TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠP TẠNG

BỘ CHƯ TÔNG

SỐ 1983 - TỊNH ĐỘ NGŨ HỘI NIỆM PHẬT LƯỢC PHÁP SỰ NGHI

Hán dịch: Sa-môn Pháp Chiếu, ở Viện Tịnh độ, chùa Kính chương, đất Thượng đô.

MỤC LỤC

SỐ 1983 - TỊNH ĐỘ NGŨ HỘI NIỆM PHẬT LƯỢC PHÁP SỰ NGHI

PHẦN ĐẦU

VĂN LỄ THỈNH:

VĂN TRANG NGHIÊM

VĂN TÁN HOA LẠC

TÁN HOA LẠC

TÁN BẢO ĐIỂU

TÁN DUY-MA

KHEN TƯỚNG HẢO

KHEN NĂM HỘI

KHEN TỊNH ĐỘ VUI

KHEN LÌA SÁU CĂN

KHEN VUI CHÁNH PHÁP

KHEN PHƯƠNG TÂY VUI

BAN-CHU TAM-MUỘI LẠC

PHẦN SAU

VĂN TÁN CỦA BỒ-TÁT TỬ

VĂN TÁN NAI

VĂN TÁN THỈNH QUÁN THẾ ÂM

ĐẠO TRÀNG LẠC TÁN VĂN

VĂN NGUYỆN ƯA VÃNG SINH

VĂN TÁN TIỂU BAN-CHU TAM-MUỘI LẠC

VĂN TÁN TƯƠNG QUÁN

VĂN TÁN ƯA XUẤT GIA

VĂN TÁN NGUYỆN VÃNG SINH

VĂN TÁN BÁT-NHÃ

VĂN TÁN TIỂU ĐẠO TRÀNG

VĂN TÁN ĐẠI LẠC

VĂN TÁN

KHEN QUÁN THẾ ÂM BỒ-TÁT

KHEN BỒ-TÁT ĐẠI THẾ CHÍ

KHEN ĐẠI THÁNH VĂN-THÙ-SƯ-LỢI BỒTÁT

KHEN QUÁN KINH THẬP LỤC QUÁN

VĂN KHEN NGỢI KINH A-DI-ĐÀ

KHEN TÂN VÔ LƯỢNG QUÁN

MƯỜI SÁU KỆ KHEN KINH A-DI-ĐÀ (mới)

KỆ KHEN NGỢI RẢI HOA CÚNG DƯỜNG

KHEN NĂM HỘI DIỆU ÂM Ở CÕI TỊNH PHƯƠNG TÂY

KHEN NĂM HỘI CỰC LẠC

KHEN DIỆU ÂM NĂM HỘI

KHEN CỰC LẠC TRANG NGHIÊM

VĂN KHEN ƠN NẶNG CỦA CHA MẸ

VĂN KHEN ĐÀI HOA MỚI

THUẬT VĂN KHEN CHÍN PHẨM VÃNG SINH CỦA QUÁN KINH


PHẦN ĐẦU

Đức Như Lai rộng lược lập giáo, tùy theo căn cơ chung về thật tướng. Nếu người mà không được chân vô sinh, thì ai khế hợp với đây?

Song niệm Phật Tam-muội là pháp thiền chân vô thượng thâm diệu, do bậc Pháp vương Di-đà phát bốn mươi tám lời nguyện danh hiệu làm Phật sự, nguyên lực độ chúng sinh, cho nên năm hội thường lưu truyền trong cung, giáo pháp Tịnh độ thấm nhuần khắp pháp giới.

Trong kinh Hoa Nghiêm nói:

- Bậc Tam hiền nhẫn đến tất cả Chư Phật Vô thượng Bồ-đề, đều không lìa niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng mà được vãng sinh."

Thế nên trong kinh Pháp Hoa, Duy-ma v.v... nói, dùng âm thanh ngữ ngôn mà làm Phật sự, hơn nữa thinh danh cú văn làm các giáo thể, đều đồng với người học đời nay đối với tôn dung Đức Phật, đều bác là hữu tướng, giáo pháp trên đảnh như hạt châu trong búi tóc chỉ văn tự. Nói vô sắc thì bỏ chân sắc, luận bàn vô thinh chính là bỏ Phạm thinh, ngồi gọi là vô vi, đi xưng là mất đạo, liền rơi vào núi điên đảo thật là đáng buồn thương.

Vả lại kinh Kim cang, Bát-nhã nói:

- Sáu độ muôn hạnh, tất cả pháp lành đều là nhân Phật. Đây là lời thành thật của Phật Thích-ca và ba đời Chư Phật đáng để tín kính và thực hành theo.

Nay y theo kinh Đại Vô Lượng Thọ, năm hội niệm Phật. Nếu làm pháp sự rộng rãi, mở bày khen ngợi Di-đà Quán Kinh rộng nói ở bài tựa, hỏi đáp giải thích nghi đều ở trong văn ấy, cũng phải chép đủ tìm đọc để lưu truyền đời sau. Nếu lược làm pháp sự phải nương văn đây.

Người làm pháp sự, hoặc xuất gia hoặc tại gia, nhiều thì sáu người bảy người, ít thì ba người năm người. Chọn người có âm thanh tốt giảng giải, oai nghi đều phải đoan nghiêm, ngồi ngay chắp tay tưởng Phật, âm thanh điều hòa, không được cười nhìn ngó hai bên. Phải khởi lòng Từ bi chân thật cứu giúp, đừng vì danh lợi. Chúng cử một người làm chủ tọa, biết đánh khánh đồng tiếng xướng khen ngợi, chuyên chú khoan nhặt.

Trước phải đốt hương, đánh khánh triệu tình Thánh chúng, người chủ tọa niệm Phật một tiếng bạch chúng: Quán tưởng Phật Di-đà tất cả hiền Thánh như ở trước mắt. Nếu hay dụng tâm như vậy, tức thời Hiền Thánh quang lâm, Long thiên hộ niệm, nghe kinh khen pháp sự, khiến đại chúng ngay lời diệt vô lượng tội, được vô lượng phước, tâm khai ý mở mau chứng niệm Phật Tam-muội thậm thâm, được vô sinh nhẫn, được đại tổng trì, đủ sáu pháp Ba-la-mật thần thông tự tại. Nói xong đánh khánh lạy một lạy, niệm A-di-đà Phật Quán Thế Âm Thế Chí Địa Tạng Bồ-tát, mỗi vị ba mươi lăm tiếng, rồi sau chí tâm bế thỉnh. Kế tiếp trang nghiêm rồi y theo trước niệm Phật phải xem đồ chúng trong đạo tràng nhiều ít, hoặc ngày hoặc đêm hoặc rộng hoặc lược, có chủ thỉnh đạo tràng, làm việc thiện gì cần phải biết. Khi riêng làm trang nghiêm rộng cùng niệm tụng, khi ngồi đạo tràng, hoặc có hai người ngồi ba người ngồi nhẫn đến nhiều người ngồi.

Trong Quán kinh Di-đà nói:

-Một lần ngồi là một lần thỉnh, rải hoa trổi nhạc và các văn tán tụng đều phải tụng thầm, tụng hết rồi trở lại ban đầu. Kinh đều phải tinh thuộc không được đến giờ tụng cầm bổn.

Duy năm hội Diệu âm một người ngồi một mình làm không được dừng nghĩ. Nếu chuẩn theo một người ngồi khi khai mở kinh pháp sự phải rộng lược xem qua, các văn tán y theo thứ lớp tụng, trước hết rải hoa trổi nhạc, người rải hoa trổi nhạc vừa ngồi xuống, có các tướng hảo chim báu, các văn tán như năm hội Duy-ma, đại tiểu Bát-nhã, Ban-chu Niết-bàn. Hai câu nhất tọa đánh khánh thành tiếng, câu lễ tán như nhạc Tịnh độ khen ngợi sáu căn, nhạc Tây phương, nhạc xuất gia v.v... đều là bốn câu làm chuẩn, nhạc đạo tràng một câu mà thôi.

Theo trong Di-đà Quán kinh rồi sau đó các văn tán, đều phải hội thứ ba niệm Phật hòa theo, tụng các văn tán rồi muốn rải hoa, liền tụng nhạc đạo tràng, âm giọng tức tiếng phải cao, phải hội thứ ba niệm A-di-đà Phật hơn ba trăm tiếng, sau cùng xướng văn phát nguyện Hồi hướng khen ngợi Tây phương của Ngài Trí Giả Thiên Thai. Người trí cần phải rất nhàm chán sinh tử, chánh niệm tư duy niệm Phật Tam-muội, khắp vì kẻ oán người thân trong sáu đường pháp giới, nguyện đồng sinh về Cực lạc mau thành Vô thượng Bồ-đề, chuyên tâm học được năm hội chân thinh, lưu truyền đời sau rộng độ chúng sinh. Nếu không Thầy mà học, truyền trao cho người lầm lộn, người đời sau học mất tôn chỉ kia, liền lại chuốc lấy tội lỗi, không có lợi ích phước điền. Khắp khuyên người đạo kẻ tục hiện tại và vị lai, rộng làm năm hội chân thinh, niệm Phật Tam-muội lý sự đều tu, niệm đến tướng không còn tướng niệm tức cùng trung đạo thật tướng chánh quán tương ưng.

Hỏi: Năm hội niệm Phật có lợi ích gì, lại lấy gì tiêu biểu?

Đáp: Tức là đối với đời nay, vì có thể lìa phiền não trong năm trược, trừ năm khổ đoạn năm cái, dứt năm đường tịnh ngã nhãn, đầy đủ năm căn thành tựu năm lực, chứng Bồ-đề đủ năm giải thoát, mau thành tựu năm phần pháp thân. Công lực của năm hội niệm Phật như đây, hơn hết không gì sánh bằng, hết một đời này, liền bỏ thân phàm phu rốt sau, sinh về nước Cực lạc vào Thánh vị Bồ-tát, được Bất thoái chuyển mau chứng Bồ-đề. Thật là Đức Phật tín nhiệm việc đây trọn không có luống dối.

Thế nào là Phạm?
Làm sao được trường thọ?
Thân Kim cang bất hoại.
Lại do nhân duyên gì?
Được lực đại kiên cố.
Làm sao đối với kinh đây.
Rốt ráo đến bờ kia.
Xin Phật khai vi mật.
Rộng vì chúng sinh nói.

-------------------------

VĂN LỄ THỈNH:

"Y theo mỗi một lần thỉnh một lần lễ hô.

Nam-mô nhất tâm phụng thỉnh Bổn sư Thíchca Mâu-ni Phật.

Nam-mô nhất tâm phụng thỉnh thập phương tam thế Chư Phật.

Nam-mô nhất tâm phụng thỉnh A-di-đà Phật.

Nam-mô nhất tâm phụng thỉnh Quán Thế Âm

Bồ-tát.

Nam-mô nhất tâm phụng thỉnh Đại Thế Chí

Bồ-tát.

Nam-mô nhất tâm phụng thỉnh thập phương chư Đại Bồ-tát Ma-ha-tát.

Nam-mô nhất tâm phụng thỉnh thập phương Thanh văn Duyên giác nhất thiết Hiền Thánh Tăng.

***

VĂN TRANG NGHIÊM

Nhiệm mầu thay, chí lý chân pháp nhứt như, giáo hóa muôn vật, lợi ích mọi người, thệ nguyện rộng lớn mỗi mỗi sai khác. Nên Đức Thích-ca ta ứng hiện sinh ở đời trược, Đức Di-đà xuất hiện ở Tịnh độ, cõi tịnh cõi uế sai khác, lợi ích đều đồng. Nếu dễ tu dễ chứng chân thật duy có giáo môn Tịnh độ, song cảnh thù diệu cõi Tây phương kia khó mà sánh bằng.

Cõi nước ấy, trang nghiêm lấy trăm hoa sen báu trải hoa cửu phẩm để dẫn dắt người. Danh hiệu Đức Di-đà có thể rửa sạch ngàn tai ương, âm thinh khai mở năm hội mà tiếp độ muôn vật, nên khiến người xưng danh hiệu Phật Di-đà thì mười phương Chư Phật thường khen ngợi người ấy. Người nguyện sinh về cõi kia, thì hoa ngũ vân lạ tranh nhau bưng tòa ấy.

Nên biết bi nguyện của Đức Di-đà không thể nghĩ bàn, thật gọi là khai mở then chốt trong ba cõi, đoạn dứt con đường của bốn loài, nên được hằng sa Chư Phật đưa tướng lưỡi rộng dài chứng minh, khuyên niệm Di-đà để sinh về cõi nước Phật. Nếu không dùng Tịnh giáo đây tuyên dương lời Phật khắp nơi, thì lấy gì có thể khiến người chưa nghe thì được nghe, người chưa thấy thì được thấy, niệm Phật đời nay ý ở nơi đây, cúi xin Phạm vương Đế Thích ủng hộ giữ gìn cõi nước nhân gian, bát bộ thiên long mưa hòa gió thuận, cúi nguyện Hoàng đế luân báu bay đến nạn kiếm cung dứt hết, ân vua Thuấn thấm nhuần muôn cõi nước, gió hòa của vua Nghiêu bay khắp đến cõi xa xôi. Tiếng của Thái tử bay lại như sấm sét, ý chí các vua kiên cố như bàn thạch, công chúa lầu bạc màu sắc rực rỡ, quan tướng thường trấn giữ Đài hoành không có đao binh, vui mừng ánh sáng khắp nơi, vua Nghiêu thường giúp đỡ quan cung thị ngự, mây bay đến các tỉnh, sao chiếu sáng núi Thiên thai, đại tướng cao lớn, ngày mới vẻ vang vui vẻ vượt hơn trăm lần quan lớn, y phục đều thêu văn màu nâu, cứu vớt an ủi, giúp đỡ, chia buồn. Tiếng trong chấn động vang xa.

Thiền hòa cũng như nước định trong sạch, sông Thiền gió từ chẳng thâu, mặt trời trí tuệ lên cao. Pháp hòa còn tôn sùng thì núi đạo càng cao, biển tuệ càng sâu, ở cõi nhân thiên thường làm thuyền bè. Luật hòa được tôn sùng thì giới châu thường trong sạch, không hổ thẹn soi chiếu lý thừa. Định cao hằng trong phải nương tam cương, chữ Phạm chiếu sáng, các ngôi tự xá hòa như nước với sữa. Các Xà-lê đồng lực tam học viên minh, đèn tuệ chiếu sáng, nguyện hoằng dương giáo pháp đây đồng sinh về Tịnh độ. Ni chúng các giới thường sáng, ngưng thần nhập định, xuân thường đạo thọ, thường nở hoa giác. Các ông đồng với núi non phước tuệ, tuổi thọ đồng với xuân hạc. Phu nhân nương tử ngọc chất trường xuân, ngàn thu không thay đổi, thanh tín sĩ nữ đồng hằng sa nghiệp, nghe nhiều danh hiệu Phật, được băng tiêu hết, vô lượng phước điền, tùy theo niệm Phật mà được tăng trưởng, quán nghiệp thành tựu Tam-muội hiện tiền, hoặc ngồi hoặc đi thường thấy Chư Phật. Nguyện mặt trời Phật cao xa, xiển dương pháp luân, chốn u đồ dứt khổ, tâm vọng động được yên tĩnh, người trông mong nguyện nào không theo, người đã niệm lập tức được toại nguyện. Hữu tình có tánh thức đồng vượt qua nhân hữu lậu, cõi đây phương khác đều toại nguyện, đồng sinh về cõi an lạc, biển phước của Đức Phật A-di-đà vô biên, đại chúng chí thành, khắp vì niệm A-di-đà Phật.

