TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠP TẠNG

BỘ CHƯ TÔNG

SỐ 2023 - TRUY MÔN CẢNH HUẤN

MỤC LỤC

SỐ 2023 - TRUY MÔN CẢNH HUẤN

LỜI TỰA KHẮC LẠI BỘ TRUY MÔN CẢNH HUẤN

SA MÔN THÍCH THÂN THÂN Ở CHÙA BẢO QUANG-NÚI LÃM-KÍNH THUẬT

QUYỂN 1

THIỀN SƯ QUY SƠN ĐẠI VIÊN RĂN NHẮC

BÀI VĂN TÔN TĂNG CỦA THIỀN SƯ MINH GIÁO TUNG

PHÁP SƯ CÔ SƠN TRÍ VIÊN DẠY HỌC TRÒ

KHUYẾN HỌC BÀI THƯỢNG (VÀ LỜI TỰA)

KHUYẾN HỌC BÀI HẠ

VÂN PHÁP SƯ CHÙA CẢNH ĐỨC Ở CÔ TÔ KHUYÊN HỌC MƯỜI MÔN VÀ LỜI TỰA

I. KHÔNG TU HỌC, KHÔNG THỂ THÀNH

II. KHÔNG BẺ GẪY, THÌ KHÔNG THỂ HỌC

III. KHÔNG CHỌN THẦY, THÌ KHÔNG ĐƯỢC PHÁP.

IV. KHÔNG TỤNG TẬP, THÌ KHÔNG THỂ NHỚ

V. KHÔNG HỌC VIẾT, KHÔNG NHỜ ĐÂU ĐỂ TRUYỀN BÁ.

VI. KHÔNG HỌC THƠ, THÌ KHÔNG CÓ LỜI.

VII. KHÔNG XEM RỘNG, THÌ KHÔNG CHỖ Y CỨ

VIII. KHÔNG TRẢI VIỆC, THÌ KHÔNG THỂ BIẾT

IX. KHÔNG TÌM BẠN, KHÔNG NHỜ ĐÂU MÀ THÀNH

X. KHÔNG QUÁN TÂM, THÌ KHÔNG THỂ THÔNG SUỐT.

NGHI NGỒI THIỀN CỦA THIỀN SƯ PHẬT TÂM TÀI Ở THƯỢNG PHONG

NGHI NGỒI THIỀN CỦA THIỀN SƯ TỪ GIÁC TÔNG TRÁCH Ở TRƯƠNG LÔ

VĂN KHUYÊN THAM THIỀN

VĂN TỰ RĂN

QUYỂN 2

BÀI MINH NGỒI TIHỀN CỦA THIỀN SƯ PHẬT NHÃN VIỄN Ở CHÙA LONG MÔN

BA BÀI TỰ TỈNH XÉT

BÀI MINH NGỒI THIỀN CỦA THIỀN SƯ ĐẠI NGHĨA Ở ĐẤT NGA ĐỒ

LỜI DẠY CHÚNG CỦA THIỀN SƯ ĐÔNG LÂM HỖN DUNG Ở VÔ SƠN

BÀI TỰA SÁCH TỰ CẢNH LỤC CỦA PHÁP SƯ TÍN Ở CHÙA LẠM CỐC

BÀI VĂN NÓI VỀ VIỆC LÀM HỌ THÍCH KHÓ

LỜI RĂN CÁC TIỂU SƯ CỦA XỨNG PHÁP CHỦ CAO TĂNG ĐỜI LƯƠNG

HỮU NHAI NINH TĂNG LỤC KHUYÊN THÔNG NGOẠI HỌC

BÀI MINH KHẮC BÊN CẠNH CHỖ NGỒI CỦA THIỀN SƯ CHI ĐỘN-ĐỜI TẤN

BÀI I

BÀI II

BÀI III

BÀI IV

BÀI V

BÀI VI

BÀI VII

BÀI VIII

BÀI IX

BÀI RĂN NÓI VỀ XUẤT GIA CỦA PHÁP SƯ TỪ ÂN-ĐỜI ĐƯỜNG

LỜI KÝ Ở NHÀ TỈNH HÀNH CHÙA PHÁP LUÂN NÚI NAM NHẠC DO

BÀI MINH TỨC TÂM CỦA SA MÔN PHÁP SƯ VÔ DANH Ở VỊ TÂN, ĐỜI CHU

LỜI QUY GIỚI CỦA HÒA THƯỢNG ĐỘNG SƠN

BÀI THƠ VIẾT VÀO GIẢI ÁO CỦA TUÂN THỨC SÁM CHỦ-CHÙA TỪ VÂN

VĂN PHÁT NUYỆN

BÀI MINH KHẮC BÊN CHỖ NGỒI CỦA THIỀN SƯ KHUÊ PHONG TÔNG MẬT.

LỜI THỊ CHÚNG CỦA THIỀN SƯ BẠCH DƯƠNG THUẬN

LỜI RĂN CỦA THIỀN SƯ TRI GIÁC DIÊN THỌ CHÙA VĨNH MINH

TÁM CỬA TRÀN ĐẦY HƯƠNG VỊ GIẢI THOÁT CỦA PHẬT

BÀI VĂN NÓI VỀ CHÍNH DANH TỲ-KHEO CỦA LUẬT SƯ ĐẠI TRÍ CHIÊU

BÀI MINH VỀ DUYÊN

BÀI MINH KHẮC BÊN CHỖ NGỒI

LỜI BẠT VỀ QUY THẰNG

QUYỂN 3

LỜI KÝ NƠI NHÀ TĂNG THIỀN VIỆN VĨNH AN Ở PHỦ CHÂU DO CƯ SĨ VÔ TẬN SOẠN

ĐẠI SƯ THIỀN NGUYỆT ĐẠI ẨN QUY GIÁM

LUẬN CHUNG VỀ TAM GIÁO CỦA HỮU NHAI NINH TĂNG LỤC

PHÁP TRUYỀN THIỀN QUÁN

LỜI KÝ NƠI NHÀ CHỌN PHẬT Ở THIỀN VIỆN BẢO PHONG, ĐẤT HỒNG CHÂU

BÀI MINH NÓI VỀ TÍN TÂM CỦA TAM TỔ THIỀN SƯ GIÁM TRÍ

BA PHÁP HỌC GIỚI ĐỊNH TUỆ

GIỚI CHỈ CÓ PHẬT CHẾ NGƯỜI KHÁC KHÔNG ĐƯỢC CHẾ

TÓM LƯỢC CÁC VĂN ĐỂ KHEN NGỢI GIỚI PHÁP

KHI CÒN PHẬT TẠI THẾ CHỈ MỞ RỘNG GIỚI PHÁP

TRÌNH BÀY SỰ RỘNG HẸP CỦA GIỚI TƯỚNG TĂNG NI BỘ SỰ-SAO CHÉP

Ý NGHĨA CỦA VIỆC ĐỘ NI:

PHÁP BÁT KỈNH CỦA NI

XUẤT GIA SIÊU THẾ

NĂM ĐỨC CỦA SA DI:

TRÍCH DẪN TRÌNH BÀY CÔNG NĂNG CỦA CA-SA

ĐẠI GIÁO CẤM HẲN VIỆC DÙNG TƠ TẰM VÀ DA THÚ

NÊU RA VIỆC HIỆN TẠI ĐỂ BÁC BỎ HÀNH ĐỘNG CÀN QUẤY

CHỈ BÀY THỂ TÀI Y ĐỂ BIẾT ĐÚNG SAI

DẠY PHÁP KÍNH GIỮ BA Y, BÌNH BÁT VÀ TỌA CỤ

CHỈ RÕ BẢN DUYÊN KHAI CHẾ

Ý NGHĨA CHẾ RA BÌNH BÁT

Ý NGHĨA LÀM RA TỌA CỤ

QUYỂN 4

Ý NGHĨA VỀ ĐÃY LƯỢT NƯỚC

DẪN VIỆC THUYẾT TỊNH CỦA ĐẠI GIÁO ĐỂ BÁC BỎ VIỆC Ỷ LẠI

TÁM THỨ TÀI SẢN BẤT TỊNH, NUÔI LỚN LÒNG THAM, TỔN HOẠI ĐẠO NGHIỆP.

KHUYÊN NGƯỜI MỞ RỘNG LÒNG TÙY THUẬN LỢI GIÚP SÁU ĐƯỜNG

LUẬT DẠY VIỆC HỌC NGOẠI ĐIỂN VÌ CÓ PHƯƠNG HẠI ĐẾN CHÁNH NGHIỆP (TU HỌC PHẬT)

GIẢI HẠNH KHÔNG THẬT LẠI XEM THƯỜNG GIỚI LUẬT

KHỞI TÂM QUY KÍNH TAM BẢO

LỢI ÍCH CẦU QUY Y TAM BẢO

TRÌNH BÀY DANH TƯỚNG TAM BẢO.

TAM BẢO TRỤ TRÌ HOÀN TOÀN DO GIỚI PHÁP

NÓI VỀ CÔNG ĐỨC CAO RỘNG CỦA TAM BẢO QUY Y SẼ ĐƯỢC LỢI ÍCH LỚN

TRỤ TRÌ TAM BẢO

HÓA TƯỚNG TAM BẢO

VĂN KHEN NGỢI TAM BẢO CỦA HOÀNG ĐẾ NHÂN TÔNG

VĂN HỒI HƯỚNG XEM KINH CỦA THIỀN SƯ ĐẠI TUỆ

PHÁP NGỮ CỦA HÒA THƯỢNG LẠI AM XU

BÀI KỆ BỐN CÂU

DẠY THẦY TỲ-KHEO HÃY XÉT ĐỨC HẠNH MÌNH MÀ THỌ THỰC

DẠY THẦY TỲ-KHEO HÃY CẨN THẬN CHỚ BUÔNG LUNG

BỒ-TÁT CÓ BA VIỆC KHÔNG NHÀM CHÁN

GIỚI-ĐỊNH-TUỆ

LỜI VĂN PHẢI XÉT PHÁP CÚNG DƯỜNG BỐN THỨ CẦN DÙNG CỦA ĐÀN-VIỆT TỪ KHỔ DUYÊN SINH RA

DẠY PHẢI QUÁN XÉT PHÁP SO LƯỜNG TÂM HẠNH TRONG THỜI MẠT PHÁP

RĂN CÁC QUÁN TĂNG NI PHÁ GIỚI KHÔNG TU PHÁP XUẤT THẾ

RĂN VỀ SÁU NẠN, TỰ MỪNG TU ĐẠO.

VĂN CẦU NGUYỆN BỒ-TÁT QUÁN THẾ ÂM CỦA LUẬN SƯ GIỚI HIỀN

VĂN PHÁT NGUYỆN CỦA THIỀN SƯ VĨNH GIA CHÂN GIÁC

VĂN LẠY KINH HOA NGHIÊM CỦA THIỀN SƯ TOẠI Ở NÚI ĐẠI HỒNG, TÙY CHÂU

BÀI MINH QUÁN TÂM CỦA PHÁP SƯ TRẠCH ANH CHÙA ĐỒNG GIANG

QUYỂN 5

BÀI TỰA NÓI VỀ CHỦ KHÁCH CỦA TUYÊN LUẬT SƯ-NÚI CHUNG NAM

BÀI VĂN ĐƯA TIỄN ĐỒ ĐỆ ĐI HÀNH CƯỚC CỦA THIỀN SƯ DIỄN-CHÙA ĐÔNG SƠN

THIỀN SƯ CỦNG Ở THẠCH THẤT TIỄN THỊ GIẢ KHÁNH VỀ QUÊ THĂM THẦY

BUỔI TIỂU THAM KẾT CHẾ

LỜI DẠY CỦA THIỀN SƯ CỦNG NHÂN BUỔI THƯỢNG ĐƯỜNG

HÒA THƯỢNG TRUNG PHONG RĂN NHẮC HỌC TRÒ

RĂN NHẮC SỰ NHÀN RỖI

LỜI DẠY CHÚNG CỦA THIỀN SƯ THIÊN NHAM TRƯỜNG

THIỀN SƯ THIÊN Y NGHĨA HOÀI Ở TRONG THẤT HỎI NGƯỜI HỌC ĐỀ “TỊNH ĐỘ”

LUẬT SƯ ĐẠI TRÍ CẢNH TỈNH NHỮNG KẺ TỰ ĐÀNG CHỊU TRONG CẢNH LẦM THAN

THIỀN SƯ VĨNH MINH DIÊN THỌ RĂN NGƯỜI CHƯA CHỨNG NGỘ ĐỪNG KHINH TỊNH ĐỘ

BÀI GIẢI THÍCH VỀ BA Y CỦA TỪ VÂN TUÂN THỨC SÁM CHỦ.

QUYỂN 6

VĂN QUY KÍNH CỦA THIỀN SƯ TỪ GIÁC TÔNG TRÁCH Ở CHÙA TRƯỜNG LƯ

BÀI CHÂM QUY DẠY CHÚNG CỦA THIỀN SƯ TỪ THỤ

LỜI GIA HUẤN CỦA HÒA THƯỢNG TIẾU ÔNG

LỜI TIỂU THAM CỦA THIỀN SƯ TỬ TÂM NGỘ TÂN Ở CHÙA HOÀNG LONG

QUYỂN 7

THIỀN SƯ PHÙ DUNG ĐẠO GIAI TIỂU THAM.

PHẠM THỤC CÔNG ĐƯA TIỄN THIỀN SƯ VIÊN NGỘ HÀNH CƯỚC

LỜI TỰA THÍCH MÔN ĐĂNG KHOA KÝ:

TRẦN ĐỀ HÌNH QUÝ KHIÊM ĐÁP CHÂN THỊ LANG ĐỨC TÚ

QUYỂN 8

THIỀN SƯ TỪ THỌ RĂN DẠY NHỮNG NGƯỜI ĐỒNG HẠNH

CÁCH TỤNG KINH QUÁN TÂM CỦA ĐẠI SƯ THIÊN THAI TRÍ GIẢ.

PHÁP QUÁN TÂM THỰC.

BÀI PHÚ VỀ BÁT SẮT

BÀI PHÚ NÓI VỀ TỌA CỤ

ĐÃY LỌC NƯỚC.

BÀI PHÚ VỀ TÍCH TRƯỢNG

VĂN RĂN VỀ VO GẠO CỦA THIỀN SƯ TÔNG TRÁCH.

QUYỂN 9

SẮC VĂN CỦA HOÀNG ĐẾ CAO TỔ ĐỜI TÙY.

THƯỢNG ĐƯỜNG

KHUYÊN ỨNG DUYÊN

KHUYÊN TRỤ TRÌ

BÀI TỰ RĂN CỦA HÒA THƯỢNG ĐỖNG SƠN.

BÀI TỤNG CỦA BÀNG CƯ SĨ

BÀI MINH TỰ BẢO VỆ DO VÔ TÁC Ở CÔ TÔ SOẠN

PHÁP SƯ PHẬT QUANG CHIẾU Ở THƯỢNG TRÚC DẠY TIỂU SƯ CHÁNH NGỘ

THIỀN SƯ KHUÊ PHONG DẠY BẢO NHỮNG KHÚC MẮC CHO HỌC TRÒ

CÁCH THỨC KHI VÀO NHÀ XÍ

LỜI DẠY CỦA LUẬT SƯ ĐẠI TRÍ KHI VÀO NHÀ XÍ

QUYỂN 10

KỆ KHEN NGỢI SỰ TRUYỀN PHÁP CỦA PHẬT

BÀI TỰA TRƯỚC CỦA THIỀN LÂM DIỆU KÝ

BÀI KỆ KHEN NGỢI ĐỨC PHẬT PHẤT SA.

TRUYỆN HÁN HIỂN TÔNG KHAI PHẬT HÓA PHÁP BỔN NỘI.

THƯỢNG THÁI TỂ HỎI KHỔNG TỬ VỀ BẬC THÁNH.

BÀI KÝ VỀ VIỆC MỚI XÂY PHÁP ĐƯỜNG CỦA THIỀN VIỆN VĨNH AN Ở PHỦ CHÂU DO CƯ SĨ VÔ TẬN SOẠN.

TỐNG VĂN ĐẾ TẬP HỌP CÁC QUAN TỂ PHỤ BÀN LUẬN VỀ PHẬT GIÁO

GIAO TỰ CHÍ TRONG SÁCH HẬU HÁN

BÀI VĂN HỒI HƯỚNG KHI QUÉT ĐẤT CỦA THIỀN SƯ THỦ NHẤT PHÁP CHÂN CHÙA TỊNH TỪ Ở HÀNG CHÂU

BÀI KÝ VỀ THẬP PHƯƠNG THIỀN VIỆN CỦA CHÙA LINH PHONG NÚI ĐẠI HỒNG Ở TÙY CHÂU

BÀI CA VỀ NGHE TỤNG KINH PHÁP HOA CỦA PHÁP SƯ TU NHÃ ĐỜI ĐƯỜNG

CHIẾU LƯƠNG HOÀNG BỎ ĐẠO GIÁO THỜ PHẬT


LỜI TỰA KHẮC LẠI BỘ TRUY MÔN CẢNH HUẤN

Một tánh tròn sáng mọi người sẵn có, dứt bỏ vọng niệm, thoát khỏi luân hồi. Cho nên đức Như Lai lòng thượng rộng giúp, cứu vớt kẻ đắm đuối nơi sông mê, bày ra nhiều sa-môn phương tiện khác nhau để họ sửa đổi những hành vi dở xấu, hầu trở về tánh cũ. Nhưng nhất định phải là bậc Chí giả mới đạt đến được, còn kẻ Khí giả là sao? Vì không thể dùng Chí để cai quản Khí nên thường bị chìm sâu trong chỗ lỗi lầm mà không biết trở lại. Bởi thế, các bậc (có căn khí) Đại thừa Bồ-tát, nương theo bản nguyện độ sinh mà xoay bánh xe pháp không ngừng, đem chánh pháp nhãn tạng ra độ đời. Đôi khi vì những kẻ hung hăng mà dùng roi vọt, lúc nóng giận phải đánh quát, có khi không dằn được thì nổi trận lôi đình, chẳng qua là muốn nung nấu, hun đúc, cất nhắc cho hành giả thấu suốt được chân lý, cho đến hoặc dùng pháp ngữ, mở buổi Tiểu tham, bày lời dạy chúng, viết văn răn nhắc, nói lời chỉ dạy, lập bài Châm minh để khích lệ hành giả. Có khi phải dùng roi vọt để mở mang, hoặc lấy lời khen thưởng để tiến cử hoặc dùng sự hóa đạo để dắt dẫn.

Ôi! Nguyện hoằng pháp sâu nặng, thương chúng sinh tình sâu. Vì thế bộ Truy Môn Cảnh Huấn này, gom nhặt những lời dạy của các bậc tiên triết mà viết thành sách, thiết tưởng công lao ấy đâu có luống uổng! Sách này ví như vầng mặt trời chói lọi giữa bầu trời, khiến mọi người đều cảm nhận được ánh sáng ấy. Còn những ai bị màng mọng che mờ đôi mắt, quấy sinh đều ngờ vực trong lòng, đó là tự họ sai lầm phủ nhận những lời công luận của đấng Kim Luân Thế Chúa; phủ nhận những bài kệ tán của các bậc Tiên triết Nho tông. Hoặc giả họ cho rằng chân lý phải là trực chỉ đơn truyền, quét sạch văn tự, hễ chỗ nào có lập lời dạy là trái với tông chỉ. Nếu ai còn quan niệm sai lầm như thế thì tôi xin nói với họ rằng: Cơ thần nhanh nhẹn như điện chớp, lửa đá, thường giết hại hoặc buông bắt, không hề trải qua công dụng. Đó là pháp môn để đối trị với người thượng căn chứ những người bậc trung và hạ không thể ghé mắt. Các vị hãy nhớ cho rằng trong pháp giới ở kinh Hoa Nghiêm có dạy: rốt cuộc cũng lấy cái sự sự vô ngại pháp giới không bỏ một pháp cũng rất thích hợp, há cho rằng: Lý ngộ thì một việc mà tu thì vô cùng. Nói lên pháp môn phương tiện để thích nghi với mọi căn cơ, người ứng dụng tất nhiên phải y cứ theo khuôn phép đó.

Niên hiệu Gia Hòa có người ở Cẩn Thiền đem sách này ra khắc bản lưu hành, muốn giúp cho mọi người do lời nói mà thấy được việc làm; do việc làm mà thấy được chân lý; Từ chân lý mà thấy được tâm mình; do tâm mình mà thấy được bản tánh, để trở lại bản tánh sẵn có tự nhiên của trời phú.

Vả chăng, do ngón tay mà thấy được mặt trăng, cũng do khi đã thấy được mặt trăng thì hãy quên đi ngón tay. Ngón tay và mặt trăng cũng phải quên đi và phải quên luôn cái quên kia nữa. Cùng xuất xứ một chỗ chỉ khác tên gọi mà thôi. Đây chính là lời nói thừa của việc sự lý dung hợp nhau có không dứt đối đãi; Tâm, Phật và chúng sinh ba pháp không khác nhau. Đã được như thế, thì sao còn có lời răn dạy này? Thì sao còn có lời răn dạy này?

Sa-môn Không Cốc hiệu Cảnh Long ở núi Thanh Bình, đất Vũ Lâm soạn lời tựa này vào ngày mồng một tháng ba mùa Xuân năm Canh Dần, nhằm niên hiệu Thành Hóa năm thứ sáu.

SA MÔN THÍCH THÂN THÂN Ở CHÙA BẢO QUANG-NÚI LÃM-KÍNH THUẬT

Sách này gọi là Truy Môn Cảnh Huấn, đây là một tác phẩm do công phu sâu xa nhiều đời của các bậc Cao tăng chân Tổ khác nhau biên soạn. Nội dung toàn sách nói lên sức học sâu rộng. Với lời lẽ ngắn gọn, câu văn giản dị mà nghĩa lý thì cùng khắp, có đủ kiến thức của bậc Đại Chánh nhãn, vì lòng thiết tha ăn dạy chúng, đưa về cội nguồn. Thiền sư Trí Húc nói, bộ sách này đã thất lạc tên người biên tập, chỉ biết vào niên hiệu Gia Hòa có Ngài Cấn Thiền khắc bản lưu hành vào niên hiệu Thành Hóa năm thứ sáu, đời Minh, nhằm tháng ba mùa Xuân năm Canh Dần, Sa-môn Không Cốc hiệu Cảnh Long ở núi Thanh Bình, đất Vũ Lâm soạn lời tựa. Sách Truy Môn Cảnh Huấn này ở nước Việt ta chưa được truyền bá, có phải các Điều Chương vi tế còn đợi các bậc Thiện tri thức có con mắt nhìn suốt mới dạy bảo được chăng. Nay có ngài Hải Kiên ở xã Tử Dương, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, tỉnh Sơn Nam là người đã vâng mệnh vua, ở hầu nơi nội đàn được ban chức Tăng phò; lại là đồng tử xuất gia, về nương với Tuệ Giác Sa-môn Thượng Chánh Tông là Thiền sư Thích Lăng Lăng. Sau khi khai sơn chốn Tổ xong, Ngài liền phó chúc cho đệ tử về trụ trì chùa Linh Sơn Bảo ở phường An Xá, huyện Thọ Xương, phủ Phụng Thiên, Kinh đô, tiếp tục việc tu bổ mở mang và xây thêm nhà Đại am để phụng thờ các Tổ. Đến năm Tân Mão, tôi được bổn sư chỉ dạy, bảo khác bản bộ Truy Môn Cảnh Huấn này để Pháp bảo lưu thông vô tận, tôi liền vâng mệnh làm việc này. Bởi thế mới gắng công tìm kiếm bản xưa để tiện việc tra cứu. May gặp được bạn hữu ở núi Lãm là người đã lâu tìm chân lý ở chùa Bảo Khánh nên mới được thỉnh vấn ở ngài Thịnh Sư. Được các vị Tôn Đức ở chùa Ba Sao tin khen lòng tốt mà tặng cho tập sách này. Được sách trong tay lòng mừng khôn xiết, xin nguyện dùng tâm vô ngại ra gánh vác việc khắc bản, nhờ thần linh giúp đỡ, lại được kẻ tàng người tục, kẻ quan người dân chung sức làm việc ấn hành Pháp thí lưu thông. Ngõ hầu cho đời sau xem thấu đến trí tuệ lợi sinh và hiểu được tâm tư ẩn chứa của các bậc Cao nhân Thượng sĩ. Các Ngài đã ứng sắc tướng nơi Niết-bàn, hiển Pháp thân luôn thường trụ. Cho dù có các cơ duyên phải đánh hét học trò, cũng đều là muốn mở bày gan ruột của các Ngài buông tay trên dốc thẳm, chỉ Tán thư ở Huyền Nhai, ngộ Huyền cơ nơi Khiết thóc. Gọt mài đào thải sạch hết không còn, để tóm thâu một lý về Thiền tông, rộng độ ngàn loài nơi đàn tín. Vì thế, khi mười quyển biên tập hoàn thành, rất được năm nhà kính trọng.

Và mãi đến nhiều đời về sau, nhờ đây mà con cháu hiểu được tâm lý của bậc Hiền Triết thuở xưa, hầu gánh vác những di văn ẩn chứa, rộng mở các hoài bão, đạt thức ăn bốn lợi, hoàn toàn nhờ vào sách này lưu danh chép rộng. Mong sao cho túc duyên khắp xa để lưu truyền, nhiều kiếp chu toàn nơi Pháp bảo.

Ngày Cốc Vũ, mùa hạ năm Ất Mùi, triều Lê Cảnh Hưng, năm thứ 36.-------------------------------

QUYỂN 1

THIỀN SƯ QUY SƠN ĐẠI VIÊN RĂN NHẮC

Nghiệp ràng buộc nên thọ thân, chưa khỏi hệ lụy của thân, nhận di thể của cha mẹ, nhờ các duyên mà chung thành, tuy là bốn đại giữ gìn nhau nhưng thường chống trái nhau. Vô thường, già bệnh không hẹn với người, sớm còn tối mất, giây lát đã qua đời khác. Thí như sương xuân mới sớm, chợt có rồi không, cây bờ miệng giếng đâu được lâu dài, miệng niệm mau chóng, trong khoảng sátna, thở ra không thở vào tức là đời sau, sao lại an nhiên để cho thời gian luống qua. Không dâng thức ngon ngọt cho mẹ cha, vốn chia lìa sáu thân, không thể an nước trị dân, việc nhà xả bỏ không ai kế thừa. Xa lìa hàng xóm, cạo tóc theo thầy, trong siêng công phu khắc niệm, ngoài mở rộng đức không tranh cãi, xa hẳn trần thế, mong ngày ra khỏi.

Vì sao mới vừa thọ giới liền xưng mình là Tỳ-kheo, đàn-việt dâng cúng, ăn dùng của thường trụ, không nghĩ từ đâu đem đến, cho rằng đúng pháp phải như thế. Ăn rồi chụm đầu tán gẫu, chỉ nói chuyện tạp thế gian. Cho nên, một bề chạy theo cái vui, không biết vui là nhân khổ, nhiều kiếp theo trần, không hề tỉnh lại, thời giờ luống qua, năm tháng dần dà, thọ dụng dồi dào, cúng dường nồng hậu, trải qua nhiều năm không nghĩ lìa bỏ, chứa nhóm càng nhiều, giữ gìn thân huyễn. Bậc Đạo sư có dạy, khuyên răn Tỳ-kheo, tiến đạo nghiêm thân, ba thứ thường không đủ, con người thường tham luyến ba thứ này không thôi, ngày qua tháng lại chợt đã bạc đầu. Kẻ hậu học chưa nghe chỉ thú, phải nên thưa hỏi bậc tiên tri, e cho sự nghiệp xuất gia chỉ là cơm áo. Phật trước chế luật là mở sáng cho người, phép tắc oai nghi trong sạch như băng tuyết, chỉ trì tác pháp bó buộc sơ tâm, điều chương nhỏ nhiệm sửa đổi các lỗi lầm. Nơi giảng tỳ-ni chưa từng đến học thì liễu nghĩa thượng thừa làm sao phân biệt? Đáng tiếc một đời trôi qua luống uổng, về sau hối hận không kịp. Giáo lý chưa từng để lòng, đạo huyền không do đâu khế ngộ. Đến lúc tuổi cao hạ lớn, bụng rỗng tâm cao, không chịu gần gũi bạn lành, chỉ biết cao ngạo, chưa hiểu pháp luật, hoàn toàn không thúc liễm, hoặc lớn tiếng la lối, nói năng vô độ, không kính Thượng Trung Hạ toạ, chẳng khác Bà-la-môn nhóm họp, khua chén bát rổn rảng, ăn xong dậy trước, trái với phép tắc, hoàn toàn không có tăng thể, đi đứng thô tháo làm động tâm niệm người, không còn mảy may phép tắc, chút chút oai nghi, lấy gì chỉ dạy con em, người học sao chẳng biết bắt chước ai. Vừa bị nhắc nhở, liền nói mình là vị tăng ở núi nên chưa nghe lời Phật dạy hành trì, một bề tâm còn thô tháo. Sự thấy biết như thế là do sơ tâm lười biếng, lần lựa qua ngày, mặc tình nhân gian, nên thành quê kệch. Bất giác già nua lụm cụm, gặp việc không giải quyết được, người học sau thưa hỏi chẳng biết lấy gì chỉ dạy, dù có chỉ dạy cũng không hợp với kinh điển, nếu bị coi thường liền trách nhỏ mà vô lễ, tâm tức giận bùng lên, lời nói lấn át người.

Một khi nằm trên giường bệnh, các khổ vây quanh ép ngặt, sớm chiều suy nghĩ, trong tâm bàng hoàng, đường trước mịt mờ, chưa biết về đâu. Bấy giờ mới biết hối lỗi, đến lúc khát mới đào giếng thì đâu kịp, tiếc rằng mình không chuẩn bị tu hành từ trước, tuổi già quá nhiều lầm lỗi, lúc sắp qua đời thì tâm bất loạn, kinh hoàng sợ hãi, lồng mở chim bay, thức tâm theo nghiệp, như người thiếu nợ, chủ nợ nào mạnh thì lôi được. Tơ lòng nhiều mối, chỗ nào nặng thì nghiêng về. Quỷ vô thường giết người, niệm niệm không dừng, mạng sống không thể kéo dài, thời gian không thể chờ đợi được, trời người ba cõi đều chưa thoát khỏi, thọ thân như thế chẳng kể kiếp số. Cảm thương than thở, rất đỗi thương thay, đâu thể im lặng, nên răn nhắc nhau. Chỉ tiếc là cùng sinh vào cuối thời tượng pháp, thời kỳ cách Phật đã xa, Phật pháp hoang sơ, người thường biếng nhác. Lược trình bày chỗ thấy nhỏ hẹp của mình để dắt dẫn kẻ hậu lai, nếu không đáng vất bỏ thì thật khó thay đổi.

Xuất gia là cất bước về phương trời cao vượt, thân tâm khác tục, nối tiếp làm hưng thạnh hạt giống của bậc Thánh, nhiếp phục ma quân, để đáp bốn ân, cứu giúp ba cõi. Nếu không như thế thì chỉ lạm vào hàng ngũ Tăng chúng, lời nói hành vi thô tục, luống dùng của tín thí. Nhiều năm mà việc làm một bước cũng không dời, hoảng hốt một đời, lấy gì nương cậy, huống chi đường đường tăng tướng, dung mạo dễ nhìn, đều do đời trước có gieo trồng gốc lành nên chiêu cảm quả báo tốt đẹp như thế này, sao lại an nhiên khoanh tay, không quý thời giờ, sự nghiệp không siêng năng, công quả không do đâu thành tựu. Há có thể một đời luống qua, sự nghiệp đời tương lai cũng không chỗ nương tựa. Từ giã cha mẹ quyết chí xuất gia, ý muốn vượt đến phương trời nào kia, sớm tối suy nghĩ, đâu thể kéo dài qua buổi. Tâm mong làm rường cột của Phật pháp, để làm gương soi cho đời sau, thường được như thế còn chưa thể có chút phần tương ưng. Lời nói ra phải hợp với kinh điển, bàn luận phải y cứ vào sách xưa. Hình dung đỉnh đặc, ý khí cao nhàn. Đi xa phải nhờ bạn lành, thường làm trong sạch tai mắt mình. Trong cuộc sống cần phải chọn bạn để thường được nghe những điều chưa nghe, cho nên nói: người sinh ra ta là cha mẹ, còn người thành tựu cho ta là bạn lành. Gần gũi người lành như đi trong sương móc, tuy không ước áo nhưng dần dần thấm nhuần. Gần gũi người ác làm tăng thêm ác tri kiến, sớm tối làm ác, quả báo ngay trước mắt, về sau đắm chìm. Hễ mất thân người thì muôn kiếp khó được lại, lời nói thật thì khó nghe, há không ghi khắc vào tâm hay sao? Phải rửa tâm gội đức, mai danh ẩn tích, tôi luyện tinh thần, dứt bặt ồn náo.

Nếu muốn tham thiền học đạo, vượt qua cửa phương tiện, tâm khế hợp bến huyền, nghiên cứu căn cơ mầu nhiệm, quyết dọn pháp sâu kín, khơi ngộ nguồn chân, thưa hỏi bậc tiên tri, gần gũi bạn lành. Tông này khó được chỗ nhiệm mầu của nó, phải dè dặt dụng tâm cẩn thận. Khi đã đốn ngộ được chánh nhân thì chính là thềm thang để ra khỏi trần lao. Đó là phá ba cõi, hai mươi lăm hữu, các pháp trong ngoài đều biết không thật. Từ tâm biển khởi đều là giả danh, không cần đem tâm trở về, chỉ cần tình không phụ vật, vật đâu ngại người. Nhậm vận pháp tánh cùng khắp, không dứt không nối. Nghe tiếng thấy sắc là việc bình thường, bên kia bên này ứng dụng không thiếu. Oai nghi như thế thật không uổng mặc pháp phục, cũng là đền đáp bốn ân, cứu giúp ba cõi, đời đời nếu không lui sụt, thềm Phật chắc chắn bước lên, làm người khách qua lại trong ba cõi, sống chết đều làm phép tắc cho người. Cho nên pháp học này là nhiệm mầu nhất, cao siêu nhất, chỉ cần tâm khẳng định, hẳn không lừa dối nhau. Nếu có bậc trung lưu chưa thể đốn siêu thì nên để tâm vào giáo pháp, ôn tầm kinh Phật, nghiên cứu nghĩa lý, truyền bá phô bày, dắt dẫn hậu lai, đền ân đức Phật. Thời gian cũng chẳng luống uổng, cần phải lấy đó mà giữ gìn, trong mọi cử chỉ oai nghi đều là pháp khí trong tăng. Há không thấy dây sắn leo trên cây tùng mà vượt cao ngàn tầm, nương gá vào nhân tốt mới có lợi ích rộng lớn. Tha thiết tu hành trai giới, chớ xem thường mà vượt qua. Đời đời kiếp kiếp nhân quả tốt đẹp. Không thể lơ láo qua ngày, lần lựa qua buổi. Phải tiếc thời giờ, nếu không cầu tiến lên thì luống tiêu của tín thí mười phương. Cũng là cô phụ bốn ân, chứa nhóm càng sâu, tâm trần dễ lấp, gặp việc không giải quyết được, bị người xem thường. Người xưa nói: Kia đã là trượng phu thì ta đây cũng như vậy, không nên tự xem thường mình mà lui sụt. Nếu không như thế thì xuất gia luống uổng, lơ láo một đời, không được lợi ích gì. Vậy mong khởi chí mạnh mẽ, mở ra hoài bão đặc biệt, trong mọi việc làm đều nhìn các bậc thượng lưu khác, chớ theo những kẻ dung tục tầm thường. Đời nay cần phải quyết định, lo liệu không do người khác, dứt ý quên duyên, không xúc đối với các trần, tâm không cảnh lặng, chỉ vì trệ ngại lâu ngày không thông. Xem kỹ văn này thường răn nhắc. Gượng làm chủ tể, chớ theo nhân tình, nghiệp quả kéo lôi thật khó trốn tránh. Âm thanh hòa khí tiếng thuận, hình thẳng thì bóng ngay, nhân quả rõ ràng, há không lo sợ hay sao? Cho nên kinh nói: Dù trăm ngàn kiếp, nghiệp đã gieo không mất, khi nhân duyên gặp nhau thì phải chịu quả báo. Cho nên biết trong ba cõi hình phạt trói buộc giết người, hãy cố gắng siêng tu, chớ để ngày tháng luống qua. Biết rõ tội lỗi nên mới khuyên nhau hành trì, nguyện trăm kiếp ngàn đời nơi nào cũng đồng là bạn pháp. Bèn làm bài minh rằng:

Thân huyễn nhà mộng, vẫy sắc trong không
Mé trước vô cùng, mé sau đâu biết.
Sống đây chết kia, lên xuống mệt nhọc
Chưa khỏi ba luân, lúc nào thôi dứt
Tham luyến thế gian, ấm duyên thành chất
Từ sinh đến già, chẳng được điều gì
Vô minh căn bản do đây mê hoặc
Nên tiếc thời giờ, sát-na chẳng lường
Đời này qua suông, đời sau bít lấp
Từ mê đến mê, đều do sáu giặc
Sáu đường qua lại, ba cõi xuống lên
Sớm hỏi minh sư, gần gũi cao đức
Quyết chọn thân tâm, loại bỏ gai gốc
Thế gian phù hư, duyên đâu ép ngặt
Nghiên cứu pháp lý, ngộ là phép tắc
Tâm cảnh đều quên, chớ ghi chớ nhớ
Sáu căn an nhiên, đi đứng vắng lặng
Một tâm không sinh, muôn pháp đều dứt.

BÀI VĂN TÔN TĂNG CỦA THIỀN SƯ MINH GIÁO TUNG

Kinh dạy phải tôn trọng Chư Tăng, vì sao? Vì tăng là người lấy Phật làm tánh, lấy Như Lai làm nhà, lấy pháp giới làm thân, lấy trí tuệ làm mạng sống, lấy thiền duyệt làm thức ăn. Cho nên không cậy vào thế tục, không làm việc thế gian, không trau chuốt hình hài, không ham sống, không sợ chết, không đắm mê năm vị. Chư Tăng ngừa thân có Giới, nhiếp tâm có định, biện minh có Tuệ. Nói về công năng giữ giới của chư Tăng là để sạch trong ba hoặc, suốt đời không ô nhiễm. Nói về định, thì suy nghĩ chân chánh, thần minh suốt ngày không loạn, nói về tuệ là sùng đức, rõ mê lầm, tất nhiên như thế. Dùng (giới) này tu (sửa thân) gọi là nhân; nhờ (đức) này mà thành gọi là quả. Chư Tăng đối với mọi loài thường có tâm từ bi, có đại thệ, đại tuệ. Từ là thường muốn an muôn vật; Bi là muốn cứu vớt các khổ; Thệ là thệ cùng với người trong thiên hạ thấy được lý chân đế; Tuệ là ban rải tình thương đến chúng sinh bằng chánh pháp. Thần mà thông nên trời đất không thể che. Mật mà hạnh nên quỷ thần không thể lường. Chư Tăng giảng nói Phật pháp lời lẽ không đuối lý, chư Tăng hộ trì chánh pháp, hăng hái không đoái nghĩ tới thân mình. Nhẫn được những điều người đời không thể nhẫn, làm được những việc người đời không thể làm. Chư Tăng nuôi mạng chân chánh bằng cách khất thực để sống, nhưng không vì thế mà hổ thẹn. Chư Tăng không tranh đua với đời, vì thế người đời nên nhẫn nhục mà không nên khinh khi. Chư Tăng không biết oán thù vì thế người đời nên hòa đồng, mà không nên tổn hại. Chư Tăng dùng thật tướng mà đối đãi với muôn loài, cho đến dùng hạnh để tu thân. Cho nên, (chư Tăng) đối với (người) trong thiên hạ luôn hòa thuận và được khắp thiên hạ cung kính. Lời nói của chư Tăng không gian dối nên rất có uy tín. Chư Tăng tu pháp vô ngã nên được mọi người kính nhường một cách thành thật. Có uy đáng răn bảo cho người, có Nghi đáng làm phép tắc cho người, được người trời ngưỡng vọng vẻ trang nghiêm đáng sợ, năng ban phúc lành cho người đời, năng dắt dìu người thế tục. Chư Tăng quên hình hài đem thân thí cho cầm thú mà không hối tiếc. Chư Tăng đọc tụng (kinh điển), dấn mình xông lướt nắng mưa mà chẳng bỏ mất thời khóa, theo Phật pháp thực hành, đi khắp nhân gian xóm làng, xem công danh như tiếng vang trong hang trống, nhìn lợi lộc như hạt bụi bay, coi vật sắc như tia nắng mùa xuân, săn sóc người bệnh tật nghèo khổ, cùng đi chung với kẻ ô hợp trên xe kiệu mà chẳng bị thấp hèn. Dùng đạo lý mà cư xử dù là ở chốn núi sâu hang cùng. Lấy cỏ cây làm áo (mặc), dùng rau trái (để) nuôi thân mà vẫn an nhiên tự đắc. Không thể dùng danh lợi khuyến dụ, không thể dùng quyền thế khuất phục, không làm dân của vua chúa, chư hầu mà chẳng phải là cao. Chư Tăng sống đời sống độc lập, dùng đạo pháp làm sẽ sống cao cả của mình. Tuy chỉ có hình và bóng đối nhau mà chẳng thấy cô đơn. Chư Tăng ở chung với đại chúng đông vầy, lấy Phật pháp làm quyến thuộc, họp người trong bốn biển lại sống chung mà vẫn không bị lộn xộn. Chư Tăng là bậc tham học chân chánh, dù là ba tạng mười hai bộ hay các sách vở của trăm nhà dị đạo, chẳng môn nào không hiểu biết. Ngôn ngữ dù khác phương, phong tục dù khác lạ, nhưng chẳng điều gì không thông suốt. Nói theo phương pháp của người trước thì có văn có chương, hành theo Trung đạo thì chẳng chấp có chấp không. Chỗ tuyệt học của Chư Tăng là lìa niệm thanh tịnh, thuần chân nhất như, không còn có chỗ phân biệt. Chư Tăng là người rất cao quý, có tâm hồn rộng lớn, đức hạnh đầy đủ, đạo học cao vời, chư Tăng là bậc Hiền, nhưng chẳng phải là bậc Hiền của người đời thường gọi. Chư Tăng là bậc Thánh nhưng chẳng phải là bậc Thánh của người đời thường xưng. Chư Tăng chính là Thánh hiền của đạo xuất thế sao siêu, chư Tăng là như thế, chẳng đáng tôn trọng sao!

PHÁP SƯ CÔ SƠN TRÍ VIÊN DẠY HỌC TRÒ

Than ôi! Đại pháp suy tàn, cách Phật càng xa. Kẻ mặc áo pháp tuy đông, nhưng người nghĩ đến đạo thì rất ít, cứ mãi tranh đua theo thanh danh, thế lợi, tự cho là giỏi. Nhìn sự lưu thông của Phật pháp là trò đùa, làm cho pháp môn bị chìm mất. Lưới giáo pháp sắp rách, thật chỉ biết trông chờ vào hậu côn có khả năng gánh vác đạo pháp mà thôi!

Các trò phải phát tâm rộng lớn như hư không mà thỉnh pháp, giữ thân trong sạch như băng tuyết mà nương thầy, gần thì hy vọng ở việc lập thân dương danh, xa thì ước mong bỏ phàm thành Thánh. Phát huy trở lại đời Tượng pháp, nếu không phải các trò thì là ai? Cho nên các trò phải tu sửa thân tâm và làm theo lời nói, thận trọng lúc cuối cùng như lúc đầu. Các trò phải siêng năng học tập, phải cẩn thận khi hành tàng. Tránh bạn ác như tránh cọp sói, gần bạn lành như gần cha mẹ, thờ thầy quên mình, hết lễ vì pháp. Có điều tốt đừng tự khoe, lỡ phạm lỗi mau sửa đổi, giữ điều nhân nghĩa, vững bền không lay chuyển, ở cảnh nghèo khó mà vẫn an vui vô tư. Tự nhiên lần xa các hoạ, càng gần các phúc. Đâu nên gà vào hình tướng mà hỏi mạng, nịnh nọt mong tìm phát đại vinh hoa, cũng không chọn lựa ngày giờ, cầu qua khỏi thời vận xấu khó. Đây là kiến thức sâu xa của thầy Samôn, cũng thật là vọng tình của kẻ tục tử. Cho nên thấy người hiền mà làm sao cho bằng họ làm điều nhân chẳng phải nhường thầy, mến hạnh cầu pháp của Tuyết Sơn, học theo chí cả của đồng tử Thiên Tài tìm thầy. Danh lợi không đủ sức chuyển lay hoài bão, sinh tử cũng không đáng để nghĩ lo. Ví như được công thành danh toại, (sự toại), thì chắc chắn phải từ gần đến xa. Không khoe danh mà danh tự hiển bày. Chẳng vời chúng mà chúng tự tìm đến. Trí tuệ đầy đủ để soi sáng mê lầm, từ biết rộng sâu để nhiếp thâu quần chúng? Gặp lúc cùng thì riêng tu cho chính mình, gặp lúc đạt thì dùng nhiều lành giáo hóa thiên hạ. Khiến cho chân phong sắp dứt được chấn hưng trở lại, đuốc tuệ đã tắt lại được thắp sáng, như thế mới đáng gọi là bậc Đại trượng phu, mới đáng gọi là sứ giả Như Lai. Đâu nên thân ở trong trường giảng, mà vết lẫn chỗ hèn, ở chốn nhơ xấu thì không có cách ngăn, đối với hạnh giải thì không thấy đáng sợ, cho đến chứa lâu thành tánh, tự diệt thân mình, mới tu thì bảo là mến bậc Hiền này, tu lâu rồi thì thấy bị chìm trong hạng xấu, những kẻ như thế thật đáng thương thay! Kinh Thi chép: “Nếu chẳng có trước, thì ít được có sau”. Là nói ý trên đây. Người căn khí bậc trung trở lên thì chẳng răn dè ư?

Hay lại bày đặt giới tuệ chia tông, đại tiểu khác học, tất cả đều từ trong tâm Phật tuôn ra, ý muốn giữ pháp giới để cùng về. Bởi người sau chưa hiểu mối to, nhân đó mà chấp theo chỗ y cứ. Người học kinh luận thì cho người học giới là vật bỏ, người ở Luật tông thì cho kinh luận là luống nương. Người học pháp Đại thừa thì chê bỏ Tiểu thừa, kẻ nghe pháp Tiểu thừa thì khinh chê Đại pháp, chỉ thấy theo một phía của thầy mình khen riêng, liền chấp vào đó mà công kích phải quấy lẫn nhau. Đâu biết ý Phật thường dung thông các pháp. Nếu người đạt ngộ mà chưa thấu suốt kia đây, thì lẽ ra phải giúp đỡ lẫn nhau, cùng thuần thục cơ duyên. Giống như muôn dòng về nguồn, đều chảy ra biển, trăm quan coi việc đều nói hết lòng với vua, chưa thấy ai giữ một nhánh mà toan lấp các dòng, coi việc tư mà muốn phế việc công. Đấng Pháp vương giũ lòng từ giáo hóa, gồm nhiếp hết chúng sinh mỗi pháp đều có người coi giữ. Người theo Tiểu luật như chức quan Thượng thư (coi việc Lễ hình). Người theo Đại thừa như quan Tể tướng, người làm phước như chức quan Công bộ (kinh tế), người trước tác (soạn bài Châm, bài Quy) như chức quan Ngự sử. Ở quốc gia thì có hàng trăm quan, đều lo làm việc, giống như trong Phật giáo của chúng ta có nhiều tông phái cũng cùng nhau giảng thuyết. Ai hiểu rõ ý chỉ này thì đâu chấp là dị đoan. Nên phải lượng tài năng của mình mà rộng truyền phu diễn. Người bản tánh thông minh thì học rộng là tốt, người kiến thức cạn cợt thì chuyên môn là được. Nếu được như vậy tuy mỗi người truyền bá tông phong riêng mà đều chung thạnh. Từ bi cứu giúp cùng khắp, đồng về biển cả hòa hợp.

Như thế thật là kim chỉ nam cho đường tối, là cái mõ của giáo môn. Ở địa vị thật tưởng không thẹn đức thì thẳng lên quả Phật chắc chắn chẳng nghi. Các trò không nên khoe khoang tri kiến hẹp hòi, gầy dựng tâm cống cao ngã mạn, xem thường các bậc Tiên giác, lừa dối kẻ hậu sinh. Cho dù nói là có nghe giáo tìm thầy đi nữa, cũng chưa thể bù đắp được tội lỗi đâu!

Lời nói của tôi có đúng hay chăng, thì các trò hãy suy nghĩ đi.

KHUYẾN HỌC BÀI THƯỢNG (VÀ LỜI TỰA)

Người căn tánh bực trung biết chuyên tâm vào việc học, lại có người lười biếng việc học, nên tôi (Trung Dung Tử) mới làm bài khuyến học này.

Ôi! Học không thể có phút giây nào được lười biếng. Đạo không thể có phút giây nào xa lìa được. Vì đạo học mà hiểu rõ thì học có thể lười biếng được sao, lãnh vực của Thành Hiền cũng từ Đạo mà có thì Đạo có thể xa lìa được chăng? Cho nên cái học của người thường nếu không lười biếng thì sẽ đến được bậc Hiền, cái học của người Hiền mà không lười biếng thì sẽ đến được bậc Thánh. Như sức học của thầy Nhiễm Cầu có thể bằng thầy Nhan Uyên mà không theo bằng thầy Nhan là vì nửa chừng sinh tâm lười biếng. Cho nên Nhiễm Cầu thưa với Đức Khổng tử rằng: “Chẳng phải con chẳng ham thích đạo của thầy, chỉ vì còn chẳng dư sức theo đuổi”. Khổng Tử bảo rằng: “Kẻ chẳng đủ sức, đi giữa đường rồi bỏ, còn trò bây giờ lại tự mình giới hạn lấy mình, chẳng chịu tiến tới chứ đâu phải chẳng đủ sức” (Thiên Ung dã, bài thứ 10).

Sức học của thầy Nhan Uyên có thể bằng Đức Khổng Tử mà không bằng bậc Thánh sư, là vì thầy ấy đoán mạng chết non. Nếu ông không chết non thì biết đâu thầy lại bằng Đức Trọng Ni. Vì thầy không lười biếng đối với việc học, cho nên nói: Có thầy họ Nhan hiếu học nhưng chẳng may mạng ngắn chết non. Bây giờ thì không còn ai nữa!

- Có người hỏi: Bậc Thánh mà còn học sao?

- Trung Dung nói: Sao người lại nói như thế? Phàm dân với người Hiền còn biết học thì bậc Thánh há lười biếng đối với việc học ư! Kìa, tánh cương của Trời vẫn còn học tánh nhu của đất, cho nên trời không xâm phạm bốn mùa. Tánh nhu của đất vẫn học tánh cương của trời. Cho nên Đất sinh ra vàng đá. Tính phát sinh của khí dương mà cũng phải học cái đức tính túc sát của khí âm, nên không làm cỏ cây bị chết. Tánh túc sát của khí âm vẫn phải học tánh phát sinh ở khí dương, cho nên rau má, lúa tẻ mới sống được. Nói về trời, đất, khí âm, khí dương mà còn phải học giao tiếp lẫn nhau không lười biếng. Cho nên, mới tạo thành muôn vật được. Trời không học tánh nhu thì không lấy gì để che. Đất không học tánh cương thì không do đâu để chở. Khí dương không học khí âm thì chẳng lấy gì để mở, khí âm không học khí dương thì không do đâu đề đóng. Sự học của bậc Thánh không khác, nên bắt chước trời đất, âm dương mà thực hành. Bốn cái học này không lười biếng thì bậc Thánh đâu có lười biếng. Nghe đến đây thì người hỏi liền đứng dậy chắp tay thưa rằng: Tôi là người ngu hèn may gặp được thầy giúp trị thấy được chỗ ngu tối của mình, vậy xin thầy từ bi nói cho tôi nghe về cái học của bậc Thánh.

Trung Dung Tử nói: Ngươi hãy ngồi xuống đây, ta sẽ nói cho người nghe. Trong kinh há chẳng chép: “Kẻ cuồng nếu nghĩ thì sẽ nên bậc Thánh, bậc Thánh nếu không nghĩ thì sẽ thành kẻ cuồng. Vì thế, bậc Thánh vội vàng gấp rút chẳng hề không nghĩ đến chánh đạo để học, vậy Phu Tử là bậc Thánh tài năng vượt chúng, trí tuệ hơn người, từ khi có loài người đến nay chưa từng có ai bằng được Phu Tử, thế mà khi Khổng Tử vào nhà Thái miếu thấy mỗi việc mỗi hỏi, đó là Ngài học với người ở nhà Thái miếu. Khổng Tử nói trong ba người cùng đi với mình, thì trong đó hẳn có người làm thầy mình, nên chọn điều hay của người đó mà theo, đó là Ngài học với người cùng đi đường. Khổng Tử đến đất Châu thì đến hỏi lễ với Lão Tử, đó là Ngài học với quan Trụ sử. Như thế há nói là Thánh Trọng Ni không bằng người ở nhà Thái miếu, người cùng đi dường và quan Trụ sử hay sao? Vì bậc Thánh sợ người đời chẳng chịu nghĩ đến chánh đạo nên Ngài học đó, thì như kẻ cuồng ngôn cũng biết được thế nào rồi. Cho nên nói rằng: “Hẳn có người trung tín như Khổng Khâu, nhưng không có người hiếu học như Khổng Khâu.

- Người học lại nói: Bậc Thánh là người khi sinh ra đã biết rồi thì cần gì phải học nữa?

- Trung Dung Tử đáp: Biết mà vẫn học là bậc Thánh, còn phải do học mới biết là người thường, chẳng có người nào không từ học mà biết. Khổng Tử nói: “Người Quân Tử chẳng thể không học”. Thầy Tử Lộ nói: núi Nam có loại trúc chẳng cần uốn mà tự nó vẫn thẳng, nếu chặt nó dùng để làm tên thì bắn thủng được da con tê. Lấy đây mà suy ra thì có trường hợp không cần phải học. Khổng Tử nói: Vót cây quát để làm mũi tên, nhọn mà vẫn cứ mài, thì khi bắn nó vào đích, sẽ cắm sâu hơn, Thầy Tử Lộ lại vái Đức Khổng tử mà thưa rằng: Con xin kính nhận lời thầy dạy.

Ôi! Cái học của bậc Thánh đâu không vót mũi tên cho thêm nhọn, sắc mà lại mài để khiến cho đi sâu vào đạo, há người sinh ra đã biết thản nhiên mà không học ư!

KHUYẾN HỌC BÀI HẠ

Nói về Thánh hiền còn phải chuyên chú vào việc học, nên từ (địa vị) Thánh hiền trở xuống đâu ai không học mà thành người được?

Học cũng như việc cơm ăn, áo mặc vậy. Loài người có chia ra bậc Thánh, bậc Hiền và kẻ thứ dân. Tuy ba bậc có khác nhưng lúc đói đòi ăn, lúc khát đòi uống, khi lạnh đòi mặc cũng chẳng khác nhau thì việc học đâu có khác nhau. Chỉ có cầm thú, đất đai, cây cỏ thì không phải học thôi. Ôi! Kẻ ngu ham thích ăn uống không nhàm chán, dấn thân tìm kiếm tài lợi không biết nghỉ, đến khi học tập thì có người sớm học tối lười, có người mùa xuân học, mùa đông lười. Nếu chỉ ham thích uống ăn, đam mê tài lợi không biết mệt mỏi, thì sao chẳng lo làm nên bậc học rộng, không nghĩ trở nên trang Quân tử ư?

Hỏi rằng: Trên đời có những kẻ quá ngu, đến nỗi không phân biệt được sự khác nhau giữa đậu và lúa mì, không hiểu được hơi lạnh và hơi nóng thay đổi ra sao, những người như thế mà bảo là học được ư? Há có thể dạy được ư?

Thưa rằng: Những kẻ quá ngu đó là do không dạy bảo, không học tập mà ra. Nếu có thầy tận tâm dạy dỗ không biết mỏi, kẻ ngu (đó) có lòng chăm học không lười biếng thì lãnh vực của Thánh hiền họ cũng sẽ bước lên được, lo gì việc không phân biệt giữa đậu với lúa mì? Vả lại kẻ ngu khi khát vẫn biết uống, lúc đói vẫn biết ăn, trời lạnh vẫn biết mặc, họ biết được ba việc này thì đã khác với cỏ cây rồi, sao bảo rằng họ không học được, không dạy được. Những kẻ quá ngu trong một ngày há lại không thể nhớ nổi một lời nói sao? Nếu cứ chứa góp từ một ngày đến một tháng thì sẽ nhớ được ba mươi lời rồi, và chứa góp từ một tháng đến một năm thì sẽ ghi nhớ được ba trăm sáu mươi lời? Mà chứa góp nhiều năm nối nhau không lười biếng thì cũng sẽ trở thành người học rộng. Lại nữa, sau mỗi ngày lấy một điều tốt nhỏ mà học làm theo, chứa góp từ một ngày đến một tháng thì mình đã làm được ba mươi điều tốt rồi, chứa góp từ một tháng đến một năm thì mình làm được ba trăm sáu mươi điều tốt rồi, mà chứa góp nhiều năm nối nhau không lười biếng, thì chẳng tới bực Quân tử hay sao? Vì ngu là tiểu nhân, mà không thay đổi, là do họ không học.

Trung Dung Tử bùi ngùi than rằng: Ta thường thấy có người hổ thẹn vì trí không bằng người, tài mình không thông minh bằng người mà bỏ học tập, chứ chưa thấy có ai hổ thẹn vì ăn uống chẳng nhiều bằng người mà bỏ việc ăn uống bao giờ. Bỏ ăn uống thì hại mạng sống của mình, sao lại hổ thẹn ở việc ăn uống không nhiều ư! Bỏ việc học tập thì đồng với cầm thú, đất đai, cây cỏ thì sao phải hổ thẹn vì tài trí chẳng bằng người ư! Nếu hổ thẹn vì tài trí không bằng người mà không học thì cũng không nên hổ thẹn vì ăn uống không bằng người mà bỏ ăn uống. Lấy đây mà xét thì đâu chẳng lầm to vậy.

Trung Dung Tử nói: Ta cũng là người rất ngu dốt; thường so sánh tài trí của mình thì thấy không theo kịp người khác rất xa. Nhưng vì hiểu rằng việc ăn uống đối với ta không thể bỏ được, nên đối với việc học tập không bao giở dám bỏ dở. Năm ta bốn mươi bốn tuổi tuy gặp lúc thân thể bị bệnh tật hoành hành rất nguy hiểm, nhưng tay cũng không hề dám rời sách vở, vì bị đồng hóa với đất cây cầm thú. Ta không dám mong cầu đạt tới lãnh vực của bậc Thánh, cũng chẳng dám cầu tới bậc Văn đạt. Dù có lúc cũng dạo quanh trong sân nhà hay rong chơi ngoài đồng cỏ để dưỡng tinh thần, mắt nhìn lòng nghĩ nhưng cũng không hề dám bỏ việc học tập.

Bởi lên núi thì nghĩ học vấn cao như núi, đến gần nước thì nghĩ học vấn trong như nước, ngồi trên đá thì nghĩ học vấn chắc như đá, nhìn cây thông thì nghĩ học vấn xanh tươi như cây thông, ngắm trăng thì nghĩ học vấn sáng suốt như vầng trăng, muôn cảnh bao la trước mắt đều có cái sở trường của nó, cho nên ta đều có thầy để học. Đối với muôn cánh không biết nói năng mà ta còn học được thì huống chi là người biết nói năng, cho dù muôn lời ác đi nữa cũng phải có một lời (lành), ta trông theo điều lành đó để học tập thì ai dám nói là không đúng ư!

Trung Dung Tử nói: Đời có những việc tìm cầu mà không đạt được, lại có những việc tìm cầu mà đạt được. Tìm cầu mà không đạt được là lợi lộc, còn tìm cầu mà được là đạo đức. Kẻ tiểu nhân đối với lợi lộc, tuy muôn việc tìm cầu mà muôn việc không được thì họ càng tìm cầu dữ dội hơn. Người quân tử đối với Đạo tìm cầu chắc chắn được, mà trông lên đường đi thì có tâm run sợ, tự nghĩ sợ sức mình không đủ. Đây là tội của kẻ tiểu nhân cầu lợi. Đức Khổng Ni nói: Điều nhân cao xa, nếu ta muốn điều nhân, điều nhân đó sẽ đến, câu nói này có nghĩa là hễ quyết chí tìm cầu thì sẽ đạt được.

VÂN PHÁP SƯ CHÙA CẢNH ĐỨC Ở CÔ TÔ KHUYÊN HỌC MƯỜI MÔN VÀ LỜI TỰA

Ngọc không giũa không thành đồ tốt, người không học không biết đạo lý. Vân tôi năm mười lăm tuổi thì dốc chí vào việc học, dần dà qua tuổi, phút chốc đã già, năm tháng chất chồng mới biết sơ chỉ thú. Lại than thuở trước, sao để mất y chỉ này, giờ đây tuổi tác như mặt trời đã xế qua cành dâu, sợ học không kịp nữa. Do đó mà kể ra mười môn để giúp đỡ kẻ hậu côn, nên phải chuyên chú học tập thì mới thành công và giúp việc hoằng giáo lại được hiển bày.

I. KHÔNG TU HỌC, KHÔNG THỂ THÀNH

Kinh Niết-bàn chép: Hễ người có tâm đều sẽ thành Phật. Vì sao! Vì tất cả chúng sinh đều có tâm Phật. tánh này rỗng suốt linh minh, vắng lặng thường hằng, nếu bảo có thì nó vốn không hình không tên nên chẳng thấy được, còn nếu bảo là không thì sao Thánh hiền đều nhờ đây mà linh giác? Do chúng sinh từ đời vô thỉ vì một niệm bất giác tự mê lầm, nên bị phiền não ngăn che, bỏ mất bản thể sáng suốt này, làm sinh ra các duyên ràng buộc, luống phải rơi vào sáu đường. Bởi thế bậc Đại giác Thế Tôn vì lòng từ bi xót thương chúng sinh bị mê mờ nên mới lập ra ba pháp học vô lậu là Giới, Định, Tuệ. Đạo lý này rộng lớn, chỉ rõ cho chúng sinh thấy rằng: vốn từ bản thể chân như thanh tịnh, nhưng vì một niệm bất giác mà khởi lên vọng tưởng nên có luân hồi sinh tử. Vì thế, Đức Như Lai lập ra nhiều pháp môn làm khuôn mẫu cho chúng sinh tu tập, là để giúp dứt vọng về chân. Nếu tin nhận lời Phật, thuận theo thầy học thì đó chính là nương thuyền từ mau vượt qua bể khổ, là thềm thang để bước lên chánh đạo, ai ra khỏi ba cõi mà không từ cửa ngõ, nào chẳng do đạo này?

II. KHÔNG BẺ GẪY, THÌ KHÔNG THỂ HỌC

Thuyết văn chép: Ta thí xả thân ta. Kinh Hoa Nghiêm chép: Kẻ phàm phu không có trí tuệ thường chấp đắm vào thân. Kinh Pháp Hoa cũng chép: Ngã mạn tự khoe cao, tâm dua nịnh không thật chúng sinh do kiến chấp của bản ngã, sinh tâm kiêu mạn cống cao, chẳng biết hổ thẹn mình không có trí tuệ, càn quấy cho mình là cao quý, thấy điều lành không thuận theo, không nhận sự dạy bảo của sư trưởng, với người hiền không gần gũi nên cách đạo rất xa. Cho nên, người muốn cầu pháp, phải bẻ gãy tâm ngã mạn, trắng trong lặng lẽ để suy nghĩ đạo lý, cúi mình thấp lễ, kính thờ bậc trưởng thượng, tôn sư trọng đạo, người hiền đức thì nghĩ sao cho bằng họ. Như Ngài Cưu-ma-la-thập khi mới xuất gia theo học pháp Tiểu thừa, đến đảnh lễ Tôn giả Bàn-Đầu-Đạt-Đa mà cầu pháp, đó là người bậc dưới kính người bậc trên, hành động này gọi là kính trọng bậc tôn túc. Sau này, Tôn giả Bànđầu-đạt-đa theo học pháp Đại thừa, đảnh lễ trở lại Ngài Cưu-ma-la-thập để cầu học, đây là người bậc trên kính người bậc dưới, hành động này gọi là tôn kính người Hiền. Cho nên sách Chu Dịch chép: Khiêm Cung là gốc của đạo đức. Kinh Thư chép: Người chẳng khoe mình nên thiên hạ chẳng tranh công với người. Thầy Yến Tử nói đến người chức tước càng cao thì ý phải càng hạ thấp, quan vị càng lớn thì tâm phải càng nhỏ lại, bổng lộc càng hậu thì hạnh thí xả càng phải rộng. Thầy Tử Hã nói: Kính mà không mất, cung mà có lễ, trong bốn biển đều là anh em.

III. KHÔNG CHỌN THẦY, THÌ KHÔNG ĐƯỢC PHÁP.

Loài chim khi sắp đậu sẽ chọn chốn rừng xanh, con người khi cầu học, phải lựa bậc Minh sư. Vì bậc Minh sư chính là người làm khuôn phép cho đời. Khuôn không thành khuôn, phép không ra phép, từ xưa đến nay có rất nhiều.

Người đáng làm khuôn phép, ở đời chỉ có hai hạng người:

1- Người có trí tuệ rộng lớn thấu suốt hạnh nghiệp bền vững, cũng như đèn sáng trong phòng kín mà ánh sáng vẫn thấu qua kẽ hở.

2- Người tuy hiểu biết rỗng thấu suốt, nhưng việc làm còn dấu vết, cũng như người phạm tội cầm đèn sáng soi đường tối cho người khác. Hai bậc cao toạ này đều có đủ phép tắc, đáng làm khuôn phép cho người đời. Còn kẻ đức hạnh bị kém thiếu hay chạy theo thời thế danh vọng thấp hèn, cúi luồn nương dựa, trọn đời cứ chạy theo cảnh trần.

Đời Đông Tân có An Pháp sư, xuất gia năm mười hai tuổi, hình dáng An đen đúa xấu xí nên bị thầy xem thường, và giao cho An công việc ngoài đồng áng. An phải làm lụng vất vả suốt ba năm mới cầu được thầy chỉ dạy. Khi được thầy trao đổi ý kinh, An phải mang kinh ra đồng nhân lúc nghỉ mới xem được. Đến chiều về chùa thì phải trả lại cho thầy, thế mà ý kinh an đã ngầm làu. Bấy giờ, vị thầy kinh ngạc, liền cho An cạo tóc cho thọ giới cụ túc, và cho đi du học. An liền đến đạo tràng của Tôn giả Phật-đồ-trừng xin tham học. Phật-đồ-trừng vừa nhìn thấy liền lấy làm lạ khen rằng: Lạ thay cậu bé này, đúng thật là con ngựa giỏi. Nếu không gặp được bậc Thanh Nhãn thì khốn, phải bị đóng vào xe thồ rồi, trừ Bá Nhạc ra thì đâu thể thấy được cái đẹp của con tuấn mã đi ngàn dặm này. Cho nên người xuất gia phải cẩn thận chọn lựa kỹ càng. Nếu xét thấy vị thầy có khả năng giúp mình trưởng thành thì mới sữa đủ lễ tư bẩm làm đệ tử mà theo học.

Vì thế, Tổ Nam Sơn có nói: người chân thật xuất gia vì sợ bốn oán nhiều khổ, vì chán ba cõi là vô thường, nên giã từ sáu thân thương mến, bỏ đi năm dục đắm sâu, như thế mới thật gọi là xuất gia chân thật và mới có thể tiếp nối bậc tiên giác làm hưng thịnh ngôi Tam bảo, độ thoát bốn loài, lợi ích sâu rộng, công đức chẳng thể lường được.

Thời gian gần đây, chân giáo bị lún kém, gió tuệ đã ngừng thổi. Ngoài thế tục thì có tâm khinh mạn, trong nhà đạo thì phi pháp. Do thầy không có tâm răn bảo, trò thì thiếu chí vâng làm, cả hai rời bỏ nhau, vọng chạy theo cảnh quấy. Suy tàn như thế mà muốn cho đạo pháp được sáng rực thì đâu có thể được vậy.

IV. KHÔNG TỤNG TẬP, THÌ KHÔNG THỂ NHỚ

Ghi chép những lời hay để trì tụng, Tôn giả Cadiếp và A-nan giữ gìn đầy đủ được tám muôn bốn ngàn pháp tạng, cho nên các bậc cao Đức ở Tây Vực cũng như Đông Hạ khi độ người xuất gia tuổi nhỏ học tập, đều dạy việc trì tụng làm trước, như ngài Phật-đồ-trừng trong một ngày tụng được mấy trăm muôn lời kinh Phật. Ngài Phật-đà-bạt-đà, Hán dịch là Giác Hiền cùng vài người bạn đồng học lấy sự trì tụng làm chính nghiệp. Công phu trì tụng của người khác phải đến một tháng mới xong, thì Giác Hiền chỉ cần một ngày là nhớ được, nên thầy Ngài khen rằng: “Sức học của Giác Hiền chỉ trong một ngày (thôi) mà có thể bằng được ba mươi người”. Còn những kẻ ngu tối há trong một ngày lại không nhớ được một lời hay sao? Nếu cứ lấy tháng này nối tháng (lấy tháng) nối năm, chứa góp công phu thì (tất nhiên) sẽ rộng lớn, chồng chất thời khóa hẳn cũng sâu xa, Đạo pháp từ chỗ ít nhỏ mà sinh thì lo gì không có chỗ lập thân.

V. KHÔNG HỌC VIẾT, KHÔNG NHỜ ĐÂU ĐỂ TRUYỀN BÁ.

Viết là như, nghĩa là kể lại việc đúng như ý người. Giữ những chuyện hiện đời không cho quên mất, nên phải viết chép để lưu truyền đến đời sau, nên viết thành sách, có như thế mới giúp cho giáo phong không bị diệt mất, đạo pháp mãi mãi bay thơm. Cho nên kinh luật của họ Thích khi kết tập được viết trên lá bối. Thi thư của Khổng Tử lúc san định được viết vào thẻ trúc. Nếu ta không học viết thì việc học sẽ khó thành. Nghĩ lại tài hùng biện vô ngại của Đại Sư Trí Giả, thì chỉ có ích cho căn cơ đương thời mà thôi, nếu việc mở mang truyền bá mà không có sức cầm bút của Ngài Chương An, thì làm sao ngày nay còn lưu lại được.

Cho nên, có bậc cao đức ở nước Kế-tân là Tôn giả Bàn-đầu-đạt-đa, từ sáng đến trưa tay viết bài kệ, từ trưa tới chiều miệng đọc ngàn câu kinh, xong y theo Thánh ý, viết sao cho danh tự ngay thẳng mới thôi, chứ đừng bắt chước theo thế gian mà khổ công luyện tập, nét thảo nát lệ tinh xảo.

VI. KHÔNG HỌC THƠ, THÌ KHÔNG CÓ LỜI.

Nói ra lời lành, thì ngoài ngàn dặm cũng ứng theo. Thi, là lời văn tỏ ý khen chê, ngữ thanh đúng với niềm luật, như thi Quốc Phong thì đơn hậu, thi Nhã Tụng thì ôn nhu, văn tài hoa mỹ, ngữ khí thanh các, lời lẽ dồi dào, ý tứ tươi đẹp. Tập lâu thì bàn nói sẽ hay, vừa đọc thì luôn ra lời đẹp, kia xưng Tứ Hải Tập Tạc Xỉ, đây đối lại di thiên Thích Đạo An. Thời ấy có ông Nguyễn Chiêm người đất Trần Lưu cười nhạo rằng: Triều đại Tấn đang lúc hưng thịnh khắp thiên hạ ai ai cũng hưởng giàu sang sao các ông sa môn không để râu tóc, bỏ ca sa, cởi áo đạo mà mặc lụa, gấm cho sướng thân?

Ngài Hiếu Long nghe được việc ấy liền trả lời rằng: chúng tôi, những người phát nguyện hiến mình vì đạo, giữ lấy một pháp là để thần khí được tiêu dao, chỉ có đạo vắng lặng mới là chí thành tuyệt đối. Những việc cạo râu tóc, hủy dung mạo, đổi y phục biến hình hài, tuy người đời cho đó là nhục, nhưng chúng tôi vất bỏ vinh hoa vì không để tâm trong cảnh giàu sang nên càng được giàu sang, không để tâm ở việc cầu đủ mà vẫn được đầy đủ.

Ôi! Các bậc tôn đức này trong khí phách có chứa hương vị chi lan nên lời nói mới thoáng ra phong thái cao đẹp như thế. Tuy không gần với kẻ dung tục mà vẫn tiếp xúc được với bậc thanh tài. Phật pháp đã trông cậy vào các bậc vua quan, nên sự mở mang đạo pháp phải tập thêm thi phú (văn chương). Ngài Chi Tuần đem thơ dâng lên cửa khuyết, ngài Đạo Lâm ẩn dật chốn Đông Sơn. Nếu các Ngài chẳng phải là bậc tài cao đức trọng thì đâu cảm được (bậc) Thân vương kính phục thế kia. Phải bỏ đi những lời cuồng giản, vì đó chỉ là những lời hư dối mà thôi.

VII. KHÔNG XEM RỘNG, THÌ KHÔNG CHỖ Y CỨ

Cao Tăng Truyện chép: Nếu không học rộng thì lời nói sẽ không có chỗ y cứ. Nên biết những việc luống dối xưa nay phải hiểu danh nghĩa của tiếng Hoa, tiếng Phạm. Dạo khắp biển giáo ba tạng, chơi trong rừng lời sáu kinh. Có như thế thì lời mới không vọng bàn, nói mới có điển cứ. Cho nên Tập Tạc Xỉ khen ngợi Pháp sư Đạo An rằng: Sư Đạo An là người trong lòng thì thành thật, bên ngoài thì nhiều chỗ rộng bước. Sách vở trong đạo ngoài đời đều đã xem qua, toán số âm dương thảy đều thông hiểu, nghĩa mầu kinh Phật là chỗ làu thông thường dạo chơi. Thời Hoàng Đế Chân Tông cho vời quan Thị Độc họ Lý đến uống rượu. Lúc ấy, Trọng Xung liền đứng lên cố từ chối rằng: Thưa Quan Gia suốt thần khí. Lúc đó, Hoàng Thượng bèn hỏi: Vì sao khanh gọi Trẫm là Quan Gia.

Trọng Dung thưa rằng: Tâu Hoàng Thượng! Thần có nhớ trong luận Tưởng Tế Vạn Cơ có chép: Tam Hoàng là Quan của Thiên hạ, Ngũ Đế là Gia của Thiên hạ. Bệ hạ gồm cả đạo đức của Tam Hoàng và Ngũ Đế nên thần gọi là Quan Gia. Vua nghe xong vui mừng nói: Thật đúng với câu vua tôi ngàn năm một thuở gặp nhau. Lời nói lưu loát của Trọng Dung là do học vấn chất chứa trong mình và nhớ nhiều lời của người trước nên không bị vướng lụy vào thân.

VIII. KHÔNG TRẢI VIỆC, THÌ KHÔNG THỂ BIẾT

Khổng Tử nói: Ta không phải là bậc Thánh, chẳng qua vì ta có nhiều kinh nghiệm trong việc làm đó thôi. Khi Khổng Tử đi qua nhà Thái Miếu thường gặp việc, đó là ngài muốn răn nhắc những kẻ không lo tính để chẳng mất pháp độ. La-hán tuy là bậc Thánh mà khi thấy muối đỏ cũng không biết. Đông Phương Sóc tuy là bậc Hiền mà gặp kiếp tro cũng chẳng rõ. Đó là do hễ thấy thì nhiều hiểu biết, còn chưa thấy thì mờ mịt vậy thôi. Hậu chúa đời Lý có một bức tranh vẽ con trâu. Ban ngày thì thấy con trâu đứng ở ngoài chuồng, ban đêm thì thấy nó về đứng ở trong chuồng. Ông ta dâng bức tranh đó lên vua Thái Tông. Vua liền đem treo ở Hậu Uyển (sau vườn để các quan cùng xem). Nhưng không một ai biết được vì sao như thế! Chỉ có vị Tăng lục tên Tán Ninh tâu với vua rằng: ở đất Nam uy khi mực nước biển cạn xuống thì bãi cát lộ ra, người dân bèn nhặt trai, trong thịt của con trai có những giọt nước mắt, hòa hai thứ này thành màu để vẽ hình thì nét vẽ ban ngày sẽ ẩn mất, ban đêm sẽ hiện ra, lại ở núi ốc Tiêu, khi có những cơn gió lốc thổi bạt vào đá, chợt có đá rơi xuống bờ biển, hứng được những giọt nước này hòa lại làm màu để vẽ hình thì ban ngày nét vẽ sẽ hiện ra, ban đêm sẽ ẩn mất. Lúc ấy các học sĩ đều cho lời nói của vị Tăng lục là không y cứ, Tăng lục Tán Ninh tâu vua rằng: Thưa truyện này có chép trong bộ Trương khiên Hải ngoại dị ký. Thời gian sau Đỗ Hạo xem trong Tam Quân thơ mục quả nhiên thấy sách Lục triều bản cũ có chép chuyện này. Đây là do tài học rộng nhớ dai nên gặp việc có chỗ ứng dụng.

