TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠP TẠNG

BỘ CHƯ TÔNG

SỐ 2016 - TÔNG CẢNH LỤC

MỤC LỤC

SỐ 2016 - TÔNG CẢNH LỤC

QUYỂN 71

QUYỂN 72

QUYỂN 73

QUYỂN 74

QUYỂN 75

QUYỂN 76

QUYỂN 77

QUYỂN 78

QUYỂN 79

QUYỂN 80

QUYỂN 81

QUYỂN 82

QUYỂN 83

QUYỂN 84

QUYỂN 85

QUYỂN 86

QUYỂN 87

QUYỂN 88

QUYỂN 89

QUYỂN 90

QUYỂN 91

QUYỂN 92

QUYỂN 93

QUYỂN 94

CHƯƠNG III: DẪN CHỨNG

QUYỂN 95

QUYỂN 96

QUYỂN 97

QUYỂN 98

QUYỂN 99

QUYỂN 100


QUYỂN 71

Hỏi: Tâm chẳng riêng khởi, gá cảnh mới sinh, vậy có chăng cậy cảnh chất khởi chẳng?

Đáp: Có, Bồ-tát Hộ pháp nói: Tâm sinh chẳng hẳn có chánh nghĩa bản chất, như sơ sở duyên duyên có không chẳng định, chẳng nhờ mượn bản chất tâm cũng được sinh cảnh của duy thức, hoặc thân tướng phần, hoặc đợi chất bên ngoài mà sinh. Đại sư Từ Ân-Khuy Cơ nói: Vì sợ lý trái duy thức, nếu thức thứ tám, thức thứ sáu có không chẳng định, tức như lúc tám thức duyên cảnh, năm thức trước và thức thứ bảy quyết định có bản chất, thức thứ tám nếu lúc duyên phù trần căn người khác và khí giới khác cùng sắc quả định, tức có bản chất, nếu duyên tự ba cảnh là, chỉ là thân biến thân duyên, tức không bản chất. Thức thứ sáu nếu lúc duyên mười tám giới hiện tại, có thể có bản chất, nếu duyên mười tám giới ở quá khứ, hoặc lúc duyên pháp không thể, lấy gì làm chất? Nên biết chỗ sáu nhập cậy bản chất có không chẳng định, nếu sắc quả định là có biến hóa, nói có biến là gá chất tức có bản chất, nói có hóa là lìa chất, hoặc có duyên khác mà khởi là, tức có nghĩa của biến, tức gá khác làm chất, tự biến ảnh tượng, như quấy nước sông làm tô lạc, biến đại địa làm vàng ròng, đây đều là có bản chất, hoặc có định lực sinh, tức có nghĩa của hóa, tức lìa chất hóa không mà chợt có, như hoa đốm hư không hóa ra lâu đài bảy báu v.v... mọi sự đây đều tự định tâm lìa chất mà hóa. Nên làm bốn câu để phân biệt bản chất tướng phần ba cảnh có không: Một là, có bản chất tướng phần là tánh cảnh thật, tức năm thức trước và ý thức minh liễu ở niệm đầu đều thiếu phần độc đầu ý thức; hai là, có bản chất tướng phần là giả, tức độc ảnh có chất và cảnh đới chất; ba là, không chất tướng phần là giả, tức độc ảnh không chất; bốn la, không chất tướng phần là tánh cảnh thật, tức tâm vương thức thứ tám duyên ba cảnh và bản trí duyên như vậy. Lại trong biệt hành sao nói: Sở duyên duyên, nghĩa là chỗ lự xứ của tâm, nên gọi là sở duyên, chỉ cảnh sở duyên đây lai có dẫn tâm khiến sinh, là chỗ gá của tâm vậy. Lại có thuyết nói là duyên, tức sở duyên là duyên gọi là sở duyên duyên. Duyên là thể, sở duyên là dụng, sở duyên của trong sáu thức, tức duyên trì nghiệp thích vậy, nay trước lập chánh nghĩa là: Sư Cúc-đa ông chẳng giải nghĩa sở duyên duyên của Đại thừa ta, chỉ như Đại thừa ta nói: Mang tướng mình là, mang và tướng mình mỗi mỗi có hai nghĩa, nói mang có hai nghĩa là: Một là, xốc mang tức tâm năng duyên xốc thể cảnh là duyên; hai là, biến mang, tức tâm năng duyên biến khởi tướng phần mà duyên. Tướng mình cũng có hai nghĩa: Một. thể tướng gọi là tướng; hai tướng trạng gọi là tướng. Lại như ở trước xốc mang thể tướng là trí căn bản duyên chân như, là xốc mang thể tướng mà duyên, là sở duyên duyên, cho đến hai phần bên trong cùng duyên và tự chứng phần duyên kiến phần, cũng là xốc mang thể tướng gọi là sở duyên duyên, nghĩa là tâm năng duyên thân xốc mang hai phần kiến tướng bên trong vậy. Tiếp theo sau, biến nang tướng trạng, tướng có hai giải chẳng đồng. Thứ nhất Long Hưng Sao Chủ nói: Tức tâm tâm sở hữu lậu và kiến phần trí hậu đắc lúc duyên cảnh, biến tướng mà duyên, chẳng chọn lựa có chất hay không chất, đều là biến mang gọi là mang, tướng trạng gọi là tướng, là sở duyên duyên vậy. Thứ hai, Hiển U Sao nói: Lúc kiến phần tám thức duyên tướng tự thân, đều là xốc mang, nhưng tuy nhiều nói lý đây sợ chưa như vậy. Nếu vậy tức có ba lỗi: Một là, lỗi xốc mang biến mang không riêng biệt, thân xốc thể cảnh duyên gọi là xốc mang, biến khởi tướng phần mà duyên gọi là biến mang. Nay đã gọi tướng phần là xốc mang, nên biết là không riêng biệt; hai là, lỗi trái nhau xưa nay, xưa nay xốc mang là ít trái lý, nếu ở biến mang tức mới không trái, nay nói tướng phần là xốc mang, xưa trước nói là biến mang, há chẳng trái nhau?; ba là, lỗi biến mang chỉ duyên bản chất. Há tướng phần không chất chẳng phải tâm biến ư? Nay lấy lý mà suy, chỉ là tướng phần, chẳng phải luận về có chất hay không chất, đều gọi là biến mang, nếu chẳng biến tướng phần, phụ ngay thể cảnh tức gọi là xốc mang. Do đó Tam tạng Pháp sư Huyền Tráng ở thời tiền Đường đem, xốc mang để cứu nghĩa trước, nghĩa là các luận sư Đại thừa xưa trước chỉ rõ biến mang vậy. Tiếp theo y cứ luận phá nghĩa sở duyên duyên của Tiểu thừa phân làm hai. Thứ nhất, phá các luận sư Chánh lượng bộ, luận chủ nói: “Phàm chỗ năm thức duyên nghĩa là thức năng duyên mang tướng kia khởi, và có thật thể khiến thức năng duyên gá kia mà sinh. Luận sư Chánh lượng bộ các ông nếu nói: Nghĩa sở duyên duyên chỉ có một nghĩa năng sinh thức, chẳng chấp thuận nhãn thức năng duyên mang tướng kia khởi, tức nên chẳng phải là sở duyên duyên. Đại thừa lập lượng là: Nếu nhãn thức ông sở duyên duyên là hữu pháp, nên chẳng phải nhãn thức sở duyên duyên, tông nhân là: Chỉ có một nghĩa năng sinh thức vậy, đồng dụ như nhãn thức nhân duyên. Lại trở lại Lập lượng phá rằng: Nhãn thức nhân duyên ông là hữu pháp, nên là nhãn thức sở duyên duyên, tông nhân là: Chỉ có một nghĩa năng sinh vậy, như lúc nhãn duyên sắc. Trong đây ý nói là: Các luận sư Đại thừa xưa trước chẳng nói xốc mang, tức lúc bản trí duyên chân như là sở duyên duyên, nghĩa như có lỗi. Nếu Chánh lượng bộ chẳng chấp thuận biến mang, tức lúc nhãn thức duyên sắc nghĩa sở duyên duyên chẳng thành. Tiếp theo phá các luận sư Kinh lượng bộ là: Luận chủ nói: Các luận sư Kinh lượng bộ ông đem hòa hợp giả danh bên ngoài làm sở duyên duyên là chẳng như vậy, nếu chấp thuận nhãn thức ông mang tướng sắc thô kia, nên chấp thuận làm sở duyên, cũng chẳng được gọi là duyên, vì ông chấp giả sắc không thể vậy, giống như nhãn thức sai loạn thấy vầng trăng thứ hai, kia không thật thể chẳng sinh thức, chỉ gọi là sở duyên, chẳng được gọi là duyên, hòa hợp giả sắc cũng lại như thế. Lập lượng phá là: Ông hòa hợp sắc thô là hữu pháp, thiết làm nhãn thức sở duyên chẳng phải duyên. Tông nhân là: Ông chấp là giả, không thật vậy, đồng dụ như vầng trăng thứ hai vậy. Trong luận Quán Sở Duyên Duyên có kệ tụng nói:

“Hòa hợp ở năm thức,
Bày sở duyên chẳng duyên,
Thể kia thật không vậy,
Giống như trăng thứ hai”.

Kinh Lượng Bộ có chấp là: Hòa hợp sắc thô tuy tức là giả có. Năng thành mỗi mỗi cực vi là thật có đó, mỗi mỗi được làm duyên dẫn sinh năm thức, lại sao chẳng thể được? Luận chủ phá là: Hòa hợp sắc v.v... năng thành cực vi đó, giả sử chấp thuận làm duyên, lại chẳng phải sở duyên, vì nhãn thức v.v... sinh chẳng mang tướng cực vi kia vậy, như nhãn thức sinh chẳng mang tướng nhãn căn kia, nhãn v.v... năm căn đó chỉ năng sinh nhãn v.v... năm thức, nhưng nhãn v.v... năm thức tức chẳng năng duyên nhãn v.v... năm căn, đem căn làm thí dụ, lập lượng là: Sắc v.v... ông năng tạo thành cực vi và hữu pháp, giả sở làm năm thức duyên chẳng pháp sở duyên, tông nhân là: Năm thức sinh chẳng mang tướng kia vậy, đồng dụ như năm căn. Trong luận Quán Sở Duyên Duyên có kệ tụng nói:

“Cực vi ở năm thức,
Nếu thuận chẳng sở duyên,
Tướng phần kia không vậy,
Giống như nhãn căn thảy.”

Nếu các luận sư ở mười tám bộ, nghĩa đã chấp thuận mang tướng kia vậy, do đó chẳng phá. Nay chánh giả là, trong Sớ Giải nói: Nếu hữu pháp là mang tướng mình, nói hữu pháp là có hai giải: Thứ nhất, Hiển U Sao giải rằng: Hữu pháp tức pháp có thật thể, chọn lựa ở giải pháp và tướng biến kế, pháp không thể chỉ là sở duyên chẳng thành duyên. Phàm là duyên tức phải là pháp có thật thể có lực dụng năng dẫn sinh thức, tức viên thành và y tha khởi là pháp có thể. Thứ hai, Long Hưng nói: Nếu hữu pháp tức là hai tánh y tha và viên thành, vì có thể vậy, năng dẫn ở tâm gọi đó là duyên, chẳng thông với không thể. Nếu là biến kế vì không thể nên chỉ có sở duyên mà chẳng phải duyên thể, nếu là sở duyên tức thể thông có không.

Hỏi: Biến kế sở chấp đã là không thể chẳng năng sinh tâm, sao được gọi là sở duyên?

Đáp: Chỗ duyên không thể nương có thể duyên sinh, ở pháp có thể trên, vọng tăng thêm mà có, chẳng phải không duyên vậy ở trong hai giải, giải sau là chánh.

Hỏi: Giải trước có lỗi gì?

Đáp: Nếu giải trước hữu pháp là sở duyên, tuy các bậc tiên đức phần nhiều xác chứng nghĩa đó, nay được tìm nêu thì có ba lỗi: Một là, cố trái văn sớ, giả pháp nếu chẳng phải có thể, vì sao sớ chủ đem hai tánh y tha và viên thành ra làm thể trăm pháp? Vì trăm pháp thông cả giả thật vậy. Nay nói giả pháp không thể há chẳng trái nhau ư?; hai là, lỗi biến kế không riêng biệt, y tha viên thành giả pháp đã nói không thể, cùng biến kế sở chấp không thể đâu có gì riêng biệt? Trong luận nói: “Y tha và viên thành là có, biến kế là không”, há chẳng tương vi ư?; ba là, lỗi hữu pháp sánh ví chẳng thành, thể sở duyên duyên. Trong luận nói: “Hữu pháp bèn nói chỉ thật”. Thể tăng thượng duyên, trong luận nói là “Hữu pháp” sao là thông giả tức mạng căn v.v... há là thật ư? Nếu y cứ nay nói rõ hữu pháp, thông lấy ba cảnh là giả đó và thật, chỉ gọi là hữu pháp, đều là sở duyên duyên, ở trong tám thức, phân biệt tánh cảnh năm thức trước và thức thứ tám là sở duyên duyên, chọn các giả pháp và biến kế sở chấp, thức thứ bảy đới chất cảnh làm sở duyên duyên, chỉ giả chẳng phải thật, và chọn lựa biến kế sở chấp. Ý thức thứ sáu duyên ở ba cảnh làm sở duyên duyên, thông ở giả thật, chỉ chọn lựa biến kế sở chấp. Lại lập lượng là: Các tướng phần giả là hữu pháp, quyết định là tâm năng biến thân sở duyên duyên. Tông nhân là: Trong môn pháp xứ có không chữ ảnh gồm vậy, đồng dụ như thật sắc quả định. Biến kế sở chẳng là dị dụ hoặc làm lượng là: Đới chất độc ảnh là hữu pháp, là thân sở duyên duyên. Tông nhân là: Sai biệt của ảnh vậy, đồng dụ như tánh cảnh.

Hỏi: Thật pháp có thể gọi là sở duyên duyên, giả pháp không thể, chẳng phải sở duyên duyên ư?

Đáp: Giả pháp có hai: Một, có thể giả, tức các giả pháp trong tánh y tha và viên thành; hai, không thể giả, tức biến kế sở chấp vậy, hoặc ngã hoặc pháp, hoa đốm hư không, sừng thỏ v.v... chỉ chọn lựa không thể, chẳng phải sở duyên duyên, chẳng chọn lựa có thể vậy.

Hỏi: Nếu biến kế sở chấp, chẳng phải là sở duyên, tại sao thức thứ sáu lúc duyên hoa đốm hư không v.v... cũng có nghĩa sở duyên duyên, há tức có thể ư?

Đáp: Chỉ trong tướng phần tự thân làm thân sở duyên duyên, chẳng phải trong hoa đốm hư không vậy. Nếu là hoa đốm hư không v.v... chỉ ở trên tướng phần vọng chấp sinh hoa giải, thể nó là không. Nếu chỗ biến tướng phần thể nó là có, được thành sở duyên duyên.

Hỏi: Có giáo nào nói đới chất độc ảnh cảnh tướng phần giả được làm sở duyên duyên chẳng?

Đáp: Giáo đó rất nhiều, phần nói về thức phân biệt biện rõ sở duyên duyên, trong sớ nói: “Tám ở bảy có bảy ở tám không, ngoài bảy chẳng tám, chỗ cậy chất vậy”. Thản như thức thứ bảy duyên kiến phần thức thứ tám, há chẳng phải đới chất cảnh làm sở duyên duyên? Cho đến trong sớ nói: “Thức thứ sáu ở năm không, ngoài năm ở kia có” cũng là chất đới cảnh, cảnh làm sở duyên duyên. Lại trong luận Duy thức nói: “Thân sở duyên duyên tất cả tâm sinh quyết định đều có, lìa chỗ lự gá bên trong hẳn chẳng năng sinh” làm chứng cực nhiều, chẳng năng phiền dẫn.

Hỏi: Nên tất cả pháp có thể đều là sở duyên duyên, vì là có pháp ư?

Đáp: Trong Sớ nói: Mang tướng mình, phải là lúc tâm năng duyên duyên chỗ duyên mang chỗ duyên tướng mình, pháp có thể đây tức là sở duyên duyên. Ngoài ra chấp mang khởi tướng mình, tuy là hữu pháp mà chẳng làm sở duyên duyên, như lúc nhãn thức duyên cảnh chỗ mang khởi sắc, tướng mình đây là pháp có thể, tức là sở duyên duyên nhà nhãn thức. Ngoài ra chẳng mang khởi tướng mình, tuy là hữu pháp mà chẳng phải nhãn thức sở duyên duyên, nhãn thức đã vậy, các thức khác cũng vậy, mang là tướng mình mỗi mỗi có hai nghĩa, như hai nghĩa của mang là: Một, xốc mang, tức tâm năng duyên thân bám kèm thể cảnh mà duyên; hai, biến mang, tức tâm năng duyên biến khởi tướng phần mà duyên, nói tướng mình cũng có hai nghĩa: Một, tướng thể tướng; hai, tướng tướng trạng. Nếu trí không phân biệt duyên chân như là xốc mang thể tướng mà duyên là sở duyên duyên, và hai phần bên trong duyên nhau và tự chứng duyên kiến phần, là xốc mang. Nếu kiến phần tâm tâm sở hữu lậu, và trí hậu đắc vô lậu lúc khởi kiến phần duyên cảnh, tức là biến mang tướng, trạng mà duyên, là sở duyên duyên, nghĩa là nếu hữu pháp là duyên là mang tướng mình là sở duyên, đủ hai nghĩa đây gọi là nghĩa sở duyên duyên, lại chọn lựa pháp biện giải quả là, trước dẫn đại sư Từ Ân-Khuy cơ nêu là: “Duyên sinh ở ai? Ai mang tướng mình?” Trong sớ đáp là: Tâm hoặc tương ưng đây biện giải quả sở duyên duyên vậy, lấy sở duyên làm duyên, là nhân sinh được tâm tâm sở là quả, nói tâm thức là tám thức tâm vương, nói hoặc tương ưng tức là năm mươi mốt tâm sở, có khởi có chẳng khởi, chẳng định vậy, mà nói hoặc ấy tức chọn lựa chẳng lập sắc và chẳng tương ưng hành, vô vi v.v... là sở duyên duyên kia chẳng phải tâm pháp vì không duyên lự vậy.

Hỏi: Trong thân sơ sở duyên duyên, ở trong tướng phần thế nào là thật?

Đáp: Cả hai đều chẳng thật, trong duy thức cảnh (= kính) nói: “Trong tướng phần kiến phần, kiến phần chỉ thật, căn cứ trong tướng phần, chân như là thật, ngoài ra tướng thân sơ đều chẳng phải là thật”. Trong Sớ nói: “Vì sơ sở duyên duyên v.v... thủ thân tướng, chẳng tức thân được, chẳng làm hành tướng là, sơ sở duyên duyên, tâm của năng duyên chẳng thân được bản chất vậy, sơ sở duyên duyên chẳng gọi là hành tướng, như năm thức trước lúc duyên năm trần, chỉ được chỗ tự thức biến tướng phần, vì tướng phần đây hẳn mang bản chất, lúc duyên tướng phần là sơ duyên bản chất vậy, sơ sở duyên chẳng tức thân được, chẳng gọi là hành tướng, tướng phần năm thức, mỗi mỗi trong tự thức, trong y tha là giả nhiếp giả theo chân, không cảnh ngoài tâm, nên gọi là duy thức. Bản chất cảnh đó trong ở thể thức thứ tám năng biến cảnh của bản chất cũng chẳng phải thật có vậy, hai cảnh thân sơ đều chẳng thật vậy. Phàm nghĩa sở duyên duyên là đại tiểu tuy thông mà sơ thân chẳng biện. Thân thì xốc mang bức kèm mà khởi, như kềm lấy vật, tợ mặt nhật tỏa ánh sáng, thân chiếu thân trì, thể chẳng lìa nhau. Sở thì biến mang cậy gá phụ ảnh mà khởi, duyên trạng của tợ chất, lìa thân của tướng phần, thể chẳng cùng thâu. Bên trong sinh lự gá, nếu rõ đạt như vậy, thân sơ chẳng lạm, mới biết ngoài tâm không cảnh, thấy pháp là tâm, hoặc ngu tối chẳng phân, thì tâm cảnh y nhiên vậy. Sâu cùng duyên tánh, mới mỏng tình trần, thấu đạt thấy nguồn mới rõ ý chỉ Phật; bốn tăng thượng duyên nghĩa là nếu hữu pháp có dụng thắng thế, năng ở nơi các pháp khác hoặc thuận hoặc nghịch thì thành nghĩa tăng thượng duyên, giải thích: Nếu hữu pháp cũng là có thể đây là chọn lựa sở chấp, có dụng thắng thế, nghĩa là thắng nghĩa, tức hữu vi vô vi có dụng thắng thế. Dụng đây chẳng phải là cùng như quả v.v... dụng, chỉ lực chẳng chướng, năng ở nơi các pháp khác, là chọn lựa tự thể đó, hiển bày chẳng đồng sở duyên duyên trước vậy. Hoặc thuận hoặc nghịch là, hiển bày cùng thuận nghịch đều năng làm duyên, cùng đời sau khác pháp làm duyên, chẳng phải pháp trước diệt, nghĩa là trong mười nhân trước là thuận, nhân thứ mười là nghịch, cũng là duyên đây vậy.

Hỏi: Tăng thượng duyên căn cứ thuận nghịch có lực không lực cả thảy đều mấy thứ?

Đáp: Xưa trước giải thích có bốn thứ. Phàm tăng thượng duyên là, tức chọn lựa biến kế sở chấp là pháp không thể, phải là pháp có thể, được làm tăng thượng duyên. Tức là tánh y tha và duyên thành đều là pháp có thể, làm nghĩa tăng thượng duyên. Nếu pháp không thể tức là ngã pháp v.v... toàn không thể vậy, từ vọng chấp mà sinh, chẳng phải tăng thượng duyên. Một, thuận, như nước đất cùng cỏ xanh v.v... thuận tăng thượng duyên, sáu ba-la-mật hạnh làm Phật quả là thuận tăng thượng duyên, hai chi thọ và thủ cùng chủng tử năm quả là thuận tăng thượng duyên; hai, nghịch tức như sương bão cùng cỏ xanh, là nghịch tăng thượng duyên, lại như trí và hoặc là nghịch tăng thượng duyên, một niệm chánh và hoặc làm nghịch tăng thượng, bèn cùng lý hai không làm thuận tăng thượng; ba, có lực tăng thượng cũng gọi là thân tăng thượng, như năm căn pháp sinh năm thức v.v...; bốn, không lực tăng thượng, tức năm căn người này trong năm thức người kia là không lực tăng thượng, cũng gọi là sơ tăng thượng. Như lúc ngọn lửa đèn sinh thì tất cả đại địa v.v... các pháp chẳng ngại ngọn lửa sinh đây, gọi là sơ tăng thượng, chỉ lấy bên cạnh nghĩa chẳng chướng ngại gọi là tăng thượng duyên.

Hỏi: Nhân duyên và duyên khởi hai nghĩa đồng hay khác?

Đáp: Các bậc cổ đức giải thích: Nhân duyên là tùy tục sai biệt tức là tướng nhân duyên trong hiển bày, không nghĩa tự tánh, chánh là thể tục đế vậy. Duyên khởi là thuận, tánh không phân biệt tức là tương tức tương dung, hiển bày nghĩa chánh bình đẳng, thuận thế đệ nhất nghĩa đế vậy.

Hỏi: Các pháp nhiễm tịnh có nhân có duyên, nhân thân duyên sơ, thành hai nghĩa đó, nghĩa duyên đã hiển bày, lý như thế nào, rộng lược nêu bày đủ cả thảy có mấy thứ?

Đáp: Kinh luận cộng lập có sáu nhân, mười nhân. Thản như sáu nhân là: Một, năng tác nhân, trừ tự ngoài ra là các năng tác, trừ tự thể ngoài ra tất cả các pháp chẳng chướng pháp hữu vi sinh, đều gọi là năng tác nhân. Nhân là tất cả pháp hữu vi vô vi là thể, trên thể có dụng của năng tác, năng tác tức là nhân. Trì nghiệp thích: Trì tức là nhậm trì, nghiệp tức là nghiệp dụng, nhân là thể năng tác dụng, gồm dụng về thể gọi là trì nghiệp thích; hai câu hữu nhân, câu hữu qua lại làm quả tâm ở đây tùy chuyển cùng thời, mà có quả cùng nhân câu gọi là câu hữu nhân. Qua lại làm quả, có ba: Một là, bốn đại chủng qua lại làm câu hữu nhân, qua lại làm sở dụng quả; hai là, như pháp năng tướng sở tướng, năng tướng là nhân, sở tướng là quả, sở tướng là nhân, năng tướng là quả; ba là, pháp tâm tâm sở, tâm vương là nhân tâm sở là quả, tâm sở là nhân tâm vương là quả; ba, đồng loại nhân, tức nhân tợ quả, quả tợ nhân. Như tánh nhiễm trong năm uẩn, sắc uẩn năng dẫn sắc uẩn, sắc uẩn dẫn bốn uẩn khác, bốn uẩn khác dẫn sắc uẩn. Tuy tâm sắc chẳng đồng, đồng là tánh nhiễm vậy; bốn, tương ưng nhân quyết định tâm tâm sở, đồng nương tựa tức tâm vương tâm sở có đủ năm nghĩa: Một là, đồng một chỗ nương tựa căn; hai là, đồng một chỗ duyên cảnh; ba là, đồng một thời; bốn là, đồng một sự; năm là, đồng một hành tướng, đầy đủ năm nghĩa gọi là tương ưng, nhân của tương ưng, như lúc tâm sở dẫn khởi tâm vương, tâm vương là tương ưng, pháp là quả tức thắng tâm sở là nhân tức kém, y chủ thích vậy; năm, biến hành nhân, là đồng địa nhiễm nhân, tức mười một biến sử biến hành tức nhân, biến hành tức mười một biến sử là trên thể có biến hành năm bộ làm dụng của nhân, trì nghiệp thích vậy; sáu, dị thục nhân, thiện nghiệp bất thiện nghiệp hữu lậu là dị thục nhân, nhân thông thiện ác, quả chỉ vô ký, dị thục tức nhân, nhân tức thiện nghiệp và bất thiện nghiệp, là trên thể có dụng của dị thục, trì nghiệp thích vậy, Mười nhân là trong luận Du-già nói: “Trong ngũ minh, chư Phật nói phô gọi là nội minh. Thế nào là nội minh? Trong luận nói: Hiển bày chánh tướng nhân quả, đó là có mười tám thứ nhân, phải biết kiến lập nhân không điên đảo gồm tất cả nhân, hoặc là nhiễm tạp, hoặc là thanh tịnh, hoặc là thế gian cấy gặt v.v... kia pháp vô ký chuyển. Thế nào là mười nhân? Một tùy thuyết nhân, nghĩa là tất cả pháp tên làm trước nên tưởng, tưởng làm trước nên nói là tên các pháp kia là tùy thuyết nhân; hai quán đãi nhân, quán đãi đây nên đây làm nhân vậy, ở kia sự kia hoặc cầu hoặc lấy, đây gọi kia là quán đãi nhân. Như quán đãi tay nên tay làm nhân vậy, có thân đãi nghiệp, quán đãi chân vậy, chân là nhân vậy có vãng lai nghiệp; ba, dắt nhân dẫn, tất cả chủng tử trong tự quả sau, gọi là nhân dắt dẫn; bốn. Nhận gồm nhận, trừ chủng tử ngoài ra các duyên gọi là nhân gồm nhân; năm, sinh khởi nhân, tức các chủng tử trong tự quả mới đầu gọi là sinh khởi nhân; sáu, dẫn phát nhân, tức chỗ chủng tử mới đầu sinh khởi quả trong chỗ chủng tử sau dắt dẫn quả, gọi là dẫn phát nhân; bảy, định dị nhân các thứ khác loại mỗi mỗi nhân duyên riêng biệt gọi là định dị nhân; tám, nhân đồng sự, từ tùy thuyết nhân đến định dị nhân, các nhân như vậy đều gồm làm một gọi là đồng sự nhân; chín, nhân trái nhau ở chỗ sinh pháp năng chướng ngại nhân gọi là nhân trái nhau; mười, bất nhân không trái nhau, nhân chướng ngại đây, hoặc khuyết hoặc lìa gọi là nhân chẳng trái nhau. Tất cả nhân đây gồm thuộc ở hai nhân: Một là, năng sinh nhân; hai là, phương tiện nhân, phải biết trong đây kéo dắt (khiêng dẫn) chủng tử sinh khởi chủng tử, gọi là năng sinh nhân, ngoài ra các nhân đều gọi là phương tiện nhân, phải biết trong đây nếu năng sinh nhân đó gọi là nhân duyên, nếu phương tiện nhân, là tăng thượng duyên, nếu đẳng vô gián duyên và sở duyên duyên, chỉ trong tất cả tâm tâm pháp mà nói. Do tất cả tâm và tâm pháp kia trước sinh chỗ mở dẫn gồm nhận vậy, chỗ duyên cảnh giới, chỗ gồm nhận vậy, mới sinh mới chuyển, cho nên phải biết, đẳng vô gián duyên và sở duyên duyên gồm nhận nhân gồm.

Hỏi: Tất cả tâm kiến lập rồi đủ nhân duyên, chỗ nhân duyên cảm hẳn có quả đó. Do đó trong kinh Pháp hoa nói: “Nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy” quả đó có mấy thứ? Mỗi mỗi nương tựa xứ nào mà được?

Đáp: Phàm Thánh luận chung lược có năm thứ, trong luận Duy thức nói: “Một, quả dị thục, nghĩa là chỗ pháp thiện và bất thiện hữu lậu chiêu tự tướng tục dị thục sinh vô ký”. Giải thích: Thiện hữu lậu là chọn lựa thiện vô lậu, tự tướng tục tức là chọn lựa thân khác và chẳng phải hữu tình, nếu như chỉ nói dị thục, tức báo trong sáu thức chẳng phải chân dị thục gồm, nay là tổng gồm kia nên nói là dị thục sinh. Nhưng bản thức cũng gọi là dị thục sinh, là vô ký, nên quả vị đây hơi lớn, đến kim cang tâm, chóng thông ba thừa vô học. Một là, chân dị thục tức là thức thứ tám; hai là, dị thục sinh tức là sáu thức trước thành bản thức cũng gọi là dị thục sinh, từ tự chủng tử dị thục mà sinh khởi vậy, nếu sáu thức trước từ chân dị thục thức sinh khởi, cũng gọi là dị thục sinh, là một phần tâm tâm sở duyên cảnh, tối kém chẳng sáng lanh, chẳng luân chủng giải tâm vậy, là tánh vô ký. Dị thục có bốn: Dị thời nhi thục (khác thời mà chín). Dị nghĩa là riêng khác thuộc nhân, thục nghĩa là thành thục là quả. Nhân khác (dị) ở quá khứ, quả chín (thục) ở hiện tại, nên gọi là dị thục, dị tánh nhi thục, quá khứ tu nhân khác, nhân năm giới mười giới v.v... chỗ nghiệp chiêu báo tổng biệt trời người là quả dị thục, nếu nhân là mười nghiệp ác bất thiện, chỗ chiêu báo tổng biệt ba đường bất thiện là quả dị thục, đều là tánh vô ký. Dị loại nhi thục, tạo nghiệp loại khác thọ sinh loại khác, năm thú mỗi mỗi riêng biệt. Dị Thánh nhi thục nghĩa là dị thục quả y cứ phân biệt chủng hai chướng trên, có công dụng thú sinh sai biệt vậy, Thánh nhân đã không, trong tám thức chỉ thức thứ tá đủ ba nghĩa: Một là, chọn lựa khắp năm thức trước; hai là, tương tục chọn lựa thức thứ sáu; ba là, nghiệp chiêu chọn lựa thức thứ bảy; hai, quả đẳng lưu, đẳng nghĩa là bình đẳng lưu nghĩa là lưu loại, đẳng lưu chẳng đồng có hai: Một là, chân đẳng lưu là ba tánh thiện bất thiện và vô ký làm nhân, chỗ dẫn quả đồng loại, nên gọi là quả đẳng lưu. Như chủng tử ba tánh trong thức thứ tám, mỗi mỗi sinh quả ba tánh hiện hành, quả và nhân tánh đồng vậy, tức chủng tử tâm sinh hiện hành tâm, chủng tử sắc sinh hiện hành sắc, chủng tử hữu lậu sinh hiện hành hữu lậu, chủng tử vô lậu sinh hiện hành vô lậu, gọi là đẳng lưu, là nghĩa lưu loại vậy; hai là, giả đẳng lưu là đời trước khiến mạng kẻ khác ngắn, đời nay tự thân cũng mạng ngắn là nghiệp sát trước kia đồng loại quả vậy, nương tựa chỗ chiêu cảm tổng báo, thức thứ tám có ngắn dài, gọi là giả đẳng lưu, theo lý thật là quả tăng thượng, chỉ lấy giết hại kẻ khác khiến kẻ khác mạng ngắn, đời này tự mạng cũng ngắn, có nghĩa tương tợ nên giả gọi là đẳng lưu, thật thì thiện ác cảm quả vô ký; ba, quả tăng thượng là tăng thắng thù thượng, chỉ trừ bốn quả, ngoài ra tất cả các quả sở đắc đều là quả tăng thượng đây nên thâu gồm. Quả tăng thượng đây rất rộng, như tăng thượng duyên trong bốn duyên, tà kiến tròn năm kiến, chẳng chọn lựa là hữu lậu hay vô lậu, hữu vi hay vô vi, chỉ có quả sở đắc, chỗ trong bốn quả trước chẳng nhiếp thì đều là gom thâu trong quả tăng thượng đây, quả này có hai thứ: Một là, quả cùng lực tăng thượng, như nghĩa khí bên ngoài năng thọ dụng thuận ích; hai là, quả chẳng cùng lực tăng thượng, như vàng lụa vợ con của người khác v.v... lại có hai thứ: Một là, thuận duyên như nhãn thức được sáng rõ; hai là, trái nghịch như gặp tướng tối tăm v.v...; bốn, quả sĩ dụng, nghĩa là các tác giả, ngoài ra các khí (vật dụng) hoàn tất các thứ sự nghiệp, gọi là quả sĩ dụng. Trong luận Du-già nói: “Một loại nương ở trong hiện pháp tùy tất cả công xảo nghiệp xứ khởi dụng sĩ phu đó là các sự sĩ nông thương cổ thư toán chiêm bốc v.v... do dụng của sĩ phu đây mà hoàn tất các quả cấy gặt tài lợi v.v... gọi là quả sĩ dụng.

Hỏi: Ở trong tám thức mỗi mỗi thức làm sao mỗi mỗi đủ bốn quả?

Đáp: Xưa trước giải thích: Như nhãn thức từ chủng sinh hiện, là quả đẳng lưu, nhãn căn là sở y nên gọi là quả tăng thượng, nhãn thức tác ý răn tâm là quả sĩ dụng, nhãn thức năng duyên thật sắc v.v... cũng gọi là quả sĩ dụng, nhãn căn là thân tướng phần của thức thứ tám nên cũng gọi là quả dị thục, nhĩ v.v... bốn thức kia cũng đều như đây. Nếu thức thứ sáu chủng sinh hiện là quả đẳng lưu, ý căn niệm trước là năng dẫn, hoặc năng dẫn năm thức trước nên gọi là quả tăng thượng. Lại năng duyên trong ngoài ba đời dụng của các cảnh v.v... gọi là quả sĩ dụng, năng tạo báo tổng biệt ở tương lai, gọi là quả dị thục căn cứ cùng dị thục làm nhân nên gọi là quả dị thục. Nếu thức thứ bảy chủng sinh hiện là quả đẳng lưu, thức thứ bảy ở niệm trước cùng làm sở y ở niệm sau, tức quả tăng thượng, năng cùng chân dị thục thức làm sở y nên gọi là quả dị thục. Nếu thức thứ tám chủng sinh hiện gọi là quả đẳng lưu, cùng thức thứ bảy làm sở y, là quả tăng thượng, năng duyên ba cảnh và trì chủng thọ huân gọi là quả sĩ dụng, đương thể là chân dị thục; năm quả ly hệ (lìa trói buộc) chỉ Thánh nhân có, chẳng phải phàm phu được. Trong các luận Du-già, Hiển Dương v.v... đều nói: “Hàng dị sinh dùng trí thế tục để diệt các phiền não, chẳng rốt ráo vậy, chẳng phải quả đây nhiếp”. Trong luận Duy thức nói: “Quả ly hệ nghĩa là vô lậu đạo đoạn chướng chứng đắc pháp vô lậu vậy. Nếu lúc trí bản cùng chân như hợp, là quả ly hệ gồm, nếu lúc hậu đắc duyên chân như, là quả sĩ dụng gồm.”

Hỏi: Sáu nhân năng cảm bao nhiêu quả?

Đáp: Sáu nhân gồm nương thế lực năm quả, năng tác nhân cảm quả tăng thượng, tương ưng nhân và câu hữu nhân được quả sĩ dụng. Đồng loại và biến hành hai nhân được quả đẳng lưu, dị thục nhân cảm quả dị thục, thứ năm quả ly hệ dùng trạch diệt vô vi làm thể. Thể là vô lậu năng đoạn sở chứng của đạo được gọi là quả ly hệ.

Hỏi: Hai nhân tương ưng và câu hữu có nghĩa gì khác biệt?

Đáp: Tương ưng chỉ tâm và tâm sở pháp, câu hữu tức thông sắc thông tâm, được quả sĩ dụng là duyên hai thứ nhân, mỗi mỗi ở quả sở đắc, có lực dụng của sĩ phu, danh đồng thể biệt vậy.

Hỏi: Hai nhân đồng loại biến hành có gì khác biệt?

Đáp: Đồng loại khắp ba tánh, thông cả hữu lậu và vô lậu, biến hành chỉ riêng nhiễm ô vậy. Hai thứ nhân, quả của sở đắc đều tợ ở nhân, nên gọi là quả đẳng lưu vậy. Phàm bốn duyên sáu nhân mười nhân năm quả là gồm thâu tất cả đạo của phàm Thánh, năng thành môn của giáo pháp, khuyết đó thì một pháp chẳng tìm, mê mờ đó thì trọn làm ngoại đạo. Vả lại bốn duyên là: Nhân duyên là ở môn hữu vi thân biện tự quả, vô gián duyên thì làm nghĩa của khai đạo, muôn hữu đều sinh, sở duyên thì đã lo nghĩ gá mới thành, căn cứ thân sơ mà đều lập, tăng thượng duyên thì có lực thắng thế chẳng chướng duyên khác. Sáu nhân là: Năng tác nhân thì nghiệp dụng thành kiện, câu hữu nhân thì lại qua lại đồng thời, đồng loại nhân trước sau tương tợ, tương ưng nhân thì quyết định một duyên, biến hành nhân thì đồng nhiễm loại đó. Dị thục nhân thì thành thục quả sau. Mười nhân là: tùy thuyết nhân làm môn của các pháp dẫn trước, quán đãi nhân rõ sự của hiện được tác dụng, dắt dẫn nhân thì khiến thành tự quả, gồm thọ nhân thì năng nhiếp muôn duyên, sinh khởi nhân khiến muôn loại năng sinh, dẫn phát nhân khiến các quả thành biện. Định dị nhân thì chủng loại mỗi riêng biệt. Đồng sự nhân thì thể gồm một như, nhân trái nhau năng khởi môn của chướng ngại, nhân không trái nhau là tùy thuận lý của duyên sinh. Năm quả là: Nhân sinh quả thục khác thời mà thành, đẳng lưu thì nhân quả tánh đồng lưu loại không lạm, tăng thượng thì lực dụng thù thắng năng hỗ trợ duyên khác, sĩ dụng thì chỗ công nghiệp thành năng được tài lợi. Ly hệ thì đoạn chướng chứng chân vượt các lậu buộc, tổng gồm như trên, nhân duyên báo thành năm quả, đều quy về chân dị thục trong thức thứ tám. Môn quả dị thục đây ở thời khác mà thành thục, nếu khởi một niệm thiện như đem hạt giống ngọt gieo trong ruộng béo tốt hoặc sinh một niệm ác, tợ gieo hạt giống đắng vào đất ruộng cằn cỗi, do các khoảng nhân duyên thời tiết nước đất hợp thì nảy mầm mọc lá lần lượt mà sinh hoa đơm quả kết chứa dần mà chín, chủng tử nhiễm tịnh đây, dị thục cũng vậy nếu làm nhân thiện gieo giống lạc của trời người hoặc dấy ác hạnh sinh đất xấu của bốn thú, chẳng khởi nhân thiện ác trọn không báo khổ lạc. Nếu chẳng gieo giống xấu tốt thì đâu có hoa quả sinh? Nên biết nhân quả đáp nhau thì thức biến định, như gương hiện tượng, tợ ảnh theo hình, không có ảnh nào mà chẳng theo hình, không có gương nào mà chẳng hiện tượng. Đó thì không có làm mà chẳng thọ báo, không có quả mà chẳng đáp nhân, pháp nhĩ như vậy, chỗ đời cùng đều chỉ có chẳng làm thì nghiệp quả quyết định khó buộc, chỉ rủ tông một tâm là duyên đều chóng dứt, do đó rõ lý duy thức không chỗ dụng tâm, trọn chẳng vọng dấy nghiệp quả ba cõi, vì duy thức biến định vậy, người sợ nghiệp mới năng trú thọ, như trong Tiền định lục nói: “Xưa kia Hàn Công Hoãn đang làm trung thư, từng gọi một quan lại, quan lại đó chẳng đúng lúc mà đến, Hoãn tức giận dùng roi đánh đó, người lại nói: “Tôi riêng có sở thuộc chẳng được kịp đến”. Tấn Công bảo: “Đã là kẻ lại của tể tướng mà lại thuộc người nào?” Người lại nói: “Tôi không may nên gồm thuộc âm quan”. Tấn công cho là không thành thật tức giận bảo: “Đã thuộc âm ty thì ngươi có làm chủ gì?” Người lại nói: “Tôi làm chủ liều lượng thức ăn cho hàng Tam phẩm trở lên”. Tấn Công nói: “Nếu vậy ngày mai ta sẽ ăn gì?” Quan lại nói: “Đây là việc kín nhiệm chẳng thể nói bày, xin ghi ở giấy qua sau đó có thể nghiệm xét”. Bèn như vậy mà giữ vị lại đó, sáng sớm hôm sau Tấn công có chiếu gọi đối vừa ra mắt lại gặp dịp thái quan dâng một bát cháo bánh ngọt, vua đem một nửa ban cho Tấn công. Tấn Công ăn đó rất ngon, vua lại ban cho hết cả, xong rồi lui ra mà bụng sình, về tới tư dinh kế gọi thầy thuốc khám xem, thầy thuốc bảo: “Do thức ăn khiến ung, nên uống ít vỏ quít ngâm nước nóng, đến tối có thể uống nước ngọt, sáng mai bệnh hẳn lành”. Nghĩ nhớ vị lại nói trước, Tấn công bèn gọi lại và bảo mở xem thư đó trong đó nói rõ: “Sáng mai tướng công chỉ ăn một nửa cháo bánh ngọt uống một ly nước vỏ quít nóng và một bát nước ngọt” thì đều giống như lời nói đó, Tấn công lại hỏi: “Thức ăn trong nhân gian đều có sổ sách ư?” vị lại đáp: “Hàng tam phẩm trở lên tính từng ngày, hàng ngũ phẩm trở lên kẽ có quyền thì tính từng tuần không thì tính từng tháng, hàng lục phẩm cho đến một mạng tính từng quý, còn hạng không ăn bổng lộc là tính từng năm vậy”. Nên biết ăn mỗi có phần, giàu có không sai, chỗ gọi là ăn ngọc vận mặc bào gấm áo thuần, cửa trải chiếu lê hoắc, phòng vàng. Ngàn ngựa một bầu, đều nhân một niệm đầu tiên mà tạo, vết tâm vừa mới hiện quả báo khó trốn lánh, vì thiện ác ở quá khứ là nhân khổ vui ở hiện tại là quả, mảy may chẳng lạm, ai có thể khỏi đó? Như vang ứng theo tiếng, tợ bóng tùy hình, lý đây hẳn như vậy, chỉ trừ chỗ ngộ đạo và định lực bày, nếu ở trong đời huyễn ảo, sao có thể thoát đó được. Do vậy trong kinh có kệ tụng nói:

“Giả sử trăm ngàn kiếp
Chỗ nghiệp tạo chẳng mất,
Lúc nhân duyên hội ngộ
Quả báo lại tự chịu”.

Vì thế trong luận Tài Mạng nói: “Kẻ nghèo không đất để cấm dùi, Dao Di thì ruộng hơn muôn khoảnh, kẻ đói không có trữ để vác đá, lý hành thì cây gọi ngàn nô”. Nên trong Sử Ký nói: Tôn Thúc Ngao tướng nước Sở tận trung với nước đến lúc thân chết người con nghèo không có mảnh đất cặm dùi”. Trong Hán Thư nói: “Dao Di làm quan đến chức thượng thư khanh, chẳng theo đức hạnh, chuyên việc trồng tỉa, ruộng có cả muôn khoảnh, tôi tớ ngàn người”. Trong Ngụy Chí nói: “Hoa Hâm trồng ngàn gốc quít gọi là ngàn cây nô (tôi tớ)”. Lại chẳng chỉ nghèo giàu chỉ thức biến định, thọ mạng cũng vậy, do chỗ tâm trước tạo nhân từ bi hay sát hại, mà nay quyết định chịu thọ quả mạng ngắn dài, chẳng phải liên câu đến hành của thiện ác đời nay. Nên nói: “Không lễ hẳn chết, Chích do sự gì mà riêng thọ? Hành thiện thì tốt, Thác bởi sự gì mà chết non?” Như Trang tử nói: “Đạo Chích theo lính chín ngàn hoành hành thiên hạ, xâm chiếm hung bạo các nước chư hầu mà được thọ khảo” trong Luận ngữ sớ nói: “Hạng Thác mới bảy tuổi đã là thầy của Khổng tử mà lại bị chết non”.

QUYỂN 72

Hỏi: Đối với đại sĩ đăng địa, trống trời diễn trổi pháp môn không y ấn, phá ngoại đạo tà luân, giáo chủ thuật giảng chánh đạo có nhân duyên, đã lập xứ của nhân y, phải nhờ môn của khai mở chia chẽ, vậy y cứ phải có bao nhiêu thứ?

Đáp: Nói rộng có mười lăm y xứ, nói lược có ba y, chỉ mười lăm y xứ là: Một, ngữ y xứ; hai, lãnh thọ y xứ; ba tập khí y xứ; bốn hữu nhuận y xứ; năm vô gián diệt y xứ; sáu cảnh giới y xứ; bảy căn y xứ; tám tác dụng y xứ; chín sĩ dụng y xứ; mười chân thật kiến y xứ; mười một tùy thuận y xứ; mười hai thiện công năng y xứ, mười ba hòa hợp y xứ; mười bốn chướng ngại y xứ; mười lăm chẳng chướng ngại y xứ. Trong bách hoa pháp sao có mười lăm y xứ phối cùng mười nhân: Một ngữ y xứ là, tức dùng ba thứ pháp danh tưởng làm ngữ nhân, nói là pháp, tức tất cả pháp, là có các pháp sở thuyên đây bèn năng khiến trong tâm các hữu tình khởi tưởng, tưởng tượng các pháp sở thuyên đây rồi, tiếp mới an lập danh đó. Trong an lập danh sau mới năng phát ngữ, tức ba thứ pháp danh tưởng làm trước là năng khởi, mới khởi được ngữ của sở khởi, tức ngữ y xứ lập tùy thuyết nhân; hai lãnh thọ y xứ, lãnh là lãnh nạp, thọ thông cả năm thọ, năm thọ đều lấy lãnh nạp làm tánh, tức lãnh thọ y xứ lập quán đãi nhân, quán nghĩa là đối đãi nghĩa là tạ (mượn nhờ) tức năng sở tương đối mượn nhờ để lập nhân đó; ba tập khí y xứ chỗ gọi là một chủng tử trong ngoài, chưa đến vị thuần thục, trải qua bị đượm nhuần trước đã, đây gọi là tập khí y cứ, tức y trên chủng chưa đượm nhuần đây mà lập làm nhân dắt dẫn. Vả lại chủng bên trong là như trong thức thứ tám có vô lượng chủng tử. Nếu chủng tử hữu lậu chưa bị nước ái thủ đượm nhuần trước đã, tuy chưa tiện sinh hiện hành, nhưng trên chủng đây đã có công năng, năng dẫn sinh sẽ hiện khởi hành quả, tức lấy chủng tử đây gọi là nhân dắt dẫn; bốn, hữu nhuận y xứ là chủng tử tập khí y xứ trước. Nếu từng bị đượm nhuần rồi đi, tuy chưa tiện sinh hiện hành, nhưng đã đượm nhuần xong, tức chủng tử hữu nhuận đây, năng cùng quả hiện hành gồm sau làm y xứ, tập khí y xứ trước, ước về chủng trong ngoài chưa bị đượm nhuần, nay hữu nhuận y xứ tức ước về chủng trong ngoài bị đượm nhuần rồi đi, tức hữu nhuận y xứ lập sinh khởi nhân; năm, vô gián diệt y xứ tức tâm tâm sở pháp đẳng vô gián duyên, nghĩa là diệt tâm tâm sở trước làm duyên, duyên là công năng mở mang dẫn dắt, tức trước diệt làm duyên, năng cùng một tụ tâm tâm sở ở niệm sau làm y xứ.

Tâm tâm sở niệm sau đó y tha niệm trước làm duyên xứ sinh, nên gọi là vô gián diệt y xứ, tức vô gián diệt y xứ lập nhiếp thọ nhân, một nhân đây rỗng, tự sáu thứ y xứ sau đều gồm thuộc nhân gồm nhân thọ nhân; sáu, cảnh giới y xứ, tức là tất cả cảnh sở duyên duyên làm tất cả sở duyên đây duyên cảnh năng cùng tâm tâm sở năng duyên làm y xứ khởi, xứ nên dùng tâm chẳng có khởi gá cảnh mới sinh, cũng lập nhiếp thọ nhân; bảy, căn y xứ là, tức sáu xứ bên trong đó là năm sắc căn và ý căn thành sáu, tức sáu căn đây là xứ của tâm tâm sở tám thức y cứ, vô gián diệt y xứ trước, tức lấy công năng ở niệm trước của tám thức làm y xứ, dẫn niệm sau khiến sinh, nay căn y xứ đây lấy năm sắc căn ở hiện tại và ý thức thứ bảy gọi là căn y xứ, cũng lập nhân gồm nhận; tám, tác dụng y xứ: Hỏi: Thế nào là tác dụng y xứ? Đáp: Tác dụng đây thông cả tác nghiệp và dụng cụ làm việc, tác nghiệp tức là trí công xảo của hữu tình, năng tạo điện đường hoặc tạo lập các thứ khí cụ mọi vật v.v... nói dụng cụ làm việc, tức là các thứ dụng cụ làm việc ở thế gian, như cân búa xe thuyền v.v... là dụng cụ của chỗ thọ dụng, chỉ biết tất cả sơ trợ hiện duyên năng thành tựu các thứ sự nghiệp, đều là tác dụng y xứ đây, tức trừ bỏ chủng tử trong thức và chủng tử pháp bên ngoài, và chủng tử sinh hiện hành, hiện hành huân chủng tử, chủng tử dẫn chủng tử và thân trợ hiện duyên, chẳng phải tác dụng y xứ, xứ đây cũng lập nhiếp thọ nhân; chín sĩ dụng y xứ, tức ở trong tác dụng y xứ trước chỉ lấy dụng của tác giả sĩ phu, xứ đây cũng lập nhân gồm nhận; mười, chân thật kiến y xứ, nghĩa là tất cả kiến vô lậu chẳng hư vọng, nên gọi là chân thật, năng cùng tất cả pháp hữu vi vô lậu và pháp vô vi khác làm sở y, nên gọi là y xứ, xứ này cũng lập nhiếp thọ nhân, sáu nhân gồm nhận thứ sáu trước đây, gồm nhận thọ tức là nghĩa nhân quả tướng liên quan, chỉ trừ ngay thân nhân duyên, ngoài ra lấy tất cả sơ trợ thành nhân duyên khác gọi là nhân gồm nhận nhân. Nên trong luận Đối Pháp nói: “Như ánh sáng mặt nhật và, nước phân trong mầm lúa thóc v.v... tuy có tự chủng sinh ra nhưng tăng lực kia, gọi là nhân gồm nhận”. Mười một, tùy thuận y xứ, tức tất cả sắc tâm v.v... chủng hiện đều có tùy thuận tự tánh và các pháp thắng đồng loại phẩm, nên gọi là tùy thuận y xứ, nói tùy thuận tự tánh, tức là chọn lựa pháp khác chẳng được làm nhân y đây, như chủng tử ba tánh trong thức thứ tám, mỗi mỗi tự trong ba tánh hiện hành làm y làm nhân, nói các pháp thắng đồng loại phẩm là như pháp vô lậu tức chỉ cùng tự hữu vi vô lậu và pháp vô vi thắng phẩm làm nhân xứ, chẳng cùng pháp hữu lậu hạ phẩm yếu kém làm nhân, căn cứ trong quả vị hữu lậu cũng tự có hơn kém làm nhân quả cũng vậy, xứ đây lập dẫn phát nhân, dẫn nghĩa là dẫn khởi, phát nghĩa là phát sinh, là nhân năng dẫn khởi phát sinh quả vậy; mười hai, sai biệt công năng y xứ, nghĩa là tất cả pháp chẳng chọn lựa tự tánh tha tánh, mỗi mỗi tự có nhân quả tương xứng, gọi là sai biệt công năng, như năm giới tám giới thiện nghiệp quyết định dẫn trời người, thức thứ tám chẳng phải dẫn ba đường, vì thức thứ tám chẳng tương xứng vậy, nếu mười nghiệp bất thiện quyết định dẫn ba đường, thức thứ tán chẳng phải dẫn trời, người. Tánh thức thứ tám chẳng tương xứng làm nhân vậy, nếu pháp tự giới tức cùng tự giới làm nhân, tất cả pháp hữu lậu trong ba cõi v.v... như vậy mỗi mỗi tự có sai biệt công năng làm nhân, như ở Trường An có một trăm hai mươi ty quan chức mỗi mỗi tự có công sự làm nhân, cùng sở quản tương xứng, nếu tịnh nhân là tự chủng tử ba thừa, mỗi mỗi trong tự quả hữu vi vô vi ba thừa làm nhân, xứ đây lập định nhân khác. Định là nghĩa nhân quả tự tương xứng, chẳng cộng tha nên gọi là khác, như tăng nhân lấy trì trai giới tương xứng gọi là định, chẳng cùng người tục khác đồng bốn nghiệp nên gọi là khác tức tất cả các pháp mỗi mỗi trong nhau đều có định nhan khác; mười ba, hòa hợp y xứ là lập đồng sự nhân, từ lãnh thọ y xứ, thứ hai trước cho đến sai biệt công năng y xứ thứ mười hai tức tổng gồm sáu nhân mười một y trước làm thể hòa hợp sứ đây, nghĩa là mười một y trước mỗi mỗi ở tự chỗ được sinh trú thành được trong quả, đều có lực hòa hợp, nên gọi là hòa hợp y xứ, tức nương xứ đây lập đồng sự nhân, là quán đãi cho đến định khác sáu nhân như vậy mỗi mỗi cộng thành một sự, nên nói sáu nhân là đồng sự. Lược nêu một pháp để biện giải đó, như lúc nhãn thức sinh đợi hư không ánh sáng v.v... làm duyên lập đây làm quán đãi nhân, do đó hai chủng mới cũ vậy, như lần lượt đó được có dắt dẫn và sinh khởi nhân, tiếp lấy đẳng vô gián duyên và căn cảnh v.v... lập làm nhiếp thọ nhân, trong trước dẫn đến sau là dẫn phát nhân, do danh ngôn chủng nên có định dị nhân các pháp khác cũng vậy; mười bốn, chướng ngại y xứ, lập tương vi nhân, hoặc năng chướng trí, sáng năng chướng tối v.v... tức sáng làm nhân tối lập làm quả, tức nương xứ đây lập nhân trái nhau; mười lăm, chẳng chướng ngại y xứ nghĩa là ở trong sự sinh trú thành được chẳng pháp chướng ngại, tức nương xứ đây lập bất nhân trái nhau. Lược nói về ba y là: Một, nhân duyên y, tức là câu hữu y, cũng là chủng tử y; hai, tăng thượng y, tức tăng thượng duyên; ba, đẳng vô gián duyên y, tức khai đạo y. Một, nhân duyên y, nghĩa là tự chủng tử, các pháp hữu vi đều gá y đây, lìa tự nhân duyên hẳn chẳng sinh vậy, nhân duyên y này là đối quả mà được tên, nhân tức là duyên, chẳng lấy nghĩa của nhân do, nhân đây là sở y của quả vậy, tức hiện hành gọi là quả, năng sinh chủng tử gọi là năng duyên. Lại nhân là nhân của quả hiện hành, duyên tức là nhân đây, có dụng của thân sinh quả hiện hành, gọi là duyên.

Hỏi: Nhân duyên y tha và nhân duyên có gì khác biệt?

Đáp: Y hẹp mà duyên rộng, nếu nhân duyên tức có ba nghĩa: Một, chủng dẫn chủng; hai, chủng sinh hiện; ba, hiện huân chủng. Nếu nhân duyên y tức chỉ lấy một nghĩa chủng sinh hiện, là chân nhân duyên y, nếu chủng sinh chủng chỉ gọi là nhân duyên chẳng được gọi là y vì nhân quả niệm khác vậy, tức niệm trước không thể chẳng phải y quyết định phải đồng thời.

Hỏi: Vậy như hiện huân chủng cũng là nhân quả đồng niệm, sao chẳng làm y?

Đáp: Hiện huân chủng tuy đồng niệm, nhưng lại khuyết nghĩa nhân trầm ẩn quả hiển hiện, cũng chẳng phải nhân duyên y, nên biết chỉ lấy nghĩa chân nhân duyên gọi là y, cả thảy phải đủ ba nghĩa mới gọi là nhân duyên y: Một, là chủ tức chủng là chủ; hai, nhân chìm ẩn quả hiển hiện, tức chọn lựa hiện huân chủng; ba là, nhân quả đồng thời tức chọn lựa chủng sinh chủng.

Hỏi: Chủng tử đây là thể nhân duyên y, lấy pháp gì làm năng y?

Đáp: Các pháp hữu vi đều gá y đây, tức tất cả pháp hữu vi nhân duyên, sắc và tâm đều phải gá tự chủng làm y có tự chủng đây nên tất cả sắc tâm hiện hành mới đều được sinh, lìa tự nhân duyên hẳn chẳng sinh vậy. Ý nói là tâm hiện nếu thân tự tâm chủng hẳn chẳng sinh sắc pháp cũng vậy; hai tăng thượng duyên y là, nếu tăng thượng duyên tức rộng, nghĩa là thông cả có không và sơ, tăng thượng nếu là y tức hẹp, chỉ lấy có lực và thân tăng thượng, vì năm sắc căn và ý căn xứ, chỉ lấy sáu xứ bên trong đây làm thể tăng thượng y, tức chọn lựa sáu xứ bên ngoài trong tâm tâm sở pháp chỉ là tăng thượng, tức chẳng được làm thể y. Lại chỉ lấy tám thức tâm vương đồng thời làm ý căn xứ, vì ý căn xứ duyên được tám thức vậy. Nếu là đẳng vô gián y tức tự làm một y, nên chẳng lấy, tức tăng thượng y đây phải đủ ba nghĩa: Một, có lực; hai, thân; ba, bên trong, sáu xứ bên ngoài đó vì chẳng đủ ba nghĩa chỉ làm duyên chẳng phải y. Nếu pháp năng y tức các tâm tâm sở, đều gá y đây, nơi các tâm tâm sở, thức là chọn lựa sắc, chẳng tương ưng hành vô vi ba vị sau đều không tăng thượng y.

Hỏi: Tất cả tâm tâm sở pháp đó nếu lúc không sáu xứ bên trong cũng được chuyển chăng?

Đáp: Lìa câu hữu căn hẳn chẳng chuyển vậy, ý nói: Nếu lúc không căn sở y, tâm tâm sở đó quyết định chẳng được chuyển. Ba, đẳng vô gián duyên y là, đẳng vô gián duyên y tức hẹp, chỉ lấy tâm vương, tâm vương có nghĩa là chủ, nếu trong bốn duyên đẳng vô gián duyên tức rộng, thông cả tâm tâm sở, là tương ưng tâm vương niệm trước có lực năng dẫn sinh một tụ tâm tâm sở pháp ở niệm sau, gọi là đẳng vô gián. Đây là thể y, tức tâm vương niệm trước cùng tâm tâm sở niệm sau làm y.

Hỏi: Tâm pháp niệm trước đã diệt không thể sao được làm y?

Đáp: Kia lúc diệt trước đã ở thức đây làm khai đạo vậy, ý nói: Ý nói niệm trước kia lúc tâm vương sắp muốn diệt, có lực dụng đó năng dẫn khiến sinh ở niệm sau, làm công năng đây xong bèn diệt. Tức một niệm hiện tại có hành công năng sau lấy làm pháp thể chẳng phải lấy pháp không thể đã diệt ở quá khứ làm y.

Hỏi: Tâm vương niệm trước đó có lực dụng dẫn đến sau, gọi là làm y vậy, không biết lấy pháp nào làm năng y?

Đáp: Các tâm tâm sở đều gá y đây, tức tất cả tâm tâm sở pháp khởi, quyết định năng phải gá y diệt trước đây làm y mới khởi.

Hỏi: Các tâm tâm sở nếu chẳng nương tâm vương diệt trước cũng được khởi chăng?

Đáp: Lìa căn khai đạo hẳn chẳng chuyển vậy, ý nói: Tâm tâm sở nếu chẳng được tâm vương ở niệm trước làm mở ải dẫn đường, tức không nhân để được khởi.

Hỏi: Tâm pháp vơi bốn duyên sinh, cớ sao ba duyên riêng lập làm y, mà sở duyên duyên chẳng như vậy?

Đáp: Ba duyên đó có nghĩa thường nghĩa chủ vậy, cũng duyên cũng y, sở duyên duyên đều có nghĩa thường, khuyết nghĩa chủ nên chỉ làm duyên chẳng làm y. Lại chủng tử y có đủ sáu nghĩa, sáu nghĩa là: Một, sát-na diệt; hai, quả câu hữu; ba, hằng tùy chuyển, bốn, tánh quyết định, năm, đãi chúng duyên; sáu, dẫn tự quả. Một, sát-na diệt nghĩa là, thể vừa mới sinh không thời gian hẳn diệt, có công năng ưu thắng mới thành chủng tử; hai, quả câu hữu là nghĩa là cùng chỗ sinh hiện hành quả, câu hiện hòa hợp mới thành chủng tử; ba, hằng tùy chuyển nghĩa là cần thời gian dài một loại tương tục, đến quả vị rốt ráo mới thành chủng tử; bốn, tánh quyết định nghĩa là tùy lực nhân sinh thiện ác v.v... công năng quyết định mới gọi là chủng tử; năm, đãi chúng duyên nghĩa là đây cần đợi tự các duyên hòa hợp, công năng thù thắng mới thành chủng tử; sáu, dẫn tự quả nghĩa là ở quả sắc tâm v.v... riêng biệt mỗi mỗi dẫn sinh mới thành chủng tử. Lại câu hữu y là tức sở y và năng y cùng thời mà có, y chỉ là tất cả pháp hữu vi sinh diệt, cậy nhân gá duyên mà sinh là đều gọi là làm y, y đầy đủ bốn nghĩa: Một, quyết định; hai, có cảnh; ba, làm chủ; bốn, khiến tâm tâm sở lấy tự chỗ duyên mới gọi là sở y, bốn, y đây mỗi mỗi có chỗ lựa chọn, như nghĩa thứ nhất là nếu pháp quyết định đây chánh chọn lựa đem năm thức trước cùng ý thức thứ sáu làm chẳng định y, phàm là sở y là phải quyết định có mới được. Nay lúc có thức thứ sáu chẳng quyết định có năm thức trước vậy, cũng chọn lựa đem năm sắc căn và thức thứ tám làm y cũng là chẳng định có. Như sinh ở vô sắc giới, thức thứ tám tức không sắc căn làm y. Lại chọn lựa đem bảy hiện năng huân làm chủng tử sở huân làm sinh trưởng y v.v... tức hiện thức năng huân đây có gián đoạn vậy không nghĩa quyết định.

Hỏi: Nếu có nghĩa quyết định bèn là sở y, tức như bốn đại chủng và mạng căn năm trần v.v... và chủng tử đều có nghĩa quyết định, nên là sở sở y, lúc có thức hiện hành hẳn quyết định có chủng tử ư?

Đáp: Đem nghĩa thứ hai chọn lựa có cảnh, nói có cảnh, tức có công năng chiếu cảnh duyên cảnh, trừ tâm tâm sở và năm sắc căn thức, ngoài ra các pháp đều chẳng phải có cảnh, nay bốn đại năm trần mạng căn v.v... tuy có nghĩa quyết định mà khuyết nghĩa có cảnh nên chẳng phải sở y.

Hỏi: Nếu đủ hai nghĩa tức gọi là sở y, vậy như biến hành năm số cũng đủ hai nghĩa quyết định và có cảnh, nên cùng tâm tâm sở làm sở y?

Đáp: Đem nghĩa thứ ba chọn lựa là làm chủ. Nay biến hành năm số, tuy đủ hai nghĩa khuyết nghĩa làm chủ vậy cũng chẳng phải sở y.

Hỏi: Nếu đủ ba nghĩa bèn thành sở y, vả lại như thức thứ tám hiện hành trong chủng tử bên trong thức cũng có ba nghĩa quyết định có cảnh và làm chủ, tức tám thức hiện hành v.v... đây nên cùng chủng tử làm câu hữu y chứ?

Đáp: Đem nghĩa thứ tư chọn lựa là khiến tâm tâm sở lấy tự sở duyên, tức khiến tâm tâm sở năng y duyên lấy cảnh nhà tự sở y mới thành sở y. Nay thức hiện hành thứ tám chẳng năng khiến chủng tử lấy tự sở duyên nên chẳng phần sở y, nay chủng tử trong thức thứ tám không duyên lự, chẳng năng lấy tự sở duyên vậy. Thức thứ tám chẳng phải chủng tử sở y chỉ làm nghĩa y.

Hỏi: Không biết pháp nào đủ bốn nghĩa đây? Đủ thì được gọi là sở y chăng?

Đáp: Năm sắc căn và ý xứ, tức sáu xứ đây đủ bốn nghĩa trước đủ thì riêng được gọi là sở y.

Hỏi: Sáu xứ bên trong là câu hữu y, so với thể sáu căn nghĩa có gì riêng khác?

Đáp: Câu hữu y chỉ lấy sáu xứ hiện hành chẳng lấy chủng tử, khuyết nghĩa cảnh, nếu chỉ nói sáu căn tức thông chủng hiện. Lại câu hữu y lấy nghĩa sở y. Nếu nói sáu căn tức lấy nghĩa sinh trưởng mỗi mỗi căn cứ ưu thắng để luận. Lại nếu tâm tâm sở pháp lúc sinh lúc trú, tức đủ câu hữu y, nếu sắc pháp lúc sinh lúc trú chỉ có nhân duyên y tức được quyết định không câu hữu y, vì sắc pháp không sở duyên vậy, tự thể chẳng là pháp năng duyên vậy.

Lại trong luận Du-già nói: “Ở năm thức có ba y:

Một, chủng tử y; hai, câu hữu y; ba, khai đạo y.” Hỏi: Sở y có mấy lớp?

Đáp: Có bốn lớp, nghĩa là năm sắc căn, thức thứ sáu thức thứ bảy, thức thứ tám, tức năm thức mỗi mỗi y tự căn nếu ba thức sau (sáu, bảy, tám) tức thông cùng năm thức làm y.

Hỏi: Năm sắc căn thức thứ sáu, thức thứ bảy, thức thứ tám, bốn lớp sở y mỗi mỗi có dụng gì mà nói tùy khuyết một thứ tức bèn chẳng chuyển ư?

Đáp: Một đồng cảnh; hai phân biệt; ba nhiễm tịnh; bốn căn bản v.v... sở y riêng biệt nên nói đồng cảnh là, tức tự năm sắc căn vậy, như lúc nhãn căn chiếu cảnh sắc xanh, nhãn thức cũng duyên cảnh sắc xanh, vì cảnh sắc xanh đồng nên gọi là đồng cảnh, cho đến thân căn thức cũng vậy. Nói phân biệt là tức thức thứ sáu năng thức trước làm phân biệt y, lúc đồng duyên cảnh khởi phân biệt vậy. Đây là tự thể thức thứ sáu cùng năm thức làm phân biệt y. Trong luận Du-già nói: “Có phân biệt không phân biệt, đồng duyên cảnh hiện tại vậy”, tức thức thứ sáu gọi là có phân biệt, năm thức trước gọi là không phân biệt. Trong kinh Giải Thâm Mật nói: “Lúc năm thức khởi, quyết định có ý thức đồng duyên cảnh”. Nói nhiễm tịnh là, tức thức thứ bảy, thức thứ bảy năng cùng năm thức làm nhiễm tịnh y, thức thứ bảy nếu tại trong quả vị hữu lậu tức cùng năm thức làm nhiễm y, nếu lúc thành vô lậu tức cùng năm thức làm tịnh y, có nhiễm tịnh y đây, năm thức trước mới chuyển, nếu không tức chẳng được sinh. Nói căn bản là tức thức thứ tám, thức thứ tám cùng năm thức trước làm căn bản y, năm thức trước là cành nhánh. Lại thức thứ tám năng trì chủng năm thức trước chủng mới sinh hiện, suy công về gốc đều từ trong thức thứ tám mà thành vậy. Thức thứ tám đây chẳng chỉ cùng năm thức trước làm căn bản y, cũng cùng muôn pháp làm căn bản, vì năng trì chủng muôn pháp vậy, ở trong quả vị nhân quả, thức thứ tám đều là căn bản, bốn lớp y đây mỗi mỗi chẳng đồng, tức tám thức đều có danh nghĩa bốn lớp sở y, chẳng đồng là như nhãn v.v... năm thức tức đồng cảnh v.v... bốn lớp sở y, mỗi mỗi có nghĩa quyết định, vả lại như nhãn thức lấy nhãn căn làm quyết định đồng cảnh y, vì quyết định cộng lấy một cảnh vậy, ngoài ra bốn cảnh và bốn căn mỗi mỗi quyết định lấy tự cảnh cũng vậy, vì thức thứ sáu làm quyết định phân biệt y, vì thức thứ bảy làm quyết định nhiễm tịnh vậy, vì thức thứ tám làm quyết định căn bản y. Lại năng y sở y, nên dùng bốn câu để phân biệt. Một, chỉ năng y chẳng phải sở y tức tâm sở pháp; hai, chỉ sở y chẳng phải năng y, tức năm sắc căn; ba, câu câu tức tâm vương thức thứ tám; bốn, câu phi tức sắc pháp bên ngoài. Lại khai đạo y là, khai là mở (lánh) vậy tức khai mở xứ sở, đạo nghĩa là dắt dẫn, dắt dẫn khiến sinh, tức tâm vương ở niệm trước lúc sắp diệt khai mở xứ sở, dẫn tâm tâm ở niệm sau khiến kia sinh khởi tức tâm tâm sở ở niệm sau gá tâm vương khai đạo ở niệm trước chỗ nương tựa mà sinh, gọi là khai đạo y, phàm xứ của nhân y thì mới đầu của nhiễm tịnh sinh ra, cảnh của quả báo, là thời của khổ lạc thành thục, thì mười nhân năm quả vì không sai, ba y bốn duyên mà chẳng phải lạm, đều là một niệm đầu tiên, trái giác hợp trần chuyển tâm năng tác hiện làm các cảnh, ba tế thức toàn nhân bất giác, sáu tướng thô trọn làm sở duyên, vào sinh tử xoay vòng lửa chưa từng tạm dứt, ở trần lao vào ngục vô gián, đâu có kỳ ra, nếu năng rõ nguyên do muôn pháp khởi đầu, rõ khoảng của một niệm đầu tiên, mới biết tự tâm ta khởi, xứ khởi không vết chỉ lúc tâm ta diệt mất, không vết thì trọn khô gốc khổ, sáu thú vì đó mà băng tiêu, chóng cạn nguồn ái. Hai tử nhân đây mà mây tan, chánh ý của hai mươi tám vị Tổ từ đây mà ngời sáng, bản hoài chư Phật ba đời nhân đây mà cởi mở.

Hỏi: Bát-nhã không tướng chẳng thọ một trần cớ sao rộng biện bốn duyên và các nhân quả?

Đáp: Phàm chánh pháp Phật nói đều từ duyên sinh, nên nói: Tâm pháp bốn duyên sinh, sắc pháp hai duyên khởi, nếu chấp chẳng theo duyên sinh, là đều chẳng phải chánh pháp, đều thuộc ngoại đạo tà kiến tự nhiên, như một pháp của tâm, nếu không nhân duyên thứ nhất là không có nghĩa là thân sinh hiện hành quả, thì các pháp chẳng thành lập. Nếu không đẳng vô gián duyên thứ hai thì không nghĩa khai đạo dẫn sinh sau, không có tương tục, toàn thành gián đoạn. Nếu không có sở duyên duyên thứ ba, thì tâm không chỗ nghĩ ngơi, chẳng năng dắt dẩn tâm dụng, tâm không chỗ gá, là tâm cảnh đều thành đoạn diệt, nếu không tăng thượng duyên thứ tư là, tuy đủ ba duyên trước, nếu không tăng thượng tức thành chướng ngại, pháp cũng chẳng sinh, bốn duyên đày đủ mới thành tâm pháp, nếu năng rõ suốt thế gian, pháp của nhân duyên sinh ra, mới là thấy yếu chỉ của không sinh, vì tức pháp sinh mà đạt không sinh vậy, vả lại sinh pháp còn chẳng biết chánh nhân, làm sao năng rõ diệu lý không sinh? Do đó trong Hoa Nghiêm nói: “Nghĩa sâu duyên khởi, chỗ tông của Phật giáo, từ xưa các tông đức phần nhiều nói là tông của ba giáo, Nho thì tông ở ngũ thường, Đạo tông ở tự nhiên, Phật tông ở nhân duyên”. Nhưng Lão tử tuy nói: “Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh muôn vật”. Tợ có nhân duyên mà chẳng phải chánh nhân duyên. Nói Đạo sinh một là, đạo tức hư vô tự nhiên vậy. Kia lại nói: “Nhân pháp địa địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên” nghĩa là: Hư thông gọi là đạo, tức tự nhiên mà nhiên, là tuy có nhân duyên cũng thành nghĩa của tự nhiên vậy. Phật pháp tuy có trí vô sư trí tự nhiên mà là thường trú chân lý, cần gá duyên hiện thì cũng là nhân duyên vậy, nên giáo nói ba đời tu nhân khế quả, chẳng phải không nhân thiện nhân ác vậy. Trong kinh Lăng-già nói: “Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật: Phật nói thường chẳng nghĩ bàn, các ngoại đạo kia cũng có thường chẳng nghĩ bàn, có gì khác ư?” Phật dạy: “Các ngoại đạo kia không có thường chẳng nghĩ bàn, vì không nhân vậy. Ta nói thường chẳng nghĩ bàn là có nhân. Nhân chứng ở bên trong, đâu được đồng ư? Vậy thì chân thường cũng nhân duyên hiển bày. Trong kinh Tịnh danh nói: “Nói pháp chẳng có cũng chẳng không, vì nhân duyên nên các pháp sinh”. Trong kinh Pháp Hoa nói: “Chư Phật Lưỡng Túc Tôn, biết pháp thường không tánh, Phật chủng theo duyên khởi, cho nên nói nhất thừa”. Lại trong kinh nói: “Tất cả các pháp nhân duyên làm gốc”. Trong luận Trung Quán nói: “Chưa từng có một pháp, chẳng từ nhân duyên sinh, cho nên tất cả pháp không gì chẳng là không” thì chân không trung đạo cũng nhân duyên vậy. Nếu vậy trong kinh Niết-bàn nói: “Ta quán các hành thảy đều vô thường, vì sao biết ư? Vì nhân duyên vậy, nếu tất cả pháp từ duyên sinh, thì biết là vô thường, các ngoại đạo đó không có một pháp chẳng từ duyên sinh, cho nên vô thường, thì ngoại đạo có nhân duyên vậy”. Giải thích: Đây là nói rõ ngoại đạo tại bên trong nhân duyên chấp ở tướng duyên lấy làm thường trú, cho nên phá đó mà nói vô thường vậy. Nay nói rõ giáo phân tích diệu lý nhân duyên có đủ thường và không thường, đâu được đồng ư? Huống gì là tông là từ nhiều phần nói, sở dĩ nhân duyên là sở tông, chớ nên đặt để nghi ngờ nên biết chỉ là nhất tâm, pháp môn duyên khởi, vì pháp không tự tánh, tùy chỗ tâm hiện, pháp của chỗ hiện toàn là tự tâm, trọn không bên ngoài tâm có pháp năng cùng tâm làm duyên. Do đó tướng gốc ngọn gom thâu đều quy về Tông kính, tại sao? Bên trong tức là gốc, bên ngoài tức là ngọn, vì nghĩa duy tâm thì bên trong gom thâu bên ngoài, gá cảnh sinh tâm thì ngọn cũng gom thâu bên trong. Nếu dùng pháp tánh làm gốc, pháp tánh dung thông, nguyên do duyên khởi thì một mảy trần bao hàm thân lớn, một sợi lông dung chứa cả cõi nước, nên hợp làm một duyên khởi lớn vậy. Nên biết có trí tuệ không nghe nhiều, có nghe nhiều không trí tuệ đều chẳng thấu đạt thật tướng. Văn (nghe) tuệ đầy đủ, thật thấy nguồn tâm. Lại trong kinh nói: “Nếu muốn học Bát-nhã, nên học tất cả pháp, vì sắc vô biên nên Bát-nhã vô biên”. Lại trong kinh nói: “Nếu muốn rõ đạt nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là nên phải học Bát nhã”. Trong luận Đại Trí Độ giải thích là: “Chẳng phá nghĩa của bốn duyên, chỉ phá chấp của bốn duyên, như vầng trăng của trong nước, chẳng phá chỗ thấy, chỉ phá chỗ thủ”. Nên biết chỉ có năng thủ chấp tình, thì chẳng phải huyễn mà thành pháp huyễn, nếu thành tuệ không chỗ được, thì chẳng phải huyễn còn tự chẳng sinh, chấp một tình dối, muôn pháp không lỗi, chân tánh Bát-nhã kẹt chỗ nào ư? Như trong kinh Đại Niếtbàn nói: “Bồ-tát khéo biết các duyên, Bồ-tát Ma-ha-tát chẳng thấy sắc tướng chẳng thấy sắc duyên, chẳng thấy sắc thể, chẳng thấy sắc sinh, chẳng thấy sắc diệt, chẳng thấy tướng một, chẳng thấy tướng khác, chẳng thấy người thấy, chẳng thấy tướng mạo, chẳng thấy người thọ, tại sao? Vì rõ nhân duyên vậy, như sắc tất cả pháp cũng như vậy”. Lại nghĩa mười nhân bốn duyên v.v... trước là ước về tông pháp tướng mà nói, lược nói về hành tướng, nay y cứ tông pháp tánh pháp môn tự tại vô ngại, nói rõ về thể tánh đó, căn cứ Hoa Nghiêm Pháp giới duyên khởi vô tận tông cũng có sáu nghĩa nhân môn mười nghĩa duyên khởi. Nay tạm giải thích sáu nghĩa nhân môn: Một, không có lực chẳng đãi duyên, là nghĩa sát-na diệt. Do sát-na diệt vậy, tức không tự thể là không vậy, do diệt đây nên pháp quả được sinh là có lực vậy, nhưng rụng diệt đây chẳng phải do duyên, bởi có lực nên chẳng đợi duyên; hai, không có lực đối đãi duyên, là nghĩa câu hữu, do câu hữu nên mới có tức hiển bày là chẳng có nghĩa không vậy, câu nên năng thành có là có lực vậy, câu nên chẳng phải tán mất là đối đãi duyên vậy; ba, không không lực đãi duyên, là nghĩa đối đãi duyên, do không tự tánh nên là không vậy, nhân chẳng sinh duyên sinh nên là không lực vậy; bốn, có có lực chẳng đối đãi duyên, là nghĩa quyết định, do tự loại chẳng cải đổi nên là nghĩa có, nhưng tự chẳng cải đổi mà sinh quả vậy, quả là nghĩa có lực, nhưng chẳng cải đổi đây chẳng phải do duyên lực, nên chẳng đãi duyên; năm, có có lực đối đãi duyên, là nghĩa dẫn tự quả, do dẫn hiện tự quả là nghĩa có, tuy được thắng duyên mới sinh nhưng chẳng sinh duyên quả là nghĩa có lực, tức do đây nên là nghĩa đãi duyên; sáu, có không lực đối đãi duyên, là nghĩa hằng tùy chuyển. Do tùy tha nên không lực, cho nên đối đãi duyên chánh nhân đối duyên chỉ có ba nghĩa: Một là, nhân có lực chẳng đối đãi duyên, toàn năng sinh, chẳng xen tạp duyên lực; hai là nhân có lực đối đãi duyên, là tương tư (cùng giúp nhau) phát vậy; ba là, nhân không lực đối đãi duyên, toàn chẳng làm vậy. Dụng duyên vậy do ba nghĩa trên trong nhân mỗi mỗi có hai nghĩa có và không, hai môn mỗi mỗi chỉ ba, chỉ có sáu vậy, chẳng tăng chẳng giảm, tại sao chẳng lập câu thứ tư nghĩa không lực chẳng đối đãi duyên? Vì kia chẳng phải nghĩa nhân nên chẳng lập.

Hỏi: Trong quả có sáu nghĩa chăng?

Đáp: Trong quả chỉ có hai nghĩa có và không, nghĩa là từ tha sinh không thể nên là nghĩa không, đáp nhân nên là nghĩa có, nếu căn cứ qua lại làm nhân quả mà nói: Tức là lúc nhân tha đầy đủ sáu nghĩa đây, lúc cùng tha làm quả, tức chỉ có hai nghĩa, cho nên sáu nghĩa chỉ tại trong nhân đối. Đãi duyên là, đối đãi tăng thượng v.v... ba duyên bên ngoài nhân sự vậy. Nếu duyên khởi nghĩa bí mật đều đủ sáu nghĩa đây. Sáu nghĩa ước về thể dụng mỗi mỗi có bốn câu: Một, nói về thể có và không với bốn câu là: Một là, có, tức là nghĩa quyết định, hai là, không tức là nghĩa sát-na diệt, ba là, cũng có cũng không, tức là hợp kia dẫu tự quả và câu hữu, không hai ấy vậy, bốn là, chẳng phải có chẳng phải không, tức là hợp kia hằng tùy chuyển và đối đãi các duyên, không hai ấy vậy. Về dụng có bốn câu: Một là hợp kia hằng tùy và đối đãi các duyên không hai vậy, là chẳng tự sinh; hai là do hợp kia sát-na diệt và nghĩa quyết định không hai vậy, là chẳng tha sinh; ba là, do hợp kia câu hữu và dẫn tự quả không hai vậy, là chẳng cộng sinh; bốn là, do đủ ba câu hợp sáu nghĩa đó, nghĩa nhân mới thành vậy chẳng phải không nhân sinh vậy. Trong luận Trung Quán nói về bát bất là căn cứ ngăn phân tích. Sáu, nghĩa là nói về bai phân tích. Bát bất căn cứ phản tình lý tự nhiên, sáu nghĩa căn cứ hiện lý tình tự mất, có tư hữu đó vậy, sáu nghĩa mở hợp là, hoặc nói về thể chỉ một, vì nhân không hai, thể vậy; hoặc nói về nghĩa phân hai, nghĩa là không và có vì không tự tánh, duyên khởi hiện tiền vậy; hoặc nói về dụng phân ba: Một là, có lực chẳng đối đãi duyên; hai là, có lực đãi duyên; ba là, không lực đối đãi duyên. Mới đầu tức toàn có lực, sau tức toàn không lực. Giữa tức cũng có lực cũng không lực. Câu thứ tư không lực chẳng đối đãi duyên, là chẳng phải nhân nên chẳng luận bàn, sáu nghĩa căn cứ tự thể duyên khởi. Sáu tướng căn cứ nghĩa môn duyên khởi, sáu nghĩa do nghĩa có và không nên có môn tương tức, do nghĩa có lực và không lực, nên môn càng vào. Do nghĩa có đối đãi duyên và chẳng đối đãi duyên nên có môn đồng thể và dị thể. Do các nghĩa môn nên được có các sự mảy lông dung chứa cõi nước v.v... nếu luận về cùng tức, cùng giữ gìn, đều nhân có lực và không lực tức hai nghĩa đây chẳng được đồng thời, nếu câu hữu lực không không lực, tức thành lỗi nhiều quả, mỗi mỗi sinh vậy, nếu đều không lực không có lực, tức thành lỗi không quả, đều chẳng sinh vậy. Trong luận nói: “Nhân chẳng sinh mà duyên sinh, duyên chẳng sinh mà nhân sinh, vì một có lực năng giữ gìn nhiều, vì nhiều không lực tức vào trong một, vì nhiều có lực năng giữ gìn một, vì một không lực tức vào trong nhiều”. Do đó, một trần có lực năng bao gồm cả sát hải, sát hải không lực ngầm vào trong một.

Hỏi: Có lực và không lực, nghĩa đó như thế nào?

Đáp: Nếu vì một có lực là nghĩa không không tánh, không tánh nên năng thành các pháp. Vì có nghĩa không nên tất cả pháp được thành, thì là một có lực làm chủ, nhiều không lực làm bạn. Nếu vì nhiều có lực thì không một pháp mà có tự thể năng độc lập, đều mượn nhờ các duyên đối đãi nhau mà thành, thì nhiều có lực làm chủ, một không lực làm bạn. Sở dĩ lập tướng bạn thành tự tha qua lại lập, không bạn thì chủ chẳng lập, khuyết tự thì tha chẳng thành. Lại nói về dụng do đối đãi nhau nên đủ nghĩa có lực và không lực, là cùng thâu và cùng vào; hai, nói về thể do tác động nhau nêu đủ nghĩa có thể và không thể cho nên tức nhau và là nhau.

Trong kinh có kệ tụng nói:

“Các pháp không tác dụng,
Cũng không có thể tánh,
Cho nên tất cả pháp,
Mỗi mỗi chẳng biết nhau”.

Vì tha mà làm tự nên không thể tánh, vì đối đãi nhau mà thành nên không tác dụng. Đây là nghĩa không lực, lại nhân không biết không tánh đây, mới có duyên khởi. Nếu một pháp có thể thì chẳng nhờ mượn nương nhau, nếu không nương nhau thì không có pháp. Nếu các pháp chẳng không thể không đạo không quả, đây là nghĩa có lực. Tiếp theo, mười môn duyên khởi, tức là lực của duyên khởi bởi nhau nghĩa là một và nhiều qua lại làm duyên khởi bởi nhau thành lập nên có tức nhau vào nhau v.v... đây có hai thứ: Một, nói về duyên dụng có lực và không lực, tương đãi tương y toàn thể tương thâu (đối đãi nhau, nương tựa nhau, toàn thể gồm thâu nhau) nên có tương nhập; hai, nói về duyên thể có không và chẳng không năng làm sở làm toàn thể là nhau, nên có tức nhau, hai môn tức vào đây lại có hai nghĩa: Một, khác thể trong nhau nên có vi tế ẩn hiển, nghĩa là khác thể chứa nhau là nghĩa vi tế, khác thể là nhau là nghĩa ẩn hiển; hai, đồng bên trong thể đủ đức nên có một nhiều rộng hẹp, nghĩa là đồng thể vào nhau nên có một nhiều vô ngại, đồng thể tức nhau nên có rộng hẹp vô ngại. Lại do khác, gồm đồng nên có nghĩa lưới trời Đếthích, ở trong thời nên có nghĩa mười đời, duyên khởi không tánh nên có nghĩa tánh tướng vô ngại, cùng khuyết cùng gồm nên có nghĩa chủ bạn, nghĩa mười duyên là:

Một nghĩa là các duyên mỗi khác, trong duyên khởi lớn, các duyên trong nhau, cần phải thể dụng mỗi riêng biệt, chẳng tạp loạn nhau mới thành duyên khởi, nếu tạp loạn là mất bản duyên, pháp duyên khởi chẳng thành, đây thì các duyên mỗi mỗi tự giữ một vị. Trong kinh có kệ tụng nói:

“Trong nhiều không một tánh,
Một cũng không có nhiều”.

Hai nghĩa là hỗ biến tương tư (qua lại khắp cùng giúp nhau) cần phải qua lại khắp cùng mới thành duyên khởi, như một duyên khắp cùng ứng với nhiều duyên, mỗi mỗi cùng nhiều kia toàn làm một vậy, một đây tức là nhiều cái một vậy. Đây tức từng một mỗi đủ tất cả.

Trong kinh có kệ tụng nói

“Biết vì một nên nhiều,
Biết vì nhiều nên một”.

Ba, nghĩa câu tồn vô ngại, phàm là một duyên, cần đủ hai nghĩa trước, vì phải trú tự một mới năng khắp cùng ứng khắp cùng, ứng nhiều duyên nhiều mới là một vậy. Vì một chẳng tự làm một, vì nhiều làm một, vì nhiều chẳng tự nhiều, vì một lần nhiều, cho nên chỉ một nhiều, một tự tại vô ngại, hoặc khắp thể toàn trú là chỉ một vậy, hoặc khắp thể khắp cùng ứng là nhiều một vậy, hoặc đều còn, hoặc đều mất, hoặc tổng hợp, hoặc toàn lìa. Trong kinh có kệ tụng nói:

“Các pháp không sở y,
Chỉ từ hòa hợp khởi”.

Ba môn đây gồm nói rõ bản pháp duyên khởi hoàn tất;

Bốn, nghĩa dị thể tương nhập, nghĩa là lực dụng pháp môn thay đổi cùng nương giữa hoa lại hình đoạt. Mỗi mỗi có nghĩa toàn lực và toàn không lực, do một có lực hẳn chẳng cùng nhiều lực chung, cho nên không có một mà chẳng giữ nhiều, do nhiều không lực hẳn chẳng cùng một không lực chung, cho nên không có nhiều mà chẳng vào một, nhiều giữ một nương cũng vậy.

Năm, nghĩa khác thể tức nhau, các duyên trong nhau, toàn thể hình đoạt có nghĩa có thể và không thể, cho nên một duyên là năng khởi, năng thành nên có thể nhiều duyên là sở khởi, sở thành nên không thể, do một có thể, hẳn chẳng được cùng nhiều có thể chung, nhiều không thể, hẳn chẳng được cùng một không thể chung, cho nên không có một của chẳng nhiều, không có nhiều của chẳng một.

Sáu nghĩa thể dụng cả hai dung hòa: Một, vì thể không chẳng dụng nên khắp thể toàn dụng, tức có nghĩa vào nhau và không tức nhau; hai, dụng không chẳng thể, nên khắp dụng toàn thể tức chỉ có nghĩa tức nhau mà không vào nhau; ba, quy dụng của thể chẳng ngại dụng, toàn thể của dụng chẳng mất thể, không ngại đều còn, cũng tức cũng nhập, tự tha đều hiện; bốn, toàn thể của dụng thể hết, toàn dụng của thể dụng mất, chẳng phải tức chẳng phải nhập viên dung một vị; năm, bốn câu trước đồng một duyên khởi vô ngại đều còn; sáu, hết năm câu trước tuyệt đãi lìa ngôn, ngầm đồng biển tánh, ba môn trên đây, ở tròn môn khác thể thứ nhất trước hiển bày nghĩa lý đã xong.

Bảy nghĩa đồng khởi vào nhau, nghĩa là chỗ một duyên trước có nhiều một, cùng một duyên kia, thể không riêng biệt, gọi là đồng thể. Lại do một duyên đây ứng với nhiều duyên, trước nói rõ vào nhau, nghĩa là một duyên có lực năng giữ nhiều một, nhiều một không lực nương một duyên kia, cho nên một năng gồm nhiều nhiều bên vào một.

Tám nghĩa đồng thể tương tức, nghĩa là chỗ một duyên trước đủ nhiều một cũng có nghĩa có thể và không tâm, cũng nên tức nhau, vì nhiều một không thể do vốn một thành nhiều tức một vậy. Do vốn một có thể năng giữ nhiều một, toàn một gồm nhiều, như một có nhiều, không đã vậy, nhiều có một, không cũng như vậy.

Chín, nghĩa cùng dung hòa vô ngại, đồng sáu câu trước thể dụng song dung. Ba môn đây ở trong môn đồng thể thứ hai trước, biện giải nghĩa lý đã xong.

Mười, nghĩa đồng khác viên mãn, vì chín môn trước tổng hợp làm một duyên khởi lớn, nay môn nhiều thứ nghĩa đồng thời đầy đủ, do trú một khắp cùng ứng nên có môn rộng hẹp tự tại, do căn cứ thể có tức nhau căn cứ dụng có vào nhau. Do khác thể chứa nhau đầy đủ môn vi tế, do khác thể tức nhau đầy đủ môn ẩn hiển, căn cứ dụng vào nhau làm hiển, căn cứ thể tức nhau làm ẩn. Lại do khác thể vào nhau mang đồng thể vào nhau đày đủ môn lưới trời Đế thích. Do duyên khởi lớn đây tức pháp giới vô ngại có môn gá sự, hiển bày trong thời có môn mười đời, liên quan nhau cùng gồm có môn chủ bạn, môn viên mãn đây căn cứ trong ba môn để biện giải nghĩa lý hoàn tất. Trong kinh có kệ tụng nói:

“Bồ-tát khéo quán pháp duyên khởi,
Ở trong một pháp giải nhiều pháp,
Ở trong nhiều pháp giải rõ một”.

Lý sự như vậy mở hợp tánh duyên dung thông, mới đạt dụng của nhất tâm vô tận. Trong Hoa Nghiêm Diễn Nghĩa giải thích: “Phàm duyên khởi là mới đầu có ba môn: Một, môn khác thể; hai, môn đồng thể; ba, môn đồng khác hợp rõ”. Chỗ có thể đồng dị là vì các môn duyên khởi, bên, trong có hai nghĩa: Một là, bởi nhau nghĩa chẳng tương do, nghĩa là tự đầy đủ đức, như trong nhân chẳng đối đãi duyên; hai là nghĩa bởi nhau như đối đãi duyên v.v... vậy, trước tức là môn đồng thể, sau tức là môn khác thể. Nếu vậy sao trong môn khác thể trước nói là các duyên mỗi riêng biệt, chẳng tạp loạn nhau? Trong môn đồng thể thứ hai lại nói qua lại khắp cùng ứng, mới thành duyên khởi? Giải thích: Vì cần do mỗi mỗi khác mới được đối đãi duyên, cần do khắp cùng ứng mới tự đầy đủ đức vậy. Do đó hai môn trước mỗi mỗi sinh ba là: Một, qua lại nương giữ có lực và không lực; hai, qua lại hình đoạt có thể và không thể; ba, thể dụng cả hai dung hòa, không có trước sau. Đây tức đại ý duyên khởi. Tiếp theo thứ nhất môn khác thể là do thành tựa nhau mới mỗi mỗi có thể; hai, nghĩa qua lại khắp cùng giúp nhau, tức môn đồng thể thì đủ nhiều cái một, như mười tiền làm duyên, đương thể tự là vốn một, ứng thời của hai, mới gọi là mới đầu một lấy làm hai một, ứng ba làm ba một, cho đến ứng mười làm mười một, nên có nhiều một, nếu một duyên đây chẳng đủ nhiều một, thì vốn ứng chẳng khắp, chẳng thành duyên khởi. Đây thì từng một mỗi đủ tất cả, một đã có mười, hai, ba, bốn v.v... cũng mỗi có mười nên nói từng một mỗi đủ, như mười tiền làm thí dụ. Trong pháp pháp giới sai biệt vô tận có mỗi mỗi khắp cùng ứng vậy, tùy từng một mỗi đủ pháp pháp giới sai biệt vậy; ba, nghĩa câu tồn vô ngại là, chỉ một và nhiều, một tự tại vô ngại, là gần rõ muốn nhiều thường nhiều, muốn một thường một, nên nói là tự tại. Một, khắp thể khắp cùng ứng; hai khắp thể toàn trú; ba câu tồn (đều còn) là đều còn trú tự và khắp cùng ứng vậy, cũng đều còn chỉ một và nhiều một vậy; bốn đều hết sạch tức do đều còn thì tương tức đoạt vậy. Trú một tức khắp cùng ứng chẳng phải trú một vậy, khắp cùng ứng tức trú một chẳng phải khắp cùng ứng vậy; năm hoặc tổng hợp, là hợp câu trước làm giải cảnh vậy; sáu, hoặc toàn lìa, toàn lìa năm trước thành hành cảnh vậy. Bốn nghĩa khác môn vào nhau đắp đổi cùng nương giữ, vì là duyên khởi một nhiều v.v... chẳng phải quyết định tánh một nhiều v.v... nghĩa là một có định tánh chẳng do ở nhiều, nhiều có định tánh chẳng do ở một, nay do một không định tánh, mượn nhờ nhiều mà khởi, nhiều không định tánh do một mà sinh vậy. Do không nghĩa của tánh bình đẳng mới thành duyên khởi, nếu có một có thể một, đây là tự tánh một, nếu có nhiều có thể nhiều, đây là định tánh nhiều, nếu là định tánh nhiều, nhiều chẳng nhân ở một, nếu là định tánh một, một chẳng nhân ở nhiều, nay do nhiều nên một, một đây chẳng tự một, nay do một nên nhiều, nhiều đây chẳng tự nhiều, nhiều đây thì không lực. Một đây chẳng tự một, một đây thì không lực, không lực tùy có lực, một nhiều qua lại thâu nên tùy một Phật hiểu tức tất cả Phật hội, tất cả Phật hiểu tức một pháp hiểu, nên một pháp hiểu đây, chẳng động mà thường khắp cùng, chẳng phân mà thường nhiều, trước sau qua lại thành, cớ sao chẳng tin? Lại nghĩa là một trước trong một trong nhiều làm bên giữ một năng gồm nhiều, một làm bên nương, một năng vào nhiều, như một trong nhiều có nương có giữ có nương là, tức nhiều trước giữ nên một thành vậy, có giữ là, tức một trước có lực làm nhiều nương vậy. Nói toàn lực là thành giữ tâm, nói không lực là thành nương trên, nói thường bao hàm nhiều tại trong mình là, một có lực làm giữ năng gồm nhiều vậy. Nói ngầm vào mình tại trong nhiều là, một không lực làm nương, bèn vào nhiều vậy. Câu tồn song (đều còn và hết sạch) là nghĩa là một gồm nhiều là câu thứ nhất, nhiều gồm một là câu thứ hai. Đều còn tức câu thứ ba, nghĩa là tức lúc một gồm một nhập, tức nhiều gồm nhiều vào vậy. Hết sạch là tức câu thứ tư, một gồm một vào, thì nhiều gồm nhiều vào vậy, bèn một gồm một vào hết nhiều gồm nhiều vào vậy, tức một gồm một vào vậy thì nhiều gồm nhiều vào hết, nên nói hết sạch, đối lại trước riêng biệt nói rõ hai câu, thì có bốn câu, cũng có thể thành sáu, năm, đều chiếu bốn trước, thành giải cảnh vậy, sáu, chóng tuyệt năm trước thành hành cảnh vậy; năm, nghĩa dị thể tương tức là làm bên năng khởi tức có thể, làm bên sở khởi tức không thể, thế nào là pháp từ duyên sinh, là pháp tức không? Ý lấy chỗ sinh không vậy, không tức nghĩa không thể, nếu hình đoạt là, vì duyên của năng khởi, hình đoạt sở khởi, đoạt sở khởi kia khiến không thể vậy. Do một có thể chẳng được cùng nhiều có thể chung là, nghĩa là có cật nạn nói: Một đó cùng nhiều chung có (câu hữu) hai nghĩa có thể và không thể, cớ sao riêng nói một có thể ư? Nên nay giải thông là hẳn là sở khởi vậy. Nếu không như vậy là năng khởi chẳng thành, duyên khởi cũng hoại, cho nên không có một của chẳng nhiều là, một đây là nhiều vậy, không có nhiều của chẳng một là, nhiều đây là một vậy.

Hỏi: Một chẳng tức nhiều có lỗi gì?

Đáp: Có hai lỗi: Một, lỗi chẳng thành nhiều, nghĩa là đã chẳng thành nhiều, ngoài ra cũng chẳng thành nhiều vậy, như một chẳng thành mười, hai ba bốn v.v... cũng chẳng thành mười, nên không mười lỗi; hai lỗi, chẳng thành một, nghĩa là nếu một chẳng thành mười, đây tức chẳng thành một, do mười chẳng thành nên một nghĩa cũng chẳng thành, vì không ở mười là ai một vậy? Một chẳng tức nhiều, thành lỗi đã vậy. Nhiều chẳng tức một thành lỗi cũng vậy. Lại nếu trong môn duyên khởi chẳng tương tức, hai nghĩa có không tác chẳng thành lập, bèn có các lỗi tự tánh đoạn diệt v.v... đều còn và hết sạch là, đều (câu) nghĩa là chánh lúc một gồm tha đồng mình, phế mình đồng tha, tức là nhiều gồm một đồng mình, phế mình đồng một vậy. Hết sạch là vì một trong ở tha hai nghĩa tức là nhiều trong ở một hai nghĩa vậy, thì một trong ở tha hai nghĩa hết vậy, nhiều trong ở một, hai nghĩa tức là một trong ở nhiều hai nghĩa vậy, tức nhiều trong ở một hai nghĩa sạch vậy. Ý chỉ chẳng khác trước, nên tư duy đó; sáu, nghĩa thể dụng cùng dung hòa: Một, vì thể căn cứ dụng; hai, vì dụng căn cứ thể; ba, thể dụng đều còn; bốn, thể dụng đều hết, vì thể dụng giao triệt, hình đoạt đều mất tức vào đồng nguồn nên viên dụng một vị; năm, thành giải cảnh; sáu, thành hành cảnh; bảy, nghĩa đồng thể vào nhau, môn đây tức chỉ môn thứ hai trước, vì thứ hai là môn vốn đồng thể vậy, như một vốn tự là một là vốn một, ứng hai làm hai một, ứng ba làm ba một v.v... chỉ là một cái đối tha thành nhiều, cũng như một người trông cha gọi là con, trông con gọi là cha, trông anh gọi là em, trông em gọi là anh v.v... đến một thể người mà có nhiều tên gọi, nay vốn một như một người, nhiều một như các tên gọi vậy; tám, nghĩa đồng thể tức nhau là, một có nhiều không đã vậy là ví như nhiều một có thể vậy. Do có nhiều một mới gọi là vốn vậy, là vốn một nên nhiều một có thể, vốn một không thể vậy, nhiều một có thể nên năng gồm vốn một, vốn một không thể ngầm vào nhiều một; chín, nghĩa cùng dung hòa vô ngại là đồng môn khác thể trước vậy, tức môn thứ sáu trước, nghĩa là trong pháp đồng thể duyên khởi lực dụng giao thiệp toàn thể dung hợp, mới thành duyên khởi; mười nghĩa đồng khác viên mãn, nghĩa từ trước lại bốn môn khác thể bốn môn đồng thể, và thứ ba là đồng khác đều còn, đều chẳng vượt ngoài đồng khác hợp ở một xứ, chẳng thiên một môn nên gọi là viên mãn, nếu đầy đủ đều đủ mười huyền, có nhiều thứ nghĩa môn, có gốc có ngọn có đồng có khác, có tức có vào, bốn câu sáu câu v.v... hợp chín môn trước làm môn đồng thời vậy, vả lại như do khác thể vào nhau mang đồng thể vào nhau nên có môn lưới trời Đế-thích. Đồng thể vào nhau trong một đã bao gồm ở nhiều, lại vào khác thể nên nghĩa có lớp lớp, đồng thể vào nhau như gương đã bao hàm nhiều ảnh, lại vào khác thể, như gương của bao hàm ảnh lại vào các gương khác nên có nghĩa của lớp lớp vô tận, ngoài ra chín huyền như văn, nay kết thuộc là, do trong bổn môn thứ nhất dung hòa đồng khác, nay thì dung hòa sáu môn trước, thì ba môn trong khác thể cùng ba môn đồng thể thành tựa nhau, không khác thể đồng thể chẳng thành, không đồng thể khác thể chẳng thành nên sáu môn thành tựa nhau, sau đó bảy môn từ ba môn trước sinh, ba môn trước dung hòa nên bảy môn sau hẳn dung hòa, nên mười huyền môn một khoảng vậy, vì như môn thứ ba trước dung thông cũng có sáu câu. Một, khắp thể toàn khác đủ vào tức chung; hai hoặc khắp thể toàn đồng cũng đủ nhập tức chung; ba hoặc đủ đồng khác đều hiện, không hai thể vậy; bốn, hoặc đều chẳng phải đồng khác, vì đoạt nhau đều hết, nghĩa là đồng tức khác nên chẳng phải đồng, khác tức đồng nên chẳng phải khác; năm, hoặc đủ bốn trước, là giải cảnh vậy; sáu, hoặc tuyệt năm trước, thành hành cảnh vậy, nên căn cứ trí hiển lý, các môn chẳng đồng, bỏ trí quên môn, tất cả chẳng phải nói, nói và chẳng nói vô ngại khó nghĩ lường, chìm đồng biển quả, chỉ mất lời bỏ sót chiếu ngõ hầu huyền lấy vậy, như trên duyên khởi tổng nhân là bên ngoài do bên trong biến gốc ngọn thâu gồm nhau, bên ngoài các khí giới, bên trong thức chóng biến, quả của tăng thượng cũng nhân tự nghiệp, nên nói là bên trong biến, bên trong tức là gốc, bên ngoài tức là ngọn, vì nghĩa duy tâm thì bên trong thâu bên ngoài đem ngọn gồm gốc, nếu dùng pháp tánh làm gốc, pháp tánh dung thông, duyên khởi bởi nhau, thì một mảy trần bao hàm một thân, một sợi lông dung chứa cả cõi nước, nên hợp làm một duyên khởi lớn.

QUYỂN 73

Hỏi: Phàm trong tám thức che lấp chân tập vọng, thức nào tạo nghiệp, thức nào làm nhân, thức nào làm nương thành tựu vọng chủng đó?

Đáp: Năm thức trước thủ trần, thức thứ sáu làm nhân, thức thứ bảy chấp ngã tạo nghiệp, thức thứ tám làm nương, do đó mà quả khổ sinh tử chẳng đoạn. Trong kinh Lăng-già có kệ tụng nói:

“Như dòng nước lớn hết,
Thì gợn sóng chẳng khởi,
Như vậy ý thức diệt,
Các thứ thức chẳng sinh”.

Giải thích: Năm thức trước thủ trần chuyển vào thức thứ sáu, thức thứ sáu ghi nhớ pháp làm nhân, thức thứ bảy phan duyên, thức thứ sáu tạo nghiệp thiện ác được sinh tử ở vị lai, che lấp thức thứ tám chẳng được hiển hiện. Nếu năm thức trước chẳng thủ trần tức không thức thứ sáu, không thức thứ sáu nên thức thứ bảy chẳng sinh, thức thứ bảy chẳng sinh thì không nghiệp thiện ác, không nghiệp thiện ác tức không sinh tử, không sinh tử nên Như Lai Tạng tâm trong lắng thường trú, tức là hai thức thứ sáu thứ bảy diệt kiến lập thức thứ tám. Lại thức thứ tám là chỗ năm thức trước, thức thứ sáu và thứ bảy nương tựa, cùng các thức làm nhân là, tức thức tâm thứ sáu các thức nương đó, như nước hết thì không gợn sóng. Thức thứ sáu diệt thức thứ bảy cũng chẳng sinh, nên nói một niệm gió vô minh thổi động biển chân như, gió vô minh hết sóng thức chẳng sinh, thì biển giác tánh lắng nguồn nguồn lắng giác vốn diệu.

Hỏi: Tất cả thế gian nhân quả thù đáp sinh tử chẳng tuyệt, ở trong các thức thức nào làm chủ?

Đáp: Nhân duyên sinh diệt một niệm đầu tiên thức A-lại-da làm thể, vì ý thức làm dụng, như vậy nhân quả ba đời lưu chuyển chẳng tuyệt, công tại ý thức, do nghĩa đó nên ý gọi là thức tương tục, trong luận Đại thừa Khởi Tín nói: “Lại nữa, nhân duyên sinh động là, nghĩa là các chúng sinh y tâm ý thức chuyển, nghĩa đó thế nào? Vì ý thức A-lạida mà có vô minh bất giác khởi năng kiến năng hiện năng thủ cảnh giới phân biệt tương tục, gọi đó là ý, ý đây lại có năm thứ tên khác: Một, gọi là nghiệp thức, nghĩa là do lực vô minh tâm bất giác động; hai gọi là chuyển thức, nghĩa là y tâm động năng kiến cảnh tướng; ba gọi, là hiện thức nghĩa là hiện tất cả tướng cảnh giới, giống như gương sáng hiện các sắc tượng, hiện thức cũng vậy, như năm cảnh đó đối đến tức hiện, không có trước sau, chẳng do công lực; bốn gọi, là trí thức, nghĩa là phân biệt nhiễm tịnh các pháp sai biệt; năm gọi, là tương tục thức, nghĩa là hằng tác ý tương ưng chẳng đoạn, nắm giữ các nghiệp thiện ác v.v... ở quá khứ khiến không mất hoại, thành thục quả báo khổ lạc v.v... hiện tại và tương lai khiến không có trái vượt, những sự đã từng trải qua, chợt nhiên nghĩ nhớ, sự chưa từng trải vọng sinh phân biệt”. Cho nên ba cõi tất cả đều lấy tâm làm tự tánh. Lìa tâm thì không cảnh giới sáu trần, tai sao? Tất cả các pháp lấy tâm làm chủ, từ vọng niệm khởi, phàm chỗ phân biệt đều phân biệt tự tâm, tâm chẳng thấy tâm, không tướng có thể được, cho nên phải biết tất cả tướng của cảnh giới thế gian, đều y vô minh vọng niệm nơi chúng sinh mà được kiến lập, như sắc tượng trong gương không thể có thể được, chỉ từ tâm hư vọng phân biệt chuyển, tâm sinh thì các thứ pháp sinh, tâm diệt thì các thứ pháp diệt nên giải thích là: Thông luận thức của năm thứ đều gọi là ý, căn cứ gốc mà nói, chỉ lấy nhãn thức, vì rất vi tế, làm gốc các thức vậy. Nghiệp thức như vậy, kiến tướng chưa phân, nhưng các Bồ-tát biết tâm vọng động, không cảnh giới trước, rõ tất cả pháp chỉ là thức lượng, bỏ chấp bên ngoài ở trước, thuận nghĩa nghiệp thức, nên gọi là nghiệp thức, tâm chẳng thấy tâm không tướng có thể được, là nói rõ nghĩa các pháp chẳng phải có, trong kinh Nhập Lăng-già có kệ tụng nói:

“Thân vốn sinh trú trì,
Nếu như sinh trong mộng,
Nên có hai thứ tâm,
Mà tâm không hai tướng,
Như dao chẳng tự cắt,
Như tay chẳng tự xúc,
Như tâm chẳng tự thấy,
Sự đó cũng như vậy”.

Nếu như chỗ thấy các sự trong mộng là thật có, tức có hai tướng năng kiến sở kiến, mà trong mộng đó thật không hai pháp, các tâm trong ba cõi cũng như mộng đây, lìa bên ngoài tâm không thể phân biệt, nên nói tất cả phân biệt tức phân biệt tự tâm, mà căn cứ tự tâm chẳng năng tự thấy, như dao và tay v.v... nên nói tâm chẳng thất tâm, đã không tha có thể thấy cũng chẳng tự năng tự thấy, sở thấy không nên năng thấy chẳng thành, hai tướng năng sở đều không chỗ được, nên nói không tướng có thể được. Lại một tâm tùy vô minh động làm năm thứ thức, nên nói ba cõi chỉ tâm chuyển vậy, tâm đây tùy huân tợ hiện tuy có các thứ, nhưng tận cùng nhân duyên đó chỉ tâm làm vậy, lìa hiện thức thì không cảnh sáu trần, trở lại nghiệp sáu trần chỉ là một tâm, nên nói lìa tâm thì không cảnh v.v...

Hỏi: Hiện có cảnh sáu trần cớ sao chỉ là tâm?

Đáp: Vì tất cả pháp đều là tâm đây tùy chỗ huân khởi lại không thể khác, nên nói là tuy tâm nghi ngờ rằng: Sao làm các pháp ư?

Đáp: Do vọng niệm huân nên sinh khởi các pháp, nên nói từ vọng niệm khởi cũng có thể nghi ngờ rằng: Pháp đã duy tâm sao ta không thấy, mà chỗ ta thấy chỉ là khác tâm? Giải thích: Khác tâm là vọng niệm phân biệt mà làm, nên nói vọng niệm sinh vậy. Đã cảnh duy tâm, không pháp khác bên ngoài, cho nên các thứ phân biệt đều là tự tâm, tức trần không tướng thức chẳng tự duyên, cho nên không trần thức chẳng sinh thì tâm chẳng thấy tâm vậy. Trong luận Nhiếp Đại thừa nói: “Không có pháp riêng biệt năng thủ pháp riêng biệt, năng sở đã cùng tận vậy, không tướng có thể được vậy”. Tâm sinh các thứ pháp sinh, tâm diệt các thứ pháp diệt là, như trong luận Du-già nói:

“Hỏi: Các hành giả tu quán lúc thấy biến kế sở chấp không tướng, phải nói là vào tánh nào ư?

Đáp: Vào tánh viên thành thật.

Hỏi: Lúc vào tánh viên thành thật phải nói dứt trừ tánh nào?

Đáp: dứt trừ tánh y tha khởi” do đây phải biết duy thức quán thành thì không có thức. Trong kinh Lăng-già có kệ tụng cũng nói:

“Tâm lượng của không tâm,
Ta nói là tâm lượng”

Là nghĩa đây vậy, nếu y cứ luận đây. Nếu vô minh động chân như thành duyên khởi sinh diệt, gió vô minh diệt sóng thức tức ngưng, chỉ là nhân như bình đẳng, bình đẳng vậy, cảnh giới đây là bên ngoài của tâm không thể có thể được, lại cũng tức là tâm vậy, lại là không thể, như bên ngoài gương không thể, bên trong gương lại không thể vậy, nghi ngờ rằng: Đã không thể đó, vì sao rõ ràng hiển hiện? Giải thích: Đều là trên chân tâm hư vọng hiển hiện, xứ nào có thể mà có thể được vậy? Nghi ngờ rằng: Vì sao biết hiển hiện trên tâm? Giải thích: Vì tâm sinh thì các thứ pháp sinh, vì lực vô minh tâm bất giác động năng hiện tất cả giới, thì tâm tùy huân động nên gọi là sinh vậy. Nếu không vô minh diệt cảnh giới tùy diệt, các thú phân biệt đều diệt không còn thừa, nên nói là tâm diệt các thứ pháp diệt, đây thì nguồn tâm trở lại trong sạch nên nói: Diệt vậy rồi, tâm tùy bất giác vọng hiện các cảnh, nghiệm các cảnh chỉ là tâm không thể vậy. Lại phàm tâm là hình ở chưa hiện điềm, động tỉnh không gì chẳng ứng ở tự tâm. Như Kinh Thi nói: “Lời nguyện thì thề nguyện nghĩ vậy. Nói ta vậy nghĩa là người, hoặc nghĩ rồi thì thề”. Nên biết tâm ứng ngàn dặm, giả sử có ở xa mà nghĩ là ta đều biết vậy, cho nên muôn sự duy tâm biết trước nên được xưng là tâm linh, nghĩa là đây vậy. Như ở Thái sơn có Ngô Bá Vũ cùng người em lạc mất nhau hơn hai mươi năm, cùng gặp nơi chợ nhưng chung đuổi nhau, Bá Vũ cảm thấy tâm thần xót thương, nhân hỏi bèn làm anh em.

Hỏi: Nhân duyên sinh diệt riêng lấy gì làm nhân lấy gì làm duyên mà được sinh khởi?

Đáp: Các sư xưa trước giải thích: Nhân duyên sinh diệt, thể tướng có hai: Một tâm thể A-lại-da chẳng giữ tự tánh biến làm các pháp là nhân sinh diệt. Căn bản vô minh huân động tâm thể, là duyên sinh diệt. Lại nữa vô minh trú địa các nhiễm căn bản khởi các sinh diệt nên nói là nhân, cảnh giới sáu trần năng động bảy thức gợn sóng sinh diệt, là duyên sinh diệt, y cứ hai nghĩa đây để hiển bày nhân duyên, các tướng sinh diệt tự tập mà sinh, nên nói là chúng sinh, mà không thể riêng biệt chỉ nương tâm thể nên nói là y tâm, tức là tướng tự tâm A-lại-da vậy. Lại chân vọng hòa hợp các thức duyên khởi, nên dùng bốn câu để biện giải đó: Một, vì Như Lai Tạng chỉ chẳng sinh diệt, như nước tánh ẩm ước; hai, bảy thức chỉ sinh diệt, như gợn sóng nước; ba, thức A-lại-da cũng sinh cũng diệt, cũng chẳng sinh diệt, như biển gồm cả động tỉnh; bốn, vô minh đảo chấp chẳng phải sinh diệt chẳng phải chẳng sinh diệt, như sóng khởi mạnh, gió chẳng phải nước chẳng phải sóng.

Hỏi: Thức A-lại-da đã thông cả động tỉnh, chẳng nên chỉ tại môn sinh diệt ư?

Đáp: Làm khởi tỉnh để thành động, không riêng có thể động, cho nên tánh tỉnh tùy ở động cũng tại tròn môn sinh diệt. Chẳng phải ngay thức A-lại-da đủ động tỉnh tại trong sinh diệt đây. Cũng là Như Lai Tạng chỉ chẳng động cũng tại trong môn đây. Tại sao? Sinh diệt kia không thể riêng biệt vậy, như nước làm sóng. Lại trong luận Đại Thừa Khởi Tín nói vô minh làm nhân cảnh giới là duyên, sinh tức ba tế, tướng sáu thô, thì tùy duyên của mê muội mà chìm trong sáu thú. Thủy giác làm nhân, năm độ làm duyên của ngộ giải mà lên nhất thừa, lại nói mê thì có pháp vọng nhiễm nhiều hơn số cát sông Hằng, tức nhiễm duyên sinh mà tịnh duyên diệt, ngộ thì có các công đức tịnh nhiều hơn số cát sông Hằng, tức tịnh duyên khởi mà nhiễm duyên mất, nhưng chỉ chỗ một tâm làm, lại không hai nguồn, nghĩa nói theo ngộ theo mê, thật không năng theo sở theo. Nên trong luận nói: “Vì tất cả pháp đều từ tâm khởi vọng niệm mà sinh, phàm chỗ phân biệt đều phân biệt tự tâm, tâm chẳng thấy tâm không tướng có thể được”. Như các bậc cổ đức giải thích: Thí dụ của nước và sóng như hai môn sinh diệt và chân như. Lấy nước ẩm ướt dụ cho tâm chân như, lấy sóng động dụ cho tâm sinh diệt, sóng không khác động của ẩm ướt thì không khác sinh diệt của chân như, tức nước để biện rõ ở sóng chẳng biến tánh mà duyên khởi vậy, nước không khác ẩm ướt của động thì không có lìa chân như của sinh diệt. Tức sóng để rõ ràng nước dưới bỏ duyên mà tức chân vậy.

Hỏi: Mọi sự của nghĩ nhớ quyết định thuộc pháp nào mà sinh?

Đáp: Đại thừa nói: Pháp năng nghĩ nhớ có ba: Một tự chứng phần năng ghi nhớ kiến phần; hai, niệm trong biệt cảnh năng ghi nhớ sự đã từng trải; ba, chủng tử trong thức năng chẳng vọng sinh mà tự hiện hành. Trong Duy Thức Sớ nói: “Như cảnh chẳng từng trải qua tức chẳng năng nhớ, như sắc hiện hành từng bị kiến phần duyên là sau đó hẳn năng nhớ. Nếu chẳng từng làm tướng phần duyên, lúc sau hẳn chẳng năng ghi nhớ vậy, vì kiến phần năng duyên ở thời quá khứ và thời hiện tại chỉ duyên tướng phần, chẳng từng tự duyên tâm trước đã diệt đã quá khứ rồi, kiến phần thời nay có chỗ nào để năng tự nhớ giữ? Vì ở thời xưa trước chẳng từng trở lại duyên tự kiến phần vậy. Đã chấp thuận tâm tâm sở pháp thời nay năng tự ghi nhớ, rõ ràng do thời xưa trước có tự chứng phần duyên ở kiến phần, chứng cảnh duyên kia làm lượng quả nên nay năng nhớ.

Hỏi? Trong môn sinh diệt, trong quả vị hữu lậu, căn cứ chỗ giáo luận bàn thì có bao nhiêu thứ sinh tử?

Đáp: Lược có hai thứ: Một là, phần đoạn; hai là, biến dịch, trong luận Duy thức nói: “Một, phần đoạn sinh tử, nghĩa là các nghiệp thiện và bất thiện hữu lậu, do phiền não chướng duyên hỗ trợ thế lực, chỗ cảm ba cõi quả dị thục thô, thân mạng dài ngắn tùy lực nhân duyên có định hạn lượng, nên gọi là phần đoạn; hai, chẳng nghĩ bàn biến dịch sinh tử, nghĩa là các nghiệp có phân biệt vô lậu, do sở tri chướng duyên hỗ trợ thế lực, chỗ cảm quả dị thục vi tế thù thắng, do lực từ nguyện cải chuyển thân mạng không định hạn lượng, nên gọi là biến dịch. Định nguyện vô lậu chánh chỗ vốn cảm, diệu dụng khó lường, nên gọi là chẳng nghĩ bàn, hoặc gọi là ý sinh thân, tùy ý nguyện mà thành vậy, như trong Khế kinh nói: Như thủ làm duyên nghiệp nhân hữu lậu tương tục hậu hữu mà sinh ba hữu. Như vậy tập địa vô minh làm duyên nghiệp nhân vô lậu, có A-la-hán, Độc giác, Bồ-tát đã được tự tại, ba thứ ý sinh thân cũng gọi là biến hóa thân. Định lực vô lậu chuyển khiến khác gốc như biến hóa vậy.

Hỏi: Trong luận nói: Sở tri chướng chẳng chướng giải thoát, không năng phát nghiệp dụng nhuận sinh, sao dụng giúp cảm khổ sinh tử?

Đáp: Thành hai lợi (tự tha) nên lại phải giúp sinh. Trong luận nói: “Tự chướng Bồ-đề lợi lạc tha vậy” nghĩa là Thanh văn Độc giác chẳng định tánh và Bồ-tát được đai nguyện tự tại đã trọn đoạn phục phiền não chướng vậy, không dung lại thọ ngay thân phần đoạn sợ phế bỏ thời gian lâu dài tu hạnh Bồ-tát, bèn dùng nguyện lực thắng định vô lậu như pháp kéo dài thọ mạng giúp nhân hiện thân, khiến thời gian dài kia cùng quả chẳng tuyệt, luôn luôn như vậy định nguyện trợ giúp, cho đến chứng đắc vô thượng Bồ-đề, kia lại sao phải sở tri chướng hỗ trợ? Đã chưa viên chứng đại bi không tướng, chẳng chấp Bồ-đề hữu tình thật có, không do phát khởi bi nguyện mạnh lợi. Lại sở tri chướng chướng đại Bồđề là trọn đoạn trừ, lưu thân lại trú lâu. Lại sở tri chướng là hữu lậu y, chướng này nếu không, định kia chẳng phải có nên ở thân trú có lực hỗ trợ lớn. Nếu thân lưu lại là do định nguyện hữu lậu hỗ trợ giúp là thân phần đoạn nhiếp. Nhị thừa dị sinh cảnh sở tri, nên định nguyện vô lậu hỗ trợ giúp là thân biến dịch nhiếp chẳng phải cảnh kia vậy. Do đây nên biết, biến dịch sinh tử tánh là hữu lậu, quả dị thục nhiếp ở nghiệp vô lậu là quả tăng thượng, giải thích: Bồ-tát đắc đại nguyện tự tại đã trọn đoạn phục phiền não chướng, nghĩa là hàng Bồ-tát từ bát địa trở đi tuy gá phiền não sinh tử mà thọ sinh nhưng chẳng đồng như phàm phu và hàng nhị thừa nói hiện và chủng nhuận, do khởi phiền não nghiệp thế lợi ích hữu tình, mới năng cảm quả sinh tử, phiền não nếu phục nghiệp thế bèn hết, nên phải pháp chấp hỗ trợ nguyện thọ sinh. Nên đã trọn đoạn phục không dung lại thọ ngay quả phần đoạn. Đã có ích của hai lợi (tự tha) quán biết báo phần đoạn kết thúc, sợ phế bỏ thời gian lâu dài tu Bồ-tát hạnh bèn nhập thắng định vô lậu, lực của thắng nguyện, như pháp của A-la-hán kéo dài thọ mạng, giúp nhân của thân hiện tại, tức vốn ở quá khứ cảm thân nghiệp hiện nay, khiến nghiệp kéo dài thời gian cùng quả chẳng tuyệt, đã chưa viên chứng đại bi không tướng, chẳng chấp Bồ-đề hữu tình có thật, không do phát khởi bi nguyện mạnh lợi là, đã chưa thành thật viên chứng đại bi không tướng, một vị giải thoát của bình đẳng. Nếu chẳng chấp Bồ-đề có thể cầu hữu tình có thể độ là thật có là, không có nhân do có thể năng khởi đại bi mạnh lợi và nguyện mạnh lợi. Do đó sở tri chướng có thể cầu có thể độ, chấp làm trước mới có thể năng phát khởi nghiệp vô lậu vậy. Nói nghiệp là nhân, vì là ưu thắng vậy. Vô minh là duyên vì sơ xa vậy, chẳng phải như phiền não giúp nguyện hữu lậu, chỉ nghĩa duyên đồng, phần ít tương tợ. Lại sở tri chướng chướng đại Bồ-đề chánh chướng trí vậy, là trọn đoạn trừ sở tri chướng đây lưu thân lại trú lâu, nói đó là duyên, là chỗ đoạn duyên vậy, lại sở tri chướng đây năng làm y của tất cả hữu lậu, do có chướng đây, cùng các hành pháp chẳng thành vô lậu vậy. Chướng của sở y đây nếu không thì năng y vô lậu kia quyết định chẳng phải có, nay đã lưu thân lại trú lâu, do có sở tri chướng làm duyên, nên nói chướng đây là nơi thân trú có lực hỗ trợ lớn, nói là duyên vậy. Biến dịch sinh tử đây là Bồ-tát thành tựu bi nguyện, viên mãn Bồ-đề, nếu phần đoạn sinh tử tức là vọng tâm phàm phu tạo nên, niệm niệm đắm trước vào vòng khổ lớn không có dứt nghĩ. Như trong kinh Đại Niết-bàn nói: “Phật bảo Ca-diếp: Chúng sinh ở thế gian do điên đảo che lấp tâm, tham trước tướng sống nhàm chán hoạn già chết. Ca-diếp! Bồ-tát không như vậy, quán lúc vừa mới sinh đã thấy các thứ quá hoạn. Ca-diếp! Như có người nữ vào nhà người khác, người nữ đó dung mạo đoan chánh đẹp xinh, dùng anh lạc đẹp trang nghiêm nơi thân, người chủ nhà trông thấy bèn hỏi: “Người tên gì? Hệ thuộc ở ai?” Người nữ đáp: “Thân tôi là Công Đức Đại Thiên”. Người chủ hỏi: “Nơi ngươi đi đến vì làm những gì?” Người nữ đáp: “Nơi tôi đi đến năng cho các thứ vàng bạc, lưu ly, pha lê, trân châu, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não, voi, ngựa, xe cộ, tôi tớ v.v...”. Người chủ nghe vậy tâm sinh vui mừng nhảy nhót vô lượng nói là: “Nay ta thật phước đức vậy khiến ngươi đến nơi vườn nhà ta”. Liền bèn đốt hương rải hoa cúng dường cung kính lễ bái. Lại ở nơi ngoài cửa trông thấy có một người nữ, hình mạo xấu xa áo quần rách nát, lắm chỗ dơ bẩn, da dẽ nức nở, sắc đó già trắng. Thấy rồi bèn hỏi: “Ngươi tên gì, hệ thuộc nhà ai?” Người nữ đáp: “Tôi tên Hắc Ám”. Người chủ đáp: “Tại sao gọi là Hắc Ám?” Người nữ đáp: “Phàm nơi chỗ tôi đến thì năng khiến nhà đó chỗ có các thứ của cải quý báu thảy đều suy hao”. Người chủ nghe vậy bèn nắm dao bén mà bảo rằng: “Nếu ngươi chẳng đi khỏi đây thì ta sẽ đoạn dứt mạng ngươi”. Người nữ nói: “Ông rất ngu si không có trí tuệ?. Người chủ hỏi: “Sao gọi là ngu si không trí tuệ”. Người nữ đáp: “Người ở trong nhà ông là chị của ta, ta thường với thị đi ở cùng chung, nếu ông xua đuổi ta thì cũng phải xua đuổi người kia”. Người chủ trở vào hỏi Công Đức Thiên: “Ở bên ngoài có một người nữ nói là em ngươi, vậy là thật ư?” Công Đức Thiên nói: “Thật là em ta, ta và em đó đi đứng cùng chung, chưa từng tạm lìa nhau, tùy chỗ đi đến, ta thường làm tốt, kia thường làm xấu, ta thường làm lợi ích, kia thường làm suy hao. Nếu mến ta là cũng phải mến kia, nếu cung kính ta thì cũng phải cung kính kia”. Người chủ bèn nói: “Nếu có sự tốt xấu như vậy, ta đều chẳng dùng, các ngươi nên tùy ý mà đi”. Khi ấy hai người nữ cùng dẫn nhau trở về chỗ nghỉ. Bấy giờ người chủ thấy hai người nữ đó đi rồi, tâm sinh vui mừng nhảy nhót vô lượng. Giải thích: Công Đức Thiên là, tức dụ cho sinh, Hắc Ám nữ là tức dụ cho tử, chỉ là hai pháp sinh tử ở thế gian, là gốc của các ác, là nguồn của các khổ, các bậc hiền Thánh đều chê trách, các hàng ngu si bị che lấp. Người chủ trông thấy rồi là, tâm trông nhìn nơi cảnh gọi là thấy. Tức bèn hỏi là, để giải thật của quán sinh cầu sinh, gọi là hỏi. Người nữ đáp là, nghĩa cảnh đối nơi tâm gọi là đáp, Công đức đại thiên là dụ cho sinh là xuất tướng, công đức báo chủ, đủ ánh sáng sáu thức chiếu rõ cảnh giới sáu trần, gọi là công đức thiên vậy. Hệ thuộc ở ai là, nên nói thuộc hoặc nghiệp. Ta nay phước đức là, trước tu nhân hiện nay thọ quả báo trời, gọi là đến vườn nhà ta. Lại ở bên ngoài cửa là, nghĩa chết vất bỏ thân nhà gọi là ngoài cửa. Hệ thuộc nhà ai là, duyên ứng tức chết không sở thuộc vậy. Ta tên Hắc Ám là, chết là mất tướng, tuy có năm căn mà không chỗ hay biết gọi là Hắc Ám vậy. Ta thường với em đi ở chung cùng là, tức sinh tức tử là đi ở chung, người chủ liền nói: Nếu có sự tốt xấu như vậy, ta đều chẳng dùng là, phàm đối với sinh chẳng mừng, thấy chết thì chẳng lo vậy, khi ấy người chủ thấy hai người đó đi rồi, tâm sinh vui mừng nhảy nhót vô lượng là, lúc chứng sơ địa lìa tử phần đoạn vào hoan hỷ địa, nên nói là vui mừng vô lượng vậy.

Hỏi: Chỉ có thức bên trong mà không duyên bên ngoài cớ sao lại nói sáu xứ luân hồi sinh tử tướng tục?

Đáp: Trong luận Duy thức có kệ tụng nói:

“Do các nghiệp tập khí,
Hai thủ tập khí câu,
Dị thục trước đã hết,
Lại sinh dị thục khác”.

Các nghiệp nghĩa là phước nghiệp tội nghiệp và bất động nghiệp, tức hữu lậu thiện và bất thiện tư nghiệp, quyến thuộc của tư nghiệp cũng lập tên nghiệp, đồng chiêu dẫn mãn dị thục quả vậy, đây tuy mới khởi, không thời gian tức diệt, không nghĩa năng chiêu dị thục quả tương lai, mà huân bản thức khởi tự công năng, tức công năng đây nói là tập khí, là nghiệp khí phần chỗ huân tập thành, chọn lựa từng hiện nghiệp nên gọi là tập khí, tập khí như vậy triển chuyển tương tục, đến lúc thành thục chiêu dị thục quả, đây là hiển bày quả ưu thắng tăng thượng duyên ở tương lai. Tướng kiến danh sắc tâm và tâm sở gốc ngọn thủ kia đều hai thủ gồm, sở huân kia phát thân năng sinh công năng trên bản thức kia gọi là hai thủ tập khí. Đây là hiển bày dị thục quả ở đời sau tâm và tương ưng các nhân duyên chủng kia, nghĩa là câu nghiệp chủng hai thủ chủng câu là nghĩa thân duyên sơ duyên qua lại hỗ trợ, nghiệp chiêu sinh hiển hiện, nên trong kệ tụng trước nói dị thục trước là, nghĩa là trước trước sinh nghiệp dị thục quả. Các dị thục khác là nghĩa là sau sau sinh nghiệp dị thục quả, tuy chủng hai thủ mà thọ quả không cùng mà nghiệp tập khí thọ quả có tận. Do dị thục quả tánh không riêng biệt khó chiêu. Đẳng lưu tăng thượng tánh đồng dễ cảm, do cảm sinh nghiệp v.v... chủng thục khác, dị thục quả trước lúc thọ dụng hết, sau riêng năng sinh các dị thục quả khác, do đó mà sinh tử lưu chuyển không cùng, sao phải nhờ duyên bên ngoài mới được tương tục? Ý kệ tụng đây nói là, do nghiệp hai thủ sinh tử luân hồi, đều chẳng lìa thức tâm tâm sở pháp làm tánh kia vậy. Giải thích: Đây tuy mới khởi không thời gian tức diệt, không nghĩa năng chiêu dị thục quả tương lai là, tuy hiện tại dụng không có thể của quá khứ năng chiêu chân dị thục quả ở tương lai, mà nghiệp hiện hành lúc đang tạo, huân nơi bản thức khởi công năng của tự nghiệp. Công năng tức là tập khí, tập khí dần chuyển đổi tương tục đến lúc thành thục chiêu dị thục quả. Tướng kiến danh sắc tâm và tâm sở gốc ngọn thủ kia đều hai thủ gồm lấy là: Một, tướng kiến, nghĩa là tức chấp thủ thật năng chấp thủ thật sở thủ kia gọi là hai chấp thủ; hai, chấp thủ sinh sắc, sắc là sắc uẩn, danh là bốn uẩn, tức là chấp thủ năm uẩn làm nghĩa. Trước nói trong tướng cũng thông thủ vô vi, vì là bản chất vậy, nay đây chỉ hiển bày thủ chỗ thân duyên, chẳng năng duyên được pháp bên ngoài tâm vậy. Lại biến ảnh tướng phần của vô vi cũng gọi là sở gồm, chẳng lìa tâm v.v... vậy; ba, chấp thủ tâm và sở tâm, tất cả pháp năm uẩn chẳng lìa hai thủ đây vậy; bốn, gốc ngọn, nghĩa là chấp thủ năng quả, thức thứ tám là căn bản của các dị thục, lại là tổng báo phẩm nên gọi là gốc, các thức dị thục v.v... khác là biệt báo phẩm nên gọi là ngọn, tức chấp thủ một dị thục vậy. Năm chấp thủ kia là tức bốn chấp thủ trên vậy, các chấp thủ đây đều là chỗ hai chấp thủ gồm, tức la chấp thủ của hiện hành vậy, tuy hai chấp thủ chủng thọ quả không cùng mà nghiệp tập khí thọ quả có tận là do dị thục quả tánh không riêng biệt khó chiêu, Đẳng lưu tăng thượng tánh đồng dể cảm là, chủng tử hai thủ thọ quả không cùng là, trong luận Nhiếp Đại thừa nói: “Tập khí có tận”. Tại sao? Do dị thục quả: Một, tánh riêng biệt khác với tánh nghiệp, chẳng nhiều tướng thuận; hai, khó chiêu, nghiệp tuy chiêu được, nghĩa là hẳn đời khác quả mới thành thục vậy, nghiệp tập khí có tận, như trầm xạ cỏ uế cỏ úa hết vậy. Đẳng lưu quả và tăng thượng quả đó. Một, tánh đồng, thể tánh tướng thuận; hai, dễ cảm, đồng thời sinh vậy, niệm đây huân rồi tức năng sinh quả vậy, chủng hai chấp thủ cảm quả. Thế nào là đẳng lưu? Thế nào là tăng thượng? Tăng thượng rỗng thoáng chỉ đẳng lưu hẳn tăng thượng, đẳng lưu nghĩa là chủng tử cùng hiện hành và tự chủng là câu sinh đồng loại nhân nên vậy. Tăng thượng xứ thể không riêng biệt, tức đẳng lưu tánh vậy. Lại là đẳng lưu quả nên tánh đồng, là tăng thượng quả nên dể cảm. Lại chủng trong hiện hành là tăng thượng, trong tự loại chủng là đẳng lưu, nghiệp chủng trong hiện và chủng kia đều khác tánh vậy, chỉ là dị thục, dị thục trước lúc thọ dụng hết, lại chẳng năng sinh các dị thục quả khác ý là do cảm sinh các nghiệp v.v... chủng tử khác thành thục vậy, ở trong thân đời nay dị thục quả trước lúc thọ dụng hết tức là thân đây ở vị lâm chung, chỗ thành thục nghiệp kia lại riêng năng sinh các quả khác kia khởi, tức lúc nghiệp trước hết, lúc quả chủng sau thành thục, dị thục quả đó lại được sinh, do đó sinh tử chẳng đoạn tuyệt vậy, do vậy nghiệp quả không đoạn sinh tử tương tục lưu chuyển không cùng, sao phải nhờ mượn duyên của bên ngoài tâm mới được sinh tử tương tục? Tương tục thức đây không có lúc đoạn. Nếu chưa xúc chạm thành quán chắc rõ tự tâm, đều đối cảnh sinh nghi ngờ, chấp có pháp trước, tất cả sinh tử đều là nghi tình, chỉ rõ duy tâm tự nhiên không lỗi, nếu nghi rắn sinh bệnh, đâu có cảnh thật ở lòng như treo cát dứt đói, chỉ là tự tâm tưởng khởi, như truyện Lạc Quảng trong Tấn Thư nói: Quảng có người khách thân cách biệt lâu chẳng đến, Quảng hỏi nguyên do, khách đó đáp: “Trước kia đang ở tòa được ban rượu, thấy trong chén có rắn, ý rất ghét đó, uống xong bèn bệnh”. Khi ấy ở sảnh thự tại Hà Nam trên vách tường có chiếc sừng, bóng sừng như hình. Ý Quảng cho rằng rắn trong chén tức ảnh bóng chiếc sừng vậy, bèn lại đặt chén rượu phía trước đó, người khách chợt nhiên ý giải, bệnh trầm kha liền dứt, Lại trong luận ở chương Tứ thực Cổ sư nghĩa môn thủ sao viết: thức ăn tư tưởng là như gặp năm đói kém, trẻ con theo mẹ đòi ăn khóc hoài chẳng nín, người mẹ bèn treo đãy cát mà dối bảo: Đây là cơm, con trông kỹ đãy đó bảy ngày rồi đem mà ăn, sau bảy ngày người mẹ đem xuống mở xem, trẻ con trông thấy đó là cát tuyệt vọng, nhân đó mà chết, mới biết nghiệp sinh lão bệnh tử đều là tự tâm, địa thủy hỏa phong trọn không thể riêng biệt, do vì chúng sinh đắm trước sinh tử, hàng nhị thừa nhàm sợ sinh tử, đều là chẳng rõ ngoài tâm không pháp, chỉ là chỗ cảnh lưu giữ. Lấy bỏ tuy khác, nhưng đều chẳng phải giải thoát, tại sao? Chúng sinh bị sinh tử trói buộc. Như trong kinh Lăng-già nói: “Lại nữa, Đại Tuệ! Các chúng Thanh văn sợ khổ sinh tử vọng tưởng mà cầu Niết-bàn, chẳng biết sinh tử Niết-bàn tướng của sai biệt, tất cả đều là vọng phân, riêng có không chỗ vậy, vọng chấp các căn cảnh diệt ở vị lai lấy làm Niết-bàn. Không biết chứng cảnh giới tự biết chuyển sở y tạng thức làm đại Niết-bàn, người ngu si kia không biết quá khứ vị lai hiện tại chư Phật giảng nói đều là cảnh giới tự tâm, mà thủ cảnh bên ngoài tâm, mà thủ cảnh bên ngoài tâm, thường ở sinh tử luân chuyển chẳng tuyệt.”

Hỏi: Sinh tử tương tục, do hai chi thủ và hữu ngã chấp, gọi là hai chủng tập khí hành dị thục quả, nghiệp sinh tử đó trước lại sau đó quyết định thuộc thức nào?

Đáp: Chỉ thức thứ tám là căn bản của các dị thục, nếu không thức đây sinh tử chẳng thành, do bảy chuyển thức trước có gián đoạn chẳng phải là chủ. Thức đây cũng gọi là chấp trì thức, năng trì chủng tử căn thân, nghĩa là một niệm đầu tiên có chấp thú kết sinh tương tục tức là nghĩa giới thú sinh, chấp kết thú sinh đây chẳng thông quả vị, hàng Bồ-tát từ bát địa trở lên chẳng thông chấp thú kết sinh, nay chỉ lấy nghĩa chấp trì chủng tử căn thân, nên gọi là nghĩa chấp trì, đây thông tất cả vị, đây là sinh vị đầu tiên quấy bào thai thành thể, cho đến trước lúc chết các thức đều là mê muội biến đổi rơi rụng, chỉ dị thục thức sau cùng chấp thọ thân phần, xả báo thọ xứ, lạnh xúc bèn sinh, ba thứ thọ noãn thức chẳng lìa nhau vậy, lúc lạnh xúc khởi tức là chẳng phải tình, tuy biến cũng duyên mà chẳng chấp thọ vậy, do đây làm phàm làm Thánh thường làm chỗ nương tựa, bỏ sinh thú sinh luôn làm chủ đó.

Hỏi: Sinh tử nơi nương khoảng có bao nhiêu sự?

Đáp: Sinh tử lưu chuyển chỗ rương sự có ba. Trong kinh nói: “Có ba thứ lưu chuyển: Một, xứ lưu chuyển ở ba đời, xứ do ngã phân biệt; hai, sự lưu chuyển do sáu xứ bên ngoài do ngã thủ chấp; ba, như vậy mà chuyển các nghiệp dị thục tương tục lưu chuyển.”

Hỏi: Do hai thủ tập khí mà thành sinh tử, hẳn nhân công năng hiện hành mới thành tập khí. Vả lại hiện hành pháp nào huân thành sinh tử?

Đáp: Mới đầu nhân vô minh chẳng rõ phát nghiệp, tiếp theo nhân tình ái tham trước nhuận sinh, nên nói từ si có ai thì ngã bệnh sinh, vì si ái nên niệm niệm tương tục, phải biết niệm tức là sinh tử. Trong kinh nói: “Khởi một niệm thiện, thọ nhân trời người, khởi một niệm ác thọ thân ba đường.” Nên biết niệm niệm trong đêm ngày tạo thân của sinh tử vị lai, nào có cùng tận! Trong lời tự kinh An Bang Thủ Ý nói: “Trong khoảng khảy móng tay, tâm có chín trăm sáu mươi lần chuyển, trong một đêm một ngày, mười ba ức ý ý có một thân, tâm chẳng tự biết, như chủng đại kia vậy”. Trong kinh Bồ-tát Xứ Thai nói: “Trong một khoảng khảy móng tay có ba mươi hai ức trăm ngàn ức, niệm niệm thành hình, hình hình đều có thức, do oai thần của Phật vào trong vi thức đó đều khiến được độ.

Thức đây giáo hóa chẳng phải không thức vậy.” Hỏi: Pháp của sinh tử là có nghĩa hay là không?

Đáp: Chẳng phải có, chẳng phải không, tại sao? Nếu nói là có thì địa thủy hỏa phong trong ngoài một thân, mỗi mỗi đều là tánh không, chưa từng tụ tán. Do đó sinh của không sinh có thể nói là sinh, diệt của không diệt có thể nói là diệt. Như trong kinh Am-đề-già Nữ Sư Tử Hống Liễu Nghĩa nói: “Nếu năng rõ biết địa thủy hỏa phong bốn duyên rốt ráo chưa từng tự được có chỗ hòa hợp, mà năng tùy chỗ thích nghi đó có chỗ nói, đó là nghĩa sinh, cho đến nếu năng rõ biết địa thủy hỏa phong rốt ráo chẳng tự được có chỗ tán hoại, mà năng tùy chỗ thích nghi đó có chỗ nói, đó là nghĩa tử”. Nếu nói là không vì là nhiễm tịnh chân như chẳng giữ tự tánh, bất giác theo duyên như huyễn sinh diệt, nên nói sắc thân lưu chuyển trong năm thú gọi là chúng sinh. Như nói ở trên hai thứ sinh tử của phàm Thánh, phải biết đạo trong sinh tử mới lìa đoạn thường, do đó không sinh của sinh, chân tánh trong lắng, sinh của không sinh, nghiệp quả rõ ràng, chân tánh trạm nhiên chẳng thể chấp thường, nghiệp quả rõ ràng chẳng thể chấp đoạn. Lại nữa, chư Phật xuất hiện nơi đời, còn như hoa đốm giữa hư không loạn sinh loạn diệt, huống gì chúng sinh điên đảo sinh tử, chỉ như mộng vọng tợ say cuồng, đâu là thật ư? Đại sư Dung nói: ‘Tất cả phàm Thánh, ba đường trở lên, chủng trí trở xuống, đều vọng tưởng cho là có, đều là trong mộng. Như người trong mộng thấy ở địa ngục các thứ phương tiện, cầu thoát sóng sinh cay đắng, chỉ phấn chấn khiến tỉnh, tức tất cả sự đều không”. Như nay đều là chỗ làm trong mộng trở lại thọ báo mộng, lại như người say cuồng, luôn tùy vật chuyển, do đó tất cả chúng sinh uống rượu vô minh, nằm năm trú địa, trải kiếp lâu dài hôn mê. Ai người có tỉnh lúc chợt được thấy tánh, như đồng say tỉnh. Như trong kinh có kệ tụng nói:

“Thí như người say mê,
Rượu tiêu sau đó tỉnh,
Được thể Phật vô thượng,
Là chân pháp thân ta”.

Lại nếu vào trong Tông kính chóng rõ thật tánh trở lại quán sát thế gian sinh tử, gọi là tướng hư dối, giống như trẻ con đùa giỡn, lại tợ kỹ nhân, nhưng tuy đổi thay ngàn sai, một tánh rõ ràng chẳng động, Như Hòa thượng Thảo Đường có kệ tụng nói:

“Đâu-suất vốn là một thân hình,
Chợt làm quan tướng chợt làm tôi,
Danh mục phục sức tuy biến đổi,
Thủy chung tớ chủ trọn không sai.”

QUYỂN 74

Hỏi: Phàm sinh tử luân hồi chẳng đối đãi duyên bên ngoài, đã do thức bên trong đây tức là hữu lậu dị sinh, sinh tử tương tục, chư Phật Bồ-tát tịnh pháp tương tục, cũng lại là do thức bên trong, vậy là riêng có tướng tịnh ư?

Đáp: Tịnh pháp tương tục, nên biết cũng như vậy. Trong luận nói: “Từ vô thủy lại nương gá chủng hữu lậu vô lậu nơi bản thức, do chuyển thức v.v... luôn luôn huân phát dần dần tăng thắng, cho đến lúc cứu cánh được thành Phật, chuyển bỏ chủng thức tạp nhiễm từ xưa trước lại, chuyển được mới khởi chủng thức thanh tịnh, nhậm trì tất cả chủng tử công đức, do lực bản nguyện đến tận khoảng vị lai, khởi các diệu dụng tương tục không cùng”. Do đây nên biết chỉ có thức bên trong, giải thích: Do chủng pháp nhĩ chỗ mới huân phát, do lực bản nguyện, tức Phật Thế Tôn lợi tha vô tận, chủng thức thanh tịnh đều thông hiện chủng, đều chỉ thức thứ tám năng trì chủng vậy, do đây mà từ trước đến nay nói rõ đạo lý nhiễm tịnh, nên biết các pháp tương tục chỉ có thức bên trong vậy.

Hỏi: Nhân không pháp không, diệu lý một tâm, cớ sao lại nói chỗ bốn tướng đổi thay, sinh tử tương tục, và lại như trong bốn tướng sinh tướng thì không từ trong ngoài, suy tìm chẳng thể được, trú tướng thì niệm niệm chẳng trú, tướng khác thì tuy tợ đổi thay chuyển dời mà thể chưa từng biến, tướng diệt thì pháp vốn chẳng vậy nay cũng không diệt ư?

Đáp: Bốn tướng có hai: Một, thô là căn cứ quả báo mà nói, tức sinh lão bệnh tử, đây cũng là bốn tướng; hai, tế tức sinh trú diệt, căn cứ hoặc nghiệp mà luận. Như trong luận Đại Thừa Khởi Tín giải thích: Tâm bất giác khởi gọi là sinh, năng kiến năng hiện vọng thủ cảnh giới, khởi niệm tương tục, gọi đó là trú chấp thủ kế sinh, gọi đó là khác tạo tác các nghiệp gọi đó là diệt, tuy tức bốn tướng tợ phân đều là một tâm mà chuyển”. Nhưng người đời phần nhiều chấp trú tướng lấy làm hiện thấy, nay phải suy tìm phá để hiển bày chân không, phàm có tất cả cảnh giới trú trì, đều như trong mộng, tợ có chẳng phải thật, vì tùy chỗ tâm hiện, cảnh bên ngoài vốn không, tâm cũng không sinh, niệm niệm chẳng trú. Như trong luận Đại Trí Độ nói: “Phật nói các pháp không có căn bản quyết định thật như mảy may chấp thuận chỗ có, muốn chứng minh sự đó nên nói trong mộng thọ năm món dục, thí như ý của Tu-bồ-đề là, nếu tất cả pháp rốt ráo không, không tánh chỗ có, tại sao nay hiện có mắt thấy tai nghe pháp? Vì vậy nên Phật nói thí dụ trong mộng, như người bởi lực mông nên tuy sự không có thật mà có các thứ nghe thấy, sân xứ hỷ xứ, người tỉnh thức ở bên cạnh thì không chỗ thấy. Như vậy người phàm phu bởi lực vô minh điên đảo nên vọng có chỗ thấy, Thánh nhân giác ngộ thì không chỗ thấy. Tất cả pháp hoặc hữu lậu hoặc vô lậu hoặc hữu vi hoặc vô vi đều chẳng thật, hư vọng nên có thấy nghe”. Lại nói: Hiện tại đều cũng không lúc trú, nếu pháp sau thấy tưởng hoại, phải biết lúc đầu mới sinh, tướng hoại đã đuổi theo, vi tế nên chẳng biết, như người mang giầy, nếu ngày đầu mới mà không có cũ, sau nên thường mới mà không nên có cũ. Nếu không cũ nên là thường, thường nên không tội không phước, không tội không phước vậy thì pháp thế tục loạn. Lại nữa tướng sinh diệt thường tùy tác pháp không có lúc trú, nếu có lúc trú thì không sinh diệt phàm thọ sinh tử là, mới đầu nhân vọng thức tạo nghiệp phân biệt, nhân đây mà có thân, nay trước suy tìm thân đây tụ tan chẳng phải có, vì thân là nghĩa tích tụ, bốn đại trong ngoài giả hòa hợp thành, vi tế suy tìm tận cùng sự không hòa hợp, vì phong hỏa thường mỗi địa thủy luôn chìm, tánh mỗi một địa mỗi không thể cố định, phong lấy động làm tánh, là gá vật mà rõ bày, chân lý chẳng đổi thay trong lắng thường lặng lẻ, hỏa lấy nhiệt làm tánh, chưa hẳn đều thiêu đốt, như hỏa ở trong thân trong mây, sao chẳng đốt nóng, địa lấy cứng chắc làm tánh, thản như đống sắt gặp nung nấu thành nước, cứng mềm chẳng định, thủy lấy ẩm ướt làm tánh, nhân quả tức khô lại lạnh đông cứng ấm nóng tan lỏng, ngưng chảy không thể, mỗi mỗi đã không, hòa hợp chẳng phải có, như một con chó không phải tánh sư tử, nhóm cả đàn chó mà cũng chẳng thành, tợ một người mù chẳng thấy nơi sáng nhóm nhiều người mù mà trọn chẳng thấy. Trong luận Bảo Tạng nói: “Lý của thanh hư rốt ráo không thân, đã biết thân là không, lại chấp ba thứ thức hơi ấm (noãn) hơi thở là thật có, năng làm sinh tử thành tựu mạng căn”. Trong Thai Giáo nói: “Thân đây vô thường, quấy ba sự thọ noãn thức mà có thân, thân chỉ là giả danh, ba sự vô thường, không riêng biệt thân vậy, vào ra của hơi thở. Chấp cho là thọ mạng, hơi thở ra mà chẳng trở lại thì thân như ngói sỏi, mạng sao có thể bảo tồn, nếu khí ấm trì thủy, nước đượm thấm nơi đất vọng cho thân đây là thường còn, hỏa từ duyên sinh, duyên tan nên hỏa diệt, thân bèn rã thối, nghiệp chấp vọng thức, từng sát-na đổi khác, cho rằng ngã thường tự tại, nghiệp nếu vừa mới đoạn, tâm tức thác sinh thân bèn tan mất”. Trong kinh Đại Tập nói: “Ra khỏi bào thai, tuổi trẻ mạnh khỏe, tuổi già suy yếu đều là nghiệp giữ ba sự sinh diệt chẳng đoạn, phàm phu không rõ, vọng thủ thân tướng, bất chợt hơi khí dứt ba sự phân lìa. Lại như hơi thở ra vào tương tục trăm ngàn muôn hơi thở ra vào, trong mỗi mỗi hơi thở, thân chẳng thể được, tâm thức trong từng sát-na lần lược sinh diệt vô lượng, mỗi mỗi sát-na thân chẳng thể được, chẳng thối chẳng rã ba đại thành da thịt cốt tủy, mỗi mỗi nên nghiệm đó, thân hư giả chẳng thể được, lìa ba sự đây không riêng biệt có thân, nên biết thân mạng vốn không, sinh tử luôn lặng lẻ, phàm phu chẳng rõ uổng vào vòng khổ. Mạng như đèn tàn của trong gió từng sát-na mài diệt, thân tợ nhóm bọt của trong trần, chợt vậy tiêu tan, do đó trong kinh nói: hiểu không chẳng sinh, rõ có chẳng tử, nếu rõ có không mà không ngã, không ngã khiến ai sinh, hiểu vốn không mà chẳng sinh, chẳng sinh khiến ai tử, chỉ giữ chủng bản thức, diệu lắng chân tâm, tâm tánh tròn sáng, lắng vậy thường trú ở vị sinh, giữ vô lậu mà thường huân, đến môn Phật quả, tiếp Bồ-đề mà chẳng đoạn. Lại tâm tánh xưa nay lìa tướng sinh diệt, mà có vô minh mê tánh tự tâm, do trái tâm tánh lìa tướng vắng lặng vậy, năng sinh khởi động bốn tướng. Bốn tướng bởi lực vô minh hòa hợp vậy, năng khiến tâm thể sinh dị trú diệt. Trong kinh nói: Tức pháp thân đây, bị các phiền não lay động, qua lại sinh tử gọi là chúng sinh, trong luận Đại thừa khởi tín nói rõ: “Tâm tự tánh thanh tịnh, nhân gió vô minh động, bốn tướng lưu chuyển chỉ một tâm mộng, kẻ sĩ ở trọng mộng cho là làm trước sau, mỗi mỗi tùy trí lực cạn sâu phân phần mà tỉnh giác. Bậc đại giác biết mộng, bốn tướng chỉ một tâm tịnh, không có thể tánh có thể biện trước sau. Nên trong luận nói: Bốn tướng cùng lúc không có tự lập, sinh trú diệt một tâm mà chuyển, bốn tướng cùng có là chỗ tâm thành, lìa ngoài một tâm không tự thể riêng biệt, nên nói cùng lúc mà có không có tự lập, xưa nay bình đẳng đồng một bản giác vậy. Như trong luận Bát-nhã Đăng nói: “Sinh tử có ngằn mé chăng? Phật bảo: Rốt ráo không” sinh tử đây không ngằn mé, trước sau chẳng thể được, như trong kinh Bát-nhã nói: “Lại nữa cực dõng mảnh! Như Niết-bàn không ngằn mé, tất cả pháp cũng không ngằn mé, tai sao? Sinh tử lấy Niết-bàn làm ngằn mé, Niết-bàn lấy sinh tử làm ngằn mé. Đã chẳng được sinh tử cũng chẳng được Niết-bàn, sinh tử và Niết-bàn đã chẳng thể được, thì tất cả pháp thảy đều không ngằn mé”. Như vậy chỉ rõ bản giác nhất tâm, niệm niệm khế hợp đạo viên thường, nếu đuổi theo vô minh tán mất ý, trần trần thành vòng xoay sinh tử. Được mất tại người. Pháp không tà chánh, lấy bỏ do mình, đạo tuyệt thăng trầm, chỉ tự quán bên trong, bước theo phổ môn mà chóng vào, chỉ phải mắt chánh, giẫm một đạo mà viên thành.

Hỏi: Động thức tướng và thân tâm tánh đã chẳng phải một hay khác vậy, có thể hoại hay chẳng thể hoại? Nếu chẳng thể hoại thì rơi đọa ở thường, nếu có thể hoại thì quy về đoạn diệt ư?

Đáp: Đã chẳng phải một, mà chẳng phải là khác, tức cũng có thể hoại mà chẳng thể hoại.

Trong luận Đại Thừa Khởi Tín nói: “Tất cả tướng tâm thức tức là tướng vô minh, cùng với bản giác chẳng phải một chẳng phải khác, chẳng phải có thể hoại, chẳng phải chẳng tâm hoại, như nước biển và sóng chẳng phải một chẳng phải khác, sóng nhân gió động chẳng phải tánh nước động, nếu lúc gió ngưng sóng động liền diệt, chúng sinh cũng vậy, tự tánh tâm thanh tịnh, nhân gió vô minh động khởi gợn sóng thức, ba sự như vậy đều không hình tướng, chẳng phải một chẳng phải khác, nhưng tánh tâm thanh tịnh là gốc của thức động, lúc vô minh diệt, thức động theo diệt trí tánh chẳng hoại, căn bản vô minh diệt là hợp gió diệt, tương tục tức diệt là, nghiệp thức v.v... diệt hợp tướng động diệt vậy, trí tánh chẳng hoại là tùy nhiễm bản giác trí của thần giải gọi là trí tánh, là hợp tánh ẩm ướt chẳng hoại.”

Hỏi: Chủng tử sinh tử chẳng đoạn, đều nhân phát nghiệp nhuận sinh, ở trong phiền não, pháp nào phát nghiệp, pháp nào nhuận sinh?

Đáp: Phàm nghiệp tánh vốn không kết thành nhiều thứ, trước luận về hành tướng hắc bạch, sau biện về căn do phát nhuận. Nay thứ nhất hành tướng hắc bạch. Như trong kinh Đại Niết-bàn nói: “Phật bảo: Lại nữa, này thiện nam! tiếp theo phải quán nghiệp, tại sao? Người có trí phải nghĩ rằng: Thọ tưởng xúc dục tức là phiền não, là năng làm sinh nghiệp chẳng làm thọ nghiệp, cho nên người trí phải quán ở nghiệp nghiệp đó có ba thứ là thân khẩu và ý. Này thiện nam! Hai nghiệp thân khẩu cũng gọi là nghiệp, cũng gọi là nghiệp quả, ý chỉ gọi là nghiệp chẳng gọi là quả, vì nghiệp là nhân thì gọi là nghiệp. Này thiện nam! Hai nghiệp thân khẩu gọi là nghiệp bên ngoài, ý nghiệp gọi là nhân, ba thứ nghiệp đó cộng phiền não hành nên làm hai thứ nghiệp: Một là, sinh nghiệp; hai là, thọ nghiệp. Này thiện nam! Chánh nghiệp tức ý nghiệp vậy, nghiệp đây là thân khẩu nghiệp, phát trước nên gọi là ý nghiệp, theo ý nghiệp sinh gọi là thân khẩu nghiệp, cho nên ý nghiệp được gọi là chánh, người trí quán nghiệp rồi, tiếp quán về nghiệp nhân, nghiệp nhân là tức vô minh xúc, nhân vô minh xúc chúng sinh cầu có, nhân duyên cầu có tức là ái vậy, nhân duyên ái nên tạo tác ba thứ thân khẩu ý nghiệp. Này thiện nam! Người trí quán nghiệp nhân như vậy rồi, tiếp quán về quả báo, quả báo có bốn: Một là, hắc hắc quả báo; hai là, bạch bạch quả báo; ba là, tạp tạp quả báo; bốn là, chẳng hắc chẳng bạch quả báo. Hắc hắc quả báo là lúc tạo nghiệp nhơ cấu, quả báo cũng nhơ cấu, bạch bạch quả báo là, gọi là nghiệp vô lậu”. Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Trước nói vô lậu không có quả báo, cớ sao nay nói quả báo chẳng hắc chẳng bạch ư?” Phật dạy: “Này thiện nam! Nghĩa đó có hai: Một là, cũng quả cũng báo; hai là, chỉ quả chẳng báo, hắc hắc quả báo cũng gọi là quả, cũng gọi là báo, nhân hắc sinh nên được gọi là quả. Năng tác nhân nên lại gọi là báo, tịnh tạp cũng vậy, vô lậu quả là nên chẳng gọi là quả, chẳng làm nhân khác, chẳng gọi là báo”. Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! Nghiệp vô lậu đó là chẳng phải hắc pháp, bởi nhân duyên gì chẳng gọi là bạch?” Phật dạy: “Này thiện nam! Không có báo nên chẳng gọi là bạch, vì đối trị hắc, nên gọi là bạch, nay ta mới nói thọ quả báo là, gọi là hắc bạch. Nghiệp vô lậu đó chẳng thọ báo nên chẳng gọi là bạch mà gọi là tịch tịnh”. Nên biết nghiệp chẳng thể tác tạo, quả chẳng thể trốn lánh. Như trong kinh có kệ tụng nói:

“Chẳng không chẳng trong biển,
Chẳng vào khoảng núi đá,
Không có chốn phương sở,
Thoát đó chẳng thọ nghiệp”.

Chỉ trừ chẳng tác tạo thì không quả, đắc đạo thì nghiệp mất, như khí hư chiên-đà-la tạo ác nghiệp mà được sinh lên trời, Ương-quật-ma-la tạo tội nghịch mà được quả giải thoát. Vậy biết từ khi thọ thân đến nay không ai chẳng tác tạo nghiệp, giả sử đời này chẳng tạo mà quá khứ đã từng làm, chỉ ngộ tông đây, không gì chẳng giải thoát. Lấy gì giải thoát? Nếu vào Tông kính, nhân pháp đều không, nhân không thì chẳng thấy có người năng tác nghiệp, pháp không thì chẳng thấy xứ sở thọ quả, chỉ vì vọng chấp nhân pháp mà tạo nghiệp, chẳng vượt ngoài tâm cảnh mà chịu thọ ương, chỉ tâm cảnh đều mất, tức ngay đó giải thoát. Nên biết tất cả các pháp thiện ác không có tướng cố định do tâm xoay chuyển, nắm giữ tùy duyên, như trong kinh Đại Niết-bàn nói: “Phật dạy: Này thiện nam! Nếu nói các nghiệp quyết định được báo là, thì chẳng được có tu tập phạm hạnh giải thoát Niếtbàn, phải biết người đó chẳng phải đệ tử ta, là quyến thuộc của ma. Nếu nói các nghiệp có quyết định và chẳng quyết định, có quyết định là hiện báo, sinh báo, hậu báo chẳng quyết định là duyên hợp thì thọ, chẳng hợp thì chẳng thọ, vì nghĩa đó nên có phạm hạnh, giải thoát Niết-bàn, phải biết người đó thật đệ tử ta, chẳng phải quyến thuộc của ma, cho đến, thí như hai người đều cùng đi vào đường hiểm, một người mắt sáng, một người mù chột, người mắt sáng thì đi thẳng qua không bị hoạn nạn, người mù chột thì rơi lạc hầm hố hiểm nạn”. Nên biết được mắt của tông kính là trọn chẳng đọa hiểm của ba hữu, vùi dập hầm hố của năm dục, tự nhiên thẳng qua không nghi ngờ, thường ở giác địa. Tiếp theo biện về căn do phát nhuận là, nếu phân biệt phiền não chánh phát nghiệp, câu sinh vô minh trợ phát nghiệp. Phát nghĩa là động tác, nghiệp nghĩa là chiêu cảm, câu sinh năng nhuận sinh, phân biệt năng tác nghiệp, chiêu sinh lỗi nặng, câu sinh năng nhuận sinh lỗi nhẹ. Nếu phân biệt phát nghiệp trời người, tức câu sinh trợ phát, vì nghiệp trời người khó phát, cần phải nhờ mượn câu sinh hỗ trợ. Nếu phân biệt phát nghiệp ba đường xấu ác là chẳng nhờ mượn câu sinh trợ phát, vì phân biệt mảnh liệt sắc bén vậy, chẳng cần phải hỗ trợ phát.

Hỏi: Câu sinh phân biệt hai thứ có gì khác biệt? Đáp: Xưa trước giải thích chánh ý kinh luận, tức phân biệt là thô, câu sinh là tế. Trong luận Duy thức nói: “Câu sinh ngã chấp từ thời vô thủy lại huân tập lực bên trong thường cùng thân câu, chẳng đợi tà giáo và tà phân biệt, mặc tình chuyển nên gọi là câu sinh”. Trong luận Thập Địa nói: “Xa tùy hiện hành, chẳng duyên tác ý, từ vô thủy đến nay mặc tình mà có, chẳng nhờ mượn tác ý, phân biệt tầm tứ, như trẻ con trông thấy mẹ sinh vui mừng, là câu sinh tham, thấy người khác gạo khóc, là câu sinh sân, tức chẳng nhờ mượn duyên riêng biệt phân biệt tầm tứ cầu, tự nhậm vận khởi” nên biết câu sinh là tế. Trong luận Duy thức nói: “Phân biệt ngã chấp cũng do duyên hiện bên ngoài đời mới khởi, chẳng phải cùng thân câu, cần phải đợi tà giáo tà sư và tà phân biệt, sau đó mới khởi”. Lại ba duyên đây, hai duyên trước là thô, thứ ba tự tư duy là tế. Trong kinh nói: “Lực duyên đoạn căn lành lúc địa ngục tương tục” tức tự tà tư duy là lực nhân, ngoài ra hai kia là lực duyên. Do đó trong kinh Thủ-lăng-nghiêm nói: “Phật bảo: A-nan! Tất cả chúng sinh luân hồi trong thế gian, do hai kiến điên đảo phân biệt vọng ngay đó phát sinh ngay nghiệp luân chuyển, thế nào là hai kiến? Một là, chúng sinh biệt nghiệp vọng kiến; hai là, chúng sinh đồng phận vọng kiến. Sao gọi là biệt nghiệp vọng thức? A-nan! Như người thế gian mắt có màng đỏ, ban đêm thấy ánh đèn riêng có ảnh vòng tròn năm sắc trùng điệp. Ý ông nghĩ thế nào? Ánh đèn ban đêm có chỗ hiện vòng tròn sáng là thật sắc đèn hay sắc đang thấy? A-nan! Đây nếu là sắc đèn thì người chẳng có màng sao chẳng đồng thấy, mà ảnh vòng tròn đây, chỉ là quán của màng, nếu là sắc thấy, thấy đã thành sắc, thì người mắt màng kia thấy ảnh vòng tròn, gọi đó là gì? Lại nữa, A-nan! Nếu ảnh vòng tròn đây lìa đèn riêng có thì hợp người bên cạnh nhìn màn che, phàm lỗ mắt có ảnh vòng tròn ra, lìa thấy riêng có, nên chẳng phải mắt trông nhìn. Cớ sao người mắt màng mắt thấy ảnh vòng tròn? Cho nên phải biết, sắc thật tại đèn, bệnh thấy làm ảnh, ảnh thấy đều màng, thấy màng chẳng phải bệnh, trọn chẳng nên nói là đèn hay là thấy, ở trong đó có chẳng phải đèn chẳng phải thấy, như vầng trăng thứ hai, chẳng phải thể chẳng phải ảnh, tại sao? Quán của thứ hai, do dụi tạo thành, các người có trí chẳng nên nói dụi đây vốn là hình chẳng phải hình, lìa thấy chẳng thấy. Đây cũng như vậy, chỗ mắt màng thành, nay muốn gọi gì là đèn là thấy? Huống gì phân biệt chẳng phải đèn chẳng phải thấy, thế nào gọi là đồng phận vọng kiến? Anan! Diêm-phù-đề đây, trừ nước biển lớn khoảng giữa đất bằng có ba ngàn châu, châu lớn chánh giữa. Đông tây bao quát lượng nước lớn, phàm có hai ngàn ba trăm, ngoài ra châu nhỏ tại trong các biển, khoảng đó hoặc có vài ba trăm nước, hoặc một hoặc hai, đến ba mươi bốn mươi năm mươi. A-nan! Trong đây nếu lại có một châu nhỏ chỉ có hai nước, chỉ người một nước đồng cảm ác duyên, thì châu nhỏ kia chúng sinh nước đó thấy khắp tất cả đều là cảnh giới chẳng tốt lành. Hoặc thấy hai ngày hoặc thấy hai tháng. Trong đó cho đến xúm xít đến bội quyết sao chổi bay nhảy mang theo cầu vồng, các thứ tướng xấu ác, chỉ nước đó thấy, chúng sinh nước kia vốn chỗ chẳng thấy, cũng lại chẳng nghe. A-nan! Nay ta vì ông lấy hai sự này tiến thối hợp rõ. A-nan! Như chúng sinh kia bởi biệt nghiệp vọng kiến, trông nhìn trong ánh sáng đèn chỗ hiện ảnh vòng tròn, tuy hiện tợ cảnh, trọn thấy kia là chỗ mắt màng thành, màng tức là thấy nhọc, chẳng phải chỗ sắc tạo, nhưng thấy màng là trọn không lỗi thấy, thí như ông ngày nay dùng mắt trông thấy núi sông cõi nước và các chúng sinh, đều là chỗ thấy bệnh từ vô thủy thành. Thấy và duyên thấy tợ hiện cảnh trước, không chỗ ngã giác minh kiến duyên màng, giác kiến tức là màng, bản giác minh tâm đây chẳng phải màng, chỗ giác giác màng, giác chẳng phải trong màng. Đây thật kiến kiến, thế nào lại gọi là giác văn tri kiến? Cho nên nay ông thấy ta và ông cùng mười loại chúng sinh ở các thế gian đều tức là thấy màng, chẳng phải thấy màng là thấy chân tinh kia, tánh chẳng phải màng, nên gọi là kiến. A-nan! Như chúng sinh kia đồng phận vọng kiến, ví vọng kiến kia một người biệt nghiệp, một người bệnh mắt đồng một nước kia, thấy ảnh vòng tròn kia chỗ màng vọng sinh. Chúng đây chỗ đồng phận hiện chẳng tốt lành, đồng trong nghiệp thấy, chỗ chướng ác khởi, đều là chỗ kiến vọng từ vô thủy sinh. Thí như trong ba ngàn châu ở Diêm-phù-đề, gồm bốn biển lớn, thế giới Ta-bà, và khắp đến mười phương các nước hữu lậu và các chúng sinh, đồng là giác minh vô lậu diệu tâm, kiến văn giác tri hư vọng bệnh duyên hòa hợp vọng sinh, hòa hợp vọng tử, nếu năng xa lìa các duyên hòa hợp và chẳng hòa hợp thì lại diệt trừ các nhân sinh tử, viên mãn Bồ-đề, tánh chẳng tạm diệt, bản tâm thanh tịnh bản giác thường trú”. Trong Lăng-nghiêm Kinh Sớ giải thích: “Biện nghiệp vọng kiến là phân biệt phiền não vậy, đồng phận vọng kiến là câu sinh vô minh vậy, ban đêm thấy ánh sáng đèn, năm lớp ảnh vòng tròn là dụ cho năm kiến vậy, uẩn dụ cho đèn sáng, năm kiến đây khởi ở trên uẩn, vọng sinh suy lường đó là tánh biến kế, tình có lý không, sắc thật tại đèn, thấy bệnh làm ảnh là, tánh y tha uẩn duyên khởi chẳng không, nên nói sắc thật tại đèn, ngã kiến thể không, từ vọng tâm khởi, nên nói thấy bệnh làm ảnh, ảnh thấy đều màng là, năng chấp sở chấp phân biệt lầm hoặc vậy. Thấy màng chẳng phải bệnh là, lúc chánh chứng chân rõ biết, khắp cùng chấp thoát thể toàn không, nên nói thấy màng chẳng phải bệnh, phân biệt mê hoặc mất đồng một chân tánh lìa năng sở thủ, nên nói trọn chẳng nên nói là đèn là thấy và chẳng phải đèn chẳng phải thấy, tức giải thích từ trước lại thấy lúc của thấy, thấy chẳng phải thấy, như vầng trăng thứ hai chẳng phải thể chẳng phải ảnh là, xưa nay không vầng trăng lấy gì làm hình, hình đã chẳng lập, chẳng phải hình cũng không, phải quấy một tướng, năng sở đều mất. Nên nói huống gì phân biệt chẳng phải đèn chẳng phải thấy, nhưng thấy màng là trọn không lỗi thấy là, nếu biết màng tức là mắc bệnh, trọn chẳng chấp ảnh lấy làm thật có, nên không lỗi thấy, thấy và duyên thấy tợ hiện cảnh trước là, đều là vọng khởi chẳng phải cảnh thật có, kiến phần tướng phần đều chẳng lìa tâm, huống gì biến kế chỉ ảnh không chất, đây là giải thích vọng kiến vậy. Vốn ngã giác minh, chỗ thấy duyên màng, là bản nguyên chân giác vậy, vì chân năng giác vọng, rõ vọng kiến kia và chỗ duyên đều là màng vậy, giác kiến tức màng, bản giác minh tâm, duyên giác chẳng phải màng là, kết hai giác chân vọng trước vậy, vọng kiến tức là ở màng, năng giác chân tâm chẳng phải ở màng. Chỗ giác giác màng là, điệp vọng giác năng sở đều màng vậy, giác chẳng phải trong quàng là, điệp chân giác chẳng phải quàng vậy, hai kiến chân vọng đây đều lìa năng kiến, sở kiến, nên nói thật kiến đây kiến, vì lúc chứng chân không hai kiến đây vậy. Năng kiến sở kiến đã chẳng an lập, cớ sao gọi giác văn tri kiến, cho nên nay ông thấy ta và ông cùng mười loại chúng sinh ở các thế gian, đều tức thấy màng, chẳng phải thấy màng là, thấy chân tinh kia, tánh chẳng phải màng là, nên chẳng gọi là kiến là, tại sao chân kiến chẳng gọi là kiến? Vì không bệnh màng vậy, chỉ do thấy bệnh, phân năng lập sở, bèn thấy thế gian tự tha khác tướng, nên nói đều thấy tức màng, nói chẳng phải thấy màng là, chân kiến chẳng phải là màng, vì chân không kiến tướng có thể lập nên chẳng gọi là màng. Đã chẳng gọi là màng cũng chẳng gọi là kiến, chánh rõ ý của lìa kiến, vì vậy có kiến tức vọng, biến kế tình sinh, như người mắt màng thấy ảnh vòng tròn của đèn ban đêm, không kiến tức chân, trí viên thành hiện, như người mắt sáng thấy trong sạch của hư không. Lại nếu biệt nghiệp vọng kiến, như tăng thượng ác nghiệp thành thục sinh thân biến làm rắn hổ v.v... đây chẳng động tổng báo tự thọ biệt báo, chỉ tự nghiệp thức biến, chẳng đồng nghiệp là, tức chẳng thấy như ảnh vòng tròn trên đèn, chỉ là quán của màng, nếu chẳng phải người bệnh màng thì chẳng đồng thấy, nếu đồng phận vọng kiến, như đồng tạo nghiệp địa ngục A-ty, đồng chịu thọ tổng báo đồng khổ vô gián. Nếu chẳng đồng ác nghiệp đó là, tức chẳng thấy, như chỉ người một nước đồng cảm ác duyên, đồng thấy tất cả cảnh giới chẳng tốt lành. Nếu chúng sinh nước kia chẳng đồng ác duyên đó là, thì vốn chỗ chẳng thấy, cũng lại chẳng nghe, nên biết duyên khổ duyên lạc tổng báo biệt báo, nhân duyên hòa hợp ngay đó sinh ra, nhân duyên lìa tan ngay đó diệt hết, chưa từng có một pháp chẳng phải ra tâm ta ư? Nên trong kinh nói: Nếu năng xa lìa các duyên hòa hợp thì thấy bản tâm thanh tịnh thường trú, lại nếu phân biệt phiền não, thì nhân thô tà tư mới khởi, câu sinh vô minh thì tế tự mặc tình mà thường sinh, tuy văn từ phân thô tế, nhưng đều đồng vị thức, như biệt nghiệp vọng kiến là, nhân mắt màng mà thấy ánh sáng vòng tròn trên đèn, tợ người của đồng phận vọng kiến, nhân chướng ác mà thấy tai quái trong nước, tuy phân cảnh mà đồng diệt, đều là vọng tâm có thể nghiệm. Trong chúng sinh giới, phàm có tất cả mọi sự thấy nghe đều như ảnh màng của một người biệt nghiệp, chẳng tốt lành của nhiều người đồng phận. Nếu năng biết ảnh đèn là chỗ mắt màng thành, biết cảnh tai ương là chướng ác khởi, thì lớp lớp ánh sáng trên đèn tự mất, hai mặt trời trong bầu trời chợt mất, như chẳng động một tâm, môn duyên đều vắng bặt, thì bệnh của thấy nghe hòa hợp, phân biệt toàn tiêu, tai ương của căn bản sinh tử câu sinh trọn tuyệt.

Hỏi: Bên trong của ba đường xấu ác lại đủ phân biệt và câu sinh ư?

Đáp: Bồ-tát Hộ Pháp nói: “Bên trong ba đường xấu ác đều là phân biệt, mà chẳng phát nghiệp, như loài khỉ vượn, chỗ có phiền não đều là cường mạnh câu sinh, mà chẳng phải phân biệt. Giả sử tạo nghiệp chỉ là biệt báo, nếu có phân biệt tạo tổng báo là tức trọn không kỳ hạn ra khỏi.”