***

VĂN TÁN HOA LẠC

Theo phẩm Tán hoa của kinh Hoa Nghiêm, đại Bát-nhã.

Tán hoa lạc! Tán hoa lạc!

Phụng thỉnh Đức Thích-ca Như Lai nhập đạo tràng

Tán hoa lạc! Tán hoa lạc! Tán hoa lạc!

Phụng thỉnh Đức Thích-ca Như Lai nhập đạo tràng

Tán hoa lạc! Tán hoa lạc! Tán hoa lạc!

Phụng thỉnh chư Đại Bồ-tát Quán Âm, Thế Chí nhập đạo tràng

Tán hoa lạc! Đạo tràng trang nghiêm rất Thanh tịnh

Tán hoa lạc! Cõi trời loài người không thể sánh bằng.

TÁN HOA LẠC

(Năm hội niệm Phật, Sa-môn Pháp Chiếu ở đời Lương Hán, vào rằm tháng bốn năm đầu Đại Lịch, nhân dịp đạo tràng đài Ban-chu Di-đà ở non Nam nhạc, theo kinh Vô Lượng Thọ sáng tác).

Hỏi: Năm hội niệm Phật rút ra ở văn nào?

Đáp: Trong kinh Đại Vô Lượng Thọ chép: Giả sử có cây báu gốc bằng xa cừ, cộng bằng vàng tía, cành bằng bạch ngân, nhánh bằng lưu ly, lá bằng thủy tinh, hoa bằng san hô, trái bằng mã não, mỗi hàng thẳng tắp, mỗi cộng trông nhau, mỗi nhánh bằng phẳng, mỗi lá xoay vào nhau, mỗi hoa thuận nhau, mỗi trái xấp xỉ nhau, ánh sáng rực rỡ không thể nhìn nổi. Khi gió mát thổi phát ra năm hội âm thanh, tiếng nhạc cung thương vi diệu họa theo, thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Người nghe âm thanh đó được thấm nhuần pháp nhẫn, trụ ngôi bất thoái đến thành Phật đạo.

Giải thích năm hội niệm Phật:

- Năm là số thứ tự.

- Hội là tập trung hội họp.

Năm loại âm thinh đó từ chậm đến nhanh, chỉ niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, không xen tạp niệm. niệm tức vô niệm, Phật không có hai môn, âm thanh vô thường đệ nhất nghĩa. Cho nên suốt ngày niệm Phật hằng thuận với chân tánh, trọn ngày nguyện sinh Tây phương, thường trụ nơi diệu lý. Có người phát tâm như thế, chắc chắn hàng phục được thiên ma, đánh trống pháp, sáu món chấn động trời mưa bốn thứ hoa, tòa báu Kim Cang ngôi chánh giác có thể trông mong.

Cho nên trong Quán kinh chép: Nếu người niệm Phật phải biết trong người đây có hoa Phânđà-lợi, gọi là ít có. Ngài Quán Thế Âm, Đại Thế Chí Bồ-tát, là bạn thù thắng, đang ngồi đạo tràng sinh vào nhà Chư Phật. Do đó Đức Như Lai thường ở trong biển Tam-muội, giăng bủa màn lưới.

Thưa phụ vương: Phụ vương ngày nay ngồi thiền, chỉ nên niệm Phật, há đồng với ly niệm cầu vô niệm, lìa sinh cầu vô sinh, lìa tướng hảo cầu pháp thân, lìa văn tự cầu giải thoát. Luận người như vậy thì trụ nơi chấp đoạn diệt, chê Phật hủy kinh, thành nghiệp chấp pháp, đọa vào vô gián.

Phàm tu đạo có thể không cẩn thận hủy báng, có thể không cung kính khi dối sao?

Lại trong kinh Quán Phật Tam-muội Hải chép: Quán Phật Tam-muội đây là chỗ hộ trì của người phá giới chỗ nương của người mất đạo, đại tướng dũng mãnh trong giặc phiền não, xuất hiện ở trong Thủ-lăng-nghiêm Vương Bách Thiên Tam-muội, cũng gọi là mẹ của các Tam-muội, cũng gọi là Vua của các Tam-muội, cũng gọi là Chư Phật cùng nhau ấn khả, cũng gọi là Như Lai thiền, chẳng phải các thiền của ngoại đạo Nhị thừa, người tin nên biết.

Tiếng của năm hội niệm Phật đây. Về điểm lớn hết, dài: tức là niệm chậm, điểm nhỏ dần dần ngắn: tức là niệm nhanh, phải hiểu ý đây.

Hội thứ nhất bình thanh niệm chậm.

Nam-mô A-di-đà Phật.

Hội thứ hai bình thượng thanh niệm chậm.

Nam-mô A-di-đà Phật.

Hội thứ ba không niệm chậm không niệm nhanh.

Nam-mô A-di-đà Phật.

Hội thứ tư dần dần niệm nhanh.

Nam-mô A-di-đà Phật.

Hội thứ năm chuyển bốn chữ niệm nhanh.

A-di-đà Phật.

Năm hội niệm Phật xong liền tụng các văn tán bảo điểu.

***

TÁN BẢO ĐIỂU

(Theo trong kinh A-di-đà)

Trong cõi Cực lạc trang nghiêm (Di-đà Phật).

Thật là kỳ lạ ít có nghe mà chưa từng nghe (Diđà Phật, Di-đà Phật).

Chim báu đến hư không khen hội niệm Phật (Di-đà Phật).

Mềm mại đẹp đẽ sáng sủa khiến người phát tâm (Di-đà Phật, Di-đà Phật).

Ngày đêm niệm liên tục không ngừng (Di-đà Phật).

Lý mỗi câu văn đồng nhau (Di-đà Phật, Di-đà Phật).

Hoặc nói năm căn bảy phần giác (Di-đà Phật).

Hoặc nói pháp môn Từ bi của tám bậc Thánh (Di-đà Phật, Di-đà Phật).

Hoặc nói phương khác lìa đường ác (Di-đà Phật).

Hoặc nói địa ngục đóng nhân thiên (Di-đà Phật, Di-đà Phật).

Hoặc làm thiện Ba-la-mật (Di-đà Phật).

Hoặc nói định huệ nhập thâm thiền (Di-đà Phật, Di-đà Phật).

Hoặc nói thời gian dài tu khổ hạnh (Di-đà Phật).

Hoặc nói nhân Vô thượng Bồ-đề (Di-đà Phật, Di-đà Phật).

Bồ-tát Thanh văn nghe pháp đây (Di-đà Phật).

Phân thân khắp nơi chuyển pháp luân (Di-đà Phật, Di-đà Phật).

Nguyện pháp luân đây lưu chuyển tương tục (Di-đà Phật).

Chúng đẳng đạo tràng càng sống lâu (Di-đà Phật, Di-đà Phật).

Chúng đẳng hồi tâm vãng sinh Tịnh độ (Di-đà Phật).

Tay cầm hoa hương về Tây phương (Di-đà Phật, Di-đà Phật).

***

TÁN DUY-MA

(Theo trong kinh Duy-ma)

Cõi Phật Thanh tịnh từ tâm hiện (Khó nghĩ bàn).

Các món trang nghiêm trong tâm phát sinh (Khó nghĩ bàn kinh Duy-ma-cật).

Ngón chân ấn xuống đất ba ngàn cõi (Khó nghĩ bàn).

Biển tánh hư không ngồi đài hoa (Khó nghĩ bàn kinh Duy-ma-cật).

Thất phương trượng trong thành Tỳ-da-ly (Khó nghĩ bàn). Có một cư sĩ hiệu Duy-ma (Khó nghĩ bàn kinh Duy-ma-cật). Mượn bệnh hiện thân mà có bệnh (Khó nghĩ bàn).

Quốc chủ, Vương tử đều đến gặp (Khó nghĩ bàn kinh Duy-ma-cật).

Chúng Bồ-tát, Thanh văn vô lượng
Muốn đến hỏi bệnh, không kham nổi
Chỉ có Văn-thù vào hỏi han
"Bệnh của cư sĩ là nhân gì?"
Đáp rằng: Bệnh từ si ái khởi
Bệnh tôi chẳng có cũng chẳng không.
Rộng nói thân là pháp vô thường
Ấm, giới, các nhập hợp thành thân.
Đầu lông Bồ-tát dung biển lớn
Trong hột cải nạp núi Tu-di
Cầm ném ra ngoài thế giới khác
Trong thất Thiên nữ ngộ vô sinh.

KHEN TƯỚNG HẢO

(Y kinh Tướng Hảo)

Thế Tôn trần sa kiếp lúc xưa
Siêng tu khổ hạnh thân tướng tốt
Nay đã chứng thành Vô kiến đảnh
Lại sinh tóc xanh xoáy trôn ốc
Tướng lông giữa mày sắc pha lê
Uyển chuyển bên phải hộp lưu ly
Răng như ngọc kha bằng và khít
Tướng lưỡi rộng dài che cả mặt
Tâm Phật ngồi sen hồng sắc vàng
Thanh tịnh trong sáng ánh mặt trời.

***

KHEN NĂM HỘI

(Y kinh Vô Lượng Thọ) Thích Pháp Chiếu

Hội thứ nhất thời nhập bình thinh
Thứ hai tột diệu diễn thanh âm
Thứ ba xoay vòng như tấu nhạc
Thứ tư ngâm yếu kỳ dụng công
Thứ năm cao tiếng chỉ mau niệm
Nghe năm hội này ngộ vô sinh
Đã đến Tây phương thọ khoái lạc
Hằng không luân hồi vào hầm khổ
Phát tâm niệm Phật việc nên chắc
Lâm chung quyết định lên thuyền vàng
Chúng sinh hồi nguyện được vãng sinh
Thẳng hướng phương Tây ngồi sen báu
Thế giới phương Tây thật là tinh
Chúng sinh cõi kia không thể khinh
Vạt áo đựng hoa cúng dường Phật
Về nước cũ ăn cơm kinh hành
Phát tâm niệm Phật độ quần sinh
Nguyện năm hội này rộng lưu hành
Sáu nẻo ba đường đều nhiếp thâu
Hoa sen trong hội ghi tên mình.

KHEN TỊNH ĐỘ VUI

(Trong kinh Xưng tán Tịnh độ-Thích Pháp Chiếu).

Tịnh độ vui, Tịnh độ vui
Tịnh độ không nghĩ bàn, Tịnh độ vui.
Di-đà trụ ở lầu thành báu
Dốc lòng niệm niệm hướng
Tây cầu Đến kia ba minh, tám giải thoát
Chối dài năm trược lại lo gì?
Tịnh độ vui, Tịnh độ vui
Tịnh độ không nghĩ bàn,
Tịnh độ vui. Lầu báu, gác báu, kích báu vàng
Ao nước, cát vàng đáy trong xanh
Pháp khúc thời thời thường cúng dường
Trong hội hoa sen nói vô sinh
Tịnh độ vui, Tịnh độ vui
Tịnh độ không nghĩ bàn, Tịnh độ vui.
Đài báu, gác báu, chân châu báu
Thể báu đoan nghiêm thân sắc vàng
Bồ tát hóa sinh tấu điệu ngọc
Năm hội gió nhẹ diễn chân như.
Tịnh độ vui, Tịnh độ vui
Tịnh độ không nghĩ bàn, Tịnh độ vui.
Dòng nước sóng cả nhiễu đài báu
Điện báu sáng rỡ, cửa ngọc mở
Từ chủ xa nghe người ba cõi
Đều cần phát nguyện vãng sinh đến
Tịnh độ vui, Tịnh độ vui
Tịnh độ phương Tây rất khoái lạc.
Lượng thân Di-đà rộng không ngắn
Mặt tợ đài vàng hoa ưu-bát
Mắt như sen xanh bốn biển lớn
Hào quang hóa Phật quá hằng sa
Tịnh độ vui, Tịnh độ vui
Tịnh độ phương Tây rất khoái lạc.
Di-đà bổn nguyện đại Từ bi
Cõi đây phàm phu không hiểu biết
Tịnh độ vui, Tịnh độ vui
Sợ chúng sinh ra đời chậm
Di-đà cây xuân hoa giác nở
Trong ao công đức ngồi đài báu
Trước sân Tam-muội cầu giải thoát
Trên điện ma-ni lễ Như Lai
Tịnh độ vui, Tịnh độ vui
Tịnh độ phương Tây rất khoái lạc.
Phương Tây chim lạ số không cùng
Bạch hạc, khổng tước và ca-lăng
Anh vũ, tần-già nói pháp mầu
Trong tiếng diễn ra chữ Đại thừa
Tịnh độ vui, Tịnh độ vui
Tịnh độ phương Tây rất khoái lạc.
Tôn hiệu Như Lai rất rõ ràng
Mười phương thế giới khắp lưu hành
Chỉ có xưng danh, đều vãng sinh
Quán Âm, Thế Chí tự đến rước
Tịnh độ vui, Tịnh độ vui
Tịnh độ phương Tây rất khoái lạc.
Đồ chúng Di-đà khắp lòng Từ
Thương xót chúng sinh chí ý sâu
Nước, chim, cây, rừng đều nói pháp
Huống gì Như Lai tiếng nhiệm mầu
Tịnh độ vui, Tịnh độ vui
Tịnh độ phương Tây rất khoái lạc.
Bổn nguyện Di-đà rất đặc thù
Từ bi phương tiện dẫn phàm phu
Tất cả chúng sinh đều độ thoát
Xưng danh liền được tội tiêu trừ
Tịnh độ vui, Tịnh độ vui
Tịnh độ phương Tây rất khoái lạc.
Di-đà ngồi ngay đài vàng báu
Hằng sa Bồ-tát vây bốn bên
Chín loại nhờ ơn nói pháp mầu
Người nghe ngộ hiểu hằng không buồn
Tịnh độ vui, Tịnh độ vui
Tịnh độ phương Tây rất khoái lạc.
Tịnh độ phương Tây không ồn ào
Chúng sinh đến liền đoạn tham sân
Đều là chúng Bồ-tát thiện nhân
Cũng không ác thú và oán thân
Tịnh độ vui, Tịnh độ vui
Tịnh độ phương Tây rất khoái lạc.
Tràng hoa tám mặt treo linh vàng
Trên dưới hòa kêu ra tiếng mầu
Người nghe đều nói xứng khoái lạc
Nhiều kiếp không nghe tên các khổ
Tịnh độ vui, Tịnh độ vui
Tịnh độ phương Tây rất khoái lạc.
Phàm phu nếu đến được phương
Tây Diệt mất tội nhiều kiếp trần sa
Đủ sáu thần thông được tự tại
Hằng trừ già, bệnh, lìa vô thường
Tịnh độ vui, Tịnh độ vui
Tịnh độ phương Tây rất khoái lạc.
Tịnh độ phương Tây lìa bào thai
Chúng sinh đến liền ra đài sen
Thượng phẩm, theo sáng lên tòa báu
Hạ sinh, chướng hết mới nở hoa
Tịnh độ vui, Tịnh độ vui
Tịnh độ phương Tây rất khoái lạc.
Tịnh độ phương Tây lan can bảy lớp
Bảy báu trang nghiêm số trăm loại
Lưu ly làm đất, vàng ròng ngăn
Các đài gác cùng mở nối trời
Tịnh độ vui, Tịnh độ vui
Tịnh độ phương Tây rất khoái lạc.
Mười Tịnh độ Tây phương mười phương hiếm
Nỗ lực chuyên tâm chớ có nghi
Thượng phẩm liền chứng vô sinh nhẫn
Hạ sinh, chướng hết vào vô vi
Tịnh độ vui, Tịnh độ vui
Tịnh độ phương Tây rất khoái lạc.
Tịnh độ phương Tây lại không lỗi
Diêm-phù rất khổ người tội nhiều
Muốn được nay sinh ra ba cõi
Chỉ cần chí ý niệm Di-đà
Tịnh độ vui, Tịnh độ vui
Tịnh độ phương Tây rất khoái lạc.