IX. KHÔNG TÌM BẠN, KHÔNG NHỜ ĐÂU MÀ THÀNH

Sinh thân ta là do cha mẹ, nên thân ta là nhờ bạn lành. Cho nên người Quân tử tìm bè bạn để cùng nhau giảng dạy học tập. Lấy văn để họp bạn, lấy bạn để giúp lòng nhân. Phẩm tháo của người vật bàn bạc đều khác nhau. Ví như viên ngọc đã cắt lại giũa, đã giồi lại mài. Ông Lưu Hiếu Tiêu nói: gây dệt điều nhân nghĩa, trau dồi việc đạo đức, cùng vui niềm vui của bạn, cùng xót cảnh đổ vỡ của bạn. Gởi chung thần thức dưới linh đài để lại dấu vết trong chốn giang hồ. Mưa gió dập vùi mà không ngừng ngọng tiếng, tuyết sương lất phất mà chẳng phai sắc mầu. Đó chính là bản chất giao du của bậc hiền đạt, trải muôn đời mới được một lần hội ngộ. Đời Đông Tấn, lúc Pháp sư Đạo An chưa thọ giới. Một hôm trên đường tham học, An dừng chân tại một quán trọ, gặp được sa-di Tăng Quang cũng nghỉ ở đấy. Hai người bèn cùng nhau trò chuyện và bày tỏ chí nguyện của mình. Trong câu chuyện hàn huyên làm cho tinh thần hai người hăng hái, có sự tương đắc, lúc chia tay nói rằng: Sau này nếu chúng ta trưởng thành xin đừng quên chốn này. Thời gian sau, Tăng Quang học thông kinh luận ẩn cư ở núi Phi Long. Đạo An sau cũng tìm đến núi ấy, hai người gặp nhau vui mừng khôn xiết, vì nhớ lời hứa năm xưa nên mới theo dấu tìm nhau. Do đó hai người bèn cùng nhau mở văn rót ý và tỏ ngộ được rất nhiều chân lý mới lạ. Đạo An nói: Cách nghĩa của người xưa, An tôi thấy đối với chân lý có nhiều chỗ khác nhau, ở (đạo) sư huynh thấy thế nào? Tăng Quang đáp: chúng ta hãy nên phân tích hạnh tiêu dao chứ sao lại để cho những lời phải quấy xúc phạm đến bậc Tiên Đạt. Đạo An nói: Hoàng Hóa tán dương lý giáo, nên làm cho người đời tin nhận, trống pháp đua vang, thì đâu có trước sau. Khi ấy, có vị tăng tên Đạo Hộ cũng ẩn cư tại núi Phi Long bèn bảo những người chung quanh rằng: chúng ta là những người ở chốn vắng lặng lánh xa trần tục, tuy muốn giúp lòng an trụ trong Đại Pháp, nhưng đâu nên riêng bước mãi trong sơn môn, khiến cho bánh xe chánh pháp phải ngừng quay. Tuy nhiên cũng phải tùy năng lực từng người mà hóa đạo khắp nơi để đền ơn Đức Phật. Lúc ấy, An và Quang cùng thưa với Đạo Hộ rằng: Lời thầy dạy rất đúng, chúng con xin vâng theo. Sau đó cả hai đều xuống núi đi hoằng hóa Phật pháp.

X. KHÔNG QUÁN TÂM, THÌ KHÔNG THỂ THÔNG SUỐT.

Kinh Duy-ma chép: Pháp giải thoát của chư Phật, phải nương vào tâm hạnh của chúng sinh mà tìm. Vì sao? Vì trong kinh Hoa Nghiêm đời Tấn dịch có chép: Tâm như người thợ vẽ, tạo các thứ năm ấm, trong tất cả thế gian, thảy đều từ tâm đạo. Như Tâm, Phật cũng vậy, như Phật, chúng sinh cũng vậy. Tâm Phật và chúng sinh, ba pháp không sai khác. Bởi tâm là mẹ của chư Phật và chúng sinh. Tâm cũng chính là nguồn cội của y báo và chánh báo. Cho nên, kinh Lăng-nghiêm chép: Các pháp sinh ra chỉ do tâm hiện, tất cả nhân quả cho đến thế giới nhiều như cát bụi cũng từ tâm mà Thánh thể. Nếu nói tâm là có thì cũng ví như tiếng đàn không hầu, đi tìm thì không thấy. Còn muốn nói tâm là không thì cũng giống như tiếng đàn không hầu, khảy đấy cũng vang tiếng, chẳng có mà chẳng không, mầu nhiệm là ở trong đó! Cho nên kinh Ban-Chu Tam-muội chép: chư Phật từ tâm mà được giải thoát, tâm là gì? Tâm là tên gọi bản thể vô cấu thanh tịnh trong năm đường mà vẫn tốt đẹp như băng trong, không bị sắc trần hoen ố, hiểu được tâm này thì đại đạo mới thành.

Noi theo mười môn này mà trên làm dưới học, nếu không biếng nhác, thẳng tiến tới cùng thì giáo pháp của Đức Phật mới có thể giữ gìn lâu dài mãi đến đời sau. Nếu nói lời này không đúng thì đạo tổ sẽ tan mất.

Tôi mong các vị lớp sau, xem đây mà răn nhắc.

NGHI NGỒI THIỀN CỦA THIỀN SƯ PHẬT TÂM TÀI Ở THƯỢNG PHONG

Nói về ngồi thiền, Nghĩa là phải vững tâm thẳng ý, sạch vóc trống lòng, xếp chân gài bàn, thu nhìn chỗ nghe, tỉnh táo không mờ, lìa hẳn hôn trầm trạo cử, buông bỏ những việc đã qua, tận tình vất bỏ. Hướng về nơi định tĩnh, quán kỹ nghĩ ngay. Phải biết ngồi đó mà tâm mà phản chiếu cũng là tâm, phải hiểu những việc có, không, giữa, bên, trong, ngoài đều là Tâm. Tâm này trống mà vẫn biết, lặng mà thường soi. Tròn sáng làu làu, không rơi vào chấp thường, chấp đoạn. Thiêng tỏ rỡ rỡ, lựa chọn chẳng luống dối. Nay thấy các nhà học Phật, ra sức ngồi mà không ngộ, bệnh do đây nương chấp, tình nương theo tà lệch, lầm trái với chánh nhân, luống theo chỉ tác (chỉ thiện, tác ác). Lỗi lầm của việc không tỏ ngộ là do đây. Nếu cũng thu nhiếp một niệm, thầm hợp lý Vô sinh thì gương trí sẽ sáng bừng, hoa lòng liền bung nở. Vô biên chấp trước ngay đó tiêu tan. Nhiều kiếp không tỏ, trong một lúc bỗng hiện ra. Như người quên chợt nhớ, như người bệnh liền lành. Trong lòng sinh vui mừng vì tự biết sẽ được thành Phật. Liền hiểu ngoài tâm vốn không có Phật nào khác. Sau đó phải thuận theo sự tỏ ngộ mà tu thêm, nhân tu mà chứng đắc. Nguồn cội chứng ngộ là ba thứ (ngộ, tu, chứng) không khác nhau. Đó gọi là nhất giải, nhất hạnh tam muội, cũng gọi là vô công dụng đạo. Ấy là có thể chuyển hóa muôn vật mà vẫn không lìa căn trần, tín thủ niêm lai, phân chia chủ bạn lẫn nhau. Mắt trong nhìn trời đất, xưa nay lại hiện bày, nhìn vào bản thể của máy thần tự nhiên thấy in hợp. Cho nên Cư sĩ Duy-ma-cật nói: “không cần dấy lên định vắng lặng mà vẫn hiện các oai nghi. Đó là yến toạ (ngồi yên)”. Cho nên biết, hễ nước lắng thì trăng hiện, gương sạch thì sáng tròn. Người học đạo, ngồi thiền là quan trọng. Nếu không như thế thì đường tu sẽ lăn lóc, chìm đắm trong bốn loài. Buốt mũi đau lòng khó mà tự nín lặng. Tôi tạm, viết đại khái để giúp các vị phát triển nguồn chân. Nếu thật chẳng bỏ đường tu thì chúng ta cùng nhau tham khế.

NGHI NGỒI THIỀN CỦA THIỀN SƯ TỪ GIÁC TÔNG TRÁCH Ở TRƯƠNG LÔ

Người học (pháp) Bát-nhã của Bồ-tát trước phải khởi tâm đại bi, phát thệ nguyện rộng lớn, phải chuyên tu pháp tam-muội, thệ độ chúng sinh, không riêng mình cầu giải thoát. Như thế là buông bỏ được duyên, thôi dứt muôn việc, thân tâm như một, động tĩnh không xen (hở), lường việc ăn uống không nhiều không ít, điều hòa việc ngủ nghỉ chẳng bớt chẳng thêm. Khi muốn ngồi thiền phải tìm nơi yên tĩnh, trải nệm để ngồi, nới rộng giải áo, sửa oai nghi ngay ngắn, sau đó mới ngồi kiết-già. Trước lấy bàn chân phải để lên đùi vế trái, lấy bàn chân trái để lên đùi vế phải. Hoặc ngồi bàn già cũng được. Nếu ngồi bàn già thì chỉ lấy bàn chân trái gác lên đùi vế phải mà thôi. Kế đến lấy bàn tay phải đặt lên bàn chân trái, bàn tay trái đặt lên bàn tay phải. Xem ngón cái của hai bàn tay chú đầu vào nhau. Rồi từ từ cất mình về phía trước, lại xoay trở qua hai bên. Phương pháp này gọi là chánh thân đoan toạ. Không được nghiêng qua ngả lại, cúi trước ngửa sau, đỉnh đầu và xương sống phải đứng thẳng với các khớp xương chống đỡ lẫn nhau, giống như ngọn tháp. Cũng không được ép thân thái quá khiến hơi thở dồn dập không yên. Cốt phải cho tai và vai đối thẳng nhau, sống mũi và đơn điền đối nhau thẳng, lưỡi thì dán sát lên vòm hầu, môi và răng sát vào nhau. Mắt phải hơi mở để khỏi bị hôn trầm. Nếu đạt được thiền định thì năng lực ấy rất tốt. Xưa có vị cao tăng tu thiền định ngồi thường mở mắt. Vị tăng này đến thưa hỏi Thiền sư Viên Thông ở chùa Pháp Vân, Thông Thiền sư cũng trách những người ngồi thiền mà nhắm mắt. Ngài cho rằng cách ngồi như thế khác nào như núi đen hang quỷ. Vì có ý chỉ sâu xa như thế, nên người thông đạt phải hiểu biết. Khi thân tướng đã an định, hơi thở đã điều hòa, sau đó mới buông thả trong lòng tất cả ý niệm, thiện ác đều không được suy nghĩ so lường, niệm khởi tức giác và giác đó cũng phải bỏ. Lâu ngày quên duyên, tự sẽ thành một khối. Đây chính là yếu thuật của phép ngồi thiền.

Thiết tưởng, ngồi thiền là pháp môn đem lại sự an vui, mà có người ngồi lâu đến nỗi sinh bệnh. Vì họ vận dụng tâm không đúng. Nếu khéo dùng được ý này thì tự nhiên bốn đại nhẹ nhàng, tinh thần sảng khoái, chánh niệm rõ ràng, nuôi tinh thần bằng pháp vị, lặng lẽ trong sạch yên vui. Nếu những người đã phát minh được trí tuệ, thì có thể nói là như rồng gặp nước, hổ dựa vào non. Nếu người chưa được phát minh, thì cũng như người nhờ gió thổi lửa, không nhọc phải dùng sức nhiều. Nhưng phải vững lòng, không phân biệt, thì chắc chắn chẳng lừa dối nhau. Nhưng đạo cao thì ma thịnh, nghịch và thuận thường có muôn mối, chỉ khi chánh niệm hiện tiền thì tất cả mọi duyên mới không thể làm trở ngại. Như kinh Lăng-nghiêm, Thiên Thai chỉ quán, Khuê Phong Tu Chứng Nghi đều có nói về những việc ma chướng phải dự bị trước để không lầm, người ngồi thiền chẳng thể không biết. Nếu khi muốn xuất định phải từ từ động thân, nhẹ nhàng xuất định, không được vôi vàng. Sau khi xuất định, trong bất cứ lúc nào cũng phải thường nương vào phương tiện mà hộ trì định lực, giống như việc giữ gìn trẻ thơ. Như thế thì định lực mới dễ thành. Nói về thiền định này, là việc rất gấp, nếu chẳng an thiền tĩnh sự thì đến khi gặp việc chạm duyên sẽ bị mờ mịt không thông. Cho nên mò châu phải chờ lúc sóng lặn, còn khi nước động mà tìm thì việc lấy ngọc sẽ phải khó khăn. Nếu nước định lắng trong thì tâm châu tự hiện. Cho nên kinh Viên Giác chép: “Trí tuệ vô ngại thanh tịnh đều nương vào thiền định mà sinh”. Kinh Pháp Hoa cũng chép “Ở chỗ vắng lặng tu nhiếp tâm mình, an trụ bất động như núi Tu-di”. Cho nên thế biết việc vượt phàm lên Thánh phải nhờ vào tĩnh duyên, ngồi thác hay đứng mất phải nương vào định lực. Một đời làm xong còn e là lần lữa, huống chi là dời bỏ, thì sẽ lấy gì để chống chỏi với nghiệp ma. Cho nên người xưa nói “Nếu không có sức định vững vàng thì đành chịu nép mình trước cửa chết, nhắm mắt về không thì rõ ràng bị trôi lăn. Mong các bạn thiền nên đọc kỹ văn này để làm lợi minh, lợi người, cùng thành chánh giác.

VĂN KHUYÊN THAM THIỀN

Ôi! Giải phải viên giải, lại nhờ vào bậc Tông Sư có mặt sáng. Tu phải viên tu, gởi gắm các bạn đạo trong tùng lâm. Nếu kẻ sơ tâm phước mỏng, người bất thiện nương gần thì kiến giải sẽ khô khan, tu hành sinh biếng nhác. Hoặc suy cao cảnh Thánh, cô phụ tánh linh của mình, đâu biết rằng thần thông đức tướng là từ kẻ bất tín phàm phu mà ngộ đạo, hoặc tự cậy vào bản tính thiên chân mà bác không nhân quả, chỉ một bề theo lòng mình suy diễn, không nương vào địa vị tu hành. Vì thế (mà) Pháp sư hiếu cạn (cợt) không thông giáo nhãn, Thiền khách trống lòng, chẳng quý hạnh môn. Đây chính là cái tội thiên khô.

Hoặc có kẻ khắp mình dập nát, đầy mặt gió bụi, ba ngàn tế hạnh toàn không, tám muôn oai nghi đều thiếu. Hoặc có kẻ giúp nhân sự, lo liệu môn đồ. Thân dạo chơi thị thành, lòng nhiễm thói quê kệch. Cho nên thường tăng chốn núi đồng chưa khỏi kẻ nông phu bỡn cợt. Thích tử nơi phố chợ lại bị kẻ Nho sĩ gièm chê, đây là cái tội biếng nhác, sao không lìa nhà phiền não, lại cắt lưới trần lao hút gió mát mà thăm nơi thần tiên, dò lời hay mà tìm kiếm tri kỷ, lắng thần tổ vực, dứt ý tông thừa. Buồng vắng nhà không, vén áo mà ngồi thiền. Nước biếc non xanh, chống gậy tích mà kinh hành. Nếu chợt có một ngày tâm quang thấu suốt, ngưng trệ tiêu tan như băng, ngay đó sẽ rõ ràng, đâu mê mờ cực quả, ba A-tăng-kỳ xưa nay đầy đủ. Muôn hạnh nhơn hoa đâu ngại tông thuyết gồm thông, như mặt trời chói lọi cõi hư không. Thân tâm đều lặng. Như lưu ly chứa đựng ánh sáng của trăng báu, có thể gọi là có bồng mọc trong gai gốc, chẳng uốn mà tự thẳng, các dòng chảy về biển cả, đều gọi là ao trời. Lại xét lỗi trước, mới biết là lầm lớn. Lời ngay trái tai, dám mong ghi lòng thì đời này kiếp khác cũng làm bạn pháp.

VĂN TỰ RĂN

Thần tâm rỗng chiếu, bậc Thánh im lặng là tông, đã mở ra ba gian, nên noi theo bốn thật. Việc liên quan với lời Thánh, lý đúng với kinh vàng, lý hợp mới năng giúp đỡ giáo thừa, làm sáng tỏ đạo tổ. Mình người cùng lợi, công chẳng uổng làm. Nếu trộm bàn công sự của triều đình, lén nói việc quan liêu của quận huyện. Bàn cõi nước hay dở, luận phong tục tốt xấu, cho đến việc nhỏ công thương hay rỗi bàn chuyện nơi chợ giếng, chốn biên thùy giặc cướp, nơi đô thị chiến tranh, văn chương kỹ nghệ, của cải áo cơm. Tự cậy mình là hay, giấu việc tốt của người, bước móc tỳ vết, vạch xem lỗi lầm. Đã trái với phước nghiệp, nào có ích cho đạo tâm. Những lời xằng bậy như thế, đều có hại cho thật đức ngồi hao của tín thí, ngửa mặt thẹn với trời rồng, tội trước đầy bụng, hoạ sau ngập đầu. Chúng sinh bị lửa khổ bốn bên đều cháy, đâu nên an nhiên ngồi bàn chuyện vô nghĩa.

QUYỂN 2

BÀI MINH NGỒI TIHỀN CỦA THIỀN SƯ PHẬT NHÃN VIỄN Ở CHÙA LONG MÔN

Tâm quang rỗng chiếu
Thể bặt thiên viên
Sóng vàng lượn lượn
Động tĩnh hằng thiền
Niệm khởi niệm diệt
Chẳng cần thôi dứt
Nhậm vận cuồn cuộn
Đâu từng khởi diệt
Khởi diệt vắng lặng
Hiện Đại Ca-diếp
Ngồi nằm kinh hành
Chưa từng xen nghỉ
Thiền nào chẳng ngồi
Ngồi nào chẳng thiền
Rõ được như thế
Mới gọi ngồi thiền
Ngồi thiền là ai?
Thiền là cái gì?
Mà muốn ngồi đó
Đem Phật tìm Phật
Phật chẳng cần tìm
Càng tìm càng sai
Ngồi không quán ngã
Thiền chẳng thuật ngoài
Sơ tâm rối loạn
Chưa khỏi đổi thay
Vì thế nhiều phương
Dạy hắn quán tĩnh
Ngồi thẳng thu thần
Mới thì lộn xộn
Lâu sẽ lặng yên
Rảnh rang sáu cửa
Sáu cửa hơi nghỉ
Ở trong phân biệt
Phân biệt vừa sinh
Đã thành sinh diệt
Sinh diệt đổi thay
Từ tâm mình hiện
Hãy đem tâm mình
Quán lại một lượt
Một lại không hai
Viên Quang trùm đảnh
Lửa thiêng bừng chói
Tâm tâm vô ngại
Ngang gồm dọc khắp
Sinh tử dứt hẳn
Một viên hoàn đan
Điểm vàng thành nước
Thân tâm khách trần
Thấu lọt không cửa
Mê ngộ hãy nói
Thuận nghịch chớ bàn
Nghĩ suy ngày trước
Lặng ngồi kiếm tìm
Dù vậy chẳng khác
Cũng rất bừa bãi
Phút chốc Thánh phàm
Không người tin được
Khắp đất bận rộn
Rất phải dè dặt
Như con không hiểu
Ngồi thẳng nghĩ suy
Một ngày làm tới
Cúi mong cúi mong

BA BÀI TỰ TỈNH XÉT

Mạng sống thân này
Bóng câu qua cửa
Đâu rảnh buông tình
Vọng làm nhiều việc
Đã vun giống Phật
Phải nối phong môn
Xét kỹ Tiên-Tông
Là tiêu cách nào.
Đạo nghiệp chưa xong
Cách Phật thời xa
Thầy hay bạn tốt
Thật chẳng nên bỏ
Tự sinh cố gắng
Nghĩ báo ân Phật
Suy mình tự biết
Đại tâm đừng lùi.
Báo duyên hư huyễn
Không thể gượng làm
Trần thế là bao
Tùy nhà nhiều ít
Khổ vui thuận nghịch
Đạo ở trong đấy
Động tĩnh lạnh ấm
Tự thẹn tự hối.

BÀI MINH NGỒI THIỀN CỦA THIỀN SƯ ĐẠI NGHĨA Ở ĐẤT NGA ĐỒ

Nói đến những người tham thiền học đạo thì chính họ, phải chọn lấy một pháp tối thượng (chứ) đừng nên ngồi mà mong cầu đạt đến chỗ (được) quên thân và nguội tâm. Vì đó là một chứng bệnh nan y rất nặng, phải mau xét tìm tới chỗ nguồn sâu. Đạo này từ xưa đến nay được truyền khắp trong thiên hạ. Phải ngồi thẳng, vững vàng như núi Thái, lồng lộng chẳng cốt giữ không nhàn. Phải đề khởi lợi thổi, lông và cần phải mổ xẻ thắng nghĩa thứ nhứt của Tổ Tây lai rằng trợn mắt giương mày lên lật ngược trở lại xem rõ là ai. Lại cũng như bắt giữ kẻ giặc phải tìm cho được của báu, đừng sợ kẻ giặc chôn giấu chỗ sâu. Người có trí thường (sẽ) tìm được trong sát-na, kẻ vô trí phải tìm mất nhiều năm, nhưng vẫn không thấy bóng. Đáng trách cho những kẻ cứ ngồi lờ đờ như thây ma trải qua ngàn năm muôn kiếp cũng chỉ như thế. Nếu đem hạng người này để gánh vác Thiền tông, thì họ chỉ làm cho gia phong “niêm hoa vi tiếu” hư hoại mà thôi! Những người này ngồi chết dưới núi đen mặt đất thênh thanh làm sao cấm. Nếu là kẻ có tròng mắt bằng đồng sắt, thì phải tay nắm lấy tim mình năng tự phán phải đạt đến chỗ chứng ngộ làm kỳ hạn, hét gầm lên một tiếng rống sư tử.

Người há không thấy (sao) có kẻ mài gạch để làm gương soi, vậy có dùng được chăng? Xe chạy là do có chỗ thúc giục lôi kéo, lại há không thấy trước núi, núi trong xanh muôn trượng im im lặng lặng bặt không tiếng, một mai năm rồng lại quấy rối, thì sông chuyển động thật muôn trùng. Ví như (có người) tĩnh toạ mà không dụng công thì lúc nào mới thi đỗ, ngộ tâm không. Phải mau ra tay (mở mắt nhìn xa thấy rộng) làm bậc cao nhãn, gồm lấy đời này bảo cho xong). Nếu (lại) còn nín lặng buông thả như kẻ ngu, biết người chưa hiểu làm công phu, phủi dũi tinh thần để ý nhìn, không hình không bóng ngộ chẳng khó. Đó thật là sự đã dụng ý đến mười phần. Bậc (đấng) trượng phu mạnh mẽ phải nên ghi nhớ, xin đừng nghe người nói là chẳng cần tham cứu. Bậc Thánh xưa tỏ rõ làm chỉ nam. Tuy nhiên ruộng vườn gác rộng cũ xưa, một khi đã đi qua rồi, mà muốn chuộc lại được chăng? Phải biết ngồi thiền là Bất động tôn, gió thổi có rạp thảy đều nói, mà nay bổn bế trong suốt như mặt gương thứ gì ta đều nghe, dài ngắn vuông tròn chỉ mình biết. Xưa này mảy may chưa từng dời đổi. Nếu hỏi ngồi thiền để nên việc gì thì cứ nhìn mặt trời sớm mọc ở Đông, đêm lặng về Tây thì sẽ rõ.

LỜI DẠY CHÚNG CỦA THIỀN SƯ ĐÔNG LÂM HỖN DUNG Ở VÔ SƠN

Lánh muôn xe tôn vinh, chịu đói lạnh sáu năm, không rời khỏi tòa Cỏ, thành bậc Đẳng Chánh Giác, hóa độ vô lượng chúng hữu tình. Đây là phong thái xuất gia của bậc Hoàng Diện Lão Gia. Thế mà kẻ hậu bối quên mất cội rễ, lại vì việc tham cầu ăn mặc mà vào chùa, không cày ruộng, không dệt vải, thấy được lợi dưỡng là dễ, không thờ vua chúa, cha mẹ, miễn việc đi lính, được an nhàn, giả danh mục, trộm thế duyên, lấy việc đấu tranh làm Phật sự, già không biết hối hận chết sẽ làm cây nấm mọc trong vườn. Thật đáng thương thay!

Các vị đi xuất gia thì phải nghĩ sao cho bằng được bậc Thảo toạ thuở trước, phải tự đỉnh việc lui sụt về sau mới được.

BÀI TỰA SÁCH TỰ CẢNH LỤC CỦA PHÁP SƯ TÍN Ở CHÙA LẠM CỐC

Tôi đã chín tuổi xuất gia, đến nay đã hơn sáu mươi tuổi rồi. Đến như xênh xoang (thong thả) nơi nhà rông, cố bước chốn thềm thơm, thể an dịu dàng thân ở chỗ rỗi rảnh, khi bóng tình quang chưa sáng tỏ thì cỗ ngon mười lợi đã sẵn bày, lúc vầng nhật soi chiếu giữa ngày thì cơm quý ba đức đều dọn đủ, không hề biết sự vất vả của việc gặt hái cấy cày, nào có hay sự nhọc nhằn của việc nổi lửa nấu cơm, nuôi lớn thân cao sáu thước đều là mạng sống trăm năm, là do ai nuôi dưỡng? Đó là do nguyên lực của Đức Bổn sư chúng ta. Tôi ước tính trong vòng năm mươi năm mà nói thì cơm ăn nước uống lúc sớm trưa phí tổn hơn ba trăm thạc gạo (1 thạc gạo = 10 hộc), thuốc men quần áo khi lạnh nóng phí tổn hơn hai mươi vạn bạc.

Đã vậy mà được ở nhà cao cửa rộng, thềm ngọc cột son, đủ thứ xe cộ tôi tớ đông vầy, lắm loại ghế bàn, giường nệm màn đẹp, sự phí tổn cũng khó mà lường được.

Lại có kẻ bị vô minh ám khỏi, tà kiến sinh khởi một cách ngang trái, lạm dùng nhiều của phi pháp ăn uống trái thời, chỗ tiêu phí kia cũng khó mà lường được. Tất cả của cải có ra đều từ công sức của người khác, giúp cho ta tiêu dùng. Lên được ngôi vị cao tăng, đâu có kẻ đồng niên mà sánh với khổ vui! Nên biết giáo pháp của Bậc Đại Từ cao tột, nguyên lực của Đấng Đại Bi sâu xa huống chi lại được đức Thập hiệu Điều ngự nhận ta làm đệ tử, che chở tám bộ trời rồng, v.v... kỉnh ta làm thầy để phụng sự, ngôi hoàng vương tuy quý cũng không dám dùng lễ vua tôi để đối xử với ta, sự cao quý ấy khá biết. Bậc từ thân tuy trọng cũng dám đem nghĩa cha con để gần gũi ta, thì sự tôn vinh ấy khá biết. Kìa như, dẫy đầy trong bốn họ (sĩ, nông, công, thương) mênh mông khắp chín châu, nhà nào mà không phải là kho lẫm của ta, người nào chẳng phải đệ tử ta. Vì thế khi mang bát đi khất thực, hễ vào nhà nào thì được mọi người đều bớt bữa ăn để dâng cho ta, khi chống gậy lên đường du hóa, thì người người đều khép nép, dung nghi tỏ vẻ cung kính. Người xưa khi được cho một bữa ăn còn canh cánh mang ơn trong lòng, đoái hoài một lời dạy còn biết liều thân để báo đáp. Huống chi từ đầu đến gót mỗi thứ đều nhớ Đức Như Lai nuôi dưỡng, từ sống đến chết thảy đều nương phúc ấm của Như Lai. Dù cho chẳng gặp Phật pháp, không được xuất gia thì phải ngày đêm xông lướt gió sương, sớm hôm nhọc nhằn, vườn ruộng chạy ngược chạy xuôi muôn mối, giục giã ngàn mưu. Áo rách tả tơi có lúc cũng không đủ để che thân, cơm hẩm cỏ rau lắm khi cũng không đủ để no miệng. Thì rảnh rỗi đâu mà cau mày trợn mắt trong nhà cao, chống gậy rảnh rang nơi sân rộng, lê gót luận bàn Phật lý, thênh thang mặc áo cợt đùa, tránh lạnh nóng chọn ngọt ngon, la mắng kẻ tiểu đồng phục dịch, vời tìm người hầu hạ làm việc, buông ngựa ý đế hại đàn, thả tâm đi níu nhánh.

Nhưng vì mây ba chướng bủa cao lưới, mười triền ràng buộc, si ái nối lòng, cuồng ngu hại não, tự hối tự trách, trong nháy mắt đã sang đời khác, thật đáng buồn hận! Trải qua một tuần sóc (15 ngày) thì biến khác. Hoặc lại lên điện Phật làm lễ, xấu hổ trước tôn nghi mà gào khóc. Hay là đối pháp mở văn, thẹn thùng trước Thánh giáo mà rơi lệ. Hoặc lại mặc áo mầu, ăn huyết nhục, khổ nhọc để tự tâm, bỏ tài sản xa bạn bè, khổ cực nhưng rốt cục cũng không thể lật đổ được núi ngã mạn, dập tắt được lửa ham muốn, bỏ sắc thanh thơ tệ khơi tra khảo nơi vạc sôi, há không đau xót sao? Há không đau xót sao? Vì thế ngài Thường-Thảm, ngài Thường Đề rất lấy làm chua xót nhưng vẫn không cứu được. Ngài không Tạng, ngài Đại Tạng muốn tiếp cứu nhưng vẫn vô phương hóa độ. Ta hãy trở lại tìm ở mình, đi kinh hành tự xét, hình dung tai mắt chẳng bớt ở hạng tầm thường. Thức lặng thần trong xen lẫn trong người danh tiếng. Phước báu gì mà được sinh nơi trung quốc, gốc lành nào mà được dự vào hàng ngũ xuất gia! Tội báo gì mà phạm nhiều giới luật, lỗi lầm gì mà ngang bướng khó độ? Cho nên quanh quẩn ngày đêm mãi than thở đến giữa khuya nhưng vẫn không biết phương pháp cứu vớt cho họ, vẫn chưa rõ diệu thuật để bỏ lỗi cho họ. Nhưng thuở ấu thơ nhờ cha hiền dạy dỗ nên sớm được thấm nhuần giáo lý của Phật-đà, và nghe lời di ngôn của trưởng giả, thường thưa hỏi lời cao luận của danh tăng. Vì thế, kẻ sĩ tam tư phải mượn dây đàn để giúp đỡ người, khách cửu tích phải lấy châm minh làm lời răn. Nên mới tìm rõ nhiều đời, mở xem nhiều sách, kiếm người đồng bệnh, hỏi khách bến mê, do đó mới có kẻ khinh miệt lời Thánh, xem dễ nghiệp lụy, buông lung không hổ thẹn, ương ngạnh không phép tắc. Nên soạn ra bài răn để khuyên, đều là góp nhặt để biên chép thôi! Nói chọn mười khoa, chia làm ba quyển để hôm sớm ngắm xem, ngõ hầu có chỗ bổ ích trong muôn một.

Nếu là ngồi thành long báo, đứng nghiệm thân rắn, trâu nhỏ lệ bò lên bờ núi, ngựa hý vang chạy nhanh điện nhiễu chùa. Hoặc phải chịu gậy đánh vào thân khắp mình lửa đốt. Hoặc giáo mác đâm chém, máu tuôn xối xả. Hoặc lưỡi mòn mày rụng, hoặc mất trí phát cuồng. Hoặc làm kẻ tôi tớ phục dịch, vào rừng đốn củi vất vả nuôi thân. Gởi thần thức nơi vườn cây, cắt thịt mình để đền ơn thí chủ. Gá dấu vết nơi song cửa, khắp thân chịu (hình) phạt, bị người phỉ báng, xưa không thấy thì nay thấy, trước không hay thì nay hay, kêu trời gào đất cũng chẳng thể với tới, đập gan đấm mật cũng không thể theo kịp. Đương lúc ấy dù cha mẹ có trăm thân cũng không chuộc được, họ hàng khắp bốn phía cũng không cứu được, của cải có chất đống cũng luống bày chung quanh, có vỗ ngực cũng nào giúp được gì, ngoảnh nhìn lại chỗ vui sướng là ở đâu ư? Hướng về bè bạn bà con làm sao nương tựa được?

Than ôi! Sáng mới làm kẻ thịnh đức, oai phong ban lệnh chốn nhà dài mà chiều đã là kẻ thương tử gào khóc nơi u khuất! Chẳng những người này riêng có mà nghĩ đến thân ta, có lẽ cũng phải chịu thế chăng.

Ví như trăm năm mà một phen được gặp gỡ, hổ thẹn ăn năn làm sao xiết kể! Chẳng lẽ không thương xót ư? Há chẳng sợ hãi hay sao? Cho nên chép kỹ đầu đuôi, đủ giúp kia đây góp nhặt viết lời văn vào giải áo, hầu mang công chiến thắng vẻ vang. Nếu có những lời (lời dạy thanh tao) của bậc danh hiền, hay những việc thù tích (dấu vết đặc thù) của bậc triết nhân, cùng đạo hóa hạnh suy, thời sự hay dở, cũng phụ chép vào để gởi lời (ghi lại việc chung). Người xưa nói: “Trăm năm bóng đã qua, ngàn năm tâm vẫn ở”, thật mong (trăm) ngàn năm sau hiểu được lòng tôi là ở đây.

BÀI VĂN NÓI VỀ VIỆC LÀM HỌ THÍCH KHÓ

Thủ toạ Hy nhan tự là Thánh Đồ là người tánh tình ngay thẳng quả quyết thông hiểu hết (các) học thuật trong ngoài, thường dùng phong thái danh tiết tự giữ mình. Sau khi (đi) hóa duyên khắp nơi Ngài về ẩn cư ở Cố lô, chẳng hề bước chân đến nhà thế tục. Thường đóng cửa ngồi thiền, nếu không phải là bậc hạnh nghị cao khiết thì không kết bạn. Các hàng danh công quý nhân phần đem các chùa mời Ngài nhưng Ngài vẫn kiến quyết không đáp. Lúc ấy, có một đồng tử tên Tham Kỷ muốn xin (được) xuất gia làm tăng, ở hầu hạ gần bên: Thủ toạ Nhan biết đồng tử (kia) không phải là người pháp khí; Ngài liền làm ra văn thích nạn này để từ chối rằng: Hiểu con không ai hiểu bằng cha, biết cha không ai biết bằng con. Như Tham Kỷ của ta đây làm tăng. Bởi vì xuất gia làm tăng đâu phải là việc nhỏ? Nói đến người xuất gia không phải vì mong cầu nhàn rỗi, không phải vì việc no ấm, không phải vì cầu danh lợi nhỏ mọn mà vì cầu thoát khỏi sinh tử, vì hóa độ chúng sinh, vì dứt trừ phiền não, ra khỏi biển ba cõi, tiếp nối tuệ mạng của Phật dạy.

Thời nay, cách Phật đã xa, Phật pháp quá suy tàn, ngươi dám càn quấy mong làm tăng ư! Kinh Bảo Lương chép: Nếu Tỳ-kheo không tu pháp Tỳ-kheo thì cõi đại thiên này sẽ không có chỗ để nhổ bọt. Trong Thông Tuệ Lục chép: làm tăng mà không biết mười khoa thì dù có thờ Phật trăm năm cũng chỉ uổng phí công lao mà thôi! Thế thì làm tăng chẳng khó hay sao? Lấy đó mà xét (thì) nếu ta xen lộn vào hàng tăng, thì rất có lỗi với Phật. Huống chi ngươi lại muốn làm tăng ư!

Nhưng người xuất gia làm tăng nếu không thông suốt ba thừa (tạng) và mười hai phần giáo, và đạo lý của Chu Công Khổng Tử, không rõ lý nhân quả, không đạt ngộ tánh linh của mình, không biết việc cấy gặt vất vả, không nghĩ của tín thì là khó tiêu, buông lung ăn thịt uống rượu, phá trai phạm giới, đi buôn ngồi bán, gian lận cờ bạc, dòm ngó viện xá, xe dù qua lại, chỉ biết phụng dưỡng cho thân mình mà thôi thì thử hỏi Phật Pháp sẽ ra sao? Thương ôi! Có thân sáu thước mà không trí tuệ, Phật gọi đó là si tăng, có lưỡi ba tấc mà không biết nói Pháp, Phật gọi đó là Á Dương tăng (thầy dê cầm), giống tăng mà không phải tăng, dường tục mà không phải tục, Phật gọi đó là Điểu Thử Tăng (thầy chim chuột) cũng gọi đó là Thốc cư sĩ (cư sĩ trọc). Kinh Lăng-nghiêm chép: Thế nào gọi là kẻ giặc trong Phật pháp? Là những kẻ mượn y phục của ta, buôn bán Như Lai, gây ra các nghiệp ác. Những kẻ đó không phải là thuyền bè cứu đời mà chính là hạt giống nơi địa ngục.

Dù cho sinh nhằm thời Phật Di-lặc ra đời đi nữa nhưng thân đã bị giam cầm, chịu trăm ngàn hình phạt đau đớn trong núi sắt Thiết Vi rồi, chẳng phải một sớm một chiều. Nếu nay cho người làm tăng thì hoặc trăm, hoặc ngàn, cho đến ngàn muôn phương kế cũng chỉ là bóng dáng bên ngoài mà thôi. Dù có bàn đến bên trong cũng nào có được thay! Cho nên có câu nói rằng: Cánh thì cánh chim chi, mà hót thì hót tiếng chim phượng, chỉ là hòn đá lăn lóc chứ không phải là viên ngọc quý, là cỏ đai tốt, cỏ ngải xanh (chứ) chẳng phải là cỏ nhẫn trên núi Tuyết. Nước nhà độ tăng vốn là mong cầu ruộng phước cho mọi người, mà nay lại đòi lấy sưu thuế, coi tăng như dân thường. Không như thế, sao lại khiến đồ chúng của ta không đáng để quý chuộng trọng đãi. Như các bậc như Dục Vương Liễn, Vĩnh An Tung, Long Tỉnh Tịnh, Linh Chi Chiếu ngày trước, các Ngài ít ỏi như là một mảnh da rách của con cáo nhưng còn quý hơn da của ngàn con dê thì sao đáng để bàn nói ư? Than ôi! Cặn dơ trong biển Phật chưa có bao giờ quá lắm như ngày nay! Nên nói vời người trí, chớ bàn với kẻ khôn (sách Sử Cổ chép) da dưới nách con cáo mềm mại tìm khó được, người cắt làm nách.

LỜI RĂN CÁC TIỂU SƯ CỦA XỨNG PHÁP CHỦ CAO TĂNG ĐỜI LƯƠNG

Cõi trần thế không bền chắc, kiếp phù sinh chẳng lâu dài. Khi bóng thời gian ta sắp lụi tàn, thì tuổi tác của các ngươi đã dần cao. Thế nên, đừng để thế lợi làm mất thân này, đừng đem hư danh mà tạm cầu bã lợi. Chớ khinh rẽ điều nhân nghĩa, đừng ghen ghét bậc thiện tài. Đừng ức chế kẻ không có tội, chôn vùi người có đạo đức. Chớ sao lãng việc công trong đại chúng, đừng biếng nhác (thời khóa) tu trì. Đừng đắm mê ngủ nghỉ, chớ gượng biết việc người. Chớ bụng trống lòng cao, đừng làm lợi riêng cho mình. Đừng cậy sức mạnh mà hiếp đáp người yếu, chớ vì lợi mình mà tổn hại người khác. Đừng cho mình là bậc trưởng thượng mà khinh mạn người lớp sau, cũng đừng cậy tuổi trẻ tài cao mà khi dối bậc lão túc, chớ cho mình là bậc tài hoa mà coi rẻ người chung quanh, đừng cậy vào ý khí cao mà không nhường nhịn người. Đừng vì kẻ bất thiện mà cố chấp không chịu gần gũi, cũng đừng tự cho mình là người lành mà từ khước kẻ tăng ác. Đừng vì một chút công năng mà vội cho mình là đúng, đừng cậy mình có chút kiến giải mà nói người là sai. Chớ cho mình là khách mà khinh mạn chủ nhân, cũng đừng cậy mình là chủ coi nhẹ lữ khách. Đừng vì công việc mà bỏ mất giềng mối, đừng để ngang trái với đại chúng mà phá hoại phép tắc. Đừng để lòng kiêu căng nổi dậy mà gièm chê ngờ việc kẻ khác, chớ nên xuyên tạc tìm vạch lỗi người khéo xoay dụng về ý (hợp) với Phật pháp. Hãy ở trong cảnh trần lụy vấn vương mà dứt khoát từ bỏ tình ái đam mê, ca-sa một khi rời khỏi thân người rồi thì thật là khổ. Trong Nại-lặc (địa ngục) phải chịu các dị báo (đáng) gọi là nhẫn chịu, huống chi cứ mãi lặng khoanh tay vô vi an nhiên nhàn rỗi, không chịu tiến tu, dạo bước nơi đất vàng, ngồi trong nhà đẹp, chân không hề để lấm bùn, tay chẳng bao giờ (dính) nước thì áo mặc cơm ăn của đàn tín đâu dễ tiêu (được)? Và cạo đầu cho tròn, mặc áo cho đẹp, để làm việc gì? Cũng có người biết lẽ cương nhu, xúc cảnh theo duyên thích hợp, tiến thoái ứng dụng đều dung thông. Đáng đi thì đi, nên dừng thì dừng, trong ánh mắt trong xanh không hề vẩn đục, luôn luôn phản tính từng giờ, thì dù ngày ăn ngàn vàng cũng tiêu được. Tôi dùng muôn lời cặn kẽ, đắng miệng ngọt lời, nếu các người y theo lời tôi mà thực hành thì có lẽ đời sau còn gặp nhau, bằng không theo lời tôi để cất bước, thì tính đến kiếp nào mới có chỗ xuất đầu ra? Xin hãy trân trọng! Xin hãy trân trọng.

HỮU NHAI NINH TĂNG LỤC KHUYÊN THÔNG NGOẠI HỌC

Ôi! Học không chán rộng, nếu còn có điều không thông hiểu thì thật là kém thiếu với người đời. Tôn giáo của chúng ta chân lý rất cao xa, dùng pháp Ba thừa mà chuyên chở nhưng có khi bị ma chướng xâm lấn nên hẳn bị ngăn ngại. Phương (diệu) thuật ngăn đón chẳng gì bằng biết được tình hình của kẻ địch. Nói đến tình hình của kẻ địch thì ở Thiên-trúc có bộ Vi-đà, ở Đông Hạ có năm kinh bốn sách, cho nên trong tịnh xá Kỳ-hoàn có xây viện để bốn bộ Vi-đà, kẻ ngoại đạo cho bốn bộ sách ấy là chân lý cao tột của tông phái họ, lại có các thư viện trong khắp cõi đại thiên này, tất cả văn thư đều nhóm họp trong đó, Đức Phật đều cho phép đọc, vì để hàng phục kẻ ngoại đạo, nhưng không được làm theo kiến giải của họ, các bậc cổ đức cao Tăng ở phương đây nhiếp phục được các tông phái khác, tất cả đều nhờ tài học rộng, thí như đối với người Di địch, ngôn ngữ (của họ ta) không thông, cách ăn uống (của họ) khác nhau, thì làm sao thấu hiểu được ý chí của họ, thông suốt được phong tục của họ? Phải có người hiểu được ngôn ngữ của nước Hồ mới dễ lập (được) sự thuần hóa. Cho nên, Tập Tạc Xỉ nhờ ngài Đạo An dùng lời khôi hài mà nhiếp phục bọn Tông Lôi, nhờ ngài Tuệ Viễn dùng thơ lễ mà dẫn dụ; Quyền Vô Nhị nhờ ngài Phục Lễ dùng tài (lời) biện hoặc mà uốn nắn, Lục Hồng Tiệm nhờ ngài Kiểu Nhiên dùng Thi Hứa mà kết giao. Các Tổ Sư trên đây khi nhiếp phục người đều không dùng một phương thuật gì khác, các Ngài chỉ nhờ thông hiểu ngoại học mà thôi. Huống chi hai giáo Nho Đạo nghĩa lý sâu xa. Đối với hàng Thích tử đã tinh thông nội điển, thì lo gì không suốt hết, để mở rộng điều thấy nghe, không bị ngưng trị ở một chỗ.

BÀI MINH KHẮC BÊN CẠNH CHỖ NGỒI CỦA THIỀN SƯ CHI ĐỘN-ĐỜI TẤN

Phải chịu khó, phải chịu khó. Chí Đạo nếu không chăm chỉ tu trì, thì đâu những chìm đọng nơi bến mê, mà luống phải tan mất tánh khôn thiêng mầu lạ. Sống lênh đênh trong ba cõi, thác mù mờ mãi xích xiềng. Phiền lao rối rắm bên ngoài tăm tối, rong ruổi bên trong. Dấn thân tới chỗ đói khát, xa xăm quên hết mỏi mệt. Than ôi! Một đời người chẳng qua chỉ là giọt nước đầu ghềnh mà thôi. Thân ta nào phải là của ta, nào có ra gì. Chỉ có người thấu đạt mới nghĩ đến đạo đức, hiểu được trong lúc an nhàn phải có sự nguy biến. Cho nên họ thường ưa thích chỗ vắng lặng, chú ý mọi cử động, phủi sạch hệ lụy, tham cứu suy nghĩ, kính giữ giới cấm, thường đọc tụng lời dạy nhiệm mầu của Phật Tổ. Noi lòng theo thần đạo, gắng chí tu pháp vô vi, xa lìa ba chướng, trị tan sáu giặc, trống không năm ấm, rỗng suốt bốn chi, chẳng chỉ mà dụ chỉ, bặt dứt mà chẳng lìa. Khi quả Diệu Giác đã hiện bày, hiểu biết nhiệm mầu. Dần già mặc ngoại cảnh, cho muôn vật đổ xô, qua bên đây thì phải trở lại bên kia mà thôi. Đừng nghĩ cũng đừng bàn.

BÀI I

Ông đã đi xuất gia, lìa hẳn cha mẹ, cạo tóc xem thường hình hài, áo pháp khoác trên mình. Ngày giã từ thân thuộc cha lệ tuôn rơi, cắt lìa tình ái trọng đạo, ý vượt khỏi trời xanh. Nên vâng giữ chí này, kinh đạo phải hiểu rõ. Sao nỡ để vô tâm, bám víu vào thanh sắc, rong ruổi suốt đêm ngày. Kinh nghiệp không thành tựu, đức hạnh ngày tiêu mòn, nhơ nhuốc chứa đầy bụng, thầy bạn thêm tủi hổ, phàm tục lại khinh khi. Người xuất gia như thế, luống tự chuốc nhơ danh. Đời nay nên cố gắng, phải tự chuyên tinh.

Lời dạy bảo môn nhân rằng:

Xin cám ơn các đệ tử! Xuất gia là đạo rất nặng nề, rất khó khăn, không được tự khinh, không được cho là dễ dàng. Cái gọi là nặng nề là đeo mang đạo đức, gánh vác nhân nghĩa, vâng giữ tịnh giới, đến chết mới thôi. Cái gọi là khó khăn, là dứt thế lìa tục, cắt bỏ hẳn ân ái, thay tình đổi tánh, khác hẳn mọi người, làm điều mà người không làm được, cắt bỏ điều mà người không thể cắt bỏ, nhẫn khổ chịu nhục, xem thường thân mạng, gọi là khó khăn, đó là bậc đạo nhân. Đạo nhân là dắt dẫn người, việc làm đáng noi gương, lời nói đáng bắt chước. Mặc pháp phục xuất gia, mọi hành động đều là phép tắc, không tham lam, không tranh chấp, không chê gièm, không che giấu, học vấn cao xa, chí mong đạt đến con đường huyền diệu, đó là danh xứng với tham vị tam tôn. Ra Hiền vào Thánh, gội trừ linh hồn, cho nên được lòng quân chủ, không mong quả báo, cha mẹ không mong giúp sức, người ở khắp thế gian đều quy nhiếp. Tổn giảm của vợ con, cung phụng y phục thức ăn, khom mình cúi ngước, không nề mệt nhọc. Vì chí hạnh thanh tịnh, thông với thần minh, đạm bạc trong sạch, rất đáng quý trọng. Tự được vào dòng đạo pháp cao siêu. Người mới học chưa thể nhận được phép tắc, theo tà bỏ chánh, quên chỗ chân thật. Cho thông minh chút ít là trí, cho cung kính qua loa là đủ, ăn no suốt ngày không hề dụng tâm, nhìn trở lại mình thật cũng đáng buồn. Chấp rằng xuất gia nay đã lâu năm, nhưng kinh nghiệp chưa thông, văn tự không rõ, luống qua một đời, cũng chưa thành danh, việc như thế không đáng để suy nghĩ hay sao? Kỳ hạn vô thường, chẳng sớm thì chiều, ba đường khổ đau, không mạnh không yếu. Vì nghĩa thầy trò sâu xa nên mới chỉ bày, có thể làm lời răn mãi mãi cho các hữu tình.

BÀI II

Ông đã xuất gia, bỏ tục giã từ vua, nên phải tự siêng chăm, chí vượt khỏi mây xanh. Tài sắc chẳng đoái hoài, không làm bạn với đời. Vàng ngọc không quý trọng, chỉ có đạo là chân thật. Buộc mình giữ khí tiết, cam khổ vui cảnh nghèo. Tiến đức tự độ mình, lại hay độ tha nhân. Sao lại đổi nếp sống, rong ruổi theo gió bụi. Ngồi chưa nóng chiếu đã rảo việc khắp Tây Đông, nặng như việc giao dịch, huyện quan luôn hối thúc. Kinh đạo chẳng làu thông, giới đức không trọn vẹn. Bè bạn thường chơi đùa, đồng học đều xa lánh, người xuất gia như vậy luống bỏ mất tuổi đời. Đời nay, phải cố gắng, nên thương xót lấy mình.

BÀI III

Ông đã xuất gia, xa cách người tộc họ, không thân không sơ, thanh tịnh vô dục. Hay cũng không vui mừng, dở cũng chẳng suy nghĩ. Siêu nhiên tự tại, khoát nhiên lìa thế tục. Chí trụ lý nhiệm mầu, phép chân giữ thành thật. Đắc độ rộng cứu vớt, khắp nơi nhờ phúc lộc. Sao nỡ vô tâm, đắm nhiễm vẩn đục, luống tranh giành hay dở, tốt xấu vẫn hơn thua, tranh lợi dưỡng với đời, nào khác kẻ tôi tớ. Kinh đạo chẳng hiểu rõ, đức hạnh không đầy đủ. Người xuất gia như vậy, luống tự chuốc hủy nhục, đời nay vì khuyên dạy, nên phải tự sửa đổi.

BÀI IV

Ông đã xuất gia, gọi là Đạo nhân. Chẳng kính thờ cha mẹ, không làm tôi vua quan. Khắp trời đều cung phụng, kính sợ như thần linh, dốc lòng thành lễ bái. Bất luận là giàu nghèo vì chuộng hạnh thanh tu, tự lợi và lợi tha, cắt bớt phần của mình, một hột nặng bảy cân. Sao lại sinh biếng nhác, không trả ân sâu kia, buông lung dựa thế tục, thân ý phải não phiền, không giới ăn của thế, chết vào núi Thái Sơn, sắt nóng làm thức ăn, đồng chảy rót vào miệng. Đau khổ như thế đó. Kinh Pháp Cư dạy rõ, đời nay nên cố gắng, phải sửa đổi tự tâm.

BÀI V

Ông đã đi xuất gia, được gọi là Tức tâm, nhơ xấu không đắm nhiễm, chỉ lấy đạo làm trọng. Chí tham học trong sạch, như ngọc sáng băng trong. Phải tu kinh giới, để cứu giúp tinh thần, chúng sinh nhờ nương tựa, và độ những người thân. Sao nỡ lại vô tâm, theo tục lụy nổi chìm, buông thả thân bốn đại, bỏ mặc năm căn trần. Đạo đức ngày cạn mỏng, việc đời ngày càng sâu. Người xuất gia như vậy, bị đồng hóa với đời. Đời nay phải răn giữ, may mắn được khai thần.

BÀI VI

Ông đã đi xuất gia, lánh đời bỏ hình hài, nên phải gắng tình ý, phù hợp với Nê-hoàn, vì sao lại nhiễu động, không mến cảnh thanh nhàn, làm kinh đạo hao tổn. Luôn bận rộn việc đời, không sống theo đạo thanh bạch, lại bước vào bùn lầy. Mạng căn như bóng chớp, chỉ trong khoảng sát-na. Địa ngục nỗi đau khổ, bút mực khó tả xiết. Đời nay phải giục giắng, nên kính trọng kinh điển.

BÀI VII

Ông đã xuất gia, không nên tự khoan dung. Hình dáng tuy khô khan, nhưng đức hạnh dễ nhìn. Y phục tuy to xấu, ngồi đứng dáng trang nghiêm, uống ăn dù đạm bạc, lời nói đáng để lòng. Hạ về chịu nóng bực, Đông đến nhẫn rét buốt. Hãy tự giữ khí tiết, không uống nước suối trộm. Của dâng không hợp lễ, chân chẳng bước ra nhận. Trong tĩnh thất ẩn tu, như đối trước Thế Tôn. Học lực tuy không nhiều, đáng sánh với Hiền Thánh. Người xuất gia như vậy, đủ đền đáp cha mẹ, họ hàng người tri thức, tất cả đều nhờ ân. Nay vì người răn dạy nên phải tự siêng chăm.

BÀI VIII

Ông đã đi xuất gia, tâm tánh có tối sáng, học vấn không nhiều ít, cốt ở chỗ ròng tu. Bậc Thượng sĩ ngồi thiền, người trung căn đọc tụng, kẻ hạ căn làm việc, trông coi việc chùa tháp. Đâu nên để suốt ngày, không làm được việc gì. Lập thân không hiển đức, đáng nói luống một đời. Ngày nay bảo ban người, phải tự vững lòng dạ.

BÀI IX

Ông đã đi xuất gia, lìa hẳn đấng sinh thành. Lấy đạo pháp sửa tánh, áo thế tục lìa thân. Ngày giã từ thân thuộc, lòng buồn vui lẫn lộn.

Xa hẳn chốn tục lụy, vượt khỏi (chốn) bụi hồng trần. Nên tu học kinh đạo, giữ mình sống theo chân. Vì sao lại vô tâm, đắm nhiễm nhân thế tục. Kinh đạo đã cạn mỏng, đức hạnh không mảy may. Lời nói không đáng quý, giới đức chẳng được trọng. Thầy bạn thêm bận lòng, sân hận ngày càng thêm. Người xuất gia như vậy, tổn pháp nhuốc nhơ thân. Hãy nên suy nghĩ kỹ, làm tốt cho thân sau.

BÀI RĂN NÓI VỀ XUẤT GIA CỦA PHÁP SƯ TỪ ÂN-ĐỜI ĐƯỜNG

Bỏ nhà xuất gia là để làm gì? Cúi đầu đảnh lễ đấng Không Vương, mong ra khỏi nhà phiền não. Nhờ Ba Sư bảy chứng quyết định hóa độ lúc ban đầu, cạo tóc nhuộm áo, phát lời thề rộng lớn độ sinh. Dứt tham sân, trừ tật xấu, trong mười hai thời luôn luôn cẩn thận giữ gìn ba nghiệp, nên mài chân tánh như hư không. Tự nhiên sẽ đẩy lui được ma quân ngoài trận chiến. Phải siêng năng học tập và tham cần thưa hỏi các bậc Sư tượng, hãy trao đổi những người cùng chí hướng, vì họ có khả năng làm chỗ nương cậy cho mình. Đừng bảo lòng dạ rối rắm như chông gai để rồi buông thả cho bóng thời gian trăm năm qua mất. Phải nối gót theo bậc Tiên Hiền, học tập theo Tiên Thánh, đều nhờ vào ba pháp: Văn tuệ, Tư tuệ, Tu tuệ mà được chứng ngộ, khi đi đứng, lúc nằm ngồi, phải giữ gìn ba nghiệp, tinh chuyên mỗi niệm không sai sót thì mới được hợp nhau. Chân kinh mười hai bộ của Phật dù nói dọc hay nói ngang nhưng cũng đều chỉ rõ nẻo Bồ-đề mà thôi. Nếu ta không học tập, không lắng nghe, không thực hành theo đó, thì hỏi đến ngày nào tâm mới khai ngộ, phải mau cứu vớt như cứu lửa cháy đầu, đừng đợi sang năm và nhiều năm sau, hễ một hơi thở ra không thở vào là đã qua đời khác. Ai dám bảo đảm thân này là thân bền chắc? Không nuôi tằm mà có áo mặc, không làm ruộng mà có cơm ăn, người thợ dệt, kẻ nông phu phải gắng sức làm lụng đến đổ mồ hôi máu, vì muốn cho ta thành đạo nghiệp nên đem lại cúng thí, mà đạo nghiệp của ta chưa thành thì làm sao tiêu được? Bùi ngùi thương công cha sinh, chạnh lòng nghĩ ân mẹ dưỡng, nuốt đắng nhả ngọt, khổ cực biết dường nào, dời khô đến ướt, nuôi nấng cho con nên người, ý muốn cho ta tiếp nối môn phong, kế thừa tiên tổ.

Vậy mà, một sớm đành giã từ thân tộc, tìm lối xuất gia, mẹ cha đã tám, chín mươi tuổi mà không có người nương tựa. Nếu ta không cố gắng tu trì để được siêu phàm lên Thánh, cứ mãi lần lữa, thì rất là sai lầm. Y ruộng phước, bát hàng rồng, thọ dụng một đời cầu giải thoát. Nếu vì lợi nhỏ để lòng vương thì bờ Niết-bàn kia làm sao đến được mấy người. Thiện nam! Ông phải biết: khó được gặp gỡ như đời này, đã gặp Phật pháp đi xuất gia mặc áo vải to, duyên may ấy cũng như rùa mù gặp được bộng cây nổi. Bậc đại trượng phu phải mạnh mẽ, gắng giữ thân tâm, đừng dễ dãi, ví được sức mạnh nguyện giúp nhau thì quyết chắc trong hội Long Hoa sẽ được Phật thọ ký.

LỜI KÝ Ở NHÀ TỈNH HÀNH CHÙA PHÁP LUÂN NÚI NAM NHẠC DO

Cư Sĩ Siêu Nhiên Triệu Linh Căng soạn

Tôi từng cho rằng: trong các thứ khổ, chỉ có bệnh khổ là nặng hơn hết, và trong các việc làm phúc chỉ có việc chăm sóc người bệnh là quý hơn hết. Cho nên, người xưa cho người bị bệnh là Thiện tri thức và khuyên người lấy việc nuôi người bệnh làm ruộng phước. Bởi thế tùng lâm vì người già bệnh mà sắp đặt mọi tiện nghi. Nay tùng lâm nhóm chúng tu học, hễ có người bệnh thì dạy dời người bệnh qua nhà Tỉnh hành, không phải chỉ TU TỈNH CÁI HÀNH để hết bệnh mà còn muốn cho người bệnh trong lúc đêm thâu canh vắng với ngọn bạch lạp phản chiếu trong lòng mà để tâm cứu xét đến vấn đề lớn của kiếp sống con người. Như vậy há bảo là luống uổng hay sao?

Đã đặt ra chức Tri Đường để trông coi thuốc thang cơm cháo, lại răn chốn thường trụ phải lo chu cấp vật dụng để đủ dùng. Đây là quy chế muôn đời của Tiên Phật.

Thế mà, thời nay không còn được duy trì như thế nữa. Nhà thì đặt tên là Tiên Thọ, quê hèn không chịu sửa đổi, người bệnh thì không xét lại lỗi ở mình, người nuôi bệnh thì làm việc trái phép tắc, thuốc thang thì bốc càn bốc bậy, khiến căn bệnh trở nên nguy kịch, đến đỗi có người phải chịu đau yếu thảm thương, không về được chốn tham đường, vì những kẻ lơ là làm mất đi ý nghĩa cao quý, mệnh danh là xây nhà nuôi bệnh! Chức Tri Đường chỉ có danh xưng mà không có thật nghĩa. Hoặc có người cùng đường ốm nặng mà chốn thường trụ cứ mãi lo (việc) cần kíp cho việc tiêu dùng hàng ngày, không còn đặc biệt vỗ về chăm sóc cho người bệnh lại mất đi ý nghĩa cao đẹp của Tôn Giả Ưu-ba-ly trông nom người già bệnh nữa. Do đó mà người bệnh rên rỉ đau nhức, căn bệnh ngày càng thêm nặng (đó là) lỗi (của) người kia đây chứ chẳng phải là lỗi của Đức Như Lai. Vì có người quen đến thăm bệnh cứ đều là chòm xóm quen xưa, vì tâm đã không khắp nên việc xảy ra có sai sót.

Nay ở chùa Pháp Luân, khi có người bệnh thì đổi ra nằm một phòng mới, phải cắt người thật lòng. Bởi cắt (người) có bổn phận thì việc trông nom người bệnh mới được tốt đẹp thành tựu, vì thế bất luận là ai, chỉ có người bệnh phải nên tịnh dưỡng như thế nào, nghĩa là chính mình phải xét nghĩ đến lỗi lầm. Đời có những người học thức, có khả năng đạt được lý này. Bổn phận của các nạp tăng là phải cắt đứt mọi cơ duyên, phải ngay lúc đau đầu nóng trán, xét tột đến cội nguồn của sự dao động; trong lúc kêu rên đau khổ, chỉ cần nắm lấy cái tâm suốt đau ấy, xét nghĩ cho kỹ ai là người thọ bệnh? Người đã không thấy thì bệnh từ đâu đến? Người và bệnh đều mất thì là vật gì? Thẳng suốt thấy được rõ ràng chính (là) lúc người bệnh sắp khỏi.

BÀI MINH TỨC TÂM CỦA SA MÔN PHÁP SƯ VÔ DANH Ở VỊ TÂN, ĐỜI CHU

Trong pháp giới có ngọc báu Như ý ở nơi người, đã cất lâu trong thân, khắc sâu vào ngực rằng, người xưa thu nhiếp tâm ý. Hãy răn dè, hãy răn dè! Đừng lo nhiều, đừng biết nhiều! Biết nhiều thì việc nhiều, chẳng bằng dứt ý. Lo nhiều thì mất nhiều chẳng bằng giữ một. Lo nhiều thì chí tán, biết nhiều thì tâm loạn. Tâm loạn sinh não, trí tán ngăn đạo, chớ bảo nào hại, khổ kia càng mãi. Đừng bảo nào sợ, hoạ kia vạc sôi. Giọt nước không ngừng bốn biển sắp tràn. Mảy bụi chẳng chùi năm non sắp thành. Giữ ngọn ở gốc, dù nhỏ chẳng khinh. Bít cả bảy lỗ, đóng ngăn sáu căn. Không ngắm nhìn sắc, chẳng lắng nghe thanh, nghe thanh tai điếc, thấy sắc mắt mù. Một văn một nghề, muỗi nhỏ trong hư không. Một kỹ một năng, đèn dưới mặt trời. Anh hiền tài nghề ấy là ngu tệ. Buông bỏ thật thà, đắm đuối đẹp nhảm. Ý ngựa dễ rong, tâm vượn khó buộc, thần đã nhọc mệt, hình hắn mòn hao, lối tà trọn mê, đường tu hằng chấp. Anh hiền tài năng, ấy rằng tăm tối, chê vụng khen khéo, âm đức chẳng lớn. Danh đầy hạnh mỏng, ngôi mau cao đổ, kéo đuối nhọc co (thụ hưởng thật nhiều vật chất khó mà từ bỏ) chỗ dùng không thường. Trong chứa mong khoe, ngoài thêm oán ghét. Hoặc bàn ngoài miệng, hoặc viết trong tay. Muốn người khen trọng, cùng hở chỗ xấu. Phàm phu cho tốt, Hiền Thánh nói dở. Ngắm vui tạm thời, buồn lo hoài mãi. Sợ bóng sợ dấu, càng chạy càng mắc. Vững ngồi bóng mát, mất dấu bóng chìm. Nhàm sinh chán già, hễ nghĩ liền tạo. Nếu diệt tâm tưởng, sinh tử mãi bặt, không tử, không sinh, vô tướng, vô danh. Một đạo rỗng lặng, muôn vật đều bằng. Nào hơn, nào kém, nào nặng, nào nhẹ, nào sang, nào hèn, nào vinh, nào nhục. Thẹn trong trời lặng, mặt trời liền tỏ. Yên như đồi núi vững tựa thành vàng.

Kính mong hiền triết đạo này lợi ích.

LỜI QUY GIỚI CỦA HÒA THƯỢNG ĐỘNG SƠN

Sa-môn Thích tử phải lấy hạnh cao thượng làm tông. Đã dứt vướng vin với trần cảnh nên tùy phận mà ăn mặc cho đạm bạc, cắt tình mẹ cha ân nặng, bỏ đạo vui tôi lễ nghi, cạo tóc nhuộm áo, giữ khăn (đãy lọc nước) ôm bát, đi vào nẻo tắt, ra khỏi trần lao, bước lên thềm bậc tiến vào cảnh Thánh, tinh sạch như sương, trắng trong như tuyết. Rồng thần kính sợ, quỷ mị quy hàng. Chuyên tâm dụng ý tu hành để đền đáp ân sâu của Phật, đối với công cha mẹ sinh thân khó nhọc mới đáp đền và thấm nhuần lợi ích bốn ân. Đâu cho kết gá môn đồ, theo bè bạn việc gìn nghiên bút, rong ruổi văn chương chăm chăm theo bã lợi danh, bám bám vương mang bụi trần. Không nghĩ đến giới luật, phá bỏ các oai nghi, cậy một đời dễ dãi trôi qua mà phải bị đắng cay muôn kiếp. Nếu bắt chước tập quen như thế, thật uổng xưng là Thích tử sa-môn.

BÀI THƠ VIẾT VÀO GIẢI ÁO CỦA TUÂN THỨC SÁM CHỦ-CHÙA TỪ VÂN

Tri bạch! Ông phải biết: Những việc làm hàng ngày, nếu có hại đến pháp lành thì phải lánh xa. Những đường lối diệt ác càng phải dụng công. Miệng không tự khoe khoang, lòng không tự dối trá. Chớ giữ tâm mục nát bên trong, đừng giả bày hình dáng thiền tương bên ngoài. Muốn người khen ngợi, chứa lợi riêng mình. Đầu mối giết đầu nhân nghĩa là nền móng giam hãm điều tai hoạ. Tự cậy đức mình ắt có nhiều chê. Tự khoe điều hay sẽ chuốc nhiều quấy. Quyến thuộc nhóm họp, ông phải lánh xa. Lợi dưỡng mảy may (nhỏ nhen) ông nên kiêng sợ. Trong lúc tự làm phải lựa chọn suy nghĩ. Ngoài phép răn ác, phép nào là nên. Hương thơm một nén, sen hồng vài cành. Miệng đừng thôi tụng, ý chớ nghĩ khác. Ngồi thiền lạy Phật, phép này đừng thiếu. Ăn mặc vừa đủ, chí cả chớ dời.

Văn chương bút mực tạo đời, như lời Phật dạy phải răn. Nói người hay dở, như pháp kiêng dè. Dù tiếp khách bạn, miệng chớ lắm lời. Thường sợ bóng sáng chớ để hao thời. Xác thân giả tạm chẳng hẹn dài lâu. Hoa sen cõi tịnh, là chỗ thật về, khiến ngày lẫn đêm, siêng năng tu hành.

VĂN PHÁT NUYỆN

Nguyện thân này của con, được an ổn học đạo, xa lìa các chướng duyên. Chánh pháp không ma nạn, cõi nước được giàu vui, thường ở chốn thanh nhàn, ưa riêng nơi vắng lặng. Áo vá với cơm rau, tùy phận vừa biết đủ. Thường nghĩ sợ của thí, như chống chọi giặc mạnh, luôn xa lánh quyến thuộc, như xa lánh kẻ thù, thường giữ gìn thiền tuệ như giữ gìn châu báu. Luôn bỏ các pháp ác, như bỏ bệnh tệ hại. Pháp y cùng gậy tích là binh pháp chống ma, giường dây với lò hương là dụng cụ điều hòa giúp tiến tu đạo nghiệp. Ngoài những món này ra không hề tham đắm gì nữa. Tập tục thường sinh khởi, nguyện không gần nó. Ham dục và danh lợi, chẳng phải đệ tử ta. Khen chê như tiếng dội, hang trống gió qua tai. An nhẫn với nghịch thuận, chí trọn nơi đạo nghiệp.

BÀI MINH KHẮC BÊN CHỖ NGỒI CỦA THIỀN SƯ KHUÊ PHONG TÔNG MẬT.

Sáng dậy nên làm việc, xét lời trọn ít lỗi. Thân an siêng giới định, việc lỗi chẳng dạo chơi. Người quấy chẳng nên bàn, lỗi mình nên tự sửa. Trăm năm đã có chừng, việc đời thuở nào thôi cạo tóc vào tăng số, phải sánh với thượng lưu. Làm càn theo đời đổi, chí tự chuộng rộn ràng. Bốn ân nặng như núi, mảy may vẫn chưa đền. Hớn hở ở nhà cao, mài miệt toan cầu gì? Sống chết trong hơi thở, sinh diệt như bọt nước. Đừng để mất áo vuông, đổi thành nhân A-tỳ.

LỜI THỊ CHÚNG CỦA THIỀN SƯ BẠCH DƯƠNG THUẬN

Duyên nhiễm dễ đến, đạo nghiệp khó thành, không rõ trước mắt, muôn duyên khác nhau, chỉ thấy gió cảnh mênh mông điêu tàn, lửa tâm thiêu cháy khoảng rừng công đức. Lửa lòng hừng hực cháy đỏ, thiêu rụi hạt giống Bồ-đề. Nếu đạo niệm đồng với tình niệm thì xưa nay đã thành Phật. Vì đại chúng như vì chính mình, kia đây làm xong mọi việc, không thấy người sai mình đúng, tự nhiên trên kính dưới cung, Phật pháp thường hiện tiền, phiền não sáu trần giải thoát.

LỜI RĂN CỦA THIỀN SƯ TRI GIÁC DIÊN THỌ CHÙA VĨNH MINH

Cửa học đạo, không có gì kỳ đặc, chỉ cần gội sạch căn trần, buông bỏ hạt giống, nghiệp thức từ vô lượng kiếp đến nay mà thôi! Các ông hãy nên diệt hết tình niệm, bặt dứt vọng duyên. Đối với tất cả cảnh giới ái dục trong đời giữ tâm in tuồng như gỗ đá. Dù cho mắt đạo chưa tỏ, tự nhiên cũng thành tựu được tịnh thân. Nếu gặp được bậc Đạo sư chân chính, thì phải giữ tâm siêng chăm (mà) học tập. Vì dù tham mà chưa suốt, học mà chưa thành, nhưng một khi đã nghe qua tai rồi, thì mãi mãi kết thành hạt giống đạo pháp ở tương lai. Đời đời không rơi vào đường ác, kiếp kiếp chẳng bị mất thân người. Vừa mới sinh ra đã được gặp Phật pháp, một nghe ngàn ngộ. Các ngươi phải tin rằng bậc chân thiện tri thức là nhân duyên rất lớn trong cõi người, vì các bậc ấy có khả năng giáo hóa chúng sinh, giúp cho người đời thấy được Phật tánh.

Than ôi! Đời mạt pháp có những kẻ cuồng nói Nhất thừa. Họ chỉ học những lý thuyết suông, chứ hoàn toàn không thật hiểu, việc làm thì có, miệng thì nói không. Tự thân chưa tránh khỏi nghiệp lực kéo lôi lại đi dạy người, dạy người bác vô nhân quả. Họ bèn nói ăn thịt, uống rượu chẳng ngại đạo Bồ-đề, trộm cắp, hành dâm không ngăn trí bát-nhã. Những kẻ ấy sống thì bị phép vua tra khảo, chết phải chịu giam hãm chốn A-tỳ. Chịu trả nghiệp ở địa ngục hết rồi, lại đọa vào loài súc sinh, ngạ quỷ, trăm ngàn muôn kiếp không có ngày ra khỏi. Trừ phi một niệm biết xoay trở lại thì tức khắc sẽ xoay tà thành chánh. Nếu không biết tự sám hối, tự độ tự tu thì dù chư Phật có ra đời cũng không thể cứu họ được. Nếu cắt bỏ tim gan mà giống như gỗ đá thì mới nên ăn thịt. Nếu uống rượu giống như uống đồ phẩn tiểu thì mới nên uống rượu. Nếu thấy trai gái xin đẹp giống như thấy thây chết thì mới nên trộm cắp. Dù (cho) ông có luyện được tâm mình đến địa vị vô phân biệt như thế đi nữa thì lẽ ra cũng chưa nên thuận theo ý ông, mà phải đợi cho chứng được vô lượng Thánh thân rồi mới nên làm những việc nghịch thuận của thế gian. Bậc Thánh hiền xưa hành động nào có tâm gì khác đâu! Chỉ vì tăng ni đời mạt pháp, ít ai chịu giữ giới cấm cũng vì sợ những kẻ phá giới ấy lừa dối người đời làm cho họ lui mất đạo tâm, cho nên Thánh hiền các ngài phải rộng làm việc ngăn ngừa, các ngài giảng nói ngàn kinh, trình bày muôn luận cũng đều không ngoài mục đích ấy, cho nên người học đạo nếu không bỏ dâm thì sẽ dứt mất tất cả hạt giống thanh tịnh. Nếu không bỏ rượu thì sẽ dứt mất tất cả hạt giống trí tuệ. Nếu không bỏ trộm cắp thì sẽ dứt mất tất cả hạt giống phước đức. Nếu không bỏ ăn thịt thì sẽ dứt mất tất cả hạt giống từ bi. Chư Phật khắp ba đời cùng lời giảng bày Thiền tông trong thiên hạ chung giọng giảng nói. Thế thì tại sao kẻ hậu học lại xem thường mà chẳng chịu nghe theo. Tự hủy mất chánh nhân lại thực hành theo ma nói, chỉ vì xông ướp nghiệp chủng lâu đời, sinh ra gặp nhằm thầy tà bạn dữ. Sức thiện dễ mòn, rễ ác khó nhổ. Há không thấy bậc Thánh xưa dạy rằng: Thấy một việc ma như bị muôn mũi tên xuyên vào tim, nghe một tiếng ma như bị ngàn dùi nhọn đâm vào tai. Mau phải xa lìa, không được thấy nghe.

Đều tự xét lòng mình, không nên dễ dãi.

TÁM CỬA TRÀN ĐẦY HƯƠNG VỊ GIẢI THOÁT CỦA PHẬT

Lạy Phật là sao? Nghĩa là kính trọng công đức của Phật. Niệm Phật là sao? Nghĩa là cảm niệm ân sâu của Phật. Trì giới là sao? Nghĩa là hành trì theo hạnh của Phật. Xem kinh là sao? Nghĩa là tỏ rõ chân lý của Phật. Ngồi thiền là sao? Nghĩa là đạt đến cảnh giới Phật. Tham thiền là sao? Nghĩa là hợp nhất với tâm Phật. Đắc ngộ là sao? Nghĩa là chứng được đạo quả của Phật. nói pháp là sao? Nghĩa là tròn đầy được ý nguyện của Phật. Trên lý thật tế, thì không chấp nhận một mảy bụi. Trong cửa Phật sự thì không bỏ một pháp. Nhưng tám việc này cũng như bốn phương, bốn góc, thiếu một cũng không được. Thánh trước Thánh sau đường lối ấy chỉ một mà thôi, sáu pháp ba-la-mật cũng phải gồm tu như thế, mới được phước tuệ lưỡng toàn. Lục Tổ nói: người chấp không vẫn còn vướng mắc ở một góc. Cho nên Tổ Đạt-ma nói rằng không lập văn tự, chỉ cần thấy tánh thành Phật chính là ý này. Dù vậy, đối với kẻ còn mê vẫn phải nương vào văn tự mới được. Nếu chê bai kinh Phật thì tội chướng sẽ sâu nặng biết dường nào! Như thế chẳng lẽ không răn dè ư?

