TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠP TẠNG

BỘ SỬ TRUYỆN

SỐ 2034 - LỊCH ĐẠI TAM BẢO KÝ

Soạn giả: Phí Trường Phòng Đời Tùy

MỤC LỤC

SỐ 2034 - LỊCH ĐẠI TAM BẢO KÝ

QUYỂN 1

A. CÁC ĐỜI VUA TẠI VỊ:

I. CHU TRANG VƯƠNG:

II. TẦN CHIÊU TƯƠNG VƯƠNG:

B. CÁC SỰ KIỆN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN PHẬT PHÁP:

I. ĐỜI CHU:

II. ĐỜI TẦN:

QUYỂN 2

A. CÁC ĐỜI VUA TẠI VỊ:

I. Thời Tiền Hán gồm có:

II. Thời Hậu Hán gồm có:

B. CÁC SỰ KIỆN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN PHẬT PHÁP:

I. ĐỜI TIỀN HÁN:

II. ĐỜI HẬU HÁN:

QUYỂN 3

A. NIÊN ĐẠI TRỊ VÌ CỦA CÁC VUA:

I. Về nhà Ngụy thì gồm có:

II. Về nhà Tây Tấn gồm có:

III. Về nhà Đông Tấn gồm có:

IV. Về nhà Tống gồm có:

V. Về nhà Tề gồm có:

VI. Về nhà Lương gồm có:

VII. Về nhà Chu gồm có:

VIII. Về nhà Đại Tùy

B. CÁC SỰ KIỆN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN TAM BẢO Ở CÁC NIÊN ĐẠI TRÊN:

NHÀ ĐÔNG TẤN:

Nhà Đại Tùy:

Nhà Đại Đường:

QUYỂN 4

CÁC KINH DỊCH Ở ĐỜI HẬU HÁN

QUYỂN 5

CÁC KINH DỊCH Ở ĐỜI NGỤY VÀ NGÔ

QUYỂN 6

CÁC KINH DỊCH Ở ĐỜI TÂY TẤN

QUYỂN 7

KINH ĐƯỢC DỊCH Ở ĐỜI ĐÔNG TẤN

QUYỂN 8

KINH DỊCH ĐỜI PHÙ TẤN-DIÊU TẦN

QUYỂN 9

KINH DỊCH Ở CÁC ĐỜI TÂY TẦN, BẮC LƯƠNG, NGUYÊN NGỤY, CAO TỀ VÀ TRẤN THỊ

QUYỂN 10

CÁC KINH DỊCH ĐỜI TỐNG

QUYỂN 11

CÁC KINH DỊCH Ở ĐỜI TỀ, LƯƠNG, CHU

QUYỂN 12

KINH DỊCH Ở NHÀ ĐẠI TÙY

QUYỂN 13

MỤC LỤC CÁC KINH ĐẠI THỪA NHẬP TẠNG

QUYỂN 14

MỤC LỤC CÁC KINH TIỂU THỪA NHẬP TẠNG

QUYỂN 15

BỘ LỜI TỰA KHAI HOÀNG TAM BẢO LỤC TỔNG MỤC

KHAI HOÀNG TAM BẢO LỤC-Quyển 1

KHAI HOÀNG TAM BẢO LỤC-Quyển 2

KHAI HOÀNG TAM BẢO LỤC-Quyển 3

KHAI HOÀNG TAM BẢO LỤC-Quyển 4

KHAI HOÀNG TAM BẢO LỤC-Quyển 5

KHAI HOÀNG TAM BẢO LỤC-Quyển 6

KHAI HOÀNG TAM BẢO LỤC-Quyển 7

KHAI HOÀNG TAM BẢO LỤC-Quyển 8

KHAI HOÀNG TAM BẢO LỤC-Quyển 9

KHAI HOÀNG TAM BẢO LỤC-Quyển 10

KHAI HOÀNG TAM BẢO LỤC-Quyển 11

KHAI HOÀNG TAM BẢO LỤC-Quyển 12

KHAI HOÀNG TAM BẢO LỤC-Quyển 13

KHAI HOÀNG TAM BẢO LỤC-Quyển 14

KHAI HOÀNG TAM BẢO LỤC-Quyển 15

 


QUYỂN 1

(Qua hai thời đại Chu-Tần)

Nói về niên đại các đời vua trước, là thuật lại việc Đức Như Lai thác sinh ngày nước Thân độc. Bấy giờ đang là triều Cơ, ở châu đang này.

Niên đại càng xa đời người càng sai lệch mới cũ so le nhau, chỉ ra mà nói thì trước sau càng mờ mịt. Nay trước hết trên thì lấy năm Giáp Tý làm chuẩn mực xưa nay, dưới thì lấy các niên đại nối tiếp của các vua làm giềng mối. Biết bao việc giao chức nhường ngôi hoặc chiếm đoạt làm bá chủ thì rõ ràng như gương trước mắt, cũng như việc thay chức đổi ngôi, mua bán triều đại, khác nào đường chỉ trên bàn tay. Sau đó mới xét qua các thi ân báo oán vỗ về phủ dụ và vận mệnh của các vua chúa, từng lúc thích hợp với sự truyền bá giáo hóa, tùy cơ độ người của Phật pháp. Kinh Phật cùng sách Khổng nghĩa lý đã cùng ngầm hợp nhau. Có thể gọi là Linh thần giáng khắp năm trời, điềm lành thông suốt cả chín châu vậy!

Bà thứ phi mẹ Cơ Xương nằm mộng thấy bậc Đại nhân, do đó cảm sinh ra một Xương. Thật là mặt rồng mày cọp, thân cao một trượng, ngực có bốn vú. Bờ cõi đến cả Tây nhung, quyền chính trùm khắp Đông tiệm. Chim Tước đỏ đến chầu, cãi xưng là nhà Chu. Tên thụy là Văn Vương. Đóng đô ở đất Phong, thâu lượm chôn cất xương khô, thiên hạ đều quy phục. Cho nên đức Khổng Phu tử nói rằng: "Đức của Văn Vương đẹp thay, không cần động binh mà cảm hóa được tất cả". Đến người con của ông là Võ Vương tên Phát, đem quân phạt vua Trụ, rồi dời đô về Cảo kinh, đến giữa đường gặp một người bị trúng nắng liền xuống xe mà quạt, vua tự coi thường địa vị muôn xe mà hết lòng thương yêu cả triệu dân. Cho nên ông Tôn Khanh cho rằng Võ Vương khi sinh ra một thì cả thiên hạ đều mừng vui ca hát, khi Võ Vương chết thì cả bốn biển đều buồn khóc.

Đến đời thứ mười chín, đời chúa Trang Vương tên Tha, ngày năm thứ mười, ngang với thời Xuân Thu, đời Lỗ Trang Công năm thứ bảy, mùa hạ tháng tư năm Tân Mão, đêm ấy không thấy sao Hằng chiếu sáng nữa. Đến giữa khuya thì các sao sa xuống như mưa. Xét ra đó là lúc Đức Như Lai đản sinh ở vương cung.

Các bậc Hiền đức thời xưa suy ra năm sinh của Phật có suýt soát nhau.

- Nếu căn cứ ngày Pháp Hiển truyện mà suy ra năm Phật sinh thì ngang với thời nhà Ân, năm Giáp Ngọ, niên hiệu Võ Ất thứ hai mươi sáu. Đến nay là năm Đinh Tỵ, niên hiệu Khai Hoàng thứ mười bảy thì đã cách năm sinh là 1681 năm.

- Nếu căn cứ ngày bộ "Sa-môn Pháp Thượng Đáp Cao Cú Ly Quốc Vấn" thì lúc đó là thời Tiền Chu, vua Chiêu, vương tà năm thứ hai mươi bốn giáp dần đến năm Đinh Tỵ thì cách năm Phật sinh là 1486 năm. Trích dẫn Mục Thiên Tử Biệt truyện để làm chứng thi khi, truyền ngôi cho con là Hạ Tử tên Mãn Mục Vương nghe Phật sinh ở thành Ca Duy bèn đi qua Ấn Độ sau đó không thấy trở về.

- Căn cứ ngày Tượng Chánh Ký thì lúc đó ngang thời Tiền Chu thứ mười bảy Bình Vương, Nghi Cửu năm thứ bốn mươi tám mậu ngọ, đến năm Đinh Tỵ này thì cách năm Phật sinh là 1323 năm.

- Căn cứ ngày đời Hậu Chu, ngài Sa-môn Thích Đạo An xét quyển La-thập niên kỷ và bài Thạch Trụ Minh, thì lúc đó là thời Tiền Chu vua thứ mười tám, Hoàn Vương Lâm thứ năm ất sửu, đến năm Đinh Tỵ này thì cách năm Phật sinh là 1225 năm.

- Căn cứ ngày Triệu Bách Lâm Vương, năm đầu niên hiệu Đại Đồng, ở Lô Sơn gặp được Hoằng Độ Luật sư xét theo quyển "Phật Diệt Độ Hậu Chúng Thánh Điểm Ký" thì lúc đó là thời Tiền Chu, vua thứ hai mươi chín Trinh Định vương lượng năm thư hai Giáp Tuất, đến năm Đinh Tỵ này thì cách năm Phật sinh là 1611 năm, chỉ có thời này là gần nhất.

Căn cứ ngày ba Tạng giáo và Thiện Kiến Luật có nói: "Vì sao Đức Phật không độ người nữ? Vì phép Kỉnh pháp vậy. Vì chánh pháp có một ngàn năm, nếu độ người nữ thì mất bớt năm trăm năm. Nên ngài ra phép tu Bát Kỉnh thì lại còn đủ một ngàn năm. Về sau thời tượng pháp cũng một ngàn năm và thời mạt pháp thì mười ngàn năm. Năm ngàn năm đầu thì có người học tam đạt trí và chứng được bốn quả, ngàn năm thứ sáu trở đi thì dù có học cũng không chứng đạo. Sau mười ngàn năm thì kinh điển văn tự tự nhiên mất hết chỉ còn thấy người cạo đầu và mặc áo ca-sa mà thôi. Đời Chánh pháp thì chất vị đạo pháp thuần là Đại thừa, đến đời Tượng pháp thì chất vị đạm bạc dần. Ngày đời Mạt pháp thì không còn pháp Đại thừa nữa, đám nô tỳ đi xuất gia làm hoen ố tịnh hạnh. Vua dữ trị đời, đóng thuế Tăng Ni. Nay thì chưa như thế. Do vì chánh và tượng pháp chưa cách xa lắm, Tam bảo vẫn còn có Đại thừa hưng thịnh khắp nơi, thì đâu thể nói đã thuộc đời Mạt pháp ư?

- Nay căn cứ ngày các kinh Phổ Diệu Bản Hạnh... và tra xét lại các sử nước Lỗ, chỉ xin nêu ra một góc cạnh nhỏ, kính nhường lại các bậc hiền triết sau này để tuyên bày Thánh tích đã khéo léo quyền biến thác sinh. Ngày mồng tám tháng tư năm Quý Tỵ ngày thời Trang Vương thứ chín, Đức Phật hiện hình voi trắng từ cung trời Đâu-suất giáng thần ngày hông phải của đệ nhất phu nhân hoàng hậu Ma-gia của vua Tịnh Phạn ở thành Catỳ-la, nước Trung Thiên Trúc. Lúc bấy giờ chư Thiên ngầm bảo vệ thai tàng rất kín đáo, người thế gian khó biết. Ngày đêm mồng tám tháng hai nhằm tiết Trọng xuân năm thứ mười, lúc các quỷ thần hội họp, thì ở khu vườn Lâm-tỳ dưới cây Ba-la, Đức Phật sinh ra một từ hông phải, việc sinh ra một đã rõ ràng nên trong kinh Phổ Diệu nói rằng: Phóng ánh sáng lớn chiếu khắp tam thiên thế giới. Tức là trong Tả truyện nói: " Không còn thấy sao Hằng xuất hiện chiếu sáng giữa đêm khuya". Trong kinh Thụy Ứng nói rằng: "Sao Phất hiện xuống hầu thái tử sinh ra", cho nên trong Tả truyện kể việc các sao sa xuống như mưa. Trong kinh Bản Hạnh nói: trên hư không chẳng có mây mà mưa lớn tự nhiên ào xuống. Đỗ thị chú giải rằng lúc đó không có mây, Tả truyện thì bảo cũng đều có mưa. Nhưng theo lịch của Cơ Chu thì tháng mười một làm chính, mà nói tháng tư thì tức là ngày mồng năm tháng hai năm Tân Mão, vậy sử nước Lỗ là sai. Ngài Sa-môn Đạo An soạn ra hai thứ luận và kinh, dùng lịch Cơ Chu suy ra thì hợp ngày mồng tám. Ngày sinh và ngày thành đạo cùng là ngày mồng tám nhưng chỉ cách nhau ba mươi năm. Đến niên hiệu Hy Vương nguyên niên, năm Canh Tý, lúc Phật bảy tuổi, ngài ngồi xe dê đến trường học. Đến năm Quý Mão (Hy Vương năm thứ tư), lúc ngài mười tuổi thì đã cùng các bạn đồng học thuộc dòng họ Thích tranh tài. Lúc ngài mười bốn tuổi, nhằm năm Đinh Mùi thời huệ Vương năm thứ ba, ngài xin phép vua cha đi dạo chơi bốn cửa thành. Khi đến cửa thành phía đông gặp một người bệnh, ngài bèn trở về. Năm huệ Vương thứ sáu, ngày năm Canh Tuất, lúc mười bảy tuổi, ngài cưới Công chúa tên Cầu Di. Năm huệ Vương thứ tám, năm Nhâm Tý lúc ngài lên mười chín tuổi, ngày nửa đêm ngày mồng tám tháng tư ngài vượt thành xuất gia.

- Kinh Thập Nhị Du nói rằng: Phật xuất gia năm hai mươi tuổi. Kinh Tăng Nhất A-hàm quyển hai mươi bốn thì nói ngài xuất gia năm hai mươi chín tuổi, xuất gia vì muốn hóa độ mọi người. Lại nói: Năm hai mươi tuổi, ngài học với ngoại đạo. Kinh Trường A-hàm cũng nói: Ngài xuất gia năm hai mươi chín tuổi. Nhưng suy ra cả đời Như Lai chỉ sống có bảy mươi chín năm. Nếu năm hai mươi chín tuổi xuất gia, năm ba mươi lăm tuổi thành đạo, thì suốt cuộc đời thuyết pháp độ sinh của ngài chỉ có bốn mươi lăm năm. Nhưng trong kinh Thiền Yếu có nói: Đức Thích-ca trọn đời giáo hóa chúng sinh suốt bốn mươi chín năm. Các kinh phần lớn đều nói là Phật xuất gia lúc mười chín tuổi. Nay lấy đây làm đúng. Nếu lấy hai mươi chín tuổi xuất gia, năm ba mươi lăm tuổi thành đạo thì ít có kinh nói. Và lại nếu lấy hai mươi năm theo học với ngoại đạo thì phải năm mươi tuổi mới thành đạo. Do đó mà biết là sai. Năm Phật ba mươi tuổi, ngày năm Quý Hợi, thời huệ Vương thứ mười chín, ngày mồng tám tháng hai khi sao mai vừa xuất hiện thì ngài bừng sáng giác ngộ thành đạo Vô thượng.

Trong kinh Bát-nê-hoàn, quyển hạ. Đức Phật bảo A-nan rằng: Từ khi ta thành đạo đến nay cũng được bốn mươi chín năm. Phật rất khó gặp vì phải một ức bốn ngàn vạn năm nữa mới có Đức Phật Di-lặc. Trong Thiền Yếu nói rằng: Như Lai thành đạo suốt bốn mươi chín năm cùng một chất vị. Kinh Trường A-hàm quyển năm nói rằng: Phật bảo Tu-bạt: Ta thành Phật đến nay đã được năm mươi năm rồi.

- Suốt bốn mươi chín năm ngài châu thế gian cùng hàng Trời, Người, Rồng, Thần thuyết pháp giáo hóa khiến ai nấy đều được giải thoát và chứng được bốn quả. Đám người không tin đối nghịch cũng nhiều như cát sông Hằng, mà số kẻ lìa khỏi ba đường dữ sinh làm trời người cũng đông không kể xiết. Khi cảm duyên của chúng sinh đã hết, giữa khuya ngày rằm tháng hai nhằm năm Nhâm Tý, vua Khuông Vương năm thứ tư, Đức Phật nhập Niết-bàn tại thành Câu-thi-na ở Trung Thiên Trúc. Từ đó đến bấy giờ là năm Định Tỵ, niên hiệu Khai

Hoàng thứ mười bảy thì đã cách 1250 năm, khi cặp mắt sáng của thế gian đã tắt.

Kinh Niết-bàn và luật Thiện Kiến đều nói đó là ngày rằm tháng hai. Nhưng kinh Bồ-tát Xử Thai lại nói: Phật nhập Niết-bàn ngày tám tháng hai. Lại nói rằng: lúc sinh ra, khi chứng đạo và nhập Niếtbàn đều là ngày tám tháng tư. Các bậc Tiên đức và hàng dịch giả từ xưa đều nói đáng lẽ ngày tháng hai. Vì sao? Vì từ thành Vương xá cách kinh thành nước Câu-di khoảng ba ngàn dặm. Sau khi Đức Phật diệt độ bảy ngày thì các đệ tử mới trà-tỳ (thiêu) rồi phân tán. Ngài Ca-diếp mới đi về thành Vương xá trước mùa Hạ để an cư mà kết tập các pháp tạng. Ngài đem cả đại chúng dù ngu hay trí đều cùng đến thành Vương xá, sau đó mới kiểm tra và chọn lựa người giỏi. Không chấp nhận là phải đến ngay trong ngày ấy. Nhưng các kinh khác đều nói là cùng đến ngay trong đêm Phật nhập Niếtbàn. Chỉ có luật Thiện Kiến là riêng nói là lúc trời vừa sáng. Kinh giải thích về lúc nhập Niết-bàn nó biểu thị một ý nghĩa lớn về Phật Nhật (mặt trời Phật) hiện ra với chúng sinh. Nếu nhập Niết-bàn ngày khoảng đầu đêm lúc trời chưa bắt đầu sáng là biểu thị Đức Phật sau còn lâu lắm mới ra đời. Nếu nhập diệt lúc nửa đêm thì việc xuất hiện Phật sau sẽ ở mức trung bình. Còn nhập diệt ngày lúc cuối đêm gần sáng, thì không bao lâu nữa Đức Phật sau sẽ ra đời. Đức Di-lặc sẽ ra đời khoảng một ức năm sau, lại không phải ở kiếp khác. Vậy thời gian nhập diệt ngày giữa đêm là đúng.

- Trong Dục Vương truyện nói rằng: Sau khi Phật nhập Niết-bàn được một trăm mười sáu năm, ở cõi Diêm-phù-đề có đức vua tên là A-du-già, đi sang phía đông nước Thiên Trúc trị vì thành Hoa thị, ra lệnh thâu lấy xá-lợi Phật đem phân bố thờ phượng khắp tám vạn bốn ngàn bảo tháp bao quanh khắp cõi Diêm-phù-đề. Nói tóm tắc là muốn truyền bá khắp cõi Thiên Trúc, và cả nước thành Chân Đan, tả hữu Gian Hán, Đông Tây Quan, Lũng, tất cả mọi nơi đều có. Lúc đó là năm Đinh Mùi ở đời Châu Kỉnh Vương thứ hai mươi sáu. Từ đời Võ Vương cho đến Mãn gồm có ba trăm mười chín đời vua trải suốt tám trăm tám mươi bốn năm, đóng đô ở đất Phong và ấp Cảo lạc. Lập ra lịch nhà Chu cho dân dùng khắp nơi. Cho đến Doanh Chiêu Tương Vương tên Lập ngày năm năm mươi hai thì diệt nhà Chu, xưng là Tần, đổi tên Cảo Kinh thành ra Hàm Dương, nhưng vẫn giữ làm kinh đô. Đến đời vua thứ tư Tần Thủy Hoàng đế tên Chánh, năm thứ hai mươi sáu bèn diệt tan sáu nước, năm thứ hai mươi bảy phế bỏ chín châu, phân thiên hạ ra làm ba mươi sáu quận. Đến năm thứ ba mươi bốn thì tất cả sách vở kinh điển đều bị đốt sạch, chỉ trừ sách thuốc là không đốt, còn thì tất cả đều thành tro. Do đó mà Thánh giáo và các Linh tích ở đời Chu và việc vua A-dục xây dựng tháp Xá-lợi, các truyện ký ghi chép đều bị đốt sạch không biết dựa ngày đâu.

Lại thời Tần Thủy Hoàng có các Sa-môn Thích Lợi Phòng... cả thảy mười tám Hiền giả, đem kinh đến giáo hóa, nhưng Tần Thủy Hoàng không cho, bèn bắt giam đám Lợi Phòng... Đêm đến, có sáu vị mang gậy Kim Cang đến phá ngục thả ra. Tần Thủy Hoàng sợ hãi cúi đầu tạ lỗi. Đến đời vua thứ tư năm thứ bốn mươi chín Tần bị nhà Hán diệt. Bắt đầu năm đầu tiên của Chu Võ Vương là năm Kỷ não và đời Tần Nhị Thế chấm dứt ngày năm Giáp Ngọ. Trong khoảng thời gian đó chín trăm ba mươi ba năm có bốn mươi hai vua. Đời Chu có mười sáu vua trong bốn trăm năm mươi ba năm. Khi chưa có tiếng gọi Phật thì không ghi chép. Cho đến từ thời Chu Trang Vương thì Như Lai ra đời. Từ đó cho đến đời Hán mới có ghi chép các niên lịch. Gồm cả hai mươi sáu đời vua trong bốn trăm tám mươi mốt năm ghi chép gộp lại gọi là Sử đời Chu Tần, nói về việc giáo pháp của Phật được truyền sang Đông Độ.

A. CÁC ĐỜI VUA TẠI VỊ:

I. CHU TRANG VƯƠNG:

Làm vua mười lăm năm (696-682). Nay chỉ lấy sáu năm ghi ngày Sử lục: Phật ra đời (năm 687 trước CN)

Chu Hy vương: Làm vua năm năm (681-677) Chu Huệ vương: Làm vua hai mươi lăm năm (676-652) Chu Tương vương: Làm vua ba mươi ba năm (651-619) Chu Khoảnh vương: Làm vua sáu năm (618-613)

Chu Khuông làm vua sáu năm (612-607): Phật nhập Niết-bàn ngày 8 tháng 2 năm Khuông Vương thứ tư (609 trước CN)

Chu Định vương: Làm vua hai mươi mốt năm (606-586) Chu Giản vương: Làm vua mười bốn năm (585-572) Chu Linh vương: Làm vua hai mươi bảy năm (571-545) Chu Cảnh vương: Làm vua hai mươi lăm năm (544-520)

Chu Kỉnh vương: Làm vua bốn mươi ba năm. Năm thứ hai mươi sáu thì vua A-dục khởi xây tám vạn bốn ngàn bảo tháp (494 trước CN)

Chu Nguyên vương: Làm vua tám năm (475469 = 7 năm) Chu Trinh Định vương: Làm vua hai mươi tám năm (468-441) Chu Hiếu vương: Làm vua mười lăm năm (440-426)

Chu Oai Liệt vương: Làm vua hai mươi bốn năm. Chu Nguyên An vương: Làm vua hai mươi sáu năm. Chu Di Liệt vương: Làm vua bảy năm.

Chu Hiển Thánh vương: Làm vua bốn mươi tám năm.

Chu Thuận Tịnh vương: Làm vua sáu năm. Chu Nản vương: Làm vua năm mươi chín năm.

II. TẦN CHIÊU TƯƠNG VƯƠNG:

Làm vua năm năm. Tần Hiếu Văn vương: Làm vua một năm.

Tần Trang Tương vương: Làm vua ba năm.

Tần Thủy Hoàng đế: Làm vua ba mươi bảy năm. Tần Nhị Thế Hoàng đế: Làm vua ba năm.

B. CÁC SỰ KIỆN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN PHẬT PHÁP:

I. ĐỜI CHU:

Năm Giáp Ngọ, đời Chu Trang vương tên Tha, năm thứ 10 ngày 08 Tháng 2 (687 trước CN), Đức Thích-ca Như Lai giáng thần thác sinh ngày cung vua Tịnh Phạn, thành Ca-tỳ-la, nước Trung Thiên Trúc. Lúc đó phóng quang chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới đều sáng rực rỡ. Tức là Tả truyện Lỗ Xuân Thu bảo là "Đêm ấy sao Hằng không thấy hiện ra chiếu sáng vậy".

Năm Ất Mùi, năm thứ mười một. Năm Bính Thân, năm thứ mười hai. Năm Đinh Dậu, năm thứ mười ba. Năm mậu Tuất, năm thứ mười bốn. Năm Kỷ Hợi, năm thứ mười lăm.

Năm Canh Tý, đời Hy Trang vương tên Hô Tề, năm thứ nhất, kinh Phổ Diệu quyển thứ ba nói rằng: Thái tử Tất-đạt-đa bảy tuổi, ngồi xe dê đến trường học với thầy tên là Tuyển Hữu (tức năm 681 trước CN).

Năm Tân Sửu, năm thứ hai. Năm Nhâm Dần, năm thứ ba.

Năm Quý Mão, năm thứ tư (678). Kinh Hiện Tại Nhân Quả nói rằng: Khi Thái tử Tất-đạt-đa mười tuổi, ngài cùng các bạn đồng học đồng tuổi thuộc dòng họ Thích khoảng năm trăm người cùng thi đấu, tức năm này (678 trước CN).

Năm Giáp Thìn, năm thứ năm.

Năm Ất Tỵ, năm đầu, đời Chu huệ vương, tên Lãng. Phật mười hai tuổi.

Năm Bính Ngọ, năm thứ hai.

Năm Đinh Mùi, năm thứ ba. Kinh Thụy Ứng Bản Khởi, quyển Thượng nói rằng: Thái tử tuổi đã mười bốn, xin phép vua cha ra ngoài thành dạo chơi. Khi đến cửa thành phía Đông thì gặp một người bệnh liền trở về.

Năm Mậu Thân, năm thứ tư. Năm Kỷ Dậu, năm thứ năm.

Năm Canh Tuất, năm thứ sáu. Kinh Thụy Ứng Bản Khởi quyển Thượng nói rằng: Thái tử đã mười bảy tuổi, vua cưới vợ cho tên là Cầu-di.

Năm Tân Hợi, năm thứ bảy.

Năm Nhâm Tý, năm thứ tám. Kinh Thụy Ứng Bản Khởi quyển Thượng nói rằng: Thái tử tuổi đã mười chín, ngày tám tháng tư, nửa đêm Chư Thiên ở trong cửa sổ khoanh tay thưa: " đã đến giờ nên đi!" thái tử liền cho ngựa ra đi. Nói giống với kinh Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả.

Năm Quý Sửu, năm thứ chín. Năm Giáp Dần, năm thứ mười. Năm Ất Mão, năm thứ mười một.

Năm Bính Thìn, năm thứ mười hai. Năm Đinh Tỵ, năm thứ mười ba.

Năm Mậu Ngọ, năm thứ mười bốn. Năm Kỷ Mùi, năm thứ mười lăm. Năm Canh Thân, năm thứ mười sáu. Năm Tân Dậu, năm thứ mười bảy.

Năm Nhâm Tuất, năm thứ mười tám. Kinh Phật Bổn Hạnh Tập nói rằng: Bồ-tát sau sáu năm tu khổ hạnh đã ngày, ngày mùa Xuân, ngày mười sáu tháng hai, ngài tự nghĩ: Cần phải ăn uống đầy đủ thì mới chứng quả Bồ-đề. Chư Thiên liền hóa ra hai thiếu nữ nấu mười sáu phần cháu sữa đem đến cúng thí. Đến buổi sáng ngày 23 tháng 2 ngài tự đi khất thực.

Năm Quý Hợi, năm thứ mười chín. Phật mới thành đạo. Kinh Phổ Diệu quyển sáu nói: Khi sao Mai mới mọc Bồ-tát liền hoát nhiên đại ngộ. Kinh lại nói: Mười chín tuổi xuất gia, ba mươi tuổi thành đạo, công thành chí thỏa, tất cả đều thấu suốt, kinh Thập Nhị Du nói rằng: Đức Phật từ mồng tám tháng tư đến rằm tháng bảy ngồi dưới gốc cây xem như một năm.

Năm Giáp Tý, năm thứ hai mươi. Sang năm thứ hai đến vườn Lộc giả nói pháp độ các thầy A-nhãcâu-lân... luật Di-sa-tắc quyển hai mươi mốt nói rằng: Đức Phật nghĩ nhớ muốn nói pháp cho ông Uất-đầu-lam-phất. Nhưng chư Thiên thưa rằng: "Ông vừa mới mạng chung ngày hôm qua".

Năm Ất Sửu, năm thứ hai mươi mốt. Sang năm thứ ba, Đức Phật nói pháp cho ba anh em ông Ưulâu-tần-loa Ca-diếp, cùng độ các đệ tử của họ gồm cả ngàn Tỳ-kheo.

Năm Bính Dần, năm thứ hai mươi hai. Sang năm thứ tư, ở trên đỉnh núi Già-da, Đức Phật nói pháp cho các loài rồng, quỷ, tức là núi Tượng đầu. Năm Đinh Mão, năm thứ hai mươi ba. Đến năm thứ năm, Xá-lợi-phất đang tu theo đạo Bà-la-môn, gặp đệ tử Phật là ngài Tỳ-kheo Mã Thắng liền hỏi: Thầy theo đạo nào? Đáp: Tôi là đệ tử của Đức Phật và nói kệ pháp cho nghe, Xá-lợi-phất liền chứng được Sơ quả".

Ngài Xá-lợi-phất trở về rủ ngài Mục-liên cùng đến chỗ Phật. Ngài Xá-lợi-phất là bậc Thượng trí nên vừa trải qua bảy ngày học với Phật liền chứng quả A-la-hán, còn ngài Mục-liên thì phải mười lăm ngày mới đắc quả.

Năm Mậu Thìn, năm thứ hai mươi bốn. Sang năm thứ sáu, ông trưởng giả Tu-đạt và thái tử Kỳđà, cùng xây dựng tinh xá mười hai ngôi chùa (phù đồ) bảy mươi hai giảng đường, ba ngàn sáu trăm gian phòng và năm trăm lầu gác cho chư Tăng. Đèn do Tu đạt làm, Thái tử Kỳ-đà chỉ xây dựng cổng ngày và lầu, phòng...

Năm Kỷ Tỵ, năm thứ hai mươi lăm. Sang năm thứ bảy, tại vườn Câu-da-ni, Đức Phật nói kinh Bát Chu cho nhóm Bồ-tát Bà-đà-hòa cả thảy tám vị.

Năm Canh Ngọ, năm đầu đời vua Chu Tương Vương, tên Trịnh. Đó là năm thứ tám sau ngày thành đạo, Đức Phật châu núi Liễu sơn, nói pháp cho vương đệ là Thuần Chân-đà-la, vị này chứng đạo. Năm ấy Phật ba mươi bảy tuổi.

Năm Tân Mùi, năm thứ hai. Sang năm thứ chín, tại vùng Uế trạch, Đức Phật nói pháp độ A-quật ma.

Năm Nhâm Thân, năm thứ ba. Sang năm thứ mười, Đức Phật trở về nước Ma-kiệt-đề, nói pháp độ vua Phất-sa.

Năm Quý Dậu, năm thứ tư. Tức năm mười một sau khi thành đạo, Đức Phật ở dưới gốc cây Khủng bố, nói kinh Bổn Khởi cho ngài Di-lặc, tức kinh Tu Hạnh Bổn Khởi...

Năm Giáp Tuất, năm thứ năm. Tức năm thứ mười hai, Đức Phật trở về bổn quốc nói pháp độ cho tám vạn bốn ngàn người họ Thích đều được chứng quả Tu-đà-hoàn, kinh Thập Nhị Du nói như thế. Còn kinh Phổ Diệu quyển tám nói rằng: Vua cha sai Phạm chí tên Ưu-đà đến thỉnh Phật trở về nước. Vì từ lúc Phật thành đạo tự xưng là bậc Giác ngộ đến nay cách biệt đã mười hai năm, vua rất nhớ thương muốn gặp mặt.

Năm Ất Hợi, năm thứ sáu. Năm Bính Tý, năm thứ bảy. Năm Đinh Sửu, năm thứ tám.

Năm Mậu Dần, năm thứ chín. Kinh Đại Tập quyển một nói rằng: Đức Như Lai thành đạo mới mười sáu năm, rõ biết các Bồ-tát có thể gánh vác thọ trì Pháp tạng Đại thừa, liền châu Trung gian Đại bảo phường giữa hai cõi Dục và Sắc mà nói kinh Đại Tập.

Năm Kỷ Mão, năm thứ mười.

Năm Canh Thìn, năm thứ mười một. Năm Tân Tỵ, năm thứ mười hai.

Năm Nhâm Ngọ, năm thứ mười ba. Năm Quý Mùi, năm thứ mười bốn. Năm Giáp Thân, năm thứ mười lăm. Năm Ất Dậu, năm thứ mười sáu.

Năm Bính Tuất, năm thứ mười bảy. Năm Đinh Hợi, năm thứ mười tám. Năm Mậu Tý, năm thứ mười chín. Năm Kỷ Sửu, năm thứ hai mươi.

Năm Canh Dần, năm thứ hai mươi mốt. Năm Tân Mão, năm thứ hai mươi hai. Năm Nhâm Thìn, năm thứ hai mươi ba. Năm Quý Tỵ, năm thứ hai mươi bốn.

Năm Giáp Ngọ, năm thứ hai mươi lăm. Năm Ất Mùi, năm thứ hai mươi sáu.

Năm Bính Thân, năm thứ hai mươi bảy. Năm

Đinh Dậu, năm thứ hai mươi tám. Năm Mậu Tuất, năm thứ hai mươi chín. Năm Kỷ Hợi, năm thứ ba mươi.

Năm Canh Tý, năm thứ ba mươi mốt. Năm Tân Sửu, năm thứ ba mươi hai. Năm Nhâm Dần, năm thứ ba mươi ba.

Năm Quý Mão, năm đầu đời vua Chu Khoảnh Vương tên Thần.

Năm ấy Phật đã bảy mươi tuổi (Phật lịch: 70) Năm Giáp Thìn, năm thứ hai.

Năm Ất Tỵ, năm thứ ba. Năm Bính Ngọ, năm thứ tư.

Năm Đinh Mùi, năm thứ năm.

Năm Mậu Thân, năm thứ sáu.

Năm Kỷ Dậu, năm đầu đời Chu Khuông

Vương, tên Ban. Phật được bảy mươi sáu tuổi.

Năm Canh Tuất, năm thứ hai. Năm Tân Hợi, năm thứ ba.

Năm Nhâm Tý, năm thứ tư. Đức Phật đã bảy mươi chín tuổi ngày năm thứ tư đời Chu Khuông Vương, ngày lúc cuối đêm ngày rằm tháng hai, tại khu đất Lực sĩ sinh, thành Câu-thi-na nước Trung Thiên Trúc, giữa khoảng rừng cây Ta-la song thọ, Đức Phật đã nhập Niết-bàn.

Năm Quý Sửu, năm thứ năm. Năm Giáp Dần, năm thứ sáu.

Năm Ất Mão, năm đầu đời Chu Định Vương tên Du, Đức Phật nhập Niết-bàn đã được bốn năm.

Năm Bính Thìn, năm thứ hai. Năm Đinh Tỵ, năm thứ ba.

Năm Mậu Ngọ, năm thứ tư. Năm Kỷ Mùi, năm thứ năm. Năm Canh Thân, năm thứ sáu. Năm Tân Dậu, năm thứ bảy. Năm Nhâm Tuất, năm thứ tám. Năm Quý Hợi, năm thứ chín.

Năm Giáp Tý, năm thứ mười. Năm Ất Sửu, năm thứ mười một. Năm Bính Dần, năm thứ mười hai. Năm Đinh Mão, năm thứ mười ba.

Năm Mậu Thìn, năm thứ mười bốn. Năm Kỷ Tỵ, năm thứ mười lăm.

Năm Canh Ngọ, năm thứ mười sáu. Năm Tân Mùi, năm thứ mười bảy.

Năm Nhâm Thân, năm thứ mười tám. Như Lai diệt độ đã hơn hai mươi năm. Ngài Trưởng lão Cadiếp giữ gìn Dật Tạng (Luật tạng?) Phó chúc lại cho ngài A-nan, sau đó mới nhập diệt. Trích trong Tượng Pháp Chánh Ký.

Năm Quý Dậu, năm thứ mười chín. Năm Giáp Tuất, năm thứ hai mươi. Năm Ất Hợi, năm thứ hai mươi mốt.

Năm Bính Tý, năm đầu đời Chu Giản Vương tên Di. Đức Phật nhập Niết-bàn đã được hai mươi lăm năm.

Năm Đinh Sửu, năm thứ hai. Năm Mậu Dần, năm thứ ba. Năm Kỷ Mão, năm thứ tư.

Năm Canh Thìn, năm thứ năm. Năm Tân Tỵ, năm thứ sáu.

Năm Nhâm Ngọ, năm thứ bảy. Năm Quý Mùi, năm thứ tám. Năm Giáp Thân, năm thứ chín. Năm Ất Dậu, năm thứ mười.

Năm Bính Tuất, năm thứ mười một. Năm Đinh Hợi, năm thứ mười hai. Năm Mậu Tý, năm thứ mười ba.

Năm Kỷ Sửu, năm thứ mười bốn.

Năm Canh Dần, năm đầu đời Chu Linh Vương tên Tiết Tâm. Đức Phật nhập Niết-bàn đã được ba mươi chín năm.

Năm Tân Mão, năm thứ hai.

Năm Nhâm Thìn, năm thứ ba. Ngài Ca-diếp đã diệt độ được hai mươi năm. Ngài A-nan giữ gìn Pháp tạng. Về sau phó chúc cho ngài Mạt-điền-địa, rồi mới nhập diệt. Cũng trích từ Tượng Pháp Chánh Ký.

Năm Quý Tỵ, năm thứ tư. Năm Giáp Ngọ, năm thứ năm. Năm Ất Mùi, năm thứ sáu.

Năm Bính Thân, năm thứ bảy. Năm Đinh Dậu, năm thứ tám. Năm Mậu Tuất, năm thứ chín. Năm Kỷ Hợi, năm thứ mười.

Năm Canh Tý, năm thứ mười một. Năm Tân Sửu, năm thứ mười hai. Năm Nhâm Dần, năm thứ mười ba. Năm Quý Mão, năm thứ mười bốn. Năm Giáp Thìn, năm thứ mười lăm. Năm Ất Tỵ, năm thứ mười sáu.

Năm Bính Ngọ, năm thứ mười bảy. Năm Đinh Mùi, năm thứ mười tám. Năm Mậu Thân, năm thứ mười chín. Năm Kỷ Dậu, năm thứ hai mươi.

Năm Canh Tuất, năm thứ hai mươi mốt. Tháng mười một, năm Canh Tý, Khổng Tử sinh ra tại nước Lỗ, là năm Lỗ Tương Công thứ hai mươi hai (tức 551 trước CN).

Năm Tân Hợi, năm thứ hai mươi hai.

Năm Nhâm Tý, năm thứ hai mươi ba. Sau khi ngài Mạt-điền-địa nhập diệt thì ngài Xá-na-bà tu giữ gìn Pháp tạng cũng hai mươi năm, rồi phó chúc cho ngài Ưu-ba-quật-đa, sau đó mới diệt độ.

Năm Quý Sửu, năm thứ hai mươi bốn. Năm Giáp Dần, năm thứ hai mươi lăm. Năm Ất Mão, năm thứ hai mươi sáu.

Năm Bính Thìn, năm thứ hai mươi bảy.

Năm Đinh Tỵ, năm đầu đời Chu Cảnh Vương tên Quý. Ngô vương Tử Lý Trác đến triều kiến xin xem âm nhạc nhà Châu. Năm này Phật nhập Niếtbàn đã được sáu mươi sáu năm.

Năm Mậu Ngọ, năm thứ hai. Năm Kỷ Mùi, năm thứ ba.

Năm Canh Thân, năm thứ tư.

Năm Tân Dậu, năm thứ năm. Phổ Hàn Tuyên Tử đích thân đến dâng sách cho Thái Sử Thị.

Năm Nhâm Tuất, năm thứ sáu. Năm Quý Hợi, năm thứ bảy.

Năm Giáp Tý, năm thứ tám. Năm Ất Sửu, năm thứ chín.

Năm Bính Dần, năm thứ mười. Đức Khổng Tử hỏi về Lễ với Lão Đam (Lão Tử).

Năm Đinh Mão, năm thứ mười một. Năm Mậu Thìn, năm thứ mười hai. Năm Kỷ Tỵ, năm thứ mười ba.

Năm Canh Ngọ, năm thứ mười bốn. Năm Tân Mùi, năm thứ mười lăm.

Năm Nhâm Thân, năm thứ mười sáu. Sau khi ngài Xá-na-bà-tu diệt độ, thì ngài Ưu-bà-quật-đa giữ gìn Pháp tạng cũng được hai mươi năm rồi phó chúc cho ngài Đề-đa-ca, tên là Thi-la-nan-đà rồi mới diệt độ.

Năm Quý Dậu, năm thứ mười bảy. Năm Giáp Tuất, năm thứ mười tám. Năm Ất Hợi, năm thứ mười chín.

Năm Bính Tý, năm thứ hai mươi.

Năm Đinh Sửu, năm thứ hai mươi mốt. Năm Mậu Dần, năm thứ hai mươi hai.

Năm Kỷ Mão, năm thứ hai mươi ba. Năm Canh Thìn, năm thứ hai mươi bốn. Năm Tân Tỵ, năm thứ hai mươi lăm.

Năm Nhâm Ngọ, năm đầu đời Chu Kỉnh Vương tên Chính, Phật nhập Niết-bàn đã được chín mươi mốt năm.

Năm Quý Mùi, năm thứ hai. Năm Giáp Thân, năm thứ ba. Năm Ất Dậu, năm thứ tư.

Năm Bính Tuất, năm thứ năm. Năm Đinh Hợi, năm thứ sáu. Năm Mậu Tý, năm thứ bảy.

Năm Kỷ Sửu, năm thứ tám. Năm Canh Dần, năm thứ chín. Năm Tân Mão, năm thứ mười.

Năm Nhâm Thìn, năm thứ mười một. Ngài Ưuba-quật-đa mất rồi thì ngài Thi-la-nan-đà giữ gìn Pháp tạng trải qua một trăm năm. Đây tức là một trăm năm đầu thứ hai. Nhưng có ngài Đề-đa-ca rất thông minh trí huệ nên chỉ ba ngày mà chứng được quả A-la-hán. Ngài hóa độ mười hai ức người đều đắc đạo.

Năm Quý Tỵ, năm thứ mười hai. Năm Giáp Ngọ, năm thứ mười ba. Năm Ất Mùi, năm thứ mười bốn. Năm Bính Thân, năm thứ mười lăm. Năm Đinh Dậu, năm thứ mười sáu. Năm Mậu Tuất, năm thứ mười bảy. Năm Kỷ Hợi, năm thứ mười tám.

Năm Canh Tý, năm thứ mười chín. Năm Tân Sửu, năm thứ hai mươi.

Năm Nhâm Dần, năm thứ hai mươi mốt.

Năm Quý Mão, năm thứ hai mươi hai. Đức

Khổng Tử ra khỏi nước Vệ Tử Lộ làm Lý Thị Tể. Năm Giáp Thìn, năm thứ hai mươi ba.

Năm Ất Tỵ, năm thứ hai mươi bốn. Năm này đức Khổng Tử sang nước Trần.

Năm Bính Ngọ, năm thứ hai mươi lăm.

Năm Đinh Mùi, năm thứ hai mươi sáu. A-dục Vương truyện nói rằng: Sau khi Phật diệt độ một trăm mười sáu năm thì vua A-dục xuất hiện ở nước Đông Thiên Trúc, trị vì thành Hoa thị thống lãnh cõi Diêm-phù-đề, làm Thiết luân vương làm hưng thịnh Phật pháp, xây dựng cả tám vạn bốn ngàn Bảo tháp, là năm này (494 trước CN).

Năm Mậu Thân, năm thứ hai mươi bảy. Năm Kỷ Dậu, năm thứ hai mươi tám.

Năm Canh Tuất, năm thứ hai mươi chín. Năm Tân Hợi, năm thứ ba mươi.

Năm Nhâm Tý, năm thứ ba mươi mốt. Năm Quý Sửu, năm thứ ba mươi hai. Năm Giáp Dần, năm thứ ba mươi ba. Năm Ất Mão, năm thứ ba mươi bốn.

Năm Bính Thìn, năm thứ ba mươi lăm. Khổng Tử từ nước Trần sang nước Vệ.

Năm Đinh Tỵ, năm thứ ba mươi sáu. Ở nước Triệu, Khổng Tử lại san định Lục Kinh, lúc đó ngài sáu mươi tám tuổi. Lúc đó nhầm đời Lỗ Ai Công thứ mười một (484 trước CN).

Năm Mậu Ngọ, năm thứ ba mươi bảy. Năm Kỷ Mùi, năm thứ ba mươi tám.

Năm Canh Thân, năm thứ ba mươi chín, tức năm thứ mười bốn đời Lỗ Ai Công ngày tháng 2 thì bắt được Kỳ lân. Cũng ngày năm này Khổng Tử dừng bút không viết sách nữa.

Năm Tân Dậu, năm thứ bốn mươi.

Năm Nhâm Tuất, năm thứ bốn mươi mốt. Đức Khổng Tử tạ thế. Ngài thọ được bảy mươi ba tuổi. Kinh Xuân Thu ở phần sử nước Lỗ nói Khổng Tử ngừng bút lúc bắt được Kỳ Lân là năm Canh Thân. Kinh Xuân Thu ghi các việc suốt hai trăm bốn mươi hai năm. Các đệ tử của Khổng Tử kéo dài thêm hai năm đến lúc ngài tạ thế (479 trước CN).

Năm Quý Hợi, năm thứ bốn mươi hai. Năm Giáp Tý, năm thứ bốn mươi ba.

Năm Ất Sửu, năm đầu đời Chu Nguyên Vương tên Nhân. Phật nhập Niết-bàn đã được một trăm ba mươi bốn năm.

Năm Bính Dần, năm thứ hai. Năm Đinh Mão, năm thứ ba. Năm Mậu Thìn, năm thứ tư. Năm Kỷ Tỵ, năm thứ năm. Năm Canh Ngọ, năm thứ sáu. Năm Tân Mùi, năm thứ bảy. Năm Nhâm Thân, năm thứ tám.

Năm Quý Dậu, năm đầu đời Chu Trinh Định Vương, tên Lượng.

Tả Khâu Minh viết Xuân Thu truyện ký. Năm này Phật nhập Niết-bàn đã được một trăm bốn mươi hai năm.

Năm Giáp Tuất, năm thứ hai. Năm Ất Hợi, năm thứ ba.

Năm Bính Tý, năm thứ tư. Năm Đinh Sửu, năm thứ năm. Năm Mậu Dần, năm thứ sáu. Năm Kỷ Mão, năm thứ bảy. Năm Canh Thìn, năm thứ tám. Năm Tân Tỵ, năm thứ chín.

Năm Nhâm Ngọ, năm thứ mười. Năm Quý Mùi, năm thứ mười một. Năm Giáp Thân, năm thứ mười hai. Năm Ất Dậu, năm thứ mười ba.

Năm Bính Tuất, năm thứ mười bốn. Năm Đinh Hợi, năm thứ mười lăm. Năm Mậu Tý, năm thứ mười sáu.

Năm Kỷ Sửu, năm thứ mười bảy. Năm Canh Dần, năm thứ mười tám. Năm Tân Mão, năm thứ mười chín. Năm Nhâm Thìn, năm thứ hai mươi. Năm Quý Tỵ, năm thứ hai mươi mốt. Năm Giáp Ngọ, năm thứ hai mươi hai. Năm Ất Mùi, năm thứ hai mươi ba.

Năm Bính Thân, năm thứ hai mươi bốn. Năm Đinh Dậu, năm thứ hai mươi lăm. Năm Mậu Tuất, năm thứ hai mươi sáu. Năm Kỷ Hợi, năm thứ hai mươi bảy.

Năm Canh Tý, năm thứ hai mươi tám.

Năm Tân Sửu, năm đầu đời Chu Hiếu Vương tên Khôi. Phật nhập Niết-bàn đã được một trăm bảy mươi năm.

Năm Nhâm Dần, năm thứ hai. Năm Quý Mão, năm thứ ba.

Năm Giáp Thìn, năm thứ tư. Năm Ất Tỵ, năm thứ năm. Năm Bính Ngọ, năm thứ sáu. Năm Đinh Mùi, năm thứ bảy. Năm Mậu Thân, năm thứ tám.

Năm Kỷ Dậu, năm thứ chín. Năm Canh Tuất, năm thứ mười.

Năm Tân Hợi, năm thứ mười một. Năm Nhâm Tý, năm thứ mười hai. Năm Quý Sửu, năm thứ mười ba. Năm Giáp Dần, năm thứ mười bốn. Năm Ất Mão, năm thứ mười lăm.

Năm Bính Thìn, năm đầu đời Chu Oai Liệt Vương tên Ngọ. Phật nhập Niết-bàn đến nay đã một trăm tám mươi năm.

Năm Đinh Tỵ, năm thứ hai. Năm Mậu Ngọ, năm thứ ba. Năm Kỷ Mùi, năm thứ tư.

Năm Canh Thân, năm thứ năm. Năm Tân Dậu, năm thứ sáu.

Năm Nhâm Tuất, năm thứ bảy. Năm Quý Hợi, năm thứ tám.

Năm Giáp Tý, năm thứ chín. Năm Ất Sửu, năm thứ mười.

Năm Bính Dần, năm thứ mười một. Năm Đinh Mão, năm thứ mười hai. Năm Mậu Thìn, năm thứ mười ba. Năm Kỷ Tỵ, năm thứ mười bốn.

Năm Canh Ngọ, năm thứ mười lăm. Năm Tân Mùi, năm thứ mười sáu. Năm Nhâm Thân, năm thứ mười bảy. Năm Quý Dậu, năm thứ mười tám.

Năm Giáp Tuất, năm thứ mười chín. Năm Ất Hợi, năm thứ hai mươi.

Năm Bính Tý, năm thứ hai mươi mốt.

Năm Đinh Sửu, năm thứ hai mươi hai: có việc chín Đỉnh chấn động.

Năm Mậu Dần, năm thứ hai mươi ba.

Năm Kỷ Mão, năm thứ hai mươi bốn: có một Bản Ngọ có ba mươi mốt năm.

Năm Canh Thìn, năm đầu đời Chu An Vương, tên Kiêu. Phật nhập Niết-bàn đến năm này đã được hai trăm mười năm.

Năm Tân Tỵ, năm thứ hai. Năm Nhâm Ngọ, năm thứ ba.

Năm Quý Mùi, năm thứ tư. Năm Giáp Thân, năm thứ năm. Năm Ất Dậu, năm thứ sáu.

Năm Bính Tuất, năm thứ bảy. Năm Đinh Hợi, năm thứ tám. Năm Mậu Tý, năm thứ chín. Năm Kỷ Sửu, năm thứ mười.

Năm Canh Dần, năm thứ mười một. Năm Tân Mão, năm thứ mười hai. Năm Nhâm Thìn, năm thứ mười ba. Năm Quý Tỵ, năm thứ mười bốn.

Năm Giáp Ngọ, năm thứ mười lăm. Năm Ất Mùi, năm thứ mười sáu.

Năm Bính Thân, năm thứ mười bảy. Năm Đinh Dậu, năm thứ mười tám. Năm Mậu Tuất, năm thứ mười chín. Năm Kỷ Hợi, năm thứ hai mươi.

Năm Canh Tý, năm thứ hai mươi mốt. Năm Tân Sửu, năm thứ hai mươi hai. Năm Nhâm Dần, năm thứ hai mươi ba. Năm Quý Mão, năm thứ hai mươi bốn. Năm Giáp Thìn, năm thứ hai mươi lăm.

Năm Ất Tỵ, năm thứ hai mươi sáu.

Năm Bính Ngọ, năm đầu đời Chu Di Liệt Vương, tên Hỷ. Đến năm này Phật nhập Niết-bàn được hai trăm ba mươi sáu năm.

Năm Đinh Mùi, năm thứ hai. Năm Mậu Thân, năm thứ ba. Năm Kỷ Dậu, năm thứ tư.

Năm Canh Tuất, năm thứ năm. Năm Tân Hợi, năm thứ sáu.

Năm Nhâm Tý, năm thứ bảy.

Năm Quý Sửu, năm đầu đời Chu Hiển Thánh Vương, tên Biển, Phật nhập Niết-bàn đến nay được hai trăm bốn mươi ba năm.

Năm Giáp Dần, năm thứ hai. Năm Ất Mão, năm thứ ba.

Năm Bính Thìn, năm thứ tư. Năm Đinh Tỵ, năm thứ năm. Năm Mậu Ngọ, năm thứ sáu.

Năm Kỷ Mùi, năm thứ bảy. Năm Canh Thân, năm thứ tám. Năm Tân Dậu, năm thứ chín. Năm Nhâm Tuất, năm thứ mười.

Năm Quý Hợi, năm thứ mười một. Năm Giáp Tý, năm thứ mười hai. Năm Ất Sửu, năm thứ mười ba.

Năm Bính Dần, năm thứ mười bốn. Năm Đinh Mão, năm thứ mười lăm. Năm Mậu Thìn, năm thứ mười sáu. Năm Kỷ Tỵ, năm thứ mười bảy.

Năm Canh Ngọ, năm thứ mười tám. Năm Tân Mùi, năm thứ mười chín. Năm Nhâm Thân, năm thứ hai mươi. Năm Quý Dậu, năm thứ hai mươi mốt. Năm Giáp Tuất, năm thứ hai mươi hai. Năm Ất Hợi, năm thứ hai mươi ba.

Năm Bính Tý, năm thứ hai mươi bốn. Năm Đinh Sửu, năm thứ hai mươi lăm. Năm Mậu Dần, năm thứ hai mươi sáu. Năm Kỷ Mão, năm thứ hai mươi bảy. Năm Canh Thìn, năm thứ hai mươi tám. Năm Tân Tỵ, năm thứ hai mươi chín.

Năm Nhâm Ngọ, năm thứ ba mươi. Năm Quý Mùi, năm thứ ba mươi mốt. Năm Giáp Thân, năm thứ ba mươi hai. Năm Ất Dậu, năm thứ ba mươi ba.

Năm Bính Tuất, năm thứ ba mươi bốn. Năm Đinh Hợi, năm thứ ba mươi lăm. Năm Mậu Tý, năm thứ ba mươi sáu.

Năm Kỷ Sửu, năm thứ ba mươi bảy. Năm Canh Dần, năm thứ ba mươi tám. Năm Tân Mão, năm thứ ba mươi chín. Năm Nhâm Thìn, năm thứ bốn mươi. Năm Quý Tỵ, năm thứ bốn mươi mốt. Năm Giáp Ngọ, năm thứ bốn mươi hai. Năm Ất Mùi, năm thứ bốn mươi ba.

Năm Bính Thân, năm thứ bốn mươi bốn.

Năm Đinh Dậu, năm thứ bốn mươi lăm. Năm Mậu Tuất, năm thứ bốn mươi sáu. Năm Kỷ Hợi, năm thứ bốn mươi bảy.

Năm Canh Tý, năm thứ bốn mươi tám.

Năm Tân Sửu, năm đầu đời Chu Thuận Tịnh Vương, tên Định, Phật nhập Niết-bàn đến nay đã được hai trăm chín mươi mốt năm.

Năm Nhâm Dần, năm thứ hai. Năm Quý Mão, năm thứ ba.

Năm Giáp Thìn, năm thứ tư. Năm Ất Tỵ, năm thứ năm. Năm Bính Ngọ, năm thứ sáu.

Năm Đinh Mùi, năm đầu đời Chu Nản Vương, tên Đản. Năm này Phật nhập Niết-bàn đã được hai trăm chín mươi bảy năm.

Năm Mậu Thân, năm thứ hai. Năm Kỷ Dậu, năm thứ ba.

Năm Canh Tuất, năm thứ tư. Năm Tân Hợi, năm thứ năm. Năm Nhâm Tý, năm thứ sáu. Năm Quý Sửu, năm thứ bảy. Năm Giáp Dần, năm thứ tám. Năm Ất Mão, năm thứ chín. Năm Bính Thìn, năm thứ mười.

Năm Đinh Tỵ, năm thứ mười một. Năm Mậu Ngọ, năm thứ mười hai. Năm Kỷ Mùi, năm thứ mười ba.

Năm Canh Thân, năm thứ mười bốn. Năm Tân Dậu, năm thứ mười lăm.

Năm Nhâm Tuất, năm thứ mười sáu. Năm Quý Hợi, năm thứ mười bảy.

Năm Giáp Tý, năm thứ mười tám.

Năm Ất Sửu, năm thứ mười chín. Trong Tát-bà-đa ký nói rằng: Sau khi Phật diệt độ hơn ba trăm năm, có Bồ-tát Mã Minh sinh ở nước Đông Thiên Trúc, thuộc dòng dõi Bà-la-môn, ngài xuất gia và chuyên bài bác các ngoại đạo, soạn ra bộ Luận Đại Trang Nghiêm có hơn mấy trăm bài kệ, hoằng hóa Phật giáo rất hưng thịnh, có sách truyện riêng, tính ra là ngày thời gian này (296 trước CN).

Năm Bính Dần, năm thứ hai mươi. Năm Đinh Mão, năm thứ hai mươi mốt.

Năm Mậu Thìn, năm thứ hai mươi hai. Năm Kỷ Tỵ, năm thứ hai mươi ba.

Năm Canh Ngọ, năm thứ hai mươi bốn. Năm Tân Mùi, năm thứ hai mươi lăm. Năm Nhâm Thân, năm thứ hai mươi sáu. Năm Quý Dậu, năm thứ hai mươi bảy.

Năm Giáp Tuất, năm thứ hai mươi tám. Năm Ất Hợi, năm thứ hai mươi chín.

Năm Bính Tý, năm thứ ba mươi.

Năm Đinh Sửu, năm thứ ba mươi mốt. Năm Mậu Dần, năm thứ ba mươi hai. Năm Kỷ Mão, năm thứ ba mươi ba.

Năm Canh Thìn, năm thứ ba mươi bốn. Năm Tân Tỵ, năm thứ ba mươi lăm.

Năm Nhâm Ngọ, năm thứ ba mươi sáu. Năm Quý Mùi, năm thứ ba mươi bảy. Năm Giáp Thân, năm thứ ba mươi tám. Năm Ất Dậu, năm thứ ba mươi chín.

Năm Bính Tuất, năm thứ bốn mươi. Năm Đinh Hợi, năm thứ bốn mươi mốt. Năm Mậu Tý, năm thứ bốn mươi hai. Năm Kỷ Sửu, năm thứ bốn mươi ba.

Năm Canh Dần, năm thứ bốn mươi bốn. Năm Tân Mão, năm thứ bốn mươi lăm. Năm Nhâm Thìn, năm thứ bốn mươi sáu. Năm Quý Tỵ, năm thứ bốn mươi bảy.

Năm Giáp Ngọ, năm thứ bốn mươi tám. Năm Ất Mùi, năm thứ bốn mươi chín.

Năm Bính Thân, năm thứ năm mươi. Năm Đinh Dậu, năm thứ năm mươi mốt. Năm Mậu Tuất, năm thứ năm mươi hai. Năm Kỷ Hợi, năm thứ năm mươi ba.

Năm Canh Tý, năm thứ năm mươi bốn. Năm Tân Sửu, năm thứ năm mươi lăm. Năm Nhâm Dần, năm thứ năm mươi sáu. Năm Quý Mão, năm thứ năm mươi bảy. Năm Giáp Thìn, năm thứ năm mươi tám. Năm Ất Tỵ, năm thứ năm mươi chín.

II. ĐỜI TẦN:

Năm Bính Ngọ, năm đầu đời Tần Chiêu Tương Vương, tên Lặc. Năm này nhà Chu bị nhà Tần truất phế. Nản Vương ra làm kẻ thường dân. Phật nhập Niết-bàn đến nay đã được ba trăm năm mươi sáu năm.

Năm Đinh Mùi, năm thứ hai. Năm Mậu Thân, năm thứ ba. Năm Kỷ Dậu, năm thứ tư.

Năm Canh Tuất, năm thứ năm.

Năm Tân Hợi, năm đầu đời Tần Hiếu Văn Vương, tên Trụ. Năm này Phật nhập Niết-bàn đã được ba trăm sáu mươi mốt năm.

Năm Nhâm Tý, năm đầu đời Tần Trang tương Vương, tên Tử Sở, là con của Tần Hiếu Văn Vương, trị vì ba năm. Đến năm này Phật nhập Niếtbàn được ba trăm sáu mươi hai năm.

Năm Quý Sửu, năm thứ hai. Năm Giáp Dần, năm thứ ba.

Năm Ất Mão, năm đầu của Tần Thủy Hoàng Đế, tên Chánh, là con của Tần Trang Tương Vương. Trị vì ba mươi bảy năm, Lã Bất Vi làm Thừa tướng. Đến năm này Phật nhập Niết-bàn đã được ba trăm sáu mươi lăm năm.

Năm Bính Thìn, năm thứ hai. Năm Đinh Tỵ, năm thứ ba.

Năm Mậu Ngọ, năm thứ tư. Năm Kỷ Mùi, năm thứ năm. Năm Canh Thân, năm thứ sáu. Năm Tân Dậu, năm thứ bảy.

Năm Nhâm Tuất, năm thứ tám, phong cho Giao Độc làm Trường tín Hầu.

Năm Quý Hợi, năm thứ chín, lột mão giết Giao Độc đày cả gia đình ở nước Thục.

Năm Giáp Tý, năm thứ mười, cất chức Thừa tướng Lã Bất Vi và đày Thái hậu ngày ở Nam cung. Sau đó vua dùng Lý Tư.

Năm Ất Sửu, năm thứ mười một, đày Lã Bất Vi về Hà nam. Năm Bính Dần, năm thứ mười hai.

Năm Đinh Mão, năm thứ mười ba. Năm Mậu Thìn, năm thứ mười bốn. Năm Kỷ Tỵ, năm thứ mười lăm.

Năm Canh Ngọ, năm thứ mười sáu.

Năm Tân Mùi, năm thứ mười bảy, năm này diệt nước Hàn lấy đất làm quận Dĩnh xuyên

Năm Nhâm Thân, năm thứ mười tám. Năm Quý Dậu, năm thứ mười chín.

Năm Giáp Tuất, năm thứ hai mươi. Năm Ất Hợi, năm thứ hai mươi mốt.

Năm Bính Tý, năm thứ hai mươi hai. Năm này diệt ngày nước Ngụy, lấy đất đó làm quận Lương.

Năm Đinh Sửu, năm thứ hai mươi ba.

Năm Mậu Dần, năm thứ hai mươi bốn. Năm này diệt nước Sở.

Bình đình đất Giang đông, đặt thành quận Cối khê (Cối kê).

Năm Kỷ Mão, năm thứ hai mươi lăm, năm này diệt nước Yên, lại diệt luôn nước Triệu.

Năm Canh Thìn, năm thứ hai mươi sáu, năm này diệt nước Tề, gồm thâu sáu nước thành một nước Tần. Tự xưng là Hoàng đế, sửa đổi chính trị, lấy ngày Kiến Hợi là ngày Tết đầu năm.

Năm Tân Tỵ, năm thứ hai mươi bảy. Gọi sông là Đức Thủy, gọi dân đen là Kiềm Thủ. Phân cả thiên hạ ra làm ba mươi sáu quận, cùng dùng một loại văn tự, phép tắc.

Năm Nhâm Ngọ, năm thứ hai mươi tám, nhân đi tuần du phía Đông, lên núi Thái sơn ra lệnh khắc đá ghi công về việc phong chức, nhường ngôi. Bỗng gặp phải mưa to gió lớn, liền sai Từ Thị xuống biển cầu ba vị sơn thần. Bắt cả ngàn người lăn xuống nước sông tứ để tìm đỉnh nhà Chu nhưng không được.

Năm Quý Mùi, năm thứ hai mươi chín.

Năm Giáp Thân, năm thứ ba mươi. Đổi tháng chạp thành Gia bình. Ban đêm thường lẻn đi xem mọi nơi. Đến Đơn Trì gặp kẻ trộm là Võ Tử rất nghèo túng, đánh suýt chết, sau được tha.

Năm Ất Dậu, năm thứ ba mươi mốt.

Năm Bính Tuất, năm thứ ba mươi hai. Sai tướng Mông Điềm đem hai mươi vạn người đánh rợ Hồ ở phương Bắc, lấy đất Hà nam bắt xây Vạn lý trường thành.

Năm Đinh Hợi, năm thứ ba mươi ba. Từ dọc suốt theo sông cho đến Âm sơn, chia làm bốn mươi bốn huyện. Lấy sông làm ranh giới. Bắt đầu từ Lâm Thao cho đến sông Liêu.

Năm Mậu Tý, năm thứ ba mươi bốn, bắt lưu đày, trị tội hoặc hạ ngục các quan chức địa phương nào không cố giúp xây Vạn lý trường thành. Thừa tướng Lý Tư tâu xin vua đốt hết sách vở, chôn sống các nho sĩ.

Năm Kỷ Sửu, năm thứ ba mươi lăm. Năm Canh Dần, năm thứ ba mươi sáu. Năm Tân Mão, năm thứ ba mươi bảy.

Năm Nhâm Thìn, năm đầu đời Nhị Thế Hoàng Đế, tên Hồ Hợi, là con của Tần Thủy Hoàng Đế. Năm này Phật nhập Niết-bàn được bốn trăm lẻ hai năm (vua làm vua ba năm)

Năm Quý Tỵ, năm thứ hai.

Năm Giáp Ngọ, năm thứ ba. Tần Thủy Hoàng Đế lập cháu là Tử Anh lên làm vua được bốn mươi sáu ngày thì bị nhà Hán (Lưu Bang) tiêu diệt. Năm này Phật nhập Niết-bàn được bốn trăm lẻ bốn năm.

QUYỂN 2

(Qua các triều đại tân vương)

Niên đại các vua kế tiếp: Lưu Bang, tên tự là Lý, là người ở đất Phong quận Bái. Mẹ là bà Tức ở Đại trạch, nằm mộng thấy giao tình cùng Thần nhân mà sinh ra một Lý. Lý có dáng vẻ phương phi đầu rồng trán vồ, mũi cao, tánh tình khoang nhân đại lượng, tóc râu rậm đẹp, ở khoảng đùi vế trái có bảy mươi hai chấm đen. Nhân lấy việc bạo tàn của vua nhà Tần mà cổ vũ lập nên phe nhóm bí mật. Sau khi diệt ngày Sở Hạng Võ cường bạo, bèn phất lên như mây gặp gió, đánh nhau trước sau gồm cả bảy mươi hai trận ác chiến, mới bình định được thiên hạ. Điềm linh ứng của các chấm đen là đó. Bèn tiếp nối nhà Chu xưa mà tự xưng là Hán đế, đổi tên Hàm dương thành Trường an, cũng đặt kinh đô ở đấy. Kể từ lúc Tam hoàng ngũ đế mới mở mang truyền xuống đến các đời Hạ, Ân, Chu, Tần có lệ đẹp từ trước đến nay là thường lấy Đế hiệu đặt tên cho năm, chứ không riêng lập niên hiệu.

Đến đời Hán Võ Đế mới bắt đầu việc lập tên niên hiệu, năm đầu tiên đặt là niên hiệu Ngươn Thú. Sang năm thứ hai, Hoắc Khứ Bệnh đem quân đánh Hung nô, qua ở núi duyên sơn, cầm tù vua Hưu Đồ, bắt gặp tượng người bằng vàng cho là Đại thần đem thờ ở trong cung luôn đốt hương kính lễ. Đây là việc thờ phụng tượng đầu tiên. Trong ba năm đào ao Côn minh thì thấy khắp dưới đáy ao toàn là than mực. Vua Võ Đế đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu việc đó thần không biết được, xin bệ hạ hãy hỏi người Hồ ở Tây Vức. Sau đó Trương Khiên đi sứ ở Đại Hạ trở về thì nhà Hán mới biết là có nước Thân Độc. Lại đời vua Bình Đế, Đại Phu Lưu Hướng tự khoe: Tôi thường xem nhiều sách vở thường thường đều thấy nói có kinh Phật và San Liệt Tiên truyện nói rằng: Có được tàng thư do ngài Thái sử Miến Tầm soạn ra đầu tiên nêu rõ đồ hình các Thần tiên từ Lục Đại cho đến nay, có hơn bảy trăm vị. Kiểm tra hư thực thì định ra có một trăm bốn mươi sáu vị, trong số đó có bảy mươi bốn người đã thấy được kinh Phật. Suy đây thì phải chăng là hai quyển sách kinh Mục và Cổ Cựu ở thời Hán? Ngài Đạo An chép về mười hai Hiền Giả… là căn cứ ngày các kinh ấy, ngoài ra chỉ có bảy mươi hai người là thuộc truyện Thần Tiên. Sự kiện trên có bác học hiểu rộng thấy xa mới biết được rằng từ đời Chu xa xôi đã có lưu truyền kinh sách Phật. Chỉ vì tình cảm và ý thức chưa hợp nên kẻ tin tưởng quay về hãy còn ít ỏi. Sang đời Tần tuy đã đốt đi hầu hết sách vở, nhưng đến đời Hán thì lại hưng thịnh có rất nhiều tác phẩm kinh sách. Cho nên Lưu Hướng mới sưu tầm được tàng thư, lại thấy có nhiều truyện về Thần tiên nói rằng: Lại đời Hán Ai Đế (năm bảy trước CN) trong niên hiệu Ngươn Thọ, Cảnh Hiến đi sứ ở nước Đại Nguyệt Chi nhận được nhiều kinh ở phật. Nghiệm ra thì truyện của Lưu Hướng sưu tầm được là sách thật.

Vương Mãng tự là Cự Quân, người thuộc Ngươn Thành, làm quan Đại Tư Mã phụ dực cho Hán Bình Đế. Đến năm Ất Sửu, niên hiệu Nguyên Thủy thì vua băng hà. Mãng bèn lập cháu của Tuyên Đế tên là anh, xưng là Nhụ Tử và Mãng làm thừa tướng, nhiếp chánh được ba năm. Kể thật thì có mười lăm năm, tính chung là mười tám năm nhưng chỉ thực sự là mười bảy năm. Vương bảy dời của Cảnh Đế là lưu huyền tự Thánh công giết chết, lại xưng hiệu là Thủy Nguyên. Huyền làm vua được hai năm thì bị Xích Mi giết chết. Lưu Tú tự là Văn Thúc, cháu chín đời của Hán Cao Tổ. Sau khi Định Vương ở Trường Sa thì lấy vùng Bạch Thủy ở Nam dương làm quê hương. Cha làm chức Tế dương lệnh. Khi sinh ra một Tú ở trong huyện thì có điềm lành ánh sáng đỏ rực rỡ. Đó là năm tốt lành thịnh vượng, lúa thóc trúng mùa một gốc chín bông, nhân đó mà đặt tên là Tú, sống mũi thẳng cao, mắt xếch miệng rộng, mày dài mặt đẹp, tóc râu rậm đẹp, tính hiền lành nhân ái. Khởi nghĩa ở đất Nam dương phá tan bọn Xích Mi, định yên thiên hạ. Đó chính là Quang Võ Đế đời Hậu Hán vậy. Dời đô về Lạc dương, lập niên hiệu là Kiến Võ. Nghe đời xưa nói Quang Võ khởi nghĩa từ Nam dương thì Nam dương không hề có giặc cướp, thường bảo đó là lời láo khoét. Nay thấy kinh nói Phật Thích-ca sinh ra một ở nước Thiên Trúc, nên Thiên Trúc có nhiều Thánh nhân mới nghiệm việc này là có thật. Đến đời Hán Minh Đế, năm Vĩnh Bình thứ bảy, chợt thấy Thần linh trong mộng, tỉnh dậy rất vui mừng liền sai sứ sang Tây Trúc. Nhân đó mà tâm dù ở nhà nhưng chí vẫn dạo chơi chốn Phước Đức. Thường nhân lúc nhàn rỗi hỏi em là Đông Bình Vương rằng: Ở nhà làm thế nào được vui nhất? Đông Bình Vương có cái đại lưng cẩn ngọc quý rộng mười vi, liền tâu vua rằng: "Làm thiện vui nhất" vua khen rằng: Lời nói này thật quá lớn lao, rất xứng với cái bụng to (lòng dạ) của Bình Vương đấy! Sau khi sứ giả trở về luôn luôn mời người đến để tuyên nói và dịch lại các kinh sách. Chính từ nguồn gốc này mà kinh điển được truyền bá suốt đến nay. Biển pháp mênh mông, sông u huyền không bao giờ cạn. Cả hai đời Tiền Hán và Hậu Hán thông nhau bởi một Tan Vương (Vương Mãng), gồm cả hai mươi sáu vua kéo dài suốt bốn trăm hai mươi lăm năm, ghi chép các đời vua ở cả hai kinh đô Đông và Tây. Đó là:

A. CÁC ĐỜI VUA TẠI VỊ:

I. Thời Tiền Hán gồm có:

Cao Đế làm vua mười hai năm, kinh đô ở Trường an. Huệ Đế làm vua bảy năm.

Lữ Hậu nhiếp chính tám năm. Văn Đế làm vua hai mươi ba năm. Cảnh Đế làm vua mười sáu năm. Võ Đế làm vua năm mươi bốn năm. Chiêu Đế làm vua mười ba năm.

Tuyên Đế làm vua hai mươi lăm năm. Ngươn Đế làm vua mười sáu năm.

Thành Đế làm vua hai mươi sáu năm. Ai Đế làm vua sáu năm.

Bình Đế làm vua năm năm.

Tân Vương Mãng bảy năm trị vì ở Trường an.

Canh Thủy Đế cũng ở Trường an hai năm.

II. Thời Hậu Hán gồm có:

Quang Võ Đế làm vua hai mươi ba năm, đóng đô lở Lạc dương. Minh Đế làm vua mười tám năm, mười năm dịch kinh.

Chương Đế làm vua mười ba năm. Hòa Đế làm vua mười bảy năm.

Thương Đế làm vua một năm. An Đế làm vua mười chín năm.

Thuận Đế làm vua mười chín năm. Xung Đế làm vua một năm.

Chất Đế làm vua một năm.

Hoàn Đế làm vua hai mươi mốt năm. Linh Đế làm vua hai mươi hai năm. Hiến Đế làm vua ba mươi năm.

B. CÁC SỰ KIỆN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN PHẬT PHÁP:

I. ĐỜI TIỀN HÁN:

Năm Ất Mùi, năm đầu của đời Hán Cao Tổ. Ngài họ Lưu, tên Bang, tự là A Lý. Dòng dõi vua Nghiêu, trị vì mười hai năm, đóng đô ở Trường an. Năm này Phật đã nhập Niết-bàn được bốn trăm lẻ năm năm (năm 206 trước CN).

Năm Bính Thân, năm thứ hai. Năm Đinh Dậu, năm thứ ba. Năm Mậu Tuất, năm thứ tư. Năm Kỷ Hợi, năm thứ năm. Năm Canh Tý, năm thứ sáu.

Năm Tân Sửu, năm thứ bảy, đổi tên Hàm dương thành Trường an.

Năm Nhâm Dần, năm thứ tám. Năm Quý Mão, năm thứ chín. Năm Giáp Thìn, năm thứ mười. Năm Ất Tỵ, năm thứ mười một. Năm Bính Ngọ, năm thứ mười hai.

Năm Đinh Mùi, năm đầu đời Hán Huệ Đế, tên Doanh, là con của Cao Đế, trị vì được bảy năm. Năm này Phật đã nhập Niết-bàn được bốn trăm mười lăm năm.

Năm Mậu Thân, năm thứ hai.

Năm Kỷ Dậu, năm thứ ba. Ngày mùa xuân, nhà vua phát động cả trai lẫn gái ở trong sáu trăm dặm được mười bốn vạn sáu ngàn người cùng rầm rộ xây đắp lại thành Trường an, xây đắp phía Tây của thành cũ, chỉ trong vòng ba mươi ngày là ngày. Đến tháng sáu lại phát động các Hầu dốc xuất mười hai vạn người xây mặt Nam.

Năm Canh Tuất, năm thứ tư.

Năm Tân Hợi, năm thứ năm. Ngày tháng giêng lại phát động cả trai gái ở sáu trăm dặm được mười bốn vạn sáu ngàn người xây dựng phía Bắc thành, cũng chỉ ba mươi ngày là ngày. Ngày mùa Hạ, lại phát động mười hai vạn năm trăm ngàn người xây dựng mặt Đông của thành, và cũng ba mươi ngày là ngày. Đến mùa Thu ngày tháng chín thì tất cả bốn cửa thành Trường an đều hoàn tất.

Năm Nhâm Tý, năm thứ sáu. Năm Quý Sửu, năm thứ bảy.

Năm Giáp Dần, năm đầu của Lữ Hậu, là hoàng hậu của Hán Cao Đế nhiếp chính được tám năm. Năm này Phật nhập Niết-bàn đã được bốn trăm hai mươi bốn năm.

Năm Ất Mão, năm thứ hai. Năm Bính Thìn, năm thứ ba. Năm Đinh Tỵ, năm thứ tư.

Năm Mậu Ngọ, năm thứ năm. Năm Kỷ Mùi, năm thứ sáu.

Năm Canh Thân, năm thứ bảy. Năm Tân Dậu, năm thứ tám.

Năm Nhâm Tuất, năm đầu của Hán Văn Đế, tên Hoàn, con trai dòng thứ của Cao Đế, trị vì hai mươi ba năm. Năm này Phật nhập Niết-bàn đã được bốn trăm ba mươi hai năm.

Năm Quý Hợi, năm thứ hai. Năm Giáp Tý, năm thứ ba. Năm Ất Sửu, năm thứ tư.

Năm Bính Dần, năm thứ năm. Năm Đinh Mão, năm thứ sáu. Năm Mậu Thìn, năm thứ bảy. Năm Kỷ Tỵ, năm thứ tám.

Năm Canh Ngọ, năm thứ chín. Năm Tân Mùi, năm thứ mười.

Năm Nhâm Thân, năm thứ mười một. Năm Quý Dậu, năm thứ mười hai.

Năm Giáp Tuất, năm thứ mười ba. Năm Ất Hợi, năm thứ mười bốn. Năm Bính Tý, năm thứ mười lăm. Năm Đinh Sửu, năm thứ mười sáu.

Năm Mậu Dần, năm đầu niên hiệu Hậu Ngươn.

Năm Kỷ Mão, năm thứ hai.

Năm Canh Thìn, năm thứ ba.

Năm Tân Tỵ, năm thứ tư. Trong kinh Văn-thùsư-lợi Bát-nê-hoàn có nói rằng: Sau khi Đức Phật diệt độ bốn trăm năm mươi năm thì ngài Văn-thùsư-lợi sẽ đến Tuyết sơn giảng nói mười hai bộ loại kinh văn cho năm trăm vị Tiên nhân nghe ngày liền trở về nơi sinh mà nhập Niết-bàn. Ngày tháng năm có lễ đại xá: Tha nô tỳ của quan chức cho làm thường dân.

Năm Nhâm Ngọ, năm thứ năm. Năm Quý Mùi, năm thứ sáu.

Năm Giáp Thân, năm thứ bảy.

Năm Ất Dậu, năm đầu Hán Cảnh đế, tên Khởi, là con vua Văn Đế trị vì được mười sáu năm. Năm này Phật nhập Niết-bàn được bốn trăm năm mươi bốn năm.

Năm Bính Tuất, năm thứ hai. Năm Đinh Hợi, năm thứ ba. Năm Mậu Tý, năm thứ tư.

Năm Kỷ Sửu, năm thứ năm. Năm Canh Dần, năm thứ sáu. Năm Tân Mão, năm thứ bảy.

Năm Nhâm Thìn, năm đầu niên hiệu Trung Ngươn. Năm Quý Tỵ, năm thứ hai.

Năm Giáp Ngọ, năm thứ ba. Năm Ất Mùi, năm thứ tư.

Năm Bính Thân, năm thứ năm. Năm Đinh Dậu, năm thứ sáu.

Năm Mậu Tuất, năm đầu niên hiệu Hậu Ngươn.

Năm Kỷ Hợi, năm thứ hai.

Năm Canh Tý, năm thứ ba.

Năm Tân Sửu, năm đầu đời Hán Võ Đế, tên Triệt, con của Cảnh Đế, trị vì được năm mươi bốn năm. Từ đây trở đi mới bắt đầu dùng niên hiệu, gọi năm đầu Kiến Ngươn. Quan Thượng Thư Đông Phương Sóc lúc đó lập danh sách tâu xin cho hai mươi hai người dân khi tuổi đã chín mươi trở đi thì phải được con cháu hầu hạ phụng dưỡng. Năm này Phật nhập Niết-bàn đã được bốn trăm bảy mươi năm.

Năm Nhâm Dần, năm thứ hai. Lập ra ấp Mậu lăng dời các hào kiệt ở quận nước đến ở đó. Ban tặng cho mỗi hộ dân dọn đến ở đó được hai mươi vạn quan tiền và hai khoảnh ruộng.

Năm Quý Mão, năm thứ ba. Năm Giáp Thìn, năm thứ tư. Năm Ất Tỵ, năm thứ năm. Năm Bính Ngọ, năm thứ sáu.

Năm Đinh Mùi, năm đầu niên hiệu Ngươn Quang. Năm Mậu Thân, năm thứ hai.

Năm Kỷ Dậu, năm thứ ba. Năm Canh Tuất, năm thứ tư. Năm Tân Hợi, năm thứ năm.

Năm Nhâm Tý, năm thứ sáu. Ngoại Quốc

Truyện có nói rằng:

Sau khi Phật diệt độ được bốn trăm tám mươi năm, thì có vị La-hán có thần thông tên là A-lợinan-đà, con của vua nước ấy, châu phía Đông bắc nước Ưu Trường tạo ra tượng Phật Di-lặc bằng gỗ ngưu-đầu chiên-đàn cao đến tám trượng. Vị này đưa ba ông thợ khéo lên cung trời Đâu-suất để nhìn thấy hình tượng thật của Phật Di-lặc rồi về thế gian mà tạo thành. Sau khi tạo ngày thì tượng rất linh nghiệm.

Năm Quý Sửu, năm đầu niên hiệu Sóc Ngươn. Năm Giáp Dần, năm thứ hai.

Năm Ất Mão, năm thứ ba. Năm Bính Thìn, năm thứ tư. Năm Đinh Tỵ, năm thứ năm. Năm Mậu Ngọ, năm thứ sáu.

Năm Kỷ Mùi, năm đầu niên hiệu Ngươn Thú. Ngày tháng mười, vua di hành ở đất Ung săn bắt được một con thú lông trắng tuyết giống như con Chương, có năm móng nên sửa niên hiệu lại thành Ngươn Thú.

Năm Canh Thân, năm thứ hai. Tướng Hoắc Khứ Bệnh đem quân Bắc phạt giặc Hung nô. Qua châu Diên sơn, bắt cầm tù vua Hung nô là Hưu Đồ. Bắt gặp được tượng người bằng vàng cho là Đại thần, liền đem thờ trong cung Cam tuyền, đốt hương kính lễ. Đây là lần đầu tiên tượng Phật có mặt ở đất Hán vậy.

Năm Tân Dậu, năm thứ ba. Đào ao Côn Minh thì thấy toàn thể đáy ao đều là than mực. Vua Hán Võ Đế bảo Đông Phương Sóc nói rõ lý do tại sao? Sóc tâu rằng: việc đó thần không hiểu nỗi, xin bệ hạ hãy hỏi người Phạm nước Tây Vức.

Năm Nhâm Tuất, năm thứ tư. Năm Quý Hợi, năm thứ năm. Năm Giáp Tý, năm thứ sáu.

Năm Ất Sửu, năm đầu niên hiệu Đỉnh Ngươn.

Ngày tháng sáu, ở phía Nam sông Phần vớt được trong nước một cái đỉnh báu. Đỉnh lớn tám thước một tấc, cao ba thước sáu tấc, cho nên liền đổi niên hiệu là Đỉnh Ngươn. Thuở xưa vua Tần sai người xuống nước mò tìm đảnh nhưng không được, nay ở nhà Hán thì đảnh tự xuất hiện. Nên có thể bảo rằng: Hễ Thần Vật có ứng thì liền hiện bày, còn không cảm thì mãi ẩn kín. Đâu phải người muốn tìm mà được sao?

Năm Bính Dần, năm thứ hai. Năm Đinh Mão, năm thứ ba. Năm Mậu Thìn, năm thứ tư.

Năm Kỷ Tỵ, năm thứ năm. Năm Canh Ngọ, năm thứ sáu.

Năm Tân Mùi, năm đầu niên hiệu Phong Ngươn. Ngày tháng giêng Giáp Tý vua lên núi Tung Sơn, xây cất Cung trai giới cúng tế suốt bảy ngày ngày mới trở về. Ngày một năm tháng tư vua rảnh rang có phương sóc và các quan hậu cận Bỗng thấy một nàng con gái mặc áo xanh đến tâu vua rằng: Từ nay suốt một trăm ngày phải trai giới cho đến ngày mồng bảy tháng bảy thì Tây Vương Mẫu sẽ giáng xuống. Đến ngày hẹn quả nhiên ngày canh hai hiện xuống cung vua.

Năm Nhâm Thân, năm thứ hai.

Năm Quý Dậu, năm thứ ba. Vua làm đúng lời mẫu dặn trước, nên tháng bảy năm ấy giữ trai giới, lấy hình Ngũ Nhạc trao cho Đổng Trọng Quân, ông này nhận lấy lên núi ấy viết vẽ lại.

Năm Giáp Tuất, năm thứ tư. Vua lại theo lời dạy trước của Thượng Ngươn Phu Nhân, ngày năm thứ tư tháng bảy trai giới, lại lấy Ngũ Đế Lục Giáp Linh Phi thập Nhị Sự trao cho Lý Thiếu Quân. Ông này cũng nhận và lên đó viết vẽ lại. Cả hai sách truyện này được đem lưu hành trên đời. Do đó mà các truyện kể từ trước của hai ông này vẫn còn đến nay.

Năm Ất Hợi, năm thứ năm. Năm Bính Tý, năm thứ sáu.

Năm Đinh Sửu, năm đầu niên hiệu Thái Sơ, tháng mười một Kỷ Dậu, Thiên Phụ đốt cháy Bách Lương Đài. Do đó mà các hình vẽ thật về Lục Giáp Ngũ Đế Linh Phi Thập Nhị Sư, cùng những tập Bí quyết mà vua đã nhận được cùng hộp sách gồm bốn quyển đều bị cháy tiêu mất dấu.

Năm Mậu Dần, năm thứ hai. Năm Kỷ Mão, năm thứ ba. Năm Canh Thìn, năm thứ tư.

Năm Tân Tỵ, năm đầu niên hiệu Thiên Hán. Năm Nhâm Ngọ, năm thứ hai.

Năm Quý Mùi, năm thứ ba. Năm Giáp Thân, năm thứ tư.

Năm Ất Dậu, năm đầu niên hiệu Thái Thủy Năm Bính Tuất, năm thứ hai.

Năm Đinh Hợi, năm thứ ba.

Năm Mậu Tý, năm thứ tư. Ngày tháng ba, vua đến núi Thái sơn để tế lễ Tây Vương Mẫu cầu linh ứng nhưng thần không ứng.

Năm Kỷ Sửu, năm đầu niên hiệu Diên Hòa.

Năm Canh Dần, năm thứ hai.

Năm Tân Mão, năm thứ ba.

Năm Nhâm Thìn, năm thứ tư. Ngày tháng giêng, vua đến Đông Lai Đại Hải giữ trai giới cúng tế Tây Vương Mẫu cầu Thượng Ngươn Phu Nhân có ứng nhưng không giáng hạ.

Năm Quý Tỵ, năm đầu niên hiệu Hậu Ngươn. Năm Giáp Ngọ, năm thứ hai.

Năm Ất Mùi, thuộc đời Hán Chiêu Đế tên Phất Lăng là con của Võ Đế, trị vì mười ba năm. Năm đầu niên hiệu Thủy Ngươn. Năm này Phật đã Niếtbàn được năm trăm hai mươi bốn năm.

Năm Bính Thân, năm thứ hai. Năm Đinh Dậu, năm thứ ba. Năm Mậu Tuất, năm thứ tư. Năm Kỷ Hợi, năm thứ năm. Năm Canh Tý, năm thứ sáu.

Năm Tân Sửu, năm đầu niên hiệu Ngươn Phụng Năm Nhâm Dần, năm thứ hai.

Năm Quý Mão, năm thứ ba. Năm Giáp Thìn, năm thứ tư. Năm Ất Tỵ, năm thứ năm. Năm Bính Ngọ, năm thứ sáu.

Năm Đinh Mùi, năm đầu niên hiệu Ngươn

Bình.

Năm Mậu Thân, đời vua Hán Tuyên Đế tên Tuân, là cháu cố của Hán Võ Đế, trị vì được hai mươi lăm năm. Đây là năm đầu niên hiệu Thái Thủy. Phật nhập Niết-bàn đến năm này được năm trăm ba mươi năm.

Năm Kỷ Dậu, năm thứ hai. Năm Canh Tuất, năm thứ ba. Năm Tân Hợi, năm thứ tư.

Năm Nhâm Tý, năm đầu niên hiệu Địa Tiết. Năm Quý Sửu, năm thứ hai.

Năm Giáp Dần, năm thứ ba. Năm Ất Mão, năm thứ tư.

Năm Bính Thìn, năm đầu niên hiệu Ngươn Khang. Năm Đinh Tỵ, năm thứ hai.

Năm Mậu Ngọ, năm thứ ba. Năm Kỷ Mùi, năm thứ tư.

Năm Canh Thân, năm đầu niên hiệu Thần Tước. Năm Tân Dậu, năm thứ hai.

Năm Nhâm Tuất, năm thứ ba. Năm Quý Hợi, năm thứ tư.

Năm Giáp Tý, năm đầu niên hiệu Ngũ Phụng. Năm Ất Sửu, năm thứ hai.

Năm Bính Dần, năm thứ ba. Năm Đinh Mão, năm thứ tư.

Năm Mậu Thìn, năm đầu niên hiệu Cam Lộ. Có nơi gọi là năm đầu Cam Họp.

Năm Kỷ Tỵ, năm thứ hai. Năm Canh Ngọ, năm thứ ba. Năm Tân Mùi, năm thứ tư.

Năm Nhâm Thân, năm đầu niên hiệu Huỳnh Long.

Năm Quý Dậu, đời vua Hán Ngươn Đế, tên Thích. Con của Hán Tuyên Đế, trị vì mười sáu năm đây là năm đầu niên hiệu Sơ Ngươn. Phật nhập Niết-bàn đến năm này đã được năm trăm sáu mươi hai năm.

Năm Giáp Tuất, năm thứ hai. Năm Ất Hợi, năm thứ ba.

Năm Bính Tý, năm thứ tư. Năm Đinh Sửu, năm thứ năm.

Năm Mậu Dần, năm đầu niên hiệu Vĩnh Quang. Năm Kỷ Mão, năm thứ hai.

Năm Canh Thìn, năm thứ ba. Năm Tân Tỵ, năm thứ tư.

Năm Nhâm Ngọ, năm thứ năm.

Năm Quý Mùi, năm đầu niên hiệu Kiến Minh, có nơi gọi là năm đầu Kiến Chiêu.

Năm Giáp Thân, năm thứ hai. Năm Ất Dậu, năm thứ ba.

Năm Bính Tuất, năm thứ tư. Năm Đinh Hợi, năm thứ năm.

Năm Mậu Tý, năm đầu niên hiệu Cánh Ninh.

Năm Kỷ Sửu, đời vua Hán Thành Đế tên Ngạo là con vua Hán Ngươn Đế, trị vì hai mươi sáu năm, là năm đầu niên hiệu Kiến Thủy. Phật nhập Niếtbàn đến năm này được năm trăm bảy mươi tám năm.

Năm Canh Dần, năm thứ hai. Năm Tân Mão, năm thứ ba.

Năm Nhâm Thìn, năm thứ tư.

Năm Quý Tỵ, năm đầu niên hiệu Hà Bình. Năm Giáp Ngọ, năm thứ hai.

Năm Ất Mùi, năm thứ ba. Năm Bính Thân, năm thứ tư.

Năm Đinh Dậu, năm đầu niên hiệu Dương Minh, có nơi gọi là Dương Sóc.

Năm Mậu Tuất, năm thứ hai. Năm Kỷ Hợi, năm thứ ba.

Năm Canh Tý, năm thứ tư.

Năm Tân Sửu, năm đầu niên hiệu Hồng Gia. Năm Nhâm Dần, năm thứ hai.

Năm Quý Mão, năm thứ ba. Quan Đại Phu Lưu Hướng san định Liệt Tiên truyện bảo có bảy mươi bốn người đã thấy Phật.

Năm Giáp Thìn, năm thứ tư.

Năm Ất Tỵ, năm đầu niên hiệu Vĩnh Thủy. Năm Bính Ngọ, năm thứ hai.

Năm Đinh Mùi, năm thứ ba. Năm Mậu Thân, năm thứ tư.

Năm Kỷ Dậu, năm đầu niên hiệu Ngươn Diên. Năm Canh Tuất, năm thứ hai.

Năm Tân Hợi, năm thứ ba. Năm Nhâm Tý, năm thứ tư.

Năm Quý Sửu, năm đầu niên hiệu Tuy Hòa.

Năm Giáp Dần, năm thứ hai.

Năm Ất Mão, đời vua Hán Ai Đế, tên Hân, là cháu của Hán Ngươn Đế, trị vì sáu năm, là năm đầu niên hiệu Kiến Bình. Phật nhập Niết-bàn đến năm này đã được sáu trăm lẻ bốn năm.

Năm Bính Thìn, năm thứ hai. Năm Đinh Tỵ, năm thứ ba.

Năm Mậu Ngọ, năm thứ tư.

Năm Kỷ Mùi, năm đầu niên hiệu Ngươn Thọ. Cảnh Hiến đi sứ nước Đại Nguyệt Chi, nhận được kinh Phù Đồ. Phù Đồ tức là Phật-đà. Đâu chẳng phải là tiếp nối đến nay đã khá lâu rồi.

Năm Canh Thân, năm thứ hai.

Năm Tân Dậu, đời vua Hán Bình Đế, tên Diễn, là con của Hán Ai Đế, trị vì năm năm, năm đầu là niên hiệu Ngươn Thủy. Phật nhập Niết-bàn đến năm này đã được sáu trăm mười năm.

Năm Nhâm Tuất, năm thứ hai. Năm Quý Hợi, năm thứ ba.

Năm Giáp Tý, năm thứ tư. Năm Ất Sửu, năm thứ năm.

Năm Bính Dần, năm đầu niên hiệu Cư Nhiếp. Vương Mãng lập cháu cố của Tuyên Đế tên là Anh, xưng hiệu là Nhụ Tử. Vương Mãng làm Thừa tướng trông coi việc nước. Phật nhập Niết-bàn đến năm này đã được sáu trăm mười lăm năm. Vương Mãng phế bỏ Nhụ Tử chê là vua còn bé.

Năm Đinh Mão, năm thứ hai.

Năm Mậu Thìn, năm đầu niên hiệu Thủy Sơ.

Năm Kỷ Tỵ, đời vua Tân Vương, tên Mãng, tức là Chân, năm đầu là niên hiệu Kiến Quốc.

Năm Canh Ngọ, năm thứ hai. Năm Tân Mùi, năm thứ ba.

Năm Nhâm Thân, năm thứ tư. Năm Quý Dậu, năm thứ năm.

Năm Giáp Tuất, năm đầu niên hiệu Thiên Phụng. Năm Ất Hợi, năm thứ hai.

Năm Bính Tý, năm thứ ba. Năm Đinh Sửu, năm thứ tư. Năm Mậu Dần, năm thứ năm. Năm Kỷ Mão, năm thứ sáu.

Năm Canh Thìn, năm đầu niên hiệu Địa Hoàng.

Năm Tân Tỵ, năm thứ hai.

Năm Nhâm Ngọ, năm thứ ba.

Năm Quý Mùi, năm đầu niên hiệu Canh Thủy. Lưu Huyền, tự là Thánh Công, giết chết Vương Mãng trị vì được hai năm. Sau bị Xích Mi giết. Huyền là cháu sáu đời của Hán Cảnh Đế. Phật nhập Niết-bàn đến năm này đã được sáu trăm ba mươi hai năm.

Năm Giáp Thân, năm thứ hai.

II. ĐỜI HẬU HÁN:

Năm Ất Dậu, thuộc đời Hán Quang Võ Đế, tên Tú, tự là Văn Thúc, cháu chín đời của Hán Cao Tổ (Lưu Bang), trị vì được ba mươi ba năm, dời đô về Lạc dương, năm đầu niên hiệu là Kiến Vũ. Phật nhập Niết-bàn đến năm này được sáu trăm ba mươi bốn năm.

Năm Bính Tuất, năm thứ hai.

Năm Đinh Hợi, năm thứ ba. Năm Mậu Tý, năm thứ tư. Năm Kỷ Sửu, năm thứ năm. Năm Canh Dần, năm thứ sáu. Năm Tân Mão, năm thứ bảy. Năm Nhâm Thìn, năm thứ tám. Năm Quý Tỵ, năm thứ chín.

Năm Giáp Ngọ, năm thứ mười. Năm Ất Mùi, năm thứ mười một. Năm Bính Thân, năm thứ mười hai. Năm Đinh Dậu, năm thứ mười ba. Năm Mậu Tuất, năm thứ mười bốn. Năm Kỷ Hợi, năm thứ mười lăm.

Năm Canh Tý, năm thứ mười sáu. Năm Tân Sửu, năm thứ mười bảy. Năm Nhâm Dần, năm thứ mười tám. Năm Quý Mão, năm thứ mười chín. Năm Giáp Thìn, năm thứ hai mươi.

Năm Ất Tỵ, năm thứ hai mươi mốt. Ở Tây Vức, vua Sa-xa… cả thảy mười sáu nước đều sai Thái tử đến hầu dâng hiến các phẩm vật địa phương.

Năm Bính Ngọ, năm thứ hai mươi hai. Năm Đinh Mùi, năm thứ hai mươi ba. Năm Mậu Thân, năm thứ hai mươi bốn. Năm Kỷ Dậu, năm thứ hai mươi lăm.

Năm Canh Tuất, năm thứ hai mươi sáu. Năm Tân Hợi, năm thứ hai mươi bảy. Năm Nhâm Tý, năm thứ hai mươi tám. Năm Quý Sửu, năm thứ hai mươi chín. Năm Giáp Dần, năm thứ ba mươi.

Năm Ất Mão, năm thứ ba mươi mốt.

Năm Bính Thìn, năm đầu niên hiệu Trung Ngươn ngày tháng hai, vua đi tuần du phía Đông lên núi Thái sơn. Sài Tế khắc lời minh ngày đá. Có khí mây tạo nên Cung Khuyết, quét đất tế lễ Lương Phủ ngày rồi trở về. Lại đến nước Lỗ cúng tế đức Khổng Tử tại nhà của ngài. Đến tháng chín, có suối nước khoáng phun, kẻ ở Kinh Sư uống ngày bệnh cũ đều lành hẳn.