KHEN LÌA SÁU CĂN

(Trong kinh Bát-nhã, Thích Pháp Chiếu)

Ngã tịnh là vui, ngã tịnh là vui
Nhìn thấy tâm không rõ thế gian
Quán thấy nhãn căn thường Thanh tịnh
Sắc giới không đến vốn là không
Tánh sắc xưa nay không chướng ngại
Không đến không đi là chân tông.
Quán thấy nhĩ căn thường Thanh tịnh
Thinh giới không đến vốn là không
Tánh thinh xưa nay không chướng ngại
Không đến không đi là chân tông.
Quán thấy tỷ căn thường Thanh tịnh
Hương giới không đến vốn là không
Tánh hương xưa nay không chướng ngại
Không đến không đi là chân tông.
Quán thấy thiệt căn thường Thanh tịnh
Vị giới không đến vốn là không
Tánh vị xưa nay không chướng ngại
Không đến không đi là chân tông.
Quán thấy thân căn thường Thanh tịnh
Xúc giới không đến vốn là không
Tánh xúc xưa nay không chướng ngại
Không đến không đi là chân tông.
Quán thấy ý căn thường Thanh tịnh
Pháp giới không đến vốn là không
Tánh pháp xưa nay không chướng ngại
Không đến không đi là chân tông.
(Ngã tịnh là vui, ngã tịnh vui rồi gấp tụng)
Vọng tưởng nhãn căn duyên sắc chuyển (nỗ lực)
Vọng thinh nhĩ giới bị tiếng lôi (khó biết)
Vọng khứu tỷ hương, lưỡi nhiễm vị
Vọng thức thân chạm, ý trần dời.
(Khó biết, nỗ lực, khắp khuyên niệm Di-đà tu phước)
Vọng tưởng sóng vọt thường chìm đắm
Lửa mạnh phiền não trấn hừng hực
Là đây luân hồi ngục ba cõi
Sinh, già, bệnh, chết khổ thường cháy.
(Khó biết, nỗ lực, khắp khuyên niệm Diđà tu phước)
Có may được gặp Thiện tri thức
Chỉ bày cửa khoái lạc phương Tây
Muốn được mau vượt khổ sinh tử
Chuyên tâm niệm Phật, đoạn tham sân.
(Khó biết, nỗ lực, khắp khuyên niệm Diđà tu phước)
Cõi báu Di-đà, cửa báu mở
Đài bảy báu trong ao bảy báu
Ngàn lá ngàn loại ngàn món sắc
Một nửa ánh sáng ra khỏi nước.
Khó biết, nỗ lực, khắp khuyên niệm Di-đà tu phước
Năm hội Di đà cứu Tabà
Người nghe đều hay phát mầm đạo
Mọi người ngưỡng tâm siêng niệm Phật
Bỏ tục, về chân, sớm xuất gia.
Khó biết, nỗ lực, khắp khuyên niệm Di-đà tu phước
Diêm-phù dơ xấu không đáng dừng
Nơi nơi chỉ nghe các tiếng khổ
Không bằng chuyên niệm hiệu
Di-đà Nay sinh thẳng đến thành sen báu.
Khó biết, nỗ lực, khắp khuyên niệm Di-đà tu phước
Tây phương đình điện báu ao báu
Rừng báu, nước, chim hiểu tình người
Anh vũ hòa kêu khen ba thân
Trong tiếng diễn ra kinh Đại thừa.
Khó biết, nỗ lực, khắp khuyên niệm
Di-đà tu phước Tây phương cây báu, gốc nhánh báu
Hoa báu, lưới báu rất rõ ràng
Lá báu hàng hàng xen lẫn nhau
Trái báu lớp lớp hóa sinh ra.
Khó biết, nỗ lực, khắp khuyên niệm Di-đà tu phước
Ao báu, bờ báu, hoa sen báu
Thềm báu, đáy báu, cát vàng thật
Hạ sinh tuy có chướng đời trước
Bồ-đề không phát tự sinh mầm.
Khó biết, nỗ lực, khắp khuyên niệm
Di-đà tu phước Tịnh độ
Tây phương mưa áo trời
Điện báu trong không bay theo thân
Một niệm trăm vị tùy tâm đến
Cớ gì chúng sinh người đi thưa.

***

KHEN VUI CHÁNH PHÁP

(Theo kinh Phật Bổn hạnh)

Chánh pháp vui, chánh pháp vui
Chánh pháp không nghĩ bàn
Thích-ca Như Lai, khi nhân địa
Nhiều kiếp khổ hạnh không nghĩ bàn
Đốn bỏ thân, tài cầu pháp mầu
Chỉ Phật cùng Phật mới chứng biết
Chánh pháp vui, chánh pháp vui
Chánh pháp không nghĩ bàn.
Đồng tử Tuyết Sơn, nhân Thích-ca
Vì cầu nửa kệ bỏ thân vàng
Bạn lành cầu pháp đều hai nhân
Bởi do bổn quốc giúp người nghèo
Chánh pháp vui, chánh pháp vui
Chánh pháp không nghĩ bàn.
Từ lực thí thân năm Dạ-xoa
Đàn vương bỏ nước bỏ vinh hoa
Cần mở cắt thân cứu mẹ cha
Bố thí vợ con hiệu Đạt-ma
Chánh pháp vui, chánh pháp vui
Chánh pháp không nghĩ bàn.
Nguyệt Quang phát nguyện bỏ ngàn đầu
Tát-bà đập xương không lo buồn
Lại làm Thi-tỳ thế mạng chim
Không chứng Bồ-đề chưa ngơi nghỉ
Chánh pháp vui, chánh pháp vui
Chánh pháp không nghĩ bàn.
Bảo vương cắt thân đốt ngàn đèn
Tát-đỏa nhảy vực cho cọp ăn
Từ thiện xẻ bụng cho ngũ tạng
Hỏi ngươi chúng sinh sẽ không biết
Chánh pháp vui, chánh pháp vui
Chánh pháp có thể vượt thế gian.
Bổn sư khổ hạnh thật khó bàn
Suy nghĩ kỹ càng không nên hỏi
Người hướng tỏ bày kể việc ông
Mỗi mỗi đều là nhân Thích-ca
Chánh pháp vui, chánh pháp vui
Chánh pháp có thể vượt thế gian.
Bố thí, trì giới nghiền ngẫm lâu
Nhẫn nhục, tinh tấn không lìa thiền
Khổ hạnh siêng tu công đầy đủ
Thẳng bàn kiếp số không bàn năm
Chánh pháp vui, chánh pháp vui
Chánh pháp có thể vượt thế gian.
Thích-ca Như Lai, lúc nhân địa
Nhiều kiếp khổ hạnh riêng siêu việt
Mỗi mỗi đều tu nghiệp vô thượng
Chứng được Bồ-đề xuất thế gian
Chánh pháp vui, chánh pháp vui
Chánh pháp có thể vượt thế gian.
Bổn sư khổ hạnh ứng chân như
Thật thật nối nhau không giả dối
Chứng được quả Vô thượng Bồ-đề
Phân thân trăm ức độ Diêm-phù
Chánh pháp vui, chánh pháp vui
Chánh pháp có thể vượt thế gian.
Từ trời giáng xuống đến vương cung
Gá ấm trong mộng Thánh ma gia
Sau vườn vịn cành cây vô ưu
Hông phải liền đản sinh chân dung
Chánh pháp vui, chánh pháp vui
Chánh pháp có thể vượt thế gian.
Sơ sinh vị thứ ngôi Luân vương
Chấn động đất trời phóng hào quang
Tiêu biểu Thích-ca ứng hóa thân
Khắp dạy các ngươi lìa vô thường
Chánh pháp vui, chánh pháp vui
Chánh pháp có thể vượt thế gian.
Chín rồng phun nước tắm thần thai
Người trời vinh hạnh sai bồng trẻ
Liền hướng Đông Tây đi bảy bước
Giở chân, hạ chân đạp đài sen
Khôn lớn vượt thành vào núi
Tuyết Khổ hạnh trải qua sáu năm dài
Thân mặc áo cỏ, ăn hột mè
Kiết già nhiếp niệm lại quy thiền
Chánh pháp vui, chánh pháp vui
Chánh pháp có thể vượt thế gian.
Hình dung khô héo không nghĩ bàn
Mục nữ cúi mình dâng cháo sữa
Ăn rồi giữa sông tự tắm rửa
Đế Thích từ không đè cành cây
Chánh pháp vui, chánh pháp vui
Chánh pháp có thể vượt thế gian.
Nhân đây thành Phật phóng hào quang
Miệng vàng nói pháp dạy chúng sinh
Rộng diễn pháp ba thừa mầu nhiệm
Khắp lưu hành thế giới Ta-bà
Chánh pháp vui, chánh pháp vui
Chánh pháp có thể vượt thế gian.
Thành Phật hơn bốn mươi chín năm
Nước kia kinh hành dạo năm trời
Khắp khuyên chúng sinh siêng niệm Phật
Cũng dạy trì giới và tu thiền
Chánh pháp vui, chánh pháp vui
Chánh pháp có thể vượt thế gian.
Phàm phu thấy Phật lần nhẹ nhàng
Như Lai xem thấy lại trở về
Thị hiện vô thường về Báo độ
Chúng sinh Diêm-phù không chỗ nương
Chánh pháp vui, chánh pháp vui
Chánh pháp có thể vượt thế gian.
Sau Phật Niết-bàn một ngàn năm
Giáo pháp lưu truyền đến cõi này
Chúng sinh chuyền đọc, y hạnh học
Bày thành đạo quả cũng sinh thiên
Chánh pháp vui, chánh pháp vui
Chánh pháp có thể vượt thế gian.
Nên biết muốn ra lồng phiền não
Mỗi mỗi y hạnh Đức Bổn sư
Đều nói không tu lại làm Phật
Đạo lý tự xem thông hay không?
Chánh pháp vui, chánh pháp vui
Chánh pháp có thể vượt thế gian.
Xuất gia trước nên đoạn tham não
Đẩy ngã núi vô minh nhân ngã
Ở Diêm-phù đây không nhiễm trước
Mới được thường ra khỏi thế gian
Chánh pháp vui, chánh pháp vui
Chánh pháp có thể vượt thế gian.
Trí tánh vô lậu xưa nay thường
Lâu ở vô minh bị bụi chôn
Chúng sinh tạo tội không bờ mé
Như tìm thành Phật hằng trông lầm
Chánh pháp vui, chánh pháp vui
Chánh pháp có thể vượt thế gian.
Phàm phu thấy ngược không suy nghĩ
Việc mình làm tạo không tự biết
Ác nghiệp rõ ràng không giảm tổn
Nói "Ta thành Phật" đại ngu si
Chánh pháp vui, chánh pháp vui
Chánh pháp có thể vượt thế gian.
Đại thừa không niệm nói tông không
Kiếp không, vô minh tham ái không
Chúng sinh thấy ngược, lầm quặng vàng
Bác không nhân quả, lồng cuồng phàm
Chánh pháp vui, chánh pháp vui
Chánh pháp có thể vượt thế gian.
Chớ hiềm chất lời lại ôm sân
Nghiên cứu kỹ càng đều là chân
Đã thấy làm sai chỉ bày nhau
Cuối cùng lại là vào bụng lòng
Chánh pháp vui, chánh pháp vui
Chánh pháp có thể vượt thế gian.
Ví như bệnh nặng nếu vì trừ
Nhận được lửa ngải bỏ gốc cây
Nghe pháp đã hay tự giác ngộ
Định sinh Tịnh độ hiểu không thừa
Chánh pháp vui, chánh pháp vui
Chánh pháp có thể vượt thế gian.
Chúng sinh nỗ lực niệm Di-đà
Gấp rút, mau chóng lại không lỗi
Chỉ là Tây phương mở chín phẩm
Hòa tội mang chướng ra Ta-bà
Chánh pháp vui, chánh pháp vui
Chánh pháp có thể vượt thế gian.
Chúng sinh theo Phật đến phương Tây
Vi trần nghiệp cũ tự tiêu mất
Như Lai nguyện lực chính gia bị
Nghe pháp ngộ đạo chứng chân thường
Chánh pháp vui, chánh pháp vui
Chánh pháp có thể vượt thế gian.
Khắp bảo Phật tử các đạo tràng
Mỗi mỗi phát lấy tâm Bồ-đề
Chánh pháp chân tông cần học theo
Định thấy ngoại đạo không kham nhận
Chánh pháp vui, chánh pháp vui
Chánh pháp có thể vượt thế gian.
Cái gì gọi đó là Chánh pháp
Nếu cái đạo lý là chân tông
Tốt xấu ngày nay cần chọn lựa
Mỗi mỗi kỹ càng chớ mông lung
Chánh pháp vui, chánh pháp vui
Chánh pháp có thể vượt thế gian.
Trì giới, ngồi thiền, gọi Chánh pháp
Niệm Phật, thành Phật là chân tông
Không giữ lời Phật là ngoại đạo
Bác không nhân quả thấy là không
Chánh pháp vui, chánh pháp vui
Chánh pháp có thể vượt thế gian.
Thiền, luật thế nào là Chánh pháp
Niệm Phật Tam-muội là chân tông
Thấy tánh hiểu tâm bèn là Phật
Đạo lý thế nào không tương ưng
Chánh pháp vui, chánh pháp vui
Chánh pháp có thể vượt thế gian.
Niệm Phật tiếng tiếng gieo giống
Phật Ngồi thiền, trì giới dụng chân công
Ông nếu không tu liền làm Phật
Dụ như người đói, che gió uổng
Chánh pháp vui, chánh pháp vui
Chánh pháp có thể vượt thế gian.

