ trình. Tỉnh tỉnh lặng lặng như hạt châu sáng sạch chiếu suốt vào tâm thể phàm Thánh, đồng một đường đi, bốn cõi đồng theo vết chân xưa, ba thân như một thì tất cả lời nói, việc làm đều là Tịnh độ; khắp nơi khắp chốn đều niệm Di-đà. Còn sơn tăng vì thấy bốn độ hỗn loạn, không có luân trí chuyển hành dung, đến nỗi khiến cho kẻ độn căn, người lợi căn không phân biệt được, nhân quả đều mất, chỉ nói Tịnh độ mà không biết Tịnh độ cao thấp, chỉ nói "Duy tâm" mà không biết sự sâu cạn của tâm, cho nên thấy các nhà huỷ báng nhau, mỗi người chấp một bên, ai biết mình tự phá tông phong, chẳng phải ma có thể phá được. Nay nói sơ lược để khai mở một tuyến đường, nêu ra bốn đồ họa để dứt bỏ mê tình, mau hiểu được tâm địa. Sau đây, hà sa thế giới đều gom trong một trang giấy; vô lượng pháp môn sẽ nêu ra trong gang tấc.
Biểu đồ tướng chung bốn cõi viên dung:
Tự tánh Phật Di-đà
Do tâm cơ Tịnh độ
Khi ngộ, chỉ một niệm
Mê trải qua ba kỳ (*)
Lập hai môn chiết nhiếp
Phàm Thánh một đường về
Tình đời xem nóng, lạnh
Mặt người tùy thấp, cao
-Phàm Thánh đồng cư độ (cõi phàm Thánh cùng ở)
Tam quang cụ túc
Như ấm tự xuất thân
Tình Phàm Thánh khác, trí có khác
Phải nương tu chứng hợp Tỳ-lô
Sợ người sức yếu đi mệt mỏi
Nửa đường dừng, quyền chỉ Tây phương
Ngang vượt hai cõi, ít người biết
Dễ tu dễ đến chớ nghi ngờ
Trần cấu chưa dứt cầu giải thoát
Nhất tâm tín nguyện niệm Di-đà
Qua đời chánh niệm đi rõ ràng
Ba sáng bảy ngày biết giờ trước
Đã sinh Tịnh độ thường nghe pháp
Lo gì không ngộ được tâm cơ
Nguyện không lui sụt
Ba đức mê
Tông-dụng-thể Thắng-liệt-ứng
Tình kiến chưa dứt
Còn đủ phiền não
Mười niệm thành tựu vãng sinh
Vượt ra ba cõi theo chiều ngang Tu-đà-hoàn và trời người trông thấy.
Thân cao tám thước.
Phàm Thánh cư.
Cõi này, tăng, tục, nam, nữ đều ở chung nhưng có tín nguyện niệm Phật nên đều được vãng sinh. Cho dù chưa dứt bỏ phiền não, không xuất gia, không tu thiền định, chỉ niệm danh hiệu Phật nhưng đến lúc qua đời cũng được Phật Di-đà tiếp dẫn, liền sinh vào cõi Tịnh độ, được thần thông, được bất thoái chuyển, thẳng đến Bồ-đề. Cõi Phàm Thánh đồng cư chính là cõi tự tha thọ dụng, đầy đủ ba thứ ánh sáng, nhiếp hết bốn cõi chín phẩm hóa sinh theo lý, ba cõi sau đều ở trong đó nhưng chỉ dẫn ra hạ hạ phẩm là vì tổ sư biết rõ nó dễ tu dễ về. Các phẩm vị cao thấp khác đều tùy theo hạnh nguyện tu chứng mà thành tựu.
Phương tiện thắng cư độ (Như biên công xuất thân)
Dứt bỏ phiền não bặt dấu vết
Trí diệt tâm nguội đã thôi nghỉ
Bảo sở không thể bước đến trước
Như lai phương tiện nên giữ lại
Tánh Thanh văn dọc ra ba cõi,
Phiền não trần lao mau dứt trừ,
Tám định bốn thiền thường quán luyện
Thoát hẳn trần thế, không trở lại
Hạnh không lui sụt
Đức giải thoát Thể dụng tông
Thân thắng ứng Trí Nhất thiết
Phá kiến hoặc, tư hoặc
Bát quan đẳng sinh
Vượt ra ba cõi theo chiều dọc
Đệ tử Thanh văn chứng quả thứ tư v.v... thấy được: Thân vàng trượng sáu La-hán cư:
Cõi này đều là những vị căn tánh định tánh Tiểu thừa, sợ ba cõi như sợ cọp, quỷ, rồng, rắn. Họ phá kiến hoặc, tư hoặc, dứt bỏ tham sân si, dứt hạt giống Như lai như con hoẵng nhảy đi một mình không nhìn lại bầy đàn phía sau. Thiên chấp về cái biết hạn hẹp, chìm đắm vào sự vắng lặng nên sinh ở Phương tiện độ. Nên Đức Như lai nói thuần Đại thừa để điều phục họ.
Thật báo trang nghiêm độ
(Như khoa tuyển xuất thân)
Tâm pháp nhỏ nhiệm chưa dứt bỏ
Nên biết tình hết, mới trừ gốc, Mồ hôi dính áo chưa cởi được Hạt bụi nhỏ chướng
ngại trời đất.
Chẳng ngang chẳng dọc lý hợp nghi
Ba quán, tâm lặng tiến chẳng nghi
Sức mình chưa thể lên bờ giác
Trở lại căn cơ các Thánh hiền
Như nguyệt chi quang (Như ánh sáng trăng)
Trí không lui sụt
Đức Bát-nhã
Dụng tông thể
Báo thân viên mãn
Trí Đạo chủng
Phá hoặc trần sa
Phần phá hoặc vô minh
Ba tâm khắc bị sinh
Ra khỏi ba cõi chẳng theo chiều ngang, chẳng theo chiều dọc.
Tám vạn bốn thiên tướng tốt là chỗ thấy của các vị Nhất sinh bổ xứ và các vị đại sĩ.
Bồ-tát cư:
Cõi này đều đã tu trọn vẹn ba quán, Thập trụ, Thập hạnh, Thập Hồi hướng, Thập địa, Đẳng giác pháp thân Đại sĩ như bụi, như cát; mỗi mỗi đều phần phá vô minh. Phân thân khắp mười phương. Tám tướng thành đạo, độ thoát chúng sinh, đều chưa rốt ráo. Lời dạy của Ngài Thiên Thai Hiền Thủ thật rõ ràng.
Thường Tịch quang Tịnh độ:
Như nhựt chi quang (như ánh sáng mặt trời)
***
Cảnh trí như như bặt tu chứng
Không còn việc nhàn vướng mắc tâm
Tình hết kiến trừ, tin tức đoạn
Một vầng trăng sáng giữa trời thu
Cửa ngang thấu đảnh không nghĩ bàn
Chỉ ở đương niệm dứt tư duy,
Duy tâm Tịnh độ chỉ tâm tịnh
Ngay đó gánh vác, cơ bậc nhất
Trí tỏ, mê trừ không phiền não
Trở về nguồn cội riêng mình biết
Vô tâm, thân khắp trần sa giới
Mặc tình thâu nhiếp các căn cơ
Vị không lui sụt
Đức Pháp thân
Tông, thể, dụng
Pháp thân thanh tịnh
Nhất thiết chủng trí
Phá hết ba hoặc
Một niệm bất sinh
Xung quan thấu đỉnh
Vô thượng chánh chân chư
Phật sở kiến
Thân pháp giới
Quả nhân cư
Cõi này là cảnh giới tối thượng thừa hoặc dứt, tình quên, các pháp không sinh, bát nhã không sinh, bất sinh không sinh, gọi là Đại Niết-bàn. Rốt ráo ở đỉnh núi Niết-bàn cõi trang nghiêm Thường tịch Quang gọi là Thanh tịnh pháp thân Tỳ-lô-giána Phật, gọi là "Đến bờ kia", cũng gọi là chính mình trước kiếp không.
Bốn Độ ở Đông phương
Bốn cõi không chia nơi
Tình sinh nên ngăn ngại
Ngộ mê chia lớn nhỏ
Tịnh uế ngăn Tây Đông
Muôn hữu thân tuy khác
Cơ trời lý tự đồng
Gió xuân thổi phớt qua
Chỗ nào không hoa hồng?
Đại kiến trước sau không đổi
Tiểu kiến chín phẩm khác nhau
Thượng trí, chỉ ở nhất tâm
Hạ trí, Đông Tây ngăn ngại
Bốn độ ở Tây phương.
Như ánh sáng mặt trăng, sinh đủ cả tám vạn bốn ngàn tướng tốt và ba tâm.
Như ánh sáng của các vì sao, sinh thân vàng một trượng sáu và tám cánh tay.
Như ánh sáng đom đóm, sinh thân cao tám thước và mười niệm thành tựu.
Bồ-tát nhất sinh bổ xứ và các Đại sĩ được thấy cõi Thật báo. Đệ tử Thanh văn được thấy cõi Phương tiện.
Tu-đà-hoàn và các vị trời, người được thấy cõi Đồng cư.
Chớ cho Tây phương xa
Tây phương trước mắt ta
Tuy nói vượt mười muôn
Không hề lìa Tam thiên
Vừa cất tiếng niệm Phật
Ao sen đã nở hoa
Nếu tín tâm không lui
Chắc chắn lễ Như lai.
Tây phương là chấp tướng, nhàm chán tu hai môn. Nếu người hiểu được điều này thì mọi nơi đều là Tịnh độ.
Người ở địa ngục A-tỳ nương vào chánh niệm mà được an vui, thân độ Tỳ-lô không rời một niệm của hạ phàm. Ngài Trí Giả nói: Đâu lìa Già-da mà cầu cõi Thường tịch quang ư? Nên biết Tỳ-lô-giá na đầy khắp mọi nơi. Người khéo quán tâm thì tất cả muôn pháp đã sẵn đủ nơi tâm.
Bốn độ của quán tâm
Muốn nói Phật thiên chân
Từ nay dứt chứng tu
Chẳng cần tìm bên ngoài
Chỉ cần ở nơi tâm
Ngộ rồi ba thân hợp
Mê thì bốn chẳng đồng
Chớ sinh tâm phân biệt
Ngay đó ngừng dứt tâm
Suốt ngày Tịch quang mà không hề Tịch quang là hàng phàm phu; muốn chứng tịch quang mà chưa đến chỗ tột cùng Tịch quang là các Bồ-tát; đầy đủ Tịch Quang và trụ trong Tịch quang là Đức Như Lai; cõi thường tịch quang tịnh lìa tâm tướng. Nếu ai đến được cảnh giới này thì thấy tất cả mọi nơi đều là Thường tịch quang.
Bốn độ của Tây phương
Bốn độ dọc ngang như lưới trời
Một phương lưu xuất tất cả môn
Chớ nói Tây phương không bốn độ
Phẩm phẩm tròn đầy không thể phân
Bốn độ của hằng sa
Bốn độ mười phương đều đầy đủ
Biển cõi như cát cũng như vậy
Thánh, phàm, nhân quả khắp sa giới
Đều ở trong một niệm phàm phu
Bốn độ của nhất tâm
Bốn cõi một nhà tại lòng ta
Đâu cần tìm xa ở phương khác
Chỉ thường quán sát biểu đồ này
Phàm Thánh cao thấp thấy cạn sâu.
Bốn độ của viên dung
Bốn độ viên dung không thể phân
Nên biết phần xứ không thể chia
Tuy nhiên một ngôi Linh Quang tự
Ngại gì điện Phật và ba cửa.
Bốn độ trước mắt
Bốn cõi rõ ràng ở trước mắt
Lại không một vật phá ruộng tâm
Xua tan mây mờ, khoảng trời trong
Một vầng trăng sáng giữa trời xanh.
Bốn độ của ba đế
Từ nay bốn cõi vốn không dấu
Muôn tượng sâm la không, bất không
Chớ rơi thiên, tà dối phân biệt
Từng độ rõ ràng không, giả, trung
Bốn độ tức nhau
Thể, tông và dụng ba tức nhau
Một tức là ba, ba là một
Đỉnh chia ba chân, một chẳng thiếu
Trời, trăng, sao sáng không hề lớn
Bốn độ mê ngộ
Phàm Thánh, sang hèn đồng một thể
Tình sai trở ngại chẳng dung thông
Ngộ thì toàn thể bốn độ hiện
Mê thì một độ không dấu vết
Bốn độ của mọi người.
Mọi người đều có cả bốn cõi
Từ nay mê vọng không thể biết
Sáng nay chỉ ra rõ rành rành
Khuyên bạn tinh chuyên đừng trễ nải
Bốn độ dứt bặt đối đãi.
Bốn cõi nói ngang và nói dọc
Lại không thể giữ hạt cải nhỏ
Nếu rõ thành châu vốn là tường
Ba nhà trong thôn chẳng từng thôn.
Giáo là mắt Phật; Thiền là tâm Phật. Nếu tâm không có mắt thì tâm không có chỗ y cứ; nếu mắt không có tâm thì mắt không thể thấy vật gì. Tâm và mắt hòa hợp thì mới rõ Đông tây. Thiền giáo khéo dung hòa mới biết được chỗ thông suốt, chỗ bít lấp. Nên biết căn cơ của chúng sinh có lợi, có độn, pháp Phật có khai, có ngăn. Nếu khăng khăng theo một phương pháp để thâu nhiếp mọi căn cơ thì trở thành hủy báng chánh pháp. Bốn cửa vào thành đều ở trước phủ. Bốn cõi buộc tâm đều bước lên bờ kia. Người nghe giáo không thể lệch theo tà kiến; người tham thiền nên hiểu như thế là phương tiện quyền thật. Vận dụng phương tiện ở con người thì nên sự lý dung thông, không thể chấp pháp mà thành bệnh. Ba tuệ là văn, tư, tu; ba học là giới, định, tuệ đều phải trở về nguồn cội. Tất cả đều mong chuyển phàm thành Thánh. Người đời nay không hiểu nên chấp một bên chỉ nói về giáo mà không thông thiền. Thiền không thông giáo vốn là bỏ chấp lại thuộc về tình cảm thiên lệch, bình đẳng tu tâm lại sinh phân biệt. Thiền nói: "Hoa vàng, trúc xanh đều là chân như." Giáo nói: "Một sắc, một hương đều là Trung đạo."
Bồ-tát Đại Thế chí nhờ niệm Phật mà được tâm khai ý giải. Đại sư Trí Giả tụng kinh Pháp Hoa mà được thấy pháp chân thật, là nơi sống còn của đạo mầu nhiệm. Đâu phải ở sự tranh luận. Nay phải dung hoà phàm tâm và thân độ với nhau, niệm Phật và Thiền giáo là một con đường, vào cửa tuy khác nhưng rốt cuộc thì đồng thể mà khởi tâm thương ghét, chớ phân biệt bỉ thử. Mỗi người cần phải đạt đến cội gốc, chớ tranh cành lá, đừng chấp thật chê quyền, chấp quyền (phương tiện) chê thật. Quốc sư Thanh Lương nói:
Biển nghiệp trần lao
Kết hoặc chấp chặt
Tình hết chấp trừ
Không nhọc quét dọn.
Ôi! Ba thân Pháp, Báo, Ứng; bốn cõi Tịch quang, đồng cư. Đều phải trở về nguồn cội, đồng trở về một đường; một thân là ba thân; bốn cõi là một cõi, chẳng sau chẳng trước; chẳng đến chẳng đi, tình chấp có sai lệch chẳng phải Phật che giấu. Chỉ cho phép tâm truyền không cho nói năng mà tròn đầy trùm khắp vô tận vô cùng. Nhất chân không ngăn ngại, lớp lớp như mành lưới châu của trời Đế Thích. Dụ như lưới trời Đế Thích khó đồng với con rối lanh lợi, nhanh nhẹn hoạt bát chẳng phải ở nơi lanh lợi. Chỉ nhờ vào tỉnh táo, Tỳ-lô đắc đạo; hứa với người liền thành, dứt hết sinh tử, liền phát ra ánh sáng. Không thể nghĩ bàn biển lặng sông trong:
Một cõi chia bốn cõi
Mỗi cõi có ba thân
Thân cõi không có hết
Tình kiến giống như sao
Lực không ngại Như Lai
Như trăng trên hư không
Nơi nào cũng có trăng
Chỗ nào cũng sáng sủa
Bài tụng sau
Đại đạo thông mọi nơi
Rõ ràng mấy trăm châu
Các đường đi mỗi châu
Mỗi đường hợp xuân thu
Khi mê, ba thân khác
Ngộ rồi một cũng không
Thuyền này không kia đây
Chớ đem kết oán thù
Giềng mối niệm Phật
Vốn tự không dấu không vết
Phương tiện do anh nêu ra
***
Có người hỏi tôi vì sao?
Nam-mô A-di-đà Phật.
Niệm Phật tâm khai.
Nhân tu Tam-muội, niệm Di-đà
Trong lòng bỗng thấy Phật Di-đà,
Mới biết mỗi hạnh đều bảo sở
Mới hay cõi cõi đều xen nhau.
Thiền, giáo thành tựu lẫn nhau.
Thiên Thai, Hiền Thủ,
Từ Ân giáo Đạt-ma,
Nam Sơn, ý chẳng khác
Pháp môn số nhiều không cùng tận
Không lìa đầu lông, dứt khéo thô
Thể của ba thân đồng nhau.
Ba đức bí tàng và ba thân
Cuốn duỗi tùy cơ, phân chẳng phân
Nơi nơi dung thông, không chướng ngại
Chớ dạy một bề làm ba người
Tam bảo không khác.
Phật, pháp, tăng bảo chân chánh nhất
Đâu khác mà nay một điểm linh
Nêu một tức ba, ba là một
Chớ dạy nhận sai, định bàn tinh.
Thân và độ không hai.
Tỳ-lô tức là cõi Tịch quang
Tịch quang tức là Đại Tỳ-lô
Thân, độ xưa nay không hai tướng
Hoàng thành vốn là kinh đô lớn
Tâm Phật không khác.
Tâm này tức là A-di-đà
Di-đà tức là nguồn tâm ta
Trăng khuyết chiếu sáng mọi nẻo đường
Ai tin xưa nay ngày ngày tròn
Dứt bặt dấu vết vô tướng.
Niệm niệm tròn sáng pháp giới đồng
Khỏi tu trải qua ba tăng-kỳ
Nếu ở trong đây thấu nghĩa mầu
Một chấm bụi nhỏ cũng không giữ.
Tình hết thì rõ ràng.
Biển tánh Tỳ-lô không dấu vết
Cõi mầu Tịch Quang cũng không vết
Kiếp hỏa cháy bừng chưa tắt dứt
Núi xanh như cũ giữa mây trắng
Người người thấy đạo.
Tịch quang vàng ngọc và bùn cát
Đến chỗ vô tâm lại là nhà
Hiểu được ý mầu ở trong đó
Ưu-Đàm vốn là hoa sen trắng
Chỗ chỗ gặp nguồn.
Tâm tâm niệm niệm Phật Di-đà
Người người, chỗ chỗ Tỳ-lô xưa
Biển cõi bụi nhỏ như sao giăng
Gom trong bức vẽ của sơn tăng.
Đại sư Minh Giáo nói: Lời dạy bảo của đấng Năng Nhân là phải lấy Thiền làm Tông, Phật làm Tổ. Tổ là khuôn phép lớn của giáo, Tông là đại thống lãnh của giáo. Người thống lãnh không sáng suốt thì mọi người trong thiên hạ không đạt được một kết quả nào; khuôn phép lớn mà không chân chính ngay thẳng thì thiên hạ không mong được cái sở chứng của mình. Người học Phật xưa nay cạnh tranh sở học của mình, mọi người đều giành phần thắng về mình, bởi vì Tông bất minh, Tổ bất chánh thì sẽ gây hoạn. Nhưng không phải tổ tông mình bất minh, bất chánh mà là người đời sau không chịu khảo cứu hết kinh luận nên họ phá vỡ sự minh chánh này. Còn nếu có người chỉ dạy lại không biết yếu chỉ nhiệm mầu là ở chỗ ngoài giáo ngôn. Các người học Thiền không hiểu rõ lời Phật nói đại khái thấy trong giáo rối ren, tự tướng, đúng sai, xưa nay chưa dừng nghĩ. Tôi có tham cứu Đại tạng, hoặc kinh, hoặc truyện, rà đi soát lại để rút ra kết quả. Cái gọi là Thiền tông chính là tâm của Phật, Tổ. Phật nói Đại tạng giáo chưa từng không lấy tâm làm tông.
Than ôi! Căn tánh của chúng sinh khác nhau, làm sao dùng một pháp để nói rõ được.
Đức Phật bình đẳng giáo hóa, tùy theo bệnh của mỗi người mà phát thuốc. Còn pháp môn niệm Phật của tông Tịnh độ thì có thật có quyền, có đốn có tiệm. Tất cả đều tỏ rõ thật lý của Sự chứng ngộ của chư Phật, chỉ ra bổn nguyên tự tánh của chúng sinh; dùng Tam-muội niệm Phật để thâu nhiếp tất cả mọi người. Nếu ai tu pháp môn này được rõ tâm thấy tánh thì nhập vào trí tuệ của chư Phật.
Có người hỏi: Niệm Phật như thế mà thấy tâm tánh, được vào trí tuệ chư Phật ư?
Tôi trả lời: Tâm là tông của muôn pháp, nếu luôn giữ tâm ở nơi mình thì đạo nào mà không thành? Bồ-tát Đại Thế Chí tu pháp môn niệm Phật mà chứng Vô sinh pháp nhẫn. Nếu xét về nhân địa thì thuần niệm Phật là dụng công trên hết. Niệm Phật nối nhau không đứt quãng thì sẽ kết thành một khối cho nên nói nhiếp cả lục căn, tịnh niệm nối nhau, được Tam-ma-địa, ấy là bậc nhất. Bởi vì Phật là tâm, niệm Phật là niệm tâm; tâm tâm không hai. Tâm đã không hai thì Phật Phật đều như vậy. Một niệm quán thông, không có mé trước, mé sau. Ba đời đều dứt, chính là chân đạo tràng. Mỗi hạt bụi đều hiển bày, cõi cõi đều lộ rõ. Ấy chính là vào biển Như lai chánh biến tri, đầy đủ tất cả trí tuệ của Như lai, yếu chỉ của niệm Phật, đại lược là như thế.
Xưa kia, Tổ sư Tuệ Viễn đã được Tam-muội này rồi, đem chỉ dạy cho một trăm hai mươi ba vị khiến họ đồng tu, đồng chứng. Ngày nay, chúng ta hãy chuyên ròng nghĩ nhớ, tâm tưởng vắng lặng đến cùng tột thì cũng sẽ đắc được. Thế nên Tổ bấy giờ với tâm nguyện sâu xa, muốn giúp đỡ cho chúng sinh trong việc tu tập, nhưng kinh bản mới ở đời Tấn chưa đến, vị cam lồ của pháp Thiền người trong nước chưa được nghe, người dân lại có dị thuyết về Thật tướng tông bổn nên Ngài sai đệ tử mình vượt qua Thông lãnh, từ xa đón rước Thiền sư, tìm kinh bản gốc. Cho nên Đại sư Minh giáo hiểu được ý muốn của Tổ bảo vị Tăng tên Trí Nghiêm ở nước Tần đến nước Kế Tân thỉnh Ngài Bạt-đà-la đến Trung Hoa để truyền Thiền pháp trong thời gian dài.
Ngài Bạt-đà-la ban đầu đến Trường An, sau đến Lô Sơn rồi trao kinh Thiền cho Ngài Tuệ Viễn để cùng dịch. Dịch xong Ngài Tuệ Viễn ghi lời tựa. Bạt-đà-la từng nói với Tuệ Viễn rằng: Tây độ truyền pháp Tổ sư từ Ngài Đại Ca-diếp về sau truyền nhau có hai mươi bảy vị. Trong đó hai mươi sáu vị tổ đời cận đại đã diệt độ nhưng danh tiếng không ai bằng Ngài Mật-đa. Cho nên đệ tử của những đời sau gọi Ngài là Bát-nhã-đa-la. Ngài đang hành hóa ở các nước Nam Thiên trúc, ngọn đèn tuệ này lần lượt được truyền đến Ngài Đạt-mađa-la, là vị Tổ thứ hai mươi tám. Nay tôi đúng như những điều đã nghe mà giảng nghĩa này.
Ngài Tuệ Viễn nghe lời nói của Bạt-đà-la cho nên ghi lời tựa rằng:
Đạt-ma-đa-la là bậc tài giỏi của Tây Vực, là người noi theo thiền huấn. Bảo Lâm truyện nói Bạt-đà-la từng nói với Tuệ Viễn rằng các Tổ truyền pháp nhiều đời vẫn nghiệm nơi kinh Thiền. Cho nên bài tựa của Trương Dã, bài minh trên tháp Tuệ Viễn ghi rằng: Các kinh về tâm Thiền, xuất xứ từ Lô Sơn. Sư thường cho rằng pháp thiền tinh vi, chẳng phải người hiền tài thì chớ trao truyền. Công đức cao dày mà dễ tiến chỉ có pháp môn niệm Phật. Dùng chỉ, quán để dẫn dắt, dùng Tịnh nghiệp để chuyên tu. Pháp tu tập này dùng tập trung tâm ý để tâm lắng đọng, nhập vào pháp môn vô tận của Như lai, chính thật là từ đây.
Thế nên, lời dạy của Tịnh độ này truyền đến Ngài Thiên Thai Trí giả lại chỉ ra pháp ba quán, tu theo pháp ba quán này để chứng được nhất tâm. Thâu tóm yếu hạnh của Tam Thừa, thâu nhiếp tất cả các căn cơ của năm tánh; giao thẳng tài sản thật của quán hạnh, ngộ nhập tri kiến của Như lai. Nên biết yếu chỉ của niệm Phật là do Quán kinh làm tiêu chỉ, kinh ấy lấy cảnh giới Tịnh độ làm tông, lấy quán trí diệu hạnh làm chỗ hướng đến, lấy quán tướng Di-đà làm thể, lấy diệt ác sinh thiện làm dụng. Cho nên biết vô lượng công đức cùng trang nghiêm, các thứ thắng hạnh đồng quy hướng; người hỏi người đáp rõ ràng cặn kẽ vấn đề, giống như các vì sao vây quanh sao Bắc đẩu, như muôn dòng sông đều chảy về biển Đông. Thế nên, bà Viđề-hy không trải qua giai vị nào, mà đốn chứng Vô sinh. Người phạm mười điều ác, tội ngũ nghịch chỉ nhất tâm xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà dù chỉ mười niệm thì người ấy liền được sinh về thế giới Cực lạc, tức là thuộc về Viên đốn giáo.
Pháp môn Tam-muội niệm Phật này dùng phương tiện quyền thật, đốn tiệm, chiết phục, thâu nhiếp, để thâu nhiếp tròn đầy tất cả chúng sinh ngộ mê, hội quy vào chân tông giống như xe có bánh xe, như chim có đôi cánh. Người vào đạo do đây được gọi là "chí", gọi là "tận".
Thế nên, gom các chánh thọ lại chỉ dạy người khác tu tập tông yếu, mở sáng mắt tâm họ, chỉ thẳng cội nguồn, với mục đích khiến họ niệm Phật, tinh tấn tu tập để hiểu rõ tông mình, không mê muội đối với Tổ. Nếu một câu đương cơ thì duy tâm Tịnh độ bày.
1. Định rõ về tông thể.
Từ Ân Thông Tán chép: Ở Trung Quốc các bậc tiên đức chia chung kinh luận làm bốn tông.
1. Tánh tông.
2. Phá tánh tông.
3. Phá tướng tông.
4. Hiển thật tông.
Các kinh Niết-bàn, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa v.v... hiển bày nghĩa trung đạo chân thật. Cho nên bỏ hóa thành trở về bảo sở. Kinh A-di-đà là tông thứ tư; kinh này dựa vào văn kinh để phán giáo, giáo có ba, dùng loại để định ra tông, có tám loại:
1. Ngã pháp câu hữu tông.
2. Hữu pháp vô ngã tông.
3. Pháp vô khứ lai tông.
4. Hiện thông giả thật tông. 5. Tục vọng chân thật tông.
6. Chư pháp đản danh tông.
7. Thắng nghĩa giai không tông.
8. Ứng lý viên thật tông.
Cho nên kinh Hoa Nghiêm và kinh Di-đà thuộc về tám tông.
-Lý tưởng giả hợp luận Hoa Nghiêm Thập chủng Tịnh độ Quyền thật tông thể.
Biển trí mênh mông cuồn cuộn, chẳng thể tìm thấy bờ mé; chân nguyên bao la bát ngát khó tìm thấy bến bờ. Thể tướng của pháp giới Giá-na bao trùm nơi trần sa. Linh môn rộng lớn, tịnh uế đan xen lẫn nhau nơi vô cực, nhưng tùy theo nghiệp dụng tu tập của mỗi người mà ứng hiện các cảnh giới không giống nhau, khiến cho trái với Thánh cảnh, căn cứ vào căn tánh bất định hoặc phương tiện phân Tịnh độ ở nước kia, cõi uế ở Ta-bà. Hoặc đây là hóa nghi, chỉ thượng phương là Thật báo. Ngài Văn-thù từ thế giới kim sắc ở phương Đông mà đến; Ngài Quán Âm ở cõi nước An lạc phương Tây mà đến.
Như vậy, quyền nghi đều khác nhau, mục đích để khơi mở lòng tin không y cứ cứng nhắc. Nay vì để lược qua cho biết các pháp môn giúp cho những người mới phát tâm tu tập có chỗ y cứ nên quy ước ra mười loại, quyết định lấy đây làm kim chỉ nam cho người tu theo.
Thứ nhất: Tịnh độ trong kinh A-di-đà đây là vì một phần kẻ phàm phu chấp tướng chưa tin lý chân thật về pháp không, chỉ chuyên nhớ niệm, niệm tưởng không chuyển dời; vì chuyên niệm chí thành cho nên tâm được một phần thanh tịnh, được sinh về Tịnh độ. Đây là Quyền chưa phải thật.
Thứ hai: Tịnh độ trong kinh Vô Lượng Thọ Quán. Đây là vì các hành giả có một phần chưa tin lý chân thật về pháp không. Chúng sinh thích hình tướng đẹp đẽ cho nên phương tiện dạy họ nhớ tưởng hình tướng đẹp đẽ của Phật A-di-đà kia. Khi nhớ tưởng hình sắc Phật thành tựu thì liền được sinh về cõi Phật. Đây là Quyền chưa phải thật.
Thứ ba: Tịnh độ trong kinh Duy-ma.
Phật dùng ngón chân cái ấn xuống đất để tăng thêm thần lực. Tạm hiện có rồi trở lại không. Ấy là cõi Thật báo chưa đủ trình bày sự rộng hẹp. Đây là thật nhưng chưa rộng.
Thứ tư: Tịnh độ trong kinh Phạm Võng.
Tuy nói một đóa hoa lớn có một ngàn cánh, trên mỗi cánh hoa có một trăm ức hóa Phật giáo hóa một trăm ức bốn thiên hạ chúng sinh. Nhưng một ngàn cánh hoa ấy và một đóa hoa lớn nhất này là Bồ-tát Tam Thừa; sự thấy biết của những vị này chưa rộng cho nên phần chỉ cảnh quả báo, chưa thành viên mãn. Đây là Quyền chưa phải Thật.
Thứ năm: Tịnh độ trời Ma-hê-thủ-la.
Đức Như Lai ở cõi trời ấy ngồi tòa hoa sen, thành Đẳng chánh giác cho là Thật báo, còn trong đạo tràng Bồ-đề, nước Ma-kiệt-đề, cõi Diêm-phùđề này, Ngài thành Đẳng Chánh giác là sự hóa thân. Đây là Ngài ở trong Tam Thừa dùng phương tiện dạy hàng Bồ-tát nhiễm tịnh chưa quên mà nói cõi Diêm-phù-đề và sáu tầng trời này là cõi Dục hữu lậu; cõi Tịnh độ trời Ma-hê-thủ-la kia là vô lậu, cho nên tâm còn chấp nhiễm tịnh chưa quên được kia đây. Đó là dùng phương tiện giáo hóa chưa phải là nói thật.
Thứ sáu: Tịnh-độ nói trong kinh Niết-bàn.
Như Lai có Thật báo Tịnh độ ở Tây phương, cách đây hai mươi hai hằng hà sa cõi Phật. Đây là phương tiện giáo hóa hàng Tam Thừa còn một phần nhiễm tịnh chưa quên nói tam thiên đại thiên thế giới này là cõi uế và phương tiện nêu ra cảnh giới Thật báo Tịnh độ ở Tây phương để chúng sinh ưa thích tu theo. Đây là Quyền chẳng phải thật.
Thứ bảy: Ba thứ Tịnh độ trong kinh Pháp Hoa. Đây là vì hàng Bồ-tát Tam Thừa nhiễm tịnh chưa quên mà nói: Dời tất cả chư thiên đến ở cõi khác, đây là Quyền chẳng phải Thật.
Thứ tám: Tịnh độ ở hội Linh sơn.
Đây là Ngài dắt dẫn, phương tiện dạy hàng Bồtát Tam Thừa nhiễm tịnh chưa quên, mà giảng giải cho họ biết Ta-bà vừa là cõi uế; vừa là cõi tịnh. Chúng sinh tin nhận nhưng chưa thể chính mắt nhìn thấy. Đây là Thật chẳng phải Quyền.
Thứ chín: Duy tâm Tịnh độ.
Tự chứng được tâm mình, đương thể vô tâm tánh, chỉ có chân trí, không nghĩ đến tịnh uế, gọi là chân nhậm vận tánh, tâm không quái ngại, không tham, không si mà theo trí đại Bi là an vui chúng sinh, đây là thật Tịnh độ. Vì chính mình tịnh cho nên khiến người khác cũng tịnh. Thế nên kinh Duy-ma nói: Hễ tâm mình tịnh thì cõi Phật tịnh, muốn được Tịnh độ thì trước phải tịnh tâm mình. Đây là thật Tịnh độ.
Thứ mười: Tịnh độ mà Phật Tỳ-lô-giá-na ở là tướng bao gồm vô uế, vô tịnh, không có cao thấp, kia đây, tự tha của các cõi tịnh uế trong các Liên hoa Phật sát ở mười phương. Mỗi cõi Phật đều đầy khắp pháp giới, không có tướng ngăn cách. Lược nói qua mười cõi Phật thì biết cõi Phật vô tận nhưng không vượt ra một hạt bụi, không lớn nhỏ cho nên không lập hạn lượng. Vì lấy pháp làm giới nên không giới hạn bờ mé. Giống như tướng biển có trùng trùng sắc tướng thuần tạp. Đây là thật Tịnh độ chẳng thuộc về quyền.
2. Nói về niệm Phật tham Thiền cầu tông chỉ. Thiền sư Từ Giác Tông Trách nói: Niệm Phật không chướng ngại tham thiền, tham thiền cũng không chướng ngại niệm Phật. Pháp tuy có hai nhưng lý đồng một thể. Người căn trí bậc thượng thì niệm Phật nối nhau không dính mắc vào hai đế, còn người căn trí bậc hạ thì nghiêng về một bên, cho nên không hòa hợp, phần nhiều khởi tâm phân tranh. Thế nên người tham thiền công kích người niệm Phật, người niệm Phật chống lại người tham thiền. Tất cả đều do chấp thật, xem thường Quyền, hoặc chấp Quyền chê Thật, cả hai đều đạo quả chưa thành, cửa địa ngục đã sớm mở ra. Thế nên trước phải biết rõ căn trí sâu cạn của mỗi người để dạy cho họ pháp môn tu tập thích hợp. Thí như người làm ruộng há sao mở kho được, người mở kho đâu thể làm ruộng. Nếu dạy người làm ruộng mở kho thì cũng giống như người què chân leo núi. Còn nếu dạy người mở kho làm ruộng thì cũng giống như ép người hiền lành làm kẻ trộm. Rốt cuộc không được gì. Chi bằng người làm ruộng hãy tự mình làm ruộng, người mở kho nên chính mình mở kho. Tùy theo sở thích của mình thì sự việc đạt được kết quả như ý. Thế nên niệm Phật, tham thiền mỗi hạnh đều cầu tông chỉ. Dòng suối, ngọn núi tuy khác nhau nhưng mây và trăng thì giống nhau. Có thể nói: liễu xanh ở mọi nơi đều buộc ngựa được, nhà nhà mở cửa thấy Trường An.
3. Tịnh độ chẳng phải quyền nói cho hàng độn căn.
Thiên Thai Tư Phạm giảng chủ ở lâu trên núi Lâm bình, giải và hạnh cao vời, tạo ra giáo quán, tánh tướng sâu xa. Ngài thường cùng kẻ sĩ đại phu qua lại, tùy theo lời hỏi của những người ấy mà Ngài giải thích rõ ràng.
Một hôm có thông phán Trịnh Công hỏi: Trong giáo có nói niệm Phật A-di-đà nguyện sinh Tịnh độ là vì hạng độn căn mà phương tiện quyền nói. Bậc thượng căn đốn ngộ hễ vượt lên thì vào thẳng Phật địa, đâu nhờ Tịnh độ của Đức Phật kia.
Ngài đáp: Tông ta trước phải thấu đạt thuyết này. Nói Phật tại thế thì có Ngài Văn-thù, Phổ Hiền tu theo pháp môn niệm Phật này mà thành tựu đạo quả, còn sau khi Phật diệt độ có Ngài Mã Minh, Long Thọ, Đại sư Trí Giả, Thiền sư Trí Giác đều nguyện vãng sinh Tịnh độ, chẳng lẽ đó là hạng độn căn ư? Nếu cho đó là Quyền giáo thì đâu là thật giáo?
Xưa kia, Tôn Tân Lão cũng nghi ngờ Tịnh độ này, nhân gặp được Dương Thứ công Vương Mẫn Trọng giảng giải, bàn luận nên ông liền hiểu ra và tin Tịnh độ này chẳng phải quyền nói của bậc Thánh mà chính là chân tông của viên thật. Chỉ cần chuyên niệm danh hiệu Đức Phật kia chắc chắn sinh về Tịnh độ. Đây là xưng tánh thật ngôn chẳng phải là Quyền giáo.
4. Tông yếu tịnh độ của thiền sư Chân Yết Liễu.
Di-đà không lìa tâm chúng sinh, đây là ba thứ không sai biệt, Cực lạc trùm khắp tất cả mọi nơi, nêu một để thâu nhiếp tất cả. Giống như mành lưới báu ngàn hạt châu trên cung điện của trời Đế Thích, ánh sáng của ngàn hạt châu lung linh hòa nhập vào một hạt châu; ánh sáng của một hạt châu biến khắp hòa nhập vào ngàn hạt châu. Tuy tất cả những hạt châu cùng nhau biến khắp nhưng hạt châu này không phải là hạt châu kia, hạt châu kia cũng không phải là hạt châu này. Xen mà không lẫn, lìa mà không phân. Mỗi mỗi đều sáng khắp, cũng không phân biệt nơi chốn. Tịnh độ của Phật A-di-đà là một trong ngàn hạt châu, là một cõi Phật trong mười muôn cõi Phật. Thế nên bậc Thánh dùng phương tiện khéo léo dạy người chuyên niệm danh hiệu Phật A-di-đà chính là một ngàn hạt châu chỉ thẳng một hạt châu, thấy một Đức Phật tức là thấy chư Phật trong mười phương cũng chính là thấy chúng sinh của chín cõi trong biển cõi nhiều như bụi nhỏ. Mười đời xưa nay một ấn đốn viên chẳng phải pháp khác.
5. Đại sư Tịch Thất chỉ bày tịnh độ thật thấy.
Người không tu Tịnh nghiệp nói chuyên tâm thiền định, ngộ tánh chân tông, hoặc nghe nói về Tịnh độ thì chắc chắn nói Tịnh độ duy tâm. Tâm ta đã tịnh thì cõi nước tịnh, cần gì phải riêng cầu sinh về Tịnh độ?
Ngài Tịch Thất bảo: Trong kinh Duy-ma nói Đức Như Lai ấn ngón chân cái xuống đất thì thấy cõi Ta-bà đều trang nghiêm sạch sẽ, nhưng chúng hội không thấy, chỉ có Phạm vương Loa-kế biết được. Ngày nay do điều này nên nói người ngộ tánh giống như việc thấy Tịnh độ của Phạm vương không? Huống chi ông ở trong ngôi nhà lụp xụp, phòng ốc chật hẹp, chắc chắn ham thích một ngôi nhà rộng lớn, phòng ốc cao đẹp. Người thoát khỏi cảnh cơm hẩm canh rau thì chắc chắn mong muốn những món ăn thơm ngon, người mặc vải thô áo vá thì chắc chắn ham thích gấm vóc lụa là. Nếu nói tâm tịnh cõi nước tịnh thì không cần phân biệt như thế. Huống chi khổ già, bệnh, chết là những nỗi khổ của thế gian trái với điều mong mỏi. Người chưa ngộ giống như miệng nói tâm tịnh thì độ tịnh, nhưng thân bị trói buộc trong khổ não của cõi uế. Ấy là tự khi mình quá lắm, nếu không như thế thì phải tin vào giáo lý và tu theo Tịnh độ.
6. Luật sư Đại Trí dạy sự, lý của niệm Phật là không hai.
Sư từng vì Pháp sư Từ Tuệ Văn viết lời tựa cho Tịnh độ tập. Bài tựa ấy đại khái là: xưa nay học Phật phần nhiều lầm sự lý, cho lý là nhỏ nhặt, lẽ ra không cần phải lập; nói sự là muôn tượng sum la. Dừng tâm trụ vắng lặng là lý, trong cảnh động mà vẫn dụng tâm giữ việc tu tập là sự, bèn dẫn việc xưa rằng: Trong lý thật tế thì không chấp một hạt bụi, trong cửa Phật sự thì không bỏ một pháp. Đây là sự lý ngang nhau, Không-Có đều lập. Đồng thời theo tôi đã từng đổi câu ấy thành: Thực tế lý địa chẳng thiếu một trần, trong cửa Phật sự không giữ một pháp. Do lý thật tế đầy đủ tất cả pháp chẳng lẽ thiếu một hạt bụi, vì cánh cửa Phật sự lìa tất cả tướng chẳng lẽ còn giữ một pháp ư? Như thế mới thấy lý sự như một; không hữu là không hai.
7. Pháp sư Văn làm bài tựa về tông yếu của niệm Phật.
Ôi! Đạt được hữu tâm của vô tâm, biết vô niệm của hữu niệm. Hữu, vô chẳng trụ, năng sở đâu còn. Đây là niệm niệm tròn sáng, tâm tâm vắng lặng. Nếu hiểu được yếu chỉ này thì các pháp đều thành tựu, càng khế hợp với tông thì các môn thông diệu nay có thể không trái với thật tế, mà chỉ bày viên tu, để kẻ gánh nặng đi xa bỏ gánh nặng xuống, những người đang trôi giạt ở bến mê, mau lên bờ kia; cầu sinh về cõi Tây phương không người nào trước không tu môn quán niệm Phật. Thế nên tôi liền lấy đại cương kinh luận viết thành pháp môn tịnh hạnh Tây phương để chỉ phương pháp tu tập cho người tu Tịnh nghiệp có chỗ hướng đến. Còn những người tuy có gặp lời văn này nhưng không khởi lòng tin, không tu hành thì gần giống như kẻ phát cuồng vì nóng nhảy xuống ham xí, chỉ còn thò ra một sợi tóc mỏng manh mà muốn được cứu vớt thì không biết phải làm thế nào?
Phật do tâm tạo; đạo do người mở mang, yếu chỉ của việc mở mang đạo pháp trước hết phải niệm Phật. Niệm Phật là chánh tâm, vì chánh tâm nên thường hợp với đạo. Tông cùng tột của đạo là Phật, Phật là giác. Tất cả chúng sinh đều có tánh bổn giác này, vì một niệm sai khác cho nên không giác. Tướng quốc họ Bùi nói: Người suốt ngày viên giác mà không hề viên giác là chúng sinh; người đầy đủ viên giác mà trụ trì trong viên giác là Như Lai. Cho nên Bạc-già-phạm thành đạo ở Makiệt-đà, nói "có", bàn "không", quán sát căn cơ, tùy theo dạy giáo, ngoài các pháp khai riêng pháp môn niệm Phật để cắt đứt gốc rễ của các khổ, được dự vào con đường chính yếu của dòng Thánh. Cho nên kinh nói: "Từ cõi này đi về Tây phương qua mười muôn ức cõi Phật có một thế giới tên là Cực lạc. Đức Phật cõi ấy hiệu là A-di-đà." Trong nước ấy không có ba độc tám nạn nhưng có rất nhiều bảy báu đẹp đẽ trang nghiêm; lấy pháp làm thân; làm bạn với các bậc Thánh.
Nếu người tinh thành phát nguyện hướng tâm về cõi nước kia thì được vãng sinh, vượt xa ba cõi chín địa, chứng đạo mầu vô thượng của chư Phật. Lời nói này không phải điều luống dối. Kể từ khi đại giáo từ phương Đông truyền đến, đến thời Phật-đồ-trừng thì thạnh hành. Do Phật-đồ-trừng độ Ngài Đạo An, học trò Ngài Đạo An có Tuệ Viễn, Giới Châu, Nghĩa Hải, Long Tư, Phụng Chương tu tập theo cương yếu của giáo môn này. Sư viết bài "Thân quán vịnh niệm Phật Tam-muội", thời Tấn bấy giờ, các Bậc hiền mến mộ đức hạnh của Sư tranh nhau đến đạo tràng Chánh giác, cùng nghiên cứu đạo này. Tiếng tăm vang dội đến đế vương, đạo được tông kính một thời. Di Thiên suy tôn làm cao đệ, La-thập kết làm bạn tốt. Thức lượng rộng lớn, vượt hơn xưa nay. Đến nỗi cưỡng gọi là đạo, là Tôn sư của muôn đời. Người truyền lại đầy đủ cho trời người là Tuệ Viễn. Đời Tùy có Ngài Trí Giả; đời Ngụy có Ngài
Đàm Loan; đời Đường có Ngài Thiện Đạo, các vị này đã chấn chỉnh tôn phong. Đời Tống có Thản
Công, viết sớ giải thích cặn kẽ về cam lồ, Tỉnh Thường kết xã, Từ Giác khuyên tu. Thiền sư Diên Thọ dung hợp ngàn điều lành đồng quay về một mối. Đời Nguyên, Tông chủ tập họp các kinh để làm thành sám, rộng thực hành các phương tiện, dùng lòng Từ bi uyển chuyển giáo hóa. Cho nên Tổ sư muốn làm cho tất cả chúng sinh trên mặt đất đều thấy được bổn tánh Di-đà, đạt được duy tâm Tịnh độ, tất cả đều giác ngộ đạo mầu Bồ-đề, bèn lập ra bốn chữ "Phổ giác diệu đạo" để đặt tên cho tông quán. Bốn chữ này là một tấm gương lớn chiếu khắp vô biên nhưng đồng một thể dụng. Lấy gì biết như thế? Nói tóm lại, ví dụ như thân thể của con người. Thân có đầu mắt, tay chân là dụng, không thể tách rời một phần nào. Chính mình không có nguyện vọng rộng lớn và lòng Từ bi sâu xa thì làm sao có thể giữ chữ tín đối với người đời sau ư? Trộm luận bàn rằng: Thế giới chúng sinh gọi là phổ; trí đạt được lý này gọi là giác; đức, dụng vô biên gọi là diệu; ngàn Thánh dẫm đạp gọi là đạo. Lại nữa, phổ tức là thể của tự tâm trùm khắp mười phương; giác tức là dụng của trí tự tâm soi sáng không lầm; diệu là hạnh của tự tâm lợi vật ứng cơ; đạo là tự tâm thông đạt lý trung chánh. Điều chứng ngộ của Hằng sa chư Phật tức là đạo này, sở đắc của Tổ sư nhiều đời là đạo này. Chúng sinh trong mười phương được sinh về Tịnh độ cũng đã học đạo này; những người tu tập ở đời vị lai cũng sẽ học đạo này.
Lại nữa, chư Phật, các Bồ-tát thị hiện ở thế gian làm vị đại đạo sư, các Ngài đều có bi nguyện nên không bỏ chúng sinh, hoặc làm vua chúa, quan văn, quan võ, cư sĩ, tể quan, xuất gia, tại gia, thuận hạnh, nghịch hạnh đều dùng đạo này để giáo hóa nhân dân.
Muôn loại hàm linh trong ba cõi từ vô lượng kiếp đến ngày nay, qua lại trong sáu đường giống như con kiến bò quanh cối xay, không biết ra khỏi bằng đường nào. Chư Phật, Tổ vì thương xót những chúng sinh ấy nên bày ra phương cách để dắt dẫn họ, giúp họ hướng về chỗ ta hướng về. Chỗ ta hướng về chẳng phải sáu đường, chẳng phải Tam Thừa mà là cõi của Như Lai Chánh giác. Người được đạo mà ta hướng về cũng dùng đạo này giáo hóa những người chưa có nơi hướng về, giúp họ hướng về chỗ hướng về này. Giống như mồi trăm ngàn ngọn đèn mà ánh sáng không phân tán lại còn sáng rực hơn trước. Tông niệm Phật này, chính là pháp của tâm, chính là chánh đạo mà chúng sinh quy hướng. Người này truyền cho người kia không bao giờ chấm dứt, nên gọi vô tận đăng. Thuyết Phổ giác diệu đạo há là lời nói suông ư? Bởi vì mọi người đều có khả năng thành Phật, không phân biệt là tăng hay tục, người độn căn hay lợi căn, không có kia đây, cũng không có cao thấp. Tất cả mọi người đều đồng một thể tánh mà thôi. Hễ ai nhận thấy được thể tánh ấy là ngộ, còn để mất nó là mê. Tất cả mọi người đều đồng một lý tánh, hễ mê là phàm phu; ngộ là Thánh. Người mê là sự ngăn cách, chứ lý không ngăn cách, người đánh mất là tự đánh mất chính mình, nhưng tánh thì không mất. Người biết được điều đó tu Tammuội niệm Phật chính là làm cho tâm mình ngay thẳng. Tâm này đã ngay thẳng thì tánh thuận theo lý. Tánh đã thuận theo lý thì sau trần không thể nhiễm, muôn cảnh không thể lay động, dụng ở trong tất cả, vắng lặng trong cõi muôn hóa, đã không lay động bổn xứ mà còn đi khắp mười phương, vượt đến cõi Cực lạc, vụt bay đến ngôi nhà Tịch quang, trụ trên đỉnh núi Niết-bàn, chầu đấng Vô thượng pháp vương, Phổ giác diệu đạo nghĩa của chánh tâm cao tột đến thế nào? Người không biết nghĩa này công phu từ chỗ nào thực hành, trí từ chỗ nào phát ra. Thí như người mù không thấy ánh sáng mặt trời, mặt trăng, đi ngang qua nơi nguy hiểm, bị sa hầm sụp hố không thể tự lên được. Xa thời kỳ Thánh hiền nên đa phần con người hiểu lầm, tuy có trông mong chánh đạo nhưng đều rơi vào tà tông. Những người tầm thường dung tục đều hiểu như vậy mà thôi, khiến cho bọn tà kiến quỷ quyệt làm mê lầm đồng thời dấy lên; phải quấy, "không có" nổi lên như ong v.v... hủy báng lẫn nhau, kẹt vào sự tướng không chịu xã bỏ; thuận theo ứng duyên không tự giác; chấp giữ như cây khô lại gọi là định; cậy mình thông minh tự cho là trí tuệ; buông lung trái đạo lại gọi là có năng lực; nương cậy vào quỷ thần lại gọi là có thần thông; có thân tâm phóng khoáng gọi là không ngăn ngại; rỉ tai nhau truyền đi gọi là bí quyết; chấp ngã tông là phổ, là giác; nói tông kia là diệu, là đạo. Đây đều là lén soi gương này, đi vào lãnh vực tà kia, bị bụi nhỏ ngăn che, không thấy tông thể. Tuy được tên gọi là gương nhưng không có được dụng, thật không biết Ngài Từ Chiếu lập bốn chữ này là có ý sâu sắc, người mê muội không biết nên chấp vào đây thì sẽ đánh mất mình.