Hỏi: Đã có chủng tử phân biệt sao chẳng tạo tổng báo?

Đáp: Vì khuyết chủ bạn vậy, hiện hành là chủ, chủng tử trợ phát là bạn.

Hỏi: Nếu nói ba đường cấu ác chẳng tạo nghiệp, vậy sao như quỷ Đại lực đánh đầu tôn giả Xá-lợi-phất mà bèn vào địa ngục, chim anh vũ nghe pháp tứ đế mà được sinh lên trời?

Đáp: Các thứ tạo nghiệp báo v.v... đây là nghiệp đây có lực năng hỗ trợ tổng báo xưa trước, tổng báo bị hỗ trợ rồi, bèn năng tùy nghiệp thế đọa xuống đất hay thăng lên trời. Lại các bậc cổ đức có hỏi rằng: Trong nhân thú thiên thú quyết định báo phát nghiệp chẳng?

Đáp: Trong loài người ở bắc châu chẳng tạo hai báo tổng biệt, nghiệp gì không phân biệt tướng, còn lại ba châu tức phát nghiệp, và ở châu này người si chẳng phát nghiệp.

Hỏi: trước nói ba đường xấu ác không phân biệt, cớ sao biết cha mẹ v.v... như từ ô (quạ hiền lành) trở lại mớm thức ăn, chó mèo biết người, biết người giận hay vui v.v...?

Đáp: Đây chẳng phải là phân biệt phiền não, kia mặc tình phân biệt, chẳng phải phiền não phân biệt.

Hỏi: Vô minh phát nghiệp có bao nhiêu thứ vô minh?

Đáp: Có bốn thứ: Một, tùy miên; hai, triền vô minh; ba, tương ưng, bốn bất cộng, pháp dị sinh bên ngoài đủ bốn, pháp dị sinh bên trong trừ bất cộng vô minh, vào tín vị tâm thứ bảy và trong gia hạnh vị gọi là pháp bên trong. Thập tín tâm thứ bảy tỏ về trước có thối, và trong tư lương vị gọi là pháp bên ngoài. Nếu bên trong pháp khác danh chóng ngộ tức tạo nghiệp, chậm ngộ chẳng tạo, trong chóng ngộ bi tăng tạo, trí tăng chẳng tạo. Trong quả vị thập địa từ bát địa trở đi, quyết định chẳng phát nghiệp, lầm hoặc thể không vậy, từ thất địa trở về trước, hoặc gọi là Thánh nhân, dùng vô lậu minh làm duyên mà chẳng phát nghiệp, giả sử có câu sinh chỉ là hỗ trợ nguyện nhuận sinh mà thôi. Lại nói: Hàng thất địa trở về trước, lúc câu sinh khởi cũng tạo biệt báo thiện nghiệp.

Hỏi: Thánh nhân bởi nhân gì mà chẳng tạo nghiệp tổng báo?

Đáp: Vì không phân biệt phiền não vậy, vì vô lậu minh làm duyên vậy, trái nghịch sinh tử vậy, chỉ vì câu sinh đượm nhuần nghiệp tổng báo xưa cũ, thọ chịu phần đoạn sinh tử ở trong loài người, trừ người ở bắc châu, tu quán không ngã, không phân biệt chẳng năng tạo nghiệp, trong đây trừ hạng rất ngu muội. Trên trời chỉ trừ trời Vô tưởng, vì không tâm nên chẳng tạo nghiệp. Bốn thứ vô minh đều năng phát nghiệp, tùy miên là chủng tử, ba thứ còn lại là hiện hành.

Hỏi: Vô minh phát nghiệp tham ái nhuận sinh, ở trong phiền não có bao nhiêu pháp năng nhuận?

Đáp: Xưa trước giải thích: Tức thức v.v... năm chi chủng tử, cần nhờ mượn tham v.v... phiền não đượm nhuần bón rót mới được sinh ra. Nếu câu sinh hoặc nghiệp là tức sáu câu sinh, mười phân biệt và hai mươi tùy phiền não, ở trong ba mươi sáu thứ phiền não đây. Một pháp tham chỉ chánh trung chánh nhuận, ngoài ra năm câu sinh tức chánh trung trợ nhuận, nếu mười phân biệt tự trợ trung trợ nhuận, lại phân bốn câu để liệu chọn lựa. Một hữu là, tham ái mà năng nhuận sinh, thức thứ sáu là ái vậy, năm thức trước chẳng cường thịnh, nên chỉ là kiêm chi gồm, chánh chỉ thức thứ sáu; hai hữu là tham ái chẳng năng nhuận sinh, tức thức thứ bảy tuy có tham ái, vì duyên bên trong nên chẳng kịp trong sở tri chướng; ba hữu là, chi sinh mà tham ái nhuận, tức chi sinh trong tất cả phàm phu vậy; bốn hữu là, chi sinh chẳng phải tham ái nhuận, là Bồ-tát thân sau cùng, Đại thừa nói là hóa hiện vậy hoặc là chi sinh trong thân biến dịch.

Hỏi: Tâm là nhân của khởi hoặc, thân là gốc của tạo nghiệp. Vậy thân có khoảng bao nhiêu thứ hữu và thân vào năng tạo nghiệp?

Đáp: Thân gồm bốn hữu: Một, sinh hữu tức sau trung hữu mà trước bản hữu, chánh lúc kết sinh tương tục, sát-na năm uẩn khởi gọi là sinh hữu; hai, bản hữu, tức sau sinh hữu mà trước bản hữu, ở khoảng giữa đó, chỗ có năm uẩn đều gọi là bản hữu, vì là vốn gồm chỗ báo nghiệp chiêu vậy.

Trong luận Câu-xá có kệ tụng nói:

“Bản hữu là trước tử,
Ở sau sát-na sinh”.

Ba, tử hữu tức là sau bản hữu mà trước trung hữu, sắp chết chánh chết, lúc các uẩn diệt gọi là tử hữu; bốn, trung hữu tức sau tử hữu mà trước sinh hữu, có ở khoảng giữa đó nên gọi là trung hữu. Trong luận Câu-xá có kệ tụng nói:

“Trong hai hữu sinh tử,
Năm uẩn là trung hữu”

Tức hai hữu sinh tử, thân chẳng năng phát nghiệp, vì không tâm vậy, nếu hai hữu trung bản thân tức năng phát nghiệp.

Hỏi: Ở trong hữu thân xứ trung hữu trú đến lúc muốn thủ sinh hành tướng thế nào?

Đáp: Chuẩn cứ hai mươi bốn bất tương ưng hành, trung hữu thế tốc một pháp, ở thế tốc trung hữu sĩ dụng thế tốc, xưa trước giải thích: Sĩ dụng thế tốc là, như thân trung hữu đến xứ đáng thọ sau nhanh chóng, gọi là sĩ dụng thế tốc. Nói trung là đối trước sau gọi là hữu, thì hữu thân tình thức đó, là thân hữu tình năm thú đây, ở khoảng giữa hai hình sau tử hữu mà trước sinh hữu, nên gọi là trung hữu, cũng lấy dị thục ngũ ấm làm thể, làm đồng thân bản hữu là nghiệp chiêu vậy. Thân trung hữu đó tiện như đáng sinh thân bản hữu hình trạng như người, trung hữu tợ người v.v... năm thú cũng vậy. Chỉ như trẻ con năm sáu tuổi, hình lượng nó tuy nhỏ, nhưng các căn mảnh liệt sắc bén, như thân bản hữu năng tác các sự nghiệp, ở nơi cha mẹ khởi tưởng điên đảo mà sinh thương ghét, thân trung hữu đây chỉ đồng loại và thiên nhãn thanh tịnh trông thấy ở trong trung hữu chỉ ăn mùi hương, tại lúc trung hữu trú, trong chẳng thiện chẳng ác đó là khách tánh, tại vị trung hữu rất chậm thọ sinh chẳng quá bốn mươi chín ngày, phân hạn đây không có duyên nào chẳng hội, nếu cực thiện hay cực ác, trong hữu lậu chẳng kể xa gần, chỉ trong một sát-na bèn đến thọ sinh, khởi tâm điên đảo hướng đến cảnh dục, tức thức thứ tán kết sinh môn, ở trong thai sinh và noãn sinh, trung hữu thấy cha mẹ hòa hợp, sinh tử điên đảo mà bèn thọ sinh. Nếu trong thấp sinh và hóa sinh, trung hữu do lực gồm trước nên chẳng chọn lựa xa gần, nhiễm trước xứng tình, nay nhiễm hương xứ bèn tức thọ sinh.

Hỏi: Đồng loại mắt thấy thân trung hữu, vậy mắt trung hữu năng thấy thân bản hữu chẳng?

Đáp: Cũng có thấy thân bản hữu. Trong luận Du-già nói: “Hoặc là chỉ thấy nam, hoặc chỉ thấy nữ, như vậy dần gần xứ sở của kia, dần dần chẳng thấy cha mẹ ở xứ khác, chỉ thấy căn môn nam nữ”. Lại nếu là trung hữu bạc phước, sẽ sinh trong nhà hạ tiện bần cùng, kia ở lúc chết và vào thai, bèn nghe các thứ âm thanh lẫn lộn hay chẳng đáng ý. Nếu trung hữu phước đức sẽ sinh vào nhà phú quý kia, ở lúc đó tự nhiên nghe âm thanh hay tốt đáng vừa ý, cho đến cảnh hương vị xúc cũng có tầng bậc.

Hỏi: Trung hữu ở vị cuối cùng đều khởi ái thọ sinh chăng?

Đáp: Ở vị trung hữu, thức thứ sáu trước khởi ái nhuận sinh. Nếu chấp thủ kết sinh tức chỉ thức thứ tám, nếu nam trung hữu thì duyên mẹ khởi ái sinh ở dục tâm, nữ trung hữu thì duyên cha khởi ái sinh ở dục tâm. Do khởi hai thứ ái tâm đây rồi, bèn làm thân mình cùng cảnh khổ ái hợp, chỗ tiết bất tịnh chảy đến thai tạng nhận làm kỷ hữu, sau đó bèn sinh vui thích, tâm đây sinh rồi, thân trung hữu bèn mất, thọ thân sinh hữu. Trong kinh Bảo Tích nói: “Thân trung hữu kia lúc vào thai mẹ, tâm sinh điên đảo, làm tâm tà giải, sinh tưởng rét lạnh, tưởng gió mưa lớn, tưởng mây mốc, làm các tưởng đây rồi, tùy nghiệp hơn kém, lai khởi mười thứ tâm hư vọng: Một, ta vào trong vườn nhà; hai, ta lên lầu gác; ba, ta lên điện đường; bốn, ta lên sàng tòa, năm, ta vào am tranh; sáu, ta vào nhà lá; bảy, ta vào lùm cỏ; tám, ta vào giữa rừng; chín, ta vào lỗ tường vách; mười, ta vào giữa bờ rào, nghĩ tưởng rồi đó bèn vào bào thai mẹ.”

Hỏi: Thân trung hữu làm nhan sắc thế nào?

Đáp: Trong luận Du-già nói: “Tạo ác nghiệp là trung hữu như ánh sáng hắc nhu, hoặc ban đêm râm tối, tạo thiện nghiệp là trung hữu như ánh sáng bạch y hoặc ban đêm tạnh sáng”. Trong kinh Bảo Tích nói: “Địa ngục trung hữu như đốt xong gốc cây, bàng sinh trung hữu như khói, ngạ quỷ trung hữu như nước, người trời trung hữu như ánh sáng bạch y”.

Hỏi: Như nhân sinh thân biến làm rắn hổ v.v... có thân trung hữu khởi chẳng?

Đáp: Đại sư Từ Ân-Khuy Cơ nói không thân trung hữu, vì chẳng cải chuyển tổng báo vậy, chỉ là thuận hiện chuyển biệt báo. Nếu tổng báo thức thứ tám tức chẳng chuyển, vì như trong địa ngục muôn tử ngàn sinh, cũng không trung hữu vì chẳng chuyển tổng báo vậy.

Hỏi: Như đem con đỉa trong nước ra phơi khô thành bột rồi, sau lại đặt vào trong nước mỗi mỗi mảy trần đều tức thành đỉa, vậy có trung hữu chăng?

Đáp: Đây chỉ là một loại hữu tình đồng nghiệp, hợp gá đây làm tăng thượng duyên mà thọ sinh, tức chẳng biến làm nhiều trùng, nếu chẳng vậy là phạm lỗi hữu tình giới tăng.

Hỏi: Vua bình đẳng thay thân trung hữu chăng?

Đáp: Chẳng thấy.

Hỏi: Lại như có người bị minh ty đuổi bắt cũng có thấy đó là thân gì?

Đáp: Đây chỉ là thân bản hữu gồm, có nói: vì người ấy có nghiệp, chỉ ở trên tâm tự thức vọng thấy quỷ vua Diêm-la. Nguyên do v.v... là trên độc ảnh cảnh tự biến khởi, lìa thức không thấy. Do đó trong luận Duy thức có kệ tụng nói:

“Cảnh tùy nghiệp thức chuyển,
Cho nên nói duy tâm”.

Nên biết thức là nguồn của thiện ác, tâm là gốc của khổ lạc, người đời chỉ biết tìm dòng theo ngọn, mất gốc mê nguồn, luyện hạnh và nhọc mãn ba kỳ, trái chân dần xa, tích công mà luống qua trọn kiếp, cách đạo còn thừa, vì vậy Thánh nhân đắc quả, gặp đây mà cam xưng tuyệt phần. Đại sĩ ra giả, đối đây mà chưa được chứng chân, đâu sánh kiểu loạn đường tà, ngầm đầu ngoại đạo, vườn đen ngạo lại, hoảng hốt cuồng sinh, mà chẳng hy vọng tin thọ ư? Nên biết Tông kính khó tin, ngộ là hy kỳ, chẳng chỉ được tông, gồm năng đạt sâu nhân quả, nên nói tin sâu Đại thừa chẳng phỉ báng nhân quả, vì vậy tất cả hàm thức, chỉ và tự tâm tạo nhân thiện ác, chiêu quả khổ lạc, hoặc lúc ở trung hữu, tạo nhân thiện nương ánh sáng của bạch tịnh, khởi nhân ác thấy sắc của đen tối, hoặc ngày ở bên bào thai, nhóm tập bạch nghiệp là lên trên lầu điện, tạo hắc nghiệp là lao vào trong cỏ gai, đến lúc ra đời làm người, y chánh cũng phân hơn kém, nếu có phước tướng mạo đĩnh yến cằm rồng, thọ vinh nhà hoa phòng vàng. Nếu kém đức là, hình hiện năm chỗ lồi lõm chột nhỏ, ở nơi vò hủ, cửa sổ, cửa chiếu xấu tệ có thể gọi là gió hòa âm vang thuận, hình thẳng bóng ngay, nhân quả đồng thời, duyên hội chẳng mất, thì nên quán tánh pháp giới, tất cả chỉ tâm tạo. Trong luận Nội Đức nói: “Tiểu thừa lấy y báo làm nghiệp có, Đại thừa lấy muôn cảnh làm thức tạo, tùy huyễn nghiệp mà bày đến trời đất, theo vọng tâm mà hiện đến đất cỏ. Nếu mắt màng thấy ở hoa đốm hư không, sánh như ngủ mộng hiện sinh lão đó. Nếu ngộ đó ở tâm nghiệp thì chỉ nghe ở Phật đạo.

QUYỂN 75

Hỏi: Phàm hai báo tổng biệt chướng ở trong tám thức quyết định thuộc thức nào?

Đáp: Xưa trước giải thích: Tổng báo chỉ thuộc thức thứ tám, vì thức thứ tám là đầu tiên sinh khởi, trước đó bảy thức sắc tâm v.v... đều y tha thức thứ tám mới sinh, tức thức thứ tám năng thông sắc tâm v.v... bảy thức trước, vì làm sở y nên được gọi là tổng báo, biệt báo chỉ tại sáu thức trước thọ báo mỗi mỗi riêng biệt chẳng đồng nên gọi là biệt báo. Nếu tổng báo quyết định chẳng thông đời nay thuận hiện, thọ chỉ là thuận sinh đời sau thọ, nếu biệt báo tức chẳng định, thông đời nay đời sau đều thọ chẳng ngăn ngại.

Hỏi: Thức thứ bảy sao chẳng làm báo chướng? Đáp: Chẳng phải là nghiệp lấy bỏ không báo chướng. Lại nếu có báo chướng mà không nghiệp chướng, tức thức thứ tám, nếu đủ có hai chướng nghiệp báo, tức sáu thức trước. Nếu hai chướng nghiệp báo đều không, tức thức thứ bảy. Lại nếu chỉ có biệt báo chướng không tổng báo chướng là, tức sáu thức trước, nếu chỉ có tổng báo chướng không biệt báo chướng là tức thức thứ tám.

Hỏi: Chúng sinh tạo hai nghiệp sinh tử nhiễm tịnh, thọ hai báo khổ lạc, đều từ tâm khởi, thì lìa tâm không thể, ở trong tám thức quyết định là tâm nào?

Đáp: Xưa nay có hai giải thích: Một, các sư xưa trước giải là, tâm thức thứ sáu, do tâm thức phân biệt tạo nghiệp thọ báo, báo khởi do tâm, nên biết không có thật chúng sinh vậy, vì tâm tịnh nên chúng sinh tịnh, không có riêng biệt tịnh, tâm dơ nên chúng sinh dơ, không có riêng biệt dơ, vì dơ tịnh đều do tâm được, chúng sinh chỉ là danh vậy; hai, Hòa Thượng Thần khải giải là, tâm là thức thứ tám, do bên trong thức trì chủng tử nhiễm tịnh, chủng tử gặp duyên tức năng chiêu hai quả khổ lạc, quả khởi do tâm, nên biết không chúng sinh vậy. Nếu các sư kia trước lấy thức thứ sáu làm tâm dơ tịnh, là sáu thức đây cùng mười một thiện tương ưng năng thọ thiện nghiệp trời người, cùng căn tùy tương ưng, năng tạo ác nghiệp ba đường. Tổng biệt nghiệp đây thành năng chiêu hai báo khổ lạc ở tương lai, nên nói nhiễm tịnh do tâm vậy. Đây là căn cứ tạo nghiệp là tâm, Hòa thượng Thần Khải lấy thức thứ tám làm tâm là, đây là tổng báo là chủ, chân dị thục thức. Trong thức năng hàm tàng chủng tử thiện và bất thiện, nhưng trong nhân thức thể chỉ là tánh vô phú vô ký, là hàm tàng nghiệp chủng nhiễm tịnh vậy. Lại nói trì chủng tử nhiễm tịnh là, tức ba chủng tử tập nhiễm. Một, phiền não nhiễm tịnh, tức là thấy tu phiền não; hai, nghiệp tạp nhiễm, tức tất cả tổng báo nghiệp thiện và bất thiện; ba, quả tạp nhiễm tức tổng báo dị thục quả ở ba cõi, tịnh cũng có ba: Một, thế gian tịnh tức là phục hoặc đạo vậy; hai, xuất thế gian tịnh nghĩa là vô lậu; ba, sở đoạn quả thanh tịnh tức sở chứng từ trước đến đây đều là thức thứ tám hàm tàng nghiệp vậy. Các sư xưa trước về tâm năng huân tạo nghiệp gọi là tâm. Hòa thượng Thần Khải căn cứ sở huân năng trì chủng gọi là tâm. Lại các sư xưa trước căn cứ duyên lự để giải tâm. Hòa thượng Thần Khải căn cứ tập khởi để giải tâm, giải thích: Hai giải đây mỗi mỗi đưa ra một đường, trước lấy năng huân năng tạo làm tâm. Nếu không năng huân sở huân không dụng thì chỉ chân chẳng lập, đơn vọng chẳng thành, chân vọng hòa hợp mới có sự đó. Lại nếu không năng tạo sở tạo cũng chẳng thành, nhân năng lập sở vậy. Trong kinh nói: Tất cả duy tâm tạo, sau căn cứ sở huân năng trì làm tâm. Sở huân làm gốc, nếu không sở huân năng huân cũng không dụng. Lại nếu không năng huân chủng tử, tức chủng tử thiện ác tán mất, lấy gì thọ quả báo khổ lạc ở vị lai. Như có vật không thể thạnh vậy, tức phải tán mất, thì giải sau là ưu thắng, vì là căn bản trong các thức vậy, giải trước cũng chẳng mất, là cành ngọn cây, nay nếu lấy cả hai, chánh lý mới tròn, gốc ngọn giúp nhau, năng sở hòa hợp, chẳng phải một chẳng phải khác, mới lập vị của thế gian nhiễm tịnh, nên biết sinh tử do thức tâm, không chúng sinh có thể được, thăng giáng thuộc nhân duyên, không thật ngã có thể được.

Hỏi: Nghiệp của hai báo tổng biệt làm sao phân biệt?

Đáp: Như trì ngũ giới chiêu được thân người là nghiệp tổng báo, do trong nhân có sân phẫn v.v... ở tổng báo người mà có đẹp xấu gọi là nghiệp biệt báo. Trong luận Duy thức cũng nói là dẫn mãn nghiệp. Năng chiêu thức thứ tám, dẫn thục dị quả, nên gọi là dẫn nghiệp, năng chiêu thức thứ sáu, chọn lựa dị thục quả gọi là mãn nghiệp. Trong luận Câu-xá cũng nói: “Một nghiệp dẫn một sinh, nhiều nghiệp năng viên mãn” giống như vẽ hình tượng, trước tiên đồ sơ hình trạng sau đó dùng các màu sắc tô vào, nhưng dẫn nghiệp đó là tư của năng tạo, cần phải thức thứ sáu là chỗ khởi. Nếu mãn nghiệp đó là tư của năng tạo, từ năm thức khởi nhưng năm thức không chấp chẳng năng phát nhuận, nên chẳng phải mê lý, không suy đạt nên chẳng năng tạo nghiệp, tuy tạo mãn nghiệp cũng chẳng phải tự năng, chỉ do ý dẫn mới năng tác vậy. Do đó trong kinh Hải long Vương nói: “Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Hải long vương: Kỳ thay thế gian, làm bao nhiêu duyên, tâm hành chẳng đồng, tội phước mỗi khác, Vì vậy cho nên chỗ sinh khác biệt. Long vương! Ông nên quán sát hội chúng và cả biển lớn, bao nhiêu chủng tử sắc nhan mạo chẳng đồng, các hình mạo đó đều do tâm hoạ. Lại tâm không sắc mà chẳng thể thấy, tất cả các pháp luống dối như vậy, nhân hoặc dấy tướng, đều không có chủ, tùy chỗ tạo tác mỗi mỗi tự nhận thọ đó. Thí như hoạ sư vốn không tạo tượng các pháp như vậy, mà chẳng thể nghĩ bàn, tự nhiên như tướng huyễn hóa, đều tâm tạo tác nên”. Trong kinh Ôn Thất nói: “Phật bảo: Quán ba cõi kia trời người phẩm loại cao thấp ngắn dài phước đức nhiều ít, đều do đời trước dụng tâm chẳng đồng, do đó chỗ thọ nhân mỗi mỗi khác nhau chẳng đồng”. Trong luận Bát-nhã Đăng nói:

“Như trong A-tùy-đàm có kệ tụng nói:

“Tự hộ thân khẩu tư,
Và gồm tha kia là,
Từ pháp làm chủng tử,
Năng được quả nay mai”.

Nói tư nghĩa là năng tự điều phục xa lìa các phi pháp, cùng tâm đây tương ưng tư, nên gọi là tư, nghĩa tha nghĩa là bố thí ái ngữ cứu hộ khiếp sợ, dùng các pháp ấy mà năng gồm tha, nên gọi là gồm tha, từ nghĩa là tâm, tâm tức gọi là pháp, cũng là chủng tử, chủng tử cũng gọi là nhân, làm nhân ai ư? Đó là nhân của quả, đó là những quả gì? Nghĩa là quả của hiện tại và vị lai, cớ sao gọi tâm là chủng tử ư? Vì là năng khởi thân khẩu nghiệp vậy, nên gọi là chủng tử. Lại như trong luận có kệ tụng:

“Như mầm móng tương tục,
Mà từ chủng tử sinh,
Do đó mà sinh quả,
Lìa chủng không tương tục”.

Giải thích: Đây nghĩa là từ mầm sinh cành cho đến nhánh lá hoa quả v.v... mỗi mỗi có tướng của nó, chủng tử (hạt giống) tuy diệt mà do khởi tương tục dần chuyển đến quả, nếu lìa chủng tử thì mầm móng tương tục không lưu chuyển, vì vậy nên nghĩa đó nói: cớ sao luận có kệ tụng nói:

“Chủng tử có tương tục,
Từ tương tục có quả,
Trước chủng mà sau quả,
Chẳng đoạn cũng chẳng thường”.

Giải thích: Cớ sao chẳng đoạn? Nghĩa là có chủng tử tương tục trú vậy. Cớ sao chẳng thường? Nghĩa là mầm nẩy rồi chủng tử hoại vậy, pháp bên trong cũng vậy. Như trong luận có kệ tụng nói

“Như vậy từ sở tâm,
Tâm pháp tương tục khởi,
Từ đó mà khởi quả,
Lìa tâm không tương tục”.

Giải thích: Đây nghĩa là tâm từ, nếu chẳng tâm từ thì gọi là nghiệp, tâm đây tuy diệt mà tương tục khởi, tương tục quả đây khởi, nghĩa là ái chẳng phải ái có thọ tướng vậy. Nếu lìa tâm là quả chẳng khởi, nay đang nói tương tục pháp nghĩa đó thế nào? Nên trong luận có kệ tụng nói:

“Từ tâm có tương tục,
Từ tương tục có quả,
Nên nghiệp tại trước quả,
Chẳng đoạn cũng chẳng thường”.

Giải thích: Thế nào là chẳng đoạn? Nghĩa là tương tục năng khởi quả vậy. Thế nào là chẳng thường? Chẳng trú đến sát-na thứ hai vậy, vì thế biết ba nghiệp khó phòng ngăn nên phải miên mật gìn giữ, ý là nhóm khổ, miệng là bào thai hoạ, chỉ đóng cửa và giữ bến mới đoạn tương tục, như trong kinh Chánh Pháp Niệm Xứ nói: “Địa ngục kia địa thấy người Diêm-la khổ thiết dùng kệ trách rằng:

Tâm chẳng thể điều ngự,
Quá hơn lửa dữ lớn,
Đi nhanh chẳng thể điều,
Dẫn người đến địa ngục,
Tâm thứ nhất khó điều,
Lửa đây quá hơn lửa,
Khó điều đi nhanh chóng,
Địa ngục trong địa ngục,
Nếu người tâm tự tại,
Thì đi nơi địa ngục,
Nếu người năng chế tâm,
Thì chẳng thọ khổ não,
Dục là lửa thứ nhất,
Si là tối thứ nhất,
Sân là oán thứ nhất,
Ba đây nắm thế gian,
Ông lúc trước tạo ác,
Tự tâm tư duy tạo,
Ông vốn si tâm tạo,
Nay thọ ác báo đây,
Tâm ham trộm vật người,
Trộm hành phụ nữ khác,
Thường giết hại chúng sinh,
Chỗ dối của tự tâm,
Nghiệp tự tại như vậy,
Đem ông đến xứ này,
Là ông vốn ác nghiệp,
Cớ sao ông gào khóc?”

Lại có kệ tụng nói:

“Tạo ác chẳng mất hoại,
Tất cả ác có báo,
Ác đều từ tạo được,
Nhân tâm nên có tạo,
Do tâm nên tạo ác.
Do có tâm quả báo,
Tất cả đều tâm tạo,
Tất cả đều nhân tâm,
Tâm năng dối chúng sinh,
Tương lai đến xứ ác,
Địa ngục đây xứ ác,
Rất là xứ ác khổ”.

Như văn kinh trên đây là ác tâm chiêu quả khổ.

Nếu thiện tâm chiêu quả lạc là. Lại nói: “Lại nữa, Tỳ-kheo biết nghiệp quả báo, quán xứ chỗ ở của trời man trì cho đến địa điều nhu đó, giống như sinh tô, trời người lúc đi tùy chân lên xuống như Đâu-la-miên, mỗi mỗi trú xứ chân bước theo bằng, cũng thêm nói trước mỗi mỗi cây báu tỏa ra ánh sáng diệu sắc. Ánh sáng đó như ánh sáng mặt nhật vui thích. Cây vàng sắc diệu hoa lá thường tươi không có héo rụng, chỗ thiện nghiệp sinh không thể dụ nói, giới lực tự tại, chỗ thiện nghiệp được như ấn in vật, thiên tử như vậy đùa vui vườn rừng, men hồ hoa sen, tự nghiệp thọ báo có thượng trung hạ thọ vui đùa lớn, tự nghiệp thân tướng ánh sáng đáng ưa, sắc thanh hương vị xúc v.v... đều xứng tình vui thích, thân không bệnh não, không có đói khát, thường buông lung năm dục, chưa từng nhàm đủ, phần nhiều khởi ái dục, tâm chẳng sung mãn. Nếu trời nghĩ nhớ tùy chỗ nghĩ đều được, kẻ khác chẳng thể phá, tự tại vô ngại, tâm thường hoan hỷ, tùy nghĩ năng đến, hóa thân tùy tâm lớn nhỏ mặc ý, rộng lớn nhẹ mềm, trong khoảng nháy mắt năng đi đến trăm ngàn do tuần, không chút cực nhọc, như gió lướt giữa hư không, không chỗ chướng ngại, trời cũng như vậy, không có nhọc cực, thân trời Oai đức từ tâm mà sinh, nhẹ sạch không dơ, tất cả hành xứ như ý sắc sáng, thiên tử thiên nữ hoan hỷ dạo vui”. Giải thích: Nhưng tuy thiện ác do tâm, khổ lạc chẳng đồng, đó là trước nói rõ nhân quả. Biết một niệm không sai, nếu luận đến trong của chí đạo đều chẳng phải giải thoát. Như trong kinh nói: “Trời Ca-lưu-túc cưỡi điện vàng Diêm-phùđàn vào rừng thiên hý, rừng đó nhu nhuyến, âm thanh các giống chim hòa hợp hay đẹp, thiên tử vào rồi, chim hót tiếng trời. Trời đồng nghiệp sinh, vì trời là thiện nghiệp vậy, bèn nói kệ rằng:

“Nếu có người năng làm,
Thiện nghiệp của ái lạc,
Nghiệp quả báo người ấy,
Thành tựu rất đoan nghiêm,
Đã được thọ lạc trời.
Nếu chẳng hành buông lung,
Từ lạc được lạc xứ,
Kia hẳn đến Niết-bàn.
Tất cả lạc vô thường,
Ắt hẳn cuối cùng hết,
Chớ thọ lạc trời đây,
Lấy làm tự vui thú.
Lạc trời đây vô thường,
Thọ hết hẳn thối mất,
Đã biết pháp đây rồi,
Thường cầu đạo Niết-bàn,
Tất cả pháp đều cao,
Là cũng sẽ bị đọa,
Hòa hợp hẳn có lìa,
Có mạng đều sẽ chết”.

Lại nói: “Tỳ-kheo như vậy dùng văn tuệ quán lạc trời rồi, mà nói kệ tụng rằng:

Năm căn thường ái lạc,
Cảnh dục chỗ dối hoặc,
Lửa dục chưa từng có,
Khoảnh khắc nghe nhàm chán,
Mỗi mỗi các cảnh giới,
Xứ xứ thấy thiên nữ,
Tất cả cảnh giới thắng,
Lửa dục cháy hừng hực,
Hoặc hợp hoặc lìa tan,
Hoặc nói hoặc nghĩ nhớ,
Vì nhân duyên thiên tử,
Lửa nổi đốt người trời,
Lửa pháp hòa hợp có,
Chẳng hợp thì chẳng sinh,
Hoặc hợp hoặc chẳng hợp,
Lửa dục thường cháy dữ,
Nhân duyên hòa hợp vậy,
Lửa xa thì chẳng vậy.
Lửa dục không xa gần,
Thường đốt ái chúng sinh,
Vì lực củi ý tưởng,
Chỗ nghĩ nhớ tà khiến,
Dầu ái trút lửa dục,
Đốt cháy người ngu si”.

Vì vậy đã biết khổ lạc do tâm, sự chẳng phần cứu cánh, nên phải đoạn tưởng củi khô dầu ái, dứt nghĩ gió ngưng lửa dục, phòng chế đất ý, luôn thuận chân như, viên mãn Bồ-đề, quả diệu thường lạc. Nên trong kinh có kệ tụng nói:

“Nếu người tâm chánh thiện,
Thường thuận pháp quán sát,
Chẳng làm chỗ lỗi khiến,
Như mặt nhật trừ tối”.

Lại trong kinh nói: “Thà làm tâm bắt chước, chẳng bắt chước ở tâm. Nếu bắt chước tâm, thì tùy sáu thú mà chẳng trở lại. Làm tâm bắt chước thì ngầm một đạo mà thường trở về, như Canh Tang Tử nói: “Tâm bình chánh chẳng bị chỗ bên ngoài dẫn dụ”, gọi là trong trẻo mà năng lâu thì sáng, sáng mà năng lâu thì hư, hư thì đạo toàn mà ở đó. Do vậy trong kinh A-sai-mạt nói: “Thường chánh tâm đó chẳng chuộng học khác, phàm tâm thường chánh trực vốn tự hư huyền, đạo toàn là tâm tâm toàn là đạo”. Vì chẳng đạt nên tùy tâm tư lự, bị duyên bên ngoài móc kéo, kết buộc bên trong khiến loạn, mới khiến chỉ phải về một, chẳng chuộng chẳng học khác, hư minh tự hiện xứng với trở lại gốc vậy. Mở bày như vậy có thể gọi là nắm tay hành nhân chẳng đến biển Tát-bà-nhã, bảo trọng chẳng cô lẽ vậy. Nếu người tin thọ có thể gọi là chẳng động trần lao chóng thành chánh giác.

Hỏi: Thức sinh ở thân, thân nương ở thức, các căn hoại gọi là thức chuyển đổi lìa, bỏ thân cũ đây, riêng thọ chất khác, thức của đi lại tướng trạng như thế nào? Ý chỉ ấy khó rõ, khắp thế gian đều lầm hoặc, như vật báu ở kho tàng chẳng có ai biết.

Đáp: Lý đây miên mật căn cứ giáo có thể biết. Trong kinh Hiển Thức nói: “Phật bảo: Hiền Hộ! Vận chuyển đổi diệt qua lại của thức, giống như gió lớn không sắc không hình, chẳng thể hiển hiện mà năng phát động muôn vật, bày các hình trạng, hoặc lay động cây rừng xô bẻ rách nát phát ra âm thanh lớn, hoặc làm lạnh làm nóng xúc chạm thân chúng sinh làm khổ làm lạc, gió không tay chân mặt mũi hình dung, cũng không các sắc đen trắng đỏ vàng. Hiền Hộ! Thức giới cũng vậy, không sắc không hình không ánh sáng hiển hiện, vì nhân duyên nên hiển bày các thứ công dụng khác biệt, phải biết thọ giác pháp giới cũng lại như vậy, không sắc không hình, vì nhân duyên nên hiển phát công dụng. Hiền Hộ! Chúng sinh chết đây thọ giác pháp giới thức đều bỏ lìa thân, thức vận thọ giác pháp giới thọ thân khác là, thí như gió lớn thổi các hoa đẹp, hoa trú tại đây mà hương thơm lan tỏa khắp xa. thể Gió chẳng lấy mùi hương của hoa đẹp, hương thể thể gió và cả thân căn đều không hình sắc, mà nếu chẳng phải lực gió thì mùi hương chẳng tỏa đến xa. Hiền Hộ! Chúng sinh thân chết thức trì thọ giác pháp giới đem đến nơi khác sinh, nhân cha mẹ duyên mà thức gá đó, thọ giác pháp giới năng tùy ở thức cũng lại như vậy. Như từ lực hoa ưu thắng mà mũi có ngửi, từ lực ngửi ưu thắng mà được cảnh hương. Lại như từ lực gió thân ưu thắng được gió sắc xúc, nhân lực gió ưu thắng mùi hương được đến xa, như vậy từ thức có thọ, từ thọ có giác, từ giác có pháp, bèn năng rõ biết thiện và bất thiện, cho đến chuyển đổi thân của thức, như ảnh tượng của mặt hiện ở nơi gương, như đường vân của ấn hiển hiện nơi bàn. Thí như mặt nhật ló dạng, nơi ánh sáng tỏa chiếu đến thí các thứ tối tăm đều trừ, mặt nhật lặng ẩn ánh sáng lu mờ, thì tối tăm bèn trở lại như cũ. Tối tăm không hình chất, chẳng phải thường hay không thường đều năng được xứ đó. Thức cũng như vậy, không chất không hình, nhân thọ tưởng hiển bày, thức nói thân, như tối tăm không thể, trông nhìn chẳng thấy, chẳng thể cầm nắm. Như mẹ mang thai con, chẳng năng tự biết là nam hay nữ, sắc đen vàng trắng, căn đủ hay chẳng đủ tay chân tai mắt loại cùng chẳng loại, uống ăn cay nóng vật thô, con đó bèn rộng rõ biết thống khổ, chúng sinh đi lại co duỗi, trông nhìn nói cười chuyển vận mang vác làm các sự nghiệp, thức tướng hiển bày đủ, mà chẳng thể biết ở đâu, dừng ở trong thân, chẳng biết tướng trạng đó. Hiền Hộ! Tự tánh của thức vào khắp các xứ chẳng bị chỗ các xứ làm nhiễm ô, sáu căn sáu cảnh năm phiền não ấm, thức khắp ở đó mà chẳng bị đó nhiễm. Do đó mà hiển bày sự dụng của thức. Hiền Hộ! Thí như cơ quan cây gỗ buộc nắm một chỗ làm các thứ nghiệp hoặc đi chạy nhảy nhót, hoặc nhảy ném múa vui, ý ông nghĩ sao? Chỗ cơ quan làm là lực của ai? Hiến Hộ bạch Phật: Trí tuệ thiển cạn, chẳng phải chỗ có thể rõ? Phật bảo: Hiền Hộ! Phải biết đều là lực của tác nghiệp, tác nghiệp không hình, chỉ trí vận vậy, như vậy cơ quan của thân dùng lực của thức làm các sự nghiệp. Tiên thông, Càn-thácbà, rồng, thần, người, trời, A-tu-la v.v... các thứ thú nghiệp thảy đều nương đó, thức năng sinh thân như thợ làm cơ quan, thức không hình chất, trì khắp pháp giới, trí lực đầy đủ, cho đến năng biết sự của túc mạng. Nên biết thức tánh là một, không trú không hình chỉ tùy trí mà rõ bày, theo niệm mà chuyển, ấm đây vừa mới diệt, ấm kia bèn sinh, như đường vân ấn hiện ở nơi bùn, tợ ảnh tượng mặt đưa đến nơi gương. Đến nơi vào thai ở trứng gá chất hiện sinh, đi lại không dấu vết ẩn hiện chẳng phải ngại ngăn, như châu nhả chiếu, tợ mặt nhật truyền ánh sáng, lửa ra từ trong cây gỗ, chủng sinh trên đất, thể nó là một dụng ra ngàn sai. Môn một thức đây cũng lại như vậy, nhân niệm lực phân mười hai loại khác biệt của chủng, tùy nghiệp quả biến vô lượng hình chất của sinh tử”. Lại trong kinh Đại Thừa Đồng Tánh nói: “Vua Tỳ-tỳ-sa-na Lăng-già thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Thần thức chúng sinh, là tương đương mấy đại? Là làm sắc gì? Phật bảo: Lăng-già vương! Thần đức chúng sinh vô biên đại không sắc không tướng chẳng thể thấy, không ngại không hình không định xứ, chẳng thể nói. Tỳ-tỳ-sa-na thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Thức tướng như vậy, không có biên đai (giới), không sắc không tướng chẳng thể thấy, không ngại không hình không định xứ, chẳng thể nói là, đâu chẳng phải đoạn tuyệt ư? Phật bảo: Lăng-già vương! Nay ta hỏi, tùy ý ông đáp, ta sẽ vì ông nói. Lăng-già vương! Thí như đại vương tại trong cung điện hoặc trên lầu cao, lúc tâm nữ vây quanh an lạc ngồi, vận mặc các thứ y phục và các anh lạc. Lúc ấy nơi vườn rừng lớn cây a-thâu-ca, các thứ hoa tạp trang nghiêm xinh đẹp, vườn tại nơi có gió dịu nhẹ, hoặc gió lớn mạng, thổi rừng vườn kia, cây a-thâu-ca mùi hương các hoa bay tỏa đến nơi chỗ vua, vua nghe đó chăng? Tỳ-tỳ-sa-na thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Con nghe mùi hương đó, Phật bảo: Lăng-già vương! Ông nghe hương đó, phân biệt biết được chăng? Vua thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Con có thể biết được, Phật bảo: Lăng-già Vương! Mùi hương hoa ấy, ông nói là biết được, vậy thấy nó lớn hay nhỏ ư? Quyết định làm sắc gì ư? Lăng-già Vương nói: Chẳng thể được. Bạch Đức Thế Tôn! Tại sao? Tướng mùi hương đó không sắc không hiện không ngại không tướng không định xứ, chẳng thể nói. Cho nên chẳng thấy hình sắc lớn nhỏ. Phật bảo: Lăng-già Vương! Ý ông thế nào? Nếu chẳng thấy mùi hương kia lớn nhỏ, chẳng phải đoạn tuyệt tướng ư? Tỳ-sa-na thưa: Không vậy, Thế Tôn! Tại sao? Nếu các tướng đây là đoạn tướng là không người được nghe. Phật bảo: Đúng vậy! Đúng vậy! Lăng-già Vương, thức tướng cũng vậy, nên thấy như vậy. Lăng-già Vương! Nếu thức đoạn tướng thì không sinh tử mà có thể biết. Như vậy, Lănggià Vương! Thức tướng thanh tịnh, chỉ là bởi vô minh tham ái, các khách trần phiền não, tập khí nghiệp v.v... che ngại. Lăng-già Vương! Thí như cõi hư không thanh tịnh, chỉ có bốn thứ khách trần làm nhiễm ô. Những gì là bốn? Đó là khói mây bụi sương, Lăng-già Vương! Thức tướng như vậy, vốn thanh tịnh, nên không ngằn mé, không thể nắm bắt không có sắc nhiễm, chỉ là chỗ che nhiễm bởi các khách trần phiền não. Tại sao như vậy? Lăng-già Vương! Nếu lúc chánh quán, chẳng được chúng sinh, không ngã không chúng sinh, không thọ mạng, không chứa nuôi, không nhân, không số chúng, không người biết, không người hay, không người biết, không người thọ, không người nghe cho đến không sắc, thọ, tưởng, hành, thức v.v...

Hỏi: Cảnh sắc của bên ngoài nhân thức phân biệt nên gọi là Duy thức, chỉ như trong mộng không cảnh Duy thức, cớ sao trong mộng thức thấy các thứ?

Đáp: Trong kinh Hiển Thức nói: “Phật bảo: Hiền Hộ! Sắc có hai thứ: Một, bên trong; Hai, bên ngoài. Bên trong, đó là nhãn thức. Nhãn thì là bên ngoài, cho đến thân thức là bên trong, thân thì bên ngoài. Hiền Hộ! Như người vừa mới sinh đã mù, mộng thấy sắc đẹp tay chân mặt mắt hình dung xinh đẹp, bèn ở trong mộng, sinh rất vui thích, đến lúc ngủ tỉnh giấc rồi, mờ tối không chỗ thấy. Cho đến, người vừa mới sinh đã nhìn đó chưa từng thấy vật, cớ sao trong mộng mà năng thấy sắc? Hiền Hộ thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Cúi xin chỉ bày đó. Phật bảo: Hiền Hộ! Mộng thấy, thấy là chỗ nhãn bên trong, là tuệ phân biệt, chẳng phải mắt thịt thấy, chỗ mắt thịt đó, vì niệm lực nên người mù trong mộng khoảnh khắc mà hiện. Lại vì niệm lực tỉnh thức mà nhớ đó. Sắc bên trong của thức cũng lại như vậy, nên ở chỗ thấy chỉ thức, nghe ngửi nếm xúc cũng vậy. Thấy có cảnh giới chỉ là niệm tuệ phân biệt. Nếu lìa niệm tuệ phân biệt, quyết định không có tướng mảy may cảnh trần trước.

Hỏi: Thức tánh không hình đến cực vi tế, cớ sao năng nắm giữ thân lớn, lại giữ chất nhỏ?

Đáp: Thức tánh vi diệu chẳng thể nghĩ bàn. Vì tùy nghiệp vậy, thì đẹp xấu tự phân, vì không hình vậy, thì lớn nhỏ đều đồng. Trong kinh Hiển Thức nói: “Phật bảo: Đại Dược! Như gió lớn không chất không hình, ở nơi hang sâu, hoặc trong các hốc hẻm, nó trông ra mạnh bạo, hoặc xô ngã núi Tu-di vỡ vụn làm bụi trần, gió lớn vi diệu không chất không hình. Thức cũng như vậy, diệu không hình sắc, thân lớn thân nhỏ thảy đều năng trì, hoặc thọ thân muỗi, hoặc thọ thân voi, cho đến như hạt Nicù-đà chủng tử rất vi tế sinh cây bà sà to lớn cành nhánh trăm ngàn. Ý ông nghĩ sao? Hạt (tử) và cây đó lớn nhỏ đồng loại chăng? Đại Dược thưa! Bạch Thế Tôn! Hạt và cây đó lớn nhỏ khác biệt nhau, như lỗ rỗng trong cọng sen sánh với hư không giới. Phật bảo: Như vậy, Đại Tuệ! Cây ở trong hạt tìm không thể được, nếu chẳng nhân hạt, thì cây chẳng sinh. Hạt Ni-cù-đà vi tế năng sinh cây lớn. Thúc vi tế năng sinh thân lớn, ở trong thức tìm cầu thân, thân chẳng thể được, nếu trừ ở thức thì thân không có”. Lại trong kinh Tỳ-da-sà Vấn nói: “Phật bảo: Lại nữa, Đại Tiên! Thức đây vi tế không sắc không chất, chẳng phải là có thể thấy thức, chẳng phải có sắc, chẳng phải sắc xanh v.v... trong sắc không căn thức. Nếu lìa căn thì không cảnh giới. Hoặc trong tâm người kinh động khiếp sợ, hoặc nghi nghĩ, tất cả như vậy đều là lực thức”.

Hỏi: Sáu thú thăng trầm đều chỉ là thức, mới sinh vào thú của thiện ác, tướng đó như thế nào?

Đáp: Tùy chỗ phước giúp quả báo chẳng đồng, thắng phước giúp thức thì cảnh lớn, kém phước giúp thức thì căn nhỏ. Trong kinh Hiển Thức nói: “Đại Dược lại thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Chúng sinh xả bỏ thân, làm sao sinh trong các trời, cho đến làm sao sinh trong địa ngục v.v...? Phật bảo: Đại Dược! Chúng sinh lúc lâm chung. Do phước nghiệp tư (giúp), bỏ nhìn của gốc được nhìn thiên diệu, dùng nhìn thiên diệu, thấy trời lục dục, và vườn Hoan hỷ, vườn Tạp hoa v.v... cho đến như ngủ mà chẳng ngủ, an ổn xả bỏ thọ mạng, lúc sắp xả bỏ thọ mạng, trời cha trời mẹ đồng ở một chỗ, trong tay trời mẹ tự nhiên có hoa trổ ra, trời mẹ thấy hoa ngoảnh lại nói cùng trời cha: “Rất là phước tốt! Thắng quả hiếm có, trời nay phải biết vui của con lành, thời gian sắp đến chẳng lâu”. Trời mẹ bèn dùng hai tay giỡn múa hoa đó. Lúc giỡn múa hoa, mạng bèn chung tận. Thức không tướng xả bỏ các căn, trì các cảnh nghiệp, vất bỏ các cõi, giữ các việc cõi, biến đổi quả báo, giống như cưỡi ngựa, bỏ một cưỡi một, như mặt nhật thích dẫn ánh sáng, như cây gỗ sinh lửa, lại như bóng trăng hiện ở nước lắng trong. Thức giúp thiện nghiệp biến đổi báo trời như mạch gió chuyển dời nhanh chóng gá bên trong hoa, trời cha trời mẹ đồng ngồi nhìn đó, cam lồ gió dục thổi hoa bảy ngày, ngọc báu trang nghiêm thân sáng động rực rỡ, Thiên đồng sáng sạch hiện ở tay trời mẹ. Đại Dược thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Thức không hình vì sao nhờ mượn lực nhân duyên mà sinh có hình, vì sao có hình dừng bên trong nhân duyên? Phật bảo: Đại Dược! Như cây gỗ hòa hợp xúc chạm nhau sinh lửa, lửa đây, trong cây gỗ chẳng thể được, nếu trừ bỏ cây gỗ cũng chẳng được lửa. Nhân duyên hòa hợp mà sinh, nhân duyên chẳng đủ tức lửa chẳng sinh. Ở trong cây gỗ v.v... tìm sắc tướng lửa, biết không thể thấy, nhưng đều thấy lửa từ cây gỗ ra. Như vậy, Đại Dược! Thức gá nhờ cha mẹ nhân duyên hòa hợp sinh có thân hình, trong có thân hình tìm câu thức chẳng được, lìa thân có hình cũng không có thức. Đại Dược! Như lửa chưa phát ra, tướng lửa chẳng hiện, cũng không noãn xúc, các tướng đều không. Như vậy, Đại Dược! Nếu thân chưa có, thức thọ tưởng hành thảy đều chẳng hiện. Đại Dược! Như thấy ánh sáng mặt nhật chiếu diệu, mà các phàm phu chẳng thấy thể mặt nhật là đen gay trắng, vàng trắng hay vàng đỏ, đều chẳng thể biết, chỉ vì chiếu sáng ánh sáng hiện ẩn xoay vần các sự tác dụng mà biết có mặt nhật. Thức cũng như vậy, do các tác dụng mà biết có thức. Đại Dược thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là thức tác? Phật bảo: Đại Dược! Thọ biết tưởng hành, tư lo khổ não, đó là tác dụng của thức. Lại có thiện nghiệp và bất thiện nghiệp huân làm chủng tác dụng hiển hiện thức.

Đại Dược thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Cớ sao thức lìa nơi thân bèn chóng thọ thân? Thức xả bỏ thân cũ, thân mới mới chưa thọ, ngay thời gian đó, thức làm tướng gì? Phật bảo: Đại Dược! Như có trượng phu vai rộng khỏe mạnh mặc áo giáp đội mũ trụ bền chắc, cưỡi ngựa đi nhanh như gió để vào trong trận, giáo mác giao nhau, tâm loạn rơi khỏi ngựa, do thế võ cứng mạnh nên trở lại liền nhảy lên. Thức xả bỏ nơi thân nhanh chóng liền thọ thân cũng lại như vậy. Lại như người khiếp nhược thấy địch kinh sợ cưỡi ngựa chạy lui. Thức giúp thiện nghiệp thấy trời cha trời mẹ đồng ngồi một tòa, chóng gá sinh kia cũng lại như vậy.

Đại Dược! Như ông hỏi thức bỏ thân cũ, thân mới chưa thọ, ngay lúc ấy, thức làm tướng gì? Đại Dược! Thí như ảnh người hiện ở trong nước, không chất có thể thủ, tay chân mặt mắt và các hình trạng cùng người không khác. Mà thể chất sự nghiệp trong ảnh đều không, không lạnh không nóng, không cùng các xúc, cũng không nhọc kém nhục đoàn các đại, không tiếng nói phô không lời khổ lạc. Thức bỏ thân cũ, thân mới chưa thọ, tướng cũng như vậy, là giúp quả thiện sinh các trời đó. Đại Dược thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là thức sinh địa ngục? Phật bảo: Đại Dược! Người tạo ác nghiệp vào nơi địa ngục, ông phải lóng nghe. Đại Dược! Trong đây, chúng sinh tích chứa bất thiện căn, đến lúc mạng chung, khởi ý nghĩ rằng: “Nay thân ta đây chết bỏ cha mẹ ân ái thân thích rất là đau khổ”, thấy các địa ngục và thấy thân mình ứng hợp vào đó, thấy chân phía trên, đầu lộn xuống dưới. Lại thấy một xứ đất thuần toàn huyết, thấy huyết đó rồi, tâm có mến đắm vị, duyên tâm đắm vị bèn sinh vào địa ngục, nước ác rả thối, dơ uế nhân lực thức gá trong đó. Thí như phẩn uế, xứ dơ, sữa dơ, rượu dơ, các dơ nhân có trùng sinh trong đó, kẻ vào địa ngục gá vật dơ mà sinh cũng lại như vậy”. Trong luận Bát-nhã Đăng nói: “Nói từ tử hữu tương tục đến lúc sinh hữu, như trao kinh, như truyền đăng, như đi in dấu, như gương ảnh tượng hiện, như tiếng vang giữa hư không, như ảnh vầng trăng mặt nhật trong nước, như hạt giống sinh mầm, như người thấy vật chua trong miệng sinh nước dãi. Như vậy, hậu ấm lúc tương tục khởi, không có trung ấm qua lại, truyền đây đến kia, cho nên người trí phải hiểu như vậy”. Nên biết thức gá nghiệp hiện, cảnh theo tâm sinh, núi dao bén nhọn ai người rèn luyện? Hoa ngậm nước đức chẳng phải kia mở bày. Biện quả biết nhân, thấy ngọn biết gốc. Nên nói! Tâm năng làm Phật, tâm làm chúng sinh, tâm làm thiên đường, tâm tạo địa ngục. Tâm khác thì ngàn sai tranh khởi. Tâm bình thì pháp giới thản nhiên, tâm phàm thì ba độc trói buộc, tâm Thánh thì sáu thông tự tại, tâm không thì một đạo thanh tịnh, tâm có thì muôn cảnh tung hoành. Như hang cốc ứng tiếng nói hùng mà vang mạnh, tợ gương soi tượng hình cong mà ảnh lõm, để biết muôn hạnh do tâm, tất cả tại ngã, bên trong hư bên ngoài trọn chẳng thật, bên ngoài tế bên trong trọn chẳng thô. Nhân thiện trọn gặp duyên thiện, hành ác khó tránh khỏi cảnh ác, giẫm đạp ráng mây mà uống cam lồ chẳng phải chỗ kẻ khác trao, nằm ngồi trên khói lửa mà ăn huyết nồng đều tự mình năng làm, chẳng phải chỗ của trời sinh, chẳng phải chỗ của đất ra, chỉ tại một niệm đầu tiên, khiến đây thăng trầm, muốn bên ngoài an hòa, chỉ nên bên trong yên tĩnh. Tâm rỗng cảnh lặng, niệm khởi pháp sinh, nước đục sông mờ, đầm trong trăng sáng, cốt yếu của tu hành chẳng phải vượt ngoài nơi đây. Có thể gọi là môn của các diệu. Phủ của các linh, gốc của thăng giáng, nguồn của hoạ phước, chỉ chánh tự tâm, sao nghi cảnh riêng biệt. Vì vậy, lìa hành tội hành phước hành chẳng động của chúng sinh, trọn không có quả báo khổ lạc ba cõi. Nếu lìa chúng sinh thấy nghe hay biết, đâu có cảnh giới ấm xứ giới v.v... Như trong kinh Đại Bátnhã nói: “Phật dạy: Hoặc mộng hoặc tỉnh, cần phải ở trong pháp thấy nghe hay biết có giác tuệ chuyển, do đó mà khởi nhiễm, hoặc lại khởi tịnh, nếu không pháp thấy nghe hay biết thì không giác tuệ chuyển cũng không nhiễm tịnh”. Nên biết mộng tỉnh chỉ thức, nhiễm tịnh do tâm, là chỗ chính của tiền hiền hậu học, là đồng chỉ của ngàn kinh vạn luận. Như trong kinh Lăng-già có kệ tụng nói:

“Chúng sinh và bình thảy
Các thứ các hình tướng
Trong ngoài tuy chẳng đồng
Tất cả từ tâm khởi.”

Chỉ một niệm chẳng sinh, là các duyên tự đoạn. Nên nói: Một niệm tâm chẳng sinh, sáu căn đều không lỗi. Lại nói: Một tâm chẳng sinh, muôn pháp không lỗi. Như nay nhàm sinh chán già tùy nghĩ tùy tạo, bỏ vọng bỏ thân, nghiệp quả luôn mới. Nếu năng rõ sinh không sinh, biết vọng không vọng, một niệm tâm lắng muôn lo nghĩ đều tiêu. Như nói:

Sợ ảnh sợ sệt càng chạy càng cực, ngồi yên bóng râm vết diệt ảnh mất. Vậy biết ngộ tâm tức dừng lại không thuật khác. Như Tổ Sư nói: “Tất cả do tâm, tà chánh tại mình, chẳng nghĩ một vật, tức là bản tâm, người trí năng biết lại không hành khác”.

Do đó, Đức Bản Sư nói: Việc đây chỉ ta năng biết!”

QUYỂN 76

Hỏi: Phàm, luận một kỳ chân vọng sinh tử, căn cứ sự mà nói lại có thủy chung chăng?

Đáp: Trong Đệ nhất nghĩa, còn không sinh tử, sao có thủy chung? Vì thuận trong môn thế đế, tùy chúng sinh thấy mà vọng nói sinh tử. Như các bậc Cổ đức nói: “Chân vọng theo nhau khó cùng trước sau”, là giải thích: Nếu nói trước vọng sau chân, chân thì có thủy. Còn nếu cho là trước chân sau vọng, vọng do đâu sinh? Nếu vọng nương chân khởi, thì chân cũng chẳng phải chân. Nếu vọng thể tức chân thì vọng cũng không thủy, vì phá thủy khởi nên lập vô thủy mà nói. Thủy đã chẳng còn, chung từ đâu lập? Không chung không thủy, đâu có trung gian. Nên trong luận Trung Quán nói: “Chỗ nói của Đại Thánh, Bản tế chẳng thể được, sinh tử không có thủy, cũng lại không có chung, nếu không có thủy chung, trung gian làm sao có.” Cho nên ở trong đây, trước sau vọng cũng không, chân vọng đều mất mới nói chân vọng, chân vọng giao triệt, sao định thủy chung.

Hỏi: Như nói ở trên, sinh tử ác nghiệp vô lượng vô biên, vừa mới rõ tâm đây được tất cả đồng thời giải thoát chăng?

Đáp: Thật có lý đó, toàn tại nơi người, nếu chướng mỏng ngăn nhẹ rõ ngay vào thẳng. Duyên sau cơ chín chóng ngộ chóng tu, như gương sạch sáng sinh, mây tan trăng tỏ, hoặc cấu dày tập nặng quán kém tâm nổi, tuy tin hiểu một tâm, hạnh môn khó lập, có tám lớp dơ của vọng tưởng như lưới dày rừng rậm, đủ sáu cửa trói buộc, như băng cứng keo sơn, nếu chẳng phải sức lực lớn mạnh, sao có thể giải phân. Như trong luận Địa Trì nói: “Vọng tưởng có tám thứ: Một, tự tánh vọng tưởng, tức chấp sắc v.v... các pháp mỗi có tự thể; Hai, sai biệt vọng tưởng, tức chấp sắc v.v... có thể thấy chẳng thể thấy. Đối và không đối sắc sai biệt; Ba, gồm nhân tích tụ vọng tưởng, tức ở trong ấm, chấp ngã chúng sinh, ở trong quân, rừng v.v... khởi định chấp thật. Một phân biệt đây tức trước chấp nhân, sau chấp ở pháp; Bốn, ngã kiến vọng tưởng, không ngã chấp là ngã vậy; Năm, ngã sở vọng tưởng, tức chấp ngã dụng; Sáu, có niệm vọng tưởng tức duyên cảnh tịnh khả ái phân biệt; Bảy, chẳng niệm vọng tưởng, tức duyên cảnh bất tịnh đáng ghét phân biệt; Tám, câu tương vi (cùng trái nghịch nhau) vọng tưởng, tức duyên cảnh trung dung phân biệt”. Căn cứ ở các kinh luận nói có sáu thứ ràng buộc (trói buộc). Trước luận về hai thứ phược ở tâm cảnh là:

Một, ràng buộc tương ưng phược; Hai, ràng buộc sở duyên ràng buộc. Phiền não và tâm tâm sở khởi. Tâm gá ở tâm vương, tâm sở nhiễm tâm, gọi là ràng buộc tương ưng phược. Tâm tâm sở pháp đều năng duyên cảnh, cảnh chẳng lìa trói buộc, gọi là ràng buộc sở duyên phược. Tiếp nói về bốn thứ ràng buộc trong ba cõi: Một, tham; Hai, sân; Ba, kiến thủ; Bốn, giới thủ. Tham sân hai phược chẳng khiến chúng sinh ra khỏi cõi Dục, các Luận gia nêu thí dụ như lính giữ ngục. Kiến thủ giới thủ hai ràng buộc, chẳng khiến hữu tình ra khỏi cõi Sắc và cõi Vô sắc. Tại sao? Kiến thủ chấp liệt làm thắng, chấp phi tưởng, phi phi tưởng xứ và trời vô tưởng, chấp là giải thoát Niết-bàn, gọi là kiến thủ, giới thủ là chẳng phải nhân chấp là nhân. Chấp định phi tưởng, định không tưởng và giới là nhân sinh lên trời, là nhân giải thoát, gọi là giới cấm thủ. Do hai ràng buộc này khiến các hữu tình chẳng được cõi Sắc và cõi Vô sắc. Vọng tưởng ràng buộc như trên, trừ hàng thượng căn chóng tu ngoài ra tức phải ước ở lực của địa vị hiện quán. Như trong kinh nói rõ: Hiện quán có sáu hiện, đó là: Hiện tiền quán nghĩa là quán sát tức chân lý thường hiện tại trước, Diệu trí luân năng quán sát, chẳng khiến gián đoạn, mặc tình tương ưng. Trong luận Du-già nói: “Một, Tư hiện quán, nghĩa là thượng phẩm tư tuệ dẫn sinh noãn v.v... trong đạo bốn gia hạnh quán sát các pháp, gọi là hiện quán; Hai, Tín hiện quán, nghĩa là duyên Tam bảo, tịnh tín thế gian và xuất thế gian, đây trợ hiện quán khiến chẳng thối chuyển, lập tên hiện quán; Ba, Giới hiện quán, nghĩa là đạo cộng vô lậu giới năng trừ phá giới cấu khiến quán tăng rõ sáng, cũng gọi là hiện quán; Bốn, Trí đế hiện quán, nghĩa là hai trí chánh thể và hậu đắc duyên chân tục là hai đế chân tục vậy; Năm, Hiện quán, nghĩa là trí đế quán sau, quán các duyên an lập trí thế gian và xuất thế gian; Sáu, cứu cánh hiện quán, nghĩa là tận không sinh v.v... trí quả vị cứu cánh.” Xưa trước giải thích: Tư hiện quán ở trước là chỗ nghĩ lường gia hạnh có trí tuệ, chỉ năng phục chưa năng đoạn vậy. Từ hàng sơ địa trở lên, tín giới trí đế và ngay vị biên hiện quán, tức đoạn, địa sau tức phục, chỉ một quán cứu cánh chẳng phải phục chẳng phải đoạn. Đoạn đây có hai: Một, cộng tướng đoạn; Hai, tự tướng đoạn. Nếu lúc đoạn hoặc chứng lý, làm không hành tướng và không (vô) ngã hành tướng, tức gọi là cộng tướng. Vì không và không ngã gần thông bốn đế, nên gọi là cộng tướng đoạn. Nếu lúc đoạn hoặc chứng lý, làm hành tướng chân như tịch diệt chẳng thông các đế, chỉ tại Diệt đế, gọi là tự tướng đoạn. Lại có ba thứ đoạn: Một, tự tánh đoạn, như đèn phá tối, lúc trí tuệ khởi phiền não ám chướng tự tánh ứng đoạn; Hai, chẳng sinh đoạn, nghĩa là lúc đắc pháp không của sơ địa, năng khiến quả khổ ba đường ác đạo trọn chẳng có sinh. Chủng tử ở trong loài người, không căn. Hai hình, ở Bắc châu, trời vô tưởng v.v... chẳng sinh quả sau, gọi là chẳng sinh đoạn vậy, ở Bắc châu, trời Vô tưởng v.v... chẳng sinh quả sau, gọi là chẳng sinh đoạn vậy; Ba, duyên phược đoạn là, chỉ đoạn hoặc của trong tâm, ở cảnh trần bên ngoài chẳng khởi tham sân. Ở cảnh tuy duyên mà chẳng nhiễm trước, gọi là Duyên phược đoạn vậy. Ở trong ba đoạn thì hai đoạn tự tánh và chẳng sinh mặc tình năng đoạn, đều do một đoạn duyên phược năng khiến nhân quả ở ba cõi chẳng sinh. Lại, xưa trước giải thích: Trí chướng có ba môn đó: Một, trí chướng, chỗ gọi là tâm của phân biệt có không; Hai, thể chướng, nghĩa là giải của quán chẳng có chẳng phải không lập mình năng, nên gọi là thể chướng; Ba, trị tưởng, nghĩa là hợp tuệ như chánh trong vọng thức, nương địa đây có ba đó. Mới đầu, từ địa thứ nhất đến địa thứ tư, cho đến địa thứ bảy đoạn trừ, địa thứ tư thứ năm thứ sáu, đoạn trừ tâm phân biệt thủ hữu, nghĩa là giải pháp mạn thân tịnh mạn v.v... lúc vào địa thứ bảy, đoạn trừ tâm phân biệt thủ không, từ địa thứ tám trở lên, đoạn trừ thể chướng. Địa thứ bảy trước tuy trừ tâm phân biệt có không, còn thấy tâm mình lấy làm năng quán. Như làm sở quán. Sở quán như đó chẳng tức tâm năng, tâm quán chẳng tức tâm như. Như riêng biệt nên ngoài tâm cầu pháp, nên có công dụng, ngoài pháp lập tâm nên có thể chướng. Lúc từ địa thứ bảy vào địa thứ tám phá bỏ chướng đây, quán sát ngoài như xưa nay vốn không tâm, ngoài tâm không như, ngoài như không tâm, tâm chẳng khác như. Ngoài tâm không như, như chẳng khác tâm. Nên tâm năng như hết sạch đồng pháp giới rộng lớn chẳng động, vì chẳng khác vậy, ngoài tự tìm cầu nên bỏ công dụng, chẳng lại ngoài như kiến lập thần trí nên diệt thể chướng, thể chướng diệt nên gọi là không chướng tưởng. Thứ ba trị tưởng đến Phật mới diệt. Nên vào địa thứ tám tuy không chướng tưởng mà có trị tưởng, hành địa thứ tám không sinh nhẫn thể chuyển chuyển tịch diệt, khiến trị tưởng kia vận vận tự mất, đến Phật mới tận cùng. Nên biết môn cảnh tuy không phải được không tâm khế hợp chẳng thể miệng tuy nói không mà hành tại trong có, cảnh trí tương ưng năng sở ngầm hợp, mới năng cởi ràng buộc tùy thuận không sinh vậy. Vừa mới sinh thủ trước bèn thành ma nghiệp, như trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Phật tử! Vị Đại Bồ-tát có mười thứ ma, những gì là mười? Đó là: Uẩn ma, sinh các thủ vậy. Phiền não ma, luôn tạp nhiễm vậy. Nghiệp ma, năng chướng ngại vậy. Tâm ma, khởi cao mạn vậy. Tử ma, bỏ sinh xứ vậy. Thiên ma, tự kiêu ngạo phóng túng vậy. Thiện căn ma, luôn chấp thủ vậy. Tammuội ma, đắm vị lâu vậy, Thiện tri thức ma, khởi đắm trước tâm vậy. Bồ-đề pháp trí ma, chẳng nguyện xa lìa vậy. Đó là mười, vị Đại Bồ-tát phải dùng phương tiện chóng cầu xa lìa”. Trong sớ giải thích: Một, uẩn ma, là thân làm đạo khí, thể cùng Phật đồng, đâu tức là ma? Tên của uẩn ma đặc biệt do thủ trước. Chín loại ma sau cũng như vậy đều lấy câu sau, giải thành nghĩa ma. Vậy biết, dùng tâm phân biệt muôn pháp đều là ma, đâu chỉ mười thứ đây, nên nêu Bồ-đề pháp trí dùng ưu thắng so sánh kém liệt, chẳng dùng tâm phân biệt, tất cả đều Phật, đâu xả bỏ ma giới mà cầu Phật giới ư? Nhưng bốn thứ ma là căn cứ ngay thể mà nói, còn mười ma phần nhiều ước về chấp thủ. Mười tiêu biểu vô tận vậy. Pháp Bồ-đề tức là sở chứng. Trí là năng chứng, năng sở ngầm hợp nên gọi là Bồ-đề. Nếu chẳng xả bỏ thấy của phân biệt Bồ-đề tức là ma vậy. Nếu vào Tông Kính, phân biệt tự mất. Đã không tâm của năng chứng cũng không lý của sở chứng. Lại, trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Không có ít pháp làm chỗ trí vào, cũng không có ít trí mà vào nơi pháp.” Vì vậy cưỡi mũi tên một trí bắn phá các quân ma, khua dao một tuệ chém chặt các lưới nghi ngờ. Đây mới là lực của Tông Kính, ngoài ra sao nói ư? Nếu chẳng ngộ tự tâm chưa đạt yếu chỉ đây, tuy tu trí tuệ chẳng vào viên thường, giả sử luyện hạnh môn chỉ tăng thêm ngã mạn, vì chưa đạt pháp môn nhất tế (một khoảng vậy), chỉ sinh phân biệt trưởng vô minh. Như trong kinh nói: “Nếu phân biệt là pháp Thanh văn là pháp Duyên giác là pháp Bồ-tát là pháp chư Phật, đây gọi là tịnh, đây gọi là bất tịnh, đây gọi là đạo, đây gọi là chẳng phải đạo. Đó gọi là Bồ-tát kiêu mạn.” Nếu vào Tông Kính, trí hành đều thành, núi ngã mạn đổ, sông tham si cạn, tình hơn kém hết, nghiệp sai biệt mất. Như trong Lộng châu ngâm nói: “Tiêu sáu giặc chừ, nát bốn ma, xô núi ngã chừ, cạn sông ái. Long nữ núi Linh gần dâng Phật, trẻ nghèo trong áo uổng sa-đà”.

Hỏi: Năm ấm một pháp tức vọng tức chân, đã làm môn của trần lao sinh tử, lại thành đạo của xuất thế Bồ-đề. Nay lại suy tìm vọng sinh tử không từ đâu, trong kinh nói, ấm đây vừa mới diệt, ấm kia bèn sinh. Đã Duy thức không nhân, ấm trước diệt, ấm sau thế nào được sinh?

Đáp: Năm ấm tánh không chẳng phải thường, tương tục chẳng đoạn, chẳng thường chẳng đoạn tức là chánh nhân. Như trong Hoa Nghiêm Sớ nói: Năm ấm tương tục tức là chánh nhân, cũng gọi là sinh nhân. Nói chánh nhân là nghĩa Trung đạo, Trung đạo tức là Phật tánh, nghĩa là hiện tại ấm diệt trung ấm, ấm sinh là hiện tại ấm, trọn chẳng biến làm trung ấm năm ấm, nên hiện ấm chẳng phải thường, như chủng sinh mầm chủng chẳng đến mầm, tuy chẳng đến mầm mà năng sinh mầm, hiện tại ấm đây tuy chẳng đến sau mà năng sinh sau, thì hiện ấm chẳng phải đoạn. Mà trung ấm năm ấm cũng chẳng phải tự sinh, chẳng từ nơi khác lại. Nhân hiện năm ấm sinh trung ấm ấm, đây thì hậu ấm chẳng phải không nhân, nên hậu ấm chẳng phải thường, đã năng tiếp tục trước nên hậu ấm chẳng phải đoạn. Chẳng phải đoạn chẳng phải thường là nghĩa trung đạo, tánh chánh nhân vậy. Lại y cứ Thai giáo, lược có chín thứ năm ấm, đều không tự thể chỉ theo tâm sinh. Do đó trong kinh Hoa Nghiêm có kệ tụng nói:

“Tất cả chúng sinh giới
Đều tại trong ba đời
Ba đời các chúng sinh
Đều trú trong năm ấm
Các uẩn nghiệp là gốc
Các nghiệp tâm là gốc
Tâm pháp giống như huyễn
Thế gian cũng như vậy”.

Chín thứ năm ấm là: Sắc tâm một thời kỳ gọi là quả báo năm ấm, bình đẳng tưởng thọ là vô ký năm ấm, khởi kiến khởi ái là hai thứ dơ uế năm ấm, động nghiệp thân miệng là hai thứ thiện ác năm ấm, biến hóa hiện bày là công xảo năm ấm. Người năm căn lành là phương tiện năm ấm, chứng đắc bốn quả là vô lậu năm ấm. Các thứ như vậy vốn từ tâm ra. Trong kinh Chánh Pháp Niệm nói: “Như tay thợ vẽ hoạ ra năm sắc đen xanh đỏ vàng trắng trắng trắng. Tay hoạ vẽ thí như tâm. Sắc đen thí như địa ngục, sắc xanh thí như quỷ, sắc đỏ thí như súc sinh, sắc vàng thí như A-tu-la, sắc trắng thí như người, sắc trắng trắng thí như trời”. Sáu thứ ấm đây dừng ngang bên trong giới. Nếu y cứ theo kinh Hoa Nghiêm nói: “Tâm như người thợ vẽ, vẽ các thứ năm ấm. Bên trong giới bên ngoài giới tất cả trong thế gian không gì chẳng từ tâm tạo, sắc tâm thế gian còn chẳng phải cùng tận, huống gì xuất thế gian mà phàm tâm biết được. Phàm mắt màng còn chẳng thấy gần, sao được thấy xa càng sinh nhiều kiếp, chẳng thấy một góc bên trong giới huống gì ngằn mé bên ngoài giới ư? Giống như nai khát đuổi theo bóng nước (dương diệm) chó điên cắn sấm chớp, đâu có lý được. Do đó, Bồ-tát Long Thọ phá năm ấm một khác đồng thời trước sau đều như lửa huyễn vang hóa đều chẳng thể được, sao lại chấp ở vương sở đồng thời khác thời ư? Nhưng tất cả ấm nhập bên trong bên ngoài giới đều do tâm khởi. Phật dạy các Tỳ-kheo: Một pháp gồm tất cả pháp chỗ gọi là tâm là như trong luận có kệ tụng nói:

“Tất cả trong thế gian
Chỉ có danh và sắc
Nếu muốn như thật quán
Chỉ nên quán danh sắc.”

Tâm là gốc hoặc, nghĩa đó như vậy. Trong Phụ Hành Ký nói: “Nếu bày thể cảnh chẳng nghĩ bàn, quán tâm là đủ, vì tâm khắp cùng nên gồm các pháp khác. Lại chẳng phải chỉ tâm gồm tất cả mà cũng là tất cả nhiếp tâm. Nên trong Tứ niệm xứ quán nói: Chẳng phải chỉ Duy thức, cũng là duy sắc duy thanh v.v... nay từ hẹp của rộng chánh bày thể cảnh. Ấm giới nhập ba thứ đều có thể làm cảnh vì rộng thoát khó chỉ bày nên từ chỉ đích lược hai thứ giới nhập, căn cứ ấm như bỏ gậy mà cậy thước, lược bốn ấm từ thức như bỏ thước cậy tấc, vì do chỗ giới nhập gồm rộng nhiều, ấm chỉ hữu vi. Bên trong của hữu vi, nghĩa bao gồm tâm sắc, bỏ sắc còn tâm. Tên tâm lại hợp tâm và tâm sở. Nay tạm quán tâm vương vất bỏ tâm sở thì ba khoa một niệm tâm mười giới như vậy, một giới năm ấm như thước, chỉ tại thức tâm như tấc. Nếu đạt tâm đủ tất cả pháp rồi, mới năng độ vào tất cả sắc tâm, như mỗi mỗi thước không gì chẳng phải là tấc. Nên biết hoặc chân đế hoặc tục đế, hoặc hữu vi hoặc vô vi, một cõi một trần không gì chẳng phải là tâm vậy. Nay Tông Kính bao gồm then chốt cốt yếu đó, bởi vì đây vậy. Nay chỉ quán thức ấm, thức ấm là tâm ấy vậy. Đã từ tâm sinh, chẳng phải không chẳng phải có, chẳng sinh chẳng diệt, không trú không y, ở trong môn sinh tử nghiệp quả chẳng thể nghĩ bàn, vì tướng nhân duyên hòa hợp tợ tương tục, như có chủ tể các thú qua lại. Chí lý cùng đó rốt ráo không thể. Như nam châm hút sắt, gương sáng hiện hình, đây đều pháp nhĩ, đâu có tình ư? Trong luận Bátnhã Giả Danh nói: “Các uẩn tuần hoàn thọ các thú khác gọi là thủ, trong đó không người năng thủ các thú, bỏ ở hiện uẩn mà thọ hậu uẩn, như bỏ áo cũ mà mặc áo mới. Nhưng y cứ theo Tục đế thí như nhân chất mà hiện ở tượng, chất chẳng đến tượng mà có tượng hiện, do uẩn trước nên uẩn sau tiếp tục sinh, trước chẳng đến sau mà sau tương tục.

Cho nên Bồ-tát không thủ là tưởng.” Trong kinh Đại Niết-bàn nói: “Như ấn sáp đóng dấu ở bùn ấn và bùn hợp, ấn diệt đường vân thành, đường vân chẳng phải từ bùn ra, chẳng xứ khác lại vì ấn nhân duyên mà thành tựu đường vân đó, kinh hợp thí dụ là hiện tại ấm diệt trung ấm ấm sinh, là hiện tại ấm trọn chẳng biến làm trung ấm năm ấm, cũng chẳng phải tự sinh, chẳng từ nơi khác lại. Nhân hiện ấm nên sinh Trung ấm ấm. Thí dụ hợp là, như ấn in bùn, ấn diệt đường vân thành. Tên tuy không sai mà thời tiết nổi khác, cho nên ta nói Trung ấm năm ấm chẳng phải mắt thịt thấy, chỗ thiên nhãn thấy vậy.” Giải thích: Hiện ấm như ấn, xứ trung ấm sinh, nghĩa nó như bùn, hiện tại ấm diệt gọi là ấn hoại, trung ấm ấm khởi gọi là đường văn thành. Ở đây lại lấy trung ấm làm ấn, nghiệp bức thọ trai gọi là nhiễm bùn, trung ấm ấm diệt gọi là ấn hoại, vị lai (hậu) ấm ấm khởi gọi là đường văn thành. Nghiệp chủng chưa đoạn, đường văn lại làm ấn, ấn lại làm đường văn, tướng đường vân ấn thành chẳng thể cùng tận vậy. Sinh tử chẳng đoạn pháp thí dụ có thể biết. Lại như ngọn đèn, ngọn trước dẫn ngọn sau, ngọn sau tiếp tục ngọn trước, tương tục chẳng đoạn tợ thường tợ một. Phàm phu chẳng thấu đạt hoặc chấp sinh tử là thường, chẳng biết ngọn đèn trước không thể, nhân ngọn sau tiếp tục khởi, ngọn sau không thể, cậy ngọn trước dẫn sinh, ngọn ngọn đều hư tự tánh tịch diệt, một niệm tâm đây cũng lại như vậy, mới mới sinh diệt tục tục luân hồi cho đến một niệm chẳng trú giống như ngọn đèn, chẳng tinh tế quán sát, chấp sinh diệt đây là thường là một, lại chẳng rõ ngọn trước vừa mới diệt, ngọn sau tiếp tục sinh, niệm niệm tương tục chưa từng tam diệt. Hoặc chấp sinh tử là đoạn. Nếu thấu đạt sâu xa về lý nhân duyên, tự nhiên chẳng lạc vào đoạn thường. Tại sao? Vì nhân duyên không tánh, chẳng thể được nên chẳng phải thường, vì không tánh nhân duyên tương tục nên chẳng phải đoạn. Lại năm ấm đây chỉ là một pháp, nếu chấp thành đoạn thường là phàm phu kiến, nếu phá bẻ thành không, là người Tạng giáo. Nếu rõ ấm không tánh, thể đây thành không, là người Thông giáo. Nếu ngộ năm ấm đây chẳng không, đầy đủ Phật pháp, tu trí đoạn hoặc lần lượt sinh khởi, là Bồ-tát Biệt giáo. Nếu rõ đây tức chân, lại không pháp riêng biệt, niệm niệm vô minh đủ mười pháp giới, tức Bồ-tát Viên giáo. Như kẻ bạc vận thấy vàng thành rắn, người phước sâu dày vốc đá là vật báu. Pháp không cao thấp mà người tự thăng trầm vậy. Chỉ chẳng tạo nghiệp giàu nghèo trọn không quả báo hơn kém. Như trong luận Đại Trí Độ có kệ tụng nói:

“Nghiệp đời trước tự tạo
Chuyển làm các thứ hình
Hư không chẳng chịu hại
Không nghiệp cũng như vậy”.

Hỏi: Sinh tử tương tục do các tập khí, có bao nhiêu thứ tập khí năng thành luân chuyển?

Đáp: Xưa trước giải thích: Tự thể tập khí gồm có ba nghĩa: Tập khí lại sinh với chủng tử mà thể đồng. Tập khí tức căn cứ lúc huân tập mà luận, chủng tử tức đối hiện hành mà gọi, đều có ba nghĩa: Một, chủng tử gọi là tập khí, khi nghĩa là khí phần, tập nghĩa là huân tập. Do hiện hành kia hướng thượng được khí phần đây vậy; Hai, hiện hành cũng gọi là tập khí, nghĩa là đều do chủng tử năng sinh hiện hành, là khí phần của nhà chủng tử; Ba, tập khí gọi là tập khí như giấy trong hương mà có khí phần. Trong luận Duy Thức nói: “Mà huân bản thức khởi tự công năng”, tức công năng đây gọi là tập khí, công năng là nghĩa tập khí, thể tức chủng tử, lược có ba thứ tập khí: Một, danh ngôn tập khí; Hai, ngã chấp tập khí; Ba, chi hữu tập khí. Thứ nhất, danh ngôn tập khí, nghĩa là pháp hữu vi mỗi riêng biệt thân chủng. Danh ngôn có hai: Một là, biểu nghĩa danh ngôn, tức nghĩa năng phân tích, âm thanh sai biệt; Hai là, hiển cảnh danh ngôn, tức năng rõ cảnh tâm tâm sở pháp, tùy chỗ hai danh ngôn huân thành chủng, làm pháp hữu vi mỗi mỗi riêng biệt nhân duyên. Thứ hai, ngã chấp tập khí, nghĩa là hư vọng chấp chủng ngã và ngã sở, chấp ngã có hai: Một là, câu sinh ngã chấp, tức chỗ tu đoạn chấp ngã ngã sở; Hai là, phân biệt ngã chấp, tức chỗ thấy đoạn chấp ngã ngã sở, tùy chỗ hai ngã chấp huân thành chủng. Nay các hữu tình v.v... tự tha sai biệt. Thứ ba, chi hữu tập khí, nghĩa là chiêu nghiệp chủng dị thục ở ba cõi, chi hữu có hai: Một là, hữu lậu thiện, nghĩa là năng chiêu nghiệp quả khả ái; Hai là, các bất thiện tức là năng chiêu nghiệp quả chẳng phải ái, tuy chỗ hai chi hữu huân thành chủng khiến dị thục quả thiện ác thú riêng biệt. Nên biết ngã chấp và chi hữu tập khí ở quả sai biệt là tăng thượng duyên. Trước nói sinh tử nhân nghiệp tập khí là, nên biết tức là chi hữu tập khí. Hai thủ tập khí, nên biết tức là hai thứ tập khí ngã chấp và danh ngôn. Thủ ngã ngã sở, và thủ danh ngôn mà huân thành nên đều gọi tên là thủ. Giải thích: Biểu nghĩa danh ngôn là, chỉ thức thứ sáu, năng duyên danh đó năng phát danh đó, ngoài ra đều chẳng duyên, cũng chẳng năng phát, tức chỉ nghĩa phân tích, sai biệt của âm thanh, chọn lựa chẳng phải âm thanh phân bày, kia chẳng phải danh ngôn vậy. Danh chỉ vô ký, nhưng danh là co duỗi sai biệt trên thanh (tiếng). Chỉ tánh vô ký chẳng năng huân thành các chủng sắc tâm v.v... nhưng nhân danh nên tâm tùy danh đó biến tợ pháp năm uẩn ba tánh v.v... mà huân thành các thứ chủng, nhân danh khởi chủng, gọi là danh ngôn chủng. Tất cả huân chủng đều do tâm tâm sở, tâm tâm sở chủng có nhân và duyên bên ngoài, có chẳng nương tựa bên ngoài, chẳng nương tựa bên ngoài gọi là hiển cảnh danh ngôn, nếu nương tựa bên ngoài, gọi là biểu nghĩa danh ngôn. Phân hai riêng biệt nhưng danh tự thể chẳng năng huân chủng, hiển cảnh danh ngôn, tức là năng rõ cảnh tâm tâm sở pháp, tức là tất cả tâm kiến phần v.v... Bảy thức, chẳng phải tướng phần, tâm chẳng năng hiển cảnh vậy. Vì thế, phần đoạn sinh tử từ chánh sử có, tức là phàm phu. Nếu biến dịch sinh tử từ tập khí sinh, tức là hàng Nhị thừa. Tuy đoạn chánh sử mà chẳng đoạn tập khí, ở trong đây có hai: Một, phiền não tập khí; Hai, nghiệp tập khí. Phiền não tập khí là như Nan-đà có dục tập, xưa trước vài đời thân làm quốc vương tập gần năm dục vậy. Xá-lợiphất có sân tập vì xưa trước vài đời từng thọ thân bọ cạp, Tất-lăng-già-bà-sa có mạn tập vì xưa trước vài đời thân là Đại Bà-la-môn, học rộng nhiều tài ngã mạn khinh vật. Cho đến Tỳ-kheo Bàn Đặc có si v.v... các tập khác. Nghiệp tập khí là như Tỳ-kheo Ngưu hạ xưa trước làm thân trâu ở giữa khoảng rừng rong chạy chạm trúng di khí (sót bỏ) nên sách áo ca sa. Vì nhân duyên đó tuy đắc đạo quả nhưng do nghiệp tập khí nên khiến như vậy. Lại như Ca-diếp nghe tiếng đàn cầm tức đứng dậy múa, A-nan thường ham thích ca ngâm, đều vì xưa trước từng làm người chơi nhạc, vì còn thừa lại của nghiệp tập, nên hoặc phiền não dư tập là duyên biến dịch, có nghiệp dư tập là nhân biến dịch, cảm biến dịch sinh tử tức là quả báo. Hạng người Nhị thừa chưa được một tâm ba điểm Niết-bàn của Như Lai, ở quả vị hữu học, tuy kiến hoặc tư hoặc hết cả, chỗ có không biết đều là dư tập của vô minh, cũng gọi là vô minh trú địa, cũng gọi là chướng của sở tri, cũng gọi là Trần sa vô tri. Lại, Bồ-tát nói về hóa môn, có mười thứ tập khí. Trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm Lìa thế gian nói: “Phật tử, vị Đại Bồ-tát có mười thứ tập khí. Những gì là mười? Đó là Bồ-đề tâm tập khí, thiện căn tập khí, giáo hóa chúng sinh tập khí, thấy Phật tập khí, nói thế giới thanh tịnh thọ sinh tập khí. Hạnh tập khí, nguyện tập khí, Ba-la-mật tập khí, tư duy bình đẳng pháp tập khí, các thứ cảnh giới sai biệt tập khí. Đó là mười, nếu các Bồ-tát an trú pháp đây thì trọn xa lìa tất cả phiền não tập khí, đắc đại trí tập khí của Như Lai, chẳng phải tập khí trí”. Nên biết hai nghiệp nhiễm tịnh, hai môn thăng trầm đều từ huân tập mà sinh, chẳng phải không nhân mà được. Nên phải chuyên cần tu Bạch nghiệp tịnh pháp luôn luôn huân niệm niệm niệm công phu tự thành diệu quả. Do đó trong tám thức tạng ở mỗi mỗi chúng sinh mỗi mỗi đủ chủng tử mười pháp giới. Vốn tự đầy đủ, chẳng phải từ mới sinh, tuy thường huân bên trong mà phải nhờ mượn duyên bên ngoài huân phát. Nếu nghe mười ác huân phát chủng tử ba đường xấu ác. Nếu nghe giới thiện huân phát chủng tử trời người. Nếu nghe Tứ đế thập nhị nhân duyên huân phát chủng tử Nhị thừa. Nếu nghe Lục độ huân phát chủng tử Bồ-tát, nếu nghe Nhất thừa huân phát chủng tử chư Phật, mỗi mỗi tùy xứ tập khí nồng hậu phát trước, như nay nhiều tập chủng tử ba đường xấu ác, trời người còn ít, huống gì Phật thừa, nhưng lúc địa ngục giới hiện hành, chủng tử Phật cũng chẳng mất, chỉ là chuyển sang xa khác. Như nay đã ở tại trời người, cần phải nỗ lực, thường thân gần tri thức, vui thích nghe nhất thừa, trong ngoài cùng giúp huân, một đời thủ xong. Nên Đức Phật răn dạy La-hầu-la với kệ tụng rằng:

Mười phương vô lượng các chúng sinh
Niệm niệm đã chứng quả thiện thệ
Kia đã trượng phu ta cũng vậy
Sao được tự khinh mà thối khuất”.

Hỏi: Sinh tử Niết-bàn khổ lạc báo ứng, lấy gì làm nhân?

Đáp: Như Lai tạng làm nhân.

Hỏi: Như Lai tạng là vô lậu thường trú, chẳng phải pháp của sát-na sinh diệt, cớ sao cùng sinh diệt làm nhân?

Đáp: Tất cả dị sinh nhân nên mê, mê không tự thể. Trong kinh Lăng-già nói: “Phật dạy: Đại Tuệ! Bảy thức chẳng lưu chuyển chẳng thọ khổ lạc, chẳng phải nhân Niết-bàn. Đại Tuệ! Như Lai tạng là thọ khổ lạc cùng nhân câu, hoặc sinh hoặc diệt”. Xưa trước giải thích: Bảy thức niệm niệm sinh diệt chẳng năng qua lại sáu đường, nên gọi là chẳng lưu chuyển, vì niệm niệm diệt nên chẳng biết khổ lạc, chẳng cùng Niết-bàn làm nhân. Lại, bảy thức theo duyên vốn không tự tánh. Còn chẳng năng làm gốc của sinh tử khổ lạc, đâu lại cùng Niết-bàn làm nhân. Rõ ràng Như Lai tạng thường khiến các thức biết khổ lạc, nếu bảy thức không Như Lai tạng, tự thể niệm niệm diệt chẳng biết khổ lạc, nương Như Lai tạng nên biết khổ lạc, gọi là Như Lai tạng thọ khổ lạc. Như Lai tạng thể chẳng thọ khổ lạc vậy. Nói cùng nhân câu là, Như Lai tạng cùng bảy thức sinh tử khổ lạc nhân câu niệm niệm sinh diệt vậy. Lại nói: Bảy thức niệm niệm sinh diệt không thường, đang khởi tức liền rụng mất, làm sao lưu chuyển. Tự thể không thành nên chẳng thọ khổ lạc. Đã chẳng phải nhiễm y cũng chẳng phải vô lậu Niết-bàn y vậy, Như Lai tạng đó chân thường khắp cùng mà tại sáu đường, mê đây năng khiến tùy duyên thành sự thọ khổ lạc, cùng bảy thức câu, gọi là cùng nhân câu, chẳng giữ tự tánh mà thành vậy. Bảy thức nương đây mà được sinh diệt, gọi là hoặc sinh hoặc diệt. Đây nói rõ Như Lai tạng tức là chân như tùy duyên nên thọ khổ lạc. Lại giải thích: vì gốc hại ngọn khiến ngọn không nên không thể lưu chuyển. Chỉ Như Lai tạng thọ khổ lạc là, ngọn hại gốc nên chẳng giữ tự tánh, thể của thanh tịnh tự nhiên thành có. Nếu thuận nhau thì như hòa của nước sữa thường luôn chung bình. Nếu trái nhau thì như thù của cha mẹ chẳng cùng chung trời. Lại, trên còn có nghĩa của chẳng còn, trên hết sạch có nghĩa chẳng hết sạch. Nếu chỉ hết sạch không chẳng hết sạch thì sắc không đều mất không thể tức là nhau là nhau vì chẳng hết sạch vậy. Tuy tức là nhau mà sắc không rõ ràng. Nếu chỉ còn không chẳng còn thì sắc không mỗi mỗi có định tánh chẳng được tương tức. Do có chẳng còn nên tuy rõ ràng mà được tương tức. Như trong luận Đại Thừa Khởi Tín nói hai môn chân như sinh diệt vô ngại. Chỉ là một tâm là kết quy luận Đại Thừa Khởi Tín nương pháp một tâm mà lập hai môn, nên phải đầy đủ hai nghĩa mới gọi đủ phần Duy thức.

Hỏi: Duy thức, thức thứ chín cũng nói sở duyên y đó có hai thứ đó là: Một, trì chủng tử, nghĩa là thức thứ tám; Hai, mê ngộ y, nghĩa là tức chân như. Cớ sao nói phô, nhưng y sinh diệt tám thức chỉ có tâm cảnh y trì ư?

Đáp: Kia tuy nói mê ngộ y, chẳng phải tức tâm cảnh trì chủng, vì chân như chẳng biến, chẳng tùy nơi tâm biến muôn cảnh vậy, chỉ là sở mê, lúc sau trở lại tịnh, chẳng phải là nhiếp tương tức chân như vậy, chỉ là sở ngộ. Nay là tâm cảnh y trì, tức là chân vọng chẳng phải có hai thể, nên nói là một tâm. Căn cứ nghĩa chẳng đồng phân thành hai nghĩa, nói hai môn riêng biệt. Nên trong luận nói: “Nhưng hai môn đây đều mỗi mỗi tổng gồm tất cả pháp. Vì hai môn đây chẳng lìa nhau vậy”. Do đó, trong kinh Lăng Nghiêm nói: “Sinh diệt khứ lai vốn Như Lai tạng”. Như người đời nay chỉ tin có sinh diệt, chẳng tin có Như Lai tạng, chẳng biết sáng tác có tên không thể. Như Lai tạng có tên có thể, chỉ có thể từ thật chẳng thể cậy hư. Cậy hư thì là chỗ vọng chấp thích nghi, từ thật thì chỗ Phật ấn khả.

Hỏi: Phàm, luận tâm bao hàm giáo pháp, thế nào là pháp môn một tâm bốn đế?

Đáp: Pháp môn bốn đế, ngang cùng dọc suốt, pháp không gì chẳng đủ, giáo không gì chẳng cùng. Nay nói về Thai giáo một tâm đủ vô tác bốn đế là, trong một niệm tâm đủ khổ mười giới, gọi là Khổ đế. Đầy đủ hoặc mười giới, gọi là Tập đế, khổ tức Niết-bàn, gọi là Diệt đế. Hoặc tức Bồ-đề gọi là Đạo đế. Đây chỉ luận một tâm bốn đế. Lại bốn giáo bốn thứ bốn đế, tạng giáo sinh diệt bốn đế, Thông giáo không sinh bốn đế. Biệt giáo vô lượng bốn đế, Viên giáo vô tác bốn đế. Nay chỉ luận về Viên giáo vô tác bốn đế. Trong luận Chỉ Quán nói: “Pháp tánh cùng tất cả pháp không hai không riêng khác”. Phàm pháp còn vậy huống gì Nhị thừa ư? Lìa phàm pháp lại cầu thật tướng thì như trốn lánh không đây mà đến xứ kia cầu không, tức phàm pháp là thật pháp, chẳng phải xả bỏ phàm hướng đến Thánh. Trong kinh nói: “Sinh tử tức Niết-bàn, một sắc một hương đều là Trung đạo, tức vô tác bốn đế. Lại trong Huyền Nghĩa nói: “Vì mê lý nên Bồ-đề là phiền não gọi là Tập đế. Niết-bàn là sinh tử gọi là khổ đế. Vì năng giải thoát nên phiền não tức Bồđề gọi là Đạo đế, sinh tử tức Niết-bàn gọi là Diệt đế, tức sự mà trung, không nghĩ không niệm, không ai tạo tác, nên gọi là vô tác, cũng gọi là một thật đế.” Một thật đế là không hư vọng không điên đảo, thường lạc ngã tịnh v.v... cho nên gọi là vô tác bốn Thanh đế. Trong kinh Pháp Hoa có kệ tụng nói:

“Lại dùng phương tiện khác
Giúp bày Đệ nhất nghĩa”.

Lại nói: “Chỉ một sự thật đây”, tức là vô tác một thật đế vậy. Vì tánh của chân như là thật của tự tâm, gọi là một thật đế, niệm niệm viên thành, đâu là sở tác, gọi là vô tác bốn đế. Do đó tám ngàn vị Thanh văn ở trên hội Pháp Hoa thấy Như Lai tánh, như thu gom đông tàng, không có sở tác, vì đạt thấu gốc nên pháp nhĩ như đây, nếu chưa thấy tánh người chẳng thể an nhiên, khoanh tay bắt chước vô tác không tu, chỉ cần nước đến rảnh thành tự nhiên mặc tình. Nên lại chỉ rõ một tâm tự nhiên vô tác, chẳng phải là cưỡng làm. Nên nói ấm nhập đều như không khổ có thể bỏ, vô minh trần lao tức là Bồ-đề, không tập có thể đoạn. Biên tà đều trung chánh, không đạo có thể tu, sinh tử tức Niết-bàn, không diệt có thể chứng, không chỗ không tập nên không thế gian, không đạo không diệt nên không xuất thế gian, thuần một thật tướng. Ngoài thật tướng không pháp riêng biệt. Lại trong kinh Văn Thù Đạo Hạnh nói: “Phật bảo: Văn-thù Sư-lợi! Nếu thấy tất cả các pháp không khởi, tức giải khổ đế. Nếu thấy tất cả pháp không trú, tức năng đoạn tập. Nếu thấy tất cả các pháp rốt ráo Niết-bàn, tức năng chứng diệt, Văn-thù Sư-lợi! Nếu thấy tất cả các pháp không tự thể, tức là tu đạo”.

QUYỂN 77

Hỏi: Phàm, một niệm tâm vô minh, khuấy động biển chân như thành mười hai duyên khởi, làm căn do sinh tử. Nếu rõ đó là sóng biển Phật trí tan, nếu mê đó là dòng xoáy của sông sinh tử. Vậy thế nào là thành Phật trí, thế nào thành sinh tử?

Đáp: Phật trí của Thiên chân vốn có, sinh tử của vọng duyên thể không, tuy có hai tên mà chỉ là một nghĩa, chỉ nghĩa là chẳng rõ Đệ nhất nghĩa đế, gọi là vô minh, nhân chỗ mù tối của chẳng rõ mà thành các khổ của hoặc nghiệp. Rõ thật tánh của vô minh, thành diệu tâm của Niết-bàn. Nếu mê là hoặc nghiệp thì thành ba đạo: Một, vô minh ái thủ là phiền não đạo; Hai, hành và hữu là nghiệp đạo; Ba, thức danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, sinh, lão, tử là khổ đạo. Nếu ngộ là ba nhân Phật tánh: Một, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, sinh, lão, tử bảy chi này là Thánh nhân Phật tánh; Hai, vô minh, ái, thủ ba chi này là liễu nhân Phật tánh; Ba, hành, hữu hai chi này là duyên nhân Phật tánh. Các nghĩa như vậy sai biệt chẳng đồng, chỉ là một tâm mê thành nhiều thứ. Tuy thành nhiều thứ mà chẳng lìa một tâm. Trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Phật tử! Vị Đại Bồ-tát đây lại nghĩ rằng: “Chỗ có trong ba cõi chỉ là một tâm, Đức Như Lai ở đây phân biệt diễn nói có mười hai chi, đều y một tâm như vậy mà lập. Tại sao? Tùy sự tham dục cùng tâm cộng sinh, tâm là thức, sự là hành, ở hành mê hoặc gọi là vô minh, cùng vô minh và tâm cộng sinh, gọi là danh sắc. Danh sắc tăng trưởng là sáu xứ, sáu xứ ba phần hợp làm xúc, xúc cộng sinh là thọ. Thọ không chán đủ là ái, ái gồm chẳng xả bỏ là thủ, các chi hữu kia sinh là hữu, chỗ hữu khởi gọi là sinh, sinh thành thục là lão, lão hoại là tử”. Trong kinh Đại Tập nói: “Mười hai nhân duyên, một người một niệm đều là đầy đủ, chỉ tùy một cảnh, một niệm khởi ở, không gì chẳng đầy đủ. Vả lại như nhãn thấy sắc, chẳng rõ, gọi là vô minh, sinh ái ố (thương ghét) gọi là hành. Trong đó tâm ý gọi là thức. Sắc và thức hành gọi là danh sắc. Sáu thứ sinh tham gọi là Lục nhập. Sắc cùng nhãn tác đối gọi là xúc, lãnh nạp gọi là thọ, ở sắc triền miên gọi là ái, tưởng sắc tướng gọi là thủ, niệm sắc tâm khởi gọi là hữu, tâm sinh gọi là sinh, tâm diệt gọi là tử, cho đến ý tư pháp cũng lại như thế, một ngày một đêm phàm khởi bao nhiêu niệm, niệm niệm dệt thành bỗng nhiên mười hai nhân duyên, toàn là Như Lai tạng tâm Đệ nhất nghĩa, mê ngộ thăng trầm trọn chẳng thể được”. Trong Phụ Hành Ký nói: “Mười hai nhân duyên là ở trong các kinh Hoa Nghiêm Đại Tập v.v... đều nói một niệm tâm đầy đủ. Phàm, các kinh Đại thừa nói một niệm là, ý đều như vậy. Nếu chẳng vậy thì làm sao khắp cùng thâu tất cả các pháp”. Trong luận Chỉ Quán cũng nói: “Duyên sinh chánh một niệm tâm.”

Trong luận Thập Nhị Môn nói: “Hỏi: Là tại một tâm hay tại tâm khác?” Ý trong luận hỏi là tại một niệm tâm ở một người hay nhiều người ư? Như vậy một niệm hay khác niệm đều được. Nhiều người hay một người ở nay một niệm đều là đầy đủ, chỗ khởi tâm của nhiều người hay một người đều chẳng vượt ngoài trăm giới. Trăm giới là nhiều, một niệm là một, một nhiều tức là nhau chẳng phải một chẳng phải nhiều. Trong kinh Đại Phẩm nói rõ: Tất cả các pháp đều hướng đến nhân duyên, trăm giới nhân duyên chẳng vượt ngoài một niệm, cho nên gọi là hướng đến chẳng quá, nên được gọi là một niệm đầy đủ. Pháp sư Viễn nói: Vô minh Duyên hành là, có bốn vô minh: Một, mê lý vô minh, nghĩa thông thủy chung; Hai, phát nghiệp vô minh, tại nơi trước hành; Ba, phú nghiệp vô minh. Đây tại sau hành mà trước thức; Bốn, thọ sinh vô minh, cùng thức đồng thời, hoặc tại sau thức, trông chủng tử ở quá khứ, tâm thức ở tại sau thức, trông kết sinh thức cùng thức đồng thời. Lại các pháp trong ngoài đều đủ nhân duyên. Như trong kinh Đạo Cán nói: “Bấy giờ, Di-lặc nói với Xá-lợi-phất rằng: Đức Thế Tôn thường nói thấy mười hai nhân duyên tức là thấy pháp, thấy pháp tức là thấy Phật, cho đến có nhân có duyên, đó gọi là pháp nhân duyên. Đây là Đức Phật lược nói tướng nhân duyên, vì nhân đây năng sinh là quả, Đức Như Lai xuất hiện nói đời là pháp nhân duyên sinh, Đức Như Lai chẳng xuất hiện nơi đời cũng là pháp nhân duyên sinh, tánh tướng thường trú không các phiền não cứu cánh như thật, chẳng phải chẳng như thật, là pháp chân thật. Lìa pháp điên đảo. Lại nữa, pháp mười hai nhân duyên từ hai thứ sinh, Thế nào là hai? Một là nhân, hai là quả. Pháp nhân duyên sinh lại có hai thứ: Có nhân duyên bên trong, có nhân duyên bên ngoài. Pháp nhân duyên bên ngoài từ đâu mà sinh? Như tợ chủng tử năng sinh ở mầm, từ mầm sinh là, từ lá sinh tiết (mắt), từ tiết sinh cành, từ cành sinh nụ, từ nụ sinh hoa, từ hoa sinh quả, không chủng tử nên không mầm, cho đến không có hoa quả có chủng tử nên mầm sinh, cho đến có hoa nên quả sinh, mà chủng tử chẳng khởi nghĩ ta năng sinh mầm, mầm cũng chẳng khởi nghĩ ta từ chủng tử sinh, cho đến hoa cũng chẳng khởi nghĩ ta năng sinh thật. Thật cũng chẳng khởi nghĩ ta từ hoa sinh, mà thật chủng tử năng sinh mầm. Như vậy gọi là pháp nhân duyên bên ngoài. Thế nào gọi là pháp duyên sinh bên ngoài? Chỗ gọi là địa, thủy, hỏa, phong không thời. Địa chủng kiên trì, thủy chủng ẩm đượm, hỏa chủng thành thục, phong chủng phát khởi, không chủng chẳng làm chướng ngại, lại giả mượn nơi thời tiết khí hòa biến. Sáu duyên như vậy đầy đủ bên sinh. Nếu sáu duyên chẳng đầy đủ thì vật chẳng sinh. Địa, thủy, hỏa, phong không thời sáu duyên điều hòa chẳng tăng giảm thì vật được sinh. Địa cũng chẳng nói ta năng trì, thủy cũng chẳng nói ta năng nhuận, hỏa cũng chẳng nói ta năng thục, phong cũng chẳng nói ta năng phát khởi. Không cũng chẳng nói ta chẳng làm chướng ngại, thời cũng chẳng nói ta năng khiến sinh. Chủng cũng chẳng nói ta từ sáu duyên mà được sinh mầm, mầm cũng chẳng nói ta từ số duyên ấy sinh. Tuy chẳng khởi nghĩ từ số duyên ấy sinh, mà thật từ các duyên hòa hợp nên được sinh. Mầm cũng chẳng từ tự sinh, cũng chẳng từ tha sinh, cũng chẳng từ tự tha hợp sinh, cũng chẳng từ trời tự tại sinh, chủng chẳng từ thời mới sinh, cũng chẳng từ bản tánh sinh, cũng chẳng từ không nhân sinh, cho nên gọi là pháp sinh thứ lớp, pháp duyên sinh bên ngoài như vậy, vì năm sự nên phải biết chẳng đoạn cũng chẳng thường, cũng chẳng từ đây đến kia. Như mầm ít, quả thì lắm nhiều, tương tợ tương tục chẳng sinh vật khác. Cớ sao chẳng đoạn? Từ chủng mầm rễ nhành lần lượt tương tục nên chẳng đoạn. Cớ sao chẳng phải thường? Mầm nhánh hoa quả mỗi tự riêng biệt nên chẳng phải thường, cũng chẳng phải chủng diệt mà sau đó mầm sinh, cũng chẳng phải chẳng diệt mà mầm bèn sinh. Vì pháp nhân duyên mầm khởi chủng rụng mất, lần lượt sinh nên chẳng phải thường, chúng mầm mỗi mỗi khác nhau nên chẳng đây đến kia, chủng ít quả nhiều nên phải biết chẳng phải một, gọi là chủng ít quả nhiều, như chủng chẳng sinh khác quả nên gọi là tương tợ tương tục. Vì năm thứ duyên bên ngoài đây mà các pháp được sinh. Pháp nhân duyên bên trong có hai thứ sinh. Thế nào là nhân? Từ vô minh cho đến già chết, vô minh diệt thì hành diệt, cho đến sinh diệt nên lão tử. Nhân vô minh nên có hành, cho đến nhân có sinh nên có già chết diệt, vô minh chẳng nói ta năng sinh hành, hành cũng chẳng nói ta từ vô minh sinh, cho đến già chết cũng chẳng nói ta từ vô minh sinh, mà thật có vô minh thì có hành, có sinh thì có già chết. Đó gọi là pháp nhân bên trong lần lượt sinh. Thế nào gọi là pháp duyên sinh bên trong? Chỗ gọi là sáu giới: Địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới. Sao gọi là Địa? Nghĩa kiên trì (bền chắc gìn giữ) gọi là địa giới, sao gọi là thủy? Nghĩa là năng đượm nhuần tẩm gọi là thủy giới. Sao gọi là hỏa? Năng thành thục, gọi là hỏa giới. Sao gọi là phong? Hơi thở năng vào ra, gọi là phong giới. Sao gọi là không? Năng không chướng ngại, gọi là không giới. Sao gọi là thức? Bốn ấm năm thức, cũng gọi là danh, cũng gọi là thức, các pháp như vậy hòa hợp gọi là thân, tâm hữu lậu gọi là thức, bốn ấm như vậy làm năm tình, căn gọi là sắc, sáu duyên như vậy v.v... gọi là thân. Nếu sáu duyên khởi đầy đủ không tổn giảm, thì bèn thành nhân. Duyên đó nếu giảm thì thân chẳng thành. Địa cũng không nghĩ ta năng kiên trì, thủy cũng không nghĩ ta năng ướt đượm, hỏa cũng không nghĩ ta năng thành thục, phong cũng không nghĩ ta năng hơi thở ra vào, không cũng chẳng nghĩ ta năng không chướng ngại, thức cũng chẳng nghĩ ta năng sinh trưởng, thân cũng chẳng nghĩ ta từ số duyên ấy sinh. Nếu không sáu duyên đây thân cũng chẳng sinh. Địa cũng không ngã không nhân không chúng sinh không thọ mạng, chẳng phải nam chẳng phải nữ, chẳng phải chẳng phải nam chẳng phải chẳng phải nữ, chẳng phải đây chẳng phải kia. Thủy, hỏa, phong v.v... cho đến thức cũng đều không ngã không chúng sinh không thọ mạng, cho đến cũng chẳng phải đây chẳng phải kia. Sao gọi là vô minh? Vô minh là, ở trong sáu giới sinh trưởng một, tưởng tụ tưởng thường tưởng chẳng động tưởng chẳng hoại. Bên trong sinh tưởng lạc tưởng chúng sinh tưởng thọ mạng tưởng nhân tưởng ngã, tưởng ngã sở, sinh các thứ tưởng lắm nhiều như vậy, đó gọi là vô minh. Trong năm tình như vậy sinh tưởng tham dục sân nhuế, hành cũng như vậy. Tùy đắm trước tất cả pháp giả danh, gọi là thức. Bốn ấm là danh, sắc ấm là sắc, là danh sắc, danh sắc tăng trưởng sinh Lục nhập. Lục nhập tăng trưởng sinh xúc, xúc tăng trưởng sinh thọ, thọ tăng trưởng sinh ái, ái tăng trưởng sinh thủ, thủ tăng trưởng sinh hữu. Hữu tăng trưởng nên năng sinh hậu ấm là sinh. Sinh tăng trưởng biến gọi là lão. Thọ ấm bại hoại nên gọi là tử, năng sinh tật diệt nên gọi là ưu bi khổ não. Năm tình trái nghịch hại, gọi là thân khổ, ý chẳng hòa thích gọi là tưởng khổ, cho đến như mặt nguyệt tỏa sáng giữa trời, cách đất ba mươi hai ngàn do-tuần, trước chảy phía dưới trăng sáng ở trên, huyền tượng tuy một ảnh hiện các dòng nước mà thể trăng chẳng xuống chất nước chẳng lên. Như vậy, Xá-lợi-phất! Chúng sinh chẳng từ đời này đến đời sau, chẳng từ đời sau lại đến ở đây, nhưng có nghiệp quả nhân duyên báo ứng chẳng thể tổn giảm. Vì vậy, như trăng chẳng động, ảnh hiện các dòng, thức loại chẳng hành thân phân sáu thú, tuy không tác giả mà nghiệp quả rõ ràng. Chỉ theo duyên sinh chẳng trái pháp nhĩ. Lại, kinh Hữu Đức nữ Sở Vấn Đại Thừa nói: “Bấy giờ, Hữu Đức Bà-la-môn nữ thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Nói là vô minh, là có ở bên trong hay có bên ngoài ư? Đức Phật dạy: Chẳng phải vậy, Hữu Đức nữ thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu ở bên trong bên ngoài không có vô minh, cớ sao được có vô minh duyên hành.” Lại nữa, Bạch Thế Tôn! Có pháp ở đời khác mà lại đến đời này không? Đức Phật dạy: Không như vậy, Hữu Đức nữ lại thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Hành tướng vô minh là thật có ư? Đức Phật dạy: Chẳng như vậy. Tự tánh vô minh từ nơi hư vọng phân biệt mà sinh, chẳng phải chân thật sinh, từ điên đảo sinh, chẳng phải như lý sinh. Hữu Đức nữ lại thưa: bạch Đức Thế Tôn! Nếu như vậy thì không vô minh, cớ sao được có các hành sinh khởi ở trong sinh tử chịu thọ các khổ báo? Bạch Đức Thế Tôn! Như cây không rễ thì không các vật cành lá hoa quả v.v... vô minh như vậy không tự tánh nên hành v.v... sinh khởi quyết định chẳng thể được. Phật dạy: Này Hữu Đức nữ! Tất cả các pháp đều rốt ráo không, phàm ngu mê đảo chẳng nghe nghĩa không, giả sử nghe đó mà không trí nên chẳng rõ. Do đây tạo đủ các thứ các nghiệp. Đã có các nghiệp, thì các Hữu sinh, ở trong các Hữu, chịu thọ đủ các khổ. Đệ nhất nghĩa đế không có các nghiệp, cũng không các Hữu mà từ nghiệp sinh. Lại vì các pháp thứ lắm sự khổ não. Hữu Đức nữ! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tùy thuận thế gian rộng vì chúng sinh giảng nói các pháp, muốn khiến ngộ hiểu Đệ nhất nghĩa vậy. Hữu Đức nữ! Đệ nhất nghĩa là, cũng tùy thế gian mà lập danh tự. Tại sao? Ở trong thật nghĩa, năng giác sở giác tất cả thảy đều chẳng thể được vậy. Hữu Đức nữ! Thí như chư Phật hóa làm ở người, chỗ hóa người đây lại hóa làm các thứ các vật. Chỗ hóa người đó hư dối chẳng thật, vật của chỗ hóa cũng không thật sự. Đây cũng như vậy, chỗ tạo các nghiệp hư dối chẳng thật, từ nghiệp có sinh cũng không thật sự. Cho nên chỉ rõ yếu chỉ của Duy tâm tự nhiên muôn pháp thường hư. Tùy có thấy nghe, đều thuận đạo của không sinh, phàm liên quan động tác đều quy về môn của không được.

Hỏi: Mười hai chi đây, cớ sao gọi là duyên sinh, lại gọi là duyên khởi?

Đáp: Không có chủ tể tác giả thọ giả, không tự tác dụng, không được tự tại, có rồi tan diệt, chỉ chỗ pháp hiển bày, năng nhuận sở nhuận đọa lạc pháp tương tục, gọi là duyên sinh. Trong luận nói: “Do phiền não trói buộc, đến trong các thú, luôn luôn sinh tử, nên gọi là duyên khởi”. Lại ở nhân gọi là duyên khởi, ở quả gọi là duyên sinh.

Hỏi: Một niệm vô minh tâm khởi mười hai chi, là tự sinh hay tha sinh hay cộng sinh hay không nhân sinh?

Đáp: Duyên khởi rất sâu mầu, chẳng phải bốn câu có thể đo lường. Rõ thì một tâm ngầm lặng, mê thì sáu đường luân hồi, chẳng phải vọng, chẳng phải chân, chẳng thường chẳng đoạn. Nếu nói là vọng, vọng chẳng thể được. Nếu nói là chân, lại năng lưu chuyển. Nếu nói là đoạn, tương tục luôn sinh. Nếu nói là thường, niệm niệm khởi diệt. Do đó từ tâm sinh vậy. Sinh không năng sinh, không có định tánh. Trong luận Phật Tánh nói: “Lại nữa, tất cả các pháp không có tự tánh. Tại sao? Nương nhân duyên sinh vậy. Thí như lửa y tha mà sinh, lìa củi tức chẳng thể thấy, cũng như lửa đom đóm, nếu lửa có tự tánh thì nên lìa củi không trung tự nhiên.” Trong luận Tạp Tập nói: “Các pháp duyên khởi tuy sát-na thì thành diệt, mà trú có thể được, tuy không tác dụng duyên mà có công năng duyên có thể được, tuy lìa hữu tình mà hữu tình có thể được, tuy không tác giả mà các nghiệp quả chẳng hoại có thể được, cho nên sâu mầu, nghiệp quả chẳng thể hoại là, tuy bên trong không tác giả mà có tác nghiệp thọ quả dị thục. Lại, các pháp duyên khởi có sai biệt, nghĩa là đợi các duyên sinh nên chẳng phải tự tác, tuy có các duyên mà không chủng tử chẳng sinh nên chẳng phải tha tác. Kia cùng chung không tác dụng nên chẳng phải cộng tác, chủng tử và các duyên đều có công năng nên chẳng phải không nhân tác. Nói như trên là ước về môn thế tục duyên khởi. Nếu như thật nói còn chẳng thấy một pháp là duyên hay chẳng phải duyên, huống gì là mười hai. Tôn giả Trạm Nhiên nói: Chẳng thấy sắc tướng là chi hành diệt, chẳng thấy sắc duyên là vô minh diệt, chẳng thấy sắc thể là thức danh sắc lục nhập xúc thọ diệt. Chẳng thấy sắc sinh là ái thủ hữu sinh diệt, chẳng thấy sắc diệt là lão tử diệt. Chẳng thấy một tướng là chẳng thấy mười hai nhân duyên không, chẳng thấy người thấy là chẳng thấy nhân duyên giả, chân tục đều mất, hai đế đều sạch, cũng chẳng thấy trung. Thông đặt rõ biết nhân duyên như vậy, nếu vì đây liệt bày thấy muôn pháp cũng lại như vậy.

Hỏi: Muôn cảnh vô minh và pháp tánh một tâm là một hay là hai, nếu là một thì không nên phân hai tên nhiễm tịnh. Nếu là hai cớ sao trong giáo nói vô minh tức pháp tánh?

Đáp: Thể một là chân, tên hai là giả. Pháp, nhân tình lập chân, dùng trí rõ tình, trí tự phân chân, vốn chẳng động chẳng thể định đồng, chẳng hoại thế tục đế, chẳng thể định dị chẳng mất chân đế. Nên trong kinh Niết-bàn nói: “Minh và vô minh, người ngu phân làm hai, người trí rõ thấu, tánh nó không hai. Tánh của không hai tức là thật tánh.” Các bậc Cổ đức căn cứ mười pháp giới giải thích: Người ngu là ngu của chín giới, người ngu thủ tướng thấy tất cả pháp. Pháp tánh tùy tâm thủ tướng đó đều là vô minh, như hang cốc lạnh ngàn năm băng cứng chưa từng làm nước vậy. Người trí là trí của Phật giới, viên quán hành nhân khai mở mắt Phật thấy đồng Phật xưa trước vậy, chỗ mắt tròn thấy vô minh vốn nguyên là pháp tánh thanh tịnh, như thái dương thường chiếu nước biển chưa từng làm băng vậy. Băng nước một tánh, tùy duyên phân hai. Một chẳng giữ tự tánh luôn tự tùy duyên, tuy là tùy duyên mà chẳng hoại tự tánh, so với pháp tánh vô minh cũng sao định một, cũng sao định khác, thì chẳng tùy sự mà mất thể, chẳng phải cộng chẳng phải phân, chẳng giữ tánh nên mặc duyên cũng đồng cũng riêng biệt.

Hỏi: Nhân mới đầu của ba cõi, nguyên thủy của bốn loài, chẳng cùng gốc ngọn đó, không biện hết căn do. Trang tử chỉ đó là tự nhiên, Chu Khổng gọi đó là hỗn độn. Xứ khởi đầu tiên làm sao chỉ bày?

Đáp: Muốn biết căn do chân thật về thân độ của hữu tình, không gì trước ngã tâm, lại không pháp nào khác. Nghĩa là tâm pháp từng sát-na theo tự loại tương tục, giới thời từ vô thủy triển chuyển lưu lại, chẳng đoạn chẳng thường, cậy duyên cậy đối, chẳng phải khí chẳng phải bẩm, chỉ thức chỉ tâm. Trong Triệu Luận Sao nói: “Trang tử nói: “Không tên đầu tiên của trời đất, có tên là mẹ của muôn vật”. Nếu theo ý Phật giáo thì vì Như Lai tạng tánh chuyển biến làm thức tạng, từ thức tạng biến ra tất cả chủng tử căn thân khí thế gian, suy tìm hóa đó, vốn tức Như Lai tạng tánh làm vật đầu tiên vậy, không sinh vô thủy là tánh của vật vậy. Sinh thủy chẳng năng động ở tánh tức pháp tánh vậy”. Trong luận Quân Thánh của Thẩm Ước ở thời Nam Tề nói: “Vậy thì trời đất này đến nay do một niệm vậy”. Đại sư Dung hỏi: Ba cõi bốn loài lấy gì làm đạo bản? Lấy gì làm pháp dụng?

Đáp: Hư không là đạo bản, sum-la là pháp dụng.

Hỏi: Ở trong ai làm tạo tác?

Đáp: Trong đây thật không tạo tác. Tánh pháp giới tự nhiên sinh. Trong kinh Kim Cang Tammuội nói: “Pháp thiện và bất thiện từ tâm hóa sinh. Có thể gọi là cửa của tổng trì, thâu tóm của muôn pháp vậy. Ánh sáng chưa phát ở còn không tên đó, lúc niệm dục sinh tợ phân ảnh đó. Mới đầu nhân cưỡng giác dần khởi rõ biết, kiến tướng mới phân, tâm cảnh chóng hiện. Trong kinh Thủ-lăng-nghiêm nói: “Đều là giác minh minh liễu biết tánh, nhân liễu phát tướng, từ vọng kiến sinh, núi sông đất liền các tướng hữu vi, lần lượt chuyển đổi. Nhân hư vọng đây, cuối chẳng lại đầu”.

Giải thích: Đây đều đầu tiên nhân mê một pháp giới nên bất giác niệm khởi, niệm khởi tức là động tướng. Động tướng tức là nghiệp thức thứ nhất, chưa phân năng sở là lỗi của giác minh vậy. Từ đây biến làm năng duyên chuyển thành liễu tướng, tức minh liễu biết tánh, là kiến phần chuyển thức thứ hai. Sau đó, nhân kiến phần mà sinh tướng phần, tức nhân liễu pháp tướng là tướng phần thứ ba. Hiện thức năng sở vừa mới phân đều thành hư vọng. Tại sao? Kiến phần sinh ở mắt màng, tướng phần hiện ở huyễn hình, từ đó kín đối căn trần, chắc sinh tình chấp từ đây cách khỏi tánh chân, phân ra trạm (lắng), viên (tròn)ở trong chấp nhận tri giác, làm thân của hữu thức, ở ngoài lìa chấp tưởng lắng, thành cõi nước của vô tình, bèn khiến hình ảnh của trong gương diệt mà lại sinh, núi sông trong mộng cuối mà lại đầu, chỉ vì cội nguồn biển tánh chẳng từ năng sở mà sinh, lắng vậy tròn sáng chiếu mà thường lặng lẽ, chỉ vì chúng sinh trái nghịch tánh chẳng rõ, trái gốc tròn sáng, chấp có chỗ sáng, thành vọng kiến. Nhân sáng lập cảnh của sở quán, nhân sở khởi tâm của năng quán, năng sở cùng sinh, tâm cảnh đối đãi, tùy duyên mất tánh chỗ trở lại nguồn mới đầu, chẳng hay chẳng biết vì trải qua số kiếp như bụi trần. Do đó, trong kinh nói: “Giác chẳng phải chỗ sáng, nhân sáng lập sở, sở đã vọng lập sinh vọng năng của ông, trong không đồng khác, hừng hực thành dị. Khác chỗ khác kia nhân khác lập đồng, đồng khác phát minh, nhân đây lại lập không đồng không dị, như vậy quấy loạn đối đãi nhau sinh nhọc, nhọc lâu phát trần, tự tướng hỗn tục. Do đó dẫn khởi trần lao phiền não, khởi làm thế giới, tĩnh thành hư không. Hư không là đồng, thế giới là khác, kia không đồng khác, thật pháp hữu vi, giác minh không mờ tối, đối đãi nhau thành lay động, nên có phong luân gìn giữ thế giới, nhân không sinh lay động, bền chắc sáng lập ngại. Vàng báu kia là, minh giác lập bền chắc nên có kim luân bảo trì cõi nước, kiên giác báu thành lay động sáng phong ra. Phong kim xác nhau nên có ánh sáng lửa, làm tánh biến hóa. Báu sáng đượm nhuần nung nấu trên ánh sáng lửa, nên có thủy luân, bao hàm mười phương giới, hỏa lên thủy xuống, giao nhau phát lập bền chắc, ẩm ướt làm biển lớn, khô ráo làm châu đản (bãi cát), vì nghĩa đó, nên trong biển lớn ánh sáng lửa thường khởi, trong bãi cát kia, sông suối thường trút đổ. Nước thế yếu, lửa kết thành núi cao. Cho nên đá núi đập nhau thì thành bốc cháy, dung hòa thì thành nước. Đất thế kém nước rút làm cây cỏ, cho nên rừng chầm gặp thiêu đốt thành đất đất bụi, nhân thắt chặt thành nước, giao vọng phát sinh đắp đổi nhau làm chủng, vì nhân duyên đó thế giới tương tục”. Xưa trước giải thích: Giác minh không mờ tối đối đãi nhau thành lay động là, do mới đầu vọng giác ảnh, minh chẳng rõ, bèn thành không mờ tối, như chướng sáng sinh tối hai tướng cùng hình. Giác minh tức là tướng động, không mờ tối tức là tướng tĩnh, một sáng một tối, một động một tĩnh, sát-na cùng thành, như gió khơi động sóng đối đãi nhau chẳng dứt, ở bên trong mới đầu khởi tức gọi là lay động, ở bên ngoài tức thành thế giới phong luân. Không mờ tối tức là hư không, đã không hình tướng, chẳng gọi là thế giới. Nhân không sinh lay động, bền chắc sáng lập ngại là, địa tướng vậy. Nhân không khác sáng đối đãi nhau thành lay động. Lay động năng bền chắc sáng để thành ở ngại. Như Thai gặp gió tức thành cứng ngại, cũng là nghĩa chấp sáng sinh ngại, ở bên trong tức là giác minh bền chắc chấp, ở bên ngoài tức thành vàng báu, nên nói vàng báu kia là minh giác lập bền chắc, nên biết tánh báu nhân giác minh mà có, cho nên các báu đều có ánh sáng, Tiểu thừa chỉ biết nghiệp cảm, mà chẳng biết là nhân chủng gì, bền chắc giác báu thành lay động sáng phong ra, phong kim xát nhau nên có ánh sáng lửa làm tánh biến hóa là, bền chắc chấp giác tánh tức thành ở báu, chỗ lay động sáng tức ra ở phong, động tĩnh chẳng dứt tức là phong kim xát nhau, ở bên ngoài tức thành ánh sáng lửa năng thành thục muôn vật, nên nói là tánh biến hóa. Báu sáng sinh đượm nhuần nung nấu trên ánh sáng lửa nên có thủy luân bao hàm mười phương giới, là thể tánh của báu sáng có ánh sáng đượm nhuần, là lửa nóng nung nấu nước bèn chảy ra. Lại, giác minh sinh ái, ái tức là đượm nhuần, ở bên trong tức là ái minh, ở bên ngoài tức thành báu nhuần nung nấu trên tánh hỏa dung hòa ái thành thủy. Tất cả nghiệp chủng chẳng phải ái tức chẳng thành, tất cả thế gian chẳng phải nước tức chẳng gồm. Nên tánh bốn đại qua lại nhân nhờ thể chẳng lìa nhau, đồng chỗ một vọng tâm biến khởi, nên biết hoa đốm giữa hư không chẳng lìa tâm vậy. Lại, vọng tánh chẳng luôn, trước sau biến đổi khác, chỗ cảm tướng bên ngoài hơn kém chẳng đồng. Ái tâm nhiều tức thành biển lớn, chấp tâm nhiều tức thành châu đản, phong tánh sinh mạn, hỏa tánh sinh sân, ở sắc khởi ái nước chảy trong bãi, trái nghịch ái sinh sân lửa nổi trong biển. Mạn tăng ái kém kết làm núi cao, ái tăng mạn nhẹ rút làm cỏ cây. Sân ái mạn ba thứ qua lại đượm tràn khác loại thành hình, cỏ cây núi sông ngàn sai muôn phẩm, trước từ vọng tưởng kết thành bốn đại, từ bốn đại tánh ái mạn đượm sinh, lìa tâm hữu tình là không thể khác, giao vọng phát sinh đắp đổi cùng làm chủng. Lại nói: Tôn giả Phú-lâu-na bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu là thế gian tất cả căn trần ấm xứ giới v.v... đều là Như Lai tạng bản nhiên thanh tịnh, cớ sao chợt sinh núi sông đất liền v.v... các tướng hữu vi? Lần lượt chuyển đổi cuối cùng mà trở lại đầu. Lại nghi ngờ rằng: Nếu Diệu giác bản Diệu giác minh đây cùng tâm Như Lai chẳng tăng chẳng giảm không tướng trạng, chợt nhiên sinh ra núi sông đất liền các tướng hữu vi. Như Lai nay đắc diệu không minh giác, núi sông đất liền hữu vi tập lậu đâu hợp lại sinh? Phật dạy: Phú-lâuna. Như điều ông nói, bản nhiên thanh tịnh, cớ sao chợt sinh núi sông đất liền? Ông thường chẳng nghe Như Lai tuyên nói tánh giác Diệu minh bản giác minh diệu ư? Phú-lâu-na thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Con đã từng nghe Đức Như Lai tuyên nói nghĩa đó. Phật dạy: Ông xưng giác minh là lại tánh minh xưng danh là giác, là giác chẳng minh xưng là minh giác, Phú-lâu-na thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu chẳng minh đây gọi là giác thì không chỗ minh. Phật dạy: Nếu không chỗ minh thì không minh giác, có sở chẳng phải giác, không sở chẳng phải minh, không minh lại chẳng phải giác lắng minh tánh. Tánh giác hẳn minh vọng làm minh giác. Giác chẳng phải sở minh, nhân minh lập sở, sở đã vọng lập, sinh vọng năng của ông, trong không đồng khác hừng hực thành khác. khác sở khác kia, nhân khác lập đồng. Đồng bị phát minh, nhân đây lại lập không đồng không khác như vậy quấy loại đối đãi nhau sinh nhọc, nhọc lâu phát bụi trần, tự tướng hỗn đục, do vậy dẫn khởi trần lao phiền não, khởi làm thế giới tĩnh thành hư không, hư không là đồng, thế giới là khác, kia không đồng khác thật pháp hữu vi”. Giải thích: Nghĩa hai giác đây ý chỉ sâu mầu khó rõ, nếu muốn chỉ bày phải phân đen trắng. Đại khái kinh luận có hai thứ giác: Một, tánh giác; Hai, bản giác. Lại có hai thứ Bátnhã: Một, bản giác Bát-nhã; Hai, thủy giác Bátnhã. Lại có hai thứ tâm: Một, tự tánh tâm thanh tịnh; Hai, lìa cấu tâm thanh tịnh. Lại có hai thứ chân như: Một, tại triền chân như; Hai, xuất triền chân như. Như bốn thứ đây danh tùy nghĩa khác, thể tức thường đồng. Nay, tất cả chúng sinh chỉ có tánh giác thanh tịnh. Bản giác, tự tánh tâm thanh tịnh, tại triền chân như v.v... ở trong Bản nhiên thanh tịnh vọng chợt sinh nơi núi sông đất liền. Vì tại triền chưa lìa chướng vậy. Chưa được xuất triền chân như v.v... nếu mười phương chư Phật hai giác đều tròn, đã đủ xuất triền chân như v.v... không có vọng tưởng trần lao, trọn hợp với Bản nhiên thanh tịnh thì chẳng lại sinh núi sông đất liền các tướng hữu vi v. v... như vàng ra khỏi quặng trọn chẳng nhiễm ở bụi bùn, như cây gỗ thành tro đâu có sinh lại cành lá, theo hai giác đây rồi thông suốt nghi tình. Tánh giác diệu minh là, tự tánh tâm thanh tịnh, tức Như Lai tạng tánh, tại triền chân như v.v... bản tánh thanh tịnh chẳng bị phiền não nhiễm ô gọi là tánh giác. Trong kinh nói: Phật bảo A-nan và cả đại chúng: Các ông phải biết thế giới hữu lậu mười hai loại sinh Bản giác diệu minh giác viên tâm thể, cùng mười phương Phật không hai không khác, do ông vọng tưởng mê lý làm lỗi, si ái phát sinh, sinh phát khắp cùng mê nên có tánh không, hóa mê chẳng dứt có thế giới sinh, thì mười phương vi trần cõi nước đây chẳng phải vô lậu, đều là mê ngoan vọng tưởng an lập. Phải biết hư không sinh bên trong tâm ông, giống như tảng mây điểm trong bầu trời trong sạch, huống gì các thế giới tại hư không ư? Trong các ông một người phát chân trở lại mới đầu thì mười phương hư không đây thảy đều tiêu mất, làm sao giữa hư không chỗ có cõi nước mà chẳng chấn nát”. Dùng kinh văn đây để rõ, tức biết phàm Thánh vốn đồng giác của Diệu minh đây. Bản giác Diệu Minh là xuất triền chân như v.v... từ trí không phân biệt giác hết vọng niệm từ vô thủy, gọi là cứu cánh giác, thủy giác tức là bản giác, giác của ngộ bản nên được tên bản giác. Trong luận nói: Ở môn chân như gọi là tánh giác, ở môn sinh diệt gọi là bản giác. Do mê tánh giác đây mà có vọng niệm. Vọng niệm nếu hết mà lập bản giác. Vì tánh giác chẳng từ năng sở mà sinh, chẳng phải nhờ mượn tu chứng mà khởi. Vốn tự diệu mà thường minh, nên gọi là tánh giác diệu minh. Vì thủy giác Bát-nhã minh diệu của tánh giác, nên gọi là Bản giác minh diệu. Lại, tánh của chân như, tánh tự rõ vậy, thì tánh giác diệu minh. Trí của thủy giác, rõ bản tánh vậy thì bản giác minh diệu. Lại trong luận Ma-ha-diễn nói có bốn thứ giác: Một, Bản giác thanh tịnh; Hai, Bản giác nhiễm tịnh; Ba, Thủy giác thanh tịnh; Bốn, Thủy giác nhiễm tịnh. Nếu luận về sự của bản thủy tối sánh thì đều nương giác của nhiễm tịnh mà được tên. Nếu thanh tịnh nguồn giác thì ngu trí đều tuyệt, chẳng phải chỗ được của mê ngộ, há năng phân tích văn nghĩa.” Trong kinh Đức Phật thường nói chân như là mê ngộ nương tựa, nên như muôn tượng nương hư không. Hư không không chỗ nương tựa. Do đó Mãn từ tử lãnh ngộ nói: con thường nghe Phật tuyên nói nghĩa này. Nghĩa hai giác đây cũng đồng như chỗ luận Đại Thừa Khởi Tín lập một tâm phân hai môn chân như và sinh diệt. Vì bản tánh thanh tịnh là nghĩa tánh giác, chỉ lấy bản giác trong tánh, như tánh lửa trong cây gỗ chưa đủ nhân duyên có mà không dùng, chẳng phải ngộ rồi mà lại khởi mê. Lúc mới đầu ngộ lập hiệu của bản giác, ngộ bản giác rồi, không trở lại mê, chư Phật trở lại làm phàm phu là điều không thể có. Phật hỏi: Ông xưng giác minh là lại giác tánh tự minh gọi là giác minh hay, là đại giác thể chẳng minh? Năng giác ở minh. Ý Phúlâu-na hẳn có chỗ minh xứng tình, là sở giác đó. Nếu không minh của sở giác, thì không hiệu của giác minh. Chỉ có thể xưng giác mà không sở minh, nên nói thì không sở minh. Ý Đức Phật là tánh giác thể tánh tự minh, chẳng nhân năng giác sở minh mới xưng là giác minh. Trong luận Đại Thừa Khởi Tín nói: “Chân như tự thể có nghĩa đại trí tuệ quang minh. Nghĩa chiếu khắp pháp giới v.v... chỉ duyên mê một pháp giới, cưỡng phân năng sở nên thành ở vọng”. Nếu cần nhân sở minh mới xưng là giác minh, đây là nhân tha mà lập, chẳng phải tự tánh giác, nên nói có sở chẳng phải giác, như duyên trần phân biệt mà có vọng tâm, lìa trần thì không có thể, chẳng thể đem tâm của đoạn diệt để làm chân giác xưa nay vậy. Nếu đem pháp của không thể làm cứu cánh là, như trong kinh nói: Pháp thân thì đồng lông rùa sừng thỏ, đó ai tu chứng vô sinh pháp nhẫn. Lại giải thích: Nếu đem chẳng minh gọi là giác, thì không sở giác. Nên biết giác thể vốn không tướng minh. Phật chứng chân tế thật chẳng thấy minh. Nếu thấy ở minh tức là sở minh. Đã lập sở minh, bèn có năng giác. Chỉ trừ minh của năng sở mới xưng là diệu minh. Minh của diệu đây là minh của chẳng minh. Chẳng đồng sở minh nhân minh khởi chiếu. Nên trong luận Bát-nhã Vô Tri nói: “Cật nạn: Không của Thánh trí và không của hoặc trí đều không sinh diệt. Vì sao khác đó ư? Đáp: Không của Thánh trí và vô tri (không biết), không của hoặc trí là tri vô (biết không), không đó tuy đồng. Sở dĩ không mà khác vậy. Tại sao?

Phàm, Thánh tâm rỗng lắng không biết có thể không, có thể gọi là vô tri, chẳng phải gọi là tri vô. Hoặc trí có biết nên có biết có thể không, có thể gọi là tri vô. Chẳng phải gọi là vô tri vậy”. Nên Bát-nhã vô tri là không chỗ chẳng biết. Vô tri là, không biết của năng sở, không chỗ chẳng biết là chân như tự tánh có nghĩa chiếu khắp pháp giới. Lại, Thánh nhân chỉ có tâm của không tâm, thấy của không thấy, chẳng đồng phàm phu có tâm có thấy, đều là tướng phân biệt năng sở mà sinh vậy. Trong kinh Niết-bàn nói: “Chẳng thể thấy rõ rõ thấy”. Trong kinh Hoa Nghiêm có kệ tụng nói:

“Không thấy tức là thấy,
Năng thấy tất cả pháp
Ở pháp nếu có thấy
Đây thì không chỗ thấy.”

Lại nói: “Bồ-tát đều thấy các pháp mà không chỗ thấy. Biết khắp tất cả mà không chỗ biết, thì Bát-nhã ba-la-mật-đa vô tri mà không chỗ chẳng biết vậy”. Chỉ chẳng lạc vào biết của có không, thấy của năng sở, chẳng phải là đều không thấy biết vậy. Chư Phật đều đủ năm mắt ba trí bốn biện sáu thông, ba đế lý viên một tâm đầy đủ. Nếu chẳng thấy không và chẳng không chẳng phải không chẳng phải chẳng không, mới cùng thật tướng tương ưng vậy. Nên trong kinh Lăng-già nói: “Mỗi một tướng tương ưng xa lìa lỗi các thấy là, nếu ở các thường thường cùng thật tướng tương ưng, tự nhiên xa lìa các lỗi, hợp với Đệ nhất nghĩa, chân tâm thanh tịnh sáng rõ thấu suốt mà không niệm đắm trước, tức sự tức như, chỉ tâm thẳng tiến, tức chỗ chư Phật biết chỉ thật tướng vậy. Lìa đây lập thấy đều thành các lỗi, không chỗ chẳng phải sáng là, nếu thể của năng sở cần nhân sở minh là, nếu không minh của sở giác, thì thể của năng giác bèn chẳng phải là minh. Nên nói không chỗ chẳng phải minh. Nên biết giác đó cùng với minh qua lại giả lập, vốn không tự thể, đâu thành tự tánh giác của viên minh ư. Vô minh lại chẳng phải giác lắng minh tánh là, hiển bày vọng giác thể không dụng của lắng minh. Nếu nói chỉ giác ở minh, sao phải giác thể tự minh? Thì tự tánh chẳng phải minh, bèn không dụng của giác lắng. Nên nói vô minh lại chẳng phải giác lắng minh tánh. Tánh giác hẳn minh vọng làm minh giác là, giải thích vọng giác gá tướng của thân vậy. Tại sao được biết vọng giác mới đầu khởi có giác minh, chỉ duyên tánh giác hẳn có chân minh. Do đó, vọng giác gá tánh minh đây mà khởi ảnh giác của minh chấp minh của ảnh tượng, khởi giác của phan duyên, mê chân nhận ảnh kiến phần tướng phần, từ đây mà sinh hiệu của minh giác, giác chẳng phải sở minh, nhân minh lập sở là, phàm, giác của một chân, thể tánh tuy minh mà chẳng phân năng sở nên giác chẳng phải sở minh. Do ảnh minh khởi giác năng sở đây nhân, nên nói là nhân minh lập sở, sở đã vọng lập sinh vọng năng của ông. Trong không đồng khác, hừng hực thành khác là, đây thì nguyên nhân giác minh khởi chiếu sinh sở, sở lập chiếu tánh bèn mất, thì là thức tinh nguyên minh năng sinh các duyên. Duyên chỗ sót lại là, mới là chỉ tùy tướng của năng duyên che lấp chân tánh Duy thức, một hướng năng sở cùng sinh, như gió động nước gợn sóng tương tục, tánh của lắng yên ẩn mà chẳng hiện, từ đây mê vọng sinh tánh của hư không. Lại nhân hư không thành lập hình của thế giới, ở chân không một tâm rốt ráo trong không đồng khác, hừng hực kiến lập thành các pháp khác của cứu cánh, đều nhân tình tưởng nhiễu loạn, nhọc phát trần của thế gian, mê vọng hôn trầm dẫn khởi giới của hư không, phân thế giới sai biệt làm khác, lập hư không thanh tịnh làm đồng, ở trong thức phân biệt, lại lập không đồng không khác, đều là pháp của hữu vi, đều thành duyên của sinh diệt, chưa suốt cội nguồn, trọn là hý luận.

QUYỂN 78

Hỏi: Phàm nói một giác tất cả giác, cớ sao trong giáo phân nhiều thứ đó?

Đáp: Giác thể là một, tùy dụng phân nhiều. Dụng có cạn sâu, giác không trước sau. Như trong kinh Anh Lạc nói: “Diệu giác mới xưng tịch chiếu, Đẳng giác chiếu tịch”. Lại, giác có ba nghĩa: Một, giác sát, như ngủ mộng tỉnh, cũng như người cảnh giác giặc, giặc không thể làm. Vọng tức là giặc vậy; Hai, giác chiếu, tức chiếu lý sự vậy, cũng như hoa sen mở chiếu thấy tự tâm một chân pháp giới có hằng sa tánh đức, như thắng nghĩa đó giác các pháp vậy; Ba, Diệu giác, tức hai giác trên lìa giác và sở giác nên làm diệu vậy. Chẳng phải lại riêng biệt giác. Nên trong kinh nói: “Không có Phật Niết-bàn, xa lìa giác sở giác”. Lại, giác tánh không giác tức trí căn bản, giác tướng rõ ràng tức trí hậu đắc.

Hỏi: Đã nói chân như một tâm, xưa nay chẳng đổi khác, cớ sao mà có chúng sinh tương tục?

Đáp: Bình đẳng chân pháp giới, không Phật không chúng sinh tùy nơi duyên nhiễm tịnh bèn thành mười pháp giới. Vì chân như tùy duyên chẳng giữ tự tánh, chỉ vì chúng sinh chẳng tự biết tánh của không tánh vậy. Chỉ tùy nhiếp duyên thành phàm, tùy tịnh duyên thành Thánh. Như hang cốc hư rỗng âm vang mặc tình duyên chỗ phát. Lại như thái hư chợt mây nổi, tợ gương chợt bụi dính, cầu một niệm khởi ở mới đầu trọn không thể được, nên gọi là vô thủy vô minh. Trong kinh Thủ-lăng-nghiêm nói: “Phật bảo: A-nan! Sao gọi là chúng sinh điên đảo? A-nan! Do tánh minh tâm tánh minh nên vậy. Nhân minh phát tánh, tánh vọng thấy sinh, từ rốt ráo không thành rốt ráo có. Có và chỗ có đây chẳng phải nhân và chỗ nhân, tưởng trú và chỗ trú trọn không căn bản. Bản đây không trú kiến lập thế giới và các chúng sinh. Mê gốc viên minh là sinh hư vọng. Vọng tánh không thể chẳng phải có, chỗ nương tựa sắp muốn lại chân, muốn chân rồi chẳng phải chân tánh chân như. Chẳng phải chân cầu lại rõ thành chẳng phải tướng, chẳng phải sinh chẳng phải trú chẳng phải tâm chẳng phải pháp dần chuyển phát sinh sinh lực, phát minh huân để thành nghiệp. Đồng nghiệp cùng cảm, nhân có cảm nghiệp cùng diệt cùng sinh, do vậy nên có chúng sinh điên đảo.” Xưa trước giải thích: Nhân minh phát tánh tánh vọng thấy sinh, nhân gá tánh minh biến ảnh mà khởi. Gá ảnh mà sinh, từ hư chấp có, nên nói từ rốt ráo không thành rốt ráo có tức là nghiệp tướng vậy, có và chỗ có đây chẳng phải nhân và sở nhân là chuyển tướng vậy. Nghiệp tướng là năng có, chuyển tướng sở có. Năng sở đã phân hai tướng đây có. Nên nói tướng có và chỗ có tức chuyển tướng đây năng hành hiện hình mà lập, nhân trước mà khởi, dẫn sau mà sinh, dần chuyển nhân nhau, gọi là chẳng phải nhân và chỗ nhân, tức hiện tướng đây năng dẫn cảnh giới sáu trần. Hiện tướng là năng trú, sáu trần là sở trú. Nên nói tướng trú và chỗ trú, vốn không trú đây lấy lập thế giới là hiện tướng từ chỗ vọng lập, vốn không chỗ nương tựa. Hiện tướng đây lấy thành gốc của thế giới. Nên nói vốn không trú đây lấy lập thế giới, từ gốc không trú lập tất cả pháp. Không trú, tức là vô minh, vô minh không nhân nên không trú. Ba tướng đây đều là vô thủy một niệm vọng tâm gọi chung là vô minh. Mê gốc viên minh là sinh hư vọng, vọng tánh không thể chẳng phải có chỗ nương tựa. Sắp muốn lại chân, muốn chân rồi chẳng phải chân tánh chân như. Chẳng phải chân cầu lại chuyển thành chẳng phải tướng, chẳng phải sinh chẳng phải trú chẳng phải tâm chẳng phải pháp là, mới đầu là nghiệp tướng tức là tâm của vọng giác thể tức hư vọng. Vọng đây mới đầu khởi lại không nhân đầu tiên, gọi là chẳng phải có chỗ nương tựa, sắp muốn lại chân, muốn chân rồi chẳng phải buông bỏ chuyển tướng, tức ảnh tượng trên chân tương tợ chân chẳng phải chân vọng giác chấp đây là chân, tức niệm mới đầu gọi là động, động hẳn có tĩnh. Tĩnh lại tợ chân hình động lập tĩnh, chẳng phải chân chẳng động, nên nói muốn chân rồi chẳng phải chân tánh chân như. Vốn chẳng nhân động mà lập ở tĩnh. Nên nói chẳng phải chân cầu lại rõ thành chẳng phải tướng buông bỏ hiện tướng. Từ hiện tướng đây biến khởi tất cả cảnh giới, chẳng phải tướng hiện tướng chẳng phải sinh hiện sinh chẳng phải trú hiện trú, chẳng phải tâm hiện tâm chẳng phải pháp hiện pháp, buông bỏ lần lượt là mới đầu từ hai tướng tối sáng cùng hình mà sinh ở sắc, tức là kết tối thành sắc hình hiển bày sắc vậy, nhân sắc tức có căn trần lưu ngại gọi đó là trú. Nhân có căn trần tức có thức năng phân biệt gọi đó là tâm, trông nhìn ảnh tượng trần đây làm thức cảnh giới gọi đó là pháp. Các thứ đây dần chuyển nhân nhau mà có, trở lại hiển bày tướng chân như không tối sáng, không tướng hình nên chẳng phải tướng, không khởi diệt nên chẳng phải sinh, không lưu ngại nên chẳng phải trú, không duyên lự nên chẳng phải tâm, lìa ảnh tượng trần nên chẳng phải pháp. Lại giải thích: Hoặc trước nêu ba tướng nhân nhau mà có để nêu bày thứ lớp, ba tướng sau hợp buông bỏ đều nói ba tướng hư vọng, thể tức vô minh lại không sở nhân, nên nói chẳng phải có chỗ nương tức ba tướng đây ảnh chân mà khởi, tợ chân chẳng phải chân, chấp ảnh làm thật. Nên nói sắp muốn lại chân, ảnh đã chẳng thật, nên nói muốn chân rồi chẳng phải rõ thành chẳng phải tướng. Dưới đối vọng nói chân để lập danh hiệu. Đã nương vọng hiển bày chân đế lập danh hiệu, nên biết kiến lập địa vị từ đây mà có. Nếu chẳng nhân vọng nói chân cũng không danh tự địa vị có thể nói. Nên biết ba cõi pháp có đều chỗ nắn thành vốn không đầu mối, từ vô thủy vọng tập dần chuyển tương truyền, mãi đến nay đây thành đường vết đó. Như mới đầu một người nắn ra một sự, người sau tin nhận dần chuyển truyền nhau thì một người truyền dối muôn người truyền thật, từ mê tích chứa mê suốt số kiếp như bụi trần. Nếu biết một niệm mới đầu khởi ở chẳng chân, tức chóng ngộ quấy trước đường lớn bằng phẳng, không các sự khác. Như nói chỉ biết ngày nay phải, sao lo năm xưa quấy? Là biết hữu tình và vô tình rốt ráo nguồn đầu tiên đó đều chẳng vượt ngoài bản tế một tâm như trong luận Pháp Tánh nói: “Hỏi: Bản tế có thể được nghe chăng?

Đáp: Lý diệu khó quán nên có thuyết của chẳng biết. Chỉ vi hiếm thấy nên phát hỏi của Tràng Anh”. Có vị trời tên là Tràng Anh, hỏi điều Vănthù Sư-lợi nói: Bản tế nghĩa là gì ư? Văn-thù đáp: Nguồn của chúng sinh, gọi là Bản tế. Lại hỏi: Nguồn của chúng sinh là nghĩa gì?

Đáp: Gốc của sinh tử là nguồn chúng sinh. Lại hỏi: Ở kia sao gọi là gốc sinh tử.

Đáp: Gốc của hư không là nguồn sinh tử. Khi ấy Tràng Anh ôm Huyền Âm mà thôi hỏi, mới ngộ gốc của chẳng trú. Nếu vậy thì đầu tiên của nhân duyên có thể nghe mà chẳng thể rõ, có thể còn mà chẳng thể luận.

Hỏi: Hư không có gốc chăng?

Đáp: Không.

Hỏi: Nếu không có gốc, cớ sao nói gốc của hư không là nguồn sinh tử?

Đáp: Đây còn là gốc của Bản tế vậy. Thì ở hư không không gốc làm tông của các gốc. Hóa bày không hóa, làm phủ của muôn hóa vậy. Lại, phàm cũng là tâm, Thánh cũng là tâm, sở dĩ tập xứ dưới chẳng năng tự dẫn thì đắm chìm trần lao vậy. Nếu đem tâm gá sự thì hẹp kém, nếu đem tâm theo tâm thì rộng lớn. Phàm, người đời phần nhiều bên ngoài trọng sự đó mà bên trong hiểu tâm đó, cho nên chỗ làm đều chẳng phải cứu cánh, do vì chỗ kèm ty (thấp hèn) nên vậy, như con nhặng của trâu đấu bay cùng cực chỉ trăm bước, nếu gá đuôi chim loan thì một vỗ cánh xa đến muôn dặm, chẳng phải công của cánh đó gá nhanh chóng vậy, cũng như cỏ ở đầu vách tường, âm thanh của trong rừng đều năng đến cao xa là, ưu thắng của chỗ gá vậy. Như vào Tông Kính mỗi mỗi gá ở tự tâm thì sợi lông suốt cả biển lớn, mảy trần bao hàm cả mười phương, há chẳng phải sâu rộng ư?

Hỏi: Trong ngoài Duy thức, tâm cảnh đều không, cớ sao trong giáo lại lập tướng bên ngoài?

Đáp: Nhân rõ tướng không mới bàn nói Duy thức, nếu chấp có tướng thì nghĩa Duy thức chẳng thành, nếu chấp không tướng thì lý chân không chẳng hiển. Vì không tướng tức tướng mới đạt chân không, tướng tức không tướng mới rõ Duy thức. Do đó, trong luận Nhiếp Đại Thừa nói: “Đạo lý Duy thức phải có rõ ba tướng: Một, thông đạt duy lượng, trần bên ngoài thật không chỗ có vậy; Hai, thông đạt duy hai, tướng và kiến chỉ thức vậy; Ba, thông đạt các thứ sắc sinh”, chỉ có các thứ tướng mạo mà không thể vậy. Vì vậy, trong luận Nhiếp Đại Thừa nói: “Tất cả tướng có hai thứ đó là hiện trú và sở lập, chỗ tán tâm duyên sáu trần gọi là hiện trú. Chỗ định tâm duyên cốt khóa v.v... là sở lập”. Lại nữa, tợ trần hiển hiện gọi là tướng, nghĩa là cảnh sở duyên. Tợ thức hiển hiện gọi là kiến, nghĩa là thức năng duyên. Hai pháp đây: một là nhân, hai là quả. Lại, một là sở y, hai là năng y. Là biết nhân bên trong khởi niệm tưởng tượng tư duy thì bên ngoài hiện tướng mạo đó. Niệm nếu chẳng khởi, tướng chẳng hiện tiền, vì nhân bên trong sinh bên ngoài vậy, gồm ngọn về gốc toàn cảnh là tâm. Tại sao? Nếu tâm chẳng khởi, cảnh vốn không vậy, tất cả cảnh giới chỉ tâm vọng động. Hỏi: Căn cứ thế gian vọng kiến quyết định là thức nào?

Đáp: Chỗ chúng sinh thấy tức là loạn thức. Trong luận Trung biên phân biệt nói: “Nghĩa là tất cả thế gian chỉ duy loạn thức. Loạn thức đây cớ sao gọi là hư vọng? Do cảnh chẳng thật, do thể tán loạn. Lại nếu chấp trọn không loạn thức, thì trói buộc và giải thoát đều chẳng thành tựu, tức khởi tà kiến, đánh tan tịnh và bất tịnh phẩm. Nên biết nhân mê được ngộ, chẳng phải không nguyên do, từ phàm vào Thánh bởi có duyên do. Như ảnh tượng bày nói gương sáng, nhân vọng thức thành chân trí. Hỏi: Chỗ thấy trong định, sắc quả định và định tâm tự nhiên, chẳng phải duyên sắc hiện tại bên ngoài, lại chẳng phải nhớ giữ cảnh quá khứ, có thể nghiệm là Duy tâm. Người chưa đắc định đều là tán ý chỗ thấy sắc bên ngoài làm sao chứng tự tâm đó?

Đáp: Bên trong định, bên ngoài định, tỉnh loạn tuy khác, sắc của chỗ thấy đều chỉ tự thức, vì cảnh bên ngoài không thể, theo duyên mà sinh. Tánh sinh vốn không, không tướng có thể được. Trong luận Duy Thức nói: “Như chỗ thấy trong định của người quán hạnh, cảnh giới sắc tướng là chỗ thức hiển hiện, quyết định không cảnh giới”. Các sắc tướng xanh v.v... đây là định cảnh chẳng phải chỗ thức nhớ giữ (ức trì). Thức nhớ giữ có nhiễm ô, khởi hiện tiền đây, chỗ thấy phân minh thanh tịnh, thì yếu chỉ của Duy thức ở đây càng hiện rõ. Như mặt y tựa gương thì chỉ có tự mặt, ngoài ra không ảnh riêng khác. Tại sao? Các pháp hòa hợp đạo lý chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể thấy pháp mà khiến được thấy tâm định cũng vậy. Tâm định có hai phần: Một phần tợ thức, một phần tợ trần, hai thứ đây thật chỉ là thức. Nếu thức nhớ giữ là sắc ở quá khứ, sắc trong định đây, nếu tại năm thức tán tâm, có thể nói là duyên trần bên ngoài ở hiện tại khởi. Nếu tán ý thức duyên trần ở quá khứ khởi, nếu tại trong quán hẳn chẳng được duyên sắc bên ngoài làm cảnh, sắc tại hiện tiền, lại chẳng phải duyên cảnh ở quá khứ. Phải biết chỗ tâm tịnh duyên sắc tức thấy tự tâm chẳng thấy cảnh riêng khác. Vì sắc trong định sánh sắc ngoài định, nên biết cũng không cảnh riêng biệt. Vậy biết một tâm tức muôn pháp, muôn pháp tức một tâm. Tại sao? Và một tâm chẳng động khắp thể là muôn pháp vậy. Như trong Khởi Tín Sao Thích Sớ nói: Khắp thể, nghĩa là chân như khắp thể thành sinh diệt, sinh diệt không tánh tức là chân như. Chưa từng có chân như ở chẳng sinh diệt, chưa từng có sinh diệt ở chẳng chân như. Lại nói: Chẳng đồng không là, linh nhiên giác tri, giác tri tức là nghĩa thần giải. Âm dương chẳng lường, gọi đó là thần, giải tức là trí, trí tức là tri. Tri tức một tâm vậy, nên lấy tri làm thể tâm. Do đó, Tổ sư nói: “Trên thể không tịch tự có bản trí năng trí”. Đại ý là: Ở trong tất cả pháp nhiễm tịnh có thể của chân thật, rõ ràng sai biệt, gọi đó là tâm.

Hỏi: Các cảnh giới bên ngoài, để xứng thức bên trong tợ sắc hiển hiện, chỉ là Duy thức, cớ sao chẳng tùy thức biến khác?

Đáp: Nếu chấp sắc bên ngoài thật trú, tức là ở trong không sắc thấy sắc, vọng sinh điên đảo, như nắn mắt tự sinh hai tướng, đâu là chân thật. Trong luận Nhiếp Đại Thừa nói: “Hỏi: Nếu không phân biệt sắc trần chỉ là bản thức, cớ sao hiển hiện tợ sắc v.v...? Cớ sao tương tục bền trú trước sau tương tợ? Nếu là chỗ thức biến khác làm, thì nên chợt khởi chợt diệt, cải chuyển chẳng định, cớ sao một sắc ở trong nhiều thời tương tục trú lâu? Nên biết nên có sắc riêng biệt.

Đáp: Do vì điên đảo, điên đảo là căn bản phiền não, do thức biến khác, khởi các phân biệt. Tánh y tha và tánh phân biệt tương ưng, tức là điên đảo là xứ phiền não nương dừng. Điên đảo phiền não lại là thức biến khác xứ chỗ nương dừng. Nên không nghĩa qua lại làm nương dừng thì thức không biến khác. Ở trong chẳng phải vật phân biệt làm vật, chẳng nên có điên đảo đây. Nếu không phiền não, đâu có Thánh đạo, nên nghĩa đây cũng chẳng thành, cho nên phải tin lìa thức không pháp riêng biệt.

Hỏi: Tâm bên trong phân biệt xưng là thức, sắc bên ngoài chẳng phân biệt, thế nào là thức?

Đáp: Năng kiến sở kiến đều là loạn thức, không chấp bên trong có sắc vốn tự hư. Trong luận Nhiếp Đại Thừa nói: “Loạn thức là, không chấp bên trong có gọi là loạn. Trong mười một thức, thế v.v... sáu thức tùy một thức, chỉ hai phần: Một phần biến dị thành tướng sắc v.v... một phần biến dị thành kiến v.v... chẳng vượt ngoài hai đây. Thức tánh năng phân biệt thì thành kiến, chẳng năng phân biệt thì thành tướng”. Như trong kinh Vô Sở Hữu Bồ-tát nói: “Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Vô Sở Hữu rằng: “Ông phải vì các Bồ-tát đây nói sự năm ấm tụ hòa hợp thân”. Bồ-tát Vô Sở Hữu thưa: “Bạch Đức Thế Tôn! Như chỗ con thấy, như Phật sắc không, con sắc cũng vậy. Như Phật sắc chúng sinh sắc tất cả cây rừng cỏ thuốc sắc cũng vậy. Như tất cả cây rừng cỏ thuốc sắc, thì tất cả giới kia hòa hợp tụ sắc cũng vậy, chỗ có không sắc và sắc con sắc Như Lai, sắc tất cả chúng sinh, sắc tất cả cây rừng cỏ thuốc v.v... Sắc tất cả giới hòa hợp tụ, không có hai tướng, chẳng phải pháp chẳng phải chẳng phải pháp. Các người thiếu trí ở trong không sắc, hoặc khởi tưởng là hy vọng muốn vào pháp đây, hành ở trong không sắc khởi tưởng hành. Lược nói cho đến trong thọ tưởng hành thức, làm như chỗ sắc làm như vậy. Như thức hư không, thức con cũng vậy. Như thức kia, thức Như Lai cũng vậy. Như thức tất cả chúng sinh thức kia, thức tất cả chúng sinh cũng vậy. Như thức tất cả chúng sinh, thức kia, thức tất cả cây rừng cỏ thuốc cũng vậy. Thức chân hư không, thức Như Lai và thức con thức tất cả chúng sinh, thức tất cả cây rừng cỏ thuốc cũng vậy. Tất cả hòa hợp, thức không hai tướng, chẳng thể biết chẳng thể phân biệt, chẳng sinh vô đẳng đẳng”.

Hỏi: Đã xưng chỉ có thức, sao được lập danh sắc?

Đáp: Tất cả danh đều là nghĩa khách, trong danh không pháp, trong pháp không danh, danh chẳng đáng pháp, pháp chẳng đáng danh. Trong kinh nói: “Là tự tánh không sinh không diệt không nhiễm không tịnh. Sắc đây không chỗ có là không tướng, nếu có sinh tức có nhiễm, nếu có diệt tức có tịnh. Do không bốn nghĩa đây, nên sắc không tất cả riêng biệt. Trong kinh nói: Do giả lập danh khách tùy nói các tướng. Trong luận Nhiếp Đại Thừa nói: “Tất cả pháp lấy thức làm tướng, chân như làm thể”. Lại nói: Tất cả tướng có hai thứ: Một, hiển hiện bên ngoài như; Hai, hiển hiện bên trong như. Bên ngoài như là tướng, bên trong như là tư duy. Nên biết một thể hiện hai, trong ngoài hai phần, thì tâm chẳng phải trong ngoài. Trong ngoài là tâm. Lại, năng sở cùng thành, tâm cảnh gồm thu. Hai mà chẳng hai, thường ngầm nguồn chân của một vị. Chẳng hai mà hai, luôn phân tướng hư của tâm cảnh.

Hỏi: Tâm niệm niệm diệt sát-na tướng, thân bên trong sắc bên ngoài cũng sát-na diệt ư?

Đáp: Trong ngoài các sắc chỉ tâm chấp thọ, cũng tùy tâm niệm niệm sát-na diệt. Bên ngoài tâm lại không một pháp có thể làm thường trú có thể làm sinh diệt. Trong luận Tạp Tập nói: “Như tâm tâm pháp là sát-na tướng, phải biết sắc v.v... cũng sát-na tướng. Có tám nghĩa đó: Một, do tâm chấp thọ, nghĩa là sắc v.v... thân, do sát-na tâm niệm, niệm chấp thọ nên sát-na diệt v.v...; Hai, an nguy như tâm, nghĩa là sắc v.v... thân luôn cùng thức câu, thức nếu bỏ lìa tức bèn rã hoại; Ba, tùy tâm chuyển biến, nghĩa là thế gian hiện thấy tâm tại các vị khổ lạc tham sân v.v... thân tùy biến chuyển. Tùy sát-na tâm mà chuyển biến nên thân niệm niệm diệt; Bốn, là tâm sở y, nghĩa là thế gian cộng biết tâm nương dừng có căn thân, như lửa nương củi, như mầm nương hạt giống v.v... cho nên thân đây là sát-na tâm nương dừng nên cũng sát-na diệt; Năm, tâm tăng thượng sinh, nghĩa là tất cả sắc trong ngoài đều chỗ tâm tăng thượng mà sinh. Nhân năng sinh sát-na diệt nên quả sở sinh cũng sát-na diệt; Sáu tâm tự tại chuyển, nghĩa là nếu chứng đắc tâm thắng oai đức, ở nơi tất cả sắc, như chỗ đó muốn tự tại chuyển biến, do tùy sát-na năng biến thắng giải chuyển biến sinh nên sắc v.v... sátna sinh. Đạo lý diệt thành tựu; Bảy, ở quả vị sau cùng biến hoại có thể được, nghĩa là các sắc v.v... mới đầu lìa tự tánh niệm niệm biến hoại ở vị sau cùng chợt nhiên biến hoại chẳng ứng đạo lý, nhưng đây có thể được. Nên biết sắc v.v... từ mới đầu trở lại niệm niệm biến hoại, tự loại tương tục, dần tăng làm nhân, năng dẫn tướng thô sau cùng biến hoại. Cho nên sắc v.v... niệm niệm sinh diệt; Tám, sinh rồi chẳng đợi duyên tự nhiên hoại diệt. Nghĩa là tất cả pháp từ duyên sinh rồi chẳng đợi duyên hoại tự nhiên hoại diệt. Nên biết tất cả pháp có thể diệt hoại mới đầu vừa sinh rồi tức bèn hoại diệt. Cho nên nghĩa các pháp sát-na thành. Trong luận Đại Trí Độ nói: “Nếu các pháp thật có chớ nên vì tâm thức, nên biết có tướng, nếu vì tâm thức nên biết có thì là chẳng phải có, như địa tướng bền chắc, thì thân căn thân thức biết nên có, nếu không thân căn thân thức thì biết không tướng bền chắc. Lại nhân hòa hợp sinh nên không, chỉ tâm nên không, là biết sắc bên trong sắc bên ngoài đều thức kiến lập, tùy tâm có không thật không tự thể.

Hỏi: Luận chỉ có tâm bên trong thật không cảnh bên ngoài. Như tu nghiệp thập thiện hưởng thọ lạc thiên đường, tạo tội ngũ nghịch chịu khổ địa ngục, lên trời Đao-lợi thì năm dục vui mắt, đọa ngục nêlê thì muôn khổ nát thân, vui mắt có việc phụng linh bay liệng, chim loan làm hoan lạc, nát thân thì có hiểm hoạ rắn sắt chó đồng làm bức não. Rõ biết chẳng phải chỉ tâm bên trong cảnh bên ngoài vậy?

Đáp: Tướng của thiên đường địa ngục khổ lạc, đều là ảnh quả báo nghiệp nơi tự tâm. Đã do tâm tạo tác làm nhân trở lại do tự tâm nhận chịu làm quả. Nên trong kinh nói: Chưa có tự làm tha chịu. Nay tạm căn cứ địa ngục giới thọ khổ để chứng rõ duy tâm, trong mười pháp giới kể ra đều như vậy. Trong luận Duy Thức nói: “Hỏi: Thế nào là bốn đại biến chuyển? Bốn đại kia các thứ biến chuyển, động tay chân v.v... và miệng nói phô, khiến người thọ tội sinh kinh sợ. Như có hai con dê từ hai bên lại cùng giết hại, chúng sinh ở địa ngục kia thấy có các núi hoặc lại hoặc đi giết hại chúng sinh, vì nghĩa đó nên chẳng được nói là chỉ có tâm bên trong không có cảnh bên ngoài?

Đáp: Có kệ tụng nói:

“Nếu nghiệp chúng sinh
Bốn đại như vậy biến
Tại sao chẳng nương nghiệp
Tâm chuyển biến như vậy”.

Vừa rồi ông nói nghiệp người tội kia, bốn đại bên ngoài v.v... chuyển biến như vậy, cớ sao chẳng nói nương lực tội nghiệp chúng sinh kia nên tự tâm thức bên trong chuyển biến như vậy? Lại có kệ tụng nói:

“Nghiệp huân ở pháp khác
Quả cớ sao khác xứ
Thiện ác luân ở tâm
Cớ sao lìa tâm nói?”

Nên kệ tụng nói:

“Nghiệp huân ở pháp khác
Quả cớ sao khác xứ là”.

Đây là nghĩa gì? Chúng sinh chịu khổ trong địa ngục kia, chỗ có tội nghiệp nương bản tâm tạo, trở lại tại trong tâm chẳng lìa nói tâm. Vì nghĩa đó, nên ác nghiệp huân tâm, trở lại ứng trong tâm chịu quả báo khổ. Tại sao? Vì nghiệp thiện ác huân ở tâm thức, mà chẳng huân bốn đại v.v... bên ngoài kia, vì trong bốn đại không chỗ huân sự. Cớ sao hư vọng phân biệt nói phô bốn đại chuyển biến ở trong bốn đại chịu quả báo khổ? Cho nên, kệ tụng nói:

“Thiện ác huân ở tâm
Cớ sao lìa tâm nói”.

Như trong kinh Vô Tận Ý Bồ-tát nói: “Chỗ Bồtát làm tinh tấn thường cùng thân miệng ý tương ưng. Tuy thân miệng tinh tấn đều do ở tâm, tâm làm tăng thượng. Cớ sao Bồ-tát tâm tinh tấn? Chỗ gọi là tâm thủy tâm chung. Thế nào là tâm thủy? Là mới phát tâm vậy. Thế nào là tâm chung? Tâm Bồ-đề tịch diệt vậy. Vậy biết khởi hết đều tâm, đầu cuối đều vậy, chẳng phải chỉ tịnh nghiệp, muôn sự đều vậy, chẳng vượt ngoài một tâm viên mãn giác đạo. Lại như dầu hết đèn tắt. Nghiệp sạch khổ mất, nếu quyết định có cảnh bên ngoài khả quan, chẳng phải chỗ bên trong cảm, chỉ hợp với thời gian dài chịu khổ, không kỳ hạnh giải thoát. Đã có thời gian thôi nghỉ, phải biết là không thật, có thể nghiệm tâm sinh là pháp sinh tâm diệt là pháp diệt vậy. Do đó, tất cả chúng sinh từ vô thủy đến nay, tạo nhân hư vọng thọ quả hư vọng, đều từ tình kết, chỉ theo tưởng sinh. Do đó trong kinh Thủ-lăng-nghiêm nói: “Bấy giờ, Tôn giả A-nan và cả đại chúng, cho đến mà bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu Diệu minh chân tịnh đây, diệu tâm xưa nay tròn khắp, như vậy cho đến đại địa cây cỏ xuẩn động hàm linh vốn nguyên chân như, tức là Như Lai thành của chân thể Phật chân thật. Cớ sao lại có các đường địa ngục ngạ quỉ súc sinh A-tu-la người trời v.v...? Bạch Đức Thế Tôn! Các đường ấy là xưa nay tự có, hay bởi chúng sinh vọng tập sinh khởi? Bạch Đức Thế Tôn! Như Tỳ-kheo Ni Bảo Liên Hương trì giới Bồ-tát, riêng hành sự dâm dục, vọng nói hành dâm chẳng phải trộm chẳng phải giết, không có nghiệp báo. Nói lời đó rồi, trước tiên nơi nữ căn phát sinh lửa dữ, sau khắp các tiết lửa dữ thiêu đốt, đọa vào địa ngục vô gián. Vua Tỳ-lưuly, Tỳ-kheo Thiện Tinh. Vua Tỳ-lưu-ly giết diệt dòng tộc Cù-đàm, Tỳ-kheo Thiện Tinh vọng nói tất cả pháp không, thân đang sống mà bị vùi lấp vào địa ngục A-tỳ, các địa ngục đây là có định xứ, hay tự nhiên bởi các người kia phát nghiệp mỗi mỗi riêng thọ? Cúi mong Thế Tôn giũ lòng từ bi chỉ bày cho hàng ngu tối, khiến tất cả các chúng sinh trì giới nghe nghĩa quyết định, hoan hỷ kính vâng cẩn thận trong sạch không phạm”. Phật dạy: “Anan! Lành thay câu hỏi này! Khiến các chúng sinh chẳng vào tà kiến, ông nay lắng nghe, ta sẽ vì ông nói. A-nan! Tất cả chúng sinh thật vốn thanh tịnh, nhân vọng kiến kia có vọng tập sinh. Nhân đây phân mở phần bên trong phần bên ngoài. A-nan! Phần bên trong tức là bên trong chúng sinh phần, nhân các ái nhiễm phát khởi vọng tình, tình chất chứa chẳng thôi, năng sinh nước ái, cho nên tâm chúng sinh nhớ thức ăn ngon trong miệng chảy nước dãi, tâm nhớ người trước, hoặc thân hoặc hận, trong mắt ngấn đầy lệ, tâm tham cầu của báu, phát nước dãi ái khắp thân sáng nhuận, tâm đắm trước hành dâm, hai căn nam nữ tự nhiên chảy nước. Anan! Các ái tuy riêng biệt lưu kết là đồng, nhuần ướt chẳng lên tự nhiên theo xuống, đó gọi là phần bên trong. A-nan! Phần bên ngoài, tức là ngoài chúng sinh phần, nhân các khát ngưỡng phát minh tưởng dối, tưởng tích chứa chẳng thôi, năng sinh khí ưu thắng. Cho nên tâm chúng sinh nghiêm trì giới cấm, khắp thân nhẹ sạch, tâm trì chú ấn, liếc trông hùng nghị, tâm muốn sinh lên trời, mộng tưởng bay nổi. Tâm ở cõi Phật cảnh Thánh ngầm hiện, phụng sự Thiện tri thức, tự khinh thân mạng. A-nan! Các tưởng tuy riêng biệt mà nhẹ nổi là đồng, bay động chẳng chìm tự nhiên siêu vượt, đây gọi là phần bên ngoài”. Nên biết nhân tình dính đắm năng thành nước ái, tẩm thấm chẳng thôi tự nhiên thành rơi xuống, vì đất tình u ẩn nên làm phần bên trong. Vì dấy niệm duyên trần, thủ ảnh tượng gọi là tướng, vận động tán loạn nên gọi là phần bên ngoài, tất cả cảnh giới chẳng phải tưởng chẳng sinh. Nên trong kinh nói: Tất cả các cõi nước chỉ tưởng duy trì. Đó gọi là Bồ-tát mới phát tâm.

Lại, trong kinh Hoa Nghiêm có kệ tụng nói:

“Các Phật tử dõng mãnh
Tùy thuận vào diệu pháp
Khéo quán tất cả tưởng
Lưới buộc ở thế gian
Các tưởng như dương diệm
Khiến chúng sinh đảo giải
Bồ-tát khéo biết tưởng
Bỏ lìa tất cả đảo
Chúng sinh mỗi riêng khác
Hình loại chẳng một thứ
Rõ thấu đều là tưởng
Tất cả không chân thật
Mười phương các chúng sinh
Đều bởi tưởng che lấp
Nếu bỏ điên đảo kiến
Thì diệt tưởng thế gian
Thế gian như dương diệm
Vì tưởng có sai biệt
Biết đời trú ở tưởng
Xa lìa ba điên đảo
Thí như lúc nóng đốt
Đời thấy cho là nước
Nước thật không chỗ có
Người trí chẳng nên cầu
Chúng sinh cũng như vậy
Thế thú đều không có
Như lửa trú ở tướng
Không ngại cảnh giới tâm
Nếu lìa nơi các tưởng
Cũng lìa các hý luận
Kẻ ngu si đắm tưởng
Đều khiến được giải thoát
Xa lìa tâm kiêu mạn
Trừ diệt tưởng thế gian
Trú khắp xứ vô tận
Là Bồ-tát phương tiện”.

Lại nói: Thí như có người sắp mạng chung, thấy tùy chỗ nghiệp họ thọ báo tưởng hành ác nghiệp, thấy ở địa ngục ngạ quỉ súc sinh, chỗ có tất cả các cảnh giới khổ, hoặc thấy ngục tốt tay cầm binh trượng, hoặc sân hoặc mắng trì nắm dẫn đi, cũng nghe âm thanh gào khóc bi thán, hoặc thấy sông tro, hoặc thấy vạc sôi, hoặc thấy núi dao, hoặc thấy cây kiếm, các thức bức bách chịu các khổ não, người tạo nghiệp thiện, tức thấy tất cả cung điện các trời, vô lượng chúng trời, các thể nữ trời, các thứ y phục, đầy đủ trang nghiêm, cung điện vườn rừng đều là xinh đẹp. Thân tuy chưa chết, mà do nghiệp lực thấy sự như vậy. Trong luận Đại Trí Độ nói: “Như thành Càn-thát-bà chẳng phải thành, tâm người tưởng làm thành, phàm phu cũng như vậy, chẳng phải thân tưởng làm thân, chẳng phải tâm tưởng làm tâm. Nên biết địa ngục thiên đường vốn không định xứ, thân còn chưa đến đã hiện tự tâm, cảnh chẳng hiện tiền chỉ tâm vọng thấy. Có thể nghiệm cảnh của khổ lạc, vốn không từ đâu ra, sự của thiện ác chỉ tự vời lại, không là không, chẳng phải vọng sinh vọng tử. Như Đại sư Đạt-ma nói: “Do mình thấy nên chẳng đắc đạo”. Mình tức là ngã vậy. Nếu không ngã là gặp vật chẳng phải quấy, phải là ngã tự phải, mà vật chẳng phải phải vậy. Quấy là ngã tự quấy mà vật chẳng phải quấy vậy. Nếu vào Tông Kính, ngã pháp đều không, tâm cảnh tự mất, phải quấy đều tịch, thần tánh độc lập, đối đãi không từ đâu. Đó đều ngộ bản mà thành, chẳng phải nhân học mà được. Như các bậc Tiên đức nói: “Cảnh tự hư chẳng phải sợ, trọn sáng sớm soi chiếu trông nhìn vốn không đối, giả sử nắm giữ thân phù huyễn, mặc tình đều không lưỡi thân ý”. Lại người xưa có kệ tụng nói: “an thần sạch phải quấy, hiện thân nước An lạc”. Do đó trong luận nói: “Cảnh trí rỗng rang, gọi là cõi Phật”. Lại như có người học hỏi Hòa thượng Bách Trượng: “Đối tất cả cảnh, làm sao được tâm như gỗ đá?” Đáp: “Tất cả pháp vốn chẳng tự nói phải quấy dơ sạch, cũng không tâm trói buộc người, chỉ người tự hư vọng chấp trước làm, bao nhiêu thứ giải khởi, bao nhiêu thứ thấy sinh bao nhiêu thứ sợ mến, chỉ rõ các pháp chẳng tự sinh, đều từ tự mình điên đảo thủ tướng mà có. Biết tâm và cảnh vốn chẳng đảo ngược nhau, ngay đó giải thoát, mỗi mỗi các pháp mỗi mỗi các tâm, ngay đó tịch diệt, ngay đó đạo tràng. Lại tánh của vốn có, chẳng thể gọi đặt, xưa nay chẳng phải phàm chẳng phải Thánh, chẳng phải ngu chẳng phải trí, chẳng phải dơ chẳng phải sạch, cũng chẳng phải không, có thiện ác và các nhiễm pháp tương ưng gọi là chúng sinh giới, cùng các tịnh pháp tương ưng gọi là trời người Nhị thừa. Nếu tâm dơ sạch hết, chẳng trú trói buộc giải thoát, không tất cả tâm lượng hữu vi, vô vi, trói, thoát v.v... ở nơi sinh tử, tâm đó tự tại, rốt ráo chẳng cùng các trần lao huyễn hóa uẩn giới sinh tử các nhập hòa hợp, chóng nhiên chẳng trú, tất cả chẳng móc buộc, khứ lai vô ngại, qua lại sinh tử như cửa mở tương tợ.