***

KHEN PHƯƠNG TÂY VUI

(Theo kinh A-di-đà)

Phương Tây vui, phương Tây vui
Tịnh độ phương Tây không nghĩ bàn
Thích-ca rộng khuyên niệm Di-đà
Ý muốn chúng sinh khỏi sông ái
Đài hoa thượng phẩm thấy Từ chủ
Người đến đều nhân niệm Phật nhiều
Phương Tây vui, phương Tây vui
Tịnh độ phương Tây không nghĩ bàn
Các Phật tử chớ đắm vui nhân gian,
Phương Tây tiến đạo hơn Ta-bà
Không duyên năm dục và tà ma
Thành Phật không nhọc các nghiệp lành
Đài hoa ngồi thẳng niệm Di-đà
Vui Tây phương chớ đắm nhiễm vui nhân gian.
Phương Tây vui, phương Tây vui
Tịnh độ phương Tây không nghĩ bàn
Năm trược tu hành nhiều thối chuyển
Không bằng niệm Phật đến phương
Tây Đến đó tự nhiên thành chánh giác
Về lại biển khổ làm bến, cầu
Vui Tây phương chớ đắm nhiễm vui nhân gian.
Phương Tây vui, phương Tây vui
Tịnh độ phương Tây không nghĩ bàn
Thế giới Diêm-phù không đáng dừng
Nhân duyên ác nghiệp mỗi ngày đầy
Dầu cho làm được nhân lành này
Bất giác địa ngục phía trước thành
Các Phật tử chớ nhiễm trước vui nhân gian.
Phương Tây vui, phương Tây vui
Tịnh độ phương Tây không nghĩ bàn
Cực lạc Tây phương thật là vui
Vĩnh kiếp không nghe tên các khổ
Trỗi nhạc đàn ca khắp hư không
Hòa hợp tự nhiên nói vô thượng
Diêm-phù dơ xấu không đáng ở
Ác nghiệp, sân, khuể, đấu, vô minh
Nếu hay chuyên tâm niệm Phật ấy
Cõi báu Di-đà ngộ vô sinh
Các Phật tử chớ nhiễm trước vui nhân gian.
Phương Tây vui, phương Tây vui
Tịnh độ phương Tây không nghĩ bàn
Cực lạc phương Tây, ao bảy báu
Nước tám công đức chẳng nghĩ bàn
Đáy có cát vàng, bờ cây thơm
Hoa sen vọt ra, hóa sinh người
Các Phật tử chớ nhiễm trước vui nhân gian.
Phương Tây vui, phương Tây vui
Tịnh độ phương Tây không nghĩ bàn
Cõi tịnh Di-đà rất tinh vi
Vàng ròng ngăn đường đất lưu ly
Gió thơm thổi động các hàng cây
Cung, thương năm hội diễn diệu kỳ
Các Phật tử chớ nhiễm trước vui nhân gian.
Phương Tây vui, phương Tây vui
Tịnh độ phương Tây không nghĩ bàn
Trong cõi Cực lạc ao bảy báu
Hoa sen nở sắc tía sáng rỡ
Buộc niệm Di-đà lên tòa báu
Phút chốc bất giác chứng vô vi
Các Phật tử chớ nhiễm trước vui nhân gian.
Phương Tây vui, phương Tây vui
Tịnh độ phương Tây không nghĩ bàn
Lầu ngọc bích trước đài bảy báu
Đồng tử Chư thiên tranh đi qua
Mỗi mỗi cầm hoa cúng dường Phật
Nơi nơi chỉ nói xưng "lành thay"
Các Phật tử chớ nhiễm trước vui nhân gian.
Phương Tây vui, phương Tây vui
Tịnh độ phương Tây không nghĩ bàn
Chớ lạ lia lịa khuyên cùng nhau
Thấy người thường thường có vô thường
Nếu được sâu Tam-muội niệm Phật
Không sợ ba đường, vua bình đẳng
Các Phật tử chớ nhiễm trước vui nhân gian.
Phương Tây vui, phương Tây vui
Tịnh độ phương Tây không nghĩ bàn
Ở trong muôn hạnh gấp nhất là
Mau chóng không gì qua "Tịnh độ"
Không chỉ miệng vàng Bổn sư nói
Chư Phật mười phương cùng truyền chứng
Các Phật tử chớ nhiễm trước vui nhân gian.
Phương Tây vui, phương Tây vui
Tịnh độ phương Tây không nghĩ bàn
Ao báu, bờ báu rất rộng bằng
Đất báu lưu ly hết ngàn lo
Khắp khuyên chúng sinh siêng niệm
Phật Di-đà quyết định tự đến rước
Các Phật tử chớ nhiễm trước vui nhân gian.
Phương Tây vui, phương Tây vui
Tịnh độ phương Tây không nghĩ bàn
Cõi đây một người niệm danh Phật
Phương Tây liền có một bông sen
Chỉ khiến một đời không lui sụt
Hoa đó lại đến cõi này rước
Các Phật tử chớ nhiễm trước vui nhân gian.
Phương Tây vui, phương Tây vui
Tịnh độ phương Tây không nghĩ bàn
Nên gấp niệm Phật chớ lông bông
Muốn vượt biển khổ cần thuyền bè
Xưng danh quyết định sinh An lạc
Hằng tuyệt dòng sinh tử Diêm-phù
Các Phật tử chớ nhiễm trước vui nhân gian.
Về đi thôi! Diêm-phù năm trược là trần ai
Không bằng phương Tây chỗ vui vầy
Đến đó đài hoa theo ý nở.
Về đi thôi! Cõi tịnh Di-đà mở điện báu
Chỉ có tâm ngưỡng hay niệm Phật
Lâm chung quyết định ngồi đài vàng.
Về đi thôi! Sinh, già, bệnh, chết, khổ xô nhau
Ngày đêm siêng tâm chuyên niệm Phật
Trên điện ma-ni lễ Như Lai.
Về đi thôi! Ai có thể thọ luân hồi đường ác
Nếu có thể niệm hiệu Di-đà
Vãng sinh Cực lạc ngồi đài hoa.

Các Phật tử, chớ nhiễm trước vui nhân gian, chớ nhiễm trước vui nhân gian.

***

BAN-CHU TAM-MUỘI LẠC

(Trích từ kinh Ban-chu Tam-muội, Hòa thượng Từ Mẫn viết) Ban-chu Tam-muội lạc(nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Khắp khuyên hồi tâm sinh Tịnh độ (nguyện vãng sinh)

Hồi hướng niệm Phật tức đồng sinh (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Nhiều kiếp đến nay đã trầm luân (nguyện vãng sinh)

Tùy theo sáu đường chịu luân hồi (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Không gặp Thiện tri thức vãng sinh (nguyện vãng sinh)

Ai cùng khuyên nhau để trở về (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Sinh về cõi trời tạm thời vui (nguyện vãng sinh) Phước hết lâm chung hiện tướng suy (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Nếu thọ thân người khổ trong thai (nguyện vãng sinh)

Tứ đại lục tặc cạnh tranh nhau (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Thọ thân Tu-la hoặc ngạ quỷ (nguyện vãng sinh)

Đói khát đấu tranh khổ không lường (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Sinh vào súc sinh ăn nuốt nhau (nguyện vãng sinh)

Dao bén giết hại lại kéo cày (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Sa vào địa ngục khổ trường kỳ (nguyện vãng sinh)

Gió nghiệp thổi đi không biết về (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Hoặc vào lò lửa vạc dầu sôi (nguyện vãng sinh)

Sóng dồi lửa dữ quá thiên lôi (vui vô lượng)

(có một hàng chữ tiếng Hoa)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Hoặc trên núi đao leo rừng kiếm (nguyện vãng sinh)

Da thịt xương cốt biến thành tro (vui vô lượng) Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Xin hỏi vì sao chịu khổ này (nguyện vãng sinh) Tham cá ưa thịt nghiệp tương tùy (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Đồng sôi rót miệng, cày trên lưỡi (nguyện vãng sinh)

Uống rượu vọng ngữ chọn khổ kia (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Hoặc nằm giường sắc ôm cột đồng (nguyện vãng sinh)

Đều do tà tâm, điên đảo ra

Ban-chu Tam-muội lạc nguyện vãng sinh

Hoặc đọa đại địa ngục A-tỳ

Trải qua nhiều kiếp chịu tối tăm (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Lửa cháy khắp cả trên thân thể (nguyện vãng sinh)

Vòng dao chày sắt tự bay đến (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Chó đồng moi tim và hút máu (nguyện vãng sinh)

Chim sắt mổ mắt lại khoét má (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Đại chúng trong đạo tràng hôm nay (nguyện vãng sinh)

Hằng sa kiếp số đều trải qua (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Mừng được thân người thật là khó (nguyện vãng sinh)

Như hoa ưu-đàm một lần nở (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Đang gặp pháp Tịnh độ hy hữu (nguyện vãng sinh)

Đang gặp pháp môn niệm Phật mở (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Gặp được hoằng nguyên của Di-đà (nguyện vãng sinh)

Đang gặp đại chúng tin trở về (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Đang gặp lời khen kinh hôm nay (nguyện vãng sinh)

Đang gặp khế hợp trên đài hoa (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Đang gặp đạo tràng không có ma (nguyện vãng sinh)

Đang được không bệnh hoạn xảy ra (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Đang được bảy ngày công thành tựu (nguyện vãng sinh)

Bốn mươi tám nguyện Phật dắt dìu (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Khắp khuyến bạn tu trong đạo tràng (nguyện vãng sinh)

Nỗ lực hồi tâm quy Tịnh độ (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Thử hỏi quê hương ở nơi nào (nguyện vãng sinh)

Đài sen bảy báu nơi Cực lạc (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Phật Di-đà lập hằng thệ nguyện (nguyện vãng sinh)

Nghe người niệm Phật ta đều rước (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Không chọn nghèo khổ hay giàu sang (nguyện vãng sinh)

Không chọn ngu si hay tài trí (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Bất luận vô tội tu tịnh nghiệp (nguyện vãng sinh)

Hay người ngoại đạo kẻ Xiển-đề (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh) Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Bất luận lâu ngày tu khổ hạnh (nguyện vãng sinh)

Hay người ngày nay mới phát tâm (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Bất luận đa văn trì tịnh giới (nguyện vãng sinh)

Hoặc kẻ phá giới tội sâu dày (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Chỉ cần hồi tâm niệm Phật nhiều (nguyện vãng sinh)

Gạch ngói có thể biến thành vàng (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Gửi lời đến đại chúng hiện tiền

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh) Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Thử hỏi tìm nhau ở nơi nào? (nguyện vãng sinh)

Đáp rằng: Cõi tịnh Phật Di-đà (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Thử hỏi duyên gì được vãng sinh (nguyện vãng sinh)

Đáp rằng: niệm Phật tự thành công (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Thử hỏi đời nay nhiều tội chướng (nguyện vãng sinh)

Làm sao Tịnh độ chứa dung cho (vui vô lượng) Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Đáp rằng: niệm Phật tội tiêu trừ (nguyện vãng sinh)

Dụ như đèn sáng vào nhà tối (vui vô lượng) Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Phàm phu có được vãng sinh chăng? (nguyện vãng sinh)

Sao gọi chuyên tâm như đèn sáng (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Đáp rằng: trừ nghi niệm Phật nhiều (nguyện vãng sinh)

Di-đà nhất định sẽ thân cận (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Chuyên tâm niệm Phật thấy Di-đà (vui vô lượng)

Tịnh độ ngũ hội pháp sự tán bổn

PHẦN SAU

VĂN TÁN CỦA BỒ-TÁT TỬ

Đáng thương thay!
Đáng thương thay Bồ-tát
Tử dạo chơi ở Tây phương
Ra ngoài thường nhẫn nhục
Về nhà không sân giận
Chỉ chuyên tu Tịnh độ
Chứng được thân vàng tía
Uyển chuyển trong đài hoa
Uyển chuyển trong đài hoa.
Tâm chúng sinh tâm chúng sinh
Chìm đắm bùn vô minh
Lúc nào mới tỏ ngộ Bồ-tát Tử
Chứng được thân sắc vàng
Uyển chuyển trong đài hoa
Uyển chuyển trong đài hoa.
Tâm chúng sinh tâm chúng sinh
Sóng ngòi mạnh khó lường
Nơi nào không tìm đến
Uyển chuyển trong đài hoa
Uyển chuyển trong đài hoa.
Phật chỉ cõi Di-đà vui rầm rộ
Chúng sinh phải chịu khổ địa ngục
Đều đáng thương, mong trốn chạy ra
Kể chi trời, kể chi trời
Chúng sinh không có duyên cùng Phật
Trăm ngàn lời, không giáo hóa được Bồtát
Tử Người tội sẽ xuống chốn huỳnh tuyền
Uyển chuyển trong đài hoa
Uyển chuyển trong đài hoa.
Di-đà tạo thuyền lớn
Đưa khỏi bờ biển khổ
Đầu thuyền tối sẩm sắp muốn chìm Bồtát Tử.
Quý thay gặp được người niệm Phật
Uyển chuyển trong đài hoa
Uyển chuyển trong đài hoa.
Ao Đông ao Tây trăm đài báu
Lầu các quang minh muôn lớp mở
Liền đến trong lầu xem bổ xứ
Trở về trên điện lễ Như Lai
Uyển chuyển trong đài hoa
Uyển chuyển trong đài hoa.
Hoa sen đỏ, hoa sen xanh
Sinh trên đài hoa sen ngàn cánh
Phật Di-đà nhiếp thọ
Phật Di đà nhiếp thọ.

***

VĂN TÁN NAI

Xưa có một hiền sĩ rừng Sa-la
Hằng ngày ở trên núi rừng Sa la
Trăm chim cùng ca hát rừng Sa-la
Xem nhau như anh em.
Có một người đi qua,
Trượt chân rơi xuống suối
Tay nắm cây không gốc
Niệm niệm Quán Thế Âm
Nai nghe được lời này
Bảo: ông hãy lên lưng Nai
Sẽ đưa ông đến bờ.
Được lên bờ kia rồi
Đến quỳ trước mặt
Nai Không có gì báo ân
Xin làm nô bộc Nai
Nai loài vật trong rừng
Không cần có nô bộc
Đói thì ăn trăm cỏ
Khát uống nước suối trong
Muốn báo được ân nai
Đừng nói nai ở đây.

Có một thứ phi của Quốc vương bị bệnh lâu ngày. Đêm đêm thường thấy Nai chín màu. Nếu không được Nai này thì mạng sống khó kéo dài. Nhà vua liền ra lệnh tập trung các quần thần bảo rằng:

Ai biết nai chín màu
Và chỗ ở của nai
Phân nước thưởng ngàn vàng
Náo nghe lời nói này

Xoa tay đến trước vua:

Thần biết nai chín màu
Thường ở bên bờ suối
Xin vua đem nhiều binh
Nai này rất lanh lẹ.