Lại có người nói tại gia là Di-đà giáo, xuất gia là Thích-ca giáo, rồi tự tôn làm Tổ, chấp pháp làm tông, còn chấp kia đây. Tâm gặp việc thì không giải quyết được, chính mình là kẻ hiểu biết yếu kém thiên tà chứ chẳng phải người khác làm cho chúng ta thành con cháu Phật Tổ mà không thể phá hoặc chấp này, thì lấy gì giương cao mặt trời trí tuệ nơi tâm tối? Đau lòng vì tuệ mạng Phật Tổ chênh vênh, còn hơn cắt thịt thân mình; nhớ nghĩ báo ân sâu nặng của Phật Tổ thì dù ngủ nghỉ, ăn uống, ở chỗ an ổn cũng không yên lòng; nhớ nghĩ đến đệ tử Phật ở khắp nơi tu tập sai đường, mà không thể cứu vớt, tuy chưa thể làm được một phần muôn của người xưa nhưng tâm này không luống dối, tôi từng tha thiết đọc Cao Tăng Truyện ký tìm dấu vết chân chánh của các Bậc hiền triết, nghiên cứu nguồn gốc của nó trích ra sự thật, sự lý chính đáng còn tồn giữ, tập hợp tất cả rồi viết ra; chỗ thiếu sót thì bổ sung vào, chỗ lờ mờ chưa rõ thì cắt bỏ; chỗ tối nghĩa thì làm cho sáng tỏ, chỗ đứt đoạn thì viết thêm dẫn chứng vào, ngõ hầu sau ngàn năm người tu Tịnh nghiệp nhờ lời nói mà tư duy về đạo, uống nước biết được nguồn gốc, biết được di phong của người xưa, hiểu rõ được ngọn ngành của Tiên tông, tiếp nối và làm hưng thịnh hạt giống Phật, mở mang đạo mầu, giữ tuổi thọ tuệ mạng đến vô cùng, truyền ngọn đèn chân chánh đến vĩnh viễn. Đây không phải bốn chữ là một tấm gương chiếu sáng vô cùng ư? Phải hiểu rõ đạo này, cẩn thận chớ xem thường.
1. Chuyện thật về Tổ sư Tuệ Viễn.
Sư húy Tuệ Viễn, người ở Lâu Phiền thuộc Nhạn Môn, nay là Đại châu Hải đông. Họ Giả, sinh ở Thạch Triệu, vào năm Giáp ngọ, thuộc niên hiệu Diên Hy. Vào niên hiệu Hàm Hoà thứ 9 vua Thành Đế đời Tấn, Sư mười hai tuổi, theo cậu du học ở Hứa Lạc. Sư thông hiểu sáu kinh, thông thạo sách Chu Dịch Lão Trang. Năm hai mươi mốt tuổi sư vượt qua sông, cùng Phạm Tuyên Tử ở ẩn, gặp giặc ở Trung nguyên nổi lên. Lúc ấy, Sư nghe tiếng Pháp sư Đạo An ở núi Thái Hành giảng kinh Bátnhã nên cùng với người em là Tuệ Trì cùng đến nghe, nhân đó hoát nhiên đại ngộ. Sư nói:
- Đạo Nho lưu truyền đã lâu nhưng đều là vỏ trấu. Nói rồi Sư cùng người em cạo tóc xuất gia, thường lấy Đại pháp làm trách nhiệm của mình. Ngài Đạo An bảo:
- Kẻ làm cho đạo lưu truyền ở trong nước là Tuệ Viễn.
Niên hiệu Thái Nguyên thứ 9 đời Hiếu Vũ Đế, Sư đến Lô Sơn, dộng gậy xuống đất nói: "Có dòng suối ở đây", bỗng nhiên có dòng suối phun vọt lên. Sư bèn cắt cỏ tranh làm am, giảng kinh Niết-bàn cảm được Sơn thần. Sơn thần hiển linh giúp đỡ Sư về vật liệu (gỗ), mưa gió chuyển gỗ về. Thái thú ở Giang châu kinh hãi sự thần dị này. Sư lập chùa Đông Lâm, đặt tên điện là Thần Vận.
Đến niên hiệu Thái Nguyên thứ 11 chùa xây dựng hoàn thành. Vì ở Đông Nam kinh luật chưa đầy đủ, thiền pháp không được nghe nên Sư dựng riêng một thiền thất trong khuôn viên chùa và thỉnh một thiền sư về hướng dẫn mọi người tu tập pháp thiền, khiến các đệ tử vượt qua sa mạc đến học Thiền kinh, những người dân ở gần sông đều được tu tập. Sư nguyện đem giáo pháp Đại thừa giáo hóa khắp nơi từ phương Bắc đến phương Tây, phương Nam. Có lần Sư nói: Thiền pháp sâu xa nhiệm mầu, người không có tài thì không thể trao truyền, chỉ dạy được. Yếu môn nhập đạo, công đức cao vời, tu tập dễ tiến không gì hơn niệm Phật.
Học trò của Sư khoảng ba ngàn vị tới lui, một trăm hai mươi ba vị là bậc chân tín và mười tám Bậc hiền như Lưu Di Dân... Những vị ấy đối trước tượng Phật Vô Lượng Thọ thiết trai, lập nguyện đồng tu tập để sinh về Tịnh độ Tây phương và kết Bạch Liên xã, Lưu Di Dân làm bài văn phát nguyện, sư tự soạn bài tựa về niệm Phật Tammuội. Tạ Linh Vận ỷ có tài nên ngạo mạn nhưng một khi gặp Sư liền tỏ lòng cung kính, phát nguyện đào ao trồng sen để xin gia nhập vào Liên xã của Sư tu tập nhưng Sư thấy ông tâm tạp loạn nên không nhận.
Trong núi có nhiều rắn, có một hành giả, không biết là người nào đã từng giúp Sư đuổi rắn, đến nay hiệu là Tỵ xà Thánh giả. Một dòng suối chảy ngang qua chùa Sư ở, đến cuối dòng nhập vào Hổ Khê. Mỗi lần tiễn khách về, Sư lấy Hổ khê làm ranh giới. Bấy giờ, Đào Uyên Minh và Lục Tu Tĩnh từng được Sư đưa tiễn, vì ba người đàm đạo rất khế hợp, bất giác đi quá Hổ khê, rồi cùng nhau cười lớn. Đời sau nhân đấy truyền Tam Tiếu đồ ở đây.
Pháp sư La-thập thông hiểu kinh sách, xứng đáng làm thầy, là vị Bồ-tát hộ pháp Đông phương. Tăng chúng ở nước ngoài đều nói đất Hán có đạo sĩ Đại thừa, nên mỗi lần thắp hương lễ bái đều hướng về phương Đông núi Lô làm lễ, tỏ lòng cung kính.
Niên hiệu Long An năm đầu đời vua Tấn An Đế; Hoàn Huyền xúi giục vua sa thải tăng ni. Sư bảo Lô Sơn là nơi ở đạo đức không dễ tìm. Thế rồi sư đem ý kiến ấy trình lên vua, xin vua không đào thải tăng ni. Đến năm đầu nhà Nguyên, Hoàn
Huyền lại muốn Sa-môn phải cung kính bậc vương giả. Sư lại viết những lời bàn bạc rồi rời khỏi An Đế. Từ Giang Lăng Sư trở về kinh đô, mọi người khuyên Sư trở lại, sư viện cớ bệnh nên không đi. Vua bèn sai người đến thăm hỏi, sư dâng biểu lên vua.
Ngày 1 tháng 11 năm Ất Mão thuộc niên hiệu Nghĩa Hy, sư nhập định đến mười bảy ngày; khi xuất định gặp Đức Phật A-di-đà thân màu vàng tử ma chiếu khắp thế giới hư không. Văn Long Thư Tịnh độ viết: Tuệ Viễn ba lần thấy tướng Thánh nhưng Sư không hề nói, ba mươi hai năm không ra khỏi núi, cũng không đến nhà thế tục.
Ngày 1 tháng 8 năm Bính Thìn Sư thị hiện bị bệnh, đến ngày mồng 6 bệnh trở nặng, các bậc Đại đức kỳ cựu thỉnh sư uống rượu đậu, nhưng Sư không chấp thuận, lại thỉnh Sư uống mật ong, Sư bảo Luật sư xem xét rồi đem cất, không bao lâu Sư nhóm họp các đệ tử đến dặn dò:
"Ta tự biết ngày ra đi, ta sẽ bỏ thân ở núi này, nên từ nay đến cuối cuộc đời ta sẽ đóng cửa thất, dứt bặt các duyên, chuyên giữ chí mình không màng đến thân xác. Năm nay đã tám mươi ba tuổi rồi, lúc trút hơi thở cuối cùng ta muốn để xương cốt ở dưới rừng thông, tức là lấy đỉnh núi làm mộ để nuôi cây cỏ tốt tươi. Đây là theo thông lệ của người xưa, các vị chớ có trái. Nếu làm cho thần thức sáng suốt đạt đến chỗ chân thật thì Đức Thế Tôn đại bi cũng sẽ giúp cho". Nói xong, Sư từ giã mọi người. Quan thái thú Tầm Dương đến điều hành tang lễ. Thi thể Sư an táng ở Tây Lãnh, chất đá làm tháp thờ, vua An Đế ban hiệu là "Lô Sơn Tôn giả Hồng Lô Đại khanh Bạch Liên xã chủ ngưng tịch chi tháp". Tạ Linh Vận lập bia đề bài minh để tuyên dương công đức. Bài tựa của Trương Dã có Khuông Sơn Tập mười quyển lưu hành ở đời.
2. Thụy hiệu của Tổ sư Tuệ Viễn qua các Triều đại.
Niên hiệu Nghĩa Hy, vua An Đế đời Tấn ban thụy hiệu cho Sư là Lô Sơn Tôn giả Hồng Lô Đại khanh Bạch Liên xã chủ.
Năm Mậu Thìn, vua Đại Trung đời Đường ban thụy hiệu cho Sư là Biện Giác Đại sư.
Thăng Nguyên niên hiệu đời Nam Đường năm thứ ba vua ban thụy hiệu cho Sư là Chánh giác Đại sư.
Niên hiệu Thái bình Hưng quốc năm thứ ba đời Tống vua ban thụy hiệu cho Sư là Viên Ngộ Đại sư.
Niên hiệu Càn Đạo năm thứ hai đời Tống vua ban thụy hiệu cho Sư là Biến Chánh Giác Viên Ngộ Đại Pháp sư.
3. Đại sư Minh Giáo đề bài ký về ảnh đường thờ Tổ sư Tuệ Viễn.
Về sự tích Ngài Tuệ Viễn, người học tuy có thấy nhưng ít ai biết được tường tận, khiến cho người học đời sau không biết rõ ràng; không thấy đức hạnh của các bậc Tiên hiền cũng là lỗi của người hậu học. Tôi đọc Cao Tăng Truyện, Liên xã Lục, Cửu Giang Tân Cựu lục, thích nhất là sáu việc của Tuệ Viễn, thường lấy đó để nhắc nhở mình tu học. Thế rồi tôi trích dẫn ra ghi bài ký ấy đóng khung treo lên giảng đường để mọi người đến học được thấy.
Lục Tu Tĩnh là người tu học theo giáo phái khác, khi trở về sư tiễn quá Hổ Khê. Đó là y pháp bất y nhân. Đào Uyên Minh đắm say men rượu nhưng sư lại kết bạn. Bởi vì bỏ qua chi tiết nhỏ chỉ y cứ vào sự đạt ngộ. Cao tăng Bạt-đà hiển bày việc lạ, bị đuổi đi nhưng lại đón về và khen ngợi. Bởi họ xem nặng về học thức mà khinh miệt Bậc hiền, Tạ Linh Vận vì tâm hỗn loạn nên không nhận, sau quả chết vì bị gia hình tâm nên mất phép tắc, bởi biết là pháp khí nhưng phải cẩn thận đến cùng. Lô Tuần muốn làm phản nhưng sư chỉ chắp tay cầu cứu vì tự tin vào đạo. Hoàn Huyền ra uy nhưng Sư chống đối không khuất phục vì có khí tiết lớn. Tình người xưa nay đều sợ uy thế, khó tránh khỏi quên nghĩa để tránh né nghi ngờ, háo danh mà mê muội sự thật, nương dựa thế lực mà tàn nhẫn với kẻ thế cô, tô điểm đức hạnh mà sợ liên lụy, tự khen chê người. Ai có đạo hạnh cao quý trong đời như Bậc hiền lại bằng lòng nói ít lời mà nghe theo người ư? Ai vốn có đức tốt làm những việc trong sạch, thanh khiết lại bằng lòng kết giao với người say sưa vì coi trọng sự chứng đạt của kẻ đó ư? Ai là bậc thầy có thể khuất phục người, vì tôn trọng lễ mà bị trách đuổi đi, lại khen như khách và khen ngợi là Bậc hiền ư? Ai là người chối từ kẻ sĩ nổi tiếng, không dạy dỗ truyền đạt giáo pháp để giữ trọn vẹn đến cuối ư? Ai có nghĩa, không trốn tránh tai họa, hòa nhã như cố cựu vì tin vào đạo ư? Ai là kẻ gặp oai tướng đang sát phạt, bạo ngược lại giữ đạo không bị rối loạn để giữ khí tiết ư? Vì thế Tuệ Viễn biết mọi việc một cách sâu rộng, vượt xa xưa nay. Nếu đảm trách Thánh đạo rộng lớn sâu xa cùng tột giáo pháp làm giàu có trời người là những chúng sinh không mong mỏi mà được cùng tột. Đó là Thánh ư? Hiền ư? Là vĩ nhân ư? Thổi một luồng gió mát kết thành khối lớn, đó là danh tiếng của Tuệ Viễn; ngọn núi cao vọt giữa bốn biển sắc thu là sự thanh cao của Tuệ Viễn; người như rồng, tăng như phụng đều khen nguyên tắc là khuôn phép của Tuệ Viễn. Mây trắng, hang son, cây ngọc, cỏ quỳnh đều là nơi dừng chân của Tuệ Viễn. Người sinh sau tuy mến mộ nhưng hận. Xem di tượng này xin cúi đầu làm lễ, nguyện lấy những mảng văn tản mạn viết lại trên vách thất.
4. Tên họ mười tám vị Đại Hiền ở Lô Sơn.
1. Tổ sư Tuệ Viễn, húy Tuệ Viễn, người ở Lâu Phiền thuộc Nhạn Môn, họ Giả.
2. Pháp sư Vĩnh, húy Tuệ Vĩnh, họ Phần, người ở Hà nội.
3. Pháp sư Trì, húy Tuệ Trì, là em của Tuệ Viễn. Hai anh em cùng thờ Pháp sư Đạo An làm thầy.
4. Pháp sư Sinh, húy Đạo Sinh, xuất thân từ họ Ngụy, người ở Cự Dã.
5. Tôn giả Phật-đà-da-xá, Hán dịch là Giác Minh, thuộc dòng họ Bà-la-môn ở nước Kế tân.
6. Tôn giả Phật-đà-bạt-đà-la, Hán dịch là Giác Hiền, là cháu của vua Cam Lộ Phạn.
7. Pháp sư Duệ, húy là Tuệ Duệ, người ở Ký châu.
8. Pháp sư Thuận, húy là Đàm Thuận, người ở Quảng long.
9. Pháp sư Kính, húy là Đạo Kính, họ Vương ở Lang-da, theo Tổ Ngưng Chi đến ở Giang châu.
10. Pháp sư Hằng, húy Đàm Hằng, người ở Hà Đông, là đồng tử xuất gia, không rõ tên họ.
11. Pháp sư Bỉnh, húy Đạo Bỉnh, họ Trần, ở Dĩnh xuyên.
12. Pháp sư Trầm, húy Đàm Trầm, người ở Quảng lăng, không biết tên họ.
13. Lưu Di Dân, húy Trình Chi, tự Trung Tư, người ở làng Bành thành, con cháu của vua Hán Sở Nguyên.
14. Tán kỵ thường hầu Lôi Công, húy Tông, tự Trọng Luân, người ở Nam xương.
15. Thái tử Xá Nhân Tông Công, húy là Bính, tự là Thiếu Văn, người ở Nam dương.
16. Trị trung Trương Công, húy là Dã, tự Lai Dân.
17. Tán kỵ thường hầu Trương Công, húy Thuyên, tự là Tú Thạc, dân tộc Mông.
18. Thông Ẩn Xử sĩ Chu Công, húy là Tục Chi, tự Đạo Tổ, người ở Quảng võ thuộc Nhạn môn.
5. Thiền sư Quán Hưu đề thơ ở ảnh đường thờ mười tám vị Đại Hiền.
Sen trắng bên ao ảnh đường xưa
Phong cách Lưu, Lôi vang dội khắp
Xem nhẹ Thiên tử, các chư hầu
Chỉ mến thầy tôi dòng pháp dài
Người quá tham đắm vời chẳng được
Tạ công tâm loạn, hết phương chữa
Người nào đến đây nghĩ mông lung
Như gió thoảng qua bức tường thấp.
6. Nói về việc thành đạo của Tổ Tuệ Viễn. Sách Lễ Ký ghi:
Tiên tổ không khen ngợi tốt đẹp là vu báng, có điều tốt mà không biết là ngu si, biết mà không dạy cho người khác là bất nhân. Ba điều này người quân tử rất hổ thẹn. Chao ôi! Ta là học trò của Đức Phật há không như vậy chứ?
Ngài Tuệ Viễn-Tổ sư của ta đức hạnh, giai vị, công đức rộng lớn, sáng ngời mà vẫn hạ mình dạy dỗ cho rất đông người ngu dốt. Vì Sư muốn làm người dẫn dắt những người kém phước duyên nhưng lại là kẻ chẳng ra gì, sự học ít ỏi, tài đức kém yếu, chưa thể noi theo kế thừa Tông bảo trước, bèn một mình học rõ giáo lý. Chẳng lẽ cũng hổ thẹn ư?
Sư từng tham học với Thiền sư Tú-người thông kinh luận ở thạch thất. Sư bảo: cách khổng Tử một trăm năm có Mạnh Tử tiếp nối tông chỉ. Lúc ấy, đạo cơ của Khổng Tử suy vi, trục xe ở đây có năng lực đi vào quỹ đạo của nó, làm hưng thạnh môn phong, khiến mọi người nể phục. Phật giáo từ phương Đông truyền đến khoảng ba trăm năm có Tuệ Viễn. Lúc ấy, Sa-môn dần dần hưng thạnh, nhưng chưa được độc lập, Sư đặt ra hiến chương, khuôn phép tốt đẹp, làm Tông sư của thiên hạ. Thế nên, đạo Phật từ đây mới được hưng khởi. Vì thế gọi Tuệ Viễn là người có công lớn trong dòng họ Thích. Cũng như Mạnh Tử, học trò của Khổng Tử. Ngài Tuệ Viễn cho cao tăng và kẻ sĩ trong triều đình đồng tu Tịnh xã. Đạo của Sư vang dội đến đế vương, pháp lưu truyền khắp trong nước. Người đời sau tu tập pháp môn niệm Phật không ai không biết nguồn cội của Tổ mình.
Người nào đánh mất nguồn cội của mình, truyền bá nhiều kiến chấp và nói về sự bạc phước của thế gian thì đó là bọn Xiển-đề, họ dối chọn Lô Sơn ghi thành Đạo ký thêm văn từ trau chuốt, lời nói không có căn cứ để làm cuồng loạn, mê hoặc thiện tín, truyền khắp mọi người, đến nay không thể sửa đổi.
Tôi đã xem kỹ Đại tạng, Hoằng Minh Tập, Cao Tăng truyện và quán sát tường tận yếu chỉ của nó nên nêu lên sơ lược bảy việc để phá trừ mê lầm cho mọi người. Người hiểu biết thì noi theo gương Ngài Tuệ Viễn, đảnh lễ Pháp sư Đạo An ở núi Thái Hành mà xuất gia vọng truyền là thờ Tôn giả Chiên-đàn làm thầy là điều dối gạt thứ nhất. Vọng cho rằng Đạo An là cháu của Tuệ Viễn là điều dối gạt thứ hai. Tuệ Viễn ba mươi năm không ra khỏi núi, không đến nhà thế tục mà vọng cho là Bạch Trang bắt được là điều dối gạt thứ ba. Tấn Đế ba lần vời Tuệ Viễn nhưng Sư viện cớ bệnh để chối từ lời mời, mà cho là bán thân cho Thôi tướng công làm tôi tớ là điều dối gạt thứ tư. Cánh tay của Ngài Đạo An có vòng thịt mà dối cho là Tuệ Viễn là điều dối gạt thứ năm. Lúc sắp qua đời Sư ngồi dưới gốc thông, bảo môn đồ chôn ở Tây Lĩnh. Nay vẫn còn thấy ngôi tháp im lìm lặng lẽ, có thể lấy đó để chứng minh, mà dối cho Tuệ Viễn ngồi trên thuyền ánh sáng chói lọi rồi bay lên cõi trời Đâu-suất là điều dối gạt thứ sáu. Pháp sư Đạo Sinh ở Hổ Khâu giảng kinh, chỉ đá phát thệ nguyện, đá liền gật đầu mà dối cho là Tuệ Viễn, đó là điều lừa dối thứ bảy. Đáng thương xót thay những phường gian tế ở đời không biết được đức hạnh chân thật của Tổ sư vọng tô điểm thêm nhiều việc không căn cứ, gieo vào tâm tưởng người sau những điều không hay, làm cho mọi người chê cười, hủy báng Thánh đức. Người hiểu biết thấy việc đó mà không tìm hiểu nguyên do đúng hay sai, cứ để cho họ xem thường Tổ sư ta ư? Há chẳng làm thân Phật chảy máu, phạm tội ngũ nghịch ư? Tôi có xem các bậc tăng tài đức đời Tống, như Tài Quán, Huệ Nghiêm, Linh Vận, phiên dịch kinh Niết-bàn, thêm bớt ngôn từ. Mơ thấy thần mắng: "Dám lấy phàm tình mà xem nhẹ Thánh điển." Tài Quán, sợ hãi nên dừng lại.
Huệ Lâm nhờ tài học của mình nên may mắn được vua phong hiệu là Hắc y tể tướng, tự dính mắc vào phải quấy, bàn luận phân biệt, hủy báng Phật giáo, nên chiêu cảm lấy bệnh nặng, thân thể thối rữa mà chết.
Ôi! Những điều như thế đều là vọng viết truyện ký về Tổ sư mà không sợ đọa vào ba đường địa ngục ư? Những người cùng chí hướng với tôi hãy xem xét kỹ về sự tích thật của Tuệ Viễn từ gốc tới ngọn, nói khắp cho mọi người biết để làm rạng rỡ Tổ đạo, ngõ hầu khôi phục lại sự thật của các bậc tiên tổ, rút lại những điều trái ngược ấy.
7. Đại sư Thích Đàm Loan ở Bích cốc.
Sư là người ở Nhạn môn, lúc nhỏ đến núi Ngũ Đài, cảm được khác lạ của nó nên Sư tự phát nguyện xuất gia. Sự đốn tiệm trong Tam Thừa Sư đều nghiên cứu tường tận trong văn lý. Sư từng mang bệnh đến Phần châu, chợt thấy mây ám bay hết, cửa trời rộng mở, sáu tầng trời cõi dục giai vị thượng hạ nhiều lớp. Sư vừa chớp mắt bệnh liền tiêu trừ. Từ đó tất cả việc gì Sư cũng dụng tâm Phật đạo, như sợ không kịp, việc khai thị cho kẻ ngu, dẫn dụ người đời vào đạo không ngơi nghĩ gần xa. Ban đầu Sư thích Thuật học, nghe ông Đào ẩn cư tu tập đắc được pháp sống lâu, sư lặn lội từ xa đến ông Đào để xin mười quyển kinh tiên. Ông Đào cho Sư, sư rất vui mừng tự đắc, cho là pháp thuật của thần tiên chính là đó. Sau, sư trở về Lạc Hạ gặp Bồ-đề-lưu-chi, trong ý khá tự đắc nên hỏi Ngài Lưu-chi: Đạo Phật có thuật sống lâu hay không? Đạo Phật có khả năng làm trẻ mãi, không già không chết chăng?
Ngài Lưu-chi cười, đáp:
- Sống lâu không chết chính là đạo Phật ta. Sư bèn trao quyển kinh Vô Lượng Thọ cho Đàm Loan, nói: Ông hãy tụng kinh này thì không sinh vào ba cõi, sáu đường. Tất cả những điềm lành, dữ, tốt xấu trong hư không đều không thể đến. Tuổi thọ thì có kiếp thạch, có hà sa, số kiếp thạch và hà sa có hạn lượng, còn tuổi thọ con người ở đây rất dài lâu không thể tính kể, không có kỳ hạn. Đó là quyển sách sống lâu của họ Kim tiên ta.
Ngài Đàm Loan vâng theo lời nói đó, phát tâm tin sâu, liền đốt các sách kinh Tiên mà chuyên quán kinh này.
Sư thường xem kinh, hiểu được nghĩa lý, tu ba thứ phước nghiệp, quán tưởng hình tướng chín phẩm, tuy nói lạnh nóng thay đổi, bệnh tật xâm nhập nhưng vẫn không bỏ niệm ban đầu. Chúa nhà Ngụy thương xót ý chí ấy lại chuộng sự tự hành hóa tha của Sư và có đạo nghiệp rộng lớn nên ban hiệu là Thần Loan và bảo Sư đến trụ trì chùa Đại nghiêm ở Tinh châu. Không bao lâu sư dời đến trụ chùa Huyền trung, ở Phần châu. Đêm nọ, Ngài Đàm Loan đang tụng kinh, có một vị phạm tăng khí phách hơn người đến thất sư, nói: Long Thọ ta đã ở Tịnh độ, vì ngươi có tâm Tịnh độ nên ta đến gặp ngươi.
Ngài Đàm Loan hỏi:
- Ngài dùng giáo pháp nào dạy tôi? Long Thọ đáp:
- Quá khứ không thể đến, vị lai không thể truy tìm, hiện tại nay ở đâu? Thời gian trôi qua khó giữ lại. Nói xong biến mất.
Ngài Đàm Loan xét điều đã thấy tốt đẹp khác thường thì biết được kỳ hạn của sinh tử, bèn tập họp mấy trăm vị đệ tử giảng dạy kỹ càng và căn dặn rằng: Ta đã dạy bảo rằng bốn loài sinh khổ nhọc đều dừng, các khổ địa ngục không thể không sợ, Tịnh nghiệp không thể không tu. Do đó khiến các đệ tử đồng thanh lớn tiếng xưng niệm A-di-đà Phật. Ngài Đàm Loan hướng về phương Tây nhắm mắt rồi thị tịch. Lúc đó đạo tục đồng nghe âm thanh như tiếng ty trúc reo từ phương Tây vọng đến, giây lâu Sư bèn hóa.
8. Đại sư Thiên Thai Trí Giả.
Sư húy Trí Khải, tự Đức An, họ Trần, người ở Dĩnh Xuyên. Mẹ sư họ Từ, nằm mộng thấy khói hương năm mầu bao quanh thân bà, sau đó bà có mang. Đến ngày sinh ra sư có ánh sáng thần diệu chiếu sáng rực cả phòng. Mỗi mắt sư có hai con ngươi, lông mi chia thành tám màu. Thuở nhỏ, sư nhìn thấy hình tượng Phật liền đảnh lễ, gặp chư tăng thì vái chào. Đến năm mười tám tuổi Sư đến chùa Quả nguyện ở Tương châu xuất gia, tụng kinh Pháp Hoa, thông cả Luật tạng, tánh thích tu Thiền nên Sư đến núi Đại Tô đảnh lễ Thiền sư Tuệ Tư, quay mặt về hướng Bắc thờ Thiền Sư làm thầy.
Thiền sư Tuệ Tư vừa gặp Sư liền nói: Ngày xưa ở Linh sơn chúng ta đã từng nghe kinh Pháp Hoa, túc duyên đã đến, nay chúng ta lại gặp nhau. Nhân đây Ngài trao Tam-muội Pháp Hoa cho Trí giả, sư tụng kinh suốt hai mươi mốt ngày, lúc tụng đến câu "Chân tinh tấn, đó gọi là chân pháp cúng dường" trong phẩm Dược Vương Bổn Sự thì thân tâm Sư bỗng nhiên vắng lặng mà như nhập thiền định. Sư thấy rõ nghĩa Pháp Hoa như ánh sáng mặt trời chiếu soi muôn vật; thấu đạt các pháp tướng như gió mát thổi trong hư không. Sư bèn đem điều đã chứng bạch Thầy, Thầy bảo:
- Chẳng phải ông không chứng, chẳng phải ta không biết. Sở chứng của ông là Pháp Hoa Tammuội tiền phương tiện đắc toàn Đà-la-ni, Ông là người bậc nhất trong những vị giảng kinh Pháp Hoa. Sau này hãy truyền bá giáo pháp khắp cùng thành thị thôn quê. Lúc mọi người chịu khuất phục, công việc hoằng hóa sắp xong thì Ngài vào Thiên Thai hàng ma, tinh tấn tu hành. Việc hóa duyên đã mãn, Sư đến trước tượng đá lớn ở Tân Xương thị hiện bị bệnh và nói với các đệ tử là sẽ tịch diệt. Các đệ tử thỉnh Sư nói cho họ biết nơi sư sắp sinh về.
Sư bảo:
- Các thầy bạn của ta đều theo Bồ-tát Quán Âm đến đón rước ta. Đến tối, người thị giả thấy có Phật đến, thân Phật cao gấp hai tượng đá lớn. Lúc sắp qua đời, Sư bảo các đệ tử tụng kinh Vô Lượng Thọ và Quán kinh, sư mở mắt rồi quay sang đại chúng chắp tay khen ngợi rằng:
- Bốn mươi tám nguyện trang nghiêm Tịnh độ, ao hoa, cây báu dễ đến mà không có người, tướng xe lửa hiện, một niệm sửa đổi vẫn được vãng sinh, huống chi huân tu giới định, tu thắng hạnh, đạo lực thật không luống uổng. Nói xong, sư xưng danh hiệu Tam bảo rồi thản nhiên mà hóa. Về sau, có vị Tăng cầu xin được biết chỗ sinh của Ngài Trí Giả, liền mộng thấy kim dung Bồ-tát Quán Âm cao mấy trượng, Ngài Trí Giả theo sau và nói với vị Tăng: Ông đã hết nghi chưa? Như thế nên nghiệm biết Ngài Trí Giả vãng sinh Tây phương.
9. Hòa thượng Thiện Đạo ở kinh đô.
Thích Thiện Đạo vào niên hiệu Trinh Quán đời Đường, Sư đi khắp nơi hỏi đạo, gặp Thiền sư Đạo Xước ở Tây hà tu tập Phương Đẳng sám và giảng Quán kinh tại đạo tràng Tịnh độ cửu phẩm, sư rất vui mừng nói rằng: Đây đúng là bến bờ then chốt để vào cửa Phật. Nếu tu các pháp môn khác quanh co phức tạp khó thành tựu, chỉ có quán môn này mau vượt khỏi sinh tử. Nay ta đã được pháp môn này. Từ đó sư dốc chí khổ công tu tập như cứu lửa cháy đầu rồi tiếp tục đến kinh đô để kích phát bốn bộ đệ tử, không kể sang hèn, hàng thịt, bán rượu, ai ai Sư cũng đều giúp cho họ được giác ngộ. Sư dạy mỗi người nhập Phật thất chắp tay, quỳ thẳng nhất tâm niệm Phật, không kiệt sức thì không nghỉ, cho đến trời lạnh cũng phải tháo mồ hôi. Tướng trạng này bày tỏ lòng chí thành, Sư vì người nói pháp Tịnh độ để giáo hóa các đạo tục, khiến họ phát đạo tâm tu hạnh Tịnh độ, không có tạm thời, không vì lợi ích, hơn ba mươi năm không có chỗ ngủ riêng, không ngủ nghỉ trái thời, trừ lúc tắm gội ngoài ra Sư không hề cởi y, Ban-chu hành đạo, lễ Phật phương đẳng... Sư đều chuyên tâm làm tròn trách nhiệm, hộ trì giới phẩm không hề phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, không hề nhìn người nữ, không màng đến danh lợi, tránh xa sự nói chơi vui đùa. Chỗ ở của Ngài, nếu có Đàn-việt thanh tịnh cúng dường bốn thứ cần dùng như thức ăn, y phục... cho Sư thì sư không tự hưởng riêng mà đem những thức ăn ngon để vào nhà trù cúng dường cho đại chúng còn mình chỉ ăn những món dở. Sư không uống các thứ sữa, lạc, đề hồ. Mọi vật của Đàn-việt cúng Sư dùng vào việc viết kinh A-di-đà hơn mười muôn quyển. Ngoài ra còn họa hơn ba trăm bức biến tướng Tịnh độ.
Thấy vách tường chùa bị xuống cấp và ngôi tháp cũ kỹ, Sư phát tâm xây dựng lại, đốt hương thắp đèn quanh năm không để tắt. Ba y và bình bát sư không nhờ ai ôm và rửa, trọn đời không thay đổi, luôn giáo hóa những người có duyên. Mỗi khi đi đâu thì chỉ đi một mình chứ không đi với đại chúng, vì sợ đi với người sẽ bàn nói việc thế gian trở ngại việc tu hành. Nếu có người thưa hỏi việc tu tập, đảnh lễ yết kiến sư, mong được nghe Sư giảng một ít giáo pháp thì người ấy sẽ được dự vào đạo tràng, đích thân được nghe lời chỉ dạy, hoặc không hề thấy nghe phải suy tầm giáo nghĩa, hoặc xoay vần trao truyền pháp môn Tịnh độ. Xa gần đều đến nghe, tăng ni, sĩ nữ có người bỏ thân nơi núi cao, đốt thân cúng dường. Có hơn trăm người bỏ vợ con, tu Phạm hạnh, tụng kinh Di-đà từ mười muôn đến ba mươi muôn biến, mỗi ngày niệm Phật A-di-đà từ một muôn đến mười muôn câu và người được Tam-muội niệm Phật vãng sinh Tịnh độ không biết là số bao nhiêu.
Có người hỏi Ngài Thiện Đạo: Khéo niệm Phật thì sinh về Tịnh độ phải không?
Sư đáp: Đúng như ông nghĩ, sẽ được thỏa nguyện. Ngài Thiện Đạo chuyên niệm Phật A-diđà, cứ như thế, hễ niệm một câu thì có một luồng ánh sáng từ trong miệng phát ra. Niệm mười câu cho đến trăm ngàn câu thì ánh sáng cũng giống như thế. Sư nói với mọi người: thân này luôn bị các thứ khổ ép ngặt, nó giả dối, luôn thay đổi không chút ngừng nghỉ, thật đáng nhàm chán. Nói rồi Sư liền leo lên cây liễu ở trước chùa xoay mặt về hướng Tây nguyện rằng:
-Nguyện uy thần của Phật đến tiếp dẫn con, Bồ-tát Quán Âm và Bồ-tát Thế Chí cũng đến giúp sức cho con, khiến cho tâm con luôn giữ chánh niệm, không sinh tâm sợ hãi, nguyện ở trong pháp Di-đà không lui sụt. Nguyện xong, sư đứng thẳng trên cây mà hóa. Bấy giờ, các sĩ đại phu ở kinh đô đều nghiêng mình thành kính, quy tín, họ cùng nhặt xương của Sư đem chôn.
Hoàng đế Cao Tông biết Sư niệm Phật miệng phát ra ánh sáng, lại biết lúc lìa bỏ báo thân tinh chí đến như thế nên ban tặng chùa một tấm ngạch đề là Quang Minh.
Thiên Trúc Thức Sám chủ lược truyền rằng:
Hóa thân của Phật A-di-đà tự đến Trường An, nghe tiếng suối chảy róc rách Hòa thượng liền bảo, có thể dạy mọi người pháp môn niệm Phật. Thế rồi Sư liền lập ngũ hội giáo, khuyến hóa rộng khắp. Có người chí tín thấy Hòa thượng niệm Phật, Phật từ trong miệng bay ra. Ba năm sau khắp thành Trường An đều được Sư dạy pháp môn niệm Phật. Việc này thấy trong Biệt truyện.
Về sau, có Đại sư Pháp Chiếu tức là thân sau của Ngài Thiện Đạo, thời vua Đức Tông ở Tinh Châu cũng tu tập ngũ hội, dạy mọi người niệm Phật, vua ở Trường An nghe phương Đông Bắc có tiếng niệm Phật nên liền sai sứ đi tìm. Khi đến Đại Khang quả nhiên sứ giả thấy Đại sư Pháp Chiếu khuyên dạy người niệm Phật. Vua liền đón rước Sư vào nội cung, dùng giường dây của Lưu Cầu dạy người trong cung về ngũ hội niệm Phật. Việc này có nói rõ trong bổn truyện.
10. Đại sư Pháp Chiếu ở Kim đài.
Thích Pháp Chiếu vào niên hiệu Đại lịch thứ hai, đời Đường trụ chùa Vân Phong, ở Hành Châu, thường từ nhẫn lấy giới, định làm chỗ quay về. Một hôm, sư ở trong thiền đường tăng ăn cháo, bỗng thấy đám mây năm mầu trong bát. Trong đám mây có ngôi chùa ở phía Đông Bắc, ngôi chùa có núi lớn, trong núi có dòng suối chảy, phía Bắc dòng suối là Thạch môn, cửa rộng năm dặm, phía sau là ngôi chùa đề bảng vàng: Đại Thánh Trúc Lâm Tự. Tuy chính mắt sư nhìn thấy nhưng trong lòng còn hoài nghi chưa tin chắc. Ngày nọ, trong lúc ăn cơm sư lại thấy đám mây năm màu hiện ra trong bát. Trong đám mây có hiện vài ngôi chùa nhưng không có núi rừng dơ bẩn mà thuần là thế giới màu vàng ròng: Ao báu, đài báu, lầu gác đẹp, có rất nhiều của báu và các Bồ-tát ở trong đó. Trong cõi đó có rất nhiều cõi nước Phật trang nghiêm thanh tịnh, vô số hình ảnh đẹp đẽ.
Sư rất vui với điều mình thấy, nhân đó đem thưa hỏi, có hai vị Tăng là Gia Diên và Đàm Huy nói: Thánh thần biến hóa không thể dùng phàm tình mà suy lường. Nếu nói về thế núi, sông thì chính là Ngũ Đài sơn. Bốn mùa hạ Ngài Pháp Chiếu ở chùa Hồ đông, thuộc Hành châu mở đạo tràng Ngũ hội niệm Phật.
Ngày 2 tháng 6 năm ấy đám mây lành năm màu giăng phủ khắp chùa, trong đám mây cũng có lầu gác. Phía trên gác có vài vị Phạm tăng thân cao hơn một trượng, cầm tích trượng hành đạo. Sư lại thấy Phật A-di-đà cùng hai vị Bồ-tát thân cao lớn bằng với hư không. Trời đã về chiều, sư ở trong đạo tràng ra ngoài gặp một ông lão, ông lão hỏi: Trước kia ông đã phát nguyện ở thế giới Kim sắc để đảnh lễ gần gũi các bậc Đại Thánh. Nay vì sao lại dừng ở đây?
Sư đáp: Bây giờ gian nan, đường xá khó đi, không dừng thì biết làm sao?
Ông lão bảo: Nếu hết lòng đi thì sẽ đi đến, có gian khó gì. Sư chưa kịp trả lời thì ông lão đã biến mất.
Sư vào đạo tràng, do thấy kỳ lạ khác thường nên lại phát nguyện: nguyện đem thân này kính thờ, gần gũi Đại Thánh. Tuy lửa dữ băng giá con cũng không bao giờ lui sụt.
Ngày 13 tháng 8 năm ấy, sư cùng vài người bạn đồng tu từ núi Nam Nhạc đi đến phía trước nhưng không gặp gian nan hiểm trở.
Ngày 5 tháng 4 năm thứ 5, Sư đến huyện Ngũ đài. Từ xa nhìn thấy phía Nam ngôi chùa có mấy luồng ánh sáng. Đến ngày mồng 6, Sư đến chùa Phật Quang như đã thấy trong bát, không sai tí nào. Đến canh tư đêm ấy có một luồng ánh sáng lạ từ phương Bắc chiếu vào người sư, sư không biết thế nào, bèn hỏi:
Đây là điềm gì? Tốt hay xấu? Chúng tăng nói:
Luồng ánh sáng không thể suy nghĩ bàn luận của bậc Đại Thánh thâu nhiếp thân tâm ông, sao còn hỏi.
Nghe xong, Sư giữ oai nghi đầy đủ, đến trước một ngôi chùa. Phía Đông bắc của ngôi chùa đó rộng khoảng năm dặm quả là có núi, có suối, phía bắc dòng suối là thạch môn, bên cạnh thạch môn có hai đồng tử là Thiện Tài và Nan-đà. Hai đồng tử dẫn Sư đi vào cửa phía Bắc, đi được khoảng năm dặm, Sư thấy một cửa vàng, trên cửa có lầu, bên cạnh lầu gác là ngôi chùa, cửa chùa có một tấm biển vàng lớn đề chữ: Đại Thánh Trúc Lâm Tự, khuôn viên chùa rộng khoảng hai mươi dặm, hơn một trăm viện, mỗi viện đều có tháp báu, đất bằng vàng ròng, hoa đài, cây báu đầy khắp trong đó. Sư vào chùa, đi đến giảng đường thấy Bồ-tát Văn-thù ở phía Tây, Bồ-tát Phổ Hiền ở phía Đông đều ngồi trên tòa sư tử cao. Sư đến làm lễ hai vị Bồ-tát và thưa:
Đời mạt thế, phàm phu hiểu biết kém cỏi, tâm địa Phật tánh không biết nhờ đâu mà hiển hiện. Chẳng hay dạy cho họ phương pháp tu tập nào là tốt nhất, xin Đại Thánh xé tan lưới nghi ngờ cho con.
Ngài Văn-thù đáp:
Điều ông hỏi nay thật đúng lúc, trong các pháp môn tu tập, không pháp nào hơn pháp môn niệm Phật, ở đời quá khứ ta nhờ niệm Phật mà được nhất thiết chủng trí. Thế nên, tất cả các pháp như Bát-nhã ba-la-mật-đa, thiền định sâu xa cho đến biển Chánh biến tri của chư Phật đều từ niệm Phật mà sinh ra.
Sư hỏi: Phải niệm như thế nào?
Ngài Văn-thù đáp: Ở phương Tây thế giới này có Đức Phật A-di-đà. Nguyện lực của Đức Phật ấy không thể suy nghĩ bàn luận. Ông nên niệm danh hiệu của Đức Phật ấy nối nhau, không để đứt quãng thì sau khi qua đời chắc chắn vãng sinh. Lúc nói lời ấy hai vị Bồ-tát duỗi cánh tay màu vàng xoa đầu sư và thọ ký rằng: Ông niệm Phật không thể suy nghĩ bàn luận, rốt cuộc sẽ chứng lên bực Vô thượng giác. Nếu thiện nam, tín nữ nào muốn thoát khỏi cõi Ta-bà thì phải nên niệm Phật.
Bấy giờ, hai vị Bồ-tát cùng nói Già-đà, Sư nghe rồi càng thêm vui mừng. Bồ-tát Văn-thù lại bảo: Ông hãy đi đến viện của các Bồ-tát, tuần tự đảnh lễ cầu mong các Ngài chỉ dạy.
Sư y theo lời dạy, lần lượt đảnh lễ các vị Bồtát, xin được chỉ dạy. Rồi lần lượt đến vườn hoa thất bảo, từ vườn hoa đó đi ra, ở trước Đại Thánh làm lễ từ giã rồi ra về. Sư lại thấy hai đồng tử Thiện tài, và Nan-đà tiễn Sư ra đến cửa. Sư liền vái chào từ biệt, vừa ngẩng đầu lên thì hai đồng tử đã biến mất. Đến ngày 30, sư cùng với hơn năm mươi vị Tăng đến động Kim cương, chỗ ngày xưa Ngài đã gặp Đại Thánh, thì bỗng thấy đất đai rộng lớn trang nghiêm thanh tịnh, các thứ châu báu lưu ly... xây thành cung điện. Bồ-tát Văn-thù, Phổ Hiền và khoảng mười ngàn vị Bồ-tát, Phật-đà-ba-lỵ cũng ở trong đó. Thấy rồi sư theo chúng trở về chùa.
Canh ba đêm ấy ở lầu gác phía Tây viện Hoa nghiêm, sư lại thấy năm cây đuốc ở hang núi phía Đông chùa, những cây đuốc ấy cao hơn một thước, Sư nguyện: Nguyện năm cây đuốc ấy phân thành trăm cây và dồn về một phía. Tức thời đuốc phân đúng như nguyện. Sư lại nguyện trăm cây đuốc phân thành ngàn cây. Tức thời đuốc liền phân đúng như nguyện, hàng hàng thẳng tắp đều nhau, ánh sáng rực rỡ khác thường, chiếu khắp cả núi rừng. Sư lại đi về động Kim cương, xin gặp Đại Thánh. Đến canh ba Sư thấy một vị Phạm tăng tự xưng là Phật-đà-ba dẫn sư vào chùa.
Đến ngày 1 tháng 12 Sư ở viện Hoa nghiêm, vào trong đạo tràng niệm Phật, nhớ lại hai vị Bồtát Văn-thù, Phổ Hiền thọ ký cho Sư sẽ chứng Vô thượng giác, lại bảo Sư niệm Phật A-di-đà chắc chắn được vãng sinh. Từ đó sư nhất tâm niệm Phật. Đang lúc niệm Phật, bỗng thấy vị Phạm tăng khi xưa đến, vào đạo tràng bảo:
-Đài hoa ở Tịnh độ đã hiện, ba năm sau hoa nở, ông sẽ sinh về đó. Đúng như điều ông đã thấy ở chùa Trúc lâm, sao không cho mọi người cùng biết? Nghe xong, sư nhớ lại điềm mộng ngày xưa, nhân đó bảo thợ khắc vào đá, đem những điều đã thấy về ngôi chùa Trúc lâm xây thành một ngôi chùa, đặt tên là Trúc lâm. Chùa đã hoàn bị, Sư bảo: Việc ta đã xong, không lưu lại nơi đây thêm ngày nào nữa. Nói xong, sư viên tịch trong ngày đó.
11. Pháp sư Thiếu Khang ở Mục châu.
Sư là người ở Tiên đô thuộc Tấn vân, mẹ họ La. Một hôm, bà đi dạo trên ngọn đỉnh hồ được một ngọc nữ cầm hoa sen xanh trao cho bà và nói: Trao hoa kiết tường này cho bà, bà sẽ sinh một quý tử.
Đến ngày sư chào đời, ánh sáng xanh chiếu khắp cả phòng, mùi thơm tựa như hoa sen. Năm lên mười lăm tuổi, sư tụng năm bộ kinh như Pháp Hoa, Lăng-nghiêm v.v..., tìm xét, nghiên cứu Tỳ-ni và nghe luận Hoa Nghiêm, luận Du-già.
Niên hiệu Trinh nguyên năm đầu, Sư đến chùa Bạch mã ở hạ lưu sông Lạc, thấy văn tự trong điện phát ra ánh sáng. Sư không thể suy lường được liền tìm xem ánh sáng phát từ đâu thì biết được ánh sáng ấy phát ra từ quyển Tây phương Hóa Đạo Văn của Ngài Thiện Đạo. Sư nói:
- Nếu có nhân duyên với cõi Tịnh độ thì hãy khiến cho văn tự này phát ra ánh sáng một lần nữa. Chưa dứt lời nguyện, quả nhiên chữ ấy phát ra ánh sáng. Sư phát nguyện:
Kiếp thạch có thể dời, nhưng nguyện con không thể đổi. Nguyện rồi sư bèn đến ảnh đường thờ Ngài Thiện Đạo ở Trường An để đảnh lễ cúng dường. Bỗng nhiên thấy Ngài Thiện Đạo hiện giữa hư không nói với sư rằng: Ông nương theo giáo pháp ta làm lợi ích an vui cho chúng hữu tình thì công đức sẽ được vãng sinh về nước An dưỡng. Sư nghe xong như có sở chứng, từ phương Nam đi về chùa Quả nguyện ở Giang lăng. Trên đường đi sư gặp một vị Tăng, vị ấy nói với sư: Ông muốn dạy người niệm Phật thì hãy đến Tân Định. Nói xong, vị Tăng ấy biến mất, Sư liền đến Mục châu, dân chúng ở đây chưa được ai giáo hóa, sư bèn cho tiền dẫn dụ lũ trẻ con, bảo: Đứa nào có thể niệm một câu A-di-đà Phật thì sẽ được một tiền, các đứa trẻ nghe được tiền thì xúm tới niệm Phật thật đông. Sư bảo: Niệm Phật mười câu thì sẽ được một tiền. Như thế một năm, người lớn, trẻ nhỏ, kẻ sang, người hèn hễ thấy Sư là niệm A-di-đà Phật. Từ đó người niệm Phật ngày một đông, đầy khắp đường phố.
Vào niên hiệu Trinh Quán thứ 10, sư xây dựng đạo tràng Tịnh độ ở núi Ô long, lập đàn Tịnh độ tam cấp. Những người hành đạo sớm tối ghé vào đạo tràng, sư tự thăng tòa bảo nam nữ đệ tử xoay mặt về phương Tây lớn tiếng niệm Phật A-di-đà. Mọi người thấy Sư niệm Phật một câu thì Phật từ miệng sư bay ra, niệm nối nhau mười câu thì Phật bay ra nối nhau như xâu chuỗi. Sư hỏi:
- Các vị có thấy Phật chăng? Nếu thấy Phật thì chắc chắn sinh về Tịnh độ. Trong chúng hội lễ Phật cũng có người không thấy.