BÀI VĂN NÓI VỀ CHÍNH DANH TỲ-KHEO CỦA LUẬT SƯ ĐẠI TRÍ CHIÊU

Tiếng Phạm là Bí-sô, Hán dịch là Khất sĩ, nghĩa là bên trong thì xin giáo pháp của chư Phật để trị tâm, bên ngoài thì xin cơm của đàn-việt để nuôi thân, cha mẹ là bậc chí thân, cũng phải giã từ trước nhất. Tóc râu là cái mà người đới quý trọng cũng phải cạo bỏ hết. Giàu sang bảy báu tràn đầy, cũng vất bỏ đồng như cỏ rác. Tôn quý quyền uy nhất phẩm mà cũng xem đó khác gì mây khói, nhàm chán thân vô thường, xét cùng (tột) đến gốc rễ. Muốn cho chí khí thanh cao, thì phải dẹp thân giả tạm. Cầm tích trượng giống như cầm cây lê khô, mang bình bát nào khác mang chén mẻ, vai khoác cà-sa xem như mặc áo rách. Tay mang túi đãy xem đồng như túi rách. Phải trong sạch nuôi mạng sống, giữ mình thấm nhuần trong tám Thánh đạo. Kiệm ước (dè sẻn) để tu thân thì được dự vào hạnh tứ y. Chín châu bốn biển đều là chỗ dựa nương. Dưới cội bên gò tất cả là nơi nghỉ ngơi. Vin cỡi cái gọng xe Ba thừa mà bước vào dấu vết của chư Phật. Vâng lời Thánh giáo mà không trái mới thật là đệ tử Như Lai, gặp gỡ duyên đời mà tâm trí không thay đổi, mới thật là bậc đại trượng phu. Được vậy mới đánh lui được ma quân mới xé rách được lưới trần. Dù có nhận lãnh muôn lượng vàng cũng người dâng cúng, thì tin rằng cũng tiêu được và xứng đáng làm ruộng phước cho bốn loài, chắc hẳn chẳng phải luống dối. Vậy ý nghĩa của danh từ Khất sĩ, có phải nói về việc đó chăng?

BÀI MINH VỀ DUYÊN

Vì báo ân xa, bỏ Nho theo Phật. Giũa mài thói cũ, gột sạch duyên đời. Cắt đứt các dòng, vách thẳng muôn trượng. Văn chương bút nghiên, đều đem đốt bỏ, phong hoa tuyết nguyệt, chẳng nhọc ca ngâm, rượu thịt sắc tài, chẳng còn ngoái đầu, danh lợi vinh hoa, nào có để mắt. Bọ hèn càn dở, chánh pháp ngập chìm. Tuy rằng xả tục, thói tục chẳng thừa. Đều nói xa trần, duyên trần chẳng dứt. Mới gần chợ búa, muốn làm xà-lê. Chưa vào tùng lâm, muốn xưng Trưởng lão tránh nước (chết đuối) vào lửa (chết thiêu) đâu biết mù si. Bước lùi mà mong tới thật là điên đảo. Áo Nho tâm Phật đời chẳng thiếu người. Áo Phật tâm Nho nhan nhãn trước mắt. Luật ngừa thô bạo, Thiền dứt duyên vọng, xét kỹ khổ không, thường nghĩ nhàm lìa. Thầy tà bạn dữ, sợ như sói, cọp. Thầy hay bạn lành thương như cha mẹ. Thấp lòng như đất, nín miệng như ngu. Xô dẹp ngã nhân, mòn dừng ý khí. Ngồi yên nhà vắng, tụng niệm qua thời, nghĩ đến Lạc Bang, một lòng chờ mãn. Nếu được như thế, ta còn lo chi, nếu chẳng như vậy, người nên suy tính.

BÀI MINH KHẮC BÊN CHỖ NGỒI

Bốn thế chẳng siêng năng, trăm việc không thiếu hụt, ngồi yên mà thọ dụng, nào hiểu từ đâu đến. Chỉ nuôi dưỡng thân nhơ, ít làm việc phước lành. Dù có tâm hổ thẹn, vẫn sợ khó tiêu. Huống chi ở học đường, lạm xen nghe dạy bảo, vạch tìm người hay dở, phá phép tắc của người. Mượn gá duyên bên ngoài, lánh xa phép đại chúng. Khinh chê bậc tiên giác, lừa bịp kẻ hậu sinh. Dòm ngó điều lợi danh, cấu kết phe thêm đông. Nếu không bị bệnh dữ, thì cũng có dư ương, luống hao phí tinh thần, rốt cuộc không thành tựu. Lên xuống cũng do mình, thiện ác nào khác cửa. Phúc đi thì hoạ đến, dù ăn năn nào kịp. Lời này chẳng dối gạt, mọi người hãy nghĩ suy.

LỜI BẠT VỀ QUY THẰNG

Học chúng! Hãy nghe lời ta nói: Mẹ cha sinh thân này, lẽ phải nên hầu hạ, nuôi nấng lúc tuổi già. Sư trưởng nhận độ mình, đúng lý phải gần gũi, kính vâng lời dạy bảo, lại xa cách làng xóm, gởi thân chốn trường giảng. Cho nên phải nương gần người nhân đức, chọn lấy điều tốt lành. Dựng chí lập thân, thưa hỏi đừng bỏ mất thời giờ, gìn giữ chớ lìa nửa bước. Nếu để theo con ngựa chứng vô minh, buông lung con vượn hoang nghiệp thức mặc tình, thấy điều lành không bắt chước, làm việc ác chẳng hổ thẹn. Hoặc bị người quở trách trị phạt đuổi đi. Đâu chẳng cô phụ hệ lụy đến cha mẹ, tủi nhục thầy bạn khuyên răn nhắc nhở. Lạm xen vào hàng tịnh chúng, uổng tâm người thí cúng dâng, hiệu là vô tàm nhân, gặp việc chẳng vừa ý. Hãy y luật mà xem xét, lược bày các điều chương. Người đến học đồng vâng theo, giúp chánh pháp tồn tại lâu dài.

QUYỂN 3

LỜI KÝ NƠI NHÀ TĂNG THIỀN VIỆN VĨNH AN Ở PHỦ CHÂU DO CƯ SĨ VÔ TẬN SOẠN

Người học đạo ngày xưa chôn tâm vùi chí vào chốn sâu hang thẳm. Các ngài đào hang làm nhà ở, bện cỏ làm áo mặc, vốc nước suối mà uống, nấu trái lê mà ăn, cùng cọp beo làm bạn, kết thân với vượn khỉ, một khi mắt tuệ của các Ngài đã mở rồi, thì bất đắc dĩ thanh danh ngào ngạt bay xa, răn thái độ bày chắp chốn thì những người cùng chí (khổ hạnh) không ngại đường xa ngàn dặm, họ cũng mang lương khô quảy dép đến theo học. Dù bậc đạo nhân có từ chối không nhận, nhưng họ vẫn ở lại giúp đỡ công việc kiếm củi, hái rau, giã gạo nấu cơm, quét rác dọn dẹp, nhổ cỏ trồng rau, làm người hầu hạ sai khiến. Cho nên khổ nhọc mà vẫn tinh nhất, lâu ngày chầy tháng cũng không thấy mệt nhọc, mong thầy thương xót ban cho một lời dạy bảo lợi ích, nhờ đó mà vượt khỏi bến bờ sinh tử. Bậc Cổ Đức ngày xưa là thế, chứ nào có mọi thứ như ngày nay, gọi là cung thất điện đường đẹp đẽ, giường chõng hoa cụ an nhàn, chăn màng ấm êm, nệm chiếu mát mẻ, song cửa rực rỡ. Khăn (mâm) bóng sạch, ăn uống đầy đủ, tiền bạc dư dã, các vật dụng không thiếu, những việc mong cầu đều được. Ôi! Các bậc Cổ đức, tôi thật thiếu duyên nên không được tham kiến. Nay nhân nhà Tăng của thiền viện Vĩnh An mới xây xong, tôi được mời đến phát biểu vài lời tóm tắt.

Vào tháng 11 mùa Đông, niên hiệu Nguyên Hựu năm thứ sáu, khi tôi đến nhậm chức ở quận đất Lâm Xuyên, nghe vị lão tăng trụ trì thiền viện Vĩnh An bị bệnh rồi qua đời, học trò của Đâu-suất

Tùng Duyệt là Liễu Thường lên kế thừa. Sư Liễu Thường mới lên tòa nói pháp, lúc ấy có vị Cư sĩ họ Trần nghe được lời pháp yếu thoáng qua tai ông sinh tâm rất vui thích, thưa với Liễu Thường rằng: Nảy giờ, tôi lắng nghe thầy giảng thật là những điều mới lạ trước đây tôi chưa từng được nghe. Nhận thấy ngay trong pháp hội có các tịnh lữ nhóm họp quá đông mà nhà Tăng thì chật hẹp thì làm sao tiếp đãi hết mọi người. Nay tôi nguyện xuất một trăm vạn đồng tiền, vì đại chúng mà xây cất nhà tăng. Thế là công việc trùng tu bắt đầu, qua đến năm sau thì nhà tăng được hoàn thành, cao lớn rộng rãi, vượt hơn cả tăng đường ở xứ Giang Hữu. Liễu Thường sai người đến nhờ tôi viết bài văn, tôi gặp được Thường ở trên núi và kịp đến đây. May sao đoạn cuối bài văn đã viết xong, tôi bảo người sứ về nói với Thường, hãy đánh trống giọng chuông nhóm đại chúng lại, thưa ý kiến của tôi với đại chúng rằng: Các thầy Tỳ-kheo, nay nhà tăng đây đã được hoàn thành có thể ngồi, nằm kinh hành, như vậy là thỏa được lòng mong ước của các thầy rồi. Các vị hãy ở trong nhà này mà trì giới yên nghỉ, xa lìa hết các mộng tưởng. Thì ngay lúc ấy Tổ Bách Trượng chính là các vị, các vị chính là Bách Trượng. Nếu không được như thế, mà cứ mãi mê ngủ nghỉ, như vậy là rắn độc còn núp trong tâm, mờ mịt không biết, giữa ban ngày mà tối om như vào trong hang kín. Các vị hãy ở trong đây mà ngồi kiết già tĩnh toạ, sâu vào thiền định. Ngay lúc ấy các vị chính là Tôn giả Không Sinh rồi. Nếu không được như thế, thì chẳng khác nào như con khỉ bị nhốt trong lồng củi, nhìn quả lật, quả tra ở bên ngoài mà tạp tưởng lăng xăng, ngồi hóa thành loài khác. Các vị hãy ở trong đây mà mở kinh đọc tụng, cứu xét Thánh ý. Từ Tiệm giáo mà bước vào Đốn giáo, từ Đốn giáo mà bước vào Viên giáo. Ngay lúc ấy ba tạng kinh điển chính là các vị, các vị chính là ba tạng kinh điển. Nếu không được như thế thì chẳng khác nào như con chim mùa xuân líu lo giữa ban ngày, như con dế mùa thu gáy vang lúc ban đêm, bị sức gió đưa đẩy mà không hề có ý vị. Các vị hãy ở đây mà xem lời nói của người xưa, một nghe ngàn ngộ, vào trong hồng trần mà xoay bánh xe đại pháp. Thì lúc ấy các Tổ chính là các vị, các vị chính là các tổ. Nếu không được như thế thì chẳng khác nào như chó gặm xương khô, cú mèo mổ chuột chết, ngậm mỏ mím môi một cách vô ích, chỉ làm tăng thêm lửa đói khát mà thôi, cho nên các vị phải phân tích rõ đâu là dơ, sạch, trình bày lý nhân quả phải xét kỹ tình tưởng, cảm nhận thế nào là khổ vui. Chẳng lẽ cứ để cho thân này phải trôi nổi đắm đuối trong ba cõi cho đến đời sau ư!

Thế thì người xây cất ngôi nhà này có tổn mà cũng có ích, người ở trong nhà này có lợi mà cũng có hại.

Các vị Tỳ-kheo nên biết rằng: Nếu công hạnh của các (thầy) được như các Bồ-tát thì các vị có thể cắt nhục kế của Phật Tỳ-lô, chặt tay Bồ-tát Quán Âm, móc mắt Bồ-tát Văn-thù, bỏ ống chân của Bồtát Phổ Hiền, đập nát tòa ngồi của ông Duy-ma, đốt y Tổ Ca-diếp, thọ nhân như thế là đem vàng ròng làm ngói gạch, lấy bạc nén đổi thành tường vách, các vị cũng có thể ở được, huống chi là một nhà tăng này, khuyên răn, cố gắng, lời tôi nói không luống dối! Liễu Thường tham học với Duyệt Lão hơn mười năm, thì tỏ được việc lớn rốt sau. Bởi người xưa có câu rằng: “Đó là cây kiếm Kim Cương Bảo Vương”.

Ngày mùng 10 tháng 12 niên hiệu Nguyên Hựu năm thứ 7, viết lời ký này lúc đêm tuyết rơi ngập lò ở Xích ô Quán, Quận Nam Khương.

ĐẠI SƯ THIỀN NGUYỆT ĐẠI ẨN QUY GIÁM

Tại trần muốn xuất trần

Thế nào để xử thân

Thấy thiện nên cố gắng

Nghe ác chớ nương gần

Dù ở trong nhà tối

Giống như khi tiếp khách

Vui tình nuôi tâm tánh

Gặp nguy giữ thanh bần

Như ngu, chẳng phải ngu

Tu nhân được rõ nhân

Khiêm nhường làm cội gốc

Cống cao chớ kết thân

Ít ra ngoài là quý

Ít nói mới là ngọc

Tu học không bỏ ngày,

Thường tu để biết mới

Vinh nhục chẳng động lòng

Phải quấy đừng han hỏi

Thường tự trách chính mình Đừng đổ lỗi người khác.

LUẬN CHUNG VỀ TAM GIÁO CỦA HỮU NHAI NINH TĂNG LỤC

Có người hỏi: Lược xem trong Tăng sử để tìm việc đầu mối, là vì sao?

Đáp: Vì muốn làm hưng thạnh Phật giáo, khiến cho chánh pháp được tồn tại lâu dài.

Hỏi: Hiện nay vua kính Phật giáo, chuộng đạo Tiên, thực hành đường lối của Nho giáo, đất nước đang hưởng cảnh thái bình. Như thế là đã trung hưng rồi, năng lực của giới Tỳ-kheo làm sao xoay chuyển được mà nói là trung hưng Phật giáo?

Đáp: Chính là lúc Thiên Tử trọng đạo nên tôi muốn thêm việc trung hưng Phật giáo đó. Vì nếu kẻ Thích Tử không biết Phật pháp, không chịu tu hành không siêng học Phật khoa, không thấu rõ được bản tâm duyên khởi thì đâu thể giúp bậc Đế Vương làm việc trung hưng Phật giáo được.

Lại hỏi: Ông có sức gì mà làm cho chánh pháp được tồn tại lâu dài?

Đáp: Đức Phật có dạy: Nếu Tỳ-kheo hiểu biết

Phật pháp, hiểu rành giới luật, giữ gìn nhiếp thọ lời Phật dạy, thì sẽ khiến cho chánh pháp không dứt mất.

Lại hỏi: Các bậc Tôn sư đã rộng làm việc soạn thuật rồi, nào phải đợi đến thầy mới làm việc này đâu.

Đáp: Người xưa soạn thuật nếu dùng thì chẳng bằng, đâu chẳng biết Tam giáo xoay vần, đến cuối thì trở lại đầu. Cho nên một người ở địa vị cao mà vẫn không sợ sụp đổ. Vì có một người vốn kính phụng lo việc trung hưng Tam giáo; có Tam giáo vốn giúp chân lý cho một người. Vả lại nói về đạo Nho, từ bậc Tam Vương trở xuống thì có Tuyên Vương là người biết áp dụng Tam giáo vào việc trị hóa rất thích hợp. Còn đạo Tiên trước đời Ngũ đế thì đã thầm hợp với đường lối của Lão tử. Trước đây, Mã Sử bước lên Đạo giáo (tiên) trên Cửu Lưu, Ban Liêu viết sách (thư) lỗi lạc trong đạo Nho, là quán quân làm sách vở đầu tiên.

Tử Trường muốn trở lại bản tánh ban đầu mà quay về chỗ thuần hậu của con người, là sùng chuộng đế đạo. Mạnh Kiên nghĩ gốc ở điều chân nên nói theo điều nghĩa là hành theo vương đạo. Từ đời Hạ, Thương, Chu đến nay đã gồm hơn mấy trăm ngàn năm. Nếu dùng Hoàng Lão mà cai trị thì cũng như bệnh nguy kịch mà chậm cho uống thuốc. Vì nhân nghĩa ở đây còn kém, nên lễ hình sinh, vượt khỏi lễ nghĩa, sẽ dẫm qua hình lục thì ngay cả nhà Nho họ cũng phải khoanh tay, đứng nhìn mà thôi. Môn phong của họ thích phô bày diệu dụng cùng khắp mọi nơi, dùng Từ bi thay đổi kẻ bạo ác, lấy hỷ xả thay đổi kẻ san tham, dùng tâm bình đẳng thay đổi kẻ oán, người thân, dùng lòng nhẫn nhục thay đổi lòng sân hận. Biết rõ thân người tuy chết nhưng tâm mình thì bất diệt. Biết rõ chỗ đi đến mà thọ nghiệp gá sinh. Dùng thiên đường ban thưởng cho người lành, có địa ngục để hình phạt kẻ ác. Ví như khuôn nặn đất, như mẫu đúc khuôn, hễ khuôn lệch mà đúc vật vào thì chắc chắn sẽ thành đồ méo vẹo.

Ngược lại, nếu khuôn tốt đúng mẫu mà truyền hình thì chắc hẳn được tốt đẹp. Việc chẳng cần miệng bàn, người đều mắt thấy. Vì thế bậc Đế Vương kính phụng, quần chúng quy tâm. Như gió lướt qua cỏ thì cỏ bị nhóm lại mà ngã rạp, có thể rộng dựa đạo Lão nhờ cả đạo Nho. Thành trí còn đợi ở Tam Giáo. Vì nước mà chung noi theo các Thánh. Thành tựu cho thiên hạ mà gắng gỏi, vì trọn ngày mà đau đầu, đối với người mà chế ngự muôn vật. Ví như cánh tay sai khiến bàn tay, như bàn tay vận chuyển ngón tay. Hoặc bắt hoặc thả chiều nào mà chẳng tốt! Nếu được như thế thì Tam Giáo chính là vật báu chung một nhà, muôn pháp là vua của một nhà. Mà đã xem như một nhà thì không nên có tâm nghiêng lệch ưa ghét, phát sinh cạnh tranh, đã cạnh tranh thì sẽ nguy hại đến đạo pháp. Mình ở trong đó thì tự nhiên sẽ gặp bất an và kéo nguy đến cả Tam Giáo, chẳng gì bằng không sinh tâm nghiêng lệch (chung sức hành đạo như cùng đi một chiếc bè). Tam Giáo đã hòa hợp thì cố nhiên chánh pháp được tồn tại lâu dài.

Hãy xem Tần Thỉ Hoàng đốt sách, chôn học trò, việc tàn bạo này sinh ra Lý Tư. Hậu Ngụy giết chóc, Sa-môn, việc này do Khấu Khiêm Chi, Thôi Hạo, Chu Vũ phế bỏ hai đạo Phật và Lão, việc làm này để khoe tài thông minh của mình, bởi triều đình không có người chân chánh nên mới xảy ra như thế. Đường Vũ Tông đập phá chùa am tượng Phật, đạo sĩ Triệu Quy chân suất lãnh ông Lưu Huyền Tĩnh chung sức che gièm, phỉ báng. Lý Chu Mai ngấm ngầm giúp sức, bốn ông này sự báo ứng của họ về sau rất mau chóng.

Kính khuyên chúng ta cùng nhau nhắc nhở ngăn ngừa, đừng để mắc vào tội lỗi. Bậc Đế Vương nếu không có lòng rộng rãi thì giáo pháp từ đâu mà lập, huống chi đạo lưu giữ báu, nên trước họ không vì thiên hạ, thì Sa môn ngại gì đem thịnh lễ để hòa với họ. Nên hành động hợp với lời Phật dạy; tất cả kính tin. Tin Lão quân là bậc Tiên Thánh; tin Khổng Tử là bậc Tiên sư, ngoài hai vị Thánh này ra, đâu ai có khả năng hiển dương Thánh giáo, đều cùng thực hành để vua đến được địa vị như Phục Hy Hoàng Đế thuở xưa. Nếu nói trái đây thì khác nào như đứa con vô lại (kẻ bất lương) vô cớ bỗng dưng sinh việc đấu tranh, làm hệ lụy đến cha mẹ mình, phá hao gia sản phải chịu hình phạt giam cầm. Cho nên, phá tổn con đường lớn của Tam giáo, là từ một lỗi nhỏ lúc nhất thời mà ra. Nhưng dù có nhật thực, nguyệt thực đi nữa cũng nào tổn hại đến ánh sáng được. Ngươi há không thấy lửa Tần đốt sách của trăm nhà, nhưng bậc Thánh đã biết trước nên cất giấu sách vở trong vách tường; chôn học trò cho diệt hết nhà Nho, thì có hai họ Dương và Mã nối nhau sinh (quý tử). Đâu từng không cùng loài cắn nhau ư? Lương Vũ bỏ đạo (Lão) thì Hậu Ngụy lại chấn hưng. Tháo Bạt giết tăng đồ thì con cháu của ông ấy chấn hưng trở lại. Hậu Chu hủy diệt hai giáo, thì Tùy Khiên khôi phục trở lại. Vũ Tông vây hãm Thích môn, đi chưa trở gót thì con ông ấy là Tuyên Tông trùng hưng hơn mười lần. Nghiêng bàn tay đâu thể diệt hết loài hung dữ, giương quả đấm không thể chống chọi với mảnh thú hổ tê, huống chi làm tăng mà chẳng bằng Đạo An!

Đạo an cùng với Tập Tạc Xỉ giao du, đó là kính chuộng đạo Nho. Làm tăng há chẳng bằng Tuệ Viễn, Tuệ Viễn đưa Lục Tu Tĩnh qua cầu Hổ khê, đó là quý trọng đạo Lão. Trong tăng sĩ hẳn cũng có người trách tôi. Nhưng tôi nghĩ rằng mình đã trọng người, thì người lại khinh mình hay sao? Xin hãy tin theo đường lối của Đạo An và Tuệ Viễn mà làm việc. Các bậc cao tăng ấy xứng đáng làm pháp tắc cho bọn ta noi theo. Kinh chép: chặt cây, chặt cây, phép đó không xa (rìu đốn cây làm cán búa, cán búa dùng để đốn lại cây). Thầy mạnh nói: “Thiên thời không bằng địa lợi, địa lợi không bằng nhân hòa, chính là nói việc trên đây.

PHÁP TRUYỀN THIỀN QUÁN

Thiền pháp bắt đầu từ đời Tần Pháp sư Tăng Duệ Từ Quan Trung xuất ra Thiền Kinh. Nội dung lời văn chỉ rõ đường lối để rõ tâm thấy tánh. Nhưng văn kinh ấy trước lập ra phương tốt, nhưng chưa phù hợp với mọi căn cơ người tu. Há chẳng nghe vị lương y muốn trị lành căn bệnh, trước soạn ra sách thuốc (rồi sau đó mới y theo đó mà gia giảm tùy cơ). Huống chi là đại giáo đã mở bày, các vị tài giỏi trong thiền môn mạnh ai nấy chia khoa thuyết giảng. Người chú sớ thì khoe bày lời nghĩa của mình; người nhân khoa thì tự mãn ưa thích theo quan điểm của mình. Hoặc cầm phất trần phe phẩy, hoặc rung gậy tích khua vang, chỉ chuộng thời cơ ứng biến của mình mà mở lối bẻ nhọn. Chỉ xét lý luận đanh thép của mình, quên hết kinh điển mà không cần ra khỏi. Viễn Công ở đất Giang Biểu buồn thương vì Thiền pháp chưa mở bày, do đó phải khổ nhọc mong cầu mới lo được. Tổ Sư Bồđề Đạt-ma xem cơ duyên ở cõi này nhắm vào một thời rối loạn mà tuyên bố rằng: không lập văn tự là để bẻ lại những kẻ chấp nệ vào câu văn, ngưng đọng vào dấu vết, và chỉ thẳng tâm người tà để sáng tỏ đốn ngộ được lý vô sinh. Vì để đối trị với căn cơ cao tột, nghĩa lý tròn đầy. Nên không khỏi những người tiệm tu càng thêm chê bai chỉ trích. Người truyền Thiền pháp thì Đức Đạt-ma là Thỉ Tổ, nối nhau thẳng xuống được sáu đời trao y, chi phái dọc ngang truyền bá ra khắp chốn, không thể kể xiết. Như trong truyện Tào Khê Bảo Lâm có nói. Sách này trong phần tiêu đầu của Đạo Pháp sư dưới câu “Chỉ thẳng tâm người” thì lược bỏ đi. Nay y theo bản xưa nên thêm vào.

LỜI KÝ NƠI NHÀ CHỌN PHẬT Ở THIỀN VIỆN BẢO PHONG, ĐẤT HỒNG CHÂU

Do Thừa tướng Trương Thương Anh soạn.

Niên hiệu Sùng Ninh, vua Tống Trung Tông xuống chiếu ban cho hiệu tháp của Mã Tổ là Từ Ứng, thụy hiệu là Tổ Ấn, và sắc cho chùa ấy mỗi năm độ một vị tăng để lo việc nhang đèn. Vị lão tăng trụ trì chùa là Phước Thâm cất lầu Thiên Thư ngay phía sau nhà Tổ, tiếp theo gác ấy làm một tòa nhà và đặt tên bằng hai chữ Tuyển Phật. Sư liền sai học trò đến nhờ tôi làm lời ký. Tôi đã từ chối nhiều lần, mà kẻ sứ giả cứ nài thỉnh mãi không thôi. Bất đắc dĩ tôi mới nhận lời và bảo với vị ấy rằng, người xưa có nói: người được thi chọn làm Phật là chỉ có trên mặt danh ngôn mà thôi. Nay Sư đặt tên cho nhà là chọn Phật và tôi lại làm lời ký chẳng phải không đáng ư! Vì nghĩ thương sự siêng năng của thầy nên tôi mới nhận soạn lời ký đó!

Nói về chọn là sao? Nghĩa là lựa chọn. (Tuy nhiên lựa chọn phải biết rõ đối tượng ra sao) có bỏ; có lấy; có hơn; có kém. Nên bày ra có khoa cử để chọn lấy người tài. Sở dĩ Tiên Vương (Trương Tông) để lại di tích làm công cụ nhắc thức người tu học, chứ không phải là chọn người làm Phật. Ví phỏng Phật mà có thể thi chọn thì lấy ở sáu căn hay lấy ở sáu trần? Hay lấy ở sáu thức? Nếu lấy ở ba cái sáu này thì tất cả phàm phu đều có thể làm Phật được. Còn nếu bỏ ba cái sáu này thì vô lượng Phật pháp ai tu ai chứng đây?

Thi chọn lấy ở bốn đế hay ở sáu độ, bảy giác, tám chánh, chín định, mười vô úy cho đến mười tám pháp bất cộng, ba mươi bảy phẩm trợ đạo ư? Nếu lấy thì thi chọn có Pháp hay là lấy bốn đế, sáu độ cho đến ba mươi bảy phẩm trợ đạo? Nếu bỏ thì thi chọn không có pháp. Tất cả cái bỏ, cái lấy, cái có, cái không, mù mờ như tơ vương trong lòng, bừng dấy như đưa vào lồng ngực. Ở chỗ này trong tạng tu-đa-la tạng, hoặc gọi là hai chướng, hoặc gọi là bốn bệnh, hoặc gọi là bất liễu nghĩa, hoặc gọi là các pháp hý luận, hoặc gọi là tà kiến biến kế, hoặc gọi là vi tế lưu chú, nếu chọn lấy thì là phi Phật rồi. Mà bỏ đi cũng là phi Phật, còn không bỏ không lấy cũng là phi Phật. Thế thì quả Phật có thể thi chọn được ư? Các học trò nói rằng: lý luận của Tiên sinh là bàn về Tương tông, còn lý luận của thầy tôi là bàn về Thiền tông!

Người cùng với tôi thi chọn chỉ mong đạt đến địa vị tâm không mà thôi. Ví như người đệ tử đến nhà chọn Phật phải có lời giải đáp. Có lúc chỉ bày bằng những lời huyền yếu, có lúc chỉ bày bằng bốn câu phân biệt, có lúc chỉ bày bằng tam-muội Pháp cảnh, có lúc chỉ bày bằng nhân duyên mắt đạo, có lúc chỉ bày bằng một con đường hướng thượng, có lúc chỉ bày bằng một câu rốt sau, có lúc chỉ bày bằng đương đầu, có lúc chỉ bày bằng lời bình thật. Hoặc giương mày trợn mắt, hoặc giơ phất gõ bàn, hoặc vẽ tướng vòng tròn, hoặc vạch xuống một nét, hoặc vỗ tay, hoặc nhảy nhót (tất cả hành động này của các Tổ không ngoài mục đích là để) khế hợp với căn cơ của chúng ta, khế hợp với căn cơ của mình là biết rõ tâm không của mình, mà biết rõ tâm không của mình thì quả Phật có thể thi chọn.

Tôi liền nói: Đức Thế Tôn đưa cành hoa lên, Tôn giả Ca-diếp mỉm cười. Chánh pháp nhãn tạng bắt đầu truyền thừa từ đây. Nhưng nhiều đời về sau, các bậc Tông sư chỉ bày sao lại nêu ra nhiều mối rối bời như vậy. Tôi sợ trong Thiền giáo của họ Thích vì đó mà suy đồi chăng! Lão tăng Phước Thâm là người đất Hà Đông cam chịu ăn cơm hẩm, quen với sự vất vả và từ lâu đã tu học với Ngài Chân Tỉnh ở đất Quán Tây có được bản tánh cứng rắn, vị ấy có khả năng mở rộng Thiền giáo này.

Bởi Thiền giáo của họ Thích nếu đứng nhìn hình trướng, thì dường như để lại hình tướng khô héo, lặng lẽ âm thầm nguội lạnh suy tư. Nhưng mật hạnh giới định bên trong của các vị ấy thì ngay cả Quỷ Thần cũng không nhìn thấy được, diệu dụng từ biết của các vị ấy Thanh Phàm u hiển cũng đều kính ngưỡng, gần gũi mà sao ứng với căn cơ. Nếu không thì năm chúng sẽ mất đi bạn lữ nên bất đắc dĩ mới nói. Nếu không thì sáu đường mất đi bờ cõi. Sinh tử đổi dời là điều mà mọi người sợ hãi, nhưng ta chưa từng có sinh thì làm sao có tử, vậy đâu có gì đáng sợ. Đối với cảnh có lợi hại thì con người mới chọn, ta chưa hề có lợi, thì nào có hại đâu mà chọn lựa làm chi. Ôi! Được như thế, thì chẳng những không ở ngoài mà trong lòng cũng tự không, chẳng những không ở sự, mà lý cũng tự không; chẳng những không đối với tướng mà đối với tánh cũng tự không; chẳng những không đối với cảnh không, mà tâm không cũng tự không. Đã không thì bằng, đã bằng thí lớn, đã lớn thì tròn, đã tròn thì mầu, mà đã mầu thì là Phật rồi. Chao ôi! Tôi đem nghĩa này hy vọng ở nơi thầy, mong Thầy ưa thích mà đừng xem thường!

BÀI MINH NÓI VỀ TÍN TÂM CỦA TAM TỔ THIỀN SƯ GIÁM TRÍ

Chí đạo không khó tìm
Chỉ do mình lựa chọn
Chỉ không tâm ưa ghét
Bỗng mất tâm sáng ngời
Mảy mai có khác nhau,
Xa như trời với đất
Muốn được niệm hiện tiền
Chẳng để lòng xuôi ngược
Xuôi ngược chống trái nhau
Ấy gọi là tâm bệnh
Nếu không biết huyền chỉ
Luống nhọc lắng tâm niệm
Tròn (đồng) Thái hư
Không thiếu cũng không dư
Bởi vì có lấy bỏ
Nên chẳng được như như
Không theo duyên chấp có
Đừng trụ vào không nhẫn
Một thứ phẳng lặng lòng
Rõ ràng tự tiêu hết
Chỉ động quy về chỉ
Chỉ thì càng thêm động
Vì ngưng đọng hai bên
Thà biết ròng một thứ
Một mối nếu không thông
Hai chốn phải mất công
Đuổi có chìm trong có
Theo không trái với không
Nói nhiều lo nghĩ nhiều
Xoay vần chẳng tương ưng
Bặt nói, dứt lo nghĩ
Không chỗ nào chẳng thông
Về gốc được ý chỉ
Theo chiếu thì mất tông.
Khoảnh khắc soi trở lại
Vượt hơn không ở trước
Không trước đều chuyển biến
Đều do vọng kiến sinh
Chẳng cần phải cầu chân
Chỉ nên dứt vọng kiến
Hai kiến đều chẳng trụ
Cẩn thận chớ tìm cầu
Vừa có phải và quây
Lăng xăng mất tâm tánh
Hai do một mà có
Một cũng chẳng nên giữ
Nếu nhất tâm bất sinh
Muôn pháp không có lỗi
Không lỗi cũng không pháp
Không sinh cũng không tâm
Tâm hay theo cảnh Phật
Cảnh theo tâm mà chìm
Cảnh là do năng cảnh
Năng là do cảnh năng
Muốn biết rõ hai đoạn
Vốn là từ một không
Một không đồng hai cảnh
Đều bao trùm muôn tượng
Chẳng thấy dáng tinh thô
Thì đâu có nghiêng lệch
Đạo đạo thể bao la
Chẳng dễ cũng chẳng khó
Kẻ tiểu kiến hồ nghi
Xoay mau và xoay chậm
Chấp đó sẽ mất chừng
Sẽ rơi vào đường tà
Buông thả theo tự nhiên
Thể tánh không đi ở
Mặc cho tánh hợp đạo
Tiêu diệt dứt phiền não
Buộc niệm trái lý chân
Hôn trầm cũng mê ảo
Không tốt sẽ nhọc thần
Cần gì phải thân sơ
Muốn giữ lấy một pháp
Đừng nhàm chán sáu trần
Sáu trần không nhàm chán
Liền đồng về Chánh Giác
Người trí thì Vô Vi
Kẻ ngu thường tự buộc
Pháp vốn chẳng pháp khác
Quấy từ mình ưa chấp
Đem tâm mà dụng tâm
Há chẳng phải lầm to
Mê sinh ra tịch, loạn
Ngộ chẳng có tốt xấu
Tất cả và hai bên
Bởi từ tâm suy tính
Mộng huyễn hoa trong không
Nhọc gì theo đuổi bắt
Được mất và phải quấy
Nhất thời đều buông bỏ
Mắt nếu không mê ngủ
Các mộng tự tiêu trừ
Nếu tâm không nghĩ khác
Muôn pháp đều nhất như
Nhất như thể nhiệm mầu
Bỗng nhiên quên hết duyên
Muôn pháp đều quán xét
Về lại chỗ tự nhiên
Tiêu tan mất nguyên do
Không nên sinh so sánh
Chỉ động mà không động
Động chỉ mà vô chỉ
Hai thứ đã chẳng thành
Thì một làm sao có
Rót ráo và cùng cực
Không còn pháp tắc nào.
Khế hợp tâm bình đẳng
Việc làm đều dứt bặt
Hồ nghi đều trừ sạch
Chánh tín và điều trực
Tất cả không vướng mắc
Cũng không nên ghi nhớ
Rỗng sáng tự tỏ rõ
Chẳng nhọc đến tâm lực
Chẳng phải chỗ nghĩ lường
Thức tình khó cân nhắc
Chân như pháp giới tánh
Không người cũng không ta
Cốt phải là hợp nhau
Chỉ nói pháp không hai
Không hai đầu đồng nhau
Đâu không cùng bao dung
Bậc Trí giả mười phương
Đều vào nguồn cội này
Tông này chẳng ngắn dài
Một niếm dài muôn năm
Vô tại và bất tại
Mười phương liền hiện tiền
Cực nhỏ là cực lớn
Quên bặt mọi cảnh giới
Cực lớn là cực nhỏ
Không thấy có bên ngoài
Có đó tức là không
Không kia tức là có
Nếu chẳng được như thế
Thì hẳn không cần giữ
Một tức là tất cả
Tất cả tức là một
Nếu làm được như thế
Thì lo gì chẳng xong
Tín tâm vốn chẳng hai
Chẳng hai là tín tâm
Bặt dứt đường nói năng
Chẳng xưa, nay vị lai.

BA PHÁP HỌC GIỚI ĐỊNH TUỆ

Từ Trì Ký chép: Tất cả Phật pháp không ngoài ba pháp học. Do tâm chúng sinh mê bị lầm nên vừa nghĩ là đã kết thành nghiệp. Do nghiệp cảm báo nên phải trôi lăn trong sinh tử khôn cùng. Muốn thoát khỏi quả khổ, thì phải dứt bỏ nhân khổ, cho nên trước dùng giới để đối trị với nghiệp; kế lấy Định tuệ để lắng yên vọng hoặc. Nhưng nghiệp lại có chia ra nghiệp Thiện và nghiệp Ác. Cho nên phải dùng hai hạnh Chỉ trì, tác trì để giữ gìn nhau. Vọng hoặc làm mờ loạn, nên dùng hai pháp định tuệ đế đối phá. Ví như bệnh nhờ uống thuốc mà lành; cơ nhờ vào giáo mà tu. Vậy sau nghiệp hết hoặc trừ, tính (mất) quên tánh thiện. Giáo môn tuy rộng nhưng đâu vượt hơn đây.

Giải thích pháp bốn y: Pháp này là do kiến thức của các Tổ quy tâm rốt ráo về duy Liễu Nghĩa)

I-Y pháp bất y nhân là sao?

Nhân là chỉ có tình, pháp chính là khuôn mẫu, tánh không lý chánh (tánh không suốt cả lớn nhỏ). Thể lìa phi vọng. Ngay lúc dùng pháp này là y vào Chánh pháp này (Kinh Niết-bàn chép y pháp là sao? Tức là y vào chánh pháp. Bất y nhân là sao? Tức là không y vào Thanh Văn, Duyên Giác). Nếu nương vào Thánh lượng, an tâm làm việc, biết rõ là phi tánh không, nương giữ tâm này để làm đường lối hành đạo. Một phần nhàm chán, rõ nghịch với sự có phần an tâm như thế, gọi là tu thẳng đến pháp tánh chân đạo.

II- Y nghĩa bất y ngữ là sao?

Ngữ là lời nói, chỉ là cái phương tiện để mở đường. Nghĩa là đạt lý, chính là đường lối để hóa vật (hóa cũng như biến). Đã được chứng ngộ, bặt nghỉ ngăn lời. Chánh pháp còn phải bỏ huống chi là phi pháp. Cho nên trong khế kinh có thí dụ về chuyện bỏ bè, người nghĩ đến lời bàn để mặt thấy (Trang Tử nói: mắt thấy thì đạo còn) đâu không dùng lời nói để nêu ý, khi được ý phải quên lời. Dụ như nương theo ngón tay để nhìn thấy mặt trăng. Nói mặt trăng dụ cho diệu chỉ, không nên không hiểu (trên đây là phát minh về nghĩa mượn lời để rõ nghĩa, khi đã thấy nghĩa thì phải bỏ lời). Nay nói là được nghĩa, nghĩa chính là lời nói. Người chân thật hành quán là y theo lời nói, thường pháp là y theo nghĩa lý. Nghĩa là lời nói theo nghĩa vẫn là lời tụng kinh xứng lý (trên đây là nói được nghĩa phải quên lời, nhưng vẫn phải dứt bỏ nghĩa không có).

III- Y trí bất y thức là sao?

Thức là thức hiện hành, theo phần của trần mà thấy. Mắt thấy sắc, tai nghe tiếng đam mê không giác, đồng với loài trâu dê chung làm với kẻ tà phàm (trên đây là nói sáu thức vọng niệm, người và súc sinh cùng nương, nên có trôi đọa. Dưới đây y vào trí Phật là quán Duy thức.

Nay lược bỏ dần sẽ rõ). Đại Thánh bày giáo (chỉ dạy) trần cảnh là tự tâm biến hiện. Thế mà kẻ ngu chẳng chấp trần cảnh là bên ngoài của thức. Dắt dìu dạy bảo mà vẫn không tự buông bỏ. Nên biết ngừng trệ là chỉ về phàm thức, đảo khiển là thuộc về Thánh tâm. Kẻ ngu mê mờ che phủ, thường đắm trong ba đảo. Người mạnh phải gắng xuyên suốt, động niệm liền biết, biết nếu điên đảo thì khó trong suốt gọi là y thức. Biết dùng thức phải xoay lại gọi là theo phần trí. Gắng công như thế, dần dần thêm lớn tỏ rõ. Sau thấy cảnh trần mới biết là chẳng từ bên ngoài đến. Cảnh không ngoài tâm là tướng của tự tâm, thì nào có ngu mê mà sinh tâm ưa ghét. Suy nghĩ, lựa chọn không thôi thì tuệ giải sẽ khác trâu dê.

IV- Y kinh liễu nghĩa, bất y kinh bất liễu nghĩa kinh sao?

Hai kinh này đều là Thánh ngôn lượng, người nhập đạo, phải tìm hiểu trước thì không ngăn lấp nào mà không thông, mọi nghi ngờ đều được hiểu. Nhưng vì tánh thức của chúng sinh có sâu có cạn, tối sáng khác nhau. Đến bậc Đại Thánh còn phải tùy theo tình mà nói riêng. Nhưng đều dựa trên Chí đạo, chỉ là tự tâm. Cho nên kinh chép: Các pháp lên xuống trong ba cõi ta nói chỉ là từ tâm biến hiện. Đây là ngay thế giới y báo để rõ tâm. Lại nói:

Như Như và chân tế; Niết-bàn và pháp giới, các thứ ý sinh thân Phật nói là duy tâm lượng. Đây là dựa vào pháp xuất thế thể để rõ tâm. Cuối cùng cũng về chỗ thật, rốt cuộc cũng đến nguồn chân.

Theo dòng mà cảm đến, trở về tông Liễu nghĩa.

GIỚI CHỈ CÓ PHẬT CHẾ NGƯỜI KHÁC KHÔNG ĐƯỢC CHẾ

Bộ Hành Tông chép: Trong cõi đại thiên, Phật là bậc Pháp vương, luật là lời dạy của Phật. Chỉ có Phật mới được chế lập, ngoài Phật thì chỉ nên làm theo. Bởi vì Đức Như Lai hạnh quả tròn đầy, thấu suốt hết nghiệp tánh nặng nhẹ của chúng sinh. Từ bậc Đẳng giác trở xuống cũng không có khả năng làm việc ấy, huống chi các tiểu Thánh khác mà dám nghĩ bàn ư! Cũng như việc ban hiệu lệnh thưởng phạt trong quốc gia, phải do vua đặt ra. Nếu để kẻ bầy tôi lấn vượt, thì người dân sẽ mất lòng tin, việc nước mất nhà tan sẽ không còn xa. Trong Phật pháp cũng thế, nếu cho người khác nói, thì chúng sinh sẽ không kính phục, chánh pháp không tồn tại lâu dài.

TÓM LƯỢC CÁC VĂN ĐỂ KHEN NGỢI GIỚI PHÁP

Trong bộ Từ Trì dẫn lời trong bộ Tiêu Tông chép: Giới là bậc đại sư của các thầy, vì có thể làm khuôn phép cho loài người. Lại nói: Giới như chân của người đời, vì có thể đi đến mọi nơi. Lại nói: Giới là đất bằng, năng sinh thành nuôi lớn muôn vật. Giới là cột đá để xây (dựng) lầu đạo phẩm; là chỗ nương tựa của Thánh đạo. Giới là thành quách của thiền định; là chỗ y cứ của pháp Định tuệ, cho đến như ao nước, như gương soi, như anh lạc, như đỉnh đầu, như bình bát. Lại trong luận Trí Độ chép: Giới như vật báu, như mạng sống, như thuyền bè, như cánh chim, v.v... tìm xem các bộ thì biết được tầm quan trọng của giới. Lại trong thiên trụ, trước dạy rõ phải kính giữ giới pháp nêu đủ tám thí dụ: như con nhỏ của vua, như ánh sáng mặt trăng, như hạt Châu như ý, như con một của vua, như tròng mắt của người, như lương thực giúp người nghèo, như nước giàu đẹp của vua, như thuốc hay cho người bệnh. Lại nữa, lời tựa giới kinh chép: Giới như biển không bờ, như của báu cầu mong không thỏa mãn. Trong giới bản Luật Tăng-kỳ chép: Giới như dây trói loài khỉ vượn, như dây cương cột ngựa. Người muốn xem rộng thì đọc trong các kinh, luật, văn này không nhọc dẫn nữa. Bởi giới đức cao rộng nên không một vật nào có thể thí dụ hết được, khắp đưa ra các việc, đều gom về một mối, chứ không thể giống hoàn toàn.

KHI CÒN PHẬT TẠI THẾ CHỈ MỞ RỘNG GIỚI PHÁP

Cho nên trong Thiên tụ chép: Khi Đức Thế Tôn còn ở đời, Ngài thấu suốt hết căn cơ của muôn loài.

Hễ có làm điều gì, Phật đều lấy oai nghi làm chính. Lại nữa, Kinh tạng thì người khác cũng được nói, chỉ có Luật tạng phải từ miệng vàng của Đức Như Lai nói, hàng Bồ-tát Đại quyền chỉ biết vâng hành, huống gì các tiểu Thánh khác đâu dám đặt lời!

Lại nữa, các kinh tạng khi giảng nói thì có thời hạn nhất định, còn Luật tạng thì thông suốt trước sau. Bộ Nghĩa Sao chép: Trước từ vườn Nai, sau đến rừng Hạc, theo cơ người mà chế giới luật mới có muôn sai khác. Vì có đủ ba ý này nên phần nhiều khác với các kinh, lời Phật riêng hoằng, nghĩ không mê muội.

TRÌNH BÀY SỰ RỘNG HẸP CỦA GIỚI TƯỚNG TĂNG NI BỘ SỰ-SAO CHÉP

- Hỏi: Trong Luật, tăng nêu hai trăm năm mươi giới, giới bổn có nói đủ. Còn Ni thì có năm trăm giới, lời này hư hay thật? (Nói có năm trăm giới là chép ra ở Luật Trí Độ. Nhưng so với Luật tạng thì khác nhau, nên đưa ra lời nói để quyết định).

- Đáp: Về hai bộ giới của tăng-ni kể ra số lượng nhất định là chỉ về phần tóm tắt mà nói. Nên các bộ luật đều nói số chung chung, chứ không hẳn là y vào số lượng. Còn bàn về giới thể thì chỉ có một giới Vô tác mà thôi. Nếu y cứ vào cảnh để rõ tướng thì nhiều như cát bụi. Vả lại chỉ ra hai trăm năm mươi giới là để chỉ ra đây để làm đường tắt của pháp Trì Phạm. Trong luật chép Ni bộ có 348 giới nên được chỉ ra đây để làm chỗ ngăn ngừa, nay y cứ theo Luận Trí Độ chép: Ni bộ thọ giới pháp, lược thì có năm trăm giới, còn rộng thì có tám muôn. Bên Tăng thì lược có hai trăm năm mươi giới, còn rộng cũng đồng với luật nghi của ni.

Ý NGHĨA CỦA VIỆC ĐỘ NI:

Bộ Nghiệp Sớ chép: cơ duyên phát tâm của người nữ. Trong luật ghi: Dì của Phật là bà Đại Ái Đạo cùng với năm trăm người nữ xin Phật xuất gia, nhàm chán sinh tử, cầu Phật xuất gia, vì người nữ không thể đem lại lợi ích cho việc hóa đạo sâu xa, nên Phật từ chối không chấp nhận. Sau Bà về thành Xá-Vệ bèn tự cạo tóc, mặc y, đứng dựa bên tăng phòng mong được nghe nhận giới. Bấy giờ, Tôn giả A-nan vì bà mà ba lần thưa thỉnh. Phật liền trao cho pháp Bát Kính, dạy phải giữ trọn theo đây mà làm, liền cảm được giới Cụ túc. Lời ký chép: Người nữ bản tính yếu hèn, người đời ít kính tin. Cho nên không có khả năng đem lại lợi ích cho việc hoằng hóa, mà lại còn làm hủy nhục giáo môn. Chánh pháp cũng từ đó mà giảm đi năm trăm năm. Bởi thế Phật không chấp nhận. Bà Ái Đạo cùng nhóm người nữ liền trở vào thành tự cạo tóc, đến tịnh xá Kỳ-Hoàn đứng dựa bên cửa buồng khóc. Lúc ấy, Tôn giả A-nan thay lời thưa thỉnh lên Phật. Phật khiến truyền lời dạy ai có thể làm theo pháp Bát Kỉnh thì cho xuất gia. Bà Ái Đạo cùng nhóm người nữ nghe lời Phật dạy liền phát nguyện xin thọ giới cụ túc. Bộ Văn Sớ lại chép: Ni phải đối trước chúng hai mươi vị mà thọ giới là sao? Là nói báo thân người nữ, lầm sâu trí cạn, ưa sinh tông ngã mạn, biếng nhác, nếu muốn thọ giới Cụ túc phải đối trước Tăng-Ni mỗi bên mười vị cầu thọ, thì mới phát được tâm nguyện cao siêu. Trong Luật lại chép: nếu y theo xứ Thần Châu từ đời Tống về trước, tra xét trong Tăng sử thì chỉ đối trước một chúng Ni mà thọ (nghĩa là theo bên một chúng Đại tăng thọ giới). Nhưng trong các luật, khi thọ pháp Bát Kỉnh thì chỉ riêng cho Bà Đại Ái Đạo. Còn năm trăm vị ni thì đối trước mười vị Tăng và một vị Hòa thượng Ni mà thọ giới. Cho nên Thánh giả Cầu-nabạt-ma nói: Nếu không có đủ hai chúng, chỉ đối trước một chúng mà thọ như trường hợp của bà Ái Đạo cũng được. Vì sao? Vì bàn về bốn pháp, ở tiền phương tiện (hòa tăng) chưa có giới thể nên được thành. Còn y cứ trong tăng khi Yết-ma xong mới cảm được giới pháp. Sau này, Tôn giả Thiết-sáchla ở nước Sư Tử v.v... mười một vị bắt chước theo thông lệ của đời Tống, mới đối trước hai bộ Tăng-Ni mà thọ giới.

PHÁP BÁT KỈNH CỦA NI

Thiên Ni chúng trong bộ Hành sự sao chép: Luật Thiện Kiến ghi: Đức Phật lúc đầu không cho độ người nữ xuất gia, vì như thế sẽ làm cho chánh pháp giảm mất năm trăm năm. Sau vì nói ra pháp Bát Kính mới cho phép người nữ xuất gia. Nếu chỗ nào Ni chúng không y theo lời dạy thực hành pháp Bát Kính thì nơi đó chánh pháp sẽ hoại diệt. Bộ Hội Chánh ghi rằng: Sau khi Phật Thành Đạo mười bốn năm, dì của Phật xin xuất gia, Phật không chấp thuận. Sau, Tôn giả A-nan vì bà mà bày tỏ ân nghĩa và ba lần thưa thỉnh. Đức Phật bèn dạy Tôn giả Khánh Hỷ truyền pháp Bát Kinh và đến nói với họ, nếu ai thực hành thì cho phép họ xuất gia. Ni chúng liền thưa: Xin suốt đời thọ trì.

Pháp Bát Kỉnh gồm:

1. Tỳ-kheo-ni dù đã trăm tuổi hạ, nhưng khi thấy vị tỳ-kheo tăng mới thọ giới cũng phải đứng dậy tiếp rước, lạy chào, thăm hỏi, mời ngồi.

2. Tỳ-kheo-ni không được quở mắng Tỳ-kheo tăng.

3. Không được nêu tội Tỳ-kheo Tăng và nói lỗi lầm của Tỳ-kheo tăng, Tỳ-kheo tăng được nói lỗi của Ni.

4. Thức-xoa-ma-na đã học giới xong phải theo chúng Tăng mà cầu thọ đại giới.

5. Ni phạm Tăng tàn phải nửa tháng ở trong hai bộ Tăng thực hành pháp ý hỷ.

6. Ni trong nửa tháng, nên đến trong chúng Tăng cầu thầy Giáo thọ.

7. Không được ở chỗ không có Tỳ-kheo tăng mà kiết hạ an cư.

8. Hạ rồi, nên đến trong tăng cầu người để làm pháp tự tứ.

Như tám pháp này, nên phải tôn trọng cung kính khen ngợi, giữ gìn suốt đời không được trái.

XUẤT GIA SIÊU THẾ

Bộ Nghiệp Sớ chép: y cứ theo chiều ngang trong các cõi, thì phàm phu không dễ gì lìa được ô nhiễm. Cho nên Đức Như Lai lập ra pháp xuất gia để người học đạo ưa thích chỗ thong thả yên lặng mà tu niệm. Nếu còn khởi tâm tham đắm, rốt cuộc sẽ trở thành nghiệp buộc. Lại dẫn ra nhiều phương tiện nhưng chỉ có một con đường này mà thôi. Như Kinh Hoa Thủ chép: Có bốn pháp chuyển thân, tức là ở Tỳ-kheo Thiện Lai hóa sinh trong hoa sen, hiện đời được tăng tuổi thọ:

1. Tự mình ưa thích đời sống Phạm hạnh của người xuất gia, cũng khuyên bảo người khác ưa thích hạnh xuất gia.

2. Cầu pháp không nhàm chán, cũng khuyên bảo người khác siêng cầu.

3. Tự thực hành pháp hòa nhẫn, cũng khuyên bảo người khác thực hành theo.

4. Tập tu mọi phương tiện phát ra lời đại nguyện sâu rộng.

Lại trong Kinh Xuất Gia Công Đức chép: Nếu cho người xuất gia thọ giới, thì được công đức vô biên, ví như có người phát tâm cúng dường các bậc A-la-hán đầy trong cõi Tứ thiên hạ suốt một trăm năm nhưng không bằng công đức của người vì đạo Niết-bàn trong một ngày đêm cầu xuất gia thọ giới. Ấy là nói việc bố thí phước tuy nhiều nhưng sẽ có ngày hưởng hết, vì đó là phúc báo hữu vi, còn ràng buộc trong cõi dục, người vì pháp mà xuất gia chẳng phải là việc làm trong ba cõi, cho nên nói là được công đức hơn người bố thí trước. Kinh lại chép: Dù cho xây tháp bảy báu cao đến cõi trời Đao-lợi nhưng phúc báo đó cũng kém hơn công đức của người xuất gia. Một khi phát tâm ưa thích hạnh xuất gia, công đức dù chưa kể được, nhưng do chứa ít thành nhiều, nên nói rằng cao hơn tháp bảy báu kia.

NĂM ĐỨC CỦA SA DI:

Bộ Hành Sự Sao dẫn lời trong kinh Phước Điền chép:

1. Phát tâm xuất gia vì lòng đeo mang đạo.

2. Hủy hình hài tốt vì thích hợp với áo pháp.

3. Lìa bỏ thân mạng vì tôn kính đạo.

4. Lìa hẳn thân ái vì không thân sơ.

5. Chí cầu Đại thừa vì muốn độ người.

Lời Ký chép: Năm đức này là phần quan trọng của người xuất gia, năm chúng đều phải vâng làm, chứ chẳng (phải) chỉ riêng (cho) tiểu chúng. Suốt đời làm theo, không phải chỉ có lúc mới thọ giới. Lại trong bộ Nghiệp Sớ chép: Năm đức này trước sau chung cho năm chúng xuất gia hành trí, mới được lãnh thọ những vật thực của đàn-việt cúng dường, và mới xứng đáng là khuôn phép cho trời người. Cho nên dạy người xuất gia tụng trì, không nên xem nhẹ việc lãnh lấy giới thể (khi thọ) và chỉ (phải suốt đời) thuận theo (phục tùng) bề ngoài.

Ý NGHĨA CỦA BA Y

Bộ Hành Sự Sao dẫn lời trong luận Tát-Bà-Đa ghi: vì muốn thị hiện pháp chưa từng có, trong tất cả chín mươi sáu thứ ngoại đạo không có danh từ ba y này, lại để khác với y phục của ngoại đạo. Nói về sự phân biệt công đức, vì để hộ thân trong ba thời nên dạy sắm ba y. Mùa đông thì mặc y chín điều, mùa hạ thì mặc y năm điều, mùa xuân thì mặc y bảy điều; cũng vì để ngăn các loại muỗi mòng (nên dạy mặc ba y). Luận Trí Độ chép: Đệ tử của chư Phật thực hành theo lý Trung đạo nên mặc ba y. Vì ngoại đạo thì lõa hình không biết hổ thẹn, còn người tại gia thì rất nhiều y phục. Luật Thập Tụng chép: Vì để khác với ngoại đạo. Đức Phật bèn cầm dao cắt rọc dạy may thành điều tướng. Nên biết đây là y phục của người tu hành biết hổ thẹn. Kinh Tạp A-hàm chép: người tu pháp bốn tâm vô lượng đều cạo râu tóc, mặc ba pháp y. Đây chính là hình tướng người xuất gia. Y cứ vào nghĩa này mà đặt tên là y phục của người tu hạnh Từ Bi. Kinh Hoa Nghiêm chép: Người mặc Ca-sa phải buông bỏ ba độc phiền não, v.v... Luật Tứ Phần chép: Người còn ôm giữ các kiết sử không nên mặc Ca-sa. Luận Tát-Bà-Đa có dẫn năm ý nghĩa về việc chế ra ba y: Mặc hai y không thể ngăn gió lạnh, mặc ba y ngăn được gió lạnh.

1. Hai y không thể sinh tâm hổ thẹn.

2. Hai y không được vào xóm.

3. Cho đến đi đường không thể sinh pháp lành.

4. Oai nghi không thanh tịnh.

Cho nên dạy chứa ba y thì có đủ các nghĩa trên.

Luật Tăng-kỳ chép: Ba y là sao? Là cờ nêu của Sa-môn Hiền Thánh. Còn Bình bát là đồ ứng lượng của người xuất gia, chứ không phải là độ dùng của thế tục. Nên giữ gìn ba y và bình bát, đó là việc làm của những người ít muốn, ít việc v.v... Đương Tông Ngoại bộ phần nhiều là khí hậu lạnh nên chế ra ba y. Luật Tứ Phần lại chép: Các Như Lai ba đời đều mặc y cắt rọc như thế. Bộ Nghiệp Sớ chép:

Như trong Đại Luật ghi: Đức Như Lai vì các Tỳ-kheo chứa để không biết đủ, cho nên lúc đầu hôm Ngài mặc một y, cho đến gần sáng Ngài mặc ba y. Sáng ra, Đức Phật nhân đó đầu tiên dạy pháp mặc ba y.

TRÍCH DẪN TRÌNH BÀY CÔNG NĂNG CỦA CA-SA

Luật lại dẫn trong kinh Đại Bi chép: Hễ người nào tánh là Sa-môn, ô nhiễm hạnh Sa-môn, mà hình tướng là Sa môn đắp mặc Ca-sa.

Ở chỗ Phật Di-lặc cho đến ở chỗ Phật Lâu-Chí vào kiếp hiền cũng được nhập Niết-bàn không sót. Kinh Bi Hoa chép: Đức Như Lai ở chỗ Phật bảo Tạng phát nguyện: nguyện khi con thành Phật, Casa của con có năm thứ công đức:

1. Nếu có người vào trong pháp của con lỡ phạm tội trọng, tà kiến, v.v... mà đối trước bốn chung mặc Ca Sa khởi lên một niệm tâm cung kính trân trọng, thì chắc chắn ở trong ba thừa sẽ được thọ ký.

2. Nếu có Trời, Rồng, Người, Quỷ nào khởi chút tâm cung kính người mặc Ca-sa thì sẽ được quả Ba thừa không lui sụt.

3. Nếu có Quỷ thần hay người nào được Ca-sa cho đến chừng khoảng bốn tấc, thì sẽ được các đồ ăn uống đầy đủ.

4. Nếu có chúng sinh nào chống trái nhau, mà nghĩ đến năng lực của pháp y Ca-sa, thì liền được sinh tâm Từ Bi vui mừng.

5. Nếu có người ở trong quân trận, giữ một mảnh Ca-sa nhỏ, mà cung kính tôn trọng thì thường chiến thắng người khác.

Bạch Đức Thế Tôn, nếu Ca-sa của con không có được năm năng lực cao quý này, thì đó là con tự dối chư Phật mười phương.

Bộ Tế Duyên dẫn kinh Hiền Ngu chép: Phật bảo A-nan: về thuở xưa cách nay vô lượng A-tăngkỳ kiếp, ở châu Diêm-phù-đề phía Nam, trong một khu rừng có con Sư tử tên Kiên Thệ, thân thuần một mầu vàng, sáng chói óng ánh. Lúc ấy, có một gã thợ săn làm thầy Sa-môn cạo tóc mặc Ca-sa bên trong giấu cung tên. Sư tử nhìn thấy gã thợ săn, tưởng là vị Sa môn liền đi đến phủ phục chung quanh. Lúc ấy gã thợ săn giương cung bắn tên độc vào mình sư tử. Sư tử tức giận muốn vồ hai gã thợ săn ngay nhưng vì thấy gã thợ săn mặc Ca-sa, nên nó nghĩ rằng: Người này không bao lâu sẽ được giải thoát. Vì sao? Vì y hoại sắc này là tướng nêu của bậc Thánh ba đời. Nếu ta quyết tâm hại họ, là khởi tâm ác hướng về Hiền Thánh ba đời.

ĐẠI GIÁO CẤM HẲN VIỆC DÙNG TƠ TẰM VÀ DA THÚ

Bộ Hành Sự Sao dẫn lời trong Kinh Ương-Quật chép: Tơ tằm và da thú nếu xoay vần mua đem lại lìa khỏi tay người giết, dâng cúng cho người trì giới, thì không nên nhận, đây là pháp của Tỳ-kheo. Nếu nhận lấy mặc dù không gọi là phá giới, nhưng hành động đó trái với lòng từ bi tế vật của Đức Phật. Kinh Niết-bàn chép: da thú, dép da, y kiêusa-da các thứ y phục này đều không nên mua sắm, chứa để. Đây là ý chính của kinh, luật dạy. Bởi thế, đời nay có một phương thiền chúng đều mặc y bằng bố gai, đâu không phải là thuận theo lời Phật dạy.

Lời Ký chép: Về trước trong luật dạy, chỉ dựa vào nhà nuôi tằm kéo tơ, trong Đại giáo ghi dù có xoay vần mua đem lại cúng, cũng không cho thọ dụng, thế mới biết hạnh Thanh Văn thấp kém, chỉ nhận lấy là tránh được việc trái phạm. Nhưng Bồtát lòng từ sâu rộng, xét kỹ từ chỗ đem đến, tuy đã lìa khỏi tay người giết, nhưng đều từ việc sát sinh mà ra. Chân đạp (toạ cụ), thân mặc (ba y) đều thấm nhuần thêm phần nghiệp giết một cách gián tiếp. Việc làm này vốn chẳng phải là việc mà các bậc Đại sĩ chấp nhận, há Tỳ-kheo nên làm! Xin hãy khảo sát trong Văn kinh khuyến hóa những ai có chút lòng kính tín, rộng bày việc lợi hại cho họ rõ. Thấy trong Nghi Chương phục chép. Dù lìa khỏi tay người giết, là không từ nơi nhà nuôi tằm, không nhận mặc đồ tơ tằm là đúng pháp, hai thừa Đại Tiểu đều vâng làm. Người nhận dùng sẽ trái với lòng từ bi thương vật; trái với Đại thừa mà thuận với Tiểu thừa thì cũng không đúng. Vì Tiểu thừa từ Đại thừa mà ra, về mặt giới tuy là thuận, nhưng y cứ theo nghĩa thì lại trái.

Nên biết trì giới thì phải hành từ, mới là hợp với Thánh chỉ. Nếu buông tình thọ dụng, thì hoàn toàn trái với đạo nghi.

Cho nên Nghi chương phục lại chép: Từ lời nói trái với lòng từ bi, rốt cuộc sẽ là lời dạy dứt hẳn. Y cứ vào đây mà bàn, thì kinh luật đều trình bày lời dạy rất thắm thiết. Kế đến lại dẫn lời trong Kinh Niết-bàn là lời nhắn nhủ sau cùng.

Lời văn trong chánh giáo dạy phải dứt hẳn; vì sao còn dùng dằng ngờ vực.

NÊU RA VIỆC HIỆN TẠI ĐỂ BÁC BỎ HÀNH ĐỘNG CÀN QUẤY

Lời Ký chép: y cứ vào Cao Tăng truyện kể: Hai vị Thiền sư là Nam Nhạc và Đạo Hưu suốt đời không mặc tơ lụa, y phục chỉ toàn bằng vải bố, gai thô. Cho nên Luật Sư Đạo Tuyên ở núi Chung Nam nói: Phật pháp truyền sang Đông Đô được sáu trăm năm, chỉ có hạnh từ của Ngài Hoành Nhạc ở đây thật đáng cho chúng ta khen ngợi. Những kẻ thiền giảng đời nay tự cho mình là người tu hạnh Đại thừa không câu nệ sự tướng. Suốt ngày cứ lụa là tranh tốt, xanh đỏ đua tươi. Buông tình theo thói tham lam, trái với Thánh giáo. Đâu chẳng nghe Ngài Hoằng Nhạc suốt ngày chỉ mặc vải bố để ngăn sương gió, Tổ Thiên Thai hơn bốn mươi năm chỉ khoác một chiếc áo vá. Ngài Vĩnh Gia đình ăn thức ăn không từ nơi lưỡi cày cuốc, mặc áo không phải là thứ vải dệt từ miệng tằm. Còn Đại Sư Kinh Khê thì để nguyên tấm bố mà mặc, suốt ngày chỉ nương nghỉ trên một chõng tre. Vì các bậc Cao tăng đây là những người đã hiểu sâu lý Đại thừa, nên mới ưa chuộng khổ hạnh. Kính xin các trang hậu học nhìn xem Tổ Đức, chớ nhiễm thói tà. Nên vâng theo lời Phật dạy để sửa mình, như thế mới thật là đệ tử Phật.

CHỈ BÀY THỂ TÀI Y ĐỂ BIẾT ĐÚNG SAI

Bộ Nghiệp sớ chép: Chẳng những kẻ đem tâm gian dối dính dáng đến sự tham nhiễm mà những người vì lợi buôn bán giáo pháp, làm các việc như lạy Phật, tụng kinh hay nhịn ăn để có được của cải, tất cả cái đó có được đều gọi là vật tà mạng, thật trái với lời Phật dạy. Nên Phật không cho nhận của ấy. Như trong Khế kinh chép: Có một vị Tỳ-kheo mang y Phấn tảo xuống sông giặt, các vị trời liền múc nước ấy đem về tắm gội mà không chê là nhơ bẩn. Khi ấy, có ngoại đạo đem tấm áo lông đẹp đến giặt, các vị trời từ xa trông thấy liền vội ngăn rằng: Không được làm bẩn nước sông này, vì do tà mạng mà có được, nên ngay nơi thể của món đồ đã là bất định. Vì thế mà các vị trời ngăn không cho giặt. Dùng văn này để chứng minh, dù có tìm cầu mà tâm được thanh tịnh thì cái thể tài ấy cũng hợp pháp. Còn các thứ như lụa, nhiễu, gấm thêu đều không nên dùng. Người đời phần nhiều dùng hàng lụa làm y phục, do thể của nó từ việc giết hại sinh linh mà có, nên người xuất gia riêng phải ngăn ngừa không được mặc. Từ trước đến nay các ác Hồ tăng ở năm xứ Thiên-trúc đều không may Ca-sa bằng tơ lụa. Tôi có hỏi các vị ấy họ đều đáp rằng: vì y là pháp phục của người tu phạm hạnh thực hành pháp bốn tâm vô lương. Vả lại, biết rõ tơ lụa kia có ra là từ việc sát sinh mà vẫn cố mặc, theo nghĩa là không hợp. Bởi pháp y vải bố là thuận với đường lối hành từ tế vật của Phật, còn gấm mầu thêu sẽ làm cho người lòe mắt động tâm thần; hơn nữa, năm mầu xanh, vàng, đỏ tía xinh tươi là những thứ khiến cho người tục khởi lòng tham, cho nên đều bỏ đi không dùng. Bộ Từ Trì Ký chép: Trong Cảm Thông truyện ghi: Khi Phật pháp truyền sang phương Đông khoảng sáu, bảy trăm năm, thấy các vị Luật sư ở hai phương Nam, Bắc không hề có ý này. Họ đâu không dùng tơ lụa từ việc sát sinh để may làm y phục từ bi, vì sao chỉ có mình Ngài lại đưa ra ý này. Tổ Nam Sơn đáp: Tôi đọc trong Luận Trí Độ thấy ghi rằng Phật mặc y Tăng-già-lê bằng vải thô, cho nên lòng hằng ôm ấp hạnh từ này, và thệ nguyện với lòng không trái với hạnh Từ của Phật. Vả lại tôi xem thấy phần sau của Luật tạng có chép: Có người dâng cúng Phật chiếc y và tấm ngọa cụ bằng tơ tằm, mặc dù đã may thành y rồi nhưng Phật từ chối, quyến định không nhận (bằm chặt xé bỏ). Do đây tôi càng thêm kính ngưỡng. Lại nói còn trường hợp thấy các vị Phạn tăng từ phương Tây đến đều mặc y bằng tơ lụa, xin hỏi Ngài việc ấy ra sao? Tổ trả lời rằng: Chư Tăng ở năm xứ Thiên-trúc đều không mặc y bằng tơ tằm (nhưng người mà các vị trông thấy đó là Sa-môn ngoại đạo chứ không phải là Sa-môn Thích Tử). Do đó, tôi nghĩ sẽ soạn Nghi Chương Phục, v.v... Trong Nghĩa tịnh Tam Tạng Nội Pháp Truyện có chê trách những người xuất gia mặc y tơ tằm. Vì họ học theo Tiểu thừa thuộc phái Nhất Thiết hữu bộ, nên đa số thiên chấp tông Đại thừa Liễu nghĩa này, là pháp mà họ chẳng thể hiểu được.

DẠY PHÁP KÍNH GIỮ BA Y, BÌNH BÁT VÀ TỌA CỤ

Bộ Hành Sự sao chép: Luật Thập Tụng dạy giữ gìn ba y như giữ da trên thân, quý bình bát như quý tròng mắt, cho đến nói rằng: Đi đến nơi nào Y Bát đều phải mang theo, trong lòng không còn đoái hoài vật chi khác, cũng như chim bay. Nên không mang ba y mà đi vào xóm làng hoặc chỗ ở của người thế tục thì phạm tội. Luật Tăng-kỳ cũng chép: ba y một bát là vật tùy thân mà người Tỳ-kheo thường phải mang theo bên mình nếu có ai trái phạm sẽ bị đuổi ra khỏi giới kết tội, trừ khi bị bệnh. Nên kính giữ ba y, khởi ý tưởng như Tháp. Luật Ngũ Phần ghi: Kính giữ ba y như da mỏng, thường phải mang theo mình như chim, bay thường mang theo hai cánh. Luật Tứ phần chép: Đi phải biết thời, trái thời thì không đi, có đi đến đâu cũng phải mang theo y bát, cũng như chim bay đôi cánh thường mang theo. Trong các bộ luật đều dạy ba y phải mang theo mình. Đời nay chỉ giữ không cho cách đêm, như thế là không hợp Phật dạy. Lời Ký chép: đời nay ít có người giữ được không để cho cách đêm, huống chi thường mang theo mình! Lại có người suốt đời thân không mặc pháp y, cho nên biết rằng, đời mạt pháp giữ được không để cách đêm cũng là quý lắm rồi. Chỉ vì bên trong họ không có lòng tin thanh tịnh, mạn pháp khinh y nên đến đổi như thế! Nếu thật là người xuất gia, xin hãy vâng theo lời Phật dạy. Bộ Nghiệp Sớ chép: vì sao Y Bát phải thường mang theo mình? Vì người xuất gia lấy việc hư hoài (giữ lòng không vướng mắc, rỗng rang như hư không) làm gốc, không có chỗ trụ trước. Hễ nơi nào có ích thì dừng. Cho nên dạy phải luôn mang theo bên mình. Nếu cho để lại bất cứ một y nào thì lại tăng thêm thói khác, đối với Đạo phần kia, từng không hề có tâm nghĩ chọn, nên có lý do ấy.

CHỈ RÕ BẢN DUYÊN KHAI CHẾ

Bộ Tư Trì Ký chép: mặc y để chéo góc rũ xuống như vòi con voi thì phạm vào trăm pháp Chúng học. Giới mặc y xốc xếch về văn chú rất rõ ràng. Thời nay mặc để thòng xuống cả gang tay, há không biết mỗi bước đều trái với uy nghi, phạm tội cát-la. Nay y cứ vào lời chỉ bày của trời người ghi chú trong cảm thông truyện rằng: Phàm việc gì đều trải qua bốn lần Đức Phật mới chế giới, người đời phần nhiều mê chấp, nên tóm tắt đại ý để diễn ra cho rõ. Truyện chép: Lúc đầu, khi Đức Phật mới độ năm anh em ông Kiều-trần-như và ngay lúc độ huynh đệ ông Ca-diếp, Phật đều dạy Ca-sa để trên cánh tay trái. Vì thế Phật dạy góc chéo y để trên tay phải cho khác thế tục (đây là lần dạy thứ nhất). Về sau, đồ chúng theo Phật xuất gia ngày càng đông, các Tỳ-kheo trẻ tuổi có dáng dấp khôi ngô, khi vào thành khất thực, nhiều người nữ ưa thích. Do đó, nên Phật dạy góc chéo y, vắt lên vai cho kín. Sau lại bị gió thổi bung xuống, Phật bèn cho lấy Ni Sư đàn vắt lên (đây là lần dạy thứ hai). Sau, có Tỳ-kheo bị ngoại đạo hỏi vặn rằng: Ca-sa là áo pháp đáng tôn quý có uy linh lớn, thì đâu được dùng miếng vải lót ngồi dằn lên trên. Các Tỳ-kheo nghe qua không ai trả lời được, liền đem việc ấy bạch lên Đức Phật. Do đó nên Phật dạy: góc chéo y để trở lại ở tay trái, còn toạ cụ để ở dưới y (đây là lần dạy thứ ba).

Sau đó, có nhiều Tỳ-kheo mặc y không ngay thẳng bị ngoại đạo chê bai cho là giống như dâm nữ; cũng như vòi con voi. Do đây Phật mới dạy đặt móc buộc lên trên, khiến choàng đến góc chéo y cánh tay trái, kẹp ở dưới nách chứ không được để thòng xuống như trên là mắc lỗi.

Nay y cứ theo đây, vừa được mở mặc để trên vai trái. Nếu để thòng xuống cánh tay, dù chừng một gang tay thôi cũng bị xếp vào phi pháp, theo mỗi bước đi mà kết tội. Bản xưa chép: cuộn lại để trên cánh tay trái là đúng, nhưng không được để góc nhọn thòng xuống là sai.

Ý NGHĨA CHẾ RA BÌNH BÁT

Trong sự sao dẫn luật Tăng-kỳ chép: Bình bát là pháp khí của người xuất gia, người thế tục không nên dùng. Luật Thập Tụng chép: Bát là cờ nêu của Hằng sa chư Phật, không được dùng vào việc khác. Luật Thiện Kiến chép: bậc Thánh Ba thừa đều mang bát sành khất thực để nuôi mạng sống, lấy bốn bể làm nhà. Cho nên gọi là Tỳ-kheo. Kinh Trung A-hàm chép: Nói bình bát là sao? Đại Luật chép: Đại khái có hai loại bát là bát bằng sành và bằng thiếc. Luật Ngũ Phần chép: Thấy có nơi dùng bát bằng đồng là sao? Phật dạy đó là pháp ngoại đạo, nếu Tỳ-kheo chứa để thì mắc tội. Đức Phật tự tay nhồi đất nặn thành cái bát để làm kiểu mẫu cho đời sau. Luật Thập Tụng chép: Nếu chứa các loại bát bằng vàng, bạc, gỗ, đá là phi pháp mắc tội. Nói về mầu sắc Bát thì sao? Luật Tứ Phần chép: nên xông thành mầu đen hoặc mầu đỏ. Trong văn luật có dạy rõ về cách thức xông màu. Nếu dùng loại đất sét trắng, sắt trắng thì dù có sơn phết cũng đều là phi pháp. Nói về lượng của bát thế nào? Luật Tứ Phần chép: bình bát lớn khoảng ba đấu, nhỏ một đấu rưỡi, còn bát cỡ vừa thì có thể biết. Luật này là bản dịch đời Dao Tần, mà nước Tần thì dùng đấu của nhà Cơ-Chu. Nếu theo cái đấu của đời Đường thì bát bậc thượng khoảng một đấu, bực hạ năm thăng, cho đến chép rằng mặc dù trong các bộ luật định về lượng của Bát thì không nhất định, nhưng nhiều thì ba đấu, đấu rưỡi làm hạn. Nhưng bình bát ở đây gọi là Ứng Khí, là phải y theo lời Phật dạy mà làm. Luật chép: cứ lường theo bụng của mình mà ăn, đo theo thân mà mặc, vừa đủ thì thôi.