Nhà vua đem cả trăm vạn quân, bao quanh bốn phía rừng. Nhà vua dương cung muốn bắn nai, liền nghe Nai nói rằng: Nhà vua là Ca-diếp, Ta chính là Như Lai.

Ngày xưa cứu mạng ông, nào ngờ hôm nay lại hại nai.

Khắp khuyên các chúng sinh trong đạo tràng, mỗi ngày đều phát tâm Bồ-đề.

***

VĂN TÁN THỈNH QUÁN THẾ ÂM

Ca ma na mục khư
Ca ma na mẫu giả
Na ca ma giả na
Ca ma na hà tấc đá.
Ca ma na khư biện.
Di ca ma na, ca ma ná.
Sa ma chuyển, sa yết la (2 hiệp).
Ma na ngật sái (2 hiệp).
Nam-mô tấc để Quán Thế Âm Bồ-tát.
Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát.

ĐẠO TRÀNG LẠC TÁN VĂN

Đại chúng mỗi người đều chắp tay (đạo tràng vui)

Cúi mình cảm tạ ân Thế Tôn (đạo tràng vui)

Hay dùng từ bi, phương tiện khéo (đạo tràng vui)

Chỉ bày cảnh vui ở Tây phương (đạo tràng vui)

Đạo tràng sắp tan người sắp biệt

Nỗ lực khuyên nhau trừ tham sân (đạo tràng vui)

Nhân duyên tham sân chướng Tịnh độ (đạo tràng vui))

Không được giải thoát, mãi trầm luân (đạo tràng vui)

Cùng nhau thân cận, sách tấn nhau (đạo tràng vui)

Mạng chung được đến trước Phật Đà (đạo tràng vui)

Nguyện pháp môn này luân chuyển mãi (đạo tràng vui)

Đạo tràng chúng đẳng lợi càng thêm (đạo tràng vui)

Chúng con đều được hưởng an vui (đạo tràng vui)

Thấy nghe tùy hỷ cũng như vậy (đạo tràng vui)

Tất cả hồi tâm sinh Tịnh độ (đạo tràng vui)

Tay cầm hương hoa đến Tây phương (đạo tràng vui)

***

VĂN NGUYỆN ƯA VÃNG SINH

Nguyện vãng sinh (Phật Di-đà Phật Di-đà)

Được sinh Tịnh độ báo ân sư (vui vô lượng)

Người hay niệm Phật, Phật sẽ nhớ (Phật Di-đà Phật Di-đà)

Chuyên tâm niệm Phật, Phật biết người (vui vô lượng)

Tất cả hồi tâm hướng An lạc (Phật Di-đà Phật Di-đà)

Liền thấy thân công đức sắc vàng (vui vô lượng)

Và Thánh chúng Tịnh độ trang nghiêm (Phật Di-đà Phật Di-đà)

Che kín trước mặt người tu hành (vui vô lượng)

Người tu thấy tâm mình vui vẻ (Phật Di-đà Phật Di-đà)

Trọn ngày theo Phật ngồi sen vàng (vui vô lượng)

Một niệm nương đài đến hội Phật (Phật Di-đà Phật Di-đà)

Liền chứng bất thoái nhập Tam hiền (vui vô lượng)

Trong mỗi mỗi ao hoa nở đầy (Phật Di-đà Phật Di-đà)

Mỗi hoa đều là người vãng sinh (vui vô lượng)

Thà sen vàng khép trăm ngàn kiếp (Phật Di-đà Phật Di-đà)

Không muốn địa ngục trong giây lát (vui vô lượng)

Đài giữ nửa tòa nương lá sen (Phật Di-đà Phật

Di-đà)

Tiếp bạn đồng tu cõi Diêm-phù (vui vô lượng)

Nhắn với người tu cõi Ta-bà (Phật Di-đà Phật Di-đà)

Niệm niệm siêng năng chớ ngủ nghỉ (vui vô lượng)

Nương nhân duyên này sinh Tịnh độ (Phật Diđà Phật Di-đà)

Mạng chung được đến trước Đức Phật (vui vô lượng)

***

VĂN TÁN TIỂU BAN-CHU TAM-MUỘI LẠC

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Ba cõi sáu đường khổ khó dừng (vui vô lượng)

Vì độ Ta-bà phân thân nhập (nguyện vãng sinh) Tám tướng thành đạo độ chúng sinh (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Ba cõi sáu đường khổ khó dừng (vui vô lượng) Nhiều kiếp đến nay thường trầm luân (nguyện vãng sinh)

Khắp nơi chỉ nghe tiếng sinh tử (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Ba cõi sáu đường khổ khó dừng (vui vô lượng) Thích-ca Mâu-ni chân báo độ (nguyện vãng sinh)

Cúi mình lễ tạ ân Thích-ca (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Ba cõi sáu đường khổ khó dừng (vui vô lượng)

Trong miệng nghẹn lời không nói được

(nguyện vãng sinh)

Đều do đời trước không nhân lành (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Ba cõi sáu đường khổ khó dừng (vui vô lượng) Mang lông đội sừng làm súc sinh (nguyện vãng sinh)

Các thứ roi vọt đánh vào thân (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Ba cõi sáu đường khổ khó dừng (vui vô lượng) Muôn việc đều hướng về Tịnh độ (nguyện vãng sinh)

Mỗi mỗi hào quang chiếu mười phương (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Ba cõi sáu đường khổ khó dừng (vui vô lượng) Tướng tốt Đức Phật tám vạn tư (nguyện vãng sinh)

Cõi nước Di-đà cũng không gặp (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Ba cõi sáu đường khổ khó dừng (vui vô lượng) Lo sợ lâu ngày không hiệu quả (nguyện vãng sinh)

Niệm Phật liền nói không công phu (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Ba cõi sáu đường khổ khó dừng (vui vô lượng)

Ba cõi không an như nhà lửa (nguyện vãng sinh)

Bốn đường đều dứt hết trần ai (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Ba cõi sáu đường khổ khó dừng (vui vô lượng) Nhàm sinh tử ở nơi cốt nhục (nguyện vãng sinh)

Nào hay năm ấm chỗ bào thai (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Ba cõi sáu đường khổ khó dừng (vui vô lượng) Đời nay phải phát đạo tâm ngay (nguyện vãng sinh)

Mong gặp Tịnh độ pháp môn khai (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Ba cõi sáu đường khổ khó dừng (vui vô lượng)

Nguyện sinh nước An dưỡng Tây phương

(nguyện vãng sinh)

Được Di-đà Thánh chúng dắt dìu luôn (vui vô lượng)

Ban-chu Tam-muội lạc (nguyện vãng sinh)

Ba cõi sáu đường khổ khó dừng (vui vô lượng)

Định tán hai môn đều được sinh (nguyện vãng sinh)

Chín phẩm tinh thô đều nương đài

Ban-chu Tam-muội lạc (vui vô lượng)

Ba cõi sáu đường khổ khó dừng (nguyện vãng sinh)

Chứng được tam minh tám giải thoát (vui vô lượng)

Giả từ ngũ trược thấy Như Lai (nguyện vãng sinh)

Ban-chu Tam-muội lạc (vui vô lượng)

Ba cõi sáu đường khổ khó dừng (nguyện vãng sinh)

Hạnh nguyện Di-đà rộng vô biên (vui vô lượng)

Từ bi thương xót khắp chúng sinh (nguyện vãng sinh)

Ban-chu Tam-muội lạc (vui vô lượng)

Ba cõi sáu đường khổ khó dừng (nguyện vãng sinh)

Đều muốn giáo hóa khiến vãng sinh (vui vô lượng)

Chúng sinh tội nghiệp đều an vui (nguyện vãng sinh)

***

VĂN TÁN TƯƠNG QUÁN

Hoa ưu-đàm khó hiện
Đại chúng lóng lòng nghe.
Trầm luân cảnh ngũ dục
Gá thân nơi thai ấm
Gió nghiệp thổi đầy đủ
Thân nương đó sinh ra
Hoa ưu-đàm khó hiện
Đại chúng lóng lòng nghe.
Hay khiến quyến thuộc vui
Xe giá rước trở về
Đầu, dạy đứng trong tay
Mẹ hiền dõi nhìn theo
Hoa ưu-đàm khó hiện
Đại chúng lóng lòng nghe.
Ngựa tre duyên hẻm rừng
Tụ lạc đẩy đống cát
Lông mày tợ lá liễu
Đôi má giống hoa đào
Hoa ưu-đàm khó hiện
Đại chúng lóng lòng nghe.
Lúc đến tuổi ba lăm
Ưa thích việc vinh hoa
Đêm cầm đàn khảy hát
Ngày ngắm ráng trời hồng
Hoa Ưu-đàm khó hiện
Đại chúng lóng lòng nghe.
Thân thể rất dũng mãnh
Ngạo mạn tạo anh hùng
Tiêu diêu trên long mã
Bồi hồi trong cầm tửu
Hoa ưu-đàm khó hiện
Đại chúng lóng lòng nghe.
Ngồi nhìn xem trăng sáng
Hưởng gió mát trong lành
Tay cầm gương như thoa
Không sợ cung sinh tử
Hoa ưu-đàm khó hiện
Đại chúng lóng lòng nghe.
Rút gươm bình bốn biển
Giơ giáo thắng vạn quân
Suốt ngày nằm trên giường
Ngồi dậy có người dìu
Miệng thường hay than thở
Ai biết già đã đến
Tám mươi sắp già yếu
Muôn việc không kham nổi
Hoa ưu-đàm khó hiện
Đại chúng lóng lòng nghe.
Đã từng chưa sương móc
Lo sợ gió mưa tan
Muốn tạo nghiệp Tây phương
Chẳng qua thời trai trẻ
Hoa ưu-đàm khó hiện
Đại chúng lóng lòng nghe.
Thế gian ở mấy ngày
Âm phủ đã nhiều năm
Đầu lâu rơi xuống rã
Thịt tan gân chóng rụi
Hoa ưu-đàm khó hiện
Đại chúng lóng lòng nghe.
Tứ chi đều đảo lộn
Lật thành phấn qua nhọn
Xương cốt phàm phu ta
Trở thành Tỳ-phú-la
Hoa ưu-đàm khó hiện
Đại chúng lóng lòng nghe.
Dầu khuyên theo việc lành
Trọn đều mờ mịt tối
Hồng nhan hết đẹp đẽ
Đầu bạc há than van!

***

VĂN TÁN ƯA XUẤT GIA

Xuất gia vui, xuất gia vui. Từ vô thỉ xa lìa các chấp trước, đời nay gặp duyên lành, cắt ái từ thân, đến trừ tình thô, đoạn các ác phát thân tâm. Nương lời dạy của bậc Thánh trừ các phiền não. Dùng dao vàng cắt tóc, đắp y uống thuốc báu. Uống thuốc báu hưởng pháp vui thêm phấn khởi. Ai ở trong đêm dài mê muội, ngày này thân Thanh tịnh. Vui đại giác, vui đại giác. Xuất gia an, xuất gia an. Tất cả việc không liên can nhau. Đến tuổi hai mươi gặp Hòa thượng xin bẩm thọ giới. Gặp giới đàn Thanh tịnh, gặp giới đàn Thanh tịnh. Tu định tuệ, chứng không khó. Ngộ lưu ly sáng trong ngoài. Diệu dụ Liên Hoa, trợn mắt nhìn khắp. Xưng Thích tử, pháp môn ra vào thênh thang, tới lui đường không ngăn ngại. Đường giải thoát xa chứng Niết-bàn. Chứng Niết-bàn về đi thôi. Cửa báu mở thấy Phật Di-đà. Lên tòa báu Bồ-tát rải hoa. Xưng thiện tai, xưng thiện tai. Rừng báu xem nước, chim cây cối. Nhớ năm hội, thương tiếng nhu nhuyến. Khen pháp vương, khen pháp vương. Chim cọng mạng, đối trước uyên ương, anh vũ, tần-già nói diệu pháp thường khen chúng sinh. Ở phương khổ, ở phương khổ, quy khứ lai. Lìa Ta-bà thường ở bên Đức Phật, nghe diệu pháp chỉ cõi Tây phương. Là Thích-ca, là Thích-ca, quy khứ lai. Thấy Phật Diđà ở cõi Tây phương. Hiện đang thuyết pháp độ chúng sinh. Ra khỏi sông ái, ra khỏi sông ái, quy khứ lai. Trên đài vàng Thế Chí, Quán Âm đến dẫn đường bách pháp minh môn nên tự khai, nên tự khai.

***

VĂN TÁN NGUYỆN VÃNG SINH

Nguyện vãng sinh, nguyện vãng sinh (Phật Diđà Phật Di-đà) Vô thường mau chóng chẳng an nhiên (vui vô lượng)

Bọt nước nổi chìm không trụ lâu (Phật Di-đà Phật Di-đà) Duyên sinh tạm có, rồi lại không (vui vô lượng)

Giả sử trăm năm như nháy mắt (Phật Di-đà Phật Di-đà) Có sinh ắt phải có vô thường (vui vô lượng)

Sự sống không dừng như sấm chớp (Phật Diđà Phật Di-đà) Gia công niệm Phật chớ biếng lười (vui vô lượng)

Ngày nay đạo tràng đồng pháp vui (Phật Di-đà Phật Di-đà) Hội này hội khác cũng khó gặp

Mỗi mỗi khuyên nhau đồng phát nguyện (Phật

Di-đà Phật Di-đà) Đời đời pháp hội được gặp nhau (vui vô lượng)

VĂN TÁN BÁT-NHÃ

Xưa có Bồ-tát ngồi tĩnh tọa (Phật Di-đà)

Quán chiếu năm uẩn thảy đều không (Phật Diđà Phật Di-đà)

Trong tướng không không, chẳng thật có (Phật Di-đà)

Tánh Bát-nhã rộng khó nghĩ bàn (Phật Di-đà

Phật Di-đà)

Nên biết diệu thân không quái ngại (Phật Diđà)

Là đại thần chú khởi tâm từ (Phật Di-đà Phật

Di-đà)

Chân thật không dối phải tin sâu (Phật Di-đà)

Yết-đế, yết-đế trừ hồ nghi (Phật Di-đà Phật Diđà)

***

VĂN TÁN TIỂU ĐẠO TRÀNG

Tôi nghe như vầy, một thuở nọ (vui đạo tràng) Phật ở Linh thứu, thành Vương xá (vui đạo tràng)

Bồ-tát, Thanh văn và tám bộ (vui đạo tràng)

Địa động thiên hoa chẳng phải thường (vui đạo tràng)

Đây là Chư Phật sinh tướng lạ (vui đạo tràng)

Văn-thù nói nhân duyên đời trước (vui đạo tràng)

Hào quang chiếu khắp sinh điềm lạ (vui đạo tràng)

Định nói kinh: Diệu Pháp Liên Hoa (vui đạo tràng)

Đại chúng đều tu Tịnh độ nghiệp (vui đạo tràng)

Tay cầm hoa hương đến Tây phương (vui đạo tràng)

***

VĂN TÁN ĐẠI LẠC

Khi đệ tử phát nguyện
Nguyện sinh Ngũ đài sơn Bồ-tát
Văn-thù khai tâm địa Bồ-tát
Phổ Hiền ngồi đài hoa.
Khi đệ tử phát nguyện
Nguyện chép kinh Hoa Nghiêm
Hoa Nghiêm, phẩm Tín xứ Bồ-tát
Tâm Vương ở trong đó.
Khi đệ tử phát nguyện
Nguyện chép kinh Niết-bàn
Phật Niết bàn tánh hải
Sớm chứng núi Niết bàn.
Khi đệ tử phát nguyện
Nguyện chép kinh Dược Sư
Dược Sư, hai mươi nguyện
Nguyện nguyện độ chúng sinh.
Khi đệ tử phát nguyện
Nguyện chép kinh Quán Âm
Sức Quán Âm, Thế Chí
Chỗ khổ đều đến trước.
Khi đệ tử phát nguyện
Nguyện chép kinh Vô Lượng
Mười sáu quán trong kinh
Tam-muội tự nhiên thành.
Khi đệ tử phát nguyện
Nguyện làm đèn trước Phật
Chiếu kinh và chiếu tượng
Được chiếu đến chúng Tăng.
Khi đệ tử phát nguyện
Nguyện làm hương đèn Phật
Hương đèn cúng dường Phật
Độ hết người có duyên.
Khi đệ tử phát nguyện
Nguyện làm ao bảy báu
Trong ao có hiền Thánh
Đều là người vãng sinh.