Năm Đinh Tỵ, năm thứ hai, là năm thống kê khắp thiên hạ thì thấy về hộ dân gồm có bốn trăm hai mươi bảy vạn chín ngàn sáu trăm Về số người dân (dân khẩu) thì có hai ngàn một trăm vạn bảy ngàn tám trăm hai mươi

Năm Mậu Ngọ, đời Hán Minh Đế, tên Trang, là con thứ tư của Hán Quang Võ, trị vì được mười tám năm, năm đầu đặt niên hiệu là Vĩnh Bình. Năm này Đức Phật nhập Niết-bàn được sáu trăm sáu mươi bảy năm.

Năm Kỷ Mùi, năm thứ hai. Năm Canh Thân, năm thứ ba. Năm Tân Dậu, năm thứ tư.

Năm Nhâm Tuất, năm thứ năm. Năm Quý Hợi, năm thứ sáu.

Năm Giáp Tý, năm thứ bảy. Năm này nhà vua nằm mộng thấy người bằng vàng bay đến trước sân điện. Đây tức là điền ứng cho việc sẽ có tượng Phật và kinh Pháp vậy. Vua bèn sai sứ sang Tây Vức tìm kiếm Kinh Phật.

Năm Ất Sửu, năm thứ tám. Năm Bính Dần, năm thứ chín.

Năm Đinh Mão, năm thứ mười. Sứ giả trở về, lại có ngài Ca-diếp Ma-đằng đến đế đô Lạc dương, liền phiên dịch kinh Tứ Thập Nhị Chương. Vì dùng bạch mã chở kinh về, nên xây dựng chùa Bạch mã.

Năm Mậu Thìn, năm thứ mười một. Ngài Trúc Pháp Lan dịch bộ Phật Bổn Hạnh Kinh gồm đủ năm quyển. Đào Ẩn Cư niên lịch nói rằng: "Vua nằm mộng thấy người vàng đến, bèn sai người đi sứ". Năm này so với các tác gia khác có chút ít khác nhau, song cuối cùng vẫn tương đương.

Năm Kỷ Tỵ, năm thứ mười hai.

Năm Canh Ngọ, năm thứ mười ba. Ngài Trúc Pháp Lan dịch ngày bộ Thập Địa Đoạn Kết Kinh gồm bốn quyển.

Năm Tân Mùi, năm thứ mười bốn. Năm Nhâm Thân, năm thứ mười lăm. Năm Quý Dậu, năm thứ mười sáu.

Năm Giáp Tuất, năm thứ mười bảy. Năm Ất Hợi, năm thứ mười tám.

Năm Bính Tý, năm đầu vua Hán Chương Đế, tên Thản, con vua Hán Minh Đế, trị vì mười ba năm, niên hiệu đầu là Kiến Sơ. Năm này Phật nhập Niết-bàn đã được sáu trăm tám mươi lăm năm.

Năm Đinh Sửu, năm thứ hai.

Năm Mậu Dần, năm thứ ba.

Năm Kỷ Mão, năm thứ tư, đầu niên hiệu Vĩnh Bình Thông Nghị Lang Ban Cố viết quyển Hán Thư, năm này mới ngày gồm hơn hai mươi năm.

Năm Canh Thìn, năm thứ năm. Năm Tân Tỵ, năm thứ sáu.

Năm Nhâm Ngọ, năm thứ bảy. Năm Quý Mùi, năm thứ tám.

Năm Giáp Thân, năm đầu niên hiệu Ngươn Hòa Năm Ất Dậu, năm thứ hai.

Năm Bính Tuất, năm thứ ba.

Năm Đinh Hợi, năm đầu niên hiệu Chương Hòa, vua ra chiếu Khiến Tào Bao định nghi lễ gồm có một trăm năm mươi thiên.

Năm Mậu Tý, năm thứ hai.

Năm Kỷ Sửu, đời vua Hán Hòa Đế, tên Triệu, là con của Hán Chương Đế, trị vì mười bảy năm, năm đầu niên hiệu là Vĩnh Ngươn. Năm này Phật nhập Niết-bàn đã được sáu trăm chín mươi tám năm.

Năm Canh Dần, năm thứ hai. Năm Tân Mão, năm thứ ba. Năm Nhâm Thìn, năm thứ tư. Năm Quý Tỵ, năm thứ năm. Năm Giáp Ngọ, năm thứ sáu. Năm Ất Mùi, năm thứ bảy.

Năm Bính Thân, năm thứ tám. Năm Đinh Dậu, năm thứ chín. Năm Mậu Tuất, năm thứ mười. Năm Kỷ Hợi, năm thứ mười một. Năm Canh Tý, năm thứ mười hai.

Năm Tân Sửu, năm thứ mười ba, nước An Tức cống hiến Sư tử. Năm Nhâm Dần, năm thứ mười bốn.

Năm Quý Mão, năm thứ mười lăm. Năm Giáp Thìn, năm thứ mười sáu.

Năm Ất Tỵ, năm đầu niên hiệu Ngươn Hưng.

Năm Bính Ngọ, đời vua Hán Thương Đế, tên Long, là con của Hán Hòa Đế, trị vì một năm, năm đầu có niên hiệu là Duyên Bình. Năm này Đức Phật nhập Niết-bàn đã được bảy trăm mười lăm năm.

* Năm Đinh Mùi, đời vua Hán An Đế, tên Hữu, là cháu của Hán Chương Đế, trị vì mười chín năm, năm đầu niên hiệu là Vĩnh Sở. Năm này Phật nhập Niết-bàn đã được bảy trăm mười sáu năm.

Năm Mậu Thân, năm thứ hai. Năm Kỷ Dậu, năm thứ ba.

Năm Canh Tuất, năm thứ tư. Năm Tân Hợi, năm thứ năm. Năm Nhâm Tý, năm thứ sáu. Năm Quý Sửu, năm thứ bảy.

Năm Giáp Dần, năm đầu niên hiệu Ngươn Sơ, thì các nước Cửu Chân Niết Ngoại Dạ Lang…, có quan ải cách nội phủ cả một ngàn tám trăm dặm.

Năm Ất Mão, năm thứ hai. Năm Bính Thìn, năm thứ ba. Năm Đinh Tỵ, năm thứ tư.

Năm Mậu Ngọ, năm thứ năm. Năm Kỷ Mùi, năm thứ sáu.

Năm Canh Thân, năm đầu niên hiệu Vĩnh Ninh. Ngày tháng tư, vua xuống chiếu quy định Bộc Xạ Lưu Trân phục vụ từ năm Kiến Vỡ đến nay được gọi là Thần Phó.

Năm Tân Dậu, năm đầu niên hiệu Kiến Quang. Năm Nhâm Tuất, năm đầu niên hiệu Diên Quang. Năm Quý Hợi, năm thứ hai.

Năm Giáp Tý, năm thứ ba. Năm Ất Sửu, năm thứ tư.

* Năm Bính Dần, đời vua Hán Thuận Đế, tên Bảo, là con của Hán An Đế, trị vì mười chín năm, niên hiệu đầu là Vĩnh Kiến. Năm này Phật Niếtbàn đã được bảy trăm ba mươi lăm năm.

Năm Đinh Mão, năm thứ hai, ngày tháng hai, vua xuống chiếu có các quan như Bị Huyền Sào Sính Nam Dương Phàn Anh và Hoàng Quỳnh, Dương Hậu… đến công xa thiết lập Đàn Tịch để hỏi thần linh về việc được mất, rồi trở về lấy lễ mà trị nước.

Năm Mậu Thìn, năm thứ ba. Năm Kỷ Tỵ, năm thứ tư.

Năm Canh Ngọ, năm thứ năm. Năm Tân Mùi, năm thứ sáu.

Năm Nhâm Thân, năm đầu niên hiệu Dương Gia. Năm Quý Dậu, năm thứ hai.

Năm Giáp Tuất, năm thứ ba. Năm Ất Hợi, năm thứ tư.

Năm Bính Tý, năm đầu niên hiệu Vĩnh Hòa. Năm Đinh Sửu, năm thứ hai.

Năm Mậu Dần, năm thứ ba. Năm Kỷ Mão, năm thứ tư. Năm Canh Thìn, năm thứ năm.

Năm Tân Tỵ, năm thứ sáu. Bấy giờ có Trương Lăng ở nước Thục lấy hiệu là Thiên Sư, viết Bộ Đạo Thư gồm hai mươi bốn quyển, có chương luận về phép cúng tế, chương về Đạo sĩ. Việc cúng tế có từ đấy.

Năm Nhâm Ngọ, năm đầu niên hiệu Hán An. Năm Quý Mùi, năm thứ hai.

Năm Giáp Thân, năm đầu niên hiệu Kiến Khang.

* Năm Ất Dậu, đời Hán Xung Đế, tên Bỉnh, là cháu vua Hán Thuận Đế, trị vì một năm, niên hiệu đầu là Vĩnh Gia. Con của Trương Lăng là Hành làm Bảo Sư. Năm này Phật nhập Niết-bàn được bảy trăm năm mươi bốn năm.

* Năm Bính Tuất, đời vua Hán Chất Đế, tên Toản là huyền tôn (cháu bốn đời) của Hán Chương Đế, trị vì một năm, năm đầu niên hiệu là Sơ Nguyên. Đến năm này Phật nhập Niết-bàn đã được bảy trăm năm mươi năm năm.

* Năm Đinh Hợi, đời Vua Hán Hoàn Đế, tên Chí. Cháu bốn đời (tằng của Hán Chương Đế, trị vì được hai mươi mốt năm, năm đầu niên hiệu là Kiến Sơ. Năm này Phật nhập Niết-bàn đã được bảy trăm năm mươi sáu năm. Chu Sĩ hành Hán Lục chép rằng: Chi-lâu-ca-sấm năm này đã dịch kinh A-súc. có hai quyển.

Năm Mậu Tý, năm thứ hai. Cao Tăng truyện chép rằng: Ngài An Thế Cao từ năm thứ hai niên hiệu Kiến Sơ cho đến giữa năm Kiến Ninh của vua Linh Đế, hơn hai mươi năm đã gom dịch các kinh Pháp Cú… được một trăm bảy mươi bốn bộ gồm một trăm tám mươi tám quyển.

Năm Kỷ Sửu, năm thứ ba.

Năm Canh Dần, năm đầu niên hiệu Hòa Bình.

Năm Tân Mão, năm đầu niên hiệu Ngươn Gia. Chu Sĩ Hành Hán Lục chép rằng: Ngài Thế Cao trong năm này đã dịch Ngũ Thập Giảo Kế Kinh được hai quyển, Thất Xứ Tam Quán Kinh được hai quyển.

Năm Nhâm Thìn, năm thứ hai, sách Chu Sĩ Hành Hán Lục chép rằng: Ngài Thế Cao trong năm này đã dịch Phổ Pháp Nghĩa Kinh một quyển và Nội Tạng Kinh một quyển.

Năm Quý Tỵ, năm đầu niên hiệu Vĩnh Hưng.

Năm Giáp Ngọ, năm thứ hai.

Năm Ất Mùi, năm đầu niên hiệu Vĩnh Thọ.

Năm Bính Thân, năm thứ hai, sách Chu Sĩ Hành Hán Lục chép: Ngài Thế Cao năm này dịch Nhân Bổn Dục Sinh kinh một quyển.

Năm Đinh Dậu, năm thứ ba.

Năm Mậu Tuất, năm đầu niên hiệu Diên Gia. Năm Kỷ Hợi, năm thứ hai.

Năm Canh Tý, năm thứ ba. Năm Tân Sửu, năm thứ tư. Năm Nhâm Dần, năm thứ năm. Năm Quý Mão, năm thứ sáu.

Năm Giáp Thìn, năm thứ bảy. Năm Ất Tỵ, năm thứ tám.

Năm Bính Ngọ, năm thứ chín.

Năm Đinh Mùi, năm đầu niên hiệu Vĩnh Khang. Sách Chi Mẫn Độ Lục chép: Ngài Thế Cao năm này dịch bộ Tu Hành Đạo Địa Kinh được bảy hoặc sáu quyển.

* Năm Mậu Thân, đời vua Hán Linh Đế, tên Hoành, là cháu bốn đời của Hán Chương Đế, trị vì hai mươi hai năm, năm đầu niên hiệu Kiến Ninh. Năm này Phật nhập Niết-bàn đã được bảy trăm bảy mươi bảy năm.

Năm Kỷ Dậu, năm thứ hai.

Năm Canh Tuất, năm thứ ba. Ngài An Thế Cao dịch kinh đến năm này mới ngày, không phải dừng lại một chỗ mà lại ra đi.

Năm Tân Hợi, năm thứ tư.

Năm Nhâm Tý, năm đầu niên hiệu Gia Bình. sách Chu Sĩ Hành Hán Lục chép rằng: Ngài Trúc Phật Sóc năm này châu Lạc dương dịch bộ Đạo Hạnh Kinh được một quyển, ngài Đạo An chú thích lời Tựa.

Năm Quý Sửu, năm thứ hai. Năm Giáp Dần, năm thứ ba.

Năm Ất Mão, năm thứ tư. Nhà vua rất thích sách nên đã soạn ra Nghĩa Hoàng Thiên gồm năm mươi chương.

Năm Bính Thìn, năm thứ năm. Năm Đinh Tỵ, năm thứ sáu.

Năm Mậu Ngọ, năm đầu niên hiệu Quang Hòa.

Năm Kỷ Mùi, năm thứ hai. Sách Chi Mẫn Độ Lục chép rằng: Ngài Chi-lâu-ca-sấm ngày tám tháng bảy đã dịch Bát-nhã Đạo Hạnh Phẩm… gồm mười quyển.

Năm Canh Thân, năm thứ ba. Sách Nhiếp Đạo Chân Lục chép rằng: Ngài Chi-lâu-ca-sấm ngày tám tháng mười châu Lạc dương đã dịch Bộ Ban Chu Tam-muội Kinh gồm hai quyển, và một quyển Bảo Tích Kinh.

Năm Tân Dậu, năm thứ tư, quan Đô úy An Huyền dịch bộ Pháp Cảnh Kinh gồm hai quyển, một quyển kinh A-hàm (khẩu giải), được xuất bản ở Lạc dương. Ngài Nghiêm Phật Điều chép lại.

Năm Nhâm Tuất, năm thứ năm.

Năm Quý Hợi, năm thứ sáu. Ngài Trúc Phật

Sóc, châu Lạc dương đã dịch Bộ Đạo Hạnh Kinh một quyển. Ngài Chi-lâu-ca-sấm đọc lời, các ngài Mãnh Phước, Trương Liên chép lại.

Năm Giáp Tý, năm đầu niên hiệu Trung Bình.

Năm Ất Sửu, năm thứ hai. Ở Lạc dương, ngài Chi Diệu dịch ngày các kinh Thành Cụ, Quang Minh… mười một bộ gồm mười một quyển.

Năm Bính Dần, năm thứ ba. Sách Chu Sĩ hành Hán Lục chép: Ở Lạc dương, ngày tám tháng hai ngài Chi-lâu-ca-thức đã dịch bộ Thủ-lăng-nghiêm kinh gồm hai quyển.

Năm Đinh Mão, năm thứ tư. Ở Lạc dương, ngài Khang Cự dịch.

Vấn Địa Ngục Sự kinh một quyển. Năm này Ngụy văn Đế sinh

Năm Mậu Thìn, năm thứ năm. Cao Tăng truyện chép rằng: sáu bộ kinh như Cổ Duy-ma-cật v…. v… mười quyển, đều do ngài Nghiêm Phật Điều người lâm hoài ở Lạc dương dịch

Năm Kỷ Tỵ, năm thứ sáu. Ngày tháng giêng đổi niên hiệu là Quang Gia (năm đầu). Đến tháng mười lại đổi niên hiệu là Chiêu Ninh, rồi tháng mười hai lại đổi là Vĩnh Long.

* Năm Canh Ngọ, đời vua Hán Hiến Đế, tên Hiệp, là con vua Hán Linh Đế, trị vì ba mươi năm, niên hiệu đầu là Sơ Bình. Đến tháng hai thì Đổng Trác cướp ngôi vua, phải chạy về Trường an khiến

Viên Thiệu khởi binh ở Bột Hải, Tôn kiên khởi binh ở Giang nam. Năm này Phật nhập Niết-bàn đã được bảy trăm chín mươi chín năm.

Năm Tân Mùi, năm thứ hai. Năm Nhâm Thân, năm thứ ba. Năm Quý Dậu, năm thứ tư.

Năm Giáp Tuất, năm đầu niên hiệu Hưng Bình. Sách Hán Lục về Trúc Đạo Tổ tán lục ghi: Năm này ở Lạc Dương, Khang Mạnh Tường dịch kinh Tứ Đế một quyển, bản này có chút ít khác nhau với quyển của An Thế Cao.

Năm Ất Hợi, năm thứ hai.

Năm Bính Tý, năm đầu niên hiệu Kiến An.

Năm Đinh Sửu, năm thứ hai. Ngày tháng ba, Sa-môn Trúc Đại Lực ở Lạc Dương đã dịch Tu Hành Bổn Khởi Kinh gồm hai quyển.

Năm Mậu Dần, năm thứ ba.

Năm Kỷ Mão, năm thứ tư. Cao Tăng truyện chép rằng: Hưng Khởi Bổn Hạnh Kinh… năm bộ gồm tám quyển, cùng ngài Khang Mạnh Tường dịch

Năm Canh Thìn, năm thứ năm. Năm Tân Tỵ, năm thứ sáu.

Năm Nhâm Ngọ, năm thứ bảy. Năm Quý Mùi, năm thứ tám. Năm Giáp Thân, năm thứ chín.

Năm Ất Dậu, năm thứ mười. Vua xuống chiếu cho Đạo Câu Duyệt soạn Hán Ký.

Năm Bính Tuất, năm thứ mười một.

Năm Đinh Hợi, năm thứ mười hai. Cao Tăng truyện chép: Hai quyển Trung Bổn Khởi Kinh do ngài Đàm Quả cùng Khang Mạnh Tường dịch cũng trong năm này.

Năm Mậu Tý, năm thứ mười ba. Năm Kỷ Sửu, năm thứ mười bốn. Năm Canh Dần, năm thứ mười lăm.

Năm Tân Mão, năm thứ mười sáu. Cao Tăng truyện chép rằng: Năm này ngài Trúc Đại Lực dịch ra hai quyển bộ Tu Hành Bổn Khởi Kinh.

Năm Nhâm Thìn, năm thứ mười bảy. Năm Quý Tỵ, năm thứ mười tám.

Năm Giáp Ngọ, năm thứ mười chín. Có cháu của Trương Lăng là Lỗ Canh soạn các Chương Phù tự xưng là Sư Quân, lãnh đạo mọi người tự xưng làm Trấn Di Trung Lang tướng.

Năm Ất Mùi, năm thứ hai mươi.

Năm Bính Thân, năm thứ hai mươi mốt. Năm Đinh Dậu, năm thứ hai mươi hai. Năm Mậu Tuất, năm thứ hai mươi ba.

Năm Kỷ Hợi, năm thứ hai mươi bốn.

QUYỂN 3

(Qua các triều đại: Ngụy, Tấn, Tống, Tề, Lương, Chu và Đại Tùy).

Nói về niên đại các đời vua sau thì từ đời Tam Hoàng Thiên hạ chỉ có một chúa, và suốt cả hai thời Tiền Hán cùng Hậu Hán không thể có hai tôi. Nhưng kể từ đời Ngụy tấn cho đến đời Đại Tùy chúng ta đây trị vì thì số thành ấp kinh đô được dựng lên khác nào lông nhím muôn màu muôn vẽ hai mươi hai nước thì có hai mươi hai kinh đô, trong đó Ngô có một, Tần có ba và Lương, Ngụy, Tề, Trần… cả tám nước này tuy nói là bảo trì nghi chế củ nhưng điều tuyên dịch Kinh Phật cốt giữ gìn Tam bảo được lâu dài để tứ sinh được nhờ cậy. Do đó mà kẻ chuyên làm thiện vốn để đức về sau, cho nên cần ghi chép lại cho mọi đời đều noi gương. Nhưng các danh mục ghi chép không được tiếp nối liên tục. Như ở thời Bá chủ thì trong mười nước đã có bốn nước không xiển dương truyền bá Thánh giáo, nên đối với sự việc không biết noi theo sự tu hành. Đến nay thì mỗi nước đều căn cứ ngày quyển Chí Thư của mình nêu sơ lược các sự việc qua các niên đại. Ngõ hầu hiểu biết về việc mạnh yếu, việc bắt đầu và kết thúc hoặc sự hưng phế của các triều đại.

Như năm tân sửu năm thứ hai niên hiệu Hoàng Sơ của Tào Ngụy Văn Đế thì có Lưu Bị đóng đô ở nước Thục xưng là nhà Hán, gồm hai đời vua trị vì bốn mươi ba năm sau đó lại thuộc về Ngụy Văn Đế.

Ở đời Tây Tấn, năm Nhâm Tuất, năm đầu của niên hiệu An Ngươn của vua huệ Đế, có Trương Quỹ khởi nghiệp ở Lương Châu xưng là nhà Lương. Đó là thời Tiền Lương, gồm bảy vua kéo dài sáu mươi hai năm. Rồi lại thuộc về đời Tiền Tần là Phù Vĩnh Cố.

Đời Tấn huệ Đế, năm Giáp Tý là năm đầu niên hiệu Vĩnh An, thì có Lưu Uyên dựng nghiệp ở Bình Dương. Lúc đầu tiên gọi là nhà Hán, về sau lại xưng là nhà Triệu. Đó là Tiền Triệu, gồm bốn đời vua kéo dài hai mươi sáu năm, về sau lại thuộc về hậu Triệu là Thạch Lặc.

Cũng cùng năm đầu niên hiệu Vĩnh An thì Lý Hùng khởi lên ở nước Thục, ban đầu gọi là Đại Thành về sau đổi xưng là nhà Hán, gồm bốn vua kéo dài bốn mươi bốn năm, sau đó bị Tấn Mục tiêu diệt.

Về đời Đông Tấn, ngày năm Canh Thìn năm thứ ba niên hiệu Thái Hưng của vua Ngươn Đế, thì Thạch Lặc mới nổi lên ở nước Tương, về sau dời Đô về huyện Nghiệp và xưng là nhà Triệu. Đó là Hậu Triệu, gồm bốn đời vua, đến Nhiễm Mẫn là ba mươi lăm năm, rồi thuộc ngày nhà Tiền Yên là Mộ Dung Tuấn.

Năm Ất Mão năm thứ mười một niên hiệu Vĩnh Hòa của Tấn Mục thì Mộ Dung Tuấn sáng nghiệp ở Huỳnh Long, sau dời đô về Huyện Nghiệp xưng hiệu là nhà Yên. Đó là Tiền Yên, gồm hai vua, trị vì mười chín năm. Về sau mất ngày tay Tiền Tần Phù Vĩnh Cố.

Năm Bính Tuất, tức năm thứ mười một niên hiệu Thái Ngươn của tấn Hiếu Võ, thì Mộ Dung Thùy khởi nghiệp ở Trung Sơn, về sau lại nối nghiệp nhà Yên. Đó là Hậu Yên. Sau dời đô về Huỳnh Long, gồm năm đời vua, trị vì hai mươi sáu năm. Về sau lại thuộc về nhà Bắc yên là Phùng Bạt.

Đến năm Đinh Hợi là năm thứ mười hai, thì Lữ Quang dựng nghiệp ở Lương Châu lại lấy hiệu là nhà Lương. Đây là Hậu Lương, gồm bốn vua trị vì mười sáu năm. Về sau lại thuộc ngày diệu Hưng đời Hậu Tần. Năm Đinh Dậu, năm đầu niên hiệu Long An của Tấn An Đế, thì Ngốc Phát Ô Hồ khởi nghiệp ở Tây Bình, cũng lấy hiệu là nhà Lương. Đây là Nam Lương, có ba đời vua trị vì mười tám năm. Sau lại thuộc về

Khất Phục Sất Bàn nhà Tây Tần.

Đến năm Mậu Tuất năm thứ hai thì Mộ Dung Đức khởi nghiệp ở Quảng Cố, cũng lấy hiệu là nhà Yên. Đây là Nam Yên, có hai đời vua, trị vì mười ba năm. Sau lại bị Tấn An Đế tiêu diệt.

Đến năm Canh Tý năm thứ tư, thì Lý Cao dựng nghiệp ở Đôn Hoàng, cũng lấy hiệu là nhà Lương. Đây là Tây Lương, có hai đời vua trị vì hai mươi hai năm. Sau mất về tay của Trở Cừ Mông Tốn thuộc Bắc Lương.

Năm Đinh Mùi năm thứ ba niên hiệu Nghĩa Hi đời Tấn An Đế thì có Hách Liên Bột Bột dựng nghiệp ở Sóc Mạc, đóng đô thống lãnh cả muôn thành trì, gọi là nhà Đại Hạ, gồm ba vua trị vì hai mươi lăm năm. Về sau lại thuộc Thái Võ nhà Bắc Ngụy.

Đến năm Canh Tuất, năm thứ sáu, Phùng Bạt khởi binh diệt nhà Hậu Yên, đóng đô ở Xương Lê, xưng hiệu là Đại Yên. Đó là Bắc Yên, gồm hai đời vua trị vì hai mươi tám năm. Về sau cũng thuộc ngày tay Thái Võ nhà Bắc Ngụy.

Đến năm Kỷ Mão, niên hiệu Ngươn Gia thứ mười sáu đời Tống Văn Đế, tức niên hiệu Thái Diên thứ năm của Bắc Ngụy, thì Thái Võ kéo quân Tây chinh đánh diệt nước Bắc Lương. Từ đó việc các nước thôn tính nhau cho đếm hết, chỉ còn lại nước Bắc Ngụy.

Đến năm Giáp Tuất, năm đầu niên hiệu Long Xương đời Tề Minh Đế, tức niên hiệu Thái Hòa thứ mười tám của Bắc Ngụy, thì Hiếu Văn Nam dời đô về Lạc Ấp. Đến năm Giáp Dần niên hiệu Đại Thông năm thứ sáu của Lương Võ Đế, nhằm ngày năm thứ ba niên hiệu Vĩnh Hi của Nam Ngụy. Võ Đế là Ngươn Tuần dời đô về phía Tây là Trường An. Đây là căn cứ theo Vũ Văn Hắc Thái của Chu Thái Tổ.

Tề Thái Tổ là Cao Hoan riêng lập con của Thanh Hà Vương là Nguyên Thiện Kiến lên làm vua, đóng đô ở phía Bắc đất Nghiệp. Do duyên cớ đó mà chia làm Tây và Đông Ngụy.

Năm Ất Hợi, năm thứ tư niên hiệu Thừa Thánh, Lương Hiếu Nguyên Đế tên là Dịch, đóng đô ở Giang Lăng, bị nhà Tây Ngụy diệt. Từ đó thì Nam Triều triều tính theo lịch số của Bắc Triều. Năm đó là năm thứ hai niên hiệu Hậu Ngươn nhà Ngụy. Cháu của Tiêu Diễn là Sát được Ngụy Vương ban cho được nối dõi cơ đồ nhà Lương. Đó gọi là Hậu Lương. Đã phải nương nhờ người khác thì đất nước chỉ là ảo ảnh. Nhà Chu nhận nhà Ngụy nhường ngôi cho, nhân đó mà đứng vững. Nhưng vẫn đóng đô ở Giang Lăng, gồm ba đời vua, trị vì được ba mươi ba năm và dứt mất ngày năm Đinh Mùi thuộc niên hiệu Khai Hoàng thứ bảy.

Năm Canh Tý, năm đầu niên hiệu Hoàng Sơ thì

Ngụy Văn Đế đầu tiên được nhà Hậu Hán nhường ngôi cho. Sang năm thứ hai là năm Tân Sửu thì thiên hạ chia làm ba, suốt cả năm mươi chín năm. Đến năm Kỷ Hợi, thuộc niên hiệu Hàm Ninh năm thứ năm của Tấn Võ Đế thì khắp nước phép tắc văn pháp lại giống nhau suốt hai mươi ba năm.

Đến năm Tân Dậu, năm đầu niên hiệu Vĩnh Ninh đời Tấn huệ Đế thì đất đai bị chia cắt tranh nhau mà kiến lập kinh đô đất nước.

Cho đến nay là năm Kỷ Dậu, niên hiệu Khai Hoàng thứ chín trong khoảng thời gian hai trăm tám mươi tám năm. Cho nên thực nghĩ từ trước nay thời vận đổi thay khác nào bốn mùa hết lạnh rồi nóng.

Từ đời nhà Đại Lương trở về sau thì chánh sách Vương Đạo rộng mở trùm khắp cả chín châu. Xe chở kinh sách về đến nay đã được chín năm, công hóa độ khắp muôn dân, đâu phải chỉ riêng có nhà Ngụy? Đến đời Đại Tùy suốt cả bốn mươi bốn năm. Tính ra từ các vị vua trước đã trị vì trong suốt thời gian có đến ba trăm bảy mươi tám năm, cả thảy có bảy đời vua với năm kinh đô. Sách Thế Lục đã chép như thế.

A. NIÊN ĐẠI TRỊ VÌ CỦA CÁC VUA:

I. Về nhà Ngụy thì gồm có:

- Ngụy Văn Đế trị vì bảy năm, đóng đô ở Lạc dương.

- Ngụy Minh Đế trị vì mười ba năm.

- Ngụy Tề Đế trị vì mười bốn năm.

- Ngụy Cao Quý Hương Công trị vì sáu năm.

- Ngụy Nguyên Đế trị vì năm năm.

II. Về nhà Tây Tấn gồm có:

- Tấn Võ Đế trị vì hai mươi lăm năm, đóng đô ở Lạc dương.

- Tấn huệ Đế trị vì mười sáu năm.

- Tấn Hoài Đế trị vì sáu năm.

- Tấn Mẫn Đế trị vì bốn năm, đóng đô ở Trường an.

III. Về nhà Đông Tấn gồm có:

- Tấn Nguyên Đế trị vì sáu năm, đóng đô ở Kiến Khang.

- Tấn Minh Đế trị vì ba năm.

- Tấn Thành Đế trị vì mười bảy năm.

- Tấn Khang Đế trị vì hai năm.

- Tấn Mục Đế trị vì mười bảy năm.

- Tấn Ai Đế trị vì bốn năm.

- Tấn Hải Tây Công trị vì năm năm.

- Tấn Giản Văn Đế trị vì hai năm.

- Tấn Hiếu Võ Đế trị vì hai mươi bốn năm.

- Tấn An Đế trị vì hai mươi hai năm.

- Tấn Cung Đế trị vì một năm.

IV. Về nhà Tống gồm có:

- Tống Võ Đế trị vì ba năm, đóng đô ở Kiến Khang.

- Tống Tiền Phế Đế trị vì một năm.-Tống Văn Đế trị vì ba mươi năm.

- Tống Hiếu Võ Đế trị vì chín năm.

- Tống Trung Phế Đế trị vì một năm.

- Tống Minh Đế trị vì tám năm.

- Tống Hậu Phế Đế trị vì năm năm.

- Tống Thuận Đế trị vì hai năm.

V. Về nhà Tề gồm có:

- Tề Cao Đế trị vì năm năm, đóng đô ở Kiến Khang.

- Tề Võ Đế trị vì mười năm.

- Tề Phế Đế trị vì nửa năm.

- Tề Tân An Vương trị vì nửa năm.

- Tề Minh Đế trị vì bốn năm.

- Tề Đông Thị hôn trị vì hai năm.

- Tề Nam Khang Vương trị vì một năm.

VI. Về nhà Lương gồm có:

- Lương Võ Đế trị vì bốn mươi tám năm, đóng đô ở Kiến khang.

- Lương Giản Văn Đế trị vì hai năm.

- Lương Hiếu Nguyên Đế trị vì bốn năm, đóng đô ở Giang lăng.

VII. Về nhà Chu gồm có:

- Chu Mẫn Đế trị vì một năm, đóng đô ở Trường an.

- Chu Minh Đế trị vì ba năm.

- Chu Võ Đế trị vì mười tám năm.

- Chu Tuyên Đế trị vì hai năm.

- Chu Tịnh Đế trị vì một năm.

VIII. Về nhà Đại Tùy

Từ niên hiệu Khai Hoàng đến nay, trị vì đã được mười bảy năm, đóng đô ở Đại Hưng.

B. CÁC SỰ KIỆN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN TAM BẢO Ở CÁC NIÊN ĐẠI TRÊN:

Năm Tân Sửu, năm Thái Khang thứ hai, ngài Cương Lương Lâu Chí dịch Thập Nhị Du Kinh, một quyển.

Năm Nhâm Dần, năm Thái Khang thứ ba. Năm Quý Mão, năm Thái Khang thứ tư.

Năm Giáp Thìn, năm Thái Khang thứ năm, ngày hai mươi ba tháng hai, ngài Pháp Hộ dịch bộ Tu Hành Kinh gồm bảy quyển.

Năm Ất Tỵ, năm Thái Khang thứ sáu, ngày mười tháng bảy Pháp Hộ dịch bộ Hải Long Vương Kinh, bốn quyển.

Năm Bính Ngọ, năm Thái Khang thứ bảy, ngày mười tháng tám Pháp Hộ dịch Chánh Pháp Hoa Kinh, mười quyển, ngày hai mươi bảy tháng mười dịch bộ Phổ Siêu Kinh bốn quyển, ngày hai mươi lăm tháng mười một dịch Quang Tán Bát-nhã kinh, mười quyển.

Năm Đinh Mùi, năm Thái Khang thứ tám, ngày mười một tháng một Pháp Hộ dịch Phổ Môn Phẩm Kinh, một quyển, ngày hai mươi bảy tháng bốn dịch Bảo Nữ Vấn Kinh một quyển.

Năm Mậu Thân, năm Thái Khang thứ chín.

Năm Kỷ Dậu, năm Thái Khang thứ mười, ngày tám tháng bốn Pháp Hộ dịch Văn-thù-sư-lợi Tinh Luật Kinh, một quyển, ngày hai tháng mười hai dịch Ly Cấu Thí Nữ Kinh và Ma Nghịch Kinh… tất cả các kinh trên đều được dịch ở Bạch mã, Lạc dương.

* Năm Canh Tuất, năm Thái Hi thứ nhất, tháng bốn khi Tấn Võ Đế băng, Thái tử Ai lên ngôi, đó là Tấn Huệ Đế, đổi niên hiệu là Vĩnh Bình thứ nhất. Năm Tân Hợi, niên hiệu Ngươn Khang thứ nhất. Năm Nhâm Tý, năm Ngươn Khang thứ hai.

Năm Quý Sửu, năm Ngươn Khang thứ ba. Năm Giáp Dần, năm Ngươn Khang thứ tư. Năm Ất Mão, năm Ngươn Khang thứ năm. Năm Bính Thìn, năm Ngươn Khang thứ sáu. Năm Đinh Tỵ, năm Ngươn Khang thứ bảy. Năm Mậu Ngọ, năm Ngươn Khang thứ tám. Năm Kỷ Mùi, năm Ngươn

Khang thứ chín. Năm Canh Thân, năm Vĩnh Khang thứ nhất

Năm Tân Dậu, năm Thủy Ngươn thứ nhất, tháng giêng, Luân Toản lại đổi niên hiệu là ngươn Ninh thứ nhất, tháng bốn thì đổi là Thủy Ngươn.

Năm Nhâm Tuất, năm Thủy Ngươn thứ hai, tháng mười hai lại đổi niên hiệu là Vĩnh An thứ nhất.

Năm Quý Hợi tháng một, lại đổi niên hiệu là Vĩnh An thứ nhất, tháng bảy lại đổi niên hiệu là Kiến Võ thư nhất.

Năm Giáp Tý, tháng tám lại đổi niên hiệu là Vĩnh Hưng. Năm Ất Sửu, năm Vĩnh Hưng thứ hai. Năm Bính Dần lại đổi niên hiệu là Quang Hi thứ nhất.

Năm Đinh Mão, đời vua Tấn Hoài Đế, tên Xí, là em của Tấn Huệ Đế, đổi niên hiệu là Vĩnh Gia thứ nhất.

Năm Mậu Thìn, năm Vĩnh Gia thứ hai, ngài Pháp Hộ dịch Phổ Diệu Kinh gồm tám quyển.

Năm Kỷ Tỵ, năm Vĩnh Gia thứ ba. Năm Canh Ngọ, năm Vĩnh Gia thứ tư.

Năm Tân Mùi, năm Vĩnh Gia thứ năm, vua bị Lưu Diệu bắt đưa về Bình Dương.

Năm Nhâm Thân, năm Vĩnh Gia thứ sáu.

Năm Quý Dậu, đời tấn Mẫn Đế tên Nghiệp, là cháu của Tấn Võ Đế, lấy niên hiệu là Kiến Hưng thứ nhất, đóng đô ở Trường an. Dân ở Ngô huyện là Chu Ứng cùng Bạch Ni và số đông thiện tín ở Đông vân, tại cửa khẩu Sái Độc của sông Tòng đã tìm thấy được hai tượng đá, sau lưng tượng có khắc bài Minh: Một tượng là Duy-vệ Phật, một tượng là Ca-diếp Phật, được đem thờ ở Thông Huyền.

Năm Giáp Tuất, năm Kiến Hưng thứ hai Năm Ất Hợi, năm Kiến Hưng thứ ba.

Năm Bính Tý, năm Kiến Hưng thứ tư.

NHÀ ĐÔNG TẤN:

* Năm Đinh Sửu, đời Tấn Nguyên Đế, tên Duệ, là cháu chú bác của Tấn Võ Đế, lấy niên hiệu là Kiến Võ, đóng đô ở Kiến Khang.

* Năm Mậu Dần, đổi niên hiệu là Thái Hưng, trị vì được hai năm ba tháng thì vua băng hà. Tấn Ngươn Đế, tên Phương lên ngôi đổi niên hiệu như trên (Thái Hưng).

Năm Kỷ Mão, năm Thái Hưng thứ hai. Năm Canh Thìn, năm Thái Hưng thứ ba. Năm Tân Tỵ, năm Thái Hưng thứ tư.

Năm Nhâm Ngọ, đổi niên hiệu là Vĩnh Xương, tháng mười hai nhuận vua băng hà.

* Năm Quý Mùi, đời vua Tấn Minh Đế, tên Thiệu, là con của Tấn Ngươn Đế, lấy niên hiệu là Thái Ninh thứ nhất.

Năm Giáp Thân, năm Thái Ninh thứ hai.

Năm Ất Dậu, năm Thái Hưng thứ ba thì vua băng hà.

* Năm Bính Tuất, đời Tấn Thành Đế, tên Diễn, con của Tấn Minh Đế, lấy niên hiệu là Hàm Hòa thứ nhất.

Năm Đinh Hợi, năm Hàm Hòa thứ hai. Năm Mậu Tý, năm Hàm Hòa thứ ba.

Năm Kỷ Sửu, năm Hàm Hòa thứ tư, Đơn Dương, Doãn Cao Lý ngày buổi sáng đi đến cầu Trương Hầu, nhìn ra bến sông thấy có ánh sáng ngũ sắc từ mặt nước phóng lên cao hàng mấy thước. Lý đến xem lấy làm lạ, bèn sai người lặn xuống nước thì tìm thấy một tượng bằng vàng, nhưng không có phần chân ngồi kiết già, khắc chế rất đặc biệt khác thường. Lý bèn xuống xe, chở tượng đem về thờ ở Trường can. Các chi tiết chép rõ ràng đầy đủ trong Cao Tăng Lưu Tác Hà truyện. Trương Hệ Thế, người ở Lâm Hải, thường lặn xuống biển bắt cá. Một hôm thấy trên mặt nước có ánh sáng liền lặn đến xem thì thấy phần chân ngồi kiết già có hoa sen bằng đồng, bèn dâng lên vua. Vua bảo ráp phần chân ngày tượng trên thì thấy ăn khớp nhau. Ở phần bắp vế thấy có khắc chữ Phạm. Có vị Tăng người nước ngoài đọc thì đó là dòng chữ ghi: "Con gái thứ tư của vua A-dục tạo tượng". Đến năm Khai Hoàng thứ chín, bèn đem trưng bày tượng này tại chùa Đại hưng thiện ở kinh đô.

Năm Canh Dần, năm Hàm Hòa thứ năm. Năm Tân Mão, năm Hàm Hòa thứ sáu.

Năm Nhâm Thìn, năm Hàm Hòa thứ bảy. Năm Quý Tỵ, năm Hàm Hòa thứ tám.

Năm Giáp Ngọ, năm Hàm Hòa thứ chín.

Năm Ất Mùi đổi niên hiệu là Hàm Khang thứ nhất. Năm Bính Thân, năm Hàm Khang thứ hai.

Năm Đinh Dậu, năm Hàm Khang thứ ba. Năm Mậu Tuất, năm Hàm Khang thứ tư. Năm Kỷ Hợi, năm Hàm Khang thứ năm. Năm Canh Tý, năm Hàm Khang thứ sáu. Năm Tân Sửu, năm Hàm Khang thứ bảy.

Năm Nhâm Dần, năm Hàm Khang thứ tám, tháng sáu vua băng hà.

* Năm Quý Mão, đời vua Tấn Khang Đế, tên Nhạc, là em vua Thành Đế, đổi niên hiệu là Kiến Ngươn thứ nhất.

Năm Giáp Thìn, năm Kiến Ngươn thứ hai, vua băng hà ngày tháng chín.

* Năm Ất Tỵ, đời vua Tấn Mục Đế, tên Đam, là con vua Khang Đế, lấy niên hiệu là Vĩnh Hòa thứ nhất.

Năm Bính Ngọ, năm Vĩnh Hòa thứ hai. Năm Đinh Mùi, năm Vĩnh Hòa thứ ba. Năm Mậu Thân, năm Vĩnh Hòa thứ tư. Năm Kỷ Dậu, năm Vĩnh Hòa thứ năm. Năm Canh Tuất, năm Vĩnh Hòa thứ sáu. Năm Tân Hợi, năm Vĩnh Hòa thứ bảy. Năm Nhâm Tý, năm Vĩnh Hòa thứ tám. Năm Quý Sửu, năm Vĩnh Hòa thứ chín.

(Đến đây lại chia làm hai cột, một bên nói tiếp về Đông Tấn, một bên nói về Phù Tần).

(Từ đây bắt đầu chia bốn cột: Đông tấn (tt), Diêu Tần,

Khất Phục Tần, Phù Tần)

Nhà Đại Tùy:

Năm Tân Sửu, năm Khai Hoàng thứ nhất. Mùa Xuân dâng ấn nhường ngôi cho nhà Tùy. Mùa Đông, nhóm Sa-môn Trí Châu (mười một người)… chở về được hai trăm sáu mươi bộ Kinh Luận Bà-la-môn. Vua ra sắc chỉ các Ty Sở tìm người phiên dịch.

Năm Nhâm Dần, năm Khai Hoàng thứ hai, thì có Nghiệp Báo Sai năm thái kiến thứ mười bốn Biệt Kinh một quyển, do Quận Thú ở Dương Châu là Đàm Pháp Trí dịch. Tượng Đầu Tinh Xá kinh một quyển, Đại Thừa Phương Quảng Tổng Trì kinh một quyển đều do Tỳ-ni-đa-lưu-chi dịch.

Năm Quý Mão, năm Khai Hoàng thứ ba, Lao Cố Nữ Kinh một quyển, Bách Phật Danh Kinh một quyển, Đại Trang Nghiêm Pháp Môn Kinh hai quyển, Đức Hộ Trưởng Giả Kinh hai quyển, bốn bộ ấy gồm sáu quyển đều do Na-liên-đề-da-xá dịch.

Năm Giáp Thìn, năm Khai Hoàng thứ tư, thì Liên Hoa Diệu Kinh hai quyển, Đại Vân Luân Thỉnh Vũ Kinh hai quyển, Lực Trang Nghiêm Tam-muội Kinh ba quyển, cả ba bộ bảy quyển đều do Na-liên-đề-da-xá dịch.

Năm Ất Tỵ, năm Khai Hoàng thứ năm, Đại Phương Đẳng Nhất Tạng Kinh mười lăm quyển thì khởi dịch từ tháng năm năm thứ tư đến tháng hai năm thứ năm mới ngày do Na-liên-đề-da-xá dịch. Năm Bính Ngọ, năm Khai Hoàng thứ sáu, Đại Tập Kinh sáu mươi quyển, Sa-môn Tăng Tựu Họp Đại Oai Đăng Kinh, Bát Phật Danh Hiệu Kinh, Hy Hữu Giảo Lượng Kinh, Thiện Cung Kỉnh Sư Kinh, Văn-thù-sư-lợi Hạnh Kinh gồm năm quyển đều do ngài Xà-na-quật-đa dịch.

Năm Đinh Mùi, năm Khai Hoàng thứ bảy, Hư Không Dựng Bồ-tát Kinh hai quyển, Như Lai Phương Tiện Thiện Xảo Chú Kinh một quyển, Bất Không Quyên Sách Quán Thế Âm Tâm Chú Kinh một quyển, Kim Cang Dịch Đà-la-ni một quyển, cả bốn bộ gồm năm quyển đều do ngài Xà-na-quậtđa dịch.

Năm Mậu Thân, năm Khai Hoàng thứ tám, Phật Bổn Hạnh Tập Kinh gồm sáu mươi quyển, khởi dịch từ tháng bảy năm Khai Hoàng thứ bảy, đến đầu năm nay mới được mười quyển. Thiện Cung Kỉnh Thiện Xảo Chú… các kinh đều do

Quật-đa dịch.

Năm Kỷ Dậu, năm Khai Hoàng thứ chín, Phật Bổn Hạnh Tập Kinh đã dịch thêm mười lăm quyển.

Năm Canh Tuất, năm Khai Hoàng thứ mười, Phật Bổn Hạnh Tập Kinh đã dịch thêm hai mươi quyển.

Năm Tân Hợi, năm Khai Hoàng thứ mười một, Phật Bổn Hạnh Tập Kinh đã dịch thêm mười lăm quyển.

Tính đầu đuôi suốt năm năm mới dịch ngày sáu mươi quyển, đều do ngài Xà-na-quật-đa dịch. Và lại dịch Nguyệt Thượng Nữ Kinh, Thiện Tư Đồng Tử hai Kinh.

Năm Nhâm Tý, năm Khai Hoàng thứ mười hai, Pháp Cự Đà-la-ni Kinh hai mươi quyển do ngài Xà-na-quật-đa dịch.

Năm Quý Sửu, năm Khai Hoàng thứ mười ba, Ngũ Thiên Ngũ Bách Phật Danh Kinh tám quyển, Tứ Đồng Tử Tam-muội Kinh ba quyển đều do ngài Xà-na-quật-đa dịch.

Năm Giáp Dần, năm Khai Hoàng thứ mười bốn, Chư Phật Hộ Niệm Kinh mười quyển, Hiền Hộ Bồ-tát Kinh sáu quyển, đều do ngài Xà-naquật-đa dịch. Vua ra lệnh nhóm Sa-môn Pháp Kinh gồm hai mươi Đại Đức soạn ra Chúng Kinh Mục Lục gồm bảy quyển. Lại ra lệnh Quan Hữu Ty cho tuyển soạn Chúng Kinh Pháp Thức gồm mười quyển để chế ước Tăng Ni.

Năm Ất Mão, năm Khai Hoàng thứ mười lăm, Đại Oai Đức Đà-la-ni Kinh hai mươi quyển, Quan Sát Chư Pháp Hạnh Kinh bốn quyển, Chư Pháp Bổn Vô Kinh ba quyển, Thí Dụ Vương Kinh hai quyển, Phát Giác Tịnh Tâm Kinh hai quyển, đều do ngài Xà-na-quật-đa dịch.

Năm Bính Thìn, năm Khai Hoàng thứ mười sáu, Kim Quang Minh Kinh Chúc Lụy một phẩm, do ngài Xà-na-quật-đa dịch.

Năm Đinh Tỵ, năm Khai Hoàng thứ mười bảy, Kim Quang Minh Kinh trước sau ba bản dịch, nay gộp làm một bộ tám quyển do ngài Sa-môn Bảo Quý họp lại. Ngày hai mươi bốn tháng giêng năm này, đức vua Khai Hoàng đã đến cơ sở dịch kinh mới để nghe tấu trình.

Năm Mậu Ngọ, năm Khai Hoàng thứ mười tám, Siêu Thế Kinh mười quyển, Quật-đa dịch.

Năm Kỷ Mùi, năm Khai Hoàng thứ mười chín, Tam Tụ Kinh hai quyển, Quật Đa dịch.

Năm Canh Thân, năm Khai Hoàng thứ hai mươi, khuya ngày ba tháng mười có động đất lớn. Năm Tân Dậu, năm Nhân Thọ thứ nhất, đổi niên hiệu này ngày một tháng giêng.

Năm Nhâm Tuất, năm Nhân Thọ thứ hai.

Năm Quý Hợi, năm Nhân Thọ thứ ba.

Năm Giáp Tý, năm Nhân Thọ thứ tư.

Năm Ất Sửu, năm Đại Nghiệp thứ nhất, Dạng Đế tên là Quảng lên ngôi, là con thứ hai của Cao Tổ Văn Đế làm vua được mười ba năm.

Năm Bính Dần, năm Đại Nghiệp thứ hai.

Năm Đinh Mão, năm Đại Nghiệp thứ ba.

Năm Mậu Thìn, năm Đại Nghiệp thứ tư.

Năm Kỷ Tỵ, năm Đại Nghiệp thứ năm.

Năm Canh Ngọ, năm Đại Nghiệp thứ sáu.

Năm Tân Mùi, năm Đại Nghiệp thứ bảy.

Năm Nhâm Thân, năm Đại Nghiệp thứ tám.

Năm Quý Dậu, năm Đại Nghiệp thứ chín.

Trong một ngày suốt theo dòng sông Biện vua sai cả trăm vạn người mỗi người phải nộp một đấu gạo và ngàn đồng tiền.

Năm Giáp Tuất, năm Đại Nghiệp thứ mười.

Năm Ất Hợi, năm Đại Nghiệp thứ mười một.

Năm Bính Tý, năm Đại Nghiệp thứ mười hai.

Năm Đinh Sửu, năm Đại Nghiệp thứ mười ba.

Nhà Đại Đường:

Năm Mậu Dần.

Năm Kỷ Mão, năm đầu niên hiệu Võ Đức 1 Năm Canh Thìn. Năm Tân Tỵ.

Năm Nhâm Ngọ. Năm Quý Mùi.

Năm Giáp Thân. Năm Ất Dậu.

Năm Bính Tuất. Năm Đinh Hợi.

Năm Mậu Tý.

Năm Kỷ Sửu.

Năm Canh Dần.

Năm Tân Mão.

Năm Nhâm Thìn.

Năm Quý Tỵ.

Năm Giáp Ngọ.

1 1 Phần nhà Đại Đường chỉ ghi năm mà không ghi việc. Còn năm đầu niên hiệu Võ Đế ở đây ghi thuộc năm Kỷ Mão, nhưng trong bảng các niên đại của Hán Việt Tự Điển Hiện Đại 94 lại ghi thuộc năm Mậu Dần.

Năm Ất Mùi.

Năm Bính Thân.

Năm Đinh Dậu.

Năm Mậu Tuất.

Năm Kỷ Hợi.

Năm Canh Tý.

Năm Tân Sửu.

Năm Nhâm Dần.

Năm Quý Mão.

Năm Giáp Thìn.

Năm Ất Tỵ.

Năm Bính Ngọ.

Năm Đinh Mùi.

Năm Mậu Thân. Năm Kỷ Dậu.

Năm Canh Tuất.

Năm Tân Hợi.

Năm Nhâm Tý.

Năm Quý Sửu. Năm Giáp Dần. Năm Ất Mão. Năm Bính Thìn. Năm Đinh Tỵ. Năm Mậu Ngọ.

Năm Kỷ Mùi.

Năm Canh Thân. Năm Tân Dậu.

Năm Nhâm Tuất. Năm Quý Hợi.

QUYỂN 4

CÁC KINH DỊCH Ở ĐỜI HẬU HÁN

Sách Hậu Hán Lục có ghi rằng: Trang là con thứ tư của Quang Võ Hoàng Đế lên kế vị, tên Thụy là Hiếu Minh Đế. Đến năm Vĩnh Bình thứ bảy, một đêm vua nằm mộng thấy có người thân toàn bằng vàng cao một trượng sáu, cổ đeo Nhật Luân (vòng lửa sáng như mặt trời), bay trên không mà đến làm sáng rực cả sân triều. Sáng hôm sau, vua tập hợp quần thần để đoán mộng. Kẻ thông thái là Phó Nghị tâu cùng vua rằng: Thần nghe ở phương Tây có vị thần gọi là Phật, người mà bệ hạ thấy trong mộng chắc là vị đó: "Vua cho là phải mừng vui với điềm linh cảm, bèn ban chiếu sai người đi sứ. Nhóm Vũ Lâm Trung Lang Tần Cảnh Bác Sĩ cùng đệ tử vương tuân gồm mười bốn người sang Thiên Trúc, ở nước Nguyệt Chi gặp ngài Nhiếp-ma-đằng viết được bộ kinh Tứ Thập Nhị Chương cùng thu thập được nhiều tranh và tượng Phật, dùng ngựa trắng chở thẳng về Lạc dương. Nhân đó mà xây dựng ngôi Già-lam gọi là chùa Bạch mã. Các Châu cũng thi nhau xây cất để đền ân bạch mã. Ở thành cũ Trường an thì vùng đất cách hơn hai trăm bước phía trái của Thanh môn đạo và bên phải là chùa Trung hưng, thì đó là nền cũ của chùa Bạch mã. Nơi đó đã phiên dịch kinh Tứ Thập Nhị Chương và để bộ kinh này trong gác Lan đài thạch thất. Từ đó Phật giáo nối tiếp nhau hưng thịnh như mây đùn. Các vị Sa-môn và thiện tín (cư sĩ) nối gót nhau mà dịch thuật.

Đời vua Hiếu Hoàn lại dùng vàng bạc mà đúc hình tượng Phật. Đến đời vua Hiếu Linh, năm Quang Hòa thứ ba, vua sai Trung Đại Phu đãi cơm chay tại các chùa tháp Phật ở Lạc dương, giăng treo các dây lụa màu, xông hương, rãi hoa thắp đèn. Năm Quang Hòa thứ bảy, bọn Trương Giác… tổ chức nghịch đảng liên hệ với phe Hoàng hậu để trong ngoài mưu hại chiếm ngôi. Và các việc về yêu quái, đồng cốt, hốt thuốc, bói toán của Đạo giáo (Lão Tử) đều dẹp bỏ, các người thọ năm giới thờ Phật không được tham dự.

Từ đời Tần có Sa-môn Thích Lợi Phòng và thời Tiền Hán có Lưu Hướng kiểm soát sách vở ở Thiên Các trở đi, đến nay mới có quy định việc ghi chép: Về kinh thì Tứ Thập Nhị Chương là có trước hết, còn người thì Ca-diếp Ma-đằng là người đầu tiên đến năm Kiến An đời Hiến Đế là sau chót, trong khoảng thời gian suốt một trăm năm mươi hai năm trải qua mười một đời vua, Hoa và Phạm, Đạo và Tục thì mười người đã có đến hai người theo (Hai mươi phần trăm dân theo đạo Phật). Gom lấy những cái xưa cũ còn sót lại để bổ túc các chỗ thiếu sót trước đây, đều do các bản xưa mất tên người dịch. Tính ra có ba trăm năm mươi chín bộ kinh và luật gồm bốn trăm hai mươi bảy quyển. Đó là những kinh sách chính thức được ghi chép ở đời Hậu Hán, để mọi người lật xem soi gương kim cổ. Bởi thời đại có tụ tán, mà kinh điển có hợp ly, nay muốn việc giảng giải rõ ràng, hóa độ rộng rãi thì Pháp bảo (kinh sách) phải đầy đủ vậy.

****

Thời hậu hán:

- Sa-môn Ca-diếp Ma-đằng có một bộ kinh, một quyển.

- Sa-môn Trúc Pháp Lan có năm bộ kinh, mười ba quyển.

- Sa-môn An Thế Cao có một trăm bảy mươi sáu bộ kinh luật, một trăm chín mươi bảy quyển.

- Sa-môn Chi-lâu-ca-sấm có hai mươi mốt bộ kinh, sáu mươi ba quyển.

- Ưu-bà-tắc Đô Úy An Huyền có hai bộ kinh, ba quyển.

- Sa-môn Trúc Phật Sóc có hai bộ kinh, ba quyển.

Sa-môn Chi Diệu có mười một bộ kinh, mười hai quyển.

- Sa-môn Khang Cự có một bộ kinh, một quyển.

- Thanh Tín Sĩ Nghiêm Phật Điều có bảy bộ kinh, mười quyển.

- Sa-môn Khang Mạnh Tường có sáu bộ kinh, chín quyển.

- Sa-môn Thích Đàm Quả có một bộ kinh, hai quyển.

- Sa-môn Trúc Đại Lực có một bộ kinh, hai quyển.

- Các bộ kinh chú mất tên người dịch có một trăm hai mươi lăm bộ gồm một trăm bốn mươi tám quyển.

- Về đời Hậu Hán thì có Tứ Thập Nhị Chương Kinh, một quyển.

- Nói về một kinh một quyển ở trên, là từ đời Hán Minh Đế, thì ở nước Trung Thiên Trúc có ngài Sa-môn Bà-la-môn tên Ca-diếp Ma-đằng dịch ra. Hoặc gọi ngài là Trúc Nhiếp Ma-đằng hoặc gọi tắt là Nhiếp-ma-đằng. Một số lớn sách còn chưa hiểu rõ đó là ai, đã chưa biết rõ tên gì họ gì, nên từ trước đến nay bộ kinh ấy thường thiếu tên dịch giả, do đó nay cần nói rõ: Ngài Ma-đằng từ thuở nhỏ rất thông minh dáng vẽ xinh đẹp, học rộng hiểu nhiều, đặc biệt rất thông suốt về kinh luật, sức suy nghĩ chuyên sâu và khám phá ra tất cả mọi chỗ sâu kín nhất, lời văn và cách lý luận đều có ý mới mẽ, lúc bấy giờ kẻ học đồ chưa biết phải nương tựa ngày đâu. Pháp sư đi đến nước Thiên Trúc, đến một nước nhỏ ở phía Tây bắc, nước này rất quý trọng ngài. Bỗng nước bên cạnh dấy binh, nhưng thấy nước bên này vẫn không chiêu tập binh mã chi cả. Cuối cùng khi sắp kéo quân sang dày xéo thì bỗng dừng lại vì nghi là nước ấy có chước lạ. Bèn lén cho người theo dõi. Kẻ ấy trở về thưa rằng: Nước đó cả vua tôi đều nghe diễn giảng và thực hành theo các kinh Đại Thừa Kim Quang Minh. Kinh ấy nói nếu thuyết giảng pháp ấy thì Địa thần theo ủng hộ. Nhân đó nước láng giềng xin cầu hòa rồi lại cầu pháp, truyền bá rộng rãi về Đại thừa. Từ đó giáo pháp dần dần được truyền bá đến phương Nam này.

Năm Vĩnh Bình, ngài Ma-đằng theo Thái Am đến Lạc Ấp, ra ở Bạch mã để phiên dịch kinh này. Căn cứ ngày sách mà sắp thứ tự thì kinh này có đầu tiên ở đất Hán vậy. Sách Cựu Lục chép rằng: Vốn là kinh chép từ ngoại quốc. Đầu tiên rút ra từ Đại bộ rồi tóm tắt hướng dẫn kẻ tục giống như bộ Hiếu Kinh ở xứ này kinh có mười tám chương. Đạo An Lục không thấy nói. Còn Cựu Lục và Chu Sĩ Hành xuất tam tang ký tập của ngài Tăng Hựu Lại chép rằng: Khi Đại Pháp mới được truyền ngày thì mọi người chưa tin phục quy ngưỡng. Dù cho ngài Mađằng chứa đầy chỗ thấy sâu hiểu rộng thì cũng không thể nào phiên dịch được nhiều sách. Ngài tịch tại Lạc Dương. Mọi chi tiết được ghi rõ trong các sách Chu Sĩ Hành Hán Lục các truyện như, Cao tăng, Danh Tăng các truyện và các sách tạp ký. Ngài Bảo Xướng lại bảo kinh này là do ngài Trúc Pháp Lan dịch. Đây có lẽ là căn cứ ngày thời gian cùng lúc với ngài Nhiếp-ma-đằng mà thôi.

****

- Phật Bổn Hạnh Kinh, năm quyển.

- Thập Địa Đoạn Kiết Kinh bốn quyển (hoặc tám quyển thấy ghi chép trong Chu Sĩ Hành Hán Lục).

- Pháp Hải tạng Kinh, ba quyển (có bản không có chữ Tạng)

- Phật Bổn Sinh Kinh, hai quyển (thấy ghi trong Danh Tăng truyện)

- Nhị Bách Lục Thập Giới Họp Dị, hai quyển (thấy trong Biệt Lục).

Cả năm bộ trên gồm mười sáu quyển, đều do Sa-môn Trúc Pháp Lan, người nước Trung Thiên Trúc dịch. Dù dịch ít nhưng lời văn thanh nhã, sâu sắc, khai ngộ hợp căn cơ, lại ưa chuộng sự rộng rãi. Cả thiền và luật đều rốt ráo. Ngài từng đọc kinh hơn trăm vạn lời, học trò trên ngàn người. không cầu yên thân, luôn lo toan lợi lớn cho mọi người, giới hạnh rất nghiêm túc, không ai có thể chê trách.

Khi nghe vua Hán sai sứ là Thái Am đến liền hỏi han việc Phật pháp ở đất Hán, bèn có ý coi thường. Vua Hán không cho đến Pháp Lan bèn cùng Mađằng lén đến nơi. Có thuyết cho là Pháp Lan đến sau. Đến đời vua Minh Đế, Pháp Lan đầu tiên cùng với ngài Ma-đằng dịch bộ Tứ Thập Nhị Chương. Sau khi Ma-đằng thị tịch thì Pháp Lan tự dịch lấy. Ngày xưa lúc Hán Võ Đế đào ao Côn Minh, thấy dưới đáy ao toàn tro đen. Bèn hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: Nên hỏi người Phạm ở Tây Vức. Lúc đó ngài Pháp Lan đã đến. Liền đem việc ấy lại đến hỏi ngài, ngài bảo: Đây là tro của kiếp thiêu. Sóc bảo chắc đó là bằng cớ, nên người tin rất đông. Lại khi Tần Cảnh sai sứ đến nước Nguyệt Chi khi trở về thì tìm thấy tượng gỗ Chiên-đàn thứ tư của vua Ưu Điền rồi họa lại rất giống đem về Lạc dương. Vua bèn ra lệnh nên vẽ lại để cúng dường. Từ đó được truyền bá rộng khắp đến ngày nay.

****

- Tu Hành Đạo Địa Kinh, bảy quyển (hoặc sáu quyển, dịch ra đầu tiên ở thời Hán, năm Vĩnh Khang thứ nhất, ngài Chi Mẫn Độ viết tựa. Thấy ghi ở Bảo Xướng Lục và Biệt Lục. Hoặc gọi cuốn ấy là Thuận Đạo Hạnh Kinh).

- Pháp Cú Kinh bốn quyển.

- Đại Tăng oai Nghi Kinh, bốn quyển (Hai kinh trên thấy ghi ở Biệt Lục. Bản phụ mới co bản dịch khác so với bản củ có khác chút ít. Ở Tăng hựu Lục ở phần thất định thì phân làm hai bộ hai quyển. Biệt Lục ở đây gộp lại).

- Ngũ Thập Giảo Kế Kinh, hai quyển (hoặc gọi là Minh Độ Giảo Kế, được dịch ở năm Ngươn Gia thứ nhất, thấy ghi trong Chu Sĩ Hành Hán Lục. Ở Tăng Hựu Lục cũng ghi giống thế).

- Tạp Tứ Thập Thiên Kinh, hai quyển (hoặc gọi là Tạp Kinh bốn mươi bốn thiên. Vì không rõ tên nên không biết là kinh gì. Ngài Đạo An bảo: đây là trích ra ở Tăng Nhất A-hàm. Có chép trong Tăng Hựu Lục).

- Thất Xứ Tam Quán Kinh, hai quyển (dịch ở năm Nguyên Gia thứ nhất. Thấy ghi trong Chu Sĩ Hành Hán Lục. Ngài Đạo An bảo là trích trong Tạp A-hàm. Ở Tăng Hựu Lục cũng giống).

- Thập Báo Kinh, hai quyển (Cựu Lục thì ghi là trích từ Trường A-hàm. Thấy trong Tăng Hựu Lục, cũng gọi là Đa Tăng Đạo Chương Kinh).

- Đại Đạo Địa Kinh, hai quyển (dịch đầu tiên, ngài Đạo An chú giải là bản sao của kinh Tu Hành, nguyên vì ở nước ngoài gọi tắt hoặc không có chữ Đại, rút từ Trường A-hàm. Thấy ghi trong Tăng Hựu Lục.

- Đạo Ý Phát Hạnh Kinh, hai quyển (hoặc một quyển, rút từ Trường A-hàm, thấy ghi trong Đạo An và Tăng Hựu Lục).

- Thiền Kinh, hai quyển (dịch đầu tiên, thấy trong Biệt Lục).

- An Ban Thủ Ý Kinh, hai quyển (hoặc một quyển, ngài Đạo An gọi là Tiểu An Ban. Thấy trong Chu Sĩ Hành Hán Lục và Tăng Hựu, Lý Khuếch Lục đều giống nhau.)

- Vô Lượng Thọ Kinh, hai quyển (dịch đầu tiên, thấy ghi trong Biệt Lục. Đầu đời Ngụy, Sa-môn Đàm Loan chú giải luận kệ).

- Ấm Trì Nhập Kinh, một quyển (trong Biệt Lục ghi Ấm Trì Nhập do ngài Đạo An chú giải.

Thấy ghi trong Chu Sĩ Hành Hán Lục và Tăng Hựu Lục)

- Bách Lục Phẩm Kinh, một quyển (Cựu Lục gọi là Tăng Nhất A-hàm Bách Lục Thập Chương Kinh. Cũng thấy ghi trong Tăng Hựu Lục)

- Đại Thập Nhị Môn Kinh, một quyển (Biệt Lục nói là hai quyển, rút từ Trường A-hàm. Ngài Đạo An chú giải, thấy ghi trong Bảo Xướng và Tăng Hựu Lục).

- Tiểu Thập Nhị Môn Kinh, một quyển rút từ Trường A-hàm, thấy trong bảo xướng và Tăng Hựu Lục).

- Nhân Bản Dục Sinh Kinh một quyển (dịch từ năm Ngươn Gia thứ hai, rút từ Trung A-hàm, thấy trong Chu Sĩ hành Hán Lục, Tăng Hựu Lục và ngài Đạo An chú giải).

- A-tỳ-đàm Ngũ Pháp Kinh, một quyển (Cựu Lục gọi là A-tỳ-đàm Ngũ Pháp Hạnh Kinh, rút từ Trường A-hàm thấy ghi trong Tăng Hựu Lục).

- Thất Pháp Kinh, một quyển (Cựu Lục gọi là A-tỳ-đàm Thất Pháp Hạnh Kinh, rút từ Trường Ahàm. Hoặc gọi là Thất Pháp Hạnh, thấy ghi trong Tăng Hựu Lục).

- Phổ Pháp Nghĩa Kinh, một quyển (dịch từ năm Nguyên Gia thứ hai, cũng gọi là Cụ Pháp Hạnh Kinh, rút từ Trường A-hàm thấy ghi trong Chu Sĩ Hành Hán Lục và Tăng Hựu Lục).

- Lậu Phân Bố Kinh, một quyển (ngài Đạo An nói là rút từ Trường A-hàm. Thấy trong Chu Sĩ Hành Hán Lục và Tăng Hựu Lục, lại nói rút từ Trung A-hàm).

- Tứ Đế Kinh, một quyển (ngài Đạo An nói là rút từ Trường A-hàm hoặc từ Trung A-hàm, dịch đầu tiên, thấy trong Tăng Hựu Lục).

- Cửu Hoạnh Kinh, một quyển (rút từ Tạp Ahàm).

- Bát Chánh Đạo một quyển (cả hai kinh trên đều rút từ Tạp A-hàm. Thấy trong Chu Sĩ Hành Hán Lục và Tăng Hựu Lục, Tam Tạng Ký).

- Đại An Bang Kinh, một quyển (hoặc hai quyển, ngài Đạo An chú giải, thấy trong Tăng Hựu Lục hoặc gọi là Đại An Ban Tập Kinh).

Tư Duy Yếu Lược Kinh một quyển (hoặc gọi tắt là Tư Duy Kinh, thấy trong Tăng Hựu Lục).

- Thập Nhị Nhân Duyên Kinh, một quyển (cũng gọi là Văn Thành Thập Nhị Nhân Duyên Kinh, dịch đầu tiên, thấy trong Tăng Hựu Lục).

- Ngũ Ấm Dụ Kinh, một quyển (Cựu Lục gọi là Ấm Thí Dụ Kinh, thấy ghi trong Chu Sĩ Hành Hán Lục và Tăng Hựu Lục, rút từ Tạp A-hàm).

- Chuyển Pháp Luân Kinh, một quyển (hoặc gọi Pháp Luân Kinh, thấy ngài Đạo An và Tăng Hựu Lục nói rút từ Tạp A-hàm).

- Lưu Nhiếp Kinh, một quyển (Cựu Lục gọi là Nhất Thiết Lưu Nhiếp kinh, cũng gọi là Nhất Thiết Lưu Nhiếp Thủ. Ngô Lục nói là Lưu Nhiếp Thủ Nhân, cũng gọi là Thọ Nhân. Thấy ghi trong Chu Sĩ Hành Hán Lục và Tăng Hựu Lục, rút từ Trung A-hàm).

- Thị Pháp Phi Pháp Kinh, một quyển (thấy ghi trong Chu Sĩ Hành Hán Lục và Tăng Hựu Lục, rút từ Trung A-hàm).

- Pháp Thọ Trần Kinh, một quyển (thấy trong Tăng Hựu Lục).

- Thập Tứ Ý Kinh, một quyển (Cựu Lục gọi là Bồ-tát Thập Tứ Ý Kinh, thấy ghi trong Tăng Hựu Lục).

- Bổn Tương Ỷ Trí Kinh, một quyển (rút từ Trung A-hàm, Ngô Lục gọi là Đại Tướng Ỷ Trí và

Duyên Bổn Trí Kinh đồng nhau. Thấy ghi trong Chu Sĩ Hành Hán Lục và Tăng Hựu Lục, và tam Tạng Tạp Ký).

- A-tỳ-đàm Cửu Thập Bát Kiết Kinh, một quyển (thấy Tăng Hựu có ghi).

- Thiền Hành Pháp Tưởng Kinh, một quyển (thấy ghi trong Tăng Hựu Lục, Bảo Xướng Lục và Tam Tạng Ký).

- Thiền Hành Tam thập Thất Phẩm Kinh, một quyển (thấy trong Bảo Xướng Lục, hoặc không có chữ "Thiền Hành" và trong Tăng Hựu Lục).

- Nan-đề-ca-la Việt kinh, một quyển (thấy trong Tăng Hựu Lục).

- Độc Phú Trưởng Giả Kinh, một quyển (cũng gọi là Độc Phú Trưởng giả Tài Vật Vô Kinh, cũng gọi là Vô Tử Phó Chúc, rút từ Tạp A-hàm quyển bốn mươi sáu).

- Trưởng Giả Áo Não Tam Xứ Kinh, một quyển (cũng gọi là Trưởng Giả Tử Áo Não Tam Xứ Kinh, cũng gọi tắt là Tam Xứ Não Kinh).

- Thân Khởi Trưởng Giả Hối Quá Kinh, một quyển (cũng gọi là Thân Việt Trưởng Giả Hối Quá Cúng Phật Kinh "Thân Việt, Thân Khởi" chưa biết chắc như thế nào

- Phật Vị-na-câu Thuyết Căn Thục Kinh, một quyển (cũng gọi là Vị-na-câu-la Trưởng Giả Thuyết Căn Thục Kinh).

- Trưởng Giả Huynh Đệ Nghệ Phật Kinh một quyển (cũng gọi là Trưởng Giả Lê Sư Đạt Đa Huynh Đệ Nhị Nhân Vãng Phật Sở Kinh, rút từ Trung A-hàm).

- Phật Thần Lực Cứu Trưởng Giả Tử Kinh, một quyển.

- A-na-bân-kỳ Hóa Thất Tử Kinh một quyển (rút từ Tăng Nhất A-hàm).

- Thập Chi Cư Sĩ Bát Thành Nhân Kinh, một quyển (rút từ A-hàm quyển sáu mươi, cũng gọi tắt là Thập Chi Kinh).

- Vô Úy Ly Xa Bạch A-nan Kinh, một quyển (rút trong Tạp A-hàm quyển thứ hai mươi mốt).

- Thọ Chú Nguyện Kinh, một quyển (cũng gọi là Tối Thắng Trưởng Giả thọ Chú Nguyện Kinh).-Trưởng Giả Tử Chế Kinh, một quyển.

- Úc-già Cư Sĩ Kiến Phật Văn Pháp Tỉnh Ngộ Kinh, một quyển (cũng gọi là Tu-già-đà Cư Sĩ Phật Vị Thuyết Pháp Đắc hoàn Ngộ Kinh, rút từ Tạp Ahàm).

- Đắc Phi Thường Quán Kinh, một quyển (cũng gọi là Trưởng Giả Dạ Du Đắc Phi Thường Quán Kinh).

- Xá-đầu-giản Kinh, một quyển (dịch đầu tiên, thấy Cựu Lục gọi là Xá-đầu-giản Thái Tử Minh Nhị Thập Bát Tú Kinh, cũng gọi Thái Tử Minh Nhị Thập Bát Tú Kinh, cũng gọi là Hổ Nhĩ Kinh).

Xuất Gia Nhân Duyên Kinh, một quyển (cũng gọi Phật Thuyết Xuất Gia Nhân Duyên Kinh).

- Phật Độ Chiên-đà-la Nhi Xuất Gia Kinh, một quyển.

- Thuần-đà Sa-di Kinh, một quyển (hoặc dùng chữ "Sa-môn", hoặc dùng chữ "Thuần", rút từ Tạp A-hàm quyển hai mươi bốn).

- Ngoại Đạo Xuất Gia Kinh, một quyển.

- Tinh Tấn Tứ Niệm Xứ Kinh, một quyển (rút từ Tạp A-hàm quyển hai mươi chín).

- Phụ Mẫu Ân Cần Báo Kinh, một quyển (có nơi gọi là Nan Báo, rút trong Trung A-hàm).

- Thiền Tư Mãn Túc Kinh, một quyển (rút từ Tạp A-hàm)

- Sổ Tức Sự Kinh một quyển. Thiền Pháp Kinh, một quyển.

- Thiền Bí Yếu Kinh, một quyển (hoặc không có chữ "Bí", hoặc rút từ Thiền Yếu Bí Mật Trị Bệnh Kinh).

- Thế Gian Ngôn Mỹ Sắc Kinh, một quyển (rút từ Tạp A-hàm quyển hai mươi bốn).

- Nhất Thiết Hạnh Bất Hằng An Trụ Kinh, một quyển (rút từ Tạp A-hàm quyển ba mươi bốn).

- Nhân Thọ Thân nhập Ấm Kinh, một quyển (rút từ Tu Hành Đạo Địa Kinh quyển một).

- Đa Đảo Kiến Chúng Sinh Kinh, một quyển (hoặc không có chữ "Đa". Rút trong Xuất Diệu Kinh quyển thứ mười sáu).

Nhân Thân Tứ Bách Tứ Bệnh Kinh, một quyển (rút từ kinh Tu Hành Đạo Địa quyển một).

- Nhân Bệnh Y Bất Năng Trị Kinh, một quyển (rút từ kinh Tu Hành Đạo Địa).

- Phân Biệt Thiện Ác Sở Khởi Kinh, một quyển.

- Chước Độc Thọ Phục Sinh Kinh một quyển (rút từ Xuất Diệu Kinh).

- Phạm Giới Tội Báo Khinh Trọng Kinh, một quyển.

- Thiền Định Phương Tiện Thứ Đệ Pháp Kinh, một quyển.

- A-luyện-nhã Tập Thiền Pháp Kinh, một quyển (rút từ Bồ-tát Thiền Pháp, quyển thứ nhất).-Tứ Bách Tam-muội Danh Kinh, một quyển.

- Tự Thệ Tam-muội Kinh một quyển (Nội Đề nói là rút từ phẩm thứ tư phẩm Độc Chứng-Lưu Ly

Vương Kinh một quyển (Rút từ Tăng Nhất A-hàm

- Ôn Thất Tẩy Dục Chúng Tăng Kinh một quyển (dịch đầu tiên).

- Ca-diếp Kiết Kinh một quyển.

- Ma Ý Kinh một quyển.

- Xứ Xứ Kinh một quyển.

- Phật Vị Tần Đầu Bà-la-môn Thuyết Tượng Loại Kinh, một quyển (rút từ Tạp A-hàm quyển mười một).

- Bà-la-môn Vấn Phật Bố Thí Đắc Phước Kinh, một quyển.

- Phật Vị Điều Mã Tụ Lạc Chủ Thuyết Pháp Kinh, một quyển, (rút từ Tạp A-hàm quyển ba mươi hai).

- Bà-la-môn Hạnh Kinh, một quyển (rút từ Trung A-hàm quyển ba mươi chín).

- Đậu Giá Bà-la-môn Luận Nghị Xuất Gia Kinh, một quyển (rút từ Tạp A-hàm quyển bốn mươi hai).

- Phật Vị Sự Hỏa Bà-la-môn Thuyết Pháp Ngộ Đạo Kinh, một quyển (rút từ Tạp A-hàm).

- Bà-la-môn Hư Ngụy Kinh một quyển (rút từ Tạp A-hàm quyển ba mươi).

- Phật Hóa Đại Hưng Bà-la-môn Xuất Gia Kinh, một quyển (rút từ Tạp A-hàm hoặc dùng chữ "Đại Dữ" thay vì đại hưng).

- Phật Vị A-chi-la Ca-diếp Thuyết Tự Tha Tác Khổ Kinh, một quyển (rút từ Tăng Nhất A-hàm).

- Bà-la-môn Tử Mạng Chung Ái Niệm Bất Ly Kinh, một quyển (rút từ Tăng Nhất A-hàm).

- Tứ Tra Bà-la-môn Xuất Gia Đắc Đạo Kinh, một quyển (rút từ Tạp A-hàm quyển bốn mươi bốn).

- Phật Vị Kiêu Mạn Bà-la-môn Thuyết Kệ Kinh, một quyển (rút từ Tạp A-hàm).

- Bà-la-môn Phục Bạch kinh, một quyển (rút từ Tạp A-hàm quyển hai mươi tám).

Bà-la-môn Vấn Thế Tôn Tương Lai Thế Hữu Kỷ Phật Kinh, một quyển (rút từ Tạp A-hàm).

- Bà-la-môn Tỵ Tử Kinh, một quyển (rút từ Tăng Nhất A-hàm).

- Phật Vị Bà-la-môn Thuyết Canh Điền Kinh, một quyển (rút từ Tạp A-hàm hoặc không có chữ "Điền").

- Thất Lão Bà-la-môn Thỉnh Vi Đệ Tử Kinh, một quyển.

- Bà-la-môn Thông Đạt Kinh Luận kinh, một quyển (rút từ Tạp A-hàm quyển hai mươi lăm).

- Phật Phú Lõa Hình Tử Kinh, một quyển (rút từ Sinh Kinh, có nơi nói là Thẩm Lõa Hình Tử Kinh. Chữ Thẩm và Phúc này lầm nhau chưa biết sao?).

- Bà-la-môn Giải Tri Chúng Thuật Kinh, một quyển (rút từ Tạp A-hàm)

- Phật Vị Bà-la-môn Thuyết Tứ Pháp Kinh, một quyển (rút từ Tạp A-hàm quyển hai)

- Phật Vị Niên Thiếu Bà-la-môn Thuyết Trí Thiện Bất Thiện Kinh, một quyển.

- Như Huyễn Tam-muội Kinh, một quyển

(hoặc hai quyển).

- An Ban Kinh, một quyển.

- Nội Tạng Kinh, một quyển (tháng mười năm Nguyên Gia thứ hai là bản dịch thứ nhất, lại có tên là Nội Tạng Bách Phẩm hoặc Bách Bảo. Thấy ghi trong Chu Sĩ Hành Hán Lục).

- Ngũ Môn Thiền Yếu Dụng Pháp Kinh, một quyển (dịch đầu tiên).

- Thủy Dụ Kinh, một quyển (rút từ Tăng Nhất A-hàm).

- Phù Mộc Thí Dụ Kinh, một quyển.

- Miết Dụ Kinh, một quyển (rút từ Lục Độ Tập).

- Đề-bà-đạt Sinh Thân Nhập Địa Ngục Kinh, một quyển (rút từ Kinh Xuất Diệu).

- Ma-na Kỳ Nữ Nhân Phỉ Phật Sinh Thân Nhập Địa Ngục Kinh, một quyển.

- Quỷ Vấn Mục-liên Kinh, một quyển.

- Thập Bát Địa Ngục Kinh, một quyển (hoặc gọi Thấp Bát-nê-lê)

- Địa Ngục Tội Nhân Chúng Khổ Kinh, một quyển.

- Địa Ngục Báo Ứng Kinh, một quyển (hoặc gọi Tội Nghiệp Báo Ứng Giáo Hóa Địa Ngục

Kinh).

- Mục-liên Kiến Chúng Sinh Thân Mao Như Tiễn Kinh, một quyển (rút từ Tạp A-hàm quyển mười chín).

- Ma-ha Diễn Tinh Tấn Độ Trung Tội Báo Phẩm Kinh, một quyển.

- Tôn Giả Bạt-câu-la Kinh, một quyển (rút từ Trung A-hàm quyển tám).

A-nan Vấn Sự Phật Cát Hung Kinh, một quyển (cũng gọi là A-nan Vấn Sự Phật Kinh, cũng gọi Sự Phật Cát Hung Kinh).

- Ca-chiên-diên Vô Thường Kinh, một quyển (rút từ Sinh Kinh quyển hai).

- Đương Lai Biến Diệt Kinh, một quyển. Thái Tử Mộ Phách Kinh, một quyển.

- Tứ Bất Khả Đắc Kinh, một quyển (hoặc không có chữ Khả).

- Kiên Tâm Chánh Ý Kinh, một quyển (cũng gọi là Kiên Tâm Kinh hoặc là Kiên Ý Kinh).

- Phân Minh Tội Phước Kinh, một quyển.

- Đa Tăng Đạo Chương Kinh, một quyển (Cựu Lục thì không có chữ Đạo, cũng gọi Dị Xuất Thập Báo Pháp, rút từ Trường A-hàm).

- Nại Nữ Kỳ Vực Kinh, một quyển. Kim Sắc Nữ Kinh, một quyển.

- Ma Đăng Nữ Kinh, một quyển (hoặc gọi Ma Châu Kinh).

- Tiền Thế Tranh Nữ Kinh, một quyển (trích từ Sinh Kinh).

- Thừa Sự Thắng Kỷ Kinh, một quyển. Hối Quá Pháp Kinh, một quyển.

- Xá-lợi-phất Hối Quá Kinh, một quyển.

- Thái Tử Mộng Kinh, một quyển.

- Tiểu Bát-nê-hoàn Kinh, một quyển (thấy trong Biệt Lục).

Từ Nhân Bất Sát Kinh, một quyển.

- A-nan Đồng Học Kinh, một quyển (rút từ Tăng Nhất A-hàm).

- Thương Nhân Thoát Tặc Nạn Kinh, một quyển.

- Quá Khứ Đờn Cầm Nhân Kinh, một quyển (rút từ Tạp A-hàm quyển bốn mươi tám).

- Thi-ca-la Việt Lục Hướng Bái Kinh, một quyển. (Dịch đầu tiên, rút từ Trường A-hàm).

- Thế Gian Cường Đạo Bố Thí Kinh, một quyển (rút từ Tăng Nhất A-hàm).

- Thương Nhân Tử Tác Phật Sự Kinh, một quyển (Trường A-hàm).

- Chú Tặc Kinh, một quyển.

- Tốt Phùng Tặc Kiết Y Đái Chú Kinh, một quyển.

- Phạm Thiên Nghệ Bà-la-môn Giảng Đường Kinh, một quyển (trích từ Tăng Nhất A-hàm).

- Ngũ Ấm Thành Bại Kinh, một quyển (rút từ kinh Tu Hành Đạo Địa).

- Bát Quang Kinh, một quyển.

- Ngũ Chiến Đấu Nhân Kinh, một quyển (rút từ Tăng Nhất A-hàm).

- Ngũ Pháp Kinh, một quyển (thấy trong Tăng Hựu Lục).

- Ngũ hành Kinh, một quyển. Tam Độc Kinh, một quyển.

A Hàm Chánh Hạnh Kinh, một quyển. Lương Thời Nan Ngộ Kinh, một quyển.

- Cầu Ly Lao Ngục Kinh, một quyển. Liên Hoa Nữ Kinh, một quyển.

- Cô Mẫu Tang Nhất Tử Kinh, một quyển.

- Tích Hữu Nhị Nhân Tương Ái Kỉnh Kinh, một quyển (từ Xuất Diệu Kinh).

- Trụ Ấm Trì Nhập Kinh, một quyển (cũng gọi Trừ Trì Nhập, hoặc hai quyển).

- Cảnh Diện Vương Kinh, một quyển (rút từ Lục Độ Tập).

- Tử Mạng Quá Kinh, một quyển (rút từ Sinh Kinh).

- Kiền Đà Quốc Vương Kinh, một quyển (hoặc không có chữ Quốc).

- Thán Bảo Nữ Kinh, một quyển (cũng gọi Xálợi-phất Thán Bảo Nữ Thuyết Bất Tư Nghì Kinh).

- Đại Ca-diếp Ngộ Ni Càn Tử Kinh, một quyển (từ Trường A-hàm).

- Chánh Trai Kinh, một quyển.

- A-na-luật Tư Duy Mục-liên Thần Lực Kinh, một quyển.

- Bảo Tích Tam-muội Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát Vấn Pháp Thân Kinh, một quyển (cũng gọi là Khiển Nhật Bảo Tích Tam-muội Văn-thù-sư-lợi Vấn Pháp Thân Kinh).

- Xá-lợi-phất Vấn Bảo Nữ Kinh, một quyển.

Nguyệt Đăng Tam-muội Kinh, một quyển (rút từ Đại Nguyệt Đăng Tam-muội Kinh).

- A-nan Hoặc Kinh, một quyển (rút từ Nhân Bản Dục Sinh Kinh).

- Phật Ấn Tam-muội Kinh, một quyển.

- Ca-diếp cật A-nan Kinh, một quyển (cũng gọi Ca-diếp Trách A-nan Song Độ La-hán Dụ Kinh, bản dịch đầu tiên).

- Đại Thừa Phương Đẳng Yếu huệ Kinh, một quyển.

- Không Tịnh Thiên Cảm Ứng Tam-muội Kinh, một quyển (Ở Cựu Lục gọi là Không Tịnh Tam-muội Kinh).

- Tình Ly Hữu Tội Kinh, một quyển (Thế Chú còn nghi)

- Dược Vương Dược Thượng Bồ-tát Quán Kinh, một quyển.

- Nghĩa Quyết Luật một quyển (cũng gọi là Tạng Quyết Luật Pháp Hạnh. Ngài Đạo An bảo rút từ Trường A-hàm, hoặc có chữ Kinh. Thấy ghi trong Tăng Hựu Lục. Có ba mười bốn bộ gồm bốn mười quyển, đều trích ra từ các Tạp tạng khác mà phụ ngày.

Cả một trăm bảy mươi sáu bộ trên, gồm một trăm chín mươi bảy quyển đều do Thái tử nước An Tức, tên là Thanh, tự Thế Cao. Sau sẽ kế vị làm vua, nhưng lại nhường ngôi cho chú. Ngài bỏ ngôi cạo đầu xuất gia, chỉ một lòng vì đạo, lấy việc du phương hoằng hóa làm sự nghiệp. Năm Kiến Hòa thứ hai đời vua Hiếu Hoàn Đế, ngài đến tận Lạc Ấp. Lúc thiếu thời, ngài luyện văn tập nói rất thông suốt tiếng Trung Hoa. Vì thương giáo pháp còn quá ít ỏi yếu kém nên ngài mở rộng việc phiên dịch đến đời Linh Đế hai mươi năm. Cả các sách Thích Đạo An Lục, xuất, Tam tạng Tập Ký, của tăng hựu, Cao Tăng Truyện của tuệ kiểu… đều nói Thế Cao dịch được ba mươi chín bộ, nghĩa lý rất sáng tỏ khúc chiết, lời văn đúng đắn đầy đủ; biện luận không văn hoa chỉ cần chất lương nhưng không quê mùa vụng về. Lời dịch dầu khiến người đọc phải cố gắng mà không chán mệt. Phòng Quảng Tuân tìm xét kiểm tra các Lục ghi chép thì chuyện của Thế Cao có chỗ ẩn. Thế mới biết việc Quyền Tích, Ẩn Hiển có nhiều cách, hoặc do người kể sơ ý đến nhầm lẩn trái nhau. Số lượng truyền rằng ngài dịch được ba mươi chín bộ. Hoặc xuất hiện ra từ chốn Đôn Hoàng rồi đến dừng ở lại kinh ấp. Đến cuối dời vua Linh Đế thì chốn quan ải nhiễu nhương nên ngài bèn lánh sang Giang Nam, thấu suốt lòng người thấy rõ cơ duyên ở đó mà dịch thuật, được biết các chỗ ở của ngài chưa được ghi chép hết. Còn như chuyện về cuối đời ngài thì quả đúng như thế. Những chuyện chép trong các sách xa xưa thì ở đây Thế Cao đều lược bỏ, chọn dịch các phần chính ở trước đó thôi chứ không cần dịch hết. Nay gồm hết các thiên ghi chép sưu tập lại đầy đủ những tạp kỷ và có đề mục ghi chú thì phần nhiều đều là những tác phẩm rút từ Đại Bộ và tùy theo nhân duyên mà dịch ra trên suốt quảng đường của ngài từ Hà Tây đến Giang Nam. Dầu mục lục có phân tán nhưng chưa đủ để ngờ vực. Vì nghĩ thế nên những cái còn lại đây đâu chẳng nối ngày, do đó mà mạnh dạn căn cứ ngày các sách vở đã gom góp được để biên chép giữ gìn, mong giáo pháp được lưu truyền rộng rãi đều biết rõ nguồn gốc đã được ghi chú. Nếu muốn biết rõ gốc tích cần nên đọc kỷ các truyện.

****

- Đại Tập Kinh hai mươi bảy quyển (dịch đầu tiên, thấy ghi ở Lý Khuếch Lục).

- Bát-nhã Đạo Hạnh Phẩm Kinh mười quyển (dịch đầu tiên. Còn gọi là Ma-ha Bát-nhã Ba-lamật Kinh tám quyển. Dịch ngày tám tháng mười năm Quang Hòa thứ hai, thấy ghi trong Chi Mẫn Độ Lục và Tăng Hựu Lục).

- Thủ-lăng-nghiêm Kinh hai quyển (bản dịch ngày tám tháng hai năm Trung Bình thứ ba bản dịch đầu tiên, thấy ghi trong Chu Sĩ Hành Hán Lục và Tăng Hựu Lục. Tam Tạng Ký. Ngô Lục lại bảo là ba quyển.

- Thuần Chân-đa-la-ni Kinh, hai quyển (dịch đầu tiên, An Lục Nguyên, Cựu Lục gọi là độn Chân-đa-la-ni Vương Kinh. Thấy trong Chu Sĩ Hành Hán Lục và Tăng Hựu Lục).

- A-xà-thế Vương Kinh, hai quyển (dịch đầu tiên, ngài Đạo An bảo là rút từ Trường A-hàm, thấy trong Tăng Hựu Lục).

- A-súc Phật Quốc Kinh, hai quyển (bản dịch thứ nhất năm Kiến Hòa thứ nhất. Thấy trong Chu Sĩ Hành Hán Lục, cũng gọi là A-súc Phật Sát Chư Bồ-tát Học Thành Phẩm Kinh, cũng gọi là A-súc Phật Kinh một quyển, Tăng Hựu Lục cũng chép thế).

- Vô Lượng Thanh Tịnh Kinh hai quyển (cũng gọi là Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh, thấy ghi trong Ngô Lục).

- Bột Bổn Kinh hai quyển (dịch đầu tiên, thấy ghi trong Tăng Hựu Lục).

- Ban Chu Tam-muội Kinh hai quyển (ngày tám tháng mười năm

Quang Hòa thứ hai, dịch đầu tiên, thấy ghi trong Nhiếp Đạo Lục, Ngô Lục và Tam Tạng Ký, Cựu Lục gọi là Đại Ban Chu Tam-muội Kinh).

- Cổ Phẩm Di Nhật Thuyết Bát-nhã Kinh, một quyển (rút từ Phương Đẳng Bộ. Có tên là Phật Di Nhật Ma-ni Bảo Kinh, một tên là Ma-ha Diễn Bảo Nghiêm Kinh, một tên là Đại Bảo Tích Kinh, thấy ghi trong Tăng Hựu Lục).

- Bảo Tích Kinh, một quyển (bản dịch thứ nhất ngày năm Quang Hòa thứ hai. Ngài Đạo An gọi là Ma-ni Bảo Kinh, hoặc hai quyển, thấy ghi trong Cựu Lục, Sĩ Hành Lục, Tam Tạng Tập Ký…).

- Vấn Thự Kinh, một quyển (cũng gọi là Vănthù-sư-lợi Vấn Bồ-tát Thự Kinh. Ngài Đạo An nói rút từ Phương Đẳng Bộ, thấy trong Ngô Lục, Tăng Hựu Lục và Tam Tạng Ký).

- Phạm Bát-nê-hoàn Kinh, một quyển (Cựu Lục gọi là Hồ Bát nay đổi là Phạm, dịch đầu tiên, hoặc hai quyển thấy trong Chu Sĩ Hành Hán Lục và Tam Tạng Tập Ký).

- A-xà-thế Vương Vấn Ngũ Nghịch Kinh, một quyển (cũng gọi tắt là A-xà-thế Vương Kinh).

- Đâu-sa Kinh, một quyển (thấy trong Ngô Lục và Tam Tạng Ký).

- Nội Tạng Bách Phẩm Kinh, một quyển (dịch lần hai, cùng bản của Thế Cao dịch có khác chút ít. Cựu Lục gọi là Nội Tàng Bách Bảo Kinh. Đạo An nói rút từ Phương Đẳng Bộ. Khắp xét các Lục thì đều ghi là Bách Bảo, không có Bách Phẩm, cho nên biết đó là kinh này.

- Đại Phương Tiện Báo Ân Kinh, một quyển (thấy ở Ngô Lục)

- Quang Minh Tam-muội Kinh, một quyển (chỉ thấy ở An Lục không thấy ở Ngô Lục và Tam Tạng Ký).

- Thiền Kinh, một quyển (thấy ở Biệt Lục).

- Tạp Thí Dụ Kinh, một quyển (gồm mười một việc. Tăng Hựu Lục nói là mất tên người dịch. Nay kiểm thấy ghi ở Biệt Lục nên chép ngày.

- A-dục Vương Thái Tử Hoại Mục Nhân Duyên Kinh, một quyển (vị vua này sinh ra một sau khi Phật diệt độ một trăm ba mươi năm sáu tháng, cho nên không phải do Phật nói. Có bổn không có chữ Kinh, Tăng Hựu Lục thì có gồm bốn mươi bốn bộ.

Cả hai mươi mốt bộ kinh trên gồm sáu mươi ba quyển do Sa-môn Chi-lâu-ca-sấm, cũng gọi tắt là Chi-sấm, ở nước Nguyệt Chi dịch ngày đời vua Hoàn Linh Đế từ năm Kiến Hòa đến năm Trung Bình, tại Lạc dương. Ở Hà Nam có Thanh tín sĩ là Mạnh Phúc, Trương Liên… bút thọ. Nhưng bản dịch cũ thì gọi là Hồ Bát-nê-hoàn, vì chưa rõ chữ Hồ. Trộm xem từ đời xa xưa khi có kinh đến nay do các bậc Hiền Đức ghi chép, mỗi khi chuyển lời đều nói là dịch Hồ ra Hán. Hồ là nước ở biên giới phía Tây, Hán là phía Đông. Một khi ở đất chín châu (nước Trung Hoa) thì đối với vùng đất phương Tây gọi chung là Thiên Trúc cho nên Hán Thư nói là nước Thân Độc. Thân Độc tức là Thiên Trúc. Có Trung Thiên Trúc, tức nơi sinh của Phật là đất Thiên Trúc. Và có Đông, Tây, Nam, Bắc Thiên Trúc nên gọi là Ngũ Thiên. Mà các nước ở phía Đông Ngũ Thiên thì gọi chung là Chi Na hoặc Chân Đan hay Chấn Đán, đây là giọng nói của nhà Sở, Hạ vậy. Nếu xưng là nhà Hán thì chỉ có từ thời họ Lưu (Lưu Bang), hai đời Tiền Hán, Hậu Hán đều xưng là Hán. Hậu Hán lại nhường ngôi cho nhà Ngụy. Ngụy yếu nên cả nước Trung Quốc phải phân ba có thêm Ngô và Thục (Tam Quốc). Về sau tuy Ngụy thôn tính Thục nhưng cuối cùng phải nhường ngôi cho nhà Tấn ngự trị cả đất Thập Cát Cửu Châu mỗi nơi đều có chủ. Việc phiên dịch kinh lại căn cứ ngày chỗ và người. Chỗ nơi đã khác thì tiếng phiên âm tất sẽ không đồng. Cho nên cần phải dựa ngày Đế hiệu và Vương hiệu mà phân biệt rõ ràng. Nay vì thế các sách này sẽ dựa ngày đó mà sửa cho đúng. Vả lại Hồ là vùng đất ở phía Tây biên giới, so với các giống dân như Khương, Man, Di, Sào Liêu, đâu có kinh sách, nên dùng tiếng Hồ để chỉ cho họ. Đặt ra tiếng Hồ để làm mẫu mực cho đời thì có lỗi gì đâu? Nước Thiên Trúc mà Phật sinh ra, ở đó các bậc thuộc dòng Bà-la-môn đều gọi chung là Phạm. Kẻ phạm thanh tịnh thì được nối giỏi là trời Quang âm. Ở trời Quang âm thì Phạm là thấp nhất. Khi kiếp sơ thành tựu, nước cạn đất khô, các vị này bay xuống lấy đất ăn, ăn ngày thân thể năng nề không thể bay về trời được, nhân đó ở lại làm người, là tổ tông đầu tiên nên gọi là Phạm. Do đó mà gọi tiếng Phạm sách Phạm. Khi nhà Hán dịch kinh thì ở Trung Quốc chưa có người tu cạo đầu. Ở đời Ngụy thì Chu Sĩ Hành chính là kẻ đầu tiên xuất gia mặc pháp phục làm Tăng nhưng vẫn còn xưng tên họ tục. Đến đời Ngô, Tấn nối gót theo sau nhưng vẫn không đổi phong tục ấy. Kịp đến đời Phù Tần có ngài Thích Đạo An là bậc an nhiên siêu ngộ nổi tiếng nhất đương thời, kẻ đạo người tục đều khâm ngưỡng đông như lúa mè. Ngài nói rằng: "Đã cạo đầu xuất gia thì phải nối dõi dòng họ Thích, con mà khác cha sao gọi là kế thừa!". Cho nên ngày nay ai xuất gia đều xưng họ Thích. Và sau này khi dịch bốn quyển A-hàm thì trong văn ấy quả nhiên nói rằng bốn dòng xuất gia đều đồng một họ Thích, mọi người đều khen ngợi khâm phục (bốn dòng ấy là:

1. Sát-đế-lỵ, đó là dòng vua chúa.

2. Bà-la-môn là người hạnh đức cao quý.

3. Tỳ-xá như hàng sĩ dân ở đây trung quốc.

4. Thủ-đà, là dòng hạ tiện tức như hạng tôi tớ ở đây).

Ngài Đạo An ngay ngày đời Tấn, Tần đã san định ghi chép các mục lục, chọn lọc, chú thích các Kinh, tự gọi là di thiên mẫu mực cuối cùng cho mọi người, cũng nói là dịch tiếng Hồ thành tiếng Tần, có năm bổn thì mất hết ba bổn không đổi. Đây cũng chỉ là một hòn đá vụn của ngọn Côn Sơn, chưa tiêu biểu hết cái vẻ đẹp của cả ngọn núi. Các sách đời trước chỗ nào có chữ "Hồ ngôn" thì bản lục này đều thay bằng chữ "Phạn tự", ngỏ hầu các bậc Hậu Triết nói được đúng.