Hỏi: Địa ngục đã là chẳng phải tình, cớ sao động tác?

Đáp: Là chỗ nghiệp lực chẳng thể nghĩ bàn của hữu tình cảm nên, khiến chúng sinh thọ tội tự thấy có sự như vậy. Như thành kiếp phong tuy là vô tình cũng năng thành kiếp, tợ đá nam châm đâu có thức tưởng cũng khiến sắt chuyển dời, giả sử chúng sinh luân hồi sáu thú thiện ác thăng trầm, thật không chủ tể, nhân pháp đều không. Do đó, các bậc Tiên Đức nói: “Qua lại không ngằn mé, động tỉnh một nguồn, bao hàm các diệu mà có thừa, vượt nói nghĩ mà chóng ra”. Đó chỉ là pháp giới ư? Nên biết nên vào một khoảng bên trong của pháp giới, có gì sai biệt. Năng sở ngầm hợp, cánh trí đồng như, đâu có thể lại có một pháp làm động làm tĩnh, tùy chuyển của nghiệp thức ư? Nếu chưa vào pháp giới, chẳng ngộ tông đây, chỉ có một pháp đáng tình, đều là nghiệp thức của tự, lìa bên ngoài của thức, quyết định không pháp.

Hỏi: Phàm chỗ hành xử đều là tự tâm, cớ sao sát sinh mà bị tội sát?

Đáp: Đều là y ở tự tâm phân biệt, cưỡng chấp nhân của thiện ác, vọng thọ quả của khổ lạc. Nếu rốt ráo thể của ba luân, năng sát sở sát vốn không. Do đó Văn-thù múa kiếm nơi Cù-đàm, Ương-quật cầm dao nơi Thích-ca, trọn chẳng thấy sinh thấy sát, chấp tự chấp tha vọng thọ luân hồi đáp lại tội báo. Trong luận Duy Thức nói: “Hỏi: Nếu ba cõi kia chỉ là tâm bên trong, không có thân miệng cảnh bên ngoài. Cớ sao các thợ săn mổ giết hại heo dê v.v... bị tội sát sinh ư? Có kệ tụng nói:

“Tử nương ở tâm khác
Cũng có nương tự tâm
Nương các thứ nhân duyên
Phá mất thức tự tâm”.

Giải thích: Như người nương quỷ Tỳ-xá-xà v.v... cho nên mất tâm, hoặc nương tự tâm cho nên mất tâm, hoặc có nhớ nghĩ các sự ái và chẳng ái cho nên mất tâm. Hoặc có mộng thấy quỷ đắm mất tâm. Hoặc có Thánh nhân thần thông chuyển biến người trước mất tâm. Như có vị Tỳ-kheo ban đêm giẫm đạp vỏ bí, cho là mình giết ễnh ương, lúc chết vào đường ác. Nên nói chết nương nơi tâm khác, tâm khác cũng có nương tự tâm là, vì nương tiên nhân sân tâm, sân Tỳ-ma-chất-đa-la A-tu-la vương nên giết các chúng sinh khác. Đây nương tâm khác, tâm chúng sinh khác hư vọng phân biệt, mạng căn rụng diệt, vì thân mạng kia tương tục đoạn tuyệt. Nên biết như vậy. Có kệ tụng nói:

“Kinh nói Đàn-noa-ca Nước Ca-lăng-ma-đăng Tiên nhân sân nên không Cho nên tâm nghiệp nặng”.

Hỏi: Nương tiên nhân sân tâm, nương tiên nhân quỷ giết hại chúng sinh ba nước như vậy, chẳng phải nương tiên nhân sân tâm mà chết ư?

Đáp: Đức Phật hỏi Ni-càn-tử: Chúng sinh ở ba nước Ma-đăng-già v.v... ông đã từng nghe cớ sao mà chết, là thân nghiệp sát? Hay ý nghiệp sát ư? Ni-càn-tử đáp: Cù-đàm! Xưa trước tôi từng nghe tiên nhân sân tâm vì ý nghiệp giết hại chúng sinh ấy vậy. Đức Phật bảo: Vậy là thành nghĩa của ta. Ba cõi Duy tâm, không nghiệp thân miệng. Tại sao? Như người đời nói giặc đốt núi rừng tụ lạc thành ấp, mà chẳng nói lửa đốt. Nghĩa đây cũng vậy, chỉ nương tâm mà nghiệp thiện ác đó được thành. Nên kệ tụng nói:

“Các pháp tâm là gốc
Các pháp tâm là thắng
Lìa tâm không các pháp
Chỉ tâm tên thân miệng”.

Trong luận Thành Thật nói: “Nếu lìa tâm có nghiệp chẳng phải chúng sinh cũng nên có tội phước, như gió xô đổ núi não hại chúng sinh, gió nên có tội. Nếu thổi hương hoa lại rơi nơi chùa tháp cũng nên có phước, đó thì chẳng thể, nên biết lìa tâm không tội phước vậy”. Lấy văn luận đây để chứng minh, tội phước y cứ tâm, không nghiệp thân miệng. Nghiệp thân miệng là, chỉ có danh tự, thật là ý nghiệp, tên thân miệng nói. Trong Hoa Nghiêm Hội Ý nói: “Phàm có thấy tự thấy tha, đều là mê tâm tự hiện. Tại sao? Như thấy kẻ khác nắm dao giết mình. Phải biết tha tự đều từ tự sinh. Vì lìa tự thấy tâm không tự tha vậy. Chẳng phải chỉ tự tha là tâm vọng hiện, tức chỗ cầm dao gậy, cũng là tự tâm. Tại sao? Ngoài tâm, không dao gậy thật kia vậy. Thấy chỗ cầm nắm là chỉ sáu trần. Do chẳng biết tự tâm hiện thấy sát hại, tức khiếp sợ chẳng an. Nếu rõ chỉ là tự tâm, giả sử sát hại, ai lo ai sợ, chỉ do vọng tâm sinh nên các thứ có, vọng tâm diệt nên các thứ không. Đã biết chỉ tâm vọng hiện, tâm chẳng thấy tâm, tức vật ngã đều mất, lo mừng đều tịch. Lại như việc sát trong mộng cũng lại như thế, như nói thế gian luôn như mộng, chẳng thể được có không. Trong kinh Mật Nghiêm nói: “Cảnh giới trong ngoài chỗ của tâm hành, đều chỉ là thức hoặc loạn mà hiện. Trong đây, không ngã cũng không ngã sở, năng hại sở hại và các vật hại, tất cả đều là cảnh giới ý thức, nương thức A-lại-da phân biệt như vậy”. Lại các sư xưa trước hỏi: Nếu chỗ thấy đều là tự tướng phần, cớ sao giết tự tướng phần mà bị oán báo?

Đáp: Tuy quán người khác phù trần căn là tự tướng phần, nhưng ở người khác là thân tướng phần, có chấp thọ vậy. Như lầm giết người khác, tức đoạn mạng căn, tức có tội ở tự tức sơ tướng phần.

Hỏi: Trong kinh nói tất cả các pháp như mộng, để chứng Duy thức, cớ sao sự hư trong mộng, sự thật trong tỉnh, quả báo chẳng đồng, pháp dụ chẳng ngang, làm sao dẫn chứng?

Đáp: Chỗ nêu bày thí dụ so sánh đều vì người chẳng tin, giả mượn đây phát minh. Do đó trí chẳng khó dụ, chỉ cầu thấy đạo chứng hợp tự tâm, đâu cần kiểm phân tích của phương tiện, chấp lý của viên thường. Mộng đây dụ một pháp chứng nghiệm rất thân. Trong luận Duy Thức đáp cật nạn của ngoại đạo là: Ông nói trong mộng chỗ thấy ăn uống đói no dao gậy thuốc độc, mọi sự như vậy thảy đều không dụng, lúc tỉnh thức chỗ thấy mọi sự như vậy thảy đều có dụng. Nghĩa đây chẳng như vậy, có kệ tụng nói:

“Như trong mộng không nữ
Động thân tiết bất tịnh”.

Như mộng giao hợp lậu tiết bất tịnh, chúng sinh như vậy từ đời vô thủy lại hư vọng thọ dụng sắc hương vị v.v... các cảnh giới bên ngoài đều cũng như vậy, thật không mà thành. Lại hỏi: Nếu trong mộng không cảnh, tỉnh thức cũng như vậy, cớ sao trong mộng trong tỉnh hành pháp thiện ác, ái và chẳng ái, quả báo chẳng đồng?

Đáp: Chỉ có tâm bên trong không có cảnh giới bên ngoài, vì mộng tỉnh tâm sai biệt chẳng đồng, cho nên chẳng nương tựa cảnh bên ngoài thành tựu nghiệp thiện và bất thiện. Vì là tại vị mộng tâm do ngủ say hoại thế lực suy kém, tâm yếu chẳng năng thành nghiệp thiện ác, tâm thức tỉnh chẳng như vậy, nên chỗ hành tạo sẽ thọ dị thục, hơn kém chẳng đồng chẳng phải do cảnh bên ngoài. Giả sử chỗ thọ quả báo khổ lạc thật trong tỉnh thức cũng không tác giả thọ giả, đều như huyễn mộng. Lại, trong luận nói: “Thùy miên (ngủ say) mê muội qua loa làm tánh” là, trong sớ nói: “ mê muội chọn lựa tại định, qua loa riêng biệt lúc tỉnh thức”. Trong Nghĩa Thiên Sao nói: “Mê muội chọn lựa tại định là vì thùy miên đây, tuy là chuyên chú một loại cảnh vi tế, cùng định chẳng đồng, định, ý thức thủ cảnh minh liễu vậy đây là mờ tối. Qua loa riêng biệt lúc tỉnh thức là, lúc tỉnh thức kia tâm rất sáng lẹ, đủ năng duyên ở cảnh của sáu trần, thì lúc tỉnh thức, tâm tâm sở duyên cảnh thoáng rộng vậy. Vị thùy miên đây, tâm tâm sở chẳng sáng lẹ, nên chỉ duyên một cảnh pháp trần, thủ cảnh ít vậy, gọi là qua loa”. Trong kinh Đại Bảo Tích có kệ tụng nói:

“Các pháp tự tánh chẳng thể được
Như mộng hành dục thảy đều dối
Chỉ tùy tưởng khởi chẳng thật có
Pháp của Thế Tôn cũng như vậy”.

Vì tất cả pháp niệm niệm chẳng trú, niệm niệm sinh diệt, niệm niệm chẳng thể được, niệm niệm không tự tánh. Chỗ mộng tỉnh thọ ưu hỷ khổ lạc, tuy ngắn dài chẳng đồng, quả báo có khác, nhưng đều từ thức biến, đều nhân tưởng thành. Đạo lý suy tìm đến cùng không gì chẳng bình đẳng, đều là sáng tối, chỗ thức hành cảnh giới, trong tỉnh thức là minh liễu ý thức, trong mộng là ý thức trong mộng. Mộng tỉnh tuy khác nhưng đều chẳng ra ngoài ý. Nên trong kinh nói: “Tỉnh thức thì tưởng tâm, ngủ say là các mộng. Nếu không mộng thì các cảnh giới chẳng hiện, không tưởng thì muôn pháp chẳng thành. Vì tùy ý sinh hình, theo tưởng lập pháp vậy”. Nếu có vào pháp môn như mộng đây, thì thân chứng duy tâm, chóng thành Phật trí, năng mãn đạo Bồ-đề, rộng dấy môn pháp lợi như bài tụng trong kinh Hoa Nghiêm: Bồ tát rõ pháp thế gian tất cả đều như mộng, chẳng xứ chẳng không xứ, thể tánh luôn tịch diệt, các pháp không phân biệt, như mộng chẳng khác tâm. Ba đời các thế gian, tất cả đều như vậy, mộng thể không sinh diệt, cũng không có phương sở. Ba cõi đều như vậy.

Thấy là tâm giải thoát, mộng chẳng tại thế gian, chẳng tại chẳng thế gian. Hai đây chẳng phân biệt. Được vào ở nhẫn địa. Thí như thấy trong mộng, các thứ các khác tướng, thế gian cũng như vậy, cùng mộng không sai biệt. Kẻ trú ở mộng định, rõ đời đều như mộng, chẳng đồng chẳng phải khác, chẳng một chẳng các thứ, chúng sinh các nghiệp sát, tạp nhiễm và thanh tịnh, như vậy đều rõ biết, cùng mộng đều bình đẳng, Bồ-tát hành chỗ hành, cùng với các nguyện lớn, rõ ràng đều như mộng, cùng đời cũng không khác, rõ đời đều không tịch, chẳng hoại ở thế pháp, thí như chỗ mộng thấy, ngắn dài các sắc thảy. Đó là như mộng nhẫn, nhân đây rõ thế pháp, chóng thành trí vô ngại, rộng độ các quần sinh. Tu hành hạnh như vậy, sinh ra giải rộng lớn, khéo biết các pháp tánh, nói pháp tâm không đắm”. Trong luận Thành Duy Thức Bảo Sinh nói: “Như mộng có tổn dụng, tuy không cảnh bên ngoài, lý cũng được thành, như ở trong mộng nam nữ giao nhau, mỗi do tự căn lại qua lại xúc chạm, tuy không cảnh bên ngoài xúc, mà có tác dụng thành hiện tiết bất tịnh, chỉ là thức tưởng tự cùng hợp hội làm động tác đó, đây đã như vậy ở khác cũng vậy. Ác độc dao binh sương bão thương hại, tuy không cảnh bên ngoài, chỉ nương thức đó, có độc dao v.v... lý nào chẳng thành. Cho đến nếu mộng thấy ăn thức ăn độc v.v... ứng thành thân bệnh, đây cũng do Duy thức đó có dụng, giống như ở cảnh mà có định thuộc, trở lại đáp sau dùng dứt nghi trước. Hoặc lại có lúc, thấy độc v.v... đó tuy không cảnh thật mà có tác dụng. Do thấy chẳng bị chỗ nọc độc của rắn, nhưng có nghi độc, năng khiến muộn tuyệt, đổ mồ hôi, tâm mê như gặp phải nọc độc rắn, cũng như trong mộng do chú thiên v.v... lực tăng thượng nên bèn khiến ăn no, khí lực đủ mạnh, lại có nghe ư? Vì cầu con nối dõi, phụng sự người ẩn trong rừng, mộng thấy có người cùng làm giao tập, bèn được con đó, làm sao được biết ở trong mộng kia bị độc v.v... làm thương tổn là chẳng phải có, sau khi thức, chẳng trông thấy vậy. Nay chỗ luận đây lại đồng loại kia, ở lúc hiện thức tỉnh đem làm sự thật, thấy thuốc độc v.v... chấp là chẳng phải nhầm, lúc chân trí giác, bèn chẳng thấy vậy, đồng trong mộng kia, thể chẳng phải là thật, nhưng ở trong mộng chấp thuận thật sắc v.v... kia cũng được đây chẳng phải chỗ việc ái, độc v.v... quả dụng bèn thành thật có. Nếu nói không là chỉ có độc tướng v.v... dụng không. Đây nói hình trạng độc bèn thành trái lại, chấp thuận tướng độc v.v... hẳn thành vô ích, ở trên thức đó, thuốc thể không vậy, cho nên định biết, thật không cảnh bên ngoài, chỉ ở giác tâm sinh tác dụng đó, giống như ở mộng, tỉnh cũng đồng vậy, đây là chân thành xứng khế đạo lý. Giải thích: Như trong mộng thật không nọc độc rắn, thức tâm vừa mới biến, sợ cảnh khua vậy, như đồng nọc độc rắn. Nếu trong tỉnh thức thật bị nọc độc rắn nghi tâm chẳng sinh cũng chẳng bị hại. Gần đây nghe trong thế gian có người đi đường bị rắn độc đốt nọc vào cẳng chân, người đó tự thấy là bị cây thung xốc nhằm, đi hơn ba mươi dặm, độc cũng chẳng phát, chợt gặp người cấm chế rắn, chỉ mà bảo: Ông bị rắn độc đốt rồi, vừa mới nghe lời nói đó, tâm nghi chóng khởi, độc phát bèn chết. Nếu chấp ngoài tâm thật có cảnh của rắn độc, lúc tâm chưa sinh, độc sao chẳng phát? Nếu biết ngoài tâm không cảnh, rắn độc chẳng năng hại người, lúc tâm độc khởi, tự năng thành hại. Vì vậy, cảnh không tâm có, cảnh bèn hiện tiền. Cảnh có tâm không cảnh trọn chẳng hiện. Ví như tất cả pháp đều cũng như vậy, có thể nghiệm Duy tâm, thành tựu Tông Kính. Như trong giáo, Phật mật ý nói như huyễn v.v... đều có mười dục, ở trong mộng dụ chỗ ngộ chẳng đồng, tùy trí cạn sâu tạm ước năm thứ: Phàm phu thế gian giải là, chỉ biết phù sinh ngắn ngủi như mộng chẳng lâu dài; Hai, Thanh văn chứng xứ, chỉ rõ tâm mộng sinh diệt vô thường khổ không vô ngã; Ba, Tiểu Bồ-tát ngộ mộng chẳng thật triệt để chỉ không; Bốn, Đại Bồ-tát đạt mộng Duy tâm, chẳng phải không chẳng phải có. Chỗ thấy trong mộng nên chẳng phải không, sau khi thức tỉnh vắng bặt nên chẳng phải có; Năm, Tổ Phật viên chứng pháp giới, như ngay lúc mộng, chỉ một niệm tâm ngủ hiện bày thiện ác trăm ngàn cảnh giới. Huống gì mù quáng lúc một niệm tâm khởi, đủ mười thứ pháp giới, nhân quả lớp lớp vô tận, rành rành chẳng phải phân, như trong kinh Pháp Hoa nói mộng vào đồng luân vương, thành Phật độ sinh trải qua vô lượng kiếp. Trong kinh Hoa Nghiêm nói Đồng tử Thiện Tài lên lầu gác, ở một niệm tâm của mộng định bằng khoảng thời gian sát-na mà đều thấy việc Phật ba đời chẳng thể nghĩ bàn. Như xưa trước có bài thơ nói:

“Khoảnh khắc trên gối trong mộng xuân Dạo khắp Giang nam vài ngàn dặm”.

QUYỂN 79

Hỏi: Phàm, ngoài tâm không pháp, ngoài pháp không tâm, rõ biết như vậy thì chân thiện tri thức, diệu lý một tâm viên chứng không nghi, cớ sao nghe thiện ác tri thức bên ngoài nghe nhận?

Đáp: Đều là nhân duyên tăng thượng, hòa hợp hư vọng phân biệt mà thành kia đây, tình sinh không có chân thật.

Trong luận Duy Thức nói: “Hỏi: Cớ sao gặp thiện tri thức nghe nói thiện pháp, gặp ác tri thức nghe nói ác pháp. Nếu không tất cả bên ngoài cảnh bên ngoài là, kia làm sao nói? Nếu chẳng nói, làm sao được nghe? Nếu chẳng nghe là, đây cớ sao thành?

Có kệ tụng đáp:

“Đắp đổi tăng thượng nhân
Kia đây tâm duyên hợp”.

Vì tất cả chúng sinh hư vọng phân biệt tư duy nghĩ nhớ, kia nói ta nghe, mà thật không có cảnh giới trước kia, là vì nếu chấp trong ngoài thì tâm cảnh đối trị, còn chưa vào nơi cửa tín huống gì xưng là nghe pháp. Trong kinh Trì Tâm Phạm Thiên Sở Vấn nói: “Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý, không chảy nghe, mới gọi là nghe kinh.” Đó có nhiễm ô ở các nhập là, thì không chỗ nghe, bèn tại nơi sắc. Trong kinh Kim Cang Tràng Đà-la-ni nói: “Các pháp có không, đó gọi là phát minh nhất tự Đà-la-ni, nếu năng tin hiểu như vậy, thì nghe là không nghe không đắc, tâm cảnh chẳng hai, mới nghe kinh Phật giảng nói”. Có thể gọi là chân nghe, gặp thiện tri thức nếu duyên tâm nghe pháp pháp đây cũng duyên, chẳng phải được pháp tánh, thì tùy cảnh giới chảy theo nhân duyên chuyển, đều vì chẳng rõ tự pháp, bèn khiến duyên trong ngoài phân. Như trong kinh nói: Phật nói, tùy xứ có kinh đó thì là có Phật, nếu ta trú nơi đời cũng không khác. Nên biết Phật của tự tâm không xứ nào chẳng khắp, sao luận trước sau còn mất ư? Nếu tùy cảnh khác thì sinh diệt vô thường, thấy Phật khác thì ẩn hiển không hằng, tụng kinh khác thì âm thanh gián đoạn. Nên Tổ sư nói: “Bên ngoài cầu Phật có tướng, cùng ông chẳng tương tợ”.

Hòa thượng Chí Công nói: “Mỗi ngày tụng ngàn quyển, trên giấy thấy kinh mà chẳng biết”. Lại, các bậc Tiên đức nói: “Hơi thở ra chẳng nương duyên bên ngoài, hơi thở vào chẳng nương ấm giới mà trú, thường chuyển đọc kinh như vậy, chẳng phải chỉ trăm ngàn muôn quyển, sao như ngộ chân thiện tri thức đây, niệm niệm hiện tiền, tự chuyển đọc vô tận tạng kinh, mạnh mẽ luôn diễn.

Hỏi: Nếu tâm hư cảnh tịch, lý thật không sai, hiện đối căn trần sự tướng trái phản, làm sao rõ triệt cảnh trí nhất như?

Đáp: Một thời kỳ căn cảnh, tục có chân không rốt ráo tự tha đều không chỗ được. Lại nếu định chấp chân có tục không thì thành hai phỉ báng tăng giảm, chỉ hai đế đều hội tròn rõ một tâm. Như trong luận Phật Tánh nói: “Cật nạn: Nếu các pháp không thật tánh là, tức cùng các lượng trái nhau, thì năng sở tập chẳng thể được. Ta hiện nghe tiếng, tai đối nhau, do đó được nghe, nên biết chẳng không? Giải thích: Nghĩa đó chẳng phải vậy. Tại sao? Năng sở đó và tự tánh chứng lượng đều chẳng thể được, tự tánh chẳng thành. Nếu một tánh chẳng thành, là nhiều tánh làm sao thành? Lại, ông nói chứng lượng làm sao thành là, nay ta lập chứng lượng hiển bày rõ hai không. Các pháp không nên tự tánh chẳng thể được, như thấy huyễn sự huyễn vật là, chỗ chứng lượng thấy chẳng như thật có. Các pháp cũng vậy, chẳng như chỗ thấy mà có chỗ thấy, do chứng chẳng thật nên chẳng có, do chứng thật nên chẳng không. Do chứng không nên nghĩa không được thành, vì chứng lượng nên giả có chẳng mất. Lại nói: Tánh tướng y tha là, năng chấp sở chấp tăng ích, lại tổn giảm, do giải tánh đây vậy, chấp đây chẳng sinh, nếu thấy chân là có thì là tăng ích, gọi là thường kiến, nếu thấy tục quyết định không, thì là tổn giảm, gọi là đoạn kiến, chỉ có tợ trần thức, nên riêng không năng sở, không năng sở nên không tăng ích chấp. Do có tợ trần thức nên không tổn giảm chấp. Nếu biết trần bên ngoài là thức mà tợ hiển hiện thì chẳng phải không, rõ tướng bên ngoài vốn hư, như chỗ huyễn làm, thì chẳng phải có, chẳng phải không thì chẳng hoại tục đế, chẳng phải có thì chẳng ẩn chân đế. Vì vậy, chân tục dung tức mà thường khác, không có cùng hiện mà luôn đồng, mới vượt tình của hý luận, mới hợp chỉ của một tâm. Như trong kinh Ma-ha Bát-nhã nói: “Lúc nói phẩm Bát-nhã Ba-la-mật, Đức Phật tại giữa bốn chúng trời người rồng quỷ thần, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già v.v... ở trước đại chúng mà hiện thần túc biến hóa, tất cả đại chúng đều thấy Đức Phật A-sơ, chúng Tỳ-kheo tăng vây quanh mà giảng pháp. Cho đến, khi ấy Đức Phật thâu thần túc, tất cả đại chúng chẳng còn lại thấy Đức Phật A-sơ, hạng người Thanh văn, Bồ-tát Ma-ha-tát và cõi nước đó, chẳng cùng nhãn tác đối. Tại sao? Vì Phật thâu nhiếp thần túc vậy. Bấy giờ, Phật bảo Anan: Như vậy, A-nan! Tất cả pháp chẳng cùng nhãn tác đối, pháp pháp chẳng thấy nhau, pháp pháp chẳng biết nhau. Như vậy, A-nan! Như Đức Phật A-sơ, đệ tử Bồ-tát cõi nước chẳng cùng nhãn tác đối. Như vậy, A-nan! Tất cả pháp chẳng cùng nhãn tác đối, pháp pháp chẳng biết nhau, pháp pháp chẳng thấy nhau. Tại sao? Tất cả pháp không biết không thấy, không tác không động, chẳng thể nắm bắt, chẳng thể nghĩ bàn. Như người huyễn, không thọ không giác không chân thật. Bồ-tát Ma-ha-tát hành như vậy là hành Bát-nhã Ba-la-mật”.

Giải thích: Nếu hành Bát-nhã là, rõ thẳng trí tánh một tâm, rõ sắc không hình, chẳng phải cảnh giới nhãn, cho đến thấu đạt pháp thể tịch, chẳng phải chỗ ý biết, chỉ là tùy tâm tạm hiện trở lại tùy tâm diệt, nên nói tất cả pháp không biết không thấy. Trong luận Đại Trí Độ nói: “Tướng chẳng năng biết không tướng, thí như dao tuy bén mà chẳng năng phá không, không tướng chẳng năng biết tướng là, có người nói: Trí tuệ bên trong không định tướng, pháp sở duyên bên ngoài có định tướng, tâm tùy duyên mà sinh, cho nên nói không tướng chẳng nên biết tướng, thí như không dao tuy có vật không dao có thể bổ”. Vậy biết, nếu tâm có cảnh không cũng chẳng biết thấy, nếu tâm không cảnh có cũng chẳng biết thấy. Nếu tâm cảnh đều có mỗi mỗi không tự tánh, mỗi mỗi đã chẳng biết, hợp đâu thành thấy. Nếu tâm cảnh đều không cũng chẳng biết thấy. Có còn chẳng biết, không sao thành thấy? Thì tâm cảnh đều không, muôn hữu đều lắng, như vậy thì còn không mười pháp ngầm hợp cùng thuận, sao có căn cảnh đối đãi mà làm trái nhau đó ư? Như tất cả cành sai biệt thuận nghịch, đều là lượng của một tâm, không có chướng ngại cũng không giải thoát. Thí như nước chẳng rửa nước, lửa chẳng diệt lửa. Tại sao? Vì một thể nên chẳng lấn diệt nhau. Nếu có pháp khác mới thành đối trị. Như ngày nay trước chỉ được yếu chỉ tự hợp chân như. Nên trong kinh nói: Pháp tùy ở như, không chỗ tùy vậy, nếu có chỗ tùy thì có riêng biệt của năng tùy. Đã không chỗ tùy cũng không năng tùy, nên là ngoài pháp không như. Ngoài như không pháp. Do đó trong kinh nói: Như lý tác ý, đối với tất cả pháp bình đẳng tương ưng, vậy thì đầy đủ tất cả Phật pháp. Trong Hoa Nghiêm Sớ nói: Lấy như làm Phật thì không cảnh nào chẳng phải như. Trong kinh Đại Phẩm đáp Thường Đề rằng: Các pháp như tức là Phật. Trong kinh Kim Cang nói: “Như Lai là, tức các pháp nghĩa như”. Đã lấy như làm Phật, tất cả pháp đều là như vậy, pháp nào chẳng phải Phật ư? Nếu tin một như, khai ngộ pháp như vậy, sinh quyết định giải, vào môn vô ngại.

Như trong luận Hoa Nghiêm nói: “Kinh nói: Này thiện nam! Ta được tự tại, lực quyết định giải, tin nhãn thanh tịnh trí sáng chiếu diệu, quán khắp pháp giới lìa tất cả chướng, khéo léo quán sát, mắt sáng suốt khắp đủ hạnh thanh tịnh, đến khắp mười phương các cõi nước Phật, cung kính cúng dường tất cả chư Phật”. Đây rõ nêu bản quả pháp khiến phàm tin vui tu hành, từ mới phát tâm tu hành, tập quen Thập địa công phu xong, mới nương kịp thời đầu bản dạng quả pháp đây vậy, tranh luận lấy thời trong pháp giới chẳng đổi chuyển trí chẳng khác từ bi, chẳng khác nguyện hạnh, chỗ thành tựu của chẳng khác, vì ở pháp giới, tu hành trong đại trí không ngắn dài vậy, chẳng như tình giải có tu hành, chẳng làm thời phần ngắn dài tu học, nên phải khéo quán thể dụng pháp giới, chớ như tình đời làm một sát-na chấp làm ba A-tăng-kỳ chấp như trong pháp giới đều không ngắn dài xa gần, vì giải hạnh đây như pháp tu hành, ở các cảnh giới khéo chiếu sinh diệt, khiến sai chấp hết mà thành đại dụng của trí, ở tự tâm cảnh chớ phóng lãng gồm giữ, chỉ biết phóng đãng mặc tình thản nhiên, tập đó quán chiếu chấp hết trí hiện, sinh diệt tự không, nghiệp đó tự trắng, hợp cảnh giới Phật, đồng tâm Như Lai, Phật thấy tự hợp chẳng do cầm bắt, lan tỏa làm trị riêng khiến tâm cuồng hoặc. Chỉ tự rõ tâm cảnh, thấy dung chấp, nghiệp bèn rụng, thấy mất chấp rụng, tất cả muôn pháp vốn tự không ung nhọt, trí cảnh sáng rỡ gọi là nước Phật, không phiền cưỡng sinh kiến chấp trọn tự đắm chìm, tự làm tự khổ chẳng phải kẻ khác năng cùng.

Hỏi: Nếu căn cứ cảnh bên ngoài thấy nghe, thì sắc chẳng đến nhãn, nhãn chẳng đến sắc, có thể nói là Duy tâm không tướng có thể được chỉ như lúc ăn uống, căn cảnh vào nhau, nếu nói không tướng, chẳng thể lấy tâm hợp tâm ư?

Đáp: Sáu căn sáu cảnh tuy là lìa hợp chẳng đồng, đều Duy thức biến vị tánh vốn không, nếu chẳng phải thức thì ai biết mặn lạt? Các sư xưa trước nói: Chỉ hợp tướng phần, bản chất tự tại.

Hỏi: Như hợp xong, chất cũng mất là thế nào?

Đáp: Năng tùy đã mất, sở tùy cũng diệt, cũng như hai mươi người cộng một gốc cây, một người chặt phá cây, mười chín người sở tùy cũng diệt. Lại, trong Duy Thức Nghĩa Chương giải thích: Cộng quả đồng tại một xứ, chẳng chướng ngại nhau.

Hỏi: Vả lại như một cây hữu tình cộng biến, mà lúc một hữu tình chặt dùng, là dụng tự biến hay gần dụng tha? Nếu chỉ là tự, tức các người khác biến nên còn chẳng mất, sao cây chẳng thấy? Nếu cũng dụng tha, sao gọi là Duy thức?

Đáp: Có nói cây v.v... đã là cộng tướng chủng sinh, đều cùng tùy thuận, qua lại tăng ích. Một hữu tình kia tự sở biến là, sở duyên thân dụng tha sở biến cùng tự sở biến cùng tự sở biến làm tăng thượng duyên, cũng sở duyên dụng tất cả trông nhau, tự làm sở thuận, tha làm năng thuận, do sở thuận không năng thuận cũng diệt. Do đây, cây mất nhưng Duy thức cũng thành.

Hỏi: Lấy gì được biết qua lại tăng ích?

Đáp: Trong luận Đối Pháp nói: Hữu tình cộng nghiệp làm tăng thượng duyên.

Hỏi: Đã chỉ duy tâm không có muôn pháp, vậy mọi sự sai biệt trước mắt, từ đâu kiến lập?

Đáp: Muôn pháp chỉ danh, thật không thể tướng, nhân danh lập tướng, tướng trạng vốn không. Nhân tướng bày danh, danh tự vốn lặng lẽ, chỉ tướng kiến lập danh tướng đều dối, ngược lại tận cùng nguồn tưởng cũng chỉ danh tự. Đã không tưởng thể, phân biệt thành không, nên biết muôn pháp ra từ không danh, muôn danh sinh từ không tướng, danh chẳng đáng tướng, tướng chẳng đáng danh. Đây kia không nương, muôn pháp tại đâu? Danh của tương đãi đã lắng, tưởng của phân biệt chợt không, cảnh của như huyễn ngầm chân, tình của sở chấp hợp giác. Trong kinh Mật Nghiêm có kệ tụng nói:

“Thế gian các thứ pháp
Tất cả chỉ có danh
Chỉ chỗ tưởng an lập
Lìa danh không nghĩa khác”.

Lại có kệ tụng nói:

“Năng biết các thức khởi
Không có chỗ biết pháp
Chỗ biết chỉ là danh
Thế pháp đều như vậy
Dùng danh phân biệt pháp
Pháp chẳng xứng ở danh
Các pháp tánh như vậy
Chẳng trú ở phân biệt
Vì pháp chỉ danh vậy
Tưởng tức không có thể
Tưởng không danh cũng không
Xứ nào có phân biệt
Nếu được không phân biệt
Thân tâm luôn tĩnh lắng
Như nước lửa đốt rồi
Rốt ráo chẳng sinh lại”.

Lại có kệ tụng khác nói:

“Như thấy gốc là người
Thấy người lấy làm gốc
Người gốc hai phân biệt
Chỉ có ở danh tự
Trong các đại hòa hợp
Phân biệt lấy làm sắc
Nếu lìa nói các đại
Sắc tánh tức không có”.

Hỏi: Nếu lấy Duy thức làm tông, thì thế gian và xuất thế gian chỉ là một thức, muôn pháp đều quyết định không ư?

Đáp: Vì Duy thức vậy, thì có thế tục đế, có thế tục thì có thức tợ trần, huyễn tướng chẳng không, vì không thật chẳng thể được nên xưng không vậy, chẳng thể khởi chân rắn, ruồi muỗi, quyết định đoạn kiến của không, như trong kinh Mật Nghiêm có kệ tụng nói:

“Bình thảy các cảnh giới
Đều lấy tâm làm thể
Chẳng bình tợ bình biện
Cho nên nói là không
Thế gian chỗ có sắc
Cung điện các trời thảy
Đều là A-lại-da
Biến khác mà được thấy
Chỗ thân chúng sinh có
Từ đầu đến tay chân
Chóng sinh và dần chậm
Đều là A-lại-da
Tập khí trược ở tâm
Phàm ngu chẳng năng rõ
Tánh đây chẳng phải có
Cũng lại chẳng phải không
Như người dùng các vật
Đập phá ở bình thảy
Vật thể nếu là không
Tức không năng sở phá
Thí như Tu di lượng
Ngã kiến chưa là ác
Kiêu mạn mà đắm không
Ác đây quá hơn kia”.

Lại trong kinh nói: “Thà có thể chấp có như núi Tu-di, chẳng thể chấp không như hạt cải”. Trong kinh Đại Bát Niết-bàn nói: “Giải thoát, gọi là chẳng không không, không không gọi là không chỗ có, không chỗ có tức là chỗ chấp giải thoát của ngoại đạo Ni-càn-tử v.v... mà Ni-càn-tử đó không thật giải thoát, nên gọi là không không, chân giải thoát, thì chẳng như vậy, nên chẳng không không. Chẳng không không là, tức chân giải thoát, chân giải thoát là, tức là Như Lai. Lại, giải thoát là, gọi là chẳng không, như bình nước rượu lạc tô mật v.v... tuy lúc không nước rượu tô lạc mật, còn có được gọi là bình nước v.v... bình v.v... như vậy chẳng thể nói không và cả chẳng không. Nếu nói không, thì chẳng được có sắc hương vị xúc. Nếu nói chẳng không mà lại không thật có nước rượu v.v... giải thoát cũng vậy, chẳng thể nói sắc và cả chẳng phải sắc, chẳng thể nói không và cả chẳng không. Nếu nói không thì chẳng được có thường lạc ngã tịnh, nếu nói chẳng không thì ai thọ thường lạc ngã tịnh? Vì nghĩa đó nên chẳng thể nói không và cả chẳng không. Không, nghĩa là không hai mươi lăm hữu và các phiền não, tất cả khổ, tất cả tướng, tất cả hành (pháp) hữu vi. Như bình không lạc v.v... thì gọi là không, chẳng không, nghĩa là chân thật, thiện sắc, thường lạc ngã tịnh, chẳng động chẳng biến, giống như bình sắc, hương, vị, xúc kia nên gọi là chẳng không. Cho nên giải thoát dụ như bình kia. Bình kia gặp duyên thì có phá hoại, giải thoát thì chẳng như vậy, chẳng thể phá hoại, chẳng thể phá hoại tức là chân giải thoát, chân giải thoát tức là Như Lai”.

Hỏi: Trong kinh nói: Năm ấm tức thế gian là, một ấm gọi là sắc, bốn ấm gọi là tâm, cớ sao nói các thứ thế gian trong ngoài đều từ tâm ra?

Đáp: Các thứ năm ấm đều từ tâm khởi, từ tâm hiện tướng, gọi đó là sắc. Trong kinh có kệ tụng nói:

“Tất cả trong thế gian
Chỉ có danh và sắc
Nếu muốn như thật quán
Chỉ nên quán danh sắc”.

Sắc tức gồm hết cõi nước vô tình, danh tức gần hết thế gian hữu thức. Năm ấm tức là thế gian. Nếu rõ năm ấm đều không, thì là xuất thế gian. Vậy biết thế gian và xuất thế gian đều từ tâm khởi. Tại sao? Nếu ý địa khởi tâm tham sân, trông xem năm ấm ở ba đường xấu ác, chúng sinh tội khổ phát hiện, ý địa tu giới thiện tâm trông nhìn năm ấm trời người, chúng sinh thọ lạc phát hiện, ý địa chứng nhân không, trông xem năm ấm vô lậu, chúng sinh chân Thánh phát hiện, ý địa tâm lập hoằng thệ, trông nhìn năm ấm từ bi, chúng sinh Đại sĩ phát hiện, ý địa tâm vận bình đẳng, trông nhìn năm ấm thường trú, chúng sinh tôn cực phát hiện. Nay sở dĩ bỏ bốn ấm trước, chỉ quán thức ấm, như chặt cây trừ rễ, cứu bệnh được huyệt, thì mầm khổ của sinh tử trọn tuyệt, trầm kha của phiền não chẳng sinh. Lại như gió của Tỳ-lam cuốn các nghi ngờ mà sạch hết, như lửa của kiếp thiêu quét chấp mà không sót thừa. Do đó, tất cả thế gian xứ của phàm Thánh đồng ở, không gì chẳng đều là tự tâm, ngộ nhập như vậy, gọi là chân trú A-lan-nhã chánh xứ tu hành, chẳng phải luận ẩn của Đại Tiểu, chẳng đọa lạc quán của ồn lắng. Do đó các bậc Cổ đức nói: “Ở chúng chẳng thấy ồn náo, riêng tự cũng không rỗng lắng”. Tại sao chẳng thấy ồn lắng? Vì chỉ rõ một tâm vậy. Như trong kinh Đại Thừa Bản Sinh Tâm Địa Quán nói: “Bấy giờ, Đức Phật bảo Bồ-tát Di-lặc rằng: “Này thiện nam các ông! Đang tu học là, chỉ có một đức, là người nên trú xứ A-lan-nhã cầu đạo Vô thượng. Thế nào là một? Nghĩa là quán tất cả cội nguồn phiền não tức là tự tâm. Rõ đạt pháp đây kham năng trú ở xứ A-lan-nhã. Tại sao như vậy? Thí như chó điên bị người đuổi đánh, chỉ đuổi theo sỏi đá mà chẳng đuổi theo người, trong đời sau trú A-lan-nhã, người mới phát tâm cũng là như vậy. Nếu thấy sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp, tâm đó nhiễm đắm, người đó chẳng biết căn bản phiền não, chẳng biết năm cảnh từ tự tâm sinh, tức đây gọi là chưa năng khéo trú xứ A-lan-nhã, vì nhân duyên đó vui trú tĩnh lặng cầu đạo Vô thượng. Tất cả các Đại Bồ-tát, nếu lúc năm cảnh dục hiện tiền, quán sát tự tâm, nên khởi ý nghĩ “Ta từ vô thủy mãi đến ngày nay. Luân hồi trong sáu thú không kỳ hạng ra khỏi, đều tự vọng tâm mà sinh mê đảo, ở nơi cảnh năm dục tham ái nhiễm đắm”. Bồ-tát như vậy, gọi là kham trú xứ A-lan-nhã”. Vậy biết chẳng ngộ tự tâm, luống nương hang cốc xa tránh ồn náo cầu tĩnh lắng, người xưa nói khắp trong đời chưa có phương đó. Nếu chóng rõ tự tâm, là chân A-lan-nhã, cho đến ánh sáng chiếu khắp muôn đức đều tròn. Nếu chẳng tự rõ thì luân hồi các thú. Như trong Đốn Chứng Tỳ-lô-giá-na Pháp Thân Tự Luận Du-già Nghi Quỷ giải thích: Quán pháp thân Như Lai là, trước quán phát khởi hạnh nguyện vi diệu của Bồ-tát Phổ Hiền, lại nên dùng Tam mật gia trì thân tâm thì năng vào biển đại trí tuệ của Bồtát Văn-thù Sư-lợi. Nhưng tu hành, đầu tiên ở xứ không nhàn, thâu niệm an tâm, nhắm mắt thẳng mình kiết-già mà ngồi, vận tâm duyên khắp vô biên biển nước, quán chắc ba đời hết thảy các Đức Như Lai, khắp ở trước mỗi mỗi Đức Phật Bồ-tát, ân cần cung kính lễ bái nhiễu quanh, lại dùng các thứ cúng cụ như mây biển phụng dâng hết thảy Thánh chúng như vậy, cúng dường khắp cùng rộng lớn xong, lại nên quán tự tâm, tâm vốn chẳng sinh, tự tánh thành tựu, ánh sáng chiếu khắp giống như hư không. Lại nên khởi sầu bi niệm xót thương chúng sinh, chẳng ngộ tự tâm luân hồi các thú, ta phải hóa khắp cứu giúp khiến đó khai ngộ, đều không có thừa. Lại nên quán sát tự tâm, tâm các chúng sinh và tâm chư Phật vốn không có khác, bình đẳng một tướng thành Đại Bồ-đề tâm, sáng suốt thanh tịnh rỗng rang khắp cùng, tròn sáng nghiêm khiết thành vầng trăng lớn, lượng đồng hư không không có ngằn mé”. Nên biết tâm không ngằn mé, giống như hư không, đâu còn trước sau. Như trong kinh Hoa Nghiêm có kệ tụng nói:

“Tâm trú ở thế gian
Thế gian trú ở tâm
Ở đây chẳng vọng khởi
Hai chẳng hai phân biệt”.

Cho nên nói một nói hai là thế gian nói phô, lập phải lập quấy, riêng ý địa phân biệt. Nếu chóng ngộ tự tâm, thẳng vào Tông Kính, còn chẳng thấy không phân biệt, đâu đặc biệt sinh phân biệt ư? Như trong kinh có kệ tụng nói:

“Rõ biết chẳng một hai
Chẳng nhiễm cũng chẳng tịnh
Cũng lại không tạp loạn
Đều từ tự tâm khởi”.

Chẳng chỉ thế pháp hành xử cho đến tác dụng của các Thánh khởi hết căn do đều chẳng vượt ngoài Tông Kính. Nên trong kinh có kệ tụng nói:

“Coi biển vô biên diệu trang nghiêm
Ở trong một trần thảy đều vào
Sức thần thông chư Phật như vậy
Tất cả đều do nghiệp tánh khởi”.

Như diệu chỉ đây là pháp môn hiện chứng, chỉ mới sinh tin đây còn có thể rỗng rang, huống gì lúc chứng nhập, tự đoạn các hoặc khác. Lời mất tượng tuyệt, thức diệt tình tiêu, nên Tổ sư nói: “Chỉ chứng mới biết khó thể lường”. Trong luận Đại Thừa Khởi Tín nói: “Chứng phát tâm là từ tịnh tâm địa cho đến Bồ-tát cứu cánh địa. Chứng cảnh giới nào?

Đó là chân như, vì chuyển thức kia nói là cảnh giới, mà chứng đây là không có cảnh giới, chỉ trí chân như, gọi là pháp thân.

Hỏi: Trong ngoài Duy thức là lý bình đẳng, cớ sao thân độ chẳng đồng, thân bên trong có giác (hay), cảnh bên ngoài không tin (biết)?

Đáp: Thế giới thân độ, pháp nhĩ như vậy, chẳng thể chấp một chấp khác, tự tánh tình kiến. Nếu nói pháp nhĩ là, tức pháp như vậy hoặc nói pháp tánh là, nếu là pháp tánh tức lấy bản thức Như Lai tạng thân làm chỗ nương giữ, luôn chóng biến khởi các khí giới bên ngoài, chẳng vượt ngoài hai đây: Một, pháp ứng như vậy; Hai, tạng thức biến khởi. Lại, nghiệp lực chúng sinh cũng là muôn hạnh của Bồtát làm nhân v.v... chỗ hiện thế giới đều là tướng phần tạng thức, trung bình của tướng phần làm khí bên ngoài, mà chẳng chấp thọ một nửa làm thân bên trong, chấp làm tự tánh sinh giác thọ vậy. Như Lai Tạng thức duyên gì như vậy? Pháp như vậy, hạnh nghiệp dẫn vậy. Trên đây tuy phân chấp thọ, và chẳng chấp thọ, hai nghĩa đều không tự tánh. Toàn lấy Phật pháp giới như như một chân tâm làm thể, phải biết nương tức chánh, chánh tức nương, chẳng vượt ngoài chân tánh một tâm. Vả lại, tánh không gì chẳng bao gồm, hữu tình vô tình có giác không giác, đều tánh tự tâm làm thể, tùy duyên phát hiện, ứng xử mới biết, như thế gian đặt để sinh từ đường, có chánh đức và dân, luôn luôn có người thương yêu qua đời, nghỉ vì lập nhà thờ, bên trong đắp hoạ hình tượng, bốn mùa cúng dâng, người đó ngay trong ngày cúng tế thì nhân hơi rượu mà no bụng, cũng như đinh lan là người chí hiếu khắc cây gỗ làm hình tượng mẹ sớm tối cung kính cúng dường, hình sắc vui vẻ ấm áp. Vả lại, đất gỗ chẳng biến, chỉ tâm cảm vậy.

Hỏi: Lập thức mới thành nghĩa Duy thức, cớ sao cảnh thức đều bỏ trừ?

Đáp: Trong luận Hiển Thức nói: “Lập Duy thức là một, luôn trừ bỏ gương lưu lại tâm, rốt ráo làm luận trừ bỏ cảnh là muốn không tâm. Đó là ý chánh”. Cho nên cảnh thức đều sạch hết tức là thật tánh, thật tánh tức là thức A-ma-la. Do đó mà luận Duy thức cũng gọi là luận phá sắc tâm. Trong luận Phật Tánh nói: “Trong kinh Đức Phật lấy huyễn sư làm thí dụ. Phật bảo Ca-diếp: Thí như huyễn sư làm vật huyễn, chỗ làm cọp huyễn v.v... trở lại ăn huyễn sư. Ca-diếp! Như vậy, Tỳ-kheo quán hạnh, tùy quán một cảnh giới hiển hiện chỉ không, nên thật không chỗ có. Hư không chân thật, làm sao năng được lìa hai biên đây? Do nương ý thức sinh trí Duy thức. Trí Duy thức là tức trí thể không trần. Trí Duy thức nếu thành thì năng trở lại diệt tự bản ý thức. Tại sao? Vì trần không thể nên ý thức chẳng sinh, ý thức chẳng sinh nên Duy thức tự diệt, nên ý thức như huyễn sư, Trí Duy thức như cọp huyễn. Vì ý thức năng sinh Duy thức vậy. Duy thức quán thành trở lại năng diệt ý thức. Tại sao? Do trần v.v... không nên ý thức chẳng sinh. Thí như cọp huyễn trở lại ăn huyễn sư”. Như Pháp sư Đề-bà nói kệ tụng rằng:

“Ý thức ba có gốc
Thức trần là do đó
Nếu thấy trần không thể
Có chủng tự nhiên diệt”.

Trong kinh Nhập Lăng-già nói: “Chỉ chẳng thủ các cảnh gọi là thức diệt, kỳ thật chẳng diệt thức. Tại sao? Vì cảnh vốn không, từ thức biến vậy, vì thức không thể, chẳng phải diệt vậy”. Vì vậy, thức tâm không thể, tùy cảnh có không, thấy không sinh không, thấy sắc sinh sắc, sự lại tức khởi, sự đi trở lại không. Như Pháp sư Truyền Áo nói: “Chỗ vọng niệm duyên, nơi bỏ sắc có thì chẳng thấy không, chỉ thấy ở sắc, ở xứ sắc không thì thấy có không, duyên có thời không thời cũng vậy. Duyên có thời thì thấy có tâm sinh, thấy không tâm diệt, duyên không thời thì thấy không tâm sinh, thấy có tâm diệt, đây đều là cảnh của chỗ vọng niệm duyên”. Lại trên sự không sự, vốn toàn là tâm, niệm khởi trần sinh, niệm lắng trần diệt. Như trong luận Đại Thừa Khởi Tín nói: “Vì tất cả sắc pháp xưa nay là tâm. Thật không sắc bên ngoài”. Nhưng đã không sắc bên ngoài, cũng không không bên ngoài, không còn là không, sắc sao năng có? Trong luận nói: “Nếu không sắc thì không tướng của hư không”.

Trong Sớ thích nói: “Vốn vì đãi sắc làm không, nay đã duy tâm không sắc, sao được lại có ở không vậy”. Nên biết muôn pháp đều đối đãi nhau mà có. Nếu vào Tông Kính tự nhiên các pháp tuyệt đối đãi trở về gốc chân tâm. Nên trong luận nói: “Chỗ gọi là tất cả cảnh giới, chỉ tâm vọng khởi. Nếu tâm lìa vọng động, thì tất cả cảnh giới diệt, chỉ một chân tâm, không chỗ chẳng cùng khắp.”

Hỏi: Người đời phần nhiều chấp hữu tình động tác có thức, vô tình chẳng động tác không thức. Vậy như cây hướng dương, cây hoắc hướng theo mặt nhật mà chuyển, lá chuối nghe sấm mà sinh, quýt được thây mà tươi tốt, sắt nhân đá mà di động. Lại như men phát rượu giấm, lửa đốt núi rừng. Tất cả đây đều là vô tình, cớ sao tác động?

Đáp: Hữu tình vô tình mỗi mỗi có hai nghĩa. Nếu hữu tình sinh tử: Một là, chỗ nghiệp lực chúng sinh làm; Hai là, pháp giới tánh tự nhiên sinh. Nếu vô tình chuyển động: Một là, khác pháp tánh tự vậy; Hai là, pháp làm. Như trong kinh Đại Niếtbàn nói: “Phật bảo Bồ-tát Sư Tử Hống: Này thiện nam! Ông nói chúng sinh đều có Phật tánh đắc Anậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề như đá nam châm. Lành thay! Lành thay! Vì có Phật tánh lực nhân duyên nên đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề. Nếu nói chẳng cần phải tu chánh đạo là, nghĩa đây chẳng như vậy. Này thiện nam! Thí như có người đi đến nói đồng trống, khát thiếu gặp giếng, giếng đó rất sâu, tuy chẳng thấy nước mà đang biết hẳn có. Người đó dùng phương tiện tìm kiếm cái lọ sợi dây kéo múc lấy thì thấy. Phật tánh cũng vậy. Tất cả chúng sinh tuy đều có đó, nhưng cần phải tu tập Thánh đạo vô lậu, sau đó được thấy. Cho đến, thí như chúng sinh tạo tác các nghiệp hoặc thiện hoặc ác, chẳng phải trong chẳng phải ngoài. Nghiệp tánh như vậy chẳng phải có chẳng phải không, cũng lại chẳng phải vốn không mà nay có, chẳng phải không nhân mà ra, chẳng phải đây làm đây thọ, kia làm kia thọ, không làm không thọ, thời tiết hòa hợp mà được quả báo. Chúng sinh Phật tánh cũng lại như vậy, cũng lại chẳng phải vốn không mà nay có, chẳng phải trong chẳng phải ngoài, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải đây chẳng phải kia, chẳng phải xứ khác lại, chẳng phải không nhân duyên, cũng chẳng phải tất cả chúng sinh chẳng thấy, có các Bồ-tát, thời tiết nhân duyên hòa hợp được thấy. Thời tiết, tức chỗ gọi là Đại Bồ-tát ở quả vị Thập trú tu Tám Thánh đạo, đối với chúng sinh được cúng dường bình đẳng. Bấy giờ được thấy, chẳng gọi là làm. Này thiện nam! Ông nói đá nam châm, nghĩa đó chẳng phải vậy. Tại sao? Đá (thạch) chẳng hút sắt. Tại sao như vậy? Vì không tâm nghiệp vậy. Này thiện nam! Pháp khác có nên pháp khác sinh ra, pháp khác không nên pháp khác diệt hoại, không có làm là không có hoại. Này thiện nam! Giống như lửa dữ chẳng năng thiêu đốt củi, lửa phát ra củi hoại, gọi là thiêu đốt củi. Này thiện nam! Thí như cây quỳ cây hoắc tùy hướng mặt nhật mà chuyển, cây quỳ cây hoắc như vậy cũng không, tâm kính không thức không nghiệp, khác pháp tánh vậy mà tự xoay chuyển. Này thiện nam! Như cây ba tiêu (chuối) nhân sấm sét mà tăng trưởng, cây đó không tai không tâm ý thức, khác pháp có nên khác pháp tăng trưởng, khác pháp không nên khác pháp hoại diệt. Này thiện nam! Như cây A-thúcca, người nữ xúc chạm, hoa vì đó mà nở, cây đó không tâm cũng không giác xúc, khác pháp có nên khác pháp sinh ra, khác pháp không nên khác pháp diệt hoại. Này thiện nam! Như cây quýt được thây thì quả tốt nhiều, cây quýt như vậy không tâm không xúc, khác pháp có nên khác pháp tốt nhiều, khác pháp không nên khác pháp hoại diệt. Này thiện nam! Như cây A-thúc-ca, người nữ xúc chạm, hoa vì đó mà nở, cây đó không tâm cũng không giác xúc, khác pháp có nên khác pháp sinh ra, khác pháp không nên khác pháp diệt hoại. Này thiện nam! Như cây quýt được thây thì quả tốt nhiều, cây quýt như vậy không tâm không xúc, khác pháp có nên khác pháp tốt nhiều, khác pháp không nên khác pháp hoại diệt. Này thiện nam! Như cây An thạch lựu do bụi phấn cốt gạch nên quả thật tốt nhiều. Cây an thạch lựu cũng không tâm xúc, khác pháp có nên khác pháp sinh ra, khác pháp không nên khác pháp hoại diệt. Này thiện nam! Đá nam châm hút sắt cũng lại như vậy, khác pháp có nên khác pháp sinh ra, khác pháp không nên khác pháp hoại diệt, chúng sinh Phật tánh cũng lại như vậy, chẳng năng hút được A-nậu-đa-latam-miệu-tam-bồ-đề. Này thiện nam! Vô minh chẳng năng hút lấy các hạnh, hạnh cũng chẳng năng hút lấy thức vậy, cũng được gọi là vô minh duyên hành, hành duyên thức. Có Phật hay không Phật pháp giới vẫn thường trú, nên biết pháp pháp không tâm, trần trần vốn lắng, lắng mà thường dụng, dụng mà thường lắng, pháp không tâm mà tùy duyên thành hoại, người không tâm hành lưu chuyển, như cây chuối nghe sấm, rau quỳ rau hoắc hướng theo mặt nhật, vô minh chẳng thủ các hành, các hành chẳng hút thức tâm, thì pháp pháp chẳng đến nhau, pháp pháp chẳng biết nhau, pháp pháp chẳng đối đãi nhau, pháp pháp chẳng chờ nhau, đều tánh tự như vậy, pháp như vậy vậy. Vì vậy, trong kinh Kim Cang Tam-muội nói: “Tâm chẳng sinh cảnh, cảnh chẳng sinh tâm. Tại sao? Phàm chỗ thấy cảnh chỉ chỗ thấy tâm”, tức chẳng đến nhau vậy. Trong kinh Hoa Nghiêm có kệ tụng nói:

“Các pháp không tác dụng
Cũng không có thể tánh
Cho nên tất cả kia
Mỗi mỗi chẳng biết nhau”.

Tức chẳng biết nhau vậy. Trong kinh Duy-ma nói: “Tất cả pháp sinh diệt chẳng trú như huyễn như điện chớp, các pháp chẳng đối đãi nhau, cho đến một niệm chẳng trú”, tức chẳng đối đãi nhau vậy. Trong luận Bảo Tạng nói: “Lửa chẳng đợi mặt nhật mà nóng, gió chẳng đợi vầng nguyệt mà mát, đá chắc để nơi nước, trống trời dạo ánh sáng, tối sáng tự vậy, khô ướt đồng phương, vật còn chẳng nhờ nhau, đâu huống gì đạo ư?” Tức chẳng nhờ nhau vậy. Như lửa lấy nóng làm tánh, gió lấy mát làm tánh, đâu nhờ mượn duyên khác ư? Trống trời, tức là mặt nhật vậy, thường dạo ánh sáng chiếu khắp bốn thiên hạ. Mặt nhật xuất hiện tức sáng, mặt nhật lặn ẩn tức tối, đều là pháp nhĩ chẳng liên quan tạo tác. Đá chắc để nơi nước là, đá tuy để nơi nước mà nước chẳng vào đá, tuy đồng một xứ, đá tự khô mà nước tự ướt. Vậy biết pháp pháp nên tông, trần trần tuyệt đối đãi, thì chẳng phải nhân duyên cũng chẳng phải tự nhiên vậy.

Hỏi: Đã chỉ một chân tâm, cớ sao trong giáo lại nói các pháp như huyễn?

Đáp: Rõ cảnh là tâm, muôn pháp sao có. Vì nương tâm mà khởi, không có thể cố định, đều như huyễn hóa, rốt ráo tịch diệt. Trong kinh Đại Bảo Tích nói: “Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo huyễn sư rằng: “Tất cả chúng sinh và các dụng cụ đều là huyễn hóa. Nghĩa là do nơi chỗ huyễn của nghiệp vậy. Các chúng Tỳ-kheo cũng là như huyễn hóa, nghĩa là do nơi chỗ huyễn của pháp vậy. Thân ta cũng huyễn, chỗ huyễn của trí vậy. Ba ngàn đại thiên tất cả thế giới cũng đều là huyễn, chỗ huyễn của tất cả chúng sinh cộng vậy. Phàm chỗ có pháp, không gì chẳng phải là huyễn, chỗ huyễn của nhân duyên phẩm vậy”. Lại trong Giáo gồm nói rõ mười dụ: Như huyễn, như hóa, như mộng, như ảnh v.v... Đây là mật ý của chư Phật, phá chúng sinh chấp tướng thế gian là thật mà khởi thường kiến. Thế gian cộng biết các pháp huyễn mộng v.v... là không, thì chẳng tin nhân pháp tâm cảnh v.v... như huyễn mộng cũng không. Do đó đem chỗ hư của tin phá chỗ thật của tin, khiến thật của chỗ tin đồng dối của chỗ tin, sau đó mới chóng ngộ chân tông khắp tất cả xứ, trong tâm ngoài tâm, quyết định không có thật pháp kiến lập. Trong luận Đại Trang Nghiêm nói: “Ta xưa từng nghe có một huyễn sư, có tâm tin ưa đến núi Kỳ-xà vì chúng Tăng thiết hội cúng dường xong rồi, huyễn ảo cây Thi-đà-la làm một người nữ đoan chánh kỳ đặc, tại trước đại chúng ôm lấy nữ đó mà hôn hít đó, cùng làm việc dục. Khi ấy các Tỳ-kheo thấy sự đó rồi, thảy đều ghét giận mà bảo rằng: “Đây là người không biết xấu hổ làm điều xấu xa, nếu biết như vậy là chẳng nhận cúng dường đó”. Khi ấy huyễn sư đó đã hành dục rồi, nghe các Tỳ-kheo chê mắng hiềm trách, liền bèn dùng dao chê róc nữ đó, phân giải chi tiết, khoét mắt xẻo mũi, các thứ khổ độc mà giết nữ đó. Các Tỳ-kheo lại thấy sự ấy càng gấp bội phẫn giận, bảo là: “Chúng tôi nếu biết ngay ông là như vậy, thì thà uống thuốc độc chứ chẳng nhận thọ cúng dường đó”. Cho đến khi ấy huyễn sư liền nắm cây Thi-đà-la để chỉ bày cùng Tăng chúng, chắp tay thưa: “Việc vừa rồi tôi làm tức là cây này đây. Ở trong cây ấy có gì là dục là sát? Vì muốn an thân chúng tăng nên thiết bày thức ăn cúng dường đó. Vì muốn an tâm chúng Tăng nên làm việc huyễn đó. Kính mong chư vị Tỳ-kheo lắng nghe lời tôi nói! Há chẳng nghe trong kinh giáo, Đức Phật giảng nói tất cả các pháp giống như huyễn hóa. Nay tôi vì muốn thành lời nói đó nên làm việc huyễn vừa rồi. Như thân huyễn đây không thọ không mạng, huyễn sư của thức vận chuyển các cơ quan khiến đó trông nhìn cúi ngửa liếc ngó bước đi tới dừng, hoặc nói hoặc cười. Do sự này đây nên sâu sắc nhận biết thân đây thật là không ngã”.

Trong kinh Hoa Nghiêm có kệ tụng nói:

“Thế gian các thứ pháp
Tất cả đều như huyễn
Nếu như vậy như vậy
Tâm đó không chỗ động
Các nghiệp từ tâm sinh
Nên nói tâm như huyễn
Nếu lìa phân biệt đây
Diệt hết các hữu thú
Thí như huyễn sư khéo
Hiện khắp các sắc tượng
Nhọc khiến chúng tham lạc
Rốt ráo không chỗ được
Thế gian cũng như vậy
Tất cả đều như huyễn
Không tánh cũng không sinh
Bày hiện có các thứ
Độ thoát các chúng sinh
Khiến biết pháp như huyễn
Chúng sinh chẳng khác huyễn
Rõ huyễn không chúng sinh
Chúng sinh và cõi nước
Ba đời chỗ có pháp
Thảy đều vậy không khác
Tất cả đều như huyễn
Huyễn làm hình nam nữ
Và voi ngựa trâu dê
Phòng nhà ao suối thảy
Vườn rừng và hoa quả
Huyễn vật không hay biết
Cũng không có trú xứ
Rốt ráo tướng vắng lặng
Chỉ tùy phân biệt hiện
Bồ-tát năng như vậy
Thấy khắp các thế gian
Có không tất cả pháp
Rõ thấu đều như huyễn
Chúng sinh và cõi nước
Chỗ các nghiệp tạo tác
Vào nói khoảng như huyễn
Ở kia không nương đắm
Được khéo léo như vậy
Vắng lặng không hý luận
Trú nơi địa vô ngại
Hiện đủ oai lực lớn”.

Lại trong phẩm Nhập Pháp Giới nói: “Bấy giờ, Đồng tử đồng nữ nói cùng Đồng tử Thiện Tài rằng: “Này thiện nam! Chúng tôi chứng đắc giải thoát của Bồ-tát, gọi là huyễn trú. Đắc giải thoát này nên thấy khắp tất cả thế giới đều là huyễn trú, chỗ nhân duyên sinh, nên tất cả chúng sinh đều huyễn trú, chỗ phiền não nghiệp khởi, nên tất cả thế gian đều huyễn trú, do vô minh hữu ái v.v... dần chuyển duyên sinh, nên tất cả pháp đều huyễn trú. Ta thấy các thứ chỗ huyễn duyên sinh, nên tất cả ba đời đều huyễn trú. Ta thấy điên đảo chỗ trí sinh, nên tất cả chúng sinh sinh diệt lão tử ưu bi khổ não đều huyễn trú, chỗ hư vọng phân biệt sinh, nên tất cả cõi nước đều huyễn trú. Tưởng điên đảo tâm điên đảo thấy điên đảo, chỗ vô minh biện, nên tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật đều huyễn trú. Trí đoạn chỗ phân biệt thành, nên tất cả Bồ-tát đều huyễn trú. Năng tự điều phục giáo hóa chúng sinh, chỗ các hạnh nguyện thành, nên tất cả chúng hội Bồ-tát biến hóa điều phục các chỗ hành xử đều huyễn trú. Nguyện trú chỗ huyễn thành vậy. Này thiện nam! Huyễn cảnh tự tánh chẳng thể nghĩ bàn”. Trong kinh Đại Tập có kệ tụng nói:

“Pháp giới Như Lai không sai biệt
Vì hạng độn căn nói sai biệt
Tuyên nói các pháp là vô lượng
Như Đại huyễn sư bày chúng sinh”.

Trong Thanh Lương Sớ nói: “Như huyễn nhẫn là, như một khăn huyễn làm một voi”. Trong kinh Lăng-già nói: “Trí chẳng được có không, mà khởi tâm đại bi”. Do rõ thể không chẳng hoại huyễn tướng sai biệt, nên như voi sinh tức thành voi tử. Hai đối đây nên thành bốn câu, nghĩa là hai đây không hai nên chẳng phải khác, không chẳng hai nên chẳng phải một, chẳng phải một tức chẳng phải khác nên chẳng phải chẳng phải một, chẳng phải khác tức chẳng phải một nên chẳng phải chẳng phải khác, cũng tuyệt song chiếu nên chẳng phải cũng một cũng khác. Nếu đem hai nghĩa khăn trên đối hai nghĩa voi trên, để biện rõ chẳng phải một khác, lược có mười câu: Một, lấy nghĩa khăn trên thành voi đối nghĩa voi trên sai biệt, hợp làm một khoảng, gọi là chẳng khác, đây là lấy gốc tùy ngọn. Căn cứ ngọn nói rõ chẳng khác. Trong kinh nói: “Pháp thân lưu chuyển trong năm đường, gọi là chúng sinh”. Như Lai tạng thọ khổ lạc cùng nhân câu hoặc sinh hoặc diệt v.v...; Hai, lấy nghĩa khăn trên trú tự vị cùng nghĩa voi trên thể không hợp làm một khoảng, gọi là chẳng khác. Đây là lấy ngọn về gốc, căn cứ gốc nói rõ chẳng khác. Trong kinh nói: “Tất cả chúng sinh tức như”. Chẳng trở lại diệt v.v...; Ba, lấy gốc của chỗ gồm ngọn về cùng với ngọn của chỗ gồm gốc theo, hai đây cùng chứa, không ngại chẳng khác. Đây là gốc ngọn bình đẳng làm chẳng khác, vì văn hai kinh trên chẳng lìa nhau vậy; Bốn lấy chỗ ngọn của gồm về gốc cũng cùng với chỗ gốc của gồm tùy ngọn, hai đây đoạt nhau, nên gọi là chẳng khác. Đây là gốc ngọn đều hết sạch, rõ ràng chẳng khác. Vì chân vọng bình đẳng khác chẳng thể được. Lại, bốn môn sau nói rõ về chẳng phải một, nghĩa là: Năm, lấy nghĩa khăn trú tự vị cùng nghĩa vọi trên sai biệt. Hai đây gốc ngọn trái ngược nhau, nên gọi là chẳng phải một. Trong kinh Lăng-già nói: “Như Lai Tạng chẳng trú trong A-lại-da, cho nên bảy thức có sinh diệt”. Như Lai tạng là chẳng sinh diệt là nghĩa đây vậy; Sáu, nghĩa khăn trên thành voi, cùng nghĩa voi trên thể không. Hai đây gốc ngọn trái ngược nhau hại lẫn nhau nên chẳng phải một. Trong kinh Thắng Man nói: “Bảy thức chẳng lưu chuyển, chẳng thọ khổ lạc, chẳng phải nhân Niết-bàn, chỉ Như Lai tạng thọ khổ lạc v.v...”; Bảy, vì trước trái người nhau sau hại lẫn nhau, hai nghĩa riêng biệt nên gọi là chẳng phải một. Nghĩa là trái ngược nhau thì mỗi mỗi trái bỏ nhau, cách nhau xa vời. Hại lẫn nhau thì cùng nhau đối địch thân gần ăn hại lẫn nhau, cho nên xa gần chẳng phải một. Vì văn kinh trước chẳng xen tạp nhau vậy; Tám, vì cùng cực hại lẫn nhau đều hết sạch mà chẳng sạch cùng với cùng cực trái ngược nhau đều còn mà chẳng còn, nghĩa chẳng còn chẳng hết sạch là chẳng phải một. Đây là thành hoại chẳng phải một, vì bảy thức tức không mà là có. Chân như tức ẩn mà là hiển vậy; Chín, bốn chẳng phải một và bốn chẳng phải khác mà cũng chẳng phải một, vì nghĩa chẳng tạp. Lại, trái nghịch nhau là còn, hại lẫn nhau là hết sạch, nhưng trên còn có nghĩa của chẳng còn, trên hết sạch có nghĩa của chẳng hết sạch. Nếu chỉ hết sạch không chẳng hết sạch, thì sắc không đều mất không thể tương tức, vì chẳng toàn hết sạch, tuy tương tức mà sắc không rành rẽ. Nếu chỉ còn mà không chẳng còn, thì sắc không mỗi mỗi có định tánh chẳng được tương tức, do có chẳng còn. Tuy rành rẽ mà được tương tức, vì thể hư dối. Mười, nhưng cũng chẳng khác, vì lý thông khắp vậy, pháp không hai. Nếu lấy nên chẳng khác thủ các môn rất cùng hòa hợp, nếu lấy môn chẳng phải một thủ các môn rất cùng nghịch hại, rất trái nghịch mà rất thuận là pháp không chướng ngại. Lại giải thích: Riêng biệt nói rõ nghĩa lý, ở trong đây có hai: Trước thành có không, sau thành bốn câu. Nói có không là vì trong ba tánh mỗi mỗi có hai nghĩa, đều có không. Viên thành hai là: một, tánh có; hai, tướng không. Y tha hai là: một, duyên có; hai, tướng không. Biến kế hai là: Một, tình có; hai, lý không. Nay trước trong khăn tức hai nghĩa viên thành, thuật ngựa đều là hai nghĩa y tha. Mà thuật là nhân của năng thành, gá chân mà khởi nên dụng có thể không. Dụng có tức là duyên có, thể không tức là tánh không, ba ngựa là quả của sở thành, tướng có thật không. Tướng có tức là duyên có, thật không tức là tánh không, bốn rõ ràng y tha và viên thành chẳng lìa tức sự đồng chân. Sinh dụ ở sự, tử dụ ở chân, sự hết sạch lý hiển bày nên sinh không tử có vì vô ngại. Có ra sở nhân đó tức sự lý vô ngại. Năm, bên trong căn cứ tình có vì vọng kiến phần biết vậy, căn cứ lý thì không vì là vọng kế hẳn chẳng phải có. Sở dĩ huyễn dụ nói rộng có không là, vì chỗ hoặc tình đối có không đều lỗi. Lý không tính lường mê hoặc, có không đều chân. Vậy biết huyễn dụ các pháp chẳng phải thật chẳng phải dối, chẳng phải không chẳng phải có. Nếu không ở có chẳng thành ở không, nếu không ở không chẳng thành ở có. Có không giao triệt muôn hóa đều dung. Lại, trong năm, mỗi mỗi có bốn câu hiển bày thành bốn câu là ở trong đó có hai. Trước là một lớp bốn câu, sau là lớp lớp bốn câu. Nay, trước lại có hai. Một là chánh hiển bày; Hai là chọn lựa chẳng phải. Trở lại trước là: Thứ nhất: Tánh có tướng không, có bốn: Một, có, là chân tánh có; Hai, không, là không các ta; Ba, cũng có cũng không, nghĩa môn khác; Bốn, chẳng phải có chẳng phải không. Qua lại dung hòa chiếm đoạt vậy. Thứ hai: Dụng có thể không, có bốn: Một, có, là mê chân có dụng; Hai, không, nương chân không thể; Ba, cũng có cũng không, thể dụng chẳng hoại vậy; Bốn, chẳng phải có chẳng phải không, dụng của không thể nên chẳng phải có thể của tức dụng nên chẳng phải không. Thứ ba, tướng có thật không có bốn: Một, có, sự tướng hiện bày; Hai, không duyên (viên) thành không thật; Ba, đều còn, không tánh chẳng ngại duyên thành duyên thành chẳng ngại không tánh; Bốn, đều chẳng phải: Duyên thành tức không tánh nên chẳng phải có, không tánh tức duyên thành nên chẳng phải không. Thứ tự sinh tức là không tử tức là có có bốn: Một, chân tánh hiển bày; Hai, y tha tứ không tánh vậy; Ba, tánh tướng đều nói; Bốn, tánh tướng tức đoạt. Thứ năm, tình có lý không có bốn: Một, biến kế vọng tình năng chiêu sinh tử vậy; Hai, tức lý mà cầu chẳng thể được; Ba, cốt yếu do lý không pháp tức tình có, nếu không tình chẳng chẳng hiển bày lý không; Bốn, tình có tức lý không, lý không tức tình có vậy. Bốn câu trên đây đều là đủ đức, vì xứng chân. Chẳng đồng tình kế tính định chấp bốn câu thành phỉ báng, đều không của tức có mới làm không của đủ đức, có của tức không, mới làm có của đủ đức. Lại, không của cùng tận có, có của cùng tận không mới làm đủ đức. Lại, bốn câu đều chiếu thành giải thoát. Bốn câu đều hết sạch thành hạnh cảnh, đều là lời mất nghĩ hết mới là đủ đức. Vì vậy, người xưa nói: Vu Sơn trên đài gá mây mưa mà đi lại. Thư cô bên nước cậy suối chảy mà tới lui. Nên biết thân bọt bóng chẳng phải có, tâm của như huyễn vốn không, đâu có dục tình mà thành thật sự. Lại, Trang Chu thấu đạt thể hư như huyễn, thấy tự thân là con bướm, và trong mộng tự thấy thân mình dạo ven trời, vì thế phàm phu mù lòa không mắt tuệ, vọng thủ bụi trần ở trước, các tướng nam nữ v.v... như pháp như huyễn, chỉ dối tròng mắt đều không thật sự, đều là nghiệp thức tâm động, khởi thấy hiện tướng ý thức phân biệt cưỡng lập ngã nhân tự tha sai biệt, nếu năng nhận biết huyễn mới ngộ trước chẳng phải, trọn chẳng ở không mà dấy tạo tác. Lại, huyễn pháp đây nhiều người lầm giải, chấp tất cả pháp như huyễn như hóa, bèn làm thấy của có không. Như ngoại đạo Phương Quảng lập không vô làm tông, chẳng biết thật nghĩa vậy. Trong luận Hoa Nghiêm nói: “Rõ pháp như huyễn là pháp kiên cố”. Nói kiên cố là, tức là nghĩa thường trú, đâu có thể làm giải của không không. Nên nước như huyễn đây tức chân, huyễn chẳng thể được. Huyễn của không huyễn, gọi là huyễn pháp. Thấy của tuyệt thấy, mới gọi là thấy huyễn.

Hỏi: Các pháp chẳng chân, mỗi mỗi không tự tánh, sát-na biến khác nên gọi là huyễn, thân Phật thường trú đâu xưng huyễn ư?

Đáp: Chư Phật lược có hai thân: Một, thân chân thật; Hai, thân phương tiện. Vì chúng sinh có chẳng thấy thân chân thật của Như Lai, nên hiện bày thân phương tiện khiến vào chân thật. Nếu lúc ngộ nhập tức thân phương tiện là thể thường trú, rõ huyễn chẳng thể được vậy, như Ương-quật-ma-la là Đức Phật Nhất Thiết Thế Gian Nhạo Kiến Thượng Đại Tinh Tấn ở cõi nước nhất thiết bảo trang nghiêm, dùng sức bản nguyện vào môn lưới huyễn, hiện vết đồng phàm bày hạnh giết hại, sau gặp Phật ngộ đạo nghiệp ác chóng tiêu, khiến tất cả chúng sinh biết được đạo thì nghiệp mất, chẳng sinh tà chấp, đều khiến ngưỡng mộ Phật pháp khó lường chẳng thể nghĩ bàn có oai lực lớn. Do đó, trong kinh Ương-quật-ma-la có kệ tụng nói:

“Chỗ Như Lai biến hóa
Chúng sinh đều chẳng biết
Chỗ Như Lai làm huyễn
Vua của trong các huyễn
Thân lớn thân phương tiện
Đó thì là Như Lai”.

Hỏi: Tất cả pháp như huyễn cớ sao có cấu tịnh năng sở đối trị?

Đáp: Chỉ vì như huyễn nên cấu tịnh chẳng tịnh, do tâm xoay chuyển, pháp phàm Thánh sinh vậy. Trong kinh Tư Ích nói: “Pháp cấu nói tịnh là thấy thật tánh cấu vậy. Pháp tịnh nói cấu là tham trước tướng tịnh vậy”. Lại, trong Đại Trang Nghiêm Kinh Luận nói: “Hỏi: Nếu các pháp đồng như huyễn, vì nghĩa gì mà một là năng làm và một là sở làm? Đáp bằng kệ tụng:

“Thí như cưỡng vua huyễn
Khiến vua huyễn khác lùi
Pháp thanh tịnh như vậy
Năng khiến pháp huyễn hết”.

Giải thích: Pháp tịnh năng trị kia cũng như vua huyễn, do năng đối trị pháp nhiễm được tăng thượng vậy. Pháp huyễn sở trị kia cũng như huyễn vua, do ở cảnh giới được tăng thượng vậy. Như vậy, pháp thanh tịnh năng khiến các pháp nhiễm hết là như lực cưỡng vua huyễn kia năng khiến các vua huyễn khác thối lùi, vì pháp nhiễm tịnh mỗi mỗi có lực tăng thượng tùy cảnh tự tại chuyển, nên xưng là vua. Vì vậy, trong kinh Viên Giác nói: “Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Phổ Nhãn rằng: “Này thiện nam! Hàng Bồ-tát tân học và chúng sinh ở đời sau muốn cầu giác tánh viên tịnh của Như Lai, phải nên chánh niệm xa lìa các pháp huyễn, trước nương hạnh Xa-ma-tha của Đức Như Lai, kiên trì giới cấm, an ổn đồ chúng, yên toạ nơi tịnh thất luôn khởi ý niệm: Nay thân ta đây bốn đại hòa hợp, chỗ gọi là tóc lông răng móng da thịt gân cốt tủy não cấu sắc đều quy thuộc địa, nước mắt đàm dãi máu mủ tinh khí đại tiểu tiện lợi đều quy thuộc thủy. Hơi khí ấm quy thuộc hỏa, động chuyển quy thuộc phong, bốn đại mỗi lìa nhau, nay đây vọng thân đang tại xứ nào? Tức biết thân đây rốt ráo không thể, hòa hợp làm tướng thật đồng huyễn hóa, bốn duyên giả hợp vọng có sáu căn, sáu căn bốn đại trong ngoài hợp thành, vọng có duyên khí ở trong tích tụ, tợ có duyên tướng giả gọi là tâm. Này thiện nam! Tâm hư vọng đây nếu không sáu trần thì chẳng năng có, bốn đại phân giải không trần có thể được, duyên trần ở trong mỗi mỗi quy về tán diệt, rốt ráo không có duyên tâm có thể thấy. Này thiện nam! Các chúng sinh kia thân huyễn diệt nên tâm huyễn cũng diệt, tâm huyễn diệt nên trần huyễn cũng diệt, trần huyễn diệt nên diệt huyễn cũng diệt. Diệt huyễn diệt nên chẳng phải huyễn chẳng diệt, thí như lau gương dơ hết sáng hiện. Này thiện nam! Phải biết thân tâm đều là cấu huyễn, tướng cấu trọn diệt mười phương thanh tịnh. Này thiện nam! Thí như ngọc báu ma-ni thanh tịnh ánh ngời nơi năm sắc tùy phương mỗi hiện, các người ngu si thấy ngọc báu ma-ni có năm sắc. Này thiện nam! Viên giác tánh tịnh hiện nơi thân tâm tùy loại mỗi ứng, người ngu si kia nói Viên giác tịnh thật có như vậy, tự tướng thân tâm cũng lại như vậy. Do đây, chẳng năng xa lìa huyễn hóa”. Giải thích: Trong châu báu không có sắc màu của năm phương, nhân chỗ ánh sáng ánh ngời. Trong tánh không có thân của năm thú tùy nghiệp mà hiện, người mê mờ châu ngọc, chấp trong châu ngọc thật có sắc. Người mê mờ tánh, nhận thân hư ở bên trong tánh. Pháp dụ rõ ràng, chân ngụy có thể nghiệm vậy.

QUYỂN 80

Hỏi: Phàm, vào Tông Kính làm sao rõ tất cả pháp như hóa?

Đáp: Vì muôn pháp không thể, danh tướng vốn không, không mà nhận có, gọi đó là hóa. Trong kinh Hoa Nghiêm phẩm Thập Nhẫn nói: “Phật Tử! Thế nào là vị Đại Bồ-tát nhẫn như hóa? Phật tử! Vị Đại Bồ-tát đây biết tất cả thế gian thảy đều như hóa, chỗ gọi là tất cả chúng sinh ý nghiệp hóa, chỗ giác tưởng khởi vậy, tất cả thế gian chỗ các hành hóa phân biệt khởi vậy. Tất cả điên đảo khổ lạc hóa là chỗ vọng thủ khởi vậy. Tất cả thế gian pháp chẳng thật hóa là chỗ ngôn thuyết hiện vậy. Tất cả phiền não phân biệt hóa, là chỗ niệm tưởng khởi vậy. Lại có thanh tịnh điều phục hóa, chỗ không phân biệt hiện vậy, ở ba đời chẳng chuyển hóa, không sinh bình đẳng vậy. Bồ-tát nguyện lực hóa, tu hành rộng lớn vậy, Như Lai đại bi hóa, phương tiện hiện bày vậy, chuyển pháp luân phương tiện hóa, là chỗ trí tuệ vô úy biện tài nói vậy. Bồ-tát rõ biết thế gian xuất thế gian hóa như vậy. Hiện chứng biết, biết rộng lớn, biết vô biên, biết như sự, biết tự tại, biết chân thật, chẳng phải chỗ thấy hư vọng năng lay động, tùy chỗ thế gian hành cũng chẳng hoại mất. Thí như hóa chẳng từ tâm khởi, chẳng từ tâm pháp khởi, chẳng từ nghiệp khởi, chẳng thọ quả báo, chẳng phải thế gian sinh, chẳng phải thế gian diệt. Chẳng thể tùy theo, chẳng thể quấy xúc, chẳng phải trú lâu, chẳng phải trú khoảnh khắc, chẳng phải hành thế gian, chẳng hải lìa thế gian, chẳng chuyên ràng buộc một phương, chẳng thuộc khắp các phương, chẳng phải có lượng không lượng, chẳng nhàm chẳng dứt, chẳng phải chẳng nhàm dứt, chẳng phải phàm chẳng phải Thánh, chẳng phải nhiễm chẳng phải tịnh, chẳng phải sinh chẳng phải tử, chẳng phải trí chẳng phải ngu, chẳng phải thấy chẳng phải chẳng thấy, chẳng phải nương thế gian, chẳng phải vào pháp giới, chẳng phải sáng suốt chẳng phải chậm lụt, chẳng phải thủ, chẳng phải chẳng thủ, chẳng phải sinh tử chẳng phải Niết-bàn, chẳng phải có chẳng phải không, có Bồ-tát phương tiện khéo léo như vậy, hành ở thế gian tu đạo Bồ-tát, rõ biết thế pháp, phân thân hóa đến, chẳng đắm thế gian, chẳng thủ tự thân không chỗ phân biệt, chẳng trú thế gian chẳng lìa thế gian, chẳng trú nơi pháp chẳng lìa nơi pháp. Vì bản nguyện nên chẳng xả bỏ một chúng sinh giới, chẳng điều phục ít chúng sinh giới, chẳng phân biệt pháp, chẳng phải chẳng phân biệt. Biết tánh các pháp không đi không lại, tuy không chỗ có mà khắp đầy Phật pháp rõ pháp như hóa chẳng phải có chẳng phải không. Phật tử! Vị Đại Bồ-tát an trú như vậy, lúc nhẫn như hóa, đều năng đầy đủ đạo của tất cả chư Phật Bồ-đề, lợi ích chúng sinh. Đó gọi là nhẫn như hóa thứ chín của vị Đại Bồ-tát”. Nên biết pháp thiện và bất thiện từ tâm hóa sinh, dùng nhân của không làm thọ quả của chợt có. Nên Lục Tổ nói: “Tư duy ác pháp tức hóa làm địa ngục, tư duy thiện pháp tức hóa làm thiên đường, độc hại hóa làm súc sinh, từ bi hóa làm Bồ-tát, cho đến đều là tự tánh biến hóa”. Trong luận Đại Trí Độ nói: “Hỏi: Nếu tất cả pháp đều không, như hóa, cớ sao có các thứ nói pháp sai biệt? Đáp: Như chỗ Phật hóa và chỗ các người khác hóa tuy chẳng thật mà có các thứ hình tượng riêng khác, chỗ thấy các thứ trong mộng cũng như vậy. Người thấy sự tốt xấu trong mộng, có sinh vui mừng, có sinh khiếp sợ, như ảnh tượng trong gương tuy không thật sự mà tùy hình gốc nên ảnh tượng có xấu đẹp. Các pháp cũng như vậy, tuy không mà mỗi mỗi có nhân duyên. Như Phật nói trong đây, ở trong hóa pháp đó, có Thanh văn biến hóa, có Bích-chi-phật biến hóa, có Bồ-tát biến hóa, có Phật biến hóa, có phiền não biến hóa, có nghiệp biến hóa”. Lại nói: Như hóa là hóa chủ, không định vật, chỉ do tâm sinh bèn có chỗ làm đều không có thật. Thân người cũng như vậy, vốn không chỗ nhân, chỉ từ tâm đời trước sinh thân đời này, đều không có thật. Vì vật nên các pháp như hóa.

Hỏi: Chẳng nên nói biến hóa sự không, cớ sao biến hóa tâm cũng từ tu định được? Từ tâm đây làm các thứ biến hóa, hoặc nhân hoặc pháp là hóa có nhân được quả cớ sao không?

Đáp: Như Đức Phật nói: Quán không sinh từ có sinh được thoát, nương vô vi từ hữu vi được thoát, tuy quán pháp không sinh không mà có thể làm nhân duyên, vô vi cũng vậy, biến hóa tuy không cũng năng sinh tâm nhân duyên. Lại nữa, không chẳng vì chẳng thấy là không. Vì không thật dụng đó nên nói không, vì vậy nên nói các pháp như hóa. Nên biết tất cả các pháp từ tâm sinh đều như huyễn hóa, tuy huyễn hóa chẳng thật, cũng có thể làm nhân duyên của thiện ác thọ báo ứng của thăng trầm, không thể sinh ở đoạn kiến, chỉ rõ thể hư chớ sinh lấy bỏ.

Hỏi: Phàm, pháp có tướng đều từ biến hóa, tâm không hình tướng cớ sao hóa hiện?

Đáp: Tâm vốn là hóa, lý chẳng nghĩ bàn, từ tâm hiện tâm như hóa khởi hóa. Trong luận Phật Địa nói: “Tâm hóa chỉ hai: Một, tự thân tương ưng, nghĩa là từ trên tâm hóa hiện các thứ tâm và tâm pháp ảnh tượng sai biệt; Hai, tha thân tương ưng, nghĩa là khiến tha tâm cũng hiện các thứ tâm và tâm pháp ảnh tượng sai biệt. Đây đều là tướng phần tợ kiến phần hiện, có nghĩa định lực năng khiến tự tâm giải chẳng phải phân pháp, gọi là hóa tự tâm, qua lại giúp hữu tình khiến hàng ngu muội giải pháp sâu mầu, khiến hàng thất niệm được chánh nghĩ nhớ, gọi là hóa tha tâm. Nhưng tâm không hóa, vì không hình chất. Như trong luận nói: Tâm không hình nên chẳng thể biến hóa. Lại nói: Pháp thân không tâm tâm pháp, đây là căn cứ hàng Nhị thừa và các chúng sinh khác định lực mà nói. Định lực của kia yếu kém, chẳng năng hóa hiện pháp không hình không chất, chư Phật Bồ-tát định chẳng thể nghĩ bàn đều năng hóa hiện, nếu chẳng như vậy, cớ sao Đức Như Lai hiện tham sân v.v... cớ sao Thanh văn và loài bàng sinh v.v... biết tâm Như Lai? Cớ sao trong kinh nói hóa vô lượng loại đều khiến có tâm? Cớ sao luận đây nói các hóa ý nghiệp, cớ sao trong kinh nói tâm y tha, chỉ các hóa sắc đồng thật sắc dụng. Hóa căn và tâm chỉ có tướng hiện, chẳng đồng thật dụng. Lại, căn cứ loại dưới nên nói như vậy. Nếu vậy cớ sao chẳng hóa chẳng phải tình khiến tâm tướng hiện. Nếu tâm tướng hiện thì gọi là hữu tình, chẳng phải chẳng phải tình gồm. Cho nên hóa tâm chỉ nói hai thứ: Một, tự thân; Hai, tha thân hóa v.v...

Hỏi: Pháp một tâm đây, lý không khác vết, ước về cơ đối pháp giáo có nhiều môn, ở trong một pháp danh tự sai biệt, hoặc gọi là Phật tánh, hoặc xưng là Như Lai tạng, cớ sao thành nghĩa tạng, cớ sao gọi là Phật tánh?

Đáp: Như Lai tạng là tâm chân thức, là trong chân tâm có đầy đủ Hằng sa diệu Phật pháp, như trong vọng tâm có đầy đủ hằng sa nhiễm pháp, là tâm và pháp đồng một thể tánh, nên gọi là Như Lai tạng, tức tất cả chúng sinh có Như Lai tạng năng làm nhân Phật, gọi là có Phật tánh, như ngủ trong tâm có tánh giác ngộ. Như trong đá vàng có tánh vàng, trong đá trắng có tánh bạc, trong tất cả pháp thế gian như vậy đều có tánh Niết-bàn, tánh đây tức là chúng sinh tự thật, nên gọi là ngã, ngã tức Phật tánh, ẩn thì gọi là Như Lai tạng, hiển thì gọi là pháp thân.

Hỏi: Nếu chúng sinh tự thật gọi là Phật tánh, giác ngộ tánh đây nên gọi là Phật. Chỉ rõ một tánh tức khế hợp cội nguồn. Cớ sao trong giáo hoặc nói hai ba đến hàm thứ v.v... Phật tánh chẳng đồng?

Đáp: Trong kinh Đại Niết-bàn nói: “Chánh nhân Phật tánh là tâm chúng sinh vậy”. Lại nói: Phật tánh, chẳng gọi là một pháp, chẳng gọi là mười pháp. Chẳng gọi là trăm pháp, chẳng gọi là ngàn pháp, chẳng gọi là muôn pháp. Lúc chưa đắc Bồ-đề, tất cả thiện ác vô ký, đều gọi là Phật tánh. Nên biết lúc chưa đắc Bồ-đề, tất cả các pháp còn chẳng phải danh số, đâu huống gì tỏ ngộ mà nói hai ba. Nhưng tuy mở hợp, một tánh không sai, căn cứ gốc ngọn nhân quả mà phân nhiều thứ. Trong luận Phật Tánh nói: “Phật tánh có ba thứ: Đó là ba nhân ba thứ Phật tánh. Ba nhân là: Một, ứng đắc nhân; Hai, gia hạnh nhân; Ba, viên mãn nhân. Ba nhân đây, nhân thứ nhất thì lấy vô vi như lý làm thể, hai nhân sau thì lấy hữu vi nguyện hạnh làm thể. Ba thứ Phật tánh là, trong ứng đắc nhân có đủ ba tánh: Một, tánh trú tự tánh; Hai, tánh dẫn ra; Ba, tánh đến đắc quả. Ba tánh đây lại thành ba tạng: Một, tạng sở gồm; hai, tạng ẩn che; Ba, tạng năng gồm. Sở gồm làm tạng là Đức Phật nói căn cứ trú tự tánh như như, tất cả chúng sinh và Như Lai tạng. Nói Như là, có hai nghĩa: Một, trí như như; Hai, cảnh như như, đều chẳng đảo nên gọi là như như. Nói Lai là, căn cứ từ tự tánh lại, lại đến đến được, đó gọi là Như Lai. Nên Như Lai tánh tuy nhân gọi là ứng đắc, mà quả gọi là chí đắc. Thể đó chẳng hai, chỉ do trong đục có khác. Lúc tại nhân là trái nghịch hai không nên khởi vô minh mà làm chỗ phiền não xen tạp nên gọi là nhiễm đục, tuy chưa tức hiển, hẳn sẽ có thể hiện, nên gọi là ưng đắc. Nếu lúc đến quả cùng hai không hợp, không trở lại hoặc lụy, phiền não chẳng nhiễm, gọi là thanh tịnh. Quả đã hiển hiện nên gọi là chí đắc. Nói tạng là, tất cả chúng sinh đều tại trong trí Như Lai, nên gọi là tạng, vì trí như như xứng cảnh như như vậy. Tất cả chúng sinh quyết định không có ra cảnh Như Lai là, đều là chỗ của Như Lai gồm giữ, nên gọi là sở tạng. Chúng sinh là Như Lai tạng; Hai, ẩn che làm tạng là, Như Lai tự ẩn chẳng hiện, nên gọi là tạng. Nói Như Lai là có hai nghĩa: Một, nghĩa hiện như chẳng điên đảo. Do vọng tưởng nên gọi là điên đảo, chẳng vọng tưởng nên gọi là như; Hai, nghĩa hiện thường trú. Tánh như đây từ tánh tự trú tánh lại đến đến lược, như thể chẳng biến khác, nên là nghĩa thường trú. Tánh Như Lai trước lúc trú đạo là phiền não ẩn che, chúng sinh chẳng thấy nên gọi là tạng; Ba, năng gồm làm tạng là, nghĩa là quả địa tất cả công đức nhiều hơn số cát sông Hằng trú Như Lai lúc ứng đắc tánh, gồm đó đã hết. Nếu lúc chí quả mới nói đắc tánh là, tánh đây bèn là vô thường. Tại sao? Chẳng phải như nay được nên biết là vốn có, cho nên nói thường, tuy nói ba nhân Phật tánh, chỉ là một tánh. Tại sao? Chánh nhân là vốn có, vì chúng sinh bất giác nên bị khách trần lấp che. Như vàng trong quặng thể vàng chẳng hiện, cần nhờ công đó mới thành dụng vàng. Chánh nhân Phật tánh đây cũng lại như vậy, tại thiền chẳng hiện ở trong quặng phiền não, phải trước nhờ trí tuệ liễu nhân biết có khai phát, tiếp theo nhờ duyên nhân phương tiện hỗ trợ hiển bày mới thành đại dụng. Duyên dụng tuy phân, thể luôn một vị, chẳng động chúng sinh tánh mà thành Phật tánh vậy. Vì lý của trú tự tánh tại phàm mà tức chân, vì sự của tánh dẫn ra vậy, thành quả bà chẳng hư. Vì văn của ứng đắc, ở nhiễm mà sao mất, vì đạo của chí đắc, chứng thành mà không nghi ngờ. Lại nhân tự tánh có nên năng dẫn ra, ứng đắc chí của khắc chứng chẳng phải hư, như trong kinh Đại Niết-bàn nói: “Nhấtxiển-đề v.v... quyết định sẽ đắc thành A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề. Này thiện nam! Thí như có người trong nhà có sữa lạc.

Có người hỏi: Ông có tô ư?

Đáp: Tôi có. Lạc thật chẳng phải tô, vì khéo phương tiện, quyết định sẽ được, nên nói có tô. Chúng sinh cũng như vậy, thảy đều có tâm. Phàm, có tâm là quyết định sẽ được thành A-nậu-đa-latam-miệu-tam-bồ-đề, vì nghĩa đó nên ta thường nói tất cả chúng sinh đều có Phật tánh”. Lại trong các kinh luận thông nói rõ bốn thứ Phật tánh: Một, nhân tánh, tức nhiễm tịnh duyên khởi; Hai, nhân nhân tánh, tức bên trong huân phát tâm; Ba, quả tánh, tức thủy giác đã viên; Bốn, quả quả tánh, tức bản giác đã hiển. Lại, thứ nhất, tùy duyên ẩn hiển. Thứ hai nêu khởi tịnh dụng, thứ ba nhiễm hết tịnh viên, thứ tư trở lại nguyên hiển thật. Lại, thứ nhất tự tánh trú tánh tức chánh nhân, thứ hai dẫn ra Phật tánh tức liễu nhân, thứ ba và tư đều là chí đắc quả tánh, tức nhân duyên. Lại, thứ nhất và hai lý trí trong nhân, thứ ba và tư lý trí trong quả. Nhân quả tuy khác mà trí chẳng khác lý, khế đồng không hai, chỉ một tâm chuyển, tuyệt tướng lìa ngôn, không gì chẳng bao dung, nên gọi là Phật tánh. Lại trong Niết-bàn sớ nói: “Niết-bàn chánh tánh có năm: Một, chánh tánh chẳng phải nhân, nhân chẳng phải quả, chẳng phải quả quả; Hai, nhân tánh, mười hai nhân duyên; Ba, nhân nhân tánh, chỗ mười hai nhân duyên sinh trí tuệ; Bốn, quả tánh, Tam-miệu Tam-bồ-đề; Năm, quả quả tánh, Đại Niết-bàn, tuy là phân biệt mà chỉ là một pháp”. Lại, xưa trước giải thích có ba thứ tánh: Một, lý tánh, nghĩa là chân như; Hai, hạnh tánh, nghĩa là chủng tử vô lậu; Ba, ẩn mật tánh, tức là trù của trần lao. Ba tánh ẩn hiển tuy phân, một thể phàm Thánh cộng có. Lại ước về thường trú tùy duyên mà phân hai thứ Phật tánh: Một nghĩa thường trú. Trong kinh nói: Thuốc đó vị gốc để ở trong núi, như Bồ-tát Thường Bất Khinh kính bốn chúng v.v... vì Phật tánh đây lẫn lộn phiền não mà chẳng ô, hiển Bồ-đề mà chẳng tịnh, vì thường trú chẳng biến vậy. Do đó, Bồ-tát chẳng dám khinh một chúng sinh nhỏ, vì Phật tánh chẳng hoại vậy; Hai, nghĩa tùy duyên. Trong kinh nói tùy chỗ lưu chuyển đó thành các thứ vị. Như Bồ-tát thường thảm xót thương bốn chúng v.v... vì chân tâm chẳng giữ tự tánh, khắp thể tùy duyên mà làm nhân pháp. Trong kinh nói: Pháp thân lưu chuyển trong năm đường, gọi là chúng sinh, vì chúng sinh tùy duyên mất tánh, chẳng hay chẳng biết, do đó Bồ-tát thường sinh buồn thảm. Lại, chúng sinh Phật tánh đều có hai nghĩa: Một, sở y Phật tánh, như hai nghĩa trên: một là thường trú, hai là tùy duyên; Hai, năng ty tạp nhiễm: Thứ nhất duyên thành tợ nghĩa có, thứ hai không tánh tức nghĩa không. Do nhiễm pháp có tức nghĩa không vậy, sở y Phật tánh thường thanh tịnh chẳng biến vậy, do nhiễm pháp có tợ nghĩa đó vậy, sở y Phật tánh tùy duyên thành nhiễm vậy. Nên biết vì chúng sinh không tánh tức không vậy. Tại phàm chẳng phàm, vì pháp thân tùy duyên vậy, ở Thánh chẳng phải Thánh. Lại, vì chúng sinh duyên thành tợ có nên Thánh chẳng là phàm. Về pháp thân thường trú chẳng biến nên phàm chẳng là Thánh, thì chân tục một khoảng, nhiễm tịnh luôn phân, phàm Thánh hai đường, chúng sinh và Phật không khác, dung thông như vậy mới rõ một tâm Phật tánh. Các bậc Cổ đức hỏi: Tất cả chúng sinh Phật tánh thường trú, là hiện tại, hay tương lai? Đáp: Ba đời đều thường.

Hỏi: Nếu hiện tại thường là chúng sinh tức Phật ư?

Đáp: Như con trong bào thai, há chẳng đồng dòng họ cha? Nếu hỏi cha dòng họ gì, sao trách già trẻ. Lại, Phật tánh chẳng phải tương lai hay hiện tại là, chỉ thấy lý đây, chẳng thể suy cầu phải tu đạo mới được, chẳng thể nói hiện tại, chỉ thấy lý đây thì nói về lý không sai, tu đạo mới được thì tùy sự chẳng lạm. Lại trong kinh Niết-bàn nói rõ sáu người mù sờ voi mỗi mỗi nói khác nhau, tuy nói chẳng chắc thật, cũng chẳng lìa voi. Như mỗi mỗi chấp năm ấm là không đại v.v... sáu pháp là Phật tánh, tuy nói chẳng nhằm mà cũng chẳng lìa sáu pháp, như bên trong của đầu chân, đã không có voi chẳng thể tức vậy. Bên ngoài của đầu chân cũng không riêng biệt voi chẳng thể lìa vậy. Chẳng phải tức chẳng phải lìa, chẳng phải trong chẳng phải ngoài, mà được nói là voi. Chúng sinh Phật tánh cũng lại như vậy. Chẳng phải tức sáu pháp, chẳng phải lìa sáu pháp, chẳng phải trong chẳng phải ngoài nên gọi là Trung đạo, gọi là Phật tánh. Nếu thủ sáu pháp làm Phật tánh là, Phật tánh của nhiều người mù. Nếu lìa sáu pháp làm Phật tánh là, như chỉ hư không làm Phật tánh. Như chỗ các Bà-lamôn phỉ báng làm chỗ tiên dự hại. Thủ chẳng tức chẳng lìa trung đạo làm Phật tánh là như chỗ Đại vương tôi trí thấy Phật tánh. Trong kinh Thập Địa nói: “Trong thân chúng sinh có Kim cang Phật tánh, giống như Nhật luân. Phật là giác. Người có giác của linh tri. Nay, Đệ nhất nghĩa không cùng đó làm tánh nên gọi là Phật tánh, chẳng phải tình không giác, chỉ trì tự thể được xưng là pháp. Nay chân tánh cùng đó làm pháp, nên gọi là pháp tánh, nên nói: Giả nói năng sở mà thật không sai, cớ sao không sai? Đồng một tánh vậy, các thứ sách vở bên ngoài cũng nói Thiên địa muôn vật đồng vâng nhận nguyên khí của âm dương vậy.

Hỏi: Phàm nói Phật tánh, cảnh trí đều thâu, nên nói Bồ-đề Bồ-đề đoạn đều gọi là Bồ-đề. Nói trí và trí xứ đều gọi là Bát-nhã, cớ sao trong giáo nói: Tại trong số hữu tình xưng là Phật tánh, tại trong số vô tình xưng là pháp tánh?

Đáp: Ở tâm gọi là Phật tánh, ở cảnh gọi là pháp tánh, theo duyên tuy riêng biệt năng sở tợ phân, căn cứ tánh thì vốn đồng, một thể không khác. Như bình chứa đựng đề hồ, tùy các đồ vật mà chẳng đồng, như nước phân sông biển, tùy theo dòng chảy mà được tên gọi. Một vị chân tâm cũng lại như vậy, phàm Thánh cảnh trí một khoảng không sai. Do đó trong kinh Pháp Vương nói: “Tất cả chúng sinh một tâm Phật tánh bình đẳng, vì đồng các pháp vậy. Chỉ vì chân tâm chẳng giữ tự tánh, tùy duyên chuyển động, ở xứ chuyển động lập tên khác đó”. Các bậc Cổ đức nói: Thí như châu ngọc xoay hướng đến vầng nguyệt thì ra nước, xoay hướng về mặt nhật thì ra lửa, một châu ngọc chưa từng khác, mà được tên của nước lửa. Vì thể châu ngọc là một, năng ứng hai duyên. Vả lại, như lúc vầng nguyệt làm duyên nước trong vầng nguyệt chưa từng không tánh lửa, lúc mặt nhật làm duyên lửa, trong mặt nhật chưa từng không tánh nước? Tại sao? Hai tánh cùng ngầm vậy. Chỉ duyên nước lửa sự có hơn kém, nên khiến hai tánh ngầm núp chẳng hiện, mỗi mỗi theo tự thể mà được tên nước hay lửa, chẳng phải toàn không tánh. Chân như một tâm cũng lại như vậy, tại trong hữu tình gọi là Phật tánh, tại trong vô tình gọi là pháp tánh. Một như chưa từng khác, mà được tên của pháp Phật.

Vì chân như thể một, năng ứng hai duyên. Vả lại như hữu tình lúc chánh làm Phật duyên, hữu tình chưa từng không pháp tánh. Vô tình chánh lúc làm pháp duyên, vô tình chưa từng không Phật tánh. Tại sao? Hai tánh cùng ngầm vậy. Chỉ như sắc tâm sự có hơn kém mà hai tánh ngầm núp chẳng hiện, mỗi mỗi theo tự thể mà được tên pháp hay Phật. Chẳng phải toàn không tánh. Trong Thanh Lương Ký nói: “Pháp tánh tức là Phật tánh, nên trong kinh nói biết tất cả pháp tức tâm tự tánh. Nếu lấy tâm tánh làm Phật tánh là, không pháp nào chẳng phải là tâm tánh, thì chẳng cách trong ngoài, mà thể chẳng phải trong ngoài, trong ngoài thuộc tướng. Tánh chẳng tướng đồng, sao có trong ngoài, nhưng mê một tánh mà biến thành, ngoài ngoài, đã Duy tâm, sao có chẳng phải Phật? Chỗ biến không thật nên nói tường vách nói không Phật tánh. Vì tánh nói tướng, không gì chẳng phải tánh vậy. Như khói thân lửa, khói tức là lửa mà khói un lửa, nương tánh khởi tướng, tướng che mờ tánh, mà tướng tức tánh. Như nước thành sóng, sóng tức là nước, cảnh nhân tâm biến, cảnh chẳng khác tâm. Tâm nếu có tánh, cảnh sao chẳng phải có. Huống gì tâm và cảnh đều tức chân tánh, chân tánh chẳng hai, tâm cảnh đâu trái. Nếu vì tánh từ tướng chẳng ngại trong ngoài, nếu vì cảnh bên ngoài mà ví ở tâm, khiến kẻ có hay biết, tu hành làm Phật, tức là pháp của ngoại đạo tà kiến, nên phải thường chiếu, chẳng tức chẳng lìa, chẳng một chẳng khác, không chỗ lầm hoặc vậy. Nên biết Phật tánh chẳng phải trong chẳng phải ngoài, tùy vật mê ngộ, cưỡng nói thăng trầm. Lại, nay vì ngại vọng chấp, tất cả hữu tình vô tình có nghĩa Phật tánh, căn cứ chấp nghĩa đây tự có cạn sâu. Một, nghĩa là tinh thần hóa làm đất cây vàng đá, kiêu cánh mang hòn để thành ở con, tình biến chẳng phải tình, chẳng phải tình biến tình. Đó là tà kiến, chẳng khác ngoại đạo với chúng sinh chấp sinh cây cỏ có mạng nên chẳng thể vậy. Nếu nói không tình đồng một tánh thì ít gần tông cũng phải được ý. Kia vốn lập ý căn cứ ở chân như tự thể khắp cùng vậy, tánh của chân như không có hai vậy. Như trong kinh Niết-bàn nói: “Đệ nhất nghĩa không là Phật tánh vậy, trong tất cả pháp có tánh an lạc gồm cảnh theo tâm, không gì chẳng phải là tâm, sắc tánh trí tánh thể không hai vậy.” Những đoạn văn như vậy ở trong các kinh có đủ. Nay cho là đây giải thích thái tức thái quá, mất tình không tình hoại nơi tánh tướng. Nếu vì Đệ nhất nghĩa không của Niết-bàn gần thông tâm cảnh. Niết-bàn há có thể chọn lựa ở ngói sỏi nói không tánh ư? Nay hiển bày ngay chánh nghĩa, nghĩa là tánh và tướng chẳng phải một chẳng phải khác, tình và chẳng phải tình cũng chẳng phải một hay khác. Nên phải giải thích là vì tánh từ duyên thì tình và chẳng phải tình khác. Một là như Niết-bàn chọn lựa bỏ vách tường ngói sỏi v.v... vậy. Hai là, không hay chẳng hay là bên trong của chân tánh không tâm cảnh vậy. Ba là, không gì chẳng phải giác ngộ, vì không tình tánh dung giác tánh vậy. Nên trong luận Đại Thừa Khởi Tín nói: “Hỏi: Nếu pháp thân chư Phật lìa nơi sắc tướng, cớ sao năng hiện các thứ sắc tướng? Đáp: Tức pháp thân đây là sắc thể vậy, năng hiện ở sắc, chỗ gọi là từ xưa đến nay sắc tâm chẳng hai, vì sắc tánh tức trí vậy. Sắc thể không hình, nói là trí thân, vì trí tánh tức sắc vậy, nói là pháp thân khắp tất cả xứ”. Nay lấy nghĩa của hai tánh tương tức qua lại dung hòa mà nói vậy. Trong Bách Môn Nghĩa Hải nói: “Nghĩa là giác trần và tất cả pháp theo duyên không tánh, gọi là Phật tánh”. Trong kinh nói: Ba đời Phật chủng lấy không tánh làm tánh, tất cả xứ tùy rõ không tánh tức làm Phật tánh, chẳng vì hữu tình nên có chẳng vì vô tình nên không. Nay riêng nói về hữu tình là, khắp trong đời khuyên người làm đồ vật, thường ở nơi một sợi lông một mảy may, rõ thấy tất cả lý sự, không gì chẳng phải là Như Lai tánh, là khai mở Như Lai tánh khởi công đức, gọi là Phật tánh. Vậy biết sáu đường bốn loài núi sông đất liền, tình và chẳng phải tình đều đồng một tánh. Như Đức Thế Tôn sau cùng duỗi bày, nên cùng tận trở lại nguyên phẩm ba là bảo đó. Lại, trong kinh nói: “Bấy giờ Đức Thế Tôn nghịch thuận như vậy vào các thiền rồi, bảo khắp đại chúng: Ta dùng Bát-nhã thậm thâm quán khắp ba cõi tất cả sáu đường, các núi biển lớn đất liền hàm sinh. Ba cõi như vậy tánh căn bản lìa, rốt ráo tịch diệt, tướng đồng hư không, không danh không thức, trọn đoạn các hữu, xưa nay bình đẳng không tướng cao thấp, không thấy không nghe, không hay không biết, không thể trói buộc không thể giải thoát, không chúng sinh không thọ mạng, chẳng sinh chẳng khởi chẳng tận chẳng diệt, chẳng phải thế gian chẳng phải chẳng phải thế gian. Niết-bàn sinh tử đều không thể được. Hai khoảng bình đẳng, đồng các pháp vậy, nhàn cư lắng trú không chỗ hành xử, rốt ráo an đặt hẳn chẳng thể được, từ pháp không trú, pháp tánh thi vi, đoạn tất cả tướng, không một chỗ có, pháp tướng như vậy, biết được đó gọi là người xuất thế. Sự ấy không biết gọi là đầu mối sinh tử. Trong đại chúng, các ông nên đoạn vô minh, diệt đầu mối sinh tử”. Lại báo đại chúng: Ta dùng Ma-ha Bátnhã quán khắp ba cõi hữu tình vô tình tất cả nhân pháp thảy đều rốt ráo không trình bày, không giải thoát, không chủ không nương, chẳng thể gồm giữ, chẳng vượt ngoài ba cõi, chẳng vào các hữu, xưa nay thanh tịnh, không dơ không phiền não, cùng đồng hư không, chẳng bình đẳng chẳng phải chẳng bình đẳng, hết các động niệm, tâm tư tưởng dứt, pháp tướng như vậy, gọi là Đại Niết-bàn, chân thật thấy pháp đây gọi là giải thoát. Phàm phu chẳng biết, gọi là vô minh”. Nói lời ấy rồi, lại vào siêu thiền, từ sơ thiền ra cho đến vào định diệt tận, từ định diệt tận ra cho đến vào sơ thiền, như vậy thuận nghịch vào siêu thiền rồi, lại bảo đại chúng: “Nay ta dùng Phật nhãn quán khắp ba cõi tất cả các pháp vô minh bản tế tánh vốn giải thoát, ở mười phương cầu trọn chẳng thể được, căn bản không vậy. Sở nhân cành lá thảy đều giải thoát, vô minh giải thoát vậy, cho đến già chết đều được giải thoát. Vì nhân duyên đó, nay ta an trú tịch diệt quang gọi là Đại Niết-bàn”. Như trên chân thật là văn của đấng cha từ tâm Bi rộng lớn chẳng thể nghĩ bàn ba lần tuyên bảo đại chúng. Hoặc có người tình cờ gặp giáo đây, có thể chẻ xương làm bút, lột da làm giấy, chích máu làm mực mà biên chép đó, chẳng thể khoảnh khắc tạm quên sát-na mất chiếu. Vả lại như trong đoạn văn thứ nhất nói: Quán khắp ba cõi tất cả sáu đường, các núi biển lớn đất liền hàm sinh, ba cõi như vậy, tánh căn bản lìa, rốt ráo tịch diệt. Đoạn văn thứ hai nói: Quán khắp ba cõi hữu tình vô tình tất cả muôn pháp thảy đều rốt ráo. Đoạn văn thứ ba nói: Quán khắp ba cõi tất cả các pháp, vô minh bản tánh vốn giải thoát. Vì vậy trong khắp pháp giới trong khắp mười phương hoặc có tình hoặc không tình hoặc có tánh hoặc không tánh, núi sông đất liền cỏ cây người vật, chẳng tại ba cõi chẳng vượt ngoài ba cõi, chẳng tùy sinh tử chẳng trú Niết-bàn, đều đồng chân như diệu tánh một tâm, tin hiểu như vậy chóng vào Nhất thừa. Lại không văn từ nào bí mật năng vượt ngoài ý chỉ đây. Lìa đây có nói đều là quyền bày, dẫn dụ đề huề đều về Tông Kính.

Hỏi: Đã nói tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, cớ sao trong kinh Niết-bàn nói hoặc có Phật tánh người xiển-đề người có thiện căn không đồng?

Đáp: Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Trong kinh căn cứ thiện ác vô ký lý quả v.v... qua lại nói có không. Trong Tiến Phước Sớ nói: Nay chuẩn cứ theo kinh nói rõ Phật tánh lược có năm thứ: Đó là thiện, bất thiện, vô ký và lý quả v.v... Nay nói Nhất-xiển-đề người có thiện căn không là, đây là bất thiện Phật tánh vậy. Nhưng người thiện căn có hai thứ đó: Một là, người thiện căn lìa dục, lìa dục đoạn tất cả bất thiện vậy. Hai là, hàng Ngũ trú trở lên, Ngũ trú trở lên không tánh bất thiện. Hai hạng người ấy đều không tánh bất thiện. Người thiện căn có người xiển-đề không? Đây là thiện Phật tánh vậy, xiển-đề đoạn tất cả thiện nên nói là không vậy. Hai người đều có là, lý và vô ký vậy. Hai người đều không là, đều không quả tánh vậy. Trong kinh Niết-bàn nói: “Như Lai Phật tánh thì có hai thứ: Một là có, hai là không. Có tức chỗ gọi là ba mươi hai tướng cho đến vô lượng Tam-muội, đó gọi là có, không tức chỗ gọi là Như Lai ở quá khứ và vị lai các nghiệp nhân thiện bất thiện vô ký quả báo phiền não, năm ấm mười hai nhân duyên, đó gọi là không. Cho đến xiển-đề Phật tánh cũng vậy”. Vậy thì trên từ nơi Phật dưới đến xiển-đề đều có hai tánh có không, chẳng phải toàn không tánh. Vậy biết chỉ căn cứ ba tánh và quả mà luận bàn có không, nếu nói lý tánh còn không phàm Thánh đâu nói có không, thì căn cứ lý không chẳng đủ. Do đó, Pháp sư Đạo Sinh nói: “Phàm, bẩm chất nhị nghi (trời đất) đều là Niết-bàn chánh nhân, xiển-đề cũng loại hàm sinh, cớ sao riêng không Phật tánh?” Bởi vì kinh đó độ chưa hết vậy, nên Pháp sư Đạo Sinh nhẫn chết mười năm, để chứng ý chỉ đó, mãi đến lúc phần sau của kinh Niết-bàn truyền đến, quả thật còn có văn đó, bèn ngồi trên tòa sư tử nhân đó bèn thị tịch.

Hỏi: Như trên quyết định nói tất cả chúng sinh có Phật tánh, chúng sinh đã đầy đủ, cớ sao chẳng khỏi trầm luân?

Đáp: Chúng sinh tuy đủ chánh nhân mà không duyên liễu. Do đó, trong kinh Viên giác nói: “Chưa ra khỏi luân hồi mà biện rõ Viên giác, thì tánh Viên giác kia tức đồng lưu chuyển. Nếu khỏi luân hồi thì điều ấy không thể có”. Nên các bậc tiên đức có kệ tụng nói:

“Viên thành chìm biển thức
Lưu chuyển như bèo trôi”.

Là vì chân như Bản giác chẳng giữ tự tánh. Vì không tánh nên chỉ tùy duyên chuyển. Như nói pháp thân lưu chuyển trong năm đường nên gọi là chúng sinh, phải nên dùng phương tiện khéo léo khai phát đó, dùng trí chiếu hỗ trợ đó. Bởi vì duyên liễu lúc rõ thấy mới trốn vượt cảnh trói buộc. Như trong Khởi Tín Sao nói: Vả lại, phàm chân đó và vọng, đều nương chỗ nói của một pháp giới tâm. Bởi vì tâm đây có thể có dụng. Thể của tức dụng thì mênh mông không tịch, dụng của tức thể thì rõ ràng hay biết”. Vì từ thời vô thỉ đến nay mê nên ở xứ của không tịch, rõ ràng căn thân trần cảnh, ở xứ của rõ biết thì rối ren phân biệt duyên niệm. Nên trong Triệu Luận nói: “Pháp thân ẩn bên trong của vô hình, chân trí ẩn bên trong của duyên lự. Nhưng vô hình duyên niệm đó xưa nay thể không, không tịch hay biết xưa nay chẳng biến, chân của chẳng biến xưa nay tùy duyên vọng của thể không xưa nay thành sự, chẳng phải nhân tạo tác pháp nhĩ như đây, thân tâm chúng sinh hiện nay như đây, tức căn cứ nghĩa đây để rõ nghĩa tướng của duyên nhiếp tịnh vậy. Trong kinh Đại Niết-bàn nói: “Phật bảo: Này thiện nam! Như lời ông nói, nếu Nhất-xiển-đề có Phật tánh cớ sao chẳng ngăn tội của địa ngục? Này thiện nam! Trong Nhất-xiển-đề không có Phật tánh. Này thiện nam! Thí như có vị vua nghe âm thanh không hầu, âm thanh đó thanh diệu, tâm sinh đắm trước, mừng vui mến nghĩ, tình chẳng bỏ lìa, bảo Đại thần rằng: Âm thanh vi diệu như vậy từ xứ nào ra? Đại thần đáp: Âm thanh vi diệu đó từ không hầu ra.

Vua lại bảo: Đem âm thanh đó lại đây. Khi đó, Đại thần đem không hầu đến đặt trước vua mà nói: Đại vương nên biết đây là âm thanh đó. Vua bảo: Không hầu phát ra âm thanh, phát ra âm thanh mà âm thanh không hầu cũng chẳng ra. Khi ấy vua bèn bứt đứt dây không hầu, âm thanh cũng chẳng phát ra, lấy da gỗ đó thảy đều xé nát tìm kiếm âm thanh đó, trọn chẳng thể được. Khi ấy vua sân giận bảo Đại thần: Cớ sao nói hư dối vậy? Đại thần thưa: Phàm, lấy âm thanh pháp chẳng như vậy, nên dùng các duyên phương tiện khéo léo âm thanh mới phát ra. Chúng sinh Phật tánh cũng lại như vậy, không có trú xứ, dùng phương tiện khéo léo nên có thể thấy, vì có thể thấy nên đắc A-nậu-Đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề. Hạng Nhất-xiển-đề chẳng thấy Phật tánh, làm sao có thể ngăn ngừa tội ba đường xấu ác? Này thiện nam! Nếu Nhất-xiểnđề tin có Phật tánh, phải biết người đó chẳng đến ba đường xấu ác, đó cũng chẳng gọi là Nhất-xiểnđề vậy. Vì chẳng tự tin có Phật tánh nên tức đọa ba đường xấu ác, nên gọi là Nhất-xiển-đề”. Vậy biết tất cả chúng sinh tuy có chánh nhân. Chẳng được trọn duyên nên uổng chìm trong sinh tử, vì chẳng biết nên cam xưng là hạ phàm, vì chẳng nghe nên chẳng thân gần bạn lành, thường mê mắt trí, đâu có liễu nhân, luôn tập ác duyên, sao thành gốc thiện. Nay vì người chưa nghe rộng sưu tìm bí tạng, phát khởi tín tâm. Vì hạng người chưa nghe chỉ ngay nguồn tâm rõ ràng không kẹt. Vì đã nghe là trí tuệ khai phát, muôn thiện vốn luân, vì đã nghe là một hướng giữ gìn lý hạnh thành tựu, có lợi ích sâu xa ấy, đâu nhàm chán văn nhiều, mong khắp các hàng hậu hiền, rộng duỗi truyền trao.

Hỏi: Phật tánh nếu quyết định có không, tức thành kiến của đoạn thường, làm sao thể hội lý hợp chánh nhân?

Đáp: Chẳng phải một chẳng phải khác, năng khế hợp môn Nhất thừa. Cũng có cũng không, chẳng phỉ báng tánh của ba chân. Như trong kinh Đại Niết-bàn nói: “Phật dạy: Này thiện nam! Nếu có người nói tất cả chúng sinh quyết định có Phật tánh, thường lạc ngã tịnh chẳng làm chẳng sinh, do nhân duyên phiền não nên chẳng thể thấy. Nên biết người đó phỉ báng Phật, Pháp, Tăng. Nếu có người nói: Tất cả chúng sinh đều không Phật tánh, giống như sừng thỏ từ phương tiện sinh, vốn không nay có, đã có trở lại không, phải biết người đó phỉ báng Phật Pháp tăng. Nếu có người nói chúng sinh chẳng phải có như hư không, chẳng phải không như sừng thỏ. Tại sao? Hư không thường vậy, cho nên được nói cũng có cũng không, có phá sừng thỏ không phá hư không. Người nói như vậy chẳng phỉ báng Tam bảo.

Hỏi: Giáo nói lý của một tâm Phật tánh, có nhân duyên gì được thiện lợi gì?

Đáp: Phật nhãn quán sát chắc thật, chánh lý chẳng sai nhầm, nếu người quyết định tin thọ thì trừ năm thứ lỗi lầm, mà sinh năm thứ công đức. Như trong luận Phật Tánh nói: “Đức Như Lai vì trừ năm thứ lỗi lầm, phát sinh năm thứ công đức, nên nói tất cả chúng sinh đều có Phật tánh”. Trừ năm thứ lỗi lầm là: Một, vì khiến chúng sinh lìa tâm hạ liệt vậy. Có các chúng sinh chưa nghe Phật nói có lý Phật tánh, chẳng biết tự ấm hẳn sẽ có được nghĩa Phật. Nên ở thân đây khởi tưởng hạ liệt, chẳng năng phát tâm Bồ-đề. Hai, vì người lìa mạn hạ phẩm. Nếu có người từng nghe Phật nói chúng sinh có Phật tánh, nhân đó mà phát tâm, đã phát tâm rồi, bèn cho là ta có Phật tánh nên năng phát tâm, và sinh ý tưởng khinh mạn, cho là người khác chẳng năng. Vì phá chấp đó nên Đức Phật nói tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Ba, vì lìa hư vọng chấp, nếu người có mạn tâm đây, thì đối với như lý như lượng chánh trí chẳng phải được sinh hiển bày, nên khởi hư vọng. Hư vọng là lỗi lầm chúng sinh. Lỗi lầm có hai: Một là, vốn không; Hai là, khách. Vốn không là, như trong như lý vốn không nhân ngã mà làm chấp nhân ngã, chấp đây vốn không cho đến, nên biết năng chấp đều thành hư vọng. Do chỗ chấp đây khởi vô minh các nghiệp quả chấp đều là hư vọng, không thọ giả tác giả mà ở trong chấp có hư vọng, nên nói vốn không. Khách là, các pháp hữu vi đều niệm niệm diệt, không nghĩa dừng trú, thì mắng năng và sở mắng cả hai chỗ không có. Chỉ sát-na đầu làm cũ, sát-na kế tiếp làm khách, năng mắng sở mắng khởi mà tức rơi rụng. Vậy thì sát-na đầu là oán, sát-na kế tiếp thì chẳng phải oán. Vì ở trong khách làm chấp cũ, chấp đó chẳng thật nên gọi là hư vọng. Nếu khởi chấp đó thì chánh trí chẳng sinh. Vì trừ chấp đó nên nói Phật tánh, Phật tánh, tức là nhân không pháp không chỗ hiển bày chân như, do chân như nên không năng mắng sở mắng, thông đạt lý đây lìa chấp hư vọng; Bốn, vì trừ gièm pha phỉ báng pháp chân thật. Mọi sự lỗi lầm của tất cả chúng sinh đều là hai không. Do giải không đây nên chỗ khởi công đức trí tuệ thanh tịnh đó gọi là chân thật. Nói gièm pha phỉ báng là, nếu chẳng nói Phật tánh thì chẳng rõ không, bèn chấp thật có, trái nghịch phỉ báng chân như, công đức tịnh trí đều chẳng thành tựu; Năm, lìa ngã chấp. Nếu chẳng thấy lỗi lầm hư vọng và công đức chân thật, ở trong chúng sinh chẳng khởi đại bi, do nghe Phật nói Phật tánh nên biết hư vọng lỗi lầm và công đức chân thật, thì ở trong chúng sinh khởi tâm đại bi, không có đây kia nên trừ ngã chấp. Vì nhân duyên năm nghĩa đây, mà Đức Phật nói Phật tánh có năm thứ công đức: Một, khởi tâm chánh cần; Hai, sinh ý cung kính; Ba, sinh Bát-nhã; Bốn, sinh xà-na; Năm, sinh đại bi. Do năm công đức năng lật lại năm lỗi lầm. Do chánh cần nên lật lại tâm hạ liệt, do cung kính nên lật lại ý khinh mạn, do Bát-nhã nên lật lại vọng tưởng chấp, do sinh Xà-na trí thế tục năng sở hiển bày thật trí và các công đức nên lật lại phỉ báng chân pháp. Do tâm đại bi từ niệm bình đẳng, nên lật lại ngã chấp, cho đến, do Bát-nhã nên chẳng xả bỏ Niết-bàn, do đại bi nên chẳng xả bỏ sinh tử, do Bát-nhã nên thành tựu Phật pháp, do đại bi nên thành tựu chúng sinh. Vì vậy, nếu rõ tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tự nhiên chẳng phỉ báng chẳng khinh mạn, chẳng lỗi lầm, chẳng trái nghịch. Tại sao? Vì chúng sinh diệu nên đều chẳng thể nghĩ bàn. Như Đức Phật tại trong Trúc Lâm nói pháp, trao chim bồ câu trắng tên gọi kiếp, nước ghi của tám tướng. Các Đại Bồ-tát v.v... thảy đều tỏ bày sám hối, đều nói: Nếu trí chưa bằng Đức Như Lai, chúng ta từ nay về sau chẳng dám cân lường báu với chúng sinh. Hòa thượng Kiên nói: Ta thấy chim quạ già tại trên sinh bàn xoay đầu chuyển não, bèn toàn thể thấy pháp thân nó. Lại có vị quan thế tục vào chùa cùng Hòa thượng bàng Sơn lên chánh điện, hỏi: Chim sẻ nhỏ này có Phật tánh chăng? Hòa thượng đáp: có. Lại hỏi: Đã có Phật tánh vì sao đến trên đầu Phật ư? Hòa thượng bảo: Nó sao chẳng đến trên đầu chim dao ư?

Hỏi: Phật tánh ở trong năm mắt, mắt nào năng thấy?

Đáp: Trong kinh Niết-bàn nói: “Mắt Phật thấy đó mà được sáng rõ, vì mắt Phật thấy tất cả mọi sự đẹp xấu sai biệt v.v... thảy đều chẳng động, là thấy tánh vậy”. Trong kinh Duy-ma nói: “Khéo năng phân biệt tướng các pháp ở Đệ nhất nghĩa mà chẳng động”. Đây là tâm soi xét vô ngại làm mắt chẳng phải lấy chỗ căn trần đối đãi, vì là mắt thịt thấy thô, mắt trời thấy tế, mắt tuệ rõ không, mắt pháp biện rành có, mắt Phật quán chẳng hai tướng, lý của một thật. Trong kinh Hoa Nghiêm phẩm Lìa thế gian nói mười mắt, đó là: Mắt thịt thấy tất cả sắc, mắt trời thấy tâm tất cả chúng sinh, mắt tuệ thấy các pháp căn cảnh giới của tất cả chúng sinh, mắt pháp thấy thật tướng tất cả pháp, mặt Phật thấy mười lực của Như Lai, mắt trí thấy các pháp, mắt quang minh thấy ánh sáng Phật, mắt ra khỏi sinh tử thấy Niết-bàn, mắt vô ngại chỗ thấy không chướng ngại, mắt Nhất thiết trí thấy môn khắp pháp giới. Lại chỗ mắt tuệ thấy, không pháp có thể thấy, nên gọi là thấy, thấy pháp không nên gọi là mắt tuệ, chẳng phải riêng, mắt tuệ năng thấy, năm mắt đều hiện, năm mắt như vậy chiếu như ngàn mặt nhật, ở trong của mười phương không xứ chẳng thấy, ở tất cả xứ địa bằng phẳng như bàn tay, không các dơ xấu, nếu có thể thấy tức là sinh mù. Tại sao? Không chỗ thấy vậy, phải biết không không, sắc không đều khiển trừ. Lại thấy tất cả trần toàn là mắt, lại chẳng thể thấy, nghe tất cả âm thanh toàn là tai chẳng đổi lại nghe. Do đó nói, tất cả âm thanh là âm thanh Phật, tất cả sắc là sắc Phật. Lại nói: Lìa bên ngoài của tâm lại không một pháp, giả sử thấy trong ngoài chỉ là chỗ thấy của tự tâm không riêng biệt trong ngoài. Đây không lỗi vậy. Cho đến nếu lúc rõ trần, trần toàn là biết vậy, trọn chẳng vì biết biết ở trần tức có chỗ biết vậy, nếu biết ở không biết chẳng khác biết vậy. Nay trần tức biết chẳng trở lại vì biết và chẳng biết biết ở không biết, chỉ không biết của năng biết, chẳng phải không biết vậy, đây mới hiển bày không biết vậy. Trong kinh nói: “Hiển hiện tất cả pháp, mỗi mỗi chẳng biết nhau, thấy cũng như vậy”. Lại, nghe là Viên giáo nói rõ ngã, ngã tức là nghe vậy. Năng nghe sở nghe đều pháp giới vậy. Nên khiến bên ngoài ngã lại không riêng biệt nghe. Vì vậy, hoặc thấy hoặc nghe hoặc biết hoặc hay, đều một tâm vậy. Trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Chỗ thấy chẳng thể thấy, chỗ biết chẳng thể biết, một tâm chẳng nghĩ bàn”.

Hỏi: Năm mắt phàm Thánh đều có, thì chúng sinh đủ mắt Phật, Như Lai có mắt thịt, cỏ sao chỉ mắt Phật năng quán? Bồ-tát Thập Trú v.v... chẳng thấy Phật tánh.

Đáp: Vì Bồ-tát Thập Trú có hành có trú, do đó chẳng rõ ràng thấy, nếu lúc thấy tánh rõ ràng chứng thật, chẳng thấy bên ngoài mình lại có Bồ-đề có thể hành có thể trú, vì quả vị Thập Trú duyên quán chưa cùng tận vậy, tâm có chỗ ở. Tâm có chỗ ở nên có chỗ chẳng ở, cho nên chẳng năng thấy tất cả pháp, đến quả vị Phật dứt duyên, chân tâm bình đẳng không xứ chẳng ở, không đâu chẳng ở nên không có một pháp ở bên ngoài tâm cũng không một tâm ở bên ngoài pháp. Tâm và pháp giới đồng thể chiếu sáng, nên hay biết tất cả. Lại, tâm tánh đây là nghĩa rõ biết chân thật, nghĩa chiếu khắp pháp giới. Vì vốn có là sở chiếu, vì mắt sạch trí sáng là năng chiếu. Như trong kinh Niết-bàn nói: “Thấy tánh mắt thịt tức gọi là mắt Phật.” Trong kinh Đại Niết-bàn nói rõ có hai thứ thấy Phật tánh: Một, tướng mạo thấy, Hai, rõ ràng thấy. Tướng mạo thấy, nghĩa là Bồ-tát đăng địa với quyền trí phương tiện thức biến tợ không, gọi là tướng mạo thấy. Rõ ràng thấy, nghĩa là Bồ-tát Địa thượng chánh trí căn bản thân chứng chân lý chẳng biến tướng duyên, gọi là rõ ràng thấy, hiện lượng được. Hỏi: Đã nói mắt Phật năng quán Phật tánh, cớ sao trong giáo lại nói Ta dùng năm mắt chẳng thấy. Ba tụ chúng sinh cuồng ngu không mắt mà nói thấy ư?

Đáp: Nếu căn cứ thật tướng thể tánh khắp cùng pháp giới, vì thật tướng không tướng vậy thì chẳng thể thấy. Nếu luận về chiếu dụng tướng khắp cùng pháp giới. Vì tướng của không tướng cũng có thể được thấy. Lại, năm mắt viên chiếu, lý của Ba đế, các cảnh phân minh, tuy nói soi suốt chưa hẳn là có, tuy nói chẳng thấy chưa hẳn là không, đó mới là tướng của không tướng, quán của chẳng quán, phải biết trong tướng không tướng, chỉ chớ trong tướng quán không quán, chỉ chớ quán thể muôn vật mà tự hư, đồng thanh tịnh của một Đạo, đâu đồng chấp thật tùy trần là năng sở kiến của đoạn thường ư?

Hỏi: Phàm, mắt Phật đều là viên tu viên chứng mới đủ, Bồ-tát Thập Trú còn chưa phân minh. Cớ sao phàm phu vô minh phiền não còn chưa được mắt trời mà vì sao được đồng mắt Phật?

Đáp: Năm mắt của Như Lai, chúng sinh đều đủ chẳng phải đợi chứng Thánh mới có. Trong kinh Niết-bàn nói: “Nếu người học Đại thừa, tuy là mắt thịt mà gọi là mắt Phật. Hàng Nhị thừa tuy đủ mắt trời mà chẳng gọi là mắt Phật”. Lại nói thấy tánh Như Lai tức là mắt thịt mà rõ mắt Phật, vì trí chiếu làm mắt vậy. Thai giáo căn cứ có năm phẩm trong vị thứ nhất, dùng tâm phàm phu đồng chỗ biết của Phật, dụng chỗ mắt chúng sinh bằng Như Lai thấy. Nếu luận về tối sáng cạn sâu tức lạc về tu chứng, nay luận ngay thấy tánh tức không trước sau. Do đó, trong kinh Ương-quật-ma-la có kệ tụng nói:

“Nói là nhãn căn kia,
Ở các Như Lai thường,
Đầy đủ không giảm tu,
Rõ ràng rành rẽ thấy”.

Trong luận Chỉ Quán giải thích: Kia là chín pháp giới nhãn căn vậy. Ở Như Lai thường là, chín giới tự cho là mỗi mỗi chẳng phải chân. Như Lai quán đó tức Phật pháp giới không hai không riêng biệt. Không giảm tu là, quán các mắt tức là mắt Phật. Một tâm ba đế viên nhân đầy đủ không có khuyết giảm vậy. Rõ ràng rành rẽ thấy là, chiếu thật là rõ ràng (liễu liễu) chiếu quyền là rành rẽ (phân minh), trong ba trí một tâm năm mắt đầy đủ viên chiếu, gọi là rõ ràng thấy Phật tánh vậy. Thấy là luận về viên chứng, tu là luận về viên nhân. Lại, đầy đủ tu là quán ở nhãn căn, xả bỏ lậu hai biên, gọi là đàn, nhãn căn chẳng là chỗ hai biên thương tổn, gọi là thi. Nhãn căn tịch diệt chẳng là chỗ hai biên động, gọi là Sằn-đề, nhãn căn và thức tự nhiên chảy vào biển Tát-bà-nhã, gọi là tinh tấn. Thật tánh nhãn căn gọi là Thượng định. Vì nhất thiết trí chiếu nhãn trung đạo, gọi là trí tuệ, là vì nhãn căn đầy đủ không giảm tu, không giảm nên rõ ràng rành rẽ, thấy nhãn pháp giới cho đến ý căn kia, ở các Đức Như Lai thường đầy đủ, không giảm tu rõ ràng rành rẽ thấy ở mỗi mỗi căn, tức không tức giả tức trung, ba quán một tâm gọi là không giảm tu. Chứng tuệ nhãn pháp giới, được trong mắt Phật một tâm, gọi là rõ ràng thấy, đều như nói ở trên. Căn đã như đây trần cũng như vậy, tất cả các pháp cũng lại như vậy. Đó là viên giáo điều phục các căn đầy đủ sáu độ. Đây thì cứu cánh điều phục, cứu cánh đầy đủ, trợ Đạo như vậy trợ đạo cứu cánh, phải biết sáu độ khắp cùng năng đều phục tất cả các căn. Lại, nếu luận về sai biệt, thì các trời là báo được, hàng Nhị thừa là tu được. Tông môn ta đây chẳng phải báo chẳng phải tu, là phát được. Năm mắt vì vốn tròn đầy đặn, nếu người ngộ Phật thừa, tuy có đủ tánh phiền não, nhưng năng biết tạng bí mật của Như Lai, tức mắt thịt gọi là mắt Phật. Hạng người Nhị thừa tuy chứng diệt tu đạo đầy đủ lậu tận thông, tức mắt trời mà là mắt mờ. Do đó, Hòa thượng Chí Công nói: “Đại sĩ mắt thịt viên thông, Nhị thừa mắt trời có màng.” Đại sư Đạo Dung nói: “Chẳng thủ mắt trời v.v... năm thông mà tạo nghiệp ngoại đạo, chỉ thủ phàm phu vào lý vậy.” Tông Kính Lục quyển 80 hết.

QUYỂN 81

Hỏi: Phàm, chân như một tâm bình đẳng pháp giới, chúng sinh chẳng rõ, vọng chịu trầm luân. Nay ngộ tông đây muốn vào quả vị Viên giác, ở trong môn sáu độ muôn hạnh trang nghiêm, dùng pháp gì trợ đạo giữ gìn chóng được thành tựu?

Đáp: Nếu luận về trang nghiêm, không gì chẳng là hai nghiệp phước và trí. Ở trong môn sáu Ba-la-mật, năm môn trước là nghiệp phước đức, một Bát-nhã sau là nghiệp trí tuệ. Trong năm nghiệp phước tức trước chỉ một môn thiền định rất là quan trọng. Trước đã nói rõ nay đây thuật lại. Chỗ biên tập một môn thiền định ở Tông Kính đây chỉ căn cứ Tông mà nói, ở trong các định mà xưng là Đệ nhất, gọi là Vương Tam-muội, gồm thâu các môn, bao quát nguồn hạnh trùm đội biển trí, cũng gọi là định không tâm, cùng đạo tương ưng vậy, cũng gọi là định chẳng nghĩ bàn, tình trí tuyệt đãi vậy, cũng gọi là chân như Tam-muội, muôn Hạnh căn bản vậy, cũng gọi là Nhất Hạnh Tam-muội, một niệm pháp giới vậy, cũng gọi là Kim Cang Tam-muội, thường chẳng khuynh động vậy, cũng gọi là Pháp Tánh Tam-muội, luôn không biến đổi vậy. Biển trí sáng của chư Phật vô lượng quán hạnh đều từ đây sinh, nếu chẳng rõ lý đây, tức chẳng phải trí Phật vậy. Vì trí Phật đây chứng bản lý đó, lý thì chẳng đợi chiếu mà tự rõ, trí thì hẳn giúp lý mà thành chiếu. Nếu bản giác tánh trí tánh tự rõ vậy, vì tánh trí bình đẳng rõ bản tánh vậy, nên biết lý không hưng phế, tịch chiếu linh tri, hoằng đó tại người, giác có trước sau, người có chiếu phần, công do lý phát, mất lý thì mất chiếu, cần phải thấy lý đây mới thành Phật vậy. Lý đây tức là một tâm, bao gồm vạn hữu, chóng ngộ chóng tu lại không tiệm thứ, vì chưa rõ chẳng nào là ở pháp một tâm phân ra nhiều môn, nghĩa diễn như số cát sông Hằng, cho đến vô tận. Nên trong kinh Pháp Hoa có kệ tụng nói:

“Trí nhỏ ưa pháp nhỏ,
Chẳng tự tin làm Phật
Cho nên dùng phương tiện,
Phân biệt nói các quả.”

Vì vậy, tín tâm là Phật, hiếm có gặp cơ đó, là bản hoài của chư Phật xuất hiện nơi đời, là chánh ý của Tổ sư từ Tây vức lại. Từ xưa các bậc Tiên đức một nghe, tức tâm là lời của Phật. Căn nghi ngờ chóng hết, hoặc muốn truyền đèn sau nối tiếp, bèn ngồi đạo tràng. Hoặc vui thích vắng bặt dạo tâm trú nơi Lan-nhã sâu. Hoặc người chướng dày tin mỏng chỉ nghĩ hướng bên ngoài rong cầu, tùy ý người khác, tợ học trò của chim oanh vũ, nhờ mượn mắt kia như quyến thuộc của nước mẹ, mới sinh chẳng tin bèn khởi tâm phỉ báng. Nay thì dẫn tông tìm khắp, vạch tầm nhỏ nhiệm rút lấy tinh yếu, chỗ mong chứng thành, hàng hậu học quyết định không nghi ngờ. Chóng ngộ tự tâm, khuôn phép diệu thành Phật. Nếu luận về pháp lợi, công đức vô biên, hư không có thể lường, yếu chỉ đây khó tận. Do đó, trong Thai Giáo nói: “Nếu người muốn được tất cả Phật pháp tướng tốt oai nghi, âm thanh nói pháp, mười phương không khiếp sợ là, phải hành Nhất Hạnh Tam-muội đây. Cần chuyên hành trì chẳng biếng lười thì năng được vào, như châu ma-ni tùy mài tùy sáng, chứng công đức chẳng thể nghĩ bàn”. Nhất Hạnh Tam-muội là, buộc duyên pháp giới. Một niệm pháp giới, tin tất cả pháp đều là Phật pháp, không trước không sau, không bờ khoảng, trú chỗ Phật trú như chư Phật trú an ở pháp giới tịch diệt trong tạng bí mật, thì lý không gì chẳng viên, sự không gì chẳng đủ, nên xưng là bí mật, cũng gọi là tổng trì, rốt ráo chỉ về tự tha đều lợi. Tại sao đều lợi? Vì bình đẳng vậy. Tại sao bình đẳng? Vì không Tịnh độ vậy. Như trong kinh Nhập Phật Cảnh Giới có kệ tụng nói:

“Vào các định không tướng,
Thấy các pháp tịch tĩnh,
Thường vào bình đẳng vậy,
Kính lễ không chỗ quán.”

Lại, tất cả pháp có sự có lý, đủ thể đủ dụng, chẳng thể thiên chấp, trái viên thừa đây. Vì định tự tánh là lý, dụng dẫn phát định là sự, nhân sự hiển bày lý thì lý rõ ràng, nhân lý thành sự, sự mới tròn đủ. Vì lý của tánh thật, sự của tướng hư, thể dụng hoàn toàn giao nhau, ẩn hiển đồng thời, vô ngại song hành năng khế hợp Tông kính. Nếu chỉ tu sự, quyết định chỉ tập thế tục thiền. Tuy nói tu hành còn sinh ác quán vì chẳng chế ý địa chưa đoạn nguồn đó, nhiều kiếp luyện mài, trái ngược chìm đắm đường khổ. Do đó, trong kinh Đại Niết-bàn nói: “Tất cả phàm phu tuy gìn giữ thân tâm, còn có sinh nơi ba thứ ác giác”. Ba ác giác là: Dục giác, nhuế giác và hại giác. Vì tham dục nên tức sinh sân nhuế, nhân sân nhuế nên bèn hành tổn hại. Phàm, tu hành hướng đến đạo vốn là ra khỏi bùn sình của năm dục, vụt cầu lợi dưỡng danh văn như đạp đất của rắn hổ. Phàm người tu thiền định hộ niệm, còn bị giác quán duyên bên ngoài phá hoại, huống gì người ngang dọc buông lung, nên biết đêm ngày thường bị lửa dục phiền não thiêu đốt. Giặc oán giác quán xâm hại. Vì vậy, Uất-đầu-lam-phất dùng trí thế tục khuất phục đất hoặc, gìn giữ định phi tưởng, đủ năm thần thông. Bấy giờ vua kính trọng, mời vào cung cúng dường. Vua nhân ra đi tuần, bảo ái nữ y như nghi cũ trước cúng dường Uất-đầulam-phất. Vương nữ trân kính, tiếp chân lễ bái, Uất-đầu-lam-phất xúc chạm tay thân nữ, nhân đó khởi tham bèn sinh dục giác, bèn mất thần thông, ăn cơm xong rồi, tính bày kế khác, nói với Vương nữ rằng: “Lúc ta đi lại đều cưỡi thần thông, người trong nước nghĩ kính chẳng do đâu thấy ta. Nay ta ăn xong, ý muốn đi bộ trở về khiến mọi người trong nước đều được thấy ta”. Vương nữ cho là thật đưa tiễn ra cửa các. Đi bộ về núi, đã mất thần thông tình hoài buồn bã, bèn ngồi ngay giữa rừng chầm, khiết tịnh ý chí an trú toạ thiền giữa rừng, chim hót ồn ào, náo loạn thời gian lâu mà chẳng được định. Uất-đầu-lam-phất bèn chuyển dời đến bên bờ ao, an bài toạ thiền, trong ao cá lội quậy om sòm, thiền tư lại chẳng được định. Nhân đó khởi sân bèn sinh nhuế giác, bèn phát nguyện ác, nguyện ta đời sau làm thân thủy lại (Rái cá) mang lông, trên cây thì hại chim vào nước thì ăn cá, báo oán cá chim, thề chẳng tạm bỏ, nhân đó bèn khởi hại giác, trước sau lại dời đổi khác xứ, chuyên chí tập thiền, lâu mới được định, y như trước chứng đắc phi tưởng Tammuội. Sau khi mạng chung, sinh lên trời phi tưởng, thuận sinh thọ nghiệp tám muôn đại kiếp, thọ dị thục quả, tám muôn kiếp mãn thuận thọ nghiệp sau đáp nguyện ác trước, sinh ở cõi Dục làm thân thủy lại, cũng gọi là thân chồn bay, nếu đến nơi nào, dưới nước hay trên đất giữa không không, tất cả các vật mạng thảy đều ăn hết. Nên trong kinh nói: “Tuy đoạn phiền não, sinh ở phi tưởng vẫn còn trở lại đọa trong ba đường xấu ác”. Tức nghĩa đây vậy.

Nên phải trước vào Tông Kính thấu đạt một tâm căn bản muôn hạnh, sau đó, phước trí trang nghiêm thì chẳng uổng công trình, trọn không thối chuyển. Được yếu chỉ đây thì đại trí tròn sáng. Được sự đó thì đại dụng thành tựu, như Sư tử phấn tấn thành tựu pháp giới chúng sinh, như voi chúa xoay quanh mở phát mười phương hàm thức. Nên trong luận Hoa Nghiêm nói: “Sư tử phấn tấn Tam-muội là, ở mười phương thế giới, khắp đồng tất cả chúng sinh tưởng niệm. Tác dụng mà thành thục đó, đại dụng mà không làm, là nghĩa phấn tấn. Phàm, vào Tông Kính muôn sự tròn đây.

Ngoài kính, (gương) lại không một pháp có thể được. Như trong kinh Di Giáo nói: “Cho nên các ông phải khéo chế tâm, chế tâm một chỗ không sự gì chẳng xong. Nếu chẳng chế tâm thì điều đó không thể có.” Một niệm mới khởi sinh tử như khói, giá thuyền bè năm ấm sáu nhập, kết hang hốc của mười hai chủng loại, như từ trong một vọng niệm kết thành mười hai loại, căn trần đối nhau, phát thức tạo nghiệp. Nhân lúc sắc có tình thấy sinh tưởng, ở hai pháp tình tưởng đây, mỗi mỗi sinh bốn tướng, từ tình trên sinh: Một, có sắc. Hai, không sắc. Ba, chẳng phải có sắc. Bốn chẳng phải không sắc. Từ tưởng trên sinh: Một, có tưởng; hai, không tưởng, ba chẳng phải có tưởng; bốn chẳng phải không tưởng. Thai nhân tình có, trứng là tưởng sinh, tình tưởng hợp là thấp sinh, tình tưởng là là hóa thiện. Tình trên không sắc thì là không tan tiêu chìm, tưởng trên không tưởng thì là đất gỗ gốc cây. Hai đây tuy thuộc vô tình, nhưng đều từ thức biến, nếu một niệm chẳng sinh thì các loại điều tuyệt. Do đó, trong Tín Tâm Minh nói: “Nếu tâm chẳng khác, muôn pháp một như, nếu mắt chẳng ngủ các mộng tự trừ.” Lại, trong kinh nói: “Thí như động mắt năng lay nước lắng”, vì mắt nhọc quán nước, thấy nước có động, mắt nếu chẳng máy thì nước ao chẳng lay. Vọng kiến nếu trừ, cũng không tướng của cỏ cây thành hoại. Nếu khắp mắt thấy sắc do có sắc ấm, khắp thân thọ khổ lạc, do có thọ ấm, khắp tâm tức loạn do có tưởng ấm, khắp mắt thấy sánh diệt, do có hành ấm, tinh minh lắng chẳng lay ở tức thức ấm. Lại, nếu vì khắp thân châm chích đều biết chẳng kẹt phân biệt thì là thức ấm, nếu lần lượt phân biệt thì các thức ấm khác. Nên biết một niệm vừa mới khởi năm ấm đều sinh, thức nhỏ nhiệm chưa mất, sáu trần chẳng diệt. Nếu nghĩa của Duy thức, đèn thường chiếu thì vọng do đâu sinh, trí của một tâm, gương luôn sáng, yếu chỉ trọn chẳng mờ.

Hỏi: Bốn hoằng mười độ đều có thể phát hạnh, cớ sao phải nương một tâm đầy đủ đạo của Bồ-đề? Đáp: Nếu chẳng nương một tâm, người cầu Đại thừa, nghi tình chưa đoạn, các bậc Cổ đức nói: “Cầu Đại thừa là chỗ nghi có hai. Phàm pháp Đại thừa, thể là một hay là nhiều, nếu đó là một tức không pháp khác, không pháp khác tức không có chúng sinh, Bồ-tát vì ai phát hoằng thệ nguyện? Nếu nhiều pháp tức chẳng phải một thể, chẳng phải một thể nên vật ngã mỗi riêng biệt, làm sao được khởi đồng thể Đại Bi. Do đó, nghi hoặc chẳng năng phát tâm, nay vì dứt trừ hai nghi đây, lập pháp một tâm, mở hai thứ môn chân như sinh diệt thể dụng. Lập pháp một tâm là, dứt trừ nghi đầu tiên kia, rõ pháp đại thừa chỉ có một tâm. Bên ngoài của một tâm lại không pháp riêng biệt, chỉ có vô minh mê tự một tâm, khởi các gợn sóng lưu chuyển sáu đường, tuy khởi gợn sóng của sáu đường, chẳng vượt ngoài biển của một tâm. Bởi vì một tâm động làm sáu đường, nên được phát nguyện của hoằng thệ, sáu đường chẳng vượt ngoài một tâm, nên năng khởi đồng thể đại bi. Như vậy nương nơi một tâm năng dứt trừ hai nghi, được phát đại tâm đầy đủ Phật đạo. Trong Hoa Nghiêm Diễn Nghĩa Ký nói: “Như Lai pháp thân quán là trước quán phát khởi hạnh nguyện vi diệu của Bồ-tát Phổ Hiền, lại nên dùng Tam mật gia trì thân tâm thì năng vào biển Đại trí tuệ của Bồ-tát Văn-thù Sư-lợi. Nhưng tu hành đầu tiên ở nơi không nhàn, nhiếp niệm an tâm, nhắm mắt thân ngay kiết-già mà ngồi, vận tâm duyên khắp vô biên cõi nước, quán chắc ba đời tất cả Như Lai, khắp ở trước mỗi mỗi Phật Bồ-tát, ân cần cung kính lễ bái đi nhiễu, lại dùng các thứ cúng cụ như mây biển, phụng hiến tất cả Thánh chúng như vậy, cúng dường rộng lớn rồi, lại nên quán tự tâm. Tâm vốn chẳng sinh, tự tánh thành tựu, ánh sáng chiếu khắp giống như hư không. Lại nên khởi bi niệm sâu sắc xót thương chúng sinh chẳng ngộ tự tâm luân hồi các thú, ta phải hóa khắp cứu tế, khiến nó khai ngộ hết không có thừa. Lại nên quán sát tự tâm, tâm các chúng sinh và tâm chư Phật vốn không có khác, bình đẳng một tướng thành Bồ-đề, sáng suốt thanh tịnh rỗng rang khắp cùng, tròn sáng ngời sạch thành Đại nguyệt luân, lượng đồng hư không không có ngằn mé, đó vì thế giới nhiễm tịnh pháp môn đại tiểu, cho đến sáu độ muôn hạnh đều từ tâm phàm Thánh hiện. Nên trong kinh nói: “Bồ-tát Ma-ha-tát dùng tâm lìa cấu, hiện thấy vô vi chân như pháp giới, dùng tâm tự tại hiện sinh ba cõi, vì giáo hóa các chúng sinh kia vậy”. Lại trong kinh nói: “Nương tự tâm nhiễm hư vọng, chúng sinh nhiễm, nương tự tánh tâm thanh tịnh, chúng sinh tịnh”. Trong kinh Các Pháp Không Hành nói: “Tuy tán thán phát tâm Bồ-đề, mà biết tâm tánh tức là Bồ-đề, tuy tán thán kinh Đại thừa, mà biết tất cả các pháp đều là Đại tướng, tuy nói Đạo Bồ-tát mà chẳng phân biệt A-la-hán, Bích-chi-phật và chư Phật, tuy tán thán bố thí mà thông đạt bố thí tướng bình đẳng, tuy tán thán trì giới, mà rõ biết các pháp đồng là giới tánh, tuy tán thán nhẫn nhục, mà rõ biết các pháp đồng là giới tánh, tuy tán thán nhẫn nhục, mà rõ biết tướng các pháp không sinh không diệt vô tận. Tuy tán thán tinh tấn mà biết tướng các pháp chẳng phát chẳng hành. Tuy tán thán các thứ thiền định mà biết tướng tất cả pháp thường định. Tuy tán thán các thứ trí tuệ mà rõ biết thật tánh của trí tuệ, tuy nói lỗi lầm của tham dục, mà chẳng thấy pháp có thể tham trước, tuy nói lỗi lầm của sân nhuế mà chẳng thấy pháp có thể sân, tuy nói lỗi lầm của sân nhuế mà chẳng thấy pháp có thể sân, tuy nói lỗi lầm của ngu si mà biết các pháp không si không ngại, tuy chỉ bày khổ của chúng sinh đọa ba đường xấu ác khiếp sợ, mà chẳng được tướng của địa ngục ngạ quỉ súc sinh. Các Bồ-tát như vậy tuy tùy chỗ năng tin hiểu của chúng sinh, dùng sức phương tiện mà vì nói pháp, mà tự tin hiểu pháp của một tướng, nên biết ngoài tâm không pháp, ở Đệ nhất nghĩa mà chẳng động. Vì người chưa tin, dùng sức phương tiện tuy nói các thứ đạo, kỳ thật là một thừa. Do đó, trong Bát-nhã nói tất cả pháp đều Ma-ha-diễn không gì chẳng vận chuyển. Trong kinh Tư Ích nói rõ hiểu các pháp là Bồ-tát hành khắp, trong kinh Hoa Nghiêm phẩm Nhập Pháp Giới nói chẳng động Kỳ viên, trong kinh Tịnh Danh nói: Một niệm biết tất cả pháp là đạo tràng, nên biết một pháp đủ khắp, không sự nào chẳng gồm, có thể gọi là viên mãn Bồ-đề thành tựu Phật đạo, cho đến toạ thiền thấy cảnh các ma sự khởi, chỉ rõ một tâm, cảnh giới tự diệt, có thể gọi là diệu thuật giáng ma, linh phương trị hoặc, chẳng phải dùng tâm thần an nhiên vào đạo. Trong luận Đại Thừa Khởi Tín nói: “Tu hành chỉ là trú nơi tịch tĩnh kiết-già mà ngồi, ngay thân chánh ý chẳng nương hơi thở, chẳng nương hình sắc, chẳng nương hư không, chẳng nương địa, thủy, hỏa, phong cho đến chẳng nương thấy hay biết, tất cả phân biệt tưởng niệm đều trừ, cũng dứt trừ tưởng. Vì tất cả pháp chẳng sinh chẳng diệt đều không tướng vậy. Tâm trước nương cảnh vì xả ở cảnh, ý sau nương tâm, lại xả nơi tâm, vì tâm rong ruổi cảnh bên ngoài gồm trú tâm bên trong. Sau lại khởi tâm chẳng thủ tướng tâm, vì lìa chân như chẳng thể được vậy. Cho đến ma sự hiện tiền, nghĩ tất cả kia đều là tư duy, sátna tức diệt, xa lìa các tướng, vào chân như Tammuội, tướng tâm đã lìa, chân tướng cũng tận. Trong luận Ma-ha-diễn giải thích rằng: “Hoặc chân hoặc ngụy chỉ tự vọng tâm hiện lượng cảnh giới không có thật đó, không chỗ đắm trước vậy. Lại, hoặc chân hoặc ngụy đều một chân như đều một pháp thân không có riêng khác, chẳng đoạn trừ vậy. Vì vậy, chỉ rõ một tâm chẳng quên chánh niệm, tất cả cảnh giới tự nhiên tiêu diệt, có thể gọi là ứng niệm đoạn trừ, đâu nhọc công hạnh. Đây mới thật là yếu chỉ của Tổ sư từ Tây vức lại, là Chánh tông của chư Phật, viên tin viên tu chẳng đồng quyền tiệm, ngay đó được lực. Như Sư tử đến người, một dùi bèn thành, giống như vật báu của vua có thể gọi là đồng ban cho xe lớn cao rộng, đều cùng Như Lai bình đẳng diệt độ, đâu đồng chỗ nghèo bần vui thích pháp, thừa của hạ liệt ấy ư! Nếu có người chẳng tin chánh nghĩa Tông Kính đây, trái lại đọa lạc tư tưởng tà tư, theo giả chấp quyền mà mê chân thật, như vàng đổi thau, phụng đá đổi gà rừng. Như ngu mù đây lỗi tại không mắt, như xưa có người cưỡi ngựa eo đeo dải vàng, thấy người cưỡi lừa thắt dây lưng lừa, bèn liền hỏi: Trong chợ vật gì là quý? Người kia đáp: Thắt dây lưng lừa điều rất quý, người ấy liền đổi đó. Hoặc vì sắc thanh mà bỏ chánh pháp, đó giống như vậy.

Hỏi: Đã một tâm viên mãn giác đạo, cớ sao lại phát các tâm Bồ-đề v.v... Nếu có năng phát thì có sở chứng. Năng sở đã thành thì nghĩa của chỉ một tức rơi đọa.

Đáp: Phàm, nói phát, tức không chỗ phát, trọn chẳng lìa tâm mà có Bồ-đề, lìa Bồ-đề mà có tâm. Trong kinh Đại Bảo Tích nói: “Tâm trong Bồ-đề chẳng thể được, Bồ-đề trong tâm cũng chẳng thể được. Lìa Bồ-đề, tâm chẳng thể được, lìa tâm, Bồđề cũng chẳng thể được. Cho đến nếu nói có thấy Bồ-đề mà thủ chứng đó, phải biết hạng đó tức là người tăng thượng mạn. Nếu năng tin hiểu như vậy, mới là người của chân phát tâm Bồ-đề”. Trong kinh Bát-nhã nói: “Nếu Bồ-tát biết tâm tánh tức là Bồ-đề mà năng phát khởi tâm Đại Bồ-đề, đó gọi là Bồ-tát”. Lại, Bồ-tát vô sở phát nói: Biết tất cả pháp đều không chỗ phát mà phát tâm Bồ-đề. Nhưng nơi chỗ chứng chân như, ngoài như không trí, năng phát diệu trí, ngoài trí không như, đều chiếu đều ngăn, chẳng còn chẳng sạch, chẳng hại mà hai, lý trí tơ phân. Hai mà chẳng hai, năng sở đều lắng, thì là một tâm Bồ-đề gốc của muôn hạnh, đã năng thông đạt pháp nhĩ lợi nha, vận đại bi của đồng thể, đâu có năng sở, vì phương tiện của không được, ai lập tự tha. Trong luận Chỉ Quán nói: “Phát tâm Bồđề chân chánh, đã nhận biết sâu xa cảnh chẳng nghĩ bàn, biết một khổ tất cả khổ, tự buồn thương khổ xưa trước khởi hoặc đam mê rượu sắc thanh thô tệ, buông lung thân miệng ý tạo nghiệp bất thiện, xoay vần đường ác, vòng quanh nhiệt não, thân khổ tâm khổ mà tự hủy thương, mà nay lại dùng lưới ái tự buộc, chỗ đèn si hại, trăm ngàn muôn kiếp, đâu gì thống khổ thay, giả sử muốn bỏ ba đường xấu ác vui thích năm giới mười thiện, tướng tâm tu phước, như chợ đổi chác càng tăng thêm tội, tợ cá vào miệng nơm, phù du đến trong đèn, tính cuồng sáng tà càng mê càng xa, khát lại uống muối, tóc rồng trói thân vào nước chuyển đau, da trâu buộc mình hướng mặt nhật càng chắc, mù vào rừng gai, rơi vực nước xoáy, nắm mũi nhọn ôm đuốc lửa, thống khổ nào có thể nói, đuôi hổ đầu rắn, sợ sao run tiếc, tự chỉ như vậy, thương tha cũng vậy, giả sử khiến đường nguy hiểm trở lại ra oán nước, trải qua đủ thứ đắng cay, chết đi mà sống lại, qua nơi thôn nghèo, làm thuê mướn một ngày, đêm ngủ nơi chòi tranh, chẳng chịu tiến tới trước, vui thích làm việc hèn, chẳng tin chẳng biết, đáng thương đáng lạ, tư duy kia ta, nghẹn đau tự tha, liền khởi đại bi phát hai thệ nguyện chúng sinh vô biên thệ nguyện độ, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, tuy biết chúng sinh như hư không, thệ độ chúng sinh của như hư không, tuy biết phiền não không chỗ có, thể đoạn phiền não của không chỗ có. Tuy biết chúng sinh số rất nhiều, mà độ chúng sinh của nhiều nhiều, tuy biết phiền não không biên đáy, mà đoạn phiền não của không đáy, tuy biết chúng sinh như như Phật như mà độ chúng sinh của như Phật như, tuy biết phiền não như thật tướng mà đoạn phiền não của như thật tướng. Tại sao? Nếu chỉ nhổ khổ nhân nhổ khổ quả, thệ nguyện đây tạp độc, nên phải quán không, nếu thiên quán không thì chẳng thấy chúng sinh có thể độ, đó gọi là đắm trước không. Chỗ chư Phật chẳng hóa nếu thiên thấy chúng sinh có thể độ tức rơi đọa ái kiến đại bi, chẳng phải đạo giải thoát, nay thì chẳng phải độc chẳng phải ngụy, nên gọi là chân, chẳng phải không biên chẳng phải có biên, nên gọi là chánh, như chim bay giữa hư không, trọn chẳng trú giữa hư không, tuy chẳng trú giữa hư không, dấu vết chẳng thể tìm, tuy không mà độ, cho nên thể cùng hư không cộng đấu, nên nói phát tâm Bồ-đề chân chánh, tức ý đây vậy. Lại biết tâm chẳng nghĩ bàn, một tâm lạc, tất cả tâm lạc. Ta và chúng sinh xưa trước tuy cầu lạc, chẳng biết nhân lạc, như nắm ngói sỏi mà cho là châu như ý, vọng chỉ ánh sáng đom đóm mà gọi là nhật nguyệt. Nay mới bắt đầu hiểu, nên khởi đại bi, phát hai thệ nguyện, đó là: Pháp môn vô lượng thệ nguyện biết, Phật đạo Vô thượng thệ nguyện thành. Tuy biết pháp môn trọn vắng lặng như hư không, thệ nguyện tu hành trọn vắng lặng như hư không, tuy biết Bồ-đề không chỗ có, ta trong không chỗ có nên cầu đó, tuy biết pháp môn như hư không không chỗ có, thề hoạ vẽ trang nghiêm hư không, tuy biết Phật đạo chẳng phải thành chỗ thành, như trong hư không đồng cây khiến được hoa được quả, tuy biết pháp môn và Phật quả, chẳng phải tu chẳng phải chẳng tu, mà tu chẳng phải chứng chẳng phải đắc, vì không chỗ chứng đắc mà chứng mà đắc, đó gọi là chẳng phải ngụy chẳng phải độc, gọi là chân, chẳng phải không, chẳng phải kiến ái, gọi là chánh. Thệ nguyện từ bi như vậy, cùng cảnh trí chẳng thể nghĩ bàn, chẳng phải trước chẳng phải sau đồng thời đều khởi. Từ bi tức trí tuệ, trí tuệ tức từ bi, không duyên không niệm, che khắp tất cả, mặc tình nhổ khổ, tự nhiên ban vui, chẳng đồng độc hại, chẳng đồng chỉ không, chẳng đồng ái kiến, đó gọi là nghĩa phát tâm Bồ-đề chân chánh. Hỏi: Trong kinh Hoa Nghiêm có kệ tụng nói:

“Thiền định trì tâm thường một duyên
Trí tuệ rõ cảnh đồng Tam-muội.
Làm sao ngộ nhập một tâm năng
Khiến căn cảnh đều thành Tam-muội?”.

Đáp: Trong ngoài tất cả cảnh giới đều từ chân như một tâm mà khởi, chân như chẳng động nên xưng là Tam-muội Vương, vì thống ngự tất cả muôn hạnh muôn pháp nên được xưng là vương, không có một pháp nào chẳng từ một tâm chân như Tam-muội mà khởi, đây là căn bản của tất cả Tammuội. Rõ căn bản đây thì từ chỗ bản hiện, niệm niệm trần trần đều thành Tam-muội, vì gốc ngọn không khác vậy. Trong kinh Đại Bảo Tích có kệ tụng nói: “Như dùi cây ra lửa, cần nhờ lực các duyên, nếu duyên chẳng hòa hợp, lửa trọn chẳng được sinh, là tiếng chẳng vui ý, rốt ráo không chỗ có. Biết tiếng tánh không vậy, sân cũng chẳng lại sinh, sân chẳng tại nơi tiếng, cũng chẳng trú trong thân. Nhân duyên hòa hợp khởi, lìa duyên trọn chẳng sinh, như nhân duyên lửa thảy, hòa hợp sinh tô lạc, sân tự tánh không khởi, nhân nói sự thô ác. Người ngu chẳng năng rõ, nhiệt não tự thiêu đốt, nên phải biết như vậy, rốt ráo không chỗ có, sâu tánh vốn vắng lặng, chỉ có ở giả danh, sân nhuế tức thật tế, vì nương chân như khởi, rõ biết như pháp giới, đó là sân Tam-muội”. Lại có kệ tụng khác nói: “Thân hại Dạ-xoa đó, từ nơi tự tâm khởi, trong đó không có thật, vọng sinh ở khiếp sợ, cũng không có tâm sợ, mà sinh ở khiếp sợ, quán pháp chẳng phải thật, không tướng không chỗ được, không không xứ vắng lặng. Hiện thân Dạ-xoa đây, biết hư vọng như vậy, là Dạ-xoa Tam-muội”. Như Dạ-xoa một thân ở ngoài tướng phần rất thô ác, khiến người khiếp sợ, một môn của sân là căn bản phiền não, rất năng phiền loạn. Hai pháp trong ngoài đây còn thành Tam-muội, nêu một ví như các thứ khác, có thể là gương rùa, ngoài đó ra tất cả tâm gương tức không gì chẳng phải là Tam-muội vậy. Trong kinh Lăng-già nói: “Phật bảo: Đại Tuệ! Thế nào là Tam-muội Lạc chánh thọ ý sinh thân? Nghĩa là thứ ba thứ tư thứ năm địa Tam-muội lạc chánh thọ. Nên các thứ tự tâm vắng lặng an trú biển tâm, khởi sóng thức tướng chẳng sinh diệt tự tâm hiện cảnh giới tánh chẳng phải tánh, đó gọi là Tam-muội lạc chánh thọ ý sinh thân”. Nên biết rõ cảnh tức tâm, tại không một vật, hội ở gốc lặng tức biển tâm thường an, phân biệt chẳng khởi tức là chánh thọ. Vì vậy, không vật có thể nạp, gọi là chánh thọ, không cảnh có thể động, gọi là chánh định. Trong kinh Thủ-lăng-nghiêm Tam-muội nói: “Hỏi: Hiện ý Thiên tử! Bồ-tát phải tu pháp gì đắc Tam-muội đó? Thiên tử đáp: Muốn đắc Tam-muội phải hành phàm pháp, nếu phàm pháp chẳng hợp chẳng tan, đó gọi là tu hành Lăng Nghiêm Tam-muội. Lại hỏi: Trong pháp chư Phật có hợp tan ư? Thiên tử đáp: Phàm pháp còn không hợp tan, huống gì là Phật pháp. Làm sao tu tập? Nếu thấy pháp phàm pháp Phật chẳng hai, đó gọi là tu tập”. Vì vậy, rõ một tâm, thành môn của hiện, thì không tu mà tu, đạt muôn pháp, thể của đầy đủ, là chẳng tập mà tập, ra vào không ngằn mé, tâm cảnh một như, tức ở trong tất cả pháp sai biệt, niệm niệm vào, niệm niệm khởi vậy. Nên trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Phật tử! Vị Đại Bồ-tát vào Tam-muội tất cả chúng sinh thân sai biệt. Ở Tam-muội đây, thân bên trong vào thêm bên ngoài khởi, thân bên ngoài vào thân bên trong khởi. Đồng thân vào khác thân khởi, khác thân vào đồng thân khởi, cho đến nhãn xứ nhĩ xứ khởi. Nhĩ xứ vào nhãn xứ khởi, tỷ xứ vào thiệt xứ khởi, thiệt xứ vào tỷ xứ khởi, thân xứ vào ý xứ khởi, ý xứ vào thân xứ khởi, tự xứ vào tha xứ khởi, tha xứ vào tự xứ khởi, trong một vi trần vào vô số thế giới trong vi trần khởi. Vô số thế giới trong vi trần vào trong một vi trần khởi. Chẳng chỉ căn cảnh đều thành Tam-muội mà muôn pháp đều làm trí môn, nhân ánh sáng của Tông Kính đây, có thể gọi là rất thiện rất mỹ. Tại sao? Thể bao hàm rỗng lặng chẳng thể tán thán đẹp xinh đó. Lý tuyệt thấy nghe, chẳng thể viết lỗi đó, khỏi đây trở xuống đều rơi đọa hình sinh thì khó trốn khỏi hủy báng hay tán thán vậy. Như người xưa nói: Phàm, đại đạo hỗn loạn vậy không hình lặng lẽ không tiếng, nhìn đó chẳng thấy, nghe đó chẳng nghe, chẳng phải có thể dùng ảnh hưởng biết, chẳng được dùng khen chê xưng vậy. Khỏi đây trở đi thì sự chẳng đều đẹp, danh chẳng đều thạnh vậy. Tuy lớn của trời đất, sáng của ba thứ ánh sáng, trí của Thánh hiền, còn chưa khỏi bởi khen chê vậy. Nên trời có tượng của nứt nẻ, đất có hình của xé rách, nhật nguyệt có biến của nhật Thực nguyệt Thực, năm sao có yêu của sao chổi, Nghiêu có chê cũng chẳng từ, Thuấn có báng của dối cha. Thang có khen của thả vua, Vũ Vương có gièm của giết chủ. Tề Hoàn có mắt của tham dâm, Tấn Văn có tiếng của chẳng tôi. Y Doãn có vết của không vua, Quản Trọng có tên giảo hoạt với bề trên. Vì phàm, linh của Nhị nghi thất diệu chẳng năng không khuyết trần. Thánh như Nghiêu Thuấn Thang Vũ, chẳng năng khỏi hiềm ghét phỉ báng. Hiền như Hoàn Văn Y Quản, chẳng năng dứt trừ mảy may lỗi lầm. Do đây mà quán sát trong vũ trụ hàng dung tục sao năng tự khỏi oán báng, mà không hối hận vậy. Nếu dùng tâm trí thông linh thành hóa của vô vi thì muôn lụy chẳng năng liên can vậy.

Hỏi: Chỉ thú một tâm bởi là tổng môn, pháp nghĩa khó rõ rộng phải lễ bái. Vật thế nào là pháp, thế nào là nghĩa?

Đáp: Pháp vốn không sai, tùy nghĩa có riêng biệt, từ pháp sinh nghĩa sai biệt khó rõ, nhân nghĩa hiển bày pháp một tâm dễ rõ. Thiền nguyên tập dùng so sánh giải thích hai môn pháp nghĩa, như vàng thật tùy duyên thợ v.v... làm ra vật vòng xuyến v.v... tánh vàng hẳn chẳng biến làm đồng sắt, vàng tức là pháp, chẳng biến tùy duyên là nghĩa. Giả sử có người hỏi vật gì chẳng biến, vật gì tùy duyên. Chỉ khiến đáp là vàng vậy, để dụ một tạng kinh luận nghĩa lý chỉ là nói tâm, tâm tức là pháp, tất cả là nghĩa. Nên trong luận nói: “Nói pháp là tức tâm chúng sinh.” Trong kinh nói: “Vô lượng nghĩa là từ một pháp sinh, nhưng vô lượng nghĩa bao gồm chỉ hai thứ: Một chẳng biến, hai tùy duyên”. Các kinh chỉ nói tâm đây tùy duyên mê ngộ mà thành tựu dơ sạch phàm Thánh v.v... cũng chỉ nói tâm đây lúc dơ sạch v.v... vốn là chẳng biến thường tự tịch diệt, chân thật như như v.v... giả sử có người hỏi: Pháp nào chẳng biến, pháp nào tùy duyên? Chỉ nên đáp là tâm vậy, chẳng biến là tánh, tùy duyên là tướng. Phải biết tánh tướng đều là nghĩa một tâm trên. Nay hai tông tánh tướng qua lại chẳng phải là bởi vì chẳng biết chân tâm. Mỗi lúc nghe chữ tâm, liền cho là, chỉ là tám thức. Chẳng biết tám thức chỉ là nghĩa của chân tâm tùy duyên. Nên Bồ-tát Mã Minh lấy một tâm làm pháp, lấy hai môn chân như sinh diệt làm nghĩa. Trong luận nói: Nương ở tâm đây hiển bày nghĩa Ma-hadiễn, tâm chân như là thể, tâm sinh diệt là tướng dụng, chỉ nói tâm đây chẳng hư vọng nên gọi là chân, chẳng biến đổi nên gọi là như, chẳng giữ tự tánh nên tùy duyên, vì tùy duyên nên thành vô lượng nghĩa. Lại do chẳng biến nên mới đầu năng tùy duyên, do tùy duyên, nên mới năng chẳng biến. Tại sao? Nghĩa là nếu biến tự thể, lấy gì tùy duyên. Như không nước sao năng thành gợn sóng, nên biết một tâm chẳng động, nghĩa khắp cùng Hằng sa, tuy khắp cùng Hằng sa mà đều là nghĩa của một tâm.

Hỏi: Muốn tịnh cõi đó là phải tịnh tâm đó, thì ngoài tâm có cõi nước sao thành tự tịnh?

Đáp: Pháp thân cùng cực, cõi Thường tịch quang, lìa thân không cõi nước, lìa cõi nước không thân. Y báo là tướng của tâm, chánh báo là thể của tâm, thể tướng vô ngại, y chánh vốn đồng, do đó nhiếp cảnh về tâm, trong quán chân không thì nhiếp tướng về thể, hiển bày ra pháp thân, từ tâm hiện cảnh, trong quán diệu hữu thì nương thể khởi dụng, tu thành báo thân. Nếu trong quán tâm cảnh bí mật viên dung, thì tâm cảnh giao tham y chánh vô ngại. Tâm đó là tâm vô ngại, chư Phật chứng đó để thành pháp thân. Cảnh đó là cảnh vô ngại. Chư Phật chứng đó để thành Tịnh độ. Trong Tịnh Danh Sớ nói: Quán tâm giải thích bốn thứ cảnh giới: Một, cảnh nhân duyên; Hai, cảnh không; Ba, cảnh giả; Bốn, cảnh Trung đạo. Cảnh là chỗ tâm nương trú, tức là cõi trên, chúng sinh là Phật bảo Tỳ-kheo các ông ngày đêm thường sinh vô lượng trăm ngàn chúng sinh, nay nhân duyên tâm nhiều cảnh cũng nhiều, tâm ít cảnh cũng ít. Quán tâm chiếu ít cảnh tức là cõi nước nhỏ, quán tâm chiếu nhiều cảnh cũng là nhiều cõi nước, quán nhân duyên cảnh như vậy tức là hóa chúng sinh, hoặc điều cảnh ác mà ngộ tức là cõi uế và trí tuệ Phật, hoặc quán cảnh thiện mà ngộ tức là cõi tịnh vào trí tuệ Phật, khởi căn Bồ-tát là, tùy chỗ quán trần của thiện ác, rõ biết trần đây tức là tất cả pháp, pháp đây xưa nay rốt ráo thường tịch. Cảnh của thường tịch phát ở chân trí. Chỗ chân trí nương cõi Phật tức cõi Thường tịch quang vậy. Lại nữa, hành nhân quán bốn cảnh đó, chẳng phải là tham trước cảnh giới, chỉ hóa phục tâm sở phiền não chúng sinh. Dụng bốn tâm đây mà khởi thệ nguyện. Nguyện pháp giới chúng sinh đều được như ta hóa tâm sở đây đều khiến thanh tịnh, tức là cõi tịnh an lập hữu vi duyên nhóm tập chúng sinh vậy. Hành nhân phải biết tất cả Bồtát làm sạch cõi nước Phật căn bản từ đây mà khởi, cây của hợp ôm khởi ở mảy mún. Lại, Thánh phàm đồng ở chung một cõi Diệu, chỗ chân tục nương chỉ một pháp thân. Sở nương chẳng hai, năng nương tự khác. Sở đã chẳng khác, năng cũng sao riêng biệt, từ vô thủy vọng tập cho là y chánh khác, nếu năng tất cả đều dung, đâu có thân cõi riêng thấy, như quán tâm đây thật chân Tịnh độ là chân liễu nghĩa. Nếu lìa đây là phần nhiều chấp văn theo ngữ sinh kiến. Trong Nghĩa Hải nói: “Mảy lông bụi trần cõi nước là y, thân Phật trí tuệ quang minh là chánh”. Nay trần đây là trí Phật hiện, khắp thể toàn là Phật trí, cho nên trong ánh sáng thấy cõi Phật v.v... Lại, cõi nước mảy trần v.v... toàn lấy Phật pháp giới như như làm thể mảy trần. Cho nên trong mảy trần hiện tất cả Phật sự, phải biết y tức chánh, chánh tức y. Cho đến một sự một pháp một sợi lông một mảy trần mỗi mỗi đều hợp ý chánh của thật như vậy, nên biết muôn tượng buộc lại, nhấc lên thì đồng loạt vậy.