***

VĂN TÁN

Phật Di-đà uy nguy
Dung nhan màu vàng tía
Thân ba hai tướng tốt
Dưới bàn chân bằng phẳng
Đủ tám mươi vẻ đẹp
Hào quang thường chiếu sáng
Phạm âm vượt Tam thiên
Âm vang như Phượng hoàng.
Phật Di-đà uy nguy
Cõi nước rất Thanh tịnh
Đều một màu vàng ròng
Không có tên đường ác
Ao nước chảy xen nhau
Cây báu, năm âm thanh
Nói về khổ vô thường
Người nghe được vô sinh.
Phật Di-đà uy nguy
Các điều lành tốt đẹp
Cõi nước đẹp an vui
Đều muốn nguyện vãng sinh
Phật và chúng Bồ-tát
Thần thông đều đến rước
Bỗng nhiên ao bảy báu
Trong hoa sen hóa sinh.
Phật Di-đà uy nguy
Oai đức rộng không lường
Thân thể màu vàng ròng
Hào quang chiếu mười phương
Người nghe thấy, nhìn thấy
Hằng dứt khổ sinh tử
Con nay đầu đảnh lễ
Cha lành của muôn loài.

***

KHEN QUÁN THẾ ÂM BỒ-TÁT

Chúng sinh bị khổ ách
Vô lượng khổ bức thân
Quán Âm sức trí diệu
Hay cứu khổ thế gian

Cho đến:

Cải kiện qua cửa quan
Trong quân trận sợ sệt
Do sức niệm Quán Âm
Cừu oán đều lui tan
Diệu Âm, Quán Thế Âm
Tiếng hơn thế gian kia
Cho nên thường phải niệm
Niệm niệm chớ sinh nghi
Quán âm bậc tịnh Thánh
Nơi khổ não, nạn chết
Hay làm chỗ nương cậy
Đủ tất cả công đức
Mắt lành trông chúng sinh
Biển phước lớn không ngằn
Cho nên phải đảnh lễ.

***

KHEN BỒ-TÁT ĐẠI THẾ CHÍ

Đại Thế Chí Bồ-tát
Thần thông đại tự tại
Cùng Quán Âm không khác
Quán Âm, Thế Chí hai Đại sĩ
Thường hầu bên Đức Phật Di-đà
Quán Âm đầu đội Phật Di-đà
Thế Chí trong mũ có bình báu
Trong bình hào quang sáng vô lượng
Thường chiếu đến những chúng sinh khổ
Từ bi hỷ xả cứu muôn loài
Những việc đã làm không kể xiết
Nên con xin cúi đầu đảnh lễ.

***

KHEN ĐẠI THÁNH VĂN-THÙ-SƯ-LỢI BỒTÁT

Văn-thù-sư-lợi

Đệ tử của Pháp vương Diệu Đức

Là Tổ sư của bảy Đức Phật

Hiệu là Phật Long Chủng Thượng Tôn Vương.

Tuy chứng quả Phật chuyển pháp luân, nhập Niết-bàn, nhưng không bỏ đạo Bồ-tát, giáo hóa chúng sinh, vô lượng công đức đều thành tựu. Vô lượng Phật đạo đều nghiêm tịnh. Những người gặp Ngài không ai chẳng được lợi ích. Những việc đã làm không kể xiết. Hiện tại phương Đông bắc thế giới sắc vàng, trong núi Thanh lương, trụ Thủlăng-nghiêm Tam-muội cùng một muôn Bồ-tát cùng nhóm họp. Lợi lạc chúng sinh khổ. Cho nên con cúi đầu đảnh lễ.

***

KHEN QUÁN KINH THẬP LỤC QUÁN

(Theo Quán kinh-Thích Tịnh Hà thuật)

Thứ nhất quán rằng ở phía Tây
Thẳng thân ngồi ngay bỏ hôn mê
Khi thấy dục chìm như trống treo
Khiến tâm kiên cố chớ cao thấp.
Thứ hai quán nước vốn lắng trong
Tưởng nước là nước lý dễ thành
Khiến nước sáng làm đất lưu ly
Rõ ràng lại thấy nâng bảo tràng.
Thứ ba vàng ròng trong đất báu
Sáu thời mưa hoa đầy rừng ngọc
Ánh sáng biến làm nhạc hư không
Tiếng sáo hay Thanh tịnh tâm người.
Thứ tư cây báu bảy lớp hàng
Bày lá rũ cành ánh sáng lạ
Bốn thời hoa lá đều đầy đủ
Gió đến rừng cây lại bay hương.
Thứ năm phải quán ao bảy báu
Nước tám đức mát không nghĩ bàn
Kênh rạch đều là nước cát vàng
Trên nước luôn luôn có hoa nở.
Thứ sáu nên quán các lầu báu
Hiên châu, lan can ngọc xanh biếc
Nhạc trời khi tấu vang đêm thanh
Pháp âm nhiệm mầu khuyên siêng tu.
Thứ bảy chuyên quán tòa sen nở
Vàng ròng làm cánh, ngọc làm đài
Trên tràng báu che lưới trân châu
Trang nghiêm chỉ nghĩ vì Như Lai.
Thứ tám tượng báu sắc tròn sáng
Muôn pháp đều từ tâm tưởng sinh
Nếu thấy thân mình ngồi trên hoa
Tam-muội sâu xa tự nhiên thành.
Thứ chín thân Pháp vương Di-đà
Tướng tốt hào quang không ai sánh
Chúng sinh niệm Phật đều nhiếp hộ
Tâm thường không bỏ người có duyên.
Thứ mười Quán Âm vị bổ xứ
Tướng màu bằng Phật khó nghĩ bàn
Đầu đội Như Lai tâm cung kính
Từ quang hằng trụ môn Đại bi.
Mười một Thế Chí đại oai hùng
Lâu dài giúp đỡ cứu sáu đường
Thế giới lay động ứng độ người
Hào quang thường chiếu hàng trung nhân.
Mười hai quán thân mình vãng sinh
Hoa sen nở khép rất rõ ràng
Ngồi ngay thẳng thắn tâm không động
Lâm chung sẽ được Phật đến rước.
Mười ba thân trượng sáu vàng tía
Chân hóa xưa nay không hai đường
Chỉ khiến tùy tâm quán rõ ràng
Pháp thân tướng màu tự rực rỡ.
Mười bốn người sinh hành nghiệp cao
Ba thân thượng phẩm dòng hào kiệt
Bách pháp minh môn, địa hoan hỷ
Định lực Kim Cang càng kiên cố.
Mười lăm sinh ở trong chín phẩm
Trọng tu Tịnh giới nghiệp mới tan
Bạn lành dạy Hồi hướng vãng sinh
Chốc lát bất giác ngồi đài sen.
Mười sáu vị hạ sinh rất thấp
Nghiệp chướng khó tiêu, tuệ phát chậm
Mười niệm thai sen tuy trụ kiếp
Hoa nở lại được ngộ vô sinh.

VĂN KHEN NGỢI KINH A-DI-ĐÀ

Thích-ca Điều Ngự Đại Từ Tôn
Cứu đời trước mở môn Tịnh độ
Muốn nói cõi Cực lạc trang nghiêm
Lúc đó Phật ở vườn Cấp cô
Pháp luân cùng đại chúng hưng khởi
Vô lượng người trời đại chúng nhóm
Xá-lợi-tử Thanh văn thứ nhất
Đứng đầu Bồ-tát là Văn-thù
Lúc ấy Phật nói tông chân thật
Tây phương quá đây mười câu-chi
Thế giới trang nghiêm tên Cực lạc
Di-đà ở đó không nghĩ bàn
Nước ấy chúng sinh khổ đã trừ
Nhàn rỗi vui sướng không gì hơn
Ngày đêm tu hành vượt tám nạn
Sắc tướng trang nghiêm đều như nhau
Bảy hàng cây báu bảy lan can
Bảo cái, lưới báu treo trên không
Ai người có duyên đều được thấy.
Người ân cần học dùng tâm quán
Người đến nương hoa ngồi rừng báu
Trời đến trổi nhạc điệp khúc hay
Sáu độ đã hay điều sáu luật
Bát chánh đạo hòa với tám âm
Nước công đức ao báu cát vàng
Sen nở ánh sáng tợ bánh xe
Bồ-tát trên hoa ngồi ngay thẳng
Xem thì đều là người vãng sinh
Tịnh độ Di-đà nhà Pháp vương
Nguyện lực trang nghiêm phát mầm đạo
Tòa báu bay trong lầu ngọc bích
Trên đất vàng ròng mưa hoa trời
Lấy hoa trời đựng đầy vạt áo
Lục thông như ý thân giác nhẹ
Cúng dường Chư Phật phương khác rồi
Về nước mình ăn cơm, kinh hành
Các chim hòa tiếng cả đêm ngày
Tiếng trong diễn pháp khó nghĩ bàn
Năm căn, năm lực, bảy giác chi
Bát Thánh sâu xa nhập vô vi
Mọi người đồng thời nghe tiếng pháp
Người nghe đều sinh tâm niệm Phật
Hóa chim, cây, chẳng phải ba ác
Di-đà tuyên dương pháp truyền sâu
Gió nhẹ thổi động rừng cây báu
Âm vang như tiếng nhạc cõi trời
Mỗi mỗi không tuyên pháp nào khác
Nơi nơi chỉ nghe niệm tên Phật
Di-đà thọ mạng thật vô biên
Dân trong nước đó cũng như vậy
Thành đạo đến nay đã mười kiếp
Hào quang chiếu hằng sa pháp giới
Bồ-tát, Thanh văn, chúng rất nhiều
Vì cầu giải thoát thấy Di-đà
Tính đến không thể biết hạng lượng
Chư Phật phương khác cũng đến đây
Truyền nghe cõi tịnh rất trong sạch
Đều là người A-bệ-bạt trí
Một đời bổ xứ tu Tam-muội
Chứng đắc Kim Cang thân rốt sau
Thiện căn phước ít, lý khó sinh
Bảy ngày chuyên niệm danh hiệu Phật
Nếu lúc lâm chung tâm không loạn
Di-đà quyết định tự rước ông.
Mười hiệu Di-đà đáp nhân xưa
Chư Phật sáu phương chứng thành thật
Tướng lưỡi rộng dài, lời không dối
Như Lai hộ niệm người tín tâm
Thế giới vô thường khó giữ lâu
Chỉ cần phát nguyện sớm cần cầu
Đã sinh, sẽ sinh, đều không lui
Đâu hạn nay tu và chưa tu
Chư Phật đồng thời khen Thích-ca
Hay ở ngũ trược cứu Ta-bà
Nói pháp thế gian khó tin này
Đều khiến giác ngộ Đức Di-đà
Pháp Tạng mở bày nghĩa đã tròn
A-nan từ đây nói lời thật
Đại chúng vui mừng đều lãnh nhận
Như Lai dặn dò rộng lưu truyền.

***

KHEN TÂN VÔ LƯỢNG QUÁN

(Pháp Chiếu thuật)

Thích-ca trụ ở núi Linh thứu
Ra đời vì giáo hóa Ta-bà
Chúng Thanh văn Bồ-tát vô lượng
Ban đầu nghe kinh ý chưa thôi
A-xà Thái tử ở vương thành
Bắt lấy tội tù ở ngục hình
Vi-đề khóc lóc quy y Phật
Nguyện thường không nghe tên các khổ
Thâm tâm không ưa cõi Diêm-phù
Thật là nhiều các quỷ, súc sinh
Chỉ xin Từ Tôn chỉ bày cho
Tịnh độ phương khác thệ đi qua
Thích-ca Như Lai biết tâm bà
Chốc lát bỗng hiện đến cung vua
Giữa mày phóng sắc vàng soi chiếu
Vi-đề chướng hết, thấy được Phật (chân dung)
Cõi Tịnh độ khác tuy vô lượng
Thưa Phật chỉ sinh trong Cực lạc
Nguyện thấy Di-đà mau thọ ký
Khoảnh khắc lại đủ sáu thần thông
Thế Tôn mỉm cười sinh hoan hỷ
Trong miệng phóng năm đạo hào quang
Hào quang bèn chiếu đảnh Tần-bà
Tùy cơ chứng quả cũng ngại gì
Phật bảo Vi-đề: "Bà biết chăng!"
Di-đà cách đây cũng chẳng xa
Chỉ phải siêng tu ba hạnh phước
Lâm chung rước bà lên lầu vàng
Cũng vì đại chúng ở đời sau
Phàm phu, người ác đời năm trược
Chỉ khiến hồi tâm sinh nước kia
Hay khiến Tịnh nghiệp đoạn tham sân.
Nơi đây Vi-đề lại có nghi
Như Lai nay nói ngươi nên biết
Cứ chúng phàm phu thật chưa được
Vì nương Chư Phật đại từ bi.
Đã nghe nói rồi sinh vui mừng
Lại vì người năm khổ ngày nay
Làm sao thấy được cõi Di-đà
Tướng tốt, hào quang, thân tốt đẹp.