Văn đây nói chung việc thêm hay bớt thì nhất định là phải y cứ theo Chánh giáo.

Ý NGHĨA LÀM RA TỌA CỤ

Trong sự sao dẫn luật Tứ Phần chép: vì để hộ thân; hộ y; hộ ngọa cụ nên Phật dạy chiều dài của toạ cụ bằng hai gang tay Phật, chiều rộng bằng một gang rưỡi. Chiều rộng, và dài nếu thêm thì một bề nửa gang tay nữa (nếu là người thân to lớn). Trong các bộ nói về gang tay của Phật đều nói không giống nhau. Nay y theo Luật Ngũ Phận chép: một gang tay Phật dài hai thước. Y cứ vào thước đời Đường là một thước sáu tấc bảy phân. Suy theo đây thì hai thước là một gang tay, là y cứ theo thước của nhà Cơ-Chu. Luật Thập Tụng chép: Toạ cụ mới thì may hai lớp, cũ thì bốn lớp. Trong Già Luận cũng cùng ý với đây. Bộ Tỳ-nại-da Tạp Sự chép: may Ni-sư-đàn mới phải lấy vải cũ viền ở bốn góc để hủy sắc mới kia. Nếu may nên đặt viền thành. Trong luật Ngũ Phần chép: phải may ghép bốn góc lại, bằng không ghép thì thôi. Luật Tứ Phần chép: nếu giảm lượng mà may thì gấp hai lớp lại cũng được. Luật Thập Tụng chép: không nên thọ Ni-sư-đàn một lớp. Nếu để cách đêm phạm tội Cát-la. Luận Ma-đắc-lặc-già chép: Nếu để toạ cụ cách đêm mặc dù không phạm xả đọa, nhưng như thế cũng là trái với Phật dạy. Cho nên không được để cách đêm. Lời Ký chép: vì hộ thân là sợ ngồi trên đất có thể tổn hại. Kế đến hộ y là vì sợ không có đồ lót đất để ngồi thì ba y dễ bị rách. Vì hộ ngọa cụ là vì sợ thân không sạch làm bẩn giường chõng của chúng Tăng.

QUYỂN 4

Ý NGHĨA VỀ ĐÃY LƯỢT NƯỚC

Bộ Hành Sự Sao chép: đãy lọc nước dù là nhỏ nhẹ, nhưng làm lợi ích rất lớn. Người xuất gia lòng từ cứu giúp, y đó ở đây. Đời này bậc Thượng phẩm Cao Hạnh còn uống nước có trùng huống chi là người chẳng ra gì, đâu đáng để nói! Cho nên trong luật vì tôn trọng mạng sống loài côn trùng, mới đây riêng hai giới nói về việc uống và dùng. Vì đây là việc hằng ngày, đa số mọi người phải dùng đến nước. Lời Ký chép: Người xuất gia tu tâm từ làm gốc. Từ là đem lại an vui cho nên lấy việc không giết hại làm trước. Loài trùng tuy nhỏ nhưng tinh thần hộ mệnh của người xuất gia thì xem nó với người không khác. Đây chính là dụng cụ hành từ, là nhân duyên cứu giúp chúng sinh. Đại hạnh từ đây mà sinh trưởng, chí đạo cũng do đây mà thành. Đồng là loài mang tình thức, nên đừng cho là nhỏ.

DẪN VIỆC THUYẾT TỊNH CỦA ĐẠI GIÁO ĐỂ BÁC BỎ VIỆC Ỷ LẠI

Bộ Tư Trì dẫn Luận Trì Địa chép: Bồ-tát trước phải đối với tất cả đồ vật chứa để vì là phi Tịnh, dùng tâm thanh tịnh thí xa cho chư Phật và Bồ-tát ở mười phương, như thầy Tỳ-kheo phải đem y vật hiện tiền xả cho Hòa thượng và A-xà-lê, v.v... Kinh Niết-bàn chép: Tuy Đức Phật cho phép Bồ-tát nhận chứa tài vật, nhưng phải làm pháp tịnh thí cho người Đàn-việt có lòng tin sâu chắc. Đời nay những vị dạy học, chuyên vì lợi danh, họ không hề biết hổ thẹn khi nhận cơm năm tà, mãi ham hố chứa tám thứ tài sản ô uế. Chỉ chạy theo trần tục nổi chìm, nào nghĩ đến lời vàng Phật dạy. Từ lúc thọ giới ở đàn tràng về sau, dù trải qua nhiều tuổi hạ, nhưng nếu có bàn đến pháp Tịnh thí thì một điều cũng chưa thấm vào thân. Họ đâu biết của dùng hằng ngày đâu không phải là uế vật, của chứa trong rương tráp đều là của trộm. Khinh pháp dối lòng, để lại lo buồn.

Ôi! Người học luật, biết mà cố phạm, thì những người ở các tông khác, thật chẳng đáng nói. Ai chịu biết sự báo ứng sẽ do tâm mà hình thành; nào chịu tin quả là do hột giống kết nên. Hiện đời nếu để Ca-sa lìa mình thì đời sau giáp sắt sẽ quấn thân. Làm người thì sinh nơi chỗ nghèo hèn đói thiếu, áo quần nhơ bẩn. Làm súc sinh thì đọa vào chỗ bất tịnh, lông tóc hôi tanh. Huống chi, Đại thừa, Tiểu thừa đều gọi chung là pháp tịnh thí, nếu người có lòng Tín sâu thì nào ngại ở việc vâng làm. Cho nên lời ký trong Bộ Phụ Hành của Thiền sư Kinh Khê chép: có người nói: Tất cả các tài vật nghĩ chẳng phải vật của mình hễ việc gì có ích liền dùng thì còn thuyết tịnh làm gì?

Người đã nói thế, giờ tôi xin hỏi lại: Nếu đã nói mọi vật đều chẳng phải là của mình, thế thì tại sao không đem thí cho bốn biển; và đã bảo là có ích liền dùng, thì sao không giao thẳng cho hai thứ ruộng bi và ruộng kính, mà lại cứ cất giấu trong trong phòng kín, chứa để ở túi rương.

Thật là trong lòng thì nghĩ là của người, cứ lấy để tiêu dùng thì chắc chắn sẽ chuốc vạ thôi (phạm tội trộm). Còn khinh bảo là của mình, thì vẫn trái với pháp thuyết tịnh. Đã quyết định rồi, lại còn đem bố thí, thì đối với lý nào ngăn ngại gì. Mặc cho mình chấp giữ trong lòng cũng được, chỉ lo sợ kẻ hậu sinh lại bắt chước mà thôi!

Nên biết người không làm pháp thuyết tịnh, là rất trái ý với Phật. Những người đó sẽ không thuộc hai thừa, ba căn chẳng thu. Than ôi! Người xuất gia mà như thế, đâu chẳng phải luống uổng.

TÁM THỨ TÀI SẢN BẤT TỊNH, NUÔI LỚN LÒNG THAM, TỔN HOẠI ĐẠO NGHIỆP.

Bộ sư sao chép: Tám thứ tài sản bất tịnh là:

1. Nhà cửa ruộng vườn.

2. Ươm trồng hột giống.

3. Chứa góp thóc lúa.

4. Nuôi dưỡng tôi tớ.

5. Giam nhốt cầm thú.

6. Tiền bạc, vật báu.

7. Chân nệm đỉnh vạc.

8. Gường ghế chạm cẩn ngà vàng và các vật quý giá.

Tám thứ trên đây đều gọi là tài sản Bất tịnh. Trong kinh, luật, luận đều kể số chung và dạy rõ tám thứ tài sản này là nguyên nhân gây nên tội không được dùng. Lại nữa, trong các kinh luật đều nói, nếu người xuất gia cất chứa, thì kẻ ấy chẳng phải là đệ tử ta. Luật Ngũ Phần cũng chép: người cất chứa, chắc chắn là kẻ không tin pháp luật của ta. Bởi tám thứ này đều nuôi lớn lòng tham, tổn hoại đạo nghiệp. Vì nó làm nhơ nhuốc phạm hạnh, mắc quả báo xấu, nên gọi là tài sản Bất tịnh, cho đến nói rằng: Trong luật là dạy về sự tướng, vì người tiểu cơ ý hẹp, nên phải nói nhiều về việc cất chứa. Lại trong kinh Niết-bàn chép: Nếu các đệ tử không có người chu cấp vật tiêu dùng, lại gặp lúc mất mùa đói kém, tìm thức uống ăn khó được, vì muốn giữ gìn Tăng bảo, gầy dựng chánh pháp, ta cho phép các đệ tử nhận chứa vàng bạc, xe cộ, ruộng nhà, thóc gạo trao đổi để tiêu dùng. Tuy là cho phép nhận chứa các vật như thế, nhưng phải làm pháp tịnh thí cho người đàn-việt có lòng tin sâu chắc. Lời ký chép: Văn trên là nói người Đại thừa về Cơ và Giáo đều gấp, còn văn dưới là nói hàng Tiểu thừa về Cơ và Giáo đều hoãn. Luật dạy về việc hành sự nếu trái với lý thì phạm tội, đương nhiên hàng tiểu cơ ý hẹp không làm nổi nên phương tiện khai ra, có khác với bậc thượng căn. Còn Đại thừa có thể gánh vác nổi. Cho nên dạy là trọng. Thế mà, người đời lại bảo rằng, Tiểu thừa thì phải giữ giới, còn Đại giáo thì thông phương, lời đó rất là sai lầm!

KHUYÊN NGƯỜI MỞ RỘNG LÒNG TÙY THUẬN LỢI GIÚP SÁU ĐƯỜNG

Thiên Tăng Cương chép: Người xuất gia chân thật phải biết nghĩ sợ bốn oán là nhiều khổ, nhàm chán ba cõi là vô thường, giã từ sáu thân thương mến, xả bỏ năm dục đắm ưa. Vì thế tục là luống dối nên phải bỏ, đạo lý là chân thật phải về nương. Cho nên phải mở rộng ý chí cho rộng lớn, từ bỏ những tâm tư thấp hèn. Không tiếc thân mạng của cải, phải thường nghĩ đến việc giữ gìn Chánh pháp. Huống chi, vật thực của chúng Tăng ở khắp cùng mười phương, người nhận thì lấy theo phần của mình, lẽ ra phải tùy hỷ. Thế mà tình người lại ganh ghét sự đầy đủ của người khác, dùng tâm không bình đẳng để đối xử. Có người lại đóng kín cửa nẻo, ngăn cản khách tăng du phương, việc làm này chẳng bị chê cười ư? Bản ý của việc đánh hiệu kiền-chùy báo giờ Ngọ trai há không đúng sao? Người xuất gia đã bỏ đi lòng tham đắm hưởng thụ, không nên hành động như thế mới phải! Nếu chỉ dùng tâm thân mỏng manh này thì không thể bền giữ chánh pháp được và mạng sống tạm này không nên lặn lội tìm tăng thực. Vì như thế sẽ trái với lời dạy của chư Phật và làm tổn hao ruộng phước của Đàn-na khiến đau xót chúng sinh một thuở làm ngăn lấp con đường của mười phương tăng.

Để lại hành động sai lầm làm bại hoại ý chí cao xa của người lớp sau. Hãy thay đổi quan niệm mê mờ từ trước, hầu trở lại đạo lý công bằng sáng tỏ muôn đời, được như thế chẳng phải là tốt sao? (tham ăn một mình là cái hạnh nghiệp của ngạ quỷ, gói đó là mê lầm lớn).

Có người hỏi: Vật thực của chúng Tăng thì có giới hạn, còn khách vân thủy từ ngoài đến thì vô cùng. Nếu lấy vật thực có hạn để cung cấp chư Tăng không cùng thì e rằng việc này chắc chắn sẽ không đủ.

Đáp rằng: Đó là sự tính toán nông cạn của kẻ tục hẹp hòi; là tâm niệm nhỏ mọn của người keo xẻn. Làm sao nói được với bậc Thánh trí có kiến thức sâu xa và nào lọt vào tai những bậc Đại sĩ có cái nhìn cao tột. Nói về việc cúng dường cho bốn chúng là ruộng phước của Tam bảo cũng ví như sự sinh ra và lớn lên của trời Đất, sự thọ dụng của núi biển, nào có cùng hết được đâu! Cho nên Kinh Phật Tạng chép: Phải một lòng hành đạo, thuận theo pháp mà làm, chứ đừng nghĩ đến áo cơm là cái tạm dùng qua buổi. Chỉ cần một tướng ánh sáng lông trắng của Như Lai, chu cấp cho tất cả đệ tử xuất gia cũng không thể nào hết được. Do đây mà nói, các thầy hãy siêng tu giới hạnh, chí thành hộ pháp, từ đạo mà được lợi, nhờ đạo mà dùng chung, cho đến nói. Người thế tục còn cho rằng: chỉ lo Đạo đức chứ không lo nghèo. Huống chi người xuất gia tâm hồn đã vượt ngoài cõi tục, chẳng lo giữ gìn Chánh pháp mà cứ mãi lo việc ăn uống, thật là rất sai lầm.

Giải thích đốt thân, đốt ngón tay, Đại thừa và Tiểu thừa có chủ trương khác nhau.

Bộ Tư Trì Ký chép: Trong Nghĩa Tịnh Tam Tạng Ký Quy Truyện có bác bỏ việc người đời đốt thân, đốt ngón tay, ý cho rằng hạnh của Bồ-tát Đại sĩ thì tỳ-kheo xuất gia không làm được. Xưa nay các chương ký truyền nhau răn nhắc, người giảng ít học dùng làm lời đầu môi, đó là do không biết căn cơ có sâu cạn, giáo chia ra Hóa và Chế, luật nói rõ tự giết, phương tiện thâu-lan, đốt ngón tay, tấn hương, trái với luật chế, phạm tội cát-la. Kinh Phạm Võng chép: Nếu không đốt thân, đốt cánh tay, ngón tay thì chẳng phải là Bồ-tát xuất gia, phạm tội khinh cấu. Đó là do Tiểu thừa gấp về tự hành, mong hết báo thân này được siêu sinh. Còn Đại sĩ thì chuyên lợi tha, trải qua nhiều kiếp cứu giúp chúng sinh, cho nên tiểu luật kết tội lớn, Đại giáo khen ngợi công đức ấy rất sâu, huống chi hai giáo Đại Tiểu đều là lời Phật, một đè một nâng, đâu cho phép trái khác. Vả lại, kinh nói Bồ-tát xuất gia chứ không cho phép Tỳ-kheo (Tiểu thừa cho rằng xả thân chẳng phải là việc làm của Sa-môn).

Việc khổ hạnh di thân đâu phải chỉ có thế tục. Ngài Kinh Khê cho rằng theo Tiểu thừa không đốt thì dễ, theo Đại thừa đốt thì khó; Bảo vệ thân mạng, tham sống, chúng sinh đều như thế, nay y cứ vào nghĩa chia ra ba trường hợp: 1. Nếu vốn là người tại gia thì không ở trong hạn này, hoặc hoàn toàn không thọ giới, y theo kinh này cúng dường ngón chân, ngón tay thì còn hơn bố thí quốc thành. Nếu theo kinh Phạm Võng, thì thọ Đại giới thuận theo thể mà vâng giữ, đốt thì càng tốt. 2. Nếu chỉ thọ Tiểu giới hạn cuộc ở Tỳ-kheo, không đốt thì thuận bổn thành trì, đốt thì y theo thiên mà kết phạm. 3. Nếu thọ cả đại giới gọi là Bồ-tát xuất gia, đốt thì thành trì, không đốt thì thành phạm. Nếu trước Tiểu sau Đại, hoặc trước Đại sau Tiểu, đồng thời từ Đại mà xếp vào không phạm luật nghi. Nếu ở đây dùng minh thô để phân ra tiến hay không thì đâu được cho đồng là một thứ mà bác bỏ là sai. Nhưng người có chí mạnh mẽ, tâm còn cuồng loạn, thích lợi dưỡng của người, tiếng tăm của thế gian, phá hoại pháp môn, đó là tên giặc nguy hiểm trong Phật giáo. Tự làm tàn phế thân thể, thật là người trái nghịch với Nho Tông, đó là nhân ác, không bao giờ có quả báo lành. Hiện thời rất thạnh hành các tập tục thế gian, đâu biết lời răn của ngài Nghĩa Tịnh, cũng có người chấp.

LUẬT DẠY VIỆC HỌC NGOẠI ĐIỂN VÌ CÓ PHƯƠNG HẠI ĐẾN CHÁNH NGHIỆP (TU HỌC PHẬT)

Lời văn trong sự sao ghi: Luật Ngũ Phần chép rằng: vì trông coi việc sai tăng sứ và việc pháp thực, nhóm họp, v.v... và cho người xuất gia được nghiên cứu ngoại điển, nhưng không được vì ham thích mà phế bỏ chánh nghiệp. Luật dạy không cho xem bói tướng và (tìm) hỏi việc tốt xấu ở người. Luật Tứ phần có khai cho người xuất gia được học tụng văn sách và nghiên cứu các luận thuyết thế gian, vì để hàng phục ngoại đạo. Trong (tạp pháp) các môn học thế gian, (thì) đối với (vị) Tỳ-kheo mới học cũng có khai cho được học toán pháp (pháp làm tính). Luật Thập Tụng ghi: người ưa làm văn thơ kệ tụng trau dồi chương cú. Đó là việc sợ hãi, không được làm. Trong Luận Tỳ-ni Mẫu, Đức Phật dạy: Này các Tỳ-kheo! Ta dạy các ông một câu kinh, một bài kệ, cho đến đời sau này, những việc nên làm thì làm, còn những việc không nên làm thì đừng làm. Và các Tỳ-kheo ở đời sau ta cũng nói như thế. Lời Ký chép: vì sách truyện toán pháp, văn chương kệ tụng, bói thuật đều là các môn học của thế tục, chẳng phải chánh nghiệp của người xuất gia, vì nhân duyên (hàng chục kẻ ngoại đạo) nên mới cho học tập các môn học ấy.

Hàng Thích tử đời nay, danh và thật đều mất. Hễ người (nào) viết chữ đẹp thì xưng là Thảo-Thánh, người nào thông suốt sách vở thế tục thì xưng là (thầy) văn chương; người biết chọn đất tốt, xem địa lý giỏi thì gọi là (sư) Sơn thủy; người biết nghề bói toán thì gọi là Tam mạng.

Tại sao tâm đã bỏ nhà, theo Phật mà còn thuận theo danh của thế tục, vốn phải nhàm chán thế gian để cầu giải thoát, lại học tập theo nghiệp sinh tử làm chi? Cho nên Luận Trí Độ chép: người học tập ngoại điển cũng như kẻ lấy dao cắt bùn, không thành vật gì, mà dao tự tổn hại: lại cũng như người nhìn tia sáng Mặt trời, chỉ khiến cho người ấy (bị) choá mắt. Các bậc cao tăng (thuở) xưa, có nhiều vị cũng nghiên cứu các môn ngoại dị học, có vị hành về lối thảo, lối lệ, có vị giỏi về văn chương, thơ phú; có vị nổi tiếng về phương pháp trị bệnh (y thuật), có vị giỏi việc âm dương đoán mạng, các vị này đều đã tinh thông nội điển, rộng ra đến các tông khác nhưng đều không để (tâm) chí hướng việc giữ gìn (chánh pháp) và giúp việc giáo hóa, truyền bá chánh pháp của Phật. Cho nên trong Thiên Giới chép: Nếu vì luận bàn để phá tà kiến thì cho hai phần học nội điển, một phần học sách ngoại mà không phạm. Luật Tứ Phần cho được học tập ngoại điển cũng là ý ấy. Đời nay có người cầu lợi mua danh, cậy thế khoe tài. Thân thì khoác Ca-sa mà tâm chí lại (đắm) nhiễm thói tục, để cho một đời luống qua, thật đáng thương thay.

GIẢI HẠNH KHÔNG THẬT LẠI XEM THƯỜNG GIỚI LUẬT

Bộ Tư Trì chép: Trong Luật Thập tụng, Phật dạy các (Thầy) Tỳ-kheo năm hạ trở xuống, phải chuyên học kỹ giới Luật. Nếu hiểu suốt phép trì phạm, làm xong phận sư (của) Tỳ-kheo thì mới nên học tập kinh luận. Đời này học vượt bực. Việc làm đã mất thứ lớp thì không do đâu mà vào được đạo. Cho nên bậc Đại Thánh quở trách các Tỳ-kheo đó, nhất quyết chẳng phải là đồ chúng của ta. Lại nữa, luật trên lại chép: Phật thấy các Tỳ-kheo không chịu học tập Tỳ-ni nên Ngài khen ngợi Tỳ-ni. Đồng thời ở trước mặt mọi người, Phật khen Tôn giả Ưu-ba-ly là người trì giới bậc nhất, nên sau đó các Thượng toạ, Trưởng Lão, Tỳ-kheo theo Tôn giả Ưu-ba-ly để học Luật. Thời nay vừa mới thấm nhuần giới phẩm liền nghe kinh và tham thiền, nào hạnh oai nghi làm ông tăng, đều không biết gì đến giới luật. Huống chi lại xem thường giới pháp, hủy báng Tỳ-ni, chê người học luật là Tiểu thừa, khinh người giữ giới là chấp tướng. Do đó mà đam mê theo trần tục, buông thả thói hung hăng, ham muốn rượu thịt mà tự cho mình là không chấp tướng, làm việc dâm dục, giận dữ lại tự cho mình là thấy đạo lý. Thật chưa xét cùng được ý chỉ của Phật Tổ nên hiểu lầm nghĩa chân thừa, nếu giới luật là đáng xem thường, thì lên đàn thọ giới mà chi! Luật là đáng chê thì theo người cạo tóc, mặc áo làm gì! Như thế thì khinh giới chính là khinh mình chê luật lại thành chê mình.

Than ôi! Thói đời dễ tập, đạo chánh khó nghe; vượt hơn đời trong muôn người không được một. Vậy phải hiểu rõ lời Phật dạy, đâu dám không thuận theo.

KHỞI TÂM QUY KÍNH TAM BẢO

Trung Nghi Quy Kính chép: Cho nên tình đời huân tập đã lâu ngày, mà muốn nắm được chỗ tỏ ngộ thì không có lối. Cho nên đứng về sự tướng thì phải lập ra kính bày, mở ra pháp tín làm đầu và thuận theo tâm chúng sinh, y cứ vào tướng để chỉ rõ công thành hóa. Vậy sao người có lòng hy sinh cho Phật pháp đông nhiều mà không yêu tiếc thân mạng. Biết được đấng Cực Tôn trong vũ trụ nên càng kính hơn cha mẹ. Hiểu rõ giáo nghĩa là rộng lớn thì đạo lý mới vượt khỏi lối thường, cho đến nói: Luận Tiểu Thừa chép: Kinh là sao? Nghĩa là lấy sự hổ thẹn làm bản thể. Vì đức hạnh của ta cạn mỏng mà cảnh hiện tiền lại cao quý, cho nên phát khởi hành động cung kính. Người đời nay lại không biết hổ thẹn thật rất đáng chê cười. Luận Đại Thừa chép: Do chánh tín và trí tuệ nên cung kính ngôi Tam bảo. Vì tín nên khởi lòng cung kinh cho nên Khế kinh dạy, dìu dắt lòng thành, lấy trí tín và hổ thẹn làm cội gốc của sự quy kính. Lại dẫn luận chép: Quy y là gì? Nghĩa là lời phát nguyện xoay tâm mình trở về đường chánh. Vì xưa trái chánh theo tà, trôi dạt trong sáu đường, nay gặp Phật ra đời giảng nói chân lý cực tôn, xoay tâm tà vạy chuyển theo chánh đạo. Do đó mới lập ra pháp quy y, có chia thành năm bậc khác nhau. Trước từ chỗ lìa thế tục, sau đạt đến địa vị nhập đạo, tất cả đều phải nương tựa ngôi Tam bảo, lấy làm dấu vết đầu tiên. Vì bậc Thiên Nhân Sư là địa vị cực tôn, còn việc quy y là hành động cực đại. Cho nên Kinh Tăng Nhất A-hàm chép: Người không có tâm cung kính Phật, thì sẽ đọa làm rồng, rắn vì từ quá khứ cho đến nay vẫn không sinh tâm cung kính nên bị nhiều ngu si, tăm tối, v.v... trên đây là những bằng chứng tốt nhất. Kinh Đại Bi chép: Thuở quá khứ, khi Phật còn hành Đạo Bồ-tát, hễ khi Ngài nhìn thấy ngôi Tam bảo, chùa tháp, xá-lợi, tượng, sư tăng, cha mẹ, người tuổi cao, bạn lành tri thức, hàng ngoại đạo, các vị trời, Sa-môn, Bà-la-môn, Ngài đều cúi đầu thấp mình xuống đảnh lễ. Do quả báo tốt đẹp này nên từ khi thành Phật đến nay khắp cả núi rừng, người thú không một ai không nghiêng mình kính lễ Đức Phật. Lại trong sách lễ tục chép: “Đâu không cung kính dáng dấp trang nghiêm như thờ cha mẹ.” Sao lại định lời như thế? Vì không nên nuôi lớn tâm ngông nghênh, không được buông lung tham dục, không thể đầy dẫy tính khí hung hăng.

LỢI ÍCH CẦU QUY Y TAM BẢO

Trong Quy Kính Nghi chép: cho nên đàn hậu tiến sơ tâm phải nương tựa vào Sư Trưởng và bạn lành, nay phải về nương Tam bảo, thường thích gần gũi. Cho nên Luận Đại Trí Độ chép: Nếu hàng Bồ-tát chưa được vào pháp vị, còn xa lìa chư Phật, e sẽ bị hư hoại các gốc lành, đắm chìm trong phiền não. Không thể độ được mình thì đâu thể độ người. Vì thế không được lìa chư Phật, ví như con thơ không thể xa cha mẹ, như người đi đường không thể thiếu lương thực, như gặp trời nóng không thể thiếu gió mát, như lúc trời rét không thể thiếu lò sưởi, như qua sông không thể lìa thuyền, như bệnh nặng không thể lìa thuốc. Do đó, Bồ-tát thường không lìa chư Phật. Vì sao? Vì cha mẹ, bạn thân, người, trời, vua chúa, v.v... các người ấy không thể đem lại lợi ích cho ta, vượt khỏi biển khổ, chỉ có chư Phật, Thế Tôn mới có khả năng giúp ta ra khỏi biển khổ sinh tử. Vì thế thường nghĩ không nên lìa xa chư Phật. Lại như Kinh Thiện Sinh chép: Như có người ba lần nói tự nguyện quy y Tam bảo sẽ được quả báo không thể cùng tột, ví như Tạng báu trong bốn đại bộ châu, nhân dân khắp cả nước tiêu dùng trong bảy năm, vận chuyển ra cũng không thể hết được, phước báo của người thọ Tam quy hơn cả số trên kia gấp nhiều lần không thể kể xiết. Lại như Kinh Giảo Lượng Công Đức chép: Như trong bốn Đại Bộ châu, đầy dẫy những người chứng quả Nhị thừa, hoặc có người trọn đời cúng dường hầu hạ, xây dựng tháp miếu, v.v... nhưng công đức không bằng kẻ nam, người nữ nào tự nói lời rằng: “Con tên... xin nguyện quy y Phật, Pháp, Tăng”, công đức của người ấy không thể nghĩ bàn. Vì trong các phước báo chỉ có ngôi Tam bảo là trên hết.

TRÌNH BÀY DANH TƯỚNG TAM BẢO.

Quy Kính Nghi chép: Tam bảo là đấng đáng kính. Thế nên phải hiểu rõ tướng trạng của Tam bảo. Trong bộ Hành Hộ chép: Đem thân mạng về nương với pháp thân thường trụ. Nghĩa là nói Đức Như Lai đã đầy đủ mười lực, bốn vô úy, năm nhãn, sáu thông, mười tám pháp bất cộng, đại từ đại bi, ba niệm xứ v.v... Tất cả chủng trí. Đấng Điều Ngự Vô Thượng, công đức và trí tuệ, nhiệm mầu thanh tịnh rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, an ủi thế gian, che trùm khắp cả không gian, không hề vướng mắc, không có phân biệt, không thể dùng trí tuệ mà biết được, không thể dùng tâm thức mà phân biệt được. Phật lại năng hiện ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thường duỗi cánh tay phải để vỗ về dìu dắt chúng sinh. Ngài phát ra ánh sáng rực rỡ để đẩy lùi bóng tối vô minh. Trăm phước trang nghiêm, muôn đức tròn đầy, rưới nước cam lồ, xoay bánh xe chánh pháp, cứu vớt chúng sinh ra khỏi biển sinh tử. Cho nên Phật được gọi là bậc Pháp Vương vô thượng, tôn quý trong hàng Thánh.

* Mười hai bộ kinh:-Tiếng Phạm: 1. Tu-đa-la 2. Tỳ-dạ.

3. Hòa-già-na

4. Già-đà

5. Ưu-đà-na

6. Ni-đà-na

7. A-bà-đà-na

8. Y Đế-mục-đa-già

9. Xà-đà-già

10. Tỳ-phật-lược

11. A-phù-đạt-ma

12. Ưu-ba-đề-xá. Đời Đường dịch:

1. Khế Kinh

2. Trùng Tụng

3. Thọ Ký

4. Cô Khởi

5. Vô Vấn

6. Nhân Duyên

7. Thí Dụ,

8. Bổn Sự

9. Bổn Sinh

10. Phương Quảng 11-Vị Tằng Hữu 12-Luận Nghị.

Từ phần tựa, Chánh tông, Lưu thông đều tốt đẹp. Ý nghĩa thành tịnh, tự nhiên đầy đủ, mở bày phạm hạnh, tối thượng bậc nhất, vượt qua bờ kia, sâu xa thật tướng, đại tuệ bình đẳng, tự tánh thanh tịnh, ngôn ngữ bặt dứt, tâm hành đều diệt, chánh pháp này cảnh giới vô ngại, vì chúng sinh mà giảng nói, nhưng vẫn không trái với nghĩa thật tướng. Do đó gọi là phương thuốc nhiệm mầu vô thượng xuất thế, phá diệt hết phiền não từ vô thỉ của chúng sinh.

Ba thừa tịnh tăng là những người thực hành Pháp Ba tuệ (Văn-Tư-Tu) bày đạo Bồ-tát, mặc giáp hoằng thệ, giục ngựa tinh tiến, cầm cung nhẫn nhục, phóng tên trí tuệ, giết giặc phiền não. Với trực tâm, thân tâm các Ngài quyết định thẳng đến chính đạo bình đẳng, vô thượng bậc nhất, Tâm không rời lìa Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Phát nguyện làm theo những lời dạy của chư Phật, thường dùng sáu độ, độ các chúng sinh. Luôn dùng bốn pháp Nhiếp nhiếp, hóa hàm thức. Là ngôi tôn quý, là bậc Đạo sư, là chỗ dựa nương, là Thầy tế độ. Xem chúng sinh an ổn đến Phật đạo Bồ-đề. Cho nên gọi Tăng là bạn lành thiện pháp, vì các Ngài thường dùng phương tiện làm lợi ích thế gian, các Ngài là ruộng phước tốt đẹp, là bậc đáng được cúng dường.

TAM BẢO TRỤ TRÌ HOÀN TOÀN DO GIỚI PHÁP

Bộ Tư Trì Ký chép: Tam bảo có bốn nghĩa:

1-Lý Tam bảo.

2. Lý thể Tam bảo.

Hai loại này là nói ngay nơi lý.

3. Hóa tướng Tam bảo, loại thừa thứ ba này là y cứ vào thời Đức Phật còn tại thế.

4. Trụ trì Tam bảo: loại thừa thứ tư này trùm khắp cả ba thời.

Công năng từ năng lực của giới, vận chuyển không dứt, cho nên cũng ví như chiếc thuyền. Vì sao lại ví như chiếc thuyền? Vì Phật bảo và Pháp bảo đều nhờ Tăng bảo hoằng hóa, ngôi Tăng bảo được tồn tại. Nếu không có giới luật thì không thể đứng vững được. Như trong bộ Tiêu Tông chép: Thuận theo giới luật thì ngôi Tam bảo được lâu dài, nếu trái với giới luật thì chánh pháp sẽ bị diệt mất. Lại như Kinh Hoa Nghiêm chép: Nhận giữ đầy đủ oai nghi giáo pháp, khiến cho ngôi Tam bảo không bị dứt mất.

NÓI VỀ CÔNG ĐỨC CAO RỘNG CỦA TAM BẢO QUY Y SẼ ĐƯỢC LỢI ÍCH LỚN

Trong Quy Kính Nghi chép: Do ngôi Tam bảo này thường trụ thế gian, không bị thế pháp khinh dễ, nên gọi là Bảo. Ví như vật châu báu ở đời, luôn được người đời quý trọng. Nay ngôi Tam bảo này là chỗ về nương của chúng sinh, của Thánh chúng Ba thừa, nên gọi là chánh quy. Nếu lòng tin không chuyên nhất, xen lẫn tà thần, thì dù có thọ quy giới cũng không đắc được Thánh Pháp. Cho nên khế kinh chép: Người quy y Phật đáng được gọi là Thanh Tín Sĩ, trọn đời không được lầm lạc quy theo các thiên thần khác. Sao nói lời như thế? Vì Ngôi Tam bảo chân thật tánh và tướng thường trụ thế gian, xứng đáng làm chỗ nương tựa cho muôn loài, ngoài ra cả vị thiên đế thân tâm vẫn bị các khổ não, pháp hữu vi hữu lậu chi phối, họ không có đủ năng lực giải thoát, tự cứu mình còn không rãnh thì đâu cứu được người khác. Chỉ có ngôi Tam bảo xuất thế gian mới có đủ năng lực cứu vớt mọi loài. Nói quy y là sao? Ví như nương vào sức mạnh của vua nên không bị kẻ khác làm hại. Nay về nương Tam bảo là địa vị oai thần phước đức cao tột, không bờ bến, nên khiến cho rồng thần khỏi được nạn chim cánh vàng ăn thịt, kẻ tín sĩ được khỏi nạn quỷ Dạ-xoa ăn thịt. Năm bậc đều thọ tam quy, đều về nương ngôi báu này. Có nơi gọi là đồng tướng Tam bảo, là vì lý thì chúng chung cho cả ba đời còn nghĩa thì suốt hết mười phương. Thường trụ Tam bảo chính là địa vị cao tột nhất, kinh chép: Nếu có người được nghe hai chữ Thường Trụ, thì người này đời đời không rơi vào đường ác, vì sao? Vì họ đã hiểu được bản tính của Phật pháp là Thường trụ. Một khi nghe hiểu xông ướp vào tâm thức thì hạt giống nghiệp đã thành, lòng tin trong sạch không mất. Huống chi lập nguyện quy y kính thờ làm bậc khuôn mẫu thì chắc chắn sẽ chiêu cảm nhiều kiếp được. Báo thân thanh tịnh tốt đẹp cao quý, nghĩa lý không mất. Như kinh chép: Nếu có người thọ Ba quy y, qua đến hội đầu của Đức Dilặc sẽ được giải thoát sinh tử. Pháp quy y này là bến cầu để ra khỏi biển khổ, là thềm bực thẳng vào Phật pháp.

TRỤ TRÌ TAM BẢO

Trụ trì Tam bảo nghĩa là người có khả năng mở mang đạo pháp, muôn đời lưu thông lòng Từ, đạo nhờ người mở rộng, ba pháp do đây mà khai vị. Khiến cho đời đời hưng thịnh, chốn chốn truyền rộng. Nếu chẳng nhờ Tăng-già mở bày thì Phật pháp dần dần bị chìm mất. Còn nhà Hán Vũ Phật pháp rất hưng thịnh nhưng khi mới nghe được danh hiệu Phật thì đã dứt tăng truyền, vừa mở ra đầu mối thì đã bặt. Đến đời Hán Minh Đế vua Hiển Tông khai pháp xa rộng đến vua nước Thân-độc, cho đến có Ca-diếp Ma-đằng và Trúc Pháp Lan mang kinh tượng đến Lạc dương truyền bá Thánh giáo, mở rộng chí của muôn vật mà trọn nên công việc trong thiên hạ, khiến cho mọi người phát tâm chánh Tín và nương ngôi Tam bảo. Thật là nhờ vào công nhọc của Tăng-già mở bày giảng nói, giúp nên năng lực hiểu biết nên gọi là ngôi Tăng bảo.

Giảng nói danh cú, đều nêu bày chân lý làm trước. Nếu chân lý không có văn ngôn thì không do đâu mà ngộ được, cho nên được gọi là Kinh giáo. Nhân duyên kẻ nói, người nghe gọi là Pháp bảo.

Chân lý ấy sâu xa nhiệm mầu, nếu không phải bậc Đại Thánh thì không ai hiểu được. Bậc Thánh tuy đã nhập diệt nhưng hình tượng Ngài vẫn còn nên gọi là Phật bảo.

Chỉ vì chúng sinh phước mỏng nghiệp dày nên không sinh nhằm Phật ra đời nhưng còn chút gốc lành nên vẫn được gặp chánh pháp để lại ở cõi trời. Ngôi Tam bảo này thể là hữu vi, là chỗ nương giữ của Lý Bảo, nếu người kính trọng vâng theo thì cũng được theo nhau mà ra khỏi ba cõi. Ví như vua ở đời sai sứ đi tuần du khắp mọi nơi, vì chẳng lấy hình tượng để tìm cầu nên được tôn kính như nhau. Kinh chép: Ví như vàng ngọc là vật quý báu nhất ở đời, nhưng gặp trường hợp không có bạc thì thau cũng được gọi là vô giá, cho nên ngôi Tam bảo hữu vi cũng được tôn kính bằng với ngôi Tam bảo vô vi. Người đời nay không có tâm cung kính, lại không có tâm tôn trọng thì sẽ gởi tâm nơi nào? Và dựa vào chỗ nào? Cho nên phải tôn kính Phật bảo bằng hình tượng để tỏ lòng đối với chân lý, dìu dắt theo duyên, bày phương giáo hóa, nghĩa lý cao tột là ở đây. Kinh chép: Tạo tượng Phật nhỏ như hạt lúa mì, cũng được phước báo vô lượng. Vì đó là hình tướng tiêu biểu cho Pháp thân.

Luận chép: vàng, gỗ, đất, đá, thể của nó tuy là vật phi tính nhưng đã nặn lên hình tượng, thì người sinh lòng tôn kính hay hủy hoại sẽ tự nhiên cảm lấy tội lỗi hay phước đức. Bởi tượng Phật là vật tiêu biểu cho pháp thân, nên khiến được công dụng vô cùng như thế. Vì thế người có tâm thành cung kính đối trước linh tượng khẩn cầu đâu chẳng tuôn rơi giọt lệ, bất giác sinh tâm tôn kính. Chỉ vì chân thân đã nhập diệt, giờ chỉ còn nhìn thấy dấu vết để lại mà thôi. Cũng ví như ta đến trước ngôi miếu uy nghiêm, tự nhiên khởi tâm thương kính, dõi mắt chiêm ngưỡng đến cảm xúc, tưởng như các Ngài vẫn còn tại thế chẳng khác. Nay ta cũng thế, Đức Thế Tôn nay đã viên tịch, chỉ còn lưu lại hình tượng ở đời, dìu dắt chúng ta bằng cờ phướn, cho nên phải cúi mình co chân, mà hành lễ cung kính như đối trước chân tướng, được Phật nói pháp cho ta nghe. Nay không còn nghe thấy Phật nói vì không tin thì làm sao mà biết được? Chỉ cần dùng tâm không phân biệt mà ba cõi còn hiện Thánh, sá gì hình tượng trong ngôi điện báu an nhiên bất động ư?

Đại Luận chép: chư Phật thường phát ra ánh sáng nói pháp, chỉ vì chúng sinh tội chướng sâu nặng, nên dù có đối diện cũng không thấy được. Trước một tượng đã như vậy thì đối trước các tượng, lệ theo đây cũng thế. Cây đá, núi rừng, tùy theo hình tướng mà tạc nên Phật tượng, dẫn đường cho tâm ta, không gì vượt hơn tượng Phật.

HÓA TƯỚNG TAM BẢO

Hóa tướng Tam bảo nghĩa là Đức Thích-ca Như Lai là Phật bảo, Chân lý Tứ Đế khổ Tập, Diệt, Đạo là Pháp bảo. Năm vị giác ngộ đầu tiên, đã diệt hết nguồn khổ là Tăng bảo. Hóa Tướng Tam bảo này, có nơi gọi là Biệt Tướng Tam bảo. Vì thể là vô thường nên còn bị bốn tướng đổi dời. Ngôi Tam bảo này đã diệt độ qua một ngàn năm, chỉ có thể vói tưởng xa, để thêm sự cung kính. Vì trong kiếp hiền, ba Đức Phật đã qua, nếu không có Đức Phật Thích-ca thứ tư, thì chúng sinh biết nương tựa vào đâu, họ sẽ chìm mãi trong biển khổ, vì không có đường giải thoát. Cho nên đấng Năng Nhân thương xót, đúng thời tiết hiện ra đời, trải qua ba a-tăngkỳ kiếp tu luyện, muôn hạnh tròn đầy. Trừ hết vết nhỏ nên pháp tánh được lặng trong, đủ chút duyên lành nên báo, hóa, càng thêm mầu nhiệm. Sau đó, Ngài lên cung trời Đâu-suất và giáng thần xuống cung vua. Ba mươi tuổi ngồi dưới cội Bồ-đề thành quả Phật, bốn mươi chín năm trụ thế, giáo hóa chúng sinh nói pháp hơn ba trăm năm mươi hội, giảng nói tám mươi bốn ngàn diệu môn. Vua, tôi ngoại hộ khắp chín châu bốn bể. Sư Tăng nội truyền, miền thiên thượng nhân gian. Lợi ích rộng lớn, truyền pháp khó nghĩ cho nên có bài kệ khen ngợi rằng:

Ví dầu đầu đội nhiều kiếp bụi
Thân làm giường ngồi khắp tam thiên
Nếu không truyền Pháp độ người mê
Rốt ráo ân sâu nào báo được.

-Truyền pháp có năm cách: 1-Thọ trì.

2- Xem đọc

3- Thuộc làu.

4. Hiểu nói.

5. Viết chép.

Ngoại hộ, nội hộ truyền bá thì Phật, Pháp, Tăng bảo không bị dứt mất.

VĂN KHEN NGỢI TAM BẢO CỦA HOÀNG ĐẾ NHÂN TÔNG

Khen Phật:

Trên trời, nhân gian, Kim Tiên Thế Tôn
Một tâm mười hiệu, bốn trí ba thân
Độ thoát năm ấm, vượt ra sáu trần
Chúng sinh quy kính, tôn là Năng Nhân

Khen Pháp:

Muôn pháp duy tâm, tâm phải chí tĩnh
Do nhất tâm ấy sinh ra muôn pháp
Bỏ giác là vọng, ngộ chân là Thánh
Cúi lạy pháp môn rõ ràng Phật tánh

Khen Tăng:

Sáu độ không nhác, bốn ân chẳng thường
Làm mắt cho người, bến cầu giúp Phật
Thể nhuần như mưa, tâm xông các hương
Đạo khắp mọi nơi, phương này cõi khác.

VĂN HỒI HƯỚNG XEM KINH CỦA THIỀN SƯ ĐẠI TUỆ

Đệ tử vì nghiệp lực ma chướng nên thần thức và tâm trí bị lầm rối. Căn trí chậm lụt, tự nhiên dấy lên ý nghĩ tạp loạn, nên lúc xem bỏ xót, lẫn lộn, lặp lại lời kinh, vì thế đọc vào câu văn, thì quẩn ý, chữ lầm, câu lỡ, chánh âm lại biến trong thành đục, chấp chặt theo tà kiến mà giải hiểu lời văn. Hoặc bị ngoại cảnh làm ý chí đứt quãng nên tâm chẳng chuyên nhiếp ở văn kinh. Ngồi xuống đứng lên hỏi đáp làm dứt đoạn bỏ vượt. Tụng nhiều thì biếng nhác, do việc mà nóng giận. Nơi nghiêm khiết mà để bụi trần làm bẩn, chốn tôn kính lại sinh nhàm chán. Thân miệng mặc dùng chẳng sạch, áo mũ cách lạy chẳng cung. Dâng cúng chẳng đúng pháp, ở chỗ sai nơi chốn, kinh pháp thì mở gấp, vò rối làm sút rách tổn hại, các thứ chẳng chuyên nhất, chẳng thành kính. Ngày nay đệ tử hổ thẹn, sợ hãi lắm!

Kính nguyện chư Phật, Bồ-tát, tất cả Thánh chúng trong Pháp giới, hư không giới và các vị Hộ pháp thiện thần, tám bộ trời rồng v.v... dũ lòng từ bi thương xót cho đệ tử sám trừ tội lỗi, khiến công đức học kinh được tròn đầy tất cả.

Đệ tử hồi hướng tâm nguyện, bởi vì sợ người dịch thuật, người nhuận văn còn có chỗ lầm lẫn, người chú sớ, người giải thích còn có chỗ sai. Vì thế mà việc truyền thọ bị lệch lạc, phần âm thích bị lạc. Lúc so sánh đối chiếu bị thay đổi, sai sót, khi viết chép, in khắc chẳng đúng pháp. Từ Thầy, hoặc từ người đều xin sám hối, nương nhờ năng lực thần thông của Phật, làm cho tội lỗi tiêu trừ. Đệ tử nguyện luôn vận chuyển bánh xe chánh pháp đến khắp mọi nơi, cứu giúp loài hàm thức.

PHÁP NGỮ CỦA HÒA THƯỢNG LẠI AM XU

Đức Phật răn La-hầu-la bằng bài kệ rằng: Mười phương thế giới chúng sinh, mỗi niệm đã chứng quả Thiện Thệ. Người đã là trượng phu thì ta cũng thế, đâu được xem thường mình mà lui sụt ư? Sáu phàm bốn Thánh cùng một tánh này, người đã như thế, ta sao chẳng vậy? Phải mau trong ngoài giúp đỡ, xông ướp một đời làm cho xong. Nếu cứ nhàn hạ qua buổi, thì lỗi ấy sẽ về ai? Người xưa có nói:

“Thân này chẳng độ ngay đời này
Lại đến đời nào độ thân này”.

Đại sư Thiên Thai Trí Giả dạy: Sao còn chưa chịu dứt ngôn ngữ, bỏ văn tự. Chẻ hạt bụi nhỏ để lấy ra quyển kinh lớn bằng cõi đại thiên. Nói một hạt bụi là nói các vọng niệm của chúng sinh, còn quyển kinh bằng cõi đại thiên là nói về Phật tánh trong mỗi chúng sinh, Phật tánh trong mỗi chúng sinh lại bị vọng niệm che lấp. Nếu phá tan vọng niệm thì Phật tánh sẽ hiện tiền. Người già này vì những kẻ cố chấp vào văn tự, ngữ ngôn nên mới thốt ra lời than như thế! Đây chính là ý nghĩa của câu nói: Dùng cái thìa vàng để nạo màng che con mắt, một ngày mắt sáng rồi mới biết được sự đắc lực của nó.

Kinh Lăng-nghiêm chép: Thế nào là tên giặc. Những người mượn y phục của ta buôn bán Như Lai, gây ra các nghiệp chủng, gọi là tên giặc.

Vì thế, nếu chẳng dùng giới để thu nhiếp thân tâm, thì dù kiến giải có bằng với Phật Tổ đi nữa cũng chưa tránh khỏi tội gây ra các thứ nghiệp buôn bán Như Lai, huống gì là những kẻ bình thường ư? Quốc sư Thanh Lương lập mười điều nguyện để sửa mình, thật có như vậy. Vì giới lấy sự răn dè làm ý nghĩa kinh! Lại nói rằng: sửa lòng là trai, ngừa lỗi là giới. Nếu thấy ta bằng sắc tướng, nghe ta bằng âm thanh, người này đi đường tà, không thấy được Như Lai.

BÀI KỆ BỐN CÂU

Bài kệ bốn câu trong Kinh Kim Cương là không có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ giả. Nếu còn chấp tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ giả thì người ấy không thể thọ trì bốn câu kệ này. Nếu không chấp tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ giả thì mới thọ trì được bốn câu kệ này. Bốn câu kệ này dù là người ở chỗ núi non, đồng trồng ai ai cũng đều có khả năng thọ trì. Nhưng hiểu được nghĩa sâu kín của bài kệ thì trong muôn người chỉ có một. Vì sao? Chỉ vì người đọc kinh này còn bị các tiền trần che lấp, nên không thể tự biết rõ thể tánh viên dung của mình.

DẠY THẦY TỲ-KHEO HÃY XÉT ĐỨC HẠNH MÌNH MÀ THỌ THỰC

Xét kỹ đức hạnh mình hoàn toàn hay thiếu sót mà thọ cúng, nghĩa là nếu đức hạnh mình hoàn toàn thì mới nên thọ cúng. Nếu đức hạnh thiếu sót thì không nên thọ cúng. Các Tỳ-kheo đời nay, có người đã ba bốn mươi tuổi, hoặc năm mươi đến sáu mươi tuổi không hề có một ngày nào không thọ cúng. Các vị ấy đức hạnh đã hoàn toàn ư? Hay đức hạnh còn thiếu sót? Vì thế có câu nói rằng:

Học đạo chẳng thông lý nhiệm mầu
Đời sau phải trả nợ vay sâu
Trong vườn cây nấm không còn mọc
Trưởng giả tuổi đà tám mươi hơn.

Vì tuổi tác đã cao nên nấm trong vườn không còn mọc nữa. Trong kinh Đức Phật dạy rõ, người xuất gia chẳng thể không tin. Nếu một niệm biết xoay trở lại mình thì ngày ăn muôn lượng vàng cũng có thể tiêu được.

DẠY THẦY TỲ-KHEO HÃY CẨN THẬN CHỚ BUÔNG LUNG

Kinh Tăng Nhất A-hàm chép: Mắt lấy sắc làm món ăn, tai lấy âm thanh làm món ăn, mũi lấy hương thơm làm món ăn, lưỡi lấy mùi vị làm món ăn, thân lấy sự xúc chạm làm món ăn, ý lấy sự phân biệt các thức ăn làm món ăn, Niết-bàn lấy tâm không buông lung làm món ăn. Như trong chốn tùng lâm ngày nay, một tháng ba tuần có sáu ngày (03, 08, 13, 18, 23, 28) đều thỉnh chuông nhóm chúng niệm tụng, vị Duy Na bạch rằng, mọi người hãy siêng năng tinh tấn như việc cứu lửa cháy đầu, chỉ nhớ nghĩ đến sự vô thường mau chóng cẩn thận chớ buông lung. Lời cảnh sách này và lời văn trong kinh Tăng Nhất A-hàm có chỗ hơi giống nhau, cho là thường lệ. Ví như gió thổi qua tai nên coi thường không chịu xét lấy, vì thế ý của Phật Tổ trở thành luống lập bày.

BỒ-TÁT CÓ BA VIỆC KHÔNG NHÀM CHÁN

Luận Trí Độ chép: Bồ-tát có ba việc không nhàm chán:

1- Cúng dường chư Phật không nhàm chán.

2- Nghe pháp không nhàm chán.

3- Cung cấp vật dụng cho chúng Tăng không nhàm chán.

Người học đạo đời nay tuy chưa đến được địa vị Bồ-tát nhưng có người bác bỏ lý nhân quả, lại không nghiên cứu lời dạy nhiệm mầu của Tiên Thánh. Họ đâu biết ngay nơi lý là sự, ngay nơi sự là lý. Lý sự viên dung, pháp ấy là như thế. Cho nên Tổ Vĩnh Minh nói: Con ếch lại muốn ganh ghét sự rộng lớn của biển cả, con đom đóm lại muốn lướt ánh sáng của mặt trời.

GIỚI-ĐỊNH-TUỆ

Ba pháp học Giới-Định-Tuệ là cái sẵn có trong tự tánh của chúng sinh, chớ không phải nhờ tu chứng mà được, cũng chẳng phải chỉ có chư Phật, Bồ-tát mới đầy đủ Giới-Định-Tuệ này. Tự tánh không thiện, ác, không trì cũng không phạm, đó là tự tánh giới, tự tánh không tĩnh loạn không lấy cũng không bỏ, đó là tự tánh định. Tự tánh vốn vô tri mà vô sở bất trị, đó là tự tánh tuệ. Chư Phật, Bồ-tát biết có nên được thọ dụng, tất cả phàm phu không biết có cho nên không được thọ dụng. Biết có và không biết có dường như hơi khác, nhưng Giới-Định-Tuệ không hề khác nhau chút nào.

LỜI VĂN PHẢI XÉT PHÁP CÚNG DƯỜNG BỐN THỨ CẦN DÙNG CỦA ĐÀN-VIỆT TỪ KHỔ DUYÊN SINH RA

Do Luật sư Đạo Tuyên ở núi Chung nam vì đệ tử là Từ Nhẫn mà soạn

Tổn hại sinh mạng gọi là nghiệp khổ, gân xương khô cạn gọi là duyên khổ, kinh chép: ăn nghĩa là từ chỗ cày, bừa, cấy, nhổ cỏ, gặt, đập, dê, cất chứa, chuyên chở xay, vo gút, nhóm lửa, xôi nấu, sắp bày cúng dâng. Lại nữa, trồng rau đắp bờ, tưới bón ruộng vườn, pha chế tương giấm. Suy tính một bát cơm này có ra là phải đổ một bát mồ hôi, mà mồ hôi từ da thịt tức là máu trong thân. Công sức của người nông phu làm ra một bát cơm nặng bằng một bát máu. Huống chi suốt đời thọ hưởng! Hễ nhận vài bát cơm thì phải suy nghĩ bắt đầu từ chỗ cày, cấy, gieo trồng cho đến lúc đưa cơm vào miệng, phải giết hại biết bao các loài côn trùng nhỏ. Cho nên Đức Phật dạy ngày ăn một bữa là để giữ gìn tánh mạng chúng tạm qua một đời.

Về y phục thì phải nuôi tằm giết kén, rút sợi dệt tơ, nhuộm giặt cắt may, khâu viền sửa vá, không thể lường hết sự cực nhọc. Tính kể các áo quần mặc trên dưới, hễ giết mấy con tằm thì hao bất nhiêu khó nhọc, tằm kén khi bỏ vào nước sôi phải chịu biết bao đau khổ. Cho nên Phật dạy mặc y phấn tảo để tạm che đậy thân xác xấu xí này, chỉ mong có ngày đắc đạo mà thôi.

Về phòng nhà, từ khi bắt đầu xây tường thì đào hầm khoét đất, giết chết biết bao loài trùng dưới đất, khi chặt đốn cây cối làm tổn thương đến loài côn trùng trong rừng cây, khi làm gạch ngói thì giết hại loài côn trùng trong bùn nước. Đến chừng cho lửa vào lò nung lại phải giết hại các côn trùng trong cây cỏ. Người làm phải ra sức nhọc nhằn, còn thí chủ thì hao tốn tiền của, các duyên ăn uống phí tổn rất lớn mới xây dựng nên phòng ốc. Cho nên người tu thường nương ở nơi gò mả, cội cây, trong lùm bụi để tự an thân, tiến đạo. Nghĩ ăn là khổ nên lường phần của thân mà ăn. Nghĩ y phục mặc đây là từ việc giết hại sinh mạng mà có nên thích mặc y phấn tảo. Nghĩ phòng nhà, đồ nằm là từ các duyên khổ mà sinh nên chí ưa hạnh đầu-đà, ba tháng một lần dời chỗ. Nghĩ bốn thứ cần dùng là khó tiêu nên ít muốn biết đủ. Kinh chép: Khi nhận thức ăn của đàn-việt phải tưởng như trong đời đói khát phải ăn thịt con mình. Nhận y phục của thí chủ phải nghĩ như sắt nóng quấn thân. Vào ở trong phòng nhà phải nghĩ như vào trong chảo sắt, khi nhận giường ghế phải nghĩ như ngồi trên giường sắt nóng. Thà đập nát thân này ra như bụi nhỏ, chứ không dám dùng thân phá giới mà nhận người cung cấp, khổ báo trong ba đường, đều do ưa thích y phục, ham hố ăn uống, chọn lựa phòng nhà đẹp đẽ mà chiêu cảm. Nếu vì nhân duyên phá giới thì phải đền trả cho người thí chủ. Hoặc làm tôi tớ bị người đánh đập, trói buộc, hoặc đọa làm thân súc sinh, mang lông đội sừng, lúc sống phải đem gân xương ra đền trả, khi chết phải dùng da thịt để bồi thường, chở nặng kiệt sức, dù có gắng gượng đứng dậy cũng bị ngã nhào. Luống thọ của tín thí, cái vui chẳng đáng nói, đến lúc đền trả cho thí chủ thì cái khổ lại hóa hơn muôn lần. Vì thế ta dạy các thầy phải biết sinh tâm hổ thẹn, dè dặt giữ gìn đến đời sau, chớ phá giới mà nhận của tín thí. Ấy gọi là giữ sạch tâm mình.

DẠY PHẢI QUÁN XÉT PHÁP SO LƯỜNG TÂM HẠNH TRONG THỜI MẠT PHÁP

Phàm phu hiểu được nghĩa lý đều cho nghe và học. Làm người hiểu biết giáo pháp mà thân thì phạm bốn tội trọng, chứa tám thứ tài sản bất tịnh, ăn uống cùng mâm cỗ với thế tục, không biết sinh tâm hổ thẹn. Biết mà cố phạm, không sợ quả báo ở đời sau. Cho nên những người (xuất gia) phải so lường tâm mình, trước phải giữ gìn giới cấm, sau mới nghe kinh giáo. Các người phải làm theo năm điều răn này như thế mới được gọi là Tịnh tâm. Các Đại đức thuở xưa giảng kinh Hoa Nghiêm, chỉ sớ giải có một quyển, kế đến các Pháp sư đời sau soạn sớ đến ba quyển. Người giảng nói đời nay, chỉ một phẩm Thập Địa thôi mà chú sớ ra đến mười quyển. Mỗi người đều ưa thích phô bày công năng của mình, đua tỏ lời hay, văn chương chữ nghĩa xa rộng, nhưng xét cho kỹ thì thật không có chỗ để gởi lòng. Nhưng, đương thể của văn tự tức là nghĩa lý rồi, nào phải dùng đến lời nói của người mới giải thích được ư! Kẻ ngu đời nay chỉ giành nhau danh tiếng bên ngoài, chứ họ không chịu tìm lại giáo pháp nơi tâm mình. Phải biết rằng chánh pháp còn chẳng nên vướng mắc, huống chi là vương mắc văn tự. Hãy mau lìa bỏ văn tự, ngôn ngữ mới được. Cho nên kinh Đại Tập chép: Văn kinh thì chỉ có một lời mà người giảng bàn nói khác đi, họ đều cậy vào kiến thức của mình để nối khiến chánh pháp bị rối rắm. Vì làm cho thiên thần nổi giận nên ba tai do đó dấy lên. Bởi nhân duyên đó nên Phật pháp bị thưa thớt. Ví như một hộc nước mà pha chỉ có một thăng sữa, xem thì giống như mầu sữa mà uống thì chẳng có mùi vị gì. Các thầy hãy suy nghĩ cho chín chắn khi phải bàn nói, tánh người sao lường được tánh Phật. Cảnh giới của trí Phật, há con người có thể lường được sao, xét kỹ như thế, mới gọi là giữ sạch tâm mình.

RĂN CÁC QUÁN TĂNG NI PHÁ GIỚI KHÔNG TU PHÁP XUẤT THẾ

Nói Tăng Ni phá giới nghĩa là nói người xuất gia lại chứa nuôi tôi tớ, trâu lừa, xe cộ, ruộng nhà, trồng trọt, vườn rừng, hoa trái, vàng bạc, thóc lụa, bình phong, màn nhung, gối đẹp, chiếu bông, rương tủ chậu bình, đồ đồng, mâm bát, ba y sang trọng, giường cẩn, nệm ngồi, phòng xá, nhà riêng, kho bếp, cối xay, mỡ dầu thuốc rượu, nhiều loại tương giấm, vật lạ mùi ngon, gần gũi với giới vương công giàu sang, quen biết nhiều người, giao du với kẻ giàu có, cao quý, coi thường người quen cũ, biếu xén quà cáp, thăm viếng tới lui, tham dự việc nha phủ, thân đứng đầu trong Tăng chúng, thu nhận đệ tử đông nhiều, mà giảng nói thì vặn hỏi nhau, ưa thích âm nhạc, thường ở riêng một chùa mà bàn lường việc chúng Tăng, thay nhau đuổi phạt, hỏi đoán những việc nắng mưa, mùa màng được mất, giặc trộm, chiến tranh, nước lửa, thú dữ. Qua lại các tiệm rượu, chợ quán, giết mỗ, gần gũi kẻ săn bắn, gần gũi các phụ nữ, đàn hát thơ phú, cờ vây bài bạc, đọc sách thế gian, cười nói to tiếng, hiềm giận ganh đua, uống rượu ăn thịt, quần là áo lụa, năm mầu đẹp sáng, siêng cạo râu tóc, để móng tay nhọn, chứa tám thứ tài sản bất tịnh, của báu dồi dào. Các việc trên đây tham cầu, ưa đắm chất chứa không lìa bỏ, thật gọi là hành động phá giới. Khế kinh chép: các Tỳ-kheo này gọi là cư sĩ trọc, gọi là tên giặc trộm ca-sa, gọi là bọn thợ săn trọc, gọi là người của chốn ba đường, gọi là kẻ không biết hổ thẹn, gọi là kẻ nhất-xiển-đề, gọi là kẻ hủy báng Tam bảo, gọi là kẻ làm hại tất cả con mắt của đànviệt, gọi là hột giống sinh tử, gọi là kẻ làm chướng Thánh Đạo. Nếu lìa bỏ mười pháp ác này thì gọi là giữ sạch thân mình.

RĂN VỀ SÁU NẠN, TỰ MỪNG TU ĐẠO.

1/ Trong muôn loài, được thân người rất khó. Như kinh Đề-vị chép: Đời nay được thân người khó như rùa mà gặp bóng cây nổi.

2/ Tuy được thân người nhưng sinh ở giữa nước rất khó, cõi này là ở giữa chỗ biên địa, nhưng có đầy đủ kinh luật Đại Thừa chánh pháp.

3/ Tuy có chánh pháp nhưng sinh tâm tin ưa rất khó. Nay theo sức mình mà tin nhận không dám nghi báng.

4/ Thân người khó đầy đủ: nay làm thân nam, các căn không kém thiếu, tướng mạo tốt đẹp.

5/ Tuy đã có thân hình người nam, sáu căn không thiếu, nhưng bị năm dục ràng buộc, đắm nhiễm nên xuất gia rất khó, nay được cắt ái xuất gia học đạo, mặc áo Phật, thọ tịnh giới của Phật.

6/ Tuy đã thọ giới cấm mà làm theo lời răn rất khó, các thầy nên đối với giới luật, tôn trọng ưa mến, biết sinh tâm hổ thẹn, dè dặt giữ gìn.

Đối với sáu điều này, nếu không quán sát thì sẽ buông lung, sẽ chướng sâu Thánh Đạo, các người đã vượt khỏi sáu nạn, thường nên sinh tâm vui mừng, vì việc khó được nay đã được, đã được rồi thì giữ không cho mất, nghĩ lường như thế gọi là Tịnh tâm.

VĂN CẦU NGUYỆN BỒ-TÁT QUÁN THẾ ÂM CỦA LUẬN SƯ GIỚI HIỀN

Khi tánh nghe vắng lặng mầu nhiệm không thể so sánh, từ suy nghĩ, tu tập liền nhập vào tam-mađịa. Năng lực từ vô duyên cảm đến mọi căn cơ, vầng trăng sáng soi bóng trong xuống ngàn lạch nước. Tỳ-kheo cúi đầu đem thân mạng về nương tựa với đấng cha lành Bồ-tát Đại Từ Bi Quán Thế Âm. Xin mong Ngài dùng mắt đạo tha tâm, thấy nghe không ngăn ngại động lòng từ thương xót thầm che chở.

Điều 1: Nguyện cho đệ tử sớm dứt hết các hữu lậu, kiết sử, mau chứng quả Vô sinh, ba nghiệp tròn sáng, sáu căn trong sạch.

Điều 2: Nguyện cho đệ tử nghe một hiểu ngàn, được năng lực đại tổng trì, có đủ tài hùng biện, được bốn vô ngại giải, những điều Phật dạy đều xông ướp trong lòng, điều gì nghe qua tai không bao giờ quên mất, công đức trí tuệ, trau giồi nơi thân, căn căn trần trần cùng khắp pháp giới.

Điều 3: Nguyện cho đệ tử trên cầu quả Phật dưới độ chúng sinh, hạnh sạch sớm tròn, ba vầng luống vắng. Cho đến khi thành Phật, trong thời gian đó xả thân, thọ thân thường làm thân người nam, theo Phật xuất gia, phát tâm Bồ-đề lợi mình lợi người, hạnh nguyện không cùng tột. Sau nguyện cho con lúc sắp qua đời, dứt hết tất cả mọi chướng ngại, tận mặt thấy Phật A-di-đà liền được sinh về nước An Lạc. Khi đã sinh về nước Phật rồi hiện tiền đầy đủ các đại nguyên, tròn đầy công hạnh của Bồ-tát, cùng các chúng sinh đều thành Phật đạo.

VĂN PHÁT NGUYỆN CỦA THIỀN SƯ VĨNH GIA CHÂN GIÁC

Cúi đầu lạy đấng viên mãn Biến Tri Giác, bậc đã vắng lặng bình đẳng bản chân nguyên. Tướng tốt uy nghiêm đặc biệt chẳng có không, tuệ giác sáng ngời chiếu khắp các cõi nhiều như bụi. Cúi đầu lạy pháp trạm nhiên chân Diệu Giác. Mười hai bộ Tu-đa-la nghĩa sâu xa, không văn, không chữ, cũng không lời nói bày. Một âm phạm theo từng loài đều nhận hiểu. Cúi đầu lạy các Hiền Thánh, tâm thanh tịnh Tăng-già hòa hiệp ứng chân khắp mười phương. Giữ gìn giới cấm không bao giờ trái phạm. Chống tích ôm bát lợi ích các hàm thức, Noãn sinh thai sinh cùng thấp sinh hóa sinh. Loài có sắc, vô sắc, có tưởng phi tưởng. Chẳng có tưởng cùng với loại không tưởng. Nhiều chủng loại trong sáu đường ba nẻo luân hồi quanh quẩn không lúc nào tạm dừng. Nay con cúi đầu về nương ngôi Tam bảo, khắp vì chúng sinh phát đạo tâm, chúng sinh chìm đắm trong biển khổ, xin nhờ nguyện lực của chư Phật, Pháp, Tăng, tự biết phương tiện nhổ hết mọi khổ đau, không bỏ nguyện rộng lớn cứu vớt hàm linh, sức tự tại độ chúng vô cùng, hằng sa chúng sinh thành Chánh giác. Nói kệ này rồi con lại cúi đầu quy y trước tất cả chư Phật, Pháp, Tăng, mười phương ba đời nương nhờ sức từ Tam bảo, dốc lòng phát nguyện tu đạo Vô thượng Bồ-đề, hẹn từ đời này đến lúc thành Chánh giác, trong thời gian đó quyết định siêng cầu đạo pháp không dám lui sụt. Trước khi đắc đạo thân thể không bệnh ngang trái, tuổi thọ dài lâu không chết non. Khi tuổi thọ gần hết, không thấy những tướng ác, không có các lo sợ, không sinh tâm điên đảo. Thân không bệnh khổ, tâm không tán loạn. Chánh tuệ rõ ràng, không trải qua thân trung ấm, không rơi vào địa ngục súc sinh, ngạ quỷ, thủy lục không hành, thiên ma ngoại đạo, quỷ thần ở chốn u minh. Tất cả tạp hình đều không thọ. Mãi mãi được thân người thông minh ngang trái, không sinh vào cõi nước hung ác, không gặp vua chúa bạo tàn, không sinh ổ biên địa, không gặp cảnh nghèo khổ, không làm tôi tớ và thân nữ, kẻ huỳnh môn, người hai căn, răng sún, tóc vàng hoe, dại khờ, tối dốt, lùn xấu, tật nguyền, đui điếc câm ngọng, tất cả những tướng đáng chê, rốt ráo không thọ. Nguyện được sinh ở giữa nước, chánh tín xuất gia, thường được thân nam, sáu căn đầy đủ, xinh đẹp, thơm sạch, không hề có các mùi hôi dơ. Ý chí hòa nhã, thân tâm vắng lặng, không tham, sân, si, dứt hẳn ba độc, không gây ra các điều dữ, thường nghĩ mọi điều lành. Nguyện không làm bậc vua chúa, thứ quan, không làm kẻ sứ mạng, không mong giàu sang lộng lẫy, chỉ nguyện an nghèo vui đạo để hóa độ thế gian, ít muốn, biết đủ, không tích lũy chứa góp, áo cơm đủ để nuôi thân mà thôi, không làm việc trộm cắp, không giết hại chúng sinh, không ăn thịt cá, thương mến loài hàm thức, xem như thân mình không khác. Tánh hạnh mềm mỏng, không tìm lỗi xấu của người, không khoe điều tốt của mình, không đua tranh với người. Xem kẻ oán người thân như nhau, không có ý tưởng phân biệt, không sinh tâm ưa ghét, vật của người không mong cầu, vật của mình không bỏn xẻn, không ưa xâm lấn, hằng giữ tâm ngay thẳng tâm không vụt bạo, thường ưa nhún nhường. Miệng không nói lời độc ác, thân không làm việc ác. Tâm không dua nịnh, ba nghiệp sạch trong. Chỗ ở luôn an ổn, không có các chướng nạn, giặc cướp, trộm cắp, phép vua tàn bạo, ngục tù trói buộc, gông gậy xiềng xích, gươm thương, tên giáo, thú dữ trùng độc, sa núi đắm nước, lửa cháy gió trốt, sấm sét kinh hãi, cây ngã đá rơi, nhà đòn sập mục, đánh đập sợ hãi, đuổi rượt vây nhốt, bắt bớ kềm kẹp, đổ oan chê gièm, chú càn bắt kéo. Tất cả những việc tai nạn đều không thọ lãnh, tai bay quỷ dữ, trời làm độc hại, tật dịch tà ma vọng lượng. Hoặc sông hoặc biển, núi non cao vút, thân cây nương ở, các đình miếu linh thiêng hễ nghe được danh hiệu con, thấy được hình tướng con đều phát tâm Bồ-đề, che chở, ủng hộ lẫn nhau, không xâm lấn lẫn nhau, ngày đêm được an ổn không có sự sợ hãi. Bốn đại mạnh khỏe, sáu căn trong sạch, không nhiễm sáu trần, tâm không loạn tưởng, không có hôn mê xao động, không sinh những đoạn kiến, chẳng chấp không hữu. Thường xa lìa các tướng chấp, kính tín theo đường lối của đấng Năng Nhân. Không chấp nệ vào kiến thức của mình, thông hiểu rõ ràng, đời đời tu tập. Chánh tuệ bền vững, không bị ma chướng nhiếp phục, khi đại mạng sắp hết, an nhiên vui vẻ, xả thân thọ thân không có oan báo đối đầu. Làm bạn lành với tất cả chúng sinh, sinh ra nơi nào cũng được gặp Phật, nghe Pháp.

Đồng chân xuất gia, làm tăng hòa hợp. Áo mặc trên thân không lìa Ca-sa. Vật thực uống ăn không rời bình bát. Đạo tâm bền vững không sinh tâm kiêu mạn. Kính trọng Tam bảo thường tu phạm hạnh, gần gũi Minh sư, thuận theo bậc Thiện tri thức, tin sâu chánh pháp. Siêng tu pháp sáu độ, đọc tụng kinh điển Đại thừa, hành đạo lễ bái. Hoa thơm hương tốt, giọng tiếng ca ngâm, đèn đuốc đài quán, núi biển rừng suối, chốn hư không nơi đất bằng trong thế gian chỗ có từ hạt bụi nhỏ trở lên, con đều đem cúng dường, nhóm họp các công đức hồi hướng, trợ giúp đạo Bồ-đề. Suy nghĩ kinh liễu nghĩa, chí ưa thích yên tĩnh, tâm thật thà lặng lẽ, không ưa chỗ ồn ào, không thích chỗ đông người. Thường thích ở một mình, tất cả không tìm cầu, chuyên tâm tu Định tuệ. Sáu thần thông đầy đủ, để hóa độ chúng sinh theo thệ nguyện, được tự tại vô ngại, thành tựu muôn hạnh tinh diệu vô cùng. Ngay thẳng tròn sáng chí thành Phật đạo. Nguyện đem gốc lành này, khắp đến các cõi mười phương, trên cùng trời Hữu Đảnh, dưới tột chốn phong luân, nhân gian thiên thượng, các thân hình trong sáu đường, tất cả loài hàm thức, các công đức con có được đều ban cho chúng sinh chung hưởng, tột đến kiếp số như cát bụi, không chỉ một chúng sinh mà thôi, thuận theo gốc lành con có, khắp đều được thấm nhuần đầy đủ. Khổ não trong địa ngục, Nammô Phật pháp Tăng xưng danh Phật pháp Tăng nguyện đều được giải thoát. Khổ não trong ngạ quỷ, Nam-mô Phật pháp tăng, xưng danh Phật pháp Tăng nguyện đều được giải thoát, khổ não trong súc sinh, Nam-mô Phật pháp Tăng nguyện đều được giải thoát. Trời, người, A-tu-la, Hằng sa các hàm thức, tám khổ ép ngặt nhau, Nam-mô Phật pháp Tăng, nhờ gốc lành của con, khắp khởi các ràng buộc, Nam-mô Tam Thế Phật, nam-mô Tuđa-la, Bồ-tát thanh văn Tăng, các Thánh chúng nhiều như bụi, xin các ngài không bỏ gốc từ bi, thu nhận các loài chúng sinh, các hàm thức tột cõi hư không, quy y Phật pháp Tăng, được xa lìa ba đường khổ, mau vượt khỏi ba cõi, đều phát tâm Bồ-đề, ngày đêm tu trí tuệ, đời đời siêng tinh tấn, thường như cứu lửa cháy đầu. Trước khi đắc quả Bồ-đề, thệ nguyện cùng nhau độ thoát. Con hành đạo lễ bái, tụng kinh niệm Phật, tu giới Định tuệ, Nammô Phật pháp Tăng, khắp nguyện các chúng sinh thảy đều thành Phật đạo. Con và các hàm thức bền vững cầu đạo Bồ-đề, đảnh lễ Phật pháp tăng, nguyện mau thành Chánh giác.

VĂN LẠY KINH HOA NGHIÊM CỦA THIỀN SƯ TOẠI Ở NÚI ĐẠI HỒNG, TÙY CHÂU

Cúi đầu về nương Đức Tỳ-lô giáo chủ Hoa tạng Từ Tôn, giảng kim văn kệ báu, bủa ngọc trục lang hàm. Các trần cùng vào, các cõi viên dung. Mười triệu chín muôn năm ngàn bốn mươi tám chữ. Kinh Nhất thừa Viên giáo Đại phương quảng Phật Hoa Nghiêm. Nếu người muốn biết rõ tất cả Phật ba đời nên quán tánh pháp giới, tất cả chỉ tâm đạo.