Ngày 3 tháng 10 niên hiệu Trinh Quán thứ 21, Sư bảo với đạo tục là sẽ về cõi An dưỡng, để phát khởi sự tinh tấn cho mọi người, Sư bảo cuộc sống ở cõi Diêm-phù-đề này rất đáng nhàm chán nên muốn lìa bỏ. Lúc ấy thấy Phật mới thật là đệ tử của ta.
Nói dứt lời Sư liền phát ra những tia sáng lạ thường rồi an nhiên mà hóa. Tháp thờ sư được xây dựng ở Đài Tử Nham, về sau được Thiền sư Thiên Thai Đức Thiều xây dựng mới lại. Người dân ở đó phần đông cho tháp ấy là tháp thờ Ngài Thiện Đạo. 12. Đại sư Tỉnh Thường.
Sư húy Tỉnh Thường, tự là Tạo Vi, người ở Tiền đường, con của họ Nhan. Năm mười bảy tuổi sư xuất gia, thọ giới cụ túc, tu tập rất nghiêm, thông hiểu Đại thừa Khởi Tín, tu tập pháp môn Thiên Thai chỉ quán, kế thừa di phong của Ngài Tuệ Viễn ở Lô Sơn.
Vào niên hiệu Thuần Hóa đời Tống, Sư trụ chùa Chiêu Khánh, ở Hàng Châu, chuyên tu Tịnh nghiệp, kết xã Tịnh Hạnh. Tướng quốc Hướng công, Vương Văn chính công lại đứng đầu xã. Các sĩ đại phu đến dự hội đều tặng thơ tụng, tự xưng là Tịnh Hạnh đệ tử. Sư bèn chích ngón tay, lấy máu hòa mực viết phẩm Tịnh Hạnh kinh Hoa Nghiêm. Mỗi lần viết một chữ là lạy ba lạy, đi nhiễu ba vòng xưng danh hiệu chư Phật. Đến lúc khắc bản thì in thành một ngàn quyển, chia cho một ngàn người. Sư lại dùng gỗ chiên-đàn hương tạc tượng Phật Tỳlô-giá-na, tạc xong sư quỳ thẳng chắp tay phát nguyện:
"Từ hôm nay con và một ngàn người, tám mươi Tỳ-kheo nguyện phát tâm Bồ-đề, hành hạnh Bồ-tát đến tận đời vị lai. Chúng con nguyện khi lìa bỏ báo thân này, tất cả đều sinh về nước An dưỡng." Hàn lâm thừa chỉ Tống Bạch soạn bia, Hàn lâm học sĩ Tô Dị Giản soạn lời tựa Tịnh độ phẩm, Trạng nguyên Tôn Hà đề xã khách ở mặt sau bia. Pháp sư Cô Sơn Trí Viên ghi lại hạnh nghiệp của Sư có dẫn bài tựa của Tô Công: "Tôi sẽ trải tóc lót đường cho Ngài bước lên, khoét thân để xin Ngài giảng pháp mà không hề oán giận. Huống chi sự học kém cỏi, văn chương thô cạn mà dám xem thường ư?" Bia của Tống Công ghi:
"Sư mến mộ Tuệ viễn, Tịnh xã ở Lô Sơn, đổi tên Liên Hoa thành Tịnh Hạnh. Cuối đời Tuệ Viễn, những kẻ sĩ cùng kết giao đã ẩn dật hết phân nửa, bậc thượng nhân thì thăng lên thế giới an bình, bạn bè phần đông là Bậc hiền đức. Các danh sĩ thuở trước vẫn còn nhiều nhưng người có thể làm bến bờ, rường cột thì đã hết. Từ hai câu nói của hai vị mà có thể biết pháp môn niệm Phật lúc ấy được thịnh hành. Ngày 20 tháng 1 niên hiệu Thiên Hy thứ 4, sư thị tịch, thọ sáu mươi hai tuổi.
13. Thiền sư Trường Lô Từ Giác.
Sư húy là Tông Trách hiệu Từ Giác, người ở
Tương dương, cha chết sớm nên mẹ phải tần tảo nuôi con. Thuở nhỏ Sư học theo đạo Nho, khí tiết thanh cao, học vấn sâu rộng. Năm hai mươi chín tuổi sư đảnh lễ Thiền sư Tú ở Trường Lô, thuộc Chân châu xuất gia. Sau khi xuất gia, sư tham cứu thông suốt huyền lý kinh luật, tỏ ngộ "Như Lai chánh pháp nhãn tạng". Vào niên hiệu Nguyên Hựu, sư trụ trì chùa Trường lô và đón mẹ về ở thất phía Đông phương trượng. Ngoài việc khuyên mẹ cạo tóc xuất gia và nuôi nấng bà, sư còn bảo mẹ cố gắng trì niệm danh hiệu Phật A-di-đà. Thế rồi bà dốc lòng niệm Phật suốt bảy năm. Đến lúc sắp qua đời bà vẫn niệm Phật, an nhiên thị tịch, không hề đau bệnh. Sư cho như vậy là đã hết lòng nuôi nấng mẹ rồi, bèn sáng tác văn khuyến hiếu, xếp một trăm hai mươi vị, soạn Vĩ Giang tập, tọa Thiền châm và còn tuân theo khuôn phép của Lô Sơn, lập Liên hoa thắng hội, khuyến khích đông đảo người tăng kẻ tục đồng tu pháp môn niệm Phật. Sư còn dạy họ pháp thứ tự quán tưởng, ngày dự hội, mỗi ngày niệm Phật A-di-đà từ một trăm câu đến một ngàn câu, từ một ngàn câu đến một muôn câu, phát nguyện hồi hướng, cầu sinh Tịnh độ. Trong mỗi ngày, mỗi người cứ niệm một lượt mười câu và tính xem ngày đó mình niệm được bao nhiêu lượt để lập công khóa.
Một đêm sư nằm mộng thấy một người áo trắng, quấn khăn đen,
@@@dáng vẻ trông rất thanh lịch, khoảng ba mươi tuổi bảo rằng:
Tôi muốn vào hội Liên Hoa, xin Ngài hãy ghi tên tôi vào. Sư lấy quyển sổ ra và hỏi tên họ, người ấy đáp:
- Tôi tên Phổ Tuệ.
Ghi xong, người ấy lại xin ghi tên cho anh mình. Sư hỏi tên họ, người ấy đáp:
- Anh tôi tên Phổ Hiền.
Nói xong bèn biến mất. Sư thức dậy, bèn thưa hỏi các bậc lão túc, họ bảo: Phẩm Ly Thế gian trong kinh Hoa Nghiêm có hai vị Bồ-tát Phổ Hiền và Phổ Tuệ hộ trì và mở mang Phật pháp, nay ta lập hội cùng hẹn về Tây phương đã thầm cảm ứng đến hai vị đại sĩ này. Thế nên sư suy tôn hai vị Đại sĩ làm hội chủ. Từ đó xa gần đều biết và cuối cùng sư thị tịch ở đây.
14. Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ.
Sư tên Diên Thọ, tự là Xung Huyền, hiệu Bão Nhất tử, người ở Đan Dương, cha họ Vương. Lúc mới sinh ra sư đã có tính khác thường: Khi cha mẹ tranh cãi Sư liền từ trên giường cao lăn xuống đất khiến cha mẹ hết tranh cãi.
Khi lớn lên Sư học đạo Nho, năm mười sáu tuổi sư dâng bài phú Tề Thiên lên vua Ngô Việt, mọi người đều tôn xưng Sư là bậc kỳ tài trong thế gian. Sư muốn xuất gia nhưng cha mẹ không cho, sư rất đau lòng như gai đâm vào tim chảy máu, tự thệ trọn đời ăn chay. Năm ba mươi bốn tuổi, sư quy y Đại sư Vĩnh Minh chùa Long sách, rồi xuất gia thọ giới cụ túc. Buổi sáng phục dịch đại chúng, tối tu Thiền. Một hôm, nhân xem luận Trí Độ, có đoạn rằng: "Khi Phật còn tại thế có một ông lão xin xuất gia, Xá-lợi-phất không cho. Phật xét thấy ông lão này nhiều kiếp về trước đi nhặt củi bị cọp rượt, ông leo lên cây quýnh quáng niệm "Nam-mô Phật". Nhờ có chút duyên lành ấy nên đời này gặp Phật, được Phật độ xuất gia và đắc quả La-hán."
Sư nghĩ, người ở thế gian bị nghiệp chướng trói buộc không thể giải thoát, chỉ có pháp môn niệm Phật mới giáo hóa được họ. Nghĩ rồi Sư liền in bốn mươi vạn bản tháp Di-đà khuyên nhắc người lễ bái niệm Phật, ngày nào cũng sám hối rồi đi nhiễu quanh tượng Phật. Một hôm, Sư chợt thấy hoa sen trên tay tượng Phổ Hiền, nhân đó sư suy nghĩ về nguyện xưa không biết tiến thoái thế nào, bèn làm hai lá thăm, một lá ghi "Nhất tâm thiền định", một là ghi "Muôn điều lành sinh Tịnh độ". Đêm đó sư thầm hẹn rằng: Trong hai con đường này sẽ chọn một để tu tập công hạnh thành tựu, nghĩ đoạn, sư cầm xốc qua bảy lần, đều được
@@@cây thăm "Muôn điều lành sinh Tịnh độ", từ đó hằng ngày sư đều làm một trăm lẻ tám việc: Tụng kinh, lễ Phật, niệm Phật, thuyết giới, bố thí, phóng sinh... không hề lười mỏi hay nghỉ ngày nào.
Vua nước Việt xây dựng ngôi chùa Tịnh Từ, thỉnh Sư đến trụ trì và phong hiệu là Trí Giác Thiền sư. Nhóm họp các vị sư có đức hạnh của ba tông soạn Tông Cảnh Lục một trăm quyển, Vạn Thiện Đồng Quy tập, Thần Thê An dưỡng Phú... chín mươi bảy quyển để lưu hành ở đời. Sư chí thành chuyên niệm Phật, khuyên người đồng niệm Phật để sinh Tịnh độ. Người đời khen ngợi Sư là mực thước của tông môn, cột trụ của Tịnh nghiệp. Lúc sắp qua đời biết trước ngày giờ, rất nhiều việc tốt đẹp.
Khi trà-tỳ xá-lợi đầy khắp thân. Một vị Tăng nọ bị chết, thần thức xuống âm ty, thấy bên trái điện Diêm vương cúng dường bức vẽ một vị Tăng, Diêm vương lễ bái thành khẩn nói: Đây là Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ sinh về Thượng phẩm ở Tây phương, cho nên lễ kính Ngài.
15. Thiên trúc Từ Vân sám chủ.
Sư húy là Tuân Thức, tự Tri Bạch, hiệu là Từ Vân sám chủ, họ Diệp, người ở huyện Lâm hải, thuộc Thai châu. Mẹ Sư cầu nguyện cổ Quán Âm mà sinh ra sư. Ban đầu ở núi Đông dịch, thờ thầy là Nghĩa Toàn. Mười tám tuổi xuất gia, đầu tiên ở chùa Thiền Lâm học luật, kế là đến chùa Quốc Thanh, đến trước tượng Bồ-tát Phổ Hiền đốt ngón tay, thệ học Thai Giáo, học cao hạnh khổ, tiếng tăm bao trùm vùng Lưỡng Triết, rộng tu tập Giáo Quán, chuyên lòng cầu sinh về nước An dưỡng, sư gia hạn cho mình chín mươi ngày tu tập Tam-muội Ban-chu. Vì quá khổ công tu tập nên sư ho ra máu ở đạo tràng, da chân bị rứt, sư lấy cái chết tự thệ nguyện. Một hôm, sư bỗng như nằm mộng, thấy Quán Âm mặc áo trắng duỗi tay chỉ vào miệng sư rồi lấy ra mấy con sâu, và trong ngón tay chảy ra nước Cam lộ rót vào miệng sư. Sư cảm thấy thân tâm mát dịu, bệnh xưa liền khỏi. Khi sám xong, tướng trên đỉnh đầu cao hơn một tấc, hai tay thong quá đầu gối, tiếng nói nghe như tiếng chuông vang và các điều lạ lùng khác đại chúng đều hoan nghênh sư.
Về sau, sư xây chùa Hạ Thiên trúc có mấy trăm phòng, ba lần bị giặc phóng hỏa đốt cháy nhưng lửa tự tắt là do nguyện lực vững chắc mà được như thế. Cho nên ngày sư thị tịnh người trong núi thấy ngôi sao lớn bị rơi xuống núi Linh thứu. Sư độ một trăm đệ tử và dạy một ngàn học trò.
Khi sắp qua đời, Sư đốt hương, chiêm ngưỡng tượng và chúc nguyện: Chư Phật mười phương đều trụ ở mé thật, nguyện trụ ở mé thật này nhận một nén hương của con, chư Phật chứng minh vãng sinh về nước An dưỡng. Có người hỏi chỗ trở về của Sư, Sư đáp là Tịch Quang Tịnh độ. Một đêm, sư ngồi xếp bằng rồi quy tịch, vào niên hiệu Thiên Thánh, thọ sáu mươi chín tuổi, năm mươi hạ lạp.
Các tác phẩm do sư soạn: Vãng sinh Tịnh độ quyết nghi hạnh nguyện nhị môn, Tịnh độ sám pháp, Kim quang minh, Quán Âm chư bổn sám nghi, hiện còn truyền bá ở đời. Phong giáo của Thiên Thai thạnh hành ở đời Ngô Việt là nhờ đức hạnh của Thiên Trúc Từ Vân. Kinh quán Quyết nghi hạnh nguyện nhị môn chép: Mười phương mong cầu chẳng có thừa nào khác, chỉ có Phật thừa. Sám chủ ngộ bản tánh Thường Tịch Quang đó chính là cõi Phật duy tâm thanh tịnh, tự lợi lợi tha, Ngài soạn sự lý không ngăn ngại mấy trăm thiên (sách), mỗi lời nói đều lấy Tịnh độ làm tông quy hướng, để mở mang giáo lý của các kinh, hóa độ tất cả chúng sinh. Từ Sám Văn truyền bá ở đời, người vãng sinh Tịnh độ không biết là bao nhiêu ngàn vạn người, nối tiếp đạo của Thiên Thai, khen ngợi sự hóa độ của pháp môn Tịnh độ, ở đời chưa từng có ai như Ngài.
16. Truyện Văn Lộ Công.
Ông họ Văn, húy Nhan Bác, là Thái thú ở Lạc dương, ông từng dốc chí ăn chay. Một hôm, ông đến chùa Long an chiêm lễ Thánh tượng, chợt thấy tượng Phật bị hư hoại, bỏ dưới đất không sửa sang cung kính. Ông nhìn thấy rồi bước ra, bên cạnh có vị Tăng hỏi:
-Sao ông không làm lễ?
Công đáp: Tượng đã hư hoại, làm sao tôi lễ bái được.
Vị Tăng đáp: "Đạo của các bậc tiên đức giống như đất đường cái quan. Người ta đào lên làm tượng, người trí biết đó là đất đường, kẻ phàm cho là tượng tạo ra. Sau đó, quan muốn trở về đem tượng đắp đường, tượng vốn bất sinh bất diệt, đường cũng không mới không cũ." Công nghe điều đó trong lòng có tỉnh ngộ, do đó rất mến đạo, chuyên niệm Phật A-di-đà, cầu ngày qua đời được sinh Tịnh độ. Sáng dâng hương, tối ngồi niệm Phật không hề lìa bỏ. Có lần ông phát nguyện:
Nguyện con thường tinh tấn tu tất cả các thiện pháp, nguyện con hiểu rõ tâm tông, rộng độ tất cả hàm thức. Hễ gặp ai, ông đều khuyên họ niệm Phật, thệ nguyện kết duyên với mười muôn người, đồng sinh về Tịnh độ. Cư sĩ Như Như có bài tụng khen: Biết ông có chí khí lớn như trời nên xin kết mười muôn duyên sinh về Tây phương. Không riêng một mình cầu sự sống an vui mà nguyện tất cả mọi người đều lên bờ giải thoát.
17. Lộ Phủ Tông Thản sớ chủ.
Sư vốn họ Thân, người ở Lê thành, châu Quán lộ. Thuở nhỏ, sư trụ chùa Diên tường ở Bổn châu, xuất gia với Ngài Đạo Cung. Năm mười sáu tuổi sư thọ giới Sa-di, thông suốt nghĩa kinh, được người đời khen ngợi, giỏi tham học với các bậc danh tăng để mở mang hiểu biết. Sư giảng ở Lâm đức, gần năm mươi năm, lấy Đại tạng làm chỗ quay về, lấy viên đốn làm cửa ngõ. Sư đã giảng các kinh như Viên Giác... về sau tập hợp các sớ kinh Viên Giác, kinh Thập Lục Quán v.v... Về già, sư thường ở hai nhà họ Đường và họ Đặng giảng kinh Tịnh độ Quán, khuyên mọi người niệm Phật, cầu sinh Tịnh độ. Bấy giờ người nghe đông đảo đều tu Tịnh nghiệp, sau Ngài ở trấn Thanh đài, Đường châu thề cầu sinh An dưỡng lấy niệm Phật, quán tưởng làm thường trụ, giữ gìn Tam nghiệp, bốn uy nghi chưa từng tạm quên. Ngày 27 tháng 4 niên hiệu Chánh Hòa thứ 4 đời Đại Tống, sư bỗng nằm mộng thấy Phật Di-đà hóa thân đến bảo rằng:
- Ông chỉ giảng pháp trong sáu ngày nữa rồi sẽ về Tịnh độ. Sư thức dậy bảo mọi người: "Ta tu tập cầu vãng sinh Tịnh độ dường như nhân duyên đã tương ưng, ta vừa mộng thấy hóa Phật đến bảo: ông được về Tịnh độ." Chẳng lẽ không tin ư?
Hôm sau tuy cảm thấy không khỏe nhưng sư không tạm ngừng giảng kinh. Vào giờ sửu ngày 14 tháng 5 năm ấy, biết sắp đến giờ quy tịch, Sư bảo đánh chuông nhóm họp đồ chúng, và dặn dò:
- Nhân duyên có hợp sẽ có tan, đây là lẽ thường, Tịnh độ mới là thắng duyên, chỉ trong khoảnh khắc liền đến. Ta mong các vị niệm Phật để trợ duyên. Sư lại bảo: Bốn đại tan hợp thành thân ta trong bảy mươi sáu năm, nay đã đến ngày chia lìa. Nơi Tịnh độ là chỗ ta quy về, được đảnh lễ Đức Phật A-di-đà, thoát hẳn khổ ba cõi. Nói xong, Sư ngồi kiết già thị tịch. Lúc ấy, sấm vang vọng cả hư không, mây trắng từ phương Tây kéo đến giăng tỏa khắp mặt đất suốt ba ngày.
Trước kia sư có một xâu chuỗi mã não, lúc sắp qua đời sư đeo nó vào ngón tay. Mọi người không ai lấy ra được. Những điều cảm ứng cũng giống như chỗ khác đã nói.
18. Từ Chiếu Tông chủ.
Sư húy Tử Nguyên, hiệu là Vạn Sự Hưu, họ Mao, núi Côn sơn, thuộc Bình giang, mẹ sư họ Sài. Một đêm, bà mộng thấy Đức Phật chí tôn vào nhà và hôm sau sinh ra sư. Nhân việc đó mà đặt tên Phật Lai.
Cha mẹ mất sớm, họ hàng gởi sư vào chùa Diên tường, vì có chí nguyện xuất gia sư tụng kinh Pháp Hoa. Năm mười chín tuổi, sau khi xuống tóc sư lại tu pháp Thiền chỉ quán.
Một hôm, đang ở trong định bỗng Sư nghe tiếng quạ kêu liền tỏ ngộ, làm kệ rằng:
Hơn hai mươi năm nghiên tầm sách
Suy đi, ngẫm lại, nghĩa chẳng thông
Bỗng nay nghe được âm thanh quạ
Mới hiểu xưa nay dụng tâm lầm.
Từ đó, Sư phát tâm làm tất cả mọi việc có lợi cho mọi người, Sư kính mến di phong Liên xã của Lô Sơn Viễn công, khuyên người quy Tam bảo, thọ trì năm giới:
1. Không sát sinh.
2. Không trộm cướp.
3. Không tà dâm.
4. Không nói dối.
5. Không uống rượu.
Niệm Phật A-di-đà ngũ thanh để chứng năm giới, kết duyên Tịnh độ. Hễ làm cho ngũ Căn vắng lặng thì đắc ngũ Lực, thoát khỏi ngủ trược. Thế nên Sư rút ra những lời cốt yếu trong Đại tạng viết thành "Liên tông thần triêu sám nghi", lễ Phật sám hối, thay thế chúng sinh trong pháp giới cầu sinh về nước An dưỡng. Về sau, Sư đến hồ Điến Sơn xây dựng Liên tông sám đường, khuyến khích mọi người cùng tu Tịnh nghiệp. Sư viết Viên Dung Tứ Độ Tam Quán Tuyển Phật Đồ Khai Thị Liên Tông Nhãn Mục. Năm bốn mươi sáu tuổi, sư gặp chướng duyên ở châu Lâm giang, dù nghịch cảnh hay thuận cảnh, tâm vẫn thản nhiên không hề lay động, tùy nơi khuyến hóa, liền thành văn tụng, đặt tên là Tây Hạnh tập.
Niên hiệu Càn Đạo thứ hai vua Cao Tông vời Sư đến điện Đức Thọ giảng pháp môn Tịnh độ và phong tặng danh hiệu Khuyến Tu Tịnh nghiệp Liên Tông Đạo Sư Từ Chiếu Tông Chủ và đưa đến chùa Chiêu Khánh ở Tây Hồ Tiền Đường. Chúc Thánh, tạ ân Phật xong, sư trở về Bình Giang phát thệ rằng: "Nguyện tất cả chúng sinh đều hiểu được đạo nhiệm mầu" có lần sư lấy chữ "Tứ" để đặt tên "Tông" chỉ dạy mọi người chuyên niệm Phật A-diđà để đồng sinh về cõi Tịnh. Từ đó tông phong hưng thịnh, sư tập hợp Di-đà Tiết Yếu, Pháp Hoa Bách Tâm, Chứng Đạo Ca, phong Nguyệt tập để lưu hành ở đời.
Ngày 23 tháng 3, Sư ở Đạt thành xây một thất nhỏ và bảo các đệ tử: Ta hóa duyên đã xong. Bây giờ phải đi thôi. Nói xong, Sư chắp tay từ giã đại chúng rồi an nhiên thị tịch. Ngày 27 trà-tỳ nhục thân có vô số xá-lợi, xây tháp thờ ở Tùng giang. Tin này lan truyền tới thành thị và khắp thôn quê.
Vua Ngô biết được phong hiệu là tháp Tối Thắng.
19. Vô Vi Tử Dương Đề hình đời Tống.
Ông húy Kiệt, tự Thứ Công, người ở quận Vô vi, đạo hiệu là Vô Vi tử, giỏi biện tài. Tuổi còn nhỏ mà đã làm quan đến chức Thượng Thư Chủ Khách Lang Đề Điểm Lưỡng Triết Hình Ngục Sự, nhưng lại tôn sùng Phật pháp, ngộ rõ Thiền tông. Lâm Tế ở Giang Tây giáo hóa bằng đánh hét ông vẫn cho là hạng tầm thường mà mở mang Di-đà giáo quán, nhóm họp những vị mới đến để cùng đàm luận.
Ông bảo: Căn tánh của chúng sinh có lợi (nhanh) có độn (chậm lụt) nên chỉ có pháp môn vãng sinh Tây phương Tịnh độ là gần gũi dễ hiểu, đơn giản dễ tu. Chỉ cần nhất tâm quán niệm, nương vào nguyện lực Phật A-di-đà, một bề tu tập, không theo pháp môn khác thì chắc chắn thành công.
Ngài Long Thọ cũng nói: Đây là pháp môn dễ tu vì nương vào nguyện lực Phật A-di-đà.
Ông có viết lời tựa cho luận Thiên Thai Thập Nghi và Vương Cổ Trực Chỉ Tịnh Độ Quyết Nghi Tập, Pháp bảo tăng giám, Di-đà bảo các ký, Ba mươi bài tán nước An lạc và Bị trần Tây phương yếu luật thật là tấm gương cho muôn đời tu tập vãng sinh Tịnh độ. Ông có phụ đạo tập chuyên ghi về Phật thừa, Tô Đông pha viết lời tựa, tóm lược là:
Vô Vi tử bẩm tánh linh cơ, học rộng hiểu nhiều, người đời gọi ông là Thước-la-nhãn Thứ Công mục kích mà vẫn giữ đạo. Tuổi về chiều ông làm Giám ty quận thú bèn tạc pho tượng Phật Di-đà cao một trượng sáu, bất cứ làm việc gì ông cũng quán niệm Di-đà, đến lúc qua đời cảm được Phật đến đón rước. Ông ngồi thẳng mà hóa, có làm bài tụng từ giã cuộc đời rằng:
-Sống không có gì đáng luyến tiếc, chết cũng không có gì để lìa bỏ. Trong bầu hư không này, đã sai lại làm theo cái sai Cực lạc Tây phương.
Giữa niên hiệu Tuyên Hòa có phu nhân của Kinh Vương vãng sinh về Tịnh độ, thấy Ông ngồi trên hoa sen thì khẳng định ông đã vãng sinh rồi. Thế là Tướng sĩ đại phu trong triều hết lời khen ngợi Tây phương Tịnh độ. Họ nhập chánh định thấy chỉ có công đứng bên Vương Mẫn Trọng mà thôi. Há chẳng phải trời muốn đạo ấy trường tồn thì đời phải sinh ra con người ấy ư?
20. Long Thư cư sĩ Vương Hư Trung.
Quốc học Tiến sĩ Vương Nhật Hưu, tự Hư Trung, ông khéo vận dụng tài trí để tự hành, hóa tha. Điều này thấy trong bài tựa của Trương Vu Hồ, ở đây không nói lại.
Ông là người ở Long Thư, có soạn văn Tịnh độ, nhân đó lấy hiệu là Long Thư. Văn ấy rất thịnh hành ở đời, người tu Tịnh độ không ai không xem qua. Vào niên hiệu Càn Đạo, Lý Ngạn Bật ở Lô Lăng bị bệnh nặng, quan quách đã chuẩn bị xong, bỗng ông nằm mộng thấy một vị thần hình dáng thanh tú đến dùng tay xoa thân thể và tay chân Bật.
Bật kinh sợ hỏi. Ông đáp:
- Ta là cư sĩ Long Thư.
Bật nhân đó kể lại bệnh tật. Long Thư nói:
- Ông dạy ăn cháo trắng sẽ lành bệnh ngay. Công lại hỏi: Ông còn nhớ lời của Hám Trọng Nha, dạy ông về đường tắt không?
Bật đáp: Ngày nào cũng niệm Phật không ngừng nghỉ. Từ đó Bật nhờ ăn cháo trắng mà hết bệnh. Về sau thấy dung mạo của Công giống hệt người trong giấc mộng. Bật rất kính trọng Công xưng là sinh tử cốt nhục, và bảo đứa cháu gái từ xa đến học đạo với Công. Ngày nọ, bỗng trở về nói: Cư sĩ đêm nọ, giảng đọc sách xong rồi như thường lệ lễ Phật niệm Phật, đến canh ba chợt niệm lớn vài ba câu A-di-đà Phật, rồi nói Phật đến tiếp dẫn ta và bỗng đứng thẳng mà hóa. Đêm ấy, có người nằm mộng thấy hai cậu bé mặc áo xanh dẫn ông đi về phương Tây.
Ba ngày trước ông đã đi khắp nơi khuyên bạn bè cố gắng tu Tịnh nghiệp và nói lời chia tay. Chao ôi! Nếu không rõ đạo duy tâm bổn tánh đạt được số kiếp sinh tử biến hóa, thì đâu còn đến giờ này! Có người nghi ngờ điềm mộng của Lý. Họ cho rằng vì tưởng tượng mà thành. Bật bảo: Chỉ ăn cháo trắng mà hết bệnh, làm sao xem thường được ư? Thừa tướng Ích Quốc Công Chu Tất Đại thấy kỳ tích của ông nên làm bài tụng khen ngợi:
- Lớn lao nhưng không cầu nguyện, phập phồng nhưng không ưu lo, thương cho gió nghiệt sắc thổi đến, nắm giữ những điều lành làm đồng hạng. Muốn hướng dẫn mọi người tu tập nên ông dùng nguồn nhân nghĩa và dẫn dụ họ bằng cái vui vắng lặng. Mọi người biết có người làm nhưng không nhận ra đó là Vô Vi. Cho nên trung đạo vẫn an nhiên mà chỉ dạy người bằng chân giác. Lý Cẩn Nguyên không có gì để báo đức bèn khắc tượng ông và sự tích để truyền bá trong dân chúng. Từ đó tất cả dân chúng ở Lô Lăng đều kính thờ ông (Long Thư cư sĩ).
21. Nghi Chân Vương Thị Lang.
Vương Thị Lang húy Cổ, tự là Mẫn Trọng, người ở Đông Đô. Ông từng đảm nhiệm chức Thượng thư lễ bộ Thị Lang, vì làm phát vận sứ nên đến ở Nghi Chân. Bẩm tánh ông rất nhân từ, khoan dung, thương xót muôn vật, mở mang truyền bá Phật giáo, mở rộng nguồn giáo hóa, ngụ ở kinh đô, ông từng đến các bậc tôn túc thông hiểu giáo nghĩa để bàn luận Phật pháp rồi đến đỉnh Hoàng Long Thúy Nham ở Giang tây làm bạn Thiền với các vị Hối Đường Dương Kì và rất khế hợp tông chỉ, lại ngộ được sự thù thắng của pháp môn Di-đà Tịnh độ, chuyên khảo cứu các kinh điển, nghiên cứu kỹ vãng sinh, quán xuyến thông suốt văn kinh, phát minh Phật ý, bèn viết Trực Chỉ Tịnh độ Quyết Nghi Tập ba quyển, Dương Thứ Công viết lời tựa và phát hành bổn truyện.
Thị Lang biên tập kinh Đại Di-đà Tứ thập bát nguyện, Kinh thập lục quán, Cửu phẩm vãng sinh, luận Đại Thừa Khởi Tín của Bồ-tát Mã Minh, luận Trung Quốc sư Đối Túc Tông, Tùy Ý Vãng Sinh, luận Niệm Phật Tam-muội, luận Bảo Vương, và các kinh luận trình bày đầy đủ những điểm chính yếu của pháp môn niệm Phật, ghi chép đầy đủ, nếu xưng niệm Nam-mô A-di-đà Phật ba mươi sáu muôn ức, mười một muôn chín ngàn năm trăm đồng danh đồng hiệu A-di-đà Phật cũng là một chi phần rút ra từ trong Tạng kinh, nhẫn đến những điểm then chốt của pháp môn Tịnh độ và các luận của các Bồ-tát cũng đều biên tập.
Ngày rảnh rỗi Thị Lang tu tập quán niệm không hề xen hở, xâu chuỗi niệm Phật không hề rời tay, đi đứng nằm ngồi đều lấy Tịnh quán Tây phương làm Phật sự. Có vị Tăng thần thức đến Tịnh độ gặp Thị Lang và đại phu Cát Hệ cùng ở Tịnh độ làm
Phật sự là chứng nghiệm vãng sinh Tịnh độ, ông đã mở mang Tịnh độ chỉ bày điểm then chốt, giúp Phật A-di-đà giáo hóa tất cả dân chúng. Sau mười tám vị Hiền ở Lô Sơn mà kế tục đạo này để giúp Phật mở mang pháp môn, nhưng lúc ấy chỉ có Thứ công Mẫn Trọng nổi tiếng đương thời lưu truyền đến mấy trăm năm sau mở rộng Di-đà Đại giáo, rộng độ nhiếp hóa rất thạnh hành, không có cùng tận. Những cao sĩ đời Tấn chỉ có hai ông là được vãng sinh nên mới có khả năng soi sáng các bậc Tiền hiền để nối tiếp tiếng thơm để lại.
Như trên là các Tổ đắc đạo Tông sư đều từ trong Đại tạng Cao Tăng truyện, Vãng sinh truyện, Bảo châu tập ghi ra, như Từ Chiếu Tông chủ giáo hóa thạnh hành ở đời, tất cả vua quan, tăng tục đều rất tôn kính, quy hướng tu theo pháp môn niệm Phật. Người được đắc đạo rất nhiều, nhưng xem xét trong các truyện lục đều không thấy ghi đầy đủ, không có văn để khảo cứu. Nay sưu tập, dò xét sự tích Từ Chiếu Tông Chủ để đưa vào tập. Không kể là tại gia hay xuất gia, hễ ai niệm Phật đắc đạo, những bậc danh hạnh, các bậc cao hiền, dụng tâm nghiên tầm tham cứu thật lục để phát dương rộng rãi thì sẽ được thâu thập đưa vào (đại tạng) khắc bản lưu hành để không bị mai một những đức tốt của các bậc tiền bối, cũng là vinh hạnh của pháp môn.
Ôi! Duy tâm lạc quốc trùm khắp mười phương, tự tánh Di-đà viên dung nhất trí, khéo ứng phó với cảnh sắc thanh. Thời gian qua nhanh rồi cũng bỏ vọng về chân, ngay đó quay lưng với bụi trần, hướng đến chánh giác. Ngài Pháp Tạng xưa phát nguyện rộng, khai mở con đường huyền diệu Cực lạc. Cho nên Đức Phật Thế Tôn chỉ cảnh Tây phương dạy bà Vi-đề-hy đến cảnh giới mầu nhiệm. Đây là tướng lưỡi rộng dài đồng khen ngợi kinh này, khi tất cả kinh khác mất hết chỉ còn riêng để lại kinh này. Bởi vì, việc lợi ích cho chúng sinh nên tâm hỷ xả tăng trưởng, lòng Từ bi ứng hiện giáo hóa lớn. Giáo chia thành chín phẩm là riêng mở cửa phương tiện, quán rõ nhất tâm. Thật là con đường tắt để trở về nguồn cội. Thánh phàm đồng hội họp như khách đi xa lâu ngày được trở về quê hương, đạo cảm ứng giao nhau như con thơ đi xa mẹ hiền ôm ấp trong lòng. Nếu không hiểu chỗ chí lý cao tột này thì gặp cảnh đều mê tín, tin vào lời bàn trọn vẹn này thì không việc gì không thông suốt, huống gì lại được ánh từ quang nguyện che chở, thâu nhiếp, Phật lực khó suy nghĩ bàn luận, nương thuyền xuôi theo dòng nước thì đâu nhọc công chèo chống, đẩy cửa rớt cối xay há là người khác ư? Nếu người có nguyện thì Phật đều đón rước, không căn cơ nào không bao trùm, thuyền đá có thể cứu thoát, lửa trong địa ngục mau tiêu. Các Bồ-tát, Thanh văn sinh về nước kia số đông không thể tính kể. Trước Hiền sau Thánh đắc đạo, đều có thể tra cứu, xét tìm. Ở cõi Tây phương thường có chim Oanh vũ, Ca-lăng-tần-già cất tiếng phát âm giảng nói. Tất cả các loài côn trùng nhỏ nhít đều được ân giáo hóa: Cảnh Thánh chẳng phải rỗng không, Phật nói không luống dối, sao có thể không xót thương những kẻ đắm chìm lặn hụp nơi sông ái, không lo bị chết cháy trong nhà lửa thiêu đốt. Lưới nghi kết dày, người kém trí khó vung dao. Trồng nhiều nghi ngờ, sức tin mỏng manh, làm sao nhổ được gốc nghi ngờ nên phải cam tâm phục ý, ưa thích tai họa, bài bác cảnh giới thanh tịnh, tham luyến cõi phiền não. Như con thiêu thân đâm đầu vào lửa tự chuốc lấy tai ương, như cái vui của chim lồng cá chậu. Đấy là do năng lực điều lành nhỏ nhiệm, mà nghiệp lực vượt trội. Lòng tin kém mà gốc tội nhiều do đây ba đường mịt mờ, bốn sinh chộn rộn. Ai cũng tham sống thiết tha, ai biết trở về. Tất cả đều do nghiệp mênh mông mà không mong thoát khỏi sinh tử, số kiếp quá khứ đã khó cùng tận, luân hồi vị lai nhiều như hạt cải trong thành làm sao hết được? Chẳng phải ngày xưa đã gieo nhân lành thì sao nay được gặp nhân này, đánh trống mở cửa ngục tù, thì nên mau thoát khỏi chốn lao nhọc, gặp thuyền cứu vớt khổ đắm chìm đâu nên trì trệ, nghi ngờ. Kính thuận kim văn, khéo học pháp Phật. Người không nghe, không hiểu thì hay đau buồn. Huống chi cõi đời có năm thứ ác trược này bốn bên lửa đỏ, chỉ có Đức Phật mới có năng lực cứu vớt. Đã được nghe pháp mầu thì nên gieo duyên Tịnh độ. Một niệm tín thành là gieo trồng hạt giống ngàn muôn đức nghĩ suy đồng với Bậc hiền xưa, mong ngộ được chân thường, nên đều vâng làm như đã nói tận tâm đảnh lễ tin nhận.
1. Dứt nghi sinh tín.
Kinh nói: "Được thân người là khó, đã được thân người lại có đủ lục căn là khó, được sinh ở thành thị, thủ đô đất nước là khó, được gặp đạo Phật là khó, phát khởi tín tâm là khó". Bởi nếu đã được nghe giảng giáo pháp mà lại nghi ngờ giáo nghĩa thì tín tâm không khởi được. Nếu không dứt trừ nghi ngờ thì tín tâm từ đâu mà sinh ra? Vì thế kinh Kim Cương nói: "Chánh tín ít có". Kinh Pháp
Hoa nói nhờ lòng tin nên được vào đạo. Vương Long Thư bảo: Phật là Đại Y vương có khả năng chữa trị tất cả bệnh tật nhưng không thể cứu người chết sống lại. Phật có khả năng độ tất cả chúng sinh nhưng không thể độ người bất tín. Bởi vì "Tín" là một tâm niệm chân thành. Nếu tâm niệm con người muốn rời xa thân thì thân cũng rời xa theo. Nếu tâm niệm muốn ở nơi thân thì thân cùng trụ lại. Như thế thân này tùy theo sự thay đổi của tâm niệm. Tâm muối rời xa thân mà thân bị trói buộc, thì lúc sắc thân hư hoại chỉ còn lại tâm niệm mà thôi. Nếu nghĩ nhớ đến chỗ nào thì liền sinh về nơi ấy. Cho nên một lòng niệm Phật cầu sinh Tịnh độ Tây phương thì chắc chắn được sinh về Tịnh độ, huống chi Đức Thế Tôn và các Đại Bồ-tát lại có bổn nguyện lực tiếp dẫn vãng sinh ư?
Có người hỏi: Tại sao cả đời niệm Phật, giữ giới mà đến lúc qua đời không được sinh Tịnh độ? Đáp rằng: Vì tín lực ấy không sâu, hạnh nguyện còn thiếu, và không hề phát đại tâm Bồ-đề, lại không hề dứt bỏ tà hạnh mười điều ác. Tuy nói là tu hành nhưng lời nói và việc làm không hề tương ưng. Tuy nói niệm Phật nhưng không hề tịnh niệm nối nhau. Công phu đã không chân thật thì làm sao có được quả báo của Tịnh độ.
Kinh Tịnh Danh chép: "Tâm tịnh thì cõi Phật tịnh". Lục Tổ Đàn kinh chép: Nếu trong tâm toàn thiện thì rất gần với cảnh Tây phương. Nếu ông lòng bất thiện mà niệm Phật cầu sinh Tây phương thì khó được kết quả. Nếu dứt bỏ mười điều ác thì Phật nào mà không đến đón rước? Cho nên thấy người đời không cầu tịnh tâm, chỉ là miệng niệm danh hiệu Phật, ở ngoài tâm cầu Phật, vọng tưởng, chấp trước mà không tự giữ cho tâm mình thanh tịnh. Tâm gây ra các việc ác, tự phá hoại Phật tánh của mình mà riêng cầu Phật bên ngoài ư? Cho nên mê lầm là chúng sinh, ngộ tức là Phật. Pháp môn Viên thông chép: "Nhớ Phật, niệm Phật hiện tiền, tương lai chắc chắn gặp Phật". Bởi nhớ Phật là tâm niệm, cũng là tín tâm thanh tịnh, tín, hạnh, nguyện đầy đủ.
Kinh Lăng-nghiêm nói: Một căn trở về nguồn thì lục căn thành giải thoát, chuyển hóa mười điều ác thành thập thiện, sáu thức chuyển thành sáu thần thông. Cho nên, trong tâm chánh tín nhớ niệm danh hiệu Phật, tịnh niệm nối nhau thì tự tánh Di-đà hiện tiền. Người niệm Phật được Phật cảm ứng, lúc sắp qua đời gặp Phật, được vãng sinh Tịnh độ. Hễ người tu Tịnh nghiệp thì phải tin lời Phật nói và làm theo hạnh Phật. Tâm và miệng đã khế hợp nhân quả thì tất nhiên không mê mờ. Nếu nghe mà không tin, tin mà không thực hành thì cũng giống như vẽ bánh muốn bụng hết đói. Tâm đã không tin thì sinh nghi ngờ, hủy báng Phật pháp. Nghi ngờ đã khởi thì tự làm mê tối tâm mình, tự làm mê tối tâm mình thì cách xa cõi Tịnh độ. Cho nên Cư sĩ Hương Sơn soạn bài tựa cho Từ Chiếu Liên Tông sám, viết rằng: Đạo sư giáo hóa muôn vật, dạy bảo người giữ đạo lý, lấy tâm tín sâu làm năng nhập, phá các Xiển-đề. Lấy chuyên niệm Phật làm hạnh môn, khiến tâm không tán loạn, thêm nguyện Bồđề, tâm làm cội gốc, để độ thoát chúng sinh. Người có đủ ba tâm này sẽ chứng lên bậc Thượng phẩm thượng sinh ở Tịnh độ Cực lạc, biển quả Tỳ-lô. Rộng mênh mông mà dễ đến bờ. Lại nói ba điều này ai cũng sẵn đủ, cũng viên thành, nhưng vì không có tín, hạnh, nguyện nên mãi đắm chìm đọa lạc.
Than ôi! Hễ làm người không cần phước đức, không cần tôn quý, không cần thông minh, không cần tướng tốt, chỉ cần có đủ tín, hạnh, nguyện thì đủ làm tư lương sinh về Tịnh độ. Tứ Liệu Giản nói: "Từ cõi này đi về phía Tây qua mười muôn ức cõi Phật có một thế giới tên là Cực lạc, đó là nói xa. Nếu một niệm tín tâm niệm Phật thì liền đến phương Tây. Đây là nói gần". Cho nên nói: "Cũng gần mà cũng xa, tất cả đều phụ thuộc vào lòng tin nguyện của con người." Tín thì không cách một mảy lông, còn nghi ngờ thì luân hồi sinh tử. Lại nói: Từ cõi này đi về phương Tây xa xôi mười muôn dặm. Nếu đầy đủ lương thực thì lo gì đường xa không đến. Cho nên đạo lấy tín làm đầu mối của muôn điều lành, tín là tông của trăm hạnh. Hoa Nghiêm lấy Thập Tín làm điểm khởi đầu của quá trình Thành Phật. Pháp Hoa lấy chánh tín làm cửa vào đạo, ngũ Căn lấy tín căn làm đầu, ngũ Lực lấy tín lực làm trên hết. Cho nên chư Phật ba đời, các Đại Bồ-tát, Tổ sư nhiều đời tu các công hạnh đều có đủ đại nguyện lực để vào cảnh giới Phật, thành tựu đạo Bồ-đề đều từ chữ tín này mà vào.
Pháp sư Đàm Loan gặp Quán kinh của Lưu-chi thì đốt kinh Tiên, tu Tịnh nghiệp. Há không phải do chữ tín này ư? Bạch Thị Lang đi cũng niệm Diđà, ngồi cũng niệm Di-đà há không xuất phát từ chữ tín này ư? Tô Học sĩ đeo tượng Di-đà đi ngồi đều mang theo bên người và gọi đó là Tây phương công cứ cũng không ngoài chữ tín này. Trương Thiện Hòa cả đời giết trâu, lúc sắp qua đời thấy cảnh địa ngục hiện ra trước mắt, may mắn gặp một vị Tăng bảo niệm danh hiệu Phật A-di-đà. Ông niệm chưa được mười niệm đã thấy Phật đến tiếp dẫn, vãng sinh về Tịnh độ, được thoát khỏi cảnh địa ngục. Đây há không phải do lòng tin mà được thoát khỏi địa ngục hay sao?
Kinh Hoa Nghiêm nói: "Lòng tin là nguồn sinh ra đạo, là mẹ sinh ra các công đức, lòng tin có công năng nuôi lớn các thiện căn. Tín thì vượt xa các đường ma, tín có công năng chứng đắc Tamma-địa, tín có công năng giải thoát bể khổ sinh tử, tín có công năng thành tựu Phật Bồ-đề. Than ôi! Người giữ trai giới ngày nay tin giữ giới mà không tin niệm Phật, tin thờ Phật mà không tin vãng sinh Tịnh độ. Đây đều là tự mình làm mất lợi ích lớn.
Chao ôi! Đường sinh lên trời, người phải lấy phước đức làm tiên quyết, trong biển sinh tử thì niệm Phật là bậc nhất. Nay muốn được vui cõi trời, người mà không tu phước đức, muốn thoát khỏi sinh tử mà không niệm Phật thì cũng giống như chim không có cánh mà muốn bay, cây không có rễ mà muốn tốt. Làm sao mà được? Chúng ta đồng thệ nguyện tất cả phải tin sâu lời Phật nói là chân thật, không luống dối. Phương thuốc hay để thoát khổ không gì bằng niệm Phật, chuyên tu Tịnh độ được vãng sinh Lạc quốc, thoát khỏi luân hồi, thời không đợi người, cẩn thận chớ có nghi ngờ. Nếu thân này không hướng sinh về cõi Cực lạc thì sẽ hướng sinh về đâu?
2. Khuyết phát tín tâm.
Ôi! Phật A-di-đà là bậc chí tôn trong các Đức Phật, là cha lành của bốn loài. Người quy y, tin tưởng thì diệt hằng sa tội chướng. Người xưng niệm được phước vô lượng. Hễ muốn niệm Phật thì phải khởi tín tâm, nếu không có tín tâm thì không biết do đâu mà được, cho nên Pháp sư Triệu nói: Việc này như vậy là tướng tin, việc này không như vậy là tướng bất tin.
Ôi! Tin là sơ tông vào đạo, trí là huyền thuật rốt ráo. Đầu các kinh đều nói "Như thị" là tin, sau gọi "Vâng hành" là trí. Cho nên kinh A-di-đà nói: Nếu người nào có lòng tin thì nên phát nguyện sinh về cõi nước kia. Đây là điều Đức Bổn sư Thích-ca khuyến tín. Lại nói: Các ngươi nên tin tưởng, xưng tán, khen ngợi thì được công đức không thể suy nghĩ, bàn luận. Đây là điều chư Phật sáu phương khuyến tín. Lại nói: "Nếu người nào trồng thiện căn mà nghi ngờ thì hoa không nở, người tín tâm thanh tịnh thì hoa nở liền thấy Phật". Đây là điều mà Luận vãng sinh khuyên tin. Lại nói: "Tin, là từ ngữ thuận tin thì lý nói ra sẽ thuận. Thuận thì đạo thầy trò thành tựu, kinh thông có hạn cuộc, nếu không có lòng tin thì không thể truyền được". Đây là điều Pháp sư Triệu khuyên tín.
Lại nói, pháp môn niệm Phật bất luận là đạo hay tục, nam hay nữ, không câu nệ là sang hay hèn, ai ai cũng tu được pháp môn này. Người tu theo pháp môn này chỉ cần tín tâm. Đây là điều Hòa thượng Đại Hạnh khuyên tin.
Hỏi: Nói là tin nhưng chẳng hay tin theo pháp môn nào?
Đáp: Tin là dựa vào lòng tin. Trong kinh Phật nói: Niệm Phật chắc chắn sinh Tịnh độ. Tin niệm Phật thì chắc chắn diệt trừ các tội. Tin niệm Phật thì chắc chắn được chư Phật che chở, tin niệm Phật thì chắc chắn được Phật chứng minh. Tin niệm Phật thì lúc qua đời chắc chắn được Phật đón rước. Tin niệm Phật thì bất luận chúng sinh nào cùng với người có lòng tin đều được vãng sinh Tây phương. Tin niệm Phật thì vãng sinh chắc chắn ở địa vị không lui sụt. Tin niệm Phật sinh Tịnh độ chắc chắn không đọa vào ba đường ác. Cho nên khuyên tin niệm Phật, thọ pháp này, trì niệm này thì chắc chắn được vãng sinh Tịnh độ. Cho nên Hòa thượng Đại Hạnh bảo người niệm Phật tâm chỉ tin Phật, thì Phật liền biết người đó, vì Phật có tha tâm thông. Miệng chỉ xưng danh hiệu Phật thì Phật sẽ nghe được vì Phật có thiên nhĩ thông. Thân chỉ lễ Phật thì Phật liền thấy người đó, vì Phật có thiên nhãn thông. Vì thế Hòa thượng Đại Hạnh dùng pháp niệm Phật này khuyến khích làm cho người phát sinh tín tâm. Lại dụ rằng: người có tín tâm giống như trồng cây ăn quả, cây lớn rễ cắm sâu vào lòng đất, cho nên gió thổi không lay động. Sau ra quả hạt cứu giúp người đói khát. Người niệm Phật cũng giống như thế, cần phải phát khởi tín tâm mới được đến Tây phương. Nếu không tin thì không biết do đâu mà được. Cho nên kinh nói: Hàng Bồ-tát Thập Trụ một khi khởi tín tâm niệm Phật rồi thì sau đó dù gặp duyên ác có lìa bỏ thân mạng đi nữa cũng không lui sụt tín tâm. Cho nên kinh Duy-ma nói: Tin sâu vững chắc giống như kim cương, pháp báu chiếu khắp như mưa cam lộ. Tam-muội niệm Phật từ lòng tin sâu mà phát sinh ra. Hãy xem hằng hà sa chư Phật ở Tịnh độ đều là người có chánh tín.
3. Kệ chánh tín vãng sinh của Từ Vân Tuân Thức sám chủ ở Thiên trúc.
Cúi đầu kính lễ cõi An lạc
Di-đà Thế chủ Đại từ tôn
Con nương các thứ Tu-đa-la (kinh)
Tin sâu chắc chắn được vãng sinh
An trụ Đại thừa, tâm thanh tịnh
Mười niệm, niệm Phật Vô Lượng Thọ
Qua đời thấy Phật dẫn về Tây
Kinh Đại Bảo Tích nói như vậy
Năm tội ác nghịch, lửa ngục hiện
Gặp bạn lành phát tâm mạnh mẽ
Xưng niệm mười câu liền vãng sinh.
Kinh Thập Lục Quán nói như vậy.