- Pháp Cảnh Kinh, hai quyển (hoặc một quyển, Nghiêm Phật Điều chép lại. Ngài Khương Tăng Hội chú giải, thấy ghi trong Tăng Hựu Lục).

- Đoạn Thập Nhị Nhân Duyên Kinh, một quyển (cũng gọi là A-hàm Khẩu Giải Thập Nhị Nhân Duyên Kinh, cũng nói tắt là A-hàm Khẩu Giải Kinh, cũng gọi là An Hầu Khẩu Giải Kinh. Tăng Hựu bảo là ngài Thế Cao dịch, nay kiểm tra các sách thì chính do ngài An Huyền dịch).

Cả hai bộ kinh trên gồm ba quyển. Ưu-bà-tắc Đô Úy An Huyền người nước An Tức dịch. Ngày cuối đời vua Linh Đế, ông đi dạo chơi buôn bán ở Lạc Dương, nhân khi gặp ngài Phật Điều nên cùng dịch. Đời cũng gọi ông là An Hầu Kỵ Đô Úy. Tăng Hựu Lục lại bảo đó là Thế Cao dịch. Đây là vì đồng họ nên có sự lạm nhận. Thật ra Thế Cao là một vị thái Tử nối ngôi của một nước, vì nhường chức cho hiệu là Hầu. Cứ dựa thẳng ngày tên kinh tự nhiên có thể nghiệm thấy, vì không suy xét tỉ mỉ nên phải nói gộp cả hai người.

- Ban Chu Tam-muội Kinh, hai quyển (Cựu Lục gọi là Đại Ban Chu Tam-muội Kinh hoặc một quyển, là bản dịch lần hai. Thấy ghi trong Cao Tăng Truyện).

- Đạo Hạnh Kinh, một quyển (dịch năm Gia Bình thứ nhất, thấy trong Chu Sĩ Hành Hán Lục và Tam Tạng Ký. Ngài Đạo An nói là Bát-nhã Sao, do các bậc cao minh ở ngoại quốc tuyển soạn. Đạo An viết tựa).

Cả hai bộ trên gồm ba quyển. Sa-môn Phật Sóc người nước Thiên Trúc đã dịch. Ngày đời vua Linh Đế, ngài đem Đạo Hành Kinh đến tận Lạc dương rồi dịch từ tiếng Phạm sang tiếng Hán. Người dịch có lúc bị ngưng trệ, tuy có mất ý chỉ, song tiếng và câu thì chỉ bỏ bớt lời mà giữ lấy chất và rất đúng ý kinh. Sau năm Quang Hòa lại dịch thêm Ban Chu, ngài Đàm-sấm truyền lời, các ông Mạnh Phước, Trương Liên ghi pháp, lời văn không bằng bản dịch trước.

- Tiểu Bản Khởi Kinh, hai quyển (hoặc gọi là Túc Hành Bản Khởi, hoặc chỉ gọi Túc Hành, gần đây lại thêm chữ "Tiểu". Thấy trong Cựu Lục và Cao Tăng Truyện).

- Thành Cụ Quang Minh Kinh một quyển (hoặc gọi Thành Cụ Quang Minh Tam-muội, hoặc gọi Thành Cụ Quang Minh Định Ý. Thấy trong Chu Sĩ Hành, Chi Mẫn Độ, Tăng Hựu và huệ Kiểu… bốn Lục).

- Lại Tra-hòa-la Kinh, một quyển (dịch đầu tiên, ngài Đạo An bảo là rút từ Bộ Phương Đẳng).

- Mã Hữu Bát Thái Kinh, một quyển (một tên là Mã Hữu Bát Thái Thí Nhân Kinh, một tên là Mã Hữu Bát Tệ Ác Thái Kinh, rút từ Tạp A-hàm quyển ba mươi bốn).

- Thủ Chí Vấn Phật Thập Tứ Sự Kinh, một quyển (hoặc không có chữ Phật).

- Văn Thành Thập Nhị Nhân Duyên Kinh, một quyển (dịch lần hai, so với bản dịch Thập Nhị Nhân Duyên Kinh của Thế Cao có khác chút ít).

- Đọa Lạc Ưu-bà-tắc Kinh, một quyển.

- Tiểu Đạo Địa Kinh, một quyển.

- Mã Hữu Tam Tướng Kinh, một quyển (rút từ Tạp A-hàm).

- A-na-luật Bát Niệm Kinh, một quyển (hoặc gọi tắt là Bát Niệm Kinh, thấy trong Cựu Lục).

- Ma-ha Ma-da Kinh, một quyển (hoặc nói tắt Ma-da Kinh, hoặc hai quyển).

Cả mười một bộ kinh trên gồm mười hai quyển. Sa-môn Chi Diệu là người Thiên Trúc đã dịch. Ngày năm Trung Bình đời vua Linh Đế, châu Lạc Dương ngài dịch bảy bộ kinh, Ngô Lục ghi thế.

****

-Vấn Địa Ngục Sự Kinh, một quyển (thấy trong Chu Sĩ Hành Hán Lục).

Bộ Kinh có một quyển trên là người ngoại quốc, Sa-môn Khang

Cư dịch năm Trung Bình thứ tư đời vua Linh Đế, châu Lạc dương, chỉ nói ngay lý không hề trau chuốt.

****

- Cổ Duy-ma-cật Kinh hai quyển (dịch đầu tiên, thấy trong Cổ Lục và Chu Sĩ Hành Hán Lục).

- Nhu Thủ Bồ-tát Vô Thượng Thanh Tịnh Phân Vệ Kinh, hai quyển (một tên là Quyết Liễu Chư Pháp Như Huyễn Tam-muội Kinh hoặc một quyển).

- Huệ Thượng Bồ-tát Vấn Đại Thiện Quyền Kinh, hai quyển (hoặc không có chữ "Bồ-tát" hoặc một quyển.

- Tư Ý Kinh, một quyển (cũng gọi là Ích Ý Kinh).

- Nội Lục Ba-la-mật Kinh, một quyển (cũng gọi là Nội Ngoại Giả, ngài Đạo An bảo là rút từ Bộ Phương Đẳng).

- Ca-diếp-cật A-nan Kinh, một quyển (dịch lần hai, thấy ghi trong hai sách (Lục) Sầm Hiệu và Bảo Xướng. So bản dịch Ca-diếp Trách A-nan Song Độ La-hán Dụ Kinh của Thế Cao thì giống nhiều khác ít).

- Thập huệ Kinh, một quyển (ngài Phật Điều tự chọn dịch và chú giải đề tựa, cũng gọi là Sa-di Thập huệ. Thấy trong ba sách (Lục) Tăng Hựu, Bảo Xướng và Cao Tăng Truyện).

Cả bảy bộ kinh trên gồm mười quyển. Thanh Tín Nghiêm Phật Điều người lâm hoài ngày đời vua Linh Đế châu Lạc dương dịch lý đúng lời hay và lột hết ý chỉ của kinh, đó là tác phẩm hay nhất ở đất Dĩnh thấy thuật lại ở đời sau.

****

- Thái Tử Bản Khởi Thụy Ứng Kinh, hai quyển (dịch đầu tiên, cũng gọi là Thụy Ứng Bản Khởi Kinh, cũng gọi là Trung Bản Khởi Kinh. Thấy trong Tam Tạng Ký và Tăng Hựu Lục).

- Hưng Khởi Hạnh Kinh hai quyển (cũng gọi là Thập Duyên Kinh, thấy trong Ngô Lục).

- Phạm Võng Kinh, hai quyển (dịch đầu tiên, thấy trong Ngô Lục).

- Xá-lợi-phất Mục-liên Du Tứ Cù Kinh, một quyển (thấy trong Biệt Lục).

- Báo Phước Kinh, một quyển (hoặc gọi Phúc báo Kinh, thấy ở Ngô Lục).

- Tứ Đế Kinh, quyển (dịch lần hai ngày năm Hưng Bình thứ nhất. So bản dịch của Thế Cao có khác chút ít, thấy ở Trúc Đạo Tổ hán Lục).

Cả sáu bộ kinh trên gồm chín quyển do người ngoại quốc là Sa-môn Khang Mạnh Tường dịch châu Lạc dương ngày đời vua Hiến Đế.

****

-Trung Bản Khởi Kinh hai quyển (cũng gọi là thái Tử Trung Bản Khởi Kinh. Thấy trong Thủy Hưng Lục).

Một bộ kinh một quyển trên thì ngài Đạo An bảo là Sa-môn Đàm Quả ở nước Ca-duy-la-vệ, được bản chữ Phạm bèn đem đến Lạc dương và dịch ra ngày năm Kiến An thứ mười hai, ngài Khang Mạnh Tường chuyển ngữ.

****

-Tu Hành Bản Khởi Kinh, hai quyển. Cũng do Đàm Quả và Khang Mạnh Tường ở nước Ca-duyla-vệ đem bản tiếng Phạm đến, Sa-môn Trúc Đại Lực châu Lạc dương và được dịch ngày tháng ba năm Kiến An thứ hai. Ngài Mạnh Tường dịch sang chữ Hán. Ngài Thích Đạo An nói chỗ dịch của ngài Mạnh Tường đồ sộ, sáng rõ, lưu loát, đưa người nhanh chóng đến chỗ thâm huyền. Thấy ghi ở Thủy Hưng Lục.

****

- Đại Phương Tiện Báo Ân Kinh bảy quyển.

- Phân Biệt Công Đức Kinh, năm quyển (Cadiếp A-nan soạn).

- Phạm Bổn Kinh, bốn quyển (Cựu Lục nói là chữ Hồ, hình như được dịch ở Trường an

- Nê-hoàn Hậu Thiên Tế Trung Biến Ký Kinh, bốn quyển (một tên là Thiên Tuế Biến Kinh).

- Hiệp Đạo Thần Túc Kinh, bốn quyển (một tên là Đạo Thần Túc Vô Cực Biến Hóa Kinh).

- Như Lai Tánh Khởi Kinh, hai quyển (một tên là Đại Phương Quảng Như Lai Tánh Khởi Vi Mật Tạng Kinh).

- Chư Kinh Phật Danh, hai quyển.

- Cựu Thí Dụ Kinh, hai quyển.

- Tạp Thí Dụ Kinh, hai quyển.

- Quán Vô Lượng Thọ Kinh, một quyển.

- Long Chủng Tôn Quốc Biến Hóa Kinh, một quyển.

- Quá Khứ Hương Liên Hoa Phật Thế Giới Kinh, một quyển.

- Kiến Mục Ngưu Giả Thị Đạo Kinh, một quyển (hoặc trên có chữ Phật).

- Tác Phật Hình Tượng Kinh, một quyển (một tên là Ưu-điền Vương Tác Phật Hình Tượng Kinh, một tên là Tác Tượng Nhân Duyên Kinh).

- Tam Thiên Phật Danh Kinh, một quyển.

- Thiên Phật Nhân Duyên Kinh, một quyển.

- Ngũ Thập Tam Phật Danh Kinh, một quyển.

- Bát Bộ Phật Danh Kinh, một quyển.

- Thập Phương Phật Danh Kinh, một quyển.

- Hiền Kiếp Thiên Phật Danh Kinh, một quyển (chỉ có Phật Danh và Đàm-vô-lan đã dịch Tứ Đế Kinh, còn Thiên Phật Danh thì khác).

- Xưng Dương Bách Thất Thập Phật Danh Kinh, một quyển (cũng gọi tắt là Bách Thất Thập Phật Danh Kinh).

- Nam Phương Phật Danh Kinh, một quyển (một tên là Trị Thành Tự Kinh).

- Diệt Tội Đắc Phước Phật Danh Kinh, một quyển.

Quán Thế Âm Sở Thuyết Hành Pháp Kinh, một quyển (là Chú Kinh).

- Di-lặc Vi Nữ Thân Kinh, một quyển.

- Tịch Điều Ý Sở Vấn Kinh, một quyển (một tên là Như Lai Sở Thuyết Thanh Tịnh Điều Phục Kinh).

- Tát-đà-ba-lôn Bồ-tát Cầu Thâm Bát-nhã Viên Tượng Kinh, một quyển.

- Bồ-tát Sinh Địa Kinh, một quyển.

- Bồ-tát Sở Sinh Địa Kinh, một quyển.

- Bồ-tát Thọ Giới Pháp Kinh, một quyển (bản dịch khác).

- Thọ Bồ-tát Giới Thứ Đệ Thập Pháp, một quyển.

- Bồ-tát Sám Hối Pháp, một quyển.

- Sơ Phát Ý Bồ-tát Thường Trú Dạ Lục Thời Hành Ngũ Sự Kinh, một quyển.

- Lục Bồ-tát Danh Kinh, một quyển.

- Ca-diếp Phó Phật Nê-hoàn Kinh, một quyển (một tên là Phật Bát-nê-hoàn Thời Ca-diếp Phó Phật Kinh).

- Thiện Bái Tỳ-kheo Kinh, một quyển.

- Tăng Danh Số Sự Hành Kinh, một quyển.

- Tỳ-kheo Chư Cấm Luật một quyển.

- Ma-ha Tăng-kỳ Luật Tỳ-kheo Yếu Tập một quyển (một tên là Ma-ha Tăng-kỳ Bộ Tỳ-kheo Tùy Dụng Yếu Tập Pháp).

- Ưu-ba-ly Vấn Phật Kinh, một quyển.

- Sa-di Oai Nghi, một quyển.

- Sa-di Thập Giới Kinh, một quyển (Cựu Lục gọi tắt là Sa-di Giới).

- Tỳ-kheo-ni Thập Giới Kinh, một quyển.

- Thọ Thập Thiện Giới Kinh, một quyển.

- Sa-di Ni Giới Kinh, một quyển.

- Hiền Giả Ngũ Giới Kinh, một quyển.

- Ưu-bà-tắc Oai Nghi Kinh, một quyển.

- Tứ Thiên Vương Kinh, một quyển (ở phần sau có chú. Hình như người sau phụ thêm ngày. Rút từ tạp A-hàm).

- Ma Nhiễu Loạn Kinh, một quyển (so với bản Dữ Ma Chánh Thí Mục-liên Kinh thì giống nhiều khác chút ít).

- Đảnh Sinh Vương Nhân Duyên Kinh, một quyển (Cựu Lục gọi là Đàm Đảnh Sinh Vương

Kinh).

- Hành Đàn Ba-la-mật Kinh, một quyển (hoặc gọi là Nhất Thiết Thí Chủ Sở Hành Đàn Ba-la-mật Kinh).

- Công Đức Trang Nghiêm Vương Bát Vạn Tứ Thiên Tuế Thỉnh Phật Kinh, một quyển.

Ma điều vương kinh, một quyển bản dịch khác.

- Hối Tử Kinh, một quyển.

Giáo Tử Kinh, một quyển (một tên là Tu Đạt

Giáo Tử Kinh. Cựu Lục gọi là Tu Đạt Huấn Tử Kinh).

- Phúc Tử Kinh, một quyển.

- Tiểu Nhi Văn Pháp Tức Giải Kinh, một quyển.

- Bồ-tát Tu Hành Kinh, một quyển (một tên là Trưởng Giả Oai Thí Sở Vấn Bồ-tát Tu Hành Kinh, hoặc gọi tắt là Trưởng Giả Tu Hành Kinh).

- Trưởng Giả Hiền Thủ Kinh, một quyển.

- Trưởng Giả Mạng Chung Vô Tử Phú Chúc Kinh, một quyển.

- Chất Đa Trưởng Giả Thỉnh Tỳ-kheo Kinh, một quyển.

- Thiện Đức Bà-la-môn Cầu Xá-lợi Kinh, một quyển.

- Ngoại Đạo Dụ-chất-đa Trưởng Giả Kinh, một quyển.

- Vô Hại Phạm Chí Chấp Chí Kinh, một quyển.

- Phạm chí Tỵ Tử Kinh, một quyển.

- Phạm chí Tang Nữ Kinh, một quyển.

- Phạm Chí Quán Vô Thường Đắc Giải Thoát Kinh, một quyển.

- Bần Tử Đắc Tài Phát Cuồng Kinh, một quyển.

- Thước Cẩu Niết Vương Kinh, một quyển (Cựu Lục gọi là Thước Cẩu Kinh).

Cư Sĩ Vật Cố Vi Phụ Tỷ Trùng Kinh, một quyển.

- Thiết Thành Nê-lê Kinh, một quyển.

- Nê-lê Kinh, một quyển (một tên là Trung Ahàm Nê-lê Kinh).

- Cần Khổ Nê-lê Kinh, một quyển.

- Địa Ngục Kinh, một quyển.

- Diêm Vương Ngũ Sứ Giả Kinh, một quyển (một tên là Ngũ Thiên Sứ Kinh).

- Tích Cốt Kinh, một quyển.

- Khổ Ấm Kinh, một quyển.

- Trì Trai Kinh, một quyển.

- Hải Bát Đức Kinh, một quyển.

- Tịch Chí Quả Kinh, một quyển (rút từ Trường A-hàm, cùng bản dịch trước đồng tên nhưng khác lời).

- Nhân Hoằng Pháp Kinh, một quyển.

- Vị Tằng Hữu Kinh, một quyển (khác bản dịch).

- Hoa Nghiêm Anh Lạc Kinh, một quyển.

- Quán Thế Lâu Thán Kinh, một quyển (có ba phẩm rút từ Đại Lâu Thán Kinh).

- Ba Nhã Đắc Kinh, một quyển (một tên là Bátnhã Đức).

- Duy Nhật Tạp Nạn Kinh, một quyển.

- Nội Thân Quán Chương Kinh, một quyển.

Ma-ha Sát Đầu Kinh, một quyển (cùng với Quán Đảnh Kinh giống nhau. Các phần sau có khác chút ít).

- Thanh Tịnh Pháp Hạnh Kinh, một quyển.

- Kim Cang Thanh Tịnh Kinh, một quyển (hoặc gọi là Kim Cang Tam-muội Bản Tánh Thanh Tịnh Bất Hoại Bất Diệt Kinh).

- Tịnh Trừ Nghiệp Chướng Kinh, một quyển.

- Ma Ha Diễn Bảo Nghiêm Kinh, một quyển.

- Thập Trụ Tỳ-bà-sa Kinh, một quyển.

- Phật Di-nhật Ma-ni Bảo Kinh, một quyển.

- Chuyển Nữ Thân Bồ-tát Kinh, một quyển (một tên là Nhạo Anh Lạc Trang Nghiêm Phương Tiện Kinh, một tên là Nhạo Anh Lạc Trang Nghiêm Nữ Kinh).

- Thọ Trì Phật Danh Bất Đọa Ác (Đạo) Kinh, một quyển.

- Thất Bảo Kinh, một quyển.

- Thập Nhất Nhân Duyên Chương Kinh, một quyển (Cựu Lục gọi là Thập Nhất Nhân Duyên Kinh).

- Sa-môn Vi Thập Nhị Đầu-đà Kinh, một quyển.

- Tam Thập Nhị Tướng Nhân Duyên Kinh, một quyển (cùng với bản dịch của An Công Thất Nguyên đã dịch là Tam Thập Nhị Tướng thì giống nhiều khác ít).

Tam Thập Thất Phẩm Kinh, một quyển (khác bản dịch).

- Ban Chu Tam-muội Niệm Phật Chương Kinh, một quyển (chữ Chương này Cựu Lục viết là Đồng).

- Du-già Tam-ma Tư Kinh, một quyển (bản dịch nói tóm tắt việc tu hành, một tên là Đạt-mađa-la Thiền Pháp. Hoặc gọi là Đạt-ma-đa-la Bồ-tát soạn Thiền Pháp Yếu Tập).

- Thiền Yếu Ha Dục Kinh, một quyển.-Tu Hà Thí Kinh, một quyển (khác bản)-Pháp Cú Thí Dụ Kinh, một quyển.

- Thí Dụ Kinh, một quyển.

- Phạm Âm Kệ Bổn Kinh, một quyển (Cựu Lục nói là Hồ).

- A-di-đà Phật Kệ Kinh, một quyển (hoặc không có chữ Kinh).

- Hậu Xuất A-di-đà Phật Kệ Kinh, một quyển.

- Tán Thất Phật Kệ, một quyển.

- Đát-hòa-ni Bách Cú, một quyển.

- Ngũ Ngôn Vịnh Tụng Bổn Khởi, một quyển (một trăm bốn mươi hai bài).

- Đạo Hạnh Phẩm Chư Kinh Phạm Âm Giải, một quyển (Cựu Lục nói là Hồ Âm).

- Bát-nhã Ba-la-mật Thần Chú Kinh, một quyển (hoặc không có chữ Kinh).

Thất Phật Sở Kiết Ma Du Thuật Chú, một quyển.

- Huyễn Sư Pha-đà Thần Chú, một quyển.

- Ngũ Long Chú Độc Kinh, một quyển.

- Thủ Huyết Khí Thần Chú, một quyển (Cựu Lục nói Huyết Chú).

- Chú Khủ Xỉ Chú, một quyển (một tên Chú Trùng Xỉ, một tên là Chú Xỉ).

- Chú Nha Thống Chú, một quyển (khác bản).

- Chú Nhãn Thống Chú, một quyển (khác bản).

- Chú Tặc Chú Pháp, một quyển (khác bản).

- Thất Phật An Trạch Thần Chú, một quyển.

- An Trạch Chú Pháp, một quyển.

Cả một trăm hai mươi lăm bộ trên gồm một trăm bốn mươi tám quyển đều do ngài Luật sư Tăng Hựu rút từ Tam Tạng Ký và soạn trong hai cuốn Cổ Lục, Cựu Lục và các sách không nguồn gốc của Ngài Đạo An cùng các sách mất tên người dịch vừa mới gom góp được, các bộ và quyển của kinh này rất nhiều, nên phải so sánh các mục, sửa chữa những văn từ lộn xộn, chênh lệch xen nhau thật khó xác định. Chưa hề có quyển kinh nào chỉ đọc qua tên đề, tất cả đều có nhập Tạng, có nguồn gốc, không nhập Tạng không dịch. Biết rõ gốc tích từ đầu không thứ nào không có nguyên do, đã trải qua nhiều năm tháng xa xôi, nên viết thêm lời phụ ở phần cuối này. Rất mong những bậc học rộng sau này, xem xét lại nguồn gốc hiếm hoi mà thâu nhặt trả lại cho đúng, để làm căn cứ hầu sóng cả lặng yên lắng trong biển Pháp vậy!


 

QUYỂN 5

CÁC KINH DỊCH Ở ĐỜI NGỤY VÀ NGÔ

Sách chép về nhà Ngụy và nhà Ngô thì có Kinh đô là Kiến Nghiệp và Lạc dương. Tào Phi tự là Tử Hoàn, người Tiều ở Quận bái, là thế tử của Tào Tháo Thừa tướng nhà Hán. Ngày Phi mới sinh thì có đám mây xanh hình dạng như cái lộng xe che ở phía trên xanh biếc suốt cả ngày. Người chuyên xem khí tượng khen đấy là dấu hiệu của bậc Thiên Tử không phải của kẻ bề tôi. Năm lên tám tuổi đã giỏi văn chương, nối nghiệp Thừa tướng làm Ngụy Vương. Sau được nhà Hậu Hán nhường ngôi, đổi làm nước Ngụy, nhưng vẫn đóng đô ở Lạc dương. Mấy năm cuối của Viêm Hán, núi Ngũ nhạc làm nơi cúng tế trời đất. Năm Hoàng Sơ Ngụy được nhường ngôi. Cả nước được phân làm ba. Họ Tôn làm chúa nước Ngô, nhờ sông Trường giang mà mưu đồ việc thiên hạ. Dòng họ Lưu làm vua nhà Thục dựa ngày Kiếm các mà muốn an định cả Trung nguyên. Ai cũng có móng vuốt hoành hổ, oai thế Ngọa Long, cát cứ một vùng ý toan thôn tính lẫn nhau, tranh giữ biên cương, khóa chặt quan ải, rộng tìm các bậc anh tuấn để làm tay chân, hậu đãi hiền tài, quý như báu vật của nước, cho nên người giỏi có, sách lược hay đều tìm đến.

Ngài Tăng Hội đến nước Ngô, thì Xá-lợi hiển linh chói sáng miền Giang Tả, còn ngài Ca-la tới Ngụy, thì giới luật truyền bá khắp Lạc dương pháp luật từ đó được coi trọng. Do đó ngày đời tùy, vua đặt ra chức quan trọng coi về dịch kinh, hưng lúc dịch kinh thì ví tiếng địa phương, đề rõ danh mục có trong đó có các dịch phẩm đời Ngô. Ở Thục Phổ Diệu dịch trùng quá nhiều, do đó mà bắt đầu có các chi phái, mất tên người dịch là ở đó. Ngụy, Thục, Ngô bấy giờ như đảnh ba chân. Nhưng chỉ riêng nước Thục không có mặt trời sách ghi chép các niên đại thì đâu phải ở đó không có Phật chiếu soi rực rỡ trên khoảng không mà chỉ vì không có duyên thôi. Việc không thấy được sấm Pháp rền vang cả trời đất là vì kẻ ấy ngồi trong nhà kín nên không nghe thấy được. Vả lại tuy Cựu Lục có chú các kinh Phổ Diệu, Thủ-lăng-nghiêm ở Thục nhưng lại thiếu tên dịch giả và năm tháng đời vua mà kinh đã được dịch. Nếu muốn ghi thuật lại thì không biết dựa ngày đâu, do đó mà sắp ngày loại thiếu tên người dịch, nên không có chép riêng.

Tôn Quyền tự là Trọng Mưu, người ở Phú Xuân thuộc Ngô, đời đời làm quan ở đất Ngô. Trên các mồ mả ở phía đông nhà thường có vận khí và ánh sáng lạ (thần quang). Vả lại lúc mang thai Quyền thì bà mẹ mộng thấy ruột dài ra quấn quanh cả cửa Ngô Xương. Mọi người đều khen đó là điềm dòng dõi họ Tôn hưng thịnh sau này. Khi Quyền mới sinh ra một thì mắt đã có ánh sáng lạ, má vuông miệng rộng. Cha cho là lạ tất Quyền sẽ làm vua chúa. Vượt qua Mân Việt đóng đô ở vùng phong trao chức tước các chư Hầu, kiến lập niên hiệu. Tế cáo đất trời, sông núi, xây mặt về phương Nam mà tự xưng vua Ngô. Dời đến đất Lăng rồi đổi thành Kiến Nghiệp.

Nhà Ngụy nối nghiệp nhà Hậu Hán được hai năm thì Quyền lên ngôi, có bốn đời vua trị vì suốt năm mươi chín năm. Khi Hạo lên ngôi được hai năm thì nhà Ngụy nhường ngôi cho nhà Tấn. Tấn trị vì đến năm thứ mười lăm thì diệt nước Ngô. Nếu tính số năm thì Hạo trị vì được mười bốn năm rồi sáp nhập ngày nhà Tấn. Nay thâu nhạt các sách vở gom lại lập thành Ngô Lục. Từ năm Canh Tý niên hiệu Hoàng Sơ đời vua Văn Đế cho đến năm Giáp Thân niên hiệu Hàm hi thứ nhất đời vua Nguyên Đế. Trong thời gian đó có năm đời vua trị vì suốt bốn mươi lăm năm. Tất cả kinh luật Yết-ma do mười vị cả kẻ tục người đạo dịch ra và các kinh dịch từ trước mất tên người dịch thì gồm có ba trăm mười hai bộ, bốn trăm tám mươi ba quyển. Số kinh luật đó được coi chung cho cả hai đời Ngụy và

Ngô, gồm chín đời vua ở hai kinh đô. Các sách Thế Lục ghi chép như thế.

* Nhà Ngụy:

- Sa-môn Đàm-kha-ca-la có một bộ, một quyển giới.

- Sa-môn Khương Tăng Khải có hai bộ, bốn quyển kinh.

- Sa-môn Đàm-đế có một bộ, một quyển Yết-ma.

- Sa-môn Bạch Diên có sáu bộ, tám quyển kinh.

- Sa-môn Chi Cương Lương Tiếp có một bộ, sáu quyển kinh.

- Sa-môn An Pháp Hiền có hai bộ, năm quyển kinh.

* Nhà Ngô:

- Sa-môn Duy-kỳ-nan có hai bộ, sáu quyển kinh.

- Sa-môn Trúc Luật Viêm có ba bộ, ba quyển kinh.

- Ưu-bà-tắc Giới Chi Khiêm có một trăm hai mươi chín bộ, một trăm hai mươi hai quyển kinh.

- Sa-môn Khương Tăng Hội có mười bốn bộ, hai mươi chín quyển kinh và chú giải.

- Các kinh mất tên người dịch gồm một trăm mười bộ, hai trăm chín mươi mốt quyển kinh.

* Đời Ngụy:

Có Tăng-kỳ Giới Bổn một quyển, dịch lần đầu thấy ghi ở Trúc Đạo Tổ, Ngụy Thế Lục.

Bản Giới Bổn một quyển trên là do Sa-môn Đàm-kha-ca-la, người nước Trung Thiên Trúc dịch. Ngụy Lục nói rằng: Lúc ngài (Ca-la) nói pháp thì còn trẻ, tài ba thông minh, bẩm chất như ngọc quý. Đọc sách chỉ một lần xem qua thì văn nghĩa đều thông suốt. Giỏi bốn thứ Vi-đà (Phệ-đà), biết xem gió mây, trăng sao, đồ hình, thơ sấm vận mệnh thay đổi… Không thứ nào là không rành rẽ Tự bảo là tất cả thế gian đều ở trong tâm và mắt mình. Năm hai mươi lăm tuổi, khi ngày Tăng phòng, thấy quyển Pháp Thắng Tỳ-đàm Tâm, liền lấy xem, nhưng mịt mờ không hiểu gì cả. Càng cố gắng tỉnh táo thì càng thêm mê muội. Bèn than: Phật Pháp thật quá sâu kín luận đủ cả ba đời. Bèn đi xuất gia, đọc kinh Đại tiểu thừa và các luật tạng, đi du hóa đến tận Lạc dương. Thời ấy ở nước Ngụy tuy có Phật pháp nhưng đạo phong còn lầm lẫn, cũng đã có chúng tăng nhưng chưa có quy giới, chỉ lấy việc cạo đầu là khác tục mà thôi. Nếu có việc trai sám thì cũng giống y như sự cúng tế. Khi ngài Ca-la đã đến truyền bá rộng rãi Phật pháp, chư tăng thỉnh ngài dịch Tỳ-ni. Ngài Ca-la thấy luật tạng có các phép tắc quá khúc mắc tỉ mỉ, lời văn lại rườm rà dong dài, mà Phật pháp ở đây chưa được hưng thịnh lắm, chưa cần phải dùng đến. Cho nên ngày năm Gia Bình, châu chùa Bạch mã ngài dịch ra bộ Giới Bổn một quyển này, từ đây mới đầy đủ giới pháp sớm chiều ba tháng hạ vậy.

****

- Úc-già Trưởng Giả Sở Vấn Kinh, hai quyển (bản dịch lần hai, một tên là Úc-già-la-việt Vấn Bồ-tát Hạnh Kinh, thấy ghi trong Trúc Đạo Tổ Ngụy Lục).

- Vô Lượng Thọ Kinh, hai quyển (bản dịch lần hai, thấy ghi trong Trúc Đạo Tổ Tân Thế Tạp Lục và trong Bảo Xương Lục. Bản dịch này so với bản dịch của ngài Thế Cao có khác chút ít).

Cả hai bộ trên gồm bốn quyển do Sa-môn Khương Tăng Khải, người nước Thiên Trúc dịch ra tại chùa Bạch mã ở Lạc dương, ngày năm Gia Bình đời vua Tề. Trong Cao Tăng Truyện gọi tắt là Úc-già Trưởng Giả… bốn quyển. Kiểm tra lại về Đạo tổ Ngụy Tân Lục, Tăng Hựu Lục, Xuất Tam Tạng Ký và Bảo Xướng Lục và Lương Đại Lục thì thấy đều nói như trên. Từ ngoài hai bộ trên thì đều không nêu rõ tên, xét qua các Lục khác cũng không thấy.

****

- Đàm-vô-đức Yết-ma, một quyển (bản dịch đầu tiên, thấy ghi ở Trúc Đạo Tổ Ngụy Lục).

Một quyển Đàm-vô-đức trên thì Ngụy Lục gọi là Pháp Tạng. Tạng Sư Địa-lê-trà-do là đệ tử đời thứ chín của ngài A-du-xà. Tạng là người nối đời sau cùng tức là Tứ Phần Luật Chủ, từ đây mà các bộ khác đều hưng thịnh. Đây là khoảng thời gian sau khi Phật diệt độ hai trăm năm. Sau đó có Samôn Đàm-đế, người nước An Tức từ năm Chánh Ngươn thứ nhất, đời Cao Quý Hương Công, đã đến tận vùng Lạc Nhuế (ngài rất giỏi về luật học. Ở Bạch mã, chúng đã mời ngài dịch.

- Thủ-lăng-nghiêm Kinh hai quyển (bản dịch thứ hai. So với bản dịch của ngài Chi-sấm ở đời Hán, lời văn rất giống chỉ khác chút ít, thấy ghi ở phần Trúc Đạo Tổ Tấn Thế Tạp Lục và trong Tam Tạng Ký.

- Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh, hai quyển (bản dịch thứ ba. So với bản dịch của các ngài Thế Cao và Khương Tăng Khải thì cùng tên là Vô Lượng Thọ Kinh, chỉ khác chút ít, thấy ghi ở Trúc Đạo Tổ Tấn Thế Tạp Lục).

- Xoa tu Lại Kinh, một quyển (một bản không có chữ "Xoa", thấy ghi trong các Lục Trúc Đạo Tổ và Tăng Hựu v. v...).

- Trừ Tai Hoạn Kinh, một quyển (thấy trong Tam Tạng Tập Ký).

- Bình Đẳng Giác Kinh, một quyển (thấy trong Trúc Đạo Tổ Ngụy Ngô Lục).

- Bồ-tát Tu Hành Kinh, một quyển (một tên là

Trưởng Giả Oai Thí Sở Vấn Bồ-tát Tu Hành Kinh, một bản có tên là Trưởng Giả Tu Hành Kinh, thấy ghi trong hai Lục Thủy Hưng và Bảo Xướng).

Cả sáu bộ gồm tám quyển trên, thuộc đời Cao Quý Hương Công, do Sa-môn Bạch Diên, người Tây Vức, đem Đạo đi du hóa. Đến năm Cam Lộ thì đến ở Bạch mã tại Lạc dương, chúng mời ngài dịch ra.

****

-Pháp Hoa Tam-muội Kinh, một bộ sáu quyển (một bổn có chữ "Chánh". Trong Tăng Hựu Lục bảo là mất tên người dịch).

Một bộ sáu quyển trên, ở đời Cao Quý Hương

Công, năm đầu

Cam Lộ, tháng bảy, Sa-môn Chi Cương Lương Tiếp người ngoại quốc (Ấn Độ) dịch Sách Ngụy nói là Chánh vô Úy ở Giao Châu dịch, Sa-môn Đạo Thinh bút thọ. Tăng Hựu Lục thì bảo là mất tên người dịch. Phòng kiểm thấy ghi ở Trúc Đạo Tổ Ngụy Thế Lục và Thủy Hưng Lục. Nếu dựa ngày Giao Châu và thủy Hưng Lục thì phải sáp nhập ngày Ngô Lục. Nay căn cứ ngày Ngụy Lục nên phụ ngày đây.

****

- La-ma-già Kinh, ba quyển (thấy ghi trong bốn Lục là Trúc Đạo Bảo Xướng, Pháp Thượng Linh và Tăng Hựu).

- Đại Bát-niết-bàn Kinh, hai quyển (là tóm lược nhiều phẩm trước của Đại Bổn làm thành hai quyển này. Thấy ghi trong Trúc Đạo Tổ, Ngụy Lục, là bản dịch đầu).

Cả hai bộ gồm năm quyển trên do Sa-môn An Pháp Hiền người ngoại quốc (Ấn) dịch. Các sách đều bảo là đời Ngụy nhưng không rõ đời vua nào. Nay căn cứ ngày bản ghi chép ở phần cuối. Lại trong Biệt Lục cũng có ghi.

****

- Ngô A-sai-mạt Bồ-tát Kinh, bốn quyển (bản dịch đầu, thấy ghi trong Ngô Lục và Biệt Lục).

- Pháp Cú Kinh, hai quyển (bản dịch đầu, Ngô Lục nói là năm quyển, thấy ghi trong Tam Tạng Ký).

Cả hai bộ trên gồm sáu quyển, đời Ngụy Văn Đế, Sa-môn Duy-kỳ-nan ngô dịch là chướng ngại người nước Trung Thiên Trúc dịch. ngài học thông ba Tạng rất giỏi về bốn kinh A-hàm, dạo qua khắp nhiều nước, lấy việc hành hóa làm sự nghiệp. Ngài ra đi từ nước Tây Vức cùng bạn là Ngài Trúc Luật Viêm đến từ Giang Tả, ngày năm Hoàng Võ thứ ba, châu Quân Võ Xương hai ngài cùng dịch kinh ra tiếng Ngô (Hán). Riêng ngài Duy-kỳ-nan chưa rành tiếng Hán nên chỗ dịch chưa được rốt ráo lắm, chỉ dịch được nghĩa gốc, lời lẽ câu văn hãy còn chất phác.

****

- Tam-ma-kiệt Kinh, một quyển (thấy ghi trong Thủy Hưng Lục, so với Phân Hòa Đàn Vương

Kinh thì giống nhiều khác ít).

- Phạm Chí Kinh, một quyển (thấy trong Thủy Hưng Lục, giống với bản Ngũ Bách Phạm Chí Kinh chỉ khác người dịch).

- Phật Y Kinh, một quyển (cùng dịch với ngài Chi Việt, không phải toàn bộ Đại Kinh mà chỉ tóm lược, thấy trong Bảo Xướng Lục. Hoặc gọi là Phật Y Vương Kinh).

Cả ba bộ kinh gồm ba quyển trên, ở đời Ngụy Minh Đế, ngài Sa-môn Trúc Luật Viêm người nước Thiên Trúc dịch theo yêu cầu của Tôn Quyền ở Dương đô, sau khi ngài Duy-kỳ-nan tịch. Các sách chép không giống nhau, hoặc gọi là Tướng Viêm, hoặc Trì Viêm, hoặc Luật Viêm, chưa rõ là đúng nay xin nêu đủ.

****

- Đại Minh Độ Kinh, bốn quyển (cũng gọi là Đại Minh Độ Vô Cực Kinh, hoặc sáu quyển, thấy trong cả hai Lục: Trúc Đạo Tổ, Ngụy, Ngô).

- Thiền Bí Yếu Kinh, bốn quyển (cũng gọi là Thiền Pháp Bí Yếu, thấy trong Ngô Lục và Biệt Lục).

- A-sai-mạt Bồ-tát Kinh, bốn quyển (thấy trong Ngô Lục, bản dịch thứ hai. So với bản dịch trước của ngài Duy-kỳ-nan thì bản văn có sai khác chút ít).

- Bồ-tát Bản Duyên Tập Kinh, bốn quyển (truyền rằng do Sa-môn Tăng-già-tư-na người nước Thiên Trúc soạn, hoặc ba quyển).

- Duy-ma-cật Sở Thuyết Bất Tư Nghì Pháp Môn Kinh, ba quyển (cũng gọi là Phật Thuyết Phổ Nhập Đạo Môn Kinh hoặc hai quyển. Bản dịch thứ hai, so với bản dịch của ngài Nghiêm Phật Điều đời hậu hán có chút ít sai khác. Thấy trong Trúc Đạo Tổ Ngụy Ngô Lục và Tam Tạng Ký).

- Tu Hành Phương Tiện Kinh, hai quyển (hoặc có chữ "Thiền" thấy trong Ngô Lục).

- Đại Bát-nê-hoàn Kinh, hai quyển (đây tóm lược phần tựa của Đại bản và phẩm Ai Thán làm hai quyển, ở quận ba tờ sau thì có chút ít sai khác. Thấy trong Trúc Đạo Tổ Ngô Lục. Ngài Đạo An bảo là rút từ Trường A-hàm. Ngài Tăng Hựu bảo là Trường A-hàm cùng bộ này khác nhau. Bản dịch thứ hai).

- Thụy Ứng Bản Khởi Kinh, hai quyển (bản dịch lần hai, năm Hoàng Võ, một tên là Thái Tử Bản Khởi Thụy Ứng, so với bản dịch của Khang Mạnh Tường thì có sai khác chút ít. Tạ Thương ở Trần Trương Tẩy ở quận Ngô … bút thọ. Đông A Vương thực đời Ngụy xác định rõ. Thấy trong Thủy Hưng Lục và Tam Tạng Ký).

- Pháp Kính Kinh hai quyển (Đạo An Lục không có. Tăng Hựu Lục thì nói là thấy trong Biệt Lục. Ngài Khương Tăng Hội viết tựa và chú giải).

- Tiểu A-sai-mạt Kinh, hai quyển (thấy ở Biệt Lục và Tam Tạng Ký).

- A-di-đà Kinh, hai quyển (bản dịch thứ tư, so với bản dịch của Thế Cao đời Hán và của Tăng Khải đời Ngụy thì có khác chút ít. Nội Đề gọi là A-di-đà Tam-da Tam-phật Tát-lâu-đàn Quá Độ Nhân Đạo Kinh. Cũng gọi là Vô Lượng Thọ Kinh. Thấy trong Trúc Đạo Tổ Ngô Lục).

- Nghĩa Túc Kinh, hai quyển (Thấy trong Trúc Đạo Tổ Ngô Lục và Bảo Xướng Lục).

- Phương Đẳng Thủ-lăng-nghiêm Kinh, hai quyển (dịch lần hai ngày năm Hoàng Võ, so với bản dịch của ngài Chi-sấm đời Hậu Hán có khác chút ít. Thấy trong Trúc Đạo Tổ Ngô Lục, còn trong Đạo An Lục không có. Tăng Hựu Lục thì bảo là thấy trong Biệt Lục).

- Pháp Cú Kinh, hai quyển (bản dịch thứ hai, thấy trong Biệt Lục và Tam Tạng Ký, ít hay hơn bản dịch trước).

- Huệ Ấn Kinh, một quyển (một tên là huệ Ấn Tam-muội Kinh, một bản lại gọi là Thập Phương Hiện Tại Phật Tất Tại Tiền Lập Đại Định Kinh, bản khác lại gọi Bảo Điền huệ Ấn Tam-muội Kinh.

Cùng bản với bộ Như Lai Trí Ấn Kinh nhưng khác người dịch. Thấy trong Trúc Đạo Tổ Ngô Lục và Tam Tạng Ký).

- Bổn Nghiệp Kinh, một quyển (một tên là Bồtát Bổn Nghiệp Kinh. Thấy trong Tăng Hựu Lục).

- Tu-lại Kinh, một quyển (bản dịch thứ hai, so với bản dịch của ngài Bạch Diên thì cũng một bản nhưng khác người dịch. Một tên là Tu Lại Bồ-tát Kinh Thấy trong Trúc Đạo Tổ Ngô Lục và Tam Tạng Ký).

- Phạm Ma-du Kinh, một quyển (Thấy trong Trúc Đạo Tổ Ngô Lục và Tam Tạng Ký).

- Tư A-mạt Kinh, một quyển (một tên là Tư Amuội. Ngài Đạo An bảo: đó là Bồ-tát Đạo Thọ Kinh, đồng bản mà khác người dịch, lại có tên khác. Thấy trong Đạo An Lục, Chi Mẫn Độ Lục, Tăng Hựu Lục).

- Vi Mật Trì Kinh, một quyển (hoặc gọi là Vô Lượng Môn Vi Mật Trí Kinh. Thấy trong Tăng Duệ Nhất Tần Lục và Tam Tạng Ký).

- Nguyệt Minh Đồng Tử Kinh, một quyển (hoặc gọi Nguyệt Minh Đồng Nam Kinh, hoặc gọi Nguyệt Minh Bồ-tát Tam-muội Kinh, thấy ghi trong Tam Tạng Ký).

- A-nan Tứ Sự Kinh, một quyển (thấy ở Tam Tạng Ký và Biệt Lục).

Sai-ma-kiệt Kinh, một quyển (một tên là Bồ-tát Sinh Địa Kinh (Thấy trong Trúc Đạo Tổ Ngô Lục).

- Ưu-đa-la Mẫu Kinh, một quyển (một bản không có chữ Mẫu).

- Thất Nữ Kinh, một quyển (ngài Đạo An bảo rút từ A-tỳ-đàm, một bản gọi là Nữ Bản Kinh, dịch lần đầu).

- Úc-già Trưởng Giả Kinh, một quyển (bản dịch thứ hai, thấy trong Trúc Đạo Tổ Ngô Lục, hoặc nói có hai quyển).

- Bát Sư Kinh, một quyển (thấy trong Trúc Đạo Tổ Ngô Lục).

- Thích Ma-nam Bổn Kinh, một quyển (rút từ Trung A-hàm, thấy trong Trúc Đạo Tổ Ngô Lục).

- Bột Sao Kinh, một quyển (dịch đầu tiên, tức Bột Kinh, thấy trong Tam Tạng Ký và Biệt Lục).

- Lão Nữ Nhân Kinh, một quyển (rút từ A-tỳđàm. Ngô Lục gọi tắt là Lão Nữ Kinh hoặc Lão Mẫu Kinh, thấy trong Tam Tạng Ký).

- Trai Kinh, một quyển (dịch lần đầu, tên khác là Trì Trai Kinh, thấy trong Biệt Lục).

- Hối Quá Pháp Kinh, một quyển (một tên khác là Tự Thập Phương Lễ Bái Hối Quá Văn, hoặc không có chữ Kinh).

- Hiền Giả Đức Kinh, một quyển.

- Phật Tùng Thượng Sở Hành Tam thập Kệ Kinh, một quyển (hoặc không có chữ Kinh).

Liễu Bổn Sinh Tử Kinh, một quyển (ngài Đạo An bảo là rút từ Sinh Kinh. Tăng Hựu bảo đây có năm quyển, Sinh Kinh không có tên này, lại một tên là Đạo Can, đồng bản chỉ khác người dịch. Ngài Chi Khiêm tự chú giải và viết tựa.

- Duy Minh Nhị Thập Kệ Kinh, một quyển (hoặc không có chữ Kinh).

- Long Thí Nữ Kinh, một quyển (Đạo An Lục không có, Tăng Hựu Lục thì bảo là thấy trong Biệt Lục).

- Lộc Tử Kinh, một quyển (Đạo An Lục không có, Tăng Hựu Lục thì bảo là thấy trong Biệt Lục và Trúc Đạo Tổ Ngô Lục cũng có ghi).

- Thập Nhị Môn Đại Phương Đẳng Kinh, một quyển (Đạo An Lục không có, Tăng Hựu Lục bảo là thấy trong Biệt Lục).

- Lại Tra-hòa-la Kinh, một quyển (dịch lần thứ hai, so với bản dịch của ngài Chi Diệu khác chút ít. Hoặc gọi là La-hán Lại Tra-hòa-la Kinh Đạo An Lục không có, Tăng Hựu Lục bảo là thấy trong Biệt Lục. Gồm ba mươi bộ kinh bốn mươi tám quyển trừ bộ Úc-già Trưởng Giả Kinh, đều thấy có trong Tăng Hựu Lục).

- Tứ Thập Nhị Chương Kinh, một quyển (dịch lần hai, so với bản của ngài Ma-đằng dịch có khác chút ít. Văn nghĩa đầy đủ đúng đắn, câu lời khá chỉnh. Thấy ghi trong Biệt Lục).

Nan Long Vương Kinh, một quyển (một bản không có chữ Vương).

- Bất Tự Thủ Ý Kinh, một quyển (hoặc gọi Tự Thủ hoặc Bất Tự Thủ).

- Ngũ Ấm Sự Kinh, một quyển.

- Thất Tri Kinh, một quyển (một bản viết là Trí rút từ Trung A-hàm, quyển bảy).

- Nhân Dân Cầu Nguyện Kinh, một quyển.

- Phật Khai Giải A-bạt Phạm Chí Kinh, một quyển (một bản gọi Phạm Chí A-bạt Kinh, rứt từ Trường A-hàm).

- Bảo Hải Phạm Chí Thành Tựu Đại Bi Kinh, một quyển.

- Phạm Chí Tử Tử Đạo Bại Kinh, một quyển.

- Phạm Chí Vấn Phật Sư Kinh, một quyển.

- Hàng Thiên Phạm Chí Kinh, một quyển (rút từ Kinh A-hàm).

- Phạm Chí Kinh, một quyển (dịch lần hai).

- Độ Phạm Chí Kinh, một quyển.

- Ngoại Đạo Tiên Ni Thuyết Độ Kinh, một quyển.

- Phạm Chí Kiết Tịnh Kinh, một quyển.

- Phạm Chí Vấn Phật Thế Gian Tăng Giảm Kinh, một quyển.

- Phật Vị Ngoại Đạo Tu Thâm Thuyết Ly Dục Kinh, một quyển (hoặc không có chữ Thâm).

Phạm Võng Lục Thập Nhị Kiến Kinh, một quyển (thấy trong Biệt Lục, Tăng Hựu Lục nói là Pháp Hộ dịch).

- A-chất Quốc Vương Kinh, một quyển.

- Kiệt Tham Vương Kinh, một quyển (rút từ Lục Độ tập).

- Quốc Vương Thành Tựu Ngũ Pháp Cữu Tồn Vi Thế Kinh, một quyển.

- Duy Lâu Vương Sư Tử Chúng Thí Dụ Kinh, một quyển (một bản không có chữ Thí Dụ).

- Chư Pháp Bổn Kinh, một quyển.

- Ngũ Mẫu Tử Kinh, một quyển.

- Giới Tiêu Phục Tai Kinh, một quyển (thấy trong Cựu Lục).

- Khổ Thọ Kinh, một quyển (thấy trong Đạo An Lục, một bản có chữ Đại ở trên).

- Thị Ngã Sở Kinh, một quyển (rút từ Sinh Kinh).

- Cam Lộ Đạo Kinh, một quyển (rút từ Xuất Diệu Kinh).

- Bất Tịnh Quán Kinh, một quyển (rút từ Trường A-hàm).

- Thủy Thượng Bào Kinh, một quyển.

- Hằng Thủy Giới Kinh, một quyển (thấy ở Cựu Lục hoặc không có chữ Giới).

- Sắc Vô Thường Kinh, một quyển (rút từ Ahàm).

Hộ Khẩu Ý Kinh, một quyển.

- Thọ mạng Xúc Kinh, một quyển (rút từ Tạp A-hàm).

- Pháp Thí Thắng Kinh, một quyển.

- Chư Lậu Tận Kinh, một quyển (rút từ Tạp Ahàm, hoặc gọi là Chư Tận Kinh).

- Tu Hành Tứ Kinh, một quyển.

- Tu-ma-đề Trưởng Giả Kinh, một quyển.

- Ma-điều Vương Kinh, một quyển (dịch lần đầu, một bản không có chữ Vương).

- Tứ Nguyện Kinh, một quyển (thấy ở Trúc Đạo Tổ Ngô Lục và Tam Tạng Ký).

- Tịnh Hạnh Phẩm Kinh, một quyển (rút từ Hoa Nghiêm, một tên là Bồ-tát Bổn Nghiệp Kinh).

- Kim Cang Thanh Tịnh Kinh, một quyển (một tên là Kim Cang Tam-muội Bổn tánh Thanh Tịnh Bất Diệt Bất Hoại Kinh).

- Duy Việt Tạp Nạn Kinh, một quyển.

- Phật Vị Ha Đáo Khoáng Dã Quỷ Thuyết Pháp Kinh, một quyển.

- A-xà-thế Vương Nữ A-thuật-đạt Bồ-tát Kinh, một quyển (dịch lần đầu).

- Cần Tấn Học Đạo Kinh, một quyển (một bản không có chữ Cần).

- Bối Đa Thọ Hạ Tư Duy Thập Nhị Nhân Duyên Kinh, một quyển

(dịch lần hai).

- Kiên Ý Kinh, một quyển (hoặc dùng chữ Tâm).

- Tam Phẩm Đệ Tử Kinh, một quyển.

- Ma-ha Tinh Tấn Kinh, một quyển (cũng gọi Đại Tinh Tấn Kinh).

- Bồ-tát Tu Hành Kinh, một quyển (thấy trong Bảo Xướng Lục).

- Phổ Quảng Bồ-tát Kinh, một quyển (thấy trong Biệt Lục).

- Đà-la-ni Cú Chú Kinh, một quyển (cũng gọi Trì Cú Chú Kinh).

- Hoa Tích Đà-la-ni Chú Kinh, một quyển (thấy trong Bảo Xướng Lục).

- Bát Cát Tường Kinh, một quyển (thấy trong

Cổ Lục, cũng có chữ Chú, bản dịch lần đầu).

- Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật Chú Kinh, một quyển (thấy ở Bảo Xướng Lục, hoặc gọi tắt là Bátnhã Ba-la-mật Chú Kinh).

- Thất Phật Thần Chú Kinh, một quyển (một bản không có chữ Kinh).

- Đại Từ Vô Giảm Kinh, một quyển.

- Bảo Nữ Minh Tam Thập Nhị Tướng Kinh, một quyển (một tên là Vấn huệ Kinh; một bản gọi là Tam Thập Nhị Sự Kinh, lại một bản gọi Bảo Nữ Vấn Kinh, bốn tên tất cả).

Tam Ngư Thất Thủy Kinh, một quyển.

- Diễn Đạo Tục Nghiệp Kinh, một quyển (thấy trong Cựu Lục hoặc không có chữ Nghiệp).

- Bất Trang Giảo Nữ Kinh, một quyển (thấy trong Bảo Xướng Lục).

- Thân Nhật Kinh, một quyển (ngài Đạo An nói rút từ Trung A-hàm).

- Tôn-đa-da Trí Kinh, một quyển (hoặc gọi Phạm Chí Tôn-đa-da Trí Kinh, ngài Đạo An nói là rút từ Trung A-hàm).

- Trưởng Giả Âm Duyệt Kinh, một quyển (một bản gọi Trưởng Giả Âm-duyệt-bất-lan Ca-diếp Kinh; một bản gọi tắt là Âm-duyệt-kinh).

- Mặc Thị Phạm Chí Kinh, một quyển (thấy trong Biệt Lục).

- Pháp Luật Kinh, một quyển (cũng gọi Pháp Luật Tam-muội Kinh).

- Xuất Gia Công Đức Kinh, một quyển (thấy trong Ngô lục).

- Tệ-ma-thí Mục-liên Kinh, một quyển (thấy trong Cựu Lục, rút từ A-tỳ-đàm).

- Thất Lậu Kinh, một quyển (thấy trong Biệt Lục).

- Lam Đạt Vương Kinh, một quyển (một bản tên Mục-liên Nhân Duyên Công Đức Kinh, hoặc gọi Mục-liên Công Đức Kinh, thấy trong Ngô

Lục).

Ma Nữ Văn Phật Thuyết Pháp Đắc Nam Thân Kinh, một quyển (thấy trong Biệt Lục, rút từ Đại Tập).

- Ma Hóa Tác Tỳ-kheo Kinh, một quyển.

- Phật Dĩ-tam-xa-hoán Kinh, một quyển (rút từ kinh Pháp Hoa).

- Vị Sinh Oán Kinh, một quyển.

- Phất-da-sa Vương Kinh, một quyển (một bản tên là Bình Sa Vương Ngũ Nguyện Kinh. Ngài Đạo An bảo rú từ Trung A-hàm).

- Tu-ma-đề Nữ Kinh, một quyển.

- Bách Dụ Kinh, một quyển.

- Tuyết Sơn Di Hầu Kinh, một quyển.

- Độ Thoát Cẩu Tử Kinh, một quyển.

- Chế Cẩu Kinh, một quyển.

- Tam Chủng Lương Mã Kinh, một quyển.

- Xi Điểu Sự Kinh, một quyển.

- Hà Trung Thảo Quy Kinh, một quyển.

- Hạt Miết Kinh, một quyển.

- Tứ Chủng Lương Mã Kinh, một quyển (rút từ Tăng Nhất A-hàm).

- Ưng Diêu Lạp Kinh, một quyển (rút từ Tăng Nhất A-hàm).

- Pháp Diệt Tận Kinh, một quyển (dịch lần đầu, hoặc gọi pháp Một Tận Kinh, hoặc gọi Không Tịch Bồ-tát Sở Vấn Kinh).

Vô Mẫu Tử Kinh, một quyển.

Cả một trăm hai mươi chín bộ, gồm một trăm năm mươi hai quyển kinh trên là do cư sĩ Ưu-bàtắc Chi Khiêm, người nước Nguyệt Chi, tự là Cung Minh, lại có tên là Việt dịch ngày đời ngụy văn đế, ngày thời Hán Mạt ngài đã đến Lạc dương và theo học với ngài là Chi Lượng. Ngài Chi Lượng có tên tự là Kỷ Minh mà ngài Kỷ Minh lại học trò của ngài Chi-sấm. Ngài Ca-lâu-chi-sấm đã từng xem đủ các sách ghi chép ở đời Hán. Nên đời bấy giờ khen rằng trong thiên hạ những kẻ học rộng không ai hơn được ba vị này. Ngài Chi Khiêm đã từng xem đủ các kinh sách và đều thấu suốt rốt ráo, các nghề khéo ở thế gian phần lớn đều am tường, học khắp mọi thứ sách khác lạ, biết rành tiếng nói của cả sáu nước. Ngài là người nhỏ nhắn, cao gầy đen đúa, mắt thì lòng trắng lớn mà con ngươi màu vàng. Nên người thời ấy thường bảo rằng: Chàng Chi có mắt ngươi vàng, dù thân thể ốm gầy và bé nhỏ nhưng đó là cái túi đầy Trí huệ. Lúc bấy giờ là thời Hán Mạt đầy loạn lạc nên ngài tạm lánh sang nước Ngô. Ngô Quyền nghe đồn ngài là kẻ tài trí nên mời ngài đến đàm đạo, ý rất vui bèn phong ngài Bác Sĩ, giúp dạy dỗ Thái tử. Ngài cùng với các người như Vĩ Diệu đều hết lòng phò giúp, tạo nhiều công ích lớn. Hiềm vì ngài là người Tây Vức nên trong sách Ngô Chí không ghi tên, chỉ dùng tài sức mà không ghi chép công lao. Đây là lỗi lầm của các sử gia nào phải do ý vua. Vì phàm là vua trong thiên hạ khi dùng các bậc hiền tài để phục vụ đời thì phong tước ở triều đình và ghi tên ngày sử sách, đâu hạn cuộc gì người Hoa hay kẻ rợ mà không ghi chép sao? Vả như Diệp Công, Tử Cao có tánh thích rồng thì Thiên Long liền giáng hiện. Đã không lấy lễ mà tiếp đãi dân Nhung Di, lại trông cậy họ thấm nhuần ân vua thì thật là việc khó được vậy! Song bộ xương ngựa chết nằm giữa chợ tất phải là loại ngựa tài, lấy cái thuật bao dung để đợi hiền tài. Nay bởi quyền vua bao la có thể thâu nạp và tự quyết đoán tất cả mọi thứ từ xưa nay.

Ngài Chi Khiêm thấy giáo pháp Đại thừa tuy đã lưu hành nhưng các kinh phần lớn đều là tiếng Phạm chưa được dịch hết. Nay do ngài biết rành tiếng địa phương nên đã thu nhặt khá nhiều các bổn kinh xưa cũ để dịch ra tiếng Hán. Bắt đầu từ đầu năm Hoàng Võ đến cuối năm Kiến Hưng, trong khoảng trước sau hơn ba mươi năm, ngài đã dịch được các kinh như Duy-ma, Đại Bát-nê-hoàn, Pháp Cú, Thụy Ứng Bản Khởi… Các Lục như Tăng Hựu, Tam Tạng Tập Ký đều ghi chép là chỉ có ba mươi sáu bộ. Còn các Lục huệ Kiểu, Cao Tăng Truyện thì ghi là có bốn mươi chín bộ. Ngài Phí Phòng kiểm tra rộng rãi các tạp lục của mọi nhà thì từ Tứ Thập Nhị Chương Kinh trở đi đều là các Tạp kinh do Biệt ký nêu ra. Nay căn cứ ngày đó mà ghi lại, thì số lượng các sách truyện là ba mươi sáu bộ hoặc bốn mươi chín kinh, hình như đều do ngài Chi Khiêm dịch ra, sau này mới thâu nhặt được, hoặc phần lớn trước đây chính là dịch từ tiếng Phạm ra. Song các việc ghi chép kể thuật về thấy nghe, về ý và thể giống nhau khá ít, cũng có các ghi chép rộng hẹp dài ngắn, nêu ra hoặc bỏ bớt, lại khác nhau rất nhiều. Vì các tư liệu của mỗi sử gia có thể bỏ đi hay lấy ngày là do lầm lẫn. Bởi biển pháp thì quá rộng sâu mà sự việc thì chỉ là một ngụm, một giọt. Đã ra sức sưu tra rộng rãi các chỗ thấy nghe nên mới nêu trình đầy đủ ngày đó. Vả lại các kinh điển do ngài Chi Khiêm dịch ra nghĩa lý hợp với chỉ thú văn từ lại thanh nhã, thật quả là một bậc tài cao đức trọng. Lại căn cứ ngày Vô Lượng Thọ Kinh và Trung Bản Khởi Chế Bồ-tát mà soạn ra những câu văn vần tiếng Phạm từng ba tiếng một, đến nay hãy còn đang thịnh hành ở cả vùng Giang hoài. Ngài lại chú giải, viết tựa kinh Liễu Bản Sinh Tử.

****

- Lục Độ Tập Kinh, chín quyển (một tên là Lục Độ Vô Cực Kinh, lại một tên là Độ Vô Cực Kinh, một tên Tạp Vô Cực Kinh. Thấy trong Trúc Đạo Tổ Lục và Tam Tạng Ký).

- Ngô Phẩm Kinh, năm quyển (tức là Tiểu Phẩm Bát-nhã thấy trong Tam Tạng Tập Ký).

- Bồ-tát Tịnh Hạnh Kinh, hai quyển (được dịch năm Xích Ô, tức Đại Tập Bảo Kiết Phẩm hoặc gọi tắt là Tịnh Luật Kinh, thấy trong Trúc Đạo Tổ Ngô Lục).

- Tạp Thí Dụ Tập Kinh, hai quyển (Hoặc không có chữ Tập thấy trong Tăng Hựu Lục).

- A-nan Niệm Di Kinh, hai quyển (cũng gọi là

Pháp A-nan Niệm Kinh, thấy trong Tăng Hựu

Lục).

- Kính Diện Vương Kinh, một quyển (thấy ở Tam Tạng Ký).

- Sát Vi Vương Kinh, một quyển (thấy trong Tăng Hựu Lục).

- Phạm Hoàng Vương Kinh, một quyển (thấy trong Hựu Lục và Cao tăng truyện).

- Quyền Phương Tiện Kinh, một quyển (thấy ở Ngô Lục và Biệt Lục).

- Tọa Thiền Kinh, một quyển (thấy trong Ngô Lục và Biệt Lục).

- Bồ-tát Nhị Bách Ngũ Thập Pháp Kinh, một quyển (hoặc hai quyển, dùng Kinh này thay cho bộ Tăng Nhị Bách Ngũ Thập Giới Trình Hạo là đây).

- Pháp Kính Kinh Giải Tử Chú, hai quyển (có viết thêm tựa).

- Đạo Thọ Kinh Chú Giải, một quyển (có viết thêm tựa).

- An Ban Kinh Chú Giải, một quyển (có viết thêm tựa).

Cả mười bốn bộ gồm hai mươi chín quyển trên, ở đời Ngụy Tề Vương trong năm Chánh Thủy, do Khương Tăng Hội người Thiên Trúc dịch. Ngài học thông ba tạng thấu hiểu sáu kinh, rành rẽ Thiên văn đổ vỉ biện Luận điều cốt yếu, văn chương trác tuyệt. Lúc đó ba vị ở đời Ngô, trước đó có ngài Chi-sấm tuyên dịch Kinh điển nhưng ở xứ này chỉ mới được giao tiếp với Phật pháp mà phong hóa chưa trùm khắp, nên ngài Tăng Hội muốn chấn hưng Đạo Pháp xây dựng chùa tháp ở chốn Giang hoài. Ngài bèn chống tích trượng ngao du về phía đông. Bấy giờ là năm Xích Ô nhà Ngô, ngài đã đến kiến nghiệp bèn dựng chùa tranh thờ tượng Phật và giảng đạo. Thuở đó chốn này chưa hề có Sư Tăng nên nghi ngài làm việc lạ lùng dối trá. Quan Hữu Ty tâu với Quyền cho mời ngài đến để cật vấn:

- Phật có linh nghiệm gì mà ông cạo đầu mặc áo khác đời? Ngài đáp:

- Đức Như Lai tịch diệt đã hơn ngàn năm, hài cốt của ngài còn lại ở thế gian gọi là Xá lợi khi ứng hiện ở đâu thì thần diệu vô cùng. Thuở xưa vua Adục thống trị cõi Diêm-phù-đề đã xây dựng bốn vạn tám ngàn Bảo tháp để thờ cúng, nơi nào chùa tháp hưng thịnh là biểu hiện giáo pháp của Như Lai đã thấm nhuần.

Quyền cho đó là khoe khoang bố láo. Bèn bảo:

- Nếu có được Xá-lợi thì ta sẽ cho xây dựng chùa tháp còn như dám lứa dối thì luật nước sẽ trừng trị! Ngài liền xin thời hạn bảy ngày. Ngài bảo đồ chúng rằng:

- Phật Pháp hưng nguy chỉ là một dịp này thôi, nay nếu tất cả chúng ta không chí thành thì tất sau này không còn kịp nữa.

Bèn cùng nhau trai giới tinh Lược, ngài lấy một cái bình bằng đồng đựng đầy nước rồi thắp hương lễ thỉnh suốt bảy ngày, nhưng chẳng thấy gì, lại chí thành cầu thỉnh suốt tuần lễ thứ hai cũng không có ứng nghiệm.

Quyền bảo:

- Thật dám cả gan lừa dối.

Sắp muốn đem gia hình. Ngài Tăng Hội xin cho được tuần lễ thứ ba. Quyền bèn đặc ân nhận lời.

Tăng Hội bảo bạn Đạo rằng: Tuyên Ni có nói:

"Văn Vương đã mất mà vẻ đẹp lại không còn sao?" Pháp linh đã ứng nghiệm nhưng vì bọn ta chưa cảm được đấy thôi. Xá gì luật vua, chúng ta quyết tâm đến chết mới thôi! Đến chiều tối ngày chót của tuần thứ ba cũng chẳng thấy gì, ai nấy đều run sợ. Mãi đến canh năm bỗng nghe trong bình có tiếng động. Ngài Tăng Hội đến xem thì quả nhiên thấy có xá-lợi. Sáng hôm sau đem trình lên quyền. Quyền thiết triều mời các quan đến xem, ánh sáng năm sắc từ miệng bình chiếu sáng rực rỡ. Quyền tự tay ôm bình đổ xuống mâm đồng, Xá lợi khi chạm ngày thì mâm đồng liền vỡ ra.

Quyền kinh hãi kính cẩn đứng phắt dậy bảo rằng: "Điềm lành hiếm có!

Ngài Tăng Hội tiến lên thưa rằng oai thần của Xá-lợi đâu phải chỉ có chiếu sáng mà thôi, dù lửa của kiếp thiêu cũng không thể đốt cháy tan được, dù chày Kim cang cũng không thể đập vỡ được. Quyền ra lệnh thí nghiệm thử.

Ngài Tăng Hội nguyện rằng: "Mong mây pháp khắp che thấm nhuần chúng sinh kính ngưỡng, nguyện lại ban cho thần tích, rộng bày oai linh".

Bèn để xá-lợi trong cối sắt, khiến kẻ lực sĩ lấy chày đập mạnh, nhưng rốt cục cối chày đều lõm ngày mà xá-lợi vẫn nguyên vẹn. Quyền vô cùng khâm phục liền ra lệnh xây tháp. Do đây mới có chùa Phật đầu tiên nên gọi là chùa Kiến sơ, nhân đó gọi nơi ấy là làng Phật-đà. Do đó mà vùng Giang tả Phật pháp được hưng thịnh, tất cả đều do công sức của ngài Tăng Hội. Đến đời Tôn Hạo thì chế lệnh hà khắc bạo ngược, dẹp bỏ việc thờ cúng lăng nhăng, lại muốn phá bỏ cả chùa Phật.

Hạo bảo các thuộc hạ: Những gì hưng thịnh tất phải có Thánh Linh thì nên phụng thờ đạo ấy, còn những gì không linh nghiệm thì nên đốt sạch.

Các quan cùng tâu: "Oai lực của Phật không giống như các thần linh khác. Ngài Khương Tăng

Hội cảm linh nghiệm nên Thái Thượng Hoàng xây dựng chùa đầu tiên, nay nếu khinh thường phá hủy đi thì ắt gây tai họa về sau".

Ý Hạo chưa quyết, bèn sai Trương Dục đến chùa cật vấn ngài Tăng Hội. Dục đem hết tài giỏi biện luận lưu loát của mình đến vấn nạn đủ thứ, ngài Tăng Hội tùy cơ mà ứng đối lời lẽ tao nhã nhưng sắc nhọn. Từ sáng mãi đến chiều Dục không thể nào khuất phục được ngài, bèn xin phép cáo lui, ngài Tăng Hội tiễn đưa tận ngoài cửa. Bấy giờ bên cạnh chùa lại có nhà thờ cúng lăng nhăng, Dục lại bắt bẻ rằng: Huyền hóa đã hưng thịnh, vậy cớ sao bọn này ở gần chùa mà không thay đổi được họ?

Ngài Tăng Hội đáp: Sấm sét rền vang nhưng kẻ điếc nào nghe thấy gì? Vậy đâu phải vi diệu là ở tiếng mà quý ở chỗ lý hội, nếu lý đã rõ thì dầu muôn dặm, cũng đều thông, dù người ấy không phải liền nhà với giống Hồ Việt.

Dục trở về khen Tăng Hội, Hội vốn là người tài trí thông minh, sức của thần khó thể nào lường được. Cúi mong đèn trời đích thân đến kiểm soát. Hạo triệu tập các hiền tài trong triều đem ngựa xe đến đón ngài Tăng Hội.

Khi Hội ngồi ngày, Hạo bèn hỏi: "Phật Giáo thường nói về Thiện Ác báo ứng, vậy nó thế nào là đúng?".

Hội thưa: Phàm bậc Minh chủ lấy việc Hiếu từ đem ra dạy đời thì chim quạ đỏ bay lượn, người già sống lâu; đem nhân đức mà nuôi dạy vật thì suối nước ngọt trào phun giống lành sinh sản. Việc làm lành đã có bằng cớ như thế thì có việc tạo ác cũng thể nghiệm biết. Cho nên làm ác dầu kín nhẹm thế nào thì quỷ cũng thấy được mà giết đi, còn việc làm ác đã rõ ràng khi người biết cũng khó dung cho sống. Chỉ ngâm vịnh cầu phước mà không hối lỗi thì đâu dễ bảo là chứa nhóm điều lành để có được nhiều vui khác. Tuy là lời dạy cặn kẻ của sách Nho thì cũng chính là ý sáng của kinh Phật.

Hạo nói: Nếu thế thì làm theo Chu Khổng cũng đủ rồi cần chi phải dùng đến Phật giáo?

Tăng Hội đáp: Lời dạy của Chu Khổng chỉ là điều sơ lược hướng dẫn người đời, còn giáo pháp của Thích-ca thì sâu kín, rộng nói về nhân quả. Cho nên hễ làm ác thì phải vĩnh kiếp chịu khổ đau chốn địa ngục, còn tu thiện thì mãi thọ hưởng vui cõi trời. Nêu việc này để khuyên bảo mọi người làm lành lánh dữ cũng là việc hệ trọng lớn lao lắm chứ! Hạo nghe ngày không thể bắt bẻ được gì, nhưng dù nghe Chánh pháp mà vẫn còn mê muội hung ác, chưa thắng nổi tánh bạo ngược của mình. Hạo thường bảo đám vệ binh sửa sang ngự uyển ở hậu cung. Khi ấy đào được một tượng bằng vàng cao hơn vài thước, bèn đem trình lên Hạo. Hạo bảo mang tượng đến chỗ bẩn rồi lấy nước dơ mà dội ngày, cùng đám quần thần cười đùa lấy đó làm vui. Bỗng chốc cả mình mẩy Hạo sưng phù, chỗ kín đau nhức dữ dội. Kêu là thấu trời xanh, đám quần thần đều tái mặt kinh hồn. Quan Thái Sử chiếm quẻ bảo là Hạo đã xúc phạm đại Thần linh, liền ra lệnh cúng tế khắp các miếu nhưng hoàn toàn đều vô hiệu.

Có một thể nữ trước đây có thờ kính Phật pháp, nhân đó đến thăm hỏi và tâu rằng: Bệ hạ đã đến cầu phước Phật chưa?

Hạo ngẩn đầu hỏi: Phật là Đại Thần Linh chăng? Thể Nữ tâu: "Đức Phật đúng là vị Đại Thần Linh".

Hạo tỉnh ra mới bày tỏ hết lòng thành của mình. Bấy giờ Thể nữ liền kính cẩn rước tượng ấy đem để trên điện rồi nấu nước thơm đem tắm rửa tượng hơn mấy mươi lần lại đốt hương sám hối. Hạo rạp mình gục đầu trên gối, chí thành tự thú tội. Trong lúc đau đớn liền sai người đến chùa thăm hỏi Samôn rồi thỉnh ngài Tăng Hội về cung thuyết pháp. Ngài Tăng Hội theo ngày Hạo nhân đó hỏi đủ các lý về tội phước, ngài Tăng Hội bèn trình bày khúc chiết, lời lẽ rất tinh yếu. Hạo vốn là kẻ học rộng có tài nghe hiểu được rất đổi mừng vui, liền cầu xin được xem Tăng giới. Ngài Tăng Hội cho là giới cần phải giữ kín không thể nói năng bừa bãi, bèn lấy quyển Bồ-tát Bổn Nghiệp Bách Nhị Thập Ngũ Nguyện đem chia thành hai trăm năm mươi điều, giữ giống như hai trăm năm mươi giới của chư Tăng, rồi đem trình lên Hạo. Hạo đọc thấy mới biết chư Phật trong lúc đi đứng nằm ngồi đều cầu nguyện cho chúng sinh luôn được an vui, lòng từ bi rộng khắp tăng nhiều thiện ý, tâm sinh tin tưởng nương về. Hạo lại càng mừng vui hết lòng chuyên cần cố gắng, liền xin được thọ năm giới cùng ngài Tăng Hội, chỉ trong một tuần thì bệnh kia dứt hết. bèn sửa chữa trang trí ngôi chùa nơi ngài Tăng Hội ở, rồi khuyên bảo hàng tôn thất đều tin tưởng phụng thờ. Ngài Tăng Hội châu triều đình nhà Ngô luôn giảng nói Chánh pháp. Hạo vốn tánh hung dữ thô bạo không tin nhiễm được diệu nghĩa, chỉ trình bày việc báo ứng để khơi mở tâm ý ông ta. Nhưng ngài Tăng rỗi rãnh thì nhiều người cầu thỉnh, ngài châu chùa Kiến sơ chuyên dịch các kinh đã kể, lại tự chú giải và viết tựa đều rất hay, thể và văn nghĩa đều đầy đủ lại hợp nhau. Các kinh do ngài chú giải như An Ban Thủ Ý, Pháp Kính Đạo Thọ… đều thấy ghi đủ trong các Lục. Ngài lại đặt ra các kệ tụng rất thanh cao, giọng điệu êm đềm, đến nay vẫn còn noi theo.

Nhà Ngô, tháng bốn năm Thiên Kỷ thứ tư thì Hạo đầu hàng nhà Tấn, đến tháng chín năm đó thì ngài Tăng Hội viên tịch.

****

- Tạp Thí Dụ Kinh, tám mươi quyển.

- Tạp Số Kinh, hai mươi quyển.

- A-duy-việt-trí Chuyển Kinh, mười tám quyển. (Cả ba kinh trên đều thấy ở Cựu Lục).

Ma-ha Thừa Kinh, mười bốn quyển.

Thục Phổ Diệu Kinh, tám quyển.

Ma-ha-diễn Ưu-ba-đề-xá Kinh, năm quyển.

Tam-muội Vương Kinh, năm quyển.

- Phạm Vương Thỉnh Vấn Kinh, năm quyển.

- Bất Thoái Chuyển Luân Kinh, bốn quyển.

- Phật Tùng Đâu-suất Giáng Trung Ấm Kinh, bốn quyển (rút từ Chánh Tông Lục).

- Tứ Thiên Vương Kinh, bốn quyển (nghi rằng một bộ có bốn bản).

- Ma Vương Thỉnh Vấn Kinh, bốn quyển (hoặc năm quyển).

- Na Tiên Thí Dụ Kinh bốn quyển (thấy trong Cựu Lục).

- Độ Vô Cực Thí Kinh, ba quyển (hoặc bốn quyển).

- Thích Đề Hoàn Nhân Sở Vấn Kinh, ba quyển.

- Đại Phạm Thiên Vương Thỉnh Chuyển Pháp Luân Kinh, ba quyển.

- Pháp Hoa Quang Thụy Bồ-tát Hiện Thọ Kinh, ba quyển.

- Phổ Hiền Bồ-tát Đáp Nạn Nhị Thiên Kinh, ba quyển.

- Như Thủ Bồ-tát Kinh, hai quyển (nghi là Nhu Thủ Bồ-tát Phân Vệ Kinh).

Thái Tử Thí Nghệ Bản Khởi Kinh, hai quyển.

Tiểu Bản Khởi Kinh, hai quyển (thấy trong Cựu Lục).

- Bất Tư Nghì Công Đức Kinh, hai quyển (hoặc gọi Công Đức Kinh).

- Thục Thủ-lăng-nghiêm Kinh, hai quyển (thấy trong Cựu Lục, hình như dịch ra ở đất Thục).

- Hậu Xuất Thủ-lăng-nghiêm Kinh, hai quyển (thấy ở Cựu Lục bảo là có mười bài kệ).

- Phạm Thiên Vương Thỉnh Phật Thiên Thủ Kinh, hai quyển (lại có Đại Phạm Thiên Vương Kinh hai quyển, giống kinh này).

- Thâm Đoạn Liên Kinh, hai quyển.

- Cam Lộ Vị A-tỳ-đàm, hai quyển (hoặc gọi Cam Lộ Vị Kinh, hai quyển).

- Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự Kinh, một quyển (Cựu Lục gọi là Thất Phật Tánh Tự Kinh).

- A-duy-việt-trí Bồ-tát Giới Kinh, một quyển (Cựu Lục gọi là A-duy-việt-trí Giới Kinh).

- Bồ-tát Thường Hành Kinh, một quyển.

- Ma-ha Mục-kiền-liên Dữ Phật Giác Năng Kinh, một quyển.

- A-nan Đắc Đạo Kinh, một quyển.

- A-nan Bát-nê-hoàn Kinh, một quyển.

- A-na-luật Niệm Phục Sinh Kinh, một quyển.

- Sa-môn Phân Vệ Kiến Quái Dị Kinh, một quyển.

Nhân Trá Danh Vi Đạo Kinh, một quyển.

Đại Giới Kinh, một quyển.

Y Phục Chế Kinh, một quyển.

Sa-di Ly Oai Nghi Kinh, một quyển.

- Đệ Tử Bản Hạnh Kinh, một quyển.

- Đạo Bản Ngũ Giới Kinh, một quyển.

- Oai Nghi Kinh, một quyển (Các kinh trên đều thấy ở Cựu Lục).

- Vị Thọ Tận Thiên Tử Thuyết Pháp Kinh, một quyển (Cựu Lục gọi là Mạng Tận Thiên Tử Kinh).

- Ma Thí Phật Kinh, một quyển (thấy trong Cựu Lục).

- A-tu-luân Vấn Bát Sự Kinh, một quyển (Cựu Lục gọi là A-tu-luân Sở Vấn Bát Sự Kinh).

- Ma-kiệt Vương Kinh, một quyển (Cựu Lục gọi: Ma-kiệt Quốc Vương Kinh).

- Tát-ba-đạt Vương Kinh, một quyển (thấy trong Cựu Lục).

- Thi-ha Biến Vương Kinh, một quyển (Cựu Lục gọi là Ni-ha Biến Vương Kinh).

- Niên Thiếu Vương Kinh, một quyển (thấy trong Cựu Lục).

- Thái Tử Pháp huệ Kinh, một quyển (Cựu Lục gọi là Thái Tử Pháp Kinh).

- Thị Quang Thái Tử Kinh, một quyển.

Trưởng Giả Nan-đề Kinh, một quyển.

Trưởng Giả Tử Thệ Kinh, một quyển.

Ngũ Bách Bà-la-môn Vấn Hữu Vô Kinh, một quyển.

- Nữ Lợi Hạnh Kinh, một quyển (đều thấy trong Cựu Lục).

- Bần Nữ Thính Kinh Xà Niết Mạng Chung Kinh, một quyển (Tăng Hựu Lục gọi là Bần Nữ Thính Kinh Xà Niết Mạng Chung Sinh Thiên

Kinh).

- Quốc Vương Si Phú Nhân Kinh, một quyển.

- Tứ Phụ Nhân Duyên Kinh, một quyển.

- Dâm Nhân Duệ Chủng Hành Kinh, một quyển (đều thấy ở Cựu Lục).

- Tu-đa-la Kinh, một quyển (Cựu Lục gọi Tuđa-la Nhập Thai Kinh).

- Nọa-ca Kinh, một quyển (thấy ở Cựu Lục, nhà Tấn gọi là Kiên Cường).

- Bàn-đạt Long Vương Kinh, một quyển (thấy trong Cựu Lục).

- Ngưu Mễ Tự Cúng Dường Kinh, một quyển (Cựu Lục gọi là Ngưu Mễ Tự Cúng Kinh).

- Hành Mục Thực Ngưu Kinh, một quyển (Cựu Lục có ghi).

- Đọa Thích-ca Mục Ngưu Kinh, một quyển (thấy trong Cựu Lục).

- Pháp Nghiêm Kinh, một quyển (thấy ở Cựu Lục nghi là bộ Đẳng Nhập Pháp Nghiêm Kinh).

Bích Tứ Kinh, một quyển.

Mại Trí huệ Kinh, một quyển.

Sơ Thọ Đạo Kinh, một quyển.

Học Kinh Phước Kinh, một quyển.

- Chỉ Tự Trung Kinh, một quyển (đều thấy trong Cựu Lục).

- Vô Đoan Để Trì Kinh, một quyển (Cựu Lục gọi là Vô Đoan Để Tổng Trì Kinh).

- An Ban Hành Đạo Kinh, một quyển.

- Giải huệ Vi Diệu Kinh, một quyển.

- Thất Đạo Đắc Đạo Kinh, một quyển (đều thấy trong Cựu Lục).

- Tâm Tình Tâm Thức Kinh, một quyển (thấy Cựu Lục bảo có chú giải).

- Đạo Đức Quả Chứng Kinh, một quyển.

- Phụ Tử Nhân Duyên Kinh, một quyển (đều thấy trong Cựu Lục).

- Kiểm Ý Hướng Chánh Kinh, một quyển.

- Huỳnh Hỏa Lục Độ Kinh, một quyển (Cựu Lục có Minh Độ Kinh, một quyển, một tên nữa là Huỳnh Hỏa Minh Độ Kinh).

- Tạp A-hàm Kinh, một quyển.

- Tiểu Quán thế Lâu Thán Kinh, một quyển.

- Nội Thiền Ba-la-mật Kinh, một quyển (đều thấy trong Cựu Lục).

Tứ Bối Kinh, một quyển (Cựu Lục gọi là Tứ

Sự Đệ Tử Kinh, hoặc gọi là Tứ Bối Học Kinh).

- Đại Tứ Đế Kinh, một quyển.

- Ngũ Phương Tiện Kinh, một quyển.

- Ngũ Duy-việt-la Danh Giải Thuyết Kinh, một quyển.

- Ngũ Ấm Kinh, một quyển.

- Trung Ngũ Trược Thế Kinh, một quyển.

- Lục Ba-la-mật-đa Kinh, một quyển.

- Đại Thất Xa Kinh, một quyển.

- Bát Chánh Tà Kinh, một quyển.

- Bát Tổng Trì Kinh, một quyển.

- Bát Bối Kinh, một quyển.

- Bát Bộ Tăng Hạnh Danh Kinh, một quyển.

- Đại Thập Nhị Nhân Duyên Kinh, một quyển.

- Thập Bát Nạn Kinh, một quyển (đều thấy trong Cựu Lục).

- Ngũ Thập Nhị Chương Kinh, một quyển (thấy trong Cựu Lục riêng có Hiếu Minh Tứ Thập Nhị Chương Kinh).

- Bách Bát Ái Kinh, một quyển (thấy trong Cựu Lục hình như chép từ Ngũ Cái Nghi Kiết Kinh).

- Đãi huệ Tam-muội Kinh, một quyển (thấy trong Cựu Lục, một tên là Văn-thù-sư-lợi Vấn Bồtát Thập Sự Hạnh Kinh).

- Tiểu An Ban Chu Tam-muội Kinh, một quyển (thấy trong Cựu Lục).

- Thiền Hạnh Liễm Ý Kinh, một quyển (Cựu Lục gọi là Thiền Hạnh Kiểm Ý Kinh).

- Thiền Sổ Kinh, một quyển (thấy trong Cựu Lục).

- Hóa Thí Kinh, một quyển (thấy trong Cựu Lục, cũng gọi là Hóa Dụ Kinh).

- Quần Sinh Kệ Kinh, một quyển (thấy trong Cựu Lục).

- Đại Tổng Trì Thần Chú Kinh, một quyển (thấy trong Cựu Lục, cũng gọi là Tổng Trì Chú Kinh).

- Tát Hòa Bồ-tát Kinh, một quyển (thấy trong Cựu Lục, cũng gọi là Quốc Vương Tát Hòa Bồ-tát Kinh).

- Huệ Định Phổ Biến Thần Thông Bồ-tát Kinh, một quyển (thấy trong Cựu Lục, cũng gọi là Huệ Định Phổ Biến Quốc Độ Thần Thông Bồ-tát Kinh).

- Bần Nữ Nhân Kinh, một quyển (thấy trong Cựu Lục, cũng gọi là Bần Nữ Nan-đà Kinh).

- A-thu-na Kinh, một quyển (thấy trong Cựu Lục, cũng gọi là A-thu-na Tam-muội Kinh).

Cả một trăm mười bộ gồm hai trăm chín mươi mốt kinh trên đều là do hai sách Cổ Lục và Cựu Lục ghi là các kinh mất tên người dịch. Nay thu góp lại phụ ngày đây để trình bày niên đại xa xôi, không chỗ ý cứ.


 

QUYỂN 6

CÁC KINH DỊCH Ở ĐỜI TÂY TẤN

Sách Tây Tấn chép rằng: Tư Mã Viêm tự là An Thế người Ôn ở Hà nội, làm đại tướng quân là Thị trung lục thượng thư tướng quốc của nhà Ngụy. Vua nhà Tấn là thái tử Chiêu. Khi Chiêu tạ thế thì Tư Mã Viêm lên nối ngôi vua. Nguyên Đế biết rõ lịch số có lúc phải kết thúc nên sai quan Thái Bảo là Trịnh Xung đem dâng ngọc ấn tận nơi, Mã Viêm liền chắp tay mà nhận sự nhường ngôi, đó là Võ Đế. Bèn xưng là nhà Tấn, đóng đô ở Lạc dương và Trường an, là kinh đô cũ cả Đông và Tây vậy. Tấn Võ Đế trị vì được mười lăm năm. Niên hiệu Hàm Dương sai Tư Mã Do đánh dẹp nhà Ngô bắt được Hạo phong cho làm Quy Mạng Hầu.

Từ năm Vĩnh An hai mươi bốn đời Hậu Hán cho đến đầu năm Canh Tý thuộc năm Thái Khang Triệu thứ nhất, đời Tấn, từ đó cả chín châu lại được nhất thống. Lại năm Hoàng Võ thứ nhất nhà Ngô, Lăng Tích có nói: Từ nay trở đi đến sáu mươi năm thì xe cộ đồng một kiểu loại sách vở đồng một loại văn từ, đến nay quả nhiên đúng thế. Gần sáu mươi năm Thục đã bình, Ngô đã diệt, lại hai mươi năm sau đến năm Vĩnh Ninh thứ nhất, đời vua Huệ Đế, thì chính đạo suy đồi, quần hùng ai nấy đều cát cứ một phương. Triệu Vương mưu toan ngôi, cấu kết với bọn soán nghịch chuyên việc phế lập ở triều đình. Bọn Trương Quỹ noi dấu tự chiếm lấy đất đai xưng đế, trong ngoài luôn sôi sục, dần dần rối loạn cả ngôi thứ. Do đó Lưu Uyên chiếm lấy Bình Dương, và Lý Hùng nhân đấy mà thôn tính Lạc dương. Cho nên Hoài Đế phải long đong ở Hàm Cốc. Mẫn Đế bị rượt khỏi Trường an. Đạo đã nhờ thời mà hưng thịnh nhưng có hai kinh đô thì lơi lỏng phúng túng. Pháp do người mà sáng tỏ, nhưng gặp hai chúa thì rối ren lộn xộn. Muôn họ băng hoại phân ly, niềm tín không nơi gởi gấm bách quan mất hết tiết tháo, dòng họ Thích không còn chỗ tựa nương. Lúc bấy giờ có các Sa-môn như Trúc Pháp Hộ, Cương Lương, Lâu Chí… quên mình chỉ lo lợi người, quyết chí truyền giáo, không nản đắng cay, lấy việc mở mang Phật Pháp làm sự nghiệp. Giúp nhà Tấn phiên dịch kinh sách nhiều nhất như các ngài Pháp Khâm, La Xoa cha con, Niếp Viễn, cha con Trúc Thúc Lan… tiếp nối nhau dịch thuật. Do đó trong khoảng năm mươi năm thì kẻ Hoa người Nhung hàng tại gia bậc xuất gia kể ra có mười ba người dịch.

Tính kể chung cả các kinh giới mất tên người dịch từ trước lẫn ngày nay thì có bốn trăm năm mươi mốt bộ gồm bảy trăm mười bảy quyển. Các sách đều ghi chép các kinh sách ấy thuộc đời Tây Tấn ở cả hai kinh đô với bốn đời vua trị vì suốt năm mươi hai năm.

A. Các dịch giả:

* Nhà Tây Tấn:

- Sa-môn Trúc Pháp Hộ có hai trăm mười bộ, gồm ba trăm chín mươi bốn quyển kinh, giới.

- Sa-môn Cương Lương Lâu Chí có một bộ, một quyển kinh.

- Sa-môn An Pháp Khâm có năm bộ, mười hai quyển kinh.

- Sa-môn Vô-la-xoa có một bộ, hai mươi quyển kinh.

- Thanh Tín Sĩ Niếp Thừa Viễn, có ba bộ, bốn quyển kinh.

- Sa-môn Trúc Thúc Lan, có hai bộ, năm quyển kinh.

- Con của Thừa Viễn là Thanh Tín Sĩ Đạo Chân có năm mươi bốn bộ, sáu mươi sáu quyển kinh và mục lục.

- Sa-môn Bạch Pháp Tổ, có hai mươi ba bộ, hai mươi lăm quyển kinh.

- Sa-môn Thích Pháp Lập có bốn bộ, mười ba quyển kinh.

- Ưu-bà-tắc Vệ Sĩ Độ có một bộ, hai quyển kinh.

- Sa-môn Chi Mẫn Độ có hai bộ, mười ba quyển kinh.

- Sa-môn Thích Pháp Cự có một trăm ba mươi hai bộ, một trăm bốn mươi hai quyển kinh.

- Sa-môn Chi Pháp Độ có bốn bộ, năm quyển kinh.

- Các kinh mất tên người dịch có tám bộ, mười lăm quyển kinh.

B. Các bản dịch:

* Nhà Tây Tấn:

- Tạp Thí Dụ Tam Bách Ngũ Thập Thủ Kinh, hai mươi lăm quyển (thấy trong Biệt Lục).

- Quang Tán Bát-nhã Kinh, mười quyển (dịch ngày hai mươi lăm tháng mười một năm Thái Khang thứ bảy, gồm mười bảy phẩm hoặc mười lăm quyển, thấy trong Đạo An Lục).

- Tân Đạo Hạnh Kinh, mười quyển (dịch năm Thái Thủy thứ hai, so với bản Đạo Hạnh xưa của ngài Trúc Phật Sóc dịch ngày đời Hán thì khác nhau hoàn toàn. Cũng gọi là Tiểu Phẩm Xuất Quang Tán Bát-nhã).

- Tiệm Bị Nhất Thiết Trí Đức Kinh, mười quyển (dịch năm Ngươn Khang thứ bảy, là phẩm Hoa Nghiêm Thập Địa hoặc năm quyển, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục).

- Nhàn Cư Kinh, mười quyển.

- Chánh Pháp Hoa Kinh, mười quyển (dịch năm Thái Khang thứ bảy, Thanh Tín Sĩ Trương Sĩ Minh, Trương Trọng Chánh và Pháp Hiến… bút thọ. Hoặc nói bảy quyển, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục. Ngài Đàm Thúy mỗi ngày tụng một biến bèn cảm được thần linh đến thỉnh chín mươi ngày mới ngày. Bèn cho một con ngựa trắng, con dê năm đầu và chín mươi xấp lụa).

- Phổ Diệu Kinh, tám quyển (dịch chùa Thiên Thủy ngày năm Vĩnh Gia thứ hai, là bản dịch thứ ba. Sa-môn Khang Thù Bạch Pháp Cự… bút thọ. Hơi khác chút ít với bản Phổ Diệu và Trí Mãnh Thật Vân sáu quyển được dịch ở Thục, thấy trong Niếp Đạo Chân và Cổ Lục).

- Bạc-đà Kiếp Tam-muội Kinh, bảy quyển.

- Tu Hành Kinh, bảy quyển (dịch năm Thái Khang thứ hai, là bản dịch thứ hai. So với bản dịch sáu quyển của An Thế Cao đời Hán có khác chút ít. Cũng gọi là Đạo Địa Kinh thấy trong Bảo Xướng Lục).

- Đại Ai Kinh, bảy quyển (dịch năm Ngươn Khang thứ nhất, hoặc tám quyển, hoặc sáu quyển, là một phẩm trong Đại Tập, thấy trong Trúc Đạo Tổ Tấn Thế Tạp Lục).

- Hiền Kiếp Kinh, bảy quyển (dịch năm Ngươn Khang thứ nhất, Triệu Văn Long bút thọ, hoặc mười quyển hay mười ba quyển. Cựu Lục bảo là dịch năm Vĩnh Khang, thấy ở Niếp Đạo Chân

Lục).

- Tiểu Phẩm Kinh, bảy quyển (dịch ngày bốn tháng ba năm Thái Thủy thứ tư, là bản dịch thứ hai, hoặc tám quyển, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục. So với bản Đạo Hạnh Kinh xưa giống nhau khác ít).

- Tát Vân Phân-đà-lợi Kinh, sáu quyển (dịch năm Thái Thủy thứ nhất, thấy trong Trúc Đạo Tổ Tấn Thế Tạp Lục).

- Trì Tâm Kinh, sáu quyển (dịch năm Thái Khang thứ bảy, gồm mười bảy phẩm, một tên là

Đẳng Ngự Chư Pháp Kinh, một tên là Trì Tâm Phạm Thiên Sở Vấn Kinh, một tên là Trang Nghiêm Phật Pháp Kinh, cũng gọi là Trì Tâm Phạm Thiên Kinh, thấy trong Cựu Lục và Niếp Đạo Chân Lục).

- Độ Thế Phẩm Kinh, sáu quyển (dịch ngày ba tháng mười năm Ngươn Khang thứ tư, tức là Hoa Nghiêm Kinh Thế Gian Phẩm, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục).

- Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ Kinh, năm quyển (dịch ngày tám tháng mười năm Thái Khang thứ nhất, hoặc tám hay bốn quyển, thấy trong Chi Mẫn Độ và Trúc Đạo Tổ Tấn Thế Tạp Lục).

- Lâu Thán Kinh năm quyển (hoặc sáu hay tám quyển là Trường A-hàm Thế Ký Cú, văn có khác chút ít, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục. Ngài Đạo An bảo là rút từ Bộ Phương Đẳng).

- Sinh Kinh, năm quyển (dịch ngày mười chín tháng một năm Thái Khang sáu hoặc bốn quyển, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục).

- Như Lai Hưng Hiển Kinh, năm quyển (dịch ngày Rằm tháng Chạp năm Ngươn Khang thứ nhất, tức là Như Lai Tánh Phẩm của Kinh Hoa Nghiêm, cũng gọi là Hưng Hiển Như Huyễn Kinh, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục).

- A-sai-mạt Kinh bốn quyển (dịch ngày một tháng mười hai năm Vĩnh Gia thứ nhất, là bản dịch thứ hai, hoặc năm hay bảy quyển, rút từ Đại Tập, hoặc gọi là A-sai-mạt Bồ-tát Kinh, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục và Biệt Lục).

- Vô Tận Ý Kinh, bốn quyển (dịch lần hai ngày năm Thái Thủy thứ nhất, cùng bộ A-sai-mạt đồng bản nhưng khác người dịch, rút từ Đại Tập, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục hoặc năm quyển).

- Bảo Nữ Kinh bốn quyển (dịch ngày hai mươi bảy tháng bốn năm Thái Khang thứ tám, hoặc ba quyển, cũng gọi là Bảo Nữ Tam-muội Kinh, hoặc gọi Bảo Nữ Vấn huệ Kinh, rút từ Đại Tập, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục).

- Phổ Siêu Kinh, bốn quyển (dịch năm Thái Khang thứ bảy, bản dịch thứ hai, cùng bản A-xàthế Vương Kinh của ngài Chi-sấm dịch ở đời Hán thì bản đồng mà khác người dịch. Cũng gọi là Phổ Siêu Tam-muội Kinh, cũng gọi Văn-thù Phổ Siêu Tam-muội Kinh, thấy trong Trúc Đạo Tổ, Tạp

Lục).

- Hải Long Vương Kinh, bốn quyển (dịch vào tháng bảy năm Thái Khang thứ sáu, hoặc ba mươi quyển, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục).

- A-duy-việt-trí Kinh, bốn quyển (hoặc gọi A Duy Việt Trí Giá Kinh, hoặc gọi Bất Thối Chuyển Pháp Luân Kinh, bốn quyển, hoặc gọi Quảng Bát Nghiêm Tịnh Kinh, sáu quyển. Bốn kinh này đồng bản mà khác người dịch, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục).

- Trì Nhân Bồ-tát Sở Vấn Kinh, ba quyển (hoặc bốn quyển cùng bộ Trì Thế Kinh, đồng bản mà khác người dịch).