Thế Tôn vì nói:

-Trước quán rằng:

Ý nên trụ tưởng hướng Tây phương
Người trí quyết cần nương quán này
Tội trần sa nhiều kiếp diệt mất
Tội diệt thân tâm quyết Thanh tịnh
Kế nên tưởng nước dễ thành nước
Chốc lát lại thấy đất lưu ly
Vàng ròng làm giây để ngăn đường
Ao báu trong veo sâu ngàn nhận
Xen kẽ ngọc châu là vàng ròng
Mưa hoa lăng xăng tùy chỗ đáp
Hay khiến người phát tâm chân thật
Rừng ngọc, cây báu bảy lớp hàng
Nơi nơi ngọc buông ánh sáng lạ
Trong ấy vô số điện ma-ni
Đồng tử cõi trời rải hoa thơm
Trong thành Cực lạc ao bảy báu
Sen nở ánh sáng chẳng nghĩ bàn
Trong hoa đều là nước ma-ni
Chỉ khen người cõi Ta-bà đến
Lầu ngọc đài báu sắc vàng tía
To lớn luôn sáng chiếu mười phương
Bên ao ngọc trắng nghe pháp mầu
Trong cánh hoa sang lại bay hương
Di-đà vô số thành lầu báu
Hằng sa Bồ-tát dạo bốn bên
Mỗi mỗi cầm hoa cúng dường Phật
Hằng dứt trần lao lại lo gì
Trong lầu ngọc bích tòa hoa nở
Vàng ròng làm cánh, báu làm đài
Trên tràng ma-ni lưới trân châu
Trang nghiêm như ý vì Như Lai
Tượng báu lưu ly trong ngoài sáng
Lục thông như ý thân giác nhẹ
Tâm luôn kỹ càng siêng quán tưởng
Tưởng thành lại liền ngộ vô sinh
Hào quang Di-đà rộng vô biên
Chiếu khắp chúng sinh độ (người) có duyên
Có tâm kính ngưỡng hay niệm Phật
Đời sau quyết định lìa trời người
Quán Âm bổ xứ không nghĩ bàn
Vô biên cõi hiện điềm ít có
Chỉ khiến người niệm sinh Cực lạc
Đầu đội Di-đà thời tôn trọng
Bồ-tát Thế Chí rất khó lường
Oai hùng dõng mãnh rộng vô phương
Trên đảnh bình báu chiếu ánh sáng
Đường tối hằng được lìa vô thường
Quán thân tự thấy lúc vãng sinh
Tòa báu hoa sen không đến chậm
Nước, chim, cây rừng đều nói pháp
Di-đà tiếp rước lại không nghi
Như Lai thần biến không nghĩ bàn
Lớn nhỏ tùy duyên cảm theo cơ
Mọi người ngưỡng tâm siêng niệm Phật
Ao báu trong hoa chứng vô vi
Hạnh nghiệp tinh thành càng chuyển cao
Người bậc thượng phẩm dòng họ cao
Trong môn Bách pháp ngôi Hoan hỷ
Diệu định Kim Cang tự bền chắc
Người tu niệm Phật nên chí thành
Di-đà quyết định tự thân rước
Đến kia hoa nở nhờ thọ ký
Đến thời nghe pháp ngộ vô sinh
Mười ác, năm nghịch đến người ngu
Nhiều kiếp trầm luân ở đời lâu
Một niệm xưng được hiệu Di-đà
Cõi ấy lại đồng thân pháp tánh.
Thế Tôn nói rồi về Kỳ sơn
A-nan nghe dạy, rộng tuyên truyền
Đại chúng tâm kính ngưỡng nhận lãnh
Lại đem pháp này lợi trời người.

***

MƯỜI SÁU KỆ KHEN KINH A-DI-ĐÀ (mới)

Thích-ca bi trí rộng vô biên
Trước mở giáo tịnh lợi trời người
Chúng Bồ-tát Thanh văn vô lượng
Lúc ấy nghe ở vườn Cấp-cô
Trước bảo Thanh văn Xá-lợi-phất
Ta nay muốn nói, ông lắng nghe
Tây phương cách đây mười vạn ức
Nước báu Di-đà thân vàng tía
Chúng sinh cõi kia vui cực diệu
Nhiều kiếp không nghe các tên khổ
Khuyên ông phải siêng xưng
Phật kia Chốc lát liền đến thành Bảo liên
Rừng ngọc, cây báu, bảy lan can
Mọi người phải nên kỹ càng quán
Lưới châu lớp lớp ngàn muôn ức
Hay khiến người thấy được an tâm
Cõi tịnh Di-đà không nghĩ bàn
Nơi nơi kênh rạch, ao bảy báu
Trong ao đều là nước ma-ni
Ngày đêm luôn luôn có hoa nở
Bốn bờ, thành ngọc bích lưu ly
Gió thơm thổi đến, thân nhẹ nhàng
Lâu đài bằng báu, ngàn muôn ức
Vô biên Bồ-tát đều kinh hành
Tâm tâm đảnh lễ Đấng pháp vương
Chuyên tưởng Di-đà bậc dẫn đường
Trong lầu ngọc bích nghe pháp mầu
Trên đất vàng ròng rải hoa trời
Vạt áo đựng hoa mười vạn ức
Trần sa Thánh chúng đồng nhận cúng
Khoảng một niệm lại về Cực lạc
Hằng tuyệt bào thai, chứng lục thông
Cõi tịnh Di-đà, tiếng chim báu
Người nghe đều sinh tâm niệm Phật
Chim báu, chẳng phải ba đường ác
Vì khiến tuyên diễn pháp sâu mầu
Gió thơm khi động rừng báu kêu
Nơi nơi chỉ nghe tiếng niệm Phật
Trong tiếng đều nói vô biên pháp
Hay khiến người nghe chứng vô sinh
Thọ lượng Di-đà đâu thể biết
Mọi người trong nước cũng như vậy
Đến cõi kia đều vị bạt trí
Hằng vượt sinh tử chứng vô vi
Căn lành phước mỏng lý khó dung
Bảy ngày nên thành công Tịnh độ
Mười niệm tâm kính ngưỡng cõi kia
Khoảnh khắc liền ngồi cung hoa sen
Nguyện lực Di-đà không nghĩ bàn
Trang nghiêm cõi Tịnh lạ ít có
Chư Phật sáu phương đồng thời khen
Ý khiến các ông dứt hồ nghi
Mạng người vô thường như nháy mắt
Nhiều kiếp trầm luân nơi đường ác
Mau mau chuyên niệm Đức Phật kia
Cùng ông đem nhau ra sông ái
Chư Phật đồng tiếng khen Thích-ca
Hay ở biển khổ độ nhiều người
Mỗi mỗi đều dạy chuyên niệm Phật
Đời đời sẽ được gặp Di-đà
Như Lai nói rồi A-nan tuyên
Khắp hóa quần sinh giúp có duyên
Chúng sinh tâm kính ngưỡng lãnh nhận
Đem tịnh giáo đây rộng lưu truyền.

KỆ KHEN NGỢI RẢI HOA CÚNG DƯỜNG

Xưa có tiên nhân tên Thiện Tuệ
Một lúc mua được năm cành sen
Đem dâng cúng dường Phật Định Quang
Nhân hoa, quả hiệu Phật Thích-ca
Các kinh đều nói Diệu già-tha
Rải hoa cúng dường phước điền nhiều
Chỉ dùng một hoa rải một Phật
Nhân hoa đều được gặp Di-đà
Người trí ngày nay thấy văn kinh
Chỉ nói hoa là nhân thành Phật
Lại liền rải hoa cúng dường Phật
Vẫn đem hoa độ người có duyên
Ngay khi thấy rải hoa lăn xăn
Từng cánh sen xanh bay trong không
Mỗi mỗi tranh giơ tay hứng
Người người lượm đầy áo đem về
Trong không mưa từng cánh hoa trời
Rải dính nơi người được mầm đạo
Chỉ khiến siêng năng cúng dường hoa
Phước điền mỗi mỗi khắp hằng sa
Hoa bay tấp tấp khắp hư không
Lá xanh nhẹ nhàng đầy trong cõi
Vi vu như chim hòa dưới mây
Lả tả đưa ông vào cung sen
Hoa sen xanh tươi rất rộng rãi
Trên hoa từng đoàn Bồ-tát đi
Từng giờ rải hoa cúng dường Phật
Thường thường tuyên dương tiếng năm hội
Nhóm nhóm Thánh chúng áo đầy hoa
Người người qua cúng hằng sa cõi
Mỗi mỗi giờ ăn về lại nước
Hàng hàng không lìa thế giới mình
Thường thường trời mưa muôn cụm hoa
Nơi nơi đều hay phát mầm đạo
Mỗi mỗi đem dâng cúng Chư Phật
Sớm sớm hằng ở nhà Pháp vương
Hoa tươi trăm báu bay lất phất
Trong không khen ngợi chẳng nghĩ bàn
Nếu có chúng sinh hay hiến cúng
Đời sau quyết định chứng vô vi
Trên tòa Kim cang nói chân tông
Bồ-tát phương Tây thảy đều đồng
Rải hoa cúng dường không ngừng nghỉ
Đều sinh trên hoa đủ thần thông
Không khí hơi thơm càng đậm đặc
Bỏ dẹp hoa héo rải hoa mới
(Hoa đi hoa đến hoa càng tươi)
Sáng sớm thường đem dâng cõi khác
Giờ ăn lại về trước Thế Tôn.

***

KHEN NĂM HỘI DIỆU ÂM Ở CÕI TỊNH PHƯƠNG TÂY

Hội thứ nhứt thì trừ ý loạn
Thứ hai cao tiếng khắp có duyên
Thứ ba tiếng vang hay thanh nhã
Thứ tư hòa tiếng thật đáng yêu
Thứ năm chấn động đại ma tan
Hay khiến người niệm nhập thiền sâu
Tiếng năm hội trong mười món lợi
Vì khiến người học dụng tâm chắc
Diệu âm năm hội báu ma-ni
Hay mưa vô lượng pháp tài Thánh
Người trí quyết cần nương đây học
Lâm chung một niệm ngồi đài hoa
Gởi lời các đại chúng hiện tiền
Năm hội niệm Phật lợi vô cùng
Đạo tràng ngày nay đồng tu hành
Cùng nhau chọn chắc ngồi cung hoa
Năm hội Phật dạy là chân tông
Định xả Ta-bà ra lồng khổ
Mọi người phát tâm nguyện vãng sinh
Thế giới phương Tây được thần thông
Rừng báu rậm rạp là rừng xanh
Gió nhẹ năm hội diễn gió trong
Sáu thời mưa hoa tùy chỗ hạ
Người thấy nghe liền phát chân tâm
Mọi người ngày nay sinh tín tâm
Người nghe pháp năm hội Di-đà
Chuyên cầu không quên xưng danh tự
Rước về Cực lạc ngồi rừng hoa
Năm hội hợp vang khen ao, thành
Lầu đài rực rỡ áng mây xanh
Lưu ly bảy báu, giây vàng quả
Nơi nơi chỉ nghe tiếng niệm Phật
Năm hội Di-đà là thuyền bè
Hằng kiếp thường truyền nơi biển khổ
Chỉ khiến nghe tiếng đều giải thoát
Định vượt sinh tử lìa trời người.

***

KHEN NĂM HỘI CỰC LẠC

Khen Quán kinh mầu trong định thành
Kệ báu rõ ràng hóa hữu tình
Năm hội, Diêm-phù rộng lưu bố
Hẹn nhau Cực lạc ngộ vô sinh
Bảo tán Di-đà thật đáng truyền
Hằng vì chúng sinh làm thuyền pháp
Năm hội Phật, Thanh văn giải thoát
Một thời đều được ngồi sen vàng
Tây phương năm hội khắp Ta-bà.
Ý ở chúng sinh niệm Phật nhiều
Cõi bán hoa nở ngàn muôn ức
Tiếng tăm vang đến mấy hằng sa
Ngàn món kỹ nhạc bên đài báu
Sen trăm báu nở ra khỏi nước
Năm hội tiếng tiếng cần niệm gấp
Lâm chung mỗi mỗi đều đến rước
Vô biên hóa Phật thân sắc vàng
Ủng hộ người lưu truyền năm hội
Niệm niệm Di-đà tâm không thối
Sen báu tươi tốt tự thân ngồi.

KHEN DIỆU ÂM NĂM HỘI

Năm hội Di-đà tiếng vang mạnh
Người trí truyền đến trong năm trược
Năm khổ nghe tiếng đều được vui
Nương năm hội này vào cung sen
Người trí từ bi truyền năm hội
Ý ở đem truyền diệt năm lửa
Năm lửa đã nhân năm hội diệt
Đều nương năm hội khỏi trần lao
Năm hội mạnh mẽ vang tiếng trong
Âm ỉ tiếng sấm chép tiếng mầu
Thánh chúng hẹn nhau đồng khen ngợi
Chỉ là người nghe đều phát tâm
Tiếng nhiệm mầu năm hội phương Tây
Đời sau năm trược cứu chúng sinh
Năm đường nghe tên đều giải thoát
Năm hội dẫn đến thành sen báu
Tản mát năm hội ra ngang núi
Âm ỉ như nay khắp năm trời
Năm chúng cùng nói đều lợi lạc
Mạt pháp vẫn lưu năm trăm năm
Năm hội Di-đà suốt lòng người
Tiếng từ mềm mại uyển chuyển sâu
Kinh Vô Lượng Thọ nói như vầy
Nước báu chảy dài diễn tiếng mầu
Tiếng vang năm hội vượt ráng mây
Tiếng trong lanh lảnh khắp hằng sa
Sớm sớm, chiều chiều thường hay niệm
Đời đời, kiếp kiếp ở nhà Phật
Gió thơm chợt thổi chạm thân người
Chỉ đem năm hội đoạn tham sân
Năm hội đều hay sạch năm uẩn
Tiếng tăm năm kiếp lìa trần náo
Tây phương trống, nhạc và đàn ca
Cầm, sắc, sáo trúc xen lẫn nhau
Mỗi mỗi chỉ tuyên pháp năm hội
Tiếng tiếng đều nói sáu Ba-la.