Nếu có tâm vui mừng, ưa thích
Ít nhất mười niệm liền vãng sinh
Nếu không như thế, không thành Phật
Bốn mươi tám nguyện nói như vậy.
Ai nghe tên sinh tâm chí thành
Một niệm hồi hướng liền vãng sinh
Chỉ trừ năm nghịch, chê chánh pháp
Kinh Vô Lượng Thọ nói như vậy.
Sắp qua đời không thể quán, niệm
Chỉ khởi tâm niệm biết có Phật
Người này dứt hơi liền vãng sinh
Kinh Đại Pháp Cổ nói như vậy.
Một ngày một đêm luôn buộc niệm
Chuyên niệm vãng sinh tâm không dứt
Trong mộng thấy Phật liền vãng sinh
Kinh Vô Lượng Thọ nói như vậy.
Ngày đêm luôn xưng danh hiệu Phật
Siêng năng tinh tấn, không xen hở
Xoay vần khuyên nhau đồng vãng sinh
Trong kinh Đại Bi nói như vậy.
Một ngày, hai ngày, đến bảy ngày
Luôn niệm danh hiệu tâm bất loạn
Phật hiện trước mặt liền vãng sinh
Kinh A-di-đà nói như vậy
Nếu ai nghe danh Phật Di-đà
Một ngày, hai ngày, đến nhiều ngày
Buộc niệm, hiện tiền liền vãng sinh
Trong kinh Bát-nhã nói như vậy
Một ngày, một đêm trong sáu thời
Năm phần lạy Phật niệm không dứt
Hiện thấy Phật kia liền vãng sinh
Kinh Cổ Âm Vương nói như vậy.
Mười ngày mười đêm giữ trai giới
Kết cờ phướn, lọng báu, đèn hương
Buộc niệm một chỗ liền vãng sinh,
Kinh Đại Di-đà nói như vậy.
Nếu người chuyên niệm Phật một phương
Hoặc đi hoặc ngồi bốn chín ngày
Hiện đời thấy Phật liền vãng sinh
Trong kinh Đại Tập nói như vậy.
Nếu người tự thệ thường kinh hành
Suốt chín mươi ngày không ngồi nằm
Trong Tam-muội thấy Phật Di-đà
Trong kinh Phật Lập nói như vậy
Nếu người ngồi thẳng hướng về Tây
Trong chín mươi ngày thường niệm Phật
Được thành Tam-muội, sinh trước Phật
Văn-thù Bát-nhã nói như vậy.
Con đối các kinh tụng ít phần
Kinh nói như thế vô cùng tận
Nguyện cùng người nghe sinh chánh tín
Phật nói chân thật không dối lừa
Phật đã nói rõ dễ vãng sinh
Ai ai cũng tin không nghi ngờ.
4. Bài tựa luận Tịnh độ Thập Nghi của Đại sư Thiên Thai Trí Giả.
Bốn quả rõ ràng không thể so lường chỗ sâu kín của Như Lai, bậc Thánh Thập địa cũng không thể hiểu cùng tận quả cao tột vi diệu này. Hàng phàm phu không có mắt tuệ nên bị vùi lấp trong ba cõi dù có thật cảnh an vui họ cũng cho là luống dối. Đối với cảnh Tịnh độ họ cho là sai lầm và nghi ngờ về cõi ấy. Nghi thân mình vì biết năm uẩn chưa đoạn diệt, nghi nơi tâm vì biết ngàn thứ mê hoặc chưa dứt bỏ. Nghi nơi việc làm vì biết Lục độ chưa cứu giúp. Giống như trên sóng gió bập bềnh chưa được ai cứu vớt, lo cứu mình trước rồi mới cứu những người xung quanh. Chính mình còn mê hoặc huống chi là người khác ư? Việc này khó tin, bị đạo tục nghi ngờ.
Theo Đại sư Trí Giả: Tâm xúc cảnh thì mê, trí làm cho thần sáng ngời, thừa, thời đều giúp giáo, ấn tích khác nhau là do chấp trước. Nhân chỗ khác ấy mà khảo xét sở chứng, không biết ba Bậc hiền ấy ư? Mười vị Thánh ư? Ấy là vì thần thông vi diệu của bậc Chánh đẳng giác giáo hóa khó nghĩ lường, dù tư duy mà không thể biết, chỉ Đại sư có niệm định tổng trì, chiếu soi các hạnh nghiệp cầu sinh Tịnh độ, ở giữa không chút xen hở được niệm định Tổng trì như Đại sư thì còn có việt nam Thập nghi này ư? Văn xa thì ghi chép những điều trong kinh, gần thì ghi chép các luận, bỏ đi ý nghĩa, chỉ lấy các truyện, không lìa kinh mà đầy đủ sự, không trau chuốt văn từ để thêm khéo léo. Nếu tra cứu văn từ thì đạt được ý đạt đến chỗ tột cùng của chín phẩm. Như thế mới thấy chỗ dụng tâm của Đại sư, thấy tấm lòng của Đại sư đối với Tịnh độ không còn nghi ngờ. Đó chính là trời cao không có mây thì các chòm sao tỏa sáng. Dù trải năm tháng có khác nhau nhưng rõ ràng không có chòm sao nào ẩn mất. Tôi được văn này, luôn nhớ niệm đấng Năng Nhân khen ngợi Tịnh độ, mong sao chư Phật chứng minh thành tựu. Hoặc tướng lưỡi rộng dài trùm khắp đại thiên, hoặc tiếng sóng biển giảng nói tiếng Phạm. Tôi tuy kém cỏi, nhưng không thể không nói, vì thế nên ở phần đầu luận lược ghi vài điều tận đáy lòng tôi. Văn nghĩa còn non nớt chưa đủ làm phát khởi sự giáo hóa của Đại sư. Điều này trước tiên xin Phật chứng minh thành tựu, để con có chỗ trở về nương tựa.
5. Bài tựa Vô Vi Dương Đề Hình Trực chỉ Tịnh độ quyết nghi.
Bậc Thánh có nguyện lớn từ Tịnh độ đến, đến mà thật không đến; phàm phu tin sâu sinh về Tịnh độ, đi mà thật không đi. Kia không đến đây, đây không đến kia, nhưng Thánh phàm đồng hội ngộ, hai bên cùng giao tiếp nhau. Vì sao? Vì ánh sáng của Phật A-di-đà giống như mặt trăng tròn vạnh chiếu khắp mười phương. Nước lắng mà trong thì trăng hiện toàn thể. Trăng chẳng đến nước mà nước vẫn hiện bóng trăng. Nước chao lại đục thì ánh trăng chao, trăng chẳng bỏ nước chỉ sợ nước không đón nhận. Ở nước thì có trong, có đục, ở trăng thì không lấy, không bỏ, không đến, không đi.
Trưởng giả Giải Thoát trong kinh Hoa Nghiêm nói: Biết tất cả Phật giống như ảnh tượng, tự tâm như nước, các Đức Như Lai kia không đến đây, ta cũng chẳng đến kia. Nếu ta muốn gặp Đức Phật Adi-đà ở thế giới An lạc thì theo ý liền gặp. Cho nên biết chúng sinh chú tâm thì chắc chắn thấy Phật Adi-đà. Đây là xứng tánh thật ngôn, chẳng phải Quyền giáo.
Tịnh độ không có ham muốn, nên chẳng phải cõi dục, cõi ấy có mặt đất để ở nên chẳng phải cõi sắc, chúng sinh có hình tướng nên chẳng phải cõi Vô sắc. Tất cả chúng sinh chưa ngộ chánh giác, đang chìm trong giấc mộng lớn, lặn hụp trong sáu đường, không hề ngừng nghỉ. Các vị trời tuy vui nhưng khi phước báo hết thì các tướng suy hiện ra, A-tu-la sân giận, gây chiến giành phần hơn. Súc sinh, chim bay thú chạy ăn nuốt, giết hại lẫn nhau, quỷ thần ở chốn u minh bị đói khát ép ngặt, các chúng sinh chịu tội trong cảnh địa ngục đêm dài chịu khổ kêu la, còn nếu được sinh làm người thì vốn là hạnh phúc may mắn nhưng bị các khổ sinh, già, bệnh, chết trói buộc. Chỉ có cõi Cực lạc là vô khổ, toàn vui.
Người ở trong hoa sen hóa sinh ra, nên không có khổ sinh, cũng không có thời tiết nóng lạnh đổi dời nên không có khổ già, thân không có phần đoạn nên không có khổ bệnh, tuổi thọ vô lượng nên không có khổ chết. Cũng chẳng có cha mẹ vợ con, nên không có khổ ái biệt ly. Người ở cõi ấy toàn là người lành nên không có khổ oán tắng hội, hoa kích, thức ăn thơm tho, thọ dụng các món châu báu quý giá nên không có khổ cầu bất đắc. Quán chiếu không tịch nên không có khổ uẩn; thương xót cứu giúp hữu tình, muốn sinh thì sinh, không trụ ở tịch diệt, nên chẳng phải Nhị thừa; trí sáng chiếu soi sinh tử, được không còn lui sụt nên chẳng phải phàm phu. Ba cõi buông tuồng thí như bốn bên gò nổng hầm hố chứa chất dơ bẩn, ngăn cản suối khe thì chỗ nào là bến cầu. Thế nên mới có người lầm con đường này, bị thú dữ quỷ mị não hại, sống chen chúc chốn đạo binh, nước lụt lửa cháy, hoặc có lúc gió táp sương sa cuồng bạo, bao cảnh rên la, bị người lấn hiếp mới biết đến thành vực có thể cứu giúp, y phục, cơm cháo cũng không đủ. Cam chịu những khổ đau này mà không cầu sinh về cõi An lạc.
Chỉ có Đức Phật Thích-ca là Đại Đạo sư chỉ cõi thanh tịnh là nước An Lạc, Phật Vô Lượng Thọ là thầy của Tịnh độ. Như vậy các chúng sinh nếu sinh về cõi ấy thì không có các thứ khổ, kẻ không nghe biết thật đáng thương xót, cũng có thiện sĩ phát ba thứ tâm.
Người không cầu sinh Tịnh độ, thường hay cao ngạo nói:
1. Ta phải vượt Phật, hơn tổ, Tịnh độ không đáng để cầu sinh về.
2. Nơi nào cũng là Tịnh độ, chẳng cần phải cầu sinh về Tây phương.
3. Đất Thánh Cực lạc, phàm phu chúng ta không thể sinh về.
Trên biển cả mênh mông, Phổ Hiền nguyện thấy Di-đà, cõi Phật tuy là không nhưng Duy-ma thường tu Tịnh độ, Như Lai mười phương đưa tướng lưỡi rộng dài khen ngợi Tịnh độ. Bồ-tát mười phương cũng đồng lòng đi đến. Thử suy nghĩ kỹ càng, ai bằng các bậc Thánh mà bảo là không đáng sinh về, sao dám tự khinh thường như thế? Còn như Tổ sư Long Mãnh thì sao? Kinh Lăngnghiêm có lời dự ký, như Thiên Thân giáo tông, vô số luận có kệ cầu sinh Tịnh độ. Từ Ân Thông Tán đầu tiên là nêu mười điều thù thắng, Trí Giả phân nghĩa lý rõ ràng để giải bày mười nghi. Đó đều là bậc thượng triết tinh tấn cầu vãng sinh, sao dám tự kiêu mạn bảo không cần sinh về Tây phương?
Xe lửa có thể tắt, thuyền, đá không chìm, người hiện hoa báo không ai hơn Trương Húc, niệm mười niệm được siêu thoát đến cõi an lành. Người đọa địa ngục không ai nhanh bằng Hùng Tuấn sống lại mà chứng được diệu nhân. Người thế gian vướng nhiều lầm lỗi, chưa hẳn bằng đây, thế mà lại tự coi rẻ mình nói không thể vãng sinh ư?
Kinh Ban-chu Tam-muội nói: Bồ-tát Bạt-đàhòa hỏi Phật: Chúng sinh đời vị lai làm sao được thấy chư Phật mười phương? Phật bảo dạy họ niệm Phật A-di-đà thì sẽ thấy chư Phật mười phương.
Kinh Bảo Tích nói: Chúng sinh phương khác nghe danh hiệu Vô Lượng Thọ Như Lai nhẫn đến có thể phát một niệm tin thanh tịnh, vui mừng ưa thích, nếu có thiện căn hồi hướng nguyện sinh về nước kia thì tùy nguyện được sinh về cõi An lạc, được không lui sụt. Đây đều là lời Phật nói. Nếu không tin lời Phật nói thì còn tin lời nào? Nếu không vãng sinh Tịnh độ thì cõi nào có thể đến? Tại sao lại tự khinh, tự mạn, tự bỏ tánh linh của mình để phải ra vào trong vòng luân hồi? Đây là lỗi của ai? Bốn mươi tám nguyện là để độ sinh, mười sáu pháp quán đồng quy về buộc niệm. Một niệm đã tin rồi tức là đã gieo giống vào ao báu, các điều lành hỗ trợ, chắc chắn hóa sinh nơi đất vàng, không còn sự nghi ngờ, hối tiếc thì tức thời hoa nở được đạo giải thoát. Duy tâm Tịnh độ, tự tánh Diđà, trong ánh sáng rực rỡ chắc chắn không có việc ma.
Vương Mẫn Trọng Thị Lang trong Quyết Nghi Tập có giải thích nghi tình, mau vượt đến Tín địa. Ông ghi những yếu chỉ rất tỉ mỉ để hướng dẫn con đường đến nước An dưỡng. Nếu đến bờ rồi thì nên quên thuyền, người đến bờ rồi thì không hỏi lời vớ vẩn này.
Cõi Thường quang vốn không sắc tượng, nếu có cảm ứng thì có hình tướng, đạo Bồ-đề đã khai mở con đường chính yếu, không đi thì không đến.
Kinh Duy-ma chép: Năm trăm trưởng giả tử, Bảo Tích bạch Phật: Con đã phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề, nguyện được đến cõi Phật thanh tịnh, xin Phật nói việc làm của các Bồ-tát ở cõi ấy.
Phật bảo: Này Bảo Tích! Chúng sinh là Tịnh độ của Bồ-tát.
Pháp sư Triệu nói: Bậc chí nhân thấu suốt vô tượng, ứng theo vật mà có hình tướng, hình tướng không có thường thể, huống chi đất nước mà có thường ư? Bởi vì việc làm của chúng sinh khác nhau cho nên cảm ứng thân hình không giống nhau. Người tu Tịnh nghiệp thì được vãng sinh cõi tịnh, dùng ngọc báu trang nghiêm, người nhiều thiện ác thì sinh vào cõi uế, dùng cát sỏi làm đồ trang sức. Đẹp, xấu, ta người ở nơi mình, không nhất định, cho nên cõi nước không nhất định gọi là chân độ.
Cõi tịnh hay uế trói buộc chúng sinh, cho nên nói: Các loài chúng sinh là Tịnh độ của Bồ-tát.
Cõi tịnh của Đức Như Lai lấy vô phương làm thể nhưng vì hạnh nghiệp của chúng sinh khác nhau nên thấy khác. Vì chấp vào dị kiến nên sinh vào cõi tịnh hoặc cõi uế khác nhau. Vô phương nên chân độ có hình tướng ư? Nếu chấp cõi tịnh, uế thì đó là quả báo của chúng sinh, nhưng quả báo chúng sinh vốn là vô phương là sự chân của cõi Phật, há gọi là cõi khác, chỗ khác, hai cõi Phàm, Thánh rồi sau phân biệt thành tịnh hay uế sao?
Pháp sư Đạo Sinh nói: Hành giả Tịnh độ, đi đến cõi tịnh mà chẳng tạo, nếu muốn tạo ra cõi nước đó là chúng sinh. Dù cho lạm tạo trước phải rõ được việc tạo nền móng để biểu dương ý nghĩa tận cùng, sau đó mới giảng nói thực hành.
Pháp sư La-thập nói: Bảo Tích hỏi tướng Tịnh độ, Đức Thế Tôn đáp chúng sinh là Tịnh độ của Bồ-tát. Vì nói Nhân trong Quả.
Quốc sư Thanh Lương nói: Trong tâm chư Phật, chúng sinh mới thành Phật, trong tâm chúng sinh Tịnh độ niệm niệm chứng chân. Kinh nói: Bồtát tùy chúng sinh được giáo hóa lấy cõi tịnh làm nhiêu ích các chúng sinh thí như có người muốn xây một ngôi nhà theo ý mình ở khoảng đất trống thì không trở ngại, còn nếu muốn xây trên hư không thì không thể nào được. Bồ-tát cũng giống như thế. Vì muốn thành tựu chúng sinh cho nên nguyện thành tựu cõi Phật, chẳng phải ở hư không. Nên biết: Trực tâm, thâm tâm, Đại thừa tâm là Tịnh độ của Bồ-tát.
Pháp sư Triệu nói: Cõi được thanh tịnh là do chúng sinh. Chúng sinh thanh tịnh là do các hạnh. Hạnh thanh tịnh thì chúng sinh tịnh, chúng sinh thanh tịnh thì cõi Phật tịnh. Lý này hẳn không sai khác. Cõi nước không dơ bẩn, khúc khuỷu phát xuất từ tâm ngay thẳng (trực tâm). Cho nên trực tâm là Tịnh độ của Bồ-tát. Trực tâm nghĩa là ngay thẳng, chất thực, không dua nịnh. Tâm ấy là gốc muôn hạnh.
Pháp sư Đạo Sinh nói: Trồng tâm gieo đức, rễ chắc khó nhổ đó là thâm tâm. Nương vào tám muôn hạnh, nâng đỡ tất cả mọi người không bỏ sót một ai, đó là tâm Đại thừa. Ba tâm này người mới học phải thực hành nó, muốn mở mang đại đạo thì trước phải trực tâm. Tâm đã chân trực thì sau đó mới thực hành được sâu, hạnh đã sâu thì vận dụng giáo hóa cùng khắp, không bờ mé. Tuần tự thực hành ba tâm này đầy đủ rồi, sau đó tu Lục độ cho đến muôn hạnh.
Pháp sư La-thập bảo: Trực tâm là tâm thành thật, khởi đầu của phát tâm ở nơi thành thật, hiểu đạo thêm sáng tỏ gọi là thâm tâm, hướng thẳng đến Phật tuệ gọi là tâm Đại thừa.
Kinh nói: Bố thí, Giữ giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ là Tịnh độ của Bồ-tát, bốn tâm vô lượng, bốn nhiếp pháp là Tịnh độ của Bồtát, phương tiện là Tịnh độ của Bồ-tát, ba mươi bảy phẩm là Tịnh độ của Bồ-tát, hồi hướng là Tịnh độ của Bồ-tát, thập thiện là Tịnh độ của Bồ-tát. Như thế Bồ-tát Bảo Tích theo trực tâm của mình mà có thể phát khởi thực hành, tùy sự phát khởi thực hành mà được thâm tâm, tùy thâm tâm ấy mà thực hành, thực hành thì có thể hồi hướng, tùy theo hồi hướng ấy mà có phương tiện, tùy theo phương tiện ấy mà thành tựu chúng sinh, tùy theo thành tựu chúng sinh mà cõi Phật thanh tịnh, tùy theo cõi Phật thanh tịnh mà nói pháp thanh tịnh, tùy nói pháp thanh tịnh mà trí tuệ tinh, tùy trí tuệ tịnh mà tâm tịnh, tùy theo tâm mình tịnh mà tất cả công đức thanh tịnh.
Pháp sư La-thập nói: Trực tâm dùng thành tâm mà tin Phật pháp, tín tâm đã lập thì sẽ làm các việc lành, các việc lành đã tích tụ thì tâm ấy chuyên sâu, thâm tâm đã vững chắc thì không rơi vào các việc ác, bỏ ác theo lành gọi là điều phục tâm, tâm đã điều phục thì gặp điều thiện, hạnh này gặp thiện thì những việc khó làm sẽ làm được, việc khó làm mà làm được thì muôn điều lành vẹn toàn, cho nên hồi hướng Phật đạo. Hồi hướng tinh tấn là phương tiện lực. Then chốt của phương tiện có ba:
1. Mỗi việc lành đều ở nơi hành động của mình mà không chấp tướng.
2. Không chấp chứng.
3. Khéo giáo hóa chúng sinh
Đủ ba điều này thì đến được Tịnh độ.
Cõi nước đã thanh tịnh thì chúng sinh thuần tịnh, chúng sinh đã thuần tịnh thì phước đức bằng với Hóa chủ. Cho nên nói là đều tịnh, các kinh tuy nói rộng các hạnh của Tịnh độ nhưng chưa rõ giai vị gần xa của nó, ở đây sẽ giải thích rất tường tận và sâu rộng, không thể vượt lên, phải tìm cầu đường lối của nố, có thứ tự, cho nên nói vết tích của phát hạnh bắt đầu ở trực tâm, trực tâm tức là chân tâm. Tâm này tất cả chúng sinh ai ai cũng có, chỉ vì mê mờ không biết, không hiểu. Cho nên Lục tổ Đại Sư nói: Một niệm bình trực tức là Di-đà, một niệm tà lệch tức là chúng sinh. Vì con người ở cõi uế trược hiện làm những việc vô minh: Miệng nói trực tâm mà việc làm nhiều dối trá, chìm đắm trong bể khổ nên không thể thoát ra. Cho nên Phật từ bi thương xót người kia, chỉ bày họ bằng phương tiện, hướng dẫn họ bằng niệm Phật để điều phục tâm tán loạn, giúp họ bỏ tà ác mà quay về chánh đạo. Tức là chúng sinh sinh về Tịnh độ, cho nên Luận Bảo Vương nói: Hạt châu trong sáng thả vào nước đục, nước đục ấy không thể không lắng trong. Đưa tưởng Phật vào loạn tâm, loạn tâm không thể không thành Phật. Cho nên, nhờ niệm Phật mà trực tâm hiển lộ, nhờ trực tâm mà làm các việc lành, làm các việc lành nên được sinh về Tịnh độ, há chẳng phải là phương tiện trí lực của Phật, Tổ ư?
Pháp sư Triệu nói: Người chứa nhóm công đức cho nên tâm tịnh, tâm tịnh thì không có công đức nào không tịnh.
Pháp sư Đạo Sinh nói: Công hạnh là nhân cao quý của Tịnh độ, công đức là quả cao quý của Tịnh độ. Nhân quả Tịnh độ là ảnh hưởng của tâm, cho nên muốn sinh về Tịnh độ thì phải làm cho tâm mình thanh tịnh, tiếng vang theo âm thanh, hình ngay thì bóng thẳng.
1. Công phu tu tiến.
Thuyết Tịnh độ Duy tâm đã nói rõ, mọi người phải biết tu thân rồi sau muốn chứng được đạo này phải lấy chánh tín làm cửa vào, lấy tu tâm làm Chánh hạnh, Chánh hạnh tức là công bỏ ra, là việc được làm. Công hạnh này gọi là Tịnh nghiệp, tức là tư lương vãng sinh Tây phương. Hạnh nghiệp này tùy theo sự tu tập của người. Bởi vì năng lực của tất cả mọi người có căn cơ lớn nhỏ, trí có cạn, có sâu, cho nên hạnh nghiệp khác nhau. Người thượng căn thượng trí thì ngay đó tự ngộ, hiểu được bản tâm của mình, thấy được bản tánh mình tức là Di-đà. Đây là cảnh giới vô trụ, vô y tối thượng thừa, trong muôn người không có một, còn người chưa đốn ngộ thì phải tin chắc cõi Tịnh độ, nhất tâm niệm Phật dần dần tiến tu, nương nguyện lực nhiếp giữ của Đức Phật A-di-đà, tự mình nhất niệm chân thật, hạ thủ công phu giống như ôm cây cầu mà tắm, trong ngàn người không sót một người.
Tuy nói pháp môn niệm Phật nhưng kỳ thật ý bao gồm vô tận. Cho nên Tổ sư lập giáo, lợi độn đều thâu nhiếp, có Thật, có Quyền, có sâu, có cạn, có nhanh, có chậm, ai ai cũng tu trì được. Người thượng căn tham cứu ngồi thiền, người trung căn quán tưởng, trì niệm, ngày đêm sáu thời lễ bái chuyên ròng niệm Phật cho đến mười niệm thành tựu, tất cả công đức ở sự nhất tâm. Việc tu tập hành trì mỗi người đều có hành tướng, thứ lớp, tầng bậc, tùy theo năng lực mà hành trì đều có thể tiến thú, hạnh môn này mới thành tựu quả Phật, là con đường Bồ-đề, cần phải tự tín tự hành, tự tu, tự độ, quan trọng là ở chỗ lập chí lớn, phát đại nguyện, tự nỗ lực công phu, hướng về phía trước chớ cho là dễ làm. Ví như mái hiên một trăm hai mươi cân đến lúc sụp đổ nếu có thể tự mình gánh vác đúng thời được mới là xong chuyện, quyết định không phải chỉ ở biết nói. Rộng hóa độ người có duyên, chắc chắn không ở nơi việc có truyền trao, làm việc uyển chuyển chắc chắn không ở sự xây dựng đạo tràng cho rộng, đốt nhiều hương đèn. Vì kẹt vào sự tướng mà hiểu lầm chánh lý, thuận theo thanh sắc mà trái với chân tông, đếm của báu cho người khác mà mình không được nửa đồng xu, bán thuốc hay mà bệnh mình không cứu được. Cho nên Tổ sư Tuệ Viễn nói: được đến cõi ấy (Cực lạc) cũng giống như ngọn đèn đốt trong ngôi nhà tối, người không làm chủ tâm ý thì đồng với người thấy ngón tay mà quên, mặt trăng, không ngộ vô tâm, chính khi động niệm đều là tà thì mặt trời trí tuệ lại ẩn trong mây đen, khách trần vọng động che lấp gương tâm liền sinh ra suy nghĩ, lo lắng giao nhau chạy, tình dục lăng xăng, điều phục mãi không được, chế ngự thì giống như buộc nơi vô ký, uổng công đứng nơi cao phẳng vốn là việc ít có, bèn cùng với các tà mệnh, chỉ bày sắp đặt không có đầu mối thì khó gọi là chánh định, không cầu vào pháp giới, mãi mãi nhốt mình nơi chốn bụi trần. Hễ người tu Tịnh độ thì phải hiểu rõ giáo môn để đối phó với sinh tử chứ không chỉ nói suông rồi thôi; phải nghĩ đến vô thường mau chóng, thời gian không đợi người, phải ý cứ vào một pháp môn để tiến tu, đạt đến mục đích mới được. Nếu nửa tiến nửa lùi, nửa tin nửa nghi thì rốt cuộc cứu vớt được ai? Làm sao thoát khỏi luân hồi? Nếu tin thì từ nay hãy phát tâm mạnh mẽ, một bề tinh chuyện, không kể là hiểu hay không hiểu, thấy tánh hay không thấy tánh, vẫn chấp trì một câu Nam-mô A-di-đà Phật. Giống như dựa vào ngọn núi Tu-di, muôn vật như lung lay nhưng núi Tu-di không hề lay động. Chuyên tâm nhất ý, hoặc tham niệm quán niệm, nhớ nghĩ mười niệm, hoặc niệm thầm, chuyên niệm, buộc niệm, lễ niệm, niệm ngay tại đây, thường nhớ thường nghĩ, buổi sáng cũng niệm, buổi chiều cũng niệm, đi cũng niệm, ngồi cũng niệm, tâm niệm không luống qua, niệm Phật không lìa tâm, ngày ngày giờ giờ không luống bỏ, miên mật giống như gà ấp trứng, lúc nào cũng phải tiếp hơi nóng vào trứng. Niệm Phật cũng vậy; tịnh niệm nối nhau, lại thêm trí tuệ thì biết Tịnh độ tức là tâm mình. Đây là công phu tu tiến của người thượng trí, lấy định làm chủ, nương vào định được an ổn. Cho dù gặp cảnh khổ vui, thuận nghịch hiện tiền cũng chỉ niệm Nam-mô A-di-đà Phật, không một niệm nào khác làm thay đổi tâm mình, không một niệm làm tâm lui sụt, không một niệm tạp tưởng, tâm thẳng đến vô sinh, dứt sạch các niệm khác thì chắc chắn sinh về thế giới Cực lạc Tây phương. Nếu thường dụng công như thế thì các vô minh sinh tử, nghiệp chướng trong nhiều kiếp tự nhiên tiêu trừ, các trần lao tập khí tự nhiên sạch hết, liền thấy Đức Phật A-di-đà, không lìa bổn niệm. Công thành hạnh mãn, nguyện lực giúp sức, đến lúc qua đời chắc chắn sinh lên thượng phẩm, nếu năng lực chưa đầy đủ thì phải tùy khả năng tu tập, chưa thể chuyên tâm, công phu phải sáng tối lễ niệm. Cho dù gia duyên ràng buộc cũng không quên xưng danh hiệu Phật A-di-đà ít nhất là mười niệm. Ngày ngày thường dụng tâm, tinh tấn tu tập, chứa nhóm công hạnh, phát tâm thệ hết đời này cùng sinh về thế giới An lạc này, có thể gọi là nước phải chảy ra biển, mây chắc chắn trở về núi.
2. Những vật dụng hằng ngày giúp ích cho đạo.
Bồ-tát tại gia niệm Phật, hằng ngày nhận thức ăn cúng dường của đàn tín, ngồi hưởng trời người cúng dường đều là phi thường đạo không bằng cả đời có ý tu hành, đâu có chướng ngại làm việc, hoặc làm ruộng, gieo trồng, hoặc kinh doanh ở chợ búa, hoặc nhà giàu có nhiều của cải, hoặc mưu cầu sự sống hàng ngày nên phải tư duy tinh cần thì không lười biếng, tiết kiệm thì có dư. Lấy đây mà tu thân thì mới là Phật tử. Nếu cũng xa hoa, lười biếng, không tiết kiệm, tiêu điều xơ xác, dù muốn tu hành cũng không thể được. Nếu tin hiểu thì tất cả mưu cầu sinh sống ở đời đều thuận với chánh pháp, khéo tay hay làm thì ích lợi chúng sinh; muốn tu chánh nhân Tịnh nghiệp nên lấy việc sinh sống đời mình làm trợ đạo. Cho nên lão Hoàng ở Đàm châu thường gõ sắt để tu hành, cư sĩ Bàng Uẩn bán tre trúc làm bờ rào để nuôi đạo; họa tượng Di-đà làm nghề nghiệp; tôn kính am Phật, thắp đèn để nuôi thân, đáng gọi là "một ngày không làm một ngày không ăn".
3. Làm phước trợ duyên.
Có đệ tử tu Tịnh nghiệp, hỏi Đạo sư Liên Tông Từ Chiếu rằng: Đệ tử chuyên tu Tam-muội niệm Phật thì có được thực hành bố thí, giữ giới, cúng dường làm phước không?
Sư đáp: Ông thường chuyên niệm Phật A-diđà, nếu không giữ giới thì có tội hủy phạm; nếu không bố thí thì tăng trưởng nghiệp tham lam, keo kiệt; nếu không cúng dường Tam bảo thì có tâm ngã mạn; nếu không cung kính tất cả thì mắc tội khinh thường mọi người. Cho nên hủy phạm thì đọa địa ngục, tham lam keo kiệt thì đọa ngạ quỷ, ngã mạn thì thường đọa vào đường ác, khinh người thì đời đời nghèo hèn.
Nếu có nghiệp ác, chướng ngại như thế muốn sinh về Tịnh độ, có được chăng?
Người niệm Phật như thế cũng giống như mới cấy mạ xuống ruộng mà muốn thu hoạch ngay thì không thể nào được. Cho nên pháp sư Triệu nói: Hữu vi tuy ngụy nhưng nếu bỏ đi thì khó thành Phật đạo, vô vi tuy thật mà chấp thì tuệ tánh không sáng. Ông muốn tu Tam-muội niệm Phật được sinh Tịnh độ chóng thành quả Phật Bồ-đề thì phải chuyên lấy niệm Phật làm Chánh hạnh; lấy phước đức làm kiêm tu, đêm ngày thường siêng cúng dường Tam bảo, lễ bái, sám hối, bố thí, giữ giới để gột sạch Tam nghiệp, thêm lớn tịnh duyên, không làm các việc ác, tu tập các việc lành, hồi hướng tất cả các thiện căn về Tịnh độ, thành tựu công đức niệm Phật, mau chứng quả Bồ-đề. Có thể gọi là thuyền xuôi theo dòng thì đỡ phải chèo chống.
4. Bỏ ác làm lành.
Tịnh độ Thập môn giáo giới ghi: Người tu Tịnh độ nên bỏ ác làm lành mới được thành tựu công đức. Nếu người nào tuy niệm Di-đà nhưng tâm đầy dẫy sự ghen ghét thì ngầm gọi là dao nhọn, lúc sắp qua đời họ bị gió thổi như dao cắt xẻ thân thể thành trăm mảnh đau đớn vô cùng. Hoặc nói ta là người giữ giới còn người khác không giữ giới, rồi sinh kiêu mạn với sư tăng, khinh chê tất cả. Nên hiện đời gặp tai họa, tuổi thọ ngắn ngủi, bệnh lao ói ra máu mà chết. Nếu người niệm Phật mà bụi trần chưa sạch, thì lúc niệm ác khởi lên nên tự mình xem xét. Người có tâm keo kiệt, tham lam, tâm giận giữ, tâm si mê, tâm ghen ghét, tâm lừa dối, tâm phân biệt, tâm cống cao, tâm tà vạy, tâm tà kiến, tâm khinh mạn, tâm năng sở và cảnh giới thuận nghịch, tùy theo sự tiêm nhiễm mà sinh ra tất cả tâm bất thiện. Nếu lúc các tâm ấy khởi lên phải lớn tiếng niệm Phật, đưa niệm trở về chánh niệm, chớ để cho tâm ác nối nhau, cho đến dứt sạch tất cả, không bao giờ để nó sinh trở lại. Tất cả tâm tin sâu xa, tâm chí thành, tâm phát nguyện, tâm hồi hướng, tâm Từ bi, tâm khiêm nhường, tâm bình đẳng, tâm phương tiện, tâm nhẫn nhục, tâm giữ giới, tâm hỷ xả, tâm thiền định, tâm tinh tấn, tâm Bồ-đề và tất cả tâm lành thường nên giữ gìn. Lại phải xa lìa phi phạm hạnh, dứt trừ các luật nghi xấu, gà chó heo dê tất cả không nên chứa nuôi, săn bắn, chài lưới đều không nên làm. Nên biết các bậc thượng thiện ở nước Cực lạc do lìa bỏ duyên ác, tu theo thiện nghiệp mà được sinh về Tịnh độ, không lui sụt Bồ-đề. Người niệm Phật nên học theo Phật, phải bỏ ác làm lành, làm gương sáng, răn dạy người khác. Người nào nương theo đây mà tu hành, thì đó chính là Chánh hạnh của Tịnh độ. Có thể nói mây vô tận gió quét sạch tất cả, một vầng trăng sáng chiếu lòng người.
5. Cứu giúp chốn tối tăm.
Sa-môn Thích tử, Bồ-tát tại gia tu Tịnh nghiệp Tây phương nên mở rộng tâm Từ bi rộng lớn, đúng như pháp tinh tấn tu hành, khéo vâng theo lời Phật dạy. Hiểu rõ nhân quả, phân biệt phải trái, tích tụ tư lương là phước, trí xuất thế gian, có trọn vẹn, công đức cao vời của bậc đại trượng phu. Cho nên Đức Thích tôn nhiều lần dặn dò đệ tử mình, tùy theo chỗ ở phải ban bố pháp thực, cứu giúp tất cả hữu tình trong pháp giới, giúp họ hết đói khát, khổ cực, giáo hóa khiến cho họ cùng đến Bồ-đề. Nếu không thí thực, không có tâm từ bi thì chẳng phải là đệ tử ta. Ấy là hạng người ác. Trong các kinh có văn tự rõ ràng, quán sát kỹ, thấy tất chúng sinh không rõ tự tánh, keo kiệt tham lam, ganh ghét, sân giận, ngu si, ở trong các cõi người, trời, quỷ, súc sinh, địa ngục, A-tu-la bị đói khát ép ngặt, đau buồn, khổ não trong đêm dài tăm tối, mong ra khỏi nhưng không có dịp. Suy theo lý thì họ đều là cha mẹ đời trước của ta. Như lời Phật dạy thì họ đều là kẻ oán người thân nhiều kiếp với ta. Vì thế chúng ta phải vận dụng tâm từ bi của Quán Âm, hạnh nguyện của Phổ Hiền, thề cùng cứu độ tất cả thoát khỏi đắm chìm. Người có sức thì trì trai, thiết lễ cúng dường. Người không đủ sức thì chú nguyện vào thức ăn, rồi bố thí cho chúng sinh. Công đức cao quý của thí thực rộng lớn vô lượng, đầy đủ ích lợi, nói không thể nào cùng, chỉ lược nêu một vài việc, báo khắp các hiền giả. Tâm bố thí vừa phát khởi thì diệu hạnh mở bày, đầy đủ ba đàn, viên tu Lục độ, tự lợi lợi tha, tự giác giác tha, khéo nhóm họp phước trí xuất thế, mãi mãi làm tư lương Tịnh độ, xây dựng nền tảng, viên thành thể dụng. Cho đến chôn cất xương khô, an táng các thây chết bị phơi nắng, rộng vì các u hồn sám hối thay họ. Làm cầu cống để cho người qua lại, thức ăn, tiền tài tùy khả năng mình mà bố thí. Mỗi lần nhìn thấy người nghèo cùng, đói lạnh thì rất đau đớn thương xót, còn những người già cả cô quạnh, tàn tật thì càng thương xót gấp bội. Thường có tâm cứu giúp với tất cả tình thương chân thật. Tu tất cả thiện căn, nguyện tất cả chúng sinh được thành Phật. Đem những lợi lạc cao quý này, hồi hướng Tây phương, mong khắp hữu tình cùng lên bờ giác. Vì thế Tiêu Lương Võ Đế tu nghi thủy lục, Tam tạng Bất Không có phép cứu giúp người cô quạnh. Có thể nói một trận mưa khắp sa giới, tâm người như sống lại.
6. Phóng sinh.
Muốn đến Bồ-đề, lấy tâm từ làm gốc. Người tu Tịnh nghiệp cứu sinh vật là việc trước tiên. Nhìn thấy chim bay, thú chạy, các loài bơi lội, hoặc bị giăng lưới, hoặc bị bắt nhốt trong lồng, xỏ quai hàm, bẻ cánh, cột chân, treo ngược, đem đến chỗ nước sôi lửa bỏng, hay sắp sửa để lên dao thớt thì nó buồn bã, sợ hãi, hoảng hốt, trông về trời xa mà hồn vía tiêu tan, nhớ về rừng suối mà nát gan. Tuy biết muôn phần chết nhưng còn mong một chút sống sót, trông ngóng, kêu thương để cầu cứu giúp. Vì thế, người đệ tử Phật phải thương xót đem tiền của ra để chuộc mạng nó, rồi mở lồng, cởi trói, cắt dây, cho uống nước, đốt hương chắp tay chú nguyện, làm pháp thí xong từ từ thả chúng ra, hoặc thả ở ao hồ, hoặc nơi rừng vắng. Tất cả đều nhờ Phật đạo khai mở tâm từ bi. Cho đến trên thì loài người, dưới đến loài kiến dế. Chẳng những phải cứu sống mà còn phóng sinh, phóng sinh tự nhiên tuổi thọ nhờ đó được kéo dài, hồi hướng Tây phương, nguyện khắp chúng sinh cùng thành Phật đạo. Cho nên trưởng giả cứu sống cá, sa-di cứu kiến, Trịnh Xương Đồ đốt lưới, Thiền sư xây ao phóng sinh. Dương Bảo trị bệnh cho chim sẻ, Mẫn Trọng thả tôm tép, ngao, hến, Thiền sư Nguyên có làm bài tụng răn sát, Thiền sư Mãn nói giới phóng sinh. Đáng gọi là ân cần giải kết đinh hương, thả ra đầu cành xuân tự tại.
7. Tu Lục độ muôn hạnh.
Lục độ là: Bố thí, Giữ giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ; cũng gọi là Lục Ba-la-mật. Nếu người niệm Phật chuyên tu Tam-muội, học pháp xuất thế gian thì phải đạt đến chỗ chí thiện.
Phải biết Lục độ muôn hạnh không lìa nhất tâm, ở trong nhất tâm ấy, tất cả pháp đều đầy đủ. Như tắm trong biển lớn thì đã dùng nước các sông, Như trăm thứ hương thơm làm thành viên, nếu đốt một viên thì đầy đủ các mùi thơm, như người tìm của báu được hạt châu như ý thì tất cả các của báu sinh ra vô cùng. Vì sao biết được như vậy? Vì trì một câu A-di-đà Phật nên được Tam-muội. Trong một niệm tương ưng với lý thì các pháp hiện tiền, Lục độ muôn hạnh tất cả đều đầy đủ. Bố thí thì tâm không còn tham đắm, giữ giới thì không khởi vọng duyên, nhẫn nhục thì năng sở đều quên, tinh tấn thì tâm không xen hở, thiền định thì động tĩnh đều vắng lặng, trí tuệ thì không lập một mảy may. Bấy giờ, trong một độ xuất ra vô lượng độ, trong mỗi độ như lưới trời Đế Thích. Chỉ cần biết một tâm vốn không thì tự nhiên muôn hạnh đầy đủ. Cho nên tám vạn bốn ngàn pháp môn, tám vạn bốn ngàn trí tuệ, tám vạn bốn ngàn công đức đều từ trong tâm một niệm niệm Phật mà xuất ra. Trong kinh Hoa Nghiêm, Bồ-tát Hiền Thủ nói: Này các Phật tử! Trong bất cứ lúc nào, khéo dùng tâm ấy thì được tất cả công đức nhiệm mầu tốt đẹp. Có thể nói một tánh thông suốt tất cả tánh, một pháp bao gồm tất cả pháp.
8. Duy-ma-cật chỉ bày tám pháp Tịnh độ của Bồ-tát.
Kinh Duy-ma-cật ghi: Bồ-tát ở thế giới Chúng Hương hỏi rằng: Bồ-tát thành tựu những pháp gì, ở thế giới này hành không thương tổn được sinh về Tịnh độ?
Duy-ma-cật đáp: Bồ-tát ở cõi này thành tựu tám pháp hành không bị thương tổn, được sinh về Tịnh độ.
Tám pháp là:
1. Làm lợi ích chúng sinh không cầu đền ơn.
2. Thay thế chúng sinh chịu khổ.
3. Làm tất cả công đức lành nguyện cho chúng sinh hưởng hết.
4. Bình đẳng với mọi người, nhún nhường mà không tự ti mặc cảm.
5. Đối với các Bồ-tát xem trọng họ như Phật.
6. Kinh chưa được nghe, khi nghe đến không nghi ngờ.
7. Không chê pháp tu của Thanh văn, không ganh tị khi thấy họ được cúng dường. Không vì lợi mình mà trong đó thường điều phục tâm mình.
8. Thường xét lỗi mình, không nêu lỗi người khác, luôn giữ nhất tâm, cầu các công đức.
Đó là tám pháp mà Bồ-tát ở thế giới Ta-bà hành không bị thương tổn sẽ được sinh về Tịnh độ.
9. So sánh sự khó dễ của việc tu hành.
Cõi Ta-bà ô trược nhiều nỗi khổ đau, muốn cầu đạo thì rất khó thành tựu. Tịnh độ an vui, nhiều điều tốt lành mà còn được địa vị không lui sụt. Người xưng danh hiệu Phật, được chư Phật che chở mà vãng sinh, người phát tâm Bồ-đề được ánh sáng Phật Di-đà soi chiếu làm tăng tiến, Bồ-tát Lahán làm bạn với họ, cây cối, chim, nước đều niệm Phật, bên tai thường nghe pháp mầu, trong tâm dứt hẳn tham, sân, vui sướng vô cùng, thọ lượng vô tận, vừa sinh về Tịnh độ, liền được không lui sụt. Lẽ nào so sánh với cõi trời cõi người gặp nhiều việc trái ý. Bậc thiện căn trên đường quyền thừa (tam thừa) ít khi được tròn đầy, ba bậc hiện chưa lên Thập địa, vẫn chưa thấy đạo mà mất niệm, Ngài Xá-lợi-phất chứng Lục trụ gặp duyên ác cũng thối tâm. Cho nên trong hội Pháp Hoa năm ngàn người đứng dậy rời khỏi chỗ ngồi của mình. Trong Kinh Bảo Tích ghi: Mất đạo do các quán. Phật tại thế còn vậy, sao ngày nay không như vậy. Hoa Nghiêm Hợp Luận hỏi rằng: Kinh Niết-bàn ghi: "Nghe hai chữ Thường trụ, còn được bảy kiếp không đọa vào địa ngục." Kinh Hoa Nghiêm ghi:
Nếu nghe tên Như Lai và nghe Ngài thuyết pháp thì dù không tin hiểu cũng có thể tạo thành hạt giống." Vì sao tâm Bồ-tát Lục trụ và Bồ-tát Địa tiền vẫn còn nói là lui sụt?
Đáp: Từ phàm phu vào đạo, thắng giải chưa thành, chưa đắc cho là đắc, liền sinh kiêu mạn, không gần bạn tốt, không kính người tài giỏi. Vì lười biếng, kiêu mạn nên ở mãi cõi trời, cõi người. Tùy theo duyên thuận, nghịch, niệm ác vừa sinh liền đọa địa ngục. Nếu một lòng tin tưởng, không kiêu mạn, thường mong gặp bạn lành thì không phạm lỗi này. Vì sao? Vì tâm Bồ-tát Lục trụ và Tam hiền chưa lên Thập địa, nói chung chưa thấy đạo, hạnh nghiệp tu hành đều là hữu vi. Hễ có vô minh đều phải chiết phục, có sức mạnh thì không lui sụt. Còn trong Bát địa, mới nhập vô công dụng hạnh. Ấy mới biết hàng Tam thừa trải qua tăng-kỳ kiếp mà công hạnh không thành. Môn niệm Phật trong thời gian búng ngón tay đã bước lên địa vị không lui sụt. Vì vậy người sinh về Tịnh độ chỉ có thiện không có ác, ở địa vị không lui sụt thì chắc chắn thành Phật. Cho nên kinh Di-đà ghi: "Cõi nước An lạc, chúng sinh vãng sinh về đó đều không lui sụt." Than ôi! Người mới phát tâm, niềm tin chưa sâu nếu không có tha lực thì khó tiến tu.
Thề nguyện sâu xa của Đức Phật hễ ai có duyên đều được che chở, tiếp dẫn. Nên tin rằng người học đạo ở các pháp môn khác như kiến bò lên núi cao, vãng sinh Tịnh độ như xuôi buồm đi thuận gió, Phật Di-đà tiếp dẫn thẳng đến Bồ-đề, các Hiền Thánh dìu dắt vượt qua ba cõi. Thượng phẩm thì chứng quả vị Phật, hạ sinh còn hơn sinh ở cõi trời. Mọi người tin như vậy, chớ nghi ngờ, cùng tu không lui sụt.
10. Ngài Thiên Thai chỉ dạy hai hạnh môn chán ghét và ưa thích.
Luận Thập Nghi ghi: Muốn sinh về Tịnh độ phải có đủ hai hạnh chán ghét và ưa thích.
Hạnh chán ghét: Thường quán thân này máu mủ, phẩn tiểu chảy lan tràn, hôi thối, dơ bẩn. Đầu tiên quán con người từ tình dục, tham ái sinh ra, đó là hạt giống dơ bẩn. Thứ hai, quán tinh huyết cha mẹ hòa hợp, đó là thọ sinh dơ bẩn. Thứ ba, lúc ở trong thai tạng tức là chỗ ở dơ bẩn. Thứ tư, ở trong thai mẹ thì chỉ ăn huyết mẹ tức là thức ăn dơ bẩn. Thứ năm, đủ mười tháng thì từ cửa mình sinh ra, tức là sợ sinh dơ bẩn. Thứ sáu, trong thân máu mủ tức là toàn thân dơ bẩn. Thứ bảy, sau khi chết sình trướng, tan rã tức là rốt ráo dơ bẩn. Quán thân mình đã như vậy thì quán thân người khác cũng như vậy.
Kế đến quán cảnh uế trược của cõi Ta-bà, cõi Ta-bà nhiều khổ đau cùng nhóm họp các khổ sinh, già, bệnh, chết, oán ghét lại gặp nhau, thương yêu phải xa lìa, lo buồn khổ não, ba đường, tám nạn, luân hồi trong sáu đường, đất, nước, gió, lửa, vô thường bại hoại, tham, sân, si, mạn, nghi gặp những cảnh này phải nên sinh tâm chán ghét, phát sinh hạnh chán ghét thì Tịnh độ sẽ thành tựu.
Hạnh ưa thích: Cầu sinh về Tịnh độ vì muốn nhổ sạch tất cả gốc khổ của chúng sinh. Cho nên tâm phải khởi tưởng ưa thích cõi Tây phương. Cõi ấy trăm báu trang nghiêm, đất vàng, rừng ngọc, ao hoa, ánh sáng rực rỡ, thần thông tự tại, mặc tình qua lại, mãi mãi không còn sinh tử, không còn khổ não. Gặp Phật A-di-đà tướng tốt sáng ngời, pháp môn tự ngộ, y thực tự nhiên, các môn khoái lạc, cho nên phải ưa thích.
11. Đạo tràng Tịnh nghiệp.
Tịnh nghiệp là diệu hạnh vô tướng, vô vi. Là huyền tông không ô nhiễm, không dính mắc.
Đạo tràng là nơi chư Phật ba đời trụ trì, là nơi của Bồ-đề, chánh giác.
Lẽ nào số lượng của danh tướng có thể đo lường được? Chẳng phải năng sở của trí thức mà có thể thuật lại. Phải lấy thành kính làm trang nghiêm, diệu hạnh làm quy tắc, vì thế trong kinh Duy-ma-cật có trình bày các tướng của đạo tràng, trong pháp xã của Pháp sư Tuệ Viễn có bài tựa về tiết độ. Cho nên giải thích nghĩa này phải nhập vào Thật tướng, cảnh và trí hòa hợp, sự và lý cũng như vậy. Hương thơm của năm phần pháp thân, đuốc trí tuệ soi sáng, dứt bặt suy nghĩ, lo âu, đó gọi là trai giới thanh tịnh, trang nghiêm gọi là bình đẳng cúng dường. Đi, đứng, nằm, ngồi không lìa đạo tràng, tất cả hành động, việc làm đều là Phật sự; niệm niệm Di-đà xuất thế, tâm tâm Bồ-tát phát sáng, hạnh hạnh đều là Tây phương, mỗi bước đều đến bảo sở, không có một pháp nào chẳng phải là chánh pháp. Cất một tiếng mà tròn đầy các tiếng, phát một niệm thì được trời, rồng che chở, ra một lệnh thì quỷ vương mất hồn. Cho nên hội Linh Sơn nghiễm nhiên vẫn còn. Ấy gọi là chân pháp cúng dường Như Lai. Nói về công đức thì vô lượng vô biên, nói về quả báo thì khó suy nghĩ bàn luận. Lấy đó cầu phước thì phước nào không đến, lấy đó độ sinh thì tất cả chúng sinh đều được độ. Ấy gọi là công đức chân thật, ấy gọi là đạo tràng Tịnh nghiệp.