Thường nguyện cúng dường, thường cung kính bảy chỗ chín hội Phật Bồ-tát. Thường nguyện chứng nhập, thường giảng nói năm châu bốn phần kinh Hoa Nghiêm. Thường nguyện cúng dường không ngơi nghỉ chúng Bồ-tát trong chín mươi cõi nước nhiều như bụi. Thường nguyện ngộ nhập, thường giảng nói Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm. Lại nguyện: Đệ tử đời đời kiếp kiếp, nơi nơi chốn chốn trong mắt thường thấy kinh điển như thế, trong tai thường nghe kinh điển như thế, trong miệng thường tụng kinh điển như thế, trong tay thường chép kinh điển như thế, trong lòng thường ngộ kinh điển như thế. Nguyện đời đời kiếp kiếp nơi nơi chốn chốn thường được gần gũi tất cả Hiền Thánh trong biển Hoa tạng. Thường được năng lực từ bi của tất cả Hiền Thánh trong biển Hoa tạng thu nhận. Như kinh đã nói nguyện đều chứng minh. Nguyện như Bồ-tát thiện tài, nguyện như Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, nguyện như Bồ-tát Dilặc, nguyện như Bồ-tát Phổ Hiền, nguyện như Bồtát Quán Thế Âm, nguyện như Phật Tỳ-lô-giá-na, xin đem công đức khen ngợi kinh này, đem công đức phát nguyện này, nguyện cho tất cả chúng sinh trong bốn ân ba cõi tiêu trừ vô lượng tội cấu, tột pháp giới hư không giới từ vô thỉ đến nay. Nguyện cho tất cả chúng sinh trong bốn ân ba cõi mở vô lượng oan nghiệt, tột pháp giới hư không giới từ vô thỉ đến nay, nguyện cho tất cả chúng sinh trong bốn ân ba cõi nhóm họp vô lượng phước trí tột pháp giới hư không giới từ vô thỉ đến nay, cùng dạo chơi trong biển Hoa tạng trang nghiêm, cùng đi vào đại đạo tràng Bồ-đề.

Nam-mô Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh.

BÀI MINH QUÁN TÂM CỦA PHÁP SƯ TRẠCH ANH CHÙA ĐỒNG GIANG

Tâm này, tâm này vốn tự thiên nhiên, sừng sững riêng đứng, lẳng lặng cao bền. Mầu nhiệm trong mầu nhiệm, sâu xa trong sâu xa. Không đến cũng không đi, không dời cũng không đổi, chẳng mê cũng chẳng ngộ. Bậc Thánh lẫn bậc Hiền, nghĩ suy không thể hiện, gượng dùng lời nói bày. Bởi thể của tâm vốn sáng, nên sinh ra các duyên, như gương bao trùm muôn tượng, như hiển dung nạp trăm sông, nếu thu lại thì thần ngầm trong gang tấc, còn duỗi ra thì sáng đầy cõi đại thiên. Biến hóa tự tại, tác dụng vô biên là chúng sinh, là chư Phật, là thật cũng là huyễn. Mê thì mênh mang không trở lại, ngộ thì rõ ràng truyền cho nhau. Tâm này linh thiêng, bảo người đừng quên mất, dặn người phải lắng nghe. Nơi người có đủ muôn pháp vốn tự viên thành, muôn pháp có đủ nơi ngươi, Thể ấy rỗng rang, cảnh chẳng thật cảnh, danh là giả danh, xưa ngươi chẳng ngộ nên luống chịu vất vả. Nay người đã tự giác, hãy cố giữ gìn, gặp việc chẳng ngăn trệ, niệm đấy liền tỉnh ra. Hễ sáu trần chẳng dính thì ba độc liền trong. Thôi lệnh canh cổ, đục mất gốc sáng. Nên tự giữ thiền định sạch chữ về nguồn chân.

QUYỂN 5

BÀI TỰA NÓI VỀ CHỦ KHÁCH CỦA TUYÊN LUẬT SƯ-NÚI CHUNG NAM

Ôi! Tổn mình lợi người vốn là cái nghĩa của Tăng, còn hại vật an thân, thật chẳng phải lý của trang Thích tử. Có tài thưởng thiện phạt ác, phán đoán được việc phải quấy bất bình. Nếu trước người sau mình thì mới hợp lòng từ của chư Phật, còn người chết ta sống, thì rất trái ngược hạnh tốt. Người làm chủ phải biết chuộng gìn nhân nghĩa, mới cảm được các nột tử (tăng sĩ) ở mười phương nhóm họp, còn riêng nhận nhân tình thì sẽ chuốc lấy tiếng xấu, đồn xa ngàn dặm, là khách tăng vân thủy cũng phải giữ lòng kính lễ, hễ đạo tràng nào có đạo nghĩa thì nên tìm đến ở để tiến đạo an thân: Nếu chỉ là phường vô nghĩa cường đồ mà xu hướng theo thì chỉ chuốc lấy oán cừu lầm loạn. Nay chúng ta may mắn sinh ở giữa nước, được gởi thân chốn không môn. Thoát khỏi hầm lửa muôn trượng, tháo rã lưới xiềng nghìn lớp, như người tù được ra khỏi ngục, chim nhốt được xổ lồng, chân thì dạo chơi trên nhà lát vàng chứa thiện, thân thì nương ở trên đất bảy báu không có tai ương. Trời rồng cung kính, quỷ thần tôn trọng. Không trồng dâu, không nuôi tằm mà mặc áo tốt, không làm ruộng, không cấy cày mà ăn mâm cỗ ngon. Sao phải trói buộc oán cừu, ham hố lợi danh, toan tính tìm của tiền phi lý mà cầu hư danh nhỏ nhặt, làm ngăn lấp con đường bằng phẳng của trời người. Bám víu sợi lông rùa mà đào sâu hầm lửa địa ngục. Đời này nếu hết chứa oán hận thì đời sau sẽ nhận lấy cái khổ của Ba-tra. Dù cho vàng ngọc chất chứa đầy nhà, cũng chỉ là sự buộc ràng, kéo dắt thân mình vào chốn nguy hiểm. Dù cho lụa gấm chồng chất đầy rương, cũng chỉ là cái nghiệp chủng sâu nặng, khiến cháu con tranh giành dấy loạn. Ít tìm thì bớt dụng. Nhưng khỏi được sự ép ngặt ở ruộng tâm. Biết đủ thì dứt tham, tiếng thơm sẽ lan tỏa nơi ý địa. Hoặc ở nơi phạm sát, hoặc quảy dép ở nhà mây, chớ nên bàn người quấy, chỉ xét lại lỗi mình. Nếu là người có tài cao học rộng thì hãy đem ba tạng ra mà nghiền ngẫm cho tột cùng, còn người trí cạn biết nông, thì hãy đem năm thừa mà sớm hôm trì tụng. Đừng miệng thì nói lời tự thiện mà lòng dạ thì cất giấu gươm dao, ngoài mặt mũm mĩm nụ cười mà ruột gan thì ngầm chứa đao kiếm. Người nghèo chẳng thương, người già chẳng xót. Quên đi ân sâu dưỡng nuôi của cha mẹ, trái nghịch với đức dìu dắt của Thầy tổ. Người có tâm như thế, thật là làm mất lòng tin của đàn-việt ở mười phương. Kẻ chấp giả mê chân khiến cho các bậc anh hiền ở bốn biển chê bai. Cho nên tôi mới khuyên răn cặn kẽ các thầy hãy chính chắn chuyên ròng, người được nghe thì do đây mà phá nát núi cao ngã mạn, kẻ được đọc cũng nhờ đây mà lấp đầy biển cả mê mờ, đều mong đợi vâng theo tin tưởng, khắp nguyện trở lại tâm xưa. Chí nên đời sau tốt đẹp hơn đời này, chứ đừng để đời này tốt đẹp hơn đời sau. Kính khuyên đại chúng, phải mau hiểu rõ, đừng để cơn đại nạn đối đầu mà ăn năn chẳng kịp.

BÀI VĂN ĐƯA TIỄN ĐỒ ĐỆ ĐI HÀNH CƯỚC CỦA THIỀN SƯ DIỄN-CHÙA ĐÔNG SƠN

Các tăng sĩ đi hành cước phải lấy đạo tâm làm trọng, không nên nhận lãnh vật cúng dường sẵn có mà nhàn rỗi qua ngày một cách uổng phí. Phải dán hai chữ “Sinh tử” lên trên trán mình, mỗi ngày trong mười hai giờ phải vần xé da mặt ra mà tìm xét biết rõ từng phần mới được. Nếu chỉ theo bầy đuổi lũ, ầm ĩ suốt ngày, bất chợt tướng chết hiện ra, chừng ấy lão Diêm-la tính tiền cơm, thì đừng bảo sao ta chẳng nói với ngươi! Còn những người thực hành công phu thì phải xem xét từng giờ, cân nhắc từng khắc, nơi nào là chỗ dùng được và nơi nào là chỗ bị mất, nơi nào là chỗ không bị mất. Nếu công phu xem xét này được nối nhau thì chắc chắn sẽ có lúc đến nơi. Có một hạng người hành đạo, kinh lại chẳng xem, Phật cũng chẳng lạy, vừa ngồi trên bồ-đoàn là ngủ gà ngủ gật, đến lúc tỉnh dậy thì nghĩ tưởng lộn xộn, còn vừa xuống khỏi bồ-đoàn thì liền bàn nói nhiều chuyện với người. Nếu hành đạo như thế ấy thì dù cho đến lúc Phật Di-lặc ra đời cũng không có lúc để thực hành. Cho nên phải tinh tiến mạnh mẽ nắm lấy một chữ “Vô” rồi ngày đêm tham cứu, và phải mở to mắt ra mà nhìn thẳng vào công án đang tham cứu, chứ không nên ngồi khoác áo vô sự, cũng không nên ngồi mãi trên bồ-đoàn, mà phải hoạt động thật bình thường, mà còn e những tạp niệm lăng xăng khi dấy lên, không nên chấp chặt vào công án đang tham cứu, vì càng phấn đấu thì càng thêm rối loạn mà thôi. Có nhiều hành giả gặp trường hợp này vì không biết diệu dụng tiến thoái, cởi mở không suông, nên trở thành chứng bệnh phong cuồng, làm hư mất một đời hành đạo.

Nếu gặp trường hợp này, hành giả nên ngay chỗ khởi ra rối loạn ấy, nhè nhẹ buông xuống tất cả ý niệm, lay thân từ từ và đặt chân xuống đất đi dạo một vòng cho thư giãn tinh thần. Sau đó lại lên bồđoàn mở to hai mắt, nắm hai tay lại, dựng thẳng xương sống, rồi y như trước mà từ từ khởi quán. Đề khởi thoại đầu đang tham cứu, hành giả liền cảm thấy thân tâm mát mẻ, giống như một nồi nước sôi đang trào mà được dội vào một gáo nước lạnh.

Nếu thực hành công phu như thế lâu ngày chầy tháng thì tự nó có lúc sẽ đến nơi. Nếu công phu chưa thực hành thì không nên sinh não, vì sợ bị ma phiền não nhập tâm, nếu cảm thấy có chỗ sở đắc, cũng không nên sinh vui mừng, vì sợ bị ma hoan hỷ dựa vào, các thứ thiền bệnh rất nhiều kể ra không hết. Nếu trong chúng ta có đạo bạn lão thành, thì hành giả phải luôn thưa hỏi, cầu xin chỉ bảo, nếu không có, thì hãy đem những lời nói của bậc Tiền bối Tổ sư dạy người làm công phu ra mà xem xét thật kỹ, phải khởi tưởng như được nhìn thấy các Ngài. Những người đời nay hướng về đạo thiền này, khó có người được chứng ngộ. Cho nên hành giả rất phải cố gắng hướng tới trước. Tôi mong người sớm đập thủng thùng sơn mà trở về, để cùng với lão tăng này ngồi gãi lưng.

Kệ rằng:

Xem luồng gạt cỏ lúc về nhà
Một niệm giữa đường khéo giữ mà!
Gần đây tùng lâm gió mùi khác
Bước đến một nơi rất tiện nghi.

THIỀN SƯ CỦNG Ở THẠCH THẤT TIỄN THỊ GIẢ KHÁNH VỀ QUÊ THĂM THẦY

Thầy ông tuổi đã già yếu, mà chùa lại ở sâu trong núi, hôm sớm không có người chăm nom hầu hạ, nếu ông không về giúp đỡ việc chùa thì lễ Pháp thầy trò cũng chưa trọn đạo, vả lại mẹ ông tuổi tác đã cao, ngoài ông ra không còn ai khác. Trông chừng gió Thu đến mà chưa thấy ông về, ngày ngày tựa cửa trông con mà lệ rơi. Thử hỏi, ông xa thầy bỏ mẹ vào núi tu hành rốt ráo định làm nên việc gì? Nếu bảo yên phận nghèo hèn vui với đạo lý thì thật khó lắm, vả lại ở chốn am thanh cũng đâu phải chuyện dễ, vì cũng phải ươm thông trồng trúc, phá núi đào đất, gánh nước bửa củi, bón tưới rau khoai, hành đạo tụng kinh, nhiếp tâm trừ ngữ cảnh, rau cơm hẩm lấp ghẻ đói, dưa nhạt cháo loãng nuôi bụng dạ. Người đời vất vả vì thân miệng, mà chúng ta cũng chưa khỏi bận rộn vì hình hài. Tâm địa của mình nếu chưa tỏ thì nghiệp thức sẽ dẫy đầy, không có chỗ nương. Bên suối dưới rừng tạm qua ngày, ta với người đều chẳng tính ở lâu. Hòa thượng Nguyệt Giang gửi thư đến nhắc ông về thăm là có ẩn ý sâu xa. Mở thư ra chưa kịp đọc là đã rùng mình, thật chẳng luống uổng âm tin nhắc người giữ tròn hiếu nghĩa. Người xưa có nói: Hiếu thảo đứng đầu trong trăm hạnh, cho dù ở đời hay ở đạo, ai chẳng như thế. Hầu thầy thờ mẹ là ruộng kính, cần gì phải nhập chúng và tham thiền. Bất chợt cái tư duy vắng lặng và cái chán ghét ồn ào tự nhiên tan mất, gậy ngắn chẳng ngại nhàn qua lại.

BUỔI TIỂU THAM KẾT CHẾ

Môn phong của Phật Tổ sắp tàn lụn, nói đến việc đó khiến người có đạo tâm muốn tan nát ruột gan. Việc nâng giữ hoàn toàn chỉ trông cậy vào con cháu của ta, nếu không tính trước thì con cháu sẽ làm hư nát mất! Nếu các thầy cứ suốt ngày lăng xăng rong ruổi khắp nơi, lo kinh doanh theo thế sự, làm cho chánh nhân bị lu mờ, khiến bụi trần bám đầy mặt mũi, thì nghiệp thức sẽ mênh mang trôi giạt, tất không có chỗ để dựa nương. Dù có mang ý quảy bát ở nhà tăng, nhưng phải đợi đánh bảng kiền chùy mới chịu về chỗ ngồi, suốt ngày cứ dụm đầu trong phòng liêu bàn cãi phải quấy, đến khi xếp chân ngồi thiền thì liền ngủ gục. Đành để cho mây Si giăng bủa mịt mù, làm mờ tối bản tánh thiên chân, lửa đá giao nấu hừng hực, khiến vạc lòng sôi sục vung trào. Tạm thời lặng lẽ được an nhàn, một mặt lờ mờ rơi vào chỗ vô ký. Thanh Quy Bá Trượng chẳng chịu thực hành, sách vở ngoại đạo lại siêng năng bàn bạc. Nhân quả rõ ràng thật đáng phần cho lúc nhàn rỗi, tội phước rõ ràng mà chẳng hề lo sợ. Hoặc được ở riêng một phòng thì tự do buông lung thân miệng, ý. Hãy xem kìa, ngói che trên đầu gạch lát dưới gót, áo mặc trên thân, vị ngon trong miệng, mỗi thứ đều có ra từ lòng tin của người đàn-việt cúng dường, thế mà đạo nghiệp của ta chưa thành thì làm sao tiêu được? Suy đi nghĩ lại thì đã có mấy người biết sinh tâm hổ thẹn! Ngày nay ba việc, ngày mai bốn việc. Chỗ nhàn hoàn toàn luống bỏ ngày đêm, một mai già bệnh lại tìm nhau, Diêm Vương giục mời tin chết đến, các nghiệp ác gây ra từ trước chẳng bao giờ quên sót, ba đường sáu nẻo từ đây mà đọa lạc. Một khi bỏ mất Ca-sa rồi thi khó mà tìm lại được, còn lông, sừng, mai, vẩy thì rất dễ khoát vào. Hãy xem các bậc học đạo thuở xưa, quên hẳn nhân thế, xem thường danh lợi. Nấu cỏ rau, nướng khoai củ, một vốc cơm, một bầu nước là để trị bệnh gầy, cầu nuôi mạng sống cho qua ngày. Đá mòn thông héo rốt cuộc chẳng biết được cái gì, rửa lòng làm lụy nhiều đời. Ngoài vật thanh nhàn một vị cao, trên đời vàng ngọc đâu đáng quý, kiếp không tâm địa nở hoa Phật, gió thơm chạm vào mũi mẹ sinh. Trong trường chọn Phật thi đậu về, đất già-lam viên giác mặc tình dạo chơi. Nhân buổi tiểu tham kết chế này, bất chợt thốt ra thành lời kệ.

LỜI DẠY CỦA THIỀN SƯ CỦNG NHÂN BUỔI THƯỢNG ĐƯỜNG

Gặp năm hạn hán, tháng sáu, tháng bảy trời không đổ một giọt mưa, đất ruộng khô cằn nứt nẻ, những người nông phu phải vất vả sớm hôm, lo tát nước vào ruộng đến đỗi da lưng rám nắng, gót chân nứt nẻ đau buốt, hoa mắt đuối sức muốn ngất xỉu. Đã vậy mà thuế quan lại đến đòi đóng gấp, thuế vụ bè, thuế lụa đã đóng rồi, họ lại đòi thêm tiền lộ phí, lúc thóc nộp đã gần cạn, đến nỗi ngày ba bữa ăn cũng không đủ no!

Nghĩ lại chúng ta là người xuất gia thọ dụng của đàn-việt cúng dâng, thế mà không chịu xét nghĩ công lao khó nhọc của họ, còn nói đến việc tiến đạo tu thân cũng không có được một chút nào. Rong ruổi bên này, chơi giỡn bên kia, dăm ba người ngồi dụm đầu nói chuyện tạp, hễ mở miệng là chuyên bàn đến việc xấu dở của người, đến khi về thiền phòng vắng vẻ, thì đối với những việc trái lý dối lòng đâu không làm! Đừng nói chi đến đọa lạc vào những loài khác, đời sau này chắc chắn sẽ làm người nông phu cực khổ. Từ trước đã nói khổ như thế, đến lúc ấy khó đồng với lúc làm tăng như nay, người xưa có dạy chúng ta chỉ một câu này: Đối với chúng trời, người hãy cân nhắc lại: “Đối với ruộng Tam bảo không có đến một sọt công đức, trong núi Thiết Vi sâu thẳm đã có cái khổ trăm hình rồi”.

HÒA THƯỢNG TRUNG PHONG RĂN NHẮC HỌC TRÒ

Trong Phật pháp không có chỗ cho ông lãnh hội, trong đường sinh tử cũng không có chỗ cho ông giải thoát, nếu các ông cứ mãi rong ruổi theo trần cảnh thì báo thân này khác nào ngọn đèn trước gió, lửa chớp trên đá. Vì vậy, trong từng ý niệm phải gấp rút tu trì như việc cứu lửa cháy đầu. Tinh tấn như thế mà còn có chỗ chưa làm xong, bất chợt tin chết đã dắt đi, đành bỏ lại nhiều việc rối ren trên đời. Lúc mở mắt ra thì chóng đã bốn, năm mươi năm rồi, thế thì người bảo sẽ làm gì cho Phật pháp đây? Mặc cho người dùng trăm ngàn cái thông minh của mình, mỗi mỗi nắm lấy phép Ba Thừa, mười hai phần giáo cho đến một ngàn bảy trăm phép công án xưa cũ, cùng với sách vở của trăm nhà hiền triết ra mà chú giải từ đầu đến cuối, dẫu cho ngươi có làu thông hết như bình đựng nước không rò rỉ cũng đều là ở ngoài cửa.

Nói ra thì dường như có chỗ chứng ngộ, mà đối cảnh thì vẫn còn mê lầm. Chính vì việc này nên tôi mới nói là: không có chỗ cho ông lãnh hội, lúc đó người càng muốn tìm hiểu lại càng không hợp nhau. Ông há không thấy ta đã nói với ông điều gì sao? Mà lại định sinh ra những hiểu biết riêng. Dù cho cả muôn ngàn người chen lấn cũng không có chỗ vào được. Chỉ có một pháp tham thiền, nhưng tóm lại cũng không ngoài cái vọng niệm muốn hiểu biết kia. Chỉ có bậc Đại Tín căn mới có thể ngay nơi thân mình mà chân tham thật ngộ, và gánh vác nổi. Nhưng nếu ngươi khởi lên ý tưởng muốn gánh vác ỷ vào thói cũ mà suy nghĩ thì sẽ không liên can gì với đạo. Cho nên trong kinh Pháp Hoa chép: vì dù như thế gian, đều như Xá-lợi-phất, cùng suy chung so lường, chẳng biết được trí Phật. Như đời nay có người nhặt được vỏ trái quýt lại nhận lầm là đốm lửa, rồi từ đó họ đi đến đâu cũng khoe khoang khoác lác, chủ trương theo một đường lối riêng, bảo là: Ta đã lãnh hội Phật pháp, muốn được người khác cung kính tôn sùng. Hành động như thế có chỗ nào là dễ dàng và thích hợp đâu? Phong, tôi đã suốt ba, bốn mươi năm, ngay trong vấn đề này lúc nào cũng xoay trở không yên đối với hai chữ “Phật pháp” mà chưa được hợp nhau. Cho nên cả ngày lẫn đêm thường có tâm hổ thẹn, đâu dám lạm dụng các ngôi vị thầy người. Chỉ là một kẻ tầm thường mà được những lời khen ngợi và được của cho lắm nhiều, chẳng khác nào như bị mũi tên độc bắn vào tim, nhiều lần chối từ mà không được. Đây cũng do nghiệp duyên nhiều đời nên khiến như thế! Chính là cái gốc luống dối, chứ chẳng phải do đạo lực tự nhiên sai sử. Mỗi lần thấy các bạn đạo vì không muốn người khác làm bận, khi gặp các học trò có việc không xuôi theo ý mình thì khởi lên một chút nóng giận vô minh buông thả nghiệp thức, là tâm hạnh điên rồ độc ác. Đè nén giam hãm người đời, lại cho mình là do công án này buộc ràng vô minh, nên không hề có một việc gì dùng công án mà lãnh hội đạo niệm cả. Vả lại, ngày nay ngươi còn nắm giữ công án này thì ông biết có bao nhiêu người ở sau lưng mình không rảnh mà bịt mũi chăng? Vì vậy nơi đường sinh tử sẽ không có chỗ cho ông giải thoát. Cho nên, ông phải đem vấn đề sinh tử là việc lớn của chính ông dán vào da, nhét vào xương mà tham cứu trong từng ý niệm không cho xen hở. Từ vô lượng kiếp đến nay, trăm ngàn trò hay khéo trong một chốc đều giải quyết xong. Kết quả đó cũng chỉ do một tâm này không dừng nghỉ mà thôi. Chẳng những ngàn muôn Phật tổ đều phát lời thề trọng đại mà đến ngày nay những người đắp mặc ba y, gọi là hàng tăng sĩ thế mà vẫn ỷ vào kiến thức xưa cũ của mình! Trước mắt ông mà không phá, hễ vừa dấy động liền sinh tâm khởi niệm. Như thế đâu chẳng nuôi lớn nghiệp buộc sinh tử, đành quên mất bản chí của mình lúc mới phát tâm xuất gia. Dường như luống buông trôi cái tâm nhiệt loạn nào đó suốt muôn kiếp ngàn đời, theo bánh xe nghiệp thức, đối với lý tu như thế nào có ích gì? Ta khéo bảo cho các ông biết, chúng sinh bị buộc ràng nồng hậu, thật không có chỗ nào dành phần cho ông đâu! Nếu ông đối với mọi người không có công sức gì, chỉ khiến cho toàn thân buông xuôi tất cả ngay giữa gian nhà cỏ, lặng lẽ vắng tanh, cơm hẩm áo rách mà tự độ qua ngày, thì cũng khỏi phạm vào lúa mạ của người khác, làm kẻ không biết hổ thẹn. Cho nên nói: trong Phật pháp không có chỗ cho ông lãnh hội, đường sinh tử không có chỗ cho ông giải thoát. Lãnh hội cũng không được, giải thoát cũng không được thì nên ngay nơi các chỗ không được ấy mà chen chân vào, bất luận là hai mươi hoặc ba mươi năm, hốt nhiên ngay nơi chỗ không được ấy, chợt xuyên thấu qua, lúc đó mới chịu tin là lời nói của ta chẳng dối gạt các ngươi ông.

RĂN NHẮC SỰ NHÀN RỖI

Người đời không một ai chẳng cho sự thanh nhàn, rảnh rỗi là an vui. Vì thế, nên họ cùng nhau rảo bước mong đến mục đích ấy. Tôi đón họ lại, để hỏi về lý do đó. Họ đáp rằng: Người xưa từng cho sự vinh nhục, phải quấy là hệ lụy ở đời, vì suốt ngày phải cùng với sự vật xua đuổi nhau. Tâm chí đã mệt nhọc, thân thể lại hao mòn, cho đến bị trói buộc trong vòng tình tưởng mà không biết, ngay cả giấc ngủ cũng còn vẫn còn tiếp diễn mơ màng. Nếu họ biết lắng tâm suy nghĩ thì đời người nào có được bao lâu? Không có được một ngày an nhàn, thì dẫu giàu sang thế mấy đi nữa cũng nào có lợi ích gì!

Bởi thế, tôi buông bỏ tất cả sự đời, ý muốn vừa đi vừa ca khúc hát “toạ vong”, tự thân muốn thoát ra ngoài sự vật, hoặc có người muốn xa lánh lời dạy của cha, thầy, nhàm chán sự nhọc nhằn của thân thế. Nhìn những ước vọng nghề nghiệp mưu sinh của người đời thì nhàm chán, muốn lánh xa nó như lánh xa nước lửa. Hẳn là ý muốn vượt xa trần tục cho thỏa chí thanh nhàn, tôi bèn nói rằng: Sao ông lại vội chấp sự nhọc nhằn của hình hài mà phục dịch cho tâm lự như vậy? Nhàn rỗi thì ngồi qua ngày tháng, nào có ích chi cho lẽ sống. Vả lại, sự nhàn rỗi ấy cũng còn nằm trong vọng tình ưa chán mà thôi. Cho nên bậc Thánh có lập ra tông chỉ “Hai tướng đồng, tĩnh rõ ràng chẳng sinh”. Chính là bảo không hẳn nhàm chán sự bận rộn này mà ưa thích sự nhàn rỗi kia. Nay tôi sẽ đem câu nói này để nói thẳng với ông rằng: Nói về việc người đời muốn học đạo lý để hòa nhập thế gian, nếu họ không chịu siêng năng vất vả vì công việc, thì bất luận là ở địa vị sang hay hèn nào cũng không nhờ đâu mà thành tựu được. Tuy nhiên người đã giác ngộ thế gian là luống dối, muốn tìm xét đạo lý xuất thế của Thánh hiền, nếu không quên bỏ ăn bỏ ngủ thì không phải căn cơ lợi độn thì do đâu mà chứng đắc. Cho nên Đại sĩ Tuyết Sơn đã vất bỏ thân mạng nhiều như cát sông Hằng trải qua nhiều kiếp đến nay từng chịu các chướng nạn thử thách, ấy cũng chỉ vì Ngài muốn dạy rõ cho kẻ hậu học hiểu rằng đạo lý nhiệm mầu chẳng phải dễ dàng mà nghe được! Cho nên muốn hòa nhập thế gian thì phải tận trung với vua, hiếu kính với cha mẹ. Muốn hiểu hết đạo nghĩa trung hiếu ấy thì chẳng thể không vội vã. Còn muốn siêu xuất thế gian thì phải biết gần thầy chọn bạn, sớm tham chiều hỏi mà muốn thấu suốt đạo lý thì cũng không thể không vội vã. Đã hiểu hết đạo nghĩa trung hiếu, lại thấu suốt đạo lý thân trạch, dùng kiến thức về thể tướng thì vững vàng như núi Thái bất động, còn về tâm thức thì rộng lớn như Thái Hư vô vi, thì há một chữ Nhàn này có thể sánh được với những lời nói hằng ngày hay sao? Hoặc muốn nhập thế mà không hiểu hết đạo nghĩa Trung Hiếu, xuất thế mà không thấu suốt đạo lý thân trạch thì chỉ có một cách là siêng năng đối với sự an nhàn không phiền nhiễu làm công việc, nên không chịu nhọc nhằn dù trong giây lát. Cho nên bậc Thánh chê trách họ là những kẻ vô tâm. Người có sự hiểu biết, đâu có ai chịu cõng lên mình hai chữ “Vô tâm” này, và lại ưa nhàn rỗi ở chỗ buông thả. Nên tôi viết ra lời văn này để răn nhắc những người thích nhàn rỗi.

LỜI DẠY CHÚNG CỦA THIỀN SƯ THIÊN NHAM TRƯỜNG

Tham thiền là việc thứ nhất, giữ giới là việc thứ hai, làm phước là việc thứ ba, lễ tụng là việc thứ tư. Đã là người xuất gia thì phải hành trì bốn việc này. Không được buông lung tâm thức, không được buông thả tình ý, không được biếng nhác xác thân, không được mê mờ lý trí, phải xét kỹ (nổi) khổ vui, phải xót nghĩ trong đường sinh tử, đừng lo việc áo cơm, chớ ham hố danh lợi. Trong mỗi giờ phải rành rành sáng tỏ, trong bụng dạ phải được làu làu sạch hơn, đi đứng hợp phép tắc, động tịnh đúng theo giới luật. Thường gần gũi thiện tri thức, luôn xa bè đảng xấu. Nếu tin lời ta nói, thì việc thành Phật rất dễ. Bằng không tin lời ta nói, thì luống nhọc xuất gia mà thôi. Là kẻ trọc đầu trong bá tánh, là Tu-la nhóm họp, là mầm mống của địa ngục, là bầy đàn của loài súc sinh. Mau cởi ca-sa trả lại, mau ra khỏi cửa chùa. Hãy tự làm người tục, đừng ở chung với ta.

THIỀN SƯ THIÊN Y NGHĨA HOÀI Ở TRONG THẤT HỎI NGƯỜI HỌC ĐỀ “TỊNH ĐỘ”

Ngài nói: này các ngươi! Nếu nói bỏ cõi uế lấy cõi tịnh, chán cõi Ta-bà về cảnh Cực lạc, thì đó là sự thường tình của lấy bỏ, là vọng tưởng của chúng sinh. Còn nói không có tịnh độ thì trái lời Phật dạy. Vậy thì người tu tịnh độ phải như thế nào?

Lúc ấy, trong chúng không có một ai đáp cả. Thiền sư liền tự đáp: Sinh thì quyết định sinh, đi thì thật chẳng đi. Thiền sư lại nói: Ví như chim nhạn bay qua bầu trời, bóng nhạn in dưới đầm nước sâu. Nhạn vốn không có ý để lại dấu vết, nước chẳng có tâm lưu giữ hình bóng.

LUẬT SƯ ĐẠI TRÍ CẢNH TỈNH NHỮNG KẺ TỰ ĐÀNG CHỊU TRONG CẢNH LẦM THAN

Người có học Phật, lúc đầu họ đều nói vì vấn đề việc lớn sinh tử, nên phát tâm xuất gia. Nhưng đến khi bị thanh danh lợi dưỡng làm rung động, nghiệp duyên thế gian làm mê đắm thì việc lớn sinh tử ấy gần như bị gác lại mà không nói đến. Nếu bị người đến gõ cửa thưa hỏi về việc này, thì họ tìm lời thối thất bắt qua chuyện khác, chứ không thể tự giải quyết được. Hoặc nói việc này không nên hỏi, hoặc nói không cần biết. Hoặc nói chừng nào vua Diêm-la đến sẽ vâng giữ chứ bây giờ chẳng cần phải so tính làm chi. Hoặc nói: ta sẽ tùy chỗ mà thọ sinh, ra vào thường tự tại. Hoặc nói: với từng ấy gốc lành này ta sẽ được sinh vào nhà chẳng sang chẳng hèn, được làm thân nam là thích rồi. Hoặc nói: ta sẽ án định tinh thần để thấy rõ tướng thiện ác mà không đi theo. Hoặc nói sẽ biết trước thời gian để chuẩn bị cho cái chết. Hoặc nói lúc qua đời sẽ đoạt lấy thân trung ấm, hoặc bảo dù trăm xương có tan nát vẫn còn có một vật linh thiêng mãi. Hoặc bảo hình khí tiêu tan sẽ về nơi vắng lặng. Những lời lẽ phỏng đoán rắc rối như vậy đều không vượt qua hai thứ chấp đoạn và chấp thường của phàm phu, ngoại đạo. Đến lúc bốn đại phân tán, bệnh khổ ép ngặt, thần thức không có chủ hướng dẫn dắt sẽ theo nghiệp lực mà trôi lăn trong sáu đường, chắc chắn như thế, không còn nghi ngờ gì nữa! Dù cho họ có biết trước được ngày giờ, ngồi thoát hay đứng hóa, đạo đức ở đời có tột cùng đi nữa, cũng chưa đáng lấy làm kỳ lạ! Những người này vì họ không xem kinh Thập Lục Quán, không biết tướng sinh của chính phẩm, không tin vào nguyện lực của Phật A-di-đà, cứ giữ chặt cái biến chấp của mình, nên tự đành chịu ở trong cảnh lầm than, ta há không vì họ mà thương xót hay sao?

THIỀN SƯ VĨNH MINH DIÊN THỌ RĂN NGƯỜI CHƯA CHỨNG NGỘ ĐỪNG KHINH TỊNH ĐỘ

Có người hỏi: chỉ cần thấy tánh tỏ đạo thì thoát khỏi sinh tử, cần gì phải bận tâm niệm Phật A-diđà cầu sinh về phương nào khác.

Đáp: người chân thật tu hành phải tự xem xét cho kỹ lưỡng, như người uống nước nóng lạnh tự biết. Đời này gìn giữ phép tắc là để phá trừ những quan niệm mê lầm.

Này các nhân giả! Hãy nên xem lại công hạnh của mình, đã thấy tánh ngộ đạo, được Như Lai thọ ký nối tiếp ngôi vị Tổ sư và được như các Ngài Mã Minh, Long Thọ chưa? Được biện tài vô ngại, chứng tam-muội Pháp Hoa và được như Ngài Thiên Thai Trí giả chưa? Tông và thuyết đều thông, hạnh và giải gồm tu và được như Ngài Trung Quốc sư chưa? Các bậc Đại sĩ trên đây đều để lại lời dạy bảo rõ ràng, khuyên bảo kỹ càng mọi người nên cầu vãng sinh. Vì đó chính là pháp môn lợi mình lợi người, chứ đâu chịu để cho mình và người lầm lạc. Huống chi Đấng Đại Hùng luôn khen ngợi, chính lời vàng của Ngài cặn kẽ dặn dò, và mong chúng ta hãy noi theo các bậc Hiền thuở xưa, kính vâng lời Phật dạy, thì chắc chắn không có sai lầm. Theo luận Vãng Sinh chép về sự tích các bậc Cao sĩ xưa nay được vãng sinh rất nhiều, rõ ràng nhất là ta nên siêng xem để tự biết rõ. Lại cũng nên tự đo lường thời gian khi sắp qua đời, sinh tử đi hay ở, đã được tự tại chưa? Từ đời vô thỉ đến nay vì nghiệp ác chướng nặng, chắc chắn chưa được chánh niệm hiện tiền, hết một báo thân này, chắc chắn được thoát khỏi luân hồi chưa? Ba đường ác, đi trong loài khác, ra vào tự do, chắc không còn khổ não chưa? Cõi thiên thượng, chốn nhân gian, các thế giới mười phương, tùy ý nương gá, chắc không bị trệ ngại chưa? Nếu tỏ rõ tự tin sẽ đến được, thì còn điều tốt đẹp nào bằng, bằng chưa được như thế thì đừng có vội lấy một thuở cống cao tự thị mà phải chịu đắm chìm nhiều kiếp, tự mình mất lợi lành, lại toan trách ai. Than ôi!

Thương thay! Than làm sao kịp.

BÀI GIẢI THÍCH VỀ BA Y CỦA TỪ VÂN TUÂN THỨC SÁM CHỦ.

Phật dạy: pháp y chỉ có ba:

1. An-đà-hội.

2. Uất-đa-la-tăng.

3. Tăng-già-lê.

Ba pháp y này chắc chắn là y phục của người xuất gia, chứ chẳng phải là y phục để người tại gia đắp mặc. Luật Tăng-kỳ chép: ba y là cờ nêu của sa-môn Hiền Thánh, chẳng phải là y phục mà người thế tục đắp mặc. Luận Trí độ chép: Các Thánh đệ tử Phật trụ trong Trung đạo nên mặc ba y. Kẻ ngoại đạo thì trần truồng không hổ thẹn, người tại gia thì tham nhiều áo mặc. Kinh Tạp Ahàm chép: Người tu pháp bốn tâm vô lượng, đều cạo râu tóc, mặc ba pháp y và ra khỏi nhà thế tục. Theo đây thì biết chắc chắn chẳng phải là y phục của thế tục. Người đời nói: Trong Kinh Phạm Võng có dạy cho phép người thế tục mặc là thế nào? Đó là họ thấy kinh đó có những lời rộng kể vua tôi đạo tục đều được thọ giới nên bảo là thân đắp mặc ca-sa, v.v... nên liền cho kẻ nam, người nữ thọ giới Bồ-tát mặc y bảy điều. Nhưng xem kỹ lời văn trong kinh ấy thì chưa hẳn hoàn toàn như thế, ca-sa dịch đúng phải là Nhiễm, hoặc dịch là ngọa cụ. Nếu y cứ vào thì dịch là Nhiễm thì chỉ là lời dạy chung, hễ Tăng tục có thọ giới thì phải mặc áo nhuộm hoặc hoại sắc, vì sợ họ nhuộm cùng mầu xinh đẹp của người đương thời, trái với phép Phật dạy nên mới nói, bảo phải thân mặc áo nhuộm, đều khiến cho hoại sắc. Hoặc có nơi vì phong tục nên không thể làm hết theo lời Phật dạy. Nhưng Bồ-tát xuất gia chắc chắn phải mặc áo nhuộm mầu hoại sắc, cho nên trong kinh lại nói: Y phục của Tỳ-kheo phải khác với y phục của người thế tục, chứ không hề cho người thế tục mặc y bảy điều. Hoặc dịch là ngọa cụ là thế nào? Tổ Nam Sơn nói: đó là tên gọi chung của ba y. Kinh Phạm Võng chép: mặc ca sa chín điều, bảy điều, năm điều là ý của câu văn ấy. Nếu vậy thì nào ngăn câu nói: Ca-sa chỉ riêng cho người xuất gia. Cũng ngay văn ấy lại chép: y phục của thầy Tỳ-kheo phải khác với y phục của người thế tục. Tìm xét trong chương sớ của Tổ Thiên Thai và Tạng Pháp sư đều thích nghĩa là nhuộm hoại sắc và nói đều không cho phép người thế tục mặc ba y. Dù trong kinh Phương Đẳng có chép: cho phép người thế tục tu sám khi vào đạo tràng được mặc ba y, nhưng chỉ là xếp điệp chứ không cho khâu đột (tướng ruộng phước) Phật dạy ba y này: 1-Đơn phùng (xếp điệp); 2-Tục phục. Đại sư Kinh Khê nói: nếu khâu đột thì là y của đại tăng thọ trì, cho nên y này phải sắm riêng. Thế mà ở thế gian có người lại mượn y của người xuất gia để đắp mặc, thật là không nên. Nên biết mặc dù ba y chẳng phải là y phục riêng của người xuất gia (xuất xứ từ bộ Phụ hành ký) nhưng tin lời trong kinh Phạm Võng. Nếu nói đã cho mặc thì vì sao Kinh Phương Đẳng dạy phải may xếp điệp, cho đến trong Kinh A-hàm chép Phật bảo A-nan lấy y Uất-đa-la-tăng của Ngài cho nàng Ba-tư-tra mặc, v.v... đây là tự ý Phật tạm thời ứng cơ phó cảm vậy thôi. Chứ sau khi Phật nhập diệt những kẻ hạ phàm phải y theo lời dạy nhất định mà làm. Tất cả giới luật, lúc Phật sắp Niếtbàn, đã nói lại những lời sau cùng, đó mới chính là pháp tắc đã quyết định. Còn bảo ba y cho người thế tục mặc thì kinh kia không có văn nào chép cả.

Ngoài ra còn có: vì để qua khỏi tai ách nên cho giữ một mảnh nhỏ. Còn chuyện Liên Hoa Sắc khoác chơi, kẻ thợ săn mượn mặc, hoặc nói giữ khoảng bốn tấc thì đồ ăn thức uống được dư dật, khoác lên mình một mảnh nhỏ thì quỷ La-sát không dám ăn. Đây thật là chỉ rõ công dụng của ba y, chứ không phải cho kẻ thứ dân thọ trì đắp mặc. Người xuất gia mà còn mù mờ phép trì y, phương chi người đời bận rộn nhiều việc thì sao hiểu được nghi thức kính pháp! Tổ Nam Sơn nói: Nếu thọ dùng đúng pháp thì tội lỗi không sinh, bằng nhận lãnh trái pháp là tự chuốc hoạ sâu xa. Một đời không có áo che thân, khi chết tự chịu lời Thánh quở, lo gì chốn đường ác không có phần. Hãy xem kỹ văn này, thà mình tự chịu lợi sâu, đâu nỡ toan trái phép, làm lầm khổ người tại gia, làm mắc lỗi luống dối nên không thể im lặng được. Phần nhiều thấy những kẻ đạo người tục đua nhau khoái cái Lạc tử. Vì lạm dụng đã quá lâu nên mới lan tràn đến đời nay.

Vả lại, ba y ngũ nạp thì Đức Phật có dạy trong hai sách chế thính, còn (hình dáng) cái Lạc tử thì xuất xứ từ văn nào? Vì dù có lấy mảnh vải rách của ba y đem làm đi nữa, thì y của thầy Tỳ-kheo cũng bị tổn hại. Lẽ ra phải nên may vá lại, cho không mất phép thọ trì. Chứ đâu có pháp nào cho mặc mảnh vải rách kia, rồi lại đặt tên khác (Lạc tử), việc làm này khác gì việc thầy Tỳ-kheo bị giặc cướp y. Hoặc nói: khi làm lụng công việc trong chùa tạm mặc cũng không ngại gì, y An đà hội là y để mặc trong chùa, thì sao lại không mặc. Còn như hàng đệ tử tại gia, nếu muốn tránh khỏi tai ách cũng không nên thường mang mảnh vải ca-sa ấy. Vì nếu cho thường mang khoác, thì sao chẳng cho mang trọn ba y luôn mà chỉ cho một mảnh? Tổ Nam Sơn dẫn trong luật Tăng-kỳ nói: loài rồng được một mảnh ca sa mà thoát khỏi nạn chim cánh vàng ăn thịt, họ bèn nói hẳn là không thuận theo kinh giáo, thì mặc mảnh y ấy sẽ vô lực. Vì mặc ca-sa là trái với kinh giáo, còn bảo là vô lực. Huống chi đời nay sắm cái lạc tử, may nhuộm mới lạ, công nhiên làm ra. Nói về danh về thể thì hoàn toàn trái phép. Suy ra thì biết nếu đắp mặc thì sẽ mắc tội chứ không có phước báo gì cả. Nay tôi tóm lược viết ra ba điều tội lỗi vì trái lời Phật dạy, ngõ hầu khiến người đọc hiểu rõ mà tha thứ điều lỗi nhỏ, chắc chắn sẽ đổi thành tốt.

1) Lạc Tử nói về danh và thể đều không thấy sách nào chép cả. Hai giáo chế (ngăn cấm) thính (khai cho) tất cả cũng không thấy nói. Đã thiếu năm công đức, lại lạm xen vào ba tiện. Tội lỗi trái lời Phật dạy thì hoạ báo chốn minh đồ chẳng phải không có.

2) Về hai giáo Chế và Thính, chỉ có Đức Phật mới được làm, từ các hàng Bồ-tát, Thanh Văn trở xuống chỉ biết noi theo mà không được làm. Thế mà đời nay đã tự chế ra cái lạc tử, ông là Phật hay sao?

3) Hành động này đã sa vào bọn ngoại đạo, không phải hàng ngũ của Phật, vậy Tổ Nam Sơn nói: Dùng chỉ tạp sắc mang trên y pháp làm điều bức, đó là pháp của ngoại đạo, đều phạm tội Thâu-lan-già, huống chi là mang y trái phép, chẳng những trái lời Phật dạy mà cũng chẳng phải bọn ngoại đạo. Họ là người gì? Cúi xin những người học đạo ở bốn phương tu phép Đại thừa khi đọc văn phải tìm ý chứ đừng bảo thủ theo ù mình. Như kẻ gánh gai bỏ vàng, chẳng phải là người trí. Người biết đổi tà theo chánh đây mới chính thật là đạt chân. Nên biết Phật thừa vô thượng, hễ hiểu được thì không phân biệt là kẻ đạo người tục, phép tắc truyền trì Phật đã dạy rõ trong luật nghi. Trong hội Niết-bàn Đức Phật thường nói đến việc giữ gìn giới luật, chính là y ở văn này.

Nếu giới luật hư hoại thì chánh pháp nhờ vào ai mà truyền trì? Được sinh làm người há lại không giữ tròng con mắt của mình ư? Cắt đứt mạng mạch thường trụ, chẳng phải bọn Chiên-đà-la thì là ai? Thuở xưa, Pháp sư Tĩnh Ái gặp thời Chu Vũ Đế hành động bạo ngược với Phật pháp. Ngài tự hận mình không thể giữ gìn chánh pháp thì xuất gia làm gì, Ngài liền ngồi lên tảng đá, nhấc dao xả thịt khắp trên thân, móc ruột treo lên cây, dùng tay cầm trái tim mình mà chết.

Than ôi! Thánh hiền ngày xưa vì giữ gìn chánh pháp nên các Ngài làm như thế, chúng ta bắt chước chưa được, thì cũng phải giữ gìn giới pháp, đừng để hủy tổn gây tai hoạ cho mình và người.

QUYỂN 6

VĂN QUY KÍNH CỦA THIỀN SƯ TỪ GIÁC TÔNG TRÁCH Ở CHÙA TRƯỜNG LƯ

Ôi! Đôi cành quế rũ che bóng mát, một đóa hoa nở tỏa hương thơm. Từ đó lập ra tùng lâm, chỗ quan trọng vốn vì Tăng chúng. Cho nên, vì chỉ bày cho Tăng chúng nên có Trưởng lão, vì tiêu biểu nghi tắc cho chúng Tăng nên đặt ra chức thủ toạ, vì gánh vác công việc cho Tăng chúng nên đặt ra chức Giám viện, vì điều hòa công việc của Tăng chúng nên đặt ra chức Duy-na, vì cúng dường vật dụng cho Tăng chúng nên đặt ra chức Điển toạ, vì chúng Tăng mà xuất ra nạp vào nên đặt ra chức Khố đầu, vì chúng Tăng mà làm công việc nên đặt ra chức Trực tuế, vì chúng Tăng mà coi giữ bút mực nên đặt ra chức Thư trạng, vì chúng Tăng mà giữ gìn chánh giáo nên đặt chức Tạng chủ, vì chúng Tăng mà tiếp rước đàn-việt nên đặt chức Tri khách, vì chúng Tăng mà thưa mời công việc nên đặt ra chức Thị giả, vì chúng Tăng mà coi giữ y bát nên đặt chức Liêu chủ, vì chúng Tăng mà cung cấp thuốc men nên đặt ra chức Đường chủ, vì chúng Tăng mà coi về nước nôi nên đặt ra chức Dục chủ

Thủy đầu, vì chúng Tăng mà coi việc ngừa lạnh nên đặt ra chức Thán đầu Lô đầu, vì chúng Tăng mà coi về việc khất thực nên đặt ra chức Nhai phường Hóa chủ, vì chúng Tăng mà giữ làm việc nhọc nên đặt ra chức Viên đầu, vì chúng Tăng mà giúp đỡ sai bảo nên đặt ra chức Tịnh nhân. Nhờ vậy mà nhân duyên hành đạo mười phần trọn đủ, vật dụng nuôi thân trăm vẻ sẵn đủ, muôn việc không lo, một lòng vì đạo. Là địa vị tôn quý trong thế gian sống thanh nhàn vượt ngoài trần lụy, thật đáng vị vô vi thanh tịnh, chỉ có chúng Tăng mới là tối thắng. Nghĩ lại công Đức của nhiều người, đâu không biết ân, báo ân. Cho nên sớm tham chiều thỉnh chẳng bỏ phí tấc bóng là để báo ân bậc Trưởng lão. Tôn ti có thứ lớp đi đứng khoan thai, là để báo ân vị Thủ toạ. Ngoài noi pháp lệnh, trông giữ khuôn phép, là để báo ân vị Giám viện. Sáu hòa cùng nhóm, như nước sữa hòa nhau, là để báo ân vị Duy na. Vì thành tựu đạo nghiệp mới nhận cơm này là để báo ân vị Điển toạ. Yên ở chốn tăng phòng, tiếc giữ đồ vật, là để báo ân vị Trực tuế. Vật dụng của Thường trụ mảy may không xâm phạm là để báo ân vị Khố dầu, tay không cầm bút mực, gấp rút tu trì như cứu lửa cháy đầu, là để báo ân vị Thư trạng. Sáng tỏ song cửa, sạch sẽ bàn đọc sách, đọc kinh xưa để soi rọi tâm mình, là để báo ân vị Tạng chủ. Ẩn che dấu vết không theo việc đã qua, là để báo ân vị Tri khách. Ở thì nhất định luôn có mặt, mời thì nhất định đến trước là để báo ân vị Thị giả. Một bình, một bát ở với đại chúng, tâm vững như tòa núi, là để báo ân vị Liêu chủ. Thà tâm chịu bệnh khổ, cháo thuốc tùy nghi, là để báo ân vị Đường chủ. Tắm gội giữ im lặng, không mê mờ nhân của nước là để báo ân vị Dục chủ, Thủy đầu. Nín lời khoanh tay, lui mình nhường người, là để báo ân vị Thán đầu, Lô đầu. Xét nghĩ đức hạnh mình đầy vơi mà nhận cúng, là để báo ân vị Nhai phường Hóa chủ. Tính công nhiều ít lường của thí chủ đem đến, là để báo ân vị Viên đầu-Ma đầu-Trang chủ. Rót nước, đem thẻ, nhận biết xấu hổ, là để báo ân vị Tịnh đầu, khoan dung là để dễ theo, giản dị để dễ việc, là để báo ân người Tịnh nhân. Vì thế chốn tùng lâm đạo nghiệp ngày càng đổi mới. Người căn khí bậc Thượng thì một đời làm xong, người căn cơ bậc Trung thì ngày càng nuôi lớn mầm Thánh, còn những người chưa tỏ được nguồn tâm thì trong từng giờ cũng chẳng luống bỏ, như thế mới thật là ngôi Tăng bảo, mới là ruộng phước tốt của thế gian. Gần thì là rường bến cho đời mạt pháp, rốt ráo được cực quả rốt ráo nhị nghiêm. Nếu tùng lâm bất trị, bánh xe pháp chẳng thường xoay đó là do vị Trưởng lão chẳng vì Tăng chúng. Độ lượng dung tích chẳng rộng, tấm lòng thương chúng chẳng đầy, là do vị Giám viện chẳng bảo hộ Tăng chúng. Người tu hành thì bất an, người làm rối thì chẳng đi, đó là vị Duy na không làm đẹp lòng chúng. Sáu vị chẳng tinh sạch, ba đức không giúp đủ, là do vị Điển toạ không có lòng phụng sự đại chúng. Phòng liêu chẳng sửa sang, đồ vật không đầy đủ là do vị Trực Tuế không có lòng làm an vui đại chúng. Chứa nhóm thường trụ, giảm khắc Tăng chúng là do vị Khố đầu chẳng có lòng săn sóc chúng. Thư trạng chẳng khéo léo, văn tự bị hư rách là do vị Thư trạng chẳng sửa sang cho chúng. Bàn ghế chẳng sạch, ồn ào chẳng dứt là do vị Tạng chủ không có lòng tiếp đãi chúng. Lễ mạc chẳng cung kính, tôn ti mất thứ tự là do vị Thị giả chẳng vâng mệnh đại chúng. Đập dũ (gấp xếp) chẳng siêng chăm, giữ gìn không cẩn thận là do vị Liêu chủ không biết cư xử với chúng. Không rảnh rỗi giúp hầu, làm não loạn người bệnh, là do vị Đường chủ không có lòng thương xót chúng. Nước nóng chẳng đủ dùng, lạnh nóng mất oai nghi, là do vị Dục thủ-Thủy đầu không quan tâm đến việc tắm gội của chúng Tăng. Trước không dự bị, khiến mọi người bị động niệm, là do vị Lô đầu, Thán đầu không quan tâm đến việc hơ sưởi của đại chúng. Xét của chẳng công tâm, bày sức chẳng hết lòng là do vị Nhai phường hóa chủ không thật lòng cung cấp cho chúng. Đất có để nhiều hoa lợi, mà người không có trộm công lao là do vị Viên đầu, Ma đầu, Trang chủ không có lòng thay thế chúng. Lười biếng trừ bỏ, các duyên chẳng đủ là do vị Tịnh đầu không có lòng hầu hạ đại chúng. Điều ngăn cấm chẳng dừng, điều sai bảo chẳng đi là do Tịnh nhân không có tâm thuận theo đại chúng.

Còn như Tăng chúng mà coi thường sư trưởng, khinh mạn pháp môn, chấp chặt cá tính, chạy theo duyên trần, không phải là việc làm để báo ân vị Trưởng lão. Ngồi nằm lật đật, tới lui trái phép, chẳng phải là việc làm để báo ân vị Thủ toạ. Tâm ý khinh thường luật pháp của nhà vua, chẳng đoái hoài đến khuôn phép của tùng lâm, thì chẳng phải là việc làm để báo ân vị Giám viện. Trên dưới chằng hòa thuận, công kích đấu tranh nhau, thì chẳng phải là việc làm để báo ân vị Duy na. Ham hố thức ăn ngon, chê bai thức ăn dở, thì chẳng phải là việc làm để báo ân vị Điển toạ. Cư xử và thọ dụng không biết nghĩ đến người dùng sau thì chẳng phải là việc làm để báo ân vị Trực tuế. Tham nhiều lợi dưỡng, không tiếc của thường trụ, thì chẳng phải là việc làm để báo ân vị Khố đầu. Chuộng giữ bút nghiên, rong ruổi văn chướng, thì chẳng phải là việc làm để báo ân vị Thư trạng. Lười bỏ văn kinh, tìm xem ngoại điển, thì chẳng phải là việc làm để báo ân vị Tạng chủ. Với theo kẻ tục, giao kết người sang, chẳng phải là việc làm để báo ân vị Trí khách. Sót quên lời mời thỉnh khiến Tăng chúng chờ lâu, chẳng phải là việc làm để báo ân vị Thị giả. Vì lợi ích cho mình mà làm phương hại người khác, biếng nhác làm việc, che giấu lợi dưỡng, dối bảo là người khác trộm cắp, chẳng phải là việc làm để báo ân vị Liêu chủ. Nhiều hành động tức giận, thiếu cử chỉ hoan hỷ, không thuận theo với duyên bệnh, chẳng phải là việc làm để báo ân vị Đường chủ. Tắm gội khua bồn chậu có tiếng, dùng nước không dè xẻn, chẳng phải là việc làm để báo ân vị Dục chủ, Thủy đầu. Chỉ nghĩ lợi ích cho bản thân được ấm áp, làm trở ngại mọi người, chẳng phải là việc làm để báo ân vị Lô đầu, Ma đầu, Trang chủ. Khạc nhổ lên tường vách, bừa bãi khắp nơi, chẳng phải là việc làm để báo ân vị Tịnh đầu. Chuyên chuộng vẻ uy nghiêm bên ngoài, hoàn toàn không khéo dạy dỗ, chẳng phải là việc làm để báo ân vị Tịnh nhân. Bởi do, gió cuốn ngàn vòng mà có chỗ chưa khắp hết. Vì vậy, chỉ cần biết bỏ điều dở, theo điều hay, cùng nhau làm tròn nhiệm vụ của người xuất gia là quý rồi! Điều mong mỏi là ở trong hang sư tử phải trở thành sư tử, nương trong vườn chiên-đàn phải trở nên chiên-đàn, khiến cho đời này dù cách sau năm trăm năm đi nữa cũng được thấy lại pháp hội Linh sơn như thuở nào. Thế thì, pháp môn hưng thịnh hay suy vong đều do ở tăng đồ. Tăng-già là ruộng phước quy kính nên phải tôn trọng. Hễ ngôi Tam bảo được tôn trọng thì Phật pháp cũng được tôn trọng, bằng ngược lại Tăng bảo bị khinh rẻ thì Phật pháp sẽ bị khinh rẻ. Cho nên trong thiền môn giữ gìn đã nghiêm túc, thì ngoài đàn tín lòng bảo hộ phải kính cẩn. Nếu vị chủ nhân do việc cơm cháo một khi cảm hóa được nhà vua cúng dường hay vị chấp sự trong tùng lâm tình cờ được đảm nhận quyền tước, thì vị ấy cũng thường phải đem lòng kính ngưỡng bạn cùng tu, chứ không nên càn quấy, tự cậy mình là cao quý rồi sinh tâm bắt nạt Tăng chúng. Nếu hống hách, ngạo mạn đem việc tư trả cho việc công, thì hãy nhớ cho rằng, trên đời này muôn việc đều vô thường, đâu thể còn mãi. Lỡ một mai sa cơ, thất thế, đành phải về nương với chúng Tăng thì chừng đó còn mặt mũi nào mà nhìn lại nhau. Nhân quả không bao giờ sai chạy, e khó mà quanh lánh được! Phải biết Tăng-già là hàng Phật tử, phải được ứng cúng bình đẳng, không có riêng khác. Vì địa vị của Tăng-già được cõi trời, cõi người thảy đều cung kính. Cho nên hai thời cơm cháo, lẽ ra phải tinh thành đầy đủ, bốn thứ cần dùng cúng dường đừng để thiếu hụt.

Hai ngàn năm di ấm của Đức Thế Tôn, vẫn còn che chở cho con cháu muôn đời, một phần nhỏ công đức của tướng ánh sáng sợi lông trắng, cũng đủ để thọ dụng không cùng. Vì vậy, chỉ cần phụng sự chúng Tăng chứ không nên lo lắng thiếu hụt. Tăng-già bất cứ là Phàm hay Thánh, đều chung nhóm họp mười phương. Đã nói là của Chiêu-Đề, thì mọi người đều có phần, đâu nên sinh tâm phân biệt, khinh chán khách tăng. Chỉ cần nghỉ qua liêu ba hôm trở lên thì có quyền trở lại, trụ xứ ấy phải đem hết lễ mà giúp đỡ vật cần dùng. Người ở tạm trước nhà tăng, nghỉ ngơi qua bữa thì trụ xứ cũng phải có tâm bình đẳng mà cúng dường vật dụng. Tục khách còn trông nom tiếp đãi, Tăng-già đâu nỡ chẳng biết rước mời. Nếu không có lòng nhỏ hẹp, thì tự có phước báo vô cùng. Trong chùa sống hòa hợp, trên dưới cùng một lòng, sinh hoạt qua lại với nhau lỡ có điều gì tốt đẹp hay xấu dở thì phải thay nhau mà che giấu để xây dựng. Điều dở xấu trong nhà, đừng để người ngoài nghe biết. Dù vậy, đối với vấn đề mặc dù không bị tổn thương đến danh dự nhưng rốt ráo cũng sẽ giảm đi số đàn-việt chiêm ngưỡng! Ví như trùng trong thân sư tử, tự ăn thịt sư tử, chứ chẳng phải do ngoại đạo, thiên ma phá hoại được. Nếu muốn cho Tông phong đạo pháp không suy đồi, mặt trời Phật pháp thường sáng tỏ, hưng thịnh, chốn Tổ được rực rỡ, giúp đỡ Hoàng triều được Phật hóa, thì xin hãy lấy văn này làm gương soi rùa nghiệm!

BÀI CHÂM QUY DẠY CHÚNG CỦA THIỀN SƯ TỪ THỤ

(bản ở chùa Thọ vô lượng so với văn này có chỗ hơi khác, nhưng ý chính thì đồng)

Trong tùng lâm, những nghi thức hành trì như khi thăng đường, niệm tụng, đọc kinh, tiểu tham phải đánh hiệu kiền-chùy nhóm hợp, đại chúng đến trước. Dù là hàng Thượng sĩ du phương cũng phải giữ gìn phép tắc bên mình, đâu nên có những cử chỉ chống trái biếng lười đến đỗi phải bị người khác kiểm điểm. Lỡ một lần có thể thứ, chứ phạm nữa thì đâu được thông qua! Nếu người nào không nghĩ đến chân phong của Tổ Bách Trượng, thì chắc chắn sẽ được nếm sự quở trách của Ngài Đầu Tử. Khi bảng chỉ tịnh vừa treo, mọi người phải giữ yên lặng. Dù là lúc chưa treo bảng đi nữa, cũng đâu được phép cười nói tự do ồn ào. Đức Phật xưa có dạy: phải giữ cửa miệng như khéo giữ miệng mình. Trong mười hai giờ phải luôn luôn nín lặng, nếu không thu nhiếp ba nghiệp trong phạm vi giới luật thì muôn điều hoạ hại sẽ sinh ra lúc nào mà ta cũng không hay biết. Phải khéo làm quen với phong thái của ngài Lỗ tổ, im miệng treo trên vách. Trong thư phòng của mình, trên bàn phải thường giữ cho sạch sẽ, chỉ nên để tráp hương văn kinh, sách thiền cốt sắp đặt sao cho ngay thẳng. Không nên bày để những văn tự thế tục, còn các thứ cần dùng như thuốc men, lò hương, v.v... thì nên cất gọn dưới gầm bàn. Những việc như tụng kinh to át tiếng người khác, nhóm họp nhiều người nói cười ầm ỉ, đứng ngồi không nghiêm trang, dựa vào bàn vách khinh dễ đại chúng, luống chiếm phần bàn, phơi đồ che ánh sáng nơi song cửa, đều là những hành động trái với luật nghi, trong tùng lâm đâu có phép như thế. Lúc nào cũng phải đoan chính thân tâm, lặng lẽ mà mở tìm, xét kỹ lời Phật dạy, cho khế hợp nơi lòng dạ, mới không luống uổng thời gian lúc mở kinh xem và mới hiểu được Thánh ý khi xem kinh. Thường ngày các bạn đạo ngồi gần rất kỵ việc dụm đầu kề tai nói chuyện tạp. Khách khứa thăm nhau, theo lễ không tránh khỏi, thì khi trà nước vừa xong, câu chuyện cũng nên tạm dứt, đưa nhau rời khỏi phòng liêu, không nên ở lâu trong chúng. Nếu là bạn đạo quen xưa, thì nên đưa nhau ra dưới rừng bên suối, đừng để mọi người bị dao động mất chánh niệm, đều là việc tăng sĩ không được làm, nên ngoặc xuôi nét bút bỏ đi. Trong giờ thọ trai phải tuyệt đối yên lặng, sau bữa cơm trở về liêu, mới được cùng nhau bày tỏ lời thăm hỏi, cho biết thứ bậc Thượng, Trung, Hạ toạ, phải giữ lễ cung kính làm đầu. Nếu không như thế chính là hành động khinh người mạn mình. Sau giờ tham học có mở lồng lấy thức ăn, phải thưa qua vị Tri liêu biết. Lúc ra mở sáo phải chú ý đỡ tay sau. Lên giường ngồi thiền không được để thòng áo xuống đất. Cử động, kinh hành phải cất bước từ từ, khiến người động niệm ma chướng dễ sinh, động miệng chảy vàng nhà mình có vui gì. Những việc giặt y, may vá phải để sau giờ thọ trai, việc không gấp rút thì đừng để cho đạo nghiệp bị quýnh quáng. Không nên dùng nước nóng giặt y, rửa mặt. Đứng trên cao mà sửa giầy, gắn đơn, lén nấu ăn riêng, cất giấu thức ăn. Trên ông trúc phải biết chỉ để vắt đồ sạch mà thôi! Dùng bàn ủi phải xem lúc rảnh hay bận. Nếu để riêng một nơi, e cản trở lúc đại chúng cần dùng. Bậc Thánh xưa cũng có lúc vá áo ngăn lạnh nhưng may vá rồi thì thôi, chứ đâu suốt ngày cứ giữ việc may vá. Việc nấu nướng châm trà lúc tiểu tham cũng là thịnh lễ của tùng lâm, cho nên phải đợi đại chúng nhóm họp xong, mới được ngồi xuống. Muốn thu dọn bát đĩa phải đợi mọi người lui hết. Lén giấu trà vụn, sẽ bị kẻ bàng quan chê cười. Xá người một tay là phép tắc gì? Có lý do không đến họp phải bạch với vị Tri liêu. Dù là lúc Tiểu tham ngồi uống trà, cũng thường phải có mặt không được lẫn tránh. Người mới đến tùng lâm khi vào liêu, phải giữ tâm nhún nhường. Chưa am tường phép tắc, nên thưa hỏi bậc kỳ túc. Phép tắc mỗi địa phương đều vì người mà đặt ra. Những việc như để đồ chiếm chỗ, không cần phải làm vội, khoản đãi cho tử tế, tự nhiên được yên ổn dễ dàng. Vào liêu nấu thức ăn, vốn là vì mọi người, tâm ý phải chí thành và trà nước phải uống chung. Làm xong việc phải để lại chỗ cũ. Rót dùng hết nước nóng trong bình thì phải châm thêm. Lúc đi dạo ngoài sông núi, nếu có bàn luận điều gì thì thường giữ theo giới luật, mở miệng như giương cung, thốt lời như tên bắn. Việc phải quấy, phẩm chất của người khác bàn nói chuyện tiền bạc, cơm gạo, quở gió mắng mưa, thì hãy coi chừng tai vách mạch rừng, pháp luật chẳng có phân biệt thân sơ. Bỗng chốc miệng hố gặp hại, lúc đó mới thấy đầu nhọn nhô hẳn ra. Hễ gặp lúc Trà-tỳ các vong tăng, dù gặp trời nóng hay mưa đều nên đến dự. Phải sinh tâm thương xót, cùng vận tâm từ hộ niệm, vì sợ người sống kia suông chết uổng, miệng trì kinh chú, vai gánh củi khô chứ đâu nên điên rồ buông tiếng nói cười. Y bát của người mất nếu có cổ xướng chia đều vốn vì dẹp bỏ lòng tham của mọi người. Thế mà người đời sau không hiểu lại sinh lòng tham tiếc trộm so đo tốt xấu lén chọn lựa mới cũ. Xấu thì xướng giá chia đều, tốt thì cất lại phần mình, như kẻ thường dân buôn bán, không biết trách lại mình, còn chê khen mắc rẻ, khiến kẻ thức giả bàng quan phải mắc cỡ đến hổ ngươi. Nếu là bậc Hảo môn Thượng sĩ hoặc Thiền viện cao tăng có nhận mua đi nữa cũng chỉ vì người mất mà kết duyên đó thôi. Như thế mới không bị người sống chê cười. Sinh hoạt trong tăng đoàn phải khéo mềm mỏng hòa thuận, trên dưới dễ xem. Còn ngã mạn cống cao thì Thánh hiền không giúp. Ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh trong mười hai thời mỗi hành động đều thấy rõ. Xuyên thẳng qua điện đường, đâu chẳng là kẻ dày mặt. Xông xáo trong điện thờ, e chuốc lấy phước mỏng. Áo vá để mặc vào nhà xí, dép cỏ đi dạo núi rừng đều không bước lên chốn pháp đường đi quanh chỗ bậc kỳ túc. Canh năm dậy rửa mặt là vốn vì việc tu hành. Khạc nhổ kéo bồn chậu ầm ỉ đại chúng. Trong nhà tối động niệm, tự mình mê muội mà không biết. Ngày qua tháng lại, mặt võ mình gầy. Tắm nước nóng phải biết tiết kiệm, thẻ dùng trong nhà xí cũng đừng lấy. Làm phước tuy nhiều, chẳng bằng lánh tội. Khạc nhổ nơi phòng nhà, gãi đầu trên bàn đọc sách, trái với Thánh hiền, tự ý làm theo ý mình. Hằng giờ luôn xem xét, mỗi bước phải đề phòng, mau phải quên bỏ thân tâm, liền đẹp tỏ lòng dạ. Mười ngày coi liêu thay nhau cung dưỡng (nuôi nấng). Thức khuya dậy sớm cốt phải tinh thành, khổ nhục, lao tâm, trước người sau mình. Y bát của đại chúng rất phải giữ gìn, một việc không chu toàn, mọi người sẽ động niệm. Nấu trà, quét đất, thay nước, đốt ngang, đừng bảo nước lạnh đổ vào bình nóng, khỏi thấy chúng Tăng phiền não. Thủ toạ trong liêu, công việc cốt phải nhu hòa. Trước phải làm theo khuôn phép, chừng mực tự mình ổn định. Đúng giờ lên lớp học (pháp tòa), lựa lời ngắn gọn mà thưa bàn. Nếu có một việc không chu toàn, thì mọi người sẽ chê bai. Dạo núi xem nước ra vào có lúc. Hễ gặp đạo nhân có tánh xấu thì phải khéo dùng lời khuyên dụ, nếu chẳng nghe theo thì nên thưa trình với thầy Trụ trì. Biết giữ điều lành ngăn điều dữ, gìn lòng tịnh tín của đàn na. Khi cạo tóc, lúc hơ lò, theo lẽ phải nhún nhường, khiêm tốn.

Những phép tắc trên đây đã trình bày rõ hết, phải vui lòng nghe theo. Hằng ngày, trong mỗi giờ đều nên lưu tâm để ý. Mỗi cử chỉ đều phải khéo léo, không thể hơn ba lần gọi không quay đầu thì nhóm họp có ích gì. Huống chi lòng trần khó quét, tánh nước dễ trôi. Người căn khí bậc trung phải được lòng người trên, kẻ dưới. Ngài Khắc Tân bút chiến pháp Thiền không thắng, từng bị phạt phải đền cơm cho đại chúng. Ông Văn Viễn tranh thiền thắng bại phải nộp hai cái bánh bột báng đã treo trong tùng lâm, kẻ hậu học phải vâng theo. Tiên sư tôi chẳng nói hai thiền phái, chỉ muốn phạt mười sáu lạng dầu.

Bài tụng rằng:

Rùa đen rút cổ khi gặp đốt cỏ ngải
Ngàn xưa khiến người cười mãi không thôi
Kính khuyên đời sau phải mở rộng tầm mắt
Chớ để bị phạt một cân dầu.

LỜI GIA HUẤN CỦA HÒA THƯỢNG TIẾU ÔNG

Ngày cũng thế đêm thì cũng thế
Khi ngủ nên sau, dậy nên trước
Dọn giường gấp chăn lúc đánh thức
Đi đứng xoay trở phải khoan thai.
Cháo sáng ăn xong chớ đùa giỡn
Rửa mặt súc miệng dùng ít nước
Khi đầu ngứa gãi thì phải tắm
Khăn tay khô sạch chẳng hại nhau.
Vắng lặng thân tâm khi mở bát
Gắp trước bằng đũa, ăn bằng thìa
Khăn ăn thu dọn phải chờ sau
Hai bên kính lễ đừng cho thiếu
Cháo xong kính lễ uống trà sau cơm
Phóng tham, dược thạch chớ ồn ào
Ra nhà vào cửa hợp khuôn phép
Như thấy tùng lâm có vị tác giả
Tòa cao đầu cửa bảng đinh đang
Là Thiền hòa nào dám vào nhà
Với phạt trăm tiền có thể được
Treo cao trên bảng rất khó chịu
Khi vào nhà thăng đường niệm tụng
Làm theo khuôn phép, đủ oai nghi
Gần đây có bọn không hổ thẹn
Mặc áo dài cánh tay áo nhỏ.
Cởi áo mang giầy phải chỉnh tề
Đóng cửa phải chậm buông thẻ xuống
Thầm trì lời chú búng ngón tay
Thùng sạch phải dùng tay mặt xách.
Vào tắm mặc áo phải cung kính
Cần nước nóng, đánh bảng khoan thai
Đồ dơ không để bên chậu tắm
Hai chân sao lại để trong thùng
Lễ bái, trì kinh đuổi ma ngủ
Không nên lấy đây mà khoe khoang
Một mai lòi ra mắt mẹ sinh
Dùng thuốc mới biết bệnh càng nhiều
Nón đội khăn lưng khách Vân Thủy
Tìm thầy chớ sợ nhọc phải siêng
Pháp môn đạm bạc, phải giữ gìn
Chớ học thói thường quân chữa lửa.

LỜI TIỂU THAM CỦA THIỀN SƯ TỬ TÂM NGỘ TÂN Ở CHÙA HOÀNG LONG

Tiểu tham Nghĩa là lời dạy trong nhà. Sao gọi là lời dạy trong nhà? Ví như một gia đình có năm ba người con, đứa lớn hôm nay làm việc gì, đứa nhỏ hôm nay làm việc gì, đúng hay sai? Đến chiều trở về, cha mẹ sẽ xét đoán lại từng việc. Trong tùng lâm cũng giống như thế, hôm nay chúng Tăng làm việc gì, đúng hay sai? Vị trụ trì sẽ nhóm chúng lại xử đoán từng việc. Nhìn lại thời nay, tùng lâm ngày càng suy tàn, trình độ các tăng sĩ thua sút kém đến đỗi không thể nói được! Có một bọn người xưng là trụ trì mà học hành dốt nát. Viết thư từ, gởi tin tức, rong ruổi khắp nơi để tìm chùa ở. Khi tìm được chùa rồi thì họ lựa ngày lựa giờ để nhập tự. Lại tự xưng là Trưởng lão, trong phương trượng thì tự tại, thọ hưởng vui sướng, những bọn người này thật đáng gọi là cặn bã của địa ngục! Ngày nay trong tùng lâm nếu có bàn luận đến việc tham thiền thì thật khó mà tìm được người am hiểu. Ta nhìn thấy ngươi ví như thấy bọn họ ở trong đó, tâm thì sân hận, miệng thì lầm bầm, thế mà nói là hiểu thiền, hiểu đạo. Còn lúc vào trong phương trượng thì mồm miệng lẹ làng, có nắm được vài câu chuyển ngữ thì liền bung ra, đạo lý đâu phải như thế! Lại có một bọn người trình độ rất kém, vừa hiểu được ngoan không liền nói đạo chỉ là việc này. Lại có một bọn người nói là thấy được ánh sáng trong hư không. Lại có một bọn người nói có không đều sai. Thật quá sai lầm, dù có tìm cách cứu vớt họ, cũng không được. Những bọn người này chỉ biết lo cho bản thân họ được an vui mà thôi. Đừng bảo rằng một mai họ bị bệnh đưa vào nhà Diên Thọ mà họ không như con cua bị bỏ vào nồi nước sôi, tay chân quờ quạng. Nói thấy thần thấy quỷ, rồi chạy rong khắp nơi để tìm thầy chạy thuốc, bói lành, bói dữ, hỏi tốt hỏi xấu. Ngươi há không biết Đức Phật Như Lai của chúng ta là bậc Y Vương trong ba cõi, là vị cha lành của bốn loài, có khả năng trị lành tất cả tâm bệnh của chúng sinh. Chỉ vì người không chịu tin, lại hướng ra bên ngoài mà tìm cầu, nên mới bị bọn tà ma yêu mị xâm nhập tâm người. Có được mớ kiến giải như thế, mà muốn biết được tâm người hay sao? Ví như vầng mặt trời giữa ban ngày, khắp thiên hạ đều sáng tỏ, mà trong kia lại có một chỗ bị tối tăm. Nếu đã đạt đến địa vị liễu ngộ, thì đâu còn có gì là quẻ lành quẻ dữ, điều phải điều quấy, chuyện tốt chuyện xấu, có khả năng vượt lên trên chuyện phải quấy mà ngồi nằm tự tại. Cho đến phòng dâm quán rượu, hang hổ cung ma đều là chỗ hành đạo tốt cho chúng ta an thân lập mạng. Chỉ vì từ vô lượng kiếp đến nay con người bị nghiệp thức ngăn che dày đặc, trong tâm gàn gàn dở dở, rịt rịt ràng ràng, không có lòng tin nên bị vòng tình ái thế gian trói buộc. Được thân người thì điên đảo lộn xộn. Người Quảng Nam thì giúp đỡ người Quảng Nam, người Hoài Nam thì giúp đỡ người Hoài Nam, người Hà Bắc thì giúp đỡ người Hà Bắc, người Hồ Nam thì giúp đỡ người Hồ Nam, người Phúc Kiến thì giúp đỡ người Phúc Kiến, tăng Tứ Xuyên thì giúp đỡ tăng Tứ Xuyên, tăng Triết Giang thì giúp đỡ tăng Triết Giang. Họ nói vị trụ trì chùa là người cùng quê tôi thì tôi giúp đỡ ông ta. Nhưng lỡ một mai có một điều gì lo không làm tròn cho họ, thì họ lại sinh ra chuyện phải quấy. Nói về chỗ thân tình ấy thật là khổ lắm! Những kẻ đi vân du như thế là che giấu cái vẻ giết người, họ khác gì cái dao cùn để giết người! Nếu là bọn người ấy thì nên vạch một vạch cho đứt hẳn, ngõ hầu còn có được ít nhiều điều thong thả tự do. Còn nếu vạch không đứt thì e rằng chỗ chỗ sẽ bị tình thân ái trói buộc. Hễ thích mầu sắc thì bị mầu sắc trói buộc, thích chùa chiền thì bị chùa chiền trói buộc, thích tiếng tăm thì bị tiếng tăm trói buộc, thích lợi lộc thì bị lợi lộc trói buộc, thích thân xác thì bị thân xác trói buộc, sao người không lui lại một bước mà nghĩ lường xem. Cái đãy da hôi thối này của ngươi có chỗ nào là tốt đẹp đâu? Lúc đó chỉ vì người khởi ra một niệm tâm luyến ái, liền chui vào thai mẹ nhận lấy tinh huyết của cha mẹ lúc giao cấu mà thành ra một hòn máu đặc. Khi người mẹ ăn đồ nóng thì cảm giác như ở địa ngục vạc dầu sôi. Khi mẹ ăn đồ lạnh thì cảm giác như ở trong địa ngục băng giá. Đến khi từ trong thai mẹ trồi ra thì phải chịu bao sự lạnh, nóng, đói, no, bệnh khổ, nung nấu ép ngặt mãi đến ngày hôm nay. Chỉ vì ngươi không thể quán chiếu trở lại, nên mới có những chuyện phải quấy, sinh diệt như thế. Hễ đây sống thì kia chết, kia chết thì đây sống. Sống sống chết chết, chết chết sống sống, trôi giạt theo nghiệp thức mà chịu quả báo không lúc nào thôi dứt. Gần đây, lại có một bọn chủ chùa gom được một số tiền liền mua độ điệp, cạo râu tóc, mặc ca sa y Phật. Tư cách của họ chủ tớ không phân, lúa đậu cũng không biệt, những kẻ này trà trộn trong giáo pháp, chỉ phá hoại giáo pháp của ta mà thôi. Một mặt họ chỉ lo trau chuốt tấm thân nhơ nhớp này, suốt ngày cứ thoa lưng vỗ đùi, càn huyền rồi nghĩa muốn làm ra vẻ người lớn, người lớn mà không làm được gì cả! Muốn làm được người lớn thì phải lùi lại, bước chẳng trước mặt hay sau lưng, môi chìu lưỡi nịnh, ghét tốt nói xấu. Nói chỗ này ăn uống đầy đủ, chỗ kia phòng liêu yên ổn, trong đạo pháp không dùng những người như thế.