KHEN CỰC LẠC TRANG NGHIÊM

Di-đà hạnh nguyện rộng vô biên
Cứu giúp quần sinh, thương cùng khắp
Đều muốn giáo hóa về nước mình
Chúng sinh tội nghiệp cùng không duyên
Bồ-tát Quán Âm đại từ bi
Ở biển khổ hiện điềm ít có
Thân vàng tía, ba hai tướng tốt
Đầu đội Di-đà Đấng tôn trọng
Bồ-tát Thế Chí khó nghĩ bàn
Thân vàng, tướng đồng không thiếu sót
Trên đảnh bình báu hào quang chiếu
Khắp thâu cơ niệm Phật vãng sinh
Tự mừng đời trước túc duyên sâu
Được gặp Di-đà tiếng giáo mầu
Giữ chặt danh hiệu không ngơi nghỉ
Báo hết lâm chung thân sắc vàng
Ta thường tự siêng năng tinh tấn
Mong nghe pháp chân thật vô thượng
Sẽ cùng giặc vô minh chiến đấu
Thệ phá diệt, chiếm thân vàng ròng
Một niệm ngưng thần trụ thành báu
Ý khởi lục thông thân giác nhẹ
Chân đạp trên hoa sen ngàn cánh
Đi dưới cây ma-ni sáng rỡ
Cõi tịnh Di-đà thật tinh vi
Cõi ấy người Ta-bà đâu biết
Nhiều kiếp trầm luân nơi biển khổ
Năm nào được gặp lúc vãng sinh
Cực lạc nước báu không suy biến
Lâu đài ngọc bích trời tự nhiên
Trăng sáng ma-ni, nước lưu ly
Ánh sáng ao, đài thật đáng yêu
Cõi báu Cực lạc rất ít có
Thật là nhiều đời nay không biết
Ngày nay mừng gặp Phật Di-đà
Liền bỏ thời ta ba năm trược
Cõi báu Di-đà không nghĩ bàn
Chỉ khen người mong bỏ Ta-bà
Địa ngục A-tỳ người đến nhiều
Một phen đọa năm nào được ra
Về đi thôi mau về đi thôi
Diêm-phù năm trược là trần ai
Không bằng phương Tây cõi vui vầy
Đến đó đài hoa tùy ý nở.

Tất cả cung kính chí tâm đảnh lễ Đức Phật Adi-đà ở phương Tây.

Pháp Tạng nhân càng xa
Quả Cực lạc lại sâu
Trân báu lạ làm đất
Giữa các báu là rừng
Hoa nở sắc ít có
Sóng vang tiếng thật tướng
Bao giờ mong trao tay
Mới theo tâm vãng sinh
Nguyện cùng các chúng sinh
Vãng sinh nước Cực lạc.

- Chí tâm đảnh lễ Đức Phật A-di-đà ở phương Tây.

Đời trược khó lại vào
Cõi tịnh nguyện càng sâu
Dây vàng thẳng ngăn đường
Lưới châu rộng che rừng
Thấy sắc là chân sắc
Nghe tiếng đều tiếng pháp
Chớ cho phương Tây xa
Chỉ cần tâm mười niệm
Nguyện cùng các chúng sinh
Vãng sinh nước Cực lạc.

- Chí tâm đảnh lễ Đức Phật A-di-đà ở phương Tây.

Trong đêm nước Thanh tịnh
Chợt khởi nhân chí thành
Quán rằng tâm mới định
Tưởng nước niệm càng chân
Rừng tuyên pháp thượng phẩm
Sen khép, người hạ sinh
Đã nói bạn đồng chí
Rửa sạch các khách trần
Nguyện cùng các chúng sinh
Vãng sinh nước Cực lạc.

- Chí tâm đảnh lễ Đức Phật A-di-đà ở phương Tây.

Buông lời khắp cõi xa
Giáo hóa đầy hư không
Đài hoa ba phẩm khác
Người trời một loại đồng
Tìm cây chảy nước thơm
Thổi nhạc nổi gió mát
Nơi tâm đây nếu tịnh
Ai thấy có Đông Tây?
Nguyện cùng các chúng sinh
Vãng sinh nước Cực lạc.

- Chí tâm đảnh lễ Đức Phật A-di-đà ở phương Tây.

Hồi hướng dần làm công
Đường Tây phương vừa thông
Tràng báu tiếp đất dày
Hương trời vào gió xa
Hoa nở nơi nước sạch
Trên không che lưới mịn
Nguyện sinh vào ý thiết
Chính là vui không cùng
Nguyện cùng các chúng sinh
Vãng sinh nước Cực lạc.

- Chí tâm đảnh lễ Đức Phật A-di-đà ở phương Tây.

Mười kiếp đạo thành trước
Cõi nghiêm, dẫn quần manh
Cát vàng suốt nước soi
Lá ngọc đầy cành sáng
Chim, cây trong châu ra
Người chỉ sinh trên hoa
Dám thỉnh Thánh phương Tây
Sớm chiều định rước ông
Nguyện cùng các chúng sinh
Vãng sinh nước Cực lạc.

- Chí tâm đảnh lễ Đức Phật A-di-đà ở phương Tây.

Muốn chọn chỗ sẽ sinh
Tây phương rất đáng về
Giữa cây mở lầu gác
Trải y mới đầy đường
Cơm thơm tùy tâm đến
Điện báu theo thân bay
Có duyên đều được đến
Chỉ người tự đi ít
Nguyện cùng các chúng sinh
Vãng sinh nước Cực lạc.

- Chí tâm đảnh lễ Đức Phật A-di-đà ở phương Tây.

Cõi tịnh không suy biến
Xưa nay một vị vậy
Đài sáng ngàn báu hợp
Âm nhạc tám gió tuyên
Ao nhiều, chim nói pháp
Hoa trời rải đầy trời
Được sinh không sợ lui
Tùy ý sen nở ra
Nguyện cùng các chúng sinh
Vãng sinh nước Cực lạc.

- Chí tâm đảnh lễ Đức Phật A-di-đà ở phương Tây.

Đã thành Thánh tột lý
Thật có oai khắp không
Khi ở Tây hiện nhỏ
Nhỏ thì tạm tùy cơ
Lá châu soi lẫn nhau
Cát nước cùng sáng trong
Muốn được quả vô sinh
Quyết cần nương cõi kia
Nguyện cùng các chúng sinh
Vãng sinh nước Cực lạc.

- Chí tâm đảnh lễ Đức Phật A-di-đà ở phương Tây.

Trong đài hiện người trời
Ánh sáng thấy thị giả
Bốn lầu báu treo không
Nhìn xa bảy lan can
Nghi nhiều, biên địa lâu
Đức ít, thượng sinh khó
Chớ lại luận nguyện khác
Trông Tây tâm đã an
Nguyện cùng các chúng sinh
Vãng sinh nước Cực lạc.

- Chí tâm đảnh lễ Đức Phật A-di-đà ở phương Tây.

Cõi tịnh vốn không lo
Hóa thành lầu vô số
Bốn mặt treo đầy linh
Sáu độ rải hoa khắp
Cây khép hơi thơm động
Nước mang tiếp pháp chảy
Chưa từng nghe việc khổ
Ai lại biện xuân thu
Nguyện cùng các chúng sinh
Vãng sinh nước Cực lạc.

Vui tàng câu, vui tàng câu. Tàng câu vốn là ý giải sầu của người được vãng sinh. Vui tàng câu được vãng sinh vui tàng câu.

A-nan, Ca-diếp cùng bình chương
Văn-thù Bồ tát cùng thương lượng
Thanh văn, Duyên giác ngồi hai hàng
Như Lai cùng ông làm dụng đầu
Vô ngại Kim Cang lấy làm thẻ
Bảo châu vô giá đem làm móc (câu)
Trì giới đem làm gậy đánh câu
Được thấy Phật tánh tức nắm thẻ
Tàng câu tâm ý chớ buông lung
Chỉ e sáu giặc tranh đến trộm
Người mạnh thẳng giữ Ba la-mật
Người yếu siêng tu lại càng siêng
Một tòa chiếu tối đến canh ba
Tham thẻ không định cùng nơi sự
Người yếu đều tâm duyên chưa chí
Người mạnh không động chứng vô sinh
Thế Tôn gọi ra, A-nan lại
Nếu cao ánh sáng đèn bạch lạp
Vì nói Phật tánh đồng nhãn được
Sắp sửa vào tay bị người lấy
Đại chúng nỗ lực biết vô thường
Bảo châu vô giá trong tâm hạnh
Niệm niệm thân Phật như tên gấp
Như Lai bình đẳng độ chúng sinh.

***

VĂN KHEN ƠN NẶNG CỦA CHA MẸ

Nhiều kiếp có nhân duyên
Nay đến gá thai mẹ
Hơn tháng sinh năm bào
Bảy tuần sinh sáu tình
Dần nặng như non Nhạc
Đi đứng sợ hại thân
Áo lụa đều không mặc
Gương lược dính bụi trần
Mang thai đến mười tháng
Nạn sinh, như muốn chết
Sáng sáng như bệnh nặng
Ngày ngày tự rên rỉ
Kinh sợ khó tính kể
Lo buồn đầy trong ngực
Ngậm lệ gọi thân quyến
Chỉ sợ chết xâm hại.
Tháng đủ, sắp đến ngày
Khi sinh thật là khó
Ngũ tạng như dao cắt
Bà con tranh đến thăm
Sinh ra ở trên cỏ
Người gần nói là con
Mẹ nghe vui mừng gọi
Quên bẵng thân đau đớn
Thân mẹ ở chỗ ướt
Đem con lại chỗ khô
Máu sữa, đủ đói khát
Áo lụa che gió lạnh
Nhổ ngọt không sẻn tiếc
Nuốt đắng không nhún mày
Chỉ muốn con được no
Mẹ hiền không kể đói
Năm tháng dần dần lớn
Đi ra lòng mẹ theo
Một sớm con cái bệnh
Tiếc thân mẹ không gánh
Ái biệt tình khó nhẫn
Sống lìa thật đau lòng
Con đi trong trăm dặm
Từ mẫu lo hơn ngàn
Trai lớn, đi chinh chiến
Gái lớn, lo nhà người
Khi gặp tiết đông lạnh
Mẹ hiền lệ thấm áo
Mỗi ngày nhớ con cái
Gặp liền hỏi dồn dập
Nếu được tin tức tốt
Tu hành tạo ruộng phước.
Cha mẹ tuy tuổi già
Tình thương không hề dứt.
Thân dẫu trăm tuổi già
Mãi lo con tám mươi,
Nên biết ân ái nặng.
Nay năm thức chia lìa
Huỳnh tuyền do không xả
Làm quỷ cũng lo đó.
Là con trai, con gái
Cung dưỡng chớ lơ là
Tổ trụ do trên nói
Đâu được không khỏi hạnh
Nỗ lực làm hạnh hiếu
Hiếu hạnh lập danh tiếng
Hoàng thiên sẽ giúp đỡ
Chư Phật cũng khen ngợi.
Tâm hạnh mà ngũ nghịch
Hoàng Thiên không giúp đỡ
Siêng tu ba phước nghiệp
Tịnh độ rõ trước mặt
Khắp bảo các người thảy
Đồng hạnh không đồng lòng
Được sinh nước Cực lạc
Hoa nở nghe pháp âm.

***

VĂN KHEN ĐÀI HOA MỚI

Chúng sinh đáng thương, chúng sinh đáng thương. Bồ-tát dạo chơi ở Tây phương, uyển chuyển trong đài hoa, uyển chuyển trong đài hoa.

Phương Tây thật nhiệm mầu
Áo trời, cơm tự nhiên
Trong ao báu sinh ông
Dạo chơi khêu sen hồng
Sen hồng trong ao báu
Ánh sáng không nghĩ bàn
Rừng cây thường nói pháp
Âm nhạc thường theo nhau
Đón nhau lên điện báu
Gọi nhau xuống cầu vàng
Dạo chơi các lầu gác
Đến chỗ mở pháp môn
Bảy báu làm cung điện
Đài lưu ly mã não
Chuyên tâm hay niệm
Phật Đều được thượng hoa đến
Qua bên ao ngọc trắng
Trong cánh hoa sen thơm
Lại nghe niệm năm hội
Khen ngợi cõi Tây phương
Ai con nhà Cực lạc
Trong cánh hoa sen xanh
Là do vì niệm Phật
Từ đây được vãng sinh
Một bụi hoa sen đỏ
Lại có khóm màu xanh
Trong có người hóa sinh
Lời lẽ rất rõ ràng
Lầu đài bay lớp lớp
Thánh chúng thứ tự qua
Hoa sen báu trên ao
Hiền Thánh mới rất đông.

Tâm vãng sinh, tâm vãng sinh, lần đến dòng pháp, tắm sâu trong biển công đức của Như Lai, vui vẻ dạo nơi Tịnh độ, nhạc của Tứ Thiên vương và Dạ-ma thiên, cung trời và loài người liền nhau, cùng dạo trên trời, gọi không được, định biết trong hoa nhập tam thiền.

Tâm Bồ-đề, tâm Bồ-đề. Chúng Bồ-tát như rừng, cõi nước lay động đón Thế Chí hoa báu che đầy, xem thấy sen trắng sen đỏ, sinh ở nhà Pháp Vương, cơm xong kinh hành nương xứ báu, trong ao bờ báu, đáy cát vàng. Sen hồng sen xanh được sinh trên đài sen ngàn cánh, Phật Di-đà nhiếp thọ, Phật Di-đà nhiếp thọ.

***

THUẬT VĂN KHEN CHÍN PHẨM VÃNG SINH CỦA QUÁN KINH

Thượng phẩm thượng sinh, hạnh nguyện mạnh
Vô biên hóa Phật tự đến rước
Điện báu, đài vàng, lên Sơ địa
Vạt áo đầy hoa khắp mười phương.
Thượng phẩm trung sinh, nghĩa nhập kém
Lâm chung Thánh chúng gọi về Tây
Trong mây năm sắc, ngàn Phật dẫn
Ngồi đài vàng tía, theo tám âm.
Thượng phẩm hạ sinh, tuệ tánh sáng
Đoan tâm, hồi tâm, học vô thượng
Năm trăm Như Lai đồng trao tay
Hằng sa Bồ-tát cầm hoa rước.
Trung phẩm thượng sinh, công trai giới
Liền được ba minh và sáu thông
Sen hồng sen tía dẫn hư không
Nhạc trời rước hồn vào cung Phật.
Trung phẩm trung sinh, huân hương giới
Tâm Thanh tịnh, thấy hào quang ngọc
Một phen liền vào hội vô vi
Bảy ngày hoa nở thấy Pháp Vương.
Trung phẩm hạ sinh, từ hiếu sâu
Bạn lành dạy sinh tâm nhàm lìa
Nương sen, gá ấm, nước ma-ni
Trong hoa chỉ nở âm giải thoát.
Hạ phẩm thượng sinh, gieo giống lành
Hay biết Tam bảo là nương về
Hóa Phật đến rước, đầy nhà sáng
Đài hoa đổi bạn, sắc mây bay.
Hạ phẩm trung sinh, nghiệp mê tới
Nhân xưng hiệu Phật, khỏi Nê-lê
Sáu kiếp hoa nở mới thấy Phật
Một đời bổ xứ quả lại đồng.
Hạ phẩm hạ sinh, không nhiều thiện
Chỉ đem mười niệm, bỏ Ta-bà
Tuy ở trong hoa mười hai kiếp
Thấy Phật tâm nở một sát-na.

Kệ khuyên tu hành nói rằng:

Khuyên người tu đạo chớ sinh sân
Trong pháp không ngã cũng không nhân
Muốn biết Tây phương, cầu Tịnh độ
Biết là trong trần không nhiễm trần
Y đó tu hành đều được vãng sinh.

(Nghi khen lược pháp sự năm hội niệm Phật ở Tịnh độ. Xong)


[Đầu trang][Mục lục bộ Chư Tông][Mục lục tổng quát]