Ôi! Nay đời Mạt pháp có hạng người ngu si không cứu xét tự tâm, không biết Phật lý, chấp vào ngoại cảnh cho là thật, một bề chấp tướng tu hành, bên này mở mấy đạo tràng, chỗ kia tính đèn nhang mấy cân, nơi nào đó hóa độ được bao nhiêu người, sám hối lúc nào, đếm hóa duyên bao nhiêu? Ta là đạo sư họ Trương truyền tông, người khác là đệ tử sư trưởng Lý, kia hiệu chữ Phổ tự, y đây tông chữ Giác mà không cần suy nghĩ cội gốc từ đâu đến. Mỗi người đều cạnh tranh chi phái mình không phải là chỗ này. Lại nói càn nói bậy, động một tí là mình đúng, người sai, giải thích sai lầm kinh Phật, mật truyền ngụy giáo, miệng khoe khoang làm cho rối rắm, tranh giành mình người, luận bàn cao thấp, nhiều thiếu sót sinh ra nhiều việc xấu xa, không biết hổ thẹn mới thành như thế, nào biết xấu hổ, sợ hãi với điều gì. Đem đạo Tịnh độ biến thành hội trường tạp kịch, lấy danh hiệu Di-đà muôn đức để hát xướng. Họ làm mất đi chánh nhãn của Tổ sư, làm cho giáo môn Liên tông ngày càng tàn lụn. Người đạt đạo thấy vậy buồn thương, người trí thức xét thấy thì kinh ngạc. Lại có người đánh chũm chọe mà niệm chân ngôn, pha trộn sự ứng phó của tăng môn, chú nguyện vào nước, vẽ bùa để bàn về hoạ phước, bắt chước việc làm của thầy đồng bóng, sai sử các vị trời, đuổi vong thâu quỷ, mạ nhục Tam bảo, cứu bệnh đuổi tà, trăm kiểu kỳ quặc, muôn thứ khác lạ, chạy vạy bôn ba, làm tôi tớ cho kẻ khác, vội vàng gấp gáp, không quan tâm, dạy bảo môn đồ. Đọc tụng thì mười sai hết chín, lúc lễ niệm thì la lối, hét hò, khai kinh thì ngủ gật, thâu kinh thì nói chuyện riêng gia đình. Chụm đầu bàn luận làm rối loạn tâm hồn, làm cho ít thành nhiều, chỉ cải vã nhau ầm ĩ, không nghĩ đến nhân quả, không biết tội lỗi, mượn danh Phật tổ mở rộng pháp môn, nhận sự lễ bái cúng dường của trời, người. Đẹp thì vốn đẹp nhưng thiện thì chưa thiện, nếu là người hành trì giới của Phật ở cửa Phật thì nên học đạo của Như Lai, tụng kinh Phật, hành hạnh Phật, mới hết tâm nguyện của Tổ sư mà còn chưa thể nhập Thánh vượt phàm, chỉ sợ không đức độ mà được cúng dường. Như giẻ lau bàn không thể không dơ bẩn, đối với tự thân như đá mài dao, không tránh khỏi sự tiêu hao bản thể. Nếu đã giác ngộ chỉ thích hồi đầu, trước phải đầu Phật trì trai, cuối cùng làm việc gì? Nếu không thể cứu khỏi sự sinh tử thì đâu bằng tự lui về tu trì, chuyên niệm Phật Di-đà, khẩn cầu sám hối, gần gũi người trí, tham cứu Phật lý, hướng về nơi vắng lặng, thể cứu tâm vương, mau khiến cho biển nghiệp dừng sóng, hiển bày ly châu (hạt châu quý giá) chiếu khắp trời đất, việc mình thành tựu, lợi lạc chúng sinh. Nếu gặp được đạo tràng ứng cúng chớ buông lung xem thường, phải tiết độ để không làm trái, tuân theo trai giới và văn kinh để vâng giữ Phật pháp, hiện tại được Tam-muội niệm Phật. Chỉ có đây là pháp môn an vui, trên báo đáp bốn ơn, dưới cứu giúp ba đường, thật không uổng là một Phật tử, không cô phụ tâm linh của mình. Tín nguyện giúp nhau, hành giải đầy đủ. Như thế bước đi tức là Di-đà hiện tại, từ đây tu trì thật là con mắt của trời, người, là nhân duyên lớn. Há có bổ ích nhỏ nhoi sao? Biết chăng: Núi xanh nơi cao thấy trời rộng, sen trắng lúc nở nghe mùi thơm của nước.
12. Tự mình tu tập, hóa độ người khác.
Phật dạy: Tự mình chưa được độ mà trước muốn độ người, thì đó là Bồ-tát phát tâm, tự mình giác ngộ đã viên thành rồi giác ngộ người khác, thì đó là Như Lai ứng thế. Cho nên Tổ sư Liên tông sáng lập pháp môn niệm Phật, hành giải tương ưng, lợi mình lợi người, giáo hóa chúng sinh có phương pháp, dạy người bằng lý, gọi đó là Đạo sư, chuyên lấy Tam-muội niệm Phật chỉ dẫn người khác, khiến cho mọi người thoát ra khỏi thế gian ô trược, vì thế dạy truyền khắp thiên hạ, mọi người đều kính ngưỡng.
Nay, có người làm thầy đã không thông đạt đạo này, lại chấp vào danh tướng, tập trung nhiều đồ chúng, không tu hạnh chân thật. Do đó chỉ có tên suông, không có pháp để làm thầy người khác, muốn được mọi người cung kính tôn trọng nhưng không có đức độ để thọ nhận sự cung kính, thật đáng hổ thẹn!
Trong kinh chép: "Hễ muốn độ người, thì trước tiên phải cầu tự độ." Ngài Duy-ma-cật nói: "Đau khổ của mình không cứu được thì làm sao cứu được đau khổ của người khác?" Lại kinh Địa Ngục Báo Ứng ghi: "Mình không thanh tịnh mà dạy người thanh tịnh, thì không thể có việc đó". Luận Trí Độ ghi: "Thí như có hai người, mỗi người đều có người thân bị chết chìm, một người nóng nảy nhảy ngay xuống nước để cứu, vì không có phương tiện nên cả hai đều bị chết chìm, còn người kia dùng phương tiện là thuyền bè cứu họ, nên được thoát nạn chết chìm. Vì thế làm một người thầy có tâm độ người mà không có trí độ người, thì làm sao quy phục người khác được? Trong bụng thì rỗng tuếch mà tâm lại cống cao, không chịu gần gũi bậc minh sư, chỉ biết kiêu căng thọ nhận sự lễ bái, cúng dường của người khác. Vì tham tiếng tăm tốt mà thật đặt nền móng của tai họa. Ví như người thường vọng xưng là đế vương thì tự nhận lấy sự chết chóc. Hai việc trước gọi là không có phương tiện cứu người, lẽ nào dám vọng làm ư? Hễ muốn làm thầy người, muốn độ đệ tử thì phải quán chiếu trên từ nguyên nhân tu hành của các Phật tổ, dưới biết được cội nguồn của đạo, chánh ấn truyền tông, pháp môn niệm Phật mỗi thứ tìm tòi nghiên cứu rõ ràng, tự tin tự hành, mỗi mỗi tu trì, mỗi mỗi thành tựu, tự lợi rồi mới lợi tha. Ấy là nương theo thuyền nguyện lực lớn của Phật Di-đà cứu vớt chúng sinh chìm đắm trong biển khổ. Mình người đều lợi lạc, không phải là thích hợp sao? Ấy gọi là dùng sự giác ngộ của giác ngộ người sau tự tin pháp môn này, cũng dạy người tin pháp môn này. Tự mình thực hành đạo này, cũng dạy người đạo này, tự mình nguyện vãng sinh Tịnh độ, cũng dạy người phát nguyện vãng sinh Tịnh độ, tự mình thấy bản tánh Di-đà, cũng dạy người thấy bản tánh Di-đà. Dụng tâm như thế há không phải là thực hành hạnh Bồ-tát ư?
Thầy và đệ tử, mỗi người lãnh thọ chánh nhân, cùng thực hành chánh đạo, lần lượt hóa độ tất cả chúng sinh đến tận đời vị lai, khiến họ đều giác ngộ Phật thừa, cùng ra khỏi sinh tử. Công đức này há dễ đo lường được ư?
Chúng ta phải lấy điều này mà làm thầy người, còn có gì hơn? Nếu không như vậy thì hai đường mê ngộ, phải chịu quả báo chánh tà khác nhau, có thể nói rằng lông vàng trong hang sinh sư tử, dã hồ dưới núi hiện chồn hoang.
13. Dùng việc xem xét tâm.
Tự Hành Lục của Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ ghi: Khâm phục bậc Thánh xưa không khoe khoang tài giỏi, bậc Tiên hiền ngàn xưa không phô bày đức độ. Đạo Phật hưng khởi giáo lý, trước mình tu hành, sau hóa độ người khác, Nho học nêu cao nghĩa cử nhưng không tránh khỏi quan hệ thân thuộc.
Sư thường dạy đệ tử rằng: "Nhân xem Hoằng minh tập thấy các bậc tiên đức thường xem xét lại Tam nghiệp." Tình chê trách còn mê muội, yếu chỉ để đạt đến mục đích chưa sáng tỏ. Do đây dùng sự kiểm xét tâm, thấy sự tu tập của mình chưa đến đâu càng làm thêm sợ hãi, hổ thẹn. Thế nào là xem xét? Tức là xem xét thân này của ta, từ sáng đến trưa, từ trưa đến chiều, từ chiều đến tối, từ tối đến sáng, cho đến một thời, một khắc, một niệm, một sát-na có bao nhiêu tâm, bao nhiêu hạnh, bao nhiêu điều lành, bao nhiêu điều ác, bao nhiêu tâm muốn dứt bỏ phiền não, bao nhiêu tâm muốn hàng phục ma oán, bao nhiêu tâm nhớ nghĩ đến Tam bảo, bốn đế, bao nhiêu tâm ngộ được khổ, không, vô thường, bao nhiêu tâm nhớ nghĩ báo đáp ơn từ của cha mẹ, bao nhiêu tâm nguyện thay thế chúng sinh chịu khổ, bao nhiêu tâm phát nguyện thực hành đạo Bồtát, bao nhiêu tâm muốn bố thì, trì giới, bao nhiêu tâm muốn nhẫn nhục tinh tấn, tâm nào muốn thiền định, hiển bày trí tuệ, bao nhiêu tâm muốn Từ bi cứu độ năm đường, bao nhiêu tâm muốn khuyến khích làm những việc khó làm, bao nhiêu tâm muốn vượt khỏi sự mong cầu, hoàn thành những việc khó làm, tâm nào muốn chấp nhận khổ đau để xây dựng Phật pháp, tâm nào muốn thành Phật hóa độ chúng sinh. Như trên là xem xét tâm. Kế đến là xem xét khẩu, về thời khắc thì như trên xem xét tâm, từ sáng trở đi đã giảng nói được bao nhiêu câu có ý nghĩa sâu xa, đã đọc được bao nhiêu kinh điển, đã tụng được bao nhiêu văn tự nói về lý, đã khen ngợi được bao nhiêu công đức của Phật, đã được bao nhiêu lần phát nguyện hồi hướng. Cuối cùng xem xét thân, thời khắc cũng như trên, gặp người lạy Phật đã được mấy bận, mấy lạy; đã được mấy lần gặp người lạy Pháp lạy Tăng; đã được bao nhiêu lần quét tháp, lau chùa, đã bao nhiêu lần đốt đèn, xông hương, rải hoa cúng dường; đã bao nhiêu lần quét dọn bụi bặm, đã bao nhiêu lần cung kính nhiễu Phật mười vòng, trăm vòng, ngàn vòng. Xem xét như thế, hiểu lý thì ít, trái đạo thì nhiều, nghiệp trong sạch thì không đáng nói, còn phiền não chồng chất, chướng ngại tràn đầy, ngày càng chứa nhóm thì do đâu được giải thoát? Vì thế xem xét như trên, không có công phu để tự cứu mình, làm sao có thời gian rảnh rỗi mà nói việc tốt xấu của người? Cho nên phải quở trách xem xét Tam nghiệp để biết được việc làm của ta, cái nào thiện, cái nào ác. Vì thế, nếu không tự mình quở trách, xem xét trước thì lấy gì giáo hóa chúng sinh? Bồtát vì muốn độ chúng sinh nên trước phải tự mình tu hành. Vì vậy, kinh Tịnh Danh ghi: Bồ-tát dùng của cải vô lượng cứu giúp người nghèo khổ; giữ giới thanh tịnh để dạy những người phá giới; dùng hạnh nhẫn nhục, hòa nhã khuyên giải những người sân giận. Dùng tinh tấn nhắc nhở những người lười biếng, nhất tâm thiền định thâu nhiếp những người loạn động; dùng định, tuệ dẫn dắt những người vô tri.
Lại trong kinh ghi: Mình giữ giới khuyên người khác giữ giới, mình thiền định khuyên người khác thiền định. Luận Đại Trí Độ ghi: Đức Bổn sư Thích-ca Mâu-ni không bỏ phước xỏ kim, Tổ sư Bồ-tát Long Thọ giải thích rằng: "Như ông già một trăm tuổi múa là vì sao? Vì để dạy con cháu." Huống chi chưa đạt đến địa vị rốt ráo thì toàn là pháp môn tự lợi. Từ sơ tâm Thập Tín lần lượt đến Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, thẳng đến Đẳng giác, trước khi thành Phật, địa vị Phổ Hiền vẫn là tự lợi. Về lợi tha thì lên địa vị Diệu giác, đến sau khi thành Phật thì Phổ Hiền mới gọi là lợi tha.
Nhân được nghe thầy thuyết, ghi chép chỉ được hai, ba. Đã xem xét hạnh đối trị thì môn nhiếp hóa không mất, thừa, giới đều cần kíp, quyền thật song hành, thể dụng thu nhiếp nhau, lý sự vô ngại. Nay xin trích dẫn quy bài kệ ở sau tập Vạn Thiện Đồng Quy để nói lên sự tu tập viên thành.
Tụng rằng:
Bồ-đề không phát mà phát
Phật đạo không cầu nên cầu
Diệu dụng không làm mà làm
Chân trí không nghĩ mà nghĩ
Khởi thương, giác ngộ đồng thể
Thực hành từ, nhập vô duyên
Vô sở xả mà hành thí
Không chỗ giữ mà đủ giới
Tiến tu không chút vọng động
Nhẫn nhục không làm thương tổn
Bát-nhã ngộ cảnh vô sinh
Thiền định biết tâm vô trụ
Xét vô thân mà có tướng
Chứng vô thuyết mà nói năng
Kiến lập đạo tràng như huyễn
Trang nghiêm thế giới tánh không
Bày ra các thứ huyễn hóa
Cúng dường tâm vương Như Lai
Sám hối tánh tội vốn không
Khuyến thỉnh pháp thân thường trụ
Hồi hướng nhưng không thật có
Phước vui theo bằng chân như
Khen ngợi kia đây hư huyễn
Phát nguyện năng sở bình đẳng
Lễ bái ảnh hiện pháp hội
Hành đạo bước đến chân không
Đốt hương thơm đạt vô vi
Tụng niệm thông sâu Thật tướng
Rải hoa nói lên vô trước
Búng tay biểu thị khử trần
Thí là độ môn tiếng vang.
Tu tập muôn-hạnh không hoa
Thâm nhập pháp tánh, duyên sinh
Thường dạo pháp môn như huyễn
Thề dứt không nhiễm trần lao
Nguyện sinh duy tâm Tịnh độ
Thực hành trong lý Thật tướng
Vào ra quán môn vô ngại
Hàng phục ma quân bóng gương
Làm nhiều Phật sự trong mộng
Độ khắp chúng sinh như huyễn
Cùng chứng Bồ-đề vắng lặng.
"Lý" do trí dắt dẫn, "hạnh" do nguyện phát khởi. Hạnh nguyện bằng nhau, lý trí đầy đủ. Lý trí đầy đủ thì tâm tâm, niệm niệm đều là Di-đà, trần trần, sát sát đều là Tịnh độ. Nếu không phải năng lực của hạnh nguyện rộng lớn thì làm sao đạt được như vậy?
Nếu muốn cho mọi người chứng được Tammuội này thì chủ yếu ở tâm tín nguyện sâu xa, ấy chính là căn bản. Nguyện là thích, là mong muốn. Muốn sinh Tịnh độ Tây phương, mong gặp Phật A-di-đà, cho nên phát nguyện này. Vì thế nhờ vào sức mạnh của đại nguyện mà thẳng đến Cực lạc. Cho nên Ngài Từ Chiếu nói: "Thường luôn phát nguyện ưa thích vãng sinh, ngày ngày cầu nguyện chớ để lui mất. Nếu không phát nguyện thì thiện căn ngày càng chìm mất. Kinh Hoa Nghiêm ghi: "Không phát nguyện lớn, là việc làm của ma." Cho nên Ngài Phổ Hiền phát nguyện rộng lớn như biển cả, Phật Di-đà có bốn mươi tám lời nguyện. Từ đó mới biết chư Phật mười phương, các bậc tiên hiền đều nhờ nguyện lực mà thành tựu Bồ-đề. Nếu không phát khởi tâm nguyện ưa thích thì không thể thành tựu hạnh nguyện ưa thích. Vì thế nói rằng: Pháp môn rộng lớn không nguyện không thành, cho nên Đức Phật tùy theo tâm của mỗi người mà đáp ứng đầy đủ hạnh nguyện, huống gì chuyên tu Tịnh nghiệp nguyện vãng sinh Tịnh độ, thì làm sao không tùy tâm mãn nguyện được? Sám có ghi: "Con nguyện không thối tâm Bồ-đề, con nguyện nhất định sinh Cực lạc, con nguyện mau gặp Phật Di-đà, con nguyện suốt đời không có niệm khác, chỉ duy tâm Tịnh độ." Lại kinh Di-đà ghi: "Nếu có người nào tin thì nên phát nguyện, nguyện sinh về Cực lạc." Sám ghi: "Chúng sinh vô biên thệ độ hết, phiền não vô tận thệ dứt hết, pháp môn vô lượng thệ nguyện học, Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành", cho nên gọi đây là bốn lời nguyện rộng lớn. Ngài Từ Chiếu tập hợp thành sám, vì sợ người đời chấp sự mê lý nên nói rằng:
"Tự tánh chúng sinh, thệ nguyện độ, tự tánh phiền não, thệ nguyện dứt, tự tánh pháp môn, thệ nguyện học, tự tánh Phật đạo, thệ nguyện thành." Bốn câu này nói thẳng chân lý, muốn độ hết tất cả chúng sinh ở trong tự tánh, tất cả các vọng niệm chúng sinh, cái gọi là tâm tà mê, tâm vọng tưởng, tâm tham lam, tâm si mê, tâm ganh ghét, tâm sân giận, v.v... Cho nên khiến phát thệ nguyện rộng lớn, tự tánh tự độ. Lại đối với tự tánh dứt trừ tất cả phiền não, cái gọi là trần lao, nghiệp thức, suy nghĩ tà vạy, niệm ác, giống như mây nổi che lấp tự tánh nên ánh sáng không hiện ra, vì thế khiến phát thệ nguyện lớn để tự dứt trừ nó, không bao giờ cho nó phát khởi. Lại ở trong tự tánh, tu học tất cả pháp môn, cái gọi là Tam-muội niệm Phật, Bi Trí, Hạnh nguyện vô lượng pháp môn, nên khiến phát thệ nguyện rộng lớn, tự ngộ tự tu, thường không lui sụt, thẳng đến Bồ-đề, không vì được chút ít mà cho là đủ. Lại đối với tự tánh thì tin rằng có Phật, phát thệ nguyện lớn, thường tự quán chiếu, tự nguyện thành Phật Bồ-đề. Đây chính là tâm từ bi tha thiết của Ngài Từ Chiếu nói rõ cho hậu học, mở ra một cánh cửa, chỉ cần mọi người tin tưởng, tự chấp nhận theo đây tu hành, thì sẽ ngộ được tự tánh Diđà, đạt đến duy tâm Tịnh độ, thành tựu Vô thượng Bồ-đề.
Các thiện nhân ở đời không biết ý này, lại hướng ra bên ngoài tìm cầu, khác gì người cầm hạt châu thần mà đi xin ăn, không phải là ngu muội sao? Nguyện tất cả mọi người thấy nghe đều khuyên bảo, sách tấn nhau, cùng khởi chánh niệm, sớm bước lên được con đường nhiệm mầu, biết lỗi lầm trước của trước đây, hiểu rõ địa vị sau của sau này. Lập chí khí lớn, phát mạnh mẽ lớn, phát thệ nguyện lớn, thề độ vô biên chúng sinh, thề dứt bỏ vô tận phiền não, thệ học vô lượng pháp môn, thề nguyện vãng sinh về thế giới Cực lạc ở Tây phương gặp Phật A-di-đà, thề cùng tất cả các thiện nhân viên thành Phật đạo vô thượng. Có thể nói rằng, không có gió xuân hoa không nở, hoa muốn nở rực rỡ phải cảm được sức mạnh của gió xuân.
1. Khuyên phát nguyện lớn.
Ngài Từ Chiếu nói: "Có Hành không có Nguyện thì Hành ấy sẽ trơ trọi; có nguyện mà không Hành thì nguyện ấy chắc là rỗng không. Không hành, không Nguyện thì luống trụ ở Diêmphù; có Hành, có Nguyện thì thẳng đến vô vi. Đây là vấn đề căn bản của Phật tổ tu Tịnh nghiệp". Thời nay, nhìn khắp những người tín tâm quy y Phật, hoặc vì bệnh khổ mà phát tâm, hoặc vì báo đáp công ơn cha mẹ mà nảy sinh ý nghĩ, hoặc vì bảo vệ, giữ gìn gia đình, hoặc vì sợ tội lỗi mà trì trai giữ giới. Những người này tuy có tín tâm nhưng không có hạnh nguyện, tuy nói niệm Phật nhưng không đạt đến cội nguồn. Hễ tu duyên lành đều để hoàn thành tâm nguyện, ít có người vì giải thoát sinh tử cho chính mình mà phát nguyện niệm Phật cầu sinh Tịnh độ, thường lo nhang đèn cho đạo tràng, những lời chú nguyện hồi hướng đều là để cầu khẩn thần minh khiến cho không còn tai họa và kéo dài tuổi thọ mà thôi! Cho nên so với bổn ý của kinh sám thì trái ngược nhau, không phù hợp với bản nguyện của chư Phật. Cho dù suốt đời tu hành mà không hiểu rõ lý thú, dụng công sai lầm thì đó là suốt ngày đếm của báu cho người khác mà mình không được nửa đồng.
Người qua đời sở dĩ không được vãng sinh Tịnh độ là vì không có hạnh nguyện. Lại có hạng người ngu si thọ giới với Phật mà lại ở trước Tam bảo đốt hương thề nguyện: Nếu con phá giới sẽ bị bệnh nan y làm khổ thân này, mãi mãi bị đọa vào địa ngục. Hoặc nói: Dù mắt trái chảy máu, mắt phải chảy mủ cũng cam chịu các thứ hình phạt của quan ty. Thấy có nhiều người nói nhưng vô tâm, phá trai, phạm giới nguyện chịu quả báo đau khổ, cam tâm bị đọa lạc. Họ tự đào huyệt chôn mình, thật không biết Phật, Tổ luôn có tâm thương xót chúng sinh, có bao giờ dạy người như vậy? Những người ấy đều là tà sư sai lầm, đem những hình phạt làm lời phát nguyện, sao lại quá mê muội như thế!
Tôi thường nghĩ mà thương xót, nên khuyên mọi người cùng phát chánh nguyện, cầu sinh Tịnh độ, nguyện cùng thành Phật. Người kia nói: "Ta là phàm phu làm sao dám mong sinh về Tịnh độ, nguyện cùng thành Phật? Nếu ta có tâm này là còn vọng tưởng." Tôi trả lời rằng: Không phải như vậy, này Thiện tri thức! Phật là giác, Tịnh độ là tâm. Tâm này người nào cũng có. Giác là Phật, mê là chúng sinh. Người thế gian trái với chánh giác, hợp với trần tục, nên luân hồi trong bốn loài, sáu đường thuộc ba cõi. Nghiệp duyên thiện ác phải chịu quả báo xấu tốt đều do nhận thức sai lầm về bốn đại, cho rằng bốn đại là thân ta, lục trần là thật có, rồi chạy theo huyễn cảnh, suốt ngày trôi lăn, không hề tạm ngừng để thức tỉnh chính mình. Từ sinh đến chết chỉ lo cho gia đình không đầy đủ của cải, không vừa lòng, càng nhiều càng tìm cầu, càng tham lam không biết đủ. Tuy nói làm lành, kính thờ Phật, đốt hương lễ bái làm phước, nhưng chỉ mong vinh hoa giàu sang, sống hoài không chết. Mới làm được một ít việc lành thì cầu mong đủ thứ, muốn lúa thóc đầy kho, tơ tằm tăng gấp bội, con cháu vinh hiển, bò ngựa sinh nhiều. Nhưng chỉ một điều không vừa ý thì oán Phật không giúp cho đầy đủ. Của cải càng ngày càng tăng thêm, bèn nói trời, rồng cảm ứng. Tham lam như thế chính là vọng tưởng, tự không hay biết. Lại nói niệm Phật cầu vãng sinh Tịnh độ, là tự tạo ra vọng tưởng, há không phải là quá điên đảo sao? Hễ cho là làm phước tất cả đều thuộc hữu vi, bởi vì đó là nhân hữu lậu của thế gian, chẳng phải việc tu hành đạo vô vi xuất thế. Cho nên người Phật tử tu hành nên suy nghĩ kỹ, ngày nay mình có cơ duyên gặp được Phật pháp, nên nghiên cứu tìm về cội nguồn, chớ cạnh tranh nhau về chi phái, một niệm xoay trở về chính mình tu pháp xuất thế, nguyện ra khỏi Ta-bà sinh về Tịnh độ. Cũng như người đi xa lâu ngày mong muốn được trở về quê cũ.
Tâm nguyện sinh Tịnh độ, nguyện thành Phật làm sao có thể so sánh giống với vọng tưởng của phàm phu? Há không thấy trong sám ghi: Con nguyện lúc sắp qua đời dứt trừ hết tất cả chướng ngại, được thấy Đức Phật A-di-đà, liền được vãng sinh cõi Cực lạc. Có thể nói rằng một ngày, được bước trên con đường tìm về bảo sở mới biết trước đây mình dụng tâm sai lầm.
2. Kệ và lời tựa Ngài Từ Chiếu Tông Chủ dạy người niệm Phật phát nguyện.
Di-đà tiết yếu ghi: Người niệm Phật việc lo lắng nhất là không khéo tương ưng, vì sao? Vì tuy nói giữ giới niệm Phật nhưng chưa hề phát tâm nguyện sinh về Tịnh độ, thì tất cả đều là vùi đầu cho qua ngày tháng, tự mình làm mất đi lợi ích tốt đẹp. Nói chung niệm Phật điều quan trọng trước tiên là phát tâm. Muốn vượt khỏi sinh tử, vãng sinh Tịnh độ nên lấy nguyện lớn làm ý chính, thường nên niệm Phật, sớm chiều chuyên tâm lễ bái Phật Di-đà như chầu vua. Mỗi ngày hai thời đầy đủ, càng gần thì càng thân. Tâm-miệng tương ưng với Phật; Cách Phật không xa, miệng niệm tâm nhớ tưởng, mong được thấy Phật; phát nguyện sâu dày, tin chắc không nghi ngờ; trải qua nhiều năm công phu thuần thục, tự nhiên Tam-muội được thành tựu. Người đó lúc qua đời được Phật Di-đà tiếp dẫn, cõi Tịnh độ hiện ra trước mắt, lại nguyện trong đời hiện tại này thường gặp bậc Thiện tri thức, không gặp thầy tà kiến, không bị mê hoặc tâm mình, không sinh lười biếng. Nếu niệm Phật như thế, lại có niềm tin sâu sắc và phát nguyện thì tín, hạnh, nguyện không thiếu sót. Vì thế người ấy sắp qua đời thấy Phật tức chẳng phải Phật từ bên ngoài đến mà tất cả đều do tâm hiển bày. Giống như hạt giống gieo xuống đất gặp mùa xuân thì dễ phát sinh, đâu phải từ bên ngoài đến mà chính là từ đất sinh ra.
Người tu hành ngày nay cũng vậy, niệm Phật, tín, nguyện huân tập vào thức A-lại-da thì lúc sắp qua đời phát hiện ra Tịnh độ Di-đà, tức chẳng phải bên ngoài đến, tất cả đến từ tâm hiện ra.
Kệ rằng:
Muôn pháp từ tâm sinh
Muôn pháp từ tâm diệt
Phật ta đại Sa-môn
Thường giảng nói như vậy
Giữ giới không tín nguyện
Không được sinh Tịnh độ
Chỉ được phước trời, người
Phước hết chịu luân hồi
Xoay vần khó ra khỏi
Xem kinh không mắt tuệ
Không biết ý sâu Phật
Đời sau được thông minh
Loạn tâm khó xuất ly
Chi bằng niệm Phật đi!
Hiện đời không danh lợi
Lúc nào cũng niệm Phật
Chính là A-di-đà.
Phát nguyện đem công đức giữ giới
Hồi hướng sinh về Cực lạc
Chính là hợp với hành trì
Trong ngàn người không sót một người
Những lời từ miệng vàng Đức Phật nói
Người ấy được đích thân Phật Di đà nhiếp thọ
Chư Phật đều hộ niệm
Các vị trời khéo che chở
Chúng ta thấy người niệm Phật như thế
Không cách xa Phật
Nên ngồi trong đạo tràng
Xoay bánh xe đại pháp
Độ khắp vô lượng chúng sinh
Ví như cô gái nghèo cùng
Mang thai vua chuyển luân
Các vị trời thường theo che chở
Mà cô ta không biết
Trong bụng mình có quý tử
Nay người niệm Phật
Ý cũng giống như vậy
Người nhớ tưởng Phật, thường niệm Phật
Không lâu sẽ thành Phật.
Chư Phật khéo che chở
Nhưng người ấy không biết mình
Sẽ sinh Tịnh độ
Lại muốn đời sau
Được sinh vào cõi người.
Giống như người nghèo cùng
Trong đất nhà mình có kho báu chôn dưới đất
Có thần thường giữ gìn
Không để nó mất mát
Mà tự mình không biết
Trong nhà có kho báu
Phải đi khắp nơi
Tìm kiếm cơm áo để sinh sống
Nay người niệm Phật này
Ý cũng giống như vậy
Không biết người niệm Phật
Có đủ kho Như Lai
Lại nói ta không có phần
Ngược lại muốn sinh trong loài người.
Ví như người bệnh
Có thuốc hay
Nhưng không biết tính chất của nó
Thì không thể tự trị bệnh được
Suốt ngày nằm trên giường
Chịu đựng sự đau đớn.
Nay người niệm Phật này
Ý cũng giống như vậy.
Không biết tâm niệm Phật
Có công năng diệt trừ bệnh tham, sân
Có công năng làm bậc đại y vương
Có công năng làm kho báu lớn
Cứu độ tất cả mọi người
Có khả năng làm bậc Đại Pháp vương
Che chở chúng sinh
Lại cho rằng là phàm phu
Không được sinh về Tịnh độ
Vì thế họ trì trai giữ giới
Nguyện đời sau được làm người
Xoay vần lại tu hành
Mới được sinh về Cực lạc.
Chúng ta thấy nhiều người tu hành
Thường nói như vậy.
Người nào không khen ngợi hạnh nguyện của Phật Di-đà
Thì không phù hợp với kinh Tịnh độ
Tà kiến che lấp tâm mình
Thì rốt cuộc khó ra khỏi được
Chẳng phải do người khác ngăn ngại mình
Mà tất cả đều do tâm mình làm chướng ngại mình.
Đời nay không được vãng sinh
Một lần sa đà thì trăm lần sa đà
Khuyên những người tu hành
Phải tin tưởng lời Đức Phật dạy
Vì lời Phật nói hoàn toàn chân thật
Lẽ nào lại có lời luống dối?
Nhưng mỗi người phải tự chuyên cần,
Nhất tâm cầu sinh Tịnh độ.
Nhân gió thổi lửa, năng lực không tiêu hao
Là nhờ có tâm niệm Phật
Nên hồi hướng, phát nguyện vượt ra ba cõi
Gặp của báu mà không lấy của báu
Gặp thức ăn mà chịu đói lạnh.
Than ôi! Bậc đại trượng phu
Mà không thấy được ý chân thật
Nay Ta khuyên nhủ, khen ngợi sơ lược
Xoay vần truyền cho người
Thay ta rộng lưu hành
Làm sứ giả Như Lai.
Ấy thật là Phật tử
Thật gọi là báo ơn
Phật Nguyện khắp chúng sinh
Đúng như lời dạy mà tu hành
Cùng sinh về Cực lạc.
3. Cầu sinh Tịnh độ quan trọng là phát nguyện.
-Luận Trí Độ quyển tám.
Hỏi: Các Bồ-tát hạnh nghiệp thanh tịnh được quả báo tốt đẹp, cần gì phải lập thệ nguyện, sau mới được quả báo tốt đẹp? Giống như người làm ruộng được mùa, lẽ nào đợi phát nguyện sao?
Đáp: Làm phước không phát nguyện thì không có mốc để hướng tới, nguyện làm người dẫn đường cho chúng sinh thì sẽ thành tựu. Như lời Phật dạy, nếu tu ít phước, ít giữ giới, không biết giảng nói chánh nhân, nghe nói đến sự vui sướng của trời, người, thì tâm thường nguyện thích, sau khi qua đời được sinh về đó. Đây là nguyện lực tạo ra. Còn Bồ-tát cầu sinh Tịnh độ thì với chí nguyện vững bền, sau đó mới được như vậy. Vì thế, nên biết nhờ nguyện lực kia, mà được quả báo tốt đẹp. Người xưa nói: "Quả Phật cao xa muốn lên phải có cách thức, cấp bậc. Núi cao tận mây thì phải có tâm rộng lớn dần, huyền đức mới phát ra, chiếu đến cả đời sau, hoằng thệ mới hưng khởi, nguyện mầu trùm khắp thế giới hư không. Một niệm khởi lên chí nguyện tức là hoa đẹp của trần kiếp, nửa khắc kính cẩn cúi mình chính là cam lồ của thế giới đại thiên." Luận Đại Trang Nghiêm ghi: "Việc lớn ở cõi Phật chỉ thực hành công đức thì không thể thành tựu, phải có nguyện lực giúp đỡ, nhờ đó mới thành tựu. Nhờ nguyện lực nên phước đức thêm lớn, không tan mất, không hư hoại, sẽ sinh về cõi Phật, tùy theo hạnh nguyện được gặp Phật." Kinh Hoa Nghiêm ghi: "Người ấy lúc sắp qua đời, phút giây sau cùng tất cả các căn đều không còn tác dụng, tất cả thân thuộc đều xa lìa, tất cả uy thế đều biến mất, cho đến voi, ngựa, xe cộ, châu báu, kho tàng v.v... tất cả mọi thứ không mang theo, chỉ có nguyện vương này không lìa bỏ, bất cứ lúc nào nó cũng dẫn đường đi trước, người ấy chỉ trong khoảnh khắc liền được vãng sinh về thế giới Cực lạc."
4. Nghi thức phát nguyện tu hành của Hòa thượng Thiện Đạo.
Người tu Tịnh độ khi nhập vào quán và lúc ngủ nên phát nguyện này, hoặc ngồi, hoặc đứng chắp tay nhất tâm, xoay mặt về hướng Tây, niệm danh hiệu Phật A-di-đà mười câu, Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí, Bồ-tát Thanh Tịnh Đại Hải chúng, xong rồi nguyện rằng: "Đệ tử hiện là phàm phu sinh tử, tội chướng sâu dày, luân hồi trong sáu nẻo, vô cùng khổ não. Nay gặp Thiện tri thức, được nghe công đức bổn nguyện, danh hiệu Phật A-diđà, một lòng xưng niệm cầu nguyện vãng sinh, cúi mong Phật từ bi không bỏ chúng con, thương xót nhiếp thọ. Đệ tử... không biết thân Phật tướng tốt sáng chói, mong Phật thị hiện khiến cho con được thấy và thấy các Bồ-tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí v.v... ở thế giới kia, trang nghiêm, thanh tịnh, tướng tốt sáng chói, v.v... khiến cho con mỗi mỗi đều thấy được". Phát nguyện này rồi, nhất tâm chánh niệm, liền tùy ý mình nhập quán, hoặc đến lúc ngủ phát nguyện rồi ngủ, có lúc đang phát nguyện liền được thấy, hoặc lúc ngủ được thấy. Chúng ta chỉ cần chuyên tâm phát nguyện, tự nhiên điều mình nguyện sẽ được viên mãn.
5. Văn phát nguyện cầu sinh Tịnh độ của Bạch Thị Lang.
Ký ghi: "Đức Phật Bổn sư Thích-ca Mâu-ni nói rằng, từ cõi này đi về hướng Tây qua mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực lạc, vì không có tám nạn, bốn đường ác. Nước ấy gọi là Tịnh độ vì không có ba độc, ngủ trược. Đức Phật đó hiệu là A-di-đà vì tuổi thọ vô lượng, hạnh nguyện vô lượng, công đức, tướng tốt sáng chói vô lượng. Ngài quan sát tường tận chúng sinh thế giới Ta-bà này, không phân biệt hiền ngu, sang hèn, già trẻ, hễ có người nào phát tâm quy y Phật, chắp tay hướng về Phương Tây, lúc gặp khổ não, nguy hiểm miệng niệm Phật A-di-đà, lại có người dùng vàng đúc tượng, hoặc hòa hợp các loại đất, hoặc khắc vào đá, hoặc thêu trên vải, cho đến trẻ con giỡn nhóm cát, vẽ nước. Tất cả đều được Ngài tiếp độ. Vì Phật A-di-đà là bậc Thượng thủ. Không biết như vậy, do đây mà quán Đức Phật kia có thệ nguyện lớn với chúng sinh, chúng sinh có nhân duyên lớn với cõi Tịnh độ. Nếu không phải như vậy thì Nam, Bắc, Đông, Tây, quá khứ, hiện tại, vị lai có Phật rất nhiều, tại sao chỉ có Phật A-di-đà là như vậy?
Vào đời Đường, Đại phu thái tử Thiếu Truyền Bạch Cư Dị lúc tuổi về già mắc bệnh bại liệt. Ông liền xuất tiền của sai thợ Đỗ Kính Tông căn cứ theo hai bộ kinh A-di-đà và Vô Lượng Thọ vẽ một bức tranh thế giới Tây phương cao chín thước, rộng một trượng ba thước, có Phật A-di-đà ngồi giữa, hai Bồ-tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí hầu hai bên, có trời người chiêm ngưỡng, quyến thuộc vây quanh, lầu đài, kỹ nhạc, cây cối, hoa cỏ, ao nước, chim muông bằng bảy báu, tô điểm năm mầu, trông sáng sủa rực rỡ. Thợ làm xong, đệ tử là Bạch Cư Dị đốt hương cúi đầu đảnh lễ rồi quỳ trước Phật, khởi Từ bi tâm phát thệ nguyện rộng lớn: "Con nguyện hồi hướng công đức này cho tất cả chúng sinh, tất cả chúng sinh người già như con, mắc bệnh như con, mong họ lìa khổ được vui, bỏ ác tu thiện, không qua châu Thiệm bộ ở phía Nam, bèn được thấy cảnh Tây phương, ánh sáng sợi lông trắng ứng niệm chiếu đến, được sinh về lên hoa sen xanh bậc thượng phẩm, tùy theo nguyện lực được vãng sinh. Con nguyện từ đây đến tất cả đời sau thường được gần gũi cúng dường." Muốn nói lại nghĩa này, liền khen ngợi rằng: "Thế giới Cực lạc thanh tịnh không có các đường ác và các nỗi khổ, nguyện những người già bệnh như con cùng sinh về nước của Phật Vô Lượng Thọ."
6. Văn bố thí kinh phát nguyện sinh Tịnh độ của Phùng Tế Xuyên.
Lược ghi: Việc bố thí kinh của tôi tuy một nhưng có đủ hai thí (tài thí, pháp thí). Vì sao? Vì mua kinh là tài thí, lấy kinh truyền pháp là pháp thí. Theo lời Phật nói, tài thí thì đời sau sẽ được quả báo phước đức cõi trời cõi người, pháp thí sẽ được thế trí biện thông, là quả báo thế gian. Nên biết rằng cả hai quả báo đều là gốc của quả báo khổ, là nhân của luân hồi. Nay con xin phát nguyện, nguyện hồi hướng hai quả báo này, đến lúc qua đời trang nghiêm vãng sinh thế giới Cực lạc Tây phương, từ hoa sen hóa sinh, được thấy Phật nghe pháp, ngộ Vô sinh nhẫn, được không lui sụt, nhập vào hàng Bồ-tát, rồi trở lại trong các thế giới mười phương, ở cõi đời có năm thứ ô trược này, khiến cho tất cả thấy được thân con mà làm Phật sự. Nguyện đem nhân bố thí tài pháp này, mong được như Bồ-tát Quán Thế Âm đầy đủ từ bi lớn, dạo đi trong năm đường, tùy loài mà hiện thân để giảng nói pháp mầu, khai mở cho những người chưa ngộ, để họ mãi mãi xa lìa đường khổ, được trí huệ, nguyện tất cả chúng sinh đều được thành Phật. Đây là lời nguyện bố thí kinh của tôi. (Phần trên rút bia viết về việc bố thí kinh, Phùng Tế Xuyên bố thí kinh không mong quả báo thông minh, giàu sang ở cõi trời, người mà hồi hướng công đức về Tịnh độ, nguyện gặp Phật Di-đà. Có thể nói Ông ta là bậc trí thức cao minh, hiểu sâu Phật lý, là người của Đại thừa. Ôi! Thế mà thấy phần nhiều người trong Liên xã suốt ngày niệm Phật lại cầu phước báo đời sau, há không phải là sai lầm ư! Tôi mong mọi người được sinh Tịnh độ nên đưa ra văn thí kinh phát nguyện của Phùng Tế
Xuyên cho mọi người lấy đó làm gương. Hễ có tu phước, niệm Phật cho đến làm một việc lành nhỏ nhất, tất cả đều phát nguyện hồi hướng Tây phương. Đã có chỗ trở về thì qua đời chắc chắn sinh về Tịnh độ).
Pháp môn vãng sinh của Tịnh độ bao gồm các kinh, sáng như mặt trời trên cao. Phương pháp vào đạo của người tu hành chân chánh chính là chỗ gá tinh thần vào chỗ niệm mà vô niệm, niệm chính là niệm Phật A-di-đà, sinh mà vô sinh, sinh là sinh về Tịnh độ. Cho nên Bồ-tát hạnh sâu trải qua các đời làm thầy khuôn phép. Quan nổi tiếng, học giả tài giỏi, người dân thường đều dốc một lòng tin theo đạo này. Người lập thệ tiến tu nhiều không thể kể xiết. Ý đó thế nào? Tức là nhất định muốn vãng sinh về Tịnh độ, gặp Phật Di-đà mới thôi. Nhưng nên biết rằng Phật vốn không có thân, cũng không có cõi nước, mà tất cả đều do tâm thanh tịnh của chúng sinh cảm ứng nên. Không nghe kinh nói sao? Tâm này làm Phật, tâm này là Phật, biển
Chánh biến tri của chư Phật cũng từ tâm mà ra. Cho nên Đại sư Thiên Thai giải thích rằng, Phật vốn không có tâm tịnh nên có, nên chúng sinh tâm thanh tịnh thì pháp thể hiện tiền, chúng sinh tâm ô nhiễm thì trôi lăn trong sáu đường. Đây là lý bình thường, tại sao lại nghi ngờ? Nói theo Viên thật giáo thì duy tâm vốn đầy đủ, hoặc đây, hoặc kia, hoặc nhiễm, hoặc tịnh đều không vượt qua một niệm của tâm mình. Tâm là cội gốc tạo tội, cũng là chỗ cội gốc để thành Phật.
Cái gọi là cõi nước do tâm mà có (giới nhĩ hữu tâm) nên ba ngàn thế giới đầy đủ, nhưng ba ngàn các pháp đã sẵn đủ mười pháp giới, mười như, ba thứ thế gian giúp đỡ lẫn nhau mà hiển bày, vậy cõi nước An dưỡng, bỏ cái này để cầu cái gì? Chẳng phải chỉ có Tịnh độ duy tâm mà địa ngục cũng duy tâm. Lại nói: Tất cả Chánh báo, Y báo ở địa ngục A-tỳ hướng về tự tâm cực Thánh, thân độ Phật Tỳlô-giá-na không vượt qua một niệm của kẻ phàm, vừa khởi kiến chấp mê ngộ liền rơi vào đường tà, không phân biệt tịnh nhiễm khác nhau. Vì thế mới quy về chánh đạo. Núi dao rừng kiếm đều là hoa đốm giữa hư không, sen vàng ao báu đều thành việc mộng, nhận thức như thế mới hiểu được chân tu giải thoát hoặc chưa thì nên y theo Quyền tiệm mà tu hành thêm. Tin tưởng rằng Phật A-di-đà là bản tánh của ta, quý ở chỗ lễ, tụng, sám, niệm, trong tất cả mọi lúc đi, đứng, nằm, ngồi phải chiếu soi ba quán. Nếu khế hợp với một tâm thì toàn trí phát ra cảnh, toàn cảnh chính là tâm. Nên biết y báo, chánh báo của Đức Phật đều là tâm, tất cả đều do tâm tạo. Tin rằng Tịnh độ Di-đà rõ ràng ảnh hiện trong mắt tâm. Thí như mài đồng thành gương là nhờ dày công, khiến cho các dơ bẩn trở thành sạch sẽ thì bản thể sáng ngời tự nhiên hiển bày, tất cả sắc tượng đều không ẩn giấu. Nên biết hình bóng trong gương, nếu nói có thì không thể thừa nhận vì không nắm bắt được, nếu nói không thì tại sao các hình ảnh thấy được rõ ràng. Cái gọi là có không nhất định có, không không nhất định không. Không có cứ để nó mặc tình là đúng nhất! Vì nó là cảnh không thể suy nghĩ bàn luận. Đạo duy tâm diệu quán muốn chứng được phải rõ nhân của nó, nên biết nhân bao trùm biển quả, quả thấu suốt nguồn nhân, từ đầu đến cuối không lìa một niệm. Từ nhân đến quả chỉ do tâm ban đầu. Nếu khéo tu thế nào thì đến lúc qua đời sẽ được quả báo như vậy. Thế mới biết chuyên tâm niệm Phật là nhân, vãng sinh Tịnh độ là quả. Bắt đầu từ nghe rồi tin, tin rồi tu hành, chứa nhóm công đức Tịnh nghiệp, được cơ duyên đầy đủ, thời tiết đã đến chân lý chiếu soi, thấy sự chết chỉ như trở về nhà, há không vui mừng sao? Cho nên tôi thương chúng sinh mà trình bày chánh quyết vãng sinh, chỉ rõ con đường về nhà, lúc này tin tưởng không còn nghi ngờ thì ngày kia sẽ được ra khỏi, không bao giờ nhầm lẫn; như thế thì lo gì không sinh về nước An dưỡng, tự tánh Di-đà chắc chắn thành tựu, cùng các bậc Thánh hiền đều thành tựu tịnh hạnh. Người đạt đến địa vị cao nhất thật cũng do ở đạo này.
1. Cha mẹ qua đời vãng sinh Tịnh độ.
Tin tưởng pháp môn Tịnh độ, phát tâm niệm Phật là lúc gieo giống xuống ao hoa sen, nhất tâm niệm Phật, phước lành trang nghiêm là lúc hoa sen lên khỏi mặt nước, niệm Phật viên thành, duyên Tịnh độ chín muồi là lúc hoa sen nở thấy Phật. Là một Phật tử tôn thờ Phật, trước tiên phải hiếu thảo với cha mẹ, lúc nào cũng giữ gìn tâm niệm hiếu thuận với cha mẹ, xem xét sức khỏe cha mẹ mà hết lòng nuôi nấng, làm hết sức mình mong sao cha mẹ được điều hòa. Lại nên nghĩ cha mẹ già như đèn treo trước gió, nên phải chuẩn bị trước đến lúc vãng sinh, trước hết dùng tất cả duyên lành, việc lành tu được của cha mẹ và công đức giúp sức tu tập nhiều người, viết thành một tờ sớ, luôn luôn ở trước cha mẹ đọc tờ sớ ấy, khiến cha mẹ sinh tâm vui mừng. Lại phải khuyên cha mẹ ngồi hay nằm đều xoay về hướng Tây, không quên nguyện vãng sinh Tịnh độ. Đặt tượng Phật Di-đà, khuyên cha mẹ nhất tâm niệm Phật; đốt hương, đánh khánh, khuyên mọi người đồng thanh niệm Phật, khiến âm thanh niệm Phật nối nhau không dứt. Chúng ta không nên vì tình cảm lưu luyến thế gian, e rằng làm mất chánh niệm. Lúc qua đời xả báo thân vẫn phải niệm Phật thì tự nhiên các bậc Thánh đến đón rước, vãng sinh Tịnh độ, ở trong hoa sen báu chắc chắn sẽ thành Phật. Người con hiếu hầu hạ, nuôi nấng cha mẹ chính là lúc này, không nên lười biếng. Người con hiếu nuôi nấng cha mẹ lúc qua đời là việc lớn, lấy đây làm hiếu thì hiếu ấy không gì bằng. Huống chi từ xưa đến nay, người niệm Phật vãng sinh Tây phương chúng ta thấy rất nhiều. Ở đây xin nêu vài trường hợp, để người niệm Phật xem xét, sở dĩ Quốc chủ nước Ô-Trường thấy Thánh chúng đến đón rước, Văn Hoàng hậu đời Tùy nương theo mùi hương lạ đi về hướng Tây, Diêu Hành bà xin Phật chờ, Tống Thế Tử hầu mẹ cùng về Tây. Có thể nói vừa siêu vượt liền nhập vào Như Lai địa (địa vị Phật).
2. Ba điều nghi ngờ lúc sắp qua đời.
Tịnh độ Thập Môn của Từ Chiếu Tông Chủ khuyên rằng: Có ba điều nghi ngờ làm cho người niệm Phật lúc qua đời không được sinh về Tịnh độ. 1. Nghi mình từ trước đến nay gây nghiệp ác rất nặng mà thời gian tu hành rất ít, sợ không được vãng sinh Tịnh độ.
2. Nghi mình đang mắc nợ người khác, hoặc có tâm nguyện chưa thực hiện được và tham, sân, si chưa dứt bỏ, sợ không được vãng sinh.