- Đẳng Tập Chúng Đức Tam-muội Kinh, ba quyển (hoặc gọi Tập Nhất Thiết Phước Đức Tammuội Kinh, hoặc hai quyển, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục).

- Siêu Nhật Minh Tam-muội Kinh, ba quyển (dịch vào tháng một năm Thái Thủy thứ bảy, bản dịch đầu, hoặc hai quyển, hoặc gọi tắt là Siêu Nhật Minh Kinh, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục).

- Bồ-tát Tạng Kinh, ba quyển.

- Chư Thần Chú Kinh, ba quyển.

- Bảo Kế Bồ-tát Sở Vấn Kinh, hai quyển (dịch mười bốn tháng bảy năm Thái Hi thứ nhất, trong Đại Tập có một tên là Bồ-tát Tịnh Hạnh Kinh, Cựu Lục gọi là Bảo Kế Kinh, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục).

- Tu Chân Thiên Tử Kinh, hai quyển (ở Bạch mã, trong Thanh Môn tại Trường an, dịch năm Thái Thủy thứ hai, An Văn huệ viết Bạch Nguyên Tín Truyện, nói Niếp Thừa Viễn, Trương Huyền Bá, Tôn Hưu Đạt bút thọ, cũng gọi là Vấn Tứ Sự Kinh, thấy ở Trúc Đạo Tổ Tấn Thế Tạp Lục).

- Văn-thù-sư-lợi Phật Độ Nghiêm Tịnh Kinh, hai quyển (dịch năm Thái Hi thứ nhất, hoặc gọi Nghiêm Tịnh Phật Độ, hoặc gọi Phật Độ Nghiêm Tịnh, thấy ở Trúc Đạo Tổ Tấn Thế Tạp Lục).

- Hoằng Đạo Quảng Hiển Tam-muội Kinh, hai quyển (dịch ngày tháng ba năm Vĩnh Gia thứ hai, một tên là A-nậu-đạt, một tên là A-nậu-đạt Thỉnh Phật, một tên Kim Cang Môn Định Ý, hoặc không có chữ Tam-muội, gồm bốn tên có mười phẩm. Có một bản chỉ có bảy phẩm, nhưng ba phẩm thiếu này thì một bản lại có trong năm phẩm trước, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục).

- Đại Bát-nê-hoàn Kinh, hai quyển (dịch ngày ba tháng bảy năm Thái Thủy thứ năm, cũng gọi là Phương Đẳng Nê-hoàn Kinh, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục).

- Vô Lượng Thọ Kinh, hai quyển (dịch ngày hai mươi mốt tháng một năm Vĩnh Gia thứ hai, là bản dịch thứ tư, so với bản dịch của Chi Khiêm nhà Ngô, của Khang Tăng Khải, của Bạch Diên nhà Ngụy… thì bản đồng mà văn khác, cũng gọi là Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh, thấy trong Trúc Đạo Tổ Tấn Thế Tạp Lục).

- Thủ-lăng-nghiêm Kinh, hai quyển (riêng có bản dịch Thủ-lăng-nghiêm khác bảo là A-nan nói).

- Bảo tạng Kinh, hai quyển (dịch năm Thái Thủy thứ sáu).

- Yếu Tập Kinh, hai quyển (cũng gọi là Chư Phật Yếu Tập Kinh).

- Ban Chu Tam-muội Kinh, hai quyển (ngài Đạo An gọi là Cánh Xuất Ban Chu Tam-muội

Kinh).

- Đại Thiện Quyền Kinh, hai quyển (bản dịch đầu, dịch ngày tháng sáu năm Thái Khang thứ sáu, cũng gọi huệ Thượng Bồ-tát Vấn Đại Thiện Quyền Kinh, hoặc gọi huệ Thượng Bồ-tát Kinh, hoặc Thiện Quyền Phương Tiện hoặc Phương Tiện Sở Độ Vô Cực, gồm cả năm tên, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục).

- Thuận Quyền Phương Tiện Kinh, hai quyển (cũng gọi là Chuyển Nữ Thân Bồ-tát Kinh, cũng gọi Thôi Quyền Phương Tiện Kinh. Cựu Lục gọi là Thuận Quyền Nữ Kinh, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục).

- Tùy Quyền Nữ Kinh, hai quyển (thấy trong Biệt Lục, An Lục không có).

- Như Huyễn Tam-muội Kinh, hai quyển (hoặc ba quyển).

- Đẳng Mục Bồ-tát Kinh, hai quyển (hoặc ba quyển).

- Dõng Phục định Kinh, hai quyển (dịch ngày chín tháng bốn năm Ngươn Khang thứ nhất, là bản dịch thứ tư, cùng bộ Thủ-lăng-nghiêm Kinh của các ngài Chi-sấm, Chi Khiêm và Bạch Diên… dịch thì bản đồng mà tên khác, văn cũng khác chút ít, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục).

- Cánh Xuất A-xà-thế Vương Kinh, hai quyển (bản dịch lần hai).

- Cổ Khách Kinh, hai quyển.

- Văn-thù-sư-lợi Hiện Bảo Tàng Kinh, hai quyển (cũng gọi là Văn-thù-sư-lợi Phật Độ Nghiêm Tịnh Kinh).

- Phật Thăng Đao-lợi Thiên Vị Mẫu Thuyết Pháp Kinh, hai quyển (dịch năm Thái Thủy, cũng gọi Phật Thăng Đao-lợi Thiên Phẩm Kinh, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục).

- Nhân Vương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, một quyển (hoặc hai quyển, thấy trong Tấn Thế Tạp Lục).

- Phổ Môn Phẩm Kinh, một quyển (dịch ngày tháng một năm Thái Khang thứ tám, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục).

- Nguyệt Quang Đồng Tử Kinh, một quyển (cũng gọi Nguyệt Minh Đồng tử Kinh, cùng Thân Nhật, Đâu Thất, Lợi Việt… ba kinh đồng bản mà khác người dịch).

- Kim Cang Tát Bồ-tát Hạnh Kinh, một quyển (dịch chùa Thị tây tại Trường an ngày năm Ngươn Khang thứ bảy, rút từ Hoa Nghiêm Kinh quyển hai mươi hai).

- Đại Tịnh Pháp Môn Kinh, một quyển (dịch ngày hai mươi sáu tháng mười hai năm Kiến Hưng thứ nhất, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục).

- Ly Cấu Thí Nữ Kinh, một quyển (dịch ngày hai tháng hai năm Thái Khang thứ mười, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục).

Tu-ma-đề Bồ-tát Kinh, một quyển (cũng gọi Tu-ma đề Kinh cũng gọi tu ma kinh, thấy trong các lục Niếp Đạo Chân và Trúc Đạo Tổ…

- Long Thí Nữ Kinh, một quyển (Cựu Lục gọi là Long Thí Bản Khởi Kinh, bản dịch thứ hai).

- Đại Phương Đẳng Đảnh Vương Kinh, một quyển (dịch lần đầu, cũng gọi là Đảnh Vương Kinh, cũng gọi Duy-ma-cật Tử Vấn Kinh, cũng gọi Thiện Tư Đồng Tử Kinh, cả bốn tên này đều thấy trong Chi Mẫn Độ Lục).

- Vô Sở Hy Vọng Kinh, một quyển (cũng gọi

Tượng Bộ Kinh, cũng gọi Tượng Dịch Kinh, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục).

- Ma Nghịch Kinh, một quyển (dịch ngày hai tháng mười hai năm Thái Khang thứ mười, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục).

- Tế Chư Phương Đẳng Học Kinh, một quyển (hoặc không có chữ Học, thấy trong Trúc Đạo Tổ Tấn Thế Tạp Lục).

- Bồ-tát Hạnh Ngũ thập Duyên Thân Kinh, một quyển (cũng gọi Ngũ Thập Duyên Thân Hạnh Kinh, cũng gọi Bồ-tát Duyên Thân Ngũ Thập Sự Kinh, thấy ở Trúc Đạo Tổ Tấn Thế Tạp Lục).

- Di-lặc Bồ-tát Sở Vấn Bổn Nguyện Kinh, một quyển (dịch ngày mười bảy tháng năm năm Thái An thứ hai, một tên là Di-lặc Bồ-tát Bản Nguyện Kinh, một tên Di-lặc Nạn Kinh, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục và Trúc Đạo Tổ Lục).

- Văn-thù-sư-lợi Tịnh Luật Kinh, một quyển (ngài Pháp Hộ ở Bạch mã tại Lạc dương gặp Samôn Tịch chí người Tây Vức đọc và dịch ngày ngày tám tháng bốn năm Thái Khang thứ mười. Ở phần sau Kinh có một số phẩm đã quên, chỉ đọc lại các điều còn nhớ. Ngài Niếp Đạo Chân bút thọ, thấy trong Trúc Đạo Tổ Lục có một tên Tịnh Luật Kinh).

- Vô Tư Nghĩ Hài Đồng Bồ-tát Kinh, một quyển (một tên là Bất Tư Nghì Quang Sở Vấn Kinh, cũng gọi Vô Tư Nghì Quang Kinh).

- Di-lặc Thành Phật Kinh, một quyển (dịch năm Thái An thứ hai, một tên là Di-lặc Đương Lai Hạ Sinh Kinh, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục).

- Xá-lợi-phất Mục-liên Du Chư Quốc Kinh, một quyển (hoặc gọi Xá-lợi-phất Ma-ha Mục-kiềnliên Du Chư Tứ Vệ Kinh).

- Lưu Ly Vương Kinh, một quyển.

- Bảo Thí Nữ Kinh, một quyển (một tên Tu-mađề Pháp Luật Tam-muội Kinh, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục).

- Phật Vị Bồ-tát Ngũ Mộng Kinh, một quyển (dịch ngày tháng năm năm Thái An thứ hai, một tên Phật Ngũ Mộng, một tên Thái Tử Ngũ Mộng, một tên Tiên Nhân Ngũ Mộng, thấy ở Cựu Lục và Niếp Đạo Chân Lục).

- Ma-ha Mục-kiền-liên Bản Kinh, một quyển (một bản có chữ Ha mà không có chữ Kiền).

- Thái Tử Mộ Phách Kinh, một quyển (bản dịch thứ hai).

- Tứ Bất Khả Đắc Kinh, hai quyển (thấy trong các Lục Niếp Đạo Chân và Chánh Độ).

- Bồ-tát Hối Quá Pháp Kinh, một quyển (hoặc không có chữ Kinh, có lời chú dưới bảo là rút từ Long Thọ Thập Trụ Luận).

- Nhũ Quang Kinh, một quyển (cùng Độc Tử Kinh bản đồng mà khác người dịch).

- Tâm Minh Nữ Phạm Chí Phụ Phạn Trấp Thí Kinh, một quyển (cũng gọi tắt là Tâm Minh Kinh).

- Đại Lục Hướng Bái Kinh, một quyển (dịch năm Thái An thứ nhất, hoặc gọi: Thi-ca-la Việt Lục Hướng Bái Kinh, hoặc gọi tắt Lục Hướng Bái Kinh, thấy trong Chi Mẫn Độ và Bảo Xướng Lục).

- Ương-quật-ma Kinh, một quyển (một bản tên Chỉ Man Kinh hoặc gọi Ương-quật-ma-la Kinh, thấy ở Niếp Đạo Chân Lục).

- Bồ-tát Thập Trụ Kinh, một quyển (cùng bản Bồ-tát Thập Địa Kinh thì giống nhiều khác ít).

- Ma-điều Vương Kinh, một quyển (dịch lần hai, cùng bản dịch của Chi Khiêm đời Ngô thì giống nhiều khác ít, rút từ Lục Độ Tập).

- Chiếu Minh Tam-muội Kinh, một quyển.

- Sở Dục Trí Hoạn Kinh, một quyển (dịch ngày tháng một năm Thái An thứ ba, thấy trong các Lục Niếp Đạo Chân và Vương Tồng).

- Pháp Một Tận Kinh, một quyển (hoặc viết chữ Diệt, một tên là Không Tịch Bồ-tát Sở Vấn Kinh, bản dịch lần hai cùng với bản dịch của ngài Chi Khiêm đời Ngô giống nhau).

- Bồ-tát Trai Pháp Kinh, một quyển (hoặc không có chữ Kinh, một tên là Chánh Trai, một tên là Trì Trai, một tên là Hiền Thủ Bồ-tát Trai Pháp).

- Độc Chứng Tự Thệ Tam-muội Kinh, một quyển (một tên là Như Lai Tự Thệ Tam-muội

Kinh).

- Quá Khứ Phật Phân Vệ Kinh, một quyển (hoặc gọi Quá Khứ, thấy trong Cựu Lục).

- Ngũ Cái Nghi Kiết Thất Hạnh Kinh, một quyển (dịch ngày mười hai tháng bốn năm Vĩnh An thứ hai, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục).

- Tổng Trì Kinh, một quyển (rút từ Sinh Kinh, hoặc gọi là Phật Tâm Tổng Trì Kinh).

- Ngũ Phước Thí Kinh, một quyển (một tên là Tiểu Thừa Tỳ-ni Phương Đẳng Kinh).

- Vô Ưu Thí Kinh, một quyển (A-xà-thế Vương Nữ Kinh).

- Vô Cực Bảo Tam-muội Kinh, một quyển (dịch ngày ba tháng ba năm Vĩnh Gia thứ nhất, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục và Biệt Lục).

- Bảo Võng Đồng Tử Kinh, một quyển (cũng gọi Bảo Võng Kinh, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục).

- Văn-thù-sư-lợi Hối Quá Kinh, một quyển (dịch lần đầu cũng gọi Văn-thù-sư-lợi Ngũ Thể Hối Quá Kinh).

- Phổ Pháp Nghĩa Kinh, một quyển (cũng gọi Phổ Nghĩa Kinh, dịch lần thứ hai, cùng bản của An Thế Cao dịch ở đời Hán thì giống nhiều khác ít, thấy ở Niếp Đạo Chân Lục).

- Diệt Thập Phương Minh Kinh, một quyển (dịch ngày mười bốn tháng tám năm Quang Hi thứ nhất, một bản không có chữ Diệt, thấy ở Niếp Đạo Chân Lục).

- Bồ-tát Thập Địa Kinh, một quyển (cũng gọi là Thập Địa Kinh, cũng gọi Đại Phương Quảng Kinh, rút trong Thập Địa Phẩm của Kinh Hoa Nghiêm).

- Ôn Thất Tẩy Dục Chúng Tăng Kinh, một quyển (một tên là Ôn Thất Kinh, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục).

- Lại Tra-hòa-la Sở Vấn Quang Đức Thái Tử Kinh, một quyển (dịch ngày ba mươi tháng chín năm Thái Thủy thứ sáu, một tên là Quang Đức Thái Tử Kinh, thấy trong Trúc Đạo Tổ Tấn Thế Tạp Lục).

- Đương Lai Biến Kinh, một quyển (thấy ở Niếp Đạo Chân Lục).

- Ngũ Bách Đệ Tử Tự Thuyết Bản Khởi Kinh, một quyển (dịch ngày tháng năm năm Thái An thứ hai, Cựu Lục bảo là Ngũ Bách Đệ Tử Thuyết Bản Mạt Kinh, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục).

- Sư Tử Nguyệt Phật Sinh Kinh, một quyển

(dịch năm Thái An, thấy trong Niếp Đạo Chân

Lục).

- Ca-diếp Cát Tập Truyện Kinh, một quyển (hoặc gọi Cát Tập Giới Kinh, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục).

- Nại Nữ Kỳ-vực Kinh, một quyển (dịch năm

Thái An, một tên là Nại Nữ Kinh, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục).

- Bào Thai Kinh, một quyển (dịch ngày một tháng tám năm Thái An thứ hai hoặc gọi Bào Thai Thọ Thân Kinh, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục).

- Duy-ma-cật Sở Thuyết Pháp Môn Kinh, một quyển (dịch ngày một tháng bốn năm Thái An thứ hai, bản dịch thứ ba, so với các bản dịch của Nghiêm Phật Điều đời Hán, và ngài Chi Khiêm dịch đời Ngô thì giống nhiều khác ít, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục).

- Úc-già La-việt Vấn Bồ-tát Hạnh Kinh, một quyển (hoặc gọi Úc-già Trưởng Giả Kinh, tức Đại Úc-già Kinh, hoặc hai quyển, là bản dịch thứ ba, so với các bản dịch của ngài Khang Tăng Khải đời Ngụy, của Chi Khiêm đời Ngô thì giống nhau chỉ có lời văn dài ngắn khác nhau, thấy trong các Lục Đạo An và Chi Mẫn Độ v. v...).

- Huyễn Sĩ Nhân Hiền Kinh, một quyển (thấy trong Niếp Đạo Chân Lục).

- Quyết Tổng Trì Kinh, một quyển (một tên Quyết Định Tổng Trì Kinh).

- Thủ Ý Nữ Kinh, một quyển (một tên Phạm Nữ Thủ Ý Kinh).

- Xá Đầu Gián Kinh, một quyển (cũng gọi Thái Tử Nhị Thập Bát Tú Kinh, cũng gọi Hổ Nhĩ Ý Kinh, so bản Ma-đăng-già Kinh thì bản đồng mà người dịch khác. Bản dịch lần thứ hai, cùng bản dịch của ngài An Thế Cao đời Hán khác nhau chút ít, thấy trong Thích Đạo An Lục).

- Thập Nhị Nhân Duyên Kinh, một quyển (bản dịch thứ ba, cùng bản dịch của ngài An Thế Cao đời Hán thì Nội Điển cũng gọi là Bối Đa Thọ Hạ Tư Duy Thập Nhị Nhân Duyên Kinh).

- Lục Thập Nhị Kiến Kinh, một quyển (cũng gọi là Phạm Võng Lục Thập Nhị Kiến Kinh, thấy trong Trúc Đạo Tổ Lục).

- Tứ Tự Xâm Kinh, một quyển.

- Vô Ngôn Đồng Tử Kinh, một quyển (hoặc hai quyển, cũng gọi là Vô Ngôn Bồ-tát Kinh, rút từ Đại Tập, thấy ở Niếp Đạo Chân Lục).

Thánh pháp Ấn kinh, một quyển (dịch năm tháng mười hai năm Ngươn Khang thứ tư, dịch ra ở quận Tửu Tuyền, ngài Trúc Pháp Thủ Bút thọ Cũng gọi tắt là Thánh Ấn Kinh, cũng gọi là huệ Ấn Kinh. Ngài Đạo An bảo là rút từ Tạp A-hàm. Thấy trong Niếp Đạo chân và Bảo Xướng Lục).

Di Sơn Kinh, một quyển (Cựu lục gọi Lực Sĩ Di Sơn Kinh). Nghiêm Tịnh Kinh, một quyển (một tên Tự Thế Kinh).

Huệ Minh Kinh, một quyển.

Đại Ca-diếp Bản Kinh, một quyển.

Quan Thế Âm Đại Thế Chí Thọ Quyết Kinh, một quyển (Dịch năm Ngươn Khang. Cũng gọi tắt là Quan Thế Âm Thọ Ký Kinh, thấy trong Niếp Đạo Chân Lục).

Chư Phương Phật Danh Công Đức Kinh, một quyển.

Mục-liên Thượng Tịnh Cư Thiên Kinh, một quyển (một bản không có chữ Thiên, rút từ Phật Bản Hạnh Tập Kinh).

Phổ Thủ Đồng Chân Kinh, một quyển (thấy trong Niếp Đạo Chân Lục)

Thập Phương Phật Danh Kinh, một quyển.

Tam Phẩm Tu Hành Kinh, một quyển (Cũng gọi là Tam Phẩm Hối Quá Kinh. Ngài Đại An bảo: Đời gần đây người ta gom chung ngày Kinh Đại Tu Hành).

Kim Ích Trưởng Giả Kinh, một quyển. Chúng Hựu Kinh, một quyển.

Quán Hạnh Bất Di tứ sự Kinh, một quyển. Tiểu Pháp Một Tận Kinh, một quyển.

Tứ Phụ Dụ Kinh, một quyển. Lư Di Tuyên Kinh, một quyển.

Khư La Vương Kinh, một quyển. Đàn Nhã Kinh, một quyển.

Long Thí Kinh, một quyển. Mã Vương Kinh, một quyển. Lộc Mẫu Kinh, một quyển.

Cấp Cô Độc Minh Đức Kinh, một quyển (cũng gọi Cấp Cô Độc Thị Kinh).

Long Vương Huynh Đệ Thí Đạt Thí Vương Kinh, một quyển. Khuyến Hóa Vương Kinh, một quyển.

Bách Phật Danh Kinh, một quyển (bản dịch đầu). Thực Chúng Đức Bản Kinh, một quyển.

Sa-môn Quả Chứng Kinh, một quyển. Thân Quán Kinh, một quyển.

Y Vương Kinh, một quyển. Pháp Quán Kinh, một quyển. Ý Kinh, một quyển.

Hàng Long Kinh, một quyển. Ứng Pháp Kinh, một quyển. Tà Kiến Kinh, một quyển.

Hà Khổ Kinh, một quyển. Thọ Tuế Kinh, một quyển. Bần Cùng Kinh, một quyển.

Quán Lạp Kinh, một quyển (Bát-nê-hoàn Hậu

Tứ Bối Quán Lạp Kinh)

Mật Cụ Kinh, một quyển (rút từ Sinh Kinh).

Hối Quá Kinh, một quyển (Cũng gọi Xá-lợiphất Hối Quá). Phạm Tội Kinh, một quyển.

Pháp Xã Kinh, một quyển (Thế chú còn nghi). Tạp Tán Kinh, một quyển.

Vu Lan Kinh, một quyển. Phân Biệt Kinh, một quyển. Phúc Sử Kinh, một quyển. Khổ Ứng Kinh, một quyển.

Nhàn Cư Kinh, một quyển (rút từ Sinh Kinh).

Tứ Chủng Nhân Kinh, một quyển.

Thất Bảo Kinh, một quyển.

Tứ Vị Tằng Hữu Kinh, một quyển (cũng gọi là Tứ Vị Hữu Kinh). Bát Dương Kinh, một quyển.

Tam Thập Nhị Tướng Nhân Kinh, một quyển (Hoặc gọi là Bồ-tát Tam Thập Nhị Tướng Kinh. Thấy trong Đạo An Lục).

Tứ Tự Tại Thần Thông Kinh một quyển. Phật Hối Quá Kinh, một quyển.

Tam Chuyển Nguyệt Minh Kinh, một quyển.

Giải Vô Thường Kinh, một quyển. Thai tạng kinh một quyển Ly Cấu Cái Kinh, một quyển.

Tiếu Úc-già Kinh, một quyển (không giống bộ Úc-già Trưởng Giả Kinh).

A-xà-thế Nữ Kinh, một quyển (dịch năm đầu Kiến Võ. Là bản dịch thứ hai, cùng bản dịch của Chi Khiêm đời Ngô có khác chút ít. Cũng gọi là Thuật-đạt Kinh, cũng gọi A-xà-thế Vương Nữ Kinh, cũng gọi A-thuật-đạt Bồ-tát Kinh. Thấy trong Niếp Đạo Chân và Chi Mẫn Độ Lục).

Nhân Sở Tùng Lai Kinh, một quyển (cũng gọi là Tùng Sở Lai).

Giới La Vân Kinh, một quyển. Nhạn Vương Kinh, một quyển. Thập Đẳng Tạng Kinh, một quyển.

Nhạn Vương Ngũ Bách Vạn Câu Kinh, một quyển Giới Cụ Kinh, một quyển.

Quyết Đạo Tục Kinh, một quyển.

Mãnh Thí Kinh, một quyển (Cũng gọi Mãnh Thí Đạo Địa Kinh.

Thấy trong Cựu Lục).

Thành Dụ Kinh, một quyển. Giới Vương Kinh, một quyển.

Bồ-tát Trai Kinh, một quyển (Hoặc gọi là Hiền Thủ Bồ-tát Trai Kinh).

Một trăm sáu mươi mốt bộ với ba trăm ba mươi lăm quyển trên đều từ Cựu Lục và Tam Tạng Ký.

Đa Văn Kinh, một quyển (từ đây trở đi với bốn trăm mười tám bộ có bốn trăm mười tám quyển đều thấy từ Ngô Lục, Biệt Lục, Tấn Thế Lạp Lục). Di-lặc Bồ-tát Vi Nữ Thân Kinh, một quyển (một bản không có chữ Bồ-tát).

Ly Thùy Kinh, một quyển (một bản có chữ Miên). Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát Kinh, một quyển.

Ngụ Ý Kinh, một quyển.

Bảo Nhật Quang Minh Bồ-tát Kinh, một quyển (cũng gọi là Bảo Nhật Quang Bồ-tát Vấn Liên Hoa Quốc Tướng Mạo Kinh).

Lạc Tưởng Kinh, một quyển. Tôn Thượng Kinh, một quyển.

Từ Nhân Vấn Bát Thập Chủng Hảo Kinh, một quyển (cũng gọi tắt là Bát Thập Chủng Hảo Kinh.

Thấy ở Đạo An Lục).

Phu-na-la Kinh, một quyển.

Đọa Lam Bản Kinh, một quyển (Thấy Biệt Lục gọi Quả Xuất Duy Lam).

Bần Nữ Vi Quốc Vương Phu Nhân Kinh, một quyển.

Bảo Nữ Vấn huệ Kinh, một quyển (Bản dịch thứ hai giống bộ Bảo Nữ Kinh bốn quyển của Ngài Chi Khiêm dịch ở đời Ngô).

Thất Nữ Bản Kinh, một quyển (bản dịch lần hai, giống bản dịch của Ngài Chi Khiêm ở đời Ngô).

Nữ Nhân Dục Xí Hoang Mê Kinh, một quyển (Rút từ Xuất Diệu Kinh).

Tất-bệ-lê Thiên Tử Nghệ Phật Thuyết Kệ Kinh, một quyển (Rút từ Tạp A-hàm).

Phạm Vương Biến Thân Kinh, một quyển.

Quan Thế Âm Kinh, một quyển (Rút từ Chánh Pháp Hoa Kinh).

Duy Minh Nhị Thập Kệ, một quyển (bản dịch lần thứ hai, giống bản dịch của ngài Chi Khiêm ở đời Ngô).

Tam Phẩm Hối Quá Kinh, một quyển.

Kỳ-xà-quật Sơn Giải, một quyển (thấy trong Hựu Lục).

Tỳ-kheo-ni Giới, một quyển (Thập Tụng Bản hoặc có chữ Kinh có khác chút ít với bản dịch của ngài Đam-ma Trì).

Chúng Kinh Lục Mục, một quyển.

Cả hai trăm mười bộ, với ba trăm chín mươi bốn quyển trên đều do Sa-môn Đàm-ma-la-sát, người nước Nguyệt Chi, nhà Tấn dịch tên ngài là

Pháp Hộ, họ Chi. Ngài đi khắp vùng Tây Vức, hiểu rõ tiếng nói và sách vở của cả ba mươi sáu nước. Từ nước Thiên Trúc, ngài mang theo rất nhiều kinh Bà-la-môn tiếng Phạm, đem đến Ngọc môn, nhân ở lại Đôn Hoàng bèn tự xưng họ Trúc. Sau đó ngài đến Lạc dương và đến Giang tã. Bắt đầu từ năm Thái Thủy thứ nhất, đời vua Võ Đế cho đến năm Vĩnh Gia thứ hai đời vua Hoài Đế. Trong khoảng thời gian đó, ở đâu khi gặp thuận duyên thì ngài dịch kinh, có các Tín sĩ Niếp thừa Viễn chấp bút giúp phiên dịch rất nhiều kinh sách. Nhưng trong Cao Tăng truyện thì nói ngài Pháp Hộ chỉ dịch một trăm sáu mươi lăm bộ, còn Xuất Tạng Tập Ký thì ghi một trăm năm mươi bốn bộ với ba trăm lẻ chín quyển. Trong lục của ngài Thích Đạo An thì còn thiếu bốn bộ, Tăng Hựu lục thì đủ. Ngài Đạo An nói: Gặp thời loạn lạc các mục lục bị lạc mất như là sao băng, lại càng lầm lẫn tin là như thế. Do đó các Tạp lục và các Biệt ký lục phần lớn đều chú thích là ngài trúc Pháp Hộ dịch. Thế nên nay với chỗ thu nhặt được xét duyệt kỷ thì biết rõ các kinh sách đó của ngài Pháp Hộ đã dịch không còn nghi ngại gì nữa và các ngài Đạo Chân là con của Niếp Thừa Viễn, cùng Trúc Pháp Thủ, Trần Sĩ Luân, Tôn Bách Hổ, Ngu Thế… trước sau đều làm Bút thọ (chép lại). Đã thấy trong Biệt truyện nên không ghi lại. Còn Lý Khuếch lục và Tạp Biệt Lục đều nói là Chi Bồ-tát dịch kinh được sáu bộ, mười sáu quyển. Riêng Tăng Hựu Lục thì bảo số kinh của Bồ-tát Thiên Trúc dịch bằng với số ghi chép của các lục kia, chỉ có khác tên mà thôi. Nhưng phần dưới của Tăng Hựu Lục lại chú thích là Chi Bồ-tát và Trúc Pháp Hộ cùng dịch. Kiểm tra lại thì dịch giải trước có tên là Đàm-vô-la-sát tức nhà Tấn dịch là Pháp Hộ, còn sáu bộ kinh mục của Chi Bồ-tát thì đều sát nhập ngày số sách của ngài Pháp Hộ. Hai họ Chi và Trúc là hai người khác nhau. Còn tiếng Bồ-tát chỉ là mỹ danh kính trọng mà gọi. Kiểm tra kỹ tất cả các Lục thỉ Chi Bồ-tát chính là Trúc Pháp Hộ, không phải hai người khác nhau. Ở xuất Tam Tạng Ký thì phân biệt thành hai người, lỗi nhỏ này cần xét rõ...

Thập Nhị Du Kinh, một quyển

Một bộ một quyển kinh này do Sa-môn Cương Lương Lâu Chí nhà Tấn là Chân Hỷ người ngoại quốc (Ấn) dịch ngày đời Võ Đế. Năm thái hỷ thứ hai tại Quảng châu Thấy trong Thủy Hưng và Bảo Xướng Lục.

Đại A-dục Vương, năm quyển (dịch năm

Quang Hi. (Thấy trong Trúc Đạo Tổ Tấn Thế lục). Đạo Thần Túc Vô Cực Biến Hóa Kinh, hai quyển (dịch lần thứ hai, hoặc ba quyển hay bốn quyển. Tức là kinh Phật Thăng Đao-lợi Thiên Vị Mẫu thuyết pháp của ngài Trúc Pháp Hộ dịch, đồng bản mà khác tên, lời văn có khác chút ít.

(Thấy trong Trúc Đạo Tổ Tấn Thế Lục).

Văn-thù-sư-lợi Hiện Bảo Tạng Kinh hai quyển (dịch năm Thái An thứ hai, hoặc ba quyển. Cũng gọi là Thị Hiện Bảo Tạng Kinh hai quyển. (Thấy trong Trúc Đạo Tổ Tấn Thế Tạp Lục).

A-xà-thế Vương Kinh hai quyển (dịch năm Thái Khang. (Thấy trong Trúc Đạo Tổ Tấn Thế Tạp Lục).

A-nan Mục-khư Kinh một quyển, cùng bộ Vi Mật Trì Kinh thì bản đồng mà tên khác. Thấy trong Trúc Đạo Tổ Tấn Thế Tạp lục. (Có nơi viết là "Mục Pháp").

Cả năm bộ gồm mười hai quyển trên, do ngài Sa-môn An Pháp Khâm người nước An Tức, dịch vào đời vua Huệ Đế, ngày năm Thái Khang châu Lạc dương.

****

- Phóng Quang Bát-nhã Kinh hai mươi quyển (dịch lần ba so với Bản Đạo Hạnh và Tiểu phẩm của ngài Trúc Phật Sóc dịch đời Hán thì bản đồng mà khác người dịch.

Một bộ hai mươi quyển trên đây, nguyên là Dĩnh Xuyên Chu Sĩ Hành, thấy có một bản sách đang lưu hành ở Lạc dương từng giảng giải về đạo hạnh, liền lấy xem thấy lời văn chưa rõ ràng chưa hoàn hảo. Bất giác than rằng Kinh này thật là yếu chỉ quý báu của Đại thừa, nhưng nghĩa lý thì chưa dịch được rốt ráo mà lời văn lại chưa đầy đủ. Nên quyết chí quên mình, phát tâm tìm kiếm sưu tầm bản gốc. Ngày năm Cam Lộ thứ năm cuối đời Ngụy, ra đi từ Ưng Châu, ngài khắp Tây Vức. Khi đến nước Vu Điền thì tìm được bản tiếng Phạm trước gồm chín mươi chương, ít hơn sáu mươi vạn lời. Liền sai đệ tử là Phất Như Đàn (Tấn dịch là Pháp Nhiêu), từ Vu Điền đem kinh về Lạc dương. Lúc đó ngài chưa biết chư tăng ở Vu Điền số đông học về tiểu thừa. Nên có kẻ lấy đó tâu vua rằng: "Sa-môn người Hán muốn lấy sách tiếng Phạm để phá rối chánh pháp. Vua là chúa tể đất nước, nếu không ngăn cấm kịp thời thì đấy mù điếc sẽ làm đoạn diệt đại pháp, đó là lỗi của nhà vua". Vua liền không chấp thuận đem kinh ấy đưa ra khỏi nước. Ngài Chu Sĩ Hành vô cùng buồn thảm, bèn xin tâu làm lễ đốt kinh để làm bằng cớ, vua liền chấp thuận. Khi ấy chất cũi thành đống trong điện vua. Trước khi đốt ngài Chu Sĩ Hành đứng trước lửa chí thành nguyện rằng: Nếu đúng là Đại pháp đáng được lưu hành ở đất Hán thì kinh này sẽ không cháy, nếu không linh hiển thì biết làm sao đây. Nói ngày bèn ném kinh ngày lửa. Lửa liền tắt ngúm, kinh và cả bìa vẫn còn nguyên vẹn, lại càng sáng bóng hơn trước. Cả đại chúng đều kinh hãi kính phục khen ngợi sự linh cảm. Từ đó kinh được đưa đến Trần Lưu. Ngài lại gặp các sư ở Vu Điền như Vô-la-xoa, Trúc Thúc Lan… Đến ngày mười tháng năm năm Ngươn Khang thứ nhất, đời vua Huệ Đế, Ngài ở Thủy nam bên bờ Thương hằng dịch kinh này. Nhưng các lục như Trúc Đạo Tổ, Tăng Hựu, Vương Tông, Bảo Xướng, Lý Khuyếch, Pháp Thượng, Linh Dũ… biên chép các kinh đều bảo rằng chính Chu Sĩ Hành dịch kinh này, bởi căn cứ ngày người sưu tầm kinh đầu tiên nên quy công cho ngài mà thôi. Khi phòng này thẩm tra xét kỹ về Chi Mẫn Độ Lục, Cao Tăng truyện và các Tạp Biệt mục lục ghi chép việc dịch kinh sau này thì mới biết rõ là do ba vị Vô-la-xoa, Trúc Thúc Lan… dịch ra. Còn Chu Sĩ Hành thì vẫn châu nước Vu Điền mà giáo hóa, chỉ có việc sai đệ tử mang kinh này đem về đất Hán mà thôi. Như thế đâu thể bảo là ngài Sĩ Hành dịch kinh này được?.

- Siêu Nhật Minh Tam-muội Kinh, hai quyển (dịch lần hai, hoặc gọi tắt là Siêu Nhật Minh Kinh, so với bản dịch ba quyển của ngài Trúc Pháp Hộ dịch trước đây thì giống nhiều khác ít).

- Ca-diếp-cật A-nan Kinh, một quyển (dịch lần hai, so với bản dịch của ngài Nghiêm Phật Điều ngày đời Hán thì khác chút ít. Thấy trong Thủy Hưng và Bảo Xướng Lục).

- Việt Nạn Kinh, một quyển (dịch lần thứ hai).

Cả ba bộ kinh, bốn quyển trên đều do Thanh tín Ưu-bà-tắc Niếp Thừa Viễn dịch ra, đời vua huệ Đế. Vì kinh này dù trước đây đã được dịch, nhưng văn nghĩa không rõ ràng, câu văn nghĩa lý chưa trọn vẹn.

Sau đó Thừa Viễn càng ra sức sửa đổi câu văn lời kệ hay hơn trước nhiều, nay là bản lưu hành trên đời vậy.

****

- Dị Tỳ-ma-la-cật Kinh ba quyển (dịch năm Ngươn Khang thứ sáu, là bản dịch thứ năm. So với các bản dịch của ngài Nghiêm Phật Điều đời Hán, ngài Chi Khiêm Trúc Pháp Hộ, La-thập… đời Ngô thì giống nhiều khác ít, hoặc hai quyển. Thấy trong Trúc Đạo Tổ Lục).

- Thủ-lăng-nghiêm Kinh hai quyển (Dịch năm đầu Ngươn Khang, là bản dịch thứ năm. So với bản dịch của các ngài Chi Khiêm, Chi Mẫn, Bạch Diên Trúc Pháp Hộ thì văn khác mà bản đồng. Thấy trong Niếp Đạo Chân Lục).

Cả hai bộ kinh năm quyển trên đều do Sa-môn Trúc Thúc Lan, người tây vức dịch tại châu Lạc dương ngày đời vua Huệ Đế).

****

- Thập Trụ Kinh, mười hai quyển.

- Chư Phật Yếu Tập Kinh, hai quyển.

- Quán Thế Âm Thọ Ký Kinh, một quyển (bản dịch lần thứ hai).

- Tịch Âm Bồ-tát Nguyện Kinh, một quyển.

- Đại Quang Minh Bồ-tát Bách Tứ Thập Bát Nguyện Kinh, một quyển.

Văn-thù-sư-lợi Bát Niết-bàn Kinh, một quyển.

- Sư Tử Bộ Lôi Bồ-tát Vấn Phát Tâm Kinh, một quyển (hoặc gọi là Vấn Văn-thù-sư-lợi Thành Phật Phát Tâm Kinh).

- Đại Vân Mật Tạng Vấn Đại Hải Tam-muội Kinh, một quyển.

- Bạc Thủ Đồng Chân Kinh, một quyển.

- Tịch Âm Bồ-tát Vấn Ngũ Trược Kinh, một quyển.

- Vô Ngôn Bồ-tát Lưu Thông Pháp Kinh một quyển (Rút từ Đại Tập).

- Bồ-tát Giới Yếu Nghĩa Kinh một quyển (Rút từ Bồ-tát Giới Kinh).

- Bồ-tát Ha Thùy Miên Kinh, một quyển-Bồ-tát Ha Gia Quá Kinh, một quyển.

- Bồ-tát Như Ý Thần Thông Kinh, một quyển.

- Bồ-tát Khổ Hạnh Kinh, một quyển.-Bồ-tát Túc Mạng Kinh, một quyển.

- Bồ-tát Thọ Trai Kinh, một quyển.

- Bồ-tát Đạo Thi Hành Kinh, một quyển.

- Bồ-tát Cầu Phật Bản Nghiệp Kinh, một quyển.

- Bồ-tát Phụng Thí Nghệ Tháp Tác Nguyện Niệm Kinh, một quyển.

- Bồ-tát Bổn Nguyện Hạnh Phẩm Kinh một quyển.

- Bồ-tát Cầu Ngũ Nhãn Pháp Kinh, một quyển.

- Bồ-tát Xuất Yếu Hành Vô Ngại Pháp Môn Kinh, một quyển.

- Bồ-tát Sơ Phát Tâm Thời Kinh, một quyển.

- Đại Phương Quảng Bồ-tát Thập Địa Kinh, một quyển (dịch lần thứ hai. So với bản dịch của ngài Pháp Hộ thì giống nhiều khác ít).

- Bồ-tát Giới Thân Tự Tại Kinh, một quyển (hoặc gọi Tự Tại Vương Bồ-tát Vấn Như Lai Cảnh Giới Kinh).

- Bồ-tát Tam Pháp Kinh, một quyển.

- Vô Ngôn Bồ-tát Kinh, một quyển (dịch lần thứ hai).

- Bồ-tát Đạo Hạnh lục Pháp Kinh, một quyển.

- Tam-mạn-đà Bạt-đà-la Bồ-tát Kinh, một quyển.

- Vô Cấu Thí Bồ-tát Phân biệt Ứng Báo Kinh, một quyển (tức là bản dịch khác của Ly Cấu Địa Kinh, cũng gọi là Ứng Biện Kinh).

- Bồ-tát Sơ Địa Kinh, một quyển.

- Nho Đồng Bồ-tát Kinh, một quyển (Rút từ Lục Độ Tập).

- Bồ-tát Thập Đạo Địa Kinh, một quyển.

- Quang Vị Bồ-tát Tạo Thất Bảo Thê Kinh, một quyển (Rút ở Đại Tập)

Bồ-tát Duyên Thân Ngũ Thập Sự Kinh, một quyển (cùng bộ Ngũ Thập Duyên Hạnh Kinh giống nhiều khác ít).

- Bồ-tát Giới Tự Tại Kinh, một quyển.

- Bồ-tát Thập Pháp Trụ Kinh, một quyển.

- Ba-tư-nặc Vương Dục phạt Ương-quật-ma-la Kinh, một quyển.

- Chuyển Luân Thánh Vương Thất Bảo Cụ Túc Kinh, một quyển.

- Chuyển Luân Thánh Vương Phát Tâm Cầu Tịnh Độ Kinh, một quyển.

- Văn-thù-sư-lợi Dữ Ly Ý Nữ Luận Nghĩa Cực Tợ Duy-ma Kinh, một quyển.

- Văn-thù-sư-lợi Tịnh Luật Kinh một quyển (dịch lần hai cùng bản ngài Pháp Hộ dịch có khác chút ít).

- Sơ Phát Ý Bồ-tát Hành Dị Hạnh Pháp Kinh, một quyển (Rút từ Thập Trụ Luận).

- Bồ-tát Bố Thí Sám Hối Pháp một quyển (Rút từ Quyết Định Tỳ Ni).

- Bồ-tát Giới Độc Thọ Đàn Văn, một quyển.

- Bồ-tát Sám Hối Pháp, một quyển (bản dịch khác).

- Bồ-tát Tạp Hạnh Pháp, một quyển.

- Bồ-tát Sở Hành Tứ Pháp, một quyển.

- Bồ-tát Ngũ Pháp Hạnh Kinh, một quyển.

Bồ-tát Lục Pháp Hạnh Kinh, một quyển.

- Dị Xuất Bồ-tát Bản Khởi Kinh, một quyển (hoặc không có chữ Khởi).

- Chúng Kinh Lục Mục, một quyển.

Cả năm mươi bốn kinh với sáu mươi sáu quyển trên do ngài Đạo Chân là con của Niếp Thừa Viễn dịch bắt đầu từ năm Thái Khang đến cuối năm Vĩnh Gia đời vua Huệ Đế. Trong khoảng thời gian ấy ngài kế thừa han hỏi ngoài việc bút thọ (ghi lại) cho ngài Pháp Hộ. Sau khi ngài Pháp Hộ viên tịch thì Đạo Chân phải tự mình dịch tiếp các kinh mới. Sư Pháp Hộ thật đáng được khen ngợi vì ngài rất giỏi văn cú, từ nghĩa rất rõ ràng. Đây đều thấy ở Biệt Lục đã ghi chép.

- Nghiêm Tịnh Phật Độ Kinh, hai quyển (Cũng gọi Tịnh Độ Kinh).

- Nê-hoàn Kinh, hai quyển.

- Thiện Quyền Kinh, một quyển.

- Trì Tâm Phạm Chí Kinh, một quyển.

- Đàn Trì Đà-la-ni Kinh, một quyển.

- Đại Phương Đẳng Như Lai Tàng Kinh, một quyển.

- Như Lai Hưng Hiển Kinh, một quyển.

- Hải Long Vương Kinh, một quyển.

- Trưởng Giả Tu Hành Kinh, một quyển (cũng gọi Trưởng Giả Oai Thí Sở Vấn Bồ-tát Tu Hành Kinh, cũng gọi Bồ-tát Tu Hành Kinh).

Ngũ Bách Đồng Tử Kinh một quyển (Cũng gọi Ấu Đồng Kinh.

Rút từ Sanh Kinh).

- Phật Vấn Tứ Đồng Tử Kinh, một quyển.

- Điều Phục Vương Tử Đạo Tâm Kinh, một quyển (Rút từ Đại Tập).

- Thệ Đồng Tử Kinh, một quyển (hoặc viết

Thê. Cùng quyển Bồ-tát thệ kinh giống nhiều khác ít, bản dịch lần thứ hai).

- Ngũ Bách Vương Tử Tác Tịnh Độ Nguyện Kinh, một quyển.

- Tam Ấu Đồng Kinh, một quyển.

- Nhị Đồng Tử Kiến Phật Thuyết Kệ Cúng Dường Kinh, một quyển.

- Đại Ái Đạo Bát-nê-hoàn Kinh, một quyển.

- Đẳng Tập Tam-muội Kinh, một quyển.

- Thủ Đạt Kinh, một quyển (thấy ở Cựu Lục).

- Vô Lượng Phá Ma Đà-la-ni Kinh, một quyển.

- Hiền Giả Ngũ Phước Kinh, một quyển.

- Úc-già-la Việt Vấn Bồ-tát Kinh, một quyển.

- Hiệp Thủ-lăng-nghiêm Kinh năm bản duy đãi bồ tát kinh, một quyển thấy ở cao tăng truyện vào tăng bảo ký tám quyển (dịch lần thứ sáu. Gồm cả năm bản dịch của các ngài Chi Khiêm, Chi Mẫn Độ, Trúc Pháp Hộ, Trúc Thúc Lan và Bạch Diên làm thành một bộ. Thấy ở Chi Mẫn Độ Lục).

- Bộ Duy-ma-cật Kinh gom chung ba bản năm quyển (dịch lần bốn gồm ba bản dịch của các ngài Chi Khiêm, Trúc Pháp Hộ và Trúc Thúc Lan họp thành một bộ. Thấy trong Chi Mẫn Độ Lục).

Cả hai bộ với mười ba quyển Kinh trên do Samôn Chi Mẫn soạn tập nhiều bản dịch họp thành một bộ ngày đời vua huệ Đế).

- Lâu Thán Kinh tám quyển (dịch lần thứ hai, là một phần thế ký của Trường A-hàm, cùng bản năm hoặc sáu quyển do hai ngài Pháp Hộ, Pháp Lập đã dịch thì giống nhiều nhưng rộng hẹp khác nhau. Trước đây cùng dịch với ngài Pháp Lập nhưng vì ý chưa đầy đủ nên giải rộng thêm ra. Thấy trong Chi Mẫn Độ Lục và Bảo Xướng Lục).

- Di Giáo Pháp Luật Kinh, ba quyển (một tên là Di Giáo Pháp Luật Tam-muội Kinh, một tên là Di Giáo Tam-muội Kinh, thấy trong Thủy Hưng Lục).

- Chư Kinh Pháp Bồ-tát Danh Kinh, hai quyển.

- Phật Vị Tỳ-kheo Thuyết Thiêu Đầu Dụ Kinh một quyển (Rút từ Tạp A-hàm).

- Ba-tư-nặc Vương Tổ Mẫu Mạng Chung Kinh, một quyển.

- Ma Nữ Văn Phật Thuyết Pháp Đắc Nam Thân Kinh, một quyển (dịch lần hai. Cùng bản dịch Tệ

Ma Thí Mục-liên Kinh trước đây thì bản đồng mà tên khác. Thấy trong Thủy Hưng và Tăng Hựu

Lục).

- Suy Lợi Kinh, một quyển.

- Vô Cụ Kinh, một quyển.

- Phổ Thí Kinh, một quyển (Rút từ Tạp A-hàm quyển bốn).

- Vô Thường Kinh, một quyển.

- Mạn Pháp Kinh, một quyển.

- Số Kinh, một quyển (Rút từ Tạp A-hàm).

- Danh Xưng Kinh, một quyển.

- Thọ Trì Kinh, một quyển.

- Nhẫn Nhục Kinh, một quyển.

- Thời Kinh, một quyển (một tên Phi Thời Kinh).

- Quán Kinh một quyển (cũng gọi Tứ Nguyệt Bát Nhật Quán Kinh).

- Phước Điền Kinh một quyển (một tên là Chư Đức Phước Điền Kinh, dịch lần hai. Cùng bản dịch của ngài Pháp Lập có sai khác chút ít. Thấy ở Trúc Đạo Tổ Tấn Thế Tạp Lục).

- Phước Hạnh Kinh, một quyển (Rút từ Ahàm).

- Nhu Nhuyến Kinh, một quyển.

- Chánh Ý Kinh, một quyển (dịch lần thứ hai).

- Phục Dâm Kinh, một quyển.

- Nguy Thúy Kinh, một quyển.

Tức Khuể Kinh, một quyển (rút từ Trung Ahàm).

- Yếu Ý Kinh, một quyển (Rút từ A-hàm hoặc gọi Ác Ý).

- Cầu Dục Kinh, một quyển (Rút từ A-hàm).

- Cử Bát Kinh, một quyển.

- Ác Đạo Kinh, một quyển (Rút từ Trung Ahàm).

- Pháp Hải Kinh, một quyển.

- Hiểu Thực Kinh, một quyển (Rút từ Tu Hành Đạo Địa Kinh).

- Phóng Dật Kinh, một quyển.

- Khôi Hà Kinh, một quyển.

- Quần Ngưu Thí Kinh, một quyển (Rút từ Ahàm).

- Chú Kim Dụ Kinh một quyển.

- Độc Thảo Dụ Kinh, một quyển (rút ở Sinh Kinh).

- Hằng Hà Dụ Kinh, một quyển.

- Ta Hà Dụ Kinh, một quyển.

- Mộc Sử Dụ Kinh, một quyển (Rút từ Tạp Ahàm).

- Điều-đạt Dụ Kinh, một quyển.-Anh Nhi Dụ Kinh, một quyển.

- Đại Xà Thí Dụ Kinh, một quyển (cũng gọi Đài Xà Kinh, thấy ở Cựu Lục).

Thảo Giáp Kình Thổ Thí Kinh, một quyển (cũng gọi Trảo Giáp Thủ Thổ Kinh, thấy trong Cựu Lục).

- Trần Khôi Hà Thí Dụ Kinh, một quyển (So với Khôi Hà Kinh có khác chút ít).

- Độc Dụ Kinh, một quyển (So với Độc Thảo Dụ có khác chút ít, rút từ Sinh Kinh quyển bốn).

- Phi Điểu Dụ Kinh, một quyển (Rút từ Tăng Nhất A-hàm).

- Thí Dụ Lục Nhân Kinh, một quyển (Rút từ Mạ Ý Kinh).

- Quần Dương Dụ Kinh, một quyển.

- Điền Phu Dụ Kinh, một quyển (Rút từ Tạp Ahàm quyển hai mươi chín).

- Mã Dụ Kinh, một quyển.

- Di-đề-hy Tử Nguyệt Dạ Vấn Phu Nhân Kinh, một quyển.

- Đảnh Sinh Vương Cố Sự Kinh, một quyển.

- Ba-tư-nặc Vương Nghệ Phật Hữu Ngũ Oai Nghi Kinh, một quyển (rút từ A-hàm).

- Ba-tư-nặc Vương Tang Mẫu Kinh, một quyển.

- Tịnh Phạn Vương Bát-nê-hoàn Kinh, một quyển.

- A-xà-thế Vương Thọ Quyết Kinh, một quyển.

- A-xà-thế Vương Vấn Ngũ Nghịch Kinh, một quyển.

Chuyển Luân Thánh Vương Thất Bảo Hiện Thế Gian Kinh, một quyển.

- Tần Tỳ-bà-la Vương Nghệ Phật Cúng Dường Kinh, một quyển.

- Lưu Ly Vương Công Thích Tử Kinh, một quyển.

- Ba-tư-nặc Vương Thái Hậu Băng Trần Thổ Bộn Thân Kinh, một quyển.

- Ưu-điền Vương Kinh, một quyển.

- A-xà-thế Vương Vấn Sân Hận Tùng Hà Sinh Kinh, một quyển.

- Ba-tư-nặc Vương Nữ Mạng Quá Nghệ Phật Kinh, một quyển (Rút từ A-hàm).

- La-hán Ngộ Bình Sa Vương Kinh, một quyển (Rút từ A-hàm).

- Minh Đế Thích Thí Kinh, một quyển.

- Hòa Nan Kinh, một quyển (Rút từ Sinh Kinh).

- Ương-quật-ma Phụ Tử Kinh, một quyển (hoặc gọi Phụ Hóa Kinh).

- A-phạm Hòa Lợi Tỳ-kheo Vô Thường Kinh, một quyển.

- Ba-lợi Tỳ-kheo Báng Phạm Hạnh Kinh, một quyển.

- Ma-ha Tỳ-kheo Kinh, một quyển.

- Câu-đề Tỳ-kheo Kinh, một quyển.

- Điều-đạt Giáo Nhân Vi Ác Kinh một quyển

(Rút từ Lục Độ Tập).

- Điều-đạt Vấn Phật Nhan Sắc Kinh, một quyển.

- Tôn Giả Cù-đê-ca Độc Nhất Tư Duy Kinh, một quyển (Rút từ A-hàm).

- Sai-ma Tỳ-kheo Dụ Trọng Bệnh Kinh một quyển (Rút từ Tạp A-hàm).

- Chiêm-ba Tỳ-kheo Kinh, một quyển.

- Ương-quật-man Kinh, một quyển (dịch lần hai, cùng bản Chỉ Kế Kinh của ngài Pháp Hộ dịch giống nhiều khác ít).

- Tỳ-kheo Phân Vệ Kinh, một quyển (Rút từ Sinh Kinh).

- Phật Khán Bệnh Tỳ-kheo Bất Thọ Trưởng Giả Thỉnh Kinh, một quyển (Rút từ Kinh Xuất Diệu).

- Phật vị Chư Tỳ-kheo Thuyết Mạc Tư Duy Thế Gian Tư Duy Kinh, một quyển.

- Tỳ-kheo Cầu Chứng Nhân Kinh, một quyển.

- Tỳ-kheo Vấn Phật-đa Ưu-bà-tắc Mạng Chung Kinh, một quyển (Rút ở Trung A-hàm).

- Phật Vị Tỳ-kheo Thuyết Đại Lực Kinh, một quyển.

- Phật Vị Niên Thiếu Tỳ-kheo Thuyết Chánh Sự Kinh, một quyển.

- Thông Minh Tỳ-kheo Kinh, một quyển

- Đại Bi Tỳ-kheo Bản Nguyện Kinh, một quyển.

- La-hán Ca-lưu-đà Di Kinh, một quyển.

- Hòa Nan Thích Kinh một quyển (Rút từ Sinh Kinh, khác chút ít với bộ Hòa Nan Kinh).

- La-tuần Dụ Kinh, một quyển.

- Phật Hàng Ương-quật-ma Nhân Dân Hoan Hỷ Kinh, một quyển.

- Ưu-đà-di Tọa Thọ Hạ Tịch Tịnh Điều Phục Kinh, một quyển (Rút từ A-hàm).

- Kim Sư Tinh Xá Tôn Giả Bệnh Kinh, một quyển.

- Nan-đề Thích Kinh, một quyển.

- Phù Di Kinh, một quyển (Rút từ Tăng Nhất A-hàm).

- Tỳ-kheo Các Ngôn Chí Kinh, một quyển (Rút từ Sinh Kinh).

- Tỳ-kheo Tật Bệnh Kinh, một quyển (Rút từ Sinh Kinh).

- Tỳ-kheo Ư Sắc Yểm Ly Kinh, một quyển (Rút từ A-hàm).

- Phật Vị Tỳ-kheo Thuyết Tam Pháp Kinh, một quyển.

- Tọa Thiền Tỳ-kheo Mạng Quá Sinh Thiên Kinh, một quyển.

- Tỳ-kheo Tịch Nữ Ác Danh Dục Tự Sát Kinh, một quyển.

- Tỳ-kheo Vấn Phật Hà Cố Xả Thế Học Đạo Kinh, một quyển (Rút từ Xuất Diệu Kinh).

- Phật Vị Tỳ-kheo Thuyết Cực Thâm Hiểm Nạn Xứ Kinh, một quyển.

- Sa hạt Tỳ-kheo Công Đức Kinh, một quyển (thấy ở Cựu Lục).

- Thâm Thiển Học Tỳ-kheo Kinh, một quyển.-Tương Ưng, Tương Khả Kinh, một quyển-Tỷ Phương Thế Lợi Kinh, một quyển.

- Tiền Thế Tam Chuyển Kinh, một quyển.

- Thiểu Đa Chế Giới Kinh, một quyển.

- Cầu Dục Thuyết Pháp Kinh, một quyển.

- Chúng Sinh Thân Uế Kinh, một quyển.

- Tín Năng Độ Hà Kinh, một quyển.

- Khổ Ấm Nhân Sự Kinh, một quyển (Rút từ Trung A-hàm).

- Diệp Dụ Đa Thiểu Kinh, một quyển.-Dị Tín Dị Dục Kinh, một quyển.

- Hướng Tà Vi Pháp kinh, một quyển.

- Thuyết Pháp Nan Trị Kinh, một quyển.

- Tăng Nhất A-hàm Kinh, một quyển (Rút từ Tăng Nhất A-hàm).

- Tích Mộc Thiêu Nhiên Kinh, một quyển (Cùng bộ Khô Thọ Kinh giống nhiều khác ít).

- Hằng Thủy Lưu Chú Kinh, một quyển.

- Tà Nghiệp Tự Hoạt Pháp Kinh, một quyển (Rút từ Sinh Kinh).

- Chiên Đàn Đồ Tháp Kinh, một quyển.

- Nhãn Sắc Tương Hệ Kinh, một quyển.

- Xứ Trung Hành Đạo Kinh, một quyển.

- Vô Thủy Bản Tế Kinh, một quyển.

- Vãng Cổ Tạo Hạnh Kinh, một quyển.

- Xả Chư Thế Vụ Kinh, một quyển.

- Chúng Sinh Vị Nhiên Tam Giới Kinh, một quyển.

- Hữu Chúng Sinh Tam Thế tác Ác Kinh, một quyển.

- Nhân Dân Dịch Tật Thọ Tam Quy Kinh, một quyển (Rút từ A-hàm).

- Tín Nhân Giả Sinh Ngũ Chủng Quá Hoạn Kinh, một quyển

- Tứ Đại Sắc Thân Sinh Yểm Ly kinh, một quyển.

- Dĩ Kim Cống Thái Sơn Thục Tội Kinh, một quyển (Thế chú sáp nhập ngày Nghi Lục).

Cả một trăm ba mươi hai bộ gồm một trăm bốn mươi hai quyển kinh trên, do Sa-môn Thích Pháp Cự dịch ngày đời vua Huệ Đế. Lúc đầu ngài Pháp Cự cùng ngài Pháp Lập đồng dịch. Khi Pháp Lập tịch rồi thì Pháp Cự lại tự dịch Phần lớn đều rút từ Đại Bộ vào dịch cùng Pháp Lập, mỗi lần cùng tham khảo thì có rộng hẹp khác nhau. Trong Tăng Hựu

Lục hoàn toàn không ghi chép. Có thấy trong Cựu Lục và Biệt Lục, cứ dựa ngày nguyên nhóm mà ghi tiếp, trở ngại cho việc biết chứng cớ để khảo sát đúng sai.

- Văn-thù-sư-lợi Hiện Bảo Tàng Kinh hai quyển (bản dịch lần hai cùng với bản dịch ba quyển của An Pháp Khâm thì giống nhiều khác ít. Thấy trong Trúc Đạo Tổ Tạp Lục).

- Thập Thiện Thập Ác Kinh, một quyển (Thấy ở Trúc Đạo Tổ Tấn Thế Tạp Lục).

- Thệ Đồng Tử Kinh, một quyển (dịch lần thứ ba. Cũng gọi là Trưởng Giả Chế Kinh, cũng gọi tắt là Chế Kinh, cũng gọi Bồ-tát Thệ Kinh, cũng gọi tắt là Thệ Kinh. Cả năm bản thì giống nhiều chỉ khác người dịch, vì khác tên gọi).

- Thiện Sinh Tử Kinh, một quyển (dịch lần thứ ba, cùng bản dịch thi ca la việt Lục Hướng Bái Kinh của các ngài Trúc Pháp Hộ, Trúc Nan Đề, thì giống nhiều khác ít. Thấy trong Chi Mẫn Độ Lục và Trúc Đạo Tổ Lục).

Cả bốn bộ gồm năm quyển kinh trên do Sa-môn Chi Pháp Độ Dịch năm Vĩnh Ninh đời Vua Huệ Đế. Đều thấy trong Bảo Xướng Lục).

****

- Độ Thế Phẩm Kinh, sáu quyển.

- Như Lai Bí Mật Tạng Kinh, hai quyển (một tên Đại Phương Quảng Như Lai Tánh Khởi Vi Mật

Tạng Kinh. Cũng gọi tắt là Như Lai Tánh Khởi Kinh).

- A-nậu-đạt Long Vương Kinh, hai quyển.-Phương Đẳng Đà-la-ni Kinh, một quyển.

- Bảo Nghiêm Kinh, một quyển.

- Ngũ Phước Đức Kinh, một quyển (Cũng gọi tắt Ngũ Phước Kinh).

- Minh Tương Tục Giải Thoát Địa Ba-la-mật Kinh, một quyển.

- Đệ Tử Học Hữu Tam Bối Kinh, một quyển (hoặc gọi Tam Phẩm Đệ Tử Kinh).

Cả tám bộ gồm mười lăm quyển trên thì Ngô Lục và Biệt Lục đều ghi chú vắn tắt là dịch năm Ngươn Khang, không nêu rõ tên người dịch. Xem kỹ các Lục khác thì vẫn chưa thấy chỉ ra, do đó nên để riêng ngày số kinh mất tên người dịch.

QUYỂN 7

KINH ĐƯỢC DỊCH Ở ĐỜI ĐÔNG TẤN

Sách Đông Tấn Lục chép rằng: Cháu cố của Tuyên Đế, dòng Võ vương ở Lang gia là con của Cung Vương Cẩn, tên Duệ Tự là Cảnh văn. Ngày buổi sáng lúc mới sinh thì có ánh sáng lạ (thần quang) rực sáng khắp nhà. Ông có sợi lông trắng ở khóe mắt trái, mắt rất tinh anh, liếc nhìn rực lửa. Nhiều năm làm quan sứ rất tiết tháo thanh liêm, làm Đô đốc tướng quân ở An đông, lại làm Tả thừa tướng coi việc quân ở Dương châu. Sau khi Hoài Mẫn bị bại trận, các quan ly tán hoặc chạy về Giang nam hoặc bị giết chết. Trường an mất cứ điểm, nhà vua phải lánh về Bình dương. Ở Giang đông, lúc bấy giờ có nhóm năm trăm thuộc hạ khuyên Duệ nên xưng là Tấn Vương, thống nhiếp cả muôn mối dần đến cai trị cả ức triệu dân. Sau khi Mẫn Đế băng hà, liền lên ngôi vua lấy niêm hiệu kiến võ. Nhân kinh đô là Kiến nghiệp kỵ húy Mẫn Đế nên đổi thành Kiến khang. Trước năm Thái Khang thứ hai, tướng cũ nhà Ngô là Quảng Cung làm loạn. Bấy giờ ở Kiến nghiệp có Ngũ Chấn bói quẻ phệ bảo rằng: Bạo tặc sẽ dứt hết. Song phải ba mươi tám năm sau thì ở Dương châu sẽ có Thiên tử. Đến nay việc đó đã đúng như lời nói. Lại đời Tần Thủy Hoàng khi xem khí tượng có kẻ bảo rằng: "Năm trăm năm sau, tại núi Kim lăng đất ngô sẽ xuất hiện Thiên tử". Thủy Hoàng rất ghét việc ấy, nên nhân đó phát động quân binh đào đục núi Kim lăng rồi đổi tên núi là Mạt lăng, để diệt mất khí tượng Đế vương. Từ đó đến đời của Duệ đã được năm trăm hai mươi sáu năm. Tấn thuộc hành kim nên khí tượng Đế vương khắp bốn bể. Điềm về Kim lăng đã ứng hiện ngày lúc này. Lại lời đồng dao có nói: "Năm ngựa lôi qua sông, một ngựa hóa làm rồng". Trong năm Vĩnh Gia tao loạn bao trùm khắp thiên hạ, chỉ có Lang gia, Tây dương, Nhữ nam, Nam đốn và Bành thành… cả năm vua là tiêu biểu cho cả vùng Tế giang, nhưng cơ đồ của Duệ đứng đầu nên được làm vua đầu tiên vậy. Cho nên mới biết muốn làm vua thì trên phải cảm được với Thiên linh, muốn được cơ đồ hưng thịnh thì dưới phải nhờ địa thế. Địa giúp sức cho thế, cho nên Thủy Hoàng có đào đục thì cũng không phá mất được. Khi trời đã giáng linh phúc thì dù bị Lưu Diệu tàn hại nhưng vẫn sống còn. Từ năm Đinh Sửu niên hiệu Kiến Võ thứ nhất khi Nguyên Hoàng sáng lập kinh đô, cho đến năm Kỷ Mùi, niên hiệu Ngươn Hi thứ nhất thì vua Cung Đế nhường ngôi cho nhà Tống. Trong khoảng thời gian một trăm lẻ bốn năm, cả kẻ phạm người Hoa, hàng tại gia và xuất gia cả thảy hai mươi bảy người đã dịch các kinh cùng số kinh cũ mất tên người dịch tính cả thảy có hai trăm sáu mươi ba bộ gồm năm trăm tám mươi lăm quyển đều tập họp dưới mười hai đời vua thuộc nhà Đông Tấn. Kiến Khang lục chép như thế. A. Các dịch giả:

* Nhà Đông Tấn là:

- Sa-môn Bạch Thi Lê Mật-đa-la dịch ba bộ, mười một quyển kinh chú.

- Sa-môn Chi Đạo Căn dịch hai bộ, bảy quyển kinh.

- Sa-môn Khang Pháp Thúy dịch một bộ, mười quyển kinh.

- Sa-môn Trúc-đàm-vô-lan dịch một trăm mười bộ, một trăm mười hai quyển kinh, chú, giới.

- Sa-môn Khang Đạo Hòa dịch một bộ, ba quyển kinh.

- Sa-môn Ca-lưu-đà-già dịch một bộ, một quyển kinh.

- Sa-môn Tăng-già-đề-bà, dịch năm bộ, một trăm mười bảy quyển kinh, luận.

- Sa-môn Tỳ-ma-la-xoa, dịch hai bộ năm quyển luật, tạp sự.

- Sa-môn Đàm-ma dịch một bộ, hai quyển luật yếu.

- Sa-môn Phật-đà Bạt-đà-la dịch mười lăm bộ, một trăm mười lăm quyển kinh, giới luận.

- Sa-môn Thích Pháp Hiển, dịch sáu bộ, hai mươi bốn quyển kinh, giới luận, truyện.

- Sa-môn Kỳ-đa mật dịch hai mươi lăm bộ, bốn mươi sáu quyển kinh.

- Cư sĩ ngoại quốc Trúc-nan-đề, dịch hai bộ, ba quyển kinh.

- Sa-môn Thích Pháp Lực, dịch một bộ, một quyển kinh.

- Sa-môn Thích Tung Công, dịch ba bộ, ba quyển kinh.

- Sa-môn Thích Thố Công, dịch một bộ, một quyển kinh.

- Sa-môn Thích Pháp Dõng, dịch một bộ, một quyển kinh.

- Sa-môn Thích Huệ Viễn, dịch mười bốn bộ, ba mươi lăm quyển Luận, Tán.

- Sa-môn Thích Tăng Phu, dịch một bộ, một quyển luận.

- Sa-môn Thích Đàm Tiên dịch hai bộ, sáu quyển chú, luận.

- Sa-môn Chi Độn, dịch bảy bộ bảy quyển luận Chỉ quy.

- Sa-môn Trúc Tăng Độ, dịch một bộ, một quyển Chỉ quy.

- Sa-môn Thích Đạo Tổ, dịch bốn bộ, bốn quyển Mục lục.

- Sa-môn Chi Mẫn Độ, dịch một bộ, một quyển Đều lục.

- Sa-môn Khang Pháp Sướng, dịch một bộ, một quyển luận.

- Sa-môn Trúc Pháp Tế, dịch một bộ, một quyển truyện.

- Sa-môn Thích Đàm Vi, dịch hai bộ hai quyển luận Chỉ quy.

- Các kinh mất tên người dịch có năm mươi ba bộ, năm mươi bảy quyển kinh chú. B. Các bản dịch:

* Nhà Đông Tấn là:

- Quán Đảnh Kinh chín quyển (thấy trong Tạp lục).

- Đại Khổng Tước Vương Thần Chú Kinh một quyển (thấy trong Trúc Đạo Tổ Tấn Thế Tạp Lục và Tam Tạng Ký).

- Khổng Tước Vương Tạp Thần Chú Kinh, một quyển (cũng thấy trong Trúc Đạo Tổ Lục nhưng dịch chưa hết và trong Tam Tạng Ký).

Cả ba bộ gồm mười một quyển do Sa-môn Bạch Thi Lê Mật-đa-la, nhà Tấn dịch là Cát Hữu, người Tây Vức, dịch ngày đời Ngươn Đế. Ngài là thái tử sẽ kế vị vua, nhưng ngài nhường ngôi cho em. Làm việc nước (Thái Bá) vụng về, ngộ tâm mở bày, bèn xuất gia làm Sa-môn. Ngài có thiên tư sáng suốt, cốt cách phi phàm ứng phó tự tại, vượt hẳn mọi người, huống là thông minh biện bác, nói năng lưu loát... Quan thừa tướng Vương Đạo mới tiếp kiến lần đầu với ngài rất lấy làm lạ bèn xem như học trò của mình. Do đó mà danh tiếng càng vang xa. Thừa tướng Đạo thường bảo với Mật rằng: Vua ở ngoại quốc chỉ có một người này thôi! Mật cười đáp rằng: Nếu bảo bần đạo làm như thí chủ thì ngày hôm nay đâu thể dạo gót đến đây được!". Người đương thời cho đó là lời đối đáp hay nhất. Ngài giỏi trì chú thuật dùng ngày đâu đều rất linh nghiệm, rất được thịnh hành ở Kiến khang. Bấy giờ mọi người đều gọi ngài là "Cao Tòa Pháp sư". Lại dạy đệ tử cách xem lịch và lớn tiếng tán tụng, ảnh hưởng đến nay vẫn còn.

****

- A-xà-thế Phật Chế Chư Bồ-tát Học Thành Phẩm Kinh, hai quyển (dịch năm Thái Khang, là bản dịch lần thứ hai. So với bản dịch của ngài Chisấm thì giống nhiều khác ít).

- Phương Đẳng Pháp Hoa Kinh, năm quyển (dịch năm Hàm Khang thứ nhất).

Cả hai kinh gồm bảy cuốn trên, do Sa-môn Chi Đạo Căn dịch ngày đời vua Thành Đế. Đều thấy trong Trúc Đạo Tổ Tấn Thế Tạp Lục.

Thí Dụ Kinh, mười quyển (Cựu Lục gọi là Chánh Thí Dụ Kinh). Một kinh gồm mười quyển này do Sa-môn Khang Pháp Thúy dịch ngày đời vua Thành Đế. Tập họp các kinh soạn dịch ra bộ kinh này, có nhiều sự kiện rất cần yếu.

****

- Nghĩa Túc Kinh, hai quyển (Ngô Lục ghi cũng bảo là bản dịch khác).

- Nhị Bách Lục Thập Giới Tam Bộ Họp Dị, hai quyển (ngày hai mươi tháng sáu năm Thái Ngươn thứ sáu, ở Tạ trấn tây họp chư Tăng kiểm xét rõ nhiều lần. Thấy trong Cựu Lục và Bảo Xướng

Lục).

- Tam Thập thất Phẩm Kinh, một quyển (dịch năm Thái Ngươn thứ mười hai, ngài Đạo An nói là rút từ luật kinh).

- Hiền Kiếp Thiên Phật Danh Kinh, một quyển (Hai kinh trên rút từ Tăng Hựu Lục).

- Bát Sư Kinh, một quyển.

- Ngọc Da Kinh một quyển (hoặc gọi Ngọc Da Nữ Kinh).

- Hà Điêu A-na-hàm Kinh, một quyển (Cựu Lục gọi là Ha Điêu hoặc viết chữ Hà).

- Giới Đức Kinh một quyển (hoặc gọi Giới Đức Hương Kinh).

- Thất Mộng Kinh, một quyển (Cựu Lục gọi Anan Thất Mộng Kinh).

Thủy Mạt Sở Phiêu Kinh, một quyển.

- Tỳ-kheo Thính Thí Kinh, một quyển.

- Trị Thiền Pháp Kinh, một quyển.

- Xà Hành Pháp Kinh, một quyển (Rút từ Tạp A-hàm).

- Bạo Tượng Kinh một quyển.

- Quần Ngưu Thiên Đầu Kinh, một quyển.

- Câu Tát Quốc Ô Vương Kinh, một quyển (hoặc có chữ La, rút từ Sinh Kinh).

- Phu Phụ Kinh, một quyển (rút từ Sinh Kinh).

- Độc Ngưu Kinh, một quyển (hoặc viết chữ Tử).

- Giả Kê Kinh một quyển (Rút từ Sinh Kinh).-Lư-đà Kinh, một quyển

- Trùng Hồ Điểu Kinh một quyển (Rút từ Sinh Kinh, hoặc viết chữ Ô).

- Khổng Tước Kinh, một quyển (Rút từ Sinh Kinh).

- Thập Thiện Thập Ác Kinh, một quyển (Ngô Lục cũng gọi là khác bản dịch, dịch lần thứ hai).

- Ngũ Khổ Kinh, một quyển (Hoặc gọi Tịnh Trừ Tội Cái Ngu Lạc Phật Pháp Kinh. Hoặc gọi Ngũ Đạo Chương Cú. Hoặc gọi là Ngũ Khổ Chương Cú).

- Tự Ái Kinh, một quyển (thấy trong Cựu Lục hoặc Tự Ái Bất Tự Ái Kinh).

A-nan Niệm Di-lặc Kinh, một quyển (Hoặc viết chữ Ly).

- Quốc Vương Bất Lê Tiên Nê Thập Mộng Kinh, một quyển.

- Ma Thiên Quốc Vương Kinh, một quyển (Rút từ Lục Độ Tập).

- Di Liên Kinh một quyển (Thấy trong Cựu Lục hoặc Di Lan hoặc Di Liên, rút trong Lục Độ Tập).

- Phạm Chí Át-ba-la Diên Vấn Chương Tôn Kinh, một quyển.

- La-bà-điểu Vị Ưng Sở Tróc Kinh, một quyển

(La-bà-thi Tấn gọi là Bán Trỉ)-Tịch Chí Quả Kinh, một quyển.

- Đại Ngư Sự Kinh một quyển.

- Kiến Thủy Thế Giới Kinh, một quyển (Rút từ Đại Tập).

- Tân Tuế Kinh, một quyển.

- Phật Kiến Phạm Thiên Đảnh Kinh, một quyển

- Niết Di Hầu Kinh, một quyển (Rút từ Sinh Kinh).

- Xích Chủy Ô Dụ Kinh, một quyển.-Vô Ngô Ngã Kinh, một quyển.

- Giới Tương Ưng Kinh, một quyển.

- A-nậu Phong Kinh, một quyển (A-nậu Phong Tấn gọi là Y Thứ).

- A-nan Đa-hoàn-la Vân Mẫu Kinh, một quyển A-dục Vương Cúng Dường Đạo Tràng Thọ Kinh, một quyển

- Thái Liên Hoa Vương Kinh, một quyển (Hoặc gọi Thái Liên Hoa Vương Thượng Phật Thọ Quyết Hiệu Diệu Hoa Kinh).

- Tứ Thiên Vương Án Hành Thế Gian Kinh, một quyển.

- Đế Thích Từ Tâm Chiến Thắng Kinh, một quyển.

- Tam Thập Tam Thiên Viên Quán Kinh, một quyển (Rút từ Tăng Nhất A-hàm).

- Tỳ-kheo Vấn Phật Thích Đề-hoàn Nhân Nhân Duyên Kinh, một quyển (Rút từ Tạp A-hàm).

- Thiên Ư-tu-la Dục Đấu Chiến Kinh, một quyển (Rút từ Trường A-hàm).

- Thiên Đế Thọ Giới Kinh, một quyển.

- Thích Đề-hoàn Nhân Nghệ Mục-liên Phóng Quang Kinh, một quyển.

- Phạm Thiên Sách Số Kinh, một quyển (Cựu Lục gọi Chư Thiên Sự Kinh).

- Chư Thiên Địa Kinh, một quyển (bản dịch khác).

- Tỳ-kheo Dục Ngộ Thiên Tử Phóng Quang Kinh, một quyển.

- Thiên Thần Cấm Bảo Kinh, một quyển (Rút từ Nghĩa Túc Kinh).

- Chư Thiên Vấn Như Lai Cảnh Giới Bất Khả

Tư Nghi Kinh, một quyển (Rút từ Đại Tập Kinh).

- Tội Nghiệp Báo Ứng Kinh, một quyển.

- Cứu Hộ Thân Mạng Kinh, một quyển.

- Tập Tu Sĩ Hành Kinh, một quyển.

- Khuyến Hành Hữu Chứng Kinh, một quyển (rút từ Tạp A-hàm).

- Thiền Tư Mãn Túc Kinh, một quyển (Rút từ A-hàm, dịch lần thứ hai).

- Trung Tâm Chánh Hạnh Kinh, một quyển (Rút từ Lục Độ Tập hoặc gọi Trung Tâm Kinh. Cựu Lục gọi là Đại Trung Tâm Kinh, Tiểu Trung

Tâm Kinh)

- Chánh Kiến Kinh, một quyển.

- Tứ Đại Nê-lê Kinh, một quyển (Biệt Lục có ghi. Tăng Hựu Tam Tạng Ký gọi là mất tên người dịch, không có chữ Đại).

- Phật Vị Tỳ-kheo Thuyết Đại Nhiệt Địa Ngục Kinh, một quyển.

- Địa Ngục Chúng Sinh Tương Hại Kinh, một quyển.

- Thập Pháp Thành Tựu Ác Nghiệp Nhập Địa Ngục Kinh, một quyển.

- Chúng Sinh Đảnh Hữu Thiết Ma Thạnh Hỏa Xí Nhiên Kinh, một quyển (Rút từ Tạp A-hàm).

- Kiến Nhất Thiết Chúng Sinh Cử Thế Phấn Uế Đô Thân Kinh, một quyển (Rút từ Tạp A-hàm).

- Thiết Thành Nê-lê Kinh, một quyển.

Nê-lê Kinh, một quyển (hoặc gọi Trung Ahàm Nê-lê Kinh).

- Mục-liên Kiến Đại Thân Chúng Sinh Nhiên Thiết Triều Thân Kinh một quyển (Rút từ Tạp Ahàm).

- Tỳ-kheo Thành Tựu Ngũ Pháp Nhập Địa Ngục Kinh, một quyển (Rút từ A-hàm).

- Học Nhận Ý Loạn Kinh, một quyển.

- Bình Sa Vương Ngũ Nguyện Kinh, một quyển.

- Bát-nê-hoàn Thời Đại Ca-diếp Phó Phật Kinh, một quyển (hoặc gọi Ma-ha Ca-diếp).

- Ngũ Nhãn Văn Kinh, một quyển.

- Đệ Tử Mang Quá Kinh, một quyển (khác với bản dịch của ngài Kiết Hữu đã dịch trước).

- Khổng Tước Vương Chú Kinh, một quyển (khác bản dịch trước của ngài Kiết Hữu).

- Long Vương Cát Nguyện Ngũ Long Thần Chú Kinh, một quyển.

- Ma-ni-la-đàn Thần Chú Kinh, một quyển.

- Long Vương Chú Thủy Dục Kinh, một quyển.

- Đại Thần Tướng Quân Chú Kinh, một quyển.

- Y Hoàn Pháp Nguyện Thần Chú Kinh, một quyển.

- Thập Bát Long Vương Thần Chú Kinh, một quyển.

Ma-ni-la-đàn Thần Chú An-ma Kinh, một quyển.

- Dược Chú Kinh, một quyển.

- Đại Thần Mẫu Kiết Thệ Chú Kinh, một quyển.

- Chú Độc Kinh, một quyển.

- Trì Cú Thần Chú Kinh, một quyển-Ma Du Thuật Chú Kinh, một quyển.

- Đàn Trì La Ma Du Thuật Thần Chú Kinh, một quyển.

- Thất Phật Sở Kiết Ma Du Thuật Chú Kinh, một quyển.

- Giải Nhật Ách Thần Chú Kinh, một quyển.

- Chú Thủy Kinh, một quyển.

- Sấn Thủy Kinh, một quyển.

- Thỉnh Vũ Chú Kinh, một quyển.

- Chỉ Vũ Chú Kinh, một quyển.

- Đà Lân Bát Chú Kinh, một quyển.

- Huyễn Sư Bạt-đà Thần Chú Kinh, một quyển (Cũng gọi Ba-đà).

- Chú Thời Khí Bệnh Kinh, một quyển.

- Chú Tiểu Nhi Bệnh Kinh, một quyển.

- Chú Xỉ Thống Kinh, một quyển.

- Chú Nhãn Thống Kinh, một quyển.

- Chú Nha Thống Kinh, một quyển.

- Lục Trần Danh Thần Chú Kinh, một quyển.

Huyễn Sự A Châu Di Thần Chú Kinh, một quyển.

- Y Vương Duy Lâu Diên Thần Chú Kinh, một quyển (tức A Duy Sở Vấn Y Vương Duy Lâu Diên Thần Chú Kinh).

- Thập Tụng Tỳ-kheo Giới Bổn một quyển (Năm Thái Nguyên thứ sáu đã họp chư tăng lấy ba bản dịch của các vị như Tăng Thuần, Đàm Ma Trì, Trúc Tăng Thư làm một quyển. Thấy ở Bảo Xướng Lục).

- Ly Dục Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di Cụ Hành Nhị Thập Nhị Giới Văn một quyển.

Cả một trăm lẻ một bộ gồm một trăm mười hai quyển trên ngày đời Tấn Hiếu Võ Đế do Sa-môn Trúc Đàm Vô Lan (nhà Tấn dịch là pháp chánh, người Tây Vức), ở Tạ trấn tây tại Dương đô lấy trong Thủ Thế Yếu Lược của Đại Bộ dịch ra. Tăng Hựu Lục chỉ chép có hai bộ kinh, ngoài ra chỉ thấy trong Biệt Lục. Tuy đều có bản chánh nhưng lại lưu hành riêng biệt nên đều nêu ra đây để có chỗ y cứ.

****

-Ích Ý Kinh, ba quyển (dịch lần thứ hai). Một bộ kinh ba quyển trên là do Sa-môn Khang Đạo Hòa dịch ngày cuối năm Thái Ngươn đời vua Hiếu Võ Đế. Thấy trong Trúc Đạo Tổ Tấn Thế Lục. Còn Chu Sĩ Hành Hán Lục thì bảo là có hai quyển nhưng không nói rõ tên người dịch.

****

-Thập Nhị Du Kinh, một quyển (dịch lần thứ hai, so với bản dịch của ngài Cương Lương thì khác chút ít).

Một quyển sách trên do Sa-môn Ca-lưu-đà-già người ngoại quốc (Ấn), nhà Tấn dịch tên ngài là Thời Vĩnh, dịch năm Thái Ngươn mười bảy thuộc đời vua Hiếu Võ Đế. Thấy trong Trúc Đạo Tổ Tấn Thế Tạp Lục và Bảo Xướng Lục).

****

- Trung A-hàm Kinh, sáu mươi quyển (ở Đông đình dịch từ tháng mười một năm Long An thứ nhất đến hai năm sáu tháng mới ngày. Ngài Trúc Đạo Tổ bút thọ (chép lại). Bản dịch này lần thứ hai. So với bản dịch của ngài Đàm-ma-nan-đề thì phần lớn không giống thấy trong Đạo Tổ Lục).

- Tăng Nhất A-hàm Kinh, năm mươi quyển (là bản dịch thứ hai, dịch ngày tháng một năm Long An thứ nhất. So với bản dịch của ngài Nan-đề khác nhau chút ít. Ngài Trúc Đạo Tổ bút thọ, hoặc bốn mươi hai hay ba mươi ba quyển không nhất định. Thấy trong Đạo Tổ và Bảo Xướng Lục).

- A-tỳ-đàm Tâm Luận, bốn quyển (Châu Lư Sơn dịch theo yêu cầu của huệ Viễn ngày năm Thái Ngươn thứ mười sáu, ngài Đạo Từ làm bút ghi lại).

- Tam Pháp Độ Luận, hai quyển (Châu Lư Sơn dịch năm Thái Ngươn thứ mười sáu. Biệt Lục bảo là một quyển. So với bản dịch của ngài Đàm-Ma-nan-đề, đời Tần thì giống nhiều khác ít. Hoặc gọi tắt là Tam Pháp Độ, hoặc không có chữ "Luận" hoặc viết bằng chữ "Kinh".

- Giáo Thọ Tỳ-kheo-ni Pháp, một quyển (thấy trong Biệt Lục cũng dịch tại Lư Sơn).

Cả năm bộ gồm một trăm mười bảy quyển kinh luận trên, đều do Tam tạng Pháp sư Cù-đàm Tăng-già-đề-bà (Tấn dịch là Chúng Thiên) người nước Kế Tân, dịch ngày đời vua Hiếu Võ và An Đế. Về sau đời Tần Diêu, ngài sang sông. Trước hết là ngài huệ Viễn châu Lư Sơn nổi tiếng bậc nhất là người giỏi kinh điển. Khi nghe ngài Đề-bà đến nơi thì liền mời ngày Lư Sơn để cùng dịch thuật, bỏ đi đi sự văn hoa chỉ giữ lại thực chất. Nay thấy các tác phẩm còn lưu truyền chính là lối văn này.

Ngày mùa xuân cuối năm Long An, ngài dạo chơi đến Kiến Khang. Các hàng Vương tôn công tử, danh sĩ phong lưu đời Tấn đều đón tiếp. Đến mùa Đông, vì yêu cầu của Vệ quân Tướng quân Đông Đình Hầu là Vương Tuần nên dịch lại Trung và Tăng Nhất A-hàm, tập hợp các bậc danh đức ở kinh đô như các ngài Thích huệ Trì… gồm bốn mươi Sa-môn để cùng phiên dịch rõ ràng, cho mãi đến mùa hạ mới ngày. Khi ngài châu Lạc dương và Giang tả, số Kinh luận được dịch ra hơn cả trăm vạn lời đều nắm được diệu chỉ sâu xa.

****

- Tỳ-ni Tụng, ba quyển (là mười bài Tụng sau Thiện Tụng).

- Tạp Vấn Luật Sự, hai quyển (cùng chúng Luật Yếu Dụng, đều thấy trong Nhị Tần Lục).

Cả hai bộ gồm năm quyển trên, do Tam tạng Pháp sư Tỳ-ma-la-xoa (Tấn dịch là Vô Cấu Nhãn) người nước Kế Tân năm Hoằng Thủy thứ tám đời Diêu Tần, ngài đến Trường an. Khi ngài La-thập viên tịch, ngài bèn đến Thọ xuân ngụ ở Thạch giản. Đám học trò học luật hội họp đông đảo môn Tỳ-ni rất phát triển thịnh hành. Ngài La-thập dịch Thập Tụng gồm năm mươi tám quyển. Về sau ngài Laxoa giải rộng thêm thành sáu mươi mốt quyển, đổi tên Thiện Tụng thành Tỳ-ni Tụng, cho nên nay có hai tên. Sau ở Giang lăng dịch bộ luật Tạp Sự ở Đạo tràng, huệ Quan làm bút thọ (ghi lại) rất thạnh hành ở đời, lưu truyền mãi đến nay.

****

- Chúng Luật Yếu Dụng, hai quyển (Người và chỗ không đồng nên văn cũng rất khác nhau. Thấy trong Biệt Lục).

- Một bộ hai quyển này được dịch ngày hai tháng ba năm Long An thứ tư đời vua An Đế, do ngài Sa-môn Thích Tăng Tuân và hơn hai mươi vị khác. Ở Dương châu, quan Thượng thư sai Vương

Pháp đến tinh xá thỉnh ngài Tam tạng Luật sư Đàm-ma (Tấn dịch là Pháp Thiện) dịch ra, Luật sự và tựa đều đầy đủ. Quyển đầu nói rõ về vật của Phật Pháp Tăng, giới hạn sự giao tiếp giữa nhau sai khác rất thiết yếu, cần phải khéo léo giữ gìn.

****

- Hoa Nghiêm Kinh, năm mươi quyển (châu chùa Đạo tràng dịch ra năm Nghĩa Hy thứ mười bốn, cho đến năm Vĩnh Sơ thứ hai đời Tống mới ngày, hoặc có sáu mươi quyển. Thấy ở Trúc Đạo Tổ Tấn Thế Tạp Lục).

- Quán Phật Tam-muội Kinh, tám quyển (một tên là Quán Phật Tam-muội Hải Kinh. Thấy trong Trúc Đạo Tổ Tấn Thế Tạp Lục hoặc bảo dịch ngày đời Tống).

- Quá Khứ Nhân Quả Kinh, bốn quyển (thấy trong Biệt Lục).

- Tân Vô Lượng Thọ Kinh, hai quyển (ở Đạo tràng dịch năm Vĩnh Sơ thứ hai. Thấy trong Bảo Xướng Lục).

- Đạt-ma-đa-la Thiền Kinh, hai quyển (một tên là Bất Tịnh Quán Kinh, một tên là Tu Hành Đạo Địa Kinh).

- Đại Phương Đẳng Như Lai Tạng Kinh, một quyển (ở Đạo tràng dịch năm Ngươn Hi thứ hai, dịch lần thứ hai. Thấy trong Trúc Đạo Tổ Tấn Thế Tạp Lục. So với bản dịch của ngài Pháp Lập có khác chút ít).

- Văn-thù-sư-lợi Phát Nguyện Kệ Kinh, một quyển (ở Đạo tràng dịch năm Ngươn Hi thứ hai. Sau kinh có ghi là năm Canh Thân, một bản không có chữ Kệ. Thấy ở Bảo Xướng Lục).

- Xuất Sinh Vô Lượng Môn Trì Kinh, một quyển (một tên là Thành Đạo Hàng Ma Đắc Nhất Thiết Trí Kinh, ở Lô Sơn dịch ra. Thấy trong Trúc Đạo Tổ Tấn Thế Tạp Lục).

- Bổn Nghiệp Kinh, một quyển.

- Tân Vi Mật Trì Kinh, một quyển (dịch lần hai ngày năm Long An thứ hai. So với bản dịch của ngài Chi Khiêm đời Ngô thì giống nhiều khác ít.

Thấy ở Trúc Đạo Tổ Tấn Thế Tạp Lục).

- Tịnh Độ Ba-la-mật Kinh, một quyển.

- Bồ-tát Thập Trụ Kinh, một quyển (dịch lần thứ ba).

- Tăng Kỳ Luật, bốn mươi quyển (cùng ngài Pháp Hiển dịch ngày tháng mười một năm Nghĩa Hy thứ mười hai. Thấy trong Trúc Đạo Tổ Tấn Thế Tạp Lục và Biệt Lục. Hoặc có ba mươi quyển).

- Tăng Kỳ Đại Tỳ-kheo Giới Bổn, một quyển (ở Đạo tràng dịch lần thứ hai. Thấy trong Bảo Xướng Lục).

- Phương Tiện Tâm Luận, một quyển (cùng dịch với ngài Pháp Nghiệp. Thấy trong Cao Tăng truyện).

Cả mười lăm bộ gồm một trăm mười lăm quyển trên là do ngài Tam tạng Thiền sư Phật-đà Bạt-đàla (Tấn dịch là Giác Hiền) người Bắc Thiên Trúc, đời vua An Đế, ở hai nơi Dương đô và Lô Sơn mà dịch ra. Các Sa-môn Pháp Nghiệp, Huệ Nghĩa, Huệ Nghiêm… cùng làm bút thọ (ghi lại). Trong Cao Tăng truyện bảo rằng Giác Hiền dịch Nê-hoàn và Tu Hành… mười lăm bộ gồm một trăm mười bảy quyển. Căn cứ ngày Bảo Xướng Lục, Túc Vô Thượng Thọ và Giới Bổn, số bộ tuy đầy đủ, nhưng còn thiếu hai quyển, chưa rõ là kinh gì. Rất mong các bậc học rộng nghe thấy hoặc tiếp tục tìm đọc biết được, xin bổ túc chỗ thiếu sót hầu làm đầy đủ dòng pháp vậy.

****

- Đại Bát-nê-hoàn Kinh, sáu quyển, do Tạ Ty Không Công Tạ Thạch (?) ở Đạo tràng dịch năm Nghĩa Hy thứ mười ba. Cựu Lục bảo là ngài Giác Hiền dịch. Bảo Vân làm bút thọ. Đó là Đại Chúng Vấn Phẩm của Đại Bản chia làm mười quyển đã dịch trước đây. Thấy ở Trúc Đạo Tổ Lục, hoặc mười quyển).

- Phương Đẳng Nê-hoàn Kinh, hai quyển (thấy ở Trúc Đạo Tổ Tấn Thế Tạp Lục).

- Tạp Tạng Kinh, một quyển (cùng với Quỷ

Vấn Mục-liên, Ngạ Quỷ Báo Ứng, Mục-liên Thuyết Địa Ngục, Ngạ Quỷ Nhân Duyên... cả bốn quyển trên đồng bản là một kinh nhưng khác người dịch. Thấy trong Bảo Xướng Lục).

- Tăng-kỳ Ni Giới Bản, một quyển (bản dịch thứ hai cùng dịch với ngài Giác Hiền. So với bản dịch của ngài Kha-ca-la đời Ngụy thì khác chút ít).

- Tạp A-tỳ-đàm Tâm Luận, mười ba quyển (dịch lần hai cùng ngài Giác Hiền. So với bản dịch của ngài Tăng Già Bạt Trừng đời Tiền Tần thì rất giống).

- Lịch Du Thiên Trúc Ký Truyện, một quyển.

Cả sáu bộ gồm hai mươi bốn quyển trên, do ngài Sa-môn Thích Pháp Hiển ở Bình Dương, đến năm Long An thứ ba đời An Đế ngài cất bước từ Trường An xạ dạo khắp Thiên Trúc để tìm dấu tích linh thiêng, tìm thỉnh các Kinh Luật Luận mà nhà Tấn không có. Trải khắp các nước để học tiếng và chữ Phạm, chính tay sao chép lại các bản tiếng Phạn từ xưa, từ Bắc chí Nam. Khi đến nước Sư Tử, ở đấy có răng Phật. Mỗi năm ngày tháng ba vua nước ấy dự định trước mười ngày, trang suất voi trắng rồi sai một vị quan cao quý tài trí biện thuyết giỏi, mặc áo ngự bào của vua, ngồi trên voi trắng, vỗ trống lớn tiếng bảo rằng: "Đức Như Lai ở đời suốt bốn mươi chín năm, thuyết pháp độ người số đông vô lượng. Khi duyên chúng sinh đã hết thì ngài nhập Niết-bàn. Từ đó đến nay đã được một ngàn bốn trăm chín mươi bảy năm, khá thương cho chúng sinh ở thế gian còn mê muội triền miên.

Mười ngày nữa răng Phật sẽ được trưng bày tại tinh xá Vô úy. Vậy mọi người nên sắm sửa hương hoa đến cúng dường!".

Lúc đó nhằm năm Nghĩa Hi thứ nhất đời Tấn, ngài Pháp Hiển linh đinh trên biển cả về đến tận Dương Đô, ở Đạo tràng mà dịch Kinh Giới Luận. Biệt truyện ghi đủ mọi việc và bảo rằng kể từ nam Ất Tỵ, niên hiệu Nghĩa Hi thứ nhất, cho đến nay là năm Đinh Tỵ thuộc niên hiệu Khai Hoàng thứ mười bảy thì đã trải qua một ngàn sáu trăm tám mươi mốt năm.

****

- Anh Lạc Kinh, mười hai quyển (hoặc mười quyển)

- Duy-ma-cật Kinh, bốn quyển (dịch lần thứ ba)-Thiền Kinh, bốn quyển.

- Đại Trí Độ Kinh, bốn quyển.

Cả bốn bộ kinh trên gồm hai mươi bốn quyển đều thấy ở Nam Lai Tân Lục.

- Như Huyễn Tam-muội Kinh, hai quyển (dịch lần thứ hai, so với bản Bát-nhã Tam-muội Kinh hai quyển của ngài Chi-sấm dịch ngày đời Hán thì đồng tên nhưng câu văn khác nhau chút ít. Thấy trong Trúc Đạo Tổ Tấn Thế Tạp Lục).

- A Thuật Đạt Kinh, một quyển.

- Vô Sở Hy Vọng Kinh, một quyển.

- Phổ Hiền Quán Kinh, một quyển (một tên là Quán Phổ Hiền Bồ-tát Kinh. Thấy trong Đạo huệ Lục).

- Vô Cực Bảo Tam-muội Kinh, một quyển

(dịch lần hai).

- Ngũ Cái Nghi Kiết Thất Hạnh Kinh, một quyển (dịch lần hai. So với bản dịch của ngài Pháp Hộ có khác chút ít).

- Sở Dục Trí Hoạn Kinh, một quyển (dịch lần hai. So bản ngài Trúc Pháp Hộ dịch thì khác chút ít).

- Như Lai Độc Chứng Tự Thệ Tam-muội Kinh, một quyển (dịch lần hai).

- Pháp Một Tân Kinh, một quyển (dịch lần hai).

- Bồ-tát Chánh Trai Kinh một quyển (dịch lần hai).

- Chiếu Minh Tam-muội Kinh, một quyển

(dịch lần hai).

- Phân Vệ Kinh, một quyển.

- Oai Cách Trưởng Giả Lục Hướng Bái Kinh, một quyển (một bản viết là Oai Hoa).

- Bồ-tát Thập Trụ Kinh, một quyển (dịch lần hai).

- Ma Điều Vương Kinh, một quyển.

- Chỉ Man Kinh, một quyển (hoặc viết Chỉ Kế Kinh).

- Phù Quang Kinh, một quyển (hoặc viết Nhũ Quang Kinh).

- Di-lặc Sở Vấn Bổn Nguyện Kinh, một quyển.

- Thập Địa Kinh, một quyển.

- Bão Nữ Thí Kinh, một quyển.

- Phổ Môn Phẩm Kinh, một quyển (dịch lần hai. So bản dịch của ngài Pháp Hộ rất giống. Thấy trong Trúc Đạo Tổ và Tam Tạng Ký).

Cả hai mươi lăm bộ gồm bốn mươi sáu quyển trên do Sa-môn Kỳ-đa-mật (Tấn dịch là Ha Hữu), người Tây Vức dịch ra hết. Các Lục đều nói rằng: Kỳ-đa-mật dịch ra ở đời Tấn. Tên sách dịch phần lớn đều giống nhau kể ra không phải là hư dối, nếu không phải ở Hàm dương, Lạc dương thì cũng chính là ở Giang nam, nhưng chưa rõ là đời vua nào. Một bộ thấy ở Tăng Hựu rút từ Tam Tạng Tập Ký, ngoài ra đều lấy từ ghi chép của các lục khác.

****

- Đại Thừa Phương Tiện Kinh, hai quyển (bản dịch lần ba ngày năm Ngươn Hi thứ hai. So với bản dịch của các ngài Pháp Hộ và Tăng-già-đà thì khác chút ít. Cùng với bộ huệ Thượng Bồ-tát Sở Vấn Kinh thì bản đồng mà khác người dịch. Thấy trong Thủy Hưng Lục).

