TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠP TẠNG

BỘ CHƯ TÔNG

SỐ 2004 - THUNG DUNG LỤC TRÙNG KHẮC TỨ GIA NGỮ LỤC

MỤC LỤC

SỐ 2004 - THUNG DUNG LỤC TRÙNG KHẮC TỨ GIA NGỮ LỤC

TỰA

TRÙNG KHẮC TỨ GIA BÌNH XƯỚNG TỰA

BÀI TỰA

VẠN TÙNG LÃO NHÂN BÌNH XƯỚNG THIÊN ĐỒNG GIÁC HÒA THƯỢNG TỤNG CỔ. THUNG DUNG AM LỤC

QUYỂN 1

TẮC THỨ 1: THẾ TÔN THĂNG TÒA.

TẮC THỨ 2: RỖNG RANG KHÔNG THÁNH

TẮC THỨ 3: ĐÔNG ẤN THỈNH TỔ

TẮC THỨ 4: THẾ TÔN CHỈ XUỐNG ĐẤT

TẮC THỨ 5: GIÁ GẠO CỦA THANH NGUYÊN.

TẮC THỨ 6: BẠCH HẮC MÃ TỔ

TẮC THỨ 7: DƯỢC SƠN THĂNG TÒA.

TẮC THỨ 8: BÁCH TRƯỢNG DÃ HỒ

TẮC THỨ 9: NAM TUYỀN CHÉM MÈO.

TẮC THỨ 10: BÁ TỬ ĐÀI SƠN

TẮC THỨ 11: HAI CĂN BỆNH CỦA VÂN MÔN

TẮC THỨ 12: ĐỊA TẠNG CÀY CẤY

TẮC THỨ 13: CON LỪA MÙ CỦA LÂM TẾ

TẮC THỨ 14: THỊ GIẢ KHUẾCH RÓT TRÀ

TẮC THỨ 15: NGƯỠNG SƠN CẮM CÁI XẺNG

TẮC THỨ 16: TÍCH CHẤN MA CỐC

QUYỂN 2

TẮC THỨ 17: HÀO LY PHÁP NHÃN

TẮC THỨ 18: CON CHÓ CỦA TRIỆU CHÂU

TẮC THỨ 19: NÚI TƯ DI CỦA VÂN MÔN

TẮC THỨ 20: THÂN THIẾT CỦA ĐỊA TẠNG

TẮC THỨ 21: VÂN NHAM QUÉT NHÀ.

TẮC THỨ 22: YẾT KIẾN NHAM ĐẦU

TẮC THỨ 23: LỖ TỔ XOAY MẶT VÀO VÁCH.

TẮC THỨ 24: XEM RẮN CỦA TUYẾT PHONG.

TẮC THỨ 25: CÁI QUẠT SẮC BÉN CỦA

TẮC THỨ 26: NGƯỠNG SƠN CHỈ TUYẾT.

TẮC THỨ 27: PHÁP NHÃN CHỈ BỨC RÈM.

TẮC THỨ 28: HỘ QUỐC TAM MA

TẮC THỨ 29: THIẾT NGƯU CỦA PHONG

TẮC THỨ 30: ĐẠI TÙY KIẾP HỎA

TẮC THỨ 31: CỘT TRỤ CỦA VÂN MÔN LỘ RA.

TẮC THỨ 32: TÂM CẢNH CỦA NGƯỠNG SƠN.

QUYỂN 3

TẮC THỨ 33: KIM LÂN CỦA TAM THÁNH.

TẮC THỨ 34: MỘT HẠT BỤI CỦA PHONG HUYỆT.

TẮC THỨ 35: KHUẤT PHỤC LẠC PHỐ

TẮC THỨ 36: MÃ SƯ BẤT AN

TẮC THỨ 37: NGHIỆP THỨC CỦA QUY SƠN

TẮC THỨ 38: CON NGƯỜI CHÂN THỰC CỦA LÂM TẾ

TẮC THỨ 39: TRIỆU CHÂU RỬA BÁT

TẮC THỨ 40: TRẮNG ĐEN CỦA VÂN MÔN

TẮC THỨ 41: LẠC PHỐ THỊ TỊCH

TẮC THỨ 42: TỊNH BÌNH GIẢ NAM DƯƠNG

TẮC THỨ 43: LÀ LA SƠN SINH DIỆT

TẮC THỨ 44: HƯƠNG DƯƠNG DIỆU SÍ

TẮC THỨ 45: GIÁC KINH TỨ TIẾT

TẮC THỨ 46: ĐỨC SƠN HỌC TẤT

TẮC THỨ 47: TRIỆU CHÂU BÁCH THỌ.

TẮC THỨ 48: MA KINH BẤT NHỊ

TẮC THỨ 49: ĐỘNG SƠN CÚNG CHƠN

TẮC THỨ 50: TUYẾT PHONG THẬM MẠ

TẮC THỨ 51: PHÁP NHÃN HANG LĂNG

TẮC THỨ 52: PHÁP THÂN TÀO SƠN

TẮC THỨ 53. HOÀNG TỊCH ĐỒNG TAO

QUYỂN 4

TẮC THỨ 54: ĐẠI BI CỦA VÂN MÔN

TẮC THỨ 55. CÁI BÁNH CỦA TUYẾT PHONG

TẮC THỨ 56: CON THỎ TRẮNG CỦA MẬT SƯ

TẮC THỨ 57: MỘT VẬT CỦA NGHIÊM DƯƠNG

TẮC THỨ 58: CƯƠNG KINH KHINH TIỆN

TẮC THỨ 59. RẮN CHẾT CỦA THANH LÂM

TẮC THỨ 60: CON TRÂU CÁI THIẾT MA

TẮC THỨ 61: CÀN PHONG VẼ MỘT ĐƯỜNG

TẮC THỨ 62: MỄ HỒ CÓ NGỘ KHÔNG.

TẮC THỨ 63: TRIỆU CHÂU HỎI VỀ CÁI CHẾT.

TẮC THỨ 64: TỬ CHIÊU NỐI PHÁP

TẮC THỨ 65. VỢ MỚI CƯỚI CƯỠI LỪA A GIA DẮT MŨI

TẮC THỨ 66: CỬU PHONG ĐẦU VĨ

QUYỂN 5

TẮC THỨ 67: TRÍ TUỆ THEO KINH HOA NGHIÊM

TẮC THỨ 68: GIÁP SƠN VUNG KIẾM

TẮC THỨ 69: NAM TUYỀN BẠCH HỘ

TẮC THỨ 70: TIẾN SƠN HỎI VỀ TÁNH

TẮC THỨ 71: LÔNG MÀY CỦA THÚY NHAM.

TẮC THỨ 72: TRUNG ẤP NÓI VỀ CON KHỈ.

TẮC THỨ 73: TOÀN HIẾU CỦA TÀO SƠN.

TẮC THỨ 74: CHẤT VÀ TÊN CỦA PHÁP NHÃN.

TẮC THỨ 75. LÝ THƯỜNG CỦA THỤY NHAM

TẮC THỨ 76: BA CÂU HỎI THƯ SƠN

TẮC THỨ 77: TÙY PHẦN CỦA NGƯỠNG SƠN

TẮC THỨ 78: CÁI BÁNH CỦA VÂN MÔN

TẮC THỨ 79: TIẾN BỘ CỦA TRƯỜNG SA

TẮC THỨ 80: THIỀN BẢN CỦA LONG NHÃ.

TẮC THỨ 81. HUYỀN SA ĐẾN HUYỆN BỒ ĐIỀN

TẮC THỨ 82. THANH SẮC CỦA VÂN MÔN

QUYỂN 6

TẮC THỨ 83: ĐẠO NGÔ KHÁN BỆNH.

TẮC THỨ 84. MỘT NGÓN TAY CỦA HÒA THƯỢNG CÂU CHI

TẮC 85. KIỂU THÁP CỦA QUỐC SƯ

TẮC 86. LÂM TẾ ĐẠI NGỘ

TẮC 87: HỮU CÚ VÔ CÚ CỦA SỚ SƠN

TẮC THỨ 88: LĂNG NGHIÊM BẤT KIẾN

TẮC THỨ 89. KHÔNG CỎ CỦA ĐỘNG SƠN

TẮC THỨ 90. NGƯỠNG SƠN CẨN BẠCH

TẮC THỨ 91. CÂY MẪU ĐƠN CỦA NAM TUYỀN

TẮC THỨ 92: MỘT VẬT BÁU CỦA VÂN MÔN

TẮC THỨ 93: LỖ TỔ KHÔNG HỘI

TẮC THỨ 94: ĐỘNG SƠN BẤT AN

TẮC THỨ 95: VẠCH MỘT ĐƯỜNG CỦA LÂM TẾ

TẮC THỨ 96: CỬU PHONG KHÔNG CHỊU

TẮC THỨ 97: KHĂN CHE ĐẦU CỦA QUANG ĐẾ

TẮC THỨ 98: ĐỘNG SƠN THƯỜNG THIỆT

TẮC THỨ 99: CƠM TRONG BÁT NƯỚC TRONG THÙNG CỦA VÂN MÔN

TẮC THỨ 100: LĂNG GIÀ SƠN HÀ


TỰA

Đức Thế Tôn đưa cành hoa, Ngài Ca-diếp mỉm cười. Tuy nói: Mặc lộ bày Tông Phong, biết được thông suốt. Lại gặp con cháu hiếu sự sau này, không biết quý trọng của báu trong nhà, mỗi người đều liều thân mất mạng. Đất bằng sinh bụi, nước lặng nổi sóng, tán loạn không hoa, lừa dối con mắt, ngoa truyền nhiều miệng, công án nhiều mối, Thiên Đồng, Tuyết Đậu khinh nhờn, khổ đã không nhận, Viên Ngộ, Vạn Tùng nói mớ, lại phần nhiều không tỉnh, may được lão nhân Thanh Lương. Từ lâu biết rõ sự tai vạ của các Tổ không sáng suốt. Ngày nay môn đồ mặt xưa đều đem đồ cổ ban ra, phân hóa Tứ Gia, Tùng Tân phiên dịch khắc bản. Than ôi! Hối lộ riêng hiện tại, giặc cướp khó trốn được, mà dám hỏi bảo kiếm Kim Cang, đồng loạt chặt đứt. Sau đó, đem ngôn từ ra mà phê bình, cùng chúng sanh trong bốn biển xướng khúc ca Thái Bình.

Nam Thành Cận Khê La Nhữ Phương đề

Niên hiệu Trung Hòa, năm Đinh Mùi.

Trầm Hàm ở Trường Châu viết.

TRÙNG KHẮC TỨ GIA BÌNH XƯỚNG TỰA

Đức Thế Tôn đưa cành hoa, Ngài Ca-diếp mỉm cười, mây cỏ phong biến đổi, Tông chỉ sâu xa. Bởi giáo ngoại biệt truyền, cái chơn đế trong đó thật chẳng phải ngôn ngữ của người thế gian có thể hình dung muôn một.

Xong khai phát kẻ hậu học, thuyết pháp lợi sinh, thì đây rất dể ngưỡng cơ nhập ngộ. Xưa khắc Tứ Gia ngữ lục, người viết chữ không kham nổi, quy cách hạn cục, bình chú câu nệ, người đọc khổ sở. Xong đã lên núi báu, vào biển Hoa Tạng, hết sức mò tìm không nghỉ ngợi. Đế kinh Thiền Ba, bàn luận về Tông, thường thường là như vậy. Giảng Sư Giáo Hư phát đại hoằng thệ nguyện, cứu giúp người nhưng sức không có. Tôi nghỉ thật là có nguyện xưa, dám không tận lực. Bởi thế, ra công khắc bảng. 3 quyển, Tăng tục cùng chí khắc 2 quyển. Nhưng lúc ấy dùng cơ đánh hét, dương mày, đưa ngón tay, lại càng tự thấu suốt rỗng rang, thì ý của giáo công đã mãn, mà công đức cũng vô biên. Ta không thể bị sự sợ hải sai khiến, lại đâu có gì phải suy nghĩ luận bàn.

Ngày tốt Tháng 9, năm Đinh Mùi niên hiệu

Vạn Lịch. Vân Nam, Sở Hùng, Phủ Tri, Phủ Hoa, Thuần Từ Lâm Viết.

BÀI TỰA

Vạn Tùng Lão Nhân Bình Xướng Hòa Thượng Thiên Đồng Giác Tụng Cổ, Tùng Tung Dung Am Lục.

Xưa, tôi ở Kinh Sư, có rất nhiều Thiền sư. Chỉ có Hòa Thượng Thánh An Trừng Công, thần khí nghiêm minh, ngôn từ mộc mạc, tôi rất kính trọng người. Nên tôi thường hỏi về đạo của Chư Tổ, nhiều lần đem những sở đắc trong ngữ lục của các Tôn túc xưa để hỏi người, có điều Trừng Công chấp nhận. Tôi cũng tự cho là đắc, bèn gặp buồn vui đem đến, buộc nơi gác cao, cầu đạo Tổ càng nhọc nhằn. Tôi bèn đem việc trước đây hỏi Thánh An. Thánh An không bằng lòng với điều đã thấy ấy. Ta thật nghi hoặc Thánh An Thung Dung bảo rằng: Xưa ông ở vào địa vị trọng yếu. Lại các nhà nho không tin sách Phật chỉ bài xích Ngữ lục. Cho nên tôi không dám lên tiếng. Nay tâm an định, quả là đem việc bổn phận để hỏi tôi. Ta há cho là giống như ngày trước không vì khổ cái miệng ư? Ta già rồi, không thông sách nho, không thể dạy ông được. Có Vạn Tùng Lão Nhân đều thông Nho lẫn Thích, tinh thông tông yếu, biện tài vô ngại. Anh có thấy. Ta đã tham yết Vạn Tùng, tuyệt dấu vết người, bỏ hết việc nhà, tuy cam lạnh nóng. Không ngày nào không tham vấn, quên ăn bỏ ngủ, trải qua 3 năm, nhầm ân pháp, nhầm ấn vào ngục Trạm Nhiên Cư Sĩ Tùng Nguyên Mục với bờ tham học, cơ phong không lường, biến hóa vô cùng, vòi vọi như núi cao vạn nhận, không nhìn được cuồn cuộn như muôn lớp sóng không có bờ mé, nhìn ở trước chớ được phía sau. Nhìn lại sự học ngày xưa đều là một khối gạch. Ôi! Lên núi đông mới biết đất lỗ nhỏ, lên núi Thái mới biết thiên hạ nhỏ. Há nói suông ư?

Chưa vào đất Mân nghe lời này là vậy. Tôi quên gốc thích sự kỳ lạ, trở về núi ở yên, có thể gặp nhau được chăng? Sau đó phụng mệnh ra hành đạo từ đất Thượng Hải đến Tây vực, cách Sư không biết mấy ngàn dặm.

Pháp ngữ kệ tụng ngày xưa của Sư đều được pháp huynh Long Công thu nhận, nay không được khơi lại. Tông Tôi có Bách Tắc Tụng cổ của Thiên Đồng được coi là tuyệt xướng. Tôi liền thỉnh Vạn Tùng bình xướng Tụng này để khai mở cho kẻ hậu học; trước sau có 9 quyển, trải qua bảy năm, mới hoàn thành. Tôi lưu lạc ở Tây Vực nhiều năm. Nhận được sách này, như say được tĩnh. Như chết đi sống lại, vui mừng khôn xiết, vọng về Đông lễ bái, nhìn về Tây kính cẩn, mở sách ra than rằng: Vạn Tùng đến Tây Vức rồi. Bấy nhiêu lời ấy đều có yếu chỉ quy về; nhìn kỷ sự cao vời xưa nay đủ làm gương mẫu của Vạn Tùng; Nếu không phải là bậc Sư phạm thiên cơ tạo hóa; thì làm sao có thể biết được điều này? Tôi cùng mấy người bạn sớm chiều dạo chơi trong cuốn sách này, như lên núi báu lớn vào biển Hoa Tạng, vật trân quý lẫn rộng lớn đều đủ, phải trái gặp nhau, mắt giàu mà tâm no, há có thể dùng ngôn ngữ của thế gian mà hình dung nó trong muôn một? Tôi không dám chuyên quyền việc tốt đẹp ấy, suy nghĩ cùng với thiên hạ. Chung làm Kinh thành chỉ có pháp đệ là Tùng Tường, cùng với kẻ hèn vong niên kết giao kính cẩn ghi vào sách, xin khắc bảng lưu hành ở thế gian.

Tựa ghi là; Phật Tổ chư Sư vùi gốc ngàn trượng, cơ duyên trăm tắc thấy đời sinh mần, Thiên Đồng không hợp nảy cành, Vạn Tùng đâu dám dẫn lung tung; rỗng rang đến trên cành, lại thêm rối rắm, xuyên qua lỗ mũi tìm hơi hương; cản trở đi dưới gót chân thể diệu. Nếu muốn gót chân chấm đất, lỗ mũi chọc trời, cần phải xuyên qua trong đám vòng vo mới được. Ngày mồng một năm Giáp Thân, Sông Tất Di Thích Sở Tài Phổ Khanh.

Tựa viết ở thành A lý Mã, Tây Vức.

Bình Xướng Thiên Đồng. Thung Dung Am Lục nhờ cư sĩ Trạm Nhiên viết, Tông ta có Tuyết Đậu và Thiên Đồng. Còn môn hạ Khổng Tử có Du Hạ. Tụng cổ của 2 thầy còn có Lý Đổ của Thi Đàn. Đời cho Tuyết Đậu là tài năng cái thế của Hàn

Lâm. Bởi tìm tòi tài năng của nước Trung Hoa, mà không nhặt lấy sự thật của ta. Lại cho là không đi đất vạn dặm, không đọc sách vạn quyển, không xem thơ công bộ, lời nói phong phú, định các Thiên Đồng lão Sư Tụng cổ, một chữ nữa lời; đều từ dòng sâu của Phật Tổ lưu xuất. Học giả không thể lường được. Bách Sơn Đại Ẩn tập, đưa ra sự tích ấy. Lúc ấy có người sơ suất không cẩn thận, cho đến niên cổ nếu được giản lược chỉ kết thúc mà thôi. Vạn Tùng xưa thử Bình Xướng, Binh cách xưa nay phế bỏ Tổ Cảo, trở về Chùa Báo Ân, ở Yên Kinh dựng am, bảng hiệu là "Am Thung Dung", lúc rối rắm lại gặp cư sĩ Trạm Nhiên khuyến thinh mà thành tựu. Mắt kém, chỉ đọc miệng, môn nhân làm bút thọ. Lúc ấy ghi lại sự tích. Tắc tiêu biểu học của Thiên Đồng, phụ vào sự khéo léo. Tắc 2 xét công Nghiệm thảo của học nhân. Tắc 3, trình bày Vạn Tùng thuật lại mà không phải làm không đứt đoạn. So với Bích Nham Tập thì mỗi thiên đều có phần dạy chúng đầy đủ. So với "Thiên Thông Giáo Hải Lục" thi câu, câu chưa được chi ly hoàn bị, khi bình xướng đến chỗ then chốt, hoặc khi nhuận sắc cũng tùy thời cơ không nhân nhượng. Năm Nhâm Ngọ, Cư sĩ Trạm Nhiên viết kiên quyết đưa ra không khởi mang tiếng, lụy đến ta và người.

Ngày Tỵ năm Quý Mùi.

Vạn Tùng Giả Lão nhân phong phụ ký.

--------------------------------------

VẠN TÙNG LÃO NHÂN BÌNH XƯỚNG THIÊN ĐỒNG GIÁC HÒA THƯỢNG TỤNG CỔ. THUNG DUNG AM LỤC

Thị Giả Ly Trí ghi: Hậu học Tánh Nhất hiệu đính Đạo nhân sinh sinh khắc

QUYỂN 1

TẮC THỨ 1: THẾ TÔN THĂNG TÒA.

Dạy chúng nói: Đóng cửa ngũ say, tiếp bậc căn cơ thượng đẳng, sử dụng ngữ cú để chỉ bày, là phương tiện, tiếp dẫn hàng trung hạ. Đâu kham lên pháp đường, cố tình huyễn hoặc mọi người, có người bên cạnh không chịu ra, cũng không làm gì được Y.

CÔNG ÁN: Một hôm Thế Tôn thăng tòa, Văn Thù bạch chùy nói: "Quán rõ pháp của pháp vương, pháp của pháp vương như thế". Thế Tôn liền xuống tòa.

Sư nói: Đầy đủ 10 hiệu, ra đời quý nhất, dựng đứng lông mày, phập phòng lỗ mũi, Giảng Tứ gọi đó là thăng tòa, còn Thiền Tông gọi là Thượng đường. Các vị chưa đến pháp đường, Vạn Tùng chưa ra phương trượng, nếu khi đó biết được, đã là rơi vào thứ ba thứ tư rồi.

Tuyết Đậu nói: "Trong đạo tràng nếu có kẻ tâm cơ linh mẫn thì cần chi Văn Thù phải dùng ngôn từ tiếp dẫn, khai ngộ kiểm điểm tương lai. Tuyết Đậu không hợp muối trắng. Vạn Tùng đâu kham? Xưa, Đức Thế Tôn một hôm lên pháp tòa nói: "Hãy xem rõ pháp vương pháp. Pháp vương pháp như thế!" Thế Tôn bèn xuống pháp tòa, lại cứu được một nữa, một nữa giao phó cho Thiên Đồng, tụng rằng:

TỤNG:

Nhất đoạn chân phong kiến dã
Miên miên hóa mẫu lý cơ tuấn
Cổ miên hoàn Xuân tượng
Vô nại đông quân lộ tiết hà.

DỊCH:

(Một đoạn của nhà có thấy không?
Miên man trời đất chạy thoi nhanh
Gấm cổ dẹt thành bao Xuân sắc
Ngại gì tiết lộ bởi thần Xuân).

Sư dạy: Thiên Đồng nói: "Một đoạn của nhà có thấy không?". Lại là chỗ Thế Tôn thăng tòa hay là một đoạn chân phong chỗ Thiên Đồng nêu bài tụng là một đoạn chân phong hay là chỗ Vạn Tùng thưa thỉnh là một đoạn chân phong, như thế thì thành 3 đoạn rồi. Thế nào là một đoạn chân phong? Huống là mọi người đều có phần, cũng phải tham cho tường tận.

Lại nói: "Miên man trời đất (hóa mẫu) chạy thoi nhanh". Hóa mẫu là biệt hiệu của vật tạo hóa, Đạo giáo và Nho giáo đều có tôn chỉ nơi nhất khí, hàng nhà Phật lấy nhất tâm làm căn. Khuê Phong nói: "Nguyên khí cũng do tâm tạo ra, đều được tướng phần của A-lại-gia thức thu nhiếp". Vạn Tùng nói: Đây là Chánh tông Tào Động. Mạng mạch của Phật Tổ, then chốt nơi miệng cửa, chỗ chuyển sâu xa, sợi tơ nhã ra nơi bụng, khi dùng miên mật, đâu được đồng với nhân tà, nhân không ư? Sau đây tụng Thế Tôn chứa đựng tương lai nói: " Gấm cổ dệt thành bao Xuân sắc". Tuy là như con một gặm gỗ bỗng thành văn, đâu thể đóng cửa đẩy xe, ra cửa cùng vết. Sau này Văn Thù phân tích ngược.

Lại nói: " Ngại gì tiết lộ bởi thần Xuân", Văn Thù bạch chùy, Thế Tôn liền xuống tòa, lại đến Cadiếp bạch chùy, liền hiện ra trăm ngàn vạn Văn Thù, cùng là thời tiết như nhau vì sao nhận, thả không đồng?

Ông nói: cái nào là chỗ để lộ chúa Xuân, ân cần là hiểu rõ đinh hương kết, cành lá mọc mùa Xuân tự tại.

TẮC THỨ 2: RỖNG RANG KHÔNG THÁNH

Sư dạy chúng rằng: Bóc Hòa Tam Hiến, chưa thoát khỏi hành hình, đến sáng chiếu vào người sáng, chẳng án kiếm, khách chết chủ không chết, thích hợp giả chẳng thích hợp chân, của báu quý giá không nắm được, chỉ vớ được đầu mèo chết.

CÔNG ÁN: Lương Võ Đế hỏi Đạt Đại Ma Sư:

Thế nào là Thánh Đế Đệ nhất nghĩa?

Đạt Ma đáp: Rỗng rang không Thánh.

Võ Đế hỏi: Người đối trước mặt trẫm là ai? Đạt Ma đáp: Không biết

Đế không khế hợp, Đạt Ma bèn vượt sông đến Thiếu Lâm, xây mặt vào tường 9 năm.

Sư nói: Bát-nhã Đa-la từng dặn cho Đạt Ma Đại Sư rằng: Sau khi ta diệt độ, 6, 7 năm ông nên đến nước Chấn Đán bày ra Đại Pháp chỉ thẳng cho bậc thượng căn, cẩn thận nhanh chóng gặp nạn nên dừng ở Lạc Dương.

Lại khi ông đến Phương Nam chỗ ở, người ở đó chỉ tạo công đức, không thấy đạo lý của Phật, dẫu ông đến đó, cũng không thể ở lâu, quả nhiên sự việc đất Lương qua đất Ngụy định trị 9 năm. Thời cận đại Từ Châu pháp phó chúc cho Nhân Sơn.

Nhân Sơn nói: Con không phải là người như thế.

Từ Châu nói: Không phải người như thế, tự mình không bị tai ương đến. Nhân Sơn vì pháp nhũ tình thâm, cúi đầu mà nhận.

Từ Châu lại nói: Ông đã như vậy. Thứ nhất không được khinh thường xuất thế, nếu nhanh chóng rời bỏ, ở giữa ắt có sự trắc trở. Ở đây cùng với Đa La 3 lần phó chúc Đa Ma 9 năm, cả 2 là cùng một lúc. Cho nên Vân Khê làm bài tụng rằng:

"Qua Thu không tiếc sương, Phật giáo mãi một vị, dù cho bắt sống được, rút cuộc không mùi thơm", có thể cho là người răn dạy. Nếu là bản sắc đạo nhân, lúc ra đời tự biết thời tiết. Võ Đế tuy không khế hợp, bỏ qua vấn đề hỏi, không ngại bén nhọn, đến nay các nơi, khai đường bạch chùy, còn nói: "Những vị kiết xuất trong pháp hội, nên quán Đệ nhất nghĩa, chỉ như Đệ Nhất Nghĩa Đế, chấp nhận quán hay không?"

Vạn Tùng nói: Đệ nhất nghĩa hãy bỏ qua một bên, ông cần Thánh đế làm gì?

Thiên Hoàng nói: Chỉ biết phàm tình, không phân biệt thánh giải. Kinh Lăng Nghiêm nói: Nếu làm thánh giải, lập tức bị các tà, chỉ có Đạt Ma này nói: "Rỗng rang không Thánh, trong ánh sáng đá lữa sấm chớp, không ngại tai mắt làm. Võ Đế ngoan cố không thối lui". Lại nói "người trước mắt Trẫm là ai?" Ở nơi phần của Lương Vương cũng là tâm tốt.

Thật không biết, phần Đạt Ma giống như xây mặt vào vách ngã, không thoát khỏi lại vâng theo người "không biết", chính là hoa đẹp dễ tàn, đâu kham nổi trên tuyết thêm sương, Đạt Ma thấy y chớp mắt tức là chuyển thân, chớ đi theo con đường, người xưa có người đi, có người ở, có người im lặng, có người nói năng, tất cả đều là Phật sự. Về sau Võ Đế, quả nhiên suy nghĩ về quân tử, tự chọn bia văn khắc thấy mà không thấy, gặp mà không gặp, nay hoặc xưa, hối hận. Trẫm tuy là kẻ phàm phu, dám bắt chước sau này, từ sau Trần Võ Đế qua đời, Đạt Ma trở về Tây, Đệ nhất nghĩa đế không có người nêu, may mà có Thiên Đồng, vì chúng nêu ra, Tụng rằng:

(Rỗng rang không thánh Căn cơ xa tít,

Được chẳng trúng nhằm mũi mà quơ búa Mất không quày đầu mà rớt vào ống bễ lò Lặng lẽ ngồi yên tại Thiếu Lâm

Im lặng Toàn nêu lên chánh lệch Thu trong trăng chuyển sương vần Ban đêm sao Bắc đẩu soi cán

Y bát truyền con cháu không ngừng

Từ đó thành thuốc bệnh của trời người.)

Sư nói: "Rỗng rang không Thánh, căn cơ xa tít". Câu này do Trang Tử đưa ra, phần nhiều khác nhau, không gần nhân tình, Sơ Tổ đương thời cũng thiếu một chút phương tiện, thật không biết, thuốc không huyễn hoặc, hoa mắt, nếu không thuốc thì bệnh không lành. Lúc đầu dù cho sét đánh bên mình, mà nay đã sớm nuông chìu theo việc riêng tư, cho nên chẳng đụng vào lỗ mũi mà múa rìu. Đưa đám Trang Tử, ngang qua mộ của Huệ Tử, quay nhìn lại nói với người đi theo rằng: Người nước Dĩnh, lỗ mũi ông ta dính bùn, như cánh ruồi sai người thợ gọt giùm khắc đá. Thợ khắc nói đưa cái rìu lướt nhẹ như gió, nghe tiếng đẽo rào rào, ông ta nhắm mắt lại xuôi tay bùn hết mà mũi không hề bị thương tích. Người nước Dĩnh đứng không thể tha thứ, từ cái chết của Phu tử. Tôi không cho là chân thật, mất không quay đầu mà rơi nồi đất.

Mạch Mẫn khách đời Hậu Hán ở Thái Nguyên, từng gánh đá lấp đất không nhìn mà đi. Quách Lâm Tông thấy vậy hỏi ý nghĩa đó.

Đáp: Nồi đã bể thì nhìn nó có ích gì. Lâm Tòng lấy đó làm lạ, nhân đó mới khuyến khích đi du học.(229) Ý nói nếu Võ Đế bằng lòng, Đạt Ma chưa từng cúi mình theo người. Nếu Võ Đế không khế hợp, vẫy tay áo liền bỏ đi mà không hối hận. Trên điện Hoàng Kim buông mất diện mục, nói được nữa lời. Ở trong Thiếu Lâm 9 năm, miệng treo trên vách, mới thành tám được, như mùa Thu trăng sáng sương tỏa, dùng pháp nhãn mờ ám đến giữa đêm, liền bị kẹt ở nơi tiền khê. Nói rõ chỗ cùng cực của lý không có dẫn dụ, sông Hằng nhạt nhẽo đêm khuya vắng vẽ.

Thiên Đồng thượng đường nói: Nhất điểm trong vũ trụ chiếu cực vi, chỗ trí không công vẫn biết được, duyên tư sạch hết không có việc khác, nữa đêm sao chiếu xuống sông Hằng. Hai câu này như người câm làm thông sự giống như đến người thổ lộ không được, làm sao thầy trò có thể truyền thọ cho nhau, thuốc bệnh trị nhau, chuyển đổi không dính líu, làm sao được toàn cơ chánh lệnh, không hao tổn bao nhiêu lông rùa, Thạch nữ cầm cỏ châm vào hư không.

TẮC THỨ 3: ĐÔNG ẤN THỈNH TỔ

Dạy chúng rằng: Kiếp trước cơ phong chưa có điềm tốt, chim rùa theo lửa, một câu "Giáo ngoại biệt truyền miệng cối mọc hoa. Hãy nói còn có phân thọ trì đọc tụng không?

CÔNG ÁN: Đông Ấn Thổ Quốc Vương, thỉnh vị tổ 27 là Bát Nhã Ba La Mật Đa thọ trai.

Vua hỏi: Sao ông không xem kinh?

Tổ đáp: Bần đạo thở vào không ở cỏi âm, thở ra không tiếp cận các duyên, thường chuyển kinh như thế, trăm ngàn vạn ức quyển.

Sư nói: Tổ 27 ban đầu tên là Đồng Anh Lạc, nhân tổ 26 không bằng Mật Đa, giống như nước Đông Ấn giữ xe cho vua đi.

Sư hỏi Đồng Tử: Ông có thể nhờ việc trước kia không?

Đồng Tử đáp: Tôi nhớ xưa kia cùng sống với Sư, Sư giảng Ma Ha Bát Nhã, con thì thọ trì kinh điển sâu xa, cùng thay nhau giáo hóa, nên đợi Sư ở đây. Tổ nói với vua rằng: Đây không phải tiểu Thánh mà là ứng thân của Đại Thế Chí, vua mời lên xe đến cung điện cúng dường, cho đến mặc áo nhuộm. Tổ lấy việc của Bát Nhã Tu Đa La, mệnh danh là Bát Nhã Đa La triều đại nhà Lương cho Đạt Ma là Quán Âm, Ấn Độ cho Tổ Sư là Thế Chí, chỉ có Đức Phật A Di Đà đến nay vẫn không còn. Im lặng hồi lâu Sư nói: Thật là lưỡi.

Về sau nhờ Hoàng gia mở hội, Tôn giả làm chủ tọa, lão già này tỏ ra mê hoặc người khác, bây giờ đáng đạp nhào, dứt sự giảng nói, dù hỏi Tôn giả sao không xem kinh, thật buông không được.

Lão già này cũng không có tướng đại nhân, cầm hồ lô, chuôi ngựa bay lên, vua liền lễ bái, biết rất là đau đớn.

Vạn Tùng nói: Quốc Vương tham một hạt gạo của người Tôn giả sẽ mất lương thực vạn năm, chỉ biết cầm cây sắt chọc trời, bất giác đầu óc choáng váng, như muốn đỡ dậy ngoài Thiên Đồng.

TỤNG:

"Vân tê ngoại nguyệt xán hàm huy
Mộc mã du xuân tuần bất ly
My để nhất song hàn bích nhã
Khán kinh na đáo thấu ngưu bì."

DỊCH:

Trâu mây giỡn nguyệt sóng miên man
Ngựa gỗ chơi Xuân chẳng buộc ràng
Dưới mày ngọc lạnh xanh đôi mắt
Nào phải da bò mới xem kinh.

TỤNG:

Minh bạch tâm khởi khoáng kiếp
Anh hùng phá trùng vi
Diệu viên xu khẩu chuyển linh cơ
Hàn Sơn vong khước lai thời lộ
Thập Đắc tương tương huề thủ quy.

DỊCH:

Rõ ràng tâm siêu muôn kiếp trống
Anh hùng ra sức phá vòng vây
Trời nhiệm lời yếu chuyển linh cơ
Hàn Sơn quên mất đường xưa lại
Thập Đắc song song nắm tay về.

Sư nói: 2 câu phá đề, bài Tụng không ở cỏi âm, không theo các chuyển lại Tạng giáo Pháp số, có 5 ấm, 12 xứ, 18 giới, phân làm 3 khoa, Tôn giả lược nêu đầu đuôi, tóm thâu trong đó.

Phạm ngữ là An Na Bát Na, Hán dịch là xuất tức nhập tức pháp kia có 6: 1) sổ, 2) tùy, 3) chỉ, 40 quán, 5) hoàn, 6) tịnh. Đầy đủ như chỉ quán Thiên Thai, rỏ ràng người thông minh biết hết, Quy Sơn cảnh sách nói giáo lý chưa từng để trong lòng, huyền đạo không nhân khế ngộ luận Bảo Tạng có thể tiếc, của báu vô giá, ẩn nơi hang ấm nhập, lúc nào thì được linh quang sáng soi thoát khỏi căn trần, Thiên Đồng Vân dạo chơi với mặt trăng chiếu sáng rực rỡ, thơ xưa có Tê nhờ đạo chơi trăng mà vằn mọc sừng, thật đáng tiếc ngôn ngữ tính ra theo văn mới tình tư, ngựa gổ dạo chơi xuân chẳng buộc ràng. Đây là tụng ra vào không liên quan đến các duyên, có thể nói Thiện hạnh không để dấu vết.

Dưới mày ngọc lạnh xanh đôi mắt.

Lạc Phó nói: Chỉ rõ pháp nhãn của mình là chưa rõ, người này phỉ đủ, nếu muốn có con mắt Viên minh chỉ trừ bỏ ở cỏi âm liên quan đến các duyên trong rừng không có bóng, trăng trời treo cao không nảy trên cành, thiếu ánh sáng không phân biệt mùa Xuân, mùa Thu mới được, xem kinh đâu đến thủng da trâu.

Trường Khánh nói: Mắt có lỗi gì? Kinh Lăng Nghiêm nói: Nay ông xem kỷ Thánh chúng trong hội này, dùng mắt theo dõi, mắt ấy thấy khắp, chỉ như trong gương không có phân biệt, ở đây sai lầm. Dược Sơn nói: Da bò cũng phải lũng.

Vạn Tùng nói: Lại đủ Kim Cang Nhãn, rõ ràng tâm vượt qua nhiều kiếp.

Tam Tổ nói: Nhưng không có ghét thương bổng nhiên rõ ràng, một niệm vạn năm, thọ trì không hết.

Lộc Môn nói: Khắp đại địa là 1 quyển kinh của học nhân, hết thảy càn khôn là con mắt trí tuệ chân thật của học nhân, dùng con mắt này, đọc kinh như thế, ngàn vạn ức kiếp thường không gián đoạn.

Vạn Tùng nói: Xem đọc không dể, sức anh hùng phá lớp vây, về sau Hán Vương chạy đến Đế Vương, Tầm Vương Ấp đến Côn Dương, vây Quang Vỏ vài mươi lớp Quang Vỏ binh yếu mà muốn đầu hàng Tầm Ấp, Ấp không chịu, Quang Vỏ mới cũng cố các tướng, xuất binh đánh chiến. Tầm Ấp đại bại, Tôn Giả văn vỏ song toàn, xuất tướng nhập tướng, cõi âm các duyên, không chỉ là lớp vây. "Diệu Viên Xu khẩu chuyển linh cơ", gọi là chốt cửa cổ Nhĩ Nhũ.

Quách Phát Như nói: Cánh cửa là xu, nước chảy không nhục cánh cửa giữa không có một, nói đó là sống. Tôn giả không gật đầu mà đi trước, chưa vặn mà tự xoay, bên này bên kia không thể không thể. Thiên Đồng rẻ các lựa vàng, phân tinh bẻ 2, phán xét hết, 2 câu sau lại vừa nói, lúc Hàn Sơn quên đường về, Thập Đắc dắt tay trở về, Đây là bài tụng Quốc Diên Hải chúng dùi giấy qua cửa sổ, Tôn giả Lão Bà lược nêu, Câu Liêm trở về Nhủ Yên, không chỉ đưa ra Si Đăng, dùng thơ Hàn Sơn, như tiết tấu phù hợp. Thơ ghi: "Muốn có nơi yên thân, Hàn Sơn có thể giữ lâu, gió nhẹ thổi cây tùng lay gần nghe càng thích, ở dưới có người già, Hoàng Lão đọc lẩm nhẩm, 10 năm về không được, quên mất lối nẻo về Lư khưu tìm hỏi sau này dẫn tay cùng Thập Đắc ra cửa tùng lại không trở về chùa".

Có bản ghi: "Hoàng Lão đọc lẩm nhẩm, bài tụng nói yếu chết quên về chỉ đường cho người mê". Về sau Hoàng đế Trang Tông đời Đường, thỉnh Thiền Sư Hưu Tỉnh ở Hoa Nghiêm vào cung thọ trai, Đại Sư Đại đức đều xem kinh, chỉ một mình Sư im lặng.

Hoàng Đế hỏi: Sao Sư không xem kinh?

Tỉnh đáp: Nói yên bình mà không truyền lệnh cho Thiền Tử, lúc Thanh Hưu xướng bài ca Thái Bình.

Hoàng Đế nói: Một mình Sư không xem thì được, đồ chúng sao cũng không xem.

Tỉnh đáp: Trong hàng không có thú (....), chỗ vi chúa đi không để lại dấu vết:

Vua hỏi: Đại Sư đại đức vì sao xem hết? Tỉnh đáp: Sứa nuốt vốn không có mắt, tìm cầu thức ăn phải nhờ vào tôm tép, Hoàng Đế rất vui vẻ, huống gì Tổ Sư Tôn Giả từ kiếp xa xưa đến nay, hiện là Đại Thế Chí tụng rất nhiều Tu Đa La, nhân đây Sư được gọi là Bát Nhã Đa La. Vốn là tập khí xưa nay không thể từ bỏ.

Biếu Kinh Hoa Nghiêm cho người khác lại có nạp tăng lãnh hội, Vạn Tùng đến đây bất giác bậc cười, Hãy nói: Cười cái gì? Chỗ La Hán Vân Cư vẫy tay áo là khi xấy lửa mở miệng bình trà.

TẮC THỨ 4: THẾ TÔN CHỈ XUỐNG ĐẤT

Dạy đại chúng rằng: Một trần vừa khởi, thấu hết đại địa, một mình lẻ loi, khai mở đất đai, lại có thể tùy theo nơi mà làm chủ, gặp duyên tức tông chỉ là người thế nào?

CÔNG ÁN: Thế Tôn cùng đi với đại chúng, bổng Thế Tôn lấy tay chỉ xuống đất nói: Chỗ này nên xây dựng một ngôi chùa, Đế Thích đem một cọng cỏ cắm trên đất nói: "Xây dựng ngôi chùa xong rồi". Thế Tôn mỉm cười.

Sư nói: Thế Tôn nhờ trải tóc lấp bùn, dâng hoa cúng Phật Nhiên Đăng. Phật chỉ nơi trải tóc nói: "Nơi này nên xây dựng một ngôi chùa". Bấy giờ có Hiền Thủ Trưởng Giả. Cắm cọc nơi ấy nói rằng: "Xây dựng chùa đã xong", Chư Thiên rải hoa, tán thán thứ tự có trí tuệ lớn. Thiên Đồng nói: Lớn đồng, nhỏ khác". Vạn Tùng nói: Tổ nghiệp của Thế Tôn chuyển cho Nhiên Đăng, lại có trưởng giả đường đầu nhận. Nay phó chúc cho Thiên Đồng, cần phải khế hợp với văn. Tụng: (Trên đầu trăm cỏ vô biên mùa Xuân, tiện tay nắm lấy thì dùng được, thân vàng trượng sáu, công đức tụ lại đợi nhàn rỗi, nắm tay vào hồng trần ở trong trần, cảnh có thể làm chủ, hóa ngoại tự đến làm khách mời, gặp phải cuộc đời tuy phải đủ, nhưng mánh khóe hiềm nghi bằng người.

Sư nói: Thiên Đồng trước đem 4 câu tụng làm công án, sau đó phô bày nét chính khai diễn hóa phong. Triệu Châu cầm cọng cỏ, dùng làm thân vàng trượng sáu, Thế Tôn tất nhiên chỉ rỏ, Đế Thích tiện tay nắm lấy Thiên Đồng người cảnh giao thoa Tụng: "Chẳng phải chỉ có cổ thánh, ông lập tức ở trong trần cảnh này làm chủ, hóa ngoại cũng là chủ khách".

Hãy nói: Lưu phò mã ăn chơi, xây dựng viện Báo An này, cùng Đế Thích cắm cọng cỏ, giống hay khác? Sư dựng phất trần nói: Ngàn năm thường trụ nhất Triêu Tăng.

TẮC THỨ 5: GIÁ GẠO CỦA THANH NGUYÊN.

Dạy đại chúng: Diêm Đế cắt thịt nuôi dưỡng cha mẹ, không đưa vào truyện Hiếu Tử, Điều Đạt xô đá hại Phật, há sợ tiếng sét, qua được rừng gai, chặt đổ cây Thiên đàn, dù đời năm cùng tháng tận, vẫn là chén Xuân còn lạnh, Pháp thân của Phật ở chỗ nào?

CÔNG ÁN: Tăng hỏi Thanh Nguyên: Đại ý Phật Pháp là thế nào?

Nguyên đáp: Gạo ở Lô Lăng giá cả như thế nào?

Sư hỏi: Cát Châu Thanh Nguyên xuất hành tư thiền. Sư mới tham học với Lục Tổ liền hỏi: Làm việc gì để khỏi rơi vào không giai cấp?

Tổ đáp: Ông từng làm gì?

Thanh Nguyên đáp: Thánh Đế cũng không làm. Tổ hỏi: Rơi vào giai cấp nào?

Nguyên đáp: Thánh Đế cũng không làm thì đâu có giai cấp? Tổ Thầm khí trong ông ta. Học trò ở trong hội tuy đông. Sư là người đứng đầu, cũng giống như nhị Tổ không nói.

Thiếu Lâm gọi Ngài là được phần tủy. Nương vào vị Tăng này hỏi đại ý của Phật pháp cũng là bản sắc của người chốn tùng lâm, phải theo Văn Thù dạo chơi ở núi Thiết Vi. Thanh Nguyên nói Thánh Đế cũng không làm, chỉ làm kẻ tầm thường ngoái lại hỏi đạo: Gạo ở Lô Lăng giá cả thế nào? Có người nói: Giá gạo ở Lô Lăng không được bàn luận. Thật không biết, đã vào đấu bọc rồi muốn không vào Bảo xả này, nên hỏi Thiên Đồng. Tụng rằng: (Trị nghiệp thái bình không có phép tắc, gia phong của Lão già rất thật thà mặc cho thôn hát xã ca, đâu biết đức của vua Thuấn lường nhân của Vua Nghiêu).

Sư nói: Năm thứ 6, niên hiệu Thái Hòa, Dương Văn Tông, Ngưu Tăng Nhụ làm tướng.

Vua hỏi: Lúc nào thì thiên hạ thái bình?

Tăng Nhụ đáp: Thái Bình không có phép tắc, nay Tứ Di không xâm chiếm, trăm họ không ly tán, tuy không trừng trị, cũng gọi là Tiểu Khang. Nếu bệ hạ cầu thái bình thì chẳng phải thần đã đánh kịp, thối mà liên lụy đến biểu thỉnh thôi. Sau ra làm Tiết Độ Sứ ở Hoài Nam. Vạn Tùng nói: Đã đặt ra sách mẫu cho nên gia phong của lão quê đánh phá sự ca ngợi, lể nhạc văn chương đặc biệt là Thánh, giá gạo lô Lăng, có thể nắng gay gắt, đức Vua Thuấn lường nhân Vua Nghiêu, gió thấm tự hòa, thôn ca xả múa, được những điều đó sao? Trăng thanh gió mát, mỗi người yên với số phận của mình, lại lãnh hội được không? Sư bèn trở về Tăng đường.

TẮC THỨ 6: BẠCH HẮC MÃ TỔ

Dạy đại chúng rằng: Lúc mở miệng không được, người không có lưỡi biết nói nhấc chân không chỗ đứng, người chân biết đi. Nếu bỏ thân trong hang này, chết ở Câu Cú, há có phần tự do.

Khi 4 ngọn núi bức bách nhau, làm sao thoát khỏi?

CÔNG ÁN: Tăng hỏi mã Đại Sư: Ly Tứ cú tuyệt bách phi xin Sư chỉ thẳng ý của Tổ Sư cho con.

Đại Sư đáp: Tôi nay mệt mỏi không thể trả lời cho ông, ông đến hỏi Trí Tạng đi! Tăng hỏi Trí Tạng, Tạng hỏi: Sao không hỏi Hòa Thượng? Tăng đáp: Hoà Thượng dạy đến hỏi Ngài.

Tạng đáp: Nay ta đau đầu không thể trả lời cho ông, ông đến hỏi Hải Huynh đi Tăng hỏi Hải Huynh, Hải nói: Ta đến ở đây, lại chưa lãnh hội được Tăng trở về kể lại cho Đại Sư.

Đại Sư nói: Tạng đầu bạc, Hải đầu xanh.

Sư nói: Lục Tổ bảo Nhượng Hòa Thượng rằng lời sấm của 27 vị Tổ ở Ấn Độ, dưới chân ông sinh một con ngựa con, dẫm chết người trong thiên hạ, căn bệnh trong tâm ông, không cần nói vội, sau ma Bạc đánh trâu, ngựa thần vào chuồng ngựa, hiệu là Mã Tổ. Lúc trâu đi hổ thấu, kéo lưới tới lỗ mũi, dưới chân có luận văn.

Trí Tạng Hải Huynh chính là Tây Đường Bách Trượng xem vị Tăng này đến, cũng là người học Phật pháp, đem tứ cú Bách phi, nên xem kỹ Tông chỉ Giáo ngoại biệt truyền.

Luận Nhiếp Đại Thừa nói: Có là thêm sự phỉ báng, không là giảm sự phỉ báng cũng có cũng không ngược lại chê bai nhau, chẳng có chẳng không hí luận phỉ báng, nếu ly tứ cứ, bách phi tự dứt.

Hoàng Bá nói: Muốn lãnh hội được nhanh chóng. Tất cả đều không đúng.

Vạn Tùng nói: Vứt bỏ đầu mối lãnh hội tất cả đều đúng, phải nên xem chừng, không ly tứ cú, không tuyệt bách phi, ý của Tổ Sư Ấn Độ, không rõ chỗ nào?

Đại Sư Long Thọ nói: Bát nhã như lửa lớn 4 phía nhóm lại không thể vào lại nói Bát Nhã như mặt hồ mát mẻ bốn bề đều vào được, các nơi gọi đó mở miệng nói. Mã Tổ không vội chỉ nói: Nay ta mệt mỏi, không thể nói cho ông đến hỏi Trí Tạng đi: Quý trọng lông mày của mình, Xuyên qua lỗ mũi của Tăng kia, Tăng kia không thoát khỏi bị người khác dùng roi quất, chân thật đến hỏi Trí Tạng không bàn mà nên nói: Sao ông không hỏi Hòa Thượng? Vị Tăng này không mở mắt, nói Hòa Thượng dạy đến hỏi Ngài.

Trí Tạng nói: Nay ta đau đầu, không thể nói cho ông được, ông đến hỏi Hải Huynh đi, có thể nói không có cha thì không sinh ra con cái Tăng hỏi Hải:

Hải nói: Tôi đến ở đây lại chưa lãnh hội, lại nói đầu trắng lại có đầu đen, Tăng này tuy không có khí phách cương trực. Lại có đầu đuôi,

(231) lại nêu ra cho Mã Tổ nghe. Mã Tổ nói Đầu Tạng trắng, đầu Hải đen. Câu này nghi giết người trong thiên hạ.

Đông Lâm chiếu giáo Tụng rằng: (Bách phi tứ cú tuyệt không lời, đen trắng rỏ ràng định chánh tà)

Vạn Tùng nói: Sáng 4 chiều 3, vọng sinh hỉ nộ. Vào một ngày nọ cả ba người cùng Nam Tuyền đùa ngắm trăng

Kế đến Tổ nói: Đúng lúc này là thế nào?

Bách Trượng đáp: Đúng là lúc tu hành Tạng nói đúng là lúc cúng dường, Nam Tuyền phất tay áo liền đi.

Tổ nói: Kinh nhập vào Tạng thiền trở về Hải, chỉ có Phổ Nguyện, vượt qua muôn vật, ở đây lại phân biệt rõ ràng.

Vạn Tùng nói: Đầu Tạng trắng. Đầu Hải đen, vịt đầu xanh, nhạn đầu đỏ, 10 bóng ngựa thần đứng ở Hải Nam, 5 màu sắc rực rỡ xuất hiện ở trời Bắc, mọi người chớ dã hồ Tinh, Thiên Đồng Tự có chơn tin tức. Tụng: (Do thuốc mà làm thành bệnh, hãy xem bậc thánh trước kia, lấy bệnh để làm thầy thuốc hẳn là người nào?) Đầu bạc đầu xanh chừ đều là con một nhà. Hữu cú vô cú đều là cơ cắt đứt dòng ý thức, rành rành cắt đứt ngôn ngữ mọi người, đáng cười thay lão Tỳ Da lảo luyện.

Sư nói: Tứ cú là 4 câu chê bai, như lửa mạnh nhóm lại 4 mặt không thể vào được, tứ cú làm 4 của như 4 mặt hồ mát mẻ đều có thể vào. Vạn Tùng năm xưa là thư ký ở Đại Minh. Lúc bấy giờ Hòa Thượng Đàm Chá Hưởng đến Đại Minh, đêm hôm gõ cửa bảo thị giả, đốt hương kết duyên, Đàm Chá liền bỏ tướng kiến chấp.

Vạn Tùng cầu Sư chỉ dạy thế nào là câu sống? Thế nào là câu chết?

Chá đáp: Nếu thư ký lãnh hội được tử cú, cũng chính là hoạt cú.

Nếu không lãnh hội được hoạt cú, chính là tử cú. Lúc ấy tự nghỉ, thủ đoạn của lão tài giỏi rút cuộc riêng biệt, ngày nay thấy vị tăng hỏi: Ngoài ra Tứ cú bách phi ra chỉ nêu ra ý của Tổ, giống như 3 lão già, giống như kẻ săn. Nếu "ly tứ cú tuyệt bách phi" lãnh hội được thì tốt. Về sau Thiên Đồng, trong giấc mộng ca tụng Ngưỡng Sơn Bạch Chùy nói: Ly tứ cú tuyệt bách phi, bệnh của cha con Mã Sư dứt hết.

Vạn Tùng nói: Là Tâm hạnh gì? Đầu bạc đầu đen đều là con trong nhà của Chu Dịch mông quái 18 đứa con làm nên nhà cửa, có thể gánh vác gia nghiệp. Hữu cú vô cú cắt đứt đường ý thức.

Vạn Tụng nói: Chỉ có sóng ở nước trong, lại không có sóng ngập trời rành rành cắt đứt ngôn ngữ mọi người, đáng cười thay lão Tỳ Da lão luyện. Phạm ngữ Tỳ Da Ly, Hán dịch Quảng Nghiêm, là tên Thành của Duy ma ở. Văn Thù hỏi về Pháp môn bất nhị. Duy Ma im lặng Vị Tăng này hỏi cha con Mã Sư, lòng vòng khắp nơi. Hãy nói: chỗ nào là đáng cười không tránh được sự xúc chạm, ngày nay hơn trước kia.

TẮC THỨ 7: DƯỢC SƠN THĂNG TÒA.

Dạy đại chúng rằng: Mắt tai mũi lưỡi, đều có một khả năng lông mày ở trên Sỉ, nông, công thương đều quy về một nhiệm vụ, người ngu thường nhàn rỗi, bổn phận tông Sư làm sao thi hành.

CÔNG ÁN: Dược Sơn lâu rồi không thăng tòa viện chủ bạch rằng: Đại chúng từ lâu muốn được Hòa Thượng chỉ dạy, thỉnh Hòa Thượng thuyết pháp cho mọi người Dược Sơn bảo đánh chuông chúng vừa nhóm họp Dược Sơn Thăng tòa im lặng hồi lâu, lại xuống tòa trở về phương trượng, Viện chủ theo sau hỏi: Hòa Thượng mới hứa thuyết pháp cho mọi người, tại sao không nói một lời. Dược

Sơn nói: Kinh đã có kinh sư, luận đã có luận sư, sao lại trách lão Tăng?

Sư nói: Đói thì ăn, khát thì uống, cho nên Tam gia ngủ thỉnh, Bồ Tát thượng đường, nữa bài kệ toàn thân.

Dược Sơn thăng tòa, há sợ giáo pháp sao?

Thiền Sư Hoàng Long Nam nói: Bởi người đời này, khinh dể Phật pháp, rất nhiều muốn như Hiền phu luôn luôn khô cạn khiến cho khô cạn sau đó tưới lên mới được tốt tươi.

Dược Sơn lâu rồi không thăng tòa, lại không như vậy.

Giáo phạm nói: Một am cất chứa lưỡi sấm rền, theo lời dạy vạn tượng tự phân. Vĩnh gia nói: Lúc im lặng thì nói, nói thì im lặng, đại thì mở cửa không tắc nghẽn, tất cả đều là viện chủ si lầm.

Bạch nói: Đại chúng muốn thỉnh Ngài chỉ dạy, thỉnh Hòa Thượng thuyết pháp cho đại chúng trong đạo nhân nghĩa. Chủ khách chưa cho là phân ngoại. Dược Sơn bảo đánh chuông, chí thấy tín hiệu lôi đình, chúng mới vân tập, há biết so Đẩu đốt văn chương. Dược Sơn thăng tòa im lặng hồi lâu, rồi xuống tòa trở về phương trượng, một phen thần thông, không giống nho nhỏ. Viện chủ theo sau hỏi rằng:

Hòa Thượng hứa đến thuyết pháp cho mọi người, sao không nói lời nào?

Thúy Nham Chi nói: Dược Sơn xuống tòa.

Viện chủ lúc đầu sợ không thể thuyết pháp cho mọi người, có thể nói nhầm lẫn ba quân.

Vạn Tùng nói: Chính vì tướng không mạnh.

Dược Sơn nói: Kinh có kinh Sư, luận có luận sư, sao lại trách lão tăng?

Lang Da Giác nói: Dược Sơn xuống tòa, không ngại nghi ngờ.

Viện chủ đẩy ra mất đi con mắt trí tuệ chân thật. Vạn Tùng nói: Lại đầy đủ thì có thể bao nhiêu mà không đổi được 2 con mắt.

Tuyết Bảo nói: Đáng tiếc ông lão Dược Sơn nhận chịu vô cớ, hết thảy đại địa giúp người không nổi

Vạn Tùng nói: Hòa Thượng cũng phải ra tay

Vô Dư tụng rằng (Trượng thất chưa lìa đã nhận chịu, buồn rầu trở về thay đổi còn thản thương, kinh Sư luận Sư vẫn bảo nhau, nghi rõ ràng thì tự chiêu cảm.

Vạn Tùng nói: Tạo tự dể kham, công án chưa tròn, để giải thích cho Thiên Đồng, làm sao phân biệt được?

Tụng rằng:

Vòi vĩnh được tiền bé nín khe
Ngựa hay rong ruổi bóng roi tre
Trời quang dưới trăng hạc làm tổ
Sương lạnh thấy xương chẳng ngủ nghê

Sư nói: Kinh Niết Bàn nói: "Lúc đứa bé khóc, mẹ đem lá vàng, bảo cho con vàng này, đứa con hết khóc. Bài tụng này là nói muốn được chỉ dạy sao ngài không nói lời? Ngoại đạo liền lễ Phật nói: Thế Tôn rủ lòng thương xót, khai mở sự mê muội của con, làm cho con vào đạo. Ngoại đạo đi rồi A Nan hỏi Phật: Ngoại đạo thấy đạo lý gì mà nói được vào. Phật nói: Như ngựa hay thấy bóng roi liền chạy Dược Sơn và Thế Tôn, đưa cây roi tre giống nhau. Viện chủ dạy chúng Tăng lễ tán có phần, lại trách không nói lời, có thể nói nạp tăng Đông Độ không bằng ngoại đạo Ấn Độ.

Thiên Đồng tụng như thế? Vạn Tùng nói như thế là hết khóc bởi là vàng, chỉ vì các người ở trong mộng chưa tỉnh, người tỉnh ngủ gọi tiếng liền tỉnh, người ngủ nhiều hay lay mới giật mình lại có phen đánh đập, lục soát giống như tự lừa bịp so với Dược Sơn, trời tạnh hạc làm tổ, sương xuống không ngủ nghê được sương, bùn có sự ngăn cách, tuy như vậy, ăn nói rất nhiều.

TẮC THỨ 8: BÁCH TRƯỢNG DÃ HỒ

Dạy đại chúng rằng: Nhớ rõ chữ đầu tiên, ở trong lòng thì rơi vào địa ngục như tên bắn, một chút: "Dã hồ tinh" đàm dãi con chồn, nuốt vào 30 năm nhã không ra, không phải lĩnh nghiêm của Tây Thiên, chỉ bị nghiệp chó dại, đã có người phạm tội chăng?

CÔNG ÁN: Bách trượng thượng đường, thường có một lão nhân đến nghe pháp rồi theo chúng tản đi, (232) vào một ngày nọ không đi. Bách Trượng mới hỏi người đứng đó là ai?

Lão nhân nói: Vào thời Quá khứ Ca-diếp Phật, tôi từng trụ núi này. Có học nhân hỏi tôi: Bậc đại tu hành còn rơi vào nhân quả chăng? Tôi trả lời không rơi vào nhân quả, đọa làm thân chồn 500 đời.

Nay thỉnh Hòa Thượng đáp thay cho một chuyển ngữ

Bách trượng nói: Chẳng rỏ nhân quả, ông già ngay nơi lời nói này liền đại ngộ

Sư nói: Thiền Sư Bách Trượng Sơn Đại Trí ở Hồng Châu mỗi một lần thăng đường, thường có 1 lão già, khi nghe pháp Phật Ca-diếp đã từng trụ trì núi này, đáp sai 1 chuyển ngữ cho người học, đến nay đọa làm thân con chồn, bởi mình dựa tường dính vách, đẩy người rơi xuống hầm rớt xuống vực sâu, thấy đại trí dùng thủ đoạn nhổ đinh tháo chốt, liền bỏ theo họ, thỉnh Đại Trí cho một lời chuyển ngữ. Đại Trí thì vô úy biện, từ từ nói: Không rỏ nhân quả, ông già ở nơi lời nói liền tỉnh ngộ. Căn cứ vào sự thật mà luận bàn, không rơi vào nhân quả là bác bỏ không đoạn kiến, không rỏ nhân quả, là tùy dòng nước mà được sự vi diệu, người có hiểu chút giáo lý, vừa nêu ra liền hiểu, muốn cởi áo lông giống như khoác áo vẩy. Không thấy Đạo Viên Thiền sư, ở trong hội Nam Thiền sư, nghe vị Tăng nêu lời này. Một vị Tăng nói: chỉ cấp không lầm nhân quả, cũng chưa thoát khỏi thân con chồn.

Vị Tăng thứ nghe liền nói: không rơi vào nhân quả, mà sao đọa làm thân con chồn? Sư sợ hãi nói trớ đi.

Cấp Thượng Hoàng Kiệt Tích Thúy am đầu, vượt qua khe bổng tỉnh ngộ, gặp Nam Công kể lại chuyện đó, chưa chết rơi nước mắt lăn xuống gò má.

Nam Công bảo thị giả ngủ nơi cái chỏng, bỗng đứng dậy làm bài kệ không rơi không lầm; tăng tục vốn không kiêng, bậc trượng phu khí chí như vua, sao nhận mền chăn chiếu lọng, một cây gậy tha hồ tung hoành, con chồn nhảy vào đội lông vàng. Nam Công cười to, xem như thế nhân lúc thấy đạo. Xin Hòa Thượng đáp thay cho một chuyển ngữ, chỉ thích nói không rơi vào nhân quả, không được khiến cho tâm ban đầu rơi vào hầm kiến giải. Bách Trượng đến tối mới thượng đường nêu ra nhân duyên trước Hoàng Bá liền hỏi: Người xưa trả lời sai một chuyển ngữ, năm trăm kiếp đọa vào thân chồn, chuyển không đúng hợp làm gì?

Trượng đáp: Trước mắt nói cho ông Bá đến trước mặt đánh Trượng tát. Trượng vỗ đáp cười rồi nói: Nói có hồ thì đỏ, lại có đỏ thì có hồ.

Ngưỡng Sơn nói: Bách Trượng được đại cơ, Hoàng Bá được đại dụng, gọi là được không huống uổng. Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn. Hoàng Bá thường dùng diệu cơ này, hay là được sinh cỏi trời hay cỏi người.

Sơn nói: Cũng là thọ nhận ân sủng, cũng là tự tánh tông thông. Quy Sơn nói: Đúng thế! Đúng thế! Xem cha con Bách Trượng kia, du hành không sợ, như Sư tử vương, há hướng về hang con chồn làm công việc. Xương đuôi của Vạn Tùng đã lộ ra, lại làm nanh vuốt dối Thiên Đồng Tụng rằng:

Một thước nước, một trượng sóng!
Năm trăm năm kiếp trước chẳng hề gì?
Chẳng "lạc" chẳng "mờ" thương lượng đi.

Xưa rớt vừa bộng cát đằng ha ha ha hiểu vậy chăng?

Nếu mà ông liên miên lỗi lạc
Nào ngại ta ha hả cười hoài.
Thần ca Thánh múa thành ra khúc
Khoảng ấy vỗ tay hát lý la.

Sư nói: Lập phần nhân quả tu chứng, "một thước nước, một trượng sóng.

Năm trăm năm kiếp trước chẳng hề gì?" Am Tích Thúy có hai vị Tăng dẫu có tài biện luận kiểm điểm trong tương lai, chưa thoát khỏi gõ vào hang rối ren. Câu này của Thiên Đồng có chữ chưa ổn, sao không nói nương vào trước gõ vào hang con chồn.

"Ha ha ha", bài tụng này nói chỗ giác ngộ của Bách Trượng, để lộ ra cái khát vọng lãnh hội của mình sao? Chỉ hỏi Thiên Đồng lãnh hội được chưa? Nếu may mắn có một cỏi âm, không vì người khác lao nhọc sao? Bô lô ba la, Nhi nói không chân thật.

Lại Pháp Hoa Thích Thiêm nói: Phần nhiều tướng học hành, tiếng tập ngữ oa oa.

Kinh Niết Bàn nói: Có lệnh hành, anh Nhi hạnh? Có bản nói: Bà bà! hòa hòa.

Thiền Sư Thiện Đạo ở Thạch Thất nói: Trong 16 hạnh của Kinh Niết Bàn, anh Nhi hạnh là hơn hết, lúc bô lô ba la, dụ người học đạo kia phân biệt duyên lấy tâm tả, nêu thôn cả xả múa, đều là một ý.

Hãy nói: Thế nào là điệu hát? Vạn lại cố ý nghe mà không được, Hồ Nham không có lổ lại nghe được.

TẮC THỨ 9: NAM TUYỀN CHÉM MÈO.

Dạy đại chúng rằng: Đạp qua biển xanh,

Bụi bay khắp nơi. Hét vang mây trắng. Hư không tan rã. Chấp hành nghiêm chỉnh. Giống như bán đề. Đại dụng đều rõ ràng, Thi thiết để làm gì?

CÔNG ÁN: Nam Tuyền vào một ngày nọ, thấy đường tranh cãi con mèo (Nam Tuyền thấy liền cầm lên nói: Nói được thì không chém chúng không trả lời Tuyền chặt con mèo làm 2 khúc. Tuyền lại nêu ra câu trước hỏi Triệu Châu, Châu liền cỡi giày ra, đội ở trên đầu.

Nam Tuyền nói: Nếu có ông, thì cứu được con mèo.

Sư nói: Thiền Sư Thiên Thông Tú ở Pháp Vân, thấy 2 vị Tăng đang đứng nói, liền xuống đất dộng gậy dộng một cái nói: Mượn hình ảnh nghiệp đạo, huống gì thủ chúng đo lường đường, tranh cãi về con mèo.

Nam Tuyền cũng không khuyến khích cho hiểu rõ, cũng không trừng phạt bản sắc đạo nhân.

Vì bổn phận sự, vì người liền đề khởi con mèo nói: Nói được thì không chém, trong lúc như thế, hết thảy hữu tình vô tình trong 10 phương, cùng đến cầu xin vận mệnh trong tay Nam Tuyền, lúc đó có người đi ra xòe 2 tay, nếu không như vậy sẽ bị đánh vào hông ngực nói: Lại lao nhọc thần dụng của Hòa Thượng, dẫu Nam Tuyền lập riêng chánh lệnh, dám chắc cứu được con mèo, hang chuột chết này, đã không có chút xíu hơi thở.

Nam Tuyền đã có mà không rút, theo lệnh mà đi.

Bậc Cao Tăng Liêu Kiều Thượng Nhân Khải làm cảnh tâm lục, trách móc Nam Tuyền là kẻ tạo nghiệp sát sinh. Thủ Tạo Văn là Vô Tận Đăng biện luận sai lầm.

Cứu nói: Bản xưa lấy tay làm cái thế phá hư không, há phải dứt khoát ngay, ngay, máu tươi ướt đẫm.

Hai điều này phê bình người xưa, Văn Công tội nặng, Khả công tội nhẹ, Nam Tuyền vẫn như xưa, ở trong bầy trâu, lắc đầu vẫy đuôi, không thấy Thiền Sư Phật Nhật uống trà cùng đại chúng thấy con mèo đến, ném con chim bồ câu trong tay áo ra cho nó, mèo liền tha đi.

Phật Nhật nói: Tài giải sao không thể làm giả làm hư dụng. Nam Tuyền tự nghĩ, uyên thâm qua ít người hiểu được, nêu lời ấy hỏi Triệu Châu. Châu liền cởi giày đội ở trên đầu, quả nhiên vừa đi vừa hát, nhịp điệu hài hòa.

Nam Tuyền nói: Nếu có ông thì cứu được con mèo, chút chỗ tác dụng này tuy khó lãnh hội nhưng lại để thấy, chỉ cần ông dơ muỗng đưa đũa thì thấy phá, thì thấy giết con mèo, đội giày lại việc giống nhau, nếu không thì thấy Thiên Đồng làm việc kỹ lưỡng khác sao?

Tụng rằng: hai nhà mây nước lắm phiền hà.

Vương lão Sư tăng nghiệm chánh tà, dao bén chặt lìa đều mất dấu.

Thiên cổ bảo người mến tác giả. " Đạo này chưa mất, tri âm khá khen! Đẽo núi thấu biển hề chỉ tôn Đại Vũ.

Đội đá vá trời hề (233) riêng hiền Nữ Oa. Triệu Châu riêng có chỗ sanh nhai

Đến trong chỗ khác toàn soi tỏ Dép rơm đầu đội có chi sai

Chỉ có vàng ròng chẳng lẫn sa (cát).

Sư nói: Hai đường mây nước đôi chiều, đến nay chưa từng định liên can. Nếu không phải Thiên Đồng biết Nam Tuyền thử nghiệm tìm ra đầu mối, thường thường tà chánh không phân biệt, khi tà chánh rõ ràng thì làm sao phán đoán? Kiến bén chặt đứt chôn chung 1 hầm, chẳng những đánh dẹp tạm thời chưa rõ công án, cũng cho rằng cả thế giới mát mẻ ở phía dưới ngọn gió của thời xưa, khi ấy Nam Tuyền là thầy thắng, trò mạnh, thấy đại chúng không nói, liền nêu lên cho Triệu Châu, biểu hiện rõ trong chúng có người. Triệu Châu cởi giày đội trên đầu đi ra, qua nhiên lời này chưa mất, tri ân đáng ưa.

Khổng Tử nói: Trời sẽ chưa làm mất văn, xem thầy trò họ cùng nhau nói ca hát, mà không cho dẫn dụ, Thụy hiệu là Pháp. Nguồn gốc lưu thông của Nam Tuyền gọi là Vũ, lại tu tập thiền định thành công gọi là Vũ, Thượng Thư Vũ Công, Đạo Hà Tích Thạch đến ở Long Môn, Hoài Nam Tử và họ Công binh mạnh mẽ hung bạo thì tranh giành công lao với Vua Nghiêu, kiệt sức không bắt được Chu Sơn mà chết, trụ trời bị bẽ gãy.

Nữ Oa mài đá màu giúp trời, Liệt Tử. Âm dương mất độ danh thiếu, tinh chuyên mài giũa. Ngũ thường gọi là cầm lộng mây che Động Sơn thì Thái Thủ Tòa, quả nhiên nói: Động Sơn tuy có cái chùy đập phá hư không những không có kim chỉ khâu vá. Nam Tuyền như Đại Vũ xem núi thấu biển, hiển bày thần dụng. Triệu Châu như Nữ Oa mài đá giúp trời, thoại đầu được đầy đủ Vạn Tùng nói: 18 Thượng Giải của Triệu Châu tan nhà nát cửa, không biết có bao nhiêu sinh nhai, đội giày trên đầu khá hơn chút ít.

Than ôi! Không có chỗ để thực hiện ý tưởng này. Bảo Phước Triển nói: tuy như vậy chính là giày cỏ rách, Nam Tuyền nói: Nếu ông còn sẽ cứu được con mèo.

Thúy Nham Chi nói: Đại tiểu Triệu Châu chỉ có thể tự cứu phóng qua việc hướng thượng.

Thiên Đồng nói: Là trong cái lạ lại xem rỏ ràng, chỉ có vàng thật không có cát lẫn lộn, chỉ có thể thuận gió đẩy thuyền, không biết ngược gió cầm lái, mà nay một đội này của ông đến đây, mèo lại không có, mèo lại không liền lấy gậy đuổi ra.

TẮC THỨ 10: BÁ TỬ ĐÀI SƠN

Dạy đại chúng rằng:

Có nắm thì có buông Cây gậy tùy thân Hay giết hay tha Quyền hành trong tay Ngoài quỷ thần lao Đều chỉ tay hô

Sơn Hà đại địa đều thành đồ chơi. Hãy nói: Đó là cảnh giới?

CÔNG ÁN: Trên đường đến Đài Sơn có bà già.

Có vị Tăng hỏi: Đường đến Đài Sơn đi về hướng nào?

Bà già nói: Lên ngựa đi thẳng Vị Tăng liền đi Bà già nói: Hay nhỉ ông Sư này đi như thế.

Tăng nêu ra cho Triệu Châu.

Triệu Châu nói: Đợi đấy. Cùng xem xét qua, Châu cũng hỏi như trước đến ngày thượng nói: Ta cho ông tra xét đánh bà già.

Sư nói: Đường đến Đài Sơn có 1 bà già, thói quen tuy không ra chùa vào chùa, tham cứu nhiều về Ngài Văn Thù trước ba sau ba phàm thấy vị Tăng hỏi đường đến Đài Sơn đi về hướng nào? Thì lập tức chỉ con đường lớn ở Trường An.

Cứ đi thẳng, vị Tăng kia không nghi ngờ liền đi.

Bà già nói: Hãy nghĩ lão Tăng này đi như thế. Là cái dùi ở trong tay bà già này. Từ trước đến nay dối lầm bao nhiêu kẻ hiền lương vị Tăng này đã không làm sao được y bèn nêu lên cho Triệu Châu. Triệu Châu nói: Đợi đấy, cùng xem xét thử.

Nghi ngờ giết người trong thiên hạ, lão già này tâm không trụ, tính cái gì, chắc chắn phải định giáo nghĩa Thiền Tông, Triệu Châu dựa vào trước để hỏi như thế. Còn bà già dựa vào trước trả lời như thế đã biết trước mà nói bị đánh cho 2 gậy. Đoạn trước điểm vị Tăng này giúp đỡ bà già, đoạn sau điểm bà già giúp đỡ Triệu Châu.

Chỉ có Huyền Giác nói: Trước vị Tăng hỏi đáp như thế, sau Triệu Châu đến hỏi đáp như thế

Hãy nói: Chỗ nào là chỗ để khám phá? Vạn Tùng nói: Khám phá rồi

Lại nói: Không những bị Triệu Châu khám phá, mà cũng bị vị Tăng này khám phá

Vạn Tùng nói: không những lụy đến Huyền Giác mà cũng liên lụy đến Vạn Tùng.

Lang Da nói: Đại Tiểu Triệu Châu đi trong tay bà già này sẽ tan thân mất mạng

Tuy như thế, nhiều người hiểu sai lầm. Vạn Tùng nói: Rất kỵ, suy bụng ta ra bụng người

Quy Sơn sáng suốt nói: Nạp Tăng trong Thiên hạ chỉ biết hỏi đường bà già, lại không biết chân lún bùn, nếu không có lão già Triệu Châu, tranh cải hiểu hiện được công lao chiến đấu khó nhọc tuy phải nhờ Thiên Đồng ca dương mới được, Tụng rằng: (Tuổi lớn kinh nghiệm không truyền sai. Triệu Châu Cổ Phật nối Nam Tuyền. Rùa già mất mạng do tranh tượng. Ngựa hiền theo gió lụy dây cương, khám được Thiền của lão già thuyết phục người trước không cần đến tiền).

Sư nói: Quỷ mị cho là yêu thông thành tịnh, Chú dược cho là y thông thành tịnh, Thiên long cho là báo thông thành tịnh, Hiền Thánh cho là thần thông thành tịnh, Phật Tổ cho là đạo thông thành tịnh. Nam Tuyền Triệu Châu và Phật Tổ là bậc thượng nhân, đâu kham nổi tuổi già, cho nên nói: Tuổi già thành tịnh. Triệu Châu Cổ Phật nối Nam Tuyền

Mã Tổ nói: Kinh nhập Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Nam Tuyền vượt qua muôn vật, Triệu Châu lấy Trường Sa làm bạn, lấy Nam Tuyền làm thầy cho nên xem xét kỹ, chẳng được mất hơn thua đáng phẩm cách, thiên hạ gọi đó là cửa ải của Triệu Châu. Cũng không ngại khó vượt qua.

Tuy Trọng Ni có nói: Rùa thần hay ứng mộng với Vua Nguyên, mà không thể thoát khỏi lưới của ta, 72 khoan của Trí Năng mà không tiếc kế sách, mà không thể tránh được tai họa mổ bụng, như thế thì trí có chỗ khốn cùng thần thông có chỗ không bì kịp.

Trang Tử nói: Tông Nguyên quân nằm mộng thấy có người xuất gia nói: Ta từ vực sâu của con đường khổ đầu, ta bị Thanh Giang bắt đến chỗ Hà Bá.

Tôi được thức ăn của người đánh cá, xem kỹ nó là con rùa vàng, người đánh cá quả thực có thức ăn, giăng lưới bắt được con rùa trắng, nó dài 5 thước, vua muốn cứu sống nó, xem bói nói: Rùa chết cho là điềm lành, mới mổ rùa ra, 72 cái khoan mà không tiếc kế sách, chính là việc đó vậy.

Lạc nói: Muốn biết kẻ thượng lưu, không được đem ngôn giáo của Phật Tổ dán ở trên trán, như rùa mạng mưu kế là điềm báo mất mạng, chim phượng sa lưới vàng hướng về trời cao, thì còn mong muốn gì nữa? 8 con ngựa quý của Chu Mục Vương, cởi mây mà đi nhanh hơn cả chim bay, cho nên ngựa hiền theo gió. Bài tụng này nói Bà Già hay khám phá lão Tăng, mà không thoát khỏi sự khám phá của Triệu Châu, Triệu Châu có thể khám phá không tránh khỏi sự kiểm điểm của Lang Da. Thiều Tông gọi đó là pháp vàng phân, không hiểu như vàng, khám phá như phân. Cho nên nói: Muốn nói người trước không cần đến tiền, chỉ cần ông xa lìa tình lượng được mất thắng bại, tự nhiên như bà già này, thì thấy Triệu Châu như đến cửa của Vạn Tùng, không được đội tấm ván trên đầu.

