TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠP TẠNG

BỘ CHƯ TÔNG

SỐ 1995 - PHÁP DIỄN THIỀN SƯ NGỮ LỤC

Thư Châu Bạch Vân sơn Hải Hội Hòa thượng sơ trụ Tứ Diện sơn Ngữ Lục. Tham học Tài Lương biên soạn

MỤC LỤC

SỐ 1995 - PHÁP DIỄN THIỀN SƯ NGỮ LỤC

QUYỂN THƯỢNG

THÁI BÌNH NGỮ LỤC

PHÁP DIỄN THIỀN SƯ NGỮ LỤC

QUYỂN TRUNG

PHÁP DIỄN THIỀN SƯ NGỮ LỤC

QUYỂN HẠ

PHỤ LỤC TỰA VĂN


QUYỂN THƯỢNG

Ngày khai đường Sư nhận sớ dạy chúng rằng:

Binh theo ấn chuyển, tiếng theo phù hiệu thi hành, xin đối tôn quan, biểu lộ rõ ràng. Tuyên sớ xong, Sư chỉ Pháp tòa nói: "Tòa Đại bảo hoa vương này từ sáng đến tối, cùng đứng cùng ngồi với người. Mọi người có thấy không? Nếu thấy càng không lên cao, còn nếu không thấy thì đừng nói ngày nay ta lừa dối ông.

Sư thượng đường niêm hương: Cây hương này trước hết là vị Kim Thượng Hoàng Đế.

Phục nguyện: Thường ở cung phụng lầu rồng hưng thịnh lâu dài. Lại niệm hương: Cây hương này phụng vì quan liêu châu huyện.

Lại nguyện là tôi trung hiếu thanh bạch, mãi mãi xứng đáng làm cha mẹ của muôn dân, là ngoại hộ kỷ cương lâu dài.

Lại niêm hương: Cây hương này đã đến lâu rồi, vân du trên biển hơn mười năm, tìm kiếm kẻ oán thù, chưa từng gặp. Mới đến Long Thư quả nhiên gặp người này, tâm mới nổi nóng giận. Ngày nay đối đại chúng đào tuyết cần đến đốt đi.Vì ta thấy ở với Hòa thượng Bạch Vân Thủ Đoạn theo giáo xông trời nướng đất, mặc tình xuyên qua Thái Châu, có lỗ mũi biện lấy.

Hòa thượng Long Môn bạch chuỳ nói: "Những vị kiệt xuất trong pháp hội nên quán Đệ nhất nghĩa".

Hai mươi tám vị Tổ Ấn Độ sáu vị Tổ Trung Hoa dưới đó lập Tông phong. Một đại tạng giáo mây trắng ngàn vạn dặm, Am thất Đạt Ma, Tỳ-lađồ khẩu, đang ở trong mộng. Ngàn Phật ra đời, lời mê chưa tỏ. Văn Thù, Phổ Hiền bày vẻ lắm việc. Cho nên nói: Giả Sử nơi lời chưa nói mà lãnh hội được thì cũng là kẻ si mê ngu độn, cho dù vừa xem qua câu văn mà tinh thông nghĩa lý cũng chưa khỏi nơi nơi sinh ra kiến giải cuồng loạn. Nếu đem định cương giới, nói gì trước pháp đường cỏ sâu một trượng. Đến nổi phàm thánh dứt con đường chim không bay qua, thiên hạ nạp tăng không chỗ thở ra. Trong chúng chớ có cam chịu như thế.

Khi ấy có vị Tăng hỏi: Hoa ưu đàm hiện phương tiện môn khai, Triều Tể lâm diên làm sao cử xướng?

Sư nói: Hôm nay trời quang tạnh.

- Mặt trời lên cao trên không, gió mát khắp nơi.

- Giảm bớt được cái Ngã bao nhiêu? Hỏi: Thế nào là cảnh trong người?

"Bảo các lăng không kim đạc hưởng
Quái tùng ối hiểm dã viên đề"

(Tiếng chuông vàng ở lăng không, bảo các
Hiểm nguy tùng lạ vượn rừng kêu)

Thế nào là người trong cảnh?

- Mũi thẳng mắt ngang.

Sư nói tiếp: Còn có ai hỏi không? Nếu không, Song Tuyền ngày nay hướng đến đệ nhị nghĩa môn, phóng một đường cùng các người gặp nhau trên một phương pháp dạy người. Phải cần Thích

Ca. Di Lặc thuyết pháp rất hay. Văn thù, Phổ Hiền Quán Âm, Thế Chí mỗi người chiếm cứ một phương, trợ giúp Phật hoằng dương đều làm việc này kham nhiệm khí lượng. Song Tuyền không khỏi vào một phần. Cùng nói nhà đông nắm chuôi dài, nhà Tây nắm chuôi ngắn, theo mùa Xuân ánh sáng rực rỡ, mùa Thu cây lá rụng, mùa Đông băng mỏng, vì sao như vậy. Cần phải mọi người thuận thời giữ gìn yêu thích (tạ từ không ghi). Sư giơ gậy lên nói: Cổ nhân nói: Giơ lên thì trời xoay đất chuyển, thả xuống thì cỏ rạp theo gió, Tứ Diện tức không như vậy. Nêu lên đại triệt ngộ, cởi mở thì vải gấm thêm hoa. Thử nghĩ: Còn có người ở không? Im lặng hồi lâu Sư nói:

"Lai niên cánh hữu tân điều tại.
Não loạn Xuân phong tốt vi lại".

(Năm tới còn có điều mới, náo loạn gió xuân chưa từng thôi).

Sư ở núi Bạch Vân nhận thiếp đưa lên dạy chúng: Đại Chúng! Lãnh hội được gì? Mai một tông phong, phạm tội không nhỏ. May có thấy thành công án, xin Duy na đối chúng tuyên đọc. Tuyên đọc thiếp xong, nhận pháp y đưa lên nói: Đã là núi Đại Dữu nâng không lên, vì sao lại ở đây. Thử nói: Ở chỗ này đúng hay ở chỗ kia đúng?

Bèn nói: Mang bình tự uống nước mát mẽ, lại mặc cà sa làm chủ nhân. Sư chỉ Pháp tòa nói: Voi trở lại bước Sư tử. Nhà nông nhìn hai lông mày châu lại. Tuy nhiên, việc đến như thế thì khó chối từ, nhưng có đường có thể lên, hơn nữa bậc cao nhân cũng đi. Nói xong Sư liền thượng đường.

Tăng hỏi: Thiền chẳng phải ý nói dứt bặt công huân (tích lũy công đức). Một câu chuyển thân là thế nào?

Sư nói: Đại chúng thấy ông.

Người học hỏi: Biết Hòa thượng có cơ phong này.

Sư nói: Xà-lê độc đáo.

Người học nói: Ngày nay lại thành thạo.

Sư nói: Bưng lên không thành rồng.

Người học hỏi: Sa trường chiến đấu lâu đến hôm nay doanh toại nói không can hệ đến công huân là như thế nào?

- Rắn lớn còn tự có thể nép trăng là gì?

Tăng hỏi: "Kim thốc quán điều tăng bách chiến.

Thiết tiên đa lực hận vô thù".

(Mũi nhọn (bằng vàng) quen điệu từng trăm trận.

Roi sắt nhiều lực hận không thù).

Sư nói: Biết anh không phải răng vàng đâu biết nắn cung bắn Uất Trì.

- Mắt thấy không bằng tay chạm.

- Tân trưởng lão bị thua.

- Miệng là cửa họa. Sư thở dài nói:

"Thu phong táp táp ngọc lộ thùy châu
Thủy bích sơn thanh cung thiền táo"

(Gió thu xào xạc ngọc lộ châu rơi.
Nước trong núi xanh sâu ngâm ve rên rỉ).

- Cửa viên thông mở rộng.

- Văn Thù, Phổ Hiền xuyên qua mũi các ông.

- Chính là các ông có mặt kỵ đi.

Lại nói: Chư Phật không ra đời, bốn mươi chín năm thuyết pháp chưa rõ nói gì? Thiếu Lâm có diệu quyết, tai hại đến con cháu, đến nay không biện giải được, còn nói diệu quyết làm gì? nếu ai biết đương xứ Tổ Phật liền siêu việt. Nhưng siêu việt và chưa siêu việt hãy gác qua một bên. Các ông nói: Phật Tổ nay ở chỗ nào? Nếu không có người nói được thì Sơn tăng này không tiếc lời nói và bất chấp bị trừng phạt, sẽ nói toạc ra cho các ông biết. Nói xong Sư gõ vào sàng thiền một cái rồi xuống tòa.

"Tiểu Tham"

Tăng hỏi: Thế nào là Phật?

Thức ngon từ miệng vào.

Sư bèn nêu: Đức Sơn dạy chúng:

-Đêm nay không ai đáp, không ai hỏi thì cho ăn ba mươi gậy.

Trong chúng người đáp rất nhiều, người hiểu cũng không ít.

Hãy nói chỗ nào thấy Đức Sơn? Có kẻ nào không đoái tính mạng, thử ra nói xem! Nếu không, Sơn tăng vì đại chúng gặp Đức Sơn. Đợi Đức Sơn nói: "Đêm nay không người hỏi đáp, thì cho ăn ba mươi gậy" Ta chỉ nói: " Ta không hỏi, gậy cũng không ăn. Thử hỏi có khế hợp với lão Đức Sơn không? Đến trong đây cần có kẻ này mới được. Huống gì Pháp Diễn du phương hơn mười năm, long đong trên biển tham tầm yết kiến nhiều vị tôn túc, tự cho là đã xong".

Sau đó đến dưới cửa Bạch Vân cắn bể một cái bánh bao nhân bằng sắt, thì được trăm mùi đầy đủ.

Thử nói: Một câu Nhân bánh là gì?

Sư bèn nói: Hoa mào gà nở đẹp thu sớm, người nào nhuộm sợi tơ tím, có khi gió động liên hồi như đến trước tháp tranh đấu không ngừng.

Ngày vào viện: Sư thượng đường, Tăng hỏi: Mang cung lãnh chúng, Tổ lệnh được thi hành thì mười phương khoáng đãng, ý Sư thế nào?

"Thu phong xuy vị Thủy
Lạc diệp mãn Trường An"

(Gió Thu thổi sông vị
Thủy Lá rụng khắp Trường An).

Người học hỏi:

"Tứ diện vô môn sơn nhạc tú
Kim triêu thả đắc chủ nhân quy"

(Tứ Diện không cửa núi cao đẹp.
Ngày nay lại được chủ nhân về.)

Sư nói: Ông nói con đường ngộ nhập ở chỗ nào?

Người học hỏi: Vì sao đối diện không biết nhau?

Sư nói: Thật may mắn đến? Bèn nêu Tổ Sư nói:

"Ta xưa nay ở đất này.
Truyền pháp cứu mê tình".
Một hoa nở năm cánh
Kết quả tự nhiên thanh.

Đạt Ma Đại Sư tin chân bước, tin miệng nói.

Đời sau con cháu thành nhiều suy tính, cần hiểu chỗ kết quả có hoa nở không? Lê Trịnh châu, táo Thanh châu, vạn vật chẳng qua xuất xứ tốt.

Sư thượng đường, nêu Cổ nhân nói: "Nếu có một người phát chân về nguồn, thì mười phương hư không đều mất hết".

Song Tuyền thì không như vậy. Nếu có một người phát chân về nguồn mười phương hư không, thì chợt lãnh ngộ thiền pháp.

Đến Hưng Hóa, Sư thượng đường, Tăng hỏi:

Khi Hòa thượng chưa rời Tứ Diện thì thế nào?

- Ngồi ở trong nhà.

- Sau khi rời Tứ Diện thì thế nào? Đi giết Xàlê.

Sư bèn nêu kệ tụng của Pháp Nhãn rằng:

"Sơn thủy quân cư hảo thành hoàng
Ngã diệc luận tĩnh văn chung giốc hưởng
Nhàn đối bạch vân truân".

(Núi sông Tổ tiên ở thành hoàng tốt. Ta cũng luận bàn yên tĩnh nghe giốc hưởng tiếng chuông, đối đền đám mây trắng).

Đại chúng: Pháp Nhãn tuy không nắm bắt mây mù khổ nổi gió mát khắp đất, Tứ Diện ngày nay thử nắm tay Pháp Nhãn cùng đi, lắng nghe âm hưởng tiếng chuông, lại không phải đối với đám mây trắng, lại không phải là sắc, chẳng phải thanh sắc thì thương lượng như thế nào? Bèn nói:

"Đổng lý vô vân biệt hữu thiên
Đào hoa tợ cẩm liễu như yên
Tiên gia bất giải luận Đông Hạ
Thạch lam tùng khô bất ký niên".

(Trong động không mây riêng có trời, hoa đào như gấm, liễu tợ khói, tiên gia không biết bàn đông hạ. Đá lan tùng khô không nhớ năm).

Sư thượng đường nói: Trên trời không Di Lặc, dưới đất không Di

Lặc đứng giữa ngã tư đường bị người gọi là giặc, rồi xuống tòa.

Sư thượng đường, Tăng hỏi: Tư Diện không cửu gò núi đẹp, thời tiết trong đó nếu là phân.

Sư nói: Về đông anh phải cẩn thận, khắp nơi mầm chồi mọc.

-Xuân đi thu đến việc vẫn như cũ.

Mới sờ viên đạn, lại lấy phải kim cương, Sư bèn nêu: "Cổ Nhân nói: Nếu nói với ông tức đớ lưỡi của ta, nếu ta không nói với ông tức là miệng ta câm. Thử nghĩ còn có người ở không? Tứ Diện có khi suy nghĩ ông nuốt đi thì chiếc răng cửa làm trở ngại. Nghĩ là ông nhã ra rồi, lại vì yết hầu nhỏ. Thử nghĩ: Còn có người nào ở không.

Bèn nói: Tứ Diện xưa nay thuận theo Liễu Hạ Huệ.

Năm đó Sư thượng đường nói: Nguyên chánh thay đổi vạn vật đều mới, nêu cả đại thiên sa giới đều đến chỉ ở một hạt bụi. Dứt lời Sư xoè tay nói: Là mới hay cũ, có người nào ra nói thử xem! Nếu không Tứ Diện hãy đi truyền bá thế đế". Sư bèn vòng tay nói: Tháng tư vẫn còn lạnh. Cứ nghĩ thủ tòa đại chúng ghé vào các tri Sự, tôn thể đi ở trên muôn phước.

Sư thượng đường, Tăng hỏi: Không hỏi ngàn núi sắc lạnh tức chỉ hỏi việc giọt mưa hoa núi thế nào?

Sư nói: Ngày nay cũng tương tợ.

Người học hỏi: Một câu vượt ngoài ngàn Thánh, ngàn núi dứt đoạn muôn lớp cửa ải.

Một giọt rơi chỗ nào?

- Lầm

Sư nói: Lầm

- Sai lầm

Sư liền đánh và nói: Âm nhạc vang rền, chim hót ríu rít, giai nhân má hồng, công tử phong lưu, nhất nhất vì các công. Phát thượng thượng cơ khai chánh nhãn, nếu hướng đến trong đây nêu được, thì đầu đà sắc vàng không có chỗ dung thân. Nếu không hiểu, ăn cháo ăn cơm cho ông đại triệt đại ngộ.

Bạch chúng quyên góp. Sư thượng đường nói:

Ngày mai đơn thương độc mã (một người một ngựa), vì nước mà xuất chinh.

Ngày đắc thắng thu dao kiếm trở về, đầy đường ca dao. Đại chúng!

Như thế nào là một khúc ca dao. Bèn hát: "La la li, la la li".

- Có người họa được không?

Hồi lâu Sư nói:

Uyên ương thêu rồi anh xem, chớ đem kim vàng cho người. Đêm hàn thực Tiểu tham (trước thanh minh một ngày) Tăng hỏi:

Quần mê khát lâu đợi mưa lên núi, cỏ hướng thượng thỉnh Sư phương tiện?

- Không khỏi vào núi một hồi.

- Thế thì bước chân lên đất thật đi!

- Tay không trở về.

- Nếu là bên kia vẫn không đích đáng?

- Ít gặp tri âm.

- Tạ ơn Sư chứng minh.

- Việc tri âm là như thế? Tăng vẽ một đường.

Sư nói: Lại bị gió thổi trong điệu khác.

Luôn luôn đi theo ngoài miệng của người khác.

- Là ai?

"Lý bạch đào hồng thanh sơn thủy lục
Vân hoành đổng khẩu nguyệt kiểu trường không"

(Lý trắng, đào hồng, núi xanh, nước biếc.
Mây vắt ngang cửa động trăng sáng từng không).

Nếu đến được chỗ này. Pháp Nhãn nói: "Trăng sáng nhà tối lạnh, các vì sao vây quanh mặt trăng, lại phải ngói vở băng tan.

Thần Quốc Sư nói: Đỉnh núi thông huyền không phải nhân gian.

Ngoài tâm không pháp, núi xanh đầy mắt, cũng phải trăm tạp toái sao hết đại địa càn khôn không tiêu một nắm. Tuy nhiên như vậy việc không như xưa, đêm nay hãy cởi mở một phen đi.

Sư thượng đường nói: Lương Võ Đế hỏi Đạt

Ma: "Thế nào là Thánh đế đệ nhất nghĩa" Đạt-ma đáp: Rỗng rang vô thánh.

Lương Võ Đế hỏi: Người đối diện Trẫm là ai? Đạt-ma đáp: Không biết.

Lại Tăng hỏi Lục Tổ: Ý chỉ Hoàng Mai người nào được?

Tổ đáp: Người hiểu Phật pháp được.

Tăng hỏi: Hòa thượng có được không? Tổ đáp:

Không được.

Tăng hỏi: Vì sao Hòa thượng không được?

Tổ đáp: Ta không hiểu Phật pháp.

Sư nói: Đại Tiểu Đại Tổ Sư hỏi lại là không biết không hiểu.

Vì sao lại con cháu khắp nơi.

Bèn nói: Một người huyền hư, vạn người truyền thật.

Tiểu tham.

Tăng hỏi: Thí chủ xa đến trượng thất, thỉnh Sư một câu lợi ích cho người.

Sư nói: Dạy người khắp thiên hạ thành Phật đi. Người học hỏi: Khách trong lớp bụi dằng dặc, không dối đi vào núi đi.

Sư nói: Trung gian có chúng sinh ở.

Tăng bèn hét.

Sư nói: Hãy nói là Phật hay chúng sinh?

Tăng nói: Tứ Diện mắt khó lừa.

Sư hỏi: Ông thấy Tứ Diện chỗ nào?

Tăng phất tay áo trở về trong chúng.

Sư nói: Tác gia.

Bèn nói: Đầy miệng nói được tức không biết có, biết có lại nói không được. Thử hỏi lỗi chỗ nào? Sẽ thành núi cao chín nhận, chẳng tiếc một ky đất...

Sư thượng đường nêu: Vân Môn nói pháp: Cổ Phật và cột trụ giao nhau, là cơ thứ mấy?

Đáp thay: Núi nam nổi mây, núi bắc mưa.

Sư nói: Đại Tiểu Vân Môn Đại Sư té ra nhát gan.

Tứ Diện nói:

- Cổ Phật và cột trụ giao nhau là cơ thứ mấy?

Hồi lâu Sư lại nói: Câu nói này da mặt dày ba tấc, nói ra thành không khiêm tốn, giống như gậy Lâm Tế một ngày đánh ba hèo, người nào xuống tay được?

- Tuy tội lỗi đầy trời vẫn tha thứ.

Kiết hạ thượng đường, Tăng hỏi: Ngũ Thiên kiết giới quy định phân phó sáp ong cho người, không biết Song Tuyền dạy chúng thế nào?

Sư nói: Chân không bước lên đất, bèn nói: Kiết hạ không thể cúng dường đại chúng, làm một nhà an nghĩ coi sóc mọi người.

Sư bèn đưa tay nói: La la Chiêu, La la diêu, La la tống chớ lạ việc thông suốt.

Phục duy "Trân trọng".

Sư thượng đường nói: Trong hai mươi mốt ngày tư duy việc như thế. Ông già Thích Ca nữa đêm vượt thành thẳng đến Tuyết Sơn sớm đã bày vẽ không ít việc này. Rồi lại tư duy cái gì? Nói xong Sư xuống tòa.

Sư thượng đường nêu: Dược Sơn đã lâu không thượng đường, Chủ

Sự thưa rằng: Đại chúng từ lâu muốn Hòa thượng chỉ dạy.

Dược Sơn bảo: Hãy đánh trống lên. Đại chúng vừa tụ tập, Dược Sơn liền trở về phương trượng.

Chủ Sư nói: Hòa thượng chấp nhận thuyết pháp cho đại chúng vì sao không nói một lời?

Dược Sơn nói: Kinh có Kinh Sư, luận có Luận

Sư, sao con trách lão tăng.

Sư nói: Tuy nhiên lấy mình ngăn người, khổ nổi giặc trong thân đã lộ, mọi người muốn biết Dược Sơn không?

Nhàn cầm kinh đứng dựa gốc tùng, cười hỏi: Khách từ đâu đến. Sư thượng đường nêu: Tăng hỏi Động Sơn: "Thế nào là mắt thiện tri thức"?

Động Sơn nói: Giấy gồm không dầu.

Sư nói: Lão hớn Động Sơn không phải là không tiết kiệm quá.

Bỗng có người hỏi Tứ Diện: Thế nào là mắt thiện tri thức? Chỉ đến y nói mù lòa. Vì sao lại phải tương xứng.

Bèn nói:

"Chỉ niên vô du dã đại kỳ
Bất kham niêm xuyết hữu thùy tri
Hồi thân khước tức lai thời lộ
Nguyệt hạ đằng đằng tín cước quy".

(Giấy quyến không dầu, cũng rất lạ, không kham dẫn dụ có ai biết, quay lại con đường lúc trước, tin trở về tự tại dưới trăng).

Sư thượng đường nêu: Trong kinh giáo nói: Nếu nói Như Lai có thuyết pháp tức là phỉ báng Như Lai. Chỉ như một đại Tạng giáo chỗ nào được đến.

Nếu nói Như Lai không nói năm ngàn bốn trăm mười tám quyển thì thiếu sót chỗ nào? Đến đây phải là người nào mới được, có hiểu không chớ phỉ báng Tứ Diện.

Sư thượng đường nêu: Tăng hỏi Đầu tử: Thế nào là mười thân của Điều Ngự? Xuống giường thiền đứng.

Hoặc có người hỏi Tứ Diện: Thế nào là mười thân của Điều Ngự Lão Tăng cũng xuống giường đứng vì sao lại theo hình dáng vẽ con mèo, đợi ta suy tính xong, liền nói cho ông nghe.

Sư thượng đường nêu: Dược Sơn hỏi Thạch Đầu? Ba thừa mười hai phần giáo tôi biết lờ mờ, được nghe Nam phương chỉ thẳng lòng người thấy tánh thành Phật, tôi thật chưa rõ. Xin Sư chỉ dạy.

Thạch Đầu nói: Như the, không như thế, đều không được.

Ngày nọ, Sơn tăng ở trong chúng nghe huynh đệ bàn nhau nói, tức tâm tức Phật cũng không được, không tức tâm tức Phật cũng không được. Nếu nói thế sao dám xưng là Thiền khách. Sao không biết Thạch Đầu văn võ đầy đủ, thao lược vẹn toàn. Nếu là chỗ thấy của Tứ Diện cũng phải mọi người cùng biết, chỉ thấy sóng nổi lên, không thấy long cung trong biển.

Sư thượng đường nói: Ba đời Chư Phật trong từ xa đảnh lễ. Sáu đời Tổ Sư mở miệng không được. Tứ Diện (Pháp Diễn) tôi hôm nay tạm dùng phương tiện để ví dụ. Thử nói: Là cái gì? Một hai ba bốn năm. Đánh trống qua cửa nhà sấm(nguyên văn: Lôi Môn (thành cối Kê) khoa bố cổ) dối nói tướng quân Lý Quảng bắn con cọp đá ở Lam Điền. Sư thượng đường nói: "Chân như, phàm thánh đều là chiêm bao. Phật và chúng sinh là nói thêm, hoặc có người nói. Bàn Sơn hả! Chỉ nói với y:

"Bất nhân tử mạch hoa khai tảo
Tranh đắc hoàng oanh hạ liễu điều"

(Không nhờ hoa tím bên bờ nở
Đâu được hoàng oanh dưới cây liễu).

Nếu hỏi đạo với lão Tứ Diện hả! Tự nói: "Kính bậc đang tĩnh lặng".