QUYỂN 82

Hỏi: Phàm, cớ sao một tâm mà thành chỉ quán? Đáp: Pháp tánh tịch nhiên gọi là chỉ, tịch mà thường chiếu gọi là quán, chẳng phải năng sở quán chỉ là một pháp. Như Thai giáo tổng luận hai thứ chỉ quán: Một, chỉ quán đối đãi nhau; hai, chỉ quán dứt đối đãi, trước thì vụn độ, sau thì khéo độ. Chỉ quán đối đãi nhau có ba chỉ ba quán. Ba chỉ là: Một, nghĩa chỉ tức; hai, nghĩa đình chỉ; ba, nghĩa chẳng chỉ chỉ. Ba quán là: Một, nghĩa Quán xuyên; hai nghĩa Quán đạt; ba, nghĩa chẳng Quán quán. Tuyệt đãi chỉ quán là có ba chỉ ba quán. Ba chỉ là: Một, thể chân chỉ; hai, phương tiện tùy duyên chỉ; ba, tức Nhị biên phân biệt chỉ. Ba quán là: Một, từ giả vào không gọi là hai đế quán; hai là từ không vào giả gọi là bình đẳng quán; ba, hái quán làm tôn tượng đạo được vào Trung đạo, song chiếu hai đế, tâm tâm tịch diệt, tự nhiên chảy vào biển Tát-bànhã, gọi là Trung đạo đệ nhất nghĩa đế quán. Nay chỗ Tông Kính nói rõ, chỉ luận về yếu chỉ của một tâm viên đốn. Tướng viên đốn chỉ quán là dùng chỉ duyên ở đế thì một đế mà ba đế, dùng đế buộc ở chỉ thì mười chỉ mà ba chỉ. Thí như ba tướng tại một niệm tâm, tuy một niệm tâm mà có ba tướng. Chỉ đế cũng như vậy, pháp của sở chỉ tuy một mà ba. Tâm của năng chỉ tuy ba mà một vậy, vì quán quán ở cảnh thì một cảnh mà ba cảnh, vì cảnh phát ở quán thì một quán mà ba quán, như ba mắt trên mặt Ma-hê-thủ-la, tuy là ba mắt mà là một mặt. Quán đảnh cũng như vậy, quán ba tức một, phát một thì ba chẳng thể nghĩ bàn, chẳng quyền chẳng thật, chẳng hơn chẳng kém, chẳng trước chẳng sau, chẳng cùng chẳng riêng, chẳng lớn chẳng nhỏ. Nên trong luận Trung Quán nói: “Chỗ nhân duyên sinh pháp, tức không tức giả tức trung”. Lại như trong kinh Kim Cang Bát-nhã nói: “Thí như người có mắt, ánh sáng mặt nhật tỏa chiếu, thấy các thứ sắc. Nếu mắt riêng thấy thì chẳng nên phải có mặt nhật. Nếu không sắc, tuy có mặt nhật, mắt cũng không chỗ thấy. Ba pháp như vậy chẳng khác thời, chẳng lìa nhau. Mắt dụ ở chỉ, mặt nhật dụ ở quán. Cảnh dụ ở sắc, ba pháp như vậy chẳng trước chẳng sau, một lúc luận ba, luận một trong ba, cũng lại như vậy. Nếu thấy ý đây, tức hiểu giáo viên đốn, tướng chỉ quán vậy. Sao chỉ ba một một ba, bao gồm các nghĩa trước đều tại một tâm. Tướng đó thế nào? Thể vô minh điên đảo tức là chân của thật tướng, gọi là thể chân chỉ. Như thật tướng đây khắp cùng tất cả xứ, tùy duyên trải cảnh, an tâm chẳng động, gọi là tùy duyên phương tiện chỉ, sinh tử Niết-bàn tịnh tánh thôi dứt, gọi là tức nhị biên (bứt hai bên) chỉ. Thể tất cả các giả thảy đều là không, không tức thật tướng, gọi là vào không quán, lúc đạt không dây, quán ngầm Trung đạo, năng biết thế gian sinh diệt pháp tướng như thật mà thấy, gọi là vào giả quán. Như không tuệ đây tức là Trung đạo, không hai không riêng biệt, gọi là Trung đạo quán. Lúc của thể chân, năm trú bàn đá cát sỏi một niệm ngừng dứt, gọi là nghĩa chỉ tức. Tâm duyên Trung đạo vào tuệ chân thật, gọi là nghĩa đình chỉ. Tánh của thật tướng, tức nghĩa chẳng phải chỉ chẳng phải chẳng chỉ. Lại, một niệm đây năng xuyên suốt năm trú thấu đạt thật tướng. Thật tướng chẳng phải quán cũng chẳng phải chẳng quán. Như các nghĩa đây v.v... chỉ tại trong một niệm tâm, chẳng động chân tế mà có các thứ sai biệt. Trong kinh nói: Khéo hay phân biệt tướng các pháp, ở Đệ nhất nghĩa mà chẳng động, tuy nhiều danh tự, bởi là một pháp của Bát-nhã, Phật nói các thứ danh, các danh đều viên, các nghĩa cũng viên, đối đãi nhau, dứt đối đãi, đối thể chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể nghĩ bàn nên không có chướng ngại, không có chướng ngại nên đầy đủ không giảm, là giáo tướng viên đốn, hiển bày thể chỉ quán vậy. Lại, ba chỉ ba quán là nhân, chỗ được ba trí ba mắt là quả. Ba trí là: Nhất thiết trí, đạo chủng trí và Nhất thiết chủng trí. Ba mắt là: Mắt tuệ mắt pháp và mắt Phật. Nếu một tâm mắt trí là, mắt tức là trí, trí tức là mắt, mắt nên luận thấy, trí nên luận biết. Biết tức là thấy, thấy tức là biết, mắt Phật đủ năm mắt, trí Phật đủ ba trí. Vương Tam-muội, tất cả Tam-muội đều vào trong đó. Định Thủ-lăng-nghiêm gồm tất cả định. Đức Như Lai tuy đủ năm mắt, thật chẳng phân bày, chỉ căn cứ ở một mắt đủ có năm dụng năng chiếu năm cảnh. Sở dĩ như vậy là mắt Phật cũng năng chiếu sắc thô, như chỗ người thấy, cũng quá chỗ người thấy, gọi là mắt thịt, cũng năng chiếu sắc tế, như chỗ trời thấy cũng quá chỗ trời thấy gọi là mắt trời, thấu đạt sắc không thô tế, như chỗ hàng Nhị thừa thấy gọi là mắt tuệ, chiếu đạt giả danh chẳng sai nhầm, như chỗ Bồ-tát thấy gọi là mắt pháp, ở trong các pháp đều thấy thật tướng, gọi là mắt Phật. Phải biết mắt Phật viên chiếu không bỏ sót, nên trong kinh nói: “Năm mắt đầy đủ thành Bồ-đề, trọn cùng ba cõi làm cha mẹ”. Mà riêng xưng là mắt Phật là như các dòng đổ chảy vào biển, mất danh tự gốc, chẳng phải không bốn dụng vậy. Trí Phật chiếu không, như chỗ hàng Nhị thừa thấy gọi là Nhất thiết trí. Trí Phật chiếu giả, như chỗ Bồ-tát thấy, gọi là Đạo chủng trí. Trí Phật chiếu không giả trung đều thấy thật tướng, gọi là Nhất thiết chủng trí, nên nói ba trí được trong một tâm. Nên biết một tâm, chỗ ba chỉ thành ba mắt, thấy ba đế chẳng thể nghĩ bàn. Thấy đây từ chỉ được, nên nhận tên mắt. Chỗ một tâm ba quán ba trí, biết ba cảnh chẳng nghĩ bàn. Trí đây từ quán được, nên nhận tên trí, cảnh đó cùng đế trái phải khác vậy, thấy đó cùng biết, nhãn mục các xưng, chẳng nên riêng biệt nói, tuy làm ba khuyết của ba chỉ ba quán, thật là một pháp chẳng nghĩ bàn vậy. Lại nói: Khéo hay an tâm là, dùng A-nan chỉ an ở pháp tánh, vô minh si hoặc vốn là pháp tánh, vì si mê nên pháp tánh biến làm vô minh, như ngủ lại biến tâm có các thứ mộng, tuy điên đảo khởi diệt như xoay vòng lửa, chẳng tin điên đảo khởi diệt. Chỉ tin tâm đây chỉ là pháp tánh, khởi là pháp tánh khởi, diệt là pháp tánh diệt, thể thật đó chẳng khởi diệt, vọng cho là khởi diệt. Vì pháp tánh buộc pháp tánh, vì pháp tánh niệm pháp tánh, thường pháp tánh không lúc nào chẳng là pháp tánh. Thể đạt đã thành, chẳng được vọng tưởng, cũng chẳng được pháp tánh, trở lại nguồn gốc pháp giới đều vắng lặng, đó gọi là chỉ. Quán là, quán sát tâm của vô minh v.v... ở pháp tánh xưa nay đều không. Thí như kiếp tận trở xuống v.v... tất cả vọng tưởng thiện ác đều như hư không, không hai không riêng biệt. Lại như kiếp tận từ đất lên đến sơ thiền, hừng hực không đâu chẳng là lửa. Như tướng của chỗ Bồ-tát Hư Không Tạng hiện tất cả đều không, như chỗ Đức Như Lai Hải Tuệ hiện tất cả đều nước, chỗ giới ấy niệm khởi niệm niệm là không đâu chẳng là tức không, không cũng chẳng thể được, như lửa cây năng khiến cứu cháy cũng là tự cháy. Pháp giới rỗng sáng đều là Đại minh, gọi đó là quán, chỗ chỉ nói chỉ là, còn chẳng được pháp tánh, huống gì vọng tưởng, chỗ nói là quán là, còn chẳng được không, huống gì có pháp thì có không đều vắng lặng, nhiễm tịnh song dung mới thành cứu cánh một tâm chỉ quán vậy. Lại, chỉ quán dứt đối đãi là, dứt các đối đãi ngang dọc, dứt các nghĩ bàn, tuyệt các giáo quán, thảy đều chẳng sinh, nên gọi là chỉ. Chỉ cũng chẳng thể được, quán ngầm như cảnh, cảnh đã tịch diệt thanh tịnh, còn không thanh tịnh, sao được có quán. Người đời ước các thứ ngôn ngữ giải thích nghĩa dứt tuyệt đối đãi, trọn chẳng được tuyệt, nếu được ý quên lời, tâm hành cũng đoạn, tùy trí diệu ngộ, lại không phân biệt, duyên lý phân biệt, đều gọi là đối đãi, chân tuệ khai phát dứt tuyệt các đối đãi đây, tuyệt tức là dứt, các pháp chẳng đối đãi nhau, cho đến một niệm chẳng trú, tức ý đây vậy. Trong Phụ Hành Ký nói: “Nếu môn không sinh ngàn muôn lớp lớp chỉ là một tâm “là, vì người muốn quán chỉ tâm khó xác đáng nên nhân bày chánh ý đó, gọi là một tâm. Đây tức chánh nói rõ môn của một tâm không sinh, cho đến đã ở niệm niệm chỉ quán hiện tiền, căn cứ tâm niệm đây, gọi là chúng sinh. Tại sao? Vì gần nhóm từ trước lại hoặc ngang hoặc dọc đã vào một tâm. Phàm, một niệm khởi chẳng lìa nơi ngã, ngã tức chúng sinh, thấu đạt niệm niệm tâm, mà vắng lặng mà chiếu. Vắng lặng nên gọi là chỉ, chiếu nên gọi là quán, một tâm đã vậy các tâm cũng vậy. Chỉ quán là nhân, mắt trí là quán, trong mỗi mỗi niệm không gì chẳng phải chỉ quán mắt trí vậy. Như ba một trên, nếu ba có thể ba, bèn thành sai biệt. Có một có thể một, bèn thành không sai. Nếu sai thì mất không sai, nếu không sai thì mất sai, mở một làm ba thì mất một, hợp ba làm một thì mất ba. Nay rõ ràng chẳng như vậy. Xưa trước ba như là nay một, nay một như là xưa trước ba mở ba chẳng mất một, hợp một chẳng mất ba, tức là sai tức không sai, không sai tức sai, nếu được ý đây, vốn có nay không ba đời có pháp, điều ấy không thể có. Cũng nên so sánh là, vốn không nay có, ba đời có pháp, nay có điều đó, vô thường chẳng phải vô thường, cảnh trí chẳng phải cảnh trí, nhân quả chẳng phải nhân quả, sánh ví đều như vậy, xưa trước ba như nay một, nay một như xưa trước ba là, tức là chẳng động, tánh của chúng sinh năng thành tánh của chư Phật, cũng là từ thật mở quyền, họp quyền về thật, cũng là nhân quả đồng thời mê ngộ một khoảng, nên nói chỗ các ông hành là đạo của Bồ-tát, tất cả chúng sinh tức là tướng Niết-bàn. Lại nói: Một tâm ba quán, ba quán một tâm. Nếu ba quán một tâm tức căn cứ dọc mà nói, một tâm ba quán tức căn cứ ngang mà nói. Nay chẳng phải dọc nên chẳng một, chẳng phải ngang nên chẳng ba. Ba một một ba chỉ là nghĩa chân tâm trên, chẳng thể định chấp là một hay là ba, giải của chẳng phải ba hay chẳng phải một, vì tông chẳng phải số lượng, đạo dứt lời lẽ vậy.

Hỏi: Trong kinh nói: Tất cả người vô ngại, một đạo ra sinh tử. Cớ sao lập nhiều thứ quán môn, hành tướng sai biệt ư?

Đáp: Sở quán là một, năng quán tự khác, chư Phật tùy theo căn cơ, mất bày khéo léo. Lại, pháp là tâm thể, quán là tâm dụng. Tự tâm khởi dụng trở lại chiếu tự thể, như bật đèn sinh ngọn lửa sáng trở lại chiếu đèn, tợ châu ngọc nhả ánh sáng, trở lại soi chiếu thể châu ngọc. Như trong kinh Hoa Nghiêm nói Đồng tử Thiện Tài tham kiến Trưởng giả Digià, thấy suốt mười phương cõi Phật. Hiển bày định đây là quán của Duy tâm. Biết chúng sinh giới vô lượng vô biên đều là tâm hiện, nên rõ tùy tâm niệm Phật chư Phật hiện tiền, vì duy tâm quán khắp gần muôn hữu. Vì vậy Tôn giả Trạm Nhiên nói: “Bậc thượng căn chỉ quán một”, đó là quán cảnh chẳng thể nghĩ bàn, cảnh là sở quán, quán là năng quán, sở quán là ấm giới nhập chẳng vượt ngoài sắc tâm. Sắc từ tâm tạo, toàn thể là tâm, năng tạo đây đầy đủ các pháp. Chúng sinh lý đủ, chư Phật đã thành, thành đó và lý không gì chẳng là tánh v.v... có kệ tụng nói:

“Tất cả tâm trong mỗi mỗi tâm
Tất cả trần trong mỗi mỗi trần
Tất cả trần trong mỗi mỗi tâm
Tất cả tâm trong mỗi mỗi trần
Tất cả cõi trong mỗi mỗi trần
Tất cả cõi trần cũng như vậy
Các pháp các trần các cõi thân
Thể đó đều là không tự tánh
Không tánh xưa nay tùy vật biến
Sở dĩ vào nhau sự luôn phân
Nên thân tâm ta cõi trần khắp
Chư Phật chúng sinh cũng như vậy
Mỗi mỗi thân cõi thể luôn đồng
Nào phòng tâm Phật chúng sinh khác
Khác nên phân biệt duyên nhiễm tịnh
Duyên thể vốn không không chẳng không.
Ba đế ba quán ba chẳng ba
Ba một một ba không chỗ cậy.
Đế quán tên riêng thể lại đồng
Cho nên năng sở hai chẳng hai,
Lúc quán như vậy là quán tâm tánh
Tùy duyên chẳng biến nên gọi là tánh
Chẳng biến tùy duyên nên gọi là tâm
Nên diệu cảnh đây là gốc các pháp
Nên diệu quán đây là nguồn các hành.

Bậc thượng căn một lần quán ngang dọc gồm khâu, bèn biết không tướng, các tướng rõ ràng. Nếu hạng trung hạ căn chẳng lưu lại quán đây, thì tùy có sai biệt, giáo phân nhiều thứ, tuy nói các thứ đạo, kỳ thật là Phật thừa. Phật thừa chẳng động các thứ tùy tâm, như châu ngọc pha lê tùy cảnh trần trước mà biến các sắc. Nếu là kim cang báu đặt giữa ngày mà không định hình.

Hỏi: Tự tánh tâm thanh tịnh vốn không cấu nhiễm, cớ sao nói nghĩa của đoạn hoặc?

Đáp: Có hai thứ tâm: Một, tự tánh tâm thanh tịnh; Hai, lìa cấu tâm thanh tịnh. Vì tự tánh tâm tuy vốn thanh tịnh, vì khách trần chẳng nhiễm mà nhiễm, tu các đối trị được thành lìa cấu, chưa hẳn có cấu có thể lìa, vì tự tánh lìa vậy. Đây tức chẳng đoạn mà đoạn, chẳng phải có năng đoạn mà không sở đoạn. Đây là nghĩa viên đoạn hoặc. Như các Sư xưa trước nói: Tịnh độ đoạn hoặc là cần phải tánh tướng vô ngại. Do năng đoạn không tánh mới là năng đoạn, sở đoạn vốn không mới thành tựu sở đoạn. Nếu quyết định có thì đọa lạc ở thường, chẳng thể đoạn vậy, nếu quyết định không thì lạc vào đoạn, mất Thánh trí vậy. Trong luận Trung Quán có kệ tụng nói:

“Năng nói là nhân duyên
Khéo diệt các hý luận”.

Vụng độ là chẳng khéo diệt, khéo độ là khéo diệt. Khéo diệt là chẳng đoạn đoạn, chẳng khéo diệt là định đoạn vậy. Lại, trí chướng có ba môn đó: Một, trí chướng chỗ gọi là tâm của phân biệt có không; Hai, thể chướng nghĩa là giải của quán chẳng phải có chẳng phải không, lập mình năng biết nên gọi là thể chướng; Ba, trị tưởng, nghĩa là hợp trong vọng thức như chánh tuệ. Nếu địa thứ tư thứ năm thứ sáu đoạn trừ tâm của phân biệt thủ có lúc vào địa thứ bảy đoạn trừ tâm của phân biệt thủ không. Từ địa thứ tám trở lên đoạn trừ thể chướng, địa thứ bảy trước tuy trừ tâm phân biệt có không, mà còn thấy tâm mình lấy làm năng quán, như là sở quán, sở quán như đó chẳng tức tâm, tâm của năng quán chẳng tức như, tâm như riêng biệt nên bên ngoài tâm cầu pháp, nên có công dụng, bên ngoài pháp lập tâm nên có thể chướng. Lúc từ địa thứ bảy vào địa thứ tám. Phá bỏ chướng đây quán sát bên ngoài như xưa nay không tâm, bên ngoài tâm không như. Bên ngoài như không tâm, tâm chẳng khác như. Bên ngoài tâm không như, như chẳng khác tâm, nên năng như tâm hết sạch đồng pháp giới rộng lớn chẳng động. Vì chẳng khác vậy, dứt tìm cầu bên ngoài nên xả bỏ công dụng, chẳng lại bên ngoài như kiến lập thần trí, nên diệt thể chướng ngại. Thể chướng diệt nên gọi là không chướng tưởng, thứ ba trị tưởng, đến quả vị Phật mới diệt, nên vào địa thứ tám tuy không chướng tưởng mà có trị tưởng, từ địa thứ tám trở lên, thể vô sinh nhẫn chuyển chuyển tịch diệt, khiến trị tưởng kia vận vận tự mất, đến quả vị Phật mới cùng, nay đây chưa tận. Lại, nếu nương Đốn giáo, tất cả phiền não xưa nay tự lìa, chẳng thể nói tức và chẳng tức. Như trong kinh Pháp Giới Thể Tánh nói: “Phật bảo: Văn-thù Sư-lợi! Ông nương giáo pháp nào mà phát tâm Bồ-đề? Văn-thù Sư-lợi thưa: Giáo phát con thấy tâm. Tại sao? Khoảng con thấy tức là Bồ-đề vậy”. Nếu Hoa Nghiêm Viên giáo thì tất cả phiền não chẳng thể nói thể tánh đó, chỉ ước về dụng đó tức rộng lớn sâu mầu. Do đó chướng pháp một tức tất cả đầy đủ chủ bạn, nên chẳng chướng hoặc cũng như vậy, cho nên chẳng phân khiến tập chủng hiện, chỉ như pháp giới một được tất cả được, cho nên phiền não cũng một tức tất cả tức vậy. Trong phẩm Phổ Hiền nói rõ một chướng tất cả chướng, kinh nói: “Dùng mắt Phổ Hiền thấy tất cả chúng sinh đều đã rốt ráo vậy”. Nên biết chỉ rõ chân tâm, không hoặc có thể đoạn, gián đoạn có các tập khác, trở lại dùng một tâm Phật biết thấy mà làm đó, chẳng vào tông đây đều thành quyền tiệm, dùng đây mà sám tội thì tội nào chẳng tiêu, trừ ba độc căn như lật lại đại địa. Dùng đây mà phát hạnh nào mà chẳng thành, suốt nguồn mười địa, tợ cùng đáy biển, dạo đi mạnh mẽ như Sư tử chúa, tự tại bay liệng như chim kim sí”.

Hỏi: Chỉ một tâm vào khoảng bình đẳng, cớ sao người học chứng có sai khác?

Đáp: Đây, ở trí năng chứng thấy có cạn sâu, hướng pháp vô vi tự sinh sai biệt. Trong Niết-bàn Sớ nói: “Phật tánh như đạo thế gian, có người chưa hành, có người muốn hành, có người đang hành và có người đã hành, tuy có chưa hành v.v... chẳng đồng, mà chẳng thể nói đạo có hai. Phật tánh cũng vậy. Có người chưa thấy, muốn thấy, đang thấy, đã thấy, tuy thấy chẳng đồng, mà lý không có hai, chư Phật đồng một pháp giới thì lý không hai, là một trần không gì chẳng là pháp giới, thì sự chẳng mảy may sai, đây tức là chỗ chứng chỉ một. Nến năng chứng khác là, như Tạng giáo Thông giáo, chỉ thấy không mà chẳng thấy chẳng không, như tầm mộng được ngủ. Nếu là Biệt giáo Viên giáo thấy chẳng không, lý Trung đạo, như tầm mộng được tâm. Lại, Biệt môn còn chấp giáo đạo lần lượt sinh khởi, nếu

Viên thừa là rõ ngay tâm tánh, tức nay đầy đủ. Lại Tạng và Thông lấy diệt tâm làm cực quả, chóng trái viên thừa. Thai Giáo nói: Sáu thức là duyên nhân chủng, thiện ác đều là sáu thức khởi. Bảy thức là Liễu nhân chủng, mê hoặc đó cùng giải đều thức thứ bảy. Thức thứ tám là Thánh nhân chủng, không thức thứ tám thì không sinh tử Niết-bàn. Nếu ba thứ đây chẳng phải chủng loại Phật, thì ngoài đây xứ nào lại có pháp của viên đốn? Hai thừa đoạn kết, kết hết bèn không nhân của Phật tuệ, chẳng năng thành Nhất thiết chủng trí, mất liễu nhân chủng vậy. Nếu trừ ác có thiện, ác hết thì chẳng năng sinh tất cả thiện, đâu có duyên nhân chủng. Nếu lìa sinh tử vào vô dư Niết-bàn. Diệt thân chẳng thọ sinh là, đâu có chánh nhân chủng. Do đó, trong kinh Viên Giác nói: “Bồ-tát Thanh Tịnh Tuệ bạch Phật” Bạch Đức Thế Tôn! Nguyện vì tất cả đại chúng đến nghe pháp mà trùng tuyên giác tánh viên mãn của đấng pháp vương. Tất cả chúng sinh và các Bồ-tát, sở chứng sở đắc của Đức Như Lai Thế Tôn cớ sao sai biệt? Cho đến Đức Phật dạy: Này thiện nam! Viên giác tự tánh chẳng phải tánh tánh có, theo các tánh khởi không thủ không chứng, ở trong thật tướng, thật không Bồ-tát và các chúng sinh. Tại sao? Bồ-tát chúng sinh đều là huyễn hóa, huyễn hóa diệt nên không thủ chứng. Thí như nhãn căn chẳng tự thấy nhãn, tánh tự bình đẳng không bình đẳng là, chúng sinh mê đảo chưa năng trừ diệt, tất cả huyễn hóa ở diệt chưa diệt vọng trong công dụng, bèn hiển bày sai biệt. Nếu được Như Lai tịch diệt tùy thuận, thật không tịch diệt và tịch diệt đó. Này thiện nam! Tất cả chúng sinh từ vô thủy đến nay, do vọng tưởng ngã và ái ngã đó, chẳng từng tự biết niệm niệm sinh diệt, nên khởi thương ghét đắm trước năm dục, nếu gặp bạn lành dạy khiến khai ngộ, giác tánh viên tịnh phát minh khởi diệt tức biết sinh đây tánh tự nhọc lự. Nếu lại có người nhọc lo nghĩ trọn đoạn, được pháp giới tịnh, tức tịnh giải kia là tự chướng ngại, nên ở Viên giác mà chẳng tự tại, đó gọi là phàm phu tùy thuận giác tánh. Này thiện nam! Tất cả Bồ-tát thấy hiểu là ngại, tuy đoạn hiểu ngại còn trú tri giác, giác ngại là ngại mà chẳng tự tại. Đây gọi là Bồ-tát chưa vào địa là tùy thuận giác tánh. Này thiện nam! Có chiếu có giác đều gọi là chướng ngại. Cho nên Bồ-tát thường giác chẳng trú, chiếu và chiếu đó đồng thời tịch diệt. Thí như có người tự chặt đầu họ, đầu đã đứt rồi, nên không năng chặt đó, thì vì ngại tâm tự diệt các ngại, ngại đã đoạn diệt, không diệt ngại đó.

Tu-đa-la giáo như ngón tay chỉ mặt trăng, nếu thấy mặt trăng rồi, rõ biết chỗ chỉ rốt ráo chẳng phải mặt trăng. Tất cả các thứ nói phô của các Đức Như Lai mở bày Bồ-tát cũng lại như vậy. Đây gọi là Bồ-tát đã vào địa là tùy thuận giác tánh. Này thiện nam! Tất cả chướng ngại là cứu cánh giác được niệm mất niệm không gì chẳng giải thoát, thành pháp phá pháp đều gọi là Niết-bàn, trí tuệ ngu si thông làm Bát-nhã. Bồ-tát ngoại đạo chỗ thành tựu pháp, đồng là Bồ-đề, vô minh chân như không khác cảnh giới, các giới định tuệ và dâm nộ si đều là phạm hạnh, chúng sinh cõi nước đồng một pháp tánh. Địa ngục thiên đường đều là Tịnh độ, có tánh không tánh đều thành Phật đạo, tất cả phiền não rốt ráo giải thoát, biển pháp giới tuệ chiếu rõ các tướng, giống như hư không. Đây gọi là Như Lai tùy thuận giác tánh. Này thiện nam! Chỉ các Bồ-tát và chúng sinh đời sau ở tất cả thời chẳng khởi vọng niệm, ở các vọng tâm cũng chẳng dứt diệt, trú cảnh vọng tưởng chẳng thêm rõ biết, ở không rõ biết chẳng biện chân thật. Các chúng sinh ấy nghe pháp môn đó tin hiểu thọ trì chẳng sinh kinh sợ, đó thì gọi là tùy thuận giác tánh”. Giải thích: Ở tất cả thời chẳng khởi vọng niệm là, niệm tuy tức không chẳng thể nên khởi, hoặc xuyến tập mà sinh, hoặc tiếp tục mà khởi, hoặc giác niệm trước quấy, riêng sinh niệm sau hối cải, tất cả đều là bệnh, chỉ một lúc của ngồi, tâm trong ngoài chẳng sinh, tức là định chân như. Giả sử có khác cảnh dẫn sinh, chỉ rõ chánh niệm. Chánh niệm là, tức Bản pháp một tâm, tâm cảnh đều hư, trọn không chỗ được, ở các vọng tâm cũng chẳng dứt diệt là, tức suy tầm niệm đầu tiên chẳng thấy xứ khởi, sao phải đoạn diệt. Chẳng thấy xứ khởi đó gọi là chân diệt. Trú cảnh vọng tưởng chẳng thêm rõ biết là, vọng tưởng các cảnh trong ngoài đều không, sao phải cưỡng sinh phân biệt, thì chẳng thủ chẳng xả, diệu định tương ưng. Ở không rõ biết chẳng biện chân thật là, cũng chẳng trú không phân biệt. Chẳng phải thật chẳng phải hư, tâm không chỗ cậy, thì được chánh tông của gốc, trở lại diệu tánh của nguồn vậy.

Hỏi: Tất cả chúng sinh đều đồng pháp tánh, nên trong kinh Tư Ích nói: “Chúng sinh như tức là lậu tận giải thoát như”. Cớ sao các trú chẳng đủ tánh khởi công đức ư?

Đáp: Tánh có hai thứ: Một, nghĩa chủng tánh, nhân chỗ khởi vậy; Hai, nghĩa pháp tánh, hoặc chân hoặc ứng đều tánh đây vậy. Nếu là pháp tánh, Thánh phàm đều đồng, nếu là chủng tánh, phải muôn thiện huân tu. Vì tịnh đoạt nhiễm, tánh mới khởi vậy. Vọng tuy tức tánh mà chẳng thuận tánh vậy. Trong Thanh Lương Ký nói: “Nghĩa Như Lai xuất hiện, cũng gọi là duyên khởi, cũng gọi là tánh khởi. Nếu tám tướng trông nhìn duyên xuất hiện nên gọi là duyên khởi. Nghĩa là do nghiệp cảm của chúng sinh, Đức Như Lai đại bi mà xuất hiện, tám tướng thành đạo từ pháp tánh nên gọi là tánh khởi. Nay vì từ duyên không tánh, duyên khởi tức gọi là tánh khởi. Lại, tịnh duyên khởi thường thuận ở tánh cũng gọi là tánh khởi. Nên nói: Ứng tuy từ duyên mà chẳng trái nghịch tánh vậy, tức không gì chẳng từ pháp giới đây mà lưu xuất, tức môn tướng thành rõ tánh thành ở duyên. Nên tánh khởi đây tự có hai nghĩa: Một từ duyên không tánh mà làm tánh khởi; Hai, pháp tánh tùy duyên nên gọi là tánh khởi, không gì chẳng trở lại chứng pháp thân đây vậy. Đây là duyên khởi năng thành tánh khởi, tức là môn tướng thành vậy. Vì tịnh đoạt nhiễm tánh tức khởi. Vậy là, rõ môn tương đoạt, cũng là thông phòng ngại. Nghĩa là có lời hỏi rằng: Tánh khởi chỉ tịnh duyên khởi tức là tánh khởi. Nên vì đây thông, nghĩa là khởi có hai: Một là nhiễm, hai là tịnh. Tịnh nghĩa là Như Lai Đại Bi, Bồ-tát muôn hạnh v.v... Nhiễm nghĩa là chúng sinh hoặc nghiệp v.v... Nếu vì nhiễm đoạt tịnh thì thuộc chúng sinh, nên chỉ duyên khởi. Nay vì tịnh đoạt nhiễm, chỉ thuộc chư Phật, nên gọi là tánh khởi, cho đến muôn pháp xuất bày đều là duyên khởi trong chân tánh. Do đó Bồtát phàm có hành xử đều thuận pháp tánh. Chúng sinh vì căn bản vô minh chưa tận, ngã chấp tình kiến chưa mất, chỗ có hành xử đều trái pháp tánh, chỉ thành hành của hữu vi sinh diệt, chẳng thành môn tánh khởi công đức. Như trong luận Đại Thừa Khởi Tín nói: “Bồ-tát đây biết pháp tánh lìa tướng xan tham, là thanh tịnh thí độ, tùy thuận tu hành Đàn Ba-la-mật. Biết pháp tánh lìa tướng cảnh năm dục không phá giới, là thanh tịnh giới độ, tùy thuận tu hành Thi Ba-la-mật. Biết pháp tánh không có khổ não lìa tướng sân hại là thanh tịnh nhẫn độ, tùy thuận tu hành Sằng-đề Ba-la-mật. Biết pháp tánh lìa tướng thân tâm không có giải đãi là thanh tịnh tấn độ, tùy thuận tu hành Tỳ-lê-da Ba-la-mật. Biết pháp tánh không động không loạn, là thanh tịnh thiền độ, tùy thuận tu hành Thiền-na Ba-la-mật. Biết pháp tánh lìa các si ám là thanh tịnh tuệ độ, tùy thuận tu hành Bát-nhã Ba-la-mật”. Nên biết chỗ Bồ-tát tu một độ một hạnh đều thuận chân như lý của một tâm pháp tánh. Chẳng phải là ở bên ngoài tự tánh riêng có chỗ tu, vì tùy thuận tâm tánh vậy. Chỗ có công đức đều như tánh khởi, vô tận vô vi chẳng thủ chẳng xả, chỗ phàm phu tạo xan tham cho đến si ám, đều là trái chân nghịch tánh khởi tâm ngã kiến, do đó chẳng tùy tánh khởi thành công đức vô lậu. Giả sử có vọng tu đều ở bên ngoài tự tâm riêng có chỗ được, đều thành ngoại đạo Thiên ma hữu vi sinh diệt. Vì chẳng thuận chân như, trái nghịch pháp tánh vậy. Lại, vì tu hiển bày tánh, vì tánh thành tu. Nếu không tánh thì tu cũng chẳng thành, nếu không tu thì tánh cũng chẳng hiển bày. Như các bậc Cổ đức nói: Vốn có như vàng thật, tu sinh như nghiêm cụ. Do nghiêm cụ mới hiển bày đức vàng, nghiêm cụ không thể toàn quấy vàng thành. Dụ hiển bày hai đức là, như tu sinh tại nhân, dần hiển bày vốn có, tại quả viên mãn vốn có. Chẳng phải lý vốn có có tiệm có viên. Như vầng trăng mới mọc sáng tuy dần tròn mà thường mang vòng tròn vầng trăng, vì vòng tròn vầng trăng thường tại vậy, nên vầng trăng đêm rằm khắp đầy trong mồng một mồng hai mồng ba v.v... thì biết mãn quả khắp tự nhân vị, cũng khiến sau sau thường đủ trước trước, trước trước thường đủ sau sau. Vì đêm mồng một có vầng trăng đêm mồng hai cho đến vầng trăng đêm rằm. Vì vầng trăng đêm rằm tức vầng trăng đêm mồng một vậy. Pháp hợp có thể biết, do đây nên nói: Tu sinh vốn có, vì lúc mời đầu viên trước đã viên vậy, vốn có tu sinh vì lúc mới đầu sinh cũng đã viên vậy. Vốn có tu sinh vì lúc mới đầu sinh cũng đã viên vậy, quên nghĩ nhớ đó. Nếu chẳng năng nghĩ đó như vậy mà mất lợi lớn. Như gã cùng tử ở nơi kho lẫm của mình mà cho là vật người khác. Hoặc giữ áo chân mà đi xin ăn, hoặc giữ kho vàng mà làm kẻ nghèo hèn, đều vì chẳng biết báu của tự tâm, khiến nên tình huống đó vậy. Lại, như trong kinh Thủ-lăngnghiêm nói: “Phật dạy: Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay, mê mình làm vật, mất nơi bản tâm làm chỗ vật chuyển. Nên ở trong đó quán lớn quán nhỏ. Nếu năng chuyển vật thì đồng Như Lai, thân tâm tròn sáng chẳng động đạo tràng, ở đầu một sợi lông khắp cùng, năng bao hàm nhận nạp cõi nước mười phương”. Phàm, nói chuyển vật là vật hư chẳng phải chuyển, chỉ chuyển tự tâm, vì tất cả pháp đều từ phân biệt sinh, nhân tưởng mà thành, tùy niệm mà đến. Do đó, trong kinh Kim Cang Tam-muội có kệ tụng nói:

“Pháp từ phân biệt sinh
Lại từ phân biệt diệt
Diệt các pháp phân biệt
Là pháp chẳng sinh diệt”.

Nên biết tất cả các pháp đều từ thức phân biệt sinh, nếu năng ngộ rõ thức phân biệt không thì biết các pháp tịch diệt. Hoặc sinh hoặc diệt đều là phân biệt, phân biệt nếu mất, pháp chẳng phải sinh diệt. Cũng như trong kinh Pháp Hoa nói ba biến đất ruộng chỉ là biến tâm, chẳng phải biến đất vậy. Trong Thủ-lăng-nghiêm Kinh Sao nói: Nếu năng chuyển vật tức đồng Như Lai là, bên ngoài tâm không vật, vật tức là tâm, chỉ tâm lìa phân biệt là chánh trí. Chánh trí tức là Bát-nhã, khắp cùng pháp giới không có chướng ngại, cho nên cõi nước phương Tây, nước chim cây rừng thảy đều nói pháp. Xứ của nói pháp, tức tâm như như. Do đó Như Lai mỗi mỗi căn môn khắp cùng bụi trần cõi nước cho đến đầu mảy lông mà nói diệu pháp. Như nay chỉ được lìa niệm, bèn đồng Như Lai chân thật thấy biết. Xưa kia có vị Thiền sư tu đạo ở núi Vô Vi huyện Miên Trúc thuộc đất Thục. Bấy giờ có hơn ba trăm nhà thiết trai đều thỉnh mời, Hòa thượng đều do tâm lìa phân biệt, tức ứng cơ vô ngại.

Hỏi: Pháp giới các cơ, dùng trí gì chứng, đều vào bình đẳng một tâm, cứu cánh tạng của Như Lai?

Đáp: Nói theo luận Phật tánh, có năm thứ Như Lai Tạng. Luận Thích Ma-ha-diễn, nêu bày mười thứ Như Lai Tạng. Như luận Phật Tánh nói: “Tạng có năm thứ: Một, Như Lai Tạng, tại triền bao hàm quả pháp vậy; Hai, tự tánh thanh tịnh tạng, tại triền chẳng nhiễm; Ba, pháp thân tạng. Quả vị làm chỗ công đức nương tựa; Bốn, xuất thế gian thượng thượng tạng, xuất triền vượt quá hàng Nhị thừa, Bồ-tát; Năm, pháp giới tạng, thông nhân suốt quả, bên ngoài giữ tất cả nhiễm tịnh nên gọi là pháp giới, bên trong bao hàm tất cả Hằng sa tánh đức, nên gọi là tạng. Tiếp theo luận Thích Ma-ha-diễn nói: “Như Lai Tạng có mười thứ, ở trong Khế kinh mỗi riêng biệt nói vậy. Một, Đại Tổng Trì Như Lai tạng, gồm hết tất cả Như Lai vậy. Trong kinh Chư Phật Vô Tận Tạng nói là: “Phật bảo: Văn-thù Sưlợi! Có Như Lai Tạng tên là Đại Bảo vô tận thù thắng viên mãn Đà-la-ni, gồm hết các tạng, không chỗ nào chẳng thông, không chỗ nào chẳng đáng, viên mãn viên mãn, bình đẳng bình đẳng, tất cả chỗ có các Như Lai tạng, không có lấy đây chẳng phải là căn bản. Tại sao? Như Lai tạng đây là Như Lai tạng Vương Như Lai tạng chủ, Như Lai tạng thiên.

Như Lai tạng địa. Vì nghĩa đó nên gọi là Đại Bảo vô tận thù thắng viên mãn Đà-la-ni Như Lai tạng vậy”. Văn kinh đây nói rõ nghĩa gì? Chỗ gọi là hiển bày Đà-la-ni tạng, chỗ nương tựa tổng tướng. Trong các khế kinh khác các Như Lai tạng năng nương Như Lai tạng vậy. Vì nghĩa gì mà gọi là Như Lai Tạng? Đó là gồm giữ vậy; Hai, xa chuyển xa ràng buộc Như Lai tạng, một thanh một mãn vậy. Trong kinh Thật Tế nói rằng: “Phật tử! Như Lai tạng là chỉ có giác đó, chỉ có như như, lìa nhân lưu chuyển, lìa biết ràng buộc lo nghĩ, mỗi mỗi bạch bạch, cho nên gọi là tạng của Như Lai vậy”. Văn kinh đây nói nghĩa gì? Chỗ gọi là hiển bày chân như một tâm, không có nhân hoặc không có nhân giác, không có quả hoặc, không có quả giác, một chân một như, chỉ có thể Như Lai tịnh diệu vậy, vì nghĩa gì mà gọi là Như Lai tạng? Mỗi mỗi không tạp nhiễm vậy; Ba, cùng hành cùng tướng Như Lai tạng, cùng lựa lưu chuyển pháp thân Như Lai khiến che giấu (phú tàng) vậy. Trong kinh Lăng-già nói rằng: “Như Lai tạng là, làm nhân thiện và bất thiện thọ khổ lạc, cùng nhân câu hoặc sinh hoặc diệt, giống như con hát vậy”. Văn kinh đây nói nghĩa gì? Chỗ gọi là hiển bày sinh diệt một tâm ở hoặc cùng lực ở giác cùng lực, xuất hiện pháp của sinh tử Niết-bàn, thí như chẳng phải huyễn nhân huyễn ở các việc huyễn, tùy chỗ ứng đó cùng lực dụng vậy. Vì nghĩa gì mà gọi là Như Lai tạng? Nghĩa là khiến che lấp vậy; Bốn, chân như chân như Như Lai tạng, chỉ có như vậy. Trong kinh Chân Tu nói rằng: “Như lý như lý Như Lai tạng, chẳng phải kiến lập chẳng phải phỉ báng, chẳng phải thường chẳng phải vô thường, chẳng phải chỗ chứng đắc của chánh thể trí, cũng chẳng phải chỗ duyên cảnh giới của ý ý thức. Tại sao? Chỉ có lý lý, không kia kia vậy”. Văn kinh đây nói nghĩa gì? Chỗ gọi là hiển bày tánh chân như lý trong môn chân như, chỉ lý tự lý, chẳng phải trí tự lý vậy. Vì nghĩa gì mà nói là Như Lai tạng? Đó là không tha vậy; Năm, sinh diệt chân như Như Lai tạng, chẳng sinh chẳng diệt, bị nhiễm của sinh diệt vậy. Trong kinh Lăng-già nói rằng: “Đại Tuệ! Phàm phu ngu si, chẳng hau chẳng biết chấp trước các pháp, từng sát-na chẳng trú, đọa nơi tà kiến mà nói là “pháp của vô lậu cũng là sát-na chẳng trú”, phá chân như Như Lai tạng kia vậy. Lại nữa, Đại Tuệ, Kim Cang Như Lai Tạng Như Lai chứng pháp. Nếu từng sát-na chẳng trú là, tất cả Thánh nhân chẳng thành Thánh nhân vậy”. Văn kinh đây nói rõ nghĩa gì? Chỗ gọi là hiển bày tánh chân như lý trong môn sinh diệt, xa lìa tướng của vô thường, pháp của chẳng sinh chẳng diệt vậy. Vì nghĩa gì mà gọi là Như Lai tạng? Đó là bị nhiễm vậy; Sáu, không Như Lai tạng. Tất cả gọi là không, che giấu Như Lai tạng vậy. Trong kinh Thắng Man nói rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Không Như Lai tạng, hoặc lìa hoặc khác tất cả phiền não tạng vậy”. Văn kinh đây nói nghĩa gì? Chỗ gọi là hiển bày tất cả nhiễm pháp ẩn che tự tướng bản giác vô lượng tánh công đức trong môn sinh diệt vậy. Vì nghĩa gì vậy? Tất cả nhiễm pháp đều gọi là không, chỗ gọi là tất cả nhiễm pháp huyễn hóa, sai biệt thể tướng không thật, tác dụng chẳng phải chân, nên gọi là không, mà năng ẩn che Như Lai pháp thân thật đức chân thể, cho nên gọi là tạng của Như Lai, từ năng giấu nhiễm lập tên đó vậy. Bảy, chẳng không Như Lai tạng, tất cả chẳng không bị không nhiễm vậy. Trong kinh Thắng Man nói rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Chẳng không Như Lai tạng quá hằng sa, chẳng lìa chẳng thoát chẳng khác chẳng nghĩ bàn Phật pháp vậy”. Văn kinh đây nói nghĩa gì? Chỗ gọi là hiển bày tự tướng bản giác trong môn sinh diệt, có đủ các thứ công đức quá hơn hằng sa, bị chỗ nhiễm của tất cả nhiễm pháp quá hơn hằng sa. Vì nghĩa gì vậy? Tất cả tịnh pháp đều gọi là chẳng không, chỗ gọi là tất cả tịnh pháp thật tác dụng thắng diệu trong tự thể, xa lìa hư giả siêu vượt xảo ngụy, nên gọi là chẳng không, bị che lấp của nhiễm, gọi là Như Lai tạng, ở lúc xuất hiện, gọi là pháp thân, ở lúc ẩn che, gọi là Như Lai tạng, nên từ chỗ tịnh lập tên đó vậy. Tám, năng gồm Như Lai tạng, tự tánh tâm thanh tịnh trong vô minh tạng năng gồm tất cả các công đức vậy. Trong kinh Bất Tăng Bất Giảm nói rằng: “Như Lai tạng bản tế tương ưng thể và pháp thanh tịnh. Pháp đây như thật chẳng hư vọng, chẳng lìa chẳng thoát, trí pháp chẳng nghĩ bàn, từ bản tế vô thủy đến nay có thanh tịnh tương ưng pháp thể đây vậy”. Văn kinh đây nói nghĩa gì? Chỗ gọi là hiển bày tự tánh tâm thanh tịnh của tất cả chúng sinh, từ vô thủy đến nay đầy đủ ba trí viên mãn bốn đức, không chỗ khuyết mất vậy. Vì nghĩa gì mà gọi là Như Lai tạng? Do tâm điên đảo chẳng biết chẳng hay vậy, từ năng tịnh lập tên đó vậy; Chín, sở gồm Như Lai tạng, tất cả nhiễm pháp vô minh địa tạng. Đã là ra khỏi viên mãn giác là làm chỗ nhiếp vậy. Trong kinh Bất Tăng Bất Giảm nói rằng: “Như Lai bản tế chẳng tương ưng thể và phiền não ràng buộc, chẳng phải pháp thanh tịnh, Bản tế đây lìa thoát chẳng tương ưng phiền não ràng buộc chẳng pháp thanh tịnh, chỉ có chỗ của trí Bồ-đề Như Lai năng đoạn vậy”. Văn kinh đây nói nghĩa gì? Chỗ gọi là hiển bày thủy giác mãn Phật, đoạn tất cả chướng, đủ tất cả trí. Trí sáng là ngoài, chướng tối là trong, tất cả nhiễm pháp là chỗ trí gồm giữ vậy. Vì nghĩa gì mà gọi là Như Lai tạng? Đó là gồm giữ vậy. Mười, Như Lai Tạng ẩn che, pháp thân Như Lai, chỗ phiền não che ẩn giấu mất vậy. Trong kinh Bất Tăng Bất Giảm nói rằng: “Như Lai tạng ở vị lai tế bình đẳng luôn kịp có pháp, tức là tất cả các pháp căn bản, đủ tất cả pháp đầy tất cả pháp, ở trong thế pháp chẳng lìa chẳng thoát vậy”. Văn kinh đây nói rõ nghĩa gì? Chỗ gọi là hiển bày nhiều một tâm thể đồng nơi pháp giới, khắp nơi ba khoảng, đầy đủ viên mãn các pháp nhiễm tịnh, không chỗ nào chẳng thông không chỗ nào chẳng đến vậy. Lại nữa, hiển bày tự tánh tịnh tâm trong môn tùy duyên, ở trong nhiễm pháp ẩn giấu chìm mất, pháp thân Như Lai chưa xuất hiện vậy. Đó gọi là mười, nay lấy pháp giới tạng thứ năm trong luận Phật tánh, và Đại Tổng Trì Như Lai tạng thứ nhất trong luận Thích Ma-ha-diễn, nghĩa đó rộng thông gồm khắp tất cả, vì trí thật tướng sẽ năng chứng nhập, như muôn sao xoay về Bắc đẩu, tợ biển nhóm hợp các dòng, giống như thái hư không không một mảy trần nào mà chẳng vào. Nếu trong Tông Kính thì không một pháp nào mà chẳng quy về, chỗ thừa của các Thánh, đồng chứng của chư Phật. Ngoài ra, các tạng tùy duyên nhiễm tịnh mà thành hai môn chân như và sinh diệt, công đức lỗi lầm ẩn hiển đối trị vậy, vì chẳng sai mà sai, chẳng giữ tự tánh vậy. Vì sai mà chẳng sai, chẳng mất tự tánh vậy, thì tổng biệt đồng nguồn, gốc ngọn một khoảng. Như trong luận Cứu Cánh Nhất Thừa Bảo Tánh có kệ tụng nói:

“Pháp thân khắp không sai
Đều thật có Phật tánh
Cho nên nói chúng sinh
Thường có Như Lai tạng”.

Kệ tụng đây nói nghĩa gì? Có ba thứ nghĩa, cho nên Đức Như Lai nói tất cả thời tất cả chúng sinh có Như Lai tạng, những gì là ba? Một, pháp thân Như Lai khắp cùng nơi tâm thức tất cả chúng sinh. Kệ tụng nói pháp thân khắp vậy; Hai, thể của chân như, tất cả chúng sinh bình đẳng không sai biệt, kệ tụng nói không sai vậy; Ba, tất cả chúng sinh thảy đều đồng có Phật tánh chân như, kệ tụng nói đều thật có Phật tánh vậy.

Hỏi: Trí năng chứng và tạng sở chứng là đồng hay khác?

Đáp: Căn cứ ở môn phân biệt cũng đồng cũng khác, nếu ngầm hợp một vị thì không khác của cảnh trí. Nếu nói dụng tức đồng mà khác. Cảnh chẳng năng chiếu, trí có chiếu vậy. Nói tịch tức khác mà đồng. Cảnh trí không khác vị vậy, đồng nên không tâm ở đây kia, quên tâm khế hợp vậy. Khác nên chẳng mất ở chiếu công, trí khác gỗ đá vậy. Vì vậy, nguồn của cảnh trí chẳng phải lìa chẳng phải hợp. Hợp thì cảnh trí đều hoại, lìa thì cảnh trí trái nhau, không cảnh mà chẳng thành trí, vì lìa pháp không có nhân vậy, không trí mà chẳng thành cảnh, vì lìa nhân không có pháp vậy. Do đó, cảnh trí thường vắng lặng, tuy chiếu cảnh mà không duyên, vắng lặng chẳng mất chiếu, tuy không vắng lặng mà luôn dụng. Đây thì trí chiếu cảnh cũng chiếu, cảnh lặng trí cũng lặng, lặng chiếu phân hai mà một vị, cảnh trí dung tức mà rõ ràng. Nếu một hai tình sinh thì trái với chân lý, hoặc làm thấy của hữu tình vô tình, tự phần nghĩ của kia đây. Hoặc chấp tâm có dụng không dụng, chỉ rơi lạc lưới của đoạn thường, đều là chẳng rõ thật tánh của muôn pháp, chân tông của một đạo. Nếu thấu suốt văn đây, các tình chóng phá.

Hỏi: Ba cõi năm thú tức chỉ một tâm, cớ sao có mê ngộ chẳng đồng, Thánh phàm thăng giáng?

Đáp: Chỉ vì phân tâm nên mê, nhân tâm nên ngộ, lại nhân ngộ thành Thánh, nhân mê làm phàm, Thánh phàm chỉ nhân mê ngộ mà có tên. Tên cũng vốn không, chỉ có chân tâm, lắng yên chẳng động. Chỉ ở trên một chân tâm vọng chấp nhân ngã pháp ngã, do đó tợ mê. Lại nhân rõ nhân không pháp không, do đó tợ ngộ. Các bậc Cổ đức nói: “Giác chẳng phải thủy chung, vì mê nên chấp ngã, vì ngộ nên thấy tánh. Như trong tối mê gốc cây cho là quỷ, đến sáng gốc cây có quỷ không. Mê gốc cây làm quỷ, thấy gốc cây chẳng phải mới có, rõ quỷ vốn không, ngộ quỷ chẳng phải mới đầu không, đã chỉ được gốc cây chẳng được quỷ đó. Nên biết quỷ chẳng mới không, gốc cây chẳng phải mới có, không lấy bỏ vậy. Đã hai niệm chẳng sinh tức là thật quán. Tại sao? Niệm hết tâm lắng, không sinh hiện vậy, như nói nước lắng được báu thật v.v... Lại, phàm có chỗ thấy tất cả hoặc thấy tự thấy tha, đều là mê tâm tự hiện, như mê Đông làm Tây, phương thật chẳng chuyển.

Vì người mê Tây chẳng lìa người ngộ Đông, chỉ vì người mê mê nên chẳng thấy người ngộ Đông. Nếu đến lúc ngộ, Tây toàn là Đông vậy, nên biết mê thường tại ngộ, chúng sinh chẳng lìa Phật. Trong kinh nói: “Chúng sinh giới tức Phật giới”, Phật giới tức chúng sinh giới, vì vì mê nên mù si, đối mắt chẳng biết thấy, rất tự buồn thương thay!” Nên biết, nương phương nên mê, phương vị chẳng động. Nhân giác nên đượm vị, giác thể chẳng phải chuyển dời, thì mê không chỗ mê, ngộ không chỗ ngộ, mê thì lấy chân làm vọng, ngộ thì lấy vọng làm chân như ban đêm thấy gốc cây là người, ban ngày thấy người là gốc cây, một vật chưa từng khác, hai thấy từ thành sai. Đã biết mê ngộ là không thì chân vọng làm sao có.

Hỏi: Nếu không mê ngộ Bồ-đề một tâm, cớ sao đoạn hoặc chứng quả chậm nhanh chẳng đồng?

Đáp: Tuy rõ một tâm gốc ngọn bình đẳng. Vì vọng tập chủng tử sai biệt trong chúng sinh giới chẳng huân mà huân. Từ vô thủy bền chắc nên cuối cùng khó trừ, đến quả vị Thập địa còn có sắc tâm hai tập. Nếu chẳng dõng mãnh tinh tấn niệm niệm thường cùng Phật thấy biết mà làm đó, không do đâu được tịnh. Như trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù Sư-lợi hỏi Bồ-tát Cần Thủ rằng: Phật Tử! Đức Phật dạy là một, chúng sinh được thấy, cớ sao chẳng tức đều đoạn tất cả các phiền não phược mà được lìa khỏi? Nhưng sắc uẩn thọ uẩn tưởng uẩn hành uẩn thức uẩn cõi Dục cõi Sắc cõi Vô sắc vô minh tham ái đó không có sai biệt. Vậy thì Phật dạy ở các chúng sinh, hoặc có lợi ích, hoặc không lợi ích ư? Khi ấy Bồ-tát Cần Thủ nói bài kệ tụng mà đáp rằng:

“Phật tử khéo lắng nghe
Nay tôi như thật đáp
Hoặc có chóng giải thoát
Hoặc có khó lìa khỏi
Nếu muốn cầu trừ diệt
Vô lượng các lỗi ác
Phải ở trong Phật pháp
Dõng mãnh thường tinh tấn
Thí như nhóm lửa nhỏ
Củi ướt chóng khiến diệt
Ở trong pháp Phật dạy
Kẻ biếng lười cũng vậy
Như cọ sát cầu lửa
Chưa ra mà tạm nghỉ
Thế lửa theo ngưng diệt
Kẻ biếng lười cũng vậy
Như người giữ Nhật châu
Chẳng dùng vật tiếp ảnh
Lửa trọn chẳng thể được
Kẻ biếng lười cũng vậy
Thí như mặt nhật chiếu
Trẻ con nhắm bít mắt
Lạ nói sao chẳng thấy
Kẻ biếng lười cũng vậy
Như người không tay chân
Muốn dùng tên cỏ gai
Bắn khắp phá đại địa
Kẻ biếng lười cũng vậy
Như người dùng mảy lông
Mà lấy nước biển lớn
Muốn khiến khô cạn hết
Kẻ biếng lười cũng vậy
Lại như kiếp lửa nổi
Muốn dùng ít nước diệt
Ở trong pháp Phật dạy
Kẻ biếng lười cũng vậy
Như có thấy hư không
Ngồi yên chẳng lay động
Mà nói nhảy nhót khắp
Kẻ biếng lười cũng vậy”.

Giải thích: Như cọ sát cầu lửa chưa ra mà tạm nghỉ, thế lửa tùy ngưng diệt, kẻ biếng lười cũng vậy là, phải dùng trí tuệ mài rót nơi một cảnh, dùng dây phương tiện khéo léo xoay chuyển, tâm trí không trú bốn nghi không gián đoạn thì Thánh đạo có thể sinh, liếc đó khởi tâm tạm thời quên chiếu, đều gọi là dứt nghỉ vậy. Do đó, trong kinh Đại Bảo Tích nói: “Thí như buộc dải lụa trên đầu, lửa đến thiêu đốt dải lụa, không rảnh mà cứu lửa, vì cứu thật lý gấp vậy”. Sách khuyên học bên ngoài còn nói: “Khinh thước ngọc mà trọng tấc bóng” huống gì học Bát-nhã cầu pháp ra khỏi sinh tử, đâu có thể tạm quên ư?

QUYỂN 83

Hỏi: Phàm, chân tâm là vua của chữ một, mẹ của Bát-nhã, cớ sao luận nói chư Phật thường nương hai đế nói pháp?

Đáp: Nếu căn cứ chánh tông, tuyệt đường tâm trí, nếu lìa hai đế đoạn môn phương tiện. Vì chân tâm là pháp tự chứng, có văn tự nào, phàm giáo năng phân tích không gì chẳng phải là giả danh, nên nói nương hai đế mà nói pháp. Trong kinh Kim Cang Tam-muội có kệ tụng nói:

“Chỗ nhân duyên sinh nghĩa
Là nghĩa diệt chẳng sinh
Diệt các nghĩa sinh diệt
Là nghĩa sinh chẳng diệt”.

Trong luận Thích nói: Nghĩa bốn câu này có Tổng biệt. Biệt thì nói rõ nghĩa hai môn, tổng thì hiển bày pháp một tâm. Bên trong của một tâm hai môn như vậy, tất cả các pháp không chỗ chẳng gồm. Hai trước dung tục làm chân hiển bày nghĩa bình đẳng. Hai sau dung chân làm tục hiển bày muôn sai biệt. Tổng quát mà nói đó, là chân tục không hai mà chẳng giữ một. Do không hai nên là một tâm, chẳng giữ một nên khắp thể làm hai. Lại chân tục không hai, pháp của một thật, chỗ chư Phật quy về gọi là Như Lai tạng, rõ ràng vô lượng pháp và tất cả hạnh không gì chẳng quy vào trong Như Lai tạng, chỗ vô biên giáo pháp phân tích giải thích nghĩa tướng lại không khởi khác, chỉ nghĩa một thật. Nói thật là, tánh của tự tâm. Trừ ngoài đây ra đều là hư huyễn. Trong luận Đại Trí Độ nói: “Trừ ngoài một thật tướng, tất cả đều thành ma sự”. Trong kinh Pháp Hoa nói: “Chỉ một sự thật đây, hai khác chẳng phải chân”. Phàm, đại ý các kinh luận đều là hiển bày Tông phá chấp, riêng nêu tâm tánh. Nếu thông đạt tất cả các pháp tức tự tánh tâm, ngoài tâm không pháp, tánh không gì chẳng bao gồm, giống như hư không khắp tất cả xứ, tất cả xứ, thì tất cả pháp không gì chẳng là thật tướng, nên biết các nghĩa chỉ một niệm tâm. Một lý ứng tất cả danh, vì ngoài lý không danh vậy. Tất cả danh tức một lý, vì ngoài danh không lý vậy, thì là không chân danh của danh, không chân lý của lý, vì vậy một tâm hai đế, thể dụng khắp đủ. Vốn căn cứ ở chân để luận tục, từ một khởi nhiều, trở lại căn cứ ở tục để luận chân, từ nhiều hội một. Như châu ngọc như ý, châu ngọc để dụ chân, dụng để thí tục, tức châu là dụng, tức dụng là châu, chẳng hai mà hai, phân chân tục vậy. Trong luận Đại Thừa Khởi Tín nói rõ hai môn một tâm. Môn tâm chân như, là thể, vì tất cả pháp không sinh không diệt, xưa nay vắng lặng, chỉ là một tâm, như vậy gọi là môn tâm chân như. Trong kinh Lăng-già nói: “Tịch diệt, gọi là một tâm”. Môn tâm sinh diệt, là dụng. Thể một tâm đây có bản giác, mà tùy vô minh động làm sinh diệt, nên ở môn đây tánh của Như Lai ẩn mà chẳng hiển, gọi là Như Lai tạng. Trong kinh Lăng-già nói: “Một tâm, gọi là Như Lai tạng”. Lại nói: “Như Lai tạng, là nhân thiện và bất thiện”. Hai môn đây căn cứ về thể dụng phân hai. Nếu dùng dụng của toàn thể, dụng chẳng lìa thể, thể của toàn dụng, thể chẳng lìa dụng trở lại niệm nghĩ một đó. Ví một tâm nhiễm tịnh, tánh đó không hai. Hai môn chân vọng chẳng được có khác, nên gọi là một, không hai xứ đây thật trong các pháp, chẳng đồng hư không, tánh tự thần giải, nên gọi là tâm. Đã không có hai, sao được có một? Một không chỗ có, căn cứ ai nói tâm? Đạo lý như vậy lìa lời tuyệt lo nghĩ, chẳng biết lấy gì nói đó, cưỡng làm một tâm vậy.

Hỏi: Trong luận Ma-ha-diễn nói: “Một tức là tâm, tâm tức là một, không một riêng tâm không tâm riêng một, tất cả các pháp bình đẳng một vị. Một tướng không tướng, làm một thứ biển ánh sáng tâm địa”. Cớ sao lại nói tướng đồng khác ư?

Đáp: Hoặc đồng hoặc khác, đều một tâm làm, như biển trào vọt ngàn gợn sóng, ngàn gợn sóng tức biển. Vì chúng sinh tánh sai biệt nên chẳng thể đồng chủng. Và Như Lai tánh bình đẳng nên chẳng năng khác chủng. Chúng sinh tuy sai biệt chẳng năng tự khác. Như Lai tuy bình đẳng mà chẳng năng tự đồng, chẳng năng tự khác nên tức khác không khác vậy. Chẳng năng tự đồng nên tức đồng chẳng phải đồng vậy. Trong luận Ma-ha-diễn nói: “Tướng đồng là, tất cả các pháp chỉ một chân như, khác là, chỉ một chân như làm tất cả pháp. Trong luận Kim Cang Tam-muội nói: “Bình đẳng một vị, chỗ Thánh nhân chẳng năng khác vậy. Có chung có riêng, chỗ Thánh nhân chẳng năng đồng vậy”. Chẳng đồng là, tức đồng ở khác, chẳng năng khác là, tức khác ở đồng. Lại, chẳng thể nói khác nên có thể được nói là đồng. Chẳng thể nói đồng nên có thể được nói là khác. Nói và chẳng nói không hai không riêng biệt vậy. Lại nói: Nương giáo sâu mầu như nói lấy nghĩa là, có hai thứ lỗi: Một, nghe chỗ Phật nói động tĩnh không hai cho là mỗi mỗi thật một tâm, do đó bác bỏ không đạo lý hai đế; Hai, nghe chỗ Phật nói không có hai môn, chấp có hai pháp mà không một thật, do đó phỉ báng Trung đạo không hai. Lại nói: Một tâm như vậy, thông làm chỗ của tất cả các pháp nhiễm tịnh nương tựa, tức là các pháp căn bản. Xưa nay tỉnh môn. Hằng sa công đức không chỗ nào chẳng đủ, nghĩa là tất cả là môn tùy duyên động, hằng sa nhiễm pháp không gì chẳng đủ. Nhưng khắp nhiễm pháp vì trông tâm thể chẳng năng thông khắp. Do đó trong kinh nói: Hoặc lìa hoặc thoát hoặc khắp tâm thể, trông các tịnh pháp, không chỗ nào chẳng khắp. Nên trong kinh nói: Ở trong thế pháp chẳng lìa chẳng thoát, gồm rõ một tâm, thông với đông tĩnh, làm chỗ nhiễm tịnh nương. Biệt hiển bày môn động, chỗ nhiễm pháp nương. Biệt hiển bày môn tĩnh, chỗ tịnh pháp nương. Cũng như luận Đại Thừa Khởi Tín ở nơi một tâm lập hai môn chân như và sinh diệt, hoặc cuộn hoặc buông, hoặc chung hoặc riêng, đều là thể dụng của một tâm. Như ánh sáng của nhật nguyệt, tợ gợn sóng của sông hồ, chân tâm không cậy chẳng lạc lời lẽ ý nghĩ, chỉ căn cứ thế đế trong môn tùy duyên phân hai nghĩa đó. Vì chân tâm chẳng giữ tự tánh nên tùy duyên thành khác, tức thành môn khác. Vì lúc tùy duyên chẳng mất tự tánh nên tùy duyên chẳng biến, tức thành môn đồng, tùy lập đồng khác mà thường ngầm một khoảng. Xưa trước giải thích: Một chân tâm chẳng phải một chẳng phải khác là, chân tâm toàn thể động vậy. Tâm và sinh diệt chẳng phải khác mà luôn chẳng biến chân tánh vậy. Cùng sinh diệt chẳng một. Trước nói rõ môn chẳng khác có ba nghĩa: Một, gốc từ ngọn nói chẳng khác là, trong kinh nói Như Lai tạng là nhân thiện và bất thiện, năng khắp cùng tạo tất cả thú sinh. Lại, trong kinh nói: Phật tánh tùy chuyển thành vị riêng biệt; Hai, gồm ngọn đồng gốc, nói rõ chẳng khác là, trong kinh nói: “Chúng sinh tức như vậy”. Lại nói: “Mười hai nhân duyên tức Phật tánh”. Trong Địa

Luận nói: “Ba cõi chỉ tâm là, Đệ nhất nghĩa đế vậy”. Trước tức gốc của ngọn, gốc không riêng gốc, chỉ có sinh diệt, lại không pháp riêng biệt có thể cùng khác. Sau tức ngọn của gốc, ngọn không riêng biệt ngọn, nên chỉ có chẳng sinh diệt, cũng không pháp riêng biệt có thể cùng khác; Ba, gốc ngọn bình đẳng nói rõ chẳng khác. Trong kinh có kệ tụng nói:

“Như Lai tạng sâu mầu
Mà cùng bảy thức câu”.

Lại, trong luận nói: “Chỉ chân chẳng lập, đơn vọng chẳng thành”.

Đây là hiển bày gốc ngọn dung thông, khoảng hạng chẳng phân, nên nói chẳng khác vậy. Tiếp theo nói về môn chẳng một là: Trong đây chẳng phải thẳng chẳng trái chẳng khác để rõ chẳng một, cũng là do chẳng khác nên thành ở chẳng một. Tại sao? Nếu lúc Như Lai tạng tùy duyên làm sinh diệt mất tự chẳng sinh diệt là, tức chẳng được có sinh diệt vậy. Như nước mất tánh ướt thì chẳng năng thành sóng lớn nhỏ. Cho nên do chẳng sinh diệt được có sinh diệt, cho nên tức chẳng khác nên chẳng một vậy. Trong luận Đại Thừa Khởi Tín nói rõ Như Lai tạng cùng sinh diệt hòa hợp chẳng phải một chẳng phải khác mà thành biện rõ thế gian và xuất thế gian mọi sự nhiễm tịnh v.v...

Hỏi: Trong luận nói: Tướng đồng là tất cả các pháp chỉ một chân như. Tướng khác là chỉ một chân như làm tất cả pháp. Hai nghĩa đồng dị đây lại là pháp nhĩ tự làm, lại là chỗ nhân người đặt ư? Đáp: Pháp tánh chẳng động, đâu có văn của đồng dị, cải biến từ tâm tự khởi thấy của một nhiều. Như trong luận Đại Thừa Khởi Tín nói: “Lại nữa, giác và bất giác có hai thứ tướng: Một, tướng đồng; hai, tướng khác. Nói tướng đồng là như các thứ sành sứ đều đồng tánh tướng vi trần. vô lậu vô minh các thứ nghiệp huyễn như vậy đều đồng tánh tướng chân như. Nên trong kinh giáo nói nương nơi nghĩa đây mà nói tất cả chúng sinh xưa nay thường trú vào nơi pháp của Niết-bàn Bồ-đề, chẳng phải có thể tu tướng, chẳng phải có thể tác tướng, rốt ráo không được, cũng không sắc tướng có thể thấy. Mà có thấy sắc tướng là, chỉ là tùy chỗ nhiễm nghiệp huyễn làm, chẳng phải là tánh của trí sắc chẳng không. Vì trí tướng không thể thấy vậy. Nói tướng khác là, như các thứ sành sứ mỗi mỗi chẳng đồng, vô lậu vô minh như vậy dùng tánh nhiễm huyễn sai biệt mà nghiệp nhiễm huyễn sai biệt vậy”. Trong Luận Thích nói: “Tức trong văn đây có hai môn: Một, môn tướng đồng; Hai, môn tướng khác. Vì nói rõ nghĩa gì mà kiến lập môn tướng đồng? Vì muốn hiểu biết tất cả các pháp chỉ một chân như, không pháp nào khác nên đáng môn chân như. Vì nói rõ nghĩa gì mà kiến lập môn tướng khác? Vì muốn hiển bày chỉ một chân như làm tất cả pháp. Danh tướng mỗi riêng biệt, nghĩa dụng chẳng đồng nên đáng môn sinh diệt. Nương ở kinh giáo nào mà kiến lập ư? Đó là kinh Văn-thù Sư-lợi Đáp Thứ Nhất. Trong kinh đó đang nói gì ư? Trong kinh đó nói là: “Đức Phật hỏi: “Văn-thù Sư-lợi! Bấy lâu nay ông chưa từng tạm nghỉ dạo khắp các cõi trong mười phương thấy sự gì khác? Văn-thù Sư-lợi đáp: Bấy lâu nay con chẳng thấy sự gì khác, chỉ thấy vi trần. Đức Phật lại hỏi: Trong trăm năm ông sống ở Luân gia chẳng thấy tướng các thứ sành sứ ư? Văn-thù Sư-lợi đáp: Con chỉ thấy trần, chẳng thấy đồ sành sứ. Đức Phật lại hỏi: Ông thật chẳng thấy địa, thủy, hỏa, phong, núi, sông, cây rừng v.v... các thứ tướng ư? Văn-thù Sưlợi đáp: Con thật chẳng thấy các tướng như vậy, chỉ thấy vi trần. Như vậy, như vậy Đức Thế Tôn hỏi xong, Văn-thú đáp. Đến số một trăm, Đức Phật lại hỏi: Văn Thù! Thấy vi trần ư? Văn-thù Sư-lợi đáp: Bấy lâu nay con chẳng thấy vi trần. Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Văn-thù Sư-lợi rằng: Lành thay! Lành thay! Ông là Đại sĩ, năng giác một tướng, năng giác một tướng tức pháp không tướng. Vănthù Sư-lợi! Ông một nhân giả chẳng phải giác như vậy nương môn một tướng, tất cả chúng sinh xưa nay thường trú vào nơi pháp của Niết-bàn Bồ-đề, chẳng phải có thể tu tướng, chẳng phải có thể tác tướng, rốt ráo không được, cũng không sắc tướng có thể thấy, mà có thấy sắc tướng đó, chỉ là tùy chỗ nhiễm nghiệp huyễn làm, chẳng phải là tánh của trí sắc chẳng không. Vì trí tướng không thể thấy vậy”. Môn Tướng khác là, trong kinh đó nói rằng: “Phật bảo: Thân Tử! Ông thấy cõi đây, là tâm gì thấy? Thân Tử đáp: Con thấy cõi đây núi sông cây rừng cát sỏi đất đá, nhật nguyệt cung điện vườn nhà v.v... các thứ tướng, mỗi mỗi hình tướng danh tự sai biệt chẳng đồng. Đức Phật bảo: Lực trí tuệ của ông hạ liệt hẹp nhỏ, tâm có cao thấp, thấy khác như vậy, chỉ một mình ông chẳng phải thấy như vậy. Tất cả chúng sinh cũng như vậy, cho đến các pháp cũng như vậy. Chân vọng qua lại huân đối đãi nhau, công đức tai hoạ hình tướng danh tự mỗi mỗi sai biệt, tùy chỗ tâm phàm phu mà kinh luận danh tướng, có mà chẳng phải thật, đều như huyễn hóa.

Hỏi: Một tâm khai mở hai môn chân như sinh diệt, có nguyên do gì?

Đáp: Rất có công năng, rất hợp lý sự. Một tâm là khởi tin của Đại thừa. Hai môn là phá chấp của tà kiến. Căn cứ môn chân như, tin diệu lý quyết định, căn cứ môn sinh diệt, tin nghiệp dụng chẳng mất. Có thể gọi là lý sự viên thông, chân tục không kẹt. Trong luận Thích Ma-ha-diễn nói: “Môn tâm chân như có mười thứ tên: Một, gọi là môn Như Lai tạng, không tạp loạn vậy; Hai, gọi là môn bình đẳng chẳng hai, không sai biệt vậy; Ba, gọi là môn một đạo thanh tịnh, không rẻ khác vậy; Bốn, gọi là môn chẳng khởi chẳng động, lìa tác nghiệp vậy; Năm, gọi là môn không đoạn không ràng buộc, không làm chướng vậy; Sáu là môn không đến không đi, không trên dưới vậy; Bảy, gọi là môn xuất thế gian, không bốn tướng vậy; Tám, gọi là môn tịch diệt tịch tĩnh, không qua lại vậy; Chín, gọi là môn Đại Tổng tướng, không biệt tướng vậy; Mười, gọi là môn chân như, không hư ngụy vậy. Đó gọi là mười, mười tên như vậy tổng gồm tất cả danh tự pháp môn nghĩa lý bình đẳng pháp tạng của chư Phật. Môn sinh diệt có mười thứ tên: Một, gọi là môn tạng thức, gồm giữ tất cả pháp nhiễm tịnh vậy; Hai, gọi là môn Như Lai tạng. Che giấu pháp thân Như Lai vậy; Ba, gọi là môn khởi động, tương tục tác nghiệp vậy; Bốn, gọi là môn có đoạn có ràng buộc, có tri chướng vậy; Năm, gọi là môn có đến có đi, có trên dưới vậy; Sáu, gọi là môn nhiều tướng phân khác, pháp của nhiễm tịnh quá hằng sa vậy; Bảy gọi là môn thế gian, bốn tướng cùng chuyển vậy; Tám, gọi là môn lưu chuyển hoàn diệt, đầy đủ sinh tử và Niết-bàn vậy; Chín, gọi là môn đối đãi nhau cùng thành, không pháp tự thành vậy; Mười, gọi là môn sinh diệt, bày tướng vô thường vậy. Mười tên như vậy, tổng gồm tất cả pháp tạng của chư Phật các thứ danh tự pháp môn sai biệt”. Lại, phàm chân như là tuy tại môn chẳng khởi chẳng động, chẳng phải là ngưng đong chẳng động, lặng vậy lìa duyên. Đây lạc vào tĩnh trần sinh ở đoạn kiến, đó là tùy duyên hợp lặng lẽ, căn cứ pháp rõ chân. Vì vậy không tánh nhân duyên, lý sự một khoảng, nhân duyên không tánh, ẩn hiển đồng thời. Như trong Nghĩa Hải nói: “Vào chân như là, nghĩa là trần tùy tâm xoay chuyển, các thứ nghĩa vị thành nhân duyên lớn. Tuy có các thứ mà không sinh diệt, tuy chẳng sinh diệt mà luôn chẳng ngại tất cả tùy duyên”. Nay không sinh diệt là chẳng biến, chẳng ngại tất cả là tùy duyên, tùy duyên chẳng biến là nghĩa chân như.

Hỏi: Trước nói tất cả chúng sinh đều có Bản giác thường huân vô minh thành tịnh dụng đó. Đây, diệu dụng chân như, môn chư Phật hóa là tại trong môn chân như hay trong môn sinh diệt?

Đáp: Đây là bản giác chân như trong môn sinh diệt nên có nghĩa huân, trong môn chân như thì không nghĩa này. Do bản giác đây bên trong huân bất giác, khiến thành nhàm cầu trái ngược dòng thuận chân. Nên nói là dụng vậy. Trong kinh Niếtbàn nói: Người xiển-đề do lực Phật tánh ở vị lai nên trở lại sinh căn lành”. Lực Phật tánh tức là lực huân bên trong bản giác, thành tịnh dụng đó. Cho đến tám tướng thành đạo. Hạnh vị mười địa, đều căn cứ ở môn thế đế gồm thâu.

Hỏi: Trước lập một tâm hai môn chân như sinh diệt, lại là từ môn nào vào chóng được thành tựu?

Đáp: Chỉ từ môn sinh diệt vào thẳng đến đạo tràng, chẳng động trần lao mà thành Chánh giác. Trong luận Đại Thừa Khởi Tín nói: “Lại nữa, vì khiến chúng sinh từ môn tâm sinh diệt vào môn chân như. Nên khiến quán tướng sắc v.v... đều chẳng thành tựu. Cớ sao chẳng thành tựu? Nghĩa là phân chẻ sắc thô dần đến vi trần. Lại dùng phương phân chẻ vi trần đây, cho nên hoặc thô hoặc tế tất cả các sắc chỉ là vọng tâm phân biệt ảnh tượng, thật không chỗ có, suy tầm ở các uẩn khác dần đến sát-na tướng riêng biệt chẳng phải một. Pháp vô vi cũng lại như vậy, lìa nơi pháp giới trọn không thể được. Mười phương tất cả các pháp như vậy, nên biết đều vậy, giống như người mê cho rằng: Đông là Tây, mà phương thật chẳng chuyển, chúng sinh cũng vậy. Bởi vô minh mê nên cho rằng: Tâm là động mà thật chẳng động. Nếu biết động tâm tức chẳng sinh diệt, tức được vào nơi môn chân như. Như trên, nghĩa của hai đế, chẳng thể một hướng làm một giải, cũng chẳng thể một hướng làm hai giải. Do đó, trong kinh Nhân Vương, phẩm Nhị Đế nói: “Bấy giờ vua Ba-tư-nặc bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Trong Thắng nghĩa đế có Thế tục đế chăng? Nếu nói không, thì trí chẳng nên hai, nếu nói có, thì trí chẳng nên một. Nghĩa của một hai, sự đó thế nào? Đức Phật dạy: Đại vương! Ở thời quá khứ trong pháp của Phật Long Quang Vương, ông đã hỏi nghĩa này, nay ta không nói, nay ông không nghe, không nói không nghe, đó tức gọi là nghĩa một nghĩa hai. Nay ông lắng nghe, ta sẽ vì ông nói. Khi ấy, Đức Thế Tôn liền nói kệ tụng rằng:

“Không tướng thắng nghĩa đế
Thể chẳng tự tha làm
Nhân duyên như huyễn có
Cũng chẳng tự tha làm
Pháp tánh vốn không tánh
Thắng nghĩa đế không như
Các hữu huyễn có pháp
Ba giả tập giả có
Không không đế thật không
Tịch diệt thắng nghĩa không
Các pháp nhân duyên có
Có không nghĩa như vậy
Có không vốn tự hai.
Thí như trâu hai sừng
Chiếu giải thấy không hai
Hai đế thường chẳng tức
Giải tâm thấy không hai
Cầu hai chẳng thể được
Chẳng là hai đế một
Một cũng chẳng thể được
Ở giải thường tự một
Ở đế thường tự hai
Rõ thấu một hai đây
Thật vào Thắng nghĩa đế
Thế đế huyễn hóa khởi
Thí như hoa hư không
Như ảnh như lông xoay
Nhân duyên nên huyễn có
Huyễn hóa thấy huyễn hóa
Ngu phu gọi huyễn đế
Huyễn sư thấy huyễn pháp
Đế huyễn thảy đều không
Nếu rõ pháp như vậy
Tức giải nghĩa một hai
Khắp ở tất cả pháp
Nên quán sát như vậy”.

Nên trong kinh Niết-bàn so sánh hai con chim cùng bay, sinh tử cùng thường và vô thường, Niếtbàn cũng vậy. Tại thấp tại cao cùng bay cùng dừng, tức sự mà lý, tức lý mà sự. Hai đế tức trung, trung tức hai đế, chẳng phải hai trung mà hai trung, vậy thì nghĩa cùng bay thành. Hai chim là, tức chim uyên ương, cùng bay cùng dừng, cùng bay tức sánh với cả hai chiếu, cùng dừng tức sánh với cả hai song ngăn. Cũng là thể dụng lý sự chẳng tức chẳng lìa.

Hỏi: Chân đế, cớ sao chẳng xưng là Đệ nhất nghĩa đế?

Đáp: Chân chỉ đối tục mà được tên, chưa phải là Trung đạo. Lại, thông rõ tất cả pháp không ngã, chỉ là chân phân tích chưa tận cùng thật tánh, chẳng thông chân tục. Như Trung đạo Đệ nhất nghĩa đế là, chẳng phải lìa hai biên mà xưng trung, tức là thật tánh của tất cả pháp, thông khắp Thánh phàm, tình và chẳng phải tình, nên xưng là Đệ nhất, cũng gọi là vô đẳng (không gì bằng). Vì không pháp nào có thể vượt qua nên xưng là Đệ nhất. Vì không pháp nào có thể sánh bằng nên xưng là vô đẳng. Đây chẳng phải căn cứ hơn kém mà nói, vì tất cả pháp tức chân như một tâm vậy. Do đó, trong luận Đại Thừa Khởi Tín nói: Nói là pháp, nghĩa là tâm chúng sinh”. Xưa trước giải thích: Các pháp đã không nên duy tâm vậy, như muôn ảnh tượng vốn không, chỉ là một gương.

Hỏi: Diệu minh chân tâm khắp tất cả xứ, cớ sao trong kinh Niết-bàn nói Phật tánh trừ nơi ngói sỏi ư?

Đáp: Năng sở chẳng đồng, chẳng thể chấp một, tâm cảnh một vị, chẳng thể xưng khác. Nếu vì tánh theo duyên thì tình chẳng phải tình khác. Vì tánh cũng khác. Nếu sạch hết duyên theo tánh, thì chẳng phải giác chẳng giác. Nếu hai tánh qua lại dung hòa, thì không gì chẳng phải là giác ngộ. Trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Chân như không phần ít chẳng phải giác ngộ”, thì chân như khắp tất cả xứ của hữu tình và vô tình. Nếu không phần ít chẳng phải giác ngộ là, há vô tình chẳng phải Phật tánh ư? Lại ý kinh nói chỉ trừ chấp ngói sỏi, kiến của vô tình, chẳng phải trừ Phật tánh, thì tánh không đâu chẳng có, lượng vượt hư không, sao có thể trừ ư? Lại, các bậc Cổ đức nói: “Giác tánh là lý, giác liễu thuộc sự, như trong vô tình chỉ có giác tánh mà không giác liễu, như trong nước chỉ có tánh lửa mà không lửa chiếu. Nay nói tánh là chỉ y cứ lý gốc, ai luận cành ngọn. Lại, giác trí duyên lự gọi là tình, tự tánh chẳng đổi gọi là tánh, người ngu mê tánh sinh tình nên cảnh trí chẳng một. Bậc trí rõ tình thành tánh, nên vật ngã không hai.

Hỏi: Muôn pháp tuy tâm, thành chứng chẳng phải một. Trong kinh Nhập Lăng-già có kệ tụng nói:

“Ba cõi pháp cao thấp Ta nói tức là tâm, Lìa nơi các tâm pháp Lại không có thể được”.

Nếu bốn góc trên dưới, thảy đều là tự tâm thì đi đứng ngồi nằm nương đâu mà trú? Nếu không chỗ y báo ở thì chánh báo làm sao thành lập?

Đáp: Thân của có thức, cõi của không tình, đều là bốn đại trong ngoài, thảy đều không thể. Vả lại như đại địa chỉ nương phong luân, chỗ các vi thành vốn không tự tánh, chỉ là tâm hữu tình biến, lại không khác lý, an tường động dừng đều tại trong tâm, tợ chim bay giữa hư không, chẳng lìa không giới, như cá ngầm trong nước, đâu vượt nguồn nước. Trong kinh Nhập Lăng-già có kệ tụng nói:

“Nếu tất cả Duy tâm
Thế gian xứ nào trú
Khứ lai nương pháp nào
Làm sao thấy trong đất
Như chim trong hư không
Nương tâm gió mà đi
Chẳng trú chẳng quán sát
Ở trên đất mà đi
Các chúng sinh như vậy
Nương gió phân biệt động
Trong tự tâm đi lại
Như chim bay giữa không
Thấy là tư sinh khí
Phật nói tâm như vậy.”

Nên biết cất chân đặt bước chẳng lìa tự tâm. Như chim nếu lìa hư không thì lấy gì bay liệng? Cá nếu lìa nước, đâu được bơi lặn. Do đó, ở Tây vức, Tổ sư Di-già-ca hỏi Bà-tu-mật rằng: “Từ phương nào mà lại? Rồi lại đến nơi nào? Đáp: Tự từ tâm lại, muốn đi không xứ. Lại ở xứ đây, Hòa thượng Ngũ Duệ, lúc lâm chung bỏ ăn uống ba ngày mà các tịch, có người học hỏi: Thầy đi xứ nào? Đáp: Không xứ đi. Người học lại hỏi: Sao không thấy? Đáp: Chẳng phải chỗ mắt thấy. Nên trong kinh Đại Tập nói: “Phật dạy: Tức trong bốn đại, tìm cầu Bồđề, chẳng tìm cầu xứ khác, lúc cầu chẳng thấy các vật”. Chẳng thấy, tức là không xứ, không xứ tức không trú, không trú tức là tánh của tất cả các pháp. Tất cả các pháp nếu không tánh, tức là thật tướng. Thật tướng là chẳng phải thường chẳng phải đoạn, gọi là trật tự rốt ráo. Trong kinh Kim Cang Tammuội nói: “Bồ-tát Vô Trú nói: Tôn giả! Tôi từ không gốc lại, nay đến chỗ không gốc”. Phật dạy:

Gốc ông chẳng từ, nay lại cũng chẳng chỗ đến. Ông được gốc lợi chẳng thể nghĩ bàn. Cho đến, sắc không xứ sở, thanh tịnh không tên chẳng vào ở trong. Chiếu không xứ sở, thanh tịnh không thấy, chẳng ra ở ngoài. Tâm không xứ sở, thanh tịnh Vô thượng, không có khởi ở, thanh tịnh không động, không có duyên riêng, tánh đều không tịch, cho đến như tâm vương kia vốn không trú xứ. Tâm của phàm phu vọng phân biệt thấy. Thể của như như, vốn chẳng có không, tướng của có không, thấy chỉ tâm thức. Cớ sao không gốc, vì không trú vậy. Có gốc thì có trú, không trú thì không gốc, rõ biết chúng sinh nghiệp thú khứ lai. Tịnh giới các Thánh động dừng. Lại là tâm lại, đi là tâm đi, động là tâm động, dừng là tâm dừng. Rốt ráo không có đến đi động dừng mà có thể được, chẳng lìa pháp giới, thì chưa có một pháp chẳng phải chỗ tâm nêu. Vì vậy Bồ-tát Văn-thù Sư-lợi giáo hóa Đồng tử Thiện Tài, hiện Đài quán đầy trong ba ngàn thế giới. Thiện Tài quán đó, chợt nhiên chẳng hiện, thế giới đều không. Hỏi: Thế giới là xứ của đến đi ư? Văn-thù Sư-lợi đáp: Từ xứ đến đến tức về đi đi, tức là đến trong pháp giới thanh tịnh, tức đi về trong pháp giới thanh tịnh”. Nên biết chỗ các pháp sinh chỉ do tâm hiện. Sinh diệt đến đi đều Như Lai tạng. Đó mới là cùng vết thấu gốc thấy pháp rõ tông vậy. Lại như Pháp vương tử Lưu Ly Quang nói: “Tôi nhớ xưa trước, trải qua số kiếp như cát sông Hằng, có Đức Phật ra đời hiệu là Vô Lượng Thanh, chỉ bày Bồ-tát Bản giác diệu minh, quán thế giới đây và thân chúng sinh đều là chỗ phong lực vọng duyên chuyển. Lúc ấy tôi quán giới an lập. Quán lúc giới động, quán thân động dừng, quán tâm động niệm, các động không hai, đồng không sai biệt, khi ấy tôi hiểu rõ các động tánh đây, lại không chỗ từ, đi không chỗ đến. Mười phương vi trần chúng sinh điên đảo đồng một hư vọng, như vậy cho đến trong ba ngàn đại thiên thế giới chỗ có chúng sinh, như trong một đồ vật chứa trữ cả trăm ve muỗi kêu loạn ty tỷ, ở trong phân tấc phát động cuồng náo. Cho đến tôi dùng quán sát phong lực không nương tựa, ngộ tâm Bồ-đề vào Tam-ma-địa, hợp mười phương Phật truyền một diệu tâm, đó là đệ nhất”. Nên biết các động không hai chỉ một vọng phong, phong nhờ các duyên vốn không nương ở. Nếu năng đế quán phong lực không nương tựa, nhờ ngộ chỉ tâm chẳng động, thì Bản Giác Diệu Minh luôn chiếu pháp giới, nên nói mười phương chư Phật truyền một diệu tâm đây vậy. Phong lực đã không nương tựa, muôn pháp đều không chủ, lại từ duyên có, đi theo huyễn không, chỉ tâm Bản giác vốn không sinh diệt. Do đó, trong kinh Pháp Hoa nói: “Chỉ nói một thừa chỉ bày ở đây”. Trong kinh Bát-nhã chỉ nói không hai giao phó ở đây, trong kinh Niết-bàn nói Phật tánh bình đẳng rộng dụ ở đây. Trong kinh Hoa Nghiêm nói pháp giới vô tận hiển hiện ở đây. Vô biên diệu chỉ đều quy về Tông Kính vậy.

Hỏi: Trong kinh Lăng-già nói: Phật nói tâm là tông. Đã lập một tâm làm tông, cớ sao lại nói không tâm là đạo?

Đáp: Tâm làm tông là tâm chân thật, tâm đây chẳng phải có không. Không trú không nương chẳng sinh chẳng diệt, có Phật không Phật, tánh tướng vẫn thường trú, là tánh của tất cả muôn vật, giống như thể hư không, chẳng phải tất cả mà năng hiện tất cả. Chỉ vì chúng sinh chẳng rõ chân tâm thường trú đây, vì chân tâm không tánh, Bất giác mà khởi tâm của vọng thức, bèn bỏ sót chân tâm diệu tánh đây, theo vọng luân hồi, ở trong rốt ráo đồng thành rốt ráo khác, một hướng chấp vọng tâm đây năng duyên trần theo vật, trái đạo nghịch chân, thì là khiến dứt vọng tâm duyên lự đó. Nếu chẳng khởi vọng tâm thì năng thuận đạo. Do đó, nói không tâm là đạo, cũng nói là ngầm tâm hợp đạo. Lại, tức tâm không tâm thường thuận Bản giác, chưa hẳn diệt tâm thủ chứng, tức thành trái đạo. Nhưng tuy tức tâm không tâm lại chẳng thể được, nên khởi vọng thức đây, tâm đối cảnh mà sinh, không thể có thể được, như sóng trên biển tùy gió mà dứt hay tiếp tục. Vọng phong cảnh giới chẳng khởi phân biệt, sóng thức chẳng sinh. Trong kinh Mật Nghiêm nói: “Tất cả các thế gian, thí như lúc nóng đốt, vì các tướng chẳng thật, không mà vọng phân biệt, giác nhân sở giác sinh, sở giác nương năng giác, lìa một thì không hai. Thí như sáng và ảnh, không tâm cũng không cảnh. Lượng và chỗ lượng sự, chỉ nương ở một tâm, như vậy mà phân biệt. Pháp năng biết sở biết, chỉ nương tâm vọng chấp, nếu rõ không sở biết, thì năng biết chẳng có”. Không sở biết thì là không cảnh, không năng biết thì là không tâm, vọng tâm huyễn cảnh đã không, một đạo chân tâm tự hiện. Nên biết chỉ tâm chẳng khởi, muôn pháp không sinh, mới có khởi tâm tức thành trú đắm. Như trong kinh Đại Pháp Cự Đà-la-ni nói: “Phật dạy: Tất cả trú tức là chẳng phải trú, chỉ là tư tưởng dời lại lần lượt tương tục nên có sinh vậy. Cho đến nếu chánh tư duy, tất cả đều là không trú trú”. Nên biết tất cả muôn pháp đều từ nghĩ tưởng sinh, phàm có tư duy đều là tà tư duy, nếu không tư duy tức là chánh tư duy. Nên nói: Nếu chánh tư duy tất cả đều là không trú trú, không trú trú là căn bản của muôn pháp.

Hỏi: Nếu nói tâm đồng cảnh không, trọn chẳng thể được là, như nay giới nhĩ tâm khởi, quả báo chẳng phải hư, một niệm tâm thiện xa thềm Phật quả, một niệm tưởng ác nhiều kiếp chịu ương, đâu đồng tiền trần sắc bên ngoài, tánh là vô ký nương tâm giả có, thể rốt ráo không, nếu duyên niệm tâm tức nên là có chứ?

Đáp: Một niệm tâm đây cũng chẳng riêng khởi, y tha giả có trong ngoài đều không, một niệm đây liếc khởi giác liễu tâm của năng sở biết. Như Anan vọng chấp bảy xứ đó. Đức Thế Tôn mỗi mỗi đều dẹp phá không chỗ có, nhưng nhân xứ của nương tựa, chẳng quá bảy đây, người đời đồng chấp huân tập bền chắc. Nếu chẳng phải đấng Đại Thánh tử tế suy tầm, thì tình kiến không do đâu có thể thoát. Bảy xứ đây đã phá thì tất cả đều không. Có thể vì tức hiện nay biết không nhọc lại chấp. Như trong kinh Thủ-lăng-nghiêm nói: “Phật bảo: A-nan! Như chỗ ông nói chỗ chân ái lạc nhân ở tâm mắt, nếu chẳng thức biết tâm mắt tại đâu thì chẳng năng được giáng phục trần lao. Thí như quốc vương bị giặc xâm lăng, dẫn phát binh lính dẹp trừ, binh lính đó cần phải rõ biết giặc ở nơi nào vậy, khiến ông lưu chuyển là lỗi bởi tâm mắt. Nay ta hỏi ông chỉ tâm và mắt nay hiện ở đâu? A-nan thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Tất cả thế gian mười thứ dị sinh đồng đem thức tâm ở tại trong thân, giả như quán mắt sen xanh của Đức Như Lai cũng tại mặt Phật. Nay con quán bốn trần phù căn đây chỉ tại mặt con, như vậy nhận biết tâm thật ở trong thân. Phật bảo: A-nan! Nay ông hiện ngồi trong giảng đường cùng Như Lai, quán rừng Kỳ-đà, nay tại nơi nào? Bạch Đức Thế Tôn! Đại trùng các giảng đường thanh tịnh đây tại vườn Cấp Cô Độc. Nay rừng Kỳ-đà thật tại ngoài giảng đường. A-nan! Nay ông ở trong giảng đường, trước tiên thấy nơi nào? Bạch Đức Thế Tôn! Con ở trong giảng đường, trước tiên thấy Như Lai, tiếp đến quán khắp đại chúng, như vậy tiếp trong bên ngoài mới thấy vườn rừng. A-nan! Ông trông nhìn vườn rừng, nhân gì mà được thấy? Bạch Đức Thế Tôn! Đại giảng đường đây các cửa mở thoáng, nên con tại trong giảng đường mà được trông thấy xa. Cho đến, Phật bảo A-nan! Như điều ông nói thân tại trong giảng đường nhân các cửa mở thoáng mà xa trông thấy vườn rừng, cũng có chúng sinh tại trong giảng đường đây chẳng thấy Như Lai mà thấy ngoài giảng đường. A-nan thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Tại trong giảng đường chẳng thấy Như Lai mà năng thấy suối rừng, điều ấy không thể có. A-nan! Nay ông cũng vậy, tâm linh của ông tất cả sáng rõ, nếu ông hiện tiền chỗ sáng rõ tâm thật tại trong thân, khi ấy trước nên rõ biết trong thân. Lại có chúng sinh trước thấy trong thân, sau quán vật ngoài, giả sử chẳng năng thấy tim gan tỳ vị móng sinh tóc dài gân chuyển mạch động, thật hợp sáng rõ, tại sao chẳng thấy? Hẳn chẳng biết bên trong, cớ sao biết bên ngoài? Cho nên phải biết ông nói tâm của hay rõ năng biết trú tại trong thân điều ấy không có. A-nan cúi đầu mà bạch Phật rằng: Con nghe pháp âm của Đức Như Lai như vậy, ngộ biết tâm con thật ở ngoài thân, tại sao? Thí như đèn đốt sáng trong phòng, đèn hẳn năng trước chiếu trong phòng, từ cửa phòng đó sau đến khoảng sân, tất cả chúng sinh chẳng thấy trong thân riêng thấy ngoài thân cũng như đèn sáng ở tại ngoài phòng chẳng năng chiếu phòng, nghĩa đó hẳn rõ, không chỗ lầm hoặc, đồng Phật liễu nghĩa được không vọng ư? Phật bảo: A-nan! Các Tỳ-kheo đây vừa rồi theo ta đến thành Thất-la-phiệt tuần tự khất thực rồi về rừng Kỳ-đà. Ta đã thọ trai, ông quán trong chúng Tỳ-kheo một người lúc ăn, các người khác được no chăng? A-nan thưa: Không vậy, Bạch Đức Thế Tôn! Tại sao? Các Tỳ-kheo đó tuy A-la-hán nhưng thân mạng chẳng đồng, làm sao một người ăn mà năng khiến cả chúng được no. Phật bảo: A-nan! Nếu tâm ông hay rõ năng biết thật tại ngoài thân, thân tâm ngoài nhau, tự chẳng liên can, thì chỗ tâm biết, thân chẳng năng hay. Hay tại khoảng thân, tâm chẳng năng biết. “Nay ta chỉ ông tay đâu-lamiên, lúc mắt ông thấy, tâm phân biệt chăng? A-nan thưa: Đúng vậy, bạch Đức Thế Tôn! Phật bảo: A-nan! Nếu cùng biết là cớ sao tại ngoài? Cho nên phải biết ông nói tâm hay rõ năng biết trú tại ngoài thân, điều ấy không có. A-nan thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Như lời Phật dạy chẳng thấy trong nên chẳng trú trong thân, thân tâm cùng biết, chẳng lìa nhau nên chẳng tại ngoài thân, nay con tư duy biết tại một xứ. Đức Phật hỏi: Xứ đó nay ở đâu? A-nan thưa: Tâm rõ biết đây đã chẳng biết trong mà năng biết ngoài như suy nghĩ ngầm núp trong căn. Thí như có người lấy chén lưu ly chụp hai mắt nó, tuy có vật chụp mà chẳng lưu ngại, căn kia tùy thấy tùy liền phân biệt. Nhưng tâm hay rõ năng biết của con chẳng thấy trong là vì tại căn vậy. Phân minh trông nhìn ngoài là ngầm trong căn vậy. Phật dạy: Anan! Như điều ông nói: Ngầm trong căn là giếng như lưu ly, người kia đang dùng lưu ly chụp mắt đang thấy núi sông, vậy có thấy lưu ly chăng? Anan thưa: Như vậy, bạch Đức Thế Tôn! Người ấy đang dùng lưu ly chụp mắt, thật thấy lưu ly. Phật dạy: A-nan! Nếu tâm ông đồng với lưu ly chụp là đang thấy núi sông, sao chẳng thấy mắt? Nếu thấy mắt là, mắt tức đồng cảnh chẳng được thành tùy, nếu chẳng năng thấy, cớ sao nói phô? Tâm rõ biết đây ngầm tại trung căn như lưu ly hợp, cho nên phải biết ông nói tâm hay rõ năng biết ngầm núp trong căn như lưu ly chụp. Điều ấy không có, Anan thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Nay con lại tư duy, thân phủ tạng của chúng sinh tại trong, khiếu huyệt ở ngoài, có tàng thì tối, có khiếu (lỗ) thì sáng, nay con đối Phật, mở mắt thấy sáng gọi là thấy ngoài, nhắm mắt thấy tối, gọi là thấy trong. Nghĩa ấy thế nào? Phật dạy: A-nan! Lúc ông đang nhắm mắt thấy tối, cảnh giới tối đó, có cùng căn đối hay chẳng đối ư? Nếu cùng căn đối thì tối tại trước mắt, làm sao thành trong. Nếu thành ở trong thì ở trong phòng tối không có nhật nguyệt và đèn, trong phòng tối đó đều là tim ruột ông, nếu chẳng đối làm sao thành thấy? Nếu lìa ngoài thấy trong chỗ đối thành, nhắm mắt thấy tối gọi là trong thân, mở mắt thấy sáng sao chẳng thấy mặt? Nếu chẳng thấy mặt thì trong đối chẳng thành. Thấy mặt nếu thành tâm rõ biết đây cùng với nhãn căn là tại hư không, sao thành tại trong. Nếu tại hư không, tự chẳng phải thể ông. Tức nên nay nghĩa thấy mặt ông cũng là thân ông. Mắt ông đã biết thân hợp chẳng phải hay, hẳn ông chấp lời nói thân mắt hai hay nên có hai biết, tức thân ông nên thành hai Phật. Cho nên phải biết, ông nói thấy tối gọi là thấy trong, điều ấy không có. A-nan thưa: Con thường nghe Phật chỉ dạy bốn chúng, do tâm sinh nên các thứ pháp sinh, do pháp sinh nên các thứ tâm sinh, nay con tư duy tức tư duy thể thật tâm tánh con, tùy chỗ xứ hợp thì tâm tùy có, cũng chẳng phải ba xứ trong ngoài và khoảng giữa. Phật dạy: A-nan! Nay ông nói là do pháp sinh nên các thứ tâm sinh, tùy chỗ xứ hợp thì tâm tùy có là, tâm không thể thì không chỗ hợp. Nếu không có thể mà năng hợp thì mười chín giới nhân bảy trần hợp, nghĩa ấy không như vậy. Nếu có thể là như ông dùng tay tự kéo thể đó, chỗ ông biết tâm là bên trong ra hay bên ngoài vào?

Nếu bên trong ra, trở lại thấy trong thân, nếu từ ngoài vào, trước nên thấy mặt. A-nan thưa: Thấy là mắt đó, tâm biết chẳng phải mắt là thấy chẳng phải nghĩa. Phật dạy: Nếu mắt năng thấy, ông tại trong phòng cửa năng thấy chăng? Thì các người đã chết vẫn còn có mắt, nên đều thấy vật. Nếu thất vật thì sao gọi là chết? A-nan! Lại như tâm hay rõ năng biết của ông nếu hẳn có thể thì là một thể hay có nhiều thể? Nay tại thân ông là khắp cùng thể hay chẳng khắp cùng thể? Nếu một thể thì lúc ông dùng tay kéo một chi, bốn chi nên hay, nếu đều hay là kéo nên không tại đâu. Nếu kéo có chỗ thì một thể ông tự chẳng năng thành, nếu nhiều thể thì thành nhiều người. Thế nào là ông, nếu khắp cùng thể là đồng chỗ kéo trước, nếu chẳng khắp cùng là, ông đang xúc chạm đầu cũng xúc chạm chân đó. Đầu có chỗ hay chân nên không biết. Nay ông chẳng như vậy, cho nên phải biết, tùy chỗ xứ hợp thì tâm tùy có, điều ấy không có. A-nan thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Con cũng nghe Phật và các vị Pháp vương tử như Văn-thù Sư-lợi v.v... lúc bàn nói về thật tướng. Đức Thế Tôn cũng nói tâm chẳng tại trong cũng chẳng tại ngoài. Như con tư duy, trong không chỗ thấy ngoài chẳng cùng biết. Trong không biết nên tại trong chẳng thành, thân tâm cùng biết thì tại ngoài chẳng phải nghĩa, nay cùng biết nên lại trong không thấy, thì đang tại khoảng giữa. Phật dạy: Ông nói khoảng giữa, khoảng giữa hẳn chẳng mê, chẳng phải không chỗ có. Nay ông tìm khoảng giữa, khoảng giữa tại đâu? Tại xứ nào? Tại thân nào? Nếu tại thân là tại một bên chẳng phải khoảng giữa, tại khoảng giữa là đồng với trong. Nếu tại xứ là có chỗ phô bày hay không chỗ phô bày, không phô bày tức đồng không, phô bày thì không định. Tại sao? Như người dùng phô bày, lúc phô bày làm khoảng giữa, Đông nhìn thành Tây, Nam quán là Bắc, phô bày thể đã lẫn lộn, tâm nên tạp loạn. A-nan thưa: Chỗ con nói khoảng giữa chẳng phải hai xứ đây. Như Thế Tôn nó: Nhãn sắc làm duyên sinh nói nhãn thức, nhãn có phân biệt, sắc trần không biết, thức sinh trong đó thì tâm có. Phật dạy: Tâm ông nếu tại khoảng giữa của căn trần, thì tâm thể đây lại gồm cả hai hay chẳng gồm cả hai? Nếu gồm cả hai, thì vật thể tạp loạn, vật chẳng phải thể biết, thành đối địch hai lập, làm sao là khoảng giữa, nên gồm cả hai chẳng thành, chẳng phải biết chẳng biết, tức không thể tánh, khoảng giữa làm sao cùng? Cho nên phải biết, đang tại khoảng giữa, điều ấy không có. A-nan thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Xưa trước kia con thấy Đức Phật cùng bốn Đại đệ tử Mục-kiền-liên, Tu-bồ-đề, Phúlâu-na và Xá-lợi-phất cùng chuyển pháp luân, thường nói tâm tánh hay biết phân biệt đã chẳng tại trong cũng chẳng tại ngoài, chẳng tại khoảng giữa, đều không chỗ tại, tất cả không đắm trước, gọi đó là tâm. Thì con không đắm trước gọi là tâm ư? Phật dạy: A-nan! Ông nói tâm tánh hay biết phân biệt đều không chỗ tại là, thế gian hư không nước đất bay đi, chỗ các vật tượng gọi là tất cả. Ông chẳng đắm trước là tại hay không? Không thì đồng với lông rùa sừng thỏ, cớ sao chẳng đắm trước? Có chẳng đắm trước là chẳng thể gọi là không, không cùng thì không, chẳng phải không thì cùng, cùng thì chẳng tại, cớ sao không đắm trước. Cho nên phải biết tất cả không đắm trước, gọi là tâm hay biết, điều ấy không có”. Như chỗ suy tìm trên, tức nay trong thân sinh diệt vọng tâm không vậy, chỗ hiện lượng biết rõ ràng không lầm hoặc, có thể gọi là chóng ngộ chân tâm, rõ ngay không sinh vậy.

QUYỂN 84

Phàm, vọng tâm hư giả, các Thánh đồng tìm tòi ra, chấp đây bền chắc nên phải dẫn đủ. Lại căn cứ ở các kinh luận nói giả có ba thứ: Một, nhận thành giả, nhân cảnh trước đổi mới là sinh tâm; Hai, tương tục giả, mới đầu tâm nhân cảnh sao khởi phân biệt niệm niệm tương tục cho đến thành sự; Ba, đối đãi nhau giả, như đối đãi hư không không sinh nói tâm có sinh, lại chấp ở có tâm đối đãi ở không tâm, như ngắn đối đãi dài, tợ gần đối đãi xa. Ba đây chẳng phải thật nên xưng là giả, do đó khác với tướng qua lại không, như trong luận Trung quán có kệ tụng nói:

“Trong khác không khác tướng
Trong chẳng khác cũng không
Vì không có khác tướng
Thì không đây kia khác
Như dài cùng ngắn khác
Trong dài không tướng ngắn”.

Dài không thể đối nên không có dài, trong ngắn không tướng dài, ngắn không thể đối nên không có ngắn, trong dài không tướng dài. Ngắn không thể đối nên không có ngắn, trong ngắn không tướng ngắn. Dài không thể đối nên không có dài, đã không ngắn dài sao nói khác ư? Lại, trong Bách Luận nói: “Nếu thật có tướng dài, nếu trong dài có, nếu trong ngắn có, nếu trong cọng có, là đều chẳng thể được. Tại sao? Trong dài không tướng dài, vì nhân tha vậy, nhân ngắn làm dài vậy. Trong ngắn cũng không tướng dài, tánh trái nhau vậy. Nếu trong ngắn có dài, chẳng gọi là ngắn, trong cộng cũng không dài, cả hai đều lỗi vậy, tướng dài đã không, tướng ngắn cũng vậy, nếu không ngắn dài, cớ sao đối đãi nhau? Nên ngăn ngừa khác mà nói chẳng khác, chẳng phải là có không khác, hai đây tuyệt do khế hợp tánh. Nếu căn cứ hiển bày cả hai là, nghĩa là trước chỉ hiển bày thật thì chỉ tánh mà chẳng phải khác, nay tánh tướng đều đủ, nên nói hiển bày cả hai, nghĩa là do thể một nên chẳng phải khác tướng, sai biệt nên chẳng phải chẳng khác. Đây nêu cả hai là vì hiển bày cả hai chẳng phải. Đó mới là chẳng phải một chẳng phải khác mà một mà khác, ngăn chiếu vô ngại tánh tướng dung thông, tánh tướng đã vậy, muôn pháp cũng vậy. Nếu dùng tâm đầu tiên phá ba giải đây, thì một niệm không sinh được vào không quán. Phàm, không quán, là căn bản của tất cả quán, từ đây tiếp vào giả quán, nhân chẳng được giả mà vào không, lại chẳng được không mà vào giả, vì chẳng phải không chẳng phải giả, sau đó vào trung quán, cho đến tuyệt quán, do đó chỉ quán rộng phá, bốn câu nghiệm mà chẳng được, ngang dọc suy tầm mà không sinh, tánh tướng đều không, danh tự cũng lặng lẽ. Nếu một niệm tâm khởi tức đủ ba giả. Đang quán một niệm tâm đây, nếu tâm tự sinh là, niệm trước làm căn niệm sau làm thức, là từ căn sinh tâm hay từ thức sinh tâm? Nếu căn năng sinh thức, là căn có thức nên sinh thức, hay căn không thức nên sinh thức? Nếu căn có thức thì căn và thức đều đồng. Lại không năng sinh sở sinh căn, nếu không thức mà năng sinh thức, các thứ không thức, vật chẳng năng sinh thức. Căn đã không thức, sao năng sinh thức. Căn tuy không thức mà có thức tánh nên năng sinh thức đó. Thức tánh đây là có hay là không? Có rồi thì thức đều tại nơi căn, sao gọi là Tánh? Căn không thức tánh chẳng năng sinh thức. Lại, thức tánh và thức là một hay là khác? Nếu một tánh tức là thức, không năng không sở. Nếu khác thì trở lại tha sinh, chẳng phải tâm tự sinh. Nếu nói tâm chẳng tự sinh trần lại phát tâm nên có tâm sinh. Dẫn trong kinh nói là: Là duyên tư sinh, không duyên tư chẳng sinh. Nếu vậy, trần tại ngoài ý lại phát thức trong thì tâm do tha sinh. Nay suy tìm trần đây là tâm đó nên sinh tâm, hay chẳng phải tâm nên sinh tâm? Trần nếu là tâm thì chẳng gọi là trần, cũng chẳng phải là ngoài ý, thì đồng tự sinh.

Lại hai tâm đều đồng thì không năng sở. Trần nếu ng phải tâm, sao năng sinh tâm. Như trước phá, nếu trong Trần không có sinh tánh, cho nên sinh tâm. Tánh đây là có hay là không? Tánh nếu là có tánh và trần đều cũng không, năng sở nếu không, không chẳng năng sinh. Nếu căn trần hợp nên có tâm sinh là, căn trần mỗi mỗi có tâm nên hợp sinh tâm, hay mỗi mỗi không tâm nên hợp sinh. Tâm nếu mỗi mỗi có, có hợp thì hai tâm tùy tại trong tha tánh, nếu mỗi mỗi không, hợp thời cũng không. Lại, căn trần mỗi mỗi có tâm tánh hợp thì tâm sinh là, đang kiểm tánh đây là có hay là không. Như trước phá, nếu căn trần mỗi mỗi lìa mà có tâm là, đó là không nhân duyên sinh, là có lìa đây hay không lìa đây, nếu có lìa đây trở lại theo duyên sinh. Sao gọi là lìa? Nếu không lìa đây, không sao năng sinh, nếu nói lìa đây có sinh tánh, là có hay là không? Nếu tánh là có trở lại theo duyên sinh chẳng gọi là lìa. Nếu tánh là không, không sao năng sinh. Bốn câu như vậy suy tìm cầu biết tâm rốt ráo chẳng sinh. Đó gọi là từ giả vào không quán. Nếu chẳng ngộ là chuyển vào tương tục giả phá đó. Tại sao? Tuy nhân thành giả, bốn phá chẳng được tâm sinh. Hiện nay thấy tâm niệm niệm sinh diệt tương tục chẳng đoạn, sao gọi là chẳng sinh? Niệm niệm đây là đang niệm trước diệt niệm sau sinh, hay niệm trước chẳng diệt niệm sau sinh, hay niệm trước cũng diệt cũng chẳng diệt niệm sau sinh, hay niệm trước chẳng phải diệt chẳng phải ng diệt sau sinh? Nếu niệm trước chẳng diệt niệm sau sinh, đây thì niệm tự sinh niệm, hai sinh cùng đều cũng không năng sở. Nếu niệm trước có sinh tánh sinh ở niệm sau, tánh đây là có hay là không? Có thì chẳng phải tánh, không thì chẳng sinh, như trước phá. Nếu niệm trước diệt niệm sau sinh là, trước chẳng diệt sinh gọi là tự tánh. Nay do diệt sinh chẳng diệt, trông diệt đâu phải là tha tánh? Trong tha tánh diệt có sinh nên sinh hay không sinh nên sinh? Có sinh là sinh, sinh diệt trái nhau, cho đến sinh sinh, sao gọi là diệt sinh? Nếu diệt không sinh, không sao năng sinh, nếu diệt có sinh tánh tánh phá như trước. Nếu niệm trước cũng diệt cũng chẳng diệt niệm sau sinh là, nếu diệt rồi thuộc diệt, nếu chẳng diệt rồi thuộc chẳng diệt, nếu chẳng diệt hợp diệt năng sinh, tức là cộng sinh, cộng tự trái nhau, trái nhau sao năng sinh? Lại, nếu mỗi có sinh tức có hai lỗi, mỗi mỗi không sinh, hợp cũng chẳng sinh. Nếu trong diệt chẳng diệt có sinh tánh là, là có hay là không? Nếu tánh quyết định có, sao gọi là diệt chẳng diệt? Nếu tánh quyết định không, cũng sao gọi là diệt chẳng diệt? Nếu tánh quyết định không, cũng sao gọi là diệt chẳng diệt? Đây chẳng khỏi lỗi của đoạn thường trở lại đọa lạc cộng lỗi. Nếu niệm trước chẳng phải diệt chẳng phải chẳng diệt mà niệm sau sinh là, là có chẳng phải diệt chẳng phải chẳng diệt đây hay không chẳng phải diệt chẳng phải chẳng diệt đây? Nếu có là ng phải không nhân. Nếu không, không nhân chẳng năng sinh. Nếu không nhân có sinh tánh, tánh đây tức nhân, sao gọi là là không nhân? Nếu không, không chẳng năng sinh. Bốn câu như vậy suy tìm tương tục giả, cầu tâm chẳng được, không bốn thật tánh, chỉ có danh tự tâm. Tự đó chẳng trú trong ngoài, khoảng giữa hai, chẳng thường tự có, tương tục không tánh, tức là thế đế phá tánh, gọi là tánh không, tương tục không danh, tức chân đế phá giả, gọi là tướng không, tánh tướng đều không, cho đến làm mười tám không. Nếu chẳng được vào là, do chấp có tâm đối đãi ở không tâm, tương đãi mê hoặc khởi, đây khác với trước. Nhân thành giả thủ hai pháp căn trần hòa hợp làm nhân, tương tục giả bền chắc thủ ý căn trước sau làm tương tục, bền chắc trong sinh diệt, đây là riêng biệt diệt. Riêng biệt diệt thì hẹp. Nay đối đãi nhau đãi nơi thông diệt, nghĩa đây thì rộng. Thông diệt như ba vô vi, tuy chẳng cùng là diệt mà được là không sinh, đối đãi hư không không sinh mà nói tâm sinh, tức là đối đãi nhau giả. Nay kiểm tâm đây là đối đãi không sinh tâm sinh hay đối đãi có tâm sinh, hay đối đãi cũng có sinh cũng không sinh mà tâm sinh, hay đối đãi chẳng phải sinh chẳng phải không sinh mà tâm sinh? Nếu đối đãi không sinh mà sinh tâm, là có không sinh đây hay không không sinh đây? Nếu có sinh có thể đối đãi trở lại là đối đãi có, sao gọi là đối đãi không? Có có đối đãi nhau tức là tự sinh, nếu không không sinh đây, không chỗ nào đối đãi? Nếu chỉ đãi không không đây mà sinh tâm là, tất cả không không cũng nên sinh tâm, không trông ở có, không tức là tha sinh. Lại, không sinh tuy không mà có sinh tánh đãi tánh đây nên mà biết có tâm, tánh đây là đã sinh hay là chưa sinh? Nếu đã sinh, sinh tức là ở sinh, sao gọi là tánh? Tánh nếu chưa sinh, chưa sinh sao năng sinh, nếu đối đãi sinh mà tâm sinh là, sinh trở lại đối đãi sinh, dài nên đãi dài. Đã không nghĩa đây sao đối đãi tâm sinh? Nếu đối đãi sinh không sinh nên có tâm sinh, như đối đãi ngắn được có ở dài, đây rơi đọa hai lỗi. Mỗi có thì hai sinh đều, mỗi không sinh toàn chẳng thể được như trước phá. Nếu đối đãi chẳng phải sinh chẳng phải không sinh mà có tâm sinh là, trong luận nói: “Từ nhân duyên sinh còn chẳng thể được huống gì không nhân duyên”. Lại, không nhân đây là có hay là không? Nếu có trở lại là đối đãi có. Nếu không trở lại là đối đãi không, sao gọi là không nhân? Nếu nói là có tánh, tánh là có hay không? Tánh nếu là có, là sinh chẳng phải sinh. Nếu sinh rồi là sinh, sao gọi là tánh. Nếu không sinh, cớ sao năng sinh. Bốn câu như vậy suy tìm đối đãi nhau giả cầu tâm chẳng được, chẳng khởi tánh thật, chỉ có danh tự. Sinh của danh tự sinh thì không sinh. Lại nữa, trong tánh tướng tìm cầu ấm nhập giới chẳng thể được, tức là pháp không. Tánh tướng tìm cầu nhân ngã thấy biết chẳng thể được, gọi là chúng sinh không cho đến mười tám không v.v... Trong Phụ Hành Ký giải thích: Nhân thành giả, đầu tiên phá trong tự sinh là: Niệm trước là căn niệm sau là thức là, căn không riêng biệt thể, trở lại chỉ ý không gián đoạn diệt làm thể, căn gọi là năng sinh, do ý trước diệt sinh ý thức sau. Nên trong luận Câu-xá nói: Do tức thân sáu thức không gián đoạn diệt làm ý. Thân là thể vậy, lúc không gián đoạn diệt là thể ý căn. Lúc ấy năm thức cũng nương ý không gián đoạn diệt để làm thân duyên, dùng năm sắc căn để làm sơ duyên, mà sinh năm thức. Lúc năm thức không gián đoạn phân biệt sinh tức gọi là ý thức. Nay văn đây, ý chẳng là năm thức, là thức thứ sáu duyên ở có thấy lấy làm pháp trần, tức gọi là thức, tức lấy thức đây đối căn nghiên cứu mong cầu, nên nói căn là có thức nên sinh thức hay căn là không thức nên sinh thức?

Trong luận Đại Trí Độ nói: “Hỏi: Niệm trước nếu diệt, sao năng sinh sau?

Đáp: Có hai nghĩa: Một, niệm niệm diệt; hai; niệm niệm sinh, có hai nghĩa đây nên diệt được sinh. Sợ sinh đoạn kiến, cho nên phải lập”. Nay vì phá vậy cho nên phải mong cầu sinh diệt tuy khác, căn đó và thức đều là tự tâm, từ căn từ thức đều thuộc tự tánh. Ở trong tự tánh, căn thức qua lại mong cầu, cầu chẳng thể được. Lại, tâm đó và thức đều đối ở trần, để lập tên tâm cho đến, căn nếu có thức thì có hai ngăn ngại, đó là căn thức đều và năng sở đều thì có sinh sinh lỗi của vô cùng. Nếu không năng sở, nghĩa sinh chẳng thành, sao gọi là sinh. Lại không gián đoạn diệt mới gọi là sinh thức. Căn nếu có thức, sinh diệt trái nhau, nên đều có lỗi. Căn nếu không thức tức thuộc loại không thức năng sinh thức vậy. Lại mong cầu có thức tánh, đây là trung phá, có trở lại đồng có, cũng thành đều sinh, không trở lại đồng không, đồng vô tình sinh. Lại thức tánh làm một khác mong cầu. Nếu một là, phàm nói tánh là sau mới năng sinh, thức cùng tánh một nên không năng sở. Nếu khác là, nếu khác thức thì đồng cảnh bên ngoài, cảnh năng sinh thức tức đồng tha, cớ sao chấp tự? Tiếp phá tha tánh là, tuy nói tâm chẳng tự sinh, do có trần bên ngoài mà lại phát tâm, trần trông ở căn, trần gọi là tha, trước mong cầu tâm đó thì có ba trở ngại. Một, trần chẳng phải tâm trở ngại, thì tâm chẳng gọi là trần; Hai, trần chẳng phải ý, bên ngoài đồng tự sinh trở ngại; Ba, đều sinh trở ngại, trần nếu chẳng phải tâm dung chấp thuận trần sinh, trần nếu là tâm trở lại thành tâm xứ sinh tâm, tức gọi là đều sinh. Hạt giống nếu sinh mầm thì có năng sở. Hạt giống trở lại sinh hạt giống thì hạt giống đều sinh, sao có năng sở. Trần nếu chẳng phải tâm thì cùng trong căn trước không nghĩa thức. Đồng tánh ý cũng như vậy, nên nói như trước phá. Trần có thức tánh, so sánh trước có thể biết, phá cộng sinh là, đọa tự tha tánh gọi là cộng sinh. Nay phá, nếu tự tha mỗi mỗi không sinh, hòa hợp cũng không. Như hai hạt cát không, dầu hòa hợp cũng không, phá không nhân chẳng sinh cũng vậy, kết thành tánh tướng hai không là, chỉ không tánh chấp, gọi là tánh không. Tánh đã phá rồi chỉ có sắc tâm tướng của trong ngoài, đã chẳng trú ở không trong bốn câu nên tướng cũng chẳng phải được, gọi là tướng không. Nói chẳng tại trong ngoài và khoảng giữa là, trong chỉ là nhân, ngoài chỉ là duyên, khoảng giữa là cộng. Thường tự có là, chỉ là không nhân, không chấp đây nên tức không bốn tánh. Hai không đây, tuy nói trước sau, ý chẳng khác thời. Lại dùng hai đế kết thành hai không, nếu có tánh chấp thế đế mà chẳng phải đế, phá tánh chấp rồi mới gọi là thế đế. Nên nói thế đế phá tánh. Tánh chấp phá rồi chỉ có danh tự. Danh đó là giả, giả tức là tướng, là không tướng nên quán ở pháp tánh. Quán lý chứng chân, gọi là chân đế phá tướng, không chẳng phải trước sau, hai đế đồng thời, là biện rõ tánh tướng trước sau mà nói vậy. Lại có bốn vận động tâm: Một, chưa vận; Hai, muốn vận động; Ba, chánh vận động; Bốn, vận động rồi. Phó Đại sĩ có kệ tụng nói:

“Riêng tự hỏi ta
Trong tâm đắm chỗ nào
Tầm kiểm bốn vận động đều không sinh
Muôn mối vạn lụy sao năng buộc”.

Giải thích: Chưa khởi, muốn khởi, tâm của hai vận động thuộc vị lai. Vị lai xứ nào có tâm? Tâm của chánh khởi một tận thuộc hiện tại, hiện tại chẳng trú, xứ nào có tâm? Lại thuộc lúc sinh, nhân chưa sinh đã sinh lập lúc sinh, chưa sinh đã sinh đã không sinh, lúc sinh cũng không sinh, như đã đi chưa đi lúc đi đều không pháp đi. Như chỗ luận Trung Quán phá, tâm của khởi rồi một vận thuộc quá khứ, quá khứ đã rơi rụng, xứ nào có tâm? Do đó trong kinh Kim Cang nói: “Quá khứ tâm chẳng thể được, vị lai tâm chẳng thể được, hiện tại tâm chẳng thể được”. Ba khoảng đều không, một tâm sao có? Do đó, nương tâm của căn bản còn chẳng có, năng nương cành ngọn tất cả muôn pháp sao là thật ư? Nên nói ngàn mối muôn lụy sao năng buộc. Nên biết chỉ rõ một niệm không, các trần tự nhiên phá, chỗ nương tựa đã chẳng có, năng nương tựa sao được sinh, như nguồn hết dòng khổ, rễ nguy lá rụng. Do đó, A-nan chấp bảy xứ mà không căn cứ nên biết tà pháp khó phù trợ, Nhị tổ ngay đó cầu mà chẳng sinh, có thể nghiệm giải không mới ngộ. Tổ Phật đại ước chỉ chỉ tông đây, đã chẳng được tâm của năng khởi, cũng chẳng được cảnh của sở khởi, tâm chẳng thể được, nên tức ngã tan, cảnh chẳng thể được nên tức pháp mất. Nếu năng nhân pháp đều không, tức hiển bày diệu lý một tâm, chỉ vì tâm trần đối nhau muôn pháp ngang dọc, cảnh trí một như ngàn sai chóng lắng. Như vậy mới năng thông ngộ bản giác linh trí chân tâm, không trú không nương khắp cùng pháp giới. Trong luận Quảng Bách nói: “Trong kinh nói không có chút ít pháp tự tánh có thể được, chỉ có năng tạo, năng tạo tức là tâm và tâm pháp”. Lại nói: Ba cõi duy tâm, các kinh như vậy, số đó nhiều vô lượng, do đó các pháp chỉ thức lý thành, đâu chẳng quyết định chấp tất cả pháp thật chỉ có thức đó cũng thành điên đảo, cảnh tức không, thức làm sao có? Trong kinh nói Duy thức là, vì khiến quán thức xả bỏ trần bên ngoài kia. Đã xả bỏ trần bên ngoài thì vọng tâm tùy theo dứt. Vọng tâm dứt nên chứng hợp Trung đạo.

Nên trong kinh có kệ tụng nói:

“Chưa đạt cảnh Duy tâm
Khởi các thứ phân biệt
Đạt cảnh Duy tâm rồi
Thì phân biệt chẳng sinh
Nếu biết cảnh Duy tâm
Bèn bỏ tướng trần ngoài
Từ đây dứt phân biệt
Ngộ chân không bình đẳng”.

Trong luận Hiển Thức nói: “Hỏi: Cảnh thức đều khiển trừ, chỗ thức nào thành?

Đáp: Cảnh thức đều hết sạch, tức là thật tánh. Thật tánh tức thức Am-ma-la”. Trong kinh Duyma nói: “Bồ-tát Hoa Nghiêm nói: Từ ngã khởi hai làm hai, thấy ngã thật tướng là chẳng khởi hai pháp. Nếu chẳng trú hai pháp thì không có thức, không chỗ thức là, là vì pháp môn chẳng hai”. Nên biết thấy có hai pháp cho đến mảy may đều thuộc thức. Cảnh thức đều mất mới vào lý của chân không. Do đó, Luận sư Trí Quang lập thuyết căn bên trong. Pháp tướng Đại thừa thì cảnh không tâm có, đạo lý Duy thức, chưa năng toàn vào chân không bình đẳng. Vì hàng thượng căn nói không tướng Đại thừa, biện rõ tâm cảnh đều không bình đẳng một vị, là chân liễu nghĩa. Vì vậy, nhân Duy thức vào môn chân không cứu cánh. Lìa đây mà riêng cầu thì chẳng phải chân giải thoát.

Trong Duy Thức Sao nói: “Hỏi: Tâm bên trong là Duy thức, là chân thật có hay chẳng chân thật có?

Đáp: Trong luận nói: Các tâm tâm sở (tiền trần) y tha khởi (nhân) cũng như việc huyễn dụ) chẳng phải chân thật có”.

Hỏi: Nếu vậy, tâm cảnh đều không sai biệt, cớ sao lại nói chỉ có thức ư?

Đáp: Vì dứt trừ tâm tâm sở của ngoại đạo v.v... chấp bên ngoài thật có cảnh, nên giả nói chỉ có thức, chẳng phải Duy thức nói bèn có thật. Trong luận Duy Thức nói: “Vì khiển trừ vọng chấp tâm tâm sở bên ngoài thật có cảnh nên nói chỉ có thức”, nếu chấp Duy thức chân thật có là như chấp cảnh bên ngoài, cũng là pháp chấp, nếu pháp chấp chẳng sinh tức vào chân không vậy.

Hỏi: Căn cứ lý Duy thức, nhân pháp đều không tức nay thọ dụng là vật gì?

Đáp: Chỗ pháp thọ dụng chỉ là sáu trần, do nhân duyên nên sinh, nhân duyên nên diệt, quyết định trong không nhân năng thọ, ngoài không trần có thể dụng. Trong luận Thập Bát Không nói: “Không bên ngoài là, cũng gọi là sở thọ không. Lìa ngoài sáu trần nhập không riêng pháp là có thể thọ. Nếu chỗ thọ chỗ dụng của các chúng sinh, đó chỉ là sáu trần. Trong đã không nhân năng thọ, ngoài cũng không pháp có thể thọ, tức nhân pháp đều không, Duy thức không cảnh, nên gọi là không bên ngoài. Vì không cảnh nên cũng không có thức, tức là không bên trong, cho đến mười tám không”.

Hỏi: Nhân pháp đều không, thức lại chẳng lập, tức nay thấy nghe từ đâu mà có?

Đáp: Tất cả tiền trần chỗ hiện các pháp, đều tùy niệm mà đến, đều đối tưởng mà sinh, niệm dứt cảnh không, ý hư pháp tịch. Nên trong kinh nói: “Tưởng diệt nhàn tỉnh, thức dừng vô vi”. Lại, trong kinh nói: “Tất cả chư Phật, tất cả các pháp từ ý sinh hình”. Lại, trong kinh nói: “Các pháp chẳng bền chắc, chỉ lập tại nơi niệm. Vì hiểu thấy không là, tất cả không tưởng niệm”. Nên biết thấy nghe chỉ là duyên khởi. Thấy rốt ráo không, như thế huyễn hành xử, tợ hoa đốm hư không khởi diệt. Nên nói: Thấy nghe như huyễn mờ. Ba cõi như hoa không”. Vả lại, như nhãn căn đủ năm duyên được thấy, nhưng năng thấy đây chỉ là năm duyên, không thấy là vậy, nên nói đủ năm duyên phát thức năng thấy là, chưa biết duyên nào định năng sinh thức. Nếu nói mỗi mỗi chẳng sinh, hòa hợp nên năng sinh thấy là, tức như năm người mù hòa hợp nên thành một thấy, nhiều người mù tức chẳng thấy, hòa hợp làm sao sinh. Nên biết chẳng phải riêng biệt thức sinh. Chỉ có thấy tức là các duyên, do đó gọi là duyên khởi vậy. Nên trong kinh nói: “Mắt chẳng tự thấy, thuộc các nhân duyên, duyên chẳng phải thấy tánh, mắt tức là không”. Nhãn căn đã vậy, các căn khác cũng vậy. Chỉ khởi chỉ duyên khởi diệt chỉ duyên diệt, khởi diệt chỉ là duyên nhân pháp đều vắng lặng. Nếu rõ nhân không pháp đây tức chứng viên lý, nên nói nếu thấy pháp nhân duyên, đó gọi là thấy Phật.

Hỏi: Trong phàm phu giới lấy bỏ phân biệt, nghịch thuận liên quan niệm nghĩ, vui chán đầy lòng, thường buộc sáu trần lấy làm ngăn ngại, làm sao được căn cảnh dung thông tất cả như ý ư?

Đáp: Chỉ thấy pháp tánh chứng Đại Niết-bàn còn không một pháp có thể thông, đâu có các pháp trở ngại, thì thường như ý. Lúc không có chẳng như ý, là như trong kinh Niết-bàn nói: “Nay nói Niếtbàn như ý là, tất cả khổ lạc thiện ác không gì chẳng phải lý, nên gọi là như ý”. Giải thích không gì chẳng phải lý là, đều là lý một tâm chân như vậy, vì khổ lạc là tâm thọ, thiện ác từ tâm sinh, thì không ngoài chỗ trú nghịch chỗ ngăn ngại của trần. Nếu rõ một tâm, đâu chẳng phải như ý. Nếu có một pháp xứng đáng tình thì thành tranh cãi. Trong kinh Lăng-già có kệ tụng nói:

“Cho đến có chỗ lập
Tất cả đều thác loạn
Nếu thấy chỉ tự tâm
Thì là không trái cãi”.

Do vì lúc mê, nhân theo pháp, sau khi ngộ, pháp do nhân.

Vả lại như châu ngọc ma-ni là sắc pháp vô tình, còn năng vô tư mưa báu cung cấp khắp cùng các tình nên gọi là như ý, huống gì Linh đài diệu tánh há chẳng năng ư? Chỉ quy về một tâm, được đại vô ngại, nên nói chuyển biến đất trời tự tại ngang dọc. Hỏi: Trong luận nói chỉ là một tâm nên gọi là chân như, chân thì không ngụy, như thì chẳng biến, diệu sắc trong lắng của chẳng không. Cớ sao trong kinh lại nói: Tâm không thì tất cả pháp không?

Đáp: Phàm, nói không là nói thế gian tất cả vọng tâm nhiễm pháp là không. Vì biến kế tình chấp không đạo lý vậy. Nếu chân tâm Phật pháp xuất thế thì chẳng không, vì có đạo lý vậy. Trong luận Đại Thừa Khởi Tín nói: “Chân như có hai: Một, như thật không, vì năng cứu cánh hiển bày thật vậy; Hai, như thật chẳng không, vì có tự thể đầy đủ tánh công đức vô lậu vậy”. Nói không là từ xưa đến nay nhiễm pháp chẳng tương ưng vậy. Nghĩa là lìa tướng của tất cả pháp sai biệt, vì không tâm niệm hư vọng vậy. Phải biết tự tánh chân như chẳng phải tướng có không một khác v.v... cho đến gồm nói, nương tất cả chúng sinh vì có vọng tâm niệm niệm phân biệt đều chẳng tương ưng nên nói là không. Nếu lìa vọng tâm thật không thể không vậy. Nói chẳng không là, đã hiển bày pháp thể không không vọng vậy, tức là chân tâm thường hằng chẳng biến, tịnh pháp đầy đủ, thì gọi là chẳng không. Trong Thanh Lương Ký giải thích: Chẳng cùng vọng hợp thì gọi là không tánh, đủ muôn đức tức gọi là chẳng không”. Cho đến Thích Văn mới nói: Nếu lìa vọng tâm thật không thể không, thì hiển bày không tạng nhân vọng mà hiển bày, mà chẳng không tạng cần phải do lật lại nhiễm mới hiển bày chẳng không. Nên nói vì hiển bày pháp thể không không vọng vậy, tức là chân tâm v.v... Như vốn có Đàn đức (Đức bố thí) nay là xan tham, vốn có Thi đức (Đức trì giới) nay tùy năm dục, vốn có tịch định nay là loạn tưởng, vốn có Đại trí nay là ngu si, thì là xan (keo kiệt) ẩn tàng nơi thí, cho đến ngu si nói tuệ. Nên trong luận nói: “Vì biết pháp tánh không xan tham nên tùy thuận tu hành Đàn Ba-la-mật v.v...” Muôn hạnh cũng như vậy. Nên trong luận nói: Vốn có nghĩa chân thật thức biết, nếu tâm có động tức chẳng phải chân thức biết”. Rõ ràng động của vọng tâm ẩn tàng nơi chân biết đó. Vì vậy, không của tức vọng ẩn tàng muôn đức của chẳng không. Nên trong kinh có kệ tụng nói:

“Biết vọng vốn tự thân
Thấy Phật thì thanh tịnh.”

Nên trong luận nói: “Vì năng rốt ráo hiển bày thật nên gọi là không”, nên biết không tạng năng ẩn tàng chẳng không. Năng tạng đã không thì hiển bày tạng của chẳng không, xưa nay đầy đủ vậy. Thứ nữa, trên tự tánh tâm không vọng là không, tùy chỗ không đó tức là đức chẳng không. Như không không xan lận tức hiển bày có đàn (bố thí) không, không vọng động hiển bày có tánh không, cho nên không tạng ẩn tàng chẳng không vậy. Nên biết tất cả chúng sinh bản giác Phật trí vốn tự tròn đủ, chỉ vì vọng che lấp mà chẳng tự biết, nếu rõ vọng không, chân giác chóng hiện, như mây tan trăng tỏ, bụi sạch gương sáng. Lúc của thấy tánh nên gọi là phát được, chẳng phải là tu thành, ngày ba thân tròn đầy cũng gọi là muôn hạnh dẫn ra, chẳng từ ngoài lại, đều căn cứ ở một tâm vốn có đầy đủ. Nên biết không của chẳng không, thể bao hàm muôn đức, có của chẳng có lý hợp với viên tông, không có cùng thành không các chướng ngại. Nếu lìa có của không thì có là thường, nếu lìa không của có thì không thành đoạn. Nay có không đều hành chẳng trái một ý chỉ. Vì vậy, trí năng đạt có tuệ năng quán không. Nếu đạt có mà chẳng biết không thì mất mắt tuệ. Quán không mà chẳng xét có thì mất tâm trí. Bồ-tát chẳng tận hữu vi chẳng trú vô vi. Tận hữu thì trí nghiệp chẳng thành, trí không thì tuệ tâm chẳng sáng. Nên trong Nghĩa Hải nói: “Nếu không khác với có, tức sạch chẳng gọi là sạch vì mê không vậy. Nếu có khác với không, tức nhiễm chẳng gọi là nhiễm vì chấp có vậy”. Nay có tức toàn không mới gọi là nhiễm phần, không tức toàn có mới gọi là sạch phần. Do không có vô ngại, nhiễm tịnh tự tại vậy. Nếu không tức có, có tức không, cho đến tất cả pháp đều qua lại tức vậy. Đã qua lại tức thì rốt ráo không các pháp một khác không có v.v... phát hiện ở bên ngoài tâm. Giả sử có phát hiện đều là tướng phần của tự tâm, chẳng đồng với phàm tiểu chẳng biết lấy mà chấp có, bỏ mà chìm không. Nếu vào môn một tâm Trung đạo đây, năng thành đạo muôn hạnh phương tiện. Như trong kinh Đại Trang Nghiêm Pháp Môn nói: “Bồtát Văn-thù Sư-lợi nói: Phương tiện có hai thứ: Một, chẳng xả bỏ sinh tử; Hai, chẳng trú Niết-bàn. Lại có hai thứ: Một, không môn; Hai ác kiến môn. Lại có hai thứ: Một, vô tướng môn; Hai, tướng giác quán môn. Lại có hai thứ: Một, vô nguyện môn; Hai, nguyện sinh môn. Lại có hai thứ: Một, vô tác môn; Hai, chủng thiện căn hạnh môn. Lại có hai thứ: Một, vô sinh môn; Hai, thị sinh môn”. Vậy nên ngộ tông thì nghịch thuận đồng quy, đạt thể thì thiện ác đều hóa.

Hỏi: Trong luận nói: Nói trí và trí xứ đều gọi là Bát-nhã. Trí xứ tức là cảnh, làm sao thành Bátnhã?

Đáp: Bát-nhã có hai thứ: Một, chân thật thường trú Bát-nhã. Hai quán chiếu có dụng Bát-nhã. Nếu chân thật Bát-nhã, tánh khắp cùng tất cả xứ, tịch mà thường chiếu, chỉ một chân tâm chẳng phân năng sở, tức chẳng đồng thế gian ngoan cảnh lấy làm sở chiếu, cũng chẳng đồng vọng tâm thiên tiểu lấy làm sở chiếu. Lại cũng chẳng đồng giả lập lấy làm sở chiếu. Nay thì một thể ngầm thông tâm tâm qua lại chiếu, vì không cảnh giới bên ngoài tâm, cũng không tâm bên ngoài cảnh. Vì tâm là cảnh tâm, cảnh là tâm cảnh vậy. Dung hòa thông suốt như vậy há chẳng phải Bát-nhã ư? Do đó nói: Sắc vô biên nên Bát-nhã vô biên. Nên biết lìa sắc không tâm, lìa tâm không sắc. Như trong kinh Bát-nhã nói: “Lại nữa, dõng mãnh! Vị Đại Bồ-tát nên hành như vậy, sắc chẳng phải chỗ duyên. Tại sao? Tất cả pháp không chỗ duyên, không có pháp nhỏ có thể thủ vậy, kia nếu là có thể thủ, đây thì là chỗ duyên. Như vậy, dõng mãnh! Chẳng phải sắc hành sắc cho đến chẳng phải thức hành thức. Dõng mãnh tất cả pháp chẳng hành, nên chẳng phải sắc thấy, cũng chẳng phải thức thấy, cho đến chẳng phải thức biết, cũng chẳng phải có thể thấy. Nếu sắc đến thức chẳng phải biết chẳng phải thấy, đó gọi là Bátnhã Ba-la-mật”. Lại, trong kinh Văn-thù Bát-nhã nói: “Bồ-tát Văn-thù Sư-lợi bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Lúc tu Bát-nhã Ba-la-mật chẳng thấy pháp là nên trú hay chẳng nên trú, cũng chẳng thấy cảnh giới là tướng có thể lấy bỏ. Tại sao? Như các Đức Như Lai chẳng thấy tất cả pháp tướng cảnh giới vậy, cho đến chẳng thấy cảnh giới chư Phật, huống gì là thủ tướng cảnh giới Thanh văn Duyên giác phàm phu, chẳng thủ tướng nghĩ bàn, cũng chẳng thủ tướng chẳng nghĩ bàn, chẳng thấy các pháp có bao nhiêu tướng, tự chứng không pháp chẳng thể nghĩ bàn. Vị Đại Bồ-tát như vậy đều đã cúng dường vô lượng trăm ngàn muôn ức chư Phật, gieo trồng căn lành, mới năng ở nơi Bátnhã Ba-la-mật sâu mầu mà chẳng kinh chẳng sợ”. Lại nói: “Lúc tu Bát-nhã Ba-la-mật, chẳng thấy tướng phàm phu, chẳng thấy tướng Phật pháp, chẳng thấy các pháp có tướng quyết định, đó là tu Bát-nhã Ba-la-mật.

Hỏi: Thế gian và xuất thế gian chỉ là một tâm, cớ sao lại phân chân vọng và trong ngoài ư?

Đáp: Chân vọng trong ngoài chỉ căn cừ văn tự thế gian biết. Do đó, tâm chẳng phải trong ngoài, trong ngoài là tâm, thể chẳng phải chân vọng, chẳng phải không nguyên do. Trong kinh Tấn Thú Đại Thừa Phương Tiện nói: “Nghĩa tâm là có hai thứ tướng: Một, tướng tâm bên trong; Hai, tướng tâm bên ngoài. Tướng tâm bên trong lại có hai: Một là chân, hai là vọng. Nói chân, nghĩa là Bản tướng tâm thể như như chẳng khác, thanh tịnh tròn đầy không chướng không ngại, vi mật khó thấy, vì khắp tất cả xứ, thường hằng chẳng hoại kiến lập sinh trưởng tất cả pháp vậy. Nói vọng, nghĩa là khởi niệm phân biệt hay biết duyên lự nhớ tưởng v.v... mọi sự, tuy là tương tục năng sinh tất cả các thứ cảnh giới, mà bên trong hư ngụy không có chân thật chẳng thể thấy vậy. Nói tướng bên ngoài tâm, nghĩa là tất cả các pháp các thứ cảnh giới, tùy có chỗ niệm cảnh giới hiện tiền, nên biết có tâm bên trong và tâm bên trong sai biệt. Như vậy, phải biết vọng tưởng bên trong làm nhân làm thể, vọng tưởng bên ngoài làm quả làm dụng. Y cứ các nghĩa như đây, cho nên ta nói tất cả các pháp đều gọi là tâm. Lại, phải nên biết tướng bên ngoài tâm là như chỗ mộng thấy các thứ cảnh giới chỉ tâm tưởng làm không thật sự bên ngoài, tất cả cảnh giới đều cũng như vậy. Vì đều nương vô minh chỗ thức mộng thấy vọng tưởng làm vậy. Lại nữa nên biết tâm bên trong niệm niệm chẳng trú, chỗ thấy chỗ duyên tất cả cảnh giới cũng tùy tâm niệm niệm chẳng trú. Nói tâm sinh nên các thứ pháp sinh, tâm diệt nên các thứ pháp diệt, mà tướng sinh diệt chỉ có danh tự thật chẳng thể được. Vì tâm chẳng trú ở cảnh giới, cảnh giới cũng chẳng đến nơi tâm, như ảnh tượng trong gương không đến không đi, cho nên tất cả pháp cầu sinh diệt định tướng, trọn chẳng thể được. Nói tất cả pháp rốt ráo không thể, xưa nay thường không thật chẳng sinh diệt, như vậy tất cả pháp thật chẳng sinh diệt là, thì không tướng của tất cả cảnh giới sai biệt, vắng lặng một vị, gọi là chân như Đệ nhất nghĩa đế, tự tánh tâm thanh tịnh. Tự tánh tâm thanh tịnh ấy trong lắng viên mãn, vì không tướng phân biệt vậy, không tướng phân biệt là, ở tất cả xứ không chỗ chẳng có, không chỗ chẳng có là, vì năng nương giữ kiến lập tất cả pháp vậy. Do đó, trong kinh Hoa Nghiêm có kệ tụng nói:

“Như vàng và sắc vàng
Tánh nói không sai biệt
Pháp chẳng pháp cũng vậy
Thể tánh không có khác”.

Lại nói: “Cõi bình đẳng chẳng trái chúng sinh bình đẳng, chúng sinh bình đẳng chẳng trái cõi bình đẳng, tất cả chúng sinh bình đẳng chẳng trái tất cả pháp bình đẳng, tất cả pháp bình đẳng chẳng trái tất cả chúng sinh bình đẳng. Khoảng lìa dục bình đẳng chẳng trái tất cả chúng sinh an trú bình đẳng, tất cả chúng sinh an trú bình đẳng chẳng trái khoảng lìa dục bình đẳng, quá khứ chẳng trái vị lai, vị lai chẳng trái quá khứ, quá khứ vị lai chẳng trái hiện tại, hiện tại chẳng trái quá khứ vị lai. Thế bình đẳng chẳng trái Phật bình đẳng, Phật bình đẳng chẳng trái thế bình đẳng. Bồ-tát hạnh chẳng trái Nhất thiết trí, Nhất thiết trí chẳng trái Bồ-tát hạnh”.

Giải thích: Cõi và chúng sinh cớ sao bình đẳng? Vì mỗi mỗi không thể nên đều chẳng thành tựu.

Nếu tự loại trông nhau, như cõi trông cõi bình đẳng. Nếu khác loại trông nhau như cõi trông chúng sinh bình đẳng. Vì lý của một không tánh, cho đến tâm cảnh tự tha đồng dị cao thấp, mười phương thế giới thảy đều bình đẳng. Lại, sự sự không trái, lý lý không trái là, lược có ba nhân: Một, pháp tánh dung hòa thông suốt; Hai, duyên khởi tướng do môn. Hai đây tức nghĩa sự sự vô ngại; Ba nói thẳng đồng một duyên ghi nhớ thông sự thông lý, như quán một chiếc lá rơi, biết thiên hạ mùa thu đồng một mùa thu vậy. Do sự của chẳng loại, tánh của chẳng biến, đều đồng một duyên khởi vậy. Lý lý không trái, cũng có hai môn: Một, cõi không tánh, tức chúng sinh không tánh; Hai, lý đồng vậy, vì không thể tức, cũng không thể trái.

QUYỂN 85

Hỏi: Phàm, xưng một tâm không cảnh giới bên ngoài, cớ sao trong kinh Hoa Nghiêm Phẩm Phật Địa nói: Sơ địa thấy trăm Phật, cho đến địa địa tăng rộng thấy nhiều Phật?

Đáp: Chỗ thấy ít nhiều đều từ niệm sinh, tâm hẹp thấy ít Phật. Tâm rộng soi nhiều hình, buông cuộn do tâm, mở hợp tại ngã. Lìa tâm ra, bên ngoài thật không chỗ được. Trong kinh Đại Tập nói: “Kiều-trần-như lại nghĩ tưởng rằng: “Ta phải làm sao được thấy chư Phật”. Bấy giờ tùy chỗ quán phương diện đó đều được thấy Phật, nhiều quán thấy nhiều, ít quán thấy ít. Quán rồi lại nghĩ: Chư Phật Thế Tôn không chỗ đâu lại, đi không chỗ đến. Ta quán ba cõi là tâm, tâm đó nhân thân, ta tùy quán giác, muốn nhiều thấy nhiều muốn ít thấy ít. Chư Phật Như Lai tức là tâm ta. Tại sao? Tùy tâm thấy vậy, tâm tức thân ta, thân tức là hư không. Ta nhân giác quán thấy vô lượng Phật. Ta dùng giác tâm thấy Phật biết Phật, tâm chẳng thấy tâm, tâm chẳng biết tâm, ta quán pháp giới tánh không bền chắc, tất cả các pháp đều từ giác quán nhân duyên mà sinh, cho nên pháp tánh tức là hư không, tánh của hư không cũng lại như không. Ta nhân tâm đó thấy xanh vàng đỏ trắng tạp sắc hư không. Làm thần biến rồi chỗ thấy như gió, không có chân thật, thì gọi là Cộng phàm phu như thật Đà-la-ni.” Lại nói: “Lại nữa, Hiền Hộ! Như người trai tráng mạnh khỏe dung mạo đoan nghiêm, muốn quán thân mình đẹp xấu thế nào, bèn dùng đồ vật đựng đầy dầu trong vò, hoặc dùng nước sạch, hoặc dùng thủy tinh, hoặc nắm gương sáng, dùng bốn vật đó quán nhìn mặt mình ảnh tượng đẹp xấu hiển hiện phân minh. Hiền Hộ! Ý ông thế nào? Chỗ thấy ảnh tượng kia lúc ở nước, dầu, thủy tinh, gương sáng bốn xứ đây hay là trước đã có ư?

Đáp: Chẳng phải vậy.

Hỏi: Là vốn không ư?

Đáp: Chẳng phải vậy.

Hỏi: Là tại trong ư?

Đáp: Chẳng như vậy.

Hỏi: Là đâu tại ngoài ư?

Đáp: Chẳng như vậy. Bạch Đức Thế Tôn! Chỉ dầu, nước thủy tinh gương các vật trong sáng không đục không cặn, hình đó tại trước thì ảnh kia tùy hiện. Mà hiện ảnh tượng kia chẳng từ bốn vật đó ra, cũng chẳng các xứ khác lại, chẳng phải người tạo tác, phải biết ảnh tượng kia không từ chỗ đâu lại cũng không chỗ đi, không sinh không diệt không có chỗ trú.” Khi Hiền Hộ trả lời như vậy rồi, Đức Phật dạy: Hiền Hộ! Đúng vậy! Đúng vậy!

Như lời ông nói, các vật thanh tịnh, sắc kia tỏa sáng ảnh tượng tự hiện, chẳng dùng nhiều công. Bồ-tát cũng vậy, tất cả tâm thiện tư duy thấy các Đức Như Lai, thấy rồi tức trú, trú rồi hỏi nghĩa, giải thích vui mừng bèn lại tư duy. Nay Phật đây là từ xứ nào lại, và thân ta đây từ xứ nào ra? Quán các Đức Như Lai kia trọn không xứ lại và không xứ đi, thân ta cũng vậy, vốn không ra đến, đâu có xoay vần. Người kia lại nên tư duy như là nay ba cõi đây chỉ là tâm có. Tại sao? Từ tâm niệm kia trở lại tự thấy tâm, nay ta từ tâm thấy Phật, tâm ta là Phật, tâm ta làm Phật, tâm tâm là Như Lai, tâm ta là thân ta. Tâm ta thấy Phật, tâm chẳng biết tâm. Tâm chẳng thấy tâm, tâm có tưởng niệm thì thành sinh tử, tâm không tưởng niệm tức là Niết-bàn. Các pháp chẳng chân, tư tưởng duyên khởi, chỗ nghĩ tưởng đã lắng, năng tưởng cũng không. Hiền Hộ! Các vị Bồ-tát v.v... nhân Tam-muội đây chứng Đại Bồ-đề.” Trong kinh luận Thủ-lăng-nghiêm nói: “Tùy tâm chúng sinh ứng chỗ biết lượng”. Xưa trước giải thích: Tùy căn chúng sinh thuần thục xứ tức hiện, chỗ biết lượng tức là cảnh sai biệt của chúng sinh, tức biết trong một pháp trần đồng đẳng pháp giới là lân hư trần không tự tánh. Tự tánh là hư không, hư không tức là chân không, chân không tức là bản giác, nên biết Như Lai ở trong một lỗ chân lông vì vô lượng chúng sinh, thường giảng diệu pháp, tức biết lỗ chân lông vi trần cũng chẳng vượt ngoài ta, chỉ giải hiểu được một pháp vi trần tức tính đếm được đồng khắp pháp giới vi trần, cho nên Đức Như Lai năng biết số giọt nước trong bốn biển lớn, đại địa, tu-di đều biết cân lượng, đều do quán một thân đây, ở trên một thân quán một sợi lông tóc đều biết không tự tánh, chỉ ở trong một lỗ chân lông quán thật không có tự tánh, một lỗ chân lông cũng chẳng thể được cũng chẳng thể được ở khắp pháp giới, trí biết tất cả vậy. Do đó, trong Tín Tâm Minh nói: “Một tức tất cả, tất cả tức một, nếu năng như vậy, lo nghĩ nào chẳng xong”. Nếu năng rõ suốt như vậy, một trần một sợi lông, không có tự tánh, chỉ chỗ tâm hiện, thì biết tất cả các pháp hẳn là không thể riêng biệt. Vì theo trần chấp thấy tất cả chúng sinh, một pháp chẳng thông các trần tự kẹt. Trong luận Hoa Nghiêm nói: “Dùng thật mà luận bàn sơ phát tâm trú như nước của một giọt, vào trong biển nước đều đồng thể biển, các loại cá rồng kho báu đều tại trong đó. Vì giáo hóa các chúng sinh, lưới giáo bủa giăng phương pháp chẳng thể chẳng đủ, dùng danh ngôn tre lụa trước ghi chép tức tợ như nghĩa trước sau sinh. Thể đạo là phải rõ soi như cầm gương báu đến khắp muôn tượng. Lại có kệ tụng nói:

“Vô hàng trí tuệ thành Phật đức
Phật dùng trí bi thành mười địa
Trở lại đem mười địa thành các vị
Trước sau năm vị môn gia hạnh
Chẳng lìa mười địa trí bi khởi
Cho nên mười địa mới phát tâm
Phát tâm tức vào trí mười địa
Tuy nhiên năm vị phương tiện khác
Chỉ vì thành thục trí mười địa
Giống như chim chóng bay giữa không
Chẳng bỏ du hành không chỗ đến
Cũng như cá rồng dạo trong nước
Chẳng bỏ thường dạo chẳng lìa nước
Năm vị như vậy hành sai biệt
Chẳng phế sai biệt chẳng lìa trí
Chỗ có ngày tháng năm sai biệt
Vì thí pháp ẩn không riêng khác
Trí thể chẳng thành cũng chẳng hoại
Vì rõ các vị trừ tập khí
Rõ tật không tập bi hạnh thành
Năm hạnh thường cùng trí vô tác.

Hỏi: Nếu ngoài tâm không pháp chỉ là một tâm, ở ngoài thì không nghiệp quả thiện ác báo ứng khổ lạc, sao thành Phật pháp lật lại đọa các tà?

Đáp: Nếu rõ một tâm có thấy không thấy tuyệt, cảnh trí đều lắng khế hợp tánh không kia, căn trần đều mất trong ngoài giải thoát, cũng thường chiếu trong ngoài thoát nơi không biết, không còn chẳng còn, vọng từ đâu khởi, chỗ hiện các cảnh giới khổ lạc bên ngoài như ảnh tượng trong gương. Vì tự tâm là gương sáng, trở lại chiếu nghiệp ảnh của tự.

Các bậc Cổ đức nói: “Dùng Như Lai tạng tánh mà làm gương sáng, tùy nghiệp duyên chất hiện ảnh tượng quả. Phàm, nghiệp thông cả tánh tướng, nghĩa là nghiệp thể đây dùng pháp của không tánh mà làm tánh đó, dùng tướng của nghiệp quả chẳng mất mà làm tánh đó, do không tánh nên thành nghiệp quả, do chẳng hoại tướng mới hiểu biết chân không. Tại sao? Nếu có tánh thì nghiệp thiện ác quyết định chẳng thể cải đổi, không có quả báo khổ lạc. Nên hoại nghiệp tướng thì thành đoạn diệt, vì tất cả nhân quả từ tự tâm sinh, ngoài tâm thật không nghiệp tâm có thể được, vì nghiệp không tự tánh chỉ do tâm khởi, do đó như ảnh như huyễn không có định tướng. Lại, vì nghiệp không tự tánh nên chẳng lạc có, lại chẳng hoại nghiệp quả nên chẳng đọa không, chẳng phải có chẳng phải không thì lý trong một tâm vậy.

Hỏi: Tuy tâm tức là nghiệp, nghiệp tức là tâm, đã từ tâm sinh trở lại từ tâm bẩm thọ, làm sao hiện nay tiêu nghiệp báo hư vọng đó?

Đáp: Chỉ rõ vô tác tự nhiên nghiệp không, do đó nói nếu rõ vô tác ác nghiệp một đời thành Phật. Lại nói: Tuy có tác nghiệp mà không tác giả, tức là giáo bí mật của Như Lai vậy. Lại, phàm tác nghiệp đều là tự tâm, tính ngang pháp bên ngoài trở lại tự đối trị, vọng thủ thành nghiệp. Nếu rõ tâm chẳng thủ cảnh chẳng tự sinh, không pháp kéo tình làm sao thành nghiệp. Trong Nghĩa Hải nói: Trừ nghiệp báo là vì trần chẳng rõ tự tâm làm bên ngoài tâm có pháp tức sinh thương ghét, từ nghiệp tham thành báo, nhưng nghiệp báo đây do tâm mê trần vọng chấp mà sinh chỉ tợ có hiển hiện đều không chân thật. Mê là vì tướng phần có chỗ từ xưa đến nay, mà lại sinh là mê, nay rõ tướng trần không thể là ngộ, mê vốn không xưa nay, ngộ cũng không chỗ đi. Tại sao? Vì vọng tâm có gốc không thể vậy. Như nói về dây rắn vốn không từ đâu lại cũng không chỗ đi. Tại sao? Nói về rắn, vọng tâm tính ngang làm có, vốn không thể vậy. Nếu tính chấp có xứ lại xứ đi trở lại là mê, rõ không đi lại là ngộ. Ngộ đó và mê đối đãi nhau an lập, chẳng phải là trước có tịnh tâm sau mới có vô minh, đây chẳng phải hai vật, chẳng thể hai giải, chỉ rõ vọng tức là tịnh tâm, trọn không trước tịnh tâm mà sau có vô minh, nên biết mê ngộ chỉ là một tâm, như tay úp ngửa chỉ là một tay, thấu đạt sâu xa như vậy thì nghiệp ảnh tự tiêu. Như trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Bấy giờ Bồ-tát Văn-thù Sư-lợi hỏi Bồ-tát Đức Thủ rằng: Phật tử! Tất cả chúng sinh v.v... có bốn đại không ngã không ngã sở, cớ sao mà có thọ khổ thọ lạc đoan chánh xấu xa trong đẹp ngoài đẹp thọ ít thọ nhiều, hoặc thọ hiện báo, hoặc thọ hậu báo, nhưng trong pháp giới không đẹp không xấu?

Khi ấy Bồ-tát Đức Thủ dùng kệ tụng đáp:

“Tùy chỗ có hành nghiệp
Quả báo sinh như vậy
Tác giả không chỗ có
Chỗ của chư Phật nói
Thí như gương sáng sạch
Tùy chỗ đối chất đó
Hiện tượng mỗi chẳng đồng
Nghiệp tánh cũng như vậy
Lại như xảo huyễn sư
Ở nơi ngã tư đường
Bày hiện các sắc tướng
Nghiệp tánh cũng như vậy
Như cơ quan người gỗ
Năng phát các thứ tiếng
Kia không ngã chẳng ngã
Nghiệp tánh cũng như vậy
Cũng như các loại chim
Từ vỏ mà được ra
Âm thanh mỗi chẳng đồng
Nghiệp tánh cũng như vậy
Thí như trong thai tạng
Các căn đều thành tựu
Thể tướng không xứ lại
Nghiệp tánh cũng như vậy
Lại như tại địa ngục
Các thứ vị khổ thảy
Kia hẳn không chỗ từ
Nghiệp tánh cũng như vậy
Thí như Chuyển luân vương
Thành tựu bảy báu thắng
Xứ lại chẳng thể được
Nghiệp tánh cũng như vậy
Lại như các thế giới
Chỗ hỏa đại thiêu đốt
Lửa đây không xứ lại
Nghiệp tánh cũng như vậy”.

Trong kinh Tịnh Nghiệp Chướng nói: “Quán tất cả pháp tức là Phật pháp thì là tịnh các nghiệp chướng”. Như có người học hỏi Hòa thượng An Quốc: “Nếu lúc chưa ngộ, nghiệp duyên thiện ác là có chăng?”

Đáp: “Chẳng phải có”. Dụ như ban đêm mộng người ác kia đuổi, hoặc Phạm vương Đế-thích, cho là có, chợt nhiên thức dậy, vắng lặng không sự, tin biết ba cõi vốn không chỉ là một tâm. Lại có người hỏi Hòa thượng Đại Châu rằng: “Làm sao biết nghiệp hết?”

Đáp: “Hiện tiền tâm thông đời trước đời sau, Phật trước Phật sau muôn pháp đồng thời”. Trong kinh nói: “Một niệm biết tất cả pháp là đạo tràng, thành tựu Nhất thiết trí vậy”. Vậy biết từ chỗ tâm sinh đều không chân thật, như tâm mộng chẳng thật, sự mộng cũng hư. Thế gian cộng biết có thể tin thọ sâu mầu, vì là nghiệp của thiện ác lý đều tánh không, chẳng hoại duyên sinh luôn ngầm diệu chỉ. Lập lượng là: Chánh nghiệp là pháp hữu, định tức có tức không nên là tông. Nhân là: Tức duyên thành tức không tánh. Đồng dụ là: Như huyễn huyễn pháp thuật v.v... sinh, tức có chẳng ngại hư, chánh nghiệp từ duyên sinh, không có chẳng trở ngại nhau. Nên biết muôn pháp từ biến kế tình sinh, chỉ có hư danh đều không thật nghĩa. Như trong kinh Thủ-lăng-nghiêm nói: “Diệu giác trong lắng khắp cùng pháp giới, ngậm nhả mười hư sao có phương sở, theo nghiệp phát hiện thế gian không biết, hoặc làm nhân duyên và tánh tự nhiên, đều là thức tâm phân biệt tính lường, chỉ có nói phô đều không thật nghĩa”. Ngậm nhả mười hư là ngậm tức một chân chẳng động tại trong Như Lai tạng, nhả tức nương vọng phân biệt mới tùy xứ phát hiện, chỉ có xứ của mảy trần phát hiện đều là tự tâm sinh, từ phân biệt có, nếu biết xứ phát hư vọng thì chóng ngộ chân không, chân không hiện tiền đâu còn nói phô.

Hỏi: Chân tâm chẳng động, ba khoảng chẳng biến đổi, cớ sao nói tâm lưu chuyển, lại nói nghĩa tuyệt lưu chuyển?

Đáp: Chỗ nói tùy lưu và nghịch lưu đều căn cứ tâm của chúng sinh duyên lo nghĩ, vọng xưng là lưu chuyển, thể nó thường vắng lặng, chỉ chẳng thấy xứ một niệm khởi, tức là chẳng lưu, chưa hẳn có niệm có thể đoạn. Trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Văn-thù Sư-lợi nói: “Làm sao đoạn lưu chuyển, vì ở quá khứ tâm chẳng khởi, ở vị lai thức chẳng hành, hiện tại ý chẳng động, chẳng trú chẳng tư duy, chẳng giác chẳng phân biệt. Nên biết lấy cảnh đối cảnh đem tâm trị tâm, chó đuổi theo cục đất mà càng nhiều, người lánh bóng mà nhọc khổ, nếu năng biết thân là ảnh, bỏ khối đất đến người thì ảnh diệt vết ngầm an nhiên giẫm bước, nên biết muôn động đều lay đều thành ma nghiệp, nếu biết tâm chẳng động thì chẳng theo dòng, mới vào trong của Tông Kính, trọn vượt ma huyễn, tự nhiên tâm trí tịch diệt, các thấy tiêu mất. Như trong kinh Đại Hư Không Tạng Bồ-tát Sở Vấn nói: “Bồ-tát Sơn Tướng Kích Vương nói: Thí như nơi có lỗ hổng, gió vào trong đó lay động nơi vật có tướng qua lại. Bồ-tát cũng vậy, nếu tâm có khoảng hổng thì tâm lay động. Vì lay động vậy thì ma được tiện, cho nên Bồ-tát gìn giữ nói tâm chẳng khiến có khoảng hổng, nếu tâm không khoảng hổng thì các tướng viên mãn, vì tướng viên mãn vậy thì không tánh viên mãn, đó là pháp môn Bồ-tát vượt ma. Cho đến, Bồ-tát Văn-thù Sư-lợi nói: Nhân giả! Như lời các vị nói đều là cảnh ma tại sao? Định nghĩa văn tự đều là ma nghiệp, cho đến Phật nói còn là ma nghiệp, không có nói thô, lìa các văn tự, ma không năng làm. Nếu không khái niệm tức không ngã kiến và văn tự kiến. Vì không ngã thì ở các pháp không có tổn ích. Vào như vậy thì vượt cảnh ma, đó là pháp môn Bồ-tát vượt ma.” Trong kinh Đại Thừa Thiên Bát Đại Giáo Vương nói: “Phật dạy: Các thiên ma huyễn hoặc các thứ tướng mạo chướng tâm mắt Thánh đạo của người tu học, cho đến khiến thấy tất cả huyễn tướng mọi sự sinh tử trước sau, các tướng thiện ác, ma làm huyễn hoặc chẳng liên quan chánh trí. Chỉ chỗ tâm biến chớ thủ duyên bên ngoài. Hành nhân tu học hẳn chẳng được ở cảnh giới mộng và hiện trước mắt, thủ tướng chấp trước, động chuyển tâm người, khủng bố hãi sợ thì bị chỗ chướng ngại của Thiên ma quỷ thần. Hành nhân chánh kiến phải thường quán tâm tánh chắc chắn, thấy tánh tịch tĩnh, tâm tánh không vật, là tướng chớ thủ thì không cảnh giới vọng tưởng nhân duyên, cho nên hành nhân cần hành tinh tấn, thật chớ thối chuyển giải đãi biếng lười, thì được chóng chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồđề”. Trong luận Đại Trí Độ nói: “Trừ thật tướng các pháp đều là Bồ-tát ma sự, nếu chứng Bát-nhã năng khế hợp thật tướng tức vượt qua ma sự”. Đây là nói về sự lúc chứng thật tướng, đang lúc thân chứng như người uống nước, chẳng thể chỉ nói mà không chứng, nếu chỉ nói vượt qua ma mà chẳng lìa cảnh ma, nếu vượt qua ma giới, nói chứng đều tuyệt. Vậy biết hẳn không cảnh ma chỉ từ tâm khởi. Tại sao? Nếu bên trong tâm ưa vui sinh tử thì thân làm Thiên ma. Tâm bên trong đắm trước tà kiến, thì thân làm ngoại đạo, cho đến bên ngoài tâm thấy pháp, ngoài lý riêng cầu đều thành ngoại đạo.

Hỏi: Phàm Thánh một tâm đồng chủng tánh đó, chủng tánh không khác, cớ sao chỗ thọ nhân quả chẳng đồng, báo ứng có riêng biệt?

Đáp: Tuy tự nghiệp mỗi thọ vọng có thăng trầm, mà duyên tánh không sinh, trọn không thể được. Trong kinh Chư Pháp Vô Hành nói: “Phật bảo: Văn-thù Sư-lợi! Tất cả chúng sinh tâm đó đều một. Đó gọi là chủng tánh, chủng tánh tức nghĩa căn bản, căn bản thường một mà chúng sinh vọng khởi tự tha sai biệt Thánh phàm cao thấp, tuy khởi sai biệt, một thể chẳng động. Vì tánh sai biệt chẳng phải có vậy, chỉ là vọng khởi không thật thể vậy. Do đó trong kinh nói: “Phật dạy: Văn-thù Sư-lợi! Tất cả chúng sinh đều không có tâm duyên, tánh chẳng thể được vậy. Đó gọi là chủng tánh. Lại, tất cả cảnh giới thiện ác đều là ánh sáng tâm, tất cả thọ dụng hơn kém đều là quả tâm.” Trong luận Đại Trang Nghiêm có kệ tụng nói:

“Các thứ tâm sáng khởi
Các thứ tướng như vậy
Thể sáng chẳng thể vậy
Chẳng được pháp kia thật”.

Các thứ tâm sáng, tức là các thứ sự tướng, hoặc khác lúc khởi, đó là sáng tham sân v.v... hoặc đồng lúc khởi, đó là sáng tham sân v.v... hoặc đồng lúc khởi, đó là sáng tín tấn v.v... nhiễm vị tâm số tịnh vị tâm số như vậy chỉ có ánh sáng mà không thể sáng, cho nên Đức Thế Tôn chẳng nói kia là pháp của chân thật. Lại nói: Các hành sát-na tăng trưởng, là như Phật nói tâm đem thế gian đi, tâm kéo thế gian lại. Do tâm tự tại thế gian tùy chuyển.

Thức duyên danh sắc đây nói cũng vậy. Nên biết các hành là quả tâm. Lại, Tùy tịnh là, tịnh là tâm người thiền định, người kia các hành tùy tịnh tâm chuyển. Tỳ-kheo tu thiền, đầy đủ thần thông, tâm được tự tại, nếu muốn khiến gỗ làm vàng thì được tùy ý, nên biết các pháp hành đều là quả tâm. Lại, tùy sinh là, như chúng sinh tạo tội, có thể được vật bên ngoài tất cả thấp kém, chúng sinh tạo phước có thể được vật bên ngoài tốt đẹp, nên biết các hành đều là quả tâm, phải biết tất cả muôn pháp, đã lấy tâm làm nhân cũng lấy tâm làm quả, tuy nhiên sạch dơ hiển hiện chẳng đồng, ở trong gương tâm, như ánh sáng như bóng ảnh, trọn chẳng thể được.

Hỏi: Vào môn Duy thức quán tất cả cảnh tự nhiên không tướng, sao dụng lại nói phá tướng hiển lý, lại nói bỏ có quán không. Nếu có tông của sở phá thì lập lý của năng không. Đã còn không pháp trở lại thành nhân của có tướng, nếu giữ quán môn, đâu hợp đạo của vô vi?

Đáp: Phàm nói phá tướng là chưa vào Duy thức bỏ vọng chấp đó, tuy nói phá tướng, thật không chỗ phá, đã không có của chỗ phá, cũng không không của năng phá. Tình chấp nếu tiêu, có không đều lắng, tiền trần không định, phá lập tùy tâm, vọng của mê chân chẳng sinh, chân của đối vọng cũng tuyệt. Trong luận Đại Trí Độ nói: “Các thứ thủ tướng đều là hư vọng, như châu pha lê tùy sắc trước biến tự không định sắc, các pháp cũng như vậy, không có định tướng, tùy tâm làm khác, hoặc tưởng thường vô thường v.v... như vì tâm sân thấy người này là tệ, nếu tâm sân dứt, tự tâm dâm dục sinh thấy người này trở lại là tốt. Nếu vì tâm kiêu mạn sinh thấy người này là ty tiện, nghe họ có đức trở lại sinh tâm kính. Các thứ như vậy có lý, mà thương ghét không lý, mà thương ghét đều là hư vọng nghĩ tưởng, nếu trừ hư dối cũng không không tướng không tướng tướng không tác tướng. Không chỗ phá nên còn chẳng tông lý của không tướng đâu còn môn của phá lập, vì thành hoại lấy bỏ đều tự tâm vậy. Nếu rõ ngay tâm tự nhiên tuyệt quán.

Như trong kinh Lăng-già có kệ tụng nói:

“Tất cả không Niết-bàn
Không có Niết-bàn Phật
Không có Phật Niết-bàn
Xa lìa giác chỗ giác
Hoặc có hoặc không có
Hai đó thảy đều lìa
Mâu-ni tịch tĩnh quán
Đó thì xa lìa sinh
Đó gọi là chẳng thủ
Đời nay đời sau sạch”.

Có hai nửa bài kệ, Đại Vân giải rằng: Một kệ đầu rõ nay một như, nghĩa là đây căn cứ vô nguyện quán để hiển bày viên thành, không Niết-bàn Phật nên không nguyện vậy. Câu đầu nghĩa là trong tất cả các pháp sắc tâm v.v... không được Niết-bàn. Vì tất cả pháp vốn là như, nếu được Niết-bàn là đoạn thường kiến. Diệt pháp là đoạn, chứng đắc là thường. Câu kế tiếp, đã không Niết-bàn cớ sao có Phật, nên trong kinh nói thấy đoạn phiền não mà được thành Phật, đây thì gọi là phá hoại Phật pháp, vì phiền não và Phật tánh tịch tĩnh vậy. Trong câu thứ tư, chỗ giác như nên không có Niết-bàn, năng giác như nên không có Phật được, lìa giác và chỗ giác hỗn loạn đồng một như.

Hỏi: Thấy nghe hay biết chẳng vượt ngoài tâm lượng tục đế chân đế không được không sinh, lại vượt ngoài tâm lượng chăng?

Đáp: Phàm lượng là tâm năng duyên, chỉ có đối tục nói chân, nhận dối lập thật. Bài xích sai biệt luận bàn bình đẳng, dứt trừ khác tướng, kiến lập như như, đều là đối đãi được, gọi là phá chấp thiết giáo, nếu năng chân tạo đều phải bỏ, có không đều tiêu, rõ biên tức trung, không biên có thể lìa, đạt trung tức biên, không trung có thể còn. Trí của năng chứng đã mất, lý của sở chứng cũng lắng mới vượt tâm lượng, vào môn tuyệt đối đãi. Nếu có được không được có sinh không sinh, đều chẳng vượt ngoài tâm lượng. Trong kinh Lăng-già có kệ tụng nói:

“Lìa tất cả các thấy
Và lìa tưởng chỗ tưởng
Không được cũng không sinh
Ta nói là tâm lượng
Chẳng tánh chẳng chẳng tánh
Tánh chẳng tánh đều lìa
Gọi kia tâm giải thoát
Ta nói là tâm lượng
Như như vì khoảng không
Niết-bàn và pháp giới
Các thứ ý sinh thân
Ta nói là tâm lượng”.

Do đó, trong kinh Niết-bàn nói: “Nếu có một pháp vượt qua Niết-bàn là, ta cũng có như huyễn như hóa. Vì Niết-bàn không tướng nếu thủ ở tướng tức tự tâm hiện lượng, chẳng phải chân Niết-bàn vậy. Phật nói rằng: Giả sử có một Đức Phật vượt qua Niết-bàn, hướng đến chỗ được tâm, cũng thành tâm lượng, chỗ tự tâm biến đều là huyễn hóa”. Nên biết tợ hình nói vết, liếc qua sinh diệu giải, đều là chỗ tâm lượng gom thâu. Chưa có một pháp chẳng liên quan với tâm vậy. Nếu năng ngộ tâm không tâm, rõ cảnh không cảnh, lý lượng đều tiêu, có thể vào Tông Kính.

Hỏi: Phàm luận tâm lượng chẳng vượt ngoài thấy nghe, nếu căn cứ thấy nghe thì còn là tiền cảnh, cớ sao thành nghĩa của Duy tâm?

Đáp: Đây là tâm của không tâm, lượng chẳng phải có thật thể.

Hỏi: Nếu không thật thể, cớ sao kiến lập tất cả các pháp?

Đáp: Chỉ do không thể không tánh mới thành vạn hữu, chỗ vạn hữu khởi chẳng lìa chân không. Nếu nói có tánh thì một pháp chẳng thành, thì không chẳng tự không, đâu năng dung sắc. Nếu sắc chẳng tự sắc nói năng hợp không. Trong luận Ma-ha-diễn nói: “Tất cả các pháp chỉ tâm xoay chuyển ngoài ra không pháp khác” là như vậy, tâm pháp cũng chẳng thể được. Trong kinh Lăng-già nói: “Tâm lượng của không tâm, Ta nói là tâm lượng”. Do câu của tâm chẳng thể được mà lập nghĩa của đại không. Do câu tâm lượng của không tâm mà thành nghĩa của huyễn sai biệt. Do nghĩa của đại không, các pháp được thành. Do nghĩa huyễn sai biệt, không lý được hiển bày.