TẮC THỨ 11: HAI CĂN BỆNH CỦA VÂN MÔN

Dạy đại chúng rằng:

Người không có thân bệnh tật
Người không có tay lấy thuốc
Không người có miệng uống ăn
Không người có nhận an lạc

Hãy nói: Người bệnh nặng làm sao chữa trị?

CÔNG ÁN: Đại Sư Vân Môn nói: Anh sáng không thấu suốt có hai căn bệnh, (234) tất cả chỗ không rỏ ràng, vật trước mắt là một, thấu suốt được tất cả pháp không, giống như có vật gì dấu dưới đất, cũng chính là ánh sáng không thấu suốt.

Lại nữa, pháp thân cũng có 2 căn bệnh, đắc được pháp thân là chấp pháp không quên, đã thấy tồn tại, và rơi vào bên pháp thân là một, mặt dấu thấu hiểu được những bỏ qua thì không thể, trong tương lai sẽ kiểm điểm tử tế, có hơi thở đó, cũng là bênh.

Sư nói Hòa Thượng: Triệu Châu Càn phong nối pháp với Động Sơn, Ngộ Bổn.

Vân Môn tham cứu khắc đã gặp Sư và Tào Sơn, Sơn tắc công án này có nguồn gốc trước tiên

Càn phong bảo chúng rằng: Pháp thân có 3 thứ bệnh, 2 thứ ánh sáng, mà mỗi mỗi đều thông suốt được, lại nên biết chỗ thiện pháp chí cực vi diệu, Vân Môn ra giữa chúng nói: Chỉ như trong am, vì sao không biết việc ngoài am Phong cười ha hỏi Môn nói: Giống như chỗ nghi của học nhân. Tâm hạnh của ông là thế nào?

Vân Môn nói: Cũng cần Hòa Thượng giúp đỡ cho.

Phong nói: Ắt phải làm như thế mới được ngồi yên.

Vân Môn nói: kia kìa

Càn Phong nói: Pháp thân có ba thứ bệnh.

Vân Môn nói: Pháp thân có hai thứ bệnh

Khi Vạn Tùng hành cước, khắp nơi luận bàn nói: Đi chưa đến đã đến ở, thong dong tự tại, là ba thứ bệnh:

Nay nói hai thứ: Ít chưa đến lại đi làm, hai thứ bệnh sau hiển nhiên đại đồng.

Hòa Thượng Phật Nhãn nói: Cưỡi lừa là một, cưỡi lừa không chịu xuống cũng là bệnh, chính là hai thứ bệnh trước thiếu một thứ bệnh sau.

Sư gia tạm thời mang bệnh trên mình, đều tùy phương tiện, hai thứ ánh sáng đó và ánh sáng không thấu suốt có hai thứ bệnh không phân biệt. Lại tất cả nơi không rõ ràng, các vật trước mắt là một.

Động Sơn nói: Rõ ràng thấy mặt không biết chơn, đâu thể mê mờ. Quên đầu trở lại nhận bóng, nếu dùng định thấy trời đất, không sót một chút nào cả, mới được chút phần tương ứng.

Lại nói: Thông suốt được tất cả pháp không, giống như có một vật ở dưới đất, cũng chính là ánh sáng không thông suốt.

Quy Sơn đã nói: Không có một pháp nào đúng với tình, cái thấy còn ở nơi cảnh.

Kinh Lăng Nghiêm nói: Dẫu diệt tất cả thấy, nghe, biết giữ gìn.

Sự thanh vắng bên trong, như còn là việc pháp trần phân biệt bóng.

Nam Viện Ngung nói: Lúc bấy giờ ta giống người đi trong bóng đèn, cho nên nói: Cũng là ánh sáng không thông suốt. Suốt lên tông phong tỉnh lặng chùm nước chết, nay lại quấy động lên, đó là 2 thứ bệnh nhưng ông ra không được đáp ứng, vào không ở nơi hư không, ngoài không hay nhảy, trong không trụ ở định, tự nhiên là 3 bệnh. Hai ánh sáng thông suốt cùng một lúc, về sau thông suốt hay không thông suốt bỏ qua một bên, tương lai sẽ kiểm điểm kỹ, có hơi thở gì cũng là bệnh, làm sao được an vui rồi, lại thỉnh Thiên Đồng Cẩn hầu.

Tụng rằng: Sum la Vạn tượng đều cao ngất, thấu suốt khắp nơi không ngại nhãn tình, quét sạch môn đình an có sức, ấn dấu trong người thành sự tình, thuyền ngang qua sông trùm trời Thu, mái chèo vào hoa lau chiếu so tuyết, lão ngủ xâu gấm để ở chợ, chiếc lá bay phất phới theo làn sóng.

Sư nêu: Kinh Pháp Cú ghi: Sum la và vạn tượng đã ổn định pháp, một tức là vạn, vạn tức là một, chính là vật này, không phải vật khác, mặc cho cao ngất, ruộng hoang mà cỏ không mọc, đất sạch lại người mê. Mặc dầu thấu hiểu tất cả chính là chỗ ngăn ngại con mắt.

Kinh Viên Giác nói: Đối với các vọng tâm cũng không dứt.

Động Sơn nói: Mạ linh cỏ thần, cha quê buồn rầu cày cấy: Sao phải quét sạch môn đình kia? Tất cả pháp của hư không.

Vân Môn nói: Khắp nơi nơi không rõ ràng, tất cả vật trước mắt là một, không phải dạy ông bỏ cảnh huyễn cảnh, diệt tâm huyễn, tìm riêng nơi thông suốt.

Tam tổ nói: Sáu trần không ghét, thì trở lại đồng với chánh giác, và kinh Viên Giác biết huyễn lập tức xa lìa, không làm phương tiện, lìa huyễn tức là giác, cũng không tiệm thứ dần, liền thấy tác, chỉ, nhận, diệt như hộ pháp và người đất đều trái nhau.

Lại nói: Dấu kín trong bụng người lần lần thành sự tình, bài tụng giống như tất cả vật chôn vùi dưới đất, chính là viên giác còn ngã biết ngã, thầm kế mạng Như Lai, bệnh của 4 tướng vi tế, cho nên phổ giác nói: Xin nguyện Thế Tôn rủ lòng thương xót nhanh chóng nói về bệnh thiền, thuyền ngang qua sông trùm trời Thu. Bài tụng này là đắc được pháp thân, buộc thuyền ở nơi nguồn nước trong.

Sơ Sơn lấy pháp thân làm cây khô, đây chính là cộc buộc lùa, chớ đợi mãi rồi quay thuyền lại, chưa thoát khỏi mái chèo, vào nơi hoa lau chiếu tuyết sáng, đến đấy thì ánh sáng chiếu vào mắt làm cho mọi người mê, rõ ràng xoay thân trở lại rơi vào địa vị. Bài tụng này du thông suốt được, phóng qua thì không thể. Đến đây Vân Môn nói hết, Thiên Đồng tụng thông suốt. Sau đó cần thấy yếu chỉ của Vân Môn, mắt của Thiên Đồng, ở đây lại là nơi mưu kế lợi hại.

Yếu chỉ của Vân Môn là thế nào? Không thấy nói: Kiểm điểm kỹ xem có hơi thở như thế cũng là bệnh. Vân Môn chỉ bệnh đó mà không bày cách điều trị.

Con mắt của Thiên Đồng là thế nào? Thuật lại phương pháp điều trị của Vân Môn.

Vân Môn nói: Tâm của Lão Ngư Xuyến Linh để ở chợ, chiếc lá bay phất phơ theo làn sóng.

Đại ý của Vân Môn, thõng tay vào chợ không tránh phong ba, có thể nói bệnh của mình đã tiêu trừ, lại thương xót cái tật của người khác, trong sạch gọi là tâm có biết chăng?

Người bệnh tật phần nhiều rành thuốc men, được kiểm hiệu mới giám truyền.

TẮC THỨ 12: ĐỊA TẠNG CÀY CẤY

Dạy đại chúng rằng:

Bậc tài cán sống bằng nghề cầm bút Bậc khéo biện tài sống nhờ ăn nói ăn?

Nạp tăng ta, lười biếng xem trâu trắng sờ sờ

Không nhìn cỏ hay không có rể, làm sao sống qua ngày?

CÔNG ÁN: Địa Tạng hỏi Tu Sơn Chủ: Từ đâu đến?

Tu đáp: Từ phương Nam đến

Địa Tạng hỏi: Phật pháp ở phương Nam dạo này thế nào?

Tu đáp: Bàn luận bao la

Địa Tạng hỏi: Làm sao như tôi ở đây cày ruộng mới được cơm

Tu đáp: Làm sao được 3 cõi?

Địa Tạng hỏi: Ông gọi 3 cõi là gì?

Sư nói: Thiền Sư Quế Sâm tại Viện La Hán ở Chương Châu, Chương Châu Ngưu Vương Công, ở núi Tây Thạch Thành Mân, xây dựng viện Địa Tạng, mời Sư trụ trì. Sau dời về La Hán ở Chương Châu, cho nên Sư có tên là Địa Tạng. Tu Sơn Chủ, Pháp Nhãn, Ngộ Không đến Sơn Chủ kết bạn ở Hồ Ngoại cùng nhau đến Chương Châu bị trở ngại mưa gió, nước lớn cản trở, ở lại Viện Địa Tạng tại phía tây Thành, vây quanh là lửa thấy Địa Tạng, nếu không có người Tạng muốn kiểm nghiệm lại mình cũng gần lửa.

Mới nói: Có chút việc phiền đến ông hỏi được không?

Tu đáp: Có việc gì cứ hỏi

Địa Tạng hỏi: Sơn, hà, đại địa và các Thượng Tào là giống hay khác nhau?

Tu đáp: Là khác

Địa Tạng đưa 2 ngón tay.

Tu nhanh chóng hỏi: Là giống hay là khác?

Địa Tạng cũng đưa 2 ngón tay lên

Pháp Nhãn nói: Viện chủ đưa 2 ngón tay lên ý ông thế nào?

Tu nói: Nổi loạn

Nhãn nói: không được dùng tâm thô tháo mà khinh người khác

Tu nói: Miệng chuốt há có ngà voi, hôm sau từ biệt, đến chỗ ngủ trước

Nhãn nói: Chủ Sư huynh đi trước.

Tôi theo Địa Tạng hoặc nơi ưu điểm, nếu không thì đến tìm ông Nhãn vấn đã lâu: Tu đợi 3 người kia cùng nhau đến Địa Tạng, liền hỏi: Gần đây Phật pháp ở Phương Nam thế nào? Bấy giờ thì rất tốt, Sư nói cuộc sống thường ngày cho mọi người

Lại nói: Luận bàn sôi nổi (235) tự lãnh xuất đầu cũng không biết Địa Tạng hỏi: Làm sao như tôi ở đây cày được, mới được cơm ăn, bấy giờ thì tốt, nói như thế thì chẳng những chỉ có Phương Nam, làm sao được 3 cỏi? Làm liên lụy đến Thiền khách Phương Nam. Tập khí của thế tục không trừ, vì Tạng có lòng từ bi, có chuyện của trẻ sơ sinh, nói ông gọi 3 cỏi là thế nào? Không bằng chỉ nói việc bận cày cấy của Lão Tăng, để tránh khỏi tình trạng lãnh hội của Thiên Đồng, Tụng rằng: (Dẹp hết tông thuyết thì không chịu khất phục đây, lưu truyền bằng tai miệng thì chi ly. Cày ruộng thường được có cơm ăn, không phải người tham cứu nhiều không biết, tham nhiều biết rõ không chỗ cầu. Tử phòng rút cuộc không giàu sang phong hầu. Quên cơ phong trở về đón chim cá. Rửa chân khói sông thu khô).

Sư nói: Thanh Lương nói: Tông Thông tu hành Thuyết Thông Tông chỉ bày chưa ngộ

Vốn kính trọng Kinh Lăng Nghiêm Phật bảo Đại Tuệ: Có 2 loại thông:

Tông thông là: Nhờ mình đắc tướng thắng tiến, xa lìa ngôn thuyết văn tự, vọng tưởng đến cỏi vô lậu, nhờ con đường tự giác cho nên ánh sáng rực rỡ, đó gọi là tướng Tông Thông. Thế nào là thuyết thông tướng? Nghĩa là nói 9 bộ nhưng vô số giáo pháp, là các tướng dị, bất dị, hữu vô, cho là phương tiện khéo léo, như đang thuyết pháp, đó gọi là tướng thuyết thông.

Dạy chúng rằng: Thuyết thông, tông không thông, như mặt trời bị mây che Tông Thông, thuyết không Thông rắn vào bọng tre

Tông Thông thuyết cũng không thông như mặt trời treo không, tông, thuyết đều không, như chó gặm cỏ tranh.

Đã phân chia tông thuyền, đã là 2 rẽ, đâu kham phân thiền 5 phái, giáo liệt vào 3 thừa. Trong đó một cũng không lập, đều không chịu khuất phục đâu. Huống gì mở miệng vào tai, xin dâng bài tụng:

Lằng nhằng dây nhợ đến Tân La
Đun nấu bình trà mãi không thôi
Không chỉ Phương Nam bàn luận sôi nổi

Nếu là người nói lửa thì không phải để đốt miệng, biến luận quanh co vốn không một chủ, cày ruộng mới được cơm tuy là nhà bình thường, không phải tham lây không biết hướng. Người xưa ở trong núi thẳm hàng ngày, bên cái cuốc nhằm phải gót chân nấu cơm, giàu không biết đủ, suốt đời không cầu người, sang không bằng thanh nhàn, đâu cần ổn định như cái đẩu.

Cho nên nói: Tham lâu biết rõ không chỗ cầu

Tử phòng rút cuộc không được giàu sang phong hầu

Sử ký Hán 6 năm phong công thần

Có người nói Trương Lương chưa hề có công chiến đấu

Cao Đế nói: Trong thì bày mưu lập kế

Ngoài thì quyết thắng ngàn dặm,

Đều là công lao của Tử Phòng

Nếu tự chọn bằng vạn nhà

Lương nói: Ban đầu than ở Hạ Phi và Thượng Hội, nay trời đem thần giáo cho bệ hạ, trong thời gian dùng mưu kế của thần mà được vui vẽ, thần nguyện phong chức là đủ rồi, không giám gánh vác 3 vạn hộ.

Bài tụng này không phải khai đường giảng pháp dọa người Phương Nam, lìa sự quấy rối.

Ngư phủ làm bài ca: Sóng nước trong có thể rửa dãi mũ của ta Sóng nước đục có thể rửa chân ta

Đây chính là vượn hạc cùng hạc có chim cùng dạo. Hãy nói là người nào kẻ gánh vác bản sắc.

TẮC THỨ 13: CON LỪA MÙ CỦA LÂM TẾ

Dạy đại chúng rằng: Một mực vì người không biết có mình, hết thảy pháp bất luận là không có dân chúng, phải là ném gối gỗ hận chân tay, lúc sắp đi phải làm thế nào?

CÔNG ÁN: Lâm Tế lúc sắp qua đời, dặn Tam Thánh sau khi ta diệt độ, không được diệt độ, không được diệt chánh pháp nhãn Tạng của ta,

Thánh nói: Con đâu giám diệt chánh pháp nhãn Tạng của Hòa Thượng! Tế nói: Bổng có người hỏi ông, ông làm sao trả lời. Thánh liền hét

Tế nói: Ai biết, chánh pháp nhãn Tạng của ta thì nhìn về giá con lừa mù này tiêu diệt đi

Sư nói: Lâm Tế dặn Tam Thánh không được tiêu diệt pháp nhãn Tạng của ta.

Điều này nói với Hưng Hóa cho là Khắc Tân

Duy Na ông không lâu làm thầy xướng đạo bị phạt đuổi ra khỏi chùa, 1 loại cơ dụng thật ra là việc này.

Ngàn Phật ra đời không Tăng, ngàn Thánh nhập diệt không giảm, há tứ. 1-> 3 bậc Thánh có thể hưng diệt ư? Người xưa lâm chung hiểu rõ việc này, cũng biểu lộ quả nhiên Tam Thánh ra nói: Đâu dám diệt chính pháp Nhãn Tạng của Hòa Thượng? Như người bị chửi không can tâm chịu đựng. Bấy giờ chỉ là bổn phận lo liệu. Chánh pháp Nhãn Tạng, chưa bị tiêu diệt, liền nói: Bổng nhiên có người hỏi ông, thì ông làm sao đáp? Sẽ đoạn không đoạn trở lại khiến cho nó nổi loạn. Thánh liền hét, đời trước sau, trong cửa thoát thân tai điếc 3 ngày liền, không giống như cái hét ngày nay.

Tế nói: Ai biết chánh pháp Nhãn Tạng của ta thì nhìn về giá bên con lừa mù này tiêu diệt đi.

Lúc đó Môn phong của Lâm Tế, tự có chánh lệnh đáng tiếc bỏ qua, không biết Thiên Đồng làm sao phán quyết.

TỤNG:

Nữa đêm y bát truyền Huệ Năng
Rối loạn Hoàng mai bảy trăm Tăng
Một chi Lâm Tế, Chánh Pháp Nhãn
Lừa mù diệt mất, người đắc đâu?
Tâm Tâm ấn nhau, Tổ Tổ truyền đăng
Khỏa bằng núi biển Biển hóa đại bàng
Chỉ danh ngôn ấy khó suy lường
Đều là thủ đoạn thoát bay lên!

Sư nói: Hoàng Mai thầm phó chúc 20 năm, Nam Bắc phân tranh Lâm Tế truyền đến nay có người không được tiến cử

Cách thủ đoạn này, đáng được chim bằng biến hóa, Man Di San bằng biển núi.

Đại Quý Tý nói: Người xưa bổng chờ cái chết đến, vì sao chánh pháp Nhãn Tạng. Lại nhìn về phía bên con lừa mù tiêu diệt đi?

Lâm tế mưu kế nhanh chóng, Tam Thánh lại vội vàng, nhân cha con mày quên tình, mới khiến cho người sau thất vọng.

Nếu không được dòng chảy, lại phải qua núi khác. Bổn Lục Tam Thánh liền lễ bái, chưa phải là tâm tốt, Lâm Tế mới phó kệ rằng: Dòng chảy không dừng biết hỏi ai, Châu chiếu vô biên nói tự người, lìa tướng lìa danh người không lãnh, thởi lông dùng đến phải cần mài

Sư nói xong kệ nghiễm nhiên thị tịch. Công án Thiên Đồng đưa ra vừa đúng chỗ liền dừng.

Lễ bái Tam Thánh.

Lâm Tế nói kệ: Phần nhiều có chỗ phóng qua buông bỏ Còn có cùng người xưa thở ra chăng?

TẮC THỨ 14: THỊ GIẢ KHUẾCH RÓT TRÀ

Dạy đại chúng rằng: Cầm cây sào ở trong tay, bóng cỏ tùy thân, gân buộc sắt, có khi lụa giữ đá Lấy cương quyết định như tính như thế. Gặp mạnh thì yếu việc thế nào?

Nêu: Thị Giả Khuếch hỏi Đức Sơn: Từ trước tới nay chư Tổ đi lối nào?

Sơn đáp: Thế nào thế nào

Khuếch nói: Ra lệnh ngựa rồng bay, rùa từ từ thò đầu

Sơn, liền thối đi. Ngày sau Sơn ra tắm, Khuếch rót trà cho Sơn, Sơn vỗ vai Khuếch 1 cái.

Khuếch nói: Lão già này mới liếc qua, Sơn lại nín lặng Sư nói: Đức Sơn tầm thường

Thổi gió làm mưa Trách Phật mắng tổ

Lão Tăng này phạm tội tày trời, làm sao bỏ qua được?

Thật không biết, đánh trâu không dùng roi, giết người không dùng dao như từng bỏ qua.

Lão Hoàng Long nói: Đức Sơn vừa điếc lại vừa câm (236) Dẫu tối tăm mà được tiện lợi. Khuếch bịt tai ăn trộm chuông, làm sao làm cho người bên cạnh tĩnh. Vạn Tùng nói há chỏ ăn trộm chuông. Như Cửu Trùng Uyên, phơi rồng dưới trăng, chọn châu đáng giá lúc rộng ngủ say. Nếu lúc thức ăn là muối dưa.

Đại Quy Khiết nói:

Nếu không lên long môn
Đâu biết biển cả rộng lớn
Dù cho sóng vỗ muôn trùng
Sao Long Vương không nhìn lại?

Vạn Tùng nói: Mảy cây không đủ cho là quái lạ

Phật Quả nói: Đức Sơn dù là kẻ bạo ác, thấy vị Tăng này không phải người dùi mài, cho nên liền bỏ đi.

Vạn Tùng nói: Người xưa gặp vật đối cơ đều có phương tiện Sơn bảo Nham Đầu rằng: ông sau này đi tiêu trên đầu lão Tăng rồi bỏ đi, về sau Nham Đầu, quả thật bảo Đức Sơn không lãnh hội câu vi diệu. Người xưa tha hồ phóng túng há có thể nệ vào được mất hơn thua. Hoàng Long, Đại Quy chỉ đưa ra đại cương. Liền xem bài kệ Thiên Đồng nêu lên thật sâu sắc, tụng rằng(Để đến lúc gặp mặt rồi biết sấm chớp, xẹt lửa chậm rì. Thâu cơ tính chủ có ý sau khinh nhà binh định chẳng lo xa. Bắn ắt sẽ trúng lại lừa dối ai. Thấy gò má phía sau não người khó xúc phạm, lông mày dính vào con mắt hề đâu được tiện nghi.)

Sư nói: Từ trước đến nay Chư Thánh, đi đường nào? Phần nhiều đương đâu thì sai trái.

Đức Sơn nói: Sao thế, sao thế! Đức Sơn bóng cổ che thân lấy gương ra soi mặt.

Thuở xưa 7 hiền Nữ dạo khu rừng Thi Đa. Có 1 người nữ hỏi: Thi chết ở đây mà người ở nơi nào? Người nữ khác nói: Thế sao, thế sao! Các người nữ nhìn nhau đều được ngộ đạo và được Thiên Đế rải hoa cúng dường, Đức Sơn dùng 1 cỏ này mượn đường đi qua chắc chắn không được lãnh hội như thế

Cho nên nói: Điện sấm lửa xẹt lại chậm. Đức Sơn há không biết thị giả phóng không qua y. làm mai làm mối vốn để cầu lợi, quả nhiên ở trong vỏ của người khác thì không được.

Bổng có người hỏi Vạn Tùng đi đâu? Chỉ vào gò má nói. Ở đây. Ắt phải là dạy rồng bay rùa rút cổ lại. Thị Giả Đức Sơn mất hết sự nhạy bén. Lại biết lão già Đức sơn chẳng lúc còn trẻ từng quyết chiến với rồng và rắn, ngược lại còn nghe bài ca của trẻ con

TẮC THỨ 15: NGƯỠNG SƠN CẮM CÁI XẺNG

Dạy đại chúng rằng:
Chưa nói đã biết trước
Gọi đó là bàn luận thầm
Không nói tự hiểu
Gọi đó là cơ tối tăm
Chấp tay trước Tam Môn
Hành đạo dưới 2 hành lang
Có ý qua mùa máy ở trên sân
Lắc đầu ở ngoài của sau
Lại là thế nào?

CÔNG ÁN: Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn: Từ đâu đến? Ngưỡng đáp: Ở trong ruộng đến

Sơn hỏi: Ở trong ruộng có bao nhiêu người? Ngưỡng cắm cái xẻng xuống, phủi tay mà đứng

Sơn nói: Nam Sơn phần nhiều có người cắt cỏ tranh. Ngưỡng vác xẻng xuống liền đi

Sư nói: Thầy trò bàn luận đạo pháp, cha con khế ngộ thiền sơ, thể gia phong của Quy Sơn mãi ngàn đời

Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn: Từ đâu đến?

Quy Sơn há không biết Ngưỡng Sơn từ trong ruộng đến, buông 1 lời hỏi này, phải gặp nhau với Ngưỡng Sơn.

Ngưỡng Sơn không cô phụ hỏi đến. Chỉ nói ở trong ruộng đến.

Hãy nói: Lại có đạo lý Phật pháp không? Quy

Sơn ở trong hang hổ sâu thẳm

Lại hỏi trong ruộng có bao nhiêu người?

Ngưỡng Sơn cắm cái xẻng, phủi tay mà đứng, thì gặp nhau, cùng Nạp Tăng, Ngài Huyền Sa nói: Nếu bấy giờ ta thấy liền đạp nhào cái xẻng

Vạn Tùng nói: Nhìn không nổi Thiền Sư đầu Tử Thanh Tụng rằng:

Chỗ Quy Sơn hỏi ít tri âm
Chống xẻng trả lời Phật Tổ giùm
Nhận đạp ngã bên Huyền Sa không chịu
Khỏi dạy Thương thay trệ vào Xuân

Vạn Tùng nói: Bệnh cỏ khô mắt cú vợ, pháp luân của Nam Nhạc, Thiền Sư bình tụng rằng: Đường lối hẹp gặp nhau không tránh được, lúc dựng xẻng phủi tay đứng, là qua được cầu đi trên bờ, mới biết toàn thân đẫm bùn lầy.

Vạn Tùng nói: Không chịu quay đầu trong trăng sáng, bài tụng của 2 lão Túc, chỉ có Tùng lạnh ngàn thước, lại xem Thiên Đồng nhảy chụp tre đá.

Tụng rằng:

Lão biết tình nhiều nghĩ đến con cháu
Mà nay hổ thẹn cả gia môn
Phải nên nhớ lấy lời Nam Sơn
Nhớ mãi không quên cùng nhau báo ân.

Sư nói: Bài tụng này như trong truyện Hàn Văn Mao Dĩnh, lý sự đều rỏ ràng, chơn tục đều nêu, nhìn đến?

Quy Sơn bị lão già thấy

Ngưỡng Sơn lấy thiên hạ làm con cháu đến đây Tăng hỏi con cọp trên núi Trường Sa, xưa nay người có thành Phật không?

Sơn hỏi: Ông nói, Thiên Tử đời Đại Đường có cắt cỏ tranh, cắt cỏ không? Biết đó là cắt cỏ tranh mới là biện sự của Thần Tử, mà nay hổ thẹn cả gia môn, ngàn năm không bóng cây.

Thời nay chìm mất đôi ủng, giữ gìn trăng ngàn núi che mặt trăng, y bát khe mây, đều là con cháu đắc lực kế thừa gia nghiệp.

Nếu biết là quần thần cha con, chẳng phải riêng Tào Động sáng lập

Cha con Quy Ngưỡng đi thực hành lệnh này. Nếu không phải Quy

Sơn điểm phá 1 bề bóng soi đầu cửa lộng hành, nấu cơm cháo. Trước lừa sau ngựa. Thì lúc sống sao lại nuối tiếc?

Cho nên Thiên Đồng dạy, nhớ lấy 1 chuyển ngữ cắt cỏ tranh của Nam Sơn, khắc cốt ghi tâm báo ân không hết

Pháp Đăng nói: Lão nhà quê gánh củi về, dục vợ làm đêm, thấy việc nhà ông ta bận rộn.

Hãy nói: Nhớ sức người nào? Hỏi ù ù cạc các, trái lại sinh nghi hoặc, thương thay người xưa nay, mấy ai biết ân đức, biết có đời sao như thế? Chặt tay không biết đau, đứng tuyết không biết mệt, cho nên lão Vạn Tùng lui tới viện Báo An

TẮC THỨ 16: TÍCH CHẤN MA CỐC

Dạy đại chúng: Chỉ con Nai là ngựa

Đào đất thành vàng
Trên lưỡi nổi sấm
Giữ lông mày che dao máu
Ngồi xem thắng bại
Đứng kiểm nghiệm sinh tử
Hãy nói: Đó là tam muội gì?

CÔNG ÁN: Ma cốc cầm tích Trượng đến Chương Kính nhiễu quanh thiền sành 3 vòng rồi động tích trượng xuống đứng lặng nói: Đúng thế, đúng thế có đến Nam Tuyền, nhiễu quanh thiền sàng 3 vòng dộng tích trượng 1 cái đứng lặng

Nam Tuyền nói: Không phải, không phải

Cốc nói: Chương kính nói đúng, Hòa Thượng vì sao nói không đúng?

Nam Tuyền nói: Chương Kính thì đúng, còn ông không đúng, đây chính là bị sức gió chuyển rút cuộc thành bại hoại

Sư nói: Ngày xưa Ngưỡng Sơn đến tạ giới Trung Ấp, Ấp ở trên giường vỗ tay nói: A da, a da Ngưỡng từ Tây sang Đông, từ Đông sang Tây: Lại trở về đứng ở giữa. Sau đó tạ giới, Ấp nói: Tam Muội này ở đâu?

Ngưỡng Sơn nói: Ở Tào con được Khê ấn khả

Ấp hỏi: Ông nói Tam Muội Tào Khê tiếp nhận người nào?

Ngưỡng đáp: Tiếp nhận thức 1 đêm

Ngưỡng lại nói: Hòa Thượng được Tam Muội này ở đâu?

Ấp nói: Được Tam Muội nơi Mã Đạo Sư

Thiền Sư Bồ Châu Ma Cốc Bảo Triệt giống như Vĩnh Gia ban đầu gặp Lục Tổ, cầm tích trượng đến. Chương Kính, nhiễu quanh thiền sàng 3 vòng rồi dộng xuống 1 cái đứng lặng cũng như học ấn khả ở Tào Khê đến. Đây gọi là Tam Muội Vương Tam Muội tất cả Tam Muội đều sinh ra từ đây.

Chương Kính nói: Đúng thế, đúng thế Vạn Tùng nói: Có gì không đúng?

(237) Hòa Thượng Thắng Mặt Quang nói: Là đúng hay là sai, phi không chơn không thị phi vô chủ. Vạn Thiện Đồng quay, chim gà đêm ngày chỉ có tự chia lìa. Ta có 3 tấc ba ba gọi là rùa, Ca-diếp không chịu, để cho cạo lông mày.

Vạn Tùng nói: Buồn chiều mau già, Ma Cốc phải khám phá đồng với mọi người. Ma Cốc từng đến chỗ Sư Trung Quốc, nhiễu quanh thiền sàng 3 vòng chấn tích trượng đứng. Quốc Sư nói: Đã hay như thế, đâu cần gặp bần đạo?

Cốc lại chấn Tích trượng, Quốc Sư nói: Dã hồ tinh này đi ra. Xem khách chủ gặp nhau, có chiếu có đụng, có đầu có đuôi, bởi nơi thuần thục, khó bỏ được thói quen đó. Lại đến nhiễu quanh giường Nam Tuyền chấn tích y như trước. Nam Tuyền lại nói: Không phải, không phải, giống như từng lãnh hội cái kế này Chương Kính.

Đại Quy Triết nói: Chương Kính nói đúng, là rơi vào vỏ Ma Cốc. Nam Tuyền nói không đúng cũng rơi vào Ma Cốc, Đại Quy thì không như vậy. Bỗng có người chấn tích trượng nhiễu quanh thiền sàng 3 vòng, rồi đứng lặng, chỉ nhìn y nói: Chưa đến nơi này, thì tốt cho ăn 30 gậy.

Vạn Tùng nói: không thể nói làm việc của người, liền đánh. Cốc nói: Chương Kính nói đúng, sao Hòa Thượng nói không đúng?

Không ngại vào nghi trước.

Tuyền nói: Chương Kính thì đúng, còn ông không đúng, gặp cơ phong thì làm, gặp nguy mới biết người.

Quốc Sư Viên Thông Thiện nói: Ma Cốc thì đúng, Nam Tuyền thì sai, lời nói đúng như Đặng Phong Vĩnh Am Chư hỏi Tăng Thẩm Kỳ: Lâu rồi không gặp ông, ông làm gì?

Kỳ nói: Gần đây gặp Vĩ Tạng chủ, được Sự an lạc.

Vĩnh nói: Thử nêu ra cho ta xem, Vĩ nhân đây thuật lại sở đắc của mình.

Vĩnh nói: Ngược không phải Vĩnh thì không đúng, Tăng ngơ ngác, trở về lời nói đối với Vĩ. Vĩ cười to nói: Ông chẳng phải Vĩnh là đúng. Ỷ chạy đến chất vấn Thiền Sư Tích Thúy Nam, Nam cũng cười to, Vĩnh nghe vậy liền làm bài kệ:

Sáng tối vùng tam cơ sống chết, cảnh giới người phổ Hiền biết được, cùng sinh không cùng tử, cười ngã cái dùi xưa của lão Am Trung Giác phạm nói: Xé lời nói của ông, có thể thấy được pháp hỷ du hý lúc ấy.

Vạn Tùng nói: Ma Cốc, Chương Kính, Nam

Tuyền cũng hưng cũng không suy. Nếu nghe đây là bị sức gió chuyển rút cuộc thành bại hoại, cùng cười Vương Lão Sư này, không chỉ xác định được càn khôn, có cả con đường thoát thân. Hòa Thượng bảo Ninh Dĩnh tụng rằng:

Nhan sắc tầm cỡ như là chơn, trước người bắt làm vượt qua ánh sáng, đến vào hầm lửa lại nấu chảy, đến giờ phút cuối cùng trở về giả bạc.

Ma cốc đến đây, bình rời nước đổ, muốn nước sông phát lửa cây sắt nở hoa, phải được Thiên Đồng nêu ra một chuyển ngữ, tụng rằng:

Đúng và không đúng, thích xem cái bát, như trầm như bỗng, không anh có em, buông cũng đã phạm thời, đoạt cũng ta đây có kỳ đặc, gậy vàng vừa dộng chấn động Ngọc Thái Cô, dạo quanh 3 vòng giường dây, tùng làm nổi loạn thị phi sinh, tưởng tượng đầu lâu thì trước hết thấy ma. Sư nói: Công án này, đều là ở nơi đó đúng và không đúng, bấy giờ hết thảy mọi người nói: Ma Cốc bị Chương Kính, Nam Tuyền, mê hoặc. Chỉ có Đại Quy Triệt nói: Chương Kính nói đúng, là rơi vào vỏ của Ma Cốc, như chỗ kim cương bảo đối với ánh sáng mặt trời màu sắc không nhất định.

Thiên Đồng nói: Thích xem cái chán, vã lại Ma Cốc rơi vào trong chén, Nam Tuyền rơi vào trong chén, như trầm như bổng, khó anh khó em Thiên Đồng nói: Vừa thấy đến, như trầm như bổng, kiểm điểm xem. Khó anh khó em. Đông Hán Trần Nguyên Phương Tử Trường Văn tức là Đồng Quý Phương Tử Hiếu Quang, đều bàn về công đức của cha mình, tranh cải không dứt, hỏi với Thái Khưu.

Thái Khưu chính là Trần Thực là cha của Nguyên Phương Quý Phương Thái Khưu nói: Nguyên Phương khó làm anh, Quý Phương khó làm em. Đây nói là nửa cân mắt trái của Chương Kính, 8 lượng mắt phải của Nam Tuyền gậy vàng chưa dộng chấn động ngọn núi Cô?

Kinh Vĩnh Gia chứng đạo nói: Không phải nêu trị việc hư huyễn tung tích gậy báu Như Lai:

Tuyết Đậu nói: Cổ sách phong cao có 12 cử, mỗi một cửa có con đường trống tẻ.

Kinh Tích Trượng nói: 12 Vòng là dùng niệm 12 nhân duyên, tu hành 12 môn Thiền, 12 nhân duyên dể biết.

12 môn là: Tứ Thiền, tứ vô lượng, tứ vô sắc định, cổ sách phong cao tức là ngọn Thái Cô.

Lục Tổ cũng nói: Phàm Sa môn phải đầy đủ 3 ngàn oai nghi, 8 vạn tế hạnh, đại đức ở phương nào mà lại sinh đại ngã mạn?

Y của Thiền Đồng nói: Không thể nêu hình thể, chẳng phải ngã mạn, giường dây dạo chơi 3 vòng. Chương Kính nói đúng, Nam Tuyền nói không đúng, tùng lâm nổi loạn, đi trong thị phi. Nếu không dùng con mắt định càn khôn, đâu là trước đầu lâu thấy ma, không thấy. Tăng hỏi Cửu Phong:

Thế nào là dùng con mắt định được càn khôn?

Phong nói: Chấp nhận ở trong trời đất? Tăng hỏi: Con mắt càn khôn ở đâu?

Phong nói: Chính là con mắt càn khôn

Tăng hỏi: Vừa mới đến vì sao nói chấp nhận ở trong càn khôn? Phong nói: Nếu không như thế, trước đầu lâu thấy ma vô số. Vạn

Tùng ở đây có sự cầm chóng gậy 1 cái nói mau mau như luật lệnh.

Vạn Tùng Lão Nhân Bình Xướng Thiên Đồng Giác Hòa Thượng Tụng Cổ, Tùng Dung Am Lục

Quyển 1 (Hết)

VẠN TÙNG LÃO NHÂN BÌNH XƯỚNG

THIÊN ĐỒNG GIÁC HÒA THƯỢNG TỤNG CỔ TÙNG DUNG AM LỤC

QUYỂN 2

TẮC THỨ 17: HÀO LY PHÁP NHÃN

Dạy đại chúng rằng: Đội nhạn vô cánh bay cao, đôi uyên ương đứng một mình bên bờ sông, mũi nhọn chạm nhau thì bỏ qua một bên, cưa đứt quả cân thì thế nào?

CÔNG ÁN: Pháp Nhãn hỏi Tu Sơn chủ, hào ly có sai trời đất cách xa, thì ông làm sao lãnh hội được?

Tu nói: Hào ly có sai trời đất cách xa.

Nhãn hỏi: Như thế thì đâu được?

Tu nói: Con chỉ như vậy, Hòa Thượng thì thế nào?

Nhãn nói: Hào ly có sai trời đất cách xa.

Tu liền lễ bái.

Sơn nói: Tu Sơn Chư và pháp Nhãn cùng tham học với Ngài Địa Tạng, tham cứu nhờ sức và thiết tha. Công án này như lật đổ các ngộ của Giám Viện Kim Lăng Báo ân Huyền Tắc Thiền Sư Pháp Nhãn hỏi từng thấy người nào đến?

Ấn đáp: Thấy Hòa Thượng Thanh Long Nhãn nói: Có ngôn cú gì?

Ấn đáp: Con từng hỏi, thế nào là chính bản thân của học nhân? Phong nói: Đồng Tử Bính Đinh tìm lửa.

Nhãn nói: Thượng tọa làm sao lãnh hội?

An đáp: Bính Đinh thuộc về lửa, lấy lửa xin lửa, như đem mình xin chính mình.

Nhãn hỏi: Lãnh hội như thế thì đâu được?

Ấn đáp: Con chỉ như thế, chưa biết được ý của Hòa Thượng thế nào?

(238) Nhãn đáp: Ông hỏi ta, ta nói cho ông.

Ấn hỏi: Thế nào là bản thân của học nhân?

Nhãn đáp: Đồng Tử Bính Đinh đến xin lửa, Ấn nhờ câu nói mà tỉnh ngộ, cái móc của Pháp Nhãn trong tay, đi tức ấn khả ở, trụ thì ấn khả phá, đập phá tức khép kính tình cảm của Giám Viện, mở ra vòng tình thức của Tu Sơn. Tam Tổ Tín Luận minh nói: Chí đạo không khó chỉ ngại chọn lựa, nhưng không thương ghét, rỗng rang sáng suốt, hào ly có sai, trời đất cách xa. Pháp Nhãn đem điều này hỏi Tu Sơn Chủ: Sao làm cái linh gõ cửa?

Thời nay hỏi được một ngàn cái, một cái làm đạo lý lãnh hội, không như thế thì một mực đánh phá ở vô sự, thì không rơi vào tâm tứ, chỉ nói hào ly có sai, trời đất cách biệt, là có làm ý nặng nhiều.

Pháp nhãn lại không chấp nhận, nói như thế lại sao được? Điều này cho là pháp Nhãn một nguồn phái. Vạn Tùng đến đây thường bảo người học, phân thân làm 2 để xem. Đoạn trước Tu Sơn Chủ nói như thế, vì sao không chấp nhận? Đoạn sau pháp Nhãn lại nói gì?

Lúc đó, Tu Sơn nói: Còn chỉ như vầy còn Hòa

Thượng thì thế nào?

Nhìn về một loạt ngày tháng mới phân chớ có sinh nhai, thì ông ta không sai một ly. Nương vào trước chỉ nói, hào ly có trời đất cách biệt.

Đồng Thiên Tề nói: Sơn chủ đáp như thế, tại sao không chịu mà lại thỉnh thưa. Pháp Nhãn chỉ nói như thế lại đi.

Hãy nói: Nêu ngoa chỗ nào? Nếu xem thấu được, nói thượng tọa có nguyên nhân.

Vạn Tùng nói: Như thế thì đâu được. Cho nên nói: Chỉ là đường đi lối củ, gặp người nói được lại ngoa điêu, Tu liền lễ bái, được thì được, tình lý khó dung.

Ngũ Tổ giới thay Pháp Nhãn, đánh vào sống lưng.

Vạn Tùng nói: Quả nhiên có bản trích lời Pháp Nhãn nói là Sơn Chư thấu triệt.

Vạn Tùng nói: Lộng Nệ, Đoàn Hán cả 2 đều không đúng.

Lúc ấy thấy Pháp Nhãn nói như thế thì đâu được.

Lại nói: Đã từ lâu nghe Hòa Thượng có cơ yếu này, nếu không như thế xua tay mà đi, mặc cho một lúc quét sạch đợi y không tin thử hỏi Thiên Đồng, tụng rằng:

Lằng tựa đầu cân cũng gập ghềnh.
Quyền hành muôn đời soi không bình đẳng.
So lường từng Xí thấy mối manh
Rút cuộc giúp ta trở về vạch thăng bằng.

Sư nói: Một câu phá đế của Thiên Đồng, liền tụng: Hào ly có sai trước đất cách biệt.

Lô Sơn Viễn Công nói: Vốn đoan chánh rút cuộc từ đâu mà sinh diệt có và không? Một bước đi nhẹ nhàng thì cảnh khởi, hình như thế núi.

Tam Tổ nói chữ hiềm, trước là tự mình thương ghét. Lại nói: Chỉ cần không thương ghét tự nhiên được rỗng rang, các người lui ra, để ta kiểm điểm kỹ xem.

Phạm Ngữ Tam Ma Địa, tàu dịch Đẳng Trì, không trầm, không bổng, bình đẳng giữ gìn, ở đây có thể cho là quyền hành muôn đời chiếu soi không bình đẳng, thượng thì trị phai mưu toan.

Xứng (cân) có 3 nghĩa: Chuẩn là trói buộc, hoành là bình, quyền là lúa.

Kinh Lăng Nghiêm ghi: Ở trong đó tự mình trụ trong Tam Ma Địa, thấy và duyên thấy, đều là tướng tưởng, như hoa đốm hư không vốn không có, cái thấy này và duyên này, vốn là Bồ Đề Diệu Tịnh minh thể, tại sao ở trong đó có đúng không đúng?

Đến đây chính là lúc như thế, gần cần hiềm chọn lìa ghét thương, còn không có sai hào ly, há có sự ngăn cách mây bùn vân lạng truy thù, 8 thù là một tri, 3 tri là 1 lạng, lô lạng là một cân, đó là người quyền hành trong tay. Ông đem một cân đến, ta cũng đổi một, giáo bình, đem một lạng cũng đổi 1 giáo bình, hỏi giống sự tăng giảm của trì và thù, lại không có nghiêng.

Mọi người nói: Ý lãnh lấy đầu mọc câu, chẳng chấp nhận vật thăng bằng, bởi ở trên vạch thăng bằng, vốn không có cân lạng, lại như sao Bắc Đẩu trấn giữ ở đó, đầu mọc câu thêm bớt, chỉ tính tạm thời.

Vạn tùng nói: có tâm thì bình, không bằng vô tâm mà bình đẳng, cho nên không có những đốm nhỏ để cho người bán, cả 2 lăng trung và tin thái lung, lại lãnh hội được lời nói của pháp nhãn, sơn chủ triệt chăng? Trái cân thay đổi hoàn toàn, bổng nhiên rơi vào cân và đấu.

TẮC THỨ 18: CON CHÓ CỦA TRIỆU CHÂU

Bảo đại chúng rằng: Hồ Lô trên nước, theo lây liền chuyển, đá quí ở trong mặt trời, không định hình được màu sắc, không thể vô tâm mà được, không thể dùng tâm hữu mà biết, không lường đại nhân, nói chuyển động lời nói còn có thoát được không?

Nêu: Tăng hỏi Triệu Châu: Con chó có Phật tánh không? Triệu Châu đáp: Có

Tăng hỏi: Đã có vì sao lại chui vào trong túi da này?

Châu nói: Vì biết người khác cho nên cố phạm Lại có Tăng hỏi: Con chó có Phật tánh không? Châu đáp: Không

Tăng hỏi: Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, chó sao lại không có Phật tánh?

Châu đáp: vì nó có nghiệp thức.

Sư nói: Nếu nói con chó, có Phật tánh, về sau lại nói không, hoàn toàn không có, trước lại nói có. Nếu nói có nói không: Lại một lúc ứng cơ buộc miệng nói ra, đều có đạo lý. Cho nên nói: Kẻ thông minh không theo lối mòn, chỗ của Vị Tăng này phải thấy nghe rộng rãi, không dựa vào bổn phận. Triệu Châu nói có, lấy độc trị độc, lấy bệnh trị bệnh. Vị Tăng lại hỏi đã có, sao còn chui vào túi da này? Không biết mình sinh ra từ trong bụng chó. Châu nói: vì ông ta biết cho nên có tội, một dùi 2 dùi cơ hội tốt khó gặp, Tăng này cho y nhân phát của. Nếu lãnh hội như thế, làm nô tỳ cho tọa chủ, cũng chưa được. Về sau có vị Tăng hỏi: liền đáp không, chính là kẻ khác. Nói có cũng có chỗ thoát thân, nói không là cũng có chỗ thoát thân, vị Tăng này nương vào bản văn để nói, tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, con chó sao không có Phật tánh, như một đạp này.

Dám nói, phá cửa chốt trời không lối chuyển thân, chỉnh ông ta thần khẩn nói, vì nó có nghiệp thức.

Ông hãy nói: Trong lớp da của Tăng này có máu không? Thiên Đồng không thoát khỏi trên vết sẹo thịt đỏ, như vừa nấu xong, tụng rằng:

Con chó Phật tánh,
Có con chó Phật tánh không.
Đi câu mà cầu tha mạng cá
Theo gió tìm hương khách nước mấy
Om sòm, loạn xạ phân quen lạ
Bằng an trải khắp, thư thả rộng bày
Chớ là nhà nông chẳng biết lo
Chỉ ra vết ngọc lại đoạt châu
Vua Tần chẳng biết Tướng Như Lạn.

Sư nói: Con chó có Phật tánh, con chó không có Phật tánh, 2 đoạn không giống nhau, một càng lấy ra, đúng như Tuyết Đậu nói, Triệu Châu cho nên làm bài tụng như thế.

Đúng với đạo Thiên chơn, câu thẳng câu cá rồng, câu cong câu tôm cá. Về sau theo khí tìm hương chó săn, nổi lên phân sự, trên xương khô có chứa nhiều nước.

Triệu Châu tuy trải nhiều chiếu, chỉ cần bàn luận kỷ càng, thì Thiên Đồng mở cổ tay cho Triệu

Châu, chẳng ngại nhà nông không thận trọng Quy Tông hỏi Tú tài: Ông học ngành gì?

Tài đáp: Lãnh hội thư để của 24 nhà. Tông nhìn lên hư không chút xíu lại hỏi lãnh hội chưa (239) Tài đáp: Chưa lãnh hội

Tông hỏi: Lại nói lãnh hội thư thể của 24 nhà. Vĩnh tự 8 pháp cũng không biết.

Thích Sử Lý Bột hỏi: 3 thừa 12 phần giáo thì không hỏi, thế nào là yếu chỉ của Thiền Tông?

Tông cũng dơ nắm tay hỏi: Lãnh hội chưa? Lý đáp: Chưa lãnh hội

Tông hỏi: Gã này lầm to, đầu nắm tay cũng không biết

Vạn Tùng nói: Mọi người xem Sư Tử trở mình, không chỉ Phật tánh của con chó nói có nói không, chỉ ở đây quá nhìn trước ngó sau, cẩn thận ủng hộ đến cùng.

Lịch sử ghi rỏ Triệu Huệ Vương, được châu ngọc của Sở Hòa Thị, Tần Chiêu Vương đem 15 thành quách đổi nó. Lạn Tướng Như mang viên ngọc Bích vào, Tần Vương vui vẽ bảo mỹ nhân và cận thần đều chúc mừng, vạn tuế. Tướng Như thấy vua không có ý chia thành quách, bèn đến trước nói: Viên ngọc có tỳ vết xin chỉ bày nó, vua trao Ngọc Bích, Tướng Như cầm đứng dậy, tựa vách nói:

Triệu Vương trai giới 5 ngày, sứ thần mang ngọc bích đưa thư đến Triều, nhờ oai lực của nước lớn, cho nên tu hành kính cẩn. Nay thấy Vua lễ tiết lơ là, được ngọc bích truyền cho mỹ nhân, dường như trêu chọc thần không có ý chia cắt thành quách, cho nên thần lấy lại ngọc bích, ắt để thành rốt ruột, đầu của thần và ngọc bích đều vở nơi đây. Vua tự tạ chiếu theo bản đồ chia cắt thành quách, cũng trai giới 5 ngày. Tướng Như cho người theo ôm quần áo lên đường trở về nước Triệu. Triệu Châu trước phóng túng sau cướp đoạt, có thủ đoạn của Tướng Như, Thiên Đồng có bài tụng riêng:

Triệu Châu nói có, Triệu Châu nói không. Con chó, Phật tánh Thiên hạ phân chia Mặt đỏ chẳng bằng nói thẳng.

Lòng ngay ắt hẳn lời thô

Cái lão Thiền Sư bảy trăm chúng Cứt ngựa gặp người hóa nhãn châu.

Triệu Châu tâm chơn thật nói ngay thẳng thì tâm cành câu thẳng cứu được mạng sống cá

Lúc Châu Văn Vương đi săn thấy Khương Tử Nha ở bên bờ suối, cách mặt nước 3 thước, câu thẳng móc cá, Vương thấy kỳ lạ hỏi: Câu thẳng làm sao móc cá?

Tử Nha đáp: Chỉ tìm mạng sống con cá, phân lừa gặp người thành mắt ngọc, như thế là Tướng Như cướp Ngọc bích. Phật giám đưa ra 1 chùm châu báu hỏi: Các người có thấy không?

Hồi lâu nói: đây là lão tăng đến kinh sư, đổi được nó các người đều tự trở về giảng đường tìm xem. Phật giám dùng trùm ngọc, triệu châu phân lừa. Vạn tùng không có chỗ dùng, chưa từng thay đổi, mọi người đều tin được, con mắt vẫn ở dưới lông mày như củ.

TẮC THỨ 19: NÚI TƯ DI CỦA VÂN MÔN

Bảo đại chúng rằng: Tôi thích Thiền Dương mới định cư, suốt đời nhổ cây nêm cho người, tại sao có lúc cũng mở cửa? Bưng chậu nhựa ra, đứng giữa đường xem thành cạm bẩy, thử biện luận xem. Nêu: Tăng hỏi Vân Môn: Không khởi một niệm vẫn có lỗi không?

Môn đáp: Núi Tu Di

Sư nói: Quốc Sư Viên Thông Thiện nói: Công Án này bàn luận khắp nơi, có người nói: mới hỏi như thế, chính là khởi niệm, lỗi như Núi Tu Di.

Hoặc nói: Như núi Tu Di bát gió thổi không lay động, Thiên Cổ trấn giữ Trường An.

Hoặc nói: Vì mọi người khói không suốt, như núi Tu Di, bàn luận như thế. Nếu chưa lãnh hội được ý của Vân Môn giống như thoát thùng Sơn, đoạn trừ chỉ tơ hồng, mới biết tất cả đều không như thế. Không thấy nói: 3 câu rỏ 1 câu, 1 câu nói 3 câu, 3 câu, 1 câu đều không liên quan gì với nhau, con đường phía trước rõ ràng.

Phật quả nói: Vân môn đáp nhiều lời khiến mọi người thức tỉnh.

Vạn Tùng nói: Dùng thức tỉnh điều khiển thức tỉnh, chẳng thủ đoạn mọi người, không thể giao phó công việc. Núi Tu Di này trời không thể che, đất không thể chở, gió thổi không vào, nước rưới không ướt, chỉ có con mắt Kim Cương, vừa nhìn là thông suốt, liền thấy đại triệt đại ngộ, đến nổi nhỏ nhặt như vi trần, về sau lại nhìn lên lông mày lông mi, đứng 1 mình cao chót vót. Thiền Sư Bạch Vân Đoan tụng rằng:

Núi Tu Di, chừ nghìn vũ trụ

Đại Bi ngàn mắt nhìn không qua

Trừ phi tự biết cưỡi ngược trâu

Suốt đời khỏi phải theo sau đít

Vạn Tùng nói: Ngửa mặt dương mày, quay đầu tự vỗ tay.

Hòa Thượng Kỳ Sơn chơn tụng: Vô Sự đi tìm tội người khác, thời bị bắt giữ suốt đời, chưa với tình thức vội chạy theo, ngoài cửa biết có bao nhiêu người, chỉ có Thiên Đồng không có kỳ hạn này, tụng rằng:

Chẳng khởi một niệm, núi Tu Di!
Thiều Dương thí pháp không lưu giữ
Chịu đến, hai tay phân phó cho
Định đi ngàn tìm không thể bám
Biển xanh rộng, mây trắng nhàn.
Chớ đem mảy tóc đặt trong đáy
Giả tiếng gà kia khó gạt ta
Chưa chịu mơ màng cho bỏ qua ải!

Sư nói: Ông hỏi ta một niệm không khởi thì có lỗi hay không có lỗi?

Ta liền đưa ra một ngọn núi Tu Di giống như ở trước mặt ông, sự lợi ích của pháp thì kia, vốn không keo kiệt.

Vĩnh Gia nói: Cửa đại thì mở ra không bị tắc nghẽn, không chỉ ngày nay,

Tiếng Phạn Tu Di, Tàu dịch Diệu Cao, 4 thành bảo sở gọi là Diệu, vượt trội các ngọn núi gọi là Cao, trong núi 4 thiên hạ, núi Tu Di là hồn hết.

Nếu ông bằng lòng, ta sẽ 2 tay phân.

Cổ Thi nói: Đợi chỗ y bằng lòng, là lúc mạng ta thông, thật ra việc này thường hiển lộ, như Núi Tu Di sừng sững cao ngất, không ai có thể che lấp được. Lúc chưa phân phó, há không phân, phân phó cho ông, há mới được không thấy, Trường Khánh nói: Chỉ lộ ra thân thể ở trông vạn tượng, nếu người bằng lòng mới thân cận.

Thiên Đông làm bài tụng. Đến đây phần nhiều bao gồm công phu, nếu ông suy nghĩ không được.

Nghìn dặm muôn dặm ngưỡng nhìn không được.

Cừ Nguyên nói: Việc này như vách núi sụp đỗ, vách cao nghìn trượng không thể leo, thật ra ông cũng chưa từng xa lìa, ta cũng chưa từng cướp đoạt, đây cùng với câu mê ngộ trái nhau, ngẫu nhiên rõ ràng.

Trong giáo có nói: Nếu ta đi vào nước 8 vạn Du Thiên Na ra khỏi nước 8 Vạn Du Thiên Na, chẳng phải biển khô cạn, không thể dung chứa, xưa nay núi đá không lay động, mây cũng thường trôi lững lờ.

Động Sơn nói: Núi xanh là cha của mây trắng, mây trắng là con của núi xanh, mây xanh, mây trắng trọng ngày nướng, mà núi xanh không biết. Thiên Đồng khá tài giỏi làm bài tụng về núi Tu Di như biển rộng mây ngàn, quanh co đến hết sức kỳ diệu, ở đây dung chứa được một niệm sinh diệt chăng?

Cho nên nói: Biển xanh rộng, mây trắng nhàn, chớ đem mảy tóc đặt trong đáy. Ở đây lại cùng với Tuyết Đậu nói: không để hạt cát dính vào mắt, cùng tham cứu, nếu luận bàn Thiển Dương không keo kiệt vẽ pháp thì con mắt dính được núi Tu Di.

Trong bài tụng về núi Tu Di này, chặt hết củi, mạch máu lưu thông, tác vã là mệnh lệnh, không vọng sinh xuyên tạc tăng tình thức, thực ra người không khởi một niệm, há có thể hỏi có tội hay không có tội? Dù cho thường ở nơi không khởi niệm, kiểm điểm xem, thật ra thế nào?

Cho nên nói: Giả tiếng gà khó lừa được ta, chưa chịu mơ màng cho qua ải. Mạnh Thường Quân vào làm tướng nước Tần có người nói với vua Mạnh Thường Quân là bậc hiền tài, lại là dòng họ Tề. Tướng nước Tần này chắc chắn trước là Tề sau là Tần. Nước Tần gặp nguy, vua bỏ tù Mạnh Thường Quân lúc sắp chết, Mạnh Thường Quân may mắn được Cơ cứu giúp

Cơ nói: Thiếp xin được làm áo lông cừu cho Mạnh Quân, lúc áo lông đã xong, Hạ Khách là người mà ăn trộm chó, lấy lông dâng cho Cơ, Mạnh Quân được thoát, nữa đêm đến Hàm Cốc Quan, phép tắc của quan là có tiếng gà gáy khách mới được ra ngoài. (240)

Hạ khách giả làm tiếng gà gáy, thì cả đàn gà đều gáy, nhờ vậy mà mạnh quân thoát khỏi nạn tần. Sư đưa gậy lên nói: là cửa ải của bạn tùng ngày nay, có người học tiếng gà gáy đi ra, lại dựa vào cây gậy nói: bỏ qua một phen.

TẮC THỨ 20: THÂN THIẾT CỦA ĐỊA TẠNG

Dạy đại chúng rằng: Nhậm lý bàn sâu, đại đạo của Trường An, đại triệt ngộ, bổng nhiên mở miệng nói phá. Cất bước đạp có thể quảng cao đẩy bát ném gậy gãy. Hãy nói: Ai là người này?

CÔNG ÁN: Địa Tạng hỏi Pháp Nhãn, thượng tọa đi đâu? Nhãn đáp: Hành cước quanh co. Địa Tạng đáp: Việc hành cước thế nào?

Nhãn đáp: Không biết

Địa Tạng nói: Không biết rất thân thiết pháp, Nhãn hoát nhiên tỉnh ngộ.

Sư nói: Dương Vô Vi hỏi Phù Dung Hòa Thượng, chia tay nhau mấy năm rồi?

Phù Dung đáp: Bảy năm

Công hỏi: Chơi như thế thì uổng công dạo chơn thủy, trăm năm không có sở và năng sao?

Phù Dung đáp: Chia tay nhau chưa bao lâu mà nhìn xa. Công cười to Nam Tuyền nói: Nói không phụ về cái biết, không phụ thuộc về không biết, biết là vọng giác, không biết là vô ký.

Người đời nay nghe nói, không biết rất thân thiết, lại là cái ngộ của Pháp Nhãn, thì một mực không biết không hiểu, chỉ cần như đây vậy. Thật không ngờ, một câu của người xưa như trời che, đất chở, đã không biết rất thân thiết, chọn nói 1 chữ biết là rất vi diệu, lại là thế nào? Chỉ cần ông như thế thì chớ ở nơi này, không phải đều không thế, chớ ngồi nơi không phải chỗ này, kiêm cả 5 vị trí Chánh và Thiên há có thể chết trong ngôn ngữ, chỉ chỗ giác ngộ của Pháp Nhãn này, ngẫu nhiên thành văn.

Hòa Thượng Đại Ẩn ở Bách Sơn nói: Do họa dẫn đến phước, thủ đoạn tiếp người ở Địa Tạng, câu vào chỗ không nghi hoặc, bổng nhiên thả lưỡi câu, Pháp Nhãn thức tỉnh liền, vốn là ở đây Lão Sư Từ Châu nói: Ông chỉ lúc đi lúc ngồi khi tâm niệm mạnh mẽ đề khởi nhìn thấy, tức thấy mà không thấy, lại bắn qua một bên, công phu tu tập như thế, nghĩ ngơi cũng không ngăn ngại việc tham học, tham học cũng không trở ngại việc nghĩ ngơi. Hòa Thượng Đầu Tử Thanh nói: Đã mất nước, xí điểu vỗ cánh, nhân duyên thời tiết của Địa Tạng, không một chút gián đoạn, ngòi bút Thiên Đồng có lưỡi, lại còn trùng tuyên, Tụng:

Hôm nay xem đã như khi ấy, buông hết bức rèm thưa mà không biết, mặc cho dài ngắn chớ hay đến, dù là cao thấp sửa sang, cửa nhà giàu có thôi tạm dùng, ruộng vườn tốt phì nhiêu tùy chân bước, việc hành cước 30 năm trước, rõ ràng Sư phụ đôi lông mày.

Sư nói: Tông cảnh nói: Từ xưa đến nay mê ngộ tợ mê, ngày nay ngộ mê không ngộ. Cho nên nói: Người ngộ rồi vẫn giống như chưa ngộ. Lúc Địa Tạng hỏi phải biết đầy đủ đạo lý, những điều Pháp Nhãn đáp, cũng không khiêm nhường từ chối, Địa Tạng tiện thể nói: không biết rất thân thiết, pháp nhãn tỉnh vốn là đây, biết không, không biết cái thân thiết này.

Lâm Tế hỏi Lạc Phố từ đâu đến? Lạc Phố đáp: Từ Biến thành đến

Lâm Tế hỏi: Có chút việc hỏi được không? Lạc Phố đáp: con không hiểu

Lâm Tế nói: Đánh phá nước Đại Đường, tìm cái chưa lãnh hội không được. Lâm Tế thường dùng dao giết người cũng có kiếm cứu người, không như Địa Tạng giết người thấy máu để cho người thấy triệt. Cái không biết không hiểu này, thong dong, tự tại, cần phải tháo hết bức rèm mới đến chỗ không biết không hiểu.

Quy Sơn phổ thỉnh khai điền. Ngưỡng Sơn hỏi: Đầu này thấp như thế? Đầu kia cao như thế?

Quy nói: Nước có thể san bằng sự vật, nhưng chỉ lấy nước san bằng sự vật

Ngưỡng nói: Nước không nương tựa, Hòa Thượng chỉ chỗ cao tức cao bằng, chỗ thấp thì thấy bằng.

Quy bổng nhiên nói, Triệu Châu Bát Nhã vô trí luận rằng: Các pháp không khác, há giúp le le diệt chim hạc dời núi lấp sông, về sau cho là không khác ư? Cho nên nói: Mặc cho dài ngắn chớ hay đến, dù là cao thấy chớ sữa sang.

Trương Vô Tận nói: Vạn loại chuyển theo chỉ uổng công, tất tùy thuận thành khéo léo, chỉ máy miệng nói như thế, tiện tay liền lấy, tiện chân bước đi, trăng Xuân hoa nở, mùa Thu lá rơi, lãnh hội được như thế, đi bằng chân lừa, cho nên Huyền sa không rời núi, Bảo thọ vượt sông, không ra khỏi cửa mà biết việc thiên hạ.

Giác Phạm Tụng: Khuôn mặt như cây mai to, mắt, tai mũi lưỡi phân làm biên cương, trong đầu lâu hoàn toàn không biết, nghe ông tranh cãi ở ngoài, miệng hỏi mũi rằng: Ăn uống do ta, nói năng cũng do ta, mày đâu công gì? Mà nằm ở trước ta?

Mũi nói: Trong núi Ngũ Nhạc, Tung Nhạc là hơn hết.

Mũi lại hỏi mắt: Sao ông lại ở trên?

Mắt đáp: Ta đồng trăng trời, thật công năng chiếu soi.

Dám hỏi lông mày có công năng gì mà ở trên ta?

Lông mày đáp: Ta thật không có công thẹn ở địa vị trên các ông ở dưới mắt ở trên lông mày, khuôn mặt ông có gì?

Cho nên Bảo Nguyệt Minh Thiền Sư thượng đường nói: Người xưa nói, ở nơi mắt gọi là thấy, ở nơi tai gọi là nghe.

Hãy nói: Ở lông mi gọi là gì? Im lặng hồi lâu nói: Long Nha thì càng buồn, vui thì càng ưa, mọi người đều biết cái dụng của hữu dụng, mà không biết cái đại dụng của vô dụng.

Hãy nói: Tân Đầu Lô Tôn giả 2 tuy lông mày ý chỉ thế nào? Sư lông mày nói: Con mèo

TẮC THỨ 21: VÂN NHAM QUÉT NHÀ.

Dạy đại chúng rằng: Thoát mê ngộ tuyệt thánh phàm, tuy không nhiều việc, nhưng lập chủ và khách thì phân biệt giàu nghèo, riêng có một nhà, ban của trao chức, tức giống như hơi thở liên tục, làm sao lãnh hội được?

CÔNG ÁN: Vân Nham đang quét nhà Đạo

Ngô nói: Vất vã quá

Nham nói: Không biết có người không vất vã. Ngô nói: Như thế thì có trăng thứ 2

Nham đưa cây chổi lên: Đây là trăng thứ mấy? Ngô liền bỏ đi. Huyền ra nói: Chính là trăng thứ 2. Vân Môn nói: Nô tỳ thấy Tỳ ân cần.

Sư nói: Đạo Ngô chiết phục Vân Nham, như Phật Quả kích lệ, Phật giám cái gọi là không giận thì không khởi, không buồn thì không phát, chính là Vân Nham quét nhà. Đạo Ngô rãnh rỗi đi kiểm điểm ông ta.

Vân Nham nói: Cần phải biết có người không vất vã, may các nhân giả, ông thì ăn cơm, chế trà, xâu kim, quét nhà, bấy giờ mới nhận ra người không vất vã, lại được thế pháp, Phật pháp nhồi thành một khối, trong sự rỗng trì trệ, Tăng trong thời gian tự mình không luống uổng. Đạo Ngô mới thấy thiếu sót, nói như thế thì có mặt trăng thứ 2. Riêng Tuyết Đậu nói: Lặng lẽ bỏ qua, hai lão già sợ người, lìa bỏ sắc thân lập riêng pháp thân.

Sư Trung Quốc bảo Thiền Khách Phương Nam rằng: Phật tánh của nước ta hoàn toàn không sinh diệt, Phật tánh của người Phương Nam nửa sinh, nửa diệt, nửa không sinh diệt.

Khách nói: Làm sao phân biệt?

Sư nói: Đây là thân tâm nhất như, ngoại tâm không khác, cho nên hoàn toàn không sinh diệt, thân thể người Phương Nam là vô thường (241) thần thức là thường, cho nên nửa sinh nửa diệt, nửa không sinh diệt, đến đây cần biết có cái chuyển thân chính là thời tiết giao theo bèn dựng chổi lên hỏi: Đây là trăng thứ mấy? Lời này vấn trích trong kinh Thủ Lăng Nghiêm.

Kinh nói: Như mặt trăng thứ 2, tháng nào là tháng đủ, tháng nào tháng thiếu, Văn Thù chỉ một tháng trăng chơn, trung gian không có trăng phải trái, Đạo Ngô liền bỏ đi.

Có bản ghi: Đạo Ngô phất tay áo rồi đi, Vạn Tùng nói: Khám phá rồi. Hãy nói: Vân Nham đã phá Đạo Ngô, hay Đạo Ngô đã phá Vân Nham. Người mắt sáng thử kiểm điểm xem?

Huyền Sa nói: Chính là mặt trăng thứ 2, trong miệng lão này, có thư Hoàng, trên lưỡi có lưỡi kiếm bén, Trường Khánh hỏi: Bị người khác trở cây chổi đánh vào mặt, lại thế nào. Huyền Sa bỏ đi Sơn La nói: Ôi! Hai lão già không biết tốt xấu gì cả! Vân Nham chói tai cái chết đến lúc nào?

Vạn Tùng nói: Môn hạ của Đức Sơn không nói không được, môn hạ Động Sơn chưa được tự tại, lúc Tuyết Phong hành cước, 3 lần tìm đến Đầu Tử, 9 lần lên Động Sơn.

Một hôm Tuyết Phong vo gạo, Động Sơn hỏi:

Vo gạo bỏ gạo hay bỏ sạn?

Phong đáp: Sạn gạo đều bỏ.

Động Sơn hỏi: Đại chúng ăn cái gì? Phong mới lật cái úp chậu lại. Động Sơn nói: Được thì được, cần phải thấy người khác mới được. Về sau quả thật nối pháp với Đức Sơn, Huyền Sa, Trường Khánh nối pháp với Tuyết Phong. La Sơn nối pháp với Nham Đầu, đều trích trong môn hạ của Đức Sơn, nên vừa trầm vừa bổng, lời thuận ý nghịch, mà nay 2 pháp Vân Môn, Động Sơn đều thạnh hành, há có sự hơn thua sao?

Vân môn nói: Tôi thấy tớ thì ân cần sao?.

Bảo phước nói: Vân Nham giống như đẩy xe trong bùn vất vã vô cùng, hai lão Túc cũng nối pháp với Tuyết Nham, tự nhiên nói lời hợp nhau.

Y nói: Vân Nham không thể dùng chổi đánh phá sự, thật không ngờ trong bùn có gai. Vạn Tùng giở trò niêm đề chưa xong, bất giác bật cười nói: Vân Nham, Đạo Ngộ, nói cơ duyên của Động Sơn, già này, miệng mọi người toàn vàng, không có một người nào chống cự lại Tuyết Phong, lại có Thiên Đồng rút kiếm trợ giúp, tụng rằng:

Nhờ nhau như thế rõ môn đầu Được dụng tùy nghi cũng tiện thôi Tượng cốt trước hang tay rắn múa Chỗ làm hồi nhỏ, già biết thẹn.

Sư nói: Nếu luận về việc này, như sấm chớp xẹt đá, Vân Nham nêu ra dạy mọi người. Trường Khánh đánh trước mặt chỗ dụng tuy khác cùng trở về. Động Sơn sở dĩ quý trọng quay cơ chuyển địa vị. Tuyết Phong có núi hình cốt, Tuyết Phong từng bảo cơ chuyển địa vị. Tuyết Phong có núi hình cốt, Tuyết Phong từng bảo đại chúng rằng: Nam Sơn có một con ba ba mũi rắn, tất cả mọi người đều phải xem. Vân môn lấy gậy ném trước mặt, làm cái thế sợ hải đây há không phải là tôi thấy tớ thì cần sao? Vân Môn quét đất, đưa chổi lên hỏi: Đây là trăng thứ mấy?

Hết thảy nay nghe theo mà thay đổi là nhờ sức của con cháu. Vân Môn đến nay vẫn ở dưới bờ rào, cho nên Thiên Đồng phóng không qua y, nói làm con rắn ở trước núi Tượng Cốt, Lúc nhỏ làm về già hổ thẹn.

Hòa Thượng Thắng Mặc nói: Bài tụng này còn nhằm vào điểm yếu của người, có điểm tốt cho người. Nay Thiên Đồng và Thắng Mặc, xử phạt Vân Môn, ngày nay Vạn Tùng bỏ vụ án đi, không thấy Thiên Đồng làm bài tụng về con rắn, khen thưởng tất cả cơ phong đại dụng của Vân Môn so với Vân Trung cũng không kém, sao lại như thế?

Trầm bổng đều do ta còn chết sống do ai?

TẮC THỨ 22: YẾT KIẾN NHAM ĐẦU

Dạy đại chúng rằng: Người sẽ tìm lời, nước sẽ tìm gậy, vạch cỏ nhìn gió, dụng cụ tầm thường, bổng nhiên nhảy ra con hổ cháy đuôi, lại thế nào?

CÔNG ÁN: Nham Đầu đến Đức Sơn vào gõ cửa liền hỏi: là phàm hay là Thánh?

Đức Sơn: Liền quát, đầu lễ bái. Động Sơn nghe vậy nói: Nếu không phải.

Sơn Công, rất khó gánh vác.

Nham Đầu nói: Lão Động Sơn này không biết tốt xấu gì cả, khi ấy ta một tay nâng lên một tay đè xuống.

Sư nói: Đức Sơn bình thường nổi gió nổi mưa, nhưng ngày nọ Nham Sơn trải tọa cụ rồi đi. Ngày kế Đức Sơn đứng đợi.

Sơn hỏi: Ở trong đó học được cái đầu hư dối này? Đầu đáp: Con hoàn toàn không dám dối mình. Sơn nói: Sau này ông đi tiêu trên đầu Lão Tăng, cha nghe con càng hận không muốn chết, thấy Sư có lỗi mới chịu truyền trao lời hỏi, mọi người đều gọi đó là cơ phong vào cửa chưa chắc trước vào cửa hỏi thật bước vào cửa hỏi. Xưa có người ngoại đạo, dấu con chim sẽ trong tay, hỏi Đức Thế Tôn: Con chim sẽ trong tay con là chết hay sống? Thế Tôn bước chân vào cửa nói, ông nói ta muốn vào hay muốn ra, hỏi là phàm hay Thánh, thật có đạo lý này. Xưa kia Phổ Hóa đã chỉ Thánh Tăng hỏi Lâm Tế.

Hãy nói: Đây là Thánh hay là phàm?

Lâm Tế liền hét hòa nói: Cô dâu mới ở Hà Dương, thiền lão bà đáp: Gổ Lâm Tế trẻ con chỉ có mắt.

Lâm Tế nói: Lão Tặc này, Hóa ra lâm đường nói giặc, giặc. Thủ Sơn nói: Hai lão giặc này có một người chính là giặc.

Hãy nói: Người kia chính là giặc. Thay nói:

Lưu Bồn Tử và Nham Đầu hỏi là Phàm hay Thánh? Đức Sơn liền quát, liền bàn bạc với Lâm Tế, cùng khám phá. Nham Đầu lễ bái cũng cho già trẻ nít Lâm Tế kia lại nhìn nông cạn như nhau.

Tuyết Đậu nói: Lúc ấy mới lễ bái, giả sử đánh gãy xương sống, không chỉ dẹp trừ Động Sơn mà cũng dẹp lão Hoát, ở đây lại nói cho Lâm Tế, lão Tăng này cùng tham cứu, Động Sơn nghe vậy nêu ra rằng:

Nếu không phải Hoát Công, thật khó gánh vác. Phật Quả trình bày: Người bên cạnh đủ mắt lại nói: Chỉ biết có 1 mà không biết có 2 chỗ thấy của Vạn Tùng không phải vậy. Phật quả nói: Người bên cạnh Đồng Sơn tuy đủ mắt, cũng không thấy đâu đúc vuông. Vì Động Sơn cố gánh vác trách nhiệm, vu oan Nham Đầu cần phát minh lúc đầu lễ bái, có quyền có thực, quả nhiên lửa đến trên đầu Nham Đầu, nhanh chóng xông vào nói: Lão Động Sơn này không biết tốt xấu, lúc đó ta một tay nâng lên, một tay đè xuống, mới bắt đầu đốt đèn, ăn cơm, 2 nhà rõ ràng không biết.

Hòa Thượng Bảo Minh Dung làm bài tụng rằng: "Suối bằng thỏ chạy phóng qua chim xanh, bài tụng này là hỏi về lối vào đạo, vừa nâng lên thì cám dỗ đôi mắt". Bài tụng này nói Nham Sơn hét Nham Đầu lễ bái, tay độc đoạt người đến mua. Bài tụng này nói Động Sơn cố chấp vào giá cả lợi lộc, cân lạng làm sao chưa rõ ràng? Chính là Vạn Tùng hỏi, muốn được cân lạng rõ ràng chăng?

Quả thật Phật qua, Vạn Tùng không tranh đầu cao đầu thấp lại xem Thiên Đồng một phen tranh cải, tụng rằng:

(Cơ phong trắc trở, đều là quyền hành, việc có oai ắt phải thực hành. Nước có lệnh không phạm, khách còn tôn thờ thì chủ lại Kiêu căng, vua Can gián hà thần nịnh hót), để ý Nham Đầu hỏi Đức Sơn. Vừa nâng lên vừa đè xuống xem tâm hạnh.

Sư nói: Bài tụng của 3 người này đều có cơ phong trắc trở, mỗi mỗi đều có quyền hành, chỉ có Nham Đầu, Đức Sơn có oai ắt thực hành, có lệnh không phạm, khách phụng thờ chủ kiêu căng. Ở Động Sơn, Nham Đầu, vua kỵ thần nịnh hót. Ở Nham Đầu và Đức Sơn, 2 câu vi diệu. Động Sơn, Nham Đầu. (242) Đây là tấm gương, khắp nơi gọi là Giản Hồ chọn lựa, sửa ở trong nước phải là ngỗng chúa, mới thấy được công phu may vá của Thiên Đồng.

Nham Đầu biết Động Sơn có oai chắc chắn thực hành, có lệnh không phạm, cho nên không đoạn cơ phong, lại thuận tình mà lễ bái. Động Sơn biết Nham Đầu không chịu thăm dò, không chịu hình phạt, con kế thừa nghiệp cha, cũng có oai thực hành, không phạm luật, nên nói đầu lưỡi câu dính mồi. Nếu không phải là Hoát Công rất khó gánh vác, há chẳng còn thờ chủ kiêu căng, kỵ ghét thần nịnh hót. Tông phong của Lâm Tế, gọi là Hồng Tuyết Sao sách, hầm cạm bẩy ngọc bích, rơi vào cơ hổ, chôn binh đấu chiến mọi người đều nói: Nham Đầu vừa nâng lên vừa đè xuống, nhầm danh ngôn của Động Sơn. Thật không ngờ, Động Sơn vừa nâng lên vừa đè xuống, lại rất rõ ràng, đây chẳng phải tác giả tham cứu đã lâu, rất khó nhận thức giống như ngày nay cởi bạch Sa Di, thấy bài tụng Thiên Đồng nói vừa nâng lên vừa đè xuống, xem tâm hạnh, liền nói kỳ lạ. Thiền gia không chịu phá toạc ra cho người, xưa nay đều là tâm hạnh, cho nên khóc lóc lừa bịp học nhân.