* Sư thượng đường nói: "Trời giữa mùa Đông rất lạnh Phục duy: Thượng Tọa, đại chúng sinh hoạt được muôn phước. Kỳ phùng địch thủ" Sư xuống tòa.

* Sư thượng đường nói: "Có một lão tăng nói giống như các ông.

Thứ nhất không được nêu sai lầm". Sư liền xuống tòa.

Sư thượng đường nói: Ban đêm là năm ngoái, sáng ngày là năm này. Đều là ngày tầm thường, thế nhân sinh dị kiến, không hiểu chạy theo căn nguyên, chỉ biết cắm đầu vào văn tự vụn vặt, mới củ chỉ như nay.

Cẩn thận phân rõ xem. Nếu cũng lại bàn luận, thời Tần chuông nung khoan.

Chư viện trưởng lão vào núi: Sư thượng đường nói: Vào cửa Lâm Tế liền bị hét, là tiếng khua bát. Vào cửa Đức Sơn liền bị đánh, cũng là bày vẻ lắm việc Vân Môn Tam Cú, Tào Động Ngụ Vị cũng là mở to mắt mà mộng.

Nước thanh bình mới quý con trẻ con nhà giàu kiêu căng.

Đến Long Môn, Sư thượng đường nói: Có lưỡi mới hoạt bát sao? Không có miệng đâu phải câm, Khi triệt ngộ vận dụng không chướng ngại, thật là phong lưu nho nhã. Nói xong Sư xuống tòa.

Đến Hải Hội, Sư thượng đường nói: Người Bạch Vân trong núi Bạch Vân, chỉ định biên cương, không hàn lại chỗ nứt, không hàn lại chỗ nứt biết giá bao nhiêu, không có biết giá phải không?

Bèn nói: Một, hai, ba, bốn, năm. Đến Hưng Hóa Sư thượng đường nói:

"Thế Sự nhũng như ma
Không môn lộ chuyển xa
Thanh tùng lâm hạ khách
Kỷ cá đắc quy gia
Cộng xướng Hồ già khúc
Phân khai ngũ diệp hoa
Hạnh phùng chư đạo hữu
Đồng thượng bạch ngưu xa".

(Thế Sự nhiều như mè đường không môn chuyển xa, khách dưới rừng tùng xanh, mấy ai được về nhà, cùng xướng khúc Hồ già, Hoa nở thành năm cánh hân hạnh gặp các đạo hữu đồng lên xe trâu trắng).

Đại chúng! Xe ở đây, con trâu ở chỗ nào, cỏ thơm qua đầu tìm không thấy, đêm đến vẫn là ngủ trong cỏ lau. Sư xuống tòa.

Trưởng Lão Cam Lọ Tư đem việc Sư ở nói: Thư châu quản biên giới, té ra có giặc cỏ. Sư nói:

Hòa thượng cũng cần đề phòng.

Tư suy nghĩ, Sư bèn đẩy ra.

Sư thượng đường nói: Tổ Sư nói: Lá rụng về cội thời không miệng.

Tổ Sư nói như thế còn thiếu ngộ.

Bèn xuống tòa.

Sư thượng đường tăng hỏi: Ý Tổ, Ý giáo là đồng hay khác?

- Người nghèo trí kém, ngựa ốm lông dài. Bèn nói:

Tổ Sư nói không hay, mắt Phật nhìn không thấy.

Tâm lão bà của Tứ Diện, làm thông một đường cho anh, bèn xuống tòa. Sư thượng đường nói: Khí xuân vừa lạnh vừa ấm, mây xuân vừa quyện vừa tan, dẫn được lão tử Thiều Dương, đâm kim vào mắt cá.

Bèn nói: Làm

Tạ chủ Sự, Sư thượng đường, tăng hỏi: Vương Tác Tiên-đà-bà thì thế nào?

- Đại triệt đại ngộ.

- Thế nào là Vương Tác Tiên-đà-bà?

- Xe loan giá chưa xếp hàng bằng hiệu lệnh.

- Thế nào là Tiên-đà-bà? Mắt tai đều quen.

Tăng lễ bái.

Sư châm trà rồi nói: Văn Thù căng buồm, Phổ Hiền cầm bánh lái, Thế Chí, Quán Âm cùng xướng hóa, giằng co Song Tuyền ngồi thiền trong chợ, ngồi thiền chẳng phải không. Thử nói: Khúc Hạ thủy thuyền hát như thế nào? La la li! La la li!

- Tập khí thế tục không trừ.

Sư thượng đường nói: "Rằm tháng giêng đêm nay, trời đất đều thành một khối, cửa Phổ Hiền mở rộng, nhưng gặp nhau không mà thấy nhau.

Bèn nói: Lỗi tại ai?

Sư thượng đường nói: Im im im! Vô thượng Bồ đề, từ đây bị lừa giết người bèn xuống tòa.

Sư thượng đường nói: Vừa đến suy nghĩ được một tắc nhân duyên mà nay đã quên rồi, lại là cây gậy nhớ được. Rồi dơ gậy lên nói: Cây gậy cũng quên rồi bèn dộng gậy xuống nói: Cùng hố đất không khác.

Sư thượng đường nêu: Cảnh Thanh hỏi Huyền Sa: Kẻ học này mới vào tòng lâm, tùng thỉnh Sư đề tiếp!

Huyền Sa nói: Có nằm nghe tiếng nước khe suối không?

Cảnh Thanh: Nghe

Huyền Sa nói: Từ đây mà vào.

Sư nói: Quả là vào được, mặc tình bốn phương tám hướng.

Nếu chưa như vậy thì không được lìa ở đây.

Tạ Điển tòa, Sư thượng đường nói: Dây tiền nhỏ xâu dây giếng lớn, hằng ngày phải dùng sọt tre, gáo gỗ. Tuy nhiên phá dụng cụ gia đình, ứng dụng hành vi có chỗ nhầm.

Nam bắc đông tây nước rượu không dính.

Mùa Đông đến, Sư thượng đường nói: Thiên tử trẻ tuổi, ngày này kẻ sĩ lễ bái bên ngoài rừng suối, ca dao trông xa.

Vạn tuế, vạn tuế Sư xuống tòa.

Có một đạo cô vào núi lễ bái thỉnh Sư thượng đường nói. "Đạo khả đạo phi thường đạo" thật đáng buồn cười, Hằng Nga một đêm thêu uyên ương. Biết cầm kim vàng trình khéo léo, sẽ sánh cùng con cháu Huỳnh Mai, làm sao vụng về được. Ngày nay mọi người miệng nói trác nha.

Hỏi: Con rùa gọi là ba ba Tứ Diện ngày nay cùng anh quyết định.

Bày tuyết như thế, oan gia, oan gia, chớ thè lưỡi phải trái.

THÁI BÌNH NGỮ LỤC

Tham học Thanh Viễn biên tập.

Ngày Sư vào viện, tăng hỏi:

Viễn biệt Song Tuyền đến chúng thiền. Một câu vào cửa xin Sư nêu lên.

Sơ nói: Cũng đợi nhất nhất nhìn qua, núi mát như thế, người đi đường xa dừng nghĩ, chỉ cần đốt nén hương này là thấy Sư.

Sư quát: Nói cũng không lãnh hội.

Người học nói: Sáng nay đích thân thấy mặt, đầu mối hơn nghe danh.

Sư nói: Giống như tự thì thầm.

Hỏi: Thế nào là cảnh Thái Bình?

Những tầng bảo tháp nhô lên chọc thủng trời, muôn gốc tùng cao lạnh khắp nơi.

Thế nào là người trong cảnh?

Nhàn rỗi cầm kinh đứng dưới gốc tùng, cười hỏi khách từ đâu tới.

Nhân cảnh xin nhờ Sư chỉ bày, việc Tông Thừa từ xưa giờ như thế nào?

- Phải tin thành quách phương dưới gần, quả nhiên chuông khánh tiếp sinh ca.

- Thế nào là Phật?

- Bày ngực đi chân không.

- Thế nào là pháp?

- Tha tội không buông thả.

- Thế nào là tăng?

Trên thuyền Tạ Tam Lang (Huyền Sa Sư Bị) đang câu cá bèn nói: Ta vốn không tâm mong cầu. Nay Bảo Tạng này tự nhiên đến.

Vật quý thế gian có thể biến cung làm phong phú.

Một vật quý này có thể chuyển phàm thành thánh. Thử nghĩ: Nay là phàm hay thánh? Thái Bình đạo luôn không phải, vì sao dưa đắng cả rể đắng, dưa ngọt cả dây ngọt.

Sư thượng đường nói: Đạt Ma không đầu mối Thiếu Lâm xây mặt vào vách. Nhị Tổ chặt cánh tay. Cả đời uất ức cây hoàng bá tìm tòi cây mộc mật. Ngày nay Thái Bình hai mắt đen như sơn. Mũi tên thần của Lý Quảng là ai trúng đích.

Sư thượng đường nói: Mười phương chư Phật, sáu đời Tổ Sư, thiện tri thức trong thiên hạ đều đồng cái lưỡi này. Nếu biết được cái lưỡi này mới hiểu được Đại thoát không.

Sư bèn nói: Dưới núi đất đai là Phật, cây cỏ tòng lâm là Phật. Nếu chưa biết được cái lưỡi này chỉ thành Tiểu thoát không, tự dối đi. Sáng hôm sau lại có việc ở đây. Thái Bình sao nói chuyện.

Còn có chỗ thật không?

Tự nói: Có

- Thế nào là chỗ thật?

Về tăng đường uống trà đi.

Sư thượng đường, tăng hỏi: Thế nào là khách trong khách?

- Vui ít sân nhiều.

- Thế nào là chủ trong khách?

Truyền đạt ngôn ngữ.

Thế nào là khách trong chủ?

Chung chén với em gái.

Thế nào là chủ trong chủ?

Một lời mới phát ra khỏi miệng, trên đất đầy tơ lụa, bèn nói: Cận ngày viện thái bình, thiền hòa nhiều tụ tán, tham thiền lão bà ăn lúa thóc, tri Sự không chiếu cố, chủ nhân ít phương tiện, tuy không có chất bổ, cũng phải nuốt từ từ.

Từ giả Trang chủ, Sư thượng đường nói: Một không làm, hai không nghỉ. Không chỗ phong lưu, cũng phong lưu, nếu cần công tư làm việc cứu giúp con trâu trắng lồ lộ.

Sư thượng đường nói: Vật này trên chống trời dưới chống đất, Hoàn thuỷ làm miệng, Hoàn sơn làm mũi, Thái Bình lui thân ba bước, cho các ông thở ra.

Sư thượng đường, Tăng hỏi: Ngưu đầu chưa thấy Tứ Tổ là thế nào?

- Trên đầu đội nhiều dây.

- Sau khi thấy thì thế nào?

- Thanh bố cản trước.

- Chưa thấy Tứ Tổ vì sao trăm chim ngậm hoa dâng cúng?

- Giàu sang là Sự ham muốn của con người.

- Sau khi thấy sao trăm chim không ngậm hoa dâng cúng?

- Bần tiện là điều mọi người ghét.

Bèn nói:

Hai mươi tám Tổ Tây Thiên cũng nói vậy. Sáu Tổ Trung Quốc cũng nói vậy, Lão Hòa thượng trong thiên hạ cũng nói thế. Riêng có Thái Bình không nói thế. Vì sao ít không địch được số đông. Thử nghĩ cuối cùng làm sao khéo múa, phải biết phá khắp, ba đại phải là mọi người thúc giục.

Sư thượng đường nói: Trên là trời, dưới là đất, Nam Bắc Đông Tây vẫn là vị trí, Thích Ca đùa tinh hồn, Đạt Ma kiêng kỵ nhiều. Bỗng có người ra nói: Hòa thượng cúi nghe nhưng hướng đến y nói chỉ cần ném ngói dẫn ngọc.

Sư thượng đường nói: Sơn tăng ngày nay lấy hết sơn hà đại địa làm vàng ròng. Làm cho hữu tình vô tình đều thành Phật. Sau đó, Thái Bình không vào giữ xã tắc. Vì sao tranh đấu không đủ nhường Sư thượng đường nói: Thái Bình không hiểu thiền, trước đây một mặt đi bề ngoài, ngày ba mươi tháng chạp dành được một cái miệng. Thử nói cái gì miệng Thái Bình. Tự nói ngậm miệng cũng không biết.

Sư thượng đường nêu: Bảo Thọ làm khi có nhiệm vụ vào chợ búa xin tiền cho chúng tăng (như phường) thấy hai người cãi nhau. một người lấy tay đánh một cái nói: "Ông có mặt mũi không?". Bảo Thọ nhân đó mà được ngộ. Nếu người ở đây biết cứu cánh có thể gọi là công bận tư bận. Đại chúng! nghe lấy một tụng, rất diệu rất diệu, ở đây biết tánh mạng, kéo mũi cho một vả lúc ấy là đánh đúng.

Sư thượng đường nói: Bờ Thái Bình mênh mang, Sự Sự đều đi qua như thế ba mươi năm, có người khen ngợi. Thử nói: Khen cái gì hay cái bờ mênh mông.

Sư thượng đường nêu: Trong Kinh giáo nói: Giả Sử đầy thế gian đều như Xá Lợi Phật, suy nghĩ cùng đo lường, cũng không thể biết. Nhà nạp tăng tầm thường, vái chào Thích Ca, không bái Di Lặc là hiểu trí Phật hay không hiểu trí Phật?

Trong chúng có thì có chỉ là chôn nanh dấu vuốt, Thái Bình có chỗ thấy, không tiếc lời nói và bất chấp bị trừng phạt. Đợi có người hỏi sẽ nói toạt ra cho hiểu.

Sư thượng đường, Tăng hỏi: Thế nào là Đoạt nhân không đoạt cảnh?

- Gió thu thổi sông Vị, lá rụng đầy Trường An.

- Thế nào là Đoạt cảnh không đoạt nhân?

- Trên đường gặp nữa người là tăng.

- Thế nào là nhân cảnh đều không đoạt?

- Vợ nhỏ chèo thuyền nhẹ, tiếng ca theo dòng sông.

- Thế nào là nhân cảnh đều đoạt?

- Trên không có trăng, ngàn cửa đóng.

- Đường lớn không người riêng tự đi.

Bèn nói: Mấy ngày lại đây liên miên nước lớn, chỗ đến đều có Tổn thương, một giọt nước Tào khê đầy khắp nhân gian. Nạn tăng vừa hét mũi trời xa. Thử nghĩ danh tự đã đồng vì sao Tổn hại, lợi ích khác nhau?

- Ai biết khói sóng xa, chớ có thích nghĩ bàn.

Sư thượng đường nói: Một lá rơi đầy trời thu, một trần khởi, đại đại tóm thâu. Thâu tức không phải không có người nào, tự tay mình bẻ quế nhổ gốc trong cung trăng năm Sừng con rồng đen dưới đáy biển.

Sư thượng đường nói: Dúm đất làm vàng còn dễ hơn biến vàng thành đất thì khó. Chuyển phàm thành thánh còn dễ. Chuyển thánh thành phàm rất khó. Cớ sao ai chịu khuất phục tôn đến ty.

Thử nói: Một câu không phàm không thánh là gì?

Bèn nói: Không được dạy phá hoại nam nữ nhà người.

Sư thượng đường nêu: Tam Tổ thấy Nhi Tổ lễ bái.

Hỏi rằng: Xin Sư sám tội.

Nhị Tổ nói: Đem tội đến đây cho ngươi sám.

Tam Tổ nói: Con tìm tội không được.

Nhị Tổ nói: Ta sám tội cho ông rồi.

Nhân đó mà thành một tụng:

Cử tợ đại chúng
Vô khổng địch tử điệp phách bản
Ngũ âm lục luật giai phổ biến
Thời nhân bất thức hoàng phiên xước
Tiễu đạo nông gia đăng bữu điện.

Sư thượng đường nói: Nghe cạn ngộ sâu, nghe sâu không ngộ. Sao có thể được, sao có thể được! Cúng Phật không phải nhiều hương.

Sư thượng đường nói: Mở mắt là ngày, nhắm mắt là đêm, quét người nói Bát Nhã: Kim Sắc Đầu đà không vào bảo xả.

Sư thượng đường nêu: Phong Huyệt nói: Nếu lập một trần, quốc gia hưng thạnh, ông già quê buồn bã. Không lập một trần, quốc gia diệt vong, lão quê cất tiếng hát ca.

Thái Bình thì không như vậy. Nếu lập một trần, trước pháp đường cỏ sâu một trượng. Không lập một trần lụa gấm thêu hoa. Sao cũng thấy đạo. chín lần chín là tám mươi mốt. Kẻ cùng thọ tội xong mới suy tính duỗi chân mắt, muỗi trùng rắn, bò chét ra.

Sư thượng đường nhân có tuyết, nêu Tăng hỏi Vân Môn: Không khởi một niệm, thì có lỗi không?

- Núi Tu Đi.

Sư nói: Có khi hỏi Sư tăng hoặc dơ một ngón tay, hoặc tiến tới một bước, hoặc hét một cái, hoặc vẫy tay rồi đi. Thượng tòa chưa có. Vì sao Thái Bình chưa từng đến hai, ba tháng đổ xuống một trận tuyết có người đến ông, nếu nay có người nào ra nói, lão Hòa thượng chớ bảy điên tám đảo, thấy nay xuống cũng không phải, bèn xoè tay nói: Xong.

Sư thượng đường, Tăng hỏi: Hoa sen khi chưa ra khỏi nước thì thế nào?

- Ở trong bùn.

- Sau khi ra khỏi nước thì thế nào?

- Ở trên nước.

Hỏi: Vương tử khi chưa lên ngôi Cửu ngủ thì thế nào?

- Gặp người phần nhiều hỏi đường. Chính thức lên ngôi Cửu ngủ thì thế nào?

- Thiên hạ thái bình.

Sau khi lên ngôi Cửu ngủ thì thế nào?

- Ai luận bàn tốt xấu.

Bèn nói: Cuối cùng rất ân cần.

Nhà nông theo chỗ mới, trong đại thiên sa giới. Không tránh khỏi người này. Hãy nói: Cái nào là người trong đó đi chỗ hết rậm rạp là núi xanh, người lại ở ngoài núi xanh.

Sư thượng đường nêu: Vân Môn nói: Trên đất bằng người chết vô số. Người ra được rừng gai là tài giỏi.

Khi ấy có tăng nói: Thế thì Đệ Nhất tòa trong lòng tăng đường có ưu điểm?

Vân Môn nói: Tô rô, tô rô.

Thái Bình thì không như vậy, kẻ trượng phu trên đất bằng, ngồi được trong rừng gai là tài giỏi.

Vì sao?

Bèn nói: Hợp cách.

Sư thượng đường nói: Đó là người đã biến không gian trống rỗng thành tấm giấy vẽ, sóng biển thành bình mực và núi Tu-di thành cây cọ rồi viết năm chữ: "Tổ Sư Tây lai ý" Thái Bình sẽ xuống tòa và trải tọa cụ lễ bái làm thầy. Nếu viết không được thì Phật pháp không linh nghiệm, có không? Có không? Sư liền xuống tòa.

Đại chúng giải tán, Sư lớn tiếng gọi: Thị giả!

Thị giả đáp: Dạ

Thu lấy tọa cụ. Lại hỏi Thị giả: Lại thu được tọa cụ không?

Thị giả đưa tọa cụ lên.

Ta sớm biết ông như thế!

Sư thượng đường, Tăng hỏi: Khi Phật chưa xuất thế thì như thế nào?

- Ngu nhiều không bằng ngu ít.

- Sau khi xuất thế thì thế nào?

Ngu ít không bằng ngu nhiều.

Bèn nói: Vào ruộng hoang không chọn, tiện tay ngắt cọng cỏ, không biết vợ đại ca vốn là tẩu tẩu. Trịnh Châu ra con ngỗng, Thanh Châu ra trái táo lớn, vô Sự khăn đơn hạ xuống, mỗi người theo đầu cắn.

Sư thượng đường nói:

Hôm qua Sơn tăng này vào thành thấy một rạp tuồng múa rối nên đến gần xem. Hoặc thấy nghiêm trang kỳ đặc, hoặc thấy xấu xa ghê gớm, chuyển động đi đứng nằm ngồi, xanh vàng đỏ trắng, nhất nhất đều xem hết. Nhìn kỹ lại thì sau tấm vải che màu xanh có người. Sơn tăng ta không nhịn được cười, hỏi: "Xin cho hỏi quý tánh cao danh của người?"

Người đó nói: "Lão Hòa thượng cứ xem là được, hỏi tên họ là gì?"

Đại chúng! Sơn tăng bị một câu của ông ta mà không có lời lẽ nào để đáp lại. Vậy ai là người vì Sơn tăng mà nói được không?

Sư thượng đường nói: Có muốn nói mặn, không muốn nói lạt. Thái Bình nghe nói, bĩu môi rồi xuống tòa. Sư thượng đường nói: "Thần thông diệu dụng không thiếu mảy may. Chung trên nhân phần vì sao lại lo đau đáu. Đất nhiều thì Phật to, nước dâng thì thuyền lên".

Sư thượng đường nói: "Một mặt trăng hiện khắp các sông".

Tất cả trăng trong nước đều nhiếp vào một mặt trăng, hay thay lời nói này. Có thể gọi là đắp không thành, vẽ không xong. Canh ba hôm qua sáng như ban ngày.

Tạ điển tọa, Sư thượng đường nói: Biến sống thành chín tuy nhiên dễ,các miệng điều hòa chuyển thấy khó, mặn lạt nếu biết đúng vị, tự nhiên đói no không liên can đến người.

Sư thượng đường dơ gậy lên nói: Hôm qua canh ba mộng thấy cây gậy, dạy ta một mảnh thiền, nói với ta.

Hòa thượng sáng ngày mai thượng đường nêu giống đại chúng.

Hôm qua trên gấm thêm hoa. Ngày nay chân bước lên đất thật. Hãy xem sáng nay nói cái gì là ý Tổ Sư từ Ấn Độ sang nhớ lại ông già mặt vàng dối nói Linh Sơn thọ ký, dù đất đai sông núi đều mượn lỗ mũi của ta để thở không bằng thân tâm cởi mở. Tự nhiên nhân lễ nghĩa trí, vì Tăng qua đời mà hỏa thiêu Sư đưa lửa lên nói: Tứ đại hỏa phong tương trợ nhau nhưng trái nhau. Lúc ấy thời tiết theo duyên tự tại. Ngày kế vì một Tăng cầm lửa đưa lên nói: "Hôm qua cũng thế,!Ngày nay cũng thế!" Thử nghĩ hôm qua đúng hay ngày hôm nay đúng. Nói vì sao đúng và vì sao không đúng. Ông xem cái gì là sắc lửa?

Sư thượng đường nói: Sáng nay rằm tháng giêng mọi người cùng gặp nhau, mầm lúa non lớn lên, từng hạt ngậm Sửa cỏ hay chẳng phải cỏ đều nhờ gió xuân thổi.

Thứ Trụ Hải Hội Ngũ Lục

Tham Học Cảnh Thuần biên tập.

Sư vào viện, ngày khai đường, tuyên sớ xong bèn nói: Lá sớ một lúc đọc xong, nếu là đủ mắt Kim Cang, đâu cần trọng nói kệ ngôn. Tuy như vậy, việc không phải một bề, Bèn thăng tòa niệm hương xong.Tứ Diện bạch chuỳ nói: Những vị kiệt xuất trong pháp hội, nên quán đệ nhất nghĩa.

Sư nói: Vàng nhọn quen làm bằng đạo Tổ, roi sắt phần nhiều hận không thù, chớ có nạp tăng không đoái nguy vong, ra đây gặp nhau

Tăng hỏi: Lệnh Tổ sai làm dưới núi Bạch Vân.

Thế nào là Lệnh Tổ?

Sư nói: Một, hai, ba, bốn, năm.

Người học hỏi: Như thế là hôm qua thái bình sáng, nay hải hội.

Cao Sư Tăng.

Hỏi: Ngày trước vì mưa dầm đi Nay tạnh khiến chúng đến Tiêu hiền đến dưới tòa Xin chấn một tiếng sấm.

Sư nói: Ông còn nghe không?

"Phong tống hảo vân quy bích động
Thủy triều thương hải trợ ba đào"
(Gió đưa mây lành về động xanh
Thuỷ triều biển xanh trợ ba đào)

Sư nói: Biết tâm có mấy người?

Người học nói: Hàn Sơn thường vỗ tay.

Thập Đắc luôn ân cần Sư nói: Sẽ gọi không người?

Người học: Không được đàn áp lương thiện là hèn Sư nói: Hãy lễ bái đi.

Bèn nói: Câu hỏi hãy thôi.