Này các Thượng toạ, thân người khó được, Phật pháp khó nghe. Thân này chẳng ngay đời này độ, còn đợi đời nào mới độ thân này? Người và mọi người muốn tham thiền chăng? Nếu muốn thì phải mau buông xuống, buông xuống cái gì? Buông xuống bốn đại năm uẩn này, và buông hết những nghiệp thức từ vô thỉ đến nay. Ngay gót chân của mình mà suy cho cùng, xem cho kỹ, đó là đạo lý gì? Suy đi nghĩ lại đến một ngày nào đó mà bất chợt hoa lòng nở tỏ, soi sáng khắp các cõi mười phương, lúc đó mới đáng gọi là được ở trong lòng, nắm ở trong tay. Liền có thể biến mặt đất thành chất vàng ròng, khuấy sông dài thành vị tô lạc. Như thế há không vui xướng một đời sao? Đâu phải chỉ dòm trên sách mà đọc câu, đọc kệ, tìm đạo, tìm thiền. Vì đạo này thiền vốn ở trong sách, dù có học hết ba tạng kinh điển, cùng sách vở của trăm nhà, cũng chỉ ở trong phạm vi ngôn ngữ suông mà thôi. Đến lúc sắp chết đều không dùng được gì cả. Người xưa, khi tỏ ngộ rồi mới cầu vị minh sư xét năng lực mình, để gạn bỏ đi sỏi đá, cho rặt một thứ chân thật. Cầm cân định lạng, giống như việc mở cửa hàng tạp hóa, chẳng thứ nào không có. Người đến mua cam thảo thì lấy cam thảo cho người, người đến mua hoàng liên thì lấy hoàng liên cho người, chứ không nên mua hoàng liên lại đem cam thảo cho người. Lại như người có một khối vàng cho vào lửa để nung nấu, nung tới nung lui cho được thuần thục rồi mới để lên kềm chày mà chạm ra bình, trâm, mâm, vòng. Bình nặng mấy lạng, mâm nặng mấy lạng, mỗi thứ cân lượng rõ ràng. Sau đó mới đem bình, mâm, trâm, vòng này nhồi lại thành một khối vàng, như vậy mới gọi là pháp môn một vị bình đẳng. Nếu không như thế thì đều là chân như ngu ngơ, Phật tánh mơ hồ, thì ông là gì? Ông còn tin gì? Vừa rồi, Sơn tăng đáp lời vị tăng nọ về bốn đạo chuyển ngữ: Trong chết có sống, trong sống có chết, trong chết sợ chết, trong sống sợ sống, dùng bốn chuyển ngữ này nghiệm xét hết các nạp tăng trong thiên hạ, hãy nói nạp tăng trong thiên hạ lấy gì để nghiệm xét. Giây lâu nói: Đại thể lại người gân xương tốt, chẳng phải hồng phấn cũng phong lưu (ngữ lục).

QUYỂN 7

THIỀN SƯ PHÙ DUNG ĐẠO GIAI TIỂU THAM.

Xuất gia là nhàm chán trần lao, cầu thoát khỏi sinh tử; dứt các tâm niệm, dứt bặt phan duyên, nên gọi là xuất gia. Đâu thể ngồi không, lợi dường chôn vùi cuộc đời; mà phải cởi mở tầm nhìn, đối diện thinh sắc như trồng cây trên đá, thấy lợi thấy danh như trong mắt dính phẩn tiểu. Huống chi từ vô thỉ đến nay, chẳng phải không từng trải qua, lại chẳng phải không biết thứ lớp, bất quá là lộn đầu làm đuôi, chỉ như thế, đâu cần khổ khổ tham luyến. Nếu ngày nay không dứt bỏ thì còn đợi đến bao giờ. Cho nên bậc tiên Thánh dạy người chỉ cần dứt tận bấy giờ, có thể tận thời nay, đâu còn có việc gì. Nếu được trong lòng vô sự, Phật Tổ giống như kẻ thù, tất cả việc trong thế gian tự nhiên lạnh nhạt, mới bắt đầu tương ưng.

Ông không thấy sao! Ẩn Sơn đến chết không chịu thấy người, Triệu Châu chết không chịu nói với người. Biển Diêm lấy võ cây làm thức ăn, Đại Mai lấy lá sen làm áo mặc, Đạo Giả Y mặc toàn giấy. Thượng toạ Huyền Thái chỉ mặc toàn vải. Thạch Lương làm nhà bằng cây khô cho người nghỉ ngơi. Chỉ có chết mới tỏ tâm ông. Đầu Tử sai người lấy gạo. Cùng nấu cùng ăn, muốn được xét lấy việc. Lại từ các Thánh trên có tấm gương như thế, nếu không có chỗ tốt thì làm sao cam được. Các bậc Nhân giả, nếu cũng đối thể này rốt ráo không thể thiếu người, hoặc cũng không chịu đảm đương; vì sao thần sợ phí lực; sơn Tăng hành nghiệp không chấp trước; nên làm người đứng đầu môn; Đâu thể làm tổn phí của thường trụ; bỗng quên bậc Tiên Thánh phó chúc. Ngày nay bèn học theo người xưa làm trụ trì, so sánh bàn luận với người, lại không xuống núi, không phó trai, không làm hóa chủ, chỉ trải qua một năm thời khóa của bổn viện bèn có sở đắc. Rồi chia thành ba trăm sáu mươi phần, một ngày lấy một phần mà dùng. Không chạy theo tiếng thêm bớt của người. Có cơm thì dùng cơm, không có cơm thì ăn cháo, cháo không có thì dùng chút ít hạt bắp. Khách đến chỉ có trà nước mà thôi. Không có chút ít trái cây để dọn. Chỉ có một ấm trà, ở giảng đường, khách phải tự đi lấy dùng, việc trần gác qua, chỉ chuyên một bề đàm đạo. Lại so với cuộc sống, đầy đủ, phong cảnh nên thơ, hoa cười, chim hót, ngựa gỗ hý vang, ngựa đá chạy giỏi, ngoài trời núi xanh thật tuyệt, tai không nghe tiếng nước chảy bên bờ, nửa đêm vượn hú trên núi, sương phủ dày đặc, giữa rừng gà gáy gió thổi đưa cây thông xanh cao, gió xuân thổi mà cây khô rồng ngâm, gió thu thổi lá tàn rơi, rừng lạnh hoa nở, thêm ngọc đầy rêu xanh, mặt người mang màu sắc của khói sương, âm trần vắng lặng, im ắng, một bề tiêu điêu không chút sợ hãi. Sơn tăng ngày nay đến trước mọi người nói về gia môn. Đã là không gặp may mắn thì đâu thể thăng đường nhập thất, dơ chùy dựng phất, hét đông đánh tây, giương mày trợn mắt, giống như bệnh thần kinh, chẳng chỉ chịu khuất Thượng toạ, cũng là cô phụ Tiên Thánh. Ông không thấy Đạt-ma từ Tây-trúc đến núi Thiếu thất, xuống núi xoay mặt vào vách chín năm, Nhị Tổ đứng dưới tuyết chặt tay, có thể gọi là chịu gian khổ. Song Đạt-ma không hề đặt một lời, Nhị Tổ không hề hỏi một câu, lại nói Đạtma không vì người được chăng? Sơn Tăng mỗi ngày đến nói rõ về chỗ làm của bậc Thánh xưa, mới biết không có đất để dung thân, hổ thẹn người sau yếu mềm. Lại trăm món ngon lạ dâng lên cúng dường, nói ta bốn thứ cần dùng đầy đủ, mới có thể phát tâm. Chỉ sợ làm cho tay chân không đắp đổi, bèn cách đời cách thế. Thời gian giống như mũi tên bắn, thật là đáng tiếc. Tuy như thế (1075) lại từ mọi người độ nhau. Sơn Tăng cũng gượng dạy ông không được, các nhân giả có thấy kệ của người xưa không? Ruộng núi được gạo ăn, hoang dã muối dưa đạm bạc, ăn thì theo ông ăn, không ăn mặc Đông tây, chỉ mong đồng đạo mỗi người tự cố gắng, hãy trân trọng.

Thiền sư Hoàng Bá dạy chúng: Dự biết trước nếu đánh không thấu suốt, đêm 30 tháng chạp đến, giữ lấy sự nóng bức, có kẻ ngoại đạo mới thấy người nói làm công phu, ông ta bèn cười nhạt, giống như có kẻ ngăn lại, ta lại hỏi ông: Bỗng nhiên lúc sắp qua đời ông lấy gì chống lại sinh tử? Ông lại suy nghĩ xem, lại có cái đạo lý làm sao được Di-lặc sinh thiên và Thích-ca tự nhiên. Có một số loài quỷ ở khoáng dã và loài thần nhàn rồi mới thấy người bị bệnh nhẹ liền nói với người khác ông hãy buông bỏ hết và đến người bị bệnh kia có lý hội được không? Chân tay bối rối, thịt ông như dao bén làm sao cắt nát, làm chủ tể được không: Muôn việc phải là lúc nhàn thì làm được, lúc bận được dùng, nhiều ít lượng sức, định đợi đến lúc khát mới đào giếng, tay chân quờ quạng, thì làm gì được, che lấp đất trống ngổn ngang làm sao tránh. Đường trước mờ tối, tin tưởng rối loạn, khổ thay! Khổ thay! Hằng ngày chỉ học thiền ở ngoài miệng, nói thiền nói đạo, mắng Phật, chửi Tổ, đến lúc này đều dùng không được. Thường ngày chỉ chăm lo người mù, đâu biết ngày nay tự mù. Địa ngục A-tỳ quyết định không thả ông được. Như thời Mạt pháp ngày nay Phật Pháp sắp chìm, hoàn toàn nhờ có năng lực anh em, gánh vác nối tiếp tuệ mạng của Phật; không để cho dứt mất. Thời nay mới có một nửa người đi bằng chân; chỉ đi xem núi ngắm cảnh; không biết thời gian có được bao lâu. Một hơi thở ra không thở vào đã thành đời khác, chưa biết đầu mặt thế nào. Than ôi! Khuyên nhà anh em ông. Lúc sức lực mạnh mẽ, tính toán lấy phần chỗ hữu, không bị người dối một đoạn đại sự, che lấp cái chốt cửa (chỉ cho chỗ vui mầu của Thiền cơ, thì rất dễ dàng; tự là ông không chịu bỏ đi. Chết chí thực hành công phu, mặc dù nói khó hiểu rõ lại khó, muốn dạy ông biết, làm sao được một cây tự sống trên cây, ông cũng phải tự tin làm một người chuyển biến mới được, nếu là người trượng phu thì xem công án: Có vị Tăng hỏi Triệu Châu: Con chó có Phật tánh không? Triệu Châu đáp: Không.

Chỉ trong mười hai thời khán chữ Không, ngày tham, đêm tham, đi đứng nằm ngồi, lúc mặc áo, ăn cơm, chỗ đại tiểu tiện, tâm tâm quay nhìn lại với tinh thái mạnh mẽ, giữ chặt một chữ “Không” ngày qua tháng lại nhồi thành một khối. Bỗng nhiên hoa tâm đốn nở, ngộ yếu cơ của Phật Tổ, là không bị câu thoại đầu của lão Hòa thượng trong thiên hạ dối lừa, lại mở miệng lớn, Đạt-ma từ phương Tây đến không gió mà nổi sóng. Thế Tôn niêm hoa một tràng thất bại. Đến đây nói gì Diêm-la Lão Tử, ngàn Thánh còn không biết làm sao. Không tin đạo, mặc dù có điều đặc biệt, thật là như thế, việc sợ người có lòng, tụng rằng:

Trần lao lại thoát việc phi thường
Chỉ đem đầu dây làm một trường
Nếu chẳng một phen xương lạnh buốt
Đâu được hoa mai ngửi mùi hương.

Văn Từ Học Lão khuyên các Tăng trẻ siêng năng học hành.

Ngọc không mài giũa thì không thành khí, người không học thì không biết lẽ phải. Tuổi trẻ xuất gia may được lìa lưới trần, ở trong nhà rộng lớn, trộm nghĩ không thể ấm no mà tự mãn chí mình. Lúc tuổi trẻ không siêng năng học hỏi, không nghiên cứu nghĩa lý, không hít thở cho đúng..., đối trước bậc Thánh làm sao tuyên bạch, trước bậc sĩ đại phu làm sao thổ lộ. Không học một nét chữ văn sơ thì làm sao viết sách của bậc sĩ đại phu? Làm sao đúng với người xuất gia? Trong lòng quán thông xưa nay mà hạ bút thì khởi khói mây. Mới hiểu thân rõ tánh, dẫn đến rõ mạng. Nếu tự lười biếng nương vào lời, không thọ tư chất của đạo, ấy là tự mình liễu hoại một đời, lại như loài vượn thú, còn có dạy để hiểu đến cùng tột. Loài chim Cù dục có thể dạy nó hát ca. Con người là linh hồn của muôn vật. Nếu không học thì tầm nhìn chẳng khác cầm thú. Là bậc thầy của người tự phải nghiêm, sự nghiêm thì sau đó mới là bậc Tôn quý của đạo. Thà năm đầu mất đi sự khoan lượng, mà với cái oán lúc khác, không bằng quá nghiêm để chiêu cảm lúc khác. Đệ tử bỏ cha mẹ vào chùa thờ thầy thầy lại không nghiêm, rồi lại buông thả, lười biếng. Thì đệ tử thật mất mát với sự học. Tỏ lời lại chậm chạp, tuyên bạch lại ngu đần, các bỏ lại bày ra, sai việc lại vụng về. Khi biết mọi việc không thể được, mới tu hối và đổ lỗi về thầy mình, làm sao gọi là chí cảm. Năm đầu thoát tục theo thầy, sư trưởng dạy dỗ cho nghiêm, đối với việc công thì xong. Sau đó dám sửa việc riêng cấm vọng ra ngoài, đọc sách phải thuộc, viết chữ phải rõ ràng, nghĩa lý phải thông, đạo niệm phải chánh. Ngày qua tháng lại trở về với bầu trời có sẵn, tạo được sự mầu nhiệm rỗng rang. Nhờ đó, biển tánh xanh, tâm lắng, ngọc sáng trưng. Người học trên bước đến bồng lai, người học Phật thì an thân lạc quốc, đến lúc này lại cảm công sư trưởng dạy dỗ. Thiền sư Nguyệt Quật Thanh dạy các đồng hành:

Kế là các đồng hành nghe Tử Thành nói: Cao, do có thấp, rộng do có hẹp. Bậc Hiền Thánh xưa nay đều do đây mà thành. Nho tông rất nhiều, họ Thích cũng lắm. Đây không dẫn rườm rà, lược nêu hai, ba điều, Ngu Hạ chí Tôn còn từng trải qua sự thử thách. Có thể do Nhị Tổ mặc áo siêng năng, một niệm nhân chân ngàn đời quả thật. Nếu lạm mặc thì không thành tựu, dù là hủy hình chỉ thêm nghiệp xấu. Các ông già trẻ mỗi người phải chuyên lòng thực hành chân thật không theo dòng đời, ở đất thanh tịnh, sinh tâm, khó gặp, thấy Phật gặp tăng phải cung kính, nếu trách trở lại thì có thể gọi là Trượng phu. Hai vai thí chủ giống như mái chèo, đồng nương gặp nhau được người lễ bái. Tối lửa sang hương thường chở lười biếng, ăn cơm thay cháo niêm niệm khởi tâm hổ thẹn, oai nghi tới lui là bậc thượng lưu, im lặng không hỏi là thấp hèn; Bối Diệp vốn hợp tinh thông. Diệu Điển rất hợp với bác học. Hơi biết xưa nay mới giải cho người, giống như dê câm, thì xuất gia đâu ích lợi gì.

Khi Thế Tôn chưa thành quả Phật, Ngài là người văn võ song toàn. Ngài Vĩnh Gia tài năng mới làm thầy được người, là bậc tông thuyết đều đủ.

Hy Nhan, Hy Ký và Tử Vân có nói: tụng chửu tụng chiểu Thích Tôn không lầm. Mỗi người phải cố gắng chớ ngã mạn. Phải lập chí vững chắc cao cả không rơi vào đất phàm. Cho nên kinh nói: Lập chí như núi cao, đức lớn như biển sâu. Như miệng mong cầu, ta trả lời cho người. Đức Phật và các Tổ đều có lòng từ lớn lao; đã cứu vớt chúng sinh thoát khỏi vô lượng khổ. Như thế ngày ngày các ông sao không thẹn với tâm mình.

Tụng rằng:

Giã gạo cắt cỏ bày gương tốt
Kế thừa phải mạnh mẽ vững chắc
Một niệm hoát nhiên ba đời dứt
Chỉ truyền thẳng xuống Lão Tao Hồ. (Bồ-đề Đạt-ma)

Văn phát nguyện của Cư Sĩ Sơn Cốc Hoàng Thái Sử.

Xưa, Sư Tử Vương lấy pháp bạch tịnh làm thân, thắng nghĩa trong không cốc, hăng hái và gầm thét. Nghĩ cung sáng tên bén, và mặc áo từ bi, sức nhẫn không dao động, phá dẹp quân ma vương; tam-muội làm thú vui, cam lồ làm thức ăn ngon.

Vị giải thoát làm nước uống, dạo nơi ba thừa, an trú (1076) trong trí nhất thiết; xoay bánh xe pháp vô thượng. Nay tôi khen ngợi xưng tánh lời chân thật. Dùng thân miệng ý suy nghĩ quán sát; sám hối như thật. Tôi từ xưa đến nay nhân si mê mà có ái nhiễm, uống rượu ăn thịt làm tăng thêm dục ái. Vào rừng tà kiến không được giải thoát. Nay, đối trước Đức Phật phát thệ nguyện rộng lớn: Nguyện từ nay đến cùng tận đời vị lai không còn dâm dục nữa, nguyện từ ngay đến cùng tận đời vị lai không uống rượu, nguyện từ nay đến tận đời vị lai không ăn thịt. Nếu con còn dâm dục sẽ đọa vào địa ngục, ở trong hầm lửa trải qua vô lượng kiếp. Tất cả chúng sinh vì dâm loạn phải chịu khổ báo, con nguyện chịu khổ thay họ. Nếu con còn uống rượu thì sẽ đọa vào địa ngục, uống nước đồng sôi trải qua vô lượng kiếp. Tất cả chúng sinh vì uống rượu mà điên đảo, phải chịu khổ báo, con nguyện chịu khổ thay. Nếu con còn ăn thịt thì sẽ đọa địa ngục chịu nuốt sắt nóng, trải qua vô lượng kiếp, con nguyện từ đây đến cùng tận đời vị lai, nhẫn việc thệ nguyện, căn trần thanh tịnh, đầy đủ mười nhẫn không do người khác dạy, nhập vào trí nhất thiết, thuận theo Như Lai hiện làm Phật sự trong vô tận thế giới chúng sinh, mười phương rồng rang, muôn đức trang nghiêm, sát sát trần trần làm chứng cho con. Nếu trải qua thân Ca-la-la quên mất đi bổn nguyện, chỉ mong Ngài che chở vạch đám mây mờ cho con, con đánh lễ tất cả thống thiết như hư không.

Lời tiểu tham của Hòa thượng Vân Phong Duyệt: Sư nêu lời Hòa thượng Bách Trượng dạy chúng: ông ngăn một đội hậu sinh, kinh luật luận học bởi thế không biết, cũng vào chúng tham thiền, thiền lại không hội, ngày 30 tháng chạp kết quả thế nào?

Sư nói: rõ ràng thật sự, các Thượng toạ cách thời bậc Thánh rất xa; tâm người bạc bẽo, lại ra mắt tòng lâm ngày nay còn là không được.

Chỗ người nhóm họp năm trăm, ba trăm người, đất rộng mênh mông, chỉ dùng cơm, nước liêu xá nóng lạnh tiện làm nơi tốt đẹp. Lúc ấy người đau hết lòng vì đạo có được mấy người. Nếu có ba người, năm người đi lên đi xuống, nửa xanh nửa vàng. Đều nói ta hiểu rồi. Mỗi người tự cho là cấm của báu (rắn rít, linh xà) đâu chịu biết là sai, lần lượt xô đẩy, chỉ là trong muôn người không có một người. khổ thay, khổ thay! Cái gọi là tòng lâm Bátnhã năm năm tiêu điều, cỏ hoang vô minh năm năm thêm lớn. Tóm lại, kẻ hậu sinh thời nay mới nhập chúng bèn chắp tay lãnh hội, nhận sự cúng dường của người, khắp nơi rau không lựa một cọng, củi không gánh một bó, mười ngón tay không đụng nước, trăm việc không lo, chỉ mong vui sướng. Lụy thân trong ba đường biết làm sao. Chẳng lẽ không thấy trong giáo nói: thà lấy sắt nóng quấn vào thân chứ không thọ nhận y phục của tín tâm đàn-việt, thà uống nước đồng sôi chứ không thọ nhận cơm nước của tín tâm đàn-việt. Thượng toạ cứ như thế, dù cho khắp mặt đất là vàng ròng, quậy sông dài làm đề hồ, cúng dường Thượng toạ không bị phần ngoại. Nếu cũng chưa phải đến giọt nước tấc vải bèn phải mang lông đội sừng kéo cày kéo bừa trả nợ người mới được. Lại không thấy Tổ sư nói: vào đạo không thông lý, thân thọ của tín thí, cây già tám mươi mốt, cây ấy không mọc nấm, rốt cuộc không thật. Các Thượng toạ! Thời gian đáng tiếc, thời gian không đợi người, chớ đợi một mai nhắm mắt xuôi tay, công ruộng phước không có một chút, Thiết vi đau thống khổ trăm cách hành hình, không nói không nói, trân trọng.

Bài minh thể đạo của Hòa thượng Nguyệt Lâm Quán: Thượng Sĩ tham huyền nhân! Thời gian chớ để luống qua, qua sông phải cần thuyền, làm người phải có chí. Danh tướng đều khác nhau, chẳng một cũng chẳng hai, Phật pháp khổ không nhiều. Trong không có khéo léo riêng, động dính cái chốt cửa, trí tự nhiên không thầy; triệt để tâm lão bà, xúc chạm người không kỵ húy. Cõi nước trên đầu lông, đến đây không tránh né, hát bài ca Đức Sơn. Người tu đạo được như thế, thì Phật Tổ ra đời. Nuốt tiếng phải uống hơi, lược làm kẻ như thế, xưa nay không thay đổi, lẫn lộn lúc chưa phân. Sớm có ruộng khế hợp, người người vốn đầy đủ, không chịu quay đầu nhìn, người người đạt bổn hương, kiêng kỵ dính danh vị, các Như Lai quá khứ, không lìa mà nay bỏ. Các Bồ-tát hiện tại, theo thứ lớp thọ ký, người trí thầm gật đầu, tâm rỗng rang đỗ đạt, người ngu không tin nhận, bỏ nhà tự chạy trốn, buồn thay thình lình đến, hiện thành cuộc sống chân, ở đây dùng vô cùng, tông môn nghĩa bậc nhất, phải trái gặp cội nguồn, cũng không lìa đi chợ, kẻ đầu đồng trán sắt, cửa nẻo phải dính đất, nguyện đem công đức này, hướng về khắp tất cả.

Tiểu tham của Thiền sư Từ Thọ Trí Thâm: Tâm này thanh tịnh như hư không, không có một chút tướng mạo, khởi tâm động niệm hoàn toàn trái với pháp thể, vừa lui bước liền tương ưng, chỉ là không chịu lùi bước; mới buông bỏ liền an vui chỉ là không chịu buông hết. Đại khái là từ vô thỉ kiếp đến nay tập quán quen rồi. Người xưa học đạo trước phải đánh bạt tham, sân, si. Sau đó, giáo hóa khắp nơi, những niềm khát khao giáo pháp, giống như quạt trong tháng chạp, chính là không người mà trộm nhìn, đánh mất danh lợi, cam đạm bạc, tâm người thế gian nhỏ nhoi, đạo niệm tự nhiên sâu dày. Hòa thượng Biển Diêm Sơn một đời không ăn, thường vác cuốc trồng rau. Cao Tăng Tuệ Hữu ba mươi năm mang một đôi dép, trăm vá ngàn nối; gặp đất mềm thì đi, nơi đất đỏ thì xách dép đi chân, vì sợ tổn vật của tín thí đàn na khó tiêu thường từ bỏ vợ con, cúng dường tương lai. Nay ông liền rõ phải sám hối làm phước, trong mười hai thời ông thọ dụng các thứ đều là công sức của người khác đổ ra, chưa đói mà có cơm ăn, chưa lạnh đã có áo mặc, chưa dơ đã tắm, chưa mệt đã ngủ. Mắt đạo chưa sáng, lậu tâm chưa hết thì làm sao tiêu vật của tín thí. Cho nên người xưa nói: vì thành đạo nghiệp mà đem đến bố thí, đạo nghiệp chưa thành đâu tiêu được. Sơn Tăng ở đây không thể cùng các ông cháo cơm qua ngày. Nếu ngồi tiêu tín thì, các vị trời không vui, trà thô cơm đạm bạc, cũng khó tiêu của người, như ngay Tỳ-kheo mới học ăn no ngủ giường cao, giữ tánh qua ngày còn chê không vừa ý. Người xuất gia giống như cục đá mài dao, những người muốn dao bén thì đến mài. Trên cục đá, ông Ma Trương Tam cũng đến mài, Quý Tứ cũng đến mài, mài đi mài lại dao người khác thì bén, còn đá nhà mình thì bị mòn dần. Có lúc còn trách người khác không đến mài trên đá ta, có chỗ rất tiện nghi. Cho thức ăn như cho thuốc độc, nhận thí như nhận mũi tên, tệ dày mà nói ngọt, làm đạo nhân sợ hãi. Ông thật vậy rõ ràng tương ưng với đạo, muôn lượng vàng ròng cũng tiêu được. Việc này không phải nói rồi lại thôi. Phải thật đến ruộng đất nơi này mới được. Lớn tiếng nói nhiều dối người dối mình. Phần nhiều không xong việc. Như trong tòng lâm thời nay không có người nào nói lời này. Lễ nào Trưởng lão Tiêu Sơn nói Thiền, hoàn toàn không có lỗ hỏng, nhớ lấy nhớ lấy, xin hãy trân trọng. Quốc sư Đại Đạt Vô Nghiệp ở Phần Châu Thượng đường: có Vị Tăng hỏi: mười hai phần giáo truyền khắp đất này, người đắc đạo quả không phải chỉ một, hai người, tại sao nói Tổ Sư từ Đông độ đến giáo hóa xướng huyền Tông riêng, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật. Chẳng lẽ Đức Thế Tôn nói pháp chưa hết (1077) chỉ như các cao Tăng có đức độ, đời trước học hết chín phái học (Nho gia, Đạo gia, Âm dương gia, Pháp gia, Mặc gia, Tung hoành gia, Tạp gia, Nông gia) và suốt thông ba tạng giáo điển. Ngài Sinh Triệu Dung Duệ đều là vị thần dị trong nhân gian, chẳng lẽ không biết được Phật Pháp xa gần. Mỗ giáp mê muội xin sư chỉ dạy. Sư nói: chư Phật không hề ra đời, cũng không có một pháp nào bàn cho người, chỉ tùy bệnh cho thuốc, nên có mười hai phần giáo. Nếu lấy quả ngọt đổi lấy hồ lô đắng, gạn lọc nghiệp căn cho các ông đều không có sự thật. Thần thông biến hóa và trăm ngàn muôn tam-muội hóa phá thiên ma ngoại đạo, phước trí hai nghiệm là phá kiến chấp có không. Nếu không hội đạo và ý Tổ Sư Từ Tây-trúc đến thì luận bàn Sinh Triệu Dung Duệ làm gì. Như nay thiên hạ hiểu thiền hiểu đạo như hằng hà sa số, nói Phật nói tâm có trăm ngàn muôn ức người; bụi nhỏ không bỏ, chưa thoát khỏi luân hồi, tư niệm không mật đều rơi vào đắm chìm. Như loại này còn không thể tự biết nghiệp quả, vọng nói tư lợi lợi tha, mình cho là thượng lưu và người là tiến đức. Chỉ nói gặp việc gì đều là Phật sự, giở chân đều là đạo tràng. Nghiên học điều này không như một phàm phu thọ năm giới, mười điều lành, rồi phát ngôn chê bai Nhị thừa, Bồ-tát Thập địa. Đề hồ thượng vị là quý nhất ở đời nhưng gặp những người này trở thành thuốc độc. Nam Sơn còn tự không cho gọi là Đại thừa. Học theo dòng ngôn ngữ tranh nhau giữa miệng lưỡi, tranh luận việc vô hình và người là tiên đức, là thành thật, thật khổ thay! Chỉ như Cao Sĩ Dã Dật còn biết gối đá giặt sông, bỏ lợi lộc cũng có sự tính toán làm cho dân yên nước vui. Trưng cầu mà không đến, huống Thiền tông ta lại khác. Xem đạo nhân người xưa sau khi đắc ý, nhà đá chỉ có một cái chỏ gãy chân để nấu cơm, trải qua ba mươi hai năm danh lợi không màng đến, tài sản không đoái hoài. Quên người đời, ẩn tích núi sâu, vua chúa kêu gọi mà không đến, các quan thỉnh mời mà không đi, há đồng với bọn ta tham danh ưa lợi; sẽ chìm vào đường đời như người chết yểu. Có ít mong cầu mà quên quả lớn, các vị hiền bậc Thập địa há không thông lý của Phật có thể không giống như một phàm phu học rộng, thật không biết lý này. Họ nói pháp như mây như mưa, còn bị Phật quở trách: Thấy tánh như cách lưới tơ, chỉ vì tình còn Thánh lượng thấy. Về nhân quả chưa vượt qua bậc Thánh, tình còn hơn các dấu vết. Tiên hiền, người xưa thạc học cao nhân hiểu thông xưa nay, rõ suốt cương giáo, vì biết học rõ văn nước sữa khó phân, không rõ lý mình niệm tĩnh cầu chân. Than ôi! Được làm thân người như cây sống trên đất, mất đi thân người nhiều như cát trên mặt đất, thật đáng thương thay! Nếu có người ngộ được lý có một biết một là hiểu, không biết trong ngộ này là môn nhập lý, bèn cho là ra khỏi danh lợi ở đời, dạo núi ngắm sông khinh rẽ thượng lưu, làm cho tâm lâu không tận đất lý, không rõ thì không đến, già chết không thành, kéo dài năm tháng, lại thông minh mà không thể chống chỏi được nghiệp, không có trí tuệ thì không thoát khỏi luân hồi. Dù cho tài bằng Mã Minh, cái biết bằng Long Thọ chỉ là một đời, hai đời không mất thân người. Suy nghĩ gốc, nghe tận nguồn tức là hiểu. Như Đạo Sinh kia đâu đáng là tốt đẹp, hoàn toàn xa với đạo. Cùng huynh đệ luận bàn thật, không bàn luận hư, chỉ ngăn miệng ăn cơm, thân mặc áo; đều là khinh hiền, chê Thánh, cầu được mắt tuệ tha tâm để xem xét. Giống như ăn máu mủ, đều phải bồi thường họ mới được, A-Na là người có đạo quả tự nhiên, vời được tín thí đến cúng mà không thọ, Bồ-tát học Bát-nhã không được tự mạn, như đi trên nước, giống đi trên đao kiếm. Khi qua đời, một mảy phàm Thánh tình lượng không hết, bụi nhỏ tư niệm chưa quên, theo niệm thọ sinh năm ấm nặng nhẹ mà gá vào bụng ngựa thai lừa, bị nấu trong vạc dầu sôi lửa bỏng, những đều nhớ tưởng thấy biết, trí tuệ từ trước một lúc mất đi tất cả, y đó lại làm loài kiến hôi, lại làm loài muỗi mòng. Tuy làm nhân lành mà gặp quả ác thì tính sao đây. Anh em chỉ là tham dục mà thành tánh, hai mươi lăm năm núp dưới gót chân, ràng buộc không có lúc nào thành tựu. Tổ Sư thấy chúng sinh ở đất này có căn tánh Đại thừa, chỉ truyền tâm ấn, tỏ bày tình mê. Người đắc quả thì không phân biệt phàm và Thánh, ngu và trí. Lại nhiều dối chi bằng ít mà thật. Bậc đại trượng phu như nay thẳng xuống bèn thôi dứt, đốn dứt muôn duyên, vượt qua dòng sinh tử, hướng đến điểm linh quang thường riêng chiếu, vật lụy không câu nệ, vòi vọi đường đường bước đi trong ba cõi, đâu cần thân vàng cao trượng sáu chói lọi, khâm phục tướng lưỡi rộng dài tròn sáng. Nếu lấy sắc thấy ngã là hành tà đạo, dù có thân quyến trang nghiêm không cầu mà tự được thì đất đai núi sông không ngại nhãn quang, được đại Tổng trì. Nghe một ngộ ngàn, đều không mong cầu giá trị một bữa ăn, các ông còn không như thế, Tổ Sư đến đất này chẳng thường có tổn có lợi. Có lợi là trong trăm, ngàn người mà chọn được một người tài giỏi, xứng đáng là pháp khí.

Có tổn là: như trước đã rõ; theo họ nương vào ba thừa giác pháp để tu hành, không ngại lại được bốn quả ba hiền; có phần tiến tu. Cho nên bậc tiên đức nói: Liễu thì nghiệp chướng xưa nay không, chưa liễu thì phải trả nợ cũ.

Tiểu tham của Thiền sư Pháp Xướng Vận: Nói chung, tất cả huynh đệ ở đây mắt đạo chưa tỏ, tâm địa chưa an, vào chốn tòng lâm hay ra xã hội cần phải gần gũi bạn bè tốt. Trong mười hai thời phải dùng Phật pháp làm việc; phải quyết chọn để cho mắt tâm sáng suốt. Điều này chẳng phải là việc nhỏ, thời gian lặng lẽ trôi không đợi một ai, một khi mất thân người khó được sinh làm người trở lại, chớ để bỏ phế thời gian. Nay ba ngày rõ bốn ngày, ở đây qua đông, biên kia qua hạ, nhớ lấy một bụng sắn bìm, học hỏi đến chỗ nói suông, vạch miệng lời Hán lời Hồ, nói ta hiểu thiền hiểu đạo, xem thường người tốt, tạo nghiệp Vô gián, nên biết việc này to tát không dễ dàng, đại nhân đắm chìm rất nhiều, đến đây luận bàn đầu mũi không đến. Chớ đợi đến dịp mới mở miệng to. Lão già Pháp Xướng không có người tình, chẳng yêu người, lúc ông khen ngợi, đều chẳng phải là tâm tốt, một mai phong hỏa giải tán một khi chết đi, nghiệp duyên thiện ác chịu báo tốt xấu. Cảnh giới sinh tử một lúc hiện tiền. Lúc ấy, giống như con cua trong nồi nước sôi, chân càng quơ quào. Trước đây học được thần thông Phật pháp mà vô dụng. Nghiệp thức mênh mang không nơi nương tựa; hối hận thì không kịp nữa, phải theo duyên chịu báo, sửa đầu đổi mặt đều chưa thể định, há không thấy đời xưa, Bồ-tát học Bát-nhã lại không tự dối, cần phải cẩn thận, mảy lông chưa hết thì chưa thoát khỏi luân hồi, niệm nhỏ chưa quên đều theo đó mà đọa, các ông có hết mang lông đội sừng hay không. Chính là ông bình thường làm loạn chủ tể mà ra. Ông có biết địa ngục rút lưỡi hay không, chính là nguyên do cuồng hoặc đường mê.

Ông có biết địa ngục hàn băng không? Chính là ông lạm dụng vật của tín thí đàn na, ba đường tám nạn đều do tâm ông tự tạo tác, chỉ vì mắt đạo chưa sáng, mới làm như thế, nếu là người xác đáng thì đâu có tin tức này. Pháp Xướng nói như vậy đều hợp với các Thánh. Không chỉ là ba, bốn huynh đệ ông; nhưng Bồ-tát chưa đắc địa đều có lỗi này; huống chi (1078) tám Bộ trời rồng đã đến đây qua đông qua hạ, chớ cho là dể dàng. Lão tăng bên cái cuốc kiếm cơm cúng dường. Ông nói những lời về xuất gia chớ vì nhân ngã lại một đời luống qua, một mai bốn đại phân tán, lúc ấy nếu khéo léo cũng muộn rồi. Có một kẻ bình thường nghe người kể việc gì là cứ ghìm trong bụng, rồi sinh tâm tức giận, bèn nói Phật Pháp sao có việc như vậy. Đại ngộ không câu nệ vào tiểu tiết, rồi hỏi A-nan! Con hỏi Ngài ngộ cái gì, mà thoát được tâm tưởng đầu lâu; trong mười hai thời chưa tương ứng với năm giới và mười điều lành. Trong hội Linh Sơn còn từng thấy, có Phật không hành nghiệp chăng? Còn có Tổ Sư nói dối chăng? Phần lớn giống như phân ngựa so với chiên đàn, có gì dính líu. Có thể cho là đề hồ thượng vị là món quý của thế gian, gặp những người này trở thành thuốc độc. Ông muốn tương ưng ngày khác, chỉ từ ngày nay tất cả chỗ phải phóng giáo khô nhạt.

Trong mười hai thời đối với năm dục tám gió như người mù thấy vật không bị các pháp chi phối, cũng không chi phối các pháp, đầu của sáu căn xem xét không có mảy may lỗi lầm, mới có một chút hy vọng hướng thượng. Pháp Xướng nói như vậy giống như uống thuốc nhức đầu, đắng miệng một lúc nhưng lúc khác có hiệu lực.

Cho nên nói: Dù cho trăm ngàn kiếp, nghiệp đã gây không mất, lúc nhân duyên hội ngộ, quả báo lại tự chịu, không có người thay thế, mỗi người tự cố gắng, trân trọng.

Hòa Thượng Cổ Kính trả lời cho Thái Thú ở Phần Dương: Quốc Sư Nam Dương Tuệ Trung ba lần mời cuối cùng không đi, bèn sai Đường Túc Tông phải trọng vọng Phật Tổ. Xong ta nhìn Nam Dương, mây bùn tuy khác đường, quay đầu suy nghĩ người xưa, hổ thẹn mà mồ hôi đổ như mưa. Vì sao Phần Dương Hầu thấy ta như bùn đất, cười vì chùa Ngọc Phong, trích câu thỉnh quyền trụ, đâu thể là một thân, pháp môn đồng chịu uế, nước Trường Giang ngàn xưa, tiếng xấu rửa không đi, cẩn thận nhận thiếp chung, xem sứ tự nhận lấy, ý ta như ngựa vượn, núi mây thích nơi tối tăm, năm khác không trả lời, sáng chiều một nén nhang.

Di văn khắc trên vách của Thiền sư Tuyết Đậu Minh Giác.

Phàm truyền giữ đèn tổ nối tuệ mạng của Phật, điều này không phải là trách nhiệm nhỏ, thích nghi cảnh trước phải tu sửa oai nghi, vâng theo lời dạy, săn dè sửa khí dưỡng tâm, không vì danh lợi mà động tình, không vì được mất mà lay ý; không theo bậc thượng hạ trong thế gian, không chạy theo phải quấy của người, dứt bỏ xấu tốt trong lòng, không hình mà có sắc, vui với niềm vui của người giống như niềm vui của mình, buồn với nổi buồn của người giống như nỗi buồn của chính mình, bao dung với mọi người, tôn trọng bậc hiền nhưng nghiêm khắc với mình về lễ nghĩa. Không vì việc nhỏ mà mất đi điều lành, không trái nghĩa công mà bỏ đi điều không thân, có tài năng không thể chạy kheo thế lực, không thể cậy nhờ, không khen mình thấp, không chê người cao. Thấy người có đức không thể quên thân, giàu có không được quên lúc nghèo. Vả lại, học vốn là tu tánh, đâu giận người mà không biết. Quý là ở chỗ không sinh tâm giận, không cầu những thứ ở đời, người hoặc hâm mộ nghĩa lý cố suy ra cái khác thì cũng đốc thúc tâm ông, dùng khuôn phép để răn dạy, bác bỏ sách sai, chỉ bày diệu tông, ngồi nhà từ bi, áo nhẫn nhục không thể chốc lát mà lìa, muốn đến đảo châu báu thì phải vội vàng, động tĩnh có thường, hiềm nghi phải cẩn thận, không nên chê người khinh trời, người (chúng) qua lại không đuổi không chống cự, người khen chê không giận không tham, bên trong không có hổ thẹn, bên ngoài không thương xót. Hoặc tiếng tăm đồn vang, lợi dưỡng tràn đầy dồi dào, sợ nhân quả bốn đường, cẩn thận gần gũi Tam bảo, sinh tử chưa thoát, nghiệp khổ khó trốn, mới được ý chí vội suy nghĩ lợi chánh, thân như đi nhà xí, được chút lợi xứng với giặc, trăm năm không lâu, ba cõi không an. Đáng tiếc thời gian, phải mau cầu giải thoát. Các Tổ, bậc tiên đức xưa có đức hạnh tốt, gậy tích một bề ăn đất. Đan Hà chỉ một cái đãy vãi, Triệu Châu thì tro xanh đầy đầu. Lãng Sư thì bện cỏ làm chăn. Có người tu lâu, thiền sâu, có người mới đến đại đô mà không đi, tiết kiệm thì ít lỗi, xã xỉ thì tự vời người chê, khiêm nhường thì có vẻ vang, thối lui thì không kiêng kỵ. Cách Phật càng xa thì hành đạo gian khó, xem thời tiến chỉ không tự lui sụt.

PHẠM THỤC CÔNG ĐƯA TIỄN THIỀN SƯ VIÊN NGỘ HÀNH CƯỚC

Xem sông chớ xem nước ở ao đục, nước ao đục là cá tôm sinh sống. Lên núi chớ leo núi quanh co, núi quanh co thì cỏ cây thưa thớt. Ngắm sông phải ngắm sự rộng lớn của nó. Lên núi phải lên trên núi Thái. Sở đắc không cạn, cái thấy cao xa, công phu dụng tận chẳng luống uổng. Phương Nam may thay có đất chọn Phật, phải đến đó nghiên tầm diệu chỉ. Lúc nào đó thành khí chỉnh đốn giềng mối thì không phụ chí xuất gia của đấng nam nhi, đại trượng phu thôi nghĩ bàn, há là hư danh diệt thân. Trăm năm tùy phần giác không nhiều, chớ bị thời gian làm tối thêm, thành đô luống là ràng buộc Trung hoa, trộm ở chỉ nhân rượu ngon mê hoặc. Thầy ta may là người xuất gia, chịu theo hẹp hòi đồng mai một, thầy ta may có chí cao vời, việc gì cũng dẫm đạp đi qua. Há không thấy cá nuốt thuyền không ấn dòng sâu, cây to một vùng không sinh nơi đất gò đỏ. Đại bàng một khi vỗ cánh là chín muôn dặm. Đâu đồng với bờ xuân cát bay đầy, đâu bằng ngựa chạy xa ngàn dặm; chớ học theo chim lưu luyến một cành cây, dù giảng được ngàn kinh luận cũng rơi vào cơ thứ hai của nhà thiền. Mây trắng dài luyến đài cao không đậy lồng sớm thì không tạm mở ra. Vì sợ dân đen trông mưa dầm. Đợi rảnh thì vẫn như xưa là đi ra núi. Lại không thấy: Núi gai có loại ngọc tên là Duật dao, thợ giỏi chưa gặp chỗ rối ren, lúc ấy nếu không lìa gai gốc thì đâu được giá bội cao ở thành thị.

Thiền sư Bảo Ninh dạy phải xem kinh: Phương pháp xem kinh sách hàng hậu học cần phải biết. Phải thanh tịnh ba nghiệp. Nếu ba nghiệp không thiếu thì trăm phước đều nhóm họp. Ba nghiệp là thân, miệng, ý:

1. Thân ngồi ngay ngắn, như khi đối diện Tượng Phật thì thân nghiệp thanh tịnh.

2. Khi miệng không nói chuyện tạp, dứt các chuyện nói chơi thì khẩu nghiệp thanh tịnh.

3. Ý không tán loạn, dứt muôn duyên là ý thanh tịnh. Trong tâm đã thanh tịnh. Trong tâm đã vắng lặng, cảnh ngoài đều mất, lúc ấy mới khế ngộ với nguồn chân, ngõ hầu nghiên cứu cùng tột về lý của giáo pháp. Có thể gọi là nước lắng thì ngọc trai sáng, mây tan thì trăng tỏ. Biển nghĩa vọt lên trong lòng, núi trị biết động ở tai, mắt, không phải dễ dàng, thật chẳng phải là duyên nhỏ. Tâm pháp đều quên, mình người đều lợi, nếu được như thế mới thật là báo đáp ơn Phật.

Ngày tháng năm nọ, Tỳ-kheo Nguyên Chiếu cung kính mang thư đến Thiền sư Tịnh Từ Viên Chiếu. Nguyên Chiếu sớm có học luật biết được quy chế của Phật. Tỳ-kheo phải đủ ba y và một bát, toạ cụ, đãy lượt nước. Đó là sáu vật mà bậc thượng, trung, hạ căn phải vâng theo gìn giữ. Cho nên người nào theo con đường này thì không thể trái, nếu trái thì nghịch với lời dạy trên, không gọi là đạo thầy trò. Ba gồm:

1. Y Tăng-già-lê: Là đại y, y này đắp khi vào xóm làng phó trai, lên tòa nói pháp.

2. Y Uất-đa-la-tăng: Là y trung, y này đắp khi theo chúng lễ tụng, vào trai đường thọ thực.

Y an-đà-hội: Là hạ y, y này đắp khi đi đường, qua lại trong chùa làm việc. (1079) Ba loại y này dùng vải thô để may nhuộm thành ba mầu hoại sắc là xanh, đen và mộc lan, dài khoảng ba khuỷu tay hoặc năm khuỷu tay, phải cắt ra rồi may lại, cốt để dứt lòng tham; điều diệp rõ ràng để nói lên ruộng phước. Nói về tướng của nó là Thánh hiền ba thừa đồng một cách thức. Bàn về tên gọi của nó thì chín mươi loại ngoại đạo chưa nghe đến. Về công đức của nó thì người được thoát tránh khỏi nỗi lo hung hiểm, và nạn rồng phải trốn chim cánh vàng. Những điều này vẫn còn trong đại tạng, chưa thể nêu hết.

Bát: Bát nói đủ là bát-đa-la, Hán dịch là ứng khí. Bát làm bằng sắt hoặc bằng đất nung thể nó phải đúng pháp, nung thành mầu đúng như pháp. Lượng nó phải ba đấu hoặc ba đấu rưỡi đúng như pháp. Vì nó là cờ nêu của chư Phật, chẳng phải khí dùng trong triều đình.

Đức Phật Ca-diếp thuở xưa thọ ký cho Bổn Sư Thích-ca ta. Trí luận cho Tăng-già-lê là vải thô mười ba điều. Lúc Phật sắp nhập diệt trao cho Tôn giả ẩm quang đến núi Kê Túc đời Đức Di-lặc ra đời để trao lại. Điều này để thấy sự tôn quý của chư Phật, Tổ Sư từ Tây Trúc đến sáu đời truyền trao, nói lên có từ việc nối pháp, ở đây lại được các Tổ ưa chuộng. Nay có vị tăng giảng sư tên là Tại Nguyên, vâng giữ chế vật mấy năm rồi, Sư bệnh sắp qua đời, Ngài dạy đệ tử đem y bát, toạ Cụ Phụng thờ Thiền sư, thật để nương bóng từ bi, vì nương vào con đường sáng tỏ. Vâng lời Thiền sư cố gắng tu hành, đức quy về muôn vật, kẻ thiện ác kéo đến xa gần nhiều như mây, các tòng lâm trong nước không nơi nào thạnh bằng. Trộm cho là việc do nơi thời mà nêu, đạo do nơi người mà mở rộng. Quả là nhờ vào bậc cao minh, hạ ý cho là dung nạp thọ trì. Như thế thì nghiêm chế của Đại Thánh có thể thực hành, ngọn gió của các Tổ chưa đọa, kính cẩn sai Tăng đem cho y bát, cùng năm việc tu hành biết để nói về ý này, Thiền sư Khả Phủ Gián Duy ghi lại nhưng không giảng nói.

LỜI TỰA THÍCH MÔN ĐĂNG KHOA KÝ:

Tăng sử ba đời, chọn người mười khoa, đọc tụng một môn công nghiệp rất trọng. Hoàng Triều ra lệnh đến ngày sinh nhật đế Vương là trong nước độ tăng để kéo dài ngôi Thánh, tôn sùng giáo của ta, tuyên bố bậc thầy chân chánh, từ xưa đều vậy, đối với lợi ích này càng thạnh. Nay châu huyện Tịnh Thị rất đông, mỗi năm chọn lựa người phải xét kinh nghiệm nghề nghiệp, mở trường khảo thí, hợp cách tinh thông, sự cần khổ của Tinh La Tương lúc còn sống, mong hoàn tất việc đời để an nhàn. Bên ngoài bị ruộng y, bên trong giữ giới báu, làm đệ tử đấng pháp Vương, làm thầy trời người, không cày cuốc chỉ ngồi thọ của đàn na tín thí, dứt tâm không tham gia vào chuyện đời, đến cả việc nước. Sự vinh quang của Thích tử đâu gì hơn điều này. Thời nay tăng tục phần nhiều không có chánh nhân, lại muốn kinh doanh chuyện khắc, không Tôn sùng nghề của mình. Chỉ mưu tiến lạm dự vào dòng pháp; hoặc nương vào người thân, hoặc cây nhờ sư trưởng, cho đến có Tuần nhai đả hóa, chạy theo cầu ân tuệ, mạnh dạn cho đến nhiều lần bị hủy nhục, trải qua sự gian nan, là trăm ngàn thành vô số mười, há tin có pháp môn an vui đốc thúc thân vinh hoa. Đây là do tâm xuất gia chưa tỏ gắng gượng cũng là người chẳng có trí trượng phu, huống là diệu điển liên hoa, núi Linh Thứu Cực Đàm, chỉ có nhân duyên lớn là khai tri kiến Phật. Bởi thế, chư Phật ra đời là đưa ra điều thật sự, chúng sinh ngộ nhập cũng vô số. Trong nước không biết, may mà nghe thấy. Sao không tụng trì, đâu chỉ có ân riêng, thật là quên gốc nên phải cố gắng. Người chưa độ phải tinh tấn để sớm mong biến thông. Người đã đạt chớ bỏ ôn tầm đều là nghiệp đạo. Trăm vàng cúng thí cũng có thể tiêu. Bốn chúng kính mong suy xét mà không thẹn với đức. Thân huyễn có cùng tận, thật hạnh không mất. Cho nên có tướng lưỡi đẹp mầu đỏ. Xương thân nát tan như viên ngọc. Viết đủ truyện lục, người biết thì nghe đủ, huống chi là Bát-nhã có duyên qua tai. Pháp Hoa so về phước tùy hỷ. May mắn y vào lời dạy của bậc Thánh chớ để thời gian luống trôi, gần thì mong cạo tóc làm tăng, xa thì mong phá ma thành Phật. Nếu được như thế thì đâu nói gì nữa, lo cho tăng không đáp ứng mười khoa sự, tín đồ Phật giáp tiêu diệt mất một trăm năm. Bậc cổ hiền răn dạy rất sâu xa, đâu không động tâm ư?

Thư Nhàn Thị Lang trả lời Vân hành nhân: Gần đây thẹn với lời dạy trong thư, lại đem các thuyết về Thiền giáo, đọc cảm thấy rõ điều an ủi, mà về sau cũng có điều chỉ dạy, vừa dùng nhiều việc nhưng không thể chu toàn với Sư. Nay lại có nói tự không thấy về sự sâu xa của ai có thể cho đây là răn bảo nhau. Nhìn lại tôi ngu muội làm sao biết được điều đó. Nhưng Lôi Sư nói: tôi trộm nghĩ, đối với con đường phương tiện của Đức Như Lai, giống như chấp một bên, giống như có cái thấy về nhân ngã, ngã là đúng, nhân là sai, đối với Phật pháp cho là căn bệnh lớn. Nhân ngã không dứt mà vọng luận bàn hơn kém chỉ là nói suông, tranh luận không dứt, trở thành báng pháp, chưa được quả mầu mà vời lấy ác báo trước, không thể không cẩn thận. Nhưng đối với pháp môn phương tiện của Phật mà tinh tấn tu hành, hạnh mãn công viên thì tự nhiên siêu thoát, không hẳn chấp ngã là đúng, cho điều khác là sai. Tu hành tịnh độ, thì Phật và Bồ-tát đều khen ngợi, người tại gia và xuất gia vãng sinh tịnh độ chẳng phải một người. Huống chi nay trong thời mạt pháp người tu pháp môn này có thể gọi là con đường tắt, nhưng trong đó trước phải gội sạch căn trần, bẽ gãy ngã mạn, đối với các pháp môn khác tuy chẳng phải con đường tu hành chân chánh nhưng tùy theo khả năng mình cũng làm cho khâm phục tin thêm. Đâu thể vọng bàn hơn kém, tự cho là cao thấp. Đạt-ma từ Đông độ đến không lập văn tự, truyền thẳng tâm ấn. Một hoa năm cánh từ Tào khê đến, người ngộ pháp của ta nhiều như gai gốc cỏ lau.

Vào đời Lý, Đường, Thế chủ tôn sùng như thờ sư trưởng, cho đến nay các sư truyền trao không dứt, đặc biệt chưa thể bàn luận hơn kém. Nếu nhất định muốn trích dẫn giáo nghĩa, để làm chứng cho là người tu như thế mới nhập vào địa vị nào đó thực hành như thế mới bước lên địa vị nào đó, thật là cái gọi là hoạ vẽ huống uống, chỉ tự nhọc công, cho nên kinh nói: Như người đếm tiền cho kẻ khác, bản thân không có nửa đồng. Đối với pháp mà không tu hành, thì học rộng cũng như thế, mong sự bỏ đi tri kiến; chớ luận bàn việc của người, chuyên tâm tự tu tịnh nghiệp, tôi thường bàn bạc với sư, thấy sư lập ra thuyết không lập văn tự, đưa đến lời này không hay, thì Đạt-ma không từ Tây trúc đến, Nhị Tổ chắc chắn không chịu chặt tay cầu pháp. Nay văn tự nhà thiền lan khắp thiên hạ, đây chính là hạng người hèn mạt tự nhiên đến đây, đâu phải kỳ lạ ư? Chúng sinh ở thế giới Ta-bà thấy muôn thứ khác nhau, chẳng phải có thể một pháp mà được ra khỏi. Cho nên, Phật dùng phương tiện lập nhiều pháp môn, để cho Đông tây Nam bắc ngang dọc, lớn nhỏ đều được tu hành, đều có thể chứng nhập. Trong hội Hoa Nghiêm bởi Văn-thù-sư-lợi có hỏi về gốc tâm tánh là một, tại sao lại thấy có các thứ khác nhau. Hỏi ngài Đức Thủ rằng: sở ngộ của Như Lai chỉ là một pháp, vì sao nói vô lượng các pháp.

Hỏi ngài Trí Thủ rằng: Trong Phật pháp, trí tuệ là hơn hết. Tại sao Như Lai hoặc khen ngợi bố thí, hoặc khen ngợi trì giới, hoặc khen ngợi nhẫn nhục. Cho đến có khen ngợi từ bi hỷ xả. Cuối cùng, không có người nào dụng một pháp mà được ra khỏi, đều có tụng đáp. Việc sở tụng sáng chiều của vị Sư này có nghĩa lý rất sâu. Bị bệnh đã khác, nơi ở cũng khác, nay bệnh về tay chân uống thuốc mỗ mà không lành. Người bệnh ruột mà trách thuốc không bằng thuốc trị tay chân (1080), là dùng thuốc tể trị bệnh tim là chẳng thể ư? Hai mươi lăm hạnh trong hội Lăng-nghiêm, chỉ suy tôn Quán Âm, đâu phải Quán Âm là cao siêu mà các Bồ-tát thần tiên ngoại đạo là kém. Trong pháp ta đều là tà kiến. Nhưng tri thức của Hoa Nghiêm hoặc ở ngoại đạo, hoặc làm Nhân Vương, hoặc làm dâm nữ để dẫn dắt chúng sinh. Nếu người tu hành chân chánh là đúng thì Đồng Tử Thiện Tài tham học bới Thắng Nhiệt Bà, Tu Mật Nữ, Vô Yểm Túc Vương, v.v... đều có thể chỉ là sai lầm. Ngày kinh muôn luận chỉ là trừ bệnh cho chúng sinh, bệnh hết thuốc bỏ, đâu phải không bệnh mà tiêm chích. Vì tâm cấu này nặng cho nên phải tu nhân thanh tịnh. Tịnh cấu đều mất, thì tu chứng cái gì, ba cõi không trụ thì chỗ nào mà tìm tâm. Bốn đại vốn không thì Phật trụ vào đâu. Của báu trong áo chỉ vì y áo ràng buộc, y áo nếu rách thì ngọc Châu tự hiện. Lại trình bày ý cạn để chỉ dạy, hoặc có người khác có thể chỉ dạy, lại buông một lời, rất là may mắn, cẩn thận chớ chi ly mà thành nói suông, gần đây bốn đại có nhẹ nhàng không? Có nhọc nhằn không? Nay có lui sụt không, mỗ tùy duyên qua ngày, chỉ cần vô sự, tai chưa nghe, ngàn muôn trân trọng.

TRẦN ĐỀ HÌNH QUÝ KHIÊM ĐÁP CHÂN THỊ LANG ĐỨC TÚ

Thưa hỏi việc thiền môn chỉ mong thấy được ý vui đẹp, nhìn lại mình thấp kém thì đâu thể đầy đủ điều này. Nhưng không ngại sư thấy nhỏ hẹp của mình để trình bày rõ. Nghĩa là thoại đầu xem có hợp không, vì mỗ trước thấy không có luận thuyết nhất định. Nếu có thể một niệm bất sinh thì toàn thân là Phật. Chỗ nào mà có thoại đầu khác, chỉ duyên tập khí nhiều đời, trái với giáo, hợp với trần cảnh. Trong sát-na niệm niệm sinh diệt, như khỉ vượn chuyền cành. Phật Tổ bất đắc dĩ mới chỉ bày phương tiện, làm cho ngậm nhai một cái mà không thấm vị thoại đầu. Ý thức có mà không thực hành, đem quả ngọt mà đổi thành quả mướp đắng, un đúc nghiệp thức của ông đều không thật nghĩ. Cũng như quốc gia, binh khí bất đắc dĩ mới dùng đến nó. Người học thời nay đối với thoại đầu sinh ra xuyên tạc, có tìm cầu giải thoát để gánh vác sự nghiệp thật là xa vời trong xa vời. Lăng Đạo Giả hai mươi năm ngồi rách bảy chiếc bồ-đoàn, chỉ cứ xem việc lừa chưa đi, việc ngựa đã đến, nhân cuộn rèm mà đại ngộ, nghĩa là tám vạn bốn ngàn thiền cơ. (mầu nhiệm). Chỉ tiêu mất một cái chìa mở, há là nhiều lời, lai giáo chưa tụng lời Phật, hướng về tâm Phật, thực hành hạnh Phật, lâu ngày phải có chỗ đắc. Hành lý như thế, cố nhiên không mất, là một bậc hiền của đời. Nhưng một việc lành của thiền môn lại phải thấy suốt bản địa phong quang của chính mình, mới là rốt ráo. Việc này người người vốn có, nhưng bị khách trần vọng tưởng che lấp, nếu không đau như nung nấu, cuối cũng không sáng suốt thanh tịnh. Kinh Viên giác nói: Thí như luyện vàng, vàng trong mỏ không luyện mà vốn có, tuy lại là vàng xưa nay, cuối cùng luyện cho thành tựu. Bởi cho là điều này, Lai giáo lại cho rằng đạo nếu không ở trong ngôn ngữ văn tự, chư Phật Tổ vì sao để lại nhiều kinh luận ở đời. Kinh là lời Phật, Thiền là tâm Phật, mới không trái, nhưng người thế gian tìm kiếm câu lời, chìm vào cương giáo, không biết chính mình có một việc quan trọng sáng suốt, cho nên Đạt-ma từ Tây Trúc đến không lập văn tự, chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật. Gọi đó là truyền riêng ngoài giáo, chẳng phải là ngoài giáo, mà là một thứ đạo lý, chỉ cần hiểu rõ tâm này, không dính mắc vào tướng của giáo. Nay, nếu chỉ tụng lời của Phật nói mà không biết trở về với chính mình, thì giống như người đếm tiền cho kẻ khác, mà tự mình không có một đồng. Lại như trong áo rách có viên ngọc sáng, đi ra khỏi nhà bị rớt mất. Dù ở trong đó được chút ít vị ngon thì vẫn là cái thấy của pháp ái. Việc bổn phận gọi là mạt vàng tuy quý giá nhưng vào mắt thì thành bệnh. Cần phải làm cho thanh tịnh hết rồi mới có chút phần tương ưng. Tôi xưa nay tuy không đọc xem đại Tạng Kinh. Nhưng các kinh như: Hoa Nghiêm, Lăng-nghiêm, Viên giác, Duy-ma tụng đọc cùng hơi thuộc. Ngoài ra, như truyền đăng ngữ lục của các lão sư như tông cảnh lục của Thiền sư Diên Thọ v.v... điều nếm vị trong mấy mươi năm, mới đến được nhà. Lại Tôi không rảnh để xem Kinh Luận. Kinh Lăng già tuy là Tâm tông của Đạt-ma cũng dùng câu cú nhưng đọc khó hiểu. Chưa từng nghiên cứu sâu, muốn biết rõ chúng ta điều phải thành tâm, không phải như người thế tục kia tự dối chỉ nói suông mà thôi. Hãy dùng nhật dụng để nghiệm tuy không có lỗi thô trước ác. Nhưng đối với tất cả cảnh giới thiện ác thuận nghịch, quả có khả năng chiếu phá không bị người khác chuyển dời. Trong giấc ngủ đêm, có thức ngủ như một hay không? Nếu trước mắt còn có cảnh thì mộng mị chưa tránh khỏi điên đảo. Mộng mị đã điên đảo thì tật bệnh chắc chắn không thể làm chủ tể, tật bệnh đã không làm chủ tể được thì đầu bờ sinh từ sẽ không tự tại, cái gọi là như người uống nước nóng lạnh tự biết. Đợi lúc xá nhân công danh thành đạt, tu thanh tịnh, ít ham muốn lưu thần vào đạo này thì có thể gọi là hoa sen trong lửa.

Người xưa có nói: việc của đại trượng phu này, tướng văn, tướng võ không thể làm được. Lại nói: Muốn đứng trên đỉnh núi cao, muốn đi trong biển sâu, lại muốn đi cùng khắp tất cả, thẳng đến chỗ không còn nghi, lai giáo cho là không có chỗ thực hành, chỉ không có chỗ thực hành này chính là chỗ đắc lực. Như sách trước nói chỗ yên tĩnh, chỗ ồn náo đều mở mắt xem là đạo lý gì?

Lâu ngày thuần thục thì không có yên tĩnh và ồn náo khác nhau. Hoặc tạp loạn, sinh diệt không dừng thì nêu một công án để chống lại, ngay đó tâm sinh diệt tự nhiên dứt ngay, cái chiếu và người chiếu cùng một lúc vắng lặng, tức là đến nhà. Mỗ cũng học nhưng sao chưa đến, hãy thổ lộ hết như thế, không nhất định nhờ người khác chỉ bày, e có người không so sánh Nho Thích sẽ lấy làm lạ. Đợi chế xá nhân ngày nào đó mắt tâm mở sáng cũng sẽ cười lớn mà quở trách.

QUYỂN 8

THIỀN SƯ TỪ THỌ RĂN DẠY NHỮNG NGƯỜI ĐỒNG HẠNH

Thế đế lăng xăng không thể hiểu rõ; được vào cửa “Không” là tiện nghi. Ngày đêm phải tinh tấn, chớ để thời gian luống qua vô ích. Đốt hương lễ bái chớ lơ là, mắt nhìn tâm đối trước Thánh dụng. Sám hối tội lỗi bụi nhơ nhiều đời, nguyện dùng nước pháp rửa sạch tâm nhơ.

Tâm vương dễ buông lung, đâu thể dạy phúng tụng. Ý ngựa khó điều phục cũng phải điều phục.

Đến già tình trần không quét sạch, bốn thứ cần dùng xuất gia e khó tiêu.

Cũng cần đọc sách, tụng kinh, tâm địa xuất gia phải rõ ràng. Ngày nào đó tu hành nghiêm chỉnh, mọi việc tạm thời đều sẵn đủ.

Một là xuất gia làm đệ tử, thờ phụng thầy như cha mẹ, thêm hương, thay nước phải siêng năng, tự có trời rồng soi chiếu người.

Áo quần giày dép phải ngay ngắn, sắp xếp khăn đơn phải ngăn nắp. Thân bốn oai nghi thường đầy đủ, chớ theo kẻ ngu học thô sơ. Dưới hiên gặp tăng phải hỏi han, trước cửa gặp khách (1081) phải gọi người ra tiếp, xuất gia ý phải khiêm nhường, chớ học người ngu không lễ nghĩa.

Xuất gia không dứt năm thứ rau cay nồng và rượu, thật uổng ở trong đất già-lam, đến già ruộng tâm nếu chưa thanh tịnh, thì hạt giống Bồ-đề cũng khó sinh. Chớ nói chuyện hay, dở của người, nói đi nói lại tự vời lấy tai ương, nếu ngậm miệng dấu lưỡi chính là cách an thân bậc nhất.

Chớ học người ngu nói lung tung, nói lung tung thì đâu có cùng, trong chỗ tối chớ nói người không thấy, chỉ sợ khó lừa dối Mã tướng công.

Sắc thân mạnh mẽ chớ tham ngủ, làm việc siêng năng phải trước mặt, không thấy hành giả xác phường lô. Y bát Tổ sư là đó truyền.

Hai thời khắp thỉnh phải đến trước, nhiều tay có thể làm việc không sai, phúng tụng một quyển kinh của Như Lai, hơn nhàn rồi miệng nói ba ba. Hương cất trong kho phải dụng tâm, rồng voi Ngũ hồ ở tòng lâm, liếc sao nhìn trăng tuy khổ nhọc, phải tin nhân sâu quả cũng sâu.

Không được trộm một phân hào thường trụ, ngày sau vạn lần e khó trả. Đầu lợn chân lừa hiện rõ ràng, đất Phật đời nay quét chưa thôi. Việc nhà tinh thô nên thương tiếc, khi sai mắt cần phải nhìn xem, chớ có tha hồ ném bỏ đi, người dùng phải biết thành công khó.

Các kiêu nhận lỗi phải siêng năng, quét sân nấu trà chớ chán vội, phụng sự chúng thường nên dè dặt, thân tâm như thế mới xuất gia. Có khi duyên cán ra đầu đường, chiếu cố con trâu đực quy sơn, ngoài cửa cỏ xanh thường mang theo. Sợ nhàn sẽ mất e khó thu.

Đứng mà khoanh tay không thể làm, ấy chẳng phải là người xuất gia, gặp người xụ mặt rồi bỏ đi, đáo để người no chẳng phải si.

Khi ba lần tắm gội vào đường, nhơ sạch phải phân y thương hạ, nói cười lớn tiếng đều không được, chớ có đi thô tháo phá oai nghi.

Xuất gia ngôn hạnh phải tương ưng, chú ý thường như đạp băng mỏng, tuy rằng chưa bỏ râu và tóc, phải dạy bỏ đi tiện như tăng.

Khuyên tăng chăm sóc bệnh: Tỳ-kheo bốn biển vô gia đình, bị bệnh, cô quạnh giường rách nát, tâm tịch cô liêu mình rên rỉ, cháo thuốc phải cần người trông coi.

Người bệnh dễ sinh tâm phiền não, người mạnh thường ôm lòng trắc ẩn, cả hai thân mộng đâu tồn tại, lão Tăng viết kệ dạy tòng lâm.

Khí ẩm gió lùa như bị bệnh, không biết bệnh thiền hay là thuốc, nạp Tăng lại suy nghĩ thuốc hay, rồi lại ôm đầu miệng la lớn. Văn Thiền sư Đại Tuệ lễ Quán Âm: Thanh Tịnh ba nghiệp, nhất tâm, năm vóc sát đất quy y. Nam-mô Thập phương từ phụ quảng đại linh cảm Quán Thế Âm Bồ-tát. Con nghe Bồ-tát từ văn tư tu mà vào Tam-ma-địa, được hai tùy thuận, bốn bất tư nghị, mười bốn vô úy, mười chín thuyết pháp, bảy nạn hai cầu, ba mươi hai ứng thân, vô lượng công đức, khởi oai lực lớn, phát thệ nguyện rộng, đồng vào chín cõi sáu đường bốn loài, trong đường sinh tử phát khởi trăm ngàn muôn ức vô lượng hằng hà sa số kiếp khéo hành phương tiện, cứu độ tất cả chúng sinh, không có dừng nghỉ. Nay con thành tâm cầu khẩn chắc chắn được che chở. Thầm nghĩ mỗ giáp (con) đời trước có được duyên lành nên đời nay sinh ra gặp Phật pháp, thân tuy xuất gia mà tâm chưa thấm mùi đạo. Ngu si tà kiến, các căn hôn mê, các kinh sách trong ngoài tuy có học mà chương cú diệu lý không hiểu được. Lại sợ, phước lực cạn mỏng, mạng sống không bao lâu, luống vào cửa không, sống say chết mộng vô ích. Nay con rửa sạch tim gan khóc lóc thảm thiết, đầu thành đảnh lễ, suốt ngày thâu đêm nghĩ đến hình tượng Ngài, thọ trì danh hiệu Ngài, lễ bái Thánh tướng, chỉ mong Bồ-tát dùng mắt trời nghe tiếng, dùng lòng từ bi cứu khổ, thương xót che chở, phát ra ánh sáng đại thần chiếu soi thân tâm con. Chốc lát nước cam lồ rưới tiêu trừ. Suốt ngày đêm, lúc nằm ngồi quán thân Bồ-tát phát ra ánh sáng đại thần, khai tuệ tánh cho con, làm cho con tức thời thần thông phát sáng, trí tuệ thông minh, tất cả kinh sách tự nhiên thông hiểu, được đại biện tài, đắc đại trí tuệ, được đại thọ mạng, được đại an lạc; tham thiền học đạo không có các ma chướng, ngộ Vô sinh nhẫn, đời đời kiếp kiếp hành đạo Bồ-tát, bốn ơn đều báo, ba cõi đều vớt, pháp giới chúng sinh đồng viên chủng trí.

CÁCH TỤNG KINH QUÁN TÂM CỦA ĐẠI SƯ THIÊN THAI TRÍ GIẢ.

Muốn tụng kinh để diệt trừ tội lỗi. Thứ nhất phải tắm gội sạch sẽ, oai nghi nghiêm chỉnh, trải tòa ngồi kiết già. Thứ hai là nhập quán tòa ngồi cao rộng nghiêm đẹp. Kế phải vận tâm quán. Quán ta có khả năng làm Pháp sư truyền bá chánh pháp của Phật, nói pháp cho bốn chúng nghe và muốn tiếng nói pháp này vang xa, không chỉ một quần chúng ở đây mà khắp cả chúng sinh mười phương đều nghe nhận. Đây gọi là giả quán. Kế đến quán người năng thuyết, kinh sở niệm, cái nào là Kinh, là quyển kinh, cái nào là giấy mực.

Người tụng là tâm niệm, hay miệng niệm, hay răng lưỡi hợp lại mà thành tiếng tụng? Là có thân ta hay không có thân ta? Ai là người niệm Quan bốn chúng này là thật có hay do hậu tưởng sinh. Bốn chúng chẳng thật có, suy tìm rốt ráo không có ngã. Người sở niệm gọi là không quán. Tuy không có kinh năng niệm, mà có quyển kinh, giấy mực văn tự. Tuy không có người năng niệm mà có thân ta tuyên niệm cho bốn chúng nghe. Tuy không có trong ngoài mà lại không lìa trong ngoài. Tuy không có quyển kinh mà không lìa quyển kinh. Tuy không có tâm, miệng mà không ngoài tâm miệng. Từ đầu đến cuối chắc chắn không sai lầm gọi là không thể nghĩ bàn. Có thể hiểu, có thể quán gọi là Ba quán. Ngay trong một niệm đắc Ba quán không trước không sau, rõ ràng tuy không có người thì mà có pháp thí. Tuy không có người nhận mà có bốn chúng rõ ràng. Tuy không có một, hai, ba mà có một, hai, ba, đó gọi là pháp thí Đàn ba-lamật. Chuyên tâm chấp trì không có các ngăn ngại, gọi là trì giới. Nhẫn nại, danh, văn tài lợi đều không thể làm não hại. Đó gọi là Nhẫn. Nhất tâm không tán loạn, từ đầu đến cuối không có hổ thẹn gọi là tinh tấn. Chuyên niệm kinh này không có vị ái, đó gọi là Thiền. Phân biệt không sai tựa chánh lưu thông điều liễu rõ. Câu chữ rõ ràng gọi là Bát-nhã. Đây gọi là đầy đủ Ba-la-mật. Tự thực hành pháp này gọi là Thật. Truyền trao cho người ngoài gọi là Quyền. Nếu từ sinh đến già một đời đã xong thì thành tựu công đức này. Đối với tâm từ vô thỉ gọi là hạt giống chánh nhân. Nếu có tâm quán gọi là liễu nhân; trên tòa cao nói trao nhân duyên cho bốn chúng gọi là Nhân duyên. Ba nhân đầy đủ, nếu quán chưa rõ chỉ là tánh đức, thì phải nghiên tầm không thôi, quán tâm tương ưng gọi là gá vào Thánh thai, để nghiệp thai thành tựu gọi là Tu đức. Bốn mươi hai vị trung gian cũng gọi là Tánh tu. (1082), đạt đến quả cùng tột gọi là chủng trí. Ba điểm chữ Y không ngang không dọc gọi là Đại niết-bàn, gọi là Đáo bỉ ngạn, gọi là đại tuệ, đệ nhất nghĩa không bình đẳng. Đó gọi là Niệm kinh chánh quán. Chư Phật ba đời đều từ đây mà sinh. Người tin hãy thí, không hỏi chớ nói. Thứ ba là lưu thông: Nếu tự điều tự độ không gọi là Từ. Thấy khổ không cứu thì chẳng gọi là Bi. Đã tu chánh quán hiện tiền, lại phải trang nghiêm pháp giới sở niệm kinh xong. Sau khi xuất quán, nhờ công đức quán này mà bước lên Chánh giác; nguyện độ chúng sinh nhập các quả vị, đều lên Thượng địa, người chưa nhập quả vị thì vận dụng hai pháp từ bi nguyện tận đời vị lai thành Đẳng chánh giác.