Vạn Tùng nói: Một phần tâm hạnh là một phần từ bi, không hề qua lại, không học gì cả, có thể nói quả từ trong hoa mà được, ngọt từ nơi đắng mà ra, Nham Đầu Xô ra kéo lại, Động Sơn rút ra, Động Sơn xô ra kéo lại. Vạn Tùng nói toạc ra, bổng chốc có người ra lễ bái, Vạn Tùng liền bỏ qua không đánh nữa, sao da của y không có máu?

TẮC THỨ 23: LỖ TỔ XOAY MẶT VÀO VÁCH.

Dạy đại chúng rằng: Tổ Đạt Ma 9 năm xoay mặt vào vách, gọi là Bích Quán. Thần Quang lễ 3 lễ, tiết lộ thiên cơ làm thế nào quét sạch tung tích? CÔNG ÁN: Lỗ Tổ hễ thấy Tăng đến là xoay mặt vào vách. Nam Tuyền nghe vậy nói: Ta thường nói ông ta, gánh vác kiếp trước không, đợi lúc Phật chưa ra đời hội lấy còn không được khác cái nửa cái nắm lừa quãng ta đi như thế.

Sư nói: Thiền Sư Đậu Vân núi Lỗ Tổ Tri Châu, hể thấy Tăng đến liền xoay mặt vào vách. Sau khi Đạt Ma 9 năm xoay mặt vào vách không có người nào thực hành theo cách này nửa. lại dạy khắp nơi hỏi, Phật, hỏi Tổ thượng hướng hạ, mọi người biết một số bệnh. Nam Tuyền cùng tham cứu với ông ta, thấy cái dùi của người, không lay động, lại càng đánh phá lung tung, ta thường nói với ông, gánh vác kiếp trước không, Phật chưa ra đời lãnh hội lấy, không được một cái hay nửa cái, ý như mở ra một đường, thật ra giúp thị giả, truyền pháp chỉ xong.

Lại nói: "Ông ta năm lừa mới đi như thế", ý như trách móc ông ta quá cô phụ cuộc đời cao cả, điều đó Sư thực ban thường ông ta thấy mặt mà phân phó, không thấy nói: Dù cho nói được 10 phần, đâu như một khi đích thân đến. Sở dĩ Linh Sơn như trăng vẽ, Tào Khê như ngón tay chỉ mặt trăng, đâu như Lỗ Tổ ở trong cung thủy tinh, trong điện Quãng Hàn, rủ áo gặp nhau. Bảo Phước thấy chỗ thiếu sót của Nam Tuyền. Lỗ Tổ, hỏi Trường Khánh rằng: Chỉ như Lỗ Tổ, tiết văn ở chỗ nào? Bị Nam Tuyền nói như thế.

Vạn Tùng nói: Bảo Phước làm sao nói 2 chữ tiết văn?

CÔNG ÁN: Trên cành đều nẩy mầm thì hiểu rõ Xuân Thu, khó đặt ra câu hỏi này.

Trường Khánh đáp: Tự mình thối lui nhường cho người khác trong vạn người không có được một người.

Vạn Tùng nói: Người xưa thông minh như thế, Huyền Giác nói: Nửa ngăn nửa đậy, lừa dối họ một chút cũng không được.

Thúy Nham Chi hỏi: Đâu nhọc thế này?

Vạn Tùng nói: Đã mô phỏng được nét vẽ rồi.

Lại nói: Nếu có vị Tăng đến thấy cái này, Vạn Tùng nói giống như chê bai chút ít.

Lại nói: Biết thì tốt. Vạn Tùng nói: Như Đào Uyên Minh nheo mày liền trở về.

Lại nói: Ta thì không như vầy, bào thai chưa đầy đủ thì không lãnh hội được, lãnh hội được thì đánh vỡ bụng ông.

Vạn Tùng hỏi: Hòa Thượng đánh bảo ai chịu? La Sơn đáp: Vương lão Sư lúc ấy nếu thấy, cho năm dùi lửa ở trên lưng, do ông hiểu bỏ không biết lấy.

Vạn Tùng nói: canh năm thức dậy sớm, đã có người đi đêm. Huyền Sa nói: Ta lúc ấy nếu thấy cũng cho 5 dùi lửa.

Vạn Tùng nói: Não loạn gió Xuân mãi mãi không thôi Vân Cư trích nói: La Sơn, Huyền Sa đều nói như thế, lại luôn có đạo lý khác.

Vạn Tùng nói: Tổng cộng có dùi lửa.

Lại nói: Nếu chọn ra được cho phép Phật pháp của thượng tòa lưu khắp.

Vạn Tùng nói: Đáng cho 5 dùi lửa, chư nhân giả xem.

Nam Tuyền bài xích Lỗ Tổ như thế.

Trường Khánh lại nói: Chính mình thối lui phường cho người, Lỗ Tổ đã phá then chốt. La Sơn lại nói: Biết buông không biết nhận, đều là giăng lưới trước cá, giặc qua thì dương cung, lại xem Thiên Đồng hướng chỗ nào? Tụng rằng:

(Trong nhạt có vị
Diệu thoát tình phàm
Miên miên nhược tồn
Chư trước khi hình tượng
Lù dù như ngu chừ đạo kia quý thật
Ngọc chạm mất đi thuần diệu
Châu trong vực hằng tự tươi
Mười phần khí trong chừ nắng thu sạch bóng
Một mãnh mây nhàn chừ xa phần trời nước.

Sư nói: Xưa kia chỉ có 2 phò mã đến Nam Kinh nhận chức con đường qua Tư Châu rất sáng, vào giảng đường vui vẽ, nhưng thấy tăng chúng thì xoay mặt vào vách ngồi.

Phò mã nói: Có một kẻ thích lạnh nhạt. Thuyên Đại Sư nói: Trong nhạt nhẽo vẫn có mùi vị, tánh nước vốn lạnh nhạt, nếu thêm thì đậm đà, ngọt hay đắng cũng từ đó sinh ra, tánh cũng điềm nhiên, đưa họ đến sự mê ngộ thì phàm Thánh vẫn lập như thế. Tuy nói trong nhạt nhẽo còn có mùi vị, đây mới là vị ở trong vô vị, mùi vị đó thường khéo vượt khỏi tình vị. Chữ tình xuất phát từ tâm, chữ vị xuất phát từ lời nói, đến đây ngôn ngữ đoạn chỗ tâm hạnh diệt.

Pháp Nhãn nói: Lý lẽ tột bực thì quên mất tình vị, làm sao có thí dụ rõ ràng.

Chương Cốc thần bất tử trong Kinh Đạo Đức nói: Cửa hư huyền là nguồn gốc của đời đất, miên miên nếu còn. Lại nói: Ta không biết là ai, trước Tướng Đế nạp Tăng nói miên miên không thể một bề đạm tuyệt, trước Tượng Đế là trước kiếp không khi Phật chưa xuất thế, như người ngu nói quý am dùng Tuyết Đậu nói quý như ngu, tụng rằng:

Mưa qua mây lặng bầu trời sáng nửa, vài ngọn núi như bức hoạ ngọc bích cao ngất. Không sinh không biết ngồi trong núi hoa trời chấn động đại địa. Bài tụng này nói về Tu Bồ Đề tọa thiền trời Đế Thích rải hoa cúng dường, nay Lỗ không thể giản bớt việc, nếu không một bọn già Nam Tuyền, Huyền Sa kiểm điểm. Đây chính là ngọc gì giũa văn hoa chết vô cớ, không bằng hạt châu ở trong vực sâu mà tự đẹp.

Phổ Thư, Lục Cơ, Sùng Văn Phú nói: Ngọc ẩn trong đá để làm sáng núi, biển ngậm ngọc biển đẹp như ai, trong đá chứa ngọc mà bọn Nam Tuyền vẫn mài ra, hạt châu ở trong nước mà bọn Huyền Sa vẫn gạn được, may mắn từ mười phần sảng khoái mài xanh nắng Thu, mới là một áng mây xa phân trời biển.

Vạn Tùng hỏi: Không thể lãnh hội xoay mặt vào vách, bọn ông lại tìm tiết văn gì?

Tự đáp thay: Nghe nói bài Tụng Cổ của Thiên Đồng.

TẮC THỨ 24: XEM RẮN CỦA TUYẾT PHONG.

Dạy đại chúng: Biển phía Đông có con cá chép, Nam Sơn có ba ba, phổ Hoá có lừa hí, Tử Hồ có chó sủa, không rơi lối thường, không đi di loại. Hãy nói: Đó là hành lý của người nào?

CÔNG ÁN: Tuyết Phong bảo đại chúng: Ở Nam Sơn có con ba ba mũi nó như con rắn, (243) Các ông phải đến xem đi.

Trường Khánh nói: Ngày nay ở trong giảng đường có người táng thân mất mạng, Tăng kể cho Huyền Sa nghe.

Huyền Sa nói: Phải là Lăng Huynh ta mới được, tuy như thế nhưng ta thì không như thế.

Tăng hỏi: Hòa Thượng thế nào? Huyền Sa dùng Nam Sơn làm gì?

Nhân môn lấy gậy cản trước mặt phong làm cái thế sợ hải.

Sư nói: Nam Sơn có con ba ba tuy đã chết, trước bụi tượng, cốt.

Nham biết làm thì sống. Tuyết Phong đem điều đó dạy đại chúng: Vốn muốn lấy độc trị độc, Trường Khánh chỉ thuận nước mà đẩy thuyền, nói ngày nay trong giảng đường có nhiều người táng thân mất mạng, nếu biết nghịch đẩy buồm. Tuyết Phong phải vào giảng đường mới được. Huyền Sa nghe vậy nêu lên nói: Phải là lăng huynh ta mới được, ở đây có một chút ngoa ngụy, Huyền Sa chấp nhận Trường Khánh, vì sao? Lại nói ta thì không như thế, không chỉ thuận nước đẩy thuyền, nghịch gió đẩy buồm, vị tăng này không nhìn sự nguy vong, còn Hòa Thượng lúc ấy thế nào?

Huyền Sa chỉ nói: Cái dùng của Nam Sơn làm gì? Ở đây liền cứu sống con rắn. Vân Môn lại cản gậy làm cái thế sợ hãi dùng được thì rất thân thiết, nói ở trong bài tụng Vân Môn quét nhà.

Tăng nêu lên làm bàn tay rắn trước tượng cốt Nham, lúc nhỏ làm đến già thẹn thùng. Nên Vân Môn nói nô thấy tỳ thì ân cần, cỡi ngựa giặc đuổi theo cũng không ngại, nay mới làm bài Tụng nói làm lời rộng, làm tay rồng, nhìn cái quá lớn của ông ta chặt đứt cánh tay vuốt ve, Tụng rằng:

Huyền Sa đại cương, Trường Khánh ít mãnh, rắn lớn của Nam Sơn chết không thể dùng được, bờ gió mây đầu sừng mọc ra chói lọi, quả thật thấy Thiều Dương mới bắt tay vào làm, xem biến động trong lúc rấm rền, đối với tôi có khả năng hô, đối với người cũng có bắt cũng có thả, sự việc như hôm nay giao cho ai, há miệng làm tổn thương đến người khác không biết đau đớn.

Sư nói: Huyền Sa sai người mang thư lên cho Tuyết Phong, Phong giở ra mới thấy ba tờ giấy trắng, hỏi vị tăng kia rằng: Lãnh hội chưa?

Vị Tăng đáp: Chưa lãnh hội.

Tuyết Phong hỏi: Không thấy nói người quân tử ngàn dặm như gió, Tăng trở về kể lại cho Huyền Sa.

Huyền Sa nói: Lão Hòa thượng Đầu Sơn có lỗi lầm không hay biết. Huyền Sa nối pháp với Tuyết Phong thường chứng kiến cảnh cha ăn cắp dê, việc nên làm thì không từ chối, nói cần Nam Sơn làm gì? Ở đây thật ra kiên quyết cũng vô phương, có thật cương quá Trường theo ta mà nói, phần nhiều có người táng thân mất mạng, không hiểu Sư tử trái lại ném đi. Ở đây chính là thấy nghĩa không làm là không có dũng mãnh. Bờ đê mây hội biết đâu sừng mọc, quả nhiên thấy Thiều Dương bắt tay vào làm. Vân Môn gặp mặt đưa ra một con rắn sống, không giống cung tên hiện bóng của cả thầy. Có thể sai khiến có thể hô gọi.

Lý Ngạn Hữu nói: Gọi rắn thì dể, sinh rắn thì khó, có bắt có thả là bài tụng này nói đã cản trước mặt lại làm cái thể sợ hãi, đã có thể bắt thả thì chắc chắn biết cách sai bảo.

Thiên Đồng sau này hỏi: Việc như hôm nay thì giao cho ai? Miệng lạnh làm tổn thương đến người khác không biết đau, nhưng hễ làm bài tụng đều quy về mình, đưa trước mặt, mới là tác gia.

Tuyết Đậu cũng nói: Như hôm nay dấu trước phong nhũ người đến xem đều tiện lợi. Sư lớn tiếng hét. Nhìn dưới chân.

Vạn Tùng nói: Tuyết Đậu ham nhìn dưới chân không biết xuyên qua đầu lâu. Thiên Đồng lanh miệng làm tổn thương người, người sáng suốt không làm việc mờ ám. Ta lúc ấy nếu là Vân Môn, lấy gậy ném vào người Tuyết Phong định không đến. Sau đó dạy y tự làm tự chịu, dần dân quen lần tại sao như vậy? Ngày 2 tháng 2 sáng nay, tạm bỏ rồng bắt đầu.

TẮC THỨ 25: CÁI QUẠT SẮC BÉN CỦA

GIÁM QUAN

Dạy đại chúng: Biển không có bờ, không lìa đương xứ, việc trước trần kiếp, lại như hôm nay, thử dạy ông gặp mặt rồi, lại không biết theo gió tiện nói nói lỗi chỗ nào?

CÔNG ÁN: Bửa nọ Giám Quan gọi thị giả, đưa quạt tê giác đến cho ta.

Thị giả nói: Quạt rách rồi.

Giám Quan hỏi: Cái quạt đã rách còn tê giác của ta đâu? Thị giả không đáp. Tư Phước mới vẽ thành một vòng tròn, ở trong sách có một chữ "Ngưu".

Sư nói: Thiền Sư Tề Am Viện Hải Xướng Trần Quốc huyện giám cung Hàng Châu, vốn là chi nhánh của Đế Tông đời Đường, Tuyền Tông thầm làm Tăng. Đến yết kiến Sư, Sư biết trước bảo cho chủ sự, phần nhiều cấm nói lãi nhãi, chỉ căn cứ vào chuyện không may, vua ở lâu bổng từ biệt. Sư thầm bảo rằng: Đến giờ rồi, không thể trễ nải, lại phó để hậu sự Phật pháp.

Thời Võ Đế, Tông hủy diệt giáo pháp 6 năm, đến đời Tuyên Tông phục hưng lại, Sư có oai lực như vậy. Vua mới triệu Sư về hoàng cung cúng dường Sư thị tịch đã lâu, vua thương xót nên ban tên Thụy là Thiền Sư Ngộ Không. Ngày nọ Sư gọi thị giả vào bảo: Đưa cái quạt tê giác cho ta.

Thị giả nói: "Cái quạt rách rồi". Cũng là lời nói chân thật của cha con.

Sư nói: Cái quạt đã rách, còn con tê giác của ta? Chính là cái toàn thân vào cỏ lạ cho con. Thị giả, không đáp lại cũng nhờ ta đánh chánh, chỉ do mình không biết có.

Đầu Tử thay lời nói: Không từ chối dơ lên, sợ đầu sừng không toàn vẹn.

Vạn Tùng nói: Khéo tu bổ lại

Tuyết Đậu bình: muốn đầu sừng không toàn vẹn.

Vạn Tùng nói: Mới là đồ cổ của nhà ta.

Thạch Sương nói: Nếu có Hòa Thượng tức không có.

Vạn Tùng nói: Kiêng kỵ trước mắt.

Tuyết Đậu đưa ra nói: Tê giác vẫn còn.

Vạn Tùng nói: Mắt sáng khó lừa.

Bảo Phước nói: Hòa Thượng tuổi cao thích người khác thì tốt.

Vạn Tùng nói: Ân nhiều oán lắm,

Tuyết Đậu nói: Đáng tiếc lao nhọc mà Vô công dụng.

Vạn Tùng tâm tốt không dược quả báo tốt. Theo một bọn già này, không nói đạo lý rỗng không, cái quạt và con tê giác, rút cuộc chọn lấy không được, chỉ có Tư Phước mới vẽ một hình tròn, ở trong đó viết một chữ "ngưu", cái quạt tê giác dứt, mới không lay động.

Tuyết Đậu nói: Vừa đến tại sao không lấy ra? Thật ra nói cái quạt hư rồi, đâu từng động mảy may, vừa đến không lấy ra, lại đâu từng thiếu mà nay lấy ra cũng không, cũng từng thêm.

Thiên Đồng thường cho Tư Phước lấy ra được thì đích thân dùng, nêu danh lấy thỉnh, đặc biệt nấu chính một chút, Tụng rằng: (Quạt rách xin tê giác, chữ ở trong cái chén trọn là có nguyên nhân, ai biết cây quế sừng sững ngàn năm, khéo thông minh một chút thu).

Sư nói: Mọi người khắp nơi bảo, cánh quạt vẽ tê giác đùa cùng trăng, có người nói: Sừng tê giác là cánh quạt. Có người nói: Lấy tê giác làm cái cán, đều gọi là quạt tê giá.

Lúc ấy Giám Quan trải chiếu ra, mọi người đều đưa ra một cái cán, chỉ có Tư Phước liền quay lại đúng cho 30 gậy vào gót chân, hà huống qua sông, đến bây giờ có vị Tăng vừa đi ra, Sư nói không chịu nổi lên càng nói, Phàm giảm tứ quý nhất là lời nói: Tông môn quý là dụng, vì chữ trong chén đều có nguyên nhân.

Huyền Sa bảo Đại chúng rằng: (244) Ta có chánh pháp Nhãn Tạng, phó chúc cho ma Ha Cadiếp giống như vẽ mặt trăng, Tào Khê dựng phất trần như chỉ mặt trăng, cây quế mới là mặt trăng.

Kinh Niết Bàn nói: Đức Thế Tôn phóng hào quang nguyệt ái. Vua A Xà Thế phiền não Thanh Lương, cho nên nói: Chỉ có cây quế sừng sừng ngàn năm, khéo thông suốt mùa Thu một chút, có thể nói cán lớn ở trong tay, gió mát thường đến mình, nói cái quạt tê giác, nêu ra nhiều bài tụng nhất lại có nguyên do không từng gặp nhau với Giám Quan.

Vạn Tùng nếu làm thị giả, nghe Sư nói đưa cái quạt tê giác cho ta, có nhiều thứ như lông vũ, giấy cói, thẻ tre, lụa phỏng, lụa sống, cây cọ, bò rừng, thuận tay lấy cho một cái cán, người nào dù có ngàn thứ khéo léo, cuối cùng phong cách khác nhau.

TẮC THỨ 26: NGƯỠNG SƠN CHỈ TUYẾT.

Dạy đại chúng rằng: Sương và tuyết một màu, trăng hòa nhau, đông cứng quyết pháp thân, làm tổn hại ngư phũ, còn chịu thưởng, ngoạn không?

CÔNG ÁN: Ngưỡng Sơn chỉ Tuyết Sư Tử hỏi: Còn có thứ nào trội hơn màu này không?

Vân Môn đáp: Lúc ấy liền cho một đạp té nhào. Tuyết Đậu nói: Chỉ biết đạp nhào mà không biết đỡ dậy.

Sư nói: Người xưa đối cơ gặp vật, phát minh một đoạn vật lớn trước kiếp không

Kinh Pháp Hoa nói: Thuần một tướng có xen tạp đầy đủ tướng phạm hạnh thanh bạch. Có thuyết cho rằng: Màu trắng là nguồn gốc của các màu, nhất thừa là nguồn gốc của các thừa, mà không nói màu trắng hướng thượng càng có sự nghiệp, cho nên Ngưỡng Sơn chỉ Tuyết Sư Tử bảo đại chúng: Còn có thứ nào trội hơn thứ này không?

Lại màu trắng là gốc của các màu sắc, màu của tuyết rất trắng, như vậy còn có màu nào trội hơn nó được.

Vạn Tùng nói: Đã gọi là sắc, nhất định đối với nhãn căn, màu trội hơn màu trắng, chỉ có thứ vô sắc không đối đãi với nhãn căn. Cho nên Tuyết Phong nói: Lúc đó cho một đạp lộn nhào, như hướng đến chỗ rất trắng hay không trắng bằng lòng, chính là rơi vào trong cõi vô sắc. Cho nên Tuyết Đậu chỉ đưa ra một con đường sống, hướng đến chỗ đạp té nhào, lại bảo đỡ dậy. Phật Nhãn nói:

Nếu ở đây mà đỡ dậy thì sinh ra lắm việc.

Vạn Tùng nói: Nếu là phái khác Tông khác, không nói không được, cần phải biết Tông phong của Động Sơn, chính là lúc té nhào liền đứng dậy, chính lúc đứng dậy là lúc té nhào, sau đó đứng dậy té nhào cùng một lúc, đứng dậy té nhào không lập, lại mua giày cỏ, 30 năm hành cước không thấy.

Phật Giác tụng rằng: "Màu sắc không gì bằng dạy người, rỏ ràng trong thế giới bạch Kim, tự nhiên đạp nhào rồi đỡ dậy, đâu như gió đông rọi ngày mới".

Vạn Tùng nói: Sau khi mặt trời mọc một phen thẹn hổ giống như học nhân, thấy Vân Môn đạp nhào, Tuyết Đậu đỡ dậy, mới làm cho cơ phong chuyển đổi, đại dụng không thể hiểu, nhìn đến bên một màu sắc không được lãnh hội bên màu sắc, cho là mạch máu của Tông chỉ, đã có Phật Giác là chứng, như có người không tin thì hỏi Thiên Đồng, Tụng:

Tuyết Đình Sư Tử vừa té vừa dậy, thận trọng khởi lòng nhân đối với mọi người, dõng mãnh thấy nghĩa ở nơi hành vị, ánh sáng soi mặt tợ nhà mê, rỏ ràng chuyển thân còn theo vị, nhà Nạp Tăng không gửi, cùng sống cùng chết cho sao đành? Tin nắng hại mai hề Xuân đến cành lạnh, gió rét rời hề nước Thu lạnh giá.

Sư nói: Vân Môn vừa té nhào, Tuyết Đậu vừa đứng lên.

Ngưỡng Sơn chỉ Sư Tử, muốn qua màu sắc này, đỉnh 3 chân không thể thiếu một, Tam huyền tam yếu ở nơi đây.

Ngưỡng Sơn sợ người trong sáng suốt há không dè chừng phạm tội là ấp ủ nhân đức, chỉ như người bảo qua màu sắc há chẳng dũng mãnh là để thấy nghĩa. Cô Ngữ nói: Thấy việc nghĩa không làm là không dõng mãnh? Vân Môn lại sợ ngồi ở bên một màu sắc, há không dễ chừng phạm tội nhân đức, liền cho một đạp, cũng là dũng mãnh, làm để thấy nghĩa.

Tuyết Đậu sợ người chỉ biết té nhào, mới dè chừng phạm tội ấp ủ nhân đức, lại có thể đỡ dậy dõng mãnh là để thấy việc nữa. Không thấy Triệu Châu nói: Lão Tăng không ở trong sự sáng suốt, nhờ ánh sáng mát mẽ chiếu vào con mắt như nhà mê, sáng suốt chuyển thân chưa tránh khỏi vào địa vị, chỉ biết té nhào không biết đứng lên, làm sao cam chịu? Bản sắc của Nạp Tăng như viên minh châu lăn trên mâm, tuy đồng sinh, đồng tử mà không ở trong sinh tử. Tuy không có kia đây nhưng không có quyền tập kia, đây 2 câu cuối, có khi nói do ánh mắt trời, có khi ở trước đường trăng sáng, vạn cổ trường không một sáng gió trăng, ban mai ve sầu.

Hãy nói: Mà nay thời tiết gì? Lại tùy theo cây lâu năm khô héo dần, theo gió Xuân vào thiêu đốt tỳ vết.

TẮC THỨ 27: PHÁP NHÃN CHỈ BỨC RÈM.

Dạy đại chúng rằng: Nhiều thầy mạch loạn, pháp sinh gian khởi, không bệnh chữa bệnh, tuy tổn hại lòng từ, có việc theo việc không ngại cử lời.

CÔNG ÁN: Pháp Nhãn lấy tay chỉ bức rèm.

Pháp Nhãn nói: Một được, một mất.

Sư nói: Pháp nhãn lên tham vấn trước trai đường, lấy tay chỉ bức rèm, hai vị Tăng đến cuốn bức rèm. Pháp Nhãn nói: Một được, một mất.

Đông Thiền Tế nói: Thượng Tòa lãnh hội thế nào?

Có người nói: Vì y không rỏ ý chỉ liền đi cuốn rèm. Cũng có người nói: Chỉ thì lãnh hội, không chỉ mà đi thì mất, như thế lãnh hội được không? Đã không chấp nhận lãnh hội như thế. Hãy nói: Thượng tọa được cái gì mất cái gì?

Vạn Tùng nói: Rửa đất ở trong, đây không chỉ Pháp Nhãn.

Một hôm Nam Tuyền bảo vị Tăng rằng: Đêm về gió mát, có vị Tăng cũng nói: Đêm về gió mát. Vạn Tùng nói: Thổi gãy cây tùng trước cửa. Tăng cũng nói: Thổi gãy cây tùng trước cửa

Lần sau Nam Tuyền bảo một vị Tăng: Đêm về gió mát.

Tăng nói: Là gió gì?

Nam Tuyền đáp: Thổi gãy cây tùng trước cửa.

Tăng hỏi: Là cây tùng gì?

Nam Tuyền đáp: Một được, một mất.

Chỉ bức rèm nói; Người có làm thì đại khái, 2 vị Tăng cuốn bức rèm, phần đương nhân tự có 2 lỗi: Pháp Nhãn trước ấn định cho một dấu thì không thay đổi. Về phần

Pháp Nhãn, sáng tối xen nhau, cơ sống chết, cảnh giới của mọi người Phổ Hiền điều biết. Mọi người đều do xa lìa được mất, mà quên thị phi là trên hết. Pháp Nhãn đi vào biển thị phi, trong hầm được mất, sinh sống. Bởi không có người được mất, nên có thể định đoạt gọi được mất hạ của thiên hạ, Vạn Tùng như thế? Đề xướng cũng có được mất. Mọi người như thế? Xưa nay cũng có được, có mất, cháu gọi rỏ đầu mới hại, có thể so sánh tổn hại lợi ích của nó, cháu gọi hiện thành công án, không nhọc khám phá, vì ông thể đoán ngược, không khỏi sự đưa ra kiện tụng của Thiền Đồng, tụng rằng:

Tùng thẳng gai cong hạc cao quạ thấp, Nghĩa Hoàng Thế Nhân đều quên trị loạn, ở đó là vực sâu của rồng ẩn náo, ẩn dật cũng vỗ cánh bay đi, đâu thể gánh vác ý Tổ Sư, ở đó chấp người nhận một nữa được mất, cơ bồng theo gió mà chuyển không, thuyền cắt dòng mà đến bờ, sự lanh lợi của Nạp Tăng trong đó, nhìn xem thủ đoạn của Thanh Lương.

Sư nói: Người xưa bất đắc dĩ gượng gọi là bổn phận sự. (245) Tùng thẳng, gai cong, cò trắng quạ đen, vốn trích trong Kinh Lăng Nghiêm. Thiên Đồng điểm hóa: Hạc cao, quạ thấp. Trang tử nói: Dài không phải có dư, ngắn không phải là không đủ, chân quạ tuy ngắn, nhưng nối thêm thì nó buồn, chân hạc tuy dài nhưng chặt bớt nó cũng buồn.

Tục Ngạn nói: Muốn không buồn thì nương vào bổn phận, há đến nổi Nghĩa Hoàng Thế Nhân đều quên trị loạn.

Khổng Tử nói: Ở phương Tây có Đại Thánh Nhân, không trị mà không loạn, trị loạn là được mất.

Tam Tổ nói: Được mất thị phi buông đi cùng một lúc quẻ Chu Dịch, chín ngày đầu thông thường ẩn núp, không nên dùng ngày 9 và 4 có con nhảy ra ở vực sâu.

Tần Đài ghi: Vương Thứ Trọng năm 20 tuổi, thay đổi già nua, bỏ văn củ là lối chữ Lệ. Tần Thủy Hoàng tìm không được, vua tức giận chở tù nhân đến nước Triệu, giữa đường hoá làm con chim bay quanh, bay đến núi phía Tây thì rơi cánh, nay huyện Quy Xuyên có nhiều cọng lông chim, chính từ đây.

Bài tụng này do phong cách của thượng cổ, xuất xứ hành tàng, đều ở phần đó. Lúc Phật chưa ra đời có bao nhiêu kinh luận công án?

Cho đến Tổ Sư Ấn Độ lại có được, có mất, sao không hướng đến khi chưa chỉ bức rèm lãnh hội lấy? Theo gió chuyển không, cắt dòng đến bờ, 2 câu này trích trong câu chuyển được mất của 2 vị Tăng. Thiên Đồng có công phu lớn không dể, nói như thế. Nếu không có cách cứu người, đâu có thể giết người được, cho nên lại nói: Nạp Tăng lanh lợi trong đó, xem lấy thủ đoạn của Thanh Lương.

Hãy nói: Theo lệnh gì mà được như thế? Đợi ông ăn gậy rồi nói cho ông biết.

TẮC THỨ 28: HỘ QUỐC TAM MA

Dạy đại chúng: Người chẳng dính một tấc tơ, chính là ngoại đạo lõa hình, kẻ không ăn hạt gạo, dứt khoát trở về quỷ Vương mặt nám, dù thọ sinh nơi cỏi Thánh chưa thoát khỏi rơi vào cây sào nguy hiểm, còn có xấu thẹn không?

CÔNG ÁN: Tăng hỏi Hộ Quốc: Hạc đậu tùng khô thì thế nào?

Quốc nói: Một phen hộ thẹn dưới đất,

Tăng hỏi: Lúc nước nhỏ thành băng thì thế nào? Quốc đáp: Sau khi mặt trời mọc một phen hổ thẹn.

Tăng hỏi: Lúc cối xương bị sa thải thì thiên thần hộ pháp đi về đâu?

Quốc Sư: Đầu tam mối 2 người một phen thẹn.

Sư nói: Hộ Quốc Tịnh Quả Đại Sư núi Tuy Thành Châu tùy húy

Thủ Trừng, cùng với Nhị Thế Diễn Hóa Đại Sư húy Viễn Tri, cùng với Báo Ân ở Hồ Nam. Một hôm từ thăng tòa Sư hỏi: Thế nào là Phật tánh chân như?

Từ đáp: Không biết bèn thối lụi.

Thủ Tòa hỏi: Ông đến hỏi Hòa Thượng vậy có lãnh hội được chưa?

Sư đáp: Chưa lãnh hội.

Tòa hỏi: Hòa Thượng từ bi như thế, vì sao ông không lãnh hội?

Phật tánh chơn như ai lại không biết, cho nên tứ sinh lục đạo đều có đủ.

Sư nói: Cảm tạ Thủ tòa đã nói ra cho con. Tịnh Quả bên cạnh nghiến răng nói: Lão già này chính mình không có mặt mà lại dối người, mới vời.

Sư hỏi: Thủ tòa vừa nói gì?

Sư đáp: Lúc đó con chưa lãnh hội mới được ông ta phà cho. Kể ra đầy đủ như trước.

Tịnh Quả nói: Phật pháp Thượng Tọa không phải đạo lý này, nếu ông không tin thì đến hỏi Đường Đầu, Sư lên Đường Đầu trình bày đầy đủ. Từ cũng nói: Phật pháp không phải đạo lý này.

Sư bảo đến hỏi: Lại hay vọng thương xót con mà nói rỏ ra.

Từ bảo đến hỏi Thủ tòa: thứ 3 ông ta cũng không chịu cho nên bảo đến hỏi: lại hay vọng thương xót con mà nói rỏ ra Tứ bảo ông đến hỏi Đệ tam Tòa, Sư đến lễ bái rồi hỏi:

Tịnh Quả nói: Ông cứ hỏi.

Sư liền hỏi: Chơn như Phật pháp là thế nào?

Tịnh Quả đáp: Ai biết, ngay đó Sư khế ngộ, lại bái tạ, mới nói Thủ tòa hoặc ở trong chúng, hoặc đi giáo hóa, con thệ nguyện theo hầu hạ. Về sau mới kế thừa trụ trì, lời nói này mọi người khắp nơi đều gọi là Hộ Quốc, ba lần thẹn hổ cùng với Bảo Phước, 4 lần dối người là đúng. Người chưa vượt qua thiên cơ, rất khó chạy thoát được, không thấy, Tăng hỏi Vân Cư Giản Thiền sư, Cô phong chỉ ở một mình thì thế nào?

Cư đáp: Không nằm trong chín gian đường Tăng, ai bảo ông Cô phong ngũ một mình, lời nói này tuy không huyền diệu, nhưng rất có khai phát. Nêu ra một góc này, thì ba góc đều thấy.

Bài minh của Động Sơn Huyền Trung, "núi cao vòi vọi hạc không dừng chân, gỗ linh xa xôi, phụng không nương gá", Tăng này lại hỏi: Hạc đậu tùng lễ thời thế nào? Tăng này không ngồi si công phu đã đến, đem một chút phong quang bổn địa này dàn lên tràn ngập người trình ra. Thật không ngờ Cô Phong hiểm nguy không đứng, mới nói cao, trong

Thiên Thai giáo gọi nó là đình đọa. Cho nên Hộ Quốc nói: Một phen hổ thẹn ở dưới đất, vị Tăng này không sống chỗ núi nguy hiểm. Lại đem băng khô trình lên chỗ Lão Tuyết. Lại biết lúc trời nắng gắt sinh ao hồ, nơi lạnh lẻo lại cần ấm ấp, nên nói: Sau khi mặt trời mọc một phen thẹn hổ. Vị Tăng này đánh nhau 2 lần, từ trước tới nay bị Hộ Quốc đánh 2 lần, không làm cho chết được, lại hỏi giáo môn hưng phế, nghi khó nói, lúc ở Cối Xương sa thải, thì hộ pháp Thiện thần đi về đâu?

Đường Võ Tông thích tu tiên, mà sa thải 26 vạn 500 vị Tăng Ni. Hạ tuần tháng 8, niên hiệu Cối Xương thứ 5, bắt buộc Tăng Ni hoàn tục. Vua uống thuốc linh đơn của danh sĩ nên tính tình càng nóng nảy, buồn vui bất thường. Đến ngày 1 tháng 8 năm thứ 6, vừa lên ngôi được nửa năm thì bị linh đơn mà chết. Sau đó Tuyền Tông lên ngôi thì chùa chiền Tăng nhiều gấp 3 lần, đem đạo thần tiên để bàn bạc, không lợi dụng Vũ Tông ít phế bỏ, đầu dẫn đến Ma Tuyền Tông Đại Hưng. Quyền xảo của Thiên Thần mới đoạn trừ được chẳng phải kẻ tầm thường có thể bì kịp. Nếu dừng chỗ thấy nơi Nạp Tăng, pháp môn vốn không có hưng phế, thiên thần há có đến đi? Nên nói:

Hai người một phen thẹn hổ. Vạn Tùng nói như thế, vì người chú thích sai.

Lại không thấy, Tăng hỏi: Tâm pháp đều quên thì thế nào? Hộ Quốc nói: không rửa mặt.

Tăng hỏi: Lúc mặt trời rơi xuống đầm lạnh thì thế nào? Hộ Quốc đáp: Không rửa mặt

Tăng hỏi: Lúc ánh sáng và cảnh vật quên thì thế nào?

Hộ Quốc đáp: Không rửa mặt, không thể chú thích từ đầu. Lúc không chú thích thì thế nào? Chính mình không được Tụng Cổ của Thiên Đồng. Tóc gợn sóng của tráng sĩ chưa vào Thu, nam nhi không giận không phong hầu, suy nghĩ rõ ràng truyền khách nhà, đầu khe rửa tai trâu không uống. Sư bảo: Tam Tổ nói: Thế đại đạo không lớn, không dể, không khó, ít thấy nghi ngờ, chuyển nhanh chuyển chậm. Xưa có hai vị Tăng cùng đi người tánh thì nóng đi trước gọi người đi sau rằng; Thời gian gấp gáp hãy đi nhanh lên. Vị Tăng đi sau nói: Đại đạo rộng lớn, vội vàng làm gì?

Vạn Tùng từng thấy, Viên Thông Thiện Quốc Sư tự tay viết hai bài tụng: "Thời gian gấp gáp hãy đi mau lên, đạp phá đầu đường, hoa ưu bát nỡ, đại đạo rộng lớn vội vàng làm cái gì? Mổ da bụng ra, một lúc trong bao, 2 bài tụng của Quốc Sư Viên Thông, bảo vị Tăng này hỏi như thế, Hộ Quốc đáp gì? Mỗi người phải có con mắt trí tuệ chân thật. Trong câu tụng của Thiên Đồng như thế lòng hăng hái tham vinh, 2 câu sau như lui gót trở về. Thời Đông Hán nhà Ban Siêu rất nghèo sống bằng nghề viết sách, mới hạ bút rằng: Bậc đại trượng phu sẽ bắt chước Trương mạch truyền giới tử lập công ở nước khác, phong cho chức hầu ngoài vạn dặm, đâu thể sống bằng nghề cầm bút này lâu dài được, về sau luận về Tây Quốc, phong cho Viễn hầu, ở đây ví dụ cho Vị Tăng này 3 lần hỏi tìm tòi nhiều quá. Thái Thú Kinh Châu nhậm chức Dương Chấn đời Hậu Hán, ông rất liêm chánh (246) không chịu hội ý riêng, nên con cháu nghèo cùng khốn khổ. Vì thế Cựu trưởng giả muốn mở mang sự nghiệp. Chấn không bằng lòng nói: Vì muốn để lại cho đời, làm gương cho con cháu, nên khước từ cũng không quý trọng ư?

Sư ghi: Hứa Do ẩn náo ở núi Cơ, ăn cây rừng, uống nước suối.

Vua Nghiêu nhường ngôi vị, Do nghe vậy đến suối rửa tai.

Sào Phũ cho trâu ăn hỏi rằng: "Bảo mọi người rửa mặt, ông lại rửa tai?"

Hứa Do đáp: Nghe Vua Nghiêu mời tôi làm bộ trưởng của 9 châu, cho nên tôi tẩy trừ những thị phi.

Phụ hỏi: Câu Dự Chương ở trên núi cao, người thợ không thể sử dụng được, ông muốn lánh đời, sao không trốn sâu sâu? Nay dạo chơi trong nhân gian để cầu danh tiếng, coi nghé về việc ăn uống, e rằng làm dơ miệng trâu, mới dắt lên dòng nước cho uống, Thiên Đồng đem bài tụng nói 3 lần hổ thẹn 3 vị Dương Chấn, Hứa Do, Sào Phũ. Lại giống như bị Đồng Am nói nước đục thì tự nó đục, nước trong thì tự nó trong, bồ đề phiền não đều rỗng không bình đẳng, vị Tăng này và Hộ Quốc, buông hết không liên quan đến việc của các người, mỗi người xin đuổi theo.

TẮC THỨ 29: THIẾT NGƯU CỦA PHONG

KHÔNG

Dạy đại chúng rằng: Căn cơ đần độn, bóng lửa như cái rìu, mắt chuyển đều mê, cướp lấy cái cán, nếu đánh vào hang quỷ, để định đầu rắn chết, còn có biến thành hổ không?

CÔNG ÁN: Phong Huyệt ở trong Nha Môn Dĩnh Châu thượng đường nói. Tâm ấn của Tổ Sư giống như cơ phong của Thiết Ngưu, bỏ tức là ấn trụ, trụ tức ấn phá, chỉ như không bỏ không tri, ấn tức đúng không ấn tức phải. lúc đó có Trưởng Lão Lư Bi ra thưa: Con có cơ phong của Thiết Ngưu xin Sư đừng bắt ấn.

Phong Huyệt nói: Câu cá Kình nơi đầm lắng lại sai nhái vào bùn cát, Bi suy nghĩ hồi lâu, Phong Huyệt hét: Trưởng Lão sao không tiến nói. Bi suy nghĩ, Huyệt lấy phất trần đánh nói: Còn nhớ thoại đầu không? Nêu thử xem. Bi mới mở miệng, phong Huyệt lấy phát trần đánh. Mục Chủ nói: Phật pháp và Vương pháp giống nhau.

Phong Huyệt nói: Thấy cái gì?

Mục chủ nói: Nên đoạn hay không đoạn, trở lại chuốc lấy loạn ấy, không liền xuống tòa.

Sư nói: Cư Sĩ vô tận nêu: "Lâm Tế từ giả Quy Sơn, Ngưỡng Sơn hầu bên cạnh Sư".

Quy Sơn nói: Người này về sau pháp đạo thế nào?

Ngưỡng Sơn đáp: Về sau pháp đạo thịnh hành nước Ngô Việt gặp phong liền đừng. Lại hỏi ông ta nối pháp với người nào?

Ngưỡng sơn đáp: Niên đại xa xưa không thể nói được. Quy cố hỏi nói ta cũng nói ta cũng muốn biết.

Ngưỡng đáp: Kinh không nói ư? Dùng tâm sâu xa này phụng thờ cõi trần mới nói báo đáp được ân Phật.

Cư Sĩ nói: Đem cái biết này làm hậu thân của Phong Huyệt, Ngưỡng Sơn. Phong Huyệt ban đầu tham vấn với Tuyết Phong 5 năm, ngày nào thỉnh hỏi trong hội Lâm Tế, Lưỡng đường Thượng tọa ngước đầu nhìn nhau mỗi người hét một cái, Tăng đưa ra hỏi Lâm Tế: Chữa rỏ khách chủ đủ mặt không?

Lâm Tế đáp: Tuy như thế, khách chủ rõ ràng

Tuyết Phong thuật lại cho Nham Đầu và Khâm Sơn, trên đường đến gặp Lâm Tế đã qua đời chưa kịp tham vấn được, thì nói: Ông muốn lãnh hội nên hỏi con cháu của ông ta. Phong Huyệt nêu cho Nam Viện. Viện nói: Tuyết Phong là cổ Phật. Về sau Sư đến ở Thiền Vận quãng Tuệ núi Phong Huyệt ở Nhữ Châu năm đời loạn ly. Dĩnh Châu, mục chủ mời Sư ở trong Nha môn qua hạ.

Vào một này nọ Mục chủ mời Sư thăng tòa, bảo chúng rằng: Tâm Ấn của Tổ Sư, giống như cơ phong của Thiết Ngưu, khác với Huyền Xướng, Huyền Đế của người đá ngựa gổ thẳng xuống Thiết Ngưu, không ở gần bên ông, ông vừa đi câu về, mới ở dạy cho trăm tạp toại, chỉ như không đi không ở, ấn tứ là đúng, không ấn cũng đúng, có thể nói đầu lưỡi câu có mồi. Trưởng Lão Lư Bi cũng là con cháu Lâm Tế, lại chuyển câu thoại đầu ông ta, để hỏi không ngại kỳ đặc, nói con có cơ Phong của Thiết Ngưu, xin Sư đừng bắt ấn, làm sao phong Huyệt theo lệnh mà đi?

Sư liền đáp: Buông câu câu cá kình ở đầm lặng lại sai nhái chui vào bùn cát, cá Kình thuộc loại cá lớn ở biển. Trang Tử nhậm chức Công Tử làm 50 con bò làm bánh mồi, sẽ bắt được con cá này, coi nhái chui vào bùn cát.

Có thuyết nói: Lúc Hán võ Đế có nhiều lợi thế, thấy một đàn ngựa hoang ở bên vũng nước, trong đó có một con rất kỳ lạ đến uống nước, nhân đây làm sĩ nhân, buộc cái cùm ở bên, quen rồi cho bình thường, cho người thay thế, bắt được con ngựa này thấy được thần kỳ của con ngựa đó, gọi là từ nước mà ra, bèn truyền cho là loại rồng. Huyệt cho là con ngựa sinh ra, nước trong trái lại chui núp trong bùn cát. Ở đây nói quanh co phong huyệt nổi nóng hét, rõ ràng bước đi của con nhái, không thấy Tuyết Đậu làm bài tụng nói về cái quạt tê giác.

Lại nói: Nếu muốn gió mát thổi đến, đầu sừng lại mọc ra, xin Thiền Khách hạ một chuyển Ngữ bèn nói: "Cái quạt đã rách trả con tê giác cho ta". Bấy giờ vị Tăng ra thưa: Đại chúng tham đường đi. Tuyết Đậu hét, ném câu câu cá kình, lại câu được con tôm, đem 2 câu này đối lại với 2 câu trước và sau của Phong Huyệt, chữ "oa" là không nghi. Bi suy nghĩ hỏi lời trình cơ, muốn cùng Phong Huyệt gặp nhau, bổng một chút gặp gở, muốn tìm ra ưu điểm khác, đến ông trình bày rỏ về kỷ thuật múa kiếm, vừa múa liền té nhào. Đây không hiểu cướp đoạt cơ phong thì hành mệnh lệnh, khách chủ đổ lỗi cho nhau. Mục chỉ tham vấn với phong không đã lâu, nếu nói chỗ thấy, Phật pháp và Vương pháp là một thứ. Phong Huyệt thu được Nam dẹp được Bắc, liền hỏi mục chỉ nói: Thấy cái gì? Ở đây tốt rồi, khuất phục Lô Bị Tuyết, lại nói: Nêu đoạn hay không đoạn trái lại chuốc loạn, không ngại nói, Phong Huyệt chính là vì y lá quan phàm tục của ông, uống hỏi nuốt tiếng liền hạ toà, 2 tôn túc một rồng, một rắn, làm cương làm nhu, đất trồng của Tông Phong Lâm Tế, lại đoạn trừ sự hòa nhã của Thiên Đồng, Tụng rằng:

Cơ phong của Thiết Ngưu, ấn trụ, ấn phá, thấu suốt đi trên đỉnh Tỳ lô, lại đến ngồi nơi lưỡi câu của Cổ Phật, Phong Huyệt đáng cân nhắc, Lư Bi bị thua, hét ở đầu gậy, sấm chớp xẹt đá, rõ ràng như viên ngọc châu lăn trên mâm trong nháy mắt còn có lỗi.

Sư nói: Cơ phong của Thiết Ngưu, ấn trụ ấn phá, Mân Vương sai sứ mang châu đến.

Bảo Phước thượng đường nói: Đi tức là ấn trụ, trụ tức là ấn phá.

Tăng nói: Không đi không trụ, tại sao dùng con dấu? Bảo Phước đánh Tăng: Tăng nói: Thế thì núi ở trong hang quỷ đều là nhân ngày nay. Bảo Phước im lặng, Vạn Tùng nói: Đáng tiếc đầu rồng, đuôi chuột. Nếu Phong Huyệt không chứng đắc môn vô trụ, vô y, đại giải thoát thì không thể thấu suốt đi trên đỉnh Tỳ Lô.

Đường Túc Tôn hỏi Trung Quốc Sư: Thế nào là Vô tránh tam muội?

Quốc Sư đáp: Đàn việt đạp trên đỉnh Tỳ Lô, đây nói pháp thân hướng thượng chẳng phải việc ở bên cây Xuân khô, phong Huyệt trước theo lệnh này, lại đến trong môn Phật Sự, nắm giữ uy quyền nhỏ, quét không sạch công án, quét sạch tình lượng phàm Thánh, quét sạch đây là báo thân, hóa thân Phật. Lâm Tế nói rõ ràng: Chỗ của Sơn Tăng thấy, quét sạch đầu báo thân hoá thân Phật, cân nhắc như thế, cho dù tác giả Lư Bi cũng có lúc chịu thua, ngoại đạo Tây trúc lập nghĩa, không thành gọi là thua, chém đầu, chặt tay để cảm ơn sự không thông minh (247) dộng gậy này hét, lúc sấm chớp có cơ phong biến đổi, đều là quang cảnh tạm thời, cẩn thận để định đoạt được mất, quyền đoán hơn thua, như viên minh châu lăn ở trên mâm, trong chớp mắt con có lỗi. Sư lấy cái phất trần ném vào thiền sàng nói rồi.

TẮC THỨ 30: ĐẠI TÙY KIẾP HỎA

Dạy đại chúng: Dứt các sự đối đãi, quét sạch lưỡng đầu, đánh phá mối nghi trừ một câu, Trường An nửa bước không rời, Thái Sơn chỉ nặng 3 cân. Lại nói: Theo lệnh nào mà dám nói như thế?

CÔNG ÁN: Tăng hỏi Đại Tùy, kiếp hỏa rỗng không, đại thiên điều hoại chưa rõ ở đây có hoại hay không?

Đại Tùy đáp: Hoại

Tăng hỏi: Như thế luôn hoại theo luôn? Tùy đáp: Theo nó hoại luôn.

Tăng hỏi Long Tề: Kiếp hỏa rỗng không đại thiên đều hoại chưa rõ ở đây có hoại hay không?

Long Tề đáp: Không hoại

Tăng hỏi: Vì giống với đại thiên

Sư nói: Thiền Đại Tùy Pháp Chơn ở Ích Châu, hoặc gọi Phước Châu Tây Viện, cũng gọi là Trường Khánh, là con của Đại An, là cháu của Bách Trượng Đại Trí, tham kiến với Viên tôn túc hơn 60 năm, ở trong hội Quy Sơn, làm Hỏa đầu.

Quy Sơn hỏi: Ông ở đây mấy năm rồi? Không biết dẫn đến hỏi Hỏa đầu:

Tùy nói: Dạy con hỏi cái gì thì được.

Quy Sơn hỏi: Ông không biết hỏi như thế nào là Phật?

Đại Tùy lấy tay bịt miệng Quy Sơn lại Sơn nói: Sau này ông sẽ bị miếng ngói che đầu, kiếm người quét đất không? Về sau ông ở ngay ngã tư đường rót trà tiếp đãi khách qua lại ba năm rồi, khai núi trụ Đại Tùy.

Tăng hỏi: Kiếp hỏa rỗng không đại thiên đều hoại, chưa rõ ở đây có hoại không?

Câu hỏi này vốn trích từ kinh Nhân Vương Hộ Quốc, Bàn Túc Vương tin lời của La Đà ngoại đạo, lấy ngăn đầu của Vua, cúng tế giữa hồ mã Ma-haca-la Đại Hắc thiện thành quá nhiều, mong muốn được nai vàng trường tồn, khắp nơi Phổ Minh Vương thỉnh nhờ một ngày, nương vào pháp của bảy vị Phật cúng dường trăm pháp Sư. Đệ nhất pháp Sư nói kệ: Cho vua kiếp hoa rỗng không, đại thiên đều hoại, bài kệ này gồm có 32 câu, vua đi đến cái chết trở lại nói cho các vua.

Bàn Túc nghi ngờ hỏi: Cũng nghe bài kệ này mà tâm khai ngộ giải, đem nước giao phó lại cho em mà xuất gia Đắc Pháp Nhẫn. Căn cứ trong giáo nói: Tam thiên đại thế giới giống như một thần thoại, Hán Võ Đế đào ao Côn Minh, thấy tro mới mang hỏi Đông Phương Sóc.

Phương Sóc nói: Đến hỏi Đạo Nhân ở Tây Vực, sau đến đời Hán Minh Đế ngài Ma Đằng và Trúc Pháp Lan đến, hỏi về điều đó. Đạo nhân nói là kiếp hoa. Vân An hỏi giảng Sư lúc hỏa loạn nổi lên thì thế gian hư không, rất nhiều tro tàn sẽ để ở đâu? Ít có người trả lời được hỏi chỉ quán của La Hán như than củi, Bích chi như tro, Bồ Tát như còn chút ít tro, Phật như kiếp hỏa không than, không tro, lời hỏi ở đây có hoại không?

Phật quả nói: Vị Tăng này vốn không biết thoại đầu thế nào. Hãy nói đây là thế nào?

Tùng đáp: Hoại, lời này phản thường hợp đạo rất khó nắm bắt. Tăng nói: Thế thì hoại theo luôn, vị Tăng này thích cười, không biết cầm ra dơm dơm bao lâu tùy đi theo tăng, Tuyết Đậu và Tu Sơn chủ cùng một thời, chưa thấy Tu Sơn chủ trả lời. Đoạn sau không hoại là đồng với Đại thiên. Nêu ra bài tụng Đại Tùy nói: Đứng trong ánh sáng kiếp hoả hỏi đứng ra đầu mối. Nạp Tăng dường như ngưng trệ hai lớp cửa. Ông không xem lời nói trước mà nêu ra bài tụng của Đại Tùy, Tuyết Đậu chưa thấy ngữ lục của Tu Sơn chủ, nhưng đem câu hỏi đầu có hoại hay không này đã là hai lớp cửa lặp lại hai lần, đáng thương một câu theo lời người, xuôi ngược vạn dặm chỉ qua lại, bài tụng đây vị Tăng này, không lãnh hội được lời nói của Đại Tùy thẳng đến Thư Châu, hỏi Đầu Tử: Tử đáp: Ở Tây Xuyên có Cổ Phật ra đời, ông nhanh trở về đó, vị Tăng trở về thì Tùy đã thị tịch.

Đường Tăng Cảnh Tôn Đề nói: Rõ ràng không có một pháp chỉ nói ấn khả cho Huệ Năng phương Nam, một câu theo lời nói người khác. Ngàn núi đến Nạp Tăng, Tuyết Đậu dùng ý đối này, nói tụng một câu đối sau, sợ trùng lạnh kêu dùng ý đối này, nói tụng một câu đối sau, sợ trùng lạnh kêu trong là, đến lặng lễ khám thờ, ngâm xong nhìn trăng qua cửa, bồi hồi hận không hơn. Tụng Cổ của Thiền Đồng, lại thêm lời của Tu Sơn chủ không hoại là đồng với Đại thiên.

Có bản nói: Do ông ta không giống với Đại Thiên, lời nói đáng xem, nói đồng cũng được, không đồng cũng được, lầm càng lầm thêm không thể! không thể!

Tu Sơn chủ lại nói: Hoại cũng trở ngại cho người chết, không hoại cũng trở ngại cho người chết. Vạn Tùng nói: Đại Tùy nói hoại, cũng có nơi thoát thân. Còn Tu Sơn chủ nói không hoại, cũng có nơi thoát thân, không phải từ đầu đến cuối không có ý suy lường, không thể một mực dùng tình thức lãnh hội. Không thấy Thiền Sư Chí Triệt ở Giang Tây, hỏi Lục Tổ nói: Vô thường là Phật tánh, thường trong Kinh Niết Bàn. Lục Tổ nói: "Vô thường là Phật tánh, thường là tất cả các pháp thiện ác do tâm phân biệt".

Triệt nói: Kinh nói Phật tánh là thường, Hòa Thượng lại nói vô thường, các pháp thiện ác cho đến tâm Bồ Đề đều là vô thường, Hòa Thượng lại nói thường, đều này trái nhau, làm cho nhân sinh nghi hoặc.

Tổ nói: Nếu Phật tánh là thường, chính là đạo lý chơn thường Phật nói. Lai nêu như tất cả pháp thiện ác là vô thường thì vạn vật đều có tự tánh, chịu sự sinh tử, mà tánh chơn thường có chỗ bất biến, ta nói thường chính là nghĩa mà Đức Phật nói chơn vô thường, hàng sơ cơ thời nay, thấy Đại Tùy nói hoại theo nó luôn, chưa tránh khỏi mê hoặc người bên cạnh, tham học bên lục Tổ, có thể không nghi ngờ, huống gì con cháu của Đại Tùy Bách Trượng, Tu Sơn chủ là con trai cả của Địa Tạng, vượt tình lìa kiến chấp, mới uyển chuyển như hôm nay, Tuyết Đậu lúc ấy chỉ nửa bài tụng, ngày nay Thiên Đồng mới được trọn vẹn, tụng rằng:

"Hoại chẳng hoại, theo nó mà đi
Cảnh giới đại thiên ở trong câu rõ
Không ai khóa buộc có đầu chân lại bị dây leo quấn
Hiểu, chẳng hiểu?
Chuyện thật rõ ràng, căn dặn kỹ
Biết tâm, đem ra đừng thương lương
Đưa ta phải đi cùng mua bán"

Sư nói: Tuyết Đậu làm bài tụng Vị Tăng này hỏi ở đây là "hoại hay không hoại?" Nạp Tăng dường như ngưng trệ 2 lớp cửa, bài tụng Thiên Đồng trước nói "hoại chẳng hoại", ý đó đồng nhau, 2 lần. Nêu 2 lần Tăng hỏi nguyên do 2 lần, nắm lấy 2 lần Sư đáp: Thiên Đồng một lúc đưa ra trước mặt, chỉ hoại theo, Đại Thiên chính là lời của Đại Tùy nói: Nêu ra lưỡi câu sợi chỉ của 2 vị Tăng đuổi ra.

Vân Cư dạy đại chúng: Ngôn ngữ như cái dùi, như bức ép, như lưỡi câu, như chìa khóa, phải dạy tương tục không gián đoạn mới được, nay nói chỗ đáp của 2 vị Sư, trực thiệp, không dính dáng đến sự liêm khiết, làm sao mọi người bị vướng ngã được? Chơn điểm huy thường ở đạo tràng Thiên Sư chùa Chương Giang, Nam Xương, một Sư vén áo bày chân đi qua. Chánh thánh lấy lâu lạ hỏi chân nói: Trước hành lang sau có già đều ngổn ngang, chơn sợ vấp ngã, chánh mới cười to, Thiên Đồng nói: Tôi được ra bài tụng rõ ràng như thế, ông lãnh hội nó được chưa? Nếu là bậc Thượng sĩ tham cứu lâu ngày như làm việc buôn bán không cần bàn luận. Hôm ấy Tùng chỉ cần lìa xa gia đình.

TẮC THỨ 31: CỘT TRỤ CỦA VÂN MÔN LỘ RA.

Dạy đại chúng: Kẻ một cơ hướng thượng, hạc bay lên cao, một đường thẳng lối, quá xa xôi rồi, cho dù mắt như sao băng chưa thoát khỏi miệng như tấm biển. Hãy nói: là tôn chỉ gì?

CÔNG ÁN: Vân Môn dạy: Cổ Phật và cột trụ giao nhau, là cơ phong thứ mấy? Chúng không đáp được. Sư đáp thay: Nam Sơn nổi mây Bắc Sơn đổ mưa.

Sư dạy: Bản Lục Vân Môn hỏi Tăng: Cổ Phật và cột trụ giao nhau, là cơ phong thứ mấy? Tăng không đáp được Vân Môn hỏi: Ông hỏi thì tôi nói cho ông.

Tăng bèn hỏi, Vân Môn đáp: Mỗi một điều khoản có 30 văn? Tăng hỏi: Như thế nào là mỗi một điều khoản có 30 văn?

Vân Môn nói: Đáng ăn đòn

Thay lời nói trước, Nam Sơn nổi mây, Bắc Sơn đổ mưa. Đường Tống mở ra Quan thự lộng lẩy, con dê đánh trống, ca hát.

Con người nói: "Nam Sơn nổi mây, Bắc Sơn đổ mưa", mượn dùng như Bồ Tát Quán Thế Âm đem tiền mua bánh bột, buông tay xuống té ra bánh bò, hoàn toàn giống như cơ phong của Mục Châu, cái chén rơi xuống đất, vỡ thành 7 mãnh, há rõ để lãnh hội, Thiên Đồng có thể hướng tới chú giải mà không đến ở, nói hiểu mà không ở nơi chỗ nói hiểu, Tụng rằng:

Một đường thần quang, không có che lấp, vượt duyên thấy cũng đúng mà không đúng, phải mà chẳng phải, thoát tình lượng là đúng mà không đúng, phấn hoa núi hề ông làm thành mật, nơi cỏ dại hề hưu làm thành hương, tùy theo loại 3 tấc một trượng 6, rỏ ràng nơi xúc chạm lỗ đường đường.

Sư nói: Vân Môn nói: Tất cả mọi người đều có ánh sáng, lúc nhìn không thấy, chỉ thấy lờ mờ. Hãy nói: Hư không bao trùm vô tận, đại địa chỗ không nổi. Lạng Nghiêm cho là cái thấy và duyên này đều là Bô Đề diệu tịnh minh thể, tại sao ở trong đó có thị có phi?

Triệu Công Bát Nhã Vô Tri Luận nói: Phàm cái gì không đúng thì vật đều đúng, không phải thì vật đều phải, vi vật đều phải, thì phải mà không phải, vi vật đều đúng, thì đúng mà không đúng.

Cho nên Kinh nói: Thấy tất cả phàm mà không chỗ để thấy. Bài tụng này nói nương vào 1 kinh một luận, ám chỉ vượt trình lìa kiến chấp nhận cảnh xen nhau, Cổ Phật và cột trụ giao nhau, tự nhiên "Nam Sơn nổi mây, Bắc Sơn đổ mưa", ông tìm hoa mà thành mật, con hưu cỏ mà thành hương, ngọn núi cao thấy cùng chuyển nguồn gốc pháp luân, vảy lông lớn nhỏ đều hiện sắc thân tam muội. Trưởng giả Câu Thi La nhìn 3 thước mà vô tận, vô biên thân Bồ Tát đến cùng cảnh giới cũng có dưa hiển hiện cùng một lúc, biến khắp tất cả. Cho nên nói: rõ ràng chỗ hiện rõ ràng, Sư lại nói: Còn thấy chăng?

TẮC THỨ 32: TÂM CẢNH CỦA NGƯỠNG SƠN.

Dạy đại chúng: Biển là thế giới của loài rồng, ẩn hiện dạo chơi. Trời là quê hương của loài hạc, bay hót tự tại. Tại sao cá mệt thì nghĩ ở ao lớn, còn chim cụt đậu bờ lau, mưu kế lợi hại chăng?

CÔNG ÁN: Ngưỡng Sơn hỏi Tăng: Người ở đâu? Tăng đáp: Người u Châu

Ngưỡng Sơn hỏi: Ông suy nghĩ miền đó chăng? Tăng đáp: Thường suy nghĩ

Ngưỡng Sơn nói: Cái được suy nghĩ là tâm, cái bị suy nghĩ là cảnh, Sơn hà đại địa ở trong đó, lâu đài, điện các, người nuôi súc vật, trái lại tâm luôn lo nghĩ, vẫn còn nhiều loại sao?

Tăng nói: Con đến ở đây đều không thấy có Ngưỡng Sơn nói: Tín vị thì đúng, nhân vị chưa đúng. Tăng nói: Hòa Thượng có chỉ dạy gì không? Ngưỡng Sơn nói: Chẳng có chẳng không, thì không trúng, theo chỗ thấy của ông chỉ có một huyền, khoác áo ngồi nhìn về phía sau xem.

Sư nói: Ngưỡng Sơn xưa kia từng hỏi Tăng từ đâu đến? Tăng đáp: Từ U Châu đến

Ngưỡng Sơn hỏi: Ta muốn biết đến U Châu, gạo U Châu giá cả thế nào?

Tăng đáp: Lúc con đến vô cớ xuyên qua chợ đạp gãy cầu đê,

Ngưỡng Sơn liền thôi, Tiểu Thích-ca Ngưỡng Sơn, đón người chẳng phải chỉ một con đường, công án này chính là thế của người vào đạo chỗ hạ thủ công phu.

Ngưỡng Sơn hỏi Tăng ở U Châu: Ông có nghĩ về nơi đó không? Lúc đó bị ông ta nói không suy nghĩ, lại làm thế nào? Chắc chắn Ngưỡng Sơn có sở trường riêng.

Tăng lại nói: Thường suy nghĩ, nói thật sẽ sám hối.

Ngưỡng Sơn nói: Cái được suy nghĩ là tâm, cái bị suy nghĩ là cảnh, cảnh thì ngàn sai, tâm năng suy nghĩ có nhiều không?

Vân Môn đáp: Ngưỡng Sơn vì lòng từ bi, có lời nói quanh co, quả nhiên Tăng cũng lanh lợi nói: Con đến nổi không viết được về nhà, Ngưỡng Sơn từng đi con đường dưới núi, nên biết có một con đường. Năm xưa Ngưỡng Sơn nhập tam muội trước tăng đường nửa đêm không thấy sơn hà đại địa, chùa chiền, người vật, cho đến chính mình hoàn toàn đồng với cõi không, sáng mai nêu ta cho Đại Quy.

Đại Quy nói: Lúc ta ở chỗ Bách trượng đã được cảnh này, là kết quả dung thông vọng tưởng diệt trừ sáng suốt, ông về thuyết pháp có người đến nghe, không có đều này.

Vạn Tùng nói: không phải Ngưỡng Sơn không chứng, không phải Quy Sơn không biết. Kinh Lăng Nghiêm ghi. " Nếu dứt động niệm thì phù tưởng tiêu trừ, đối tâm sáng suốt, như trừ trần cấu, một đời sinh tử đầu đuôi viên chiếu, gọi là Tưởng Ấm Tân, người này có thể vượt qua phiền não ô trược. Điều này rõ nguyên nhân đó, dung thông vọng tưởng, cho là nguồn gốc của nó, ở đây lại thấy tâm Phật diệu khế của cha con Quy Ngưỡng.

Một hôm, Ngưỡng Sơn trình bày rõ ràng: Nếu bảo tôi tự xem, đến đây không có quả vị tròn đầy, cũng thể đoạn trừ.

Đại Quy nói: Theo chỗ ông thấy giống như là Đón pháp, cũng chia lìa tâm cảnh.

Ngưỡng Sơn nói: Đã không có địa viên mãn, thì ở đâu có tâm cảnh?

Đại Quy hỏi: Ông vừa trình giải như thế phải không?

Ngưỡng Sơn đáp: Phải

Đại Quy hỏi: Nếu đầy đủ như thế chính là pháp tâm cảnh, đâu nói không được?

Ngưỡng Sơn: Thấy vị Tăng này ở đây, khéo lý phán đoán nói: Tín vị tức đúng, nhân vị tức chưa đúng. Có quyển khác ghi: tín vị thì được, hạnh vị tức chưa đa. Nếu kinh Kim Cang Tam Muội, tín vị, tự vị, tu vị, hạnh vị, xử vị, thì nay nói tín vị, nhân vị, chưa hẳn giống.

Hòa Thượng Trúc Am Khê nói: Hướng đến chỗ mở miệng, ngậm miệng, phân biệt bên này bên kia, nơi có lời nơi không lời, phân biệt tín vị, nhân vị, ở đây lại một hà khác.

Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn, Tịch Tử Tốc nói: Chớ vào cõi âm. Ngưỡng Sơn nói: Huệ tịch tín cũng không lập.

Đại Quy nói: Ông tin cũng không lập, không tin không lập Ngưỡng hỏi: Chỉ là tuệ tịch lại tin ai?

Đại Quy đáp: Nếu như thế chính là định tánh Thanh Văn. Ngưỡng nói: Huệ Tịch Phật cũng không thấy.

Chương thứ 6 mục Ngưu Đồ của Thiền Sư Thanh Cư Hạo Thăng có ghi: "Tín vị thuần thục dần, tà cảnh cảm thấy xa dần, tay phân biết tịnh uế, như kiếm chém bùn, như xỏ lỗ mũi, chưa thể nương vào tin. Cho nên con trâu nửa trắng nửa đen".

Tụng: Trâu rừng tuy đã lâu; dây thừng tay buông dần; dắt đi không mờ ám; ta tập không nương theo (249) cỏi tịnh thật thú vị; roi dài thường nắm lấy; núi xanh cỏ hương bay; chỉ một ngày no đủ.

Đến chương thứ 12 nói: Nhân vị vốn không, thân tâm không dính mắc, được mất sạch hết, con đường đạo huyền huyền, xa xôi không phân biệt, một câu hướng thượng, suy nghiền đọa, tụng rằng:

Vọng khởi nhọc xen trâu, Trâu sai người cũng sai. Chính vọng tưởng trong đó, Hướng lên có cỏ diệu.

Biển lớn bụi mới bay. Mãnh tuyết qua là lửa. Gặp nhau cầu giải hội. Không rơi tâm cơ ông.

Vạn Tùng nói: Ngưỡng Sơn tin cũng không lập, Thanh Cư thì nhân vị vốn rỗng không. Nếu theo lời nói của 2 vị Sư, lựa chọn ra tín vị nhân vị rõ ràng có thể thấy, cái gọi là thối bước thì mình vạn không mất một.

Tăng hỏi: Hòa Thượng có chỉ bày điều gì khác không?

Ở trong bùn lầy có gai.

Ngưỡng Sơn nói: Có chăng có chẳng không tức là đúng, có đức trên tuyết thêm sương, không có thì chết trong ngôn ngữ, cho nên chỉ có một huyên, bảo y tự xem. Dõng Tuyền lấy chỗ không làm tòa, lấy Vạn hạnh làm y. Lại nói: Tọa nghĩa là An Thiền Tỉnh Lự, (thiền định) ý nghĩa là để che đầu.

Lại nói: Tòa nghĩa là khai đường thăng tòa, y là nghĩa là pháp phục để nghiêm thân, đều có lý cả.

Hãy nói: Về sau tự xem, xem cái gì? Hỏi lấy Thiên Đồng, Tụng rằng: "Không có ngoài, nên dung chứa. Không có nên an hòa. Tường vách chất ngất. Cửa khóa trùng trùng. Rượu thường vui mà dẹp khách. Cơm tuy no mà chẳng cày, bổng nhiên ra khỏi hư không cánh mầu cuốn gió. Đạp lật lại biển cả hề sấm tiễn rồng chơi."

Sư nói: Bài tụng trước đó lại suy nghĩ cái được suy nghĩ, có nhiều loại Vân Môn nói: Hội được cũng phải hội được việc trước mắt, đều này là không ngoài mà dung, tất cả núi, sông, lầu các, người vật v.v... một nhiều không ngại, người cảnh xen nhau, đây là không ngại mà vọt lên Thiền Quốc Sư nói: Thông đỉnh Huyền Phong, không phải nhân gian, ngoài tâm không có pháp, mắt toàn núi xanh, thông cả đỉnh Huyền Phong là cảnh lại suy nghĩ, không phải người gian là tâm được suy nghĩ, ngoài tâm không có pháp là không thấy gì cả, mắt toàn núi xanh, chỉ một câu này, vị Tăng này củng Thiền Quốc Sư, cách nhau tín vị nhân vị nhất huyền Tam huyền đáng được, Tường vách chất ngất, cửa khóa trùng trùng, hoàn toàn khó gặp nhau. Lại tụng: Chỗ Tăng này thấy như "Cơm tuy no mà chẳng cày", chỗ Ngưỡng Sơn chỉ như đại bàng dạo cùng rỗng.

Kinh Pháp Hoa ghi: Thí như có người đến nhà bạn thân tiệc rượu đi nằm, lúc đó người bạn thân có việc quan phải đi, đem châu báu vô giá cột vào trong áo anh ta, người ấy nằm không hay biết.

Triệu Châu nói: Một bửa no quên trăm lần đói, chính thân lão Tăng hôm nay thì được. Triệu Châu một bửa no quên trăm lần đói, đáng nhận Sự cúng dường của trời người, vị Tăng này ăn no tốn của nhà nông, giọt nước khó tiêu, người mắt sáng phân biệt lấy.

Phạm ngữ Ca Lâu La Tàu dịch là Diệu Xí Điểu, nắm gió khai biển, nuốt những loài rồng.

Khổng Tử hỏi lễ với Lão Đam, nghĩ thấy lão tử đó giống như rồng lúc rồng dạo chơi ra vào mây khói, khống với loài sâu ở ẩn dưới đất. Bài tụng này là nhân vị chưa đúng, chỉ được một huyền, sau này tự xem, dạy y dời thân đổi bước sao được? Chỉ có một con đường có thể tiến lên, thì người cao cũng đi.

Vạn Tùng Lão Nhân Bình Xướng Hòa Thượng Thiên Đồng Giác Tụng Cổ, Thung Dung Am Lục

Quyển 2 (Hết)

QUYỂN 3

TẮC THỨ 33: KIM LÂN CỦA TAM THÁNH.

Dạy chúng rằng: Gặp mạnh thì phải yếu, gặp nhu thì phải cương, 2 trứng chọi nhau, chắc chắn có một bên bị thương. Hãy nói: Làm sao dung hợp.

CÔNG ÁN: Tam Thánh hỏi Tuyết Phong:

Chưa xem xét cá vàng lót lưới lấy gì làm thức ăn?

Tuyết Phong nói: Đợi ông ra khỏi lưới ta sẽ nói cho ông. Thánh nói: 1500 thiện tri thức, thoại đầu cũng không biết Phong nói: Lão Tăng trụ trì bận rộn nhiều việc.

Gần đây Hòa Thượng Trường Lô Liễu, cùng tham vấn với Thiên Đồng ở với 17.000 người, và Trúc Am Quốc, nấu cháo ăn qua hạ, Phân Liễu vào thất, Tuyết Phong, Tam Thánh, cơ phong khác đời.

Đại Quy Triết nói: Tam thánh cho là Long Môn, Vạn Tùng từng quen làm khách. Tuyết Phong như hùm từng mở cửa há sợ khách cao to, Tam Thánh đặt ra câu hỏi không ngại ở trong rừng gai, bưng chậu nhựa ra, để phía trước Tuyết Phong 30 bước, ông xem tự mình, dính tự mình chuốc nói: Đợi ông ra khỏi lưới thì ta nói cho ông, kỳ quái, đúng như thấy nước cờ trước kia của bộ hạ đất nước. Tam Thánh thấy đoạn này không phân biệt được thắng bại, tuy đi riêng một đường khác nói, 1500 vị Thiên Tri thức, ngay cả thoại đầu cũng không biết, dùng cách nanh vuốt, bắt sống Tuyết Phong khẩn khoản, chỉ nói lão Tăng trụ trì bận rộn nhiều việc.

Bảo Phước nói: Đâu không đủ? Dường có dư.

Tuyết Đậu nói: Bỏ qua thật đáng tiếc, đáng cho 30 gậy, gậy này hễ đánh, so ra không được, cho dù ít gặp tác gia, 2 lão này một buông một nắm, đều có lối thoát thân.

Cao Bưu Binh Hòa Thượng có người hỏi: Cá vàng lọt lưới lấy gì làm thức ăn?

Bưu đáp: Đóng phân khô. Tuyết nham Tiên Sư nghe vậy nói: Ta cúng dường, pháp hỷ thiền duyệt này đối với cô nhân không bớt, phần của Thiên Đồng lại làm thế nào? Tụng rằng:

Lớp sóng mới vỗ, mây sấm kéo nhau, xem đại dụng vời vợi, đuôi cháy rõ ràng qua cửa mân. Hoa Lân chẳng chịu ngâm dưa muối, người đã già có gì phải sợ, đứng trước kẻ địch có gì là không sợ, bao la đầu mối như 5 lạng, khối khối đâu chỉ nặng nghìn cân, nổi tiếng khắp nơi lại ai đồng, giới lập bát phong thổi không động.

Sư nói: Núi Long Môn ở Giang Châu gọi là Ngu Tạc là Ngu Môn, nhưng có 3 tầng.

Thủy Kinh nói: Lúc cá Tầm ra khởi hang vững chắc, 3 tháng thì qua long môn, qua được thì thành rồng, nếu không thì điểm trán mà trở về. Lớp sóng mới vỗ là 3 lớp sóng.

Di Văn nói: Mây theo rồng, gió theo hổ, mây xám sấm quyện nhau, thành rồng, 2 đại Sĩ oai hùng mạnh bạo.

Tam Thánh như lớp sóng mới vỗ. Tuyết Phong như mây sấm quyện nhau đi. Tam Thánh đã qua Ngu Môn Tuyết Phong chịu ngâm dưa nuốt, Lâm Tế tiễn đưa Bổ nói: Dưới cửa Lâm Tế có con cá chép, lắc đầu vẫy đuôi đi về phía Nam, đến nhà ai sẽ bị làm muối mắm, về sau chính là bài tụng.

Vân Môn lão Tăng trụ trì bận rộn nhiều chuyện và tụng 2 lần hỏi của Tam Thánh. (250) Ngưỡng đã già có chi phải sợ, đứng trước kẻ địch có gì phải Long Nha không sợ, Quang Vũ Kỷ kêu gọi trăm vạn binh linh của Vương Tầm, Vương ấp, tiến vào bao vây Cồn Dương, Quang Vũ tự làm Tướng Quân ngày thường thấy quân tiểu địch lại sợ hải, ngày nay thấy binh mạnh mẽ Tăng thì dõng mãnh thật lạ kỳ, chợt thấy 5 lạng không đến, tham cứu kỷ càng, Tăng trên ngàn cân, đánh lay động. Về sau dưới của Tuyền Phong trở ra 2 phái Vân Môn pháp Nhãn, há chẳng phải nguồn sâu dòng dài ư? Tám ngọn gió được mất khen, chê, tốt, xấu, khổ vui.

Hòa Thượng Đàm Chá Tánh nói với Hòa Thượng Khánh Thọ Nghi rằng: Bảo ông ta làm ông nội lại thế nào?

TẮC THỨ 34: MỘT HẠT BỤI CỦA PHONG HUYỆT.