Hỏi: Vọng năng che chân thành sinh tử, chân năng đoạt vọng, thuận hiện Niết-bàn, chân vọng nếu lìa, qua lại chẳng sinh khởi, chân vọng nếu hợp, hai đế chẳng thành, làm sao hội thông diệu lý một tâm?

Đáp: Một tâm hai đế, chỗ giáo lý quy về, mở tức mê chân, hợp tức hoại tục. Tại sao? Tướng tùy chân khởi, tức tướng mà có thể biện rõ nguồn chân, giác nhân vọng sinh. Nhân vọng mà năng biết giác thể. Không vọng thì giác chẳng tự lập, không chân thì tướng không chỗ nương. Chân vọng cũng hòa, nhiễm tịnh thành sự, chỉ chân chẳng lập, không vọng mà đối, ai năng lập chân, riêng lẻ vọng chẳng thành, không chân mà cậy sao nói vọng. Chân vọng mỗi không tự thể. Danh tướng vốn đồng một nguồn. Vậy thì hai đế luôn phân, một vị thường còn, tạng tánh chẳng động, duyên khởi muôn sai. Nên biết thật không một pháp mà có tự thể độc lập, đều từ hai pháp chân vọng hòa hợp mà khởi. Như trong luận Đại Thừa Khởi Tín nói: “Chẳng sinh chẳng diệt cùng sinh diệt hòa hợp, chẳng phải một chẳng phải khác, gọi là thức A-lại-da, biến khởi căn thân khí thế gian v.v...” Trong luận Thích Ma-ha-diễn nói: “Nhân duyên sinh diệt có hai: Một, chẳng tương ưng nhân duyên sinh diệt; Hai, tương ưng nhân duyên sinh diệt”. Luận nói: Hiện kính thức thể, cảnh giới sáu trần, như lần lượt đó, vì ba thứ kia tương ưng nhiễm pháp, năng làm nhân duyên cho nên nói phô thô trọng, môn nhân duyên của sinh diệt. Trong thể hiện thức lại có nghĩa duyên, nên thẩm xét tư duy. Lại nữa, có hai lớp nhân duyên: Một, gốc khắp cùng nhân duyên. Hai ngọn khắp cùng nhân duyên. Nói gốc khắp cùng là nêu gốc vô minh và tâm bản giác trông ở sáu trần tương ưng, có nghĩa nhân duyên. Nói ngọn khắp cùng là, nêu nghiệp chuyển hiện tướng trông ở ba tương ưng, có nghĩa nhân duyên vậy. Lại nữa, lại có hai thứ nhân duyên: Một, nhân duyên trên dưới; hai, nhân duyên hạ thượng. Nói trên dưới là, vô minh làm thủy, quả báo làm chung, trên dưới cùng lực chẳng vượt số đó làm nhân duyên vậy. Nói hạ thượng là, quả báo làm thủy, vô minh làm chung.

Hạ thượng cùng cực chẳng vượt số đó lầm nhân duyên vậy. Lại nữa, tất cả pháp hữu vi sinh diệt, sát-na chẳng trú, không nhân không duyên. Lại nữa, pháp của nhân duyên không mà không chủ, kỳ thật tự tánh chẳng thể được vậy. Lại nữa, pháp chẳng thể được chẳng thể được cũng chẳng thể được vậy. Lại nữa, nhân duyên sinh diệt là chỗ gọi là tâm ý ý thức của chúng sinh chuyển vậy. Văn đây vì nói rõ nghĩa gì? Đó là muốn hiển bày sai biệt của sở y và năng y vậy. Thế nào là sở y? Đó là tâm bản giác. Thế nào là năng y? Đó tức là chúng sinh, nói chúng sinh là đúng pháp gì ư? Đó là ý ý thức. Tại sao ý và ý thức gọi là chúng sinh? Ý và ý thức tất cả các nhiễm hợp thành mà sinh, nên gọi là chúng sinh, mà không riêng biệt tự thể, chỉ nương tâm làm thể, cho nên nói là nương tâm mà chuyển. Lại nói: Tướng của vô minh chẳng lìa giác tánh, chẳng phải có thể hoại, chẳng phải chẳng thể hoại, giống như biển lớn tướng gió tướng nước chẳng bỏ lìa nhau là. Biển lớn dụ cho thức A-lạida. Nước dụ cho tâm bản giác, gió dụ cho căn bản vô minh. Bất giác năng khởi động chuyển thức của lo nghĩ tri, như sóng kia vậy. Sóng động là dụ cho hý luận thức biến chuyển vô thường. Tướng nước tướng gió chẳng bỏ lìa nhau là, dụ cho chân tâm giúp nhau đều hành hợp chuyển, nghĩa là tâm bản giác chẳng khởi vậy, đang nhờ lực của vô minh mới được mà khởi, căn bản vô minh chẳng tự chuyển vậy, cần phải nhân lực của chân tâm mới được mà chuyển, như nước chẳng tự làm sóng, phải nhân lực gió, gió chẳng tự hiện động cần phải nhờ ở lực nước mới được hiện tướng động. Trong kinh nói: “Trong biển lớn phiền não, có viên mãn Như Lai, tuyên nói lý của thật tướng thường trú, trong thật tánh bản giác, có chúng sinh vô minh khởi vô lượng vô biên gợn sóng phiền não, như trong kinh nói: “Phật bảo đại chúng: “Thủy giác Bát-nhã là từ địa vị có đủ thứ trói buộc dần dần ra khỏi, cho đến Kim cang viên mãn mới hành phát đạo cứu cánh chóng đoạn căn bản vô minh trú địa. Mặt nhật tuệ giác tròn chiếu, không chỗ chẳng khắp cùng. Bản giác Bát-nhã là từ tánh thanh tịnh dần dần xa lìa, cho đến mới đầu tin, phát trí cứu cánh đoạn diệt tướng phần vào biển vô minh tùy duyên chuyển động. Khi ấy đại chúng nghe sự này rồi rõ biết các pháp một tướng một thể, cũng không một tướng cũng không một thể. Mà các pháp tánh cũng thật tướng, cũng là thường trú, cũng là quyết định, cũng là thật có.

Hỏi: Bản giác và thủy giác, từ đâu mà lập sinh? Đáp: Bản giác là nhân thủy mà được sinh, thủy giác từ bản mà lập. Như trong Khởi Tín Sao nói: “Chưa xét rõ thủy giác từ đâu mà sinh, vì chỗ bản đối nên đây nói vậy. Nguyên Thủy giác đó là chỗ bản sinh dần mới mà có, nên gọi là thủy, chiếu ngược lại thể đó, xưa nay có đó. Địch đối ở thủy nên gọi là bản. Nếu không thủy đó, chỗ nào đối đãi ư? Như mẹ sinh con, đối con xưng mẹ. Cho đến hỏi: Thủy giác bản giác đã khác, nhân gì không hai? Lại đã đồng bản giác, nhân gì gọi là thủy?

Đáp: Tức bản giác mới đầu hiển bày tướng dụng, gọi là thủy giác. Tướng dụng chẳng phải riêng biệt bên ngoài lại nên được dung đồng một thể. Lại, nếu chẳng phải tướng dụng của khắp thể giác, tức chẳng phải thủy giác, vì ngoài tâm không có pháp vậy. Nếu không như vậy, chỉ gọi là tương tợ giác, cũng gọi là tùy phần giác. Vậy biết trực đãi hợp đồng bản thể mới được gọi là chân thủy giác vậy. Đã hợp nói bản, thủy tức chẳng phải thủy, đã không nói thủy tức không nói bản. Danh của bản thủy đã mất, chỉ có thể gọi là giác vậy”. Như giải thích trên, nếu vào Tông Kính mới là giác của cứu cánh, chưa vào Tông Kính chỉ xưng là tương tợ giác vậy. Đây tuy xưng giác, mới là bất giác. Nên trong luận nói: “Lại vì giác nguồn tâm nên gọi là cứu cánh giác”, chẳng giác nguồn tâm nên chẳng phải cứu cánh giác, tức nghĩa đó vậy.

Hỏi: Trên nói chân tâm không sinh, vọng niệm khởi diệt, làm sao hội vọng về chân vào đạo của một thừa bình đẳng?

Đáp: Vọng nguyên không thể, vốn tự toàn chân, sao phải lại hội. Nay gọi là người của tình kiến vọng chấp, dẫn trí của Phật tổ khéo léo thấu suốt nguồn tâm, sưu tìm phân tích của kinh luận vi tế thấu cùng biển tánh, khiến chóng thông tình trần, bèn thành chân giác. Như trong luận Thích Ma-hadiễn nói: “Một tâm chân như thể đại thông ở năm người, bình đẳng bình đẳng không sai biệt vậy, cớ sao gọi là năm thứ người giả? Một phàm phu, hai Thanh văn, ba Duyên giác, bốn Bồ-tát, năm Như Lai. Đó gọi là năm. Năm tên như vậy, người tự là năm, chân tự chỉ một. Tại sao như vậy? Chân như tự thể không có tăng giảm, cũng không lớn nhỏ, cũng không có không, cũng không trung biên cũng không đi lại, từ xưa đến nay một tự thành một. Đồng tự làm đồng, nhàm khác bỏ riêng, chỉ một chân như. Cho nên trong kinh các pháp chân như một tướng Tam-muội nói rằng: “Thí dụ Kim cang làm tượng năm thú, năm người bình đẳng cũng lại như thế”. Ở trong các người không có tăng giảm, nên trong luận Đại Thừa Khởi Tín nói: “Tâm chân như là, tức một pháp giới đại tổng tướng pháp môn thể, vì tướng bản tánh tâm chẳng sinh chẳng diệt, tất cả các pháp đều do vọng niệm mà có sai biệt. Nếu lìa vọng niệm thì không tướng của cảnh giới sai biệt”. Xưa trước giải thích: Hiện thấy các pháp sai biệt biến chuyển, cớ sao nói là tánh không sai biệt? Giải thích: Tướng sai biệt là, chỗ biến kế vọng tình của ông làm, xưa nay không thật, như nương mắt bệnh vọng thấy hoa đốm hư không, nên nói đều nương vọng niệm mà có sai biệt. Người nghi ngờ lại nói: Cớ sao được biết nương vọng niệm sinh?

Giải thích: Vì các Thánh nhân lìa vọng niệm vậy, đều là cảnh đó, tức nghiệm cảnh đây quyết định từ vọng sinh. Lại nếu cảnh đây quyết định chẳng phải vọng, quyết định là thật có là Thánh nhân chẳng thấy, nên là mê đảo. Phàm phu đã thấy nên là giác ngộ như chẳng thấy hoa đốm hư không là mắt bệnh, trở lại kết chuẩn cứ đó, nên nếu lìa ở niệm tức không sai biệt vậy, chỗ chấp vốn không, nên chân tâm chẳng động. Do đây tất cả các pháp đều tức là chân như. Đó thì hội tụ vọng hiển bày chân có thể tuyệt dứt nghi ngờ vậy. Như trong kinh Thủ-lăng-nghiêm nói: “Phật dạy: A-nan! Ta chẳng phải bảo ông chấp là chẳng phải tâm, chỉ ông ở tâm vi tế vò xoa, nếu lìa tiền trần có tánh phân biệt, tức chân tâm ông, nếu tánh phân biệt lìa trần không thể, đó thì tiền trần phân biệt sự ảnh”. Người xưa có bài tụng chọn lựa vàng rằng: “Ông chẳng thấy nước đẹp lắng trong ra vàng ròng. Đuổi sóng theo sóng trọn bị chìm, có may được gặp người khéo xét, bươi cát nhặt kỹ tạm biết âm. Nhân đây bèn nhờ ân Hoàng thượng, thẳng vào trong lầu quỳnh tráp báu, một luyện một ánh sáng chiếu diệu, một xoay trên tay một xoay trông, vì đây cát bụi đều báu diệu, nên dụ chúng sinh tâm giác chiếu, chúng sinh vô thủy chìm ba cõi, xưa nay trôi nổi bị cảnh xâm. Đối trần vừa tợ tuệ chân như. Lìa cảnh nguyên không tâm chiếu thể, mê tức một chân gọi hai thể, chỉ vì tâm quần sinh chẳng chiếu, nếu năng đối cảnh thường chân chiếu, tùy trần lìa cảnh một loại tâm, ngày nay Như Lai trừ phân biệt, ý xua tâm chúng sinh vọng tập. Chỉ trừ vọng tập còn thủy chung. Chân chiếu nào vọng chẳng chân tâm”.

QUYỂN 86

Hỏi: Phàm, xác định một tâm, ngoài tâm không pháp, chỗ Thánh giáo ấn lý sự viên dung, chỉ như trong kinh Hoa Nghiêm phẩm Phương tiện nói rõ mười giới mười như, tánh tướng nhân duyên quả báo gốc ngọn, trước sau chẳng lạm, hành tướng chẳng phải hư. Nay chỉ nói một tâm, làm sao hợp giáo?

Đáp: Một tâm tức là thật tướng các pháp, cũng là thật tánh các pháp. Nhưng các pháp tức là thật tướng, thật tướng tức các pháp từ chỗ tâm hiện, tánh tướng toàn đồng. Nương gốc duỗi vết, lý sự chẳng phải khác. Như các gợn sóng động mà thể nước thường bày. Vì nước đoạt sóng, sóng không đâu chẳng tận, tuy các pháp tợ khởi mà tâm tánh luôn hiện, vì tâm gồm thâu pháp, pháp không gì chẳng không. Trong kinh Đại Phẩm nói: “Chẳng thấy một pháp vượt ngoài pháp tánh.” Lại nói: “Tất cả pháp hướng thú sắc là hướng thú chẳng qua”. Như trong Thai Giáo giải thích kinh Pháp Hoa nói về pháp của mười pháp giới mười như nhân quả, tất cả chỉ tâm tạo là, tức tướng như vậy tánh như vậy, thể như vậy, lực như vậy, tác như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, gốc ngọn rốt ráo v.v... như vậy. Tướng như vậy là phàm tướng vì y cứ bên ngoài soi xét mà có thể phân biệt. Trong Thích Luận nói: “Dễ biết nên gọi là tướng, như nước lửa tướng khác nhau thì dễ có thể biết. Như sắc mặt người đầy đủ các tốt lành chăng? Soi xét tướng bên ngoài tức biết bên trong đó, xưa kia Tôn, Lưu tướng hiển, Tào công tướng ẩn, tướng là cất tiếng khóc lớn, bốn biển ba phần trăm họ trà độc, nếu nói có tướng, tối là chẳng biết, nếu nói không tướng bói thì giải suốt, phải tùy thiện tướng là, tin bên ngoài mặt người đủ tất cả tướng vậy. Tâm cũng như vậy, đủ tất cả tướng, tướng chúng sinh ẩn, tướng Di-lặc hiện. Đức Như Lai khéo biết nên xa gần đều ghi nhớ. Chẳng khéo quán là chẳng tin tâm đủ tất cả tướng, phải tùy một thật quán là tin tâm đủ tất cả tướng vậy. Tánh như vậy là, vì căn cứ bên trong chẳng cải đổi, gọi là tánh. Lại tánh gọi là tánh phần, nghĩa của chủng loại, phân phần mà chẳng đồng, mỗi mỗi chẳng thể cải đổi. Như lửa lấy nhiệt làm tánh, nước lấy ẩm ướt làm tánh v.v... chẳng cải đổi căn cứ lý, chủng loại căn cứ sự. Lại, tánh là thật tánh. Thật tánh tức là lý tánh, cực thật không lỗi, tức tên khác của một tâm Phật tánh vậy. Lại, trong kinh Vô Hành nói: “Xưng tánh chẳng động là, tức nghĩa chẳng cải đổi”. Nay nói rõ tánh bên trong chẳng thể cải đổi, như tánh lửa trong tre, tuy chẳng thể thấy nhưng chẳng được nói là không, người lửa vỏ khô khắp cùng đốt cháy tất cả. Tâm cũng như vậy, đủ tất cả tánh năm ấm, tuy chẳng thể thấy mà chẳng được nói không, dùng mắt trí quán đủ tất cả tánh. Thể như vậy là, thể là nghĩa chủ chất, mười pháp giới ấm nhập đây, đều dụng sắc tâm làm thể chất. Lực như vậy là, nghĩa kham làm như Vương Lực Sĩ ngàn muôn kỷ năng. Bệnh nên gọi là không bệnh lành có dụng, tâm cũng như vậy, có đủ mười lực của Như Lai. Bệnh phiền não nên chẳng năng vận động, như thật quán sát đó đủ tất cả lực. Tác như vậy vận động là nghĩa kiến lập, nếu lìa tâm là không chỗ làm, nên biết tâm đủ tất cả tác. Nhân như vậy là, chiêu quả làm nhân, cũng gọi là nghiệp, mười pháp giới nghiệp khởi tự nơi tâm. Chỉ khiến có tâm, các nghiệp đầy đủ, nếu không ở tâm tức không các nghiệp vì tất cả nghiệp thiện ác Thánh phàm v.v... chỉ tâm tạo vậy. Duyên như vậy là, duyên gọi là duyên do trợ nghiệp đều là nghĩa duyên, vô minh, ái v.v... năng đượm nhuần nơi nghiệp, tức tâm làm duyên, lìa tâm duyên chẳng khởi. Quả như vậy đạt được là quả, nếu tự tâm tạo thiện đạt được quả lạc, nếu tự tâm tạo ác, đạt được quả khổ. Báo như vậy, thù đáp nhân là báo, một niệm tâm chánh diệu báo thù đáp nhau, một niệm tâm tà, quả kém ngầm hiện, gió hòa vang thuận, hình ngay bóng thẳng thì tà chánh tại tâm, được mất do ngã, tướng làm gốc báo làm ngọn, gốc ngọn đều vào duyên sinh, duyên sinh nên không, thì không v.v... vậy. Tướng chỉ có chữ, báo chỉ có chữ, đều giả khái niệm, thì giả v.v... vậy. Lại tướng tức không tướng, không tướng mà tướng, chẳng phải tướng, chẳng phải không tướng, báo cũng vậy, mỗi mỗi đều vào khoảng như thật, thì trung v.v... Nếu ba đường xấu ác dùng tiêu biểu khổ làm tướng, quyết định ác làm tánh, xô bẻ sắc tâm làm thể, lên dao vào vạc làm lực, khởi mười bất thiện làm tác, nghiệp ác hữu lậu làm nhân, ái thủ v.v... làm duyên, ác tập quả làm quả, ba ác thú làm báo, gốc ngọn đều si làm v.v... cho đến Bồ-tát Phật là nhân duyên làm tướng, liễu nhân làm tánh. Chánh nhân làm thể, tứ hoằng làm lực, sáu độ muôn hạnh làm tác, trí tuệ trang nghiêm làm nhân, phước đức trang nghiêm làm duyên, Tam-bồ-đề làm quả, Đại Niếtbàn làm báo, gốc ngọn đều trí làm dẫn trước làm v.v... nên biết mười giới mười như nhân duyên thiện ác, quả báo phàm Thánh đều là một tâm, duyên luận pháp riêng biệt, đó mới là Từ phụ của phát tâm Bồ-đề cứu cánh, là Đạo sư đưa qua đồng trống hư vọng sinh tử là bến bờ của chuyển phàm vào Thánh, là đường tắt của hội tụ tục về chân vậy. Thí như nhạc trời, tùy niệm của chúng sinh mà phát ra các thứ âm thanh, cũng như châu ma-ni tùy chỗ ý mong cầu mà mưa các thứ báu, tâm đây vô tận, mang chứa pháp nào cùng, sắc pháp còn vậy, chân linh đâu kém.

Hỏi: Phàm Thánh đã đồng một tâm, cớ sao Thánh nhân thành Nhất thiết chủng trí, phàm phu riêng việc chẳng biết ư?

Đáp: Chỉ vì phàm phu trái giác hợp trần, bị trần ngăn ngại, mê chân theo vọng, bị vọng cản ngăn. Do đó trong giáo gièm chê đó là sống mù, chẳng mở mắt trí, cười trách đó là tục điếc, đâu đạt thật nghe, tự tâm và tha tâm cả hai đều chẳng rõ, sao có thể bác thông muôn loại thành Nhất thiết chủng trí ư? Như trong kinh Thủ Hộ Quốc Giới Chủ Đà-lani nói: “Phật dạy: Này thiện nam! Nếu các Phật tử muốn được thành A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồđề, nếu muốn khéo hay biết tự tâm, cho đến trước nên phát khởi tâm đại từ bi, khắp vì chúng sinh quy y Tam bảo, thọ giới Bồ-tát v.v...” Vì vậy, tự tâm khó biết chớ năng khéo xét, chẳng vào Tông Kính sao năng chiếu sáng, nếu rõ tự tâm tức năng chóng phát tâm Bồ-đề. Do vậy, tâm đó miên mật người đời chẳng năng biết. Người xưa có thiên Tâm Ẩn nói là: “Lớn của trời đất, có thể dùng sao chương trình lường vậy, động của ba thứ ánh sáng, có thể dùng sao khuê bày tỏ đó vậy. Tiếng của sấm sét, có thể dùng chuông trống truyền vậy, biến của gió mưa có thể dùng âm luật biết vậy. Nên có tượng có thể thấy, chẳng năng núp lượng đó, có ánh sáng có thể thấy, chẳng năng ẩn vết đó. Có tiếng có thể nghe, chẳng năng giấu vang đó, có sắc có thể xét, chẳng năng diệt tánh đó. Vì, phàm trời đất âm dương khó rõ, còn có thể dùng thuật số đo lường mà tai mắt biết, đến nơi tâm người thì khác với đó vậy. Tâm ở bên trong, tình núp bên trong, chẳng thể dùng toán số mà lượng vậy. Tâm của người phàm, hiểm ở núi sông, khó biết ở trời, trời có xuân hạ thu đông, kỳ hạng của sớm tối. Người là dáng hậu tình sâu chẳng thể mà biết vậy, có tâm cứng mà sắc mềm, dung mạo quả quyết mà chất yếu, ý mạnh mà hành mạn (phóng túng, tánh tức giận mà sự thong thả, giả trang sức ở ngoài để che tình đó, mừng mà hẳn vui, giận mà hẳn ghét, cười chưa hẳn vui sướng, khóc chưa hẳn đau buồn. Tạng đó tình ẩn, hành chưa dễ lường vậy. Tha tâm còn chẳng thể lường, cảnh ngoài thì sao năng biết. Nên trong luận Đại Thừa Khởi Tín nói: “Chúng sinh vì nương nhiễm tâm năng kiến năng hiện, vọng thỉ cảnh giới mê tánh bình đẳng vậy. Vì tất cả pháp thường lắng không có tướng khởi, vô minh bất giác vọng cùng pháp trái nghịch vậy, chẳng năng được tùy thuận thế gian tất cả cảnh giới các thứ biết vậy, cho nên ngoài tâm không pháp ngoài pháp không tâm, chỉ rõ một tâm, các trần tự hội, khởi tâm trái pháp tức trái pháp thể, đã cũng pháp trái nghịch thì chẳng thông đạt, nếu năng thuận tánh pháp giới hợp tâm chân như thì Bát-nhã vô vi không chỗ chẳng biết vậy.

Hỏi: Nếu rõ một tâm, sao dùng rộng biết các pháp?

Đáp: Một tâm là tổng, các pháp là biệt, biệt tuy từ tổng nhưng sự khởi ngàn sai, nếu chẳng tử tế thông rõ, ngăn chiếu đều vận thì lý đơn sự lẽ, chẳng vào viên thông. Trong kinh Duy-ma nói: “Khéo hay phân biệt tướng các pháp, ở Đệ nhất nghĩa mà chẳng động”. Trong Thai Giáo nói: Ở các pháp môn biển giáo văn nghĩa phải rõ chẳng phải chữ chẳng phải chẳng phải chữ, song chiếu chữ chẳng phải chữ, chẳng thể nói, chẳng phải chẳng thể nói, chẳng thể thấy, chẳng phải chẳng thể thấy, chỗ nào chọn lựa, chỗ nào chẳng chọn lựa, chỗ nào nhiếp, chỗ nào chẳng nhiếp, chỗ nào bỏ, chỗ nào chẳng bỏ, phải thì đều phải, quấy thì đều quấy, năng ở sắc mực thông đạt tất cả quấy, ở tất cả quấy thông đạt tất cả phải. Thông đạt tất cả quấy, chẳng phải quấy là tất cả pháp tà tất cả pháp chánh, như trùng ăn gỗ chẳng biết chỗ về, tợ chim nói không, sao biết chỉ thú.

Hỏi: Một sắc một hương không gì chẳng là Trung đạo, lấy gì làm Trung đạo?

Đáp: Tạm căn cứ bốn câu phân biệt của các sư xưa trước. Như trong Trung Luận Huyền Xu nói: “Hỏi: Ông lấy chẳng sinh chẳng diệt làm Trung đạo, có Trung đạo đây chăng? Nếu có Trung đạo đây thì chẳng gọi là Trung đạo. Nếu không Trung đạo đây cũng gọi là Trung, cả hai đều chẳng thể được sao gọi là Trung đạo?

Đáp: Có bốn nghĩa: Một, có Trung đạo đây. Tại sao? Vốn đem Trung đạo phá thiên lệch, sao được không Trung đạo? Vì có nghĩa không, nên các pháp được thành. Nếu không nghĩa không, thì tất cả chẳng thành. Không tức là Trung đạo vậy; Hai, không Trung đạo đây. Tại sao? Vì phá bệnh thiên lệch, cho nên nói Trung, bệnh thiên lệch đã mất, thuốc trung phải bỏ. Nếu có Trung đạo trung trở lại là bệnh; Ba, cũng có Trung đạo cũng không Trung đạo. Tại sao? Chí lý hư còn, nên gọi là cũng có, không hình không tướng nên gọi là cũng không. Như trong kinh Niết-bàn nói: “Trong ngoài hợp nên gọi là Trung đạo”; Bốn, chẳng phải có Trung đạo chẳng phải không Trung đạo. Tại sao? Đã nói Trung đạo, sao được là có? Đã nói Trung đạo, sao được là không? Đây là một qua mà nói vậy, nếu trở lại luận thì chẳng phải bốn câu. Đó là tuyệt đường ngôn ngữ, dứt chỗ tâm hành.

Hỏi: Nếu vậy cớ sao thủ định?

Đáp: Nếu là có chấp thì không chỗ chẳng ngại, nếu là không chấp thì không chỗ chẳng thông. Như trong luận Đại Trí Độ nói: “Nếu người thấy Bátnhã thì gọi là bị trói buộc, nếu chẳng thấy Bát-nhã cũng gọi là bị trói buộc. Nếu người thấy Bát-nhã thì gọi là giải thoát, nếu chẳng thấy Bát-nhã thì gọi là giải thoát. Trung đạo tức thật tướng là có vậy, Trung đạo tức tánh không là không vậy, cũng gọi là giả danh, cũng có cũng không vậy, cũng gọi là Trung đạo, chẳng phải có chẳng phải không vậy”. Nên biết không chấp thì bốn câu đều phải. Như trong kinh Niết-bàn nói: “Có duyên uống độc sống, không duyên uống độc chết, có uống cam lồ tổn thương mạng mà chết sớm, hoặc có uống cam lồ mà thọ mạng được lâu dài” là nghĩa đây vậy.

Hỏi: Là trung tức là đạo, hay lìa trung tức có đạo? Là đạo tức là trung hay lìa đạo tức có trung?

Đáp: Như Trung phẩm nhân kia, đây thì là trung mà chẳng phải đạo. Như nhân đạo Tam thừa kia, đây tức là đạo mà chẳng phải trung, như Bồtát đạo kia, đây tức cũng Trung cũng đạo. Như đạo ngoại đạo kia, đây tức chẳng phải trung lại chẳng phải đạo. Nay nói Trung đạo, tức là Bồ-tát đạo, lìa trung không riêng đạo, lìa đạo không riêng trung, tức lấy đạo làm trung, tức lấy trung làm đạo. Nghĩa trung đây tức là một tâm. Đạo tức là tâm, tâm tức là đạo, vì chân tâm khắp cùng tất cả xứ vậy. Do đó, nói một sắc một hương không gì chẳng là Trung đạo. Trước biện về chỗ thấy chẳng đồng, nên luận được mất. Nếu vào Tông Kính thì hết sạch đồng bình đẳng. Ba thừa năm tánh hoặc trong hoặc ngoài không gì chẳng phải là một tâm Trung đạo vậy. Lại, Trung đạo là vì một chân tâm chẳng trú hai biên có không, nên gọi là Trung đạo. Nếu nói có đó, tất cả chẳng thể tìm, nếu nói không đó, tánh chẳng thể đổi. Do đó, Bồ-tát dùng hành khế lý quán tất cả pháp, song ngăn song chiếu song mất song lưu. Thai giáo nói rõ song mất chánh vào thường ngầm Trung đạo, không tâm mất chiếu, mặc tình lặng biết. Song mất tức mất không mất giả, nên gọi là tịch (lặng), chánh vào chỉ là vào trung, nên gọi là chiếu, vừa mất vừa chiếu, nên gọi là song lưu, ngăn lưu căn cứ trí dụng, mất chiếu căn cứ trí thể. Không tâm thích trí thể, trí thể thành tựu, chẳng phải tác ý niệm niệm quên chiếu mà thường mặc tình. Vừa lặng lẽ vừa biết, lặng lẽ tức là mất, biết tức là chiếu. Lại, năng sở đều lặng lẽ nên gọi là song mất, môn lý rõ ràng, xưng làm chánh nhập, chánh vào thì lý không gì chẳng khế, song mất thì tướng không gì chẳng lặng, đó tức là chẳng trú không có, ngăn chiếu phân minh chẳng trệ hai biên, mới thành chánh vào. Trong Triệu Luận nói: “Có tâm là, các thứ ấy vậy, không tâm là thái hư ấy vậy. Các thứ ở nơi vọng niệm, thái hư tuyệt nơi linh chiếu, chẳng thể để ở vọng tưởng. Tuyệt linh chiếu mà nói Thánh tâm ư? Nên phải ngăn chiếu không trệ, thể dụng tự tại, mới thành môn của lý hạnh”. Trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Bồ-tát trụ là chẳng nghĩ bàn, ở trung nghĩ bàn chẳng thể tận. Trú là địa chẳng thể nghĩ bàn, tư và chẳng phải tư đều tịch diệt, nếu chỉ ngăn cảnh nghĩ bàn là, thì phàm Thánh tuyệt phần, nên chẳng phải chỉ ngăn thường tâm, cũng nên dung thường tâm. Vậy thì ở Trung nghĩ bàn chẳng thể tận, ngăn dung không hai, thì tư và chẳng phải tư thể đều tịch diệt, mới gọi là chân chẳng nghĩ bàn vậy. Vậy thì ngăn chiếu không kẹt, lý sự chẳng khuyết, tức ngăn mà chiếu vậy. Song chẳng phải tức là song hành, tức chiếu mà ngăn vậy. Song hành tức là song dứt trừ, chẳng hoại gốc mà thường ngọn, muôn hạnh lẫn lộn, chẳng hoại ngọn mà thường gốc, một tâm luôn lặng lẽ. Do đó, sắc trần thể lặng lẽ, hương giới tánh không, chấp làm biên tà của nó không, đạt thành trung lý Duy thức. Pháp pháp đều tròn biển nguyện, trần trần đều đủ hạnh môn, ứng niệm mà sáu độ đều thành, mục kích mà chân tâm cùng khắp. Như trong kinh vô tận ý Bồ-tát nói: “Cõi nước Như Lai Phổ Hiền, các Bồ-tát kia đang lúc thấy Phật, sau đó năng phân biệt các nghĩa thâm diệu, đầy đủ thành tựu sáu Ba-la-mật. Tại sao? Nếu chẳng thủ sắc tướng tức là đầy đủ Đàn Ba-la-mật, nếu trừ sắc tướng tức là đầy đủ Thi Ba-la-mật, nếu quán sắc tận, tức là đầy đủ Sằng-đề Ba-la-mật. Nếu thấy sắc tịch diệt tức là đầy đủ Tỳ-lê-da Ba-la-mật. Nếu chẳng hành sắc tướng tức là đầy đủ thiền Ba-la-mật. Nếu chẳng hý luận sắc tướng tức là đầy đủ Bát-nhã Ba-la-mật. Các Bồ-tát đó tức lúc quán Phật, sau đó đầy đủ sáu Ba-la-mật như vậy được vô sinh nhẫn.

Hỏi: Môn Duy thức đây, với người chưa rõ dùng phương tiện gì mà vì chỉ dạy?

Đáp: Người mới giác, trước dùng sánh biết sau phải tin nghiệm. Trong luận Nhiếp Đại Thừa nói: “Tất cả thời xứ đều chỉ có thức, có đó chưa được chân trí giác là ở trong Duy thức làm sao sánh biết? Do Thánh giáo và chánh lý, như Thánh giáo nói ba cõi như vậy đều chỉ có tâm. Lý hiển bày là, như ở trong tâm định tùy chỗ quán thấy các máu ứ xanh v.v... chỗ thấy ảnh tượng tất cả không riêng máu ứ xanh v.v... mọi sự, chỉ thấy tự tâm. Lại nói: Chủng bên ngoài làm duyên bên trong, pháp chủng tử bên ngoài đều là chủng sinh cả, thọ dụng nghiệp huân chủng tử, nương chỗ lực A-lại-da biến hiện. Cho nên chủng bên ngoài lìa bên trong không riêng có chủng. Như có kệ tụng nói:

“Trời đất gió hư không
Bờ ao mới biển lớn
Đều chân chỗ trong làm
Nghĩa ngoài đều chẳng có”.

Lại có kệ tụng khác nói:

“Thánh giáo và chánh lý
Mỗi riêng có công năng
Là sinh ở tin tuệ
Không một chẳng thành vậy”.

Vì vậy, thức sinh thức đây gọi là tướng phần, biết tướng đây chỉ là tâm bên trong biến, nghĩa bên ngoài chẳng thành vậy. Như có kệ tụng nói:

“Ở một thân đoan nghiêm dâm nữ
Xuất gia đắm dục và chó đói
Ngửi thây xướng đẹp ăn uống ngon
Ba thứ phân biệt mỗi chẳng đồng”.

Vì tiền trần không tướng quyết định, chỉ tâm tự phân xấu đẹp. Nếu pháp bên ngoài là thật, cớ sao mỗi tùy tự thấy chẳng đồng? Vì vậy sánh biết chỉ tâm tự hiện chẳng phải cảnh giới khác. Các bậc Cổ đức nói: “Bồ-tát từ lúc mới chánh tin bắt đầu phát tâm, tức quán tự tánh bản thức thể của nhân quả duyên khởi, được thành chánh tín. Nên trong luận Nhiếp Đại Thừa nói: “Được bản thức kia nói Bồtát mới khởi, nên trước quán các pháp như thật nhân duyên”, là nghĩa đây vậy. Như thật là, không gì chẳng phải một tâm, ngoài ra đều là hư vọng. Nếu có kẻ mạnh dẫn vào thẳng, người chóng ngộ viên tin, tức lúc mới phát tâm, bèn thành Chánh giác, chẳng động vị của trần lao, ngồi khắp tất cả đạo tràng. Chẳng phải dời môn của chỗ tập, dạo khắp cõi nước mười phương. Vì thế, trong kinh Pháp Hoa có kệ tụng nói:

“Được thừa như vậy
Khiến các con thấy
Ngày đêm kiếp số
Thường được dạo chơi
Cùng các Bồ-tát
Và chúng Thanh văn
Thừa đây thừa báu
Thẳng đến đạo tràng
Vì nhân duyên đó
Khắp cầu mười phương
Lại không thừa khác
Trừ Phật phương tiện
Nếu năng nương thật
Tu hành quả mãn
Chẳng lìa một niệm”.

Như Hoàn Nguyên Quán nói: “Cuộn buông vô ngại, ẩn hiển đồng thời, một khoảng tuyệt thủy chung đó, ra vào mất ở trong ngoài. Tâm mới đầu chánh giác, nhiếp nhiều đời ở sát-na, mười tín đạo tròn một niệm gồm nói Phật địa, tức không sinh hiển bày mà huyễn có lập. Hai tướng hết sạch mà hai sự còn, gồm pháp giới mà gồm một trần, giở một thân mà mười thân hiện”.

Hỏi: Đã lấy Thánh giáo chánh lý sánh biết, đã sinh thắng giải muốn vào Thánh vị, duyên cảnh giới nào thân chứng tu hành.

Đáp: Chỉ có nhân không pháp không tức vào quán đây. Nhân pháp vì sao thành không? Vì chỉ có ý ngôn phân biệt, nên trong luận Nhiếp Đại Thừa nói: “Từ nguyện lạc vị cho đến cứu cánh vị, nếu muốn vào Duy thức quán tu gia hạnh, duyên cảnh giới gì? Duyên ý ngôn phân biệt làm cảnh. Lìa đây không riêng có cảnh bên ngoài. Tại sao? Ý ngôn phân biệt đây tợ văn tự nói phô và nghĩa hiển hiện, chỉ có ý ngôn phân biệt, không riêng có danh ngôn. Bồ-tát năng thông đạt gọi là không chỗ có thì lìa trần tà chấp bên ngoài. Lại, nghĩa đây nương danh ngôn chỉ ý ngôn phân biệt. Trước vì dứt trừ danh, từ đây trở xuống nương danh dứt trừ nghĩa. Nghĩa là, tức chỗ sáu thức duyên cảnh lìa sinh không riêng cảnh đây. Danh ngôn đã chỉ nương phân biệt vậy. Nghĩa cũng không riêng có thể. Bồtát thông đạt nghĩa không chỗ có, cũng lìa trần tà chấp Bát-nhã ba-la-mật-đa. Lại, danh nghĩa đây tự tánh sai biệt, chỉ giả nói là lượng. Trước đã dứt trừ danh nghĩa. Danh nghĩa đã không tự tánh và sai biệt, làm sao có thể lập. Nếu lìa giả nói không riêng có danh nghĩa tự tánh và danh nghĩa sai biệt. Do chứng thấy hai pháp đây chẳng thể được, nên gọi là thông đạt. Trong Lục Hạnh Pháp, Thiền sư Trí Chỉnh nói: “Bồ-tát Đại thừa chóng ngộ, năng quán Duy thức không không bên ngoài” là nghĩa là quán tướng không chỉ là không giải, tâm làm không giải, không tướng không bên ngoài ấy vậy. Hàng đại căn biết Duy thức thì diệt không giải lìa các duyên quán. Nên trong luận Đại Trí Độ nói: “Bồ-tát lúc hành Bát-nhã Ba-la-mật, quán khắp các pháp đều không, không cũng là không, diệt các quán được Bát-nhã Ba-la-mật”. Lấy văn đây để chứng minh không tướng không bên ngoài đại căn quán trí thì chứng không, không nghĩa là pháp không. Không có đều là vọng thấy, đều là đương thời ý phân biệt làm. Như tâm người khởi thì chỉ thấy người, tâm vi trần khởi thì chỉ thấy vi trần, lúc tâm không khởi thì chỉ thấy không. Cho nên không có đều là tâm làm, nên các phàm Thánh thấy cảnh chẳng đồng, đều là đang lúc ý ngôn có khác. Vì vậy, thế đế mỗi mỗi chỉ có thức, giác không biên bên ngoài, thì gọi là chân đế. Vì hai đế đó chẳng lìa nhau vậy, tức lấy không sinh bên ngoài làm chân đế. Cho nên nếu năng quán thấy Duy thức, tức biết không bên ngoài thì cũng đạt chân. Lúc đạt chân đây, thì không giải bên ngoài, bèn dứt trừ tục đế tâm của dối chấp. Nên trong luận Nhiếp Đại Thừa nói: “Biết trần không chỗ có, thông đạt chân, biết chỉ có thức, thông đạt tục. Nếu chẳng thông đạt tục, không do đâu năng được thấy chân, vì lìa tục không chân vậy. Nếu chẳng thông đạt chân, không do đâu dứt trừ tục, vì tục không riêng biệt thể vậy. Do đó, thông đạt chân tục do năng giải lý Duy thức vậy”. Dùng năm đây để chứng minh quán Duy thức là, tức đạt hai đế, năng dứt trừ vọng tâm, tuy là căn cứ thật Duy thức không cảnh, xứng tình thì có phàm Thánh lớn nhỏ. Nghĩa là nếu thấy trần, ý cho là người, như ý ngôn đây thì là phàm phu. Nếu quán thân đây, ý cho là trần, như ý ngôn đây thì là Nhị thừa. Nếu quán tế trần, ý cho là thể không, như ý ngôn đây thì là tiểu Bồ-tát. Nếu quán không có biết đều là ý ngôn tức là Đại Bồ-tát thừa. Nên các chúng sinh tuy đều Duy thức, ý ngôn chẳng đồng nên phàm Thánh mỗi khác. Nên người đối đãi căn biết Duy thức là luôn quán tự tâm ý ngôn làm cảnh. Lúc mới quán đây tuy chưa thành Thánh, phân biết ý ngôn thì là Bồtát. Nên trong luận Nhiếp Đại Thừa nói: “Mới đầu tu quán thì là phàm phu Bồ-tát. Các thứ đây năng quán pháp không sâu mầu, tức cũng từng trải qua từng trải qua Tiểu thừa quán lại, chẳng phải là chẳng hiểu chúng sinh không ngã”. Một qua tức năng chóng thấy pháp không, nên trong luận Nhiếp Đại Thừa nói: “Nếu được pháp không ngã hẳn trước được nhân không ngã”. Nên biết học đại cốt yếu trước từ tiểu, tuy là từ tiểu nhanh chậm riêng biệt, nghĩa là quán sinh không chấp làm cùng cực, sau quán tướng không, tiến học gọi là chậm, nếu có tập lâu, biết tiểu chẳng phải cùng cực, tức giải không không gọi là chóng ngộ, tuy biết ngoài tâm không cảnh, nhưng lúc vào quán cũng từ trần khởi. Vì sắc trần đó chỉ Phật chẳng thấy, vì Phật thường chứng Duy thức không cảnh, vọng tưởng hết vậy, chẳng thấy trần bên ngoài vậy. Luận kia nói: Như Lai thường chẳng xuất quán nên vắng lặng. Nếu Đại Bồ-tát lúc vào chân quán thì biết Duy thức cũng chẳng thấy trần vậy. Luận kia nói: Bồ-tát nếu vào quán không phân biệt, tất cả trần chẳng hiển hiện. Dùng văn đây chứng minh nên biết Đại Thánh lúc vào chân quán đều chẳng thấy sắc. Ngoài ra, Thánh phàm chớ hỏi lớn nhỏ. Chưa vào không quán thì đều thấy trần, hàng đại căn xuất quán tuy vọng thấy trần, nếu lúc vào quán thì biết Duy thức, vì tự biết đó vọng làm trần giải, không trần có thể phá, bèn chứng Duy tâm, nếu năng quán Trung rõ biết Duy tâm, sau tuy xuất quán vọng thấy tự tha, lúc sau đó lại tư duy biết tự vọng thấy, chẳng đồng phàm tiểu định chấp có bên ngoài, cho đến quán không còn thấy năng sở, nên luận kia nói: Bồtát dùng trí hậu đắc không phân biệt quán tướng nhân quả đây, nhưng không điên đảo, chẳng chấp có trần bên ngoài căn bên trong, chỉ thức là thật có pháp, nên biết hàng đại căn một chứng Duy tâm, sau đó tuy xuất quán chẳng chấp có bên ngoài. Nếu lúc quán tự tâm vọng thấy cảnh thì biết chúng sinh mỗi mỗi chỉ có thức. Nên Đại Bồ-tát cho đến Phật lại thường biết chúng sinh tâm vọng thấy nghĩa là biết chúng sinh hoặc làm danh giải. Danh thì là phàm ý ngôn phân biệt, tình nghĩa là tợ danh tự bên ngoài hiển hiện, lý là tâm làm, là tướng tự tâm, hoặc làm chỗ dưới sinh nói pháp giải, pháp nghĩa thì là ý ngôn phân biệt, tình nghĩa là có pháp nghĩa bên ngoài hiển hiện. Lý thật pháp nghĩa cũng là tướng tâm. Nên luận kia nói: Mười hai bộ loại kinh đó gọi là giáo, chỗ mười hai bộ loại kinh phân tích đó gọi là lý, tướng tâm tợ đây giáo hiển hiện. Dùng văn đây chứng minh, cảnh giới chỗ duyên thảy đều tâm làm, gọi là tướng tâm, chỉ tướng tâm đây cũng gọi là ảnh tâm, cũng gọi là thức tướng và cảnh giới thức. Chủng các phàm tiểu nghĩa là cùng tâm khác. Lý không riêng biệt thể, thật chỉ một thức. Nên luận kia nói: Duy thức chẳng vượt ngoài hai pháp:

Một tướng thức; hai kiến thức, tợ trần hiển hiện gọi là tướng, nghĩa là cảnh sở duyên, tợ thức hiển hiện gọi là kiến, nghĩa là thức năng duyên, định tâm cũng vậy. Hiển hiện tợ trần, nghĩa là khác định tâm, một phần tợ thức, một phần tợ trần. Hai đây thật chỉ là thức. Dùng văn đây chứng minh, cảnh giới tướng thức tức tâm không riêng biệt, chỉ tình vọng thấy. Vì đó chỉ là vọng niệm làm vậy, tức đây là tướng thức cũng gọi là tướng kết, nên luận kia nói: Kết có hai thứ: Một, tướng kết; Hai, thô trọng kết. Tướng kết khó giải, thô trọng kết khó diệt. Tâm phân biệt trần gọi là tướng kết. Do phân biệt đây khởi các hoặc dục sân v.v... gọi là thô trọng kết. Nếu được trí không phân biệt tức giải tướng kết. Tướng kết chẳng khởi, thô trọng tức tùy diệt. Dùng văn đây chứng minh, cảnh là tướng kết, phàm tiểu mê chấp, gọi là khó giải, cho nên các pháp danh đó và nghĩa đều là tâm làm, phàm tiểu chẳng biết, lý thật chỗ vô thủy duyên danh nghĩa, thường là phàm phu ý ngôn phân biệt, nên luận kia nói: Phàm phu từ gốc lại, ý ngôn phân biệt có hai thứ: Một tợ danh, hai tợ nghĩa. Danh nghĩa nhiếp tất cả pháp đều hết. Danh nghĩa đây chỉ là chỗ ý ngôn phân biệt làm, lìa đây không riêng có các pháp khác. Dùng văn đây chứng minh, nên biết phàm phu vọng thấy cảnh giới hoặc danh hoặc nghĩa đều là ngay lúc ý ngôn phân biệt, như ăn lang đãng, vọng thấy lửa kim, căn cứ vọng tình kia ý cho là thật, chẳng biết vọng thấy cho là có lửa bên ngoài, căn cứ thật chỉ là ý làm lửa giải. Lửa thì chỉ là ý ngôn phân biệt, cho là có danh lửa. Danh là ý ngôn cho là có sự lửa, sự là ý ngôn chúng sinh vọng thấy tự tâm tha thân địa, thủy, hỏa, phong v.v... đều cũng tợ kia. Tuy là căn cứ thật nghĩa chỉ thức không ngoài khác, căn cứ phàm vọng tình cho là có năng sở. Nên luận kia nói: Nghĩa Duy thức chẳng mất, cũng chẳng không có nghĩa năng thủ sở thủ, tuy là căn cứ tình cho là có trong ngoài, lý chỉ một tâm, không riêng có trần thể, nêu luận kia nói: Chỗ thức biến khác tuy có trong ngoài sự tướng chẳng đồng, thật chỉ một thức, không có thể trần v.v... riêng biệt. Nên biết tự tha sự tướng trong ngoài chỉ là một tâm chuyển biến vọng giải, nên các Đại Thánh biết sinh vọng thấy, tự luôn chẳng thấy, phàm chỗ thấy cảnh là như người chẳng ăn lang đãng, chỉ thấy người khác vọng thấy lửa kim, tự chẳng thấy sự lửa trong không, Phật biết Duy thức. Sự đó tợ đây, nên chẳng đồng phàm vọng thấy cảnh giới, vì sinh vọng thấy vốn không trần bên ngoài, cho nên Như Lai luôn chẳng thấy sắc, chỉ phàm là Thánh có thấy chẳng thấy, chỉ chân khác vọng chớ chẳng Duy thức. Phàm Duy thức ngay là vọng tâm vậy. Trong luận Duy thức có kệ tụng nói:

“Duy thức không cảnh giới
Không trần hư vọng thấy”.

Nếu Phật Duy thức chỉ có chân tâm, nên trong luận Nhiếp Đại Thừa nói; “Chư Phật Như Lai hành xứ chỉ có chân thức, ngoài ra không thức nào khác. Dùng văn đây chứng minh, Phật không thức vậy, nên chẳng đồng phàm vọng thấy cảnh bên ngoài, vì thật Duy thức vốn không bên ngoài vậy, nghiệp chẳng đồng là, một chất khác thấy, như người thấy nước, quỹ thấy là lửa, cá cho là nơi ở, trời lấy làm đất. Lại như Xá-lợi-phất vọng thấy cõi uế, Bồ-tát Loa Kế tức đây thấy tịnh. Nếu khiến thật có nước lửa uế tịnh, đồng xứ phòng ngại nhau chẳng được hòa hợp, vì mỗi vọng thấy bằng không bên ngoài vậy nhiều tâm cộng xứ được làm giải riêng. Nếu các chúng sinh đồng nghiệp là, vọng thấy thì đồng lại không giải riêng, đồng nghiệp đây là thay đổi nhau làm nhân. Vọng tưởng thấy nghe chỉ tâm duyên hợp, nên trong luận Duy Thức nói: “Tất cả chúng sinh hư vọng phân biệt tư duy nhớ nghĩ kia nói ta nghe, nương người trước kia nói là ý thức, người ở đây nghe là ý thức, khởi tâm như vậy, kia nói ta nghe, mà thật không có cảnh giới trước kia. Kệ tụng đó nói đắp đổi cộng tăng thượng nhân tâm kia đây duyên hợp. Dùng văn đây chứng minh, nghiệp tương do là đắp đổi hỗ tương làm nhân, mỗi vọng thấy nghe, vì sáu đường đó đều tâm duyên hợp. Ba cõi thì là Duy tâm chuyển làm, nên trong kinh Thập Địa nói: “Ba cõi hư vọng chỉ một tâm làm”. Luận tự giải thích rằng: Một tâm làm là, Duy tâm chuyển vậy, nên biết ba cõi đồng thấy riêng thấy đều là tự tâm chuyển biến giải khác. Đồng thấy nghe là, tuy tâm duyên hợp, tâm không hình tướng luôn chẳng phải trong ngoài. Nếu cho là ngoài tâm có tha tâm là, thì là vọng giải, thật không thức bên ngoài. Nên trong luận Duy Thức nói: “Mà thật không có thức bên ngoài có thể thủ”. Cho đến hàng Nhị thừa biết tha tâm là, cho rằng có thức bên ngoài, cũng bèn là vọng. Nên luận kia nói: Hư vọng phân biệt tâm đây biết tâm kia, tâm kia biết tâm đây. Dùng văn đây chứng minh, thật không thức bên ngoài, ngay là phàm tiểu vọng làm giải bên ngoài. Nên luận kia nói: Trí tha tâm là chẳng như thật biết. Tại sao? Vì tự tâm bên trong hư vọng phân biệt lấy làm tha tâm. Chẳng năng rõ biết.

Hỏi: Nếu nói phàm tiểu làm giải tha tâm, cớ sao được cùng tha tâm tương ưng? Giải thích: Do trước phương tiện tưởng làm tha giải, tợ tha giải nên được cùng tương ưng. Phàm tiểu chẳng biết tự làm tha giải, bèn cho rằng nay ta biết tâm người khác, tuy làm tha giải được cùng tương ưng, nghĩa là có năng sở, còn chẳng phải thật biết, nên luận kia nói: Trí tha tâm thế gian là, ở hai pháp kia chẳng như thật biết, vì kia năng thủ có thể thủ cảnh giới hư vọng phân biệt vậy. Dùng các văn đây v.v... chứng minh không thức bên ngoài, nên làm giải bên ngoài đều chẳng phải thật biết. Nếu quán tâm thức vốn không hình tướng, chẳng phải kia chẳng phải đây không lại không đi, chẳng nương giải bên ngoài, lúc dứt phân biệt thì là thật biết tất cả sinh tâm. Nên trong luận Đại Trí Độ nói: “Nếu tất cả chúng sinh tâm tâm số pháp tánh thật có chẳng hư dối là, Phật chẳng năng biết tâm tâm số pháp của tất cả chúng sinh. Vì tất cả chúng sinh tâm tâm số pháp tánh thật hư dối không đến không đi, nên Phật năng biết tâm tâm số pháp của tất cả chúng sinh. Thí như Tỳ-kheo tham cầu chẳng được cúng dường, không chỗ tham cầu thì không chỗ thiếu ngắn, ngoài tâm như vậy. Nếu phân biệt thủ tướng thì chẳng được thật pháp. Vì chẳng được thật pháp nên chẳng năng thông đạt biết tâm tâm số pháp của tất cả chúng sinh. Nếu chẳng thủ tướng, không chỗ phân biệt thì được thật pháp, nên năng thông đạt biết tâm tâm số pháp của tất cả chúng sinh không chỗ trở ngại”. Dùng văn đây chứng minh tâm không đi lại, Phật biết không bên ngoài xứng thật năng biết, chẳng đồng phàm tiểu. Trí tha tâm là hướng duyên bên ngoài còn tạp vọng thức. Nên trong luận Duy Thức có kệ tụng nói:

“Tha tâm biết ở cảnh
Chẳng như thật hay biết
Vì chẳng lìa thức cảnh
Chỉ Phật như thật biết”.

Dùng văn đây chứng minh, Phật biết Duy thức tự làm tha giải, không bên ngoài có thể thủ, vì biết tự tâm làm các tâm giải, trọn đoạn tâm hướng bên ngoài phân biệt. Trong kinh Nhập Lăng-già nói; “Như thật biết tất cả các pháp chỉ là tự tâm, cho nên chẳng sinh tâm phân biệt”. Dùng văn đây chứng minh, Phật biết tha tâm tức là tự tâm, lìa phân biệt bên ngoài, chỉ duyên tự tâm, ý ngôn làm cảnh, vì các chúng sinh tâm thức vô biên, mỗi mỗi giải khác sai biệt khó lường, Phật lìa niệm bên ngoài, một tâm biết khắp, như nước chẳng động môn ảnh tượng hiện ở trong. Một tâm Phật đây lúc biết các tâm, một làm nhiều giải, nhiều tức là một như một nước kia chiếu khắp muôn ảnh tượng, tuy tức một nước mà cùng muôn tượng bên ngoài nước tương ưng. Phật tâm cũng vậy, chiếu khắp tha tâm, tuy là một tâm làm các tâm giải mà cùng tất cả tha tâm tương ưng, do tu học lâu Duy thức quán thành, nên lìa niệm bên ngoài mới năng biết khắp. Nên trong kinh Hoa Nghiêm có kệ tụng nói:

“Ma-hê-thủ-la trí tự tại,
Long vương biển lớn lúc phun mưa
Đều năng phân biệt số giọt đó
Ở trong một niệm đều rõ ràng
Vô lượng ức kiếp siêng tu học
Được trí Bồ-đề Vô thượng đó
Cớ sao thường ở trong một niệm
Chẳng biết tâm tất cả chúng sinh?”

Nên biết chư Phật niệm niệm biết khắp, đây tức là Phật ý ngôn phân biệt, tuy lúc biết Thế đế mỗi duy thức, riêng biết các tâm là Phật phân biệt, căn cứ luôn tự giác chỉ tự ý ngôn, lìa niệm bên ngoài là không phân biệt. Nên các bậc Đại trí quán Duy thức là, lúc duyên tự ý ngôn biết Thế đế, tức cũng đạt chân, lìa phân biệt bên ngoài. Cho nên Đại thừa từ phàm đến Phật, đều quán tự tâm ý ngôn làm cảnh, thì biết bên ngoài tâm không riêng có tha tâm. Tâm phàm Thánh v.v... tuy chẳng phải trong ngoài nhưng có nhân duyên làm tha biến là, như trong kinh Duy-ma nói: “Tức thời Thiên nữ dùng lực thần thông biến Xá-lợi-phất khiến như Thiên nữ, Thiên nữ tự hóa thân như Xá-lợi-phất”. Biến Xá-lợi-phất đây khiến tâm khác thấy, chẳng phải có riêng thân cải hình đổi chất, trong tâm chúng sinh tu thắng hạnh, thì trong có không vọng thấy nghiệp Phật, do có thắng nghiệp cảm thần lực Phật, khiến tâm biến khác tợ thấy tha thân. Nên trong luận Nhiếp Đại Thừa nói: “Ở tha trong địa vị tu hành, do lực tự tại bản nguyện của Phật, nên thức kia tợ chúng sinh biến khác hiển hiện, nên gọi là biến hóa thân”. Dùng văn đây chứng minh, Đức Như Lai hóa thân như Thích-ca v.v... đều là phàm tiểu tự tâm biến làm. Vì vọng thấy Phật thành đạo giáo hóa chúng sinh, sau lại vọng thấy Như Lai diệt độ, vòng thấy đây là do Phật biến, nên luận kia nói: Bồ-đề Niết-bàn là hai, chỉ biến khác tha tâm, khiến tha làm hai. Thể thật chẳng có. Dùng văn đây chứng minh, Phật biến tha tâm khiến vọng thấy Phật, ngoài tâm không Phật. Căn cứ các pháp phàm tiểu chẳng biết vọng thấy, cho là bên ngoài có Phật lại độ chúng sinh, nên trong kinh có kệ tụng nói:

“Phật chẳng được Phật đạo
Cũng chẳng độ chúng sinh
Chúng sinh cưỡng phân biệt
Làm Phật độ chúng sinh”.

Nên trong luận Nhiếp Đại Thừa nói: “Do thức hành nhân quán làm tăng thượng duyên, nên thức các người khác biến khác như hành nhân quán, nguyện lực hiển hiện. Nên biết định không trần bên ngoài chỉ có bản thức. Dùng văn đây chứng minh, thấy Thánh giáo hóa là đều do Phật lực làm tăng thượng duyên. Nên luận kia nói: Bồ-tát hạnh cạn cợt muốn làm sự lợi ích chúng sinh, ở hiện tại trước phát nguyện xong tức vào chân quán, chỉ do lực bản nguyện tùy chỗ muốn làm tất cả đều thành. Nếu Thanh văn v.v... được cửu định tự tại, nhân định tự tại đây được sáu thông tự tại, ở trong một vật, tùy lực nguyện lạc mỗi năng biến khác làm vô lượng chúng. Nếu các trần thật có tự tánh, sự đây thì chẳng được thành. Dùng văn đây chứng minh, vốn không cảnh bên ngoài, Thánh lực khiến tha không thấy hóa bên trong, vì đều vọng thấy, không cảnh bên ngoài vậy. Nếu nhiều Thánh nhân đồng xứ biến vật, mỗi mỗi tùy ý thành cũng chẳng ngại nhau, nên luận kia nói: Ở trong một vật hoặc nhiều hành nhân quán, riêng nguyện đồng năng biến khác một cảnh. Biến khác đây được thành. Tại sao được thành? Tùy ý kia thành, nên thật không cảnh bên ngoài, chỉ có thức vậy, nên mỗi mỗi tùy ý kia được thành. Dùng văn đây chứng minh, ở trong một xứ nhiều Thánh biến hóa, tùy ý mỗi riêng biệt, khiến các chúng sinh thấy cảnh mỗi riêng khác. Hòa mà chẳng đồng, tham mà chẳng loạn, nghĩa đây rất sâu mầu, hàng đại căn mới biết. Nên từ Phật trở lại đều quán Duy thức, nên luận kia nói: Từ nguyện lạc vị cho đến cứu cánh vị, thông gọi là Duy thức quán. Dùng văn đây chứng minh, Đại thừa vào đạo đồng quán Duy thức, dần sáng đến Phật, nói quán Duy thức nguyện lạc vị là, nghĩa là theo thầy bạn nghe nói Duy thức tức năng giải hiểu, tâm sinh nguyện lạc. Do có nguyện lạc, lúc học tư lương tức là người Đại thừa nguyện lạc vị. Nên luận kia nói: Các Bồ-tát chỉ do Đức nghe tất cả pháp chỉ có thức, nương giáo đây tùy nghe khởi tâm tin vui, ở trong lý tất cả pháp Duy thức, ý ngôn phân biệt sinh, do nguyện lạc ý ngôn phân biệt đây nên nói Bồ-tát đã vào Duy thức quán, làm biết như vậy, gọi là vào Duy thức nguyện lạc vị. Dùng văn đây chứng minh, học quán Duy thức tức là Bồ-tát đại căn vào đạo. Từ trước đến đây tổng nói Đại Tiểu vào đạo cạn sâu tuy riêng biệt nhưng đều chỉ tu tuệ, dùng tuệ đó quán là thể chánh đạo, nếu chẳng tu quán thì các hạnh khác đều quấy. Đây nói rõ tuệ quán là vào đạo thể, như nói ở trước, nếu rõ tất cả cảnh giới, chỉ là ý ngôn phân biệt, thì ý không chỗ nghĩ, miệng không chỗ nói, phan duyên đã dứt, danh tướng tức không, diệu minh chân tâm từ đây vạch bày, nên được dứt đường trần lao khô sông sinh tử, niệm niệm ngầm chân, tâm tâm hợp đạo. Do đó trong kinh Kim Cang Tam-muội nói: “Phật dạy: Pháp thiện và bất thiện từ tâm hóa sinh, tất cả cảnh giới ý ngôn phân biệt, chế đó một xứ các duyên đoạn diệt. Tại sao? Một gốc chẳng khởi, ba dụng chẳng làm trú ở như lý, cửa sáu đường dứt.

QUYỂN 87

Phàm, môn của vào đạo, chạm đường đều là chọn lựa cốt yếu, phân biệt không vượt ngoài bốn môn. Nay căn cứ bốn giáo của Thiên thai là Tạng, Thông, Biệt, Viên mỗi mỗi có bốn môn vào đạo. Bốn môn của ba giáo trước rộng ở thuyết kia, nay dẫn bốn môn của Viên giáo, kham đáng vào đạo: Một, môn có; Hai, môn không. Ba, môn cũng có cũng không. Bốn môn chẳng phải có chẳng phải không. Trong luận Chỉ Quán nói: Bốn môn của Viên giáo diệu lý chóng nói, khác với hai giáo Tạng Thông trước, viên dung vô ngại, khác với Biệt giáo rõ ràng riêng biệt, nếu môn đó có tức giả, cậy ở có lấy làm nói đầu mối, mà môn có đây cũng tức ba môn một môn vô lượng môn, vô lượng môn một môn, chẳng phải một chẳng phải bốn mà nói một bốn, đây là tướng Viên môn vậy. Nếu có là môn, tức có của sinh tử, là có của thật tướng, tất cả pháp thú hướng có, có tức pháp giới, vượt ngoài pháp giới không pháp có thể luận. Sinh tử tức Niếtbàn, Niết-bàn tức sinh tử, không hai không riêng biệt, nêu có làm môn đầu tiên thật đủ tất cả pháp viên thông vô ngại, đó gọi là môn có. Ba, môn kia cũng vậy, môn đây vi diệu chẳng thể nghĩ bàn, đâu đồng như Tạng Thông dụng độ mà chỉ không. Biệt giáo chẳng dung mà cách biệt. Lại bốn môn của Viên giáo đều diệu không thô. Nếu môn có pháp giới gồm tất cả pháp so sánh lại ba môn, môn không tức là pháp giới gồm tất cả pháp, so sánh lại ba môn, hai môn kia cũng vậy, pháp tướng bình đẳng không có hơn kém nếu vậy, không khác của bốn môn chỉ nhân thuận căn cơ đến duyên bốn thuyết như bốn ngón tay chỉ một vầng trăng. Trăng một ngón tay bốn. Lại như Tạng Thông Biệt Viên bốn giáo, như bốn điểm giữa không trung, tuy bốn điểm tợ riêng biệt mà chẳng vượt ngoài một không, tuy bốn ngón tay chẳng đồng mà chỉ một vầng trăng. Một, môn có là, quán kiến tư giả, tức là pháp giới đầy đủ Phật pháp. Lại các pháp tức là pháp tánh nhân duyên, cho đến Đệ nhất nghĩa cũng là nhân duyên. Trong Đại Kinh nói: “Nhân diệt vô minh tức được đốt sáng đèn Tam-bồ-đề”. Đó gọi là môn có; Hai, môn không là, quán huyễn hóa kiến tư và tất cả pháp, chẳng tại nhân chẳng thuộc duyên. Ta và Niết-bàn là hai đều không, chỉ có không bệnh, không bệnh cũng không, đây tức ba đế đều không vậy; Ba, môn cũng có cũng không, huyễn hóa kiến tư tuy không chân thật, phân biệt giả danh thì chẳng thể hết, như trong một vi trần có đại thiên quyển kinh, ở Đệ nhất nghĩa mà chẳng động, khéo năng phân biệt tướng các pháp, cũng như đại địa. Một năng sinh các thứ mầm, trong không danh tướng giả nói danh tướng, cho đến Phật cũng chỉ có danh tự. Đó là môn cũng không cũng có; Bốn, môn chẳng phải có chẳng phải không, quán huyễn hóa kiến tư tức là pháp tánh, pháp tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng phải thế tục nên chẳng phải có, chẳng phải xuất thế tục nên chẳng phải không, một sắc một hương không gì chẳng phải là trung đạo, một trung tất cả trung, Tỳlô-giá-na khắp tất cả xứ, đâu có kiến tư mà không phải thật pháp. Đó gọi là môn chẳng phải có chẳng phải không, cớ sao? Một môn tức là ba môn, một môn còn là tất cả pháp, sao chỉ ba ư. Tại sao như vậy? Quán chỗ nhân duyên sinh pháp, là môn thứ nhất, tất cả đều là môn thứ nhất, môn thứ nhất tức không, một không tất cả không, tức là môn thứ hai. Môn thứ nhất đây tức giả, một giả tất cả giả tức là môn thứ ba. Môn thứ nhất đây tức trung, một trung tất cả trung, tức là môn thứ tư, môn thứ nhất tức là ba môn, ba môn tức là một môn, chỉ nêu một môn làm danh, tuy có bốn danh, mà lý không cách biệt, tức là bốn môn của Viên giáo. Chánh là chỗ dụng của nay vậy. Nếu vậy sao dùng các thứ phân biệt từ trước lại. Chỉ phàm tình ám độn chẳng nói chẳng biết, trước dẫn dụ khai mở đó, sau vào chánh đạo. Như trong kinh Pháp Hoa nói: “Tuy nói các thứ đạo, kỳ thật là một thừa”. Nếu được ý đây trọn ngày phân biệt không chỗ phân biệt. Niết-bàn gọi là lại có một hạnh là Như Lai hạnh, Pháp Hoa gọi là bỏ ngay phương tiện chỉ nói đạo Vô thượng. Đại phẩm gọi là Nhất thiết chủng trí biết tất cả pháp, Tịnh Danh gọi là rừng Chiêm-bặc chẳng ngửi các mùi hương khác, Hoa Nghiêm xưng là pháp giới, tức là ý bốn môn đây vậy, nên biết nếu rõ một, tu hành nhân quả tròn đầy, giống như đất, nơi muôn vật sinh ra vậy, giống như biển, chỗ các báu nhóm tụ vậy, giống như xe năng chuyên chở vậy, giống như thành khéo phò hộ vậy, cho nên trong kinh Đại Niết-bàn nói: “Phật dạy: Ta vì Tu-đạt mà giảng nói: Trưởng giả! Tâm là thành chủ. Trưởng giả! Nếu chẳng hộ tâm, thì chẳng hộ thân miệng”. Lại, trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp Giới nói: “Mắt báu thần chủ thành quyến thuộc vây quanh, ở trong hư không mà hiện thân đó, các thứ diệu vật dùng làm nghiêm sức, tay cầm vô lượng các hoa sắc báu, để tung rải nơi Đồng tử Thiện Tài, mà nói: Này thiện nam! Nên thủ hộ thành tâm, nghĩa là chẳng tham tất cả cảnh giới sinh tử, nên trong nghiêm thành tâm, nghĩa là chuyên ý thú cầu mười lực của Như Lai, nên tịnh trị thành tâm, nghĩa là rốt ráo đoạn trừ xan tật siểm cuống, nên trong mát thành tâm, nghĩa là tư duy thật tánh tất cả các pháp, nên tăng trưởng thành tâm, nghĩa là hoàn tất tất cả pháp của trợ đạo, nên nghiêm sức thành tâm, nghĩa là tạo lập cung điện các thiền giải thoát. Nên chiếu diệu thành tâm, nghĩa là vào khắp tất cả đạo tràng của chư Phật nghe thọ pháp Bát-nhã Ba-lamật. Nên tăng ích thành tâm, nghĩa là gồm khắp tất cả đạo phương tiện của chư Phật, nên kiên cố thành tâm, nghĩa là luôn siêng tu tập hạnh nguyện Phổ Hiền, nên phòng hộ thành tâm, nghĩa là thường chuyên ngự chống bạn ác quân ma. Nên rỗng suốt thành tâm, nghĩa là mở dẫn tất cả ánh sáng trí Phật. Nên khéo bù đắp thành tâm, nghĩa là nghe thọ tất cả giáo pháp Phật nói. Nên phù trợ thành tâm, nghĩa là tin sâu biển công đức của tất cả chư Phật, nên rộng lớn thành tâm, nghĩa là đại từ khắp đến tất cả thế gian, nên khéo che chở thành tâm, nghĩa là nhóm tập các thiện pháp che chở trên đó, nên thoáng rộng thành tâm, nghĩa là đại bi xót thương tất cả chúng sinh, nên mở thông thành tâm, nghĩa là đều xả chỗ có tùy ứng cấp thí, nên mật hộ thành tâm, nghĩa là phòng ngăn các ác dục chẳng khiến được vào. Nên nghiêm túc thành tâm, nghĩa là đuổi các ác pháp chẳng khiến nó trú. Nên quyết định thành tâm, nghĩa là nhóm tập tất cả trí pháp của trợ đạo, luôn không lùi chuyển, nên an lập thành tâm, nghĩa là chánh niệm ba đời tất cả Như Lai chỗ có cảnh giới, nên sáng suốt thành tâm, nghĩa là rõ thấu chánh pháp luân của tất cả chư Phật trong Tu-Đa-la chỗ có pháp môn các thứ duyên khởi. Nên bộ phận thành tâm, nghĩa là hiển bày khắp tất cả chúng sinh khiến đều thấy đạo Tát-bà-nhã. Nên trú trì thành tâm, nghĩa là phát các biển Đại nguyệ của tất cả Như Lai. Nên giàu sang thành tâm, nghĩa là nhóm tập tất cả tụ phước đức lớn khắp cùng pháp giới. Nên khiến thành tâm sáng rõ, nghĩa là biết khắp chúng sinh các pháp căn dục v.v... nên khiến thành tâm tự tại, nghĩa là gồm khắp mười phương pháp giới. Nên khiến thành tâm thanh tịnh, nghĩa là chánh niệm tất cả chư Phật Như Lai. Nên biết tự tánh thành tâm, nghĩa là biết tất cả pháp đều không có tánh. Nên biết thành tâm như huyễn, nghĩa là dùng Nhất thiết trí rõ tánh các pháp. Phật tử! Vị Đại Bồ-tát nếu năng tịnh tu thành tâm như vậy thì năng tích tập tất cả thiện pháp. Giải thích: Phàm, Thánh là năng phòng ngừa giặc bên ngoài, hộ nước an dân, bền chắc cứng mạnh tức không các hoạn, huống gì thành tâm phải hộ mật giữ cửa ải, không khiến các duyên ma giặc sáu trần bên ngoài xâm vào, kết phiền não gian thần bên tù, rộng đủ sự trang nghiêm, bèn được bốn cửa không kẹt, một đường thường thông, lực địch cả đại thiên, oai tỏa khắp pháp giới, có thể dùng để vỗ về dẫn dắt kẻ yếu mất, gồm hóa không sót, nhiếp phục ngoại ma trọn bền chắc nền tảng chân thật vậy. Trong Hoa Nghiêm Sớ nói: “Thành có ba nghĩa: Một, phòng giặc bên ngoài; Hai, nuôi dưỡng mọi người; Ba, mở cửa dẫn gồm”. Nay nói thành pháp, thông giáo lý hạnh quả, hạnh khế lý giáo, thì không gì chẳng đều nghiêm vậy, mỗi mỗi có ba nghĩa, nghĩa là rõ tánh không của thành tâm thì các hoặc chẳng vào, thấy hằng sa tánh đức thì muôn hạnh bèn tăng, đạo không gì chẳng thông thì tự tha dẫn gồm bèn năng khế hợp quả, tuyệt trăm quấy để thành giải thoát, dưỡng các đức để toàn pháp thân, mở Bát-nhã mà không gì chẳng thông vậy, mới hiển bày thành giáo không quấy, nuôi dưỡng chỗ phân tích yếu chỉ, câu câu thông thần có nhiều nghĩa đó vậy. Trong Tịnh Danh có nói: “Phật pháp như thành năng vì hành nhân phòng quấy cản địch, nên gọi là thành, nếu hộ Phật pháp tức là hộ thành”. Lại, pháp ấm giới nhập tức không. Lý của tức không gọi là Niết-bàn, chúng sinh là vương mà chủng tánh đầy đủ hằng sa Phật pháp, như người vật trong thành vậy. Lập tất cả chúng sinh tức Đại Niết-bàn, tức tướng Bồ-đề. Chỉ diệu lý đây, ngoài ra là chỗ muốn hoại của Thiên ma ngoại đạo, bên trong là chỗ xâm lấn thông biệt kiến tư, Bồ-tát vì hộ chúng sinh vốn có thành của Niết-bàn, chẳng khiến vọng khởi các ái kiến vậy.

Hỏi: Báu lớn Thánh nhân gọi là vị, nếu không vị thứ tức là Thiên ma ngoại đạo, đã có tin vào phải nhờ mài luyện ở trong môn sơ tâm phương tiện, chứng giải Duy thức, căn cứ chỗ phân của giáo có mấy vị thứ?

Đáp: Có môn năm vị, căn cứ trong luận Duy thức nói: “Đầy đủ hai chủng tánh của Đại thừa, lược ở năm vị, dần dần ngộ vào: Một, bản tánh trú chủng tánh, nghĩa là từ vô thủy lại, nương gá bả thức chỗ pháp nhĩ được pháp nhân vô lậu; Hai, tập chỗ thành chủng tánh, nghĩa là nghe pháp giới đẳng lưu pháp, chỗ đã nghe thành v.v... chỗ huân tập thành, cần đủ Đại thừa hai chủng tánh đây mới năng dần dần ngộ vào Duy thức. Cho đến, cớ sao dần dần ngộ vào Duy thức? Nghĩa là các Bồ-tát đối với tánh tướng của thức trong tư lương vị, năng tin hiểu sâu chắc, tại gia hạnh vị năng dần khuất phục trừ bỏ sở thủ năng thủ dẫn phát chân kiến, tại thông đạt vị, như thật thông đạt. Trong tu tập vị, như chỗ thấy lý, luôn luôn tu tập khuất phục đoạn các chướng khác. Đến cứu cánh vị, ra khỏi chướng tròn sáng, năng cùng tận vị lai giáo hóa các loại hữu tình, lại khiến ngộ vào tánh tưởng Duy thức. Sao gọi là ngộ vào năm vị Duy thức? Một, tư lương vị, có kệ tụng nói:

“Cho đến chưa khởi thức
Cầu trú Duy thức tánh
Ở hai thủ tùy miên
Còn chưa năng phục diệt”.

Trong luận nói: Từ phát tâm Bồ-đề sâu chắc, cho đến chưa khởi thuận quyết trạch phần, cầu trú Duy thức chân thắng nghĩa tánh, tể đây đều là tư lương vị gồm thuộc, vì thú hướng vô lượng Chánh Đẳng Bồ-đề, tu tập các thứ thắng tư lương vậy. Vì hữu tình nên siêng cầu giải thoát. Do đây cũng gọi là thuận giải thoát phần. Vị đây, Bồ-tát nương nhân bạn lành tác ý tư lương bốn thắng lực, đối với nghĩa Duy thức tuy tin hiểu sâu, mà chưa năng rõ năng sở thủ không, phần nhiều trí ngoài cửa tu Bồ-tát hạnh, nên ở hai thủ chỗ dẫn tùy miên, còn chưa có công lực năng phục diệt, niệm kia chưa chẳng khởi, hai thủ hiện hành. Hai thủ đây nói hiển bày hai thủ, thủ chấp thủ năng thủ sở thủ tánh. Hai thủ tập khí gọi là tùy miên kia, tùy theo hữu tình miên phục tàng thức, hoặc tùy tăng quá nên gọi là tùy miên, tức là chỗ biết chủng phiền não chướng, phiền não chướng nghĩa là chấp biến kế chỗ chấp thật ngã, Tát-ca-da-kiến mà làm thượng thủ, một trăm hai mươi tám căn bản phiền não và đẳng lưu các tùy phiền não kia, đây đều nhiễu não thân tâm hữu tình, năng chướng Niết-bàn, gọi là phiền não chướng. Sở tri chướng, nghĩa là chấp biến kế chỗ chấp thật pháp, Tát-ca-da-kiến mà làm thượng thủ, kiến nghi vô minh ái nhuế mạn v.v... che lấp cảnh chỗ biết, không tánh điên đảo, năng chướng Bồ-đề, gọi là sở tri chướng. Cho đến Bồ-tát trú trong tư lương vị đây. Hai thô hiện hành tuy có phục đó, mà ở tế và hai tùy miên, bởi lực chỉ quán nhỏ kém chưa năng phục diệt. Vị đây chưa chứng Duy thức chân như, nương lực thắng giải tu các thắng hạnh, nên biết cũng là giải hạnh địa gồm thuộc, cho đến chỗ tu thắng hạnh, nghĩa là phước và trí v.v... Giải thích: Bản tánh trú chủng tánh là, chưa nghe chánh pháp, chỉ chủng vô lậu từ vô thủy tự thành, chẳng từng huân tập khiến nó tăng trưởng gọi là bả chủng tánh. Tánh là thể vậy, tánh là loại vậy, nghĩa là bản tánh thành trú Bồ-tát đây, chủng tử tánh loại sai biệt, chẳng do nay có gọi là bản tánh trú chủng tánh. Bồ-tát Địa nói: Vô thủy pháp nhĩ sáu xứ thù thắng, gọi là bản tánh trú chủng tánh. Tập khổ thành chủng tánh là nghe pháp đây đã qua khiến chủng cũ vô lậu tăng trưởng luôn tập chủng tánh. Bồ-tát Địa nói: Nghe mười hai phần giáo pháp giới đẳng lưu bình đẳng mà lưu. Lại, pháp giới tánh thiện thuận ác nghịch đủ các công đức, đây cũng như vậy, nên gọi là đẳng lưu. Nương nhân bạn lành, tác ý tư lương bốn thắng lực, là bốn lực trên, trong luận Nhiếp Đại Thừa nói: “Đại thừa trong năng ngộ vào, nghe nhiều huân tập tương tục, đây là nhân lực. Đã được phụng sự vô lượng chư Phật xuất hiện nơi đời tức lực bạn lành. Đã được một hướng quyết định thắng giải, chẳng phải chỗ các bạn ác năng lay động, gọi là lực tác ý, đã khéo tích tập các căn lành v.v... gọi là lực tư lương. Tùy miên, nghĩa là theo đuổi hữu tình thường tại sinh tử, miên phục tạng thức, chẳng hiện xứ khác, nên gọi là tùy miên. Hoặc tùy tăng quá nên gọi là tùy miên, theo đuổi hữu tình, tăng nhiều lỗi lầm vậy, gọi là tùy miên. Tại sao? Miên là nghĩa tăng thêm, như người ngủ say, miên tức là đượm nhiều, nên lỗi lầm tăng là nghĩa tùy miên, tức chủng hai chướng vậy; Hai, gia hạnh vị, có kệ tụng nói:

“Hiện tiền lập ít vật
Gọi là Duy thức tánh
Vì có chỗ được vậy
Chẳng thật trú Duy thức”.

Trong luận nói: Bồ-tát trước ở mới đầu vô số kiếp, khéo đầy đủ phước đức trí tuệ tư lương, thuận giải thoát phần đã viên mãn rồi, là vào kiến đạo, trú Duy thức tánh, lại tu gia hạnh phục trừ hai thủ, đó là pháp noãn, đảnh, nhẫn, thế đệ nhất. Bốn đây gọi chung là thuận quyết trạch phần, thuận thú chân thật quyết trạch phần vậy, cho đến Bồ-tát trong bốn gia hạnh đây, còn ở hiện tiền an lập ít vật, đó là Duy thức chân thắng nghĩa tánh. Vì hai tướng không và có kia chưa trừ tướng mang (đới), quán tâm có chỗ được vậy, chẳng phải thật an trú chân Duy thức lý. Tướng kia diệt rồi mới thật an trú, nương nghĩa như vậy, nên có kệ tụng nói:

Bồ-tát ở định vị
Quán ảnh chỉ là tâm
Nghĩa tưởng đã diệt trừ
Xét quán chỉ tự tưởng
Trú tự tâm như vậy
Biết chỗ thủ chẳng có
Vì năng thủ cũng không
Xúc sau không chỗ được.

Cho đến gia hạnh vị đây chưa dứt trừ tưởng ràng buộc, nơi ràng buộc thô trọng phược cũng chưa năng đoạn, chỉ năng khuất phục trừ bỏ hai thủ phân biệt, trái nghịch kiến đạo vậy, ở câu sinh đó và hai tùy miên, tâm hữu lậu quán có chỗ được vậy, chưa toàn khuất phục trừ bỏ, toàn chưa năng diệt, cho đến vị đây cũng là giải hạnh địa gồm thuộc, chưa chứng Duy thức chân thắng nghĩa vậy. Giải thích: Bốn gọi chung là thuận quyết trạch phần là, thì gọi là chân thật quyết trạch phần. Quyết trạch là trí, tức trạch pháp, quyết chọn nghi phẩm do dự kia. Chọn lựa kiến phẩm chẳng chọn kia. Phần, là nghĩa chi nhân, tức trạch pháp giác chi. Hiện tiền lập ít vật là. Tâm trên biến như, gọi là ít phần, đây chẳng phải không tướng nên gọi là mang (đới) tướng. Nếu lúc chứng chân, tướng đây bèn diệt, tướng tức là chỗ không chấp tướng; Ba, thông đạt vị, có kệ tụng nói:

“Nếu lúc ở chỗ duyên
Trí đều không chỗ được
Khi ấy trú Duy thức
Lìa tướng hai thủ vậy”.

Trong luận nói: Nếu lúc Bồ-tát ở chỗ cảnh khác, trí không phân biệt đều không chỗ được, chẳng thủ các thứ tướng hý luận vậy. Khi ấy mới gọi là thật trú Duy thức chân thắng nghĩa tánh, tức chứng trí chân như cùng chân như bình đẳng bình đẳng, đều lìa tướng năng thủ sở thủ vậy. Tướng năng thủ sở thủ đều là phân biệt, có chỗ được, tâm hý luận hiện vậy. Cho đến trí đây tuy có kiến phần mà không phân biệt nói chẳng phải năng thủ, chẳng phải thủ toàn không, tuy không tướng phần mà có thể nói Đới đây như tướng khởi, chẳng lìa như vậy. Như lúc tự chứng phần duyên kiến phần chẳng biến mà duyên, đây cũng nên vậy. Biến mà duyên, bèn chẳng phải thân chứng, như trí hậu đắc, nên có phân biệt. Nên phải chấp thuận đây có kiến không tướng, gia hạnh không gián đoạn lúc trí đây sinh, thể hội chân như, gọi là thông đạt vị. Mới đầu chiếu lý, nên cũng gọi là kiến đạo, cho đến trước chân kiến đạo chứng Duy thức tánh, sau tướng kiến đạo chứng Duy thức tướng, trong hai đây, trước ưu thắng nên kệ tụng thiên nói. Trước chân kiến đạo trí căn bản gồm thuộc, sau tướng kiến đạo, trí hậu đắc gồm thuộc. Các trí hậu đắc có hai phần ư? Cho đến trí đây hiện thân cõi nước v.v... vì các hữu tình nói chánh pháp vậy, nếu chẳng biến hiện tợ sắc thanh v.v... sao có các sự hiện thân nói pháp v.v... chuyển sắc uẩn nương sắc chẳng hiện là, chuyển bốn uẩn nương nên không thọ v.v... Lại, nếu trí đây chẳng biến tợ cảnh, lìa pháp tự thể, nêu chẳng phải chỗ duyên. Lúc duyên sắc v.v... nên duyên thanh v.v... Lại duyên không pháp v.v... nên không sở duyên duyên. Thể kia chẳng phải thật, không thắng dụng vậy, do đây, hai phần hậu đắc đều có. Giải thích: Nếu trí đây chẳng biến tợ cảnh, lìa pháp tự thể nên chẳng phải sở duyên là, đã không tướng phần, tâm của tự tha, tha thân cõi nước v.v... Lìa pháp của thể tự mình, chẳng dính ảnh tượng, nên chẳng phải sở duyên duyên, thân ngay chẳng biến kia làm tướng vậy, chẳng đồng chân như. Chân như tức là tự thể trí vậy.

Hỏi: Nếu vậy, chân như nên chẳng phải sở duyên duyên, vì không tợ cảnh tướng?

Đáp: Chẳng phải vậy, tướng của dính như khởi vậy. Lìa pháp tự thể, đã không ảnh tượng, chẳng thể nói dính tướng kia khởi, làm sao nói có sở duyên duyên? Kia đều lìa tự thể vậy. Đã chẳng dính tướng khởi gọi là sở duyên. Lúc duyên sắc v.v... nên duyên thanh v.v... duyên sắc v.v... trí chẳng dính tướng sắc v.v... vậy. Lại duyên không pháp v.v... nên không sở duyên duyên là, chẳng biến, là không tướng, là chỗ kiến duyên vậy, vì không tướng phần, chiếu ngay ở không, không chẳng phải có thể, nghĩa sở duyên duyên làm sao được thành. Do đây nên biết, Phật cũng chẳng năng thân duyên ở không, văn đây lý chứng vậy. Bốn, tu tập vị, có kệ tụng nói:

“Không được chẳng nghĩ bàn
Là trí xuất thế gian
Xả hai thô trọng vậy
Bèn chứng được chuyển y”.

Trong luận nói: “Niết-bàn từ trước kiến đạo khỏi rồi, vì đoạn trừ chướng, chứng đắc chuyển y, lại luôn tu tập trí không phân biệt. Trí đây xa lìa sở thủ năng thủ, nên nói không được và chẳng nghĩ bàn, hoặc lìa hý luận nói là không được. Diệu dụng khó lường gọi là chẳng nghĩ bàn là xuất thế gian, trí không phân biệt. Đoạn thế gian nên gọi là xuất thế gian. Hai thủ tùy miên là gốc thế gian, chỉ đây năng đoạn riêng được tên xuất. Hoặc xuất thế gọi là nương hai nghĩa lập, nghĩa là thể vô lậu và chứng chân như. Trí đây đủ hai thứ nghĩa đó vậy, riêng được gọi là xuất thế, ngoài ra các trí khác chẳng như vậy, tức trí không phân biệt trong mười địa. Luôn tu đây nên xả bỏ hai thô trọng, chủng tử hai chướng lập danh tánh thô trọng, không kham nhậm, trái ngược tế nhẹ vậy, khiến kia trọn diệt nên gọi là xả bỏ, đây năng xả bỏ hai thô trọng kia vậy, bèn năng chứng đắc chuyển y rộng lớn, y nghĩa là sở y, tức y tha khởi. Cùng pháp nhiễm tịnh làm sở y vậy. Nhiễm, nghĩa là hư vọng Biến kế sở chấp. Tịnh nghĩa là chân thật, tánh viên thành thật. Chuyển nghĩa là hai phần chuyển xả chuyển được, do luôn tu tập trí không phân biệt đoạn hai chướng thô trọng trong bản thức, năng chuyển xả bỏ Biến kế sở chấp trên y tha khởi và năng chuyển được tánh viên thành thật trong y tha khởi. Do chuyển phiền não được Đại Niết-bàn, chuyển sở tri chướng chứng Vô thượng giác, thành lập Duy thức, ý vì hữu tình chứng được hai quả chuyển y như vậy. Hoặc y tức là sở y của Duy thức chân như sinh tử Niết-bàn. Phàm ngu điên đảo mê chân như đây, nên từ vô thủy đến nay chịu khổ sinh tử. Thánh giả lìa điên đảo ngộ chân như đây bèn đắc Niết-bàn cứu cánh an lạc. Do luôn tu tập trí không phân biệt, đoạn hai chướng thô trọng trong bản thức, nên năng chuyển diệt y như sinh tử và năng chuyển chứng y như Niết-bàn, đây tức chân như lìa tánh tạp nhiễm. Như tuy tánh tịnh mà tướng tạp nhiễm, nên lúc lìa tạp nhiễm giả nói mới tịnh, tức mới tịnh đây nói là chuyển y, trong vị tu tập đoạn chướng chứng được, tuy ở vị đây cũng được Bồ-đề, mà chẳng phải chỗ ý bài kệ tụng trong đây hiển bày. Ý kệ tụng chỉ hiển bày chuyển Duy thức tánh, hàng Nhị thừa mãn vị gọi là giải thoát thân. Tại Đại Mâu-ni gọi là pháp thân vậy. Thế nào chứng đắc hai thứ chuyển y? Nghĩa là trong mười địa, tu mười thắng hạnh, đoạn mười thứ chướng chứng mười chân như. Hai thứ chuyển y do đây mà chứng đắc; Năm, cứu cánh vị, có kệ tụng nói:

“Đây tức vô lậu giới
Chẳng nghĩ bàn Thiện thường
An lạc giải thoát thân
Tên pháp Đại Mâu-ni”.

Trong luận nói: Chỗ tu tập vị trước đắc chuyển y trước tức là tướng cứu cánh vị. Đây gọi là quả hai chuyển y trước, tức là cứu cánh vô lậu giới gồm thuộc, các lậu trọn hết, chẳng phải lậu tùy tăng, tánh tịnh tròn sáng, nên gọi là vô lậu. Giới, nghĩa là tạng, trong đây ngậm chứa vô biên đại công đức hiếm có. Hoặc là nghĩa nhân, năng sinh mọi sự lợi lạc ở năm thừa thế gian và xuất thế gian. Trong Trang Nghiêm Kinh Luận nói: Bốn gia hạnh vị với kệ tụng là:

“Bấy giờ Bồ-tát đây
Lần lượt được tịnh tâm
Chỉ thấy ý ngôn vậy
Chẳng thấy tất cả nghĩa”.

Giải thích: Bồ-tát đây mới đầu được định tâm, lìa nơi ý ngôn, chẳng thấy tự tướng tổng tướng tất cả các nghĩa, chỉ thấy ý ngôn. Thấy đây tức là Bồtát noãn vị, vị đây gọi là sáng. Như trong kinh Phật Hỏi Hà nói: Sáng, sáng đây gọi là thấy pháp nhẫn.

Và kệ tụng nói:

“Là lớn pháp sáng vậy
Kiên cố tinh tấn vậy
Pháp sáng tăng trưởng rồi
Thông đạt duy tâm trí”.

Giải thích: Bồ-tát trong đây là tăng trưởng pháp sáng vậy, khởi kiên cố tinh tấn, trú là pháp sáng, thông đạt Duy tâm. Thông đạt đây là Bồ-tát Đảnh Vị. Kệ tụng nói:

“Các nghĩa đều là sáng
Do vì thấy Duy thức
Được đoạn chỗ chấp đoạn
Thì là trú ở nhẫn”.

Giải thích: Trong đây, Bồ-tát nếu thấy các nghĩa đều là tâm sáng, chẳng phải ngoài tâm sáng riêng có thấy khác, khi ấy được chỗ chấp loạn diệt.

Thấy đây tức là Bồ-tát nhẫn vị. Kệ tụng nói:

“Chỗ chấp loạn tuy đoạn
Phải còn trừ năng chấp
Đoạn đây lại chóng chứng
Vô gián Tam-ma-địa”.

Giải thích: Trong đây Bồ-tát vì đoạn năng chấp loạn nên lại chóng chứng vô gián Tam-ma-địa.

Hỏi: Có nghĩa gì mà Tam-ma-địa đây gọi là vô gián?

Đáp: Do lúc năng chấp loạn diệt, khi ấy vào vô gián, nên nhận tên đó. Vào vô gián đây tức là Bồtát Thế gian đệ nhất pháp vị, cho đến năm vị. Thứ nhất, tư lương vị, mới học Duy thức là lúc mới đầu của phát tâm phần phát tâm thứ nhất, nương chỉ Đại Bồ-đề mà phát tâm vậy. Bồ-tát sinh có bốn nghĩa: Một, Chủng tử thắng, vì tâm bình đẳng làm chủng tử vậy; Hai, Sinh mẫu thắng, vì Bát-nhã Ba-la-mật làm sinh mẫu (mẹ sinh ra) vậy; Ba, Thai tạng thắng, vì hai tại phước trí trú trì làm thai tạng vậy; Bốn, Nhũ mẫu (vú nuôi) thắng, vì đại bi trưởng dưỡng làm Nhũ mẫu vậy. Thứ hai, Thông đạt vị, có kệ tụng nói:

“Đã biết tánh nghĩa loại
Khéo trú chỉ tâm sáng
Vì hiện thấy pháp giới
Giải thoát ở hai tướng”.

Trong luận nói: Vị đây do giải tất cả nghĩa, chỉ là ý ngôn làm tánh, thì rõ tất cả các nghĩa đều là tâm sáng, khi ấy Bồ-tát, gọi là khéo trú Duy thức, từ sau hiện thấy pháp giới kia, rõ thấu chỗ có hai tướng, tức giải thoát năng chấp sở chấp. Thứ ba, Kiến đạo vị, có kệ tụng nói:

“Ngoài tâm không có vật
Vật không tâm cũng không
Do vì giải hai không
Khéo trú chân phẩm”.

Trong luận nói: Vị đây như hiện thấy pháp giới kia vậy, giải ngoài tâm không có vật sở thủ. Vật sở thủ không nên cũng không tâm năng thủ, do lìa hai tướng năng thủ sở thủ, nên biết khéo trú tự tánh pháp giới. Thứ tư: Tu hành vị, có kệ tụng nói:

“Lực trí không phân biệt
Luôn bình đẳng khắp hành
Vì hoại lỗi tụ thể
Như thuốc năng trừ độc”.

Trong luận nói: Vị đây, Bồ-tát vào Đệ nhất nghĩa trí chuyển y rồi, vì trí không phân biệt luôn bình đẳng làm và khắp cùng xứ hành. Tại sao? Vì hoại tánh y chỉ y tha, huân tập rậm rạp lỗi lầm tụ tướng. Trí lực đây thí như thuốc A-già-đà, năng trừ tất cả các độc. Thứ năm, cứu cánh vị, có kệ tụng nói:

“Duyên Phật khéo thành pháp
Tâm căn an pháp giới
Giải niệm chỉ phân biệt
Chóng cùng biển công đức”.

Trong luận nói: Duyên Phật khéo thành pháp là, các Bồ-tát ở nơi Phật khép thành lập trong tất cả diệu pháp làm tổng tụ duyên vậy.

Hỏi: Thế nào là Tổng tụ duyên?

Đáp: Tâm căn an pháp giới, cho nên tâm đây gọi là căn, sau đây khởi quán, như quán sự trước xứ xứ niệm chuyển, giải biết các niệm chỉ là phân biệt chẳng phải thật có vậy. Biết như vậy rồi, chóng tận cùng biển công đức, tức biển công đức Phật quả năng chóng đến cùng bờ kia. Nên trong luận Nhiếp Đại Thừa có kệ tụng nói:

“Phước đức trí tuệ hai tư lương
Bồ-tát khéo đủ không ngằn mé
Ở pháp tư lương khéo quyết rồi
Nên rõ nghĩa thú chỉ ngôn loại
Nếu biết các nghĩa chỉ là ngôn
Tức trú tợ lý duy tâm kia
Bèn năng hiện chứng thân pháp giới
Cho nên hai tướng đều dứt trừ
Thể biết lìa tâm không riêng vật
Do đây tức hội tâm chẳng có
Bậc trí rõ thấu hai đều không
Đồng trú hai không châm pháp giới
Bậc tuệ lực trí không phân biệt
Khắp cùng bình đẳng thường thuận hành
Diệt tụ lỗi lầm nương vướng vít
Như thuốc tốt lành tiêu các độc.
Phật nói diệu pháp khéo thành lập
An tuệ đều căn trong pháp giới
Rõ biết niệm thú chỉ phân biệt”.
Dõng mãnh nhanh về bờ biển đức.

Giải thích: Lại có kinh Hiện Quán Già-tha như, luận Trang Nghiêm nói: Trong đây khó giải, ở đây hiển bày hai tư lương phước đức và trí tuệ Bồ-tát khéo đầy đủ không ngằn mé là, tư lương có hai thứ: Một, phước đức tư lương; Hai, trí tuệ tư lương, nghĩa là thí v.v...; Ba, Ba-la-mật là phước đức tư lương, thứ sáu Bát-nhã Ba-la-mật-đa là trí tuệ tư lương, tinh tấn Ba-la-mật-đa, hai tư lương gồm thuộc. Tại sao? Nếu là trí tuệ mà hành tinh tấn là trí tuệ tư lương. Nếu là phước đức mà hành tinh tấn là phước đức tư lương. Như vậy, tĩnh lự Ba-la-mậtđa cũng thông hai thứ, nếu duyên vô lượng mà tu tĩnh lự là phước đức tư lương, ngoài ra là trí tuệ tư lương. Tư lương như vậy, là có của ai? Nghĩa là các Bồ-tát lớn xa khó độ gọi là không ngằn mé, không ngằn như vậy nói chẳng phải không có ngằn, chỉ vì nhiều nên được xưng là không ngằn. Đây cũng như vậy, ở pháp tư lương khéo quyết định rồi là, cần do sau định tư duy các pháp, mới khéo quyết định, chẳng phải chỗ khác năng. Nên rõ nghĩa thú chỉ ngôn loại là, nghĩa là rõ biết các nghĩa chỉ ý ngôn làm nhân, nếu biết các nghĩa chỉ là ngôn tức trú tợ lý Duy tâm kia, nghĩa là nếu rõ biết tợ nghĩa hiển hiện chỉ là ý ngôn tức trú tợ nghĩa chánh lý Duy tâm. Bèn năng hiện chứng chân pháp giới, cho nên hai tướng đều trừ bỏ là, nghĩa là từ đây về sau hiện chứng chân như, trọn lìa hai tướng năng thủ sở thủ, như vào hiện chứng tiếp đáng hiển bày. Thể biết lìa tâm không riêng biệt, do đây tức hội tâm chẳng phải có là, thể biết lìa tâm không phải sở duyên, kia không có vậy, tức hội tâm năng duyên cũng chẳng phải có. Bậc trí thấu rõ hai đều không là, nghĩa là các Bồ-tát thấu rõ hai đây thảy đều là không, đồng trú không chân pháp giới là, nghĩa là bình đẳng trú lìa nghĩa lìa tâm pháp giới chân thật. Bậc tuệ lực trí không phân biệt là, nghĩa là các Bồ-tát chỗ có thế lực của trí không phân biệt, khắp cùng bình đẳng thường thuận hành là, ở trong bình đẳng tùy thuận mà hành. Quán tất cả các pháp trong kinh v.v... giống như hư không tánh bình đẳng vậy. Các pháp trong ngoài đều quán như vậy, nên gọi là khắp cùng thường hằng, diệt tụ lỗi lầm nương vướng vít như thuốc tốt tiêu các độc là, diệt nghĩa là diệt trừ, nương là sở y tức nhân pháp tạp nhiễm trong sở y rất khó vậy, như hang có vướng vít khó vào, tụ lỗi lầm làm, pháp tạp nhiễm huân tập tự tánh. Phật nói diệu pháp khéo thành lập, an tuệ đều trong căn pháp giới, nghĩa là do Phật dạy khéo an tuệ đó, vắt bỏ trong chân như và năng duyên trong tâm căn bản kia. Tâm căn bản, nghĩa là duyên chỗ Như Lai có chánh giáo, tổng làm một tướng, nên biết tức là tâm không phân biệt. Rõ biết niệm thú chỉ phân biệt là, nghĩa là an trú tâm căn bản kia rồi, vì nói chánh giáo, do trí hậu đắc niệm các nghĩa thú. Biết niệm thú đây chỉ là phân biệt. Dõng mãnh nhanh về bờ biển đức là, nghĩa là các Bồ-tát do trí không phân biệt mà trí hậu đắc phương tiện khéo léo nên chóng hướng đến bờ biển công đức Phật quả. Năm bài kệ tụng như vậy, nghĩa tổng lược là, kệ tụng thứ nhất hiển bày tư lương đạo, nửa phần trước kệ tụng thứ hai hiển bày gia hạnh đạo, nửa phần sau là kệ tụng thứ ba hiển bày kiến đạo, kệ tụng thứ tư hiển bày tu đạo, kệ tụng thứ năm hiển bày cứu cánh đạo. Trong kinh Kim Cang Tam-muội nói: “Bồ-tát Đại Lực nói: Thế nào là hai nhập chẳng sinh ở tâm? Tâm vốn chẳng sinh cớ sao có nhập? Phật dạy: Hai nhập là: Một, lý nhập; Hai, hành nhập. Lý nhập là tin sâu chúng sinh chẳng khác chân tánh, chẳng một chẳng cộng, chỉ vì chỗ che chướng của khách trần, chẳng đi chẳng lại, ngưng trú giác quán, quán chắc Phật tánh chẳng có chẳng không, không ta không người, phàm Thánh chẳng hai, tâm địa Kim cang bền trú chẳng dời, vắng lặng vô vi không có phân biệt. Đó gọi là lý nhập. Hành nhập là, tâm chẳng nghiêng tựa, ảnh không chuyển đổi, nơi xứ chỗ có, lắng niệm không cầu, gió lay chẳng động giống như đại địa, lìa bỏ tâm ngã cứu độ chúng sinh, không sinh không tướng chẳng lấy chẳng bỏ. Tâm Bồ-tát không ra vào, tâm không ra vào, vào chẳng vào vậy, nên gọi là vào, Bồ-tát vào pháp như vậy, pháp tướng chẳng không, pháp của chẳng không, pháp chẳng hư bỏ. Tại sao? Pháp của chẳng không đầy đủ công đức, chẳng phải tâm chẳng phải ảnh, pháp như thế thanh tịnh”. Lại nói: “Phật dạy: Từ tâm xiển-đề cho đến Như Lai, thật tướng Như Lai trú ở năm vị: Một, tín vị, tin trong thân đây, chủng tử chân như bị vọng che mờ, bỏ lìa vọng tâm, tịnh tâm trong sạch, biết các cảnh giới, ý ngôn phân biệt; Hai, tư vị, tư là quán các cảnh giới chỉ là ý ngôn, ý ngôn phân biệt, tùy ý hiển hiện, chỗ thấy cảnh giới chẳng phải bản thức ta, biết bản thức đây chẳng phải pháp chẳng phải nghĩa, chẳng phải sở thủ chẳng phải năng thủ; Ba, tu vị, tu là thường khởi, năng khởi sở khởi đồng thời vậy, trước dùng trí dẫn, bài dẹp các chướng nạn, ra khỏi che lấp trói buộc; Bốn, hành vị hành là lìa các hành địa tâm không lấy bỏ, cực tịnh căn lợi chẳng động, như quyết định thật tánh, Đại Bát Niết-bàn chỉ tánh không đại; Năm, xả vị, xả là chẳng trú tánh không chánh trí chuyển đổi, đại bi tướng như, tướng chẳng trú như, Tam-miệu Tam-bồ-đề, tâm rỗng chẳng chứng, tâm không ngằn mé, chẳng thấy xứ sở, cho đến Như Lai. Này thiện nam! Năm vị một giác, từ bản lợi vào, nếu hóa độ chúng sinh từ bản xứ đó”. Như trên, các kinh luận nói bốn gia hạnh vị, Duy thức năm vị v.v... của chư Phật Bồ-tát, đều từ một tâm, phân cạn sâu đó, từ gốc khởi ngọn, tợ hiện tâm mới đầu, nhân ngọn hiển bày gốc lại quy về nguyên địa. Do đó, trong kinh nói: “Năm vị một giác từ bản lợi vào, nếu hóa độ chúng sinh từ bản xứ đó”. Các vị như trên chỉ là một tâm, nhân trí có cạn sâu, chứng phân trước sau, ở trong hành bố tợ có thềm bậc, như Khác Sớ nói: “Kinh Thủ-lăngnghiêm ở trên một niệm lập sáu mươi vị, như ảnh tượng trong châu ngọc, vật loại tuy nhiều, châu ngọc toàn là một, trong một bao hàm các tượng, các tượng trở lại vào trong một châu, như trong sáu mươi vị, mỗi mỗi vị bao hàm sáu mươi vị, vả lại như vị vị toàn là tâm chứng, một tâm năng sinh nhiều tâm, nhiều tâm trở lại vào một tâm, tâm tâm hỗ tương bao hàm nào có chướng ngại”.

QUYỂN 88

Hỏi: Phàm chứng lý Duy thức mà lên Phật quả, từ mới đầu tư lương vị cho đến cứu cánh vị, có bao nhiêu trí mà được thành tựu?

Đáp: Chỉ một trí không phân biệt, ước về trước sau có ba thứ: Một, gia hạnh không phân biệt, nghĩa là trí tầm tư v.v... tức là đạo nhân; Hai trí không phân biệt, tức là đạo chánh thể; Ba trí sau không phân biệt, tức là trí xuất quán, nghĩa là đạo quả.

Hỏi: Ba trí đây, hành tướng như thế nào?

Đáp: Trong luận Nhiếp Đại Thừa nói: Trí không phân biệt, tự tánh nên biết lìa năm thứ tướng: Một, lìa chẳng phải tư duy; Hai, lìa chẳng phải giác quán địa; Ba, lìa định diệt tưởng thọ, vắng lặng; Bốn, lìa tự tánh sắc; Năm, ở nghĩa chân thật, lìa phân biệt khác. Trí đây nếu do lìa tư duy nên gọi là trí không phân biệt. Ngủ say phóng dật say cuồng đồng lìa tư duy, nên được trí đây ư? Nếu do quá giác quán địa, nên gọi là trí không phân biệt, từ hai định trở lên đã qua giác quán, nên được trí đây. Nếu y theo hai nghĩa trên, phàm phu nên được trí đây, là xứ năng lìa tâm và tâm pháp nên nói là trí không phân biệt, nghĩa là định tưởng thọ diệt v.v... nếu người tại trong vị đây được trí không phân biệt, đây thì chẳng thành trí. Tại sao? Ở vị định diệt v.v... không tâm và tâm pháp vậy, nếu nói như tự tánh sắc, tự tánh trí cũng như đây, như sắc độn không biết, trí đây nên độn không biết, nếu ở nghĩa chân thật do đã phân biệt hiển hiện, là phân biệt nên thành trí không phân biệt. Tại sao? Vì phân biệt đây năng phân biệt nghĩa chân thật, nghĩa là nghĩa đây chân thật, nếu trí là năm tướng duyên nghĩa chân thật khởi, như nhãn thức chẳng lấy phân biệt làm tánh, đó gọi là trí không phân biệt. Trí không phân biệt ở trong các hạnh rất là thượng thủ. Lại có kệ tụng hiển bày là:

“Tự tánh các Bồ-tát
Chỗ năm thứ tướng lìa
Tánh trí không phân biệt
Ở chân không phân biệt”.

Bồ-tát lấy trí không phân biệt làm thể. Tín không phân biệt cùng Bồ-tát chẳng khác, tự tánh trí không phân biệt tức là tự tánh Bồ-tát, do ở chân không phân biệt vậy. Lìa năm tướng được tên không phân biệt. Lại ba trí gồm dùng thí dụ để hiển bày, kệ tụng nói: “Như năm cầu thọ trần, như năm chánh thọ trần, như chẳng năm thọ trần, ba trí thí như vậy”. Giải thích: Thí như người tại năm mắt v.v... trong năm thức cầu thấy năm trần, hoặc duyên thật hoặc duyên hư, ý thức và năm thức cách nhau khởi vậy. Gia hạnh trí không phân biệt cũng vậy. Hoặc chứng một phần là thật, hoặc chẳng chứng là hư. Thí như người chánh tại trong năm thức, được cảnh chân thật không phân biệt không nói phô. Thí như người tại trong ý thức, chỉ duyên chỗ thọ trần trước, gọi là duyên cảnh hư, có phân biệt có nói phô. Trí sau không phân biệt cũng vậy, duyên cảnh hư có phân biệt có nói phô. Lại có kệ tụng nói: “Như người mới mở mắt, gọi là trí gia hạnh, như người chánh nhắm mắt, là trí không phân biệt, tức kia lại mở mắt, trí hậu đắc cũng vậy, nên biết như hư không, là trí không phân biệt, ở trong hiện sắc tượng, trí hậu đắc cũng vậy”.

Hỏi: Thí không phân biệt đây từ đâu mà thành? Đáp: Rõ tất cả danh nghĩa không chỗ có, nên năng thành trí không phân biệt. Trong luận Nhiếp Đại Thừa có kệ tụng nói:

“Quỹ súc người trời thảy
Mỗi tùy chỗ đó ứng
Tất cả ý có khác
Nên biết nghĩa chẳng thành
Quá khứ thảy và mộng
Và hai ảnh tượng khác
Không có làm phan duyên
Nhưng phan duyên kia thành”.

Giải thích: Nếu nghĩa thành ở cảnh, không trí không phân biệt. Tri đây nếu chẳng có, Phật quả không thể được, ở trong một vật, mỗi tùy ý đó thấy có sai biệt, cho nên phải biết nghĩa không chỗ có vậy, thì sở thủ v.v... kia đã chẳng thành tựu. Nếu vậy, nghĩa không chỗ có thì thức nên chẳng duyên cảnh mà sinh?

Đáp: Cũng có thức chẳng duyên cảnh mà sinh, như mộng và quá khứ vị lai v.v... không thật phan duyên tức tự phan duyên, như cảnh tượng và cảnh định, nghĩa là tự tâm làm cảnh mà phan duyên. Nếu nghĩa có tự tánh làm cảnh, thì không trí không phân biệt, trí đây nếu có, có Phật quả có thể được.

Hỏi: Ở trong Tông Kính đầu tiên tin vào có bao nhiêu vị?

Đáp: Nếu người viên tín mới đầu có năm phẩm vị. Thai giáo căn cứ kinh Pháp Hoa phẩm phân biệt công đức, y cứ Viên giáo lập năm phẩm vị: Phẩm vị thứ nhất mới đầu phát tâm một niệm tin hiểu. Phẩm vị thứ hai thêm đọc tụng, phẩm vị thứ ba thêm nói pháp. Phẩm vị thứ tư kiêm hành sáu độ, phẩm vị thứ năm chánh hành sáu độ, từ phẩm vị thứ nhất phải nương xứ tĩnh lặng kiến lập đạo tràng, ở trong sáu thời hây bốn Tam-muội, sám tội sáu căn, tu tập năm hối, năm hối là: Một, sám hội, phá tội nghiệp ác lớn. Hai, khuyến thỉnh, phá tội phỉ báng pháp. Ba, tùy hỷ, phá tội tật đố. Bốn, hồi hướng, phá tội các hữu. Năm, phát nguyện, thuận không nguyện không tướng, chỗ có công đức chẳng thể hạn lượng, thí như toán số tính lường cũng chẳng thể nói, nếu năng siêng hành năm hối phương tiện hỗ trợ mở quán môn, một tâm ba đế chợt nhiên mở sáng, như đến gương sạch rõ khắp các sắc, trong một tâm niệm Viên giải thành tựu, chẳng thêm công lực mặc tình phân minh, chánh tín kiên cố, không thể dời động, đây gọi là tâm tin sâu tùy hỷ, tức phẩm thứ nhất đệ tử vị vậy. Trong phẩm Phân Biệt Công Đức nói: “Nếu có nghe thọ mạng lâu dài của Phật mà hiểu nghĩa thú đó, người ấy có được công đức không thể hạn lượng, năng khởi tuệ Vô thượng của Như Lai, cho đến nếu nghe kinh đây mà chẳng hủy báng, khởi tâm tùy hỷ, phải biết đó đã là tướng tin hiểu sâu chắc”, tức văn phẩm thứ nhất. Dùng viên giải quán tâm, tu hành năm hối lại thêm đọc tụng, khéo nói diệu nghĩa, cùng tâm tương hội, như mở giúp lửa, lúc đó tâm quán càng sáng, gọi là phẩm vị thứ hai vậy. Trong kinh nói: “Huống gì là người đọc tụng thọ trì, người đó thì là đầu đội Đức Như Lai”. Lại dùng tăng phẩm tín tâm tu hành năm hối lại thêm nói pháp, chuyển giải hiểu bên trong đó, dẫn dắt lợi ích người trước, vì rộng cứu tế nên hóa công quy về mình, tâm lại một chuyển, gấp bội hơn trước, gọi là phẩm vị thứ ba vậy. Trong kinh nói: “Nếu có thọ trì đọc tụng, vì người khác nói, hoặc tự chép hoặc bảo người chép, cúng dường kinh quyển, chẳng cần phải xây dựng chùa tháp và tạo lập tăng phường cúng dường chúng tăng”. Lại dùng tâm tăng tấn tu hành năm hối kiêm tu sáu độ, bởi lực phước đức nên gấp bội trợ quán tâm, lại một lớp tiến sâu, gọi là phẩm vị thứ tư. Trong kinh nói: “Huống lại có người năng trì kinh đây, kiêm hành sáu độ, công đức đó rất ưu thắng vô lượng vô biên, thí như hư không Đông, Tây, Nam, Bắc bốn góc trên dưới vô lượng vô biên, công đức người đó cũng lại như vậy, vô lượng vô biên, chóng đến Nhất thiết chủng trí”. Lại dùng tâm đây tu hành năm hối, chánh tu sáu độ, tự hành dạy người, sự lý đầy đủ tâm quán vô ngại, chuyển thắng hơn trước, chẳng thể thí dụ, gọi là phẩm vị thứ năm vậy. Trong kinh nói: “Lại vì người khác, dùng các thứ nhân duyên, tùy nghĩa giải nói kinh Pháp Hoa đây, lại năng trì giới thanh tịnh, cùng người nhu hòa đồng ở, nhẫn nhục không sân chánh niệm bền chắc, thường quý ngồi thiền, được các định sâu, tinh tấn dõng mãnh, gồm các pháp lành, lợi căn trí tuệ, khéo hay hỏi đáp, cho đến phải biết người như vậy đã hướng đến đạo tràng, gồm A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, ngồi dưới đạo thọ”. Mới đầu từ phẩm vị thứ nhất sau cùng đến sơ trú, một đời có thể tu một có thể chứng, chẳng đợi phẩm vị lên địa thứ bảy mới tu tập, nào rỗi hoan hỷ mới đầu vào hai dòng, chỗ giáo trước dùng cao vị đó là thuyết của phương tiện, Viên giáo vị thấp là thuyết của chân thật. Trong kinh Pháp Hoa nói: “Các việc như vậy là tu phương tiện, chư Phật cũng vậy, nay đang vì ông nói sự rất thật”. Tức ý đây vậy. Lại căn cứ bốn giáo Tạng, Thông, Biệt, Viên luận bàn vị cao để nói hơn kém. Như Viên giáo viên tu đến hạnh thứ hai trong mười hạnh, bèn cùng ngang bằng quả vị Diệu giác ở Biệt giáo. Nếu lên hạnh thứ ba chỗ có trí đoạn, người khác chẳng biết tên đó, huống gì là biết pháp đó. Đại thừa Biệt giáo phân tích giải thích Trung đạo Phật tánh, lý của chẳng không còn cách biệt đây, huống gì là tạng thông chỉ không, quả của hôi đoạn. Nếu theo Viên giáo từ hạnh thứ ba cho đến mười hướng mười địa Đẳng giác Diệu giác, chỗ có trí đoạn đều chẳng phải cảnh giới. Biệt giáo chỉ biết đến hạnh thứ mười, trong hạnh thứ hai chỉ đoạn vô minh làm cực quả của nhà mình, chẳng biết là nhân thấp kém của nhà khác. Thí như dựng gạch đá làm nền, dùng vàng báu nghiêm sức ở trên, đâu như từ nền đến đảnh đều chất lớp vàng Kim cang, chẳng chỉ vị cao có khác, cũng là báu chẳng phải báu riêng biệt. Cho đến ước về môn đoạn hoặc, luận về đoạn và chẳng đoạn là Biệt giáo chỉ nói đoạn mà chẳng luận chẳng đoạn. Viên giáo có đủ hai nghĩa. Nếu giáo rõ đoạn, chứng đạo chẳng đoạn, thí như Tiểu thừa luận chứng chân, chẳng luận đoạn và chẳng đoạn, nay cũng như vậy. Nếu quán chẳng nghĩ bàn là bên trong chẳng thấy có phiền não có thể đoạn, tánh phiền não chẳng chướng Bồ-đề, Bồ-đề chẳng chướng phiền não. Phiền não tức Bồ-đề tức phiền não. Nên trong kinh Tịnh Danh nói: “Đức Phật vì người tăng thượng mạn nói đoạn dâm nộ si gọi là giải thoát, không tăng thượng mạn là tánh dâm nộ si tức giải thoát. Sáu căn sáu trần mà không hạng ngại, chỉ trong mắt thấy sắc, cũng trong mắt vào ba môn giải thoát. Trong kinh Hoa Nghiêm nói rõ mười mắt cho đến sáu căn đều rõ sáng trong một trần, đủ tám tướng thành đạo chuyển pháp luân chúng sinh của mười phương ba đời chư Phật, đều chẳng đoạn mà rõ ràng. Lại năm phẩm vị đồng ngũ đình tâm quán của Tiểu thừa. Nay năm phẩm vị, dùng bốn hoằng thệ nguyện, bốn thứ Tam-muội, để nói rõ ngũ đình tâm. Bốn hoằng thệ nguyện rõ bốn thứ đình tâm. Bốn thứ Tam-muội rõ đình tâm thứ năm. Bốn hoằng thệ nguyện là: Một, chưa độ khiến độ. Hai chưa giải khiến giải thoát. Ba chưa an khiến an. Bốn chưa diệt khiến diệt. Bốn thứ Tam-muội là: Một thường đi, hai thường ngồi, ba, nửa đi nửa ngồi, bốn, chẳng phải đi chẳng phải ngồi. Vả lại bốn hoằng thệ nguyện rõ bốn thứ đình tâm là, sinh tử khổ đế tức là Niết-bàn không hai không riêng biệt, đây tức tin sự thuận lý. Tim là mẹ công đức của các đạo. Đây là thệ nguyện thứ nhất, chưa độ khổ đế khiến độ khổ đế, là phẩm vị tin lý đình tâm thứ nhất, phiền não tức bình đẳng không hai không riêng biệt, là vì chưa giải tập đế khiến giải tập đế là phẩm vị đọc tụng giải nói đình tâm thứ hai, tức là đại bi cứu khổ cùng hai thệ nguyện trước. Chưa an Đạo đế khiến an Đạo đế, tức là dùng từ không keo lận mà vì nói pháp, tức phẩm vị nói pháp đình tâm thứ ba. Chưa vào Diệt đế, khiến vào Diệt đế, tức là kiêm hành sáu độ. Sáu độ xử quyết bờ sinh tử đây, tức đình tâm thứ tư. Đại từ ban vui, dấy hai thệ nguyện đây. Bốn thứ Tam-muội rõ đình tâm thứ năm là, bốn Tam-muội đây đều tu niệm Phật phá tội chướng đạo, tự có người quán hơi thở giác quán chẳng ngừng, hoặc niệm Phật, hoặc xưng danh, tức phá giác quán điềm nhiên tâm định. Nên trong kinh nói: “Nếu có chúng sinh tâm nhiều tham dục, thường niệm Quán Âm tức bèn được lìa”, phá căn bản vô minh. Lại nói: Một niệm biết tất cả pháp là đạo tràng, đều là pháp môn niệm Phật vậy, tức thường hành Tam-muội chư Phật dừng lập. Hiện tiền thấy pháp giới Phật vậy. Thường ngồi Tam-muội là buộc duyên pháp giới một niệm pháp giới mà niệm Phật vậy, nửa đi nửa ngồi Tam-muội là tư duy thật pháp của chư Phật. Trong kinh Pháp Hoa nói: “Sẽ thành tựu bốn pháp là chư Phật hộ niệm”. Đây nói hành nhân tâm mới đầu. Nếu người hành đạo là, thường ưa ngồi thiền quán tâm không tâm pháp chẳng trú pháp gọi là đại sám hối. Chẳng phải đi chẳng phải ngồi Tam-muội là, đi đứng ngồi nằm nói nín v.v... đều là Ma-ha-diễn, vì chẳng thể được vậy. Nếu trong ba tạng dùng sự quán duyên sự, nghĩa là quán hơi thở, quán từ bi quán bất tịnh, quán giới phân biệt quán niệm Phật năm đình tâm v.v... Nay vị của năm phẩm trong Viên giáo, dùng lý quán duyên lý. Sinh tử tức Niết-bàn, phiền não tức Bồ-đề. Sinh mạng là mạng hơi thở của chúng sinh, Niết-bàn là mạng hơi thở của pháp thân, tuy chẳng thể tính đến mà có thể tán động. Sáng lặng đối với hơi thở vậy. Phiền não là dơ xấu của dưới đáy. Bồ-đề là tịnh lý của tôn cực, đối trước hiển bày sau vậy. Dùng văn tự giải thoát đối bất tịnh đình tâm vậy. Nếu Đại bi thệ nguyện cứu vớt khổ nhân quả là, nếu có ngã sở còn chẳng tự ra khỏi, huống gì cứu vớt khổ kẻ khác, nghĩa là không ngã sở vậy. Do đó, phát tâm đại bi tự cứu vớt, cứu vớt kẻ khác. Nếu đại từ thệ nguyện ban vui nhân quả là. Nếu ở mười hai duyên khởi vô minh si ái, còn tự không vui, huống gì ban vui kẻ khác. Nay tự không si nên năng ban vui chi kẻ khác vậy. Nếu Tiểu thừa niệm sinh thân ứng Phật tướng tốt, nay niệm tướng tốt pháp thân, sự lý trọn khác. Cho đến, Phật ở Tạng giáo ngang vị tâm mười tín ở Viên giáo, vì đồng trừ bốn trú phiền não trong giới vậy. Mười tín tuy cùng Phật trong bạ tạng đồng trừ ngang bằng phiền não trong giới, mà mười tín lại viên phục căn bản vô minh ở ngoài giới. Tạng giáo còn chưa nhận biết trú địa vô minh, làm sao xưng phục? Phật trong ba tạng còn xưng là kém, huống gì Nhị thừa ư? Do đó nói đồng trừ bốn trú, xứ đây là ngang bằng, nếu phục vô minh, ba tạng tức kém, Phật còn là kém. Hàng Nhị thừa có thể biết, nay lược nói rõ vị của viên tín mới vào, năm mươi hai vị đó, trí đoạn hành tướng, rộng tại kia nói rõ, nên biết viên tín chóng tu cùng tiệm chứng quyền cơ, công hạnh mài luyện, ngày kiếp cùng gấp bội. Vào Tông Kính đây công đức vô biên. Vì vậy Tổ sư nói: Tức tâm đó là nhanh chóng, phát tâm hành là chậm trễ. Nên Thái giáo nói: Đại cơ gõ Phật thệ cỏ nhẫn nhục, viên ứng chóng nói thề ra đề hồ. Lại đốn giáo đầu tiên mới vào nội phàm, bèn gọi là nhũ, gọi là nhũ là ý chẳng tại nhạt, vì mới đầu vậy, gốc vậy. Như trâu mới sinh, huyết biến làm sữa, thuần tịnh tại thân, nếu trâu con bú, trâu liền ra sữa, Phật cũng như vậy, mới đầu ngồi đạo tràng, mới thành Chánh giác, sữa vô minh v.v... chuyển biến làm minh tám muôn pháp tạng, mười hai bộ loại kinh giáo, đầy đủ tại pháp thân. Hàng đại căn trâu con trước cảm được sữa, sữa làm đầu tiên của các vị. Thệ chóng tại đầu của các giáo, nên lấy Hoa Nghiêm làm nhũ vậy. Như trong kinh Đại Niết-bàn nói: “Núi Tuyết có loại cỏ tên là Phì-nị, nếu trâu ăn đó, thuần được đề hồ, không có sắc màu xanh vàng đỏ trắng đen, vỏ xác cỏ nhân duyên thì có khác của sắc vị. Là các chúng sinh vì nghiệp nhân duyên minh và vô minh nên sinh hai tướng. Nếu vô minh chuyển thì biến làm minh. Tất cả các pháp thiện và bất thiện v.v... cũng là như vậy”. Không có hai tưởng thì giáo của Pháp Hoa một thừa làm đề hộ vậy. Trong luận Hoa Nghiêm nói: “Đại ý một thừa chánh tông của kinh Hoa Nghiêm đây, chỉ lúc thức diệt, mất tình trần chóng tuyệt chỉ cảnh chân trí một niệm thì năm vị đều sáng, là toàn đem Phật quả để làm nhân vậy, giả sử phàm phu sống ở đời trăm năm cho đến nhiều kiếp mà ở tự thấy, chẳng thấy trong khoảnh khắc, có thể chuyển đổi chẳng thấy sẽ thành Phật chăng? Thấy rồi thành Phật, chẳng thấy hiện thành Phật. Quả vị của mười trú, pháp đã như vậy, lại có chúng sinh nào chẳng thành Phật ư? Lại có chúng sinh nào mà thành Chánh giác? Kinh Hoa Nghiêm đây là gốc, môn pháp giới. Tất cả chư Phật vốn trú nơi vườn nhà lớn, tất cả Phật tử rốt ráo chỗ quy về hóa thân quyền thừa đều ở bên ngoài đó. Nếu có vào là một vào toàn chân, trong vị đây Bồ-tát mới phát tâm trú thấy đạo, trú thấy biết của Phật, vào thấy biết của Phật, cùng với Như Lai đồng tướng thân tâm trí tánh, nên chóng ấn hành tướng năm vị đều tại trong đó, như cầm gương sáng soi quá khứ chúng sắc. Kinh pháp môn pháp đây hợp, chỗ có tán thán nói như vậy, nên biết như vậy, nên tin hiểu như vậy, là pháp môn pháp giới tròn đầy, không thủy chung ở trong một niệm, năm thắng tối sáng lớp lớp vô tận bên trong của một mảy may. Cảnh Phật cảnh chúng sinh vô biên sắc tướng, một thành tất cả thành, một hoại tất cả hoại. Lại, kinh Hoa Nghiêm tức dùng pháp giới Phổ môn, pháp môn thấy khắp, cảnh Như Lai tạng thân Tam-muội, lưới Nhân-đà-la trang nghiêm biển pháp giới xoay vần lớp lớp diệu trí một thời đồng được, là một chứng tất cả chứng, một đoạn tất cả đoạn vậy, tức bên trong của tự thân có cõi nước trang nghiêm của mười phương chư Phật. Bên trong của Phật thân tức cảnh của bên trong tự thân, lớp lớp ẩn hiện mười phương thế giới, pháp hợp như đây, giống như các dòng chảy về nơi biển lớn, tuy chưa vào biển, đượm tánh không sai, nếu vào biển lớn, đều đồng vị mặn. Tất cả chúng sinh cũng là như vậy, mê đó và ngộ tuy là có khác. Xưa nay biển Phật nguyên vốn chẳng ra.

Hỏi: Chân như tịch diệt, vốn không khác của thứ lớp, pháp giới hư huyền đâu có riêng biệt của thềm bậc, cớ sao trên thể một chân mà phân tên của năm vị mười địa?

Đáp: Nếu dùng chân tánh Duy thức thì tánh dung tất cả còn chẳng chỉ một, huống gì phân nhiều. Dùng môn của giải hành chứng nhập, thì không gì chẳng cạn sâu, như thái hư không vốn không sai khác, lúc tuổi nhỏ quán chỉ chẳng xa, sau to lớn thì thấy vô biên, chẳng phải hư không kia có ngắn dài, chỉ là mắt đó tự sáng tối. Lại như châu ma-ni báu lớn ở nơi quặng tuy sạch, mà không thợ giỏi khéo sửa thì sao có thể thành đồ dùng. Như núi Tô-mê-lô, tuy là nơi các báu nhóm tụ, nếu không nhật luân xoay chiếu thì lấy gì ra ánh sáng.

Lại như đưa tay chỉ vẽ giữa hư không là số lượng của không số lượng, như tâm lượng pháp giới là cạn sâu của chẳng phải cạn sâu. Như trong luận Hoa Nghiêm nói: Bồ-tát sơ địa, nhiều trăm pháp minh môn, vương hóa nhiều trăm Phật thế giới. Bồ-tát địa thứ hai nhiều ngàn pháp minh môn, vương hóa nhiều ngàn thế giới Phật là, chẳng đồng quyền giáo thật có phân hạng, như số pháp trước qua lại suốt vào. Lại như người đưa tay hoạ vẽ hư không làm trăm ngàn số vi trần, lại dùng tay xóa đó khiến hết, nhưng trong hư không kia không có tăng giảm. Vì tình lượng nên thấy hư không kia rõ có tăng giảm. Kinh đây cũng vậy, chỗ có Bồ-tát an lập các địa, pháp môn tăng giảm cũng lại như vậy. Vì thành các hữu tình nên khiến tấn tu, nếu là bao quát đều bình không có tâm tấn vậy, phàm phu không có tâm của răn tu, phát tâm tu đến chẳng tu, mới biết muôn pháp không tu vậy, mà thật dạy Bồtát một được tất cả được, là xứng trong pháp thể không trước sau vậy. Giống như lưới trời Đế-thích ánh sáng qua lại xen lẫn vào nhau không khoảng trước sau. Cũng như trăm ngàn gương báu đồng soi chiếu một diệu tượng, ảnh tượng trong mỗi mỗi gương vào nhau, sắc tượng đều bình. Như trong quả vị Phật, các Bồ-tát là từ tánh khởi pháp thân, trí căn bản là mở đầu chứng tâm bên trong của mười vị, chỗ có pháp môn cảnh giới thảy đều nương gốc vì thể dung thông thâu thảy đều suốt vậy, trở lại vì tánh ngang bằng tức thời ngang bằng vậy. Lại có các pháp khác chẳng ngang bằng là điều không thể vậy. Lại nói: Bồ-tát mười trú trở lại, chỗ hành đều là trợ đạo chẳng phải là chánh vị, nên ý muốn sáng hành, chỗ hành là, đó là trợ đạo, không trú không hành mặc chân tự thể, gọi đó là chánh quả vậy. Nếu dùng tâm mới phát trú, vì pháp tánh không tướng, trí căn bản chẳng lìa thể của không tác dụng, hành các môn hạnh, Bồ-tát cùng Phật nhân quả xưa nay thể ngang bằng, nếu chọn lựa Phật quả không tác không tu, Bồ-tát chánh gia hạnh trở lại đều gọi là trợ đạo, vì động tĩnh không ngại, chánh trợ vốn là pháp môn chẳng khác một, mặt mắt chẳng thể chẳng chọn lựa, thể dụng viên tịch, chánh trợ toàn đồng. Đây tức môn toàn biệt toàn đồng. Trở lại vì lớp huyền môn, tư duy đó chẳng thể giải hiểu, nghe chỗ pháp chưa nghe, nghe đó chẳng nghi, cảnh giới toàn biệt toàn đồng khó giải hiểu. Phật và phàm phu, mỗi tự riêng có, là nghĩa toàn biệt. Nên hai thấy luôn còn. Nếu toàn đồng nên bèn thành kẹt tịch. Đạo lý viên dung sự lý chẳng ngại. Nếu là pháp môn toàn phân hai tướng là pháp phàm phu. Toàn hợp một thể, là pháp Nhị thừa, chỉ vì lý sự tự tại. Đạo đó ở trong, lưu tâm diệt đó, đây cũng chẳng thể, vì tâm còn đó, đây cũng chẳng thể, hành môn trợ đạo đây cùng quả đức chánh trí, môn của vô tác, thể hợp không hai. Quỹ tắc trong sự chẳng thể chẳng phân, vì thể dụng đó chẳng thể một hướng toàn biệt, vì toàn đồng làm toàn biệt, vì toàn biệt làm toàn đồng, chẳng thể toàn biệt không toàn đồng, chẳng thể toàn đồng không toàn biệt. Như mê hai môn đồng biệt đây tức trí chẳng tự tại. Lại trong kinh nói: Trí vào ba đời thảy đều bình đẳng là rõ trí năng tùy tục nói vào ba đời, tức tục thể vốn chân nên nói bình đẳng, vì môn chung riêng đồng dị thành hoại nghĩa sáu tướng bao gồm tức chung mà toàn riêng, tức riêng mà toàn chung, tức đồng mà đều khác, tức khác mà luôn đồng, tức thành mà đều hoại, tức hoại mà đều thành. Đều chẳng phải tình buộc một khác, câu chẳng câu, có không chẳng phải có không, thường vô thường, sinh diệt v.v... các tướng vậy. Như vậy đều là lý trí thể dụng y chánh của Như Lai đều tự tại vậy. Vì tự thể không niệm lực đại trí chiếu đó có thể thấy. Vì vậy, nếu người thượng thượng căn chóng rõ tâm không, vào chân Duy thức tánh, hiện hành các tập khác, chủng tử đều mất, thì dụng nào lại lập địa vị. Chỉ vì hàng căn trung hạ, hoặc có duyên tin, hoặc có chánh tin, hoặc có giải ngộ, hoặc có chứng ngộ, căn cơ chẳng đều, kiến giải chẳng đồng, ở trong vọng công dụng phân cạn sâu đó. Tuy tức rõ biết tin vào Duy thức tâm cảnh đều không, vì tưởng niệm nhỏ nhiệm chẳng hết, chưa được toàn trừ, phần phần mài luyện, ở trong thăng tấn nên có địa vị sai biệt. Vì căn trần năm ấm vi tế khó mất, nếu được thức ấm hết, mới được địa vị, trọn không chỗ được cứu cánh viên thành, như lưu ly sạch bên trong ngậm bảo nguyệt. Như trong kinh Thủ-lăng-nghiêm nói: “Phật bảo A-nan và đại chúng: Các ông phải biết thế giới hữu lậu mười hai loại chúng sinh, bản giác diệu minh giác viên tâm thể, cùng mười phương Phật không hai không khác, do ông vọng tưởng mê lý làm lỗi, si ái phát sinh, sinh phát mê khắp nên có không tánh, hóa mê chẳng dứt có thế giới sinh thì mười phương cõi nước vi trần đây chẳng phải vô lậu, đều là mê ngoan vọng tưởng an lập. Phải biết hư không sinh trong tâm ông, giống như mảnh mây điểm giữa trời trong, huống gì các thế giới tại hư không ư? Trong các ông, một người phát chân trở về nguồn thì mười phương hư không đây thảy đều tiêu sạch. Cớ sao trong hư không chỗ có cõi nước mà chẳng chấn động rách nát”. Tiếp trong văn Tiêu Năm Ấm nói: “Năm ấm đây vốn trùng diệt sinh khởi. Sinh nhân thức mà có, diệt từ sắc trừ, lý thì chóng ngộ, thừa ngộ đều tiêu, sự chẳng phải chóng trừ, nhân thứ lớp hết”. Văn Tiêu Sắc Ấm nói: “Phật dạy: A-nan! Phải biết ông ngồi nói đạo tràng tiêu rụng các niệm. Niệm đó nếu hết, thì các lìa niệm tất cả tinh minh, động tỉnh chẳng dời, nhớ quên như một. Đang trú xứ đây vào Tam-mađề, như người mắt sáng ở nơi rất tối tăm, tinh tánh diệu tịnh, tâm chưa phát sáng, đây thì gọi là bởi cõi Sắc ấm, nếu mắt sáng tỏa, mười phương mở suốt, không còn tối tăm, gọi là sắc ấm hết, thì người đó năng siêu vượt kiếp trược, quán nguyên do đó bền chắc vọng tưởng lấy làm gốc đó”. Văn Tận Thọ Ấm nói: “Phật dạy: A-nan! Người thiện nam kia tu trong Tam-ma-đề Xa-ma-tha sắc ấm hết làm, thấy tâm chư Phật như trong gương sáng hiển hiện ảnh tượng đó, nếu có chỗ được mà chưa năng dụng, giống như người bị bóng đè tay chân rõ ràng, thấy nghe chẳng lầm, tâm xúc khách tà mà chẳng năng động. Đây thì gọi là bờ cõi Thọ ấm. Nếu hết bị bóng đè, tâm đó lìa thân, trở lại nhìn mặt đó, đi đứng tự do không có ngăn ngại, gọi là Thọ ấm hết, thì người đó năng siêu vượt kiến trược. Quán nguyên do đó, rỗng sáng vọng tưởng lấy làm gốc đó”. Văn Tận Tưởng Ấm nói: “Phật dạy: A-nan! Người thiện nam kia tu Tam-ma-đề thọ ấm hết là, tuy chưa lậu tận, tâm lìa hình đó, như chim xổ lồng, đã năng thành tựu, từ trên thân phàm trải qua sáu mươi Thánh vị của Bồ-tát, được ý sinh thân tùy qua vô ngại. Thí như có người ngủ say trên giường mê nói, người đó tuy là không chỗ riêng biết, nhưng lời nói đã thành âm vận rõ ràng, khiến người chẳng ngủ đều hiểu lời đó. Đây thì gọi là bờ cõi tưởng ấm. Nếu động niệm hết, phù tưởng tiêu trừ, ở tâm giác minh như dứt bụi dơ, một lớp sinh tử đuôi đầu viên chiếu, gọi là Tưởng ấm hết, thì người đây năng siêu vượt phiền não trược, quán nguyên do đó, dung thông vọng tưởng lấy làm gốc đó”. Văn Tận Hành Ấm nói: “Phật dạy: A-nan! Người thiện nam kia tu Tam-ma-đề tưởng ấm hết là, người đó bình thường mộng tưởng tiêu diệt, ngủ thức luôn một, giác minh rỗng lặng giống như trời trong, không còn thô trọng ảnh sự tiến trần, quán các thế gian núi sông đất liền, như gương soi sáng, đến không chỗ điểm đi không dấu vết, luống thọ chiếu ứng, rõ không bày tập, chỉ một tinh chân, căn nguyên sinh diệt từ đây vạch bày, thấy khắp mười phương mười hai loại chúng sinh, rốt cùng hết các loại đó, tuy chưa thông rành đầu mỗi mỗi mạng đó, thấy nền tảng đồng sinh, như ngựa đồng hoang lấp lánh trong nhiễu, là căn trần nổi rốt ráo chốt huyệt. Đây thì gọi là bờ cõi hành ấm. Nếu trong nhiễu đây nguyên tánh lấp lánh, tánh lâu vốn lắng, một lắng nguyên tập, như gợn sóng dứt hóa làm nước lắng, gọi là Hành ấm hết, thì người này năng siêu vượt chúng sinh trược, quán nguyên do đó, u ẩn vọng tưởng lấy làm gốc đó”. Văn Tận Thức Ấm nói: “Phật dạy: A-nan! Người thiện nam kia tu Tamma-đề hành ấm hết là, tánh các thế gian, tối trong nhiễu động động phân sinh có chợt nhiên đổ nát, chìm lưới tế then chốt Bổ-đặc-già-la, thù đáp nghiệp mạch sâu cảm ứng cách tuyệt, ở trời Niếtbàn sắp rất rõ ngộ, như lúc gà gáy, trông nhìn phương Đông đã có tinh sắc. Sáu căn rỗng lặng, không còn rong ruổi, trong ngoài lặng sáng, vào không chỗ vào, thấu đạt mười phương, nguyên do thọ mạng mười hai chủng loại. Quán do chấp nguyên các loại chẳng vời, ở mười phương cõi đã được đồng đó, tinh sắc chẳng chìm, phát hiện sâu xa bí mật, đây thì gọi là bờ cõi Thức ấm, nếu ở các vời đã được trong đồng mà sạch sáu môn, hợp mở thành tựu, thấy nghe thông chung quanh, qua lại dụng thanh tịnh, mười phương thế giới cùng với thân tâm, như cắn lưu ly trong ngoài sáng suốt, gọi là thức ấm hết. Thì người này năng siêu vượt mạng trược, quán nguyên do đó võng tượng hư vô điên đảo vọng tưởng lấy làm gốc đó. Cho đến, thức ấm nếu hết, thì ông hiện tiền các căn qua lại dụng, từ trong qua lại dụng năng vào Bồ-tát Kim Cang Càn Tuệ, tròn sáng tinh tâm ở trong phát hóa, như lưu ly sạch trong chứa bảo nguyệt. Như vậy mới vượt mười tín mười trú, mười hạnh, mười hồi hướng, bốn gia hạnh tâm, chỗ Bồ-tát Kim Cang, mười địa, Đẳng giác tròn sáng, vào nơi biển Diệu trang nghiêm của Như Lai, tròn đầy Bồ-đề, về không chỗ được.

Hỏi: Đã luận tâm mới đầu vào đạo, sao dụng rộng ghi lục hạnh vị mười địa?

Đáp: Nếu luận đạo đó hẳn có quả đó, nếu không hạnh, vị tức là thiên ma ngoại đạo, chỗ kinh luận nói vi tế khó biết. Thai giáo có văn của lục tức. Nhân vương đủ vị của năm nhẫn, sợ đọa thượng mạn chấp giải thoát hiểu chẳng tu, đều là chỗ thuyên của các Thánh xưa trước, chẳng dám không ghi chép, chẳng phải là thao lạm tự lập khác mối, chỉ mong các bậc hậu hiền nguyện tuân theo chế trước.

Hỏi: Công đức Phật địa đều đủ bỗng nhiên pháp thành tựu viên mãn?

Đáp: Thành tựu năm pháp đủ gồm tất cả công đức Phật Địa. Nên trong luận Phật Địa nói: “Một, pháp giới thanh tịnh là tất cả tự thể chân thật của Như Lai từ thời vô thủy đến nay tự tánh thanh tịnh, đầy đủ các thứ công đức tánh tướng quá mười phương giới cực số vi trần, không sinh không diệt giống như hư không, khắp tất cả hữu tình bình đẳng cùng có, cùng tất cả pháp chẳng một chẳng khác, chẳng phải có chẳng phải không, lìa tất cả tướng, tất cả phân biệt, tất cả danh ngôn đều chẳng năng được, chỉ là chỗ chứng của Thánh trí thanh tịnh. Hai không vô ngại chỗ hiểu biết chân như. Với tự tánh đó, các Thánh phần chứng, chư Phật viên chứng; Hai, Đại viên kính trí là năng hiện sinh tất cả cảnh giới, ảnh tượng các trí, tất cả thân và cõi nước chỗ ảnh tượng nương, nắm giữ tất cả công đức Phật Địa, cùng suốt ngằn mé vị lai không có đoạn tận; Ba, Bình đẳng tánh trí, nghĩa là quán tự tha tất cả bình đẳng, kiến lập Phật Địa, không trú Niết-bàn; Bốn, Diệu quán sát trí, nghĩa là ở tất cả cảnh giới sai biệt thường quán vô ngại, ở chúng hội lớn năng hiện tất cả tác dụng tự tại, đoạn tất cả nghi, mưa pháp vũ lớn; Năm, Thành sở tác trí nghĩa là năng khắp cùng tất cả thế giới, tùy chỗ ứng hóa, thành thục hữu tình”. Giải thích: Pháp giới thanh tịnh là, thì không thức cấu tịnh, một tâm chân như, tức chánh tông đây Thánh phàm cộng có. Một pháp giới đây là thể của bốn trí. Bốn trí thì dụng của một thể, vì chư Phật hiện chứng chúng sinh chẳng biết. Vì chẳng biết nên chấp làm tên của tám thức. Vì hiện chứng nên năng thành tướng của bốn trí, nếu mê muội đó thì tám thức khởi hiệu của chấp tàng, bảy thức được tên của nhiễm ô, sáu thức khởi tình biến kế, năm thức biến cảnh của căn trần. Nếu rõ đó, thì Lại-da thành thể của Viên kính, trì môn của công đức, Mạt-na là nguyên của bình đẳng, một tánh của tự tha, thức thứ sáu khởi diệu của quán sát, chuyên xe của chánh pháp, năm thức trước dấy công của sở tác, duỗi vết của ứng hóa, đó thì một tâm chẳng phải động, thức trí tự phân, chẳng chuyển thể đó, chỉ chuyển sinh đó. Chẳng phân lý đó mà phân sự đó.

Hỏi: Ở trong năm pháp, một pháp giới thanh tịnh là, tức là tự tánh thanh tịnh, thể của tròn sáng, từ xưa đến nay tánh tự đầy đủ, chẳng phải chỗ sinh của sinh nhân, chỉ chỗ liễu của liễu nhân. Đây thì chẳng luận tâm cảnh. Bốn trí đó v.v... hành tướng chẳng đồng, ở lúc diệu dụng mỗi mỗi duyên cảnh nào?

Đáp: Trong luận Duy Thức nói: “Viên cảnh trí tương ưng tâm phẩm, có nghĩa chỉ duyên chân như làm cảnh, là trí không phân biệt, chẳng phải trí hậu đắc, chỗ hành tướng duyên chẳng thể biết vậy”. Trong luận Trang Nghiêm nói: “Đại viên kính trí ở tất cả cảnh chẳng ngu mê vậy. Lại, đây quyết định duyên chủng vô lậu và các ảnh tượng của thân cõi nước v.v... hành duyên vi tế nói chẳng thể biết. Như thức A-lại-da cũng duyên tục, duyên chân như vậy, là trí không phân biệt. Duyên các cảnh khác nên trí hậu đắc gồm thuộc. Thể nó là một, tùy dụng phân hai. Rõ tục do chứng chân nên nói là hậu đắc. Bình đẳng tánh trí, tương ưng tâm phẩm, có nghĩa chỉ duyên tịnh thức thứ tám, như nhiễm thức thứ bảy duyên tạng thức vậy, có nghĩa chỉ duyên chân như làm cảnh. Trong luận Trang Nghiêm nói: Duyên các hữu tình tự tha bình đẳng, tùy tha thắng giải hiện vô biên ảnh tượng Phật vậy. Do đó, phẩm đây thông duyên chân tục, chỗ hai trí nhiếp, ở lý không trái nghịch. Diệu quan sát trí tương ưng tâm phẩm, duyên tất cả pháp tự tướng cộng tướng đều không chướng ngại, chỗ hai trí gồm thuộc. Thành sở tác trí tương ưng tâm phẩm, có nghĩa chỉ duyên năm thứ hiện cảnh. Trong luận Trang Nghiêm nói: Như Lai năm căn mỗi mỗi đều ở năm cảnh chuyển vậy”. Có nghĩa phẩm đây cũng năng duyên khắp các pháp ba đời, chẳng trái chánh lý. Trong kinh Phật Địa nói: Thành sở tác trí khởi làm ba nghiệp các sự biến hóa, quyết trạch tâm hành sai biệt của hữu tình, nghĩa lãnh thọ ở quá khứ vị lai và hiện tại. Nếu không duyên khắp thì không năng như đây vậy, lại trí hậu đắc gồm thuộc. Bốn tâm phẩm đây tuy đều khắp cùng năng duyên tất cả pháp, mà dụng có khác. Nghĩa là, Kính trí phẩm, hiện tướng thọ dụng thân Tịnh độ: Gìn giữ chủng vô lậu. Bình đẳng trí phẩm, hiện tướng tha thọ dụng thân Tịnh độ. Thành sở tác trí phẩm năng hiện tướng biến hóa thân và độ. Quán sát trí phẩm quán sát công năng là lỗi lầm của tự tha, mưa pháp vũ lớn, phá các pháp lưới nghi, lợi lạc hữu tình, các môn sai biệt như thế có nhiều thứ.

Hỏi: Thành sở tác trí cùng thức thứ sáu tương ưng khởi ở hóa dụng, cùng tánh quán sát trí có gì sai biệt?

Đáp: Trong luận Duy Thức nói: “Quán sát trí quán tự tướng cộng tướng các pháp. Sở tác trí đây chỉ khởi hóa nên có sai biệt, hai trí phẩm đây nên chẳng đều sinh. Một loại hai thức chẳng cùng khởi vậy. Đồng thể dụng phân, câu cũng chẳng phải lỗi mất, hoặc cùng tịnh thức thứ bảy tương ưng, nương nhãn căn v.v... duyên sắc cảnh v.v... là tác dụng sai biệt của ban sắc trí. Nghĩa là tịnh thức bảy khởi tướng tha thọ dụng thân độ là bình đẳng phẩm gồm thuộc, khởi biến hóa là thành sự gồm thuộc.

Hỏi: Nói pháp hữu vi đều uẩn xứ gồm. Như Lai thuần pháp vô lậu, lại đủ uẩn xứ giới chăng?

Đáp: Trong luận Duy Thức nói: Kinh xử xứ nói chuyển uẩn vô thường, hoạch được uẩn thường, giới xứ cũng vậy. Sao nói Như Lai chẳng phải uẩn xứ giới? Nên nói chẳng phải, là mật ý nói. Lại trong thân Phật, mười tám giới v.v... thảy đều đầy đủ mà thuần vô lậu. Quả chuyển y đây lại chẳng nghĩ bàn, vượt qua đường tầm tư nói bàn vậy, vi diệu sâu mầu tự chứng bên trong vậy.

Hỏi: Trí đây là thấy biết của Phật, không thầy tự vậy, sao mượn nhân duyên xưng dương mở bày? Đáp: Trí đây tuy chẳng ước ở duyên sinh mà theo duyên hiển bày, nếu chấp không nhân đều thành ngoại đạo. Như các sư xưa trước nói: Phật pháp tuy có trí không thầy, trí tự nhiên mà là chân lý thường trú, cần nhờ duyên để hiển bày thì cũng là nhân duyên vậy. Trong kinh Pháp Hoa nói: “Phật chủng theo duyên khởi”.

Trong kinh Lăng-già nói: Đại Tuệ thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Phật nói thường chẳng nghĩ bàn. Các ngoại đạo kia cũng có thường chẳng nghĩ bàn. Vậy có gì khác? Phật dạy: Các ngoại đạo kia không có thường chẳng nghĩ bàn, vì không nhân vậy. Ta nói thường chẳng nghĩ bàn có nhân. Nhân ở bên trong chứng, đâu được đồng ư?” Vậy thì chân thường cũng nhân duyên khởi. Nên biết không có một pháp nào chẳng từ tâm mà sinh. Đạo của ba thừa đều là chứng bên trong. Nếu ngoài tâm lập nghĩa, mặc tình nói u huyền đều thành ngoại đạo.

Lại nếu vào Duy thức trí, tuy chẳng chấp cảnh trước, chẳng đồng ngu tối không thấy không biết, tuy chiếu cảnh hư, mắt trí còn đó. Trong luận Kim Cang Bát-nhã có kệ tụng nói:

“Tuy chẳng thấy các pháp
Chẳng phải không mắt liễu cảnh”.

Do đó, trong Vĩnh Gia Tập nói: “Phàm, cảnh chẳng phải trí mà chẳng rõ, trí chẳng phải cảnh mà chẳng sinh. Trí sinh thì rõ cảnh mà sinh, cảnh rõ thì trí sinh mà rõ. Trí sinh mà rõ, rõ không chỗ rõ, rõ cảnh mà sinh, sinh không năng sinh. Tuy trí mà chẳng phải có, rõ không chỗ rõ, tuy cảnh mà chẳng phải không, không tức chẳng không. Có tức chẳng phải có, có không song chiếu, diệu ngộ thâm trầm, như lửa được củi càng thêm cháy mạnh. Củi dụ cho nhiều cảnh của phát trí, lửa dụ cho diệu trí của rõ cảnh”. Bài Từ đó nói: “Đạt tánh không mà chẳng buộc, tuy duyên giả mà không đắm, cảnh của có không song chiếu, tâm của Trung quán trải rơi”. Lại có kệ tụng nói: “Nếu trí rõ ở cảnh, tức là trí cảnh không, như mắt hết không hoa, là hết mắt không hoa. Nếu trí rõ ở trí, tức là trí không trí. Như mắt hết mắt không, là hết mắt không mắt. Trí tuy rõ cảnh không, và cả rõ trí không, chẳng không rõ cảnh trí. Cảnh không, trí còn có. Rõ cảnh trí không trí, không cảnh trí chẳng có, như mắt hết không hoa, và cả hết mắt không, chẳng không hết không mắt. Hoa không mắt còn có. Hết hoa mắt không mắt, không hoa mắt chẳng hết.

QUYỂN 89

Hỏi: Chư Phật chỉ một pháp thân, cớ sao nói ba thân sai biệt?

Đáp: Căn cứ dụng phân ba, thể đó thường một. Trong luận Duy Thức nói: “Pháp thân như vậy, có ba tướng riêng biệt: Một, tự tánh thân, nghĩa là các Đức Như Lai pháp giới chân tịnh, thọ dụng biến hóa bình đẳng sở y, lìa tướng vắng lặng, tuyệt các hý luận, đầy đủ công đức chân thường không có ngằn mé, là chân tánh bình đẳng của tất cả pháp, tức tự tánh đây cũng gọi là pháp thân, chỗ pháp đại công đức nương dừng vậy; Hai, thọ dụng thân. Đây có hai thứ: Một là tự thọ dụng, nghĩa là các Đức Như Lai tu tập vô lượng tư lương phước tuệ, chỗ khởi vô biên công đức chân thật, và cực viên tịch thường khắp cùng sắc thân, tương tục trạm nhiên, suốt khoảng vị lai, luôn tự thọ dụng pháp lạc rộng lớn. Hai là, tha thọ dụng, nghĩa là các Đức Như Lai do trí bình đẳng bày hiện thân công đức tịnh diệu, ở cõi thuần tịnh, vì chúng Bồ-tát trú ở mười địa, hiện thần thông lớn, chuyển chánh pháp luân, quyết dứt lưới nghi, khiến kia thọ dụng pháp lạc Đại thừa. Ba, biến hóa thân, nghĩa là các Đức Như Lai do trí thành sự, biến hiện vô lượng tùy loại hóa thân, ở cõi Tịnh uế, vì chúng Bồ-tát chưa đăng địa và hàng Nhị thừa dị sinh, xứng căn cơ kia mà hiện thần thông nói pháp, khiến mỗi mỗi đều được các sự lợi lạc. Vì vậy chuyển diệt ba tâm được ba thân: Một là, tâm căn bản, tức thức thứ tám chuyển được pháp thân. Hai là, tâm y bản, tức thức thứ bảy chuyển được báo thân. Ba là, tâm khởi sự, tức sáu thức trước chuyển được hóa thân. Lại, một là, đoạn đức, đoạn tất cả phiền não, tức pháp thân; hai là, trí đức, gồm bốn trí làm báo thân; ba là, ân đức, ân xót thương nuôi dưỡng tất cả hữu tình là hóa thân, thì tám giải sáu thông từ một tâm mà khởi, ba thân bốn trí chỗ tám thức thành, trọn không một lý một hạnh mà từ ngoài lại, đều từ tự thức hành xử, một tâm mà chuyển, cho đến một thân vô lượng thân. Như trong kinh Hoa Nghiêm nói: Vô lượng thân mây lớp lớp vô tận, đều từ tánh khởi, vô ngại tròn chứa. Lại, các bậc Cổ đức hỏi: Phàm, pháp thân là pháp là nghĩa quỹ trì, quỹ nghĩa là quỹ tắc, khiến vật sinh giải tức pháp thân, năng khiến ba căn bốn trí mà sinh giải vậy. Trì nghĩa là nắm giữ, chẳng bỏ tự tánh, nghĩa là giữ gìn thể của pháp thân ngưng đọng, chẳng bỏ tự thể của vô vi vậy. Vả lại như trí căn bản, chánh lúc chứng như, chẳng làm như giải, năng sở ngầm hợp một thể, như ánh sáng mặt nhật cũng hư không hợp chẳng phân đây kia, là không phân biệt, làm sao được rõ quỹ giải. Nếu có nghĩa quỹ giải tức có phân biệt. Nếu có phân biệt tức cùng trí hậu đắc nào khác biệt? Đáp: Phàm, luận về phân biệt, có ba thứ đó: Một, tùy niệm phân biệt, sát-na niệm sau tiếp tục ở niệm trước. Hai kế độ phân biệt, tức khắp cùng kế độ. Ba, tự tánh phân biệt, mặc tình duyên cảnh chẳng dính danh ngôn. Nay bản trí chứng như, chỉ không tùy niệm phân biệt và tính lường phân biệt, gọi là không phân biệt, nhưng chẳng ngăn ngại có tự tánh phân biệt, như người uống nước tuy không nói phô, nhưng lạnh nóng tự biết, nên biết cũng có nghĩa quỹ.

Hỏi: Biến hóa thân cùng tha thọ dụng thân là tâm chân thật hay là tâm biến hóa?

Đáp: Hai thân đây là hóa, nhưng hóa chẳng lìa chân. Trong luận Duy thức nói: “Hai thân đây tuy không tâm chân thật và tâm sở, mà có hóa hiện tâm tâm sở pháp. Vô thượng giác giả, thần lực khó nghĩ, nên năng hóa hiện pháp không hình chất. Nếu chẳng vậy thì làm sao Như Lai hiện tham sân v.v... lâu đã đoạn vậy. Cớ sao Thanh văn và bàng sinh v.v... biết tâm Như Lai? Tâm thật của Như Lai, các hàng Đẳng giác Bồ-tát còn chẳng biết vậy. Do đây mà trong kinh nói: “Hóa vô lượng loại đều khiến có tâm”. Lại nói: Thành sở tác trí của Đức Như Lai hóa làm ba nghiệp. Lại nói: Biến hóa có tâm y tha. Thật tâm y tha tướng phần hiện vậy, cho đến, tự tánh pháp thân, chỉ có thường, lạc, ngã, tịnh chân thật, lìa các tạp nhiễm, chỗ các thiện nương, công đức vô vi không sắc tâm v.v... tướng dụng sai biệt, tự thọ dụng thân đủ vô lượng thứ diệu sắc tâm v.v... công đức chân thật. Nếu tha thọ dụng và biến hóa thân chỉ đủ lợi lạc tợ sắc tâm v.v... tha dụng hóa Tịnh độ công đức. Vì vậy Như Lai diệu thể pháp thân thanh tịnh chẳng đi chẳng lại như ánh như tượng, như nhật nguyệt của bốn Thiên vương hiển hiện trong nước trong sạch chẳng ra chẳng vào, tợ cung điện của Kiều-thi-ca hiện trong đất lưu ly chẳng phải có chẳng phải không. Trong luận Niếtbàn Vô Danh nói: “Pháp thân không tượng dùng hình ứng vật. Bát-nhã vô tri đối duyên mà chiếu. Muôn cơ chóng đến mà chẳng nhiễu thần đó, ngàn vạn khác đối mà chẳng can lự đó. Động như mây đi, dừng tợ thần cốc, đâu có tâm ở kia đây, tình buộc ở động tĩnh đó ư? Đã không tâm ở động tĩnh cũng không tượng ở đi lại. Đi lại chẳng vì tượng vậy, không đồ vật nào mà chẳng hình. Động tĩnh chẳng vì tâm vậy, không cảm nào mà chẳng ứng, nhưng mà tâm sinh ở có tâm, tượng ra ở có tượng. Tượng chẳng phải ngã ra vậy, vàng đá chảy mà chẳng chảy, tâm chẳng phải ngã sinh vậy. Sử dụng thường ngày mà chẳng chuyên cần, rối ren tự kia, ở ta sao làm. Do đó, trí khắp muôn vật mà chẳng nhọc, hình đầy tám cực mà không hoạn, thêm chẳng thể đầy, bớt chẳng thể khuyết. Sao lại trong bệnh cùi hủi mà được thọ cực song thọ, thiên quan linh kiệt thể đều đốt cháy nó ư? Vì vậy chư Phật chẳng ra đời cũng chẳng vào Niết-bàn, vốn ngộ chân tâm thành đạo, chân tâm không hình, đâu có ra vào ư? Chỉ tùy chúng sinh có tâm cơ thục, cảm thấy thân của báo hóa, chỗ có thấy nghe đều là ảnh tượng của trong tâm chúng sinh. Nên nói tâm sinh ở có tâm, tượng ra ở có tượng, thì chư Phật không tâm không thân đâu có nhọc lo nghĩ mệt tai hoạ ấy thay! Lại, Pháp sư Lễ thuật về nghĩa ba thân là: “Pháp thân giống như tánh của hư không, mây ùn tức che, sương tan tức sáng, tánh đó vốn thường vậy. Báo thân như mặt nhật giữa không, sáng rực vậy, lên cao càng sáng tỏa lớn, thể đó luôn còn vậy. Hóa thân như ảnh của soi nước, dừng trong tức hiện, chảy đục tức mờ, ẩn hiện chẳng luôn, qua lại chẳng định”. Phàm, hóa Phật là đâu ai khác ư? Dụng của báo thân viên ứng. Báo thân là gì ư? Thể của chỗ bi trí thành vậy. Bi lấy cứu tế rộng khắp làm lý. Trí dùng thiện quyền làm nghiệp. Do đó, nhân thời giáng vết tùy vật hiện thân. Thân vết là dụng. Bi trí là thể, thể là gốc đó, dụng là ngọn đó, nương thể dấy dụng, gồm ngọn về gốc, muốn cầu khác đó, lý có thể vậy ư? Báo thân tức hóa vậy. Hóa thân tức pháp vậy, Hòa thượng tức pháp lý vi tế vậy, trở lại cậy ảnh dụ mà thuật vậy. Phàm, ảnh mặt nhật của trong nước chẳng từ ngoài lại chẳng từ trong ra, chẳng đây chẳng kia chẳng khác chẳng một, chẳng không tướng trạng đó, chẳng có hình chất đó, chợt nhiên mà còn chợt nhiên mà mất. Tượng sáng rõ mà động tánh linh mà yên lặng. Chấp thật là vì vọng, biết vọng là rõ thật, mặt nhật là nghĩa gì vậy? Mặt nhật nếu từ ngoài lại là, ngoài nước sao còn ư? Nếu từ trong ra, trong nước trước có ư? Nếu nói tại đây là, ở kia chẳng thấy ư? Nếu nói tại kia là, ở đây chẳng thấy ư? Nếu nói là khác là, một thấy có hai ư? Nếu nói là một là, hai thấy đâu một ư? Nếu nói là không là, ở thấy có thể mất ư? Nếu nói là có là, cầu thể từng được ư? Gọi đó sinh, sinh không từ chỗ nào, gọi đó diệt diệt không chỗ đi, chẳng sinh vậy, chẳng diệt vậy. Tánh tướng vắng lặng, tuyệt lối tâm ngôn, đó có thể gọi là thấy thật tánh của nước ảnh vậy, thấy tánh của ảnh là có thể thấy thật tánh hóa thân. Thấy tánh của hóa là, tức chứng thể của pháp thân vậy. Tịnh Danh nói: Phật thân tức pháp thân vậy. Lại quán thân thật tướng, quán Phật cũng vậy, Bát-nhã nói: Nếu thấy các tướng chẳng phải tưởng tức thấy Như Lai. Lại, lìa tất cả tướng tức gọi là chư Phật. Vì vậy cất bước đặt chân, đạo tràng xúc xứ mà vô tận, mở mắt nhắm mắt, chư Phật hiện tiền mà chẳng diệt. Như trên nói, một thể ba thân, lý sự cùng thành thể dụng giao triệt, chẳng ra chẳng ở ẩn hiển đồng thời, đều là chánh nghĩa bản tông một tâm. Vì vậy, một thân nhiều thân đều là pháp giới, chỗ ngộ một Phật tức pháp giới vô ngại. Lý của tức sự toàn tại trong nhiều, chỗ hiện mới là sự của tức lý, toàn ở trong một. Lại, thành hoại một khoảng, duyên khởi đồng thời. Như lúc mới đầu tạo các tượng báu, mười năm tượng thành, trăm năm tượng hoại. Lúc của mới đầu được một báu, mười năm tượng thành trăm năm tượng hoại, đều tại lúc của được bán duyên khởi. Vì trăm năm chẳng đi, hiện tại chẳng trú. Trong duyên các báu, không thể thành hoại, để rõ trí từ muôn hạnh. Các Ba-la-mật ba mươi bảy phẩm trợ đạo, trong các thiện pháp, để thành thân Như Lai. Nhưng trong mỗi mỗi duyên, không ngã không tác giả, không thể thành hoại, mới gọi là Chánh giác.

Hỏi: Pháp thân chư Phật trong lắng sáng sạch, cớ sao khởi tướng của sáu căn?

Đáp: Một, vì tức tướng rõ chân, đâu trái đại dụng. Hai, vì lợi tha thắng nghiệp chẳng đoạn hóa môn. Như trong luận Bảo Tánh nói: “Nương tự lợi lợi tha, thành tựu nghĩa nghiệp vậy”. Nên có kệ tụng nói:

“Vô lậu và khắp đến
Chẳng diệt pháp cùng hằng
Trong mát chẳng biến khác
Chẳng lùi xứ vắng lặng
Thân chư Phật Như Lai
Như hư không không tướng
Diệu sắc thường trong lắng
Sáu căn rất sáng sạch
Mắt Phật thấy các sắc
Tai nghe tất cả tiếng
Ý biết tất cả pháp
Trừ các hành vướng vít
Phật lìa tướng hư không”.

Lại có kệ tụng nói:

“Như hư không không tướng
Mà hiện tướng sắc thảy
Pháp thân cũng như vậy
Đầy đủ tướng sáu căn”.

Lại có kệ tụng nói:

“Như Lai thân ảnh gương
Mà chẳng lìa bản thể
Giống như tất cả sắc
Chẳng lìa nơi hư không”.

Như trong kinh Pháp Hoa nói rõ sáu căn thanh tịnh, mắt thấy tất cả sắc, tai nghe tất cả tiếng, mũi ngửi tất cả hương, lưỡi rõ tất cả vị, thân hiện tất cả cảnh, ý biết tất cả pháp v.v...

Hỏi: Nếu chúng sinh có thể độ thì chư Phật giới tăng, chúng sinh giới giảm. Nếu chẳng thể độ, có các hạnh nguyện thảy đều luống mất, làm sao thông hiểu, đoạn tà kiến đó?

Đáp: Trong kinh nói: Tất cả phàm phu ngu si chẳng như thật biết một pháp giới, chẳng như thật thấy một pháp giới, nên khởi tâm tà kiến làm chúng sinh giới tăng chúng sinh giới giảm. Sở dĩ như vậy, chỉ vì chẳng như thật rõ tâm một pháp giới nên thấy tăng giảm”. Lại trong kinh nói: “Định tướng chúng sinh chẳng thể được vậy”. Lại trong kinh nói: “Chúng sinh giới không tánh vậy, chúng sinh giới vô biên vậy”. Các bậc Cổ đức nói: Nói tóm lại, chúng sinh giới như hư không, giả sử vô lượng thần thông ưu thắng, mỗi mỗi ở vô lượng kiếp hành nơi hư không, tìm cầu ngằn mé hư không, trọn chẳng thể tận, chẳng phải vì chẳng tận, chẳng gọi là dạo đi, chẳng phải vì dạo đi, khiến được ngằn mé đó. Phải biết, trong đây đạo lý Phật độ chúng sinh cũng vậy, chẳng phải vì sẽ được khiến đó có rốt cùng, chẳng phải vì không rốt cùng nói có không được. Cho nên, nếu cật nạn tất cả chúng sinh đều sẽ thành Phật, vậy thì chúng sinh tuy nhiều, hẳn có nghi ngờ của rốt cùng tận, không gì chẳng thông. Trong luận Đại Thừa Khởi Tín nói rõ: Nghiệp tướng chẳng nghĩ bàn, thì cảnh giới chư Phật, tại sao chẳng nghĩ bàn? Vì chẳng phải một chẳng phải khác, chẳng có chẳng không, chẳng phải nói nghĩ có thể định, chỗ tình giải lường biết vậy, xưng là nghiệp tướng của chẳng nghĩ bàn, nghiệp tướng của chẳng nghĩ bàn đây là, cùng các chúng sinh làm cảnh giới sáu căn vậy. Trong luận Bảo Tánh nói: “Thân chư Phật Như Lai như hư không không tướng. Vì thắng trí là làm cảnh giới sáu căn, hiện bày sắc vi diệu, hiện ra âm thanh diệu khiến ngửi hương giới của Phật cùng vị diệu pháp của Phật, bèn giác Tam-muội xúc, khiến biết pháp sâu mầu thường hóa chúng sinh, là dụng của chân như, nên nói là nghiệp chẳng nghĩ bàn vậy”. Bản giác dụng đây cùng tâm chúng sinh xưa nay không hai, chỉ bất giác theo dòng. Dụng liền chẳng hiện, dụng thì ở trong tâm kia, xứng căn hiển hiện, mà chẳng tác ý ta hiện sai biệt, nên nói tùy căn tự nhiên tương ưng thấy không gì chẳng ích, là tướng của bản giác tùy nhiễm. Do đó Bồ-tát năng hành chẳng phải đạo mà thông đạt chánh đạo, nếu vào môn Tông Kính, đạo của cứu cánh, thì nhiễm tịnh do tâm, không chẳng phải không chánh, nếu vào môn phương tiện, đạo của phân biệt, thì Bồ-tát với lực đại bi nên thường hành vô ngại. Nên các bậc Cổ đức có hỏi: Hành của chẳng phải đạo là nghiệp phiền não, Bồ-tát nên đoạn, cớ sao hành đó? Đáp: Có ba nghĩa: Một, môn tiệm xả, dừng ác hành thiện; Hai, môn xả tướng, thiện ác đều lìa; Ba, môn tùy tướng lợi ích, nhiễm tịnh đều hành. Môn thứ ba đây lại có ba ý: Một, căn cứ về hành, tự hành tu tịnh, hóa tha tùy nhiễm. Hai, căn cứ về nhân, hóa phàm đồng nhiễm hóa Thánh đồng tịnh. Ba, căn cứ về pháp, tùy pháp thế gian. Hẳn phải hiện nhiễm, tu pháp Bồ-tát, hẳn phải tu tịnh. Lại hỏi: Bồ-tát hành chẳng phải đạo, tu đạo nào? Đáp: Đạo có ba thứ: Một, chứng đạo, nghĩa là hai không chân như, chánh thể trí chứng. Hai, trợ đạo, duyên tu vạn hạnh, trơ hiển bày chân lý. Ba, chẳng trú đạo, tức là bi trí chẳng trú sinh tử chẳng trú Niết-bàn. Do đó Bồ-tát bày hành hiện đồng sự đó, là muốn đồng ác dừng ác, đồng thiện tấn thiện. Nếu sơ khác đó giáo hóa tức khó, nên phải hành chẳng phải đạo mà độ thoát đó, đều khiến ngộ vào đồng thể chân tâm vậy. Do đó, trong kinh Lăng-già nói: “Xuất thế gian thượng thượng Ba-la-mật là, như thật năng biết chỉ là tự tâm hư vọng phân biệt thấy cảnh giới bên ngoài. Bấy giờ thật biết chỉ là tự tâm, thấy pháp trong ngoài chẳng hư vọng phân biệt, chẳng thủ sắc tướng tự tâm trong ngoài vậy. Vị Đại Bồ-tát như thật năng biết tất cả pháp nên hành Đàn Ba-la-mật, vì khiến tất cả chúng sinh được vui vô úy an ẩn vậy. Cho đến Bồtát như thật quán sát tướng của tự tâm phân biệt, chẳng thấy phân biệt, chẳng đọa hai biên, nương như thật tu hành, chuyển thân chẳng thấy một pháp sinh, chẳng thấy một pháp diệt. Hạnh tự thân chứng Thánh bên trong tu hành là Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật”. Trong Hoàn Nguyên Quán nói: “Trí thân ánh hiện các duyên quán là, nghĩa là trí thể chỉ một năng soi xét các duyên duyên tướng vốn không, trí thể tịch chiếu, tướng các duyên hết. Như như riêng còn, nghĩa là pháp của hữu vi không gì chẳng đều hợp chân tánh. Nên biết chân tâm khắp tất cả xứ, không duyên nào chẳng đủ, không pháp nào chẳng tùy. Do đó trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Thân Phật đủ cùng nơi pháp giới, hiện khắp tất cả trước chúng sinh, tùy duyên cảm đến khắp đủ cả, mà thường ngồi tòa Bồ-đề đây”. Trong luận Đại Trí Độ nói: “Như mặt nhật tỏa chiếu thiên hạ, chẳng hay khiến cao thành thấp thấp thành cao, chỉ hiển hiện mà thôi. Phật cũng như vậy, ở nơi các pháp không chỗ làm vậy”. Trong kinh nói: “Thân Phật vô vi, chẳng đọa trong các số”.

Hỏi: Thật tướng một tâm phước trí đồng như, cớ sao phân thân Phật là chân hóa hư thật, có hơn kém của cúng dường ruộng phước?

Đáp: Phật chẳng phải chân hóa, chân hóa tùy tâm. Tâm chân thì chân phước vô biên, tâm giả thì giả báo có hạng. Như ác tâm làm thân Phật ra máu. Báo thân Phật thật có thì máu từ tâm sinh. Nếu tâm kính muốn thấy Phật hóa thân, thì Phật từ tâm hiện. Nên biết ẩn hiển tại ta, thân Phật vô vi. Hơn kém duy tâm ruộng phước bình đẳng. Như trong luận Đại Trí Độ nói:

“Hỏi: Phật, nếu không phân biệt là, cúng dường chân Phật cho đến vô dư Niết-bàn, phước hẳn vô tận, cúng dường hóa Phật cũng vậy chăng?

Đáp: Cúng dường hóa Phật chân Phật, phước đó không khác. Tại sao? Phật được thật tướng các pháp nên, cúng dường phước vô tận, hóa Phật cũng chẳng lìa thật tướng vậy. Nếu người cúng dường, tâm năng chẳng khác, phước đó cũng đồng. Lại nói: Hóa Phật không công đức mười lực v.v... cớ sao cùng đồng chân Phật?

Đáp: Các công đức mười lực v.v... đều vào thật tướng các pháp. Nếu mười lực v.v... lìa các pháp thật tướng, thì chẳng phải Phật pháp, sa đọa điên đảo tà kiến. Lại hỏi: Nếu vậy, trong hóa thân quyết định có các pháp thật tướng, cớ sao nói tâm ác làm thân Phật ra máu, mắc tội nghịch, chẳng nói là hóa Phật?

Đáp: Trong kinh chỉ nói: Tâm ác làm thân Phật ra máu, chẳng biện chân hóa. Nếu cúng dường hóa Phật đầy đủ phước, thì ác tâm hủy báng cũng mắc tội nghịch người ác định cho rằng Hóa Phật là chân mà tâm ác làm ra máu, máu ra là bèn mắc tội nghịch. Nên biết tùy tâm dối thật, Phật không định hình, trong lý thật tướng, tội phước đều lặng.

Hỏi: Báo hóa đã đồng thật tướng, cớ sao trong giáo nói Phật thọ lượng có ngắn dài đó?

Đáp: Một tâm chân như, tánh vô tận vậy, tức là thọ lượng của mười phương chư Phật. Vì vậy, mảnh núi giọt biển còn có thể so sánh, không giới địa trần còn có thể biết số. Huống gì Như Lai thường, lạc, ngã, tịnh pháp thân tuệ mạng, đâu cùng ngằn mé ư? Nên nói pháp tánh thọ là, chẳng phải đắc mạng căn cũng không liền trì, cưỡng chỉ chẳng đổi chẳng biến, gọi đó là mạng. Mạng đây chẳng phải lượng dài, cũng chẳng phải lượng ngắn, không dài ngắn, cưỡng chỉ pháp giới đồng lượng hư không, đây tức thân của chẳng phải thân, thọ của không thọ, lượng của chẳng lượng vậy. Nên trong kinh Kim Quang Minh có kệ tụng nói:

“Tất cả các nước có thể biết bao nhiêu giọt
Không ai có thể tính thọ lượng của Thích Tôn
Các núi Tu-di có thể biết cân lượng
Không ai có thể lường thọ mạng của thích tôn
Tất cả đại địa có thể biết số bụi trần
Không ai có thể đếm được thọ mạng của Thích Tôn
Hư không phần giới còn có thể cùng tận ngằn mé
Không ai có thể tính được thọ mạng của Thích Tôn”.

Trong Pháp Hoa Sớ Thích phẩm Như Lai Thọ Lượng nói: “Thọ (thọ mạng) là thọ (thọ nhận) vậy, nếu pháp thân chân như chẳng cách các pháp, nên gọi là thọ. Nếu báo thân, cảnh biết tương ưng, nên gọi là thọ. Nếu ứng thân, một kỳ báo được trăm năm chẳng đoạn, nên gọi là thọ. Pháp thân Như Lai lấy như lý làm mạng. Báo thân Như Lai lấy trí tuệ làm mạng. Ứng thân Như Lai lấy đồng duyên lý làm mạng. Pháp thân Như Lai như lý mạng là, có Phật không Phật tánh tướng thường vậy, chẳng luận tương ưng cùng tương tục, cũng không có lượng và không lượng. Trong kinh nói: “Chẳng phải như, chẳng phải khác, chẳng phải hư chẳng phải thật”. Bởi là phân tích lượng pháp thân như lý mạng vậy. Phân tích lượng báo thân Như Lai. Vì trí như như khế cảnh như như. Cảnh phát trí làm báo, trí ngầm cảnh làm thọ, cảnh đã vô lượng vô biên thường trú chẳng diệt. Trí cũng như vậy, hộp lớn nắp lớn. Trong kinh có kệ tụng nói:

“Trí lực ta như vậy
Chỗ lâu tu nghiệp được
Tuệ quang chiếu vô lượng
Thọ mạng vô số kiếp”.

Đây là giải thích lượng báo thân Như Lai tuệ mạng vậy. Giải thích lượng ứng thân là, ứng thân đồng duyên, duyên dài đồng dài duyên, ngắn đồng ngắn, rối ren tự kia, ở ta vô vi”. Trong kinh nói: “Luôn luôn hiện sinh, luôn luôn hiện diệt, hoặc là tự nói danh tự chẳng đồng, niên kỷ lớn nhỏ”. Đây là giải thích lượng ứng Phật đồng duyên mạng vậy. Trong Vô Sinh Nghĩa nói: “Tánh tự vậy là, tức là pháp tánh không, không tức Bồ-đề, nay sinh thân mạng từ sinh ý trong tham thủ ở quá khứ. Đã là pháp tánh không, phải biết thân mạng đời nay, cũng tức mạng từ trong pháp tánh không ra. Pháp tánh đã không, chỗ sinh thân mạng cũng trở lại pháp tánh không đi. Nên trong kinh Niết-bàn nói: “Như tám sông lớn và các sông nhỏ đều chảy vào biển lớn. Như vậy, tất cả trong loài người trên trời, đất và hư không thọ mạng sông lớn thảy đều chảy vào trong biển Như Lai thọ mạng. Lại như ao Anậu-đạt sinh ra bốn sông lớn. Như Lai cũng vậy, ra tất cả mạng, mạng đã từ như ra, trở lại như đi, sáu căn cũng như vậy, từ như ra, trở lại như đi. Nếu tin như trên nói về Như Lai thọ lượng, thì Phật thân gần so sánh công đức, thí như có người trong vô lượng kiếp hành năm pháp Ba-la-mật, chẳng bằng dùng chánh trí Bát-nhã phát tâm tin trong một niệm, so với công đức trước thì gấp bội trăm ngàn muôn lần”. Nên trong kinh Pháp Hoa có kệ tụng nói:

“Người đó ở trăm ngàn
Muôn ức vô số kiếp
Tu hành các công đức
Như nói rõ ở trên
Có thiện nam tín nữ
Nghe ta nói thọ mạng
Cho đến một niệm tin
Phước đây nhiều hơn kia”.