Đệ nhất nghĩa vừa đến, nếu đối với Tứ Diện đánh một chùy tiến cử, thì ngàn Thánh không thể gần.Tổ Sư nói không đến.

Tác giả trong thiên hạ khoanh tay quy hàng vì sao. Huống gì Đệ nhất nghĩa xưa nay thanh tịnh không bị nhiễm trần, làm sao nói được, chỉ có đồng đạo mới biết được. Ngày nay cởi mở một phen, xây dựng giáo hóa trong tông môn.

Thông qua lời nói mà lãnh hội, do đó mà noi theo dấu chân của tiên thánh, nêu cao Tổ lệnh, xứng đáng làm mô phạm cho hậu học, Kiến lập Tông phong nếu chẳng phải đương nhân thì làm sao có thể truyền trao được.

Sư bèn nói: Bày tội lỗi xong, không thể rỗng không như vậy.

Nên Sư đưa một kệ tụng giống đại chúng:

"Nhật hoãn phong hòa hoa chánh khải
Thất trùng sơn tỏa Bạch Vân lai
Phiên tư thành bố phồn hoa xứ
Hựu xuất tùng môn bộ nhất hồi".

(Mặt trời ấm gió hòa hoa đang nở, bảy lớp núi tan mây trắng, nghĩ lại nơi phồn hoa đô thị, lại ra từ cửa một bước ra cửa tùng trở về). Sư ở Thái Bình nhận sớ, nêu lên dạy chúng: Hãy hiểu như thế đi! Sớm là gã đần độn. Sao cũng như nương vào nói năm ngàn bốn mươi tám quyển, đâu phải là lời nói sao? Nếu không nhờ lời nói thì làm sao phân biệt được, xin Duy Na nêu ra rõ ràng. Sư đọc sớ rồi thăng tòa nói: Lệnh Tổ đang thi hành quét sạch mười phương, trong đó có người nào không tiếc tánh mạng chăng? Ra đây cùng lão Tăng gặp nhau. Khi ấy có tăng bước ra nói: Ngày tháng dễ thấy, việc tốt khó gặp.

Sư nói: Làm cho người nghi.

Hỏi: Ông nêu đã đến Sư nay nhận.

Tổ Sư Tây Lai ý xin nêu.

Sư nói: Mây từ rồng gió từ cọp

Người trời đã đươc nghe chân đế, còn có việc mới lạ không?

-Có.

Thế nào là việc mới?

Hỏi: Trưởng Lão Bạch Vân Thiền Sư Thái Bình, trong đó trung gian chưa rõ phân biệt thế nào?

Sư: Ông thử định đúng xem.

Người học hỏi: Chẳng phải là trăng không đến đi, bóng trăng hiện trên ngàn sông.

Sư nói: Mặc tình khoan rùa đập ngói.

Bèn nói: Pháp không riêng khởi, nương cảnh mới sinh.

Gương sáng ngay đài xấu tốt tự hiện

Tham lâu thượng sĩ ngay lời biết trở về Người sau mới phải cẩn thận.

Vì vậy, cổ nhân nói: Pháp không đến đi không động chuyển, liền thành Đức Sơn nêu bài tụng giống đại chúng:

"Xúc mục quang minh xứ xứ đoạn
Kỳ trung na cá biện sơ thân
Kỳ viên chi thượng thiên hoa tú
Nhất độ phân phân nhất độ hương".

(Chạm mắt ánh sáng quét sạch khắp nơi. Trong đó phân biệt được thân sơ, Kỳ viên Ngàn đóa hoa đẹp trên cành, một lần tỏa hương hương thơm một lần xuân).

Sư thượng đường: Tăng hỏi: Thế nào là Phật?

Sư nói: Thái tử Tất-đạt-đa.

Người học hỏi: Khi vượt thành thế nào?

Sư nói: Tự có Tứ Thiên Vương ở.

Người học hỏi: Đến Tuyết sơn thế nào?

Sư nói: Cỏ lau xuyên gối, Tổ chim trên đảnh.

Người học: Khổ nổi chưa phải chỗ của người học an thân.

Sư quát: Lễ bái rồi lui đi.

Bèn nói:

Trời đất là lò lớn
Nung nấu mạnh và yếu
Đại đạo vốn không nguồn gốc
Cuốn mở do chìa khóa
Đường Phàm Thánh lộ thản nhiên
Mỗi người tự xem mưu lược.

Từ giả thủ tòa Sư thượng đường nói: Đập vỡ hạt quả đào, thấy được nhân trong đó, vuốt sạch râu rồng được gặp cái quý báu đó.

Tuy vậy, cũng chưa phải là tay giỏi.

Hoàng Đế mất hạt ngọc huyền nơi dòng xích thủy. Dùng trí tìm nó không được.

Dùng xa lìa nó mà chưa tìm được.

Sử dụng Sự khế hợp mà tìm nó cũng không được. Bèn sai Võng Tượng. Dù võng Tượng tìm được cũng chưa phải tay giỏi. Sao giống với đại chúng hôm nay.

Đồng sai một việc chung tha người. Tuy vậy, cũng chỉ được một nữa.

Sư thượng đường nêu: Vĩnh gia nói: Lấy không được, bỏ không được. Không lấy không bỏ cũng không được.

Tổ Sư nói: Không phải tâm không phải vật không phải Phật. Đại chúng hãy nói: Là cái gì?

Bèn nói: Đến tận đất Giang Ngô cách bờ, vượt qua nhiều núi. Kiết hạ, Sư thượng đường,Tăng hỏi:

Thế nào là cảnh Bạch Vân? Sư nói: Bảy lớp núi chận đứng nước chảy.

Người học hỏi: Thế nào là người trong cảnh?

Sư nói: Đến một ngàn đi một vạn.

- Con người và cảnh xin Sư chỉ dạy.

- Hướng thượng tông thừa lại thế nào? Sư nói: Đỏ mặt không bằng nói thẳng.

Bèn nói: Hạ này ở Bạch Vân. Thiền nhân bỗng tụ hội trong Bạch Vân ba tháng chín tuần.Tôn ty nương vào nhau. Cháo cơm cùng trà nước.Tinh thô tùy nhẫn nại.Theo ý học kinh Sư.Mặc tình hành Tam-muội. Tất cả đều xuất gia.Buông bỏ giáo lý hết Sức cạn cợt.

Sư thượng đường nói: Hôm qua có một tắc nhân duyên. Suy nghĩ nêu giống đại chúng, hơn nữa Lão tăng quên việc lớn, tạm thời suy nghĩ không ra, Sư bèn trầm ngâm thật lâu rồi nói:

- Quên mất cũng quên mất.

Lại nói: Trong giáo có một đạo chân ngôn gọi là Thông Minh vương. Có người nghĩ: Quên tức là nhớ.

Sư bèn nói: Án a lộ lặc kế sa bà ha.

Rồi vỗ tay cười nói lớn: Nhớ được cũng nhớ được. Tìm Phật không thấy Phật, kiếm Tổ không thấy Tổ.

Dưa ngọt cành cũng ngọt, dưa đắng rễ cũng đắng. Sư xuống tòa. Giải hạ, Sư thượng đường nói:

Một trần khởi tóm thâu đại địa, một chiếc lá rụng thiên hạ biết là mùa thu, chỗ gió vàng lay động, dế mèn ngâm răn nhắc bên thềm. Khi Sương đẹp ngọc rơi, dẫn ve kêu giữa rừng, khói xa bến sông lạ, từng đàn cò trắng tranh bay, tuyệt bích núi nhọn nguy hiểm, khắp nơi vượn đua nhau hú.

Lại thấy ngư phủ nâng mái chèo tiều phu ca, thường nghe tiếng sáo mục đồng thổi, một cánh buồm đi lẻ loi khách mơ mộng, có thể phát huy Tổ đạo kiến lập tông phong, chín tuần không luống uổng công phu trăm kiếp đang dùng bây giờ. Thông qua lời nói mà giao lưu mà lãnh hội như thế thì nạp tử châu mày. Chẳng nghe nói: Một trần không lập mới trở về nhà, nếu còn mảy may thì chẳng phải là quyến thuộc.

Sư thượng đường, Tăng hỏi: Thấy đến lại ngắt đi thì thế nào? Mỗi người tự giữ lấy cương giới.

Lại hỏi: Thấy đến lại ngắt đi thế nào? Sư nói:

Chạm nhằm lỗ mũi của ông. Cám ơn Sư đáp lời Sư nói: Buông.

Bèn nói: Cổ nhân nói: Thế nào là Bất động tôn? Sáng đến Tây Thiên chiều về Trung Quốc. Đại chúng có là động mà không động, không động mà không động? Chỉ là liền là chỗ thấy của Bạch Vân. Về Quận Trung, Sư thượng đường nói: Trên thuyền công không tán thường thường việc không đồng, sáng qua trong thành quách ngày nay ở Bạch Vân. Thử nói Bất động tôn ở chỗ nào?

Tự nói: Khi như cái túi bể lò rèn, khiến người dễ thương.

Từ xuất duyên giáo hóa trở về. Sư thượng đường nói: Viện hải hội Bạch Vân, đầy đủ củi nước, chỉ thiếu mè và lúa.

Mọi người đều thấy hết, đích thân giáo hóa đàn na, thông suốt tức là A-la-hán và nhìn xa lòng đại từ bi, nhất nhất chiêm ngưỡng mặt Phật Đại Chúng! Thân Phật đầy khắp pháp giới. Tạm xem như thế? Ta nói không cách một tuyến đường.

Sư thượng đường nói: May thay không một Sự việc, hành cước phải tham thiền, lại bị thiền não hại, không thấu cửa Tổ Sư.

Sao là ý Tổ Sư, đem lửa đến chuồng trâu.

Sư thượng đường nói: Ta có một cái chổi, quét sạch tuyết ở Tuyết Sơn. Ta có một cái miệng, việc đến không thể nói.

Ta có một cặp mắt, con mù che con loà, mặc ý cuộc đời qua. Rùa đến gọi là ba ba, xử thể học làm người, uống nước phải phòng nghẹn, Ngưỡng Sơn nói: Hai miệng một không lưỡi, người bốn biển năm hồ, liếc hay không liếc.

Sư thượng đường nêu: Tụng Linh Vân ngộ hoa đào rằng:

"Tam thập niên lai tầm kiếm khách
Kỷ hồi lạc diệp hựu trừu chi
Tự tùng nhất kiến đào hoa hậu
Trực chí như kim cánh bất nghi!

(Ba chục năm tìm kiếm uổng thôi
Mấy phen lá rụng lại đâm chồi
Từ khi chợt thấy hoa đào nở
Nghi hoặc như nay dứt sạch rồi).

Huyền Sa nói: "Hay thì thật là hay nhưng dám bảo đảm là lão huynh còn chưa triệt ngộ".

Sư nói: Nói cái gì là xác đáng phải tham ba mươi năm mới được. Sư thượng đường, Tăng hỏi: Thế nào là Phật?

-Cầu độc mộc.

Làm sao hướng đến? Dép cói mạnh mẽ.

Bèn nói: May thay có thể sống riêng.

Cang địa học tham hỏi: Đã vậy tham được, chưa tránh khỏi buồn trong bụng, buồn tức buồn nhà mình, khó tức khó nhà mình. Phật Tổ sinh oan gia. Hãy cùng với chùy một trận. Thử nghĩ: Phật Tổ lỗi chỗ nào? Nếu ai hiểu được cho ông có một con mắt.

Đồng Thọ Quách Trạch thỉnh Sư thượng đường nói: Đồng Lâm Quách bàn luận việc gia môn may mắn ăn bổng lộc tánh thích an tĩnh, Tông ta ôn lương như viên ngọc đẹp, ban sớ thỉnh chư sơn cúng dường trai tăng để gieo trồng phước lớn, hai trưởng lão cùng nói chuyện huyền bí. Nhằm tháng hai Dương Hòa. Nai khát lấy băng ở khe làm nước uống, vượn rừng kêu khóc trên cây Sương thành khói, trên đường mai vàng nhiều tri kỷ, ngày nay cùng cưỡi thuyền Bát Nhã, cưỡi thuyền tức không vô.

Thử nghĩ: Nói việc gì? Hạnh ngộ ba xuân sáng đẹp. Nhân đi không ngại tay chèo, la la li, la la li.

Bèn vỗ tay cười lớn nói: Đây là khúc điệu vạn niên hoan sao?

Sư thượng đường Tháng hai mùa xuân sắp quá mưa, gọi nhau đồng thưởng ngoạn, gần ngày thanh minh, trăm hoa đua nở, hoặc trên đỉnh Bạch Vân, hoặc dạo bờ Xích Thuỷ. Nơi hoang vắng đầy mộ người, bên đường đầy kẻ say, nửa cười nửa khóc, chân thành tán thán. Người người bảo ta tiết lậu cơ trời, cẩn thận rõ ràng cùng phê phán. Hãy xem thiền khách Ngũ Hồ không coi thường lời dạy, nhớ lấy công án sáng nay.

Sư thượng đường nêu:

Triệu Châu hỏi Bà Tử: Đi đâu?

Bà Tử đáp: Ăn trộm măng của Triệu Châu. Triệu Châu hỏi: Gặp Triệu Châu thì thế nào? Bà Tử liền vỗ hai tay.

Triệu Châu liền thôi.

Sư nói: Triệu Châu thôi đi, không biết trong chúng bàn luận thế nào? Bạch Vân cũng phải lộ tin tức, quý nhất là mọi người cùng biết.

Tuy Bà Tử thực hành chánh lệnh, một đời không xong. Triệu Châu bị đánh hai cú, gãy răng cửa, Bà Tử có thể nói đi đường một thân nhẹ tơ như lá. Triệu Châu cao danh thiên cổ trọng như núi.

Sư thượng đường nói, Tăng hỏi Vân Môn: Thế nào là giáo pháp một đời?

Vân Môn nói: Lời nói đúng.

Sư nói: Lời nói đúng nắm hết năm ngàn bốn mươi sáu. Hoa gió trăng tuyết mặc lưu truyền, sau não kim cang thêm sắt chưa luyện.

Thí chủ thỉnh Sư thượng đường nói: Đạo Ngô và Tâm Nguyên xuống núi viếng điếu.

Nguyên chỉ quan tài hỏi: Sống ư? Chết ư?

Ngô nói: Sống cũng không nói, chết cũng không nói.

- Vì sao không nói?

- Không nói không nói.

Quay về đến giữa đường Nguyên nói: Hòa thượng phải nói cho con, nếu không nói thì con đánh Hòa thượng.

Ngô nói: Đánh thì cứ đánh, nói thì không nói.

Nguyên bèn đánh. Về đến viện Đao Ngộ ra bảo Nguyên ẩn đi. Bạch Vân ngày này tức giận không cam, phải cần quét sạch công án nói: Ngô thứ nhất không biết làm chủ với thân, thứ hai không thể tùy cơ nhập tục. Lúc ấy đợi Nguyên hỏi: "Là sống ư? Chết ư?" mới trả lời: "Đợi về viện ta sẽ nói cho ông nghe".

Lúc đó nếu nói được, kẻ lanh lợi dõng dược.

Đại tiểu Đạo Ngô Hòa thượng, lại tránh được một quả đấm.

Có con mắt xem cẩn thận.
Giải hạ Sư thượng đường nói:
Cửu tuần tam cá nguyệt
Đàn chỉ miết nhiên gian
Man giả trực nhiên mãn
Nhàn giả trực nhiên nhàn
Sự Sự vô cùng tận
Thiên cổ Bạch Vân sơn.

(Chín tuần ba tháng, thấm thoát qua mau, người bận mãi miết bận, người nhàn vẫn nhàn, Sự Sự vô cùng tận, núi Bạch Vân Thiên Cổ).

Sư thượng đường nêu: Một hôm trong chùa chư Tăng đang bổ củi.

Vân Môn ném xuống một thanh củi bảo: Toàn bộ lời dạy trong Kinh Phật chỉ nói cái này.

Sư nói: Đại tiểu Vân Môn chú thích sai.

Lúc ấy Lão tăng nếu thấy sẽ nói với y, chỗ phổ thỉnh không được bừa bãi.

Nếu kiểm điểm được thì khỏi cho ông phổ thỉnh.

Sư thượng đường, Tăng hỏi: Thế nào là trước chiếu sau dụng?

Sư nói: Vua nói như tơ.

Người học hỏi: Thế nào là trước dụng sau chiếu?

Sư nói: Ảnh hưởng ra như sợi lớn.

Người học nói: Thế nào là chiếu dụng đồng thời?

Sư nói: Đưa cái càng xe lên, ngây ngô nên mất uy.

Người học hỏi: Thế nào là chiếu dụng không đồng thời?

Vàng đem thử lửa.

Bèn nêu: Tăng hỏi Thủ sơn: "Thế nào là Phật?" Vợ trẻ cưỡi lừa chồng dẫn dắt. Đại chúng chớ hỏi vợ chồng, khỏi phiền ba tra trên đường, gặp cơm ăn cơm, gặp trà uống trà, đồng môn ra vào oan gia nhiều đời.

Sư thượng đường tăng hỏi: Thế nào là việc Lâm Tế?

Sư nói: Ngũ nghịch nghe sấm.

- Thế nào là việc Vân Môn?

- Cờ đỏ rợp trời.

- Thế nào là việc Tào Động?

- Đưa thư không đến nhà.

- Thế nào là việc Quy Ngưỡng? Bia hư để ngang đường cũ.

Tăng lễ bái.

Sư nói: Sao không hỏi việc của tông Pháp Nhãn?

Người học nói: Xin để dành cho Hòa thượng.

Sư nói: Kẻ đi tuần trở thành tội phạm.

Bèn nói: Hiểu tức việc đồng một nhà, không hiểu thì ngàn sai vạn biệt một nửa ăn bùn ăn đất, một nửa ăn lúa ăn mè, hoặc tức hàng long phục hổ, hoặc mò hến, mò tôm.

Hòa Sơn chỉ biết đánh trống, bí ma một bề kích xoa, đây là một trò cười trên sân khấu, đều nhân niêm hoa vi tiếu.

Bạch Vân một lũ láo nháo, thuận gió tung đất tung cát. Nếu không tấm lòng này, làm sao áo gấm trở về nhà. Thử nghĩ một câu áo gấm trở về nhà là nói gì? Người vinh hoa ngày nay không biết trước mười năm là một ngày sống.

Sư thượng đường nói: Chỉ biết ăn trái cây, mặc dù cây cong xanh không biết cây cong, đâu biết ăn trái quả, không qua cửa Tổ Sư, làm sao biết đối địch sinh tử. Thế nào là cửa Tổ Sư? Niêm tức đại Vân Sơn.

Sư thượng đường nói: Một bề đi như thế, đường đứt ít người, một bề làm sao đến, cô phụ Tiên thánh, bỏ hai đường này, Tổ Phật không thể gần, giả Sử với Bạch Vân, cùng sinh cùng tử, cũng chưa xứng với cuộc đời, đâu cũng là chim phượng hoàng, không phải chim của nhân gian, không phải Ngô đồng thề không chịu đậu.

Sư thượng đường nêu: Pháp Nhãn nói: Biết được quả cam khắp nơi có thừa.

Vân Môn nói: Biết được quả cam trời đất khác hẳn.

Sư nói: Hai người này một người qua thuyền, một người qua sông nếu kiểm điểm ra được thì cho ông có chánh Pháp Nhãn.

Sư thượng đường nói: Nhìn trời cầu tuyết đẹp, tốt lành thật khó thêm, chim bồ cắc kêu trên cây tùng xanh, biến thành quạ trắng, con Tuấn mã dẫn dắt ngựa lạnh buốt.

Đăng vàng trang Sức thành hoa bạc, thép, cái gì khổ khổ khổ, bỗng nhiên biến thành mưa.

Sư đệ Thạch Đài đến Sư thượng đường, Tăng hỏi: Thế nào là gia phong Hòa thượng?

Sư đáp: Cờ sắt trống sắt.

- Chỉ có cái này thì lại là có khác. Sư nói: Vạch đá qua đầu xem

- Bỗng gặp khách đến làm sao mong đợi? Gan rồng, tuỷ phượng tạm đợi khi khác.

- Khách là chủ nhân thầy của nhau. Sư nói: Cám ơn cúng dường.

Bèn nói: Tụng của Tôn Sư ngày xưa Lâm Tế ba gậy nói: Một gậy đánh ngã lầu Hoàng Hạc, một bước nhảy vọt lật ngược Châu Anh Võ, có ý khí thời thêm ý khí, không chỗ phong lưu cũng phong lưu.

Đại chúng! nếu đến cửa Bạch Vân cần phải nhờ mọi người giúp tay.

Sư thượng đường đưa nắm tay lên nói: Nếu gọi là nắm tay giống như không từng hành cước. Nếu không gọi là nắm tay đối diện lừa dối nhau. Ngoài ra thiếu một nắm tay không được.

Sau khi quyên góp về, Sư thượng đường nói: Nửa tháng trời đi quyên góp mắt không thấy lỗ mũi, quên mất Thiền pháp của Tổ Sư mà chỉ lượm được món đồ bỏ đi. Thử nghĩ: Đang đến chỗ nào? Một phần dâng Thích Ca Mầu Ni Phật, một phần dâng tháp Phật Đa Bảo.

Cảm tạ thủ tọa, Sư thượng đường nói: Di Lặc nhìn không thấy, Thích Ca nói không được, làm sao sống tôn quý, hằng ngày không sai lầm, được không được, biết không biết, ba đức sáu vị, vị càng nhiều, ngàn cổ vạn cổ làm quy tắc.

Sư thượng đường, Tăng hỏi: Thế nào là Tiền Nhiên Đăng?

- Làm người nghi.

- Thế nào là Chánh Nhiên Đăng?

- Nhận lầm Hậu Nhiên Đăng.

- Thế nào là Hậu Nhiên Đăng? Một phen hổ thẹn.

Bèn nói: Mỗi tháng có mười lăm cái vô thỉ kiếp đến nay đều thường thường, đến Di Lặc hạ sinh chưa khỏi có ngọt có đắng. Thử nghĩ: Rốt ráo thế nào? Nam Sơn Bạch Ngạch Đại Trùng Nguyên vốn là mãnh hổ Tây Sơn.

Sư thượng đường nói: Mặt trời có thể lạnh, mặt trăng có thể nóng, chúng ma không thể hoại những chân thuyết. Đại chúng! thế nào là nói thật? Ngang ngược. Nếu tin không kịp thì Bạch Vân nói cho ông nghe.

1. Phải cần mọi người hiểu.

2. Phải Long thần biết.

Bèn đưa pháp y lên nói: Cái này mới thật màu hồng. Vừa nói là lụa đào.

PHÁP DIỄN THIỀN SƯ NGỮ LỤC

QUYỂN TRUNG

Sư thượng đường nói: Gió hòa nắng ấm phơi nhà Cổ Phật.

Liễu xanh, đào hồng, lỗ mũi Tổ Sư.

Nhanh tay lẹ mắt chưa phải tĩnh tĩnh.

Nói năng lưu loát cách đạo càng xa.

Từ cửa đem vào không phải là của quý trong nhà.

Thử nghĩ: Cuối cùng làm sao gặp nhau?

Lại nói: Không việc không đến vẫn nhớ anh.

Sư thượng đường, Tăng hỏi: Thế nào là chỗ Bạch Vân làm người thân thiết?

Sư nói: Thích nắm lỗ mũi của người.

Người học: Thế thì đi là thế nào?

Sư nói: Gã không biết đau đớn.

Người học: Bèn nói bốn biển năm hồ kẻ lạ, vây quanh không hình trạng thôn làng. Chỉ biết kéo cày bừa, cỏ nước không có chén bát, treo cao đầu dê bán thịt chó, lúc ấy phân biệt gì tinh với thô. Như thế là nối tiếp thọ mạng Phật, thật là trời đất khác biệt rất xa. Ai có Sức nhổ núi, ngang thân gánh vác không? Có không có không? Có tức gia môn giàu sang,không thì cô phụ lão lô.

Sư thượng đường, Tăng hỏi Hòa thượng Ba Lăng Giám: Ý Tổ ý giáo là đồng hay khác?

Sư đáp: Gà lạnh đậu trên cây, vịt lạnh lội xuống nước. Sư nói: Đại tiểu Ba lăng, chỉ nói được một nữa.

-Bạch Vân thì không vậy, hai tay với trăng trong nước, hoa thơm dính dầy áo.

Sư thượng đường nói:

Xuân phong biệt hữu xảo công phu
Xuy định bách hoa phẩm loại thù
Duy hữu mẫu đơn tinh thược dược
Thời nhân nhất kiến tiện hoang ngu
(Gió xuân riêng có công phu khéo léo
Thổi ngang trăm loại hoa khác
Chỉ có mẩu đơn và thược dược
Người ấy bây giờ vừa thấy thích vui).