3. Nghi mình tuy niệm Phật Di-đà, lúc qua đời, sợ Phật không đến đón rước.
Do ba điều nghi ngờ này mà thành chướng ngại, làm mất chánh niệm, không được vãng sinh. Cho nên người niệm Phật điều quan trọng là phải tin sâu xa ý chỉ rõ ràng của kinh Phật, chớ sinh tâm nghi ngờ. Trong kinh ghi: Niệm một câu A-di-đà Phật diệt trừ tội nặng trong ba mươi ức kiếp sinh tử. Trên cho đến nhất tâm bất loạn, dưới cho đến mười niệm thành công thì có Đức Phật dắt dẫn lên chín phẩm hoa sen, lìa bỏ ngủ trược (Ta-bà). Nếu tâm tâm không mê muội, niệm niệm không sai khác, thì nghi tình dứt hẳn, chắc chắn vãng sinh. Có thể nói đường dài mười muôn ức cõi chỉ trong khoảnh khắc là đến, mảy may suy nghĩ cách xa ngàn trùng.
3. Bốn điều quan trọng lúc sắp qua đời.
Tịnh độ Thập môn của Từ Chiếu Tông chủ khuyên rằng: Có bốn điều quan trọng lúc sắp qua đời không được sinh về Tịnh độ:
1. Phàm phu tuy có tín tâm niệm Phật, nhưng vì nghiệp chướng đời trước nặng nề nên bị đọa địa ngục. Nhưng nhờ thần lực của Phật nên trong lúc bệnh thì bệnh nặng trở thành nhẹ, do bệnh khổ nên hối ngộ thân tâm thì sẽ vãng sinh Tịnh độ. Thế mà người ngu không hiểu việc này, nói rằng, nay ta niệm Phật lại bị bệnh khổ, rồi hủy báng Phật Di-đà, do một niệm tâm ác này nên liền rơi vào địa ngục.
2. Tuy là giữ giới, niệm Phật, nói về Tịnh độ, nhưng ý lại lưu luyến Ta-bà, không cầu thiện căn xuất thế, tiếc rẻ gia đình giàu có, đến nỗi lúc sắp qua đời mắc phải bệnh khổ, sợ chết tham sống, tin lời trẻ con kêu quỷ, gọi thần, đốt tiền, làm ngựa, giết hại chúng sinh. Người chạy theo tâm tà vạy này thì không được Phật che chở. Nhân đây mà trôi nổi, đọa lạc trong ba đường ác.
3. Có người vì uống thuốc chữa bệnh nên dùng rượu, thịt, hoặc bị thân thuộc cùng nhau bức ép, người này không có niềm tin quyết định, làm mất thiện căn. Vì thế lúc qua đời người ấy bị đưa đến trước vua Diêm-la, tùy ý vua xét xử.
4. Lúc sắp qua đời nhớ lại những việc đã làm trong lúc còn sống, tiếc nuối tiền của, luyến ái quyến thuộc, tâm nghĩ mãi làm mất chánh niệm, nên đọa làm ngạ quỷ, đã là họa lớn, lại làm thân chó dữ, hoặc làm thân rắn để giữ gìn gia đình như lúc còn sống.
Thế nên Dương Đề Hình nói: "Ái không nặng không sinh Ta-bà, niệm không nhất tâm không sinh Tịnh độ." Lời nói này thật đúng thay!
Hễ tu Tịnh độ, thì phải dứt trừ những tư tưởng mộng huyễn, niệm niệm nhớ nghĩ Phật Di-đà, buông bỏ toàn thân. Nếu giữ vững một niệm này, thì sẽ phá được bốn điều quan trọng trên, thì đài sen Tịnh độ đâu phải là xa. Có thể nói một câu Adi-đà Phật không có niệm khác, thì không nhọc khoảnh khắc đến Tây phương.
4. Toát yếu quyết nghi lúc sắp qua đời.
Người tu niệm Phật muốn sinh về Tịnh độ phải luôn nghĩ đến thế gian tất cả đều vô thường, có thành phải có hoại, có sinh thì có tử. Nếu chúng ta không hết lòng nghe Phật pháp thì xả thân này, thọ thân khác luân hồi trong ba cõi, xuống lên trong bốn loài, sáu đường, không có lúc nào giải thoát. Nay chúng ta có duyên lành được nghe chánh pháp, được tu Tịnh nghiệp, chuyên tâm niệm Phật để khi bỏ báo thân này sẽ sinh về Tịnh độ, nhập vào thai hoa, ở đó thọ hưởng nhiều sự vui sướng; xa lìa hẳn sinh tử, không lui sụt đạo Bồ-đề, đây là việc đáng làm suốt đời của bậc đại trượng phu.
Khi mới bị bệnh, người bệnh phải hướng về phía trước, khiến cho thân tâm thoải mái, chớ sinh tâm lo ngại. Nên hướng về phương Tây, ngồi thẳng, chuyên tưởng Phật A-di-đà, Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí và vô số hóa Phật đang ở trước mặt mình, một lòng xưng niệm Nammô A-di-đà Phật", niệm mãi không dứt. Đối với tất cả những việc thế gian không được tham luyến, nếu có tâm niệm gì khởi lên thì mau niệm danh hiệu Phật, trong mỗi niệm diệt trừ được tội chướng. Nếu người bệnh hôn mê không thể tự mình niệm Phật thì người nuôi bệnh nên dùng nhiều phương tiện nhắc nhở khuyên giải, chỉ bày cho họ. Dùng tâm giúp đỡ như thế, khiến họ qua đời chỉ cần một niệm này chắc chắn vãng sinh Tịnh độ, nếu số mạng chưa chết thì được bình yên. Người bệnh chớ vọng khởi tâm tham luyến thế gian, sống thì sống, chết thì chết, chỉ mong được vãng sinh, đâu có gì phải lo ngại. Nếu chúng ta hiểu được lý này thì sự chết như cởi áo cũ mặc áo mới, vừa lìa bỏ thân phàm liền chứng quả vị Phật. Kỳ lạ thay! Lớn lao thay! Thật là cùng tột, vô tận. Nếu người đó lúc qua đời nghe nhạc trời hay mùi thơm lạ, hoặc thấy tòa báu sen vàng, đây chính là cảnh Thánh hiện tiền, chớ nghi là cảnh ma. Trong kinh ghi: "Người tu Tịnh nghiệp nhờ nguyện lực của Phật, quán Thật tướng Phật làm cảnh, giống như người gần gũi vua thì ai dám xâm phạm. Huống chi Phật A-di-đà có năng lực từ bi lớn, có năng lực thệ nguyện lớn, có năng lực trí tuệ lớn, có năng lực thiền định lớn, có năng lực uy thần lớn, có năng lực tồi tà lớn, có năng lực hàng phục ma lớn, có năng lực thiên nhãn thấy xa, có năng lực thiên nhĩ nghe xa, có năng lực soi chiếu tâm người, có năng lực ánh sáng chiếu khắp, nhiếp thọ chúng sinh, có năng lực công đức cao vời vô lượng, không thể suy nghĩ bàn luận như thế, há không có khả năng che chở người tu hành hay sao? Người niệm Phật đến lúc qua đời sẽ không bị ma chướng, vãng sinh về Tịnh độ. Có thể nói thân ta thịt nát cũng chưa đủ để đền đáp ơn Phật. Một câu thông suốt, vượt thoát trăm ức kiếp.
5. Tăng Tế lúc sắp qua đời nhất tâm quán tưởng Tây phương.
Tăng Tế là đệ tử của Tôn giả Lô Sơn, lúc ông sắp qua đời, Tôn giả đưa cho ông một cây đèn nói: "Ông phải dồn hết sức lực quán tưởng Tây phương." Tăng Tế cầm đèn nhất tâm quán tưởng kim dung Phật Di-đà, giữ tâm không loạn động, lại thỉnh chư tăng tụng kinh Thập Lục Quán. Đến canh năm Tăng Tế trao đèn cho mọi người rồi nằm ngủ. Đến khi thức dậy Tăng Tế nói: "Tôi nằm mộng thấy Phật A-di-đà duỗi tay tiếp dẫn, tôi phải đi thôi!" Nói xong, Tăng Tế nằm nghiêng bên phải an nhiên mà hóa. Đây chẳng phải là do sự tu tập giớiđịnh-tuệ, thì lẽ nào có thể ở bên bờ sinh tử mà an nhiên nhẹ nhàng như thế ư! Có thể nói thấy được đường liền đi, không có gì trở ngại, dễ dàng vượt qua cửa sinh tử.
6. Văn Lâm chung chánh niệm vãng sinh của Hòa thượng Thiện Đạo.
Tri Quy Tử thưa: việc lớn nhất trong đời này không gì bằng sinh tử. Một hơi thở ra không thở vào là đã qua đời khác, một niệm sai quấy liền đọa vào luân hồi. Tiểu tử nhiều hệ lụy, mong được Sư dạy bảo. Pháp niệm Phật vãng sinh, lý của nó rất rõ ràng, nhưng sợ lúc bệnh đến, sắp chết, tâm thức tán loạn, lại nghĩ đến người khác, làm động đến chánh niệm, quên mất nhân Tịnh độ. Cúi mong sư chỉ bày lại phương pháp trở về, khiến cho chúng con thoát khỏi nỗi khổ đắm chìm.
Sư đáp: Hay thay lời hỏi của ông! Tất cả người đời, lúc sắp qua đời muốn sinh về Tịnh độ phải là người không sợ chết, thường nhớ nghĩ thân này nhiều khổ, dơ uế, nghiệp ác, bị các thứ đó trói buộc. Nếu được lìa bỏ thân dơ uế này, sinh về Tịnh độ, thọ hưởng vô lượng sự vui sướng, giải thoát các đường khổ sinh tử, đây là việc vừa ý, như cởi áo xấu mặc áo đẹp. Nhưng phải buông bỏ thân tâm, chớ sinh luyến tiếc, hễ gặp lúc bị bệnh phải nghĩ đến vô thường, một lòng chờ chết, dặn người trong nhà và người nuôi bệnh, nếu có người đến thăm hỏi thì tất cả đều nên đến chỗ tôi niệm Phật, không được nói những lời không đâu hay những việc lặt vặt trong gia đình. Cũng không nên dùng lời dịu dàng an ủi, chúc nguyện an vui. Vì những việc này như hoa đốm giữa hư không, chẳng có ích gì. Nếu người bệnh nặng sắp chết, thân quyến không được rơi lệ, than khóc hay phát ra những tiếng than vãn buồn bã làm mê loạn tâm thần của họ, làm mất đi chánh niệm, phải cùng lúc đồng thanh niệm Phật cho đến khi hơi thở dứt, mới được buồn khóc. Nếu người bệnh có một chút gì luyến tiếc thế gian sẽ trở ngại không được giải thoát. Nếu người bệnh hiểu rõ Tịnh độ, đến khuyên giải họ kịp thì thật là một may mắn lớn. Nếu nương theo những điều này thì chắc chắn vãng sinh không còn nghi ngờ gì.
Lại hỏi: Tìm thầy tìm thuốc có cần không?
Sư đáp: Tìm thầy tìm thuốc ban đầu không ngại gì cả, nhưng thuốc chỉ có thể chữa bệnh, không thể cứu được mạng sống. Nếu mạng sống đến lúc tận thì thuốc làm sao cứu sống được? Nếu giết mạng sinh vật làm thuốc để cầu thân được yên, thì đây là việc không nên làm. Tôi thấy phần nhiều người đời, lúc bệnh thì giữ gìn trai giới, mới được khỏi bệnh chút ít, do thầy thuốc bảo dùng rượu thịt, máu huyết để trị bệnh. Nên người ấy bệnh trở lại. Hãy tin rằng thần lực của Phật có công năng cứu độ, còn rượu thịt không có ích gì.
Hỏi: Cầu thần ban phước thì thế nào?
Đáp: Mạng người dài ngắn lúc sinh ra đã định rồi, làm sao nhờ quỷ thần kéo dài mạng sống được? Nếu mê hoặc tin theo tà đạo, sát hại chúng sinh để cúng tế quỷ thần thì chỉ tăng thêm tội nghiệp, lại giảm tuổi thọ. Đại mạng đã hết thì tiểu quỷ làm sao khống chế được? Người bệnh mong mỏi, sợ hãi, không có người đến cứu vớt họ, vì thế nhất định phải cẩn thận việc này, nên dán văn này trước mắt để lúc nào cũng nhìn thấy nó, để khi lâm chung không bị quên mất.
Hỏi: Người bình thường không hề niệm Phật, nay thực hành phương pháp niệm Phật có được không?
Đáp: Pháp này người tăng kẻ tục, người không hề niệm Phật, nhưng bây giờ dùng pháp này tu tập đều được vãng sinh, chắc chắn không nghi ngờ. Tôi thấy phần nhiều người đời lúc bình thường niệm Phật, lễ lạy rất siêng năng, nhưng đến lúc bệnh lại sợ chết, không lo việc vãng sinh giải thoát. Chỉ đợi khi hơi thở dứt, mạng sống không còn, thần thức rơi vào chốn tối tăm, mới bắt đầu đánh chuông niệm Phật mười niệm, thật giống như giặc qua cửa ải thì làm sao cứu giúp được? Cửa chết rất rộng, phải do tự lực của chính mình. Nếu một niệm sai quấy thì nhiều kiếp chịu khổ nào có thể chịu thay. Bởi thế người đời phải suy nghĩ, những lúc rảnh rỗi nên siêng năng thọ trì pháp này, ấy là việc lớn lúc sắp qua đời. Có thể nói một điều là đường về Tây phương rộng lớn, đi thẳng về nhà chẳng cần hỏi bến bờ.
7. Hoá Phật đến đón rước.
Tống Kính Lục hỏi: Ngoài tâm không có Phật, thấy Phật là tâm.
Vì sao trong kinh nói có Phật đến đón rước, sinh về Tịnh độ?
Đáp: Pháp thân của chân Phật vốn bất sinh, bất diệt, từ chân như khởi hóa Phật đến tiếp dẫn chúng sinh. Vì hoá tức chân, chân ứng với một đời, không đến không đi, tùy theo cảm ứng với tâm chúng sinh mà hóa hiện. Lại hóa thân là chân thuyết, không đến không đi, từ chân như hóa hiện có đến đi tức là tướng không đến mà đến, tướng không thấy mà thấy. Không đến mà đến giống như trăng dưới nước tự nhiên hiện ra, không thấy mà thấy, như mây bay bỗng nhiên hiện muôn hình.
Hỏi: Như trên đã nói chân thể là vắng lặng bất động, nhưng hóa tướng tức không đến mà đến, chính là ngoài tâm có Phật khác đến đón rước. Tại sao nói tự tâm là Phật?
Đáp: Đây chính là năng lực bổn nguyện công đức của Như Lai, nên khiến cho chúng sinh có duyên, chuyên tâm tưởng niệm khiến cho tự tâm thấy Phật đến đón rước. Không phải chư Phật thực sự sai khiến hóa thân đến đón rước mà chỉ cần người có duyên với Phật, khi thời cơ thích hợp thì khiến tự tâm thấy Phật đến đón rước. Thân Phật vắng lặng, thường tịch không đến, không đi, chúng sinh biết được tâm là nương vào bổn nguyện của Phật, một niệm biến hóa thì có đến có đi, như bóng trong gương, như việc trong mộng. Hình trong gương chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, việc trong mộng chẳng phải có, chẳng phải không. Tất cả chỉ là tâm sinh khởi, chẳng liên quan gì đến chân thân, hóa thân của Phật. Điều quan trọng đầu tiên của người tu hành chân chánh là muốn sinh về thế giới Cực lạc thì phải chuyên ý nhất niệm, trì một câu A-di-đà Phật, chỉ một niệm này là Bổn sư ta, là hóa Phật, là vị tướng có sức mạnh phá tan địa ngục, là thanh kiếm báu chém bọn tà, là ngọn đèn sáng chiếu rọi chỗ tối tăm, là con thuyền lớn vượt qua biển khổ, là phương pháp khéo léo thoát khỏi sinh tử, là con đường tắt ra khỏi ba cõi, là bản tánh Di-đà, là đạt đến duy tâm Tịnh độ. Chỉ cần nhớ một câu A-di-đà Phật trong một niệm không để quên mất. Niệm niệm thường hiện hữu, niệm niệm không lìa tâm. Vô sự cũng như thế niệm, hữu sự cũng như thế niệm, an vui cũng như thế niệm, bệnh khổ cũng như thế niệm, sinh cũng như thế niệm, tử cũng như thế niệm, một niệm như vậy rõ ràng không mê muội, cần gì phải hỏi người tìm đường về? Có thể nói thuyền trôi nhờ người chèo thuyền, người thông đạt pháp này thì đi đến đường Niếtbàn.
8. Kệ lâm chung niệm Phật của Bồ-tát Hiền Thủ.
Lại phát ra ánh sáng gọi thấy Phật
Ánh sáng này giác ngộ người sắp chết
Hễ nghĩ nhớ thì thấy Như Lai
Qua đời được sinh về Tịnh độ
Thấy ai lâm chung khuyên niệm
Phật Và bày tôn tượng để chiêm ngưỡng
Khiến sinh tín tâm với Đức Phật
Cho nên thành tựu ánh sáng này.
Sám chủ Từ Vân Tuân Thức người Thiên trúc nói rằng: Bốn câu trước khen ngợi ánh sáng của Phật. Người thấy ánh sáng gọi là thấy Phật, khiến cho lúc qua đời vãng sinh Tịnh độ, bốn câu sau khen ngợi Phật tu nhân ánh sáng này. Nhân này là khuyên người sắp qua đời niệm Phật, đồng thời bày tượng Phật cho người ấy nhìn thấy, sinh tín tâm, cho nên lúc thành Phật được ánh sáng ấy. Nay nêu bài kệ này ra khuyên mọi người tín thọ. Hễ khi gặp quyến thuộc và tất cả những ai, lúc sắp qua đời nên an trí tượng Phật trước giường bệnh, khiến cho người ấy nhìn thấy và khuyên họ niệm Phật. Nếu đau đớn ép ngặt, hoặc người ấy trước kia chưa có tín tâm, không chịu niệm Phật thì phải dùng nhiều phương tiện khuyên giải khiến họ niệm Phật, dù chỉ mười niệm cũng diệt được tội nặng, sinh về Tịnh độ, lợi ích này không thể nghĩ bàn. Nếu khuyên được một người sinh về Tịnh độ, dù tự mình không tu hành cũng được sinh Tịnh độ. Hơn nữa tương lai thành Phật sẽ phát ra ánh sáng, chiếu khắp tất cả chúng sinh, lúc qua đời thấy Phật. Thấy người đời phần nhiều vì ân ái nên xúm nhau khóc lóc, không nghĩ đến cứu độ. Đây là ác tri thức. Khổ thay! Khổ thay! Ân ái dẫn dắt đọa vào đường ác không có lúc nào ra khỏi. Tuy mẹ hiền con thảo cũng không biết phải làm sao? Từ đây chúng ta nghĩ lại, có thể không khuyến thích ư! Có thể nói là nguyện khắp các chúng sinh đang chìm đắm, mau sinh về cõi Phật Vô Lượng Quang.
9. Y cứ vào tình, tưởng nhiều hay ít mà nói về quả báo cao thấp. Kinh Thủ-lăng-nghiêm ghi:
Phật bảo A-nan: Tất cả thế gian sinh tử nối tiếp nhau, sinh tùy theo thói quen (nghiệp), tử tùy theo sự trôi lăn. Lúc sắp qua đời chưa xả hơi ấm, thì thiện ác một đời biểu hiện ra cùng một lúc. Nếu thuần tư tưởng thì liền bay đi và sinh lên cõi trời. Tâm nhẹ nhàng lại thêm có phước tuệ và nếu tâm tự nhiên khai mở nguyện sinh thấy Tịnh độ của chư Phật mười phương tùy nguyện vãng sinh. Tình ít, tưởng nhiều, bay đi không xa thì làm vị tiên biết bay. Tình tưởng bằng nhau thì không lên cao, không xuống thấp, sinh vào nhân gian. Tư tưởng sáng suốt thì thông minh, tình cảm u tối thì ám độn. Tình nhiều, tưởng ít đọa làm bàng sinh, nặng làm thú, nhẹ làm chim, "bảy phần tình, ba phần tưởng thì chìm đắm trong thủy luân, lại sinh những nơi có lửa, chịu sức nóng của nó, thân làm ngạ quỷ thường bị thiêu đốt, nước làm hại, không được ăn uống, trải qua nhiều kiếp". Chín phần tình, một phần tưởng đọa vào hỏa luân. Nhẹ thì hữu gián, còn nặng thì vô gián. Có hai thứ địa ngục: Nếu thuần tình rơi vào ngục A-tỳ. Nếu tâm đắm chìm lại thêm có sự khinh chê Đại thừa, hủy báng giới cấm của Phật, nói pháp dối trá, tham của tín thí, mong được cung kính, phạm tội ngũ nghịch, mười tội trọng thì đọa vào địa ngục A-tỳ trong mười phương.
10. Khi qua đời, thiện ác chiêu cảm quả báo có hơn kém.
Kinh Thủ Hộ Quốc Giới Chủ chép: Phật dạy: Nếu người khi sắp qua đời biết trước giờ khắc, chánh niệm rõ ràng, tắm gội mặc áo, an lành mà đi thì sẽ có ánh sáng rực rỡ chiếu đến thân, người ấy thấy tướng tốt của Phật, các tướng lành hiện ra, chắc chắn người này được vãng sinh Tịnh độ. Nếu người niệm Phật giữ giới không có tâm tinh tấn, thì khi qua đời cũng không có điềm tốt, cũng không có tướng ác thì địa ngục không nhận, An dưỡng cũng không đón, giống như người ngủ say. Người này nghi tình chưa dứt nên sinh vào thành nghi năm trăm năm thọ hưởng vui sướng, lại tu tín nguyện mới sinh về Tịnh độ. Nếu người khởi tâm thương xót, chánh niệm hiện tiền không luyến ái vợ con, tiền của, mắt nhìn rõ ràng, ngưỡng mặt mỉm cười, nhớ nghĩ cõi trời tương lai sẽ đến đón ta, tai nghe nhạc trời, mắt thấy thiên đồng, thì khi bỏ bảo thân này chắc chắn sinh về cõi trời. Nếu người sinh tâm hòa thuận, khởi tâm phước đức, thân không bệnh khổ, nhớ nghĩ cha mẹ, vợ con, đối với thiện ác tâm không tán loạn. Tâm người ấy ngay thẳng, di chúc tài sản, từ biệt mà đi, thì chắc chắn người này sinh trở lại cõi người. Nếu người đối với quyến thuộc mình mắt dữ nhìn chằm chằm, đưa tay quờ quạng giữa hư không, tiểu tiện không hay biết, thân thể hôi dơ, hai mắt đỏ ngầu, ngửa mặt mà nằm thân co quắp về bên trái, trăm đốt xương đau nhức, hoặc thấy tướng xấu, miệng không nói được, lộ vẻ than vãn, rên rỉ, oan trái hiện tiền, tâm thức tán loạn, say mê điên đảo, khắp thân thể lạnh như băng, tay chân cứng như đá. Người này qua đời chắc chắn đọa vào địa ngục. Nếu người hay liếm môi, thân nóng như lửa, thường bị đói khát, thích nói về ăn uống, há miệng không ngậm, tham luyến tài sản, mạng hết khó dứt, mở mắt mà đi. Người này chắc chắn đọa làm ngạ quỷ. Nếu người mắc bệnh nặng, tâm thần hôn mê, tán loạn, sợ nghe danh hiệu Phật, thích ăn nhiều thức ăn có máu thịt, không nghe lời khuyên giải, luyến ái vợ con, các ngón tay chân co quắp, toàn thân ra mồ hôi, giọng nói khàn đục, miệng sùi nước bọt. Tướng này chắc chắn đọa làm súc sinh.
11. Mười trường hợp khi sắp qua đời không thể niệm Phật, khuyên nên tu trước.
Phàm phu nghiệp nặng nên nơi nào cũng muốn sinh về. Nếu không có công phu tu tập trước thì khi sắp qua đời không thể niệm Phật. Luận Thập Nghi của Ngài Thiên Thai ghi: Lúc sắp qua đời niệm Phật gọi là tâm sau cùng. Tâm ấy mạnh mẽ, bén nhạy, nên vừa niệm danh hiệu Phật liền vãng sinh Tịnh độ. Vì lúc sắp chết tâm ấy quyết định mạnh mẽ, cho nên hơn lực tu hành trong trăm năm.
Có người hỏi: Lúc sắp qua đời niệm Phật liền được vãnh sinh, tại sao phải nhờ vào công phu tu tập trước mới vượt qua nghiệp lực?
Đáp: Tuổi thọ dài ngắn của con người mấy ai lường được. Hoặc người bị bệnh nặng hôn mê, hoặc chết không kỳ hạn. Nếu lúc còn sống không lo tu điều lành thì khó tránh khỏi tai hoạ đời sau. Nên phải tạo các duyên lành trước, để đề phòng các tai hoạ này.
Có mười trường hợp khi sắp qua đời không thể niệm Phật:
1. Không gặp được thiện hữu.
2. Bệnh khổ hành hạ thân xác, tâm thần hôn mê, tán loạn.
3. Bị trúng gió không nói được nên lời, không niệm Phật được.
4. Cuồng loạn, mất tâm, khó tập trung tư tưởng.
5. Gặp nạn nước trôi, lửa cháy, không rảnh chí thành niệm Phật.
6. Gặp cọp sói quá sợ hãi chết ngay.
7. Khi chết ác hữu phá hoại đạo tâm.
8. Ăn uống quá độ, hôn mê đến chết.
9. Quân lính chiến đấu bị chết.
10. Rơi từ núi cao xuống, thân bị trọng thương mà chết.
Nên biết rằng lúc sắp qua đời khó bảo đảm được sự lành dữ, cho nên phải tu tập trước. Có thể nói những lúc nhàn rỗi phải mau tu hành, để tránh khi sắp qua đời trở tay không kịp.
Nhân tu thiện nghiệp thì quả cảm ứng cõi tịnh, hóa Phật dẫn lên đài vàng, hiền Thánh rước về Cực lạc.
Vượt khỏi ba cõi, thoát hẳn bốn lưu, nghiệp hết trần tiêu, quên tình không còn lo nghĩ, nương trong đài sen thần thức bay đi khắp bảo giới, đích thân kính thờ Phật Di-đà làm bổn sư, được Ngài Quán Âm, Thế Chí làm bạn thân. Đại hội hải chúng thanh tịnh trong ao báu, các vị trong chín phẩm đều nói về hạnh xưa của mình. Dùng ngũ hương phẩy lên thân, ba đức trang nghiêm thân, bỗng nhiên có gió nhẹ thổi đến, nghe được các âm thanh giảng nói pháp mầu. Mưa hoa rơi lã tã, thấy lưới lửa phát ra ánh sáng, thấy mình thấp thoáng gần mây như có thần túc, đãy hoa đựng đầy hoa đẹp, sáng sớm yết kiến Phật, được nghe pháp ấn, rồi trở về. Chiều đến cõi sắc vàng lại nghe kệ hay để tiêu dao. Hàng tân học sinh về đây không còn lui sụt. Chẳng những gần thì quên đi cực khổ, mà còn được quả Phật, xa thì ở rừng ngọc mà còn tắm gội nước công đức. Ở đây lầu các trăm báu lộng lẫy, bảy hàng cây báu nghiêm mật. Cảnh trí mùa xuân dài vô tận, đất bằng phẳng như bàn tay, y phục thức ăn tùy theo ý muốn mà có, âm nhạc không trổi tự kiêu, thọ dụng tự nhiên, vui sướng thật hơn nhân gian, chư thiên hàng muôn ức lần không thể suy nghĩ bàn luận. Chư Phật như hằng sa đều xưng tán. Người sinh về đây thân đầy đủ vẻ đẹp ánh sáng, chân đi trên đường Thánh, thềm hương, tuổi thọ vô cùng, bi nguyện vô tận, lìa bỏ hai lớp sinh-tử, không có quả báo xấu, sinh về cõi Thường quang, lìa tướng đến đi. Duyên mạnh đức thắng đều nhờ tâm niệm Phật sinh về nơi đây đủ phước đức, tuổi thọ không cùng. Ấy là nhân thanh tịnh chiêu cảm quả báo. Cho nên biết Phật có nguyện nhiếp sinh, chúng sinh có nhân cảm Phật. Thắng duyên như thế sinh khởi tín nguyện, nhờ quả mầu này mà thành tựu được chánh, y (y báo, chánh báo). Ở Cực lạc hoặc Thiền tụng bên ao bảy báu, hoặc kinh hành trên đất vàng, ăn pháp hỷ, Thiền duyệt, mặt thiên y từ, bi, hỷ, xả. Công đức, tinh thần tăng thêm bi trí, ung dung biện đạo, nuôi lớn mầm Thánh, nhập Vô sinh môn, chứng quả vị Bồ-tát, đắc A-bệ-bạt trí (không lui sụt). Người đã sinh về đây thì không lui sụt tâm Bồ-đề, ở trong ngôi nhà Pháp vương (Phật), sau cùng được Như Lai thọ ký. Được nghe pháp Đại thừa, đồng gọi là Bổ Xứ ở cõi khác. Niệm niệm hư huyễn, tâm tâm tĩnh lự, đắc Tam-muội chánh định, có đủ sáu thần thông, cúng dường chư Phật khắp mười phương, qua lại không ngăn ngại: phân thân đi ức cõi mà không mất tâm định, rảy nước pháp khắp tam thiên, đưa chúng sinh ra khỏi nhà lửa. Lợi mình lợi người, hạnh nguyện tròn đầy. Có thể nói là trăm ngàn Tam-muội tất cả đều do tâm, trang nghiêm công đức do chính tự thân mình.
1. Công đức trang nghiêm.
Chương "Bồ-tát Công đức" trong kinh Đại Adi-đà ghi: Người vãng sinh về Cực lạc đều có vẻ mặt hoà nhã, đầy đủ tướng tốt, thiền định, trí tuệ thông đạt vô ngại, thần thông, uy đức đều viên mãn, nhập sâu vào pháp môn, được Vô sinh pháp nhẫn, hiểu rõ rốt ráo bí tạng của chư Phật, điều phục các căn. Thân tâm nhu nhuyến, an nhiên vắng lặng, đều nhập Niết-bàn, vào sâu trong chánh tuệ, không còn các thói quen khác. Nương Phật thực hành thất Giác chi, bát Chánh đạo. Tu hành ngũ Căn, chiếu rõ chân đế, thông đạt tục đế, biện tài tổng trì, tự tại vô ngại, khéo giải quyết việc thế gian. Phật nói ra vô số phương tiện thành thật, khiến họ thâm nhập pháp môn, giảng nói chánh pháp, độ khắp hữu tình. Quán ba cõi là không, hoàn toàn không thật có, biết tất cả pháp vô tướng, vô vi, vô thủ, vô xả, xa lìa điên đảo, vững chắc không gì lay chuyển nổi, như núi Tu-di. Trí sáng như mặt trời, rộng lớn như biển cả, xuất sinh ra công đức báu, mạnh mẽ như lửa thiêu đốt củi phiền não. Nhẫn nhục như đất, xem tất cả như nhau thanh tịnh, như nước rửa sạch các bụi trần, như hư không vô biên không hề chướng ngại. Vì thế như hoa sen lên khỏi mặt nước, lìa tất cả ô nhiễm, như sấm sét vang ra pháp âm, như mây giăng phủ rưới xuống mưa pháp, như gió lay cây nẩy mầm Bồ-đề, như tiếng trâu đầu đàn khác hẳn các con trâu khác, như sức mạnh voi, rồng khó lường được, như ngựa giỏi không lạc đường, như sư tử đầu đàn không hề sợ hãi, như loài cây Ni-câu-luật có bóng mát lớn, như hoa Ưu-bát-la ngàn năm khó gặp, như chày kim cương đập tan núi tà, như thân Phạm vương sinh ra Phạm chúng, như chim cánh vàng thắng rồng dữ, như chim bay trên hư không, không để lại dấu vết, như núi tuyết chiếu soi công đức thanh tịnh, như
Ngài Từ thị (Di-lặc) quán sát pháp giới v.v... Nên một lòng cầu pháp không nhàm chán, thường muốn nói rộng, chí không mỏi mệt, đánh trống pháp, dựng cờ pháp, dùng mặt trời trí tuệ xua tan ngu si đen tối. Tu sáu pháp hòa kính, thường làm thầy dẫn dắt, làm đèn sáng cho đời. Đây là ruộng phước cao quý nhất, làm an ổn chúng sinh, được công đức thù thắng mọi người đều tôn trọng. Cung kính cúng dường vô lượng, chư Phật, thường được Phật khen ngợi, rốt ráo các Ba-la-mật của Bồ-tát, xa lìa địa vị Thanh văn, Duyên giác. Phật bảo Anan: các Bồ-tát ấy nhờ niệm Phật nên thành tựu vô lượng công đức như vậy. Ta chỉ vì ông nêu lên phần chủ yếu, nếu nói rộng ra thì dù ức kiếp cũng không thể nói hết.
2. Tu thêm quả Thánh ở Tịnh độ.
Kinh Đại A-di-đà ghi: Người niệm Phật sinh về Tịnh độ, liền vào ao bảy báu, tắm gội thân thể, gột sạch tình lự, mỗi người ở trên một đài hoa. Lúc ấy, tự nhiên có gió nhẹ thổi đến các hàng cây báu phát ra âm thanh hay ho, các thứ hoa báu tuôn rải, hương thơm ngào ngạt. Tất cả đều làm Phật sự. Người nghe vui mừng vô lượng, tự nhiên tâm khai mở, đều đến để tu tập, có người ở trên mặt đất giảng kinh, tụng kinh, nói kinh, hỏi kinh, nghe kinh, niệm Phật, suy nghĩ pháp mầu, nhất tâm ngồi thiền, kinh hành. Có người ở trên không trung giảng kinh, hoặc có người thì tụng kinh, nói kinh, hỏi kinh, nghe kinh, niệm Phật, suy nghĩ pháp mầu, nhất tâm ngồi thiền, kinh hành. Trong các đệ tử Thanh văn đây đều phát tâm vô thượng Bồ-đề. Có người chưa được quả Thánh, nhân đây được quả Thánh. Có người chưa được không lui sụt, nhân đây được không lui sụt. Các Bồ-tát tùy theo sự giúp sức mà đến địa vị ấy. Ở đây không ai không vui mừng ưa thích. Họ dùng Tam-muội Du hý làm lợi lạc chúng sinh hữu tình. Nhờ tâm niệm Phật vững chắc, xưng tán bổn nguyện Di-đà nên các Phật tử cũng được vãng sinh giống như thế. Nhờ đây thành tựu được trí tuệ biện tài, thần thông như ý, xuôi buồm thuận gió, mau chứng Bồ-đề, vượt qua muôn kiếp luân hồi, được sự kính trọng của các vị trời, Tịnh nghiệp cao quý, khéo được đại quả, rõ ràng nhờ vào niệm Phật mà được quả báo như vậy, xin các bạn đồng tu chớ quên việc này. Bò bay máy cựa còn có phần, bậc đại trượng phu vì thế nên cố gắng thực hành tu tập.
3. Ba mươi lợi ích của Tịnh độ.
Luận Thập Nghi của Đại sư Thiên Thai Trí Giả nói: Người vãng sinh về Tịnh độ được ba mươi lợi ích:
1. Vãng sinh về cõi Phật.
2. Được pháp lạc rộng lớn.
3. Gần gũi chư Phật.
4. Đi khắp mười phương cúng dường chư Phật.
5. Đích thân nghe Phật nói pháp.
6. Phước tuệ tư lương mau được viên mãn
7. Mau chứng Bồ-đề.
8. Các bậc đại nhân cùng nhóm họp một chỗ.
9. Không lui sụt.
10. Vô lượng hạnh nguyện được tăng tiến.
11. Chim anh vũ, xá-lợi giảng nói pháp âm.
12. Gió thổi vào cây vang lên tiếng nhạc.
13. Nước ma-ni chảy quanh giảng nói khổ không.
14. Nhạc trỗi các thứ âm thanh hay ho.
15. Bốn mươi tám lời nguyện.
16. Thân sắc vàng.
17. Thân hình đẹp đẽ.
18. Đầy đủ sáu thông.
19. Thường an trụ trong định.
20. Không có các pháp bất thiện.
21. Tuổi thọ lâu dài.
22. Y thực tự nhiên.
23. Chỉ thọ hưởng những sự vui sướng.
24. Có ba mươi hai tướng tốt.
25. Không có người nữ.
26. Không có Tiểu thừa.
27. Lìa hẳn tám nạn.
28. Đắc ba pháp nhẫn.
29. Thân thường có ánh sáng.
30. Được sức mạnh như thân Na-la-diên.
Có thể nói nơi nơi là đạo Bồ-đề, rừng công đức sáng rỡ.
4. Thành Phật ở Tịnh độ.
Sau khi được định Kim cương thì nhân Bồ-tát được trọn vẹn, ở trong đạo giải thoát mà được quả vị Như Lai viên mãn, đầy đủ bốn tâm vô lượng, đắc bốn vô ngại biện, mười tám pháp bất công Nhị thừa, mười phương hiện tiền nói pháp vô uý, hoặc trần sa không còn, công đức muôn hạnh thành tựu, mười hiệu đầy đủ, ba thân hiển hiện cùng khắp, đầy đủ chín mươi bảy tướng của bậc đại nhân, phát ra tám vạn bốn ngàn tia sáng rực lớn, bi trí dung hòa, phước tuệ đầy đủ. Hiện ở mười lớp báo độ, có khả năng hoá hiện muôn loại hoá thân, rải khắp mây từ, mưa xuống mưa pháp lớn chảy khắp pháp giới, nhuận thấm chúng sinh, đều ngộ bản tâm, cùng thành Chánh giác.
Nếu không chọn Phật như vậy, thì tông phong đâu được như ngày nay?
Người tu theo pháp môn niệm Phật, hiểu rõ giáo pháp để lại của đấng Pháp Vương, làm theo lời dạy bảo của Ngài, phá tà hiển chánh, rửa sạch dơ bẩn, nêu cao thanh tịnh, vì hậu học ngu muội chỉ dạy cho họ. Nếu người không có khả năng dẫn dắt chúng sinh thì im lặng, tự mình giữ gìn tu tập cũng vào được cửa đạo. Tuy giảng dạy cho người khác, mình cũng nên lấy đó mà thực hành, há không nghe nhờ nơm mới được cá ư? Cũng vậy, trước phải thể nhận giáo pháp, sau đó mới tu hành. Nói là dạy bảo người chưa được Chánh hạnh thì phải làm thế nào? Nên không thể không nói. Vì thế Trọng Ni (Khổng tử) cho là chánh trước phải làm cho chánh cái bất chánh của mình. Khi Phật nhập Niết-bàn để lại lời răn dạy cần thiết ở chỗ sửa lỗi. Tôi từng xem thấy Đức Phật Thế Tôn khi đến làm vua Tây Trúc (?) biểu thị điều vô hình, nói lời vô ngôn để chế phục tâm tánh quần sinh, do đây có đủ các thứ pháp môn: Đốn giáo, Tiệm giáo, Đại thừa, Tiểu thừa v.v... ở cung rồng hay đáy biển tất cả đều cùng một mục đích là phá tà hiển chánh, trừ dơ lấy sạch. Chúng sinh được sự giáo hóa của Phật, người sửa đổi tâm tánh nhiều không thể tính kể. Thời nay thiên về khen ngợi cảnh giới Tây phương. Cho rằng đây là con đường tắt của Sự tu hành. Bởi vì Phật A-di-đà có nguyện lực rộng lớn, thâu nhiếp tất cả chúng sinh trong cõi Ta-bà sinh về Tịnh độ. Đây là khiến chúng sinh bỏ vọng chứng chân. Vì thế chư Phật đều khen ngợi, Bồ-tát cùng vâng theo, khắp nơi sáng lập các tổ chức tu tập. Nên phong cách cao vời của ngàn xưa không mất đi, lòng Từ bi chiếu khắp, sám hối mười phương, chánh pháp lưu thông rộng lớn. Con đường Tịnh độ thể, lấy Diđà tức bản tánh; tông lấy Tịnh độ tức duy tâm, dụng lấy lòng nhân từ tức khoan dung bỏ ác, sinh thiện. Ba điều này là để nói lên báo ứng ba đời nên lập ra như vậy. Nhất tâm vắng lặng, cùng tột lý của nó thì khiến ta đạt đến chân lý, ngược lại với vọng. Người tin việc này, khéo dùng đây mà làm lợi ích chúng sinh. Pháp này thật sự giúp cho giáo dục của Chu, Khổng (Chu Văn vương-Khổng Tử), Ủng hộ sự giáo hóa Phật pháp một cách lớn lao, rộng rãi. Một người thực hành pháp này có thể dạy bảo một nhà, một nhà có thể dẫn dắt một làng, một làng có thể truyền đạt khắp một nước, cho đến vô cùng. Vì thế tất cả người dân trong thiên hạ đều được thấm nhuần đạo pháp, thọ hưởng phước đức, sáng ngời Thật tướng. Muốn bước lên cao không gì bằng cảnh giới Phật cùng cực. Há chỉ cho rằng thiện nhân, quân tử là hơn cả sao? Như thế thì còn lo gì trung hiếu mà không tu, lễ nghĩa mà không biết? Lấy điều này quán sát há chẳng phải đạo của Đấng Năng Nhân và đạo Trọng Ni đều là các nguyên tắc tiêu biểu để dạy người dân sao? Trải qua các triều đại rất tôn trọng học thuyết của Khổng Tử, áp dụng rộng rãi cách giáo dục này. Nhưng đến thời Tượng pháp chẳng phải người này mở rộng giáo pháp Phật thì tệ hại sinh ra. Người thành thật chân tu lần lần không còn. Có người lấy sự cao lớn của Phật đường làm chỗ để khoe khoang danh lợi, được ấm no là biết làm việc, đồ đệ đông là quý thì đó là phá hoại đạo này mà thôi. Những lời nói quái dị lại cho là hay, làm mê hoặc người nghe, khiến họ chạy theo tướng, noi theo khuôn sáo cũ, trở thành người thấp hèn xấu xa, mỗi ngày càng lẫn lộn chân ngụy. Những người làm cho tông phong thanh tịnh, nhân từ tha thứ thì ngày một mất. Do đó đạo Phật bị hủy báng cũng từ đây. Việc này là do con người, chẳng phải lỗi của giáo pháp. Người đời nay đa phần không xem xét nguyên do, thấy đồ đệ người là kẻ bất tiến lại chuyển giận sang người thiện vào giáo pháp có khác gì vì viên châu nhỏ mà làm tội vua Nghiêu, ân thương mà đổ lỗi, cho vua Thuấn, phục dược không điều độ lại đổ lỗi cho Thần Nông. Bị lửa thiêu đốt lại oán người cầm đuốc. Người ngu, kẻ bất tài học pháp của Phật đã lâu, nhưng chỉ lãnh hội được chút ít, lại có tâm đỡ đần. Họ chẳng dám để riêng một mình mình biết, mà muốn công bố với đại chúng để cứu vãn sự tệ hại của đại chúng.
Thường cho rằng giáo môn có bốn điều lợi hại: 1. Thầy truyền trao mà không hiểu rõ giáo pháp, thì pháp tà sẽ lớn mạnh, làm tổn thất chân lý.
2. Giới pháp không thực hành, cương thường (ba cương năm thường) rối loạn, sẽ phạm những điều cấm.
3. Giáo lý chưa rõ, bàn luận nghĩa lý, mê hoặc đại chúng.
4. Hạnh nguyện không tu, mê lầm đi trong ngõ tà, rơi vào đường ma.
Do sự tán loạn này làm cho kẻ hậu học như đui như điếc. Kẻ hậu học chẳng phải chỉ bị thương tổn mặt mày thôi. Hạng tự thị, hưởng thụ một truyền lại mười, mười truyền lại một trăm, một trăm truyền ngàn vạn, giống như cho chất độc vào biển. Vì sao biết? Vì chánh thuyết khó thực hành mà tà phong thì dễ nhiễm, lý tất nhiên là như vậy. Ôi? đạo Tổ thất truyền đã lâu, nên muốn cho con người không bị mê hoặc là việc làm rất khó.
Tôi tuy không thông minh, nhưng thật lòng thương xót chúng sinh, nên muốn chia ra từng điều để phân tích nghĩa lý, rộng rãi như trước đã nghe, bỏ ngụy theo chân, khai mở cho hậu học ngày nay. Nhưng tôi chỉ tiếc mình không có trí tuệ biện tài, sự thấy biết nhỏ hẹp, vì vậy trai giới nhất tâm, đầu thành đảnh lể Tam bảo, tìm cầu đại giáo, tham khảo huyền văn, định ra chánh tông, phá các dị thuyết, tổng kết thành chánh luận niệm Phật. Phân tích chứng minh cách ngôn của Phật, Tổ, phổ biến khắp nơi cho mọi người đều bước lên đường giác, ngõ hầu khiến cho Thánh giáo che kín lại được sáng tỏ, tội của chúng sinh trở thành phước.
Có vị khách đến hỏi: Tu hành tự rõ được sinh tử của mình cần gì phải nói về sở trường sở đoản của người khác?
Tôi trả lời: lý đó không đúng. Há không nghe
Như Lai ra đời, không một pháp nào không phải là lợi sinh. Bồ-tát tu hành không một mảy may nghĩ đến thân mình. Phật tử thị hiện đồng với ngoại đạo, dùng phương tiện chuyển đổi tâm tà của họ. Mười thứ dân ma trong kinh Lăng-nghiêm đều do lý giải sai lầm. Mười nghiệp ma trong kinh Hoa Nghiêm đều hiển bày chỗ trở về chân chính. Than ôi! Ác tuệ do tà tu tự mình cam chịu rơi vào đường hiểm. Gặp cảnh này đâu thể nào im lặng, nghĩ đến sự ngu si kia lẽ nào ngồi nhìn như vậy? Huống chi lòng từ của Đức Thế Tôn phó chúc lưu lại nguyện lớn, cứu độ khắp chúng sinh. Bồ-tát như giáo tu hành thị hiện đồng sự để giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh đều thành Phật. Đó là bổn hạnh của họ, còn nghi ngờ gì nữa, thấy đường mê mà không chỉ đường chánh, lòng Từ bi đâu nỡ thấy chúng sinh chìm đắm mà không nghĩ cách cứu vớt. Nên bất cứ ở đâu, chúng ta cũng phải dùng phương tiện, thuận theo chánh pháp để phá tà ma. Đây là việc làm của bậc Đại trí vô thượng, điều phục chúng sinh đi vào cửa đạo, là chỗ thâu nhiếp của chư Phật. Tôi thề bỏ thân mạng để lập chân tông, trọn đời không quên lời dặn dò của chư Phật. Chúng sinh dù hết nhưng tâm từ bi vẫn còn, hư không dẫu cùng tận mà nguyện con không cùng. Nếu gặp được Bậc hiền có trí thì sẽ giúp đỡ, hoằng hóa rộng rãi đạo này.
Có thể nói đem thâm tâm thờ phụng chúng sinh ở các cõi nhiều như bụi, ấy gọi là báo ơn Phật.
1. Nói về Phật Di-đà ở Tây phương.
Phật bảo: Thế giới Cực lạc ở Tây phương có Phật hiệu A-di-đà.
Như kinh đã nói vừa có lý vừa có sự (dấu tích). Nói về lý: Tây phương tức là tự tánh, tánh này không hình, không tướng, không biến, không hoại, trải qua nhiều kiếp vẫn bền chắc, thí như tinh kim trong dịch quái (bát quái trong kinh dịch) thì gọi là quẻ đoài. Vì là tịch tĩnh, nên gọi đó là Tây phương. Kim có màu sắc sáng, thể nó trong sạch, nêu kim để dụ cho pháp tánh. Bởi vì người đời tham mê trần cảnh, vọng niệm không dừng, Rối rắm, loạn động ở trong dịch quái, gọi là quẻ chấn, nên cho là Đông phương (Ta-bà). Người bỏ vọng theo chân, trở lại bản tánh thanh tịnh của mình, được thấy tự tánh, thì gọi là xả những dơ uế chấp trước ở phương Đông, bước lên đất vàng, sáng đẹp ở Tây vực (Tịnh độ). Tại phương hay vô phương dùng pháp làm ví dụ biểu thị cho lý thể. Hoa Nghiêm Hợp luận cho rằng Ngài Văn-thù từ phương Đông đến. Bởi Ngài Văn-thù là trí căn bản bất động. Phương Đông là nơi bắt đầu xuất phát ánh sáng nơi đầu tiên muôn vật phát sinh chấn động. Từ trí này sinh tín tâm, cho nên Hoa Nghiêm xếp Tín vị vào đầu tiên. Khoảng giờ sửu giờ dần nhà Phật cho là sáng sớm, mặt trời trí tuệ bắt đầu sáng, giống như Ngài Vănthù phát khởi. Phàm phu nhập tín thấy đạo thì trí sáng dần dần thêm rõ. Nên ứng quẻ tốn là phong, là gió giáo hóa bỏ dơ chọn sạch! Trong khoảng giờ thìn giờ tỵ trên ứng với sao giác, là tăng đạo, là trai giới, là cửa các thiện pháp, dụ cho địa vị tấn tu; đến giờ ngọ là Trung đạo. "Dịch quái" gọi quẻ ly là phương Nam, là giữa trưa, là mặt trời, là sáng sủa. Vì lúc ấy mặt trời cách xa hư không nên rất sáng, giống như các pháp là không thì mặt trời trí tuệ sẽ giống như mặt trời chiếu khắp thiên hạ. Long nữ trong kinh Pháp Hoa thành Phật ở phương Nam, chính là nghĩa này. Tây Nam là là quẻ khôn, là đất, là an tịnh, là nhu thuận, là mẹ, là sinh dưỡng, hướng Tây là quẻ đoài, là nơi đất tốt đẹp. Mặt trời lặn, ánh sáng không còn vào giờ Dậu, là vắng lặng, là ẩn mất. Tây Bắc là quẻ càn, là thiên, là cha, là kim, là mạnh mẽ. Phương Bắc là quẻ khảm, là thủy, là vua, là thầy, lợi sinh, cứu vật, thừa giáo, chánh trị, dùng thủy chế ngự hỏa, vua đối với quan, quan sáng thì vua chánh, lại nữa thủy (nước) nhiều thì sẽ tràn ngập Đông Bắc là quẻ cấn, là núi, là chỉ phương dưới, là thiền định, là khiêm nhường! Phương trên là quán chiếu, là trí tuệ, là không giới, như chỗ ba ánh sáng của mặt trời, mặt trăng và sao chiếu đến muôn vật.