Hỏi: Đã lập một tâm, thân của chánh báo, phải có một tâm cõi của y báo. Thân đã đủ ba, cõi có mấy thứ?

Đáp: Tùy nghĩa phân riêng, tướng cũng nhiều thứ. Trong kinh Hoa Nghiêm nói đủ mười cõi, hoặc một hai ba, mở hợp chẳng định. Theo Thai giáo nói cõi nước Phật có bốn: Một, cõi nước nhiễm tịnh, phàm Thánh đồng ở. Hai, cõi nước hữu dư, phương tiện người ở. Ba, cõi nước quả báo, thuần pháp thân Bồ-tát ở, tức cõi lưới Nhân-đà-la không chướng ngại. Bốn, cõi Thường tịch quang, tức chỗ diệu giác ở. Lại, các kinh luận chung biện có năm, xưa trước giải thích: Một, cõi pháp tánh, chân như làm thể. Hoặc trong năm pháp lấy pháp giới thanh tịnh làm thể, chân như cùng pháp giới, trong môn tổng tướng tức chẳng khác, trong môn biệt tướng tức có khác. Nhân như khắp cùng tất cả nhân quả, bao gồm thông tức rộng, pháp giới thanh tịnh tức hẹp. Chỉ quả vị vậy; Hai, cõi Thật báo, lực vô úy v.v... tất cả công đức vô lậu, năm ấm lấy làm thể tánh, gồm tướng về tánh, lấy chân như làm thể. Nhân tu muôn hạnh. Quả khởi đáp nhân, chỗ chiêu cảm của quả báo chân thật, gọi là cõi Thật báo. Ở trong Phật tự thọ dụng thân dùng bốn trí làm thân, chỗ nương tựa công đức mười lực bốn vô sở úy, lấy đó làm cõi; Ba, cõi Sắc tướng nhiếp cảnh từ tâm tự lợi, trí hậu đắc làm thể, tịnh thức tự tại tối cực làm tướng. Thức thứ tám vô cấu gọi là tịnh thức, chỗ biến của trong Đại viên kính trí và trí hậu đắc. Gồm tướng về tánh cũng lấy chân như làm thể. Nếu căn cứ tướng riêng, bốn trần làm thể; Bốn, cõi tha thọ dụng, gồm cảnh tự tâm lợi tha, trí hậu đắc làm thể, nhiếp tướng và tánh, lấy chân như làm thể, nếu ước về tướng riêng bốn trần làm thể. Năm, cõi biến hóa. Bồ-tát biến hóa cõi hữu lậu là đồng như trước. Gồm cảnh từ tầm bản thức làm thể. Vô lậu là, đồng như trước. Tự lợi, trí hậu đắc làm thể, Phật cũng đồng thể đây, căn cứ tánh chân như làm thể, tướng riêng bốn trần làm thể. Nhưng cõi biến là, nếu trong thức thứ tám từ chủng tử biến sinh. Bốn trần năm trần hiện hành là, gọi là nhân duyên biến. Phật chỉ vô lậu. Bồ-tát hữu lậu thông tịnh uế. Nếu chỗ thức thứ sáu thức thứ bảy biến là, mỗi phân biệt biến. Phật chỉ vô lậu, cõi báo cõi hóa hoặc thông tịnh uế. Nếu thức thứ bảy trong vị hữu lậu, chỉ bên trong duyên kiến phần thức thứ tám, chẳng năng biến cõi. Nếu thức thứ sáu thứ bảy vô lậu trong trí hậu đắc, năng biến đó là, chỉ thông ảnh, chẳng thể thọ dụng. Vì chẳng từ chủng sinh vậy. Chỉ có thể hiện tướng của tịnh uế giáo hóa chúng sinh. Các thân và cõi trên nói tổng thể thì đều lấy pháp giới một tâm Như Lai tạng tánh làm thể, vì pháp nhĩ vậy, ước về Biệt thể thì như chỗ biện giải trên.

Hỏi: Cõi tịnh cõi uế, là tương đương đồng thể khác thấy hay tương đương biệt thể khác thấy? Là tương đương thể không vọng thấy, hay tương đương thể có vọng thấy?

Đáp: Chẳng phải đồng chẳng phải khác, chẳng có chẳng không, chỉ tùy tự tâm, nhân chỗ nghiệp hiện. Pháp sư An nói: Cõi tịnh cõi uế, nên dùng bốn câu để phân biệt, một chất chẳng thành, tịnh uế đầy khuyết, khác chất chẳng thành, một lý đều bình, không chất chẳng thành, duyên khởi vạn hình, có chất chẳng thành, tìm người tức ngầm.

Nên trong kinh Lăng-già có kệ tụng nói:

“Chẳng biết Duy tâm hiện
Cho nên phân hai thấy
Như thật chỉ biết tâm
Phân biệt tức chẳng sinh”.

Trong kinh Mật Nghiêm có kệ tụng nói:

“Tâm đó có hai tánh
Như gương ngậm muôn tượng
Cũng như nước hiện trăng
Mắt màng thấy vòng lông
Vòng lông châu anh lạc
Đây đều không chỗ có
Chỉ từ bệnh mắt màng
Nếu đây mà hiển hiện
Bình áo đều tự biết
Chúng sinh cũng như vậy
Hư vọng chấp ngã nhân
Chẳng biết luận chấp thủ
Chúng sinh và bình thảy
Các thứ mọi hình tướng
Trong ngoài tuy chẳng đồng
Tất cả từ tâm khởi
Nương ở thức Lại-da
Tất cả các chủng tử
Tâm như cảnh giới hiện
Cho nên nói thế gian
Thế gian chẳng tác giả
Nghiệp vì vi trần làm
Chỉ là A-lại-da
Biến hiện tợ ở cảnh”.

Trong Thanh Lương Ký nói: Trên đây bốn câu phân biệt cõi tịnh cõi uế là một hướng ngăn ngừa lỗi thầm, thật thì tức khác tức đồng tức có tức không, nếu qua lại hình đoạt thì một khác mà hai mất, có không đều tịch. Nếu viên dung vô ngại thì tức một tức nhiều tức không tức có. Có là không có, không là có không. Nhiều là nhiều của tức một, một là một của tức nhiều. Có không tức tự lý vô ngại. Một nhiều gồm sự sự vô ngại, do đây lớp lớp vậy. Cõi Hoa Nghiêm tạng mỗi mỗi trần đều thấy pháp giới. Lại y chánh không hai, bốn câu xen lẫn dung hòa. Một, thân Phật tức cõi là, thể Phật tức là cõi pháp tánh, phế bỏ tha theo mình, thể Phật hư rỗng vậy. Ngoài cõi không Phật, pháp tánh không hai vậy; Hai, cõi tức thân Phật là, thể cõi tức là pháp tánh thân vậy. Phế bỏ mình theo tha, thể cõi hư rỗng vậy. Ngoài Phật không pháp tánh không hai vậy. Do tánh không hai, lấy tánh dung tướng nên thân cõi tương tức; Ba, đều cùng là, nghĩa là có thân có cõi, chẳng hoại tướng vậy, nếu không thân cõi, không thể tương tức vậy; Bốn, hết sạch là, nghĩa là Phật tức cõi, nên chẳng phải Phật, cõi tức Phật nên chẳng phải cõi, vì qua lại đoạt vậy.

Hỏi: Thân cõi đã tổng chỉ một tâm, thể của pháp giới. Thế nào là hành tướng của tự tha mỗi thọ dụng thân cõi?

Đáp: Một thể tuy đồng, chẳng ngăn ngại qua lại khắp cùng, trong đồng có khác, tự vào ở tha. Trong khác có đồng, tha khắp ở tự, các bậc Cổ đức có hỏi: Tự thọ dụng thân cõi mỗi mỗi vô biên, thân cõi chư Phật chẳng chướng ngại nhau, hành tướng như thế nào?

Đáp: Như nước sữa một xứ thể đó không riêng biệt, ngỗng chúa uống đó chỉ được sữa mà chẳng được nước đó. Chợt thấy sắp cho rằng nước sữa là một, nếu uống rồi tức biết có khác. Lại như các đèn sáng đồng để trong một phòng, tự sắc chẳng thể phân, nếu luận về thể sáng, vốn là mỗi riêng biệt. Tự thọ dụng thân tuy hợp một xứ, vốn là mỗi mỗi có khác, đều tự thọ dụng pháp lạc, thì mỗi mỗi đều đủ tám thức vậy. Do đó được qua lại khắp cùng chẳng phải đồng một thể không khác, chẳng phải một chẳng phải khác có thể biện rõ thân Phật.

Hỏi: Đã là chân như, sao phân thân cõi ư?

Đáp: Căn cứ nghĩa mà lập đó. Ở trong chân như lấy tánh thành muôn đức làm thân, lấy lý của không làm cõi. Căn cứ nghĩa tức riêng biệt thể chẳng lìa nhau. Lại, trong chân lý đủ bốn đức. Hai đức thường tịnh là cõi, hai đức ngã lạc là thân, nên nói cõi ta đây thanh tịnh mà ông chẳng thấy, thì chân thân bao hàm muôn pháp làm cõi vậy, nếu ngoài tâm thủ cõi, thấy tướng mê chân, thành dơ cấu của vọng tưởng, nên gọi là uế. Nếu thấy tâm tánh thì gọi là tịnh. Vì vậy, một pháp chẳng động, khác thấy thường sinh, mê có làm trần lao, ngộ không thành cõi Phật, chẳng phải dời Diệu hỷ, chẳng phải biến Ta-bà, cũng chẳng phải chỗ thần lực làm, pháp tánh nào từng chuyển biến, giống như kẻ mắt màng đồng ở, mỗi mỗi quán tóc ruồi vòng lông, chỗ thấy sai biệt, như chấp cảnh giới bên ngoài đều là vọng tâm. Như trong kinh nói: “Thí như nay mắt thấy núi sông, đều là bệnh thấy từ vô thủy’.

Hỏi: Ngoài tâm không pháp, ngoài đạo không tâm, cớ sao chư Phật tự xưng ra đời đắc đạo, rộng nói giáo môn?

Đáp: Chỉ vì chúng sinh chẳng rõ Duy tâm, vọng sinh cảnh bên ngoài, vì chẳng thật vậy. Do đó chư Phật ra đời, nếu có một pháp là thật, thì chư Phật trọn chẳng ra đời. Do đó, nói giáo môn phương tiện, chẳng vì người biết mà nói, chỉ vì người chưa biết, phá chấp trừ nghi, tợ hình ngôn giáo, nếu chấp mất nghi tiêu, thì không đạo có thể được. Không pháp có thể nói. Trong kinh Tư Ích nói: “Phật dạy: Lúc ta ngồi đạo tràng chỉ được chỗ điên đảo khởi phiền não rốt ráo không tánh, vì không chỗ được nên được, vì không chỗ biết nên biết. Lại, Phạm thiên Tư Ích hỏi Bồ-tát Văn-thù Sư-lợi rằng: Đắc pháp gì nên gọi là đắc đạo? Văn-thù Sư-lợi đáp: Nếu pháp chẳng tự sinh chẳng kia sinh, cũng chẳng các duyên sinh, từ xưa đến nay thường không có sinh. Đắc pháp đó nên gọi là đắc đạo. Lại hỏi: Nếu pháp chẳng sinh, là đắc chỗ nào?

Đáp: Nếu biết pháp chẳng sinh tức gọi là đắc. Cho nên Đức Phật nói nếu thấy các pháp hữu vi chẳng sinh tướng, tức vào chánh vị. Lại hỏi: Thế nào là chánh vị?

Đáp: Ngã và Niết-bàn v.v... chẳng làm hai, đó gọi là chánh vị”. Phàm, chánh vị là, tức tự chân tâm, vào trong vị đây các thấy tự hết sạch, vào cảnh giới Phật. Trong kinh nói: Như Lai, không nên dùng sắc thấy, chẳng nên dùng pháp thấy, chẳng nên dùng tướng thấy, chẳng nên dùng tốt đẹp thấy, chẳng nên dùng pháp tánh thấy. Trong kinh Đại Tập nói: “Bấy giờ trong chúng hội có một Thiên tử tên là Thắng Ý nói cùng Bồ-tát Bất Khả Thuyết rằng: Này thiện nam! Nếu tất cả pháp chẳng thể nói là chúng sinh làm sao mà được nói phô? Bồ-tát Bất Khả Thuyết nói: Này thiện nam! Ông sao biết âm vang có nói phô chăng? Thắng Ý nói: Này thiện nam! Âm vang là từ nhân duyên mà có. Bồ-tát Bất Khả Thuyết hỏi: Này thiện nam! Nhân của âm vang đó là định tại trong hay định tại ngoài? Thắng Ý đáp: Này thiện nam! Nhân như vậy là chẳng định tại trong chẳng định tại ngoài. Bồ-tát Bất Khả Thuyết nói: Này Thiên tử! Tất cả chúng sinh cưỡng làm hai tưởng mà có chỗ nói. Tánh của các pháp thật chẳng thể nói. Thắng ý nói: Này thiện nam! Nếu chẳng thể nói cớ sao Đức Như Lai tuyên nói tám muôn bốn ngàn pháp tụ, khiến các Thanh văn thọ trì đọc tụng? Bồ-tát Bất Khả Thuyết nói: Này Thiên tử! Đức Như Lai thành tựu thật không chỗ nói. Không chỗ nói, tức là Như Lai. Này Thiên tử! Ông biết những gì là Như Lai ư? Há chẳng phải là sắc, thọ, tưởng, hành, thức là Như Lai ư? Há chẳng nói Phật là quá khứ vị lai hiện tại, hữu vi vô vi, ấm giới các nhập, chỗ ba cõi nhiếp là nhân là quả là hòa hợp ư? Hoặc tưởng chẳng phải tưởng, cũng tưởng chẳng phải tưởng, chẳng phải tưởng chẳng phải chẳng phải tưởng ư? Không như vậy. Này thiện nam! Thiên tử! Nếu như vậy v.v... đều chẳng phải Như Lai, làm sao có thể nói? Nếu chẳng thể nói thì cớ sao mà nói Đức Như Lai thành tựu diễn nói tám muôn bốn ngàn pháp tụ. Cho nên tám muôn bốn ngàn pháp tụ thật chẳng thể nói. Thanh văn nhận giữ cũng chẳng thể nói, chẳng thể nói tức là chánh nghĩa. Nếu không nói tức là chân thật”. Trong kinh Lăng-già nói: “Ta chỉ nói vô thủy hư ngụy vọng tưởng tập khí, các thứ ác là nhân của ba cõi, chẳng năng hay biết tự tâm hiện lượng, mà sinh vọng thức phan duyên tánh bên ngoài”. Đó thì chỉ rõ cảnh bên ngoài tự tâm không tánh. Vì chẳng rõ tâm lượng, vì bất giác tâm lượng nên vọng thủ duyên bên ngoài. Nếu biết tâm tức là đạo, tâm tức là pháp, đâu ở ngoài tâm có pháp có thể nói ư? Do đó, trong kinh Hoa Nghiêm có kệ tụng nói:

“Chư Phật chẳng nói pháp
Phật ở đâu có nói
Chỉ tùy tự tâm đó
Là nói pháp như vậy”.

Trong luận Quảng Bách nói: “Có các hạnh nguyện, tùy thuận thế tục, chỗ thấy chỗ nghe, cưỡng giả khái niệm. Trong lý thắng nghĩa, hai đều chẳng hứa. Tất cả phân biệt, hý luận tuyệt vậy, chẳng phải Như Lai, có pháp đáng nói, cũng không có pháp, có chút ít được”.

Hỏi: Nếu vậy, tinh tấn thì là luống mất, nên bỏ Thánh giáo cam lồ của Đức Như Lai ư?

Đáp: Vì muốn dùng phương tiện trừ đảo kiến chấp, định nghĩa hai sự đều không có lỗi.

Hỏi: Đã nói tất cả chỗ thấy năng thấy đều không chỗ có, tại sao không lỗi?

Đáp: Tuy không chỗ thấy năng thấy chân thật, mà các ngu phu điên đảo cho là có, vì trừ thấy tăng thượng mạn kia, nên tùy thuận thế gian khái niệm không lỗi. Nếu năng tùy Thánh giáo đây mà tu hành, tùy tục nói là thật đệ tử Phật. Thế tục ngu phu tùy tự tâm biến cảnh tướng điên đảo mà khởi thấy tâm, Phật chẳng phải cảnh đó, ở kia vô dụng. Cho đến cho rằng Phật Thế Tôn xưa trước trong chân vị vì muốn lợi lạc tất cả hữu tình phát khởi vô biên hạnh nguyện công dụng, do đây chứng được tuệ không phân biệt, nhân tuệ lực đây phát khởi vô lượng lợi lạc hữu tình tác dụng vô tận, các loại hữu tình dùng chỗ hạnh nguyện của Phật được diệu tuệ làm tăng thượng duyên, tự tâm phát hiện năng thuận thế gian sinh đạo tối thắng và thuận thượng duyên, lại vốn thệ nguyện cũng chẳng phải điên đảo vì năng rõ biết thật nghĩa các pháp, ở tất cả pháp không chỗ chấp trước, năng làm diệu quả Vô thượng sinh nhân, tuy là phát tâm khởi các thắng hạnh cầu quả Vô thượng lợi lạc hữu tình, nhưng tợ huyễn sư khởi các việc huyễn đều không chỗ chấp, nên chẳng phải điên đảo. Lại các bậc Cổ đức có hỏi: Chúng sinh tức Phật tâm chúng sinh, chúng sinh tâm Phật tự giáo hóa Phật tâm chúng sinh, cớ sao nói phô lực bi nguyện Phật?

Đáp: Tức chân tâm đây là bi nguyện của Phật, nghĩa là đồng thể đại bi, và tự thể nguyện không chướng ngại v.v... tức tánh khởi Đại dụng vậy. Lại, chúng sinh là tức là các tạp tạp tâm thức niệm niệm khởi diệt, nên gọi là chúng sinh. Trong kinh nói: “Phật dạy Tỳ-kheo, các ông ngày đêm thường sinh vô lượng trăm ngàn chúng sinh. Nếu năng dùng trí chiếu chẳng khởi niệm của tương tục tức là độ chúng sinh”. Lại rõ niệm tức không, không có xứ khởi tức là độ tận vô lượng trăm ngàn chúng sinh, chẳng thấy có một chúng sinh mà được diệt độ là, Thai giáo nói: Vô minh là cha, tham ái là mẹ, sáu căn là nam, sáu trần là nữ, thức làm mai mối sinh ra vô lượng phiền não làm con cháu. Nên trong kinh nói: “Có niệm tức sinh tử, không niệm tức Nêhoàn”.

Hỏi: Nếu như trên nói thành Phật độ sinh chẳng lìa một niệm, chư Phật vì sao lại phát nguyện độ chúng sinh khác?

Đáp: Tuy phát nguyện độ sinh, đều khiến bắt chước chân tu cứu cánh đây, đồng chỉ về một niệm đây. Do đó trước phát thệ nguyện độ hết tất cả chúng sinh, mới thành chánh giác, thì niệm hết tâm lắng, trời chân riêng sáng, tức nghĩa thành Phật vậy. Phật trước đã tự độ như vậy xong, sau đó chuyển bày người khác, tức là từ của chân thật. Lìa đây phát khởi bi, đều thành vọng tưởng. Như Xálợi-phất hỏi Am-đề-già nữ sao chẳng chuyển thân nữ”? Bèn nói kệ tụng mà đáp rằng: “Tự nam sinh ta nữ, nhọc sinh vọng tưởng bi”. Thì là chẳng rõ tự là chẳng phải nam, lầm nhận tưởng của chúng sinh, tức mới chấp sinh kẻ khác là nữ, luống dấy tình của ta người, ở trong một chân mà vọng lập tự tha, hướng trong đồng thể mà cưỡng phân ái kiến, như các sư xưa trước nói: Có hai nghĩa môn đều không thể đo lường: Một, khế không, như tánh không tịch diệt nên không thể đo lường. Hai, khế chẳng không, đồng một pháp tánh, pháp tánh bình đẳng, nên không thể đo lường. Nên trong kinh Kim Cang Tam-muội nói: “Nếu hóa chúng sinh, không sinh ở hóa, chẳng sinh ở hóa, hóa đó lớn thay!”. Lại, trong kinh Đại Hư Tạng Bồ-tát Sở Vấn, có kệ tụng nói:

“Giống như ở huyễn sư, hại nhiều chúng huyễn hóa, thật không có chỗ hại, chỗ độ cũng như vậy, huyễn hóa và hữu tình, pháp chư Phật cũng vậy, nếu ngộ đồng một tánh, không tự tánh là tánh”. Do đó, các bậc Tiên đức nói: Bồ-tát từ địa thứ tám trở lên được vô sinh nhẫn, ở ngoài Hằng hà sa thế giới có chúng sinh cầu cứu, Bồ-tát đều chẳng khởi niệm, chúng sinh tự nhiên thấy Bồ-tát đến trước đó cùng đó nói pháp, bốn sự cúng dường. Bồ-tát được trí như vậy. Do vậy, tâm lượng của không tâm nên ta nói là tâm lượng, cũng là lượng của không lượng vậy.

Hỏi: Trong kinh Đại Niết-bàn nói: “Pháp của giải thoát cũng chẳng phải Niết-bàn, thân của Như Lai, cũng chẳng phải Niết-bàn, Ma-ha Bát-nhã cũng chẳng phải Niết-bàn”. Vậy thế nào là chánh nghĩa Niết-bàn?

Đáp: Muốn biết chánh nghĩa Niết-bàn, tức ngã chân như tâm tánh.

Nên trong kinh có kệ tụng nói:

“Như tánh không sinh Phật ra đời
Như tánh không diệt Phật Niết-bàn
Ngôn từ thí dụ thảy đều đoạn
Tất cả nghĩa thành không cùng thảy”.

Vì vậy, chẳng phải tức ba pháp, chẳng phải lìa ba pháp, chẳng dọc chẳng ngang, chẳng cùng chẳng riêng, đâu có thể nói một nói ba mà chỉ diệu đạo ư? Trong Thanh Lương Ký giải thích: “Pháp thân là sở chứng, Bát-nhã là năng chứng, giải thoát là lìa chướng”. Lại, thân Phật là tức là pháp tánh, có nghĩa thân Phật, làm hai sở y vậy. Có nghĩa trí tuệ, quang minh chiếu khắp pháp giới vậy. Có nghĩa giải thoát, tánh lìa tất cả chướng vậy. Ba đây cũng chẳng lìa nhau. Nay ba đều chẳng nghĩ bàn sao có thể dọc, đều chẳng nghĩ bàn, sao có thể ngang, đều chẳng nghĩ bàn, sao có thể cùng. Đều chẳng nghĩ bàn, sao có thể riêng. Ý nói tức một mà ba, tức ba mà một, chẳng phải ba chẳng phải một, song chiếu ba một, sao có thể làm nghĩ một ba v.v... vậy. Trong Triệu Luận nói: “Đạo của Bồ-đề chẳng thể Bồ-tát, cao mà không gì trên, rộng mà không cùng cực, thẳm mà không dưới, sâu chẳng thể lường, lớn bao cả đất trời, nhỏ vào không ngăn cách, nên gọi đó là đạo”. Lại, trong luận Niết-bàn Vô Danh nói: “Phàm đạo của Niết-bàn, vắng lặng rỗng thoáng, không thể dùng hình mà gọi được, vi diệu không tướng, chẳng thể dùng có tâm biết. Vượt các thứ có để cao sâu, lượng thái hư mà trọn lâu dài, theo đó mà chẳng được tăm dạng đó, nghinh đón đó mà không ngắm thấy đầu đó, sáu thú chẳng thể gồm sinh đó, lực mang vác không vì hóa thể đó, mênh mông hốt hoảng như còn như đi, năm mắt chẳng trông thấy dung đó, hai nghe chẳng nghe âm vang đó, mờ mờ sâu xa ai thấy ai hiểu, lan tỏa không chỗ nào chẳng có, mà riêng dắt kéo ở ngoài của có không. Nhưng mà nói đó là mất chân đó. Biết đó trở lại ngu đó. Có đó là trái với tánh đó, không đó là thương tổn thân đó. Cho đến, thế nào? Gốc đó có cảnh thì năm ấm trọn diệt, tìm đó không quê hương mà u linh chẳng hết, thuyết linh chẳng hết thì bao quát một lặng yên. Năm ấm trọn diệt thì muôn lụy đều trừ. Muôn lụy đều trừ nên cùng đạo thông đồng, bao quát một lặng yên nên thần mà không công, thần mà không công nên chí công thường còn. Cùng đạo thông đồng nên rỗng không mà chẳng đổi, rỗng không xung mà chẳng đổi chẳng thể là có, chí công thường còn chẳng thể là không. Nhưng mà có không tuyệt ở bên trong, xưng gọi là chìm ở bên ngoài, chỗ của thấy nghe chẳng kịp, chỗ của bốn không mờ tối, lặng lẽ vậy mà thường, đạm bạc vậy mà khoan, chín dòng chen về ở đó, các Thánh ngầm hội ở đó. Đó là cảnh hiếm thường, quê rất lạ, mà muốn lấy có không để đề bảng, nêu phương vức đó mà nói thần đạo đó cũng chẳng xa vời ư!” Vì vậy tâm đạo nêu đơn, thần không phương sở, đâu tại điềm vết của nó không, ảnh vang của nghe thấy? Do đó trong kinh Bát-nhã Ba-la-mật nói: “Văn-thù Sư-lợi! Nên biết như vậy, tất cả pháp kia chẳng khởi chẳng diệt, gọi là Như Lai”. Lại, trong kinh Phạm Vương Vấn nói: “Trong Đệ nhất nghĩa, Phật chẳng ra đời, cũng chẳng Niết-bàn, từ xưa đến nay không khởi diệt vậy”. Trong luận Bát-nhã Đăng có kệ tụng nói:

“Chẳng nên bỏ sinh tử
Chẳng nên lập Niết-bàn
Sinh tử và Niết-bàn
Không hai không phân biệt”.

Cho đến như trong kinh Bát-nhã Ba-la-mật nói: “Phật bảo Bồ-tát Cực Dõng Mãnh rằng: Này thiện nam! Sắc không buộc không thoát, thọ tưởng hành thức không buộc không thoát. Nếu từ sắc đến thức không buộc không thoát, đó gọi là Bát-nhã Ba-lamật”. Lại như trong kinh Phạm Vương Sở Vấn nói: “Phật dạy! Phạm vương! Ta chẳng được sinh tử, chẳng được Niết-bàn. Tại sao? Nói sinh tử, đó chỉ là Như Lai giả định nghĩa, mà không một người ở trong đó lưu chuyển. Nói Niết-bàn cũng là giả định nghĩa, mà không một người Bát Niết-bàn đó”.

Hỏi: Tông kính duy tâm, sao phân đầu mối ư?

Đáp: Đầu cuối là nghĩa của thuật tâm. Dụng căn cứ trong môn hành bố, tướng tuy rõ ràng, thể thường dung tức. Trong Khởi Tín Sao có hỏi: Căn cứ luận chỉ đó, mới đầu là một tâm, sau cũng một tâm, đầu sau đâu có gì riêng biệt?

Đáp: Một tâm của mới đầu, tâm đang năng khởi, một tâm của sau, tâm đang chỗ về, tuy trước sau thể đồng, nhưng mà thủy chung nghĩa khác. Do vậy, hành bố các môn rõ ràng. Lại nói: Chỉ vì vốn là một tâm lìa danh tuyệt tướng, mặc mê ngộ đó muôn pháp tùy sinh. Sinh pháp vốn không, chỉ là một thể. Tông Kính cũng vậy, là nghĩa dụng rộng trước sau chẳng đồng, nhưng là trước sau của một tâm, một tâm của trước sau vậy. Do vì lý sự bình đẳng. Tại sao? Chẳng phải mới đầu thì không lấy gì để lập sau, mới đầu đồng ở sau. Chẳng phải ban thì không lấy gì để lập mới đầu, sau đồng ở mới đầu. Lại, lý từ sự hiển, lý đồng ở sự. Sự nhân lý thành, sự đồng ở lý. Nên nói: Muôn pháp tuy khác mà chẳng năng tự khác vậy. Huống gì trong Tông Kính, một còn chẳng năng một, huống gì khác ư? Vì vậy, trong luận Đại Thừa Khởi Tín nói: “Tất cả các pháp bình đẳng bình đẳng”. Sao Thích nói có hai: “Một, nghĩa là chân tánh ở trong tất cả pháp bình đẳng như gương trong tượng. Hai, tức các pháp vốn không nên bình đẳng như tượng trong gương”.

QUYỂN 90

Hỏi: Phàm, như trên nói thì Niết-bàn chẳng phải có. Trong kinh nói: “Giả sử có một pháp vượt quá Niết-bàn, ta cũng nói như huyễn như mộng”. Tức người hậu học luống nhọc kính mộ ư?

Đáp: Lời nói đó phá chấp trước, chẳng phải hoại pháp tánh. Như Hòa thượng Quán nói: Cật nạn tất cả pháp như huyễn là, vọng pháp duyên sinh có thể chấp thuận như huyễn. Niết-bàn chân thật lại chẳng từ duyên, làm sao đồng huyễn. Nên trong Điệp thích có hai ý: Một, nói rõ tuy chân mà cũng từ duyên, tuy chẳng phải duyên sinh mà là duyên hiển cũng không không tánh; Hai, nói rõ Niết-bàn chẳng phải huyễn vì phá tâm đắm trước Niết-bàn, nói như huyễn vậy. Vậy thì phá Niết-bàn trong tâm, cũng hiển bày Niết-bàn thể tức chân mà thành diệu hữu. Nên biết bốn thứ Niết-bàn trước sau đều có. Do đó, trong luận Duy Thức nói: “Một, tự tánh xưa nay thanh tịnh Niết-bàn, nghĩa là tất cả pháp tướng lý chân như, tuy có khách trần mà bản tánh tịnh, đủ vô số lượng công đức vi diệu, không sinh không diệt, lặng như hư không, tất cả hữu tình bình đẳng cũng có, cùng tất cả pháp chẳng một chẳng khác, lìa tất cả tướng, tất cả phân biệt, tuyệt lối tầm tư dứt đường ngôn ngữ. Chỉ chân Thánh tự chứng bên trong, tánh đó vốn tịch, nên gọi là Niếtbàn; Hai, hữu dư y Niết-bàn, nghĩa là tức chân như ra phiền não, tuy có khổ tinh tế nương tựa chưa diệt, mà chướng trọn diệt, nên gọi là Niết-bàn; Ba, vô dư y Niết-bàn, nghĩa là tức chân như ra khổ sinh tử. Phiền não đã tận, các nương khác cũng diệt, các khổ trọn diệt, nên gọi là Niết-bàn; Bốn, vô trú xứ Niết-bàn, nghĩa là tức chân như ra sở tri chướng, chỗ đại bi Bát-nhã thường phụ giúp. Do đó, chẳng trú sinh tử Niết-bàn, lợi lạc hữu tình tận cùng ngằn mé tương lai, dụng mà thường vắng lặng, gọi là Niết-bàn”.

Hỏi: Nói pháp thân là, tâm làm thân của nhà pháp. Thân là nghĩa tích tụ, tích tập hàm tàng tất cả muôn pháp, nên gọi là tâm, tức dụng gì lại lập hai pháp Bát-nhã và giải thoát?

Đáp: Pháp thân tức là người, người phải có linh trí, nên gọi là Bát-nhã, nếu được Bát-nhã chiếu thì hiển hiện lui sụt. Nên trong kinh nói: “Ẩn gọi là Như Lai tạng, hiển gọi là pháp thân”. Lại, nếu được Bát-nhã thì tất cả xứ không đắm trước, chẳng bị cảnh buộc tức là giải thoát. Nếu hiển bày pháp thân được giải thoát, công toàn do Bát-nhã, chẳng phải chỉ hai pháp đây, tất cả muôn hạnh đều do Bát-nhã lập. Nên năm độ như kẻ mù. Bát-nhã như người dẫn dắt. Nếu bố thí mà không Bát-nhã, chỉ được vinh hạnh một đời, sau nhận chịu ương trái khác, nếu trì giới mà không Bát-nhã tạm sinh lên cõi Dục, trở lại đọa trong địa ngục Nê-lê. Nếu nhẫn nhục mà không Bát-nhã, quả báo được hình đoan chánh mà chẳng chứng nhẫn tịch diệt. Nếu tinh tấn mà không Bát-nhã, nhọc dấy công sinh diệt mà chẳng hướng đến biển chân thường. Nếu thiền định mà không Bát-nhã, chỉ hành thiền cõi Sắc mà chẳng vào định Kim cang. Nếu muôn thiện mà không Bát-nhã, không đó thành nhân hữu lậu, chẳng khế hợp với quả vô vi. Nên biết Bát-nhã là bậc thầy dẫn lối trong đường hiểm nạn, là đuốc sáng trong nhà mê tối, là mái chèo trí trong biển sinh tử, là thuốc tốt trong bệnh phiền não, là gió lớn của thổi nát núi tà, là tướng mạnh phá quân ma, là mặt nhật chói sáng chiếu đường u tối, là sấm rền cảnh tỉnh thức mê, là chìa khóa vàng mở tung ngu mù, là cam lồ rưới thấm khát ái, là dao tuệ cắt đứt lưới si, là châu báu cung cấp cho người bần khổ. Bát-nhã nếu chẳng sáng, muôn hạnh hư bày. Tổ sư nói: Chẳng nhận biết huyền chỉ, luống nhọc niệm tỉnh, chẳng thể sát-na quên chiếu, thô mất vậy trái nhau, vì ba pháp đây chẳng dọc chẳng ngang chẳng một chẳng khác, năng thành bí tạng Niết-bàn. Như trong kinh Đại Niết-bàn nói: “Phật dạy: Ta nay phải khiến tất cả chúng sinh và cả bốn bộ chúng con ta thảy đều an trú trong Bí mật tạng. Ta cũng lại phải an trú trong đó, vào nơi Niết-bàn. Thế nào gọi là tạng của Bí mật? Giống như ba điểm của chữ nhất, nếu đều thì chẳng thành kia, trung cũng chẳng thành kia, như ba mắt trên mặt Ma-hê-thủ-la, mới được thành ba điểm của chữ kia. Nếu ràng buộc cũng chẳng được thành. Ta cũng như vậy, pháp của giải thoát cũng chẳng phải Niết-bàn, thân của Như Lai cũng chẳng phải Niết-bàn. Ma-ha Bát-nhã cũng chẳng phải Niết-bàn, ba pháp mỗi khác cũng chẳng phải Niết-bàn. Ta nay an trú ba pháp như vậy, vì chúng sinh nên gọi là vào Niết-bàn”. Do đó nói: Pháp thân thường tròn chủng trí, giải thoát đủ tất cả, đều là Phật pháp không có hơn kém, nên chẳng dọc, ba đức cùng ngầm đồng một pháp giới, ra ngoài pháp giới xứ nào riêng có pháp, nên chẳng ngang, năng kiến lập các thứ nên chẳng một, đồng về Đệ nhất nghĩa nên chẳng khác. Tuy ba mà một, tuy một mà ba. Một thì hoại ở ba đế, khác thì mê ở một thật. Tại cảnh thì ba đế viên dung, tại tâm thì ba quán đều vận, tại nhân thì ba đạo tương tục, tại quả thì ba đức tròn khắp, gốc ngọn cùng thâu như vậy mới vào tạng của Đại Niết-bàn Bí Mật. Các bậc Cổ đức nói: Ba đức đây chẳng lìa một như, đức dụng phân khác, chiếu của tức tịch là Bát-nhã, tịch của tức chiếu là giải thoát. Thể của tịch chiếu là pháp thân, như một viên châu tròn sáng sạch. Sáng tức Bát-nhã, sạch tức giải thoát. Tròn thể pháp thân, căn cứ dụng chẳng đồng, thể chẳng lìa nhau, nên ba pháp đây chẳng tung chẳng hoành chẳng dọc chẳng ngang, như mắt của trời, như chữ nhất của đời, gọi là Bí Mật Tạng, là Đại Niết-bàn. Lại, Thai giáo loại thông ba quỹ pháp: Một, Chân tránh quỹ. Hai, Quán chiếu quỹ. Ba, giúp quỹ thành, tức là ba đức. Vì Chân tánh quỹ là thể một thừa, đây là pháp thân, tất cả chúng sinh đều một thừa vậy. Vì Quán chiếu quỹ là Bát-nhã, chỉ điểm chân tánh vắng lặng mà thường chiếu, bèn là quán chiếu Đệ nhất nghĩa không. Vì Tư quỹ giúp thành là giải thoát, chỉ điểm chân tánh pháp giới, hàm tàng các hành vô lượng các thiện, tức Như Lai tạng. Ba pháp chẳng một chẳng khác, như điểm trong châm như ý luận sáng bàn báu, sáng báu chẳng cùng châu một chẳng cùng châu khác, chẳng dọc chẳng ngang, ba pháp cũng như vậy. Nay lại rộng loại thông mười thứ ba pháp: Một, ba đạo. Hai, ba thức. Ba, ba Phật tánh. Bốn, ba Bát-nhã. Năm, ba Bồ-đề. Sáu, ba Đại thừa. Bảy, ba thân. Tám, ba Niết-bàn. Chín, ba báu. Mười, ba đức. Mười thứ ba pháp đây thông thâu tất cả các pháp nhân quả Thánh phàm. Nay dẫn trong Kim Quang Huyền Nghĩa Quán Tâm rộng giải thích mười thứ ba pháp là, trong kinh Tịnh Danh nói: “Giải thoát của chư Phật, phải cầu trong tâm hành của chúng sinh, nếu chẳng quán tự tâm, chẳng phải trí phần của mình, chẳng năng mở phát kho báu tự thân”. Nay muốn luận trân báu của phàm phu địa, tức nghe tu, nên rõ quán tâm giải thích vậy. Một, Quán tâm rõ ba đạo (đường) là: Một là, phiền não đạo, tức ba chi vô minh ở quá khứ và ái thủ ở hiện tại. Hai là, nghiệp đạo, tức hai chi hành ở quá khứ và hữu ở hiện tại. Ba là, khổ đạo, tức bảy chi thức danh sắc lục nhập xúc thọ ở hiện tại và sinh tử ưu bi khổ não ở vị lai. Nay quán tâm vương tức khổ đạo, quán tuệ tâm sở tức phiền não đạo, quán các tâm sở khác tức nghiệp đạo. Trong kinh Tịnh Danh nói: “Quán thân thật tướng, quán Phật cũng vậy” là, như đầu v.v... sáu phần mỗi mỗi là thân, đây tức nhiều thân. Nếu riêng có một thân, thì điều ấy không có, mỗi mỗi chẳng phải thân, hợp thời cũng không. Nếu dầu v.v... sáu phần cầu thân chẳng phải được. Hiện tại chẳng trú nên chẳng thể được, quá khứ nhân diệt cũng chẳng thể được, vị lai chưa đến cũng chẳng thể được, ngang dọc như vậy tìm cầu thân rốt cùng chẳng thể được thì là không, không cũng chẳng thể được, cũng có cũng không cũng chẳng thể được, chẳng phải có chẳng phải không cũng chẳng thể được, chỉ có danh tự, danh tự là thân, danh tự như vậy chẳng tại trong, chẳng phải trong bốn ấm vậy, chẳng tại ngoài, chẳng phải trong sắc ấm vậy, chẳng tại khoảng giữa, chẳng phải sắc tâm hợp vậy, cũng chẳng thường tự có, chẳng phải lìa sắc tâm vậy. Phải biết, danh không được công của vật. Vật không ứng thật của danh, giả thật đã không, danh vật sao có. Quán thân như đây là quán thật tướng. Quán thân là giả danh, giả danh đã như đây, quán sắc thọ tưởng hành thức cũng như vậy, tức là khổ đạo quán vậy. Quán phiền não đạo là, phiền não và nghiệp đều là thân nhân nay tạm lấy phiền não làm thân nhân mà quán vậy. Trong kinh Tịnh Danh nói: “Chẳng hoại thân nhân mà tùy một tướng” là, nên làm bốn câu để phân biệt. Thân ai nhân quả đều hoại, thân ai nhân quả đều chẳng hoại, ai hoại quả chẳng hoại nhân, ai hoại nhân chẳng hoại quả. Thế nào là thân quả? Là chỗ cha mẹ sinh đầu v.v... sáu phần vậy. Thế nào là thân nhân? Tham sân si thân miệng ý nghiệp v.v... vậy. Nay tạm bỏ ba nghiệp, quán bốn quả tham nhuế si v.v... vì trí quán vô thường khổ không phá tham nhuế si. Chủng tử đoạn, gọi là hoại thân nhân, chẳng thọ hậu hữu gọi là hoại nhân quả. Các hàng phàm tục ăn ngon mặc đẹp nuôi lớn năm ấm, buông tâm thả tánh phóng túng tham sân, tự não não tha, một thân chết hoại lại thọ một thân, nhân quả tương tục không có ngằn mé, đó gọi là nhân quả đều chẳng hoại. Như phạm luật vua giao phó Chiên-đà-la, như oán đối tự hại thể đó, thân đã rã hoại, bốn ấm cũng hết, đó là hoại quả. Tham nhuế si thân nhân chuyển lại mạnh mẽ càng chìm đắm sinh tử không kỳ hạn được thoát, đó là hoại quả chẳng hoại nhân, vì trí quán vô thường đoạn năm phần dưới nhân trói buộc, năm phần dưới quả thân còn chưa hết, đó gọi là hoại thân nhân chẳng hoại thân quả. Bốn câu như vậy, còn hoại chẳng đồng, đều chẳng tùy một tướng. Mà tùy một tướng là, chỗ gọi là tu Đại thừa quán, quán một niệm tâm tham sân si. Tâm là tự khởi hay đối trần khởi, hay căn trần cộng khởi, hay lìa căn trần khởi? Đều không nghĩa đây. Chẳng phải tự chẳng phải tha chẳng phải cộng chẳng phải không nhân, cũng chẳng phải niệm trước diệt nên khởi. Chẳng phải sinh, chẳng phải chẳng phải sinh, cũng chẳng phải diệt chẳng phải chẳng phải diệt, ngang dọc như vậy, tìm cầu tâm chẳng khá được. Tâm còn không gốc, chỗ nào luận hoại. Đó gọi là chẳng hoại thân nhân mà tùy một tướng. Quán nghiệp đạo là, như trong kinh Tịnh Danh nói: “Cất bước đặt chân không gì chẳng phải là đạo tràng, đầy đủ tất cả Phật pháp vậy”. Quán lúc cất bước, đó nghiệp cất. Nếu nghiệp cất chẳng liên quan là, nghiệp là cất chẳng liên quan ở nghiệp, mỗi mỗi đã chẳng cất, hợp cũng không cất, hợp đã không cất, lìa nào được cất, cất bước đã không đặt chân cũng không. Quán đi đã không, đứng ngồi nằm nói phô nắm làm cũng là như vậy, đó là quán nghiệp đạo thật tướng; Hai, Quán tâm rõ ba thức là, đế quán một niệm tức không tức giả tức trung, tức là quán tâm thức ở ba thức. Tại sao? Ý thức gá duyên phát ý, vốn không thức đó, duyên chỗ nào phát. Lại, trong duyên là có thức hay không thức? Nếu có thức duyên tức là thức, sao gọi là duyên, nếu không thức sao năng phát thức, nếu ý duyên hợp phát, cả hai đều không vậy. Hợp chẳng năng phát lìa cũng chẳng thể. Phải biết thức đây chẳng tại một xứ, tùy các duyên sinh. Pháp tùy duyên sinh, ta nói tức là không, ở trong không đây giả làm phân biệt là ác thức hay là thiện thức, là chẳng phải ác chẳng phải thiện thức, các thứ suy lường, cưỡng cho là chẳng phải. Thức nếu định không chẳng thể làm giả. Thức nếu định giả chẳng thể làm không. Phải biết, không chẳng phải không, giả chẳng phải giả, chẳng phải không chẳng phải giả, song mất hai biên, chánh hiển Trung đạo, một niệm trong thức ba quán đầy đủ, thức ở ba thức cũng chẳng được ba quán. Nên trong kinh Tịnh Danh nói: “Chẳng quán sắc, chẳng quán sắc như, chẳng quán sắc tánh, cho đến chẳng quán thức chẳng quán thức như chẳng quán thức tánh, tuy chẳng được thức chẳng được thức như, chẳng được thức tánh, song chiếu thức như thức tánh, rõ ràng không lạm. Vì chiếu thức tánh nên là thức Am-mA-la, chiếu thức như nên là thức A-lại-da, cũng chiếu cũng diệt nên là thức A-đà-na. Đó gọi là quán ba thức trong tâm; Ba, Quán tâm rõ ba Phật tánh là: Một là chánh nhân Phật tánh, Phật gọi là giác, tánh gọi là bất giác, tức là chẳng phải thường chẳng phải vô thường, như kho vàng trong đất, chỗ thiên ma ngoại đạo chẳng thể hoại. Hai là liễu nhân Phật tánh, giác trí chẳng phải thường chẳng phải vô thường, trí và lý tương ưng, như người khéo biết kho vàng, trí đây chẳng thể phá hoại. Ba là nhân duyên Phật tánh, tất cả chẳng phải thường chẳng phải vô thường, công đức thiện căn hỗ giúp hay biết mở bày chánh tánh, như cày bừa trừ cỏ đào bới ra kho vàng, quán tâm tức trung là chánh nhân Phật tánh, tức không là liễu nhân Phật tánh, tức giả là duyên nhân Phật tánh. Lại nữa, Phật là giác trí, tánh là lý cực. Năng dùng giác trí chiếu lý cực đó, trí cảnh tương xưng, hợp mà nói đó gọi là Phật tánh, nay quán tâm năm ấm xứng thật tướng năm ấm, gọi là chánh nhân Phật tánh, quán giả danh thật tướng, gọi là liễu nhân Phật tánh, quán các tâm sở xứng thật tướng tâm sở, gọi là duyên nhân Phật tánh. Nên trong kinh nói: “Phật tánh là, chẳng tức sáu pháp, chẳng lìa sáu pháp” là nghĩa đây vậy; Bốn, Quán tâm rõ ba Bát-nhã là, một là thật tướng Bát-nhã, chẳng phải vắng lặng chẳng phải chiếu tức Nhất thiết chủng trí. Hai là, quán chiếu Bátnhã, chẳng phải chiếu mà chiếu tức Nhất thiết trí. Ba là, phương tiện Bát-nhã tức chẳng phải vắng lặng mà vắng lặng, tức đạo chủng trí, quán một niệm tâm tức không tức giả tức trung, tức là ba Bátnhã. Tại sao? Một niệm tâm tất cả tâm, tất cả tâm một niệm tâm, chẳng phải một chẳng phải tất cả. Một niệm tâm tất cả tâm là, từ tâm sinh tâm, tạp tạp nhiều nhiều, gió lớn ngự dòng nhanh chẳng được làm dụ, ngày đêm thường sinh vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng sinh, sáu đường xoay chuyển mười hai móc xích, từ tối vào tối, tối không ngằn mé, đều là lỗi của tâm vậy, nên nói một niệm tâm tất cả tâm. Đây là nơi hết chỗ mê của phàm phu. Tất cả tâm một tâm là, nếu năng biết lỗi sinh nhàm chán đều tự giữ gìn ra, như ở đời chỉ đóm lửa nhỏ thiêu đốt đống củi lớn, đặt một viên châu nhỏ lắng trong biển lớn. Năng quán tâm không, từ chỗ tâm sinh tất cả tâm. Không đâu chẳng tức không, nên nói tất cả tâm một tâm. Một tâm như đây mới là nơi hết chỗ mê của hàng Nhị thừa, chẳng phải đạo cứu cánh đều mất cả hai biên vậy. Phiền não chẳng phải một chẳng phải tất cả. Trong Đại Kinh nói: “Nương trí chớ nương thức”, thức chỉ cầu lạc, thức phàm phu cầu vọng lạc, thức hàng Nhị thừa cầu Niết-bàn lạc, cho nên cả hai đều mất, chẳng thể nương tựa. Trí thì cầu lý, quán như vậy là, tức là một tâm ba trí. Tức không là quán chiếu Bát-nhã, Nhất thiết trí. Tức giả là phương tiện Bát-nhã, đạo chủng trí. Tức trung là thật tướng Bát-nhã, Nhất thiết chủng trí, là ba trí trong một tâm được, tức không tức giả tức trung, không trước không sau chẳng chung chẳng riêng, vi diệu sâu mầu rất đáng nương tựa, đó là quán tâm ba Bát-nhã; Năm, Quán tâm rõ ba Bồ-đề: Một là, thân tánh Bồ-đề lấy lý làm đạo, hai là, thật trí Bồ-đề lấy trí tuệ làm đạo, ba là, phương tiện Bồ-đề lấy thiện xảo hòa hợp làm đạo. Nay quán tâm của một niệm tức không tức giả tức trung là ba tâm Bồ-đề. Tại sao? Một tâm tất cả tâm, giao xen rối loạn như tơ như cát như tằm như ngài, làm khổ làm não, nếu biết tức không chân đế tâm Bồ-đề, độ chúng sinh của tâm sở dối loạn, thông ngưng bít của bốn trú. Nếu tức giả phát tâm Bồ-đề là, không tuy khỏi vọng loạn, trong kinh nói: Không loại ý chúng sinh mà mắt trí rất mù tối, lại là ba hầm hố vô vi, là chim oán Đại thừa, chưa đủ Phật pháp, chẳng nên diệt thọ mà thủ chứng? Nếu biết tức giả tục đế tâm Bồ-đề, độ chúng sinh của tâm sở trầm không, thông ngưng bít của trần sa, phân biệt có thể được chăng? Lúc phân biệt nên phân biệt thuốc bệnh, phân biệt hòa hợp, chẳng trú vô vi, nên nói tức giả phát tâm Bồ-đề, không là phù tâm đối trị, giả là trầm tâm đối trị, do bệnh nên có thuốc, thuốc còn là lành bệnh. Bệnh hết thuốc ngưng, cả hai nên xả bỏ, chẳng phải không chẳng phải giả đều mất hai biên, tức phát Trung đạo Đệ nhất nghĩa đế tâm Bồ-đề, độ chúng sinh của tâm sở hai biên, thông ngưng bớt của vô minh, vì chẳng trú pháp trú ở Trung đạo, nên nói tức trung, lúc nói như ba lần lượt quán thì chẳng vậy, trong một tâm đủ ba tâm Bồ-đề vậy; Sáu, Quán tâm rõ ba Đại thừa: Một là, Lý thừa, lý tánh hư thông nhậm vận mang đội các pháp vậy. Hai là, Tùy thừa, trí tùy ở cảnh như nắp tùy hộp. Ba là, Đắc thừa, nếu đắc quả nên tự giải thoát, nên đắc cơ nên khiến tha giải thoát, quán tâm của một niệm tức không tức giả tức trung ba Đại thừa. Tại sao? Tuy quán một niệm tâm mà thật có bốn vận, tâm đây xoay chuyển chẳng thôi, chỗ gọi là chưa niệm, muốn niệm chánh niệm niệm rồi, từ chưa niệm vận động đến muốn niệm, từ muốn niệm vận động đến chánh niệm, từ chánh niệm vận động đến niệm rồi, lại trở lại khởi vận động vận động vô cùng, chẳng biết dừng nghỉ, như nhắm mắt tại thuyền chẳng biết nhanh đó, quán một niệm vận động tâm tức không tức giả tức trung, mỗi mỗi vận động tâm cũng lại như vậy, từ tâm đến tâm, không đâu chẳng tức không tức giả tức trung, vậy thì từ ba đế vận đến ba đế, không lúc nào chẳng ba đế, nếu tùy bốn vận động vận vào sinh tử, nếu tùy bốn vận động vận vào Niết-bàn, quán của tức không, thừa nói tùy thừa vận động đến chân đế, quán của tức giả, thừa nơi đắc thừa vận đến tục đế, quán của đức trung, thừa nơi lý thừa vận động đến trung đế. Ba thừa tức một thừa, thừa đó vi diệu Đệ nhất quán trí, chỗ Phổ Hiền Đại nhân thừa vậy; Bảy, Quán tâm rõ ba thân, chỗ gọi là lý pháp tụ gọi là pháp thân, trí pháp tụ gọi là báo thân, công đức pháp tụ gọi là ứng thân. Đế quán một niệm tâm tức không tức giả tức trung, tức là ba thân. Tại sao? Trong kinh Hoa Nghiêm có kệ tụng nói:

“Tâm như người thợ vẽ
Tạo các thứ năm ấm”.

Nếu tâm duyên phá giới sự tức thân địa ngục, duyên không hổ thẹn kiêu mạn tức thân súc sinh, duyên siểm nịnh quanh co tham lận tức thân ngạ quỉ, duyên tật đố dối trá cạnh tranh, tức thân Tu-la, duyên năm giới phòng ngăn năm ác tức thân người, duyên mười thiện phòng ngăn mười ác, duyên thiền định phòng ngăn tán loạn tức thân trời, duyên vô thường khổ không vô tướng nguyện tức thân Thanh văn, duyên pháp mười hai nhân duyên tức thân Duyên giác, duyên từ bi lục độ tức thân Bồtát, chuyên chân như thật tướng tức thân Phật, lên khó xuống dễ, phần nhiều duyên các thân ác. Nên biết các thân đều do tâm tạo. Thí như đại địa năng sinh các thứ mầm, nếu quán năm thọ ấm thấu suốt không không chỗ có, từ chỗ tâm sinh tất cả các thân, đều không không chỗ có, như lật úp đại địa cỏ cây nghiêng đổ hết, nên nói tức không. Nếu tức không là, trọn chìm đắm đoạn diệt, còn chẳng năng ở một không tâm năng khởi một thân, làm sao năng được dạo chơi năm đường để hiện thân đó, chẳng năng đáng dùng thân Phật được độ thoát mà vì hiện thân Phật, đáng dùng bốn chúng ba thừa trời rồng tám bộ các thứ thân được độ thoát, thảy đều thị hiện đồng sự nghiệp đó, là lỗi đây vậy, nên nói tức giả. Tức giả đồng thân sáu đường, quán thân như vậy đọa ở hai biên, chẳng phải khéo quán thân, khéo quán thân là, như trong Đại Kinh nói: “Chẳng được thân, chẳng được thân tướng, cho đến rốt ráo thanh tịnh”, là nghĩa đây vậy, nên nói tức trung. Nói tức trung là, tức là pháp thân, tức không là tức là báo thân, tức giả là tức là ứng thân; Tám, Quán tâm rõ ba Niết-bàn: một là tánh tịnh, hai là viên tịnh, ba là phương tiện tịnh, chẳng sinh chẳng diệt gọi là Niết-bàn, các pháp thật tướng chẳng thể nhiễm chẳng thể tịnh, chẳng nhiễm tức chẳng sinh, chẳng tịnh tức chẳng diệt, chẳng sinh chẳng diệt gọi là tánh tịnh Niết-bàn, ta nhân khế lý, mê hoặc rốt ráo chẳng sinh, trí tuệ rốt ráo chẳng diệt, chẳng sinh chẳng diệt gọi là viên tịnh Niết-bàn. Lặng lẽ mà thường chiếu, cơ cảm tức sinh, sinh đây chẳng phải sinh, duyên rơi rụng tức diệt. Diệt đây chẳng phải diệt, chẳng sinh chẳng diệt, gọi là phương tiện tịnh Niết-bàn. Đế quán tâm tánh xưa nay tịch diệt chẳng nhiễm chẳng tịnh, nhiễm nên gọi là sinh, tịnh nên gọi là diệt, sinh diệt chẳng năng hủy nên thường, chẳng năng nhiễm nên tịnh, chẳng năng ngại nên ngã, chẳng năng thọ nên lạc, đó là tánh tịnh Niết-bàn, nếu vọng niệm tâm khởi, đều dùng chánh quán quán đó, khiến chánh quán đây cùng pháp tánh tương ưng. Vọng niệm chẳng năng hủy chẳng năng nhiễm, chẳng năng ngại chẳng năng thọ là, gọi là viên tịnh Niết-bàn. Vì vô duyên từ không sinh thị sinh, vì đồng thể bi, không diệt hiện diệt, tất cả cảnh giới sinh diệt, ngoại đạo thiên ma chẳng năng hủy chẳng năng nhiễm chẳng năng ngại chẳng năng thọ là, phương tiện tịnh Niết-bàn; Chín, Quán tâm rõ ba báu, là Phật Pháp Tăng là ba, đáng tôn đáng trọng là báu (bảo), chí lý có thể tôn gọi là pháp bảo, trí của giác lý, có thể tôn gọi là Phật bảo, Tỳ-lô-giá-na khắp tất cả xứ, tức sự mà lý, hòa đây có thể tôn gọi là Tăng bảo. Đế quán tâm của một niệm tức không tức giả tức trung là ba báu. Lý của ba đế bất giác nên là pháp bảo, trí của ba đế năng giác nên là Phật bảo. Ba đế ba trí tương ưng hòa hợp nên là Tăng bảo, không đế trí chẳng phát, không trí đế chẳng hiển. Trí chẳng hòa, chẳng năng đại dụng lợi ích chúng sinh. Hai thứ đều đáng tôn đáng trọng cho nên đều xưng là bảo; Mười, Quán tâm rõ ba đức. Những gì là ba? Thế nào là đức? Đó là pháp thân, Bát-nhã và giải thoát là ba. Thường lạc ngã tịnh là đức. Một là pháp thân, pháp gọi là đáng khuôn phép (khả quỹ), chư Phật khuôn phép đó mà được thành Phật, nên trong kinh nói:

“Thầy của chư Phật đó là pháp”. Thân là tụ, một pháp đủ tất cả pháp, có không khuyết giảm nên gọi là thân. Trong kinh nói: “Thân ta là chân thiện tri thức của tất cả chúng sinh”. Bát-nhã là rõ biết các pháp tụ tán, chẳng phải tụ chẳng phải tán, tức là rõ biết pháp của ba đế, giải thoát là, ở nơi các pháp không nhiễm không trú, ba pháp đây đều đủ bốn đức của thường lạc ngã tịnh. Chắc thật quán tâm của một niệm, tức không tức giả tức trung. Tức không là một không tất cả không, không có giả không có trung mà chẳng không, không không có tích tụ mà gọi là tạng, tạng đủ tất cả nên gọi đó là đức. Tức giả nên một giả tất cả giả, không có không không có trung mà chẳng giả, giả gồm các pháp cũng gọi là tạng, tạng đủ tất cả nên gọi là đức. Tức trung nên một trung tất cả trung, không có không không có giả mà chẳng trung, trung gồm tất cả cũng gọi là tạng, tạng đủ tất cả nên xưng đó là đức, chẳng thể nghĩ bàn chẳng dọc chẳng ngang chẳng chung chẳng riêng. Chư Phật tức trung làm thể nên gọi là pháp thân, dùng tức không làm mạng nên gọi là Bát-nhã, dùng tức giả làm lực nên gọi là giải thoát, mỗi mỗi đều thường lạc ngã tịnh không có khuyết giảm, nên xưng là ba đức, mỗi mỗi đều là pháp giới nhiều chỗ hàm tàng nên xưng là bí tạng. Nên trong kinh Tịnh Danh nói: “Giải thoát của chư Phật phải tìm cầu ở trong tâm hành của chúng sinh”. Phải biết tâm ta cũng vậy, tâm chúng sinh cũng vậy. Ta và kia đã vậy chư Phật cũng vậy, tâm Phật và chúng sinh là ba không sai biệt. Mười thứ ba số (pháp) trên cũng một chẳng phải một, chẳng phải một chẳng phải chẳng phải một. Ba pháp chẳng nghĩ bàn vậy. Thủy chung chỉ là một thứ ba pháp. Tại phàm là ba đạo, nếu vào Thánh phàm ba đức. Ngoài ra căn cứ lý trí hành giải v.v... thành các thứ ba pháp, lấy làm quyến thuộc, rốt ráo chẳng động chúng sinh nhân địa ba đạo, thành mãn chư Phật quả địa ba đức, gốc ngọn cùng còn nhân quả đồng thời. Vì diệu lý bản hữu nên gọi là ba tánh, diệu lý chẳng hư nên gọi là ba đế. Mê diệu lý đây nên gọi là ba chướng. Đã có ba đời luân chuyển phan duyên chẳng dứt, nên gọi là mười hai nhân duyên đầy đủ ba khổ. Nếu muốn trở lại cội nguồn, thấu rõ ba chướng ngày nay, tức là ba tánh xưa nay, nên gọi là ba quán. Diệu lý hiển hiện nên gọi là ba đức. Lại quỹ tắc hành nhân gọi là ba pháp, chỗ chiếu là ba đế, chỗ phát là ba quán, quán thành là ba trí, dạy kẻ khác gọi là ba ngữ, trở về tông gọi là ba thú, được ý loại đây tất cả đều thành pháp môn. Nay lại dùng ba quỹ (khuôn phép) loại thông ba đạo (đường) trong nhân: Một là, khổ đạo; hai là, phiền não đạo; ba là, nghiệp đạo. Khổ đạo tức chân tánh. Trong kinh nói: “Tướng thế gian thường trú”, há chẳng tức sinh tử kia mà là pháp thân ư? Phiền não đạo tức quán chiếu quỹ (khuôn phép) quán chiếu vốn chiếu hoặc, không hoặc thì không chiếu, tất cả pháp không là vậy. Quỹ giúp thành tức nghiệp đạo, ác là giúp của thiện, không ác cũng không thiện, trong Kinh Thư nói: “Người thiện là của người bất thiện, người bất thiện là trò của người thiện”. Trong kinh nói: “Chúng ta niệm Phật nên đều đang nhẫn là sự. Ác chẳng lại thêm hại, chẳng được dùng niệm. Do đó nói thiện tri thức là Đề-bà-đạt-đa vậy”. Lại nói: Khổ tức pháp thân, chẳng phải hiển hiện nên gọi là pháp thân. Tham nhuế si tức Bát-nhã, chẳng phải năng rõ nên gọi là Bát-nhã, không chỗ có thể chiếu, tánh tự rõ suốt nghiệp hành trói buộc nên gọi là giải thoát, chẳng phải đoạn trói buộc mà thoát, cũng không thể chúng ta buộc, cũng không năng buộc nên gọi là giải thoát. Lại, các bậc tiên đức nói: Nên nói Phật địa hết chướng lụy nên xưng là giải thoát. Thật tánh thể sắc tức thân Như Lai. Chủng trí tròn sáng là Đại Bát-nhã, ba sự tức ngã, xứ nào tung hoành. Ngã tức ba sự, nếu làm thành riêng, an trú như vậy là Đại Niết-bàn bởi vì tất cả chư Phật tức một sắc tâm. Tâm là năng biến, sắc là sở biến, sở biến tức tướng thấy, năng biến tức tự chứng. Thể đã không riêng, gì lại dọc ngang. Ngay do chẳng rõ tâm duyên sinh hai vọng tưởng, tướng trói buộc thô trọng bèn thành ngăn ngại, mê chấp sắc tướng là chỗ thân ta, chỗ thân ta sinh thật do si ám, si ám che lấp nên thấy chết thấy sống, sống chết cùng trôi nổi, tâm cũng lưu chuyển, khổ của lưu chuyển vốn tại thân tâm, nếu năng rõ tâm và cảnh thì vọng tưởng chẳng sinh, tướng buộc đã trừ, thô trọng cũng dứt, trọn tuyệt ngăn ngại bèn thành tựu giải thoát. Thông đạt sắc tướng đều tạng tánh hiện, không còn ngã sở tức thân Như Lai. Chiếu A-đàna xứ vi tế sâu mầu. Si ám chẳng che là Ma-ha Bátnhã, ngộ bản tánh đây xưa nay chẳng sinh, thể dụng không cùng rốt sau cũng chẳng diệt. Lại, ba đức là, có đạo tánh trước được, đạo phần giữa được, đạo cứu cánh sau được. Nếu tánh được là, như kinh Duy-ma nói: “Chúng sinh như Di-lặc như. Một như không hai như, tánh đây được pháp thân, tất cả chúng sinh tức tướng Bồ-đề, chẳng thể lại được. Tánh đây được Bát-nhã. Tất cả chúng sinh tức tướng Niết-bàn, chẳng thể lại được, tánh đây được giải thoát”. Đây là căn cứ đạo viên tánh trước được, đạo viên phần giữa được, tức từ quả vị mười trú đến Đẳng giác, năm mươi mốt quả vị viên tu trí đoạn v.v... đạo viên cứu cánh sau được, tức nghĩa quả trên, đã rõ tánh được, phải đủ trải qua hai đức sau, dùng năm nhẫn sáu tức để chọn lựa sai lạm đó, thẳng đến quả vị Diệu giác cứu cánh viên mãn. Như vào trong lục đây, mắt trí sáng sạch, viên tu viên giải song chiếu song ngăn, hai chim đều bay chẳng rơi thiên kiến, một nghĩa chẳng động phân biệt rõ vậy. Như gương treo cao nơi nhà không tâm rỗng chiếu, muôn tượng soi đó chẳng kén xấu đẹp, vì tuyệt tỉnh tâm của thường và vô thường, chiếu viên lý của thường và vô thường, ngăn chiếu không kẹt, phá lập đồng thời, tức chẳng phải thường chẳng phải vô thường mà thường mà vô thường. Thường và vô thường chỉ luận thật tánh, tánh của mỗi mỗi tánh gồm vô biên. Trong kinh Tịnh Danh nói: “Rốt ráo chẳng sinh chẳng diệt là nghĩa vô thường”. Đại sư Tuệ Viễn nói: “Cùng lý thật tướng gọi là hết ý, thể lặng lẽ vô vi gọi là chẳng sinh diệt, chẳng sinh diệt đây là tánh chân thật của vô thường kia vậy, gọi là nghĩa vô thường”. Pháp sư Tăng Triệu nói: “Rốt ráo là từ của quyết định

Pháp quán của Tiểu thừa lấy sinh diệt làm nghĩa vô thường. Bậc Đại thừa lấy sinh diệt làm nghĩa vô thường. Vô thường danh đồng mà sâu mầu khác tuyệt. Đạo đó rỗng rang, vi tế nên phải chỗ của thường tình năng lường, khéo được yếu chỉ đây, chỉ có tịnh danh ư? Khiếu trừ thường nên gọi là vô thường, chẳng phải nghĩa là có vô thường, vô thường và thường đều không vậy. Nói rốt ráo chẳng sinh chẳng diệt là nghĩa vô thường. Lại, chẳng phải thường là tánh suốt vậy, chẳng phải vô thường là tướng suốt tánh vậy. Như trong kinh Am-ma-la-già nữ nói: “Sinh diệt cùng chẳng sinh diệt”. Giao lạc mà giải thích, trong kinh đáp Vănthù Sư-lợi nói: “Nếu biết các pháp rốt ráo sinh diệt biến dịch không định tướng như huyễn, mà năng tùy chỗ thích nghi đó, có chỗ nói là. Đó là nghĩa thường. Vì các pháp sinh chẳng tự được sinh, diệt chẳng tự được diệt vậy. Thế nào là vô thường? Nghĩa là nếu biết các pháp rốt ráo chẳng sinh chẳng diệt, tùy tướng như vậy mà năng tùy chỗ thích nghi đó mà có thể nói, là nghĩa vô thường, vì các pháp tự tại biến đổi không định. Rõ chẳng tự được tùy, biết nói như vậy là nghĩa thường vậy”.

Giải thích: Ý đây chánh hiển bày tánh tướng giao triệt, hai nghĩa cùng thành, tướng sinh diệt hết, vô thường tức thường vậy. Chẳng sinh chẳng diệt là nghĩa vô thường, tùy duyên biến đổi, thường tức vô thường, thì sinh diệt là nghĩa thường vậy. Lại, tánh tức tướng nên chẳng sinh chẳng diệt là nghĩa vô thường, tướng tức tánh nên sinh diệt là nghĩa thường. Qua lại đoạt thì cả hai đều chẳng phải. Qua lại thành tựu thì cả hai đều lập. Khoảng giữa sinh thọ vào Niết-bàn, tức ý đây vậy. Thường vô thường đã vậy. Ngã, lạc, tịnh v.v... Cho đến tất cả các pháp đều vậy. Đã xứ xứ mà vào đại Niết-bàn, chẳng phải riêng dưới song lâm. Nếu chẳng rõ yếu chỉ đây, đều lạc biên tà, tức trần trần mà đều thành sinh tử, đâu chỉ trong Diêm-phù-đề. Nếu vào Tông kính tức tất cả pháp thú hướng vô thường, vô thường gồm pháp không sót, nghĩa lý vô tận mới chân vô thường, gồm thâu các nghĩa để làm toàn thể đồng nhau.

Hỏi: Niết-bàn ba đức, chân như một tâm, trong nhân quả trên thâu hết vô biên nghĩa lý. Đâu chỉ mười thứ ba pháp. Cho đến vô tận pháp môn, dứt hóa ngưng thần rốt ráo ý chỉ quy về pháp nào?

Đáp: Chung riêng ý chỉ quy về, trở lại tức ý chỉ quy về bí tạng ba đức, như chỉ quán ý chỉ quy về là, trong kinh Đại Niết-bàn nói: “An đặt các con trong tạng bí mật, ta cũng chẳng vào, tự trú trong đó”. Đó gọi là tướng chung ý chỉ quy về. Tướng riêng là thân có ba thứ: Một, sắc thân. Hai, pháp môn thân. Ba, thật tướng thân. Nếu dứt hóa luận quy về là, sắc thân quy về giải thoát, pháp môn thân quy về Bát-nhã, thật tướng thân quy về pháp thân. Lại nữa, ba pháp chẳng phải ba, chẳng phải một chẳng thể nghĩ bàn. Tại sao như vậy? Nếu cho rằng pháp thân chân pháp thân là chẳng phải pháp thân vậy. Phải biết pháp thân cũng thân chẳng phải thân, chẳng phải thân chẳng phải thân trú. Trong kinh Thủ-lăng-nghiêm nói: “Các thứ thị hiện làm các sắc tượng nên gọi là thân, chỗ làm xong rồi, về nơi giải thoát. Trí tuệ chiếu rõ các sắc chẳng phải sắc, nên gọi là chẳng phải thân, chỗ làm xong rồi về nơi Bát-nhã. Thân của thật tướng chẳng phải thân của sắc tượng. Chẳng phải thân của pháp môn. Cho nên chẳng phải thân chẳng phải chẳng phải thân. Chỗ làm xong rồi về nơi pháp thân. Thấu đạt ba thân đây không tướng một khác, đó gọi là về. Nói ba thân đây không tướng một khác, đó gọi là chỉ, đủ vào bí tạng nên gọi là ý chỉ quy về. Phải biết Bátnhã cũng biết, chẳng phải biết, chẳng phải biết, chẳng phải chẳng biết. Đạo chủng trí Bát-nhã biết khắp ở tục nên gọi là biết. Chỗ làm xong rồi quy về nơi giải thoát. Nhất thiết trí Bát-nhã biết khắp ở chân nên gọi là chẳng phải biết, chỗ làm xong về nơi Bát-nhã. Nếu nhất thiết chủng trí Bát-nhã biết khắp ở trung, nên gọi là chẳng phải biết chẳng phải chẳng biết, chỗ làm xong rồi về nơi pháp thân, thấu đạt ba Bát-nhã không tướng một khác, đó gọi là quy về, nói ba Bát-nhã không tướng một khác, gọi là ý chỉ, đều vào bí tạng gọi là ý chỉ quy về, phải biết giải thoát, cũng thoát chẳng phải thoát, chẳng phải thoát chẳng phải chẳng phải thoát, phương tiện tịnh giải thoát điều phục chúng sinh, chẳng là chỗ nhiễm gọi là thoát, chỗ làm xong rồi về nơi giải thoát. Viên tịnh giải thoát chẳng thấy tướng chúng sinh và giải thoát, nên gọi là chẳng giải thoát, chỗ làm xong rồi quy về nơi Bát-nhã. Tánh tịnh giải thoát thì chẳng phải thoát chẳng phải chẳng phải thoát, chỗ làm xong rồi về nơi pháp thân. Hoặc đạt hoặc nói ba thoát như đây chẳng phải tướng một khác, đều vào bí tạng, nên gọi là ý chỉ quy về, nên biết các thứ tướng các thứ nói các thứ thần lực mỗi mỗi đều vào trong bí tạng. Những gì là ý chỉ quy về. Ý chỉ quy về xứ nào, gì là ý chỉ quy về? Tuyệt đường ngôn ngữ dứt lối tâm hành, trọn lắng như không, đó gọi là ý chỉ quy về. Nên biết năng hóa sở hóa vô tận pháp môn, chưa có một pháp nào chẳng ý chỉ quy về tông kính. Vì vậy, Thiền sư Phổ Trí nói: “Phật đạo đều nhân pháp nào thành, ngộ tâm không có thể mênh mông chẳng rõ, chớ sợ lạc không chìm đoạn kiến, muôn pháp đều từ xứ đây sinh”.

QUYỂN 91

Hỏi: Đạo của phàm Thánh đồng một pháp thân, đây kia đều mất, vật ngã đều tuyệt, thì bên trong tâm không được, bên ngoài thân không thừa, làm sao khởi thân của ứng hóa, gồm các cơ nghi?

Đáp: Chỉ vì chúng sinh chẳng rõ tự tha, chỉ tâm bày sinh đây kia, nếu tự thấu đạt chân không thì chư Phật trọn chẳng ra đời, Bồ-tát cũng không công phu. Các bậc cổ đức có hỏi: nếu nói tự tha đều là tự tâm hiện, lìa tâm không thật ngã nhân là chư phật cũng thấy có chúng sinh, đâu có thể có vọng tâm chưa hết ư? Đáp: Chư Phật thấy có chúng sinh đều là duyên sinh huyễn có. Chẳng biết cho là thật có ngã. Do đó tạo nghiệp thọ báo uổng có luân hồi. Đây do không thật ngã cảm chư Phật từ bi. Nếu Phật có ngã chẳng phải là vọng có là, chư Phật cớ sao vọng cứu chúng sinh, vì ngã thật có thì chẳng thể cứu vậy. Nay cứu là, định biết không ngã, vọng chấp có vậy. Nên biết chúng sinh chẳng lìa Phật quả, mê chẳng hay biết. Trong kinh Hoa Nghiêm có kệ tụng nói:

“Thân Phật chẳng phải hóa,
Cũng chẳng phải chẳng hóa,
Ở trong pháp không hóa,
Bày có hình biến hóa”.

Xưa trước giải thích: Đây thì nương thân khởi hóa, chân hóa mỗi có hai nghĩa. Trong chân có hai là: Một, nghĩa chẳng biến, tuy hóa mà thường lặng yên, thì thân Phật chẳng phải hóa vậy. Hai, nghĩa tùy duyên, nghĩa là chẳng giữ tự tánh, không lúc nào chẳng hiện, thì cũng là chẳng phải chẳng phải hóa vậy. Trong Hóa có hai là: Một, nghĩa không thể tức không, nghĩa là quấy duyên không tánh là ở trong pháp không hóa vậy. Hai, nghĩa tùy duyên huyễn có, thì bày có hình biến hóa vậy. Vì tùy duyên huyễn có chẳng khác chẳng khác chẳng biến thể không, cho nên hóa lẫn lộn vậy, chừa từng chẳng lặn, chân tánh lặng yên chưa từng chẳng hóa, nếu chẳng đạt lý đây, tự còn chưa độ, sao năng hóa tha? Lại, vì vô duyên từ như đá hút sắt, đâu phân hóa của năng sở. Vì đồng thể bi giống như hư không, ai thấy thân của tự tha, nên các bậc tiên đức nói: “Cùng nguồn chớ hai chấp vết nhiều mối”. Nghĩa là nếu căn cứ gốc để xét nguồn thì ngàn đường không khác vết. Nếu mênh mông của ba sông đều nguồn ra từ núi Dân vậy, là cùng nguồn chớ hai chấp vết nhiều mối thì căn cứ ngọn để thích hợp gốc, chẳng biết nhiều mối là ứng vết vậy. Nên trong phẩm Quang Minh Giác có kệ tụng nói:

“Một thân là vô lượng,
Vô lượng lại là một,
Rõ biết các thế gian,
Hiện hình khắp tất cả,
Thân đây không chỗ tùy,
Cũng không thể tích tụ,
Vì chúng sinh phân biệt,
Thấy Phật các thứ thân”.

Tức nghĩa đây vậy. Chỉ là một pháp thân, nghĩa phân hai ba bốn năm cho đến mười thân. Vả lại như nói năm thân là, trong Duy-ma sớ Thích của Duệ công nói: “Chỗ gọi là pháp tánh sinh thân, cũng gọi là công đức pháp thân, biến hóa pháp thân, thật tướng pháp thân, hư không pháp thân”. Rõ ràng mà biện giải đó là một pháp thân vậy. Tại sao? Nói sinh đó thì pháp tánh của gốc, nên gọi là pháp tánh sinh thân. Suy tìm nhân đó thì là chỗ công đức thành, nên nói là công đức pháp thân, căn cứ ứng đó thì không cảm nào chẳng hình, thì là biến hóa pháp thân, xứng đại đó thì cùng khắp hư không. Thể gọi là hư không pháp thân, nói diệu đó thì không tướng vô vi nên gọi là thật tướng pháp thân, nên biết một thể chẳng động gọi là theo duyên phân vậy, nên nói đồng thời khác xứ quyết là nhiều thân, mà là một thân toàn hiện nên chẳng phải nhiều vậy. Đó như một vầng trăng trong một sátna mà trăm sông đều hiện, đều tức một tức nhiều. Như Bồ-tát Trí Tràng có kệ tụng nói: “Thí như trăng tròn sạch, hiện khắp tất cả nước, ảnh tượng tuy vô lượng, vốn trăng chưa từng hai”. Là đây vậy. Lại trong kinh có kệ tụng nói:

“Pháp thân Như Lai diệu thanh tịnh,
Tất cả ba cõi không sánh bằng.
Vì xuất thế gian bày ngôn ngữ,
Tánh đó chẳng có cũng chẳng không,
Tuy không chỗ nương không chẳng đến,
Tuy không chẳng lại mà chẳng đi,
Như giữa hư không vạch mộng thấy,
Nên đối Phật thể quán như vậy”.

Do chẳng phải chân chẳng phải ứng chẳng phải một chẳng phải nhiều vậy. Chẳng thể làm tư duy chân ứng một nhiều v.v... Nên trong phẩm Quang Minh Giác có kệ tụng nói:

“Thân Phật không sinh vượt hý luận,
Chẳng phải pháp uẩn xứ sai biệt”.

Nên khó nghĩ lường vậy, lại nói đều là thân của tự tha cùng làm, hóa của năng sở cùng thành, tự tha cùng làm là, như trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Bồtát đây năng tùy chỗ vui thích của tâm chúng sinh, năng lấy tự thân làm thân Duyên giác, thân Bồ-tát, thân Như Lai, thân pháp, thân trí, thân hư không, đây tức tự làm tha vậy. Lại tùy chỗ vui thích của tâm chúng sinh, năng lấy thân chúng sinh làm tự thân, tức tha làm tự vậy”. Năng sở cùng thành là, nếu không có của sở hóa, thì không vết của năng hóa. Lại nếu, không thân của sở ứng, cũng không sự của năng cảm, tự tha năng sở chẳng phải một chẳng phải khác. Do bởi nhau duyên khởi thành mật chỉ đây. Nhưng duyên khởi do bởi nhau là, đều là tự tâm làm duyên, trọn không pháp ngoài tâm năng cùng tâm làm duyên. Do đó các bậc cổ đức nói:” Mười phương chư Phật đều bản sư ta Hải ấn chóng hiện”. Vả lại, trong kinh Pháp Hoa nói phân thân có nhiều cõi tịnh, Như Lai sao chẳng chỉ cõi tịnh của mình, mà khiến đến nơi cõi Đức Di-đà, Diệu-hỷ? Tư duy đó nên biết nói các Phật Hiền Thủ Phật Di-đà v.v... đều là bản sư vậy. Đâu có gì quái lạ ư? Nói Hiền Thủ là, tức trong phẩm Thọ Lượng nói trải qua trăm ngàn a-tăng-kỳ cõi nước, sau cùng Như Lai của thế giới Thắng liên hoa vậy.

Trong kinh có kệ tụng nói:

“Hoặc thấy cõi Liên hoa thắng diệu,
Hiền Thủ Như Lai trú trong đó”.

Nếu đây chẳng phải tán thán bản sư thì nói Như Lai khác cõi nước khác, là dụng gì? Vả lại, như trong tổng trì giáo cũng nói ba mươi bảy tôn, đều là chỗ một Phật Già-na hiện. Nghĩa là Tỳ-lô-già-na Như Lai tâm bên trong chứng tự thọ dụng thành ở năm trí, từ bốn trí lưu xuất bổn Như Lai, nghĩa là đại viên kính trí lưu suất A-sơ Như Lai ở phương Đông, bình đẳng tánh trí lưu xuất Bảo Sinh Như Lai ở phương Nam. Diệu quán sát trí lưu xuất Vô Lượng Thọ Như Lai ở phương Tây. Thành sở tác trí lưu xuất Bất Không Thành Tựu Như Lai ở phương Bắc. Pháp giới thanh tịnh trí tức tự làm Tỳlô-già-na Như Lai.

Lại hỏi: Nếu y cứ nghĩa đây, đâu chẳng trái ý thú bình đẳng. Nếu nói tức ta là, nương ở y thú bình đẳng mà nói chẳng phải tức thân ta, tại sao đều nói là bản sư?

Đáp: Nói bình đẳng mới là một nghĩa, duy thức còn nói trong tất cả chúng sinh có thuộc nhiều Phật, nhiều Phật cọng hóa lấy làm một Phật. Nếu thuộc một Phật, Phật năng thị hiện lấy làm nhiều thân, mười phương Như Lai mỗi mỗi đều vậy. Nay chánh một Phật năng làm nhiều thân, nương đây mà tán thán bản sư vậy. Trong kinh Hoa Nghiêm phẩm Cảnh giới chẳng nghĩ bàn có kệ tụng nói:

“Trí Phật thông đạt sạch vô ngại,
Sát-na rõ khắp pháp ba đời,
Đều từ tâm thức nhân duyên hiện,
Sinh diệt vô thường không tự tánh.
Ở trong một cõi thành Chánh giác,
Tất cả xứ cõi đều cũng vậy,
Tất cả vào mỗi mỗi cũng vậy,
Tùy tâm chúng sinh mà hiện bày”.

Trong kinh Đại Thừa Thiên Bát Đại Giáo Vương nói: “Tất cả chư Phật giáo hóa phương tiện pháp trí như vậy, ta đều nhóm tập tại trong một tâm. Đồng như kim cang Bồ-đề Thánh tánh Ma-niđịa vậy”. Trong kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương nói: “Thí như nhật nguyệt không có phân biệt, cũng như gương nước không có phân biệt, ánh sáng cũng không phân biệt. Ba thứ hòa hợp được có ảnh sinh. Pháp như như, như như trí như vậy cũng không phân biệt. Vì nguyện tự tại vậy. Chúng sinh có cảm hiện ứng hóa thân, như ảnh nhật nguyệt hòa hợp xuất hiện. Như Lai là không đi không lại, nên nói đến ứng các cơ mà chẳng đi, luôn về tịch diệt mà chẳng lại. Tại sao? Nương thể khởi dụng nên mà đi, vì dụng của tức thể nên chẳng đi. Ứng cơ hiện tiền hợp là lại, vì ứng chẳng lìa thể như ảnh của trăng nên chẳng lại. Lại đến ứng hợp nên chẳng đi, ứng không tướng ứng nên chẳng đi, luôn về tịch diệt hợp là lại, diệt chẳng thể được nên chẳng lại, cho đến tất cả các pháp đều không lại đi. Như trong kinh có kệ tụng nói:

“Tất cả pháp không lại,
Cho nên không có sinh,
Nhưng ở pháp không sinh,
Trong hiện khởi bi hóa”.

Do đó trong luận Đại Trượng Phu nói: “Bồ-tát tư duy tất cả chúng sinh, năng vì ta làm nghiệp đoan nghiêm, chẳng khiến một chúng sinh làm ý đoan nghiêm. Bồ-tát tư duy thế này, nói lợi tha là cầu tướng của người khác, đều chẳng thể được, đều như tự mình”. Lại nói: “Bồ-tát tư duy: Khiến ta bi giống như hư không, tất cả núi sông cây cối chim bay thú chạy đều nương hư không mà trú. Tất cả chúng sinh tất cả thời đều vào trong bi ta. Đó thì dùng đại bi của đồng thể, chúng sinh nào mà chẳng độ. Khởi đại tuệ của bình đẳng, đạo nào mà chẳng thành”. Như trong luận Hoa Nghiêm nói: “Vô tận công đức tạng hồi hướng là, vị đây rõ thiền cùng trí ngầm trí cùng bi hợp, vì vô tận hư không là một đạo tràng, vì vô tận chư Phật, mà khắp cùng pháp giới, hóa vô tận chúng sinh đều thành thân Phật trong ngoài cùng mất, thủy chung đều hết, biết khắp các pháp, chẳng hoại không tâm”. Trong phẩm vô tận công đức tạng nói: “Trong một lỗ chân lông thấy a-tăng-kỳ chư Phật xuất hiện nơi đời được vào pháp Vô tận tạng”. Là nơi rõ tâm vốn không, lớn nhỏ buộc hết, thân là ảnh trí, cõi nước cũng vậy, trí sạch ảnh sáng, lớn nhỏ cùng vào dụ như cảnh giới lưới nhân-đà-la”. Ấy vậy, trong kinh nói: “Dùng lực trí Phật quán tất cả pháp đều vào một pháp” là, nói rõ tất cả muôn cảnh tuy nhiều nhưng điều một tâm mà khởi. Tâm mất cảnh diệt, muôn cảnh điều hư, như các ảnh trong nước sạch vậy. Nước mất ảnh diệt, đây là căn cứ có thành không mà nói. Lại, lấy cảnh căn cứ trí sinh, trí hư cảnh huyễn, nhiều tướng cùng vào chẳng lìa một hư, huyễn chẳng khác hư, hư chẳng khác huyễn, huyễn hư không hai, một khác đều hư. Đây là căn cứ trí huyễn hư, môn tự tại vô ngại mà nói, đây đây đều mượn pháp so sánh mà nói. Như thật chỗ biết chỉ mất tư duy là trí hội hợp. Thí đó hội hợp mới có thể dùng, mà thường chân chẳng hoặc tâm cảnh, vì đại nguyện lực tùy trí huyễn sinh v.v.. số thân chúng sinh, như ứng nhiếp hóa viên gọi là vô tận công đức tạng. Lại nói: Bồ-tát Pháp vân địa tùy tâm niệm lực, rộng lớn vi tế tự tha cùng vào, một nhiều lớn nhỏ cùng xen. Thần thông tức dụng tự tại đều tùy chỗ tự tâm niệm thành vậy. Thời người địa ngục súc sinh ngạ quỷ quả báo thiện ác v.v.. một nương tâm tạo. Như Bồ-tát mười địa đây dùng pháp thân vô tác lực của đại trí, tùy chỗ tâm niệm, khắp cùng mười phương một thời tự tại thảy đều thấy biết. Vì trí Phổ Quang Minh làm thể, là trí thể không nương tựa, xứng tánh khắp cùng khắp giới, vì trí không tánh đại dụng tùy niệm, vì trí chẳng quên mất tùy niệm điều thành, vì trí đủ tổng biệt, tổng biệt đồng khác thành hoại đều làm, vì trí tự tại rộng hẹp lớn nhỏ, hóa thông vô ngại, vì cùng tất cả chúng sinh đồng thể trí, năng biến tất cả cảnh giới chúng sinh, thuần làm cõi của tịnh độ, vì tự tha không hai trí, một thân mà làm nhiều thân, nhiều thân mà làm một thân, vì pháp thân không lớn nhỏ trí của lìa lượng năng dùng một lỗ chân lông rộng bao dung cõi Phật. Vì trí đồng hư không vô biên vô phương mà một niệm hiện sinh khắp mười phương mà không đi lại, vì thí như âm vang ứng đối hiện v.v... chúng sinh ứng hình, vì là đầy đủ viên mãn trí phước đức mà luôn ở cõi diệu, thường cùng tất cả chúng sinh đồng ở, nếu chẳng phải lực gia trì của bậc Thánh, thì chúng sinh chẳng thấy.

Lại hỏi: Thế nào là thấy Phật ra đời?

Đáp: Phải thấy tự thân, không thân không tâm, không ra không mất, không trong không ngoài, chẳng động chẳng lặng, không nghi không cầu. Thế gian và thế xuất gian đều không trú xứ. Không tâm sở pháp, không tâm tâm pháp, tâm pháp không nương tánh không đầu cuối, vì trí không nương trú nói pháp như vậy. Giáo hóa chúng sinh điều khiến ngộ vào, đó gọi là thấy Phật ra đời, như trong phẩm Quang minh giác, Văn-thù-sư-lợi có kệ tụng nói: “Thế và xuất thế thấy, tất cả điều siêu vượt, mà năng khéo biết pháp, sẽ thành sáng chói lớn. Nếu ở Nhất thiết trí, phát sinh tâm hồi hướng, thấy tâm sinh không chỗ sinh, sẽ được danh xưng lớn, chúng sinh không chỗ sinh, cũng là không có hoại, nếu được biết như vậy, sẽ thành đạo Vô thượng”. Lại, trong kinh Đại Thừa Đại Tập nói: “Phật dạy: Hiền Hộ! Như lửa chưa sinh, hoặc lúc có người nói là ta ở ngày nay ánh sáng diệt là lửa. Hiền Hộ! Ý ông nghĩ sao? Người kia nói vậy là thành thật chăng? Hiền Hộ thưa: không vậy, bạch Đức Thế Tôn. Đức Phật dạy: Hiền Hộ! Các pháp như vậy từ xưa đến nay rốt ráo không được, cớ sao ở nay mà nói như vậy. Ta năng vương biết tất cả các pháp, ta năng thấu rõ tất cả các pháp, ta năng giác ngộ tất cả các pháp, ta năng độ thoát tất cả chúng sinh ở trong sinh tử. Đó chẳng phải lời nói chân chánh. Tại sao như vậy? Trong pháp giới kia vốn không các pháp cũng không chúng sinh, cớ sao nói độ? Chỉ trong thế tục đế, nhân duyên độ vậy”. Nên biết ngoài tâm không pháp, chỗ nào được ư? Thân Phật vô vi chỉ tùy duyên hiện. Như trong Triệu Luận nói: “Phóng Quang nói: Phật như hư không không đi không lại ứng duyên mà hiện không có phương sở. Nhưng mà Thánh nhân ở tại thiên hạ vậy. Lặng lẽ hư vô không tranh không chấp, dẫn dắt mà chẳng phải trước, cảm mà ứng sau, thí như âm vang của hang sâu, ảnh tượng của gương sáng, đối đó chẳng biết đó chỗ nào lại, tùy đó không hay đó đi về đâu, chợt vậy mà có chợt vậy mà mất, động mà hơn tình, ẩn mà không rõ, ra tối vào tâm biến hóa vô thường, đó là xứng vậy. Nhân ứng mà làm hiển vết là sinh, dứt vết là diệt, sinh gọi là hữu dư, diệt gọi là vô dư, nhưng mà xưng của có không (hữu vô) vốn ở không danh. Đạo của không danh, ở đâu chẳng danh, vì vậy Thánh nhân ở vuông thì vuông ở tròn thì tròn, ở trời thì trời, ở người thì người. Phàm, năng trời năng người, đâu là chỗ của trời người năng ư? Quả vì chẳng phải trời chẳng phải người nên năng trời năng người vậy. Do đó, gương sáng không hình năng hiện muôn hình. Thánh nhân không tâm năng ứng muôn tâm ẩn chẳng giấu sáng, hiển chẳng hiện vết. Nên trong luận nói: “Thánh nhân lặng lẽ sợ không điềm, ẩn hiển đồng thời, còn chẳng là có, mất chẳng là không, tại sao? Phật dạy:

Ta không sinh chẳng sinh, tuy sinh chẳng sinh, không hình chẳng hình, tuy hình chẳng hình.

Hỏi: Pháp thân Như Lai tức tánh chân tâm, báo thân Như Lai nương thân mà khởi, nếu hóa thân Như Lai thì có tâm chăng?

Đáp: Nếu căn cứ thể cũng chẳng lìa, căn cứ sự tức phân, như trong kinh Giải Thâm Mật nói: “Bồtát Mạn-thù-thất-lợi lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Hóa thân Như Lai phải nói là có tâm hay không tâm ư? Phật dạy Mạn-thù-thất-lợi rằng: Này thiện nam! Chẳng phải là có tâm cũng chẳng phải là không tâm, tại sao? Không tự y tâm có y tha tâm vậy”.

Hỏi: Trong kinh nói: Bồ-tát mở đóng tất cả cửa ác thú. Phàm tất cả chúng sinh tùy nghiệp tự tâm mỗi thọ khổ báo. Do đó trong kinh có kệ tụng nói:

“Giả sử trăm nghìn kiếp,
Nghiệp chỗ làm chẳng mất,
Lúc nhân duyên hội ngộ,
Quả báo lại tự thọ.”

Tại sao Bồ-tát năng đóng tất cả cửa ác thú?

Đáp: Chỉ căn cứ tự tâm thường mở cửa sáu thức, nào từng tạm đóng, ngày đêm so sánh, duyên tưởng tất cả mọi sự bất thiện khắp các cảnh giới, niệm niệm luôn tạo sinh tử địa ngục. Trong kinh nói: “Tập khởi tâm tưởng gọi là địa ngục”. Nếu năng quản tự tâm thức tánh không chỗ có tức là mở cửa thiện thú. Nếu chẳng khởi tâm tưởng, tức là đóng cửa ác thú. Nếu được trí tự tại hiện tiền, tức hiện thân sinh năm đường, vào các cõi địa ngục ngạ quỷ súc sinh v.v.. cứu khổ chúng sinh, nên trong Thiền môn lập vô niệm làm tông, lấy làm yếu học, nên trong kinh có kệ tụng nói:

“Chuyên niệm ở vô niệm,
Phật pháp chẳng khó được”.

Sao gọi là chẳng khó được? Vì không niệm vậy, muôn cảnh chẳng sinh, ngay đó giải thoát, nếu có niệm khởi, chẳng phải riêng mở cửa của ác thú, mà hai mươi lăm hữu một thời đều hiện. Nên biết muôn chất đều từ niệm khác, mười hai loại dọc ngang, ngàn sai đều theo tướng sinh, tám muôn cửa đua khởi, như trong Tín Tâm Minh nói: “Mắt nếu chẳng ngủ, các mộng tự trừ, tâm nếu chẳng khác, muôn pháp một như”. Vì các pháp không thể từ tự tâm sinh, tâm nếu chẳng sinh, cảnh bên ngoài thường lặng. Nên nói: “Vì thế Thánh nhân nương chân tâm tùy thuận thì không kẹt nào mà chẳng thông, xét một khí để quán hóa, nên chỗ gặp mà thuận vừa. Không kẹt nào chẳng thông, nên năng hỗn tạp đến cùng, thuần chỗ gặp mà thuận vừa thì xúc vật mà một”. Như đây thì muôn tượng tuy khác, mà chẳng năng tự khác. Nên biết tượng chẳng phải chân tượng, tượng chẳng phải chân tượng thì tuy tượng mà chẳng phải tượng. Nhưng mà vật ngã đồng căn, phải quấy một khí. Ngầm vi u ẩn, bèn chẳng phải chỗ tận của các tình, nên biết nương một tâm mà giẫm trải thì qua đâu mà chẳng phải là chân như. Bẩm một khí mà hóa hành thì vật nào mà chẳng thuận, như Trang tử nói: “Trời đất một khí mà năng muôn hóa”. Lão tử nói: “Trời được một để trong, đất được một để sáng, thần được một để linh, muôn vật được một để sống. Nên Thánh nhân dùng một chân tâm mà quán muôn cảnh thì chỗ gặp mà thuận vừa, xúc vật mà ngầm một vậy”. Vậy biết các pháp không thể. Duyên giả cùng nương, tợ có sai khác chẳng năng tự khác. Tại sao? Dài không tướng dài, vả lại chẳng tự nói ta dài, ngắn không tướng ngắn cũng tự chẳng nói ta ngắn. Đều là tùy niệm đo lường phân biệt biến kế chấp trước tình sinh, thì biết muôn vật vốn hư, tức tượng mà không tượng vậy.

Hỏi: Nói như trên, chúng sinh tự tâm tự tạo nghiệp tự thọ khổ báo.

Cớ sao lại nói chịu khổ thay cho tất cả chúng sinh?

Đáp: Căn cứ các bậc cổ đức giải thích. Chịu khổ thay có bảy ý: một, khởi bi ý lạc, sự chưa hẳn năng. Hai, tu các khổ hạnh năng cùng vật làm tăng thượng duyên tức gọi là chịu khổ thay. Ba, lưu hoặc nhuận sinh thọ có thân khổ, vì vật nói pháp khiến chẳng tạo ác, nhân tan quả mất tức gọi chịu khổ thay. Bốn, nếu thấy chúng sinh tạo nghiệp vô gián, phải chịu khổ lớn, dùng phương tiện vô uý cần phải đoạn mạng tự đọa vào địa ngục khiến kia được thoát. Năm, do mới phát tâm thương ở nơi ác đạo, cho đến gặp thời đói khác, thân làm cả lớn, nên gọi là chịu thay. Sáu, nguyện lớn cùng khổ đều đồng chân tánh, nay lấy nguyện lớn của tức chân, ngầm đến khổ của đức chân. Bảy, pháp giới là thân tự tha không khác. Chúng sinh chịu khổ tức làm Bồ-tát, mới đầu chỉ ý lạc, tiếp hai là duyên, tiếp hai nữa là thật thay, hai sau là lý quán, nhưng căn cứ có duyên mới năng chịu thay vậy. Trong Hoàn Nguyên Quán nói: Đức chịu thay khắp chúng sinh mà thọ khổ, nghĩa là Bồ-tát tu các pháp hạnh chẳng vì tự thân, chỉ muốn rộng lợi ích quần sinh sáu thân bình đẳng, khiến các đoạn ác tu đủ muôn hạnh, chúng chứng Bồ-đề. Lại là lúc Bồ-tát vốn hành đạo Bồ-tát, đại bi đại nguyện lấy thân làm chất, ở nơi ba ác thủ cứu chuộc tất cả chúng sinh thọ khổ, cốt yếu khiến được an lạc, tân cùng ngăn mẻ vị lai, tâm không lui sụt. Chẳng ở nơi chúng sinh có tâm hy vọng báo ân chỉ chừng bằng mảy lông tóc. Trong kinh nói: “Mây bi rộng lớn khắp tất cả, bỏ thân vô lượng cõi bụi trần, dùng biển kiếp xưa tu các hạnh, khiến thế giới đây không cấu dơ”. Nghĩa là chúng sinh vọng chấp niệm niệm biến đổi, gọi đó là khổ, Bồ-tát dạy khiến rõ uẩn rỗng lặng tự tánh vốn không, nên nói lìa khổ.

Hỏi: Chúng sinh vô biên nghiệp khổ cũng vô biên, làm sao Bồ-tát mà năng chịu thay?

Đáp: Bồ-tát thay thế chúng sinh chịu khổ là do lực phương tiện đại bi vậy. Chỉ vì chúng sinh vọng chấp chẳng rõ nghiệp thể, từ vọng mà sinh, không do đâu ra khỏi khổ. Bồ-tát dạy khiến tu hành hai môn chỉ quán, tâm không thay đổi, nhân mất quả tan, không do đâu sinh, chỉ khiến vào ba đường xấu ác, thì gọi là thay thế chúng sinh thọ khổ vậy. Vì vậy, khổ của ba cõi sinh tử, đều là chúng sinh vọng thọ. Vì chẳng rõ căn trần không tánh, gốc ngọn thường không, ở trong rốt ráo không, chấp thành có của cứu cánh. Nhân đây tham thủ kết nghiệp thọ sinh, ở vô lượng kiếp lại chịu khổ luân hồi, vô minh che đậy chẳng tỉnh chẳng biết, Bồ-tát do đó duỗi tâm đại bi xót thương điên đảo, nói thuốc pháp của tánh không, phá căn bệnh của tình có, thì đạt khổ không sinh, chẳng tạo nghiệp ác, biết các thọ qua lại khởi năng phá năng mê hoặc, khổ của vọng thọ đã không, lạc của đối trị sự tuyệt. Do đó, các bậc tiên đức nói: “Khổ là lạc, lạc là khổ, chỉ cái tu hành đoạn cửa nẻo, cũng không khổ cũng không lạc, xưa nay tự tánh buộc ràng, do đây diệu ngộ vào muôn một khoảng, bèn được nhân pháp đều không, chẳng bị chỗ tâm cảnh buộc, ngay đó giải thoát, trọn ra khỏi nguồn khổ, há chẳng phải chịu khổ thay ư?” Lại trong kinh nói: “Nói pháp là đại thần biến, năng khiến tức phàm thành Thánh, biến hoạ làm lành, ở trong địa ngục vòng lửa, nhảy vọt lên trên đài sen cõi tịnh”, đâu chẳng phải thần biến ư?

Hỏi: Tất cả cảnh giới nhân tâm phân biệt, nếu có phân biệt tức thuộc vô minh, nên nói không tâm phân biệt, tất cả pháp chánh, có tâm phân biệt tất cả pháp tà, chư Phật Như Lai đã đoạn vô minh không có tướng tâm, làm sao năng biết cảnh của chân tục sai biệt gọi là Nhất thiết chủng trí?

Đáp: Vì pháp không tự thể, tức phân biệt không phân biệt vì thể chẳng ngại duyên nên không phân biệt. Như trong luận Đại Thừa Khởi Tín nói: “Tự thể hiển chiếu nên gọi là giác”. Nghĩa là có cật nạn rằng nếu không thể không phân biệt sao năng hiện khắp tâm hành chúng sinh? Nên đáp là: Tự thể hiển hiện như châu có ánh sáng tự chiếu thể châu, thể châu dụ tâm, sáng dụ trí. Thể tánh của tâm tức tánh các pháp, lúc chiếu các pháp là tự chiếu vậy. Nên trong luận văn nói rất rõ ràng. Nhưng trong luận, có hỏi: Hư không vô biên nên thế giới vô biên, thế giới vô biên nên chúng sinh vô biên, chúng sinh vô biên nên tâm hành sai biệt cũng vô biên. Cảnh giới như vậy chẳng thể phân tể khó biết khó hiểu. Nếu vô minh đoạn không có tâm tưởng, làm sao năng rõ, gọi là nhất thiết chủng trí? Đáp: Tất cả cảnh giới xưa nay một tâm, lìa ở tưởng niệm, vì chúng sinh vọng thấy nên tâm có phân tể. Vì vọng khởi tưởng niệm chẳng xứng pháp tánh, nên năng quyết rõ, chư Phật, Như Lai lìa nơi thấy tưởng, không khổ chẳng khắp cùng tâm chân thật vậy. Tức là tánh của các pháp tự thể hiển chiếu tất cả vọng pháp, có đại trí dụng vô lượng phương tiện, tùy chỗ các chúng sinh đáng được giải hiểu đều năng chỉ bày các thứ pháp nghĩa, cho nên được gọi là nhất thiết chủng trí.

Giải thích: Tâm chân thật thì là tánh của các pháp, Phật tâm lìa tưởng, thể một nguồn tâm, lìa vọng tưởng nên gọi là tâm chân thật, thể một tâm nêu là tánh các pháp. Vậy thì Phật tâm là thể của các vọng pháp, tất cả vọng pháp đều là tướng một tâm Phật. Tướng hiện ở tự thể, tự thể chiếu tướng đó, rõ biết như vậy, có gì là khó? Nên năng tự thể hiển chiếu tất cả vọng pháp, đó gọi là nguyên do của không chỗ thấy nên không chỗ chẳng thấy vậy. Trong Sao nói: “Vì bên trong mê chân lý bên ngoài thức thấy trần nên ở cảnh của như lượng chẳng năng tùy thuận các thứ biết vậy. Như người động mắt, đất trời nghiêng xoay, nên chẳng năng như thật biết vậy”. Vậy biết biển tâm sáng ngừng muôn vật đều soi. Đầm lặng sóng nổi các cảnh đều mờ.

QUYỂN 92

Hỏi: Phàm căn cứ trong môn thế tục đế, phàm Thánh cách tuyệt, phàm phu bên ngoài tâm lập pháp vọng chấp thấy nghe. Thánh nhân đã rõ một tâm, cớ sao đồng phàm thấy biết?

Đáp: Thánh tuy thấy biết thường rõ vật hư, như đồng huyễn sinh không có chấp trước, như trong kinh Đại Niết-bàn nói: “Bồ-tát Ca-diếp thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu vì nhân tưởng của phiền não đây sinh ra đảo tưởng, tất cả Thánh nhân thật có đảo tưởng, mà không phiền não, nghĩa đó thế nào? Phật dạy: Này thiện nam! Thế nào Thánh nhân mà có đảo tưởng? Bồ-tát Ca-diếp thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Tất cả Thánh nhân từ trâu khởi tưởng trâu cũng nói là trâu, từ ngựa khởi tưởng ngựa cũng nói là ngựa. Nam nữ lớn nhỏ vườn nhà xe cộ đi lại cũng vậy, cho nên đảo tưởng. Này thiện nam! Tất cả phàm phu có hai thứ tưởng: Một, tưởng thế gian lưu hành. Hai, tưởng đắm trước. Tất cả Thánh nhân tuy có tưởng thế gian lưu hành bố tưởng mà không có tưởng đắm trước. Tất cả phàm phu ác giác quán nên ở tưởng thế gian lưu hành sinh ra tưởng đắm trước. Cho nên, phàm phu gọi là tưởng điên đảo, Thánh nhân tuy biết nhưng chẳng gọi là tưởng điên đảo “. Lại, vì cảnh giới tự không, nào phải hoại tướng. Vì tâm linh tự chiếu đâu mượn duyên sinh, chẳng đồng phàm phu năng sở tình chấp thấy biết. Nên trong Triệu Luận nói: Phàm có chỗ biết thì có chỗ chẳng biết, vì Thánh tâm không biết nên không chỗ chẳng biết. Biết của chẳng biết mới gọi là biết tất cả”. Nên trong kinh nói: “Thánh nhân hư rỗng tâm đó mà thật chiếu đó, trọn ngày biết mà chưa từng biết vậy. Như nước đứng, ảnh soi, đâu lập tâm của năng sở thì cảnh trí đều không, nào có tưởng của hay biết”, trong kinh Lăng-già nói: “Phật bảo: Đại Tuệ! Vì thế gian do mê hoặc làm rối loạn kia, các Thánh cũng hiện mà chẳng phải điên đảo, Đại Tuệ! Như mùa xuân, vòng lửa xoay, rủ tóc, thành Càn-thác-bà, huyễn mộng, gương ảnh, là thế gian điên đảo chẳng phải minh trí vậy, nhưng chẳng phải chẳng hiện”. Giải thích: Bảy dụ trên là rõ cảnh tức một mà thấy có khác, nhưng Thánh nhân dùng cảnh của hoặc loạn kia. Một đồng phàm hiện sắc v.v... các trần, vì Thánh nhân không niệm đắm trước nên đối mặt chẳng phải điên đảo, nhưng Thánh nhân chẳng phải chẳng thấy pháp hoặc loạn kia, lúc thấy chánh đồng trăng dưới nước ảnh trong gương, Bồ-tát Long Thọ nói: ánh sáng mặt nhật dính bụi trần, gió nhẹ thổi đó bay trong đồng trống gọi đó là diệm. Ngu phu trông thấy cho đó là ngựa hoang, người khát thấy cho đó là nước chảy. Nghiệp báo cũng vậy, phiền não ánh sáng mặt nhật nóng đốt các hành thành bụi trần, gió tà nghĩ nhớ ở trong đồng hoang sinh tử thổi đó khiến chuyển, vọng thấy là người là quỷ là nam là nữ, khát ái nhiễm trước đắm dính không thôi, chẳng gần Thánh pháp thì không do đâu nhận biết được. Phàm, lửa, mặt nhật sáng tỏa bên ngoài, nước gương soi chiếu bên trong, ánh sáng tại trên là ảnh, ánh sáng tại dưới là tượng, tượng do sáng truyền mà tượng hiện ở nước. Hình do mặt nhật soi mà ánh sáng cách làm ảnh. Hai vật tuy dối mà chỗ đối đãi dối có, dối có tuy không mà cuồng hoặc thấy đó, thấy đó do chẳng cuồng thì hình cùng ảnh một, tượng cùng hình đồng. Pháp thế gian cũng vậy, chỗ các duyên khởi, có của khởi cùng duyên của sở khởi đều là không, vật không một khác vậy. Mà người vì gió bệnh điên đảo hư vọng nên chẳng đáng thấy mà thấy chẳng đáng nghe mà nghe, nếu được sáng của đại tuệ thì gió cuồng tâm dứt, không thấy đâu vậy. Lại, Bát-nhã vô tri là, chẳng đồng với gỗ đá, chẳng phải có biết là đồng với tình tưởng. Các bậc cổ đức nói: “Phật thấy vô ngã chẳng phải không biết, chỉ là chẳng biết biết chẳng thấy thấy, vì biết chẳng biết biết vậy, tức không tâm mà không biết, thấy là chẳng thấy thấy vậy, không sắc mà chẳng thấy. Không sắc mà chẳng thấy nên do chẳng thấy thấy vậy. Không tâm mà chẳng biết nên do chẳng biết biết vậy. Như trong kinh Tịnh Danh nói: “Chỗ thấy sắc và mù đồng nhau”. Là, Sùng Phước sớ giải rằng: Thí như năm ngón tay bôi xoa hư không, hư không không tượng hiện. Chẳng vì hư không không tượng hiện bèn nói tay chẳng bôi xoa hư không. Đâu vì năm ngón tay bôi thoa hư không, bèn nói muốn khiến trong hư không tượng hiện. Sự cũng chẳng phải vậy, chẳng phòng ngại mạch mẻ bôi thoa hư không, trong hư không nguyên không tượng hiện. Đâu vì nhãn căn thấy sắc bèn khiến như mù, đâu vì nhãn căn như mù mà bèn đều không chỗ thấy, chẳng ngăn ngại mắt đầy đủ thấy sắc, sắc vốn tự tánh không. Tuy nhiên, lúc thấy sắc nguyên là cùng mù không khác, chỉ dứt tự tâm phân biệt, chẳng phải trừ pháp vậy, pháp vốn tự không, không chỗ trừ vậy. Lại, chỗ nghe tiếng và âm vang đồng nhau là, đâu là chẳng nghe, chỉ tất cả âm thanh đều như vang trong hang cốc, không chấp thọ phân biệt vậy. Do đó mắt đầy đủ thấy sắc, tai đây đủ nghe tiếng, chẳng tùy chẳng hoại, rõ chánh tánh của sắc và tiếng vậy. Tại sao? Nếu tùy môn của sắc và tiếng tức đọa vào chấp của phàm phu, phân biệt tướng xấu đẹp, đắm sâu thương ghét. Lãnh thọ âm thanh của tán dương hay hủy báng, vọng sinh thích chán. Nếu hoại tướng của sắc và tiếng, tức đồng tâm của Tiểu thừa, thì có ba lỗi: Một, sắc v.v... tánh không thể hoại vậy. Nếu hoại phương không chẳng phải vốn không vậy. Hai, do không tức chân đồng pháp tánh vậy. Nếu hoại phương chân, sự tại ngoài lý vậy. Ba, do tức không chẳng đợi hoại vậy, hoại thì đoạn diệt. Vì vậy Như Lai năm mắt chiếu suốt không sót, đâu đồng phàm phu sinh mù, nhị thừa chột mắt đều không thấy hư? Chỉ chẳng tùy chẳng hoại lìa biên tà của hai kiến, chẳng phải có chẳng phải không, khế hợp trung lý của một tâm, thì gặp duyên không ngại, xúc cảnh không sinh vậy. Vì thế, muôn vật vốn dối từ tâm thấy thật, nhân tưởng niệm mà chấp không chấp có, đọa vào cửa hỗn loạn mê hoặc. Vì chấp trước mà thành huyễn thành cuồng, thọ báo của tạp nhiễm, nếu năng phản chiếu duy tâm, đại trí soi cùng nguồn chân thật tướng, thì huyễn mộng chóng tỉnh, ảnh tượng đều lặng. Sau đó dùng tướng chẳng hai suốt thấy mười phương, dùng môn một tâm gồm thâu muôn vị, thì thấy không chỗ thấy các tướng xen lẫn trời, nghe không chỗ nghe các âm thanh dựng nổi đất. Rõ đạt như vậy, tâm hư cảnh không, thì vào môn đại tổng trì, tiếp nối chủng tánh Phật thừa. Trong kinh Lăng-già nói: “Giác tự tâm, tánh ngoài hiện lượng chẳng phải tánh, chẳng tướng vọng tưởng khởi chủng tánh Phật thừa. Nếu mê pháp bên ngoài lấy tâm thủ tâm thì thành môn nghiệp huyễn, tiếp tục chủng tánh chúng sinh. Huyễn pháp từ đâu lập”. Nên biết tất cả các pháp nhiễm tịnh đều từ chấp thủ sinh. Vì vậy nói chấp thủ ngã là dơ, chẳng chấp thủ ngã là tịnh. Nếu không tâm của năng thủ sở thủ, cũng không pháp của huyễn chẳng phải huyễn. Chẳng phải huyễn thật pháp còn chẳng sinh, huyễn khởi vết dối cậy đâu kiến lập, lại như ngoài tâm thấy pháp đều thành đối đãi nhau. Vì không thể không lực duyên giả nương nhau vậy. Do đó, trong kinh Lăng-già có kệ tụng nói:

“Vì có nên có không,
Vì không nên có có,
Nếu không chẳng nên thọ,
Nếu có chẳng nên tưởng”.

Nếu mở phương tiện hoặc nói có trị không, nói không phá có tức không chỗ trở ngại. Như trong luận Thập Địa Tỳ-bà-sa có kệ tụng nói:

“Nếu dụng có và không,
Cũng ngăn cũng nên nghe,
Tuy nói tâm chẳng đắm,
Thì là không có lỗi”.

Nếu căn cứ chánh tông thì có không đều sạch hết. Nên trong luận Đại Trí Độ nói: “Phật có chẳng nói không, không chẳng nói có, chỉ nói các pháp thật tướng, thí như ánh sáng mặt nhật chẳng làm cao thấp, bình đẳng một chiếu, Phật cũng như vậy, chẳng phải khiến có làm không, chẳng phải khiến không làm có”. Vậy biết nếu mê đại chỉ thì thấy có không. Như trong luận Niết-bàn nói: “Không danh là số của có không. Thật vì pháp không gì chẳng bao gồm. Lý không gì chẳng thâu tóm. Nhưng chỗ suốt thâu tóm, do đâu tục đế vậy”. Trong kinh nói: “Chân đế là gì? Đạo Niết-bàn là tục đế sao? pháp có không là gì? Có là có ở không, không là không ở có. Có không do đó xưng có, không có do đó xưng không, nhưng mà có sinh ở không, không sinh ở có, lìa có không không, lìa không không có. Có không cùng sinh, đó như cao thấp cùng nghiêng, có cao hẳn có thấp, có thấp hẳn có cao vậy. Nhưng mà có không tuy khác, đều chưa khởi ở có. Đây là nguyên do hình của ngôn tượng, lý do sinh của phải quấy, đâu đủ để thâu tóm, u cực mà phỏng thần đạo đó ư? Vì vậy, luận xưng ra khỏi có không, bởi vì số của có không chỉ ở trong của sáu cảnh. Trong của sáu cảnh chẳng phải vườn nhà của Niết-bàn vậy, mượn ra khỏi để dứt trừ đó vậy. Hầu mong dòng của đạo phản phất nơi đường mờ tối, gá hình tuyệt cõi, được ý quên lời, thể đó chẳng phải có chẳng phải không vậy. Đâu nói ngoài của có không riêng có diệu đạo mà có thể xưng ư? Trong kinh nói: Ba vô vi là, bởi là quần sinh rối nhiễu sinh ở thần tai hoạ hoạn. Oán trách của thuần tai hoạ. Không gì trước ở có, tuyệt xưng của có không gì trước ở không. Nên mượn không để rõ chẳng phải có đó. Rõ chẳng phải có đó chẳng phải gọi là không vậy. Có danh là, luận chỉ nói Niết-bàn đã chẳng ra khỏi có không, lại chẳng tại có không, chẳng tại có không thì chẳng thể ở có không được đó vậy. Chẳng ra khỏi có không thì chẳng lìa có không cầu đó vậy. Cầu đó không chỗ bèn nên đều không, nhưng lại chẳng không đạo đó. Đạo đó chẳng không thì đường mờ tối có thể tìm, do đó ngàn Thánh đồng vết chưa từng luống dối trở lại ấy vậy. Đạo đó đã còn mà chẳng ra chẳng tại, hẳn có khác yếu chỉ, có thể được nghe ư? Không danh là, phàm nói do danh khởi. Danh vì tướng sinh. Tướng nhân có thể tướng, không tướng không danh, không danh không nói, không nói không nghe. Trong kinh nói: “Niết-bàn chẳng phải pháp chẳng phải chẳng phải pháp. Không nghe không nói chẳng phải thể tâm biết. Ta làm sao dám nói đó, mà ông muốn nghe nó ư? Tuy nhiên, Thiện Cát có nói: Nếu chúng năng dùng không tâm mà thọ. Không nghe mà nghe, ta sẽ dùng không lời mà nói đó”. Ngõ hầu thuật đạo đó cũng có thể dùng ngôn từ vậy. Tịnh Danh nói: “Chẳng lìa phiền não mà được Niết-bàn”. Thiên Nữ nói: “Chẳng ra cõi ma mà vào cõi Phật”. Nhưng mà Huyền đạo ở tại Diệu ngộ. Diệu ngộ ở tại tức chân. Tức chân đều có không đều quán, có không đều quán thì đây kia chẳng hai. Do đó trời đất cùng ta đồng căn, muôn vật cùng ta một thể, đền ta thì chẳng phải lại có không, khác ta thì trái ở hội thông. Vì vậy, chẳng ra chẳng tại mà đạo còn ở khoảng đó vậy. Tại sao? Phàm, chí nhân rỗng tâm ngầm chiếu lý không gì chẳng thâu tóm, ôm hoài sáu hợp trong cõi lòng mà linh xét có thừa, gương muôn tượng ở tấc vuông mà thần đó thường hư rỗng, chế năng chọn huyền căn cũng chưa đầu tiên, tức các động lấy tỉnh tâm điềm đạm sâu lắng diệu khế tự nhiên, do đó, ở có chẳng có, ở không chẳng không. Ở không chẳng không nên chẳng không ở không, ở có chẳng có nên chẳng có ở có. Nên năng chẳng ra có không mà chẳng tại có không ấy vậy. Nhưng mà pháp không tướng của có không. Thánh không biết của có không. Thánh không biết của có không thì không tâm ở trong pháp không tướng có không thì không số ở ngoài, ở ngoài không số ở trong không tâm, đây kia tịch diệt, vật ngã ngầm một, sợ vậy không điềm, mới gọi là Niết-bàn. Niết-bàn nếu đo lường đạt tuyệt, đâu chấp nhận mong cầu đó ở trong của có không, lại có thể thành đó ở ngoài của có không ư? Giải thích: Huyền đạo ở tại Diệu ngộ, Diệu ngộ tại ở tức chân là, phàm đạo của u huyền không danh không tướng, tình của cạn gần biết chẳng kịp, ý của thô phù giải khó lường, chỉ ngay lúc của Diệu ngộ, mới tỉnh xét ý chỉ đó, được ý chỉ đó nên thật chẳng nghĩ bàn. Tâm cảnh dung thông như đồng thần biến, chỉ pháp giới ở trong lòng bàn tay, thâu muôn tượng ở trước mắt, như gương soi chiếu hư không bao hàm một thời bình hiện, đã không trước sau cũng tuyệt khoảng giữa. Diệu chỉ sáng rõ, ngôn tư tuyệt vậy. Có thể gọi là diệu ngộ, có thể gọi là tức chân, thì có không đều quán, đây kia chẳng hai, chẳng ra chẳng tại. Đạo đó tại đây ư?

Hỏi: Cảnh giới sáu trần chỉ nương vọng niệm mà có sai biệt. Nếu người không niệm, lại thấy tất cả cảnh giới chăng?

Đáp: Vọng niệm chấp có, tiền trần khởi thật hiểu biết, diệu tánh chẳng thông, bèn thành sai biệt, nếu người không niệm chẳng phải là lìa niệm, chỉ là tức niệm không niệm. Niệm không khác tướng, tuy có thấy nghe đều như huyễn hóa. Lại, một niệm chóng viên, thường thấy mười pháp giới muôn pháp lý của Trung đạo. Các bậc Cổ đức có hỏi: Nếu nói niệm chỉ không niệm, đâu được toàn chẳng nghe chẳng thấy thanh sắc người vật v.v... ư?

Đáp: Chỉ nghe thấy, vì nghe thấy tức chẳng nghe thấy vậy. Tại sao? Vì chỉ nghe thấy các pháp thanh sắc v.v... tức là các thức nhãn nhĩ v.v... thấy nghe vậy. Biết sắc thanh của vật v.v... tự là ý thức phân biệt vậy, những nhãn thức v.v... thấy nghe tánh không riêng biệt, chỉ xứng các pháp sắc v.v... được lại không khác duyên vậy. Ý thức vọng có, rõ biết không thể, chỗ biết như huyễn vậy, nên nói chỗ thấy sắc cùng mù đồng nhau. Lại quán các pháp sắc thanh v.v... kia từ duyên sinh, duyên không tác giả, tự tánh chẳng có, nên chẳng phải người vật v.v... vậy. Lại, người vật v.v... do danh tướng khởi. Danh tướng chẳng phải kia tức vọng trừ vậy, tức đây chỉ do thấy nghe v.v... nên tức không niệm, chẳng phải nghĩa là người mù điếc một niệm không niệm vậy. Như nói nghe chẳng nghe thấy chẳng thấy v.v... ấy vậy. Nên trong kinh nói: Thường cầu không niệm thật tướng trí tuệ v.v... ấy vậy. Lại chỉ căn cứ duyên khởi gọi là thấy cầu duyên thấy thật chẳng sinh. Thấy đây mới gọi là chân thấy. Tại sao? Thấy của không thấy chiếu pháp giới vậy. Do đó, trong luận Bảo Tạng nói: “Không mắt không tai gọi đó là lìa, có thấy có nghe gọi đó là vi, không ngã không tạo gọi đó là lìa, có thông có đạt gọi đó là”. Lại, lìa là Niết-bàn, vi là Bát-nhã, Bát-nhã nên chóng phát đại dụng, Niếtbàn nên tịch diệt không thừa, không thừa nên phiền não trọn hết. Đại dụng nên Thánh hóa vô cùng. Nếu người chẳng đạt lìa vi, tuy khổ hạnh đầu-đà xa lìa cảnh trần đoạn tham nhuế si, pháp nhẫn thành tựu trải qua vô lượng số kiếp trọn chẳng vào chân thật. Tại sao? Nương tựa chỗ hành nên tâm có chỗ được, chẳng lìa các thấy điên đảo mộng tưởng ác giác. Nếu có người hiểu rõ lìa vi là, tuy gần có tập khí vọng tưởng và thấy phiền não, luôn luôn rõ biết nghĩa của lìa vi, thì người này chẳng bao lâu tức vào đạo Vô thượng chân thật vậy. Tại sao? Rõ chánh kiến căn bản vậy.

Giải thích: Lìa vi là thể dụng của muôn pháp vậy. Lìa tức là thể. Trong kinh nói: “Tự tánh kia nên cũng gọi là tự tánh không vậy”. Đây mới là không danh không tướng chẳng phải thấy chẳng phải nghe, thông thể của Thánh phàm, là nguồn của chân tục. Trong kinh Tư Ích nói: “Biết lìa, gọi là pháp, tức chỗ về của chư Phật chỗ gọi là pháp vậy”. Vi tức là dụng, có thấy có nghe năng thông năng đạt, vì vi là diệu vậy, ở trong không thấy có thấy, ở trong không nghe có nghe, đó mới là pháp chẳng nghĩ bàn. Vi diệu khó biết, chỉ Phật năng rõ. Trong kinh Tư Ích nói: “Biết pháp gọi là Phật. Lìa vi chẳng hai, thể dụng hòa dung, gọi đó là tăng, thì một thể Tam bảo thường hiện ở thế gian, có Phật không Phật tánh tướng thường trú, tức gốc của chánh kiến môn của chân thật vậy”. Nên Thánh nhân chiếu thể là không, căn cứ dụng là có, có đây chẳng có, tức có để biện ở không, ngay không chẳng phải không, tức không để biện ở có. Có mà chẳng có là diệu hữu, không mà chẳng không là chân không. Nên chân không là thể của Niết-bàn. Như thái hư chẳng tạp ở năm sắc, tợ gương sáng chẳng hợp ở muôn tượng, nên xưng là lìa vậy. Diệu hữu là dụng của Bát-nhã, ở trong pháp chẳng hai hiện diệu thần thông, hướng đến trong môn vô tác phát Phật sự lớn, nên xưng là Do vì phàm phu chẳng đạt lìa vi, nên thường bị chỗ kết bên trong trói buộc, chỗ trần bên ngoài trùm nhốt. Ngoại đạo tức chấp làm đoạn thường. Hàng Nhị thừa bèn chứng làm sinh diệt. Nếu chẳng vào trong Tông Kính, khó rốt ráo diệu chỉ của lìa vi vậy.

Hỏi: Vô minh trái nghịch lý, tự tánh sai biệt, sự đó có thể vậy, còn Bản giác tịnh pháp, cớ sao lại nói hằng sa công đức sai biệt ư?

Đáp: Do đối trị nhiễm pháp sai biệt kia nên thành thủy giác muôn đức sai biệt vậy. Trong luận Đại Thừa Khởi Tín nói: “Đối nghiệp thức v.v... sai biệt nhiễm pháp nên nói bản giác hằng sa tánh đức”. Nhiễm tịnh như vậy đều là chân như tùy duyên hiển hiện tợ mà không thể, nhiễm pháp còn không, tịnh pháp sao có. Trong kinh Tịnh Danh nói: “Thấy thật tánh dơ, tức không tướng sạch”. Lại, chỗ nói là sạch, tức đối dơ mà được tên, nhân khách trần phiền não chẳng nhiễm mà nhiễm dơ uế chân tánh, gọi đó là dơ, nhân thủy giác Bát-nhã chẳng sạch mà sạch khai ngộ bản tâm, gọi đó là sạch. Vì vậy, chân như một tâm lặng yên chẳng động, danh nghĩa tuy khách, dơ sạch vốn không. Tổ Sư nói: Tánh vốn thanh tịnh, tịnh không tướng tịnh, mới thấy tâm ta. Trong kinh Hoa Nghiêm có kệ tụng nói:

“Nếu có biết Như Lai
Thể tướng không chỗ có
Tu tập được sáng rõ
Là người chóng làm Phật”.

Nên trong kinh nói: “Tất cả chúng sinh từ vô thủy đến nay thường vào Niết-bàn, Bồ-đề chẳng phải có thể tu, tướng chẳng phải có thể sinh tướng. Rốt ráo không được, không có sắc tướng mà có thể được thấy. Thấy sắc tướng là, phải biết đều là tùy dụng nhiễm huyễn, chẳng phải là tướng của trí sắc chẳng không. Vì trí tướng chẳng thể được vậy.” Giải thích: Tùy dụng nhiễm huyễn là, pháp không lưu vậy. Nhiễm huyễn tánh tự sai biệt là, pháp vô minh vậy, vì vô minh kia mê lý bình đẳng, cho nên tánh đó tự sai biệt. Các pháp không lưu thuận tánh không bình đẳng. Luận tánh đó tức không sai biệt, chỉ tùy tướng nhiễm pháp sai biệt nên nói không lưu có sai biệt vậy. Lại, nếu năng quán tâm tánh, pháp nhĩ hiển tánh khởi công đức, là vô tận pháp môn, chẳng phải luận sai biệt. Như trong kinh Vô Tận Ý Bồ-tát nói: “Thế nào là Bồ-tát quán tâm niệm xứ? Cho đến nay ta phải chuyên tu tập trang nghiêm chẳng lìa tâm tánh. Thế nào là tâm tánh? Thế nào là trang nghiêm? Tâm tánh là giống như huyễn hóa, không chủ không làm không có thi vi. Trang nghiêm là chỗ làm bố thí đều đem hồi hướng nghiêm tịnh cõi Phật. Cho đến dùng một niệm trí, thành A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề. Xá-lợiphất! Đó gọi là Bồ-tát chánh tâm niệm xứ mà chẳng thể tận”. Giải thích: Tâm tuy tánh không, năng thành muôn hạnh. Rõ đó thì chóng viên chánh giác, tu đó mà rộng đủ trang nghiêm. Nên nói thể tánh tuy không năng thành pháp tắc. Lại nói: Vì có nghĩa không nên tất cả pháp được thành. Nếu lìa môn chân không đây không có một pháp kiến lập, thì Bồ-tát Hạnh phế bỏ, Phật đạo chẳng thành tựu. Như chẳng nương phong luân thế giới rơi hoại.

Hỏi: Tất cả chúng sinh từ vô thủy chủng tử vô minh bền chắc hiện hành sâu dày, làm sao một niệm mà được chóng trừ?

Đáp: Căn tùy kết sử, thể tánh vốn không, ngu phu chẳng rõ tự sinh trói buộc. Nếu rõ Phật thấy biết khai ngộ bản tâm, thì có trần cảnh nào mà năng chướng ngại ư? Trong kinh Đại Bảo Tích nói: “Phật dạy: Thí như đèn đốt sáng thì tất cả tối tăm đều tự không có, không từ chỗ nào lại, đi không chỗ đến, chẳng phải từ phương Đông lại, đi cũng chẳng đến, phương Nam Tây Bắc bốn góc trên dưới, chẳng từ kia lại, đi cũng chẳng đến, mà ánh sáng đèn đây không có ý niệm ta năng diệt tối. Chỉ nhân pháp đèn sáng tự không tối. Sáng tối đều không, không làm không thủ. Như vậy, Ca-diếp! Thật trí tuệ sinh không trí bèn diệt. Trí và không trí hai tướng đều không, không làm không thủ. Cadiếp! Thí như phòng nhà tối tăm ngàn năm chưa từng thấy sáng, nếu lúc đốt đèn, ý ông nghĩ thế nào? Tối tăm đâu có nghĩ trở đây lâu đâu muốn đi ư? Không vậy, bạch Đức Thế Tôn! Nếu lúc đốt đèn, tối tăm đó không lực, mà chẳng muốn đi hẳn phải diệt mất. Đúng vậy, Ca-diếp! Trăm ngàn muôn kiếp lâu tập kết nghiệp, dùng một thật quán tức đều tiêu diệt. Đèn sáng đó là trí tuệ Thánh, tối tăm đó là các kết nghiệp vậy. Chỗ nói được thật quán, tức là Duy tâm chân như thật quán, lìa ngoài đó ra đều thành hư huyễn, nên gọi là cảnh giới một thật, cũng gọi là thật tướng thật địa thật tế thật pháp, cho đến gọi là Phật thấy biết, trí tuệ Thánh v.v... Dùng pháp một tâm đây trị bệnh phiền não, như bệnh nhiệt được đổ mồ hôi, không gì chẳng nên tay làm. Đạo của xuất yếu chỉ tại đây ư? Như trong luận Đại Trí Độ nói: “Bấy giờ Bồ-tát chiếu rõ đạo Bồ-tát, tâm đó an ổn tự nghĩ ta chỉ đoạn chấp tâm trước, đạo tự nhiên đến. Biết sự đó rồi, nghĩ niệm chúng sinh đắm sâu thế gian mà rốt ráo không, cũng không không tánh, không có trú xứ, chúng sinh khó thể tin thọ. Vì khiến chúng sinh tin thọ pháp đó nên học tất cả pháp. Tu hành sinh khởi là pháp phương tiện độ chúng sinh. Quán chỗ tâm hành chúng sinh khởi biết ưa pháp gì nghĩ sự gì, chí nguyện ở đâu? Lúc quán đều biết chỗ chúng sinh đắm ở, đều là hư dối điên đảo nghĩ tướng phân biệt nên đắm trước có không căn bản thật sự. Khi ấy Bồ-tát rất hoan hỷ nghĩ rằng: Chúng sinh dễ độ vậy! Tại sao? Chỗ chúng sinh đắm trước đều là hư dối không thật. Thí như người có một đứa con ưa thích vui đùa nơi dơ bẩn, nhóm đất làm lúa thóc, dùng cây cỏ làm chim thú mà sinh vui thích đắm trước. Nếu người đoạt phá thì sân nhuế gào khóc. Người cha đã biết, đứa con này tuy ưa thích đắm trước, mà việc này dễ lìa, nhỏ tuy vậy, nhưng lớn sẽ tự thôi. Tại sao? Vật này chẳng chân vậy. Bồ-tát cũng như vậy, quán chúng sinh mến thấm thân dơ bất tịnh và năm món dục, là vô thường, các thứ nhân khổ, biết là chúng sinh được tín v.v... năm căn lành, lúc thành tựu tức năng lìa bỏ. Như chỗ trẻ nhỏ ham ưa đắm trước, thật là chân vật, tuy tuổi đến trăm năm đắm trước đó càng sâu, chẳng thể xả bỏ được. Nếu chỗ chúng sinh đắm trước, vật là thật có, tuy được tín v.v... năm căn, nhưng đắm trước đó chuyển sâu cũng chẳng năng lìa. Vì các pháp đều không hư dối, nên lúc được vô lậu mắt trí tuệ thanh tịnh tức năng xa lìa chỗ đắm trước, rất tự hổ thẹn. Thí như chỗ người bệnh cuồng làm điều phi pháp, sau khi tỉnh ngộ xấu hổ không dám ló mặt. Bồ-tát biết chúng sinh dễ độ rồi, an trú trong Bátnhã, dùng sức phương tiện giáo hóa chúng sinh”. Vì vậy, trong kinh Như Lai Mật Tạng nói: “Nếu người cha làm Duyên giác mà hại trộm vật Tam bảo, người mẹ làm La-hán mà dơ uế, với sự chẳng thật mà phỉ báng Phật, nói lời hai lưỡi vang cả Thánh hiền, nói lời thô ác mắng rủa Thánh nhân, hoại loạn kẻ cầu pháp. Trong năm tội nghịch, nghiệp đầu tiên là sân, tham đoạt vật người trì giới, si của biên kiến, là mười ác. Nếu năng biết Như Lai nói pháp nhân duyên không ngã nhân chúng sinh thọ mạng, không sinh không diệt không nhiễm không đắm, bản tánh thanh tịnh. Lại ở nơi tất cả pháp, biết bản tánh thanh tịnh hiểu biết tin vào là, ta chẳng nói người đó chẳng hướng đến quả địa ngục và các đường ác. Tại sao? Pháp không tích tụ, pháp không tập não, tất cả pháp chẳng sinh chẳng trú, nhân duyên hòa hợp mà được sinh khởi, khởi rồi lại diệt. Nếu tâm sinh rồi diệt, tất cả kết sử cũng sinh rồi diệt. Hiểu giải như vậy, không xứ phạm, nếu có phạm có trú, điều ấy không có”. Thai Giáo giải thích: Kinh đây nêu đủ bốn tâm Bồ-đề. Nếu biết Như Lai nói pháp nhân duyên, tức chỉ tâm Bồđề của tạng giáo thứ nhất. Nếu không sinh không diệt, tức chỉ tâm Bồ-đề của Thông giáo thứ hai. Nếu bản tánh thanh tịnh tức chỉ tâm Bồ-đề của Biệt giáo thứ ba. Nếu ở tất cả pháp biết tánh thanh tịnh, tức chỉ tâm Bồ-đề Viên giáo thứ tư, tâm Bồ-đề thứ nhất đã năng trừ lớp lớp mười ác, huống gì tâm Bồđề thứ hai thứ ba thứ tư ư? Hành giả nghe công đức thắng diệu đây, sẽ tự mừng vui. Như lan ở xứ tối kia được ánh sáng chiên-đàn. Nên biết thấy Phật tội diệt, như tội khiên sâu nặng của vua A-xà-thế, đắc đạo nghiệp mất, như trọng tội của Ương-quậtma-la, chỉ rõ không nhân không ngả, duyên sinh tánh không. Không ngã thì không người năng thọ tội. Tánh không thì không pháp chỗ thọ tội. Nhân pháp đều lặng lẻ tội cấu sao sinh. Vì tâm sinh tội sinh tâm diệt tội diệt vậy. Nếu năng tin vào, chắc rõ tròn sáng như vậy, giống như rừng của lan kia lan tỏa mùi hương của chiên-đàn, tợ phòng nhà của tích chứa tối tăm, ánh sáng của diệu quế đốt hết. Năng ngộ tâm đây công lực vô lượng, mới vào Tông Kính, biển nghiệp chóng khô, như gió thổi mây, tợ nước nóng rưới tuyết, như đèn phá tối, tợ lửa đốt củi. Như trong kinh Mật Nghiêm có kệ tụng nói:

“Như lửa đốt bụi lớn
Phút chốc thành tro tàn
Lửa trí đốt củi nghiệp
Phải biết cũng như vậy
Lại như đèn phá tối
Một niệm sạch không thừa
Các nghiệp tập tối tăm
Huân tụ từ vô thủy
Đèn trí mâu-ni khởi
Sát-na đều chóng diệt”.

Do đó, trong kinh Đại Niết-bàn nói: “Lúc có trí tuệ thì không phiền não”. Nên nói, phàm khỏi nghiệp ác ba đường, cần phải lìa hai tướng có không, chứng giải một tâm mới được giải thoát vậy. Vậy, biết mê từ tâm mê khởi, ngộ trở lại tự tâm ngộ, mê ngộ không tánh chỉ nhậm duyên phát. Như trong luận Hoa Nghiêm có hỏi: Tất cả chúng sinh vốn có trí chẳng động, cớ sao chẳng ứng chân thường, cớ sao tùy nhiễm?

Đáp: Tất cả chúng sinh vì trí đây mà sinh ba cõi là, vì trí không tánh chẳng năng tự biết là trí chẳng phải trí. Thiện ác khổ lạc v.v... các pháp. Vì trí thể không tánh, chỉ tùy duyên hiện. Như vang vọng trong hư không ứng vật thành âm thanh. Trí của không tánh chỉ ứng duyên phân biệt. Vì phân biệt nên si ái tùy khởi, nhân si ái nên tức bệnh ngã sở sinh. Có ngã sở nên nghiệp chấp tự tha bèn khởi, nhân chấp thủ nên gọi là Mạt-na, chấp thủ chẳng đoạn gọi đó là thức. Nhân chủng tử thức sinh tử tương tục. Vì sinh tử nên các khổ vô lượng. Vì khổ vô lượng mới cầu đạo của chẳng khổ, người mê chẳng biết khổ, chẳng năng phát tâm, người biết khổ cầu chân trở lại là bản trí. Hiểu khổ duyên nên mới năng biết khổ, chẳng hiểu khổ duyên chẳng năng biết khổ. Nên biết khổ duyên nên mới phát tâm cầu đạo Vô thượng. Có chủng tánh Bồ-tát vì đời trước đã biết khổ. Phát chủng tin hiểu mạnh là tuy thọ quả lạc trời người cũng năng phát tâm cầu đạo Vô thượng. Cho nên nhân trí tùy mê, nhân trí tùy ngộ, cho nên như người nhân đất mà té nhân đất mà dậy, chánh lúc tùy mê gọi đó là thức, chánh lúc tùy ngộ, gọi đó là trí, tại trói buộc gọi là thức, tại giác ngộ gọi là trí. Thức đó và trí vốn không tự có tên, chỉ tùy mê ngộ mà lập tên đó. Nếu tìm thủy chung, như trong hư không tìm vết, như trong ảnh cầu người, như trong thân cầu ngã, nương trú chỗ có, trọn chẳng thể được vậy, nên mới ngắn dài tướng của xứ sở vậy. Như đây, vô minh và trí không có thủy chung, nếu lúc được Bồ-đề vô minh chẳng diệt. Tại sao? Vì vốn không nên không có diệt, nếu lúc tùy vô minh, trí chẳng động cũng chẳng diệt. Vì vốn không, nên cũng không diệt, chỉ là tùy chỗ sắc thanh hương thủ duyên, gọi đó là vô minh, chỉ là duyên biết khổ mà phát tâm, gọi đó là trí, chỉ tùy duyên gọi đó là có. Nên thể vốn không vậy. Như âm vang giữa hư không, tư duy đó chẳng thể thấy. Vì vậy, nếu vào Tông Kính, nghĩa thành Phật tròn, lên xuống tùy duyên, biết chúng sinh không nghĩa trọn đắm chìm. Thánh nhân chẳng cách biệt, rõ văn từ của chư Phật có đồng thể.

Hỏi: Như trên nói một tâm, biển các pháp môn, đó là pháp tự hành quyền thật hay là pháp hóa tha quyền thật?

Đáp: Nếu nói tùy tự ý tự hành quyền thật, thì chỉ nói môn một tâm. Nếu tùy tha ý hóa tha quyền thật rộng mở tám muôn pháp. Nay chỉ nói tự hành quyền thật, gốc ngọn về tông. Trong Thai Giáo nói: Nếu chỗ trong tâm Phật quán mười giới mười như đều tướng Vô thượng. Chỉ là pháp giới một Phật. Như biển bao gồm các dòng, ngàn xe cùng một vết, đây tức tự hành quyền thật. Nếu tùy tha ý v.v... thì có chín pháp giới ngàn như, tức là hóa tha quyền thật. Tùy tha thì mở tùy tự thì hợp, ngang dọc chiếu khắp, mở hợp tự tại, tuy mở vô lượng, vô lượng mà một, tuy hợp làm một một mà vô lượng, tuy vô lượng một mà chẳng phải một chẳng phải vô lượng, tuy chẳng phải một chẳng phải vô lượng mà một mà vô lượng.

Hỏi: Hai môn tự tha quyền thật đây ở trong chánh lý quyết định ư?

Đáp: Chỉ môn tùy tha không có quyết định. Trong kinh nói: “Không có định pháp nên gọi là A-nậu Bồ-đề, nếu chấp một môn, đều thành ngoại đạo, hoặc định một tướng tức thành thiên ma”. Vì vậy tất cả pháp quyền tất cả pháp thật, tất cả pháp cũng quyền cũng thật, tất cả pháp chẳng phải quyền chẳng phải thật. Trong Thai Giáo nói: Nếu tất cả pháp quyền, chỗ nào chẳng phá? Như Lai chỗ có nói còn đều là quyền huống gì là nhân sư. Nếu tất cả pháp đều thật là, chỗ nào chẳng phá? Chỉ một sự đây thật, chỉ một đạo cứu cánh, sao được lắm nhiều đạo cứu cánh ư? Nếu tất cả pháp cũng quyền cũng thật, lại chỗ nào chẳng phá? Tất cả đều có quyền có thật, chẳng được một hướng quyền một hướng thật. Nếu tất cả pháp chẳng phải quyền chẳng phải thật, lại chỗ nào chẳng phá? Sao được lẫn lộn cưỡng sinh kiến lập? Các bậc Cổ đức nói: Tức thật mà quyền thì có mà chẳng có, tức quyền mà thật, thì không mà chẳng không. Nếu song ngăn quyền thật tức có không đều chẳng phải. Nếu song chiếu quyền thật thì có không đều phải. Nếu chẳng phải ngăn chẳng phải chiếu, thì phải quấy đều quấy, mà ngăn mà chiếu thì phải quấy đều phải. Nếu phải quấy đều phải, trọn ngày quấy mà chẳng quấy, nếu phải quấy đều quấy, trọn ngày phải mà chẳng phải. Nếu phải mà chẳng phải thì là quấy chẳng phải quấy của quấy. Nếu quấy mà chẳng quấy thì chẳng phải phải là phải của phải. Vậy thì tâm bao gồm sắc, chưa sắc suốt nguồn tâm, sắc tâm một như, sao quấy sao phải nên biết ngoài tâm có pháp thì phải quấy đua tranh sinh, ngoài pháp không tâm thì lấy bỏ đều mất.

Hỏi: Tông Kính Lục đây gồm thuộc giáo nào?

Đáp: Chân Duy thức tánh, lý không thiên viên, căn cứ thấy chẳng đồng, lược phân năm giáo: Một, Tiểu thừa giáo, chỉ nói sáu thức, chẳng biết thức Lại-da thứ tám. Hai, Sơ giáo nói có Lại-da sinh diệt, cũng chẳng nói có Như Lai tạng. Ba, Chung giáo, có Như Lai tạng sinh diệt và chẳng sinh diệt hòa hợp làm thức A-lại-da. Bốn, Đốn giáo đều không các thức sáu bảy tám, vì một tâm chân thật từ xưa đến nay không có động niệm, thể dụng không hai cho nên không có vọng pháp có thể hiển. Năm, một thừa Viên giáo, nói trí của Phổ Hiền tròn sáng, không nói Duy thức thứ lớp. Lại nói: Phật tử! Ba cõi hư ngụy chỉ một tâm làm, cũng gồm vào vậy. Tông đây thì chỗ Viên giáo gồm thuộc, là chỗ Như Lai nói: Căn bản của pháp môn. Vì Như Lai nương tâm đây, thành Phật nên tâm đây được làm nghĩa căn bản Như Lai, không có một pháp nào chẳng gồm thâu, không một lý nào chẳng đủ, như gương sáng chiếu vật sao có sát thừa. Nếu bảo ấn vân thành, bèn không trước sau.

Hỏi: Phàm lập đạo của năm thừa đều vận chuyển có tâm, nếu cảnh thức đều mất thì không thừa có thể nói, nay căn cứ phương tiện, thừa lý chẳng không, Tông đây cứu cánh thuộc thừa nào gồm?

Đáp: Ở trong các thừa, thuộc một thừa gồm cũng nói là thừa của tối thượng, vượt quá đảnh các pháp vậy, cũng gọi là thừa chẳng nghĩ bàn, chẳng phải tình thức so lường vậy. Nay nói một thừa, tức một tâm vậy, lấy vận động làm nghĩa, nếu phan duyên thủ cảnh thì vận động vào môn sáu thú, nếu vọng tưởng chẳng sinh thì vận đến địa một thật. Trong kinh Lăng-già nói: “Thế nào là được một thừa Đạo giác? Đó là gồm và sở gồm vọng tưởng như thật ở chẳng sinh vọng tưởng, đó gọi là một thừa giác”. Đây thì rõ sinh tử vọng tức Niết-bàn chân, chứng ngộ một tâm, lại không chỗ thú mới chẳng giác mà giác, xưng là Đại giác, chẳng lại mà lại, gọi là Như Lai. Do vì tình trần đã trừ, nhân thừa tức là chân đế, tâm vết chưa mất, còn chẳng phải cứu cánh. Tại sao? Có tâm phân biệt, tất cả đều tà, không ý phan duyên muôn đường tự chán. Vì vậy, thừa của không thừa là một thừa, giáo của không giáo là chân giáo, cất bước mà bèn lên bảo sở, mở lời mà tức khế hợp không sinh. Nếu chưa năng muôn cảnh đều quán, một pháp chóng ngộ, bèn là giáo mở tám giáo, thừa ra năm thừa, thì Bảo sở xa vời đâu chỉ năm trăm, không sinh đường vợi nào chỉ ba kỳ. Luận về vị thì trời đất cách tuyệt, so sánh công thì ngày kiếp gấp bội, tuy lên Thánh vị vẫn còn là người tuyệt phần, trải kiếp luyện mài, chỉ được xưng giả danh, nếu đạt yếu chỉ đây, vào thắng không nghi ngờ, đang mê tâm mà thấy ngộ tâm, toàn thành giác đạo, tức thế trí mà thành chân trí, chẳng đổi mảy may, có thể gọi là hư minh tự chiếu, chẳng nhọc tâm lực vậy.

Hỏi: Đã có năng thuyết hẳn đối sở có, Tông Kính đây tương đương các có nào?

Đáp: Đáng thượng thượng cơ. Nếu đã đạt là nhờ yếu chỉ Phật mà ấn khả. Nếu chưa vào là nhờ giáo lý mà phát minh. Lại, nếu là người của viên thông, chẳng đợi phải thuật, tự giác Thánh trí không nói không bày, diệu tánh chân như không được không nghe. Nếu là kẻ ám muội, phải nhờ hỗ trợ thành, nhân giáo lý mà chiếu tâm, tức lời lẽ phân tích mà rõ đạo. Nếu Tông rõ thì giáo dứt, đạo hiển thì lời không, đối đãi chân tâm, cảnh trí đều mất vậy. Như vậy thì mới vào Tông Kính sâu đạt huyền môn, chân năng nghe Phật nói kinh, thân đàm diệu chỉ, có thể gọi là được tánh của các pháp, thấu suốt nguồn một tâm. Như trong kinh Thủlăng-nghiêm nói: “A-nan nhờ Phật xót thương cứu vớt, hối hận khóc than, xoa tay thưa bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Con tuy nương diệu âm như vậy của Phật, ngộ tâm diệu minh vốn chỗ tâm địa tròn đầy thường trú. Mà con ngộ Phật hiện nói Pháp Âm, hiện lấy duyên tâm chỗ đáng chiêm ngưỡng, luống nhọc được tâm đây, chưa dám nhận làm tâm địa xưa nay, xin Phật xót thương tuyên bày viên âm, nhổ rễ nghi ngờ nơi con để về đạo Vô thượng! Phật dạy: A-nan! Các ông còn lấy duyên tâm nghe pháp, pháp đây cũng duyên, chẳng phải được pháp tánh. Như người dùng tay chỉ mặt trăng cho người, người kia nhân tay, đáng nên nhìn mặt trăng. Nếu là dùng tay mà cho là thể mặt trăng, thì người ấy chẳng chỉ mất mặt trăng mà cũng mất tay đó. Tại sao? Do vì vươn tay làm trăng sáng vậy. Đâu chỉ mất tay mà cũng chẳng nhận biết sáng đó là tối. Tại sao? Tức vì lấy thể tay làm tánh trăng sáng. Sáng tối hai tánh không chỗ rõ vậy. Ông cũng như vậy, nếu lấy phân biệt pháp âm ta nói để làm tâm ông là, tâm đây tự nên lìa âm phân biệt, có tánh phân biệt. Thí như có khách lữ dừng ngủ nơi đình, tạm dừng rồi bèn đi, trọn chẳng thường trú. Mà người trông coi đình trọn không chỗ đi, gọi là chủ đình. Đây cũng như vậy, nếu chân tâm ông thì không chỗ đi. Tại sao Lìa âm thanh, không tánh phân biệt. Đó thì đâu chỉ âm thanh phân biệt tâm phẩm dung mạo ta lìa các sắc tướng, không tánh phân biệt, như vậy cho đến phân biệt đều không chẳng phải sắc chẳng phải không. Câu-xá-lợi v.v... mờ tối làm tối thật, lìa các sắc duyên không tánh phân biệt, thì tâm tánh ông mỗi có chỗ trở về. Thế nào là chủ? Giải thích: A-nan: nói mà con ngộ Phật hiện nói Pháp âm, hiện dùng duyên tâm chỗ đáng chiêm ngưỡng, luống nhọc được tâm đây chưa dám nhận tâm địa xưa nay là, A-nan: còn nhận duyên tâm nghe âm thanh Phật nói pháp lấy làm chân tâm thường trú, chấp thủ yếu chỉ nhất định của phật. Phật dạy: Nếu chấp tâm nhân duyên nghe là chỉ được pháp nhân duyên, vì pháp từ tình biến, cảnh theo tâm sinh vậy. Lại, định duyên âm thanh Phật là tự tâm là, nếu lúc âm thanh nói pháp dứt thì tâm phân biệt nên diệt. Tâm đây như khách chẳng thường trú vậy. Thời nay phần nhiều mê tự tánh vốn nghe, chỉ tùy nghe của năng sở, một hướng theo âm thanh kẻ khác lưu chuyển. Âm thanh đây là pháp chỗ tối nhân duyên mà sinh, chẳng phải chân thật có. Chỉ nhân âm thanh mà lập danh tự, nhân danh tự mà có phân bày. Nếu xoay lại vốn nghe thì thoát cảnh của thanh trần, cảnh của chỗ thoát đã hư. Danh của năng thoát sao lập, thì năng thoát sở thoát đều không. Vì mạnh nhớ nghe nhiều là ngằn mé của thức tưởng. Vốn chẳng phải thật vậy. Nếu nhân nghe thấy tánh, thì nghe nhiều có công của hỗ trợ hiển, nếu trái tánh theo thì chứa nghe thành lỗi lầm tà tư. Nên Bồ-tát Văn-thù có kệ tụng nói:

“Nay cõi Ta-bà đây, thanh luận được tuyên rõ, chúng sinh mê vốn nghe, theo tiếng nên lưu chuyển. A-nan buôn thả mạnh nhớ, chẳng khỏi lạc tà tư. Đâu chẳng tùy chỗ đắm, xoay chảy được không vọng. A-nan ông lắng nghe, ta nương oai lực Phật, tuyên nói Kim Cang Vương, như huyễn chẳng nghĩ bàn, Phật Mẫu Chân Tam-muội. Ông nghe vô số Phật, tất cả môn Bí mật, dục lậu chẳng trừ trước, chứa nghe thành lỗi lầm, đem nghe trì Phật Phật, sao chẳng tự nghe nghe, nghe chẳng tự nhiên sinh. Nhân tiếng có danh tự, xoay nghe cùng tiếng thoát, năng thoát muốn tên ai. Một căn trở lại nguồn, sáu căn thành giải thoát, thấy nghe như huyễn mờ, ba cõi tợ không hoa, nghe lại căn mờ trừ, trần tiêu giác viên tịnh”. Nên biết Nhĩ căn trở về cội nguồn, sáu căn đều tịch diệt, vì sáu căn đồng một tâm vậy. Tại sao? Tại mắt gọi là thấy, tại tai gọi là nghe, nếu lúc gồm dụng về căn, thấy nghe như huyễn che mờ, nếu lúc gồm cảnh về tâm, ba cõi tợ hoa đốm hư không, thì che mờ diệt trần tiêu, giác viên tâm tịnh. Giải hiểu như vậy là nhân tay mà thấy trăng nương giáo mà rõ tông ấy vậy. Nếu chắp tay là trăng, mê tâm theo văn là, như trong kinh nói, như người dùng tay chỉ mặt trăng cho người, người kia nhân tay đáng nên nhìn mặt trăng. Nếu lại nhìn tay mà cho là thể mặt trăng, thì người ấy đâu chỉ mất mặt trăng mà cũng mất tay đó. Phàm ba thừa mười hai phần giáo như tay chỉ mặt trăng. Nếu năng thấy trăng rõ biết chỗ chỉ, như nhân giáo rõ tâm, từ ngôn thấy tánh, thì biết ngôn giáo như tay, tâm tánh như trăng, ngộ ngay đạo là trọn chẳng kẹt ngôn. Người thật thấy trăng là chẳng còn tay. Hoặc lúc xem kinh nghe pháp, chẳng mỗi mỗi tiêu về tự mình, chỉ theo văn cú danh thân mà chuyển, tức là nhìn tay mà cho là thể mặt trăng.

Người ấy đâu chỉ chẳng thấy tự tánh, cũng chẳng biện rõ giáo văn. Tay và trăng cả hai đều mê, giáo quán đều mất. Nên trong kinh nói: Người ấy đâu chỉ mất mặt trăng mà cũng mất tay đó. Lại, đã mất tay đó, chẳng phải chỉ chẳng rõ chân vọng của tự tâm mà cũng chẳng nhận biết ngăn bày của giáo, nhầm loạn đảo điên, chẳng biện phương góc, như chim nói không như chuột nói tức, tợ hình âm hưởng đâu hợp chánh tông. Nên trong kinh nói, đâu chỉ mất tay mà cũng chẳng nhận biết sáng đó và tối. Tại sao? Tức lấy thể tay làm tánh trăng sáng. Sáng tối hai tánh không chỗ rõ vậy. Vì vậy, trong Chứng Đạo Ca nói: “Tôi từ tuổi trẻ đến nay tích chứa học hỏi, cũng từng bàn sớ tìm kinh luận, phân biệt danh tướng chẳng biết nghỉ, vào biển đếm cát luống tự khổ, tức bị Như Lai nhọc mắng chê. Đếm châu báu người đâu ích gì, từ đó lại ngơ ngác rõ hư hành, nhiều năm uổng làm khách gió bụi, chủng tánh tà nhầm hiểu biết, chẳng đạt chế viên của Như Lai. Hai thừa tinh tấn chớ nói tâm, ngoại đạo thông minh không trí tuệ, cũng ngu si cũng lẩn thẩn, không trên nắm tay sinh thật hiểu, chắp tay là trăng nhọc thi công, trong pháp căn cảnh không nắn lạ, chẳng thấy một pháp tức Như Lai, mới được gọi là quán tự tại”. Cho nên nếu tâm chân thật chẳng theo tiếng kẻ khác mà khởi phân biệt, lặng yên thường chiếu, tánh tự rõ vậy. Như người trông coi đình đều không chỗ đi. Vì sao? Lìa sắc lìa thanh không tánh phân biệt, đây phải lúc được yếu chỉ thân thấy tánh, mới biết lìa các duyên thanh sắc, tánh tự thường trú chẳng gá tiền trần chỗ khởi thấy biết, thì ngộ từ vô thủy đến nay đều là chấp tiếng làm nghe mà sinh điên đảo. Nên Bồ-tát Văn-thù có kệ tụng nói:

“Ông xoay ngược cơ nghe
Lại nghe nghe tự tánh
Tánh thành đạo Vô thượng
Viên thông thật như vậy”.

Nếu chẳng phải sắc chẳng phải không đều không phân biệt. Người chẳng thấy tánh đến lúc này toàn quy về đoạn diệt, bèn đồng ngoại đạo Câu-xá-ly v.v... mắt mình chẳng mở mờ tối làm tối thật, vì mờ mịt tối tăm không biết lấy làm chỉ cực, từ đây lại lập hai mươi lăm đế, mê tâm chân thật thành chủng ngoại đạo. Hoặc có Thiền tông chẳng được yếu chỉ là pháp học khởi không thấy người, phần nhiều phủi bỏ tâm cảnh đều không, chấp không phân biệt, lấy cuồng giải si mù làm chí đạo, nhưng chẳng phải lìa nhân duyên để cầu pháp tánh, diệt vọng tâm thủ chân tâm, đối với người tăng thượng mạn là chẳng phải sấm đồng nên phải luyện riêng, như trong kinh nói: “Lìa duyên các pháp không tánh phân biệt thì tánh ông mỗi mỗi có chỗ trở về. Thế nào là chủ? A-nan thưa: Nếu tâm tánh con mỗi có chỗ trở về, thì Như Lai nói vốn tâm diệu minh cớ sao không trở về? Cúi mong xót thương vì con mà giảng nói. Phật dạy: A-nan! Như ông thấy ta, kiến tinh minh nguyên. Thấy đây tuy chẳng phải diệu tinh minh tâm, như vầng trăng thứ hai chẳng phải là ảnh trăng. Ông nên lắng nghe, nay ta sẽ vì ông mà chỉ bày không chỗ trở về. Anan! Như Đại giảng đường đây mở rỗng suốt ở hướng Đông, lúc mặt nhật có dạng thì có ánh sáng, giữa đêm đen, trăng bị mây sương mờ tối thì lại mờ tối, lỗ hổng của cửa thông cửa sổ thì lại thấy thông, giữa khoảng đường nhà thì lại thấy bít. Xứ của phân biệt thì lại thấy duyên, bên trong của rỗng hư khắp là không tánh, tượng tích chứa bụi thì đầy bụi mờ, lắng mưa rút khí lại nhìn thấy trong sạch. Anan! Ông xem khắp các tướng biến hóa đây, nay ta mỗi mỗi trở lại xứ nhân chỗ gốc. Thế nào là nhân gốc? A-nan! Các thứ biến hóa đây, sáng trở lại mặt nhật. Tại sao? Không mặt nhật thì chẳng sáng, sáng nhân thuộc mặt nhật, cho nên trở lại mặt nhật. Tối trở lại trăng mờ, thông trở lại cửa tường, bít trở lại tường nhà, duyên trở lại phân biệt. Rỗng hư trở lại không, tích chứa bụi trở lại bụi trần, trong sáng trở lại mưa tạnh. Thì các thế gian tất cả chỗ có, chẳng vượt ngoài các loại đây. Ông thấy tám thứ kiến tinh minh tánh, đang muốn ai trở về ư? Tại sao? Nếu trở về sáng thì lúc chẳng sáng, lại không thấy tối, tuy sáng tối v.v... các thứ sai biệt, mà thấy không sai biệt. Các thứ có thể trở lại là tự nhiên chẳng phải ông. Chẳng ông trở lại là chẳng phải ông thì là ai? Thì biết tâm ông vốn diệu sáng sạch. Ông tự mê muội mất gốc chịu xoay quanh, ở trong sinh tử thường bị nổi chìm, cho nên Như Lai gọi là đáng xót thương”. Nên biết tất cả chúng sinh tức nay kiến tinh minh tâm định chân vọng, mê mờ đó thì thô, sáng rõ đó thì diệu, chỉ ở tám thứ chẳng trở lại trong rõ ràng thấy tánh thường trú, cớ sao tùy cảnh lưu chuyển mất vốn chân thường, tròn chìm vòng khổ thường trôi biển chết. Đại Thánh xót thương chẳng phải, chẳng phải chẳng kinh than! A-nan bày khởi tâm nghi ngờ, nhờ phá tình chấp, Đức Thích-ca vi tế diễn nói chỉ thẳng nguồn giác, có thể gọi là chẳng đổi thân phàm chóng thành Thánh thể, hiện ở sinh diệt hiển ra viên thường. Tông Kính trước sau văn từ nói rõ, mỗi mỗi toàn chứng ở đây. Lại có Hòa thượng Mã Tổ ở Giang Tây hỏi Tòa chủ Lượng rằng: “Tích chứa kinh gì làm sự nghiệp?

Đáp: Thường giảng ba mươi sáu bộ kinh luận. Hòa thượng hỏi: Chánh lúc giảng lấy gì giảng?

Đáp: Đem tâm giảng. Hòa thượng bảo: Tâm như người thợ, ý như nghề hòa theo, làm sao giảng giải kinh khác?

Đáp: Chẳng thể là hư không giảng? Hòa thượng bảo: lại là hư không giảng được. Tòa Chủ Lượng ngay lời nói đó mà đại ngộ, bèn xuống thềm lễ bái, kinh sợ tự toát đổ mồ hôi. Hòa thượng bảo: Sư độn căn này, dùng lễ bái làm gì? Tòa Chủ Lượng liền trở về chùa nói cùng học chúng rằng: “Sự nghiệp học hỏi một đời tôi, gần cho là trong thiên hạ không có ai địch nỗi, ngày nay bị bậc Lão túc ở chùa Khai Nguyên khạc nhổ sạch hết. Tôi đã thời gian dài đều là lừa dối các ông”. Bèn giải tán học chúng, đi thẳng vào Tây Sơn không lưu lại tin tức. Lại như có học sỉ hỏi Hòa thượng Mã Tổ: Như nước không gân cốt, mà lúc năng thắng thuyền muôn hộc thì thế nào? Hòa thượng đáp: Ta ở đây nước cũng không thuyền cũng không gì là gân cốt? Lại có người học hỏi Hòa thượng Long Đàm: Từ lâu nghe tiếng Long Đàm, đến lúc lại đây, vì sao Long cũng không thấy đàm cũng không thấy? Hòa thượng đáp: lại là ông thân đến Long Đàm (đầm rồng) vậy. Lại có tục Quan Tục Vương Thường thị hỏi Hòa thượng Tiên Động Sơn: Trong năm mươi hai quả vị Bồ-tát, làm sao chẳng thấy Diệu giác Bồtát? Hòa thượng đáp: Tức là Thường Thị thân thấy đó. Do đó, Đại sư Trí Giả một đời hoằng giáo, tuy rộng mở bày mà chỉ hiển chánh tông. Như trong luận Chỉ Quán nói: “Cứu cánh chỉ về xứ nào? Tuyệt đường ngôn ngữ bặt chỗ tâm hành, trọn lắng như hư không”. Lại, trong luận Quán Tâm nói: “Lại vì thương nghĩ học trò một nhà, tùy theo nhiều năm khán tâm, hơi lâu bèn chẳng nghiên xét hỏi tâm. Vì vậy chẳng nhiễm pháp bên trong mà đắm trước văn tự bên ngoài, thường ghi chú mà chạy rong, mang kinh luận mà dạo quanh. Sao chẳng tuyệt lời bỏ văn, phá một bụi trần đọc ngàn quyển kinh? Nếu năng nghe pháp giảng kinh đề tông hỏi đáp như trên, mới hợp với ý tổ, xứng với tâm Phật, như gặp cơ đây, có thể về Tông Kính”.

QUYỂN 93

Hỏi: Tông Kính Lục là pháp môn thật tướng, nếu tin thì được phước gì? Nếu hủy báng thì mắc tội gì?

Đáp: Môn thật tướng một tâm đây, yếu chỉ của Bát-nhã sâu mầu, ở trong những người khó tin, hoặc có kẻ tin thì pháp lợi vô tận chỉ Phật mới năng biết. Nếu có người hủy báng là tội hủy báng Bátnhã lớn chẳng gì bằng. Hiện đời chịu ương thân đang sống mà vùi lấp nơi địa ngục. Có thọ báo gì lớn như vậy, vì Bát-nhã là mẹ của tất cả phàm Thánh thế gian và xuất thế gian, giống như đại địa, không vật nào chẳng từ đất sinh. Nếu phỉ báng đó thì phỉ báng tất cả Phật địa công đức Tam bảo. Như trong mười pháp giới tất cả chúng sinh hoặc lên hoặc xuống hoặc ngu hoặc trí, không ai chẳng đều từ trong Bát-nhã lại. Nếu chẳng được oai quang của Bát-nhã, thật không một mảy trần có thể lập. Như trong kinh Bát-nhã nói: “Muốn tôn quý tự tại, cho đến muốn được Bồ-đề, phải học Bát-nhã”. Lại nói: “Nếu muốn được sáu căn đầy đủ, phải học Bát-nhã”. Cho đến ngạ quỷ súc sinh cũng cần đầy đủ. Vì ngạ quỉ súc sinh đây đều từ học Bát-nhã lại. Nên biết chẳng tin Tông Kính điều ấy không thể có. Như trong kinh Chư Pháp Vô Hành nói: “Bấy giờ Bồ-tát Văn thù-Sư-lợi nói: “Bạch Đức Thế Tôn! Sau khi Đức Như Lai Sư Tử Hống Cổ Âm Vương diệt độ. Bấy giờ có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Hỷ Căn, lúc làm Pháp sư, chất trực đoan chánh, chẳng hoại oai nghi chẳng bỏ thế pháp, chúng sinh thời ấy khắp đều là lợi căn, vui ưa nghe luận sâu. Pháp sư Hỷ Căn đó ở trước mọi người chẳng tán thán ít muốn biết đủ, xúc xứ tế hạnh, chỉ dạy mọi người các pháp thật tướng. Chỗ gọi là tánh tất cả pháp tức là tánh tham dục, tánh tham dục tức là tánh các pháp, tánh sân nhuế tức là tánh các pháp, tánh ngu si tánh tức các pháp. Pháp sư Hỷ Căn dùng phương tiện đó giáo hóa chúng sinh, chỗ chúng sinh hành đều là một tướng, mỗi mỗi chẳng cùng phải quấy, đạo của sở hành, tâm không sân si. Vì không nhân duyên sân si nên chậm được pháp nhân, ở trong Phật pháp quyết định chẳng hoại. Bạch Đức Thế Tôn! Bấy giờ lại có vị Tỳ-kheo Pháp sư hành đạo Bồ-tát tên là Thắng Ý, Tỳ-kheo Thắng Ý đó hộ trì giới cấm, được tứ thiền tứ định vô sắc, hành mười hai hạnh đầu-đà. Bạch Đức Thế Tôn! Tỳ-kheo Thắng Ý đó có các đệ tử. Tâm họ khinh động muốn thấy lỗi người khác. Bạch Đức Thế Tôn! Sau đó một thời gian, Bồ-tát Thắng Ý vào nơi tụ lạc khất thực, nhầm đến nơi nhà đệ tử của Tỳ-kheo Hỷ Căn, gặp ông cư sĩ chủ nhà, bèn đến chỗ đó bày tòa mà ngồi, vì ông cư sĩ mà tán thán ít muốn biết đủ các tế hạnh, nói lỗi lời nói không lợi ích, tán thán người xa lìa chúng đông ưa riêng tu hành. Lại ở trước ông cư sĩ nói lỗi của Pháp sư Hỷ Căn: đó là Tỳ-kheo chẳng thật, đem đạo tà kiến chỉ dạy chúng sinh, là người tạp hành. Nói dâm dục không chướng ngại, sân nhuế không chướng ngại, ngu si không chướng ngại, tất cả các pháp đều không chướng ngại. Khi đó ông cư sĩ lợi căn được vô sinh pháp nhẫn, liền nói cùng Tỳ-kheo Thắng Ý rằng: Đại Đức biết tham dục là pháp gì ư? Tỳ-kheo Thắng Ý đáp: Ta biết tham dục là phiền não. Ông cư sĩ lại hỏi: Đại Đức! Phiền não đó là tại trong hay tại ngoài? Tỳ-kheo Thắng Ý đáp: Chẳng tại trong, chẳng tại ngoài. Ông cư sĩ lại hỏi: Đại Đức! Nếu tham dục chẳng tại trong chẳng tại ngoài, chẳng tại Đông, Tây, Nam, Bắc bốn góc trên dưới mười phương, tức là không sinh. Nếu không sinh, cớ sao nói hoặc dơ hoặc sạch? Khi ấy, Tỳ-kheo Thắng Ý sân nhuế chẳng vui, từ chỗ ngồi đứng dậy bỏ đi, mà nói rằng: Đây là Tỳ-kheo Hỷ Căn dùng pháp vọng ngữ dối hoặc nhiều người, người này vì chẳng học pháp môn vào âm thanh nên nghe âm thanh Phật thì mừng, nghe âm thanh ngoại đạo thì sân, ở nơi âm thanh Phạm hạnh thì mừng, ở nơi âm thanh không phải Phạm hạnh thì sân, vì chẳng học pháp môn vào âm thanh vậy”.

Cho đến, bấy giờ Bồ-tát Hỷ Căn ở trước chúng Tăng nói kệ tụng rằng:

“Tham dục là Niết-bàn
Sân nhuế cũng như vậy
Như trong ba sự đây
Có vô lượng Phật đạo.
Nếu có người phân biệt
Tham dục sân nhuế si
Là người cách xa Phật
Thí như trời và đất
Bồ-đề và tham dục
Là một mà chẳng hai
Đều vào một pháp môn
Bình đẳng không có khác
Phàm phu nghe khiếp sợ
Cách Phật đạo rất xa
Tham dục chẳng sinh diệt
Chẳng năng khiến tâm não
Nếu người có ngã tâm
Và cả có được thấy
Người đó là tham dục
Sắp vào nơi địa ngục
Thật tánh của tham dục
Tức là tánh Phật pháp.
Thật tánh của Phật pháp
Cũng là tánh tham dục
Là hai pháp một tướng
Chỗ gọi là không tướng
Nếu năng biết như vậy
Là dẫn dắt thế gian
nếu có người phân biệt
Là trì giới hủy giới
Do trì giới luống dối
Khinh miệt nơi người khác
Là người không Bồ-đề
Cũng không có Phật pháp
Chỉ tự lập an trú
Chỉ trong chỗ được thấy
Nếu trú xứ không nhàn
Tự quý mà khinh người
Còn chẳng được sinh trời
Huống gì ở Bồ-đề
Đều do đắm không nhàn
Trú ở tà kiến vậy
Tà kiến và Bồ-đề
Đều đồng không có khác
Chỉ vì danh tự số
Nói phô nên riêng khác
Nếu người thông đạt vậy
Thì là gần Bồ-đề
Phân biệt phiền não dơ
Tức là đắm thấy sạch
Không Bồ-đề Phật pháp
Trú trong có được thấy
Nếu tham đắm Phật pháp
Thì là xa Phật pháp.
Tham không ngại pháp vậy
Thì lại chịu khổ não
Nếu người không phân biệt
Tham dục sân nhuế si
Vì vào ba tánh độc
Thì là thấy Bồ-đề
Thấy người gần Phật đạo
Chóng được vô sinh nhẫn
Nếu thấy pháp hữu vi
Cùng pháp vô vi khác
Là người trọn chẳng được
Hiểu nơi pháp hữu vi
Nếu biết hai tánh đồng
Hẳn quý trong loài người
Phật chẳng thấy Bồ-đề
Cũng chẳng thấy Phật pháp
Vì chẳng đắm các pháp
Hàng ma thành Phật đạo
Nếu muốn độ chúng sinh
Chớ phân biệt tánh đó
Tất cả các chúng sinh
Đều đồng ở Niết-bàn
Nếu năng thấy như vậy
Thì là được thành Phật
Tâm đó chẳng nhàn tĩnh
Mà hiện tướng nhàn tĩnh
Là ở trong trời người
Thì là làm giặc lớn
Người đó không Bồ-đề
Cũng không có Phật pháp
Nếu phát nguyện như vậy
Ta sẽ được làm Phật
Các phàm phu như vậy
Chỗ lực vô minh dẫn
Phật pháp rất thanh tịnh
Dụ đó như hư không
Trong đây không thể thủ
Cũng không có đáng bỏ
Phật chẳng được Phật đạo
Cũng chẳng độ chúng sinh
Phàm phu mạnh phân biệt
Làm Phật độ chúng sinh
Là người ở Phật pháp
Thì cách biệt rất xa
Nếu thấy chúng sinh khổ
Thì là chịu khổ đó
Chúng sinh không chúng sinh
Mà nói có chúng sinh
Trú trong tướng chúng sinh
Thì không có Bồ-đề
Nếu người thấy chúng sinh
Là rốt ráo giải thoát
Không có dâm nhuế si
Biết là làm tướng đời
Nếu người thấy chúng sinh
Chẳng thấy chẳng chúng sinh
Chẳng được Phật pháp thật
Phật đồng tánh chúng sinh
Nếu năng biết như vậy
Thì là tướng thế gian”.