Dạy đại chúng: Tay không mà ngàn biến vạn hóa, tuy là lấy không làm có đâu thể mượn giả làm chơn. Hãy nói: Còn có nền tảng không?

CÔNG ÁN: Phong Huyệt buông lời nói: Nếu lập một hạt bụi thì quốc gia hưng thịnh, không lập một hạt bụi thì quốc gia suy vong. Tuyết Đậu dơ gậy lên nói, còn có vị Nạp Tăng sinh đồng tử không?

Sư nói: Tuyết Đậu đưa gậy lên, nơi chỗ lập trần, Tụng rằng: Lão quê theo giao không nhướng mày, lại tỉnh nước nhà lập nền vững mạnh, thần lân tướng mạnh nay ở đâu?

Bài tụng này có còn. Nạp Tăng đồng sinh tử không? Vạn dặm gió mát chỉ tự biết, lão quê không dương mày. Lời này nêu ra đủ.

Lục Trung Huy, Phong Huyệt thượng đường nói: Nếu lập một trần thì quốc gia hưng thịnh, lão già buồn bã, không lấp một thần thì quốc gia suy vong, lão già yên ổn, ngay đây rõ được, Xà lê không có phân biệt, đều là cửa lão Tăng, ngay đây không rõ, lão Tăng tức thì Xà Lê, Xà Lê và lão Tăng, cũng có thể giác ngộ người trong thiên hạ, cũng có thể mê hoặc người trong thiên hạ, muốn biết lão Tăng không? Vỗ bên phải.

Vân Môn nói: Ở đây thì dễ, ở kia thì khó. Lang Gia Giác nói: Dự đoán tiếng hư không.

Vạn Tùng nói: Vân Môn thêm mũi nhọn trên cung tên, nhổ cái niêm. Sau đầu Lang Gia đây cung là một hầm phế lập. Quốc gia hưng vong, thật ra có cây trong lòng đấu từng lay động. Tuyết Đậu ở trong cửa Phật sự không bỏ một pháp, Thiên Đồng ở nơi thực tướng không nhận một mảy trần. hai pháp thực hành bình đẳng, cùng một chỗ xuất ra. Tụng rằng:

Sông vị trắng trong thả nhợ câu Nào giống Di

Tề chết đói đâu Chỉ ở mảy trần sanh lắm vẽ Nghiệp tốt, danh cao, khó bỏ thay.

Sư nói: Tướng Tây Bá Di đi săn, dự đoán rằng: Săn được không phải gấu, không phải hùm, không phải rắn, không phải hổ, mà xương má của Bá Vương, quả thực bắt được Lã Thượng ở phía Nam sông Vị. Ông ta vui vẽ nói: Chính Ngô Thái Công trông Ngài hồi lâu, nên nói là Thái Công Vọng, lập làm thầy, 2 người con của Vua tên là Bá Di Thúc và Tề Hồ Trúc, nhường ngôi cho nhau nên cả 2 đều mất, vua Võ đánh vua Trụ, khẩu mã can rằng: cha chết không chôn cất, mà đi đánh nhau, đáng gọi là hiếu sao? Tôi giết Vua đáng gọi là nhân đức sao? Cận thần dục binh lính, Thái Công nói: Đây là người có tình nghĩa, giúp đỡ rồi bỏ đi. Vua võ bình định đất Ân, thiên hạ tôn Chu. Di Tề xấu hổ, không ăn gạo nước Chu, chỉ ăn rau cải nên chết đói ở Thú Dương.

Về sau Thái Công đánh nước Ân tôn xưng là Chu, quốc gia hưng thịnh, Di Tề nhường ngôi mà chết đói. Quốc gia suy vong, quốc Sư Hiền Thủ, chỉ ở mảy trần sanh lắm vẽ, nói là Nghĩa Hải, Cao Danh là Vi Tế, huân nghiệp là Thái Công.

Lạc Phố nói: Trước của lão già không, nói việc triều đường, cho nên nhà nông thoải mái, chưa từng buông lo, vì sao? Chỗ vô dụng trở thành chỗ chơn dụng, đó là nhân duyên tốt hay là nhân duyên xấu?

TẮC THỨ 35: KHUẤT PHỤC LẠC PHỐ

Dạy Đại chúng rằng: Cổ phong lanh lẹ biện luận tài ba, đánh dẹp thiên ma ngoại đạo, vượt cách thức hơn Tông phong, khúc khuỷu là thượng căn lợi trí, bổng gặp kẻ đánh một gậy không quay đầu thì thế nào?

CÔNG ÁN: Lạc Phố tham cứu với Giáp Sơn, đứng trước mặt không chịu lễ bái.

Giáp Sơn nói: Gà đậu lầm ở phượng, chẳng phải cùng loại ra đi. Lạc Phố nói: Từ xa theo gió đến, xin Sư nhận cho.

Giáp Sơn nói: Trước mặt không có A Xà Lê, ở đây không có lão Tăng

Lạc Phố liền hét. Giáp Sơn nói: Ở lại không phải qua loa vội vàng, trăng mây thì đồng, núi sông đều khác loại, cắt đứt đầu lưỡi người trong thiên hạ, lập tức có, đâu dạy người không lưỡi biết nói. Lạc Phố không nói, Giáp Sơn liền đánh, từ đây lạc Phố mới khuất phục.

Sư nói: Chư Tổ Đăng Lục đều ghi: Lúc Giáp Sơn chưa thấy con thuyền thì đã ra giáo hóa rồi. Sau đi đến Nhuận Châu, Kinh Khẩu, Trúc Lâm mà chẳng tên nối pháp, riêng Phật Quả đánh nhịp nói: Truyền Minh ban đầu nối pháp với Ngài Thạch Lâu tức là Phần Châu Thạch Lâu, Truyền Minh tức là tên húy của Giáp Sơn, Thiền Sư Lạc Phố Sơn tức là Thiền Sư Nguyên An, đã lâu tham học với Ngài Lâm Tế, ai dám đương đầu. Vào một ngày nọ Sư từ giả Lâm tế. Tế hỏi: Đi đâu?

Sư đáp: Đi về phía Nam, Lâm Tế lấy gậy vạch một đường nói qua được đây thì đi, Lạc Phố mới hét, Lâm Tế liền đánh, lạc Phố làm lễ rồi lui ra. Lúc dạo khắp sau trở về đỉnh Giáp Sơn dựng Am cỏ ở được năm Giáp Sơn biết nên sai Tăng thị giả mang thư đến, Lạc Phố nhận thư mới ngồi xuống, lại đưa tay kéo, Tăng trở về kể cho Hòa Thượng nghe, Giáp Sơn nói: Vị Tăng không thể cứu được. Sau 3 ngày Lạc Phố đến đứng trước mặt không chịu lễ bái.

Giáp Sơn nói: Gà đậu lầm ổ phượng, chẳng phải cùng loại ra đi, mỗi người đều phải gánh cỏ nhìn cỏ nhìn gió. Lạc Phố thấy Giáp Sơn bỏ đi liền giữ ông ta lại, lạc Phố nói đã đến đây há lại về không. Lại thấy môn đình chót vót kiên cường đều không dính dáng, bèn nhẹ nhàng tìm kế nói với Sư, từ xa theo gió đến, xin Sư tiếp nhận cho, Giáp Sơn không có riêng cái lò rèn.

Lại nói: Trước mặt không có A Xà Lê, ở đây không có lão Tăng, Giáp Sơn biết tham cứu đã lâu chắc chắn thực hành chánh lệnh của Lâm Tế. Sau đó dùng lối siêu Tông vượt cách. Bổng nhiên hét, ông hãy nói: Chỉ ở đây có chẳng có.

Giáp Sơn nói: Ở lại chớ qua loa vội vàng; chưa phải bận rộn, mây trắng thì đồng, núi sông thì khác, một sợi mì, cọng cỏ do con người làm ra, cắt đứt lưỡi người trong thiên hạ thì có, chỉ có cây Tùng lạnh ngàn thước, đâu dạy người không lưỡi biết nói người, càng phải kéo tre đá.

Giáp Sơn từng nói: Luận bàn về môn đình thi thiết nhập lý bàn sâu là môn đình của Lạc Phố thi thiết là Giáp Sơn nhập lý bàn sâu, lạc Phố ham xem sóng trắng mà tay buông mái chèo, cuối dùng dắt không lên, Giáp Sơn cũng thích như thế.

Lại làm đứng mệnh lệnh của Lâm Tế, vì ông ta làm chìa khóa mới bỏ vào khóa củ, gia đình Lạc Phố thường ăn giấm biết có chua, bấy giờ mới khuất phục.

Hưng Hóa nói: Chỉ biết thành Phật mới buồn cho chúng sinh như thế.

Vạn Tùng nói: Đâu thể một cây lẽ mà thành rừng.

Tuyết Đậu nói: Vị Tăng này đáng buồn, đáng khổ, ông ta trì về vào nơi Lâm Tế.(251) Vạn Tùng nói: Con nuôi không bằng cha gia môn một đời suy, ông ta đã là đồng mây trăng, còn tôi khác với núi sông.

Vạn Tùng nói: Khí thế cảnh thu Nam Sơn trong sáng, nói gì người không lưỡi không biết nói.

Vạn Tùng nói: Còn là xá nhân thông việc, tọa cụ bịt cửa muộn bị ông ta nhận vào bùn lầy, là thế nào? Giáp Sơn là người hiểu biết, dĩ nhiên được sắp xếp rõ ràng.

Vạn Tùng nói: Chi bằng như ông ta lo liệu bổn phận. Ngủ Tổ Giới nói: Lại nói đạo lý, xem rồi ra đi.

Vạn Tùng nói: Tính linh rắn thường sinh độc.

Đại Dương Diên nói: Cũng muốn Hòa Thượng chứng minh. Vạn Tùng nói: Mùi cỏ lan thơm. Sư lại nói: Tông của Dược Sơn thật khó nêu ra, buổi sáng Vân Nham quét nhà lấp trù, Lạc Phố khâm phục Sư nói oan không thôi, như không lưỡi biết nói, không tay mà múa được, cho dù đánh hét chỉ được một nửa, duy trì đạo này, phân phó Thiên Đồng, Tụng rằng: (Lắc đầu vẩy đuôi vẩy ngoe ngoảy, Sư thấy suốt không nương biết chuyển thân, cắt đứt đầu lưỡi dù có thuật, kéo dài, lỗ mũi diệu thần thông, đêm sáng ngoài rèm hề gió trăng như vẽ, trước núi cây khô hề hoa nở thường xuân, người không lưỡi là người không sống, án lệnh toàn đề một câu thân, mình bước bao la trong vũ trụ mặt dù thiên hạ thích vui đùa).

Sư nói: Lạc Phố từ biệt Lâm Tế. Tế nói: Dưới cửa Lâm Tế, có cá chép đỏ, lắc đầu vẩy đuôi, bơi về phía Nam thấu suốt không nương vào biết chuyển thân, chính là việc ở Lâm Tế, không chuyển vị chuyển công toàn đồng.

Lâm Tế Quảng Lục ghi: Chỉ có nghe pháp không nương vào đạo nhân, đó là mẹ của chư Phật cho nên Phật từ trước đến nay không từ vô y mà sinh, nếu ngộ vô y thì Phật cũng không đắc, nếu người thấy đúng như thế, đó là kiến giải chơn chánh.

Vạn Tùng nói: Nếu như Lạc Phố chuyển thân không được, sao lại biết Giáp Sơn hét. Nếu nói chuyển thân được, vì sao sau này không nói? Thử làm xem Thiên Đồng chấp nhận ông ta cắt đứt lưỡi người trong thiên hạ, khéo căn cứ vào mệnh lệnh, chỉ sao dạy người không lưỡi biết nói, lỗ mũi chọc trời từ từ kéo lại.

Phật Quả thấy Giáp Sơn niệm chú, mới nói rằng: ở đó trước một đoạn văn này.

Vạn Tùng nói: Chỉ đây thì đúng.

Giáp Sơn bảo người không lưỡi biết nói

Phật Quả không có đoạn văn này, chỉ có thể cắt đứt lưỡi thiên hạ, cho dù có chỗ chuyển thân thổ lộ khí tiết chưa hẳn là người không lưỡi nói.

Hãy nói: Cảnh giới của người này là thế nào?

Tụng rằng: Đêm sáng ngoài rèm hề gió trăng như vẽ, trước núi cây khô hề hoa đời mùa Xuân. Đây là sai thọ dụng của người không lưỡi. Minh Đế xây dựng Điện Quang Minh, lấy minh châu làm rèm, vàng ngọc làm thềm, đêm ngày chói lọi.

Đồng Am thấy vậy nói: Trước nói cây khô đường xa bao dặm.

Động Sơn nói: Phải lên cây khô hái một vài hoa. Bài tụng này nói đánh hét không phải vô cớ, đến đầu sào trăm thước, cần tiến thêm một bước, mới hiểu được người không lưỡi nói, phải biết lời của người không lưỡi đưa ra, mới là chánh lệnh toàn đề một câu thân thiệt, đến đây mắt nhìn 4 biển, một mình đi trong vũ trụ

Về sau Lạc Phố nói: Dù người trong thiên hạ thích vui đùa, chỉ có mình ta không chấp nhận, cam tâm bị ông cắt đứt lưỡi.

Giáp Sơn nói: Con đường hướng thượng. Thế nào là con đường hướng thượng?

Người không lưỡi biết nói tức là ông nói.

TẮC THỨ 36: MÃ SƯ BẤT AN

Dạy đại chúng: Xa lìa tâm y thức mà tham cứu ở đây có lối học vượt của phàm Thánh, đã là thái Cao Sinh, lửa hồng sinh ra dây thép, lưỡi kiếm lạnh khó xuống miệng, chẳng phạm vào mũi nhọn, thử nêu ra xem.

CÔNG ÁN: Mã Tổ Sư Bất An, Viện chủ hỏi: Những ngày gần đây sức khỏe Hòa Thượng thế nào?

Đại Sư đáp: Mặt trời Phật, mặt trăng Phật

Sư nói: Người xưa lúc bệnh còn làm Phật Sự. Nam Nhạc Tư đại bệnh chướng liền sinh, ngay nay căn bệnh làm một tắc nhân duyên, tham cứu nói bệnh từ nghiệp sinh, nghiệp từ vọng sinh, vọng từ tâm sinh, tâm vốn không sinh, bệnh từ đâu có. Nghĩ vậy có dứt, bổng nhiên bình phục.

Vạn Tùng nói: Từ Như Lai Thiền, đắc chỗ an lạc.

Thiền Sư Phụng Thánh Thâm ở Tây kinh có lược về Ni Tổng Trì, lúc đang bệnh làm bài tụng: Khi hết tuyệt dứt tình, nháy mắt đánh tâm chịu, quanh năm không ra ngỏ, tuy là Tổ Sư Thiền, thật giống như con quạ trong túi vải.

Hòa Thượng Phù Dung Khải nói: Chỉ một bài tụng này tự nhiên nối tiếp tông ta.

Vạn Tùng nói: Tuy đã quá nhiều, nhưng ngại có việc. Mã Đại Sư lại không phải thế, viện chủ không giám hỏi thẳng bệnh tình tăng hay giảm, hỏi cách khéo léo gần đây sức khỏe Hòa Thượng thế nào? Chính ông ta không nói Như Lai Thiền, Tổ

Sư Thiền chỉ có mặt trời Phật, mặt trăng là Phật Hãy hỏi: Ý ông thế nào?

Phật Quả đáp: Như nay có nhiều người nói, Mã Đại Sư tiếp đón Viện chủ. Có người nói: Ở đây, 2 bên mặt chính là mặt trời Phật, mặt trái mặt trăng Phật. Có Người nói: Điểm vào dạ dày rối loạn, có cỏ cơ phong gì?

Thiền Sư thọ nói: Không có một tên không truyền bá thì không có hiệu Như Lai, không có một vật nào xiển dương hình của gia ma.

Vạn Tùng nói: Danh hiệu Phật ở trong kinh có 2 danh hiệu này, ý chỉ của Đại Sư cuối cùng như thế, không thấy nói, ngựa câu đạp chết người trong thiên hạ.

Thiên Giác tụng rằng: (Ngựa huyện Thập Phương tánh hung dữ, dẫm đạp lên đỉnh Tỳ Lô mà đi, chính là đau bụng lại đau đầu, bệnh đến giống như có tâm tình khéo léo).

Vạn Tùng nói: Bản tánh khó đổi, núi sông dể dời. Bài tụng này nói tuy trong lúc Mã Tổ giả bệnh, cũng lấy việc bổn thân làm người, bọn ta sắc thân mạnh mẽ, nhất định chớ cô phụ Mã Tổ thờ ơ với Thiên Đồng, Tụng:

Mặt trời mặt trăng, sao sét điện chớp, gượng đối hình mà vô tư, minh châu trên mâm mà tự lăn, ông không thấy đem cái dùi luyện nhiều lần sẽ thành vàng, tấc dạo ha một cơ thành lụa,

Sư nói: Mặt trời mặt trăng này 2 vị Phật, như sao xẹt điện chớp khó nghĩ bàn. Xưa cung vua Tần lấy Ngọc làm gương, chiếu soi, bọn đồng nghiệp, gan mất tạng phủ đều hiện. Lại Hồ Ly làm người, đều hiện nguyên hình ở trong gương, nay không có ẩn riêng, loại vật có ý tương cảm. Long Phong Bổ đưa ra viên minh châu để vào trong lành thì tự xoay chuyển gọi đó là viên minh châu biết đi. Bài tụng này nói tâm Mã Tổ như gương xưa, cơ như châu ngọc chạy, không để lại dấu vết, tinh luyện nhiều lần sẽ thành vàng, nhờ cái chùy của Tác gia, một cơ thành lụa, nơi tấc dao của người thợ khéo

Tăng hỏi Vân Nham: Người bảo vệ giữ gìn và cái kia là một hay hai?

Nham đáp: Một máy dệt thành lụa một đoạn hay hai đoạn. Động Sơn thay lời: Như người lấy gổ, đây chính là cảnh và thần hội họp, trí và lý sáng suốt, nước trời như mùa Thu, quần thần nói hợp, lụa được dao thước, nhưng cắt và do người, (252) vàng nhờ có dùi, tinh luyện do mình. Hãy nói phần trên của Nạp Tăng thành được việc gì? Mặt trời Phật mặt trăng Phật.

TẮC THỨ 37: NGHIỆP THỨC CỦA QUY SƠN

Dạy đại chúng: Cướp trâu của nhà nông, kéo mũi giùm về, đoạt thức ăn của người đói, giữ cổ họng, còn có người thủ đoạn nham hiểm không?

CÔNG ÁN: Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn: Bổng có người, hỏi tất cả chúng sinh chỉ có nghiệp thức mịt mờ không có nguồn gốc để nương, ông làm thế nào kiểm nghiệm được?

Ngưỡng Sơn nói: Nếu có Tăng đến liền vời hỏi: Còn Tăng quay đầu mới hỏi: là gì? Đợi y suy nghĩ, liền nói không chỉ nghiệp thức mịt mờ, mà chính là không có nguồn gốc để nương.

Quy Sơn nói: Lành thay!

Sư nói: Tăng hỏi Vân Am, Hoa Nghiêm Luận, cho vô minh trụ địa phiền não, là trí bất động của tất cả chư Phật, lý ấy rất sâu xa huyền diệu, thật khó hiểu.

Vân Am nói: Điều này rất dể hiểu. Lúc ấy có Đồng Tử vừa quét sạch gọi nó quay đầu. Am chỉ nói không phải trí bất động. Ngưỡng Sơn gọi Tăng quay đầu chính là thời tiết này.

Vân Am lại hỏi: Thế nào là Phật tánh của ông?

Đồng Sơn nhìn hai bên xụ mặt liền đi.

Am nói: không phải phiền não trụ địa, nếu có thể hiểu thì lập tức thành Phật, Đồng Tử thất vọng và suy nghĩ, không khác vô minh, Tăng trụ địa phiền não, nghiệp thức mịt mờ cũng đồng.

Vân Am và Ngưỡng Sơn xem xét Tăng kiểm nghiệm người, chính xác như thế chỗ thấy của Vạn Tùng thì không phải thế. Đồng Tử và Tăng đều là bất động trí.

Vân Am và Ngưỡng Kiều nói: Nếu nói ngay từ đầu nghiệp thức mênh mang nếu người biện được đích thân thấy Thiên Đồng, tụng rằng:

Một gọi quày đầu biết ta không? Lưới trăng thưa thớt lại thành cong Con ngựa quý vàng vừa lưu lạc

Mờ mịt đường cùng chắc thấy sầu.

Sư nêu: Bách Trượng thượng đường nói: Đại chúng nhóm họp, lấy gậy đánh một lúc đuổi xuống. Lại gọi đại chúng, đại chúng quay đầu. Trượng nói: là cái gì? Mọi người ngớ mắt Bách Trượng xuống tòa cũng tham cứu cho rõ ràng.

Vương Hình Công nói: Ta nhờ câu nói của Tuyết Phong mà làm Tể Tướng, mọi người cố thỉnh hỏi.

Công nói: Lão già này thường nói với người cái gì? Câu tụng " Một gọi quày đầu biết ta không?" Chữ phủ bằng chữ phất.

Ngưỡng Sơn dùng bàn tay vô nghĩa, đánh nhà vô ngại, nếu như vị Tăng này biết nhìn trong ánh sáng xẹc lửa, có thể biết chọn con ở trong phố chợ, bổng suy nghĩ không ra, "Lưới trăng thưa thớt lại thành cong". Bách Trượng thượng đường đại chúng tập họp, lấy gậy đánh cùng một lúc đuổi xuống. Lại gọi đại chúng bi, đại chúng quay đầu. Bách nói: Trăng như cung tên ít mưa nhiều gió, ý của bài tụng dùng như thế.

Thạch Thất Thiên Đạo cùng với Ngưỡng Sơn ngắm trăng. Ngưỡng Sơn nói: Lúc trăng khuyết thì tướng tròn ở đâu? Lúc trăng tròn tương khuyết lại đi đâu?

Thất nói: Lúc khuyết thì tướng tròn ẩn, lúc tròn thì tướng khuyết ẩn Còn Vân Nham nói: Lúc khuyết tướng tròn còn, lúc tròn tướng khuyết không còn.

Đạo Ngô nói: Lúc khuyết cũng không khuyết, lúc tròn cũng không tròn, thành câu tức là tướng khuyết.

Thơ của Lạc Tân Vương nói: Có thể tròn như gương, đâu cần cong như câu

Tông Hoa Nghiêm nói: Bí mật An Hiên câu đều là Thành Môn. Lại trong giáo Bồ Tát Thập Địa Kiến Tánh, như cách rào nhìn trăng, nếu làm lưới trắng cũng có thể. Nhưng thơ Lý Bạch: Có lưới trắng treo ở gương sáng, ban đêm gió thổi cây tùng ví von.

Chữ La Nghĩa trường, Thiên Đồng cho mông long là Tân Nguyệt (ánh trăng lờ mờ), như ẩn trong khói rào, tuy không tròn sáng, như đã lộ cái rừng, Tụng ra: Trăng này nữa sáng nữa tối, như còn như mất. Vạn Tùng như Diêm Thiết Phán Quán là nhờ Thiên Đồng, kim chỉ rất nhỏ, nếu không tỏ thì không dứt, thì khó thành văn dệt gấm.

Mật Sư Bá đi với Động Sơn. Kế đến thấy con thỏ trắng chạy qua.

Mật nói: Giỏi thật. Sư nói: Thế nào?

Mật đáp: Như bạch y lễ bái.

Sơn nói: Già già lớn lớn, là lời nói này.

Mật hỏi: Ông lại thế nào?

Sơn đáp: Xếp thay trâm cài, tạm thời dính, tướng Tư ma như bài phú Thượng Lâm, con nhà quyền quý ngồi dưới hiên nhà, Nguyễn Tịch thường ngồi trên xe củi, gập phải cùng đường liền khóc lóc quay về.

Vạn Tùng nói: Nếu có thể trở về nhà, thì được chuyển thân trở về cha mẹ, không thấy nói: Một niệm hồi quang Tăng thì đông vốn được, đã như thế, tại sao? Bất động trí của chư Phật, đến tất cả chúng, gọi là nghiệp thức mênh mang, chắc chắn biết đèn là lửa, cơm chín đã lâu rồi.

TẮC THỨ 38: CON NGƯỜI CHÂN THỰC CỦA LÂM TẾ

Dạy đại chúng rằng: Nhận giặc làm con, cho nô lệ là chủ, pháp gốc rễ há là đầu lâu của Tiên Tổ, cương ngựa không cần người dẫn dắt,

CÔNG ÁN: Lâm Tế dạy đại chúng rằng: Chân nhân vô vị, thường ra vào trước mặt các ông, tâm ban đầu chưa chứng cứ xem đi xem đi. Lúc bấy giờ có Vị Tăng hỏi: Thế nào chân nhân vô vị? Tế xuống sàng Thiên lấy cây gậy, vị Tăng suy nghĩ, Tế dở ra nói: người vô vi chân nhân, là que phân khô.

Sư nêu: Lâm Tế Quãng Ngữ nói: Trong ruộng thân ngũ uẩn, có vô vị chân nhân, đường hiển lộ, không gián cách một mảy may, tạo sao không biết lấy tâm pháp vô hình, đã nói thông mười phương, không chỉ ở trong thân ngũ uẩn, ra vào ở trước. Tâm ban đầu không có chứng xem đi.

Vạn Tùng nói: Vô vị chân nhân nhìn chúng Tăng, chúng Tăng nhìn chân nhân. Lúc ấy có vị Tăng hỏi: Thế nào là vô vị chân nhân? Mà mọi người đều gọi là Hòa Thanh Tống Sự, đâu thể như người cưỡi ngựa không thấy tọa hạ. Tế xuống Thiền Sàng lấy cây gậy nói: Vô vị chân nhân ở đâu? Đánh cho một đạp, vị Tăng này suy nghĩ, chân nhân không còn, đáng tiếc thật.

Tế dơ ra nói: Vô vị chân nhân là que phân khô, trước mắt nên kiêng kỵ.

Tuyết Phong nói: Lâm Tế như bắt giặc. Vạn Tùng nói: bại rồi.

Tuyết Đậu nói: người khéo trộm quỷ thần không biết đã biệt Tuyết Phong nhìn phá.

Lâm Tế không phải khéo léo làm, lại gọi đại chúng, hôm nay Tuyết Đậu đổi con mắt của các ông rồi, nếu ông không tin, mỗi người tự trở về liêu xá, mò tìm xem,.

Vạn Tùng nói Tuyết Đậu và lông mi mất đi, muốn biết làm giặc trong tay giặc, hỏi lấy Thiên Đồng mới được, tụng rằng:

(Mê ngộ trái nhau, khéo truyền đơn giản, mùa Xuân vừa đến trăm hoa hề vừa nở, sức lực của trâu hể hể kéo, làm sao ra khỏi bùn lầy, rõ ràng cắt đứt dòng suối ngọt, bổng nhiên nhảy ra vắt ngang sông). Sư nói: Nguy hiểm.

Sư nói, Viên Giác nói: Giống như người mê mờ 4 phương dễ ở, thật ra phương hướng vốn không dời, khi ngộ vẫn là như củ.

Cảnh nói: Xưa mê ngộ tự mê, ngày nay ngộ mê chẳng ngộ. Đây chính là chơn diệu huyền, đơn giản lợi ích mà không phung phí, (253) được tiến cử cũng là cục thịt, chính là Vô vị chân nhân, không tiến cử thì vẫn ra vào cửa chân nhân, Tăng này cũng có, nhưng chỉ vì lấy truyền bá, đưa lời hỏi tin tức làm lao nhọc Lâm Tế cũng có thân không nhìn, thấy được cái thìa lấy lên, liền nói: "Vô vị chân nhân chính là que phân khô, đây có thể buông có thể nắm, bảo nhóm lại, rồi quát tản ra, rút cuộc chỉ chết trong ngôn ngữ và làm cho người khác lâm bệnh".

Thiên Thai nói: Thổi một cái thì thế giới thành, hét một cái tức giới hủy hoại. Lại nói: Lúc đang thổi thì hét, lúc đang hét thì thổi Liệt Tử con của Công Nghi dùng lực để nghe, Chu Tuyên Vương chuẩn bị sánh lễ, đã đến thì thành nho phu.

Vua hỏi: Sức khỏe khanh thế nào?

Đáp rằng: Thần có thể bẻ gãy đùi con trùng Xuân và cánh ve sầu mùa Thu. Vua thay đổi sắc mặt nói: Sức của trẫm có thể lột da con tê giác, kéo đuôi 9 con trâu, mà còn thẹn mình yếu, ông như thế mà dùng sức nghe thì thế nào?

Đáp; Tên tuổi của Thần không dựa vào sức lực mình, mà có thể dùng sức lực của mình. Bài tụng này nói Lâm Tế dùng sức buông và nắm lúc Pháp Nhãn đào giếng, bị cát lấp suối mắt, hỏi Tăng: Suối mắt cát lấp không thông, còn đạo nhãn không thông thì bị vật gì ngăn ngại?

Tăng không đáp được. Sư tự đáp thay, bị con mắt làm trở ngại.

Hãy nói: Chính vị Tăng này lấp dòng suối mắt, Lâm Tế lấp bít dòng suối mắt, bổng nhiên đột xuất thời thế nào? Sư ném gậy xuống tòa, đại chúng cùng tản ra.

TẮC THỨ 39: TRIỆU CHÂU RỬA BÁT

Sư dạy đại chúng: Cơm đến há miệng, buồn ngũ nhắm mắt, lúc rửa mặt mũi của Thập Đắc vắt lên giày, mới sờ dưới gót chân, lúc đó là nhầm lẫn về thoại đầu, đêm khuya cầm đuốc tìm cái khác, lúc nào mới tương ưng?

CÔNG ÁN: Tăng hỏi Triệu Châu, người học lúc mới vào chốn Tong Lâm, xin Sư dạy bảo.

Châu hỏi: Ăn cháo chưa?

Tăng đáp: Ăn rồi

Châu nói: Rửa bát đi

Sư nói: Câu thẳng câu rồng, đã không nhanh nhẹn, thùng sơn lìa 3 tấc câu, đã đến thuyền chiếm đoán Giáp Sơn, lúc không nói thì người không phân biệt, phần lớn tham mồi nuốt cả lưỡi câu, xem kia. Triệu Châu không thả lưỡi câu cũng không lật thuyền ngồi thư giản trên chiếc cầu đá, thọ thực bên vỉa hè, tự có người lên bờ tóm vào tay.

Trong bổn Lục ghi: Có vị Tăng kia nhờ đây mà khế hợp, có thể gọi là sợi tơ đầu cành theo anh làm, không phạm vào thì sóng lặng ý tự khác. Triệu Châu tin ông, đắc chí như trước, lại xem Thiên Đồng đánh cá phía sau, tụng rằng:

Cháo xong thì dạy rửa bát đi! Rỗng rang tâm địa tự dung thông Như nay khách tham thiền no đủ Thử hỏi khoảng này có ngộ không?

Sư nêu: Linh Vân thấy hoa đào mà ngộ đạo, trình tụng cho Quy Sơn.

Sơn nói: Theo duyên nhập vĩnh viễn không thối lui, Huyền Sa nghe vậy nói: hay thì thật hay, nhưng dám đảm bảo là tảo huynh chưa triệt ngộ.

Vân nghe liền nói: Hòa Thượng triệt ngộ chưa?

Sa đáp: Như thế mới được.

Thiên Đồng làm bài tụng nói về sự khế ngộ tâm địa phù hợp nhau của Vị Tăng này. Tăng này vào chốn tòng lâm tự xưng là đại triệt đại ngộ hay không ngộ, có một Thiền khách than phiền tu tập lâu dài hãy nói: Có ngộ hay không ngộ, đây gọi là "trưng vấn triệu đến hỏi

Tuyết Đậu nói: Vốn không có mê ngộ thường như gai, chỉ chấp nhận Linh Phong là tác gia.

Huyền Sa chưa triệt ngộ, Tuyết Đậu chỉ chấp nhận tác gia, kẻ cố chấp, đều thấy một bên.

Hãy nói: "Rửa bát", Tăng đã ngộ không? Thái Bình vốn do tướng quân, không chấp nhận tướng quân thấy Thái Bình.

TẮC THỨ 40: TRẮNG ĐEN CỦA VÂN MÔN

Dạy đại chúng: Chỗ cơ chuyển, mắt trí còn, lúc bảo giám khai mở, mảy trần không còn, khai quyền không rơi xuống đất, tướng khéo biết thời, lúc hai lưỡi dao gặp nhau, làm sao dụng hỏi?

Vân Môn hỏi Càn Phong, xin Sư trả lời. Càn Phong hỏi: Đến như Lão Tăng chưa? Vân Môn đáp: Như thế thì con còn chậm Càn Phong nói: Đâu như thế, đâu như thế.

Vân Môn nói: Đã gọi hầu trắng, thì phải có hầu đen.

Sư nói: Di Lan Vương hỏi Tôn giả Na Tiên tôi sẽ hỏi, Sư có thể trả lời được không?

Na Tiên đáp: xin Ngài cứ hỏi

Di Lan Vương nói: Tôi đã hỏi xong rồi Na Tiên đáp: Tôi không hỏi?

Na Tiên đáp: Tôi không đáp điều này còn nguyên cứu tường tận.

Điều Vân Môn hỏi như trời xanh nổi sấm, Càn Phong đáp: Như đất khổ nổi chóp, rốt cuộc cả hai cùng buông, cả hai cùng nắm, lại thấy có đầu có đuôi, những điều này không phải Nạp Tăng không biết, cũng chẳng phải tác gia không thấy, Thiên Đồng Hòa Thượng thâm nhập môn này tụng:

(Dây đàn ngân nga, châu lưới đối nhau, bắn trăm phát mà mũi tên cũng không lúc, nhiếp các cảnh mà ánh sáng không vô ngại, được tổng trì môn cú, trụ du trí tam muội, lúc ấy khéo uyển chuyển thiên viên, ắt sẽ như thế cũng ngang dọc tự khu).

Sư nói: Mất ở trên dây đàn không thể không phát. Bài tụng này nói những điều Vân Môn hỏi cơ phong không thể chạm, lưới châu đối nhau. Bài tụng này nói về những điều Càng Phong đáp khách chủ xen nhau, hỏi ở chỗ đáp, đáp ở chỗ hỏi, trăm phát trăm trúng, Vân Môn làm bài tụng ta còn châm

Trí giác nói: Như người bắn tên lẽ nào không trúng, ánh sáng qua lại, sự sự vô ngại, Càn Phong làm tụng đó như thế.

Hoa Nghiêm Sớ ghi: Điện Đế Thính xâu hạt châu làm lưới, ánh sáng cùng hiện, lớp lớp vô tận, bài tụng này nói đại ý về công án, không hẳn cú cú thuộc nhựa cây dây hòa.

Vân Môn nói: Gọi hầu trắng thì phải có hầu đen.

Vào triều nhà Tùng có chữ bạch tự là quân sách là kẻ sĩ biện tại ở Cối Kê.

Đại Tướng Quân thấy cây Dương tố làm dấu để dể nhớ, thần nhân báo ứng rõ ràng, cũng không thể còn.

Đến Triều đại nhà Đường có Lý Bạch giỏi về thơ, về sau có Lý Xích so với Lý Bạch cũng không bằng, người đời truyền nhau làm trò cười.

Ngày nay nói hầu đen cũng là loại này.

Có bản ghi: Ta là hầu trắng còn y là hầu đen là nói như thế. Tổng trì có ba: Đa tự, nhất tự, vô tự. Tổng trì tất cả Pháp Môn là Tam Muội Chánh Định Thiên Viên còn xử lý xem Quốc Sư nói.

Lý viên, ngôn thiên, lời sinh lý mất.

Chỉ Quán Thiên Thai nói: "Ba điểm tròn của chữ y", không như điểm nắm dọc của nước, cũng không phải nằm ngang của lửa, lại dựng khắp ba bờ gọi là cao, ngang biến khắp 10 phương gọi là rộng. Cho nên Kinh Pháp Hoa nói: Xe ấy cao lớn, Thiên Đồng bên cạnh thông biển giáo, Động Sơn dụng thông trời nghĩa. Vân môn, Càn Phong lập bia vô tự, Thiên Đồng ngâm vịnh thành bài thơ vô ngôn, có thể nói, Dương Tu lấy vợ trẻ, hể nhìn liền biết đẹp.

TẮC THỨ 41: LẠC PHỐ THỊ TỊCH

(254) Dạy đại chúng: Có khi trung thành, phải chịu nổi khổ khó trình bày, có khi tai họa đến, hướng đến người gánh vác không được, sắp đi bổng té nhào, cuối cùng rất ân cần, khóc lóc thảm thương, càng khó giấu giếm, còn có người con mắt lạnh.

CÔNG ÁN: Lúc Lạc Phố sắp thị tịch dạy đại chúng: Nay có một việc, ta muốn hỏi các ông, cái này nếu phải "Trên đầu lại thêm đầu". Nếu không phải tức chặt đầu mà cầu sự sống còn. Bấy giờ thủ tòa nói: Thanh Sơn thường cất bước, ban ngày không khêu đèn.

Lạc Phố nói: Là thời tiết nào, nói lời này.

Có Thượng Tọa Sản Tùng ra hỏi: Bỏ 2 lối này, xin Sư chớ hỏi.

Lạc Phố nói: Chưa thì nói

Vạn Tùng nói: Con nói không hết

Lạc Phố nói; Ta không quản ông nói hết hay không nói hết.

Vạn Tùng nói: Tôi không làm thị giả chỉ đối đáp với Hòa Thượng, đến tối Hòa Thượng gọi Tùng Thượng tọa. Hôm nay ông ta đối đáp vì nguyên nhân gì? Hợp thể được tiên Sư nói: Ngày trước không có Phật pháp, ý ở trước mắt không phải là giáo pháp hiện nay của ông ta, chẳng phải những điều tai nghe mắt thấy, câu nào là khách, câu nào là chủ.

Nếu chọn lựa ra, giao cho cái túi đựng bát. Vạn Tùng nói: Không lãnh hội

Lạc Phô nói: Ông nên lãnh hội Vạn Tùng nói: Thật chưa lãnh hội Lạc Phố hét: Khổ thay! khổ thay!

Tăng hỏi: Tôn ý Hòa Thượng thế nào?

Lạc Phố nói: Thuyền từ không chèo trên sóng lặng, kiếm nhọn nhọc nhàn phóng ngỗng cây.

Sư nói: Lạc Phố lúc sắp thị tịch, tâm lão bà tha thiết, thủ tòa tận tình thổ lộ, trái lại trách móc không phải lúc, Sản Tùng không ra khỏi miệng, hy vọng ông sẽ lãnh hội, đáng cho 2, 3 mò tìm, đáng thương một bề chôn chùm, được khách kham phạt để được tiền, con lừa mù diệt mất Chánh Pháp Nhãn tạng.

Huyền Giác nói: Hãy nói Thượng Tọa Tùng thật không lãnh hội, lại sợ cái túi đựng bát dính vào y. Cho nên Truyền Đăng Lục thâu Tùng, để kế thừa Phật Pháp.

Lạc Phố từng dạy đại chúng: Cần phải chỉ minh Tông bên ngoài, chớ dựa vào trong lời nói.

Tăng hỏi: Thực hành chớ bất khả tư nghi thế nào?

Lạc Phố đáp: Núi xanh thường cất bước, ban ngày đổi dời, để kiểm nghiệm điều này, Thủ Tòa Tùng Công có thể thấy rõ ràng, Lạc Phố về sau có người nhận không, sau một trăm năm lại có Thiên Đồng, tụng rằng.

(Mồi mây câu trắng, câu sông xanh, tuổi già buồn bã không tiếc nuối, một khúc lìa lo rồi trở về, chỉ còn người tỉnh ở trên sông).

Sư nói: Người xưa lấy Trường Hồng làm sao trăng mới lên làm câu "cắt mây làm mồi, nước xanh chèo thuyền từ, kiếm nhọn trước phải phóng ngỗng cây".

Ngũ Vân Hòa Thượng ở Hàng Châu ngồi Thiền Châm nói: Nước chảy gác kiếm không trệ ngỗng cây, bởi kiếm, dòng nước cao ngất hiểm trở trôi nhanh, như 2 thuyền chạm nhau ắt vỡ, cho nên trước chặt cây thả trôi, đó gọi là ngỗng gỗ, mọi người nói dễ khó làm, chẳng thà Thiền Châm làm chứng tốt, tuổi già tâm lẻ chưa phải tiếc, người không biết cho rằng Lạc Phố không chịu nỗi pháp, Lạc Phố tham vấn tất cả 111 vị gồm Điểu Nha, Thanh Phong đều là bậc cao niên, không ai làm thơ bằng Am Nội Hòa Thượng. Xưa nay uống rượu là kẻ lợi danh, say rượu đều là bậc hào kiệt, tiều tụy bên bờ sông chưa đủ cho là tỉnh.

Khuất Nguyên tự là Bình, vào thời Sở Hoài Vương, làm Tam Lư đại phu, trù trừ còn che dấu, bị đày xuống Trường Sa, một mình đi bên bờ sông, bảo ngư phủ rằng: mọi người đều say, chỉ mình tôi tỉnh, mọi người đều đục, một mình ta trong, rồi nhảy xuống sông Mịch La mà chết, sông đó ở Huyện La, Đàm Châu, Văn Tuyển Ly Tao kinh do Khuất Nguyên đã làm.

Lúc Lạc Phố thị tịch, Sản Tùng đần độn, thả câu không có một đồng xu, chống cự cuối cùng nước, gạo cũng không có, còn lãnh hội không?

TẮC THỨ 42: TỊNH BÌNH GIẢ NAM DƯƠNG

Sư dạy rằng: Rửa bát thêm bình đều là pháp môn phật sự, đẩy củi vận nước, đều là thân thông diệu dụng, tại sao không biết phóng quang động địa.

CÔNG ÁN: Tăng hỏi Nam Dương Trung

Quốc Sư, Báo thân Lô Xá Na là thế nào?

Quốc Sư đáp: Đem tịnh bình đến cho ta, Tăng đem tịnh bình đến. Quốc Sư nói: Cổ Phật quá khứ đã lâu.

Sư nêu: Thạch Sương hỏi Đạo Ngô: Xúc mục bồ đề là thế nào?

Ngô gọi Sa Di, Sa Di đáp: Dạ. Ông bảo thêm nước vào tịnh bình, hồi lâu lại hỏi Thạch Sương, ông vừa hỏi gì vậy? Sương định nêu ra thì Ngô trở về phương trượng, Sương bèn đại Ngộ. Nói Ngô trước kia dùng câu cách thân, sau lại dùng thể bỏ thân, nếu không có tay sát phạt thì Thạch Sương tỉnh ngộ, vì lòng từ của Quốc Sư đàm luận quanh co, chỉ là người biết ân ít. Cho nên Thiên Đồng múc nước tưới hoa, Tụng rằng: (chim bay trên không, cá bơi dưới nước, sông hồ đều quên, mây trời đắc chí, tâm dừng lại một chút, đối mặt nghìn dặm, tri ân báo ân, gần như nhân gian).

Sư nói: Chim bay trên hư không, cá bơi dưới nước, thác thì bình an, nó sống càng hợp.

Trang Tử nói: Sông cạn nước cá ở đất liền, cho là ẩm, tướng ướt cho là nước bọt, không bằng quên mất ở sông hồ.

Thiền Sư Bạch Triệu Thông Khuê nói: Thí như chim bay trong hư không, mà không biết hư không là quê hương của mình, cá lội dưới nước lại quên mất nước là tánh mạng mình.

Khuê Phong nói: Cá không biết nước, người không biết gió, mê không tánh, ngộ không biết không được, bình thường bản thân Lô Xá Na, cái biết thanh tịnh hiển hiện ở trong con người, lúc vừa khơi lên, bổng nhiên bóng hiện, quên ân mất hạnh, bỏ thân theo nó, quả thật có thể trừ bỏ Linh Sơn, mới hiểu cái nối nghiệp cha. Hãy nói: Nghiệp cha là thế nào? Rút ra điều đúng, chỗ dùng chẳng sinh nghi.

TẮC THỨ 43: LÀ LA SƠN SINH DIỆT

Dạy đại chúng rằng: Hoàn đơn hột viên, điểm sắt thành vàng, một lời chí lý, chuyển phàm thành Thánh. Nếu biết vàng và sắt không hai, phàm Thánh vẫn đồng, quả nhiên một chút cũng dùng không được. Hãy nói: là một chút gì.

CÔNG ÁN: La Sơn hỏi Nham Đầu, lúc sinh diệt không dùng thì sao? Nhan Đầu quát nói: Ai sinh diệt?

La Sơn Đạo Nhàn Thiền Sư ở Thần Châu, trước hỏi Thạch Sương: Lúc sinh diệt không dừng thì thế nào? Sương đáp: ắt phải lạnh cây khô, một niệm an năm hộp lọng tương ưng, thuần thanh tuyệt điểm. Sư nói: Khế hợp, đến hỏi Nham Đầu, Nham Đầu quát nói: là ai sinh diệt? Sơn ngay đây liền ngộ, bởi Nham Đầu chỉ quý là thấy đất rõ ràng Thạch Đầu đề nơi giảng đường cây khô, muốn ý đích thân đến một lần mới được, không thấy Thụy Nham mới hỏi Nham Đầu: Thế nào lý vốn thường?

Nham Đầu đáp: là động

Nham Đầu hỏi: Khi động là thế nào?

Nham Đầu đáp: Là không thấy lý vốn thường Nham Đầu: Ngừng suy nghĩ.

(255) Nham Đầu nói: Đồng ý thì chưa thoát khỏi căn trần, không đồng ý thì mãi chìm đắm trong sinh tử. Nham Đầu lãnh ngộ.

Đoan Nham và Nham Đầu anh lính hào phóng đánh thức người học. Sự tinh tế của 2 Ngài không kém ngài Đức Sơn. Về sau có pháp Bảo là Sơn nói: Băng lạnh cũng từ nước, Ngài Quy Sơn gọi là: Chỉ quý ở chỗ ông thấy, bất luận ông thực hành thế nào. Những điều Ngài La Sơn hỏi là tấm gương sáng cho mỗi người trong thiên hạ. Nhưng kẻ sơ cơ ngày nay, thường ngay nơi đây cho là sự sống, giống như ấn ngón tay trên mặt nước là điều phục vào đoạn trừ phiền não. Ngài Trí Giác nói: Chớ làm bạn với tâm, vô tâm tâm tự an, nếu đem tâm làm bạn, khi động bị tâm dối gạt. Bạn tức làm bạn với vọng tâm, không bạn cũng không có vọng tâm, Ngài Bồ-Đề-Đạt-Ma chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật. Đâu phải dạy ông, người phổ châu tiền giác, nhận nô bộc làm chồng. Những vấn đề Ngài La Sơn hỏi là mê chơn chấp vọng. Chỗ Ngài Nham Đầu quát, tức vọng tức chơn, hay là Ngài Vạn Tùng quát rồi dừng ngay, chơn vọng hướng thượng tại lúc có việc. Trong Kinh Lăng Nghiêm, Ngài A Nan bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế Tôn thấy chỗ tìm cầu của tâm lúc này, mà con cho rằng tâm suy tìm cùng khắp, cái có thể suy tìm con cho đó là tâm. Phật dạy: "Này A Nan đây chẳng phải tâm ông". ngài A Nan rời khỏi tòa đứng dậy chấp tay bạch Phật: Đây chẳng phải tâm con, vậy phải gọi là gì? Phật bảo A Nan: Đây là tiền trần, tư tưởng hư vọng, làm mê hoặc chơn tánh của ông. Do ông từ xưa đến nay nhận giặc làm con, mất đi chơn tâm của ông nên chịu luân chuyển. Tiếng hét này như bảo kiếm của vua Kim Cang. Một tiếng hét của Nham Đầu như tiếng hét của Sư tử, đó là toàn bộ sức lực của uy thần và công dụng của Ngài không thể khinh thường được. Cư sĩ Bàng Uẩn nói:

"Một bầy sáu tên giặc,
Đời đời lừa giết người,
Ta nay rõ bây rồi,
Không cùng bây gần gũi.
Nếu bây không phục ta,
Đến đâu ta cũng nói
Dạy người biết hết bây
Nếu bây chịu phục ta
Ta bèn chẳng phân biệt
Cùng bay ở một chỗ
Đồng chứng Vô sinh diệt".

Ngài Nham Đầu nói: Cái gì khởi lên diệt?

Ngài Vân Nham đưa chổi lên.

Đây là cùng tham như Đệ cơ Nguyệt (?).

Thiên Đồng quý ở chỗ nương thiện có thể giáo hóa,

Thiên Đồng nói kệ, tụng rằng:

(Chặt đứt dây leo già
Hay bộng chồn đập phá
Báo gặp sương mù thay lông
Rồng nương sấm sét mà thay cốt.)
Ối! Khởi diệt lăng xăng đó vật gì?)

Sư đáp: Cắt đứt thoại đầu, vót lại hỏi ý, chiếu dụng đồng thời, người cảnh đều mất.

Nham Đầu có khả năng hơn cả thầy mình.

Dương Tử hỏi: Thánh nhân khác với Hổ vì trí thức của họ sáng ngời, quân tử khác với văn phong họ mạnh mẽ, người giới khác với chồn vì họ tài ba. Chồn biến thành báo, báo biến thành hổ, có báo đen Nam Sơn trốn trong sương đổi màu lông. Liệt nữ truyện của Lưu Thông không hưng khởi, nhà giàu tam bội, vợ ông ta bồng con mà khóc. Mẹ chồng giận dữ cho là không lành. Người vợ nói: Thiếp nghe ở Nam Sơn có báo đen trốn trong sương 7 ngày không ăn, muốn sương thấm vào bộ lông của mình, trở thành lông màu. Đến như chó, heo không chọn lựa thức ăn, cho nên béo phì; vì béo phì nên mang họa, cuối năm quả thật bị giết thịt ở đây phỏng thuật nên khác với ghi lại. Mùa Hạ năm thứ 7 đời Hán Huệ Đế, sấm sét nổi lên ở Nam Sơn, cây rừng bị cháy, cháy thành màu vàng.

Sau trận mưa lớn người ta thấy 1 cái xác con rồng. Ngài La Sơn gặp phá oán tặc trong nhà, lời trình bày quá rõ ràng. Ngài Nham Đầu chiêu hàng, sau này trở thành người con đắc lực. Lại nói: đó là chỗ chiêu hàng. Ôi! Khởi diệt lăng xăng đó vật gì?.

TẮC THỨ 44: HƯƠNG DƯƠNG DIỆU SÍ

Dạy chúng rằng: Sư Tử đánh voi, đại bàng đánh rồng, bay chạy còn khác quân thần, nạp tăng đây vẫn còn khách chủ, lại như người nào xúc phạm thiên uy, làm thế nào cắt đứt?

Tăng hỏi: Thưa Hòa Thượng Hưng Dương Phẫu, Bà Kiệt ra khỏi biển càn khôn rõ việc này, là thế nào?

Sư đáp: Chim chúa Đại bàng ngăn che vũ trụ, trong đó ai thò đầu ra.

Bổng gặp người thò đầu phải làm thế nào?

Giống như bồ câu bắt tu hú, ông không biết, lên trước lầu kiểm nghiệm mới biết thật.

Vì sao chấp tay ngang ngực thối lui 3 bước.

Con rùa dưới núi Tu Di, chớ đợi dạy lại điểm 1 vết trên trán.

Sư nói: Thiền Sư Thanh Phẫu ở núi Hưng Dương, Dĩnh Châu. Đệ tử của Ngài Đại Dương Minh Am có 15 người, đều qua đời. Sau đó nhân Phù Sơn Viên Giám được gặp Hòa thượng Đầu Tử Thanh, Dương là 1 trong 15 người đó, là anh của Đầu Thanh.

Chỗ Tăng hỏi ở đây như Ngài Lao-Độ-Sai và Ngài Xá-lợi-Phất sáng lập vườn Cấp Cô Độc. Lúc đánh nhau Lao-Độ-Sai hiện ra con rồng hung dữ muốn đã thương Ngài Xá-Lợi-phất. Ngài Xá-Lợiphất hiện ra chim Đại bàng bắt rồng để ăn. Rồng cũng là 1 con vật có vảy, to lớn, vì sao đại bàng chỉ dùng nó làm thức ăn. Ta-Kiệt là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là biển. Vua Bình Nguyên, Triệu Thắng tương, Triệu Huệ Văn Vương và Hiếu Thành Vương làm nhà lầu, có người dân đi đến, người dân bị què chân. Người đẹp cười anh ta. Người què chân xin vua chém đầu người đẹp. Vua bằng lòng mà không thi hành. Đợi khách khứa đi hết 1 nửa vua chém đầu tù nhân thay cho người đẹp. Khách vẫn không đến, bèn bêu đầu người đẹp, treo lên trước lầu vua, người lên khám nghiệm đó là sự thật. Cuối năm khách khứa tập họp. Gia phong của Động Thượng (Tào Động) không quý chỗ tự thân thực hành đánh, hét, nên giả như người bên cạnh để thư từ qua lại. Tội của Tăng này không thuộc khoa nặng, mới có thể phục hồi trở lại, còn biết sao? Roi mềm dạy bảo thì hổ thẹn càng khó phạm, vẽ trên đầu làm nhà lao không nở xem thường. Pháp quan như là lửa, tâm như sắt. Ngài Thiên Đồng từ phí cổ chùng này tụng rằng:

Nghe Thánh chỉ vua ban Người Sa Phạm xử trảm Vua đi đến nhiều nước, Tướng quân giữa một nơi. Năm canh đến trời sáng. Đã có người đi đêm

Cơ để liên miên hề (?) Có kim vàng chỉ ngọc An vua thật rộng lớn Vốn không có chữ triệu.

Sư nói: Sắc lệnh khắp thiên hạ, vua không lưu hành. Trung y tử (người mặc áo đen) trong Lễ Ký nói: Lời vua như tơ, ảnh hưởng ra như sợi tơ lớn, lời vua nói như sợi tơ lớn, ảnh hưởng ra như dây thừng to. Cho nên bậc đại nhân không nói lời bay bướm. Ta-Kiệt ra khỏi biển, Đại bàng sẽ lộng huyền, hiệu lệnh đã ban ra, vua tôi có định vị.

Bằng Đường nói: Vua thời xưa sai khiến tướng quân, tướng quân quỳ xuống suy xét nói: Từ cổng thành trở vào do vua quyết định. Từ ngoài cổng thành giao cho Tướng quân quyết định Vi châu nói ở đây cửa thành là cửa lớn. Năm canh đến trời sáng, khen vị Tăng này tham cứu thoại đầu thái quá, không đợi tiết tháng hai (tháng 3 dương lịch). Sáng sớm thấy đầu rồng, không biết mây theo rồng mà bay. Nhưng vì ung phong của đại bàng ngăn trở không biết đầu bị đánh. Có người nói chấp lời nói của Tăng, làm sáng tỏ cơ phong của Hưng Dương, không đợi biết 4 chữ đó, thì không ổn thuận vô cùng. Cơ để liên miên: Ở đây cơ chẳng phải cơ phong, cho rằng dưới khung cửi dệt gấm chắc chắn có người đàn bà khéo tay xâm chỉ. Tuyết Nham tiên Sư đã từng đưa ra vấn đề này, Kim vàng lỗ nhỏ xâu trên đầu mũi, có gai chỉ ngọc khéo vào cửa quan. Đây chính là huyết mạch của Tào Động, chẳng phải người bình thường, không dể biết được. Nên như ấn, không nên như phong. Nếu dùng ấn, ấn vào hư không thì không thấy hình tướng văn vẽ. Thương Hiệt nhìn lên xem thế tròn cong của sao Khuê, cúi xuống quan sát dấu chân của chim, đường nét trên mai rùa, chọn lựa các nét đẹp hợp thành những đường nét. Về sau tự khoa Đẩu lâm thành 2 chữ triện. Thai sử Tuyên chủ đời Chu sáng tạo. Chữ đại triện, Tướng Lý Tư đời Tần sáng tạo chữ Tiểu Triện. Chữ Triện trên ấn ngày nay gọi là Phương Điền, Đán Đạo, ngài Hưng Dương khắc họa lại cũng như không, Ngọc sáng vốn không tỳ vết. Văn hoa chạm khắc mất (đi) đức độ nhà vua.

TẮC THỨ 45: GIÁC KINH TỨ TIẾT

(4 tiết của Kinh Viên Giác)

Dạy chúng rằng: Công án thành tựu chỉ căn cứ hiện nay. Bổn phận của gia phong không lo ngoài bổn phận. Nếu Tăng thêm tiết mục chỉ uống phí công phu. Hết thảy đều là ngu tối, vẽ trên miệng bát một cái cán, làm sao an ổn được.

CÔNG ÁN: Kinh Viên Giác chép: Ở trong tất cả thời không khởi vọng niệm, không đối với các vọng tâm, cũng không sinh diệt, không trụ cảnh vọng tưởng, không tăng thêm hiểu biết, không đối với, không hiểu rõ thì không phân biệt được chơn thật.

Sư đáp: Ngài Khuê Phong xét 1 đoạn này, gọi đó là vọng tâm đốn chứng, còn gọi là quên tâm vào giác. Ngài Vạn Tùng cho rằng sau 4 chữ bất nghĩa là không khởi (sinh) không diệt, không biết, không phân biệt, 32 chữ này các nơi đều là bệnh, chỗ này là thuốc 2 bệnh các phương không khởi vọng niệm há chẳng phải là tiêu diệt mầm mống ư! Không diệc tâm vọng há chẳng phải nuôi bệnh mất thân. Không nhớ hiểu rõ há chẳng phải tạm thời không tồn tại như người chết ư! Không phân biệt chơn thật, há phải làm mời Phật tánh, che đậy chơn như ư! Lại nói: Thế nào là 4 thứ thuốc phải là tu hợp tương lai của Ngài Thiên Đồng

Tụng rằng:

Oai nghi chững chạc
Lỗi lỗi lạc lạc
Chỗ nào cắm đầu
Chỗ ổn hạ châu
Dưới chân dây dứt, tự do thay!
Đầu mũi hết bùn, Ông khỏi cạo!
Đừng động đậy
Giấy cũ ngàn năm đúng là thuốc!

Sư đáp: Ngài Hoàng Bá ban đầu tham vấn Thiền Sư Bách Trượng. Thiền Sư Bách Trượng nói: "Oai nghi chững chạc", đến vì việc gì? Ngài Hoàng Bá đáp: "Oai nghi chững chạc không vì việc khác"?

Oai nghi chững chạc, tài cán hơn người đều là tướng đại trượng phu. Binh khí tập hơn, lỗi gay thân mình, trong rừng gai góc xua tay mà đi. Dưới gót chân không có chỉ năm màu, trên đầu lưỡi không liên quan 10 chữ. Đầu mũi không viết bàn, trong mắt không mạt vàng. Há không phải là cuộc sống khoái lạc của bậc hảo hán sao! Thử đem việc chớ nói chấp vào 3 chữ của Thiên Đồng đổi thành 4 chữ bất của Vạn Tùng, liền thấy 1 chữ pháp môn mà mực nước biển viết không hết được. Ngài Đức Sơn nói: Một Đại tạng giáo là giấy củ lau đồ bất tịnh. Vì người đã hiểu rõ, e rằng không thủng da bò. Ngàn năm trong đống giấy bất tịnh cũ kỹ mà hợp làm thuốc, vì người chưa cỏ không ngăn được mắt vậy.

Ngài Trí Giác nói: Kinh Viên Giác, Lăng Nghiêm thường là bạn của người tu hành. Huống gì Đức Phật nhập diệt đến năm Canh Thìn đã 2170 năm, há chỉ là giấy củ ngàn năm. Tiên Tuyền Cát do khắc dê gỗ, cởi dê đến Tuy Sơn, sau gặp Phù Châu nói: Nếu không có chỉ đứt dưới chân, như vậy không được tự do, ngầm hợp với Vĩnh Gia buông bỏ tứ đại chớ nắm giữ. Trong tánh tịch diệt tùy theo sự chứng ngộ. Các hành vô thường, tất cả đều không tu là đại viên giác của Như Lai. Mặc dù, như vậy, nếu không tu làm sao được phạm hạnh.

TẮC THỨ 46: ĐỨC SƠN HỌC TẤT

Dạy chúng rằng: Vạn dặm không một tất cỏ, người mê ở tịnh địa. 8 phương không gợn mây, bầu trời quang đãng lừa ông. tuy là lấy nắm bỏ nhưng không ngại, nắm hư không treo hư không. Đánh sau đầu 1 dùi chớ xem là phương tiện.

Nêu: Đại Sư Đức Sơn Viên Minh dạy chúng rằng: "Bỏ hết tất cả, được miệng treo trên tường của Chư Phật ba đời, giống như 1 người cười ha hả, nếu biết người này, việc tham học đã xong.

Sư nói: Đại Sư Viên Minh đời thứ 9 Đức Sơn Đỉnh Châu, Duyên Mật, trong những người nối dõi ngài Vân Môn chỉ có Sư là người truyền tự rộng rãi nhất. Sư sáng lập Tam cú: Trùm khắp càn khôn, cắt dứt các dòng, tùy sóng theo sóng. Nay truyền làm Tam cú của tông Vân Môn. Xú duyệt không rõ ràng lắm

Một hôm, Sư dạy chúng rằng: Buông bỏ tất cả, sẽ được miệng treo trên tường của chư Phật, người thường nói không kịp. Giống như một người cười ha hả. Lại nói: Người đó cười cái gì? Nếu biết được người này thì sự ham học đã xong. Đây thật là có việc cần phải báo. Hòa thượng Đầu Tử Thanh niệm rằng: "Che hết trăng nước Sở, vẫn còn sao đất Hán. Ngài Vạn Tùng nói: "Xe đã đi rồi nhờ vai dầu rất nhiều". Đây có thể giống với người nói: Trên đầu sào trăm thước, lại tiến thêm một bước. Hòa Thượng Bảo Phong Chiếu nói: Phải tu như người chết rồi, chết rồi lại chết. Có vị Tăng hỏi: không phải trong sự chết là sự sống sao? Sư đáp: Ông cứ chết chớ sống, ông chỉ ăn cơm hãy mau đi cầu đi. Ông cơm chưa ăn, sớm đã hỏi đi cầu đi rồi!

Đây chính là quý ở chỗ trừ sạch vọng niệm, vọng thức, đích thân đạt đến sự chứng ngộ. Nói 1 trượng không bằng làm 1 thước. Nếu đi không đến chỗ thì nói thế nào?

Hỏi Ngài Thiên Đồng, tụng rằng;...(chữ mờ không thấy).

Sư nói: Ngài Viên Minh dạy chúng không ra gì, Thiên Đồng đưa ra chữ "thủ" và Viên Minh đầy trong bao vải.

Tư Đại nói: Chư Phật ba đời bị một miệng ra nuốt hết, chỗ nào lại có chúng sinh có thể độ. Sông này chảy ra không thông, đường phàm Thánh mất hẳn. Đúng lúc nào khắp pháp giới hư không, như mặt kính xưa dùng hoại kiếp thành gió chướng, mài đá thành kiếp vàng ẩn trong mây. Nước trời một màu, mây trắng cùng sáng đều lấy điểm tuyệt vời tươi đẹp của sự việc. Đây là nói nhạt nhẽo mà vô vị, như móc câu bằng trăng mồi bằng mây cá rồng không thể nuốt được....(chữ mờ) Lã Vọng buông câu tin duyên mình không thấy đạo. Ăn gạo buông, rau hoang, đồ gia vị. Ăn thì anh ăn những không ăn vật gì.

TẮC THỨ 47: TRIỆU CHÂU BÁCH THỌ.

Dạy chúng rằng; Cây bách trước sân, cơ bay trên sáo, như vừa thấy hoa nói mùa Xuân vô biên, như thấy một giọt nước biển lớn. Khoảng cách giữa cố Phật ra đời thường xuyên có, không rơi vào ý nghĩa lời nói, hoặc vì lời nói.

Nêu: Tăng hỏi Ngài Triệu Châu: Thế nào là đại ý Phật pháp?

Ngài Triệu Châu đáp: Cây bách trước sân,

Sư Nêu: Một hôm Ngài Triệu Châu thường được nói việc này không hướng được bậc Đại Nhân, nói ra đây không tiện. Lão Tăng đến Quy Sơn. Tăng hỏi: Thế nào là đại ý Phật pháp?

Ngài quy Sơn đáp: Đem giường đến đây cho Ta, nếu là tôn sư, phải lấy bổn phận cung phụng mới được.

Tăng liền hỏi; Thế nào là đại ý Phật pháp? Ngài Triệu Châu đáp: Cây bách trước sân Tăng nói: Hòa Thượng chớ lấy cảnh dạy người Sư đáp: ta không đem cảnh dạy người

Thế thì thế nào là đại ý Phật pháp Cây bách trước sân

Thiền Sư Huệ Giác ở chùa Quang Hiếu phía

Đông thành Dương Châu đến chỗ Ngài Pháp Nhãn. Ngài Pháp Nhãn hỏi: Ông từ đâu đến?

Ngài Huệ Giác đáp; Từ Triệu Châu đến

Được nghe nói Triệu Châu có cây bách trước sân có hay không?

Không

Đến đi đều cùng nghĩa

Việc Tăng hỏi: thế nào là đại ý Phật pháp?

Ngài Triệu Châu đáp: Cây bách trước sân Thượng tọa có hiểu được không?

Hiệu Giác nói: Tiên Sư thật không có nói lời này.

Hòa Thượng không nên chê bai tiên sư, Thiền Sư các nơi gọi là Giác Thiết Chủy. Hòa Thượng Thắng Mặc nhất định phải dạy người trước phải vượt qua để đào thải lời này.

Thường nói: Tam huyền, Ngũ vị, đều ở trong đây, Thiền Sư Chơn Như Phương ngộ được lời này, rồi vào phương trượng thấy Thiền Sư Lang Da Quảng Chiếu Giác. Chiếu hỏi: Ông hiểu cái gì?

Như: Đêm đến nằm giường nóng, nhất giác đến Thiên Minh, Quảng Chiếu cũng đến. Chơn Như ngộ được lời này thì tốt, Thiên Đồng tụng được lời này cũng tốt.

Tụng rằng:

(Bờ mi vắt tuyết, sông mắt trùm Thu, biển miệng vỗ sóng, thuyền lưỡi lướt nhanh, tay dẹp loạn, tính thái bình, lão Triệu Châu, lão Triệu Châu, quấy nhiễu tòng lâm mãi không thôi, uổng phí công phu tạo xe hợp vết, vốn không kỹ lưỡng cũng lấp được hang sông.

Sư nói: Bảy ngày Giáp Tý, khinh việc cũng nhiều, cho nên bờ mi vắt tuyết. Người xưa lấy mi mắt làm núi, điện. Thiên Đồng dùng việc sông mi biển miệng thành 4 câu kệ. Giống như thấy Hoạt Triệu Châu chỉ cây Bá, lông mày như bờ hoa lau, mắt như nước Thu biếc, nước tĩnh câu xưa nơi mắt xanh của Tăng, núi xa rậm rạp như đầu Phật xanh, biển miệng nổi sóng thuyền lưỡi lướt nhanh. Sóng có thể nhận chìm thuyền, thuyền có thể lướt sóng. Một lời nói có thể làm cho nước nhà hưng thạnh, một lời nói cũng có thể làm cho nước nhà suy vong. Cho nên kế tiếp điều đó, dùng tay dẹp loạn, tính toán Thái bình Châu thường nói: Có khi lấy 1 cọng cỏ làm thân vàng trượng sáu, có khi lấy thân vàng trượng sáu làm 1 cọng cỏ.

Dùng lời này muốn làm cho người quyết nghi. Nhưng nay được bao nhiêu người ghi? Triệu Châu há muốn quấy nhiễu Tòng Lâm? Người thấy lời đáp của Triệu Châu ứng tiếng liền đáp. Nếu không nhờ công dụng, chỉ có Thiên Đồng biết 80 hành cước, đứa trẻ 3 tuổi còn hơn ta, ta phải theo chúng học.

Đây chính là lúc nhàn tạo lập, để lúc bận rộn dụng.

Không phải là người khổ cực không biết Ngọa Luân có thiện xảo có thể đoán được trăm tư tưởng, đối cảnh tâm không khởi, bồ đề ngày càng tăng. Lục Tổ nói: Tuệ năng không khéo léo, không đoán được trăm tư tưởng, đối cảnh tâm thường khởi, thì bồ đề làm sao lớn, như thế xem việc lấp hang sông. Lại làm thế nào như ngày nay ném bỏ trong Tây Hồ, xuồng chở gió xuân phó cho ai.

TẮC THỨ 48: MA KINH BẤT NHỊ

Dạy chúng nói: Diệu dụng vô phương, có chỗ hạ thủ không được, biện tài vô ngại, có lục mở miệng không được. Long Nha như người không có tay mà đi quyền, Giáp Sơn dạy người không có lưỡi nói, nửa đường thối lui là người nào?

CÔNG ÁN: Duy Ma Cật hỏi Văn Thù: Như ý của tôi đối với tất cả pháp không có ngôn thuyết, không dạy bảo lìa các hỏi đáp ấy là vào pháp môn bất nhị. Bởi vậy Văn Thù hỏi Duy Ma Cật: Chúng ta mỗi người đều nói rồi. Nhơn giả hãy nói: Thế nào là Bồ Tát nhập pháp môn bất nhị? Duy Ma Cật im lặng.

Sư nói: Phạn ngữ là Duy Ma Cật. Trung Hoa dịch là Vô Cấu Xưng, cũng gọi là Tịnh Danh. Vợ Vô Cấu Xưng tên là Kim Cơ, con trai tên Thiện Tư, con gái tên Nguyệt Thượng.

Tăng hỏi Hòa Thượng Vân Cư Giản: Duy Ma La Như Lai kim Túc vì sao lại dự nghe pháp trong hội Thích-ca?

Vân Cư: Ông ta không tranh nhân ngã.

Kinh Quảng Bổn Duy Ma nói: 3 vạn 2 ngàn Bồ Tát đều nói pháp môn bất nhị. Nay chỉ có 32 Bồ Tát, sau này Văn Thù không có đất cắm dùi. Duy Ma có cắm dùi không?

Bảo Phúc Triển nói: Văn Thù như là bịt tai ăn trộm chuông lính sông ô hét lực, Duy Ma im lặng, chưa ra khỏi cửa.

Vạn Tùng nói: Người sinh thị phi khó. Lại nói: Duy Ma bị Văn Thù quét sạch, đến nay dậy không nổi.

Vạn Tùng người nói: Muốn đứng dậy có gì khó bền đánh. Lang Da Giác nói: Văn Thù khéo như thế là đúng. Tiếng thì tiếng rỗng hư. Duy Ma im lặng, các ông không được "dùi rùa, đập ngói". Vạn Tùng nói: Bày vẽ không ít. Chỉ có Tuyết Đậu đối với chỗ hỏi của Văn Thù xong.

Không nói im lặng hồi lâu rồi tựa vào tòa nói thẳng: Duy Ma: Lại nói: Khám phá rồi.

Vạn Tùng nói: Không biết ma ban ngày hiện hình.

Thiên Y Hoài Tụng: Duy Ma im lặng hồi lâu

Tựa Tòa bàn luận thành lầm lỗi

Đến nay mọi người thấy trình như là việc này

Như là lặng hồi lâu nói

Có Tăng hỏi: Trong lục phần nhiều Lương của vậy.

Lương cửu là ai?

Đáp: Lương Cửu là em của Lương Bát, đây là truyện cười 2 câu sau của Thiên Y, phơi núi nhổ đường thổi lông, ánh sáng lạnh trong họp sinh, ngoại đạo Thiên ma đều chém đầu.

Vạn Tùng nói: Thầm qua núi thần, bất chợt bị đau.

Bạch Vân Đoan tụng rằng:

Một cái hai cái trăm ngàn vạn, mãi cứ tìm văn thường không biện, tạm thời ở lại nơi song cửa, ngày mai lại tính toán cùng anh.

Vạn Tùng nói: Có công phu nhàn rỗi

Thiên Đồng tụng; Đầu Mã Tổ Tạng trắng, đầu Hải đen.

Sau này nói: Đường đường quét sạch lối thoại đầu, đáng cười có phong lão Tỳ

Da. Ngày nay Duy Ma đến, mặc dù mặt khen ngợi.

Tụng rằng:

Mạn Thù hỏi bệnh lão Tỳ Da.
Khai môn bất nhị xem tác gia
Ngọc đẹp bề ngoài trong ai hay
Quên trước mất sai chớ nói sai
Kẻ mọn ném ngọc nơi đình sở
Xán lạn trả châu theo thành chặt rắn.
Thôi điểm phàm tuyệt dấu vết,
Khi tục thật chẳng giống tí nào

Sư nói: Văn Thù Sư Lợi, là Mạn Thù Thất Lợi.

Phạn ngữ là Sở Hạ. Trung Hoa dịch là Diệu Kiết Tường ở thành Quảng Nghiêm nước Tỳ Da ly.

Khai Công Bát Nhã Vô Danh luận, Thích-ca tòng thất ở Ma Kiệt Đà, Tịnh Danh im lặng ở Tỳ Da Ly; Tu Bồ Đề xướng vô thuyết để hiển đạo, Đế Thích Phạm Vương rưới mưa hoa cúng dường. Lý này đều là cố nói bằng im lặng. Há nói là không biện, biện không thể nói.

Yên mân thứ ngọc nay gọi là Trác quân Khao Thủy Thạch cũng gọi là Đoạt Ngọc Thạch. Ngài Duy Ma tuy như có, thật không 1 lời biện nói; tinh túy trong đó, nói đá ấy ẩn chứa ngọc. Quên trước mất sau: Vĩnh Gia Tập Xa ma tha tụng, phần thứ tư nói: Nay nói biết, không cần biết cái biết ấy. Chỉ biết mà thôi; thì trước không cần biết cái biết ấy. Chỉ biết mà thôi, thì trước không diệt, sau không sinh, trước sau cắt nối ở giữa tự lập. Vô Tận Đăng Mạt chưa rõ việc nối pháp. Có Thiền Sư Quảng Trì, núi Di Môn, Phủ Khai Phong, húy là Bổn Tung, hiệu là Vô Ngữ Duyên toàn nêu đoạn này. Văn công không biết trích trong Vĩnh Gia Tập sáng lập ở Tung Sơn. Nhân bàn luận ngang đây, học giả biết được cái mất trước quên sau này chính là Tín Tâm Minh của Tam Tổ, ngôn ngữ đạo đoạn, chẳng phải đến nay. Hàn Tử Tạp Hòa được viên ngọc ở khe Côn Cương Kính Sơn, liền dâng cho Sở Lệ Vương. Vương nói: Đó là đá, rồi sai quần thần chặt 1 chân của Tạp Hòa. Đến vua Văn Vương lên ngôi, ông ta cũng dâng viên ngọc ấy Vũ Vương cũng cho là đá rồi sai quần thần chặt 1 chân của ông ta. Đến lúc Văn Vương tại vị Hòa ôm Viên ngọc ngồi khóc ở Kính Sơn.

(258) Vương liền vời hỏi nguyên do, Hòa nói: Thần không oán nhà vua chặt chân, mà chỉ oán là cho ngọc thật là đá phàm, việc trọng mà cho là việc thường.

Vương sai người bổ viên đá ra thấy là ngọc thật. Văn Vương than: Thương thay 2 bậc tiên quân dễ chặt chân người, khó bổ đá. Nay nếu ngọc chính là của báu của một nước. Sử ghi Tùy Hầu Chú Nguyên Sướng nhân đến nước Tề thấy con rắn sắp chết bèn lấy nước rưới lên nó, và bảo nó đi nơi khác. Bỗng 1 hôm trước sân hiện ra ánh sáng, ý cho là giặc, tay sờ kiếm nhìn nó, bèn thấy 1 con rắn ngậm viên ngọc bò đến, biết là con rắn cảm sự báo đáp.

Duy Ma Vắt thân Vi chung, không khỏi hoa ra cửa riêng đâu kham Văn Thù điểm phá sự tỳ vết linh thiêng. Dẫu Thiên Đồng nói hiện ở nơi hồng trần mà không ảnh hưởng tập khí của hồng trần, cũng là bịt mũi trộm hương.

TẮC THỨ 49: ĐỘNG SƠN CÚNG CHƠN

Dạy chúng: về không thành, hoa không xong, phổ hóa lại trở thành cân đấu. Long nha chỉ lộ nửa thân, cuối cùng người nào là thân nào?

CÔNG ÁN: Động Sơn cúng dường Vân Nham Chân, bèn Cử lời của chơn, trước kia

Có Tăng hỏi: Vân Nham nói chỉ điều này, vậy yếu chỉ thế nào? Động Sơn: Ta lúc ấy như hiểu lầm ý tiên sư

Tăng; chưa rõ Vân Nham còn biết có không?

Động Sơn: Nếu không biết có thì đâu biết nói như thế Nếu biết có thì đâu chịu nói như thế

Sư nói: Động Sơn từ biệt Vân Nham. Động Sơn hỏi: Hòa Thượng sau trăm năm, có người hỏi khắp nơi có được điều chơn thật của Sư không, thì làm sao trả lời.

Vân Nham lặng hồi lâu nói: Chỉ điều nay Động Sơn: Trầm ngâm

Vân Nham: Xà lê gánh vác việc lớn này, cần phải cẩn thận. Động Sơn không nói liền đi. Sau đó nhân qua sông nhìn cái bóng mới triệt ngộ, liền làm tụng:

Thiết kỵ tìm nơi khác Xa xôi bỏ làng ta

Ta nay riêng tự đến

Chỗ chỗ đều gặp Va (nó) Va nay chính là ta.

Ta nay không phải là va.

Cần phải lãnh hội như thế mới được khế hợp.

Động Sơn ở trong chúng cúng dường Vân Nham, nêu lời chân trước đây, Tăng hỏi Vân Nham: Nói chỉ đều này ý chỉ thế nào?