- Thỉnh Quán Thế Âm Tiêu Phục Độc Hại Đàla-ni Kinh, một quyển (dịch lần thứ hai, thấy trong Pháp Thượng Lục).

- Oai Cách Trưởng Giả Lục Hướng Bái Kinh, một quyển (Ở Quảng châu dịch ra khoảng đời TấnTống, là bản dịch thứ ba. So với bộ Lục Hướng Bái của ngài Pháp Hộ và Kỳ-đa-mật dịch thì giống nhau. Thấy ở Thủy Hưng và Bảo Xướng… các

Lục).

Cả ba bộ gồm bốn quyển trên đều do Cư sĩ Trúc-nan-đề (Tấn dịch là Hỷ Pháp) người ngoại quốc (Ấn) dịch ra. Thượng Lục Bảo là dịch ở nhà Tấn chưa rõ đời vua nào, năm nào.

****

-Vô Lượng Thọ Chí Chân Đẳng Chánh Giác Kinh, một quyển (một tên là Nhạc Phật Độ Kinh, một tên Cực Lạc Phật Độ Kinh).

Một bộ kinh một quyển trên là ngày tháng hai năm Ngươn Hi thứ nhất đời vua Cung Đế, do Samôn Trúc Pháp Lực người ngoại quốc (Ấn) dịch ra, đây là bản dịch thứ sáu. So với bản dịch của ngài Chi Khiêm, Khang Tăng Khải, Bạch Diên, Trúc Pháp Hộ, Cưu-ma-la-thập thì bản rất giống nhưng tên kinh và lời văn khác chút ít. Thấy trong Thích Chánh Độ Lục.

****

- Ca-diếp Kết Tập Giới Kinh, một quyển.

- Bình Sa Vương Ngũ Nguyện Kinh, một quyển (cũng gọi là Phất Sa Vương Kinh).

- Viết Nạn Kinh, một quyển (tức Việt Nạn Kinh. Các việc nói sau có khác chút ít).

Cả ba bộ gồm ba quyển trên, các Lục đều bảo là dịch ở cuối đời Tấn, không rõ năm nào, đời vua nào, do Sa-môn Thích Trung Công dịch, hoặc gọi là Cao Công. Thấy ghi ở Triệu Lục và Thủy Hưng Lục).

****

- Ca-diếp Cấm Giới Kinh, một quyển (một tên Ma-ha Tỳ-kheo Kinh, một tên là Chân Ngụy Samôn Kinh).

Một kinh một quyển này dịch ngày cuối đời Tấn, chưa rõ năm nào, đời vua nào. nói là Sa-môn Thích Thoái Công Dịch, thấy ở Thủy Hưng Lục).

- Phật Khai Giải Phạm Chí A Bạc Kinh, một quyển xuống hàng. Một quyển kinh trên ở đời Tấn Mạt, chưa rõ năm nào, đời vua nào. nói là Sa-môn Thích Pháp Dõng dịch, thấy ở Triệu Lục).

- Đại Trí Luận Yếu Lược hai mươi quyển (cũng gọi là Thích Luận Yếu Sao).

- Vấn Đại Thừa Trung Thâm Nghĩa Thập Bát Khoa gồm ba quyển (đều do ngài La-thập trả lời).

- A-tỳ-đàm Tâm Tự, một quyển.

- Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Tự, một quyển.

- Tu Hành Phương Tiện Thiền Kinh Tự, một quyển.

- Tam Pháp Độ Tự, một quyển.

- Pháp Tánh Luận, một quyển.

- Minh Báo Ứng Luận một quyển.

- Thích Tam Báo Luận, một quyển.

- Biện Tâm Thức Luận, một quyển.

- Bất Kính Vương Giả Luận, một quyển.

- Sa-môn Tổ Pháp Luận, một quyển.

- Đại Trí Luận Tự, một quyển (Vua Tần là Dao Hưng yêu cầu dịch).

- Phật Ảnh Tán, một quyển.

Cả mười bốn bộ gồm ba mươi lăm quyển trên, ngày đời vua Hiếu Võ và An Đế, ở Lô Sơn do ngài Sa-môn Thích huệ Viễn thuật chế. Viễn là người ở Nhạn môn, họ Cổ. Năm lên hai mươi mốt tuổi gặp được ngài Thích Đạo An liền cho đúng là thầy mình. Khi nghe Đạo An giảng kinh Bát-nhã, Viễn thưa rằng: Cả chín dòng Nho đạo đều là vỏ trấu cả. Bèn ném bỏ trâm đang cài đầu ngày cỏ rác rồi tự nhận giềng mối Đại Pháp là trách vụ của mình. Khi nghe ngài La-thập ngày Quan ải, liền gửi thư đến giao hảo rằng: Thích huệ Viễn tôi cúi lạy ngài, năm rồi tôi nhờ ơn Diêu Tả quân giúp đỡ sách vở giấy bút. Nay xin hỏi nhân giả ngày xưa đất nước khác nhau, muốn gặp phải vượt nghìn trùng. Bây giờ dù tiếng nói chưa thông hiểu nhau, chỉ mới nghe hơi hớm đã vui lắm rồi. Nay ngài đã mang báu vật (Phật pháp) đến đây, thì trong một ngày cả chín ngựa cũng khó mang hết cả nỗi niềm mừng kính, luôn nhọc nhằn nơi mắt ngóng trông chờ đợi. Cây Chiên đàn đem trồng nơi khác thì mọi vật xung quanh cũng sẽ thơm lây, ngọc Ma-ni rực chiếu thì các ngọc báu cũng hấp thụ được ánh sáng ấy. Vả đã nguyện nhiều mà không chuyên làm việc tốt trọn vẹn, thì ngài Long Thọ đâu riêng nổi bật hơn người trước. Vả xưa nay áo mới may (Cảnh y tài) nên lên tòa cao mà mặc.

Ngài La-thập đáp thư: Lão già Cưu-ma-la này xin kính lễ, đã chưa từng gặp mặt chuyện trò, lại văn từ cách trở sự hiểu nhau chưa thông nhịp cầu, duyên ý chưa nối. Nay vừa mới đến nơi huống nữa phong đức được tiếp nối chỉ là thô thiển, ngài hà tất phải quá khen mà che lấp lời của trăm kinh. Sau này Đông phương tất sẽ có Hộ Pháp Bồ-tát. Nhân giả hãy cố gắng, khéo quảng bá việc này. Phàm tài năng cần đủ cả năm thứ là phước đức, giới hạnh, học rộng, biện tài và trí huệ sâu sắc. Nếu người nào gồm đủ thì đạo pháp hưng thạnh, nếu ai chưa đủ thì tất phải ngưng trệ. Nhân giả là kẻ đầy đủ tài năng, cho nên lời thư rất thông suốt tốt đẹp. Do đó việc phiên dịch là truyền đạt tâm ý thì đâu thể hết được.

Vài lời thô thiển xin đáp lại ý ngài. Nhọc công ngài quá so sánh Cảnh Y Tài, nếu lúc muốn lên Pháp tòa thì mặc ngày tất sẽ đúng ý của Như Lai, chỉnh e người không xứng đáng với vật chỉ lấy làm thẹn mà thôi. Từ nay xin được cùng trao đổi lời vàng ngọc để được thấm nhuần pháp khí. Cùng xin tặng nhau một bài kệ:

Đã không còn nhiễm lạc

Tâm được thiện nhiếp chăng? Nếu được không tán loạn Thâm nhập thật tướng chăng Trong tướng không rốt ráo Tâm không có chỗ vui

Nếu vui Thiền Trí huệ

Là Pháp tánh không chiếu Hư dối đều không thật Cũng chẳng chỗ dừng tâm. Pháp Nhân giả đã đắc.

Xin bày chỗ thiết yếu.

Ngài huệ Viễn cũng đáp lại bằng một bài kệ:

Gốc chánh còn theo ai? Bến bờ đâu mà diệt

Một mảy may cảnh động Sụp độ cả núi non

"Hoặc tưởng" cứ nối nhau Gặp Lý liền ngưng trệ.

Nhân duyên tuy không chủ Mở đường há một đời?

Giờ không biết người giỏi Ai sẽ nắm huyền cơ

Hỏi đến còn mênh mang Hẹn nhau ngày bóng xế.

Trước đây ở Trung Quốc chưa nghe nói tiếng Nê-hoàn thường trú, mà chỉ nói chữ thọ mạng dài lâu. Viễn bèn than rằng: Phật là bật cao tột, đã tột cao thì tất không biến đổi, lý của không biến đổi há lại có cùng tận được sao? Nhân đó viết quyển Pháp Tánh Luận mà bảo rằng: Chỗ cao tột nhất lấy bất biến làm tánh, đã được Tánh thì lấy thể cùng cực làm Tông chỉ". Ngài La-thập thấy lời luận ấy khen rằng: Người ở vùng biên giới chưa hề thấy có kinh điển, mà cùng lý đã họp, đâu chẳng diệu kỳ lắm ư? Chúa Tần là Diêu Hưng rất quý trọng khâm phục Phong cách và Tài đức của huệ Viễn, nên luôn ân cần viết thư thăm hỏi liên tiếp biếu tặng... Khi Thích Luận vừa mới ra, Hưng đưa Luận đến và gởi thư bảo nên viết Tựa Luận để lưu truyền cho kẻ hậu học. Tiếng tăm của huệ Viễn vang xa đến các lân quốc. Ngài nhận thấy Trí Độ Luận câu văn quá rắc rối dài dòng khiến kẻ mới học khó hiểu. Bèn sửa sang tóm tắt các điều cương yếu soạn thành hai mươi quyển, lời tựa rất sâu sắc tao nhã giúp kẻ tìm học nhẹ bớt nửa công khó nhọc.

Lúc bấy giờ vua Hoàn Huyền tây chinh Ân Trọng Kham, muốn Viễn xuống núi để cùng diện kiến. Viễn lấy cớ bệnh để từ chối. Huyền đích thân lên núi, kẻ tả hữu tâu rằng: Ngày xưa Ân Trọng Kham cũng đã ngày núi lạy Viễn, vậy xin bệ hạ chớ kính trọng.

Huyền bảo: Sao có lý đó được, Trọng Kham vốn là kẻ đã chết rồi.

Khi Huyền ngày gặp Viễn thì bất giác kính trọng.

Huyền thưa: Nếu không giết hại gây thương tổn thì làm sao dẹp tan được.

Viễn đáp: Nên lập thân hành Đạo.

Huyền khen là hay nhưng không dám trình bày ý định của mình ra. Bèn nói việc chinh phạt. Viễn làm thinh không đáp.

Huyền lại hỏi: Ngài chẳng cầu mong điều gì sao?

Huệ Viễn nói: Mong cho thí chủ luôn được an ổn và người khác cũng thế!"....

Huyền xuống núi bảo kẻ tả hữu rằng: Từ lúc mới sinh đến nay thật chưa thấy ai như vị này. Về sau Huyền muốn sa thải chúng Tăng, lại khiến Samôn phải tôn kính vua chúa, bèn viết thư cho Viễn để quyết nghi.

Ngài huệ Viễn đáp vắn tắt rằng: Áo ca-sa không phải là sắc phục của Triều nhà Tống, Bình Bát cũng nào phải là vật của Long Miếu. Nhân đó mà viết bộ luận về Sa-môn không kính vua, gồm có năm thiên. Văn rất đầy đủ trong truyện tập. Từ đó Sa-môn được hoàn toàn được ngoại lệ. Kịp khi Huyền chạy về phía Tây thì An Đế trở về Đông, ra chiếu ân cân ủy lạo công lao khắp nơi. Ở Trần Quận có Tạ Linh Vận ỷ tài kiêu ngạo, trên đời ít tôn phục ai. Nhưng chỉ một lần gặp được ngài huệ Viễn liền kính cẩn tâm phục. Ngài huệ Viễn bên trong thì thông suốt Phật lý, bên ngoài hiểu rõ các sách. Những kẻ dự học không ai là chẳng nương tựa noi gương. Ngài huệ Viễn ngụ ở Lô Sơn hơn ba mươi năm, ảnh ngài chưa hề xuống núi, dấu ngài chẳng lẫn ngày đời. Ngài chỉ chuyên việc viết

Luận Tựa và soạn bài Minh lời tán khen Tượng Phật, hoặc Thi thư… tập họp thành mười quyển, hơn năm mươi thiên. Càng được đời quý trọng nhưng vẫn coi thường không để ý đến.

****

- Thần Vô Hình Luận một quyển.

- Bộ luận một quyển trên, ngày đời vua Nguyên Đế, ở Ngõa quan tại Dương đô, do Sa-môn Trúc Tăng Phu soạn ra. Lúc bấy giờ bọn Dị học đều cho rằng tâm thần có hình tướng nhưng chỉ kỳ diệu hơn muôn vật mà thôi. Tùy theo cách nói năng mà đánh đổ nhau, tà chánh khó luận, lấy bỏ không biết theo đâu. Ngài Tăng Phu nhân đó viết ra luận này. Luận ấy tóm lược rằng: Cái gì có hình thể tất có số lượng, nếu có số lượng tất phải có hết. Thần đã không hề hết cho nên biết thần không có hình thể. Lúc bấy giờ bọn biện luận về hình trạng tuy có lăng xăng tranh cãi nhau nhưng thấy Lý đã có ý chỉ nên đều thích ý tin phục.

****

- Duy-ma-cật Tử Chú Kinh, năm quyển.

- Cùng Thông Luận, một quyển.

Cả hai bộ gồm sáu quyển trên, ở Đông lâm tại

Lư Sơn, do Sa-môn Thích Đàm Tiên soạn. Đàm Tiên là đệ tử của ngài Huệ Viễn, rất có tài học.

****

- Tức Sắc Du Huyền Luận, một quyển.

- Biện Tam Thừa Luận, một quyển.

- Thích Mông Luận, một quyển.

- Thánh Bất Biện Tri Luận, một quyển.

- Bổn Nghiệp Kinh Tự, một quyển.

- Bản Khởi Tứ Thiền Tự, một quyển.

- Đạo Hạnh Chỉ Quy, một quyển.

Cả bảy bộ gồm bảy quyển trên, ngày đời vua Ai Đế, do Sa-môn Chi Độn soạn ra. Độn tự là Đạo Lâm, tuổi nhỏ tài cao, đàm luận giỏi về danh lý. Tạ An Vương là Hiệt Lưu Khôi Phục Ân Hạo, Hứa Tuân, Tức Siêu, Tôn Xước, Hoàn Ngạn và Biểu Vương Kỉnh Nhân Hà đó Đạo Vương Văn Độ, Tạ Trưởng Hà, Viên Ngạn Bá… đều thuộc về dòng họ một đời danh gia. Họ là những kẻ ham mê niềm vui thoái trần mỗi người đều sống chốn sơn lâm, chọn việc Đắc Tánh là chỗ đến. Ngài đã nhiều phen được vua triệu vời mà từ chối mãi vẫn không khỏi nên đành phải dấn thân ngày chốn Đế Kinh. Tức Siêu cùng thân hữu thư từ cho nhau rằng: Ngài Đạo Lâm Pháp sư thần lý thông suốt, riêng ngộ lẽ Huyền diệu cao tột, tiếp nối làm sáng rỡ đạo pháp hơn cả trăm năm, khiến Chân lý còn mãi không mất chỉ có một người ấy mà thôi. Ngài Đạo Lâm ở chốn Kinh sư trải suốt ba năm, sau đó muốn trở về Sơn Đông dâng thư cáo từ. Cuối cùng bảo rằng: "Kẻ hèn hạ cỏ bồng cỏ tất chưa ngộ được ánh sáng trời rực rỡ, lắm phe vâng lệnh Thánh chỉ về ở Đế đô, tới lui đều lầm lỗi, không biết là mầm nguy. Từ khi đến ở chốn cung đình nhờ vua thương tưởng chỉ dẫn, lo toan thì dùng Tân lễ, khuyên răn thì chỉ nhắc nhở nhẹ nhàng. Mỗi lúc càng thẹn tài hèn, trệ lý vì không biết điều mới. Không đủ để đối bày phép lớn vì việc thấy nghe bị lấp kín. Khúm núm hầu người mồ hôi dầm dề ướt chiếu. Ngày xưa bốn ông đến Hán làm rạng rỡ nước Ngụy. Việc xuất xử đều có lý do, khi nói im luôn đúng lúc. Nay kẻ hèn này đức không sánh bằng người xưa, động tịnh đều sai trái, hồn lang thang nơi đất cấm, nói năng ồn náo tai vua. Sắp nguy khốn chẳng biết dựa ngày đâu, nào có tài cán gì? Vả chăng năm tháng nhàn ha rảnh rang nên cảm thán như thế. Huống lại các bạn đồng chí hướng thì phân tán xa xôi, mãi ngóng đầu trông về Đông hỏi ai không thương nhớ. Vậy kính mong lượng trên bệ hạ thương tình đặc ân cho thần trở về chốn sơn lâm đạm bạc, nhờ tiếng vượn chim mà di dưỡng tinh thần rất âu lo về chức vụ giao phó. Chỉ lộ bày cái nghe vụng và sự thấy ngu muội của mình. Gói sẵn lương khô chỉ mong đợi ngày được về quê, một lòng chờ đợi chiếu chỉ thương tình... ". Liền được vua chấp thuận.

Một hôm có người tặng Độn (ngài Đạo Lâm) con ngựa, Độn nhận lấy và nuôi. Bấy giờ có kẻ chê cười. Độn đáp: Bần Đạo rất thích thần tuấn (ngựa tài) nên nuôi như thế. Lại có người đem cho chim Hạc. Độn bảo Hạc rằng: Mày là loài cao bay giữa khoảng trời xanh, đâu thể làm vật vui tai mắt cho người, bèn thả bay đi. Sách của ông gồm có mười quyển rất thạnh hành trên đời.

- Tỳ-đàm Chỉ Quy, một quyển.

- Một quyển trên ngày đời Ai Đế, do Sa-môn Trúc Tăng Độ soạn ra.

Độ vốn họ Vương, tên Hy, tự là Huyền Tông, người Đông Hoàn.

Tuy mồ côi cha từ bé nhưng thiên tư sớm phát. Đến năm mười sáu tuổi thì tinh thần sáng láng tỏ rõ là kẻ khác thường, tánh tình hiền lành ôn hòa, mọi người đều mến chuộng. Ở một mình nuôi mẹ nên tiếng hiếu hạnh đồn xa. Con gái của Dương Đức Thận, người cùng Quận vừa đến tuổi cập kê. Nàng vốn là con gái nhà gia tộc, tên chữ là Thiều Hoa, dung nhan đoan chánh lại giỏi về sách sử, cùng tuổi với Độ. Lúc đầu khi nói việc hôn nhân thì cả hai đều đồng ý. Kịp khi chưa thành lễ thì mẹ Thiều Hoa qua đời, không lâu cha cũng quy tiên. Mẹ của Độ cũng vừa tạ thế. Độ thấy cuộc đời quả thật vô thường bỗng nhiên cảm ngộ, liền bỏ tục đi xuất gia đổi tên là Tăng Độ. Dấu kín vết trần tìm phương xa mà du học. Thiều Hoa vừa ngày tang khó, tự nghĩ chỉ có Nghĩa Tam Tùng, không thể có đạo đứng riêng, bèn viết thư cho Độ bảo rằng: Tóc da không nên hủy bỏ, nối giỏi cúng tế chở bỏ bê. Phải nên nghĩ đến thế gian mà đổi chí cao xa để làm vinh hiển cho đời. Xa thì xứng với linh xưa của Tổ khảo, gần thì thỏa ước nguyện của tình người!".

Bèn tặng cho ngài năm bài thi. Trong đó có một thiên nói rằng:

- Đại đạo tự vô cùng; trời đất vốn dài lâu. Đá to đâu thể mòn, hạt cải nhiều khó đếm. Thế gian một đời người, phiêu bồng như làn gió thoảng qua khung cửa sổ. Hoa đâu chẳng xinh tươi, trời chiều làm héo úa. Sông vắng vang lời ngâm. Chiều về nghĩ mang mang tiếng trống từ non cao, âm thanh vui rộn rã. Thức ăn ngon thích khẩu, lụa là đẹp thân hình, đầu lấp lánh mão hoa... Các thứ đang như thế, sao tự nhiên bỏ đi? Thích "không" đành hại "có". Đừng cho thiếp chấp nê chỉ mong chàng thương xót!".

- Độ viết thư đáp rằng: Phàm thờ vua là để trị yên một nước, còn bổn phận hoằng đạo vì cốt cứu độ vạn bang. Phụng dưỡng cha mẹ là trọn đạo một nhà, còn bổn phận hoằng đạo là muốn cứu giúp ba cõi. Không tổn hại tóc da nói tổn hại chỉ là lời nói cạn cợt ở thế tục. Hiềm vì sức tôi hạn hẹp, đức quá cao xa chưa thể gồm đủ, lấy đó mà rất tủi thẹn. Song chất cỏ mãi thì cũng thành non, ấy cũng do dành dụm từ cái nhỏ nhặt. Vả lại mặc ca-sa chống tích trượng, uống nước suối trong, ngâm vịnh kinh Bát-nhã, dù y phục sang đẹp của bậc Vương tôn, thức ăn quý hiếm bát trân, tiếng đàn khua ngọc chạm leng keng hay màu sắc lòe loẹt, chẳng dễ gì đổi được. Nếu như thích hợp với đạo mầu thì xin cùng hẹn ở Nê-hoàn. Vả lại lòng mỗi người một khác.

Nàng thì chẳng mến đạo, mà tôi thì lại chẳng thích đời. Dương thị mãi mãi chia lìa, nhân duyên muôn đời từ nay dứt hẳn. Tuổi tác mỗi ngày càng muộn, thời gian không ở mãi cùng ta. Người học đạo phải lấy vô thường làm chí cả, kẻ xử thế nên coi đúng lúc là thời cơ. Nàng tuổi xuân đức độ đều đủ đầy hãy mau tìm nơi yêu mến. Chớ vì một Đạo sĩ tâm đầy kinh kệ mà ngồi đợi mãi, uổng mất cả tuổi thanh xuân! Rồi đáp thơ năm thiên và tặng lại một bài rằng:

Cỏ vận không dừng yên.
Năm tháng chợt qua nhanh
Đá lớn rồi sẽ hết
Hạt cải có là bao.
Bởi trôi mãi không dừng
Nên dòng sông vang tiếng
Chẳng hạn tuổi thanh xuân
Bạc đầu vẫn ca hát.
Áo vải đủ ấm thân
Cần chi tơ lụa đẹp
Nay đời bảo rằng vui
Ngày mai sẽ thế nào?
Tội phước chính do mình.
Đâu đổ cho ai khác!

Thấy Độ đã quyết chí sắt đá khó thể lay chuyển nổi, Thiều Hoa cảm ngộ được liền tin tưởng sâu chắc. Và Độ càng tinh chuyên Phật pháp, giảng giải các kinh sách. Do đó đã soạn quy chỉ giải thích về A-tỳ-đàm.

- Ngụy Thế Lục Mục, một quyển.

- Ngô Thế Lục Mục, một quyển.

- Tấn Thế tạp Lục, một quyển.

- Hà Tây Lục Mục, một quyển.

Cả bốn bộ Mục Lục Kinh gồm bốn quyển trên đều do Đệ tử của ngài Thích huệ Viễn là Thích Đạo Lưu soạn ra, ở Đông lâm tại Lô Sơn. Nhưng việc chưa ngày thì bị bệnh mà viên tịch. Bạn đồng học là Trúc Đạo Tổ Nhân đó đã hoàn thành, lưu hành rộng rãi trên đời.

- Kinh Luận Đô Lục, một quyển.

- Một quyển Lục trên, ngày đời vua Thành Đế, ở núi Dự chương, do Sa-môn Chi Mẫn Độ, khảo sát chung tất cả mục lục các kinh từ xưa đến nay, tuyển chọn soạn thành Bộ Độ Lục này.

- Nhân Vật Thủy Nghĩa Luận, một quyển.

- Một bô luận một quyển trên, ngày đời vua Thành Đế, do Sa-môn Khang Pháp Sướng viết ra. Pháp Sướng, thường cầm theo cây phất trần, khi gặp được khách danh tiếng thì nhanh chóng đàm luận suốt ngày. Ông Dữu Ngươn Quy hỏi Sướng rằng: "Vì sao thường mang theo cây phất trần? Sướng đáp: Kẻ thanh liêm không cầu người tham lam không cho, nên cây phất trần luôn có mặt".

- Cao Dật Sa-môn Truyện, một quyển.

- Bộ truyện một quyển trên ngày đời vua Hiếu Võ Đế, ở núi Diệm đông ngự, do Sa-môn Trúc Pháp Tế soạn ra.

- Lập Bổn Cửu Thiên, một quyển.

- Lục Thức Chỉ Quy Thập Nhị Thủ, một quyển. Cả hai quyển trên ngày đời vua Hiếu Võ Đế, tại chùa Thượng minh ở Kinh châu, do Sa-môn Thích Đàm Vi viết ra. Ngài Đàm Vi vốn là đệ tử của ngài Đạo An. Ngài thường sai các sư đi giáo hóa để thuyết giảng tạo ích lợi cho mọi người. Cứ mỗi lần pháp luân một lần chuyển thì trắng đen chuyển đổi, luôn tự suy nghĩ cố tìm hiểu nguyên do rồi vẽ hình để đó. Lại luôn tịnh niệm lễ bái. Lúc đó Giang Lăng nữ sĩ đều hướng về phương Tây mà kính quý Ấn Thủ Bồ-tát. Hoặc hỏi pháp sư Đạo hóa của pháp sư so với Hòa thượng như thế nào? Đàm Vi đáp: Hòa thượng có hạnh lực bên trong sâu cạn khó suy lường, duyên bên ngoài thì có rất nhiều việc thần nghiệm. Tôi chỉ là một giọt nước nhỏ đâu có thể sánh được với nước của sông biển ư!

- Di Giáo Tam-muội Kinh, hai quyển (hoặc gọi là Di Giáo Tam-muội Pháp Luật Kinh).

- Vị Tằng Hữu Nhân Duyên Kinh, hai quyển (Hoặc gọi tắt là Vị Tằng Hữu Kinh).

- A-na-hàm Kinh, hai quyển.

Na Tiên Kinh, hai quyển (hoặc ba quyển).

- Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh, một quyển.

- Tam Thế Tam Thiên Phật Danh Kinh, một quyển.

- Thiên Phật Nhân Duyên Kinh, một quyển.

- Ngũ Tam Phật Danh Kinh, một quyển.

- Bát Bộ Phật Danh Kinh, một quyển.

- Thập Phương Phật Danh Kinh, một quyển.

- Hiền Kiếp Thiên Phật Danh Kinh, một quyển (chỉ có Phật Danh cùng với bản dịch "Tứ Đế Kinh Thiên Phật Danh" của ngài Đàm Vô Lan thì khác tên

- Xưng Dương Bách Thất Thập Phật Danh Kinh, một quyển (hoặc gọi tắt là Bách Thất Thập Phật Danh Kinh).

- Nam Phương Phật Danh Kinh, một quyển.

- Diệt Tội Đức Phước Phật Danh Kinh, một quyển.

- Tỳ-kheo Chư Cấm Luật Kinh, một quyển (hoặc không có chữ Kinh).

- Ma-ha Tăng-kỳ Luật Tỳ-kheo Yếu Tập, một quyển (hoặc gọi Tăng Kỳ Bộ Tùy Dụng Yếu Tập Pháp).

- Ưu-ba-ly Vấn Phật Kinh, một quyển.

- Sa-di Oai Nghi Kinh, một quyển.

- Tỳ-kheo-ni Thập Giới Kinh, một quyển.

Thọ Thập Thiện Giới Kinh, một quyển.

- Sa-di-ni Giới Kinh, một quyển.

- Hiền Giả Ngũ Phước Kinh, một quyển.

- Hiền Giả Ngũ Giới Kinh, một quyển (Hoặc gọi Hiền Giả Oai Nghi Pháp).

- Ưu-bà-tắc Ngũ Giới Kinh, một quyển-Ưu-bà-tắc Oai Nghi Kinh, một quyển.

- Ba Nhã Đắc Kinh, một quyển.

- Quán Thế Lâu Thán Kinh, một quyển.

- Bản Hạnh Lục Ba-la-mật Kinh, một quyển.

- Định Ý Tam-muội Kinh, một quyển.

- Ban Chu Tam-muội Niệm Phật Chương Kinh, một quyển.

- Du-già Tam-ma Tư Kinh, một quyển (Đời Tùy gọi là Tu Hành lược, một tên là Đạt-ma-đa-la Thiền Pháp, một tên là Ma-đa-la Bồ-tát soạn Thiền Pháp Kinh Yếu Tập).

- Thiền Định Phương Tiện Thứ Đệ Pháp Kinh, một quyển.

- Thiền Yếu Ha Dục Kinh, một quyển.

- Thất Vạn Nhị Thiên Thần Vương Hộ Tỳ-kheo Chú Kinh, một quyển.

- Thập Nhị Vạn Thần Vương Hộ Tỳ-kheo-ni Chú Kinh, một quyển.

- Tam Quy Ngũ Giới Đới Bộ Hộ Thân Chú Kinh, một quyển.

Bách Kiết Thần Vương Hộ Thân Chú Kinh, một quyển.

- Cung Trạch Thần Vương Thủ Trấn Tả Hữu Chú Kinh, một quyển.

- Trũng Mộ Nhân Duyên Tứ Phương Thần Chú Kinh, một quyển.

- Phục Ma Phong Ấn Đại Thần Chú Kinh, một quyển.

- Đại Thần Chú Kinh, một quyển.

- Triệu Ngũ Phương Long Vương Nhiếp Dịch Độc Thần Chú Kinh, một quyển (từ quyển Thất Vạn Nhị Thiên Thần Vương trở đi đến đây ở trên đều có chữ "Quán Đảnh", nay gộp thành Đại Quán Đảnh Kinh).

- Phạm Thiên Thần Sách Kinh, một quyển.

- Phổ Quang Kinh, một quyển (Hai quyển trên đều là Dược Sư, nay họp thành một bộ. Họp với Đại Quán Đảnh Kinh ở trước thành mười hai quyển).

- Thất Phật Sở Kiết Ma Du Thuật Chú, một quyển (bản dịch khác).

- Thất Phật Thần Chú, một quyển (Có Kiết Lũ Pháp là khác bản dịch).

- Ngũ Long Chú Độc Kinh, một quyển.

- Củ Xỉ Chú, một quyển (Hoặc gọi Chú Trùng Xỉ hoặc gọi Chú Xỉ).

- Đà-la-ni Chương Cú Kinh, một quyển.

Thần Vương Chú Án Ma Kinh, một quyển (hoặc không có chữ Vương). An Trạch Chú, một quyển.

- Thất Phật An Trạch Thần Chú Kinh, một quyển.

- Tam Quy Ngũ Giới Thần Vương Danh, một quyển (Đạo An bảo là Trúc Pháp Hộ Kinh mục có ba quyển thần chú. Bản Thần Vương Danh này đã kể ngày số trên, tức không phải thuộc loại mất tên người dịch).

Cả năm mươi ba kinh gồm năm mươi bảy quyển trên đều là bản mất tên người dịch trong Tăng Hựu Tam Tạng Tập Ký Thấy có bản kinh nói gồm tám trăm bốn mươi sáu bộ có tám trăm chín mươi lăm quyển đã phân tán ra ngoài và được sáp nhập ngày các Lục của các đời khác. Phần còn lại được kể ngày loại kinh mất nguồn gốc ở đời Tấn.

QUYỂN 8

KINH DỊCH ĐỜI PHÙ TẤN-DIÊU TẦN

Về hai đời Tiền Hậu Tần thì sách Phù Diêu Thế Lục chép rằng: đây là thời Quân Chủ Bá Quyền, vua làm người đứng đầu việc hoằng pháp. Từ lúc Nhà Tấn sang Giang Tả, đến khi Hung Nô đốt Lạc dương. Các vùng Y, Triền, Kinh, Vị không thể phục hồi được Đế Kinh. Ngài Phu Tử (Khổng Tử) nói rằng: Cả bốn rợ cùng xâm lược nước Trung Quốc yếu ớt, chính là đây vậy!

Phù Kiền vốn họ Võ là người xứ Đô. Nhân vì hai nhà Triệu loạn tranh chiếm nhau, nên con cháu của Quan Tây thừa cơ kế vị xưng Đế, gọi là nhà Tần, đóng đô ở Trường an. Đến Hàn Vĩnh Cố là chúa thứ ba thì lúc sinh ra một có ánh sáng lạ (thần quang) từ trên trời chiếu xuống đất, thấy có bài minh ở mặt sau có đề chữ Thảo Phó Thần, bèn đổi thành họ Phù. Sau khi Vĩnh Cố trị vì được mười sáu năm, lúc đó có quan Thái Sử tâu rằng có sao đức hiện ra từ cánh đồng hoang ở nước ngoài, tất sẽ có bậc Thánh nhân đến giúp nước ta, nếu được việc ấy tất sẽ lên làm vua. Nhân đó Vĩnh Cố bèn cho tìm ngài Cưu-ma-la-thập Bà ở nước Quy Tư và ngài Di Thiên Thích Đạo An ở Tương dương. Lúc đó ngài Đạo An ở Tấn, nên liền đánh Nam dương để bắt Đạo An về, đi đâu đều dẫn ngài theo để hỏi han việc chánh trị và giảng giải kinh Phật Lại đánh phía Tây để bắt ngài La-thập. Nhưng khi La-thập chưa đến thì Vĩnh Cố đã từ trần. Tính ra có đến sáu đời chúa trải qua bốn mươi bốn năm, về sau sáp nhập ngày Hậu Tần.

Diêu Trành, người Khương Nhung ở phía tây, nhân khi lên kế vị vẫn đóng đô ở Trường An, sau đổi tên là Thường An. Đến đời con của Trành là Hưng, mùa Xuân năm Hoằng Thủy thứ ba, ở sân vua có sinh cây liền cành, thì cây cảnh trong vườn Tiêu dao các rau hành đều biến thành rau Kiệu, đều khen là tốt đẹp tất ứng với điềm lành sẽ có bậc Tài Trí ngày giúp nước. Mùa Đông ngài La-thập đến Ung châu. Diêu Hưng dùng nhiều nghi lễ đãi ngộ phong làm Quốc sư. Lại càng quý kinh, mở mang kinh luận. Việc tuyên dịch thạnh hành nhất ở Chấn Đán (Trung Quốc) là ở triều đại này vậy. Khắp bốn phương các Sa-môn đều tập họp như mây đùn.

Trước đây, Trường an từ thời Tiền Hán đã bị phế bỏ cho đến đời Hưng Phù Tần, suốt khoảng thời gian ba trăm ba mươi mốt năm, triều đình, phố xá, nhà dân đều hoang vắng. Lúc đó tuy số Giàlam quy tín còn khá ít, cả hơn ba ngàn vị Đức Tăng phải ở cùng một nơi, cùng nhận lấy sự cúng dường của thiên chủ Diêu Tần. Nơi ấy người đời gọi là Đại Tự (chùa lớn), chứ thật không phải bổn danh. Trong đó dựng lên một ngôi nhà lợp tạm bằng cỏ tranh rồi lại dùng vườn Tiêu dao để làm hai nơi mà dịch thuật Pháp bảo trùm khắp xa xôi, điềm lành đã ứng nghiệm ngày việc này. Nhân đó lập thêm Tăng quan, ban bổng lộc xếp thứ trật. Đặt ra Lưỡng Đô Lục, biên tập thành năm Bộ Tăng. Sự sáng rỡ của Hưng mới bắt đầu nổi lên từ đấy. Cuối nhà Ngụy đầu nhà Chu, đường xá dần dần được chỉnh trang đôi chút. Nhân đó mà Đại tự bấy giờ chia thành bốn Già-lam (chùa): Một chùa gọi là Thảo đường. Ở phía Đông chùa Thảo đường là chùa Thường trụ. Ở phía Nam là chùa Kinh triệu vương. Về sau chùa Kinh triệu đổi tên là chùa An định quốc Phía Tây của An định quốc là chùa Đại thừa. Phía Đông của đường bên trái chùa An định thì tám góc đều có giếng lớn, tức là nhà bếp phía Đông Đại tự cũ, là nguồn nước ngọt của cả ba ngàn vị Tăng. Con cháu nối nhau ba đời vua ba mươi hai năm, rồi bị nhà Tấn diệt, sáp nhập đất ấy ngày Ngụy. Tính ra hai đời Tần gồm bảy mươi sáu năm, vì Hậu Tần trị vì mười hai năm. Ngày đời Tây Tần là Càn Quy mới diệt Phù Sùng. Theo Giáp Tý suy ra sự liên quan cũ, thì Phù Kiên bắt đầu lên ngôi ngày năm Hoàng Thủy thứ nhất, đó là năm Giáp Dần thuộc năm Vĩnh Hòa thứ mười của đời Tấn Mục Đế, cho đến năm Vĩnh Hòa thứ hai của Diêu Hoằng, tức là năm Đinh Tỵ niên hiệu Nghĩa Hi thứ ba mươi của Tấn An Đế thì nước mất. Lịch chép thật sự là sáu mươi bốn năm, Kẻ Nhung (Hồ) người Hoa, hàng tại gia xuất gia cùng dịch kinh thì có đến mười sáu người, đã dịch ra các kinh, luận, truyện, gồm một trăm sáu mươi bốn bộ với chín trăm mười bốn quyển. Kể chung thuộc cả hai đời Phù và Diêu Tần. Thế Lục chép rõ như thế. A. Các dịch giả:

* Về đời Phù Tần gồm có:

- Sa-môn Đàm-ma-trì dịch hai bộ, hai quyển Giới Bổn Đàn Văn.

- Sa-môn Thích huệ Thường dịch một bộ, một quyển Giới Bổn.

- Sa-môn đàm-ma-tỳ dịch một bộ, năm quyển Kinh.

- Sa-môn Cưu-ma-la Phật-đề dịch một bộ, hai quyển Kinh.

- Sa-môn Đàm-ma-nan-đề dịch năm bộ, một trăm mười bốn quyển kinh, tập, luận.

- Sa-môn Tăng Già Bạt Trừng dịch ba bộ, hai mươi bảy quyển kinh.

- Sa-môn Tăng-già-đề-bà dịch ba bộ, sáu mươi quyển A-tỳ-đàm.

- Sa-môn Thích Đạo An dịch hai mươi bốn bộ, hai mươi tám quyển chú giải, chí, lục.

* Về đời Diêu Tần gồm có:

- Sa-môn Trúc Phật Niệm dịch mười ba bộ, tám mươi sáu quyển kinh, luận.

- Sa-môn Đàm-ma-da-xá dịch hai bộ, hai mươi mốt quyển A-tỳ-đàm.

- Sa-môn Phất-nhã-đa-la dịch một bộ, năm mươi tám quyển luật.

- Sa-môn Cưu-ma-la-thập dịch chín mươi tám bộ, bốn trăm hai mươi lăm quyển kinh, luận, truyện.

- Sa-môn Phật-đà-da-xá dịch bốn bộ, sáu mươi chín quyển kinh, luận, giới.

- Sa-môn Thích Tăng Triệu dịch bốn bộ, bốn quyển luận.

- Sa-môn Thích Tăng Duệ dịch một bộ, một quyển mục lục.

- Sa-môn Thích Đạo Hằng dịch một bộ, một quyển luận.

B. Các bản dịch:

* Về đời Phù Tần gồm có:

- Thập Tụng Tỳ-kheo Giới Bổn, một quyển.

- Giáo Thọ Tỳ-kheo Nhị Tuế Đàn Văn, một quyển (Ngài Tăng Thuần, châu nước Quy Tư được ngài Phật Niệm đem Kinh đến chấp Văn dịch lời, ngài huệ Tường bút thọ, thấy ở Bảo Xướng Lục).

Cả hai bộ, hai quyển trên, ngày đời Tấn Giản

Văn Đế, do Tam tạng Luật sư Đàm-ma-trì (Tần dịch là Pháp huệ) người Tây Vức cùng ngài Trúc Phật Niệm ở Trường an dịch, Huệ Tường bút thọ.-Tỳ-kheo-ni Đại Giới Bổn, một quyển.

- Một bộ một quyển trên, ngày đời Tấn, Giản Văn Đế, do Luật sư Thích huệ Thường, cùng ngài Đàm-ma-trì, Trúc Phật Niệm… ở Trường an dịch ra. Nhưng Lục không chép. Bộ được dịch ra thường được gọi là Thập Tụng Giới Bổn.

- Ma-ha Bát-la Bát-nhã Ba-la-mật Kinh năm quyển (dịch năm Kiến Ngươn thứ mười tám hoặc bảy quyển, thấy ở Tăng Duệ Nhị Tần Lục).

- Một bộ năm quyển kinh trên, ngày đời Tấn, Hiếu Võ Đế, do ngài Tam tạng Sa-môn Đàm-matỳ (Tần dịch là Pháp Ái) người Thiên Trúc, cầm Đại phẩm bằng Phạm văn, ngài Trúc Phật Niệm dịch ra Văn Tần (Hán Văn). Cũng gọi là Trường An Phẩm tức lấy chỗ dịch làm tên, là bản sao chép từ kinh ngoại quốc.

- Tử A-hàm Mộ Sao Kinh, hai quyển (dịch năm Kiến Ngươn thứ mười bốn).

Một bộ hai quyển kinh này ngày đời Tấn, Hiếu Võ Đế, do Tam tạng Sa-môn Cưu-ma-la Phật-đề (Tần dịch là Đồng Giáo), người Tây Vức, ở Nghiệp tự dịch. Ngài Phật-đề cầm bản tiếng Phạm ngài Trúc Phật Niệm và ngài Phật Hộ dịch ra tiếng Tần (Hán). Các ngài Tăng Đạo, Đàm Cứu, Tăng Duệ… bút thọ.

- Trung A-hàm Kinh, năm mươi chín quyển (dịch năm Kiến Ngươn thứ hai mươi mốt, bản dịch lần thứ nhất, ngài Trúc Phật Niệm bút thọ. Thấy trong Trúc Đạo Tổ Tấn Thế Tạp Lục).

- Tăng Nhất A-hàm Kinh, năm mươi quyển (dịch ngày một tháng tư năm Kiến Ngươn thứ hai mươi, dịch theo yêu cầu của Tần Võ Oai Thái Thú tên Triệu Văn Nghiệp, dịch lần thứ nhất. Các Samôn Huệ Tung, Trúc Phật Niệm làm bút thọ. Thấy trong Tăng Duệ Nhị Tần Lục, Tăng Hựu và Bảo Xướng Lục đều ghi).

- A-dục Vương Thái Tử Hoại Mục Nhân Duyên Kinh, một quyển (Cũng gọi là Vương Tử Pháp Ích Hoại Mục Nhân Duyên Kinh. Ngày tám tháng hai ngày năm Kiến Sở thứ hai, ở thành An định vì Thượng thư lệnh Diêu Mân dịch. Thấy trong Nhị Tần Lục, một bản không có chữ Kinh, đây nên xếp ngày đời Hậu Tần vì ít phải theo nhiều).

- Tăng-già-la-sát Tập, hai quyển (Sau khi Phật diệt độ được bảy trăm năm thì Tăng-già-la-sát được tạo ra, thấy trong Bảo Xướng Lục).

- Tam Pháp Độ, hai mươi chín quyển (cùng bản dịch của ngài Tăng-già-đề-bà ở đời Tấn có khác chút ít).

Cả năm bộ với một trăm mười bốn quyển trên, ngày đời Tấn Hiếu Võ Đế, do Tam tạng Pháp sư Đàm-ma-nan-đề (Tần dịch là Pháp Hỷ) người nước Đâu-khư-lặc. dịch năm Kiến Ngươn thứ nhất, ngài đến Trường an, đọc thuộc bốn quyển A-hàm bằng tiếng Phạm, ngài Trúc Phật Niệm ghi lại bằng chữ Phạm. Đến hai mươi năm sau theo yêu cầu của vua Phù Tần dịch thành năm mươi chín quyển. Lúc ấy ngày lúc Mộ Dung Xung và Diêu Trành phản loạn, bên trong quan ải những ai chưa qua được đều bị khốn khổ.

Còn ngài A-nan-đề đi về phía Tây, chẳng biết đi đâu. Việc hoằng pháp gặp rất nhiều khó khăn, gặp duyên thì ngài cố gắng hết sức mình, thật đáng quý đáng thương.

****

- A-tỳ-đàm Tỳ-bà-sa mười bốn quyển (dịch năm Kiến Ngươn thứ mười chín-hoặc hai mươi quyển).

- Bà-tu-mật Kinh, mười quyển (dịch năm Kiến Ngươn thứ hai mươi, hoặc gọi là Tập Luận).

- Tăng-già-la-sát Tập Kinh, ba quyển (dịch ngày ba mươi tháng mười một Kiến Ngươn thứ hai mươi).

Cả ba bộ kinh hai mươi bảy quyển trên, ngày đời Tấn Hiếu Võ Đế do Tam tạng Pháp sư Tăng Già Bạt Trừng (Tần dịch là Chúng Hiện), người nước Kế Tân. Ngài đọc thuộc làu bản tiếng phạm

Ngài Đàm-ma-nan-đề trước hết chép thành văn chữ Phạm, ngài Phật-đồ La-sát truyền dịch. Các Sa-môn Huệ Tung, Sa-môn Trí Mẫn cùng với Bí Thư Lang, Triệu Văn Nghiệp bút thọ (chép ra) thành tiếng Tần (Hán).

****

- A-tỳ-đàm Bát Kiền Độ, ba mươi quyển (dịch năm Kiến Ngươn thứ mười chín. Cũng gọi là Cachiên-diên A-tỳ-đàm. Ngài Trúc Phật Niệm chuyển ngữ. Sa-môn huệ Lực, Tăng Mậu… bút thọ. Khi Phật đã diệt độ hơn ba trăm năm thì A-lahán Ca-chiên-diên viết bộ này, hoặc hai mươi quyển).

- A-tỳ-đàm Tâm, mười sáu quyển (ở Lạc dương dịch năm Kiến Ngươn. Thấy trong Tăng Duệ Nhị Tần Lục).

- Tỳ-bà-sa A-tỳ-đàm, mười bốn quyển (cũng gọi là Quảng Thuyết cũng dịch châu Lạc dương dịch ra. Thấy trong Nhị Tần Lục).

Cả ba bộ gồm sáu mươi quyển trên, do ngài Tam tạng Pháp sư Tăng-già-đề-bà, hoặc gọi là Đềhòa, đây là tiếng Phạm đọc theo giọng Sở Hạ (Tần dịch là Chúng Thiên), người nước Kế Tân dịch. Ngày đời Tấn Giản Văn Đế, họ Phù giữa năm Kiến Ngươn, ngài ngày ở Trường an để hoằng truyền chánh pháp. Trước hết ngài Tăng-già Bạt Trừng dịch bộ bà Tu-mật và cùng ngài Đàm-ma-nan-đề dịch Trung và Tăng Nhất A-hàm cùng Tam Pháp Độ. Lúc ấy nhằm lúc người Nhung, việc dịch thuật khó khăn chưa rõ ràng đầy đủ, ngài Đạo An viên tịch nên chưa kịp sửa đổi đính. Sau đó, ở Sơn đông có ngài Thanh Thiếp Đề Bà là bạn đồng học của ngài Đạo An, ngài Thích Pháp Hòa cùng đến Lạc dương. Trong khoảng bốn, năm năm nghiên cứu giảng giải các kinh trước. Khi ở Trung Quốc khá lâu dần dần thông suốt được tiếng Tần (Hán văn) mới biết các bản dịch trước đây phần lớn đều sai sót. Ngài Pháp Hòa than tiếc rằng Phật pháp rất khó gặp, nay việc dịch chưa hoàn hảo, bèn thuyết phục ngài Đề-bà cùng dịch lại các kinh trước. Như thế trong khoảng thời gian ngắn ngày đời Hậu Tần của Diêu Hưng thì pháp sự đã rất thạnh hành. Ngài Pháp Hòa trở về Tây Vức, ngài Đề-bà đến phương Nam, nên bản dịch trên lời văn trước sau có một ít chỗ không giống nhau.

****

- Bát-nhã Chiết Nghi Lược, hai quyển.

- Đại Thập Nhị Môn Chú Giải, hai quyển.

- Ấm Trì Nhập Chú Giải, hai quyển.

- Đáp Pháp Thái Nan, hai quyển.

- Quang Tán Chiết Trung Giải, một quyển.

- Quang Tán Sao Giải, một quyển.

- Bát-nhã Chiết Nghi chuẩn, một quyển.

- Khởi Tận Giải, một quyển.

- Đạo Hạnh Tập Dị Chú, một quyển.

- Tiểu Thập Nhị Môn Chú Giải, một quyển.

- Liễu Bản Sinh Tử Chú Giải, một quyển.

- Mật Tích Trì Tâm Nhị Kinh Chân Giải, một quyển.

- Hiền Kiếp Chư Độ Vô Cực Giải, một quyển.

- Nhân Bản Dục Sinh Chú Toát Giải, một quyển.

- An Ban Thủ Ý Giải, một quyển.

- Đại Đạo Địa Chú Giải, một quyển.

- Chúng Kinh Thập Pháp Liên Tạp Giải, một quyển.

- Nghĩa Chỉ Chú Giải, một quyển.

- Cửu Thập Bát Kiết Liên Ước Thông Giải, một quyển.

- Tam Thập Nhị Tướng Giải, một quyển.

- Tam Giới Hỗn Nhiên Hào Tạp Vi Lục, một quyển.

- Đáp Pháp Tướng Nạn, một quyển.

- Tây Vức Chí, một quyển.

- Tổng Lý Chúng Kinh Mục Lục, một quyển.

Cả hai mươi bốn bộ gồm hai mươi tám quyển trên do Sa-môn Thích Đạo An soạn Ngài Đạo An vốn ở Thường sơn, người Phù liễu, tục tánh là họ Vệ, gia thế thuộc hàng nho học bậc nhất. Vì sớm mất cha mẹ nên được người anh bên ngoại họ Khổng nuôi dưỡng. Năm lên bảy, khi đọc sách chỉ cần đọc lại lần hai là thuộc làu, xóm làng đều khen cho là lạ. Đến năm mười hai tuổi xuất gia thần tánh rất thông minh nhưng hình thù xấu xí, nên không được thầy xem trọng. Dù khi làm việc cực nhọc vẫn không hề oán hận, dốc lòng siêng năng trai giới đúng mức. Mấy năm về sau mới xin thầy cho mượn kinh đọc. Thầy bèn đưa cho quyển Biện Ý Kinh khoảng năm ngàn chữ. Đạo An đem kinh ra ruộng, chờ khi nghỉ việc đồng án thì lấy ra xem. Đến chiều mang kinh về trả lại thầy, lại xin được đọc quyển khác. Thầy bảo: Hôm qua kinh chưa đọc nay lại mượn nữa? An thưa: Con đã đọc ngày hết kinh rồi Thầy cho là lạ nhưng vẫn chưa tin. Bèn đưa cho quyển Thành Cụ Quang Minh Kinh gồm mười ngàn chữ. Đạo An vẫn mang kinh theo như trước, buổi chiều lại đem kinh về trả thầy. Thầy cầm kinh bắt đọc lại thì không sai một chữ. Thầy rất ngạc nhiên kinh dị. Về sau được thọ giới Cụ túc mặc tình đi đó đây tìm học. Ngày đời Tấn Hoài Mẫn nhân lánh nạn Tây đông, đầu tiên gặp được ngài Phật Đồ Trừng. Đồ Trừng vừa thấy đã khen thầm rồi cùng trò chuyện nhau suốt ngày, mọi người mới kính phục. Sau đó ngài đến Tương dương mở mang Phật pháp. Số kinh luận xưa đã dịch từ lâu nhưng phần dịch trước đây đều sai lầm, đến nỗi nghĩa lý sâu kín lệch lạc không thông suốt. Cho nên mỗi khi giảng thuyết chỉ lấy phần tựa và đại ý truyền đọc mà thôi. Ngài Đạo An bèn xem khắp hết các kinh điển, xét tìm chỗ sâu xa rồi chú thích giảng thuật hơn hai mươi bộ trước, lời tựa rất sâu sắc phong phú, lột hết ý chỉ thâm diệu, bố cục rõ ràng, văn lý thông suốt. Nghĩa lý của kinh sáng tỏ bắt đầu từ An vậy.

Lúc đó ở Tương dương có Tập Tạc Xỉ tài biện luận sắc bén trùm khắp thiên hạ lúc bấy giờ. Trước đây do Đạo An đã sớm nổi danh là bậc cao tài, bèn viết thư giao thiệp. Kịp lúc nghe An vừa đến nghỉ ngơi, liền sang thăm viếng. Khi vừa ngồi ngày liền lên tiếng đọc: "Tứ Hải Tập Tạc Xỉ". An đáp: "Di Thiên Thích Đạo An". Người đời lấy lời đáp ấy mà đặt tên ngài luôn. Sau đó Xỉ đem tặng mười quả lê, rồi cầm lấy mà ăn ngay giữa chúng. Riêng Đạo An thì cắt lê phân chia khắp mọi người không chút sai sót. Cao Bình Tức Siêu sai sứ đem biếu ngàn hộc gạo, cấp giấy sửa sách rất ân cần. Đạo An đáp thư rằng: "Gạo hao thì giác lớn, xin phiền hãy chờ đợi!".

Từ đời Hán Ngụy cho đến đời Tấn thì số kinh sách dịch ra khá nhiều mà người truyền thuật thì không đề tên tuổi, kẻ hậu sinh nếu có truy tìm khó biết được niên đại. Ngài Đạo An bèn gom chung các mục lục, tên tuổi, niên biểu của từng thời đại, nêu rõ các tác phẩm mới cũ, soạn thành kinh lục. Các kinh bấy giờ có đủ nguồn gốc căn cứ thật là do công lao ấy.

Chúa Phù Tần theo lệnh tiên nhân liền sai Phù

Phi đem mười vạn quân đánh lấy Tương dương, bắt cho được Thích Đạo An. Lúc đó ngài Đạo An trở về Trường an châu chùa Ngũ trùng. Tăng chúng số đông cả ngàn người, ngài ở đấy mà hoằng hóa Đại pháp. Chúa Phù Tần thường ra lệnh khiến ngài Đạo An lên xe đi cùng. Có kẻ can gián, vua bảo: Ta lấy thiên hạ trị vì không dễ dàng, huống chi vinh dự được ngồi cùng xe đâu có xứng với đức độ của ngài ấy. Ngài Đạo An can vua không cho đi nam chinh, vua không nghe quả nhiên bị bại trận. Lại bảo rằng: Mỗi khi Đạo An bảo dịch tiếng Phạm (Hồ) thành tiếng Tần (Hán) thì có năm lỗi gốc và ba điều không dễ:

1. Tiếng Hồ đảo hết mà dịch theo kiểu tiếng Tần là lỗi gốc thứ nhất.

2. Kinh Hồ chuộng chất mà người Tần lại thích lời văn nên truyền đạt đến tâm mọi người mà không phải văn thì không hợp, là lỗi gốc thứ hai.

3. Kinh Hồ tất cả đều ở lời ngâm vịnh, chắc chắn có đạo ngữ hoặc ba hay bốn chữ, không nệ văn nhiều, nay lại cắt bớt đi, đó là lỗi gốc thứ ba.

4. Nghĩa tiếng Hồ nếu nói thẳng thì hình như lời lẽ rối rấm, nhưng nếu tìm hiểu ngữ văn thì không khác hoặc một ngàn hay năm trăm đều cắt bỏ hết, là lỗi gốc thứ tư.

5. Sự đã họp thành thì càng nên nương nhau. Nêu lời trước rồi sau mới nói mà lại bỏ hết, đó là lỗi gốc thứ năm.

Song Trí Kinh thì tâm có ba thấu đạt. Mò mẩm mà diễn giảng lời Thánh tất phải tùy thời, mà thời thì thói tục luôn thay đổi. Nhưng sửa lại cho hay nhã của sách xưa để thích hợp với thời này là một điều không phải dễ.

Ngu và trí cách nhau như trời với vực, Thánh nhân đâu thể cùng hàng. Nay lại muốn lấy lời nói vi diệu của bậc Tiên Thánh cách ngàn năm để khiến cho hợp với lời thô tục thấp hèn của trăm đời vua, là hai điều không phải dễ.

Ngài A-nan nói Kinh cách Phật không lâu, Tôn giả Ca-diếp cùng năm trăm vị lục thông cùng nhau xem xét và ghi nhớ lại, nay đã xa cách ngàn năm mà lấy ý gần gũi thời này để suy đoán rằng các vị A-la-hán kia đã cẩn thận nói năng như thế. Người sinh tử đời nay cũng sửa y như thế, thì đâu thể biết pháp nào cao hơn. Đây là ba điều không dễ.

Đã phạm phải năm lỗi trên, ba điều không dễ này khi dịch tiếng Phạm (Hồ) thành tiếng Tần (Hán) há không cẩn thận ư? Nay không nói gì khác hơn là xin nói cho nhau biết để thông cảm mà thôi, đâu hiềm gì việc được mất. Ấy chính là điều chưa dám biết. Lại bảo rằng: Người xưa dịch kinh chỉ có Chi-sấm và An Thế Cao là xét thấu đáo được bản tiếng Phạm (Hồ), khó có ai tiếp nối, còn ngài La Xoa và Chi Việt là người khéo trau chuốt lời văn.

Phàm Thánh hiền truyền dạy thì phải nên gắng sức. Quy kính viết thư cho các quan nên vĩnh viễn noi gương răn mình. Nhưng nếu gọi Phạm là Hồ thì lời nói nhỏ mà hại gốc lớn trộm nghĩ không nên nói tiếp nữa.

* Về đời Diêu Tần gồm có:

- Xuất Diệu Kinh, mười chín quyển (dịch năm Kiến Ngươn thứ mười thấy trong Nhị Tần Lục và Cao Tăng Truyện, Bảo Xướng Lục… hoặc gọi là luận).

- Bồ-tát Anh Lạc Kinh, mười bốn quyển (dịch tháng bảy năm Kiến Ngươn thứ mười hai. Thấy trong Nhị Tần Lục, Cao Tăng Truyện, hoặc mười ba quyển).

- Thập Trụ Đoạn Kiết Kinh, mười một quyển (dịch lần thứ hai. Cùng với bản dịch tám quyển của Trúc Pháp Lan đời Hán có khác chút ít. Thấy ở Nhị Tần Lục và Cao Tăng Truyện, hoặc mười quyển).

- Tỷ Nại Gia Kinh, mười quyển (Hoặc gọi Giới Nhân Duyên Kinh Sa-môn Đàm Cảnh bút thọ. Thấy trong Kinh tựa của Thích Đạo An).

- Thập Địa Đoạn Kiết Kinh, mười quyển (dịch lần thứ hai).

- Bồ-tát Xử Thai Kinh, năm quyển (cũng gọi là Thai Kinh, thấy trong Nhị Tần Lục và Cao Tăng truyện).

- Đại Phương Đẳng Vô Tướng Kinh, năm quyển (hoặc bốn quyển, cũng gọi là Đại Vân Kinh).

- Trí Nhân Bồ-tát Kinh, ba quyển.

- Bồ-tát Phổ Xứ Kinh, ba quyển.

- Anh Lạc Bổn Nguyện Kinh, hai quyển.

- Trung Ấm Kinh, hai quyển (Thấy ở Nhị Tần Lục và Cao Tăng Truyện).

- Vương Tử Pháp Ích Hoại Mục Nhân Duyên Kinh, một quyển (dịch lần hai, cùng với bản dịch của ngài Đàm-ma-nan-đề có khác chút ít. Hoặc gọi A-dục Vương Tức Hoại Mục Nhân Duyên Kinh).

- Thập Tụng Tỳ-kheo-ni Giới Sở Xuất Bản Mạt Kinh, một quyển (Ngài Tăng Thuần ở nước Câudi có bản này, ngài Phật Niệm dịch nhưng văn rất rườm rà. Sau ngài Trúc Pháp Thái sửa lại. Thấy trong Bảo Xướng Lục).

Cả mười ba bộ tám mươi sáu quyển trên, ngày đời Tấn Hiếu Võ Đế, ở Kinh châu, do ngài Trúc Phật Niệm dịch. Ngài rất thông minh sáng láng, thuở nhỏ rất thích dạo chơi đây đó. Gia thế ngài ở Tây Hà, thông suốt cả tiếng Hoa, tiếng Phạm (Nhung). Trước đời Tần Phù, đầu năm Kiến Ngươn ngài mới ngày Trường an. Lúc đó Bí Thư Lang Triệu Chánh mời các ngài Tăng Già Bạt Trừng và Đàm-ma-nan-đề… dịch các kinh luận. Bấy giờ các danh Tăng chưa thể dịch thẳng được, mọi người đều cử ngài Trúc Phật Niệm, cả hai thứ văn và nghĩa rất sáng tỏ, đây là công lao dịch thuật của Niệm. Từ đời Hán trở lại sau ngài An Thế Cao và Chi Khiêm thì không ai hơn Niệm cả, cho nên gọi đó là vị tổ dịch thuật của hai đời Tần Phù Diêu. Trong nước hàng danh Tăng đều kính chuộng ngài. Về sau ngài tự dịch các tác phẩm như trước đã nói. Trong Cao Tăng truyện chép chỉ có năm bộ, ngoài ra các Tạp Lục khác đều ghi là tám bộ, nên cần nêu rõ ra đây.

****

- Xá-lợi-phất A-tỳ-đàm, ba mươi quyển (hoặc hai mươi quyển. Tăng Hựu bảo là do ngài Tỳ-bàsa dịch. Phòng tôi kiểm tra các truyện mới biết là do ngài Da-xá dịch. Nay căn cứ ngày truyện là đúng nên đổi lại. Thấy trong Bảo Xướng Lục).

- Sai-ma Kinh, một quyển (đời Tấn, năm Long An, ngài Đạt Quảng châu ở Bạch sa dịch theo yêu cầu của Thanh tín nữ Trương Phổ Minh, đây nên sáp nhập ngày Tấn Thế Tùy Nhân Phù Tần).

Cả hai bộ gồm ba mươi mốt quyển trên, ngày đời Tấn An Đế do Tam tạng Pháp sư Đàm-ma-daxá (Tần dịch là Pháp Xứng) người nước Kế Tân dịch. Da-xá là tên gọi, nhưng Cao Tăng truyện lại bảo: Pháp Minh do tiếng gọi làm Tự (chữ tên), so với lý thì hơi hẹp hòi. Ngày nam Nghĩa Hi, ngài ngày Trường An, cùng ngài Đàm-ma-quật-đa (Tần dịch là Pháp Tạng) người Thiên Trúc, ngày đời Tần, năm Hoằng Thủy thứ chín, đầu tiên theo yêu cầu của Diêu Hưng viết ra chữ Phạm. Đến năm thứ mười sáu ngày mùa thu mới dịch ngày, Thái tử nhà Tần là Hoằng đích thân xem xét ý nghĩa. Sa-môn Thích Đạo Tiêu viết tựa).

- Thập Tụng Luật, năm mươi tám quyển (ở Trung Tự, dịch mười bảy tháng mười năm Hoằng Thủy thứ sáu. Thấy trong Nhị Tần Lục xuống hàng). Một bộ, năm mươi tám quyển trên, ngày đời Tấn An Đế, do ngài Tam tạng Luật sư Phất-nhãđa-la (Tần dịch là Công Đức Hoa) người nước Kế Tân, nổi tiếng về trì giới. Ngài đi giáo hóa khắp nơi. Khi ngài Đa-la đến nơi thì Diêu Hưng liền triệu ngày, cùng các bậc Danh đức tăng hơn sáu trăm vị ở Thường an, luôn mời ngài Đa-la đến nghỉ ngơi ở Trung Tự. Ngài đọc Thập Tụng Luật bằng Phạm văn, ngài Cưu-ma-la-thập dịch sang Tần văn (Hán). Chỉ mới dịch được hai phần ba thì ngài Đa-la an nhiên viên tịch, mọi người đều thương tiếc. Về sau ngài La-thập cùng ngài Đàm-ma-lưu-chi (Tần dịch là Pháp Hy) đọc và dịch ngày hết.

****

- Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, ba mươi quyển (bản xưa có hai mươi quyển. Tăng Duệ Nhị Tần Lục bảo rằng: Khi dịch Đại Phẩm (Đại Tạng) thì Thiên Vương Diêu Hưng đời Tần tụ cầm bản kinh xưa, ngài La-thập viết ra Phạm văn, ngài Phật

Niệm chuyển ngữ ra Hán văn. Tăng Duệ, Tăng Triệu bút thọ cùng viết lời tựa. Do đây mà biết là bản dịch trước, nay là ba mươi quyển).

- Đại Phương Đẳng Đại Tập, ba mươi quyển (dịch lần thứ hai. So với bản dịch hai mươi bảy quyển của ngài Chi-sấm đời Hán thì khác chút ít. Thấy trong Lý Khuếch Lục, nay có Biệt Lục và Nhị Tần Lục. Trên tên Kinh đều có chữ "Tân", nên biết nói là dịch từ bản cũ. Nay có sáu mươi quyển).

- Phóng Quang Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, hai mươi quyển (dịch lần thứ hai, thấy trong Biệt Lục).

- Kiểm Chư Tội Phước Kinh, mười quyển (thấy trong Biệt Lục).

- Tiểu Phẩm Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, mười quyển (dịch lại ngày ngày năm Hoằng Thủy thứ mười. Hoặc bảy quyển. Ngài Tăng Duệ bút thọ. Thấy trong Nhị Tần Lục. So với bản dịch Bồ-đề Kinh bảy quyển, Biệt Lục nói Tăng Duệ viết tựa thì đồng nhau).

- Hoa Thủ Kinh, mười quyển (một tên là Nhiếp Thiện Căn Kinh, dịch năm Hoằng Thủy thứ tám. Thấy trong Nhị Tần Lục).

- Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, bảy quyển (châu Đại Tự dịch năm Hoằng Thủy thứ tám. Ngài Tăng Duệ bút thọ và viết tựa. Dịch lần thứ hai. So với bản chánh Pháp Hoa của ngài Pháp Hộ dịch đời Tấn thì bản đồng chỉ khác người dịch, mới cách nhau trăm năm. Thấy trong Nhị Tần Lục).

Hiền Kiếp Kinh, bảy quyển (dịch năm tháng ba năm Hoằng Thủy thứ tư. So với bản dịch của ngài Pháp Hộ thì giống nhiều khác ít. Ngài Đàm Cung bút thọ, thấy trong Nhị Tần Lục. Một tên là Hiền Kiếp Tam-muội Kinh, một tên là Hiền Kiếp Định Ý Kinh, gồm cả ba tên).

- Thập Trụ Kinh, năm quyển (Ngài La-thập cùng ngài Phật-đà-da-xá dịch, hoặc bốn quyển. Thấy trong Nhị Tần Lục).

- Tư Ích Kinh, bốn quyển (cũng gọi là Tư Ích Phạm Thiên Sở Vấn Kinh, ở vườn Tiêu dao dịch ngày một tháng mười hai năm Hoằng Thủy thứ tư, dịch lần thứ hai. Cùng với Thắng Tư Duy Kinh của ngài Pháp Hộ dịch thì bản đồng mà khác người dịch. Thấy trong Nhị Tần Lục, Tăng Duệ viết tựa).

- Đại Thọ khẩn-na-la Kinh, bốn quyển (dịch lần thứ hai. So với bản Đồn Chân Đà-la-ni Kinh của ngài Chi-sấm thì bản đồng chỉ có khác người dịch. Lời văn lại tóm tắt hoặc rộng dài).

- Trì Thế Kinh, bốn quyển (dịch lần thứ hai. So với bản Trì Nhân Bồ-tát Sở Vấn Kinh của ngài Pháp Hộ dịch thì bản đồng chỉ khác người dịch, lời văn có một ít chỗ rộng hơn. Thấy trong Nhị Tần Lục).

- Duy-ma-cật Kinh, ba quyển (ở Đại Tự dịch năm Hoằng Thủy thứ tám, dịch lần thứ tư. So với bản dịch của các ngài Phật Điều, Chi Khiêm, Pháp Hộ… thì giống nhiều khác ít. Ngài Tăng Triệu bút thọ. Thấy trong Nhị Tần Lục. Ngài La-thập tự chú giải, ngài Tăng Duệ viết tựa).

- Phật Tạng Kinh, ba quyển (cũng gọi là Tuyển Trạch Chư Pháp Kinh, hoặc bốn quyển, dịch ngày mười hai tháng sáu năm Hoằng Thủy thứ bảy.

Thấy trong Nhị Tần Lục).

- Bồ-tát Tạng Kinh, ba quyển (một tên là Phúlâu-na Vấn Kinh, một tên là Đại Bi Tâm Kinh, hoặc hai quyển. Dịch năm Hoằng Thủy thứ bảy. Thấy trong Nhị Tần Lục).

- Xưng Dương Chư Phật Công Đức Kinh, hai quyển (một tên là Tập Hoa Kinh, dịch năm Hoằng Thủy thứ bảy. Thấy ở Nhị Tần Lục).

- Thiền Kinh, ba quyển (một tên Bồ-tát Thiền Pháp Kinh. So với quyển Tọa Thiền Tam-muội Kinh thì giống nhau. Dịch năm tháng một năm Hoằng Thủy thứ tư. Thấy trong Nhị Tần và Bảo Xướng Lục).

- Thiền Bí Yếu Kinh, ba quyển (Thấy trong Biệt Lục hoặc không có chữ kinh, hoặc nói là một quyển).

- Thiền Pháp Yếu Kinh, ba quyển (trước đã dịch, năm Hoằng thủy thứ chín thì sửa lại cho đúng. Tăng Duệ viết tựa).

- A-xà-thế Kinh, hai quyển (thấy trong Biệt Lục).

A-lan-nhã Tập Thiền Pháp Kinh, hai quyển (thấy trong Biệt Lục hoặc không có chữ kinh. So với Bộ Tọa Thiền Tam-muội Kinh thì đồng bản mà khác người dịch).

- Thiền Yếu Kinh, hai quyển (một tên là Thiền Pháp Yếu Giải thấy trong Biệt Lục).

- Phát Bồ-đề Tâm Kinh, hai quyển (thấy trong Lý Khuếch Lục).

- Tự Tại Vương Kinh, hai quyển (năm Hoằng Thủy thứ chín, ở nhà Thượng Thư Lệnh, Thường Sơn Công Diêu Hiển dịch lần đầu ngài Tăng Duệ bút thọ và viết tựa. So với bản Đại Thập Tự Tại Vương Phẩm thì không giống. Trường Ngũ chứng rằng câu văn dịch ra có thiếu sót ít nhiều. Thấy ở Nhị Tần Lục).

- Thiện Tín Ma-ha Thần Chú Kinh, hai quyển (Thấy ở Lý Khuếch Lục).

- Bồ-tát Ha Sắc Dục Kinh, một quyển.

- Thủ-lăng-nghiêm Kinh, hai quyển (dịch lần thứ bảy. So với các bản dịch của Chi-sấm, Chi Khiêm, Bạch Diên, Pháp Hộ, Thúc Lan và Dõng Phục Định thì hai kinh bản đồng mà khác người dịch. Lại đời Thục và sau này có thêm hai bản nữa họp thành chín bản dịch, văn mỗi bản đều khác).

- Phạm Võng Kinh, hai quyển (năm Hoằng Thủy thứ tám, ở Thảo đường, có ba ngàn học sĩ sau cùng dịch ra một phẩm kinh này. Bản tiếng Phạm có một trăm mười hai quyển, sáu mươi mốt phẩm. Khi dịch ngày thì Nhóm Dung Ảnh ba trăm người… cùng lúc thọ mười giới Bồ-tát. Thấy bài tựa trước kinh do ngài Tăng Triệu bút thọ).

- Đại Thiện Quyền Kinh, hai quyển (Thấy ở Lý Khuếch Lục).

- Chư Pháp Vô Hành Kinh, hai quyển (hoặc một quyển, thấy ở Nhị Tần Lục).

- Vô Lượng Thọ Kinh, một quyển (một tên là A-di-đà Kinh, dịch ngày tám tháng hai năm Hoằng Thủy thứ tư, dịch lần thứ năm. So với bản dịch của các ngài Chi Khiêm, Khang Tăng Khải, Bạch Diên, Pháp Hộ… thì bản đồng mà văn có rộng hẹp, khác nhau chút ít. Thấy trong Nhị Tần Lục).

- Di-lặc Hạ Sinh Kinh, một quyển (cũng gọi là Di-lặc Thọ Quyết Kinh. Thấy trong Nhị Tần Lục).

- Di-lặc Thành Phật Kinh, một quyển (dịch năm Hoằng Thủy thứ tư, dịch lần thứ hai. So với bản dịch của ngài Pháp Hộ thì giống nhiều khác ít. Thấy ở Nhị Tần Lục).

- Kim Cang Bát-nhã Kinh, một quyển (chính là quyển Phật tại Xá-vệ Quốc. Thấy trong Nhị Tần Lục).

- Nhân Vương Hộ Quốc Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, một quyển (thấy trong Biệt Lục, dịch lần thứ hai. So với bản dịch của Trúc Pháp Hộ đời Tấn thì văn có khác chút ít).

Bồ-đề Kinh, một quyển (một tên là Văn-thùsư-lợi Sơ Vấn Bồ-đề Kinh, một tên là Bồ-đề Vô Hạnh Kinh, một tên Già-da Đảnh Kinh).

- Di Giáo Kinh, một quyển (một tên là Phật Thùy Bát-niết-bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh).-Thập Nhị Nhân Duyên Kinh, một quyển.

- Tạp Thí Dụ Kinh, một quyển (rút từ Đạo Lược Tập, dịch ngày tháng mười năm Hoằng Thủy thứ bảy).

- Bồ-tát Ha Sắc Dục Kinh, một quyển.

- Tu-ma-đề Bồ-tát Kinh, một quyển.

- Văn-thù Hối Quá Kinh, một quyển.

- Tỳ-kheo Ứng Pháp Hành Kinh, một quyển (Rút từ Trường A-hàm. Tăng Hựu Chú là sáp nhập ngày Nghi Lục).

- Vô Tư Nghì Quang Hài Đồng Bồ-tát Kinh, một quyển (cũng gọi là Bất Tư Nghì Quang Bồ-tát Sở Thuyết Kinh).

- Đại Phương Đẳng Đảnh Sinh Vương Kinh, một quyển (dịch lần thứ hai. So với bộ Đại Đảnh Vương Kinh của ngài Pháp Hộ thì bản đồng nhưng văn có khác chút ít).

- Đại Kim Sắc Khổng Tước Vương Kinh, một quyển (châu vườn Tiêu dao cũng Kiết Giới Trường đều đầy đủ phép tắc).

- Trang Nghiêm Bồ-đề Tâm Kinh, một quyển (dịch lần thứ hai. So với bộ Bồ-tát Thập Địa của ngài Pháp Hộ dịch thì bản đồng mà khác người dịch).

- Phật Đệ Tử Hóa Ma Tử Kệ Tụng Kinh, một quyển (Rút ở Đại Tập).

- Khai Hóa Ma Kinh, một quyển.

- Thái Bạch Ma Vương Kiên Tín Kinh, một quyển (Rút ở Đại Tập).

- Ma Nghiệp Kinh, một quyển.

- Quá Ma Pháp Giới Kinh, một quyển (Rút ở Đại Tập).

- Phật Vấn A-tu-luân Đại Hải Hữu Giảm Kinh, một quyển.

- Ma Vương Biến Thân Kinh, một quyển.

- Đông Phương Thiện Hoa Thế Giới Phật Tòa Chấn Đông Kinh một quyển

- Đà-la-ni Pháp Môn Lục Chủng Động Kinh, một quyển.

- Phật Tích Kiến Thiên Bức Luân Tướng Kinh, một quyển.

- Phật Tể Hóa Xuất Bồ-tát Kinh, một quyển.

- Vãng Cổ Sinh Hòa Phật Quốc Nguyện Hành Pháp Điển Kinh, một quyển.

- Phật Khánh Khái Triệt Thập Phương Kinh, một quyển (rút ở Đại Tập).

- Quá Khứ Vô Biên Quang Tịnh Phật Độ Kinh, một quyển.

Phật Biến Thời Hội Thân Kinh, một quyển.

- Vô Lượng Lạc Phật Độ Kinh, một quyển.

- Vương Hậu Vi Khương Lượng Kinh, một quyển.

- Phật Tâm Tổng Trì Kinh, một quyển (cùng bộ Tâm Kinh Tổng Trì rút từ Sinh Kinh thì có khác chút ít).

- Di Hầu Dữ Tỳ Cộng Hý Trí Biến Kinh, một quyển.

- Thủy Ngưu Vương Kinh, một quyển (rút từ Sinh Kinh)

- Tước Vương Kinh, một quyển (rút từ Lục Độ Tập).

- Thố Vương Kinh, một quyển (rút từ Sinh Kinh)

- Bồ-tát Thân Vi Cáp Vương Kinh, một quyển (rút từ Lục Độ Tập).

- Phật Tích Vi Lộc Vương Kinh, một quyển.

- Mục Ngưu Kinh, một quyển.

- Hư Không Tạng Bồ-tát Vấn Trì Kinh Đắc Kỷ Sở Công Đức Kinh, một quyển.

- Quán Thế Âm Kinh, một quyển (Rút từ Tân Diệu Pháp Liên Hoa Kinh).

- Di-lặc Bồ-tát Bản Nguyện Đãi Thời Thành Phật Kinh, một quyển (cả ba mươi hai quyển kinh trên đều thấy ở Biệt Lục bảo là do ngài La-thập dịch lại).

- Đăng Chỉ Nhân Duyên Kinh, một quyển.

- Quán Phổ Hiền Bồ-tát Kinh, một quyển.

- Thiểm Bản Khởi Kinh, một quyển (cũng gọi là Thiểm Kinh).

- Quán Phật Tam-muội Kinh, một quyển.

- Bảo Võng Kinh, một quyển.

- Nhạo Anh Lạc Trang Nghiêm Kinh, một quyển.

- Thỉnh Quan Thế Âm Kinh, một quyển (7 quyển Kinh trên thấy trong Lý Khuếch Lục bảo là ngài La-thập dịch).

- Tư Duy Yếu Lược Pháp Kinh, một quyển (hoặc không có chữ Kinh).

- Trì Địa Kinh, một quyển.

- Bồ-tát Giới Bản, một quyển.

- Thập Tụng Tỳ-kheo Giới Bản, một quyển (dịch lần thứ hai, so với bản dịch của ngài Đàmma-trì có khác chút ít).

- Đại Trí Độ Luận, một trăm quyển (do Long Thọ Bồ-tát viết ra dịch. Ở vườn Tiêu dao ngày tháng năm, năm Hoằng Thủy thứ sáu Ngài Tăng Duệ bút thọ và viết lời tựa. Thấy trong Nhị Tần Lục. Ngài La-thập nói rằng nếu dịch đầy đủ thì phải đến một ngàn quyển. Người Tần có kiến thức yếu kém nên tóm lược lại chỉ còn một phần mười thôi).

Bát nhã kinh luận tạng, hai mươi quyển thấy ở ngô lục.

- Thập Trụ Tỳ-bà-sa, mười hai quyển (Ngài Long Thọ Bồ-tát viết).

- Thành Thật Luận, hai mươi quyển (hoặc mười sáu quyển, dịch năm Hoằng Thủy thứ tám. Ngài Đàm Lược bút thọ. Thấy trong Nhị Tần Lục. Bộ Luận này do ngài Ha-lê-bạt-ma viết ra sau khi Phật nhập diệt hơn tám trăm năm).

- Đại Trang Nghiêm Luận, mười quyển (Ngài Mã Minh Bồ-tát viết).

- Thập Trụ Luận, mười quyển (Ngài Long Thọ Bồ-tát viết, năm Hoằng Thủy dịch chưa ngày phần cuối quyển một, giống như Lục Độ Tập Kinh. Thấy trong Nhị Tần Lục).

- Trung Luận, tám quyển (hoặc bốn quyển. Ngài Long Thọ Bồ-tát viết, dịch năm Hoằng Thủy.

Thấy trong Nhị Tần Lục. Ngài Tăng Duệ viết tựa).

- Bách Luận, hai quyển (Ngài Đề-bà Bồ-tát viết, dịch năm Hoằng Thủy thứ sáu. Thấy trong Nhị Tần Lục).

- Thập Nhị Môn Luận, một quyển (Ngài Long Thọ Bồ-tát viết, thấy trong Bảo Xướng Lục. Ngài Tăng Duệ viết tựa).

- Mã Minh Bồ-tát Truyện, một quyển.

- Long Thọ Bồ-tát Truyện, một quyển.

- Đề Bà Bồ-tát Truyện, một quyển.

Thật Tướng Luận, một quyển (Ngài La-thập tự viết).

Cả chín mươi bảy bộ gồm bốn trăm hai mươi lăm quyển trên, ngày đời Tấn An Đế do ngài Tam tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập Bà, Tần dịch là Đồng Thọ, người Thiên Trúc dịch. Ngày mùa Đông năm Hoằng Thủy thứ ba ngài đến Thường an. Vua Tần là Diêu Hưng rất kính trọng đãi. Thường mời ngài ngày Tây minh các và vườn Tiêu dao riêng châu Biệt quán. Lại sắc lệnh cho Tăng Khế tập họp các Sa-môn hơn tám trăm vị, hỏi han nhận ý chỉ của ngài La-thập, lại dịch Đại Phẩm. Vua bảo ngài Lathập đọc bản tiếng Phạm, còn mình tự tay cầm bản kinh cũ để dò theo, lời văn mới khác nghĩa xưa nhưng tất cả đều thông suốt, lòng mọi người đều vui thích kính phục. Cho nên Nhị Tần Lục khen ngợi: Ngài La-thập là kẻ làm vững chắc sáng mới Đại Phẩm, tức biết ngài có tài làm sáng tỏ ý xưa vậy.

Các thứ nêu ra đây có hơn hai mươi bộ đều thêm chữ "Tân" ở đầu tên Kinh. Người đời sau càng lâu xa bỏ bớt chữ Tân, nên các bản kinh không còn chữ Tân nữa. Song ở triều đại của Hưng thì việc tuyên dịch rất thạnh hành. Với Tâm coi thường Vạn Thặng, tôn kính giáo pháp Tam Bảo, vua đã không tiếc của cải mà sùng ngưỡng Phật pháp, luôn ở trong Đại Tự và Thảo đường cúng dường ba ngàn vị tăng, cùng La-thập chỉnh định lại các kinh mới cũ, không thứ nào không chuyên tinh nghiên cứu thông suốt đến ý chỉ sâu xa. Bấy giờ, ngài Tăng Duệ Pháp sư rất được vua biết đến, các kinh ngài La-thập dịch đều có Duệ tham dự sửa đổi. Xưa ngài Trúc Pháp Hộ dịch bộ Chánh Pháp Hoa, Thọ Quyết Phẩm có câu "Trời thấy người, người thấy trời". Ngài La-thập dịch kinh đến chỗ này bảo rằng: Lời nói này cùng nghĩa của Tây Vức thì đúng, nhưng lời này ở đây quá chân chất thật thà. Duệ lên tiếng: Đâu chẳng phải trời người cùng giao tiếp nên hai bên cùng thấy nhau sao? Thập mừng quá nói lớn: "Thật rõ ràng Duệ và Thập cùng khai phát cho nhau", đều thuộc loại như thế cả. Ngài La-thập còn theo yêu cầu của vua mà soạn bộ Thật Tướng Luận và chú giải kinh Duy-ma. Ngài La-thập rất thích Đại thừa nuôi chí phô bày diễn giải, thường than rằng: Ta cầm bút soạn bộ Ma-hadiễn A-tỳ-đàm, không dám sánh với ngài Cachiên-diên Tử. Nay ở đất Tần này kẻ hiểu sâu rất ít, phân tích ra đây rồi sẽ ra sao? Lại thường nghe các Sư Tần nói Đạo Dung giảng kinh Tân Pháp Hoa, bèn khen rằng: Người khiến Phật pháp hưng thịnh chính là Dung vậy. Bỗng ở nước Sư Tử có 1 vị Bà-la-môn học rộng, thông minh, biện luận giỏi, sách tục phương Tây ít khi đọc đến. Nhưng được ngoại đạo ở nước ấy tôn sùng, nay nghe ngài Lathập ở quan nội đang hoằng dương Phật pháp, bèn than thở với Đồ đệ rằng: Đâu thể riêng để cho đạo Phật được độc tôn truyền bá ở nước Chấn Đán.

Nhưng nay sách vở chánh thuyết của chúng ta chưa truyền đến Đông Độ. Nhân đó bèn ngồi Lạc đà chở đầy sách vở lặn lội đi đến Thường An. Vua Diêu Hưng khi thấy nhận thức của ông ta hẹp hòi thiên lệch bèn nghi ngờ. Nhưng vị Bà-la-môn tâu với vua rằng: "Đạo cao không có ranh giới, chỉ quan trọng nó có được tôn quý hay không. Cho nên tôi từ xa đến đây rất mong được cùng các Sư nước Tần đấu lý, kẻ thắng sẽ được quyền truyền giáo. Vua đành hứa nhận. Lúc bấy giờ bốn phương Tăng chúng trong nước cùng nhìn nhau mà không dám đương đầu. Ngài La-thập bảo Đạo Dung rằng: Đây là kẻ ngoại đạo thông minh khác người, đấu lý tất sẽ thắng, nhưng chúng ta đâu có thể để đại đạo Vô thượng bị người ấy khuất phục tại đây được Nếu để cho bọn ngoại đạo ấy mặc tình đắc chí, thì phép luân của bọn ta đành phải gãy trục, đâu thể như thế được. Như chỗ tôi thấy thì chính thầy là người đứng ra đối đầu. Đạo Dung tự xét tài đức của mình thì thấy không hề giảm sút, chỉ điều là các kinh sách ngoại đạo ở Tây Vức thì mình chưa hề đọc hết. Bèn kín đáo sai người chép lại mục lục các kinh sách mà vị Bà-la-môn ấy đã đọc, rồi đọc qua một lượt. Sau đó hẹn ngày hôm sau sẽ nghị luận. Diêu Hưng tự đốc xuất các hàng công khanh đều cùng dự hội, Tăng chúng gần xa trong nước tất cả đều tập họp. Khi ấy Đạo Dung cùng Bà-la-môn tranh luận, lý lẽ rất sắc bén, huyền ý cao siêu khiến ông ta không sánh kịp. Bấy giờ vị Bà-la-môn tự biết văn từ lý lẽ của mình đã bị khuất phục, nhưng có ý cho rằng việc mình học rộng là hơn. Ngài Đạo Dung bèn kể rõ các sách mình đã đọc, lại biện luận thêm các kinh sử ở đất Tần, các danh mục bộ quyển nhiều hơn gấp ba lần. Ngài La-thập nhân đó thừa thế giễu cợt rằng: Ngài há không nghe nước Đại Tần học rộng hay sao mà ngài lại tự hạ mình lặn lội cực khổ từ xa đến đây Vị Bà-la-môn rất xấu hổ hối hận sụp lạy dưới chân Đạo Dung. Khoảng tuần nhật sau lặng lẽ ra đi. Từ đấy đạo pháp lại càng hưng thạnh ấy là do công sức của các ngài Cưuma-la-thập và Đạo Dung. Về sau ngài Đại Dung trở về Bành thành vẫn liên tục thuyết giảng, có hơn ngàn người thường tới lui nghe đạo với ngài, trong đó có hơn ba trăm người là môn đồ chính thức. Tánh ngài không thích nói năng cợt nhã ồn ào, ngài thường lên lầu cao để ngoạn cảnh, ân cần khuyến thiện trọn cuộc đời hết lòng hoằng truyền đạo pháp. Về sau ngài viên tịch tại Bành thành, thọ được bảy mươi bốn tuổi.

- Trường A-hàm Kinh, hai mươi hai quyển (dịch năm Hoằng Thủy thứ mười lăm, ngài Trúc Phật Niệm bút thọ. Thấy ở Nhị Tần Lục).

- Hư Không Tạng, một quyển (sau khi trở về ngoại quốc đến nước Kế Tân thì ngài gặp được kinh này rồi gởi đến các Tăng ở Kinh châu. Thấy trong Đạo huệ Tống Tề Lục).

- Đàm-vô-đức Luật, bốn mươi lăm quyển (Đây là tên người Tần dịch Đàm-vô-đức là Pháp Tạng, tức Luật chủ Tứ Phần hoặc sáu mươi quyển).

- Đàm-vô-đức Giới Bản, một quyển (Hai quyển giới luật trên thấy trong Tấn Thế Tạp Lục).

Cả bốn bộ, sáu mươi chín quyển, ngày đời Tấn An Đế, do ngài Tam tạng Pháp sư Phật-đà-da-xá (Tần dịch là Giác Danh). Ngài Da-xá vốn dòng Bàla-môn, Tổ tông ngài kính thờ ngoại đạo mà nhà thờ kính ngoại đạo thì tất là không tinh tưởng Phật pháp. Một hôm có vị Sa-môn đến nhà khất thực, cha ngài nổi giận sai người đánh mắng. Bỗng nhiên tay chân của ông cụ bị co quắp không cử động được nữa. Trong lúc kinh hoàng gấp rút bèn hỏi thầy bói. Thần đoán quẻ ngày bảo đã phạm phải bận Hiền nhân nên khiến như thế. Bấy giờ mới chợt hiểu ra. Bèn đến mời vị Tỳ-kheo bị đánh hôm trước về nhà rồi chí thành sám hối. Vài hôm sau thì bệnh liền hết. Nhân đó cho ngài Da-xá cạo tóc xuất gia theo làm đệ tử vị sư ấy, lúc đó ngài mới mười ba tuổi. Có một lần theo thầy đi xa, đến khoảng đồng vắng bỗng gặp phải một con cọp to. Thầy toan chạy đi, Da-xá can bảo: "Cọp này đã no tất không hại người". Bỗng cọp bỏ đi. Trên đường đi tới không bao xa quả nhiên thấy có đống thịt dư. Thấy ngầm cho là lạ. Đến năm mười lăm tuổi, ngài đọc kinh suốt ngày đến hai, ba vạn chữ. Nhưng ở ngài ở thì phải luôn đi khất thực, mất hết thì giờ đọc sách. Có một vị A-la-hán quý trọng ngài thông minh nên luôn đi khất thực đem về chia lại cho ngài dùng. Đến năm mười chín tuổi ngài thọ trì đọc tụng kinh điển tại Đại tiểu thừa hơn cả trăm vạn lời. Song tánh ngài ỷ có đọc nhiều sách vở mà có phần kiêu ngạo. Ngài bảo: Trong thiên hạ hiếm có người làm thầy được ngài. Vì thế không được chư Tăng kính trọng. Nhưng hình dung đẹp đẽ, đi đứng khéo léo lại hay nói cười vui vẻ, nên ai đối mặt nhìn ngài thì tất hờn sâu đều quên hết. Đến năm tới tuổi thọ giới Cụ túc thì ngài không tham dự, do đó vẫn mãi còn làm Sa-di, bèn theo cậu học về Ngũ Minh Luận, tất cả pháp thuật ở thế gian đều luyện tập thuần thục. Đến năm hai mươi bảy tuổi ngài mới thọ giới Cụ túc, luôn lấy việc đọc sách suy tìm làm nghiệp vụ, sớm tối cần cù tay không rời sách. Mỗi khi ngồi nghiêm liền suy tư nghĩa lý, ngài luôn bảo rằng: "Không khéo là bỏ phí thì giờ quý báu". Sự tinh chuyên của ngài đại khái đều là thế cả.

Khi ngài đến nước Sa-lặc thì nhà vua nước ấy bệnh chưa giảm, nên mời ba ngàn vị Tăng ngày cung để thiết hội nhưng Da-xá chỉ đến có một mình, Thái tử con vua là Đạt-ma-phất-đa (Tần dịch là Phát Tử), thấy ngài Da-xá dung mạo đoan chánh, ăn mặc tao nhã bèn hỏi từ đâu đến? Ngài Da-xá đối đáp lời lẽ thanh nhã, nên thái tử rất vui lòng, bèn mời ngài ở lại trong cung để cúng dường, đãi ngộ rất trọng hậu. Ngài La-thập đến sau và thọ học kinh luật với ngài Da-xá, cả hai thầy trò đều quý kính nhau. Sau ngài La-thập theo mẹ trở về nước Quy Tư, ngài Da-xá ở lại. Lúc đó Quốc vương tạ thế, Thái tử lên ngôi. Bấy giờ Phù Kiên chánh thức sai Lữ Quang đem quân Tây phạt nước Quy Tư. Vua Quy Tư gấp rút sang cầu cứu với nước Sa-lặc. Vua Sa-lặc đích thân đem quân cứu viện. Vua biết khó giữ được ngài Da-xá nên khiến ngài ở lại phụ giúp Thái tử lo việc hậu sự. Quân cứu viện chưa đến thì nước Quy Tư đã bại trận. Vua nước Sa-lặc trở về nói đủ mọi việc về ngài La-thập bị Lữ Quang bắt giữ. Ngài Da-xá than rằng: Ta cùng La-thập gặp nhau tuy lâu nhưng chưa thỏa hết hoài bảo, nay bị cướp đi một cách bất ngờ biết bao giờ sẽ gặp lại được. Bèn ở lại Sa-lặc hơn mười năm. Sau đó ngài Da-xá sang phía Đông, đến nước Quy Tư giao hóa rất thạnh hành. Lúc đó ngài La-thập châu nước Cô Tang, cho người đưa tin mời thỉnh. Ngài Da-xá định cơm áo lên đường thì bị nhân dân giữ lại, nên phải ở lại khoảng một năm. Sau đó bảo đệ tử rằng: Ta nay muốn tìm đến La-thập, hãy lén cải trang y phục, giữa khuya lên đường chớ để ai biết. Đệ tử can rằng: Dù có thoát ra được thì sáng đến cũng khó đi tới được, lại bị truy đuổi thì sự việc sẽ ra sao? Ngài Da-xá bèn lấy một bát nước trong bỏ thuốc ngày đó rồi rồi đọc chú khoảng mười câu, rồi đưa cho đệ tử bảo đem rửa chân. Rồi ra đi trong đêm ấy. Đến sáng thì tính ra đã đi hơn mấy trăm dặm. Ngài hỏi đệ tử chỗ nào biết không Thưa rằng: Trong tai chỉ nghe tiếng gió kêu vù nước vù, mắt chảy Ngài Da-xá bèn chú nguyện và đưa nước rửa chân, nhân đó nghỉ ngơi chốc lát. Đến sáng cách bọn người đuổi theo có mấy trăm dặm.

Năm Hoằng Thủy thứ tám, ngài đã đến nước Cô Tang mà ngài La-thập thì đã ngày được Thường an từ lâu. Lại nghe nói Diêu Hưng đã nhốt La-thập ở trong nhà riêng và bắt ngài làm chuyện phi pháp. Ngài buồn thương than rằng: Ngài Cưu-ma-la-thập như bông tơ quý hiếm, sao nở bắt ngài ngày chốn rừng rậm gai gốc được ư? Trước đây ngài La-thập từng kính chuộng ngài Da-xá, nên khi nghe biết ngài đến nước Cô Tang thì rất đổi vui mừng, liền khuyên Diêu Hưng nên sai sứ đến đón rước ngài Da-xá, nhưng Hưng chưa chịu. Lúc đó Hưng bảo ngài La-thập dịch kinh. Ngài La-thập thưa: Phàm muốn tuyên thông giáo pháp Vô thượng thì cần phải khiến văn nghĩa lý thú tinh thông. Bần đạo tuy đã đọc hết văn nhưng chưa thấu suốt hết lý. Chỉ có ngài Da-xá mới thấu suốt nghĩa lý sâu xa. Nay ngài đang châu nước Cô Tạng xin nhà vua ra chiếu mời về, xin hứa cho một tiếng rõ ràng, sau đó mới dịch thuật, khiến một ý nhỏ không sót ngàn đời tin tưởng. Hưng bèn nghe theo. Liền sai sứ mang tặng nhiều của quý, nhưng ngài Da-xá không nhận, cười bảo rằng: Lệnh vua đã phán, liền phải đi ngay. Nhưng thí chủ trọng đãi kẻ sĩ rất hậu, nếu chưa thấy La-thập được thả ra thì chưa dám nghe lệnh. Hưng khen là người rất thận trọng. Vua nhiều lần sai sứ đến đôn đốc dẫn dụ thì ngài mới đến Thường an. Hưng tự đôn đốc các quan riêng lập một khu đất mới ở vườn Tiêu dao, tứ sự cúng dường nhưng ngài đều không nhận. Mỗi sáng đến giờ thì đi khất thực về ăn một bữa mà thôi. Ngài Da-xá là người có râu đỏ lại rất giỏi về Tỳ-bà-sa nên người đời gọi là Râu Đỏ Tỳ-bà-sa. Ngài La-thập đã trọng là thầy nên cũng khen là bậc Đại Tỳ-bà-sa. Tứ sự cúng dường, y bát ngọa cụ chất đầy đủ cả ba gian nhà nhưng ngài không chút quan tâm. Hưng lấy đem đổi vật liệu về xây cất chùa và tinh xá. Trước đây ngài Daxá thường tụng Tứ Phần Luật. Lúc thỉnh ngài phiên dịch, còn nghi là có sự sa sót lầm lẫn nên vua bảo ngài đọc lại nguyên bản tiếng Phạm. Ngài liền đọc lại hơn cả năm vạn lời, trải suốt hai ngày vẫn không sai một chữ, mọi người đều xá dài kính phục.

Năm Hoằng Thủy thứ mười hai thì dịch Tứ Phần Luật… đến năm thứ mười lăm mới dịch ngày. Hưng đem cúng cho ngài Da-xá vải lụa cả vạn xấp, nhưng ngài đều không nhận. Có hai vị Samôn Đạo Hàm và trúc Phật Niệm làm bút thọ, mỗi vị được cúng cho cả ngàn xấp lụa. Ngoài ra còn có năm trăm bậc Sa-môn Danh Đức đều được trọng thưởng. Về sau ngài Da-xá trở về Tây Vức không biết cuối cùng ra sao.

- Bát-nhã Vô Tri Luận, một quyển.

- Bất Chân Không Luận, một quyển.

- Vật Bất Thiên Luận, một quyển.

- Niết Bàn Vô danh Luận, một quyển.