Cho đến, lúc nói các kệ pháp như vậy, có ba muôn Thiên tử được vô sinh pháp nhẫn, một vạn tám ngàn người được lậu tận giải thoát. Và lúc đó, đất nứt rách, Tỳ-kheo Thắng Ý đọa vào địa ngục lớn. Do vì nhân duyên tội nghiệp chướng nên trải qua trăm ngàn muôn ức na-do-tha kiếp, ở địa ngục lớn, chịu các khổ độc, từ địa ngục ra, lại trải qua bảy mươi bốn vạn đời thường bị phỉ báng, trải qua nhiều trăm ngàn kiếp cho đến chẳng nghe danh tự của Phật pháp. Từ đó về sau, lại được gặp Phật, xuất gia học đạo mà không chí vui thích, ở trong sáu mươi hai muôn đời, thường bỏ đạo trở lại tục, cũng vì tội báo nghiệp chướng dư thừa nên qua bao nhiêu trăm ngàn đời, các căn ám độn. Bạch Đức Thế Tôn!! Pháp sư Hỷ Căn thời bấy giờ, tức nay từ đây về phương Đông trải qua mười muôn ức cõi Phật, có cõi nước tên là Bảo Trang Nghiêm, trong đó có vị đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, hiệu là Thắng Quang Minh Oai Đức Vương Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, nay hiện tại đó. Còn Tỳ-kheo Thắng Ý, là thân con đây vậy. Bạch Đức Thế Tôn! Lúc con chưa vào môn pháp tướng như vậy, chịu khổ phân biệt khổ điên đảo khổ như vậy. Cho nên người muốn phát tâm Bồ-tát, phát tâm Tiểu thừa, chẳng muốn khởi tội nghiệp chướng như vậy, chẳng muốn chịu khổ não như vậy là chẳng nên chống nghịch Phật pháp, không có xứ sở có thể sinh sân si”. Phật bảo: Văn-thù Sư-lợi! Ông nghe các kệ tụng đó được những lợi ích gì? Bạch Đức Thế Tôn! Con hết tội nghiệp chướng rồi, do nhân duyên nghe các kệ tụng đó, mà tại chỗ sinh được lợi căn trí tuệ, được pháp nhẫn sâu, khéo nói pháp mầu. Văn-thù Sư-lợi! Do lực ái mà năng nhớ được tội nghiệp nhân duyên trong vô lượng Atăng-kỳ kiếp như vậy? Bạch Đức Thế Tôn! Các Bồ-tát có chỗ nghĩ nhớ, có chỗ nói, có chỗ tư duy, đều là thần lực của Phật. Tại sao như vậy? Vì tất cả các pháp đều từ Phật ra”. Nên biết nếu chẳng tin chỗ nói lý của thật tướng trong Tông Kính, thì như Tỳ-kheo Thắng Ý chết hồn chịu khổ lớn của đất nức. Nếu có tin nói như vậy thì như Văn-thù Sưlợi trí tuệ diệu biện pháp sâu mầu. Tin hủy giao báo nhân quả không sai, xin khuyên khắp cùng các bậc hậu hiền nên tin thọ sâu, nếu tin Bát-nhã phước lớn đủ như văn trước đã nói, nay thuật về tội ở các phương v.v... lược nêu dẫn để chứng minh, như trong kinh Đại Bát-nhã nói rộng về tội phỉ báng pháp, nghĩa là ở phương đây đọa vào địa ngục Atỳ, cõi này kiếp hoại, tội còn chưa hết thì chuyển dời đến trong địa ngục A-tỳ ở phương khác, phương khác đó lại trải qua kiếp hoại, tội cũng chưa hết, lại dời đến phương khác nữa, như vậy xoay quanh trải khắp mười phương, ở mười phương mới trải qua kiếp tận trở lại sinh trong địa ngục A-tỳ ở cõi đây, ngàn Đức Phật ra đời cứu đó còn khó. Nếu muốn nói thân của kẻ đó chịu, thì người nghe hẳn ói máu nóng mà chết vậy. Tôn giả Thiện Hiện cầu thỉnh nói thân thọ chịu đó, Đức Phật trọn chẳng nói. Cho đến trong kinh Hoa Nghiêm nói Địa ngục Thiên tử, kinh Pháp Hoa nói chẳng khinh bốn chúng, đều là chẳng tin hẳn đọa vào địa ngục A-tỳ. Nếu có người nghe nên phải kinh sợ, lấy làm xét răn hiểu khắp quần mông, tiếp theo nói về quả báo hiện thọ của tin và hủy báng. Thứ nhất, nói về tin. Ở thời Tiền Đường có Sa-môn Thích Tuệ Tuyền người dòng họ Đổng quê ở Tương Dương, xuất gia từ nhỏ, nghe học Tam luận, mới đầu đến chùa Quang Phước, ở trên đảnh núi, việc dẫn lấy nước rất là khổ nhọc. Sau đó, muốn đến chùa khác. Ban đêm thấy có thần nhân thân lớn một trượng mặc áo bào tía đến đảnh lễ Sa-môn Tuệ Tuyền mà nói là: “Cúi xin trú nơi đây mà thường giảng kinh Đại Thừa, chớ vì Tiểu thừa làm lo lắng. Tiểu thừa đó là như ở nơi núi cao không nước chẳng thể làm lợi người. Kinh Đại Thừa giống như biển lớn, tự ở núi đây có nhiều Đức Phật ra đời, một người đọc tụng nói kinh Đại Thừa, năng khiến tại chỗ ở có các thứ trân báu phát sáng, quyến thuộc phồn vinh ưu thắng, nếu có Tiểu thừa thì các sự trước đó đều mất, cúi mong hoằng trì, chớ phụ chỗ mong cầu! Pháp sư cần nước, việc đó dễ vậy. Đến ngày mồng tám tháng sau nhất định có được, tự đến Kiến Nam núi Từ Mẫu ở đó có suối lớn xin một Long vương đi vậy”. Nói xong bèn biến mất. Vừa đến đêm mồng bảy tháng sau, gió lớn thổi mạnh từ phía Tây nam lại, sấm sét chấn động mưa trút đổ, chỉ thấy một dòng suối trong thơm mát mà đẹp, hợp với lòng chúng mong. Đến lúc Sa-môn Tuệ Tuyền thị tịch, suối rồng bèn dần khô cạn. Tin đó, ích lợi đại loại như vậy. Thứ hai, nói về Hủy. Trong kinh Phật Tạng nói: “Ở đời vị lai sẽ có Tỳ-kheo chẳng tu thân giới tâm tuệ, người đó khinh cười Như Lai giảng nói pháp rốt ráo không do Như Lai giảng nói, hoặc có người nghe nói không, tức sẽ kinh sợ, các người đó thật đáng xót thương, hẳn đến thẳng địa ngục không có người cứu”. Ở thời Tiền Đường, có Sa-môn Thích Tuệ Thiếu, người dòng họ Trang, xuất gia từ nhỏ, chuyên tu Tiểu thừa, ở chùa Báo Thiện tại Tương Dương, Long Tuyền dưới tòa Triết công khai giảng Tam Luận, Sa-môn Tuệ Thiếu sinh tâm bất nhẫn nói là “Tam luận nói về không, người giảng đắm trước pháp không”. Nói xong, lưỡi le dài ba thước, mắt, tai, mũi đều chảy máu, suốt bảy ngày chẳng nói năng gì được. Có Luật sư Phục, nghe Sa-môn Tuệ Thiếu bị kéo lưỡi như vậy, bèn bảo rằng: “Ông là người quá si mê, một lời phỉ báng tội quá năm nghịch, có thể tin Đại thừa mới được khỏi đó vậy”. Mới bảo đốt hương phát nguyện sám hối lời nói trước, lưỡi dần thâu vào, Sa-môn Tuệ Thiếu bèn đến nơi Triết công phát tâm thệ nguyện dứt vết, chỉ nghe Đại thừa. Về sau, đến ở chùa Thần Túc tại Hương Sơn, chân chẳng bước ra khỏi ngạch cửa, thường chuyên tập học Đại thừa, có lúc giảng các kinh Hoa Nghiêm v.v... dùng đó để tỏ bày sám tạ, thường ở trong chúng tăng nói lỗi lầm xưa trước đó, riêng ở một phòng thường ngồi thường niệm. Ngày mồng 03 tháng 04 năm Trinh Quán thứ mười một (637) thời Tiền Đường, Sa-môn Tuệ Thiếu đang toạ thiền nơi rừng tùng phía sau chùa, thấy có ba người đi lại, hình mạo rất kỳ lạ, lễ bái xin thọ giới Bồ-tát xong, nói là: “Thiền sư là người Đại lợi căn, nếu chẳng đổi tâm tin pháp Đại thừa, dẫu ngàn Đức Phật đã ra đời, Thiền sư vẫn còn tại địa ngục”. Lại xưa trước, có người phỉ báng Đại thừa, lúc lâm chung phát ra tiếng trâu rống, thì biết quả báo rõ ràng như vậy hẳn quả báo sao mất. Trên đây đều là chướng ngại sâu chẳng tin, hoặc trí cạn nhầm truyền. Y cứ văn khởi kiến chấp sẽ thành báng pháp, như kinh Văn-thù Sư-lợi Tuần Hành nói: Văn-thù Sư-lợi nói: “Đại Đức Xá-lợi-phất! Nếu người nói Như Lai ở quá khứ vị lai và hiện tại có nương tựa hay chẳng nương tựa. Người như vậy là phỉ báng Như Lai. Tại sao? Chân như không niệm cũng không chỗ niệm, chân như chẳng lui sụt, chân như không tướng”. Nay, Đại ý của Tông Kính, văn từ chỗ ghi chép, hoặc là Tổ hoặc là giáo, chỉ có một chữ một câu, hoặc lý hoặc sự hoặc trí hoặc hành, thảy đều hồi hướng chỉ về một tâm chân như. Tại sao? Thật tánh của tâm, gọi là chân như, tánh lấy chẳng cải đổi làm nghĩa, chân do không ngụy mà được tên. Như thì chẳng biến chẳng khác. Vì tâm tánh đây khắp cùng viên dung, ngang khắp mười phương, dọc suốt ba khoảng, đến tất cả thời xứ chưa từng gián đoạn. Phàm có mãi ném căn lành thảy đều hồi hướng, niệm niệm hợp với thể của chân như. Thể không gì chẳng lắng tịch, mỗi mỗi thuận với dụng của chân như. Dụng nào có khuyết. Do đó chỉ khế hợp một như là tự bao hàm các đức. Như trong kinh Hoa Nghiêm nói: Chân như dùng hồi hướng có một trăm câu, trong mỗi mỗi câu không gì chẳng đồng chỉ đều là thành tựu một môn diệu tâm. Như trong kinh nói: “Phật tử! Vị Đại Bồtát đây chánh niệm thấu rõ tâm đó bền trú, xa lìa mê hoặc chuyên ý tu hành, thân tâm chẳng động, thành nghiệp chẳng hoại, thú hướng đến Nhất thiết trí trọn chẳng thối chuyển, chí cầu Đại thừa, dõng mãnh không sợ, gieo trồng các gốc đức, an khắp thế gian, sinh căn thiện thắng, tu pháp bạch tịnh, đại bi tăng trưởng tâm báu thành tiện. Cho đến, thí như chân như khắp tất cả xứ không có ngằn mé, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, khắp tất cả xứ không có ngằn mé. Thí như chân như chân thật là tánh, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy rõ tất cả pháp chân thật là tánh, thí như chân như luôn giữ bản tánh không có cải biến, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, giữ bản tánh đó thủy chung chẳng đổi. Thí như chân như lấy tất cả pháp không tánh làm tánh, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, rõ tất cả pháp không tánh làm tánh. Thí như chân như không tướng làm tướng, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, rõ tất cả pháp không tướng làm tướng. Thí như chân như nếu có được là trọn không thối chuyển, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, nếu có chỗ được ở các Phật pháp trọn chẳng thối chuyển. Thí như chân như là xứ sở hành của tất cả chư Phật, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy là xứ của tất cả Như Lai sở hành. Thí như chân như lìa tướng cảnh giới mà làm cảnh giới, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, lìa tướng cảnh giới mà làm pháp giới viên mãn của chư Phật ba đời. Thí như chân như năng có an lập, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy đều năng an lập tất cả chúng sinh. Thí như chân như tánh thường tùy thuận, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, tận kiếp vị lai tùy thuận chẳng đoạn. Thí như chân như không thể lường đo, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, đồng như hư không giới tận cùng tâm chúng sinh không thể lường đo. Thí như chân như sung mãn tất cả, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, trong một sát-na khắp cùng pháp giới. Thí như chân như thường trú vô tận, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy rốt ráo vô tận. Thí như chân như không có sánh đối, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, năng viên mãn khắp tất cả Phật pháp không có sánh đối. Thí như chân như thể tánh kiên cố, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, thể tánh kiên cố, chẳng phải chỗ của các hoặc não năng trở ngại. Thí như chân như, chẳng thể phá hoại, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, tất cả chúng sinh chẳng năng tổn hoại. Thí như chân như chiếu sáng làm thể, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, lấy chiếu sáng khắp mà làm tánh đó. Thí như chân như không chỗ chẳng có, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, ở tất cả xứ không chỗ chẳng có. Thí như chân như khắp tất cả thời, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy khắp tất cả thời. Thí như chân như tánh thường thanh tịnh, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy trú ở thế gian mà thể thanh tịnh. Thí như chân như ở pháp vô ngại, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, hành khắp tất cả mà không chỗ ngại. Thí như chân như là mắt các pháp, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, năng vì tất cả chúng sinh làm mắt. Thí như chân như tánh không nhọc mệt, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, tu tất cả các hạnh Bồ-tát luôn không nhọc mệt. Thí như chân như thể tánh lặng sâu, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy tánh ấy rất sâu. Thí như chân như không có một vật, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, rõ biết tánh đó không có một vật. Thí như chân như tánh chẳng phải xuất hiện, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, thể đó vi diệu khó thể được thấy. Thí như chân như lìa các dơ uế che mờ, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, mắt tuệ thanh tịnh lìa các si che mờ. Thí như chân như tánh không cùng đồng, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, thành tựu tất cả các hạnh Bồ-tát tối thượng không gì đồng. Thí như chân như thể tánh tịch tĩnh, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy khéo năng tùy thuận pháp tịch tĩnh. Thí như chân như không có căn bản, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, khéo vào tất cả không căn bản. Thí như chân như thể tánh vô biên, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, tịnh (làm trong sạch) các chúng sinh số đó vô biên.

Thí như chân như thể tánh không đắm trước, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, rốt ráo xa lìa tất cả các đắm trước. Thí như chân như không có chướng ngại, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, trừ diệt tất cả thế gian chướng ngại. Thí như chân như chẳng phải chỗ thế gian hành, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, chẳng phải chỗ của các thế gian năng hành. Thí như chân như thể tánh không trú, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, tất cả sinh tử đều chẳng phải chỗ trú. Thí như chân như, tánh không chỗ làm, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, tất cả chỗ làm đều về lìa bỏ. Thí như chân như thể tánh an trú, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, an trú chân thật. Thí như chân như cùng tất cả pháp mà cộng tương ưng, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy cùng các Bồ-tát lắng nghe tu tập mà cộng tương ưng. Thí như chân như trong tất cả pháp, tánh thường bình đẳng, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, ở các thế gian tu hạnh bình đẳng. Thí như chân như chẳng lìa các pháp, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, cùng tận vị lai chẳng bỏ thế gian. Thí như chân như trong tất cả pháp rốt ráo vô tận, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, ở các chúng sinh hồi hướng vô tận. Thí như chân như cùng tất cả pháp không có trái nhau, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, chẳng trái ba đời tất cả Phật pháp. Thí như chân như gồm khắp các pháp căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, đều gồm tất cả căn lành chúng sinh. Thí như chân như cùng tất cả pháp đồng thể tánh đó, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, cùng chư Phật ba đời đồng một thể tánh. Thí như chân như cùng tất cả pháp chẳng lìa bỏ nhau, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, nhiếp trì tất cả pháp thế gian và xuất thế gian. Thí như chân như không gì có thể sáng lòa che, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, tất cả thế gian không gì có thể sáng lòa che. Thí như chân như chẳng thể lay động, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, tất cả ma nghiệp chẳng năng lay động. Thí như chân như tánh không dơ đục, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy tu hạnh Bồ-tát không có dơ đục. Thí như chân như không có biến đổi, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, nghĩ thương chúng sinh, tâm không biến đổi. Thí như chân như chẳng thể cùng tận, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, chẳng phải chỗ các pháp thế gian năng cùng tận. Thí như chân như tánh thường giác ngộ, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, năng giác ngộ khắp tất cả các pháp. Thí như chân như chẳng thể hoại mất, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, ở các chúng sinh khởi chí nguyện ưu thắng, trọn không hoại mất. Thí như chân như năng chiếu sáng lớn, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, dùng ánh sáng trí lớn chiếu các thế gian. Thí như chân như chẳng thể nói phô, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, chỗ tất cả nói phô chẳng thể bày nói. Thí như chân như gìn giữ thế gian căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, năng gìn giữ tất cả hạnh Bồ-tát. Thí như chân như tùy thế gian nói phô, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy tùy thuận tất cả trí tuệ nói phô. Thí như chân như khắp tất cả pháp, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy khắp ở mười phương tất cả cõi Phật hiện thần thông lớn thành đẳng Chánh giác. Thí như chân như không có phân biệt, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, ở các thế gian không chỗ phân biệt. Thí như chân như khắp tất cả thân, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, khắp mười phương cõi trong vô lượng thân. Thí như chân như thể tánh không sinh, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, phương tiện hiện sinh mà không chỗ sinh. Thí như chân như không chỗ chẳng có, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, trong khắp cõi nước chư Phật mười phương ba đời, hiện khắp thần thông mà không đâu chẳng có. Thí như chân như khắp có ở đêm, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, ở tất cả đêm phóng ánh sáng lớn làm mọi Phật sự. Thí như chân như khắp tất cả ngày, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, đều khiến tất cả chúng sinh ở ngày thấy Phật thần biến diễn nói pháp luận thối chuyển, lìa dơ thanh tịnh không không lầm lỗi. Thí như chân như khắp ở nửa tháng cho đến một tháng, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, ở các thế gian thứ tự thời tiết được phương tiện lành, ở trong một niệm biết tất cả thời. Thí như chân như khắp ở một năm, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, trú vô lượng kiếp rõ ràng thành thục tất cả căn lành đều khiến viên mãn. Thí như chân như khắp kiếp thành hoại, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, trú tất cả kiếp thanh tịnh không nhiễm, giáo hóa chúng sinh đều khiến thanh tịnh. Thí như chân như cùng tận vị lai, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy tận cùng vị lai, tu các diệu hạnh Bồ-tát thanh tịnh, thành mãn đại nguyện không có thối chuyển. Thí như chân như trú khắp ba đời, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, khiến các chúng sinh ở một sát-na thấy ba đời Phật chưa từng một niệm mà có lìa bỏ. Thí như chân như khắp tất cả xứ, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, vượt ra ba cõi hành khắp tất cả đều được tự tại. Thí như chân như trú pháp có không, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, rõ thấu tất cả pháp của có không rốt ráo thanh tịnh. Thí như chân như thể tánh thanh tịnh, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, năng dùng phương tiện tập trợ đạo pháp sạch sửa tất cả các hạnh Bồ-tát. Thí như chân như thể tánh sáng sạch, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, khiến các Bồ-tát đều được tâm Tam-muội sáng sạch. Thí như chân như thể tánh không dơ, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, xa lìa các dơ, đầy đủ tất cả các ý thanh tịnh. Thí như chân như không ngã ngã sở, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, dùng tâm không ngả ngã sở thanh tịnh sung mãn cõi nước chư Phật mười phương. Thí như chân như thể tánh bình đẳng, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, đạt được bình đẳng trí Nhất thiết trí, chiếu rõ các pháp, lìa các si che mờ. Thí như chân như vượt các số lượng, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, cùng vượt số lượng Nhất thiết trí, nương đại lực pháp tạng mà đồng dừng trú, phát tỏa mây pháp rộng lớn khắp mười phương tất cả thế giới. Thí như chân như bình đẳng an trú, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy phát sinh tất cả các hạnh Bồ-tát, bình đẳng trú ở đạo Nhất thiết trí. Thí như chân như trú khắp tất cả các chúng sinh giới, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, đủ khắp vô ngại Nhất thiết chủng trí, ở chúng sinh giới đều hiện ở trước. Thí như chân như không có phân biệt trú khắp tất cả trong trí âm thanh, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, đầy đủ tất cả các trí ngôn âm, năng thị hiện khắp các thứ ngôn âm mở bày chúng sinh. Thí như chân như trọn lìa thế gian, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, gồm khắp chúng sinh ra khỏi thế gian. Thí như chân như thể tánh rộng lớn, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, đều năng thọ trì Phật pháp rộng lớn ở quá khứ vị lai và trong hiện tại, luôn chẳng quên mất siêng tu tất cả các hạnh Bồ-tát. Thí như chân như không có ngừng nghỉ, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, vì muốn an đặt tất cả chúng sinh ở Địa đại trí, ở tất cả kiếp tu hạnh Bồ-tát không có ngừng nghỉ. Thí như chân như thể tánh rộng lớn khắp tất cả pháp, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, tịnh niệm vô ngại gồm khắp tất cả pháp môn rộng lớn. Thí như chân như gồm khắp các phẩm, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, chứng đắc trí của vô lượng phẩm loại, tu các diệu hạnh chân thật của Bồ-tát. Thí như chân như không chỗ chấp thủ, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, ở tất cả pháp đều không chỗ chấp thủ, trừ diệt tất cả thế gian thủ trước, khiến khắp thanh tịnh. Thí như chân như thể tánh chẳng động, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, an trú hạnh nguyện viên mãn của Phổ Hiền rốt ráo chẳng động. Thí như chân như là cảnh giới Phật, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, khiến các chúng sinh đầy đủ tất cả cảnh giới trí tuệ, diệt cảnh phiền não đều khiến thanh tịnh. Thí như chân như không gì năng chế phục, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, chẳng bị tất cả chỗ của tà luận ngoại đạo sự nghiệp các ma chế phục. Thí như chân như chẳng phải có thể tu chẳng phải chẳng thể tu, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, lìa bỏ tất cả vọng tưởng thủ trước, ở tu và chẳng tu, không có phân biệt. Thí như chân như không có lùi bỏ, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, thường thấy chư Phật phát tâm Bồ-đề, Đại thể trang nghiêm trọn không lùi bỏ. Thí như chân như gồm khắp tất cả ngôn âm của thế gian, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, năng được tất cả ngôn âm sai biệt thần thông trí tuệ phát đủ tất cả các thứ ngôn từ. Thí như chân như ở tất cả pháp không chỗ mong cầu, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, khiến các chúng sinh nương thừa Phổ Hiền mà xa lìa nơi tất cả pháp không chỗ tham cầu. Thí như chân như trú tất cả địa, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, khiến tất cả chúng sinh xả bỏ thế gian địa trú trí tuệ địa, dùng hạnh Phổ Hiền mà tự trang nghiêm. Thí như chân như không có đoạn tuyệt, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, ở tất cả pháp được không chỗ sợ, tùy từng loại âm xứ xứ diễn nói không có đoạn tuyệt, thí như chân như lìa bỏ các lậu, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, khiến tất cả chúng sinh thành tựu pháp trí, rõ thấu nơi pháp viên mãn Bồ-đề công đức vô lậu. Thí như chân như không có chút ít pháp mà năng hoại loạn, khiến phần ít đó chẳng phải là giác ngộ, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, khiến khắp khai ngộ tất cả các pháp, tâm đó vô lượng khắp cùng pháp giới. Thí như chân như quá khứ chẳng phải khởi đầu, vị lai chẳng phải chưa hiện tại chẳng phải khác, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, vì tất cả chúng sinh mới mới luôn khởi tâm nguyện Bồđề, khiến khắp thanh tịnh trọn lìa sinh tử. Thí như chân như ở trong ba đời không chỗ phân biệt, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, hiện tại niệm niệm thường giác ngộ, quá khứ vị lai thảy đều thanh tịnh. Thí như chân như thành tựu tất cả chư Phật Bồ-tát, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, phát khởi tất cả đại nguyện phương tiện, thanh tịnh chư Phật trí tuệ rộng lớn. Thí như chân như rốt ráo thanh tịnh, chẳng cùng tất cả các phiền não câu, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, năng diệt tất cả phiền não chúng sinh, viên mãn tất cả trí tuệ thanh tịnh”. Giải thích: Vậy biết trong trăm câu, trong mỗi mỗi nghĩa không một chữ nào chẳng căn cứ ở tâm mà nói, không một hạnh nào mà chẳng từ tánh khởi, có thể gọi là chân gồm ngọn hạnh, không mỗi hạnh mà chẳng phải chân. Hạnh suốt nguồn chân, không mỗi chân nào mà chẳng phải hạnh, như vậy thì lý sự đủ khắp, tâm cảnh dung thông, chẳng phải đắm trước có vì ngưng không, khỏi kẹt chân mà nhiễm tục, năng khiến chúng sinh chánh tín. Bước bước thành môn nhân của Bồ-đề, hiển thẳng chân tu, niệm niệm mãn biển quả của chư Phật, do đó ghi đủ cả trăm câu, toàn văn rộng lớn, cứu cánh chứng minh diệu chỉ của Tông Kính. Nay thì khuyên khắp các học sĩ ở mười phương, tất cả các hàng hậu hiền, chỉ mong đạo giàu người nghèo, tình mỏng đức dày, lấy pháp làm bạn, lấy trí làm trước dùng từ tu thân, lợi vật là việc chính, làm chủ pháp thí, chẳng lẫn tiếc gia phong. Không kể chẳng từ đâu, có nghi đều giải quyết, thì giẫm bước theo hành xứ của Phật, khỏi cô phụ bản tâm, diệu hạnh luôn mới. Chí đạo như hiện có. Do đó, trong Chứng Đạo Ca nói: “Cùng Thích tử miệng xưng bần, thật là thân bần đạo chẳng bần. Bần thì thân thường mặc áo vải. Đạo thì tâm giấu trân vô giá. Trân vô giá dùng vô tận, lợi vật đáng thời chẳng keo lận. Ba thân bốn trí viên trong thể. Tám giải sáu thông đất tâm nhiễm”. Đó thì lấy pháp giới làm thân hư không làm lượng. Tình mất lấy bỏ, thấy hết tự tha. Lấy tâm vật làm tâm, môn nào chẳng thuận, lấy ý kia làm ý, pháp nào năng trái. Vào trong Tông Kính pháp nhĩ như vậy. Nên trong Kinh Thư nói: “Lấy tai nghe của triệu người, lấy mắt thấy của bốn biển, lấy thân mình biết thân người, lấy tâm mình biết tâm người. Thánh nhân tâm vô thường lấy trăm họ làm tâm”. Lại nói: “Gồm mình theo người muôn sự tiêu hòa, gồm người theo mình mọi sự tranh khởi”. Thì trong ngoài chỉ về chứng minh vô tận.

Hỏi: Tin thọ và hủy báng pháp Tông Kính đây, tội phước sao trọng vậy?

Đáp: Đây là cha của các hiền, là mẹ của chư Phật, muôn thiện do đây mà sinh. Tin thọ hay hủy báng, đâu chẳng nhận quả báo trọng ư? Do đó, trong kinh Pháp Hoa nói: “Lại như Đại Phạm Thiên Vương là cha của tất cả chúng sinh, kinh đây cũng lại như vậy, là cha của tất cả Hiền Thánh các bậc hữu học vô học và người phát tâm Bồ-tát”. Trong Khởi Tín Sao nói: “Nếu phỉ báng pháp đây, vì tự hại sâu cũng hại người khác, đoạn tuyệt tất cả chủng của Tam bảo. Tất cả Như Lai đều nương pháp đây mà được Niết-bàn, tất cả Bồ-tát nhân đây tu hành mà được và Phật trí”.

QUYỂN 94

CHƯƠNG III: DẪN CHỨNG

Phàm nêu đặt Tông Kính, đại chỉ đã rõ ràng, trước tuy hỏi đáp quyết nghi, còn lo ngại khó tin. Những bậc Thượng căn vừa mới xem qua chóng vào môn Tổng trì, còn hàng trung hạ tuy quán vẫn còn rơi lạc đất hồ nghi. Nay lại vì người tín lực chưa sâu, mảy may nghi ngờ chưa đoạn, nên lại nêu dẫn các kinh Đại thừa gồm một trăm hai mươi bản, lời của chư Tổ cũng một trăm hai mươi bản, sánh các Hiền Thánh biên tập gồm sáu mươi bản, cả thảy lời huyền của ba trăm bản, bao quát chân phân tích của một Phật thừa. Có thể gọi là nêu một chữ mà nhiếp vô biên biển giáo, lập một lý mà thâu vô tận chân phân tích mỗi mỗi nêu tông, đồng soi khắp của Long cung, lớp lớp dẫn chứng tợ thân văn nơi thứu lãnh, khuyên khắp mọi người ngủ mây đứng tuyết, ngồi tham tri thức, bèn khiến các bậc cứu lý tham huyền đều vào viên tông, tầm tòng lâm của Cổ Phật, như gần ánh mặt nhật, giẫm cửa cõi của Tổ sư, Đại giác sáng ngời, tức mắt thịt mà viên thông mắt Phật, nghi tình thông suốt, đang phàm tâm mà hiển hiện chân tâm, có thể gọi là hiện biết, chỉ pháp giới nơi lòng bàn tay, khiến đồng thân chứng, tham diệu chỉ trong cõi lòng.

Trong kinh Đại Bát-nhã nói: “Tất cả Như Lai đồng tại một xứ, tự tánh thanh tịnh, vô lậu giới gồm”. Lại nói: “Ba đời chư Phật trú mười phương cõi, vì các hữu tình tuyên nói chánh pháp, không đâu chẳng đều lấy bản tánh mà làm mắt Phật, lìa bản tánh không không phương tiện riêng khác”. Giải thích: Bản tánh không là, tức là tự tánh tâm thanh tịnh. Bản tánh tức tự tánh không, tức nghĩa thanh tịnh. Tâm đây thì phàm Thánh vốn có, xưa nay thường vậy. Chúng sinh chẳng biết, chư Phật nhân đây chỉ trao, hàm linh hiện đủ, Tổ sư lấy đây cùng truyền, nên nói lìa đây riêng không phương tiện khác.

Trong kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm có kệ tụng nói:

“Chỗ ngôn từ nói pháp
Trí nhỏ vọng phân biệt
Cho nên sinh chướng ngại
Chẳng rõ ở tự tâm
Chẳng năng rõ tự tâm
Làm sao biết chánh đạo
Kia do điên đảo tưởng
Tăng trưởng tất cả ác”.

Trong kinh Đại Niết-bàn nói: “Tin ở đạo của hai đế một thừa, lại không có thú khác, đó là chúng sinh chóng được giải thoát”. Lại nói: “Đạo tuy không sắc tượng có thể thấy, cân lường có thể biết, mà thật có dụng. Này thiện nam! Như tâm chúng sinh tuy chẳng phải sắc, chẳng phải dài chẳng phải ngắn, chẳng phải thô chẳng phải tế, chẳng phải buộc chẳng phải thoát, chẳng phải là pháp thấy mà cũng là có”.

Trong kinh Đại Bảo Tích nói: “Tất cả pháp hư vọng như mộng, vì chỉ niệm vậy”. Lại nói: “Tự làm cù lao, tự làm xứ về. Pháp là cù lao, pháp là xứ về, không riêng có cù lao, không riêng có xứ về”. Giải thích: Trong luận Đại Thừa Khởi Tín nói: “Nói pháp đó, tức là tâm chúng sinh”. Nên biết chỗ hướng là tâm, đâu có xứ về, trú tự cảnh giới không riêng có phương sở.

Trong kinh Pháp Hoa có kệ tụng nói:

“Lại là chẳng hành
Pháp thượng trung hạ
Hữu vi vô vi
Pháp thật chẳng thật
Cũng chẳng phân biệt
Là nam hay nữ
Chẳng được các pháp
Chẳng biết chẳng thấy
Thì gọi đó là
Hành cứ Bồ-tát
Tất cả các pháp
Không không chỗ có
Không có thường trú
Cũng không khởi diệt
Đó là bậc trí
Chỗ thường thân cận
Đảo điên phân biệt
Các pháp có không
Là thật chẳng thật
Là sinh chẳng sinh
Tại nơi nhàn xứ
Tu nhiếp tâm đó
An trú chẳng động
Như núi Tu di
Quán tất cả pháp
Đều không chỗ có
Giống như hư không
Không có bền chắc
Chẳng sinh chẳng xuất
Chẳng động chẳng thối
Thường trú một tướng
Gọi là cận xứ”.

Giải thích: Nếu vào môn một tâm một tướng, còn là pháp của không thường trú, đâu có duyên của khởi diệt, tự nhiên chẳng động như núi, tâm an như biển, có thể gọi là hành xứ của Bồ-tát, chỗ ở của chư Phật vậy. Nên trong kinh Hoa Nghiêm có kệ tụng nói:

“Pháp tánh như hư không
Chư Phật trú trong đó”.

Trong kinh Đại Tập nói: “Thế nào là Bồ-tát tu tâm niệm xứ? Quán tâm tánh đó, chẳng thấy trong vào tâm, chẳng thấy ngoài vào tâm, chẳng thấy trong ngoài vào tâm, chẳng thấy tâm trong ấm chẳng thấy tâm trong giới. Đã chẳng thấy tâm rồi, phát khởi tư duy: “Tâm duyên như vậy là khác hay chẳng khác? Nếu tâm khác duyên, thì trong một lúc nên có hai tâm. Nếu tâm tức duyên, thì chẳng nên lại năng quán ở tự tâm, giống như đầu ngón tay chẳng năng tự xúc, tâm cũng như vậy”. Quán như vậy rồi thấy tâm không trú, vô thường biến khác chỗ duyên ở diệt”. Lại nói: “Chẳng thấy một pháp, tướng mạo một pháp ánh sáng một pháp, nếu thấy như vậy, đó gọi là chánh kiến của Phật pháp”.

Trong kinh Viên Giác nói: “Một thời nọ, Đức Bà-già-bà vào nơi Thần thông đại quang minh tạng Tam-muội chánh thọ, tất cả Như Lai sáng nghiêm trú trì, là các chúng sinh thanh tịnh giác địa, thân tâm tịch diệt. Bình đẳng bản tế, viên mãn mười phương chẳng hai tùy thuận, ở cảnh chẳng hai, hiện các cõi tịnh”. Lại nói: “Này thiện nam! Tất cả chúng sinh các thứ huyễn hóa, đều sinh Như Lai Viên giác diệu tâm, giống như hoa đốm giữa hư không từ hư không mà có. Hoa huyễn tuy diệt mà hư không tánh chẳng hoại. Chúng sinh huyễn tâm trở lại nương huyễn diệt, các pháp huyễn diệt hết giác tâm chẳng động, nương huyễn nói giác cũng gọi là huyễn, nếu nói có giác là do chưa lìa huyễn, nói không giác là cũng như vậy, cho nên huyễn diệt, gọi là chẳng động. Này thiện nam! Tất cả Bồtát và chúng sinh ở đời sau, nên phải xa lìa tất cả huyễn hóa cảnh giới hư vọng. Do bền chắc gìn giữ tâm xa lìa vậy. Tâm như huyễn cũng lại xa lìa, xa lìa là huyễn cũng lại xa lìa, lìa xa lìa huyễn, cũng lại xa lìa, được không chỗ lìa tức trừ các huyễn. Thí như dùi lửa hai cây nhân nhau, lửa cháy cây hết, tro bay khói diệt, dùng huyễn tu huyễn cũng lại như vậy, các huyễn tuy hết, chẳng vào đoạn diệt. Này thiện nam! Biết huyễn tức lìa chẳng làm phương tiện, lìa huyễn tức giác, cũng không tiệm thứ. Tất cả Bồ-tát và chúng sinh trong đời sau nương đây tu hành, như vậy mới năng xa lìa các huyễn”. Giải thích: Biết huyễn tức lìa chẳng làm phương tiện là, vì huyễn không tướng cố định, tự tánh thường lìa. Lìa tức không vậy, tức tất cả muôn pháp phàm Thánh dơ sạch đều đồng huyễn như không, nào lại dụng phương tiện mà cầu lìa? Lìa huyễn tức giác cũng không tiệm thứ là, ngay lúc của lìa toàn thành Đại gia, tức lìa tức giác một chiếu bình đẳng, đã không trước sau, đâu có tiệm thứ ư?

Trong kinh Mật Nghiêm có kệ tụng nói:

“Tất cả các thế gian
Thí như lúc nóng đốt
Vì các tướng chẳng thật
Không mà vọng phân biệt
Giác nhân chỗ giác sinh
Chỗ giác nương năng giác
Lìa một thì không hai
Thí như sáng và ảnh
Không tâm cũng không cảnh
Lượng và chỗ lượng sự
Chỉ nương ở một tâm
Như vậy mà phân biệt
Pháp năng biết sở biết
Nương tâm mà vọng chấp
Nếu rõ sở biết không
Thì năng biết chẳng có
Tâm là tự tánh pháp
Và chỗ khát của người
Vào ở trong tám địa
Mà kia được thanh tịnh
Chín địa hành thiền định
Mười địa mở giác lớn
Nước pháp rượi đảnh đó
Mà thành chỗ đời quý
Pháp thân không có tận
Cảnh giới của chư Phật
Rốt ráo như hư không,
Tâm thức cũng như vậy”.

Lại nói: “Bấy giờ Bồ-tát Kim Cang Tạng nói cùng đại chúng rằng: Này các nhân giả! Thức Alại-da từ vô thủy lại, vì hý luận huân tập chỗ các nghiệp buộc luân hồi chẳng thôi, như biển nhân gió mà nổi sóng các thức, luôn sinh luôn diệt, chẳng đoạn chẳng thường, mà các chúng sinh chẳng tự hay biết, tùy ở tự thức hiện các cảnh giới. Nếu tự rõ biết như lửa đốt củi tức đều dứt diệt vào vị vô lậu, gọi là Thánh nhân”.

Trong kinh Lăng-già nói: “Đệ nhất nghĩa đế là, chỉ duy là tâm, các thứ tướng bên ngoài thảy đều không có, các hàng ngu phu chấp trước ác kiến khi dối tự tha, chẳng năng rõ thấy tất cả các pháp, như thật trú xứ. Đại Tuệ! Tất cả các pháp như thật là, nghĩa là năng rõ đạt chỉ chỗ tâm hiện”.

Trong kinh Thủ-lăng-nghiêm nói: “Phật bảo Văn-thù-Sư-lợi và cả đại chúng: Mười phương Như Lai và Đại Bồ-tát ở trong tự trú Tam-ma-địa đó, thấy và duyên thấy đều tướng chỗ tưởng, như hoa đốm hư không vốn không chỗ có. Thấy đây và duyên nguyên là Bồ-đề diệu tịnh minh thể, cớ sao ở trong có phải và chẳng phải phải? Văn Thù! Nay ta hỏi ông, như ông là văn-thù, lại có văn-thù là văn-thù hay không Văn-thù? Như vậy, bạch Đức Thế Tôn, con thật là văn-thù, không phải văn-thù. Tại sao? Nếu có phải là, thì hai Văn-thù, nhưng ngày nay con chẳng phải văn-thù. Ở trong thật không phải chẳng phải hai tướng. Phật dạy: Kiến diệu minh đây cùng các Không trần cũng là như vậy, vốn là Diệu minh vô thượng Bồ-đề tịnh viên chân tâm, vọng làm sắc không và cùng thấy nghe, như vầng trăng thứ hai. gì là phải trăng? gì là chẳng phải trăng? Văn-thù, chỉ một vầng trăng chân thật, khoảng giữa tự không có phải trăng chẳng phải trăng. Do đó, ông nay quán thấy và trần, các thứ phát minh gọi là vọng tưởng, chẳng năng ở trong ra phải vì chẳng phải phải do là tinh chân Diệu giác minh tánh vậy, năng khiến ông đưa ra ngón tay chẳng phải ngón tay”.

Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương nói: “Xuất gia làm Sa-môn, đoạn dục dứt ái, thấu rõ nguồn tự tâm, đạt lý gốc của Phật, ngộ pháp vô vi, trong không chỗ được, ngoài không chỗ cầu, tâm chẳng hệ thuộc đạo, cũng chẳng kết buộc nghiệp. Vô niệm vô tác, chẳng phải tu chẳng phải chứng, chẳng trải qua các quả vị mà tự sùng cao. Đó gọi là đạo”. Lại nói: “Phật dạy quán trời đất niệm chẳng phải thường, quán thế giới niệm chẳng phải thường, thấy Linh giác Bồ-đề, tâm nhận biết như vậy, được đạo nhanh chóng vậy”.

Trong kinh Kim Cang Tam-muội nói: “Phật dạy: Tâm của chúng sinh như vậy, thật không cảnh riêng biệt. Tại sao? Tâm vốn tịnh vậy. Lý không dơ uế vậy, vì nhiễm trần, gọi là ba cõi, tâm của ba cõi gọi là cảnh riêng biệt. Cảnh đó hư vọng từ tâm hóa sinh. Tâm nếu không vọng tức không cảnh riêng biệt. Bồ-tát Đại Lực nói: Tâm nếu tại tịnh, các cảnh chẳng sinh, tâm đây lúc tịnh, đáng không ba cõi. Phật dạy: Đúng vậy! Bồ-tát tâm chẳng sinh cảnh, cảnh chẳng sinh tâm. Tại sao? Chỗ thấy các cảnh chỉ là chỗ thấy tâm. Tâm chẳng huyễn hóa thì không chỗ thấy.

Trong kinh Đại Phương quảng Nhập Như Lai Trí Đức Bất Tư Nghì nói: “Thảy đều liễu đạt các pháp thật tướng tự tánh bình đẳng giống như hư không”. Lại nói: “Ở trong một pháp rõ tất cả pháp, trí không phân biệt thường hiện tại trước”. Giải thích: Một pháp, tức là tự tâm, tâm đây là tánh của các pháp bình đẳng, ở trong tự tánh rõ tất cả pháp, có gì phân biệt?

Trong kinh Bất Tăng Bất Giảm nói: “Nghĩa thậm thâm, tức Đệ nhất nghĩa đế, Đệ nhất nghĩa đế, tức chúng sinh giới. Chúng sinh giới là, tức Như Lai Tạng. Như Lai Tạng là, tức pháp thân”. Giải thích: Phàm, tâm là môn của các pháp Tổng trì(nắm giữ chung), là tánh của vạn hữu chân thật, nên xưng là Đệ nhất nghĩa đế, tạp tập tâm niệm nên gọi là chúng sinh, là giới của tâm tức chúng sinh giới. Từ tánh chân như khởi, gọi là Như Lai, không chỗ khuyết giảm, mới đặt là tạng. Năng tích tụ Hằng sa công đức nên gọi là pháp thân. Cho nên trong kinh Nhân Vương nói: “Một niệm đầu tiên đầy đủ tám muôn bốn ngàn Ba-la-mật”.

Trong kinh Tập Phước Đức Tam-muội nói: “Như lưu ly đồ vật báu tùy chỗ đang ở chẳng mất tự tánh. Như vậy, nếu có Bồ-tát trú Tam-muội đó, tuy là tại gia đang nói, người đó gọi là xuất gia, năng chẳng mất thể tánh pháp giới đó”. Giải thích: Là vì ngộ tâm mới năng đắc đạo, thấy tánh đó gọi là xuất gia. Nếu thấy tánh thì tại gia là xuất gia, nếu chẳng thấy tánh thì xuất gia là tại gia. Nên A-nan trước lúc chưa thấy tánh, tự sám hối là “con thân tuy xuất gia mà tâm chẳng vào đạo”.

Trong kinh Phật Địa nói: “Phải biết pháp giới thanh tịnh là, thí như hư không, tuy khắp các sắc trong tất cả tướng, mà chẳng thể nói có các thứ tướng, thể chỉ một vị. Như vậy, Như Lai pháp giới thanh tịnh, tuy là khắp đến các thứ tướng loại chỗ biết cảnh giới mà chẳng thể nói có các thứ tướng, thể chỉ một vị”. Giải thích: Pháp giới thanh tịnh là, tức pháp giới của một tâm không tạp, vì pháp làm giới, đâu có biên bờ, thì trong tất cả sắc đều có tánh hư không, huống gì trong tất cả pháp đều có tánh an lạc. Vì ẩn che tánh đây nên tùy chỗ biết cảnh, ứng tình lượng đó mà hiện các thứ cảnh giới. Nếu do hư không sáng tức có hư không hiện, nếu do sắc sáng tức có sắc hiện, phỉ tùy xứ phát sáng tức tùy xứ hiện, chỗ hiện các thứ đều là vọng tâm sinh, tướng chẳng thể được, chỉ một vị chân tâm lặng yên chẳng động.

Trong kinh Bất Không Quyên Sách nói: “Trì chân ngôn là, đem tâm đặt tâm quán tự tâm, ở tất cả chư Phật Như Lai rộng lớn sinh ra thù thắng tôn diệu”.

Trong kinh Bồ-tát Địa nói: “Mê Thánh đạo là chẳng biết lý đạo từ tự tâm sinh, chỉ thường khổ thân vì cầu giải thoát, như chó đuổi theo khối đất chẳng biết tìm gốc”. Do đó trong luận Đại Trang Nghiêm giải thích: Thí như sư tử lúc bị đánh bắn mà sư tử kia tìm đuổi lại người, thí như chó si bị người đánh ném, bèn đuổi theo sỏi đá, chẳng biết tìm gốc. Nói sư tử là dụ cho người trí tuệ hiểu cầu gốc đó mà diệt phiền não. Như chó si là, tức ngoại đạo dùng năm thứ lửa hơ thân, chẳng biết gốc tâm. Trong kinh Pháp Tập nói: “Năng biết tất cả chỉ là một tâm, gọi là tâm tự tại, ở trong lòng bàn tay đó ra các thứ trân báu, cũng như hư không mà làm kho lẫm, gọi là vật tự tại. Tất cả thân miệng ý nghiệp, lấy trí làm gốc, gọi là trí tự tại”. Lại nói: “Bồ-tát Quán Thế Âm thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Bồ-tát thọ trì một pháp, tất cả pháp chư Phật tự nhiên như tại trong lòng bàn tay. Tại sao? Chỗ một pháp đó gọi là đại bi”. Giải thích: Đây là đồng thể đại bi. Bi đây tánh khắp tất cả chúng sinh giới vậy, năng một cơn mưa đượm thấp khắp tất cả lan, ngãi đều tươi tốt, một niệm đều thâu, tà chánh đều tế độ. Trong kinh Đại Quán Đảnh nói: “Tỳ-kheo thiền tư (thiền quán và tư duy) không tưởng niệm khác, chỉ giữ một pháp, sau đó thấy chân”. Giải thích: Một pháp là tông, các trần không nương nhờ, tha duyên tự tuyệt, diệu tánh hiển hiện. Chí đang về một mà trí nào chẳng sáng, tìm dòng được nguồn mà nghi nào chẳng tan, yếu chỉ toát yếu, đây chẳng gì lớn hơn vậy.

Trong kinh Bảo Vân nói: “Tất cả các pháp, tâm là thượng thủ.

Nếu biết ở tâm thì năng biết được tất cả các pháp”. Trong kinh Ban-chu Tam-muội có kệ tụng nói:

“Chư Phật từ tâm được giải thoát
Tâm là không dơ gọi thanh tịnh
Năm đường bạch đẹp chẳng thọ nhiễm
Có hiểu được đây thành đạo lớn”.

Giải thích: Năm đường do tâm, tâm thể thường tịnh, tuy khắp cùng năm đường, chẳng thọ sắc kia, thì chìm trong năm thú mà chẳng đọa, ở một tướng mà chẳng thăng, mở pháp giới mà chẳng khắp, vào vi trần mà chẳng phải thiếu. Vì chân như một tâm, bản tánh thanh tịnh, không tăng không giảm vậy. Vì một pháp đây năng thâu tất cả, tợ nước của một giọt lạm thương cùng nước bốn biển tánh đượm không sai. Như hư không của trong hạt cải, đồng mười phương hư không bao dung chẳng phải riêng khác. Nên nói trời phải một để trong đất phải được một để sáng, muôn vật phải một để sống, nay được một mà Đạo thành. Lại nói: Thánh nhân nắm một làm thức thiên hạ, tức Tông Kính đây làm pháp thức của Thiền môn vậy.

Trong kinh Đại Phương Đẳng Đà-la-ni nói: “Xá-lợi-phất hỏi văn-thù rằng: “Thọ ký (nhận sự dự ghi) phải ở đâu cầu? Văn-thù Sư-lợi đáp: Phải cầu ở trong tánh như như”. Giải thích: Tánh như như tức là tánh chân tâm của tất cả chúng sinh.

Trong kinh Tư Ích nói: Chúng sinh như tức là lậu tận giải thoát như, vì tất cả pháp đều vào nơi như không có thể tánh, tức là chư Phật giải thoát, cầu ở trong tâm hành chúng sinh”.

Trong kinh Nhân Quả có kệ tụng nói:

“Tất cả tạo thiện ác
Đều từ tâm tưởng sinh
Cho nên chân xuất gia
Đều lấy tâm làm gốc”.

Trong kinh Đại Pháp Cự Đà-la-ni nói: “Phật bảo: Tỳ-xá-khư! Sắc tướng như vậy chẳng thể mắt thấy, phải biết kia là cảnh giới tâm thức, chỉ chỗ ý biết, cho nên không thể dùng mắt thấy. Tỳ-xá-khư! Tất cả chúng sinh chỗ có tâm ý chẳng thể nói phô, chỉ trí Phật biết”.

Trong kinh Tượng Pháp Quyết Nghi nói: “Ngày nay ngồi trong vô lượng số chúng, mỗi mỗi thấy chẳng đồng. Hoặc thấy Như Lai vào Niết-bàn, hoặc thấy Như Lai trú đời một kiếp, hoặc giảm một kiếp, hoặc vô lượng kiếp, hoặc thấy Như Lai thân cao trượng sáu, hoặc thấy thân nhỏ hoặc thấy thân lớn, hoặc thấy báo thân biển thế giới Liên hoa tạng, làm trăm ngàn ức Phật Thích-ca Mâu-ni, nói pháp môn tâm địa. Hoặc thấy pháp thân đồng như hư không không có phân biệt. Không tướng vô ngại. Khắp đồng pháp giới, hoặc thấy xứ đây núi rừng cây đất cát đá, hoặc thấy bảy báu, hoặc thấy xứ đây là xứ của ba đời chư Phật sở hành, hoặc thấy xứ đây tức là pháp cảnh giới chân thật của chư Phật chẳng thể nghĩ bàn”. Giải thích: Phải biết, Phật không định hình, tùy thức mà tự phân thô diệu, cảnh không khác tướng, nhân tâm mà không thấy ngắn dài, có thể gọi là pháp môn hiện chứng, lý quy về Tông Kính.

Trong kinh Như Lai hưng hiển có kệ tụng nói:

“Chỗ hành tánh chư Phật
Tất cả các chúng sinh
Đều tại trong tâm tánh
Tướng ngang tướng đồng tướng”.

Trong kinh Hiện Bảo Tạng nói: “Bồ-tát hỏi Văn-thù Sư-lợi: Bởi nhân duyên gì mà tất cả các pháp đều là Phật pháp? Văn-thù đáp: Như chỗ trí Phật giác. Lại hỏi: Như chỗ trí Phật nào giác? Cho đến, đáp: Giải hiểu tự tâm như vậy”.

Trong kinh Tu Hành Tư Phần nói: Tất cả các pháp thể tướng vi tế, thảy đều không tịch. Người phàm phu vì tự phân biệt sinh các cảnh giới. Trong tự phân biệt lại tự trói buộc, cho đến chưa rõ tự tánh của tâm, phân chia vậy chấp thuận thời, như tại trong mộng vọng đắm các cảnh. Lại nên quán sát tất cả ba cõi, thảy đều là không không chẳng ngại không”.

Trong kinh Nhập Lăng-già có kệ tụng nói:

“Khi ấy thần lực Phật
Lại hóa làm núi thành
Cao lớn trăm ngàn tướng
Nghiêm sức đối với Tu di.
Vô lượng ức vườn hoa
Đều là các rừng báu
Hương khí rộng lan tỏa
Thơm ngát chưa từng nghe
Trong mỗi mỗi núi báu
Đều hiện bày thân Phật
Cũng có La-bà na
Dạ-xoa các chúng trú
Mười phương cõi nước Phật
Và ở thân chư Phật
Phật tử Dạ-xoa vương
Đều nhóm lại núi kia
Mà thành Lăng-già đây
Chỗ có các chúng thảy,
Thảy đều thấy tự thân
Nào trong hóa Lăng già
Thần lực Như Lai làm
Cũng đồng Lăng-già kia
Các núi và vườn rừng
Báu trang nghiêm cũng vậy
Phật trong mỗi mỗi núi
Đều có Đại Tuệ hỏi
Như Lai đều vì nói
Chỗ chứng pháp trong thân
Ra trăm ngàn diệu thanh
Nói kinh pháp đây rồi
Phật và các Phật tử
Tất cả ẩn chẳng hiện.

La-bà-na, Dạ-xoa, bỗng nhiên thấy tự thân, tại cung điện của mình, lại chẳng thấy vật khác, mà phát khởi tư duy: Thấy vừa rồi ai làm, nói pháp đó là ai, là ai mà nghe pháp. Chỗ ta thấy pháp gì mà có các sự đây, cõi nước các Phật không, và thân các Như Lai, như các việc diệu đây, nay đều đi xứ nào, hay là chỗ mộng nhớ, hay là chỗ huyễn làm, hay là thật thành ấp, là thành Càn-thát-bà, hay là mờ vọng thấy, hay là Dương diệm khởi, là mộng thạch nữ sinh, là ta thấy vòng lửa, là thấy khói vòng lửa, chỗ ta thấy thế nào. Lại tự tư duy sâu, các pháp thể như vậy, chỉ cảnh giới tự tâm, trong tâm năng chứng biết, mà các phàm phu thảy, chỗ vô minh chướng lấp, tâm hư vọng phân biệt, mà chẳng năng hay biết, năng thấy và sở thấy, tất cả chẳng thể được, năng nói và sở nói, như vậy thảy cũng không. Phật pháp thể chân thật, chẳng có cũng chẳng không, pháp tướng luôn như vậy, chỉ tự tâm phân biệt, như thấy vật là thật, người kia chẳng thấy Phật, chẳng trú tâm phân biệt, cũng chẳng năng thấy Phật, chẳng thấy có các hành, như vậy gọi là Phật, nếu năng thấy như vậy, người ấy thấy Như Lai. Bậc trí quán như vậy, tất cả các cảnh giới, chuyển thân được diệu thân, tức là Phật Bồ-tát”.

Trong kinh Hư Không Bồ-tát có kệ tụng nói:

“Tất cả các pháp tướng
Chân thật không thể biết
Nếu người trú các ấm
Sáu căn đều che bít”.

Giải thích: Phải biết các pháp đều chân, không thấy không biết, vừa mới có biết thấy tức lạc vào thức ấm, thì một tâm chẳng thông, sáu căn tối bít, trọn chẳng năng thấy thấy của không thấy, biết biết của không biết. Nếu có thấy của thấy thì chẳng thấy tất cả, nếu không biết của biết thì không chỗ chẳng biết. Do đó, trong kinh Hiền Hộ nói: “Nếu lúc Bồtát quán tứ niệm xứ, không pháp có thể thấy, không tiếng có thể nghe, không nghe thấy thì không có pháp có thể phân biệt, cũng không có pháp có thể tư duy được, mà cũng chẳng phải mù điếc, chỉ là các pháp không thể thấy vậy, vì chỉ một chân tâm, ngoài thấy không pháp”.

Trong kinh Bảo Tích nói: “Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Phạm Chí Diệu Âm rằng: “Nay ông cớ sao mắt chẳng tạm bỏ, cho đến không tướng quán nói ta ư? Này thiện nam! Có một pháp nào gọi là Phật ư? Có một vật nào gọi là danh ư? Giải thích: Phải biết danh thể đều không, diệu chỉ có đó. Vì vậy, tuyệt quán mới thấy Như Lai. Quán của có không đều là hư vọng. Chẳng vào Tông Kính, đâu biện rõ chân Phật ư?

Trong kinh Thập Trú Đoạn Kết nói: “Tất cả các pháp thường tự tồn tại, chúng sinh chẳng đạt mà dấy phát trang nghiêm, pháp pháp tự sinh pháp pháp tự diệt, pháp pháp chẳng sinh, pháp pháp chẳng diệt, tánh chẳng chuyển dời, đó là đạo của Bồ-tát Đại sĩ, chẳng phải chỗ phàm tục kịp vậy”. Giải thích: Tất cả các pháp thường tự tồn tại là, chân tâm chẳng biến đổi, tánh tướng luôn như, chúng sinh chẳng đạt mà dấy phát trang nghiêm là, vì ngoại đạo chấp đoạn kiến, Tiểu thừa vô thường, Bồ-tát vì đối trị phàm tiểu, nên chẳng tận hữu vi, thường tu phước nghiệp. Chẳng trú vô vi vào sâu vực trí, trang nghiêm rộng lớn bủa mây muôn hạnh, niệm niệm viên mãn mười Ba-la-mật, nhổ bỏ cây cong ngoại đạo đoạn thường, ra khỏi rừng rậm tà kiến, cứu vớt thân lùn bé của tiểu quả thiên chân lên đáy hầm của giải thoát. Do đó trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Địa Viễn Hành thứ bảy, đang tu mười thứ phương tiện từ đạo thù thắng. Chỗ gọi là tuy khéo tu không không tướng không nguyện Tam-muội, mà từ bi chẳng bỏ chúng sinh, tuy được pháp bình đẳng của chư Phật mà vui ưa thường cúng dường Phật. Tuy vào môn quán không trí mà riêng tu tập phước đức, tuy xa lìa ba cõi, mà trang nghiêm ba cõi, tuy rốt ráo tịch diệt các đuốc phiền não mà năng vì chúng sinh khởi diệt lửa phiền não tham sân si, tuy biết các pháp như huyễn như mộng như ảnh như vang như ánh lửa như hóa như trăng trong nước, như tượng trong gương, tự tánh không hai mà tùy tâm tạo nghiệp vô lượng sai biệt. Tuy biết tất cả cõi nước giống như hư không mà năng dùng diệu hạnh thanh tịnh trang nghiêm cõi Phật, tuy biết thối thất chư Phật bản tánh không thân, mà dùng tướng tốt trang nghiêm thân đó, tuy biết âm thanh chư Phật, tánh không tịch diệt chẳng thể nói thô, mà năng tùy tất cả chúng sinh phát ra các thứ âm thanh thanh tịnh sai biệt. Tuy tùy chư Phật rõ biết ba đời chỉ là một niệm, mà tuy chúng sinh ý giải phân biệt, dùng các thứ tướng các thứ thời các thứ kiếp số mà tu hành”. Giải thích: Trong kinh nói tuy khéo tu không không tướng không nguyện Tam-muội là, đối trị phàm phu đắm trước có, theo thấy của vui ưa. Mà từ bi chẳng bỏ chúng sinh là đối trị hàng Nhị thừa đắm không, sợ thấy của khổ. Các câu sau đều đồng nghĩa như đây giải thích. Nên nói: Thanh văn sợ khổ, Duyên giác không bi, đều mất hạnh hai lợi (tự tha) của Bồ-tát.

Trong kinh Tu Chân Thiên Tử nói: “Tu Chân Thiên tử hỏi Văn-thù Sư-lợi: “Bồ-tát chẳng từ ba môn thoát mà tu đạo ư? Văn-thù Sư-lợi đáp: Này Thiên tử! Chẳng thể từ không mà thành đạo, cũng chẳng thể từ không tướng mà thành đạo, cũng chẳng thể ở không nguyện mà thành đạo. Tại sao?

Như vậy? Ở trong đó không tâm ý thức, niệm cũng không động vậy. Có tâm ý thức niệm niệm động là mới thành đạo đó vậy”. Giải thích: Nếu thủ ba môn giải thoát làm chứng là, tức chìm đắm biển thật tế, trái với nguồn linh giác, bỏ tánh theo không, sao thành tựu đại đạo? Nếu rõ ngay thần hiểu tự tánh, niệm niệm Bồ-đề quả mãn, chẳng đọa lạc tà không của đoạn kiến, đâu giẫm vào thật có của thường kiến, ngay đó khởi ý đại dụng hiện tiền, không được không nương chẳng phải lấy chẳng phải bỏ. Từ chân khởi hành, thể dụng cùng thâu, vì hành khế chân cuộn buông một khoảng. Có thể gọi là tâm tâm hợp đạo, niệm niệm ngầm chân vậy. Nên trong Hoàn Nguyên Quán nói: “Dụng thì sóng vọt biển trào, toàn thân thể để vận hành. Thể thì gương sạch nước lắng, khắp tùy duyên mà hội tịch. Đó thì chẳng lìa dụng của thể. Dụng là sóng vọt, chẳng lìa thể của dụng, thể thì trong lặng, thể tuy trong lặng mà thường tại muôn duyên. Dụng tuy sóng vọt mà luôn ngầm một khoảng.

Trong kinh Đại Phương Quảng Sư Tử Hống nói: “Phật bảo Bồ-tát Điện Man rằng: Này thiện nam! Pháp chỉ một chứ, chỗ gọi là không chữ, vốn không nói phô, chỗ nào nói phô? Này thiện nam! Phải biết không nói là chân nói. Khi ấy Bồ-tát Tịnh

Thân nương oai thần của Phật mà thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu không chỗ nói đó là chân nói là câm nín chẳng nói đều nên là nói pháp. Phật dạy: Đúng vậy! Đúng vậy, này thiện nam! Như điều ông nói chẳng phải chỉ câm nín là nói pháp, chẳng câm nín cũng đều nói pháp, mà chẳng biết pháp. Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là tất cả chúng sinh nói pháp mà chẳng biết pháp? Này thiện nam! Như người vừa mới sinh đã mù, ở trong ánh sáng mặt nhật mà chẳng thấy mặt nhật, người bên cạnh vì nói, do âm thanh đó nên mới biết có mặt nhật. Nói pháp như vậy đều vào pháp giới. Pháp giới không chữ, lìa tánh các chữ, chẳng phải các chúng sinh mà năng tuyên biện”. Giải thích: Xét biết người chưa đạt tông, nương thông thấy hiểu, tùy người khác nói chuyển vọng có chỗ nói, như người mù kia chẳng thấy ánh sáng mặt nhật, nghe tiếng người bên cạnh nói, đâu cùng thể mặt nhật, nếu mắt mở thân thấy, tức biết vốn không danh tự nói khô, nên biết có nói là tổn thương yếu chỉ, chẳng thấu đạt pháp giới. Do đó, trong kinh nói: Các pháp như vậy đều vào pháp giới. Pháp giới không chữ, lìa tánh các chữ, nếu năng thấu đạt một chữ Duy tâm pháp giới, tự nhiên tuyệt đường ngôn ngữ. Pháp nhĩ hiểu biết tình mất. Đâu là không biện rõ, trí chẳng năng cùng ư? Như trong Triệu Luận nói: “Thích-ca đóng thất ở Makiệt, Tịnh Danh ngậm miệng ở Tỳ-da, Tu-bồ-đề xướng không nói để hiển bày đạo, Thích Phạm tuyệt nghe mà mưa hoa”. Đó thì lý làm thần ngự, miệng vì đó nín, đâu gọi là không biện, biện chỗ chẳng năng nói vậy.

Trong kinh Phổ Siêu Tam-muội, phẩm Quyết Hồ Nghi nói: “Khi ấy, vua A-xà-thế thưa: Cúi mong Nhu Thủ giãi thích điều tôi hồ nghi! Nhu Thủ đáp: Chỗ Đại vương nghi ngờ là chỗ chư Phật đông nhiều như số cát sông Hằng cũng chẳng năng giải quyết. Khi đó, vua tự xét không cứu hộ được, bèn từ giường mà rơi xuống, như đốn chặt cây lớn gãy ngã nơi đất. Đại Ca-diếp bảo: Đại vương tự nên an, chớ lo sợ, chớ lấy làm sợ. Tại sao như vậy? Nhu Thủ là người Đồng chân mặc áo giáp Đại trí, thiện quyền phương tiện mà nói lời đó, có thể thư thả mà hỏi. Khi đó, vua liền đứng dậy hỏi Nhu Thủ rằng: Vừa rồi nói chư Phật đông nhiều như số cát sông Hằng chẳng năng vì tôi mà giải quyết hồ nghi ư? Nhu Thủ bảo: Ý vua nghĩ thế nào? Giả như có người mà tự nói là ta dùng bụi trần mờ mịt tro khói mây mốc làm ô nhiễm hư không, sao có thể làm chăng ư? Vua đáp: Chẳng năng ô nhiễm. Nhu Thủ lại hỏi: Giả sử khiến Đại vương lấy hư không đây tẩy đó khiến sạch, có thể làm chăng?

Đáp: Chẳng năng sạch. Nhu Thủ bảo: Vì vậy, vừa rồi là nói phô chư Phật Như Lai số nhiều như cát sông Hằng v.v... chỗ chẳng năng giải quyết vậy”.

Giải thích: Tất cả chúng sinh chẳng rõ tự tánh tâm thanh tịnh nên vọng sinh dơ sạch mê ngộ tự chìm mất, bèn ở trong không nghi, mà khởi nghi, ở trong không quyết định mà cầu quyết. Nếu năng thật rõ, chợt nhiên ý tiêu, tức thấy tất cả các pháp nhiễm tịnh đều đồng tánh hư không. Đã đạt tánh hư không chẳng thể nhiễm tịnh mới ngộ bản tâm chưa từng mê ngộ. Giả sử có nói lý của không sinh không được, đều là một kỳ hạng tùy nghi phương tiện. Nếu vào Tông Kính, diệu chỉ rõ ràng, còn không nghi và không nghi, sao ôm trong lòng quyết và chẳng quyết ư?

Trong kinh Nguyệt Đăng Tam-muội có kệ tụng nói:

“Thí như có đồng nữ
Đêm ngủ mộng sinh con
Sinh mừng chết buồn thương
Các pháp cũng như vậy
Như người uống rượu say
Thấy đất đều xoay chuyển
Kỳ thật chưa từng động
Các pháp cũng như vậy
Như trăng hư không sạch
Ảnh hiện ở ao trong
Chẳng hình trăng vào nước
Các pháp cũng như vậy
Như người tự đẹp mừng
Nắm gương mà soi mặt
Gương tượng chẳng thể được
Các pháp cũng như vậy
Như người nơi hang núi
Ca khóc nói cười vang
Nghe tiếng chẳng thể được
Các pháp cũng như vậy”.

Giải thích: Cuồng say thấy nghe, sự nào chân thật, cảnh giới mê mộng buồn mừng đều dối. Hình của trong gương nhân chỗ nào khởi? Vang của trong hang khởi từ đâu lại. Do đó, trong kinh Nhập Lăng-già nói: “Phật bảo vua Lăng-già: Thí như có người ở trong gương nước tự thấy ảnh tượng họ, ở trong đèn trăng tự thấy ảnh họ, ở trong hang núi tự nghe âm vang họ, bèn sinh phân biệt mà khởi thủ trước. Đây cũng như vậy, pháp và chẳng phải pháp chỉ là phân biệt. Do phân biệt nên chẳng năng lìa bỏ, chỉ là thường trú tất cả hư vọng, chẳng được tịch diệt. Tịch diệt là chỗ gọi là một tâm, một tâm là tối thắng Tam-muội, từ đây năng sinh tự chứng Thánh trí. Lấy Như Lai tạng mà làm cảnh giới.

Trong kinh Pháp Vương nói: “Ở trong các pháp, nếu nói cao thấp tức gọi là nói tà, miệng đó sẽ vỡ, lưỡi đó sẽ rách. Tại sao? Tất cả chúng sinh tâm dơ đồng một dơ, tâm sạch đồng một sạch, chúng sinh nếu bệnh đồng một bệnh, chúng sinh cần thuốc nên phải một thuốc, nếu nói nhiều pháp, tức gọi là điên đảo, tại sao? Vì vọng phân biệt chia chẻ pháp thiện ác phá tất cả pháp vậy, tùy cơ nói pháp, đoạn Phật đạo vậy”. Giải thích: Đồng một bệnh phải một thuốc là, vì một tâm làm bệnh, trở lại lấy một tâm làm thuốc, vì tâm sinh thì pháp sinh, tâm diệt thì pháp diệt vậy. Nếu nói nhiều pháp tức gọi là điên đảo là, nếu chắc thật tự tâm còn chẳng được một, huống gì nói nhiều, vì thấy pháp ngoài tâm tức thành điên đảo, như tâm cuồng thấy quỷ, mắt bệnh sinh hoa, trong không chấp có, đâu thành chân chánh. Tùy có nói pháp, đoạn Phật đạo vậy là, chấp có cơ trước sớm trái đại chỉ bèn nói nhiều pháp thật hoại chánh tông. Như trong kinh Pháp Hoa nói: “Nếu có người rất mến thích pháp cũng chẳng vì nói nhiều”. Vì tâm pháp sâu mầu, chẳng phải nhiều chẳng phải ít. Đã chẳng thể nói nhiều, cũng chẳng được nói ít, vì chẳng phải nhiều nên chẳng tăng, vì chẳng ít nên chẳng giảm. Vì chẳng tăng nên chẳng sinh, vì chẳng giảm nên chẳng diệt. Nên trong kinh Hoa Nghiêm có kệ tụng nói:

“Tất cả pháp chẳng sinh
Tất cả pháp chẳng diệt
Nếu năng hiểu như vậy
Chư Phật thường hiện tiền”.

Lại, Bồ-tát Dược Vương nói: “Ta bỏ hai tay hẳn được thân của Phật sắc vàng”. Hai tay tức hai pháp đoạn thường, nếu xả bỏ kiến sinh diệt đoạn thường, thì tâm Phật hiện tiền chóng thành Phật thể, nên nói hẳn được thân của Phật sắc vàng.

Trong kinh Vô Nhai Tế Tổng Trì nói: “Khoảnh khắc của một niệm năng biết ba đời tất cả các pháp thảy đều bình đẳng, không gì chẳng thông đạt. Người đó trọn không hành khác cũng không niệm khác.” Giải thích: Kinh Vô Nhai Tế Tổng Trì là, dùng tên nêu tông, nghĩa là chân tâm không ngằn mé, nắm giữ chung muôn pháp, gồm về một thể, nên nói là bình đẳng, người thông đạt như vậy trọn không hành khác vì biết ngoài tâm không pháp có thể làm sai biệt vậy. Cũng không niệm khác là, trong tâm không pháp có thể khởi tư duy. Do đó, trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thập Hồi Hướng nói: “Lúc vị Đại Bồ-tát hồi hướng như vậy, mắt trọn chẳng thấy cõi Phật chẳng sạch, cũng chẳng thấy tướng chúng sinh khác, vì tâm cảnh một như vậy”.

Trong kinh Bất Thối Chuyển Pháp Luân nói: “Khéo biết tất cả chúng sinh không tướng đều đồng pháp giới, chẳng phải thấy chẳng phải chẳng thấy. Tại sao? Pháp giới tức là tâm giới của tất cả chúng sinh, đó gọi là tin hành”.

Trong kinh Trì Thế nói: “Ba cõi chỉ đều là thức là tâm ý thức, cũng không hình không phương, chẳng tại bên trong pháp, chẳng tại bên ngoài pháp, phàm phu là chỗ hư vọng tương ưng trói buộc, ở trong thức ấm tham trước ở ngã hoặc ngã sở.”

Trong kinh Anh Lạc nói: “Phật dạy: Nay ta có mười bốn ức đại chúng, dùng miệng Kim cang nói nghĩa quyết định. Phật tử! Xưa trước nói pháp hội ta có một ức tám ngàn Đại sĩ vô cấu, tức ở pháp hội đạt một nguồn tánh, chóng giác không hai, tất cả các pháp đều một tướng hợp, từ pháp hội ra mỗi mỗi đến khắp mười phương giảng nói Anh Lạc đây”. Lại nói: “Hành từ tâm được, tâm tịnh đạo thành”.

Trong kinh Tư Ích nói: “Thánh nhân không chỗ đoạn, phàm phu không chỗ sinh, là hai chẳng ra tướng của pháp tánh bình đẳng”. Giải thích: Vì phàm phu mê chấp ngoài tâm có pháp vọng thấy pháp sinh, nếu Thánh nhân thấy rõ ngoài tâm không pháp, không pháp có thể sinh, rõ phàm không sinh tức Thánh không đoạn thì là vào pháp môn một tâm chẳng hai, nên nói chẳng ra ngoài tướng của pháp tánh bình đẳng. Vì không có một pháp nào vượt ngoài pháp tánh vậy. Như trong kinh Hoa Nghiêm có kệ tụng nói:

“Pháp tánh ở khắp tất cả xứ
Tất cả chúng sinh và cõi nước
Ba đời đều ở không có thừa
Cũng không hình tướng mà đáng được”.

Trong kinh Thắng Tích Bồ-tát Sở Giải Chư Pháp nói: “Pháp chỉ một chữ, chỗ gọi là không chữ, vốn không nói phô, phải biết không nói đó là chân nói”. Giải thích: Tâm là vua trong một chữ nhiếp hết biển giáo của vô biên, tâm là mẹ trí của chư Phật, diễn ra chân phân tích của vô tận, nếu năng phát minh quyết định tin vào, thì Như Lai thường chẳng nói pháp, đó gọi là đầy đủ nghe nhiều, cũng là nghĩa thú của nghe ít hiểu nhiều, tức yếu chỉ đây vậy. Nên trong Niết-bàn sớ nói: “Nghĩa của Niếtbàn mênh mông vô tận, muốn giơ một lên mà muốn che khắp, tiếp mỗi chỉ vị mặn mà nói biển”, tức một tâm vậy.

Trong kinh Pháp cú có kệ tụng nói:

“Sum-la và muôn tượng
Chỗ ấn của một pháp
Thế nào trong một pháp
Mà thấy có các thứ”.

Lại nói: “Tuy tụng ngàn chương câu nghĩa chẳng chánh, chẳng như một cốt yếu nghe có thể diệt ý”. Giải thích: Tuy tụng ngàn chương là chỉ theo âm thanh chẳng biết chánh nghĩa, chẳng như một cốt yếu là, nếu rõ một tâm là cốt yếu của muôn pháp, đạt tông thì dứt ý, ý dứt thì cảnh không, vì muôn pháp thường hư tùy ý sinh hình vậy. Trong kinh Bất Tư Nghì Quang Bồ-tát có kệ tụng nói:

“Tất cả chẳng như pháp
Đồng trú ở trong như
Hiểu rõ biết đó rồi
Không lỗi không công đức”.

Giải thích: Tất cả chẳng như pháp là, tức là ngoài tâm biến kế vọng chấp pháp của không thể. Nếu rõ vọng không thật, thì tất cả các pháp đồng trú trong một tâm như. Rõ biết như vậy thì rõ ngoài không pháp có thể đối đãi, nhiễm tịnh đều không vậy. Lại thêm, trong kinh Tư Ích nói: “Chỗ Bồ-tát giáo hóa chúng sinh không có công đức vì không chỗ đối vậy”. Nhân có lỗi hoạn mới hiển bày công đức, vì chân tâm khắp tất cả xứ vậy. Lại không một pháp có thể làm lỗi hoạn cũng không năng trị công đức. Cả hai đều chẳng lập, nên nói là không lỗi không công đức.

Trong kinh Chư Pháp Vô Hành nói: “Thiên tử Thiện Trú hỏi văn Thù-Sư lợi rằng: “Nếu có người lại cầu xuất gia, phải đáp thế nào? văn-thù Sư-lợi bảo: Nếu chẳng phát tâm xuất gia, phải dạy ông chân pháp xuất gia. Tại sao? Nếu cầu xuất gia là cầu báo ba cõi và cả năm dục ở vị lai v.v... kia chẳng thấy tâm nên chẳng chứng pháp tâm vô vi nên chẳng phát tâm”. Giải thích: Nếu chứng tự tâm tức vào lý của vô vi, nếu là lý của vô vi, thì không tâm có thể phát, đó là chân phát tâm là chân xuất gia.

Trong kinh Pháp Hoa Tam-muội Quán nói: “Chỗ gọi là mười phương ba đời chúng sinh, hoặc lớn hoặc nhỏ cho đến một xưng Nam mô Phật là đều sẽ làm Phật, chỉ một Đại thừa không hai không ba, tất cả các pháp một tướng một môn, chỗ gọi là không sinh diệt, rốt ráo không tướng. Chỉ có Đại thừa đây, không có hai vậy. Tập học quán như vậy là năm dục tự đoạn, năm cái tự trừ, căm căn tăng trưởng tức được thiền định”. Giải thích: Một xưng Nam-mô Phật đều sẽ làm Phật là, như pháp giới hàm sinh ba thừa năm tánh năng quy mạng một tâm thì không gì chẳng thành Phật. Vì lìa tự tâm một tướng một môn, ngoài ra không có pháp nào có thể làm trở về nương tựa, không hai không ba, rốt ráo viên tịch, quán như vậy là năm dục tự đoạn, vì cảnh sáu trần tùy vọng niệm niệm có, không niệm thì không cảnh, cần gì phải đoạn. Nên năng chẳng đoạn năm dục mà tịnh các căn, các căn đã tịnh năm cái tự trừ, năm căn năm lực tự nhiên tăng trưởng, chẳng chỉ tức được thiền định, cho đến sáu độ muôn hạnh thảy đều thành tựu. Như trong kinh Kim Cang Tam-muội nói: “Không tâm chẳng động đủ sáu Ba-la-mật, tâm không thì tất cả đều không”. Nên nói chỉ có một Đại thừa, không có hai vậy.

Trong kinh Tạp Tạng nói: “Làm thiện thì phước theo, tạo ác thì hoạ đuổi, vang đó ứng tiếng thiện ác như âm, chẳng phải chỗ trời rồng quỷ thần trao, chẳng phải chỗ cha ông trước làm. Tạo đó là tâm, thành đó là thân miệng vậy. Đức Phật nói kệ tụng rằng: “Tâm là gốc pháp, tâm tên tâm khiến, trong tâm niệm ác tức nói tức hành, tội khổ tự tin, xe nghiêng ở vết. Tâm là gốc pháp, tâm tên tâm khiến, trong tâm niệm thiện, tức nói tức làm, phước lạc tự tìm, như ảnh theo hình.

QUYỂN 95

Trong kinh Thắng Thiên Vương Bát-nhã nói: “Ba đời Như Lai đồng tại một xứ, tự tánh thanh tịnh pháp giới vô lậu, hoặc một hoặc khác chẳng thể nghĩ bàn, trí tuệ thần lực đồng một pháp giới, Bát-nhã phương tiện hai cùng bình đẳng”. Giải thích: Đồng tại một xứ tự tánh thanh tịnh là, tất cả phàm Thánh đều lấy không chỗ trú mà trú tự tánh tâm thanh tịnh một xứ của Bí mật tạng. Hoặc một hoặc khác chẳng thể nghĩ bàn là, vì báo thân là tướng của cõi diệu, vào nhau giúp nhau, nên nói là hoặc khác, vì pháp thân là tánh của tự thể, cùng khắp tương tức nên nói là hoặc một, như hạt cải, bình, đèn, nhà đồng khác khó lường, nên nói là chẳng nghĩ bàn, Bát-nhã phương tiện hai cùng bình đẳng là, chư Phật dùng Bát-nhã phương tiện, thường phụ giúp nhau. Tại sao? Vì Bát-nhã Quán không, chẳng trú sinh tử, vì phương tiện giẫm có, chẳng trú Niết-bàn. Vì chẳng trú sinh tử nên mắt trí thường sáng, vì chẳng trú Niết-bàn nên tâm bi luôn tiếp nối. Bi trí thể đồng, nên gọi là bình đẳng.

Trong kinh Tối Thắng Vương nói: “Lìa trí không phân biệt là không trí thắng, lìa cảnh như như không cảnh giới thắng”. Giải thích: Tất cả cảnh giới đều là ý ngôn phân biệt, thì không cảnh Duy thức, nếu rõ thức không, chỉ một chân tâm, thành trí không phân biệt. Đây là trí của không gì bằng, thuyết của Đệ nhất. Đâu có trí khác lại năng vượt quá đó. Tánh chân như một tâm đây là chỗ nương tựa của muôn pháp. Lìa ngoài đây thì xứ nào riêng có mảy trần năng làm nêu chỉ? Nếu lìa cảnh trí một tâm đây hoặc có chỗ thấy đều là mắt lòa tâm cuồng chẳng thấy chân thật. Do đó, trong kinh Như Lai Bất Tư Nghì Cảnh Giới nói: “Như nhiều người mù đồng ở một xứ, thấy mỗi sai biệt, chẳng ngại lẫn nhau, đều do mắt mù lòa chẳng thấy chánh sắc, chúng sinh cũng vậy, sắc tánh vô ngại, tâm duyên khác vậy, che nơi chánh thấy chẳng rõ chân thật”.

Trong kinh Thiền Yếu nói: “Bồ-tát Khí Chư Uẩn bạch Đức Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Thiền môn bí yếu là có một môn hay là nhiều môn? Nếu có nhiều thì pháp có hai. Nếu là một, cớ sao chứa nhận vô lượng vô biên chúng sinh mà chẳng chật hẹp? Phật dạy: Này thiện nam! Môn thiền yếu đây, chẳng phải là một, cũng chẳng phải là nhiều số. Tất cả chúng sinh tánh đồng hư không. Tuy đồng hư không mà mỗi ở thân tâm tự có thiền môn, thật chẳng cộng tu. Tại sao? Ngậm miệng chẳng nói, ngầm hợp ở lý, miệng là thiền môn, nhiếp mắt phân biệt, hỗn hợp không khác, mắt là thiền môn, chỗ tai nghe tiếng, rõ biết hư vọng, rốt ráo tịch diệt giống như người điếc, tai là thiền môn cho đến thân ý cũng lại như vậy. Này thiện nam! Nhiếp các trần lao vào môn chẳng hai, rỗng suốt thanh hư, trong lắng ngưng lặng”. Giải thích: Tâm là thiền môn, thân là tuệ tu, thiền năng suốt lặng lẽ, tuệ năng khởi chiếu. Lặng chiếu không sai mới vào bình đẳng. Như trong Vĩnh Gia Tập nói: “Do Xa-ma-tha nên tuy lặng mà thường chiếu. Do Tỳ-bà-xà-na nên tuy chiếu mà thường lặng. Do Ưu-tất-xoa nên chẳng phải chiếu mà chẳng phải lặng. Chiếu mà thường lặng nên nói tục mà tức chân, tịch mà thường chiếu nên nói chân mà tức tục, chẳng phải tịch mà chẳng phải chiếu nên ngậm miệng ở Tỳ-da”. Nên biết, nếu rõ niệm vốn chẳng khởi, thường tại ngang giữ, chẳng xét cảnh nhân niệm sinh, chợt ngộ chân tâm cũng động. Do đó, trong kinh Viên Giác nói: “Mây dừng trăng trôi, thuyền đi bờ dời”. Chẳng biết mây của vọng tưởng tự bay, trăng chân sao động, đâu ngộ thuyền của phan duyên thường trôi, bờ giác chẳng phải dời. Như trong lời tựa Viên Giác Sớ nói: Tâm vốn là Phật, do niệm khởi mà nổi chìm, bờ thật chẳng dời, nhân thuyền đi mà chợt chạy”.

Trong kinh Đại Thọ Khẩn-na-la Vương Sở Vấn nói: “Bấy giờ Bồ-tát Thiên Quan hỏi Đại Thọ Khẩn-na-la Vương rằng: “Trong đàn cầm như vậy, diệu kệ từ đâu mà ra?

Đáp: Này thiện nam! Từ trong âm thanh các chúng sinh ra. Lại hỏi: Âm thanh các chúng sinh từ đâu mà ra?

Đáp: Này thiện nam! Âm thanh chúng sinh từ hư không ra. Cho đến, phải biết âm thanh đó tức tánh hư không, nghe rồi bèn diệt, nếu đó diệt rồi đồng tánh hư không trú. Cho nên các pháp hoặc nói hay chẳng nói đồng tánh hư không, cho nên phải biết chẳng xả bỏ khoảng hư không. Như âm thanh phân các pháp cũng vậy. Cho đến, lại vì âm thanh gọi là nói phô, nhưng âm thanh đó không có trú xứ, nếu không trú xứ thì không bền thật, thì gọi là thật. Nếu đó là thật thì chẳng thể hoại. Nếu chẳng thể hoại thì không có khởi, nếu không có khởi thì không có diệt, nếu không có diệt gọi là thanh tịnh. Nếu là thanh tịnh thì gọi là bạch tịnh, nếu là bạch tịnh thì là không dơ, nếu là không dơ thì là ánh sáng, nếu là ánh sáng thì là tâm tánh, nếu là tâm tánh thì là vượt qua nếu là vượt qua thì là vượt qua các tướng, nếu vượt qua các tướng thì là chánh vị. Nếu Bồ-tát tại chánh vị, thì gọi là được vô sinh pháp nhẫn”. Giải thích: Vào chánh vị một tâm thì cứu cánh chỉ về, chỉ bày sau cùng, lời cùng lý cực lại không qua đó vậy.

Trong kinh Đại Phương Đẳng Tu-đa-la Vương nói: “Bấy giờ Đức Thế Tôn nói cùng vua Tần-bàsa rằng: “Hành thức diệt rồi, thức mới đầu tiếp sinh, hoặc sinh trong cõi trời, hoặc sinh trong loài người, hoặc sinh địa ngục, hoặc sinh súc sinh, hoặc sinh ngạ quỉ. Đại vương! Vì thức mới đầu chẳng đoạn, tự tâm tương tục, ứng xử thọ báo mà sinh cộng trung. Đại vương! Quán các sinh diệt, lại có một pháp từ đời này đến đời vị lai. Đại vương! Hành thức như vậy lúc chung gọi đó là diệt. Thức mới đầu lúc khởi, gọi đó là sinh. Đại vương! Hành thức lúc diệt, đi không chỗ đến. Thức mới đầu lúc sinh, không từ đâu lại. Tại sao? Thức tánh lìa vậy. Đại vương! Hành thức hành thức không, lúc diệt nghiệp diệt không. Thức mới đầu thức mới đầu không, lúc sinh nghiệp sinh không, quán các nghiệp quả cũng chẳng mất hoại. Đại vương! Phải biết, vì thức mới đầu tâm tương tục chẳng đoạn mà thọ quả báo”.

Trong kinh Hoa Thủ nói: “Phật dạy: Lại nữa, Kiên Ý! Bồ-tát do khéo tu tập một tướng Phật, nên tùy ý tự tại muốn thấy chư Phật đều năng hiện tiền. Kiên Ý! Thí như Tỳ-kheo tâm được tự tại, quán tất cả nhập, thủ tướng sắc xanh năng được tin hiểu, tất cả thế giới đều một tướng xanh. Chỗ người đó duyên chỉ một sắc xanh, quán pháp trong ngoài đều một sắc xanh, ở trong duyên đó được lực tự tại vậy. Kiên Ý! Bồ-tát cũng lại như vậy, tùy chỗ nghe danh tự chư Phật đó tại thế giới nào, tức thủ tướng Phật và thế giới, đều duyên hiện tiền. Bồ-tát khéo tu tập duyên niệm Phật đây nên quán các thế giới thảy đều làm Phật. Thường khéo tu tập quán lực đó nên bèn năng rõ thấu tất cả các duyên đều là một duyên, nghĩa là duyên Phật hiện tại, đó gọi là môn một tướng Tam-muội”.

Trong kinh Phật Thăng Đao-lợi Thiên Vị Mẫu Thuyết nói: “Phật bảo: Thiên tử Nguyệt Thị! Sao gọi là Bồ-tát hiểu rõ tất cả giống như hư không? Ba cõi đó là chỗ làm của tâm, chẳng chấp tâm đó không có sắc tượng, cũng không thể quán, không có xứ sở, không có dạy khiến, giống như huyễn hóa, nhân gốc tâm đó mà cầu các pháp, thì chẳng thể được, nếu do ở tâm chẳng cầu nơi tâm thì không chỗ được. Tâm chẳng thể đợi, vì chẳng được tâm, tất cả các pháp cũng chẳng thể được, các pháp thì không có pháp, không hình loại, tưởng cũng không có ảnh, mà không chỗ có và cùng thật đế cũng không chỗ thấy, không chỗ thấy là, ở tất cả pháp tâm không chỗ vào, biết tất cả pháp không chỗ thành tựu cũng không chỗ sinh thí như hư không”.

Trong kinh Bồ-tát Niệm Phật Tam-muội nói: “Tâm như Kim cang, căn lành xuyên suốt tất cả pháp vậy. Tâm như áo Ca-lân-đề mềm mại, căn lành năng tạo nghiệp vậy. Tâm như biển lớn, căn lành gồm các nhóm giới vậy. Tâm như đá bằng, căn lành trú trì tất cả sự nghiệp vậy, tâm như núi chúa, căn lành phát sinh tất cả thiện pháp vậy. Tâm như đại địa, căn lành mang giữ sự nghiệp chúng sinh vậy”.

Trong kinh Diễn Đạo Tục nghiệp nói: “Phật dạy: Trưởng giả! Trí tuệ có bốn sự: Một, giải hiểu ở thân không, bốn đại hợp thành tan hoại vốn không tên chủ. Hai, sinh ba cõi đó đều chỗ tâm làm, tâm như huyễn hóa, tựa lập các hình. Ba, rõ biết năm ấm vốn không xứ sở, tùy chỗ đó đắm trước nhân mà có tình đây. Bốn, hiểu mười hai duyên vốn không cội nguồn, nhân đối mà hiện. Đó là bốn, Đức Phật nhân đó nói kệ tụng rằng: “Đều rõ thân đó không, bốn đại mà hợp thành, tan diệt không xứ sở, từ tâm mà được sinh. Năm ấm vốn không căn, chỗ đắm lấy làm tên, mười hai duyên không mối, rõ đây đến Đại an”.

Trong kinh Thiện Dạ nói: “Phật dạy: Pháp của quá khứ, không nên nghĩ tìm, pháp của vị lai không nên mong cầu, pháp của hiện tại không nên trú đắm. Nếu năng sở như vậy, thì giải thoát ngay đây”. Giải thích: Đây là duyên cảnh của ba đời, là thức tương tục, nếu người tâm ban đầu chưa được một niệm chẳng sinh, hoặc niệm trước chợt khởi, chỉ niệm sau chớ tiếp tục, cũng dần tương ưng. Nếu muốn chóng tiêu, quán ngay một niệm, lúc sinh chẳng được khởi ở tự nhiên khoảng trước sau dứt, ngay đó rỗng lặng, như trong kinh Kim Cang Bátnhã nói: “Tâm quá khứ chẳng thể được, tâm vị lai chẳng thể được, tâm hiện tại chẳng thể được”. Vì không được nên tự chẳng tương tục.

Trong kinh Nhập Nhất Thiết Phật Cảnh Giới nói: “Phật dạy: Nếu được tu hành pháp chánh niệm là, kia không một pháp chẳng phải là Phật pháp. Tại sao? Vì giác ngộ tất cả pháp không vậy. Cho đến, Văn-thù Sư-lợi! Nói tu hành chánh niệm là chẳng thủ chẳng xả, tức gọi là chánh niệm, chẳng quán chẳng khác, gọi là hành, chẳng đắm chẳng buộc chẳng thoát, gọi là hành,. Chẳng đi chẳng lại, gọi là hành, văn

-thù Sư-lợi! Chánh niệm hành là, xứ kia không hành không lợi không quả không chứng. Tại sao? Văn-thù Sư-lợi! Tâm tự tánh thanh tịnh vậy. Tâm kia khách trần phiền não nhiễm, mà tự tánh tâm thanh tịnh chẳng nhiễm, tức thể không nhiễm. Chẳng nhiễm là, xứ kia không pháp đối trị vậy. Dùng pháp gì đối trị năng diệt phiền não đây. Tại sao? Thanh tịnh kia chẳng phải tịnh tức là vốn tịnh. Nếu vốn tịnh là, tức là chẳng sinh, nếu chẳng sinh là, kia tức chẳng nhiễm. Nếu chẳng nhiễm là, kia chẳng pháp lìa nhiễm là, kia diệt tất cả nhiễm, dùng pháp gì diệt tất cả nhiễm? Kia chẳng sinh. Nếu chẳng sinh tức là Bồ-đề, Bồ-đề, gọi là bình đẳng. Bình đẳng gọi là chân như, chân như gọi là chẳng khác. Chẳng khác gọi là như thật, trú tất cả pháp hữu vi vô vi”. Giải thích: Chỉ rõ không sinh tức vào bình đẳng, nói bình đẳng là tánh của tất cả hữu vi vô vi như thật, thấy tánh đây vậy, vì nghĩa không trú trú trong tất cả pháp. Nếu chẳng đạt thấu tất cả pháp là tánh của một tâm cho nên bình đẳng không sinh. Tại nhiễm lìa nhiễm đều là chỗ phiền não nhiễm. Nếu rõ các pháp không sinh thì tất cả hữu vi vô vi đều là đạo Bồ-đề, nơi nào nhiễm?

Trong kinh Hải Long Vương nói: “Phật bảo: Long vương! Vô tận tạng tổng trì đó, nói công đức vô lượng, vào tuệ vô cực, nhóm tập hạnh Bồ-tát, cho đến nghiêm tịnh đạo tràng, kiến lập Phật pháp. Đó gọi là tạng tổng trì của vô tận, đó có số của văn tự danh hiệu, và pháp các số dạo nơi chánh pháp, đều lại về tạng của vô tận đây, làm chung giữ vậy. Bồ-tát vào đây, ở các văn tự không chỗ phân biệt, các pháp thanh bạch chẳng hoại vốn tịnh vậy. Cho đến, do chung giữ đó, ở trong đời sau là lìa cấu, xứ chỗ tổng trì lưu bố, đều là chỗ kiến lập của Như Lai. Tám muôn bốn ngàn pháp tạng là môn chung giữ đầu vậy. Tám muôn bốn ngàn hạnh đều lại về nơi chung giữ. Tám muôn bốn ngàn Tam-muội đều từ chung giữ. Tám muôn bốn ngàn tạng của chung giữ vô tận, chung giữ là cội nguồn”. Giải thích: Vì tất cả chúng sinh tự tánh thanh tịnh là môn của các pháp chung giữ. Từ chỗ tâm sinh, dụng chẳng mất thể, nên gọi là chẳng hoại vốn tịnh, ngọn chẳng lìa gốc, nên nói đều là chỗ kiến lập của Như Lai, muôn pháp được sinh ra, nên nói là tạng của vô tận, địa của phàm Thánh, nên gọi là cội nguồn.

Trong kinh Đại Phương Quảng Như Lai Bí Mật Tạng nói: “Bấy giờ, Đại đức A-nan bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Bồ-tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm ù tự dùng thân cúng dường Như Lai, thì phải dùng thân nào để giác đạo Bồ-đề?” Khi đó, các Bồ-tát v.v... ở trong Hoa thất hỏi Anan rằng: “Ý ông nghĩ thế nào? Có thể dùng thân giác ở Bồ-đề ư? A-nan! Chớ quán như vậy, phải dùng thân tâm giác ở Bồ-đề”. A-nan nói: “Này các Thiện trượng phu! Nếu chẳng phải thân tâm giác nơi Bồ-đề, phải dùng những gì mà giác Bồ-đề?” Các Bồ-tát bảo: “Đại đức A-nan! Thật tánh của thân là thật tánh Bồ-đề, thật tánh Bồ-đề là thật tánh tâm, thật tánh của tâm tức là thật tánh của tất cả pháp, giác là thật tánh tất cả pháp, nên gọi là Giác Bồ-đề”.

Trong kinh Kiên Cố Nữ nói: “Kiên Cố Nữ nói: “Lại nữa, Xá-lợi-phất! Nói A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề là, tôi chẳng thấy pháp kia là Anậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề”. Xá-lợi-phất nói: “Nếu chẳng thấy có pháp gọi là A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề là, người làm sao phát tâm Bồ-đề? Muốn giác Bồ-đề?” Kiên Cố Nữ đáp: “Muốn khiến chúng sinh hành tà đạo trú chánh đạo nên tôi phát tâm A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề”. Cho đến, Phật dạy: “Lành thay! Lành thay! Năng biết như vậy, tương lai sẽ đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu-tambồ-đề”. Kiên Cố Nữ thưa: “Bạch Đức Thế Tôn!

Không có thấy pháp như vậy chẳng đắc Bồ-đề, cho nên nay con hẳn định sẽ đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề”. Phật bảo: “Em gái ngươi ở đời vị lai giáo hóa chúng sinh ư?” Kiên Cố Nữ thưa: “Bạch Đức Thế Tôn! Không có thấy pháp như vậy chẳng giáo hóa, cho nên nay con hẳn định giáo hóa chúng sinh”. Phật bảo: “Ngươi ở đời sau làm Đại đạo sư ư?” Kiên Cố Nữ thưa: “Bạch Đức Thế Tôn! Không có thấy pháp như vậy chẳng làm Đạo sư, cho nên nay con hẳn định sẽ được làm Đại đạo sư”. Giải thích: Nếu có thấy như vậy chỉ tâm một pháp. Vào trong Tông Kính, Pháp Nhĩ thường làm chủ của tất cả giáo hóa, thầy của mười phương Đại đạo. Vì tự được gốc vậy, năng gồm khắp tất cả pháp của cành ngọn, đều trở về nơi đất gốc một tâm, nên quyết định không nghi vậy, như gồm sóng về nước, hội sắc về không, có gì nghi ư?

Trong kinh Đại Trang Nghiêm Pháp Môn nói: “Phật dạy: Lại nữa, Trưởng giả tử! Thanh tịnh phan duyên phương tiện hành Bồ-tát ở trong tất cả tâm pháp chúng sinh hẳn có Bồ-đề. Tại sao? Nếu tâm kia không sắc, lìa sắc phân biệt, thể tánh như huyễn đây kia trong ngoài chẳng tương tục, đó gọi là Bồ-đề. Lại nữa, Trưởng giả tử! Bồ-tát chẳng nên giác ở các sự khác, chỉ giác tự tâm. Tại sao? Giác tự tâm là, tức giác tất cả tâm chúng sinh vậy. Nếu tự tâm thanh tịnh, tức là tâm tất cả chúng sinh thanh tịnh vậy. Như tự tâm thể tánh, tức là tâm thể tánh tất cả chúng sinh. Như tự tâm lìa dơ tức là tâm tất cả chúng sinh lìa dơ, như tự tâm lìa tham tức tâm tất cả chúng sinh lìa tham, như tự tâm lìa sân, tức tâm tất cả chúng sinh lìa sân. Như tự tâm lìa si tức tâm tất cả chúng sinh lìa si. Như tự tâm lìa si tức tâm tất cả chúng sinh lìa si. Như tự tâm lìa phiền não tức tâm tất cả chúng sinh lìa phiền não, khởi giác như vậy, gọi là Nhất thiết trí hiểu biết”. Giải thích: Nếu rõ một tâm, biết khắp tất cả. Phàm, tất cả là tất cả của một vậy, gọi là Nhất thiết trí hiểu biết. Nếu mỗi tùy tướng hiểu thì chẳng được gọi là Nhất thiết trí hiểu biết, vì chẳng giác tự tánh các pháp vậy. Do đó, trong kinh Hoa Nghiêm có kệ tụng nói:

“Tất cả pháp thế gian
Chỉ lấy tâm làm chủ
Tùy hiểu chấp các tướng
Điên đảo chẳng như thật”.

Trong kinh Đại Thừa Bản Sinh Tâm Địa Quán nói: “Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-Sư lợi bạch Đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Như lời Phật dạy quá khứ đã diệt, vị lai chưa đến. Hiện tại chẳng trú, chỗ có tất cả các pháp trong ba đời, bản tánh đều không. Tâm Bồ-đề kia sao gọi là phát? Lành thay Thế Tôn! Nguyện vì giải nói, đoạn các lưới nghi, khiến hướng thú Bồ-đề”. Phật bảo Văn-thù Sư-lợi: “Này thiện nam! Trong các tâm pháp khởi các tà kiến. Vì muốn đoạn trừ sáu mươi hai kiến và các thứ kiến, nên tâm tâm sở pháp, ta nói là không. Các kiến như vậy không nơi nương tựa. Thí như rừng rậm cây cối um tùm tươi tốt. Sư tử, voi trắng, hổ, lang, thú dữ ngầm ở trong đó, phát độc hại người rồi chóng tuyệt vết đi. Bấy giờ có người trí dùng lửa đốt rừng. Nhân rừng trống không, nên các thú dữ lớn không còn sót thừa. Tâm không kiến diệt cũng lại như vậy. Cho đến, Này thiện nam! Do nhân duyên đó uống được thuốc không, trừ tà kiến rồi, tự giác ngộ tâm năng phát Bồ-đề. Giác ngộ tâm đây tức là tâm Bồ-đề không có hai tướng. Này thiện nam! Tự giác ngộ tâm có bốn thứ nghĩa, những gì là bốn? Nghĩa là các phàm phu có hai thứ tâm, chư Phật Bồ-tát có hai thứ tâm. Này thiện nam! Hai tâm phàm phu, tưởng đó thế nào? Một, nhãn thức cho đến ý thức đồng duyên tự cảnh, gọi là tâm tự ngộ. Hai, lìa nơi năm căn, tâm tâm sở pháp hòa hợp duyên cảnh, gọi là tâm tự ngộ. Này thiện nam! Hai tâm Hiền Thánh, tướng đó thế nào? Một, Quán lý trí chân thật. Hai, quán tất cả cảnh trí. Này thiện nam! Bốn thứ như vậy, gọi là tâm tự ngộ”. Giải thích: Hai tâm phàm phu là: Một, cảm căn cảnh đồng duyên. Đây thì hòa hợp mà sinh tự thể có không phàm phu chấp thật, nên nói là không. Hai, tâm lìa căn cảnh, tức là chân tâm chẳng theo duyên sinh. Nếu rõ tâm đây tức chân phát đạo Bồđề. Hai tâm Hiền Thánh là: Một, tâm lý trí, tức Đệ nhất nghĩa đế, không có cả hai đều mất, tánh tướng đều lặng lẽ. Hai, tâm cảnh trí, tức tùy duyên tục đế, chân tục song chiếu, sự lý tướng hàm. Nếu vào trong Tông Kính, gồm cả bốn tâm Thánh phàm trước, hoặc vào môn giúp nhau tư, hoặc Thánh hoặc phàm suốt cùng vô ngại, hoặc vào môn thương xót nhau, hoặc một hoặc nhiều, ngầm đồng biển tánh.

Trong kinh Thành Cụ Quang Minh Định Ý nói: “Sao gọi là rộng một tâm? Đó là hiếu sự cha mẹ thì một tâm đó, tôn kính thầy bạn mà một tâm đó, đoạn ái xa tục mà một tâm đó, vào ba mươi bảy phẩm mà một tâm đó, không nhàn vắng lặng mà một tâm đó. Tại chúng phiền loạn mà một tâm đó, muốn nhiều tranh nhiều làm nhiều não nhiều, ở các xứ ấy mà một tâm đó, mọi sự khen chê lợi mất, ở đó chẳng lay động mà một tâm đó. Vào thiền quán hơi thở, bỏ sáu trần y tựa tịnh mà một tâm đó, thân tự năng hành, lại dạy người khác, đây gọi là rộng một tâm vậy”.

Trong kinh Văn-thù Sư-lợi Vấn có kệ tụng nói:

“Nếu thấy có một pháp
Pháp khác đều nên thấy
Vì một pháp không vậy
Tất cả pháp cũng không”.

Giải thích: Tâm có thì pháp có, tâm không thì pháp không, muôn pháp một tâm tông, không có đều không tựa, nếu một ví cho tất cả đều về Tông Kính.

Trong kinh Đại Thừa Thiên Bát Đại Giáo Vương nói: “Bồ-tát Mạn-thù-thất-lợi trước Thế Tôn và cả đại chúng mà nói: Nếu có tất cả Bồ-tát và tất cả hữu tình chúng sinh, chí cầu Bồ-đề Vô thượng, tu trì chân thật Phật kim cang Thánh tánh Tam-ma-địa tất cả pháp là, tất cả pháp tức là tâm tất cả hữu tình ấy vậy. Vì tâm hữu tình chúng sinh địa pháp tạng có chủng tánh phiền não, chủng tánh phiền não thì là tánh Bồ-đề là, tâm hữu tình ở bản tánh chân tịnh, không không chỗ được, cho nên tâm hữu tình là tâm đại viên cảnh trí ở đó vậy.

Trong kinh Ma-ha-diễn Bảo Nghiêm nói: “Thí như hoạ sư làm tượng quỷ thần, tức tự kinh sợ. Như vậy, Ca-diếp! Các người phàm phu tự tạo các pháp sắc, thanh, hương, vị, mịn trơn, luân chuyển sinh tử, chẳng biết pháp đó cũng lại như vậy”.

Trong kinh Văn-thù Sám Quá nói: “Văn-thù Sư-lợi nói: Nhân dân hành gốc các đức là, chí tánh mỗi riêng khác, khiến vào tuệ ánh sáng gồm nắm, đó có các trời, tất cả nhân dân sầu ưu khổ não. Vì trừ các hoạn hoạ đều vào diệu của ánh sáng gồm nắm, tất cả các luận văn tự bản tế, vào ở diệu của ánh sáng gồm nắm, chỗ tất cả các hành các tưởng ứng đều vào diệu của ánh sáng gồm nắm, khiến đặt để phổ môn các căn chuyển xoay, khiến vào môn của tổng trì quang minh, tất cả trang nghiêm thanh tịnh các thứ nghiêm sức, khiến vào môn của tổng trì Quang minh, cho đến trú ở một sự thấy khắp mọi sự, trú ở mọi sự đều thấy một sự, thì đem một sự vào tất cả sự, đem tất cả sự vào nơi một sự, thì lấy một nghĩa dạy răn khai hóa tất cả các nghĩa, lấy tất cả nghĩa hưng phát một nghĩa, đem không nhân duyên vào nơi các duyên, hóa ở các duyên vào nơi không duyên, đem pháp không sự vào nơi chúng sinh, tánh hành mỗi khác, theo đó cùng hành mà dạy răn đó”. Giải thích: Phàm muốn hết sạch dị tánh nhổ trọn khổ huân dung hòa các hành môn thanh tịnh nghiêm sức là, đều khiến vào môn của một tâm gồm nắm, đượm ánh chiếu diệu của quang minh Tông Kính nên năng trú một sự thấy nhiều sự, đem một thành nhiều, dùng các nghĩa mà phát một nghĩa, thể dụng lan tràn, một nhiều tự tại.

Tông Kính Quán Phật Tam-muội Hải nói: “Lại nữa, A-nan! Thí như có người nghèo hèn phước mỏng nương tựa nơi các người giàu sang phú quý để bảo tồn tánh mạng. Bấy giờ có Vương tử đi dạo, mang theo bình báu, trong bình báu có ấn của vua, khi ấy gặp vậy, người nghèo hèn dối trá đến thân gần, được bình báu của vua, mang giữ trốn chạy. Vương tử biết rồi, sai sáu lính lớn cưỡi sáu voi đen, tay cầm kiếm bén nhanh chóng đuổi theo, Khi đó, người nghèo hèn giữ bình chạy vào trong đầm nơi đồng hoang trống cỏ rậm, thấy trong đầm đồng hoang trống có nhiều rắn độc khắp bốn phía nhả độc hút người giữ bình đó. Khi ấy người nghèo hèn kinh sợ tuông chạy khắp Đông Tây, rắn cũng đuổi theo, không nơi trốn lánh. Ở trong đầm trống thấy có một cây lớn, tươi tốt sầm uất rất vừa ý, nên đầu đội bình báu men cây mà lên. Đã lên trên cây rồi, sáu lính cưỡi ngựa nhanh như gió sau đó cũng đến. Người nghèo hèn thấy rồi, bèn nuốt ấn báu của vua, bình giữ trên đầu lại dùng tay che đi, sinh lòng tham tiếc nên chẳng nhẫn trông nhìn đó. Khi ấy sáu voi đen dùng vòi quấn cây, khiến cây đổ ngã, người nghèo hèn rơi xuống đất, thân thể nát hoại, chỉ ấn vàng tại bình báu hiện sáng. Các rắn độc thấy ánh sáng chạy tán bốn phía. Phật bảo: A-nan! Trú niệm Phật, tâm ấn chẳng hoại cũng lại như vậy”. Giải thích: Phàm, Quán Phật Tam-muội là, chắc rõ tự tâm, gọi là Quán Phật, đã biết tâm rồi, chẳng bị cảnh loạn, lặng yên thường định gọi là Tam-muội. Có người nghèo hèn phước mỏng là, có người. Có tức có hai mươi lăm hữu, người tức tất cả chúng sinh, vì không pháp tài nên gọi là nghèo hèn, chẳng ngộ tâm Phật nên gọi là phước mỏng, nương các người giàu sang phú quý là, tức chư Phật Bồ-tát, để bảo tồn tánh mạng là, tức nương môn Quán Phật Tam-muội được thấy tự tánh để thành tuệ mạng. Cho đến, người nghèo hèn rơi xuống đất là, tức ở thân phàm phu, đạt thấu nhân không pháp không chứng hội một tâm, trú đất chân như. Thân thể nát hoại là, đã suốt tánh của Duy thức, thân kiến tự mất, chỉ ấn vàng còn, tức là ngộ tâm thường trú. Do đó, Hòa thượng Nhất Bát nói: “Trần lao diệt sạch chân như còn, một hạt châu sáng tròn vô giá”. Bình báu hiện sáng là, tức trí Bát-nhã chiếu. Các rắn độc thấy ánh sáng chạy tán bốn phía, tức thân của bốn đại, rắn phiền não ba độc, trí rõ tức không gọi là chạy tán. Trú niệm Phật, tâm ấn chẳng hoại, cũng lại như vậy là, vì không niệm trí thấy chân giác tánh, nên nói trú niệm Phật là các trần chẳng động, một thể chẳng dời, gọi là tâm ấn luôn trú pháp vị cứu cánh tịch diệt, gọi là chẳng hoại. Sánh như chỉ ấn vàng còn, nên gọi là cũng lại như vậy. Do đó, trong luận Đại Thừa Khởi Tín nói: “Được thấy tâm tánh, gọi là cứu cánh giác”, tức ý chỉ đây vậy.

Trong kinh Thủ-lăng-nghiêm Tam-muội nói: “Bấy giờ, Phật bảo Thiên tử Hiện Ý: “Ông có thể hiện bày hẳn một phân ít bản sự Thủ-lăng-nghiêm Tam-muội chăng?” Thiên tử Hiện Ý nói cùng Kiên Ý rằng: “Nhân giả! Muốn thấy Chút ít thế lực của Thủ-lăng-nghiêm Tam-muội chăng?” Kiên Ý đáp: “Thiên tử! Nguyện muốn được thấy!” Thiên tử Hiện Ý khéo đắc lực Thủ-lăng-nghiêm Tam-muội liền hiện biến, khiến chúng hội đều làm Chuyển luân Thánh vương, có ba mươi hai tướng mà tự trang nghiêm, và các quyến thuộc bảy báu theo cùng. Cho đến, lại hiện thân lực khiến khắp chúng hội đều như thân Phật Thích-ca Mâu-ni tướng tốt oai nghi, mỗi mỗi có quyến thuộc Tỳ-kheo vây quanh”. Giải thích: Thiên tử tên Hiện Ý là, vì tất cả pháp từ ý sinh. Hình nhân chỗ tâm hiện, nên gọi là Hiện Ý. Vậy biết tự tâm như huyễn không có định nghi, chỗ thấy sai khác tùy tâm sinh diệt, nếu năng biết huyễn không thật tức thấy chân tánh. Vì được chân tánh mới năng khắp cùng pháp giới, bày pháp môn như huyễn, hiện khắp sắc thân, dẫn chúng sinh huyễn đồng về thật địa.

Trong kinh Chuyển Hữu có kệ tụng nói:

“Nếu là chân thật nói
Thì mắt chẳng thấy sắc
Ý chẳng biết thức pháp
Đây là tối bí mật”.

Giải thích: Vào tạng của một tâm bí mật đây thì năng sở đều mất, chẳng cùng sáu trần tác đối, nên nói mắt chẳng thấy sắc v.v...

Trong kinh Đại Pháp Cổ nói: “Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, vô lượng tướng tốt trang nghiêm chiếu sáng. Vì tánh kia nên tất cả chúng sinh được Bát-niết-bàn”. Giải thích: Phải biết tất cả chúng sinh đều có Phật tánh chánh nhân, dùng muôn hạnh trang nghiêm làm dẫn ra tánh. Cho đến nhân viên mãn là đến được quả tánh. Rốt ráo thành tựu đạo của một tâm thường, lạc, ngã, tịnh.

Trong kinh Bảo Đảnh nói: “Phật dạy: Ca-diếp! Thí như có người khiếp sợ hư không, đấm ngực kêu rống mà nói là: “Bạn lành! Các ông hãy vì tôi mà trừ hư không đây, trừ hư không đây đi”. Cadiếp! Ý ông nghĩ sao? Hư không đây là có thể trừ chăng? Ca-diếp thưa: Chẳng thể, bạch Đức Thế Tôn! Phật dạy: Ca-diếp! Nếu có Sa-môn, Bà-lamôn khiếp sợ tánh không như vậy. Ta nói người đó mất tâm cuồng loạn. Tại sao như vậy? Ca-diếp! Tất cả các pháp đều nói không phương tiện. Nếu sợ không đây, cớ sao chẳng sợ tất cả các pháp. Nếu tiếc các pháp cớ sao chẳng tiếc không đây”. Trong luận Phật Tánh có hỏi: Kinh đây là hiển bày nghĩa gì? Đáp: Là hiển bày bản tánh tất cả các pháp chẳng phải có nên nói là pháp không, chẳng liên quan pháp diệt, sau đó được không, nên ở tánh không chẳng nên sinh sợ. Giải thích: Tất cả các pháp đều là nói không phương tiện là, phàm có chỗ nói đều là hiển bày không. Do đó, không thì tất cả pháp, pháp thì tất cả không, chẳng phải trước có mà sau không, thà về đoạn diệt, đâu trước không mà sau có chẳng lạc vô thường. Vì vậy, tánh vốn thường không, không có không gián đoạn. Thể ứng các có, có tự rườm rà. Năng vào tông đây, nghe các pháp không, tâm rất hoan hỷ, chẳng rõ nghĩa đây, nghe các pháp không, tâm rất khiếp sợ. Vì chẳng rõ pháp không, trái nghịch cảnh hiện lượng, chấp làm giải hiểu bên ngoài. Nghe nói yếu chỉ của Duy tâm, sợ lạc vào môn không kiến. Tâm cảnh đều mê bèn sinh khiếp sợ.

Trong kinh Độ Nhất Thiết Phật Cảnh Giới nói: “Phật dạy: Văn-Thù Sư-lợi! Bồ-đề là không tướng không duyên. Thế nào là không tướng, thế nào là không duyên? Chẳng được nhãn thức là không tướng, chẳng thấy sắc là không duyên, chẳng được Nhĩ thức là không tướng, chẳng nghe âm thanh là không duyên. Cho đến, ý pháp cũng như vậy”. Giải thích: Không tướng thì không tâm của năng duyên, không duyên thì không cảnh của sở duyên, năng sở đều mất chân tâm tự hiện.

Trong kinh Văn-thù Sư-lợi Hành có kệ tụng nói:

“Pháp quá khứ vị lai
Chỉ nói không chân thật
Kia nếu ở thật xứ
Một tướng không sai biệt”.

Giải thích: Nếu nói pháp có trong ba đời đều là ngôn ngữ thế đế. Nếu rõ xứ của một tâm chân thật, một đạo tự không sai biệt. Đâu là chỗ lời bàn bạc, đâu là chỗ ý duyên ư?

QUYỂN 96

Trong kinh Bồ-tát Xứ Thai nói: “Thí như nguồn suối bờ ao, năm sông, dòng thuyền, mỗi mỗi có tên nó, đều về nơi biển, bèn không tên gốc. Cũng như núi Tu-di đứng cao vót khó động. Các giống chim sắc tạp đến nương ở núi đều đồng một sắc, bèn không sắc gốc. Vị Đại Bồ-tát giáo hóa chúng sinh làm sạch cõi Phật cũng lại như vậy. Chỗ tâm thức chúng sinh nghĩ nhờ chẳng đồng. Bao nhiêu tư tưởng năng khiến tất cả đến môn giải thoát. Tưởng định ý diệt bèn không nghĩ nhớ (niệm) gốc, đồng một giải thoát”.

Trong kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo nói: “Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Long vương rằng: Tất cả chúng sinh tâm tưởng khác nhau nên tạo nghiệp cũng khác, do đó mà có các thú luân chuyển. Long vương! Ông trông xem chúng hội đây và trong biển lớn, hình sắc chủng loại mỗi mỗi riêng biệt đó chăng? Tất cả như vậy, không gì chẳng phải do tâm tạo nên. Cho đến, lại quán các Đại Bồ-tát diệu sắc nghiêm tịnh tất cả đều do phước đức tu tập thiện nghiệp mà sinh. Lại, các trời rồng tám bộ chúng v.v... oai thế lớn lao, cũng nhân phước đức thiện nghiệp sinh ra. Nay trong biển lớn, chỗ có chúng sinh, hình sắc thô xấu hoặc lớn hoặc nhỏ, đều do các thứ tưởng niệm ở tự tâm mà tạo các nghiệp bất thiện trên thân miệng ý, cho nên tùy nghiệp, mỗi tự thọ báo”.

Trong kinh Tịch Chiếu Thần Biến Tam-ma-địa nói: “Phật dạy: Hiền Hộ! Tịch Chiếu Thần Biến Tam-ma-địa, nghĩa là tất cả pháp tánh trí bình đẳng, tất cả nói phô chẳng hiện hành trí. Cho đến, ngộ vào tâm trí, ở tự tánh tâm năng tùy giác trí. Ở trong dẫn, chẳng dẫn và dẫn phát thành trí thiện xảo”.

Trong kinh Sư Tử Trang Nghiêm Vương Bồtát Thỉnh Vấn nói: “Phật dạy: Một pháp như vậy tùy tâm biến hiện, tức năng đầy đủ sáu Ba-la-mật, phải nên nói rộng giáo hóa chúng sinh, làm lợi ích lớn cho đến thành Phật”.

Trong kinh Hiền Kiếp Định Ý nói: “Nếu có Bồtát bình đẳng Tam-muội các căn đầy đủ, Thánh tuệ thành tựu, đó gọi là một tâm”. Lại nói: “Tại thiền định đó, chẳng đắm trong ngoài, cũng không khoảng giữa, đó gọi là một tâm”.

Trong kinh Xá-lợi-phất Đà-la-ni nói: “Chỉ tu một tâm niệm Phật, chẳng dùng sắc thấy Như Lai, chẳng dùng tướng, chẳng dùng đẹp, chẳng dùng giới định tuệ giải thoát giải thoát tri kiến, chẳng dùng sinh, chẳng dùng nhà, chẳng dùng họ, chẳng dùng quyến thuộc, cho đến chẳng phải tự làm chẳng phải tha làm. Nếu năng như vậy, gọi là niệm Phật”.

Trong kinh Thương Chủ Thiên Tử Sở Vấn nói: “Thiên tử thương Chủ hỏi: “Văn-thù Sư-lợi! Thế nào là Bồ-tát năng thanh tịnh tâm?” Đáp: “Thiên tử! Nếu biết các tâm đều là một tâm, Bồ-tát như vậy, gọi là được tịnh tâm”.

Trong kinh Đại Thừa Lưu Chuyển Chư Hữu có kệ tụng nói:

“Các pháp chỉ giả danh
Chỉ nương danh tự lập
Lìa nơi lời năng thuyên
Sở thuyên chẳng thể được”.

Giải thích: Phải biết, pháp chỉ có danh, nhân danh lập pháp. Lại, danh nhân nơi lời nói, lời nói nhân giác quán, giác quán tâm chẳng khởi, năng sở thảy đều không.

Trong kinh Hoằng Đạo Quảng Hiển Định Ý nói: “Phật dạy: Lại nữa, chỗ của ba sự tâm sinh, đó là, các pháp vô thường từ tâm đó sinh. Các pháp đều khổ cũng do tâm sinh. Các pháp vô ngã cũng từ tâm sinh. Cho đến, năng một tâm đó, biết tâm chúng sinh, thuận hành hóa đó, thì là lực tâm”.

Trong kinh A-hàm có kệ tụng nói:

“Ngã cùng ta làm thân
Chẳng cùng tha làm thân
Trí là khéo điều ngã
Thì được sinh thiện thú”.

Giải thích: Sở dĩ nói: Trời đất chí thân không gì qua tâm, có thể gọi là vào đạo chân yếu diệu môn tu hành, nếu khéo điều phục đó, tức chóng lên quả lớn. Do đó, trong kinh Bát-nhã nói: “Điều tâm làm thiện thay, điều tâm chiêu quả lạc”.

Trong kinh Tạp Tạng có kệ tụng nói:

“Tâm năng dẫn thế gian
Tâm năng nhiếp thọ khắp
Tâm một pháp như vậy
Đều tự tại tùy hành”.

Trong kinh Văn-thù Sư-lợi Vấn Pháp Thân nói: “Như nói nhà báu ma-ni có bốn góc, từ một góc nhìn, đều thấy các góc không chỗ khuyết giảm. Cho nên thấy các pháp bản tế”. Giải thích: Nếu rõ bản tế một tâm thì pháp nào chẳng thông? Vì các pháp từ chỗ tâm sinh, đều đồng một khoảng, trú trong khoảng đây mỗi mỗi viên mãn, mở mắt đều phải, đâu đợi ý tư duy trí chẳng năng biết, nói chẳng năng kịp. Nên nói kho báu Kim cang không chỗ khuyết giảm.

Trong kinh Tượng dịch có kệ tụng nói:

“Các thứ huyễn không thật
Người phàm phu thấy khác
Trong đó không có khác
Tất cả đồng một tướng”.

Trong kinh Lão Mỗ nói: “Mắt thấy sắc đẹp tức là ý, ý tức là sắc.

Hai đó đều là không, không chỗ có, sinh diệt cũng như vậy”.

Trong kinh Vô Sở Hy Vọng nói: “Bấy giờ, Xálợi-phất biết chỗ niệm của tâm chúng hội, liền nói với Tỳ-kheo đây rằng: “Nhân giả! Cớ sao phát lời nói đó? Thân của tôi v.v... từ nay trở đi không có Phật Thế Tôn. Nhân từ dị học ra làm Sa-môn”. Khi ấy, vị Tỳ-kheo đáp cùng Xá-lợi-phất rằng: Tôi từ nay kính thờ sáu thầy, tất cả chỗ về là một tướng vậy, chẳng dựa sáu nhập, vì vậy chẳng thấy bao nhiêu thứ thầy, chẳng tưởng Sa-môn xuất gia vậy”. Giải thích: Dựa sáu nhập mà làm sai vọng phân tà chánh, về một tướng mà làm gốc. Ta kia đều mất. Giải hiểu như vậy, có thể gọi là chân xuất gia vậy. Trong kinh Tịch Điều Âm Sở Vấn nói: “Thiên tử Tịch Điều Âm nói: “Văn-thù Sư-lợi! Những gì như cùng dơ sạch đồng đẳng?” Văn-thù Sư-lợi đáp: “Không, không tướng, không nguyện như. Tại sao như vậy? Niết-bàn không vậy. Thiên tử! Như không trong đồ gốm và không trong đồ báu không hai không riêng khác. Như vậy, Thiên tử! Dơ không sạch không, đều đồng một không, không hai không riêng khác”. Giải thích: Đồ vật chứa đựng tuy chẳng đồng, không vốn không hình, dơ sạch tuy khác tánh nào từng khác. Rõ như vậy là vào môn không tướng, chóng ngộ chân không, chẳng lạc tu chứng.

Trong kinh Nguyệt Tạng có kệ tụng nói:

“Các pháp không có hai
Đạo sư bỏ thương ghét
Một đạo như hư không
Đây là cảnh giới Phật”.

Lại có kệ tụng khác nói:

“Chẳng phân biệt các pháp
Chẳng thấy có chúng sinh
Các pháp chỉ một tướng
Được thấy cảnh giới Phật”.

Trong kinh Phật Ngữ nói: “Phật dạy: Nếu có xứ nói, là Ma vương nói, là ma thấy nói, chẳng gọi là Phật nói. Này thiện nam! Nếu không tất cả các xứ nói, đó gọi là Phật nói”. Giải thích: Không tất cả các xứ nói là, tức không pháp của sở chứng, cũng không trí của năng chứng. Đã không có pháp, đâu có nói ư? Chỉ rõ Duy tâm tự nhiên không nói, không nói là chân nói. Nên nói không pháp có thể nói, đó gọi là nói pháp, nếu đắm trước xứ sở, nếu có chỗ nói, hẳn trái với bản tông, chẳng thấy pháp tánh. Như nói “Báo hóa chẳng phải chân Phật, cũng chẳng phải nói pháp”.

Trong kinh Tạp Tạng có kệ tụng nói:

“Như đời có lương y
Dùng diệu dược cứu bệnh
Chư Phật cũng như vậy
Vì vật nói Duy tâm”.

Trong kinh Đại Thừa Lý Thú có kệ tụng nói:

“Tất cả pháp hữu vi
Như thành Càn-thát-bà
Chúng sinh vọng tâm thủ
Tuy hiện chẳng thật có
Các pháp chẳng nhân sinh
Cũng chẳng không nhân sinh
Hư vọng phân biệt có
Cho nên nói duy tâm
Vô minh vọng tưởng thấy
Mà là nhân sắc tướng
Tạng thức làm chỗ nương
Tùy duyên hiện các tượng
Như vậy mắt có màng
Vọng thấy hoa hư không
Tập khí nhiễu đục tâm
Từ đó ba cõi hiện
Nhãn thức nương Lại-da
Năng hiện các thứ sắc
Thí như tượng trong gương
Phân biệt chẳng tại ngoài
Chỗ thấy đều tự tại
Chẳng thường cũng chẳng đoạn
Chỗ thức Lại-da biến
Năng hiện ở thế gian
Pháp tánh đều bình đẳng
Chỗ tất cả pháp nương
Tạng thức luôn chẳng đoạn
Mạt-na chấp làm ngã
Tập khởi gọi là tâm
Tánh nghĩ lường gọi ý
Liễu biệt nghĩa là thức
Cho nên nói duy tâm
Các cảnh giới ngoài tâm
Vọng thấy lông xoay hoa
Chỗ chấp thật đều không
Đều là thức tâm biến
Sắc đủ sắc công đức
Đều nương thức Lại-da
Phàm ngu vọng phân biệt
Cho là chân thật có
Ngủ mê và say mờ
Đi đứng và ngồi nằm
Tạo nghiệp và sĩ dụng
Đều nương tạng thức khởi
Hữu tình khí thế gian
Chẳng do tự tại làm
Cũng chẳng thần ngã tạo
Chẳng thế tình vi trần
Như tánh lửa trong cây
Tuy có chưa năng đốt
Nhân dùi mới sinh lửa
Do đây phá các tối
dần chuyển cùng làm nhân
Lại-da làm nương ở
Các thức vì kia sinh
Năng khởi lậu vô lậu
Như biển gặp duyên gió
Khởi các thứ gợn sóng
Hiện tiền tác dụng chuyển
Không có lúc gián đoạn
Biển tạng thức cũng vậy
Cảnh giới chỗ gió động
Luôn khởi sóng các thức
Không gián đoạn cũng vậy
Như lạc chưa khuấy động
Tô đó người chẳng thấy
Thi công đã chẳng thôi
Đề hồ mới đáng được
Lại-da vọng huân tập
Ẩn che Như Lai tạng
Lúc tu tập thuần thục
Chánh trí mới rõ ràng
Các thức tùy duyên chuyển
Chẳng thấy tâm bản giác
Trí tự giác hiện tiền
Chân tâm thường chẳng động”.

Trong kinh Bảo Vũ nói: “Bồ-tát làm sao hành tâm niệm xứ? Này thiện nam! Bồ-tát phát khởi tư duy “Tâm thật vô thường chấp trước làm thường. Thật là khổ đó chấp đó làm lạc, vốn không có ngã chấp trước làm ngã, xưa nay bất tịnh chấp trước làm tịnh, tâm đó khinh động chẳng lúc tạm dừng, do vì chẳng dừng nên ở các tạp nhiễm năng làm căn bản, hoại diệt đường thiện, mở cửa ác thú, sinh trưởng ba độc cũng tùy phiền não v.v... làm nhân duyên đó, làm chủ làm dẫn, lại năng tích tập nghiệp tịnh và bất tịnh, nhanh chóng lưu chuyển như vòng lửa xoay, cũng như ngựa chạy, như lửa thiêu đốt, như nước tăng trưởng, biết khắp các cảnh, như vẽ sắc trời, Bồ-tát lúc quán sát tâm như vậy bèn được tự tại, được tự tại rồi, ở trong các pháp cũng không quái ngại. Đó gọi là Bồ-tát hành tâm niệm xứ.””

Trong kinh Trì Địa nói: “Phật dạy: Trì địa! Thế nào gọi là vị Đại Bồ-tát tu tâm quán tâm? Vị Đại Bồ-tát quán tướng tâm sinh trụ dị diệt, lúc quán như vậy, khởi niệm là tâm đây không chỗ lại, đi không chỗ đến, chỉ thức duyên tướng nên sinh, không có bản thể, không một định pháp có thể được. Tâm đây không lại không đi, không trú khác có thể được. Tâm đây chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại, tâm đây thức duyên nên từ nhớ nghĩ khởi. Tâm đây chẳng tại trong chẳng tại ngoài chẳng tạo khoảng giữa của hai. Tâm đây không một tướng sinh khởi. Tâm đây không tánh không định, không có chủ sinh, không có chủ khiến sinh, khởi tạp nghiệp nên nói là tâm, bởi thức tạp duyên nên nói là tâm, niệm niệm sinh diệt tương tục chẳng đoạn nên nói là tâm. Chỉ khiến chúng sinh thông đạt tướng tâm duyên vậy. Trong tâm không tướng tâm, tâm đây từ xưa đến nay chẳng sinh chẳng khởi, tánh thường thanh tịnh, bởi khách trần phiền não nhiễm nên có phân biệt. Tâm chẳng biết tâm cũng chẳng thấy tâm. Tại sao? Tâm đây tánh không, không nên bản thể không chỗ có, tâm đây không có một định pháp, định pháp chẳng thể được vậy. Tâm đây không pháp, hoặc hợp hoặc tan. Tâm đây khoảng trước chẳng thể được, khoảng sau chẳng thể được, khoảng giữa chẳng thể được. Tâm đây không hình không năng thấy là tâm chẳng tự thấy, chẳng biết tự tánh, chỉ phàm phu điên đảo tương ưng. Vì hư vọng duyên thức tướng nên khởi. Tâm đây không không ngã không ngã sở, vô thường chẳng bền chắc, không tướng chẳng biến khác, tư duy như vậy, được tu tâm niệm xứ. Khi ấy người đó chẳng phân biệt là tâm hay chẳng phải tâm, chỉ khéo biết tâm không tướng sinh, thông đạt tâm đó không tánh sinh. Tại sao? Tâm không tánh quyết định, cũng không tướng quyết định. Bậc trí thông đạt tâm đó không sinh không tướng. Khi ấy như thật quán tướng tâm tập diệt mất, lúc quán như vậy, lúc quán như vậy chẳng được tâm hoặc tướng tập hoặc tướng diệt mất, lại chẳng phân biệt tâm diệt hay chẳng diệt, mà năng được tướng tâm chân thanh tịnh. Các Bồ-tát do tâm thanh tịnh đó mà khách trần chẳng năng não loạn. Tại sao? Các Bồtát thấy biết tướng tâm thanh tịnh, cũng biết tâm chúng sinh thanh tịnh, phát khởi niệm tâm dơ nên chúng sinh dơ, tâm tịnh nên chúng sinh tịnh, lúc tư duy như vậy, chẳng được tướng tâm dơ, chẳng được tướng tâm tịnh, chỉ biết tâm đó tướng thường thanh tịnh. Trì Địa! Các vị Bồ-tát tu tâm quán tâm như vậy”.

Trong kinh Bảo Võng có kệ tụng nói:

“Khắp cùng các cõi Phật
Cảnh giới của Pháp vương
Đức Thích-ca Thế Tôn
Chỗ một lông sáng chiếu”.

Giải thích: Như vô lượng vô biên các cõi Phật chẳng vượt ngoài tâm địa đầu một sợi lông, do trí rõ thấu suốt nên nói là chỗ sáng chiếu.

Trong kinh Thập Thú nói: Kim Cang Tạng Bồtát! Bồ-tát đó ở nơi ba ngàn đại thiên thế giới chỗ có chúng sinh đồng một lúc vấn nạn, dùng vô lượng vô biên âm thanh sai biệt vấn nạn. Bồ-tát đó ở trong một niệm thảy đều nhận hết vấn nạn như vậy, chỉ dùng một thứ âm thanh trả lời khiến kia mở hiểu”. Giải thích: Chỉ dùng một thứ âm thanh trả lời khiến kia đều mở hiểu là muôn pháp từ tâm, nghi ngờ nào chẳng mở tan, nương chỗ tâm chỉ bày, pháp nào chẳng dung, có thể gọi là được tinh hoa của Phật pháp mở mắt sáng của trời người.

Trong kinh Quảng Bác Nghiêm Tịnh có kệ tụng nói:

“Tự tại dẫn dắt đời
Chẳng thể nói mà nói
Ở trong không làm kết
Tức không mà mở đó”.

Giải thích: Tâm có tức kết, tâm không tức mở. Nếu không nơi tâm, không kết không mở. Nên trong kinh Thủ-lăng-nghiêm nói: “Phật dạy: Anan! Khăn hoa báu đây ông biết, khăn đây nguyên chỉ một dãi, lúc ta gút sáu gút gọi là có sáu kết. Ông xem xét kỹ, khăn thể là đồng nhân kết có khác, ý ông nghĩ sao? Gút thứ nhất kết thành gọi là thứ nhất. Như vậy cho đến thứ sáu kết sinh. Nay ta muốn đem kết thứ sáu gọi thành thứ nhất được chăng? Không vậy, bạch Đức Thế Tôn! Sáu kết nếu còn thì tên thứ sáu đây trọn chẳng phải là thứ nhất. Giả sử con trái qua một đời đều biện rõ đó, làm sao khiến sáu kết loạn tên. Phật dạy: Sáu kết chẳng đồng, phải nhìn lại gốc, nhân chỗ một khăn tạo khiến tạp loạn đó trọn chẳng được thành. Như ông sáu căn cũng lại như vậy, trong cứu cánh đồng sinh rốt ráo khác. Phật bảo: A-nan! Ông hẳn ghét sáu kết đây chẳng thành, ưa muốn một thành. Vậy làm sao được? A-nan thưa: Kết đây nếu còn là chẳng phải mũi nhọn khởi, ở trong tự sinh, kết đây chẳng phải kia kết kia chẳng phải đây. Ngay nay nghĩa nếu giải trừ tất cả. Kết nếu chẳng sinh thì không đây kia. Còn chẳng được gọi là một, sáu làm sao thành? Phật dạy: Sáu mở một mất cũng lại như vậy, do ông từ vô thủy tâm tánh cùng loạn, thấy biết vọng phát, phát vọng chẳng dứt, nhọc thấy phát trần, như tròng mắt nhọc thì có hoa cuồng, tròng mắt trong sáng không nhân loạn khởi. Tất cả thế giới núi sông đất liền, sinh tử Niết-bàn, đều tức tướng hoa cuồng nhọc điên đảo, A-nan thưa: Nhọc đây đồng kết làm sao mở trừ? Đức Như Lai đưa tay đem chỗ khăn kết riêng kéo phía bên phải. Hỏi A-nan rằng: Như vậy, khai mở chăng? Không vậy, bạch Đức Thế Tôn! Đức Phật xoay lại đưa tay riêng kéo phía bên trái, và hỏi A-nan: Như vậy, phải mở chăng? Không vậy, bạch Đức Thế Tôn! Phật bảo: A-nan! Nay ta dùng tay hai bên trái phải mỗi đều kéo trọn chẳng năng mở. Ông thử bày phương tiện làm sao mở thành? A-nan thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Phải ở nơi tìm kết mở tức phân tán. Phật bảo A-nan: Đúng vậy! Đúng vậy! Nếu muốn trừ kết, phải ngay tim kết”. Giải thích: Hai bên riêng kéo, sánh như hai kiến có không, phải ngay tim kết, tức chánh rõ Trung đạo. Do vì mê mờ chân không mà tình có không khởi, chấp căn trần mà nghĩa một sáu sinh. Chắc rõ tự tâm mở buộc đều hết sạch. Nên biết dơ tịnh mở buộc đều từ tự tâm. Vì tâm dơ nên thấy dơ, tâm sạch nên thấy sạch, tâm buộc nên thấy buộc, tâm mở nên thấy mở, nếu không nơi tâm, sao dơ sao sạch? Như trong kinh Thủ-lăng-nghiêm Tam-muội nói: “Bấy giờ trong chúng hội có một vị Bồ-tát tên là ma giới hành bất ô, hiện đến nơi cung ma nói với ác ma rằng: Ngươi há chẳng nghe Đức Phật nói Thủ-lăng-nghiêm Tam-muội. Vô lượng chúng sinh đều phát tâm Anậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, ra khỏi cảnh giới của ngươi, cũng đều sẽ trở lại độ thoát những người đang còn ra khỏi cảnh giới của ngươi”. Ma liền nói: “Tôi nghe danh tự Phật nói Thủ-lăng-nghiêm Tammuội, vì bị năm phược (trói buộc) nên chẳng năng đến được, đó là hai tay hai chân và cổ”. Bồ-tát lại hỏi ác ma rằng: “Ai trói buộc ngươi?” Ma đáp: “Tôi vừa phát tâm muốn đến hoại loạn người nghe thọ Thủ-lăng-nghiêm Tam-muội, liền bị năm trói buộc. Tôi lại vừa nghĩ chư Phật Bồ-tát có oai đức lớn, khó thể hoại loạn, nếu tôi đi đến, hoặc sẽ tự hoại, chẳng như tự trú ở trong điện đây, khởi niệm đó rồi, liền ở năm trói buộc mà được giải thoát”. Bồ-tát bảo: “Như vậy, tất cả phàm phu nhớ tưởng, phân biệt điên đảo thủ tướng, cho nên có buộc. Động niệm hý luận, cho nên có buộc, thấy nghe hay biết cho nên có buộc. Trong đây thật không ai buộc ai mở. Tại sao như vậy? Các pháp không buộc, vốn giải thoát vậy. Các pháp không mở, vốn không buộc vậy. Tướng thường giải thoát, không có ngu si. Đức Như Lai dùng pháp môn đây mà nói pháp. Nếu có chúng sinh được biết nghĩa đây, muốn cầu giải thoát, chuyên tâm tinh tấn, thì ở các buộc mà được giải thoát”.

Trong kinh Bảo Khiếp nói: “Văn-thù Sư-lợi bảo Đại Đức Xá-lợi-phất rằng: “Như Hằng sa kiếp, hỏa tai hung dữ, trọn chẳng thiêu đốt hư không. Như vậy, Xá-lợi-phất! Mỗi mỗi chúng sinh trong vô số kiếp tạo tội nghịch, nghiệp của bất thiện, nhưng tâm tánh đó trọn chẳng thể dơ’.

Trong kinh Đại Hư Không Tạng Bồ-tát Sở Vấn có kệ tụng nói:

“Hư không lìa sinh diệt
Pháp giới không khứ lai
Các sắc hiện ở không
Các pháp nương tâm trú.
Không không sắc chẳng sắc
Tâm tánh cũng như vậy
Hư không chỉ giả danh
Tâm ý thức như vậy”.

Trong kinh am-đề-già Nữ có kệ tụng nói:

“Ta tuy ở trong thất
Tên như hiện trước mắt
Nhân xưng A-la-hán
Thường theo chẳng năng thấy”.

Giải thích: Nên biết niệm niệm Thích-ca ra đời, bước bước Di-lặc hạ sinh, vì chỗ tự nghiệp ngăn ngại nên đối mặt mà chẳng thấy, hàng mười địa còn cách vỏ lưới mỏng, hàng Nhị thừa có thể biết.

Trong kinh Thủ Hộ Quốc Chủ Đà-la-ni nói: “Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Nhất Thiết Tự Tại Vương rằng: “Tam-muội sâu mầu đây lấy tâm Bồ-đề mà làm nhân đó, dùng đại từ bi mà làm căn bản, phương tiện tu tập Bồ-đề Vô thượng để làm cứu cánh. Này thiện nam! Trong đây, những gì gọi là Bồ-đề? Này thiện nam! Muốn biết Bồ-đề phải rõ tự tâm, nếu rõ tự tâm tức rõ Bồ-đề. Tại sao? Tâm và Bồ-đề là tướng của chân thật. Rốt ráo tìm cầu, đều chẳng thể được, đồng như hư không, nên tướng Bồ-đề tức tướng hư không. Cho nên Bồ-đề không tướng sở chứng, không tướng năng chứng, cũng không tướng của năng sở khế hợp. Tại sao? Bồ-đề rốt ráo không các tướng vậy. Này thiện nam! Vì tất cả pháp tức tướng hư không, cho nên Bồ-đề rốt ráo không tướng”. Bấy giờ, Bồ-tát Nhất Thiết Tự Tại Vương lại bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu Bồ-đề đây đồng như hư không, thể Nhất thiết trí phải cầu ở đâu? Làm sao chứng đắc Bồ-đề hiện tiền? Trí Nhất thiết trí sẽ sinh thế nào?” Phật bảo Bồ-tát Nhất Thiết Pháp Tự Tại Vương rằng: “Này thiện nam! Thể Nhất thiết trí phải cầu ở tâm. Trí Nhất thiết trí và cả Bồ-đề từ tâm mà sinh. Tại sao? Thật tánh của tâm vốn thanh tịnh vậy.” Này thiện nam! Tất cả các Đức Như Lai nói tướng tâm đây, chẳng phải xanh chẳng phải vàng, chẳng phải đỏ chẳng phải trắng, chẳng phải hồng chẳng phải tía, cũng chẳng phải kim sắc, chẳng phải dài chẳng phải ngắn, chẳng phải tròn chẳng phải vuông, chẳng phải sáng chẳng phải tối, chẳng phải nam chẳng phải nữ, cũng lại chẳng phải cũng nam cũng nữ. Này thiện nam! Tâm đây chẳng phải tánh cõi Dục, chẳng phải tánh cõi Sắc, chẳng phải tánh cõi Vô sắc, chẳng phải trời rồng, chẳng phải Dạ-xoa, chẳng phải Càn-thát-bà, chẳng phải A-tu-la, chẳng phải Ca-lâu-la, chẳng phải Khẩn-na-la, chẳng phải Ma-hầu-la-già, nhân phi nhân v.v... tất cả đồng loại. Này thiện nam! Tâm đây chẳng phải trú ở mắt, cũng chẳng trú ở tai, mũi, lưỡi, thân, ý, ở trong ba đời cũng chẳng thể thấy. Tại sao? Tâm đây đồng với tướng hư không vậy. Vì nghĩa đó nên xa lìa tất cả thô tế phân biệt. Tại sao? Tánh hư không đây tức là tánh tâm vậy. Như tánh tâm đó tức tánh Bồđề. Như tánh Bồ-đề tức tánh Đà-la-ni. Này thiện nam! Cho nên tâm đây tánh hư không Bồ-đề Đàla-ni, không hai không hai phần không riêng khác, không đoạn. Tất cả như vậy đều lấy đại từ đại bi mà làm căn bản, chỗ của phương tiện Ba-la-mật gồm. Này thiện nam! Cho nên phải biết, nay ta ở trong đại chúng các Bồ-tát đây, nói pháp như vậy, làm sạch tâm Bồ-đề rộng lớn vậy, là khiến tất cả rõ tự tâm vậy. Cho nên, Nhất Thiết Pháp Tự Tại Vương! Nếu có người thiện nam gã tín nữ nào muốn biết tánh Bồ-đề chân thật là, phải rõ tự tâm, như tánh tâm đó tức tánh Bồ-đề. Làm sao mà năng rõ biết tánh tâm? Nghĩa là tánh tâm đây ở tất cả tướng, hoặc hình hoặc hiển, cho đến hoặc năm ấm, hoặc sáu nhập, hoặc mười hai xứ, hoặc mười tám giới, các pháp như vậy v.v... quán sát tìm cầu trọn chẳng thể được. Này thiện nam! Nếu các Bồ-tát rõ biết như vậy tức được thành tựu môn đệ nhất thanh tịnh quang minh. Trú môn này rồi mặc tình được Trí nhất thiết trí cảnh giới chư Phật thậm thâm Tam-muội chẳng thể nghĩ bàn đây”.

Trong kinh Văn-thù Bát-nhã nói: “Phật hỏi: Văn-thù Sư-lợi! Ông đã cúng dường bao nhiêu chỗ chư Phật? Văn-thù Sư-lợi đáp: Con và chư Phật, tướng như huyễn hóa, chẳng thấy cúng dường và thọ nhận. Phật hỏi: Văn-Thù Sư-lợi! Nay ông có thể chẳng trú Phật thừa ư? Văn-thù Sư-lợi đáp: như con tư duy chẳng thấy một pháp, sao đáng được trú ở Phật thừa. Phật bảo: Văn-thù Sư-lợi! Ông chẳng được Phật thừa ư? Văn-thù Sư-lợi đáp: Như Phật thừa chỉ có danh tự, chẳng phải có thể được cũng chẳng thể được, con làm sao được. Phật hỏi: Vănthù Sư-lợi! Ông được trí vô ngại ư? Văn-thù Sư lợi đáp: Con tức vô ngại, làm sao lấy vô ngại mà được vô ngại. Phật hỏi: Ông ngồi đạo tràng ư? Văn-thù Sư-lợi đáp: Tất cả Như Lai chẳng ngồi đạo tràng, nay con làm sao riêng ngồi đạo tràng. Tại sao? Hiện thấy các pháp trú thật tế vậy”. Giải thích: Nếu rõ một tâm thật tế thì tất cả không chỗ được, ở trong không chỗ được nên năng hoàn tất vô biên Phật sự. Ở trong mỗi sự đều chẳng trái với thật tế vậy. Nếu giải hiểu như vậy chưa hẳn là chẳng ngồi đạo tràng, là ngồi đạo tràng, lúc đang ngồi đạo tràng là chẳng ngồi đạo tràng vậy. Tại sao? Đạo tràng v.v... chẳng vượt ngoài thật tế.

Trong kinh Đại Phẩm nói: “Nếu trú tất cả pháp, là chẳng trú Bát-nhã Ba-la-mật, chẳng trú tất cả pháp mới trú Bát-nhã Ba-la-mật”. Giải thích: Nếu trú pháp thì chẳng thấy Bát-nhã, nếu trú Bát-nhã thì chẳng thấy pháp, vì pháp có tướng, Bát-nhã không tướng. Tướng có không trái nghịch nên vậy. Lại, chẳng phải lìa pháp có tướng mà riêng lập Bátnhã không tướng. Vì tướng tức không tướng, toàn là Bát-nhã vậy. Trong kinh nói sắc vô biên nên Bátnhã vô biên. Lại nói: Nếu học Bát-nhã nên học tất cả pháp. Tại sao? Phàm Bát-nhã là nghĩa không trú, khởi tâm tức là trú đắm. Nếu chẳng trú tất cả pháp tức là Bát-nhã, nên nói nếu học Bát-nhã nên học tất cả pháp. Giả sử trú Bát-nhã cũng thành ngu tối, chỉ tất cả xứ đều không trú, thì không gì chẳng phải là Bát-nhã.

Trong kinh Kim Cang Tràng Đà-la-ni nói: “Văn-thù bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Như có một pháp, Bồ-tát hành rồi năng vào tất cả các pháp môn Đà-la-ni chăng? Phật dạy: Có pháp môn một chữ, Bồ-tát được rồi, năng nói pháp môn ngàn muôn chữ. Pháp môn một chữ đây cũng chẳng thể nói hết các pháp rồi trở lại nhiếp vào pháp môn một chữ”.

Trong kinh Chuyển Nữ Thân nói: “Nếu ở các pháp chẳng thấy sai biệt, thì là hẳn năng thành tựu chúng sinh”. Lại hỏi: “Nếu biết các pháp đều tướng giải thoát, thì gọi là cứu cánh giải thoát”. Giải thích: Chấp tâm làm cảnh, chạm mắt trần lao. Biết cảnh là tâm, không gì chẳng phải giải thoát. Do đó, hàng Nhị thừa chỉ chứng nhân không, chỉ lìa nhân ngã hư vọng, gọi là giải thoát, chưa được pháp không, giải thoát tất cả, vì chẳng nhận biết tâm vậy. Như trong kinh Lăng-già có kệ tụng nói: “Pháp không pháp thể, mà nói chỉ là tâm, chẳng thấy ở tự tâm, mà khởi ở phân biệt”.

Trong kinh Xuất Diệu nói: “Thân mặc áo giáp giới, tâm không kiếm tuệ, thì chẳng năng đánh hoại nguồn gốc kết sử. Nên biết nếu chẳng quán tâm diệu tuệ thành tựu thì chẳng năng đoạn căn bản vô minh”. Do đó, trong kinh Thủ-lăng-nghiêm nói: “Trì phạm chỉ là buộc thân, chẳng phải thân thì không chỗ buộc. Nguyên chẳng phải khắp tất cả, làm sao được viên thông”.

Trong kinh Chánh Pháp Hoa nói: “Đệ nhất đại đạo không có hai chánh”. Giải thích: Chí phải về một, chỗ chính của muôn pháp, như nước không hai vua, nhà không hai thủ. Nếu lìa đây riêng có chỗ mong cầu thì thành hai đạo. Như trong kinh Bồ-tát Hành Phương Tiện nói: “Phàm cầu pháp, gọi là chẳng cầu tất cả các pháp”. Lại nói: “Nếu có chỗ cầu thì chẳng năng sư tử hống, nếu không chỗ cầu năng Sư Tử Hống”. Giải thích: Trong kinh Niết-bàn nói: “Sư Tử Hống là quyết định nói tất cả chúng sinh đều có Phật tánh”, nếu biết tự tâm Phật tánh đầy đủ, thì ngoài tánh đâu có pháp mà có thể cầu ư?

Trong kinh Na-tiên nói: “Vua hỏi Na-tiên: Những gì là một tâm đó ư? Na-tiên đáp: Các thiện riêng có một tâm tối đệ nhất. Một tâm đó là, các thiện đều tùy ở đó. Na-tiên tiếp nói: Thí như thềm cấp tầng lầu phải có chỗ tựa. Các thiện đạo đều dính ở một tâm”.

Trong kinh Tạp Tạng nói: “Diêm vương thí dâng y báu cho Bồ-tát Văn-thù Sư-lợi, Bồ-tát Văn-thù Sư-lợi ở trên tòa bỗng nhiên ẩn thân chẳng thấy. Như vậy dần chuyển thí dâng các Bồ-tát Thanh văn, cũng lại như vậy. Cho đến tự mặc cũng chẳng thấy thân. Nhân đó, ngộ đạo”.

Giải thích: Phàm nguyên do của Phật tổ khởi giáo, không gì chẳng đều là phá hai chấp thân tâm. Nên trong kinh Kim Cang nói: “Phật nói chẳng phải thân, đó gọi là thân lớn”. Trong luận Bảo Tạng nói: “Lý của thanh hư rốt ráo không thân, tâm cũng như vậy. Nếu năng ngộ ngay thân tâm tự tha đều chẳng thể được, ngoài tâm không pháp, muôn cảnh đều không”, tức đồng chỗ Diêm vương ngộ vậy.

Trong kinh Vô Lượng Nghĩa nói: “Phật bảo Bồ-tát Đại Trang Nghiêm: “Có một pháp môn năng khiến Bồ-tát chóng được Bồ-đề”. “Bạch Đức Thế Tôn! Một pháp môn đó danh hiệu là gì? Nghĩa đó thế nào?” “Này thiện nam! Một pháp môn đó tên là Vô lượng nghĩa. Bồ-tát muốn được tu học vô lượng nghĩa là nên phải quán sát tất cả các pháp từ xưa đến nay tánh tướng không lặng, không lớn không nhỏ không sinh không diệt, chẳng phải trú chẳng phải động, chẳng tiền chẳng thối, giống như hư không không có hai pháp mà các chúng sinh hư vọng tính ngang là đây là kia là được là mất”. Giải thích: Một pháp môn đó tên là Vô lượng nghĩa là, tức là môn một tâm năng sinh vô lượng nghĩa, vì chẳng giữ tự tánh, tùy duyên thành các pháp. Ngay lúc tùy duyên cũng chẳng mất tự tánh. Vì chúng sinh chẳng rõ nên chỉ tùy duyên của khởi động, chẳng thấy tánh của tịch diệt, nên ở các pháp hoành kề có không đây kia được mất.

Trong kinh Như Lai Thị Giáo Thắng Quân Vương nói: “Đại vương phải biết. Thí như người nam hoặc các người nữ, ở trong mộng đó, chỗ tâm mộng thấy vườn rừng đáng ưa, núi hang đáng ưa, nước Ấp và các loại khác đáng ưa, mộng kia tỉnh rồi, chỗ thấy đều không. Như vậy, Đại vương! Vận nước thân mạng hư ngụy vô thường, tất cả đều như chỗ thấy trong mộng”. Nên biết cảnh giới trong mộng, cảnh giới lúc thức, chỉ chỗ tâm thấy không là có khác. Người đời chỉ tin cảnh mộng là hư, thí như chấp cảnh vẽ là thật, vì vậy Đấng Đại Giác xót thương nói bày so sánh dẫn biết. Đem chỗ hư của tin phá chỗ thật của tin, khiến chỗ thật của tin đồng chỗ hư của tin, chóng ngộ pháp không đồng vào Tông kính.

Trong kinh Nhập Pháp Giới Thể Tánh nói: “Bấy giờ Trưởng lão Xá-lợi-phất từ tự trú xứ ra đến nơi trú xứ của Đồng tử Văn-thù Sư-lợi. Đến rồi, chẳng thấy Văn-thù Sư-lợi, bèn đến chỗ Phật. Đến rồi trú riêng bên ngoài cửa.Khi ấy Đức Thế

Tôn bảo Đồng tử Văn-thù Sư-lợi rằng: “Văn-thù Sư-lợi! Tỳ-kheo Xá-lợi-phất nay đang tại ngoài cửa, vì muốn nghe pháp, ông nên khiến vào”. Vănthù Sư-lợi thưa: “Bạch Đức Thế Tôn! Như khoảng (tế) Xá-lợi-phất kia, như khoảng pháp giới. Thế Tôn! Hai khoảng đó đâu có tại trong đâu có tại ngoài, như hai khoảng giữa ư?” Phật dạy: “Chẳng như vậy”. Văn-thù Sư-lợi thưa: “Bạch Đức Thế Tôn! Nói thật tế (khoảng thật) là, cũng chẳng phải thật tế. Tế như vậy chẳng phải tế, không trong không ngoài, chẳng lại chẳng đi. Bạch Đức Thế Tôn! Khoảng (tế) Trưởng lão Xá-lợi-phất tức là thật tế. Xá-lợi-phất giới tức là pháp giới, bạch Đức Thế Tôn! Nhưng pháp giới đây không ra không vào chẳng lại chẳng đi, Trưởng lão Xá-lợi-phất đó từ xứ nào lại? Sẽ vào nơi nào?” Phật dạy: “Văn-thù Sư-lợi! Như ta tại trong cùng các Thanh văn nói luận, ông tại ở ngoài mà chẳng nghe được, ý ông há chẳng sinh tưởng lo não ư?” Văn-thù Sư-lợi đáp: “Chẳng vậy, bạch Đức Thế Tôn! Tại sao? Thế Tôn! Phàm chỗ nói pháp chẳng lìa pháp giới, Như Lai nói pháp tức là pháp giới. Pháp giới tức là Như Lai giới. Nói pháp giới như pháp giới, nói pháp giới không hai không riêng khác. Chỗ có gọi đó nói đó, như đây v.v... đều chẳng lìa pháp giới. Bạch Đức Thế Tôn! Vì nghĩa đó nên con chẳng lo phiền. Bạch Đức Thế Tôn! Như con trong Hằng hà sa kiếp chẳng đến nơi chỗ Thế Tôn nói pháp, lúc con chẳng sinh ưa thích cũng không lo phiền. Tại sao? Nếu có hai là, tức sinh ưu não, pháp giới không hai nên không lo phiền”. Giải thích: Do vì trong ngoài không khoảng, chân tục một nguồn. Vào trong Tông kính, Hân thích chẳng đầy một lòng ân, trú không hai xứ, thương ghét chẳng phải treo nơi ruộng tình. Nên biết chẳng đi chẳng lại, thấy Phật chẳng phải chuyển dời ở đương niệm, chẳng phải gần, chẳng phải xa, nghe pháp đâu vượt qua đầu mảy lông, được tâm Văn-thù mới biết pháp nhĩ, khởi kiến chúng sinh tự cách tinh trần. Trong kinh Thâm Mật Giải Thoát nói: “Chư Phật Như Lai khéo giác chỗ giác, lìa nơi hai hành đến xứ không tướng, hành hạnh chư Phật, được tất cả bình đẳng của Như Lai, đến cứ chỗ của không chướng ngại, năng đến tất cả pháp luân chẳng thối lùi, năng đến cảnh giới chẳng thể hàng phục, thể chẳng thể nghĩ bàn, năng đến tất cả ba đời bình đẳng, khắp đến tất cả thân các thế giới, đến nơi các pháp, xứ của không nghi ngờ, năng đến tất cả trí hành cứu cánh, đều năng đến nơi pháp trí cảnh giới không nghi ngờ, được các thân tất cả không phân biệt, năng đáp tất cả Bồ-tát trí hỏi, năng đến bờ kia của không hai hành, năng đến xứ của chư Phật không có trí phân biệt giải thoát, năng đến cảnh giới vô biên vô trung Tam-muội, rộng lớn như pháp giới, cứu cánh như hư không, tận cùng khoảng vị lai”. Giải thích: Phàm, thân đến xứ của các pháp không nghi ngờ, ngộ tâm mới biết, chóng chiếu môn của muôn cảnh không tướng, thấy tánh mới rõ, đó mới là hành xứ của Như Lai, chỗ biết của Đại giác, nên nói rộng lớn như pháp giới, cứu cánh như hư không, không thủy không chung, cùng tận khoảng vị lai.

Trong kinh Kim Cang Vương Bồ-tát Bí Mật Niệm Tụng Nghi Quỹ nói: “Vững thân ngồi thẳng phát khởi tư duy tất cả các pháp từ tự tâm khởi, từ xưa đến nay đều không chỗ có”.

Trong kinh Di-lặc Thành Phật có kệ tụng nói:

“Lâu nghĩ chúng sinh khổ
Muốn cứu không do thoát
Ngày nay chứng Bồ-đề
Chợt nhiên không chỗ có”.

Giải thích: Tâm thức niệm niệm phan duyên trói buộc cảnh trần chẳng được tự tại, tức là chúng sinh khổ, nếu rõ cảnh không không buộc, nội kết không sinh, chứng hiểu một tâm, căn trần đều lặng, tức vào pháp giới tánh không, chứng Bồ-đề không tướng. Do đó, trong kinh Pháp Hoa Tam-muội nói: “Không đắm không chỗ nương, không lụy tâm tịch diệt, bản tánh như hư không, gọi là đạo Vô thượng”. Lại trong kinh Pháp Hoa nói: “Chư Phật ở đây đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, chư Phật ở đây chuyển đại pháp luân, chư Phật ở đây mà nhập Niết-bàn”. Do đó, tám tướng thành đạo của chư Phật. Bốn gồm độ sinh của Bồ-tát, tự lợi lợi tha thảy đều ở trong bản tánh không mà thành đạt.

Trong kinh Tạp Tạng nói: “Thí như hai cây cùng cọ xát thì tự sinh lửa, trở lại thiêu đốt cây đó, lửa chẳng từ gió ra, chẳng từ nước ra, chẳng từ đất ra. Bốn ma đó cũng lại như vậy, đều từ tâm sinh chẳng từ bên ngoài lại. Thí như hoạ sĩ làm các hình tượng tùy tay lớn nhỏ. Tuy nhân duyên hợp có màu có bảng có bút mà hoạ sĩ chẳng vẽ thì chẳng năng thành tượng. Bốn ma như vậy, tâm đã kiên cố bèn không chỗ khởi”. Giải thích: Do vì một tâm chẳng động, pháp chẳng hiện tiền, như Hoạ sư chẳng vẽ, tạm không hình tượng vậy, chẳng động một tâm có công đức lớn. Như trong kinh Pháp Cú nói: “Phật dạy: Này thiện nam! Thiện tri thức là có công đức lớn, năng khiến các ông ở trong các thứ trần lao, tham dục sân nhuế ngu si Tỳ-kheo năm cái năm dục mà kiến lập Phật pháp, chẳng khởi một tâm có công đức lớn. Thí như có người giữ chắc thuyền bè vượt qua biển lớn, chẳng động thân tâm mà đến bờ kia”.

QUYỂN 97

Phàm, Phật dạy đã rõ, tiếp phải nên nêu bày ý Tổ. Thấu đạt Phật thừa là đều cùng liễu nghĩa tương ưng. Như trong kinh Pháp Hoa nói: “Như người đó có chỗ tư duy tính lường nói phò, đều là Phật pháp, không gì chẳng chân thật, cũng là chỗ trong kinh chư Phật xưa trước nói”.

Thứ nhất: Đức Phật Tỳ-bà-thi có kệ tụng nói:

“Thân từ trong không tướng thọ sinh
Giống như huyễn ra các hình tượng
Người huyễn tâm thức xưa nay không
Tội phước đều không không chỗ trú”.

Thứ hai Đức Phật Thi Khí có kệ tụng nói:

“Khởi các thiện pháp vốn là huyễn
Tạo các nghiệp ác cũng là huyễn
Thân như bọt nước tâm như gió
Huyễn ra không căn không thật tánh”.

Thứ ba: Đức Phật Tỳ-xá-phù có kệ tụng nói:

“Nương mượn bốn đại lấy làm thân
Tâm vốn không sinh nhân cảnh có
Cảnh trước nếu không tâm cũng không
Tội phước như huyễn khởi cũng diệt”.

Thứ tư: Đức Phật Câu-lưu-tôn có kệ tụng nói:

“Thấy thân không thật là Phật thấy
Rõ tâm như huyễn là Phật rõ
Rõ được thân tâm tánh vốn không
Người đó cùng Phật nào khác biệt”.

Thứ năm, Đức Phật Câu-na-hàm Mâu-ni có kệ tụng nói:

“Phật chẳng thấy thân biết là Phật
Nếu thật có biết riêng không Phật
Người trí năng biết tội tánh không
Thản nhiên chẳng sợ ở sinh tử”.

Thứ sáu: Đức Phật Ca-diếp có kệ tụng nói:

“Tất cả chúng sinh tánh thanh tịnh
Từ xưa không sinh không thể diệt
Tức thân tâm đây như huyễn sinh
Ở trong huyễn hóa không tội phước”.

Thứ bảy: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni có kệ tụng nói:

“Huyễn hóa không nhân cũng không sinh
Đều tức tự nhiên thấy như vậy
Các pháp thảy đều tự hóa sinh
Huyễn hóa không sinh không chỗ sợ”.

Lại bảo cùng Ma-ha-ca-diếp: “Ta có pháp nhãn thanh tịnh Niết-bàn Diệu tâm, thật tướng không tướng chánh pháp vi diệu, nay giao phó cho ông, chớ khiến đoạn tuyệt, nghe ta nói kệ tụng:

“Pháp vốn pháp không pháp
Pháp không pháp cũng không
Nay giao phó không pháp
Pháp pháp nào từng pháp”.

Ở Tây Vức, Tổ thứ nhất Ma-ha-ca-diếp truyền pháp có kệ tụng nói:

“Pháp pháp pháp xưa nay
Không pháp không chẳng pháp
Ở trong một pháp nào
Có pháp có chẳng pháp”.

Tổ thứ hai, A-nan truyền pháp có kệ tụng nói:

“Xưa nay trao có pháp
Trao rồi nói không pháp
Mỗi mỗi phải tự ngộ,
Ngộ rõ không pháp không”.

Tổ thứ ba, Thương-na-hòa-tu truyền pháp có kệ tụng nói:

“Chẳng pháp cũng chẳng tâm
Không tâm cũng không pháp
Lúc nói tâm pháp đó
Là pháp chẳng tâm pháp”.

Tổ thứ tư, Ưu-ba-cúc-đa truyền pháp có kệ tụng nói:

“Tâm tự tâm xưa nay
Bản tâm chẳng có pháp
Có pháp có bản tâm
Chẳng tâm chẳng bản pháp”.

Tổ thứ năm, Đề-đa-ca, cũng gọi là Hương Chúng, mới đầu đến nơi Ưu-ba-cúc-đa cầu xin xuất gia, Tôn giả hỏi: “Tâm ông xuất gia hay thân ông xuất gia?” Hương Chúng đáp: “Con lại xuất gia chẳng phải vì thân tâm mà cầu lợi ích”. Tôn giả hỏi: “Chẳng là thân tâm, thì ai xuất gia?” Hương Chúng đáp: “Phàm, xuất gia là không ngã, không ngã tức tâm chẳng sinh diệt, tâm chẳng sinh diệt tức là thường, đã là thường nên Phật cũng thường, tâm không hình tướng, thể đó cũng vậy.” Tôn giả bảo: “Ông sẽ đại ngộ tâm tự sáng suốt, nương trong Phật pháp độ vô số chúng”. Về sau truyền pháp có kệ tụng nói:

“Thông đạt tâm bản pháp
Không pháp không chẳng pháp
Ngộ rõ đồng chưa ngộ
Không tâm được không pháp.”

Thứ sáu, Tổ Di-già-ca truyền pháp có kệ tụng nói:

“Không tâm không thể được
Nói được chẳng là pháp
Nếu rõ tâm chẳng tâm
Mới hiểu tâm tâm pháp”.

Tổ thứ bảy, Bà-tu-mật truyền pháp có kệ tụng nói:

“Tâm đồng hư không giới
Bày đồng pháp hư không
Lúc chứng được hư không
Pháp không phải không quấy”.

Tổ thứ tám, Phật Đà-nan-đề truyền pháp có kệ tụng nói:

“Hư không không trong ngoài
Tâm pháp cũng như vậy
Nếu rõ suốt hư không
Là đạt lý chân như”.

Tổ thứ chín, Tôn giả Phục-đà-mật-đa, hỏi Tôn giả Phật Đà-nan-đề bằng kệ tụng nói:

“Cha mẹ chẳng thân ta
Ai là người rất thân
Chư Phật chẳng đạo ta
Ai là đạo tối ưu?”

Tôn giả Phật Đà-nan-đề nói kệ tụng đáp:

“Ông nói cùng tâm thân
Cha mẹ chẳng thể sinh
Ông hành cùng đạo hợp
Tâm chư Phật tức vậy.
Ngoài cầu Phật có tướng
Cùng ông chẳng tương tợ
Muốn biết bản tâm ông
Chẳng hợp cũng chẳng lìa”.

Nhân đó mà ngộ đạo, về sau truyền pháp có kệ tụng nói:

“Chân lý vốn không danh
Nhân danh hiển chân lý
Thọ được pháp chân thật
Chẳng chân cũng chẳng ngụy”.

Tổ thứ mười, Tôn giả Hiếp, truyền pháp có kệ tụng nói:

“Chân thể tự nhiên chân
nhân chân nói có lý
Lãnh được pháp chân thật
Không đi cũng không dừng”.

Tổ thứ mười một, Phú-na-dạ-xa. Lúc Tôn giả Hiếp đang ở dưới gốc cây, đưa tay chỉ đất nơi gốc cây mà bảo đại chúng rằng: “Đất đây nếu biến làm vàng ròng, thì sẽ có bậc Thánh vào hội đây”. Nói xong chưa bao lâu, bèn biến thành vàng ròng. Tôn giả đưa tay lên mà thấy một người đang đứng trước chúng hội, Tôn giả hỏi: “Ông từ đâu lại?” Phú-nadạ-xa đáp: “Tâm tôi chẳng phải đến”. tôn giả hỏi: “Trú ở đâu nào?” Phú-na-dạ-xa đáp: “Tâm tôi chẳng phải dừng”. Tôn giả hỏi: “Ông chẳng định ư?. Phú-na-dạ-xa đáp: “Chư Phật cũng vậy!;Tôn giả: Ông chằng phải chư phật: Dạ xa: chư phật cũng chẳng phải”. lúc ấy, Phú-na-dạ-xa nói kệ tụng tán thán rằng: “Thầy ngồi đất vàng ròng, thường nói nghĩa chân thật, xoay ánh sáng soi con, khiến vào Tam-ma-địa”. Về sau, truyền pháp có kệ tụng nói:

“Mê ngộ như ẩn hiển
Tối sáng chẳng lìa nhau
Nay trao pháp ẩn hiển,
Chẳng một cũng chẳng hai”.

Tổ thứ mười hai, Tôn giả Mã Minh, truyền pháp có kệ tụng nói:

“Ẩn hiển tức Bản pháp
Tối sáng nguyên chẳng hai
Nay trao pháp ngộ rõ
Chẳng lấy cũng chẳng bỏ”.

Tổ thứ mười ba, Tôn giả Tỳ-la truyền pháp có kệ tụng nói:

“Pháp chẳng ẩn chẳng hiển
Nói là khoảng chân thật
Ngộ pháp ẩn hiển đây
Chẳng ngu cũng chẳng trí”.

Tổ thứ mười bốn, Tôn giả Long Thọ hành hóa đến Nam Ấn Độ, người nước đó phần nhiều tu phước nghiệp chẳng hiểu Phật lý, chỉ làm việc nhỏ, chẳng đủ đại trí, đến lúc cầu Phật tánh mà nói: “Bố thí ta cầu phước nghiệp, chẳng phải hiểu Phật tánh, ông hiểu Phật tánh, hãy vì tôi nói”. Tôn giả bảo: “Các ông muốn học đạo trước phải trừ ngã mạn, sinh tâm cung kính mới được Phật tánh”. Mọi người hỏi: “Phật tánh lớn hay nhỏ?” Tôn giả đáp: Chẳng phải chỗ các ông biết, chẳng phải nói lớn nhỏ, nếu nói lớn nhỏ, tức là lớn nhỏ, chẳng phải Phật tánh vậy”. Chúng kia nói: “Tôi muốn bỏ việc nhỏ, về nơi biển lớn”. Tôn giả bèn vì giảng nói pháp, đối trước đại chúng mà hiện tướng khác lạ, thân như vầng nguyệt, đang ở trên tòa chỉ nghe nói pháp chẳng thấy hình đó. Ở trong chúng kia có một Trưởng giả tên là Đề-bà hỏi mọi người rằng: “Nhận biết điềm này chăng?” Chúng kia đáp: “Nếu chẳng là bậc Đại Thánh, ai năng nhận biết”. Khi ấy, Đề-bà do tâm căn xưa trước thanh tịnh thấy tướng đó, im lặng khế hợp. Mới bảo cùng mọi người rằng: “Thầy hiện nghĩa của Phật tánh, chẳng phải thân thầy là không tướng Tam-muội. Hình như trăng tròn là nghĩa của Phật tánh vậy”. Nói chưa xong, Tôn giả bèn hiện lại nguyên thân ngồi trên tòa mà nói kệ tụng rằng:

“Thân hiện tướng vầng nguyệt,
Để bày thể chư Phật,
Nói pháp không hình đó
Dụng biện chẳng thanh sắc”.

Về sau, truyền pháp có kệ tụng nói:

“Làm rõ pháp ẩn hiển,
Mới nói lý giải thoát,
Nói pháp tâm chẳng chứng
Không sân cũng không mừng”.

Tổ thứ mười lăm, Tôn giả Ca-na-đề-bà truyền pháp có kệ tụng nói:

“Vốn đối người truyền pháp
Vì nói lý giải thoát
Nói pháp thật không chứng
Không thủy cũng không chung”.

Tổ thứ mười sáu, Tôn giả La-hầu-la truyền pháp có kệ tụng nói:

“Nơi pháp thật không chứng
Chẳng lấy cũng chẳng lìa
Pháp chẳng tướng có không
Trong ngoài làm sao khởi”.

Tổ thứ mười bảy, Tôn giả Tăng-già-nan-đề truyền pháp có kệ tụng nói:

“Tâm địa vốn không sinh
Nhân chủng theo duyên khởi
Duyên chủng chẳng ngại nhau
Hoa quả cũng như vậy”.

Tổ thứ mười tám, Già-da-xá-đa, mới đầu nhân tổ thứ mười bảy Tăng-già-nan-đề đến nơi nhà, chợt thấy một trẻ nhỏ tay nắm gương đồng mà đến bên cạnh, Tôn giả hỏi: “Con bao nhiêu tuổi?” Đứa trẻ đáp: “Con đáng trăm tuổi”. Khi ấy Tôn giả thấy đáp trăm tuổi, lại hỏi rằng: “Con thật là không biết, trông rất bé nhỏ vậy mà nói trăm tuổi, chẳng phải lý đó vậy”. Đứa trẻ nói: “Con chẳng hiểu lý, chánh đáng trăm tuổi”. Tôn giả hỏi: “ căn cơ lành của con ư?” Đứa trẻ đáp: “Phật có kệ tụng nói:

“Nếu người sống trăm năm,
Chẳng hiểu cơ chư Phật,
Chưa bằng sống một ngày,
Mà được quyết rõ đó”.

Khi ấy, Tôn giả rất kính mến, biết đó là bậc Thánh, lại nêu hỏi rằng: “Con nắm gương đó, ý ví thế nào?”. Đứa trẻ dùng kệ tụng đáp:

“Chư Phật gương tròn lớn,
Trong ngoài không vết mờ,
Hai người đồng được thấy,
Tâm mắt đều tương tợ”.

Song thân thấy đứa trẻ kỳ lạ, bèn cho xuất gia, Tôn giả bèn dẫn theo hành hóa, đến một chùa cổ mà cho thọ giới và đặt tên là Già-da-xá-đa. Ở trên điện đó có chiếc linh đồng bị gió lay động vang tiếng, Tôn giả bèn hỏi: “Kia là gió kêu hay linh kêu hay đồng kêu?”. Già-da-xá-đa đáp: “tâm con kêu vậy, chẳng phải gió hay đồng linh”. Tôn giả bảo: “Chẳng phải gió hay đồng, linh vậy tâm ông là ai?” Già-da-xá-đa đáp: “Cả hai đều tĩnh lặng, chẳng phải Tam-muội ư?” Tôn giả bảo: “Lành thay! Chân Tỳ-kheo, khéo hội lý chư Phật, khéo nói các pháp yếu, khéo biết nghĩa chân thật”. Lại bảo: “Nay ta đem pháp nhãn tạng đây giao phó cho ông. Ông hãy nghe ta nói kệ tụng mà hoằng hóa đó”. Kệ tụng nói: “Tâm địa vốn không sinh, nhân chủng theo duyên khởi. Duyên chủng chẳng ngại nhau, hoa quả cũng như vậy”. Về sau, Tôn giả Già-da-xá-đa truyền pháp cho Cưu-ma-la-đa có kệ tụng nói:

“Có giống có đất tâm
Nhân duyên năng nẩy mầm
Nơi duyên chẳng ngại nhau
Sẽ sinh sinh chẳng sinh”.

Tổ thứ mười chín, Tôn giả Cưu-ma-la-đa truyền pháp có kệ tụng nói:

“Tánh trên vốn không sinh
Vì đối người cầu nói
Nơi pháp đã không được
Sao ôm quyết chẳng quyết”.

Tổ thứ hai mươi, Tôn giả Xà-dạ-đa truyền pháp có kệ tụng nói:

“Mở lời hợp không sinh
Đồng nói tánh pháp giới
Nếu năng hiểu như vậy
Thông đạt sự lý xong”.

Tổ thứ hai mươi mốt, Tôn giả Bà-tu-bàn-đầu truyền pháp có kệ tụng nói:

“Bọt huyễn đồng vô ngại
Vì sao chẳng rõ ngộ
Đạt pháp tại trong đó
Chẳng nay cũng chẳng xưa”.

Tổ thứ hai mươi hai, Tôn giả Ma-noa-la truyền pháp cho Tôn giả Hạc-lặc xong rồi liền từ chỗ ngồi đứng dậy vọt thân bay lên hư không hóa hiện mười tám thứ thần biến xong, bèn trở lại chỗ ngồi cũ, đưa tay chỉ xuống đất hóa làm dòng suối mà nói kệ tụng rằng:

“Đất tâm suối thanh tịnh
Rồng đượm thấm tất cả
Từ đất mà vọt ra
Khắp đầy khoảng mười phương”.

Lại truyền pháp có kệ tụng nói:

“Tâm theo muôn cảnh chuyển
Chuyển ở thật năng sâu
Tùy dòng nhận được tánh
Không mừng cũng không lo”.

Tổ thứ hai mươi ba, Tôn giả Hạc-lặc truyền pháp xong, tức từ chỗ ngồi vọt thân bay lên giữa hư không làm mười tám thứ biến hóa rồi bèn trở lại chỗ ngồi, im lặng mà thị tịch. Khi ấy đại chúng muốn phân chia xá-lợi mới tự tạo dựng tháp để tôn thờ. Đến khi trà tỳ xong. Khi đó, Tôn giả hiện thân nói kệ tụng rằng:

“Một pháp tất cả pháp
Tất cả một pháp nhiếp
Thân ta chẳng có không
Sao phân tất cả tháp”.

Lại, lúc truyền pháp có kệ tụng nói:

“Lúc nhận được tâm tánh
Đáng nói chẳng nghĩ bàn
Rõ ràng không chỗ được
Lúc được chẳng nói biết”.

Tố thứ hai mươi bốn, Tôn giả Sư Tử truyền pháp có kệ tụng nói:

“Ngay lúc nói thấy biết
Thấy biết đều là tâm,
Ngay tâm tức thấy biết
Thấy biết nay đây”.

Tổ thứ hai mươi lăm, Tôn giả Bà-xá-đa truyền pháp có kệ tụng nói:

“Thánh nhân nói thấy biết
Ngay cảnh không phải quấy
Nay ta ngộ chân tánh
Không đạo cũng không lý”.

Tổ thứ hai mươi sáu, Tôn giả Bất-như-mật-đa truyền pháp có kệ tụng nói:

“Chân tánh kho đất tâm
Không đầu cũng không đuôi
Ứng cơ mà hóa vật
Phương tiện gọi là trí”.

Tổ thứ hai mươi bảy, Tôn giả Bát-nhã-đa-la truyền pháp có kệ tụng nói:

“Đất tâm sinh các giống
Nhân sự lại nhân lý
Quả đầy Bồ-đề viên
Hoa nở thế giới dậy”.

Ở Tây Vức, có Tôn giả Ba-la-đề giáo hóa vua Dị Kiến, hiện sức thần thông cưỡi mây bay đến trước điện vua. Khi ấy vua hỏi người cưỡi mây: “Ngươi là tà hay ngươi là chánh ư?” Tôn giả Ba-la-đề đáp: “Tôi chẳng phải tà chánh mà lại chánh tà, Đại vương nếu chánh, tôi không tà chánh”. Vua lại hỏi: “Thế nào là Phật?” Ba-la-đề đáp: “Thấy tánh là Phật”. Vua hỏi: “Sư thấy tánh ư?” Ba-la-đề đáp: “Tôi thấy tánh Phật”. Vua hỏi: “Tánh tại xứ nào?” Ba-la-đề đáp: “Tánh tại tác dụng”. Vua hỏi: “Đó là tác dụng nào mà nay chẳng thấy?” Ba-la-đề đáp: “Nay hiện tác dụng, vua tự chẳng nhận biết”. Vua hỏi: “Chỗ sư đã thấy sao có tác dụng, ngay nơi chỗ ta mà có đó chăng?” Ba-la-đề đáp: “Nếu vua tác dụng hiện tiền đều phải, nếu vua chẳng dùng thể cũng khó thấy”. Vua hỏi: “Nếu đang dụng, có mấy xứ xuất hiện?” Ba-la-đề đáp: “Nếu lúc ra dụng, sẽ có tám đó”. Và bèn vọt đúng thẳng trên mây đứng, dùng kệ tụng mà bảo rằng:

“Tại bào thai gọi là thân,
Ở đời gọi là người
Tại mắt gọi là thấy
Tại tai gọi là nghe.
Tại mũi rõ hơi thở
Tại miệng là đàm luận
Tại tay là nắm bắt
Tại chân là chuyển chạy.
Hiện khắp đều gần pháp giới,
Thâu gồm chẳng vượt ngoài mảy trần.
Thức giả biết là Phật tánh,
Kẻ chẳng biết gọi là linh hồn”.

Ở Trung Hoa, tổ thứ nhất Bồ-đề Đạt-ma-đa la, là con thứ ba của vua nước xứ Nam Ấn Độ, thường khéo giỏi lý luận, tâm nghĩ chúng sinh mà chẳng biết Phật, lại tự than rằng: “Ở đời pháp có hình mà dễ rõ đó, chỉ pháp tâm Phật khó có kẻ hiểu!”. Bấy giờ Tôn giả Bát-nhã-đa-la đến nước đó, được vua ban tặng viên châu báu, viên châu đó sáng rỡ khác lạ. Tôn giả thấy rồi, bèn lấy viên châu mà thử hỏi: “Châu báu đây có ánh sáng lớn năng chiếu nơi vật. Lại có viên châu nào hơn viên châu này chăng?” Tôn giả Bồ-đề Đa-la đáp: “Đây là báu thế gian chưa có gì hơn. Trong các thứ ánh sáng, thì ánh sáng trí là thượng diệu. Đây là ánh sáng ở thế gian chưa có gì hơn, trong các thứ ánh sáng, ánh sáng của tâm là Đệ nhất. Viên châu đây chỗ có ánh sáng chẳng năng tự chiếu, cần nhờ trí ánh sáng trí biện bác ở đây, đã biện đây rồi tức biết là châu, đã biết là châu, tức rõ báu đó, nếu rõ báu đó, báu chẳng tự báu, nếu biện châu đó, châu chẳng tự châu. Châu chẳng tự châu cần nhờ châu trí mà biện bác rõ châu thế gian. Báu chẳng tự báu là cần nhờ pháp báu để rõ báu thế tục. Nhưng mà sư có đạo đó, báu đó đã hiện, chúng sinh có đạo, tâm báu cũng vậy”. Tôn giả lấy đó làm lạ, nhân xuất gia mà ngộ đạo, bèn đến hoằng hóa tại Trung Hoa. Bảo Chí nhận biết đây là Thánh nhân Quán Âm truyền tâm ấn của Phật. Tôn giả thuật về pháp môn An tâm là: “Lúc mê người theo pháp, lúc hiểu pháp theo người. Hiểu thì thức gồm sắc, mê thì sắc gồm thức, chỉ có tâm phân biệt so sánh, tự tâm hiện lượng là thảy đều như mộng, nếu thức tâm tịch diệt không một xứ động niệm, đó gọi là Chánh giác”.

Hỏi: “Thế nào là tự tâm hiện?”

Đáp: “Thấy tất cả pháp có. Có tự chẳng có, tự tâm chấp làm có, thấy tất cả pháp không, không tức không, tự tâm chấp làm không, cho đến tất cả pháp cũng như vậy, đều là tự tâm chấp làm có, tự tâm chấp làm không. Lại, nếu người tạo tất cả tội, tự thấy pháp vương của mình tức được giải thoát. Nếu từ trên sự được giải thoát là khí lực mạnh mẽ. Từ trong sự thấy pháp tức xứ xứ chẳng mất niệm, từ văn tự mà hiểu là khí lực yếu kém. Tức sự tức pháp là sâu xa theo ông các thứ vận làm, nhảy nhót nghiêng ngã đều chẳng ra khỏi pháp giới, cũng chẳng vào pháp giới, nếu đem giới vào giới tức là người si, phàm có hành xử trọn chẳng vượt ngoài pháp giới tâm. Tại sao? Tâm thể là pháp giới vậy”. Hỏi: “Người thế gian các thứ học vấn, cớ sao chẳng được đạo?”

Đáp: “Do thấy mình nên chẳng được đạo. Mình là ngã vậy. Bậc chí nhân, gặp khổ chẳng buồn, gặp lạc chẳng mừng, do chẳng thấy mình vậy. Do đó, chẳng biết khổ lạc là do mất mình nên được đến hư vô. Mình tự còn mất, vật có pháp gì mà chẳng mất”.