Trong kinh không nêu các phương khác mà chỉ nêu phương Tây. Bởi vì lấy sạch đối với dơ, lấy ngộ nhiếp mê, lấy tĩnh đối với động, lấy quả đối với nhân. Qua mười muôn ức cõi nước là qua khỏi hạn lượng của mười phương: Bốn phía, bốn góc trên dưới, vượt qua mười nghiệp ác trong bốn đường ác, vượt trên cảnh giới thập thiện của trời người, không bị các pháp câu chấp, cũng có thế giới: Lý địa chân như thật tế tức là tự tánh Cực lạc Tây Phương. Tức là nói tánh này không phiền não. Vì sao biết nó như vậy? Vì người thấy tánh không bị trần cảnh mê hoặc, rõ biết các pháp là không, tâm thường bình thản, vô niệm, vô vi, không suy nghĩ, không lo lắng, an trụ nơi vắng lặng hoàn toàn nên niệm niệm thường sinh trí tuệ, pháp pháp đều như, ngã là pháp vương. Đối với các pháp tự tại, nên gọi là Cực lạc.
Nói về sự thì thật có thế giới ấy, Phật dặn dò rõ ràng, lại nói rõ về thế giới này, há luống dối sao? Nói có thì chẳng phải có xứ sở phương vực. Có mà không có tức là chân không diệu hữu. Chân không tức là Thật tướng. Diệu hữu là pháp giới sum la huyền mục giao, tham khảo qua lại há có thể biện luận về Đông, Tây ư! Kinh Viên Giác ghi: tất cả Như Lai quang nghiêm trụ trì là giác địa thanh tịnh, bình đẳng của chúng sinh. Bởi vốn viên mãn mười phương, thuận theo không hai, nơi cảnh không hai hiện ra các Tịnh độ. A-di-đà là tiếng Phạm, Hán dịch là Vô Lượng Thọ. Phật là giác, tức là Đức Phật pháp thân thanh tịnh, tánh viên giác rộng lớn, vượt trên chức phận làm người. Tánh này không sinh, không diệt, suốt xưa đến nay, trên đến chư Phật, các Bồ-tát, dưới đến chúng sinh trong sáu đường, mỗi mỗi đều sẵn có tánh giác. Vì thế gọi là cùng tên, cùng hiệu. Than ôi! Người đời mê muội, vọng chấp sắc tướng, điên đảo tìm cầu, cam chịu đắm chìm. Đức Phật ứng theo thế gian khai mở pháp môn phương tiện, khen ngợi Tịnh độ khiến cho chúng sinh mến tin. Nếu tự mình chấp nhân, tự mình tin tưởng mới ngộ được ánh sáng vững chắc là Tây phương tận Tây. Lửa mê hoặc diệt thì các cõi đều là tịnh. Vậy thì biết, các thế giới trong mười phương đều gọi chung là Di-đà, mắt thấy cảnh, gặp duyên đều là Cực lạc. Trăm ngàn Tammuội ứng với niệm hiện tiền, vô lượng pháp môn tùy tâm hiển bày. Cao siêu thấy suốt là lầu các, dạy dỗ làm lợi chúng sinh gọi là cung điện. Ngăn trừ tội lỗi, giúp đỡ việc lành gọi là lan can. Thanh tịnh vô nhiễm gọi là hoa sen, hoàn toàn trong sạch gọi là ao. Tùy theo vuông, hay tròn gọi đó là nước. Nhân từ lợi ích cứu độ chúng sinh gọi đó là báu. Hương thơm giới, định, tuệ gọi đó là hương. Bảy hàng cây Bồ-đề che mát lớp lớp. Đường bát Thánh đạo dạo đi bằng phẳng. Các điều lành trang nghiêm thành khóm hoa đẹp. Muôn đức thành tựu, quả vị tròn đầy, giáo hóa cùng khắp. Chim giảng nói pháp âm, gió thổi lay động cây báu truyền bá đạo phẩm. Đến ruộng đất nơi ấy càng phải bảo vệ, tu dưỡng cho đến lúc qua đời, mãi mãi không lui sụt, thư thái mà ra đi, mới là người xong việc. Nếu chưa được như vậy, thì không được dời núi lấp sông, bỏ vàng lấy củi, nhận thức sai lầm sắc thân là rốt ráo. Phải tin biết sinh tử là việc lớn, chớ nên nhàn rỗi, nên tìm hỏi các bậc chân trí, gạn lọc tâm yếu, thật sự niệm Phật cầu ngộ Đại thừa, thấy rõ bản tánh Diđà, đạt đến duy tâm Tịnh độ, có thể nói tuy ruộng đất, lầu các tốt đẹp như thế, nhưng phải một lần đến đó mới được nghỉ ngơi.
2. Nói về Bản tánh chân như.
Bản tánh chân như là Thể nhất chân vô vọng khi cha mẹ chưa sinh ra, gọi đó là mặt mũi xưa nay.
Thiền tông gọi là Chánh pháp nhãn tạng, Liên tông gọi là bản tánh Di-đà, Khổng Tử gọi là "Thiên lý", kinh dịch gọi là "Thái cực". Tên gọi tuy có khác nhưng thật ra thì cùng một chân như bản tánh. Tánh này rỗng rang vắng lặng, cùng một gốc với trời đất, một gốc với muôn vật. Bản tánh chân như trải qua kiếp số như bụi nhỏ mà không cũ mục, thế giới hư hoại mà nó không dời đổi. Con người không thể đảm nhận bản tánh chân như này nên phải nhờ vào các chất đất, nước, lửa, gió hòa hợp mới nhận được thân hình này, lại nhờ tinh cha huyết mẹ tạo nên. Tuy nó bị hôn mê nhưng thể vẫn thanh tịnh. Đến khi con người sinh ra, vì năm trần sáu dục làm điên đảo mê lầm, làm mê mờ thiên chân sẵn có. Cho nên Đức Phật nói tám vạn bốn ngàn pháp môn, tất cả đều là dẫn dắt con người bỏ vọng về chân, con đường thẳng tắt dễ đi chỉ có pháp môn niệm Phật. Người tu theo pháp môn này, tâm không tán loạn, Tam-muội hiện tiền, chính là trở về bản tánh của mình. Ngày nay có hạng người không nghiên cứu Phật lý. Người này lại lấy cửa đạo để tu dưỡng pháp, giả mạo lạm dụng liên tông (Tông Tịnh độ), vọng thuyết khí là chủ nhân, dạy người ban tinh vận khí, làm lao nhọc gân cốt, uổng dụng thân tâm, vì thế cam chịu khổ cực, cuối cùng không thể cứu vớt được. Từng quán sát cửa đạo, Trương Tử Dương nói: Tinh, khí, thần, trước tiên là nguyên tinh, nguyên khí, nguyên thần của trời đất. Nguyên tinh chẳng phải tinh của dâm dật, nguyên khí chẳng phải khí hô hấp, nguyên thần chẳng phải thần lo nghĩ, người ngu si không hiểu ý này, gọi cái hũ là cái chuông, mắt đã không rõ, lý cũng không đạt, mà lại giả vờ để dẫn dụ các thanh tín (cư sĩ). Xưa nay vẫn ở nơi túi da hôi thúi tạo tác mê muội, đi ngược lại nhất chân Phật tánh, vọng nói đây là tu hành, thật đáng thương thay!
Thông báo khắp các bạn đồng tu nên chú ý, dốc lòng niệm Phật để khai ngộ nguồn chân. Nếu khi tự mình đã rõ ràng thì thấy các pháp hiện tiền. Đây gọi là thấy tánh thành Phật. Một niệm sai lầm thì cách xa như trời với đất.
3. Nói về Thân, Tâm chân vọng.
Nói về Thân: Thân có pháp thân và sắc thân, truyền rằng: Tất cả pháp chân cảnh, trí minh là thân, nên gọi là pháp thân. Thân nhờ cha mẹ sinh, hư huyễn không thật, nên gọi là sắc thân.
Nói về Tâm: Tâm có chân tâm và vọng tâm. Trong sạch sáng suốt, rỗng sáng, linh thông gọi là chân tâm. Tùy cảnh sinh diệt, bỗng chốc có, giây lát lại không, gọi là vọng tâm. Tổ sư khuyên tu Tam-muội niệm Phật là từ trong chân tâm của mình lưu xuất một câu A-di-đà Phật. Niệm niệm quán chiếu, pháp pháp viên thông, ấy gọi là nhiếp cả lục căn, tịnh niệm nối nhau. Trong một niệm được Tam-muội phổ hiện sắc thân. Thời nay có hạng người không biết chân vọng, nhận thức sai lầm sắc thân là thân ta, cho vọng niệm là rốt ráo, bỏ bê sự tu hành, nhận lấy sự sung sướng, làm kiểu làm dáng mà hy vọng thành đạo, không phải là sai lầm sao? Có thể nói rằng: "Bỏ đi vàng ròng mà lấy gạch ngói". Phàm phu học đạo phải phân biệt chân ngụy. Cho nên Tông Cảnh nói rằng: Tu đạo lấy tâm làm Tông, lý cần phải rốt ráo vi tế. "Y cứ theo thế giới hữu tình thì chân vọng dường như có phân chia không thể giống nhau được". Nên có ảnh hưởng đến viên giác. Như quặng vàng bị đốt, chân ngụy mới phân chia. Cát gạo cùng nấu thì sống, chín rõ ràng khác nhau. Vì thế chúng sinh nhận lầm giặc làm con, nên bị cướp mất tài sản quý báu của gia đình. Lại nhận mắt cá làm trân châu, làm mê mờ trí, thành người ngu si, rơi vào ngõ cụt không lối thoát. Người tà kiến, hiểm độc bị chìm trong sóng thức của sông kiến chấp, vui chơi trong ngôi nhà cũ mục đang cháy dữ dội, quên cả khổ nhọc, ngủ trong đêm dài vô tận. Tâm tánh mê mờ đều do chấp vào duyên lự, cho là thân mình, bỏ mất chân tâm này chạy theo thanh, sắc bên ngoài. Đây là lỗi của phàm phu, ngoại đạo. Hoặc có người học Thiền chấp vào phương tiện Phật chế, khiến mở ra tám võng thừa để đối lại bốn cơ. Chỉ vượt qua một niệm là ra khỏi tam-kỳ. Như thế, uổng công cho một kiếp đi tìm đảo châu báu lại bị chìm đắm dưới hố sâu, không tìm ra đường về. Đây là lỗi mê mờ theo vọng tâm, không được chân tâm. Người thông suốt thật lý thì động mà tĩnh, người ngu muội cho Tây là Đông, dù cho có dời núi lấp biển cũng không phải là năng lực vô vi, dù cho đi trên hư không, bước trên mặt nước cũng đều là thần thông hữu lậu. Phân biệt ngọc phải đúng, xem xét châu phải trong sạch. Nếu chạy theo ngoại cảnh mà tìm tâm thì chỉ thấy vầng ánh sáng tròn trước mắt có màng. Nếu thuận theo pháp giới tánh, hợp với tâm chân như, thì đây là đốn nhập biển từ bi lớn của Như Lai. So với người như túi da chấp tướng tu trước, há có thể nói cùng một thứ ư!
4. Nói về Tam bảo.
Trong giáo nói: Bạc-già-phạm (Phật) mười phương, viên mãn Tu-đa-la (kinh), Đại thừa Bồtát tăng, công đức khó nghĩ bàn.
Tam bảo có ba thứ:
1. Đồng thể Tam bảo: nghĩa là lý chân như, tự tánh khai giác gọi là Phật bảo; quy tắc dùng đức, tự tánh chánh giác gọi là Pháp bảo; cử động không trái, không tranh cãi, tự tánh thanh tịnh gọi là Tăng bảo.
2. Xuất thế Tam bảo: nghĩa là Pháp thân, Báo thân, Hóa thân tùy loài ứng hiện, ấy là Phật bảo. Nói về Lục độ bốn đế, mười hai nhân duyên gọi là Pháp bảo. Mười địa Bồ-tát, bốn hướng, năm quả gọi là Tăng bảo.
3. Thế gian trụ trì tam bảo: Đó là tượng đắp, khám đất gọi là Phật bảo. Quyển vàng, gáy đỏ gọi là Pháp bảo. Đầu tròn áo vuông gọi là Tăng bảo.
Quy y: Cảm ứng các vị trời che chở. Cúng dường: Được ruộng phước vô lượng.
Ngày nay có người tà ngu không hiểu, giả soạn ra kinh chân tông diệu nghĩa, vọng nói "tinh" là Phật bảo, "khí" là Pháp bảo, "thần" là Tăng bảo, truyền học với nhau khiến cho người đã nhập thiện môn lại tin tà thuyết này, không kính Tam bảo, thật đáng thương xót!
Nếu không kính tin Tam bảo thế gian thì tự làm mê muội tâm mình. Tâm mình mê muội thì quên mất bản tánh. Đồng thể và xuất thế tam bảo do đâu có được? Tự dối gạt mình lại dối gạt người khác, có thể nói rằng đây là chia rẽ con đường trời người, làm mù mắt trời người, hủy báng chân giáo nhân quả, khe khắt với thuần phong định tuệ, thật không còn gì hơn việc này!
Phật dạy: Nếu tất cả chúng sinh không quy y Tam bảo, thì muôn kiếp đọa trong ba đường ác. Huống chi Ngài Từ Chiếu tập hợp kinh thành sám, khiến cho người học nương theo nghĩa sâu xa của kinh Đại thừa. Từ thân ngày nay đến thân Phật là Phật thường trụ, là Pháp thường trụ, là Tăng thường trụ cho chúng sinh trong pháp giới quy y. Người lành chánh tín đã được nghe, nghe rồi đọc tụng lễ lạy, thật phải tự mình kính, tự mình tin thì tâm kính tin này mới gần với Phật đạo. Hễ thấy tất cả tượng Phật đều khởi ý tưởng đến Như Lai, thấy tất cả Thánh giáo đều sinh ý nghĩ khó gặp, thấy tất cả Tỳ-kheo Tăng, thì khởi ý tưởng đến các vị Tổ sư, chúng ta phải lễ bái cúng dường không được xem thường, dùng trang nghiêm Phật mà trang nghiêm chính mình, như vậy thì Tam bảo nhất thể, duy tâm đầy đủ. Nếu chấp vào kiến giải thấp hèn, mê mờ căn bản của mình, vọng tin tà giáo, làm mê hoặc hậu học, tự mình chịu đắm chìm, mãi mãi chìm trong đường ác. Lỗi này tại ai?
5. Nói về thấy, nghe, hay, biết.
Người xưa nói: Ở trong thai gọi là thân, ở ngoài đời gọi là người. Ở mắt gọi là thấy, ở tai gọi là nghe, ở mũi ngửi mùi, ở miệng bàn luận, ở tay cầm nắm, ở chân chạy nhảy, hiện khắp sa giới, thâu nhiếp trong một hạt bụi. Người biết gọi là Phật tánh, người không biết gọi là tinh hồn. Đây lại có hạng người ngu si không biết gì về Phật lý, ẩn núp trong giáo pháp của ta, chuyên lấy việc truyền thọ làm tông, vọng nói sáu môn thấy tánh, chỉ ra sắc thân bốn đại cho là thân Phật, tự lập ba mươi sáu quan hệ, bảy mươi hai niềm tin làm trung gian cho những việc kỳ quái, làm mê lầm người lành. Cho rằng bên này động vào xác thịt của một người nào đó thì bên kia sẽ đau đớn một sự việc nào đó. Lành dữ, họa phước nói là biết trước. Người ngu nghe được sẽ cho rằng Phật pháp linh cảm, nên thán phục, tin sâu, liền bố thí cúng dường, truyền đạt lời nói sai trái này. Ghi nhớ vào tâm không hề tạm bỏ. Đặc biệt không biết nhất chân Phật tánh thanh tịnh vắng lặng. Vì có vọng thân nên có vọng thức, vì che mất bản tánh nên không thấy ánh sáng. Một niệm tâm trống không gọi là ngộ đạo. Nên kinh
Lăng-nghiêm nói rằng: thấy biết mà chấp thấy biết tức là gốc vô minh, thấy biết mà không chấp thấy biết, đó là Niết-bàn. Cho nên Tổ sư lập giáo chỉ lấy Tam-muội niệm Phật làm chánh tông, không hề có mảy may thật pháp trói buộc nơi con người. Mong đợi gì kẻ tục ngu si mê muội tông chỉ, bỏ trung, hiếu không thực hành, xa lìa nhân nghĩa không chịu tu tập, nương vào danh nghĩa Liên tông, thực hành pháp sai biệt, tham cầu sự thầm cảm ứng, dùng những việc quái gở mê hoặc con người, lại có tà ma vọng lượng gần gũi thân con người, nhiễu loạn chánh tín, tất cả đều bị ma nhiếp phục, thật đáng thương xót thay!
Người tu Tịnh nghiệp phải khéo quan sát bản thân tà chánh, phải cứu xét tâm mình, phân biệt chính xác sự tín thành, luôn nhớ Phật, niệm Phật, nguyện sinh về Tịnh độ, chớ mong cầu nơi khác. Thiền sư Trí Giác Từ Thọ nói: chớ nhổ mạ non (nôn nóng) mà phải tìm tòi những lời Tổ Sư dạy. Khi biết được vô minh thì tự nhiên sẽ sáng tỏ tất cả, rửa sạch bụi trần, có thể nói là cắt đứt cội nguồn sinh tử. Còn việc được Phật ấn chứng hay không, thì như bẻ lá tìm cành, tôi không biết được.
6. Phá vọng tưởng và nói về tai họa của vọng tưởng.
Chánh pháp của Phật tổ lấy bản tánh Di-đà làm thể, tín nguyện niệm Phật làm tông, tự lợi lợi tha làm dụng. Bởi vậy cách ngôn của Phật người đời sau đều noi theo. Hễ nói "Phật sự âm thanh", thắp sáng đạo tràng là pháp môn phương tiện, dùng nó làm phương tiện dẫn dắt chúng sinh trở về sự thật. Nhưng người học đời sau này quên mất tông chỉ, tham đắm sự tướng, không vâng theo giáo điển (kinh sách Phật), hướng ra bên ngoài vọng cho là tâm. Mắt tâm chưa sáng tranh nhau xưng là Sư trưởng, thật là một việc làm tệ hại trong pháp môn! Có người sưu tầm những bí quyết xảo quyệt giống như ông đồng bà bóng, có người xưng là Di-lặc hạ sinh, có người nói các vị trời gần gũi bên mình, có người nhìn theo ánh sáng đèn đuốc nói thấy thần, thấy ma. Có người nhìn khói nhang đoán lành dữ v.v... họ khinh Hiền lừa Thánh, dối gạt Diêm-lư (la), mong cầu lợi dưỡng. Nhưng đến khi có người hỏi về hạnh nguyện bình thường thì ngậm miệng không nói được. Bản tánh Di-đà không biết tăm tích, não loạn một đời, tất cả chỉ là dối trá, dối gạt người, mà cũng tự dối gạt mình. Thật đáng thương xót biết bao!
Kinh Lăng-nghiêm ghi: "Này người Thiện nam! Nếu tâm thích huyền ứng, thì lúc ấy thiên ma tìm dịp làm hại, bay đến gá vào người này. Khiến họ miệng nói kinh pháp nhưng lại để lộ việc người, không tránh được sự chê cười. Miệng nói hay chưa hẳn là như thế, khi họa phước đến thì lúc ấy mảy may không mất. Người này ngu si mê cho là được Bồ-tát gần gũi cúng dường. Như thế là phá luật nghi của Phật, ẩn núp làm những việc do lòng tham muốn. Đây gọi là yêu tinh nhiều kiếp đại lực, quỷ thần, già hóa thành ma não loạn người này. Họ không biết mình đang là ma, lại cho là chứng Thánh, tâm sinh nhàm chán muốn bỏ thân người. Nên thầy và đệ tử đều gặp nạn vua.
Ông nên giác ngộ trước để tránh khỏi luân hồi, còn nếu mê hoặc không biết sẽ đọa vào địa ngục Vô gián.
Than ôi! Người lành mới phát tâm không biết chân ngụy, tin theo tà thuyết kia, không lo tu tâm tích đức, lại vọng tưởng cầu phước, nên gặp phải sai lầm này. Tôi nghe nhà nào làm nhiều điều lành thì có nhiều niềm vui, nhà nào chứa nhóm điều ác thì sẽ có nhiều tai ương. Nên biết lành dữ, họa phước đều do tâm chúng ta. Làm sao có thể dối trá cầu phú quý mà tránh khỏi họa hại được?
Thiền Sư Vĩnh Minh Diên Thọ nói: Ác từ tâm sinh, như sắt rỉ sét tự hủy hoại tính chất của nó. Thiện từ tánh sinh, như châu báu hiện ra ánh sáng, trở lại chiếu soi thể của nó. Cho nên tôi khuyên các thiện nhân khi khởi tâm thực hành, phải chọn đạo mà tu, chọn lễ mà theo, phải chọn bạn mà chơi, chọn lý mà xử sự, chọn thầy để tôn thờ, thận trọng giữ tâm, cẩn thận thủ tiết, dốc lòng niệm Phật không mê muội thì không mất đạo thuận với trời đất. Vâng theo giáo lý, Tây phương, nhờ đó quán sát, thấy rõ họa phước.
7. Nói về chấp không.
"Không" là phá các "Cò". Đấng Đại giác Thế Tôn khai thị chánh pháp, muốn cho tất cả mọi người biết muôn pháp trên thế gian này đều không, để tự ngộ bản tánh chân không. Chân không ấy chính là pháp giới Như Lai. Bản tâm chúng sinh không mà chẳng phải không, có mà chẳng phải có. Người ngộ rồi ở trong "không có" mà vận xuất ra kho báu của nhà mình, tham cứu nó, sử dụng nó không cùng tận. Gọi đó là Nhất thừa diệu đạo, chẳng phải là "không" của không ngơ, ngày nay có hạng người ngu si, một bề nói không, bác không có nhân quả. Việc làm thì trong "có" mà miệng lại nói không, lại cho rằng uống rượu ăn thịt không chướng ngại Bồ-đề, ăn trộm dâm dật không ngại Bát-nhã. Buông lung ngang dọc chạy theo sự điên cuồng, hủy báng Phật, chê bai kinh, khinh thường tất cả, ăn nói bừa bãi, náo loạn khắp nơi, lấy đó làm tông thừa, khinh khi Thánh hiền, tự xưng đắc đạo. Người như vậy, nhiều không thể kể xiết, đều là những người mà Ngài Vĩnh Gia gọi là mở rộng lý "không" để bài bác nhân quả, sẽ chịu lấy tai ương vô bờ bến, chẳng phải loại này hay sao?
Kinh Lăng-nghiêm ghi: "Nếu tâm chấp không thì có sức mạnh của ma Không nhập vào tâm mình". Người này không biết mình là ma. Miệng nói kinh pháp nhưng len lút làm những việc tham dục, khinh hủy kinh lượng, mê hoặc người khác, đều gặp phải tà ma, tâm sinh nhàm chán, muốn bỏ thân người, thầy và trò đều mắc họa lớn, khi chết tự mình trở thành quyến thuộc của ma, thọ nghiệp ma rồi lại đọa vào địa ngục Vô gián.
Than ôi! Đời này cách xa bậc Thánh, những lời hay đẹp không còn. Các tà thuyết dị đoan nêu lên đại nghĩa sai trái, không chấp trước có, thì chấp trước không. Chấp trước có là chấp vào danh tướng, dính mắc hữu vi, chấp chặt mình người, câu nệ oán thân, ràng buộc giáo gần làm mất lý xa. Chấp trước không thì không biết nhân quả không phân biệt thiện ác, vứt bỏ giới luật, đi ngược lại lễ nghĩa. Bởi vì họ không biết Trung đạo là tốt đẹp nhất.
Có người hỏi: Thế nào là trung đạo?
Đáp: Không chấp có, không chấp không, không chẳng lìa hữu, hữu chẳng lìa không, oán thân bình đẳng, ta người như nhau, nhân quả rõ ràng, thiện ác phân minh, hành trì giới luật, tu tập lễ nghĩa, giáo gần thông suốt, lý xa thấu triệt. Đó là trung đạo. Trung đạo cũng gọi là làm đẹp muôn vật, xứng với nghĩa của bản tính. Nếu thông đạt lý này thì không rơi vào thiên chấp. Ấy gọi là người đắc Chánh thọ niệm Phật Tam-muội.
8. Nói về Nhất hợp tướng.
Kinh Kim cang ghi: "Như Lai nói Nhất hợp tướng tức chẳng phải Nhất hợp tướng, ấy là Nhất hợp tướng." Bởi vì người đời một tánh hôn mê thì hợp với tướng trần cảnh, tức chẳng phải Nhất hợp tướng. Người trí thấy rõ chân tâm của mình, quay lưng với trần cảnh, hợp với đạo giác ngộ. Một niệm tỉnh giác hợp với chân như pháp giới của chư Phật mười phương, tức là lý Nhất hợp tướng. Ngài Vĩnh Gia nói: "Bản tánh của ta hợp với Như Lai, chỉ vì phàm phu không ngộ được lý này, tham đắm vào sự tướng, chấp chặt tâm mình, ý thức hợp với núi sông, đất đai, tường vách, gạch ngói, làm cho mê muội, trái với lý tánh chân không tức là sai trái."
Lục Tổ nói: "Tâm có chỗ đắc tức chẳng phải Nhất hợp tướng, tâm không có chỗ đắc chính là Nhất hợp tướng."
Ngày nay có người ngu si, không biết Phật pháp ở trong giáo pháp của ta, vọng nói vợ chồng là Nhất hợp tướng. Thật là một sai lầm lớn! Bởi vì khi tình sinh thì trí không còn, suy nghĩ đổi thay thì thể cũng khác, nghiệp buộc họa kéo, phủ nhận nhân quả, giải thích Thánh điển lại quanh co, hủy nhục giáo môn. Chánh tông Tịnh nghiệp đâu có dung chứa thuyết này? Người tu hành chân thật, trộm nghĩ nên giữ vững chánh tín, chuyên niệm Phật A-di-đà. Ở trong một niệm, không chấp vào tướng nội tâm, ngoại cảnh rõ ràng nhất như, tự nhiên thầm hợp với chân lý. Cho nên Thiền sư Phật Quả Khắc Cần dạy chúng rằng: "Các ông mỗi người hãy chuyên chú trong mười hai thời, trên không thấy có chư Phật, dưới không thấy có chúng sinh, ngoài không thấy có núi sông đất đai, trong không thấy có thấy, nghe, hay biết, đẹp, xấu, dài ngắn. Tất cả thành một khối, rồi mỗi mỗi lấy ra, hoàn toàn không có dị kiến. Đây là lý Nhất hợp tướng rõ ràng sáng suốt." Có thể nói rằng: "Mặt trời có thể lạnh đi, mặt trăng có thể nóng lên, nhưng các ma không thể phá hoại được chân thuyết. Nếu thực sự đi trên con đường lớn của Đạo thì ngộ được chánh quyết của Tông."
9. Nói về Song tu.
Song tu là tu phước và tu tuệ. Trong kinh ghi: Tu phước không tu tuệ giống như thân đeo chuỗi anh lạc, tu tuệ không tu phước như thành A-la-hán nhưng ít được cúng dường. Phước tuệ trang nghiêm sẽ thành Chánh giác.
Người xưa nói: Phước không thể không làm, tuệ không thể không học.
Ngài Long Thư nói: Người tu Tịnh độ, tuy chuyên dùng pháp môn niệm Phật làm hạnh môn, nhưng cần phải phước tuệ song tu, ngõ hầu được sự lý viên dung. Bên trong thì tu phước là tu dưỡng rốt ráo, thấu triệt cội nguồn, khiến cho tánh tuệ rộng lớn, trùm khắp thế giới hư không, không có gì không biết, không nơi nào không chiếu sáng. Bên ngoài thì tu phước, từ bi, phương tiện, nhu hòa, khéo léo lợi lạc, cứu độ chúng sinh. Xem tất cả mọi người bình đẳng, cung kính; tùy căn cơ nói pháp, giáo hóa chúng sinh, thật hành tất cả các thiện pháp. Đây là phước tuệ song tu.
Ngày nay có hạng người ngu si, thường thực hành các giáo pháp khác, giả vờ xưng là đệ tử của Liên tông (tông Tịnh độ), vọng chỉ ra song tu, che giấu làm những việc thông dâm dơ uế, tạo nghiệp địa ngục, làm mê hoặc người lành, chìm đắm trong dục lạc, cam chịu rơi vào chỗ hiểm nguy. Há chẳng phải là sai lầm sao? Đây chính là Hồ mỵ, Yêu tinh, khác gì loài súc sinh.
Kinh Lăng-nghiêm ghi: "Nếu các chúng sinh tâm không dâm dục thì không rơi vào sinh tử". Ông tu Tam-muội là muốn ra khỏi trần lao, nhưng tâm dâm không dứt bỏ thì không thể ra khỏi trần lao, dù có trí tuệ thông minh cũng rơi vào đường ma, thượng phẩm thì làm ma vương, trung phẩm thì làm dân ma, hạ phẩm thì làm nữ ma. Người tu hành trước phải dứt tâm dâm dục, ấy gọi là lời dạy quyết định thanh tịnh bậc nhất của Như Lai Phật Thế Tôn. Nếu không dứt dâm dục mà tu đạo Bồ-đề thì như nấu cát mà muốn thành cơm, dù trải qua trăm ngàn kiếp rốt cuộc không thể gọi là cơm được! Ông dùng thân dâm dục mà cầu quả mầu của Phật thì dù được diệu ngộ cũng đều là cội gốc của dâm dục. Cội gốc đã thành dâm thì trôi lăn trong ba đường (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh) không thể nào ra khỏi. Niết-bàn của Như Lai, do con đường nào tu chứng? Do đó ắt phải khiến cho máy dâm của thântâm đều dứt trừ, tánh dứt trừ cũng không thì hy vọng đến được quả Bồ-đề của Phật. Đúng như lời ta nói gọi là Phật nói không giống như lời này là ma Ba-tuần nói. Vì thế, nay khuyên các Bồ-tát tại gia nên nương giới luật để tu trì, chớ phạm sai trái, tâm phải trong sáng, ít ham muốn, song tu phước tuệ, hồi hướng Tây phương. Ngài Long Thư nói: Tu phước lại tu tuệ, tin sâu niệm Phật Di-đà sẽ sinh phẩm thượng thượng (thượng phẩm thượng sinh), chắc chắn không còn nghi ngờ gì nữa! Bằng không thì muốn có cơm lại nấu cát chỉ uổng phí công lao, gánh củi vào lửa chắc chắn thân gặp tai ương.
10. Nói về Ba xe.
Phẩm "Thí dụ" trong kinh Pháp Hoa ghi: "Nếu có chúng sinh theo Phật nghe pháp tin nhận, ân cần tinh tấn cầu trí nhất thiết, trí Phật, trí tự nhiên, trí vô sư. Như các người con kia vì cầu xe trâu mà ra khỏi nhà lửa".
Nên biết các người con dụ cho chúng sinh, ba cõi dụ cho nhà lửa, Tam Thừa dụ cho ba xe. Như Lai thấy chúng sinh trong ba cõi, không được giải thoát nên Ngài nói pháp Tam Thừa dẫn dắt giúp cho họ lìa khổ. Như các người con ở trong nhà lửa vui chơi, Trưởng giả dùng ba xe dụ dỗ họ, khiến cho họ ra khỏi nhà lửa.
Nay có hạng người ngu si, giả thuyết Văn-thù hỏi Phật, vọng xưng tánh là xe trâu, tâm là xe dê, ý là xe hưu. Lại nói xe trâu chở pháp mầu, xe dê chở hoa sen, xe hưu chở kinh. Cái gọi là đề hồ thượng vị được người đời xem là cao quý, gặp những người này biến thành thuốc độc.
Kinh Pháp Hoa đứng đầu trong các pháp, được Phật che chở, có thể vọng bàn được ư! Các tà sư mê lầm cho phải là trái, cho trái là phải, pháp nói là phi pháp, phi pháp nói là pháp. Vì thế dối gạt người đời, khinh chê cả Phật, hủy báng cả pháp. Há chẳng phải là phạm tội ngũ nghịch hay sao?
Trong kinh ghi: "Nếu có người phỉ báng kinh điển này sẽ đọa vào địa ngục A-tỳ trong một kiếp, kiếp hết lại đọa vào địa ngục ấy, lần lượt đến vô số kiếp, thoát khỏi địa ngục lại đọa làm súc sinh". Vì hủy báng kinh này nên mắc phải tội như vậy, suy nghĩ kỹ những việc này thật đáng thương thay! Với tất cả tấm lòng, xin đem những lời nói thành thật thông báo với các bạn đạo. Ở trong tâm mình, khai thị ngộ nhập tri kiến Phật, thì tâm này thanh tịnh như hoa sen mới nở. Đó gọi là Tam-muội Pháp Hoa. Người ngộ được lý này, ngồi xe trâu trắng ra khỏi nhà lửa ba cõi. Lại không thấy Thiền sư Pháp Đạt gặp Lục tổ Đại sư. Trình kệ rằng:
Tụng kinh ba ngàn bộ
Một câu Tào Khê quên
Không rõ ý xuất thế
Đâu hết lụy sinh cuồng.
Xe dê, xe hưu, xe trâu chỉ là phương tiện đặt ra, chỉ cho ba giai đoạn: đầu, giữa và sau. Ai biết được trong nhà lửa vốn là đứng đầu các pháp. Vì thế Tào Khê Lục tổ Đại sư mới nói kệ chứng minh điều này rằng:
Tâm mê Pháp Hoa chuyển Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa Tụng lâu không tiến được Làm kẻ thù với nghĩa
Vô niệm, niệm là chánh Hữu niệm niệm là tà Nếu hiểu được như vậy Luôn ngồi xe trâu trắng.
Nếu có người mê đắm, không tỉnh thức được, tự mình cam chịu đắm chìm thì tôi không biết phải làm thế nào?
11. Nói về ba quan (ải)
Thiền sư Đâu-suất Duyệt dạy chúng ba ải là:
1. Trừ sạch cỏ tham luyến, chỉ cầu thấy tánh, nay tánh thượng nhân ở chỗ nào?
2. Biết được bổn tánh, phải thoát khỏi sinh tử, sinh tử đến thì làm sao thoát?
3. Thoát được sinh tử, phải biết chỗ đi. Nhưng bốn đại rã rời thì đi về đâu?
Vì thế, người xuyên suốt các ải này, đâu còn bó buộc trong sinh tử? Người thấu triệt đạo này há ngăn ngại đến đi?
Là bậc Đại sư tôn túc trong chốn tòng lâm, khắp thiên hạ không gì không thông suốt, phải nghiên cứu tận cội nguồn, cho nên thoát được, yếu chỉ thanh tịnh, rõ ràng, quyết không có dị thuyết. Nay có người ngu si vọng cho ba đơn điền trong thân người là ba quan bên trong, dạy người vận chuyển khí huyết, gọi đó là thấu suốt ba quan. Lại nói từ chân đến hông (eo), ba chỗ đau đớn là ba quan bên ngoài. Vọng cho chỗ này quyết định lúc qua đời. Người đời phần nhiều truyền nhau thành thói quen, tất cả sa vào đường tà. Quan sát kỹ pháp môn niệm Phật chính là pháp môn nhanh gọn, chỉ khiến cho người tu hành trong mười hai thời trừ một câu A-di-đà Phật. Suy nghĩ vắng lặng có công năng xoay lại chính mình, tự xem đâu là bản tánh Di-đà của ta, khi bốn đại rã rời thì đi về đâu, thường có điều nghi này, bỗng nhiên hiểu được liền biết chỗ đến. Đây là đường thẳng tắt nhanh chóng, ít tốn công sức để tu hành chánh đạo, ngoài điều này ra nếu hơi có một chút dị thuyết, tức là rơi vào rừng tà kiến.
Than ôi! Người ngu bỏ chân theo ngụy, thật đáng thương thay!
Nếu ở đây tin được, thì sẽ cắt đứt đường rối rắm chằng chịt, mở con mắt nhìn thấu suốt trời đất thấy rõ tâm suy nghĩ tà vạy và vọng tưởng.
12. Nói về Tiểu thừa và Đại thừa.
Nói về các thừa giáo hóa của Đại pháp vương bao gồm nhiều phẩm loại, mỗi loại đều có tiểu luật, tương đương với quyền của lễ hình, Đại thừa giống như trách nhiệm cân bằng cầu phước như phụ trách về phần vận chuyển. Chế soạn như nắm vững những lời nói của vua. Trong "bách sứ hàm tu" của quốc gia, các tông phái của ta cùng nhau giảng nói, nếu rõ được yếu chỉ này thì lẽ nào chấp vào dị đoan? Phải nên tự lượng mới có thể, tùy khả năng giảng nói, đạt thì cứu giúp là tốt đẹp, cùng tột thì chuyên môn là thích hợp. Tuy mỗi thứ truyền bá về mỗi tông dụ, nhưng đều có mục đích là từ bi cứu giúp chúng sinh, cùng trở về biển hòa hợp, cùng ngồi giường giải thoát. Như vậy tức là kim chỉ nam của đường mê, cái mõ của giáo môn, đạo lớn thấm nhuần khắp nơi được nào ngại gì xa nguồn chia nhánh?
Người thích màu đỏ thì ghét màu trắng, người thích vị ngọt thì ghét vị đắng. Chưa khế hợp với Viên tông thì phải y cứ vào phương tiện. Lại, lẽ nào biết chúng sinh và Phật vốn là một tánh Phàm Thánh đồng nhưng không thể tự mình phục hồi là vì do mê mờ đối với thân tâm, đến nỗi phải luẩn quẩn trong vòng sinh tử. Cho nên biết lỗi ác của thân, nếu chẳng phải giới luật thì không thể xem xét được hôn mê tán loạn của tâm, không phải định tuệ thì không thể làm cho dung hòa được. Xem xét nó, dung hòa nó mà vẫn còn suy nghĩ thì đạo chưa sáng, tánh chưa ngộ. Huống chi bị chôn chặt trong đường tà mà nói phải trái với nhau sao?
Có người nói: "Tôi tu Tiểu thừa" nhưng lại không biết thực bố trí thì, lễ bái tụng kinh là pháp tiệm tu. Hoặc nói: "Tôi tu Thượng thừa" nhưng lại không biết yếu chỉ "bản tánh Di-đà, duy tâm Tịnh độ", không chấp sự tướng lại rơi vào không ngơ. Thật giống như người mù bẩm sinh sống nơi thôn dã, chỉ ngồi một xó, không biết Đông-Tây-NamBắc, lại vọng sinh phân biệt phải phải trái trái, trái trái phải phải. Cái gọi là chấp trước là như đầu rắn chết, người sai đường, ở nơi dơ xấu không lìa được; đối với hành giải không thấy đáng sợ, cho đến chứa nhóm thành tánh, tự hủy diệt bản thân mình. Ban đầu học thì kính mến người hiền, cuối cùng lại bị chìm đắm vào chỗ người ác. Những hạng người như vậy thật đáng thương thay!
Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ nói: "Thí như chim sẻ trong sân lại duyên theo tâm hạc trời. Lại như ếch ngồi đáy giếng, làm sao lường được sự rộng lớn của biển ư? Hoặc tìm cầu ở người khác, giống như dùi băng tìm lửa, hoặc trở về tìm hiểu chính mình, như từ sữa sinh bơ. Chớ dựng cờ ngã mạn, giăng lưới tà kiến, khinh lờn bậc Tiên giác (Phật), mê hoặc người sau. Những lời này rõ ràng như mặt trời trên cao, bát ngát thay Phật tổ thường có linh hiển, người vâng giữ giáo pháp lẽ nào không sợ hay sao? Nếu biết tin niệm Phật Di-đà thì sẽ thoát khỏi tội lỗi này.
13. Nói về bất sinh bất diệt.
Bát-nhã Tâm Kinh ghi: tướng không của các pháp này không sinh, không diệt, không dơ, không sạch, không thêm, không bớt. Cho nên trong tướng không đó không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức v.v...
Lại kinh Duy-ma ghi: Pháp ác không sinh, thiện pháp không diệt. Nên biết sắc tướng có đến, có đi, nhưng Phật tánh không sinh không diệt.
Ngày nay có hạng ngu si, vọng cho rằng không sinh con nối dõi là bất sinh, không dứt dục tâm là bất diệt, quấy nhiễu thế gian, dùng lời quái gở mê hoặc con người, lén cùng nhau làm hạnh bất tịnh. Vì thế dứt mất chủng tánh Phật, trái với nhân luân. Nên kinh Lăng-nghiêm ghi: "Này thiện nam! Ái dục mạnh phát sinh cuồng điên, tham dục hừng hực thì có ma dục nhập vào tâm mình, nên một bề nói dục là đạo Bồ-đề, giáo hóa người tại gia bình đẳng hành dục, làm mê hoặc chúng sinh, rơi vào ngục Vô gián. Bởi vì ngu si không biết dơ sạch, không biết gặp phải ma, đến nỗi phải chịu nỗi khổ này. Xem kỹ sự phân chia ban đầu của trời đất có âm dương, rồi có nam nữ, có nam nữ thì có vợ chồng, có vợ chồng thì có cha con, có cha con thì có vua tôi, có vua tôi thì có đạo "Ba cương năm thường". Ba cương bao gồm nhân luân, năm thường chính là sự giáo hóa ấy, đây là pháp mà bậc Thánh này lập ra thế gian.
Tổ Tuệ Viễn có nói: Người tại gia coi trọng việc thân thể sống còn. Nhưng lại không quên lấy tình dục làm vườn, lấy thanh sắc làm chỗ xem chơi, đam mê lạc thú thế gian, không thể ra khỏi. Đức Phật chỉ dạy khiến chúng ta trở về nguồn gốc để tìm tông. Tại gia phụng thờ Phật pháp là một người dân thuận hòa, mà không đánh mất lễ nghi nuôi dưỡng cha mẹ, kính trọng vua tôi. Cho nên hướng dẫn họ đầu tiên thực hành năm giới, không sát sinh thì có nhân từ, không trộm cắp thì có lễ nghĩa, không tà dâm thì có lễ giáo, không nói dối thì có niềm tin, không uống rượu thì có trí tuệ. Thân tâm đã theo giới luật, sau đó dạy người pháp xuất thế, khiến tu Tam-muội niệm Phật, để sinh về Tây phương, đạt đến đạo bất sinh bất diệt. Cho nên vua quan ngoại hộ, Phật pháp lưu thông trong thiên hạ, ngàn năm như một ngày. Lại đương trong lúc này có thơm hôi cùng vườn, cỏ lúa cùng ruộng, không dễ gì phân biệt được. Tôi xin đem tấm lòng thành, nói với tất cả tín sĩ rằng: "Chỉ trừ nhất tâm bất loạn, hệ niệm Di-đà, còn tất cả tướng đều là tà giải, phải hết sức cẩn thận." Người tu hành chân chánh thiện thì theo, ác thì xa, tà dứt bỏ, chánh giữ gìn. Nếu việc lập thân tu hành với yếu chỉ dứt tâm đạt bổn, ở bài trước có nói đầy đủ, trình bày rõ ràng, không phải không nhiều. Theo đây mà thực hành, thì là quyến thuộc của chúng ta, nếu làm ngược lại là bè đảng với ma. Cho nên khi sống gặp phải pháp vua, chết đọa vào địa ngục A-tỳ, tai ương nhiều đời nhiều kiếp. Chớ nói rằng đã không nói, vì sao? Vì muốn không chiêu cảm nghiệp Vô gián, thì đừng hủy báng bánh xe chánh pháp của Như Lai?
14. Nói về con đường Tào Khê.
Thuở xưa, Đại sư Vĩnh Gia đến Tào Khê lễ bái Lục tổ, được Lục tổ ấn chứng tâm địa. Ngài soạn "Chứng Đạo Ca", Ngài nói: Từ khi nhận được con đường Tào Khê, thì biết rõ sinh tử không liên can. Vì thế Thiền tông trong thiên hạ bắt nguồn từ Tào Khê, gọi đó là đường Tào Khê.
Vì sao người ngu vọng chỉ thân người có nách, và xương sống cùng mở thành một phái Tào Khê. Lại vọng thuyết Lục Tổ nói: "Thà độ người tại gia hàng ngàn muôn, chứ không độ một nửa vị Tăng ở cửa không." Những người như thế chẳng những mê hoặc người đời sau mà còn vu oan cho bậc Tiên Thánh. Há không nghe Ngài Vĩnh Gia nói, Tổ thứ nhất là Ngài Ca-diếp, người đầu tiên truyền đăng cho hai mươi tám vị tổ Tây thiên, đã vào đất này, Bồ-đề-đạt-ma là sơ Tổ, sáu đời truyền thừa y bát, người sau đắc đạo trong thiên hạ rất nhiều. Lẽ nào nói độ người tại gia mà không độ tăng sĩ?
Đối với bọn tà vạy, không biết gì về sự truyền thừa, trộm lấy tên Phật Tổ, cùng với kiến giải vọng lượng, yêu nghiệt làm mê hoặc người hiền. Đúng là một người mù dắt đám mù đi vào hầm lửa. Tôi biết thật đức của Tổ tông, vì thế nêu lên và truyền bá, tôi biết Xiển-đề phước mỏng, hủy nhục tông phái của mình, vì thế vừa lo vừa sợ. Tôi vẫn biết, và rất sợ các ông hủy báng đạo của Thánh sư (Phật), lừa dối kẻ hậu học, làm sao tôi không lo sợ được? Các ông phải mau trừ bỏ, bỏ tà về chánh, không nên để ta phải xấu hổ hơn.
15. Nói về ẩn tạng của Phật pháp.
Phật pháp là đạo Xuất thế gian, là pháp vô vi. Kinh Niết-bàn ghi: "Như Lai mở bày, hiển lộ pháp thanh tịnh không che giấu. Người mê không rõ cho là bí tạng, người trí thông đạt không gọi là Tạng." Thế mà có những người ngu si vọng nói pháp quan thì rõ ràng phân minh, còn pháp Phật thì ẩn giấu; giả dối bịa ra những lời sai trái, đóng cửa truyền trao, gọi đây là chỗ sâu kín của sinh tử, làm mê hoặc người sau. Đến chết không nói cho người nghe. Đợi đến lúc sắp qua đời thì hoàn toàn không lợi ích, rất giống đứa bé nghèo nàn được cục sắt cho là vàng ròng, đem đến trước người mắt sáng thì làm sao lấy ra? Tự thân không biết là sai, ngược lại nói dối có thể lãnh hội. Đây chính là lừa dối người, cũng là tự lừa dối mình. Huống chi biết Phật nói tất cả pháp để độ tất cả tâm. Bởi vì tâm thể chúng sinh vốn là một, chỗ dùng không giống nhau, nên nói tất cả pháp. Tổ Sư nói: "Bình, mâm, thoa, vòng vốn cùng là một thứ vàng, nói về tướng thì khác nhau, nhưng thể chỉ là một. Than ôi! Thời mạt pháp sinh ra lắm sự gian dối, số người thường hay mất đi bản thể của mình rất nhiều. Đây là bôi nước sơn Tân-la lên đồng của Cao ly, dùng lời khéo léo, và màu sắc làm mê muội người đời. Một việc sai trái đã làm thì trăm việc chân thật không biện minh được, huống chi người thích lợi nhỏ. Bậc thượng nhân mua chiếu không chọn đẹp xấu, vì nếu muốn giá rẻ mà đẹp thì dễ bị người khác trét một nắm tro vào mắt mình, kéo vào trong nơi tối tăm, lúc thoát ra và mở mắt thì dù lấy tay nắm đất màu vàng, cũng không nhận ra, thì làm sao phân biệt vàng thau được?
Người ngu được đồng vào tay thì thầm trân trọng giữ gìn, cho là vật hiếm có, rất sợ người khác bỗng nhiên lấy được, có người hiểu biết chỉ bày cho hắn, mới biết nó chẳng đáng xu nào. Người như vậy ở đâu cũng có. Chỉ vì họ ngu si, phước mỏng có mắt mà không tròng, cẩu thả lỗ mãng, vì thế không gặp được bậc thầy chân chánh, đến nỗi phải như vậy. Thật không ngờ vàng ròng vốn có xưa nay chẳng phải do thợ luyện thành, một phen đau lòng vì kèm búa trải qua một thời gian mới thấy tánh mềm mại óng ánh được, một khối sáng rực một thể toàn chân, sau đó tùy ý mình tạo thành những đồ dùng, ánh sáng chói lọi tâm mắt con người, mãi mãi không đổi mầu; vốn biết ngoài nó ra đều không đáng nói, chẳng phải là vật chí bảo sao?
Người xuất gia chánh tín nên phải xem xét.
16. Nói về ánh sáng hơn cả mặt trời, mặt trăng.
Kinh Đại Di-đà ghi: Ánh sáng của Phật A-diđà rất rực rỡ, đứng đầu trong tất cả ánh sáng của chư Phật. Nên gọi là Phật Vô Lượng Quang, Phật Vô Biên Quang, Phật Vô Ngại Quang, Phật Vô Đối Quang, Phật Quang Diệm Vương Quang, Phật Thanh Tịnh Quang, Phật Hoan Hỷ Quang, Trí Tuệ Quang, Phật Bất Đoan Quang, Phật Nan Tư Quang, Phật Vô Xứng Quang, Phật Siêu Nhật Nguyệt Quang. Vì thế ánh sáng của Ngài chiếu soi vô số chỗ tối tăm trong thiên hạ, đều được sáng tỏ. Chư thiên, nhân dân, chim, thú, bò bay máy cựa thấy ánh sáng này, không ai không vui mừng mà sinh tâm từ, tất cả đều được giải tho-át. Cho nên chư Phật mười phương, Bồ-tát, Duyên giác, Thanh văn tất cả đều xưng tán. Vì thế gọi là Phật Siêu Nhật Nguyệt Quang. Bởi vì mặt trời soi chiếu ban ngày, mặt trăng soi chiếu ban đêm, công đức ấy không hoàn toàn bằng ánh sáng của Phật chiếu suốt ngày đêm không thiếu sót, nên gọi là ánh sáng hơn cả mặt trời, mặt trăng.
Nay có hạng người ngu si vọng chỉ dạy người lúc mặt trời, mặt trăng mới mọc, dùng miệng hút ánh sáng ấy vào bụng, muốn nó thành vật quý báu để tu hành bí pháp. Gọi đó là ánh sáng hơn cả mặt trời, mặt trăng. Thật là quá sai lầm! Giống như trên vách đá cheo leo vượn ngu tay luôn chuyền cành, như người mò trăng đáy nước, thật nhọc tâm tốn sức, rốt cuộc không được gì. Nếu người trí quán chiếu thông đạt phải mau lìa bỏ, sớm cầu chánh pháp, khỏi đọa bờ mê, chuyên niệm Phật Di-đà, cứu xét rõ ràng tâm địa. Há không thấy đạo của Tổ sư, người theo nhập môn không phải là gia đình giàu có, nhưng linh quang của mình chiếu sáng khắp thiên hạ. Bản tánh của mỗi người vốn tự tròn đầy. Một điểm linh quang không ở trong, không ở ngoài, mỗi người đều rõ ràng sáng suốt. Nếu ngộ được điều này tức là được một luồng ánh sáng rực rỡ hơn mặt trời, mặt trăng của Như Lai.