PHÁP QUÁN TÂM THỰC.

Đã trải tòa ngồi xong, vị Duy-na tiến chỉ hô khánh, sau đó chính tay cúng dường, nhất thể Tam bảo, khắp mười phương thực hành Phật sự. Kế là xuất sinh cơm, xứng thí khắp sáu đường, tức là biểu thị sáu Ba-la-mật. Sau đó thọ thức ăn này. Phàm cơm là mạng sống của chúng sinh, nếu không nhập quán tức là làm tươi nhuần sinh tử. Nếu biết được nhập quán phân biệt sinh tử, hữu biện vô biên, thì bất luận khất thực và chúng sinh tịnh, cơm thanh tịnh đều phải thực hành quán. Người quán tự sợ cơm cũ trong thân này đều là vô minh phiền não làm tăng thêm sinh tử. Thức ăn này đều tưởng là Bát-nhã. Đối với thức ăn lâu từ nơi lỗ chân lông lần lượt phát sinh. Thức ăn phát sinh rồi thì đường tâm liền mở. Nay ăn cơm mới chiếu soi các tối tăm cho tiêu diệt, thành Bát-nhã. Cho nên ngài Tịnh Danh nói: Đối với thức ăn bình đẳng, với pháp cũng bình đẳng, đây là chứng minh rõ. Vì thức ăn này thành cơm Bát-nhã có công năng nuôi dưỡng pháp thân. Pháp thân được lập thì được giải thoát. Đây là ba đức chiếu soi thức ăn này không cũ không mới, mà có cũ của thức ăn cũ và có mới của thức ăn mới, đó gọi là Giả. Cầu cũ không được, cầu mới không được, rốt ráo vắng lặng gọi là Không. Quán thức ăn từ đâu mà có. Là mới đã không có thức ăn mới, ở đâu có thức ăn mà không lìa thức ăn cũ. Nuôi dưỡng thân mà cơm mới thì thêm lợi ích. Nhân duyên hòa hợp không thể phân biệt trước sau, gọi là Trung, chỉ trung tức là giả không, chỉ không tức là trung giả, chỉ giả tức là không trung, không thể nghĩ bàn gọi là Trung đạo. Lại Ngài Tịnh Danh nói không có phiền não không lìa phiền não, không có Ý nhận định, đó gọi là Pháp thực. Bài văn nói về ba y của Luật Sư Đại Trí. Ta có ba y, các bậc Thánh xưa theo quy tắc chân chánh dùng vải thô để che thân. Nếu mặc áo lông thú, tơ tằm thì sẽ hại mạng chúng sinh, làm tổn lòng từ bi, ba màu xanh, đen và mộc làm nhuộm lại thành mầu hoại sắc, năm chánh năm gian sẽ bị người thế tục chê bai. Vâng giữ nó như chim hai cánh, che chở nó như lớp da mỏng ngoài thân, tin nó là cờ nêu của hằng sa chư Phật, là khuôn phép của các bậc Sa-môn Thánh hiền, là điều đầu tiên cho chín mươi sáu phái ngoại đạo khởi tín tâm, là nền tảng gieo trồng ruộng phước của hai mươi lăm cõi. Bởi thế Kiên Thệ Thú Vương chịu đựng cái chết mà Tầngià xưng tán. Nữ Liên Hoa Sắc làm trò cười mà dứt hết tham si. Hoằng thệ rất nặng, chí đức khó bàn, rồng thoát khỏi hoạ chim cánh vàng, người hèn nông nỗi, chánh giáo suy đồi, đua nhau mặc đồ sặc sỡ, cười giỡn nghênh ngang, cống cao ngã mạn, khinh chê bậc thạc đức, học theo thói thế tục, ngu si không biết sai quấy, ông phải cung kính bậc mô phạm, tôn trọng ân từ. Thường tự vui bước bước chớ lìa, gá thần vào lạc quốc, buộc châu trong áo, hiện thân trong cõi nhẫn, báo đáp thường theo. Kiếp đá có thể tiêu mòn, muốn lời nói này không mai một, hư không có cùng tận, giữ chí này không đổi dời.

BÀI PHÚ VỀ BÁT SẮT

Ta có cái bát sắt, chứa đựng nửa đấu, không lớn không nhỏ, khỏi trúc xông huân, sáng sạch như minh châu hai phần, giống như trăng tròn sáng, sáng sớm vào xóm làng, mọi người trông thấy điều ưa thích, Kê vàng rơi vãi như có cát vàng, đống cao rõ ràng như chứa tuyết, cùng với sự biến hiện của hương tích chẳng khác, so với cúng dường cõi trời tự nhiên đâu khác. Than ôi đồng chiếc thuyền nên tự uốn nắn. Không cày cấy, không bừa gặt, mạng có sống từ đầu mà sống. Miệng bụng không biết chán, nguồn tham không cạn dứt, chánh niệm hơi trái, la sát đã đoạt, ham thích ngon ngọt một thời mà chịu đói khát muôn kiếp, vạn vàng có thể nhận, bảo đảm với anh chưa thấu suốt. Chén nước khó kham Thánh giáo nói rõ, chính là không trái với năm quán ba đề có tiết, cẩn thận chớ luống phí tín thí kia để nuôi dưỡng tấm thân ô uế, biết rằng cần phải có duyên giúp đỡ này sớm cầu tự giải thoát.

BÀI PHÚ NÓI VỀ TỌA CỤ

Ta có toạ cụ lượng đúng cỡ, mầu giống như Càsa; vật thể nó thì hai lớp vải thô, dài bốn tấc, rộng ba tấc, hoại cái mới chồng lên cái cũ, hình nó to, có thể tăng thêm thân nhỏ của ta. Bắt đầu từ lúc thích loại lớn, ghét loại nhỏ, chỉ trách người sai trái với quy chế mà khai cho. Đâu biết mình sai lầm, từng nghe thân tỳ-kheo là tháp năm phần. Ni-sưđàn là nền của bốn phương, chính là bốn tướng của đạo giả, đâu thích hợp với thân mà giữ gìn. Ngồi thiền giảng pháp trải ra, chớ đánh mất oai nghi. Vào xóm làng, du phương chớ lìa nó một bước.

Không như vậy thì trái với luật, chế, một đời chỗ ngồi không đúng như pháp.

ĐÃY LỌC NƯỚC.

Ta có đãy lọc nước dùng vải dày làm đáy, sắt nóng làm khuôn, dùng nó phải nhìn kỹ, nếu thả nó ra thì dè dặt kẻo bị tổn thương. Nên biết Phật ta nhân từ còn không làm hại một vật nhỏ. Nếu ta uống thì may được tránh khỏi tai ương khác, trong một hóa cảnh thượng trung hạ đều chế, trong nửa do-tuần qua lại phải đem, đời thường xem thường cuối cùng ai không cất giữ, có người nghe mà không theo khuôn phép rồi chê bai là tiểu đạo. Hoặc theo khuôn phép mà không dùng, chỉ treo ở nơi nhà cỏ. Đây do bên trong không có thương xót, ngoài buông lung cuồng loạn, che lấp đường lối nương tựa, hại giềng mối giáo pháp của ta, ông phải hết sức giữ gìn, há chỉ bốn đời nương cậy, mà Tam bảo được thêm sáng.

BÀI PHÚ VỀ TÍCH TRƯỢNG

Ta có một tích trượng có cách thức sử dụng, trên dưới ba đình, cán cao sáu thước, mười hai vòng tròn không thiếu, biểu thị cho nhân duyên, là tử là sinh, hai cơ mở ra mà lại đồng, nói lên không hữu, chẳng lìa, chẳng tức. Không dùng để đánh đập, chỉ mang khi khuất thực. Cầm nó thì an nhiên vắng lặng, rung nó thì kêu lít tít, muốn làm cho cửa các cõi mở, ba đường khổ dứt, tùy thân thì vách phên dứt hẳn, trần cấu dễ sinh ra cần phải lau chùi, vất bỏ ngoài mây không cho là nạn, giải hổ mạnh hề chưa phải là nhọc sức. May thay phàm ngu, đạp dấu vết bậc Thánh, bên ngoài tỏ lộ thô bạo, bên trong ấp ủ gai gốc, dùng nó bỏ nó không hề sợ hãi.

VĂN RĂN VỀ VO GẠO CỦA THIỀN SƯ TÔNG TRÁCH.

(1083) Gạo đâu phải thiên nhiên. Gạo không phải từ đất vọt lên, đều do mồ hôi nước mắt của chúng sinh đổ ra mà có, chính là máu thịt của đànviệt, vốn vì chữa bệnh hình khô, vì thành đạo nghiệp, bình thường thọ dụng còn sợ khó tiêu, huống chi rửa sạch tinh anh chỉ là gần gạn đục, hoàn toàn năm vị nhờ vào màu đẹp thơm ngon, khéo léo ngàn mối nghĩa là thân cá thịt, dù hình dạng lông ngỗng như tuyết trắng, theo dòng nước lìa nhà thường; miện ăn ba phần bỏ hai, như thế thật uổng phí, thật không hổ thẹn, mịt mù cày cấy gian nan, giảm bớt đi sự ủng hộ của rồng thần, dù cho đầy đủ phước báu của Luân vương, vẫn phải bình vỡ nước tiêu. Tuy chẳng phải hại mạng tổn sinh linh, đâu không chiêu nhân vời quả. Đức Đại giác Thế Tôn một hạt mè hạt thóc. Bậc Cao Sĩ xưa nay rau quả no đủ, uống ăn đổi dời chưa dứt, thì mong lúc giải thoát làm sao có? Chỉ nguyện tham thiền được tủy, đâu cần vo gạo tìm gân. Dù tiêu vạn lượng vàng ròng, chính là canh thô cơm nhạt. Đã tránh khỏi đa cầu ngại đạo, tự nhiên hướng đến chỗ thanh cao.

Tuy nói gia phong đạm bạc, chẳng phải là một thứ an vui, thống tưởng viên thông từ huấn, thật kham đổi xương tẩy ruột. (Thiền sư Pháp Vân Viên Thông thường dạy học trò không được vo gạo). Suy nghĩ sâu về khuôn phép của lão Thuấn, phải là chặt đinh cắt sắt. (Hòa thượng Vân Cư Thuấn chế định thường trụ và các nơi đều không được vo gạo. Đại chúng đồng suy đạo niệm, chớ chê bai cúng dường rau cỏ. Dù cho chặt đầu tăng xuống núi, cũng quyết định không vo gạo thường trụ. Ngày mùng 1 tháng 11 niên hiệu Nguyên Phù thứ 3, trụ trì Tông Trách bạch.

Tẩy tâm vẫn còn ở giữa đường, vo gạo không hề chấn cổ phong. Ngày ngay tòng lâm nghĩ lão Thuấn, thời xưa Tông tượng nhớ viên thông. Trồng lúa gạo cực nhọc, siêng năng gian khổ. Chớ đem vo gạo làm bàn cơm, là thương xót phí tình khác gì, giống như thịt của Sơn Tăng.

Mặc là năm được mùa còn tổn phước, dù cho năm xấu cũng tổn tài, ân cần vì báo các thiền giả, buộc giữ đầu dây lại không mở.

Cho dù có dư phải thương tiếc, không nên quá phần, không hổ thẹn, ông già Diêm la thật khó hiểu, chủ lúa rồng thần, ý chưa cam, cho nó phí này không tranh nhiều; muôn việc đều từ vo gạo sinh, vua Thuấn ngày xưa làm bình sơn, trăm quan còn ngăn không cần làm.

Trong gạo có gân phải có chân, bỗng nhiên bỏ gân chân đi khó, nhà mình mê ăn tình còn mệt, hơn cùng người khác ý chưa bình.

Điều hòa hương vị như thịt chân, tranh mùi béo tươi làm cá giả, vẽ Phật đã xong thành đạo quả, voi sinh đâu được chứng Vô dư.

Ba đông chỗ vo lạnh đến xương, chín hạ khi nấu mồ hôi chảy, phí nước phí dầu gồm phí lửa, nhọc người, ngọc vật cũng nhọc thần. Đạo giả ăn đơn sơ thích hữu dư, người tịnh lại không phí công phu, tầm thường thỉnh khắp cung thừa ngoại, được mất tham thiền tụng kinh Phật.

Không học năm vị thiền các phương, ở đây tin tức đổi thiên nhiên, Thành Thang chúc lưới theo ý anh. Là vọng thả câu tin duyên ta.

Ba thời thỉnh khắp về thiền thất, một niệm vô tâm qua khe hổ, trong bát cơm đầy gạo thóc thô, trong thùng, canh là rau vàng lạt. Ngọc thực tôn quan chớ động tình, theo đường trai phạn sinh thô lắm, cửa không bình đẳng không cao thấp, ngàn Thánh xưa nay một lối đi.

Đàn-việt tín tâm cũng trai duyên, chớ đem rau cải vung rãi khắp, đại để tinh thô cùng đồng no, luận công thô qua nhiều kiếp số. Người xưa tu hành lợi ích sâu, Tân-la chẳng phải trái tòng lâm. Tuy nhiên lạnh nhạt không mùi vị, tỏ rõ thiền gia một tấm lòng.

Quân thân nghĩa trong từng khinh bỏ, thủy lục bếp tinh còn xa xôi, ngày nay tình này vẫn chưa dứt, cúi đầu nghĩ lại lúc xuất gia.

Lau mâm chùi bàn gượng tiếp đãi, hổ thẹn bổn phận tăng thiền lâm, tâm đạo xuất thế giảm dần dần, thuận tình nhân sự tăng theo tuổi. Tòng lâm khô nhạt thành rừng củi, nhật dụng tiêu điều ý cằn khô; không vo gạo mười phương thường trụ, chỉ tham tâm Tổ Sư sáu đời.

Chớ cho người nay giống người xưa, suy lường đều là có thân sơ, đương thời dựng mài phân da tủy, con cháu đời sau vo gạo cơm. Lau trai dễ đủ an vui mãi, thức ngon khó tiêu tổn duyên đạo, lại thấy khách dưới rừng bên suối, một đời vô sự sống lâu. Đã học hoại y làm khất sĩ, nhẫn khoe buổi tiệc chống Vương Công, có người hiểu cười, theo người cười, cam đứng dưới gió giương cờ cao. Chẳng phải lo nghèo, chẳng phải keo, dứt buộc ăn nói hợp như nhiên, thượng sĩ rõ tâm đáng giao cho, nhiều miệng thiền hoa chớ loạn truyền. Sữa kiệu hành, tanh tổn giới hương, uống ăn xa xỉ phí của người, như nay nét bút đều xổ toẹt, chuyển bất cửa không, mùi khí sinh. Vo gạo cuối cùng ắt hóa khó, lần lữa nhiều bệnh chướng khinh an; phước đức phàm phu có nhiều ít, dù cho rét lạnh cũng biết nóng. Mặt mũi xưa nay rất rõ ràng, theo sóng gió héo hắt một đời, đáng bị Cao sĩ tòng lâm cười, thiên chân tán tận được phù danh. Cao Tăng tài giỏi không bè phái, mũi thấu trời xa khí tới mây, còn chê thiền duyệt vị quý lạ, không chịu bừa bãi thích gạo gân.

Sơn tăng lúc đầu chưa gian nan, chấn lệnh đề cương như đợi nhàn, mười lăm vạn cân gạo thường trụ, đã theo dòng nước qua nhân gian.

Tuy nhiên chỉ việc ngựa khó rõ, đồng lối cùng công chưa thể nương, tiếc phước thời này nhân đại chúng, vô tàm lúc ấy là sơn tăng.

Chiêu đề uổng phí hoạ khó lường, thấy nói nêlê năm tháng dài, lại sợ lúc nào ngăn đạo nghiệp, chẳng như ngày nay lại tầm thường. Chấp sự tòng lâm chớ ngu si. Quả khổ trả nhân đâu chịu nổi, lại nghĩ các nơi hỏi Vương lão; không biết đắng cay cái nào ngọt.

Nhà Tăng cơm một bữa nuôi thân, tiếc phước xưa nay răn gạo cơm, ăn của hàng thịt thật đáng thẹn, mua rượu một ngàn lại người nào.

Trời xanh ba Vũ hoạ Tông ta, Thích Tử về nhà chùa tháp không, đáng là ngày sùng phụng năm xưa, không thể thanh kiệm giữ chân phong. Sơn Tăng đất riêng đổi nhà thường, vẽ được môn ta lại lâu dài. Nếu hướng lúc này phụng dưỡng xa, khỏi dạy ngày khác lầm quân vương. Đường triều sắp tận việc rất nhiều, lửa binh thiêu hết muôn muôn nhà, ngày ấy thối binh nghĩ kiệm ước, có thể hoa trong ổ giặc loạn. Gió yên ngày tốt kiệu đi xa, tiến tới thái bình cắt cỏ hoạ, sở dĩ môn ta thềm đạm bạc, tính toán thiên hạ dứt rối ren. Nhiếp phục trời rộng động quỷ thần, bởi nhân hạnh cao vượt phàm luân, theo giáo xưa nhạt không người thích, chỉ thanh tu này là hóa môn. (1084) Tuy nhà giàu có việc khó đồng, thiền duyệt thích hợp trong đạm bạc, cuồng miệng nếu biết không mùi vị, giảng đầu mới thấy chẳng không không.

Người thọ phước thường tiếc phước ít, được tiện nghi rơi vào tiện nghi, bánh hồ vân môn cơm trâu vàng, hễ tâm no đầu quên trăm đói. Ca-sa trăm mảnh, bát năm nứt, hai thời há lại tính tinh thô, samôn rốt ráo nên thanh khổ, ấn dịu tu hành đạo nghiệp thông. Thái bình người vật đổi tâm khai, thọ dụng buộc ràng dưỡng thai hoạ, hổ thẹn chưa sinh si phước tận, tai ương mưa hạn thình lình đến. Thái bình sinh tuổi tăng gia dần. Ăn ngon mặc đẹp bình đựng hoa, địa phương có cùng tài có hạn, thời gian tiết kiệm không xa xỉ.

Bài minh về tâm thầy của Pháp Sư Biện Tài Tịnh chao ôi! Thân này, sinh ra làm chi? Dùng thức ăn để giúp, dùng áo che thân, dùng nhà để ở, bệnh thì có thầy thuốc, trăm việc một lúc phải đem cấp dưỡng không thiếu. Thật không biết ơn mà lại sinh oán, bốn đại chống nhau, năm tạng không hòa.

Thân này vô thường, một khi dứt hơi thì sang đời khác. Thân này vô thường một khi dứt hơi thì sang đời khác. Thân này chín lỗ bài bất tịnh chảy đầy, trăm ngàn ung thư, ba loại tịnh quán, mười sáu tư duy, một bước không lùi, an dưỡng về Tây, thành trí vô thượng đó là tâm thầy.

Bài minh dưới tòa của Đại Sư Thiền Nguyệt về lời tựa rằng: Tôi thường thấy Bạch Thái Bảo làm một bài Tử Ngọc Tòa Hữu Minh, Yếu chỉ ngôn từ ấy có văn chương và điển tích, lại tha thiết, thật có thể để cảnh sách người chưa ngộ dẫn dắt đời tương lai. Kế lại thấy Diêu Tông Khải Lan nói về Lý Ung đều có văn này rất sâu kín, chính là lời răn dạy xưa nay. Tôi rất thích văn này, chỉ tiếc người thế gian không thể thực hành, trong mười người chỉ có hai, ba người thực hành. Một ngày nhân Tụ Hào bèn làm thừa mệnh của họ Tục Bạch.

Bài minh dưới tòa của Diêu Lương Công, tuy văn ngang lý dọc không kịp các công mà cũng có thể ghi vào bức vách nhà. Khéo là thân ông, hạnh là tánh mạng ông, hoạ phước chắc chắn chuyển được, không gì đẹp bằng nói tiền định, thấy người được cũng như mình được, đẹp thì không thể không hay. Thấy người mất cũng như mình mất thì đây là hưởng điều tốt lành. Trái với những điều này thì quỷ trời sẽ giết hại, phước trước hoạ mới, thích xem xét giềng mối không được thì không thôi. Giữ khiêm cung ít muốn, tốt ra tốt, xấu ra xấu, không được thì không làm, không tỏ vẻ giàu sang mà chê bai người đi khiễng chân, không khinh bỉ người nghèo cùng, trên dưới nương nhau. Bậc Thánh xưa viết sách chăm lo đau đáu trung hiếu tín hạnh vượt qua ăn mặc, sống giữa trời đất chưa ai chẳng cậy nhờ, thân nguy cảnh vòng, cầu ngựa chạy nhanh, vì sao không tự cường, lên ngồi nhà ngọc, tự đọa lời dối hành ngụy, sắc đẹp dẫn đến ương lụy thế gian ông cần phải dạy, rượu thịt, ruột ông cần phải sợ, cố gắng vững chí, đổ ngả ắt sẽ vỡ. Cái sai không gì bằng vun bồi cho cái sai, các lỗi không gì bằng lỗi trang sức thêm cho cái lỗi, chính là con cháu vật âm công chắc chắn là phong, không nhớ văn học là quán ít có, hoạn theo bất nhẫn, hại theo không đủ. Một đây, một kia sở quan hợp nêu, xấu không phải là bóng nước, dòng suối trộm chẳng phải là nước. Đời tin có cỏ sinh ra các loài, phải như nước như ngọc. Trồng đào trồng mận, ghét cái ác của người, đền ơn đáp nghĩa, chợt sự khinh mạng của mình thành cái tốt của người, không lấy hư danh không trái chí lý, điềm hòa thông sướng, dung hội đầu cuối, cảnh trời người tận cùng ở đây mà thôi, dặn dò dặn dò, hãy ghi nhớ lấy.

Hòa thượng Hữu Vân Mâu ở núi Nang Tế, Cát Châu nói về Xà Uế: Trên thế gian này loài độc nhất không gì hơn loài rắn hổ mang. Thứ nhơ uế nhất không gì bằng tiện lợi. Bởi vì cái độc của rắn hổ mang có thể hại tánh mạng con người. Sự ô uế của tiện lợi sẽ làm ô uế thân người. Cho nên muốn giữ gìn tánh mạng con người thì phải xa lìa sự độc hại. Muốn làm trong sạch thân hình thì phải trừ bỏ ô uế. Như người thế gian mộng thấy rắn thì vui mừng nghĩ có tiền bạc. Mộng thấy tiện lợi thì mừng mình được lợi. Tại sao thức ngủ, ái ố lại khác nhau? Nếu biết sợ hãi có sợ hãi, thức dậy có sợ sao lại nhất định thấy niềm vui này về của lại hơn cả tiện lợi. Lại nữa, người xưa vì tài của mà hại đến tính mạng, chẳng phải chỉ một người, vì lội làm ô nhiễm thân hình cũng do những thứ này, mà người không ngộ yêu thích nó không thôi. Tham nó không dừng, thật cũng có thể đáng thương. Lại nghèo giàu là sự phân định của con người, có thể an phận mình tuy nghèo cũng vui, không an phận mình dù giàu cũng thường lo âu, ta biết được phận có thể an, nghèo có thể vui, thì tánh mạng có thể giữ gìn mà sống, thân hình có thể thanh khiết mà tồn tại. Bởi thế người tham tài của là cấp dưỡng cho hổ mang; người ham lợi chắc chắn ô uế thân mình.

Ta không thích nghèo là xa độc hại, ta không ghét giàu là trừ ô uế. Như có người xa lìa của cải như xa lìa rắn độc, trừ bỏ lợi như bỏ đồ tiện lợi (dơ uế). Ta bảo hộ người này dần dần có thể làm con người thấu hiểu tất cả. Không như vậy thì đời đời tham ái không thôi, chắc chắn sẽ bị tổn hại tánh mạng và làm ô uế thân hình. Người thế gian cần phải thuận theo.

Thư Thiền sư Đại Tuệ, trả lời Tôn Tri Huyện: Người sở dĩ tu học kinh Kim Cương hiển bày tướng của nó may được tùy hỷ một lần. Gần đây, các Đại sĩ phu chịu như phải trái dồn tâm vào nội điển, thật là ít có, không được ý thú thì không thể tin được như thế. Xem kinh không tường tận thì không thể hiểu rõ nghĩa sâu mầu diệu trong kinh, thật giống như hoa sen mọc trong lửa. Nghiên cứu ý vị đã lâu không thể không nghi bọn tả hữu mắng chê các Thánh phiên dịch mất đi chân chánh mà dẫn đến loạn bổn chân. Văn cú thêm bớt trái với ý Phật.

Lại nói: Từ đầu trì tụng hiểu biết cái sai của mình, muốn tìm gốc định chính là sai lầm lẫn lộn, mà học theo sự tà ngụy đã lâu thì sấm tội đồng nhất loạt. Đã được Tạng Bổn của kinh đô mới có nơi y cứ. Lại khảo cứu tìm tòi các luận tùng của ngài Thế Thân và Vô Trước thì nghĩa ấy hợp bèn phân chia ra không nghi. Lại dựa theo hai sư Trường Thủy và Cô Sơn đều y vào câu cú mà trái nghĩa. Không biết mà những người chung quanh dám phê bình như thế, thì chắc chắn thường thấy bản phạm dịch vào thời Lục triều, đều được các sư phiên dịch sai lầm, mới phân chia không nghi. Đã không có bổn Phạm mà không theo rồi loại bỏ ý Thánh, thì lại chưa nói về vời nhân cảm quả, hủy báng lời dạy của bậc Thánh thì đọa ngục vô gián. E rằng có người hiểu biết thấy điều đó lại như bọn tả hữu.

Xem xét về lỗi của các sư còn đắm trước bổn nhân. Người xưa có nói giao cạn mà nói sâu thì vời lấy con đường tội lỗi. Mỗ và tả hữu không rõ bình sinh. Tả hữu lấy kinh này tìm cầu ấn chứng, muốn truyền bá muôn đời. Ở trong thế giới chúng sinh giới trồng hạt giống Phật. Thứ nhất đồng với hiếu sự mà lại cho mỗ là người ở đây, cho tin tức ở đây, trông mong vào bên ngoài của hình khí. Cho nên chẳng dám không kính bậc trên. Xưa Quốc sư Thanh Lương soạn Hoa Nghiêm sớ, muốn dịch đúng những chỗ sai lầm mà không được phạm bổn, nhưng chỉ viết ở cuối sách mà thôi.

(1086) Như trong phẩm Phật Bất Khả Tư Nghị Pháp cho là tất cả chư Phật có vô biên thân, sắc tướng thanh tịnh vào trong các đường mà không đắm nhiễm Thanh Lương chỉ nói quyển thượng phẩm Phật bất tư nghì pháp, trang ba, hàng mười. Tất cả chư Phật đã thoát ra ngoài chữ nghĩa. Đối với kinh này được giải thoát, đều chua ở sau kinh. Thanh lương là bậc Thánh Sư, không thể không thêm vào và bỏ bớt, chỉ dám viết ở sau kinh. Người biết pháp thì sợ. Lại trong kinh có nói báu lưu ly lớn. Ngài Thanh Lương nói: e là phệ-lưu-ly. Bổn cũ viết nhầm cũng không dám sửa, cũng chỉ như thế, chú ở sau kinh. Các Sư phiên dịch thời lục triều chẳng phải đều là người hiểu biết cạn, phiên dịch lại có người dịch ngữ, có người dịch nghĩa, có người nhuận văn, có người chứng phạn ngữ, có người chánh nghĩa, có người hiệu đính về bổn phạm đời Đường, mà những người cho ta dịch sai ý Thánh, tả hữu đã không có được bản Phạm, bèn vọng phê phán, lại muốn cho người đời sau tin chắc không phải là khó ư?

Như nói về Trường Thuỷ y vào câu cú mà trái nghĩa, không có bổn Phạm làm y cứ, như thế vì sao lại quyết định cho đó là sai? Công này tuy là người giảng nói, không giống với người giảng nói khác. Từng tham vấn sư Lang Da Quảng Chiếu Tường, nhân hỏi Lang Da: Trong kinh Thủ-lăng-nghiêm, Ngài Phú-lâu-na hỏi Đức Phật nghĩa Thanh tịnh bản nhiên vì sao bỗng sinh ra núi sông, đất đai. Lang Da bèn lớn tiếng nói: Thanh Tịnh bổn nhiên vì sao bổng sinh ra núi sông đất đai, Trường Thủy ngay lời nói ấy đại ngộ. Sau đó mới dũ tay áo tự xưng là Toạ chủ. Bởi vì Toạ chủ phần nhiều là tìm hàng đếm mực. Tả hữu cho là y vào câu cú mà không nương theo nghĩa. Trường Thủy chẳng phải không thấy biết cũng chẳng phải là người tìm hàng đếm mực, không vì đầy đủ tướng mà được Vô thượng Bồ-đề.

Đoạn lớn trong văn kinh rõ ràng, văn này ý rất cạn cợt, tự là tả hữu cầu kỳ quá lắm, muốn lập sự hiểu biết riêng, tìm người theo mình. Tả hữu dẫn luận của ngài Vô Trước rằng: vì pháp thân lẽ ra thấy Như Lai, chẳng cho tướng mà đầy đủ. Nếu thế Như Lai tuy không nên dùng tướng đầy đủ để thấy, ứng tướng đầy đủ là nhân được Vô thượng Bồ-đề là xa lìa điều này. Kinh nói: Tu-bồ-đề! Ý ông thế nào? Như Lai có dùng (?) tướng để thành tựu Vô thượng Bồ-đề không?

Tu-bồ-đề thưa: Con không nghĩ như thế. Nghĩa này nói rõ tướng đầy đủ, thể chẳng phải Bồ-đề, cũng không dùng tướng đầy đủ làm nhân. Vì tướng là tự tánh của sắc. Đoạn lớn luận này rõ ràng, tự do tả hữu thấy lầm hiểu sai. Sắc là duyên khởi của tướng. Tướng là duyên khởi của pháp giới. Thái tử Lương Chiêu Minh cho là: Đừng nghĩ như vầy: Như Lai không dùng tướng đầy đủ để được Vô thượng Bồ-đề. Trong ba mươi hai phần cho phần này là phần vô đoạn vô diệt. Sợ Tu-bồ-đề không dùng tướng đầy đủ thì duyên khởi diệt. Bởi vì Tubồ-đề lúc ở trong thai mẹ đã biết được về vắng lặng, thường chẳng trụ vào tướng duyên khởi. Sau đó dẫn luận của Bồ-tát Công Đức Thí: Đời mạt pháp sau này nếu dùng tướng thành tựu là chân thật có. Khi tướng này diệt thì gọi là đoạn. Vì sao? Vì sống cho nên có đoạn (chết). Lại sợ người không lãnh hội, lại nói: vì sao tất cả pháp là tánh Vô sinh. Cho nên xa lìa hai chấp thường và đoạn. Xa lìa hai chấp là tướng pháp giới không nói về tánh mà nói tướng, vì pháp giới là duyên khởi của tánh, vì tướng là duyên khởi của pháp giới. Không nói tánh mà nói tướng; Lương Chiêu Minh cho là vô đoạn vô diệt. Đoạn này lại càng rõ ràng, lại là Tả Hữu cầu kỳ quá lắm, gắng sinh ra tiết mục. Nếu kinh Kim Cương có thể tước bỏ thì một đại tạng giáo hễ có người xem thì mỗi người tùy ý hiểu; đều có thể loại bỏ. Như trong luận ngữ, Hàn Thối chỉ ra rằng: chữ hoạ mà viết thành chữ Trú tự rồi cho là bổn cũ sai. Vì Hàn Thối là người hiểu biết nên có thể sửa đổi, mà chỉ luận ở trong sách như thế, tại sao cũng là người biết pháp mà lại sợ.

Thiền sư Khuê Phong Tông Mật soạn viên giác sớ sao. Ngài có chứng ngộ trong kinh viên giác mới dám hạ bát. Vì trong kinh Viên Giác nói tất cả chúng sinh đều chứng Viên giác. Ngài Khuê Phong đổi chữ chứng thành chữ Cụ (sẵn có), cho là người dịch sai lầm mà không thấy bổn Phạm, cũng chỉ nói như thế, trong số không dám tự tiện sửa đổi chánh kinh.

Sau này Hòa thượng Lặc Đàm Chân Tịnh lựa chọn đều chứng luận, trong luận chửi mắng Ngài Khuê Phong, cho là phá phàm phu tanh hôi. Nếu tất cả chúng sinh đều sẵn có viên giác mà không chứng thì súc sinh mãi mãi là súc sinh. Ngạ quỷ mãi mãi là ngạ quỷ, tất cả chúng sinh cùng tận mười phương thế giới đều là chùy sắt không lỗ (chỉ cho người tham học đần độn). Lại không có một người nào phát chân về nguồn, phàm phu cũng không cần cầu giải thoát. Vì sao? Vì tất cả chúng sinh đều sẵn có Viên giác, cũng không cần cầu chứng. Tả Hữu cho bổn kinh của tạng ở Kinh đô là đúng, rồi y cứ vào bổn ở Kinh đô.

Nếu Tạng Bổn ở Kinh đô từ ngoại phủ châu nhập vào, như hai tạng kinh ở Kính Sơn đều là lúc Triều đình rất thịnh vượng mới ban cho, cũng là kinh ngoài phủ châu được viết ra, muôn điều mới có một điều sai lầm, lại làm sao cải chánh. Tả Hữu nếu không có nhân ngã, thì chắc chắn cho lời Diệu Hỷ là chí thành, không hẳn chìm vào một sai lầm lớn của xưa nay. Nếu chấp cái thấy của mình là đúng, quyết định muốn sửa đổi, muốn tất cả mọi người chửi mắng một người tùy ý khắc bản lưu hành, Diệu Hỷ cũng chỉ được tùy hỷ khen ngợi mà thôi. Ông đã được, bèn sai người đem kinh đến xin ấn khả. Tuy không biết nhau mà lấy pháp làm thân quen. Bất giác lo cho việc không thuận theo, thấy ông đến thật là điều không để ý. Tả Hữu muốn nghiên cứu cùng tột về giáo thừa tạo nghĩa sâu kín phải tìm một giảng sư đức hạnh, danh tiếng, nhất tâm nhất ý tham cứu về giáo điển tường tận, thấu suốt tất cả, giống như dồn tâm vào cương giáo. Nếu chưa rõ việc lớn sinh tử vô thường mau chóng thì phải nhất tâm nhất ý tìm một bổn phận làm nhà thì có thê phá được hang ổ sinh tử của người và bờ mé công phu đắm chết kia. Bỗng nhiên đập vỡ thùng sơn chính là chỗ thấy suốt. Nếu chỉ cần bỏ ra cho đầu đề một cuộc nói chuyện, đạo ta thông suốt các sách chẳng điều gì không thông đạt, thiền ta cũng hội, giáo ta cũng hội. Lại có thể xem xét, cho là đạt đến chỗ các bậc tiền bối dịch chủ giảng sư không đạt tới, ra vẻ ta cũng hiểu được, thì bậc Thánh tam giáo đều có thể xem xét, cũng không nhất định lại tìm cầu người khác ấn khả, sau đó buông lung thì thế nào, thế nào?

Thư Hòa thượng Phật Giám Khắc Cần gởi cho Hòa thượng Phật Quả Cần: xưa phụng thừa Tổ Phong lão sư, có nghe lời này: Nay người học đạo chốn tòng lâm mà danh tiếng không vang, không làm thủ tín cho người bởi phạm hạnh không trong sạch, làm người không xác đáng, chỉ muốn tiếng tăm lợi dưỡng, mới khoa trương tô vẽ điều hay cho mình, bị người hiểu biết chê bai. Cho nên che lấp sự yếu đuối của các ông. Các ông sau này may mắn làm thầy khuôn mẫu của trời người, rồi thích hợp với việc này tự cố gắng, mỗ được nghe điều ấy, bèn ghi trong lòng những bậc tài giỏi, rốt cùng thân tụng không dám quên. Gần đây có một thiền khách đến đây kể lại. Thiền sư Giáp Sơn gần đây thỉnh Tuyết Đậu cho huynh đệ, cơ lớn giải thích chỗ khác nhau về sự sâu kín của Ngài, vượt qua các vị khắp nơi, thật từ xưa đến nay chưa từng có. Mỗ nghe điều đó bất giác rơi lệ, tự cho Ngài là bậc sống ẩn sao lại đến đây; lão huynh sao không khen ngợi, khi Đạt-ma chưa đến, nhân duyên dẫn dắt người học để báo đáp ân đức của bậc tiên Thánh, chẳng phải là lôi kéo đến đây, thật là (1086) sai lầm lớn.

Điều này do lão huynh xem rộng sự nhiệm mầu sâu kín xưa nay, mà không tức giận bọn tà dị thuyết thời nay, vì có mê mờ về yếu chỉ của nhân, đoạt phá đại dụng biển cỏ yếu của bậc tiên đức, để phá tan ý nghĩ mờ tối ấy. Song bậc cao minh biết xa, có người cho rằng cái thấy thanh cao ắt không ngoài đều này. Vì sợ làm mờ tối kẻ hậu sinh, nghi lời ấy câu ấy là tốt đẹp, cho là Phật pháp chỉ như thế, bèn ngồi trong hóa thành không thể tiến đến đảo châu báu, bị hại không ít. Tóm lại không chỉ tổn hại đến tông giáo cũng chính là không có ích đối với người học. Mỗ không sợ tội trách cứ. Dám đem lời của bậc tiên sư truyền trao để nói với tả hữu, để tự khuyên thì may mắn không gì lớn bằng. Nếu cho cái thấy này bỏ đối với tôi cũng không có tội đối với tả hữu, thì không nên. Thư Đáp Hòa thượng Đầu Tử Thông: Mỗ kính bạch! Nhiều lần nghe Bình Tích phó duyên với Đầu Tử, bốn phương quy về đức hợp với sự khâm phục thừa nhật, không có gián cách, thì đồng với gió khác với vui, lại có thể biết, nhân đem thư đến, dùng pháp dặn dò, than ôi thật khó được. Chưa rõ Thiền sư đắc pháp với vị nào. Nếu là phái chánh Tòng Lâm tế của Phần Dương đâu may như vậy. Từ trên các vị tiên tổ mỗi vị đều có Tông chỉ mật truyền, để biện rõ chánh tà, để xem xét người; sau đó mới ấn khả. Chư Phật ba đời, sáu đời Tổ sư, muôn tượng sum la hữu tình vô tình dùng tam-muội hải ấn, để ấn định, khắp trời đất không một mảy sót mất. Từ Thiền sư Bách Trượng Đại Trí trở xuống thay nhau nối tiếp cho đến câu Phần Dương có ba loại sư tử:

1/ Pháp nhàn phi thường (siêu Tông dị mục).

2/ Tề mi cọng trục (bằng mày cùng vết).

3/ Ảnh hưởng tiếng nghe.

Nếu Pháp nhãn phi thường vượt qua chủ vị Thiền sư các phương là trồng cỏ. Nếu bằng mày cùng vết là giảm làm thầy nửa đức, không xứng đáng truyền thọ. Nếu ảnh hưởng, không chân thì thể hổ lang dị loại làm sao phân? Từ Minh truyền dạy điều đó.

Bèn nói: Trời đất trên lòng bàn tay ngàn sai đều một chiếu, Dương kỳ truyền dạy điều đó, thì dùng vòng kim cương gai gốc, để nghiệm chánh tà, núi Thiết Vi có thể suốt qua, vòng kim cương không thể suốt qua. Nước biển lớn có thể nuốt, lúa cỏ gai không thể nuốt.

Nếu nuốt được một cọng cỏ thì trăm ngàn muôn ức cỏ nuốt không ngại. Nếu suốt qua được một vòng thì trăm ngàn muôn ức vòng suốt qua vô ngại. Từ Dương Kỳ truyền đến Sư ông Bạch Vân Thủ Đoan, sư ông truyền đến tiên sư ngũ tổ, Tiên sư truyền đến Tân Giới, nhiều đời truyền nhau, nếu lãnh ngộ sâu, biện rõ chánh tá, dè dặt phải cẩn thận, sợ lạm tông thừa; có sự sai lầm cho kẻ hậu học. Mỗ tự đến Tiên Sư ấn khả, nắm chắc thái bình, hoàn toàn thấu suốt, sáng tối hợp nhau, cao thấp một loại, muôn loại đều rõ, chánh tà rỗng rang, không dám qua mặt. Bởi thế ngàn sai muôn khác biết công án ngoa ngụy, không ngoài vòng kim cương gai gốc, một lúc nhiếp hết. Nếu nuốt được cọng cỏ, suốt qua một vòng thì trăm ngàn muôn ức, cỏ, vòng đều vô ngại, vô ngại đợi dung, vạch sáng nghi ngờ quanh co, xem xét còn đồng phù hợp không sai, tức là may mắn lắm. Nếu chưa như vậy, thì không dám tuân mạng. Kính cẩn nghe theo ít thấy tường tận, không tuyên bày.

QUYỂN 9

SẮC VĂN CỦA HOÀNG ĐẾ CAO TỔ ĐỜI TÙY.

Hoàng Đế kính hỏi Thiền sư Trí Nghi ở chùa Quang Trạch: Trẫm rất kính tin tôn trọng Phật giáo. Thuở xưa, lúc thời nhà Chu, hủy hoại Phật pháp. Nay trẫm phát tâm lập nguyện hộ trì Tam bảo, thọ mạng bằng trời, lại nương nhờ thần lực chư Phật để cho bánh xe chánh pháp xoay trở lại, chúng sinh mười phương đều được lợi ích để trình bày lại sự ngược loạn bạo tàn của chúng, phương Đông trăm họ làm việc nặng nhọc khổ không kể xiết. Cho nên vâng lệnh tướng ra trận để trừ hại cho dân. Đất Ngô Việt nay ra lệnh làm cho bình yên cho đạo tục được an ổn, thật mới vừa ý trẫm. Trẫm tôn sùng chánh pháp cứu giúp muôn dân, muốn làm cho ruộng phước còn mãi, rường cột vô cực. Sư đã rời mối ràng buộc ở đời, tu rồi giáo hóa người mong được tăng tiến. Hạnh của tăng giữ chặt giới cấm, làm cho người nhìn thấy đều khâm phục, nghe đến ắt sinh thiện, mới là tâm giúp đỡ cho đạo lớn. Ấy là nhiệm vụ của người xuất gia. Nếu thân vào đạo mà tâm nhiễm trần tục thì không phải là loại hàm sinh. Không nơi nương tựa, e rằng cửa diệu pháp sẽ bị phỉ báng trở lại, phải khuyên nhắc nhau để đồng với tâm của trẫm, ngày xuân sáng dần, đạo thể mới thích hợp. Ngày 16 tháng giêng niên hiệu Khai Hoàng năm thứ 10 nội lại lệnh an bình công thần Lý Đức Lâm, nội lại thị lang vũ an tử thần Lý Nguyên Tháo phụng, nội sử xá nhân Bùi Củ vâng hành. Tấn Vương Thọ Bồ-tát giới Sớ.

Sử trì tiết thương trụ Quốc Thái Ủy Công Dương Châu Tổng Quảng Chư Quân Sư Dương Châu thích lại Phổ Hương. Đệ tử Dương Quảng cúi đầu đảnh lễ chư Phật ba đời bổn Sư Thích-ca Như Lai nên giáng xuống cõi này, bổ xứ Di-lặc, tất cả tôn kính vô lượng Pháp bảo, Sơ tâm trở lên Kim cương, trở xuống Chư Tôn, đại quyền ma-ha-tátđỏa. Bích chi, Duyên giác, Độc giác minh ngộ, hai mươi bảy Hiền Thánh thà tâm đạo nhãn, cho đến ba cõi tối đỉnh, hai mươi tám Phạm Vương, thiên tử đế thích, thiên chủ, sáu tầng trời cõi Dục, bốn vị vua trời, trời tiên rồng thần bay lên, hiện ẩn, giữ gìn thế giới làm lợi ích lớn, giữ pháp, vệ pháp, phòng thân hô mạng, hộ tịnh giới có vô lượng thiên thần điều nguyện trong khoảng một niệm nương oai thần Phật đều hội họp ở đạo tràng, chứng minh đệ tử thệ nguyện, nhiếp thọ công đức của đệ tử vì thức ám mà sinh khởi, tức là tánh Như Lai. Vô minh đọa xuống vốn chưa có ảnh. Lý số quy về, vật cùng cực thì trái ngược. Muốn hiển quả tương lai thì phải tích chứa nhân hiện tại. Là Điều ngự Thế hùng đầy đủ vượt qua sinh tử, cỏ cây làm thẻ không thể đếm xuể, hằng sa tập khởi vững chắc khó nghĩ bàn, nhiễm sâu trần lao mới có thể chán lìa, Pháp Vương khải vận vốn hóa Bồ-tát thì như mặt trời mọc trước hết chiếu lên núi cao, tùy theo căn cơ, nghi quyền làm phương tiện. Như các dòng kia đều chảy về biển lớn. Đệ tử gắng chứa nhóm điều lành để sinh vào hoàng gia, được sự dạy dỗ của gia đình, làm phước bỗng chốc chuông diệu cơ ngộ, thẹn núi cao lại đường nhỏ, ưa thích dạo nơi Đại thừa, cười nghỉ ngơi nơi hoá thành, thệ làm chiếc thuyền qua bờ kia. Nhưng bậc khai sĩ muôn hạnh giới thiện làm đầu, Bồ-tát thọ mười điều lành chuyên trì là trên hết, bảo xây dựng cung thất chắc chắn phải có nền móng, nếu không làm nền thì không thể thành lập được, phí công vô ích. Gượng lại nghe điều đó. Môn Khổng Lão thích điều là người được un đúc, nếu không có khuôn phép oai nghi thì ai sẽ kính ngưỡng, thật là Thích-ca Năng Nhân vốn là Hòa thượng, Văn-thù-sư-lợi vốn làm Xà-lê mà nhất định phải nương vào thầy người mà hiển lời truyền trao của bậc Thánh, từ gần đến xa cảm mà thông. Tát-đà-ba-luân đục tủy xương mà không kiệt sức, đồng tử Thiện Tài quên thân nơi pháp giới, Kinh có văn rõ ràng, dám nhớ nói, tin sâu lời Phật, vâng theo lời Phật dạy. Thiền sư Thiên Thai Trí Khải nghĩ là bậc tài giỏi trong Phật pháp, đồng chân xuất gia. (1087) giới châu tròn sạch, tuổi trẻ mà nước định lắng trong, nhân định mà phát tuệ, biện tài vô ngại, trước người, khiêm cung bậc trên, tiếng tăm vang khắp, mọi người đều biết. Đệ tử sở dĩ thành tâm kính cẩn, thường sợ duyên sai; gặp các lưu nạn, cũng đã đến đường dứt tâm hoát nhiên, và vạch đám mây mù, chỉ tiêu trừ phiền não. Kính cẩn nay ngày 23 tháng 11 niên hiệu Khai Hoàng năm thứ 11 Tổng Quản Kim Thành thiết đãi một ngàn vị Tăng dùng cơm đạm bạc, kính lễ Thiền sư trao giới Bồ-tát. Giới gọi là hiếu, cũng gọi là chế chỉ, phương tiện trí độ quay về phụng thờ ngôi vua. Lấy phước cao quý này phụng thờ Hoàng hậu chí tôn, làm đại trang nghiêm, đồng với lòng từ của Đức Như Lai, lòng yêu thương của chư Phật đều xem bốn loài sinh như con một. Đệ tử ngày nay gieo nghiệp La-hầu (gieo nhân lành), đời đời kiếp kiếp lại sinh vào nhà Phật, như tám người con Vương tử vào thời Đức Phật nhật Nguyệt Đăng Minh, như mười sáu vị Sa-di của Đức Phật Đại Thông Trí Thắng, quyến thuộc nhân duyên pháp thành bạn lữ, đều ra khỏi dòng hữu lậu đến đất vô tri. Bình quân sáu độ, điềm hòa bốn đẳng, chúng sinh vô tận, độ thoát khôn cùng, kết tăng-na ở thỉ tâm, dùng đại bi để cứu chỗ nạn, xa hơn nữa là như pháp giới, rốt ráo như hư không, thành tựu đầy đủ, đều mãn biển nguyện Dương Quảng kính lễ.

Thiền sư Sơn Lãng ở Tả Khê thuộc Vụ Châu với Đại Sư Vĩnh Gia ở núi. Từ lúc đến Linh Khê tâm ý khoan khoái, đỉnh núi cao thấp chống tích trượng du phương; thất đá, khám đá lau chùi an toạ, thông xanh nước biếc trăng sáng tự sinh, vượn hú ngâm dài xa gần đều nghe, đầu bừa làm gối cỏ khô làm nệm; trên đời cạnh tranh nhân ngã. Tâm địa chưa đạt mới ra như thế, còn có tấc bóng nguyện dũ lòng hỏi nhau.

Thư Vĩnh Gia Đáp: từ khi biết nhau đến nay đã mấy năm rồi, khi tâm xa mà muốn gần lại thành nhọc, bỗng nhiên nhận được thư gởi đến thật không lo nghĩ; không tín sau này đạo thể như thế nào, pháp vị giúp thần nên vui thanh tịnh, thô được kịp thời khâm phục âm đức, không nói có thể thuật, thừa tiết tháo ở một mình nơi u thâm, mất tích nhân gian ẩn hình khe núi, cắt đứt thân bằng đến nơi chỗ chim thú dạo chơi, suốt đêm miên miên, trọn ngày vắng lặng, thấy nghe đều dứt, tâm lụy rỗng rang, ở một mình nơi núi vắng, ngồi dưới gốc cây, dứt hết ràng buộc, đạo thành hợp như. Nhưng mà chánh đạo vắng lặng, tuy có tu mà khó hội; bọn tà quấy nhiễu, không quen mà dễ thân, nếu không biết khế hợp Tông huyền, thực hành hợp với đường chân, thì chưa thể câu thúc ở nơi u thâm, tự cho là một đời hay sao? Nên phải hỏi khắp bậc tiên tri, cúi mình thành khẩn, khoanh tay co gối, sửa ý nghiêm thân, ngày đêm quên mất, từ đầu đến cuối kính thành khát ngưỡng, chiết phục thân miệng, kiêu căng đãi mạn không quay lại nhìn hình hài, chuyên tinh chí đạo có thể gọi là lắng thần lực tấc vuông hay sao? Hễ muốn tìm diệu tìm huyền, thật không dễ dàng, quyết chọn thứ lớp lướt nhẹ trên nước, chắc chắn phải nghiêm tai mắt mà vâng theo huyền âm; nghiêm ngặt tình trần mà thưởng thức cái u huyền, quên lời, lặng yếu chỉ, rửa lụy ăn huyền, chiếu sợ ráng theo không lạm một sợi tóc. Như thế mới có thể ẩn hình nơi khe núi, vắng lặng hết các lụy.

Hoặc lối tâm chưa thông, nhìn vật thành vướng mắc, mà muốn tránh ồn náo, cầu tìm tĩnh lặng, trọn đời chưa có phương hướng, huống chi là rừng sâu thăm thẳm, núi cao vòi vọi, chim thú kêu la, tùng trúc um tùm, suối đá chanh vanh, gió heo hút thổi, bụi cây quấn quýt, mây mù quyện nhau, tiết vật suy vinh, sáng tối qua nhanh. Những thứ ấy há chẳng phải là huyên tạp ư? Nên biết kiến hoặc còn vương, chạm việc không giải quyết được. Cho nên trước phải học đạo, sau đó mới ở núi. Nếu chưa biết đạo mà ở núi trước thì chỉ thấy núi mà quên đạo. Nếu chưa ở núi mà biết đạo trước thì chỉ thấy đạo mà quên núi. Quên núi thì tánh đạo tinh thần vui vẻ, quên đạo thì hình núi làm hoa mắt. Bởi vậy, thấy đạo quên núi, thì nhân gian cũng vắng lặng, người thấy núi quên đạo thì trong núi cũng là chỗ huyên náo. Nhất định có thể hiểu rõ ấm vô ngã, vô ngã thì ai là người trụ ở nhân gian. Nếu biết ấm nhập như hư không, hư không nhóm lại thì khác gì hang núi. Như ba độc ấy chưa dứt, sáu trần còn vướng, thân tâm tự mâu thuẫn nhau, đâu có liên quan đến huyên náo vắng lặng của người vào núi.

Tánh đạo rỗng rang, muôn vật vốn không lụy, chân từ bình đẳng, sắc thanh đâu có gì chẳng phải là Đạo?

Chỉ nhân cái thấy mà điên đảo mê hoặc sinh khởi, trở thành trôi lăn trong ba cõi. Nếu hiểu rõ cảnh không thật có, gặp việc gì cũng đều là đạo tràng. Rõ biết vốn không cho nên không duyên mà chiếu, viên dung pháp giới mê hoặc đâu khác, vì hàm linh mà phân biệt bi cảm, tức tưởng niệm mà rõ trí, trí sinh thì pháp phải viên chiếu. Lìa cảnh làm sao mà quán bi. Bi trí lý hợp thông, trái với lý sinh lấy gì để độ. Độ hết chúng sinh mà lòng bi lớn lao, chiếu cùng cảnh, dùng trí viên. Trí viên thì im lặng ồn náo đồng quán. Lòng bi lớn thì oán thân đều cứu. Như thế thì đâu nhờ vào ở lâu trong núi hang, tùy chỗ mặc duyên ư. Huống chi là pháp pháp viên dung, tâm tâm vắng lặng, vốn tự chẳng thật có thì ai gượng nói không, đâu ồn náo có thể ồn náo. Vắng lặng nào cũng có thể vắng lặng. Nếu biết vật ngã đều là một, tất cả đều là đạo tràng, thì đâu có theo ồn náo ở nhân gian, sống vắng lặng nơi núi hang. Bởi thế bỏ động, cầu tịch là ghét cùm mà ưa xích. Lìa oán cầu thân là chán cái chuồng mà thích cái lồng. Nếu thích vắng lặng ở nơi ồn náo thì chợ búa đều là chỗ an toạ. Thành ra trái với thu nhận, thuận với oán trách, là do bạn lành. Như thế thì cướp đoạt, hủy nhục đâu từng chẳng phải Bổn sư ta, kêu la ồn náo đều là vắng lặng. Nên biết, đạo nhiệm mầu vô hình, muôn tượng không trái với gốc ấy, chân như tịch diệt, các tiếng vang không khác nguồn ấy. Mê thì kiến đảo mê hoặc sinh khởi, ngộ thì nghịch thuận không khác. Xét kỹ thì vắng lặng chẳng thật có, do duyên hội họp mà sinh ra. Núi cao chẳng thể không hoại, duyên tán thì sẽ diệt. Diệt đã chẳng phải diệt thì lấy gì diệt diệt, sinh đã không sinh lấy gì sinh ra sinh. Sinh diệt đã dối, tướng thật thường trụ. Bởi thế nước định cuồn cuộn, đâu có niệm trần mà không rửa. Đèn trí rõ ràng đâu có mây mê hoặc mà không trừ. Trái thì sáu đường tuần hoàn. Hội thì ba đường quay ra. Như thế thì đâu không trái với thuyền tuệ mà dạo trong biển pháp, muốn ngồi xe trục lại gãy trong hang núi ư? Nên biết vật loại lộn xộn mà tánh nó là một. Nguồn linh vắng lặng, không chiếu mà biết, thật tướng thiên chân trí linh chẳng tạo. Người mê gọi là mất, người ngộ gọi là được. Được mất ở người, đâu liên quan đến động tĩnh, thí như người chưa biết chèo thuyền mà muốn oán nước quanh co ư? Nếu khéo biết huyền Tông, hư tâm khế hợp, động tĩnh thường nhiên, nói lặng hằng theo khuôn phép. Vắng lặng có chỗ trở về, điềm nhiên không xen hở. Như thế thì mới có thể ngao du hang núi, thong dong nơi đồng nội, yên vui nơi uy nghi, vắng lặng đến tim gan. Điềm đạm dứt bên trong, tản mát khởi bên ngoài. Thân này dường như câu nệ, tâm này dường như thư thái, hiện hình dung nơi trời đất, ẩn u linh nơi pháp giới. Như thế thì ứng cỏ có cảm, đương nhiên không chuẩn định, nhân tin lược đều này ngoài ra thì do đâu. Nếu chẳng phải đồng chí hướng thì đâu dám khinh xúc. An tịnh lúc nhàn tạm suy nghĩ, tôi hẳn nói cuồng không đúng, xem xong nên đốt, không tuyên nói. Đồng là bạn Huyền Giác kính lễ. (1088)

Văn sám hối của Pháp sư Thiên Thai Viên: Tôi nghĩ rằng từ vô thỉ kiếp đến nay, mất đi tánh tròn sáng theo trần lao, ra sống vào chết chịu luân hồi, thay hình đổi dạng gặp nhiều khổ sở. Kiếp trước ít làm việc lành, sinh lên làm người, được gặp chánh pháp còn sót lại mà xuất gia, mặc áo nhuộm, cạo tóc làm sa-môn, hủy giới phá trai nhiều tội lỗi, hoại sinh hại vật không một niệm từ, ăn thịt cá để cấp dưỡng cho tấm thân ô uế này, tài sản thức ăn của mọi người tha hồ xâm đoạt, tự duyên của Tam bảo thường dùng lẫn lộn, tà mạng ác cầu không thỏa mãn, ham dâm, thích rượu càng hoang đãng mê muội. Khinh Phật chê Tăng, phỉ báng Đại thừa, trái nghĩa cô thân, hủy báng sư trưởng, văn trau chuốt quá đáng để phô dương đức của mình, vui mừng khi thấy người bị tai hoạ, che lấp tài năng của người, hư cuống (dối) khinh chê để cạnh tranh danh lợi. Đấu tranh phải quấy, tranh nhân ngã, niệm ác nghĩ tà không tạm dứt. Trạo cử tán loạn chẳng hề dừng, phan theo nhân sự càng tinh chuyên, trì tụng kinh Phật chỉ khốn khổ. Ngoài hiện oai nghi thêm dối trá, trong khởi ngã mạn lại sơ cuồng, lười biếng nhác tu tùy ý ngũ keo kiệt, ganh ghét tham lam không hổ thẹn, ruộng hoang gốc uế làm sao dùng, biển lớn xác nổi không ngừng lâu, đã không có một điều lành làm lư lương cho bản thân, chắc chắn đọa ba đường, chịu các khổ, kính mong Bổn Sư Vô Lượng Thọ, Quán Âm Thế Chí Thánh hiền Tăng, đồng dùng oai quang khắp chiếu soi, cùng thầm gia hộ để cứu khổ, vô thỉ đến nay tạo tội chướng, các tội lỗi sáu căn ba nghiệp một niệm tròn sáng tội tánh không, đồng với pháp giới đều thanh tịnh.

Văn phát nguyện:

Con nguyện trọn đời không có niệm khác, Phật A-di-đà chỉ theo Ngài, tâm tâm thường niệm ánh ngọc sáng, niệm niệm không rời sắc tướng vàng. Nếu con còn ăn thịt chúng sinh, uống rượu hành dâm gây lỗi lầm, hiện đời đọa vào ngục a-tỳ, muôn kiếp đồng sôi nuốt sắt nóng, con nguyện qua đời không bệnh khổ, biết trước giờ giấc không hôn mê, gốc lành tuệ niệm thêm sáng suốt, nợ nghiệp ma oán đều vắng lặng, hương thơm nhạc trời khắp hư không, điện báu đài vàng nghĩ liền hiện, đích thân thấy Phật vô lượng Quang, tất cả Thánh hiền đồng tiếp dẫn, trong sát-na đã về Cực lạc, liền nghe pháp mầu ngộ Vô sinh, dạo chơi trong vô biên cõi Phật, cúng dường thờ phụng Phật thọ ký, phân thân đều khắp Hằng sa cõi, trải qua trần kiếp độ chúng sinh, thệ vào trong ta-bà năm trược, độ khắp quần mê thành Chánh giác, nhiếp chúng sinh hết hư không tận, nguyện con còn mãi không động lay, cho đến đời này và vị lai, niệm niệm viên tu không xen hở, dùng ba nghiệp tu làm điều lành, thì khắp hư không cùng pháp giới, bốn ân ba cõi, các oán thân, đồng thoát vòng khổ sinh tịnh độ. Văn Đại Sư Kinh Khê tụng kinh hồi hướng rộng khắp.

Một câu nhuộm tâm thần đều giúp đến bờ kia, nghĩ suy tu tập thường dùng thuyền bè, tùy hỷ thấy nghe thường làm chủ bạn. Hoặc lấy, hoặc bỏ qua tai thành duyên, hoặc thuận hoặc nghịch nhờ đây giải thoát, nguyện ngày giải thoát y báo và chánh báo thường giảng nói kinh mầu nhiệm, một cõi một bụi đều lợi vật. Chỉ nguyện chư Phật huân xông che chở, thầm nhờ oai linh của tất cả Bồ-tát, khắp nơi chưa nói đều khuyến thỉnh, nơi nào chưa nói đích thân thờ phụng cúng dường, một câu một kệ tăng tiến Bồ-đề, một sắc một hương không bao giờ lui sụt.

Thiền sư Ba Tiêu Tuyền dạy chúng. Người của mây nước không tạm dừng, hỏi anh chìm đắm thật khổ do đâu, quê người tôi anh đều là khách, vô sự liên can lại rút đầu, đi và đứng, ngồi và nằm hai mảnh da môi dù lay động, phải phải quấy quấy ai không có, cũng cần phải xem xét nhà mình. Người xuất gia đắm vào sự tiện nghị, ca-sa không phải đợi nhàn khoác, ruộng nương không cày, người thân không cúng dường, không tu đạo nghiệp biết làm sao, không hổ thẹn ông già Diêm-la, y cứ vào đó mà gây nhân, lại y cứ đó mà gặt quả, trong nhà Niết-bàn gọi a phủ, muốn đi không được đi, muốn ngồi không được ngồi, chính ngay lúc ấy, là anh hay là ta.

Mười điều khả hành, mười bài tụng và lời tựa của Thiền sư Long Môn Phật Nhãn.

Kinh Hoa Nghiêm dùng mười pháp giới nhiếp chung nhiều môn, chỉ bày lý vô tận. Thiền môn có mười Huyền Đàm, để làm sáng tỏ đạo. Đổng Sơn có mười Bất quy để nói lên siêu chứng. Sơn Tăng có mười điều khả hành để chỉ dạy kẻ hậu sinh, ngõ hầu giúp cho đường đạo. Giống như cỏ mọc trong gai không đỡ mà thẳng. Lại như người dính hương cũng có mùi thơm, có chút lợi ích viết ở sau.

An toạ:

Lý thanh hư rốt ráo chẳng thân.
Một niệm về gốc, muôn pháp bình.
Vật ngã bỗng quên toàn thể bày.
Nơi đây thật không nhớ công trình.

Nhập thất:

Hỏi đạo đến Sư ấn tự tâm.
Vào cửa mục đích hỏi tri âm.
Đời nay không qua đường Tào khê.
Đến già lấy gì vượt xưa nay.

Rộng khắp:

Lấy củi lựa sau sư tiên tượng
Tiến nghiệp tu thân thấy người xưa.
Đến các Thiền sư phải cẩn thận
Long môn pháp này là bến thông.

Cháo cơm:

Ba hồi bảng đánh, dứt sinh tử
Mười câu Phật xướng thông xưa nay.
Khai đơn mở bát tự rõ lấy.
Không thể thô tâm mờ khổ không.

Quét đất:

Đất đai sinh bụi, phải quét sạch.
Phòng hiên rưới nước cùng an cư
Đốt hương quét đất không việc khác.
Ánh sáng chiếu soi, tỏ trí châu.

Giặt y:

Xuống sông giặt giũ chớ biếng lười
Vào chúng y xiêm bẩn không đúng,
Trên dưới bên vai xông ướp lâu
Thân tâm động niệm chịu tiêu tan.

Kinh hành:

Trên đá giữa rừng đường chim bằng
Trai dư vô sự lược kinh hành
Trở về thử hỏi bạn đồng tâm
Ngày nay biết phải làm thế nào.

Tụng kinh:

Đêm yên tĩnh một mình kinh kệ
Ý không phiền não, ma ngủ tỉnh
Tuy rằng thất tối không người thấy
Tự có trời rồng lắng tai nghe.

Lễ bái:

Lễ Phật là trừ nhơ kiêu mạn
Nhờ đó thân nghiệp được mát mẻ.
Huyền sa có lời rất quy kính
Ông chẳng phải người lý sự suông.

Nói chuyện:

Gặp nhau nói chuyện chớ vu vơ
Nói to lớn tiếng gọi thượng lưu
Hạ lời nếu tận cùng gốc ngọn
Chịu đem vô nghĩa kết bạn bè.

Chỉ bày tâm yếu cho thiền nhân.

Thời gần đây dùng hỏi đáp làm gia thiền gia phong không rõ việc người xưa, một bề theo ngọn không tỉnh lại, thật đáng lấy làm lạ. Người xưa nhân mê mà hỏi lý do, hỏi chỗ cầu chứng nhập, được một nói nửa câu. Cho là việc rốt ráo rõ ràng khiến thấu suốt, không giống như người đời nay loạn hỏi theo miệng đáp:

Thủ Tiếu Đạt giả.

Hỏi thật hỏi. Thời nay, lời hỏi phần nhiều vời lấy sự chê bai. Bởi duyên không biết, thưa hỏi điều nghi ý thưa hỏi đời sau nối tiếp. Phần nhiều chúc tán lời thuận thời, chẳng phải kiến lập trong tông thừa như người xưa hỏi, nếu được ra khỏi ba cõi, lại hỏi thanh sắc làm sao thấu đạt. Lại hỏi lúc này tông thừa Hòa thượng làm sao bàn luận, đều là xuất chúng đương tràng quyết chọn.

(1089) Gần đây, huynh đệ tiến lên mười chuyển năm chuyển, chìm vào lời cơ phong. Hoặc phụng sự tại tòa quan viên, hoặc trang nghiêm tu sửa đàn tín, đều chẳng phải là khí vị của nhà nạp tăng, thoái lui ra khỏi chúng bèn nói mấy câu. Có khi nói: Tôi không biết nói gì.

Lại nói: Sao Hòa thượng không nói, v.v...

Phàm người hỏi kích phát thiền cơ; không phải hỏi hai, ba chuyển mà thôi. Tốt nhất là làm cho người sinh lòng tin, không đến mỗi lưu đãng bị tục chê cười.

Thiền sư Thân Chiến Chân đời Đại Tùy Thượng đường: Sư nói: Lão tăng đến đây chẳng phải vì danh lợi, cần phải được cái ấy, không thể trong núi xanh mây trắng đuổi theo phải quấy.

Đời tương lai khi xả báo thân này, cỏ cũng không ăn, bao nhiêu sư tử lông vàng gặp may làm con lừa kêu ngựa hý. Mọi người giống như khi lão tăng hành cước, đến các Thiền sư nhiều là một ngàn, ít là bảy trăm, năm trăm chúng. Hoặc ở trong đây qua đông qua hạ, khi chưa tỉnh thường không lỗi, đến hội Quy Sơn nấu cơm bảy năm, trong hội Đổng Sơn gánh củi ba năm. Ở nhiều thì đi trước, chỉ là liễu rõ thường xuyên chính mình, liên can việc gì đến người. Như chư Phật, Bồ-tát đều siêng năng khổ nhọc, trong vô số kiếp bỏ ngôi vị quý báu Kim Luân Vương và đầu mắt tủy não cho chúng sinh. Cần đến quốc thành, vợ con cũng không tính kể, cho nên mới thành Phật, như các Xà-lê từng bỏ được cái gì? Làm được việc siêng năng khổ nhọc gì, mà nói ta lãnh hội pháp xuất thế gian. Pháp thế gian còn không lãnh hội, một chút cảnh giới hiện tiền bèn tự nhướng mày trừng mắt, tiêu dùng không được nói pháp giải thoát nào. Ngồi mãi trên giường không lay mười ngón tay, ăn của tín thí rồi, nhắm mắt ngậm miệng, bèn nói ta tu hành tu đạo cảm quả, như thế phải tiêu được, chỉ là khinh mạn tự mình. Như Hòa thượng Bách Trượng ở nơi giảng đường chỉ cần người biện sự, các Xà-lê biện được việc gì? Trong đó có người không động thân tay, ngày tiêu được một vạn lượng vàng ròng. Nếu là người tiêu được thì há có kiến giải như thế. Không thể từ trong bụng mẹ đến như thế, chỉ lãnh hội được pháp thế gian, mà gọi là pháp xuất thế gian. Pháp thế gian còn chưa lãnh hội huống chi phật pháp. Chỉ như Đại tạng giáo đều là điều bí mật từ miệng vàng của Như Lai giảng nói. Trong miệng ông nghĩ tương lai đều thành lời ma, đâu được liễu, vì sao không liễu. Nếu khi liễu rõ Đạtma không từ Tây Trúc đến, chỉ như khi Đạt-ma chưa đến đất này, thì có Phật Pháp không? Lại tranh được đạo không? Thí như người có viên ngọc quý bị rơi xuống bùn, nhọc nhằn nhiều kiếp tìm kiếm không được, hoặc có người khéo biết của báu, đưa tay thẳng xuống bùn lấy ra của báu này, để chỉ bảo cho người mất vật báu nhìn thấy liền biết vật của mình, liễu rõ không có được mất. Đạtma từ Tây Trúc đến cũng như thế, không thể chỉ là lão tăng hay là thiện tri thức. Chúng sinh khắp nơi đều là thiện tri thức, chỉ vì thấy biết chưa tỏ, không thể nói y không tỏ. Nếu khi nói có mọi người chịu lễ bái bọn ngu xuẩn thì có thành Phật không?

Thí như viên ngọc sáng rớt trong bùn, chưa gặp người ấy thì đâu có lúc lấy lên được. Có chúng sinh này so sánh với vô tình còn đồng với ngoan vật, (vật ngu), đã ở dưới ba y, cần phải gần gũi tri thức. Sớm đã bao đời đến nay mới được. Như thế không thể lại vào sáu đường luân hồi. Nếu là người được tự tại thì luận bàn cái gì. Vạc dầu lò lửa, núi đao cây Kiếm, bốn sinh sáu đường ở trong đó như ăn cơm ngon. Nếu chưa được như thế thì thật chịu báo này. Một khi mất thân người, lại tìm muốn như ngày nay thì muôn người không có một. Chưa được cho là được, chưa chứng cho là chứng, chưa nghe cho là nghe, tự mạn, tự cuồng, để thời gian trôi qua vô ích, xoay vần chỉ là gánh nặng vô minh. Vừa có thể làm thế tục tùy việc mặc cho xoay chuyển, thời giờ luống qua lại là vô nghiệp, như nay làm sa-môn mỗi ngày đều có nghiệp. Có nghiệp gì? Lối đi, là đất của vua, đồ mặc là y của tín thí, ăn thì cơm của đàn-việt, xương thịt là thể của cha mẹ. Nếu không hiểu rõ thì làm sao báo đáp. Cho nên nói có nghiệp chỉ như lão tăng không thể là người liễu rõ. Xả bỏ báo thân này theo nghiệp mà trôi lăn, ai nói nhất định được. Trừ Phật và Phật mới biết được. Bấy giờ, có vị tăng hỏi: không nhờ vào ngôn cú làm sao biết được. Sư nói: nhờ ngôn cú mà còn không biết. Vị tăng không nói, lễ bái.

THƯỢNG ĐƯỜNG

Sa-môn Thích tử thấy có cũng như không mới được hướng về tất cả thời, đồng với phàm Thánh hay đồng với giải thoát. Mới có chút ít xuất xứ, nếu không như thế thì rất khó, rất khó trân trọng.

Hòa Thượng Vân Phong Duyệt ở trong thất nêu lời người xưa.

Nếu lời người xưa nói: Cạo tóc đắp cà-sa là thích ứng thực hành của Thánh đạo. Còn việc nhàn tạp đều là nhân sinh tử. Sư nói:

Mọi người các ông vác ngang cây gậy, vạch cỏ tìm gió, hành cước khắp thiên hạ. Hãy nói: có vị tăng nào đi trên đất ruộng hay không?

Vị tăng không đáp. Sư nói kẻ sống say chết mộng. Thiền sư Bảo Minh Dũng ở Kim Lăng dạy chúng: áo trên thân không dễ khoác, cơm trong bát chớ đợi nhàn ăn. Đợi nhàn ăn, thường khó tiêu một giọt nước; dễ khoác, rốt ráo xuất gia là chỗ nào, thẳng tâm thực hành giềng mối, một hạt tròn sáng không trong ngoài, chớ học tầm thường dòng nhỏ nhen. Bình sinh qua loa môi lưỡi khoa trương, mặc tham sân si không hổ thẹn, thiện ác rõ ràng khó tránh né, ba đường sáu nẻo mênh mang, cũng chính là quay đầu tự nhìn.

Hạnh khát nóng của người xưa.

Mặt trời giận dữ sáng rực như bay, lửa mây phát hoạ vùn vụt như bay, sông hồ đua nhau nung nấu, cỏ cây nửa úa vàng, vàng ròng chảy tan đá lớn, hổ dữ thở gấp giao lông ủ rũ, cửa có cỏ tranh nhà không mảnh ngói. Ngủ không màn khóc có nhiều con, làm cỏ không nhọc, múc nước quên một; mặt mày bôi sơn đen, lưng vai nứt da rùa, hỏi ông họ Thích, phải xem kỹ. Không cày có cơm ăn, không dệt có áo mặc, nhà cơ tranh thất trống không, tắm có dòng mát ao quanh co, trướng rũ màn che ngọc lưu ly, nhàn tìm suối đá tự do đi ngồi, tĩnh đối gió trăng tự ca tự vui, quay đầu nhìn lại việc nhân gian, uống nước phải biết lúc đáng độ, không còn thì hận chú gió, thôi chớ buồn sư mưa.

Lời tựa Thiền sư Giác Phạm Hồng tiễn vị Tăng đi khất thực. Lục Tổ Tào Khê mới đấu làm Cư sĩ theo đến Huỳnh Mai, ban đêm giã gạo lấy đá đeo hông, chúng Ngưu hầu thiếu lương thực, dung xin ở Đan Dương, tự gánh tám đấu gạo, đi tám mươi dặm, sáng đi chiều về, người cho là chuyện thường, ra sức bửa củi, Bách Trượng Niết-bàn khai ruộng nói nghĩa, đá đeo lưng còn ở núi đông, rìu bửa củi còn ở Nghiệp Trấn, phía Tây Giang Lăng có kẻ gánh gạo, dưới bánh xe có đá đại nghĩa. Nạp tử thường cho là đi chơi xem xét, không thể lừa dối. Đời xa đạo mất mà kẻ vọng thường khất thực trời hàn. Vào trong pháp ta, biết điều đó còn không đáng giúp, muốn cho có thể gánh đại pháp, mới gắn hoa mặc áo, cho sặc sỡ. Ông ta đem giã gạo ư: lụa là áo gấm hợp với tay áo nhỏ. Ông ta có thể bửa củi ư? Leo núi chín trượng, mồ hôi đẫm ướt không chịu ra xe. Ông ta có thể gánh gạo ư? Mới viết nơi cánh cửa lớn rằng: chùa này nay chỉ cho ở tạm. Ông ta chịu khai ruộng nói nghĩa ư? Ta từng đau lòng vỗ ngực mà than, nhiều lần hoằng pháp đưa đến hoạ cuối cùng bị người phế bỏ, may còn sống chạy trốn vào hang núi, mà nạp tử còn cho là từng gần gũi kính thờ Vân Am cho nên chạy theo. Ta vốn vô nghĩa, chống cự không thể được nên nhập thất ngồi yên. Có người gõ cửa: pháp thí của Vân Âm như trí giác, thương chúng như Tuyết Phong, ra khỏi cửa đều không như vậy. Đạo chưa đạt mà muốn người tôn quý, danh chưa rạng mà sợ người cướp đoạt. Nhìn xuống thiền giả như kẻ thù trăm đời, thao sự quyền quý như người thân nhiều kiếp. Sư đều gọi đẫm đạp lên ô uế này mà đi, chỉ mong móng vuốt của Vân Am. Bấy giờ, bỗng nhiên đứng dậy nói: thế thì không ăn sao được, nói phải theo tịnh đàn khất thực, cũng là phép tắc để lại của Như Lai Đại Sư, thầy tôi chịu ra thì Thứ sử tòng lâm điển hình Vân Am vẫn còn. Ta mừng rỡ nói. Nhân trình bày việc người xưa để bày tỏ ý này, phải có người khen ngợi.