Hỏi: “Các pháp đã không, vậy ai tu đạo?”

Đáp: “Có ai tu đạo hay không ai tu đạo, tức chẳng tu đạo. Ai cũng là ngã vậy. Nếu không ngã là gặp vật chẳng sinh phải quấy. Phải là ngã tự phải, mà vật chẳng phải phải vậy. Quấy là ta tự quấy mà vật chẳng phải quấy vậy. Tức tâm không tâm, đó là thông đạt Phật đạo, tức vật chẳng khởi thấy, gọi là đạt đạo, gặp vật đạt ngay biết cội nguồn đó, người đây mắt tuệ mở. Bậc trí là bỏ mặc vật chẳng bỏ mặc mình, tức không lấy bỏ nghịch thuận, kẻ ngu mặc mình chẳng bỏ mặc vật, tức có lấy bỏ nghịch thuận, chẳng thấy tất cả vật gọi là thấy đạo, chẳng hành một vật gọi là hành đạo, tức tất cả xứ không, xứ tức là pháp xứ, tức làm xứ không làm, pháp không làm tức thấy Phật. Nếu lúc thấy tướng thì tất cả xứ thấy quỷ, chấp thủ tướng nên đọa địa ngục, quán pháp nên được giải thoát, nếu thấy nghĩ tưởng phân biệt, tức chịu các sự vạc sôi lò đỏ, hiện thấy tướng sinh tử, nếu thấy tánh pháp giới tức tánh Niết-bàn, không nghĩ tưởng phân biệt tức là tánh pháp giới. Tâm chẳng phải sắc nên chẳng phải có, dụng mà chẳng phế bỏ nên chẳng phải không. Lại, dụng mà thường không nên chẳng phải có, không mà thường dụng nên chẳng phải không”. Về sau truyền pháp có kệ tụng nói: “Ta vốn đến xứ này, truyền pháp cứu mê tình, một hoa nở năm cánh, kết quả tự nhiên thành”.

Tổ thứ hai, Đại sư Trí Khả, nói: “Phàm phu cho rằng xưa khác nay, cho rằng nay khác xưa. Lại lìa bốn đại là có pháp thân, lúc hiểu tức năm ấm nay tâm là viên tịnh Niết-bàn, tâm đây đầy đủ muôn hạnh. Chánh xứng Đại Tông”. Lúc truyền pháp có kệ tụng nói:

“Xưa nay duyên có đất,
Nhân đất giống hoa sinh.
Xưa nay không có giống,
Hoa cũng chẳng năng sinh”.

Tổ thứ ba, Đại sư Tăng Xán truyền pháp có kệ tụng nói:

“Hoa giống tuy nhân đất,
Từ đất giống hoa sinh,
Nếu không người gieo giống,
Hoa giống đều không sinh”.

Tổ thứ tư, Đại sư Đạo Tín nói: “Phàm muốn biết tâm định là ngay lúc ngồi biết tâm ngồi, biết tâm có vọng khởi, biết tâm không vọng khởi, biết tâm không trong ngoài, lý đều về tâm, tâm đã thanh tịnh, tịnh tức bản tánh, trong ngoài chỉ một tâm, là tướng trí tuệ, rõ ràng không động tâm gọi là tự tánh định”. Lại chỉ dạy cho Đại sư Dung rằng: “Trăm ngàn diệu môn đồng về tấc vuông, Hằng sa công đức đều tại nguồn tâm. Tất cả môn định, tất cả môn tuệ, tất cả môn hành, thảy đều đầy đủ, thần thông diệu dụng đều tại tâm ông”. Lúc truyền pháp có kệ tụng nói:

“Hoa giống có tánh sinh
Nhân đất hoa sinh sinh
Duyên lớn cùng tánh hợp
Sẽ sinh sinh chẳng sinh”.

Tổ thứ năm, Đại sư Hoằng Nhẫn nói: “Muốn biết pháp yếu, tâm là căn bản của mười hai bộ kinh, chỉ có pháp một thừa. Một thừa là một tâm vậy. Chỉ giữ một tâm tức môn tâm chân như, tất cả pháp hành chẳng vượt ngoài tự tâm, chỉ tâm tự biết tâm không hình sắc. Các Tổ chỉ là đem tâm truyền tâm. Thấu đạt là ấn khả, lại không pháp riêng khác”. Lại nói: “Tất cả do tâm, tà chánh tại mình, chẳng nghĩ một vật, tức là bản tâm, chỉ trí năng biết, không hành riêng biệt”. Lúc truyền pháp có kệ tụng nói:

“Hữu tình lại gieo giống
Nhân đất quả lại sinh
Không tình đã không giống
Không tánh cũng không sinh”.

Tổ thứ sáu, Đại sư Tuệ Năng nói: “Các ông tự tâm là Phật, lại chớ hồ nghi, ngoài tâm không một pháp mà năng kiến lập, đều là tự tâm sinh muôn thứ pháp. Trong kinh nói: “Tâm sinh các thứ pháp sinh”. Pháp đó không hai, tâm đó cũng vậy, đạo đó thanh tịnh không có các tướng. Các ông chớ quán tịnh và không tâm đó. Tâm đây không hai, không thể lấy bỏ, đi đứng nằm ngồi đều ngay một tâm, tức là cõi tịnh, nương lời ta nói quyết định đắc Bồđề”. Lúc truyền pháp có kệ tụng nói:

“Đất tâm ngậm muôn giống
Mưa khắp thảy đều sinh
Chóng ngộ hoa tình rồi
Quả Bồ-đề tự thành”.

Đại sư Hoài Nhượng nói: “Tất cả muôn pháp đều từ tâm sinh, nếu đạt đất tâm, chỗ làm vô ngại. Nay ông tâm đây tức là Phật vậy. Tổ sư Đạt-ma từ Tây Vức lại chỉ truyền pháp của một tâm, ba cõi duy tâm, sum-la muôn tượng, chỗ ấn của một pháp. Phàm chỗ thấy sắc đều là tự tâm, tâm chẳng tự tâm, nhân sắc nên tâm. Ông có thể cùng lúc tức sự tức lý đều không chỗ ngại. Đạo quả Bồ-đề cũng lại như vậy, từ chỗ tâm sinh tức gọi là sắc. Biết sắc không nên sinh tức chẳng sinh”. Đại sư Mã Tổ hỏi: “Làm sao dụng ý hợp thiền định không tướng Tammuội?” Đại sư đáp: “Nếu ông học pháp môn tâm địa, tợ như gieo giống, ta nói pháp yếu thí như mưa đượm. Ông duyên hợp nên sẽ thấy ở đạo”. Đại sư Mã Tổ lại hỏi: “Hòa thượng nói thấy đạo. Đạo chẳng phải sắc làm sao năng thấy?” Đại sư đáp: “Đất tâm mắt pháp năng thấy nơi đạo, không tướng Tam-muội cũng lại như vậy”. Đại sư Mã Tổ hỏi: “Có thành hoại ư?” Đại sư đáp: “Nếu khế hợp đạo đây, không thủy không chung, chẳng thành chẳng hoại, chẳng tụ chẳng tan chẳng dài chẳng ngắn, chẳng tỉnh chẳng loạn chẳng gấp gáp chẳng chậm rãi. Nếu hiểu như vậy, sẽ gọi là đạo. Ông nhận sự chỉ bày của ta, hãy lắng nghe ta nói kệ tụng: “Đất tâm ngậm các giống, gặp đượm thảy nẩy mầm, hoa Tam-muội không tướng, sao hoại lại sao thành?” Hòa thượng Tư ở Cát Châu nói: “Tức nay nói phô tức là tâm ông, tâm đây là Phật, là thật tướng pháp thân Phật. Trong kinh nói: “Có ba A-tăng-kỳ trăm ngàn danh hiệu, tùy thế giới theo xứ lập danh, như tùy sắc châu ma-ni, chạm xanh tức xanh, chạm vàng tức vàng. Sắc báu gốc như tay chẳng tự xúc chạm, dao chẳng tự cắt, gương chẳng tự chiếu, tùy xứ của chỗ tượng hiện mỗi mỗi chẳng đồng được tên hơn kém chẳng đồng. Tâm đây thọ ngang hư không, nếu vào môn Tam-muội, không gì chẳng là Tam-muội. Nếu vào môn không tướng, đều là không tướng. Tùy xứ của lập danh đều được tông môn, nói phô khóc cười co duỗi cúi ngửa, mỗi mỗi tùy chỗ biển tánh phát nên được tên tông. Phật của tướng tốt là Phật nhân quả, tức gia dụng của Phật thật tướng. Trong kinh nói: “Ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp đều từ tâm tưởng sinh”. Cũng nói là: “Ánh lửa nhà pháp tánh”, cũng nói là “Công huân của pháp tánh”. Tùy tâm đó tịnh tức cõi Phật tịnh. Các niệm nếu sinh, tùy niệm được quả, ứng vật mà hiện, gọi đó là Như Lai. Tùy ứng mà đi nên không chỗ cầu, trong tất cả thời không có một pháp có thể được. Tự là được pháp, chẳng vì được là được. Do đó, pháp chẳng biết pháp, pháp chẳng nghe pháp, bình đẳng tức Phật, Phật tức bình đẳng, chẳng vì bình đẳng lại hành bình đẳng. Nên nói riêng một không nửa, lúc mê mê ở ngộ, lúc ngộ ngộ ở mê. Mê trở lại tự mê, ngộ trở lại tự ngộ, không có một pháp nào chẳng từ tâm sinh, không có một pháp nào chẳng từ tâm diệt. Vì vậy, mê ngộ đều tại một tâm, nên nói một mảy trần ngậm cả pháp giới. Chẳng phải tâm chẳng phải Phật là chân làm bản tánh quá các số lượng. Chẳng phải Thánh không biện rành, chỗ biện rành chẳng thể nói, không Phật có thể làm, không đạo có thể tu. Trong kinh luận nói: “Nếu biết Như Lai thường chẳng nói pháp, đó gọi là đầy đủ đa văn”. Tức thấy tự tâm đầy đủ đa văn. Nên cỏ cây có Phật tánh đều là một tâm, cơm ăn làm Phật sự, áo mặc làm Phật sự vậy. Hòa thượng An ở Tung sơn. Xưa kia Hòa thượng Nhượng và Thiền sư Thản Nhiên ở Ngọc Tuyền tại Kinh châu tập học Luật bộ, hai người cùng nói với nhau: “Tôi nghe Thiền tông là Phật thừa tối thượng, sao hẳn hạn cục ở tông tiểu đây đành mất lý đại”. Bèn mới vân du tham học nơi các bậc tiên tri, đến nơi Hòa thượng Tông ở Tung sơn, hỏi: “Thế nào là ý chỉ của Tổ sư từ Tây vức lại?” Hòa thượng bảo: “Sao chẳng hỏi ý chỉ của chính nhà mình mà hỏi ý chỉ riêng người khác làm gì?” Hỏi: “Thế nào là ý chỉ Thản Nhiên?” Hòa thượng bảo: “Ông phải gắn liền làm lụng xử dụng”. Hỏi: “Thế nào gắn liền làm lụng xử dụng? Cúi xin chỉ bày”. Hòa thượng đưa mắt trông nhìn đó. Hai người ngày đó đại ngộ.

Tam Tạng Pháp sư Quật-đa nhân đến huyện Định Tương tại Thái Nguyên, ngang qua thôn ấp thấy đệ tử của Đại sư Tú đang kết cỏ làm am riêng ngồi quán tâm. Sư hỏi: “Làm gì vậy?” Đáp (quán sát) “tĩnh”. Sư hỏi: “Khán là người nào? Tĩnh là vật gì?” Vị Tăng không trả lời mà lại hỏi: “Lý này thế nào xin Sư chỉ bày?” Sư bảo: “Sao chẳng tự khán, sao chẳng tự tĩnh?” Sư thấy căn tánh vị đó chậm chạp, mới hỏi: “Thầy của ông là ai?” Đáp: “Hòa thượng Tú”. Sư hỏi: “Thầy ông chỉ dạy pháp này, hay riêng có ý chỉ gì?” Đáp: “Chỉ dạy tôi khán tỉnh”. Sư bảo: “Pháp hành tập của ngoại đạo hạ liệt ở Tây vức, xứ nay lại lấy làm Thiền tông vậy, sao người lầm lớn!” Vị Tăng đó hỏi: “Sư là ai?” Sư đáp: “Lục Tổ”. Lại bảo: “Chánh pháp khó nghe, sao ngươi chẳng đến trong kia?” Vị tăng đó nghe sư chỉ dạy như vậy, bèn đến Tào Khê, kính lễ ra mắt Lục tổ, trình bày sự việc trên. Tổ bảo: “Thật như lời nói của Quật-đa, ông sao chẳng tự khán, chẳng tự tĩnh thì kêu ai tĩnh ông”. Ngay lời nói ấy, vì tăng đó bèn đại ngộ.

Hòa thượng Trí Sách đi đến đất Bắc, gặp thiền sư Trí Hoàng đệ tử của Ngũ Tổ hai mươi năm tu định tại đó. Hòa thượng nói: Ở nơi đây làm gì?” Trí Hoàng đáp: “Nhập định”. Hòa thượng hỏi: “Nhập định là có tâm nhập hay không tâm nhập? Nếu có tâm nhập, tức tất cả hữu tình thảy đều có tâm, cũng phải được định. Nếu nói không tâm nhập thì tất cả vô tình cũng phải được định”. Trí Hoàng đáp: “Ngay lúc tôi nhập định chẳng thấy tâm của có không”. Hòa thượng bảo: “Nếu chẳng thấy tâm của có không tức thì thường định, chẳng nên lại có xuất nhập”. Trí Hoàng không trả lời trở lại hỏi: “Thầy của ông là ai?” Hòa thượng đáp: “Lục tổ”. Hỏi: “Thầy ông dùng pháp gì để làm thiền định?” Hòa thượng đáp: “trong lắng tròn lặng, thể dụng như như, năm ấm vốn không, sáu trần chẳng phải có. Chẳng ra chẳng vào, chẳng định chẳng loạn, Thiền tánh không trú, lìa trú thiền tịch, thiền tánh không sinh, lìa sinh tưởng thiền, tâm như hư không cũng không lượng của hư không”. Trí Hoàng nghe nói như vậy, nhưng chưa dứt tâm nghi ngờ, bèn chống tích theo hướng Nam thẳng đến Tào Khê, đảnh lễ ra mắt Lục Tổ. Tổ cũng nói như trên. Trí Hoàng ngay đó bèn đại ngộ.

Hòa thượng Tư ở Nam Nhạc nói: “Nếu nói học là trước phải thông tâm, tâm nếu được thông, tất cả các pháp một lúc đều thông. Nghe nói tịnh, chẳng sinh tịnh niệm, tức là vốn tự tịnh. Nghe nói không, chẳng thủ không, thí như chim bay giữa hư không, nếu trú giữa hư không, hẳn có hoạ rơi rớt. Không trú là vốn tự tánh thể vắng lặng, mà sinh tâm đó là chiếu dụng, tức lặng là tự tánh định, tức chiếu là tự tánh tuệ. Tức định là thể tuệ, tức tuệ là dụng định. Lìa định không riêng tuệ, lìa tuệ không riêng định, lúc của tức định tức là tuệ, lúc của tức tuệ tức là định. Lúc của tức định không có định, lúc của tức tuệ không có tuệ. Tại sao? Tánh tự như vậy. Như đèn sáng tuy có hai tên mà thể đó chẳng riêng biệt, tức bèn là sáng, tức sáng là đèn, lìa đèn không riêng sáng, lìa sáng không riêng đèn, tức đèn là thể sáng, tức sáng là dụng của đèn, tức định tuệ song tu chẳng lìa bỏ nhau”.

Đại sư Dung ở Ngưu Đầu làm luận Tuyệt

Quán, có hỏi: “Thế nào là tâm?”

Đáp: “Chỗ sáu căn quán thảy đều là tâm”. Hỏi: “Tâm làm sao?” Đáp: “Tâm tịch diệt”. Hỏi: “Những gì làm thể?” Đáp: “Tâm làm thể”. Hỏi: “Những gì làm tông?” Đáp: “Tâm làm tông”. Hỏi: “Những gì làm gốc?” Đáp: “Tâm làm gốc”.

Hỏi: “Nếu vậy là định tuệ song dạo?”

Đáp: “Tâm tánh tịch diệt là định, thường hiểu tịch diệt là tuệ”.

Hỏi: “Những gì là trí?”

Đáp: “Cảnh khởi hiểu là trí”.

Hỏi: “Những gì là cảnh?”

Đáp: “Tâm tánh tự thân là cảnh”. Hỏi: “Thế nào là buông?” Đáp: “Chiếu dụng là buông”. Hỏi: “Thế nào là cuộn?”

Đáp: “Tâm tịch diệt không đến đi là cuộn. Buông thì dạo khắp pháp giới, cuộn thì định vết khó tìm”.

Hỏi: “Thế nào là cảnh giới?”

Đáp: “Bày bên ngoài chẳng thể được, gọi là pháp giới”.

Thiền sư Pháp Chiếu nói: “Trong kinh nói: “Ba A-tăng-kỳ trăm ngàn danh hiệu đều là tên khác của Như Lai, tức riêng xưng của chân như vậy”. Lại, trong kinh nói: “Muôn pháp chẳng vượt ngoài một tâm”. Nghĩa đây là vậy. Phàm, buộc từ tâm buộc, mở từ tâm mở. Buộc mở từ tâm, chẳng liên quan sự khác. Thuật của xuất yếu chỉ có quán tâm. Cho đến, nếu nêu môn một tâm, tất cả chỉ một tâm. Nếu một pháp chẳng phải tâm thì là ngoài tâm có. Ai năng tại ngoài tâm chế cấm một điều đó”.

Thiền sư Phạm nói: “Nếu biết tất cả pháp đều là pháp tức được giải thoát, mắt là pháp, sắc là pháp. Trong kinh nói: “Chẳng thấy pháp trở lại cùng pháp làm trói buộc, cũng chẳng thấy pháp trở lại cùng pháp làm giải thoát”.

Thiền sư Tạng nói: “Ở tất cả pháp không chỗ được là, tức tâm là đạo, mắt chẳng được tất cả sắc, tai chẳng được tất cả tiếng”.

Thiền sư Duyên nói: “Thí như trong nhà có một tảng đá lớn, bình thường ngồi nằm, hoặc vẽ tượng Phật, tâm khởi hiểu Phật, sợ tội chẳng dám ngồi, đều là ý thức, đầu ngọn bút hoạ làm, tự lo tự sợ, trong đá thật không tội phước”.

Thiền sư An nói: “ngay tâm là đạo. Tại sao? ngay niệm ngay dụng, lại chẳng quán không, cũng chẳng cầu phương tiện. Trong kinh nói: “ngay Nhìn chẳng thấy ngay, nghĩ chẳng tư duy, ngay thọ chẳng hành ngay, nói chẳng phiền”.

Thiền sư Giác nói: “Nếu ngộ tâm không chỗ tùy thuộc tức được vết đạo, mắt thấy tất cả sắc, mắt chẳng thuộc tất cả sắc là tự tánh giải thoát. Trong kinh nói: “Tất cả pháp chẳng thuộc nhau vậy”, tâm và tất cả pháp mỗi chẳng biết nhau”.

Ni Viên Tịch nói: “Tất cả pháp chỉ tâm không đối đãi tức tự tánh giải thoát. Trong kinh nói: “Tất cả pháp chẳng cùng mắt đối đãi. Tại sao? Pháp chẳng thấy sắc, sắc chẳng biết pháp”.

Thiền sư Nghiêu nói: “Rõ tâm biết tánh, tự thể luôn chân, chỗ duyên niệm xứ không gì chẳng là Phật pháp”.

Thiền sư Lãng nói: “Phàm có chỗ thấy, đều tự tâm hiện. Đạo tợ vật gì mà muốn tu đó? Phiền não tợ vật gì mà muốn đoạn đó?”

Thiền sư Điều nói: “Tất cả duyên bên ngoài, gọi là tướng không định, phải quấy sinh diệt mỗi do tự tâm. Nếu tự tâm chẳng tâm, ai ghét phải quấy? Năng sở đều không tức các pháp luôn tịch”.

Thiền sư Tuệ Từ nói: “Phàm, pháp tánh là đại đạo vậy. Pháp là pháp thân, tánh là giác tánh, tức tánh tự nhiên của chúng sinh vậy. Vì thế, Kim Cang Bát-nhã như nhóm lửa lớn, Tam-muội cháy rực các lụy chớ vào. Nên xưng trên trời dưới trời chỉ ta là tôn quý”.

Thiền sư Tuệ Mãn nói: “Chư Phật nói tâm, khiến biết tướng tâm là pháp hư vọng. Nay là thêm tướng tâm rất trái ý Phật. Lại thêm luận bàn rất ngược ly lớn. Thường mang theo bốn quyển kinh Lăng-già để làm tâm yếu, tùy nói tùy hành”.

QUYỂN 98

Hòa thượng Chí Công có kệ tụng nói:

“Chóng ngộ nguồn tâm mở kho báu,
Ẩn hiển vết linh hiện tướng chân.
Riêng đi riêng ngồi thường cao vọi,
Trăm ức hóa thân không số lượng.
Dù khiến bít lắp khắp hư không,
Lúc nhìn chẳng thấy tướng bụi trần.
Đáng cười vật không không sánh ví,
Miệng nhả minh châu sáng chói ngời.
Tầm thường thấy nói chẳng nghĩ bàn,
Một lời nêu tông mở lời đáng”.

Cư sĩ Bàng Uẩn có kệ tụng nói:

“Muôn pháp từ tâm khởi,
Tâm sinh muôn pháp sinh.
Sinh sinh chẳng rõ có,
Đến đi uổng luống hành.
Giữ lời người tu đạo,
Không sinh có chẳng sinh.
Như năng đạt lý đây,
Chẳng động thoát hầm sâu”.

Hàn Sơn tử có bài thơ nói:

“Nam nhi đại trượng phu
Việc làm chớ cẩu thả
Đi thẳng tâm sắc đá
Lấy thẳng đường Bồ-đề.
Đường tà chớ lấy đi
Đi đó hẳn đắng cay
Chẳng cần cầu Phật quả
Biết lấy tâm vương chủ.”

Hòa thượng Lại Toản có bài ca rằng:

“Chớ dối cầu chân Phật
Chân Phật chẳng thể thấy
Diệu tánh và Linh đài
Nào từng chịu huân luyện.
Tâm là tâm không việc
Mặt là mặt nàng sinh
Kiếp đá có thể lay
Trong đó không biến đổi”.

Lại nói: “Ta có một lời dứt lo nghĩ quên duyên, khéo nói chẳng được chỉ dùng tâm truyền. Lại có một lời không quá thẳng cùng, nhỏ như mảy may lớn không phương sở, vốn tự viên thành chẳng nhọc máy dệt”.

Hòa thượng Đằng Đằng có bài ca nói:

“Tu đạo đạo không thể tu,
Hỏi pháp pháp không thể hỏi
Người mê chẳng ngộ sắc không
Bậc Đạt vốn không nghịch thuận.
Tám muôn bốn ngàn pháp môn
Chí lý chẳng qua tấc vuông
Phiền não chánh là Bồ-đề
Hoa sạch sinh trong bùn phẩn
Thức thủ thành ấp nhà mình
Chớ dối dạo châu quận khác.”

Cao tăng Thích Pháp Hỷ đến sắp thị tịch dạy đại chúng rằng: “Ba cõi hư vọng chỉ là một tâm”. Xong, ngồi trang nghiêm mà tịch.

Cao tăng Thích Linh Nhuận nói: “Bỏ xả trần tà chấp bên ngoài, được ý ngôn phân biệt, bỏ Duy thức tưởng, được chân pháp giới, quán trước không tướng bỏ tướng trần bên ngoài, quán sau không sinh, bỏ Duy thức tưởng”. Lại, từng cùng đạo bạn lên núi dạo quán, lửa hoang bốn phía cháy bừng, mọi người đều tuông chạy, chỉ mình sư đi bình an như thường, nói với các người đi theo rằng: “Ngoài tâm không lửa, lửa thật tự tâm. Nghĩa là lửa có thể lánh trốn, không do đâu khỏi lửa”. Lúc lửa đến nơi, linh nhuận điềm nhiên tự gom thâu.

Cao tăng Thích Pháp không vào ở sâu trong Đài Sơn, thường có tiếng trong trẻo gọi rằng: “Không thiền như vậy chẳng phải một”. Từ đó về sau, pháp không biết đó là cảnh giới tự tâm, dùng pháp đuổi trừ bèn mới an tỉnh. Mới đầu dùng thiền tu tập. Về sau là đối ngại, bèn học Đại thừa lìa tướng, theo chỗ học đó, đều đem để dạy răn, lấy pháp làm thân, lấy pháp làm bạn.

Cao tăng Thích Tĩnh Mại lúc sắp thị tịch bảo: “Tâm chẳng phải bên ngoài đạo, hành tại trước lời nói”. Nói xong ngồi yên thị tịch.

Cao tăng Thích Thông Đạt Nhân dùng cây đánh khối đất, khối đất vỡ tan hình tiêu, thấy sự biến đổi đó, chợt nhiên đại ngộ dấu vết tâm.

Cao tăng Thích Chuyển Minh Phàm có người học mới thưa hỏi, đều dùng một pháp Duy tâm bình đẳng giữ chí mà kính phụng đó.

Cao tăng Thích Đạo Anh vào nước nằm tuyết mà không khổ lạnh, tùy sự như vậy, dùng pháp mà đối đó, buông nắm tự tại chẳng lấy làm khó. Do vì yếu chỉ của Duy thức suốt hiểu ruột gan, chất của sự bên ngoài đâu được ngại ư? Đang lúc giảng luận Đại thừa Khởi Tín đến đoạn môn chân như an nhiên mà nhập định.

Cao tăng Thích Đạo Thế nói: “Chuyên cần dõng mãnh sám hối là, tuy biết nương lý, phải biết tâm vọng động xa lìa cảnh trước. Trong kinh nói: “Thí như ngàn cân hoa bông chẳng bằng một lượng vàng thật” dụ cho năng quán tâm mạnh tức diệt tội mạnh”.

Thiền sư Phục-đà nói: “Nhờ giáo rõ tông, tin sâu hàm sinh đồng một chân tánh, phàm Thánh một đường, trú bền chẳng dời, chẳng tùy giáo khác, cùng đạo ngầm hợp vắng lặng vô vi, gọi là lý nhập”.

Cao tăng Thích Trí Thông nói: “Nếu là tìm gần Đại thừa tu chánh quán là, quán xét bản tế của vi trần, chấp thuận đầu tiên của một niệm, bèn có thể gai gốc lan tỏa âm của vô thường, chim vượn nói pháp rất sâu mầu, mười phương cõi tịnh chưa hẳn vượt qua đây vậy”.

Cao tăng Thích Đàm Toại từng nói: “Ba cõi hư vọng chỉ là một tâm, đuổi tìm cảnh bên ngoài, chưa ngộ khó dứt”.

Cao tăng Hòa thượng giải thoát y cứ kinh Hoa Nghiêm khởi quán Phật Quang, giữa đêm thanh trăng tỏa, trong ánh sáng bỗng thấy hóa Phật, nói kệ tụng rằng:

“Pháp chư Phật bí mật sâu mầu,
Nhiều kiếp tu hành nay mới được.
Nếu người mở rõ pháp môn đây,
Tất cả chư Phật đều tùy hỷ.”

Hòa thượng giải thoát mới lễ bái hỏi: “Pháp môn này làm sao chỉ bày cho người”. Hóa Phật bèn ẩn thân chẳng hiện, trong hư không vang kệ tụng đáp rằng:

“Trí phương tiện làm đèn
Chiếu thấy cảnh giới tâm
Muốn biết pháp chân thật
Tất cả không chỗ thấy”.

Hòa thượng Thái Nguyên nói: “Phàm muốn phát tâm vào đạo, trước phải nhận biết tự bản tâm.

Nếu chẳng nhận biết tự bản tâm, như chó đuổi theo khối đất, chẳng phải sư tử chúa vậy. Thiện tri thức chỉ ngay tâm là, tức nay nói phô là tâm ngươi, cử động hành xử là ai? Trừ ngoài đây ra, là không riêng có tâm. Nếu nói là riêng có, tức như Diễnnhã tìm đầu. Trong kinh nói: “Tâm tin thanh tịnh tức sinh thật tướng”. Lại cũng trong kinh nói: “không nương là mẹ Phật, Phật từ không xứ sinh”. Hòa thượng Thiên Hoàng nói: “Chỉ thân tâm nay tức là tánh, thân tâm chẳng thể được tức ba cõi chẳng thể được. Cho đến, có tánh không tánh đều chẳng thể được, không Phật không chúng sinh, không thầy không đệ tử, không tâm ba cõi tất cả đều không. Nói tóm lại, trong ngoài ba cõi, dưới đến các loài trùng kiến quấy động, đều tại trong một trần, kia đây đều đồng, mỗi mỗi đều như vậy, mỗi mỗi chẳng ngăn ngại nhau, tất cả pháp môn, ngàn ban muôn thứ, chỉ rõ thấy tánh, không sự gì khác”.

Hòa thượng Hưng Thiện nói: “Từ trước đến nay, Phật tổ truyền nhau pháp của một tâm, đem tâm ấn tâm, chẳng truyền pháp nào khác. Sơ tổ chỉ một lời để nói thẳng. Thí như Rồng phun nước đến bến, bến tràn đến sông, cho đến biển lớn, Rồng là nguồn của nước, để biết người học từ nay về sau truyền nhau pháp một tâm đều là nói giản yếu, mà gọi là lúc tâm chẳng được riêng tìm Phật. Đang lúc Phật chẳng được lại cầu tâm. Vì vậy, nếu người tin tự tâm là Phật. Người đây có nói phô gì đều năng chuyển pháp luân. Nếu người chẳng tin tự tâm là phật, người ấy nếu có nói phô gì đều là phỉ báng Phương Đẳng Đại Thừa. Do đó, trong kinh nói: “Ngoài tánh được Bồ-đề, thí như ép cát mà tìm dầu, chẳng là chánh nhân của dầu”. Thiền sư Ngung có hỏi: “Trong kinh Niết-bàn nói chúng sinh tức Phật tánh, Phật tánh tức chúng sinh, chỉ vì khác thời mà có tịnh và bất tịnh. Vậy chưa rõ, thứ chẳng phải tình cũng là chúng sinh chăng?”

Đáp: “Trong kinh nói: Văn-thù hỏi kim sắc nữ. Thân người có năm ấm mười hai nhập mười tám giới ư? Nữ đáp: Như thân tôi có năm ấm mười hai nhập mười tám giới”. Lại trong kinh Phạm Võng nói: Tất cả địa thủy là thân trước của ta, tất cả Hỏa Phong là bản thể ta”. Lại, hai thân y chánh hỗ tương nương nhau mà lập. Trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Tất cả pháp không tướng thì là chân thể Phật”. Trong kinh nói rõ nếu chấp tâm của Linh Trí là thường sắc là bại hoại vô thường v.v... là kiến đoạn thường của ngoại đạo vậy. Trong kinh Hoa Nghiêm nói chúng sinh giới tức Phật giới, Phật giới tức pháp sinh giới, ngoài pháp giới không riêng pháp gì khác. Cho đến muôn pháp tuy khác mà thể đó thường đồng. Nếu chẳng mê ở chỗ đồng. Thể dụng thường không có hai, yếu chỉ của không hai là bến cửa cốt yếu của xuất thế, một niệm tương ưng chẳng cách phàm thành Thánh vậy”.

Hòa thượng Ngọa Luân nói: “Rõ tâm tánh đó lặng như hư không, xưa nay chẳng sinh đó cũng chẳng diệt, đâu cần thâu đè, chỉ biết tâm khởi, tức phải hướng bên trong soi chiếu nguồn tâm, không có căn bản tức không xứ sinh, không sinh xứ nên tâm tức lặng lẽ không tướng vô vi.”

Hòa thượng Nam Tuyền nói: “Phật Nhiên Đăng nói rõ vậy, nếu chỗ tâm tưởng tư duy sinh ra các pháp, hư giả hợp tập, kia đều không thật. Tại sao? Tâm còn không có, vậy nơi nào sinh ra? Nếu Thủ các pháp giống như phân biệt hư không. Như người lấy tiếng an đặt trong hộp. Cũng như thổi lưới muốn khiến đầy hơi, ”, lại nói: “Như nay chỉ hội Lý của một Như, ngay đó tu hành”. Lại nói: “Chỉ hội vô lượng kiếp lại, tánh chẳng biến, tức là tu hành.”

Hòa thượng Vô Nghiệp ở Phần Châu mới đầu hỏi Mã Tổ: “Chí lý của ba thừa, thô cũng nghiên cứu tận cùng, còn thường nghe Thiền sư nói tức tâm là Phật, thật chưa thể rõ, cúi xin vì chỉ bày!” Mã Tổ nói: “Tức ông chẳng rõ tâm tức là lại không vật riêng khác. Lúc chẳng rõ là mê, lúc rõ là ngộ, cũng như tay làm nắm, nắm làm tay vậy”. Hòa thượng lại hỏi: “Thế nào là Tổ sư từ Tây vức lại mật truyền tâm ấn?” Mã Tổ nói: “Đại đức làm ồn náo, tạm đi đi, lúc khác đến vậy”. Hòa thượng bước chân vừa ra ngạch cửa, Mã Tổ gọi: “Đại đức! Hòa thượng xoay đầu lại, Mã Tổ hỏi: “là gì vậy?” Ngay đó, Hòa thượng đại ngộ. Lúc chỉ dạy đồ chúng, Hòa thượng nói: “Tổ sư đến xứ này quán sát chúng sinh có căn tánh Đại thừa, chỉ truyền tâm ấn, ấn các ông mê tình. Được đó là, tức chẳng kể phàm đó cùng Thánh, ngu đó cùng trí. Hư nhiều chẳng bằng thật ít. Bậc đại trượng phu chẳng như ngay đó dứt hết, chóng dứt muôn duyên, cắt dòng sinh tử, chóng ra hiểu cách thường, Linh quang riêng chiếu, vật loại chẳng ràng buộc, vời vợi rõ ràng ba cõi riêng bước, sao hẳn thân cao trượng sáu, pháp y tử ma ánh ngời, cổ đeo tròn sáng, tướng lưỡi rộng dài, nếu dùng sắc thấy ta, người đó hành tà đạo, giả sử có quyến thuộc trang nghiêm chẳng cầu mà tự đến, núi sông đất liền chẳng ngại mắt sáng, một nghe ngàn ngộ, được Đại Tổng Trì”. Lại đến lúc sắp tịch, bảo đại chúng rằng: “Tánh thấy nghe hay biết của các ông cùng hư không đồng thọ, giống như Kim cang chẳng thể ngại hoại, tất cả các pháp như ảnh như vang, không có thật đó. Trong kinh nói chỉ một việc đây thật, hai khác chẳng phải chân”. Nói xong bèn an nhiên mà tịch.

Đại sư Chân Giác nói: “Phàm, tâm tánh linh thông, nguồn của động tĩnh chẳng hai, chân như tuyệt lự, niệm của duyên tính lường chẳng phải khác. Lầm hoặc thì rối ren rong ruổi, cùng đó thì chỉ một tịch. Linh Nguyên chẳng tướng trạng, soi xét đó thì là ngàn sai, ngài sai chẳng đồng, danh của mắt pháp tự lập, một tịch chẳng phải khác.

Hiệu của mắt tuệ mới còn, lý lượng đều tiêu, công của mắt Phật tròn bày. Vì vậy, ba đế một cảnh, lý của pháp thân luôn thanh. Ba trí một tâm, sáng của Bát-nhã thường chiếu. Cảnh Trí ngầm hợp, ứng của giải thoát tùy cơ chẳng phải dọc chẳng phải ngang. Đạo của viên y huyền hội, nên biết ba đức diệu tánh uyển vậy không trái, một tâm sâu rộng khó nghĩ lường, sao xuất yếu mà chẳng phải đường. Vì vậy, tức tâm làm đạo, có thể gọi là tìm dòng mà được nguồn vậy”.

Hòa thượng Thần Tú nói: “Tất cả chẳng phải tình, vì là tâm v.v... đồng hiện. Nhiễm tịnh tùy tâm, có chuyển biến vậy, không có tánh nào khác cần nương duyên. Nghĩa là pháp của duyên sinh đều không tự tánh, không có chẳng cùng, tức hữu tình ngay lúc có, chẳng phải tình hẳn không, tha tức tự. Tại sao? Tha không tánh lấy tự làm, tức hữu tình tu chứng là chẳng phải tình tu chứng vậy. Trong kinh nói: “Thân đó khắp cùng đồng chân pháp giới”. Đã đồng pháp giới, chẳng phải tình môn không toàn là Phật. Lại, chẳng phải tình chánh lúc có, hữu tình hẳn không, tự tức tha vậy. Tại sao? Tự không tánh lấy tha làm, tức chẳng phải tình không tu không chứng là hữu tình không tu không chứng. Đồng tử Thiện Tài lúc quán lầu các khắp cùng pháp giới, hữu tình môn không toàn một các. Trong kinh nói: “Chúng sinh chẳng trái tất cả cõi, cõi chẳng trái tất cả chúng sinh, tuy nói có không đồng thời phân tướng tại đó.”

Đại sư Mạng ở thời nhà Tùy có bộ luận Dung Tâm nói: “Viên cơ đối giáo, không giáo chẳng viên. Lý tâm liên quan sự, không sự chẳng phải lý. Không sự chẳng phải lý sao loạn mà chẳng phải định. Không loạn chẳng định thì định loạn đều mất, không sự chẳng phải lý, nên sự lý đều tuyệt, cho đến tuy lìa hai biên, chẳng phải có biên mà có thể lìa, nói mất bốn câu, thật không câu mà có thể mất. Xứ đây sâu mầu, dung tâm có thể hội. Nếu dùng tâm dung tâm chẳng phải tâm dung hòa. Tâm thường như thật, chỗ nào dung hòa. Thật chẳng lập tâm nói tâm dung hòa”.

Thiền sư Trí Đạt có kệ tụng Tâm Cảnh nói: “Cảnh lập tâm bèn có, tâm không cảnh chẳng sinh, nếu đem tâm buộc cảnh, tâm cảnh thảy đều mù. Cảnh tâm mỗi tự tại, tâm cảnh tánh luôn thanh, ngộ cảnh tâm không khởi. Mê tâm cảnh cùng hành. Nếu mê tâm làm cảnh, tâm cảnh loạn tung hoành, ngộ cảnh tâm vốn tịnh. Biết tâm cảnh vốn thanh, biết tâm không cảnh tánh. Rõ cảnh tâm không hình. Cảnh hư tâm vắng lặng, tâm chiếu cảnh lặng trong”.

Hòa thượng Cam Tuyền nói: “Phàm muốn phát tâm vào đạo, trước phải nhận biết tự bản tánh. Tâm là gốc của muôn pháp chúng sinh. Tông của Phật Tổ mười hai bộ loại kinh giáo. Tuy tức quán đó chẳng thấy hình đó. Ứng dụng tự tại, chỗ làm vô ngại. Suốt thấu phân minh rõ ràng không khác. Nếu chưa nhận biết là lấy tin làm đầu. Tin là tin vật gì? Tin tâm là Phật, từ vô thủy vô minh luân hồi sinh tử. Bốn loài sáu đường thọ các thứ hình, chỉ vì chẳng dám nhận tự tâm là Phật. Nếu năng nhận biết tự tâm, ngoài tâm không riêng có Phật, ngoài Phật không riêng có tâm. Cho đến cử động hành xử lại là ai? Trừ ngoài tâm đây là không riêng có tâm. Nếu nói riêng có là, các ông tức là Diễn-nhãđạt-đa, đem đầu tìm đầu cũng lại như vậy. Ngàn kinh muôn luận chỉ duyên chẳng nhận biết tự tâm. Nếu rõ tự tâm xưa nay là Phật là tất cả chỉ giả danh, huống gì ở ba cõi, thì gương sáng có thể soi mặc, Đại thừa có thể dùng ấn tâm”. Lại nói: “Cầu kinh tìm Phật, chẳng như đem lý khám tâm, nếu khám được tự tâm vốn tự thanh tịnh chẳng phải chùi sánh, vốn tự có đó, chẳng nhân kinh mà được, sao lại được biết. Trong kinh nói: “Tu-đa-la giáo như ngón tay chỉ mặt trăng”. Nếu là thấy trăng rõ biết chỗ chỉ. Nếu năng giải hiểu như vậy là một niệm tương ưng, tức gọi là Phật”.

Đại sư Phổ Ngạn nói: “Đại đạo rỗng thoáng chỉ một chân tâm, thiện ác chớ tư duy, thần thanh tịnh vật bày, lại có gì lo”.

Hòa thượng Quy Sơn nói: “Trong ngoài các pháp đều biết chẳng thật, từ tâm hóa sinh đều là giả danh, mặc tình pháp tánh kia khắp cùng chớ đoạn chớ tiếp nối”.

Hòa thượng Lâm Tế nói: “Như các người nay cùng Thánh xưa trước có gì riêng biệt. Ông lại khuyết thiếu gì ư? Sáu đạo thần quang chưa từng gián tuyệt, nếu năng như vậy chỉ là người một đời vô sự. Muốn được cùng Phật tổ chẳng riêng biệt, chỉ chớ hướng ngoài rong cầu. Ông một niệm sáng thanh tịnh là pháp thân Phật trong phòng nhà ông. Ông một niệm sáng không phân biệt là báo thân Phật trong phòng nhà ông. Ông một niệm ánh sáng sai biệt là hóa thân Phật trong phòng nhà ông. Ba thứ thân đây tức là người nghe pháp trước mắt ngày nay. Ba thứ đây là danh ngôn, rõ biết là bóng sáng. Đại đức lại muốn nhận biết kẻ lấy đùa bóng sáng là cội nguồn chư Phật, là tất cả con đường đi về nhà. Bốn đại sáu căn và hư không của ông chẳng hiểu nghe pháp nói pháp là vật gì? Rành rẽ riêng sáng chẳng phải thân hình đoạn, là cái hiểu nói pháp nghe pháp, do đó nói với ông nói, hướng đến trong ruộng thân năm ấm có chân nhân không vị. Rõ ràng hiển bày không mảy tóc chấp thuận ngăn cách, sao chẳng nhận biết lấy? Đại đức! Tâm pháp không hình thông suốt mười phương, tại mắt gọi là thấy, tại tai gọi là nghe, vốn là một tinh minh phân thành sáu hòa hợp. Tâm nếu chẳng sinh tùy xứ giải thoát”.

Hòa thượng Quán Khê có kệ tụng nói:

“Trong núi năm ấm nhà Phật xưa
Tỳ-lô đêm ngày tỏa viên quang
Trong đó nếu rõ chẳng đồng khác
Tức là Hoa Nghiêm khắp mười phương”.

Hòa thượng Thạch Đầu nói: “Như tâm thể ông lìa đoạn lìa thường, tánh chẳng phải dơ sạch trong lắng viên mãn, phàm Thánh ngang đồng, ứng dụng vô phương, ba cõi sáu đường chỉ tự tâm hiện. Nước trăng gương tượng có sinh diệt ư? Ông năng biết đó không chỗ chẳng đủ, chỗ các Thánh dùng giáng linh duỗi khuôn phép rộng thuật lời giả, bởi muốn hiển bày pháp thân vắng lặng khiến về căn vậy”.

Hòa thượng Hoàng Nghiệt nói: “Tổ sư Đạt-ma từ Tây Vức lại chỉ truyền pháp một tâm, ngay đó chỉ tâm tất cả chúng sinh xưa nay là Phật. Chẳng nhờ tu hành, chỉ khiến nhận biết lấy tự tâm thấy tự bản tánh, chớ riêng cầu pháp. Tại sao? Nhận biết tự tâm tức Như. Nay nói phô là tâm ông. Nếu chẳng nói phô, lại chẳng tác dụng, tâm thể giống như hư không, tương tợ thật không tướng mạo, cũng không phương sở, cũng chẳng một mực là không, chỉ là có mà chẳng thấy”. Lại nói: “Chỉ ngộ một tâm, là không chút ít pháp có thể được. Đây tức chân Phật, Phật cùng chúng sinh một tâm, lại không có khác, chẳng như ngay lời nói tự nhận lấy bản pháp, pháp đây tức tâm, ngoài tâm không pháp, tâm đây tức pháp, ngoài pháp không tâm”.

Hòa thượng Đan Hà nói: “Các ông bảo hộ một linh hàm chẳng bằng các ông tạo tác được, chẳng bằng các ông ghi nhớ xa vời được. Địa vị tôi đây, không Phật không Niết-bàn, cũng không đạo có thể tu, cũng không pháp có thể chứng. Đạo chẳng thuộc có không, lại tu pháp nào, chỉ ánh sáng đây nơi nơi chốn chốn là đại đạo”.

Hòa thượng Thủy Lạo nói: “Nếu nói một pháp, mười phương chư Phật gom thâu vào trong một pháp, trăm ngàn diệu môn tại trên đầu một sợi lông, ngàn Thánh đồng vết quyết định không sai, chiếu khắp mười phương giống như gương sáng. Đất tâm nếu sáng tất cả vật thảy đều khám phá, từ xưa đến nay lấy tâm truyền tâm. Bản tâm tức là pháp”.

Hòa thượng Ngưỡng Sơn nói: “Chóng ngộ tự tâm không tướng giống như hư không, nương căn phát sáng tức bản tâm đủ hằng sa diệu dụng, không riêng chỗ trì, không riêng an lập, tức bản địa tức bản thổ”.

Hòa thượng Đại Điên nói: “Năm trước, Lão tăng gặp Hòa thượng Thạch Đầu, hỏi: “Cái gì là tâm ông?”

Đáp: “Nói phô là tâm”. Bị sư quát mắng đuổi ra. Qua hôm sau trở lại hỏi: “Ngày trước đã chẳng là tâm, trừ ngoài đây ra, vậy gì là tâm?” Sư đáp: “Trừ bỏ nhướng mày động mắt, ngoài tất cả mọi sự, đem ngay tâm lại”.

Đáp: “Không tâm có thể lại”. Sư bảo: “Ông trước lại có tâm, sao được nói không tâm? Không tâm đều đồng phỉ báng ta”. Ngay lời nói đó bèn đại ngộ liền đáp rằng: “Đã khiến con trừ bỏ nhướng mày động mắt tất cả mọi sự, Hòa thượng cũng phải trừ bỏ đó”. Sư bảo: “Ta trừ bỏ rồi!” Đáp rằng: “Đem trình Hòa thượng đã xong”. Sư bảo: “Ông đã trình ta, tâm như thế nào?”

Đáp: “Chẳng khác Hòa thượng”. Sư bảo: “Chẳng liên quan gì việc ông?”

Đáp: “Vốn không vật”. Sư bảo: “Ông cũng không vật”.

Đáp: “Đã không vật tức chân vật”. Sư bảo: “Chân vật chẳng thể được, ý chỉ tâm hiện lượng nơi ông như đây vậy, phải khéo hộ trì”.

Hòa thượng Tam Bình có kệ tụng nói:

“Tức thấy nghe đây chẳng thấy nghe,
Không sắc thanh gì trình với anh,
Trong đây nếu rõ trọn vô sự,
Thể dụng không ngại phân chẳng phân”.

Lại có kệ tụng khác nói:

“Thấy nghe hay biết vốn chẳng nhân,
Đương thể hư huyền dứt vọng chân,
Thấy tướng chẳng sinh nghiệp si ái,
Suốt thông toàn là Thích-ca thân.”

Hòa thượng An Quốc nói: “Trong kinh nói: “Nên không chỗ trú mà sinh khởi tâm kia”. Không chỗ trú là chẳng trú sắc chẳng trú thanh, chẳng trú mê, chẳng trú ngộ, chẳng trú thể, chẳng trú dụng. Mà sinh khởi tâm kia là, tức là tất cả xứ mà hiển bày một tâm. Nếu trú thiện sinh tâm tức là thiện hiện, nếu trú ác sinh tâm tức là ác hiện. Bản tâm tức ẩn mất, nếu không chỗ trú, mười phương thế giới chỉ là một tâm. Tin biết gió phướn chẳng động là tâm động”. Có vị Đàn Việt hỏi: “Hòa thượng là Nam Tông hay Bắc Tông?”

Đáp: “Ta chẳng phải Nam Tông hay Bắc Tông, tâm là tông”. Lại hỏi: “Hòa thượng từng xem giáo ư?”

Đáp: “Ta chẳng từng xem giáo. Nếu nhận biết tâm, tất cả giáo khán xong”. Có người học hỏi: “Thế nào gọi là nhận biết tâm thấy tánh?”

Đáp: “Dụ như đêm ngủ mộng thấy đẹp xấu, nếu biết thân tại trên giường ngủ yên toàn không vui buồn, tức là nhận biết tâm thấy tánh. Như nay có người nghe làm Phật bèn mừng, nghe vào địa ngục tức lo, chẳng đạt tâm Phật an ngủ trên giường Bồđề, vọng sinh mừng lo”.

Hòa thượng Quy Tông nói: “Tức tâm là Phật, triệt để chỉ tánh, núi sông đại địa, chỗ một pháp ấn, là thần chú lớn, chân thật chẳng hư, là cội nguồn của chư Phật, là căn cốt của Bồ-đề. Phật là thế nào? Tức là đang nói nay vậy, không riêng người nào khác. Trong kinh nói: “Thí như một sắc, tùy chúng sinh thấy mà được các thứ tên. Tất cả pháp chỉ là một pháp, tùy xứ mà được tên”.

Hòa thượng Đại bi nói: “Năng biết tự tâm tánh bao hàm ở muôn pháp trọn chẳng riêng cầu, niệm niệm công phu vào nơi thật tướng. Nếu chẳng thấy nghĩa đó, dẫu cần khổ nhiều kiếp cũng không công phu”.

Hòa thượng Thảo Đường nói: “Phàm lưới trời Đế-thích chưa giăng, ngàn châu anh lạc sao thấy? Lưới rộng chợt tung, muôn mắt tự mở. Tâm Phật cả hai chiếu là quán, tâm Phật cả hai mất là chỉ. Định tuệ đã quân bình, cũng tâm nào mà chẳng Phật, Phật nào mà chẳng tâm. Tâm Phật đã vậy thì muôn cảnh muôn duyên không gì chẳng phải Tammuội.”

Hòa thượng Tuệ Hải Bách Trượng nhân đánh lửa chỉ bày cho Linh hựu ở Quy Sơn nhân đó mà chóng ngộ, Hòa thượng Tuệ Hải bảo: “Đây tạm thời là đường rẽ. Trong kinh nói: “Muốn thấy Phật tánh, phải quán nhân duyên thời tiết”. Thời tiết đã đến như mê chợt ngộ, tợ quên chợt nhớ. mới tỉnh xưa nói đạo cũ, mình vật chẳng từ kẻ khác được, cho nên Tổ Sư nói: “Ngộ rồi đồng chưa ngộ, không tâm được không pháp, chỉ là không hư vọng, tâm Thánh phàm đồng đẳng”. Tâm pháp xưa nay nguyên tự đầy đủ là ông nay đã vậy, khéo tự hộ trì.”

Lại trong quảng ngữ có nói: “Hỏi: “Thấy chăng?”

Đáp: “Thấy”.

Hỏi: “Thấy gì?”

Đáp: “Thấy không hai.”” Đã nói không hai chẳng dùng thấy thấy nơi thấy. Nếu thấy lại thấy là thấy trước phải hay thấy sau phải? Trong kinh nói: “Lúc của thấy thấy, thấy chẳng phải thấy”. Do đó nói, chẳng hành pháp thấy chẳng hành pháp nghe, chẳng hành pháp giác, chư Phật chóng cùng thọ ký”. Lại nói: “Tự tâm là Phật, chiếu dụng thuộc Bồ-tát. Tự tâm là chủ tể, chiếu dụng thuộc khách. Như sóng nói nước, chiếu vạn hữu để hiển công. Nếu năng lặng chiếu chẳng còn huyền chỉ, tự nhiên suốt ở xưa nay. Như nói thần không công chiếu, chí công thường còn”. Lại nói: “Như nay muốn được chợt ngộ giải ngay, chỉ nhân pháp đều sạch đều tuyệt đều không”.

Hòa thượng Bàn Sơn nói: “Đại đạo không giữa, ai là trước sau? Không trung tuyệt vết, sao dụng lường đó? Không đã như vậy, đạo đâu nói ư? Trăng tâm lẽ tròn, sáng suốt muôn tượng. Ánh sáng chẳng phải chiếu cảnh, cảnh cũng chẳng phải còn. Ánh sáng và cảnh đều mất, lại là vật gì? Thí như rút kiếm huơ giữa không trung chớ luận chạm nó hay chẳng chạm Đó chính là không luân(bầu hư không) không có vết, kiếm nhọn chẳng phải khuyết. Nếu năng như vậy tâm, tâm không biết, toàn người tức Phật, toàn Phật tức người, người Phật không khác mới là đạo vậy”.

Hòa thượng Đại Mai, mới đầu hỏi Mã Tổ: “Thế nào là Phật?”

Đáp: “Tức tâm ông vậy”. Hỏi: “Thế nào là pháp?” Đáp: “Cũng tâm ông vậy”.

Hỏi: “Tổ không ý ư?”

Đáp: “Ông chỉ nhận biết lấy tự tâm, không pháp nào chẳng đủ”. Về sau đến trú mai sơn, chỉ dạy đại chúng rằng: “Các ông nên phải mỗi tự rõ tâm thấu gốc, chớ theo ngọn đó. Chỉ được gốc đó thì ngọn đó tự đến. Các ông muốn được gốc đó, chỉ nhận biết lấy tâm ông. Tâm đây nguyên là căn bản của tất cả pháp thế gian và xuất thế gian, chỉ tâm chẳng kèm tất cả thiện ác mà sinh, tức biết muôn pháp vốn tự như như”. Bấy giờ có người học hỏi: “Ngoài tâm không riêng có pháp ư?” Đáp: “Tổ Phật là tâm ông sinh vậy, tâm là gốc của muôn pháp, đâu riêng có pháp qua tâm ư?” Giải thích: Như Lục Tổ nói: “Thiện ác đều chớ nghĩ lường, tự nhiên được vào tâm thể, tong lắng thường lặng lẽ diệu dụng vô cùng”. Vì chư Phật là ngằn mé cực thiện, chúng sinh là ngằn mé cực ác. Vì thiện ác gồm thâu hết tất cả pháp, nên nói nếu chẳng nghĩ lường, toàn về tâm thể, chỉ có pháp của mảy may đều là tư tưởng tâm sinh. Như Hàn Sơn Tử có bài tụng:

“Muôn cớ đều sạch vết,
Mới thấy người xưa nay”.

Một chữ sạch đó chưa hẳn phải sạch, vì ngoài tâm vốn không một pháp, chỗ thấy chỉ là tâm, như hang cốc ứng tự tiếng, gương tả tượng ta. Chỉ nghĩa là chúng sinh chẳng đạt cổ động máy tâm, lập tiền trần sai biệt, như hoa đốm khởi diệt giữa hư không, dệt vô biên vọng tưởng, tợ lửa nước tuông vọt, chẳng là cội nguồn một tâm nên khiến sạch tuyệt, nếu vào tâm thể, tuy nói trong lắng mà chẳng rơi vào đoạn diệt, tự nhiên từ thể khởi dụng, khắp cùng hằng sa. Lại, Hòa thượng Đại Mai nói: “Pháp môn tâm đây, diệu lý chân như chẳng tăng chẳng giảm các thứ phương tiện khéo năng ứng dụng, phải biết đều là tánh đây xưa nay đầy đủ chẳng sinh chẳng diệt, năng biết tất cả tác dụng của cả ba đời. Do đó nói: Ta quán lâu xa như hiện ngày nay thường tại trong đó kinh hành và ngồi nằm”.

Hòa thượng Nham Đầu nói: “Có không ở trong ba cõi chỉ tự mình biết, lại không các sự khác, chỉ nhận biết mặt mắt xưa nay của tự mình, gọi là thần không nương đất mênh mông. Nếu nói riêng có pháp có Tổ, lừa ông đến đáy, chỉ hướng nhìn trong tấc vuông. Xa vời rõ sáng, chỉ không muốn không nương bèn được khơi thông”.

Hòa thượng Cao Thành có bài ca nói: “Tâm không tướng năng vận sáng, ứng tiếng ứng sắc tùy phương chiếu, tuy tại phương mà chẳng tại phương, mặc tình cao thấp đều năng diệu, tìm không đầu lại không đuôi. Lửa sáng xoay vần từ đâu khởi, chỉ là như nay toàn là tâm. Tâm dụng rõ tâm tâm lại vậy, chẳng ở phương xứ nào tìm. Vận dụng không vết lại không tích. Biết lấy như nay rõ tìm người, trọn ngày chớ lừa riêng cầu đích, chuyên tâm học gần tòng lâm chớ đem mắt bệnh nhận hoa châm, nơi giáo vốn cùng lý không tướng. Rộng độc xưa nay chẳng biết tâm biết lấy tâm rõ lấy cảnh. Biết tâm rõ cảnh sông thiền lắng, nếu năng rõ cảnh bèn biết tâm, muôn pháp đều như ảnh Thát-bà”.

Hòa thượng Thiên Khoảnh nói: “Tất cả chúng sinh lừa la voi ngựa rết sên, mười ác năm nghịch vô minh vọng niệm tham sân, các pháp chẳng rõ, đều từ trong Như Lai Tạng hiển hiện, xưa nay là Phật, chỉ vì chúng sinh từ vô thủy kiếp đến nay liếc khởi một niệm, từ đó trôi chảy mãi đến ngày nay. Do đó, Đức Phật ra đời khiến diệt ý căn, tuyệt các phân biệt, một niệm tương ưng bèn vượt Chánh giác, đâu cần dạy kẻ khác biết nhiều hiểu nhiều nhiễu loạn thân tâm. Do đó Bồ-đề quang minh chẳng được phát hiện. Nay ông chỉ năng tuyệt được thấy nghe hay biết, ở trên vật cảnh, chớ sinh phân biệt, tùy thời mặc áo ăn cơm, tâm bình thường là đạo, pháp đây rất khó: “Có người học hỏi: “Hòa thượng đến đêm không có đèn thì thế nào?

Đáp: Người ngộ đạo thường soi sáng hiện tiền có gì là đêm ngày”.

Hỏi: “Sao chẳng thấy Hòa thượng soi sáng?”

Đáp: “Định đem mắt gì để thấy?” Người học nói: “Người đời đồng đem mắt hiện tại thấy”. Hòa thượng khảy móng tay bảo: “Khổ thay! Tất cả chúng sinh căn trần xen nhau từ vô thủy lại, nhận giặc làm con, mãi đến ngày nay thường bị gông cùm, ông đem mắt ý thức phân biệt định cầu Phật đạo, tức là trái bỏ bản tâm, theo niệm lưu chuyển, người như vậy tuy đối mặt mà xa một trời một vực?.

Hòa thượng Duy Chánh nói: “Thánh xưa Thánh nay lý đó ngang bằng vậy, mặt nhật ngày xưa, mặt nhật ngày nay, chiếu chẳng hai mới, gió ngày xưa, gió ngày nay, lay không hai động, nước của một giọt đượm vậy, nước của biển lớn đượm vậy”. Lại có bài tụng nói:

“Một niệm được tâm
Chóng vượt ba cõi
Thấy không chỗ thấy
Tham sân nát hoại”.

Hòa thượng Trung ở núi Ngưu Đầu, có người hỏi: “Phàm, vào đạo là dụng tâm thế nào?”

Đáp: “Tất cả các pháp vốn tự chẳng sinh nay thì không diệt. Ông chỉ để mặc tâm tự tại chẳng cần cấm ngăn ngay thấy ngay nghe. Ngay đến ngay đi, cần đi thì đi cân ở thì ở, đây tức là chân đạo.

Trong kinh nói: “Duyên khởi là đạo tràng”, biết như thật vậy”. Lại hỏi: “Muốn khiến tu đạo, làm phương tiện gì mà được giải thoát?”

Đáp: “Người cầu Phật, chẳng làm phương tiện, chóng rõ nguồn tâm, sáng thấy pháp tánh, tức tâm là Phật, chẳng phải vọng chẳng phải chân vậy. Trong kinh nói: “Chánh bỏ ngay phương tiện, chỉ nói đạo Vô thượng”. Lại hỏi: “Diệu pháp chân như lý trí sâu mầu, những người biết cạn làm sao được thấy?”

Đáp: “Ông chớ phỉ báng Phật, Phật chẳng nói như vậy. Tất cả các pháp chẳng phải sâu chẳng phải cạn, ông tự chẳng thấy, cho là sâu mầu. Nếu là lúc thấy chạm mắt thảy đều vi diệu sao, lấy suy cao, Bồ-tát riêng lập Thánh nhân. Vả lại như Sinh công (Đạo Sinh) nói: “Chẳng phải nói là trí sâu. Vật sâu ở trí vậy”, từ ngữ đây thương tổn chẳng kịp vậy. Ông chớ chọn lựa pháp, chớ còn tâm lấy bỏ, nên nói pháp không có so sánh, không có đối đãi nhau vậy. Phàm kinh là lấy thân tâm làm nghĩa. Trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Thân là Tạng chánh pháp, tâm là đèn vô ngại, chiếu rõ các pháp không, gọi là độ chúng sinh”.

Hòa thượng Giáp Sơn nói: “Trước mắt không pháp, ý tại trước mắt, chẳng là pháp trước mắt, chẳng phải chỗ đến của tai mắt”.

Hòa thượng Đại An nói: “Tự trong mỗi thân các người có báu lớn vô giá, từ cửa mắt tỏa sáng chiếu phá núi sông đại địa, cửa tai tỏa sáng, lãnh nhận tất cả âm thanh thiện ác. Sáu cửa đêm ngày thường tỏa ánh sáng, cũng gọi là phóng quang Tam-muội. Các người tự chẳng nhận biết trong thân bốn đại, trong ngoài giữ, chẳng cho nghiêng lệch hai cẳng chân ngã, gánh hai gánh lớn đã qua cầu khỉ, cũng chẳng cho kia ngã xuống đất. lại là gì? Các ông nếu tìm mảy tóc tức chẳng thể thấy. Nên Chí Công nói: “Trong ngoài tìm kiếm đều không, trên cảnh hành xử trọn có nhiều”.

Hòa thượng Trường Sa có kệ tụng nói:

“Rất sâu mầu rất sâu mầu,
Pháp giới thân người bèn là tâm
Mê là mê tâm làm các cõi
Lúc ngộ cõi biển là chân tâm.
Thân giới hai trần vốn thật tướng
Rành rẽ thấu đây gọi tri âm”.

Lại, có người học hỏi: “Khắp pháp giới, tâm thức chúng sinh đầu tiên từ đâu mà có?” Hòa thượng dùng kệ tụng đáp:

“Đất tánh sinh tâm vương
Tâm là thầy muôn pháp
Tâm diệt tâm thầy diệt
Mới được khế như như”.

Hòa thượng Long Nha nói: “Phàm nói tu đạo là, đây là ngôn từ khuyến dụ, lời nói tiếp dẫn, từ xưa đến nay không pháp ban cho người, chỉ là tiếp nối các thứ phương tiện là nói ra ý chỉ khiến nhận biết tự tâm, rốt ráo không pháp có thể được, không đạo có thể tu. Nên nói đạo Bồ-đề tự nhiên. Nay nói pháp là tên của khuôn giữ, đạo là thể tánh chúng sinh, chưa có thế giới sớm có tánh đây, lúc thế giới hoại, tánh đây chẳng diệt, gọi là tánh của Tùy lưu, thường không biến khác. Động tĩnh và hư không đồng đẳng, gọi là tướng thế gian thường trú, cũng gọi là Đệ nhất nghĩa không, cũng gọi là bản tế, cũng gọi là tâm vương, cũng gọi là chân như giải thoát, cũng gọi là Bồ-tát Niết-bàn, trăm ngàn hiệu khác đều là giả danh, tuy có nhiều danh mà không nhiều thể, hội nhiều danh mà đồng một thể, hội muôn nghĩa mà về một tâm. Nếu nhận biết bản tâm nhà mình, gọi là về căn được chỉ. Thí như người muốn được các dòng nước, chỉ đến trong biển lớn mà cầu. Muốn biết tướng của muôn pháp, chỉ hướng trong tâm mà khế hội. Hội được huyền lý, khắp thể toàn chân. Muôn tượng sum-la, chỗ một pháp nhiễm”.

Hòa thượng Đức Sơn nói: “Nếu có một bụi trần một pháp có thể được, cùng ông chấp lấy sinh hiểu, đều lạc vào Thiên ma ngoại đạo. Chỉ là cái linh không, còn không mảy trần có thể được, xứ xứ thanh tịnh, ánh sáng suốt đạt, trong ngoài sáng suốt. Nên nói: Ông chớ mến Thánh, Thánh là tên không, là không riêng có pháp, chỉ là cái linh không sáng rực, vô ngại tự tại, chẳng là trang nghiêm tu chứng được, từ Phật đến tổ đều truyền pháp đây, mà chẳng lìa xa”.

Hòa thượng Phật Quật đệ tử Ngưu Đầu nói: “Nếu người chẳng tin một văn Văn-thù nói, mười phương Văn-thù đồng lúc nói, một Phật Niết-bàn, tất cả chư Phật Niết-bàn. Tại sao? Vì chưa đạt sắc căn bản vậy”.

Hỏi: “Rõ sắc tánh không chỗ có là gốc ư?”

Đáp: “Đây là Trú Quán mà nói, chẳng phải là tức sự mà thấy căn bản. Nếu tức sự thấy là chỉ thân ông sinh lão bệnh và vô minh dâm nộ là sắc căn bản, ngoài sự không lý vậy. Nên nếu rõ một sắc căn bản tức khắp mười phương sắc đồng, gọi là một nói tất cả nói, một Niết-bàn tất cả Niết-bàn, nên biết sắc thể không tánh, tánh không gì bao gồm”. Lại nói: “Tuy đồng phàm phu mà chẳng phải phàm phu, chẳng được phàm phu, chẳng hoại phàm phu. Nghĩa là riêng có thù thắng tại ngoài tâm, tức rơi lạc lưới ma. Nay ta tự quán thân tâm thật tướng làm Phật, tức là thấy mười phương chư Phật đồng hành đồng chứng xứ”.

Hỏi: “Thân Phật vô lậu, giới định huân tu, năm âm chẳng buộc chẳng thoát, thì chẳng dám nghi ngờ. Vả lại như trong kinh Đại Phẩm nói: “Chúng sinh thân năm ấm bất thiện cũng chẳng buộc chẳng thoát”, rất khiến người nghi ngờ, xin vì giải nói?” Đáp: “Nếu hướng bên ngoài chúng sinh năm ấm riêng có chư Phật giải thoát. Điều ấy không thể có, chỉ rõ tự tánh chúng sinh, từ xưa đến nay không có một pháp có thể được, ai buộc ai thoát? Sao được lại có khác của buộc thoát”. Hỏi: “Trong kinh nói: “Chúng sinh và Phật bình đẳng không có buộc thoát”, sao được sáu đường chúng sinh chìm đắm chẳng được giải thoát?” Đáp: “Chúng sinh chẳng rõ sắc tâm thanh tịnh, vọng tưởng điên đảo, chẳng được giải thoát. Nếu biết nhân pháp thường không, trong đó thật không buộc thoát.” Hỏi: “Làm sao quán hành sám hối, lâm chung khỏi bị nghiệp kéo dắt?” Đáp: “Ông phải tin sâu xứ chỗ hành chỗ nói của chư Phật, cùng xứ chỗ hành chỗ nói của ta ngày nay không riêng khác. Cho đến thành Phật còn chẳng được tướng Niết-bàn. Huống gì tội phước vọng nghiệp khoảng giữa mà có thể được. Đây là chân thật chánh biết chánh thấy. Chân thật tu hành chân thật sám hối, chỉ lúc đi đứng ngồi nằm chẳng mất quán đây, đến lúc lâm chung tự nhiên chẳng mất chánh niệm”.

Hòa thượng Vân Cư đệ tử Phật Quật, có soạn thuật thiên Tâm Cảnh Bất Nhị, nói: “Thế gian xuất thế gian đều chẳng vượt ngoài tự một niệm vọng tâm. Mà có niệm vừa khởi tức muôn tượng phân chia, một niệm cùng bèn thành tâm cảnh. Nếu chẳng phải tâm cảnh, sao được có niệm có thể thấy. Đã có niệm của chỗ thấy, lại có tâm của năng thấy, sắp biết niệm tức là cảnh, thấy tức là tâm. Niệm của chỗ thấy bèn thành sắc uẩn. Tâm của năng thấy bèn thành bốn uẩn. Trong kinh nói: “Năm uẩn là thế gian, một niệm đủ năm uẩn”. Trong mỗi mỗi uẩn đều đủ năm uẩn nên được một chẳng ngại nhiều, nhiều chẳng ngại một. Do đó tâm cảnh giao thông hỗ tương làm bạn chủ. Trong kinh nói: “Cảnh trí qua lại xen vào lớp lớp vô tận, tức là một trần bao hàm pháp giới, mỗi mỗi pháp đều khắp cùng vậy. Quán tự một niệm động, tức Hằng sa thế giới một lúc cùng chấn động. Quán tự một niệm thường định, tức sáu đường chúng sinh thảy đều thường định. Nếu thật rõ thể của một niệm, tức Hằng sa thế giới thường hiện tự tâm, do mê một niệm tức cảnh trí sao vượt”.

Hòa thượng Đại Châu nói: “Tâm tánh không hình tức là pháp thân vi diệu, tâm tánh thể không tức là thân hư không vô biên. Bày hành trang nghiêm tức là công đức pháp thân, pháp thân đây là gốc của muôn hóa tùy xứ lập danh, trí dụng vô tận, là kho tàng vô tận”.

Hỏi: “Thế nào là pháp thân?”

Đáp: “Tâm năng sinh Hằng sa muôn pháp nên gọi là thân của nhà pháp”. Trong kinh nói: “Một niệm tâm trong trần, diễn ra Hằng sa kệ, người lúc ấy chẳng biết”.

Hỏi: “Chân pháp huyễn pháp mỗi mỗi có chủng tánh ư?”

Đáp: “Phật pháp không chủng ứng vật mà hiện. Nếu tâm chân là tất cả đều chân, nếu có một pháp chẳng chân, thì nghĩa chân đó chẳng tròn. Nếu huyễn tâm là tất cả đều huyễn. Nếu có một pháp chẳng huyễn, thì huyễn pháp có định. Nếu tâm không là tất cả đều không. Nếu có một pháp chẳng không, thì nghĩa không chẳng tròn. Lúc mê người theo pháp. Ngộ bỏ pháp do người. Sum-la muôn tượng đến không mà cực, trăm sông các dòng đến biển mà cực. Tất cả Hiền Thánh đến Phật mà cực. Mười hai bộ loại kinh giáo, năm bộ Tỳ-ni, bốn bộ luận Vi-đà đến tâm mà cực. Tâm là nơi Tổng trì nguồn của muôn pháp, cũng là tạng đại trí tuệ, không trú Niết-bàn, trăm ngàn danh hiệu đều là tên khác của tâm”.

Hòa thượng Tiên ở Động sơn có bài Tâm Đan Quyết nói: “Tôi có thuốc tên Tâm đan, trong lò phiền não luyện nhiều năm. Biết y chẳng biến sắc trong thai, ánh sáng chiếu sáng rỡ khắp đại thiên, mở mắt pháp thấy tướng đẹp, năng biến Thánh phàm khoảng sát-na, cần biết chân giả thành công dụng, trong tất cả thời rèn luyện xem. Không hình trạng chớ vuông tròn, trong lời không vật lời trong vật. Có tâm dụng tức trái chân dụng, không ý an thiền không chẳng thiền, cũng không diệt cũng không khởi, sum-la muôn tượng đều khiến sai. Chẳng luận châu thổ chỉ đem lại, vào trong lò đây không chẳng phải. Không một ý là ý tôi, không một trí là trí tôi, không một vị không chẳng khác, sắc chẳng biến chuyển khó rõ rành, lại không một vật ở trong hiện, chớ đem một vật chế phục khác, chứng hợp chân không chớ luyện rèn”.

Hòa thượng Tiên ở Tào Sơn nói: “Phật xưa tâm tường vách ngói gạch đó, cũng gọi là đất tánh, cũng xưng thể toàn công, cũng nói pháp không tình giải thoát. Nếu biết trong đó được xứ không biện, mười phương cõi nước núi sông tường đá gạch ngói hư không cùng chẳng phải không, có tình không tình cây cỏ rừng chầm, thông làm một thân, gọi là được dự ghi, cũng gọi là pháp môn một chữ, cũng gọi là pháp môn Tổng trì, cũng gọi là một bụi trần một niệm, cũng gọi là làm đồng vết. Nếu là đất tánh chẳng biết có, chư Phật ngàn ban dụ chẳng được, muôn thứ sánh chẳng thành ngàn Thánh, muôn Thánh đều từ trong đó ra, từ đó lại chẳng biến khác, nên gọi là mười phương Bạt-già-phạm, môn một lối Niết-bàn.”

Hòa thượng Linh Biện nói: “Phàm, một tâm chẳng nghĩ bàn, diệu nghĩa không định tướng, ứng thời mà dụng chẳng thể định chấp. Trong kinh nói: “Tất cả Thánh hiền đều lấy pháp vô vi mà có sai biệt, dụng sai biệt tùy xứ mà được tên, rốt ráo chẳng lìa tự tâm. Tâm đây năng hoại tất cả năng thành tất cả. Nên nói tất cả pháp đều là Phật pháp. Tâm làm trời tâm làm người, tâm làm quỷ thần, súc sinh địa ngục đều chỗ tâm làm, đẹp xấu đều do tâm, cần sinh cũng được cần chẳng sinh cũng được, tức là nghĩa vô ngại, chỉ nay tất cả hành xử đi đứng nằm ngồi tức là tướng tâm, tướng tâm không tướng nên gọi là thật tướng. Thể không biến động, cũng gọi là Như Lai. Như là chẳng biến chẳng khác, trong không hiện có, trong có hiện không, cũng gọi là thần biến, cũng gọi là thần thông, đều là dụng của một tâm, tùy xứ sai biệt tức nhiều nghĩa. Trong một giải vô lượng, trong vô lượng giải một. Rõ kia qua lại sinh khởi, sẽ thành không chỗ khác. Lại, Đông phương vào chánh định, Tây phương từ định ra, nếu rõ ngoài tâm không pháp, tất cả chỉ tâm, tức không một pháp đáng tình. Không có tốt xấu phải quấy, tức chẳng sợ sinh tử. Tất cả xứ đều là giải thoát, nên nói sẽ thành không chỗ sợ. Giả sử ngoài tâm có tất cả cảnh pháp cũng từ tự tâm vọng tưởng nhân duyên mà sinh, không có tự tánh, thể đó vốn không như huyễn như hóa”.

Hòa thượng Tiên ở Vân Cư nói: “Phật pháp có gì lắm sự, hành được tức phải, chỉ biết tâm là Phật, chớ buồn rầu lời Phật chẳng giải hiểu, muốn được việc như vậy, phải người như vậy. Nếu là người như vậy thì buồn sầu cái gì? Nếu nói việc như vậy tức chẳng khó, từ các bậc Tiên đức thuần chân thật, xưa nay vốn không xảo khéo. Giả sử có người hỏi: Thế nào là đạo? Hoặc có lúc đáp ngói gạch cây, làm gì đều trọng.

Vốn vì người ấy căn bản dưới chân có thật lực, tức là người chẳng nghĩ bàn, vốc đất thành vàng, nếu không được việc như vậy, giả sử nói được nhúm hoa nhúm gấm tương tợ, nói ngay ta phóng quang động đất, thế gian không gì quá đây, đều nói tức xong. Mọi người cả cõi đều chẳng tin nhận, nguyên vì dưới chân người đó rỗng hư không lực”.

Giải thích: Hòa thượng Vân Cư là bậc Tông sư ngoài vật, bảy đời làm thiện tri thức cõi này, đạo đức cao vợi biển trí rộng sâu, đủ đại từ bi, đồ chúng thường đông nhiều cả ngàn người. Dạy bảo đồ chúng nói chỉ biết tâm là vật chớ buồn rầu Phật chẳng phải ngữ là vì người học thời nay, một hướng tìm cầu bên ngoài chỉ học ngôn ngữ của Đại thừa, chẳng năng trở lại gốc bên trong tự quán tâm, rõ thấy Phật của Thiên chân. Nếu rõ tâm Phật đây, tức trí tự nhiên trí vô sư hiện tiền, nào phiền cầu học bên ngoài. Như nói từ cửa vào là chẳng phải báu, lại nói từ trời giáng xuống tức bần cùng, từ đất vọt lên tức phú quý. Nếu từ đất tâm vọt ra trí báu, nào có cùng tận. Nên nói tạng của vô tận, chỉ như được tâm chân thật, gốc rẽ dưới chân xét kỹ, tự nhiên mở lời đều cùng thật tướng tương ưng, mở lời cứu người sinh tử, biến phàm làm Thánh, nắm sỏi thành vàng. Nói có cũng được nói không cũng được. Câu câu đều thành ngôn giáo. Nếu là trong tâm chưa chắc thật, viên tín chưa thành tựu, không nhận hư dối chỉ thành tự dối, ngay như biện thuyết ngang dọc chỉ thêm cuồng tuệ, giả sử hoặc nói được hoa trời rơi xuống, đá gật đầu, nếu việc chẳng chân đều thành yêu huyễn. Do đó, Chí Công thấy pháp sức Vân Quang giảng kinh Pháp Hoa, cảm hoa trời rơi xuống, nói “đó là nghĩa của rệp cắn là lời thật của Tiên Thánh”. Thật đáng dùng làm khuôn thước cho hàng hậu học, có thể khắc cốt, có thể ghi vào dải áo, nay khắp tìm bày rất có ý vậy.

QUYỂN 99

Phàm, chế luận giải thích kinh nương bày ý Phật, hoặc là bậc Đại sĩ pháp thân duỗi vết hỗ trợ hóa môn, hoặc là bậc cao nhân đắc chỉ căn cứ giáo hoằng đạo pháp thí, cho đến nghĩa sớ chương sao, minh quyết, tán tự v.v... cùng Tông Kính tương ưng, đều phải dẫn chứng. Dò vì, chúng sinh ngôn luận đều là chỗ lưu của pháp giới, ngoại đạo kinh sách đều là chỗ nói của chư Phật.

Trong luận Đại Trí Độ nói: “Luận pháp vào trong tâm Phật, chỉ một tịch diệt, một môn Tammuội gồm vô lượng Tam-muội, như kéo áo chỉ một góc mà cả áo đều được. Cũng như chúa ông mật thì các ông khác đều gồm”. Lại có kệ tụng nói:

“Phật pháp tướng tuy không
Cũng là chẳng đoạn diệt
Tuy sinh cũng chẳng thường
Các hành nghiệp chẳng mất.
Các pháp như lá chuối
Tất cả từ tâm sinh
Nếu biết pháp không thật,
Là tâm cũng lại không”.

Trong luận Tỳ-bà-sa nói: “Trưởng giả Thiện Giác nói sách Tứ Vi-đà là: “Như người tâm sinh mà chẳng khởi, như người tâm khởi mà chẳng diệt, tâm khởi mà khởi, tâm diệt mà diệt”. Lại nói: “Nếu lìa tâm mới phát ban đầu thì chẳng thành đạo Vô thượng. Do đó nói tất cả công đức đều tại tâm mới đầu”.

Trong luận Nhiếp Đại Thừa nói: “Hỏi: Tại sao thức đây thủ thức đây làm cảnh?

Đáp: Không có pháp năng thủ đắc pháp khác, tuy chẳng năng thủ thức đây, biến sinh hiển hiện như bụi trần, thí như nương mặt thấy mặt cho là ta thấy ảnh. Ảnh đây hiển hiện tương tợ khác mặt.”

Trong luận Hiển Dương nói: “Do lực sở y sở duyên mà được kiến lập. Do lực sở y là, nghĩa là lập nhãn thức cho đến ý thức. Do lực sở duyên là, nghĩa là lập sắc thức cho đến pháp thức, thức xanh thức vàng, cho đến thức khổ thức lạc”.

Trong luận Phát Bồ-đề tâm nói: “Quá khứ đã diệt, vị lai chưa đến, hiện tại chẳng trú, tuy quán tâm tâm sở pháp sinh diệt tán hoại như vậy mà thường chẳng bỏ tu tập căn lành trợ pháp Bồ-đề. Đó gọi là phương tiện ba đời của Bồ-tát”.

Trong luận Đại Thừa A-tỳ-đạt-ma Tạp Tập nói: “Như các pháp trong kinh v.v... như lý tác ý phát Tam-ma-địa, nương tựa định tâm tư duy chỗ thấy ảnh tượng trong định, quán ảnh tượng đây chẳng khác định tâm, nương ảnh tượng đây xả bỏ cảnh tưởng bên ngoài, chỉ định quán sát ảnh tượng tư tưởng. Bấy giờ Bồ-tát rõ biết các pháp chỉ tự tâm vậy. Bên trong trú tâm đó, biết biết tất cả chủng chỗ thủ cảnh giới đều không chỗ có. Do chỗ thủ không nên tất cả năng thủ cũng chẳng phải chân thật, nên tiếp phải biết năng thủ chẳng phải có, tiếp lại ở bên trong xa lìa chỗ được hai thứ tự tánh chứng không chỗ được. Nương đạo lý này mà Đức Phật Bạt-già-phạm khéo diệu tuyên nói kệ tụng rằng:

“Bồ-tát nương tỉnh xứ
Quán chỗ tâm hiện ảnh
Xa lìa trần tưởng ngoài
Chỉ định quán tự tưởng
Như vậy trong an tâm
Biết chỗ thủ chẳng có
Tiếp quán năng thủ không
Sau xúc hai không được”.

Y, nghĩa là chuyển y, xa lìa tất cả thô trọng được chuyển y thanh tịnh, nên trong luận Thập Nhị Môn có kệ tụng nói:

“Chỗ các duyên sinh pháp
Đó tức không tự tánh
Nếu là không tự tánh
Tại sao có pháp đó”.

Giải thích: Nên biết muôn pháp từ chỗ tâm sinh đều không tự tánh. Tâm của sở y còn không, tâm của năng y sao có.

Trong luận Nhập Đại thừa nói: “Nếu lìa chúng sinh thì không có được đạo Bồ-đề, từ chúng sinh giới sinh ra tất cả Bồ-đề chư Phật. Như Tôn giả Long Thọ có kệ tụng nói:

“Chẳng từ hư không có
Cũng chẳng đất giống sinh
Chỉ từ trong phiền não
Mà chứng đắc Bồ-đề”.

Nên biết từ tâm chứng đạo chẳng nhờ duyên khác, năng thành trí của vô sư tự nhiên”.

Trong luận Câu-xá nói: “Chỗ mắt hiện thấy gọi là chỗ thấy, từ kẻ khác truyền nghe gọi là chỗ nghe, tự vận động tâm mình các chỗ tư duy tạo dựng gọi là chỗ giác (hay). Tự chỗ bên trong thọ và chỗ tự chứng, gọi là chỗ biết”.

Trong luận Phật Địa nói: “Hiện thấy hư không tuy cùng các thứ sắc tướng tương ưng, mà không các sắc các thứ tướng vậy. Như khói sương cộng tương ưng. Có lúc thấy hư không có các thứ tướng, là do lực hư vọng phân biệt vậy, chỉ thấy khởi v.v... các thứ tướng chẳng phải thấy hư không, vì tánh hư vọng chẳng thể thấy vậy. Cho đến tâm tịnh thì pháp giới lìa danh ngôn, nên tất cả danh ngôn đều dụng chỗ phân biệt khởi làm cảnh. Nhưng các giáo pháp cũng chẳng luống mất, là chứng pháp giới nhân dần chuyển vậy. Như thấy chữ viết hiểu chỗ nói nghĩa. Do pháp giáo đây là chỗ lưu của chư Như Lai Đại Bi năng chuyển đổi nói, lìa nghĩa nói phô, như dùng các sắc màu hoạ vẽ hư không rất là hiếm có, nếu dùng nói phô nói lìa nghĩa nói lại quá so với kia”.

Trong luận Bát-nhã nói: “Tu-bồ-đề nói: “Như Lai không nói gì”, nghĩa đây như thế nào? Không có một pháp chỉ riêng Như Lai nói các Phật khác chẳng nói, nghĩa là Phật dạy chỉ là truyền thuật giáo của Phật xưa trước, chẳng phải tự chế làm”. Giải thích: Nên biết pháp đây, chư Phật quá khứ đã nói, Phật nay hiện nói, chư Phật ở tương lai sẽ nói. Do đó, lúc một Đức Phật nói, mười phương chư Phật đồng chứng. Cho đến các pháp trí tuệ cõi nước chân tục v.v... tánh Thánh phàm v.v... đều đồng không hai. Vì chỉ cộng một tâm vậy, trọn không khác yếu chỉ. Như trong kinh Hoa Nghiêm phẩm Phật Bất Tư Nghì nói: “Phật tử! Chư Phật Thế Tôn có mười thứ không hai, hành pháp tự tại. Những gì là mười? Đó là: Tất cả chư Phật đều năng khéo nói ngôn từ thọ ký, quyết định không hai. Tất cả chư Phật đều năng tùy thuận tâm niệm chúng sinh khiến đó ý mãn, quyết định không hai. Tất cả chư Phật đều năng hiện giác các pháp diễn nói nghĩa đó, quyết định không hai. Tất cả chư Phật đều năng đầy đủ trí tuệ của chư Phật ở quá khứ, vị lai và hiện tại, quyết định không hai. Tất cả chư Phật đều biết tất cả sát-na trong ba đời tức một sát-na, quyết định không hai. Tất cả chư Phật đều biết tất cả cõi Phật trong ba đời vào một cõi Phật, quyết định không hai. Tất cả chư Phật đều biết tất cả chư Phật ba đời và chỗ Phật đó giáo hóa tất cả chúng sinh thể tánh bình đẳng, quyết định không hai. Tất cả chư Phật đều rõ biết pháp thế gian và pháp chư Phật tánh không sai biệt quyết định không hai. Tất cả chư Phật đều rõ biết tất cả chư Phật trong ba đời chỗ có căn lành đồng một căn lành, quyết định không hai. Đó là mười”. Lại, trong Tín Tâm Minh nói: “Cầu khẩn tương ưng, chỉ nói chẳng hai, có thể thành tin kiên cố trọn đoạn mảy may nghi ngờ”, thì văn của Tông Kính sáng truyền bất hủ vậy.

Trong luận Quảng Bách nói: “Giác tuệ v.v... các tâm tâm pháp chẳng phải tùy các pháp thật có chuyển biến, chỉ tùy xuyên suốt thành thục chủng tử và chỗ tâm hiện thế lực các duyên, biến sinh các thứ cảnh giới sai biệt. Các ngoại đạo v.v... tùy tự tâm đó biến sinh các thứ tánh tướng các pháp. Nếu tánh tướng pháp là thật có là đâu có thể tùy tâm chuyển biến như vậy. Các người có trí chẳng nên chấp thuận chỗ kia chấp hiện tại thật pháp có sinh vì hẳn chẳng từ hai đời quá khứ và vị lai lại không thứ ba có thể theo sinh. Diệt hẳn tùy sinh. Sinh đã chẳng phải có, diệt cũng định không, cho đến ba đời hành đều đối đãi nhau lập, như ngắn dài v.v... sao có thật tánh?”. Lại có kệ tụng nói:

“Trong nhãn không sắc thức
Trong thức không sắc nhãn
Trong sắc hai đều không
Sao năng khiến thấy không?”

Y tha khởi tánh tức là tâm tâm pháp, lúc theo duyên khởi biến tợ các thứ tràn tướng danh v.v... Nên biết có tâm tâm pháp, chỉ không chỗ chấp các trần bên ngoài tâm. Làm sao định biết? Các pháp Duy thức vậy. Phật bảo Thiện Hiện: Không mảy lông lượng vật thật có thể nương.

Trong luận Bảo Tạng nói: “Phàm, bên trong của trời đất, khoảng giữa của vũ trụ, trong đó có một báu bí mật tại Hình Sơn, biết vật linh chiếu trong ngoài không vậy, lặng lẻ khó thấy. Đó gọi là huyền huyền, khéo ra ngoài bảng tử vi, dụng tại khoảng hư vô, giáo hóa rõ thật chẳng động, riêng mà không song. Tiếng phát ra diệu hưởng, sắc nhả mặt hoa dung, cùng quán không chỗ cậy, gọi là không không. Chỉ lưu tiếng đó chẳng thấy hình đó. Chỉ lưu công đó, chẳng thấy dung đó, sâu hiển sáng chiếu, vật lý huyền thông. Sum-la ấn báu muôn tượng chân tông. Cho đến báu đó rực rực rỡ rỡ sáng chiếu mười phương, ẩn lặng không vật viên ứng rõ ràng, ứng tiếng ứng sắc, ứng âm ứng dương, vật lạ không căn, diệu dụng thường còn, ghé mắt chẳng thấy nghiêng tai chẳng nghe. Gốc đó ngầm vậy, hóa đó hình vậy, làm đó Thánh vậy, dụng đó linh vậy. Có thể gọi là chân tịnh của đại đạo. Tinh đó rất linh. Nhân của vạn hữu, ngưng động thường trú, cùng đạo đồng luân. Nên trong kinh nói: “Tùy tâm đó tịnh tức cõi Phật tịnh. mặt dụng sum-la, tên đó là Thánh”.

Trong luận Thích Ma-ha-diễn nói: “Tất cả các pháp chỉ một tâm lượng, không pháp ngoài tâm, vì không pháp ngoài tâm nên đâu một tâm pháp cùng mười tâm pháp làm sự chướng ngại, cũng một tâm pháp cùng một tâm pháp làm sự giải thoát. Không có giải thoát, không có chướng ngại, pháp của một tâm. Một tức là tâm, tâm tức là một, không một riêng tâm, không tâm riêng một. Tất cả các pháp bình đẳng một vị, một tướng không tướng, làm một thứ ánh sáng, biển của đất tâm”.

Trong luận Bảo Sinh có kệ tụng nói:

“Mỉm cười dẹp phục các ma quân
Trí sáng rõ biết trừ các dục
Ở Đại thừa đây năng khéo trú
Biết sâu nguồn ái chỉ tự tâm”.

Trong luận Bảo Tánh có kệ tụng nói:

“Như không khắp tất cả
Mà không không phân biệt
Tự tánh tâm không dơ
Cũng khắp không phân biệt”.

Trong luận Kim Cang Tam-muội nói: “Tất cả tướng xưa nay không gốc, vốn không gốc xứ, rỗng lặng không sinh. Nếu tâm không sinh tức vào rỗng lặng, đất tâm rỗng lặng tức được tâm không. Này thiện nam! Tâm của không tướng không tâm không ngã, tất cả pháp tướng cũng lại như vậy là, tất cả tâm tướng chủng tử làm gốc, cầu chủng gốc đây trọn không chỗ được, nếu là hiện tại thì cùng quả đi cùng, không gốc ngọn khác, như trâu hai sừng. Nếu đã quá khứ thì không tác nhân, không thể tánh vậy, giống như sừng thỏ. Đạo lý như vậy, xưa nay pháp như thế nên nói xưa nay không gốc. Lại tâm sinh diệt sinh là nương gốc xứ, gốc xứ đã không thì chẳng được sinh. Phải biết tâm tướng xưa nay không sinh, nên nói rỗng lặng không sinh, chỗ vào không tịch tức là một tâm. Tất cả chỗ nương gọi đó là đất, nên nói tức vào đất tâm của không tịch”.

Trong luận Phân Biệt Công Đức nói: “Sa-môn Hữu Luận hành các thiền quán, hoặc tại gò mả hoặc dưới gốc cây, lúc ở gò mả thì quán thây chết, ban đêm thấy ngạ quỉ đánh một thây chết. Sa-môn hỏi: “Cớ sao đánh thây chết đây vậy?”

Đáp: “Thây chết đây làm ta khốn khổ như vậy, cho nên đánh đó”. Sa-môn hỏi: “Cớ sao chẳng đánh tâm ngươi mà đánh thây chết đây đâu có ích gì?” Chốc lát sau lại có vị trời dùng hoa Mạn-đà-la cõi trời tung rải nơi thây thối. Sa-môn hỏi: “Cớ sao tung rải thây thối đây vậy?”

Đáp: “Do thây chết đây mà ta được sinh lên trời. Thây chết đây tức là bạn lành của ta nên ta lại rải hoa để báo ân xưa trước” Sa-môn hỏi: “Cớ sao không rải hoa trong tâm ông mà rải thây chết thối đây? Phàm, gốc của làm thiện ác đều chỗ tâm làm, mà bỏ gốc cầu ngọn ư?”

Trong luận Tư Ích nói: “Chẳng thấy tất cả các pháp là tướng Bồ-đề, chẳng chứng một pháp mà chứng các pháp, cho nên nói là ứng chánh biến tri (rõ biết khắp cùng đúng đắn)”.

Trong luận Kim Cang nói: “Trong giáo thí như tinh tú vì chỗ mặt nhật ánh ngời nên có mà chẳng hiện, năng thấy tâm pháp cũng lại như vậy”. Giải thích: Đây có hai giải: Một, nếu mê tâm, như mặt nhật chói sáng mắt lóa vào phòng chẳng thấy tự vật. Như chỗ bị cảnh đổi, chẳng thấy tự tâm cũng lại như vậy; Hai, nếu do ngộ cảnh là tâm, thì muôn pháp như tinh tú, một tâm như ánh sáng mặt nhật, lúc tâm sáng rực khắp cùng thì không pháp nào có thể phô bày”.

Trong luận Pháp Tánh nói: “Thầm nghe đó, các bậc Tiên giác nói: Thể không vào tịch chẳng gì trước so với thấy pháp, tìm cũng nguồn pháp, không gì diệu so với được tánh. Được tánh thì chiếu gốc, chiếu gốc thì đạt tự nhiên, đạt tự nhiên thấy duyên khởi, thấy duyên khởi là thấy pháp đây vậy, sắp tận cùng nguồn đó hẳn còn cốt yếu đó. Cốt yếu mà tại dụng là chỉ tâm pháp đó ư? Tâm pháp là phách sáng của thần minh là đan dự của tinh thức là vận chuyển đó vậy; lan tỏa nơi muôn hạnh là cảm vật đó vậy; hội thông các so, Bao gồm mà nói thì không đâu chẳng có”.

Trong luận Hiển Tánh nói: “Một niệm thấy tánh là, thấy tánh là bản thể của Thánh phàm, khắp cùng tất cả mà chẳng là chỗ của tất cả khuynh động. Tại nhiễm chẳng nhiễm mà năng biến nhiễm, tại tịnh chẳng tịnh mà năng tịnh, tánh đó chẳng tại tất cả pháp mà năng khắp tất cả pháp. Nếu quán một pháp tức chẳng thấy tánh, nếu chẳng quán một pháp cũng chẳng thấy tánh tánh đó chẳng tại quán chẳng tại chẳng quán, lúc ở trong thân chúng sinh thấy tâm tánh, tất cả chúng sinh thảy đều thấy ở trong một vi trần, lúc thấy tánh tất cả vi trần thảy đều thấy, vì tánh khắp cùng Thánh phàm thiện ác vậy. Phàm ở suốt Thánh ở, Thánh ở suốt phàm ở. Thiện ác suốt nhau, bản tánh tự vậy. Vì tất cả pháp đều chẳng được thủ đều chẳng được xả. Tánh tướng tự vậy tự tánh tịnh vậy, trọn ngày nói trọn chẳng được một nói, trọn ngày nghe chẳng được một nghe, trọn ngày thấy chẳng được một thấy, trọn ngày biết chẳng được một biết, đều phải chỗ an lập của phàm Thánh, cho nên trong kinh nói: Nếu ra đời hay chẳng ra đời, pháp đây thường vậy”.

Trong luận Hiển Tông nói: “Diệu chỉ thiền môn một thừa ta đây, lấy không niệm làm tông, không trú làm gốc, chân không làm thể, diệu hữu làm dụng. Phàm, chân như không niệm, chẳng phải niệm tưởng năng biết, thật tướng không sinh, há sắc tâm năng thấy. Chân như không niệm, niệm là tức niệm chân như. Thật tướng không sinh, sinh là tức sinh thật tướng. Không trú mà trú, thường trú mà trú, thường trú Niết-bàn, không hành mà hành năng vượt bờ kia. Như như chẳng động, động dụng vô cùng, niệm niệm chẳng cầu thường cầu không niệm. Dụng mà thường không, không mà thường dụng. Dụng mà chẳng có tức là chân không, không mà chẳng không, bèn thành diệu hữu. Diệu hữu tức Ma-ha Bát-nhã, chân không tức thanh tịnh Niếtbàn. Bát-nhã không thấy năng thấy Niết-bàn. Niếtbàn không sinh năng sinh Bát-nhã. Các Tổ ở Tây Thiên cùng truyền tâm của không trú, đồng nói thấy biết của Như Lai”.

Trong luận Hiển Chánh nói: “Hỏi: Muốn hiểu nghĩa gì gọi là Hiển Chánh?

Đáp: Muốn hiểu rõ cội nguồn của chúng sinh tâm thể không sinh thanh tịnh, tức là chánh tánh của chư Phật. Tại sao như vậy? Tất cả các pháp, tâm là gốc đó, nhưng tâm tánh đó đều không chỗ nương. Thể tự viên dung chẳng ngại muôn pháp. Tuy ứng hiện muôn pháp mà tánh tự thường chân, không trú không nương chẳng thể lấy bỏ. Trong kinh Thắng Thiên Vương nói: “Tâm tánh thanh tịnh là gốc các pháp. Tự tánh không gốc, hư vọng phiền não đều từ tà niệm điên đảo mà sinh. Phải biết tâm đây tức là Đệ nhất nghĩa đế tối thắng thanh tịnh. Tất cả chư Phật chứng biết chỗ về”. Hỏi: Định dùng pháp gì làm tâm thể?

Đáp: Chẳng nên cầu định thể của tâm. Tại sao? Tâm chẳng phải chỗ duyên, vì không không tướng, cũng gọi là chẳng phải năng sở, tuyệt dứt đối đãi nhau vậy. Thể chẳng thể nhiễm, vì tánh thường tịnh, chẳng phải hợp chẳng phải tan vì, tự tánh lìa, chẳng ngại duyên khởi vì, tánh rỗng dung hòa vậy. Chẳng thể nói bày vì, danh tự không. Các pháp hư tịnh vì, duyên lìa nhau, linh chiếu chẳng kiệt, dụng vô tận vậy. Quả báo chẳng đồng vì, tác nghiệp khác, nhân quả rõ ràng, vì chẳng đoạn tuyệt, cũng chẳng phải chân thật vì, nghiệp tánh như huyễn. Lại chẳng đoạn tuyệt vì, hiện hàng xử, cũng chẳng thể thủ vì, rốt ráo không, các pháp bình đẳng vì, một tướng như, cảnh trí không sai vì lìa phân biệt, muôn pháp tức không vì, tánh không sinh. Vì vậy, tất cả phân biệt chẳng lìa tự tâm, tất cả các cảnh chẳng lìa danh tướng. Nếu rõ muôn pháp chẳng rõ tự tâm, phân biệt không do đâu năng tuyệt. Cho đến, trong kinh Lăng-già nói: “Nếu tâm kia diệt tận. Không thừa và thừa đó, không có thừa an lập. Ta nói là một thừa”. Tâm kia tức là chỗ thủ tướng được tâm vậy. Một thừa là tức lìa tướng thanh tịnh không sinh tâm vậy. Tâm đây đều năng bao hàm vận tải tất cả các pháp, nên gọi là một thừa”.

Trong Pháp Uyển châu Lâm nói: “Phàm, ngăn dòng đó, chẳng bằng bít nguồn đó, hất nước nóng đó chưa bằng dập lửa đó. Tại sao? Nguồn sinh ra nước, nguồn chưa bít thì nước chẳng cùng, lửa bốc nước nóng, lửa chưa dập, nước nóng sao dứt, nên có khách của bít nguồn chẳng ngăn dòng mà tự cạn, người dập lửa, chẳng hất nước nóng mà tự dừng. Nên biết tâm là nguồn, cảnh là dòng. Chẳng xét nguồn bản tâm, chỉ theo các pháp chuyển. Ý như lửa, sự như nước nóng. Chẳng thể tự đốt ý, chỉ theo cảnh giới trôi. Đó đều mất gốc mê nguồn tùy dòng theo ngọn. Nếu năng chóng rõ đất ý, suốt ngay nguồn tâm, chẳng cầu thoát ở các trần, chẳng trói buộc nơi một pháp, có thể gọi là cứu ngọn gặp gốc, tìm dòng được nguồn vậy. Bèn là không công mà tự xong, không làm mà tự thành, hiển bày một tâm đây, muôn pháp như gương”.

Trong luận Duy Tâm nói: “Phàm luận về tâm tánh là, nếu riêng nói mỗi mỗi chúng sinh và Phật đều lấy pháp giới làm thân, mỗi mỗi trong bào thai Ma-gia cũng như vậy, rộng hẹp đều đồng chẳng phòng ngại nhau. Nếu gần nói mỗi mỗi chúng sinh và Phật đồng tại trong bào thai, mười phương các Đức Như Lai đồng cộng một pháp thân, qua lại ẩn qua lại hiển, qua lại còn qua lại đoạt, lớp lớp qua lại hiện đều là pháp giới chẳng nghĩ bàn. Lúc nói chẳng tăng lúc chẳng nói chẳng giảm, biển tánh như vậy, đâu có thể nói là tận hay chẳng tận ư?

Trong Lục Diệu Môn nói: “Đây là người đại căn khéo biết pháp yếu, chẳng do thứ lớp, huyền chiếu nguồn của các pháp, chỗ gọi là tâm chúng sinh vậy. Tất cả pháp do tâm mà khởi, nếu năng phản chiếu tâm tánh chẳng được nguồn tâm, tức biết muôn pháp đều không căn bản”.

Trong Đốn giáo Ngũ Vị môn nói: “Thứ nhất, thức tâm, nói là tâm, thấy là tâm, nghe là tâm, hay là tâm biết là tâm, đây là ngộ thứ nhất, mỗi mỗi năng biết, như chấp thuận nhiều tâm đều là một tâm, một tâm năng khắp tất cả xứ. Thứ hai, biết thân đồng vô tình, thân chẳng biết ốm đau xấu đẹp, tất cả đều là tâm chẳng liên can việc thân. Tâm năng làm người súc vật, tâm năng làm cá chim. Thứ ba, phá thân bốn đại. Thân tức là không, không tức là không sinh, không không trong ngoài và khoảng giữa, lìa tất cả tướng. Thứ tư, phá năm ấm, sắc ấm nếu có bốn ấm chẳng hư. Sắc ấm nếu không bốn ấm sao có. Thứ năm, thấy tánh thành Phật, trong lắng thường trú”.

Trong lời tựa kinh Thập Trú nói: “Vì linh chiếu nên còn gọi là một tâm, do chỗ duyên nên còn gọi là một pháp. Nếu phàm nói tùy số biến thì mênh mông không ngằn mé, còn do pháp tâm thì chưa mới đầu chẳng phải hai”.

Trong lời tựa luận Thập Nhị Môn nói: “Luận đó là, muốn lấy cùng nguồn tâm đó, tâm chí lý đó vậy. Nếu một lý đó chẳng tận, thì các thứ khác rối ren có lầm hoặc trái nghịch của thú. Một nguồn đó chẳng cùng thì các đường hoang sơ có khác vết của tận cùng. Khác tận cùng đó chẳng thường, trái thú đó chẳng sạch, là nỗi lo buồn của bậc Đại sĩ vậy.

Trong lời tựa luận Bát-nhã Đăng nói: “Mới đầu, phàm muôn vật chẳng phải có một tâm như huyễn, tâm như huyễn nên tuy động mà luôn lặng. Vật chẳng phải có nên tuy khởi mà không sinh. Vì vậy các Thánh nhân nói tâm như huyễn, soi xét vật chẳng phải có. Rõ vật chẳng phải có thì vật vật tánh không, biết tâm không tâm, thì tâm tâm thể lặng. Những bậc Đạt quán được hội quy đó mà quên chỗ cậy đó, do vậy, phân biệt hý luận chẳng đợi khiến xua mà tự trừ. Môn quán không được, chẳng nhờ tu mà đã vào. Mênh mông thay chẳng ra chẳng tại, chẳng trú chẳng nương ấy vậy”.

Trong luận Hoa Nghiêm nói: “Giống như biển lớn có đức thanh tịnh mà năng hiển bảy núi vàng v.v... biển tâm chúng sinh ảnh hiện sáu đường bốn loài, phân minh hiển hiện núi sông đất liền sắc không tối sáng v.v...”.

Trong luận Duyên Sinh nói: “Vốn là một tâm, tích chứa làm ba cõi. Phàm thì mê mà khởi vọng, Thánh thì ngộ vì thông chân”.

Trong Pháp môn Đà-la-ni Tam-muội có kệ tụng nói: “Trong các pháp đó, cao giống như núi Tu-di.

Trong các pháp đó, biển chỗ dòng cộng về.

Trong các pháp đó, sáng giống như trăng trong muôn sao.

Trong các pháp đó, đèn năng phá tối vô biên.

Trong các pháp đó, đất đội chuyển khắp mười phương.

Trong các pháp, mẹ sinh ra các giống Phật g”.

Trong Pháp Hoa Diễn Bí nói: “Sự lý viên dung là, tức các thứ sự xứng lý mà khắp cùng. Dùng lý chân như làm lò lớn, dung hòa muôn sự làm đúc lớn, nước sắt đầy tràn không khác tướng vậy. Nếu mở quyền hiện thật tất cả duy tâm là, cũng trước dung hòa làm gốc, sự sự vô ngại vậy, lớp lớp giao ánh, như khổ báo địa ngục thân mỗi tự khắp cùng, khó nghĩ diệu sự vốn tự như đây, Phật Phật tự giác, chúng sinh chẳng biết, nay giải hiểu biết đây tức tâm chúng sinh là trí Phật vậy, tức sự huyền diệu vào tâm thành tựu quán.”

Trong Pháp Hoa Huyền Tán Sớ nói: “Như trong kinh nói một thời là, tức là thời Duy thức. Hai hạng nói nghe ở trên tâm thức, biến làm tướng trạng ba thời mà khởi, thật là hiện tại. Tùy tâm phân hạng biến làm ngắn dài, đầu mối sự việc trọn xong, gọi chung là một thời, như chỗ mộng thấy cho là có nhiều đời, giác vị duy tâm đều không cảnh thật. Nghe là tâm biến, ba thời cũng vậy, chỉ chỗ ý duyên là chẳng tương ưng hành uẩn chỗ pháp giới pháp xứ gồm. Đây nói một thời, một thì chẳng nhất định căn cứ sát-na, hai thì chẳng nhát định căn cứ tương tục, ba thì chẳng nhất định căn cứ bốn thời sáu thời tám thời mười hai thời v.v... Bốn thì chẳng nhất định căn cứ số năm thời tiết sau khi thành đạo, gọi là một thời, chỉ là người nghe căn thuần thục cảm Phật mà nói. Người nói từ bi ứng có mà bàn. Sự thấy nghe xong đều gọi là một thời. Chẳng nhất định căn cứ sát-na v.v... là hạng nghe pháp căn khí hoặc ám độn, thời nói tuy ngắn mà thời nghe hiểu dài. Hoặc thời người nói dài người nghe cũng lâu, ở một sát-na còn chưa năng giải hiểu, nên chẳng phải sát-na cũng chẳng nhất định căn cứ tương tục, như người năng nói được Đà-lani, nói nghĩa một chữ, tất cả đều rõ. Hoặc người năng nghe được tai ý tịnh, lúc nghe một chữ tất cả đều hiểu, nên chẳng phải tương tục. Do người nghe ở một hội căn cơ có lợi có độn, nên Như Lai dùng thần lực hoặc kéo một niệm ngắn làm kiếp dài, hoặc thúc nhiều kiếp làm niệm ngắn, cũng chẳng định vậy. Gồm căn cứ nói và nghe rốt ráo gọi là thời. Cũng chẳng nhất định căn cứ bốn thời sáu thời tám thời mười hai thời là, một mặt nhật một mặt nguyệt chiếu bốn thiên hạ, dài ngắn ấm lạnh gần xa đêm ngày các phương chẳng định, luôn hai thiên hạ đồng khởi dụng vậy. Lại trừ trở xuống, các trời trên v.v... không bốn thời là tám thời đây v.v... trải qua phỏng định các phương trên đất lưu thông.

Nếu nói bốn thời v.v... lưu hành chẳng khắp cùng vậy, cũng chẳng nhất định căn cứ số năm thời tiết sau khi thành đạo là, chỗ các hàng Thánh phàm ba thừa thấy báo thân hóa thân của Phật số năm ngắn dài, sau khi thành đạo trở lại xa gần mỗi chẳng đồng vậy”. Giải thích: Như trên nói chẳng nhất định định căn cứ thời sát-na và thời tương tục cùng bốn thời sáu thời tám thời mười hai thời v.v... và căn cứ số năm thời tiết sau khi thành đạo, gọi là một thời là, vì ngắn dài chẳng định, trước sau không bằng cứ, chỉ nói một thời của Duy tâm, có thể làm định lượng, không các lỗi lầm, sự lý tương đương. Đã mất tình của bỏ lấy, lại dứt kiến của đoạn thường. Chẳng chỉ một thời làm Duy thức giải hiểu, thật là muôn nghĩa đều về một tâm, thì xứng đáng giáo tông, hợp sâu mật chỉ, năng mở chánh kiến trọn diệt các nghi ngờ, do đó trong kinh nói: “Tất cả các pháp lấy thật tế làm định lượng”. Lại nói: “Chỉ lấy Đại thừa mà vì giải nói, khiến được Nhất thiết chủng trí”. Nên biết chỉ nói đại không lỗi. Phàm, nói Đại thừa là, tức là thừa của một tâm. Thừa là nghĩa vận tải. Nếu luận về vận tải đâu qua tâm ư? Lại phàm, người chẳng biết tâm, nghe pháp xem kinh chỉ tùy theo danh tướng, chẳng được yếu chỉ của kinh. Như Tăng Nhai nói: “Nay nghe kinh nói mỗi câu cùng tâm tương ưng”. Lại, Sa-môn Thích Pháp Thông nhân nghe Pháp sư Tuệ Mẫn nói pháp, được tự nơi tâm mênh mông không lụy. Cho đến thấy tất cả cảnh cũng lại như vậy. Nếu chẳng quán tâm đều tùy vật chuyển. Cho nên, trong pháp Đại thừa vào đạo An tâm nói: Nếu lấy có phải làm phải, có chỗ chẳng phải, nếu lấy không phải làm phải, thì không chỗ chẳng phải. Một môn trí tuệ vào trăm ngàn môn trí tuệ. Thấy cột trụ làm hiểu là cột trụ, được tướng cột trụ chẳng hiểu cột trụ. Quán tâm là cột trụ, pháp không tướng cột trụ, cho nên thấy cột trụ tức được pháp cột trụ”. Tất cả hình sắc cũng lại như vậy, cho nên trong kinh Hoa Nghiêm có kệ tụng nói:

“Tất cả pháp thế gian
Chỉ lấy tâm làm chủ
Tùy giải lấy các tướng
Điên đảo chẳng như thật”.

Lại, người xưa nói: “Sáu đường quần mông từ cửa đây ra, trải trăm ngàn kiếp mà chẳng trở lại. Tất cả thống khổ thay”. Vậy biết, nhân tâm được đạo như ra hẳn do cửa, chỗ nào nghi ngờ ư?

Trong Bách Pháp Sao nói: “Đại thừa, tất cả đều là chỗ tâm biến, nên lìa ngoài tâm là không có pháp, tức muôn ban tạo tác đều chẳng lìa tâm, ngàn thứ mở lời đâu vượt ngoài tâm.”

Trong lời tựa Pháp Giới Quán nói: “Pháp giới là bản thể của thân tâm tất cả chúng sinh vậy. Từ xưa đến nay linh minh rỗng suốt rộng lớn rỗng lặng, chỉ cảnh của một chân mà thôi, không có hình mạo mà sum-la đại thiên không có ngằn mé mà bao hàm vạn hữu. Ngời sáng ở khoảng của tâm mắt, mà tướng có thể thấy, rực rỡ ở trong sắc trần mà lý chẳng thể phân. Chẳng phải mắt tuệ thấu triệt pháp, trí sáng của lìa niệm, chẳng năng thấy tự tâm linh thông như đây vậy. Từ đó, xứng tánh pháp giới, nói kinh Hoa Nghiêm, khiến tất cả chúng sinh tự ở trong thân được thấy trí tuệ rộng lớn của Như Lai, mà chứng pháp giới vậy. Cho đến ở đầu một sợi lông nơi thân Phật thì khắp tất cả bao hàm tất cả vậy. Thế giới vậy, chúng sinh vậy, trần trần vậy. Pháp pháp vậy, niệm niệm vậy, không có một pháp nào định có tự thể mà độc lập đó”.

Trong truyện Đề-bà nói: “Bồ-tát Đề-bà là người biết rộng xét sâu, biện tài tuyệt luân. Tên lớn Thiên Trúc được các nước tôn xưng, chỗ thẹn lấy làm chỗ chẳng tận là, chỉ vì người chẳng tin đó nói làm lo buồn. Trong nước đó có Đại thiên thần nghiệm tượng bằng vàng ròng ngồi cao hai tượng, gọi là Đại tự tại thiên, mọi người có cầu nguyện gì, năng khiến hiện đời đều như ý. Đề-bà đến miếu xin vào bái kiến, người chủ miếu nói: “Tượng trời chí thần, người có được thấy chẳng dám nhìn thẳng, lại khiến người sau khi mất giữ trăm ngày. Ông chỉ đến cửa cầu nguyện đâu cần phải thấy ư?” Đề-bà nói: “Nếu Thần hẳn năng như chỗ ông nói, mới chính khiến ta thấy đó, nếu chẳng như vậy, đâu phải là chỗ ta muốn thấy ư?” Người thời bấy giờ lấy làm lạ chí khí đó, phục minh chánh đó, cùng theo vào miếu cả mấy ngàn vạn người. Đề-bà đã vào rồi, tượng trời lay động, trố mắt tức giận trông nhìn đó. Đề-bà hỏi: “Thiên thần thì thần vậy, sao lại nhỏ vậy? Phải dùng tinh linh cảm người, trí đức khuất phục vật, mà mượn vàng ròng làm mắt, dùng nhiều pha lê làm người hoa mắt, chẳng phải chỗ ta mong vậy”. Bèn bước lên thềm đục mắt đó ra. Khi ấy mọi người cùng xem thấy, có ý nghi ngờ, Đại tự tại thiên sao lại bị một Bà-la-môn nhỏ bé làm khốn khổ, há không danh quá thật đó, lý khuất từ đó ư?” Đề-bà hiểu mọi người, bèn nói: “Thần minh xa lớn, nên lấy việc gần mà thử ta, ta được tâm đó, nên lên đống vàng lấy ra pha lê, khiến các người biết, thần chẳng gá chất, tinh chẳng gá hình. Ta đã chẳng khinh mạn, thần cũng chẳng nhục vậy”. Nói xong bèn đi ra, bèn ngay đêm đó tìm cầu các thứ cúng dâng đầy đủ, sáng sớm hôm sau đem kính dâng nơi miếu thần. Đề-bà tên trước đã trọng, thêm dùng trí xen vào. Thần khế hợp chỗ đó phát lời, chỗ tiếng đến kịp, không gì chẳng hưởng ứng. Trong một đêm mà các cúng cụ tinh soạn các vật hẳn đủ đầy. Đại tự tại thiên xuyên suốt một hình thịt cao cả bốn trương, mắt trái khô lõm mà lại chỗ ngồi, trông nhìn qua các thứ cúng cụ, ngợi ca chưa từng có, mừng đức lực đó năng có chỗ khiến nên vậy, mà nói cùng Đề-bà rằng: “Ông được tâm ta, mọi người được hình ta, ông dùng tâm cúng, người dùng chất cúng. Biết mà kính ta là ông, sợ mà dối ta là người, điều ông dâng cúng thật là tận thiện tận mỹ vậy, chỉ không chỗ ta cần đến. Ông năng đem thấy mà ban cho là chân thượng thí vậy”. Đề-bà nói: “Thần soi xét tâm ta, chỉ bảo là ta vâng làm.” Thần bảo: “Chỗ ta thiếu là mắt trái. Nếu người có thể ban cho ta bèn có thể móc ra đó”. Đề-bà nói: “Kính vâng như lệnh trời”. Bèn dùng tay trái móc mắt ra trao cho đó. Bởi do thần lực nên ra mà chẳng sống, Đềbà móc đó chẳng thôi, từ sáng sớm đến trọn ngày móc mắt ra cả vạn lần. Thiên thần ngợi ca: “Lành thay! Ma-nạp! Chân thật thượng thí vậy. Muốn cầu nguyện gì hẳn như ý ông”. Đề-bà nói: “Ta bẩm sáng ở tâm chẳng nhờ bên ngoài vậy. Chỉ hận dằng dặc các hàng ngu muội chẳng biết tin nhận lời ta, thần ban mong nguyện của ta là khiến lời ta nói chẳng dối bày. Chỉ đó là sự cầu xin, ngoài ra không cần gì cả”. Thần nói: “Hẳn như chỗ khó khăn(?)”, khi ấy Đề-bà bèn lui mà đến chùa xuất gia, xuống tóc đắp mặc pháp phục, dạo khắp xiển dương giáo hóa đến nơi đô thành của nước lớn Thiên Trúc, ở giữa ngã tư đường trải bày tòa cao, tạo Tam luận mà nói rằng: “Trong tất cả các Thánh, Phật Thánh rất là Đệ nhất. Trong tất cả các pháp, pháp Phật là đệ nhất, trong tất cả chúng cứu đời, chúng tăng của Phật là Đệ nhất. Các bậc luận sĩ ở khắp tám phương, nếu có ai năng phá hoại lời nói này. Ta sẽ chém đầu để tạ cái vụng về đó. Tại sao như vậy?

Lập lý chẳng sáng, đó là ngu si. Đầu của ngu si chẳng phải chỗ ta cầu. Nên chém để tạ vụng về đó, rất chẳng tiếc vậy”. Các bậc luận sĩ ở khắp tám phương đã nghe nói vậy rồi, mỗi cùng nhau kéo đến, mà lập lời thề rằng: “Chúng ta chẳng bằng thì cũng sẽ chém đầu. Đầu ngu si cũng là chỗ chẳng tiếc”. Đề-bà bảo: “Pháp của ta tu là nhân đức ban sống cho muôn vật. Nếu ai chẳng bằng, thì các ông cứ xuống tóc để làm đệ tử, chẳng phải chém đầu vậy”. Lập ách yếu đó rồi, mỗi tự soạn thuật danh lý, lập luận vô phương mà cùng đối đáp. Hạng trí cạn tình gần, thì chỉ mới một lời bèn khuất. Hạng trí sâu tình xa, cùng cực đến hai ngày thì từ lý đều hết, tức đều xuống tóc. Như vậy, ngày ngày nhà vua cung cấp y bát, trọn ba tháng, Đề-bà độ hơn mười muôn người”. Giải thích: Bẩm minh tại tâm chẳng nhờ bên ngoài là, xét như nói đây, đến đâu chẳng theo, nên năng đức trọng minh thần, soi xét mắt của Đại tự tại thiên giáo hóa hòa hợp ý người, độ tâm của vạn ngoại đạo. Có thể gọi là lương y cứu đời, diệu thuật độ người. Nếu chẳng được yếu chỉ đây, bi nguyện sao thành. Tự lợi lợi tha ý tận cùng ở đây vậy.

Trong Vô Lượng Thọ Phật Sớ của Thiên Thai nói: “Căn cứ một chữ mà nói là, trong Thích Luận nói: “Chỗ hành như chỗ nói, chỗ nói tức là giáo. Như tức là lý, hành tức là hạnh. Phật tức là pháp thân, quán tức là Bát-nhã, Vô Lượng Thọ tức là giải thoát”. Phải biết tức một đạt ba, tức ba đạt một, trong một hiểu vô lượng, trong vô lượng hiểu một. Ở trên một chữ đạt vô lượng nghĩa, huống gì các chữ, huống gì một đề, huống gì một kinh, huống gì tất cả kinh ư? Nên trong kinh nói: “Nếu nghe danh tự đầu đề, chỗ được công đức chẳng thể hạng lượng.” Nếu chẳng giải hiểu như trên thì sao được vô lượng công đức ư? Giải thích: Nếu chẳng về một tâm giải hiểu, thì sao được công đức vô hạng, vì vô lượng công đức tức một tâm đầy đủ. Nếu lìa chỗ tâm thấy là đều chẳng viên mãn, đều thành tà đảo, giả sử đầy đủ hạnh môn cũng đều thành phần hạng.

Trong Khởi Tín Sớ nói: “Phàm, chân tâm rỗng lặng, tuyệt ngôn tượng ở lưới nơm, rỗng không yên lặng hiếm hoi. Mất cảnh trí ở năng sở, chẳng phải sinh chẳng phải diệt. Chỗ của bốn tướng chẳng đổi thay, không khứ không lai, ba khoảng chẳng năng chuyển đổi, chỉ lấy không trú làm tánh, tùy phái phân rẽ, theo mê ngộ mà lên xuống, mặc nhân duyên mà khởi diệt, tuy rườm nhiều khua động mà chưa từng động ở nguồn tâm, lặng soi hư ngưng chưa từng trái nơi nghiệp quả. Nên khiến chẳng biến tánh mà duyên khởi, nhiễm tịnh luôn phân, chẳng bỏ duyên mà tức chân phàm Thánh nhất trí. Đó giống như sóng không khác động của nước. Nên tức nước mà biện ở sóng, nước không khác ẩm ướt của động nên tức sóng để rõ ở nước. Đó thì động tĩnh giao triệt. Chân tục song dung, sinh tử Niết-bàn. Di Tề đồng suốt”.

Trong An Lạc Tập nói: “Hỏi: Nhân gì lực của một niệm năng đoạn tất cả các chướng?

Đáp: Như trong kinh nói: “Thí như có người, dùng gân Sư tử để làm dây đàn cầm, âm thanh đó một lúc tấu lên thì tất cả các dây đàn khác thảy đều dứt. Nếu người hành niệm Phật Tam-muội trong tâm Bồ-đề thì tất cả phiền não tất cả các chướng thảy đều đoạn diệt, cũng như có người vắt lấy tất cả các thứ sữa trâu dê lừa ngựa đặt trong một đồ vật. Nếu đem một giọt sữa Sư tử để vào đó xuyên suốt qua thẳng không khó, tất cả các thứ sữa kia thảy đều phá hoại biến làm nước trong. Nếu người chỉ năng hành niệm Phật Tam-muội trong tâm Bồđề tất cả ác ma các chướng thẳng suốt qua không khó”.

Trong ghi chú của luận Bảo Tạng nói: “Thật đây chẳng phải kia, thật kia chẳng phải đây. Vết chân dấu vân giữa không kỳ đặc hiện vì, phá đây kia. Các pháp như huyễn sánh như vết chim dấu vân giữa không đều từ tâm sinh kỳ đặc hiện”. Lại nói: “Ánh sáng vượt quá nhật nguyệt, đức vượt thái thanh, muôn vật không làm, tất cả không tên, chuyển biến đất trời tự tại tung hoành là, muôn vật chẳng năng tự lập, người là làm tên, đều tự tâm khởi chuyển biến trời đất, rõ tất cả duy tâm thì muôn pháp không lụy thần minh đó, tức chỗ hướng tự do, tức tự tại ngang dọc”.

Trong Niết-bàn Sớ của Thiên Thai nói: “Phiền não và thân một thời là, trừ một thời của chỗ chấp kia. Nếu là chỗ giải hiểu nói một thời là, đây là trước sau một một thời, một thời mà trước sau, chỉ ở trong nghĩa một thời nói có trước sau, tức phiền não là trước, thân thuộc ở sau. Tại sao? Nhân quả không hai, sắc tâm thể một. Ba đạo ba đức một niệm không trái, năm ấm năm thoát, lý sát-na đồng. Quý ở phá chấp rồi rõ tánh đồng không, không không trước sau, như đốt và sáng một thời có, cốt yếu nhân đốt có sáng, phiền não và thân cũng vậy, nên biết trước sau một tâm một tâm trước sau. Giải hiểu như vậy là có gì sai biệt? Chỉ sợ ngoài tâm thủ pháp mà tự khác vậy”.

Trong Nhiếp Cảnh Quy Tâm Chân Không Quán của Hòa thượng Đỗ Thuận nói: “Nghĩa là ba cõi chỗ có pháp, chỉ là một tâm, ngoài tâm là không một pháp có thể được, nên nói là Quy tâm. Nghĩa là tất cả phân biệt chỉ do tự tâm, từng không cảnh ngoài tâm năng cùng tâm làm duyên. Tại sao? Do tâm chẳng khởi, cảnh bên ngoài vốn không. Nên trong luận nói: “Do nương Duy thức nên cảnh vốn không thể, nghĩa chân không thành vậy. Vì trần không có vậy. Bản thức tức chẳng sinh, do đây mới biết do tâm hiện cảnh, do cảnh hiển tâm. Tâm chẳng đến cảnh, cảnh chẳng vào tâm. Thường khởi quán đây trí tuệ sâu mầu”.

Trong lời tựa luận Duy Thức nói: “Lìa cảnh của tâm khắc chìm, tức trần của thức tại đây, mang tên của số chợt hiển, xưng của Duy thức hình tượng hiện rõ. Nên được yếu chỉ của một tâm thì trọn truyền mà chẳng cùng tận. Đèn của tam thức luôn đốt sáng mà vô tận”.

QUYỂN 100

Pháp sư Nghĩa Tướng ở Đông Quốc, giải thích kinh Hoa Nghiêm nói: “Phải biết một bộ kinh Hoa Nghiêm đây, tuy bảy xứ chín hội, mà chỉ tại phẩm Thập Địa. Tại sao như vậy? Vì pháp căn bản gồm hết vậy. Tuy tại mười địa chẳng đồng, mà chỉ tại địa thứ nhất. Tại sao? Chẳng khởi một địa gồm khắp công đức các địa vậy. Trong một địa tuy nhiều phần chẳng đồng mà chỉ tại một niệm. Tại sao? Ba đời chín đời tức một niệm vậy, tất cả tức một vậy. Như một niệm, nhiều niệm cũng vậy. Một tức là tất cả, một niệm tức nhiều niệm. Pháp Đà-lani chủ bạn cùng thành. Một tức là chủ, tất cả là bạn. Tùy nêu một pháp, đều gồm tất cả, cho đến một văn một câu đều gồm tất cả. Tại sao? Nếu không đây, kia vì chẳng thành pháp Đà-la-ni vì, pháp như vậy. Trong kinh nói: “Như Lai ở trong một lời nói phô diễn ra vô biên biển Khế kinh”.

Pháp sư Phục Lễ nói: “Quán nghiệp nghĩa là, phàm nghiệp nhân tâm khởi, tâm làm nghiệp dụng, nghiệp dẫn tâm mà thọ hình, tâm tùy nghiệp mà tạo cảnh. Nhưng mà, nhân nghiệp thọ thân, thân trở lại tạo nghiệp. Từ tâm tạo cảnh, cảnh lại sinh tâm, như cảnh tùy hình mà cong thẳng, như vang theo tiếng mà lớn nhỏ vậy.”

Pháp sư Tuệ Tập có kệ tụng nói:

“Sáng khắp mới học đạo, vô biên thế giới động, xoay trời lại chuyển đất, cùng vào một chân lông”. Pháp sư Hoằng Duyên nói: “Nếu người chấp ngoài tâm chúng sinh riêng có vô tình, Phật tánh chẳng khắp cùng, đều trái với nghĩa Như Lai Tạng khắp cùng pháp giới”. Trong luận Duy Thức nói: “Căn thân khí thế gian tức là tướng phần A-lại-da, tướng phần chẳng lìa kiến phần”. Lại nói: “Nếu thời ở chỗ duyên, trí đều không chỗ được. Do lìa tướng hai thủ, chân thật trú Duy thức, như thức thứ sáu duyên tâm hiện tại chỉ một sát-na. Ai làm năng sở giả sử duyên ba đời cũng tâm hiện tại vọng phân năng sở. Nếu được y đây, ba cõi Duy tâm, pháp giới một tướng cũng vì chẳng vừa”.

Pháp sư Thần Khải nói: “Một niệm tịnh tâm nhỏ nhiệm như hạt cải, sum-la vạn tượng giống như Tu-di. Muôn tượng tuy là lắm nhiều, cốt yếu từ một tâm biến khởi, lìa ngoài tâm rốt ráo không pháp. Vậy thì nhiếp tướng từ tâm nói là trong núi Tu-di ở hạt cải vậy”.

Pháp sư Nguyên Khang nói: “Nói rõ ngộ nhập là, Đức Như Lai nói tám muôn bốn ngàn pháp, chỗ nói về chí lý là không khác đạo. Trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Một đạo ra sinh tử”. Kinh Niết-bàn nói: “Một đạo thanh tịnh”. Kinh Đại Phẩm nói: “một tướng không tướng”. Kinh Tịnh Danh nói: “Pháp môn chẳng hai”. Trong luận nói: “Tự biết chẳng tùy tha, tịch diệt không hý luận, không khác không phân biệt. Đó gọi là thật tướng.”

Đại sư Trí Giả gửi thư đến vua Trần Tuyên Đế (Trần Húc 569-583) nói: “Phàm, pháp của học đạo, hẳn trước phải nhận biết căn nguyên, cầu đạo do tâm, lại phải nhận biết thể tánh của tâm. Phân minh không lầm hoặc. Công nghiệp có thể thành. Một rõ ngàn sáng, một mê muôn hoặc. Tâm không hình tướng trong ngoài chẳng ở, cảnh khởi tâm sinh, cảnh mất tâm diệt. Sắc lớn tâm rộng, sắc nhỏ tâm bé. Cho đến biết tâm rỗng lặng, tức vào pháp môn rỗng lặng. Biết tâm không trói buộc tức nào pháp môn giải thoát. Biết tâm không tướng, tức vào pháp môn không tướng. Rõ tâm không tâm tức vào pháp môn chân như. Nếu năng biết tâm như vậy là, tức vào pháp môn trí tuệ”.

Trong lời tựa Viên Giác Sớ của Bùi Hưu nói: “Phàm, thuộc của huyết khí hẳn có biết. Phàm có biết hẳn đồng thể, chỗ gọi là chân tịnh minh diệu hư triệt linh thông cao vợi mà riêng còn đó vậy. Bản nguyên của chúng sinh nên gọi là đất tâm, chỗ được của chư Phật nên gọi là Bồ-đề, giao triệt dung hòa thâu gồm nên gọi pháp giới. Vắng lặng thường lạc nên gọi là Niết-bàn. Chẳng dơ chẳng lậu nên gọi là thanh tịnh, chẳng dối chẳng biến nên gọi là chân như, lìa lỗi tuyệt quấy nên gọi là Phật tánh, hộ thiện ngăn ác nên gọi là chung giữ, ẩn giấu chứa gôm nên gọi là Như Lai Tạng, siêu việt huyền mật, nên gọi là nước Mật nghiêm, gồm các đức mà lớn khắp cùng, nung các mờ tối mà riêng chiếu nên gọi là Viên giác, kỳ thật đều một tâm vậy. Trái đó thì phàm thuận, đó thì Thánh, mê đó thì sinh tử bắt đầu, ngộ đó thì luân hồi chấm dứt. Thân gần mà cầu đó thì định tuệ chỉ quán, suy mà rộng đó thì sáu độ muôn hạnh. Dẫn mà làm trí, sau đó làm chánh trí, nương mà làm nhân, sau đó làm chánh nhân, kỳ thật đều một pháp vậy. Trọn ngày Viên giác mà chưa từng Viên giác là phàm phu vậy. Muốn chứng Viên giác mà chưa cùng cực Viên giác là Bồ-tát vậy. Trú trì Viên giác mà đầy đủ Viên giác là Như Lai vậy. Lìa Viên giác không sáu đường. Bỏ Viên giác không ba thừa, chẳng phải Viên giác không Như Lai. Sạch Viên giác không chân pháp, kỳ thật đều một đạo vậy. Chỗ chứng của ba đời chư Phật, bởi chứng đây vậy. Đức Như Lai vì việc lớn mà xuất hiện, bởi vì sự đây vậy. Ba tạng mười hai bộ kinh giáo, tất cả Tu-đa-la, bởi phân tích đây vậy”.

Giải thích: Một pháp của tâm gọi là Phổ pháp (pháp rộng khắp). Muốn chiếu tâm đây nên phải mắt rộng khắp rỗng chiếu lặng chiếu linh tri, chẳng phải thiên tiểu mà có thể cùng tận, vì viên mãn mà năng giác, nên gọi là Viên giác, đây là căn cứ năng chứng. Diệu tánh chân như tịch diệt vô vi, đầy đủ khắp cùng không có khuyết giảm nên gọi là Viên giác. Đây là căn cứ sở chứng vậy, năng sở ngầm hợp tuy là một tâm, một tâm đây năng làm tánh của tất cả muôn pháp, lại năng hiện tướng của ba thừa sáu đường. gồm tướng về tánh không từng khác vết, thì thế gian và xuất thế gian lên xuống tuy khác, phàm có các thứ hành xử không gì chẳng đều là đây vậy. Lìa đây thì trên không Tam bảo một thừa dưới không bốn loài chín đường.”

Trong Đài Sơn Thích Cái Lăng-già kinh Quyết nói: “Đại chỉ của Phật pháp, nêu lời quan trọng chẳng vượt ngoài tâm làm Đại chỉ, chỗ gọi là kinh Lăng-già lấy tâm làm chánh tông, nên nói: “Phật nói tông làm tông. Không nên làm pháp môn”. Chỗ gọi là tâm, nghĩa là Phật nói tâm. Chỗ gọi là tông, nghĩa là tâm thật ở. Lại nói: “Mê thì muôn hoặc lụy tâm, hiểu thì chân chiếu pháp giới. Mê thì sinh tử rối ren. Hiểu thì Niết-bàn thường vắng lặng”. Mê hiểu tuy khác, không gì chẳng đều là một tâm ẩn hiển.”

Tam Tạng Pháp sư nói: “chúng sinh là cõi Phật Bồ-tát nghiệm sáu thứ đây tức rốt ráo quả xứ, mà lầm hoặc là trọn ngày làm mê hiểu.”

Tam Tạng Pháp sư Bạt-đà nói: “Lý tâm là tâm chẳng phải ngoài lý. Lý chẳng phải ngoài tâm. Tâm tức là lý, lý tức là tâm. Tâm lý bình đẳng gọi đó là lý, lý chiếu năng sáng, gọi đó là tâm giác. Tâm lý bình đẳng, gọi đó là Phật tâm. Hội thật tánh là chẳng thấy sinh tử Niết-bàn có riêng khác. Phàm Thánh không khác, cảnh trí một như. Lý sự đều dung, chân tục đều quán, viên thông vô ngại, gọi là tu đại đạo.”

Sa-môn Thích Đạo Thế nói: “Bốn thiền không tượng, ba đạt đều không, ngàn Phật khác vết, một trí tâm đồng.”

Hòa thượng Trừng Quán trong Sớ Giải Kinh Hoa Nghiêm nói: “Từ trước đến nay các môn cho đến vô tận, chẳng lìa một tâm, một tâm tức pháp giới. Nên trong luận Đại Thừa Khởi Tín nói: “Chỗ gọi là pháp, nghĩa là tâm chúng sinh”. Tâm thể tức đại. Bản trí của tâm tức Phương quảng. Quán tâm khởi hành tức Hoa Nghiêm, giác ngộ tánh tướng của tâm tức là Phật, giác chẳng phải từ ngoài lại, toàn đồng chỗ giác vậy. Lý trí chẳng khác, lý trí hình đoạt cả hai đều mất, lặng chiếu thì niệm niệm đều là biển tánh Hoa Nghiêm, thì vật ngã đều như sạch đồng bình đẳng, vì chưa rõ là khiến rõ tự tâm. Nếu biết xúc vật đều tâm mới rõ tâm tánh. Nên trong phẩm Phạm Hạnh nói: “Biết tất cả pháp tức tự tánh tâm, thành tựu thân tuệ, chẳng do tha ngộ”. Nhưng nay các người học pháp, phần nhiều bỏ bên trong mà tìm cầu bên ngoài, những người tập thiền, thích mất duyên mà bên trong chiếu, đều là thiên chấp, đều kẹt hai biên. Đã tâm cảnh như như thì bình đẳng vô ngại. Xưa trước từng mưa ánh ngời mặt gương, soi một chén đèn, đặt một tôn dung mà lớp lớp ánh sáng giao xen. Phật Phật vô tận, thấy phàm là tâm cảnh qua lại chiếu, bản trí đều vào, trong tâm ngộ cảnh của vô tận, trên cảnh rõ tâm khó nghĩ lường. Tâm cảnh lớp lớp, trí chiếu tại đây. Lại, tức tâm rõ Phật của cảnh giới, tức cảnh thấy Như Lai của Duy tâm, tâm Phật lớp lớp mà một tánh bản giác, đều lấy đó chẳng thể được, thì tâm cảnh cả hai đều mất, chiếu đó chẳng thể cùng, thì lý trí giao triệt. Tâm cảnh đã vậy, cảnh cảnh trông nhau. Tâm tâm qua lại nghiên xét, muôn hóa rối loạn đều nhất trí. Chỉ chứng tương ưng gọi là Hoa Nghiêm Phật vậy”. Giải thích: người thời nay chỉ giải thích tức tâm tức Phật, tâm đó làm Phật. Chẳng biết tức cảnh tức Phật, cảnh đó làm Phật. Nay nói rõ lấy như làm Phật. Tâm cảnh đều như, tâm như tức Phật, cảnh như sao chẳng phải. Lại, tâm có tánh tâm, tâm năng làm Phật, cảnh có tánh tâm, sao chẳng làm Phật. Dùng tâm thâu cảnh thì trong tâm thấy Phật, là Phật của cảnh giới. Dùng cảnh thâu tâm thì trong cảnh thấy Phật, là Như Lai của Duy tâm.

Trong Hoa Nghiêm Cẩm Quan nói: “Quán Tâm giải thích kinh Đại Phương Quảng Hoa Nghiêm là, nếu căn cứ giáo phân tích nghĩa thì có nhiều môn. Nếu chẳng gồm về một tâm ở ta sao can dự. Phàm, nói Đại là, tức là thể tâm, thể tâm vô biên nên gọi là đại. Phương là tướng Tâm, tướng đủ pháp của đức tướng, nên gọi là Phương. Quảng là dụng tâm. Tâm có dụng của xứng thể. Phật là quả tâm, nơi tâm giải thoát gọi là Phật. Hoa là nhân tâm, chỗ tâm dẫn hành, lấy hoa để dụ đó. Nghiêm là công tâm, tâm năng khéo léo nghiêm sức, gọi đó là nghiêm, kinh là giáo tâm, tâm khởi danh ngôn phân tích hiển lý đây, nên gọi là kinh. Nhưng một chữ tâm tuy chẳng phải tất cả, năng làm tất cả. Quán là dùng trong ba đại có đủ bốn pháp giới đối bốn giới kia nên thành bốn quán. Pháp vốn như vậy nên nương pháp mà quán. Nếu nương đây mà ngộ giải thì niệm niệm tức là pháp giới Hoa Nghiêm, niệm niệm tức là pháp giới Tỳ-lô-giá-na vậy.”

Trong Triệu Luận ghi chú nói: “Gần mà chẳng thể biết là, đó chỉ tánh vật ấy ư?”

Trong Thượng Thư nói: “Trời sinh muôn vật chỉ người là linh. Hữu tình vô tình là muôn vật vậy. Linh là tánh của tâm, cũng là tánh của muôn vật, tức tánh không của vật, mục kích mà chẳng phải xa, tuy gần mà thấy vậy. Nên trong luận nói: “Xa chẳng thể thấy, như vết chim giữa không trung, gần chẳng thể thấy, như thuốc của trong mắt. Xa dụ cho ba A-tăng-kỳ đến Đạo, gần tức chân mà chẳng thấy vậy.”

Dẫn chứng như trên, giáo của tổ chi ly mở bày, có thể lấy làm trọn diệt mảy may nghi ngờ, trọn thành tin lớn như Thần châu trong lòng bàn tay. Ấn báu ở tâm, chư phật thường hiện trước mắt, pháp giới chẳng lìa ngay lời nói. Vì vậy, từ mới đầu nêu Tông, ở một tâm diễn nói ra vô lượng danh nghĩa, vô lượng danh nghĩa chẳng vượt ngoài lý trí. Chẳng phải lý thì chẳng trí, nên ngoài lý không trí. Chẳng phải trí thì chẳng lý, nên ngoài trí không lý cũng gồm trí theo lý, ngoài thể không dụng, gồm dụng về thể, thể tánh tự lìa, nên thể tức chẳng phải thể, tức tất cả pháp như tánh hư không. Tánh hư không cũng không, rất háo tịch diệt, diệt đó cũng diệt, chẳng biết lấy gì để nói vậy, cưỡng gọi đó là chân tâm vô tận, nay trở lại gồm biển nghĩa vô lượng đều về một câu, cho đến không câu, một chữ một chấm cuộn buông tự tại chẳng động một tâm, rốt ráo chỉ về nói nghĩ tuyệt vậy. Lại, đây mới là bên trong chứng chân tánh tự tâm, tuyệt đối đãi không nương, pháp môn bình đẳng. Như trong Hoa Nghiêm Sớ Sao nói: “Ngộ tất cả pháp tự tánh bình đẳng là vào nơi tánh của các pháp chân thật”. Nghĩa là trong tánh chân thật không tướng sai biệt, không các thứ tướng không vô lượng tướng. Muôn pháp một như, đâu có chẳng bình đẳng, tánh chân thật đây nương đâu mà lập. Lại tiếp nói về pháp chứng không nương tựa. Chỗ gọi là chẳng nương ở sắc chẳng nương ở không. Nếu muôn pháp nương không, không không chỗ nương. Nay muôn pháp nương chân, chân không chỗ nương, tức pháp môn không nương ấn nên bỏ lìa thế gian. Thế gian tức có các thứ sai biệt. Đây thì tánh còn chẳng lập, huống gì ở tướng, cũng chẳng nương không lập sắc, cũng chẳng nương sắc lập không, cũng không khác không chẳng khác, không tức không chẳng tức, thấy đây tức tuyệt cưỡng gọi chứng bên trong vậy.

Hỏi: Như trên giải thích dẫn chứng đều là lời của Phật Tổ, cớ sao chẳng tự nói?

Đáp: Nếu tôi tự nói, thì tất cả đều mịt mờ, không chỉ bến bờ, thì đâu có xứ của bày hỏi. Giả sử giáo của Phật tổ, đều là tùy ý kẻ khác mà nói, uyển chuyển thuận thời cơ. Vì vậy, Đức Thế Tôn nói: “Pháp của chư Phật trong ba đời nói, trong suốt bốn mươi chín năm, ta chẳng thêm một chữ”. Lại, trong kinh nói: “Phật trước đã nói, Phật sau tùy thuận, nếu năng thấu rõ như vậy, thì biết Phật nói là tự nói, tự nói là Phật nói”. Nên Đức Bản Sư nói: “Tất cả kinh sách ngoại đạo đều là Phật nói, chẳng phải ngoại đạo nói: “Lại nói: Đức Thích-ca Như Lai nói, Đề-bà-đạt-đa nói, không hai không riêng khác”. Nếu chẳng tin ở đây, chẳng rõ đều thành hai thấy, thường quẩn quanh phân biệt, tưởng của phàm Thánh, luôn sinh lấy bỏ, tình của tự tha. Như muốn tiếp nối tông ta thì điều ấy không thể có.

Hỏi: Ở trước, trong chương nêu Tông đã nói rộng yếu chỉ của Duy tâm, cớ sao trong mười pho quyển quyển quanh co nói lại?

Đáp: Đây là môn của Bí yếu, pháp của khó tin, chuyển sâu chuyển tế, khó hiểu khó biết, đều ôm hoài nghi tình, mãi ở địa lầm hoặc. Phàm, nghi ngờ là, ở các đế lý do dự làm tánh, năng chướng thiện phẩm làm nghiệp vậy. Nghi ngờ có nhiều thứ, lược nói đủ ba: Một là, nghi tự, nghĩa là mình chẳng năng vào lý; Hai là, nghi Thầy, nghĩa là kia chẳng năng khéo dạy; Ba, nghi pháp, là ở chỗ học là khiến lìa khỏi hay chẳng lìa khỏi. So sánh như người có bệnh, nghi mình nghi thầy thuốc nghi thuốc, thì bệnh trọn chẳng lành. Nếu có đủ ba nghi ngờ trên thì trọn chẳng năng quyết định tin vào. Nay, chỗ Tông Kính ghi chép đều là ngay thẳng, bỏ phương tiện, chỉ nói đạo Vô thượng. Tùy nghe một pháp, đều hợp viên tông, thật có thể dùng làm đoạn nghi ngờ sâu thành tin lớn. Như trong Thanh Lương Ký nói: “Nghĩa là nghe không chớ nghi đoạn, là không của tức sự, chẳng phải đoạn diệt vậy. Nghe có chớ nghi thường, chẳng phải định tánh có mà theo duyên có vậy. Nghe cả hai phải, chớ nghi hai phần, chỉ cả hai chiếu hai đế không hai thể vậy. Nghe cả hai quấy chớ nghi không căn cứ, vì chỉ ngăn lỗi, khiến chẳng đắm trước vậy. Lại, nghe không chớ nghi có, là không của tức có vậy, nghe có chớ nghi không, là có của tức không vậy, nghe cả hai phải chớ nghi cả hai quấy, là tức chẳng phải có không làm có không vậy. Nghe cả hai quấy chớ nghi cả hai phải, là tức có không mới là chẳng phải có không vậy. Vậy biết chắc rõ một tâm thì các nghi ngờ chóng đoạn, thì có chẳng năng có, không chẳng năng không, phàm chẳng năng phàm, Thánh chẳng năng Thánh, đâu chỗ lầm hoặc của ngôn ngữ phải quấy ở thế gian ư? Như trong kinh Phật Tạng nói: “Phật bảo: Xá-lợi-phất! Núi chúa Tu-di là cao lớn chăng?” “Cao lớn. Bạch Đức Thế Tôn!” “Xálợi-phất! Trong bốn thiên hạ, đá lớn mưa khắp đều như núi Tu-di. Có người dùng tay hứng lấy đá đó, không để sót rơi chỉ bằng hạt cải. Ý ông nghĩ sao? Có phải hiếm có chăng?” “Hiếm có. Bạch Đức Thế Tôn!” “Xá-lợi-phất! Tất cả các pháp Như Lai giảng nói, không sinh không diệt, không tướng vô vi, khiến người tin hiểu gấp bội hiếm có. Xá-lợiphất! Thí như có người đem tất cả chúng sinh, đặt nơi tay trái, tay phải tiếp nâng núi sông cây cỏ cả ba ngàn thế giới, đều năng khiến tất cả chúng sinh đó, đồng tâm vui ưa, ý họ chẳng khác, ý ông thế nào? Là hiếm có chăng?” “Hiếm có. Bạch Đức Thế Tôn!” “Xá-lợi-phất! Tất cả giáo pháp Như Lai giảng nói, không sinh không diệt, không tướng vô vi, khiến người tin hiểu, gấp bội hiếm có”. Chỗ văn từ Tông Kính đây sở dĩ trước sau nêu dẫn rộng là, chỉ vì tâm đây sâu thẳm nên khó tin, bí mật nên khó biết. Cho đến Bồ-tát Đại Trí còn phải nhờ sự gia bị của Phật lực, huống gì hàng kém cạn mà năng biết đó ư? Như trong kinh Bảo Vũ nói: “Phật dạy: Cớ sao Bồ-tát tin sâu ý nghiệp bí mật của Như Lai? Nếu các Bồ-tát nghe ở bí mật của ý Như Lai, cho là chỗ Như Lai có ý vui thích pháp nghĩa, nương dừng nơi tâm, nương tâm mà trú. Tất cả Bồtát Thanh văn Duyên giác và các hữu tình không năng biết là chỉ trừ chỗ gia trì của Như Lai”. Vì vậy, tuy trước sau dẫn chứng văn rộng nghĩa nhiều, thì trong mỗi lời nói mà lợi ích căn cơ, trong mỗi nghe mà kinh sợ mới tai mắt. Sao nhàm chán nói nhiều mà khởi tâm khinh mạn đây! Do đó, Đức Bản Sư nói: “Đi đứng ngồi nằm thường nói Diệu pháp”. Lại nói: “Ta từ đêm đắc đạo cho đến đêm nhập Niết-bàn, khoảng giữa hai đêm đó thường nói Bát-nhã”, do vì căn cơ lắm nhiều sinh thục tin có sâu cạn, nghe trước huân mà chưa kiên chắc, nghe sau luân mà mới vào. Như trong luận Đại Trí Độ nói: “Thí như lấy cây lấy quả, chín thì rơi trước, nếu chưa chín lại phải lay sau. Lại như bắt cá mẻ lưới trước chưa hết, mẻ lưới sau mới được”. Lại nói: “Lại nữa, tướng Bát-nhã Ba-la-mật đó sâu mầu khó hiểu khó biết. Phật biết tâm chúng sinh căn có lợi độn. Độn căn thì ít trí nên vì họ mà nói lại. Còn lợi căn thì nói một lần nói hai lần bèn ngộ. Chẳng phải các thú nói: Thí như ngựa hay chỉ đánh một roi bèn chạy, ngựa hèn phải đánh nhiều roi mới đi. Bởi các thứ nhân duyên như vậy v.v... nên trong kinh nói lại nhiều lần không lỗi”.

Hỏi: Từ trước đến đây luôn nói là Bát-nhã Ba-la-mật nhân duyên sâu mầu, nay cớ sao nói lại nhiều lần?

Đáp: Xứ xứ nói sâu mầu, có nhiều chỗ lợi ích. Phàm người chẳng biết thì cho là nói lại nhiều lần. Thí như vua nước lớn chưa có đích tử (con cả), cầu đảo Thần kỳ qua nhiều năm mà không ứng. Lúc vua đi khỏi, thì phu nhân sinh được con trai, sai người báo tin đến vua là phu nhân hạ sinh con trai. Vua nghe, vui mừng mà chẳng đáp, cho đến cả mười lần thưa báo, kẻ sứ tâu vua: “Điều tấu thưa vừa rồi, Đại vương chẳng nghe ư?” Vua đáp: “Ta nghe đó chứ, lâu nay ước nguyện đã mãn nên mừng, trong tâm vui sướng muốn nghe chẳng thôi vậy”, bèn bảo quan có trách nhiệm ban cho người đó trăm muôn lượng vàng”. Một lời nói mà mười muôn lượng. Vua nghe kẻ sứ nói, trong mỗi mỗi lời có lợi ích, chẳng phải là nói lại nhiều lần. Người chẳng biết cho là nhiều lần, xứ xứ nói sâu mầu cũng lại như vậy. Phật và Bồ-tát Tu-bồ-đề biết có lợi ích, Tu-bồ-đề nghe Phật nói Bát-nhã sâu mầu, chẳng năng được tận đáy, chuyển giác sâu mầu. Nghe là xứ xứ nghe sâu mầu, được lợi ích thiền định trí tuệ v.v... người phàm phu cho là nói nhiều lần. Vả lại như vua nghe ở một lần nói có nhiều lợi ích nên ban cho mười muôn lượng vàng. Đây là thêm căn sinh tử thành ở thức lạc. Nay nghe Tông Kính, trong mỗi mỗi quyển trong mỗi mỗi lời văn, lớp lớp xướng đạo, mỗi mỗi nêu tông, thêm lớn căn Bồ-đề, thành nơi pháp lạc, khắp đại địa làm vàng ròng, chưa đáp đền một chữ, xin chớ sinh lười chán ở từng nghe, khiến người đã đạt càng chắc tâm tin, khiến người chưa vào chóng phát tuệ nghe.

Hỏi: Môn Tông Kính đây trở lại thọ học tập ư?

Đáp: Học thì chẳng không, lược có hai nghĩa: Một, nếu luận về Đại tông, căn bản chánh trí chẳng từ tâm học, chẳng phải tại ý tư. Tròn sáng rõ biết chẳng nhân tâm nghĩ nhớ. Nên trong Thai Giáo nói: “Tay chẳng nắm quyển thường đọc là kinh, miệng không mở lời tụng khắp các điển. Phật chẳng nói pháp, luôn nghe Phạm âm. Tâm chẳng tư duy chiếu khắp pháp giới. Với luận đây, hàng thượng thượng căn khí nghe mà chóng ngộ ngay lúc thân gần tự chứng; Hai, nếu chưa tỉnh xét đạt, cũng có lực của trợ phát, công của ấn khả, hoặc căn cơ tư duy chậm xoay lại, cho đến hàng trung căn hạ phẩm, và học môn trí sai biệt, phải nương minh sư để biện rõ chánh tà. Trước do nghe hiểu tin vào, sao do không tư duy khế đồng, phải được vật vật viên thông, sự sự không kẹt mới là gặp duyên, đối cảnh chẳng mất chỉ mê tông. Nên nói hội muôn vật làm tự mình là, đó chỉ Thánh nhân ư? Lại, nếu căn cứ đại cương, nên phải tự tỉnh xét, giả sử có tương tợ, cũng chỉ tự biết. Như có người học hỏi ở bậc Tiên đức rằng: Thế nào là Thật?

Đáp: Có ba A-tăng-kỳ trăm ngàn danh hiệu, chỉ giả khái niệm, thật tướng không tướng như hư không, phải tự trở lại ngộ.

Hỏi: Sau ngộ lại có pháp gì?

Đáp: Chỉ cái xứ ngộ là pháp, theo duyên phát sáng trở lại được tự lý.

Hỏi: Tánh đây có thể trở lại chỉ bày cho người khiến thấy chăng?

Đáp: Trở lại bày giáo lớn, tự tỉnh xét đạt tức được, chẳng phải sự của mắt thấy tai nghe ý biết. Cái tánh chân tinh diệu minh đây chẳng đồng như thái hư gỗ đá, trời sinh linh diệu chẳng thể nghĩ bàn, tức tự tánh Phật, Pháp, Tăng. Nếu chẳng ngộ, tìm cầm muốn thấy, một mảy may cũng chẳng thể được, chỉ lìa trần xấu đẹp trước tức là bản tâm của nhà mình. Nếu mảy may chẳng tận cùng Phật đạo là, điều đó không thể có.

Hỏi: Thấy sắc chỉ thấy sắc, thế nào là thấy tâm?

Đáp: Tức tư tư đó là ai thấy sắc?

Hỏi: Há chẳng phải đương cảnh toàn là chẳng nên lại cầu thấy?

Đáp: Tự nghĩ lường nhìn phải đó cùng chẳng phải, chớ hỏi người khác. Nếu ngay đó thấy là chẳng mưu đạt, Phật pháp chỉ tại tấc vuông, ngoài tâm đoạn vết hành, chỉ một tâm một trí tuệ, lìa thủ ái trong ngoài và khoảng giữa, ba khoảng lý huyền, bèn vào đạo vô vi.

Hỏi: Ngộ tâm nào là đạo?

Đáp: Ngộ tâm không tâm tức là đạo.

Hỏi: Xin vì chỉ bày?

Đáp: Chỉ bày xong rồi vậy, mà ngươi chẳng tự thấy.

Hỏi: Vật gì dạy người học thấy?

Đáp: Giáo lớn ngay đó thấy vậy chẳng là vật.

Lại có bậc Tiên đức hỏi: Tức nay thấy vật gì?

Đáp: Thấy bản tâm.

Hỏi: Thấy và bản tâm là riêng khác hay chẳng riêng khác?

Đáp: Chẳng riêng khác, trên thể chân như tự có chiếu dụng, vì rõ nên được gọi là thấy. Vì chẳng động nên được gọi là tâm. Lại, tự tánh thanh tịnh nên gọi là chiếu, thường thấy tự tánh gọi là dụng. Nên biết tâm đây hiển lộ trước mắt, sao phải hỏi đáp. Đâu nhờ suy đến cùng, tức môn viên mãn, là thành biện pháp.

Lại như có người học hỏi Quốc sư Trung: Hòa thượng! Thế nào là tâm giải thoát?

Đáp: Tâm giải thoát xưa nay tự có, nhìn đó chẳng thấy, lắng đó chẳng nghe, nắm đó chẳng được. Chúng sinh sử dụng thường ngày mà chẳng biết, đó là tâm vậy. Đây mới chỉ ngay mục kích đạo còn, xưa nay thường vậy, Thánh phàm cùng có. Phàm chỗ ghi chép của Tông Kính đều là Phật nói, giả sử có Bồ-tát chế làm, Pháp sư giải thích, cũng là đạt ý Phật nói thuận chỗ Phật nói, vì chúng sinh cõi này đều do văn tuệ mà vào Tam-ma-địa, nên phải dùng âm thanh để làm Phật sự, hiển bày chánh nghĩa, phát trừ tà chấp. Chẳng phải nói chẳng thông. Đây có hai nghĩa: Một, căn cứ môn rốt ráo thì thật chẳng thể nói. Như trong luận Đại Thừa Khởi Tín nói: Tất cả các pháp từ xưa đến nay, lìa tướng nói phô, lìa tướng văn tự, lìa tướng tâm duyên.” Lại nói: “Lại nữa, cứu cánh lìa vọng chấp là, phải biết nhiễm pháp tịnh pháp thảy đều tương đối đãi nhau, không có tự tướng có thể nói, cho nên tất cả pháp từ xưa đến nay chẳng phải sắc chẳng phải tâm, chẳng phải trí chẳng phải thức chẳng phải có chẳng phải không, rốt ráo tướng không thể nói, mà có nói phô là phải biết Như Lai dùng phương tiện khéo léo, mượn dùng nói phô để dẫn dắt chúng sinh, được chỉ thú đây là đều lìa niệm về nơi chân như, vì niệm tất cả pháp khiến tâm sinh diệt, chẳng vào thật trí vậy”. Đây là dẫn dắt tất cả người mới đầu phát tâm Bồ-đề. Vả lại, khiến tự lợi lý hành thành tựu về nơi thật trí, cứu cánh chỉ về Tông Kính vậy. Hai, căn cứ môn phương tiện, là lợi tha hành, nên nói Đức Như Lai dùng phương tiện khéo léo, mượn dùng nói phô để dẫn dắt chúng sinh. Lại chẳng thể một hướng chấp mở lời là quấy, khởi niệm là lỗi. Tại sao? Vì tức lời không lời, tức niệm không niệm. Vậy biết lời lời khế đạo, niệm niệm về Tông, nếu môn phân biệt chẳng không hai thuyết, nếu môn rốt ráo thì nói nghĩ tuyệt vậy.

Hỏi: Như trên, lập yếu chỉ của một tâm, năng gồm vô lượng pháp môn, dung thông tất cả. Tâm đây là năng bao hàm tất cả pháp, năng sinh tất cả pháp. Vậy là tự sinh hay tha sinh hay cộng sinh hay không nhân sinh?

Đáp: Tâm đây chẳng dọc chẳng ngang, chẳng phải tha chẳng phải tự. Tại sao? Nếu nói tâm bao hàm tất cả pháp, tức là hoành. Nếu nói tâm sinh tất cả pháp tức là dọc. Nếu nói tự sinh, tâm chẳng sinh tâm. Nếu nói tha sinh, đã chẳng tự làm sao có tha, nếu nói cộng sinh, tự tha đã không lấy gì làm cộng, nếu nói không nhân sinh, có nhân còn chẳng sinh, huống gì không nhân ư?

Hỏi: Tâm chẳng phải bốn tánh, cớ sao trong giáo nói ý căn sinh ý thức. Tâm như người thợ vẽ, không gì chẳng từ tâm tạo, thì là tự sinh. Lại nói: Tâm chẳng cô khởi, hẳn nhờ duyên mà khởi, có duyên giúp sinh, không duyên tư chẳng sinh thì là tha sinh. Lại nói: Chỗ gọi là sáu xúc nhân duyên sinh sáu thọ được tất cả pháp thì là cộng sinh. Lại nói: Mười hai nhân duyên chẳng phải Phật trời người làm, tánh tự vậy thì không nhân sinh, đã thuộc văn giáo cớ sao thành lỗi?

Đáp: Chư Phật tùy duyên sai biệt, rũ vì các có sinh thiện phá ác khiến vào lý Đệ nhất nghĩa, đều là bốn tất-đàn phương tiện quyền thi, tay không lừa dối trẻ con, dẫn dụ độ tất cả.

Hỏi: Đã chẳng phải dọc ngang, chẳng rơi lạc bốn tánh thì tất cả pháp là tâm, tâm là tất cả pháp chăng?

Đáp: Đó thì thành hai.

Hỏi: Như vậy thì tất cả chẳng lập đều chẳng phải ư?

Đáp: Chẳng phải cũng thành hai.

Như Văn-thù nói: Con thật Văn-thù, không phải Văn-thù, nếu có phải là thì hai Văn-thù, nhưng ngày nay con chẳng phải không Văn-thù, trong đó thật không hai tướng phải quấy”.

Hỏi: Đã không hai tướng, tông một phải chăng? Đáp: Phải quấy đã trái đại chỉ, một hai trở lại trái với viên tông. Hỏi: Thế nào được khế hợp yếu chỉ đây?

Đáp: Cảnh trí đều mất, cớ sao nói khuynh hướng.

Hỏi: Như vậy thì tuyệt đường nói nghĩ, bặt lối tâm hành ư?

Đáp: Đây cũng cưỡng nói, tùy ý kẻ khác mà chuyển, tuy muốn ẩn hình mà chưa mất vết.

Hỏi: Thế nào là được hình vết đều mất?

Đáp: Vốn không điềm vết, cớ sao muốn mất.

Hỏi: Như vậy thì như người uống nước lạnh nóng tự biết. Phải lúc đại ngộ mới hợp yếu chỉ đây ư?

Đáp: Trong môn ta đây cũng không đạo lý mê ngộ, hợp cùng chẳng hợp, buông tay tự ông không một vật, luống nhọc khổ nói số cả ngàn ban. Sự đây muôn thứ so sánh chẳng thành, ngàn Thánh định chẳng được, đại địa chuyển chẳng dậy. Hư không bao trùm chẳng dung chẳng phải người đại khí thì không do đâu gánh vác, như các bậc cổ đức nói: “Khắp mười phương thế giới tìm một người làm bạn chẳng được”. Lại nói: “Chỉ có một người thừa kế Tổ vị, trọn không người thứ hai. Nếu chưa thân đến luống nhọc thần tư, ngay như nói huyền đó lại huyền, trong diệu càng diệu, nếu dùng phương tiện ở trong môn xưng dương, hỗ trợ người khác tin vào một thời nương tựa tán thán, tức chẳng vậy. Nếu ở trên phần tự mình lúc của thân chiếu chuyên làm nói huyền nói diệu, khởi một niệm giải thù thắng chẳng thể nghĩ bàn, đều lạc vào ma giới. Do đó trong kinh Viên Giác “Hư ngụy phù tâm, nhiều các khéo thấy chẳng năng thành tựu Viên giác”. Lại các bậc Tiên đức có kệ tụng nói:

“Được đó chẳng được thiên ma được
Huyền đó lại huyền ngoại đạo huyền
Bỏ ngay cha mẹ trong thôn cỏ
Nhận lá vàng khác làm tiền vàng.
Đầu sào trăm trượng mau buông tay,
Chẳng phải nhìn sau lại nhìn trước.”

Như nay chỉ tợ lời vết văn vẻ lúc sinh, đều là chấp môn phương tiện, mê đạo chân thật, đều là nhận lá vàng khác kêu làm tiền vàng. Nếu lúc đại ngộ, tợ đầu sào trăm trượng buông thân lại không phải trông nhìn trước sau. Trong Tông Kính đây, là xứ của tất cả phàm Thánh xả bỏ thân mạng, chẳng vào Tông Kính đều chẳng phải rốt ráo.

Hỏi: Rốt ráo thế nào?

Đáp: Cũng không rốt ráo.

Hỏi: Trước nói chẳng vào tông đây, đều chẳng phải rốt ráo.

Đây lại cớ sao gọi là không rốt ráo?

Đáp: Trước đối với người tăng thượng mạn, chưa được làm được, nhận hư vọng là, chân thật, chấp điên đảo làm viên thường, vì phá tình trần nên quyền xưng rốt ráo. Nay luận về thấy tánh, đâu nói hư thật ư?

Hỏi: Về sau của thông minh đây làm sao giẫm xéo?

Đáp: Dạy ai giẫm xéo?

Hỏi: Chẳng thành đoạn diệt chăng?

Đáp: Còn chẳng được thường trú, làm sao đoạn diệt.

Đáp: Xin nói một lời sau cùng!

Đáp: giáo hóa người.

Hỏi: Huyễn sĩ hang cốc vọng vang?

Đáp: Tiếng suối, muốn đạt tông chỉ tôi, trâu bùn đi trên nước.

Hỏi: Ghi chép đây bao quát sơ lược vi tế lý sự tròn sáng. Với người mộ đạo được giúp ích gì?

Đáp: Nếu trong Đệ nhất thì không lợi không công đức, căn cứ trong môn thế tục, tợ có ở khen ngợi, gồm có hai đường năng giúp hàng người mới học: Một, vì người chưa tin khiến thành tin chánh, gồm về một tâm, chẳng mong cầu bên ngoài; Hai, vì người đã tin, hỗ trợ thành quán lực, lý hành kiên cố chóng chủng Bồ-đề. Bước bước mà chẳng kẹt công trình bảo sở, niệm niệm mà chảy vào biển Tát-bà-nhã, tợ cưỡi xe rộng lớn, lập phường chí bảo, như ngồi thuyền bền chắc để lên bờ giác ngộ. Hỏi: Tập Tông Kính đây có công đức gì?

Đáp: Đây là pháp môn đại oai đức chẳng thể nghĩ bàn, chỉ có thấy nghe rất được thiện lợi, như một mảy trần rơi nơi bờ sườn của Tung nhạc đã mang bước mây giọt sương rơi nơi gợn sóng của biển cả bèn đồng đượm nhuần rộng. Có thể gọi là tiếp nói ngay chủng của Bồ-đề, toàn sinh ở nhà của chư Phật. Huống gì tin hiểu thọ trì chánh niệm quán sát, vì người bày diễn truyền bố thi hành, căn cứ môn thiện lợi, không pháp tỷ dụ, công đức vô tận, chẳng phải chủng trí mà năng cân lường, lợi lạc sao cùng, quá thái hư mà chẳng biết ngằn mé, dùng trân báu đầy cả hư không cúng dường hằng sa Như Lai, giáo hóa mười phương chúng sinh đều lên quả vị Bích-chi-phật. Như chưa hoằng tuyên yếu chỉ đây khai diễn tông này, lấy đây so sánh chẳng năng trù lường. Có thể gọi là gieo hạt giống Phật nơi trong thân ruộng chúng sinh, nẩy mầm chánh pháp ở trong bùn dục phiền não. Sau đó, hoa bảy báu nở, quả Bồ-đề thành, triển chuyển cùng sinh đến không ngằn mé. Như trong Hoa Nghiêm Thám Huyền Ký nói: “Ở trong Di pháp, thấy nghe tin hướng pháp vô tận đây, thành chủng tử Kim cang, hẳn sẽ được viên dung pháp khắp cùng, như trong kinh nói: Thí dụ nuốt uống Kim cang, thí dụ đóm lửa nhỏ thiêu đốt rộng lớn. Lại như Thiên tử Đâu-suất từ địa ngục ra được quả mười địa không sinh nhẫn. Triển chuyển lợi ích chẳng thể cùng tận, đều do xưa trước nghe pháp đây làm nhân gốc vậy.

Có kệ tụng nói:

“Tuy tại rơi biển lớn
Và trong lửa kiếp tận
Quyết định tin không nghi
Hẳn được nghe kinh đây”.

Trong luận Đại Trí Độ nói: “Thọ trì Bát-nhã, so sánh công đức, ở đó trì biên chánh nghĩ nhớ tối thắng. Nay như chư Phật xót thương chúng sinh nên vì giải nghĩa đó khiến dễ hiểu, thắng tự hành chánh nghĩ nhờ. Khi đó, Phật muốn phân biệt rộng về phước đức nên nói phô. Nếu có người suốt đời cúng dường mười phương chư Phật, chẳng bằng vì người khác giải nói nghĩa Bát-nhã. Trong đây nói nhân duyên ưu thắng, ba đời chư Phật đều học Bátnhã thành đạo Vô thượng, cho đến giáo hóa mọi người trong hằng sa thế giới, khiến được đạo Thanh văn, Bích-chi-phật. Chẳng như vì người khác mà diễn nói nghĩa Bát-nhã Ba-la-mật. Nói nhân duyên trong đây là các Hiền Thánh đều từ Bát-nhã Ba-la-mật ra. Như trong kinh Thủ-lăngnghiêm nói: “Phật dạy: A-nan! Nếu lại có người khắp cùng mười phương chỗ có hư không đều đầy khắp các thứ bảy báu mà đem cúng dường chư Phật số nhiều như vi trần, thừa sự cúng dường, tâm không luống qua. Ý ông nghĩ sao? Người đó do nhân duyên cúng thí Phật đây được phước ít hay nhiều? A-nan thưa: Hư không vô tận, trân báu vô biên. Xưa trước có chúng sinh cúng thí Phật chỉ bảy tiền, mà sau khi xả bỏ thân mạng còn được ngôi vị Chuyển luân vương. Huống gì hư không đã cùng cõi Phật đầy khắp, đều thí trân báu, suốt cùng kiếp nghĩ bàn còn chẳng năng kịp, phước đó làm sao lại có ngằn mé? Phật dạy: A-nan! Chư Phật Như Lai nói không hư vọng. Nếu lại có người thân tạo đủ bốn lớp mười Ba-la-di, chỉ trong nháy mắt tức trải qua phương này phương khác đến địa ngục A-tỳ. Cho đến cùng tận mười phương không gian, không đâu chẳng trải qua. Năng dùng một niệm đem pháp môn này ở trong đời sau mở bày cho người chưa học. Tội chướng người đó ứng niệm bèn tiêu diệt, biến chỗ nhân chịu khổ địa ngục đó thành nước An Lạc, được phước vượt quá người cúng thí nói trước kia gấp bội trăm lần ngàn lần ngàn muôn ức lần. Như vậy cho đến toán số thí dụ chỗ chẳng năng kịp. Do đó tán thán hoằng dương kinh điển đây thiện lợi vô biên”. Nghĩa là kinh Thủ-lăng-nghiêm lấy Như Lai tạng tâm làm tông. Như Lai tạng tức là thức A-lại-da thứ tám. Trong kinh Mật Nghiêm có kệ tụng nói:

“Như Lai tạng thanh tịnh
Thế gian A-lại-da
Như vàng cùng vòng tay
Triển chuyển không sai biệt.”

Vì như Phật rõ đó thành tạng thanh tịnh, dị sinh chấp đó làm A-lại-da. Như vàng thật, tùy duyên của tay thợ lò lửa, mà nêu tên khác của vòng tay, làm huyễn tướng của lớn nhỏ. Thể vàng chẳng động, danh tướng vọng bày. Thí như chân tâm tùy duyên của chúng sinh nhiễm tịnh mà Thành tên khác của Thánh phàm, hiện huyễn tướng của lên xuống, tâm tánh chẳng động, danh tướng vốn không, nhận giả danh mà hai kiến chợt phân, ngộ chân thể mà một tâm viên chứng. Mê ngộ tức ở ngay lời nói, pháp dụ rõ tại trước mắt, mê mờ đó thì nhiều kiếp mà lãng tu. Thấu đạt đó thì đương thể mà ngưng lặng. Trong kinh Pháp Hoa nói: “Sau khi ta diệt độ, năng riêng vì một người mà giải nói kinh Pháp Hoa, cho đến chỉ một câu, phải biết người đó là kẻ sứ của Như Lai, chỗ Như Lai sai khiến, làm việc của Như Lai, huống gì ở trong đại chúng mà rộng vì mọi người nói”. Riêng vì một người là riêng (Thiết) là tư vậy. Nếu đất tư chỉ vì một người nói một câu đây, người đây từ trong một tâm chân như sai đến làm kẻ sứ. Bảo cùng các hàng dị sinh, rõ ngay lý của một như tức là hành sự trong chân như. Vì chân như vô biên đến tất cả xứ vậy, thì chỗ được pháp lợi cũng tùy tánh của chân như vô lượng vô tận. Lại nói: “Phải biết người ấy cùng Như Lai chung ở, được Như Lai dùng tay xoa đầu đó. Cho đến vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai”. Tóm lại mà nói: Người trì kinh này trong bốn oai nghi cất chân đặt bước đều chẳng lìa một tâm chân như, hành xứ của chư Phật vậy.

Trong kinh Ương-quật-ma-la nói: “Nếu người ở quá khứ từng gặp chư Phật, cúng dường phụng sự nghe Như Lai tạng, ở trong khoảng khảy móng tay tạm được nghe thọ, duyên thiện nghiệp đó, các căn thuần thục, sinh nói thù thắng giàu sang tự tại, chúng sinh đó nay còn thuần thục, sinh nói thù thắng giàu sang tự tại, do xưa trước kia từng gặp chư Phật, tạm được lắng nghe Như Lai Tạng vậy. Cho đến, Phật dạy: Ương-quật-ma-la! Chẳng phải Như Lai làm việc khó đệ nhất, lại còn có việc khó. Ương-quật-ma-la! Thí như có kẻ sĩ phu mang vác núi chúa Tu-di và đại địa biển lớn trải trăm ngàn năm. Đó là đại lực khó đệ nhất ư? Ương-quật-ma-la thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Cảnh giới của Như Lai là chẳng phải chỗ các Thanh văn Duyên giác kia kịp. Phật bảo: Ương-quật-ma-la! Kia chẳng phải đại lực chẳng phải là rất khó, nếu đem mảy bụi biển lớn làm trăm ức phần, trăm ngàn ức kiếp mang một mảy trần đó đi, cho đến đem hết, còn lại như dấu chân trâu, lại năng mang vác núi chúa Tu-di, sông biển đại địa trải trăm ngàn kiếp, mà người kia chẳng năng ở nơi chánh pháp trú đời với thời gian hơn tám mươi năm, diễn nói tạng của Như Lai thường hằng chẳng biến, chỉ Bồ-tát là bậc tài hùng của trong loài người, năng nói tạng của Như Lai thường hằng chẳng biến, hộ trì chánh pháp, ta nói người ấy là rất khó thứ nhất”. Lại trong kinh Pháp Hoa phẩm Hiện Bảo Tháp nói: “Nếu hứng núi Tu-di ném đặt nơi phương khác qua vô số cõi Phật, cũng chưa lấy làm khó, nếu dùng một ngón chân đụng cả cõi Đại thiên ném xa đến nước khác cũng chưa lấy làm khó.” Lại nói: “Giả sử có người tay nắm hư không, dùng mà dạo đi cũng chưa lấy làm khó.” Lại nói: “Giả sử gặp kiếp thiêu, gánh mang các cỏ khô vào lửa chẳng bị cháy chưa lấy làm khó. Sau khi ta diệt độ, nếu thọ trì kinh này, vì người mà giải nói, đó mới thật là khó.” Nên biết tát cạn biển chuyển dời núi, chẳng phải lực của vô vi.

Giả sử đạp hư không, giẫm bước nước, đều là thông của hữu lậu, sao bằng mở tâm chư Phật, diễn bày Như Lai Tạng, tiếp nối hạt giống Bồ-đề vào môn một thừa, năng gá Thánh thai thành con Phật thật. Tại sao? Nghĩa là được gốc vậy, như từ nguồn ra nước nhân sữa được tô.

Lại, như trong kinh Ương-quật-ma-la nói: “Lại nữa, Văn-thù Sư-lợi! Như biết sữa có tô nên mới bèn xét cầu, mà chẳng xét nước, vì không tô vậy. Như vậy, Văn-thù Sư-lợi! Chúng sinh biết có Như Lai tạng nên tinh tấn trì giới tịnh tu phạm hạnh. Lại nữa, Văn-thù Sư-lợi! Như biết núi có vàng nên đục núi tìm vàng mà chẳng đục cây vì không vàng vậy. Như vậy, Văn-thù Sư-lợi! Chúng sinh biết có Như Lai tạng nên tinh tấn trì giới tịnh tu phạm hạnh, nói ta hẳn sẽ được thành Phật đạo. Lại nữa, Văn-thù Sư-lợi! Nếu không Như Lai tạng là không tu phạm hạnh, như trọn kiếp xét nước trọn chẳng được tô”. Nên biết vào trong Tông Kính thấy tánh Như Lai, đạo quả Bồ-đề ứng niệm đều thành, như thuyền xuống, tợ lửa được. Nếu trái với Tông kinh chẳng nhận biết tự tâm, giả sử phước trí đều tu trọn chẳng thành tựu, như cầu sữa mà xét nước, lìa núi mà đục vàng, dẫu trải qua ba A-tăng-kỳ đâu có lý được. Như chỗ ghi chép của Tông Kính văn từ trước sau đều là chỗ năm mắt của chư Phật quán, chỗ năm lời nói, không một lời nào mà chẳng chân thật, chẳng phải một nghĩ mà chẳng tròn, có thể đợi các vị Hậu hiền quyết định tin vào.

Như trong kinh Nguyệt Thượng có kệ tụng nói:

“Giả động núi Tu-di ngã đất,
Trú xứ Tu-la thảy đều diệt,
Biển lớn khô cạn trăng trời rơi,
Như Lai trọn chẳng nói lời vọng.
Giả sử mười phương chúng đồng tâm,
Hoặc lửa thành nước nước thành lửa,
Vô lượng công đức rất quý lớn,
Lợi ích chúng sinh không nói khác.
Đại địa hư không thành hỗn độn,
Trăm cõi đồng vào trong hạt cải,
Võng lưới dùng buộc gió mạnh được,
Như Lai trọn chẳng có nói vọng.”

Lấy thành thật đây có thể truyền trì khắp cùng, công đức vô biên, nói nghĩ chẳng kịp. Do đó, trong luận Duy Thức có kệ tụng nói:

“Làm luận Duy Thức đây Chỗ ta chẳng nghĩ lường Cảnh giới chư Phật diệu Phước đức thí quần sinh”.

Đại chỉ luận đây, chẳng phải chỗ nghĩ lường của tình thức hay biết, mới là cảnh giới tuyệt diệu chẳng thể nghĩ bàn của đấng đại giác. Do đây mà hoằng dương, phước đức vô tận chẳng thể nghĩ bàn, đều dùng thí khắp tất cả pháp giới vô lượng hàm sinh đồng vào tông đây, đều chứng quả Phật.

Pháp sư Tạng chủ sớ Hoa Nghiêm phát nguyện với kệ tụng:

“Thệ nguyện thấy nghe tu tập đây
Viên dung vô ngại pháp Phổ Hiền
Cho đến mất mạng trọn chẳng lìa
Cùng tận vị lai nguyện tương ưng
Do căn lánh đây đồng pháp tánh
Khắp nhuần vô tận chúng sinh giới
Một niệm nhiều kiếp tu hành khắp

Đều thành Bồ-đề Phật Vô thượng”.


[Đầu trang][Mục lục bộ Chư Tông][Mục lục tổng quát]