Thử nghĩ: Về phần trên nạp tăng thành được việc bên nào?

Lấy lại ngửi xong trở về nơi nào?

Thấu xương hương thơm ngào ngạt tỏa ra xa giao cho lão lô.

Sư thượng đường: Tăng hỏi:

Tăng hỏi: Khi Đạt-ma quay mặt vào vách là thế nào?

Sư đáp: Suy tính chưa thành.

Tăng hỏi: Nhị Tổ đứng trong tuyết là sao? Sư đáp: Đem sai lầm làm sai lầm.

Tăng hỏi: Khi chặt tay an tâm thì thế nào?

Sư đáp: Che mắt vua khai sông Biện.

Tăng hỏi: Không như vậy thì làm sao?

Sư nói: Tức hỏi lấy Nhị Tổ bèn nêu Đạt Ma hỏi Nhị Tổ: Ông cần làm gì?

Nhị Tổ đáp: Xin Sư an tâm

Bạch Vân khi ấy nếu thấy thì cho hai mươi gậy.

-Vì sao người khác nhìn thấy sẽ cho là hai người nói pháp an tâm. Cuối cùng là thế nào, Bồtát Long Vương làm mưa ướt, ngăn thân hướng thượng vài lớp mây.

Sư thượng đường nói:

Tạc nhật náo hống hóng
Kim triêu tĩnh tiễu tiễu
Tử quy chi thượng đề
Hà mô toản nhập thảo
Hảo cá hàn thực thiên
Cô phụ Bạch Vân lão
(Hôm qua tiếng đánh nhau trong chợ.
Sáng nay im phăng phắc chim
Tử Quy hót trên cành.
Ễnh ương chui vào cỏ
Chính là tiết thanh minh
Cô phụ lão Bạch Vân
Vì Tăng mất mà châm lửa.)

Đưa lửa lên nói: Ba đời chư Phật chuyển đại pháp luân trong ngọn lửa này, nghe tên không bằng thấy mặt.

Hôm nay Trí Ngộ thượng đường nói: Thấy mặt không bằng nghe tên.

Sư thượng đường nêu: Bàng cư sĩ hỏi Mã Đại Sư:

- Không cùng môn pháp làm bạn là người nào?

- Đợi ông hớp một cái hết nước Tây giang thì ta nói cho ông:

Sư nói: Lạc Dương, mẫu đơn, mới nở nhụy, sàng đất bay bụi chớ tìm tòi đánh vào đài nhà mình. Kiết hạ thượng đường nói: Thánh chế tạm thời làm đầu hạ, rừng núi thẳm xanh tươi, cuối cùng bát không lầm, Khe suối nước chảy trong mát, Tào khê phảng phất, gọi là nơi nạp tử An cư, thật là nơi nhà của ta cấm túc. Cửa Thiền rộng lớn người cùng bọn, giúp lập tông chỉ dựng cao pháp tràng, trên đáp quân thân dưới giúp hàm thức, thảy đều rừng chiên đàn trong rừng chiên đàn, Sư tử chúa có nhiều con Sư tử, các Sư tử cùng leo lên.

Vạn tượng sum la chỉ trong bàn tay.

Đại chúng! Đầu mặt dính tro bụi đất theo mà khác cười héo hắt được nhàn trong.

Sư thượng đường dộng gậy xuống một cái rồi giơ lên nói:

- "Cây gậy ơi! dám hỏi ngươi: " Có nói được Như Lai thiền chăng?"

Sư tự đáp: " Không nói được."

- Có nói được Tổ Sư Thiền chăng?"

Sư tự đáp: " Không nói được."

Đã không nói được thì Bạch Vân tôi hôm nay sẽ đưa ra ý của mình.

Đưa ra ý mình khác nào trò đùa con nít.

Trước đại chúng,tìm xem cơ phong gì?

Sư thượng đường, Tăng hỏi: Thế nào là một giọt nước Bạch Vân?

Sư nói: Đánh cái cối xay. Người học hỏi: Uống thế nào?

Sư nói: Dạy ông không câu nệ vào bột miến Bèn nói: Như thế, như thế!

Ếch nhảy không ra khỏi đấu. Không như thế, không như thế. Làm khéo thành vụng. Mềm tợ sắt, cứng như bùn, mắt Kim Cang mười hai lạng. Nạp tăng trong tay đầu cân thấp xuống. Có vài giá không thương lượng.

Không lỗ mũi thẳng tuột lấy gì nghe mùi?

Ấp trung thượng đường nói: Bạch Vân đưa nhau ra khỏi núi, bụi trần lắp đầy mắt không mở ra được. Chớ bảo trong thành không việc tốt một hạt bụi, một cõi, một lâu đài.

Sư thượng đường nêu: Mã Đại Sư bất an.

Viên chủ hỏi: Hòa thượng mấy ngày gần đây tôn vị thế nào? Đại Sư nói: Mặt trời Phật, mặt trăng Phật.

Sư nói: Hiểu chưa? Nếu không hiểu Bạch Vân cho ông bài tụng Tông hiệp nữ tử họa nga my.

Loan cảnh đài tiền ngữ tợ si.
Tự thuyết ngọc nhan nan tỷ tịnh.
Khước lai giá thượng trước la y.

(Râu tóc, phụ nữ vẽ mày ngài.
Loan cảnh trước đài nói tợ si
Tự nói mắt ngọc khó sánh bằng.
Liền mặc áo tử la trên giá).

Trên hội chích gia Sư thượng đường nói:

Tháng Sáu Tam phục thiên
Lục nguyệt Tam phục thiên
Hoản vân bố giao dã.
Tùng gian lâm thủy tọa
Giải đới đồng hoan đả
Thuế lữ đông hà hoa
Tân bằng khuynh ngọc
Hông trần Sư huệ hoa
Bích động hà tiêu sái.
Trùng hội tại minh niên
Tương kỳ mạc tương xã
Bạch vân từng hữu ước
Nguyện kết thành liên xã.
Lửa mây đầy đồng nội
Tùng giang lâm thủy tọa
Giải đới cùng hoan đả
Bạn lành làm hoa sen
Bạn khách mang bình ngọc
Việc hồng trần phồn hoa
Động ngọc sao tiêu sái
Gặp lại ở năm sau
Giúp nhau chớ bỏ nhau
Bạch Vân từng có hẹn
Nguyện kết thanh liên xã.

Sư thượng đường nói: Phật Tổ sinh oan gia, ngộ đạo nhiễm bùn đất, người không làm không việc. Thanh sắc như mù loà. Thử nghĩ tức là thế nào cũng không được, không thế nào cũng không được, thế nào không thế nào đều không được.

Bỗng có người đến nói: Thế nào cũng được,không thế nào cũng được, thế nào không thế nào cũng đều được, thì nói với y ta cũng biết ông làm mồi cho hang quỷ.

Sư thượng đường nói: Trước hết vào cửa Bạch Vân, kế đến lướt qua ngọn sóng Bạch Vân, nuốt thiền lúa cỏ, ăn cơm lúa thóc.

Quân tử như khi đến, xem phương tiện đàng hoàng.

Sư thượng đường, Tăng hỏi: Thế nào là đạo?

- Trị bình quận

- Thế nào là người trong đạo?

- Tâm đỏ làm chủ

- Chưa hiểu rõ đạo và người trong đạo cách nhau bao nhiêu?

- Danh truyền thiên hạ

Bèn nêu: Tăng hỏi Nam Tuyền, Thế nào là đạo?

Tâm bình thường là đạo.

Bàng cư sĩ hỏi Mã Đại Sư: Không cùng muôn pháp làm bạn là người thế nào?

- Đợi ông hớp hết nước sông Tây Giang Tăng ta sẽ nói cho ông.

Sư nói: Lại là đồng hay khác?

- Đồng thì thần xuất quỷ chết-Khác thì say rồi thêm chén nữa.

- Cuối cùng thế nào?

Đợi ông nhớ được ai, ta sẽ nói cho ông nghe.

Sư thượng đường nêu: Cổ nhân nói: Thích Ca Di Lặc vẫn còn là nô lệ của người khác. Thử nói: Người khác là ai? Bèn xuống tòa.

Sư thượng đường nói: Năm ngàn bốn mươi tám quyển thành chỗ thấy của giáo hạnh lý, môn hạ Tổ Sư bàn luận, phải biết một quý một tiện. Quý thì châu ngọc khó đều. Tiện thì chia chẽ rất xa. Người nào ở đây biện được, Bạch Vân cho ông ba mươi.

Bổng có một gã nói: Đại trượng phu thưởng phạt phân minh, không biết là ba mươi cái gì?

Im lặng hồi lâu Sư nói: Ba mươi năm sau.

Sư thượng đường nói: Ba lần dời trường định là thị phi, khi tâm ngoan không thay đổi ở nhà, gọi anh gọi em lớn như thế. Hãy làm thứ chày cổ.

Trần trợ giáo vào núi nấu trà, đường đường đại trượng phu thổi sợi lông ánh sáng rực rỡ, Phật Tổ không cùng đường.

Từ giã điển tòa Sư thượng đường nói: Bạch Vân hôm vào, gã già khô phải ăn bánh không da, điển tòa sắp đặt khéo léo mọi người tự nhiên nhai nuốt.

Sư im lặng hồi lâu rồi nói: Canh dê tuy ngon nhưng nhiều miệng khó ăn.

Sư thượng đường nêu: Tăng hỏi Mã Đại Sư lìa tứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Sư thẳng chỉ Tây Lai ý. Mã Đại Sư đáp: Tăng ngày nay mỏi mệt không thể trả lời cho ông hãy hỏi Thủ Trí Tạng.

Tăng hỏi Trí Tạng.

Tạng đáp: Tăng nay đau đầu không thể nói cho ông hãy hỏi Hải huynh.

Tăng hỏi: Hải huynh.

Huynh đáp: Tăng đến đây không lãnh hội.

Tăng nêu: Giống Đại Sư.

Đại Sư nói: Đầu Tạng trắng đầu Hải đen.

Sư nói: Mã đại Sư không có chỗ sợ thẹn, chỉ nói được đầu Tạng trắng đầu Hải đen, giả Tăng lấy một gánh dối lừa, đổi được cái không hiểu. Nếu mặt giống sao đi, bao nhiêu người mất tiền gặp tôi. Sư thượng đường nói: Trước sân nở cúc vàng, túc căn sinh, nhạn đến mới nghe một hai tiếng, hôm qua Thất Phong kéo Lão Hưng ngàn suy vạn tưởng đến trời sáng.

Ngày mùa đông, Sư thượng đường nói: Sau khi một dương sinh rất lạnh, sáng sủa cóc treo trời xanh,tiếng suối chảy róc rách, gió lay bóng cây đong đưa.Vượn cuồng ôm con trốn trong động sâu. Hạc gầy đem con theo lão tiên, chớ bảo học đồ Sư đứng trong tuyết, mới biết cổ đức dụng tâm kiên cố.

Sư thượng đường nêu: Đức Sơn hỏi Long Đàm: Nghe tiếng Long Đàm đã lâu, bèn đi đến Đàm không thấy Long cũng không hiện.

Đàm nói: Ông đích thân đến Long Đàm.

Sư nói: Lão nhân Long Đàm có thể gọi là cưỡi ngựa giặc đuổi giặc. Bèn xuống tòa.

Đưa các Quận Hóa Chủ thượng đường nói:

Gánh vác các dòng thiền, mới có thể đủ cơ hoạch, gặp người định có tiền, gặp mặt sao không lúa thóc, đã là con nhà ta,lâu làm khách ngoài vật, nhu hòa một nắm tay, lại cứng không nắm tay, răng móng tạm thời đủ hơn trán bạc Nam Sơn.

Sư thượng đường nói: Một đời giáo hóa năm ngàn bốn mươi tám quyển, không có đốn tiệm. Há không phải là có. Vĩnh Gia nói:

"Diệc vô nhân diệc vô Phật
Đại thiên sa giới hải trung khu
Nhất thiết thánh hiền như điện phất".

(Cũng không người, cũng không Phật, nước trong biển đại thiên Sa giới, tất cả Thánh Hiền như chớp nhoáng.)

Há không phải là không, Đại chúng! Nếu nói là có thì trái với Vĩnh Gia, nếu nói là không thì trái với Thích Ca. Làm sao bàn luận cho thích hợp; nếu biết chỗ rơi,sáng gặp Thích ca chiều tham Di Lặc. Nếu cũng chưa rõ, thì Bạch Vân điểm pha cho ông, nói không không phải là không, nói có không phải là có, phía đông nhìn Tây Da ni, phía nam xem Bắc Đẩu.

Sư thượng đường nói: Nói Phật, nói pháp dơ chùy dựng phất trần, mây trắng ngàn dặm, Đức sơn vào cửa bèn đánh, Lâm Tế vào cửa bèn hét, mây trắng ngàn dặm. Sau đó thế nào cũng không được, không như thế cũng không được, như thế không như thế cũng không được,thì mây trắng ngàn dặm, bổng có người ra nói: Trưởng Lão ông làm sao nói thì mây trắng ngàn dặm.

Sư thượng đường nói: Đường trước cửa Bạch Vân đến lại đi là bước chính giữa có một mảnh ngói mới,các ông vì sao đạp không câu nệ.

Vương Đề Hình vào núi thượng đường nói: "Môn hạ của Tổ Sư như bắn tên trúng đích. Tay làm mắt đích thân không được không mất". Tăng hỏi viên quan triều đình đến dự pháp hội, gió mát thổi khắp chỗ ngồi.

Người học trên đây thỉnh Sư quyết nghi.

Sư nói: Cuối năm một trận mưa tức tạm đón Xuân.

Người học hỏi: Trời rủ xuống lộng báo, đất trải sen vàng.

Sư nói: Chưa phải là nhiều.

Tăng hỏi: Việc nhiều như thế nào?

Sư nói: Trước chúng nhân thiên không muốn tạo thêm nữa.

Người học nói: Biển học sóng lớn thêm mênh mông.

Ánh sáng mặt trời mặt trăng trên bầu trời trở nên rực rỡ.

Sư nói: Cũng không tiêu được.

Sư bèn nêu: A Nan hỏi Ca Diếp: "Ngoài việc đức Phật truyền y kim lan ra. Ngài còn truyền vật nào khác không?

Ca Diếp gọi: A Nan.

A Nan: Dạ!

Ca Diếp nói: Hãy xô ngã cột cờ trước cửa chùa! Còn ngài Vĩnh gia thì nói:

"Kiến pháp tràng lập tông chỉ
Minh minh Phật sắc Táo khê thị".

Sư nói: "Ca Diếp dạy xô ngã cột cờ. Còn Vĩnh gia lại dạy lập Tông chỉ. Thữ nghĩ: xô ngã đúng hay kiến lập đúng. Đến chỗ này phải có đủ con mặt trạch pháp mới được. Rốt cuộc thế nào? Xô ngã cũng đại triệt ngộ, kiến lập cũng hai lần ba là sáu. Trên gác bảy núi cùng nhau nói diệu nói huyền. Một câu một lời thanh lọc tai mắt.

Trở về nhà Tăng mời Sư thượng đường nói: Sáng ngày mồng một tháng mười, vân đường vừa xây xong. Thánh chúng đã được yên chỗ, trang nhã đẹp đẽ hơn ngày cũ. Khi ở trong đó thọ dụng, gồm có Sự thương tiếc lẫn nhau.

Nguyện bảo tồn gia phong, Cổ Phật. Ba cõi, bốn ân được lợi ích vui sám, chớ có trên nghe đủ vị đề tên lập đá, dám khuyên chư đàn việt xa gần nhớ lấy, Ma Ha Bát Nhã Ba Mật, bỗng có người đi ra nói Trưởng Lão không ngại thích văn chương.

Bèn nói: Dốt! trong miệng Bạch Vân, ai dám nói không tốt. Đề Hình nhập tự, thượng đường nói: Binh tùy ấn chuyển, tướng theo phù hiệu làm, Bồtát phương tiện che chở chúng sinh. Việc thuận khéo nói dẫn dắt,hung ngoan gồng gậy ngang dọc trung gian có gã không bàn luận, Kim tiêu huyền quán giờ không trụ, trong vị Thánh Phàm chẳng có thể thâu.

Như làm không được, Phật Pháp không kinh nghiệm.

Bạch Vân có tin tức thử nói xem. Cổ nhân nói: Vô luân cõi nước tự tha không cách mảy may đầu mối. Mười đời vua xưa nay hoàn toàn không lìa đương niệm, bỏ núi Tu-di vào trong hạt cải ném ở phương ngoài đại thiên, biến đại địa thành vàng ròng quậy sông dài thành Sữa,đến đây hợp như thế?

Quốc độ lay động đón Thế chí, hoa báu đầy trời đưa tiễn Quán Âm.

Đoan Ngọ, Sư thượng đường nêu: Xưa có tú tài tạo luân Vô quỷ.

Luận vừa viết xong thì có quỷ hiện thân, bẻ tay Tú tài nói: "Ông đâu làm gì được ta" Bạch vân lúc ấy thấy, bèn lấy tay làm mỏ chim tu hú kêu: "Cốc cốc cô".

Sư thượng đường nêu: Hoàng Đế Túc Tông hỏi Quốc Sư Huệ Trung: Sau khi trăm tuổi cần vật gì?

Quốc Sư tâu: Xin xây cho Lão tăng cái tháp Vô Phùng Đế nói: Xin Sư cho kiểu tháp

Quốc Sư im lặng giây lâu nói: Hiểu không? Vua nói: Không hiểu.

Quốc Sư tâu: Tôi có đệ tử phó pháp là Đam Nguyên thông hiểu việc này xin vời đến hỏi.

Sư nói: Trong chúng đều nói. Quốc Sư im lặng hồi lâu sao không biết, treo trống đợi dùi. Sau khi Quốc Sư tịch, Hoàng Đế Túc Tông vời Đam Nguyên đến hỏi ý này thế nào? Đam Nguyên tâu: Phía Nam sông tương, phía Bắc là cái đầm.

Ở giữa vàng rồng đầy nước, dưới cây không bóng nên cùng thuyền, trên điện Lưu ly không tri thức.

Sư thay Túc Tông nói: Tụng của Tuyết Đậu:

Vô phùng tháp.
Kiến hoàn nan
Trừng đàm bất hứa thương long bàn
Tằng lạc lạc
Ảnh đoàn đoàn
Thiên cổ vạn cổ dữ nhân kham.

(Dịch)

Tháp vô phùng
Càng khó thấy
Đầm trong chẳng cho rồng xanh cuộn
Từng lộng lẫy
Bóng tròn tròn
Ngàn xưa muôn xưa cho người xem.

Sư nói: Tuyết Đậu có thể khiến cho tên tuổi lưu truyền muôn thuở. Tôi chỉ thích câu "Đầm trong chẳng cho rồng to cuộn" (trừng đàn bất hứa thương long bàn) Thử nói cuối cùng thế nào?

Bèn nói: Sá nữ đã mất sông Hán, kẻ ngốc còn giữ nhà không

Sư thượng đường nêu: Tăng hỏi Vân Môn:

"Thế nào là lời siêu Tổ vượt Phật"?

-Bánh bao, Bạch Vân thì không như vậy.

Bỗng có người hỏi: "Thế nào là lời siêu Tổ vượt Phật"?

Chỉ trả lời với: Phân lừa giống phân ngựa.

Lại nói: Dép cỏ rách.

Lại nói: Linh Quy kéo đuôi. Thử nghĩ giống hay khác, hãy phân biệt đi!

Sư thượng đường, Tăng hỏi: Thế nào là việc tiêu chuẩn?

Sư nói: Đâu cần trái lại.

Bèn nêu: Tăng hỏi Lang Da: Thanh tịnh bổn nhiên vì sao bỗng nhiên sinh đất đai sông núi?

Lang Da đáp: Thanh tịnh bổn nhiên vì sao nói bỗng nhiên sinh đất đai sông núi. Tăng nhân đó tỉnh ngộ.

Sư nói: Mạt vàng tuy quý nhưng rơi vào mắt thành nhặm.

Sư thượng đường nói: Tổ Sư để lại một chiếc giày ngàn cổ truyền qua tai người, vác không trên vai, chân bước đi, đâu từng đạp trúng nhà mình.

Sư thượng đường nói: Hành giả không báo lại đánh.

Trên trống khúc lục không khỏi từ sai lầm đến sai lầm để tham.

Sư thượng đường nói: Tý Sửu dần mẹo thìn tỵ ngọ mùi thân dậu tuất hợi, cuối cùng thì trở lại đầu, có ghét có ưa, cuối cùng thế nào chỉ liên hệ một niệm.

Sư thượng đường nói: Khắp sa giới chưa từng dời bước.

Núi sâu mây trắng là báo độ nào?

Nếu là chân thật đạo gia, ngày rửa bát hai lần.

Trống da mới, thượng đường nói:

Trống nhiều da đánh không có âm vang, da vừa động chấn thiên lôi, không trệ chớ nói tùy thế đi, có tiếng ai gọi bất bình đến. Thế nào? hai mắt nghe hay không nghe? hai tay thấy hay không thấy, một đường bình thản, là ai không phương tiện.

Sư thượng đường nói: Gốc ngọn phải quy tông, tôn ty dùng lời nói, kiếm bén chặt nắm hư không, gậy lớn đánh chuột.

Sư thượng đường nêu: Sau khi Thế Tôn nhập diệt, Chư Thánh đệ tử kết tập pháp tạng trong hang Tất-bát-la. A-nan thăng tòa, hình nghi giống như Phật. Đại chúng bèn sinh ba điều nghi:

- Nghi A-nan thành Phật.

- Nghi Phật lại hiện thân.

- Nghi Phật phương khác hóa hiện.

A-nan xướng rằng: Như vậy tôi nghe, các điều nghi đều hết.

Lúc ấy nếu có người nói rằng:

- Đại chúng y theo mà hành, mỗi người tự giải tán.

Khỏi thấy nhiều tạng, quấy loạn người.

Tuy như thế, còn chưa dẹp hết.

Vì sao? A-nan nói như vầy tôi nghe.

Bạch Vân cũng nói: "Như vầy tôi nghe".

Nếu nói lúc ấy là trọng xưa khinh nay.

Còn nói theo bây giờ là trọng nay khinh xưa.

Có hiểu không?

Hoa Ưu đàm không nở, thì hương thơm không có.

Sư thượng đường nói: Lục Tổ Huệ Năng Đại

Sư.

Đây là kẻ rất ngu si con cháu nhiều đời sau rất nhiều, lần lượt sinh hoặc loạn. Cẩn thận khéo suy lường, Bạch Vân không may mắn.

Sư thượng đường, Tăng hỏi: Đầu sào trăm thước làm sao tiến bước.

Sư nói: Đi nhanh mới được.

Bèn nêu: Vân Môn nói: Nghe tiếng ngộ đạo, thấy sắc minh tâm, Quán Thế Âm Bồ-tát lấy tiền đến mua bánh bột buông tay té ra là bánh bao. Vân Môn thích thì rất thích, lạ thì rất lạ, lại chỉ nói được Thiền lão bà. Nếu là Bạch Vân thì không vậy, như thế là nghe tiếng ngộ đạo thấy sắc minh tâm. Bèn đưa tay lấy gậy lim thế đánh trống hát: Sam bát-latrát.

Sư thượng đường nói: Bốn năm trăm gạo đá, hai ba ngàn lúa đá, vừa dùng lương dược, kỳ bà không được tốt.

Sư thượng đường nêu: Long Nha nói: Danh sơn trong thiên hạ đến đây là nhờ chân, nhiều năm cay đắng cho mang vớ mà nay già rồi không đi được, trong tay cầm chuôi thìa gỗ. Bạch Vân thì không vậy, chân lại không thể mang dép cỏ, tay cũng không cầm thìa gỗ ngồi ngay thọ của cúng dường, thí chủ thường an lạc.

Sư thượng đường nói: Việc Đạt-ma từ phương Tây đến, người nay dối gạt Thiên hà đâu có nổi sóng, quế nguyệt không nghe hương thơm cũng thấy thành công án.

Niệm chủ lạc tu trai, Sư thượng đường nói: Hôm qua được một giấc mộng, thấy Trăn công ở thiên cung ngồi đối thoại với Đế Thích.

Trăn hỏi Đế Thích: Trên trời có năm tướng suy phải không?

Đế Thích đáp: Đây là những lời nói của Phật đâu có thể nói dối sao?.

Lúc đó Đế Thích là hỏi Trăn: Ta nghe Diêm Phù Đề có người không trì giới phải không?