Cả bốn bộ, bốn quyển trên ngày đời Tấn An Đế, do ngài Sa-môn Thích Tăng Triệu viết ra. Tăng Triệu người kinh triệu vốn nhà nghèo, chỉ lấy việc viết thuê để nuôi sống. Nhân viết chữ rõ ràng mà được để ý, đã xem qua nhiều Kinh sử đủ cả các sách vở. Tánh thích chuyên huyền vi nên mỗi khi nói đến Lão Trang thì cho là rất hợp với ý mình. Có lần đọc sách Lão Tử đến chương Đạo Đức thì khen rằng: "Hay thì hay đấy, song chỗ lụy Thần Minh kia cũng chưa hết được". Sau đó nhân gặp bộ kinh Duy-ma xưa rất vui mừng lãnh thọ, suy tìm thưởng ngoạn ý vị. Bèn bảo: "Nay mới biết được chỗ nương về". Nhân đó bèn xuất gia, học giỏi về Phương đẳng, gồm thông cả Tam tạng mới tuổi thành niên mà danh tiếng khắp quan nội. Người đương thời đua nhau khen ngợi, ai cũng không ngờ là ngài phát đạt sớm. Hoặc có người từ ngàn dặm xa mang lương khô theo ngày quan nội để cùng biện luận. Triệu đã có tài suy tư sâu kín lại khéo nói năng bàn luận nên thừa cơ bắt bẻ khuất phục một cách dễ dàng. Lúc đó, hàng Túc Nho ở Kinh Triệu và những kẻ sĩ tài giỏi ở quan ngoại, chẳng ai là không bị khuất phục tài biện luận sắc bén của Triệu. Về sau ngài La-thập đến Cô Tang thì Tăng Triệu cũng từ xa theo đến. Ngài La-thập khen ngợi vô cùng. Kịp khi ngài La-thập đến Thường An thì Triệu liền cũng theo ngày. Diêu Hưng bảo Triệu và Tăng Duệ cùng ngày vườn Tiêu dao giúp hiệu đính kinh luận. Tăng Triệu là người huệ sáng tài giỏi, cho rằng thời Tượng pháp cách Phật đã lâu, văn nghĩa nhiều lẫn lộn, các sách xưa đã diễn giải trước đây thì bây giờ có nhiều chỗ sai lầm. Ngài tham dự việc dịch thuật rõ ràng, hỏi han trình bẩm lại ngài La-thập nên chỗ liễu ngộ càng nhiều. Sau khi dịch Đại Phẩm nhân đó Triệu liền soạn bộ Bát-nhã Vô Tri Luận hơn hai ngàn chữ, đem trình lên La-thập, ngài đọc ngày, khen hay, bèn bảo Triệu rằng "Sự hiểu của ta chẳng cách xa thầy bao nhiêu, chỉ dám xin giúp nhau về lời văn. Lúc đó ở Lô Sơn có kẻ ẩn sĩ là Lưu Di Dân xem thấy bộ luận này của Triệu bèn khen rằng: Bất ngờ Phương Báo lại có Bình Thúc Nhân đó đem trình lên ngài huệ Viễn xem, Viễn bèn vỗ ghế khen rằng: "Thật chưa từng có!". Nhân đó cùng suy tìm thưởng thức ý vị lại có muốn giao tiếp qua lại. Di Dân bèn viết thư cho Triệu rằng: Xin hỏi trong khoảng thời gian ngắn ngủi có niềm ngưỡng mộ từ xa Trời cuối năm rét đậm quý thể có hề hấn gì chăng? Thư gởi từ xa lòng đầy lo lắng. Đệ tử luôn đắm mình trong đầm cỏ nên thường bệnh hoạn luôn. Cầu mong đại chúng đều khang hòa, Pháp sư ngoại quốc luôn được tốt hơn chăng? Cuối hạ năm rồi nhân đọc được bộ Bát-nhã

Vô Tri Luận của Thượng Nhân, thật là lời văn thanh nhã, ý chỉ thâm trầm đầy đủ, suy lời Phật nói rõ ràng có chỗ nương về. Mở đọc thưởng thức ý vị ân cần chẳng hề rời tay. Thật có thể bảo rằng: Tâm gội vực sâu phương đẳng, ý ngộ ngày chốn sáng thênh thang. Khéo léo tột cùng, không có chỗ chê trách. Nhưng kẻ mời tối khó hiểu vẫn còn có chỗ nghi điều riêng lẻ, cúi mong nhân lúc rỗi rảnh mà giải thích sơ lược cho:

Ngài Tăng Triệu viết thư đáp lời: "Từ xưa chưa hề gặp chỉ có ý nhớ nhau. Lại được thư vừa rồi hỏi han cặn kẻ mừng như gặp được làn gió mát, thời tiết hiện giờ sức khỏe ra sao? Sức khỏe của bần đạo không được khá lắm. Đại chúng vẫn được bình thường, ngài La-thập Pháp sư vẫn khỏe mạnh. Chúa Tần đạo tánh tự nhiên, thiên cơ hơn thói tục Hào thành vẫn lấy việc hoằng dương Tam bảo làm nghiệp vụ. Do ham kinh lạ thầy giỏi mà từ xa lặn lội đến tìm. Phong cách Linh thứu hợp với đất này. Được ngài tuệ viễn khen ngợi đó chính là ngàn đời. Ở Tây Vức lại được Kinh mới Phương Đẳng hơn hai trăm bộ. Ngài La-thập châu Đại Tự dịch mới các kinh. Kho pháp rộng sâu mỗi ngày càng thêm điều mới. Thiền sư ở Ngõa Quan Tự rèn dạy Đạo Thiền, môn đồ có đến mấy trăm người ngày đêm tinh tấn, chăm chăm đau đáu để đạt đến chỗ trọn vui. Còn Tam tạng Pháp sư thì ở Trung Tự dịch Luật Bộ trước sau đều rõ, xem như mới viết ra ở thời nay. Pháp sư Tỳ-bà-xa (Da-xá) châu chùa Thạch dương dịch Xá-lợi-phất Tỳ-đàm. Bản tiếng Phạm tuy chưa kịp dịch. Bây giờ về việc hỏi han của ông thì lời lẽ quá mới lạ, còn bần đạo cả một đời ngu dốt, dầu đã tham gia nhiều vận hội hoằng hóa đạo pháp thạnh hành, nhưng tự mình chưa thấy được việc kết tập sau khi Đức Thích-ca Nhập Niếtbàn, ngoài ra thì không ân hận gì nữa. Chỉ hận là không được cùng các bậc đạo thắng quân tử đồng tham dự cuộc kết tập ấy mà thôi! Khen vịnh đã nhiều hay có điều chi dặn bảo. Song nay hỏi han nhún nhường đâu phải là người đất Dĩnh. Bần đạo nghĩ mình chưa thấu đáo hơn người. Còn việc nói năng hãy còn khá vụng về. Vả lại chỗ chí thù thì không thể nói, mà nói ra thì trái với chí thú, cứ mãi như thế không thôi thì còn gì mà luận nữa? Nay mượn lời ngông cuồng xin đáp lại ý chỉ. "

Sau đó ngài Tăng Triệu soạn các bộ Bất Chân Không Luận, Vật Bất Thiên Luận… cùng chú giải kinh Duy-ma viết lời tựa các kinh luận khác, đều được lưu truyền trên đời.

Ngay sau khi ngài La-thập viên tịch, sau lễ truy điệu ngài Tăng triệu đi hẳn về Kiều Tư Di Lệ (?) Bèn soạn ra bộ Niết-bàn Vô Danh Luận và có lời rằng: "Kinh nói có Hữu dư và Vô dư Niết-bàn, thì tiếng Tần (Hán) gọi là Vô vi, cũng gọi là diệt độ. Vô vi Niết-bàn tức là Hư vô tịch mạc mầu nhiệm tuyệt dứt Hữu vi. Nói diệt độ tức là nói đã dứt hẳn nạn lớn, vượt thoát bốn dòng. Bởi đây là chỗ nương về của gương và bóng. Là chỗ sâu kín nhất dứt hẳn nói năng. Nhưng nói Hữu dư và Vô dư là do chỗ xuất xứ mà có tên gọi khác. Ứng với vật mà giả gọi, tôi có lần thử nói thế. Vì Niết-bàn chính là Đạo vậy. Bởi Tịch Liêu trống không thì không thể từ hình danh mà được. Vi diệu vô tướng thì không thể lấy có tâm mà biết được. Siêu quần vì vượt chỗ tối tăm, lượng bằng Thái Hư và Vĩnh Cửu. Theo dõi thì không có dấu tích, nghinh đón chẳng thấy đâu là đầu mối. Sáu nẻo không thể tiếp nhận đời sống của nó. Xô đẩy không thay đổi được thể nó. Nhập nhoạng như có như không, dù cả năm mắt cũng không thấy rõ hình dạng, cả hai tai cũng chẳng nghe được tiếng vang. Mờ mịt sâu xa ai thấy ai hiểu. Làn sóng lớn chỉ lướt qua không ở mãi mà riêng lôi kéo cái biểu hiện "có không". Song khi đã nói ra thì liền mất cái chân thật của nó, biết là trái với ngu của nó. Có thì trái với tánh nó, mà không thì hại thân nó. Do đó mà Đức Thích-ca đóng chặt cửa ở Ma-kiệt, ngài Tịnh Danh bịt miệng ở Tỳ-gia, ngài Tu-bồ-đề nói "Không lời" để bày đạo, Thích Phạm dứt sự nghe mà rải hoa. Đây đều Lý là thần ngự, cho nên miệng phải ngậm im. Đâu có thể nói là không biện luận, đó là biện luận về điều không thể nói vậy. Kinh nói: Chân giải thoát là lìa bỏ nói năng mà tịch diệt vĩnh an, không đầu đuôi, không sáng tối, không lạnh nóng, trống rỗng như hư không, không tên không chứng. Luận nói rằng:

Niết-bàn không phải có cũng chẳng phải không, đường ngôn ngữ dứt chỗ tâm hành diệt Vả như khi viết kinh luận đâu thể hư cấu? Nếu nó có là tại vì không có thì không thể được mà có, còn nếu nó có là vì chẳng phải không, nên không thể được mà không. Cảnh có thì cả năm ấm bị diệt mất. Suy ra cũng không có mình thì u linh không mất. Khi u linh không mất thì ôm lấy khối sáng láng trống không. Khi năm ấm đã diệt mất thì muôn lụy đều không. Muôn lụy đã không cho nên cùng với đạo thông suốt. Vì ôm lấy một khối sáng láng trống không, cho nên có thần mà không cần công sức. Vì Thần trí không công cho nên công luôn to lớn hiện hữu. Vì cùng với đạo thông suốt nhau cho nên hòa nhau mà không thay đổi. Vì hòa nhau mà không thay đổi nên không thể là có. Công năng to lớn luôn hiện hữu thì không thể nào là không. Song bên trong dứt hẳn "có-không" nên biểu lộ ra bên ngoài. Chỗ thấy nghe không thể đạt đến, bốn phía trống không đều mờ mịt. Yên lặng mà công bằng, lặng lẽ mà to lớn. Cả chín dòng do đó mà giao hội, toàn Thánh chúng nhân đây mà ngầm hiểu. Đây chính là cực vui là quê hương của Thái huyền, mà muốn dùng tên có không để nêu rõ ranh giới, mà lời nói Thần đạo thì cũng chẳng xa xôi. Sau đó thêm mười diễn chín chiết (bàn đi luận lại nhiều lần) có hơn ngàn lời, văn quá nhiều nên không chép hết. Sau khi soạn bộ Luận ngày bèn dâng biểu tâu lên Diêu Hưng rằng: Triệu tôi nghe rằng: Trời mà có một thì trong xanh, đất nếu là một thì yên bình, vua mà duy nhất thì trị vì thiên hạ. Rất mong Bệ Hạ Duệ triết sáng suốt phân minh, Đạo cùng Thần gặp nhau, khéo khế hợp trong cõi trần hoàn, muôn lý đều thống nhất. Cho nên luận bàn để nhiếp hóa cả muôn cơ, suốt ngày hoằng đạo. Nay giáo hóa cho mọi người nên viết thành lời văn làm mẫu mực. Do đó trong cõi có bốn vị Đại vương cùng ở một nơi, đạo Niết-bàn là chỗ nương về của ba thừa, là vực sâu của Phương đẳng, mênh mông, vui vẻ dứt hết cả sự thấy nghe, sâu kín hư huyền, không phải hạng thường tình có thể suy lường hiểu biết được. Triệu tôi vốn là kẻ hèn hạ kém cỏi, may nhờ ân vua mà được ở yên học tập, đã theo học với ngài La-thập trên mười năm. Tuy các kinh có nhiều lý thú khác nhau, chỗ hay lạ đặc biệt không phải là một. Nhưng Niết-bàn là một nghĩa mới được nghe lần đầu. Chỉ vì Triệu tôi tài trí hèn kém, tuy đã luôn được khuyên bảo dẫn dụ nhưng vẫn còn mịt mờ, vì cái ngu đeo đẳng mãi không thôi, dầu có vài chỗ dường như đã hiểu rõ, nhưng chưa từng được nghe các bậc Cao minh nói trước nên không dám tự quyết. Chẳng may ngài La-thập đã viên tịch, không có nơi hỏi han tham vấn, đành lấy làm ân hận suốt đời. Nay bệ hạ Thánh đức đủ đầy, đã riêng cùng ngài La-thập thần khí khế hợp thấy rõ Lý đạo, quyết định được chỗ phải trái. Cho nên có thể phất lên ngọn Huyền phong để mở mang cho kẻ tục kém cỏi. Một hôm nhờ gặp gỡ đáp lời ngài An Thành Hầu là Tung hỏi về chỗ cùng cực của Vô vi, lại luận sang cái nghĩa vô danh của Niết-bàn. Nay liền soạn ra bộ Niết-bàn Vô Danh Luận, gồm có mười diễn và chín chiết, thâu nhặt rộng rãi các kinh mượn làm chứng cớ để thí dụ, kính cẩn trình bày lên bệ hạ chỗ tột cùng của Vô Danh. Nào dám bảo là mở mang chỉ thú của thần tâm, nghiên cứu tột cùng chỗ sâu xa, may ra đem chút nghị luận về Huyền môn để ban bảo dẫn dụ cho đám học trò mà thôi Nếu có hợp với chút ít Thánh chỉ cúi mong bệ hạ ban lệnh cho phép để lại, như có những sai sót rất mong bệ hạ chỉ giáo. Diêu Hưng đáp chỉ ân cần khen ngợi, liền ra lệnh viết lại bộ luận trên bằng chữ thật đẹp đem ban cho các con cháu. Thời ấy được quý trọng như thế.

Nhị Tần Chúng Kinh Lục Mục, một quyển.

Một quyển trên do Sa-môn Thích Tăng Duệ soạn ra. Tăng Duệ là người ở Ngụy Quận, xuất gia từ thuở nhỏ, rất thông minh lanh lợi, là đệ tử của ngài Tăng Hiền. Năm hai mươi hai tuổi thì lão thông kinh luận. Thường khi nghe ngài Tăng Lãng Pháp sư giảng kinh Phóng Quang nhiều lần chê bai vấn nạn. Hai ngài Tăng Lãng và Tăng Hiền giao ước nhau trên bờ hào. Lãng bảo Hiền rằng: Những so sánh suy xét và vấn nạn của Duệ khiến tôi suy nghĩ nhiều cũng khó thể thông suốt được. Có thể gọi đó là Hiền Hiền đệ tử. Về sau khi ngày Quan Trung thì gặp được ngài La-thập đang dịch kinh, liền cùng đến tham dự dịch thuật. Ti Đồ Công đời Tần là Diêu Tung tiếp đãi ngài rất trọng hậu. Diêu Hưng hỏi Tung: Ông Tăng Duệ như thế nào? Tung đáp: "Duệ thật là hạng tùng bách của Đất Nghiệp Vệ này vậy. ". Hưng ra lệnh cho ngài bệ kiến để biết rõ tài năng thì thấy Duệ có phong vận sâu xa, nói im đều thanh nhã. Hưng rất vui mừng và ban thưởng rất hậu, cung cấp bổng lộc và sai người khỏe mạnh kéo xe cho ngài đi. Hưng bảo Tung rằng: Đó là kẻ tiêu biểu chung của cả bốn bể, đâu riêng gì là Tùng bách của đất Nghiệp Vệ. Sau khi ngài La-thập dịch ngày Thành Thật Luận thì bảo ngài Tăng Duệ giảng giải. La-thập bảo Duệ rằng: Trong chỗ tranh luận này có bảy chỗ lời văn bác bỏ A-tỳ-đàm, nhưng trong lời nói có vài chỗ ẩn kín. Nếu không cần hỏi mà tự hiểu rõ được thì có thể gọi là bậc anh tài. Khi Duệ giảng giải chỗ sâu kín thì quả nhiên không cần tham hỏi ngài La-thập mà vẫn khế hội với lẽ Huyền Ngài La-thập khen rằng: Ta truyền dịch kinh luận mà may mắn gặp thầy thì không còn lo lắng ân hận điều gì cả". Ngài hoằng hóa rộng mở kinh pháp khiến thường còn và đem điều thiện này mà hồi hướng nguyện sinh về nước An Dưỡng. Mỗi khi đi đứng nằm ngồi đều không dám quay lưng về hướng Tây. Đến lúc lâm chung ngài chắp tay mà viên tịch. Người trong chùa đều thấy có ánh sáng năm sắc từ phòng ngài Tăng Duệ phóng ra rực rỡ.

****

-Thích Bác Luận, một quyển.

Một quyển luận trên do ngài Sa-môn Thích Đạo Hằng soạn ra. Ngài Đạo Hằng người Lam Điền. Năm lên chín tuổi khi ra đường chơi ngài Ẩn Sĩ Trương Trung gặp được khen rằng: Đức trẻ này có tướng hơn người, nếu ở thế tục thì có công giúp nước như quan phụ chánh, còn ở trong Đạo thì làm sáng tỏ Phật pháp. Hiềm một nỗi là ta đã già không thấy được việc này. Đạo Hằng sớm mất hai thân, nhưng thờ mẹ kế rất trọn Hiếu đạo. Nhà nghèo không của cải gì, thường chính tay viết chữ vẽ hình để mọi người thờ phụng. Lại dốc lòng thích học kinh điển suốt đêm. Đến năm hai mươi tuổi sau khi mẹ kế qua đời, ngài chôn cất và để tang ngày xuôi, liền đi xuất gia. Khi luận bàn Phật Lý thì đều thông suốt. học cả nội ngoại điển, tài trí rất thông minh lanh lợi. Khi ngài La-thập ngày Trung Quốc thì Đạo Hằng liền đến sửa văn kinh sách. Ngài Lathập rất đổi mừng rỡ. Lại dịch thêm nhiều kinh rồi cùng giúp ngài hiệu đính.

Khi ấy ngài Đạo Hằng có bạn đồng học là ngài Đạo Tiêu, văn tài cũng rất thanh nhã. Đương thời nổi tiếng cùng ngang bậc với ngài Đạo Hằng. Lúc đó chúa Tần là Diêu Hưng thấy thần khí của cả hai người rất giỏi dang sáng láng, có đủ tài giúp trị nước. Liền ra lệnh cho quan Thượng thư lệnh là Diêu Hiển phải đôn đốc cưỡng bức bách Đạo Hằng và Đạo Tiêu phải bỏ Đạo để giúp vua trị nước. Lại hạ chiếu bảo hai ngài Hằng và Tiêu rằng: Các Khanh có tiết tháo sáng suốt thật là đáng quý đáng khen. Chỉ vì vua đang trị vì bốn bể rất cần gấp kẻ hiền tài. Nay sắc lệnh cho quan Thượng lệnh là Hiển bắt các khanh phải tuân lệnh vua dẹp bỏ Pháp phục ra đời giúp nước. Nếu tâm các Khanh còn Đạo vị thì hiềm gì trắng đen. Rất mong các Khanh thể theo ý Trẫm không nên thủ tiết mà chối từ...".

Hai ngài Đạo Hằng và Đạo Tiêu đáp thư: Phụng chiếu lệnh ngày mười tám tháng hai khiến Hằng-Tiêu chúng tôi phải dẹp bỏ pháp phục, đau lòng vâng lệnh năm tình thất tiết. Bọn chúng tôi tài hèn trí mọn, nhiễm pháp chưa sâu. Từ ngày mặc áo nâu sòng nguyện quên thân mạng, cùng chuyên tu tập Phật pháp không màng thế sự, đã phế bỏ sự nghiệp phi thường trọn không có công lao gì khác. Thuở xưa ngài Quang Võ còn có thể buông thả cái tâm của Nghiêm Lăng, Ngụy Văn Đế dám dung thứ cái tiết tháo của Quản Ninh. Phải chăng đó là lòng cao quý của bậc chí tôn muốn thỏa mãn chí thấp hèn của kẻ thất phu. Huống nay bệ hạ đã dùng đạo mà trị người, lại gồm cả hoằng truyền Tam bảo. Vậy cúi mong ngài noi theo tình to lớn, rũ cái lý cảm thông muôn vật.

Diêu Hưng lại gởi thư cho ngài La-thập nói về hai vị Pháp sư rằng: Riêng đã mấy tuần mỗi lần đều nghĩ tới, dần dần so sánh cặn kẻ rằng như khi các đám giặc cỏ nổi lên ở chốn xa xôi mà không kịp thời xử lý thì chính là lúc rối rắm không yên. Trong khoảng thời gian muôn sự thịnh vượng thì cần phải có người tài giỏi để sửa trị. Theo chiếu chỉ gần đây thì khiến Đạo Hằng và Đạo Tiêu bỏ pháp phục La-hán đi theo dấu chân bậc đại sĩ. vì đạo ở đâu lại chẳng có. Vậy kính mong Pháp Sư giúp lời dẫn dụ hai vị ấy... ". Ngài La-thập hội ý đáp lời rằng: Mãng nghe Thái thượng hoàng dùng đạo nuôi dân mà mọi vật tự an. Nay vua lại dùng đức mà trị vì thiên hạ, đó là bậc minh chủ thời xưa. Xét kỷ thì làm trái bản tánh khó chế ngự, hiểu rõ cách cai trị có nhiều nguyên nhân. Cho nên vua Nghiêu tha Hứa Do ở đồi Ky Sơn, còn Dự Nhượng thì quăng gậy ở nước Ngụy. Cao Tổ đã bốn lần tha hạo ở Chung nam, còn Thúc Độ thì giả từ Bồ Luân ở Hán Nhạc. Bởi có tánh thích Hiền thì sẽ được Hiền. Nay hai vị Đạo Hằng và Đạo Tiêu phước đức chưa toàn vẹn cốt ý thủ tiết, từ bé đã học huyền hóa, kính phục Phật đạo. Đến như việc phô bày phân tích các kinh hay nghiên cứu các chỗ sâu kín chỉ đủ để khai ngộ bọn con trẻ, giúp khai hóa công đức. Cúi mong bệ hạ nên bỏ qua ân đã khen tặng trước để tha cho cái chí hèn kém của họ".

Về sau Hưng càng mấy lần xuống chiếu thúc hối, gạt bỏ mọi can ngăn để hai người được khỏi làm quan. Ngài Đạo Hằng than rằng: Cổ nhân có nói: của cải giúp ích ta nhưng làm tổn hại tinh thần ta. Danh tiếng nuôi sống ta nhưng nó cũng giết chết thân ta. Do đó ngài ẩn mình ngày hẻm núi sâu và trọn đời ở nơi rừng vắng, chỉ ăn rau cỏ mà thưởng thức vị Thiền và trốn biệt dấu người. Cho nên ngài soạn ra Bộ Thích Bác Luận và Bách Hạnh Chân.

QUYỂN 9

KINH DỊCH Ở CÁC ĐỜI TÂY TẦN, BẮC LƯƠNG, NGUYÊN NGỤY, CAO TỀ VÀ TRẤN THỊ

Các sách ghi chép về năm đời là Tây Tần, Bắc Lương, Ngụy, Tề, Trần ở đây nói về các vị vua theo thời mà cứu đời, lợi đây bằng cách tuyên dương giáo pháp.

- Khất phục quốc nhân giống tiên ti ở Lũng Tây. Dòng dõi nối đời ở uyển xuyên phía Nam Thiền Vu. Tiền Tần bị đánh thua, người kế vị cũng tự xưng là Tần Vương (Hậu Tần), vẫn đóng đô ở Tử Thành, rất tôn trọng kính quý Sa-môn. thời đó gặp chúa Phù Kiên đức hóa thấm nhuần, ông lại càng sùng kính, ân lễ trọng hậu. Đạo Phật đã được truyền bá mạnh mẽ rộng khắp, nhưng vẫn khiến tiếp tục phiên dịch. Cả năm đời vua nối nhau trị vì suốt bốn mươi bốn năm. Sau bị nhà Hạ diệt. Rồi Ngụy lại thôn tính nhà Hạ.

- Thư Cừ Mông Tốn đến Tòng Lô, thủy hồ người Hung Nô, tả đại mông cừ là chức quan coi thư tịch của nhà Tiền Lương bèn tự lên ngôi và dời sang nước Cô Tang. Lúc đó gặp ngài Đàm-vô-sấm Pháp sư dịch bộ Đại Bát-niết-bàn, Đại Tập Kinh… Nhà Bắc Lương có hai đời vua trị vì bốn mươi ba năm. Về sau bị Ngụy diệt.

- Thác Bạt Khuê tự là Thiệp Hoai, Vân Trung Ngũ Nguyên Lỗ làm Hộ quân cho nhà Tần. Họ Phù bị đánh thua, người kế vị liền xưng hiệu là Ngụy đóng đô ở đất Hằng. Đến đời vua thứ ba là Thái Võ Đế tên Phục, khi trị đời vì tin lời tà môn nên hủy hoại Phật pháp, giết Tăng phá chùa. Thiệp Hoai suốt bảy năm bị ác hại thân chết đi sống lại mấy lần. Có bốn đời vua ở phía Bắc. Đến đời vua Hiếu Văn Đế là Hoằng thì dời kinh đô về Lạc dương, đổi họ xưng là nhà Ngươn mới bắt đầu mặc lễ phục, đội mão. Đến năm Hi Bình thứ nhất đời Hiếu Minh Đế, thì Linh Thái hậu là Hồ Thị xây chùa Vĩnh ninh, dựng tháp chín tầng bằng gỗ, cao đến chín mươi trượng. Bên trên có Bảo sát cũng cao mười trượng, cách mặt đất cả ngàn thước, đứng cách kinh thành cả trăm dặm vẫn có thể nhìn thấy tháp. Lúc đầu muốn xây nền đào sâu đến Huỳnh tuyền dưới đó tìm thấy được ba mươi hai tượng bằng vàng, nên thái hậu tin đó là điềm lành cho Phật pháp. Do đó càng xây dựng trang trí rất công phu đẹp đẽ. Trên nóc chùa có một bình báu bằng vàng ròng rất to đựng được hai mươi lăm thạch, dưới bình có mâm vàng để hứng sương. Có mười một vòng luân quách bao quanh đều có treo chuông vàng. Lại có bốn con đường hai bên có dây xích sắt dẫn đến chùa và các góc tháp. Ở bốn góc tháp trên những dây xích sắt có treo đầy chuông vàng to khoảng bằng một cái bình có sức chứa một thạch (72kg). Tháp Phật có chín tầng, mỗi góc tháp đều có treo các chuông bằng vàng hoặc đồng, số chuông cả trên dưới đến một trăm ba mươi cái. Mỗi mặt Tháp đều có ba cửa lớn và sáu cửa sổ. Trên cửa có treo thêm các quạt đỏ, trên mỗi quạt đều có chuông vàng ngũ hành. Với mười hai cửa lớn có hai mươi bốn quạt và gồm có năm ngàn bốn trăm quả chuông. Dưới chuông lại có các vòng vàng chạm khắc có đầu bằng phẳng. Tất cả các thứ kể cả gỗ đất đều làm ra cực kỳ đẹp đẽ khéo léo, con cháu kẻ bình dân thì đến làm việc không kể ngày giờ. Phật sự tinh diệu khó thể nghĩ bàn, cột kèo chạm trổ và giác vàng lấp lánh khiến mọi người lóa mắt. Đêm đến trăng thu vằng vặt suốt đêm gió lộng tiếng chuông báu hòa nhau réo rắc giữa khoảng không mênh mông rực sáng ánh trăng rằm tháng tám, tiếng leng keng vang xa hơn mười dặm. Ở phía Bắc tháp có một ngôi Phật điện, có hình Thái cực, ở chính giữa có một tượng Phật cao tám trượng. Ngoài ra có mười tượng toàn thân đều bằng vàng, ba tượng bền bằng trân châu, năm tượng dệt bằng sợi vàng, hai tượng bằng ngọc quý. Các tượng ấy cực kỳ khéo léo, tuyệt mỹ nhất thời ấy.

Về số lầu các và tăng phòng hơn một ngàn gian. Còn cột kèo chạm trổ tường hoa vách phấn, các giải lụa xanh phất phới khó thể kể xiết. Các loại cây như quát, bách, thung, tùng mọc riêng lẽ hoặc thành hàng, rợp bóng. Đó đây bụi trúc, cỏ hoa thơm ngát đầy khắp sân thềm. Do đó Thường Cảnh đã dựng bia chùa có câu rằng: "Bảo điện đồ sộ như Tu-di, Tịnh cung đẹp như cung Đâu-suất, cũng không được ưa chuộng bằng ở nơi này". Các thứ kinh tượng Linh dị ngoại quốc biếu tặng đều để tại chùa này. Các tường rào thì trên đầu tường đều gác rui mè và lợp ngói kiểu cách hình dạng giống như tường rào ở cung vua. Bốn mặt chùa, mỗi mặt đều có một cửa lớn. Riêng mặt chánh Nam thì có ba lớp lầu các thông với ba cầu ván cách mặt đất đến hai mươi trượng (0, 3m x 20 = 6m), kiểu cách giống như Kim Đoan Môn trang trí bằng những bức tranh Vân Khí và các bức lụa thêu Thần tiên. Những sợi xích kết bằng những đồng tiền xanh chói ngời đẹp đẽ. Cửa riêng thì hai bên có bốn hình lực sĩ và bốn tượng sư tử. Các thứ trang sức đều dùng toàn vàng bạc gắn thêm các châu ngọc, trang nghiêm rực rỡ trên đời chưa từng nghe thấy. Cả hai cửa Đông và Tây đều cũng giống như thế. Chỉ có khác là lầu các chỉ có hai lớp. Còn cửa phía Bắc thì trên một con đường không có nhà, kiểu giống như Ô đầu môn. Ở ngoài bốn cửa lớn đều có cây hòe xanh chiếu hình xuống làn nước xanh biếc, che mát cho nhiều người trong kinh ấp qua lại ở phía dưới. Các xe cộ đều bỏ mui, không phải là do mây che rợp mà vì gió lộng mát rượi. Nào phải cả hai thứ ấy khiến ta vui thích mà do việc cúng dường đầy đủ như ở Kỳ viên tinh xá, cung cấp tứ sự đầy đủ cho cả bảy trăm vị Phạm tăng. Ngài Bồ-đề-lưu-chi đứng đầu Ban dịch thuật. Vua lại cho ra lệnh cho Lý Khuếch tuyển chọn kinh lục ghi rằng: Đến năm Vĩnh Hi thì vua dời đô ngày Quan Trung. Nhân đó mà có Tây Ngụy, Đông Ngụy, Nam Ngụy, Bắc Ngụy bốn nhà, gồm cả thảy có mười sáu đời vua, trải suốt một trăm sáu mươi mốt năm trị vì, lại chia làm nhiều chi phái sát nhập ngày các nhà Chu, Tề, Cao Dương, Võ Xuyên, Trấn, Lỗ. Được nhà Đông Ngụy nhường ngôi và tự xưng là nhà Tề nhưng vẫn đóng đô ở Nghiệp Quận. Bốn vua thay hết ba vua, chín châu chiếm hết năm châu (năm phần chín nước Tàu). Trong đó có Cao Dương là thông minh sáng láng nhưng trông giống như người khùng. Bắt Đạo sĩ phải cạo đầu kẻ nào không nghe thì giết chết. Bấy giờ số Sa-môn hơn hai trăm vạn vị, số chùa tháp hơn ba mươi ngàn ngôi nối nhau sáu đời vua trị được hai mươi tám năm. Sau bị nhà Chu tiêu diệt. Bấy giờ các linh tích của Tam bảo một thời bị mất bóng.

Nước Trần làm bá chủ trước nhất, Ngô Hưng là người Trường Thành, nhân dựa ngày Hầu Cảnh mà chiếm Kim Lăng. Nước Lương, thì Sương Đông Vương là Bình Cảnh, đóng đô ở Sở, Sở lại bị Ngụy thôn tính. Trước năm Kiến Khang thì lấy họ làm Quốc hiệu nước này có bốn đời vua, trị vì suốt ba mươi ba năm thì tuyệt tự. Năm Kỷ Dậu, ngày niên hiệu Khai Hoàng thứ chín thì sáu nước hợp thành hai nước, rồi thống nhất thành một nước. Vua Khất Phục dựng nghiệp nhầm năm Thái Ngươn thứ mười hai, vua hiếu võ đế nhà tấn trải bao vật đổi sao dời đến nay là niên hiệu Khai Hoàng, trải qua hai trăm lẻ ba năm, số người dịch Kinh cả Hoa lẫn Phạm (Nhung), tại gia hoặc xuất gia thì gồm có hai mươi bảy vị, còn các thứ được dịch ra như Kinh, Luận, Giới, Tỳ-đàm Truyện, Ký, Tập Lục cùng các bản mất tên người dịch gồm có hai trăm lẻ ba bộ với tám trăm năm mươi lăm quyển. Tổng kết gồm hai mươi bảy đời vua năm nhà, bảy kinh đô. Như Thế Lục đã ghi chép.

A. Các dịch giả:

* Về nhà Khất Phục Tây Tần:

- Sa-môn Thích Thánh Kiên dịch mười bốn bộ, hai mươi mốt quyển.

- Các kinh mất tên người dịch có tám bộ mười, một quyển

* Về nhà Thư Cừ Bắc Lương:

- Sa-môn Thích Đạo Cung dịch hai bộ, mười hai quyển kinh.

- Sa-môn Thích Pháp Chúng dịch một bộ, bốn quyển kinh.

- Sa-môn Đàm-ma-sấm dịch hai mươi bốn bộ, một trăm mười một quyển kinh.

- Sa-môn Tăng-già-đà dịch một bộ, hai quyển kinh.

- An Dương Hầu Thư Cừ Kinh Thanh dịch một bộ, hai quyển kinh.

- Sa-môn Phù-đà-bạt-ma, dịch một bộ, sáu mươi quyển Tỳ-bà-sa.

- Sa-môn Thích Trí Mãnh, dịch một bộ, hai mươi quyển kinh.

- Sa-môn Thích Đàm Giác, dịch một bộ, mười lăm quyển kinh.

- Các kinh mất tên người dịch gồm năm bộ, mười bảy quyển kinh Phật Danh.

* Về nhà Nguyên Ngụy Bắc Đài:

- Sa-môn Thích Đàm Diệu dịch hai bộ, năm quyển kinh truyện.

- Sa-môn Thích Đàm Tĩnh, dịch một bộ, hai quyển kinh.

- Sa-môn cát ca-dạ, dịch năm bộ, hai mươi lăm quyển kinh luận.

- Sa-môn Thích Đàm Biện, dịch một bộ, một quyển kinh.

* Về nhà Nguyên Ngụy Nam Kinh:

- Sa-môn Đàm-ma-lưu-chi, dịch ba bộ, tám quyển kinh.

- Sa-môn Thích Pháp Trường, dịch một bộ, một quyển kinh.

- Sa-môn Bồ-đề-lưu-chi, dịch ba mươi chín bộ, một trăm hai mươi bảy quyển kinh, luận, lục.

- Sa-môn Lặc-na-bà-đề, dịch sáu bộ, hai mươi bốn quyển kinh, luận phương.

- Sa-môn Phật-đà-phiến-đa, dịch mười bộ, mười một quyển kinh, luận.

* Về nhà Nguyên Ngụy Nghiệp Đô:

- Bà-la-môn Cù-đàm Bát-nhã Lưu-chi, dịch mười bốn bộ, tám mươi lăm quyển kinh luận.

- Việt Quốc Vương Tử Nguyệt-bà-thủ-na, dịch ba bộ, bảy quyển kinh.

- Kỳ Thành Quận Thú Dương Huyễn Chi, dịch một bộ, năm quyển Tự ký.

- Thanh Tín Sĩ Lý Khuếch, dịch một bộ, một quyển kinh lục.

* Về nhà Cao Tề:

- Sa-môn Na-liên-đề Da-xá, dịch bảy bộ, năm mươi hai quyển kinh luận.

- Ưu-bà-tắc Vạn Thiên Ý dịch một bộ, một quyển kinh.

* Về nhà Trần Thị:

- Sa-môn câu-na-la-đà, dịch bốn mươi tám bộ, hai trăm ba mươi hai quyển Kinh, Luận, Sớ, Truyện, Ký.

- Vương Tử Nguyệt-bà-thủ-na, dịch một bộ, bảy quyển kinh.

- Sa môn tu bồ đề dịch một bộ tám quyển kinh.

B Các dịch phẩm:

* Về nhà Khất Phục Tây Tần:

- Phương Đẳng Vương Hư Không Tạng Kinh tám quyển (cũng gọi là Hư Không Tạng Sở Vấn Kinh, năm hoặc sáu quyển. Dịch lần thứ hai, so với bộ La-ma-già Kinh do ngài Pháp Hiền đã dịch thì bản đồng mà văn khác. Thấy trong Tấn Thế Tạp Lục. Rút từ Đại Tập Kinh).

- Diễn Đạo Tục Nghiệp Kinh, một quyển (dịch lần thứ hai, bản dịch của ngài Chi Khiêm thì có khác chút ít).

- Bột Kinh, một quyển.

- Phụ Nhân Ngộ Cô Kinh, một quyển (thấy ở Thủy Hưng Lục).

- Thái Tử Tu-đại-noa Kinh một quyển(ở Tân tại Giang lăng, ngài Dữu Sang bút thọ. Thấy trong Thủy Hưng Lục và Bảo Xướng Lục. Nên sắp ngày Tấn Thế Tùy Nhân Phụ Tần).

- Thiểm Tử Kinh, một quyển (một tên là Hiếu Tử Thiểm Kinh, một tên là Bồ-tát Thiểm Kinh, một tên là Phật Thuyết Thiểm Kinh, một tên là Thiểm Bổn Kinh, một tên là Hiếu Tử Ẩn Kinh. Gồm cả sáu tên. Dịch lần thứ hai. So với bản dịch của ngài La-thập có khác chút ít. Thấy trong Thủy Hưng Lục).

- Vô Nhai Tế Trì Pháp Môn Kinh, một quyển (một tên là Vô Tế Kinh, một tên là Thượng Kim Quang Thủ Nữ Sở Vấn Kinh, thấy trong Thủy Hưng Lục).

- Trừ Khủng Tai Hoạn Kinh, một quyển (dịch lần thứ hai, so với bản dịch của ngài Bạch Diên ở đời Ngụy có khác chút ít. Thấy trong Thủy Hưng Lục và Bảo Xướng Lục).

- A-nan Vấn Sự Phật Kiết Hung Kinh, một quyển (một tên là quyển A-nan Phật Biệt Kinh, một tên là Phân Biệt Kinh. So với bản Đệ Tử Mạn Đa Vi Kỳ Vực Thuật Kinh thì bản đồng mà khác người dịch. Thấy ở Thủy Hưng Lục. Cả chín quyển kinh trên đều do Pháp Thượng Lục ghi lại. Cũng gọi là rút từ Biệt Lục, chưa rõ lắm).

- Bồ-tát Sở Sinh Địa Kinh, một quyển (một tên là Ma-kiệt Sở Vấn Kinh. Thấy trong Triệu Lục nhưng không rõ là Tiền Triệu hay Hậu Triệu. Trục Nhân Phụ Tây Tần thì thấy ở Thủy Hưng Lục).

- Hiền Thủ Kinh, một quyển (một tên là Hiền thủ Phu Nhân Kinh, thấy trong Thủy Hưng Lục).

- Đồng Ca-diếp Giải Nạn Kinh, một quyển (dịch lần thứ hai, so với bản Ca-diếp Kinh của ngài La-thập dịch thì đồng bản mà khác người dịch. Ngài Dữu Sảng bút thọ. Thấy trong cả bốn bộ Thủy Hưng, Vương Tông, Bảo Xướng và Chi Mẫn đều đồng ghi chép).

- Quán Phật Kinh, một quyển (So với bản dịch khác là Ma-ha Sát Đầu Kinh thì giống nhiều khác ít. Thấy trong Thủy Hưng Lục).

- Thất Nữ Bản kinh, một quyển (dịch lần thứ hai. So với bản dịch của ngài Chi Khiêm thì giống nhiều khác ít. Cũng gọi là Thất Nữ Bản Tâm Minh Kinh, cũng gọi là Thất Nữ Kinh. Thấy trong Chi Mẫn Độ Đô Lục).

Cả mười bốn bộ gồm hai mươi mốt quyển trên, ở đời Tấn Hiếu Võ Đế, do Sa-môn Thánh Kiên ở nước Hà Nam dịch ra theo yêu cầu của Khất Phục Càn Quy. Hoặc gọi là Ông Kiên hoặc gọi là Pháp Kiên, chưa rõ là ai. Thế nên cần nêu đủ. Dựa ngày việc tra xét các Lục thì thấy một kinh được dịch ở Giang Lăng, một kinh thấy ghi trong Triệu Lục, mười kinh thấy trong Thủy Hưng Lục. Thủy Hưng Lục tức là Nam Lục. Hoặc trong các Lục như Trúc Đạo Tổ Tấn Thế Tạp Lục, Chi Mẫn Độ Đô Lục, hoặc Vương Tông hay Bảo Xướng. So sánh lại trong các Lục về tên người dịch cũng như tìm đến chỗ kinh được dịch ra thì không biết đâu mà tìm, không biết nó thuộc thời đại nào. Nên căn cứ ngày Thế Lục là đúng. Nay dựa ngày Pháp Thượng Lục mà sáp nhập chung ngày Khất Phục Tần Thế Lục.

- Tát-hòa-tát Vương Kinh, một quyển.

- Hồ Bản Kinh, bốn quyển (hình như dịch ở Trường An).

- A-đa Tam-muội Kinh, một quyển (hoặc viết là A-đà).

- Đà Hiền Vương Kinh, một quyển.

- Bạt Đà Hối Quá Kinh, một quyển.

- Sa-di-la Kinh, một quyển.

- Phương Đẳng Quyết Kinh, một quyển.

- Tỳ-kheo Nhị Sự Kinh, một quyển.

Cả tám bộ gồm mười một quyển đều do Samôn Tăng Hựu đã rút từ Tam tạng Tập Lục của ngài Thích Đạo An đã ghi lại các kinh khác ở Quang Trung. Nay đem phụ nhập ngày Nhị Tần Thế Lục, sắp chung ngày chỗ của thời đại mất tên người dịch).

* Về nhà Thư Cừ Bắc Lương, gồm có:

- Bi Hoa Kinh, mười quyển (thấy trong Cổ Lục, hình như bản này đã được dịch trước, ngài Đạo Cung sửa lại).

Bảo Lương Kinh, hai quyển (thấy ở Trúc Đạo Tổ Hà Tây Lục). Cả hai bộ gồm mười hai quyển kinh trên, ở đời Tấn An Đế, do

Sa-môn Thích Đạo Cung, ở Trương Dịch, dịch ra theo yêu cầu của Hà Tây Vương họ Thư Cừ.

- Phương Đẳng Đàn Tri Đà-la-ni Kinh, bốn quyển (cũng gọi tắt là Phương Đẳng Đà-la-ni

Kinh). Một bộ bốn quyển kinh trên, ngày đời Tấn An Đế, do Sa-môn Thích Pháp Chúng là người Quận Cao Xương, ở Trương Dịch, dịch theo yêu cầu của Hà Tây Vương họ Thư Cừ. Thấy trong Trúc Đạo Tổ Tấn Thế Tạp Lục.

****

- Huệ Thượng Bồ-tát Vấn Đại Thiện Quyền Kinh, hai quyển (dịch lần thứ hai, so với bộ Thiện Quyền Phương Tiện Kinh do ngài Pháp Hộ dịch thì giống nhau. Thấy trong Thủy Hưng Lục. Một tên là Đại Thiện Quyền Kinh, một tên là Đại Thừa Phương Tiện Kinh, một tên là Huệ Thượng Bồ-tát kinh, gồm cả năm tên, các bản đều giống nhau.

Một bộ hai quyển kinh trên, ngày đời Tấn An Đế do Sa-môn Tăng Già-đà (Lương dịch là Nhiêu Thiện) người Tây Vức, ở Trương Dịch, dịch theo yêu cầu của Hà Tây Vương họ Thư Cừ. Thấy trong Pháp Thượng lục).

- Đại Niết-bàn Kinh, bốn mươi quyển (Năm Huyền Thủy thứ ba được dịch ra ở nước Cô Tang, đến mười năm mới mới ngày. Kinh này gồm có ba vạn năm ngàn bài kệ. Ở Lương giảm bớt một trăm vạn chữ. Nay chỉ dịch có hơn một vạn Kệ, tức chỉ bằng một phần ba mà thôi. Thấy trong Trúc Đạo Tổ Lương Lục).

- Đại Phương Đẳng Đại Tập Kinh, ba mươi mốt quyển (dịch lần ba, so với bản dịch hai mươi bảy quyển của ngài Chi-sấm đời Hán, và bản dịch ba mươi quyển của ngài La-thập đời Tần thì nhiều và lược có khác nhau chút ít. Hoặc hai mươi chín quyển hoặc ba mươi ba quyển không nhất định. Do dịch lần đầu chưa được khám định rõ. Tức do việc sao chép gây nên các bản không giống nhau. Nay nghiệm lại mà dịch ra. Thấy trong Trúc Đạo Tổ Lục).

- Bi Hoa Kinh, mười quyển (dịch lần thứ hai. Thấy trong Trúc Đạo Tổ Hà Tây Lục. Lại ở Cổ Lục có ghi. Bộ này ngài Đạo Cung đã dịch trước đây, tuy là chỗ và năm dịch không đồng nhau nhưng đều dịch ngày đời nhà Lương có nghi rằng bản dịch trước không được trau chuốt cho nên so với bản dịch lại thì lời văn có chỗ giống và khác nhau.

- Bồ-tát Địa Trì Kinh, mười quyển (hoặc gọi là luận có tám quyển.

Thấy trong Trúc Đạo Tổ Hà Tây Lục).

- Ưu-bà-tắc Giới Kinh, mười quyển (ở nội thành Kinh Châu dịch ngày hai mươi ba tháng tư năm Thừa Huyền thứ nhất, có hơn năm trăm người xuất gia, tại gia cùng nghe giảng. Ngài Sa-môn Đạo Dưỡng bút thọ sáu hay bảy quyển, nhiều ít không nhất định).

- Phương Đẳng Đại Vân Kinh, sáu quyển (một tên là Phương Đẳng Vô Tướng Đại Vân Kinh, một tên là Đại Vân Vô Tướng Kinh, tên là Đại Vân Mật Tạng Kinh đều dịch ở Nội Uyển Tự, tại Kinh Châu thấy trong Tăng Duệ, Nhị Tần và Lý Khuếch Lục trong Ngô Lục cũng có ghi).

- Hư Không Tạng Kinh, năm quyển (dịch lần thứ hai, so với Bộ Phương Đẳng Vương Hư Không Tạng Kinh của ngài Thánh Kiên dịch ở đời Tây Tần thì đồng bản mà khác người dịch, rút từ Đại Tập Kinh).

- Hải Long Vương Kinh, bốn quyển (dịch năm Huyền Thủy thứ bảy, là bản dịch lần thứ hai, so với bản dịch của ngài Pháp Hộ thì đồng bản mà khác người dịch. Thấy trong Trúc Đạo Tổ Hà Tây Lục).

- Bồ-tát Giới Kinh, tám quyển.

- Phật Bản Hạnh Kinh, năm quyển (dịch lần thứ hai).

- Lăng-già Kinh, bốn quyển.

- Kim Quang Minh Kinh, bốn quyển (dịch lần đầu, có mười tám Phẩm. Thấy trong Trúc Đạo Tổ Hà Tây Lục).

- Vô Vi Đạo Kinh, hai quyển (Thế Chú còn ghi).

- Tín Thiện Kinh, hai quyển (hoặc gọi là Thiện Tín Nữ Kinh, Tăng Hựu bảo là còn nghi).

- Thắng Man Kinh, một quyển (cũng gọi là Thắng Man Sư Tử Hống Đại Thừa Đại Phương

Tiện Kinh).

- La-ma-già Kinh, một quyển (dịch lần thứ hai, so với bản dịch của ngài An Pháp Hiền ở đời Ngụy có ba quyển thì nhiều và lược khác nhau).

- Tu Chân Thiên Tử Kinh, một quyển (thấy trong Ngô Lục bảo là La-thập dịch, hình như dịch lại).

- Cư Sĩ Thỉnh Tăng Phước Điền Kinh, một quyển (thấy trong Biệt Lục. Ngài Tăng Hựu bảo là còn nghi).

- Văn Đà Kiệt Vương Kinh, một quyển.

- Công Đức Bảo Quang Bồ-tát Kinh, một quyển.

- Phúc Trung Nữ Thính Kinh, một quyển (một tên là Bất Trang Hiệu Nữ Kinh).

- Quyết Định Tội Phước Kinh, một quyển (Thế chú còn nghi).

- Bồ-tát Giới Bổn, một quyển (dịch lần thứ hai).

- Bồ-tát Giới Đàn Văn, một quyển (cũng gọi là Ưu-bà-tắc Giới Đàn Văn. Thấy trong Bảo Xướng Lục).

Cả hai mươi bốn bộ kinh gồm một trăm năm mươi mốt quyển kinh trên, ngày đời Tấn An Đế, do ngài Tam tạng Pháp sư Đàm-ma-sấm, hoặc gọi là Vô Sấm (Lương dịch là Pháp Phong) người nước Trung Thiên Trúc, mang theo phần trước mười quyển của kinh Đại Niết-bàn và Bồ-tát Giới… đến nước Cô Tang thì nghỉ lại ở Truyền Xá. Vì sợ mất nên để Kinh gối đầu mà ngủ. Đến nửa đêm thì có người kéo Sấm té xuống đất, tỉnh dậy sợ quá cho là kẻ trộm. Suốt ba đêm vẫn như thế. Lại nghe trên không trung có tiếng bảo rằng: "Đó là kho tàng giải thoát của Như Lai, tại sao lại để gối đầu?". Sấm dần dần hiểu ra bèn đem kinh để riêng ở chỗ cao. Quả nhiên đêm đến có kẻ trộm lẻn ngày vác kinh lên mấy lần nhưng không nổi. Sáng ra thấy ngài Ma Sấm cầm kinh rất nhẹ nhàng, kẻ trộm cho là bậc Thánh nhân liền đến lạy tạ. Lúc bấy giờ Thư Cừ Mông Tốn đang chiếm cứ đất Lương tự xưng là Hà Tây Vương, nghe danh đức của Sấm bèn mời diện kiến. Chỉ một lần gặp mặt nói năng thì đãi ngộ rất trọng hậu. Bèn mời ngài tuyên dịch kinh luận. Sa-môn huệ Trung là Bậc anh tài ở đất Lương đích thân bút thọ. Ở Tày Châu người xuất gia tại gia gần cả mấy trăm người thấy rõ tài năng thông suốt của ngài nên ngược xuôi vấn nạn, ngài Ma Sấm giải thích và biện luận các chỗ vướng mắc lời lẽ thanh nhã, biện luận lưu loát. Ngài trích dịch trong kho tàng kinh giới hơn sáu mươi vạn lời, dịch một phần ba kinh Niết-bàn, trước sau đầu đuôi đều tới lui truy tìm trải cả ba phen trong suốt tám năm mới dịch ngày. Tuy đến bốn mươi quyển nhưng còn thiếu sót rất nhiều. Nên phải nhờ Hoằng Pháp Vương là Hàm linh bổ túc cho đầy đủ, vì một khi thấy được Viên giáo thì việc truyền bá sẽ trở nên thịnh vượng. Ở nước Lương khi dịch các kinh này ngày thì ngang với năm Vĩnh Sơ thứ hai của Tống Võ Đế.

- Thiền Pháp Yếu Giải, hai quyển.

- Hai quyển trên ngày đời Tấn An Đế, Mông Tốn có người em họ là An Dương Hầu Kinh Thinh là người hiểu rộng đã đọc qua các kinh sử. Nhân khi nghe ngài Ma Sấm hoằng truyền kinh pháp mới ham thích nội điển, phụng trì năm giới cấm, giữ gìn sáu căn, xem qua các Kinh của Ma Sấm dịch ra thì có thể đọc thuộc làu. Ông đến phía Tây nước Vu Điền, sang nước Thiên Trúc gặp ngài Tam tạng Pháp sư Phật-đà-tư-na (Lương dịch là Phật Tướng) hỏi han về Đạo Nghĩa. Tư-na là bậc thiên tài đọc thuộc nửa ức bài kệ, thông suốt về thiền pháp. Cho nên các nước ở phương Tây (Ấn Độ) đều gọi ngài là Sư Tử của loài người. Ngài An Dương theo học với ngài Tư-na về Thiền kinh và các thuật bí yếu để trị bệnh, miệng đọc thuộc làu bản tiếng Phạm rất thông suốt, lanh lợi. Ngày ngài trở về Trung Quốc, châu nước Lương để phiên dịch và hoằng hóa, nhân đó kinh được lưu hành.

****

- A-tỳ-đàm Tỳ-bà-sa Luận, sáu mươi quyển.

Một bộ sáu mươi quyển trên, là sau khi Phật diệt độ hơn sáu năm thì La-hán Ca-chiên-diên và năm trăm đệ tử cùng soạn ra. Thấy trong Bảo Xướng Lục. Ngày đời Tống Văn Đế, do ngài Samôn Phù-đà-bạt-ma hoặc gọi là Phật-đà (Lương dịch là Giác Khải) người Tây Vức, châu chùa Nhàn Dự Cung, trong nội thành Lương Châu, ngày năm Vĩnh Hòa thứ năm dịch ra theo yêu cầu của con Mông Tốn là Kiền. Sa-môn Đạo Thái bút thọ, ngài huệ Tung, ngài Đạo Lãng và hơn ba trăm vị Tăng danh đức cùng nhau khảo chính lại văn nghĩa khắp hết một lượt mới ngày. Gồm có một trăm cuốn, Samôn Đạo Dĩnh viết lời tựa. Khi Lương bị Ngụy diệt thì các kinh pháp bị đốt mất hết bốn mươi quyển, đến nay đáng lẻ có sáu mươi quyển, mà Vương Tống Lục lại ghi là một trăm quyển. Đây là căn cứ ngày bản xưa. Nay thấy lưu hành có một trăm lẻ chín quyển, đúng là ở cận đại người đời sau đã chia ra.

- Bát-nê-hoàn Kinh, hai mươi quyển.

Một bộ gồm hai mươi quyển trên ngày đời Tống Văn Đế, Sa-môn Thích Trí Mãnh người ở Ung Châu đi du lịch sang Tây Vức tìm học các Kinh mới lạ khác. Từ nước Thiên Trúc mang về các bản tiếng Phạm, ngài Đạo Kinh Ngọc Môn ở Kinh Châu dịch ra. Đến năm Ngươn Gia thứ mười bốn thì lưu hành đến Dương Đô. So với bản dịch của ngài Pháp Hiển giống nhau. Thấy ở Tống Tề Lục.

- Hiền Ngu Kinh, mười lăm quyển.

Một bộ gồm mười lăm quyển trên, ở đời Tống Văn Đế Sa-môn Thích Đàm Giác, một tên gọi là Huệ Giác người ở Lương Châu. Cùng ngài Oai Đức đến nước Vu Điền được bản tiếng Phạm của kinh này mang về. Và được phiên dịch vào năm Ngươn Gia thứ hai mươi hai ở Thiền an nước Cao Xương ra. Thấy trong Tống Tề Lục.

- Đại Nhẫn Nhục Kinh, mười quyển.

- Bất Thoái Chuyển Kinh, bốn quyển (một tên là Bất Thoái Chuyển Pháp Luân Kinh).

- Kim Cang Tam-muội Kinh, một quyển.

- Kim Luân Vương Kinh, một quyển.

- Hiền Kiếp Ngũ Bách Phật Danh, một quyển.

Cả năm bộ gồm mười bảy quyển kinh trên do Sa-môn Tăng Hựu mới thâu nhặt được, khác với kinh của ngài Thích Đạo An ở đất Lương. Nay phụ nhập ngày số kinh không tên người dịch ở Lương Thế Mục Lục.

****

- Nhập Đại Thừa Luận, hai quyển (Ngài Kiên Ý Bồ-tát soạn).

- Tịnh Độ Tam-muội Kinh, một quyển (dịch lần thứ hai. So với bản dịch hai quyển của ngài Bảo Vân thì đồng nhau, nhưng nhiều lược có khác. Thấy trong Đạo Tổ Lục).

- Phó Pháp Tàng Truyện, bốn quyển (thấy ở Bồ-đề-lưu-chi Lục). Cả ba bộ gồm bảy quyển trên nguyên là ngày đời Tống Văn Đế, năm Bính Tuất niên hiệu Ngươn Gia thứ hai mươi ba, tức là năm Thái Bình Chân Quân thứ bảy của Bắc Ngụy. Thái Võ Hoàng Đế tin dùng Thôi Hạo sai trái nịnh nọt, kính trọng kẻ cướp, tự khoe là Thiên sư, khiến tàn hại Tăng sư, phá hủy chùa Tháp. Đến năm Canh Dần, Thái Võ bị bệnh nặng, nhân đó tỉnh ngộ, lại có ngài Bạch Túc Thiền sư thường đến thuyết giảng bèn sinh tâm hối cải. Liền giết Thôi Hạo. Đến năm Nhâm Thìn thì Thái Võ Đế băng hà, con là Văn Thành lên ngôi, liền xây dựng lại các chùa tháp đã bị pháp hủy, chấn hưng Tam Bảo suốt bảy năm. Đến năm Hòa Bình thứ ba, cho mời ngài Huyền Thống Sa-môn Thích Đàm Diệu, than thở trước Lăng việc phế bỏ Phật giáo trước đây, nay đã trùng hưng. Cho nên ở Thạch quật tại Bắc Đài, tập họp chúng tăng dịch ra bộ truyện kinh này để truyền bá cho hàng Hậu Hiền, khiến bao nhiêu Pháp tạng còn mãi không dứt.

- Đề-vị-ba-lợi Kinh, hai quyển (thấy ở Tam Tạng Ký).

Một bộ gồm hai quyển trên ngày đời Tống Hiếu Võ Đế, do Sa-môn Thích Đàm Tĩnh người Ngươn Ngụy, châu Bắc Đài soạn ra. Thấy trong văn ấy nói rằng: Núi Thái Sơn ở Phương Đông, Hán gọi là Đại Nhạc, âm dương giao tiếp thay nhau nên gọi là Đại Nhạc. Kinh này được dịch ra ở đời Ngụy thì phải nói là Ngụy gọi, nay bảo Hán gọi thì là không phân biệt rõ thời đại, là một điều sai. Thái Sơn tức là tiếng gọi của phương này (Trung Quốc), nay dịch là Đại Nhạc, cả hai thứ tiếng dịch cho nhau, không biết rõ tiếng Phạm hay Ngụy là hai điều sai. Ngoài ra còn nhiều thứ khác đáng nói không thể kể xiết đầy cả ở hai quyển. Về phần kinh văn của Cựu Lục có ghi riêng: Đề Vị Kinh, một quyển, cùng với các Kinh khác thì chữ giống nhau. Nhưng ngài Đạo Tĩnh (?) thêm phần Ngũ Phương-Ngũ Hành. Thật là vàng đá lẫn lộn nên nghi ngờ. Nay chỉ lấy một quyển viết thành mà làm chuẩn.

- Tạp Bảo Tạng Kinh, mười ba quyển.

- Phó Pháp Tạng Nhân Duyên Truyện, sáu quyển (hoặc bốn quyển. Nhân Duyên rộng khác ngài Đàm Diệu tự dịch).

- Xưng Dương Chư Phật Công Đức Kinh, ba quyển (dịch lần thứ ba, một tên là Tập Hoa Kinh, một tên là Hiện Tại Phật Danh Kinh, một tên là Chư Phật Hoa Kinh, gồm có bốn tên. So với bản dịch của ngài La-thập đời Tần và ngài Bạt-đà-la đời Tống thì bản đồng mà khác người dịch).

- Đại Phương Đẳng Bồ-tát Thập Địa Kinh, một quyển (dịch lần thứ hai. So với bộ Bồ-tát Thập Địa của ngài Pháp Hộ dịch đời Tấn thì giống nhiều khác ít. Thấy ở Thủy Hưng Lục).

- Phương Tiện Tâm Luận, hai quyển (hoặc một quyển, có bốn phẩm).

Cả năm bộ gồm hai mươi lăm quyển trên, ngày đời Tống Minh Đế do Sa-môn Cát-ca-dạ (Ngụy dịch là Hà Sự) người Tây Vức. Dịch lại vào Ngày năm Diên Hưng thứ hai, ở Bắc Đài theo yêu cầu của Sa-môn Thống Thích Đàm Diệu. Ngài Lưu Hiếu Tiêu làm bút thọ. Thấy ở Đạo huệ Tống Tề Lục).

- Bảo Xa Bồ-tát Kinh, một quyển (một tên là Diệu Hảo Bảo Xa Kinh).

Một bộ một quyển kinh trên, ngày đời Tề Võ Đế, do Sa-môn Thích Đàm Biện người ở Hoài Xuyên thuộc nhà Nguyên Ngụy dịch. Về sau, Samôn Đạo Thị người ở Thanh Châu sửa lại vì tìm hỏi không có bản chữ Phạm, nhiều đời chú là còn nghi. Thấy trong Tam Tạng tập Ký và các Lục khác.

* Về nhà Nguyên Ngụy Nam Kinh gồm có:

- Tín Lực Nhập Ấn Pháp Môn Kinh, năm quyển (dịch năm Chánh Thủy thứ nhất).

- Như Lai Nhập Nhất Thiết Phật Cảnh Giới Kinh, hai quyển dịch ở Bạch mã năm Cảnh Minh thứ hai, một tên là Như Lai Trang Nghiêm Trí huệ Quang Minh Nhập Nhất Thiết Chư Phật Cảnh Giới Kinh).

- Kim Sắc Vương Kinh, một quyển (dịch năm Chánh Thủy thứ tư, Pháp Thượng Lục nói ngài Bồđề-lưu-chi sau này đã xem xét lại nhiều lần).

Cả ba bộ kinh gồm tám quyển trên, trong khoảng thời Tề Lương, do ngài Tam tạng Pháp sư

Đàm-ma-lưu-chi (Ngụy dịch là Pháp Hy) người Nam Thiên Trúc, châu Lạc dương dịch theo yêu cầu của Tuyên Võ Đế, ngài Sa-môn Đạo Bửu bút thọ).

- Biện Ý Trưởng Giả Tử Sở Vấn Kinh, một quyển (một tên là Trương Giả Biện Ý Kinh).

Một bộ một quyển trên, ngày đời Lương Võ Đế, trong năm Thiên Giám, do Sa-môn Thích Pháp Trường, người thuộc nhà Nguyên Ngụy, châu Lạc dương dịch ra. Thấy trong Sa-môn Pháp Thượng Lục.

- Phật Danh Kinh, mười hai quyển (dịch năm

Chánh Quang).

- Nhập Lăng-già Kinh, mười quyển (dịch năm Diên Xương thứ hai, dịch lần thứ hai. Khác xa với bộ Lăng-già Quảng Thuyết bốn quyển của ngài Bạt-đà-la dịch ở đời Tống, ngài Sa-môn Tăng Lãng Đạo Trạm bút thọ).

- Đại Tát-già Ni-càn Tử Thọ Ký Kinh, mười quyển (dịch vào năm Chánh Quang thứ nhất, ở Lạc dương theo yêu cầu của Ty Châu Mục Nhữ Nam Vương, dịch lần thứ hai, hoặc bảy quyển).

- Pháp Tạp Kinh, tám quyển (dịch ở Lạc dương năm Diên Xương thứ tư, ngài Tăng Lãng bút thọ, hoặc sáu quyển. Thấy trong Pháp Thượng Lục).

- Thắng Tư Duy Phạm Thiên Sở Vấn Kinh, sáu quyển (là bản dịch thứ ba, dịch ở Lạc dương năm

Thần Quy thứ nhất. So với bộ Trì Tâm Kinh sáu quyển của ngài Pháp Hộ dịch đời Tấn, và bộ Tư Ích Kinh bốn quyển của ngài La-thập dịch ở đời Tần thì đồng bản mà khác người dịch. Thấy ở Pháp Thượng Lục.

- Thâm Mật Giải Thoát Kinh, năm quyển (dịch ở Lạc dương năm Diên Xương thứ ba. Ngài Tăng Biện bút thọ. Thấy ở Pháp Thượng Lục).

- Phấn Tấn Vương Vấn Kinh, hai quyển (dịch lần thứ hai. So với bộ Tự Tại Vương Kinh của ngài La-thập dịch ở đời Tần thì bản đồng mà khác người dịch).

- Bất Tăng Bất Giảm Kinh, hai quyển (dịch ở Lạc dương dịch năm Chánh Quang, hoặc một quyển).

- Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, một quyển (ở nhà của Hồ Tướng Quốc năm Vĩnh Bình thứ hai. Dịch lần thứ hai, ngài Tăng Lãng bút thọ. So với bản dịch của ngài La-thập ở đời Tần có khác chút ít. Thấy ở Pháp Thượng Lục).

- Sai-ma Ba Đế Thọ Ký Kinh, một quyển (dịch ở Lạc dương vào năm Chánh Quang).

- Phật Ngũ Kinh, một quyển (ngài Tăng Lãng bút thọ).

- Vô Tự Bảo Khiếp Kinh, một quyển (ngài Tăng Lãng bút thọ).

- Bất Tất Định Nhập Ấn Kinh, một quyển (ngài Giác Ý bút thọ)

- Đại Phương Đẳng Tu-đa-la Kinh, một quyển (dịch lần thứ hai, so với Chuyển Hữu Kinh thì đồng bản mà khác người dịch).

- Di-lặc Bồ-tát Sở Vấn Kinh, một quyển (so với bộ Đại Thừa Yếu huệ Kinh thì đồng bổn mà khác người dịch. dịch Ở nhà Ông Triệu Hân, ngài Giác huệ thọ bút).

- Đệ Nhất Nghĩa Pháp Thắng Kinh, một quyển.

- Già-da Đảnh Kinh, một quyển (dịch lần thứ hai. So với bộ Bồ-đề Kinh của ngài La-thập dịch đời Tần thì đồng bổn có khác về tên và người dịch. Ngài Tăng Lãng bút thọ).

- Văn-thù-sư-lợi Tuần Hành Kinh, một quyển (Giác Ý bút thọ).

- Nhất Thiết Pháp Cao Vương Kinh, một quyển (So với bộ Chư Pháp Dõng Vương Kinh thì đồng bản chỉ khác về tên và người dịch).

- Hộ Chư Đồng Tử Đà-la-ni Chú Kinh, một quyển.

- Bảo Tích Kinh Luận, bốn quyển.

- Báng Phật Kinh, một quyển (dịch lần thứ hai. So với bộ Quyết Định Tổng Trì Kinh của ngài Pháp Hộ đời Tấn thì đồng bản chỉ khác tên và người dịch. Cũng gọi tắt là Quyết Định Tổng Trì Kinh).

- Thập Địa Kinh Luận, mười hai quyển (Lý Khuếch Lục bảo rằng: lần đầu, chính Tuyên Võ

Hoàng đế đích thân ngự ở đại điện ngày mùng một, tự tay bút thọ. Sau đó mới giao cho Sa-môn Tăng Biện hoàn thành).

- Thắng Tư Duy Kinh Luận, mười quyển (năm Phổ Thái thứ nhất, ở nhà của Ngươn Đào Dương, tại Lạc dương ra, hai ngài Tăng Lãng và Tăng Biện bút thọ).

- Di-lặc Bồ-tát Sở Vấn Kinh Luận, mười quyển (ở nhà của Triệu Hân tại Lạc dương, Tăng Lãng bút thọ).

- Thật Tánh Kinh Luận, bốn quyển.

- Kim Cang Bát-nhã Kinh Luận, ba quyển (Năm Vĩnh Bình thứ hai, châu nhà Hồ Tướng Quốc dịch, Tăng Lãng bút thọ).

- Già-da Đảnh Kinh Luận, hai quyển (năm Thiên Bình thứ hai, ở Ban chu tại Nghiệp Thành dịch ra, một bản tên là Văn-thù-sư-lợi Vấn Bồ-đề Tâm Kinh Luận. Hai vị Tăng Biện và Đạo Trạm bút thọ).

- Thuận Trung Luận, hai quyển (Thị Trung Thôi Quang bút thọ).

- Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Luận, hai quyển (ngài Đàm Lâm bút thọ và viết tựa).

- Tam Cụ Túc Kinh Luận, một quyển (Dịch năm Chánh Thủy thứ năm, Thị Trung Thôi Quang bút thọ).

- Vô Lượng Thọ Ưu-ba-đề-xá Kinh Luận, một quyển (dịch năm Phổ Thái thứ nhất, ngài Tăng Biện bút thọ).

- Bảo Kế Bồ-tát Tứ Pháp Luận, một quyển.

- Chuyển Pháp Luân Kinh Luận, một quyển (Đàm Lâm bút thọ).

- Thập Nhị Nhân Duyên Luận, một quyển.

- Bách Tự Luận, một quyển.

- Phá Ngoại Đạo Tứ Tông Luận, một quyển.-Phá Ngoại Đạo Niết-bàn Luận, một quyển.

- Dịch Chúng Kinh Luận Mục Lục, một quyển. Cả ba mươi tám bộ gồm một trăm hai mươi bảy quyển trên, ở đời Vương Võ Đế do ngài Tam tạng Pháp sư Bồ-đề-lưu-chi (Ngụy gọi là Đạo Hy) người nước Bắc Thiên Trúc, sang ở nước Ngụy từ năm Vĩnh Bình thứ hai đến năm Thiên Bình, trong thời gian hơn hai mươi năm, châu Lạc dương và Nghiệp Thành dịch thuật. Lý Khuếch Lục gọi ngài là Tam tạng Pháp sư Phòng Nội Bà-la-môn Kinh Luận, tài năng hơn muôn người. Các Kinh luận, bản thảo phiên dịch và bút thọ chất đầy cả một gian nhà. Về huệ giải của ngài thì so nhất nhì với ngài Lặc-na, nhưng ngài rất thông minh sáng suốt, thông thọ tiếng địa phương, lại giỏi các tạp thuật. Có lần ngài ngồi trên miệng giếng tắm bằng cái bình không vì đệ tử chưa đến nên không ai lấy nước lên. Ngài bèn cầm một cành liễu đào bới trên miệng giếng, thầm đọc chú mới vài biến thì nước từ dưới dâng lên ngang miệng giếng, ngài bèn lấy bát múc lấy mà dùng. Chư Tăng đứng bên thấy thế đều khen là bậc Thánh nhân. Ngài bảo: Đây là pháp thuật ở ngoại quốc thường làm. Đất nước này chưa quen nên bảo là Thánh. Sợ việc đó làm mê hoặc lòng người, nên các thuật pháp như thế đều giấu kín không làm nữa.

- Tỳ-da-bà Vấn Kinh, hai quyển.

- Long Thọ Bồ-tát Hòa Hương Phương, một quyển (có năm mươi pháp)

- Thập Địa Kinh Luận, mười hai quyển (Khi ngài mới dịch luận thì chưa giỏi tiếng nước Ngụy (Hán) nên gọi Khí Thế Gian là Trản Tử thế gian. Về sau nhân ngày Điện thọ trai thì thấy các bậc Tôn Đức đều nhờ đệ tử mang xách đồ đạc khi và trao hết bát và đãy bát. Nhân đó mới biết "Khí" là tiếng chỉ chung, bèn đổi là Khí thế gian).

- Bảo Tích Kinh Luận, bốn quyển (Cả hai bộ luận trên đều do ngài Bồ-đề-lưu-chi dịch. Vả lại hai vị tôn đức (tức Lưu-chi và Lặc-na) tranh danh nên không cùng hỏi han tham khảo nhau, do đó có những chỗ ẩn kín, thiếu sót không đồng nhau đến mỗi khi sửa văn có nhiều chỗ khác nhau. Người đời sau mới hợp lại. Thấy trong Bảo Xướng Lục).

- Cứu Cánh Nhất Thừa Bảo Tánh Luận, bốn quyển (Cũng gọi là Bảo Tánh Phân Biệt Thất Thừa Tăng Thượng Luận, hoặc ba quyển. Ở nhà của Triệu Hân dịch ra. Thấy trong Bảo Xướng Lục).

Pháp Hoa Kinh Luận, một quyển (Thị Trung Thôi Quang bút thọ).

Cả sáu bộ gồm hai mươi bốn quyển trên ở đời

Lương Võ Đế, do ngài Tam tạng Pháp sư Lặc-na-ma-đề hoặc gọi là Bà-đề (Ngụy dịch là Bảo Ý) người Trung Thiên Trúc. Ngày năm Chánh Thủy thứ năm, ngài đến ở trong cung điện tại Lạc dương để dịch thuật. Lúc đầu ngài Bồ-đề-lưu-chi giúp việc truyền dịch, về sau vì cãi nhau nên mỗi người tụ dịch riêng. Các ngài Sa-môn Tăng Lãng, Giác Ý, Thị Trung Thôi Quang bút thọ).

- Kim Cang Tam-muội Đà-la-ni Kinh, một quyển.

- Như Lai Sư Tử Hống Kinh, một quyển (Hai kinh trên được dịch năm Chánh Quang thứ sáu).

- Chuyển Hữu Kinh, một quyển.

- Thập Pháp Kinh, một quyển.

- Ngân Sắc Nữ Kinh, một quyển.

- Chánh Pháp Cung Kính Kinh, một quyển (Hoặc không có chữ "Pháp". Cũng gọi là Oai Đức Đà-la-ni Trung Thuyết Kinh).

- Vô Úy Đức Nữ Kinh, một quyển (Cùng bộ Athuật-đạt Bồ-tát Kinh thì đồng bản mà khác người dịch. Đàm Lâm bút thọ).

- Vô Tự Bảo Khiếp Kinh, một quyển (Cả sáu bộ kinh trên được dịch năm Ngươn Tượng thứ hai).

A-nan-đa Mục-khư-ni-ha-ly Đà-la-ni Kinh, một quyển (So với các bản dịch của ngài Chikhiêm như Vô Lượng Vi Bạt Mật Bạt Trì Đà-la-ni, Vô Lượng Môn Trì Công Đức, Trực Vô Lượng Môn Phá Ma Đà-la-ni, Xá-lợi-phất Đà-la-ni. Cả năm kinh đều đồng bản chỉ khác tên và người dịch).

Nhiếp Đại Thừa Luận, hai quyển (dịch năm Phổ Thái thứ nhất). Cả mười bộ gồm mười một quyển trên, ngày đời Lương Võ Đế, do ngài Tam tạng Pháp sư Phật-đà-phiến-đa (Ngụy dịch là Giác Định) người Bắc Thiên Trúc dịch từ. Từ năm Chánh Quang thứ sáu đến năm Ngươn Tượng thứ hai, ở Bạch mã tại Lạc dương và tại chùa Kim hoa ở Nghiệp Đô

* Về Nguyên Ngụy Nghiệp Đô gồm có:

- Chánh Pháp Niệm Xứ Kinh, bảy mươi quyển (ngày năm Hưng Hòa thứ nhất, dịch tại nhà Đại Thừa Tướng Cao Trừng ở nghiệp thành Các ngài Đàm Lâm, Tăng Phưỡng bút thọ).

- Thánh Thiện Trụ Ý Thiên Tử Sở Vấn Kinh, ba quyển (Châu chùa Kim hoa tại Nghiệp Thành dịch năm Hưng Hòa thứ ba. Cùng bộ Như Huyễn Tam-muội Kinh của ngài Trúc Pháp Hộ dịch thì bản đồng mà khác tên và người dịch, ngài Đàm Lâm bút thọ).

- Bát Phật Kinh, một quyển.

Kim Sắc Vương Kinh, một quyển (Hai quyển kinh trên đều ở Kim hoa dịch năm Hưng Hòa thứ tư. Đàm Lâm bút thọ).

- Vô Cấu Nữ Kinh, một quyển (dịch năm Hưng Hòa thứ ba).

- Vô Cấu Ưu Bà Di Kinh, một quyển (dịch năm Hưng Hòa thứ tư).

- Bảo Ý Miêu Nhi Kinh, một quyển (dịch ở Kim hoa theo yêu cầu của Cao Trọng Mật).

- Bố Tát Tứ Pháp Kinh, một quyển (dịch ở Kim hoa, Đàm Lâm, Lý Nghĩa Hy… bút thọ).

- Giải Thoát Giới Bản, một quyển (dịch vào năm Hưng Hòa thứ hai. Ngài Tăng Phưỡng bút thọ. Rút từ Ca-diếp Tỳ Luật).

- Độc Tử Đạo Nhân Vấn Luận, một quyển (dịch ở Kim hoa theo yêu cầu của Cao Trọng Mật, Lý Nghĩa Hy bút thọ).

- Hồi Tranh Luận, một quyển (dịch vào năm Ngươn Tượng thứ nhất. Ngài Đàm Lâm bút thọ).

- Nghiệp Thành Tựu Luận, một quyển (ở Kim hoa dịch năm Hưng Hòa thứ ba. Ngài Đàm Lâm bút thọ).

- Duy Thức Vô Cảnh Giới Luận, một quyển (Cũng gọi là Duy Thức Luận).

- Y-ca Thâu-lô-ca Luận, một quyển (Cả hai luận trên đều châu chùa Kim hoa dịch ra).

Cả mười bốn bộ gồm tám mươi lăm quyển trên, ngày đời Lương Võ Đế có ngài Bà-la-môn Cù-đàm Bát-nhã-lưu-chi (Ngụy dịch là Trí Hy) người ở thành Bà-la-nại nước Nam Thiên Trúc. đến ở Đông Ngụy dịch từ đầu năm Ngươn Tượng đến cuối năm Hưng Hòa, châu Nghiệp Đô mà dịch. Lúc đó có ngài Bồ-đề-lưu-chi, tuy người trước kẻ sau và đồng dịch kinh luận. Nhưng trong các mục lục của sách truyện sao chép lại thì bỏ bớt đi chữ Bồ-đề và chữ Bát-nhã ở trên chỉ gọi là "Ngài Lưu-chi dịch", không rõ là ngài Lưu-chi nào. Hầu hết các Lục đời nay đêu nối tiếp tham khảo nhau, lại xếp dịch phẩm của hai vị lẫn lộn rất khó phân biệt. Rất mong các bậc hiền tài học rộng sau này nên định rõ lại.

- Tăng-già-tra Kinh, bốn quyển (Ngày năm Ngươn Tượng thứ nhất, châu Ty Đồ Công Tôn Thắng.

- Đại Ca-diếp Kinh, ba quyển.

- Tần-bà-ta-la Vương Vấn Phật Cúng Dường Kinh, một quyển (Cả hai kinh trên đều dịch ngày ngày năm Hưng Hòa thứ ba).

Cả ba bộ gồm tám quyển trên ngày đời Lương Võ Đế do Vương Tử Nguyệt-bà-thủ-na (Ngụy dịch là Cao Không), người nước Ưu-thiền-ni ở Trung Thiên Trúc, đến Đông Ngụy châu Nghiệp Thành dịch ngài Tăng Phưỡng bút thọ.

- Lạc dương Địa Già-lam Ký, năm quyển (hoặc một quyển lớn). Một bộ năm quyển trên, do Thái Thú Dương huyễn Quận Kỳ

Thành soạn ra. Trong lời tựa quyển ấy nói rằng: Sự ghi chép của ba sách năm điển, lời nói của chín học phái trăm họ thì lý đều ở cõi người mà nghĩa cũng không ở ngoài cõi Trời. Đến như nguồn gốc của Nhất Thừa Nhị Đế hay ý chỉ của Lục Thông Tam Đạt (Tam Minh) thì cõi Tây Vức đều đầy đủ mà ở Đông Độ thì chẳng ghi. Từ khi vua chỉ một ngày nằm mơ mà ánh sáng suốt tháng vẫn còn. Ấy là ánh sáng từ lông giữa chặn mày của Tượng đặt ở Dương Môn hay ánh xanh biếc từ tóc của hình trên Dạ Đài. Từ đấy đến nay việc truyền tụng nhiều người đua nhau ghi chép. Đến như ở nhà Tấn năm Vĩnh Gia chỉ có bốn mươi hai cảnh chùa. Đến khi vua Ngụy nhận được ánh sáng từ hình trên cao chiếu xuống thì dốc lòng tin tưởng hơn nhiều, giáo pháp càng thạnh. Các bậc Vương Hầu quan lớn bỏ voi ngựa như quăng dép rách, hàng sĩ phu kẻ giàu có bỏ của cải xem như bỏ dấu chân. Lúc đó chiêu đề (chùa) dày đặc, bảo tháp chen nhau. Đua nhau mà tả cái vẽ đẹp của trời cao hoặc khắc chạm hình trong núi đá. Chùa vàng tranh cùng đài mây mọc lên cao vút, giảng điện sánh đẹp cùng phòng lớn nguy nga. Há chẳng phải cây thẳng nên máng áo dày, đất tốt nên ánh lên cả sắc đỏ tía mà thôi ư?

Kịp đến năm Vĩnh Hi có nhiều loạn lạc, vua phải dời đô về Nghiệp Quận, chùa chiền Tăng Ni nhân đó cũng dời theo. Đến năm Võ Định thứ nhất, nhân đi làm việc tôi cũng đã ghé thăm lại Lạc dương thì vách đổ tường xiêu, dây leo gai góc mọc thành rừng, dã thú đào hang nơi thềm vắng, chim rừng chen đậu cây sân chầu. Bọn trẻ quẩn quanh đùa giỡn khắp các nẻo đường. Đám nông phu già làm nghề vặt ở trước cửa Khuyết. Thế mới biết cái cảm của lúa tốt đâu phải chỉ riêng ở gò nhà Ân, cái đau buồn của mất mùa truyền khắp nhà Chu. Ở nội ngoại kinh thành có hơn ngàn ngôi chùa mà ngày nay trống vắng, tiếng chuông chùa thưa thớt đìu hiu. Chỉ sợ hậu thế không ai kể lại, cho nên soạn ra quyển ký này. Song chùa nhiều chúng đông khó có thể kể hết. Nay chỉ ghi chép các Đại Già-lam, còn các chùa bậc Trung và nhỏ xin giữ lại, nếu khi có việc khác thường ở thế tục thì sẽ nêu ra. Trước hết là bắt đầu từ Thành nội, kế đến đề cập tới ngoại thành nêu rõ các cảnh có danh tiếng để ghi rõ gần xa. Gồm cả thảy có năm thiên. Tôi không có tài chú thuật nên còn nhiều sai sót. Rất mong các vị hiểu rõ nên bổ khuyết thêm cho. ".

- Chúng Kinh Lục Mục, một quyển.

Một lục một quyển trên, ngày đời Lương Võ Đế, do Thanh Tín Sĩ Lý Khuếch ở Lạc dương năm Vĩnh Bình vâng chiếu vua Ngụy mà soạn ra. Lý Khuếch thông cả nội ngoại điển, chú thuật kinh lục rất nhất quán.

- Đại Thế Luận Tam Thập Luận, một quyển (thấy ở Đường Nội Điển Lục).

- Bồ-tát Kiến Thật Tam-muội Kinh, mười bốn quyển (dịch Ở Thiên bình năm Thiên Thống thứ hai).

- Nguyệt Tạng Kinh, mười hai quyển (ở Thiên bình, dịch năm thiên thống thứ hai)

- Nguyệt Đăng Tam-muội Kinh, mười một quyển (dịch Ở Thiên bình, dịch năm Thiên Bảo thứ tám).

- Đại Bi Kinh, năm quyển (dịch Ở Thiên bình năm Thiên Bảo thứ chín).

- Tu-di Tạng Kinh, hai quyển.

- Nhiên Đăng Kinh, một quyển (Cũng gọi là Thí Đăng Công Đức kinh. Cả hai kinh trên đều dịch ở Thiên bình năm Thiên Bảo thứ chín).

- Pháp Thắng A-tỳ-đàm Luận, bảy quyển (ở Thiên bình dịch năm Hà Thanh thứ hai).

Cả bảy bộ gồm năm mươi hai quyển trên, ở đời Chu Minh Đế Sa-môn Thống Tam tạng Pháp sư Na-liên-đề-da-xá (Tề dịch là Tôn Xưng) người nước Ô Trường bắc thiên trúc thuộc nhà Cao Tề, dịch ở Nghiệp Thành. Ngài Sa-môn Chiêu Huyền là trưởng tử của ngài Cù-đàm Bát-nhã Lưu-chi và Ngài Đạt-ma-xà-na (Tề dịch là Pháp Trí truyền ngữ).

- Tôn Thắng Bồ-tát Sở Vấn Kinh, một quyển (một tên là Nhập Vô Lượng Môn Đà-la-ni Kinh). Một quyển kinh trên, ngày đời Chu Võ Đế, Cư

Sĩ Vạn Sĩ Ý thuộc nhà Cao Tề, ở Nghiệp Thành dịch Sĩ Ý nguyên là dòng tiên ty họ Vạn Sĩ. Thuở nhỏ xuất gia thờ thầy Bà-la-môn, Ông rất thông triết, lại thông thạo tiếng và chữ Phạm, giỏi về chú thuật, thuốc men... cho nên tham dự ngày việc dịch thuật.

* Về nhà Trần Thị gồm có:

- Phật A-tỳ-đàm Kinh, chín quyển.

- Vô Thượng Y Kinh, hai quyển (dịch ở Tịnh độ, tại Quận Nam Khang năm Vĩnh Định thứ hai).

- Giải Tiết Kinh, một quyển (Kinh này vốn có mười tám phẩm. Nay một quyển kinh này chỉ là một phẩm thứ tư. Ngài Chân Đế chỉ dịch tóm tắt để chứng nghĩa mà thôi).

- Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, một quyển (dịch lần thứ ba. So với các bản dịch của ngài La-thập ở đời Tần và ngài Bồ-đề-lưu-chi ở đời Ngụy, thì bản đồng nhưng văn có rộng hẹp khác nhau).

- Quảng Nghĩa Pháp Môn Kinh, một quyển.

- Tăng-sáp-đa Luật, một quyển (Trần dịch là Tổng Nhiếp).

- Tu Thiền Định Pháp, một quyển.

- Câu-xá Thích Luận, hai mươi mốt quyển.

- Câu-xá Luận Bản, mười sáu quyển.

- Lập Thế A-tỳ-đàm, mười quyển (dịch năm Vĩnh Định thứ ba).

- Nhiếp Đại Thừa Luận, mười lăm quyển (dịch ở Chế chỉ tại Quảng châu dịch ngày ngày năm Thiên Gia thứ tư, ngài huệ Khải bút thọ, hoặc mười hai quyển).

- Phật Tánh Luận, bốn quyển.

- Tứ Đế Luận, bốn quyển.

- Tăng-già Luận, ba quyển.

- Nhiếp Đại Thừa Luận Bản, ba quyển (dịch lần thứ hai. So với bản dịch của ngài Phật-đà-phiến-đa dịch ngày đời Nguyên Ngụy có khác chút ít).

- Đại Thống Luận, ba quyển dịch Thê ẩn tại Dự Chương Đường Nội Điển Lục gọi là Thập Bát Không).

- Trung Biên Phân Biệt Luận, ba quyển (dịch quận Lâm Xuyên

- Kim Thất Thập Luận, hai quyển.

- Câu-xá Luận Kệ, một quyển.

- Kim Cang Bát-nhã Luận, một quyển.

- Luật Nhị Thập Nhị Minh Liễu Luận, một quyển (Cũng gọi tắt là Minh Liễu Luận).

- Đại Bát-niết-bàn Kinh Luận, một quyển.

- Di Giáo Luận, một quyển.

- Tam Vô Tánh Luận, một quyển.

- Phản Chất Luận, một quyển.

- Đạo Phụ Luận, một quyển.

- Cầu Ma Để Tùy Tướng Luận, một quyển.

- Thật Hành Vương Chánh Luận, một quyển.

- Thành Tựu Tam Thừa Luận, một quyển.

- Chánh Luận Đạo Lý Luận, một quyển.

- Ý Nghiệp Luận, một quyển.

- Chấp Bộ Dị Luận, một quyển.

- Duy Thức Luận Văn Nghĩa Hợp Nhất, một quyển (dịch lần thứ hai. So với bản dịch của ngài Bát-nhã-lưu-chi đời Ngươn Ngụy có khác chút ít, dịch tại quận Lâm xuyên).

- Chánh Luận Thích Nghĩa, năm quyển (ở Phật lực tại Tấn An

- Phật Tánh Nghĩa, ba quyển.

- Thiền Định Nghĩa, một quyển.

- Câu-xá Luận Sớ, mười sáu quyển.

- Kim Cang Bát-nhã Sở Hợp, mười một quyển.

- Thập Bát Bộ Luận Sớ, mười quyển.

- Giải Tiết Kinh Sớ, bốn quyển.

- Vô Thượng Y Kinh Sớ, bốn quyển.

- Như Thật Luận Sớ, ba quyển.

- Tứ Đế Luận Sớ, ba quyển.

- Phá Ngã Luận Sớ một quyển.

- Tùy Tướng Luận Trung Thập Lục Đế Sớ, một quyển (Ở quận Thủy Hưng dịch ra).

- Bà Tẩu Bàn Đậu Truyện, một quyển.

- Chúng Kinh Thông Tự, hai quyển.

Phiên Ngoại Quốc Ngữ, bảy quyển (một tên là Tạp Sự, một tên là Câu-xá Luận Nhân Duyên

Sự).

Cả bốn mươi tám bộ gồm hai trăm ba mươi hai quyển, trên ngày đời Chu Võ Đế do Tam tạng Pháp sư Câu-na-la-đà (Trần dịch là Thân Y, lại riêng gọi là Chân Đế) người nước Ưu-thiền-ni thuộc Tây Thiên Trúc dịch. Bắt đầu từ năm Bính Tý tức năm đầu niên hiệu Vĩnh Định của Trần Thị, đến năm Kỷ Sửu là năm đầu niên hiệu Thái Kiến, cả thảy mười bốn năm ngài, đã đem giáo pháp du phương tùy nơi thuận tiện mà dịch thuật. Đều thấy ở Tào Tỳ Tam tạng Lịch Truyện nói rằng: Ngài Xà-lê ngày giờ Ngọ ngày mười một tháng Giêng năm đầu Thái Kiến thọ được bảy mươi mốt tuổi. Ngài để thư phó chúc cho Thần Túc Đệ Tử là Sa-môn Trí Hưu, còn Sa-môn Pháp Hải thì lãnh thọ Tam tạng Tự, chưa tập họp được văn bản Xà-lê, thị tịch để thành Bộ Trục. Kinh Luận Xà-lê ngoại quốc đều là sách bằng lá cây Đa-la (Lá Bối), gồm có hai trăm bốn mươi bó. Nếu dựa ngày số giấy mực phiên dịch viết ra của nhà Trần thì phải hơn hai vạn quyển. Nay số sách của lá đa-la đã dịch chỉ mới hơn hai trăm quyển. Nếu tính chung cả các dịch phẩm đời Lương thì ít hơn ba trăm quyển. Thế mới biết Biển lớn Phật pháp là không thể nghĩ bàn. Trong đó có bản Phạm văn như Hoa Nghiêm, Niếtbàn, Kim Quang Minh sẽ dịch ở tương lai. Từ năm

Kiến Khang trở đi phần lớn là ở hai chùa Chế chỉ và Vương Viên tại Lĩnh Nam và Quảng Châu mong bậc Đại sĩ Hoằng Pháp không thể nghĩ bàn, ở tương lai sẽ cùng tìm dịch các kinh càng nhiều. Khiến cho Pháp Đăng còn truyền chiếu mãi ánh sáng không làm mất nơi góc biển.

- Thắng Thiên Vương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, bảy quyển.

Một bộ bảy quyển trên, ngày đời Chu Võ Đế, do ngài Nguyệt-bà-thủ-na dịch, khi mới sinh ra ngài một đã tuấn tú sáng láng. Từ Ngụy đến Tề, sang Lương, qua Trần. Cả Thế học và Phật kinh thì nghĩa lý ngài đều tinh chuyên, thông suốt âm vận, rành tiếng địa phương. Ngài Thủ Na trước hết châu Nghiệp Quận thuộc Tề, lại học Thiền ở Ngụy. Nhân đó nhiều phen làm khách, mặc tình đi ở. Ngài Thủ-na xin phép về quê, trên đường đi phải qua Giang Tả, do đó ngài được vua Lương Võ Đế cầm giũ lại, sắc lệnh cho ngài thống lãnh giám sát khách ngoại quốc. Đến năm Thái Thanh thứ hai, bỗng gặp vị Tăng Bà-la-môn ở nước Vu Điền là Cầu-na-bạtđà (Trần dịch là Đức Hiền. Vị này có bản Phạm văn Thắng Thiên Vương Bát-nhã. Ngài Thủ-na nhân đó xin được truyền bá rộng rãi. Ngài Cầu-nabạt-đà mừng vì cho rằng ngài là người thanh nhã nên hết lòng truyền dạy. Ngài Thủ-na học ngày rất quý trọng giữ gìn cho là điều khó gặp. Khi có loạn Hầu Cảnh, dầu chưa được rãnh để phiên dịch nên phải mang theo bên mình đó đây để đọc tụng cúng dường. Khi đến nước Trần ngày năm Ất Dậu niên hiệu Thiên Gia. Lúc đầu ở già lam tại Châu, Hưng nghiệp mới bắt đầu dịch thuật, ngài Sa-môn Trí Hân bút thọ ra Trần văn. Trong sáu mươi ngày, quan Thứ sử giang châu là Nghi Đồng Hoàng Pháp Cự là thí chủ. ngài Tăng Chánh Sa-môn Thích huệ Cung ở việt châu giám chưởng trước sau ba mươi vị Tôn Đức Tăng. Kinh có đủ lời tựa trước sau không cần nói nhiều. Ngài Thủ-na chỉ một mình mà đi khắp các nước Ngụy, Tề, Lương, Trần đến đâu cũng tiếp nối tuyên dịch.

- Đại Thừa Bảo Vân Kinh, tám quyển (dịch lần thứ hai. So với Bộ Bảo Vân thì bảy quyển của ngài Mạn-đà-la đã dịch ở đời Lương thì bản đồng mà khác người dịch).

Một bộ gồm tám quyển trên, ngày đời Chu Võ Đế do Sa-môn Tu Bồ-đề (Trần dịch là Thiện Kiết) người Phù Nam đến ở Chí kính trong nội thành Dương Đô, dịch theo yêu cầu vua Trần. Thấy trong mục lục các kinh ở Nhất thừa tự.

QUYỂN 10

CÁC KINH DỊCH ĐỜI TỐNG

Nói về nhà Tống thì sách chép rằng: Lưu Dụ tự là Đức Dư, người quê ở kinh đô Bành thành. Lúc mới sinh ra có ánh sáng lạ chiếu đầy nhà. Người cao lớn đến bảy thước sáu tấc, được nhà Đông Tấn nhường ngôi rồi tự xưng là Tống, nhưng vẫn đóng đô ở Kiến khang. Đến đời vua thứ ba trong năm Ngươn Gia có người tâu lên rằng: xét việc sửa sang chùa tháp đã qua số người quá xa xỉ trong việc làm phước thiện càng ngày càng đông. Vua Văn Đế lấy đó hỏi Hà Thị Trung rằng: Phạm Thái và Tạ Linh Vận đều khen sáu kinh vốn để cứu độ thế tục chân. Tánh linh cần phải dùng kinh Phật làm chỉ nam. Đây là lời của Bậc Hiền Đạt thành thật đáng tin cậy. Nếu khiến cho tất cả mọi người trong bờ cõi này đều được thuần hóa Phật pháp thì Trẫm đây cứ khoanh tay ngồi hưởng thái bình!". Thượng Chi tâu đáp rằng: Giữa buổi sáng, người ở xa tất khó biết hết mọi việc. Từ lúc sang sông đến nay, Vương Đạo thấm nhuần bao trùm khắp hàng Tể phụ.

Vương Mông, Tạ Thượng là bậc tiêu biểu cho nhân luận. Nhóm Mấn Triệu, Vương Mật… người thì gọi là bậc Siêu Quần, kẻ thì cho là Độc Bộ, tóm kể ra có đến mấy mươi người đều là bậc anh tuấn, thời ấy không thiếu chi hàng thanh tín sĩ. Ngài Pháp Sư huệ Viễn nói rằng: Lời giáo huấn của Đức Phật không thể không tuân hành. Thần cho rằng lời nói này hợp lý sâu sắc. Vì sao? Vì nếu trong một làng có trăm nhà mà lại có được mười người giữ năm giới thì cả mười người đều thuần cẩn. Trong một ấp có ngàn nhà mà có được một trăm người tu thập thiện thì có một trăm người hòa mục. Nếu phong hóa này được truyền khắp cõi tuần hoàn và sách vở có trong ngàn ức hộ thì người hiền sẽ có hàng trăm vạn. Phàm khi làm một điều lành thì bỏ đi một việc ác, tránh bỏ được một điều ác thì dứt đi một hình phạt. Một nhà đã dứt đi một hình phạt thì cả nước sẽ dứt đi cả vạn hình phạt, tất lời nói của Bệ Hạ là ngồi yên hưởng thái bình là đúng lắm vậy. Cho nên khi Phật Đồ Trừng ngày Nghiệp quận thì cọp đá giết người bớt đi phân nửa. Ao Thằng bảo tháp phát ra ánh sáng. Phù Kiên do dự dùng hay bỏ Mông Tốn, bêu xấu nhau không chút thân thích, bạo ngược như loài sài lang hổ báo. Cuối đời mà biết cãi ngộ bèn trở thành người thiện. Pháp mà đến với đạo nhân thì có sức mạnh hơn cả muôn người. Bao nhiêu loạn lạc ở sông Vị bịt mặt cam chịu chết vì gây tai ách cho thầy. Đây há không phải là nội hóa đã thắm nhuần đấy ư? Lúc đó Sứ Bộ Lang Dương Huyền Bảo từ chỗ ngồi tiến lên tâu rằng: Thần chỉ trộm sợ rằng các nước Tần, Triệu luận bàn cái thuật của binh hùng và cái kế thôn tính tất ca của tôn ngộ. Nay há lại khinh thường không để ý đến việc đó ư? Vua phán: "Đó không phải là chiến cụ của thời chiến quốc, như lời Khanh nói". Thượng Chi tâu: Hễ khi Lễ ẩn dật thì binh sĩ biếng lười, quý nhân đức thì binh khí dẹp bỏ. Nếu có cái tâm của Tôn Ngô, ý luôn muốn thôn tính nhau thì cũng không thể giữ được cái đạo của Nghiêu Thuấn, đâu phải chỉ đạo Phật mà thôi? Nhà vua rất vui mà bảo rằng: "Đạo Phật có khanh thì khác nào Khổng Tử có Lý, Lộ. Đó gọi là lời ác không nên để lọt ngày tai. Căn cứ theo đây mà luận thì có thể bảo là rốt ráo rồi vậy". Pháp do người được hiển bày, Phật đã phó chúc cho các vua chúa. Từ đó, ở Tống triều Phật giáo rất được hưng thạnh, hàng danh Tăng, Trí sĩ đông đảo như lúa mè, chùa tháp, Kim Luân sum suê như trúc tre cỏ lau. Có tám đời vua nối nhau trị vì suốt năm mươi chín năm. Trong các người dịch kinh gồm kẻ hoa người Nhung, người xuất gia, tại gia gồm có hai mươi ba người, phiên dịch đủ cả Tu-đa-la, Tỳ-ni Giới Bản, Yết-ma Ưu-ba-đề-xá, A-tỳ-đàm luận, truyện, lục… gồm có hai trăm mười bộ với bốn trăm chín mươi quyển. Kết thành Tống Đại Kiến Khang Lục.

A. Các dịch giả:

- Tống Sa-môn Phật Đà Thập, dịch ba bộ, ba mươi sáu quyển Luật, Giới Yết-ma.

- Sa-môn Thích Trí Nghiêm, dịch mười bốn bộ, ba mươi sáu quyển kinh.

- Sa-môn Thích Bảo Vân, dịch bốn bộ, mười lăm quyển kinh.

- Sa-môn Thích huệ Nghiêm, dịch một bộ, ba mươi sáu quyển kinh.

- Sa-môn Y-khí-ba-la, dịch một bộ, mười quyển A-tỳ-đàm.

- Sa-môn Cầu-na-bạt-ma, dịch bảy bộ, ba mươi tám quyển kinh, luận, ký.

- Sa-môn Tăng-già-bạt-ma, dịch năm bộ, hai mươi bảy quyển A-tỳ-đàm, tập, kệ.