Động Sơn: Ta lúc ấy như hiểu lầm ý của tiên sư.

Nếu đến im lặng hồi lâu chỉ là chỗ lãnh lược, chính là thay tên thông sự, cho nên thấy bóng biết hình, qua sông mới ngộ.

Tăng: Chưa rõ Vân Nham biết có không?

Nếu một bề nói biết có là người tả hữu

Không thấy nói: Người biết có mới biết phụ sự trang trọng nếu một bề nói không biết có thì ở đây có lợi hại có hoàn toàn không biết có, có biết có rồi lại không biết có, có không biết có lại thành biết có.

Động Sơn nói: Nếu không biết có, đâu biết nói như thế Nếu biết có thì đâu chịu nói như thế

Hoa Nghiêm Tông cho là lý tròn lời lệch, lời sinh lý mất. Đây chính là trọng huyền lại diệu; kiêm chồng chất không thông. Không thiên lệch khô, không thấm mạch máu vào cuối niên hiệu Đại Trung đời Đường. Động Sơn ở Tân Phong Bách Các sau đó dời đến Động Sơn ở Dự Chương Cao An là đời thứ nhất. Nhân Vân Nham thiết trai cúng dường. Tăng hỏi: Sư ở nơi Tiên Sư được chỉ bảo gì?

Động Sơn: Tuy ở với Tiên Sư nhưng không 1 lời chỉ bảo Tăng: Lại cần thiết trai làm gì?

Động Sơn: Tuy như thế nhưng đâu dám trái!

Tăng: Hòa Thượng mở bày tích Nam Tuyền. Vì sao lại thiết trai cúng cho Vân Nham,

Động Sơn: Ta không trọng Phật pháp và đạo đức của Tiên Sư. Chỉ trọng ở điều người không khai đạo cho ta.

Tăng: Hòa Thượng nối pháp với Tiên Sư vậy có chịu ông ta không?

Sơn: Nửa chịu nửa không chịu Tăng: Sao không chịu hoàn toàn.

Sơn: Nếu ta chịu hoàn toàn thì cô phụ Tiên sư

Vạn Tùng nói: Vân Nham ở với Bách Trượng 20 năm lại nối pháp nơi Dược Sơn. Đồng Sơn phát khởi tung tích Nam Tuyền, lại nối pháp với Vân Nham giống như chăm mạ trở thành Tăng tốt tươi, thầm có căn khí linh lợi, được Phù Dung ca ngợi trọng tông phái. Đến Thiên Đồng Văn vẻ mới hoàn bị, cái nào là văn vẻ đầy đủ. Tụng rằng:

Đâu biết nói như thế
Canh năm gà nhà gáy rừng nghe
Đâu chịu nói như thế.
Ngàn năm nhạn cùng mây tùng
Gương báu sáng trong nghiệm tà chánh.
Cơ ngọc chuyển dần xem cùng đến.

Môn phong đại chấn hề bước quy cách miên mật cha con hiến thông hề tiếng vang xa.

Sư nói: Động Sơn dặn Tòa Sơn rằng: Ta ở với Tiên Sư Vân Nham được ấn khả là Bảo Kính Tam Muội là việc quan trọng. Nay ta phó chúc cho ông, ông khéo giữ gìn, gương báu sáng trọng nghiêm chánh ta, há chẳng phải gà nhà gáy rừng nghe, nhạn ngàn năm cùng mây tùng, nghiệm chánh tà ư? Gương tuy sáng mà có mặt trái của nó, chỉ cơ ngọc chuyển đổi thay nhau đẹp. Sáng tối cùng đến nơi, Hệ Từ Kinh Dịch nói: Đạo cùng tột thì biến, biến thì thông, thông thì lâu, cha con Động Sơn thực hành quy củ, đến nay môn phong đại chấn, kiểm được nguồn sâu dòng dài ư?

TẮC THỨ 50: TUYẾT PHONG THẬM MẠ

Dạy chúng nói: Diệu chỉ rốt sau có thấu rõ mới đến được ải lao. Nham Đầu tự cô phụ trên không chịu gần gũi thầy, dưới không nhường pháp đệ, lại là cưỡng sinh tiết mục, hay là có cơ pháp riêng.

CÔNG ÁN: Lúc Tuyết Phong ở am, có 2 vị Tăng đến lễ bái Tuyết Phong thấy hai vị Tăng đến liền đóng cửa lại, thò mặt ra nói là cái gì?

Tuyết Phong cúi đầu trở về am Sau đó Tăng đi đến Nham Đầu Nham Đầu hỏi: Từ đâu tới?

Tăng: Từ Lãnh Nam đến

Nham Đầu: Từng đến Tuyết Phong chăng? Tăng: Từng đến

Nham Đầu: Ở đó ngôn cú gì?

Tăng: Kể lại sự việc trước đó Nham Đầu: Ông ta nói gì?

Tăng: Ông ta không nói gì cả rồi cúi đầu trở về am.

Nham Đầu: Ôi lúc đó không đến ông ta nói diệu chỉ rốt sau

Nếu nói với y thì người trong thiên hạ không làm gì được lão

Cuối hạ Tăng lại thưa hỏi những lời trước đó

Nham Đầu nói: Sao không hỏi sớm Tăng: không dám vô lễ.

Nham Đầu: Tuyết Phong túy cùng sinh với ta mà không cùng tử với ta. Muốn biết diệu chỉ rốt sau chỉ là đây

Sư nói: Vân Nham bên cạnh đó tham vấn Đạo Ngô, Tuyết Phong bên cạnh đi cũng tham vấn Nham Đầu. Người quân tử không thẹn hỏi kẻ dưới. Nay đạo của Vân Nham và Tuyết Phong rất thinh hành, cũng là niềm vui khác xả mình nhường người. Mà đạo của Nham Đầu, Thiền sư, Anh Ngộ, Ngưỡng Dương Đức Sơn rất thịnh hành, bởi chỗ thấy thông đạt rỗng rang, thành tựu, cho nên được như thế. Xem hai Vị Tăng môn hạ của Tuyết Phong, tên nhọn gặp nhau cũng là gã hành cước, vì sao mãi đến cuối hạ còn nghi diệu chỉ rốt sau, chỉ vì mắt động đầu mê, đương đầu thì tội lỗi. Nham Đầu và ông ta nói đạo lý rất nhiều Tuyết Phong và ta cùng sinh mà không cùng tử; một pháp tuy không khác, 3 người mới thấy sai. Tăng này và Tuyết Phong 1 lúc nói cái gì, cho đến bàn luận diệu chỉ rốt sau. Nói cho cũng không biệt há chẳng phải sai mảy may, lỗi muôn văn. Hãy nói Tăng này thật không hiểu (259) bỏ lời nói và hành động này. Quy Sơn Triết nói: Đại Tiểu Tuyết Phong nghiêm đầu ngược lại bị vị Tăng này khám phá. Đạo Vạn Tùng trầm tĩnh không phòng hộ, nghiêm đầu Tuyết Phong do có thể tha thứ. Về sau Điểm Đức Sơn không biết câu cuối cùng thật là khó chấp nhận, cho nên Thiên Đồng Lưỡng thứ có bài tụng:

Trau dồi gọt giũa Biến đổi tạp ngoa
Dây sắn bên đường hóa ra rồng
Đồng một loại sinh sao có số
Đồng một loại tử sao cách xa
Câu đầu câu cuối chỉ là đây
Gió thổi thuyền trăng trôi nước biếc

Sư nói: Thơ của Khổng Tử, cái đẹp chỗ uốn khúc bên bờ sông Kỳ là đức của vũ công. Có văn chương lại có thể nghe lời khuyên răn. Dùng lễ để tự phòng hộ cho nên có thể vào xung quanh thấy cảnh đẹp mà làm thơ. Nhìn sông Kỳ uốn khúc, trúc xanh rờn rờn có bậc quân tử như cắt, như gọt, như mài như giũa. Chú thích rằng: Sữa xương gọi là thiết, sữa tượng gọi là tha, sữa ngọc gọi là cháo, sữa đá gọi là ma. Đức Sơn Tuyết Phong được Nham Đầu phát minh được đầu và cuối của câu. Đến nay câu nói này rất thịnh hành. Sức thiết tha được thông biến. Tuyết Phong như gậy hóa rồng. Vị Tăng này như con thoi nằm nép dưới đất. Nham Đầu gọi ra đến nay không biết. Sở dĩ đồng một loại tử không nhiều. Hoặc Nham Đầu như gậy hóa rồng. Tuyết Phong như con thoi nằm nép dưới đất. Muốn biết tinh tế xem lời nói trước. Phật quả của Ngài Tuyết Đậu do song minh, song ám. Tụng lời này chẳng phải bảo tham không biết. Đông Hán phương thuật truyền, Trường Phòng Bí, ông là người Nam từng làm chức quan phó ở chợ, gặp Hồ Công, chặt gậy trúc xanh, giả làm Trường Phòng thắt cổ chết trong nhà. Bèn vào núi sâu học đạo nhưng không thành. Từ bỏ trở về, Công cho gậy trúc, đi về nhà, ném dây sắn xuống ao, Trường Phòng ném dây sắn xuống ao, hóa rồng mà đi. Lại Phổ Đào Khản lúc nhỏ bắt cá ở đầm Lôi bủa được một con thoi, treo lên vách, sau nghe sấm sét, hóa làm rồng mà bay Tuyết Phong như gậy, vị Tăng này như con thoi. Nham Đầu như thuyền gió chở trăng, Vạn Tùng giống cái gì? Bình trà treo chắc chắn.

TẮC THỨ 51: PHÁP NHÃN HANG LĂNG

Hiển bày cho mọi người rằng: Ngộ trong pháp thế gian cũng có nhiều ít người. Mê trong pháp Phật cũng có nhiều ít người. Bỗng nhiên đánh thành một phiến, dính mắc mê ngộ cũng không đưa ra. Pháp Nhãn hỏi Thượng Tọa Giác hang đến hay Lăng đến? Giác đáp: Hang đến. Nhãn nói: Hang tại chỗ nào? Giác đáp: Hang tại trong sông. Giác thối lui. Nhãn hỏi ngược lại Vị tăng bên cạnh rằng: Đạo của ông Tăng vừa mới đến này, đầy đủ nhãn hay không đầy đủ nhãn.

Sư đáp: Hoàng Long Hối Đường hỏi, Hoàng Long dù quẫn bách. Có một người đến. Đường hỏi: Ai sai ông đến? Người kia đáp: Đại Lâm Khí tú tài, hỏi: có sách không? Người kia đáp: Có. Lại hỏi: sách ở đâu? Người kia liền đưa ngược cánh tay kéo áo lên sách bày ra dâng lên Đường. Đường nói: Người làm ruộng đến đây học đạo mới được. Hoàng có nét sợ. Pháp Nhãn hỏi Thượng tọa Giác Hang đến hay Lăng đến? Giác nói: Hang đến. Nhãn nói: Hang từ chỗ nào đến? Trong đó có 100 cái, 99 cái trình lên căn cơ hiển bày. Đây ông ta ổn thỏa với người nào? Trong đó cùng với ông đánh nhau. Đây là đạo hạng ông ta ở chỗ nào? Đạo của Lão Sư Nghiên Châu giống như trong đất cát vất bỏ tám chân con cua lại có chỗ ổn đáng. Sau khi Giác thối lui Nhãn hỏi ngược lại vị Tăng bên cạnh. Đạo của vừa mới vị Tăng kia đến, đủ Nhãn hay không đủ Nhãn? Câu hỏi thật là sai lầm. Nếu đạo có Nhãn thì rất có kỳ lạ huyền diệu. Nếu nói không đủ Nhãn thì thấy chỗ rách. Thử dạy Thiên Đồng quyết định sẽ thấy. Nước không rửa nước, vàng không giành được vàng sắc long tối mà được ngựa. Không có một dây đàn mà ưa đàn, kết dây họa quái có chỗ chấp nhận, chết rồi mộc mạc trở lại tâm xưa. Sư nói: Nước không rửa được nước, vàng không giành được vàng, Phật không tìm được Phật, pháp không nói được pháp. Đây là bàn luận về con ngựa thần của ông ta. Lược về trời đất, hứng thú về đàn, mà quên đi dây phím đàn Hoài Nam Tử sai Bá Nhạc đến núi nhỏ tìm ngựa, ba tháng sau trở lại nói: Tìm ngựa được ở tại gò cát, ngựa đực màu vàng, khi đến thì ngựa cái mà màu đen. Công nói: Bá Nhạc ông tìm ngựa sắc lông đực, cái không biết thua bại. Bá Nhạc dừng hồi lâu rồi nói: Đến chỗ núi nhỏ này rồi thấy Thiên cơ, được tinh túy của nó mà quên đi cái thô sơ. Thấy bên trong mà quên bên ngoài quả là Thiên lý mã. Cùng với Đào Tiền Tử Uyên Minh không hiểu được cây đàn cầm súc. Tố cầm. Dây phím không đủ. Nói chỉ được thú vị trong cây đàn, đâu có mệt nhọc trên âm thanh dây đàn. Kinh dịch nói: Người xưa kết dây mà sửa. Thánh nhân đời sau dùng sách của Dịch để khế hợp. Lại nói: Xưa trời đất bao bọc súc vật, nhìn lên xem tượng trời, nhìn xuống quán phép đất. Suy xét văn của cầm thú cùng với nghi thức của đất. Gần thì lấy các thân, xa thì lấy các vật. Bấy giờ bắt đầu vẽ ra bát quái, đạo Vạn Tùng. Người xưa bắt đầu phân ra trời đất. Đã thành đối đãi rồi kết dây vẽ bát quái. Chuyển táng thành chơn chánh. Thích-ca chưa xuất thế, tổ Sư không từ Tây sang, trở lại có chơn đế tục đồ, thế pháp và Phật pháp ư! Thư Châu Hải Hội và từ cử Thiền Sư sau khi đắc pháp thường đến chỗ Lang Da Giác. Giác hỏi: Thượng tòa từ xa hay gần đến nay? Cử đáp: Triết Giang: Giác nói: Hang đến hay Lăng đến? Cử nói: Hang đến, Giác nói: Hang tại chỗ nào? Cử nói: Trong sông Giác hỏi: Không trải qua lộ trình? Một câu làm gì sinh đạo? Cử nói: Trưởng lão xã soạn như gai giống lúa nói xong bỏ đi. Đạo Vạn Tùng lời nói và việc kèm đều tốt. Đầu tiên ở Động Sơn Hòa Thượng hỏi Tăng. Từ đâu đến. Tăng nói: Nhữ Châu. Động Sơn nói: Mất hết bao nhiêu. Tăng nói: Bảy trăm. Động Sơn nói: Mang hết bao nhiêu đôi giày? Tăng nói: Ba đôi, động Sơn nói: Tiền ở đâu mà mua? Tăng đáp: Đánh nói. Sơn nói: Bỏ tham đường Tăng nên đồng ý. Đạo Vạn Tùng. Tay và mắt thông với thân mắt ông không phá. Vả lại nói con mắt của vị Tăng này ở đâu mà lông mày ở dưới?

TẮC THỨ 52: PHÁP THÂN TÀO SƠN

Dạy đại chúng rằng: Các bậc trí giả dùng ví dụ để hiểu rõ nếu đến đây so sánh, không được chỗ khó hay bằng thì làm sao nói đến người khác.

CÔNG ÁN: Tào Sơn hỏi Thượng Tọa Đức. Pháp thân chơn thật của Phật giống như hư không.

Như vật hiện hình như trăng trong nước. Làm gì sinh ra nói ứng hợp đạo lý? Đức nói: Như lừa thấy giếng. Sơn nói: Đạo tức là nắng to chỉ nơi được tám thành tựu. Đức nói: Hòa Thượng lại như thế nào? Sơn nói như giếng nhìn lừa.

Sư nói: Phủ Châu Nghi Hoàng Tào Sơn vốn là Thiền Sư Tịnh hoặc gọi là Đam Chương. Đúng là cho tên thêm hiệu. Đầu tiên lìa Động Sơn Vào Tào Khê lễ tháp. Tổ trở về Kiết Thủy ở Kiết Châu. Mọi người gọi là Hưởng Sơn. Bèn Thỉnh ngài khai pháp, Sư bắt chước Tào Khê. Phàm tùy theo chỗ lập Tào làm hiệu. Tông phái Động Sơn cho đến Sư rất thịnh hành. Cho nên cho danh xưng là Tào Động. Sơn hỏi Thượng Tòa Đức pháp thân chân thật của Phật giống như hư không (260) nên vật hiện hình như trăng trong nước. Làm sao sinh ra nói ứng hợp đạo lý? Bốn câu tán thán Phật vốn xuất phát từ kinh Cổ bản Kim Quang Minh. Đã như hư không sao ứng vật? Giác phạm thế là đạo của Đề Bà tôn giả. Ứng duyên mà hiện, không rơi vào suy nghĩ. Cho nên chén nước thả cái kim vào. Đức nói: Như lừa thấy giếng. Đây khởi tình thức tính toán không kịp chẳng phải trải qua đào luyện mà dính chóp mũi nạp Tăng. Không chấp nhận vị điền địa này. Nếu từ nhỏ làm không hướng đến quan hầu hử, thì luôn miệng chấp nhận ông ta. Sơn nói: Đạo tức là đạo nắng to, chỉ nói được tám thành tựu. Như cái cân gọi là đấu lượng để tương xứng. Đức nói:

Hòa Thượng lại như thế nào? Một cái này ép buộc lời tận lý, dám đưa ra một câu "lừa thấy giếng" không được. Đây ông ta thành khẩn đất chỉ cùng lỗi đảo ngược. Có thể cho một loại này mà được lớn. Cho nên đây gọi là nguồn gốc tông phái Tào Động. Thiên Đồng ưa thích hai chuyển ngữ này cho nên lập lại đưa ra bài tụng. Tụng rằng:

Lừa dòm giếng, giếng dòm lừa, Trí gồm khắp không gì ngoài Tràn đầy thanh tịnh có thừa Sau cùi chỏ phân ấn,

Trong nhà không chứa sách thơ Khung củi nào quản chuyện thoi đưa Màu sắc dọc ngang ý tự khác.

Sư nói: Bát Nhã vô tri, không có chỗ nào không biết cho nên tịnh bao hàm có dư. Năm đầu tiên Niên hiệu Vĩnh Xương Nguyên Đế đời nhà Tấn. Vua Đơn Điền Vũ Xương khởi binh sai lầm họ Đao cùng nhau khuyên vua, giết hết dòng họ vua, vua dẫn quân đến tại đợi trị tội. Tướng Châu Đầu vào Triều Đạo nói rằng: Bá nhơn dùng 100 cái miệng để chứa ông. đầu không nhìn lui bên vào thẳng trung thành của Đạo đích thân cầu cứu rồi dẫn đạo đến cửa lại nói không nên. Bèn nói: Năm nay giết giặc Nô Kim ấn như đấu lời buộc sau cánh tay tìm lại dâng biểu, sáng ra Đạo vô tội. Đạo không biết (261) rất hận. Đôn Binh đã đến bèn hỏi đạo Chu Đầu có thể được sống không? Đạo không trả lời

Đôn bèn giết Đầu. Sau đó Đạo ghi vào sách Thầy Đầu cứu biểu rồi. Lưu thế nói: Trong chốn u minh gánh vác bạn tốt này. Tòng lâm lại có bùa sau khuỷu tay. Sau Xuân Thu nói: Triệu Giản Tử bảo các đệ tử rằng: Bùa báu ở sau cánh tay của ta là trên Trường Sơn ai lấy trước được thưởng. Các đệ tử tìm đến trên núi tìm không được chỉ có. Nhương Tử mẫu Tuất trở lại nói:. Tuất đã được bùa rồi. Ông ta vào đều không thể phân. Giản Tử xin tâu lên vua. mẫu Tuất nói: Từ trên Thường Sơn cho đến xuống hạ lâm có thể lấy được. Giản Tử nói: Mẫu Tuất là bậc hiền tài lập làm Thái Tử. Vân Nham hiển bài đại chúng rằng: có một người con ở trong nhà hỏi đến không có đạo hay là không đạt tới. Động Sơn hỏi rằng: Trong nhà nó có bao nhiêu sách vở. Vân Nham nói: Một chữ cũng không có. Động Sơn nói: Biết được bao nhiêu? Vân Nham nói: Đêm ngày không biết ngủ. Động Sơn lại nói: Hỏi một việc cũng không được. Vân Nham nói: Đạo mà được tức không phải đạo. Sau khuỷu tay ai phân ấn. Ở trong sâu kín tự nó được đạo. Con người ông ta không thể phân. Trong nhà ông ta không chứa sách biết được bao nhiêu? Sinh ra mà biết trên, học mà biết dưới. Đây là lừa dòm giếng. Giếng dòm lừa trở lại chấp nhận phản cắt lãnh giám phân không. Trở lại chấp nhận học hỏi truyền bá vô. Lại Sơn nói: trong khi nghe sinh hiểu biết dưới ý Chu Thanh, dưới mắt tức đẹp. Không lâu uẩn thành bệnh núi xanh cùng với mây trắng cùng đến máy dệt không treo đầu con thoi. Đường viền màu sắc ngang dọc ý tự nó khác. Gia tướng một đường trí giả biết thông thạo. Thụy thảo vô căn hiền giả không quí. Thiên Đồng trước sau toàn dùng hiệp sơn kim cặp câu đối. Dùng lời nói rõ ràng mà không rơi vào tư duy. Đường viền và màu sắc tự nó đầy đủ vả lại đạo sao đủ tam muội? Lại được như đây, chỉ không có một cái chóp mũi đây mà các thuyền chìm sao?

TẮC THỨ 53. HOÀNG TỊCH ĐỒNG TAO

Dạy đại chúng: Đến máy không thấy Phật. Đại ngộ không còn Sư. Quyết định càn khôn kiếm chìm nhân tình. Bắt Hổ, Tê Giác mà quên đi thánh giải. Vả lại đạo lược người làm gì?

CÔNG ÁN: Hoàng Tịch khai thị mọi người rằng: Mọi người các ông là Đồng Tiểu Tào Hán cùng làm việc gì mà có ngày hôm nay? Trở lại biết trong nước Đại Đường không có Thiền Sư nào. Lúc đó có vị Tăng nói:

Chỉ như các nơi giúp đỡ và lãnh nạp đồ chúng.

Lại làm gì sinh.

Tịch nói: Không đạo không thiền chỉ là vô sư.

Sư nói: Lời nói đây chính là giản lược. Nếu đưa ra toàn bộ thì phải nói rằng một ở trên giảng đường nói mọi người các ông muốn tìm cái gì. Nhưng lấy gậy đuổi theo họ chúng cũng không tan rã. Sư bèn nói: Mọi người các ông là Đồng Tiểu Tào Hán lúc đời Đường ưa chửi mắng người. Đồng tửu Tào Hán Tề Hoàng Công đọc sách ở trên giảng đường luân Biến và lưu Luân ở dưới giảng đường giải thích rành rẽ về cái vồ. Thượng hỏi giám hỏi Ngài chỗ độc có lời gì? Công đáp: Kinh điển Thánh nhân nói tại Thánh nhân ông nói đã chết rồi. Nói như vậy chỗ đọc của ông là cặp bả của người xưa.

Công nói: Quả nhân đọc sách luân nhân đâu được nghĩa. Có người nói không nói thì chết. Biến nói: Thầy lấy việc thần mà xét. Thần kêu luân từ bỏ cam chịu mà không vững, bệnh thì khổ mà không nhập không trừ bỏ thì không bệnh. Được nó ở tay thì nên được nó ở tâm. Miệng không có thể nói có một số còn giữ lại ở giữa. Thần không thể dụ con của thần. Con cũng không thể nhận thần cho nên qua bảy mươi năm mà lão lưu luân người xưa và nó không thể truyền cho con đó là chỗ đọc của ông và cặn bả của người xưa vậy.

Lại nói: Làm gì ngược lại. Cười người khác?

Chỉ thấy một ngàn tám trăm người chỗ này bỏ đi. Không thể chỉ hình vẽ náo nhiệt. Lúc Sơn Tăng đi chân hoặc gặp góc cây dưới có cơ hán trên đầu có một cái lỗ nhìn ông ta. Nếu biết quan tâm có thể lấy đãy vãi đựng đầy cúng dường. Có thể gom chung các ông như đây không khác. Chỗ nào lại có việc ngày nay. Các ông đã gọi là đi chân cũng cần đến một số tinh thần tốt. Trở lại biết ở trong nước Đại Đường không có Thiền Sư nào Hoàng Tịch đến nay. Nham Đầu, La Sơn thì đi cách này Đạo Phật ngày nay phía bắc Khánh Thọ Đậu công đến chết cũng không có người hiểu ý. Thà tuyệt tự không con cháu của tổ Hương Sơn Tuấn hòa thượng Tịch cũng thực hành theo lệnh này. Người không biết gọi là điểm hang. Trong đó phải có một cái đưa ra không bực tức, để nhận đầu. Quả nhiên có một Tăng ra nói:

Tôn túc cái nói tụ tập chúng để khai hóa vì đạo không có Thiền sư.

Huệ Tịch nói: Không đạo không thiền chỉ là vô sự. Qui Sơn hỏi Ngưỡng Sơn rằng: Cái gì sinh? Ngưỡng nói: Nga vương chọn chỗ đẻ chỗ củ chẳng phải là loại vịt. Qui Sơn nói: Đây thật khó mà phân biệt. Ngũ Tổ răn dạy Tăng rằng tạ ơn Hòa Thượng nói được đạo lý tốt. Đạo Vạn Tùng, sinh nói lời nói của Đông lạnh môi nhạt lưỡi. Thạch Môn thông nói: Hoàng Tịch thương sót chỉ bày không làm trở ngại đến kỳ lạ. Mới bị nạp Tăng chịu ép buộc, mất đi một cặp mắt, đạo Vạn Tùng gọi hai con mắt của vị Tăng kia nương nơi Thiền Tông nói: Ngủ tổ ngăn con mắt chiếu soi tứ Hiên Hạ. Vạn Tùng đạo cũng chỉ là một đôi mắt. Phải thấy Hoàng Tịch do chưa có thể Đạo Vạn Tùng đúng như vậy. Nếu phải vịn đứng chánh pháp nhãn Tạng cần phải có tông Sư Hoàng Tịch. Vạn Tùng trên gấm lại thêm hoa.

QUYỂN 4

TẮC THỨ 54: ĐẠI BI CỦA VÂN MÔN

Dạy chúng: Tám mặt bóng lộn, mười phương thông xướng khắp nơi phóng quang động đất, tất cả thời thần thông diệu dụng. Hãy nói làm sao phát hiện?

CÔNG ÁN: Vân Nham hỏi Đạo Ngô: Bồ Tát Đại Bi dùng bao nhiêu tay bao nhiêu mắt?

Như người ban đêm sờ tìm gối. Ta hiểu rồi

Ông hiểu cái gì? Toàn thân là tay mắt

Nói tức là phơi mãi, nói tức được tám thành Sư huynh thế nào?

Toàn thân là tay mắt

Sư nói: Lý Tường hỏi Nga Hồ: Đại Bi dùng ngàn tay ngàn mắt làm gì?

-Nay Hòa Thượng dụng công thế nào?

Ngày xưa có Sơn nhân không có mắt xem bói, mưa qua bùn giữa đường mang giầy trắng vào chợ.

Có người hỏi:

Sơn Nhân mất sự sáng suốt, bùn sao không làm dơ giầy được?

Sơn Nhân đưa gậy lên nói: Trên đầu giày có mắt, cho Sơn nhân là chứng, nữa đêm sờ tìm gối, trên tay có mắt

Tô Tử nói với người điếc chỉ viết chữ mà thôi, lại cười nói: Ta và người ấy đều là dị nhân. Ta dùng tay làm miệng, người kia lấy mắt làm tai. Phật dạy sáu căn hổ dụng, tin không nghi ngờ

Cư sĩ Vô Tận, Trử Nham Lộ Châu, Đại Bi Diện Ký nêu Kinh Đại Bi, Kim Cang rất rõ ràng, thường thấy liền nói. Đại Bi thừa xưa là Diệu Thiện Công chúa, được luật Sư Đạo Tuyên nói: Ba mươi hai ứng thân, trăm ức hóa thân, cũng tùy theo mỗi người thấy không đồng, đều căn cứ vào lời này.

Thiên Giáo nói: Ngàn tay là biểu thị dẫn mê tiếp vật. Ngàn mắt, biểu thị sự quảng rộng phóng quang chiếu tối nếu không có chúng sinh, không có trần lao thì một ngón tay cũng không có, huống là ngàn vạn cánh tay, một nháy mắt không có huống là ngàn vạn mắt, khắp toàn thân cần gì phải không nhất định như có sâu cạn, thật không có tổn ích. Vân Cư dạy chúng rằng: Hai mươi năm trước lão Tăng ở Am Tam Phong. Hưng Hóa đến nói: Quyền Bá vừa hỏi là bóng cỏ thời thế nào? Lão Tăng bấy giờ căn trí đần độn nói không biết, vì y được cái vấn đề, đặc biệt không dám phụ ông ta.

Bấy giờ y nói: Am chủ tưởng đáp lời này không được chi bằng lễ bái rồi lui. Nay tư lương bảy giờ không tiêu, nói đâu hẳn. Vạn Tùng nói: Nếu dạy thì để đắc. Sau đó, có Hóa Chủ Hưng Hóa. Hóa hỏi: Hòa Thượng Trung Sơn khi ở am Tam Phong, lão Tăng từng hỏi, y đáp không được, mà nay nói được. Hóa Chủ nêu cho Hưng Hóa nghe. Hưng Hoá nói: Vân Cư hai mươi năm chữ nói được cái đâu hẳn. Hưng Hóa thì đâu vậy, đâu bằng nói đâu hẳn, (262)Vạn Tùng nói: Tranh sừng thỏ ngắn dài. Tam Thánh nói: Vân Cư hai mươi năm nói được so với Hưng Hóa lộ trình chỉ nữa tháng. Vạn Tùng nói: Tranh hoa đốm hư không đậm lạt.

Tăng hỏi Giác Phạm: Như các Lão Túc dạy có giống hay khác?

-Phật bảo nhận Tỳ kheo độn tụng "chổi quét" Ngày nọ, Tỳ kheo độn đại ngộ được đại biện tài. Do đó mới biết tâm của bậc tiên đức là vì chúng sinh. Thiên Đồng phần thượng là thế nào?

Tụng rằng:

Một hang thông suốt cả
Tám mặt bóng lộn
Không hình không xuân riêng vào nhất luật
Không giữ không ngại trăng qua trời không
Tay công đức, mắt báu thanh tịnh
Toàn thân đâu giống toàn thân
Hiện tiền tay mắt hiển toàn cơ
Đại dụng ngang dọc đâu kiêng kỵ

Sư nói: Thiên Đồng nói: Do một hang thông khắp liền được tám mặt bóng lộn, lại như hoa liễu đường ngày âm hòa tiếng gió, mùa xuân ở đâu, làm một đoạn hình gì. Nhưng có thể ứng vật thừa thời không bị ngại, như mặt trăng trên không mặc cho chuyển vận, biết toàn thân toàn thân, người dùng tay sờ tìm gối là người nào? Tượng gỗ trong nhà ắt có người kéo chỉ tơ. Lăng Nghiêm nói tám vạn bốn ngàn mắt báu thanh tịnh, tám vạn bốn ngàn cánh tay mổ tà la, tám vạn bốn ngàn đầu thước ca la. Hưng Hóa rơi xuống ngựa gãy tay làm bài tụng. "Bồ Tát Đại Bi có ngàn tay, bậc trượng phu ai mà không có". Hãy nói cái nào là tay mắt toàn thân.

Sư lấy tay phách mắt nói con mèo.

TẮC THỨ 55. CÁI BÁNH CỦA TUYẾT PHONG

Dạy chúng: Băng lạnh hơn nước, màu xanh phát xuất từ màu lam, thấy vượt hơn Sư mới chịu truyền trao. Con nuôi không bằng cha, gia môn một đời suy. Hãy nói: đoạt then chốt của cha là người nào?

CÔNG ÁN: Tuyết Phong ở nơi Đức Sơn làm bánh (không nổ lực) Một hôm làm bánh chậm, Đức Sơn bưng bát lên pháp đường Tuyết Phong nói:

Lão này chuông chưa đánh, trống chưa vang mà bưng bát đi đâu?

Đức Sơn liền bưng bát trở về phương trượng Tuyết Phong kể cho Nham Đầu nghe

Nham Đầu nói: Đức Sơn lớn như thế mà không hiểu được diệu chỉ rốt sau. Đức Sơn nghe vậy sai thị giả gọi Nham Đầu hỏi. Ông không chịu lão Tăng à. Nham đẩy bèn mở lời, Đức Sơn bèn thối. Đến ngày mai thăng đường quả thực không giống tầm thường.

Nham Đầu vỗ tay cười nói: Lại thích kẻ già hiểu được diệu chỉ rốt sau, những người trong thiên hạ sau này không làm gì được y.

Sư nói: Tuyết Phong cúi đầu trở về am, Đức Sơn bèn trở về phương trượng, tốt nhất tham vấn tường tận. Nham Đầu thầm mở ý. Ông hãy nói, nói cái gì? Đức Sơn bèn thôi, có thể nói gặp nhau không lấy ra. Đưa ra ý bèn biết có. Đến ngày Đức Sơn thượng đường quả nhiên không giống tầm thường cũng là lầm rồi. Nham Đầu đến trước Tăng đường vỗ tay cười lớn, lại thích kẻ già hiểu được diệu chỉ rốt sau, thiên hạ sau này không làm gì được y, rất kỵ.

Dù cho đem đến như thế cũng chỉ được ba năm. Quả nhiên Đức Sơn ba năm liền tịch. Thiên giáo làm bài tụng tiếng chuông trống trầm bưng bát trở về

Bạt tai Nham Đầu giống như sấm. Quả nhiên chỉ sống được ba năm Chẳng phải gặp ông ta thọ ký

Vạn Tùng nói: Biết ông bị xỏ, từng đồng giường ngũ Minh Chiêu thay Đức Sơn nói: Ôi! chết cho rồi! chết cho rồi!

Vạn Tùng nói: Từng nghe nói Độc Nhãn Long. Vốn chỉ là có một mắt, thật không biết Đức Sơn là con hổ không có răng. Nếu không phải là Nham Đầu bị phá đâu được ngày mai không giống hôm qua. Mọi người cần lãnh hội diệu chỉ rốt sau không? Chỉ cho lão Hồ biết mà không cho lão hồ lãnh hội, bày vẽ nửa kín nửa hở cũng không biết, Đại Duy Triết nói: Nham Đầu giống như chất đá ở núi cao, dù đi được trăm dặm loài thú cũng dấu chân. Nếu không phải Đức Sơn độ lượng sáng suốt đâu được hôm qua không đồng ngày nay. Vạn Tùng nói: Hổ không răng mà móng vuốt còn, Lỗ Tổ hễ thấy Tăng đến liền xây mặt vào vách.

Nam Tuyền nghe vậy nói: Ta thường đến nói với ông ta trước kiếp không đảm đương, thời Phật chưa ra đời lãnh hội lấy, còn không được một cái, nửa cái. Như thế đến năm lừa mới hiểu. Nếu biết được Nam Tuyền, bèn thấy Nham Đầu lại cùng nắm tay Thiên Đồng cùng đi. Tụng rằng:

Diệu chỉ rốt ráo cũng không
Cha con Đức Sơn thật hàm hồ
Trong tòa cũng có khách Giang Nam
Chỗ trước mặt người xướng ô thước
(chim)

Sư nói: "Diệu Chỉ rốt ráo" như thế, khó biết ngang cứng như Đức Sơn, thông minh như Nham Đầu. Đến nay phân tuyết không ra, không thấy nói, xuất thân còn thể dễ, thoát thể lại thật khó. Thơ của Trịnh Cốc nói: "Trăng hoa lâu đài gần, chín nẻo thanh ca một khúc, hủ vàng nghiêng, trong nhà cũng có khách Giang Nam, chớ hóng gió Xuân xướng ô thước.

Thiên Đồng dùng hai câu sau, không nhọc đưa ra ý lại sau khi nêu thì thế nào, Sư xuống tòa về phương trượng.

TẮC THỨ 56: CON THỎ TRẮNG CỦA MẬT SƯ

Dạy chúng: Thà trầm luân muôn kiếp chứ không cầu pháp giải thoát của Chư Thánh. Đề-bàđạt-đa thọ lạc tam thiền trong địa ngục Uất Đầu Lam Phật đọa làm thân chồn bay trên Hữu Đảnh Hãy nói: Lợi hại chỗ nào?

CÔNG ÁN: Sư Bá Mật và Động Sơn đi, thấy con thỏ trắng chạy qua trước mặt. Mật nói: Thật đẹp.

Động Sơn nói: Là thế nào?

Mật Bá nói: Như tướng bạch y lễ bái Lão già nói lời nói này.

Ông lại thế nào?

Trâm anh lâu đời, tạm thời nổi trôi.

Sư nêu: Thiền Sư Động Sơn và Tăng Mật núi Thần Sơn ở Đàm Châu qua sông.

Sơn hỏi: Việc qua nước thế nào?

Mật nói: Không ướt chân Lão già nói lời này

Ông lại thế nào? Chân không ướt

Trong giáo có hai môn Tánh Tu

Động Thượng tên Tu Công minh vị, phần lớn nhờ tu mà ngộ, từ phàm vào Thánh, bạch y thứ dân lễ bái hào tễ. Nếu trước ngộ đạo sau rồi mới tu, từ phàm vào Thánh, nhiều đời trâm anh xưa nay tôn quý tuy phiêu bạt vạn trạng, xương cốt vẫn còn. Cho nên nói: Người cùng khốn rõ đạo này trong kệ hiến châu hiển bày la liệt, các ông muốn thấy chỗ của hai lão túc không, xem lấy một Thiên Đồng lãnh hội qua.

Tụng:

Sức bằng sương tuyết,
Nhẹ bước núi mây
Hạ Huệ bỏ nước,
Tưởng Như qua cầu
Túc, Tào mưu lược nên nhà Hán
Sào, Hứa thân tâm muốn tránh
Nghiêu Vinh nhục bỏ rồi thêm tự tín
Chân tình theo dấu lão ngư tiều

Sư nói: Cỏ bồng tham mưu đổ, tùng bá chịu gió sương năm lạnh mới biết sức tùng bá. Đây là yếu chỉ tùy duyên bất biến. (263) là lời về trâm anh lưu lạc, có người sức mạnh kham chịu việc này.

Câu "nhẹ bước núi mây", một khi vượt thì thẳng đến đất Như Lai, đã là rất chậm, thật không biết trâm anh nhiều đời xưa nay phú quý. Luận nói Liễu Hạ Huệ là dẫn đầu các sĩ tốt. Tam Truất Nhân nói: "Ông chưa thể đi được"

Dù nói việc người đâu thường mà không phải Tam Truất, uổng nói mà nhân sự, đâu cần bỏ quê cha mẹ. Tư Mã Tương Như tự Thái Tử cha mẹ mất lúc ông ta mới lên chín tuổi phải đi chăn heo cho người, nghe Lạn Tương Như làm tướng khanh liền bỏ nghề làm thuê theo nghề học, chủ nhà đánh đập. Thầy hỏi nguyên do mới biết ông ta là bậc hiền và cho ở nơi am cỏ ngoài cửa, mười năm không có sách để đọc, ông ta bèn bỏ đi. Qua cầu Thăng Tiên, Đề Trụ nói: Nếu không đi xe ngựa thì không thể qua cầu này. Sau đó gặp được bài phú của Tử Hư. Tướng Quân Dương ông ta rất đắc ý, đêm ngày ở mãi trong điện tụng bài phú này. Vua nói: Trẫm hận mình sống không cùng thời với người này. Tướng Quân tâu: Thần thấy ở đất Thục. Vua sai đến vời ông ta cùng cưỡi xe ngựa, phong cho chức Thị Trung, Tiễu Hà Tào Tham thành nghiệp là Hán Cao Tổ. Cha của Sào Phủ tên Hứa Do vì tránh vua Nghiêu mà rửa tai. Lão Tử nói: Vinh cũng sợ, nhục cũng sợ, được cũng sợ, mất cũng sợ. Bốn cặp tám việc kể trên điều là một câu Lão Mật, một câu Động Sơn. Lành thay! Khuê Phong nêu thí dụ. Thí như kẻ hoàng tộc lưu lạc nơi chỗ tồi tàn học để thành tánh. Sau đó gặp tiến cử tuy là bổn vị, ba đầu mối sáu nghệ, cốt yếu phải đổi sức học tập thì dụng mới toàn vẹn.

Tuy Thiên Đồng Phần Thượng còn rơi vào giai cấp. Không thấy nói " Vinh nhục bỏ rồi thêm tự tin".

Chân tình theo dấu lão ngư tiều

TẮC THỨ 57: MỘT VẬT CỦA NGHIÊM DƯƠNG

Dạy chúng: Lắc bóng nhọc hình, không biết hình là gốc của bóng, cử tiếng thì dừng vang. Không biết tiếng là gốc của vang. Nếu không phải là cưỡi trâu tìm trâu, chính là cầm đinh mà đi tìm đinh, làm sao tránh khỏi lỗi này.

CÔNG ÁN: Tôn giả Nghiêm Dương hỏi Triệu Châu: Một vật khi không đem đến thời thế nào?

Triệu Châu nói buông đi.

- Một vật không đem đến thì buông cái gì?

- Như thế thì gánh lên đi.

Tôn giả Nghiêm Dương ở huyện Vũ Ninh Hồng Châu lúc đầu tham vấn với Triệu Châu hỏi: Một vật khi không đem đến thì thế nào? Điều này giống như Tăng hỏi Báo Từ: Tình sinh trí cách, tướng biến thể khác. Khi tình chưa sinh thì cách cái gì? Mạnh Bát La Hán rất giống

Triệu Châu nói: Buông xuống không được thì gánh lên đi. Ngay lời nói liền ngộ

Phật Quả Pháp ngữ nêu: Hoàng Long tụng rằng: Một vật không đem đến, hai vai gánh không nổi.

Ngay lời nói mới biết không, trong lòng thích vô hạn, độc ác đã mất tan, rắn hổ làm tri kỷ buồn trăm ngàn năm, gió mát như chưa đủ.

Chỗ Sư ở thường một con rắn, một con cọp.

Giống như người đắc quả.

Tôn giả gọi đó là Triệu Châu Cổ Phật cùng Tôn Giả.

Người không lường được Thánh phàm một lời phát ra một lời hỏi trong ngàn xưa cùng người làm gương sáng.

Thiên Đồng thấy Sư tăng ngày nay tâm thô càng nhiều cho nên đập cỏ sợ rắn. Tụng rằng:

Chẳng ngờ tố hạnh trước trao tay
Từ rõ lòng quê, thẹn gõ đầu
Phá thoát ngang lưng rìu cán mục
Rửa trong phàm cốt, với tiên chơi.

Sư nói: Lão Vương Giới Phủ cầm cờ ẩn nói:

Kia cũng không dám trước. Đây cũng không dám trước. Tuy cả hai không dám trước như thế thì không có đấu tranh, vì không có đấu tranh cho nên vào chỗ không sinh không tử. Cờ chính là cách đấu tranh trước tiên, được thì được cái tay trước, thua thì thua cái đầu.

Triệu Châu đối với ông chưa nói trước, trước phải thấy số.

Nghiêm Dương dù đi ngang đi dọc, đi khắp mấy nẻo mà không biết cái rìu mọc. Truyện Vương Thị Thần Tiên nói lại vào thời Phổ Long An có ông Vương Chất huyện Tín An, hái củi đến sườn núi Huyền Thất, thấy bốn đồng tử đánh cờ nơi Thạch Thất ông ta bèn cho táo. Ngậm nó thì không đói, con cờ rốt cuộc thành búa rìu mọc nơi lưng, áo quần bay theo gió, đến tối trở về nhà thì đã mấy mươi năm. Triệu Châu buông xuống gánh đi hai chuyển ngữ tách xương, rút tủy, đổi xương rửa ruột bèn nắm tay cùng đi với Triệu Châu bước nhẹ như hư không, có người nói thanh nhàn là gốc chơn đạo, tiểu thần tiên vô sự. Tuy chớ đem vô sự làm vô sự, thường thường việc từ vô sự phát sinh.

TẮC THỨ 58: CƯƠNG KINH KHINH TIỆN

Dạy chúng: Y kinh giải nghĩa ba đời Phật oan, lìa kinh một chữ thì đồng ma thuyết. Nhân đó không nhận, quả nhiên có người không vào liến thọ nghiệp báo không?

CÔNG ÁN: Kinh Kim Cang nói: Nếu là người bị khinh khi, người này đời trước tội nghiệp đáng đọa vào ác đạo. Mà đời nay bị người khinh khi cho nên tội nghiệp đời trước được tiêu diệt.

Sư nói: Thấy nghe là chủng tử, tám nạn siêu lên bậc thập địa, giải hạnh cũng nơi mình, quả một đời do tu nhiều kiếp. Khuê Phong nói Kinh này là chuyển tội thành Phật. Đây là Bồ Đề và phiền não vốn không hai. Thái Tử Lương Chiêu Minh bàn về kinh này là có phần Tịnh nghiệp chướng. Bài tụng của phó Đại Sĩ nói thân trước có báo chướng, ngày nay thọ kinh này, tạm bị người khinh khi tôi, chuyển nặng thành nhẹ. Đây chính là Y Kinh giải nghĩa

Bốn câu sau có nạp Tăng giận nói: Nếu liễu y tha khởi hay trừ biến kế chấp, thường y bát nhã quán, lo gì không Viên thành.

Bốn câu trước là lực của công đức. Bốn câu sau là lực quán hạnh Lục Tổ nói: Người trì kinh được tất cả mọi người cung kính cúng dường. Nhưng vì nhiều đời có nghiệp chướng nặng nên đời nay tuy trì kinh này nên thường bị người khinh khi, không được cúng dường, vì tự trì kinh không khởi tướng ngã nhân, chúng sinh thọ giả, oán thân không hỏi oán thân

Thường hành cung kính, có phạm không xét.

Thường tu Bát nhã ba la mật, trải qua nhiều kiếp tội nặng đều tiêu trừ.

Đứng về lý để nói: Đời trước do niệm trước vọng tâm, đời nay thì niệm sau tâm giác. Vì niệm sau tâm giác, khinh khi niệm trước vọng tâm, vọng thì không trụ cho nên nói tội nghiệp đời trước được tiêu diệt vọng niệm đã diệt thì tội nghiệp không thành tức là Bồ đề. Hai cách giải lý và sự này điều đứng về quán hạnh Tăng hỏi Vân Cư: Trong giáo có nói: Người này đời trước tội nghiệp đáng đọa ác đạo, đời nay bị người khinh khi cho nên tội chướng đời trước được tiêu diệt ý này thế nào? Vân Cư nói: Động thì đọa ác đạo, tĩnh thì bị người khinh khi.

Sùng Thọ Trù nói: Ngoài tâm có pháp, đáng đọa ác đạo giữ trụ chính mình, bị người khinh khi. Vạn Tùng nói: Hai lão này tập khí thế tục không trừ được. Hãy nói: Thiên Đồng phần thượng thì thế nào? Tụng rằng:

Mắc míu công tội
Dính liền nhân quả
Ngoài gương, điên chạy Diễn Nhã
Đa Đầu gậy đánh đánh tan ông bếp rớt (phá tạo đọa)
Bếp rớt tan đến chúc nhau
Lại nói trước đây cô phụ tớ.

Sư nói: Công (264) tức là trì kinh. Lỗi chính là nghiệp đời trước. Đã lập cái nhân vọng nhất định chiêu vời cái quả vọng. Kinh Lăng Nghiêm nói: Há không nghe trong thành Thất La Phiệt, Diễn Nhã Đạt Đa, bỗng vào buổi sáng sớm màng soi gương ưa thích mặt mày trong gương có thể thấy, rồi nổi giận trách mình đầu mình không thấy mặt mày rồi cho là ly mị, bèn ôm đầu chạy cuồng. Ý này thế nào? Người này nhân gì vô cớ cuồng chạy.

Phú Lâu Na thưa: Người này tâm cuồng, không có duyên cớ khác.

Đây là do mê chơn chấp vọng, Bát nhã quán chiếu chơn, công lỗi, nhân quả vọng, chơn trí hiện bày, vọng nghiệp tiêu diệt, vô thượng bồ đề sáng suốt vốn có. Đây là ý của chánh giáo. Nạp Tăng phần Thượng thế nào? Hoà thượng phá bếp ở Tung Sơn, sườn núi có miếu trong điện đặt một cái bếp nấu nướng sinh mạng cúng tế. Hòa thượng sai thị giả vào miếu lấy gậy gõ vào bếp ba cái rồi nói: Cái bếp này do bùn ngói mà hợp thành. Thánh từ đâu đến? Linh từ đâu sinh? Nấu nướng sinh mạng như thế, lại gõ ba cái, cái bếp vỡ nát. Quốc Sư An gọi đó là " phá táo đọa" lát sau, có một người mặc áo xanh, đội mũ cao, ra lễ bái nói: "Tôi vốn là thần bếp, trong miếu này, lâu nay thọ nghiệp báo, nay nhờ ơn Sư nói "pháp vô sinh" mới được thoát khỏi chỗ này, sinh về cõi trời, nên đến cảm tạ.

Sư nói: "Đây là căn tánh ngươi vốn có, chẳng phải do ta miễn cưỡng nói, giúp ngươi. Thần lạy một lần nữa rồi biến mất". Đất ngói hợp thành, Thánh từ đâu đến, không có tướng nhân ngã ấy là trí Bát nhã. Dùng chơn trí làm vọng nghiệp, xưa nay cô phụ, ngày nay chúc mừng, nấu vật cúng tế hoàn toàn không có phước lợi. Thiền lão gõ vào ba cái liền được sinh thiên. Ôi, quỷ sợ người ác khó xòe tay, giặc nhờ vật cướp dễ đảm đương.

TẮC THỨ 59. RẮN CHẾT CỦA THANH LÂM

Dạy chúng: Đi thì ở lại, ở lại thì đi, không đi không ở, ông ta lẽ nào không có quốc độ, nơi nào gặp ông ta ở khắp nơi. Hãy nói là vật gì được đặc biệt như thế.

CÔNG ÁN: Tăng hỏi Thanh Lâm: Lối tắt của học nhân là thế nào?

- Rắn chết nơi đường lớn, khuyên ông chớ đương đầu

- Khi đương đầu thời thế nào?

- Mạng căn ông mất

- Khi không đương đầu thì thế nào?-Cũng không có chỗ tránh-Chính lúc như thế thì thế nào?

- Thì mất.

- Chưa rõ đi nơi nào?

- Cỏ sâu không chỗ tìm

- Hòa Thượng cần phải đề phòng mới được.

Thanh Lâm vỗ tay nói: Giống như là khí độc.

Thiền Sư Sư Kiền đời thứ ba của Động Sơn ở Quân Châu lúc đầu theo Giáp Sơn đến tham vấn Ngộ Bổn.

Bổn hỏi: Sắp đi đâu? Thanh Lâm nói: Vũ Lăng Bổn nói: Pháp đạo Vũ Lăng đâu giống lúc này. Thanh Lâm nói: Xứ Hồ mùa Đông chẻ trúc

-Không có lò thổi cơm thương tích cúng dường người này.

Sư đi ra nói: Gã này về sau giết bao kẻ thiên hạ. Lâm trồng tùng nơi Động Sơn, có Lưu Ông theo Sư cầu bài tụng

Sư nói: Mũi nhọn hơn ba tấc, rậm rạp che cỏ hoang, không biết người đời nào, được thấy lão Tăng này.

Lưu Ông trình cho Ngộ Bổn, Bổn nói: Chúc ông vui vẻ người đời thứ ba của Động Sơn.

Thanh Lâm từ biệt Ngộ Bổn đến núi Tòa Phủ Thanh Sơn Nam ở am trải qua mười năm, bỗng nhớ lại lời của Ngộ Bổn dạy, bèn nói: Phải làm lợi quần sinh, đâu câu nệ nơi tiểu tiết ư? Rồi đến Tùy Châu được chúng thỉnh ở Độ Môn Tiểu Thanh Lâm Lan Nhã cho nên gọi Ngài là Thanh Lâm.

Thường nói: Các ông phải lìa tâm ý thức, ra khỏi con đường học của Phàm Thánh, mới có thể giữ gìn. Nếu không như thế chẳng phải là con của ta.

Tăng hỏi: Lối tắt của học nhân là thế nào?

Tăng này muốn đi Trung Độ dưới gác Đại Bi, lại khoe cái biết trực tiếp con đường trọng yếu. Thật không biết, một mặt lại quay về rất sớm. Thanh Lâm lấy con rắn chết để trên con đường lớn, Tăng nay không lâm nguy mà mất đường.

Việc đương đầu thế nào, đã dính độc rồi.

Có người nói sao không đánh hét bảo đi.

Thanh Lâm lại đâu từng phóng qua, nói mất mạng căn.

Tăng này hơi đau một chút, đợi tìm đường xuất thân nói việc không đương đầu thời thế nào?

Thanh Lâm nói: Cũng không có chỗ tránh, chỉ Thanh Lâm này tránh không được, gân sức của Tăng này tận đường. Chính lúc như thế trái phải không thể làm gì được, vì sao như thế.

Thanh Lâm nói: Lại mất đoạn tay người sống, ngay đây mới thấy có thể sai có thể gọi. Có bắt lấy có phần thả đưa bỏ trên thân ông mà lấy cũng không được, đưa cho ông lại có rơi xuống Tăng nói: Chưa rõ đi nơi nào?

Thanh Lâm nói: Cỏ sâu không chỗ tìm, không nói không, chỉ là không thể thấy. Tăng này kỳ lạ, nói Hòa Thượng đề phòng mới được. Thanh Lâm cầm một con rắn chết bỏ nơi vị Tăng này. Sau đó lại bỏ trên lưng cột nơi chân rồi vỗ tay một cái nói:

Giống như là khí độc.

Vạn Tùng nói: Xông trời nướng đất

Vô Tận Đăng nói: Cơ phong của Thanh Lâm rất bén không phải ánh sáng một thời, cũng làm tiêu chí nhiều đời

Vạn Tùng nói: Não loạn gió Xuân mãi không thôi, Thiên Đồng thổi bay hoa liễu. Tụng rằng:

(Ba lão đêm chèo ghe. Thuyền lẻ đêm quay đầu Tuyết hai bên bờ lau, khói sóng nơi sông Thu Sức gió đẩy thuyền không cần chèo

Tiếng sáo gọi sông dưới trăng thanh) Sư nói: Thiền Sư Đăng Hà Thuần tụng:

Trường Giang nước lặng in bóng hoa Trăng mát thanh quan chưa phải nhà Hỏi khách đưa sông đi lối nào

Đêm sâu lặng ngủ ở hoa lau

Hai lão đồng tụng dòng sông xanh chỉ còn chiếc thuyền lẽ Đan Hà dùng Tuyết Đậu để tụng Hòa thượng Huyền Sa rằng:

Vốn làm khách câu cá bên sông Chợt bỏ râu tóc khoác cà sa Không trụ giai vị của Phật Tổ Đêm đến vẫn ngủ ở hoa lau

Vạn Tùng nói: Điều đó không có, thơ xưa nay nói: Muốn đất Thục, Mè đất Ngô từ xưa nay, thuyền chở vạn hộc đi như gió, ba lão tuổi già vẫn hát ca.

Ngày sáng chia tiền nơi sóng lớn.

Việc này như người đi thuyền không dính hai bờ, không trụ giữa dòng. Đan Hà ban đêm ngũ hoa lau. Thiên Đồng tin gió thổi ngang. Hãy nói: Quay mái chèo xoay thuyền thời thế nào? Đêm sâu không ngủ nơi bờ lau, trong lúc quay ra cùng hai đầu

TẮC THỨ 60: CON TRÂU CÁI THIẾT MA

Dạy chúng: Lỗ mũi phập phồng đều đủ tướng trượng phu gót chân buộc thật, chịu học thiền lão bà, không thấu được thiền cơ, mới thấy đang làm phương pháp của bậc tài giỏi.

Hãy nói: Ai là người này

CÔNG ÁN: Lưu Thiết Ma đến Quy Sơn

Quy Sơn nói: Trâu tơ đến

Lưu Thiết Ma nói: Sắp tới đại hội trai ở Đài Sơn, Hòa thượng có đi không?

Sơn liền nằm dài người ra Thiết Ma đi ra

Sư nói: Quy Sơn tự xưng là con trâu tơ, cho Thiết Ma là con trâu cái, đâu thể gọi là tài giỏi gặp nhau. (265)

Thiết ma tuy là ni từ lâu tham vấn với Quy Sơn, đến am cỏ cách núi mười dặm, một ngày nọ tham cứu với Tử Hồ.

Hồ hỏi: Ngươi có phải là Lưu Thiết Ma không?

Thiết Ma nói: Không dám

- Chuyển trái chuyển phải

- Hòa Thượng chớ có điên đảo

- Hồ liền đánh

Xem Thiết Ma và Quy Sơn thả khỉ thả cả hai, nhận thì nhận cả hai Phật quả cho đó là câu cách thân, ý thông mà lời cách, muốn biết ý cú đều đạt thông không, lại xem Thiên Đồng thong dong làm tụng.

Tụng rằng:

Trăm chiến công thành lão thái bình
Hơn thua ai chịu nhọc đua tranh
Ngựa vàng roi ngọc ngồi nhàn suốt buổi
Gió trong trăng sáng một đời sang.

Sư nói: Tiểu Tăng nói nhiều về Phật, già sẽ không luận bàn binh lính, lúa trước núi chưa rõ xanh vàng, gạo Lô Lăng không biết giá cả, lại bàn Phật pháp ai từng nói mộng.

Truyện Đông Hán Trần Phiên nói: Phiên hay đứng trên cây nghe tiếng gió, chống cự luận bàn kẻ hôn tục, mà chạy theo chốn hiểm nguy, đấu tranh với kẻ nộm. Hai người gặp nhau không đứng trên cây nghe tiếng gió, không chạy theo chốn hiểm nguy, vui chơi bình dị, lão thành viên thục. Thiên Đồng thường ca ngợi đâu thể hết, được chỗ tự nhiên quên so lường, khi dùng toàn không phí công phu.

TẮC THỨ 61: CÀN PHONG VẼ MỘT ĐƯỜNG

Dạy chúng nói quanh co dễ lãnh hội, một tay phân phó nói thẳng khó lãnh hội, chữ thập đã khai, khuyên anh không cần lời rõ ràng, nói rõ ràng chuyển ra thì khó, không tin thử nêu xem

CÔNG ÁN: Tăng hỏi Càn Phong: Mười phương chư Phật một lối Niết bàn chưa rõ đường ở nơi nào?

Càn Phong lấy gậy vẽ một đường nói: Ở đây!

Tăng về hỏi Vân Môn, Môn nói: Cái quạt nhảy lên tới cõi trời ba mươi ba đụng nhằm lỗ mũi của Đế Thích, cá Lý ngự ở biển Đông đánh một gậy, mưa như trút nước, hiểu không, hiểu không?

Sư nói: Thiền Sư Triệu Châu Càn Phong, Tăng hỏi mười phương chư Phật một lối Niết-bàn, chưa rõ đường ở đâu. Câu hỏi này trích trong chương thứ năm Kinh Lăng Nghiêm. A Tỳ Đạt Ma này, mười phương chư Phật một lối Niết-bàn, chưa rõ đường cửa ở nơi nào. Nếu y Kinh giải nghĩa, Như Lai tự thuyết và trong quyển thứ sáu của Trương Bản Viên Thông, Văn Thù mới chọn Viên Thông. Nếu phần thượng nạp Tăng, Thiên Đồng từng nói mười phương không có vách đổ, xưa nay vốn không buộc ngăn, bốn mặt không có cửa, chỉ nơi đây lại là chỗ nhập cho nên Càn Phong vẽ một đường nói ở đây, người không biết thì thường gọi, làm Càn Phong chỉ lối cho nạp Tăng này, không như vậy thì nói với nạp Tăng này vẽ đứt, lại không dạo với ông ta, nhất định không phải là đạo lý này. Ông không thấy, Vân Môn chú giải được tám gạo chín đường.

Hoàng Long Nam nói: Càn Phong một khi chỉ lối quanh co là cơ sở Vân Môn thì thông suốt sự thay đổi này, cho nên làm cho người sau không mỏi mệt.

Vạn Tùng nói: Như lớp sóng Tào Khê, nhận chìm vô số người thường.

Vân Môn từ lâu ở với Sớ Sơn núi Tào Càn Phong. Tăng này cho là nhất định biết chỗ dụng của Càn Phong cho nên tìm hỏi. Nếu dùng kim chỉ của Càn Phong chính là cọc lừa. Bỗng nhiên dơ ra, Mục Châu thời Tần đục kéo, chỉ được cái chén rơi xuống đất, vở thành bảy mảnh, Tăng này không lãnh hội ý của Càn Phong. Vân Môn có riêng một lối sống khác, giống như châm dầu cứu lửa, quạt thêm để diệt nước.

Trúc Am sớm biết điểm phá Tụng rằng:

Càn Phong không cần chỉ bày
Vân Môn thôi đánh xương sống
Tự nhiên cá lý ngự biển Đông
Chạm phải lỗ mũi Đế Thích

Trúc Am so với Vân Môn, thay đổi từ bi, người càng khó hiểu, chi bằng Thiên Đồng mắt không phòng lạnh thì được chút đỉnh. Tụng rằng:

Vào tay phương thuốc để cứu đời
Hương hoàn hồn cứu nguy ngay
Một may toát mồ hôi khắp hết
Mới tin ai chẳng tiếc lông mày.

Sư nói: Càn Phong thầy chữa ngựa chết, chữa bệnh không lành Tăng này đã là người tán thân mất mạng, Vân Môn được hương hoàn hồn, làm cho người chết sống lại, hợp Di Huyền, Niên hiệu Diên Hòa đời Hán, nước Tây Hồ Nhục Chi sai sứ hiến hương bốn lạng, to như trứng chim sẻ, màu nó như dâu, đến đầu niên hiệu, kinh thành suy sụp người chết hơn một nửa vua lấy hương đốt số người chết, ba ngày sau sống lại, mùi hương trải qua ba tháng còn thơm, mùi hương bay ra tụ thành người, chim, núi, sông, cây như cây phong, hương bay mấy dặm, gọi là cây hoàn hồn, rìu ngọc chặt gốc này chảy ra. Một gọi là sợ tinh hồn, hai gọi là sống lại, ba gọi là chấn đàn, bốn là chết lại.

Thiên Đồng tiểu tham nói: Mười phần thu được hương hồn phản, giống như ném bùn vào trống độc, Vân Môn dây quấn thành một cục.

Thiên Đồng nói: Là hương hoàn hồn mọi người biến làm trống độc, dạy chuyển thân nôn khí không được cắt đứt cổ họng, bọt lỗ mũi, trăm thân máu chảy một tràng

Chí Công nói: Bỗng ngộ bản tánh vốn không giống như bệnh cảm được toát mồ hôi, tuy lông mày Vạn Tùng có mấy cọng.

TẮC THỨ 62: MỄ HỒ CÓ NGỘ KHÔNG.

Dạy chúng nói: Đệ nhất nghĩa đế của Đạt Ma, Lương Vũ Đế mê muội, Tịnh Danh thì pháp môn bất nhị, Văn Thù lắm miệng, có người nào vào để phân không?

CÔNG ÁN: Mễ Hồ sai Tăng hỏi Ngưỡng Sơn, người thời nay có giả ngộ không?

Ngưỡng Sơn nói: Ngộ thì có, đâu thể rơi vào đầu thứ hai. Tăng trở về kể lại cho Mễ Hồ, Hồ rất hài lòng điều ấy

Sư nói: Thiền Sư Mễ ở Bắc Kinh còn gọi là Sư Mễ Thất, hoặc Mễ Hồ. Lúc còn có bảy râu mép rất đẹp, nhân đó có hai tên Bát Phương Châu Ngọc. Ngài nối pháp với Tuyết Phong, nay theo Ngưỡng Sơn đồng tham vấn nối pháp nơi Quy Sơn.

Tăng này chánh hỏi bậc thượng hiện từ xưa đạt đến lý chơn chánh không?

Mễ Hồ nói: Đạt

Tăng: Chỉ như lý chơn chánh làm sao đạt? Đây thật không khác lúc giả ngộ.

Mễ Hồ: Bấy giờ Hoắc Quang bán cái giả cho Kim Thanh thì mới khế hợp ấy là người nào làm?

Phật quả gọi Hồ là đại thiện tri thức, gọi là danh không hư truyền.

Tăng nói: Tôi phải im lặng không nói.

Hồ: Bình địa dạy người giữ gìn, chỉ như Mễ Hồ nói đạt.

Ngưỡng Sơn nói: Ngộ thì đều không thể rơi vào đầu thứ hai được. Nếu không giả ngộ, lại nói chỉ người tự chịu mới gần gũi Hòa Thượng Thắng Mặc nói Đầu tử nêu việc xưa, bên trong không thi thố so sánh, thường nêu lời này nói, nhưng Ngưỡng Sơn nói như thế thì được, có tránh được tự mình rơi không?

Nếu tránh được lại có một người tránh được, phần lớn không chịu nổi, nếu chịu không được cũng rơi đầu thứ hai

Mễ Hồ tuy chịu ông ta, tự mình còn có lối thoát thân không?

Mọi người thử kiểm điểm xem. Nếu kiểm điểm được, thì hai người ngói vở băng tan. Nếu kiểm điểm không được thì chớ vội vàng.

Tụng rằng:

Đầu ngọn núi cao tìm hỏi người
Chi nơi núi hiểm chưa an thân
Tuy thoát được lệnh trùng dường
Đầu giống linh miêu không phạm Xuân

Vạn Tùng nói:

(266) Không được gió Xuân hoa không nở

Đến khi hoa nở lại thổi rơi

Trung Quốc Sư hỏi Tử Lân cúng dường Phật là nghĩa gì?

-Là nghĩa giác

Quốc Sư nói: Phật từng mê không? Tử Lân:

Không từng mê

Quốc Sư Dụng giác làm gì? Tử Lân không đáp

Đây cũng là ý vốn không có mê ngộ. Thường Thích Tuyết Đậu nói vốn không mê ngộ. Thường như Ma chỉ Thích Linh Vân là tác giả. Ngộ thì rơi vào đầu thứ hai, không ngộ lại chỉ người tự chịu, làm sao cho đúng. Thiên Đồng tự có phương tiện

Tụng rằng:

Đầu thứ hai: Nhân ngộ phá mê
Mau hãy buông tay bỏ lưới nôm
Công chưa xong hết thành trói buộc
Trăng già mặt tuyết sương Thu khóc
Chim hàn cây ngọc gió thê lương
Đem đến Ngưỡng Sơn phân chân giả
Tỳ vết tuyệt không, ngọc trăng trong.

Sư nói: Đầu thứ hai nhân ngộ phá mê, sáng đến tối đi, trí có ngu mất, đều là việc giữa đường.

Chu Dịch lược.

Lưới để bẫy thỏ, được thỏ thì quên lưới.

Nơm là để nơm cá, được cá thì quên nơm.

Như thế là lời nói là hình trạng của cái lưới hình trạng là cái nơm của tâm ý.

Nếu hướng đến đầu thứ hai nói thì ít có người ngộ, đạt thì một bề không được. Đâu thể nói, nếu có diệu ngộ cũng phải thổ lộ vội vàng xòe tay đến nhà lại không có một vật mới quên lưới quên nơm. Công phu trí thức đều thuộc về cái đầu thứ hai và tận công phu, trí không thể biết mới được một chút phần tương ưng.

Ngoại Thiên biền mẫu thứ tám của Trang Tử nối liền với chân, thịt liền vô dụng, chỉ là đối với tay, ngón tay vô dụng của cây.

Chú thích: Biền mẫu là ngón tay cái, ngón chân cái, liền đầu thứ hai. Chi chỉ là sáu ngón tay.

Công nếu không tận như ngón tay chú và ngón chân cái liền thịt mà vô dụng. Sách Xuân Thu nói:

Sở Văn Vương chinh phạt Thân Quá Đặng. Đặng Thị Hầu nói đó là cháu của ta, nếu đình chỉ thì được hưởng thụ. Ba đứa cháu Truy, Đam, Dưỡng yêu cầu giết con của Sở. Đặng Hầu không bằng lòng. Ba đứa cháu nói: Nước Đặng mất chính là do người này. Nếu không tính toán sớm thì sau này vua hối hận. Chú rằng: Hối hận nhưng không kịp.

Biết không đến nơi, trí không thể biết, thỏ già là tròn.

Hòa thượng Đan Hòa Thuần nói:
Nước lặng trăng tròn đạo nhân sầu
Khay lạnh thu rơi lệ
Huyến trước tức là không kham chịu

Đại Kinh Hoàng là trên gò Côn Lôn, có cây ngọc lan can kết trái như châu ngọc nhưng mà nhỏ. Bài minh trong huyền diệu nói cây linh xa xôi phương không nơi nương tựa, cùng với nhan không đình cơ, đều không bằng lòng giữ luyến trước.

"Chim hàn cây ngọc gió thê lương", không muốn xa xuống cành lá ngọc khác.

Thi Ức Thiên nói: Vết của châu ngọc còn có thể mài, bệnh bên trong của ngọc là tỳ là thể bị phá bệnh bên ngoài là vết, tức là màu dơ bẩn.

Tụng này là Ngưỡng Sơn quý ngọc không tỳ vết, không rơi vào đầu thứ hai. Thế nào là đầu thứ nhất? Sau khi đại ngộ mới biết không phải.

TẮC THỨ 63: TRIỆU CHÂU HỎI VỀ CÁI CHẾT.

Dạy chúng rằng: Tam Thánh Tuyết Phong lan mùa Xuân, cúc mùa Thu. Triệu Châu, Đầu Tử, Biện Bích, Yên Kim không lên cân mà hai đầu bằng, không qua sông một chỗ, hai người gặp nhau thì thế nào?

CÔNG ÁN: Triệu Châu hỏi Đầu Tử: Người chết rồi sống lại thì thế nào?

Đầu Tử đáp: Không cho đi đêm trời sáng phải đến.

Sư nói: Thiền Sư Đầu Tử Sơn Đại Đồng ở Thư Châu lúc đầu tham yết Thiền Sư Thúy Vi vô học. Đầu Tử mới đến gặp Thúy Vi kinh hành trên giảng đường, Đầu Tử tiến về phía trước lễ bái hỏi: Tây lai mật ý Sư làm sao dạy người?

Thúy Vi bước đi rồi quay nhìn Đầu Tử.

Đầu Tử nói: Xin Thầy chỉ dạy

Thúy Vi: Không cần thìa thứ hai, dòng nước nào dơ?

Đầu Tử: Bỗng đại ngộ lễ bái lui ra

Thúy Vi nói: Ông không đọa vậy Đầu Tử: Thời đến gốc ma tự sinh

Ngày khác Tử gặp Vi liền hỏi: Thế nào là Phật lý?

Thúy Vi: Phật thì không lý.

Đầu Tử: Có rơi vào không không?

Thúy Vi: Chân không không không Nhân đó dạy tụng rằng:

Lý Phật đầu từng lý

Chân không lại không không

Đại đồng ở vắng lặng

Phô diễn Tông Thầy ta

Tử trở về quê cũ núi Đầu Tử Đồng Thành Triệu Châu mới gặp nhau ở Đồng Thành

Triệu Châu nói: Ông có phải là Am Chư Đầu Tử không?

Đầu Tử: Trà Lâm Tiền cho tôi một bài văn

Triệu Châu lên núi trước, Đầu Tử mang bình dầu theo sau.

Triệu Châu nói: Quê Đầu Tử, đến đây chỉ thấy ông bán dầu

Đầu Tử: Sư chỉ thấy ông bán dầu, lại không biết Đầu Tử.

Triệu Châu: Đầu Tử là gì?

Đầu Tử đưa bình dầu lên nói: Dầu, Đầu Tử để bình dầu nơi chiếu trà ngồi đợi Triệu Châu rồi tự đưa bánh mè cho Triệu Châu, Triệu Châu không đoái hoài.

Đầu Tử bảo Thị Giả đưa bánh cho Triệu Châu.

Châu đảnh lễ Thị giả ba lễ.

Hãy nói ý Triệu Châu thế nào?

Thiền Sư Vĩnh Quang Chơn ở Tô Châu thượng đường nói: Lời nói nếu sai thì cách quê vạn dặm, cần phải xòe tay tự chịu gánh vác. Sau khi chết giấc rồi sống lại không được. Triệu Châu đem ý này hỏi nếu không phải Đầu Tử hoàn toàn khó xứng.

Ông ta liền nói: Không cho đi đêm, đến sáng phải đến.

Đây là bình thường không thoát da, cần gậy liễu trắng ngôn ý tự đồng, lý tương ưng với vấn đề mà Triệu Châu hỏi.

Triệu Châu nói: Ta là hầu trắng y là đen.

Do tiếng nói của Đầu Tử mà chúng nhóm tập, phụng thỉnh nên tán dương, gọi là ở viện Tịch Trụ Bạch vân Đoan tụng:

Chết rồi sống lại răng còn lộ Sáng phải đến trước đã đi Nhà ai chớ ở nơi ao lạnh

Một đôi Uyên ương vẽ không thành.

Thử xem Thiên Đồng xử toẹt Đan Hà tụng rằng: Giới thành kiếp thạch diệu tột cùng Trong vòng mắt sống chiếu mênh mông Không được đi đêm sáng đến chỗ Tiếng nhà chưa chịu giao hồng ngư.

Sư nói: Trí Độ Luận nói: "Bốn phương của thành một trăm do tuần hạt cải đầy trong đó cả trăm năm mới lấy một hạt, hạt cải hết mà kiếp chưa hết". Kiếp thạch: Phạn ngữ là kiếp ba, Trung Hoa dịch là thời phần. Kinh Lâu Thán nói: Có một cục đá lớn vuông bốn mươi dặm, cả trăm năm Chư Thiên đến để phơi áo. Đá mòn hết mà kiếp chưa hết, cùng tận kiếp thạch thanh giới này. Đây là chính là tận thời này. Lại đến trước kiếp không, sau đó mắt sống lại.

Trong vòng Trang Tử nói: Then chốt mới được trong vòng ấy đề ứng với vô tận. Đây là nó tuần hoàn vô cùng được trong vòng ấy, chỗ rỗng không trong tuần hoàn là thể, tuần hoàn vô cùng là dụng.

Thi Truyện nói: Đại là hồng, tiểu là ứng.

Tây Hán sử nói Đan Vi rằng: Thiên Tử ở trên rừng bắn được chim ưng, chân của chim ưng có phồn thư của Tô Thức, do đó Đan Vụ không dám khinh.

Hán Thái Bá vui với các cô gái tên là Đàm Tử Văn Hy làm thế với Đồng Tử, sắp đặt việc cho công Biên. Đổng Bá có lần đi tuần nên bị người bắt sống. Đàm là thứ phi của vua, một hôm vì nhớ quê hương nên viết thư bỏ trong sáp ong đeo nơi cổ chim nhạn. Chim nhạn bay đến đất Hán, lúc chim sà xuống uống nước nên thư bị rớt xuống biển. Cá nuốt chửng lá thư. Người đánh cá bất ngờ mổ cá ra liền được lá thơ mới biết được chỗ ở của Đàm. Bài tụng này "không cho đi đêm sáng phải đến", không biết ngoài xa giả thông tin tức. Tuy nhiên Thượng Lý Thiên Đồng vừa đến thì giả cảm tạ sự hối hận truyền pháp.

TẮC THỨ 64: TỬ CHIÊU NỐI PHÁP

(267) Dạy chúng: Thiệu Dương đích thân tham kiến Mục Châu, niêm hương với lão Tuyết. Đầu Tử gánh vác nơi Viên Giám nối pháp nơi Đại Dương. Trên cành san hô hoa ngọc rộ, trong rừng lau quả vàng chín mùi. Hãy nói thế nào là tạo hóa?

CÔNG ÁN: Thủ Tòa Tử Chiêu hỏi Pháp Nhãn:

Hòa Thượng khai đường nối pháp với người nào? Pháp Nhãn nói: Địa Tạng

Tử Chiêu nói: Thật cô phụ Tiên Sư Trường Khánh

Pháp Nhãn: Con không lãnh hội một chuyển ngữ của Trường Khánh.

Tử Chiêu: Sao không hỏi?

Pháp Nhãn: Trong vạn tượng chỉ lộ bày thân ý là thế nào? Tử Chiêu đưa phất trên lên.

Pháp Nhãn nói: Đây là chỗ học của Trường Khánh, về phần Thủ Tòa thì thế nào?

Tử Chiêu không nói.

Pháp Nhãn: Chỉ như trong Vạn Tượng chỉ lộ bày thân, là trừ sạch Vạn Tượng hay không trừ sạch vạn tượng?

Tử Chiêu: Không trừ

Pháp Nhãn: Hai người tham vấn tùy theo phải trái đều nói bỏ vạn tượng.

Pháp Nhãn: Trong Vạn Tượng chỉ lộ bày thân.

Nhãn Sư nói: Pháp Nhãn từ lâu đã tham vấn với Trường Khánh Lăng, đã nối pháp với Địa Tạng. Trường Khánh với Thủ Tòa Chiêu ngày trước bàn luận cổ kim với Sư, trong lòng tức giận Sư liền dẫn chúng đến phủ Châu trách hỏi. Sư biết vậy bảo cả chúng ra đón tiếp làm lễ, giữ địa vị khách chủ, mỗi người cầm phất trần và một cành trà. Chiêu bỗng biến sắc cất tiếng nói:

Trưởng lão khai đường nối pháp người nào?

Sư: Nối pháp với ngài Địa Tạng.