17. Nói về hạt châu trong búi tóc.
Về hạt châu trong búi tóc, kinh Pháp Hoa ghi: "Như vua Chuyển Luân được làm khuôn phép cho các cõi nước, làm vua trong ba cõi. Nhưng các vua nhỏ không chịu hàng phục. Bấy giờ, vua Chuyển
Luân dấy binh qua đánh dẹp. Những người đánh giặc có công, vua ban thưởng đủ các vật, chỉ riêng hạt châu này trên đảnh vua thì không cho, sau cùng mới cho. Như Lai cũng giống như vậy, thấy quân hiền Thánh đánh nhau với ma năm ấm, ma phiền não, ma chết, diệt được ba độc, ra khỏi ba cõi, phá được lưới ma. Bấy giờ, Như Lai cũng rất vui mừng, nói cho họ nghe các pháp nhưng chưa nói cho họ nghe kinh Pháp Hoa này. Nay mới nói kinh Pháp Hoa, như vua Chuyển Luân từ lâu giữ gìn viên minh châu, sau cùng mới ban cho." Đó là vì Đức Thế Tôn sau cùng nói pháp báu Đại thừa này, siêu xuất trên các bậc Thánh. Lấy châu trong búi tóc luân vương làm thí dụ. Châu này là trí tròn đầy của chư Phật, là lý tánh của chúng sinh. Ngộ điều này thì Tam-kỳ mau vượt qua, còn mê thì chìm đắm trong sáu đường. Nay có hạng người ngu si hiểu sai yếu chỉ của kinh, vọng lấy vận khí nhập vào đảnh làm hạt châu trong búi tóc, gọi đó là pháp tối thượng thừa, thầm truyền bá khắp nơi, dạy người vận chuyển tinh khí xung nhập vào đỉnh đầu. Phải học trên đảnh Đức Thế Tôn có hạt châu trong nhục kế. Vì sao? Vì người ngu không ngờ nhục kế của Thế Tôn là vô kiến, Đảnh tướng biểu thị cho đại pháp Nhất thừa. Vô kiến là tự mình không thể thấy vì lìa sự tự thấy, hướng thượng đến chỗ cùng cực thì các Thánh đều không thấy được, vì lìa cái thấy khác. Thiền sư Thọ có bài tâm phú ghi: Pháp tòa cao cao hàng Thanh văn thấp kém chẳng thể lên được. Mặt trời chói sáng lẽ nào ngoại đạo trẻ em thấy được, vô thiên, vô đảng, chí cực, chí tôn. Than ôi! Người ngu không hiểu chánh pháp, điên đảo mê lầm, gieo họa gây ương cho người đời sau. Lừa bịp người khác hướng thiện, tự mình rơi xuống hố sâu, thật đáng tiếc thay! Vì vậy xin khuyên các tín sĩ phải cẩn thận tham cứu chánh giáo. Tâm cung kính niệm Phật, ăn năn những sai lầm trước, rõ biết các pháp vốn không, thì hạt ngọc trong búi tóc tự nhiên hiển hiện, phơi bày rõ ràng, lẽ nào tìm cầu ở bên ngoài?
18. Nói về quả Vô lậu.
Kinh Pháp Hoa ghi: "Các lậu đã hết, không còn phiền não." Đây là sự tu hành của bậc Thanh văn La-hán đến chỗ tập-lậu đều không.
Vô lậu: Bởi vì lục căn của con người thường bị lục trần: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mê hoặc. Tâm nương theo cảnh chuyển thành duyên hữu lậu, vì thế luân hồi mãi mãi. Người tu hành thì lục căn tự thanh tịnh, không bị lục trần lôi cuốn, tức là vô lậu.
Nay có người ngu si vọng cho rằng ghèn, nước mũi, nước mắt thảy đều ăn được, gọi đó là tu vô lậu. Vì sao ngu xuẩn như vậy? Tôi rất thương xót, hỏi họ rằng: Lục căn, bốn đại là bao đựng máu mủ, túi đựng phẩn tiểu. Nước mắt, nước mũi đều là bất tịnh làm sao ăn được?
Người ấy đáp: Trong thân có bảy báu, không thể bỏ đi, nếu khéo thâu thập sẽ kết tinh thành xálợi, chứng vô lậu.
Khổ thay! Khổ thay! Điên đảo như vậy mà có thể chịu được chăng? Lại có một hạng chúng sinh cho bí tinh là vô lậu, lẫn lộn trong giáo pháp ta. Truyền lẫn nhau những thói xấu xa, tham dục làm hại chánh pháp. Đây chính là yêu tinh, quỷ tánh, ngày tán đêm tụ ăn uống. Những bọn theo sự ma quái này không phải đệ tử của Liên tông (Tịnh độ). Gần đây có nhiều loại người như vậy, xúi giục mọi người. Nam, nữ cư sĩ không hiểu biết, hăng hái đi vào đường ma. Nên kinh Lăng-nghiêm ghi: "Này thiện nam! Cội gốc của tâm ái nhìn khắp vật hóa", Thiên ma được dịp phi tinh đến gần người nói: "Phật Niết-bàn tức là nhục thân hiện tiền, cha cha con con sinh ra lẫn nhau, thường trụ không dứt, không phân biệt tịnh cư". Người ngu tin nhận, mất đi bổn tâm, nghi ngờ Bồ-tát. Họ thường nói: Mắt tai, mũi, lưỡi đều là Tịnh độ, hai căn nam nữ tức là Bồ-đề. Hoặc ăn phẩn tiểu, hành dâm dục dơ uế. Người vô tri kia tin theo lời nói dơ uế này, dễ rơi vào đường ma. Đây gọi là trùng độc, quỷ ác não loạn, loại người này thầy và đệ tử đều rơi vào nạn vua. Ông nên tỉnh giác trước để khỏi nhập vào luân hồi; mê hoặc không biết, đọa vào ngục Vô-gián, khi nghiệp ở địa ngục tiêu lại đọa vào súc sinh, ngạ quỷ. Nay thấy bọn tà Sư làm quấy, mượn giáo môn của Phật tổ, tạo ra nghiệp ác bất tịnh, ngược lại với trời đất (nhị nghi), trái với tam quang (mặt trời, mặt trăng, sao), hủy báng Phật tổ, rối loạn nhân luân, hèn hạ như dòi trùng chui rúc chỗ dơ uế, hiện tại chịu nhiều khổ đau, sau khi chết chìm đắm vào biển khổ. Tội quả này làm sao trốn khỏi? Thật không đáng lo sợ ư? Chẳng những sau khi chết chịu quả báo, mà còn không được pháp quan dung tha. Nói rằng: Đạo lý dùng chính sách, xử trị dùng hình phạt để người dân tránh tội mà không hổ thẹn, còn đạo lý dùng đức xử trị, dùng lễ nghi thì có sự hổ thẹn, thật đúng với quy cách. Lời nói này chân thành thay! Nay khuyên những người lành, quán sát kỹ lời dạy của bậc Thánh, nên tự biết xấu hổ, chớ ngại sửa lỗi, bỏ tình dứt nghĩ, sửa đổi sự tu hành của mình, lấy lời dạy xưa để chiếu tâm thì tâm tự sáng, gương xưa chiếu yêu tinh thì yêu tinh tự hiện hình. Nếu chuyên tu tịnh hạnh, hướng về Bồ-đề, thì quyết không sai lầm. Nếu không như vậy thì biển nghiệp ba đường không có bờ mé, ngàn Phật ra đời cũng khó cứu được.
19. Nói về trà Triệu Châu.
Xưa, Hòa thượng Triệu Châu gặp vị Tăng hỏi:
- Ông có đến đây chưa? Vị Tăng đáp:
- Có đến.
- Uống trà đi!
Hòa thượng lại hỏi vị Tăng:
- Có đến đây chưa? Tăng đáp:
- Chưa từng đến.
- Uống trà đi! Viện chủ hỏi:
- Có đến hay chưa từng đến, vì sao vẫn bảo uống trà đi?
Ngài Triệu Châu gọi:
- Viện chủ.
- Dạ.
- Uống trà đi!
Tòng lâm nhân đây có công án "Trà Triệu Châu".
Nay người ngu không rõ đại ý của Tổ sư, vọng tạo tác nước trong miệng súc ba mươi sáu lần rồi uống. Gọi đó là uống trà Triệu Châu. Hoặc có người lúc sắp qua đời vọng chỉ dạy người dùng bột châu sa thay trà rót vào ly rồi uống hết, liền chết, cho là lãnh hội được điều then chốt của Triệu Châu. Thật đáng thương xót. Có bọn yêu ma lấy nước tiểu làm trà Triệu Châu, tại sao ngu si như vậy? Thế chẳng phải là yêu quái ư?
Người tu tâm chân chánh chỉ y theo bổn phận niệm Phật, cầu sinh Tịnh độ, dè dặt không được vọng đem công án của Tổ sư để bịa đặt, xuyên tạc. Ấy là phạm tội huỷ báng Đại Bát-nhã. Nếu không thấy đạo thì thà thân này bị nghiền nát trải qua ngàn muôn kiếp, chớ đem Phật pháp tuyên dương một cách sai lầm.
20. Nói về truyền riêng ngoài giáo.
Thiền sư Viên Ngộ Khắc Cần nói: Bậc đại Thánh ở Tây phương thị hiện ở nước Ca-duy-la, diệu dụng vô lượng vô biên, gợi mở dìu dắt chúng sinh, dùng nhiều phương tiện thuận, nghịch, khai, già. Ngoài ra, những lời dạy kinh điển để lại chứa đầy kho báu, cho đến về sau mới bắt đầu xuất hiện một điểm then chốt, gọi là truyền riêng ngoài giáo. Kể từ khi Ca-diếp mỉm cười thừa kế pháp tạng đến nay, liên tục chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật", không lập thứ bậc, không sinh tri kiến. Bậc lợi căn thượng trí hướng đến hang ổ vô minh, xét tận cội gốc phiền não, liền siêu chứng được giải thoát hoàn toàn. Tây phương hai mươi tám vị, Đông độ sáu vị đều là bậc long tượng dẫm chân đến. Các Ngài tư chất thù thắng, tính cách cao cường. Bên ngoài am hiểu các sự việc, bên trong nghiệp chướng băng tiêu, cắt đứt các duyên phiền phức, tự làm chủ mình tạo thành một khối, mau khế hợp Phật địa (địa vị Phật). Nếu không chịu chết chìm trong nước, lại nói ra câu thấy được huyền diệu, vượt hơn Phật tổ, chặt dứt sắn bìm trên đường, như huơ thanh kiếm Thái A, uy thần lẫm liệt, người nào dám gần, bậc tác gia xác thật luận bàn về lượng mới có hướng thượng, hướng hạ, nói huyền nói diệu, tác dụng mảy may, cho dù bị la mắng thì cho là không phải trồng cơ (?), ngay đó thành tựu, tôi luyện được thành thục, đứng vững. Ban đầu gây tội còn sợ, lúc khác về sau như bọn cướp hại người, làm mờ mắt chánh pháp. Ôi! Gặp phải thứ chủng tộc đui mù bẩm sinh chưa từng mộng thấy Tổ sư, lại nói Ngài Đạt-ma quy không, gọi đó là truyền pháp cứu mê tình. Cho đến mượn danh của Mã Tổ, Triệu Châu, bậc thầy của đại tông tối thượng để lừa bịp người sau. Lại còn khoác lác nói việc sơ Tổ quảy một chiếc giày về Tây, Phổ Hóa nói trong quan tài trống không là pháp thuật có linh nghiệm, gọi đó là thể xác và tinh thần đều vi diệu, pháp sinh tử bí mật. Họ tương truyền học tập lẫn nhau và ai cũng thích điều này. Sinh ra lo sợ ngày ba mươi tháng chạp (ngày chết), hốt hoảng tranh nhau học cách trở về, đêm ba mươi lạy ảnh gọi chủ nhân ông. Đây thật là dối gạt Diêm-la, chạy theo hư ngụy, gây tạo tội lỗi, bị các cao nhân chê cười. Lại có hạng người mượn nguồn gốc của Đạtma, Triệu Châu, mười hai thời riêng ca bài tụng Bàng cư sĩ chuyển hà xa, chỉ dạy lẫn nhau, âm thầm truyền trì, hy vọng sinh lên cõi trời. Lại còn nói biết trước ngày chết mà không biết đây thật là các vọng tưởng, tà tâm, ái kiến, vốn là nhân lành lại vời lấy quả ác. Thường thấy những người tài giỏi có tài biện luận, nhưng không biết nhân của Tông, thường tin điều ấy, đâu biết đánh mất nếp cũ, vẽ cọp thành chồn, gặp người sáng mắt thấy rõ, lặng nhìn thương xót! Lẽ nào thể tài của chư Phật và các Tổ chỉ có như vậy ư? Không hề soi chiếu lại chính mình từ đầu đến cuối cố nhiên có thể biết. Người trong nước học điều này đông như mè như lúa, dần dần thành phong trào, không biết là kỳ quái. Còn các bậc trí thức sớm nhận ra nên không theo thói cũ. Lo sợ nghĩ mình chưa thâm nhập chỗ then chốt. Lập chí tuy chuyên chú, lặn lội tuy xa, gặp người Tăng thượng mạn dắt dẫn vào rừng tà kiến, một lần sai trái mãi mãi không quay lại. Cứ thế trôi lăn dài lâu không thể ngừng dứt được. Vì vậy nêu ra những lời này, thông báo cho mọi người; ngõ hầu những người có chí nguyện đối với đại giải thoát, đại tổng trì có thể phân biệt rõ mà cùng nhập vào biển đại Tát-bà-nhã, lái thuyền từ tiếp độ chúng sinh, khiến cho diệu đạo chân chánh lưu truyền không dứt, lẽ nào không nhanh chóng ư!
21. Nói về đóng cửa các đường ác, mở bày đường chánh Niết-bàn.
Cửa các đường ác chính là Tam nghiệp thân, khẩu, ý. Đó là: Sát sinh, trộm cắp, dâm dục của thân, nói dối, nói thiêu dệt, nói lời hung ác, nói lưỡi đôi chiều của miệng và tham lam, sân hận, si mê của ý Người tu Tịnh nghiệp phải chánh tâm hướng về đạo, cắt dứt mười hạnh bất thiện trên thì không rơi vào đường ác. Gọi đó là đóng cửa các đường ác. Khai thị là chỉ ra, Niết-bàn là bất sinh bất diệt. Chánh là con đường không thiên một bên, tức là con đường Tây phương. Nay có người ngu si cho rằng miệng là cửa các đường ác, mũi là đường Niết-bàn, dạy người lúc sắp qua đời khẩn trương bịt miệng họ, khiến cho khí từ mũi xuất ra, gọi đó là một bước ra khỏi cửa. Lại vọng lấy chữ A làm công án, dạy người trong miệng ra sức chịu đựng tất cả khí thấu qua một cửa này. Hoặc nói xung quanh chữ A là rượu, sắc, tài, khí, hoặc nói là đất, nước, lửa, gió, hoặc nói là sinh, già, bệnh, chết v.v... Ấy đều là mười mức độ vọng chấp quanh co. Than ôi! Một chữ A này lừa dối biết bao nhiêu người. Thật không biết chữ này trong "Ngọc thiên" có ghi rõ: Hộ ngọa thiết (âm là họa) tức là chữ A khứ thanh. Chữ A tất cả người đời trong miệng chưa từng không nói. Dụ như mất vật, người bỗng tìm thấy, bất giác phát ra tiếng này, chính là chữ A. Tông môn nói nhiều về chữ này. Bởi vì người tìm thầy học đạo, tham cứu hai, ba mươi năm, bỗng nhiên tâm phát hiện hiểu được việc này, bất giác vang lên tiếng A, như mất vật mà tìm thấy được, vui mừng như được sống lại, chính là nghĩa của chữ này. Như vậy thì người niệm Phật chỉ cần trong từng niệm tỉnh thức. Rốt ráo bản tánh Di-đà, bỗng nhiên thân ngộ, thân thấy, thật sự đạt đến chỗ tiếng vang "A", tự nhiên rõ ràng thông suốt. Cho nên Thiền sư Trí Giác Từ Thọ nói: "Ngoài tâm cầu pháp như mong gái đã sinh con. Ý khởi suy nghĩ, như chờ hoa đốm giữa hư không kết quả, vốn không bao giờ có tánh tự vô vi, trí không thể vận chuyển ý này, hình tượng dùng gì để diễn tả hình nghi ấy. Đường ngôn ngữ mất, là ngày tìm được đường về. Chỗ tâm hành diệt, là lúc trút bỏ thân mạng. Có thể nói chỉ một việc này là thật, ngoài ra các việc khác đều là luống dối.
22. Nói về bốn loài sinh.
Thiền sư Đại Châu Tuệ Hải nói: "Chín loài chúng sinh, một tâm đầy đủ, hễ gây nhân loài nào thì thành loài đó. Vô minh ngu tối là noãn sinh, phiền não trói buộc là thai sinh, thích nước thấm nhuần là thấp sinh, khởi vọng niệm là hóa sinh. Ngộ gọi là Phật, mê gọi là chúng sinh. Bồ-tát chỉ nhớ nghĩ đến độ chúng sinh, nếu hiểu rõ tâm thể vắng lặng gọi là đô chúng sinh. Người trí từ trên bản tế của mình hóa độ khi chưa thành hình, chưa thành hình đã không, thì biết thật không có chúng sinh nào được diệt độ." Nay có hạng người ngu si không biết tâm mình, dự đoán bừa bãi, vọng nói lúc qua đời mắt thấy các thứ xe ngựa, lầu đài, phướn lọng, chũm chọe là bốn sinh; đầu thai trong sáu đường đi không theo người khác là thoát khỏi bốn sinh. Thật không biết cảnh hiện ra lúc sắp qua đời là những nghiệp thiện ác đã gây ra lúc còn sống. Thần thức tự hiện ra chẳng phải do bên ngoài mang đến. Cho nên người xưa nói: "Làm ác thì cảnh ác hiện ra trước mắt, niệm Phật thì cảnh giới Phật tự đến. Nếu trong lúc này nắm bắt không vững, không làm chủ được, thường bị điên đảo vọng tưởng sai sử, đến lúc gió lửa tan hoại như con cua trong nồi nước sôi thì làm sao làm chủ được? Vì thế, Thiền sư Khuê Phong nói: "Làm việc có nghĩa là tâm tỉnh ngộ, làm việc vô nghĩa là tâm cuồng loạn. Cuồng loạn tùy theo niệm chúng sinh nên qua đời bị nghiệp dẫn dắt. Tỉnh ngộ không theo niệm hữu tình nên lúc qua đời có thể chuyển nghiệp." Nay nêu ra lời này nói thẳng với mọi người phải tự nhớ nghĩ, ta nay tu hành Tịnh nghiệp vốn để thoát khỏi sinh tử. Phật Tổ rủ lòng Từ dạy bảo, há lừa dối ta ư? Vì thế chúng ta phải nương chánh pháp, một lòng chân thật chuyên niệm Phật Di-đà, lìa bỏ các luống dối, sáng chiều niệm Phật nguyện sinh Tây phương. Như thế thì nghiệp thức trần lao lập tức tiêu tan. Nhìn lại chính mình việc sinh tử còn không thật có thì còn nói gì là chúng sinh, nên sám nói: Trong một niệm được Tam-muội Niệm Phật, độ khắp chúng sinh trong sáu đường ở khắp mười phương, tất cả chúng sinh đều ra khỏi vòng khổ, đồng sinh Tịnh độ. Có thể nói vọng tâm là Bồ-đề; sinh tử, Niết-bàn vốn như nhau. 23. Phá vọng lập mười hiệu.
Văn Tây phương ghi: Người niệm Phật, ở trong tướng tốt sáng chói được thấy Phật Di-đà thì vô minh liền tiêu trừ, phiền não mất hẳn, cửa pháp giới bổng nhiên thông suốt, đường nhất thừa khai mở, mười hiệu đầy đủ rõ ràng, ba thân hiển bày tròn đầy. Đây là nói về người tu hành chứng quả Phật, mười hiệu hiển bày.
Mười hiệu: Kinh Bồ-tát Thiện Giới ghi:
1. Như Lai: Không luống dối.
2. Ứng Cúng: Ruộng phước tốt lành.
3. Chánh Biến Tri: Biết pháp giới.
4. Minh Hạnh Túc: Đầy đủ tam minh: Thiên nhãn trí minh, túc mạng trí minh và lậu tận trí minh.
5. Thiện Thệ: Không trở lại.
6. Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ: Biết hai thế gian: Thế gian quốc độ (vô tình) và thế gian chúng sinh (hữu tình).
7. Điều Ngự Trượng Phu: Có khả năng điều phục các chúng sinh xấu ác.
8. Thiên Nhân Sư: Làm chỗ nương tựa cho tất cả chúng sinh.
9. Phật: Biết pháp tu thiện, bất thiện; pháp tu chẳng phải thiện, chẳng phải bất thiện.
10. Thế Tôn: Trong một cõi nước không có hai vị Phật.
Vì sao người ngu không biết Phật pháp vọng lập mười hiệu quy trình, xưng là Đại sư Đạt-ma truyền đến bí Pháp sinh tử. Lại nói: Thước sào quán đảnh, lô nha xuyên, ngọc trụ thô hỗn, xà nhập côn đang Ba-tư dâng hiến của báu, trống trời không kêu, ao sen khô cạn, nhị tổ (Tuệ Khả) chặt tay, đứng tuyết phủ ngang hông, Thần Quang bất hiện, lấy mười việc này gọi là việc nhân duyên lớn. Liên tông rõ ràng bị bọn thầy mù kẻ đui, truyền trao lẫn nhau, dối gạt tính mạng con người. Từ tối vào tối, đọa vào phi đạo, làm sao không suy nghĩ được? Đại sư Đạt-ma ban đầu đến nước này, không lập văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật. Sao lại có đặt ra một pháp truyền trao được? Lẽ nào không nghe Ngũ tổ Hoằng Nhẫn đại Sư nói với Lục tổ rằng: Phật tức là lấy tâm truyền tâm, Thiền pháp tức là lấy tâm ấn tâm, Phật Phật chỉ truyền bản thể, Tổ Tổ thầm phó bản tâm là vậy.
Trang Tử nói: Nếu đem cái hay của đạo truyền trao cho người thì không ai không truyền cho con cháu. Nếu đem cái hay của đạo dâng hiến cho người thì không ai không dâng hiến cho vua tôi. Đạo không thể truyền trao, dâng hiến, trong không có chủ, ngoài không có sự chứng nghiệm. Lại từng nghe Phật Thích-ca Thế Tôn ngàn đời hun đúc đạo hạnh, trăm kiếp tu tâm. Từ cung trời Đâu-suất giáng sinh chốn cung vua. Ngài từ bỏ vinh hoa giàu sang, đến núi Tuyết tu hành, sáu năm khổ hạnh chỉ ăn mè lúa, thấy sao sáng (sao mai) ngộ đạo thành Phật. Trong loài người và bậc Thánh xưng là bậc Đại giác, mười hiệu đầy đủ, làm thầy trời, người. Còn các loại chim khách làm tổ trên đầu, mầm lau xuyên đùi đều là việc thật sự thuở xưa, ban đầu không có pháp biểu hiện chỉ là nói lên ý ngồi yên bất động, định lâu quên thân. Người học sau này không gần gũi bậc tri thức, không thể nhận được Phật của mình, kiến lập giáo môn thật không phải chuyện dễ. Mới được nhập vào tông môn khác, hạnh nguyện không huân tập, thấy biết cũng không, liền muốn làm thầy truyền độ đệ tử, ra oai ra dáng, khoe khoang mình là người đã lãnh hội. Vì thế rơi vào bọn tà ma, học nhiều pháp tà khác, nhiều chất độc ngấm vào tâm như quỷ bị té xuống nước, như trong bóng tối kéo người xuống địa ngục. Khổ thay! Khổ thay!
Nếu Nhị Tổ chặt tay, đứng tuyết phủ ngang hông chính là lúc ấy nhờ ý chí mạnh mẽ vì pháp quên thân. Bản truyện có ghi đầy đủ rõ ràng, người học phải nên nghiên cứu kỹ càng. Lẽ nào có thể vọng làm cam chịu, tội hủy báng Phật pháp mãi mãi chìm đắm trong bể khổ. Ngài Vĩnh Gia nói: "Sai chẳng sai mà đúng cũng chẳng đúng, sai một mảy may mất đi ngàn dặm, đúng thì Long nữ lập tức thành Phật, sai thì Thiện Tinh còn sống đã rơi vào địa ngục. Có tin chăng, tận tình quét sạch căn nhà trống, cây sắt nở hoa riêng gì xuân."
24. Thệ nguyện lưu thông.
Thiết nghĩ một niệm đầu tiêu vốn từ trong Tịnh độ mà có, chìm đắm nhiều đời, chưa thoát khỏi thế giới Ta-bà, may mắn gặp được Liên xã, gặp được chánh tông. Mong nhờ bóng mát Tam bảo, cảm ơn sự dạy dỗ của các bậc Đạo sư, xin cúi đầu làm đệ tử của giáo môn. Có nhiều người tu hành sai đường, không còn tín tâm đối với Phật pháp, biến thành dân ma. Đến nỗi người lương thiện cũng gặp phải tà đạo. Chánh nhân mất hẳn thì tuệ mạng khó còn, ngược lại chiêu cảm tội hủy báng Phật pháp, người có công đức trì tụng, thấy cảnh giới này than dài, thống thiết thân tâm, không thể nhịn được. Vì thế chúng ta phải sưu tầm ý chỉ của Đại tạng, để chứng minh bổn tông, quét sạch chỗ đúng sai của trăm tông phái, soi sáng đại đạo. Thông thường là nương kinh luận nói rõ lý, hiển bày chánh xô ngã tà, chiếu rõ khắp nơi nên gọi là Bảo giám (gương báu). Giúp cho hàng hậu học soi rõ mắt tâm, đẹp xấu tự biết, dắt người lạc đường trở về nhà, khỏi bị trôi nổi long đong.
Tập sách này đã hoàn thành, muốn bày tỏ ý chí, trăm lạy tổ đình, lại lập thệ lớn, kính bạch chư Phật mười phương, các Đại tổ sư mong được ban từ quang, chứng minh lời cầu nguyện thành kính. Tự phát tâm lập nguyện nương theo số chữ trong các thiên của tập Liên Tông Bảo giám, mỗi chữ ba lạy, mỗi lạy niệm một biến tâm chú Lăng-nghiêm, ba lần xưng tôn hiệu Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát, mong lòng Từ bi của Ngài thương xót ban cho pháp lực, ngầm tăng thêm sức mạnh, khiến cho tà ma ngoại đạo quy y, muốn chân thừa truyền bá, cho người mù được sáng mắt. Đối với các bệnh khổ nguyện làm thuốc hay, trong đường u ám tối tăm làm đèn đuốc soi sáng, trong biển khổ sóng lớn làm thuyền bè! Chỗ hiểm nguy làm chiếc cầu lớn, trong đường mê chỉ cho đường chánh. Rộng vì các thượng thiện nhân trong các Liên xã ở mười phương, cùng sám hối, gột rửa thân tâm. Mỗi nguyện tiêu trừ nghiệp chướng, tội phi pháp nói pháp, pháp nói phi pháp. Một trí có thể diệt ngu si muôn năm, như một ngọn đèn có thể xua tan sự u tối ngàn năm. Ý vọng đông không còn thì hoa đốm trong hư không biến mất, chánh tín sinh thì tịnh hạnh rõ ràng. Một lòng tin lạy Phật Di-đà, hồi hướng cùng khắp đại chúng, từ hôm nay đều phát tâm Bồ-đề, đến tận muôn kiếp vị lai thường thực hành đạo Bồ-tát, lìa phi phạm hạnh, xa thầy tà kiến. Nguyện hết báo thân này cùng sinh về nước An dưỡng, thường tu sáu niệm và Lục Ba-la-mật, rộng chuyển vận bốn tâm vô lượng, bốn thệ nguyện rộng lớn, phát bốn mươi tám lời nguyện như Phật Diđà, đắc Tam-muội niệm Phật như Ngài Đại Thế Chí, tu theo hạnh nguyện của Ngài Phổ Hiền, như lòng Từ bi của Ngài Quán Thế Âm, học trí tuệ như Ngài Văn-Thù, kế đến là chứng Nhất sinh bổ xứ như Ngài Di-lặc. Mau nhập vào pháp giới, viên chứng thượng thừa, phân thân trùm khắp mười phương, lòng Từ bi rộng lớn, độ khắp tất cả chúng sinh. Dựng cờ pháp, lập tông chỉ, chiếu sáng mắt tuệ trừ ngu si tối tăm. Các tà ma, ngoại đạo hết thảy đều quy hàng. Khắp nơi đều được hướng dẫn, biện tài vô ngại làm lợi khắp trần sa, uy đức vô biên cứu giúp hàm thức (chúng sinh), cha mẹ sư trưởng đều chứng pháp môn giải thoát, oán thân nhiều kiếp tất cả đều ra khỏi biển đắm chìm.
Mong rằng, người nhìn thấy tập sách này khởi tâm hộ pháp, diệt sạch mê tình trong nhiều kiếp, xé rách lưới nghi ngàn lớp, mau mở được chánh nhãn, ngộ rõ bổn tâm. Đạo tràng Tịnh độ bất động mà đến, khắp Tây phương Đại Thánh như ở trước mặt, muôn pháp nhiệm mầu rõ ràng cũng tại đây. Chỉ mong trời, rồng vui mừng nghe chánh pháp để che chở, phàm Thánh quy y, quét sạch tà phong, mở mang Tổ đạo, truyền bá tông phong, dung hòa đại thiên làm thành một cõi nước to lớn trong sạch. Khiến cho tất cả chúng sinh yêu thích giáo hóa vô vi, chánh kiến, và tà kiến đều nhập Vô sinh.
Ân lớn.
Ơn Phật đáp đền trong nhất thời, thế giới hư không cùng tận, cõi chúng sinh cùng tận, nghiệp chướng chúng sinh cùng tận, phiền não của chúng sinh cùng tận, nguyện con mới cùng tận. Thế giới hư không cho đến nghiệp chướng, phiền não chúng sinh không thể cùng tận thì nguyện vương này của con không cùng tận. Niệm niệm nối nhau, không xen hở, Tam nghiệp thân, khẩu, ý không mệt mỏi nhàm chán. Bồ-tát Phổ Hiền phát nguyện như vậy, các Đại Tổ sư phát nguyện cũng giống như vậy, nay nguyện con cũng giống như vậy. Rộng vì đại chúng Liên xã phát nguyện cũng giống như vậy. Đến tận mé vị lai tất cả hữu tình và vô tình phát nguyện cũng giống như vậy. Như thế không ai không như vậy, nguyện đồng như hằng sa chúng này đều nhập vào biển nguyện của Như Lai.
Các bậc Danh đức viết lời bạt.
1. Tôi từng xem cái ngày nay gọi là tôn sùng Liên tông, phần nhiều không dựa theo ý của tổ Tuệ Viễn, chẳng phải có thứ tự tiến tu mà còn mê hoặc nơi thầy tà, hiểu bậy. Hận rằng chưa có người nào có thể cứu vớt sự tệ hại này, Đại sư Ưu-Đàm bèn tham cứu kinh luận, truyện ký và cả các bậc lão Tăng, danh Nho xưa nay, tập hợp các lời lành tốt rồi chỉnh sửa viết thành tập gồm mười quyển gọi là Liên tông Bảo giám. Lập ra chính luận để phá bỏ thuyết tà, phát khởi trí chân thật để trừ bỏ vọng tình, lời lẽ nghĩa ấy sâu xa mà sáng tỏ, những việc được nêu rõ ràng mà rốt ráo. Hợp ba giáo về một nguồn, thẳng một mối để dẫn dắt lòng tin. Như gương soi hình rõ ràng sáng tỏ, đâu phải chỉ dành riêng cho hạng thiện nhân chuyên niệm Phật cầu sinh Tịnh độ, mà còn mong mọi người sáng tỏ bản tâm, thấy tự tánh, ngay đây thành Phật. Do tôi từng đứng chủ Đông lâm muốn chuyển lại lời này để làm chứng và trả lời những người đã thật sự biết được tâm tôi, cùng quỳ chắp tay hướng về Tây mà rằng: Lành thay! Lành thay! Như vậy! Như vậy!
Năm Ất tỵ niên hiệu Đại Đức thứ 8, ngày 15 tháng 8. Thiên Đồng Viên Ứng ông già Tịnh Nhật ở Minh Châu đề.
2. Bảo Giám là tấm kính chiếu tâm. Tấm kính chủ yếu để soi sáng mọi sự tối tăm, phân biệt mọi sự xấu đẹp. Khi treo lên thì không gì không thấy. Đại sư Ưu-Đàm ở tổ đường Đông Lâm gọi là phổ độ vì Ngài có đủ chánh tri kiến, luôn luôn nghĩ đến sự hiểu lầm hiểu bậy Liên tông nên đã phán đoán trong các sách Nho, Thích, tuyển chọn thành Bảo Giám gồm mười quyển, phát minh Tam-muội niệm Phật chánh tông, phàm mỗi câu chữ đều dựa theo lời Phật tổ, Long thiên, quét sạch thuyết ma, thật là một pháp môn mạch lạc, có hệ thống, dụng ý chân thành, cần khổ. Tâm dũng cảm phò trợ tông phong đồng mấu chốt với tâm lập giáo của mười tám vị Hiền. Người nghe kẻ thấy đều đến đường cái, hoặc xuôi hoặc ngược đều được thoải mái. Lại viết kệ rằng:
Liên tông ngàn năm mở rộng chính luận
Bảo Giám sáng quắc treo tầng không
Nay đem bản in hoàn thành
Muôn lượng vàng ròng cũng đáng tiêu.
3. Liên tông viết: Tham thiền chủ yếu là thấy tánh, xem giáo quý ở soi tâm. Tôi cho rằng pháp môn niệm Phật cùng Thiền, Giáo đồng hành. Nay có Pháp sư Ưu-Đàm, Phổ Độ chọn lấy các yếu chỉ niệm Phật xưa nay gom thành một bộ, đặt tên là Liên tông Bảo Giám. Nếu kẻ nhờ lòng tin mà được tịnh niệm nối tiếp thì đâu cần có bản văn này. Còn kẻ chấp chặt hiểu bậy, không phân tốt xấu, giữa ban ngày lầm đường, nên đến đây lại qua kia thì nên lấy đây là kim chỉ nam.
Ngày 15 tháng lành năm Ất tỵ niên hiệu Đại Đức, Vụ Tây Phong, Tông Tín viết lời bạt.
4. Tự tánh Di-đà thời thời hiện, duy tâm Tịnh độ pháp pháp tỏ, ai nhớ Viễn Công ngàn năm sau, Liên tông Bảo Giám lại sáng rỡ.
Đại Khánh Thọ Tây Vân đề-Tông sư Phổ Độ Liên xã Đông lâm thuật.
Đọc lại việc Liên tông Bảo Giám bái yết lời gửi gắm của Viễn Công mà khởi tâm kính trọng. Xin kính nói kệ để cảm tạ:
Chúng sinh khắp nơi bệnh đau nhiều
Ngay sắp bệnh nặng khéo chữa trị
Nơi ao sen trắng, Ưu-Đàm hiện
Muôn hộc hương bay rợp gò lô.
Tiến Phúc Nguyệt.
Tham thiền và niệm Phật tôi đều không bỏ. Nghe rằng thiền có bênh thiền, Phật có ma của Phật. Cách xa thời Thánh hiền, đâu đâu cũng vậy. Đại sư Ưu-Đàm không thấy đành nên đã rộng dẫn chánh kinh để xóa hết thuyết tà, cho nên tập này chẳng phải vô ích. Ôi! làm sao để mọi người đều xem Bảo Giám, thấy suốt nguồn pháp, thức năng sở đều bị triệt tiêu, thị phi đều dứt. Từ Tịnh độ duy tâm thoáng đãng sáng sủa mà quên hết ngôn từ, hình ảnh, do đây tôi không thể không nói ra.
Bình Giang huyễn trụ-Minh Bổn kính viết lời bạt.
Pháp không tự có phải nhờ cảnh mới có, kiếm rời bao ra vì điều bất bình, thuốc ra khỏi lọ để trị bệnh. Đại sư Ưu-Đàm xót xa cho Sự tàn tạ của Liên tông, đã tìm tòi Đại tạng, nghiên cứu Bách gia, phát minh pháp môn Tam-muội niệm Phật tuyển chọn thành sách đặt tên là Bảo Giám, sự phân mười môn còn lý thì nhất chí. Bài xích thuyết tà, sữa chữa, thẩm duyệt là chỗ lầm lạc, không dựa vào lý luận chủ quan, tẩy rửa sự ngoan cố ngu xuẩn của ý, phá vỡ sự thiên chấp nơi nguồn tâm. Đến ngồi giác thành một cách sáng tỏ, tình ràng buộc nơi vườn ruộng, trước sau giải thích nghi ngờ báo ơn lớn muôn đời, khen ngợi chi bằng để lại đời sau.
Kinh Khâm tiếp đãi, Chủ Trí Thông kính viết.
Kết Liên xã để khai thị chúng sinh, Tổ Tuệ Viễn đã giáo hóa trước đây trên ngàn năm. Tập hợp pháp báu để làm gương soi (giám), Ngài Ưu-Đàm đã thị hiện vào cuối đời tượng pháp. Lấy hoa sen làm tên để hiển bày tâm này vốn tịnh, tông này thâu nhiếp cả ba căn cơ cùng chứng đắc trọn vẹn chân (????). Lấy báu làm ví dụ để cứu vớt vô lượng chúng sinh, gọi là gương soi (giám) vì xóa tan mọi bóng tối, thông suốt siêu vượt kiếp (????), rõ ràng thay chánh luận một nhà, rộng lớn thay việc phá trừ các tông dị thuyết. Bản văn này quả thật bổ ích. Từng xem trong tập (?????) và lời tựa của thiền kinh, có thể nói rằng ngàn năm trở về sau sự chứng đắc của Ưu-đà không có hạn lượng, Tổ sư Tuệ Viễn thọ ký quả phù hợp với ngày nay, điều này có chứng minh.
Tỳ-kheo Thiên Phong, năm Chí Hựu kính ghi.
Kinh lễ nói: "Người ấy tồn tại thì khuôn phép mới cất lên." Câu này có dụng ý nhắm đến ba tông. Bậc Thánh nhân hiện ra cõi đời để lập giáo, làm giác ngộ chúng sinh chưa giác ngộ, khác đường nhưng đồng về một chỗ, từ thời Trung cổ đã phân phái, càng phân càng chia chẻ (có lẽ là chữ???? chứ không phải chữ????), làm mất tông chỉ thì còn gì đáng nói nữa. Liên giáo từ khi được tôn giả ở Lô Sơn đời Đông Tấn khai mở, các Bậc hiền nổi danh đương thời như họ Lôi, Lưu đều ở trong xã, ta có thể lường được sự hưng thạnh của nó đến mức nào. Đến cuối đời Tống, hạng không thông tỏ tụ tập trong Liên tông phần nhiều không biết tông chỉ có tỳ vết, các Bậc hiền đời trước bị đời chê cười. Đại sư Ưu-Đàm ở Tổ đường Đông lâm thương xót cho giáo pháp bị chôn vùi và để cứu vớt những lầm lẫn tà vạy của hang phàm tục nên đã sưu tập lời tốt lành viết thành một thiên có tên là Liên tông Bảo Giám, để đạo của Phật, Tổ trở lại thông suốt, làm rõ ràng sáng tỏ chính luận như mặt trời, mong hàng Phật tử thấy tự tánh Di-đà, ngộ xưa nay thanh tịnh, chứ nào phải chỉ có xưng dương Thánh hiệu, nghĩ tưởng Tây phương mới được sinh về Tịnh độ mà thôi. Kẻ có kiến chấp như vậy đã cô phụ tôn giả Lô Sơn không ít.
(???) Ngày lập đông, tháng lành đầu niên hiệu Đại Cải, Hàn lâm học sĩ nhận chỉ giúp thiện đại phu quản lý việc bố cáo và sửa chữa quốc sử, trù trai Trương Trọng Thọ ghi.
Xé toạc lưới che, ra khỏi biển ái, phá vô minh, vượt khỏi hữu lậu thì chỉ có pháp môn niệm Phật đứng đầu. Giả như không quá một niệm liền khế chứng thì biển trần sát mênh mông sẽ về đâu. Trí chiếu soi thì không có ngăn cách Đông Tây, tịnh uế sai khác. Bốn loài chín cõi đều vào trong tạng (????) thần thông ánh sáng lớn. Từ khi Tổ Tuệ Viễn lập giáo, kẻ huân tu thấy nghe, đạt được lợi ích không thể đếm xuể. Than ôi, thời gian trôi qua lâu xa, pháp môn thành tệ hại, Đại sư Ưu-Đàm cảm thấy bất bình đã tập hợp những bản văn quan trọng của Đại tạng và dấu vết sáng tỏ của các Bậc hiền, đặt tên là Liên tông Bảo Giám, thân đem chiếu vua mà lưu hành ở đời, thật là bản luận muôn đời không dời đổi, để học giả đời sau, xem xét văn này, đầy đủ chánh kiến mà đồng dạo chơi nơi cõi Thường tịch quang, chẳng bổ ích sao???? sáng tháng giêng, năm Giáp dần. Lô Sơn vô trụ đạo nhân Trúc Nguyên Vĩnh Thạnh kính ghi. Cha mẹ chẳng phải người thân của ta thì còn ai khác? Chư Phật chẳng phải đạo của ta thì còn đạo nào đứng đầu? Cư sĩ Cổ Hồng Thủy Nguyệt-Hà Đạo Thăng đã vì mẹ mà giữ trai giới, bố thí tài sản, kêu gọi mọi người có duyên in một bộ Liên tông Bảo Giám, làm công việc lưu hành Phật pháp để báo đáp bốn ơn, mong mọi người đều được Tam-muội niệm Phật như Ngài Đai Thế Chí, mẹ con nhiều đời luôn gặp nhau, tâm ý khai mở đồng Ngài Tuệ Viễn chứng Bồ-đề mới có thể nói là tâm hiếu từ rốt ráo rộng lớn. Ơn cha mẹ, ơn Phật đồng thời báo đáp hết, mừng cho chí hướng đó tôi xin chắp tay tán thán mà nói kệ rằng:
Lưu hành Phật pháp báo từ ân
Mẹ con thiên chân đồng một hội
Vì muốn báo ơn cầu thành Phật
Xem tấm gương ấy mà noi theo.
Ưu-Đàm-Phổ Độ ở Lô Sơn kính ghi.
Đức Phật của chúng ta sống ở phương Tây, giáo pháp Ngài lưu hành đến Trung Quốc. Không nói mà tự tin, không giáo hóa mà tự hành trì đó là do cơ cảm hợp nhau mà thành như vậy. Đến đời Đông Tấn, Tổ Tuệ Viễn ở Lô Sơn cùng các Hiền sĩ đại phu cùng kết duyên Tịnh độ vi diệu chuyên tu Tam-muội niệm Phật, sáng suốt lặng lẽ, lặng lẽ mà sáng suốt khai triển lời lẽ sâu xa của các bậc giác ngộ trước, mãi mãi làm tấm gương sáng soi người sau. Trên ngầm giúp hoàng độ, dưới giáo hóa làm lợi cho lê dân, có thể nói là tâm thiện tận mỹ vậy để đến ngàn năm sau vẫn có người kế tục. Tỳ-kheo Ưu-Đàm (???) thấy kẻ tự xưng mình thuộc Liên tông lại chưa từng tỏ tường chỉ thú niệm Phật, hiểu sai đường tu sai lối, mắt thấy tai nghe đâu đâu cũng có. Muốn tránh chết đuối lại gặp lửa thiêu. Thương xót cho hạng ngu tối này nên Ngài đã tìm tòi Đại tạng, rộng thấy lời lẽ sâu xa, miêu tả bốn độ, viết thành mười thiên đặt tên là Bảo Giám. Không chỉ phân tỏ tốt xấu mà còn kiểm tra chân ngụy, mở mắt cho kẻ mù, chỉ đường cho kẻ mê, mỗi câu chữ đều có bằng cứ, yếu chỉ tu hành đều năm trong đây. Nay vâng theo Phật và các bậc thiện nhân đệ tử Ngài sinh trong thời Thánh hiền, thọ nhận ơn sâu, may mắn nghe được chánh truyền của Phật, Tổ mà có được Liên tông Bảo Giám xem qua vô cùng mừng rỡ, do đây tập hợp người đồng chí hướng, kính cẩn lìa bỏ tịnh tài, kêu thợ in ấn lưu hành, thỉnh các bậc thầy Từ bi viết lời bạt, dắt tay tiến tới, tiếp dẫn người sau. Nếu không từ chối thì thật may mắn. Tôi vì đạo nghĩa không thể từ chối bèn đốt hương nói kệ rằng:
Lô Sơn Đông Tấn mười tám Hiền
Đào ao dẫn nước trồng sen vàng
Sen mọc hoa nở tâm sáng tỏ
Sen rụng đài thành đạo quả tròn
Phổ Độ viết văn tên Bảo Giám
Thiện nhân chép lại thiên ngọc quý
Kêu thợ in ấn lưu hành ra
Mãi mãi cùng trời người tạo chánh truyền.
Đầu thu Kỷ dậu niên hiệu Tuyên Đức thứ 4 đời Đại Minh, ngày Thiền lâm giải chế. Sa-môn Cổ Tinh, tăng lục coi về việc giảng kinh kính ghi.
Phật không tự là Phật, nhờ tâm mà thành Phật. tâm không tự là tâm, nhờ Phật mà có tâm. Lìa tâm không có Phật, lìa Phật không có tâm. Tâm Phật khác tên gọi nhưng thể chỉ là một. Cho nên niệm Phật là niệm tâm, niệm tâm là niệm Phật, vô niệm thì vô tâm, vô tâm thì vô Phật. Tâm Phật đều quên, niệm không thật có, chỗ không thật có này rõ ràng phân minh, hạt bụi cũng không xen tạp, đó là dùng chân cơ nhìn rõ khắp pháp giới, khó mà ẩn giấu, sắc núi, tiếng khe hiển lộ rõ ràng, tánh tướng bình đẳng, lý sự dung hợp. Trong đó tìm một chút tướng mình người, sạch dơ hoàn toàn không thể được tại sao có Thánh, phàm, mê, ngộ? Do đây, nếu có thể khai mở trí nhãn, đốn ngộ yếu chỉ của nó, thì lập tức biết đường về không trở ngại vui mừng. Nếu chưa thể khế hợp thì phải nhờ phương tiện để vào. Cái gọi là phương tiện để vào cần gì riêng tìm huyền diệu, chỉ cần phát khởi một niệm tín tâm mạnh mẽ vững chắc, đem một câu A-di-đà Phật luôn để trong mắt tâm, bất luận đi, đứng, nằm, ngồi, vắng lặng hay ồn ào, nhàn rỗi hay bận rộn, đều lặng yên niệm Phật, thường hay phản chiếu, biết rõ Phật tức là tâm. Chưa rõ tâm này là vật nào thì phải thấy rõ nhất niệm này từ chỗ nào khởi lên. Lại phải thấy rõ người thấy này rốt ráo là ai? Quán chiếu như vậy, niệm niệm không xen hở, lâu ngày luyện thành một khối, nước chảy không qua, bỗng đối với việc nghe tiếng, thấy sắc, ứng cơ tiếp vật, bất giác rõ ràng, lúc tro tàn này nóng cháy tan hư không, việc tham cứu đến đây liền thấy tự tánh Diđà hiển hiện rõ ràng cảnh Thường Quang Tịnh độ xúc chạm rỗng rang mới tin lời tôi không lừa dối các ông, chí tu hành bình sinh của tôi cũng nghiệm được ở đây.
Vì sợ chưa hiểu nên lại nói kệ:
Tâm Phật vốn do gượng đặt tên
Đều duyên nhiếp niệm dứt mê tình
Căn trần đốn dứt, tâm châu hiện
Hư vọng trống không gương tuệ soi
Một pháp không còn vẫn là dối
Toàn cơ tan hoại chưa phải bằng
Cần phải thấy được xương hư không
Xem được Ưu-Đàm mọc trong lửa.
Tội báo ba đường ác do nghiệp nặng, chìm đắm trong sáu đường bởi điều ác nhiều. Nếu muốn ra khỏi biển sinh tử phải mau quay đầu niệm Phật Diđà.
Phật Di-đà mỗi người vốn sẵn có, chỉ vì si sân ái nên sinh tử hư huyễn, chìm trong bể khổ. Nghiệp dẫn dắt muôn kiếp cam chịu ở bến mê, không khởi tâm hồi đầu niệm Phật. Nên tôi lo nghĩ, khuyên các ông phải mạnh mẽ niệm Phật để được vượt lên.
Ở phương Tây có thế giới tên là nước An dưỡng. Nước ấy có chín phẩm đài sen xinh đẹp, ba không (ngã không, pháp không, câu không) chân thật, điện báu, lầu các báu, vàng ròng đầy khắp mặt đất, ánh sáng thường chiếu sáng, không có ba đường ác. Chỉ dạy hữu tình các ông, có thể sửa đổi tâm tánh, dứt bỏ tham sân si, mọi người được trí tuệ, lặng lẽ xem xét, thấy rõ việc hồng trần. Dù chứa nhóm vàng, ngọc như núi, nhưng khó mua nổi ba tấc hơi; quyến thuộc và người thân tạm xem như tuồng múa rối. Lúc sống nhóm họp vui vẻ, sau khi chết ai có thể thay mình chịu tội? Rốt cuộc cũng tan cuộc vui, bị gió mạnh cuốn trôi, thí như nơi yên tĩnh suy xét kỹ thì không có động tĩnh gì cả, sau không sớm dừng tâm niệm Phật, tu Tammuội, đề xướng hạnh nguyện của Phật Di-đà xưa. Từ đầu đến cuối chớ lui sụt, giống như người bệnh mắt đến chỗ thầy thuốc trị bệnh, thì thầy thuốc muốn biết bệnh viễn cận, hay cao thấp phải dùng gương làm bằng cứ. Phải giữ chắc nhất niệm không hai, từng bước đi vững vàng, biết rõ rằng chỗ đến, không thể ngăn ngại. Cuối cùng có thời tiết đến, tự mình gặp được thầy thuốc giỏi, chỉ cho thang thuốc hay, đôi mắt được sáng, thấy rõ mọi việc hư huyễn, ánh sáng chiếu khắp mười phương, thông suốt ba cõi, đến đi tự tại, một thể không trói buộc, vui vẻ mặc tình rong chơi, cao xướng vui vẻ.
Nếu người nào nương theo đây mà tu đạo cùng tột, thì không có khó, dễ. Người này lúc qua đời ao sen chắc chắn sẵn dành, chỉ cần khẳng định tâm mình.
Sơn tăng tôi, không có ý lừa dối mọi người, chỉ mong mỗi người sớm xoay trở lại, tưởng niệm về phương Tây, chín phẩm ngộ chân không, nhất niệm vượt lên thật địa, thể chúng sinh và Phật vốn đồng, chứng ngộ không sai khác.