Trăn đáp: Đây là lời Phật nói, đâu có thể dối gạt sao?.

Im lặng hồi lâu Trăn mới nói: Cung trời tuy vui không phải là ở lâu, rồi xuống mười tám tầng địa ngục bèn thấy chánh điện Diêm vương ở và Địa Tạng Bồ-tát. Nghe nói Trăn bèn ra cửa bèn thấy một đứa trẻ khom mình làm lễ chào nói: "Long Vương ở biển đông thỉnh các bạn La Hán thọ trai". Trăn bèn đi phó trai, trở về được mấy viên ngọc Như ý. Đồng loạt phân chia cho mọi người. Bạch Vân được ngọc châu sáng rực. Bỗng nhiên tĩnh mộng cho đến sáng nay các pháp nhũ thiết trai mời Trăn công, thỉnh Bạch Vân thăng tòa. Đại chúng hãy nói hôm qua là mộng đúng hay vừa đến nói là đúng. Trong chúng tham đã lâu tinh thông đạo Thiền của Tiên Đức. Nếu người nào phân biệt được thử hãy ra đây trình bày tin tức. Có không, có không? Nếu không Bạch Vân lại có cổ thoại Thích Ca đã nhập Niết-bàn bên sông Bạt Đề rồi, Ca-diếp mới đến nhiễu kim quan mà khóc. Do đó, Thế Tôn thò hai bàn chân ra. Đại chúng thử nói: Khi đó Niết-bàn đúng hay hiện hai chân đúng?

Bèn nói: Thôi thôi không cần nói, diệu pháp của ta khó nghĩ bàn những người Tăng thượng mạn, nghe ắt không kính tin.

Tạ giám thu, thượng đường nói: Việc tánh mạng con người, thứ nhất cần phải là. Muốn được thành như thế. Trước phải ngăn ngừa ở. Nếu là người chân thật.

Sư thượng đường tăng hỏi: Không rõ đương cơ xin Sư nói thẳng

Sư nói: Nắm thì tụ lại, mở thì tan ra.

Bèn nêu: Tăng từ biệt Triệu Châu.

Châu nói: Chỗ có Phật thì không được dừng.

Sư nói: Đổi lại tâm can ngũ tạng ông, chỗ không Phật mau đi qua.

Sư nói: Nhạn qua để tiếng ngoài ba ngàn dặm, gặp người không được nêu lầm.

Sư nói: Ra khỏi cửa thì nhầm. Tăng nói: Như thế thì không đi.

Sư nói: Trồng lúa lại sinh đậu.

Châu nói: Hái hoa dương, hái hoa dương.

Sư nói: Bất chợt ngày lại đêm, sao dạy người trẻ tuổi.

Tiểu tham nói: Đạt Ma Tây Lai không lập văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật. Bỗng có người ra nói: Trưởng lão trong thất, thường thích hỏi người: "Thế nào là tâm ông" con không hiểu?

Lại hỏi Trưởng lão: Thế nào là tâm Hòa thượng?

Lão tăng nói với ông ta đến đây vuốt râu cọp tâm làm sao tạo kế nói với ông. Nếu ông ta hỏi cây bá nói như thế trưởng lão làm sao hiểu. Đến y nói: Ta có một phương tiện, có rất nhiều phương tiện. Lại phải trước hỏi Thủ tọa. Lại hỏi Đức Sơn vào cửa liền đánh làm sao hiểu, ta nghe liền chiến đấu xác thịt.

Lâm Tế vào cửa bèn hét, làm sao hiểu là làm sao rách giày cỏ.

Dù cho một thời thấu qua cũng là bảy lần chín sáu mươi tám.

Trung thu, Sư thượng đường nói: Tháng trung thu, tháng trung thu.

Xưa nay đều thường gọi khác nhau, khác hay không khác mênh mông sáng khắp thiên địa, mặc cho thiên hạ nói lung tung.

Sư thượng đường, tăng hỏi: Một thời giáo là thiết chân, không rõ là chữ thiết nào?

Sư nói: Lúa bát la.

- Học nhân chỉ hỏi một chữ vì sao lại đáp nhiều?

- Bảy chữ tám chữ.

Cũng là thói quen do mình tùy tiện.

Sư nói: Trà cơm bao nhiêu, té ra cũng có người biết mùi vị.

Bèn nói: Tổ Sư ấn tâm chỗ tin tức tốt, không tin tức, không tin tức, người xưa rõ ràng, dơ lên cũng đại thiên bao la, buông xuống thì phàm thánh đồng nguyên, có khi ấn lại trước mặt mọi người, tự là mọi người cam phục, không chịu gánh vác, mang lụy Bạch Vân cam chịu cúi mình. Thử nghĩ lỗi chỗ nào?

Sư thượng đường, đưa gậy lên nói: Cái gậy này không được từ Thiên Thai Nam Nhạc, cũng không ở Tây thiên Đông độ này. Thử nói sinh ở chỗ nào? Nếu biết chỗ sinh, đồng được thọ dụng.

Nếu cũng không biết bèn nương tựa đi, Sư xuống tòa.

Sư thượng đường nêu: Diệu trạm Tổng trì bất động tôn, Thủ Lăng Nghiêm Vương hy hữu, tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng, bất lịch tăng ký hoạch pháp thân. Đại chúng! Nếu cho thiền hiểu là chê báng kinh, nếu là kinh hiểu là chê báng thiền.

Nếu là một đoàn thì thẳng mực, có người nhảy được ra.

Ngày hết vạn lượng vàng. Nếu nhảy không ra có chỗ các ông ở Sư thượng đường nói: Chỉ biết trăng tròn trăng khuyết, ai biết trăng khuyết trăng tròn, vội vàng đi thuyền qua nước. Không biết qua nước đi thuyền, trăm năm ba vạn sáu ngàn ngày, bình thường lão đỏ mặt, mỗi người tự soi gương xem, mặt mũi ra sao?

Sư thượng đường nêu: "Tăng hỏi Động Sơn: "Thế nào là mắt thiện tri thức?". Sơn đáp: "Giấy quyến không dầu". Nếu hỏi Bạch Vân sẽ đáp: "Không dầu thì không đốt đèn". Tuy vậy cũng kém Động Sơn ba ngàn dặm, chỉ là trong đó có chỗ hay, có chỗ rất hay. Các người trong nơi tối đen đang xung đột. Lộ trụ ngộ đi cũng không định.

Tuế triều thượng đường: Oai Âm Vương về trước cũng như thế. Ba đời chư Phật cũng như thế. Bốn mươi tám vị Tổ, Sáu vị Tổ Trung Hoa cũng như thế. Năm trước năm sau cũng như thế, năm tới, năm sau, ngoài năm sau cũng như thế. Bỗng có một người xuất gia nói:

-Hòa thượng! Hòa thượng.

Hòa thượng tự nói: Nếu không bị người khác gọi, thì trụ 100 năm cũng chỉ như thế.

Lại nói: Ngày Tết mở nước vạn vật đều mới. Năm trước xin lửa và khói được. Hôm nay gánh suối mang trăng về. Quỷ vận đầy mặt trời về phía Nam. Trong Sự can hệ có nói thẳng. Không có người chịu dừng chân. Đầu mùa Xuân còn lạnh. Cúi xin thủ tòa, đại chúng khởi cư vạn phước, Tô võ chăn dê nhiều ngày. Vui vẻ ở Lý Lăng nhìn về Hán Đài. Trọn sáng cười vui vẽ tại chỗ. Nhân nghĩa chỉ từ chỗ nghèo chấm dứt. Thế tình phần nhiều hương về nhà giàu.

Sư thượng đường, Tăng hỏi: Thế nào là việc bổn phận? Sư đáp: Cắt lưỡi không nói.

Bèn nói: Mỗi ngày thức dậy, dộng gậy Lâm Tế thổi khúc hát Vân Môn, ứng cái vỗ Triệu Châu, cái mai đuổi Quy Sơn, trâu cày mộng Bạch Vân. Bảy tám năm thành kế sống nhà. Lại nói: Các ông, mỗi người đưa ra một tay cùng giúp nhau hát khúc Quy Điền.

Canh mặn cơm lạt hãy cùng qua.Vì sao? Chỉ nguyện năm nay tơ tằm chín, La Hầu La cùng một bài văn.

Sư thượng đường nêu: Nam Tuyền nói: Văn Thù Phổ Hiền canh ba hôm qua dậy Phật thấy. Mỗi người cho hai mươi gậy. Đè nén xuống đến hai núi Thiết vi, Bạch Vân thì đầy đủ đại từ bi.

Bèn vỗ tay nói: Thất Lợi Phổ Hiền Đại Sĩ, không xét rõ không xét rõ.

Từ nay về sau còn dám không?

Tự nói: Một lần bị rắn làm Tổn thương, sợ thấy cắt dây giếng.

Thượng đường nói: Con chó có Phật tánh không?

Cũng hơn con mèo vạn lần. Sư xuống tòa.

Sư thượng đường nêu: Tuyết Phong hỏi Đức Sơn: Từ trên chư Thánh lấy pháp gì dạy người?

Tông ta không ngữ cú, cũng không một pháp cho người.

Tuyết Phong nhờ đó được ngộ.

Sau đó có Tăng hỏi Tuyết Phong: Hòa thượng yết kiến Đức Sơn được cái gì, bèn dừng đi.

Tuyết Phong nói: Ta đi tay không về tay không. Hôm nay Bạch Vân nói: Chưa qua thấu.

Có hai người từ đông kinh đến Sư hỏi: Từ đâu đến?

Họ đáp: Từ Tô Châu đến.

Hỏi: Việc Tô châu thế nào?

Họ đáp:: Tất cả đều bình thường. Tuy vậy, không dối Bạch Vân được. Vì sao? Chỉ vì ngữ âm mỗi người khác nhau.

Rốt cuộc thế nào?

Bá Ngẫu ở Lăng Thiệu, Tô châu thượng đường nói: Hai mươi lăm năm nay ngồi trên cây khúc lục ghi chép chuyện xưa nay chưa từng nói đệ nhất cú, trong chúng không có người nào đầy đủ đại từ bi thử nói ra xem! Cũng cần nhiều người cùng biết. Và bình sinh hành cước, có không? Có không? Chớ nói không.

Bỗng có người ra hỏi: Thế nào là Đệ nhất cú. Bạch Vân không khỏi nói với ông ta: "Bỏ cái gì làm cái gì?".

Sư thượng đường nói: Khó khó bao nhiêu cái, dễ dễ không lỗ mũi. Tốt tốt bẻ dẹp người già, im lặng từ đây được. Qua bốn lớp cửa này rồi. Người Tứ châu thấy nhiều.

Thánh tham.

Sư thượng đường nói: "Pháp này không thể dạy. Ngôn từ tướng tịch diệt". Hai câu này còn một chút so sánh, bỗng khi gặp Linh Dương treo Sừng, làm sao chỉ thẳng lên.

-Ngày ngày đứng lâu.

Sư thượng đường, Tăng hỏi: Thế nào là Phật? Miệng là cửa họa.

Bèn nói: Ngày nay tiết Thượng Nguyên, khắp nơi đèn sáng rực. Không biết ý trời thế nào. Tuyết lành đổi thành tuyết xấu. Bần cùng biến thành tằm khô, rùa đen chợt thành ba ba. Chỉ có dòng thiền bốn biển, mỗi mỗi trong mắt thêm mạt vụn.

Vì sao không nói không nói, Sư xuống tòa.

Thỉnh Hóa chỉ, thượng đường nói: Công tạo hóa, môn hạ Tổ tông làm trời đất khí phát sinh, xuân, ha, thu, đông, quyết làm cho tâm hàm linh điên đảo, thường vui ta tịnh, y cứ chỗ dụng của nạp tăng không như vậy, biến đất đai thành vàng rồng.

Khuấy sông dài thành Sữa, còn chưa xứng với Bạch Vân. Bỗng có người ra nói: Lời nói như thế chỉ là gã tham tâm không đủ.

Tự nói: Tham.

Sư thượng đường nêu: Đạt Ma Đại Sư nói: Ai được Tông chỉ ta hãy ra chứng minh cho ông.

Nêu Tổng Trì nói: Y cứ chỗ thấy, như Khánh Hỷ thấy cõi Phật A Súc, thấy một lần thôi không bao giờ thấy nữa.

Đạt Ma nói: Ông được da của ta.

Đạo Dục nói: y cứ chỗ tôi thấy thật không một pháp làm tình.

Đạt Ma nói: Ông được thịt của ta.

Nhị Tổ lễ bái Tam Tổ y vị trí mà đứng.

Đạt Ma nói: Ông được tuỷ của ta.

Sư nói: Lúc ấy nếu thấy ba người họ nói thế, mỗi người đáng cho ba mươi gậy. Chỉ như Bạch Vân, ngày nay ăn hai mươi chín gậy giữ lại một gậy cho các ông. Lúc ấy nếu có người biết đau đớn không cô phụ Tiên Thánh, cũng được thấy Bạch Vân.

Hoặc người chưa biết, ăn cháo ăn cơm trong tăng đường bèn cần nhai nát thấy nhiều, là hồ đồ.

Sư thượng đường nêu: Thích ca Như Lai lên trời Đao Lợi thuyết pháp cho mẹ, Vua Ưu Điền nhớ Phật bèn sai thợ mộc tạc tượng bằng gỗ chiên đàn. Khi Thế Tôn trở xuống tượng cũng ra đón chào. Các người thử nói, là xuống hay là ra đón đúng?

Lại trong kinh giáo nói: Như Lai không từ đâu đến cũng không có chỗ đi. Chẳng phải hóa thân có đến đi không? Nếu người ở đây thấy được, ngày hết tiêu hết vạn lượng vàng ròng. Người hoặc chưa được như vậy. tiền giày cỏ dạy người nào trả.

Sư thượng đường nói: Nói thiền bị thiền ràng buộc, không nói lại thành hiện. Nếu thật không nói thật là phương tiện tốt, như đánh nhau trước ngựa, như sét đánh sấm chớp. Hiểu tức rất giàu sang, không hiểu không đối diện.

Nhân thọ trai Sư thượng đường nói: Không lạnh không ấm thích dạo xuân, khuynh tâm sĩ nữ kết dự tu, tự biết một đời như huyễn mộng, mới biết trăm năm tợ bọt bèo, Tử Quy kêu chỗ đúng tin tức, khi thược dược nở hoang dã âm u. Môn phong này ai hiểu được. Bình thường lại bạc đầu thiếu niên.

Sư thượng đường nói: Ngày nay trước khi quay về sai không được. Hôm nay lần sau không được, sai không được, nói không được, gặp nhau lại đánh nhau. Từ xưa đến nay, ai lầm ai không lầm. Bỗng có người ra nói:

- Bạch Vân không phải ngày nay lầm.

Tự nói: Lầm lầm, rồi xuống tòa.

Ngày ngày Sư cầm tích trượng đi quanh phương trượng hỏi Tăng:

- Có người thuộc trâu hỏi mạng không? Không ai đáp được!

Bèn nói: Tôn Tần ngày nay khai bày, đều không có một người ngó ngoái, đáng tiếc ba thước râu rồng gọi là vải rách tầm thường.

Sư thượng đường nói: Có một tắc nhân duyên độc đáo.

Nêu giống mọi người: Muốn nói lại bị nói ngăn ngại, không nói lại bị không nói ngăn ngại, muốn nêu sơn hà đại địa, lại bị sơn hà đại địa ngục, dạy từ trên đầu lại thêm đầu, vàng thật không sợ ngọc. Ý trượng phu như thế, vui vẻ không lo âu.

Sư thượng đường nêu: "Tăng hỏi Tào Sơn: Phật chưa ra đời thì thế nào?

- Tào Sơn không biết.

- Sau khi xuất thế như thế nào?

- Không bằng Tào Sơn".

Sư nói: Nếu lấy thế đế xét thì, Tào Sơn đáng ăn hai mươi gậy.

Nếu lấy Tổ đạo xét thì, Bạch Vân đáng ăn hai mươi gậy.

Tuy như thế, đầu gậy có mắt. Trong hai người có một người chịu hết, một người không chịu hết.

Nếu người kiểm điểm ra cho các ông có nửa con mắt.

Sư thượng đường nói: Các ông, thấy lão Hòa thượng cổ động môi mép, dựng đứng phất trần bèn làm thắng giải,và cầm thú ở núi tụ tập, bò vẫy đuôi. Lại đem làm bình thường, đâu không biết tiếng mái nhà không dứt mưa đêm bóng chớp còn nối tiếp sau đêm giông.

Sư thượng đường nói: Thích ca đã diệt, Di-lặc chưa sinh sâm la vạn tượng bỏ đi một bên. Thử nghĩ.

Thế nào là pháp thân thường trụ của các ông.

Bèn nói: Có công không công chớ để bụng rỗng. Thỉnh cúng Sửa san.

Sư thượng đường nói: Bạch vân ngày nay quyền lấy thế giới Đại

Tống làm một mặt cờ, trước lấy Đông Nhạc Thái Sơn, Nam Nhạc Hành Sơn, Tây Nhạc Hoa Sơn, Bắc Nhạc Hằng Sơn,Trung Nhạc Tung Sơn định lại năm phương.Kế đến lấy Ngũ Đài, Nga My, Chi Đề, La Phu để làm tương trợ, bờ trái thì hình đất chéo lệch hàng nhạn bay, bên phải thì miệng hai cửa hổ. Bèn giơ tay lên nói: Thử nói cái này rơi vào chỗ nào? Nếu biết chỗ rơi bèn là địch thủ, nếu như chưa được vậy, Bạch Vân thử không tin tức. Mười chín con đường bằng. Tranh công thế chưa thôi. Chớ dạy một điều lầm, kẻ thua chết khó thâu.

Chánh đán Sư thượng đường: Ngày Tết mở nước, Tây Thiên Trung Quốc vạn vật đều mới, con dê thần, kì lân ứng thời nhận điều lành, thành thật không sai, đầu Xuân còn lạnh rất nhiều thứ. Cúi xin thủ tọa đại chúng, khắp trời đều dùng kịp các tri Sư hoài bão. Nghĩa, đồng thời các hóa chủ như rồng như hỗ, tôn thể khởi cư vạn phước, chính là như vàng như ngọc, một năm ba trăm sáu mươi ngày, giữ đủ cơm cháo.

Nhân thọ trai, Sư thượng đường nói:

"Nhị ngoạt trung Xuân vật tương tiên
Tận trần sa giới nhất bản thiên
Thương môi tẩy khứ đông tuyết
Dã hỏa phong phiêu tạc dạ yên
Nguy lãnh sạ văn viên khiếu nhật
Trường giang thời kiến khách thừa thoàn
Nhân sinh cơ độ phùng tư cảnh
Hảo thị thành tâm chủng phước điền".

(Ngày xuân tháng hai vạn vật tươi tốt, hết trần sa giới như trời, rêu xanh mưa dội đi tuyết đông, gió lửa ngoài đồng thổi khói hôm qua, vòi vòi vừa nghe vượn kêu ngày, Trường Giang khi thấy khách chèo thuyền, nhân sinh mấy độ gặp cảnh này, thật là thành tâm trồng ruộng phước.)

Đoan Ngọ, thượng đường, Tăng hỏi: Ngày năm tháng năm hôm nay phương tiện bãi cỏ thơm. Tuy là người vô Sự cũng xin đốt ngọn đèn.

Sư nói: Mau mau như luật lệch.

Lại nói: Đợi quỷ nhỏ làm kỹ lưỡng.

Sư nói: Tiếng chuông doạ nạt ông.

Bèn nói: Ngày nay tiết Đoan Ngọ, Bạch Vân có một thần phù, có một tý linh nghiệm, không dám che dấu nêu giống mọi người.

1. Hôm nay dâng lên Hoàng Đế, Thái Hoàng, Thái Hậu Thánh cùng vạn tuế.

2. Hợp Triều: Khanh tướng, văn võ, bá quan,châu huyện, thái liêu thường ở địa vị bổng lộc.

3. Vạn dân lạc nghiệp mưa hòa gió thuận. Có một phù Sứ đến báo, với Bạch Vân rằng:

Các nơi đều đi khắp, chỉ vì thần thông ít, không làm sao được một việc nào, Sư bèn hỏi ông ta là việc gì.

Sư nói: Sự chứng đắc của thiền tăng.

Bạch Vân nói: Đừng ông, ta còn không làm gì được. Tuy nhiên như vậy ẩn trong đầm rộng núi sâu có thể hàng phục được beo cọp. Rốt cuộc thế nào? Một rút ra ba, hai thêm bốn Sừng bò hướng lên trời, tám chân bỏ xuống mũi, mau mau, Sư xuống tòa.

Sư thượng đường nêu: Ni hỏi Triệu Châu: Thế nào là ý mật mật?

Châu nắm chặt cổ tay của Ni.

Ni nói Hòa thượng còn có cái này?

Châu nói: Cô còn có cái này?

Sư nói: Ni này nếu là một người, chỉ đến người nói cũng không tha thứ Hòa thượng được.

Sư thượng đường tăng hỏi: Đầu lưỡi của người trong thiên hạ đều bị Bạch Vân quét sạch. Chỉ như đầu lưỡi Bạch Vân chưa rõ là người nào quét sạch. Sư nói: Ông Vương Đại ở thôn phía đông.

Bèn nói: Việc thường dùng hằng ngày không khác.

Nương anh làm phân biệt, nếu ngay lời nói hiểu được thì biết anh đánh không thấu. Không ở nơi lời mà hiểu tâm đầu tợ lửa nung, trước qua cửa Triệu Châu, cắt lưỡi Bạch Vân, không phụ ân Tên Thánh trở về tăng đường tạm nghỉ ngơi.

Sư thượng đường nói: Nếu cần thiên hạ hoành hành, thấy lão Hòa thượng đánh trống thăng đường bảy, mươi ba, tám, mươi bốn, lấy gậy đập vào miệng. Tuy như vậy, lấy đến trước cửa lên đài ngựa, cắt đứt năm sắc tố mới được an lạc.

Tiểu tham, Tăng hỏi: Đức Sơn không trả lời ngàn đời quét sạch địa vị. Tối nay Bạch Vân tiểu tham, chưa biết lựa chọn biện pháp tiếp dẫn người học ra sao?

Sư nói: Ta không thể nối tiếp, đầu mối Hòa thượng không thể được.

- Tông Sư tác gia Thiên Nhiên có ở.

- Là nói gì?

Tăng nói: Chỉ cái này lại vì nhiều người chọn lấy.

Sư nói: Ông có tin được không?

Lại nói: Dạy con tin thế nào?

Sư nói: Ông hiểu đến hỏi, không hiểu đến hỏi.

- Mỗ giáp lại là không hiểu đến hỏi.

Sư nói: Hôm qua cũng trả lời một tăng như thế? Lại nói: Hôm nay làm gì đánh nhau, can qua tương đãi?

Sư nói: Chỉ vì mua bán không đúng giá.

Lại nói: Chán tốt thành xấu thì được, làm sao có các vị ở được.

Sư nói: Đại chúng! Xem lấy một viên thiền khách.

Lại nói: Cởi mở một phen.

- Sư thở dài, bèn nêu: Lục Cắn Đại phu hỏi Nam Tuyền: Trong nhà đệ tử có một cục đá, cũng biết ngồi, biết nằm, nghĩ muốn khắc tượng Phật được không?

Nam Tuyền nói: Được.

Lục đại phu nói: Được không?

Nam Tuyền nói: Không được. Đại chúng! Phàm là thiện tri thức, phải chọn lựa rõ ràng. Vì sao người khác nói được hay không được, người khác nói không được mình cũng nói không được. Có biết chỗ rơi của Nam Tuyền không? Bạch Vân không tiếc lông mày để phá trừ cho ông, hãy nói được lại là ai nói, không được lại là ai nói xem.

Nếu ông vẫn không hiểu, đêm nay lão tăng làm cách thức cho ông. Bèn dơ tay lên nói: Đem hai mươi tám trời trong ba cõi làm đầu Phật, bờ nước Kim Luân làm chân Phật, Bốn đại châu làm chân Phật. Tuy nhiên làm con Phật này rồi, các ông lại ở chỗ nào an thân lập mạng. Đại chúng lại có hiểu không, lão tăng làm cách thức thứ hai vậy.

Lấy Đông Phất-vu-đãi làm một đức Phật, Nam Thiệm-bộ-châu làm một đức Phật, Tây-cù-da-nê Ngưu hóa châu làm một đức Phật. Bắc Uất Đàn Việt làm một Phật. Cây cỏ tòng lâm là Phật xuẩn động hàm linh là Phật đã thế, lại gọi cái gì là chúng sinh hiểu chưa? Không bằng Đông phất vu đãi buông bỏ Đông phất vu đãi, Nam Thiện Bộ Châu buông bỏ Nam Thiệm Bộ Châu. Tây-cù-da-nê buông bỏ Tây-cù-da-nê. Bắc Uất đàn Việt buông bỏ Bắc Uất Đàn Việt. Cây cỏ tòng lâm buông bỏ cây cỏ tòng lâm, xuẫn động hàm linh còn có xuẫn động hàm linh khác.