- Sa-môn Cầu-na-bạt-đà-la, dịch bảy mươi tám bộ, một trăm sáu mươi mốt quyển kinh, tập, dụ.

- Sa-môn Đàm-ma-mật-đa, dịch mười một bộ, mười hai quyển kinh.

- Sa-môn Cương-lương-da-xá, dịch hai bộ, hai quyển kinh.

- Sa-môn Đàm-vô-kiệt, dịch hai bộ, sáu quyển kinh.

- An Dương Hầu Thư Cừ Kinh Thanh, dịch ba mươi lăm bộ, ba mươi sáu quyển kinh.

- Sa-môn Công Đức Trực, dịch hai bộ, bảy quyển kinh.

- Sa-môn Thích huệ Giản, dịch hai mươi lăm bộ, hai mươi lăm quyển kinh.

- Sa-môn Thích Tăng Cứ, dịch một bộ, hai quyển Yết-ma.

- Sa-môn Thích Pháp Dĩnh, dịch ba bộ, ba quyển Giới Bổn và Yết-ma.

- Sa-môn Trúc Pháp Quyến, dịch sáu bộ, hai mươi chín quyển kinh.

- Sa-môn Thích Tường Công, dịch một bộ, hai quyển kinh.

- Sa-môn Thích Đạo Nghiêm, dịch hai bộ, ba quyển kinh.

- Sa-môn Thích Dõng Công, dịch bốn bộ, bốn quyển kinh.

- Sa-môn Thích Pháp Hải, dịch hai bộ, hai quyển kinh.

- Sa-môn Thích Tiên Công, dịch một bộ, một quyển kinh.

- Sa-môn Thích Đạo Nghiễm, dịch một bộ, hai quyển luận.

B. Các dịch phẩm:

- Tống Sa-di Tất Luận ba mươi bốn quyển (thấy trong Đạo huệ Tống Tề Lục-Biệt Lục nói là hai mươi bốn quyển, đây e là lầm Sa-di Tắt Giới Bản, một quyển (Thấy trong Trúc Đạo Tổ Lục).

Sa-di Tắt Yết-ma, một quyển (Thấy trong Trúc Đạo Tổ Lục). Cả ba bộ gồm ba mươi sáu quyển trên ngày đời Phế Đế Vinh

Dương Vương, do Tam tạng Tỳ-ni Sư Phật Đà Thập (Tống dịch là Giác Thọ) người nước Kế Tân dịch. Thuở nhỏ ngày theo học Sa-di Tắt Bộ, chuyên tinh luật phẩm và thông suốt cả Thiền yếu. Ngài Giác Thọ, ngày tháng bảy năm Cảnh Bình thứ nhất đến ở Dương Đô. Trước đấy ngài Pháp Hiển ở nước Sư Tử được một bộ Sa-di Tắt Luật bằng chữ Phạm, nhưng chưa kịp dịch thì ngài Pháp Hiển đã viên tịch. Chư Tăng ở Kinh Bắc nghe đồn ngài Phật-đà Thập rất giỏi về môn học này. Lúc đó chúng bàn nhau thỉnh ngài dịch ra. Đến tháng mười một ngày mùa Đông năm ấy cùng tập họp tại chùa Long quang dịch ra ba mươi bốn quyển. Ngài Phậtđà Thập đọc bản tiếng Phạm, ngài Sa-môn Trí Thắng người Vu Điền chuyển ngữ. Ở Long quang có Sa-môn Trúc Đạo Sinh và Sa-môn huệ Nghiêm ở đông an… cùng nhau bút thọ và khảo chính về văn lý. Có quan Nghị Đồng Thị Trung Lang Da Vương Luyện làm thí chủ bảo trợ. Đến tháng mười hai năm thứ hai mới ngày. Vẫn từ Đại Bộ mà sao chép dịch ra Giới Tâm cùng Văn Yết-ma… để lưu hành trên đời.

****

- Phổ Diệu kinh, tám quyển (dịch lần thứ hai, so với bản dịch của ngài Trúc Pháp Hộ dịch ở đời Thục thì đồng bản mà vẫn có khác chút ít. Thấy trong Tống Tề Lục và ở Hựu Hạo Truyện ký hoặc sáu hay bốn quyển).

- Vô Tận Ý Bồ-tát Kinh, sáu quyển (cũng gọi là A-sai-mạt Kinh.

Thấy trong Lý Khuếch Lục).

- Sinh Kinh, năm quyển (thấy trong Biệt Lục).

- Quảng Bát Nghiêm Tịnh Kinh, bốn quyển (dịch năm Ngươn Gia thứ tư. Thấy trong Tống Tề Lục. Cũng gọi là Quảng Bát Nghiêm Tịnh Bất Chuyển Kinh. Cũng gọi là Bất Thối Chuyển Pháp Luân Kinh. So với Bộ A Duy Việt Trí Giá Kinh của ngài Trúc Pháp Hộ dịch ở đời Tấn thì bản đồng mà khác người dịch, tên kinh và lời văn cũng khác).

- Bồ-tát Anh Lạc Bổn Nghiệp Kinh, hai quyển.

- Tỳ-la Tam-muội Kinh, hai quyển (Minh Cư Sĩ Nhập Định Sự.

Thấy ở Đông Lục. Tăng Hựu Lục bảo còn nghi).

- A-na-hàm kinh hai quyển.

- Tứ Thiên Vương Kinh, một quyển.

- Thiện Đức Bà-la-môn Vấn Đề-bà-đạt-đa Kinh, một quyển.

- Nhất Âm Hiển Chánh Pháp Kinh, một quyển (Hoặc gọi là Nhất Âm Diễn Chánh Pháp Kinh).

- Điều Phục Chúng Sinh Nghiệp Kinh, một quyển.

- Thiện Đức Ưu-bà-tắc Kinh, một quyển.

- Pháp Hoa Tam-muội Kinh, một quyển.

- Tịnh Độ Tam-muội Kinh, một quyển.

Cả mười bốn bộ gồm ba mươi sáu quyển trên ngày đời Văn Đế, năm Ngươn Gia thứ tư, Sa-môn Thích Trí Nghiêm ở Lương Châu dịch. Năm hai mươi tuổi ngài xuất gia đi du phương học rộng. Khi ở Tây Vức gặp được bản Kinh tiếng Phạm xưa bèn mang về đến Dương Đô, ở Chỉ viên cùng ngài Bảo Vân dịch ra. Thần Đức của ngài Trí Nghiêm chép rất đầy đủ, trong Cao Tăng truyện. Đây không kể lại.

- Phó Pháp Tạng Kinh, sáu quyển (thấy ở Lý Khuếch Lục).

- Phật Sở Hành Tán Kinh, năm quyển (dịch ở Lục hợp sơn Thấy trong Bảo Xướng Lục. Hoặc bảo là truyện của ngài Mã Minh soạn ra. Thấy trong Biệt Lục, Đường Thất Thập quyển).

- Tân Vô Lượng Thọ Kinh, hai quyển (Ở Đạo tràng dịch ra, là bản dịch lần thứ bảy. So với các bản dịch của các ngài Chi Khiêm, Khang Tăng Khải, Bạch Diên, Trúc Pháp Hộ, La-thập, Pháp Lực thì mỗi bản đều không giống. Thấy trong Đạo huệ Tống Tề Lục và Cao Tăng Truyện).

- Tịnh Độ Tam-muội Kinh, hai quyển (là bản tiếng Phạm do ngài Pháp Hiển mang về. Thấy trong Trúc Đạo Tổ Tạp Lục).

Cả bốn bộ gồm mười lăm quyển trên ngày đời Văn Đế, do ngài Sa-môn Đàm Vân, người ở đất Lương Châu dịch ở thuở nhỏ ngài đi khắp các nước Tây Phương (Ấn Độ) rất giỏi chữ và tiếng Phạm, hiểu rõ các môn chú thích về âm tự ở các nước Thiên Trúc. Sau ngài trở về Trường An, lại đến Giang tả. Các Kinh được dịch sau này phần lớn đều do Đàm Vân san định. Rành cả tiếng Hoa và tiếng Phạm, lời lẽ đều chính xác, mọi người đều tin phục. Lúc đầu ở Quan Trung có ngài Trúc Phật Niệm rất giỏi về tuyên dịch, cả hai đời Phù Diêu Tân đều nổi tiếng, hiểu rõ chân văn hơn hết. Lúc đó ở Giang Tả truyền dịch chữ Phạm thành tiếng Tống không ai hơn được ngài Đàm Vân. Lúc đầu ngài cùng Trí Nghiêm phiên dịch. Nhưng từ khi ngài Trí Nghiêm viên tịch thì một mình ngài Đàm Vân dịch đây không ghi chép nhiều.

****

- Đại Bát Niết-bàn Kinh, ba mươi sáu quyển (thấy trong Bảo Xướng Lục và Cao Tăng Truyện).

Một bộ ba mươi sáu quyển trên, ngày năm Ngươn Gia thời Tấn mạt, ngài Đàm-vô-sấm đã dịch ở Cô Tang theo yêu cầu của vua Thư Cừ Nhà Bắc Lương. Nguyên bổn cũ có đến bốn mươi quyển lời văn chất phát, nghĩa không lưu loát lắm. Ngày năm Ngươn Gia đời Tống ban đầu ngài đến Kiến Khang, bấy giờ ở Dự Châu có Sa-môn Uyển Phạm Nghiêm, ở Thanh Hà có Sa-môn Thôi huệ Quan, cùng với Xử sĩ Tạ Linh Vận ở Trần Quận… lấy mấy phẩm Niết-bàn của ngài Vô Sấm thường giải tóm tắt khiến kẻ mới học khó lãnh hội. Bèn căn cứ ngày chánh bản Nê-hoàn đã phiên dịch xưa thêm ngày các phẩm mục. Lời văn và nghĩa có sửa đổi nhiều, gồm ba mươi sáu quyển, mới có mấy bản được lưu hành chưa rộng rãi lắm. Sau đó một thời gian, đêm đến phạm Nghiêm bỗng nằm mơ thấy có một người hình thù rất to lớn quát lớn bảo Nghiêm rằng: Kinh quý Niết-bàn vì sao lại dám khinh thường mà thêm bớt ngày đó?" Khi tỉnh dậy thì Nghiêm hết sức lo lắng sợ hãi. Sáng lại tập hội chư Tăng muốn đổi lại bản trước. Lúc đó các bậc trí thức đều can ngăn rằng: Đây chỉ là muốn khuyên răn nhóm hậu sinh mà thôi. Nếu như có lệch lạc về nghĩa lý, sau không nằm mộng ngay, Nghiêm cho đó là phải. Ít lâu sau lại nằm mộng thấy Thần nhân bảo rằng: "Thầy đã hoằng truyền Kinh pháp đến mức tinh diệu thấu đáo, sau này tất sẽ được gặp Phật, chỉ e ở tương lai kẻ hiền triết không biết rõ căn nguyên". Cho nên mới ghi lại chuyện này.

- Tạp A-tỳ-đàm Tâm, mười quyển (hoặc mười một quyển).

Mười quyển trên, ngày đời Văn Đế, do Sa-môn

Y-khí-ba-la (Tống dịch là Tự Tại) người ngoại quốc ở Bành Thành dịch theo yêu cầu của Thứ Sử Vương Trọng Đức ở phía Bắc Từ Châu. Đến Trạch Phẩm gặp duyên trở ngại, chưa dịch hết bèn bỏ dỡ nửa chừng.

- Bồ-tát Thiện Giới Kinh, hai mươi quyển (Ơ Kỳ hoàn dịch ra. Dịch lần thứ hai, so với bản dịch tám quyển của ngài Chi-sấm có khác chút ít. Thấy trong Trúc Đạo Tổ lục và Cao Tăng Truyện. Về sau đệ tử của ngài châu chùa Định lâm lại dịch thêm hai phẩm thành ba mươi quyển).

- Tạp A-tỳ-đàm Tâm, mười ba quyển (Trước kia do Y-khí-ba-la đã dịch đến Trạch Phẩm thì ngừng lại, nay tiếp tục dịch đến hết thành ba mươi ba quyển. Thấy ở Cao Tăng Truyện).

- Tứ Phần Yết-ma, một quyển (Năm Ngươn Gia thứ tám dịch, ở Kỳ hoàn. Dịch lần thứ hai, so với bản dịch của ngài Đàm Đế đời Ngụy thì giống nhau. Thấy trong Cao Tăng Truyện, Biệt Lục, Bảo Xướng Lục v. v...

- Ưu-bà-tắc Ngũ Giới Lược Luận, một quyển (Năm Ngươn Gia thứ tám dịch, ở Kỳ hoàn. Cũng gọi là Ngũ Giới Tướng, cũng gọi là Ngũ Giới Lược Luận. Thấy trong Cao Tăng Truyện và Bảo Xướng Lục).

- Thiện Tín Nhị Thập Nhị Giới, một quyển (Cũng gọi là Ly Dục Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di Cụ Hành

Nhị Thập Nhị Giới. Cũng gọi là Tam Quy Ưu-bàtắc Giới. Thấy trong Cao Tăng truyện).

- Sa-di oai nghi, một quyển.

- Kinh Luật Phần Dị Ký, một quyển.

Cả bảy bộ gồm ba mươi tám quyển trên, do ngài Tam tạng Pháp sư Cầu-na-bạt-ma (Tống dịch là Công Đức Khải) người nước Kế Tân dịch. Năm Ngươn Gia đến ngài châu Kiến Nghiệp. Vua Văn Đế hội kiến rồi ân cần thăm hỏi. Vua nhân đó nói rằng: Đệ tử thường muốn trì trai không sát hại, ép thân phải tuân theo vật, nhưng không đạt được ý muốn. Pháp sư đã không ngại xa xôi muôn dặm đến đây giáo hóa đất nước này, xin có điều chi dạy bảo? Ngài Bạt-ma đáp: Phàm đạo chỉ châu tâm chứ không châu sự việc, pháp là do mình chứ không phải do người khác. Vả như việc tu hành của hàng vua chúa cùng kẻ thất phu có phần khác nhau. Kẻ thất phu thì thân danh hèn kém, lời nói không uy nếu không tự ép mình (khắc kỷ) chịu cùng khổ thì sẽ không làm gì được. Còn bậc vua chúa thì bốn bể là nhà, muôn dân là con cháu, khi phán ra một lời tốt đẹp tất trai gái đều vui, ban ra một lệnh khiến chánh trị khéo léo thì thần người đều hòa hợp, tử hình không giết người trẻ, phục dịch không quá nhọc sức tù nhân thì sẽ khiến gió mưa hợp thời, nóng lạnh đúng tiết và lúa bắp trúng mùa, dâu mè phát đạt. Như thế mà trì trai thì trai cũng lớn, việc không giết hại càng thêm nhiều. Thà giảm bớt nửa bữa ăm mà tha mạng sống cho một con vật. sau đó mới cứu giúp rộng lớn!". Vua mừng vỗ ghé khen rằng: Phàm người tục thì mê ở lý xa, còn Sa-môn lại trệ ngại ở giáo pháp gần. Kẻ mê lý xa thì gọi Đạo lớn là hư dối, còn người trệ nơi giáo gần thì câu nệ ngày văn ngôn. Đến như điều nói của Bạtma Pháp sư thật gọi là khai ngộ thông suốt, có thể luận suốt đến trời người. ". Vua bèn ban lệnh mời ngài trụ tại chùa Kỳ hoàn, cung cấp trọng hậu. Ngài đã dịch ra các kinh, luận, ký… kể trên và thường an cư ở Định lâm. Lúc đó có thiện tín hái hoa rải lên chiếu, chỉ có chỗ ngài Bạt-ma ngồi lên thì hoa vẫn luôn tươi, mọi người đều rất kinh dị. Sau đó ngài trở về chùa Kỳ hoàn an nhiên viên tịch. Khi ngài Bạt-ma chưa qua đời, trước đó ngài đã dự bị để lại di văn, kệ tụng về ba mươi sáu hạnh, tự nói mình đã chứng được quả thứ hai (Tư Đà Hàm), phó chúc cho đệ tử A-sa-la rằng: Sau khi ta tịch thì có thể đem bài văn kệ này để chỉ bày cho các Sư tăng ở Thiên Trúc cùng mọi người ở đất nước này. Lại khi ngài Bạt-ma thị tịch thì mọi người đều thấy có con vật hình dạng giống như rồng, dài cả một trượng từ bên thi hài bay thẳng lên không. Trong bài kệ để lại có nói rằng:

Trước đảnh lễ Tam bảo
Chư Thượng tọa tịnh giới
Đời ác lắm xiểm nịnh
Dối trá không thành tín
Ngu hoặc không rõ chân
Ganh khinh bậc Đức hạnh
Cho nên các Hiền Thánh
Ra đời dấu tung tích
Cầu-na-bạt-ma, con
Phút lâm chung đã đến
Công Đức Thiện đã được
Nay xin như thực nói
Không do tâm nịnh nọt
Để mong cầu danh lợi
Cốt khuyên chúng biếng lười
Thêm lớn pháp chư Phật
Đại pháp sức như thế
Nhân giả hãy lắng nghe
Xưa ta ở đồng hoang
Trước hết quán thây chết
Sình chương, dòi, rả nát
Hôi thối đầy máu mũ
Chú tâm nghĩ việc sau
Tánh thân này như thế
Thường thấy tướng thân này
Bướm tham không sợ lửa.
Vô lượng thứ như thế
Tụ tập quán thây chết
Bỏ hết văn huệ khác
Nương tựa khoảng rừng cây
Suốt đêm luôn tinh tấn
Thường không quên chánh quán
Cảnh tượng luôn trước mắt
Cũng như hiện trong gương
Quán cảnh ta cũng thế.
Do đây tâm yên vắng
Chuyển thân rất sáng sạch
Mát mẻ Dừng là Vui
Càng thêm đại hoan hỷ
Liền sinh tâm "vô trước"
Biến thành hình xương vụn
Xương trắng hiện trước mắt
Mục nát, từng đốt rời
Xương trắng đều tiêu mất
Trí Vô cấu lóe sáng
Điều phục Tư pháp tướng
Giờ ta được như thế
Thân an rất nhẹ nhàng
Phương tiện tu như thế
Thẳng tiến cành nhanh hơn
Vi trần niệm niệm mất
Trụ chánh niệm hoại sắc
Ấy là thân rốt ráo
Do đâu khởi tham dục
Biết nhân sinh các vọng
Như cá tham mồi câu
Nó cùng mọi thứ hoại
Niệm niệm quán tiêu mất
Biết rõ chỗ nó nương
Khởi từ tâm vượn, khỉ
Nghiệp và quả báo nghiệp
Niệm niệm nương duyên diệt
Tâm biết rõ mọi thứ
Là không pháp tướng khác
Đó là niệm tư huệ
Thứ lớp tu đầy đủ
Quán mọi thứ pháp tướng
Tâm càng thêm sáng rõ
Ta trong ánh sáng ấy
Thấy rõ Tứ niệm xứ
Tín hạnh từ sự cảnh
Trụ trong duyên nhiếp tâm
Khổ như kiếm cháy đỏ
Đây do "Khát ái" chuyển
Ái dứt như Niết-bàn
Khắp thấy cả ba cõi
Chết cháy do thiêu đốt
Hình thể tan nát cả
Mừng phương tiện tự vui
Thân lại dần đầy đủ
Các tướng thắng diệu sinh
Đảnh nhẫn cũng như thế
Lúc đó tâm ta khởi
Chánh phương tiện chân thực
Dần lướt qua cảnh giới
Vui tịch diệt càng thêm
Được pháp thế đệ nhất
Một niệm duyên chân đế
Thứ lớp pháp nhẫn sinh
Đó gọi: Đạo vô lậu
Vọng tướng và các cảnh
Đều xa lìa danh tự
Cảnh giới nghĩa Chân đế
Trừ não được mát mẻ
Thành tựu quả Tam-muội
Lìa cấu duyên thanh lương
Không hiện cũng không mất
Tinh tuệ như mặt trời
Lặng lẽ chánh An trụ
Thuần một tướng tịch diệt
Không phải ta tuyên nói
Chỉ Phật hay chứng biết
Na-ba A-tỳ-đàm
Nói năm quả nhân duyên
Biết tu hành Thật Nghĩa
Về danh không thể thấy
Nói luận đều khác mối
Tu hành lý vô nhị
Chấp lệch có phải trái
Kẻ đạt không tranh cãi
Các diệu tướng tu hành
Nay ta không tuyên nói
E người khởi vọng tưởng
Dối lừa các thế gian
Đối tượng tu lợi kia
Ta đã nói phần ít
Nếu ai biết rõ nó
Biết rõ duyên này khởi
Cõi nước Ma-la-bà
Mới được quả Sơ Thánh
Chùa núi A-lan-nhã
Ẩn tích tu Viễn Ly
Sau ở nước Sư Tử
Làng tên Kiếp-ba-lợi
Tiến tu được quả hai.
Tức là Tư-đà-hàm
Từ đó nhiều trở ngại
Chướng tu đạo lìa dục
Thấy ta tu viễn ly
Biết chỗ trống vắng ấy
Đều sinh tâm hiếm có
Lợi dưỡng tranh nhau đến
Ta thấy như lửa độc
Tâm sinh chán lìa lớn
Tránh nạn vượt qua biển
Xà-bà và Lâm ấp
Bị gió nghiệp thổi giạt
Tùy duyên đến nước
Tống Lúc đó trong các nước
Tùy sức hưng Phật pháp
Không hỏi chỗ nên hỏi
Đế thật chân thật quán
Nay thân này diệt mất
Vắng như đèn tắt lửa.

****

- Tạp A-tỳ-đàm Tỳ-bà-sa, mười bốn quyển (dịch vào năm Ngươn Gia thứ mười, ở Trường can, dịch lại lần thứ hai. So với bản dịch trước thì giống nhiều khác ít).

- Ma-đức-lặc-già Tỳ-ni, mười quyển (một tên là Tát-bà-đa Tỳ-ni, ở Bình lạc, tại Mạt lăng vào năm Hưng Gia thứ mười hai. Thấy trong Đạo huệ Tống Tề Lục).

- Đại Dõng Bồ-tát Phân Biệt Nghiệp Báo Tập, một quyển.

- Long Thọ Bồ-tát Khuyến Phát Chư Vương Yếu Kệ, một quyển.

- Thỉnh Thánh Tăng Dục Văn, một quyển (đều thấy trong Cao Tăng Truyện và Biệt Lục).

Cả năm bộ gồm hai mươi bảy quyển trên, ngày đời Văn Đế, do ngài Tam tạng Pháp sư Tăng-giàbạt-ma (Tống dịch là Chúng Khải), người Thiên Trúc dịch. Năm Ngươn Gia thứ mười ngài đến Kiến Nghiệp, rất giỏi về Luật Tạng, hiểu rõ tạp tâm. Ở Bành thành có Vương Lưu, Nghĩa Khang rất kính trọng giới hạnh của ngài bèn thỉnh làm thầy, tiếng vang khắp các đạo tràng ở Kính Ấp. Ngài huệ Quán nhờ ngài Bạt-ma mà hiểu rõ mọi tạp tâm, đọc tụng rành rẽ nhanh chóng. Tam tạng trước đây tuy đã được dịch ra nhưng chưa kịp sửa chữa viết rõ ràng đều mời ngài dịch lại, ngài Bảo Vân truyền ngữ, huệ Quán tự bút thọ, khắp hết một năm mới ngày. Sau đó tiếp tục dịch thêm Ma-đứclặc-già…

- Tạp A-hàm Kinh, năm mươi quyển (ở dịch Ngõa Quan Tự là bản Kinh do ngài Pháp Hiển mang về. Thấy trong Đạo huệ Tống Tề Lục).

- Chúng Sự Phần A-tỳ-đàm, mười hai quyển (cùng dịch với Bồ-đề Da-xá).

- Lăng-già A-bạt-đa-la Bảo Kinh, bốn quyển (Ngày năm Ngươn Gia thứ hai mươi, ở Đạo tràng dịch ra. Ngài huệ Quán bút thọ. Thấy trong các Lục: Đạo huệ, Tăng Hựu, Pháp Thượng v. v...)

- Ương quật-ma-la Kinh, bốn quyển (cũng dịch ở Đạo tràng Thấy trong Đạo huệ Tống Tề và Tăng Hựu, Pháp Thượng, Biệt Lục…).

- Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả Kinh, bốn quyển (dịch ở Tân, tại Kinh Châu, là bản dịch thứ ba. So với bộ Bản Khởi Thụy Ứng của ngài Chi Khiêm dịch đời Ngô và, ngài Trúc Đại Lực dịch đời Hán thì bản đồng, lời văn có khác chút ít. Thấy trong các lục Thủy Hưng và Tăng Hựu, Lý Khuếch… Thích Lục Thập Nhị Kiến Kinh, bốn quyển (Thấy trong Biệt Lục. Còn Hựu Lục thì bảo là một quyển).

- Đại Phương Quảng Bảo Khiếp Kinh, ba quyển (Thấy ở Lý Khuếch Lục).

- Hiện Tại Phật Danh Kinh, ba quyển (dịch vào ngày bảy tháng giêng năm Ngươn Gia thứ hai mươi chín, châu Kinh Châu theo yêu cầu của Nam Tiếu Vương Lưu Nghĩa Tuyên. Cũng gọi là Hoa Phu Hiện Tại Phật Danh. Thấy trong Thủy Hưng Lục và Cao Tăng Truyện).

- Bồ-tát Hành Phương Tiện Thần Thông Biến Hóa Kinh, ba quyển (thấy trong Lý Khuếch Lục).

- Tịnh Độ Tam-muội Kinh, ba quyển (thấy trong Lý Khuếch Lục).

- Tương Tục Giải Thoát Liễu Nghĩa Kinh, hai quyển (ở dịch Đông an Thấy trong cả bốn Lục: Đạo huệ, Tăng Hựu, Lý Khuếch và pháp thương

- Đại Pháp Cổ Kinh, hai quyển (dịch ở đông An. Thấy ở: Đạo huệ, Tăng Hựu, Lý Khuếch và Biệt Lục v. v...).

- A-lan-nhã Tập Thiền Kinh, hai quyển (Thấy ở Lý Khuyếch Lục).

- Thắng Man Sư Tử Hống Nhất Thừa Đại Phương Tiện Kinh, một quyển (dịch quận Đơn Dương dịch ra. Bảo Vân Truyền nói là ngài huệ Quán bút thọ. Thấy ở Đạo huệ Tống Tề Lục, Tăng Hựu, Lý Khuếch… các Lục).

- Vô Lượng Thọ Kinh, một quyển (dịch vào năm Hiếu Kiến. Dịch lần thứ tám. Thấy trong Đạo huệ Tống Tề Lục. So với bản dịch của các ngài Khang Tăng Khải, Chi Khiêm, Bạch Diên, Trúc Pháp Hộ, La-thập, Trúc Pháp Lực, Bảo Vân… thì bản giống nhiều, văn rộng hẹp có khác).

Tân-đầu-lô Đột-la-xà Vi-ưu-đà Diên Vương Thuyết Pháp Kinh, một quyển.

- Bát-nê-hoàn Kinh, một quyển (dịch ở Tân năm Hiếu Kiến thứ nhất, dịch lần thứ hai, hoặc không có chữ "Bát". So với bản dịch của ngài Trúc Pháp Hộ đời Tấn thì hai quyển có khác chút ít. Thấy trong Đạo huệ Tống Tề Lục).

- Bát Cát Tường Kinh, một quyển (dịch ở Kinh Châu theo yêu cầu của Tư Không Nam Tiếu Vương, vào năm Ngươn Gia thứ hai mươi chín. Dịch lần thứ hai. So với bản dịch của ngài Chi Khiêm đời Ngô thì khác chút ít. Thấy trong Tăng Hựu và Bảo Xướng Lục).

- Vô Ưu Vương Kinh, một quyển (dịch ở Tân, tại Kinh Châu. Thấy ở Ngô Lục).

- Xuất Vô Lượng Trì Môn Kinh, một quyển (Thấy ở Ngô Lục).

- Tam Tiểu Kiếp Kinh, một quyển (thấy trong Biệt Lục).

- Thập Nhị Du Kinh, một quyển (Dịch lần thứ hai. So với bản dịch của ngài Ca-lưu-đà-già đời Tấn có khác chút ít. Thấy trong Cựu Lục).

- Thập Nhị Đầu-đà Kinh, một quyển.

- Dị Xứ Thất Xứ Tam Quán Kinh, một quyển (dịch lần thứ hai. Rút từ Tạp A-hàm, hoặc không có chữ "Dị Xứ").

- Tam Nhân Duyên Kinh, một quyển.

Thập Nhất Tưởng Tư Niệm Như Lai Kinh, một quyển (hoặc tên là Tư Duy Niệm).

- Thập Nhị Phẩm Sinh Tử Kinh, một quyển.

- Thập Báo Pháp Tam Thống Lược Kinh, một quyển.

- Tội Phước Báo Ứng Kinh, một quyển.

- Lục Trai Bát Giới Kinh, một quyển.

- Thập Nhị Đầu-đà Kinh, một quyển.

- Tứ Nhân Xuất Hiện Thế Gian Kinh, một quyển (Rút từ A-hàm).

- Tứ Phẩm Học Pháp Kinh, một quyển.

- Phật Nhập Niết-bàn Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ Ai Luyến Kinh, một quyển.

- Thân đâu bản kinh, một quyển hoặc thân nhật Cữu Sinh Kinh, một quyển (Rút từ Sinh Kinh).

- Na Tiên Kinh, một quyển (Bản dịch khác).

- Nhật Nạn Kinh, một quyển (một tên là Việt Nạn Kinh)

- Quân Thần Kinh, một quyển (Rút từ Sinh Kinh).

- Bệ Ma Túc Kinh, một quyển.

- Anh Võ Kinh, một quyển (Rút từ Trung Ahàm).

- Phụ Trái Vi Ngưu Kinh, một quyển (Rút từ Sinh Kinh).

- Na-lại Kinh, một quyển (Rút từ Sinh Kinh).

Nhị Kiêu Sinh Kinh, một quyển (Rút từ Xuất Diệu Kinh).

- Thích Ma Nam Bản Kinh, một quyển.

- A-lan-na Kinh, một quyển.

- Lão Mẫu Kinh, một quyển.

- Thọ Đề Già Kinh, một quyển.

- A Thấu Đạt Kinh, một quyển.

- Đại Ý Kinh, một quyển.

- Mục-liên Hàng Long vương Kinh, một quyển.

- A-nan Kiến Kỹ Nhạc Đề Khóc Vô Thường Kinh, một quyển (Rút từ Tạp A-hàm).

- Xá-lợi-phất Đẳng Tỳ-kheo Đắc Thân Tác Chứng Kinh, một quyển.

- Phật Vãng Ủy Ca-diếp Bệnh Kinh, một quyển.

- Thỉnh Bát Đặc Tỳ-kheo Kinh, một quyển

(một tên gọi là Thời).

- Phật Mạng A-nan Nghệ tồi thắng Trưởng Giả Kinh, một quyển.

- Mục-liên Đệ Bố Thí Vọng Tức Báo Kinh, một quyển.

- Xá-lợi-phất Bát-nê-hoàn Kinh, một quyển (Rút từ Sinh Kinh).

- Ma-ha Ca-diếp Độ Bần Mẫu Kinh, một quyển.

A-na-luật Thất Niệm Chương Kinh, một quyển.

- Tạp Tạng Kinh, một quyển.

- Hư Không Tạng Bồ-tát Kinh, một quyển.

- Bồ-tát Ha Dục Kinh, một quyển (dịch lần thứ hai).

- A-di-đà Kinh, một quyển.

- Chư Pháp Vô Hành Kinh, một quyển.

- Bần Tử Tu Lại Kinh, một quyển (thấy trong Lý Khuếch Lục).

- Sát Long Tế Nhất Quốc Kinh, một quyển (Rút từ Lục Độ Tập).

- Vô Lượng Nghĩa Kinh, một quyển (thấy trong Lý Khuếch Lục).

- Vô Nhai Tế Trì Pháp Môn Kinh, một quyển.

- Đọa Châu Trước Hải Trung Kinh, một quyển (Rút từ Sinh Kinh).

- Đương Lai Tuyển Trạch Chư Ác Thế Giới Kinh, một quyển.

- A-nan-đà Mục khư ni la đà Kinh, một quyển.

- Phật Nhập Cam Lộ Điều Chánh Ý Kinh, một quyển (Rút từ Đại Thập Nhị Môn Kinh).

- Quá Khứ Hành Đàn Ba-la-mật Kinh, một quyển.

- Bổn Hạnh Lục Ba-la-mật Kinh, một quyển (Các Kinh trên các Lục đều không ghi chú, chỉ thấy trong Biệt Lục).

- Đệ Nhất Nghĩa Ngũ Tướng Lược Tập, một quyển (dịch ở Đông an. Thấy trong Tăng Hựu

Lục).

Tam Tạng Pháp Sư Tự Thuật Dụ, một quyển (Thấy ở Tạp Lục). Cả bảy mươi tám bộ gồm một trăm sáu mươi mốt quyển trên, ngày đời Văn Đế, do Tam tạng Pháp sư Cầu-na-bạt-đà-la (Tống dịch là Công Đức Hiền) người nước Trung Thiên Trúc dịch ngày rất. Rất giỏi về Đại thừa học. Người thời ấy cũng gọi là Ma-ha thừa, cũng gọi là Diễn. Năm Ngươn Gia thứ mười hai ngài đến Dương Đô, vua rất kính trọng, các vị Bành Thành Vương Lưu Nghĩa Khang, Nam Tiếu Vương Lưu Nghĩa Tuyên đều thờ ngài làm thầy. Vua sắc lệnh cho ngài ở Kỳ hoàn. Rồi thỉnh ngài dịch Tạp A-hàm… ngài Bảo Vân truyền ngữ, ngài huệ Quán bút thọ. Sau theo Tiếu Vương trấn giữ Kinh Châu. Lại ở Tân dịch các kinh Vô Ưu Vương… trước sau phiên dịch hơn trăm quyển. Phần lớn là do đệ tự là Pháp Dõng truyền ngữ. Có lần Tiếu Vương thỉnh ngài giảng Kinh Hoa Nghiêm, ngài Bạt-đà tự nghĩ mình chưa giỏi tiếng Tống, lòng rất buồn thẹn. Liền chú tâm sáng chiều Lễ Sám, thỉnh cầu Đức Quan Thế Âm ngầm gia hộ. Bèn nằm mộng thấy có người áo trắng cầm kiếm nâng một đầu người, đến trước bảo rằng: Vì sao lại ưu sầu? Ngài Bạt-đà cúi lạy kể rõ tình ý của mình. Người ấy đáp: Không việc gì phải lo nhiều! Liền lấy kiếm cắt đầu của Bạt-đà rồi đổi đầu mới kia ngày, lại bảo "Hãy trở lại!". Ngày, hỏi rằng: Có đau không? Đà thưa: Không đau đớn gì! Bỗng nhiên tỉnh giấc, tâm thần rất vui mừng. Sáng ra nói Đạo Nghĩa bằng tiếng Tống rất rõ ràng đầy đủ. Lúc ấy liền biện luận giảng giải rất lưu loát. Sau ngài trở về Dương Đô. Thuộc đế là Yên hội họp tất cả Vương Công ra lệnh cho Bạt-đà bệ kiến. Chưa kịp cạo tóc đầu ngài tóc bạc trắng xoá, vua nhìn thấy ngài từ xa bèn quay lại hỏi quan Thượng thư Tạ Trang rằng: Sư Ma-ha-diễn thông minh hiểu rộng, nhưng tuổi gia sắp đến, Trẫm sẽ thử hỏi sự tình tất biết rõ tánh ý vị ấy. Ngài Bạt-đà tiến lên bệ, vua đón tiếp rồi hỏi: Hôm nay, Sư Ma-ha thừa không phụ ý Trẫm. Từ ngoài xa xôi đến đây. Vì sao chỉ có một ở Ma-ha thừa? Sư liền ứng tiếng đáp rằng: Bần đạo mộ việc hoằng hóa, từ xa đến ở Đế Kinh, nhờ sự cúng dường đến nay đã hơn ba mươi năm, ân Thiên Tử thẹn ôm giữ rất sâu, nay đã bảy mươi, người già yếu bệnh hoạn, không còn mong gì hơn ngoài một cái chết!". Vua rất vui ban thưởng lớn cho là biện luận khéo léo. Ra lệnh ngài đến gần chiếu vua mà ngồi, cả buổi sáng được Thuộc Đế đối xử rất trọng hậu. Ngài lại giỏi cả về chú thuật (bùa chú). Ghi chép đầy đủ trong Cao Tăng Truyện đây không cần nhắc lại. Trong Tăng Hựu Lục chỉ nói rằng ngài Công Đức Hiền dịch kinh được bảy mươi ba quyển ngoài ra không biết hết được. Nay xét trong các lục thì thấy đều có nêu đủ.

****

- Thiền Bí Yếu Kinh, ba quyển (cũng gọi là Thiền Pháp Yếu. Năm Ngươn Gia thứ mười tám châu chùa Kỳ hoàn dịch ra. Thấy trong Tăng Hựu Lục).

- Ngũ Môn Thiền Kinh Yếu Dụng Pháp, một quyển (thấy trong Tăng Hựu và Bảo Xướng Lục).

- Quán Phổ Hiền Bồ-tát Hành Pháp Kinh, một quyển (Rút từ Thâm Công Đức Kinh, cũng gọi là Phổ Hiền Quán Kinh. Thấy trong Tăng Hựu Lục).

- Hư Không Tạng Quán Kinh, một quyển (cũng gọi là Quán Hư Không Tạng Bồ-tát Kinh. Thấy trong Đạo huệ và Tăng Hựu Lục…)

- Chư Pháp Dõng Vương Kinh, một quyển (Thấy ở Lý Khuếch Lục).

- Phật Thăng Đao-lợi Thiên Vị Mẫu Thuyết Pháp Kinh, một quyển.

- Chuyển Nữ Thân Kinh, một quyển.

- Tượng Dịch Kinh, một quyển.

- Úc-già Trưởng Giả Sở Vấn Kinh, một quyển.

- Hư Không Tạng Bồ-tát Thần Chú Kinh, một quyển (sáu bộ kinh trên đều thấy trong Lý Khuếch Ngụy Thế Lục).

- Cả mười bộ gồm mười hai quyển trên, ngày đời Văn Đế, do Tam tạng Thiền sư Đàm-ma-mậtđa (Tống dịch là Pháp Tú) người nước Kế Tân. Khi mới sinh có đôi mày liền nhau, là người sâu sắc thâm trầm lại rất thông huệ, thường có Thiện thần ngầm theo hộ trợ. Mỗi khi đến nước nào thì thần linh thường báo mộng cho vua nước ấy biết trước lúc đến cũng như lúc ra đi. Ngài luôn nuôi chí du phương giáo hóa, quen tánh tu hành thanh tịnh không cần danh lợi. Lúc đầu khi mới đến Đôn Hoàng liền lập ngay Thiền Các ở khoảng đất trống vắng, trồng hàng ngàn cây to, mở hàng trăm mẫu vườn đẹp. Thiền chúng đông đảo đến nơi như mây đùn. Ngày năm Ngươn Gia khi mới đến Kiến Nghiệp đến ở Chỉ Trung. Về sau nghĩ tại chùa Kỳ hoàn, liền dịch Thiền Kinh, lại dùng thần chú truyền họa hình tượng Thần vương Ca-tỳ-la. Cho đến nay hãy còn bắt chước theo đó.

****

- Quán Dược Vương Dược Thượng Nhị Bồ-tát Kinh, một quyển.

- Vô Lượng Thọ Quán Kinh, một quyển.

Cả hai bộ gồm hai quyển trên, ngày đời Văn Đế, do Sa-môn Cương Lương Da-xá (Tống dịch là Thời Xưng) người nước Tây Vức dịch ngài, tánh tình cương trực, ít ham muốn học giỏi Tam tạng, hiểu biết rất rộng lại chuyên về Thiền tư. Đầu năm Ngươn Gia khi ngài mới đến kinh ấp, vua rất hậu đãi, sắc lệnh cho về ở đạo lâm tinh xá tại Chung Sơn. Cả hai kinh nói trên là Bí thuật chuyển chướng, là nhân lớn ở cõi Tịnh Độ, ngài thường đọc tụng thọ trì luôn. Sa-môn Tăng Hàm thỉnh ngài dịch ra, Tăng Hàm đích thân bút thọ. Đều thấy ghi trong Đạo huệ Tống Tề Lục và Cao Tăng Truyện.

- Quán Thế Âm Bồ-tát Thọ Ký Kinh, một quyển (dịch lần thứ hai.

So với bản dịch của ngài Trúc Pháp Hộ đời Tấn có khác chút ít).

- Ngoại Quốc Truyện, năm quyển (Việc ngài Vô Kiệt kể chuyện đi du lịch Tây Vức).

Cả hai bộ gồm sáu quyển trên, ngày đời Võ Đế, năm Vĩnh Sơ thứ nhất, Sa-môn Đàm-vô-kiệt (Tống dịch là Pháp Dõng) người nước Huỳnh Long dịch. Ngài mời gọi các đồng chí như Thích Tăng Mãnh… gồm hai mươi lăm người cùng đi sang Tây Vức hơn hai mươi năm. Từ khi ra nước ngoài các vị kia đều viên tịch. Riêng chỉ một mình ngài Vô Kiệt trở về nước Kế Tân chép lại được bản kinh trên bằng Phạm văn mang về. Cuối năm Ngươn Gia ngài đến Giang Tả, liền ở Đô Dương tự mình tuyên dịch. Thấy trong các Lục: Vương Tống,

Tăng Hựu, Huệ Kiểu, Lý Khuếch, Pháp Thượng…-Bạch Trước Hành Ký, năm quyển.

- Trị Thiên Bệnh Bí Yếu Pháp Kinh, hai quyển (dịch ở Trúc viên năm Hiếu Kiến thứ hai. Hoặc không có chữ kinh. Thấy trong Đạo Tổ Ngụy Lục, và Tăng Hựu, Bảo Xướng Lục đều có ghi).

- Tịnh Phạm Vương Bát-niết-bàn Kinh, một quyển (dịch lần thứ hai).

- Bát Quan Trai Kinh, một quyển (bản dịch khác).

- Phổ Minh Vương Kinh, một quyển.

- Phật Đại Tăng Đại Kinh, một quyển (tên thứ hai).

- Sinh Tử Biến Thức Kinh, một quyển.

- Phẩn Hòa Đàn Vương Kinh, một quyển.

- Trưởng Giả Âm Duyệt Kinh, một quyển.

- Hiền Giả Luật Nghi Kinh, một quyển (cũng gọi là Oai Nghi).

- Tiến Học Kinh, một quyển.

- Ưu-bà-tắc Ngũ Giới Kinh, một quyển (cũng gọi Ngũ Tướng Kinh).

- Da-kỳ Kinh, một quyển.

- Ma-đạt Kinh, một quyển.

- Ngũ Bách Phạm Chí Kinh, một quyển.

- Chiên-đà Việt Kinh, một quyển.

- Ngũ Phản Phúc Đại Nghĩa Kinh, một quyển.

- Ca-diếp Cấm Giới Kinh, một quyển.

- Đệ Tử Tử Phục Sinh Kinh, một quyển.

- Đệ Tử Sự Phật Cát Hung Kinh, một quyển.

- Ngũ Khổ Chương Cú Kinh, một quyển.

- Thích Chủng Vấn Ưu-bà-tắc Kinh, một quyển (Rút từ Tạp A-hàm).

- Ba-tư-nặc Vương Táng Mẫu Kinh, một quyển.

- Bồ tát thệ kệ một quyển. Trung Ấm Kinh, một quyển.

- Phật Mẫu Bát-nê-hoàn Kinh, một quyển (dịch ở Định lâm tại Chung Sơn năm Hiếu Kiến thứ hai.

Thấy ở Tăng Hựu Lục. Cũng gọi là Đại Ái Đại Kinh).

- Ma-di Tỳ-kheo Kinh, một quyển.

- Phạm Ma Hoàng Kinh, một quyển.

- Ưu-bà-tắc Ngũ Pháp Kinh, một quyển.

- Ngũ Khủng Bố Thế Kinh, một quyển.

- Mạt-la Vương Kinh, một quyển.

- Quán Di-lặc Bồ-tát Thượng Sinh Đâu-suất Thiên Kinh, một quyển. Thấy trong Đạo huệ Tống Tề Lục và Tam Tạng Ký).

- Quan Thế Âm Quán Kinh, một quyển (Thấy ở Tăng Hựu Lục).

- Giản Vương Kinh, một quyển.

- Thanh Tín Sĩ A-di Phiến Kinh, một quyển (cũng gọi là A-di Phiến Trì Phụ Tử Kinh).

- Đệ Tử Mạn Vi Kỳ Vực Thuật Kinh, một quyển (cũng gọi là Đệ Tử Vi Kỳ-vực Thuật Mạn, hoặc gọi là Đệ Tử Hý Đản Kinh. Các Kinh nói trên không có ghi chú chỗ tìm thấy, đều rút từ Biệt Lục).

Cả ba mươi lăm bộ gồm ba mươi sáu quyển, ngày đời Hiếu Võ Đế, nhà Bắc Lương người em họ của, Hà Tây Vương Thư Cừ Mông Tốn là An Dương Hầu Kinh Thanh, dịch lúc đó nhà Lương vận mạt đã bị nhà Ngươn Ngụy diệt. Kinh Thanh lẽn chạy trốn về phía Nam Kiến Khang, ẩn dật dấu mình, không thích giao tiếp người đời, làm một cư sĩ bình thường luôn dạo thăm các chùa tháp, dứt hết vợ con danh lợi phồn hoa, chỉ cùng các Pháp Lữ luận bàn Chánh giáo. Do đó mà kẻ tục người Đạo đều kính trọng. Các bản dịch trước gồm số kinh tạp yếu, đọc thuộc đã lâu bèn đem tuyên giảng cùng mọi người, bút thọ chuyết văn đều không hề trở ngại. Đơn Dương Y Mạnh Khải thấy rất thích, nên trọng đãi thâm hậu, giao tiếp càng thân. Thấy trong Cao Tăng Truyện.

****

- Bồ-tát Niệm Phật Tam-muội Kinh, sáu quyển (hoặc gọi tắt là Niệm Phật Tam-muội Kinh. Thấy trong Đạo huệ Tống Tề Lục).

- Vô Lượng Môn Phá ma Đà-la-ni Kinh, một quyển (hoặc gọi tắt là Phá Ma Đà-la-ni Kinh. Thấy trong Tăng Hựu Lục).

Cả hai bộ gồm bảy quyển trên, ngày đời Hiếu Võ Đế Sa-môn Công Đức Trực, người Tây Vức dịch vào. Ngày năm Đại Minh thứ sáu, ở Kinh

Châu theo yêu cầu của Sa-môn thích Huyền

Sướng. Sướng sửa lại cho đúng văn nghĩa, lời lẽ ý chỉ uyển chuyển sâu sắc. Khi Sướng duỗi tay thì nước từ bàn tay thơm phức chảy ra, việc thật khó lường. Về sau đến thành đô nghĩ tại chùa Đại thạch tức là Tháp A-dục Vương. Bèn chính tay ngài tạo ra mười sáu tượng Thần Kim Cang Mật Tích và truyền cho đến nay.

- Dược Sư Lưu Ly Quang Kinh, một quyển (dịch năm Đại Minh thứ nhất, một tên là Bạt Trừ Quá Tội Sinh Tử Đắc Độ Kinh, một tên là Quán Đảnh Kinh, rút từ Đại Quán Đảnh Kinh. Hựu Lục chú nghi là bản của Phòng Khám Bà-la-môn. Nay có bản Thần Ngôn bằng chữ Phạm thì có khác chút ít).

- Thương Nhân Cầu Tài Kinh, một quyển.

- Tăng Vương Ngũ Thiên Sứ Kinh, một quyển (Nghi về chữ Tăng).

- Thiện Sinh Tử Kinh, một quyển (cũng gọi là bản dịch khác của Lục Hướng Bái Kinh).

- Giải Đãi Canh Giả Kinh, một quyển (Cựu Lục gọi là Giải Đãi Canh Nhi Kinh).

- Thích-ca Tất Tội Kinh, một quyển (một bản viết chữ "Gia", rút từ Sinh Kinh).

- Bần Cùng Lão Công Kinh, một quyển (Hoặc gọi Bần Lão).

- Sát Thân Tế Cổ Nhân Kinh, một quyển (Rút từ Lục Độ Tập).

- Xá-vệ Thành Trung Nhân Táng Tử Phát Cuồng Kinh, một quyển (Rút từ A-hàm).

- Thí Dụ Kinh, một quyển.

- Thỉnh Tân-đầu-lô Pháp Kinh, một quyển.

- A-nan Kiến Thủy Quang Thụy Kinh, một quyển (một bản gọi là Thủy Quang Kinh).

- Chú Nguyện Kinh, một quyển.

- Cù-đàm Di Ký Quả Kinh, một quyển.

- Học Nhân Loạn Ý Kinh, một quyển (cũng gọi là Mẫu Tử Tác Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni Loạn Ý Kinh, rút từ Tăng Nhất A-hàm).

- Thiết Vi Sa-môn Kinh, một quyển.

- Phật Mẫu Bát-nê-hoàn Kinh, một quyển (So với bản của An Dương Hầu dịch thì cùng bản, giống nhiều khác ít).

- Trưởng Giả Tử Lục Quá Xuất Gia Kinh, một quyển (rút từ Kinh Xuất Diệu).

- Lạp Sư Xả Gia Học Đạo Sự Kinh, một quyển (Rút từ Kinh Xuất Diệu).

- Cù-đàm Di Kinh, một quyển.

- Chiên-xà Ma Phạm Chỉ Báng Phật Sự Kinh, một quyển (rút từ Sinh Kinh).

- Nhị Lão Nam Nữ Kiến Phật Xuất Gia Đắc Đạo Kinh, một quyển.

- Chân Ngụy Sa-môn Kinh, một quyển (gọi tắt là Chân Ngụy Kinh)

- Phật Niết-bàn Hậu Chư Tỳ-kheo Kinh, một quyển (cũng gọi là Tiểu Bát-nê-hoàn Kinh, cũng gọi là Nê-hoàn Hậu Biến Dị Kinh, cũng gọi là Nêhoàn Hậu Tỳ-kheo Thế Biến Kinh).

- Đại Lực Sĩ Xuất Gia Đắc Đạo Kinh, một quyển (cũng gọi là Lực Sĩ Bạt Đà Kinh, rút từ Tạp A-hàm mình và người không ghi chú, thấy trong Biệt Lục).

Cả hai mươi lăm bộ gồm hai mươi lăm quyển trên ngày đời Hiếu Võ Đế, Sa-môn Thích huệ Giản ở Lộc Giả dịch ra.

- Thập Tụng Tăng Ni Yếu Sự Yết-ma, hai quyển.

Một bộ hai quyển trên ngày đời Phế Đế, Luật sư Thích Tăng Cứ, ở Trung Hưng tại Dương Đô, căn ngày Luật soạn ra. Cũng gọi là Lược Yếu Yết-ma Pháp. Thấy trong Tăng Hựu, Tam Tạng Ký.

- Thập Tụng Luật Tỳ-kheo Giới Bổn, một quyển (dịch năm Đại Minh).

- Thập Tụng Luật Tỳ-kheo-ni Giới Bổn, một quyển (dịch năm Thái Thủy).

- Thập Tụng Luật Yết-ma Tạp Sự Tinh Yếu Dụng, một quyển (dịch năm Thái Thủy).

Cả ba bộ gồm ba quyển trên ngày đời Minh Hoàng Đế, Luật sư Thích Pháp Dĩnh, ở Trường can tại Dương Đô, căn cứ ngày Luật soạn ra, rất được thạnh hành ở Giang Tả. Thấy trong Tăng Hựu Lục, Tam Tạng Ký và Bảo Xướng Lục.

- Vô Tận Ý Kinh, mười quyển.

- Hải Ý Kinh, một quyển.

- Như Lai Ân Trí Bất Tư Nghì Kinh, năm quyển.

- Bảo Đảnh Kinh, năm quyển.

- A-thuật-đạt Bồ-tát Kinh, một quyển (Năm Thái Thủy ở Quảng Châu dịch lần thứ ba. So với bản dịch của ngài Trúc Pháp Hộ đời Tống thì rất giống).

- Tam-mật-để-da Kinh, một quyển (Cũng gọi là Hiền Nhân Minh Luật Kinh).

Cả sáu bộ gồm hai mươi chín quyển, ngày đời Minh Hoàng Đế Sa-môn Trúc Pháp Quyến, người Thiên Trúc ở Quảng châu dịch ra. Thấy ở Thủy Hưng, Tăng Hựu, Xuất Tam Tạng Ký và Bảo Xướng ba Lục).

Như Thủ Bồ-tát Vô Thượng Thanh Tịnh Phân Vệ Kinh, hai quyển (Cũng gọi là Quyết Liễu Chư Pháp Như Huyễn Hóa Tam Muội Kinh). Một bộ hai quyển kinh trên, ngày đời Tống, không rõ năm nào, vua nào. Các Lục đều ghi chú vắn tắt rằng Sa-môn Tường Công ở quận Nam Hải dịch. Thấy trong Đạo An, Thủy Hưng Lục, Tăng Hựu và Tam Tạng Ký cũng có ghi.

- Anh Lạc Bản Nghiệp Kinh, hai quyển.

- Phật Tạng Đại Phương Đẳng Kinh, một quyển (cũng gọi Vấn Minh Hiển Kinh).

Cả hai bộ gồm ba quyển trên, thuộc đời Tống không rõ năm nào và vua nào. Các Lục chỉ ghi chú tắt là Sa-môn Thích Đạo Nghiêm dịch. Thấy trong Thủy Hưng Lục và Pháp Thượng Lục đều ghi.

- Không Tịnh Tam-muội Kinh, một quyển (Cũng gọi là Không Tịnh Dại Cảm Ứng Tam-muội Kinh).

- Xa-nặc Kinh, một quyển (Cũng gọi Xa-nặc Bổn Mạt Kinh).

- Khuyến Tấn Học Đạo Kinh, một quyển (cùng dịch với Lương Sử. Cũng gọi là Khuyến Tấn

Kinh).

- Phạn Nữ Thủ Ý Kinh, một quyển (Cũng gọi Thủ Ý Nữ Kinh).

Cả bốn bộ gồm bốn quyển trên, thuộc đời Tống nhưng không rõ năm nào, vua nào. Các Lục chỉ ghi chú tắt là Sa-môn Thích Dõng Công dịch. Thấy trong Thủy Hưng và Triệu Lục, Pháp Thượng Lục cũng có ghi.

- Nhạo Anh Lạc Trang Nghiêm Phương Tiện Kinh, một quyển (một tên là Đại Thừa Anh Lạc Trang Nghiêm Kinh, một tên là Chuyển Nữ Thân Bồ-tát Vấn Đáp Kinh. Cùng bộ Thuận Quyền Phương Tiện Kinh của ngài Trúc Pháp Hộ dịch ở đời Tấn thì đồng bản mà khác người dịch).

Tịch Điều Âm Sở Vấn Kinh, một quyển (một tên là Như Lai Sở Thuyết Thanh Tịnh Điều Phục Kinh. So với bộ Văn Thù Hạnh Luật của ngài Trúc Pháp Hộ đời Tấn thì đồng bản khác người dịch).

Cả hai bộ trên gồm hai quyển, thuộc đời Tống nhưng không biết năm nào. Vua nào. Các Lục chỉ ghi chú tắt là Sa-môn Thích Pháp Hải dịch. Thấy trong Thủy Hưng Lục, Pháp Thượng Lục cũng có ghi.

- Nguyệt Đăng Tam-muội Kinh, một quyển (một tên là Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát Thập Sự Hạnh Kinh, một tên Đãi huệ Tam-muội Kinh).

- Một bộ một quyển kinh, thuộc đời Tống, nhưng không rõ năm nào, vua nào. Các Lục chỉ ghi chú tắt là Sa-môn Thích Tiên Công dịch. Thấy trong Triệu Lục và Pháp Thượng Lục cũng có ghi.

- Quyết Chánh Tứ Bộ Tỳ-kheo Luận, hai quyển.

Một bộ hai quyển trên, ngày năm Thăng Minh thứ nhất, Sa-môn Thích Đạo Nghiễm căn cứ ngày các luật mà soạn ra.

QUYỂN 11

CÁC KINH DỊCH Ở ĐỜI TỀ, LƯƠNG, CHU

Phần chép về các đời vua nhà Tề, Lương, Chu: Đây là những vị vua cùng noi theo việc giao tiếp với Thiền vậy. Tiêu Đạo Thành là người ở Lâm Nghi, được nhà Tống nhường ngôi, bèn xưng là Tề, nhưng vẫn đóng đô ở Kiến Khang. Ngày năm Kiến Ngươn, ở An Thành có trận lửa hoang đốt cháy tàn rụi hết cả hang động, đầm cỏ, chỉ có vài trượng đất cỏ vẫn còn nguyên. Đến xem thì tìm được ở đó một tượng vàng. Điềm linh đã cảm, Thánh Hóa lại hưng thịnh. Do đó con của Tư Đồ Cánh Lăng Văn Tuyên Vương là Lương có chí hoằng truyền Phật pháp. Cả bảy đời vua nối nhau trị vì hai mươi ba năm, sau nhường ngôi cho nước Lương.

- Tiêu Diễn, người ở Lan lăng được Tề nhường ngôi cũng đóng đô tại Kiến Khang. Vua ở trên cao nghĩ đến muôn dân khế hợp với Đẳng giác cũng biết khắp mỗi khi lâm triều nhà vua đều rộng bàn kinh giáo. Rộng mời kẻ lịch lãm, gom góp sách văn xưa để lại, đề cao thuần phong, làm lợi pháp tục.

Đến năm Thiên Giám thứ bảy, vì cho là chánh và tượng pháp dần dần đi ngày mạt pháp, lòng tin ưa càng suy giảm. Tam tạng mênh mông, rất khó thể thấm nhuần được vua sắc lệnh cho Sa-môn Tăng Mân, Bảo Xướng… phải phân loại theo các thứ Lục, Kinh, Luật, Yếu sự. Tên các Kinh Luật khác nhau gồm năm mươi quyển. Đến năm thứ mười bốn vua lại sắc lệnh cho Sa-môn Tăng Thiệu soạn ra bộ Hoa Lâm Phật Điên Chúng Kinh. Mục lục bốn quyển, nhưng hãy còn chưa đầy đủ. Đến năm thứ mười bảy, vua lại sắc lệnh cho Sa-môn Bảo Xướng lại tuyển soạn ra kinh mục, bốn quyển, chỉ rõ các kinh nào có dịch hay không, chứng rõ các kinh chân ngụy, gồm có mười bảy thứ không thể kể tường tận. Có ba đời vua trị vì suốt năm mươi bốn năm, hai vua đóng đô ở Kiến khang, một vua đóng đô ở Giang lăng. Sau bị Tây Ngụy diệt.

- Vũ Văn Giác thuộc giống Tiên Ty ở sóc châu làm Ngụy Thừa Tướng, là Thế tử nối nghiệp Tần. Khi Tần chết thì lên ngôi. Được Tây Ngụy nhường ngôi xưng hiệu là nhà Chu, đóng đô ở Trường an. Đến đời vua thứ ba là đời Võ Đế tên Ung, niên hiệu kiến đức bắc đầu bức bách phật giáo đến độ kinh hoàng đã phá hủy bao công trình của đời trước... Khắp nơi từ quan ải đến chốn sơ lâm cả mấy trăm năm trở lại, tất cả chùa tháp do công hoặc tư tạo nên đều bị quét sạch mất dấu, lại phá hư Phật tượng, thiêu đốt kinh sách. Các chùa miếu ở tám châu hơn bốn mươi ngàn ngôi đều đem ban tặng cho các vương công để làm phủ riêng. Các Sư Tăng ba phương gồm ba trăm vạn vị đều sung ngày quân đội hoặc bị đuổi về làm dân. huệ nhật đã tắt muôn dân tối tăm. Cả năm đời vua nối nhau trị vì suốt hai mươi bốn năm.

Bắt đầu từ năm Canh Thân niên hiệu Vĩnh Sơ thứ nhất được nhà Đông Tấn nhường ngôi, đến năm Tân Sửu niên hiệu Đại Định thứ nhất của nhà Chu thì dâng ấn cho vua nhà Tùy. Trong khoảng thời gian một trăm sáu mươi hai năm. Kể về số người gồm người Hoa, kẻ Phạm người Đạo, kẻ Tục dịch các Kinh và Chú thuật, Luận, Truyện, Mục Lục thì có năm mươi mốt vị. Còn số Tu-đa-la, Tỳ-ni Giới Bản, Yết-ma, Ưu-bà-đề-xá, A-tỳ-đàm, Luận, Truyện, Lục… có đến một trăm sáu mươi hai bộ, gồm một ngàn ba trăm hai mươi sáu quyển. Tổng kết thuộc ba đời, ba kinh đô, mười lăm vị vua. Niên thế lục đã chép như thế.

A. Các dịch giả:

* Về đời Tề gồm có:

- Sa-môn Đàm-ma-già-đà Da-xá dịch một bộ, một quyển kinh.

Sa-môn Ma-ha Thừa dịch hai bộ, hai quyển kinh, luật. môn Tăng-già Bạt-đà-la, dịch một bộ, mười tám quyển kinh.

- Sa-môn Thích Pháp Ý, dịch hai bộ, hai quyển kinh.

- Sa-môn Cầu-na-tỳ-đà, dịch ba bộ, mười hai quyển kinh.

- Sa-môn Thích Pháp Độ, dịch ba bộ, ba quyển kinh, luật.

- Sa-môn Thích Pháp Nguyện, dịch hai bộ, hai quyển kinh.

- Sa-môn Thích Vương Tông, dịch hai bộ, bảy quyển kinh và mục lục.

- Sa-môn Thích Đàm Cảnh, dịch hai bộ, bốn quyển kinh.

- Sa-môn Thích Pháp Ni, dịch bộ, hai quyển kinh.

- Sa-môn Thích Đạo Chánh, dịch một bộ, một quyển kinh.

- Sa-môn Thích Đạo Bị, dịch bộ, năm quyển kinh, luật, kệ.

- Cánh Lăng Văn Tuyên Vương Tiêu Tử Lương, dịch mười bảy bộ, hai trăm năm mươi chín quyển kinh, Sao.

- Thường Thị Dữu Hiệt, dịch một bộ, một quyển kinh.

Sa-môn Thích Siêu Độ, dịch một bộ, bảy quyển luật lệ. môn Thích Pháp Hóa, dịch một bộ, một quyển kinh.

- Sa-môn Thích Pháp Viện, dịch một bộ, ba quyển chú kinh.

- Sa-môn Thích huệ Cơ, dịch một bộ, một quyển chú kinh.

- Văn Tuyên Vương Ký Thất Vương Cân, dịch một bộ, mười quyển tăng sử.

* Về đời Lương gồm có:

- Sa-môn Ni Tăng Pháp, dịch hai mươi mốt bộ, ba mươi lăm quyển kinh.

- Sa-môn Thích Diệu Quang, dịch một bộ, một quyển kinh.

- Sa-môn Thích Tăng Oai, dịch một bộ, một quyển giới pháp.

- Sa-môn Thích Tăng Hựu, dịch mười bốn bộ, sáu mươi ba quyển tập ký truyện.

- Sa-môn Thích Đạo Hoan, dịch một bộ, một quyển kệ.

- Sa-môn Mạn-đà-la, dịch ba bộ, mười một quyển kinh.

- Sa-môn Tăng-già-bà-la, dịch mười một bộ, ba mươi tám quyển kinh, luận, truyện.

- Thanh Tín Sĩ Mộc Đạo Hiền, dịch một bộ, một quyển kinh.

Vương Tử Nguyệt-bà-thủ-na, dịch một bộ, một quyển kinh. môn Chân Đế, dịch mười sáu bộ, bốn mươi sáu quyển kinh, luận, sớ, ký.

- Sa-môn Thích Tăng Mân dịch một bộ, tám mươi tám quyển kinh, sao.

- Sa-môn Thích Tăng Thiệu, dịch một bộ, bốn quyển lục mục.

- Sa-môn Thích Bảo Xướng, dịch tám bộ, một trăm lẻ bảy quyển tạp lục.

- Sa-môn Thích Pháp Lãng, dịch một bộ, bảy mươi hai quyển chú kinh.

- Sa-môn Thích Trí Tạng, dịch một bộ, tám mươi quyển nghĩa lâm.

- Võ Hoàng Đế Tiêu Diễn, dịch một bộ, năm mươi quyển chú kinh.

- Sa-môn Thích huệ Linh, dịch một bộ, mười hai quyển kinh sao.

- Sa-môn Thích huệ Kiểu, dịch một bộ, mười bốn quyển kinh truyện.

- Ưu-bà-tắc Viên Đàm Sung, dịch một bộ, hai mươi quyển luận, sao. tập.

- Giãn Văn Đế Tiêu Võng, dịch một bộ, hai trăm quyển Pháp bảo

- Sương Đông Vương Văn Học Ngũ Hiếu Kỉnh, dịch một bộ, ba mươi quyển Nội Điển Bác Yêu.

* Về đời Chu gồm có:

Sa-môn Thích Đàm Hiển, dịch hai bộ. hai mươi quyển kinh yếu.

- Sa-môn Tương-na-bạt-đà, dịch một bộ, một quyển luận.

- Sa-môn Đạt-ma-lưu-chi, dịch một bộ, hai mươi Phạm Thiên Văn.

- Sa-môn Xà-na-da-xá, dịch sáu bộ, mười bảy quyển kinh.

- Sa-môn Da-xá-quật-đa, dịch ba bộ, tám quyển kinh.

- Sa-môn Xà-na-quật-đa, dịch bốn bộ, năm quyển kinh.

- Sa-môn Thích Tăng Diến, dịch hai bộ, hai quyển truyện.

- Sa-môn Thích huệ Thiện, dịch một bộ, tám quyển luận.

- Sa-môn Thích Vong Danh, dịch mười hai bộ, mười hai quyển luận, kinh, truyện.

- Sa-môn Thích Tịnh Ái, dịch một bộ, mười hai quyển Tam Bảo tập.

- Sa-môn Thích Đạo An, dịch một bộ, một quyển kinh, hai giáo luận.

B. Các dịch phẩm:

* Về đời Tề gồm có:

-Vô Lượng Nghĩa Kinh, một quyển (thấy trong hai Lục Tăng Hựu, Pháp Thượng).

Một bộ một quyển kinh, ngày đời Cao Đế, năm Kiến Ngươn thứ ba, Sa-môn Đàm-ma-già-đà Daxá (Tề dịch là Pháp Sinh Xưng) người Thiên Trúc, ở Triều đình tại Quảng châu tự tay dịch ra. Người truyền thọ là Sa-môn huệ Biểu. Năm Vĩnh Minh thứ ba mang đến Dương Đô viết lại rõ ràng để lưu hành rộng rãi.

****

- Ngũ Bách Bản Sinh Kinh, một quyển (thấy ở Tam Tạng Ký).

- Tha-tỳ-lợi Luật, một quyển (Tha-tỳ-lợi, Tề dịch là Túc Đức.

Thấy trong Tăng Hựu Lục).

Cả hai bộ gồm hai quyển trên, ngày đời Võ Đế, Sa-môn Ma-ha Thừa, người ngoại quốc dịch ra tại Quảng châu.

- Thiện Kiến Tỳ-bà-sa Luật, mười tám quyển (Thấy trong Đạo huệ Tống Tề Lục và Tam Tạng Ký).

Một bộ mười tám quyển trên, ngày đời Võ Đế, Sa-môn Tăng-già Bạt-đà-la (Tề dịch là Tăng Hiền) người ngoại quốc. "Sư Tư Tương truyền nói: Sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, ngài Ưu-ba-lý đã kết tập luật tạng ngày, ngay ngày rằm tháng bảy năm ấy sau khi làm lễ Tự tứ ngày, liền dùng hương hoa cúng dường luật tạng rối chấm ngày trước luật tạng một chấm, mỗi năm đều như thế. Khi ngài Ưu-baly sắp nhập Niết-bàn liền cầm luật tạng này mà giao cho đệ tử là Đà-tả-câu. Khi ngài Đà-tả-câu sắp nhập Niết-bàn cũng giao lại cho đệ tử là Tu-câu. Khi Tu-câu sắp nhập Niết-bàn cũng giao cho đệ tử là Tất-già-bà. Khi Tất-già-bà sắp nhập Niết-bàn thì giao cho đệ tử là Mục-kiền-liên Tử Đế-tu. Khi Mục-kiền-liên Tử Đế-tu sắp nhập Niết-bàn thì giao lại cho đệ tử là Chiên-đà-bạt-xà. Như thế thầy thầy truyền nối đến Tam tạng Pháp sư ngày nay. Ngài Tam tạng Pháp sư mang luật tạng đến Lâm thượng ở Quảng châu, rồi đi thuyền buồm trở về đem luật tạng giao cho đệ tử là Tăng-già Bạt-đà-la. Ngày năm Vĩnh Minh thứ sáu, ở Trúc lâm tại Quảng châu, ngài Đà-la cùng Sa-môn Tăng Ỷ dịch ra bộ Thiện Kiến Tỳ-bà-sa này và nhân đó cùng kiết hạ an cư. Ngày năm Canh ngọ niên hiệu Vĩnh Minh thứ bảy, đến nữa đêm rằm tháng bảy sau khi làm lễ Tự tứ ngày, bèn theo phép của thầy trước mà dùng hương hoa cúng dường luật tạng ngày rồi chấm ngày đó một chấm. Kể ra đến năm đó thì được chín trăm bảy mươi lăm chấm, mỗi chấm là một năm. Ngài Triệu Bá Hưu đời Lương ngày năm Đại Đồng thứ nhất, ở Lô sơn gặp ngài Khổ Hạnh Luật sư hoằng độ có được cuốn ghi chép năm tháng này sau khi Phật nhập Niết-bàn của các Thánh chúng. Lúc đó là năm Vĩnh Minh thứ bảy đời nhà Tề, ngài Bá Hưu nói với ngài Hoằng Độ rằng: Từ năm Vĩnh

Minh thứ bảy trở đi, vì sao lại không thấy chấm nữa? Ngài Hoằng Độ đáp: Từ đây trở về trước là do các Đạo nhân đắc đạo tự tay chấm ngày, còn bần đạo là kẻ phàm phu, chỉ có thể kính cẩn phụng trì mà thôi đâu dám chấm ngày! Ngài Bá Hưu nhân các chấm cũ này mà suy ra đến năm Đại Đồng thứ chín, nhà Lương, tức năm Quý Hợi thì cả thảy có được một ngàn không trăm tám mươi hai năm. Phòng tôi căn cứ ngày sự suy tìm từ năm Đại Đồng thứ chín của ngài Bá Hưu, tính đến nay là năm Đinh Tỵ, niên hiệu Khai Hoàng thứ mười bảy, tính ra có được một ngàn không trăm tám mươi hai năm. Như thế Như Lai diệt độ mới hơn ngàn năm thôi, cách Phật không bao xa thật đáng mừng vui. Rất mong cùng nhau gắng sức chí thành truyền bá giáo pháp của Phật để lại.

- Quán Thế Âm Sám Hối Trừ Tôi Chú Kinh, một quyển (dịch ngày tháng mười hai năm Vĩnh Minh thứ tám. Cũng gọi là Quán Thế Âm Sở Thuyết Hành Pháp Kinh. Thấy trong Bảo Xướng Lục và Tam Tạng Ký).

- Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Đề-bà-đạt-đa Phẩm đệ thập nhị (Sa-môn Pháp Hiến ở nước Vu Điền được bản Phạm Văn này mang về. Thấy trong Đạo huệ Tống Tề và Tam Tạng Ký).

Cả hai bộ gồm hai quyển kinh trên, đời Võ Đế ngài Tam tạng Pháp sư Đạt-ma Ma-đề (Tề dịch là Pháp Ý) người ngoại quốc, ngày năm Vĩnh Minh vì Sa-môn Pháp Hiến, lúc đó làm Tăng Chánh, Hiến ở Ngõa quan tại Dương châu, mà dịch ra. Từ đầu năm Nguyên Vi đời Tống, Pháp Hiến du lịch Tây Vức ba năm, ở nước Vu Điền thỉnh được bản kinh này bằng Phạm văn và răng Phật rồi đem về. Kinh dịch ra được nối nhau lưu truyền đến nay. Còn răng Phật thì đem đến nước Lương ngày tháng Giêng năm Phổ Thông thứ ba, bỗng có mấy người đều cầm gậy gộc, đầu đêm đến gõ cửa, xưng là đám người hầu làm phản của Lâm Xuyên điện hạ. Có người bảo rằng: Hãy mở cửa lầu thờ răng Phật để kiểm tra trong chùa. Nói ngày liền mở cửa lầu. Chủ soái đến trước bàn thờ răng Phật, mở hộp lấy răng ra, xá ba xá, dùng khăn tay gấm gói lấy răng rồi đi quanh về hướng Sơn Đông mất hút. Đến nay vẫn chưa biết được răng ở đâu.

- Bách Cú Thí Dụ Tập Kinh, mười quyển (do ngài Tăng Già Tư Na, người ngoại quốc, dịch ngày mười tháng chín năm Vĩnh Minh thứ mười. Đây là dịch lần thứ ba, hoặc năm quyển. Thấy trong Tăng Hựu Lục).

- Thập Nhị Nhân Duyên Kinh, một quyển (dịch lần thứ tư).

- Tư Đạt Trưởng Giả Kinh, một quyển.

Cả ba bộ gồm mười hai quyển kinh trên, ngày đời Võ Đế, do Tam tạng Pháp sư Cầu-na-tỳ-địa (Tề dịch là Đức Tấn) người nước Thiên Trúc. Ở Tỳda-ly tại Dương Châu dịch ngày năm Vĩnh Minh).-Hôi Hà Kinh, một quyển (Thấy trong Thủy Hưng Lục và Cao Tăng Truyện, Tam Tạng Ký… đều có).

- Tỳ-bạt Luật, một quyển (Thấy trong Tam Tạng Ký).

Cả hai bộ gồm hai quyển trên ngày đời Võ Đế, do Sa-môn Thích Pháp Độ ở Dương châu dịch ra. Thấy ghi trong Bảo Xướng Lục).

- Phật Pháp Hữu Lục Đệ Nghĩa Đệ Nhất Ưng Tri Kinh, một quyển.

- Lục Thông Vô Ngại Lục Căn Tịnh Nghiệp Nghĩa Môn, một quyển.

Cả hai bộ gồm hai quyển trên, ngày đời Võ Đế. Sa-môn Pháp Nguyện sao tập các kinh, căn cứ ngày nghĩa mà soạn ra. Tuy việc hoằng truyền kinh có ý chỉ khác với ngụy tạo. Nay đã nêu rõ tên hiệu thì phải xếp thành bộ quyển. Đời đều liệt ngày loại kinh còn nghi, cho nên nay lại nêu ra đây, người đời sau biết rõ nguồn gốc. Mong rằng cùng soi xét (Thấy trong Tam Tạng Ký và Bảo Xướng Lục).

- Phật Sở Chế Danh Kinh, năm quyển.

- Chúng Kinh Mục Lục, hai quyển.

Cả hai bộ bảy quyển trên, ngày đời Võ Đế, Thích Vương Tôn sao tập các kinh căn cứ ngày sự loại mà soạn ra, số giống nhau nhiều như rừng rậm, đầu đề kinh, tên sách đã ghi ngày lục, chỉ sợ tên và sự thực lộn nhau, nên phải luận rõ. Đã không phải là chánh kinh thì đời phải nghi hoặc. Lại tuyển soạn ra Đại Tiểu Thừa Mục Lục. Đều thấy trong Tam Tạng Ký.

- Vị Tằng Hữu Nhân Duyên Kinh, hai quyển (Cũng gọi tắt là Vị Tằng Hữu Kinh. Thấy trong Thủy Hưng Lục).

- Ma-ha Ma-da Kinh, hai quyển (Cũng gọi tắt là Ma-da Kinh. Đều thấy trong ba lục: Vương Tôn, Bảo Xướng, Pháp Thượng).

Cả hai bộ gồm bốn quyển trên, các lục đều ghi tắt rằng: Đời Tề, Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch ra, không biết rõ năm nào, vua nào.

- Ích Ý Kinh, hai quyển (Hựu Lục gọi là mất tên người dịch, thấy trong Pháp Thượng Lục).

Một bộ hai quyển trên, ngày đời Tề, Sa-môn Thích Pháp Ni dịch ra, không biết rõ năm nào, vua nào).

- Di-lặc Thành Phật Kinh, một quyển.

Một bộ một quyển trên. Trước là ở Trường an, ngài Thích Đạo Tiêu Dịch, dịch lần thứ ba, khác chút ít với bản dịch của Pháp Hộ và La-thập. Đời Tề, ở Giang châu, Sa-môn Đạo Chánh đã sửa đổi đính chính lại, trước sau cũng gọi là "Thành Phật". Lại gọi là "Hạ Sinh", nhưng ở đầu Kinh có "Đại Trí Xá-lợi-phất" là đó. Không biết rõ năm nào và vua nào.

- Cửu Thượng Kinh, một quyển (Thấy trong Cựu Lục).

- An Mộ Chú Kinh, một quyển (Thấy Biệt Lục còn nghi).

- Bồ-đề Pháp Tạng Pháp Hóa Tam-muội Kinh, một quyển (dịch ngày ở đời Võ Đế. Thấy ở Tam Tạng Ký và Bảo Xướng Lục).

- Thất Phật Các Thuyết Kệ, một quyển (thấy ở Ngô Lục).

- Thâm Tự Tri Thân Kệ, một quyển (thấy ở Ngô Lục).

Cả năm bộ gồm năm quyển trên. Ngày đời Tề, Sa-môn Thích Đạo Bị dịch, sau đó ngài đổi Bị thành Hoan. Tuy thấy trong các lục song đều xếp ngày loại kinh còn nghi).

- Dị Giáo Tử Chú Kinh, một quyển.

- Sao Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, năm mươi chín quyển.

- Sao A-tỳ-đàm Tỳ-bà-sa, năm mươi chín quyển.

- Sao Bách Dụ Kinh, ba mươi tám quyển.

- Sao Duy-ma-cật Kinh, hai mươi sáu quyển.

- Sao Duy-ma Kinh, mười ba quyển.

- Sao Địa Trì Kinh, mười hai quyển.

- Sao Bồ-tát Quyết Định Yếu Hạnh Kinh, mười quyển (Cũng gọi là Tịnh Hạnh Ưu-bà-tắc Kinh).

- Sao Thành Thật Luận, tám quyển.

- Sao Thắng Man Kinh, bảy quyển.

- Sao A-sai-mạt Kinh, bốn quyển.

- Sao Ma-ha Ma-da Kinh, bốn quyển.

- Sao Thai Kinh, ba quyển.

- Sao Phương Tiện Báo Ân Kinh, hai quyển.

- Sao Ương-quật-ma-la Kinh, hai quyển.

- Sao Luật Đầu-đà Sự Kinh, hai quyển.

- Tam Bảo Ký, mười quyển (cũng gọi là Phật Sử Pháp Truyền Tăng Lục).

Các bài chú thích nhỏ và sao kinh họp thành mười bảy bộ, gồm hai trăm năm mươi chín quyển trên đều thuộc đời Tề, Ty đồ cánh lăng văn tuyên Vương Tiêu Tử Lương thích tìm hiểu sâu, đích thân ghi chép soạn ra, làm đầy đủ các thiếu sót không cho lưu truyền. Các học giả đời sau theo dấu nhau mà sao chép tìm đọc. Người đời thêm bớt làm rối loạn chánh văn. Cho nên nêu lên nguồn gốc ngỏ hầu ai cũng biết rõ. Ngoài ra còn hơn hai mươi quyển kinh khác, đều là thứ quyển mà văn nhiều rối rắm nên không ghi chép lại đầy đủ. Nếu trên tên kinh có chữ "Sao" thì đều thuộc loại này mà xét kỷ lệ loại, trước sau tự phân biệt. Thấy trong Tam Tạng Ký và Bảo Xướng Lục).

- Giới Quả Trang Nghiêm Kinh, một quyển (hoặc không có chữ Kinh, có tám chương Tụng).

Một bộ một quyển trên, ngày đời Võ Đế, năm Vĩnh Minh thứ năm, ngài Thường Thị Dữu Hiệt góp nhặt ý kinh mà soạn ra.

- Luật Lệ bảy quyển. Một bộ bảy quyển ngày năm Vĩnh Minh thứ bảy, đời Võ Đế do Sa-môn Thích Siêu Độ căn cứ ngày luật soạn ra.

- Phúc Trung Nữ Thích Kinh, một quyển (dịch lần thứ hai, so với Tiên Bất Trang Hiệu Nữ Kinh thì bản đồng).

Một bộ một quyển trên, ngày năm Vĩnh Minh, Sa-môn Thích Pháp Hóa tụng dịch ra. Thấy trong Cổ Lục. Các Lục nối nhau đều nói là "Tụng Xuất" chưa rõ ý chữ "Tụng". Dựa theo trên mà ghi thế.

Vì có bản dịch trước nên khỏi nghi lầm.

- Thắng Man Tử Chú Kinh, ba quyển.

Một bộ ba quyển trên, ở Linh căn tại Dương châu, Sa-môn Thích Pháp Viện thuật lại và chú giải.

- Di Giáo Tử Chú Kinh, một quyển.

Một bộ một quyển trên, ở núi Pháp hoa tại Sơn âm, Sa-môn Thích Huệ Cô thuật lại và chú giải.

- Tề Tăng Sử, mười quyển.

Một bộ mười quyển trên, ở phủ Tư Đồ, Cánh Lăng Văn Tuyên Vương Ký Thất Vương Cân soạn ra.

* Về đời Lương gồm có:

- Tịnh Độ Kinh, bảy quyển (dịch năm Vĩnh Ngươn, năm tám tuổi).

- Diệu Trang Nghiêm Kinh, bốn quyển.

- Diệu Âm Sư Tử Hống Kinh, ba quyển (dịch năm Thiên Giám thứ tư. Năm mười sáu tuổi).

- Ích Ý Kinh, ba quyển (dịch năm Thiên Giám thứ nhất, năm mười ba tuổi).

- A-na-hàm Kinh, hai quyển (dịch năm Thiên Giám thứ tư, năm mười sáu tuổi).

- Bảo Đảnh Kinh, một quyển (dịch năm Vĩnh Ngươn thứ nhất, năm tám tuổi)

- Chánh Đảnh Kinh, một quyển (dịch năm Vĩnh Ngươn thứ hai, năm chín tuổi)

- Pháp Hoa Kinh, một quyển (dịch năm Vĩnh Ngươn thứ hai, năm chín tuổi)

- Thắng Man Kinh, một quyển (dịch năm Vĩnh Ngươn thứ hai, năm chín tuổi)

- Dược Thảo Kinh, một quyển (dịch năm Vĩnh Ngươn thứ ba, năm mười tuổi)

- Thái Tử Kinh, một quyển (dịch năm Vĩnh Ngươn thứ ba, năm mười tuổi)

- Già-da-bà Kinh, một quyển (dịch năm Vĩnh Ngươn thứ ba, năm mười tuổi)

- Ba-la-nại Kinh, một quyển (dịch năm Trung Hưng thứ nhất, năm mười một tuổi)

- Ưu-lâu-tần Kinh, một quyển (dịch năm Trung Hưng thứ nhất, năm mười hai tuổi)

- Bát-nhã Đắc Kinh, một quyển (dịch năm Thiên Giám thứ nhất, năm mười ba tuổi)

- Hoa Nghiêm Anh Lạc Kinh, một quyển (dịch năm Thiên Giám thứ nhất, năm mười ba tuổi)

- Xuất Thừa Sư Tử Hống Kinh, một quyển

(dịch năm Thiên Giám thứ ba, năm mười lăm tuổi)-Du-già Vệ Kinh, một quyển (Ở trong Đài của điện Hoa quang dịch năm Thiên Giám thứ tư, năm mười sáu tuổi).

- Ưu-đàm Kinh, một quyển.

- Duy-ma Kinh, một quyển.

- Tự Thất Thế Kinh, một quyển.

Cả hai mươi mốt bộ gồm ba mươi lăm quyển trên, do Thái Học Bác Sĩ Giang Bí Nữ, còn nhỏ mà xuất gia tên là Tăng Pháp. Năm lên tám, chín tuổi có lúc ngồi tịnh tọa nhắm mắt đọc ra các kinh trước. Ở Dương châu mọi người đạo hay tục đều cho là có thần linh dạy cho. Phòng tôi xét kỹ lý này của kinh luận rất sáng rõ, ấy là do đời trước đã luôn tập quen cho đến nay, không liên quan chi đến việc thần trao dạy. Vả lại căn cứ ngày ngoại điển thì ngài Khổng Tử có nói rằng: Sinh ra một mà biết là bậc Thánh, Học mà biết là hạng kế đó. Đây là hạn cuộc nói trong biện đời mà hưởng chất vị ở quá khứ. Nếu không phải thế thì do đâu mà luận được bậc Thánh Hiền nội ngoại, sâu cạn, quá khứ, hiện tại ư? Cho nên Cao Tăng truyện nói rằng: Ngài Thích Đàm Đế, tục tánh là Khang Thị, vì trước là người ở đất Khang. Đến thời Hán Linh Đế thì dời về sống ở Trung Quốc. Ngày cuối đời Hiến Đế có giặc loạn nên dời về sống ở Ngô Hưng. Cha của Đàm Đế là Đồng từng làm Biệt giá ở Ký Châu. Mẹ là Huỳnh Thị ngủ trưa, nằm mộng thấy một vị Tăng gọi Huỳnh là mẹ, và gởi lại một cây phất trần và miếng sắt để dằn sách. Huỳnh Thị nằm mơ mà khi thức dậy thấy hai vật ấy vẫn còn, thầm cho là linh dị, nhân đó cấn thai sinh ra một Đế. Khi Đế lên năm mẹ lấy phất trần… đưa ra. Đế bảo: đó là vật vua Tần đã tặng cho. Mẹ hỏi: Con để nó ở đâu?. Đáp rằng: Không nhớ!. Đến năm mười tuổi thì xuất gia. Học không cần thầy, hiểu biết do Thiên phú. Đây là việc ấy. Sau theo cha đi Phàn Đặng, đến Quan Trung thì gặp Tăng Lược Đạo nhân. Bỗng nhiên kêu lên, Lược bảo rằng: Vì sao cậu bé lại gọi tên kẻ già này?.

Đế bảo: Ngài xưa vốn là Sa-di của Đế, đã vì chúng Tăng hái rau mà bị heo rừng húc cho bị thương, bất giác mất tiếng nay đã quên rồi sao? Vốn ngài Tăng Lược là đệ tử của Pháp Sư Hoằng Giác, vì chúng Tăng đi hái rau bị heo rừng húc bị thương. Lược ban đầu không nhớ việc này, bèn đến nhà cha của Đàm Đế, người cha thuật đầu đuôi việc sinh ra một Đế, rồi đem trình ra cây phất trần và cái dằn sách. Lược bèn tỉnh ngộ khóc bảo rằng: Đó là vật của Pháp Sư Hoằng Giác là thầy của Lược trước đây. Thầy mình vì vua Dao Tránh giảng Kinh Pháp Hoa, còn bần đạo thì làm Đô Giảng, Dao Trành tặng cho hai vật này, nay chính là nó đây.

Suy ra ngày Hoằng Giác viên tịch thì đúng là ngày gởi các vật này cho Huỳnh thị, rồi nhớ ra việc hái rau lại càng sầu thảm. Về sau Đàm Đế đi du lãm trong ngoài gặp sự vật gì cũng đều nhớ lại. Lúc tuổi già ngày ở núi Hổ khâu ở nước Ngô, giảng về Lễ Dịch Xuân Thu mỗi thứ bảy lần, giảng Pháp Hoa, Đại Phẩm và Duy-ma mỗi thứ mười lăm lần. Lại khéo thuộc văn, có biên tập được sáu quyển rất thạnh hành trên đời, hơn sáu mươi tuổi mới tạ thế, ngày cuối năm Ngươn Gia đời Tống. Phòng tôi xin thưa rằng: Hoằng Giác Pháp sư và đệ tử Tăng Lược, cả thầy trò đều khuông phép của đạo nổi tiếng khắp hai đời Tần, các đồ lặt vặt và ba y cũng không hạn cuộc gì, chỉ có cái dằn sách và cây phất trần, là đáng quý tiếc, lại dời thần thức vua mà thác sinh. Cả hai vật này cùng đi với thần thức, ngoài hình dáng chất ngại còn đem theo được huống chi là các pháp do nội tâm nghĩ biết mà lại không nhớ ư? Do đó gương càng dồi càng sáng, đá càng mài thì càng nhọn, từng giọt tụ lại thành biển cả nhiều hạt bụi bé tạo nên núi cao, đời đời quen luyện tập nên thêm nhiều, tháng năm học mãi nên càng hiểu rộng. Mặt trăng bé nhỏ lúc đầu tháng, tròn sáng đầy đủ đúng ngày rằm, bỏ người mà lại được thân người, đó là việc đời kế tiếp. Nhớ mà không quên là Công thần diệu, nhắm mắt tĩnh tư (nghĩ) là vì tình thức của nữ yếu kém nên phải thầm đọc liên tục. Đâu không phải là do thân trước đã đọc tụng nhiều, mà lại luận cho là do thần linh ban phép. Sao lại sánh kẻ ngu muội đui mù với đạo Trí huệ được ư?

- Tát-bà-nhã-đà Quyến Thuộc Trang Nghiêm Kinh, một quyển.

Một bộ một quyển trên, ngày năm Thiên Giám thứ chín, ở Dĩnh châu có Đầu-đà Đạo nhân Diệu Quang đến ở Hoằng phổ tại Dương châu, mới gặp được kinh này bèn tụ họp đồ chúng mà lừa dối. Vua Lương trị tội đuổi đi, cho nên bài bác nói rõ để răn dạy đời sau.

- Giáo Giới Tỳ-kheo-ni Pháp, một quyển.

Một quyển trên, ngày đời Võ Đế, năm Thiên Giám thứ ba, ở Dương châu có Sa-môn Thích Tăng Thạnh ở Linh căn tại Chung sơn, căn cứ ngày luật mà soạn ra. Thấy trong Bảo Xướng Lục.

- Xuất Tam tạng Tập Ký, mười sáu quyển.

- Pháp Uyển Tập, mười quyển.

- Hoằng Minh Tập, mười bốn quyển.

- Thế Giới Ký, mười quyển.

- Tát-bà-đa Sư Tử Truyện, năm quyển.

- Thích-ca Phả, bốn quyển.

- Đại Tập Đẳng Tam Kinh Ký, một quyển.

- Hiền Ngu Kinh Ký, một quyển.

- Tập Tam tạng Nhân Duyên Ký, một quyển.

- Luật Phần Ngũ Bộ Ký, một quyển.

- Kinh Lai Hán Địa Tứ Bộ Ký, một quyển.

- Luật Phần Thập Bát Bộ Ký, một quyển.

- Thập Tụng Luật Ngũ Bách La-hán Xuất Tam Tạng Ký, một quyển.

- Thiện Kiến Luật Tỳ-bà-sa Ký, một quyển.

Cả mười bốn bộ gồm sáu mươi bảy quyển trên, do luật sư tăng hựu soạn, tại chùa Kiến sơ ở dương châu Ngài Tăng Hựu viết lời tựa rằng: Phàm Chân Đế sâu chắc pháp tánh rỗng lặng nhưng khai ngộ muôn vật dẫn dắt kẻ tục không phải lời nói không có giới hạn, ấy là vì "không hai", im lặng nói phô về môn nghĩa Không. Một tiếng cất lên biện thuyết liền có cảnh đông đúc từ lúc Bổn Sư Năng Nhân của chúng ta ra đời Thuyết giảng đầu tiên ở Lộc uyển còn tại Kim Hà là tiếng nói sau cùng. Khế kinh để dẫn dụ kẻ học Tiểu thừa, sách Phương đẳng dùng để khuyến phát Đại tâm. Bánh xe mầu nhiệm có mười hai bộ loại riêng biệt.

Nhóm Pháp Tổng yếu có cả tám vạn môn, đến khi Đấng Thiện Thệ diệt độ thì mới thật sự cùng kết tập. Trước hết là bốn kinh A-hàm, kế đó là năm bộ giới phần, đó là của báu lớn của loài hàm thức vậy. Nhưng đạo phải do người hoằng hóa; Pháp phải đợi duyên mới hiển bày. Có đạo mà không người thì tuy văn còn mà không ngộ; có pháp mà không nhân duyên thì dầu sinh cùng thời mà không nghe. Nghe pháp thì là thời đến, còn ngộ đạo là nhờ cơ tới. Cơ tới thì sau đó lý mới cảm, thời đến sau đó hóa độ mới thông. Xưa đời Chu, Phật ra đời mà bến Linh còn ngăn cách. Đời Hán là thời tượng pháp mà sách mầu khắp truyền. Pháp đợi duyên mà hiển bày nếu tin tất có chứng cớ. Đời Hán Mạt An Thế Cao tuyên dịch chuyển thành sáng rỡ. Thời Ngụy Sơ Khang Tăng Hội trước thuật mà dần dần suốt thông. Đạo do người hoằng truyền do đây mà nghiệm thấy. Từ khi nhà Tấn trung hưng thì Tam tạng truyền khắp. Khách quý nước ngoài cùng đến đông đảo. Còn ở Trung Nguyên thì kẻ trí phát triển đông vầy. Ngài Ma-đề La-thập đưa lên giềng mối lớn, Đạo An, huệ Viễn chấn chỉnh sự hiểu biết sâu xa (áo lĩnh). Kẻ tài đức đều nhóm hội tại Tiêu dao. Ở Lô sơn thì họp người Kết Văn Bát-nhã. Thời tượng pháp được người ở đây làm thạnh vượng. Vả lại Kinh vốn được nói ra ở Tây Vức mà lưu truyền đến Đông phương. Sách mang muôn dặm dịch chuyển từ Phạm thành Hán, nhưng tiếng mỗi nước một khác, nên lời văn có chỗ dị đồng. Trước sau chuyển dịch nhiều lần nên tên có mới cũ. Nhưng kẻ hậu học ít khi nghiên cứu kỹ càng cứ nối nhau biên chép, mà chẳng biết kinh dịch năm nào, sánh vai nhau đọc tụng mà không rõ được người truyền pháp là ai, đạo trao cho và nhận cũng thiếu. Vả lại một thời Thánh nhân tập họp cũng có năm việc chứng kinh, huống là cả ngàn năm giao dịch há có thể làm mê muội người đời ư? Thuở xưa An Pháp sư dùng tài lớn trí sâu mà soạn kinh lục, Đính chánh sự thấy nghe phân biệt rõ ràng. Từ đây trở đi, kinh hay có dịch ra đều là biển báu Đại thừa, được kẻ đương thời tranh nhau giảng học. Nhưng niên đại và tên người soạn dịch lại không thông suốt, năm tháng càng xa, nguồn gốc mờ mịt. Kẻ hậu sinh nếu nghi ngờ lấy đâu hiểu rõ. Hựu này lấy pháp môn ngu hèn cạn cợt để làm bằng cớ, cất cao ngọn Huyền phong, nguyện độ đến kẻ sau cùng. Đọc tụng mỗi sớm chiều, giảng nói hai mùa hè thu, tâm chưa từng không nghĩ đến hình ảnh rực rỡ ở am vườn Linh thứu. Bấy giờ theo bài tìm ý theo sáng tìm nguồn, chỉnh đốn điều nghe thấy. Gọi là Xuất Tam Tạng Ký tập thì một là Ký theo duyên-hai là Lục đề rõ tên-ba là nêu chung tựa Kinh-bốn là thuật rõ Liệt Truyện. Nếu duyên ghi đã chọn thì gốc đầu tiên tức khắc sẽ sáng rõ; tên Lục đã cân nhắc thì niên đại không lạc sót. Tựa Kinh đã nêu chung thì Thắng tập sẽ đầy đủ chứng cớ. Liệt truyện đã thuật thì thấy rõ phong cách của người ấy. Cũng như tìm xét kinh trong, phân tích sách ngoài, tham khảo những kiến thức trước, nghiệm lại các nghe thấy xưa. Nếu đời người có căn cứ thì tiêu biểu nhất là Ty Nam, tiếng truyền chưa rõ thì lời văn trở nên tối sót. Biên soạn kỹ càng, căn cứ theo Tín sử (Sử đáng tin). Suy cùng nghĩ cạn luôn chép đúng theo Thật Lục. Nếu điều có chứng cớ đã nêu thì cái không nguồn gốc tất tự hiển bày. Nước đọng không thể lộn với sữa quý, đá nước Yên đâu thể lầm là ngọc nước Sở. Tất cả Pháp uyển đều có tựa, hết thảy Trứ thuật đều chỉ đúng thì không cần phải sao chép lại.

- Chúng Kinh Yếu Lãm Pháp Kệ Nhị Thập Nhất Thủ, một quyển. Một quyển trên, ngày đời Võ Đế, năm Thiên Giám thứ ba do Sa-môn Thích Đạo Hoan soạn ra. Tăng Hựu Tam Tạng Tập Ký ghi chú là còn nghi, nên căn cứ ngày Cựu Biên.

- Bảo Vân Kinh, bảy quyển (thấy ở Đông Tấn Lục).

- Pháp Giới Thể Tánh Vô Phân Biệt Kinh, hai quyển (thấy trong Lý Khuếch và Bảo Xướng Lục).

- Văn-thù-sư-lợi Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, hai quyển (một tên là Văn-thù-sư-lợi Thuyết Bát-nhã Ba-la-mật Kinh thấy trong Lý Khuếch Lục, dịch lần đầu).

Cả ba bộ gồm mười một quyển kinh trên, ngày năm Thiên Giám thứ nhất, Sa-môn Mạn-đà-la (Lương Dịch là Nhược thinh) người nước Phù Nam, mang nhiều kinh tiếng Phạm đến cống hiến. Do người phiên dịch chưa giỏi tiếng nước Lương (Hán văn) nên kinh dịch ra có lời văn rườm rà mà tối nghĩa. Ngài cùng Tăng-già-bà-la ở Dương đô dịch ra).

- A-dục Vương Kinh, mười quyển (ngày hai mươi sáu tháng sáu năm Thiên Giám thứ mười một, ở điện Thọ quang tại Dương đô dịch ra. Ngày dịch đầu tiên nhà vua đích thân bút thọ. Sau đó giao lại cho Tăng Chánh, huệ Siêu nối nhau cùng dịch cho ngày. Thấy trong Bảo Xướng Lục).

- Khổng Tước Vương Đà-la-ni Kinh, hai quyển (Dịch lần thứ hai, so với bản dịch của ngài Bạch Thi-lợi Mật đời Tấn thì bản đồng, văn khác chút ít. Thấy trong Bảo Xướng Lục).

- Văn-thù-sư-lợi Vấn Kinh, hai quyển (năm Thiên Giám thứ mười bảy, vua sắc lệnh cho ngài Tăng-già-bà-la, châu Chiêm vân quán dịch ra, Viên Đàm Sung bút thọ. Sa-môn Pháp Vân ở Viên trạch định rõ).

- Độ Nhất Thiết Chư Phật Cảnh Giới Trí Nghiêm Kinh, một quyển.

- Bồ-tát Tạng Kinh, một quyển.

- Văn-thù-sư-lợi Sở Thuyết Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, một quyển (dịch lần thứ hai, hay hơn chút ít bản kinh hai quyển của Mạn-đà-la dịch trước đây).

- Xá-lợi-phất Đà-la-ni Kinh, một quyển (Bài chú này có thần lực rất lớn. Nếu người nào hay trì tụng thì có tám Dạ-xoa Vương ở Tuyết sơn thường đến ủng hộ, muốn gì đều được như ý).