Làm tăng mà không dự mười khoa, tín đồ thờ Phật tiêu mòn trăm năm.

Dịch kinh

Biến Phạm thành Hoa thông phàm nhập Thánh, pháp luân được xoay, chư Phật làm thầy.

Hiểu nghĩa

Tìm văn thấy nghĩa, được ý quên lời, ba tuệ được toàn, hai y thường chuyển.

Học thiền

Tu đến vô niệm, thiện ác đều mất, mất luôn cái mất, thường trú an vui. Rõ luật nghiêm mà thiếu ân, chánh mà cấp hộ, giữ gìn ba nghiệp, đồng kim thang kia.

Hộ pháp:

Nhà có quan giỏi, cất giữ lo gì. Pháp có minh sư, ngoài ngăn khinh lờn.

Cảm thông:

Nghịch với lý thường, cảm mà lại thông, cảm hóa thế gian, thật khó suy lường.

Bỏ thân:

Khó bỏ dễ bỏ, bậc nhất trong thí. Dùng thân uế trược, về thân Kim Cương.

Đọc tụng:

Mười loại Pháp sư, đây là cao lớn, thù cẩn leo hoa, quả thời bông đỏ. Hưng phước: Vì mình vì người, phước sinh tội diệt. Việc lành hữu vi, lợi ích rộng lớn.

Tạp khoa:

Nhiếp hết các khoa, về chỗ cao thượng, bậc xướng đạo giỏi, sáng chói Phật thừa.

Thiền sư Hoặc Am Thể thượng đường.

Hành lý nạp tăng đâu tầm thường, mở hợp thổi lông chẳng ẩn tàng, lấy cơm theo cày toàn chánh lệnh, đông Tây không còn quỷ phân tán. Dạy chúng: Tối rải ngọc trong thành ngói gạch, rảnh bày chim độc hóa đề hồ. Oán lấy ân báo diệt giống hồ, giương mắt không thấy chân trượng phu. Đặt chân cô ngụy cỏ không mọc, bổng ghé chỗ đậu đợi nhàn đi, gió đến cần khổ miệng nhai không, đoạn dứt cảnh nhà vào hầm lửa. Dứt học vô bi ám gọi thông, trước trời sau đất sống hư không, ngang dọc rơi rớt ý tổ sư, đâu được toàn nhà không chấm ngực, đánh đạp mẹ xương thịt nát tan, lồi cả ống xương không hổ thẹn. Hồ đến hán thấy không khó dễ, việc lớn dạy ai người gánh vác, sống hung hăng riêng biệt thôn xóm, phẩm tháo tiên hiền để hậu côn, lung lay cô phong đâu được giết, đầu gậy có mắt bởi trời đất. Thế giới thanh bình bãi đao binh, tiếc vì bọn trẻ bừa bãi làm sao, đầu sông nước xiết ném câu, cá tôm không dính uổng công vây lưới. Nam nhi chân đạp thấu Trường an, khoác y tự đắc chịu tự mạn, ba tấc lạnh ánh sáng trăng đêm, một dòng nước thu đến lạnh người.

Lừa mù trồng cỏ không mất nhờ, lớp của gác xưa dễ dàng qua, biển hồ yên lắng một mình bước, trở về tấc đao cá kình dài. Phân thân xả mạng bàn oán thù, máu nóng chúc nhau chịu liền thôi, trái lại nhà lớn không tấc đất, đi hai tay không đầu thấm mưa.

Toàn đề đại dụng chim sa lưới, bặt chiếu quên cơ rùa thua kế, đi vào cửa này đều chẳng phải, làm sao lên xuống lão hồ Tanh. Chính mình nhật dụng lệ toàn chân, tuyển chọn mây đưa cùng thần hang, chắp tay cúi đầu, khoanh tay ở, nói thô nói tế với đương nhân. Lìa tướng lìa danh không thật pháp, phi tâm phi Phật ai lại ngờ, rõ biết rốt ráo khó gửi gắm, không biết hòa tiếng tiễn ra đi. Chi Lãng vào làm sắn bìm nhiều, định kéo cổ họng không sao được, chuyển được thân đến thêm thở dồn, đáng thương chim cắt qua Tân-la.

Tiểu tham: Xương đỏ gồng sức gánh mảnh ván, si mê bệnh nặng chống hai mắt, bỗng sinh làm chỗ khó gọi tên, Phật Tổ đương đầu nghe chỉ huy.

Kết toạ: Nắm tay cũng là đánh cha già, chưa có hơn thua chẳng buông ra, đánh đập túi bụi Tánh mạng cùng, miệng nhai mũi thở thấy cả thôn.

Bài tụng của Thiền sư Chân Tịnh văn: Cạo tóc vì sợ tuyết đầy dao, mới biết năm tháng chẳng khác nhau, trốn sinh thoát tử siêng thành Phật; chớ đợi sáng mai và sáng mốt;

Bài tụng của Luật Sư Linh Chi Chiếu: Nghe giáo tham thiền chạy tìm ngoài, chưa từng quay đầu để trầm ngâm, ánh mắt muốn rơi trước đường tối, mới biết bình thường dụng tâm sai.

Lời Khuyên răn của người xưa, trong địa ngục chưa phải là khổ, dưới cà sa khổ mà không nghe, sinh tử việc lớn có biết không, chớ đến núi xanh nằm mây trắng. Khuyên xem kinh: Đàn na quyển kinh sớm nên xem, thi lợi chớ nghĩ ta bất an.

KHUYÊN ỨNG DUYÊN

Sự nghiệp xuất gia thật hoang đường
Được mất thân tâm con kiến rộn
Kinh trên sách thường chứa thiếu
Nghiệp chướng trước mắt tự thân gánh
Môn đồ thí lợi nước, mang cá
Mua được dầu muối tuyết pha canh
Năm đi năm đến bao giờ hết
Không biết đem gì gặp Diêm Vương.

KHUYÊN TRỤ TRÌ

Than cho Phật pháp thật bi thương
Phật pháp không người làm chủ trương
Đọc văn chưa hiểu đã ngồi giảng
Chưa từng hành cước lại thăng đường
Đem tiền trao viện như chó dại
Ruột rỗng tâm cao tựa dê câm
Xin khuyên hiền sau thôi kế thừa
Thoát địa ngục ra, khỏi đoạn trường.

BÀI TỰ RĂN CỦA HÒA THƯỢNG ĐỖNG SƠN.

Chẳng cầu danh lợi, chẳng cầu vinh
Chỉ cần tùy duyên độ đời này
Ba tấc hơi dứt, ai là chủ
Sau thân trăm năm mạn hư danh
Chỗ y áo rách vá nhiều lớp
Lương thực lúc nào cũng thí đầy
Một tấm thân huyễn được bao lâu,
Làm việc nhàn sự mãi vô minh.

Thiền sư Tuyết Phong Nghĩa Tồn đến đất Mân.

Thời gian bỗng nhiên chỉ giây lát
Phù thế đâu thể được dài lâu.
Xuống núi đã được lăm hai năm
Đến Mân sớm đã hơn bốn tuần
Họ đều sử dụng thường thường nêu.
Đã qua cần phải dần dứt trừ.
Vì báo đạo Chủ tử mãn triều.
Diêm Vương không sợ cá thếp vàng.

Thiền sư Hoằng Trí dạy chúng:

Mộ mới Hao Lý đều ít năm
Tu hành chớ đợi tóc hoa răm
Việc lớn tử sinh phải nên biết
Địa ngục lâu dài há dần dà.
Đạo nghiệp chưa thành đâu ỷ lại
Nếu mất thân người khó được lại
Đường trước đen tối rất nguy hiểm
Trong mười hai thời tự gian dối.

Thức tỉnh vị tăng bị bệnh:

Nhớ lại chuyện cũ thật đáng thương
Nhiều năm ở Niết-bàn đường
Cửa chẳng khách qua, sông chẳng giấy
Lò có tro lạnh, rèm có sương
Bệnh rồi mới biết thân tự khổ
Khi mạnh thường làm những việc riêng
Lão tăng tự có pháp an toàn
Tám khổ nung nấu đều không ngại.

Hòa thượng Đại Tuệ dạy chúng:

Xuất gia lập chí phải siêng năng
Cũng phải thường thường gần người tốt
Dè dặt đừng gần những người ngu.
Lần lựa lại sợ lạc phong trần
Bọn nhơ vô lương luôn luôn thoát
Dòng cao được nghĩa thường gần gũi
Nếu theo lời ta răn dạy này
Dường cột nhà Phật cũng đáng làm

BÀI TỤNG CỦA BÀNG CƯ SĨ

Chỉ tự vô tâm với muôn vật
Ngại gì muôn vật thường vây quanh
Trâu sắt không sợ sư tử hống
Như là người gỗ thấy chim vẽ
Bản thể người gỗ tự vô tình
Chim vẽ gặp người cũng không sợ
Tâm cảnh như như chỉ vật thôi
Lo gì đạo Bồ-đề không thành

BÀI MINH TỰ BẢO VỆ DO VÔ TÁC Ở CÔ TÔ SOẠN

Người cầu danh không dùng đức mà cầu thì gọi là Ác danh. Người cầu lợi không dùng đạo mà cầu gọi là ác lợi. Ác danh là điều bị người trí chê bai, ác lợi là điều sợ cho nghiệp sau này.

“Thượng đức bất đức”: Lão tử răn rằng: bốn tà năm đạo Phật rất cấm kỵ, thà dùng Thật mà mất chớ không dùng đắc mà dối. Kẻ tiểu nhân chạy theo cái danh của ác danh, bậc quân tử giữ được cái lợi của đại lợi. Phước ít tài nhiều, tài thì thành tai ương. Đức mỏng chức lớn, chức mau thành hại. Người xưa chỉ cần tâm đạt, chứ không cần thân đạt, người hiền chớ che giấu, ta hiền chớ khoe khoang. Nếu được như vậy thì mệnh mình hợp với đạo, suốt cuộc đời tự bảo vệ mình.

PHÁP SƯ PHẬT QUANG CHIẾU Ở THƯỢNG TRÚC DẠY TIỂU SƯ CHÁNH NGỘ

Làm người khó, làm thầy người cũng không dễ. Khó là thế nào? Đó là thiên phú, học vấn, kiến thức, khí tượng, không có thiên tư, không có học vấn, không có kiến thức, không có khí tượng, nếu như vậy mà thành người, là việc chưa từng có. Có thiên tư rồi sau mới có học vấn, có học vấn rồi mới có kiến thức, có kiến thức rồi mới có khí tượng. Nếu như vậy cũng chưa thể làm người được, vì sao? Vì thiên tư không cao, học vấn không rộng, kiến thức không rõ, khí tượng không nhã, vẫn chưa thể được. Không cao thì dung túng, không rộng thì trở ngại, không rõ thì tối tăm, không nhã thì quê mùa. Cao mà trí, rộng mà đạt, rõ mà đúng, nhã mà văn, đầy đủ bốn thứ đó thì có thể làm người, nếu muốn làm thầy người khác thì chưa thể được. (Không dễ là sao? Đó là tông chỉ, giáo nghĩa pháp tướng, không được tông chỉ, không thông pháp tướng, không phân biệt giáo nghĩa, thì vẫn không thể được.

Tông chỉ có thể nêu ra rồi, giáo nghĩa có thể phân tích rồi, pháp tướng có thể hiểu, nhưng không có thầy nương nhờ thì không rõ được cảnh quán, mà làm thầy của người, là điều chưa từng có; Nương đúng thầy thì cảnh quán rõ, mà không siêu ngộ hiểu rõ ý Phật, vẫn không thể làm Phật được. Dẫu đã siêu ngộ hiểu rõ, nhưng không thể quên cảnh, quán dứt tri kiến lìa pháp ái, mà làm thầy mọi người, là điều chưa từng có. Đầy đủ ba điều trên, mà không biết tiến lùi, được mất, vẫn không được làm thầy, cho nên nói làm người khó, làm thầy của người càng khó hơn.

THIỀN SƯ KHUÊ PHONG DẠY BẢO NHỮNG KHÚC MẮC CHO HỌC TRÒ

Sau khi chia tay nhau thương nhớ là chuyện thường, không xét kỹ sớm tối dụng tâm ở cảnh giới nào, đã trái với trần, hợp với giác chưa? Hiểu rõ nội tâm ngoại cảnh chẳng liên quan với nhau không? Định tuệ hay khinh an có vui thích không? Nếu tu hành mà quên mất tâm Bồ-đề thì biết đó là nghiệp ma hay không? Luôn luôn giác sát, siêng năng quán chiếu, nếu tập khí khởi lập tức dứt ngay, chớ nên theo nó, cũng chớ diệt nó, vì sao? Vì như dương diệm (sóng nắng) không nên đuổi theo, cũng không nên diệt, vì không nên đuổi theo để tránh rơi vào buông lung phàm phu. Vì không nên diệt, để khỏi rơi vào điều phục Nhị Thừa. Viên tông đốn giáo rốt ráo như vậy. Nhưng tương ưng với bản tánh, trí giác tự nhiên không đứt quãng, những việc lâu dài khó có thể ghi chép đầy đủ, chỉ nêu phần quan trọng, tự mình phải cố gắng không cần nói nhiều.

CÁCH THỨC KHI VÀO NHÀ XÍ

Phép vào nhà xí luật có chế định rõ, vì muốn làm cho thân tâm được sạch sẽ trang nghiêm để gần gũi với bậc Thánh hiền, tẩy tịnh (rửa sạch), rửa tay đều có quy tắc. Nếu chưa hiểu hết thì lại làm dơ tay mình, lễ tụng thắp hương chắp tay, hễ động liền phạm tội, há không nên thận trọng hay sao?

Nay đem quy tắc xưa thêm bớt chút ít, nhưng sự tế hạnh của nó vốn khó có thể đầy đủ hết. Đại để đến lúc dùng thì mỗi mỗi đều có chỗ phương tiện ủng hộ ý căn của mọi người, tự mình nên biết điều này mà vận dụng.

Kinh thư há chẳng có câu: Không giữ gìn tế hạnh nỏ cuối cùng hại đến đức lớn. Huống chi người xuất gia còn may mắn được những bậc cao minh khuyên bảo.

1029 Kinh nói: Nếu vào nhà xí mà không rửa sạch thì không được nhập vào số đại tăng, không được ngồi giường thiền, không được lên Điện báu phải biết thùng rửa sạch, trong sạch ngoài dơ, không thể đem thùng sạch bỏ vào trong bể nước dìm xuống múc nước, phải dùng gáo múc nước đổ vào trong thùng, khỏi dơ một thùng nước, không thể thùng nước sạch, lên trên máng nước, lượt nước để đáy thùng đẫm nước cho vào trong bể, không được chà thùng chỗ dơ gần bên máng nước. Nước trong bể phải thay luôn, bởi nước chứa ba đêm sẽ sinh trùng nhỏ, tháng hè thì không đến ba đêm, cẩn thận chớ chứa nước lâu. Nếu không có chỗ tinh đầu (quét dọn) nên nhờ người có sức khỏe, kết duyên sắp đặt để khỏi làm tổn hại đến sinh mạng loài vật. Lúc vào nhà xí, trước phải búng ngón tay ba lần để báo cho quỷ trong chỗ bẩn biết, cũng không được khạc nhổ vào nhà xí, làm tổn hại quỷ trong đó. Âm đức của hai điều này có ghi đầy đủ trong kinh tạng, ở đây không dẫn nhiều.

Lúc mới ngồi chồm hỗm, trước phải rót một ít nước vào máng. Một là để làm bay đi mùi hôi của phân cũ, hai là để phân mới dễ lọt xuống không ứ lại trong máng, đã ở trong nhà xí thì không được nói chuyện lớn tiếng.

Kinh Văn-thù nói: Khi đại tiểu, tiện thân miệng giống như gỗ đá, không được rặn ra tiếng.

Lúc ở trong nhà xí không được vẽ hay viết chữ trên vách, mỗi khi gặp vi tôn túc lão thành tự mình nên tránh. Trên đường đi gặp giấy có viết chữ, phải nhặt để ở chỗ sạch, hoặc ném xuống nước, thế mới tôn trọng chữ viết tranh vẽ, không nên để bừa bãi, huống chi lại còn viết chữ trong nhà xí, như thế há không giảm phước đức hay sao?

Nếu lúc tẩy tịnh thì tay phải cầm thùng sạch, rưới quanh hết, dùng tay trái đựng nước, dùng ngón tay thứ tư rưới thật kỹ, không được vốc nước trong thùng, như thế sẽ làm dơ nước trong thùng. Thường cắt móng tay trái của ngón thứ tư, chớ để thành chỗ chứa chất dơ bẩn.

Sách Thích Thị Yếu Lãm chép: Phật dạy các Tỳ-kheo móng tay chỉ để dài bằng hạt lúa mạch, nếu dài quá thì cắt đi. Nay có người xuất gia thích giữ móng tay dài hơn một tấc, cho đó là đẹp, còn dung túng cho thân dơ uế nên không có tịnh hạnh. Thường thấy người tiếc phước đức, dùng thẻ gạt trong nhà xí, xong đem rửa vào thùng sạch, như thế là làm bẩn nước trong thùng, hoặc thò tay vào thùng vốc nước hay rửa que gạt cũng không được. Rửa sạch phải dùng nước lạnh, sẽ có lợi cho người dùng, còn dùng nước nóng sẽ sinh ra các chứng bệnh như tràng phong. Nếu khi rửa tay trước dùng tro chà tay bảy lần để khử uế, mu bàn tay cũng như thế. Kế đó dùng bùn chà bảy lần cho sạch, mu bàn tay cũng như thế. Sau đó dùng bồ hòn hoặc bồ kết, hoặc mạt cưa, hoặc hai lá dâu đều được.

Sách Khê Đường Tạp Lục chép: Trong thời Nguyên Hựu có vị tăng ở đất Thục là pháp sư Trí Siêu từng tụng Kinh Hoa Nghiêm được ba mươi năm. Một hôm, Ngài bỗng thấy một đồng tử dung mạo tao nhã, sáng sủa chắp tay vái chào.

Trí Siêu hỏi: Từ đâu đến? Đồng Tử đáp: Ở Ngũ

Đài đến

Trí Siêu hỏi: Có việc gì mà từ xa xôi đến đây?

Đáp: Vì có chút việc muốn hướng dẫn cho thầy.

Siêu nói: Xin được nghe.

Đồng tử nói: Thầy tụng kinh thật đáng khen, nhưng có điều là khi vào nhà xí tẩy tịnh để nước bẩn dính vào mu bàn tay, mà không hề dùng tro bùn rửa, luật chế phải dùng tro bùn chà bảy lần, mà nay chỉ chà hai, ba lần, nên chất nhơ này vẫn còn, lễ Phật tụng kinh sẽ mang tội, nói xong liền biến mất, Trí Siêu xấu hổ rồi sửa lỗi.

Có người hiểu biết nói: Đây chắc là Ngài Vănthù hóa hiện để nhắc nhở Trí Siêu, nên biết rửa tay phải đúng theo phép tắc.

Kinh Nhân Quả nói: Tay bẩn mà thỉnh kinh thì sẽ bị quả báo làm con giòi trong nhà xí. Khăn mặt trên giá phải để hai, ba cái, phải giặt luôn đừng dễ dơ nhớp làm bẩn tay sạch. Chỗ đông người năm ngày giặt một lần, chỗ ít người mười ngày giặt một lần. Khi lau tay, phải vo trò khăn lại mà lau, như thế dễ khô.

Vào nhà xí tẩy tịnh, v.v... trong kinh đều có thần chú, cần phải thọ trì.

Kinh nói: Nếu không trì tụng các thần chú này, dẫu có dùng nước nhiều bằng bảy Hằng hà sa nước để rửa, đến mé kim cương cũng không được thanh tịnh thân khí. Người thọ trì chú này phải tụng thầm bảy lần, thì sẽ được tất cả phước đức thanh tịnh, các quỷ thần ác đều phải khoanh tay (cung kính).

Vào nhà xí: án, ngận lộ đà da, sa ha.

Tẩy tịnh (rửa sạch): Án, hạ nẵng mật lật đế, sa ha.

Rửa tay: án, chủ ca la da, sa ha.

Khử uế: Án thất lợi duệ bà hê, sa ha.

Tịnh thân: Án, bạt chiết ra não ca sất, sa ha.

LỜI DẠY CỦA LUẬT SƯ ĐẠI TRÍ KHI VÀO NHÀ XÍ

Gấp gọn quần áo, sửa giày ngay ngắn
Dùng thẻ tiết kiệm, dùng nước nhỏ giọt
Không nói năng gì, đi đứng từ tốn,
Nên nhớ thân này, đựng đầy phẩn tiểu
Thối không thể ngửi, dơ không thể nhìn
Túi da nhà xí thật là bỉ ổi
Sao mà đắm mê không biết hổ thẹn
Vì sao thức ăn thích những đồ ngon
Kết tập thành nhân, quả báo phải chịu
Phải vào nê-lê suốt kiếp không thôi.
Khổ vui ở tâm, thăng trầm do mình
Đạo đâu xa gì? Chưa nghĩ đấy thôi.

QUYỂN 10

KỆ KHEN NGỢI SỰ TRUYỀN PHÁP CỦA PHẬT

Cúi lạy trăm ngàn ức hóa thân Phật, ba A-tăngkỳ kiếp tu luyện, muôn hạnh tròn đầy, bỏ vết nhơ mà pháp tánh trong suốt, với chút thiện mà báo hóa vi diệu. Nhưng sau đó sinh lên cõi trời Đâu-suất, giáng xuống cung vua, ba mươi tuổi ngồi dưới cây Đạo thành Phật, bốn mươi chín năm trụ thế giáo hóa, nói pháp ba trăm năm mươi lần, tuyên dương tám muôn bốn ngàn pháp môn. Ngoài vua quan ủng hộ ở nơi bốn biển chín châu, trong sư tăng truyền bá ở nơi nhân gian, thiên thượng còn trời cõi người, lợi ích rộng truyền pháp khôn lường, cho nên có kệ rằng:

Giả sử đầu đội vô số kiếp
Thân làm giường ngồi khắp Tam thiên
Nếu không truyền pháp độ chúng sinh
Rút cuộc không đáp được ân đức.

Truyền pháp có năm cách:

1- Thọ trì.

2- Xem sách. 3-Đọc tụng.

4- Giảng nói.

5- Viết chép.

Ngoài hộ trong hộ lưu truyền tức là Phật, pháp, Tăng bảo không dứt.

BÀI TỰA TRƯỚC CỦA THIỀN LÂM DIỆU KÝ

Thích Huyền Tắc ở Chùa Tây Ninh, Kinh đô soạn. Tất cả chư Phật đều có ba thân:

1/ Pháp thân: do viên tâm chứng đắc.

2/ Báo thân: do muôn điều lành chiêu cảm.

3/ Hóa thân: do tùy duyên hiện.

Nay Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, pháp thân chứng đã lâu, báo thân thành đã lâu, thân xuất hiện ngày nay bởi hóa thân. Nghĩa vào thời quá khứ ở chỗ Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, phát tâm Bồ-đề, nguyện đồng với danh hiệu này, cho nên ngày nay thành Phật cũng hiệu là Thích-ca, trải qua ba vô số kiếp tu tập hạnh Bồ-tát, trong mỗi kiếp thờ vô lượng Phật, trong thời gian đó tiếp tục gặp Định Quang Như Lai, dùng tóc có rải hoa Nê-Kim mà dâng lên, rồi được thọ ký và được Vô Sinh nhẫn, nhưng tất cả Đức Phật, lúc sắp thành Phật, đều phải trải qua trăm kiếp tu tập nghiệp tướng tốt. Đức Phật Thích-ca phát tâm sau Di-lặc, nhưng nhờ gặp được Phất-sa Như Lai, suốt bảy ngày kính ngưỡng, làm kệ khen ngợi, mới vượt qua chín kiếp thành đạo trước. Lúc sắp thành thì (1093) sinh lên cõi trời Đâu-suất, hiệu là Bồ-tát Phổ Minh, sau khi thọ mạng ở cõi trời hết thì sinh xuống cõi Diêm-phùđề, hiện cưỡi con voi trăng nhập vào hông phải của mẹ. Mẹ chính là Ma-da nằm mộng thấy voi trắng nhập vào hông phải. Phạm Tiên đoán rằng: “Nếu mộng thấy nhật nguyệt sẽ sinh quốc vương, còn mộng thấy voi trắng sẽ sinh Thánh tử”.

Từ đó về sau, Ma-da bình tĩnh an nhiên, từ biện mỗi ngày một khác. Lúc Bồ-tát mới sinh rung chuyển cả mặt đất, thân sắc vàng tím có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng phát ra một tầm, sau khi sinh ra hướng về bốn phương, mỗi phương đều bước bảy bước, để hàng phục Ma

Phạm. Ngài nói lời thành Phật: “Trên trời, dưới đất, chỉ có ta là tôn quý”. Khi bế Ngài vào đền thờ các vị trời, tất cả tượng các vị trời đều đứng dậy. Tiên A-tư-đà chắp tay khen rằng: Tướng tốt rõ ràng sẽ làm bậc Pháp Vương, chỉ tiếc là ta sắp chết không được thấy Phật, đó là Thái tử con vua Tịnh Phạn, nhũ danh là Tất-đạt-đa, ông nội là Sư Tử Giáp, Cha là Tịnh Phạn, mẹ là Ma-da, đời đời làm bậc Luân vương, thuộc dòng họ Cù-đàm, lại nhờ tài năng nên có họ riêng là Thích-ca. Ngài sinh ra tự nhiên sáng láng giỏi về nghệ thuật, dẫu sống trong năm dục nhưng chẳng thọ dục trần, dạo chơi ở bốn cửa thành thấy cảnh già, bệnh, chết và gặp một vị samôn. Khi trở về cung vua, trong lòng buồn chán, muốn xa lìa cảnh trần. Bỗng nửa đêm có vị Thiên Thần đỡ dậy, Ngài bèn phi ngựa báu vượt thành xuất gia, sáu năm tu tập khổ hạnh, biết con đường mình tu là sai, Thái tử liền nương vào phép chánh quán để được Bồ-đề.

Bấy giờ, có một cô gái chăn bò nấu sửa làm cháo, sữa sôi vọt lên, cô gái lấy làm kinh ngạc đem dâng Bồ-tát. Bồ-tát thọ dùng, khí lực trở nên mạnh mẽ, liền xuống sông tắm gội, lúc sắp lên bờ, cây tự hạ thấp cành xuống dẫn Bồ-tát lên, từ đó Bồ-tát nhận cỏ cát tường, ngồi dưới cây Bồ-đề, ác ma thấy vậy, liền sinh tâm giận giữ nói: Người này muốn phá hoại cõi của ta, liền dẫn mười tám ức muôn quyết thuộc, cầm các khổ cụ đến dóa Bồ-tát, hối thúc Bồ-tát mau đứng dậy mà nhận năm dục lạc. Lại sai ba vị Diệu Ý Thiên Nữ đến mê hoặc Bồ-tát. Bấy giờ, Bồ-tát nhập định thắng ý từ khởi tâm thương xót, ma quân tự nhiên lui lần, ba Diệu Ý Thiên Nữ hoá thành loài ma gầy ốm. Sau khi Ngài hàng phục ma quân rồi, đến ngày mồng 8 tháng 2 lúc mặt trời mọc thì Ngài thành bậc Chánh đẳng Chánh giác. Sau khi thành Phật, Ngài quán sát căn cơ chúng sinh, biết rõ chúng sinh ưa thích Tiểu thừa chưa kham nổi pháp Đại thừa. Ngài đi đến nước Ba-la-nại, độ cho năm anh em Kiều-trần-như, xoay bánh xe pháp Tứ Đế. Từ đó, Tam bảo bắt đầu xuất hiện, sau đó Ngài nói pháp độ sinh, trong cuộc hội lớn Ngài nhóm các vị Bồ-tát, bàn luận rất kỹ về vô tướng, sức thần thông thị hiện, văn kinh nói đầy đủ. Có một thời gian Ngài lên tầng trời Đao-lợi, chín tuần an cư nói pháp cho mẹ nghe. Lúc ấy, quốc vương Ưu-điền và Vua Ba-tưnặc nhớ ân đức của Phật bèn khắc hình tượng Phật bằng gỗ chiên đàn, sau đó, Phật từ cõi trời Đao-lợi xuống, những pho tượng khắc đó đều đứng dậy ra đón, Phật liền xoa đầu các pho tượng đó và nói: Các vị ở đời vị lai phải làm Phật sự cho tốt, tượng Phật bắt đầu thịnh hành từ đó. Sự nghiệp hoá duyên sắp xong, bấy giờ, môn đồ chán nản lười biếng, Phật liền bảo đại chúng rằng: Ba tháng sau ta sẽ nhập Niết-bàn, ghi lại việc sau này như trong kinh đã nói rõ, nhưng thật ra thân Như Lai còn mãi không diệt, cho nên kinh Pháp Hoa chép: Ngài thường ở núi Linh Thứu và các trụ xứ khác, nay sinh diệt là hoá thân của Phật, vì muốn dìu dắt chúng sinh, Ngài hiện thành đồng loại với họ, cho nên Ngài thọ sinh, lại muốn giúp cho họ biết rõ pháp hữu vi chắc sẽ biến đổi, cho nên Ngài thị hiện tịch diệt. Lại căn cơ của chúng sinh thuần thục nên thị hiện làm chúng sinh, vì để chúng sinh cảm kích, cho nên Ngài thị hiện tịch diệt. Sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, người trời cúng dường, xây tháp báu thờ.

Lại nữa, Đại Ca-diếp triệu tập một ngàn vị Lahán kết tập pháp tạng, còn A-nan nhớ rất cặn kẽ nên tụng kinh Phật, không sót một chữ, như bình nước này rót vào bình khác, khoảng một trăm năm sau, có vị vua Thiết Luân tự là A-thâu-kha cũng gọi là A-dục, cai quản quỷ thần, trong vòng một ngày ở trên cõi trời, ở dưới cõi người xây dựng tám muôn bốn ngàn tháp Xá-lợi, các di vật của Phật như y, bát, tích trượng v.v... cùng các Xá-lợi thần biến chẳng phải một. Đến đời Hán Minh nằm mộng thấy một người thân vàng, dung mạo cao tới trượng sáu như hình dáng Đức Phật Thích-ca.

Lại vào thời Ngô thì Tôn Quyền đập phá thiêu đốt tượng Phật, nhưng Xá-lợi vẫn không bị huỷ hoại, lại đến tượng Phật bằng đá nổi trên sông, dung mạo trang nghiêm của Phật lướt nhẹ trên mặt biển, sức Bát-nhã sâu xa, Quán Âm mật nghiêm, sách khác ghi chép dày đủ, ở đây không ghi nhiều.

BÀI KỆ KHEN NGỢI ĐỨC PHẬT PHẤT SA.

Trên trời dưới trời không ai bằng Phật
Thế giới mười phương cũng không sánh bằng
Mọi người tôi thấy ở trên thế gian
Tất cả cũng không có ai như Phật.

TRUYỆN HÁN HIỂN TÔNG KHAI PHẬT HÓA PHÁP BỔN NỘI.

Truyện rằng: Vào niên hiệu Vĩnh Bình thứ 13 đời vua Minh Đế, vua nằm mộng thấy vị thần thân bằng vàng cao trượng sáu, trên đỉnh đầu có ánh sáng, lúc tỉnh dậy vua bèn hỏi các quan, quan Phó Nghị tâu rằng: Có Đức Phật ra đời ở Thiên-trúc, vua bèn sai sứ đến thỉnh cầu, thỉnh được kinh tượng hai vị tăng, vua liền xây chùa thờ Phật, vẽ tranh Phật trên vách tường có ngàn muôn xe ngựa nhiễu quanh tháp Phật ba vòng. Lại còn dựng tượng ở đài Thanh Lương, Nam Quan và trên cửa Cao Dương, tại Lăng Hiển Tiết xây chùa lập tượng Phật và chép kinh Tứ Thập Nhị Chương, hết sức cẩn thận ở thạch thất Lan Đài, rộng như trong tập mâu tử ở trước truyền rằng: Lúc đó, có các vị Samôn là Ca-diếp-ma-đằng, Trúc Pháp Lan, hạnh vị khó lường, có ý chí khai hóa, sai sứ đến thỉnh Ngài Ma-đằng đi về phía Đông, không giữ khu vực ấy, Ma-đằng theo đến Lạc Dương, hiểu rõ vật tình vua rất tôn sùng. Vua hỏi Ma-đằng rằng: Pháp Vương ra đời sao sự giáo hóa không đến được nơi này?

Ma-đằng đáp: Nước Ca-tỳ-la-vệ là trung tâm Tam thiên Đại thiên thế giới trăm ức mặt trời, mặt trăng chư Phật ba đời đều sinh ở đó, cho đến trời, rồng quỷ thần có tâm nguyện tu hành đều sinh ở đó, tiếp nhận sự giáo hóa đúng đắn của Phật đều được ngộ đạo, chúng sinh chỗ khác không có duyên cảm Phật thì Phật không đến.

Tuy Phật không đến nhưng ở đâu có ánh sáng của Phật soi đến, hoặc sau năm trăm năm, hoặc một ngàn năm, hoặc hai ngàn năm đều có bậc Thánh truyền bá giáo pháp của Phật, để dẫn dắt chúng sinh, giảng rõ về giáo nghĩa. Văn rất dài cho nên lược bớt, truyện chỉ nói: Ngày 1 tháng giêng niên hiệu Vĩnh Bình thứ 14, đạo sĩ các núi như Ngũ Nhạc, v.v... có chư hầu yết kiến thiên tử, họ tự bảo nhau rằng: Thiên Tử bỏ đạo pháp của chúng ta đi tìm Hồ giáo ở nơi xa, nay nhân triều đình hội họp ta hãy dâng biểu phản kháng việc đó. Nội dung bài biểu lược rằng: Tất cả gồm sáu trăm chín mươi tử tội của Thái Thượng Quán ở mười tám núi như Ngũ Nhạc, v.v... đều tâu rằng:

Thái Thượng Vô Hình, vô danh vô cực, vô thượng, hư vô tự nhiên, đại giáo xuất hiện trước cả tạo hóa, thượng cổ cũng dẫn dắt trăm vua không đổi. Nay đạo của Bệ hạ vượt hơn nghĩa Hoàng, đức cao hơn Nghiêu Thuấn, thế mà bệ hạ bỏ gốc chạy theo ngọn, cầu giáo lý ở Tây Vức, tôn giáo đã thờ chính là tôn giáo của bọn rợ hồ.

Thuyết của họ không hợp Hoa hạ, xin bệ hạ tha tội chúng thần cho phép cùng thử nghiệm. Chúng thần đây là đạo sĩ ở các núi phần nhiều có tài thấy nghe xa rộng, thông hiểu kinh điển. Từ thời Nguyên Hoàng đến Thái Thượng quần lục, phù chú của Thái Hư chúng thần đều tu luyện đến mức cùng cực, hoặc đánh đập quỷ thần, nuốt mây uống khí, hoặc vào lửa không cháy, đi trên nước không chìm, hoặc ban ngày bay lên trời, hoặc ẩn hình không thấy, còn như phương thuật không ai hơn được, vậy thần xin được đọ sức với họ.

1/ Là để Thánh Thượng yên vui.

2/ Để được phân biệt chân ngụy.

3/ Để có đại đạo quy về

4/ Để không loạn phong tục nước Trung hoa.

Nếu chúng thần đọ sức thua thì xin chịu trọng tội, còn chúng thần thắng xin trừ khử bọn luống dối. Vua bèn ra lệnh cho quan Thượng thư lệnh là Tổng Tường dẫn họ vào cung Trường Lạc, đến ngày rằm tháng đó nhóm họp tại chùa Bạch mã, các đạo sĩ liền bày ba đàn, (1094) mỗi đàn mở hai mươi bốn cửa. Đạo sĩ Chữ thiện tín ở Nam Nhạc, đạo sĩ Lưu Chánh Niệm ở Hoa Nhạc, đạo sĩ Hoàn văn Độ ở Hằng Nhạc, Đạo sĩ Tiêu Đắc Tâm ở Đại Nhạc, Đạo Sĩ Lữ Tuệ Thông ở Tung Nhạc, Đạo sĩ Kỳ Văn Tín v.v... ở mười tám ngọn núi Hoắc Sơn, Thiên mục, Ngũ Đài, Bạch Lộc, v.v... đều mang sách linh bảo chân văn, Thái Thượng ngọc quyết, Tam Nguyên phụ lục gồm năm trăm chín mươi quyển, đặt ở đàn Tây, các sách của hai mươi bảy nhà như Mao Thành Tử, Hứa Thành Tử, Lão Tử v.v... gồm hai trăm ba mươi lăm quyển đặt ở đàn giữa, còn bồ tế lễ trăm thần đặt ở đàn phía Đông, vua ra ngự ở cửa phía Nam của chùa, kinh tượng, xá-lợi Phật đặt ở Tây Đường, mười lăm ngày chay xong, các đạo sĩ liền dùng củi, sậy trộn với đàn trầm hương làm đuốc, nhiễu kinh rồi khóc rằng: chúng thần kính tâu Thái Cực Đại Đạo Nguyên Thể Thiên tôn chúng tiên bách linh, nay Hồ thần làm loạn Hoa nhân, nhà vua tin theo tà đạo, chánh giáo mất dấu, ngọn gió huyền diệu đọa rơi, chúng thần xin đặt kinh trên đàn dùng lửa để thử nghiệm, muốn chỉ bày cho những tâm hồn còn bị che lấp để họ phân biệt được chân ngụy. Khấn xong, họ liền châm lửa đốt kinh, kinh thấm lửa cháy rụi thành tro bụi, bọn đạo sĩ nhìn nhau mất hồn, vô cùng kinh sợ, kẻ muốn bay lên trời ẩn hình thì không đủ sức bay lên được, kẻ sai khiến quỷ thần thì hò hét không ứng, ai nấy đều hổ thẹn. Đạo sĩ Phó Thác Tài ở Nam Nhạc tự cảm mà chết, quan Thái phó Trương Diễn nói với Chữ Thiện Tín rằng: Các ông thử không ứng nghiệm, tức là luống dối, nên y cứ vào chân pháp từ Ấn-độ truyền sang. Chữ Thiện Tín nói: Mao Thành Tử nói rằng: Thái Thượng chính là Linh Bảo Thiên Tôn, do tạo hóa làm ra, gọi là Thái Tổ, đây há là luống dối hay sao?

Trương Diễn đáp: Thái Tổ chỉ là danh từ của đức quý, chứ không phải danh xưng của bậc có ngôn giáo. Nay ông lại bảo có ngôn giáo, tức là luống dối. Tín im lặng. Lúc đó, xá-lợi Phật tỏa ánh sáng năm màu lên thẳng hư không, xoay tròn như chiếc lọng, che quanh đại chúng, át cả ánh sáng mặt trời.

Pháp sư Ma-đằng vọt cao lên hư không, nằm ngồi trên hư không, hiện nhiều phép thần biến. Bấy giờ, trời mưa hoa báu lên mình Phật và tăng. Lại nghe tiếng nhạc trời cảm động nhân tình, đại chúng đều vui mừng khen là việc chưa từng có. Họ đều vây quanh Pháp Lan nghe nói về yếu nghĩa của Phật pháp và dùng âm phạm khen ngợi công đức của Phật, cũng làm cho mọi người mở mang Tam bảo, nói về nghiệp Thiện, ác đều có quả báo, sáu đường ba thừa các tướng khác nhau. Lại nói về công đức xuất gia, phước đó cao hơn hết, trước lập chùa, đồng với phước của Phật. Quan Tư Không là Dương Thành Hầu Lưu Tuấn cùng các quan nhân, sĩ thứ hơn một ngàn người xuất gia. Bọn đạo sĩ các núi Tứ nhạc là Lã Tuệ Thông v.v... tất cả gồm sáu trăm ba mươi người xuất gia. Âm phu nhân Vương Tiệp Hảo v.v... cùng các phụ nữ của quan nhân gồm hai trăm ba mươi vị xuất gia.

Lại xây dựng mười ngôi chùa, bảy ngôi ngoài thành cho tăng trụ trì, ba ngôi trong thành cho Ni trụ trì. Từ đó về sau Đạo Phật càng phát triển.

Truyện có năm quyển sơ lược, không đầy đủ, có người nghi truyện này, sách xuất bản gần đây không có việc đọ sức. Theo sách nhà Ngô có núi rõ về việc Phí Thúc Tài cảm chết, cho nên truyện này là thật.

THƯỢNG THÁI TỂ HỎI KHỔNG TỬ VỀ BẬC THÁNH.

Thái Tể hỏi Khổng tử rằng: Ngài có phải là bậc Thánh hay chăng?

Đáp: Khâu cũng học rộng nhớ dai, nhưng chẳng phải là bậc Thánh.

Lại hỏi Tam Vương có phải là bậc Thánh chăng?

Đáp: Tam Vương khéo dùng trí dũng, còn phải là bậc Thánh hay không thì khâu tôi không biết.

Lại hỏi: Ngũ Đế có phải là bậc Thánh chăng?

Đáp: Ngũ Đế khéo dùng nhân nghĩa, còn phải là bậc Thánh hay không khâu này không rõ. Lại hỏi: Tam Hoàng có phải là bậc Thánh chăng?

Đáp: Tam Hoàng khéo dùng thời chính, còn phải là bậc Thánh hay không thì khâu tôi không rõ.

Thái Tể rất kinh hãi hỏi tiếp: Thế thì ai là bậc Thánh? Khổng Tử nhíu mày rồi đáp: Khâu này nghe nói Phương Tây có bậc Thánh. Không trị mà chẳng loạn, không nói mà tự tin, chẳng hóa mà tự hành. Làm người rộng lớn, không thể dùng danh từ mà nói được, nói theo đây, thì khổng Tử biết rất rõ Phật là bậc Thánh. Nhưng thời chuyên chưa đến cho nên im lặng mà biết, có cơ duyên thì nêu ra, nhưng chưa nói đủ điều mình biết.

Thiền sư Thiết Ngưu Ấn ở Chung Sơn dạy các đồng hành. Ngày rằm tháng năm niên hiệu Diên Tải năm Thứ I, Hồ Tắc Thiên đời Đường, mới bắt đầu thâu tóm tất cả tăng ni trong nước bắt buộc phải phụ thuộc vào Tư Bộ. Niên hiệu Thiên Bảo năm thứ 6 đời vua Huyền Tông quy định Tăng Ni được độ, do Ty bộ cấp điệp. Nhiệu Chí Đức năm thứ 3 đời vua Túc Tông điệp của Ty bộ ban cho công Thần bán, để luận bàn việc này thì trước niên hiệu Diên Tải: Tăng theo pháp bên Thiện-trúc: Nếu có người hành nghiệp xứng đáng thọ đạo thì chỉ có thầy nhiếp thụ là được. Như Viên cung sứ, đời Đường là Hội Thông yết kiến Thiền sư Đạo Lâm ở thước sào, nói rằng: Đệ tử không muốn làm quan, chí muốn xuất gia, xin Hòa thượng nhiếp thọ. Đạo Lâm bảo: Thời này làm tăng, việc tu hành phần nhiều quá lạm dụng.

Thông thưa: Vốn đã Thanh tịnh thì chẳng cần mài giũa, vốn đã sáng thì không tùy theo sự chiếu soi.

Đạo Lâm nói: Nếu ông đã rõ định trí diệu viên thể tự vắng lặng, tức là chân xuất gia, cần gì mượn tướng bên ngoài.

Thông thưa: Xin Hòa thượng rủ lòng nhiếp thọ, con xin vâng theo sự dạy bảo của thầy. Bấy giờ, Đạo Lâm mới cho cạo tóc, về sau do sự nghiệp tu hành bừa bãi, mới đặt ra chế độ kiểm soát, là lý tự nhiên.. Cho nên Đức Phật dạy phó chúc Phật pháp cho Quốc Vương, Đại Thần, là vì lẽ này. Nay Quốc Triều ơn Thánh tràn ngập, đặc biệt muôn đề cao giá trị của Đạo Phật, nên ban chính sách trọng giáo, tôn tăng, quý Hòa thượng chính là giáo pháp của Phật.

Ôi! Người làm tăng khó có ai biết được điều này. Nếu là bậc Đại Trượng phu phải có chí kiên quyết dẹp bỏ mọi hành vi quá lạm dụng, dứt khoát từ dưới gót chân mình hướng ra ngoài Phật Tổ, liếc nhìn một cái thì thấu rõ tất cả, thân tâm đều rõ thì không có gì là khó, cũng chẳng lo lá bùa hộ mạng không vào tay, cho nên nói:

Non cao nước chảy ý sâu sắc Tự có tri ân cười gật đầu.

Pháp hối gửi thân vào chốn đạo tràng của Bảo Công đã nhiều năm, ông là người cẩn thận, thật thà chất phác, có ý chí kiên quyết, không có hành vi lạm dụng bừa bãi. Nay muốn tiến nạp làm tăng, cúi đầu kính tin đặc biệt lớn lao rõ ràng, đại Hiền bỏ ra giúp cho ông thành tựu chí nguyện đó, đem điều cốt yếu này đến để xin lời răn nhắc, do đây mà thường chỉ dạy, cũng muốn bậc hiền sĩ đại phu ở thế gian, khởi lên tâm trọng giáo tôn tăng, biết các bậc tiền bối tuy bị sự giàu có ràng buộc khốn đốn, nhưng cuối cùng cũng có sự hối hận.

Trung thu năm Kỷ mùi, trụ ở thiết Ngưu núi Chung Sơn.

BÀI KÝ VỀ VIỆC MỚI XÂY PHÁP ĐƯỜNG CỦA THIỀN VIỆN VĨNH AN Ở PHỦ CHÂU DO CƯ SĨ VÔ TẬN SOẠN.

Trần Tông Dũ người ở Lâm Xuyên được đại pháp Hỉ ở trong hội có Trưởng Lão Vĩnh An, bỏ nhà riêng của mình để xây trượng thất làm hành lang, vừa mới ghép gỗ lại để làm pháp đường mới thì Tông Dũ qua đời. Hai con của ông than khóc kể với Thường rằng: cha tôi khi xưa chưa thờ Phật thì bình yên mạnh khỏe, đến lúc thờ Phật thì lại bệnh hoạn mà chết.

(1095) Vì thế thuyết nhân quả của Phật có đáng tin hay không?

Thường đáp: Ta là ông lão quê mùa, không đủ khả năng dẫn dắt ông, ông cứ làm hoàn thành chí của cha mà xây xong pháp đường cho tôi, Tiên sư tôi có học trò tên cư sĩ vô tận, là bậc Thượng thủ đắc pháp, thâm nhập pháp môn không hai, biện tài vô ngại, tùy theo căn tính chúng sinh khéo giảng pháp âm, lúc nào pháp đường hoàn thành sẽ đem thư đến thỉnh ông ấy để ông ấy giải quyết mối nghi của ông. Mùa Xuân niên hiệu Thiệu Thánh thứ nhất, Thường Lão sai Minh giáo đem thư đến Sơn dương nói: tôi mới bị triệu về kinh làm Gián quan chưa có lúc nào rảnh rỗi. Năm sau giám lại đến kinh, chờ thư trả lời ở thiền viện Trí Hải. Bấy giờ, cư sĩ im lặng ở trong một căn phòng, hiểu rõ hoàn cảnh, dẫu có vòng sắt xoay trên đầu, thân tâm vẫn yên định, Minh Giám khóc nước mắt như mưa, tha thiết thỉnh cầu, Cư sĩ đại bi, việc hộ trì Phật pháp ở bên ngoài đều trông cậy vào bậc vua quan. Nay chúng sinh bị trôi dạt trong biển khổ, tham sợ sinh tử, mê hoặc nhân quả, kính mong cư sĩ làm vị đại y vương để bố thí thuốc pháp cho họ, Cư sĩ nói: lành thay! Vì các con của họ Trần mà đến Thỉnh pháp yếu rất sâu xa vô thượng của Như Lai, ông hãy chú ý nghe ta nói, nhớ lấy để nói lại cho họ nghe.

Này người thiện nam! Trong khoảng vắng lặng vọng sinh bốn tướng, chứa dương thành lửa, chứa âm thành nước, lập thành ba tài, chia thành muôn phẩm, tất cả hữu tình nước lửa va chạm nhau, hình khí kết với nhau bằng bốn tướng nhỏ, đủ bốn đại giới, nhân sinh phải có dưỡng, nhân dưỡng phải có của, nhân của phải cần gom, nhân gom mà thành tham, nhân tham mà thành cạnh tranh, nhân cạnh tranh mà thành sân, nhân sân mà thành dung dữ, nhân hung giữ mà thành ngu, nhân ngu mà thành si. Tham, sân, si, này chư Phật nói trong ba A-tăngkỳ kiếp, con người ta ở trong trăm ngàn kiếp, hoặc mười tuổi hai mươi tuổi, hoặc ba mươi tuổi, bốn mươi tuổi, hoặc năm, sáu mươi tuổi, hoặc bảy, tám mươi tuổi, đều đối với thọ lượng làm một tiểu kiếp. Đối với kiếp này muốn vượt ra ngoài số kiếp không thể kể xiết, thí như con giun đất muốn bay lên khói mây, thì không có việc đó. Chư Phật thương xót, khai thị môn Đại phương Tiện Đàn ba-la-mật, khuyên ông xả bỏ của cải, của cải ông có thể xả thì có thể xả ái, ái ông xả được tức cả thân được, thân ông xả được tức xã được ý, ý ông có thể xả, tức xả được pháp, pháp ông xả được tức xả được tâm, tâm ông xả được, thì hợp với đạo.

Xưa, Tôn giả Ca-diếp hoằng hóa có bà lão nghèo đem nước vo gạo để trong chiếc bình vỡ ra mà bố thí, Tôn giả uống xong vọt lên hư không, hiện mười tám pháp biến hóa, bã lão chiêm ngưỡng tâm rất vui vẻ, Tôn giả bảo rằng: Những thứ bà đem bố thí được phước vô lượng, hoặc người, hoặc trời, Luân Vương Đế-thích, là bậc Thánh Tứ quả hay Phật, Bồ-tát tùy theo ý nguyện của bà, muốn gì đều được.

Bà lão đáp: Chỉ cầu được sinh lên cõi trời.

Tôn giả nói: sẽ được như điều bà muốn, sau bảy ngày quả nhiên bà lão qua đời, được sinh lên tầng trời Đao-lợi cao quý diệu lạc.

Lại nữa, vua nước Kế-tân nghe pháp trong hội của Phật bước ra khỏi chúng thưa rằng: Bậc đại Thánh xuất thế ngàn kiếp khó gặp, nay muốn phát tâm xây dựng tinh xá, cúi xin Phật khai cho.

Phật bảo! Tùy theo ý ông. Vua nước Kế-tân cầm một cành trúc cắm trước Phật bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Xây dựng (tinh xá) (chùa chiền) đã xong. Phật dạy: Đúng thế, đúng thế! Dùng tinh xá này mà chứa đựng pháp giới, dùng nó mà cúng dường, phước còn hơn số cát sông Hằng. Giám lại vì tôi đem hai thuyết này về nói với đàn-việt, để họ tự lựa chọn, cha ông đã xây dựng pháp đường, thất, hành, lang, so với bình nước vo gạo được phước hơn nhiều, sẽ được sinh lên cõi trời hưởng thọ vui, chắc chắn không nghi ngờ. So với vua nước Kếtân cắm một nhành trúc mà có thể chứa vô lượng pháp giới, ông muốn đến đây nghe một bài kệ của ta.

Một nhánh tre dài dựng Tinh xá.
Gió cuộn muỗi mòng xuống biển Nam
Nước bẩn hắt ra thành đệ nhị
Độn căn lỡ bước hỏi Tiền Tam.

Bấy giờ, Minh Giám vui vẽ tin nhận, trở về bảo với những người còn đó, dùng bút ghi những lời cư sĩ đã nói thành bài ký.

TỐNG VĂN ĐẾ TẬP HỌP CÁC QUAN TỂ PHỤ BÀN LUẬN VỀ PHẬT GIÁO

Văn Đế là con thứ ba của Tống Cao Tổ, thông minh học rộng, nổi tiếng thông đạt, lên ngôi năm ba mươi tuổi, có một lần rảnh rỗi ung dung mà hỏi quan Thị trung là Hà Thưởng Chi, nhân ngày quan lại bộ là Dương Huyền bảo rằng: lúc nhỏ Trẫm ít đọc kinh, gần đây lại càng không rảnh, nhân quả ba đời chưa rõ vẫn còn ấp ủ trong lòng, nhưng lại không dám đưa ra thuyết khác. Vì chính các khanh là bậc tài giỏi thời nay đều kính tín Phật giáo, Phạm Thái Tạ Linh Vận thường nói: văn kinh sáu kinh điển của nhà Nho, vốn giúp cho thế tục làm việc chính trị, muốn tìm hiểu về sự thật mầu nhiệm về tánh linh, há chẳng lấy giáo lý Phật làm kim chỉ nam hay sao? Gần đây, thấy Nhan Diên Chi phân tích “Đạt Tính Luận” Tống Bính bắt bẻ “Bạch Hắc Luận” mới hiểu sâu về Phật pháp, nhất là danh lý đều đầy đủ để mở mang tâm ý cho con người. Nếu làm cho cả nước, chuộng sự giáo hóa của Đạo Phật, thì Trẫm chỉ ngồi đợi đến cảnh bình, còn phải làm việc gì nữa?

Thượng Chi tâu: Những người sống lơ là phần nhiều không tin Phật pháp, hạ thần đây là kẻ tầm thường mà được bệ hạ quá khen hỏi tới, thật chẳng dám kham nổi được như các bậc tài giỏi đời trước, cho nên không thể phụ minh chiếu của bệ hạ, trong triều đã xa khó biết hết được, tính từ lúc vượt sông Trường Giang đến đây thì vương đạo, Chu Khải

Sưu lượng, Vương Mông, Tạ Thượng, Khích siêu, Vương Thản, Vương Cung, Vương mật, Quách Văn Cử, Tạ phụ, Đái Quỳ, Hứa Tuần và các vị anh em đã mất của Cao Tổ, và anh em Vương Nguyên Lâm, Phạm Chú, Tôn Xước, Trương Huyền, Ân Khải, v.v... bọn họ, thì bậc tài giỏi trong hàng tể phụ, có người thì tiêu biểu về nhân luân, có người thì gởi tâm vào cõi trời, có người thì ẩn dật ở nơi mây khỏi, tất cả đều quyết chí quy y, thành tâm quy tín, trong khoảng đó so họ với Lan hộ, Khai tiềm, Thậm độn, Sùng thúy, đều thua Hoàng Trung, hoặc là người không thể lường được.

Pháp sư Tuệ Viễn thường nói: Sự giáo hóa của họ Thích chẳng có gì không lường được, đạo ấy vốn tự nó là nguồn gốc của sự giáo hóa, giúp cho thế tục cũng là việc quan trọng. Thử tìm hiểu kỹ thuyết này có những điều quan trọng khế hợp với đạo lý, nếu làm ra cho mọi người đều giữ giới, tội ác bị diệt, hình phạt không dung, thì điều Bệ hạ nói ngồi đợi cảnh thái bình, quả đúng với Thánh chỉ.

Dương Huyền Bảo Tâu: Cuộc bàn luận này bởi thuộc cõi trời, người, đâu phải chuyện hạ thần được khen ngợi, trộm nghĩ Tần Sở bàn về chuyện binh mạnh, Tôn Ngô Trổ hết thuật, thôn tính cũng không dùng đạo Nghiêu Thuấn, đâu chỉ có đạo Phật thôi. Vua nói: cửa Phật có khanh cũng giống như cửa khổng có Quý lộ, cái gọi là lời ác thì không lọt được vào tai. Từ đó, Văn Đế dốc hết lòng nghiên cứu kinh Phật, và gặp các vị tăng Nghiêm Quán, Ngài bàn đạo nghĩa nhiều lần hội họp ở trong điện, đích thân trải chiếu ngồi dưới đất ăn cơm với chư Tăng. Bấy giờ, có sa-môn Trúc Đạo Sinh, và bậc xuất chúng anh nghĩa tài giỏi, được vua trọng vọng, vua thường nói lại nghĩa đốn ngộ của Trúc Đạo sinh, các vị Tăng đều đặt ra những vấn đề lớn để vặn vẹo. Vua bèn nói: nếu làm cho người đã chết sống lại, há đã bị khanh đào lên. Lúc ấy, Nhan Diên Chi soạn luận ly thức, vua sai Pháp sư Nghiêm phân biệt chỗ đồng khác của nó, hai bên tranh luận qua lại cả ngày. Vua cười nói: Ngày hôm nay các khanh không hổ thẹn với cuộc bàn luận của Chi Hứa.

GIAO TỰ CHÍ TRONG SÁCH HẬU HÁN

Chí chép rằng: Phật, tiếng Hán là giác ngộ, mục đích là để giác ngộ chúng sinh, tóm tắt giáo lý của đạo này lấy tu thiện từ tâm làm chính, không sát sinh, chỉ lo việc thanh tịnh, tinh tấn là sa-môn, tiếng Hán có nghĩa là dứt tâm.

Cạo tóc là bỏ nhà dứt tình, rửa dục mà trở về vô vi, lại cho rằng người chết tinh thần bất diệt, rồi lại thọ thân, những điều thiện, ác mình gây ra kiếp sau sẽ có báo ứng, điều đáng quý là phải làm điều lành để luyện tinh thần mình. (10910) Luyện mãi không dừng đến lúc Vô sinh thì được thành Phật, thân cao một trượng sáu, mầu sắc vàng ròng, trên đỉnh có ánh như mặt trời mặt trăng, biến hóa vô thường, thường cứu giúp chúng sinh, có kinh sách hàng mấy ngàn quyển, lấy hư vô làm tông, bao la tinh túy không chỗ nào chẳng thâu tóm, khéo đặt ra những lời cao quý bao la, điều mong muốn ở trong nhất thể, điều nói ở trong sự thấy nghe, quy y đạo lý mầu nhiệm sâu xa khó mà lường được.

Cho nên các bậc Vương công đại nhân xem lúc sinh tử báo ứng, đều y cứ vào sự mất mát của tự nhiên.

Ngụy Thư chép: Đại để kinh sách nói các loài chúng sinh, đều do hành nghiệp mà khởi, có ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai, các thứ lớp đẳng cấp trong việc tu đạo rất nhiều, đều từ cạn đến sâu, từ nhỏ đến lớn, đều nhờ chứa nhóm nhân thuận, bỏ ham muốn, tập vắng lặng mà thành chiếu suốt.

BÀI VĂN HỒI HƯỚNG KHI QUÉT ĐẤT CỦA THIỀN SƯ THỦ NHẤT PHÁP CHÂN CHÙA TỊNH TỪ Ở HÀNG CHÂU

Hồi hướng công đức quét chùa này cho chúng sinh trong pháp giới sắc trần thanh tịnh, trần thanh tịnh cho nên nhãn căn thanh tịnh, căn thanh tịnh cho nên nhãn thức thanh tịnh, thanh hương xúc pháp cũng giống như vậy. Lại nguyện một thế giới thanh tịnh, cho đến tận pháp giới, hư không giới đều thanh tịnh, giống như viên giác già lam, giác địa thanh tịnh, mà các Như Lai Quang Nghiêm trụ trì, dứt hẳn hai bên tập khí tịnh uế, phàm Thánh cấu bẩn, chẳng còn một hạt bụi, nguyện thanh tịnh như vậy, trí cũng giống như vậy.

BÀI KÝ VỀ THẬP PHƯƠNG THIỀN VIỆN CỦA CHÙA LINH PHONG NÚI ĐẠI HỒNG Ở TÙY CHÂU

Tháng 9 niên hiệu Nguyên Hiệu năm thứ 2, vua hạ chiếu cho chùa Linh Phong núi Đại Hồn ở Tùy Châu đổi Luật tông thành Thiền Tông. Niên hiệu

Thiệu Thánh năm thứ nhất, Ngoại Đài mới thỉnh

Trưởng lão Báo An trụ trì chùa Thiếu lâm ở Lạc Dương. Tháng giêng đổi thành niên hiệu Sùng

Ninh, sai người đến xin bài ký về Thiền viện Thập Phương, mới viết rằng: Nút Đại Hồng ở phía Tây nam Tùy Châu, nền chiếm hơn một trăm dặm, đỉnh núi nhìn xuống các vùng Hán Đông, rừng núi non một dãy phẳng lỳ như đất bằng, dựa vào điều mà các bậc kỳ cứu đã nghe truyền lại. Hồng có chỗ gọi là Hồ (Không có chấm thủy), hoặc gọi Hồ (có chấm thủy) chưa rõ ý nghĩa là gì. Nay y cứ vào địa lý mà xét, giữa bốn ngọn núi, xưa kia là hồ, là nơi thần rồng ở, sóng lớn mênh mông, không biết đâu là bờ bến. Sau đó hai rồng đấu nhau nứt thành bờ ao. Nước hồ chảy về phía Nam. Cho nên thôn xóm dựa vào núi gọi là lạc hồ, cai quản núi Đại Hồng này, nên mới được đặt tên như vậy.

Vào niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường, Thiện tín là vị Tăng chùa Khai Nguyên ở Hồng châu, tức Đại sư Từ Nhẫn của núi này. Đại sư theo tâm yếu mật truyền của Mã Tổ, đi về phía Bắc đến núi Ngũ Đài, lễ Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, thấy sự cao đẹp tự mừng là có duyên với Bồ-tát, phát nguyện xin thổi nấu cho chúng Tăng ba năm, nhưng bị tăng trong chùa khước từ, đại sư than khóc, bèn có một ông lão bảo rằng: “Duyên của ông không phải ở đây, ông cứ đi đi, gặp Tùy thì dừng, gặp Hồ thì trụ, Đại Sư liền đi về phía Nam, tháng bảy mùa Thu niên hiệu Bảo Lịch năm thứ 2, tới Tùy Châu xa thấy ngọn núi cao, hỏi người trong làng rằng: Đó là núi gì?

Người trong làng đáp: Đây là Núi Đại Hồ, Đại Sư ngẫm biết là hợp với lời nói trước, bèn tìm đường tới chân núi đến bên hồ, đúng vào năm ở đó gặp hạn hán nặng. Người trong làng Tên Trương Vũ Lăng nói: chuẩn bị sẵn dê lợn, định dùng vào việc cầu nguyện rồng trong hồ, sư thấy vậy thương xót bèn bảo Vũ Lăng rằng: Mưa nắng bất thường, vốn cảm ứng do nghiệp xấu của con người, hại mệnh để cứu mệnh lại thêm tội, hãy chớ sát sinh, nán lại ba ngày ta sẽ cầu nguyện giúp các ông. Trương Vũ Lăng cũng là dị nhân, nghe lời Đại sư nói ông ta kính tin ngay: Đại Sư liền vạch cây men đá, tìm thấy hang động ở phía Bắc núi, Đại Sư điềm nhiên an toạ, thành tâm cầu nguyện, thế là sấm nổi mưa to, mấy ngày sau mưa mới tạnh. Vũ Lăng lần theo dấu vết thì thấy Đại Sư đang thiền định. Tơ Châu dăng kín mặt phải quát vào tai, đánh vào thân, hồi lâu mới tỉnh, Vũ Lăng bèn xây tịnh xá cúng dường Sư ở núi này và cho hai con theo hầu, thế là học trò đến theo và thành pháp tịch. Đến ngày 29 tháng 5 niên hiệu Thái Hòa năm thứ I, Đại Sư thầm nói với rồng Thần rằng: Trước đây ta đem thân thay cho vật hy sinh, làm mất huyết thực của ông. Nay xả thân cho ông, ông hãy ăn thịt ta, liền lấy dao chặt gối trái, lại chặt gối phải, môn đồ nháo nhác, nhưng gối của thầy Từ Nhẫn không đứt được, nước chảy ra, Đại sư nghiễm nhiên thị tịch. Hai đứa con của họ Trưởng đứng thấy bèn hóa. Đông Đạo ở ngọn núi đem tâu chuyện với Vua. Vua Đường Văn Tông khen ngợi, ban cho tấm biển treo ở chỗ Đại sư ở, biển đề là Thiền Viện U Tế, trong niên hiệu Thiên Phúc đời Tấn đổi thành chùa Kỳ Phong đều vì cầu nguyện được Linh ứng. Từ lúc sư nhập diệt đến nay hơn ba trăm năm, mà dân mười mấy châu Vùng Nhữ Phần ở Hán Quảng, đều thờ cúng tôn nghiêm, như theo một sự ước thúc, vàng, lụa, lúa, thóc đầy ắp trên đường, của mạnh pháp yếu, tăng phạm mới đổi. Trước đây đỉnh núi này cao ngất, điện đường lầu gác làm theo thế núi, trước sau khác nhau, hướng nhà lộn xộn. Ân lão đến ở ngăm kỹ hình thắng, mở đường đi vào từ phía Nam để đúng nơi khách và chủ, đào núi lấp khe, san bằng chỗ cao, xây các bậc đá, khiến núi cao muôn nhẫn trở thành đỉnh núi bằng phẳng, Điện đường ba cửa mở canh thẳng băng, hành lang mái hiên của bốn phía thông đạt. Những người tu hành thanh tịnh đến họp như mây, nơi đây trở thành tòng lâm. Đèn báu tướng lành ở Nga Mi, cầu vồng ánh sáng mát mẻ, những cảnh kỳ lạ ở nơi khác cùng hiện ở đây. Phá cái cũ dựng cái mới, những vị theo luật tông, quyến luyến với cảnh cũ mà nhao nhao, gặp lúc ta bị đưa đến làm quận thứ ở đây, ta muốn thiền luật cùng tồn tại mà dặn! Luật lấy giáp Ất, Thiền lấy mười phương, mà gọi giáp Ất là giáp từ đâu đến, Ất từ đâu lập ra? Rồi đáp: Chúng tôi là con cháu Từ Nhẫn, nay lấy người ở mười phương, Ất ở Từ Nhẫn, Giáp ở Mã Tổ, Ất ở Mã Tổ, Giáp ở Nam Nhạc. Ất ở Nam Nhạc, Giáp ở Tào Khê. Suy tính kỹ trở lên thì Giáp Ất ở tại Bồ-đề Đạt-ma, hai mươi tám vị Tổ ở Tây Thiên, gọi là Giáp Ất, quả thật nó ở đâu?

Lại nói mười phương là: Mười từ đâu sinh, phương từ đâu khởi, pháp của thế gian từ một sinh ra hai, một với hai thành ba, hai với ba thành sáu, ba nhân ba thành chín, chín là tột cùng. Lại quay về một, một với chín là mười, nghĩa mười mới thành, chẳng phải tự nhiên, không có một mà lại có mười, gọi là phương. Trên là phương hay dưới là phương? Đông là phương hay Tây là phương? Nam là phương hay Bắc là phương? Lấy trên làm phương thì đó là chỗ của các vị trời, chẳng phải cảnh giới. Lấy dưới làm phương thì chỗ giữ gìn phong luân, chẳng thể ở được. Lấy Đông làm phương thì người ở Tỳ-đề-ha, mặt như hình bán nguyệt. Lấy Bắc làm phương thì người uất-đànviệt tuổi thọ lâu dài. Lấy Tây làm phương thì cõi Cù-Da-Ni sóng biển mịt mờ. Lấy Nam làm phương thì cõi Diêm-phù-đề thì voi ngựa mỗi nước một khác, như thế Giáp Ất không nhất định, mười Phương không chỗ nương, cạnh tranh luật thiền ai đúng ai sai? Nhưng theo luật nói: Đức Thế Tôn từng ở trong tịnh xá Trúc lâm vườn cấp cô Độc như lời nói của Thái Thú thì Thế Tôn sai ư?

Tôi nói: Ông há không nghe, cho Đại Viên Giác là già-lam của ta, thân tâm yên ổn tánh trí bình đẳng, đây chẳng phải lời ta nói, chính là lời Phật nói. Lúc bấy giờ, người theo luật im lặng bỏ đi. Thiền giả nói kẽ phương sĩ ngoại một mình một bát, không cầu mong gì trong thế gian, như chim bay trên hư không gặp cành thì đậu, như rùa bơi dưới nước gặp cây là nổi, đến như bọt hợp, đi như bọt tan, không biết sứ quân coi họ là Giáp Ất hay mười phương.

Ta nói: Lành thay! Phật tử, không trụ ở trong, không trụ ở ngoài, (1907) không trụ ở giữa, không trụ bốn bên, trên, dưới, hư, không, nên không chỗ mà trụ trì, “còn nói gì nữa”. Viết bài ký này vào lễ thượng Nguyên tháng giêng, niên hiệu Sùng Ninh năm thứ nhất.

BÀI CA VỀ NGHE TỤNG KINH PHÁP HOA CỦA PHÁP SƯ TU NHÃ ĐỜI ĐƯỜNG

Sắc núi trầm trầm
Khói thông mờ mịt
Ở dưới rừng vắng
Có đá bàn-đà
Trên đá có tăng
Kiết già gối ngang
Tụng kinh Bạch Liên
Từ sáng đến tối
Bên trái bên phải,
đầy dấu cọp sói
Mười mảnh năm mảnh
Hoa lạ ngổn ngang
Tình cờ gặp nhau
Chưa quen biết sâu
Biết là người xưa,
Hay là người nay?
Chính là Đàm Ngạn?
Hay là Đàm Dực?

Ta nghe kinh này, có yếu chỉ sâu

Vua biết khen diệu nghĩa chân thật

Nhắm mắt lắng lòng ông nghe kỹ

Giọt đề hồ rót vào trong bụng

Ý của Phật là tủy của

Tổ Tâm ta là yếu chỉ của kinh

Thương thay búng ngón tay, đưa tay

Không đạt trước mắt nay chính là

Lớn lao thay thật rất tự đắc

Không sinh phải khiến chúng sinh được
Soi sáng một muôn tám ngàn ba cõi.

Mỗi cõi thảy đều bằng vàng ròng

Bốn sinh sáu đường trong ánh sáng
Người cuồng cần tự hỏi Di-lặc
Năm đó ta cũng học vắng lặng.

Vừa được vô tâm liền dứt bặt

Hiện nay được nghe tụng kinh này

Mới biết xe lừa không mục đích

Năm đó ta cũng không ra cửa

Không muốn bụi trần dính bước chân

Nay đích thân nghe tụng kinh này

Mới biết mỗi bước là chỗ báu

Năm đó ta cũng thích ca ngâm

Sẽ cho thầm tìm loạn thiền định

Nay đích thân nghe tụng kinh này

Ngại gì bút nghiên giúp chân tánh,

Năm đó ta cũng quen trò trẻ

Cho thời gian luống uổng một nửa
Nay đích thân nghe tụng kinh này
Mới biết nhóm cát việc không nhỏ.
Xưa ta từng dạo núi và sông

Cho là núi khác chẳng phải quê

Nay đích thân nghe tụng kinh này

Mới biết sông chẳng có tấc đất

Ta xưa tâm vượn chưa điều phục

Thường dùng khóa vàng câu thúc hờ

Nay đích thân nghe tụng kinh này

Mới biết vô vật là khư khư

Sư tụng kinh này qua một chữ

Mỗi chữ nhấm nháp vị đề hồ

Vị đề hồ kia quý lại ngon
Không ở môi cũng không ở răng
Chỉ ở nhọc nhằn trong tấc vuông.

Sư tụng kinh này qua một câu

Từng câu trâu trắng đều cất bước

Bước đi trâu trắng nhanh như gió

Không ở phía Tây, chẳng ở Đông

Chỉ trong hằng ngày kiếp phù sinh

Hằng ngày không biết đâu là khổ

Rượu trong ruột còn cơm trong bụng
Trưởng giả quát to gọi không về
Chẳng khác gì điếc, chẳng khác mù.

Tai của người đời đều tỏ rõ

Tai thông đặc biệt điếc với kinh

Mắt người thế gian đều sáng suốt

Mắt sáng đặc biệt, mù với kinh

Đáng nghe không rõ, đáng sáng không sáng

Ròng rọc lên xuống, sống luống chết uổng

Người đời dẫu biết tiếng của sư

Nào ai biết được tâm của sư

Người đời dẫu biết hình dáng sư

Nào ai biết được tên của sư

Sư tên Y Vương hành luật Phật

Đến điều tri bệnh tâm chúng sinh

Có thể làm cho người mê được tỉnh.

Người cuồng được định, người cấu thành tịnh, người tà thành chánh, người phàm Thánh Thánh. Như vậy thì chẳng những trời cung kính, người cung kính, còn được rồng tán vịnh, quỷ tán thành, Phật tán dương, thế thì những người bỏ giác theo trần không cúi đầu quy mệnh ư?

CHIẾU LƯƠNG HOÀNG BỎ ĐẠO GIÁO THỜ PHẬT

Lương cao Tổ Võ Hoàng Đế năm ba mươi bốn tuổi lên ngôi, làm vua được bốn mươi chín năm, tuy công việc triều chính bền bộn nhưng, tay vẫn không rời sách, nội kinh ngoại điển đều để tâm giải thoát, tất cả hơn mấy ngàn cuốn, lại còn tự mình tiết kiệm không dùng lụa, chỗ ngủ đơn sơ, đêm ngày siêng năng trong có đặt sẵn chăn vải, chiếu cói, giày cỏ, khăn gai lúc vừa lên ngôi đã chuẩn bị sẵn việc đó, hằng ngày chỉ ăn một bữa, bỏ hẳn đồ mặn. Từ lúc có vua, chúa ít có người được như thế. Trước kia vua thờ Lão Tử, tôn sùng bùa pháp, sau nghiên cứu kỹ cội nguồn thấy có điều luống dối, vua bèn dùng thần bút hạ chiếu bỏ Đạo giáo.

Văn ghi: Nay là ngày 8 tháng 4 niên hiệu Thiên Giám năm thứ ba, Hoàng Đế nước Lương là Tiêu Diễn ở Lam Lăng, cúi đầu kính lễ chư Phật mười phương, cũng thấy kinh ghi rằng: Phát tâm Bồ-đề tức tâm Phật, các điều lành khác không thể sánh bằng, có thể làm cho chúng sánh ra khỏi cửa khổ ba cõi, vào con đường thù thắng vô vi. Cho nên Như Lai trí lậu tận, thanh giác bất động, chí đạo thông cơ, hạnh viên mãn trở thành bậc Thánh, thắp đuốc trí tuệ để chiếu mê, soi dòng pháp để trừ cấu, mở dấu vết lành ở trong trời, soi sáng linh ghi ở ngoài tượng, độ chúng sinh mê hoặc trong biển dục, dẫn chúng sinh tới Niết-bàn, chứng thường lạc trên núi cao, ra khỏi vực sâu của sông ái, lời lẽ trái bốn câu, dứt trăm phi, ứng tích ở cõi Ta-bà, sinh vào cung vua Tịnh Phạn, lúc hạ sinh, bước ra ba cõi mà ra thành độc tôn, dưới cây đạo thành Phật ánh sáng tỏa khắp đại thiên, mà soi sáng, chỉ vì cơ tâm cạn cợt nhàm chán cuộc sống, tự hẹn hai tháng sẽ đến rừng sa-la, tôn sùng mới là nói pháp sâu sắc viên thường. Nên lại soi sáng ở Hạc Thụ, xà Vương diệt tội, Bà số trừ ương. Nếu gặp không được Đại Thánh Pháp Vương thì ai có thể cứu độ dắt dẫn được? Dấu vết ẩn đạo kia không thiếu. Trước đây đệ tử đã từng, chậm chạp, mê muội, hoang tưởng, mê thờ Lão tử, bao đời nối nhau nhiễm tà pháp này, tập nhân khéo phát, bỏ ngu mê biết quay về. Nay bỏ bạn đồng cốt cũ, nương nhờ Chánh giác, nguyện đời vị lai sẽ làm đồng nam xuất gia, mở mang Phật pháp hóa độ chúng sinh, cũng đồng thành Phật, thà ở trong chánh pháp mãi mãi luân hồi đường ác, chứ không thích theo Đạo giáo của Lão Tử, tạm được sinh lên cõi trời, tâm theo Đại thừa, lìa niệm là Nhị Thừa, kính nguyện chư Phật chứng minh, Bồ-tát nhiếp thọ, đệ tử Tiêu Diễn kính lễ.


[Đầu trang][Mục lục bộ Chư Tông][Mục lục tổng quát]