Cho nên nói:

Thị pháp trụ pháp vị

Thế gian tướng thường trụ.

Đã vậy ông lại gọi Phật là gì? Hiểu không?

Bỗng có người ra nói: Bạch Vân dứt lời ngủ mê, Đại chúng nhớ lại một chuyện này.

Sư thượng đường nói: Bình sinh đang lúc tỉnh ngộ triệt để ăn gậy.

Thử nói: Lỗi chỗ nào?

Đánh ông tỉnh ngộ triệt để.

Sư thượng đường nói: Cách Thánh rất xa con người phần nhiều giải đãi, trái nghịch thì sinh sân giận, thuận thì sinh ưa thích. Thử nói: Thế nào là không sân giận, không ưa thích.

Đao tên đông hải, túi da vây phiên.

Sư thượng đường, Tăng hỏi:

Cổ đức có nói: Trước núi có một mảnh ruộng đất chỉ như Oai Âm vương trước đây không rõ người nào làm chủ?

Sư nói: Hãy viết thư khế hợp người.

- Hòa thượng vì sao mang nợ người đến.

- Chỉ vì ông dạy người khác hỏi.

- Cùng Hòa thượng bất bình xuất đi.

- Rất xa.

Bèn nói: Năm mắt chớ nhìn dung nhan người đó.

Hai tai dứt nghe âm hưởng đó.

Người có công thì phạt, người không công thì thưởng.

Niệm núi Tu-di cân được hai lạng.

Bỗng có người ra nói: Vừa mới biết cái gì việc nhân vật bình thường.

Tự nói: Quan không cho chấp tư thông xe ngựa.

Cảm tạ Nhai Phường, Sư thượng đường nói: Hôm qua Nhai Phường lấy cát đến trước Phương trượng. Vừa thấy mặt lão tăng vừa vung vãi.

Lại gặp lão tăng trước thấy tay áo. Ngăn lại và không có việc trở ngại.

Sáng nay nêu giống đại chúng không dám che dấu. Vì sao?

Thưởng y gánh nặng, dưới được tay chân này.

Bỗng có người hỏi Bạch Vân vì sao chỉ dừng đi thế, không thấy đạo, già không thể lấy Sức gân làm khả năng.

Tuy nhiên như vậy, Khách chủ rõ ràng.

Sư thượng đường, Tăng hỏi: Thế nào là Phật?

Sư nói: Ông mất thì giờ qua lại những nơi nào? Rồi Sư nói tiếp: Đạt Ma chưa đến, đông lạnh hạ nóng.

Đạt Ma đến, đêm tối ngày sáng. Nếu các ông nói được một lời bình thường chân thật thì ăn muối biết mặn, ăn giấm biết chua. Nếu nói không được thì còn ở trước cửa Ca diếp.

Sư thượng đường nói: Nếu bàn luận việc này như người đánh bạc, bỗng nhiên được ăn, thân tâm vui vẽ, nhà cửa hưng thinh, làm bóng mát che chở cho con cháu. Bất giác bị thua, tự nhiên sầu muộn. Tuy nhiên việc ăn thua phải có.Bạch Vân ngày nay có điều thì vin vào điều, không điều thì vin vào lệ. Không thấy có lần Lục cắn Đại Phu với Nam Tuyền chơi cờ song lục Lục cắn Đại Phu nắm lấy con xúc xắc hỏi Nam Tuyền: Như thế, không như thế. Lại như thế niềm tin rõ ràng bỏ đi thì như thế nào?

Nam Tuyền nói: Đầu cốt hôi mười tám. Đại chúng.

Cách huyện thành này không xa.

Người ngoài nghe được bèn đến lấy nhìn thời lại như thế nào?

Bèn nói:

Bạch Vân tự có đạo lý nhớ được.

Long Nhã nói: Học đạo trước phải ngộ duyên do.

Còn như từng đấu vui với thuyền rồng, tuy nhiên gác củ vườn ruộng trống không một lần thắng mới thôi.

Sư thượng đường: Mục Kiền Liên hai chân vượt hố, Đại Ca-diếp nghe nhạc liền múa. Cuối cùng Lăng Già trách mắng Thần sông, Lưu Ca Đà Di chôn thân trong phân. Việc này trong kinh giáo mỗi mỗi có xuất xứ. Nói chung là tập khí. Chỉ như môn hạ Tổ Sư, Đạt Ma chín năm quay mặt vào vách, quỷ thần kích xoa. Hòa sơn đánh trống, Thạch Cũng uốn cung, Tuyết phong đánh cầu, Bát nước Trung quốc Sư, Quy Tông kéo đá.

Đức Sơn vào cửa liền đánh, Lâm Tế vào cửa liền hét. Vô nghiệm mới có người hỏi bèn nói đừng vọng tưởng.

Thử nói: Là cái gì? Trong chúng có bậc Tiên đức tham lâu ngang dọc trong thiên hạ, nạp tăng có mắt trên đảnh không? Đi đến chứng cứ Bạch Vân, cũng cần bình sinh vui Sướng. Có không? Có không? Nếu không thì ba mươi năm sau lưu hành lời này. Thử nói: Cuối cùng thế nào?

"Chu Hạ hỏa vân quy bích động.
Thanh thu nguy lộ trích kim bàn".

(Hạ đỏ lửa mây về bích động, Thu xanh móc nguy giọt mâm vàng). Tiên Sư Kỵ sớm: Sư thượng đường nói: Năm ngoái đang lúc như thế, ba việc nhiều năm trước. Năm nay đang lúc như thế nhiều năm qua bảy việc, mười việc này, tính không ra rất nhiều.

Vì sao?

Nói lại bảy ba còn một việc. là năm ngoái nói là ngày nay nhanh như tên bắn đen như sơn, không nói miệng đồng tử ba ba không đủ tiên nhân vỗ ngực nhảy. Bèn nói: Giao xuống cho tòa cho có thể biểu bạch chôn cất. Vốn là ông đưa tiễn ta, sáng nay ta tiễn ông, sinh tử là việc thường, té ngã lại đỡ lên. Đến khi chôn lại bảo chúng rằng: Sáng nay là ngày mùng tám tháng ba, tống tẩn người tạm nghe nói: anh xem màu hồng trên hoa đào đều là rời máu trong mắt người.

Sư thượng đường nói: Giữa mùa xuân ấm dần, mẫu đơn xanh trứng ngựa Tử Yến tụ thân, Hoàng oanh mở mắt, cùng hưởng xuân vui hai chén ba bát. Chỉ có Bạch Vân cả đời cố chấp.

PHÁP DIỄN THIỀN SƯ NGỮ LỤC

QUYỂN HẠ

Sư ở Hải Hội nhận lời thỉnh

Niêm hương dạy chúng rằng: Ông già tám mươi đánh túc cầu bèn phó cho Duy Na tuyên sớ xong. Sư thăng tòa nói:

Ba chỗ trụ trì chỉ mùi vị này, oan gia này khó mà tránh khỏi, lỗ mũi Bạch Liên Phong, núi Hải Hội xuất khí.

Buổi chiều tiểu tham nói: Một thì ba, ba thì bảy, bờ đê chăn dê hoa trinh nữ, bên sông cự mã mong chồng thành đá, đá chạm vào đất đủ vẽ cờ, từ mắt giáo lẫn lộn si.

Lại nói: Hoài Điện ba mươi năm, nay làm lão Huỳnh Mai.

Như là nói rõ ràng, theo giáo vịt nghe sấm, vào viện Tháp Tổ Sư đốt hương lấy chỉ nói: Lúc ấy cũng toàn thân đi, ngày nay lại đến nhớ được không.

Lại nói: Lấy gì để nghiệm, Lấy đây làm nghiệm.bèn lễ bái.

Khai đường Huỳnh Mai. Tể Công dâng sớ, Sư nêu lên dạy chúng: Lễ thấy không?Trân bảo khác lạ đều nằm trong đây. Nếu không thấy xin biểu bạch đối chúng lấy ra. Tuyên sớ xong nói: Hãy giải tán đi, đã làm nhiều việc rồi. Nếu không tin bèn chỉ Pháp tòa nói: Tiểu gian hướng lên đầu vung cát vung đất đi.

Sư thăng tòa niêm hương chúc Thánh xong. Lại niêm hương nói: Nén hương này ở thư quận hai mươi bảy năm, ba chỗ ở viện, mọi người đều biết, bèn muốn đốt lại nói: Không được cũng cần nói phá mỗ mười lăm năm hành cước, lúc đầu tham Hòa thượng Thiên được sợi lông. Kế ở Tứ Hải tham kiến tôn túc được miếng da.

Lại đến Phù Sơn Viên giám lão ở được cốt của ngài. Sau đó ở chỗ Hòa thượng Thủ Đoan Bạch Vân được tuỷ của Ngài.

Mới dám thừa nhận làm thầy cho người, ngày nay tài nghệ trong lò lửa, theo giáo xông trời nướng đất, người có tài biện lấy.

Hòa thượng Tứ Tổ đánh chùy nói: Những vị kiệt xuất trong quán hội nên quán đệ nhất nghĩa.

Sư nói: Nên quán Đệ nhất nghĩa, thùng kiếm báu sắc bén rút điện cách ba ngàn, tối thắng không gì bằng.

Mắt thấy tay làm, ra đi so thử xem.

Tăng hỏi: Quán củ mới mở bày trân bảo, một bề nắm lấy một bề mới. Nay nay đã cậy tài năng vị trí, đầu mới làm sao rũ kính trần.

Sư nói: Sáng đến Tây Thiên chiều về Đường độ.

Lại nói: Đã được càng xe biện đầu mối, linh quang từ đây chiếu hằng sa.

Sư nói: Một câu tối sẽ là thế nào?

Lại nói: Không ngại đường núi xa, đạn tuyết cũng phải qua.

Sư nói: Nếu ông còn say.

Tăng hỏi: Một hội Linh Sơn chính Ca-diếp nghe, chưa rõ một hội ngày nay người nào được nghe?

Sư nói: Cùng Linh Sơn không khác. Lại nói: Xưa nay đều là tri âm.

Sư nói: Một câu tri âm lại thế nào? Lại nói: Gật đầu không thè lưỡi.

Sư nói: Không người sóng lớn qua ông.

Lại nói Bỗng gặp dần mây đen mù đến thì thế nào?

Sư nói: Lão tăng đánh trống lui.

Bèn nói: Vừa đến Tứ Tổ Sư tự đánh chuỳ nói; Nêu quán đệ nhất nghĩa, chỉ như đệ nhất nghĩa. Lại làm thế nào để quán. Có hiểu không?

Ba đời chư Phật, nếu không Đệ nhất nghĩa làm sao hóa độ chúng hữu tình, hai mươi tám Tổ Tây Thiên, sáu vị Tổ Trung Quốc, cho đến lão Hòa thượng khắp thiên hạ, nếu không có Đệ nhất nghĩa làm sao kiến lập tông phong. Chỉ như Thánh đế ngày nay nếu không có Đệ nhất nghĩa làm sao thống ngự thiên hạ.

Tri Quận học sĩ, tri huyện tuyên đức hợp Tòa Tôn Quan nếu không Đệ nhất nghĩa làm sao làm cha mẹ muôn dân. Cho đến trong hội thí chủ. Nếu không có Đệ nhất nghĩa làm sao sùng kính Tam bảo. Tuy nhiên như thế cũng cần mới người tự ngộ mới được.

Sư thượng đường nêu: Cổ nhân nói: Phàm là thiện tri thức phải là cướp trâu của người cày đoạt lấy cơm của người đói. Đuổi trâu cày bừa làm cho lúa mạ của họ tốt tươi, đoạt cơm của người đói làm cho họ dứt được cơn đói.

Trong chúng nghe, phần nhiều như gió qua tai. Đã cướp trâu người vì sao lại được giống lúa tốt. Đã đoạt cơm của người vì sao mãi mãi dứt cơn đói.

Đến đây phải là có cướp trâu của người cày, đoạt cơm của người đói, bèn cho tạc bức tạc nhất tạc bức nhất bức, mau dạy đi đến chỗ buộc Sừng thì tốt, nói với y phước không nhàn lại, hoa không hành riêng.

Sư thượng đường nói: Ngày xuân tháng hai ấm dần.

Ôi! Ca Tần đánh vào tấm bảng, gà đen đi vào bầy ngan, vịt lạnh được mõ dẹp hoặc nổi hoặc chìm trong nước, lúc nào giải thành bát san hô, suy nghĩ cẩn thận, trời đất cách đây không xa.

Lại nói: Vua Tần-bà-sa-la.

Sư thượng đường, hôm nay ngày mồng năm tháng hai, hành giả trước đến đánh trống, trong bụng trưởng lão không hay biết, suy nghĩ nói Phật nói Tổ, mặt đất tuyết sâu ba thước, cầm thú ăn bùn ăn đất, năm nay nhất định dồi dào. Tự nhiên năm gió mười mưa, ở đây có chỗ tốt. Thử nói, có chỗ tốt nào: Bèn làm tiếng sấm, là cái gì?

Lại nói Sấm mới phát tiếng.

Sư thượng đường nói: Phàm là thiền khách, như tướng quân ra trận. Ông đem được nửa cái bánh của Vân Môn đến, ta cho nửa núi Tu-di, nếu không như thế đâu dám xưng thiền khách.

Sư thượng đường nói: Phàm là người xuất gia, cần có cái thấy của xuất gia. Đủ hạnh pháp nhãn, mới là xuất gia. Thế nào là Trạch Pháp Nhãn? Cuối cùng thế nào? Cố chấp, cố chấp.

Ngày kiết hạ, Sư thượng đường nói: Tháng tư nóng dần, cúi xin thủ tọa đại chúng, tôn hầu vạn phước. Lại như trên gấm trúc hoa đào phô thêm hoa, hoa khắp đất chẳng phải hoa mắt.

Mỗi năm việc bày không cần kiểm tra, Sự hạ tọa nhân tuần liêu uống trà.

Sư thượng đường nêu: Vĩnh Gia nói: Cũng không người cũng không Phật, bọt trong đại thiên sa giới biển, tất cả Thánh Hiền như điện chớp. Đại chúng! Ở đây nếu không có mắt kim cang thì thấy đầu lâu khắp nơi hoang dã. Thế nào là đúng, đường của kiếm khách tuy nguy hiểm, ban đêm người đi nhiều.

Sư thượng đường nói: Đứng trong tuyết chặt cánh tay chỉ dụ cho người sau. Người có thể hoằng đạo, chẳng phải đạo hoằng người, đây là lời nói gì? Giang Thành Tử.

Sư thượng đường nói: Khi chỗ người ở thì ta không ở, khi chỗ người đi thì ta không đi, cuối cùng là thế nào? Sừng bò dài ba tấc, Sừng thỏ dài tám thước, Bốn bể dòng Đông Hải, Bát Nhã Ba La Mật.

Sư thượng đường nói: Ngoài cửa có con đường lớn, không chịu mở cửa lớn, ngày ba mươi tháng chạp loạn lạc ngoài biên cương, anh lớn tốt.

Sư thượng đường nói: Vô pháp được nói là danh thuyết pháp. Trăng đêm Sương ngừng đọng trời rất lạnh, trong ao rùa đen được thành ba ba lại nói hai câu thoại đầu thành sắt.

Thánh tiết, Sư thượng đường nói: Ngày mồng tám tháng mười hai, sáng nay Hoàng thượng đế giáng sinh, không được nói việc khác, Hoàng đế vạn tuế, Hoàng đế vạn tuế.

Sư thượng đường nói: Bồ-tát Vô Biên Thân đem cây gậy trúc lường đảnh đầu Thế Tôn, trượng sáu rồi lại trượng sáu, lương đến Phàm Thiên không thấy đảnh tướng của Thế Tôn, bèn ném gậy trúc xuống, chắp tay nói kệ rằng:

Hư không vô hữu biên
Phật công đức diệc nhiên
Nhược hữu năng lượng dã
Cùng kiếp bất khả tận.

Hư không không cùng tận, công đức của Phật cũng như vậy. Nếu có thể lường được, cùng kiếp không thể tận. Đại chúng! Bồ-tát Vô Biên Thân nói kệ hãy bỏ qua một bên, mọi người còn hiểu tự suy lường được không? Nếu dạy lão tăng tự suy lường quả thật không có chỗ ra tay. Không thấy cổ nhân nói:

Suy tính công đức của Phật thật khó lường, chén đốt hương, mây tía kéo đen mù mịt. Vì sao như thế? Riêng là một nhà xuân. Sư thượng đường nói: Một năm chỉ dư tháng này, thời tiết chưa từng giáng tuyết. Phụng cáo long thần ba cõi, mỗi người tự nói cho nhau, khắp trời khắp đất lát bạc, lại phải ứng thời ứng tiết. Lại mang đại chúng từ bi, niệm Bồ-tát Phổ Hiền. Cuối cùng là sao: Ma-ha-tát.

Quách Triều Phụng Tường chánh thỉnh, Sư thượng đường Phụng Triều đốt hương trước pháp tòa nói: Cây hương này, đốt ở trong lò lửa, là mây sáng bủa khắp pháp giới. Cúng dường Sư huynh đường đầu thiền Sư của ta. Phục nguyện, ở trong mây này trên tòa vuông rộng lớn, mở cánh cửa, phóng ra hình tướng tiên Sư miêu tả tướng mạo như mọi người. Vì sao như thế? Bờ đá nham mây trắng xưa gặp nhau, đến sáng ngày nay việc không đồng, đêm tĩnh lặng nước lạnh cá không ăn. Một nén hương tan gió sen trắng. Sư bèn nói: Nắng mồ tát đát bát la dã. Thế nào thế nào? Mấy độ bạch vân nhìn trên khe, hoa mai vàng nở trong tuyết. Không như thế,không như thế, liễu non kim tuyến, cần phải ứng thời đến. Không thấy Bàng Cư Sĩ hỏi Mã Đại Sư: Không cung vạn pháp làm bạn là người nào?

Mã Đại Sư đáp: Đợi ông hớp ngụm hết nước Tây Giang ta sẽ nói cho ông nghe. Đại chúng! Hớp ngụm hết nước Tây Giang đầm sâu vạn trượng đến đáy. Kinh Quân không phải cầu Triệu Châu trăng thanh gió mát đâu thể tả.

Sư thượng đường nói: Mưa xuân rượu không bờ, càn khôn đã đủ biết. Đông quân hành chánh lệnh, mai liễu từng cành một, khách môn hạ Tổ Sư, gặp nhau ở lúc này thấy nhau tức không phải không, nói việc gì. Sư liền xuống tòa.

Sư thượng đường nêu: Vua Túc Tông hỏi Tuệ Trung Quốc Sư: Hòa thượng sau trăm năm cần những vật gì?

- Tạo tháp Vô phùng cho lão tăng.

- Thỉnh Sư cho kiểu tháp.

- Sư im lặng hồi lâu: Hiểu chưa?

- Không hiểu.

- Ta có đệ tử phó pháp tên Đam Nguyên, rất thông hiểu việc này, xin vời đến hỏi.

Sư nói: Mặt trước là trân châu mã não, mặt sau là mã não trân châu, bên Đông là Quán Am, Thế Chí, bên Tây là Phổ Hiền, Văn Thù, chính giữa có một lá phan, bị gió thổi kêu hồ lô, hồ lô.

Sư thượng đường quay nhìn hai bên thiền sàng, bèn đưa gậy lên nói: Chỉ dùi một thước xuống tòa. Sư thượng đường nói: Đời có một vật, cũng không thuộc phàm không thuộc thánh, cũng không thuộc tà, không thuộc chánh, vạn vật tạm thời tự nhiên hiệu lệnh, đến chết cần biết đổi tánh mạng.

Sư thượng đường nói: Gánh bán đầu sông nước, mọi người đều cười làm lạ, bán không chạy không người đoán phỏng giống như thiếu nợ người, nữa canh ba hôm qua, người đá đánh nhau lễ bái. Lời nói này chớ nói ông lý hội không được. Sư thượng đường nói: Cổ nhân nói vô luân sát cảnh, tự tha không cách mảy may đầu mối, mười đời xưa nay, đều không lìa đương niệm.

Sư nói: Đúng như vậy, chỉ là rất xưa. Tuyết Phong dạy chúng: "Tóm hết đại địa đến như hạt lúa thóc lớn ném trước mặt thùng sơn không hội, đánh trống thỉnh khắp xem".

-Đại chúng! Tuyết Phong đối diện dối mọi người không ít.

Tuy nhiên như thế còn có cùng đi với Tuyết Phong không thử ra gặp nhau cùng Ngũ Tổ có không.

Nếu không bèn lấy gậy dộng xuống một cái rồi dỡ lên nói:

Ngũ Tổ hôm nay cùng Tuyết Phong cưỡi bè khắp bốn biển lớn xuyên qua tám đầu Đại Long Vương, vượt qua trăm ngàn núi Tu-di lại trở về ngồi trên pháp tòa. Lại đưa Tuyết Phong về núi Tuyết Phong, chỉ là không từng động một bước, mọi người có tín kịp được không. Nếu tin không kịp, bèn dơ gậy nói: Há không thấy Tiên Sư nói: Phóng ở đầu giường nằm mau phải đánh chết chú chuột.

Sư thượng đường nói: Tâm phàm ý thánh lộ rõ ràng.

Niệm niệm không sai tức đạo tràng, qua rồi chớ nói việc ngày nay. Quán Âm Tự tại phóng tí hào quang.

Sư im lặng hồi lâu nói: Chớ dối lão tăng.

Sư thượng đường nói: Ba tháng an cư nay đã mãn. Cửu tuần cấm túc việc thế nào? Tây Thiên sáp ông hiệu nghiệm nghe tiếng lâu rồi, ngang quý đất này nghe nói nhiều, xoay vần hai ngàn năm xa ý, nước chảy lâu ngày tích thành sông.

Lâm Tuyền khai sĩ để hoằng giáp,chớ để suy đời chúng ma.

Sư thượng đường nói: Ngân hà mênh mông lấp lánh, cửa tùng một bếp khói, thích hợp với cảnh nhà ta.

Sư thượng đường nêu Tăng hỏi Đầu Tử: Trong Đại tạng giáo còn có việc kỳ đặc không?

Diễn xuất Đại tạng giáo.

Sư nói: Đầu Tử bị người vừa hỏi, đáng lo lắng không giao thiệp.

Nếu là Ngũ Tổ thì không vậy. Hoặc có người hỏi: Trong Đại tạng giáo còn có việc kỳ đặc không?

Lão tăng liền nói với y, làm lễ mà ra tín thọ phụng hành.

Tuy nhiên như thế với Đầu Tử, Bạch Vân vạn dặm.

Cuối cùng thế nào? Cần mắt các ông không?

Sư thượng đường nói: Ngộ rồi đồng với chưa ngộ, về nhà tìm con đường cũ, một chữ là một chữ, một câu là một câu. Từ nhỏ không thoát không. Hai năm học dời bước, nước trong sinh hoa sen, mỗi năm sinh một lần.

Sư thượng đường nói: Liên tiếp gọi ông không về nhà, tham làm đất cát trước cửa, thường đến tháng ba mỗi năm hoa mẫu đơn nở rộ đầy thành.

Sư thượng đường nói: Thanh La nhờ lo lót mà được chức thẳng lên đỉnh tùng lạnh, mây trắng nhạt, ẩn hiện trong thái hư (hư không) từ ngày mười chín đến ngày hai mươi ba, hơn vạn người đến đây phó hội rầm rộ, như nay chỉ thấy lão già tự miệng gọi ba ba. Nếu nói nhiều người là ồn ào, một người là yên tĩnh quả thật là mây trắng ngàn dặm vạn dặm, cuối cùng thế nào? Một người quá ồn ào, nhiều người im phăng phắc, không bằng về tăng đường uống trà là tốt.

Sư thượng đường nói: Tâm theo vạn cảnh chuyển, chỗ chuyển thật tối tăm. Vân Môn nói: Quán Thế Am Bồ-tát lấy tiền mua bánh hồ, buông tay lại nói là bánh bao. Như thế theo gót chân người mà chuyển. Ngũ Tổ theo dòng nhận được tánh,vui vẻ mãi mãi không có nhân duyên ưu sầu nêu lên đại chúng. Bỗng nhiên ở đây lược đi bất định. Sư im lặng hồi lâu, rồi gọi là thị giả. Thị giả đáp: Dạ

Sư nói: Ta hại ngu si.