Tử Chiêu: Đâu cô phụ tiên Sư Trường Khánh, tôi ở trong hội hơn mười mấy năm bàn luận cổ kim, từng không gián cách, vì sao lại nói pháp nơi Địa Tạng. Việc này không phải do ở nhiều năm cũng không phải do học lâu. Như một đêm biết rỗi nhàn, há có thể người ngoài suy lường được. Thủ Tọa Chiêu giữ gìn môn phong, nghị luận không thông, ngang ngược cơ hiềm. Pháp Nhẫn lúc ấy rất thương xót cho bọn này. Người không biết phương hướng mà làm ra mười quy tắc để luận bàn điều đó, học giả không ai mà không xem. Lại nhân tình và đạo lực, hơn kém không dính líu nhau, cho nên đem việc bổn phận mà trả lời cho ông ta. Ta không lãnh hội chuyển nhân duyên cho nên nhà đại phương của ông ta không biện không tranh, lại đem việc trong hội Trường Khánh năm ấy từng luận bàn thuần thục. Tử Chiêu vào ngày trước đối đãi với ông ta mới bị bức bách liền lúng ta lúng túng. Tham vấn tùy theo đó mà cứu vội, chuyển thấy không kham có thể gọi là trận bại không nhịn được cái chổi hoa lau. Tử Chiêu cùng mọi người buồn bã thối lui.

Pháp Nhãn mới lược nói rằng: Thủ Tọa giết cha giết mẹ, còn hối hận, phỉ báng Bát Nhã thật khó sám hối Tử Chiêu hoàn toàn không đáp. Từ đây lại tham với Pháp Nhãn phát minh đã thấy điều đó, lại không khai đường. Người xưa ác đến thiện ứng, sân đến từ ứng. Sau này lấy Phật tuệ bình đẳng mà khai phát điều đó. Thủ Tọa Chiêu lại nối pháp với Pháp Nhẫn giống như không đủ để đáp đức sâu dày rửa tâm ban đầu. Thiên Đồng chỉ gièm chỗ hỏi của Chiêu Công và một câu sau cùng của Pháp Nhãn, tụng là tự nhiên đầu ngay đuôi thẳng.

Tụng rằng:

(Lìa niệm thấy Phật Dẹp trần xuất Kinh. Hiện thành gia pháp.

Nào lập môn đình? Trăng cùng thuyền lướt sông trong vắng Xuân theo ngọn cỏ ngấn tươi xanh, bỏ không bỏ. Nghe cho kỹ! Ba đường hoang trống về liền được, Tùng cúc thuở xưa vẫn thơm hương.

Sư nói: Tựa Viên Giác nói: Tâm vốn là Phật do niệm khởi mà phiêu trầm bờ thật không dời, nhân thuyền đi mà có chuyển. Kinh Hoa Nghiêm nói: "Có một quyển Kinh lớn chứa được tam thiên giới ở trong một vi trần, tất cả trần cũng như vậy, có một người mắt sáng phá trần ra khỏi Kinh, lanh hơn tất cả người. Thiên Đồng dẫn hai bổn Đại Kinh hợp thành một câu đối tụng: Trừ vạn tượng lại vạn tượng là vạn tượng cái gì? Lộ bày là lộ bày cái gì?. Đây hiện thành công án, nhà pháp thường còn thì ai lập môn đình, mở cửa. Hoa Nghiêm Tông nói ba thuyền dạo trăng, trăng theo thuyền, đi được một đường sông lặng ngàn dặm lẽ loi. Thơ của Huệ Tông nói phần sông không có thế đứt đoạn, Xuân vào bị thêu xanh. Thơ của Tạ Huyền Huy nói: Mây tàn thành lụa, sông lặng tịnh như tờ, trăng theo ba thuyền, Xuân theo trăm cỏ, ba thuyền, trăm cỏ là vạn tượng. Trăng và Xuân là lộ bày.

Bài tụng của Thiên Đồng: "Thấy bỏ và không bỏ, phơi nắng tâm thô. Ở đây chỉ nên dặn dò cẩn thận, không thấy Thượng tọa Tử Phương cũng từ Trường Khánh đến. Nhãn cũng hỏi lời trước, Phương cũng đưa phất trần lên.

Pháp Nhãn nói: Như thế thì đâu được.

Tử Phương: Tôn ý của Hòa Thượng như thế nào?

Pháp Nhãn: Gọi thế nào là vạn tượng?

Tử Phương: Người xưa không bỏ vạn tượng

Pháp Nhãn: Trong vạn tượng chỉ lộ thân, nói gì là bỏ và không bỏ Phương bỗng ngộ.

Pháp Nhãn: Trước sau là nói trong vạn tượng lộ bày thân

Đây là nói sau cùng, lại nói trong vạn tượng chỉ lộ thân nói gì là bỏ hay không bỏ, có thể nói muốn đi liền về, về liền được, tính xem ruộng đất khổ không nhiều.

Chiêu công, Phương Công trọn mất Tông vi diệu là lỗi trí ngu lưu chuyển. Bài quy khứ lai từ của Đào Uyên Minh ba lối tắt đã hoang vu, nhưng tùng cúc vẫn còn.

Trương Hủ Tử Nguyên Khanh nói mở ba lối chỉ có Dương Trọng Cầu Trọng theo giao du. Bài tụng này Pháp Nhãn thừa nói là hội Tông khai phát chỗ vi diệu của hai sư, không mất ý chỉ của Trường Khánh.

Thế nào là yếu chỉ của Trường Khánh, trong vạn tượng chỉ lộ thân?

TẮC THỨ 65. VỢ MỚI CƯỚI CƯỠI LỪA A GIA DẮT MŨI

Dạy chúng nói: Tra tra sa sa, bác lạc bác lạc, đao đao đạp đạp, mạn mạn hãn hãn, không có cắn nhai, khó mà gần kề. Hãy nói là lời gì?

CÔNG ÁN: Tăng hỏi Thư Sơn thế nào là Phật? Thủ Sơn: Vợ mới cưới cưỡi lừa dắt mũi.

Sư nói: Thiền Sư Niệm Tỉnh Ưng Châu, Nhũ

Bảo người Thái Châu họ Dịch tham thiền với Phong Huyệt

Phong Huyệt dạy chúng nói: Ngày xưa, Thế Tôn đưa cặp mắt hoa sen xanh nhìn Ca-diếp, chính lúc như thế. Hãy nói: Là nói cái gì? Thư Sơn liền đi xuống tòa.

Thị giả vào thất thỉnh nói: Niệm Pháp Hoa là thế nào? Không chỉ đối với Hòa Thượng?

Phong Huyệt: Niệm Pháp Hoa là lãnh hội.

Ngày sau, Sơn cùng với Chơn Nguyên Đầu lên đứng hầu Phong Huyệt nói: Thế nào là lời Thế Tôn không nói?

Chơn Nguyên Đầu: Tu hú kêu trên cây, ý ở trong vườn mè Phong Huyệt: Ông nhiều si phước là thế nào?, Sao không biết nghiên cứu ngôn cú? Nhưng hỏi Sơn ông làm sao?

Thư Sơn: Động chứa lối xưa, không rơi vào cơ yên lặng

Phong Huyệt bảo Chơn Nguyên Đầu: Sao ông không xem những lời trong kinh Pháp Hoa?

Sau đó Thư Sơn ra giáo hóa, thượng đường nói: Muốn được thân thiết phải đem hỏi, hỏi nơi chỗ đáp, đáp nơi chỗ ở. Nếu đem hỏi, lão Tăng nơi chân ông. Ông nếu luận bàn thì không dính líu. Một hôm, đưa cái lược tre lên nói.

Nếu ông gọi cái lược tre thì xúc chạm, nếu không gọi lược tre tức lưng?

Các ông gọi là cái gì? Hòa Thượng Diệp Huyện Tỉnh đánh được tách hai mảnh ném xuống thềm, nói là gì?

Thư Sơn: Dối Huyền bèn lễ bái, mọi người gọi là cái cửa xúc chạm lưng. Ngạn ngữ thế tục có nói: Điên đảo điên vợ mới cưới cưỡi lừa A gia dắt mũi.

Bài tụng của Phật Quốc nói: Thư Sơn có nói xưa nay truyền lời này có nói phản điên đảo, vợ mới cưới xấu cưỡi ngựa. (268) Người bấy giờ cười giết A gia dắt mũi. Không bằng Thiên Đồng tụng được đáng khen.

Tụng rằng:

(Vợ mới cưới cưỡi ngựa, A gia dắt mũi Thể đoạn phong lưu được tự nhiên Đáng cười học người nữ cạnh làng Đến người không sai không thành dối).

Sư nêu: Bài tụng của Viên Thông Tú Thiết Bích nói: Một ngày ba lần chải, Hư được bình yên thì liền thôi.

Đại để hơn xương thịt ông ta thì tốt, Không bôi phấn hồng cũng phong lưu.

Thư Sơn đáp lời cũng không cần tô điểm, tự nhiên bà vợ mất đẹp, như Tây Thi buồn khóc cau mày, càng thấy đẹp. Còn người nữ xấu học theo cau mày càng thấy xấu hơn. Đây là trách lối học bên ngoài, không chú trọng sự diệu ngộ, nhất tâm cũng đợi làm phong lưu, bốn dòng tám phái không chịu.

TẮC THỨ 66: CỬU PHONG ĐẦU VĨ

Dạy chúng: Thần thông diệu dụng, thả chân không xuống, quyên duyên tuyệt lự, nâng chân không lên, có thể gọi là có khi đi giết, có lúc ngồi giết, làm sao được giống nhau

CÔNG ÁN: Tăng hỏi Cửu Phong: Thế nào là đầu?

Cửu Phong: Mở mắt bất giác sáng.

Tăng: Thế nào là đuôi?

- Không ngồi giường vạn năm.

- Tăng: Có đầu không đuôi thời thế nào?

- Cửu Phong: Đầu là không quý

- Tăng: Có đuôi không đầu thời thế nào

- Cửu Phong tuy no mà không có sức-Tăng: Được đầu lẫn đuôi gọi thế nào?

- Phong: Con cháu đắc lực trong nhà bất hòa

Sư nói: Thiền Sư Cửu Phong Đạo Thiền ở Quân Châu, người Quan Hoài Phúc Châu họ Lưu. Tuy học Kinh với Pháp Tịch mà được ấn khả nơi Thạch Sương. Lúc đầu ở Cửu Phong, Tăng đồ rất khâm phục. Sau đó ở Lặc Đàm Hồng Châu rồi tịch ở đó, vua bán thụy là Đại Giác. Ngày nọ Tăng hỏi: Thế nào là đầu? Nếu là đạo nhân thì không thông minh, trí sai biệt không có. Luận về đầu đuôi trước sau tâm sợ không biết rơi xuống.

Phong nói: Mở mắt rõ bất giác sáng. Từng có Tăng hỏi: Người người đều nói thỉnh hỏi, chưa rõ Thầy lấy pháp gì để cứu vớt?

Phong nói: Ông nói núi cao có từng thiếu tấc đất nào không? Tăng: Như thế thì bốn biển đều tham tiền là việc gì?

Phong: Giảng nếu đầu mê tâm tự cuồng. Tăng:

Có người nào cuồng không?

Phong: Có

Tăng: Thế nào là người không cuồng? Phong chợt rõ giữa đường mắt không mở.

Cái này lại lạ không mở, bất giác rõ được gương mẫu Tăng: Thế nào là đầu?

Phong: Vạn năm không ngồi giường

Lại có Tăng hỏi: Thế nào là trước Phật Nhiên Đăng?

Phong: Nhọc nhằn không đắc lực

Tăng: Thế nào là ngay lúc Phật Nhiên Đăng?

Phong: Đầu to đuôi nhỏ

Tăng: Thế nào là sau Nhiên Đăng?

Phong: Thoái vị không biết nhàn.

Đây là gương mẫu vạn năm không ngồi giường?

Tăng: Có đầu không đuôi thời thế nào? Phong: Đều không quý mở mắt bất giác rõ Tăng: Có đuôi không đầu thời thế nào?

Phong: Tay no mà không có sức, thoái vị biết là nhàn

Tăng: Đầu đuôi tương xứng thời thế nào?

Phong: Con cháu đắc lực, no mà có sức, trong nhà không biết mà tôn quý.

Tông Kính Lục nói: Trong Tông của ta trước phải biết có sau đó phải giữ gìn. Lại nói: Đầu đuôi phải tương xứng không thể thiếu lý hạnh, tâm khẩu trái nhau, nếu vào Tông kính lý hạnh đều viên mãn. Thạch Sương Cửu Phong dạy chúng: Sơ Cơ chưa gánh vác việc lớn, trước phải biết giữ lấy đầu thì đuôi tự đến.

Sớ Sơn ra chúng hỏi: Thế nào là đầu? Sương: cần biết có.

Sớ Sơn: Thế nào là đuôi? Sương: bỏ hết thời nay.

Sớ Sơn: Có đầu không đuôi thời thế nào? Sương: Hôm nhã được hoàn kim kham thế nào? Sớ sơn: Có đuôi không đầu thời thế nào?

Sương: Như còn chỗ nương tựa.

Sớ sơn: Đầu đuôi đuôi tương xứng thời thế nào?

Sương: Lẽ nào không hội giải cũng chưa rõ thế nào?

Cho nên Cửu Phong nói: Chư Thượng Tọa, người xưa nói cái đầu cũng chỉ làm cho ông biết là có, nói đuôi cũng dạy cho ông bỏ hết thời nay, có việc phần nhiều không tương xứng, cho nên dạy ông đến đây phải gộp bỏ hết, làm cho ông tương ưng và thành tựu nếu là thể của đương nhân thì chân thật hằng còn, không thể nói lời như thế. Tuy vậy cần phải có người mới được. Lại chớ có khác miệng cùng lời cần phải nỗ lực, trân trọng. Vạn Tùng đem công án của Cửu Phong chứng minh công án của Cửu Phong chú là chú rõ nói là nói phá. Còn ý vị có khác giao phó cho Thiên Đồng.

Tụng rằng:

Quy thì tròn củ thì vuông
Dụng thì làm, bỏ thì cất.
Vụng chậm loài chim nương ổ,
Quanh quẩn thứ dê đụng rào.
Ăn cơm nhà người, nằm giường của mình
Kéo đổ mưa, móc kết thành sương,
Chỉ ngọc qua lỗ kim vừa hợp,
Tơ dài không đứt ruột thoi ra
Gái đá máy ngừng chừ màu đêm sắp Ngọ
Người gỗ chuyển đường, bóng trăng giữa đêm.

Sư nói: Ngang dọc vi diệu, người tả hữu gặp nguồn

Điều Trang Tử cho rằng: Tròn là phạm vi ở giữa, vuông là quy Khổng Tử bảo Nhan Uyên:

Dụng là hạnh dấu là cất, chỉ có ta và ông là Trượng Phu. Nếu không như vậy thì cái phím đều được dây đàn, khắc thuyền ghi nhớ kiếm. Bảo Tạng Luân nói: Phàm do tiến thối, giữa có vạn đường cá nhọc lội bơi, trở ngại cho chim bay. Hai loài này không biết biển lớn, không biết Tòng Lâm, người đến lối nhỏ. Nghĩa ấy không như vậy. Quê Đại Tráng của Chu Dịch, trên sáu con dê chạm bờ rào không thể thối, không thể tiến, không lợi nạn thì tốt.

Nhà người ăn cơm, mình nằm giường, như nói quan ăn cơm buông cả ngựa tư. Lại nói: Biết làm cho miệng lanh người ăn thức ăn chín, khó được ra thì mây làm mưa, vào thì mãi mãi băng sương đọng. Đây chính là chợt ra chợt vào, chưa phải là tác gia, cần được kim chỉ thông nhau, mảy lông miên mật, tơ máy không treo, thêu dệt ngang dọc, chính là lúc người nữ đá ngưng tay, người gỗ chuyển từ sớm, chính là lúc đêm vào giờ ngọ, bóng trăng giữa đêm. Hai câu sau này chỉ là một câu, các văn sĩ nho học thời nay cho là đối cách câu. Vạn Tùng như thế là cứng hợp dị, muốn gặp Thiên Đồng mọi người không được cô phụ Cửu Phong.

Vạn Tùng Lão Nhân Bình Xướng Thiên Đồng Giác Hòa Thượng Tụng Cổ, Tùng Dung Am Lục

Quyển 3 (Hết)

QUYỂN 5

TẮC THỨ 67: TRÍ TUỆ THEO KINH HOA NGHIÊM

Dạy chúng rằng: Một hạt bụi bao hàm vạn tượng, một niệm đầy cả tam thiên, huống là địa vị đảnh thiên. Bậc trượng phu nói đầu hở đuôi. Kẻ lanh lợi không cô phụ tâm linh của mình vậy có mai một của báu trong nhà không?

Nêu: Kinh Hoa Nghiêm nói: Ta nay thấy khắp tất cả chúng sinh đều có trí tuệ đức tướng Như Lai, nhưng vì vọng tưởng chấp trước nên không chứng đắc (vọng tưởng chắp trước cũng không ghét bỏ).

Sư nói: Đầu đuôi đại sớ của Hoa Nghiêm, Đại Sư Thanh Lương xét về đoạn Kinh này gọi là khai nhân tánh. Sớ Phổ Hiền Hạnh nguyện gọi là khai nguồn vật tánh làm sao khai ư?

Phẩm xuất hiện nói: Này Phật tử! Không có một chúng sinh nào mà không có trí tuệ Như Lai nhưng vì vọng tưởng chấp trước điên đảo mà không chứng đắc. Nếu lìa vọng tưởng thì nhất thiết trí, tự nhiên trí, vô ngại trí được hiện hữu. Bèn nêu thí dụ một hạt bụi bao hàm đại thiên quyển Kinh trước tụng trong vạn tượng chỉ lộ bày thân, lìa niệm thấy Phật phá trần xuất hiện Kinh chính là chọn xét đoạn Kinh này. Lại nói: Bấy giờ Như Lai dùng mắt vô chướng ngại thanh tịnh trí thấy tất cả chúng sinh khắp cả pháp giới liền nói: Lạ thay! Lạ thay! Chúng sinh này tại sao có đủ trí tuệ Như Lai mà lại ngu si mê hoặc không biết không thấy, ta sẽ dùng chánh đạo để dạy để cho chúng sinh xa lìa vọng tưởng chấp trước, ngay trong thân mỗi người thấy được trí tuệ rộng lớn Như Lai, trí tuệ ấy không khác với Phật. Thanh Lương Đại Sớ nói: Chúng sinh bao hàm tánh đức làm thể, quậy biển trí cho là nguồn, nhưng thể thì khác, tình sinh trí cách tuyệt, nay làm cho biết tâm hợp với thể, đạt bổn quên tình cho nên đàm luận Kinh này mà hiển thị. Giải thích rằng:

Đây là kiêm nói rõ nguồn gốc chúng sinh mê chơn.

Thí như người phước đức trí tuệ đầy đủ, bỗng nhiên mộng thấy nghèo bệnh khổ thân, tức là tướng biến hoại, không thấy bản thân tức là thể khác, chấp nhận nói là thân ta tức là tình sinh, không tin phước đức nơi mình đoạn chánh tức là trí cách xa. Tăng hỏi Báo Từ: Tình sinh trí cách xa tướng biến đổi thể khác. Khi tình chưa sinh thì thế nào?

Từ nói: Cách, khắp nơi không biết xuất xứ, phần nhiều lấy tướng làm tưởng rồi bàn luận điều đó. Học giả nên biết Ngưỡng Sơn khám nghiệm Hương Nghiệm chấp nhận Sư huynh ngộ Như Lai thiền còn Tổ Sư thiền mộng cũng chưa thấy. Hãy nói Như Lai thiền cách nhau nhiều ít, thử đem Kinh văn Hoa Nghiêm tham ý tụng của Thiên Đồng ta.

Tụng:

Trời che đất chở,
Nên khối, thành hôn
Khắp pháp giới nhưng không bờ mé
Chẻ lân hư mà không ở trong,
Nuốt trọn huyền vi
Nào phân sau trước

Phật, Tổ đến đây trả khẩu miệng Hỏi lấy Nam Tuyền, Vương Lão Sư Người người chỉ ăn một cọng rau.

Sư nói: Nhạm Đầu nói: Cần phải hướng đến tay áo của mình lưu xuất, đương lai và ta che hết đại địa.

Nay nói trời che đất chở, vì sao điên đảo. Bởi vì ước về tình nhân mà nói, nhân tình đều nói trời đất sinh ra người, gọi đó là tam tài. Phật giáo ngược lại cho là người sinh ra trời đất, bởi vì ba cõi do tâm vạn pháp do thức, ở đây phá làm một đoàn, luyện làm một khối, khắp pháp giới vô biên biểu. Kinh Lăng Nghiêm ghi:

Phật bảo A Nan! Ông quán tánh đất thô là đại địa, tế là vi trần, cho đến lân hư trần, tách sắc cực vi tướng biên tế kia bảy phần đã thành, lại tách lân hư tức là thật không tánh.

Vạn Tùng thường nêu: Tín tâm rõ ràng, cực nhỏ đồng với lớn, quên tuyệt cảnh giới, cực lớn đồng với nhỏ không thấy biên biểu. Hoặc có hỏi vật gì trên thế gian này là lớn nhất, nên trả lời là chơn không. Vì sao cực lớn đồng với nhỏ, vì không thấy biên biểu (bờ mé). Hoặc có người hỏi có vật gì nhỏ nhất trên thế gian này nên trả lời là chơn không, vì sao cực nhỏ đồng với lớn vì quên tuyệt cảnh giới. Ôi Tam Tổ là người nào ư?

Nói ra một lời thì nạp Tăng trong thiên hạ nhảy không ra.

Tăng hỏi Tuệ Châu: Thế nào là huyền trong huyền?

Châu đáp: Cái huyền của ông đến bao lâu?

Tăng nói: Huyền lâu rồi.

Châu nói: Không phải là lão Tăng cơ hồ huyền sát.

Bài minh của Động Sơn Huyền Trang, chớ đi đến đạo, trở về chống cha, đã khắp pháp giới, nhồi thành một khối há ngoài trần lao có huyền vi há có hướng trước sau trái Phật không xuất thế cũng không biết giảm. Phật ra đời chỉ thị diễn thuyết cũng không biết thêm, khen biển rộng, khoe mặt trời sáng, không thể nói hết, đều là Tăng ngữ. Nam

Tuyền, Sam Sơn phổ thỉnh lặt hái rau cải. Nam Tuyền đưa một cọng rau lên nói: Cái này tốt để cúng dường.

Sam Sơn nói: Chẳng những cái này, trăm vị ngon người cũng không nhìn.

Nam Tuyền nói: Tuy vậy cái cái đều nếm qua mới được

Đại Dương Minh An thượng đường nói chớ đi lối tâm ở, chớ ngồi chỗ không công, có không đều lìa, rỗng rang trời đất không cho nên Nam Tuyền nói: Mọi người ăn một cọng rau bèn tìm một cọng vào địa ngục như tên bắn. Vạn Tùng nói: Ngày nay bảy người.

TẮC THỨ 68: GIÁP SƠN VUNG KIẾM

Dạy chúng rằng: Trong vũ trụ thiên tử người đứng đầu, ngoài cổng tướng quân ra lệnh, có khi đầu cửa được lực, có khi trong nhà xưng tôn. Hãy nói là người nào?

CÔNG ÁN: Tăng hỏi Giáp Sơn khi trừ bỏ trần thấy Phật thời thế nào?

Sơn nói: Cần phải vung kiếm, nếu không vung kiếm ngư ông làm tổ.

Tăng nêu: Hỏi Thạch Xương bỏ trần thấy Phật thời thế nào?

Sơn nói: Ông ta không có quốc độ, thì gặp ông ta nơi nào?

Tăng nêu cho Giáp Sơn biết, Sơn Thượng đường nói: Môn đình xây dựng không như lão Tăng, nhập lý sâu xa, đàm luận như hơn Thạch Sương trăm bước.

Sư nói: Các Thiền Sư Đàm Châu, Thạch Sương Khánh ban đầu ở với Quy Sơn Sang Mễ Đầu mới sàng gạo.

Quy Sơn nói: Vật của thí chủ không nên phung phí. Sương nói: Không phung phí

Quy Sơn lượm một hạt dưới đất lên dạy:

Ông nói không phung phí, cái này từ đâu đem đến Sư không đáp.

Quy Sơn nói: Chớ có khinh một hạt này trăm ngàn hạt này đều từ một hạt này mà sinh ra.

Sương nói: Một hạt này từ đâu sinh ra.

Quy Sơn cười lớn trở về phương trượng tối đến Thượng đường nói: Đại chúng! Trong hạt gạo có trùng.

Sau đó tham vấn Đạo Ngô hỏi? Chạm mắt là bồ đề ta gọi sa di Thêm Tịnh Bình Thủy, ta nêu như trước. Sương ở nơi Đạo Ngô hai hạ rồi được thọ ấn khả bị nguy ở Cối Xương lưu lạc nơi Đàm Châu Lưu Dương Đào Gia, sáng dạo chơi chiều ở Đại Trong ban đầu (270) có vị Tăng từ Đồng Sơn đến nêu Động Sơn đầu Thu cuối Hạ huynh đệ hoặc Đông hoặc Tây, phải đi nơi vạn dặm không tấc cỏ. Hồi lâu nói: Chỉ như nơi vạn dặm không tấc cỏ làm sao đi?

Sương nói: Ra cửa lại là cỏ. Tăng lại nêu cho Động Sơn nghe, Sơn nói: Đây là lời của 1500 thiện tri thức. Lại trong nước Đại Đường có được mấy người.

Túi chùy mới bày Thạch Sương nói đạo tràng, quả nhiên phù hợp với lời ký bổn ngộ. Hai mươi năm chúng hơn ngàn người, cứ ngồi mãi không nằm, bò khoèo như cây khô, giảng đường cây khô có tên từ đây.

Tăng hỏi: Bỏ trần thấy Phật việc hỏi là một. Giáp Sơn nói: Nếu không vung kiếm, ngư phủ dừng nghỉ.

Thạch Sương nói: Ông ta không có quốc độ thì gặp ông ấy nơi nào. Vạn Tùng nói: Nhập lý đàm sâu không bằng Thạch Sương. Môn đình xây dựng hơn Giáp Sơn trăm bước chẳng có kỳ địch thủ chăng? Thiền Đồng nói: Nhiều tụng rằng:

Sau khí ngưu kiếm tẩy uy binh Dẹp loạn có công lại là ai?

Một sáng khí bụi bốn biển xanh Rũ áo bỏ ngôi tự không làm.

Sư nói: Lâm Tế Tông Phong, bảo kiếm Kim Cang Vương, giết Phật giết Tổ, Giáp Sơn cắt đứt lão bồng bông, đã phá theo lối cũ (ráp khuôn) viết khắp, Điện Hoán giỏi thiên văn, Trương Hoa nhân nhìn sao ngưu sao đẩu, thường có khí lạ kích động, Hoán ban đêm lên đứng nhìn. Hoán nói: Kẻ hèn này nhìn lâu rồi, bảo kiếm bay lên trời ở giới huyện thành phong Dự Chương. Trương Hoa mới thúc Điện Hoán vì thành phong ra lệnh sửa ngục đào móng được cái hợp đá, có hai cây kiếm con cuối cùng của Hoán là Châu Tùng Sự, khâm phục kiếm của cha nên đến sông Diên Bình, kiếm rơi xuống, sai người thợ lặn lấy, khi người thợ lặn xuống nước thấy hai con rồng có văn chương. Người thợ lặn sợ nên trở lên, nói rõ ràng sự việc. Vũ Vương chinh phạt Trụ gặp mưa. Tán Nghi Sinh nói: Đây chẳng phải là yêu ư?

Vương nói: Chẳng phải, là trời rửa binh vậy

Bài tụng này nói nếu không vung kiếm ngư ông dừng thuyền Kinh dịch nói: Hoàng Đế Nghiêu

Thuấn rũ áo xiêm mà trị thiên hạ sự chuyển đổi không làm không sai mà đi.

Tụng này là không có tổ có thể đậu. Ông ta không quốc độ không kiếm có thể vung, nơi nào gặp ông ta.

Thiền Sư Đồng An Sát nói: Diệu thể xưa nay không có chỗ, toàn thân nơi nào có nguyên do. Vạn Tùng nói: Cho Ông đích thân gặp Thạch Sương như hơn Giáp Sơn trăm bước, có thấy Giáp Sơn không? Kiếm vì bất bình mà rời khỏi hộp, thuốc nhân người bệnh mới ra khỏi bệnh.

TẮC THỨ 69: NAM TUYỀN BẠCH HỘ

Dạy chúng rằng: Thành Phật làm tổ, hiềm mang danh xấu, mang lông đội sừng lên địa vị cao cho nên chơn quang không sáng, trí lớn như ngu, lại có kẻ tiện nghi giả vờ không biết, biết là ai không?

Sư nói: Pháp Sư Giới Châu ở Phi Sơn bàn luận pháp truyền riêng tâm. Hủy Tích Nam Tuyền nói: Nếu nhìn lại bọn họ không thị hiếu, không biết gốc, thì không đủ để nói giáo của Như Lai. Vô Tận Đăng Phủ Tập Y Thông, Xuất Dị Biện Tự Nam Tuyền Sơ Tập lục kế nghe kinh Hoa Nghiêm Lăng Già, vào trúng trăm nhà xem, nghe Mã tổ truyền nói lời ngoại đạo, nhiều lần gõ vào yếu chỉ được quên nôm, một ngày nọ nấu cháo Mã Tổ hỏi: Trong thúng có những gì?

Nam Tuyền nói: Lão này ngậm im miệng, nói lời. Như thế Tuyền gặp cơ duyên không nhường Mã Tổ, như thế sau này bồi thường nợ trong tay Triệu Châu.

Nam Tuyền hỏi chủ tòa: Kinh Niết Bàn lấy gì làm cơ tắc? Chủ nói: Lấy như như làm cơ tắc

Nam Tuyền nói: Gọi là như như chính là biến đổi Sa môn thời nay phải đi trong dị loại mới được.

Triệu Châu ở trước Tăng đường hỏi: Dị thì không hỏi, vậy thế nào là loại? Tuyền chống hai tay xuống đất, Châu lấy chân đạp một đạp Tuyền té nhào xuống đất Châu đi vào liêu Diên Thọ gọi hối hối.

Nam Tuyền sai Thị giả hỏi Triệu Châu hối là cái gì? Triệu Châu nói: Hối không tiện đạp ông

Nam Tuyền thượng đường nói: Vương lão Sư từ nhỏ chăn một con trâu đực, định dắt về phía Đông của khe, không khỏi ăn cỏ uống nước quốc gia khác, dắt trâu về phía Tây của khe suối cũng không khỏi ăn cỏ uống nước quốc gia khác. Như nay không khỏi theo phần nhận một chút, đều không thấy được. Ngày nọ Tuyền thấy chủ dục và chủ thiêu nói: Sau khi thọ trai thỉnh mời chủ tắm trâu chủ dục (người coi về việc tắm giặt) đi thỉnh.

Nam Tuyền nói: Có đem dây thừng về không?

Triệu Châu lấy tay kéo cổ Tuyền

Nam Tuyền nói: Chính là đại thô sinh

Triệu Châu hỏi: Biết có người đi hướng nào?

Nam Tuyền nói: Hướng nhà đàn việt trước núi làm một con trâu đực.

Triệu Châu nói: Mong Sư chỉ dạy

Nam Tuyền nói: Hôm qua canh ba trăng vào cửa, Tuyền sẽ thuận thế. Thủ Tòa hỏi: Hòa thượng sau trăm năm sẽ đi đâu Nam Tuyền nói: Làm con trâu đực dưới núi.

Tọa Chủ nói: Con theo Hòa Thượng có được không?

Tuyền nói: Ông nếu theo ta thì phải ăn một cọng cỏ đã. Lời dị loại này, Nam Tuyền xướng trước, Quy Sơn hòa theo. Đạo Ngô, Vân Nham truyền thọ nay vì Tào Sơn ba lần đọa, Đạo Ngô đến Nam Tuyền.

Tuyền hỏi: Xà lê tên gì? Ngô nói: Tông trí

- Trí không đến nơi làm sao sinh ra Tông

- Thiết kỵ nói chấp trước

- Tuyền nói rõ ràng nói chấp trước thì sừng đầu sinh.

Ba ngày sau cùng với Vân Nham ở sau cái giá may vá Tuyền đi qua thấy hỏi?

Ngày trước nói trí không đến nơi thiết kỵ nói chấp trước, nói chấp trước là sừng đầu mọc, hợp với hành lý gì?

Ngô vội kéo thân vào Tăng đường. Tuyền bèn đi. Vân Nham hỏi Đạo Ngô Sư đệ đến làm gì, không chỉ đối đầu Hòa Thượng

Ngô nói: Ông được lanh lợi gì?

Vân Nham không hiểu lại đến hỏi Tuyền: Thích với công án trí đầu đà làm sao không chỉ đối đầu Hòa Thượng

Tuyền nói: Ông ta lại đi trong dị loại

Vân Nham nói: Thế nào là đi trong dị loại?

Tuyền nói: Không thấy đạo trí không đến nơi thiết kỵ nói chấp trước, nói chấp trước thì đầu sừng mọc, cần phải đi trong dị loại. Nham cũng không lãnh hội. Ngô biết Nham không lãnh hội bèn nói:

Người này duyên không có bèn đồng quay về Dược Sơn và nêu cho Dược Sơn nghe

Sơn nói: Ông vì sao hộ thời tiết này của ông ta?

Liền quay trở về, Nham không nói, Sơn cười lớn Nham hỏi: Thế nào là đi trong dị loại?

Sơn nói: Ta ngày nay mệt mỏi, lúc khác hãy đến. Nham nói: Tôi đặc biệt vì việc này mới đến đây Sơn nói: Cút đi

Nham bèn đi ra, Ngô ở ngoài phương trượng nghe Nham không lãnh hội bất giác cắn đầu ngón tay ra máu đi đến hỏi, Sư huynh hỏi Hòa Thượng về việc gì? Tại sao vậy?

Nham nói: Hoà Thượng không nói cho tôi.

Ngô liền cúi đầu, hai người đứng hầu. Sơn hỏi: Trí không đến nơi Thiết kỵ nói lời chấp trước, nói chấp trước là đầu sừng mọc. Ngô liền chân trọng đi ra. Nham hỏi: Trí Sư đệ vì sao không chỉ đối đầu với Hòa Thượng?

Sơn nói: Tôi nay đau lưng, là ông ta lãnh hội, ông hỏi lấy. Nham hỏi: Sư đệ đến vì sao không chỉ đối đầu với Hòa Thượng?

Ngô nói: Ta nay đau đầu, ông đi hỏi Hòa Thượng lấy. Sau đó Vân Nham tịch sai người đưa thư đến Ngô xem rồi nói: Vân Nham không biết có hối hận lúc ấy không nói với y. Tuy thế, cần phải không trái với Dược Sơn.

(271) Huyền Giác nói: Người xưa nói như thế còn biết có không? Vân Nham lúc ấy không lãnh hội, chỗ nào là chỗ không lãnh hội.

Thúy Nham Chi nói: Đạo Ngô nói: Vân Nham không biết có hối hận lúc ấy không nói với y. chỉ nói như thế, Đạo Ngô còn biết có không? Vạn Tùng nói: Vân Nham là Thầy của Động Sơn, gốc một phái lại bốn, ba không biết có việc này. Vạn Tùng ghi đủ. Cũng cần với người bên cạnh sau, tham trợ một nửa sức. Há chỉ Vân Nham không biết có.

Thúy Nham Chi nói: Đạo Ngô còn biết có không?

Vạn Tùng nói: Không những Đạo Ngô, Thúy Nham còn biết có không? Không thấy Tăng hỏi Trường Sa vì sao ba đời Chư Phật không biết có?

Sa nói: Khi chưa vào Lộc Uyển còn hơn một chút xíu

Tăng nói: Mèo nhà trâu trắng, vì sao lại biết có? Sa nói: Ông đâu lạ gì y.

Vạn Tùng đến đây có thể đứng bên cạnh xem, Thiên Đồng ca ngợi có phần. Tụng rằng:

Lều khều lững thững (không gần thôi bận)

Tóc tai bù xù (người không thích nhìn)

Trăm không lấy được

Một không thể kham (mở cửa lại mềm, trồng lửa lại ướt)

Im lặng tự biết do đất ổn (mang giầy động chân)

Nhảy nhót ai nói hại da bụng

Khắp pháp giới trộn thành cơm (nôn không ra, nuốt không xuống)

Lỗ mũi chồng nhau tin tham đủ

Sư nói: Lều khều lững thững dáng không ngay

Dược Sơn xem Kinh Bách Nham nói: Mặt trời giữa trưa

Sơn nói: Còn có văn vẻ

- Mở giáp tôi không cũng không

- Ông rất thông minh

- Tôi chỉ như thế. Tôn ý của Hòa Thượng thế nào?

- Tôi lững thững lều khều trăm say ngàn vụng lại lỗi như thế.

Hòa Thượng Quyền Khê Nhàn tụng rằng:

-Phấn chấn nhiều năm khâu rách nát bù xù một nửa theo mây bay, cầm lên quay vai cũng hơn người mang áo gấm. Trăm không thể lấy, một không thể kham, trong chúng như trăm vụng một đời làm người nhàn, im lặng tự biết ruộng đất ẩn, nhảy nhót ai cho hại da bụng, phạm chí lại mặc hài, người đều cho là sai, thà đâm vào mắt ông, không thể dấu chân ta, Chí Phạm Vương lạ thường, lời này truyền khắp nhân gian, có thể nói quả bóng da vào sáng ra tối.

Câu tụng sau này, tham mãi đến mục xương vùi dưới đất, trên mi này đều là hạt cơm. Một sáng chống phá da bụng lở, ngũ tạng tim gan đều tan ra.

TẮC THỨ 70: TIẾN SƠN HỎI VỀ TÁNH

Dạy chúng: Nghe Hương Tượng qua sông, theo dòng mà đi, biết tánh không sinh của sinh hay là chỗ giữ lại của sinh, lại luận về định trước định sau làm măng làm tre, kiếm bỏ lâu rồi, ông mới khắc thuyền, đạp chuyển cơ luân, làm sao đi một đường riêng, thử xin nêu xem.

CÔNG ÁN: Tiến Sơn Chủ hỏi Tu Sơn Chủ: Biết rõ tánh bất sinh của sinh, vì sao là chỗ giữ lại của sinh?

Tu nói: Măng cuối cùng thành trúc. Ngày nay làm tre làm cho còn được không?

Tiến nói: Ông sau này tự ngộ lấy

Tu nói: Tôi chỉ như thế, ý chỉ của Thượng Tọa thế nào?

Tiến nói: Cái này là phòng lâm viện, cái kia là phòng điển tòa Tu liền lễ bái.

Sư nói: Thiền Sư Chủ Hồng Tiến núi Thanh Khê ở Tương Châu làm đệ nhất tòa cho Hòa Thượng Địa Tạng Lâm. Bấy giờ có hai vị Tăng lễ bái Địa Tạng Lâm.

Địa Tạng Lâm nói: Đều sai lầm

Ngày nọ Tiến hỏi Tu: Biết rõ tánh bất sinh của sinh vì sao là chỗ lưu giữ của sinh? Nữ Am Đề Giá dòng Bà La Môn cách phía Tây thành Xá Vệ hơn hai mươi dặm là con gái của Trưởng Giả Bà Tư Nị thôn Trường Đề nhân gia đình làm đại hội cúng dường Phật và Chư Tăng, vì thế Đề Giá được tiếng thơm. Đại Sĩ Văn Thù hỏi Đề Giá có biết rõ tướng không sinh của sinh là chỗ lưu giữ của sinh không? Nữ nói: Có, tuy tự thấy rõ, nhưng vì sức chưa đủ, mà chính là chỗ lưu giữ của sinh.

Tu Sơn Chủ đáp: Măng cuối cùng thành trúc, mà nay làm tre có được không? Da của trúc và tre để cột đồ, trúc thì làm dây măng non không có sức, trúc xanh có lực, sức của măng chưa đủ không kham làm tre. Giác Phạm Quán Âm than thương lòng ta biết rõ sức không kịp, chủng tử lúc nào cũng hiện hành, như người uống rượu mà cuồng loạn, uống rồi lại gặp chén chúc, đây cũng là nói sức mình không đủ, thẹn hổ người xưa thông thạo thừa giáo, phát lời nôn khí hợp với Tu đa la.

Tiến Sơn Chủ phải chuyển thoại đầu, mới lại không bằng lòng nói, ông sau này tự ngộ lấy.

Tu nói: Chỗ thấy của tôi chi như thế còn ý chỉ của Hòa Thượng thế nào? Tu đến chỗ Tứ Bình Bát Mãn tọa định Tiến bảo dậy tức nhiên có một lối sống riêng, liền chỉ nói cái này là phòng lâm viện, cái kia là phòng điển tòa.

Hãy nói: Là rõ được tánh bất sinh. Hãy nói là chỗ lưu giữ của sinh hay là không phải chỗ lưu giữ của sinh?

Tu liền lễ bái.

Ông ta tham câu sống, không tham câu chết, đây là với điển tòa vào dưới kho, lại không có hai kiểu. Mọi người đều nói một vị bình thật dưới pháp nhãn, huyền trong thể xin xem lời trước. Thiên Đồng thấy lời này kỳ đặc xuất cách cho nên tận tình tụng ra. Tụng rằng:

Thông suốt mất nhờ
Nhàn rồi không kiềm chế
Nước nhà bình yên đến người ít
Chút ít lực lượng phân giai cấp
Thân tâm yên tĩnh dứt thị Phi
Giới lập đại phương không dấu vết.

Sư nói: Tụng này Tiến Sơn Chủ nói cái này là phòng lâm viện, cái kia là phòng điển tòa, khi mất nương tựa tự nhiên rỗng rang. Không có cách kiềm chế cao nhàn, nước nhà bình yên mấy người đến phải là không phiền não có thể đoạn, không thiền đạo có thể tham, trong mười hai thời trừ mặc áo ăn cơm là chỗ dụng tâm nhàn. Theo ý của Tiến Chủ hỏi: Cũng nhỏ có nhỏ, xưa kiểm nghiệm nay phân giai cấp, định lực lượng sợi dây câu, như thân tâm yên ổn vốn dứt thị phi.

Tu Chủ cũng không ngại lãnh hội bình thật thương lượng bổn phận lời nói của Như Lai Thiền. Sao có thể Bách Trượng nói: Y Kinh giải nghĩa Phật oan ba đời cho nên phân nhỏ lực lượng, quyền lập giai cấp. Nói măng non không có sức dùng, trúc thì mạnh dẫn ngàn câu, nói về hưng thạnh của dấu tích, thị phi cho nên thành. Tiến Chư lại vót cho ông ta, chỉ riêng một đường sinh cơ, thật không mở cửa lập quỹ tắc dối vu oan nói là bạn. Tu công thiết lễ bái để rút lui về sự không lanh lợi. Có biết hai vị ấy là kế thừa Tòng Lâm chăng? Vào lửa phải đào luyện cho tinh, lên cối đá mới có thể trọng chày.

TẮC THỨ 71: LÔNG MÀY CỦA THÚY NHAM.

Dạy chúng rằng: Ngậm máu phun người, tự dơ miệng mình tham chén một đời trả nợ người bán giấy ba năm thiếu tiền ma. Vạn Tùng thỉnh hỏi cho mọi người, còn có chỗ gánh vác không?

CÔNG ÁN: Thúy Nham cuối hạ dạy chúng: Một hạ đến nói cho huynh đệ xem lông mày của Thúy Nham còn không?

Bảo Phúc nói: Người làm giặc tâm rỗng ràng Trường Khác nói: Là sống Vân Môn nói là then chốt

Sư nói: Đại Sư Thúy Nham Vĩnh Minh ở Minh Châu húy là Lệnh Tham, người Hồ Châu, nương Tuyết Phong thọ ký Đại Trương Pháp Tịch một ngày nọ thượng đường nói: Từ một hạ đến nay nói Đông nói Tây cho huynh đệ, xem thử lông mày của Thúy Nham có không? Mọi người phần nhiều nói: Vốn muốn đầu thân bất giác hai lớp công án. Lại Thầy Bảo Phúc làm giặc mà tâm rỗng rang, một bề nói trái, cắm củi từ miệng qua. Phật Quả nói: Người phần nhiều lãnh hội lầm nói trời trong xanh nói không ngay lời nói không có việc mà sinh sự, trước tự nói qua khỏi bị người kiểm điểm, lại thích không dính líu.

Trường Khánh nói: Sống

Vạn Tùng nói: Y vào mắt xưa

Vân Môn nói then chốt, chữ phổ gọi là một chữ thiền ba người đều nói pháp nơi Tuyết Phong, thấy người đương gia nói không ngoài lời. Thấy Thúy Nham dạy chúng kỳ đặc cho nên mọi người xướng hòa. Người xưa hạ ngữ, không phạm thủ thế. Có chủ tòa đến dưới giảng đường Hoa Nghiêm thỉnh Thúy Nham thọ trai. Thúy Nham nói: Sơn Tăng có điều để hỏi, nếu đáp được thì thọ trai, liền đưa cái bánh hồ nói: Có đầy đủ pháp thân không?

Chủ nói: Đủ

Thúy Nham nói: Như thế thì ăn pháp thân. Chủ không đáp

Pháp Sư Dương Giảng thay nói: Có lỗi gì? Nham không chịu

Vân Môn thay nói: Hòa Thượng Đặc Tạ trải lớp chiếu không giác phàm cho Đại Sư Vân Môn là vua trong tăng. Quả nhiên xâu một chuỗi theo nơi dầu tụng ra

Tụng rằng:

Tâm làm giặc qua mặt người
Trải qua ngang dọc đối cơ cảm
Bảo Phúc Vân Môn
Cũng đưa mũi khinh miệng
Thúy Nham Trường Khánh
Cũng là mặt mày của Tu
Đỗ thiền hòa có hạng gì
Mới nói, ý cú như trau chuốt
Mai một chính mình
Uống hơi nuốt tiếng
Lụy đến tiên Tông
Cũng là vách tường gánh cũi

Sư nói: Tuyết Đậu nói: Người khéo nhìn, quỷ thần không biết, đã là thấy phá cho Bảo phúc Thiên Đồng. Thúy Nham không phải là khéo tay. Nhất định Đại Vân Môn, Trường Khánh đều bị Thúy Nham dụng một cọng lông mi, một lúc xuyên qua lỗ mũi. Nếu dấu đầu hở đuôi thật là người mạnh dạn, cho nên có thể trải qua ngang dọc đối cơ ứng cảm.

Bảo Phúc nói: Người làm giặc tâm rỗng rang

Tuyết Đậu nói: Then chốt đều là lỗ mũi dài của nạp Tăng, ngàn dặm đã nghe phân khô thúi, ba đông còn thúi như mùi rau nát vữa.

Thúy Nham nói: Lông mày còn không?

Trường Khánh nói sống mà trên vách cao Tăng vừa hô liền ứng nuôi chim trong bình theo tiếng, thời thiết đã ra há thức tình có thể biết. Đây là nói mặt mày của Tu, đất lạnh xem người, một chê người một chút không được có nói, một hạ trên dây dưa xanh cành um tùm mà này trừ cỏ trừ gốc, một bề bỏ đi. Thật không biết ba mươi năm sau đây là nói bỏ đi đại hành, đâu hẳn túi che chăm mền, uống khí nuốt tiếng, như thế thì vách tường gánh củi, lụy đến tiên Tông.

Chư vị nói: Từ lục gánh củi chỉ thấy một bên thượng thư không học vách tường, nhìn sơ tường vách không chỗ nhìn thấy. Anh không thấy, Linh Sơn phóng tướng bạch hào, chiếu thấy phương Đông vạn tám ngàn.

TẮC THỨ 72: TRUNG ẤP NÓI VỀ CON KHỈ.

Dạy chúng: Cách sống đấu trí, theo giáp chôn binh thấy diện tướng cầm kiếm thật súng chơn. Nạp Tăng sở dĩ quý đại dụng toàn cơ, từ khinh mạn vào buộc ràng, thử thổ lộ xem

CÔNG ÁN: Ngưỡng Sơn hỏi Trung Ấp: Thế nào là nghĩa Phật tánh

Ấp: Tôi và Ngài nói một thí dụ, như trong nhà có sáu cánh cửa, thả một con khỉ. Bên ngoài có người gọi khỉ khỉ, con khỉ liền đáp. Như thế sáu cửa đều gọi khỉ đều đáp.

Ngưỡng Sơn nói: Như con khỉ ngủ lại thế nào? Ấp liền xuống thiền sàng ngồi nói: Khỉ khỉ ta và mày gặp nhau.

Sư nói: Thiền Sư Trung Ấp Hồng Ân ở Lang Châu, Mã Tổ một trong tám mươi người thiện tri thức, là thúc Tổ của Ngưỡng Sơn. Ngưỡng Sơn thọ giới ở Giang Lăng rồi trở về tạ giới.

Ấp thấy Sơn tuổi nhỏ nên lấy chuyện con khỉ ứng với sáu cửa nói về nghĩa Phật tánh, như người lớn lứa trẻ nhỏ.

Sơn chôn binh khởi đấu, không nhẫn được kẻ tuấn kiệt, lễ tạ xong nói: Nay nhờ Hòa Thượng thí dụ để liễu rõ. Lại có một việc chỉ như bên trong con khỉ ngủ, bên ngoài con khỉ muốn thấy nhau, như thế thật lạ lùng, như Sư tử ra khỏi hang đưa móng vuốt. Ấp bất giác xuống thiền sáng, cầm tay Ngưỡng Sơn múa nói, con khỉ gặp ông rồi, sao không nói cái thí dụ.

Vân Cư Tích nói: Trung Ấp lúc ấy không được một câu này của Ngưỡng Sơn thì nơi nào có Trung Ấp.

Tiên Sư với Sư bác Thắng Mặc hơn hai mươi năm được Tòng Lâm kính nể. Hòa Thượng Trịnh Châu Bảo tên là Chấn Hà Lạc tiên Sư tham học khắp nơi trở về yết kiến.

Châu nói: Huynh đệ mạnh khỏe phải tham vấn.

Lão Tăng lúc nào cũng thường lấy Phật pháp làm việc.

Tiên Sư nói: Hòa Thượng nay thế nào?

Châu nói: Như sinh vào oan gia.

Tiên Sư nói: Nếu không được lời này giống như oan uổng đi ngàn dặm.

Châu xuống sàn thiền nắm tay tiên Sư nói: Tu hành giỏi chăng?

Tiên Sư bèn ở lại mấy ngày.

Giáp Sơn cho rằng: Phơi một hạt đậu trong tro của mặt trời Phật chết.

Huyền Giác nói: Nếu không phải là Ngưỡng Sơn thì đâu thấy được Trung Ấp. Hãy nói chỗ nào là chỗ Ngưỡng Sơn thấy được Trung Ấp.

Vạn Tùng nói: Báo ân pháp thượng đường.

Sùng Thọ Trì nói: Có người nào định được đạo lý này không?

Nếu quyết định không được chỉ là cố tình huyễn hoặc người nghĩa

Phật tánh ở chỗ nào?

Vạn Tùng nói: Lấy trên tay chân huyễn hoặc người

Phật Giám nói: Ngưỡng Sơn buông thả cái ngu, Trung Ấp bán cái đẹp, cái đẹp bán đến ngu si, ngu si buông để cái đẹp bỏ. Tuy khi ngủ, trong bụng đâu sợ hãi. Dù dứt sáu cửa con khỉ không gặp nhau ở chỗ nào? Mọi người có thấy hai lão này ngoa ngụy chăng?, Mỗi người da mặt dày ba tấc. Vạn Tùng nói: tìm kẻ biết tàm quý, không thể được chỉ có lão Thiên Đồng hơn một tí. Tụng rằng:

Lạnh ngủ nhà tuyết quanh năm không mở cửa,
Cửa rào yểu điệu đêm không mở.
Vườn rừng khô lạnh xem biến thái
Gió Xuân thổi đến tre thành tro

Sư nói: Truyện Nhữ Nam Tiên Hiền nói: Bấy giờ tuyết dày hơn một trượng. Lạc Dương bảo mình ra làm công, người trừ tuyết có thể xin ăn. Đến Viên An Môn, không có lối đi, cho là An đã chết, bảo người gạt tuyết, vào cửa thấy An nằm.

(273) Hỏi: Tại sao không ra.

An nói: Tuyết dày người đều đói, không cần liên can đến người bảo là Hiền, tụng ca là hiếu liêm. Bài tụng này Trung Ấp nói thí dụ. Một phen nói mộng, đều không phải sợ, cửa dậu yểu điệu đêm không mở, bỗng bị Ngưỡng Sơn điểm phá. Trung ấp tác dụng toàn thể, cây khô trùng dương (mồng 9/9), gió Xuân thổi tro tàn bay. Thái Ấp Nguyệt bảo chặt trúc làm sáo, cho đó là luật, để nói trong nhà kín lấy cỏ lau làm tro, để làm sự thật đầu mối. Khí của Nguyệt đến thì tro bay sáo rỗng, khí trời sống trong sinh tử, như trung Ấp và Nhưỡng Sơn gặp nhau, sau khi gặp tại sao không nhọc nhằn đứng lâu.

TẮC THỨ 73: TOÀN HIẾU CỦA TÀO SƠN.

Dạy chúng rằng: Vịn cổ men theo cây mà đi, làm tinh linh kẻ chịu oan để làm Tông quỷ, gọi đó là đốt tiền tấu mã, chú vào nước viết bùa làm sao bình an gia môn được.

CÔNG ÁN: Tăng hỏi Tào Sơn: Áo linh không treo thời thế nào? Tào Sơn nói: Tào Sơn ngày nay toàn là hiếu (không có phụ bình sinh).

Tăng nói: Sau khi toàn hiếu thời thế nào?

-Tào Sơn thích rượu điên.

-Sư nói: Tăng hỏi Thiền Sư Đồng An Uy khi Ngưu đầu chưa thấy Tứ Tổ thì thế nào?

-Miếu thần ở bên đường, người thấy đánh một loi

-Sau khi thấy thì thế nào?

Trong nhà không có giường linh, cả nhà không chấp vào hiếu.

Tăng này hỏi áo linh khi không treo thời thế nào?

Động Sơn mới nói: Cấm nấu dầu, cởi áo vải hôi thối, làm nạp Tăng cởi áo phơi.

Sau đó Tăng hỏi: Thế nào là Phật?

Đáp: Gai ba cân, nếu đến thời tiết này thì biết được Tào Sơn toàn là hiếu. Vị Tăng này muốn thấy hành lý của Tào Sơn ngày nay.

Hỏi: Sau khi toàn hiếu thời thế nào? Sơn nói:

Tào Sơn thích rượu điên

Giác phạm nói: Tâm như gương sáng, miệng như gã say. Ngày nọ Tăng hỏi: Thanh Thoát cô phụ cơm, Sư cứu vớt Sơn gọi: Thanh Thoát. Tăng đáp dạ.

Thanh Thoát ba chén rượu, con nói chưa thấm môi. Lại có Tăng hỏi: Kim Phong thật say mèm.

Phật Quả nói: Thừa lời hội Tông, rõ cơ ứng khắp, đều là Kim Phong, kiểm điểm cẩn thận, tương lai cũng thật bày vẽ. Nếu có người hỏi Tương Sơn chén vàng đầy rượu thời thế nào? Chỉ đáp với ông ta rằng: Sơn Tăng tự đến Thiên Giới.

Lại có Tăng hỏi Tào Sơn: Trong mười hai thời làm sao giữ gìn? Như qua quê độc địa, nước ủng không thấm vào ông ta một giọt.

Tào Sơn có lúc tỉnh không say, có lúc tĩnh mà không phân được ngày đêm, vì ông ta hoàng lương mộng đoạn khuê các tình quên.

Động Sơn hỏi Vân Cư: Người đại xiển đề, giết cha hại mẹ, hiếu dưỡng ở đâu?

Cư nói: Mới thành hiếu dưỡng, ấy gọi là người đầy hiếu, rượu điên.

Động Sơn nói: Chạm mặt rừng hoang bàn năm phóng khoáng,

Thiên Đồng quen biết dạo chơi trong đó.

Tụng rằng:

Môn đình xanh đỏ, bốn bề dứt xóm giềng
Nhiều năm quét cửa không dung bụi
Chỗ quang minh chuyển về bên trăng tàn
Hào tượng khi phân lại lập dần
(âm thảm thê dương thư thản).
Mới toàn là hiếu lại gặp Xuân,
Bước say cuồng ca khăn tơi tả
Tóc bù xù mặc người sang sửa
Thái bình người điên vô sự sai

Sư nói: Trong mắt nhặm cát, không được hạn cuộc vào cuộc sống hẹp hòi. Tào Sơn nói: Nếu là tham sân si thô trong thế gian tuy khó đoạn, nhưng lại là nhẹ. Nếu là vô sự, vô vi thanh tịnh, cái trọng này không thể thêm. Cho nên Động Sơn nói: Trăng sáng trước nhà luôn chín hạ chí đạo không thể hình dung. Người xưa gần thì thủ chấp các thân, xa thì chấp các vật, đây là nêu lên để thí dụ chi đạo.

Báo Từ Tàn Long Nhã Bán Thân tụng rằng:

Mặt trời đầu núi, trăng tròn nơi cửa, không phải là không có thân, không muốn lộ bày, hai lão đều là con cháu của Động Sơn.

Giáo Phạm nói: Cơ phong nhà ấy quý nhất là quay đầu, làm cho không phạm vào địa vị chính, lời nói thiết kỵ mười phần, làm cho không rơi vào thời nay, mà Báo Từ Tượng Tâm chạm lời vi diệu không mất tông, là có thể quý chỗ quang minh chuyển nơi trăng nghiêng tàn là dụ cho đầy hiếu gặp xuân. Chu Dịch Cửu Nhị thấy rồng nơi ruộng, người lanh lợi thấy là đơn sơ. Cửu Nhị căn cứ vào vào lúc lập giờ dần giờ sửu. Lúc mầm mạ mới phát sinh tức là nghĩa khí dương phát thấy, hình càn Phong ứng như vậy. Lão Đỗ uống trúng tám bài ca tiên, cởi khăn bày đầu trước vương công, cùng Thiên Tử gọi không lên thuyền, đều quên hình quên thể, không thể kiểm thúc bờ đê, Đan Hà Thiên Nhiên một ngày nọ nằm ngang trên cầu của Thiên Nhiên giữ lại trước Trịnh Công dẫn dắt rồi hét. Sư không nhìn lại hỏi, Từ nói: Ta là Tăng vô sự, Trịnh rất cung kính, chúng Tuyết Phong tham vấn vào một buổi tối, Phong nằm trong sân, Thượng Tòa Thái Nguyên Phu nói: Đây đều là kẻ mặc áo vụng tóc vô sự say. Tào Sơn toàn hiếu sao thọ dụng, bốn thời xuân phú quý, vạn vật gió chuyển lay.

TẮC THỨ 74: CHẤT VÀ TÊN CỦA PHÁP NHÃN.

Dạy chúng rằng: Giàu có vạn đức, phóng đãng không mảy trần, lìa tất cả tướng, tức là tất cả pháp, cần câu trăm thước tiến bước, mười phương thế giới toàn thân. Hãy nói được chỗ nào?

CÔNG ÁN: Tăng hỏi Pháp Nhãn, trong giáo có nói: Từ vô trụ vốn lập tất cả pháp, thế nào là gốc vô trụ?

Pháp Nhãn nói: Hình có mà chưa có chất, danh khởi mà chưa có danh.

Sư nói: Văn Thù hỏi Duy Ma: Thân cái nào là gốc?

- Tham dục là gốc.

- Tham dục ái nào là gốc? Phân biệt hư vọng làm gốc

- Phân biệt hư vọng cái nào là gốc?

- Điên đảo tưởng là gốc

- Điên đảo tưởng cái nào là gốc?

- Vô trụ là gốc-Vô trụ cái nào là gốc-Vô trụ thì không có gốc.

-Văn Thù Sư Lợi từ gốc vô trụ, lập tất cả pháp

Khải công chú rằng: Tâm như dòng sông, tĩnh lặng thì chiếu soi, động thì không chiếu. Si ái quấy đục, gió tà thổi nổi lên sóng gió, chưa từng tạm trụ. Để quán pháp này làm sao đến chỗ không điên đảo, thì như chạm mặt nước vọt rồi trách mình, không có như vậy.

Lại nói: Nếu dùng tâm động cho là gốc thì có tướng nhân, sinh ra lý tột, mới động lại không có gốc. Nếu cho vô pháp là gốc thì có nhân vô sinh, vô không nhân không, lại không có gốc.

Lại nói: Vì vô trụ nên điên đảo, vì điên đảo nên phân biết, vì phân biệt nên tham dục, vì tham dục mà có thân, đã có thân thì thiện ác đều hiện, thiện ác đã hiện thì vạn pháp khởi, từ đây để trụ, dùng lời đếm không tận. Khải công cho bất giác căn bản động niệm trước nhất là gốc vô trụ. Quốc Sư truyền Đăng Thanh Lương đáp với Hoàng Thái Tử Tâm Yếu rằng: Chí đạo vốn ở tâm mình, tâm pháp vốn vô trụ, tâm thể vô trụ cái biết không mờ mịt. Quốc Sư An nói Kinh Kim Cang nói Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm.

Vô sở trụ: Không trụ sắc, không trụ thanh, không trụ mê, không trụ ngộ, không trụ thể, không trụ dụng.

Nhi sinh kỳ tâm (mà sinh tâm mình): Là tất cả chỗ mà hiển lộ nhất tâm (274) Nếu trụ vào tâm thiện hiền tiền, nếu trụ vào tâm ác thì ác hiện hữu, bổn tâm bị ẩn mất. Nếu vô sở trụ thì mười phương thế giới chỉ là nhất tâm.

Lục Tổ hỏi Hà Trạch, tri thức từ xa đến thật gian khổ vậy có đem gốc đến không? Nếu có gốc thì hợp với cái biết của ông chủ mình, thử nói xem. Trạch thưa: Lấy vô trụ làm gốc, cái thấy chính là chủ. Hà Trạch Hiển Tông Kỳ nói: Sau khi Thế Tôn diệt độ, hai mươi tám Tổ Tây Thiên, đồng truyền cái tâm vô trụ. Gốc vô trụ này là việc bổn phận nên gọi là vô trụ. Nếu lấy chơn vọng dụng hợp thì, một có nhiều loại, hai không có nhiều thứ chỗ Pháp Nhãn đáp trích trong Bảo Tạng Luận, hình khởi mà thể chất chưa có, tên khởi chưa có tên, hình và tên đã là hình tượng, hơi tàn tiếng loạn.

Tuyết đậu dơ gậy lên nói: Đại chúng! Gậy này là hình và tên đều đưa lên, hình tức vô hình, tên tức không tên, giống như kẻ mù không thấy biết, chỉ nhận cái đoạn vô hình không có tên họ chính là tột cùng, cô phụ Pháp Nhãn, trái với Vĩnh Minh Thiền Sư Thọ Duy Tâm quyết nói, không có một tên không truyền bá hiệu của Như Lai, không có một vật, không bày tỏ hình bên kia, lại có giống nhau cô lậu ít nghe, không chịu nghiên cứu lý tham vấn, chỉ nói: Xưa nay có rất nhiều Vạn Tùng nói xong rất nhiều đời. Ông ta nói: Làm sao tránh được. Vạn Tùng nói: Xưa nay rất ít ông chỉ lãnh hội như thế, nhờ tham vấn Pháp Nhãn và yết kiến Thiên Đồng.

Tụng rằng:

Hết dấu vết, bặt tin tức
Mây trắng không căn gió mát không sắc
Tan khắp bầu mà chẳng phải tâm
Nắm giữ quả đất mà nào có lực
Rỗng suốt mọi nguồn thiên cổ
Đúc nên khuôn mẫu muôn loài
Sáu trần đạo hội: Chốn chốn Phổ Hiền
Lầu các môn khai: Từng từng Di lặc.

Sư nói: Thấy vô hình khắp trời vòng đất, nghe không tiếng, viên âm không hỏi. Mây không có căn, thái hư bị áng mây lắp che. Gió tuy không màu, đại địa bị gió lay động. Lưu Vũ Đoan Công hỏi Vân Cư: Mây từ đâu đến?

Vân Cư đáp: Từ chỗ Đoan Công hỏi đến Công vui vẻ mà cảm tạ

Vân Cư lại hỏi: Lời hỏi từ đâu đến? Công không nói

Tây Thiền và Quan Viên thứ tự ngồi.

Thiền nói: Gió màu gì? Quan viên không nói

Thiền lại hỏi Tăng: Tăng đưa y bá nạp lên nói: Phô bày ở trong phủ

Thiền nói: Dùng bao nhiêu lụa? Tăng nói: Chớ dính dáng

Thiền không nói

Vân Môn thay nói: Đồ lời của ông Tăng mày Tuyết Đậu làm hai bài tụng:

Mưa từ đâu đến
Gió màu sắc gì
Vân Môn vạn trượng từng giữ khách đêm
Tiến thối ai là người đối mặt
Gió màu sắc gì
Mưa từ đâu đến
Không cần đàn chỉ
Cửa lầu các mở
Sóng nhấp nhô phương Nam chưa lại
Bài tụng vô chủ của Thiên Đồng
(Mây trắng không căn
Gió mát màu gì
Tụng lập tất cả pháp
Vung càn che mà vô tâm
Giữ khôn chở mà có sức).

Bài Minh Tâm Vương của Đại Sĩ Thiện Tuệ,

Quán tâm không vương
Huyền diệu khó lường
Vô hình vô tướng
Có đại thần lực

Quản Tử nói: Nước phát sinh mà không chảy gọi là nước sâu, xa mà chảy gọi là nguồn.

Trước thượng cổ, nguồn sâu thiên cổ, vạn tượng từ đây mà hình thành.

Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện trong Kinh Hoa Nghiêm:

Phật thuyết, Bồ tát thuyết, La sát thuyết, chúng sinh thuyết, ba đời tất cả thuyết.

Lại Pháp Nhãn không thấy Phổ Hiền, thấy và không thấy đều là Phổ Hiền. Nếu không thấy ở nơi không thì không gọi là Phổ.

Phẩm Nhập Pháp Giới: Bấy giờ, Bồ tát Di Lặc trước đến lầu các gãy móng tay ra tiếng, cửa ấy liền mở, bảo Thiên Tào vào, cho đến đều thấy tam thiên đại thiên thế giới trăm ức tứ thiên hạ, trời Đâu Suất Đà mỗi mỗi đều có Phật Di Lặc. Lại có tụng rằng:

Di Lặc chơn Di Lặc
Hóa thân trăm ngàn ức
Dạy người lúc bấy giờ
Mọi người đều không biết

Đây là tiểu chỉ lập tất cả pháp, có thấy Pháp Nhãn không? Thường vì chỗ đưa khách, nhớ được lúc xa nhà.

TẮC THỨ 75. LÝ THƯỜNG CỦA THỤY NHAM

Dạy chúng: Gọi như như chính là biến đổi, trí không đến nơi, thiết kỵ nói, ở đây có phần tham vấn không?

CÔNG ÁN: Thụy Nham hỏi Nham Đầu: Thế nào là lý bổn thường

Nham Đầu đáp: Động

Thụy Nham nói: Khi động thời thế nào?

Nham Đầu nói: Không thấy lý bổn thường

Thụy Nham: Lặng suy nghĩ

Nham Đầu nói: Chịu thì chưa thoát khỏi căn trần, không chịu thì mãi mãi chìm trong sinh tử

Sư nói: Thiền Sư Nham Thụy Nham ở Đài Châu người đất Mân họ Hứa lúc đầu hỏi Nham Đầu, đặt tên lập chữ gọi là lý bổn thường. Nham Đầu một phen bỏ qua, chỉ nói với chiếu phá động Thụy Nham đáng cho ba mươi gậy, đâu thể tránh khỏi, ông ta còn không nhìn lại nguy vọng. Nói lúc động là thế nào? Rờ đầu cọp dắt đuôi cọp. Nham Đầu nửa say nửa tỉnh lại bỏ qua, chỉ nói chiếu phá, không thấy lý bổn thường, nhà vuông lớn, dung vật như thế.

Thụy Nham mới lặng, ở đây chính là đến nhiều nơi si lối trước núi cây khô. Nham Đầu đã là không tiếc thân mạng, và cắt đứt lối đi. Phẩu Khai Dương Dương Trường An Quan Đạo nói: "Chịu thì chưa thoát khỏi căn trần, không chịu thì mãi chìm trong sinh tử".

Quy Sơn nói là móng vuốt hang pháp, nắm giữ cuộc sống, lược không nhàn rỗi để công phu. Trong hội của Giáp Sơn có một vị Tăng đến Thạch Sương, vào cửa liền nói không rõ.

Sương nói: Không hẳn là Xà Lê. Tăng nói: Như thế thì trân trọng

Lại đến Nham Đầu cũng như trước. Đầu bèn gọi hai tiếng Tăng nói: Như thế thì trân trọng, mới trở bước.

Nham Đầu nói: Tuy là hậu sinh, cũng có thể cai quản.

Tăng trở về nêu cho Giáp Sơn, ngày mai lại Sơn thượng đường gọi Tăng nói những lời trước đó đúng như pháp.

Sơn nói: Đại chúng lãnh hội được không? nếu không có người nói lão Tăng "không tiếc lông mày", nói đi.

Bèn nói: Thạch Sương tuy có dao giết người, lại không có kiếm cứu sống người. Nham Đầu lại có dao giết người cũng có kiếm cứu người sống. Lâm tế sau này gọi đây là bảy việc tùy thân. Nham Đầu thấy Thụy Nham chí thành thưa hỏi, chẳng phải là lúc thăm dò cơ phong cho nên thương vật, rũ lòng từ đạo nhân gặp nhau. Thụy Nham theo lời nói được mà lãnh ngộ, sau đó tự gọi là chủ nhân ông, chớ bị người dối lừa, bởi vì từng gặp tay độc muôn kiếp khó quên, lời này xưa nay không có người nào nêu lên, không phải là Thiên Đồng, thì nương vào ai mà xem. Tụng rằng:

"Viên châu chẳng xoi lỗ
Ngọc khối chẳng phải mài
Đạo nhân vốn quý không góc cạnh
Khẳng định vất đi, căn trần không
Thoát thể vô y, đời tự tại".

Sư nói: Đời ghi lại Phan Nhạc và Hạ Hầu Trầm là bạn thân, hai người đều tính tình tốt đẹp. Trương cho là ngọc sáng của họ Hòa không tỳ vết, viên ngọc của Hầu tròn mà không hỏm, gọt gậy trúc vuông tròn tuyệt bỏ mền lụa tím. Ngọc trắng nghiền làm lược ngà voi, nhồi vàng rồng làm gân đá ngọc, trên dây cung kết cúc áo, trên cái bát đặt cái kháp mộng. Ông thử hồi quang định tỉnh xem, người nào không như thế.

Bách Trượng nói: Linh Quang chỉ sáng chiếu thoát căn trần, đã chịu thì chưa thoát căn trần. (275) chịu đường lối thì căn trần tự rỗng rang. Lục căn, lục trần đã không thì lục thức tự quay về biển giác, phàm vật gì có góc nhọn bén thì không thể làm cho tròn được. Muốn sống hiên ngang, không thăm dò không nương tựa chỉ một bề chịu hay không chịu mở mắt, tự nhiên không không trụ vào bờ này, không trụ bờ kia, không trụ giữa dòng, cho nên Động Sơn nói nửa chịu, nửa không chịu, Sớ Sơn cho là chịu dạ không được toàn không. Có biết người này quy về tín toán không? Vòng vàng, diệu môn giữ không ở, đi khác đường lại luân hồi.

TẮC THỨ 76: BA CÂU HỎI THƯ SƠN

Dạy chúng: Một câu rõ ba câu. Ba câu tỏ một câu, ba và một không liên can, rõ ràng hướng một đường. Hãy nói: Câu nào ở trước?

CÔNG ÁN: Thư Sơn dạy chúng: Câu thứ nhất lãnh hội được thì làm thầy của Phật Tổ. Câu thứ hai lãnh hội được thì làm thầy của trời người. Câu thứ ba lãnh hội được thì tự cứu không được.

Tăng nói: Hòa Thượng là lãnh hội câu thứ mấy? Sơn nói: Tăng tà ở canh ba xuyên qua phố chợ

Sư nói: Làm ba câu bắt đầu từ nơi Bách Trượng Đại Trí Tông ở nơi Kim Cang Bát Nhã.

Bách Trượng nói: Phàm nói giáo điều ba câu liền nhau: Đầu, giữa, sau đều khéo léo. Câu đầu cần phải dạy gọi ông ta phát tâm thiện, câu giữa phá tâm thiện, câu sau mới gọi là toàn thiện, thì Bồ tát tức là phi Bồ Tát ấy gọi là Bồ Tát, pháp, phi pháp, phi phi pháp đều như thế. Nếu chỉ nói một câu thì làm cho chúng sinh vào địa ngục. Nếu nói một lúc cả ba câu thì ông ta tự vào địa ngục, không liên can đến việc giáo chủ, nói đạo như ngày nay xem biết là Phật chính mình là trước thiện, không giữ như ngày nay biết gọi là giữa thiện, cũng không làm không giữ cái chi giải gọi là sau thiện. Vân Môn có lúc nói: Trên trời che trùm càn khôn, hạng căn cơ lanh lợi nhìn qua liền biết không liên can đến duyên Xuân, làm sao đảm đương.

Tự thay nói: Một máy tiện phá ba cửa. Tuy có ý này nhưng chưa lập làm ba câu. Sau đó Đại Sư Đỉnh Châu Đức Sơn Đệ Cửu Thế Viên Minh húy Duyên Mật thượng đường nói:

Đức Sơn có nói ba câu, một câu che trùm càn khôn, một câu theo sóng vỗ, một câu cắt đứt các dòng. Sau đó Thiền Sư Đĩnh Châu Phổ An Sơn Đạo tụng ba câu trên.

Câu một: Che trùm càn khôn, càn khôn càn vạn tượng, địa ngục và thiên đường, vật vật đều thấy chơn, mọi việc dùng không tổn thương.

Câu hai: Là tụng cắt đứt các dòng, tích đất thành núi mỗi mỗi đều là trần ai. Lại định luận bàn huyền diệu, nước đổ bình rơi.

Câu ba là tụng theo sóng vỗ nói miệng lanh lợi lưỡi hỏi, cao thấp phải không thiếu, lại như tùy bệnh cho thuốc, xem xét ở tạm thời.

Ngoài ba câu đương nhân nêu cử xướng, ba câu đâu thể bao quát có hỏi việc thế nào. Nam Nhạc và Thiên Đồng thường chỉ bày tụng này là Vân Môn làm, bài này xem đọc không rõ. Đạo nối pháp với Đức Sơn Mật. Sơn Mật nối pháp nơi Vân Môn. Vân Môn tuy có nói trên trời che trùm càn khôn, một máy tiện phá ba cửa. Nhân Mật Sơn đưa ra, Đạo công tụng nó. Tổ thuật ba đời mà ba câu mới rõ. Đây với ba câu đại dương, ba huyền ba yếu, đại đồng tiểu dị. Thủ Sơn dạy chúng: Câu thứ nhất lãnh hội được là làm thầy của Phật Tổ. Hoàng Bá làm thủ tọa cho Nam Tuyền. Một hôm nêu Tuyền tọa vị. Tuyền đến hỏi: Thủ Tọa hành đạo bao nhiêu năm?

Hoàng Bá nói: Trước Phật Oai Âm Vương

Nam Tuyền nói: Như con cháu của Vương lão Sư Bá trở về chỗ ngồi của mình. Kỉnh Thanh nói Tỳ Lư có Sư pháp, thân có chủ, cho đó là người Phật Tổ hướng thượng. Điều này cho là câu thứ nhất lãnh hội được thì làm thầy Phật Tổ. Linh thọ đưa thư nói: "Trong giảng đường thủ tọa là nhãn mục của trời người". Ông chớ xem Vạn Tùng nói như thế, bèn cho Nam Tuyền làm thầy của Phật Tổ. Vân Môn chỉ có thể làm thầy trời người có thể nói là trước mặt người si không được nói mở Vạn Tùng lại nêu câu một hai cho là tiêu chí.

Câu tự cứu không được: Không vào địa vị tổ, làm sao nói đủ?

Tăng lại hỏi: Hòa Thượng lãnh hội câu thứ mấy?

- Gai trong búa mục

- Sơn nói: Trăng tàn canh ba xuyên qua phố chợ.

- Đây chính là hành nhân ở ngoài núi xanh.

- Thiên Đồng thấy lời này không có người buông miệng bèn đến chỗ tay bè chân gai, lại làm ra bài tụng:

Tụng rằng:

Đầu lâu Phật Tổ xâu một chùm
Cung rơi chìm xuống tên thầm truyền
Người trời cơ yếu phát ngàn câu
Mây bay cuồn cuộn sấm chớp rền
Có người trong đó xem chuyển biến
Gặp nghèo thi sang, sang thi nghèo
Được viên châu vô hình hề chí đạo miên miên
Giết chết châu hề từng mảnh tim

Sư nói: "Đầu lâu Phật Tổ xâu một chùm". Sau đó có thể làm thầy của Phật Tổ, có thể gọi là ra thấu đỉnh trán của Tỳ Lư, lại đến ngồi trên lưỡi của Hóa Phật.

"Cung rơi chìm xuống tên thầm truyền". Ân Quỳ Lâu Khắc pháp nói: Là bình ba lớp, tròn đều là thước ngay thẳng, lầm đứng ở trên kiệu mới còn do dự, làm miệng rồng vàng phun nước, chuyển rót vào trong cỏ lau trên lộng đúc vàng làm ty thần, đủ áo mão, hai tay cầm tên, lại trong quân thầm sai, trong đêm đưa truyền tên. Lời này nói điềm báo trước chưa phân rõ.