Sư thượng đường nói: Giữa đông núi lạnh khắp thế gian, phú quý thì dễ, bần cùng thì khó. Chỉ ta người Lâm Tuyền không dễ, cũng không khó. Vì sao vậy?

Sư im lặng hồi lâu nói: Chỗ không người đến ông nói.

Sư thượng đường nêu Phổ Hóa nói:

Đầu sáng đến đầu sáng đánh, đầu tối đến đầu tối đánh, trong hư không đến trong hư không đánh, cây neo đến bốn phương tám hướng đánh.

Lâm Tế nghe được sai Tăng hỏi: Không đến thời như thế thì sao? Phổ Hóa nói. Ngày mai viện Đại Bi có phó trai, nếu là Ngũ Tổ thì không vậy. Có người hỏi đều không đến thì sao? Hòa tiếng liền đánh là ông ta nên nói: Gông mù gậy loà của Ngũ Tổ ta chỉ muốn ông nói thế. Vì sao? Mặc tình nêu cho mọi người.

Sư thượng đường nói: Ứng tiếp vô phương chỉ là đây, ruộng tâm rộng rãi trên đầu sợi lông, sinh cành vướng vít gia tộc ma quỷ, điểm điểm sáng rực cả trời Tổ.

Sư thượng đường nói: Gió hóa mặt trời ấm, cây cao chim hót, đào lý xinh đẹp gấm sáng rực thành hàng, cỏ thơm nồng làm thuốc hoa, hoa rơi một cánh, hai cánh, ngọc bể nát và Sương tuyết rơi lã tả, liễu múa ba lần năm lượt, kéo dài sợi tơ. Nhiều lần. Đúng lúc đó cổ nhân nói: "Nơi thâm u chim hót như tiếng nhạc, liễu rủ như sợi kim tuyến dài, khói thu vào khe núi yên tĩnh, gió đưa mùi hương hoa hạnh, lâu ngày ngồi tự nhiên, lắng tâm quên vạn lự muốn nói, nói không được, rừng núi thích bàn luận".

Sư im lặng hồi lâu nói: Ông hãy bàn luận đi.

Sư thượng đường nêu, Tăng hỏi Tuyết Phong:

Khe xưa sông lạnh thời thế nào?

Tuyết Phong nói: Trơ mắt không thấy đáy.

Tăng nói: Người uống thế nào?

Tuyết Phong nói: Không theo miệng vào.

- Triệu Châu nghe được nói: Có thể theo mũi vào.

Tăng lại hỏi Triệu Châu: Khe xưa sông lạnh thời thế nào? Triệu Châu nói: Khổ.

Tăng hỏi: Uống thì thế nào? Triệu Châu nói: Chết.

Sư nói: Nếu có người hỏi Ngũ Tổ khe xưa sông lạnh thời thế nào tức nói với y.

- Uống nước thời thế nào?

- Chỉ nói lúc đó hết khát. Hoặc có người ra hỏi:

- Cùng đường với nước Tào Khê là một hay hai, ta liền nói với y.

Phân cành bày phái ngang dọc tự tại, chỗ thấp tưới ruộng chỗ cao tưới rau.

Sư thượng đường nói: Triệu Châu nói: Cây bá, Lê Lăng theo sau tuyết, gạo trắng ở giữa có núi Bạch Liên.

Một hớp uống cạn nước Tây Giang hỉ mỹ la a li, la la li, ta tự ta, ông tự ông, thôn sâu có trùng trán trắng râu quai hàm, cằm chín cái đuôi. Sư im lặng hồi lâu nói: Ở lại sợ người.

Tiểu tham nêu Dược Sơn lúc đầu tham yết Thạch Đầu hỏi: Ba thừa, mười hai phần giáo, con biết con cợt, nghe nói phương nam có pháp trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật. Thật chưa hiểu rõ.

Thạch Đầu nói: Như thế cũng không được.

Không như thế cũng đều không được. Như thế không như thế đều không được. Dược Sơn không xoay sở được. Một hôm đang ngồi Thạch Đầu hỏi:

-Ông ở đây làm gì?

Dược Sơn đáp: Một vật cũng không làm.

Thạch Đầu hỏi: Thế thì ngồi không?

Dược Sơn đáp: Ngồi không thì làm.

Thạch Đầu hỏi: Ông nói không làm, không làm cái gì? Dược Sơn đáp: Ngàn Thánh cũng không biết.

Thạch Đầu liền nói bài tụng:

"Tùng lai cộng trụ bất tri danh
Nhậm vận tướng tương chỉ ma hành
Tự cổ thượng hiền du bất thức
Tạo thứ phàm lưu khởi dị minh"
(Xưa nay cùng ở không biết tên
Mặc tình sẽ chỉ hành như thế
Từ xưa đến nay bậc hiền còn không biết
Huống tạo dòng phàm đâu dễ hay).

Sư nói: Đại chúng phải qua cửa Tổ Sư hiểu dạo huyền diệu mới hiểu lời nói này.

Thạch Đầu rủ lòng dạy, lại giống như cây bá trước sân Triệu Châu, Động Sơn ba cân mè, lời Vân Môn siêu Tổ vượt thánh. Ngũ Tổ cũng có một tụng:

"Nhậm vận bất tri danh
Khinh khinh trước nhãn thính
Thủy thượng thanh thanh lục
Nguyên lai thị phù bình"
(Mặc cho không biết tên
Nhẹ nhàng mắt nghe
Xanh xanh trên mặt nước
Vốn là nổi bồng bềnh.)

Tứ Diện chuyên Sứ Văn Tường. Đem thư pháp từ Sư ở trước pháp tòa nhận thư đưa lên hỏi chuyên Sứ:

-Cái này là Tứ Diện, Xà-lê ở trước mắt.

Sư nói: Như không hỏi qua, bèn thăng tòa nói: Việc tốt khó gặp, sao không ra cùng mọi người xướng họa. Lúc ấy có Tăng ra hỏi: Thạch Đầu đem thư còn là gã độn. Huyền Sa giấy trắng nói dối cùng gió, Tứ Diện mang đến có điềm lành gì?

Sư nói: Hơi xuân thổi đến đất không cứng.

Lại nói: Thế thì xông ra ngàn đợt sóng, thấu qua cửa Tổ Sư. Sư nói: Đúng không.

Lại nói: Có thể nói Huỳnh Mai không ai là không biết. Riêng cho Động Sơn một lão Sư.

Sư nói: Lại có người ở.

Lại nói: Hòa thượng không phải nghi. Sư nói: Cũng rớt vào ở sau Xà-lê.

Lại nói, chỉ như Tứ Diện không cửa, lão Hòa thượng được tin này từ đâu đến?

Sư nói: Ông đi đến chỗ nào?

Tăng chỉ bờ Đông nói: Năm này được đen như thế. Chỉ bờ Tây nói cái này biết khách béo phì.

Sư nói: Không được chỉ đông vẽ tây.

Tăng lấy tọa cụ vạch một đường nói: Cái này không thể gọi là đông tây.

Sư nói: Xem ông đi loạn.

Lại nói: Tiếng của Hòa thượng, sợ người nghe được.

Sư nói: Ông vừa đến nói lãi nhãi không ít.

Tăng lấy tay tát vào miệng nói: Là ta vời được. Sư bèn nói: Đại chúng! Tứ Diện trưởng lão có thư, đối trước đại chúng cần phải nói qua, Tứ Diện thùng sơn đen lớn, xin Sư chia phân nửa thùng, sơn trắng nở dưới núi, xông vào lỗ mũi ta. Thử nghĩ vì sao như thế, không có chỗ ông thở ra. Thái Bình chuyên Sứ đến, Sư thượng đường nói: Vạn dặm không chút mây trong xanh. Thiên Tổ ngày tháng tự phân minh.

Thái Bình không cho tướng quân thấy, lại cho tướng quân dựng lập thái bình.

Sư thượng đường nói: Nêu là công án, mọi việc thành xong tìm cầu bên ngoài, kẻ si kẻ si.

Sư thượng đường nói: Có vật trước trời đất, vô hình vốn tịch liêu làm chủ được vạn tượng, không vì bốn thời khắc.

Cổ nhân nói như thế, có thể nói trên gấm thêm hoa, không ngại kỳ đặc, mọi người tạm hiểu như thế, Bạch Liên ngày này uốn thuận căn cơ đời sau, không tiếc lông mày, cũng làm bài tụng:

"Hữu trung hữu, vô trung vô
Tế trung tế, thô trung thô"

(Có trong có, không trong không, tế trong tế, thô trong thô.) Sư thượng đường nói: Hôm nay ngày năm tháng ba.

Lão già cũng không gì lợi ích, không chữ chỉ lộ rạng rỡ uổn thấy nạp tăng chịu khổ. Cuối cùng thế nào? Như người học bắn.

Sư thượng đường:

Cảnh Nga My mùa xuân ấm áp.
Cả trần sa giới giống như trời
R ừng u uất đâu xanh biếc
Hoa liễu cỏ thơm đầy sắc tươi
Bướm đùa mẫu đơn rộn ràng bay.
Ong gặp thược dược đậu từ từ
Con người mấy độ gặp cảnh xuân
Sao không trồng ruộng phước trong đó.

Sư thượng đường nêu Hưng Hóa nói: Ta gặp người thì không ra, ra thì làm người.

Tam Thánh nói: Ta gặp người thì ra, ra thì không làm người.

Sư nói: Hai Cổ đức này, một người văn chương tuyệt vời một người thì võ nghệ toàn thi. Nếu nói Hưng Hóa phải thì văn cũng không được. Nếu nói Tam Thánh đúng thì võ cũng không được, còn ở đây biện được không. Nếu biện được thì cho ông thông thân là mạng. Nếu biện không ra ông tự độ nhau.

Sư thượng đường nói: Thế nào là thiền?

Cây Diêm Phù ở bên phía nam cửa biển, gần thì không lìa một tấc, xa thì mười vạn tám ngàn. Cuối cùng thế nào, thiền.

Sư thượng đường nói: Kẻ bần tiện cố chấp, lại thêm gọi ba cân mè trăm ngàn năm bán không chạy, chỗ nào dính toàn thân.

Sư thượng đường nói: Hôm nay ngày hai mươi tháng tám, hai chữ Phật Pháp khó vào, Lão Ông ở thôn sâu lớn nhỏ, Đạt Ma Tổ Sư theo không kịp.

Sư thượng đường nói: Chưa thấu Tổ Sư quan chớ hỏi Đại Tuyết Sơn một bước một vạn dặm, ngàn khó và vạn khó.

Sư thượng đường nêu: Tăng hỏi Triệu Châu, con chó có Phật tánh không?

Triệu châu: Không.

Tăng hỏi: Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, vì sao con chó không có?

Triệu châu đáp: Vì nó có nghiệp thức.

Sư nói: Đại chúng! Các ông bình thường làm sao hiểu.

Bình thường Lão tăng chỉ nêu chữ "Vô" thôi. Ông nếu hiểu được một chữ này, người trong thiên hạ làm gì được ông?

Mọi người các ông làm sao hiểu, có người nào hiểu không? Có thì ra nói xem, ta cũng không cần ông nói có. Cũng không cần ông nói không, cũng không cần ông nói không có không không. Ông nói thế nào. Trân trọng.

Phẩm Bảo Văn Gia Vấn Nhập Sơn, Sư thượng đường, Tăng hỏi: Thế Tôn đưa cành hoa Ca-diếp mỉm cười, Đài Bái quang lâm pháp tịch xin Sư phương tiện tuyên dương cho.

Sư nói: Sáu tai tính không đồng.

Lại nói: Không tìm ở trên hoa, hiển hách tự tròn sáng.

Sư nói: Tốt.

Lại nói: Sao gọi là độc lộ vô tư, đối với Sự tuyên dương có chuẩn mực?

Sư nói: Đúng vậy.

Lại nói: Nhìn mặt không biết cơ lại thế nào?

Sư nói: Không được nói với người khác.

Lại nói: Hòa thượng chỉ biết một không biết hai.

Sư nói: Ông thế nào?

Lại nói: Tổ Sư lại nói biết đến, trở về là muối mặn mai đúng thời tiết.

Sư nói: Bị ông nói

Lại nói: Đã được người tốt tin tức tốt, nhân gian trên trời lại không nghi.

Sư bèn nói: Nhớ ngày xưa Tăng hỏi Lục Tổ.

-Y bát Huỳnh Mai người nào được? Tổ bảo: Người hiểu Phật pháp được Tăng hỏi: Hòa thượng được không?

Tổ bảo: Không được

Tăng hỏi: Vì sao Hòa thượng lại không được? Tổ đáp: Ta không hiểu Phật pháp.

Lại nêu Tăng hỏi Tuyết Phong: Hòa thượng yết kiến Đức Sơn sau đó được đạo lý gì lại thôi đi?

Tuyết Phong nói: Ta lúc ấy đi tay không, về tay không.

Sư nói: Đại chúng! Hai bậc tôn lúc này, một người là Tổ Sư, một người là Thiền Sư. Và hỏi thì nói, ta không hiểu Phật pháp.

Lại nói: Ta đi tay không về tay không.

Các ông có hiểu được lời đó nói không?

Nếu muốn hiểu lời nói của ông ta phải thấu Tổ Sư quan mới được.

Nếu không thấu Tổ Sư quan thì không được chánh nhãn để nhìn trộm.

Đường Đề nên lưỡi cày đến viện.

Sư thượng đường nêu: Tam Thánh hỏi Tuyết Phong: Cá vàng mắc lưới làm sao lấy ăn?

-Đợi ông ra khỏi lưới sẽ nói cho ông.

Tam Thánh nói: Một ngàn năm trăm thiện tri thức, thoại đầu cũng không biết.

Tuyết Phong nói: Việc lão Tăng trù trì phiền toái. Trong chúng hoặc gọi Tông phái Tuyết Phong và Tam Thánh không đồng. Cho nên nói không khế hợp nhau. Hoặc gọi Tác gia Tam Thánh, Tuyết Phong không thể đạt được ý đó. Như hiểu lời này thì, có gì giao thiệp. Bỗng có người hỏi Ngũ Tổ Cá vàng mắc lưới làm sao lấy ăn? Lão tăng nói: Được câu hỏi đầu. Lại nói:

Đại chúng! Thử nghĩ cùng với Tuyết Phong là đồng hay khác, không thể vì ông nói được. Nghe một bài tụng:

"Đổng lý vô vân biệt hữu thiên
Đào hoa tự cẩm liễu như yên
Tiên gia bất hội luận Xuân hạ
Thạch lạn tùng khô thị nhất niên"
(Trong động không mây chẳng có trời
Hoa đào như gấm liễu như khói
Tân Gia không biết luận xuân hạ
Đá tùng khô héo là một năm).

Tư Phúc chuyên Sứ, đem thư nối pháp đến. Sư ở trên pháp đường nhận thư đưa lên hỏi Chuyên Sứ:

-Vốn không danh tự, từ đâu đến được cái này?

Chuyên Sứ suy nghĩ.

Sư nói: Vì ai mà được.

Bèn thăng tòa nêu Thạch Đầu hỏi Trường Tĩ:

Từ đâu đến?

Trường Tĩ đáp: Lãnh Nam đến.

Thạch Đầu nói: Đại Dữu Lãnh đầu vừa thêm công đức thành tựu không?

Trường Tĩ đáp: Thành tựu lâu rồi, chỉ thiếu chấm mắt.

Thạch Đầu nói: Chẳng cần chấm mắt.

Trường Tỉ nói: Tiện thỉnh.

Thạch Đầu duỗi một chân xuống.

Trường Tĩ bèn lễ bái.

Thạch Đầu nói: Ông thấy đạo lý gì mà lễ bái?

Như điểm tuyết trong lò lửa.

Sư nói: Một điểm tuyết trong lò lửa, tri âm liếc hay không? quạt bằng quạt lông rùa, trâu bùn một giọt máu.

Kệ tụng: Đầu Cơ.

Sơn tiền nhất phiến nhàn điền địa.
Xoa thủ đinh ninh vấn Tổ ông.
Cơ độ mãi lai hoàn tự mại.
Vi lân tùng trúc dẫn thanh phong.
(Trước núi một mảnh ruộng nhàn.
Vỡ tay dặn dò hỏi Tổ Ông
Mấy lần mua đi rồi bán lại
Vì thương tùng trúc dẫn gió thanh).

Sơn Cư:

Sàng thị sài băng tịch thị mao
Chẫm đầu cát đát bán trung ao.
Sương thiên sách mịch nhân đầu túc.
Thùy đáo bình minh thủ cước giao.
(Giường là củi chiếu là cỏ rơm
Gối đầu dây leo lõm một nửa
Trời Sương yên lặng người vào ngã
Ngũ đến bình minh chân tay hợp)

Tự Di

Bạch Vân đôi lý cổ gia phong
Vạn lý Sương thiên nguyệt sắc đồng
Lâm hạ thủy biên nhân hãn đáo
Phương tri ngô đạo lạc vô cùng
(Đời Bạch vân gia phong xưa
Vạn dặm Sương trời sắc trăng đồng
Bên sông dưới rừng người ít đến
Mới biết Đạo ta vui vô cùng)

Di Hứng

Tái tái bạch vân gian
Phất phất vi phong khởi
Chí tai tạo hóa công
Thục vi cứu chung thủy
Cứu chi ký bất năng
Đồ nhiên tự ưu hỉ.
(Lại lại giữa Bạch Vân
Vi va gió thổi
Đến ư: Công tạo hóa
Ai là sẽ chung thỉ
Cuối cùng đã không thể
Đồ nhiên tự buồn).

Văn Giác:

Ưu hàn giác phát cổ thành
Thập lý sơn đầu tạm hương minh
Nhất chủng thị thanh vô hạn ý
Hữu khan thính hữu bất kham ý.
(Mịt mù góc lạnh thành cô đơn
Mười dặm đầu núi dần dần tối
Một loại là nghe ý vô hạn
Có kham nghe có không kham nghe).

Bệnh khởi:

Bệnh lai hựu bệnh bì niêm cốt
Đẫu tẩu khởi lai vô nhất vật
Hành bất thành bộ ngữ thanh đễ
Tỷ không y tiền không cứu ngột.
(Bệnh đến da bệnh thấm vào xương
Vui tươi chẳng có một vật gì
Đi không thành bước nói không lời
Lỗ mũi vẫn là như khó thở).

Sơn Trung Tứ Oai Nghi:

Sơn trung hành quế lam
Thải quyết xứng u tình
Mục đồng xướng bãi hồ gia khúc
Tử quy chi thượng nhất thanh thanh.
Sơn trung trụ vạn điệp
Thiên trùng thùy bạn lữ Túng
Sử tri âm đặc địa lai
Vân thâm tất định vô tầm xứ
Sơn trung tọa nguyệt dạ
Sương thiên hàn nhạn quá
Lô khô bất tận vị thành miên
Báo hiểu linh cầm thanh nhĩ đóa
Sơn trung ngọa nhất phiến
Thanh quan cao giám ngã
Đản đắc thân tâm đáo xứ nhàn
Đa niên bố nạp tùng giáo phá.
(Trong núi mang giỏ đi
Kiếm sống xứng u tình
Mục đồng xướng khúc nhà
Hồ Trên cành Tử Quy một tiếng kêu
Trong núi ở Vạn điệp
Ngàn trùng ai loạn lữ
Như tri âm mỗi khi đến
Mây sâu hẳn không còn chỗ tìm
Đêm trăng ngồi trong núi
Sương lạnh nhạn bay qua
Lửa hết chưa đi ngủ
Gần sáng gà gáy tay.
Trong núi nằm một mãnh
Sáng suốt tự soi gương
Cho được thân tâm đến chỗ nhàn
Nhiều năm bố nạp theo giáo phá).

Tán Bạch Vân Tiên Sư Chân:

Trăng một bóng trời bao hàm nước
Chân chánh Sư hơn chẳng phải trăng phải nước
Xanh vàng bích lục loạn bánh trà
Xem đến nữa sân nữa hoan hỷ

Tán Tứ Tổ Diễn Hòa thượng:

Lão Hoàng Mai trong bao hoa quế
Mặt mặt nhìn nhau có gì mông
Trong thất Sư thường nói đến
Công án của Triệu Châu.

-Con chó có Phật tánh không?

Triệu Châu nói: Không

Tăng thưa hỏi Sư làm bài tụng:

Triệu Châu lộ nhận kiếm
Hàn Sương quang diệm diệm
Cánh nghĩ vấn như hà
Phân thân tác lưỡng đoạn.

(Triệu Châu lộ dao kiếm
Sương lạnh sáng long lanh
Bèn nghĩ hỏi thế nào
Phân thân làm hai đoạn.).

Thị Thiền Giả: (2 bài).

Học đạo trước phải được chỉ về
Nghe tiếng thấy sắc bất tư nghì
Đêm đêm trường thiên tháng nhà nhà
Bóng rơi đầm nước ai mà biết
Tổ Đạo đâu khác nữa đường đời
Chớ người đi không phải sợ
Tâm nghĩ chưa đến trước dời bước
Giống như Huyền sa hỏi Cảnh Thanh.
Học đạo tiên tu đắc chỉ quy
Văn thanh kiến sắc bất tư nghì
Trường thiên dạ dạ gia gia nguyệt
Ảnh lạc trừng đàm cơ kỷ tri
Tổ đạo hà thù thế lộ bình
Thời nhân hành xứ bất tu kinh
Nghỉ tâm vị đáo tiên di bộ
Trực tự Huyền Sa vấn cảnh thanh.

Thi học đồ (4 bài)

(Người học đắc đạo lại hiếm hoi
Thị phi ưu khuyết bao giờ thiếu
Nếu nương ngôn ngữ luận cao thấp
Giống như trước đây chưa từng ngộ
Cửa không có người đi đến
Đến rồi mới biết mùi vị thơm
Tâm địa không sinh cây cỏ nhàn
Tự nhiên thân phong một hào quang
Một mảnh thu xanh đối đường cỏ
Bên rào kim cúc dự nghe hương
Ve kêu chưa dứt gió mát thổi
Còn hơn chinh nhân về cố hương
Trọn ngày đàm huyền đệ nhất tông
Sông khô lại tìm tung tích cá
Biết rằng Phật Tổ không giai cấp
Phải hướng người lạ gậy xuống thông)
Học đạo chi nhân đắc giả hy
Thị phi trường đoản kỷ thời khuy
Nhược bằng ngôn ngữ luận cao hạ
Kháp tự tùng tiền vi ngộ thời
Không môn hữu lọ nhân giai đáo
Đáo giả phương trí tư vị trường
Tâm địa bất sinh nhàn thảo mộc
Tự nhiên thân phóng bạch hào quang
Nhất phiến thu quang đối thảo đường
Ly biên kim cúc dự văn hương
Thiền thanh vị tức lãnh phong khởi
Thắng tự chánh nhân quy cố hương
Chung nhật đàm huyền đệ nhất Tông
Khô hà đạo lý mích ngư tung
Trực nhiêu Tổ Phật vô giai cấp
Tu hướng kỳ nhân bổng hạ thông.

Đưa hai thiền giả đến Trường An Duyên Cán:

Hai người cùng tâm nghĩa đoạn vàng. Cổ kim có đạo ta đây kham nhậm. Núi sâu thẳm biển mênh mông. Bạch vân giữ không trụ. Tổ Phật chẳng thể cấm. Hết tầm mắt Thiếu Lâm cao vọi. Bàng quan hoa núi ngất trời. Phân được Duy Ma ấn chỉ pháp.

Gãy một khúc đàn nhịp tri âm.

Điệu Hòa thượng Diễn Tứ Tổ:

Bệnh này viên tịch kia. Môn ta đâu được mất. Sinh tử như hoa không. Qua lại như đường chim. Đông vọt bỗng Tây chìm. Bóng treo bên vách lạnh. Ba mươi ba ngày liền đánh chung. Đều niệm Bát Nhã Ba La Mật.

Điệu Đầu Tử Thanh Thiền Sư:

Mây vắng đầu đỉnh núi. Dưới xuống nước Tào Khê. Dương Cao nổi thuyền qua. Thẳng vào trong đại dương. Vận tải duyên đã hết. Hôm qua cuồng phong. Thiếu nữ đội hoa ngọc. Ông già tám mươi mặc giày tơ.

Điệu Tịnh Đồ Viên Giám Thiền Sư:

Phù độ nham tiền thanh Sưu bá
Tòng lâm tủng xuất tiêu phong cách
Dạ lai hàn ảnh lạc Tây cù
Ai xướng hồ ca thập bát bá.