Lãnh hội được thì làm thầy của Phật Tổ, mới rơi vào ngày nay làm đầu thứ hai, lại trên đường trời người làm một trường tiểu ca. Kinh Tâm Địa Quán, Điện Quan Tam muội nạp Tăng gọi là chỗ cấp tốc. Nếu là người trong đó có lúc đi trên đầu Phật Tổ, có lúc đi trên đường trời người, bầy trâu đi trong chúng sinh, Vương hình công thấy buồn lo. Thi nói: Các trường vui buồn một giàu lại một nghèo, tâm biết vốn tự đồng, cho nên không có oán ưa, Thiên trời đất của Trang Tử nói Hoàng Đế dạo chơi phía Bắc Xích Thủy, lên gò cao nhìn phía Nam rồi quay về, quý châu huyền diệu ấy, nếu biết mà tìm không được, hoặc lìa châu mà tìm không được, hoặc bị mắng nhục tìm mà không được. Nếu hình không có, hình không được.

Hoàng Đế nói: Lạ thay! Hình không có mới có thể được

Thiên Dương Sinh Bào Đinh vì Văn Huệ Công Giải Ngưu nói: Người khí tiết có nhàn, mà người dao nhọn thì không có hậu, lấy không hậu vào có nhàn, sợ hãi nơi con dao ắt có đất khác. Bởi thế chín mươi năm mà dao nhọn hoặc mới phát không sợ hãi. Văn Ngu Quân nói: Khéo thay! Ta nghe

Bào Ninh nói được dưỡng sinh. Tụng hai việc này, trăng tà canh ba xuyên phố chợ, chí đạo miên miên mật mật, giống như cung rơi thầm huyền tên mãnh tâm đỏ là người, như vung dao sợ hãi được châu không hình. Người thời nay thấy Thiên Đồng dùng

Trang Tử bèn muốn Lão Trang Tử sấm đồng với Chí đạo. Thật không biết người xưa mượn đường đi, quang cảnh tạm thời, bỗng có người ra nói. Trang Tử há không biết chỗ hành cước của Thủ Sơn, chỉ một bề nói "trăng tà canh ba xuyên qua phố chợ" là ngoại thiên hay nội thiên.

TẮC THỨ 77: TÙY PHẦN CỦA NGƯỠNG SƠN

Dạy chúng: Như người vẽ trên không đặt bút liền sai, đâu kham được làm kiểu làm dạng, kham cái gì?

Vạn Tùng đã lộ bày xuyên suốt, có nương vào điều mà không nương vào lệ.

(276) CÔNG ÁN: Tăng hỏi Ngưỡng Sơn: Hòa Thượng có biết Phật không?

-Tùy phần.

Tăng bèn đi quanh bên phải một vòng rồi nói là chữ gì? Sơn viết trên đất chữ Thập (+)

Tăng đi quanh một vòng bên trái rồi nói là chữ gì? Sơn đổi chữ thập viết thành chữ vạn

Tăng vẽ tướng một vòng tròn lấy hai tay nâng lên, như cái thế Tu La nắm mặt trời mặt trăng rồi nói là chữ gì?

Sơn bèn vẽ tướng vòng tròn vây quanh chữ vạn.

Tăng bèn làm cái thế từ trên lầu xuống.

Sơn nói: Đúng thế! đúng thế, ông khéo hộ trì.

Sư nêu bài tụng: Thiên Từ Giác Khuyên Hiếu Văn nói:

Trước khi cha mẹ chưa sinh, đông lại thành một tướng vòng tròn Thích-ca còn không lãnh hội, Cadiếp đâu thể truyền.

Tổ mười bốn Long Thọ ở trên pháp tòa ẩn thân hiện tướng O

Đề Bà nói: Tôn Giả này hiện thể tướng của Đức Phật để chỉ bày cho chúng ta, dùng hình tam muội vô tướng này như mặt trăng rằm, nghĩa của Phật tánh rỗng rang sáng suốt để thí dụ điều này mà thôi. Viên tướng là người đông đô, lúc đầu làm thị giả cho quốc Sư Trung tên là Đam Nguyên và làm thư ký cho Ngưỡng Sơn nay là gia phong của Quy Phong. Hòa Thượng Minh Châu Ngũ Phong Lương thường trình bày mười bốn tắc, Tông Minh dạy Ngài làm tựa. Lương nói: Viên tướng đủ sáu tên: 1) Viên tướng 2) Nghĩa hải 3) Ám cơ 4) Tự học 5) Ý ngữ 6) Mặc luận.

Tông phái Quy Sơn nói: Đam Nguyên bão Ngưỡng Sơn: Quốc Sư truyền sáu đời Tổ Sư chín mươi bảy viên tướng. Sau khi ta diệt độ ba mươi năm, ở phương Nam có một sa di đến đây hưng phát đạo này. Ta biết rõ trước việc này về ông. Ngưỡng Sơn đã được lấy lửa nướng quay. Một hôm Nguyên bảo: Truyền viên tướng thật sâu xa bí mật.

Sơn nói: Đã đốt rồi

Nguyên nói: Đối với ông thì được, còn người đến thì sao?

Ngưỡng Sơn nói: Hòa Thượng cần ghi lại một quyển. Ngưỡng Sơn bèn ghi lại trình thưa, một không sai mất

Một hôm Đam Nguyên thượng đường dạy chúng Ngưỡng Sơn làm tướng vòng tròn O. lấy tay nâng lên, rồi vòng tay đứng, hai tay đan vào nhau chỉ vòng tròn.

Ngưỡng Sơn tiến tới ba bước làm như một người nữ lễ bái Đam Nguyên gật đầu Ngưỡng Sơn lễ bái.

Chín mươi bảy viên tướng giao nhau gọi là Tam muội La sát. Người nữ lễ bái gọi là Nữ nhân tam muội. Đây đều là tam muội, trong tam muội vương lưu xuất phổ môn thị hiện lại có phạm Tăng đến tham, Ngưỡng Sơn vẽ tướng nửa mặt trăng trên đất, Tăng đến gần thêm tướng tròn rồi lấy chân chà đi. Ngưỡng Sơn xòe hai tay Tăng rũ tay áo đi ra nói: Ta đến Đông Độ lễ Văn Thù lại gặp Tiểu Thích-ca, lại Tăng lễ bái rồi, Ngưỡng Sơn không nhìn. Tăng hỏi Hòa Thượng có biết chữ không?

Ngưỡng Sơn nói: Tùy phần

Tăng vẽ tướng vòng tròn O, Ngưỡng Sơn lấy tay áo chà đi. Tăng lại làm tướng nữa vầng trăng, Ngưỡng Sơn dùng hai tay làm cái thế ném đi. Tăng nhìn, Ngưỡng Sơn cúi đầu, Tăng nhiễu quanh Sư một vòng, Ngưỡng Sơn đánh, Tăng liền ra Ngưỡng Sơn này vách đứng ngàn trượng, không khác với cơ phong của Đức Sơn và Lâm Tế.

Ngưỡng Sơn ngồi, lại có Tăng đến làm lễ. Ngưỡng Sơn không nhìn

Tăng hỏi: Thầy biết chữ không? Ngưỡng nói: Tùy phần

Tăng nhiễu quanh bên phải Sư một vòng nói là chữ gì? Loại này trình bày phải đợi dạy hữu thức tình, đâu thể thành yếu chỉ. Nếu đều không có đạo lý thì phàm Thánh ở Tây Thiên và Đông Độ đồng tham. Trong hội Quán Âm có một Tăng đến tham vấn Nham Đầu, lấy tay trái vẽ tướng tròn lại tay phải làm tướng vòng tròn, lại ở giữa làm tướng tròn muốn thành cũng chưa thành. Nham Đầu lấy tay gạt Tăng không nói. Nham Đầu hét rồi đuổi ra. Tăng mới ra tới cửa. Đầu gọi lại hỏi: Ông là Quán Âm ở Hồng Châu đến phải không?

Tăng nói: Đúng vậy

Nham Đầu hỏi: Chỉ như làm viên tướng ở bên trái là thế nào? Tăng đáp: Là hữu cú

Nham Đầu nói: Viên tướng bên phải thì sao?

Tăng đáp: Là vô cú

Nham Đầu nói viên tướng ở giữa là thế nào? Tăng đáp: Là không hữu cú, không vô cú Đầu nói: Chỉ như ông như thế lại thế nào?

Tăng nói: Như dao vẽ trên nước Nham Đầu liền đánh đuổi ra

Tăng này không được Tông chỉ viên tướng, vọng sinh xuyên tạo.

Nếu không phải là Nham Đầu, hình như bị một trần hoặc loạn. Theo vị Tăng này thấy, Ngưỡng Sơn hỏi biết chữ không? Bèn đi quanh bên phải một vòng kỹ lưỡng xong rồi.

Ngưỡng Sơn chú chữ thập (+) cũng chú rõ, nói cũng nói phá lại cần mặt sau có nhiều cơm cháo không? Ở đây đợi đến như thế. Lúc đầu mới hỏi Sư biết chữ không, chỉ nói từ xưa nay văn ít, xem ông ta thế nào. Không thấy thuở xưa có một vị Tăng sống nhàn rỗi luống qua ngày. Có một Tăng khuyên: Thượng Tọa sống như vậy thật để thời gian qua vô ích.

Tăng nói: Ông đợi dạy ta làm sao được?

Vị Tăng khuyên nói: Sao không xem kinh?

Tăng nói: không biết chữ

Tăng khuyên nói: Sao không hỏi người?

Tăng nói: Là chữ gì?

Vị Tăng khuyên: Không nói

Có thể gọi là văn không thêm thắt, nhạc không thêm lời

Tăng đi một vòng bên trái nói: Là chữ gì? Đây giống như kẻ tầm thường từ Đông qua Tây, từ Tây qua Đông, đánh vào chân bên trái. Đây là ý của giáo. Đánh vào chân bên phải đây là phải đây là ý của Tổ, là đồng hay là khác

Ngưỡng Sơn dời sao đổi trăng, đổi chữ thập thành chữ vạn phạn ngữ là Tu La, Trung Hoa dịch là Phi Thiên

Phạn ngữ là hầu, Trung Hoa dịch là chướng tế vì tay chướng ngại mặt trời mặt trăng. Vì Tăng này vẽ tướng tròn giống như thế Tu La cầm mặt trời mặt trăng. Chín mươi bảy loại viên tướng gọi là Tu La Tam Muội Phạn ngữ là Lầu Chí, Trung Hoa dịch là Đề Khấp. Hiền Kiếp Thiên Phật, làm con của ngàn vị vua sau này được thọ ký, sau cùng thành Phật liền khóc lóc nói: Tôi tại sao phước mỏng, cuối cùng được thọ mạng.

Bỗng lại cười nói: Ta phải lấy hết chín trăm chín mươi chín Phật phương tiện quốc độ nay chính là vị thần hộ pháp cầm cái chày Tăng sau này làm cái thế lầu chí, ý ấy có thể biết.

Ngưỡng Sơn nói: Đúng thế! Đúng thế.

Đây là Chư Phật hộ niệm, ông cũng như thế. Ta cũng như thế, ông khéo hộ trì, lành thay! Lành thay! Đáng đi Tăng ấy lễ tạ rồi lướt hư không mà đi. Bấy giờ có đạo giả thấy Tăng kia, qua năm ngày sau đến hỏi Ngưỡng Sơn. Ngưỡng Sơn nói: ông có thấy không?

Đạo Giả nói còn thấy ông ta ra khỏi cửa là lướt hư không mà đi.

Ngưỡng Sơn nói: Đây là La Hán Tây Thiên đến dò xét ta

Đạo Giả nói: Con tuy thấy rất nhiều Thứ tam muội, nhưng chưa luận được lý này.

Ngưỡng nói: Ta lấy nghĩa để giải thích cho ông. đây là tam muội bát chủng, là biển giác thành biển nghĩa, thể nó thì đồng, nhưng nghĩa của nó thì có nhân có quả, cùng thời dị thời, đều không có lìa tam muội ẩn thân. Cho nên nói tâm niết bàn dễ đắc, trí sai biệt khó tỏ, thử xem Thiên Đồng làm sao hạ thủ.

Tụng rằng:

Vòng đạo rỗng không không lấp đầy
Chữ của không ấn chưa hình thành
Khéo vận trời xoay và đất chuyển
Thầm bày võ vĩ văn kinh
Buông ra nắm lại
Chỉ đứng đi khắp
Cơ phát cửa huyền hề trời xanh nổi sét
Mắt hàm ánh tú hề ban ngày thấy sao

Vòng đạo rỗng không, không lấp đầy, chỗ của người này trâu không thấy, chính là lúc trăng sáng. Từ Giác nói: Ai biết sự việc sau này, lại là chưa phân trước đó. Vòng đạo Trang tử nói là then chốt bắt đầu được ở trong vòng này, vì nó ứng vô cùng. Thiên Đồng nhờ cái thế tụng viên tướng.

Chữ của hư không (277), tuy chữ thập (+) sữa thành chữ vạn, thật ra không phải văn tự của thế gian có thể chấp. Đạp phó đáp với Đạt Ma, như điều con thấy không chấp vào văn tự, không được lìa văn tự ấy là cái dụng của đạo. Đại Ninh Khoan Thiền Đầu đến Pháp Xướng gặp công làm tướng này. Ninh bèn ra làm việc. Ngày mai thượng đường, trước pháp tòa nói: Hôm qua công án như thế nào?

Ninh làm tướng này rồi lại lấy chân chà đi xướng nói: Khoan Thiền Đầu gọi là không luống được bèn thăng tòa nói: Trời xanh bỗng nổi tiếng sấm. Cửa nhà hạ ba thước sóng vỗ tràn, bao nhiêu đầu sừng làm rồng, nhái ếch y theo được mắt tỏ. Bài tụng này cơ phát cửa huyền giống với Thiên Đồng: "Trời xanh nổi sét cùng tham, trời xoay đất chuyển, võ ngang văn dọc, đều là hai vòng phải trái, chữ thập và chữ vạn là mạch máu, buông ra nắm lại, chỉ đứng đi khắp".

Tụng: Tu là nắm mặt trời. Lầu Chí bao vây chữ Vạn. Khen lành thay!

Xuân Thu Đề Từ nói: Thể của trời, bên trong bao hàm đất, trời trăng thuộc về đất. Xong trời đất có cao thấp, bốn thời có lý thăng trầm, trời trăng có độ vận hành, trăng sao từng có thứ lớp, cho đến các ngôi sao vận chuyển, bao vây như vành xe nên nói là thiên luân.

Hà Đồ Quát Địa Tượng nói: Dưới đất có tám trụ, trụ rộng mười vạn dặm có 3600 trục, cùng liên kết với nhau. Gọi là thông cả tướng hang lỗ, núi sông. Nhà chuyên môn nói phá Đông Tây của đất là ngang, Đông Tây là dọc. Lại Văn là trời ngang võ là đất dọc. Không có văn thì không hoài bão, không có võ thì không thể ngự loạn.

Mục Châu dạy chúng: Bày ra cũng nơi ta, nắm lại cũng nơi ta. Thế nào là bày ra?

Châu nói: 3x9 = 27, Bồ Đề Niết Bàn, chơn như giải thoát tức tâm tức Phật. Ta nói như thế, ông lại thế nào

Tăng nói: Con không nói như thế

Châu nói: Bát rơi xuống đất vỡ thành bảy mãnh Tăng nói: Nắm lại là gì?

Châu thu tay mà ngồi

Lão Tử nói: Tịch hề liêu hề, chỉ đứng mà không đổi, đi khắp mà không mệt. Cơ phát như điện chớp, như đá xẹt, mắt có thần quang gọi là điện.

Ban ngày thấy sao, như thế giống như dấu cá bơi trong nước, bóng cây trong tối, mắt thịt không thể nhìn thấy.

Giác Phạm Kỳ Linh Nguyên nói: Ý bình sinh bóng cây trong tối, dấu cá bơi trong nước là bệnh cơ sau này, bệnh tưởng thấy dung không trụ trước, tựa cây nhàn xem tối mây về, lại có biết chỗ hành lý của Ngưỡng Sơn không? Buổi sáng gà chim đêm thâu dệt vải, sợi chỉ trong đêm thật khó thông.

TẮC THỨ 78: CÁI BÁNH CỦA VÂN MÔN

Dạy chúng: Xuyên trời tìm giá cả, cùng đất để trả lời trăm kế tìm cầu, một phen hổ thẹn, còn có biết tiến thối biết dừng lỗi không?

CÔNG ÁN: Tăng hỏi Vân Môn: Thế nào là lời siêu Phật vượt Tổ?

Môn đáp: Cái bánh

Sư nói: Vân Môn Thượng đường nói: Một lời mới phát ra, ngàn sai đồng vết, bao hàm cả vi trần, giống như nói về hóa môn, nếu là nạp là thế nào? Nếu đem ý Phật, ý Tổ mà bàn luận ở đây, Tào Khê một đường lún xuống. Lại có người nói như thế, là nói ra được.

Tăng hỏi: Thế nào là lời siêu Tổ vượt Phật?

Vân Môn nói: Cái bánh

Tăng nói: Cái này đâu liên can gì?

Sư nói: Rõ ràng có can hệ gì?

Bèn nói: Ông chớ có làm rõ, thấy người nói ý của Tổ Sư lại hỏi đạo lý siêu Phật vượt Tổ. Ông lại gọi Phật là gì?

Gọi Tổ là gì? Thì nói siêu Phật vượt Tổ. Liền hỏi cái ra khỏi ba cõi. Ông đem ba cõi đến, có cái thấy nghe biết gì làm ngăn ngại ông, có thanh sắc pháp gì cho ông liễu rõ, liễu rõ cái chén gì?

Lại có Tăng hỏi: Thế nào là lời siêu Tổ vượt Phật?

Vân Môn nói: Ma hoàng Ở Bồ Châu, phụ tử (thuốc) ở Ích Châu Lại nói: Này này, ta hỏi ông, những người vác cây gậy ngang vai.

Ta tham thiền học đạo, liền tìm đạo lý siêu Phật vượt Tổ. Ta lại hỏi ông: Trong mười hai thời đi đứng ngồi nằm, đại tiểu tiện, cho đến ở trong rau, trong chợ mua bán thịt dê ở trên bàn, sâu bọ còn có đạo lý siêu Phật vượt Tổ không?

Phật Quả nói: Có người làm một hình vòng tròn, trên đất thêm bùn, thêm gông thêm cùm.

Vạn Tùng nói: Nếu muốn gỡ gông mở cùm, hỏi lấy Tụng Cổ của Thiên Đồng. Tụng rằng:

(Bánh nói là siêu Phật vượt Tổ
Trong câu không có vị nếu là tham
Nạp Tăng một ngày nếu biết no
Mới thấy mặt Vân Môn không thẹn).

Sư nói: Thiền Sư Động Sơn, Sơ Chỉ Thông Cơ tụng rằng:

Động Sơn tìm một không thể có Nói có vị là lấp bít miệng người Dù bánh ngon ngàn loại

Đâu thể làm cho người no không thích Nếu là ma quỷ nhai nuốt nhau

Giống như chó gặm xương khô, mãi đợi nhai phá thoại đầu ném qua một bên, lại gặp Vân Môn, sau khi gặp nhau thì thế nào, mỗi người da mặt dày ba tấc.

TẮC THỨ 79: TIẾN BỘ CỦA TRƯỜNG SA

Đầu bờ Kim Sa, Mã Lang về nhà chồng, chẳng phải là tinh thần trong bình lưu ly giã bánh ngọt, ai dám chuyển động, không vào sợ bóng người, khó gặp được cá xứng ý, đi bước lớn khoan thai, một câu là thế nào?

CÔNG ÁN: Trường Sa sai vị Tăng hỏi Hòa Thượng Hội khi chưa thấy Nam Tuyền thời thế nào? (sáng sớm có cháo) Hội im lặng hồi lâu:

Tăng nói: Sau khi thấy thời thế nào?

Hội nói: Không thể có điều khác.

Tăng trở về kể cho Trường Sa nghe

Trường Sa nói: Người ngồi trên đầu sào trăm thước.

Tuy nhiên được vào cũng chưa phải là chơn, phải tiến bước trên đầu sào trăm thước, mười phương thế giới là toàn thân.

Tăng nói: Đầu sào làm sao tiến bước?

Trường Sa nói: Núi Lãng Châu, sông Lễ Châu. Tăng nói: Không lãnh hội

Trường Sa nói: Vua hiện hòa trong bốn biển năm hồ

Sư nói: Đại Sư Trường Sa Chiêu Hiền ở Hồ Nam húy cảnh Sầm. Giác Phạm nói: Thiền Sư là cháu của Đại Tịch, con của Nam Tuyền, anh của Triệu Châu. Nạp Tăng bấy giờ khâm phục Ngài như Ngưỡng Sơn. Như dưới đây mà người cho là Sầm Đại Trùng

Thượng đường nói: Ta nêu một bề tuyên dương Tông giáo, trong pháp đường cơ sâu một trượng, việc không hộ mình ta nói mọi người nói, khắp mười phương pháp giới là mắt của Sa Môn, khắp mười phương pháp giới là toàn thân của Sa Môn, khắp mười phương thế giới là ánh sáng của chính mình, khắp mười phương thế giới ở trong ánh sáng của mình khắp mười phương thế giới không có một người không phải là chính mình. Ta nói với mọi người ba đời Chư Phật cùng pháp giới chúng sinh là ánh sáng Ma ha Bát nhã. Khi ánh sáng chưa phát chúng sinh các ông ủy thác chỗ nào. Khi ánh sáng chưa phát còn không có tin tức Phật, không có tin tức chúng sinh, thì từ đâu mà được núi sông quốc độ. Trần Sa sai Tăng hỏi Am Chủ Hội, chủ là môn đồ của Nam Tuyền thầm chứng khi chưa ra đời (278) Truyền Đăng Lục trình bày trong ngữ cú không có cơ duyên sau này. Nhưng lời này đã còn nên tập hợp làm một truyền, cũng không phải là ngoài phần, Tăng bị chuyên sai đi gặp Am Chủ, truyền pháp chủ của Trường Sa rằng: Am chủ khi chưa gặp Nam Tuyền thời thế nào? Hội im lặng.

Tăng nói tiếp: Sau khi thấy Nam Tuyền thời thế nào? Hội nói không thể có điều khác.

Vạn Tùng nói: Một khi chết không sống lại. Tăng trở về kể cho Trường Sa. Trường Sa thuật kệ: người ngồi trên đầu sào trăm thước. Tuy nhiên được vào nhưng chưa phải là chơn. Đây giống như Nham Đầu, Đạo Tuyết Phong, Đức Sơn không hội được câu sau này, giống như bệnh.

Vạn Tùng thường nói với người: Giống như người đem gia môn Tổ phụ, sinh sản nghề nghiệp cùng quyến thuộc tự thân, một khi khế hợp thì bán đi, dù được cái bình thủy tinh, suốt ngày đem theo bên mình gìn giữ. Giống như mắt sáng chớ dạy Vạn Tùng thấy nhất định là lấy phá, nhất định dạy y buông tay, dơ tay, làm kẻ không kỵ húy cuộc sống.

Thắng Mặc nói: Buông tay treo dưới bờ, phân thân trong vạn tượng. Sau này núi Lãng Châu, Sông Lễ Châu bốn biển năm hồ. Vua giáo hóa trong đó, mới có thể thờ con trâu Thiên Đồng. Tụng rằng:

Một tiếng gà phá mộng ngọc nhân Nhìn lại cuộc

Có tin Xuân sấm (phục) trùng nỡ Đào lý vô ngôn tự thành đường. Đến thời tiết gắng cày

Ai ngại ruộng Xuân bùn lút cẳng.

Sư nói: Thiên Đồng được tam muội siêu phương đến chỗ Am Chủ cột chặt cần tre không dám chuyển động. Bỏ động nếu một bề đi như thế trên pháp đường cỏ sâu một trượng

Ưu Ba Cúc Đa, có người chấp vào thân thấy, cầu Tổ hóa độ. Tổ nói: Pháp cầu độ là phải tin lời ta, không trái giáo của ta

Người nói: Đã đến theo thầy, cố nhiên phải nghe lệnh. Tổ biến hóa một cái bờ hiểm trở, núi cao cây đứng thẳng bảo ông ta leo lên cây. Lại ở dưới cây hóa làm hầm lớn sâu rộng ba khuỷu tay, Tổ bảo thả hai chân xuống. Người ấy theo nghe lời dạy liền thả hai chân xuống, rồi sai thả một tay người ấy thả một tay. Ngài sai thả thêm một tay, Người ấy nói: Nếu thả một tay nữa thì rơi xuống hố chết mất.

Tổ nói: Trước Ông hứa thuận theo lời ta dạy vì sao nay lại trái lời ta? Bấy giờ thân đáng yêu của người ấy liền diệt, buông tay mà rơi, không thấy hầm cây, liền chứng đạo quả.

Trường sai nói núi Lãng Châu, sông Lê Châu, nghĩa là câu khéo dùng bờ biển.

Nếu không phải là người ngọc mộng phá sinh nhai, đâu được bốn biển năm hồ một loạt đều là trời trăng

Mao Thi Tập Tập Cốc Phong, thục giục sợ sâu bọ. Xuân Phân Hậu Nhất Hầu nói: Điện là phát tiếng Hán Thư ghi: Lý Quảng Truyền ca ngợi, Đào Lý không lời tự thành lối đi.

Tông Kính nói: Đã lấp đức hạnh, không tin mà tin. Nếu đào lý tự thành lối đi lại núi Lãng Châu, sông Lễ Châu. Lời này chính là việc múc bùn bên sông.

Tam Thánh ở trong hội sai Thượng Tọa Tú hỏi Trường Sa: Nam Tuyền tịch đi về đâu?

Trường Sa nói: Thạch Đầu lúc làm sa di tham kiến với Lục Tổ Tú nói: Con không hỏi Thạch Đầu lúc làm sa di tham kiến với Mã

Tổ, chỉ hỏi Nam Tuyền tịch đi về đâu?

Sa nói: Dạy ông tìm suy nghĩ

Tú nói: Hòa Thượng chỉ có cây tùng lạnh một ngàn thước lại không có chặt cây măng đá.

Sa không nói

Tú nói: Cám ơn lời đáp của thầy

Sa cũng không đáp Tú về nêu cho Tam Thánh nghe Thánh nói: Nếu thật như thế còn hơn Lâm Tế bảy bước

Thánh đích thân lên phương trượng nói: Hòa Thượng đáp lời Sa có thể gọi là trước sáng sau tuyệt dứt.

Sa không đáp

Thánh nói: Ta xưa nay nghi cái gã này Phật Ấn tụng rằng:

Khách thấy Trường Sa đồng đường lối Sai người nương theo tìm gia phong Tu Di vạn trượng mài kim cổ

Cắt cỏ lượng trời uổng dụng công

Người xưa đem chỗ định phóng cần tre được tiến bước khi phóng đi đem cái được định vách đứng ngàn trượng vì sao tự do tự tại như thế. Trong thành Hồ Nam thích lo cho dân, gạo hết củi dư đủ bốn làng.

TẮC THỨ 80: THIỀN BẢN CỦA LONG NHÃ.

Dạy chúng: Âm lời ít tiếng, đại khí thành muộn thật bận rộn trong 100 chợ, giả vờ đợi bảy cổ ngàn năm, khinh mạn. Hãy nói là người thế nào?

CÔNG ÁN: Long Tuyền hỏi Thúy Vi: Thế nào là yếu chỉ Thiền Tông?

- Qua lấy thiền bản đưa cho ta

- Nha lấy thiền bản đưa cho Thúy Vi

- Vi lấy gậy liền đánh

Nha nói: Đánh thì đánh, quả thực không có yếu chủ của Thiền Tông.

Tế nói: Lấy bồ đoàn đưa cho ta Nha lấy bồ đoàn đưa cho Lâm Tế

Nha nói: Đánh thì đánh, quả thực không có ý chỉ của Tổ Sư

Sau đó Nha ở trong Viện, Tăng hỏi: Hòa Thượng năm ấy hỏi ý Tổ Thúy vi Lâm Tế, hai Tôn

Giả rõ chưa (nghèo lo nợ cũ)

Nha nói: Rõ thì rõ, quả thực không có ý Tổ Sư

Sư nói: Thiền Sư Cư Đôn núi Long Nha Hồ Nam lúc đầu tham vấn với Thúy Vi, Lâm Tế. Sau đó tham vấn Đức Sơn Động Sơn. Ngày nọ Thiền Sư hỏi Động Sơn. Thế nào là yếu chỉ thiền Tông?

Động Sơn đáp: Đợi nước chảy ngược dòng rồi nói với ông? Sư ngay đây liền ngộ.

Phật Quả nói: Long Nha lúc ấy lấy thiền bản há không biết là đánh ông ta. sau đó Nhã ở nơi Viện Tăng hỏi: Hòa Thượng thấy hai Tôn Giả là bằng lòng ông ta hay không bằng lòng ông ta?

Nhã nói: Bằng lòng thì bằng lòng, quả thực không phải là yếu chỉ thiền Tông

Thiền Sư Phật Nhật cảo tụng:

Tứ Khanh không xuống đơn lễ bái Xưa nay dẫn dắt Hán Đế Nghi

Tuyết rơi mới biết tiết tháo của Tùng Bá Việc khó mới biết kẻ trượng phu

Tuyết đậu một bề ngược lại.

Chơn Như Tuyết nói: Thúy Phong Lâm Tế có thể gọi là bổn phận Tông Sư. Long Nhã giống như vạch cơ nhìn gió, giống như người đời sau làm rùa hay làm gương

CÔNG ÁN: Sau khi ở viện Tăng hỏi, liền nói:

Long Nhã nhìn trước ngó sau, tùy theo bệnh mà cho thuốc Đại Quy không phải vậy. Đợi hỏi hay Tôn Túc rõ hay không rõ, lấy tay làm gậy, không phải nâng đỡ Thúy Vi, Lâm Tế cũng là không cô phụ ông ta đến hỏi.

Vạn Tùng nói: Chơn như chính là chùy dưới sông, không thể phóng qua, qua thật bùa thần sau khuỷu tay Long Nhã, cần phải phân phải mắt của Thiên Đồng.

Tụng rằng:

Bồ Đoàn thiền bản đối Long Nha
Biệt gì đương cơ không tác gia
Vô ý thành cướp dưới mắt sáng
Đem bỏ dưới sông nơi bờ thiên
Hư không đâu treo kiếm
Tinh Hán lại phù sai
Không mầm cỏ biết vùi hương tượng
Không giỏ làm cho rắn sống
Ngày nay sông hồ chướng ngại gì
Sông hồ giao thông có thuyền xe

Sư nói: Bồ Đoàn thiền bản của Long Nhã, Thúy Vi, Lâm Tế đối chúng dạy y dơ ngón tay, vì sao dùng không ra. Bách Trượng nêu lời về con hồ tinh. Hoàng Bá hỏi: Người xưa đáp lầm một chuyển ngữ đọa làm dã can 500 năm, chuyển không sai lầm lầm thế nào?

Trượng nói: Trước hết nói với ông, Hoằng Bá (279) trước cho một loi Trượng nói: Cho con chồn cần phải màu đỏ, có màu đỏ cần phải là con chồn. Đây chính là tác giả đương cơ. Long Nhã đều là tác gia vô ý thành cướp dưới mắt tỏ, không muốn đương cơ sấm chớp rền vang, một lúc bùng nổ. Ngày Thu trong ngàn dặm thơ xưa, mười vạn tiếng quân bên hồ đêm, gọi đó là lạnh xin, không hàm súc.

Tăng hỏi Kính Thanh: Học nhân chưa thông đạt tận nguồn, thỉnh Sư phương tiện.

Thanh nói: Là nguồn gì? Tăng nói: Nguồn chơn Nếu là nguồn chơn đâu cần phương tiện Thị giả hỏi: Vừa đến thì thành cướp y.

Thanh nói: Không

Giả nói: Là không thành cướp y Thanh nói: không

Thị giả: Tôn ý Hòa Thượng thế nào?-Một giọt nước mực hai chỗ thành rồng Thành cướp giống như thành tựu.

Sợ thành lưu bố bại nhục môn Phong

Động Sơn dặn Tào Sơn: Khi ta ở nơi tiên Sư Vân Nham, đích thân được ấn khả tam muội bảo kính, việc cốt yếu nay phó trao cho ông, ông khéo giữ gìn, không để cho đoạn tuyệt.

Nếu gặp chơn pháp khi mới có thể truyền trao, cần phải bí ẩn, không được lộ hình, Long Nha thuộc về lưu bố khó tiếp người sau.

Tăng hỏi Đồng An Tế: Thế nào là không chiến tranh?

An nói: Hư không không treo kiếm, thỏ ngọc không mang vây, nghe truyện đời. Thiên hà thông với biển, biển mỗi năm có tám con đao, có phù sai đến, không mất niềm tin. Bác vọng Hầu Trương Khiên mang lương thực theo Phù Sai, bất giác ngày đêm. Am đến một nơi thấy thành quách nhà ở, trong nhà nhiều thợ dệt, chỉ có một bậc trượng phu, dắt con ngựa đến sông, trâu không uống Khiên hỏi:

Người nào đến đây. Khiên hỏi: Đây là chỗ nào?-Ông đến đất Thục hỏi Nham Quân Bình

Chính như lời này, Quân Bình nói: Con ngày tháng có khác tinh, Phạm ngưu Đẩu, nhân lời ghi, Hán Thư chép, Trương Khiên cùng sông hồ, nói phụng sứ xa, thật không có lời Thiên Hà, chỉ nói về muôn vật. Có người mang lương thực cho phù sai đến Thiên Hà thấy trâu uống nước. Trượng Phu hỏi Quân Bình khách tinh Phạm Ngưu đẩu tức là người này. Bài tụng này Long Nhã dùng thời để phóng qua, sau khi phóng qua chớ làm chủ tể.

Tăng hỏi: Tào Sơn không có mầm làm sao lấp hương tượng Sơn nói: Xà Lê may là tác gia

Lại hỏi Tào Sơn thế nào là không có nấm cỏ? Không có giỏ là đại dụng về vô dụng của Long Nhã cho nên hương tượng không phải lừa thủng thẳng, rắn sống không phải là rắn chết.

Long Nhã dạy chúng: Người tham vấn khắp nơi phải thông ý Phật Tổ mới được. Hòa Thượng Tân Phong nói: Ngôn giáo của Phật Tổ như sinh vào oan gia, mới có phần tham học. Nếu không thấu suốt thì bị Tổ khi dối.

Tăng lại hỏi: Phật Tổ có tâm khi dối người không?

Nha nói: Ông nói sông hồ có ý ngăn ngại người không?

Lại nói: Sông hồ tuy không có ý ngăn ngại người, nhưng vì người không hiểu thấu nên sông hồ trở thành ngăn ngại người. Không được nói sông hồ không ngăn ngại người.

Long Nhã thấu suốt ý Tổ, như sinh vào oan gia cho nên nói: Tỏ thì tỏ, quả thật không có ý chư thiền Tông. Sông hồ đâu thể ngăn ngại người. Ngạn ngữ thế tục nói: Nhà mình không biết bơi, oán sông người quanh co.

Một lão Túc nói: Nhà mình không biết bơi, oán hầm của người nóng.

TẮC THỨ 81. HUYỀN SA ĐẾN HUYỆN BỒ ĐIỀN

Dạy chúng: Động thì cảnh hiện, giáo tứ là trần sinh, đề cử rõ ràng, buông hết bí mật, bổn sắc đạo nhân hiện bày làm sao nói.

CÔNG ÁN: Huyền Sa đến huyện Bồ Điền, mọi người đều cung đón. Ngày kế hỏi Đường Trưởng lão: Hôm qua nói ồn náo vậy đi hướng nào?

Tiểu Đường đưa góc ca sa lên Sa nói: Không có can hệ

Sư nói: Huyền Sa Tông nhất ở Phúc Châu húy là Sư bị mang giầy cỏ áo và ăn rau tự sống Tuyết Phong khổ hạnh thường gọi Ngài là Bị Đầu Đà. Thế gian truyền rằng: Huyền Sa không ra khỏi núi bảo vệ thân mạng không qua sông, nhân bị thương ngón chân than: Thân này chẳng có cái đau từ đâu đến. Thân này là khổ hoàn toàn không có sống mãi. Đạt Ma không đến Đông Độ, Nhị Tổ không đến Tây Thiên, bèn trở về nhân đọc Kinh Lăng Già mà phát minh tâm yếu cho nên ứng cơ phù hợp với Kinh bèn đến Tuyết Phong hỏi về lấy lòng nhân không nhường nhịn.

Phong nói: Bị Đầu Đà lại đến với người. Xuất thân ở đất Mãn thẩm rõ, bảo Công Vương Diên Bân đều tiếp lễ đón Sư, chúng thường tám, chín trăm người. Huyền Sa đến huyện Bồ Điền mọi người đều cung đón. Ngày nọ hỏi trưởng lão trưởng lão Tiểu Đường: Hôm qua ồn ào náo vậy ông đi hướng nào.

Tiểu Đường đưa góc ca sa lên, cũng không ngại đến khẩn thiết thứ nhất không được mở mắt nói hôm qua, ngày nay yên tĩnh, phải bước qua một việc đại sự Tiểu Đường không phí tâm sức, thuận tay đưa góc ca sa lên.

Sa nói: Không có liên can gì

Tiểu Đường nói chỗ nào là chỗ không có can hệ? Huyền Sa chấp nhận hay không chấp nhận.

Đại Quy Triết nói: Đại Quy thì không vậy, hoặc có hỏi chỉ gãy móng tay một cái nếu có nạp Tăng ra nói không có liên can lại chịu ông ta. Vì sao kể đại trượng phu tìm râu hổ là bổn phận Hãy nói: Lợi hại chỗ nào?

Lại nói: Tiểu Đường hoài bão lớn gặp người khác để Tăng huy thêm

Huyền Sa bổn phận lấy chùy đánh chính là ánh sáng chảy dài xưa nay. Pháp Nhãn Biệt nói: Ngày nay lại thích cười xem hai tôn túc ấy là con cháu dòng phải bấy giờ, nhìn phá dụng của Huyền Sa một bề ra bên ngoài ấy mà chính là bên trong, trong tối mũi tên bắn vào nhau, mắt của Thiên Đồng thông khắp nơi thấy cái khuyết trong cái ưu của nhà y triệt để làm bài tụng.

Tụng rằng:

Đêm thuyền xuôi theo hang
Dòng lắng nắm mái chèo
Rồng có chưa biết nước
Là nguồn sống của mình
Trách gân không ngại gì
Lão Huyền Sa, Tiểu Đường
Che lấp mũi tên nhọn
Tìm cỏ nơi bóng
Còn rùa mãi trên tổ
Dạo chơi lấy cành hoa
Lại làm thành rau kể

Sư nói: Huyền Sa hỏi hôm qua nói ồn náo như thiên Trang Tử Đại Tông Sư nói:

Thuyền xuôi ở trong hang, núi ẩn ở trong đầm, cho đó kiên cố, nhưng nửa đêm người sức lực vào núi mà đi, người mờ thì không biết, che lớn nhỏ có nên, giống như có lừa dối. Nếu che thiên hạ mà không được lừa dối muôn vật có tình lớn.

Thiên Đồng vì Huyền Sa hôm qua và ngày nay hỏi thuyền xuôi thầm gánh để nghiệm Tiểu Đường lại chèo chiếc thuyền lẻ trong dòng nước trong. Trong sự Huyền Sa này đáng ghi nhớ, e trệ vào dòng nước chết, mắt sống trong câu Huyền Sa, muốn người biết nguồn gốc động tĩnh. Hòa Thượng Ngọa Long cầu nói: Muốn được lược yếu lại là sơn hà đại địa phát minh cùng ông, việc ấy đã thường cũng là cứu cánh. Nếu vào cửa Văn Thù thì tất cả hữu vi cây cối đất đai ngói đá giúp ông phát cơ.

Nếu vào cửa Văn Thù thì tất cả hữu vi cây cối đất đai ngói đá giúp ông phát cơ.

Nếu vào cửa Quán Âm thì tất cả âm vang ếch nhái đều giúp ông phát cơ. Nếu vào cửa Phổ Hiền thì không động bước mà đến nơi, ta dùng ba cửa này phương tiện dạy. Nếu lấy một cái gân quấy động nước trong biển lớn làm cho cá rồng kia biết nước là sự sống. Nếu biết nguồn gốc của động tĩnh nói năng im lặng, đến đi thì không có luống uổng. Bài tụng này Huyền Sa vì người, nếu là tác gia (280) cái hộp che mũi tên nhọn, tìm cỏ nơi bóng cần trúc, nhất định buông hết, xem lấy đưa ca sa cùng với không dính dáng, xem là đạo lý gì. Sử Ký Thằng Sách, Truyền Thái Sứ công nói: Ta đến Giang Nam nhìn việc làm này nói quy ngàn năm dạo nơi lá sen, đây không có dính dáng thầm co cũng không ngại dạo chơi, dạo chơi cũng không ngại thầm co.

Nay bức tranh cá bức tranh rau bể cỏ nước, theo sóng vỗ mà thành văn chương, rau bể cỏ nước có văn. Thấy luận bàn tiết tháo quý cỏ, cần biết hai lão không? Khí có ý chí lại thêm ý chí, nơi không phong lưu cũng phong lưu.

TẮC THỨ 82. THANH SẮC CỦA VÂN MÔN

Dạy chúng: Không đoạn được thanh sắc thì sẽ đọa lạc, cầu thanh thấy sắc, không thấy được Như Lai, còn có đến nơi lại trở về nhà không?

CÔNG ÁN: Vân Môn dạy chúng: Nghe tiếng ngộ đạo, thấy sắc tâm sáng, Bồ Tát Quán Thế Âm lấy tiền mua bánh bột, buông tay xuống té ra bánh bò. Sư nói: Thiên Đồng nói về Thần Tuấn lược nói Huyền hoàng. Bổn ghi Vân Phong dạy chúng: Nghe tiếng ngộ đạo, thấy sắc tâm sáng là thế nào? Là nghe tiếng ngộ đạo, thấy sáng tâm sáng, đưa tay lên nói.

Bồ Tát Quán Thế Âm lấy tiền mua bánh bột, buông tay xuống té ra là bánh bò.

Quốc Sư Viên thông nói: Lão nhân Triều Dương có thể nói là xướng cao mà hòa thấp. Như nay hướng lên đầu cái phất trần của Diên Thánh nhập phương Cang Tam muội, nhập định phương đông, xã định phương tây, cho đến thân nam nhập định, thân nữ xã định có hội không? Màu sắc đồng quê không bị núi ngăn cách, ánh trăng thông với dòng sông

Vạn Tùng nói: Trong biển tìm không được, trên bờ lại gặp nhau lại xem, Thiên Đồng vì sao gặp nhau?

Tụng:

Ra cửa ngựa phi gắng níu lại
Khói trần vạn nước tự trong
Mười hai xứ mất tiếng bóng nhàn
Tam thiên giới phóng tịnh quang minh

Sư nói: Nghe tiếng ngộ đạo, đạo đâu có tiếng, thấy sắc tâm sáng, tâm đâu có sắc. Lễ nhạc chinh phạt này từ Thiên Tử mà ra, binh nhân nghĩa không đánh thiên hạ, cầm gậy kéo cây để tấn công. Dùng thanh sắc làm bóng vang, biểu thị sự không thật. Bóng nghĩa là bóng trong gương trăng đáy nước, vâng nghĩa là trong hang sâu truyền tiếng vang. Đây đều là ở trong đạo tâm là cầm cây vạn nước như vạn pháp. Mười hai xứ giống lục căn lục trần, ánh sáng tam thiên giới, chiếu phá bóng vang do trừ bóng vang, phóng ra ánh sáng. Không thấy Bách Trượng Cổ Linh nói: Linh quang soi sáng thoát căn trần, bỗng căn trần biến khắp pháp giới lại thế nào, muốn bánh bột lại thánh bánh bò.

Vạn Tùng Lão Nhân Bình Xướng Thiên Đồng Giác Hòa Thượng Tụng Cổ, Tùng Dung Am Lục

Quyển 4 (Hết)

QUYỂN 6

TẮC THỨ 83: ĐẠO NGÔ KHÁN BỆNH.

Dạy chúng: Toàn thân là bệnh, Ma Cật khó chữa, cỏ này có thể trị, Văn Thù khéo dùng, đâu như tham thiện để chọn người hướng thượng, được chỗ an lạc.

Thế nào là chỗ an lạc?

CÔNG ÁN: Quy Sơn hỏi Đạo Ngô: Từ đâu đến Ngô nói: Long Nha bệnh đến.

- Có mấy người bệnh

- Có người bệnh có người không bệnh

- Người không bệnh chẳng phải là Trí Đầu Đà chăng?

- Bệnh và không bệnh đều không liên can đến ông ta nói mau nói mau

- Nói được cũng không dính dáng

Các Thiền Sư như Đàm Châu, Quy Sơn Linh Hựu hai mươi ba năm tham thiền với Bách Trượng Đại Trí, làm tri sự đủ hai mươi năm, nhân vạch lửa mà ngộ đạo. Sau đó, cùng với Hoa Lâm Trử Tịnh Bình hạ ngữ, gánh được Quy Sơn, lãnh xuất cả Lý Cảnh Nhượng, tấu hiệu là chùa Đồng Khánh, tướng Quốc Bùi Hưu, từng hỏi huyền áo, Sư từng thấy lửa ngoài đồng nội hỏi Đạo Ngô: còn thấy lửa không?

Ngô nói: Thấy

- Từ nơi nào sinh khởi

Trừ đi đứng nằm ngồi, thỉnh Sư dạy riêng một lời hỏi đến, Sơn hưu đi. Phật Giám nắm lấy nói: Lửa đồng nội đỏ rực, người người đều thấy, chỉ có Đạo Ngô thấy khác hướng Vạn Tùng nói: Cùng là khán bệnh, không giống Đạo Ngô thấy thấu tâm gan, ngũ tạng. Quy Sơn đủ phương tiện, cùng nhau bày lãnh đạo. Nói được cũng không dính dáng với ông ta chỉ có Thiên Đồng nói, không có chỗ dính dáng, chính lúc nói. Tụng rằng:

Thuốc hay đâu cần qua miệng. Thuốc thần chớ có cầm tay (không chỗ tìm tòi). Nếu còn cũng đâu vốn đều có, nếu không cũng đâu vốn không có, không diệt mà sinh, không chết mà thọ, hoàn toàn vượt trước Oai Âm Vương, chỉ bước sau kiếp không, thành bằng cũng trời che đất chở, vận chuyển cũng là chim bay

Sư nói: Tơ hồng mạch đoạn, thuốc bệnh đầu mất, uống thuốc quên rồi miệng đến, bắt mạch quên rồi tay đến cho nên gọi là xoay vòng không được bệnh. Hoa Đà chắp tay, Biển Thước nhướng mày, đạo có thông, thân không hình bóng. Đạo không thì khắp nơi không từng diệt. Pháp Sư Đàm Đằng triều Tề được quyển Kinh trên mười quyển sau đó gặp Tam Tạng Lưu Chi hỏi:

Trong Phật pháp có pháp trường sinh bất tử, hơn được phương thuốc tiên vùng này không?

Tam Tạng khạc nói: Vùng này đâu có pháp trường sinh, dù được kéo dài mạng sống, nhưng quả báo hết liền đọa, chính là Hoài Trung tìm ra Kinh vô lượng thọ quán, đưa cho Đàm Đằng nói: Phương thuốc Đại Tiên này thường được giải thoát, vĩnh vĩnh thoát khỏi sinh tử. Mười vị tiên Lăng Nghiêm khi quả báo tận, trở lại chuyển vào các cõi. Lão Tử nói: Người chết mà không mất là thọ. Đông Pha dâng thơ Phật Ấn khả, trường sinh chưa rỗi học. Lại học mãi không chết, hoàn toàn vượt trước Oai Âm Vương, trước trời đất mà chưa thành. Đã thành chỉ bước sau kiếp không. Sau khi trời mà đã hoại, không hoại thì thành bằng, trời che đất chở vận chuyển. Chim bay thỏ chạy. Đây gọi là lấy toàn thể làm dụng, nhiếp dụng quy thể. Thể là gốc của trời đất, động thì hợp với Tâm Thánh Hiền có lãnh hội lời này không? Mở ra mắt viên minh diệu tịnh, biết lấy người an lạc kiết tường.

TẮC THỨ 84. MỘT NGÓN TAY CỦA HÒA THƯỢNG CÂU CHI

Dạy chúng: Nghe một ngộ ngàn, hiểu một theo ngàn, đại sĩ hể quyết định thì tất cả rõ ràng, hàng trung hạ nghe nhiều mà không tin, khắc phục đích đáng xét đương xứ (281)

CÔNG ÁN: Hòa Thượng Câu Chi hễ có hỏi chỉ dựng đứng một ngón tay.

Sư nói: Thiền Sư Câu Chi ở núi Toàn Hoa vùng Vụ Châu lúc đầu là am ở núi Thiên Thai có một ni tên Thật Tế đi đến đầu đội nón, tay cầm tích trượng, nhiễu quanh Sư ba vòng nói: Nói được thì lấy nón xuống, ba lần hỏi Câu Chỉ vẫn không đáp được. Thật Tế liền đi, Câu Chi nói: Trời sắp tối, hãy ở lại một đêm

Thật Tế nói: "Nói được thì ở lại" Câu Chi không đáp được.

Sau khi Thật Tế đi rồi, Câu Chi tự than: Ta tuy hình là trượng phu mà không có khí trượng phu. Thôi thì hãy bỏ am tranh này đi tham học các Sư khắp nơi. Đêm ấy thần núi đến báo rằng: Hòa Thượng không nên rời núi này, sẽ có Đại Bồ Tát đến thuyết pháp cho Hòa Thượng. Quả nhiên, một tuần lễ sau Hòa Thượng Thiên Long đến, Sư tiếp lễ thành kính và trình bày về sự việc trước đó. Thiên Long dơ ngón tay lên nói. Câu Chi ngay lúc đó đại ngộ. Từ đó hễ có vị Tăng nào đến Câu Chi chỉ dơ một ngón tay không đề xướng nào khác, Ngài có nuôi một đồng tử. Khi đồng tử ra ngoài bị người cật vấn rằng: Hòa Thượng thuyết pháp yếu gì, đồng tử dơ lên một ngón tay. Lúc trở về Đồng tử kể lại cho Câu Chi. Câu Chi lấy dao chặt ngón tay của đồng tử, đồng tử kêu la bỏ chạy. Câu Chi gọi một tiếng, đồng tử quay đầu lại. Câu Chi lại dơ một ngón tay, đồng tử bỗng nhiên đại ngộ. Sau đó, Câu Chi thuận thế dạy chúng: Ta được một ngón tay Thiền của Thiên Long, suốt đời dùng không hết. Nói xong thị hiện tịch diệt

Vạn Tùng nói: Giống như cắt đi đầu ngón tay.

Trường Khánh thay nói: Thức ăn ngon không cho người no ăn. Vạn Tùng nói: Không tham mùi bánh thơm, có thể gọi là rồng ao xanh. Huyền Sa nói: Ta lúc ấy nếu thấy chặt vứt ngón tay. Vạn Tùng nói: không chỉ tuyết mù che đồng tử, nén cũng cho người sau xuất khí:

Huyền Giác nói: Hãy nói, Huyền Sa nói như thế là ý gì? Vạn Tùng nói: Quả nhiên nghi trước

Vân Cư Tích nói: Chỉ như Huyền Sa nói như thế, chịu y hay không chịu y. Nếu chịu tại sao nói chặt đứt một ngón tay.

Nếu không chịu, Câu Chi qua nơi nào?

Vạn Tùng nói: Qua nơi chịu và không chịu

Tiên Tào Sơn nói: Chỗ Câu Chi gánh vác lỗ mãng. Chỉ nhận được một cơ một cảnh, Tất cả là đánh vào tay, là vườn phía Nam của ông ta kỳ lạ.

Vạn Tùng nói: Chọn sữa trong nước phải là ngỗng Chúa mới được.

Huyền Giác lại nói: Câu Chi có ngộ không? Nếu ngộ, vì sao nói chỗ gánh vác lỗ mãng. Nếu không ngộ lại nói một ngón tay thiền dùng không hết. Hãy nói, ý chỉ của Tào Sơn ở chỗ nào?

Vạn Tùng nói: Quanh co và ít, mong gặp tri âm. Sau đó, đến Thiền Sư Gia Sơn Lai ở Thiên Ninh phía tây trấn thủ. Có người hỏi: Tháp của Hòa Thượng Thiết Ngưu ở đâu? Sơn lấy tay chỉ, bỗng nhiên đại ngộ bèn thành tụng rằng: Thiết Ngưu, Thiết Ngưu, lại chớ cầu riêng, có người hỏi tôi dựng đứng ngón tay.

Vạn Tùng nói: Tuy là gánh vác thừa đương lỗ mãng, cần phải không nhờ người bên cạnh. Minh Chiêu Độc Nhãn Long hỏi Thiền Sư Quốc Thái Thâm. Người xưa nói: Câu Chi chỉ niệm chú ba hàng, lại được vượt qua tất cả mọi người. Thế nào là niệm chú ba hàng. Thái dơ một ngón tay với nói: Không vì ngày nay, đâu biết được khách qua Châu này. Vạn Tùng nói: Giả như muốn trị mối hoạn trước phải chữa cái gốc, tham thiền đồng khế hợp, thừa lời phải hội Tông, chớ tự lập quy củ, có thể nói đâm sâu mới biết đoạn đường thời gian, không đợi trời sáng lại ra cửa. Bài tụng của Phật Quốc rằng: Hỏi đáp cơ duyên há dễ đáp, không tiền khó làm tốt phong lưu, trong lòng có việc khó nói không được, chỉ trong lúc lần dựng ngón tay. Nếu muốn phong lưu tốt nói việc trong lòng phải tham thiền với Hòa thượng Thiên Đồng: Tụng rằng: Lão Câu Chi Một ngón tay Thiền.

Hai mươi năm dùng mãi không cùng Tín có đạo nhân nhiều phương

Rõ không tục vật trước mắt nhìn.

Ban bày khắp rộng chỗ được quá giản dị Đại thiên sát hải uống đầu lông

Vô hạn rồng vào tay ai

Nhậm công trân trọng nắm cần câu.

Sư lại dơ ngón tay nói: Xem!

Sư nói: Vạn xưa thường không một sáng gió trăng há chỉ ba mươi năm dùng không hết. Thiên Trang Tư Đại Tông Sư, Khổng Tử nói: Người kia dạo phương ngoài mà binh dạo phương trong. Nếu không thuật phương ngoài, đâu được thấy triệt nguồn căn trên đầu ngón tay của thế gian và xuất thế.

Cổ Thi nói: Trước mắt không có vật tục, bệnh nhiều thân nhẹ nhõm. Thiên Đồng gần lấy các thân, chỉ dùng một ngón tay, đạo giản dị, cốt hiểu không buộc ràng. Duy Ma nói đầu sợi lông nuốt chửng biển lớn gọi là Kinh tiểu Bất Tư Nghì. Hoa Nghiêm nói bụi trần bao hàm pháp giới, gọi là Kinh Đại Bất Tư Nghì, Lăng Nghiêm, đối với đầu sợi lông có thể thọ nhận mười phương cõi nước. Lại nói: Nói đầu sợi lông hiện cõi bảo vương, ngồi trong vi trần chuyển đại pháp luân. Trang Tử mặc cho Công Tử làm câu lớn nhà to, mười lăm con trâu làm thành một cái bánh, ngồi ở Cối Kê ném cần câu nơi biển đông, trời sáng mà câu, quanh năm không được cá, không lâu cá lớn ăn mồi, kéo cầu câu chìm xuống, dật lên mà cắt mép, sóng trắng như núi nước biển chấn động, tiếng giống quỷ thần vang xa ngàn dặm, mặc cho Công Tử được cá, rồi cá khô. Tự chế ao hồ ở Đông, Thương Ngô ở Bắc, không ai không chán như nghề cá, cho là cần câu gãy hết lại trồng tre, không tính công trình được liền thôi, sau này nhận được chặt tay đồng tử, Quốc Thái Đạo Biệt Phong gặp nhau. Gia Sơn Lai nhằm vào Đào Nguyên. Ngày nay sau khi Thiên Đồng tụng lại dơ ngón tay lên: Hãy xem Hòa Thượng Bá Sơn Đại Ẩn nói: Thiên Đồng lớn như thế mà đi theo gót chân người. Hòa Thượng Ngũ Tổ Diễn nêu Tăng hỏi Đầu Tử: Thế nào là mười thân Điều Ngự, xuống giường thiền đứng, lại có Tăng hỏi lão Tăng cũng xuống giường Thiền đứng, vì sao lại y dạng vẽ mèo, đợi tôi tín xong sẽ nói cho ông là biết, ngón tay của Câu Chi một bề uống nước, một bề mắc nghẹn dạy Vạn Tùng chớ làm đúng hướng như thế, ném phất trần xuống nói: Mặc cho chư vị kiểm điểm.

TẮC 85. KIỂU THÁP CỦA QUỐC SƯ

Dạy chúng: Kiền chùy có đả phá hay không, cánh tay mở núi hoa, mới thấy vốn không và chỗ hở, không thấy chỗ tỳ vết, lai ai là người như thế.

CÔNG ÁN: Túc Tông Đế hỏi Sư Trung Quốc: Sau khi qua đời cần vật gì?

Quốc Sư nói: Xây tháp Vô Phùng cho Lão

Tăng. Vua nói: Xin Sư kiểu tháp

Quốc Sư lặng hồi lâu nói: Hiểu không?

- Không hiểu

- Ta có đệ tử phó pháp là Đàm Nguyên rõ được việc này. Sau đó, vua vời Đàm Nguyên hỏi ý thế nào?

Đàm Nguyên nói: Sông Tương phương Nam, lời phương Bắc, ở giữa có Hoàng Kim đầy một nước, dưới cây không bóng hợp cùng thuyền, lưu ly trên điện không tri thức

Sư nói: Thiền Sư Tuệ Trung chùa Quang Trạch Tây Kinh tự thọ tâm ấn ở nơi hang Đảng Tử núi Bạch Nhai vùng Nam Dương hơn bốn mươi năm không ra khỏi núi. Đạo hạnh của Ngài đến tai vua. Niên hiệu Thượng Nguyên thứ hai, Đường Túc Tông, vua ra lệnh trung sứ Tôn Triều Tiến vời Sư vào Kinh, tiếp đãi Sư đúng với lễ.

Lúc đầu Sư ở viện Tây Thiền, chùa Thiên Phước (282) và thấy Vua ngự lâm.

Sau đó lại đón Ngài ở Tinh Giám Quang Trạch hơn mười sáu năm tùy cơ chúng sinh mà thuyết pháp. Ngày 9 tháng 12 hiệu Đại Lịch thứ 10, Hữu Hiệp Trường Vãng húy Thiền Sư Đại Chứng. Phật Quả nói có nhiều người nói: Quốc Sư không nói chính là kiểu tháp này. Nếu hiểu như thế thì một Tông của Đạt Ma quét hết đất, kẻ câm lãnh hội thiền.

Xưa, có hai vị Tăng ở am mười ngày không gặp nhau

Thượng Am chủ hỏi: Nhiều ngày không gặp nhau thì ở chỗ nào? Hạ Am Chủ nói: Ở trong am xây tháp Vô phùng

Thượng am Chủ nói: Tôi cũng muốn xây cái tháp này đến Sư mượn kiểu tháp có được không?

Hạ Am Chư nói: Sao không nói sớm, có người mới mượn rồi.

Pháp Nhãn nói: Hãy nói mượn kiểu của y hay không mượn kiểu của y?

Vạn Tùng nói: Quốc Sư không nói.

Am chủ nói: Vì sao Chi Ngộ nói đạo lý

Tuyết Đậu nói: Túc Tông không lãnh hội hãy bỏ qua một bên, vậy Đàm Nguyên có hội không? Chỉ hủy bỏ xin kiểu tháp, chư vị Tổ Sư cõi này và Tây Thiên gặp một tát đánh này không khỏi lấy Nam làm bắc có người bên cạnh không chịu ra, ta phải muốn hỏi ông, cái nào là tháp Vô Phùng.

Vạn Tùng nói: Không phải tức là đạo.

Thiền Sư chơn ứng Đàm Nguyên Sơn ở Kiết Châu thọ giáo với Mã Tổ, làm thị giả cho Quốc Sư đã lâu. Sau đó Quốc Sư thị tịch. Vua với Nguyên vào Kinh hỏi những lời trước. Nguyên cũng lặng yên hồi lâu rồi nói: Thánh Thượng có lãnh hội không?

-Không lãnh hội

Nguyên thuật kệ sông Tương phía Nam nói phía Bắc ở giữa có hoàng kim đầy cả một nước, dưới cây không bóng hợp đồng thuyền. Trên điện lưu ly không tri thức.

Hoặc nói sông Tương phía Nam lời nói phía Bắc Phù Sơn Viễn Lục Công làm đầu trâu phương nam, đầu ngựa phương bắc, nhưng được yếu chỉ quên đi cái nơm đều có thể được. Tuyết Đậu nói không tránh khỏi lấy Nam làm Bắc chính là điều này.

Tăng hỏi Tân La Đại Lãnh: Thế nào tất cả chỗ đều thanh tịnh?

-Trồng cành Quỳnh tấc tấc là báu Chiết cành mai phiến phiến đều hương

Hòa Thượng Đan Hà Thuần làm bài tụng:

Càn khôn đều là nước hoàng kim
Vạn cõi toàn thân tịnh diệu
Hoàng kim (của) Đàm Nguyên đầy cả nước
Nước Đan Hà cũng là hoàng kim
Lại so một đường tuyến
Dưới cây không bóng hợp cùng thuyền

Chu Dịch lược nói:

Đồng thuyền mà qua thì Việt Hồ đâu lo tâm tráo trở. Nếu dần qua ba bốn thì thân lạ với vật không thể nhìn, thuận mà bảo tồn nhau giống như ở đồng một thuyền, thượng hạ khác thể, giống như Hồ Việt, lợi dụng ngăn giặc, đâu lo tâm tráo trở. Đây là nói đồng thân cùng mạng đồng lợi hại. Thiền Sư Pháp Chơn Nhất hỏi: Chỗ này là không cửa, không Thiện Tài của Từ Thị vì sao nói lưu trên điện lưu ly không tri thức?

Vạn Tùng nói: Điện nứt ra rồi thì thấy. Sau đó xem Thiên Đồng lấy cành trúc dán vào lỗ mũi ông. tụng rằng:

Cô hồi hồi Viên đà đà
Sức mắt tận nơi cao vòi vọi
Trăng rơi xuống sông lớp sắc trời đêm.
Mây Thu núi nhỏ thu càng nhiều
Bát quái làm chính, khí ngũ hành hòa
Thân trước ở đây thấy đến chưa

Cha con Nam Dương hề hình như biết có Phật

Tổ Tây Trúc hề không làm sao được Sư nói: Tuyết Đậu nói:

Tầng rơi rơi bóng đoàn đoàn. Câu này hợp đầu ngữ Thiên Đồng nói: Cô hồi hồi, viên đà đà, vạn kiếp buộc cọc lừa, lực mắt tận chỗ cao vời vợi, ba đời Chư Phật hộ trì cho là không thấy đảnh tướng.

Tuyết Đậu tụng trời đất đồng gốc vạn vật một thể Nam Tuyết chỉ đóa hoa giống như mộng

Cũng nói thấy nghe biết chẳng phải nhất nhất

Sơn hà đâu ở trong gương xem

Ngày sương trăng rơi đâm sắp khuyết Ai cùng ao trong chiếu bóng lạnh.

Thử đem tụng này so với Thiên Đồng "trăng rơi ao sắc đêm không lớp lớp".

Ngày xưa phơi nắng có công phu Sau này Phật

Giám một lúc phá bể

Tụng rằng:

Tháp Vô phùng hề không phải bóng
Rỗng rang bước vào cảnh chơn như
Trong nháy mắt ánh điện lan
Mờ mờ mịt mịt không thấy đầu
Đây cũng là lực mắt tận chỗ cao vời vợi.

Thiên Đồng tụng về kim chỉ thông suốt rằng:

Vòi vọi núi xanh đặt vào Thu nhỏ Lông tóc điêu tàn phong cốt xưa

Đây cũng là mây Thu núi nhỏ Thu càng nhiều có thể nói da thịt rớt rơi hết chỉ có một chân thật. Đến đây bát quái đã đúng vị, ngũ hành cũng là khí hòa, chuyển làm tu sửa không kỵ húy.

Đâu nhọc vào chợ hỏi Tôn Tân. Thân trước ở đây thấy đến không

Thiền Sư Thiên Y Hoài đến núi Sam thỉnh vào viện, Thượng đường nói: Mười hai năm thích ngọn núi này. Ngày nay lại thích, đến bờ nhân duyên hội. Sơn Tăng chưa đến núi này mà thân đến núi này trước khi đến núi Sam lại ở trong thân của Sơn Tăng.

Cha con Nam Dương hề lại như biết có, không dám nói là đúng, chỉ nói như biết có. Ông nói đi, vì sao không chấp nhận hoàn toàn, sợ cô phụ cha con quốc sư. Phật Tổ Tây Trúc vì sao không biết thệ nào. Nên nói đúc thành u vàng, chính trai nuốt cái bánh sắt.

TẮC 86. LÂM TẾ ĐẠI NGỘ

Dạy chúng rằng: Đầu đồng trán sắt mắt trời tròng rồng, đục miệng cá, tim hổ ruột chồn. Kiếm kim cang buông xuống cho là không nạp hễ tính không được vì sao như thế

CÔNG ÁN: Lâm Tế hỏi Hoàng Bá: Ý Phật pháp là thế nào? (giết người có thể tha thứ, tình lý khó dung)

Hoàng Bá liền đánh, Ba lần như thế mới rời Hoàng Bá. Sau đó Lâm Tế yết kiến Đại Ngu. Đại Ngu hỏi: Từ đâu đến?

Tế nói: Từ Hoàng Bá đến

Ngu nói: Hoàng Bá có ngôn cú gì

Tế nói: Tôi ba lần hỏi đại ý Phật pháp ba lần bị đánh, không biết tôi có lỗi gì?

Ngu nói: Hoàng Bá như thế, lão bà vì ông được triệt lại đến hỏi có lỗi gì. Tế ngay lời nói ấy ngộ đạo.

Sư nói: Thiền Sư Tuệ Chiếu viện Lâm Tế ở Trấn Châu húy là Nghĩa Huyền, người Nam Hoa Tào Châu họ Hình đầu tiên học Kinh Luận, biết là chẳng phải là con đường tắt thiết yếu, sau đó đến Hoàng Bá, theo chúng ba năm lại không tham học, chỉ im lặng mà thôi.

Thủ Tọa thấy Ngài khác với mọi người, cho nên khuyên tham học Vô Tận Đăng Biện Ngu nhìn Ngài cho là Tế ở ba năm Hoàng Bá há không cho người hỏi việc, đã miễn cho Ngài như khí của Tế thì biết, không thể hỏi đầu mối cần phải đợi Thủ Tọa dạy, sau đó có thể hỏi ư?

Từng thấy Dương vô vi làm thay Tế chánh pháp nhãn tạng diệt bên cạnh dối lừa. Hoàng Bá lão bà Đại Ngu ăn no. lại thấy Phật Quả làm thay Mục Châu

Cay cay lạt lạt, nhai nhai nuốt nuốt xuyên phía Bắc của Lâm Tế làm đại thọ, đẩy Vân Môn rơi xuống vực nguy.

Lời như củi khô, lý không thể lường, ấy gọi là trận dày mỏng. Bổn Lục Ngộ liền nói: Xưa nay Phật pháp không nhiều lối.

Ngu nói: Con quỷ dơ này vừa đến là hỏi có lỗi hay không lỗi mà nay lại nói Phật pháp không có nhiều đường lối là nhiều ít đến đẩy cột trụ nói: nói nói. Tế đánh ba loi vào dưới háng của Đại Ngu. Ngu nói Hoàng Bá thầy ông không liên can đến việc của tôi. Tế trở về với Hoàng Bá. Bá hỏi: Đến đến đi đi có gì mong liễu rõ

Lâm Tế nói: Chỉ vì lòng từ tha thiết, bèn nêu lên lời trước đó

Bá nói: Lão Đại Ngu này. (283) Dù miệng nói đợi thấy, đánh cho một đùi liền ngộ.

Lâm Tế nói: Nói đợi thấy cái gì, tức nay lại đánh Hoàng Bá một loi. Bá cười ha hả nói: Gã điên này đến đây tìm mép hổ. Tế liền hét. Bá nói: Thị giả! Dẫn gã điên này tham đường đi. Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn: Lâm Tế được lực của Đại Ngu hay Hoàng Bá?

Ngưỡng Sơn nói: Chẳng những tìm mép hổ mà còn biết ngồi đầu hổ.

Sau này Lâm Tế dạy chúng: Lúc tôi ở với tiên Sư, ba lần hỏi đại ý Phật pháp ba lần bị đánh, giống như cây chổi quét đồ dơ. Như nay lại suy nghĩ liền ngộ, ai là hạ thủ. Bấy giờ có vị Tăng bước ra nói: Tôi hạ thủ, Tế đưa gậy cho Tăng định lấy, Tế liền đánh

Tuyết Đậu nói: Chỗ phóng của Lâm Tế khá nguy, thu lại rất nhanh. Thiên Đồng thấy cha con họ lỗi lạc siêu quần chỗ dùng của Hoàng Bá, Lâm Tế truyền là chọn chỗ khẩn thiết. Tụng rằng:

Gà chín bọc
Ngựa ngàn dặm
Chơn phong qua cửa
Cơ linh phát hiển

Lúc đến mặt tường điện chớp nhanh, chỗ phá mây mê ở thái dương lẻ loi, tìm mép hổ thấy không, ấy là hùng hùng đại trượng phu.

Sư nói: Đây là khen Lâm Tế, như rời siêu Tông thật có lông phượng. Hoàng Bá năm xưa từng đảnh Bách Trượng. Ngày nay gặp tay độc Lâm Tế, chính là sông sinh ra rồng. Phượng mẹ nuôi con thơ.

Thùy Ưng Đồ nói: Chim cửu cao.

1. Quy mạng

2. Tâm hợp độ nghĩa là thiên độ

3. Nhĩ Thính Đạt (tai nghe tỏ)

4 Lưỡi quanh co

5 Màu rực rỡ

6. Quan Đoản Châu (màu sắc cây châu)

7. Duyệt câu Đoản

8. Âm kích Dương

9. Phục hộ

Vùng đất chín phương là Tần Mục Công Tướng Mã. Ngựa thiên lý, đây là dụ cho thần uy của Lâm Tế một ngày đi ngàn dặm. Mới ngộ liền hiểu đại dụng cơ chơn, các chùa có một câu đối rằng: Đánh một thôi vào hông Hoàng Bá, đánh ba thôi vào háng Đại Ngu, chỉ gì gió chơn qua cửa cho nên được linh cơ phát.

Câu trên là bẩm thọ nơi thầy. Câu dưới là thông tông tự tánh. Lão Tử nói: Giữa trời đất như bể của thợ rèn, bể không có đáy, cũng là lớp da, cái khóa có ba lỗ. Ba Tiêu Triệt nói: Thí như đàn sắt, không hầu tuy có tiếng hay, nếu không có tay khéo léo thì không thể phát ra tiếng, vốn trích trong Kinh Lăng Nghiêm.

Lúc chạm đất nhanh như điện chớp. Đây là nói cơ phong nhanh nhẹn. Mây mê phá thái dương lẽ loi là nói tỏ ngộ. Tìm mép hổ. Trang Tử nói: Không Tử thấy kẻ trộm thối lui. Nói: Khưu cho là không bệnh mà châm cứu, mau đi tìm hổ, mép hổ thật không khỏi vào miệng hổ. Thấy không? Thiên Đồng chỉ, làm cho người tham học thể hội toàn cơ đại dụng, ngay khi đó không lầm, gọi là cơ Phong của nạp Tăng. cư sĩ vô tận làm truyện Tục Tăng Thanh Lương thích ứng đời sau thấy nói, Thiền Sư giải thoát đánh Văn Thù bất giác nói: Đúng bậc Đại trượng phu có thấy chỗ ngộ của Lâm Tế không? Thẹn giết Hà Giang mới cưới vợ, e sống lại vốn là thiền lão bà tháp gỗ.

TẮC 87: HỮU CÚ VÔ CÚ CỦA SỚ SƠN

Dạy chúng: Cửa sắp đóng vừa đẩy liền mở. Thuyền sắp chìm hễ đẩy liền chuyển, xe vào hang không có lối về mũi tên thông trời có một cửa. Hãy nói đi hướng nào?

CÔNG ÁN: Sớ Sơn đến quy Sơn liền hỏi. Theo lời Sư nói: Hữu cú vô cú như dây leo cây, bỗng nhiên cây ngã thì cây dâu khô quy về đâu. Quy Sơn cười ha ha.

Sớ Sơn nói: Tôi từ bốn ngàn dặm mua vải đơn đến, Hòa Thượng đâu được đùa giỡn.

Quy Sơn gọi thị giả lấy tiền, rồi thượng đường mới dặn: Sau này có người học vấn và đạo đức vượt bậc sẽ điểm phá. Sau đó Sớ Sơn đến tâu lại cho Minh Chiêu nghe Minh Chiêu nói: Quy Sơn có thể gọi là người đầu ngay đuôi chính, chỉ là không gặp tri âm.

Sớ Sơn lại hỏi: Cây ngã dây khô quy về chỗ nào?

Minh Chiêu nói: Lại làm cho Quy Sơn cười một chuyến

Sớ Sơn ngay đó ngộ đạo, bèn nói: Quy Sơn vốn trong cái cười có dao.

Sư nói: Thiền Sư Sớ Sơn Quang nhân ở Phủ Châu tham học nơi Động Sơn và hỏi khi chưa có lời nói xin Sư chỉ dạy

- Động Sơn nói: Không vâng không người chịu-Có mài không?

- Xà Lê nay mài được không?

- Mài không được tức không trái.

Sau đó ở trong hội Hương Nghiêm, Tăng hỏi Hương Nghiêm: Không kính Chư Thánh, không trọng tâm linh mình thì thế nào?

Nghiêm nói: Vạn cơ thối dứt, vạn Thánh không mang Sớ ở trong chúng làm nôn ra tiếng nói.

Đâu thể nói ư? Nghiêm hỏi: Ai?

Chúng nói: Sư thúc

Nghiêm nói: Ông không dạ Sơn Tăng ư?

Sớ Sơn ra chúng nói: Đúng vậy

Nghiêm nói: Ông không nói được không? Sớ nói: Nói được

Nghiêm nói: Ông thử nói xem

Sớ nói: Nếu dạy con nói, cần phải Sư lễ mới được.

Nghiêm liền xuống tòa lễ bái, hỏi lại lời trước

Sư nói: Sao không nói? Chịu dạ không được triệt để.

Nghiêm nói: Chịu, lại chịu cái gì? Dạ, lại dạ ai? Sớ nói: Chịu lại chịu ngàn Thánh, dạ thì dạ chính mình.

Nghiêm nói: Dẫu như thế cũng cần ba mươi năm đi tiêu ngược.

Nếu ở núi không có củi đốt, ở sông không có nước uống, nhớ lấy rõ ràng. Sau đó ở Sớ Sơn quả như lời thọ ký của Nghiêm hai mươi bảy năm bệnh giảm, tự Bạch Hương Nghiêm thọ ký cho tôi ba mươi năm đi tiêu ngược. Nay thiếu ba năm phàm sau khi ăn dùng tay móc nôn ra để ứng với lời thọ ký của Nghiêm.

Sau đó Sơ hỏi Thiền Sư Kính Thanh Đạo Phó, chịu, dạ không được triệt ông làm sao hội.

Phó nói: Hoàn toàn quy về chịu và dạ.

Sớ nói: Không được toàn triệt lại thế nào?

Phó nói: Ở đây không có lối chịu.

Sớ nói: Mới thỏa lòng ý của vị Tăng bệnh.

Quy Sơn Lại An một trong ba vị Lại An của Thiền Môn, cũng nói là Thiền Sư Đại An Trường Khánh.

Dạy chúng rằng: Hữu cú vô cú như dây leo cây.

Sớ không xa lìa bốn ngàn dặm mua vải đơn hỏi: Gặp Quy Nê bích Thứ bèn hỏi: Hữu cú vô cú như dây bò cây há không phải là lời của Hòa Thượng sao?

Quy nói: Phải.

Sớ nói: Như khi cây ngã dây khô thì sao?

Quy ném cái mâm bằng đất cười lớn trở về phương trượng.

Sớ đi theo sau nói: Tôi bốn mươi dặm mua vải đơn, đặc biệt đem đến đây, Hòa Thượng đâu được đùa. Quy gọi Thị Giả đếm tiền trả cho y, bảo ông ta đi. Nhân đó dặn sau này có người tài ba sẽ điểm phá cho ông. sau đó liền gặp Minh Chiêu điểm phá. Sớ Sơn bốn mươi dặm mua vải đơn đặc biệt là lời này.

Lúc này người hành cược bên cạnh cũng lưu tâm đến việc bổn phận, nhưng tùy nơi mà kiến lập và tán dương qua lại, không thể như Sớ Sơn đến trong chúng làm nôn thành tiếng, không nói y không có ưu điểm đặc biệt phá yết ma, phá chuyển pháp luân, phá hòa hiệp Tăng, nhất định sẽ chiêu quả báo hiện đời. Hương Nghiêm thọ ký, Sớ Sơn móc nôn đúng lời thọ ký, đều là kiểu của người sau.

Sớ Sơn cũng không thể lường người trong địa vị.

Sớ Sơn tầm thường tiếp cơ, tay nắm rắn gỗ. Tăng hỏi trong Tăng là vật gì? Sớ đưa rắn lên nói: (284)

Tào gia nữ, Tuyết Phong vào núi, tìm được cành cây hình nó giống con rắn, trên lưng ghi rằng: Vốn tự thiên nhiên không nhờ mài giũa, gởi cho Quy Sơn Đại An.