Nổi qua trước núi cây bá gầy. Phong cách tòng lâm cao vòi vọi. Đêm đến bóng lạnh rơi đường Tây. Ai xướng kèn mười tám cây bách.

Điếu Sùng Thắng Đại Sư:
Khổ vụ tráo đình hiên
Bi vân tỏa mộ thiên
Sư quy chân tịnh giới
Ảnh quới nguyệt cô viên
Khứ bất khứ hề nhược chi mộng
Lai bất lai hề thùy hậu tiên
Diêm phù thọ tại hải nam biên.
Mù khổ đầy trước sân.
Mây buồn tỏa trời chiều.
Sư về cỏi chân tịnh.
Bóng treo trăng cô viên.
Đi không đi chừ như mộng.
Đến không đến chừ ai trước sau
Ai trước sau
Cây Diêm Phù bên Hải Nam.

Điệu Trần Cát Tiên:

Tử ký bốc thiên củ
Thiền gia đệ nhất cơ
Hữu phàm bất quải thọ
Vô trụ thản nhiên đồ
Thế thái na kham luyến
Ân tình tận thuộc ngu
Tổ Sư môn hạ khách
Đáo thử biện truy thù.
(Con đã chọn chỗ ở
Nhà thiền đệ nhất cơ
Có buồm không treo cây
Không trụ đường thản nhiên
Thế thái đều là luyến
Ân tình thuộc về ngu
Khách môn hạ Tổ Sư
Đến đây biện nhẹ nhàng).

Phỏng Tín Hòa thượng:

Sau thất Duy Ma cửa mở. Đứng trong tuyết cầu tâm ngộ thiện tài. Hoa gỗ khắc chữ mây trắng quyện. Đêm Sương sóng lạnh trắng sáng bồi hồi. Môn cao bất nhị xa nhau hỏi. Lại phải cưỡi ngựa vào trần ai. Đưa thủ Tọa Bạch hồi hương:

Quy tâm hưu vấn lộ đa đoan
Tứ hải vi gia vị túc quan
Chích lý thanh danh tư đạt ma
Chư hầu cửu hợp tiếu tề hoàn
(Tâm về đừng đường nhiều mối
Bốn biến là nhà đưa đủ xem
Chiếc giày thanh đánh nghĩ
Đạt Ma Chư hầu cửu hợp cười Tề Hoàn)

Vận Huấn Cam Lồ Ngung Trưởng Lão:

Bổn tự cư sơn bất yểm sơn
Thủy thanh sơn sắc dị nhân gian
Vốn từ ở núi không ghét núi
Tiếng nước sắc núi khác nhân gian
Tri âm nếu biết ý nhà nông
Mặc cho hiểm nguy cũng cùng leo
Tống Nhân Thiền Giả
Bạch Vân Nham thượng nguyệt
Thái bình tùng hạ ảnh
Thâm dạ thu phong sinh
Đô thành nhất phiến cảnh
(Trăng trên núi Bạch Vân
Bóng dưới cây tùng thái bình
Đêm sâu gió thu thổi
Đều thành là một cảnh)

Đưa Văn Thiền Nhân Ninh Thân:

Kim sinh phụ mẫu đương thân quán
Tùng bản gia nương tử tế khán
Động chuyển thi vi toàn đắc lực
Nhất hồi cử trước nhất mao hàn.
(Đời nay cha mẹ đương thân nhìn
Xưa nay cha mẹ xem tử tế
Động chuyển làm toàn đắc lực
Một khi nêu lên lông xương lạnh).

Tống Thục Tăng:

Tương tụ Hoài Nam tứ thập niên
Nhi kim quy thứ lộ Tam thiên
Hữu nhân nhược vấn Tây lai ý
Thủy tại giang hồ nguyệt tại thiên
(Gặp nhau Hoài Nam bốn mươi năm
Mà nay trở về đường ba ngàn
Có người như hỏi Tây Lai ý
Nước ở hồ sông trăng trên trời)

Ký tín Thượng Nhân:

Nhất bình nhất bát thả tùy duyên
Thử Sự thời thời cưỡng vi tuyên
Tri kỹ bất lai xuân tạm lão
Cô phong kiểu nguyệt đối hàn tuyền
(Một bình một bát hãy tùy duyên
Việc này thường cưỡng làm huyên
Biết mình không đến xuân dần già
Cô Phong trăng sáng đới sông lạnh)

Vận Châu Quảng Long Đồ:

Hải Hội Vân Sơn điệp loạn thanh
Long Đàm tả bích thanh lãnh lãnh
Sử quân khất dữ an nhàn địa
Thời cộng thiện đồ chung dạ thính
(Hải hội vân sơn xanh muôn trùng
Tiếng nước Long Đàm róc rách chảy
Sớ Quân xin cho đất an nhàn
Mãi cùng thiền đồ suốt đêm nghe)

Thứ Vãn Châu Cao Đài Sư huynh:

Mỗi lãm gia ẩn thiên
Thanh phong thích khả ái
Hữu thời thuyết hướng nhân
Thời nhân đô bất hội
Hồi thủ vọng hành nhạc
Nhạc sơn thiên lý ngoại
Độc bộ lập khoa dương
Táp táp văn thu lại
(Thường soi thiên giả ẩn
Gió mát càng đáng thích
Có khi nói với người
Có khi người không hiểu
Quay đầu nhìn đường gì
Núi gì ngoài ngàn dặm
Mình bước đứng tà dương
Xạc xào nghe tiếng thu)

Nghĩ Vân Tống Tín Thiền Giả Tác Cái:

Xuân tình xúc thạch dục cao phi
Hoàn bá đài tuyền độ thúy vi
Bổn tự vô tâm vi vũ lộ
Hà tằng hữu ý tiết thiên cơ
Phong lôi ỷ thế thanh quang viễn
Thảo mộc thừa âm sắc trạch phì
Mạc vị công thành không tụ tán
Nham phòng thế chước cơ thời quy
(Xuân xanh chạm đá muốn bay cao
Hoàn Bá đài thuở trước xanh tươi
Vốn tự vô tâm làm Sương móc
Đâu từng có ý lộ thiên cơ
Gió lôi nương thể tiếng sóng xa
Cỏ cây nương bóng râm tốt tươi
Chớ gọi công thành không tụ tán
Phòng núi kín mấy lúc về)

Tống Hóa Chủ: (3 bài)

Nham phùng tiến khai vân phiến phiến
Bán lung u thạch bán tùng long Vi lâm phổ nhuận tiều khô hậu Khước nhập yên la đệ nhất trúng.
Mạc luận nhân tình dữ đạo tình
Đại đô vật lý tự phân minh
Hoàn công sơn hạ trường lưu thủy
Kim cổ thao thao triệt để tình.
Đình vô lập tuyết nhân
Lộ hữu trần ai khách
Khuynh tận thử thời tâm
Tùng gian tặng hành sắc.
(Núi giăng mây tan từng mảnh
Nửa lung u thạch nửa từ rồng
Mưa dầm thấm khắp sau khi nắng
Lại vào yên là lớp thứ nhất
Chớ luận tình người cùng tinh đạo
Phần lớn vật lý tự phân minh
Dòng nước chảy dưới núi Hoàn Công
Xưa nay thao thao lại xanh lại xanh rì
Sân không người đứng tuyết
Đường có khách trần ai
Khuynh tận tâm lúc này
Giữa tùng tặng hàng sắc)

Dữ Hoàn Thiền Hóa Mạch:

Thủy trung lao đắc mạch
Khủng lật hoài thiền khách
Vãng phục yển khê biên
Văn thanh cách bất cách
(Trong nước lặn được thóc
Lại sợ khách hoàn thiền
Đến lại nằm bên khe
Nghe tiếng cách không cách)

Ký Thái Bình Đăng Trưởng Lão:

Biến du ngũ Tổ sơn
Ngữ tiếu linh nhân ái
Cực mục tình lượng khoan
Lễ mạo đa tự tại
Tư hương tiện dục hồi
Bất lự tha nhân quái
Tái kiến thị minh niên
Võng lai vô quái ngại
(Dạo khắp núi Ngũ Tổ
Nói cười cho người ưa
Mắt nhìn tinh lượng khoan
Lễ mạo nhiều tự tại
Nhớ quê mà muốn về
Không sợ người ngạc nhiên Lại thấy là năm nay
Qua lại không quá ngại).

Ký Cao Đài Bổn Thiền Sư Pháp Huynh:

Xuân sơn vọng cực cơ thiên lý
Độc bằng nguy lạn thùy dữ đồng
Dạ tĩnh tử quy tri ngã ý
Nhất thanh thanh tại thúy vi trung
(Núi xuân mông mấy ngàn dặm
Một mình hiểm nguy giống với ai
Đêm lặng Tổ Quy biết ý ta
Từng tiếng một trong chốn mịt mùng).

Dời ở Bạch Vân sau vào viện hai ba chấp Sự:

Đăng sơn tu trụ trượng
Độ thủy yếu hành thoàn
Hữu khách khai nhan tiếu
Vô sầu triển khước miên
Vạn bèn tồn thử đạo
Nhất vi tính tiền duyên
Thử tỉ hồng lô lý
Thanh hư trực cơ tiền.
(Lên núi cần có gậy
Qua sông phải đi thuyền
Có khách mặt tươi cười
Không sầu duỗi chân ngũ
Muôn thứ còn đường đây
Mùi vị tin duyên trước
Thử so trong hồng trần
Thanh hư đáng mấy tiền)

Ký Chư Quận Cái Giả:

Tọa nhất tu tọa thất
Cổ thánh lưu tung tích
Thử độ dữ Tây Thiên
Cá cá minh cách xích
Điểm thiếc hóa vi kim Hát thạch biến thành bích Đại lực Na-la-diên.
Duy năng tương hứa
(Ngồi một phải đi bảy
Cổ Thánh lưu dấu vết
Đất này cùng Tây Thiên
Mỗi mỗi rõ kích thước
Giọt sắt hóa thành vàng
Hét đá biến thành tường
Sức lớn Na-la-diên
Là chính ai trúng đích)

Ký Cựu Tri (2 bài)

Cách khoát đa thời vị thị sơ
Kết giao khởi tại tần tương kiến
Tùng giáo sơn hạ lộ kỳ khu
Vạn lý thiềm quang đô nhất phiến
Sóc phong tảo tận thiên nham tuyết
Chi thượng hồng mai bào dục liệt.
Tiêu miễu hàn vân thiên ngoại lai
Ngô gia thử cảnh bằng thùy thuyết.
(Cách xa nhiều lúc chưa phai sơ
Giao kết lẽ nào luôn gặp nhau
Theo giáo dưới núi đường gập ghềnh
Vạn dặm trăng sáng đều một phiến
Gió bấc quét sạch ngàn núi tuyết
Trên cành hoa hồng muốn khoe sắc
Xa tít mây lạnh đến ngoài trời
Nhà ta cảnh này nương ai nói)

Tống Hóa Sĩ (4 bài)

Hà Sự thu phong nhập dạ lương
Đạp hoa thời phục tống dư hương
Yếu tri thử cá nhân tiêu tức
Mạc hậu ân cần vị tối trường
Thấu Xuất Long Môn vị thị nan
Kỷ nhân đắc qua Triệu châu quan
Bạch Vân phiến phiến thanh sơn ngoại
Vi vũ vi lâm khứ phục hoàn.
Xuất từ Bạch Vân sơn
Huề ngan bộ yên chữ
Tâm trung kỷ vạn đoan
Duy ngã năng tương hứa
(Việc gì gió xuân lạnh vào đêm
Hoa Ngô rồi lại đưa hương khác
Phải biết tin tức chân chánh này
Cuối cùng ân cần vị rất xa
Trước Hoàn Bá đài tống biệt thời
Hoa đào tơ gấm liễu như my
Năm nay, ngày này đều trông ngóng
Vẫn là xanh xanh một hai cành
Ra thấu cửa rộng chưa phải khó
Mấy người qua được cửa Triệu Châu
Bạch Vân ngoài núi xanh một phiến
Làm mây làm mưa đi lại về
Ra từ núi Bạch Vân
Chống gậy đến bãi khói
Trong lòng mấy vạn mối
Chỉ ta có thể cho)

Kỳ Cựu (3 bài)

Mộc lạc cao thu ngọc lộ thùy
Song tiền hoàng cúc tạm ly phi
Bạch Vân phiến phiến nghinh tân nhạn
Bất thị tri âm thuyết hướng thùy
Ký thư vị đáo tha tiên vọng
Truyền ngữ bất lai ngã vị tri
Độ nhật lâm tuyền vô thế lự
Liễm mi thâu khán bạch viên nhi
Mai hoa dục tạ bất tạ
Đào hoa dục khai bất khai
Tư quân cộng thính viên đề xứ
Nhất phiến bạch vân thiên ngoại lai.
(Cây rơi thu cao ngọc lộ dần
Trước cửa cúc vàng cũng hé mở
Một phiến bạch vân đón nhạn lành
Không phải tri âm nói cùng ai?
Gởi thư chưa đến trước người trông
Truyền lời chưa đến ta chưa biết
Qua ngày Lâm Tuyền đời chẳng lo
Dương mày trộm xem vượn trắng
Hoa mai sắp tàn mà không tàn
Hoa đào muốn nở mà không nở
Nghĩ anh cùng nghe chỗ vượn kêu
Một mảnh mây trăng vờn ngoài trời)

Ngẫu Tác

Đa thời dục tả thiên biên nhạn
Mao sắc quan lai khổ vị toàn
Hiệu khiếu bất phỏng tri tiết lệnh
Dưỡng thành phi khứ hữu hà nan
Nhạn nhạn nhạn tháp đương sơ niêm
Cổ túng thiền thiền nhập lý thâm uyên
Vô hình vô trạng thiên nan vạn nan
Hậu sinh hoán trường tâm kiên thạch xuyên.
(Nhiều lúc muốn tả nhạn bên trời
Màu lông xem đến khổ chưa toàn
Gọi không ngại biết lệnh thời tiết
Nuôi thành bay đi có gì khó
Nhạn nhạn nhạn tháp xem lúc đầu
Xưa dầu thiền thiền vào lý sâu xa
Vô hình vô trạng ngạn khó vạn khó
Hậu sinh lớn muộn tâm kiên xuyên đá)

Phú Tổ Hoa, Lý Đề Hình (3 bài)

Thử hoa huýnh dữ nhân gian biệt
Mao sắc hoán lại khổ vị toàn
Yếu hội Tổ Sư đoan đích chỉ
Vị manh thiên địa dĩ tiên thành
Thử độ Tây Thiên Tổ Phật danh
Song phong đảnh thượng thiết hoa sinh
Thế gian vô hạn đan thanh thủ
Chỉ khủng ngâm thành họa bất thành
Tạo hóa chi công phẩm vật tình
Chánh đáng ngôn xứ bất ngôn sinh
Tầm chi trích diệp không lao lực
Nhất đóa khai thời nhất diệp thành.
(Hoa này khác với chốn nhân gian
Kết quả nở hoa đương xứ sinh
Phải hội ý yếu chỉ của Tổ Sư
Trời đất chưa sinh trước đã thành
Tây Thiên đất này tên Tổ Sư
Đầu đỉnh núi hoa sắc lại sinh
Thế gian vô hạn tay xanh đỏ
Chỉ sợ ngâm thành viết không thành
Tình phẩm vật công của tạo hóa
Chánh đáng sinh xứ không nói sinh
Tìm cây bẻ là nhọc vô ích
Một đoá hoa khai một Phật thành).

Vận Thù Bành Quân Sử Lưu Đề Thất Phong Các

Hông núi dựng các nhỏ.
Hãy nương vào bút sinh
Lần ba tư đỉnh núi nguy
Vượn kêu xanh cả đồng
Vận Kỳ Bành Quân Thứ Sử Bộ
Dù Sử ngàn lần mắt thấy
Đầu bằng chính tay mình làm
Thấu được cửa trọng này
Mới là bình sinh phương tiện
Vận Thù Ngô Đô Tào
Nhà núi chỉ hướng đến tối tăm
Đường chuyển núi người về đến ít
Một bát vàng xanh tiêu nhiều ngày
Đầy đầu tóc bạc đã huyền cơ
Quanh núi nước vây rơi trước cửa
Khốc trăng vượn cuồng bay trên đỉnh
Tự được bình sinh không đủ
Đâu biết phù thế thị gồm phi
Vận Thù Kỳ Túy Lý Triêu Phụng
Nói đế đương không còn nhiều
Văn Thù bất nhị hỏi
Duy Ma Triệu Châu mắt
sáng bốn thiên hạ Lại
có đồng tham hành bà.

Đề Đông Dĩnh Tây Hồ Giản Thái Thú Lý Bí Giam

Sữa trúc tùng bóng râm mát
Dương xanh cỏ hồng khắp vườn rừng
Đến cùng phải nhường nước Hồ Tây
Xanh mát như lòng người quân tử
Đông Dĩnh Đồ Trung
Một đêm thành bước nhà
Cô phong vạn dặm xa
Nhà ta theo chỗ tĩnh
Đường đời mây khi dừng
Cử đầu hỏi trăng sáng
Nương tâm gởi đầu ngưu
Như còn ở phương xa
Tu Viễn Đinh Nhãn quán bất túc
Thính đức bất tận
Thủy bích sơn thanh
Thùy viễn thùy cận
(Mắt thấy không đủ
Tai nghe không hết
Nước trong núi xanh
Ai xa ai gần).

Đáp Bằng Hy Đạo:

Lão bệnh sơ khãng bất ký tâm
Ứng vô cuồng mộng đáo quỳnh lâm
Thủy thanh sơn sắc trường vi bạn
Lợi hại tùng giáo tự hải thâm
Bồi hồi lưỡng giản tề tả bích
Thùy song đới trường sa
Ba lãng thâm, thoan lưu chuyển bàng bái
(Bệnh gia mệt mỏi tâm không nhớ
Phải không cuồng mộng đến rừng ngọc
Nước nước sắc núi mãi là bạn
Lợi hại từ giáo tợ biển sâu
Bồi hồi hai sông ngọc bích
Rũ mang trường sa Sáng sâu
Dòng chảy xiết chuyển mưa dầm).

Thù Thạch Tú Tài

Tạc dạ Tây phong kích nộ đào
Kinh phiên cựu Sự một ty hào
Bằng lan tiếu bãi tư lương trước
Vọng đoạn trường thiên nguyệt sắc cao
(Hôm qua gió Tây giận nổi
Sợ hãi việc xưa không mảy may
Kiêu hãnh cười xong rồi suy nghĩ
Vọng đoạn trời sắc trăng cao).
Tống Châu Đại Khanh
Chỉ đắc tâm nhàn đáo xứ nhàn
Mạc cấu thành thị dữ khê sơn
Thị danh phi danh lợi như mộng
Chánh nhãn quán thời nhất thuấn gian
(Chỉ được tâm nhàn đến chữ nhàn
Chớ đem thành thị và khe núi
Thị phi danh lợi trừng mộng ảo
Chính mắt xem thời trong sát na).

Tống Lã Công Phụ

Tống khách biệt kim sa
Hành hành khứ khứ lộ xa
Đạm yên lung bích hán
Bạt vụ xuyết hồng hà
Bách thiệt ngâm tân thọ
Thiên chu trường nộn nha
Phiên tư phân mệ
Cử đầu kiến đào hoa
(Đưa khách bệt kim sa
Đi đi đường xa thẳm
Khói bạc gã trai tráng
Sương bạc tiếp mù hồng
Trăm lưỡi ngâm cây mới
Ngàn cây dài mầm non
Nghĩ lại nơi từ biệt
Ngưỡng đầu nhìn hoa đào).

Tống Hoàn Cảnh Đốn

Thu vân thu thủy lưỡng y y
Tắc nhạn thanh thanh độ thúy vi
Đa hướng động đình thanh thảo ngạn
Sở thiên không khoát bất tri quy
(Mây thu nước thu hai như vậy
Mịt mù khuất lấp tiếng nhạn
Khi hướng đến bờ cỏ xanh Đỗng Đình
Trời Sở mênh mông không biết về)

Trọng Hội Quách Công Phủ

Tịnh Không cư sĩ cửu tương tri
Tam thập niên lai chỉ phiên thời
Kim nhật bạch liên hoa hạ kiến
Duy Ma nguyên thị cựu dung nghi
(Cư sĩ Tịnh Không đã biết lâu
Ba mươi năm nay chỉ một thời
Ngày nay thấy dưới hoa sen trắng
Duy Ma vốn là cựu dung nghi)

Gởi Lý Nguyên Trung

Ký tận thiên trương chỉ
Đồ phiền tâm thủ lao
Nhân tình như thái hoa
Tranh dĩ đạo tình ca
(Gởi thư ngàn trang giấy
Thật phiền lòng mỏi tay
Tình người như là hoa
Đâu lấy đạo tình cao)

Gia Ẩn Đường

Nhất tùng nhất trúc nhất khê vân
Thời hữu thạnh phong bán nguyệt luân
Song ngoại tuyền thanh trường tự vũ
Huynh nhiên cư giả bất tri xuân
(Một tùng một trúc một núi khe
Khi có gió mát trăng là bạn
Ngoài cửa tiếng khe chảy như mưa
Bỗng nhiên người ở không biết xuân)

PHỤ LỤC TỰA VĂN

Từng nghe, ngôn ngữ dứt bặt, chưa từng không lời, tâm pháp đều quên. Nhưng noi theo truyền pháp. Có Sự nhiệm mầu được thỏ quên lưới diệu. Không mê chấp ngón tay là mặt trăng. Cho nên Tông Sư dấy lên và xưng dương. Như thước gậy lấy không hết, học giả từ đó mà lãnh ngộ.

Hòa thượng Pháp Diễn, như vòng tròn hiểu không cùng. Giáo ngoại biệt truyền, đạo ở đây là tốt. Hòa thượng Pháp Diễn du phương tìm cầu thưa thỉnh vô tư, chu toàn môn đỉnh của Hoàng Bá, tiễn chân thất Bạch Vân, tâm bình thường là đạo, tùy ý thành vàng, giai nhân má hồng phát cơ tối thượng. Kim sắc đầu đà không chỗ dung thân.

Niệm Chú thông minh, hát khúc ca Thái Bình, đều là chỗ các vị chưa nghe, chỗ cảnh sách người sau. Lời vi diệu khác không thể luận bàn. Phổ biến khắp nơi, ngõ hầu làm gương sáng cho đời mà thôi, việc của châu Tri Thai huyện Hoàng Nham Trương Cảnh Sửa Tựa.

Áo nghĩa từ Linh Sơn đưa ra, không lãnh truyền đến các tòng lâm trong thiên hạ, phân cành bày lá. Thạch Sương Hồ Hải Hội trọng đầy, hạt cải trong núi Tổ. Ẩn như nước địch, ai chủ đất này, Pháp Diễn người Ba Thục Tứ Xuyên lệnh đi Hoài Điện, ba đề Tông Ấn, hai kỷ cương ở đây. Nhân nghĩa trung đạo không hoa kết quả, măng đá lấy trong rừng gai, chớ nghi ưu Bát hiện tiền lại là lằng nhằng. Thượng nhân Khắc Cần ghi ngữ yếu, Tôi hổ thẹn thay thế tuyên dương, Sừng thỏ lông rùa dám nói có thật, áo gấm tay lông cừu quý chẳng thích hợp tý nào. Ngày hai mươi bốn, tháng mười hai, niên hiệu Thiệu Thánh.

Hà Gian Lưu Bạt kính cẩn ghi tựa.

Sư Pháp Diễn ở Hải Hội khi xưa đi hành cước đến ngọn núi Bạch Vân. Gặp một thiện tri thức, ngồi tòa Sư tử, hiện thân Tỳ-kheo, làm những điều phải làm, nói lời không nói. Có khi làm mây làm sáng vui chơi tự nhiên. Có khi cắt sắt chém đinh đều không thể. Chu vị đến đây, tứ chúng suy nghĩ nguyên do này, nêu đều tự mất. Sư một mình ai thấy cũng cười, không trái với tâm. Chưa từng vượt thời gian bèn nhờ thọ ký. Trời người ca ngợi, từ Tứ Diện đến trụ Thái Bình. Cha con nối nhau. Từ Thái Bình đến Hải Hội, tùy cơ đáp hỏi, nhân việc nêu lên, không mượn hoa hòe, tự tại kỳ đặc. Đồ chúng tụ tập thỉnh tôi làm tựa, vì muốn truyền lại đời sau.

Ngày mười, tháng mười một, niên hiệu Thiệu Thánh thứ hai. Ngô Quận chu Nguyên.


[Đầu trang][Mục lục bộ Chư Tông][Mục lục tổng quát]