Quy nói: Bổn sắc trụ người núi lại không vết dao rìu.

Sớ Sơn đã nhân lời này thấy Quy Sơn cũng dùng rắn gỗ hoặc đích thân truyền, hoặc phỏng theo hình không thể biết. Minh Chiêu lại hỏi Sớ Sơn. Hổ sinh bảy con, con nào không đuôi. Sớ Sơn nói: Con thứ bảy không đuôi.

Quốc Sư Vân Môn vận đều tham học với Sớ Sơn, Sư Thúc Ải tiếng vang cổ kim. Thiên Đồng chỉ cười chỗ của Quy Sơn. Sớ Sơn thấy phá, Minh Chiêu nêu chỗ, trực nêu lời tụng.

Tụng rằng:

"Dây khô, cây ngã hỏi Quy Sơn
Hả hả cười to há chẳng màng
Trong cười có dao sắc nhìn ra được.
Không đương suy, noi, bặt cơ quan."

Sư nói: Ngoại đạo lập chữ a ưu là tốt, đầu cổ lấy chữ là chữ a, chữ lời không lo chữ lời có.

Cho nên ngoại đạo hỏi Phật! Không hỏi có lời, không hỏi không lời. Đây chính là cá kình uống hết nước biển.

Thế Tôn im lặng hồi lâu. Đây chính là "lộ bày cành san hô". Ngoại đạo đảnh lễ, ca ngợi lòng đại bi của Thế Tôn đã vạch đám mây mê cho con làm cho con được vào đạo.

Hương Nghiêm Đoan nói: Nói là phỉ báng, im lặng là dối. Nói im hướng lên có đường lối. Đại quy nương vào đây dạy chúng. Sớ Sơn thấy nói thêm dây leo cây. Lại nói câu cây ngã dây khô quy về chỗ nào, tại sao không dạy? Quy Sơn cười lớn. Quy Sơn nói không bày việc nói không thế ngộ thiền pháp. Sớ Sơn thừa lời là mất mạng trệ vào câu là mê. Lúc ấy nếu hỏi Vạn Tùng chỉ nói trời xanh! trời xanh! Không thấy nói Xuân đi Đông sai.

TẮC THỨ 88: LĂNG NGHIÊM BẤT KIẾN

Dạy chúng: Có thấy có không thấy, đốt đèn giữa trưa, không thấy không không thấy, rót mực vào nữa đêm. Nếu tin thấy nghe thấy như huyễn, mới biết thanh sắc như hoa đốm trên không. Hãy nói! Trong giáo còn có nạp Tăng nói lời không?

CÔNG ÁN: Kinh Lăng Nghiêm nói: Lúc ta không thấy tại sao không thấy chỗ của ta không thấy. Nếu thấy được không thấy thì tự nhiên không phải là tướng không thấy kia. Nếu không thấy cái chỗ ta không thấy thì tự nhiên không có vật, sao nói không phải là ông?

Sư nói: Thiên Đồng thấy Tuyết Đậu dẫn giản lược trong kinh cũng nêu giáo nhãn. Chỗ nêu tuy sơ lược, chỗ tụng rất rõ ràng, phần thứ hai của Lăng Nghiêm trước nói vật không thấy là tiền trần, kế nói cái thấy không phải là vật là chơn tánh, này hoàn toàn nêu thứ đoạn, chính là công án này. Kinh này: Nếu thấy là vật thì ông cũng có thể thấy cái thấy của ta. Nếu đồng thấy gọi là thấy ta. Khi ta không thấy sao không thấy cái chỗ mà ta không thấy. Nếu thấy cái không thấy thì tự nhiên không phải là cái tướng không thấy kia. Nếu không thấy cái chỗ ta không thấy, thì tự nhiên không phải vật sao nói không phải ông.

Sư Trường Thủy chú rằng: Ý của văn này dần dần quy kết đều có năm lớp. Kinh văn còn ba ý mà ẩn hai ý. Nếu luận đầy đủ hợp nói: Nếu không thấy cái chỗ mà ta không thấy thì cũng không thấy cái chỗ mà ta thấy. Đã không thấy cái chỗ của ta thấy, ta thấy tự nhiên không phải vật. Ta thấy nếu chẳng phải là vật, ông thấy cũng chẳng phải là vật. Ông thấy chẳng phải là vật tại sao không phải là cái thấy chơn chánh của ông. Phật Quả nói: Ý của A Nan chân lý thế giới đều có danh tướng, thấy nguồn gốc tinh minh, gọi là vật gì, mong làm cho con được thấy, ý Phật cái thấy của con lúc ở Hương Đài, ông lúc ấy thế nào?

A Nan thưa! Con cũng thấy Hương Đài, tức là thấy cái chỗ mà Phật thấy. Phật nói ta thấy Hương Đài thì có thể biết nếu khi ta không thấy Hương Đài tức là thấy cái không thấy của Phật. Phật nói: Sao ông không thấy, tự là ông biết, chỗ người khác không thấy ông làm sao biết được. Người xưa đến đây, chỉ có thể tự biết, nói với người không được. Tuyết Đậu trích giác nhãn, chỉ tụng thấy Phật Thiên Đồng rất đắc ý của kinh. Tụng trích cái thấy chơn chánh.

Tụng rằng:

Biển cả giọt khô, hư không đầy ứ
Lỗ mũi nạp tăng dài, lưỡi của Cổ Phật ngắn
Đàn vừa qua chín khúc, ngọc một phen đổi.
Ngay đó gặp nhau, ai biết hắn
Mới tin người ấy không bạn bè.

Sư nói: Tuyết Đậu nói kiếp đá kiên cố như có thể hoại chỗ sâu xanh thẩm đứng phải khô. Sau đó thái hư đầy tràn nối thừa mắt Phật. Hòa Thượng Trúc Am khuê cùng Bá Phụ Nha Trì Nhất Cư Sĩ đều thích Kinh Lăng Nghiêm. Am nói: Nếu lìa cảnh trần có tánh phân biệt chính là nguồn gốc sinh tử. Sĩ ngạc nhiên nói: Phật vọng ngữ ư? Lại ước về tâm của Cư Sĩ nay đối diện hỏi triệt, quả nhiên an trụ.

Sĩ khen nói: Phật nói hiệu Đệ nhất không là Sư tử hống, ông thực hành, không trệ vào đây. Sau đó Am thượng đường nói: Khi thấy cái thấy, cái thấy không phải là thấy. Thấy nếu lìa cái thấy thì cái thấy không thể được.

Hoa rơi cố ý theo dòng nước,
Nước chảy vô tình đưa hoa rơi.
Mọi người còn có thể tự nhiên
Không phải ông lại chẳng phải ông thì là ai
Thường hận Xuân về không tìm chỗ
Không biết chuyển vào ở trong đó

Hét một tiếng nói: Sau ba mươi năm chớ nói Thế Tôn dạy phá hoại người nam nữ. Vạn Tùng chỉ đem ba câu trước chú phá công án. Theo Tuyết Đậu tụng thẳng thấy Phật Phật chỉ đưa ra Phật không thấy chỗ chỉ có thể tự biết Thiên Đồng tụng: "Biển cả giọt khô hư không đấy ứ".

Trúc Am nói thẳng cái thấy không phải vật cũng là cội gốc sinh tử. "Lỗ mũi nạp tăng dài", đều trích ngoài ý giáo, không đưa ra một con mắt. "Lưỡi của cổ Phật ngắn". Vạn Tùng nói: Cổ Phật nương cơ tùy ý người, nói phụ thêm cho người cơ kém cỏi. Cho nên nói nữa chữ, nạp Tăng một bề toàn đề chánh lệnh. Cho nên có đạo biết truyền. Chùa Thụy Lộc ở Ôn Châu có Thiền Sư Thượng Phương Ngộ An phá cú đọc Kinh Lăng Nghiêm nói: Tri kiến lập. Tri là vô minh. Tri kiến là không thấy, đây chính là Niết Bàn, bổng nhiên ngộ đạo.

Người nói: Hòa Thượng nói phá cú

An nói: Là chỗ ta ngộ, cuối cùng không bỏ Bấy giờ, hiệu là An Lăng Nghiêm.

Vạn Tùng nói: Là nhân tà đã chánh, "đòn vựa qua chín khúc, thể ngọc một phen đổi".

Đời truyền rằng: Khổng Tử bị nguy ở nước Trần, xâu chín khúc ngọc, gặp cô gái trồng dâu, đưa cho cô ta để quyết phán lời bí mật. Suy nghĩ, suy nghĩ lời kín đáo Khổng Tử mới hiểu là dùng tơ buộc kiến, dẫn nó lấy mật mà xâu. Hòa Thượng Phổ Chiếu Tông ở Tứ Châu làm bài tụng xưa của Thiên Đồng trình bày:

Quanh co thông nhau, tơ ngọc buộc kiến, bồi hồi phụ nhau giống như rồng rưới mây mưa

Phù Sơn cứu Đối Tập có khuất khúc Thùy đới. Nói đại ý khúc là việc thời nay

"Thể ngọc một phen đổi", như thể ngọc mới dệt chưa thành văn vẽ. Thiên Đồng nêu: Động Sơn đầu Thu cuối Hạ lời rõ bèn nói ra cửa là gặp cỏ, bước giữa chốn rậm rạp, lá rơi biết mùa Thu, rơi vào chỗ xanh xanh ảo ảo. Đến đây phải thân lấy cửa tuy chuyển chốt, tức là chỗ chưa thành văn mới được.

Sự im lặng hồi lâu nói: Nước trong trai bạn hoài thai khi lớp mây xanh rồng thối cốt, chính là gặp nhau ai biết (285) thế nào mới tin người này không hợp bạn.

Giáp Sơn nói: Quét sạch chủ nhân ông, không rơi vào cái thấy thứ hai, phải biết có một người không hợp bạn.

Vạn Tùng nói: Chỉ xưa nay cho là không quen biết, trong chợ bổng nhiên gặp cố nhân.

TẮC THỨ 89. KHÔNG CỎ CỦA ĐỘNG SƠN

Dạy chúng: Động thì chôn thân ngàn trượng, không động thì ngay đó sinh mầm mạ, cần phải hai đầu tách ra, ở giữa ném xuống, lại mua giầy cỏ hành cước mới được.

CÔNG ÁN: Động Sơn Dạy chúng rằng: "Huynh đệ đầu Thu cuối Hạ, hoặc Đông hoặc Tây, cần phải đi nơi vạn dặm không tấc cỏ". Lại nói: "Chỉ như chỗ vạn dặm không tấc cỏ làm sao đi? Thạch Sương nói: Ra cửa lại là cỏ.

Đại Dương nói: Dù nói không ra cửa cũng là nơi cỏ ngút ngàn.

Sư nói: Thạch Sương gặp nguy ở Hội Xướng nên mặc đồ dân ngụ nhà thợ gốm Trường Sa Lưu Dương để phòng hộ.

Có một Tăng từ Động Sơn mãn hạ đến. Sương hỏi: Từ đâu đến đây?

-Động Sơn

-Động Sơn có câu gì dạy đồ chúng?

Hòa Thượng gần đến ngày giải hạ thượng đường gọi chúng bảo:

"Huynh đệ đầu Thu cuối Hạ, hoặc Đông hoặc Tây phải đi nơi chỗ vạn dặm không có tấc cỏ".

Im lặng hồi lâu nói: Chỉ như chỗ vạn dặm không có tấc cỏ lại làm sao đi?

Sương nói: Ra cửa lại là cỏ.

Tăng kể lại cho Động Sơn nghe. Động Sơn nói: Đây là lời của 1500 thiện tri thức. Lại trong nước Đại Đường có được mấy người. Sau này cái dùi trong bọc mới lộ ra, quả chín hương bay xa mọi người sai đi tìm. Ở đạo tràng Thạch Sương quả nhiên phù hợp với lời lý ngộ bổn. Thạch Sương nhân công án này đạo hạnh vang xa. Sau này Thiền Sư Đại Dương Diên nói: Nếu nay nói thẳng, không ra cửa cũng là nơi cỏ ngút ngàn

Hãy nói: Phải đi nơi nào mới được?

Sư im lặng hồi lâu nói: Chẳng giữ núi lạnh cỏ lạ xanh tươi, chấp chặt tông Bạch Vân không tốt.

Quốc Sư Viên Thông Thiện nói: Hãy nói một câu dưới gót chân mọi người làm sao nói. Nếu nói vạn dặm không tấc cỏ thì chấp nhận ông tham kiến nơi Thạch Sương.

Nếu nói không ra cửa cũng là nơi cỏ mọc ngút ngàn, thì cho là ông tham kiến nơi Đại Dương

Nếu nói chung không được thì cho là ông tham kiến với Diên Thánh, vì sao chỉ có gió lành đến đạo tràng. Lại không nói rơi vào nhân gian. Vạn Tùng nói: Nếu cần ba câu nói chung được lại phải tham kiến Thiên Đồng. Tụng rằng Cỏ ngút ngàn trong cửa, ngoài cửa anh tự xem.

Cỏ gai trong rừng dưới chân dễ, đêm tỏ ngoài rèm chuyển thân khó. Xem thử bao nhiêu loại.

Hãy theo cây già đồng đất lạnh, và theo gió Xuân đến nơi nóng.

Sư nói: Đại Dương nói hãy nói không ra cửa cũng là nơi cỏ mọc ngút ngàn. Thiên Đồng liền nói cỏ ngút ngàn trong cửa ngoài cửa anh tự xem. Giống như lời nói không tác ý du hý trong đó. Ra cửa là cỏ, người dễ biết, cũng dễ quay lại. Không ra cửa cũng là cỏ, người khó biết khó chuyển thân. Cho nên nói người chết trên đất bằng vô số, qua được rừng gai góc là người giỏi. Thiên Đồng nói. Trong rừng gai đặt gót chân lại dễ, trên đất bằng không ra cửa, đêm tỏ ngoài rèm chuyển thân rất khó, cần phải mỗi người tự mở to mắt nhìn, không người thay thế.

Lại nói: Bao nhiêu loại? Diên Thánh bốn loại, Vạn Tùng năm loại, kiểm điểm tương lai không ngoài hai câu cuối.

Cần biết Thiên Đồng nắm chỗ sau không, hổ gầy tâm dữ có, người nghèo chí khí còn.

TẮC THỨ 90. NGƯỠNG SƠN CẨN BẠCH

Dạy chúng rằng: Khuất Nguyên chỉ tỉnh chính là say mèm. Ngưỡng Sơn nói mộng giống như khi thức. Hãy nói: Vạn Tùng nói như thế, mọi người nghe như thế. Hãy nói là tỉnh hay là mộng.

Nêu: Ngưỡng Sơn nằm mơ đến chỗ Di Lặc, làm đệ nhị tòa. Tôn giả bạch: Ngày nay làm đệ nhị tòa thuyết pháp Sơn đứng dậy bạch chùy nói: Pháp ma ha diễn, lìa tứ cú tuyệt bách phi cẩn bạch.

Sư nói: Ngưỡng Sơn nhập định bảy năm, thấy thân cùng giáo chủ, Ca-diếp và hai mươi bảy tổ, cùng ở Tịnh xá, nơi giảng đường ở trên không có trụ, màu đất như lưu ly, thức dậy rồi với Chư Tổ đồng là phạm tướng mặc kim lan (ca sa), ở vào địa vị thứ tám, một tôn giả tuổi tác khá cao, gọi rằng: Cù-đàm! Con nay làm pháp sự. Ngưỡng Sơn liền xuống tòa đến bạch chùy nói: "Đại chúng! Lắng tâm nghe pháp ma ha diễn, lìa tứ cú tuyệt bách phi", nói xong lên tòa, đến chúng Tăng cũng bàn nghĩa này. Ngưỡng Sơn lại tự nói trong mộng đến chỗ Di Lặc làm Đệ Tam tòa, tổng yếu cũng nói đệ tam tòa. đồng với bản lục. Có một tôn giả bạch chùy nói: Nay làm đệ tam tòa thuyết pháp. Sơn

Tăng đứng dậy bạch chùy nói: "Pháp ma ha diễn lìa tứ cú tuyệt bách phi lắng nghe! Lắng nghe!"

Ma ha diễn: Tiếng phạn là ma ha diễn na Trung Hoa phiên là đại thừa. Tứ cú bách phi Mã tổ Tạng đầu trắng, Hải đầu đen. Công án đã phân rõ ràng. Đây không nói lại Đại Quy Tú nói: Y văn giải nghĩa thì không thể không được, bỗng nhiên trong hội Di Lặc, có người làm mới thấy y nói pháp ma ha diễn. Lại nói: Hợp lấy hai mãnh da không chỉ tuyệt lời mộng của Ngưỡng Sơn, cũng tránh khỏi làm cho người sau nói mộng trong mộng. Vạn Tùng nói: Đại Quy nếu biết hồi quang phản chiếu, cùng Vạn Tùng không có đất dung thân, không ai liễu rõ trong mộng, trong say có tĩnh không? Tụng rằng:

Trong mộng nhận tham hỏi kỳ cựu, liệt thánh bao vây ngồi bên phải, làm nhân từ mà không nhường đánh chùy gọi (tâm không phụ người) thuyết pháp không sợ Sư tử hống, tâm yên như biển (nuốt cả trăm sông) ruột như cái đấu (bên cạnh nếu không người) mắt nhỏ đến dòng mổ trai lấy ngọc. Dám nói ai biết cơ Phong ta, dương my lên cười cả nhà say. Lìa tứ cú tuyệt bách phi (lời nói còn nơi tai) cha con Mã Tổ hết nhậm mắt.

Sư nói: Phương Đông bắc có nước, thường thức thì không mộng, phương giữa có nước, mộng thức thường một nữa, trong mộng làm việc luống uổng, thức thì làm việc thật. Phương Tây nam có nước thường mộng năm mươi mốt ngày mới dậy.

Cho thức là hư, cho mộng là thật. Mộng thức hư thật này không dễ biết. Long Nhã tụng:

Trong mộng đâu biết mộng là hư.
Thức rồi mới biết trong mộng là không có
Khi mê giống như kẻ trong mộng
Sau khi Ngộ lại giống như kẻ ngủ dậy

Trong giáo cho mộng là độc đầu ý thức độc ảnh cảnh Ngưỡng Sơn lâu nay không có mộng tưởng điên đảo. Tại sao vậy?

Kinh Pháp Hoa nói: Thường là giấc mộng lành Kim Quang Minh Thập Địa Bồ Tát nói có mười loại mộng.

Có mộng càng thêm vui.

Đại Sư Đại Minh Thuyên ở Từ Châu thích bàn chuyện vui.

Hòa Thượng nhân Sơn Hằng dặn dò Thị Giả Định phải kiểm thúc mình.

Đại Sư nói:

Đời người là giấc mộng
Vui chơi một đời là mộng đẹp
Câu Thúc một đời là ác mộng
Ta thà làm mộng đẹp

Ngày kệ thị giả xin rời viện. Ngưỡng Sơn tuy trong mộng như du hý với pháp ma ha diễn, cũng là tập khí của Thánh chúng. Kiền chùy không chỉ bạch chùy, phàm chuông mã đều (286) là kiền chùy. Kiền chùy dịch là thanh minh, Sư tử hống, chứng đạo kinh, Sư tử hống vô úy thuyết, tâm an như biển.

Kinh Pháp Hoa nói tâm ấy an như biển, nghe lưới nghi đoạn.

Thục chí thượng thư đại tướng quân Khương Duy tự Bá Ước, đời gọi là Đẩu Đam. Khương Duy Thiên Đồng không có một chữ, không lai lịch mặc cho thuật lại còn lờ mờ, người cá ở biển phía nam ở dưới nước như là cá, không phế bỏ cơ chức, khóc mãi đến khi thành châu ngọc, truyền nhau những điều lạ. Đời Hán Vũ Đế có con sông Hạnh Biều Tử nơi đó có người dài hơn một trượng hiền một viên châu nơi hang động. Đông Phương Sóc nói: Sông có hang sâu mấy trăm trượng có con trai đỏ sinh ra viên châu này sáng chói rực rỡ.

Ngưỡng Sơn chỉ biết khóc ra đau ruột, không biết lưỡi ở ngoài miệng. Chơn tánh của họ đào bán rượu, mộng lộ cơ trời, tứ cú bách phi một lúc thổ lộ.

Tăng hỏi cha con Mã Sư lìa tứ cú tuyệt bách phi Tăng trước hỏi Tây lai ý. Ngưỡng Sơn hạ chú cước ma ha diễn. Ngưỡng Sơn là cháu của Mã Tổ vì sao thuốc và bệnh không giống. Xuất thân còn có thể dễ, thoát thể nói thì khó.

TẮC THỨ 91. CÂY MẪU ĐƠN CỦA NAM TUYỀN

Dạy chúng rằng: Ngưỡng Sơn cho trong mộng là thật Nam Tuyền cho chỗ thức là hư. Nếu biết tĩnh mộng vốn không, mới tin hư thật tuyệt đối đãi. Hãy nói: Người này đủ mắt không?

CÔNG ÁN: Nam Tuyền nhân Lục Tuyên Đại Phu nói: Pháp Sư Khải rất kỳ đặc (cũng là liêu đông bạch trư)

Giải nói trời đất đồng gốc vạn vật một thể (dơ đúng hai ngón tay) Tuyền chỉ cây mẫu đơn trước sân nói: Lúc đại phu vào thấy một cành hoa này giống như mộng

Sư nói: Đường Lục Tuyên tự Canh Sơn người Ngô Quận làm quan đến chức Tuyên Hấp Quán Sát Sứ, phong chức ngự sử đại phu. Lúc đầu hỏi Nam Tuyền đệ tử nuôi một con ngỗng trong cái bình, nó lớn dần nên ra khỏi bình không được. Hòa Thượng làm sao cho nó ra được với điều kiện bình không bể, con ngỗng không tổn thương

Nam Tuyền gọi: Đại Phu Tuyên. đáp: Dạ

Tuyền nói ra. Tuyên ngay đó đại ngộ, dồn tâm nơi lý tánh, du vịnh khải luận, cho đến thiên diệu tồn thứ bảy của Niết Bàn vô danh luận, đạo huyền nơi diệu ngộ, diệu ngộ nơi tức chơn, tức chơn thì không có tề quán thì nó chẳng hai. Cho nên trời đất với ta đồng gốc, vạn vật đồng một thể với ta. Đồng với ta thì chẳng có, không. Khác ta thì trái với hội thông. Cho nên không ra không còn mà nói còn trong đó. Tuyên nêu hai câu này cho là kỳ đặc thật không biết, chính là nói mộng. Tuy nhiên Hòa Thượng Thạch Đầu nhân xem Khải Luận thông đến thiên thứ 17 cổ phàm người rỗng suốt không hình mà vạn vật đều là ta tạo ra, người lãnh hội vạn vật là mình chỉ là Thánh nhân ư?, hoát nhiên ngộ đạo liền nói: Thánh nhân không vì mình, không có điều gì mà không vì mình, lại tham học đồng khế hợp. Phật quả nói: Lục Tuyên hỏi như thế, là thì rất lạ, chỉ là không ngoài ý của giác. Nếu nói ý giác là tột thì Thế Tôn vì sao đưa cành hoa. Tổ Sư vì sao lại từ Tây Trúc đến. Chỗ Nam Tuyền đáp, dùng cơ phong của nạp Tăng cùng người thêm bệnh, phá sự bắt chước của người, bèn chỉ cành hoa trước sân, vời Đại Phu nói: Người bấy giờ thấy một cành hoa này giống như mộng như dẫn đến trên huyền nhai vạn trượng, đánh một gậy làm cho người khác đoạn mạng căn, chỉ như ở trên đất bằng đẩy đến, Phật Di Lặc hạ sinh cũng chưa lãnh hội. Ở nơi Quốc Sư Viên Thông Thiện dơ phất trần nói: Tất cả pháp hữu vi như mộng huyễn bào ảnh. Thiên Đồng chỉ ở trong mộng biến khởi quốc độ hoa tư Tụng rằng: Chiếu triệt lìa gốc tạo hóa sâu xa, rộn ràng ra vào không thấy cửa, thả hồn kiếp ngoại hỏi đâu có, mở mắt trước thân biết diệu còn, hổ gầm núi mịch mờ ngâm, rồng ngâm thấu suốt mây mờ

Nam Tuyền điểm phá người mộng, cần biết đường đường bổ xứ tôn.

Sứ nói: Phẩm lìa vi thể diệu Bảo Tạng Luận của Khải Công, xuất vi nhập ly.

Biết nhập ly, ngoại trần không có sở y. Biết xuất vi, nội tâm không có hành động.

Nội tâm không có hành động các Sư thấy biết không thể dời. Ngoại trần không sở y, vạn vật không thể buộc. Bài tụng của Thiên Đồng, Nam Tuyền chiếu thấu lìa cái gốc tạo hóa vi tế. Rộn ràng ra vào thấy cửa, thấy hai cửa xuất vi nhập lìa, chỉ là một cửa phân trong ngoài, thật ra mười phương không vách đổ, bốn bề cũng không cửa, thả hơn nơi kiếp ngoài hỏi sao có là trời đất đồng gốc, mở mắt trước thân biết diệu còn là vạn vật một thể. Gốc và thể có thể sinh ra vạn vật, trời đất như rồng ngâm mây nổi, hổ gầm nổi gió, có cảm ắt có ứng, cho nên trước sân một cành mai, thấy khắp hoa mùa Xuân, Vạn Tùng nói chuyện mộng, trước có người không ngủ, kế có người ngủ, nhân ngủ mà không biết có mộng, nhân mộng mà thấy cảnh, nhân nơi cảnh mà thấy một thân khác trong cảnh phân biệt thọ dụng. Nếu biết người thường không ngủ đáng sổ toẹt một câu lằng nhằng cần biết Từ Tôn bổ xứ không? Lúc này nếu không thấy căn nguyên phải đợi hỏi Phật Di Lặc tương lai.

TẮC THỨ 92: MỘT VẬT BÁU CỦA VÂN MÔN

Dạy chúng rằng: Đắc du hý thần thông đại tam muội, hiểu ngôn ngữ đà la ni của chúng sinh, kéo chuyển Mục Châu, thời Tần kéo, làm ra con rắn to lớn của Tuyết Phong Nam Sơn, có biết được người này không?

CÔNG ÁN: Đại Sư Vân Môn nói: Trong càn khôn, giữa vũ trụ trong đó có một vật báu, bí mật nơi hình núi, thắp đèn lòng trong điện Phật, đem ba cửa đến trên lồng đèn

Sư nói: Đại Sư Vân Môn thích làm cái gã này, bận rộn trăm việc nữa đường thoái lui. Ngày nọ dạy chúng nêu luận Bảo Tạng của Khải Công, nếu nêu hợp hoàn toàn là: Phàm trong trời đất, giữa vũ trụ trong đó có một vật báu, bí mật nơi hình núi, biết vật chiếu rỗng rang, trong ngoài rỗng rang, tịch mịch khó thể thấy, chỗ dụng huyền diệu. Tuyết Đậu dơ nói: Trong càn khôn, giữa trời đất, trong đó có một vật báu treo ở trên vách, Đạt Ma chín năm không dám trông mắt nhìn. Nếu nay nạp Tăng muốn thấy phải lấy cánh tay làm gậy.

Quốc Sư Viên Thông nói: Không nhầm làm con cháu của Đức Sơn. Bổn lục Đem ba cửa để trên lồng đèn thế nào? Tự đây thay: Chạy theo vật ý đổi dời.

Lại nói: Điện chớp mây nổi. Phật Quả nói: La Thập và Khải công thọ nghiệp Sư, Phật Đà Bạt Đà La chùa Ngõa Quan Trung Hoa dịch là giác Hiền chính là Sư nối pháp. Vô Tận Đăng liệt vào hàng Giác Hiền, nối pháp Giác Hiền nối pháp với Phật Đại Tiên ở Tây Trúc. Phật Đại Tiên và Đạt Ma đồng tham học với tổ 27 là Bát Nhã Đa la. Ngày Không Công sắp hành hình Ngài xin hoãn lại bảy ngày sau, soạn Bảo Tạng Luận Vân Môn đến dạy chúng không thể giống như Chư Tòa ông giải thích nghĩa lý (287) chỉ cần ông thả một chân, dơ lồng đèn trước điện Phật, thường tình có thể suy lường. Đem ba cửa đến trên lồng đèn thì thường tình (kẻ phàm) có suy lường được không? Bổn phận Tông Sư không đem pháp thật buộc ràng người cho nên Tuyết Đậu nói: Trong đó có một vật báu treo trên vách. Nếu không phải Thiên Đồng mượn dùng hầu như thành trệ vào vật tụng rằng:

Cuộn lại còn lo chán việc đâu đâu. Về chỗ nào là bờ sinh

Tiều phu búa mục nghi không lối Treo cây nhà hủ công Diệu Hữu Sông đêm sống vàng nổi bóng quế Gió Thu trận tuyết lấp hoa lau

Cá lạnh xuống sâu không ăn bánh, khởi bài ca thanh lại chuyển bè.

Sư nói: Nước về biển lớn sóng yên tỉnh, mây đến ngô xanh khí tượng nhàn, cho nên nói chửi nhau dù tiếp miệng khạc nhổ, dù phun nước. Vân Môn này cuốn Thu chán việc đâu đâu. Chữ hoa có hai dụng:

1. Bỏ hư lấy thật

2. Chán rườm rà đa sự

Trở về đâu là bờ sinh. Câu trên là Bảo Tạng Luận, câu dưới của Vân Môn trước ngữ, đến nơi nào tìm nếu là dứt có dứt suy nghĩ, một niệm vạn năm dù cái búi củi có nát cũng là đi nước cờ chậm. Bài tụng trước Nghiêm Dương thấy Triệu Châu nói đã có búa củi nát vốn truyền.

Câu sau của Tuyết Phong của bài tụng trước cũng có treo cây hư công bôn truyền phí phóng dài. Thấy Hư Công bán thuốc không có hai giá, treo hư trên cây, bên nhảy vào Hủ đánh Hủ.

Trường Phòng trên lầu thấy vậy biết là người phi thường mới nói: Quét trừ khách không tiếp, chứa lâu biết tin tức nói rằng: Tối ngày không người đến, nói phòng theo ta nhảy vào, phòng thừa lời ấy cũng nhảy tức vào hư, thấy có lầu lớp cửa năm màu, thị giả hai bên hơn mười người câu trên là tụng Bảo Tạng Luận. Câu tụng dưới là lời Vân Môn. Hai câu kế, câu trên tụng rõ, câu dưới tụng tỏ, ý của ngôn luận tuy rõ ràng, mấy người tiến cử, Vân Môn thông biến ấy, chỉ ra một lối sống. Cá lạnh xuống sâu không ăn mồi. Đây là đêm vắng dùng thuyền nước lạnh cá không ăn. Ánh trăng vàng bóng đầy trăng sáng thuyền. Bóng kim ba quế tên khác của trăng. Thiên Đồng nói: Ánh sáng chiếu mắt như nhà mê Triệu Châu nói: Lão Tăng không ở trong minh bạch cho nên hứng hát bài ca thanh lại chuyển bè. Hãy nói đi đến chỗ nào, đêm sâu không ngủ nơi bờ lau, hướng ra ở giữa và hai đầu.

TẮC THỨ 93: LỖ TỔ KHÔNG HỘI

Dạy chúng rằng: Gai quý chống chim cáp, chú chuột gặm thỏi vàng, không biết vàng là báu, thì không được dùng nó, còn có đốn tĩnh mặc áo châu không?

CÔNG ÁN: Lỗ Tổ hỏi Nam Tuyền Châu ma ni mọi người không biết, trong Như Lai Tạng đích thân thu được. Thế nào là Tạng? (Trước Pháp đường sau Phật điện)

Tuyền nói: Là Vương Lão Sư và ông qua lại

Tổ nói: Không người qua lại (nói đầu biết đuôi, nói qua biết lại) Tuyền nói: Cũng là Tạng (một lần sống hai lần làm)

Tổ nói: Thế nào là Châu ma ni (được một mong hai) Tuyền gọi: Tổ Sư (Lão Tăng không phải là không đưa ra) Tổ đáp: Dạ (Xà Lê không phải là tương lai)

Tuyền nói: Cút đi! Ông không lãnh hội lời của ta (bình sinh gan ruột trút cho người)

Sư nói: Thiền Sư Tổ Sư Tuyết Tế núi Chung Nam nối pháp nơi Nam Tuyền, Thiên Đồng nhầm làm Lỗ Tổ đến đây bàn luận điều này. Học giả nên biết, lại Thiền Sư Bảo Vân núi Lỗ Tổ ở Trì Châu, nối pháp nơi Mã Tổ và Huynh Nam Tuyền. Huống là Sư Tổ Nam Tuyền, dùng tên gọi Ngài, nhân công án này mà ngộ, con của Nam Tuyền không nghi ngờ. Trước hỏi Nam Tuyền châu ma ni mọi người có biết không đích thân lấy được trong Như Lai Tạng, lời này vốn trích trong Kinh chứng đạo của Thiền Sư Vĩnh Gia.

Hòa Thượng Phạm Thiên Kỳ chú rằng: Tiếng phạn là ma ni, tàu dịch là như ý, lại nói là vô cấu quang, cũng gọi là tăng trưởng. Kinh lăng già nói:

Tịch diệt gọi là nhất tâm, nhất tâm gọi là Như Lai Tạng, nó đầy đủ 3 nghĩa:

1. Là nghĩa ẩn phú

2. Là phú Tăng

3. Là Hàm Nhiếp. Vì nó hàm nhiếp tất cả chúng sinh và quốc độ cho nên sinh ra 3 nghĩa. Vì hay có sinh ra đạo hạnh của trời người; đạo quả vô lậu. Trước ước theo lúc mê, sau ước theo khi ngộ, ở giữa thì đảm đương về thể. Lại Kinh Thắng Man nói: có 2 loại Như Lai Tạng: Không Như Lai Tạng: là thoát ly tất cả phiền não

Bất không Như Lai tạng: Trải qua hằng hà sa Phật pháp. Thiền Sư Tổ Sư Tuyết Tế núi Chung Nam lúc đầu ở Nam Tuyền Viên Châu Ma Ni mọi người không biết, lại hỏi Viên Minh Châu. Ông đi đi, không lãnh hội lời của ta.

Tổ Sư ngay lời này mà tin nhập.

Quốc Sư Vân Thông nói: Nay có người nào tin nhập không?

Nếu có thì không giống đến thời ánh sáng rực rỡ.

Nếu không thì rời chỗ ở sóng vỗ ngập trời.

Phật Quả nói: Khắp trời đất là Như Lai Tạng như thế đặt viên châu ở đâu? Khắp trời đất là Châu Ma Ni thì gọi cái gì là Tạng?

Tuyết Đậu nói khác:

Núi cao trăm thước, cần trúc làm khéo léo, không phải là khéo tay, nơi đây để được con mắt, khách chủ thay nhau mới có thể vào hang cọp sâu. Hoặc không như thế dù Tổ Sư ngộ cũng là đầu rồng đuôi rắn, muốn thấy đầu đuôi hoàn toàn phải cần Hòa Thượng Thiên Đồng. Tụng rằng:

Chớ thị phi rõ được mất, ứng với tâm chỉ các bàn tay, (chỗ thấy thấu suốt, khi dùng rõ ràng)

Đến đi hay không đến đi (không liên can việc người)

Chỉ đây đều là Tạng (như thế hay không như thế đều được)

Luân Vương thưởng có công (người liêm không lấy, người ăn thì không cho)

Hoàng Đế được không giống (đã lao tâm lực)

Chuyển then chốt mới khéo léo (một trăm không bằng ông)

Nạp Tăng mắt rõ không lỗ mãng (việc không kỹ lưỡng)

Sư nói: Bài ca tâm châu, ngâm khúc ngoạn châu, nói nhiều về châu này gọi là như ý bảo, ít nói là như Lai Tạng. Chỉ có Vĩnh Gia Nhất Túc Giác đích thân lấy được trong Như Lai Tạng, 6 thứ thần dụng không và bất không. Một hạt tròn sáng sắc hay không sắc. Thế nào là Tạng? Thế nào là Châu? Là đến đi, là không đến đi, ở đây cần ông chớ có thị phi, rõ được mất, ứng với tâm, được trong tay, chỉ các bàn tay, vốn trích ở luận ngữ.

Nam Tuyền chỉ Tạng chỉ Châu giống như thả ở trong tay ông, chỉ giống như cho ông, đã đến đi, không đến đi, Tạng ấy gọi là ứng, gọi là bất ứng, đều là châu cả, thì đâu có nghi. Hãy nói: Trong Châu phát sinh ra Tạng hay là trong Tạng sinh ra Châu, hãy làm một đoàn phân làm hai đoạn. Kinh Pháp Hoa nói: Phật bảo Văn Thù Sư Lợi: Như Vua chuyển luân thấy các binh lính có công lớn. Vua rất hoan hỷ, mới cho Vân Châu khó tin này ở trong bối tóc lâu nay cho người không dối vọng, mà nay đem cho. Hoàng đế sai Tượng Vương không tìm Châu, trong 3 câu thư sơn của bài tụng trước đã rõ, chỗ cơ luân chuyển, mắt trí còn mê, nếu trong khéo léo hay làm khéo léo thì không thể nói ông đi đi không lãnh hội lời của ta. Vân Tế ở đây ngộ.

Động Sơn nói: Hoan hỷ là không phải không có, như phấn tảo trên đầu, như được một viên Minh châu.

Vạn Tùng nói: Ta không như Động Sơn xin thấy ít lợi, hoan hỷ thì không hoan hỷ, như đánh vỡ viên Minh châu trong Như Lai Tạng.

TẮC THỨ 94: ĐỘNG SƠN BẤT AN

Dạy chúng: Dưới không luận trên, đều là bậc bất động, tuy có thể nhiếp người khác nhưng chưa được trọng khinh an. Khi 4 đại không điều hòa làm sao nương cậy.

CÔNG ÁN: Động Sơn bất an. Tăng hỏi: Hòa Thượng bệnh còn có người bệnh không? (mặc cho phân sơ)

Sơn nói: Có (gượng chủ trương)

Tăng nói: Người không bệnh có thăm hòa thượng không? (thế đế lưu đế)

Sơn nói: Lão Tăng xem ông ta có phần (bổn phận gặp nhau)

Tăng nói: Hòa thượng xem ông ta thì thế nào? (có mắt như thế gặp nhau)

Sơn nói: Thì không thấy có bệnh (chỉ là không chịu ra khỏi Thiền viện)

Sư nói: Lão Cổ Nhân sắp đi du hý trong cảnh giới lão bệnh tử.

Tóm lại Động Sơn kỳ lạ, đã nói bệnh nhỏ, lúc đại chúng nhìn, có một Tăng hỏi:

Hòa Thượng bệnh có người không bệnh không?

Trong lời nói của vị Tăng này có tiếng vang, trong câu trình cơ, phải cần xem người bệnh đủ mắt.

Sơn nói: Có để nơi chỗ vết thương, bệnh giảm 10 phần

Tăng nói: Người không bệnh có thăm Hòa Thượng không? Đi ngược điều này làm cho cần người biết không.

Sơn nói: Lão Tăng xem ông ta có phần. Nếu dùng tình thế để suy lường. Người không bệnh thăm người bệnh

Động Sơn lại nói: Lão Tăng xem ông ta có phần, há là tình người hơi đạo lý. Tăng này phải triệt để thấy nhau.

Lại hỏi: Sau khi Hòa thượng xem ông ta thế nào? Ở đây ông phải trong 12 thời phải thận trọng, ban đêm ngủ dậy sớm, hỏi khi nào ở, mới là người biết ân, hiếu thuận.

Sơn nói: Lão Tăng nếu xem, tức không thấy có bệnh, đây là hành lý bình sinh, sắp đến chỗ đắc lực. Sơn lại hỏi Tăng: Cốc lậu tử này dời đến nơi nào, và gặp nhau với ta.

Tăng không đáp.

Sơn có bài tụng: Học giả tuy phần nhiều không một lần ngộ, qua ở đường thoại đầu người, muốn được quên hình mất dấu vết, nỗ lực siêng năng bước trong không, tụng xong cạo đầu nghe chuông, ngồi ở giảng đường từ biệt chúng, cáo thị tịch. Trong chúng buồn rầu khóc lóc, Sơn mở mắt bàn luận về sự ngu si ấy lại kéo dài được 7 ngày, rồi từ biệt đại chúng ngồi tịch, đại định tục đăng lục.

Thiền Sư Pháp Khánh chùa Đại Giác phủ Hàm Bình vào khoảng thời Hoàng Thống. Ngài nối pháp với Thiền Sư Phật Quốc Bạch, từng làm thư ký. Ban đầu ngài ở Phổ Chiếu Tứ Châu, sau đó dời đến Tung Tiểu, Ngài khai phá con sông biện nên bị tù, Mục Ngưu ở Phương Bắc giảng cho Tăng biết điều đó. Kế ngài ở Đông Kinh, nhân Thị Giả đọc Động Sơn ghi làm như ngu si. Thị Giả nói:

Người xưa rất kỳ lạ. Giác nói: sau khi ta diệt độ ông có thể gọi điều đó, nếu có thể trở về là có đạo lực.

Sau đó biết trước giờ lịch mới làm bài tụng:

Ngày 5 tháng Giêng năm nay. Tứ đại sắp lìa ông chủ

Xương trắng gió đến thổi đi Khỏi tốn đất đai tín thí

Y vật phó cho thị giả

Trai Tăng mới nghe tiếng chuông đầu đêm ngài liền thị tịch.

Thị Giả thưa:

Xưa theo lệnh gọi, bèn gọi 3 tiếng Giác trả lời: Cái gì

Thị giả thưa: Hòa thượng bệnh gì mà ra đi Giác nói: Thời đến đâu có

Thị giả nói: Muốn gượng khâu y Giác nói: Thôi hãy cho người sau

Thị Giả nói: Chính lúc này là thế nào?

Giác nói: Cũng chỉ như thế, lại viết một bài kệ: 73 năm như một thoáng

Sắp đi vì anh xâu một sợi chỉ Trâu sắt vọt qua bên Tân La Đập phá hư không 7, 8 mảnh

Nói xong Ngài ngồi nghiễm nhiên thị tịch thọ

73 tuổi vào Ngày 5 tháng 5 năm Hoàng Thống thứ

3.

Động Sơn biết không bệnh, Đại Giác biết không chết, cho nên 2 lão đến đi tự do. Thiên Đồng nói:

Được đi được đến, được đến được ở, ta xem ông ta có phần, ông ta xem tôi không như thế.

Chính lúc như thế thân thể thế nào: Lặng hồi lâu nói: Sương đêm còn đặc không thấy đỉnh

Gió Xuân thường còn không cành non

Thiên Đồng đưa ra toàn cơ nói rõ việc gì. Như ở trên nói ca tụng thấy người xưa nỗ lực, lại làm thế nào?

Tụng rằng:

Gỡ đi đãy da hôi

Lấy chuyển cục thịt đỏ Đương đầu lỗ mũi ngay Ngay đó đầu lâu khô

Giá nhậm mắt không thấy bệnh đến (tay đến bệnh trừ) Trẻ nhỏ nhìn nhau phải xa lìa

Nước đồng khi cạn trời Thu lạnh Mây trắng không còn ở núi xanh Lạnh phải cản tuyệt (quân tử hễ nói) Chớ có mập mờ (đốt đèn gọi cơm)

Chuyện hết không công anh đến vị (lá rụng về cội)

Gọi riêng không cùng bàn với ông (đến lúc không miệng)

Sư nói: Hòa Thượng Thạch Đầu nói: Muốn biết trong am không có người chết, đâu rời mà nay nói túi da.

Thiên Đồng lại nói gỡ đi túi da này. Động Sơn và Thiên Đồng đều là con cháu của Thạch Đầu.

Trái nhau như thế làm sao cùng biết. Lâm Tế cũng nói: Trên cục thịt đỏ có chân nhân vô vị thì an thân lập mạng ở đâu. Hòa Thượng Phật Nhật nói:

Lúc Sơn Tăng chưa đến, mũi người Yên Kinh không thẳng, Sơn Tăng đặt biệt đến để làm cho ngay.

Vạn Tùng nói: Lỗ mũi của Phật Nhật rơi vào tay của người Yên Kinh

Tăng hỏi Hương Nghiêm thế nào là đạo?-Rồng ngâm trong cây khô

- Con chưa lãnh hội

- Con mắt trong đầu lâu

Sau đó có Tăng hỏi Thạch Sương: Thế nào là rồng ngâm trong cây khô?

- Như mang niềm vui

- Thế nào là con mắt trong đầu lâu?

- Còn mang cái biết

Lại có Tăng hỏi Tào Sơn: Sơn dùng kệ dạy: Rồng ngâm cây khô chính là kiến đạo Đầu lâu biết tận mắt mới sáng

Vui biết không còn tin tức cũng tận

Đương nhân làm sao luận bàn trong ở trong đục Tăng lại hỏi: thế nào là rồng ngâm trong cây khô?

Tào Sơn nói: mạch máu không đứt

Tăng nói: thế nào là con mắt sáng trong đầu lâu?

- Khô không hết. Tổ Đình Sự Uyển làm khô tận

Nếu căn cứ vào bài tụng và tựa của ngài Thiên Đồng thì cục thịt đỏ chỉ lộ chơn thường, đầu lâu mắt lệ chảy khô biết, khô hết cũng không ghét.

Ngạn ngữ có nói: Thầy thuốc già ít bói toán Nói thầy thuốc già mới rõ (sáng)

Ít bói thì linh, cho nên Động Sơn nói không thấy có bệnh

Trẻ nhỏ gặp nhau gần cũng khó, nghĩ thân liền sơ, nghĩ đúng liền sai, Tùng lạnh càng đau.

Nhân bệnh chuyển lạ. Duy Ma gầy mà không yếu.

Nhân bệnh ngày càng tổn sức vì đạo pháp.

Tây kinh phụng thánh. Thiền Sư Thâm bệnh làm bài tụng:

Khí hết tuyệt luôn tình
Khởi tâm tâm không lối
Nháy mắt như không sức
Nhiều năm không ra cửa

Hòa Thượng Phù Dung Giai nói: Chỉ một bài tụng này tự nhiên kế thừa lão Tăng, sông này cạn mây không còn, núi lạnh phải gạn bỏ, chớ có lờ mờ, bệnh phải trừ gốc, thấy chớ cho thuốc, chuyển hết vô lực.

Y đến địa vị gọi riêng không cùng mâm với ông

Có biết không, sông đẹp một sáng vàng

Sa mạc hỗn không được

TẮC THỨ 95: VẠCH MỘT ĐƯỜNG CỦA LÂM TẾ

Dạy chúng: Phật đến cũng đánh, ma đến cũng đánh, có lý 30, không lý 30, lại là lầm, nhận oán cừu, hay là không phân lương thiện, thử nói xem

CÔNG ÁN: Lâm Tế hỏi Viện Chủ: Đi đâu?

Chủ nói: Đến Thiếu Hoàng Mễ

Thiếu (thóc) hết không? (vác cỏ tìm người)

- Thóc hết

Lâm Tế lấy gậy vạch một đường nói: Còn có thóc ở đây không?

- Chủ hét Tế đánh

Kế Điển Tòa đến, Viện chủ kể lại cho Điển Tòa nghe Tòa nói: Viện chủ không lãnh hội ý của Hòa thượng Tế nói: Ông thế nào?

Tòa liền lễ bái Tế cũng đánh

(289) Sư nói Bổn lục không có Điển Tòa. Lại hỏi chủ cúng dường, đi đường nơi nào?

Chủ nào: Đến gạo thóc vàng ở Châu Trung Tế nói: Bán thóc hết không?

Chủ nói: Bán hết

Tế cũng lấy gậy vẽ một đường nói: Bán cái này có hết không? Chủ bèn lễ bái

Tế nói: Cũng tàm tạm

Vạn Tùng nói: Có gì không được.

Viện chủ bị đánh, không tránh được cừu thù, chủ cúng dường nhờ ân,

Giết không chọn cốt nhục. Thiên Đồng cứ theo lệnh mà đi, phải thấy đại dụng toàn cơ Tụng rằng:

(Cách điệu toàn cơ Lâm Tế cao
Đầu gậy có mắt Thu xếp mảy Thu
Trừ gia phong của thỏ chồn
Biến hóa cá rồng thiêu điện chớp
Kiếm cứu người, dao giết người
Nương trời soi tuyết thổi sợi lông
Giống như sai đi nếm vị ngon
Chỗ đau 10 phần là ai gặp.

Sư nói: Lâm Tế có lúc đoạt người không đoạt cảnh, có lúc người cảnh đều đoạt mất. Nếu gặp người trong đó, chính là vận dụng cơ duyên toàn thể. Chỗ cách điệu của Lâm Tế rất cao, đưa tay đánh tay, dương mắt đánh mắt, bốn phương tám hướng gió thổi quanh.

Thời Hoàng Đế Ly Lâu con người trăm dặm mới thấy mảy thủ, đầu gậy có mắt, sáng như mặt trời mặt trăng, nửa điểm cũng không dung chứa, không chỉ quét trừ thỏ chồn, cũng có thể biến hóa cá rồng, cá vọt ra cửa đất Mân 3 tấc, sấm chớp đốt đuôi liền thành rồng, tấn cơ đánh hét, thần dụng như thế, bảy việc tùy thân. Có dao cứu người sống, kiếm giết người chết. Phù Sơn Viên Giám Viễn Lục Công đưa ra 16 đề bảo Thiền Sư Đầu Tử Thanh tụng cũng có nói dao giết người, kiếm cứu người. Tuyết Đậu tụng Ba Lăng thổi kiếm lông, muốn bình mà không bình, thiện xảo cũng như vụng về, hoặc ngón tay hoặc nắm tay, nương trời soi tuyết. Bài Phú của Tống Ngọc nói đất vuông là kiệu, trời tròn là lộng, uốn tên bắn phù tang.

Kiếm dài tựa ngoài trời, Tăng hỏi Lâm Tế: Thế nào là kiếm thổi lông?

-Việc họa, việc họa.

Không thấy nói Dấm của Đức Sơn biết ăn biết chua. Cái dụng của Lâm Tế vượt trội Hoằng Bá, truyền đến cũng không yếu. Trúc Am nói: đánh vào mặt 3 loi, đánh vào lưng 7 đấm, người khắp đại địa không biết đau, chỉ có một người biết đau, còn chịu bác sĩ. Không thấy Lâm Tế nói: Như cây chổi quét.

TẮC THỨ 96: CỬU PHONG KHÔNG CHỊU

Dạy chúng: Vân Cư không nương vào xá lợi châu giới. Cửu Phong không thích ngồi yên đứng mất. Ngưu đầu không cần trăm chim ngậm hoa. Hoàng Bá không nhờ cái phao để qua sông. Hãy nói có ưu điểm gì?

CÔNG ÁN: Cửu Phong ở nơi Thạch Sương làm Thị Giả. Sau khi Thạch Sương tịch, chúng muốn thỉnh Cửu Phong làm Thư Tọa, Phong không chịu bèn nói: Đợi ta hỏi qua đã, nếu biết được ý của tiên sư, như tiên Sư cho phép, bèn hỏi:

Tiên Sư nói: Thôi đi, thôi đi, một niệm là vạn năm

Cây khô khi tro lạnh. Một sợi tơ trắng Hãy nói:

Rõ việc gì?

Thư Tòa nói: Rõ việc một sắc màu.

Phong nói: Như thế thì chưa lãnh hội ý của Tiên Sư Tòa nói: Ông không chịu ta thì làm sao đốt hương

Tòa đốt hương nói: Ta nếu không lãnh hội ý của Tiên Sư thì chỗ phát khởi của khói hương này thoát không được. Nói xong liền ngồi.

Phong vỗ vai nói: Ngồi yên đứng mất thì không thể không có. Ý tiên Sư chưa mộng thấy.

Sư nói: Thiền Sư Cửu Phong Đạo Xứ ở Quân Châu đích thân truyền đạo của Thạch Sương, được cây gậy sống chết, đủ cơ phong của Nạp Tăng. Thư Tòa khiêng ván, chỉ được một cọc. Bấy giờ thấy nói như thế thì chưa lãnh hội ý của Tiên Sư. Chỉ nói ta không giống ông. Bèn dạy Cửu Phong không có đất để dung thân cam tâm quy phục. Không thấy nói đâu không đủ, nhường thì có dư. Người tham học thời nay chỉ nói người xưa ngồi thoát đứng mất. Người nay sắp đi thì tay chân bận rộn. Lại thấy Âu Dương Văn Trung Công tham kiến Lão Tăng ở Tung Sơn, nói người thời nay niệm niệm là loạn, lúc lâm chung làm sao định được.

Đây chính là 1 bề tìm sinh tử.

Bài tụng của Giác Phạm nói: Khi chết điều đáng tận thì nên tận, ngồi yên đứng mất là khoe lũ trẻ. Lạc Sinh từ sữa cách dùng không khác. Khi chết đâu khổ mà muốn biết trước

Nhị Triều Sĩ hỏi Hòa thượng Tuyết Phong Chiếu: Người xưa lâm chung đi đứng tự lại, đâu nói điều đó.

Thuyết Phong nói: Tiên Tăng đem đến tự buộc chết đi

Lâm Chung Chung Tăng Cầu Phong dạy lời cuối cùng, Phong nói mấy câu ác ngữ rồi tịch.

Thủ Tọa Thạch Sương nếu đến mặt đất này khỏi bị Cửu Phong áp bức chết.

Phật Quả dạy Cảo Thượng Nhân pháp ngữ:

Ôi, thấy một chủng tộc dã can mù, tự không biết mộng thấy Tổ Sư, lại vọng truyền, Đạt Ma lấy thai nhi truyền cho người, cho là huyền pháp cứu mê tình

Cho đến dẫn từ các Tông Sư cao niên tối thượng, như loại Quốc Sư An, Triệu Châu đều thực hành chí khí này, và khoe chiếc giày của Sư Tổ.

Khi quật mồ chỉ có quan tài rỗng không, đều cho thuật này có linh nghiệm. Liền toàn thân giải thoát; cho là tâm hồn hình hài đều vi diệu, mà người rất ưa vào cái thân này. Sợ đến ngày 30 tháng Chạp đua nhau truyền pháp quy chơn, trừ đêm vọng nhìn bóng, gọi chủ nhân ông.

Để bói ngày tháng nghe chuông trống, kiểm nghiệm ao ngọc, dùng nhãn quan cho là pháp thoát sinh tử.

Thật là cuồng ngạo, tạo tội sâu dày, để lại Cao nhân cười chê. Lại có 1 thứ người nhờ vào thai nhi của Sư Tổ để nói. Triệu Châu trong 12 thời cứ ca riêng.

Bài tụng chuyển xe bên sông của Bàng Cư Sĩ nói cùng nhau chỉ trào, thầm truyền hành trì, để tín nhiều năm và thoát được toàn thân, người thọ ít nhất là 3, 5 trăm tuổi.

Thật không biết, đây chính là vọng tưởng ái kiến.

Vạn Tùng nói: Người thời nay nhìn xuống các nơi phần nhiều là lúc sắp đi muốn người lo lắng, giống như bôi tro tàn trên mụn ghẻ, thật vui ưa. Thạch Sương 1 đời giống như loài cây khô luôn ngồi không nằm.

Người ngồi thoát đứng mất rất nhiều. Chỉ có Cửu Phong không chịu Thư Tòa. Ngày nay giống như ngồi thoát đứng mất, đâu không tham vấn chỗ Cửu Phong không chịu.

Hãy nói: Cửu Phong có tác dụng gì: Thì hỏi lấy nơi Thiên Đồng Tụng rằng:

Một Tông Thạch Sương Tự trao
Cửu Phong Thắp hương đi thoát
Mạch chánh khó thông
(Hạc) Lấy trắng làm ổ, ngàn năm mộng
Nhà tuyết người mê, một sắc công
Quét sạch mười phương còn bị lộ
Thầm dời một bước ngắm rồng bay

Sư nói: Thiên Đồng nhân nghĩa, trước trừ chỗ nghèo, tình thế nghiêng mạnh về tiên.

Vạn Tùng nói: Môn đình thi thiết đâu bằng Cửu Phong Nhập lý đàm sâu, còn có Tòa nguyên vốn trăm bước

Hòa Thượng Thắng Mặc làm thơ Tổ Đình Vĩnh Lại: Bọn Nguyên Tòa mất khói bay. Cửu Phong không phải là áp đặt người hiền. Nếu lấy 1 màu sắc làm thừa nối, cô phụ Tiên Sư không nhờ vào duyên.

Thạch Sương dạy chúng: Chưa từng quên chiếu soi, giống như là bên ngoài thừa tiếp giống thần. Cũng nói nhờ cậy

Ngày đản sinh mảy tơ không cách ngăn. Như Vương tử hạ sinh thì có thể kế thừa ngôi vua, cho đây là bên trong thừa nối, gọi là giống vua tức là không mượn danh cù.

Mượn thì là việc một màu sắc. Bất đắc dĩ ứng cơ lợi sinh là đèo bồng. Gật đầu rồng bay cũng là việc của đất Mân Hòa thành cá, cũng là quẻ càn quái chu dịch.

Ngôi vua rồng bay tới hồi, như được địa vị há so với tổ với việc trần tục. Nhà tuyết người mê thay, có biết chỗ Thạch Sương truyền cho Cửu Phong không? Phá nát túi hương xông cả nước, mở ra gió chơn nơi cõi trời.

TẮC THỨ 97: KHĂN CHE ĐẦU CỦA QUANG ĐẾ

Dạy chúng: Đạt Ma Triều Lương Vũ Đế, vốn là truyền tâm, diêm quan biết đại trung, không ngại đủ mắt, thiên hạ thái bình, quốc vương trường thọ, không phạm oai vua, trời trăng dừng cảnh, 4 mùa hòa hợp, có gió mát đưa Nhân vương và Pháp vương gặp nhau bàn luận việc gì?

CÔNG ÁN: Đồng Quang Đế bảo Hưng Hóa:

Quả nhân thu được một bảo vật ở Trung Nguyên, chỉ là không có người trả giá.

Hóa nói: Mượn vật báu của Bệ hạ xem Đế lấy 2 tay đưa cái khăn bịt đầu lên

Hóa nói: Vật báu của Quân vương ai dám trả giá

Sư nói: Thiền Sư Hưng Hóa Tồn Tương ở Ngụy Phủ ban đầu theo Lâm Tế. Sau khi Tế viên tịch, ngài Hưng Hóa làm Tam Thánh Thủ Tòa. Sau đó gặp Đại Giác khai đường niêm hương nói: Một nén hương này bổn phận là Sư huynh Tam Thánh. Tam Thánh rất cô phụ tôi. Bổn phận là Sư huynh Đại Giác. Đại giác rất xa lạ với tôi không bằng cúng đường Sư huynh Lâm Tế.

Tăng hỏi: Khi bốn phương tám hướng đến thì thế nào?

Hóa nói: Đánh vào giữa

Tăng lễ bái

Hóa nói: Đại chúng hưng hóa, hôm qua đến phó trai giữa đường, gặp gió mưa bão bùng liền vào miếu thần trú mưa, sau đó Đường Trang Tông đến Hà Bắc.

Tăng hỏi: Dặm trình vua có hạn thời thế nào?

Hóa nói: Một ngày 500 xe giá, trở về đất Ngụy tiến vào cung, vời Hóa đến uống trà xong mới hỏi: Trẫm thu hồi Trung Hạ Nguyên được một vật báu, chưa từng có người trả giá

Hóa nói: Mượn đại vật báu của bệ hạ xem Đế lấy 2 tay đưa cái khăn bịt đầu lên

Hóa nói: Vật báu của Quân vương ai dám trả giá

Đế vui mừng ban cho Sư cái y tím.

Sư không chịu nhận.

Đế lại ban cho con ngựa nhất định.

Vạn Tùng nói: Thứ nhất phải biết lấy quân vương lại phải biết chỗ Trung Nguyên, sau đó hỏi như vậy vật báu tự rơi xuống.

Huyền Giác Vi nói: Hãy nói: Hưng Hóa chịu Đồng Quang hay không chịu Đồng Quang. Nếu chịu Hưng Hóa thì mắt ở chỗ nào? Nếu không chịu Đồng Quang thì qua chỗ nào?

Vạn Tùng nói: Ngài không sinh không hiểu yếu chỉ kim cang. Hỏi được tâm nghi tràn thế gian

Tuyết Đậu nói: Nếu đắc của Chí Tôn có thể bàng quan nếu không phải tác gia Hưng Hóa thì thường trả giá cao

Vạn Tùng nói: Giống như không đến thọ trai

Thúy Nham Chi nói: Hưng Hóa ngay đó bỏ xuống, có thể gọi là say mèm. Như nay làm sao đoạn được

Vạn Tùng nói: Ăn gậy quyết rõ ràng

Vân Phong Duyệt nói: Thật không che ngụy dối, quanh co không che lấp ngay thẳng, người có mắt biện lấy. Vạn Tùng nói: Hỏi kẻ mở mắt

Hoàng Long Tâm nói: Hưng Hóa một khi thấy cơ mà làm, đâu có mai một 1 triều đại thiên tử. Bấy giờ chỉ nói châu ngọc chơi con trai lấy được không có chỗ dùng, dạy y sau này chớ có kiếm kế sinh nhai, khỏi nhìn thấy trở ngại nhau, mà nay nếu có người hỏi lại làm sao trả giá

Vạn Tùng nói: Bảy chín 63. một đội người già này không có người dám đụng đến giá cả, chỉ có Thiên Đồng tướng Vật làm giá, cả hai không thiếu thốn. Tụng rằng:

Ý của quân vương nói tri âm, thiên hạ tâm ngay thẳng lấy ra vật báu vô giá ở Trung Nguyên, không đồng Triệu Bà và Yên Kim. Vật báu của Trung Nguyên trình lên Hưng Hóa. Một đoạn quang minh khó định giá.

Đế nghiệp là thầy vạn đời, kim luân chiếu soi 4 thiên hạ

Sư nói: Là niên hiệu Đồng Quang, như Thiên tử Đại Trung tức là Tuyên Tông. Sau đó Đường Trang Tông lên ngôi 3 năm, năm Quý Mùi cải đổi thành đầu năm Đồng Quang gọi là một vật báu

Trung Nguyên, đã là cường danh, cuối cùng gọi là gì: Thiên Đồng tôi chỉ nói được cái ý của Quân Vương nói tri âm, xem hành binh của Trang Tông thì theo chơn định phục Trung Sơn, lấy Ngư Dương và Ngụy Bác thúc ngựa qua sông. Nhưng họ lương mất nước thiên về tay phía Tây của Sư, kiến khách không giữ cho nên tự xưng là được một vật báu Trung Nguyên, chỉ là không có người trả giá. Đây là vì Nạp Tăng chưa gặp tri âm, không gặp người khác, cuối cùng không khai quyền. Hưng Hóa thật không dám cô phụ đại bảo của Thiên phủ. Tâm ngay thẳng ngày càng mòn, bảo vệ cho đầy đủ điều ấy. Cho nên chặt chân Trang Tử không bằng ngay thẳng. Lấy vật báu ở Trung Nguyên. Bài tụng này dẫn ra khăn bịt đầu., hạt châu trong búi tóc của Luân Vương không thể xem thường việc phân phó. Thiên tử xưa nay bàn đối, chưa có ai như Trang Tông khéo dùng thời cơ.

Phật sự nhân tinh 1 lúc đầy đủ

Có quan nhân yết kiến Quy Tông đưa 2 cái khăn lên nói: Hội không? Quan nói: Không hội

Lão Tăng bệnh đau đầu, chớ có lạ không bỏ khăn.

Quan nhân không nói, Vạn Tùng nói:

Hàn Tín Công lớn ai sinh bằng, chuyển thân tách ra nhiều đám mây. Triệu quốc có ông Bích họ Hòa

Yên Chiêu Vương đặt một ngàn vàng trên trúc đài, gọi các kẻ sĩ trong thiên hạ cho nên gọi là đài Hoàng Kim.

Lại tụng rằng: Báu Trung Nguyên, một đoạn Quang minh, soi trời chiếu đất. Nam Tuyền nói: Không cho là quý (đắt), không cho là rẻ, ông làm sao mua, sở dĩ cho nên khó định giá. Kim Luân Vương làm vua 4 thiên hạ, ngân luân 3 thiên hạ, đồng 2 thiên hạ, sắt 1 thiên hạ, theo trên có thể biết. Kim Luân tuy có 7 báu, chỉ có thể chiếu soi 4 thiên hạ, không bằng báu Trung Nguyên trùm khắp 10 phương pháp giới, đều là 1 đoạn quang minh, không thể chịu được Hưng Hóa, dễ dàng liền nói: mượn báu của bệ hạ xem. Đồng Quang là thiên tử một triều, làm đại đàn việt, bố thí cho người, có thể gọi là tác gia quân vương thiên nhiên có còn tồn tại.

Vạn Tùng thường cười: Tam Giác dạy chúng rằng:

Phán thuyết pháp phải đúng thời tiết, khi đến ở Am gặp giặc, cầm dao hỏi: Hòa thượng có của báu không?

Giác nói: Báu của nhà Tăng ông dùng không tiện Giặc nói: Báu gì?

Giác liền hét:

Giặc không lãnh hội liền lấy dao đưa cho Pháp Vũ tụng rằng:

Kết hành tuyệt đỉnh ở Tam Giác Báu nhà không thể chê kỹ càng Vội vàng mở túi khi chê người Thập Hóa chặt chân Hồ là lầm Lầm hơn Kiệt, Trụ hề ban lễ nhạc Không như Hưng Hóa Trang Tông không làm tổn thương Khí Hòa. Tăng hỏi Pháp Vân Viên Thông Tú Thiết Bích biết Sư có vật báu trong túi, ngày nay phải tạm mượn xem.

Bích nói: Người quân tử thích của cải, lấy thì có đạo, chớ cho là Pháp Vân lấy không ra, phải biết Hưng Hóa dám thương lượng.

TẮC THỨ 98: ĐỘNG SƠN THƯỜNG THIỆT

Dạy chúng: Cửu Phong cắt lưỡi, đuổi theo Hòa Thạch Sương. Tác Sơn chém đầu, không cô phụ Đỗng Nham. Người xưa 3 tấc được bí mật gì, lại làm tay người đoạn chỗ nào CÔNG ÁN: Tăng hỏi Động Sơn: Trong 3 thân, thân nào không rơi vào các số (trước 3 sau 3)

(291) Sơn nói: Ta thường ở nơi chỗ tha thiết này Sư nói: Bổn Lục Trung hỏi: Trong 3 thân, thân nào là thân thuyết pháp.

Sơn nói: Ta thường ở nơi chỗ tha thiết này Thiền Sư Sớ Sơn Nhân mới hỏi Động Sơn: Lời nói chưa có xin Sư chỉ dạy.

Sơn nói: Không dạ, không có người chịu Sớ nói: Lại có thể tha thiết không?

Sơn nói: Xà lê nay tha thiết được không?

Sớ nói: Tha thiết không được thì không có chỗ kỵ kiêng Sơn chịu điều đó Sau đó Tăng hỏi Tào Sơn:

Tiên Sư nói: Ta thường ở nơi tha thiết này ý chỉ thế nào? Sơn nói: Phải chặt đầu đi Tăng lại hỏi Tuyết Phong: Phong lấy gậy đè miệng đánh nói, ta cũng từng đến Động Sơn. Thừa Thiên Tông nói:

Một chuyển ngữ biển yên sông lặng Một chuyển ngữ gió thổi trăng lạnh.

Một chuyển ngữ cưỡi ngựa của giặc đuổi giặc, thử bàn xem.

Bỗng có nạp Tăng ra nói đều không như thế cũng chấp nhận y đủ một mặt, vốn con cháu Dược Sơn bên cạnh bảo hộ kỵ kiêng, giống như là đồng không thấy.

Tăng hỏi Thạch Sương: Thế nào là yếu chỉ Thiền Tông?

Sương bèn cắn răng dạy điều đó. Tăng không hội. Sương thị tịch.

Sau đó Tăng hỏi Cửu Phong Tiên Sư cắn răng ý chỉ thế nào?

Phong nói: Ta thà cắt lưỡi không phạm húy quốc.

Tăng lại hỏi Vân Cái: Cái nói: Ta và tiên Sư có oán cừu. Hòa Thượng Bảo Ninh Dũng làm bài tụng rằng:

Tha thiết này đáng thương tìm bên ngoài
Chí thân vì sao giống như oán cừu
Hoàn toàn trên mặt không thẹn hổ
Lại bị Tào Sơn xin đầu ông

Giống thì rất giống, phạm đến gió sương, ông xem Thiên Đồng hình như miên mật. Tụng rằng:

Không nhập thế, chưa theo duyên Cướp chỗ không có gia truyền Cỏ non gió nhẹ chiều sông Thu Bờ xưa thuyền chở đầy khói sóng Sư nói: Không nhập thế chưa theo duyên, sau ót thấy quai hàm, chớ cùng quay lại. Cướp chỗ không có gia truyền. Động Sơn xướng như thế, Tào Sơn hòa như thế, Tuyết Phong đoán như thế. Ba đại phải là mọi người đẩy.

Bởi hoàng hà đầu nguồn nước đục, khắp nơi thổi gió, đất nhớ tên cỏ cây rau quả, nhỏ thì bèo, lớn thì cỏ, lơ trắng liễu đung đưa, sông hồ tìm cỏ trắng, trời lặn ở Giang Nam, trong động có khách về. Sông tiêu tương gặp người xưa, người sau gọi chỗ ấy là Bạch tần đinh, gió nhẹ chiều sông Thu.

Bài phú về gió của Tống Ngọc. Phàm gió sinh cỏ sinh, sông ngòi duyên thái sơn, múa dưới cây tùng bách gọi ấy là Bạch Tần, mạ xanh mà hoa trắng.

Dám hỏi: Bờ xưa thuyền về đâu, ai biết? Khói sóng xa xăm chẳng có tư lương tốt.

TẮC THỨ 99: CƠM TRONG BÁT NƯỚC TRONG THÙNG CỦA VÂN MÔN

Dạy chúng nói: Cờ có trí lạ, rượu có ruột riêng, thỏ luồng 3 hang, loạn xạ lung tung. Lại có kẻ ngang dấu, hãy nói là ai?

CÔNG ÁN: Tăng hỏi Vân Môn: thế nào là trần trần tam muội?

Vân Môn nói: Cơm trong bát nước trong thùng Sư nói: Hoa Nghiêm nói 1 trần nhập chánh định, các trần tam muội khởi. lại nói:

Trần trần cũng vậy, pháp pháp cũng thế

Chớ Tăng này hỏi cần phải Vân Môn đương đầu lấy ra Vân Môn nói: Cơm trong bát nước trong thùng. Hãy nói lấy ra hay không lấy ra. Có kẻ liền nhận cùng tiếng đưa việc, ngay cú trình cơ. Có người nói hột cơm trong bát đều tròn, nước trong thùng giọt giọt đều ướt, lại có chết vội nói: trong bát có cơm, trong thùng có nước Phật Quả nói: Súc miệng 3 năm chính là bọn ông Tuyết Đầu nói: Nhiều miệng Sư khó buông lời, vốn lá gan nhỏ xem. Thiên Đồng phá vỡ da mặt tụng rằng:

Cơm trong bát nước trong thùng Mở miệng thấy ruột cầu tri kỷ Suy nghĩ rơi vào 2, 3 cơ Đối diện chớ thành ngàn vạn dặm Sư Thiều Dương khá chút ít Nghĩa cắt vàng hề ai giống được Không có tâm đá hề chỉ như thế

Sư nói: Tăng hỏi Quốc Sư Trung: thế nào là đại ý phật pháp?)

Sư nói: Vạn Bồ tát trong giảng đường Văn Thù Tăng nói: Học nhân chưa lãnh hội Sư nói: Đại lư ngàn tay, mắt Phật Giám tụng: Những năm rau cỏ cạn Khắp nơi là củ cải Một lần mua một cái Được thì rất no nê Ở đây Thiên Đồng và Vân Môn đưa ra 1 tay, chặt đứt cái xiềng chân. Chu Dịch lắm lời, đạo của người quân tử hoặc xuất xứ, hoặc im lặng, hoặc nói năng. Hai người đồng tâm, lợi ấy chặt vàng, nói đồng tâm là thối như nát.

Chú rằng: vàng là vật rắn chắc mà có thể chặt đứt nói lời là nhiều.

Mao Chi Bội Bách Chu nói:

Tâm ta không phải đá, không thể chuyển Tâm ta không phải chiếu nhưng không thể cuốn Chú: Đá tuy kiên cố nhưng còn chuyển được Chiếu tuy bằng có thể cuốn lại Nói tâm chí mình kiên cố bằng phẳng hơn cả đá và chiếu Hãy nói: Quốc Sư Trung, Phật Giám, Vân Môn, Thiên Đồng thở vội như thế là thế nào? Mảnh mảnh lòng son biết người thiếu, nhìn từng mặt thấy đều là hiếm.

TẮC THỨ 100: LĂNG GIÀ SƠN HÀ

Dạy chúng: Một lời nói có thể làm cho nước hưng thịnh, 1 lời nói cũng làm cho nước suy vong. Thuốc này cũng có thể giết người, thuốc này cũng có thể cứu người sống lại. Người nhân thấy điều ấy cho là nhân, người trí thấy điều đó cho là trí. Hãy nói lợi hại ở chỗ nào?

CÔNG ÁN: Tăng hỏi Hòa Thượng Lang Da Giác: Thanh tịnh bổn nhiên, sao nói bỗng sinh sơn hà đại địa?

Giác nói: Thanh tịnh bổn nhiên, sao nói bỗng sinh sơn hà đại địa Sư nói: Thiền Sư Vô Đức Chiêu ở Phần Dương ở phía Bắc khổ và lạnh nhân đó bỏ tham thiền 1 đêm.

Có Phạm Tăng cưỡi mây đi đến khuyên. Không thể đánh mất thời gian. Chúng đây tuy không nhiều, 6 người đại khí nói che trời người. Ngày mai là Dương thượng đường nói: Hồ Tăng có gậy vàng phóng quang, đến phần Dương là vì đạo pháp. 6 người thành đại khí, khuyến thỉnh phô dương. Bấy giờ Đại Ngu Chi, Từ Minh Viên, Lang Da Giác, Pháp Hoa Cử, Thiên Thống, Thiền Sư Khai Hóa Tịch Chiếu húy Tuệ Giác, người tây ở núi Lang Da Trì Châu, cha làm đến chức Xung Dương Thái Thú, khi hết làm quan trở về lại Tây Lạc, qua Phong Châu lên chùa Núi Dược lễ bái thấy Ngài dạo chơi, ở mãi nơi đây nhân thế mà xuất gia, đắc pháp nơi Phần Dương. Ưng Duyên, Trừ Thủy và Tuyết Đậu Minh Giác, đồng thời xướng đạo:

Thiên hạ chỉ là hai cửa cam lồ

Đến nay Hoài Nam thay đổi như xưa Hòa Thượng Kỳ Lâm Hồ Nam mới thấy Tăng đến liền nói: Ma đến, ma đến rồi lấy cây kiếm gỗ đuổi đi. Tăng núp vào phương trượng, như là 12 năm. Sau đó ngài thả kiếm không nói. Có Tăng hỏi: 12 năm trước hàng phục ma thế nào?

Lâm nói: Giặc không phá kẻ nghèo Tăng nói: 12 năm sau hàng phục ma thế nào?

Lâm nói: Giặc không phá kẻ nghèo Đây gọi là ý kiếm rơi vào thân Phần thứ tư của Kinh Thủ Lăng Nghiêm Phú Lâu Na hỏi: Tất cả căn trần trong thế gian, nơi tối tăm đều là Như Lai Tạng, thanh tịnh bổn nhiên, tại sao bỗng sinh ra sơn hà đại địa các tướng hữu vi, thứ tự chuyển dòng (292) Chung mà lại thủy Nói rằng nếu biết thì đã biết, giác thể vốn vi diệu, vô minh vốn không, sơn hà đại địa như hoa đốm hư không. Nếu mê hoặc thì bị vọng phân tán. Các Giác mạnh liền khởi, ba tế làm đời, y luân thành cõi. Lang Da nói: Ta không như vậy. Thanh tịnh bổn nhiên tại sao nói bỗng nhiên sinh ra sơn hà đại địa. Đây gọi là cưỡi ngựa của giặc mà đuổi giặc, đoạt vũ khí giặc để giết giặc. Tiến Phúc Tín nói: Trước đi không đến, sau quá lắm. Vạn Tùng nói: Từ Lục gánh củi đều thấy 1 bên, phải trừ bỏ kiến lậu, cần phải thấy Thiên Đồng mới được.

Tụng rằng:

Thấy có không có
Lật tay lật tay
Người trong núi Lang Da
Không rơi sau Cù-đàm

Sư nói: Thấy có không có, cái có ấy tự hư mục Thấy kỳ lạ không kỳ lạ, cái kỳ lạ ấy tự hoại Ma Ha Diễn Luận là Tổ Sư Long Thọ tổ thứ 14 soạn Ví tất cả nhân duyên nên không có, đây là lật tay lật tay Lang Da thượng đường nói: Thấy nghe biết đều là nhân của sinh tử, thấy nghe biết đều là gốc giải thoát Thí như Sư tử quay lại bắt, Nam Bắc Đông Tây lại không định chỉ. Các ông nếu không lãnh hội thì chớ có cô phụ lão Thích-ca. Hồng (tiếng thần chú) điều này không rơi vào sau Cù-đàm. Cù-đàm là tiếng Phạn. Nói đủ là Kiều-đáp-ma. Trung Hoa dịch là Địa Thắng nghĩa là trừ Thiên ma ngoại đạo ở trong nhân trời đất. Vì tối thù thắng từ nay về sau 500 năm, cách Thánh cùng xa, nhiều người giải đãi làm sao mà không rơi vào sau được, bày phá xưa nay.


[Đầu trang][Mục lục bộ Chư Tông][Mục lục tổng quát]