Bát Cát Tường Kinh, một quyển (Nếu người nào nghe được danh hiệu của tám vị Phật này thì sẽ không bị các quỷ thần làm hại.)

- Thập Pháp Kinh, một quyển (Dịch năm Phổ Thông thứ nhất).

- Giải Thoát Đạo Luận, mười ba quyển (ở công quán ngày năm Thiên Giám thứ mười bốn).

- A-dục Vương Truyện, năm quyển (Năm Thiên Giám, dịch lần thứ hai. So với bản dịch ở đời Ngụy có khác chút ít).

Cả mười một bộ gồm ba mươi tám quyển trên, do sa môn Tăng-già-bà-la (Lương dịch là Tăng Dưỡng, cũng gọi là Tăng Khải) người nước Phù Nam ở Chánh quán. Ngài tuổi nhỏ nhưng rất dĩnh ngộ, xuất gia năm mười lăm tuổi. Chuyên học về A-tỳ-đàm Tâm rất đầy đủ để sau này rộng tìm hiểu về Luật tạng. Khi nghe ở nước Tề có Hoằng pháp liền theo thuyền buồm đến tận kinh đô, châu chùa Chánh quán, là đệ tử của ngài Cầu-na-bạt-đà. Lại theo ngài Bạt-đà chuyên nghiên cứu về Phương đẳng, thông nhiều hiểu rộng, lại biết rành chữ và tiếng của mấy nước. Khi gặp lúc Tề mạt vận. Đạo giáo bị ngược đãi, mà thân tâm của Bà-la vẫn trong sạch tuyệt giao với bên ngoài. Vua Đại Lương đến tìm hỏi các thuật năng. Ngày năm Thiên Giám thứ năm được vua ra lệnh mời về châu điện Thọ quang, chùa Chánh quán, quán Chiêm vân tại Dương đô, châu ba nơi này mà dịch thuật các kinh sách trên, đó chính là các kinh của ngài Mạn-đà-la từ nước Phù Nam mang sang cống hiến. Khi ngài Bạt-đà viên tịch thì ngài Bà-la chuyên việc phiên dịch. Vua sắc lệnh cho các Sa-môn Bảo Xướng, Huệ Siêu, Tăng Trí, Pháp Vân và Viên Đàm Sung cùng bút thọ. Được vua tiếp đãi rất trọng hậu, kẻ tục người đạo đều kính nể. Bà-la không hề cất giữ tiền của riêng tư, đều đem cúng thí ngày việc xây dựng chùa tháp. Ngài Thái Úy Lâm Xuyên Vương hỏi rằng: Pháp sư ăn rau cải có ăn cá chăng? Đáp rằng: Ăn rau nhưng lúc bệnh tất phải cần. Lại hỏi: Bây giờ thì sao? Đáp: Thân bốn đại này lúc nào chẳng bệnh! Vương nghe rất mừng bèn thiết tiệc đãi ngài. Thấy trong Bảo Xướng Lục và Danh Tăng Truyện đều ghi).

- Ưu-lầu-tần Kinh, một quyển.

Một quyển kinh trên trong Bảo Xướng Lục nói gọn rằng: Ngày năm Thiên Giám thứ mười lăm, ngài Mộc Đạo Hiền kính tặng, ngoài ra không còn nói gì khác.

- Đại Thừa Đảnh Vương Kinh, một quyển (Cũng gọi là Duy-ma Nhi Kinh, dịch lần thứ hai. So với bộ Đại Phương Đẳng Đảnh Vương Kinh của ngài Trúc Pháp Hộ dịch đời Tấn thì bản đồng chỉ khác người dịch và văn có khác chút ít).

Một bộ một quyển kinh trên, ngày đời Võ Đế, năm Đại Đồng, do Vương Tử Nguyệt-bà-thủ-na (Lương dịch là Cao Không) người nước Ưu-thiềnni. Dịch khi Giả từ Tề sang nước Lương nhưng bị giữ lại, Kim Quang Minh Kinh, bảy quyển (dịch châu chùa Chánh quán và nhà của Dương Hùng tại Dương châu lần thứ hai vào năm thừa Thánh thư nhất. So với bản dịch có bốn phẩm của ngài Đàmvô-sấm dịch ngày đời Lương thì khác hoàn toàn. Sau đó huệ Bảo, Truyền Tiêu Lương bút thọ).

- Di-lặc Hạ Sinh Kinh, một quyển (dịch lần thứ hai vào năm Thừa Thánh thứ ba, ở Bảo điền tại Dự chương, theo yêu cầu của Sa-môn huệ Hiển và hơn mười vị danh Tăng khác.

- Nhân Vương Bát-nhã Kinh, một quyển (dịch lần thứ hai ở chùa bảo điền vào năm thừa Thánh thư ba. So với bản dịch của ngài Pháp Hộ đời Tấn có khác đôi chút. Thấy ở Chân Đế Truyện.)

- Thập Thất Địa Luận, năm quyển (vào Năm Thái Thanh thứ tư, ở nhà Lục Nguyên Triết, tại Phú Xuân, dịch theo yêu cầu của Sa-môn Bảo Quỳnh và nhóm hai mươi vị danh đức khác).

- Đại Thừa Khởi Tín Luận, một quyển (năm Thái Thanh thứ tư, ở nhà của Lục Nguyên Triết.

- Trung Luận, một quyển.

- Như Thật Luận, một quyển.

- Thập Bát Bộ Luận, một quyển.

- Bản Hữu Kim Vô Luân, một quyển.

- Tam Thế Phân Biệt Luận, một quyển (Các luận trên đều dịch năm Thái Thanh thứ tư).

- Kim Quang Minh Sớ, mười ba quyển (dịch năm Thái Thanh thứ năm).

- Nhân Vương Bát-nhã Sớ, sáu quyển (dịch năm Thái Thanh thứ ba).

- Khởi Tín Luận Sớ, hai quyển (dịch năm Thái Thanh thứ tư).

- Trung Luận Sớ, hai quyển.

- Cửu Thức Nghĩa Ký, hai quyển (năm Thái Thanh thứ ba, ở Mỹ nghiệp tại Tân Ngô

- Chuyển Pháp Luân Nghĩa Ký, một quyển (dịch năm Thái Thanh thứ ba).

Cả mười sáu bộ gồm bốn mươi sáu quyển trên ngày cuối đời Võ Đế đến năm Thừa Thánh, ngài Tam tạng Pháp sư Ba-la-mạt-đà (Lương dịch là Chân Đế) người ở nước Ưu-thiền-ni thuộc Tây Thiên Trúc, từ xa nghe đồn Tiêu chúa tu hạnh Bồtát, tìm chọn các bậc Danh tăng Thánh hiền gương mẫu, liền mang các sách quý ở nước mình đem đến đất này. Số kinh luận Phạm văn bằng lá bối mang theo lên đến hai trăm bốn mươi bó, nếu đem dịch hết ra thì phải trên hai vạn quyển, phần lớn là sách chưa có ở Chấn Đán. Nhằm ngày cuối đời Lương suy sụp nên việc truyền bá không kết quả, gặp thuận duyên thì dịch ra được tóm tắt ghi như trên. Những bản dịch sau này lại có các lời tựa trình bày ghi chép. Các việc ấy phần lớn đều do ngài Tam tạng Tào Tỳ ghi lại (Trường Phòng nói: Ngài Tăng Hựu bảo: "Đạo do người mà truyền rộng, pháp đợi Cơ mà hiển bày" thật đáng tin vậy. Bởi xưa có người, có pháp mà không duyên thì không gặp lúc.

Nay gặp thời tốt duyên may mà thiếu người nên không pháp. Chúng sinh đáng thương, thất đáng buồn thay!.

- Chúng Kinh Yếu Sao Nhất Bộ Tinh Mục Lục, tám mươi tám quyển.

Một bộ tám mươi tám quyển trên, ngày tháng mười một năm Thiên Giám thứ bảy, vua cho rằng Pháp Hải mênh mông mà kiến thức cạn cợt nhìn thất hẹp hòi, rốt cuộc khó thể hiểu được rốt ráo. Nhân đó sắc lệnh cho Sa-môn Thích Tăng Mân ở Trang nghiêm đến châu chùa Định lâm thượng mà biên tập soạn ra bộ này đến tháng bốn mùa Hạ năm Thiên Giám tám mới ngày. Thấy trong Bảo Xướng Lục.

- Hoa Lâm Phật Điện Chúng Kinh Mục Lục, bốn quyển.

Một bộ bốn quyển trên, năm Thiên Giám thứ mười bốn, vua sắc lệnh cho Sa-môn Thích Tăng Thiện ở An lạc soạn ra. Ngài Tăng Thiệu lấy tóm tắt mục lục trong Tăng Hựu Tam tạng Tập Ký bốn quyển phân làm bốn màu và thêm bớt các thứ khác ngày. Thấy trong Bảo Xướng Lục.

- Kinh Luật Dị Tướng, một bộ cùng Mục Lục, năm mươi lăm quyển (năm Thiên Giám thứ mười lăm, vua sắc lệnh soạn ra).

- Danh Tăng Truyện và Tựa, Mục Lục, ba mươi mốt quyển.

- Chúng Kinh Phạm Cúng Thánh Tăng Pháp, năm quyển (năm Thiên Giám hai mươi lăm).

- Chúng Kinh Mục Lục, bốn quyển (năm Thiên Giám thứ mười bảy).

- Chúng Kinh Hộ Quốc Quỷ Thần Danh Lục, ba quyển (năm thứ mười lăm).

- Chúng Kinh Chư Phật Danh, ba quyển (năm thứ mười sáu).

- Chúng Kinh Ủng Hộ Quốc Độ Chư Long Vương Danh Lục, ba quyển (năm thứ mười sáu).

- Chúng Kinh Sám Hối Diệt Tội Phương Pháp, ba quyển (hoặc bốn quyển, năm thứ mười sáu, đều thấy ở Bảo Xướng Lục).

Cả tám bộ gồm một trăm lẻ bảy quyển. Nhà vua vì muốn đất nước được yên bình, không có các tai ương chướng nạn, nên trên cầu Tam bảo, giữa nhờ Tứ thiên vương, dưới cậy chúng thần Long vương phù hộ. Như thế mọi loài ở thế gian, chúng dân đều được an lạc. Tuy có đủ các văn phân tán trong khắp kinh luận, khi cần gấp tìm nghiên cứu, khó thể thấy đủ. Cho nên trong mấy năm Thiên Giám, vua nhiều lần ra lệnh khiến Sa-môn Bảo Xướng ở Trang nghiêm soạn tuyển tập chung để đáp ứng khi cần thiết. Hoặc tạo phước để cầu trừ tai nạn, hoặc lễ sám để diệt các chướng nghiệp, hoặc thiết lễ cúng Quỷ thần, hoặc tế cúng Long vương. Các việc cầu phước nhà vua đích thân trông coi, chỉ huy các việc cúng tế nên việc linh cảm rất nhiều. Do đó suốt khoảng năm mươi năm cả triệu dân đều nhờ ân, chính là do sức này vậy.

- Đại Bát-niết-bàn Tử Chú Kinh, bảy mươi hai quyển.

Một bộ bảy mươi hai quyển trên, ngày năm Thiên Giám, vua sắc lệnh cho Sa-môn Thích Pháp Lãng ở Kiến nguyên chú giải. Thấy trong Bảo Xướng Lục.

- Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật Tử Chú Kinh, năm mươi quyển.

Cả năm mươi quyển trên, năm Võ Đế, Tiêu Diễn được ba mươi bảy tuổi lên ngôi. tại vị suốt bốn mươi chín năm. Đến tám mươi sáu tuổi, Vu thấy cơ nghiệp sớm nghiêng đổ nên thường lo buồn. Có lúc ngài than: Dù là bậc chí tôn của bốn biển cũng không thể nào sống mãi được. Cho nên ngài chỉ chú tâm giải thích kinh sách. Vì tám bộ Bát-nhã là mẹ của mười phương ba đời chư Phật, có thể tiêu trừ các tai chướng, quét sạch các phiền lao. Cho nên ngài góp nhặt các kinh sách đích thân soạn thuật chú giải. Lại thường tự giảng đọc, mong nhờ phước cao quý ấy để được mở mang, ý nghĩ mến mộ này đã khiến ngài nhiều lần muốn xả thân để phục vụ cho đời. Nhưng mỗi lần xả thân thì đất đều chấn động. Nên luôn luôn trai giới giảng đạo để Pháp luân không đoạn đứt. Như ở Chung sơn thì xây chùa Ái kỉnh, ở Thanh khê thì xây chùa Trí độ, ở Đài nội thì lập ra điện Chí kỉnh, ở Cảnh dương đài thì dựng bảy miếu thất. Trong một tháng thì thường tổ chức nhiều ngày chay tịnh. Mỗi khi đến ngày thì lễ sám và trong các dịp cúng tế tôn miếu ngày hai lễ Thu Đông thì thương cảm nước mắt ràn rụa, khiến kẻ tả hữu dự lễ cũng rơi lệ. Năm Phổ Thông thứ tám, xây ngày chùa Đồng thái. Những lầu các đền đài, phòng ốc hành lang đều trang trí đẹp đẽ. Gò Vân có chín bậc thật tráng lệ. Năm Vĩnh Ninh đời Ngụy mở cửa Đại Thông đối diện chùa Đồng thái. Nhân đó đặt niên hiệu là Đại Thông. Ngày sáu tháng ba năm ấy đích thân ngự giá đến chùa lễ sám. Dù bận rộn ức triệu công việc làm không hở tay nhưng vẫn cố đọc được kinh luận sách vở nội ngoại từ giữa đêm suốt đến rạng đông. Từ Lễ Ký, Cổ Văn, Chu Thư, Tả Truyện, Các sách Lão Trang, Luận Ngữ, Hiếu Kinh, các điều mà hàng Vãng Triết chưa tường, bậc Tiền Nho không biết... đều giải thích tường tận. Số học sinh trong nước có hạn định lại cách biệt vì sang hèn, vua luôn muốn tập họp đoàn hậu tấn đó lại để dạy đầy đủ cho họ các điều thiện này. Cho nên đã riêng lập ra năm Quán Bác Sĩ để dẫn Đạo kẻ tài giỏi nhưng nghèo hèn (Hàn tuấn). Đến nổi cả hai đạo Nho Phật đều thịnh vượng đông đảo. Trước sau ngài có biên tập đến một trăm hai mươi quyển, còn soạn các sách về thông sử... số trên ngàn quyển. Tuổi tác và sự nghiệp đã cao nhưng cố gắng mãi không ngừng, trời chưa tỏ đã mặc áo ngồi chờ sáng, làm việc đến canh năm mới ra khỏi điện. Thắp đuốc để cảnh tỉnh muôn người, rải ơn khắp ngục tù chợ búa, phần nhiều đều rộng lượng tha thứ. Nếu ai phạm tội nặng theo đúng pháp luật không thể thương xót tha tội thì vua đổi sắc buồn hằng lâu. Ngài đốt hương niệm Phật rồi sau đó mới hạ lệnh. Thương xót muôn dân, nhân từ trắc ẩn như thế. Xét kẻ thế gian, trách phạt tội đồ sáng suốt như thần. Tự mình không dự yến tiệc, không nghe âm nhạc. Ở nội cung thì các phi tần cũng không trang suất lụa là. Trong nội điện thì giường ngủ nhỏ hẹp, áo chăn sơ sài, mền vải chiếu cói, hài cỏ khăn sô, ngoài ra không dùng y phục quý báu. Trong năm Thiên Giám bỏ hẳn thịt cá, mỗi ngày chỉ ăn một bữa, ăn toàn rau cải. Nước Thục hiến tặng củ Nhược ăn ngày biết ngon. Ngài bảo: "Rất giống mùi thịt. ". Liền ra lệnh cấm dùng. Bậc Đế Vương mà được như thế, thì đáng tin đó là vua Bồ-tát không thể nghĩ bàn vậy!

- Bát-nhã Kinh Sao, mười hai quyển.

Năm thiên giám thứ mười sáu, vua ra lệnh cho Sa-môn Thích huệ Linh ở Linh căn soạn ra. Thấy ở Bảo Xướng Lục.

- Cao Tăng Truyện, mười bốn quyển (và Mục Lục).

Một bộ mười bốn quyển trên ngày đời Võ Đế, ở Gia tường tại Cối kê, do Sa-môn Thích huệ Kiểu soạn ra. huệ Kiểu học thông cả sách nội ngoại, diễn giảng giỏi kinh luật, viết bộ Niết-bàn Nghĩa mười quyển, chú sớ Phạm Võng Giới… rất thạnh hành trên đời. Được xem là khuôn mẫu đương thời vậy.-Thành Thật Luận Loại Sao, hai mươi quyển.

Ngày năm Thiên Giám, do Ưu-bà-tắc Viên Đàm Sung soạn ra, giống với Bộ Sao Kinh của Tề Văn Tuyên. Cũng thấy trong Bảo Xướng Lục.

- Pháp Bảo Tập, hai trăm quyển (Cũng gọi là Pháp Bảo Liên Bích).

Một bộ hai trăm quyển trên, Giản Văn Đế là Tiêu Võng ngày châu Chữ Cung, tự đọc nội kinh, phân ra các khoa mục. Ra lệnh các học sĩ biên chép liên kết lại mà thành ra bộ này. Xếp theo từng loại, cùng Bộ Hoa Lâm có thêm bớt. Các học giả đời Tùy đã góp công hơn phân nữa.

- Nghĩa Lâm, tám mươi quyển.

Một bộ tám mươi quyển trên, ngày năm Phổ Thông, vua ra lệnh cho Sa-môn Thích Trí Tạng cùng hai mươi vị Đại Đức ở Khai thiện soạn ra. Chỉ riêng những kinh luận có nghĩa, lệ, nơi chốn thì đều ghi chép theo đó, xếp theo từng loại. Thí như cùng ngày thời kỳ mà không việc thì không chép. Mỗi khi có đại pháp hội thì vua ắt đến dự để xem giảng luận. Chủ khách bàn qua luận lại, nghĩa lý rạch ròi như chỉ trong bàn tay.

- Nội Điển Bác Yếu, ba mươi quyển.

Một bộ ba mươi quyển trên, do Sương Đông Vương Ký Thất Ngu Hiếu Kỉnh soạn ra, bao gồm hết thảy các yếu sự của Kinh Luận, đều thâu nhặt chép lại đầy đủ, cũng cùng là thứ thư văn để vua xem (Hoàng lãm?). Về sau Hiếu Kỉnh xuất gia được vua vời ngày cung. Ngài cũng có trước thuật nhiều thứ. Nhưng Bộ Bác Yếu này chính là đường tắt cần thiết cho các kẻ học Nội Điển.

* Về đời Chu gồm có:

- Chúng Kinh Yếu, hai mươi hai quyển.

- Nhất Bách Nhị Thập Pháp Môn, một quyển.

Cả hai bộ gồm hai mươi ba quyển trên, Ngụy Thừa Tướng là Vương Vũ Văn Hắc Thái năm Hưng Long giải thích kinh điển, sùng trọng pháp Đại thừa. Tuy phải điều khiển việc nước nhưng vẫn phát huy Tam Bảo. Trong nhà thường cùng cả trăm pháp sư tìm hiểu kinh luận, diễn nói Đại thừa. Bèn ra lệnh cho Sa-môn Thích Đàm Hiển căn cứ ngày kinh Đại thừa mà soạn ra bộ Bồ-tát Tạng Chúng Kinh Yếu và Bộ Nhất Bách Thập Nhị Pháp Môn, bắt đầu từ Phật Tánh, cuối đến Dung Môn, ngay lúc khai giảng liền luôn tuyên thuật, tạo nên một nguyên tắc thường xuyên để thay cho dấu vết năm thời thuyết giáo của Phật xa xưa. Đến nay còn lưu hành đến Sơn Đông, Giang Nam. Tuy gọi là phép tắc nghi thức cho người học nhưng nếu bỏ đi thì cũng không có lỗi gì. Cho đến cách dâng hương hoa, đèn lửa, tụng niệm, lễ bái, khen Phật đều có đủ cả.

- Ngũ Minh Luận Hợp Nhất, một quyển (gồm có: Một là Thanh Luận

- Hai là Y Phương Luận-Ba là Công Xảo Luận-Bốn là Chú Thuật Luận

- Năm là Phù Ấn Luận, hết hai năm mới dịch ngày).

Một quyển trên, ngày đời Minh Đế, do ngài Tam tạng Luật sư Tượng-na Bạt-đà-la (Chu dịch là Trí Hiền) người nước Ba-đầu-ma, đã cùng dịch với ngài Xà-na-da-xá, ở Bà-già tại Cựu thành Trường an. Các ngài Da-xá-quật-đa, Xà-na-quật-đa… truyền ngữ, Sa-môn Trí Thiên bút thọ.

- Bà-la-môn Thiên Văn, hai mươi quyển (dịch năm Thiên Hòa). Cả hai mươi quyển trên, ngày đời

Võ Đế ngài Sa-môn Đạt-ma-lưu-chi (Chu dịch là Pháp Hy) người nước Ma-lặc, dịch theo yêu cầu của Đại Trũng Tể Tấn Đãng Công Vũ Văn Hộ.

- Đại Ý Thiên Tử Sở Vấn Kinh, năm quyển (rút từ Đại Tập, dịch năm Thiên Hòa thứ sáu, Sa-môn Viên Minh bút thọ).

- Đại Thừa Đồng Tánh Kinh, bốn quyển (Cũng gọi là Phật Thập Địa Kinh, cũng gọi là Nhất Thiết Phật Hạnh Nhập Trí Tỳ-lô-giá-na Tạng Kinh. Dịch năm Thiên Hòa thứ năm. Thượng Nghi Đồng Thành Dương Công Tiêu Cát bút thọ).

- Nhập Như Lai Trí Bất Tư Nghì Kinh, ba quyển (dịch năm Thiên Hòa thứ ba. Sa-môn Viên Minh bút thọ).

- Bảo Tích Kinh, ba quyển (dịch năm Thiên Hòa thứ sáu, Sa-môn Đạo Biện bút thọ).

- Phật Đảnh Chú Kinh Tinh Công Năng, một quyển (dịch năm Bảo Định thứ tư. Học sĩ Bào Vĩnh bút thọ).

- Đại Vân Luân Kinh Thỉnh Vũ Phậm Đệ Nhất, một trăm lẻ một quyển (dịch năm Thiên Hòa thứ năm. Sa-môn Viên Minh bút thọ, dịch lần đầu).

Cả sáu bộ kinh gồm một trăm mười bảy quyển trên, ngày đời Võ Đế, do ngài Tam tạng Thiền sư Xà-da-na-xá (Chu dịch là Tạng Xưng) người nước Ma-già-đà, cùng dịch với hai đệ tử là Da-xá-quậtđa, Xà-na-quật-đa theo yêu cầu của Đại Trũng Tể Tấn Đãng Công Vũ Văn Hộ, ở Tứ thiên vương tại cựu thành Trường an trụ quốc Bình Cao Công Hầu Phục Hầu Thọ làm Tổng giám duyệt khảo lại.

- Kim Quang Minh Kinh Cánh Quảng Thọ Lượng Đại Biện Đà-la-ni Phẩm, năm quyển (dịch lần thứ hai, ở Quy Thánh tại phường Bắc hồ. Samôn Trí Thiên bút thọ).

Tu-bạt-đà-la Nhân Duyên Ưu-bà-đề-xá Kinh, hai quyển (dịch ở Tứ thiên vương. Sa-môn Viên Minh bút thọ).

- Thập Nhất Điện Quán Thế Âm Chú Kinh Tinh Công Năng, một quyển (dịch ở Tứ thiên vương. Thượng Nghi Đồng Thành Dương Công

Tiêu Cát bút thọ).

Cả ba bộ kinh gồm tám quyển trên, ngày đời Võ Đế, do Tam tạng Pháp sư Da-xá-quật-đa (Chu dịch là Xứng Tạng) người nước Ưu-bà cùng dịch với bạn đồng học trẻ là Xà-na-quật-đa, theo yêu cầu của Đại Trũng Tể Vũ Văn Hộ.

- Kim Sắc Tiên Nhân Vấn Kinh, hai quyển (dịch ở Tứ thiên vương tại Trường an. Thượng Nghi Đồng Tiêu Cát bút thọ).

- Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Phổ Môn Phẩm Trùng Thuyết Kệ, một quyển.

- Chủng Chủng Tạp Chú, một quyển.

- Phật Ngũ Kinh, một quyển (cả ba bộ kinh trên đều dịch tại chùa Long uyên ở Ích châu).

Cả bốn bộ kinh gồm năm quyển trên, ngày đời Võ Đế, do Tam tạng Pháp sư Xà-na-quật-đa (Chu dịch là Chí Đức) người nước Kiền-đạt thuộc Bắc Thiên Trúc, ở Ích châu dịch theo yêu cầu của Tổng

Quản Thượng Trụ Quốc Tiếu Vương Vũ Văn Kiệm. Sa-môn Viên Minh bút thọ).

- Thích Lão Tử Hóa Hồ Truyện, một quyển.

- Thập Bát Điều Nạn Đạo Chương, một quyển.

Cả hai quyển trên, ở Tân châu, chùa Quả nguyện, do Sa-môn Thích Tăng Diến soạn ra. Diến tham khảo đủ sách tà chánh thời tượng pháp, lý phàm tục tình bạc bẽo nên dễ xu nịnh cạnh tranh, chưa rõ chân ngụy đã vội khen chê. nay lấy mười tám điều vấn nạn kiểm tra giải thích ba khoa (Kinh Luật Luận) thì Thánh hiền sáng rõ phàm tục dễ thấy. Trong bài tựa tóm lược rằng: Diến đem Lão Tử cùng Duẫn Hỷ sang Tây Vực truyền dạy người Hồ, Lão Tử xuất gia nói kinh giới, Duẫn Hỷ làm Phật để giáo hóa, lại xưng là Quỷ Cốc Tiên Sinh, soạn ra bộ Nam Sơn Tứ Kiểu Chú. Kẻ chưa giỏi tìm gặp thì không gì không tin, những gì từ miệng anh ta nói ra đều cho là thật cả. Kỳ dị thay! Truyện này kẻ quân tử còn chẳng thể coi thường, huống là việc chê bai Đại Thánh. Nay cố tìm xét thuyết này thì thấy không phải thật, người đời giả mượn tên tuổi cũng chỉ mới nói mà chưa kịp dịch ra, việc làm nhục ý Lão Tử, người quân tử cao quý không hề nói lời này. Phải chăng là bọn dị đạo dốt nát khoe khoang để cạnh tranh với Phật pháp, giả mượn tên Quỷ Cốc Tứ Kiểu phụ thêm ngày truyện Duẫn Hỷ, sau đó bàn luận bậy bạ để mê hoặc kẻ phàm tục? Truyền mà không tập Khổng Tử không cho là dối. Tác giải làm loạn lời dạy của Lão Tử. Đây là cái họa lớn khiến phải đọa ngày ba đường dữ. Vậy cần phải sửa cho đúng để tránh khỏi tội kia. Song kinh giáo có nội ngoại khi dùng tất sinh nghi, hay giống nhau.

Người theo Thánh hiền phần lớn đều mê ngày dấu tích xưa. Nay khảo sát rõ năm tháng, tìm hiểu kỹ đời người căn cứ ngày nội kinh ngoại điển, thâu nhặt hết các lời nói thành thật để phân biệt thật giả, khiến một phen xem qua tất sẽ thấy rõ.

- Tán Hoa Luận, tám quyển.

Cả tám quyển sách trên ở Thê huyền tại Dương châu, Sa-môn Thích huệ Thiện soạn ra. Ngài rất giỏi về Tỳ-đàm học. Bởi Trí Độ Luận ngài thường dẫn Tiểu thừa để làm chứng nghĩa. Ngài cố dựa ngày lời văn rồi thứ lớp mới giải thích rộng ra. Ví như các sao và mặt trăng cùng giúp sáng cho thái dương. Khác nào các hoa rực rỡ phân tán. Cho nên gọi là Tán Hoa Luận vậy (tựa của luận tóm tắt như thế). Vì cái thể chất của trước thuật quý ở chỗ lời gọn mà ý giàu. Tôi đã từng đọc rất nhiều. Nay trình bày khúc chiết ấy là do chính việc này, rất hiếm người đã tinh tường. Ấy là vì gặp nghĩa thì ân cần, đụng văn thì phân tách. Các bậc quân tử hãy xét soi cho tâm kẻ hèn hạ này. Ngài Huệ Thiên cuối năm Thái Thanh lên ở Giang lăng. Cuối năm Thừa Thánh thì ngày quan nội, đến ở Sùng hoa tại thành cũ Trường an. Chu Trũng Tể biệt đãi cúng dường ngài mở bày pháp thù thắng. Ngài viên tịch năm hơn sáu mươi tuổi.

- Chí Đạo Luận, một quyển.

- Thuần Đức Luận, một quyển.

- Khiển Chấp Luận, một quyển.

- Bất Sát Luận, một quyển.

- Khử Thị Phi Luận, một quyển.

- Tu Không Luận, một quyển.

- Ảnh Dụ Luận, một quyển.

- Pháp Giới Bảo Nhân Minh, một quyển (cùng lời tựa).

- Yểm Thực Tưởng Văn, một quyển.

- Tăng Nhai Bồ-tát Truyện, một quyển (Năm Bảo Định thứ hai, châu thành đô mà thiêu thân, ngày thiêu thân, nhiều người trong khoảng mấy trăm dặm đều tụ họp đến xem thịt xương đều cháy mất, chỉ có quả tim là còn nguyên. Điềm lành trời rải hoa quý ghi chép đầy đủ trong truyện. Phòng tôi đích thân nghiệm thấy).

- Thiều Pháp Sư Truyện, một quyển (Văn khen ngợi).

- Nghiệm Thiện Tri Thức Truyện, một quyển (Nghĩa Lục Quả Quan Âm Ứng Nghiệm Ký).

Cả mười hai quyển trên, ngày đời Võ Đế, Samôn Thích Vong Danh viết ra. Ngài Vong Danh tục tánh là Tống Húy Khuyết là người đất Đãi Nam Dương, là bạn của Lương Cánh Lăng Vương, không hề cưới vợ. Khi nhà Lương suy sụp thì đi xuất gia đổi tên là Thượng Thục. Khi vua Tề ngày kinh đô cho mời bệ kiến. Ban đầu vua không cho làm Sa-môn muốn ép phải hoàn tục, lại sai Thiếu Bảo, Thục Quận Công viết thư khuyến dụ. Ngài liền đáp thư nói có sáu điều không thể được. Sau đó tóm tắt rằng: "Sa-môn trì giới thì tâm và miệng phải khớp nhau, nay nêu ra sáu điều nếu có một điều dối trá thì trời xanh sẽ chán ghét, Thần linh sẽ giết hại. Khi chết rồi thì kềm sắt sẽ kéo lên, nước đồng sôi sẽ rót ngày. Ngưỡng đội ân Tam bảo nay đã sáu mươi tuổi không hề dám khi dễ Ám Thất. Huống chi nay đã gặp Đời Sáng. Vả lại quê hương đã mất cả, tôn thất chẳng còn ai. Bần đạo là người gì mà lại riêng mình mong được lâu dài. Chí thành mong được ẩn dấu, ở giữa thâm sơn nhiếp tâm xa lánh bụi trần, tạm dưỡng thân tàn cố tu huệ nghiệp, đấy là bản nguyện của thần. Gởi nắm xương nơi tinh xá, khất thực chốn thành vua, hành đạo vừa sức, tuỳ duyên hóa độ, đây là điều mong ước thứ hai vậy. Nếu như không được thế thì một mình riêng ở hẻm núi hoang, đâu thể nấn ná mà ở lâu nơi đất Diêm-phù này?". Ngài có biên tập mười quyển, văn phần nhiều thanh nhã, luôn lời khuyến thiện, chỉ cốt giữ ý mà bỏ đi sự hoa mỹ, được đời quý trọng.

- Tam Bảo Tập, mười một quyển.

- Một bộ mười một quyển trên, ngày đời Võ Đế, Sa-môn Thích Tịnh Ái, căn cứ ngày các kinh luận mà soạn ra. Rộng khen Đại thừa mở sáng đời tượng pháp, ghi chép việc Phật, Pháp, Tăng, nên gọi là Tam bảo Tập. Về sau ngài chán thân nên tự quyên sinh. Ngày lâm chung có viết kệ tóm tắt rằng:

Thấy thân nhiều lỗi Không thể hộ pháp Muốn mau thấy Phật Sớm khiến thân tự tại Thân được tự tại ngày Luôn ở trong các cõi Tùy chỗ có lợi ích

Hộ pháp, cứu chúng sinh Lại khi nghiệp đã hết Pháp hữu vi đều thế

Ba cõi đều vô thường Thời đến không tự tại Người giết và tự chết Rốt cuộc về một chỗ Điều kẻ trí không ưa Phải nên nghĩ như thế. Các duyên đã vận họp Hôm nay nghiệp đã hết.

Hơn ba mươi bài kệ ngài đã dùng máu để viết ngày vách đá, ngày lá cây. Viết ngày sau đó ngài xã thọ mạng.

- Nhị Giáo Luận, một quyển.

- Bộ Luận một quyển, ngày đời Võ Đế, đã sùng kính Đạo Pháp nhưng lại muốn giúp cả ba giáo (Khổng-Lão-Phật). Lúc đó thói tục lăng xăng, các thuyết tranh nhau nổi lên. Đầu tiên ngày Rằm tháng ba năm Thiên Hòa thứ tư, vua triệu tập các bậc Đại đức tăng, các Danh nho và Đạo sĩ, cùng bá quan văn võ hơn hai ngàn người ngày đại điện. Vua lên ngự tòa đích thân luận nghĩa muốn giúp tam giáo. Đến ngày hai mươi thì lại tập họp luận nghĩa. Đến ngày rằm tháng bốn thì cứ như trước mà tập họp nghị luận. Đến ngày hai mươi lăm, Tư Lệ Đại Phu Chân Loan chê cười việc luận đạo. Ông ta tóm tắt rằng: "Đến ngày mười tháng năm thì triệu tập quần thần bình luận chê cười việc luận đạo, cho là không thể được, liền ở sân điện mà lấy lửa ra đốt hết. Đến tháng chín Sa-môn Thích Đạo An rất buồn thương bèn viết ra bộ Nhị Giáo Luận này để làm sáng rõ rốt ráo. Bấy giờ dâng lên vua, vua không thể bắt bẻ được, đều dẹp bỏ cả. Trong Luận ấy nói rằng: "Xuân Thu Tả Truyện nói: Lỗ Trang Công năm thứ bảy ngày đêm Tân Mão tháng bốn năm Giáp Ngọ, không thấy Sao Hằng mọc lên mà sao rơi như mưa, nhằm ngày đời Chu Trang Vương năm thứ mười. Trang Vương Biệt Truyện có nói: Bèn tìm Dịch Phẹ (thầy bói), tâu rằng: Ở Tây Vức, người có da màu đồng ra đời, do đó đêm ấy sáng tỏ, không phải tai ương cho nhà Trung Hạ. Xét trong kinh Phật thì Như Lai nhập thai ngày tám tháng tư, đến ngày tám tháng hai thì sinh ra, và thành đạo cũng ngày tám tháng hai. Khi sinh ra một và thành đạo Phật đều phóng ra ánh sáng mà gọi là xuất thế, tức là năm thành Phật vậy. Nhà Chu lấy tháng mười một làm tháng giêng. Tháng bốn của Xuân Thu tức là tháng hai của nhà Hạ. Theo lịch của Thiên Trúc là tháng một thì trùng với tháng một của nhà Hạ. Đỗ Dự đã dùng lịch Nhà Tấn mà tính thì đó là ngày bảy tháng hai còn an cộng đỗng phụng tính theo lịch nước Lổ là ngày bảy tháng hai còn theo lịch nhà Tiển Chu mà tính thì đó là ngày tám tháng hai. Lại nếu dựa theo niên kỷ của ngài Pháp sư La-thập và bài Minh trên trụ đá so với Xuân Thu thì đồng nhau. Như Lai sinh ra một nhằm ngày năm Ất Sửu đời Chu Hằng Vương năm thứ tư. Như Lai xuất gia ngày năm Quý Mùi đời Hằng Vương năm thứ hai mươi hai, còn thành Đạo ngày năm Giáp Ngọ tức đời Trang Vương thứ mười. Và nhập Diệt ngày năm Giáp Thân tức đời Tương Vương năm thứ mười lăm. Cho đến nay là năm Thiên Hòa thứ tư thì Phật diệt độ đã được một ngàn hai trăm lẻ năm năm. Phòng cho Dịch Phẹ (thầy bói) nói rằng: "Người da màu đồng ra đời tức là Sinh, Đạo Ân thì cho là thành Phật. Chỉ e có chút ít là sai khác nhau mà thôi.

QUYỂN 12

KINH DỊCH Ở NHÀ ĐẠI TÙY

Sách ghi chép về nhà Đại Tùy rằng: Hoàng đế ta nhận lệnh trời Tứ thiên để hộ trì Tam bảo, tiếp nối năm đời trấn giữ chín châu. Do đó từ ngày mới sinh ra một đã có ánh sáng lạ rực rỡ đầy nhà, từ ngày lên ngôi trở đi các điềm linh ứng tranh nhau xuất hiện. Do đó mà trời ứng điềm mai rùa có chữ, nước chiếu ngời năm sắc, đất phun suối nước ngọt, núi vang tiếng muôn đời. Mây lành mưa cam lộ, đá tự biến thành ngọc sáng. Người điếc bỗng nghe được, kẻ mù bỗng thấy được, người câm thì nói được, kẻ què lại đi được. Cầm thú đều hiện rõ các điềm lành, cây cỏ lộ ra việc lạ lùng khó tả. Đâu chỉ có bảy báu riêng hiện rõ. Kim luân, há chỉ bốn mùa hòa thành đuốc ngọc. Ấy chính là trong Kim Quang Minh Kinh ở phẩm Chánh Luận có nói: Do tạo nghiệp lành nên được sinh làm người, làm vua thống lãnh cả nước non nên gọi là Nhân vương. Ở trong thai được chư Thiên bảo hộ, hoặc trước được bảo hộ rồi mới nhập thai. Cõi trời thứ ba mươi ba mỗi vị đem phước đức của mình ban cho vua này. Vì có trời bảo hộ cho nên gọi là Thiên tử. Năm Xích Nhã lúc Huỳnh Ốc ngự trị thì chế độ thuộc hành thủy nên hưng phế hư nát. Còn Phật nhật là lửa có gỗ (mộc) nên vận niên càng sáng, do đó mà lấy niên hiệu là Khai Hoàng. Có thể bảo rằng đuốc pháp đã tắt mà lại sáng, đó là hết bỉ thì trở lại thái vậy.

Mùa Đông năm ấy có Sa-môn Trí Châu mang Phạm kinh từ Tây Vức trở về được hai trăm sáu mươi bộ đã đến lúc vua bèn sắc chỉ cho Phó Ty tìm người phiên dịch. Đến tiết trọng xuân năm Khai Hoàng thứ hai thì mới họp nhau phiên dịch. Lý Hạ chiếu nói rằng: Nhà Ân năm lần dời đô sợ dân chết hết ấy là người lấy cát làm hung, khiến mạng sống dài thành ngắn. Mưu việc mới mà bỏ cũ, như nông dân trồng đời mùa thu, núi sông có dáng Long đầu càng đẹp đẽ. Nơi nào đồi cỏ thấm tươi thì tạo dựng đô ấp, khiến cơ đồ xả tắc được bền lâu, sự nghiệp vô cùng là tại đây vậy. Nhân đó mà thành thì gọi là Đại hưng thành, điện thì gọi là Hưng điện, Cửa thì gọi là Đại hưng môn, huyện thì gọi là Đại hưng huyện, vườn thì gọi là Đại hưng viên, chùa thì gọi là Đại hưng thiện tự. Việc từ hóa của Tam bảo từ đấy được đại hưng, phong cách nhân ái của vạn quốc nhân đây càng mở rộng. Già-lam mọc lên san sát trang hoàng đẹp lầm tưởng là miếu Thành hoàng, tràng phan bảo cái bay cao càng khiến trang nghiêm cõi nước. Pháp đường Phật điện sánh tợ Thiên cung, Chấn Đán Thần Châu so đồng Tịnh độ, Sa-môn đông vầy rèn tập lục độ để huân tâm, kẻ tín sĩ lớp lớp tu thập thiện làm hạnh nghiệp, bốn bể sóng lặng, chín cõi yên bình. Cho nên đất đức đã hiển bày, trời lành càng sáng tỏ. Hươu trắng đã xuất hiện thì Kỳ lân sẽ nối gót theo sau. Quạ xanh đã liệng bay thì Phụng hoàng múa tất gần kề. Do đó mà hàng giàu sang lắm của tranh nhau mua vườn Kỳ-đà, nhóm quan quyền chứ tước lại cùng đua chen ngày đất A-dục Phù Đồ (tháp Phật) nhân đây mà phát triển, bảo sát (chùa Phật) xuất hiện nào khác sao giăng. Tăng Ni hiện có gần hai mươi vạn. Chùa tháp tính ra hơn bốn ngàn. Phàm các vị dịch kinh đạo, tục ngoại quốc nối nhau xuất hiện, cùng với kẻ tục, người tu ở phương này gồm tất cả có mười chín vị. Còn số được dịch ra văn mới văn cũ gồm Luận, Truyện, Pháp, Giới thì có đến bảy mươi lăm bộ, bốn trăm sáu mươi hai quyển. Tổng kết lại thành Hoàng Tùy Đại Hưng Lục Mục, để làm khuôn phép vĩnh viễn truyền lại đời sau lâu xa cùng trình bày phép tắc ấy sáng mãi không dứt. Mong các bậc Triết nhân tương lai nối gót tu hành, ngỏ hầu có được thật nhiều thần công của Tam bảo, ở khắp cõi Ta-bà mà mở mang hoằng truyền giáo pháp của ngàn Phật, trải suốt Hiền kiếp vô cùng!

A. Các dịch giả:

* Về đời Đại Tùy:

- Dương Xuyên Quận Thú Đàm Pháp Trí, dịch một bộ, một quyển kinh.

- Sa-môn Tỳ-ni-đa Lưu-chi, dịch hai bộ, hai quyển kinh.

- Sa-môn Na-liên-đề-da-xá dịch tám bộ, hai mươi tám quyển kinh.

- Sa-môn Thích Tăng Tựu dịch một bộ, sáu mươi quyển kinh.

- Sa-môn Xà-na-quật-đa dịch ba mươi mốt bộ, một trăm sáu mươi lăm quyển kinh.

- Sa-môn Thích Pháp Thượng, dịch ba bộ, bốn mươi ba quyển kinh và lục.

- Sa-môn Thích Linh Dũ, dịch tám bộ, ba mươi quyển luận, ký.

- Sa-môn Thích Tín Hạnh, dịch hai bộ, ba mươi lăm quyển, ba giai ký.

- Sa-môn Thích Pháp Kinh, dịch một bộ, bảy quyển lục mục.

- Sa-môn Thích Bảo Quý, dịch một bộ, tám quyển kinh.

- Sa-môn Thích Tăng Sán, dịch một bộ, một quyển luận.

- Sa-môn Thích Tăng Côn, dịch một bộ, ba quyển tạp ký.

- Sa-môn Thích Ngạn Tông, dịch sáu bộ, chín quyển luận, truyện, lục.

- Sa-môn Thích huệ Ảnh, dịch bốn bộ, hai mươi bảy quyển trí độ giải và luận.

- Quảng Châu Tư Mã Quách Nghị, dịch một bộ, hai quyển.

- Nho Lâm Lang Hầu Quân Tố, có một bộ, mười quyển truyện.

- Tấn Vương Phủ Tế Tửu Từ Đồng Khanh, có một bộ, hai quyển luận.

- Phiên Kinh Học Sĩ Lưu Phùng, có một bộ, một quyển Nội Số Thuật.

- Sắc Hữu Ty Soạn một bộ, mười quyển Chúng Kinh Pháp Thức.

B. Các dịch phẩm:

* Về đời Đại Tùy gồm có:

- Nghiệp Báo sai Biệt Kinh, một quyển (Dịch lần hai ngày tháng ba năm Khai Hoàng thứ hai. So với bộ Tội Nghiệp Báo Ứng Kinh thì giống nhiều khác ít).

Một bộ một quyển trên, ngày đời Nguyên Ngụy, do con cả của Bà-la-môn Ưu-bà-tắc Cù-đàm Bát-nhã Lưu-chi là Đạt-ma Bát-nhã (Tùy dịch là Pháp Trí) thuộc dòng giỏi truyền nhau phiên dịch. Cuối đời Cao Tề thì làm Chiêu Huyền Đô. Từ khi Tề bị dẹp yên thì đồng thời Phật pháp cũng bị dẹp bỏ. Ngài Pháp Trí đang làm Tăng ngôi cũng đổi sang làm quan thế tục. Vua sai dạy học ở Dương châu, Dương Xuyên Quận Thú nhà Đại Tùy được nhường chức thì kinh Phạm liền đến, Phật nhật lai được trùng hưng sáng tỏ, nên rõ phong hóa quốc gia thầm ứng. Vua liền giáng sắc mời ngài Pháp Trí trở lại dịch kinh ngài, liền đến ở Đại Hưng Thiện mà phiên dịch. Pháp Trí rất giỏi cả hai thứ tiếng Tùy Phạm, cầm bản tự dịch không nhọc công người truyền dịch, Sa-môn Thành Đô Thích Trí Huyễn ở chùa đại hưng thiện bút thọ, văn từ giải thích nghĩa lý rõ ràng. Sa-môn Triệu Quận Thích Ngạn Tông ở chùa nhật nghiêm viết tựa.

- Tượng Đầu Tinh Xá Kinh, một quyển (dịch lần hai tháng hai năm Khai Hoàng thứ hai. So với Bộ Già-da Sơn Đảnh Kinh thì bản đồng mà khác tên).

- Đại Thừa Phương Quảng Tổng Trì Kinh, một quyển (dịch ngày tháng bảy năm Khai Hoàng thứ hai).

Cả hai bộ gồm hai quyển trên do Tam tạng Pháp sư Tỳ-đa-lưu-chi (Tùy dịch là Diệt Hỷ) người nước Ô Trường thuộc Bắc Thiên Trúc, nghe vua ta đã phục hưng Tam bảo nên không ngại xa xôi hơn năm trăm do-diên chống tích trượng tuần du đến xem thấy việc hoằng hóa hưng thạnh bèn ở lại. Được vua mời ngày dịch kinh, ngài liền ở Đại hưng thiện Quan Cấp Sự có Lý Đạo Bảo và con kế của Bát-nhã Lưu-chi là Đàm-bì, cả hai người cùng truyền dịch., Sa-môn Trường an Thích Pháp Toản ở Đại hưng thiện bút thọ thành văn Tùy, cùng chỉnh lý so sánh văn nghĩa. Sa-môn Ngạn Tống viết lời tựa.

- Đại Phương Đẳng Nhật Tạng Kinh, mười lăm quyển (Khởi dịch từ tháng năm năm Khai Hoàng thứ tư đến tháng hai năm Khai Hoàng thứ năm mới ngày. Sa-môn Trí Huyễn, Đạo Thúy, huệ Hiến vâng lệnh triều đình mời Dữu Chất Học sĩ Phí Trường Phòng bút thọ, văn nghĩa rút từ Đại Tập).

- Lực Trang Nghiêm Tam-muội Kinh, ba quyển (dịch tháng mười năm Khai Hoàng thứ năm. Phí Trường Phòng bút thọ).

- Đại Trang Nghiêm Pháp Môn Kinh, hai quyển (dịch tháng một năm Khai Hoàng thứ ba, Sa-môn

Trí Huyễn bút thọ. So với các bộ Văn-thù-sư-lợi Thần Lực Kinh, Thắng Kim Sắc Quang Minh Đức Nữ Kinh, Đại Tịnh Pháp Môn Kinh thì bản dịch đồng mà tên khác).

- Đức Hộ Trưởng Giả Kinh, hai quyển (dịch tháng sáu năm Khai Hoàng thứ ba. Sa-môn huệ Côn Bút thọ. Một tên là Thi-lợi-quật-đa Trưởng Giả Kinh. So với các Bộ Thân Nhật Đâu Bản Kinh, Nguyệt Quang Đồng Tử Kinh thì bản đồng mà khác tên).

- Liên Hoa Diệu Kinh, hai quyển (dịch ngày tháng ba năm Khai Hoàng thứ tư).

- Đại Vân Luân Thỉnh Vũ Kinh, hai quyển (dịch tháng một năm Khai Hoàng thứ năm, chính là phẩm thứ một trăm của Đại Vân Kinh).

- Lao Cố Nữ Kinh, một quyển (dịch tháng mười hai năm Khai Hoàng thứ hai).

- Bách Phật Danh Kinh, một quyển (dịch tháng mười năm Khai Hoàng thứ hai. Cả bốn kinh sáu quyển trên đều do Sa-môn Tần Hiến bút thọ.

Cả tám bộ gồm hai mươi tám quyển trên do Tam tạng Pháp sư thuộc Cao Tề Chiêu Huyền Thống Na-liên-đề-da-xá (Tùy dịch là Tôn Xưng) người nước Ô Trường, thuộc Bắc Thiên Trúc. Ngài Da-xá xuất gia từ bé, năm cõi Thiên Trúc thì đi khắp bốn, trải qua hơn sáu mươi nước lớn nhỏ. Và nhất là các thắng tích của Đức Thích-ca thì không nơi nào bước đến. Đi tận cùng biển Nam rồi trở lại Bắc Thiên Trúc. Lại đến Nhự Nhự gặp lúc nước ấy bị phá, nhân đó liền ngày Nghiệp Đô thì gặp vua Văn Tuyên. Lúc đó ngài mới bốn mươi tuổi. Ngài Da-xá có xương cốt to lớn, hình thù kỳ dị. Do đó, Văn Tuyên đã đãi ngộ rất trọng hậu. Lúc đó cũng dịch kinh được ghi đầy đủ trong Tề Thế Lục. Sau, nước Tề bị Chu diệt, nhưng vẫn ở bến Khế Chương. Đến năm Khai Hoàng thứ nhất thì kinh mới vừa đến nơi. Vua liền ra lệnh theo mời. Ngày tháng bảy năm Khai Hoàng thứ hai truyền đưa đến kinh đô. Vua thấy nhọc nhằn nên ân cần tiếp đãi, sắc lệnh cho ở yên tại Đại hưng thiện tự, cung cấp theo bậc Thượng cấp, vì pháp nên phải quý trọng người. Năm ấy ngày tháng quý Đông liền bắt tay phiên dịch. Sa-môn Tăng Sáu, Minh Phân, Cấp Sự Lý Đạo Bảo, Học sĩ Đàm Bì… Tăng Lục gồm có bốn vị nhanh chóng chuyển ngữ. Các Đại Đức ở Kinh Thành như Chiêu Huyền Thống, Sa-môn là Đàm Diên, Chiêu Huyền Đô, chủ chùa Đại hưng thiện là Sa-môn Linh Tạng… hơn hai mươi vị danh đức Tăng, thay nhau coi sóc trước sau, đến tháng mười năm Khai Hoàng thứ năm khám xét hiệu đính ngày xuôi. Lúc đó ngài Da-xá đã hơn chín mươi tuổi viên tịch ngày năm Khai Hoàng thứ chín, có ghi trong Biệt Truyện. Những Kinh sách của ngài dịch đều do Sa-môn Ngạn Đông viết tựa cả.

- Tân Họp Đại Tập Kinh, sáu mươi quyển.

Một bộ sáu mươi quyển trên, do Sa-môn Thích Tăng Hựu, năm Khai Hoàng thứ sáu tập hợp mới. Tăng Hựu ở chùa chiêu đề xuất gia từ thuở nhỏ chuyên học về Bảo Phường Học. Căn cứ đúng bản kinh Đại Tập hợp tiếng Phạm này cồm có mười vạn bài kệ, nếu dịch hết thì có thể lên đến ba trăm quyển. Nay thấy ngài Quật-đa dịch Kinh thường bảo rằng: cách hơn hai ngàn dặm về phía Đông nam nước Vu Điền có nước Giá-câu-ca. Vua nước này rất thuần tín, kính trọng Đại thừa. Danh Tăng các nước khi đến nước ấy đều phải được khảo thí. Nếu người học Tiểu thừa thì không cho ở, còn ai chuyên Đại thừa thì mới ở lại để cúng dường. Ở trong cung vua có ba bộ kinh lớn là Ma-ha Bátnhã, Đại Tập, Hoa Nghiêm và mười vạn bài kệ. Vua đích thân thọ trì, và giữ chìa khóa khi đọc tụng mới mở ra rồi hương hoa cúng dường. Lại trong đạo tràng các thứ trang hoàng đều dùng các báu vật quý hiếm, lại treo các thứ hoa lạ trái nghịch mùa. Thường khuyên bảo các Tiểu vương nên ngày lễ bái. Họ lại khoe rằng: Ở về phía Đông nam nước ấy hơn hai mươi dặm, có núi rất hiểm trở. Trong đó để các bộ kinh như Đại Tập, Hoa Nghiêm,

Phương Đẳng, Bảo Tích, Lăng-già, Phương

Quảng, Xá-lợi-phất Đà-la-ni, Hoa Tụ Đà-la-ni, Bồtát La Tạng, Ma-ha Bát-nhã, tám bộ Bát-nhã Đại Vân Kinh… gồm mười hai bộ đều có mười vạn bài kệ. Phép nước truyền nhau giữ gìn coi ngó. Lại bảo ở núi ấy có ba vị Diệt Định A-la-hán đang ngồi thiền trong hang vắng. Cứ mỗi nửa tháng hoặc một tháng có các Tăng lên núi để cạo râu tóc cho quý vị ấy. Thần lực có thực như thế thật rất đáng tin! Râu tóc cạo rồi lại mọc mà người ngồi nhập diệt định vẫn bất động. Phước Địa khó nghĩ bàn nhờ cái báu này duy trì mà có được các vua sáng suốt nối gót Thánh hiền hoằng hóa các vua. Nay viết lại để lưu truyền. Trong hàng vua chúa cai trị nghe biết việc lành còn kể lại. Nên nay chép rõ. Song nay cách Phật dần xa, thức phàm phu mờ tối, không thể nhớ hiểu hết nên tùy từng phần mà viết tóm tắt. Đến nỗi ngày nay bản tiếng Phạm thiếu sót hoặc quá ngắn gọn. Nên gặp bản tóm gọn thì dịch tóm gọn, gặp bản rộng dài thì dịch rộng dài. Do đó các bậc Tiền triết như Chi-đàm và La-thập đã dịch ra hoặc hai mươi bảy quyển, hoặc ba mươi quyển hay ba mươi mốt quyển không chừng, đến khi tuyên dương thì luôn than thở. Đến như ngài Da-xá đời Cao Tề dịch Nguyệt Tạng Kinh mười hai quyển, đến nay là năm Khai Hoàng thì ngài Da-xá dịch Nhật Tạng Kinh mười lăm quyển, đều rút từ Cựu Phẩm của Đại Tập Bản rộng, nên lòng rất vui mừng, liền dựa ngày đó mà họp thành sáu mươi cuốn, chỉ e việc ghép ngày chưa được khéo léo. Ví như ở Đại hưng thiện có Sa-môn Hồng Khánh, kiến thức sâu xa theo lệnh hoàng hậu kiểm xét sao chép ra, các Kinh ở hai tạng được sửa đúng đắn, kết hợp lại thì tên kinh rất chỉnh đốn. Nay lại thấy dịch ra, trong đó còn có phần Đại tập. Nếu tóm tắt hết thì cũng hơn cả trăm quyển, mà so với bản tiếng Phạm thì chỉ có một phần ba thôi. Vả như đất đá này tan ra thành bụi nhỏ vì không có sức liên kết nhau lại, rồi các bụi ấy họp thành gò đất có công năng sinh sản và che chở muôn loài. Cành lá lìa rừng mà mong được sum xuê dòng nước, bỏ suối nguồn mà cầu ướt đẵm... có thể được sao? Vua ta sinh ra một thật đúng thiên thời, hợp địa lý. Cả chín châu ngăn cách hơn ba trăm năm nay lại hợp, mười vạn bài kệ chia ra khắp ngàn chùa. Kinh tan rồi lại hợp, họp thành văn của Đại tập sáng trưng. Đất chia cắt rồi lại chung hiển, chung bày nước Đại Hưng thịnh Nếu không phải là bậc nắm giữ Kim Luân hoằng truyền Phương Đẳng chính là vua chúa trước nay mở mang Phật pháp thì còn ai ngày đấy nữa?

- Phật Bổn Hạnh Tập Kinh, sáu mươi quyển (khởi dịch ngày tháng bảy năm Khai Hoàng thứ bảy đến tháng hai năm Khai Hoàng thứ mười hai mới ngày. Sa-môn Tăng-đàm, Học sĩ Phí Trường Phòng, Lưu Bằng… bút thọ. Sa-môn Ngạn Tông viết tựa).

- Pháp Cự Đà-la-ni Kinh, hai mươi quyển (khởi dịch ngày tháng bốn năm Khai Hoàng thứ mười ba đến tháng sáu năm Khai Hoàng thứ mười sáu mới ngày. Sa-môn Đạo Thúy… bút thọ).

- Oai Đức Đà-la-ni Kinh, hai mươi quyển (Khởi dịch ngày tháng bảy năm Khai Hoàng thứ mười lăm đến tháng mười hai năm Khai hoàng mười sáu mới ngày. Sa-môn Tăng Côn… bút thọ).

- Chư Phật Hộ Niệm Kinh, mười quyển (Khởi dịch tháng mười năm Khai Hoàng thứ mười bốn đến tháng mười hai thì ngày. Sa-môn Tăng Đàm… bút thọ).

- Ngũ Thiên Ngũ Bách Phật Danh Kinh, tám quyển (Khởi dịch tháng tám năm Khai Hoàng thứ mười ba, đến tháng chín năm khai hoàng mười bốn thì ngày. Sa-môn Tăng-đàm… bút thọ).

- Hiền Hộ Bồ-tát Kinh, sáu quyển (Khởi dịch tháng mười hai năm Khai Hoàng thứ mười bốn đến tháng hai năm mười lăm mới ngày. Sa-môn Minh Phân… bút thọ).

- Hiền Thiện Trụ Thiên Tử Sở Vấn Kinh, bốn quyển (dịch tháng bốn năm Khai Hoàng thứ mười lăm. Sa-môn Đạo Mật… bút thọ).

- Quán Sát Chư Pháp Hành Kinh, bốn quyển (Khởi dịch ngày hai mươi bốn tháng tư năm Khai Hoàng thứ mười lăm đến ngày hai mươi lăm tháng năm năm ấy thì ngày. Học Sĩ Phí Trường Phòng bút thọ).

- Tứ Đồng Tử Kinh, ba quyển (dịch từ tháng năm đến tháng bảy năm Khai Hoàng thứ mười ba thì ngày. Sa-môn Tăng Côn bút thọ).

- Chư Pháp Bổn Vô Kinh, ba quyển (dịch khám sáu năm Khai Hoàng thứ mười lăm, đến, tháng bảy ngày. Học sĩ Lưu Bằng… bút thọ).

- Hư Không Dựng Bồ-tát Kinh, hai quyển (dịch tháng tư năm Khai Hoàng thứ bảy, đến, tháng ba ngày. Sa-môn Tăng-đàm bút thọ. Sa-môn Ngạn

Tông viết tựa).

- Nguyệt Thượng Nữ Kinh, ba quyển (dịch tháng tư năm Khai Hoàng thứ mười một,, đến tháng sáu xong. Học sĩ Lưu Phùng bút thọ, Sa-môn Ngạn Tông viết tựa).

- Thiện Tư Đồng Tử Kinh, hai quyển (dịch tháng bảy Khai Hoàng thứ mười một, đến, tháng chín ngày. Học Sĩ Phí Trường Phòng bút thọ. Samôn Ngạn Tông viết tựa).

- Di Thức Kinh, hai quyển (Năm Khai Hoàng thứ mười một, tháng mười dịch tháng mười hai ngày. Học sĩ Phí Trường Phòng bút thọ).

- Thí Dụ Vương Kinh, hai quyển (dịch tháng mười năm Khai Hoàng thứ mười lăm, đến ngày tháng sáu. Sa-môn Đạo Thúy… bút thọ).

- Phát Giác Tịnh Tâm Kinh, hai quyển (dịch tháng mười năm Khai Hoàng thứ mười lăm, dịch tháng chín ngày tháng mười. Sa-môn Tăng Côn… bút thọ).

- Nhất Hướng Xuất Sinh Bồ-tát Kinh, một quyển (dịch tháng 1 năm Khai Hoàng thứ mười lăm, dịch đến tháng mười hai. Sa-môn Tăng Đàm bút thọ. Sa-môn Ngạn Tông viết tựa).

- Đại Oai Đăng Tiên Nhân Vấn Nghi Kinh, một quyển (Năm Khai Hoàng thứ sáu, dịch tháng một ngày tháng hai. Sa-môn Đạo Thúy bút thọ. Sa-môn Ngạn Tông viết tựa).

- Văn-thù-thi-lợi Hạnh Kinh, một quyển (Năm Khai Hoàng thứ sáu, dịch tháng một ngày tháng hai. Sa-môn Tăng Đàm bút thọ. Sa-môn Ngạn

Tông viết tựa).

- Bát Phật Danh Hiệu Kinh, một quyển (Năm

Khai Hoàng thứ 6, dịch tháng năm ngày tháng 6.

Sa-môn Đạo Thúy bút thọ. Sa-môn Ngạn Tông viết tựa).

- Hy Hữu Giảo Lương Công Đức Kinh, một quyển (Năm Khai Hoàng thứ sáu, dịch tháng sáu ngày tháng ấy. Sa-môn Tăng Đàm bút thọ. Sa-môn Ngạn Tông viết tựa).

- Thiện Cung Kỉnh Sư Kinh, một quyển (Năm Khai Hoàng thứ sáu, dịch tháng bảy ngày tháng tám. Sa-môn Tăng Đàm bút thọ. Sa-môn Ngạn

Tông viết tựa).

- Như Lai Phương Tiện Thiện Xảo Chú Kinh, một quyển (Năm Khai Hoàng thứ bảy, dịch tháng một ngày tháng hai. Sa-môn Tăng Đàm… bút thọ. Sa-môn Ngạn Tông viết tựa).

- Bất Không Quyển Sách Quán Thế Âm Tâm Chú, một quyển (Năm Khai Hoàng thứ bảy, dịch tháng bốn ngày tháng năm. Sa-môn Tăng Đàm… bút thọ. Sa-môn Ngạn Tông viết tựa).

- Thập Nhị Phật Danh Thần Chú Trừ Chướng Diệt Tội Kinh, một quyển (Năm Khai Hoàng thứ bảy, dịch tháng năm ngày tháng ấy. Sa-môn Tăng Côn bút thọ, Sa-môn Ngạn Tông viết tựa).

- Kim Cang Trường Đà-ni Kinh, một quyển (Năm Khai Hoàng thứ bảy, dịch tháng sáu tháng tám ngày. Sa-môn Tăng Côn… bút thọ, Sa-môn Ngạn Tông viết tựa).

- Chư Pháp Tối Thượng Vương Kinh, một quyển (Năm Khai Hoàng thứ mười lăm dịch tháng năm ngày tháng bảy. Sa-môn Minh Thân… bút thọ).

- Nhập Pháp Giới Kinh, một quyển (Năm Khai Hoàng thứ mười lăm, dịch tháng bảy ngày tháng tám. Sa-môn Đạo Mật... bút thọ).

- Thương Chủ Thiên Tử Vấn Kinh, một quyển (dịch tháng tám năm Khai Hoàng thứ mười lăm, ngày tháng chín. Học Sĩ Phí Trường Phòng… bút thọ).

- Xuất Sinh Bồ-tát Kinh, một quyển (dịch tháng chín năm Khai Hoàng thứ mười lăm, và ngày trong tháng ấy. Học Sĩ Lưu Phùng bút thọ).

- Kim Quang Minh Kinh Chúc Lụy Phẩm, Ngân Chủ Phẩm họp thành một quyển (Đời Lương ngài Đàm-vô-sấm dịch bốn quyển; đời Lương ngài Chân Đế dịch sáu quyển; đời Chu ngài Chúc-đa dịch năm quyển đều không có hai phẩm này. Cho nên đời sau dịch thêm).

Cả ba mươi mốt bộ gồm một trăm sáu mươi lăm quyển, do Tam tạng Pháp sư Xà-na-quật-đa (Tùy dịch là Chí Đức, lại gọi là Phật Đức) người nước Kiền-đạt thuộc Bắc Thiên Trúc dịch vào ngày đời Chu Minh Đế, đầu năm Võ Thành, ngài cùng bạn đồng học là Da-xá Quật-đa theo quyết sư chủ tam tạng Thiền sư Xà-na-da-xá từ nước Ma-già-đà, mang kinh đem ngày. Thầy trò và bạn học cùng luyện tập tiếng địa phương hơn hai mươi năm. Ngài Quật-đa giỏi nhất. Đồng thời châu kinh đô và đi qua đất Thục, đến đâu cũng đều tuyên dịch kinh mới, hoặc viết tiếp những đoạn thiếu trước, văn nghĩa rất đầy đủ. Lúc đó gặp phải Ma-nạn bị oai vua bức bách, ngày năm Kiến Đức thứ ba gặp phải lúc vua dẹp bỏ hai đạo (Nho, Phật), mùa hạ cả bảy chúng đều mặc một thứ áo thế tục. Thầy trò Quậtđa cũng bị dẫn dụ ép bức, đã không khế họp thì quên mình mà đi du phương, không nề gian khổ lấy việc hoằng hóa làm nghiệp vụ, nay gặp lúc pháp bị hủy diệt nên trái với bản tâm. Bèn lấy cớ rằng mình là người Phạm không thể mặc y phục theo lối người Hoa được. Quyết giữ khí tiết bền chắc xin được trở về bản quốc. Vua bèn chấp nhận lấy lễ mà thả cho đi. Nước Chi-na-ta chính thật là cõi nước Diêm-phù vậy. Chỉ vì các giống rợ xa xôi hình thù y phục khác nhau mà có đến hay đi chỗ nào không thích thì há cảm được họ.

Chẳng qua vì mộ việc hóa độ mà đến, đến thì phải dung nạp. Nghĩ về quê hương thì muốn đi, đi thì không trái. Bèn nhắm về hướng Bắc mà đi tắt đến nước Đột Quyết (Thổ Nhĩ Kỳ). Giữa đường gặp mặt vua Thổ là Tha-bát-khả-hản. Được vua ân cần mời ở lại, nhân đó mà trở lại. Vua bảo: "Nhà Chu có lúc thành lúc hoại, khiến Sư phải nhọc công đi và về, nơi đây không có việc phế hưng, mong ngài an tâm mà ở". Nhà vua cung phụng cúng dường khiến muôn bề vừa ý. Bấy giờ ở lại đó hơn mười năm. Cả thầy và bạn đồng học đều viên tịch trước cả, chỉ mình Quật-đa vẫn còn.

Lúc đó ở Tương Châu có Sa-môn Bảo Tiêm (và có Đạo Thúy, Trí Châu, Tăng Oai, Pháp Bảo, Tăng Đàm, Trí Chiếu, Tăng Luật… gồm mười một vị vào) đời nhà Tề, năm Võ Bình thứ sáu, nối nhau Tây du, đi và về cả bảy năm thỉnh được Phạm kinh gồm hai trăm sáu mươi bô. Khi trở về đến nước Đột Quyết nghe Chu đã diệt Tề, hủy diệt Phật pháp, trở lại không được mà tiến tớ không ngày. Trong một thời gian nán lại bỗng gặp được ngài Chí Đức (Quật-đa), thật là như khát được cho uống, tối gặp được sáng. Bèn cùng nhau xem lại các kinh mới đã thỉnh được, mời ngài dịch tên cùng xem xét mục lục cũ, vì đã từng biết phương tiện khéo léo nên có khác với người xưa. Nhóm Bảo Tiêm ai nấy đều lòng thành mừng là may mắn như của báu gặp được thợ khéo, thật không uổng chuyến đi, nên cùng đốt hương đồng thề họp nhau tuyên dịch. Nhà Đại Tùy từ khi được nhường ngôi thì Phật pháp liền hưng thạnh. Nhóm Bảo Tiêm đem Kinh thỉnh được chở về, cuối Đông năm Khai Hoàng thứ nhất thì tới nơi.

Vua bèn sắc chỉ cho Phó Ty tìm người phiên dịch. Năm Khai Hoàng thứ tư, Quật-đa mới thực sự ngày nước Trung Quốc châu chùa Hưng thiện lo việc tuyên dịch. Năm Khai Hoàng thứ năm, vua sắc chỉ cho Quật-đa phải cùng với Sa-môn Bà-lamôn Nhã-na-yết-đa, Khai Phủ Cao Cung Cung Tức, Đô Đốc Thiên Nô, Hòa Nhân và Bà-la-môn Tỳ-xá-đạt… cả Đạo Tục gồm sáu người. châu Nội sử nội tỉnh mà dịch sách cổ tiếng Phạm và Càn Văn… Lúc đó ở Quảng tế chỉ có một mình Da-xá dịch kinh. Đến năm Khai Hoàng thứ bảy thì vua ra riêng lệnh cho Quật-đa cùng Da-xá dịch kinh, nên ngài phải lui tới hai nơi. Đến năm Khai Hoàng thứ mười hai thì phiên dịch kinh sách ngày hết gồm được hơn hai trăm quyển, đem dâng hết lên vua.

Bấy giờ ngài Da-xá đã viên tịch trước rồi, nhưng vua vẫn sắc lệnh cho ngài Quật-đa làm chủ việc dịch kinh, dời Pháp Tịch đến chùa Đại hưng thiện. Lại mời Sa-môn Bà-la-môn Đạt-ma-cấp-đa và khiến hai anh em Cao Thiện Nô, Cao Hòa Nhân đồng dịch. Lại tăng thêm mười vị Đại Đức Sa-môn như Tăng Hưu, Pháp Sán, Pháp Kinh, Huệ Tạng, Hồng Tuân, Huệ Viễn, Pháp Toản, Tăng Huy, Minh Mục, Đàm Thiên… coi sóc đầu đuôi, xác định ngôn từ thống nhất quy chỉ. Trong đó có mười bốn bộ Bổn Hạnh Tập Kinh bảy mươi sáu quyển là kinh ở chỗ khác mà mười một năm trước ngài Quật-đa đã tự dịch lấy, tất cả đều do Sa-môn Ngạn Tông viết tựa. Có mười bảy bộ Pháp Cự Kinh… với tám mươi chín quyển thì được dịch ra trong suốt mười hai năm khi ngài châu thiền đường chùa

Đại hưng thiện, có Sa-môn Cấp-đa và anh em Cao Thiên Nô… trợ giúp. Sa-môn Minh Mục, Sa-môn Ngạn Tông lại đem bản tiếng Phạm ra để so sánh, xem xét kỷ lại mấy lần và sửa chữa văn nghĩa. Ngoài ra còn có chín mươi bộ khác thấy trong "Tục Phiên Ngật Tùy Phụ Lục".

Ngưỡng mong Đức Như Lai từ kim khẩu một lần nói ra mà nhiều loại khác nhau ai nấy đều được hiểu rõ. Ví như mặt trời, mặt trăng cùng rực rỡ trên khoảng trời xanh. Các ngài Ca-diếp A-nan đích thân nối nhau kết tập Phạm âm và phân bố khắp nơi (chép trên da và lá bối). Như đuốc sáng giữa đêm đen. Sau đời Hậu Hán đến nay thì quốc tục đã đổi khác, việc tuyên dịch phải lệ thuộc ngày văn ngôn, khác nào đèn đom đóm soi sáng nhà tối mong đá lữa kế tục mặt trời nhờ ảnh mà truyền ánh sáng, pháp lưu phải do tân dịch để thấm nhuần nối tiếp mãi không mất. Việc khảo luận chân ngụy gốc ngọn đâu có thể cùng một năm mà so sánh thấy rõ được ư?

- Tăng Nhất Số, bốn mươi quyển (tóm tắt hết thảy pháp số của các kinh luận, từ một đến mười, từ mười đến trăm cho đến ngàn vạn, giống như chỉ số cây rừng).

- Phật Tánh Luận, hai quyển.

- Chúng Kinh Lục, một quyển.

Cả ba bộ gồm bốn mươi ba quyển trên, do Samôn Thích Pháp Thượng ở Tiền định tại Tương châu soạn ra. Ngài là bậc Núi Giới cao tột, biển huệ thẳm sâu. Đức làm khuôn phép cho người, oai khiến cho mọi vật nghiêm túc. Cho nên đời Ngụy Tề, ngài đã từng làm thống đô lãnh đạo hơn hai trăm vạn Tăng Ni làm giềng mối gần bốn mươi năm. Đúng ngày thời Văn Tuyên rộng truyền kinh Phật, thì ngài Pháp Thượng đều đảm trách biên tập hài hòa mở rộng trong ngoài đạo tục đều đủ. Nếu không nhờ có ngài làm trụ đá thì ai chống đỡ được? Hạnh sáng phô bày ảnh hưởng xa khắp. Đến nổi,

Đại thừa tướng nước Cú Lệ (Cao Ly) là Vương Cao Đức hết sức tin tưởng sùng kính Đại thừa, muốn dùng Phật pháp để truyền bá khắp dân chúng. Nhưng không hiểu rõ về nguồn gốc trước sau của giáo pháp từ Tây Vức truyền sang Đông Độ ngày niên đại đời vua nào, nên từ nước ấy đem các sách ghi chép sự việc, sai Sư Nghĩa Uyên đi thuyền buồm sang tận đất Nghiệp để học hỏi với ngài Pháp Thượng về các điều chưa nghe thấy. Sự việc được tóm tắt rằng: Đức Phật Thích-ca từ khi nhập Niết-bàn đến nay đã bao nhiêu năm giáo pháp, lại ở Thiên Trúc trải mấy năm mới đến đất Hán này, khi mới đến thì ngày đời vua nào, niên hiệu gì. Còn đời Tề và đời Trần thì đời nào có Phật pháp trước. Từ đó đến nay đã trải mấy năm, mấy đời vua xin ghi chú đầy đủ. Về các luận Thập Địa, Trí Độ, Địa Trì, Kim Cang, Bát-nhã… thì do ai soạn ra, khi viết luận Duyên Khởi thì có điềm lành gì, có ghi chép chăng? Xin ghi chép cẩn thận, hỏi han đầy đủ, để giải nghi.

Ngài Pháp Thượng đáp rằng: Đức Phật sinh ra một ngày năm Giáp dần đời Cơ Chu Chiêu Vương thứ hai mươi bốn, mười chín tuổi xuất gia, ba mươi tuổi thành đạo. nhằm năm Quý Mùi đời Mục Vương thứ hai mươi bốn. Mục Vương nghe Tây Vức có Hóa nhân xuất hiện, liền sang Tây Vức cuối cùng không thấy trở về. Theo đây mà nghiệm thì Đức Phật truyền đạo suốt bốn mươi chín năm rồi diệt độ. Đến nay là năm Bính Thân, đời nhà Tề, niên hiệu Võ Bình thứ bảy đã được một ngàn bốn trăm sáu mươi lăm năm. Đến nhà Hậu Hán, đời Minh Đế, năm Vĩnh Bình thứ mười thì kinh pháp được du nhập lần đầu tiên. Đời Ngụy Tấn truyền mãi đến nay. Năm Xích Ô đời Tôn Quyền, ngài Khang Tăng Hội đến đất Ngô để hoằng hóa giáo pháp. Địa trì là do Tỳ-kheo A-tăng-khư được ngài Di-lặc Bồ-tát truyền cho. Bản kinh ấy đến đời Tấn ngày năm Long An đời An Đế, ngài Đàm-ma-sấm ở Cô Tạng dịch ra theo yêu cầu của Hà Tây Vương Thư Cừ Mông Tốn. Còn Ma-ha-diễn Luận (Trí Độ Luận) là của ngài Long Thọ Bồ-tát viết ra. Đời Tấn, năm Long An, ngài Cưu-ma-thập-bà dịch ra theo yêu cầu của Diêu Hưng. Về Thập Địa Luận và Kim Cang Bát-nhã Luận là do em ngài Tăngkhư là Bà-tẩu-bàn-đậu viết. Đến đời Tuyên Võ Đế nhà Hậu Ngụy thì ngài Tam tạng Pháp sư Bồ-đềlưu-chi mới phiên dịch. Ngài Pháp Thượng chỉ cho duyên do xác thực rất rộng. Nay chỉ tóm lược mà nêu ra các chỗ thiết yếu để chỉ rõ sự dị đồng. Ngài Pháp Thượng ăn mặc sơ sài chỉ một bình bát với ba áo ca-sa. Ngoài ra không tích chứa. Ngài cho rằng thọ những thứ cúng dường chỉ cảm về thế lợi mà thôi. Ngài có dựng một ngôi chùa trên núi gọi là Hợp Thủy, trên chót núi có xây Đâu-suất đường. Ngài thường nguyện vãng sinh được diện kiến Đức Di-lặc. Ngài luôn tứ sự cúng dường khoảng một trăm năm mươi vị Tăng. Khi Tề bị diệt thì pháp bị ngưng trệ nhưng chùa trên núi vẫn không bị phá bỏ. Ngài lánh mình ở giữa thế tục vẫn tiếp tục việc tu hành, thường mong rằng ngày lúc tuổi già sẽ thấy Tam bảo lại được phục hưng. Vẫn cứ một mực đảnh lễ Đấng Từ Thị Như Lai, hạnh nghiệp đã tinh chuyên thì lòng thành được cảm thấu, tâm ngài như nước lắng trong vào năm Khai Hoàng bậc chí tôn lên ngôi và Phật nhật lại sẽ chiếu sáng rực rỡ. Quả nhiên ngài được toại nguyện. Lúc ngài bệnh liền mặc áo ca-sa, bảo đệ tử đầy xe lên tận chùa trên đỉnh núi, ngài chắp tay lạy Phật Di-lặc ba lạy, đi nhiễu bên hữu ba vòng, rồi xuống núi trở về, an nhiên thị tịch. Năm đó ngài hơn chín mươi tuổi.

- An Dân Luận, mười hai quyển.

- Đào Thần Luận, mười quyển.

- Nhân Quả Luận, hai quyển.

- Thánh Tích Ký, hai quyển.

- Tháp Tự Ký, một quyển.

- Kinh Pháp Đông Lưu Ký, một quyển.

- Thập Đức Ký, một quyển.

- Tăng Ni Chế, một quyển.

Cả tám bộ gồm ba mươi quyển trên, do Sa-môn Thích Linh Dũ, ở Đại từ tại Tương châu soạn ra. Ngài Linh Dũ là đệ tử của Pháp sư Đạo Phùng. Ngài là bậc Đạo đức mô phạm, giữ giới rất nghiêm, huệ giải sáng sâu, kiến văn rộng lớn, giỏi cả nội ngoại điển, làm thầy hàng Đạo Tục, tánh thích hoằng hóa và trước thuật. Có thể gọi là bậc Sa-môn Trí Đức vẹn toàn Đọc các Luận như An Dân, Đào Thần, Nhân Quả của ngài thì thấy ý nói thông suốt về pháp bảo Vô Thượng, nhưng pháp vô cùng quí báu mà làm cho sáng rở thật khó bổn phận giữ gìn ở thời mạt pháp là hàng Thích Tử, còn việc kiến lập ở thời tượng pháp thì đã nhờ các bậc vua chúa. Do đó mà ruồi ở đuôi ngựa ký có thể vượt được ngàn dặm, dây leo trên cây tàng có thể vươn cao muôn tầm. Phải nhờ Thắng duyên mới thỏa được chí cả. Vả lại Kinh đô là Đại, Sư Tăng là chúng, chỗ Đại chúng tụ họp nên gọi là Kinh Sư. Huống chi nay thì chín châu đã đồng, sáu nước cùng thống nhất, Chúa trên cao rũ thương khắp muôn dân không cần động tay mà nhà nước yên trị, đó là cái yếu dụng cho thiên hạ. Lại cần cái tài cho thiên hạ, nên mời Phật dạy Tăng, tìm Nho dạy Tục, giao chánh sự cho các sĩ phu, tìm khéo léo ở hàng thợ giỏi, gái dệt trai cày, ai nấy đều chuyên lo phận sự, đó là sự nghiệp của muôn dân. Hữu Ty đã lo toan đầy đủ đâu đó đều sẵn sàng. Về việc trì giới, thiền tư, giảng nói Kinh luận, đọc tụng và ra làm pháp sự thì ngài là bậc mô phạm cho năm chúng vậy. Vì sách vở chưa ghi đủ nên phải sưu tìm rộng rãi. Năm Khai Hoàng thứ mười, vua ban lệnh cho các Sở Bộ tìm ngài Pháp Dũ ngày kinh bệ kiến. Vua ân cần thăm hỏi. Ngài bèn vịn vảy rồng mà rải khắp mây pháp để mọi người đều nhuần thấm, nương cánh Phượng mà dương cao gió huệ cho muôn dân đều được yên vui. Chưa được bao lâu thì ngài Pháp Dũ nhiều phen tạ từ xin rút lui. Ngài cho là vì chưa quen thủy thổ thường bị nhiều bệnh. Đến mùa xuân năm Khai Hoàng thứ mười một vua cho ngài trở về đất Nghiệp. Trường Phòng tôi xin thưa rằng: Nếu hay quên mình thì mới có thể cứu Đời, nay chỉ lo lấy thân tất quên lợi ích lớn, lục thân xóm làng còn chưa thể quên, thì nơi ba cõi theo lý ắt khó thoát.

- Đối Căn Khởi Hành Tạp Lục, ba mươi hai quyển.

- Tam Giai Vị Biệt Tập Lục, ba quyển.

Cả hai bộ gồm ba mươi lăm quyển trên do Samôn Thích Tín Hạnh ở Chân tịch soạn ra. Ngài Tín Hạnh người thuộc Ngụy Châu. Xuất gia từ thuở bé nhưng đã thông hiểu các kinh, kiến thức độc đáo, ý chí cao xa, có giải hạnh khác với các bậc Tiên Đức không chấp nhận cho Thanh văn gồm tu hạnh Bồ-tát. Ngài bèn xả hai trăm năm mươi giới, chỉ giữ bậc trên Sa-di và dưới Tỳ-kheo (Bồ-tát giới). Môn đồ của ngài đều thật hành Phương đẳng, cùng nhau khất thực tu hạnh tịnh Đầu-đà, ngày chỉ ăn một bữa, bên vệ đường. Bất luận nam hay nữ Ngài đều lễ bái, ý muốn tu theo hạnh của Bồ-tát thường Bất khinh trọng kinh Pháp Hoa. Vả lại một lý Niếtbàn muôn nẻo đến. Cũng như Đế Kinh là nơi tám hướng cùng theo về. Niết-bàn cũng vậy, là mười phương cùng hướng đến. Chỉ điều đường đi khó hay dễ, dài vòng hay thẳng mà thôi. mê thì hiểu rõ trở ngược thành mê lầm, còn nẻo đi của tâm tỉnh thì dù đường tối có thành có rõ. Do đó kinh nói: Chúng sinh chưa thành Phật thì Bồ-đề là phiền não, khi chúng sinh thành Phật thì phiền não là Bồ-đề. Con đường tín hạnh này cũng chỉ là một thuật của vạn nẻo. Chỉ vì người ưa thích cái đồng với mình mà ghét cái khác cho nên lúc đó lại chê bai. Các lục này đều dẫn Chánh văn của các kinh luận, nhưng đề bên ngoài thì không chắc là chuẩn đích. Dù nói rằng Đối Căn Khởi Hạnh rất sâu kín, nhưng cái tiêu bảng của chỉ thể đối với sự vật thì không sâu kín lắm! Xin các bậc Hiền minh Triết tương lai rõ cho, may mắn biết có căn cứ (năm Khai Hoàng thứ hai mươi vua sắc lệnh không cho lưu hành, chỉ dùng để tự răn mình).

- Chúng kinh Lục Mục, bảy quyển.

Một bộ bảy quyển trên, ngày năm Khai Hoàng thứ mười bốn do Sa-môn Thích Pháp Kinh cùng hai mươi vị Đại Đức châu chùa Đại hưng thiện tuân theo chiếu vua soạn ra. Sa-môn Thích Minh Mục ở Dương Hóa đã phân biệt rõ từng khu vực, từng dấu vế đầu mối. Sa-môn Ngạn Tông ở Nhật nghiêm, biên chép tỉ mỉ, khảo sát kỹ các chỗ dị đồng. Nên dâng biểu tâu tóm tắt rằng: Tính chung các kinh gồm có hai ngàn không trăm năm mươi bảy bộ với năm ngàn ba trăm mười hai quyển. Tất cả có bảy pho: Sáu pho là Biệt Lục, một pho là Tổng Lục. Nhưng ngài Pháp Kinh… chưa thấy được hết các kinh bản của ba nước để nghiệm xét các chỗ dị đồng. Vả nay chỉ căn cứ ngày các Lục của hơn mười nhà mà tóm tắt những điều nên chăng. Tổng nêu hay cương kỷ chỉ căn cứ ngày chín Lục. Từ chín phần đầu ở sáu Lục mà phân biệt phẩm loại có bốn mươi hai phần. Sáu Lục chiếm hết ba mươi sáu phần, trình bày tóm tắt chỗ khác nhau của ba Tạng Kinh Luật Đại và Tiểu thừa, nói rõ qua về sự sai biệt của phải trái, thiệt giả các bản dịch. Còn ba Lục sau thì gồm Tập, Truyện, Ký, Chú. Về ba phần đầu đều do các Thánh hiền ở Tây Vức soạn ra, vì không phải là Tam tạng Chánh Kinh nên gọi là Biệt Lục. Còn ba phần sau là do các bậc Danh Đức ở phương này (TQ) đã sửa chữa. Dầu không phải là loại được viết ra ở Tây Vức, nhưng không có thứ nào không phải là chánh Kinh Tỳ Tán, làm sáng tỏ giáo tông, làm rạng rỡ giềng mối để dắt dẫn mở mang người sau. Nên phải ghi đủ.

- Tân Hợp Kim Quang Minh Kinh, tám quyển.

Một bộ tám quyển trên, do Sa-môn Thích Bảo Quý ở Đại hưng thiện tập hợp lại năm Khai Hoàng thứ bảy. Ngài Bảo Quý tức là Đạo An Thần Túc ở đời Chu. Xem chơi các sách thấy thuở xưa đời Tấn có Sa-môn Chi Mẫn Độ đã hợp cả năm bản dịch kinh Thủ-lăng-nghiêm đã được một trăm lẻ năm nhà diễn giảng của hai ngài Họ Chi và hai ngài họ Trúc thành một bộ tám quyển. Lại hợp ba bản dịch kinh Duy-ma của một ngài họ Chi và hai ngài họ Trúc làm thành một bộ năm quyển. Đời nay có Samôn Tăng Tựu lại hợp bốn bản dịch kinh Đại Tập của hai ngài Vô Sấm, Chi-sấm và hai ngài La-thập, Da-xá thành một bộ sáu mươi quyển.

Về các kinh hợp lại này thì văn nghĩa rõ ràng đầy đủ. Đây là dấu vết của các bậc Tiền Triết để lại, nên ngài Bảo Quý nối theo lấy đó làm quy cũ. Nhưng Kim Quang Minh Kinh thấy có ba bản. Bản thứ nhất do ngài Đàm-vô-sấm dịch ra bốn quyển. Bản kế do ngài Quật-đa dịch ra năm quyển. Bản thứ ba là do ngài Chân Đế dịch ra bảy quyển. Trong bài tựa nói tóm rắt rằng: Pháp sư Đàm-vô-sấm gọi là Kim Quang Minh Kinh, các Thiên và Phẩm đều thiếu sót. Mỗi khi tìm văn dò nghĩa thấy nói thuyết này có bằng cớ, nhưng khi ta xét lại thì không thấy ở đâu nên mãi mờ mịt. Vua Lương Võ Đế vì thương ba nẻo luân hồi, xót bốn loài trôi giạt nên chèo chiếc thuyền báu để cứu kẻ chết đuối, cầm cây đuốc huệ mà chiếu sáng người mê. Do đó ngày năm Đại Đồng vua sắc chỉ sai Trực Hậu, Trương Ký… đưa Phù Nam Hiến Sứ trở về nước, cùng thỉnh Danh Tăng và các Luận Đại Thừa, Kinh Tạp

Hoa...

Nước ấy ưng thuận để ngài Tam tạng Pháp sư Ba-la-mạt-đà (Lương dịch là Chân Đế) người nước Ưu-thiền-ni thuộc Tây Thiên Trúc, cùng đem kinh luận kính dâng lên vua. Ngài Chân Đế Pháp sư đã đi khắp nước nên đến ở Phù Nam. Phong thái sáng suốt, thần trí tự tại. Các tạng bộ sâu kín ngài đều nghiên cứu kỷ. Năm Thái Thanh một lần đầu mới đến kinh ấp ngài được hướng dẫn ngày nội điện bệ kiến, Võ Đế rạp mình đảnh lễ, thỉnh điên ở Bảo Vân Vua muốn dịch kinh luận vì bọn giặc Yết cậy thế núi sông hiểm trở. Nay sư chướng ngại của Đại pháp và quốc nạn lặng yên. Sa-môn Tăng Ẩn lần đầu tiên được thưa hỏi. Pháp sư dịch kinh, kinh mục quả thật có thiếu sót. Tam Thân Phân Biệt, Nghiệp Chướng Diệt Đà-la-ni, Tối Tịnh Địa, Y Không Mãn Nguyện… bốn phẩm hoàn toàn riêng khác thành bảy quyển. Nay trong số hai trăm sáu mươi bộ kinh mới đem về thì lại có hai phẩm Ngân Chủ Đà-la-ni và Chúc Lụy. Bèn mời Tam tạng Quật-đa dịch ra. Sa-môn Ngạn Tông xem đi xét lại kỹ càng. Cho nên nay ngài Bảo Quý chia làm tám quyển. Các phẩm bộ rốt ráo đầy đủ bắt đầu từ đấy. Về văn thì được gọi là kinh chúa, về nghĩa thì được khen là rất sâu mầu. Lời nguyện sâu sắc rõ ràng, kính vâng hộ trì.

-Thập Chủng Đại Thừa Luận, một quyển.

Một bộ một quyển trên, do Sa-môn Thích Tăng Xán soạn ra tại chùa Đại hưng thiện. Ngài Tăng Xán họ Tôn, người ở Trần Lưu, thuở nhỏ xuất gia, rất chuộng du học. Giang Hà từ Nam lên Bắc khắp nơi không nơi nào không tới, Quang Lũng từ Tây sang Đông khắp chốn đều có dấu chân. Đi khắp ba nước Tề, Trần, Chu, nơi nào có pháp tòa thì ngài đều có mặt, ra công học hỏi, khéo léo rộng tầm. Nay là khuôn mẫu đệ nhất về Đại thừa cho hai mươi lăm chúng, cho nên soạn ra luận này để khen ngợi ánh sáng Đại Thừa. Thập Chủng thì gồm có:

1. Không chướng ngại.

2. Bình đẳng.

3. Nghịch.

4. Thuận.

5. Tiếp.

6. Tỏa.

7. Mê.

8. Mộng.

9. Tương tức.

10. Trung đạo.

Tất cả đều dẫn kinh luận làm văn, chứng cứ rất mẫu mực. Là phương tiện khéo léo giúp kẻ mới học đạo vậy.

- Luận Trường một bộ, ba mươi mốt quyển. Một bộ gồm ba mươi mốt quyển trên, do Sa-môn ở thành đô Thích Tăng Côn ở Đại hưng thiện sưu tập. Tăng Côn là đệ tử của ngài Thích Vong Danh họ Chu. Ngài họ Trịnh. Ngài tánh thâm trầm xét đoán, giỏi về âm thanh. Nay là Pháp chủ dạy và đọc kinh cho hai mươi lăm chúng, ngài sưu tập các kinh, so sánh các quyển bộ, chuẩn đinh các tạp luận có các thiên và quyển so le không đồng nhau. Ngài dẫn kinh nói rằng: Muốn biết rõ ý rộng của Bậc Trí thì nên xem thật nhiều các luận khác nhau. Do đó, phải sưu tầm góp nhặt các luận do những Thánh hiền từ xưa đến nay viết soạn họp lại thành một bộ gọi là "Luận Trường". Cũng như ở cõi đời này, trên các Viên trường thì phải có đủ năm thứ trái, trăm thứ lúa thóc, trên Hý trường thì có đủ các thứ ca múa âm thanh, trên các Chiến trường thì có đủ các thứ mâu giáp binh khí, trên Đạo trường thì có đủ các thứ Phướn hoa bảo cái, mọi vật trang trí đẹp đẽ. Nay trong luận trường này thì cũng giống như các trường kia không thứ gì không có, một lần xem qua đủ cả trăm nhà, lợi mình, lợi người, vật và ta đều lợi ích.

- Đạt-ma Cấp-đa Truyện, bốn quyển.

- Thông Cực Luận, một quyển.-Biện Giáo Luận, một quyển.

- Thông Học Luận, một quyển.

- Thiện Tài Đồng Tử Chư Tri Thức Lục, một quyển.

- Tân Dịch Kinh Tự Hợp Nhất, một quyển.

Cả sáu bộ gồm chín quyển trên do Sa-môn Thích Tông Ngạn soạn ra ở Nhật Nghiêm. Ngài họ Lý, là người ở Bách Nhân, Triệu quận, đời cho là dòng họ phú quí được khen là thế gia quí tộc Trẻ tuổi mà thông minh tài giỏi. Kiến thức sâu kín tình sáng như gương nước, gặp việc hiểu ngay không cần xem lại. Bộ Luận ấy cả ý lời đều sâu đẹp. Về thông suốt, thì luận phá bỏ các nhà Nho, không tin nhân quả mà câu nệ ngày các giáo tích, hiếu sinh dị đoan. Gốc của luận này nêu chỗ cao tột của Phật lý. Về Biện giáo, thì Luận này làm sáng tỏ sách Phật, nói rõ về Chân Khổng Giáo thì dạy đời. Và Luận và Lão Tử giáo không khác tục Nho. Tất cả Kinh Linh quý thì không thuộc về Nho giáo. Về Thông Học thì Luận này khuyên người cùng thờ kính Phật-Khổng làm thầy, khiến trong ngoài đều rõ, Tục chân đều biết. Về Thiện tri thức thì luận này chính là đại nhân duyên, vượt Thánh siêu phàm. Nếu không nhờ tri thức thì không do đâu mà đạt đến được. Luận này khuyên mọi người nên rộng kết bạn lành như ngài Thiện Tài Đồng tử vậy.-Thuật Thích Đạo An Trí Độ Luận Giải, hai mươi bốn quyển (Ngài Đạo An tự viết tựa).

- Thương Học Luận, một quyển.

- Tồn Phế Luận, một quyển.

- Yểm Tu Luận, một quyển.

Cả bốn bộ gồm hai mươi bảy quyển trên, do Samôn Thích Huệ Ảnh ở Xá-vệ soạn ra. Ngài họ Giang, người ở Ba Tây, hiểu ý chỉ của ngài Trí Độ Luận sư Thích Đạo An ở đời Chu. Là người truyền Đăng nối pháp. Chỉ thuật lại mà không nói, rộng giảng Đại Thừa, cũng là bậc chủ của hai mươi lăm chúng. Ẩn mình nơi chốn thiền môn rộng truyền chí huệ Lưu, hiếm khi bước chân ngày cõi tục, cho tình vượt thoát muôn loài. Luận bàn lời lẽ sắc bén, lý thú cao sâu. Xem ra luận việc hưng phế ý đã rõ ràng. Về "Thượng Học Luận", vì muốn trừ tội Báng Pháp nên viết "Luận Tồn Phế", để đề phòng việc gian tà nên nói "Luận Yểm Tu", khiến người sửa lỗi và trở về với đạo vậy.

- Chiêm-sát Kinh, hai quyển.

Một bộ hai quyển trên thì kiểm tra các lục không thấy ghi, mà ở đầu kinh ghi rằng: Ngài Bồđề Đăng ở ngoại quốc dịch. Hình như do đời gần đây dịch ra rồi ghi chú càng. Nay trong các Tạng đều viết lại để lưu truyền. Nhưng ở Quảng châu có một vị Tăng pháp sám pháp, dùng da để làm hai cái thiếp bói, một cái viết chữ "Thiện", một cái viết chữ "Ác", rồi bảo với người gieo xuống. Nếu được cái chữ Thiện là tốt, nếu được cái chữ Ác là xấu. Lại làm theo "Phép Tự Đánh" để diệt tội, nhưng nam nữ đều lẫn lộn. Ở Thanh châu cũng có một cư sĩ cùng làm pháp này. Năm Khai Hoàng thứ mười ba có người bảo Quan Ty ở Quảng châu rằng: "đó là việc yêu quái". Quan Ty theo hỏi, người ấy dẫn chứng rằng: Tháp Sám Pháp là dựa theo Chiêm-sát Kinh, còn phép tự đánh là dựa theo phép "Ngũ thể đầu địa như Thái Sơn băng" trong các kinh. Quan Tư Mã Quách Nghị ở Quảng châu về kinh đô đến Kỳ Châu tâu lên vua tất cả mọi việc nghe thấy. Vua ra lệnh "không nên tin đạo lý của Chiêm-sát Kinh". Lại sai Nội sử thị lang Lý Nguyên Tháo cùng Quách Nghị đến chùa Bảo xướng hỏi các Đại Đức Pháp Kinh… được đáp rằng: Chiêm-sát Kinh không có tên trong Mục Lục và nơi dịch còn tháp sám pháp so với các kinh lại rất trái khác không thể làm theo. Vua bèn sắc lệnh: "Các sách như loại ấy không được lưu hành". Về sau có vị Bà-la-môn đến bảo rằng: Ở Thiên Trúc thấy có kinh ấy, dịch ra tên là Lục Căn Tụ.

- Tinh Dị Truyện, mười quyển. Một bộ mười quyển trên, do Tú tài nho lâm lang hầu Quân Tố ở Tương châu vâng chiếu vua soạn ra.

- Thông Mạng Luận, hai quyển.

Một bộ hai quyển trên, do Tế Tửu Từ Đồng Khanh o83 tấn vương phủ soạn ra. Đồng Khanh cho rằng Nho Giáo cũng có cái nghĩa về nhân quả ba đời, nhưng vì văn quá sâu kín lý quá sâu xa, nên các bậc Thánh hiền thời trước không thể nêu rõ lập trường. Nay Đồng Khanh dẫn đủ Chánh văn các kinh sử, hiểu rõ vận mạng quy về nhân quả. Ý của ông là muốn làm sáng tỏ Chỉ Tông của Nho giáo để giúp giảng bày Phật pháp, hầu hướng dẫn mọi hạng người cùng đi một đường. Đây là chỉ có bậc hiểu rộng mới thông suốt sự sâu kín này.

- Ngoại Nội Bàng Thông Tỷ Giảo Số Pháp, một quyển.

Một bộ một quyển trên do học sĩ Phiên kinh kinh dương Lưu Phùng soạn ra. Ông rất giỏi về Số thuật cả Nội Ngoại học. Vì mỗi khi dùng thuật pháp về toán số tỷ giảo các Kinh dịch ở đời trước thường thấy không giống nhau, nên soạn ra quyển này để diễn giảng. Trong bài Tựa nói tóm tắt rằng: Đạo Nghệ ở đời có cao, có sâu, việc học tập và bẩm chất của người có thưa có nhặt, nên muốn dụng toán thuật, thì phải gồm cả pháp Đại Diễn nếu không nghĩ đến thì lầm đến ba góc kia.

Song ở Hoa Hạ (Trung Quốc) thì số pháp có ba bậc khác nhau, còn các sự trình bày ở Thiên Trúc đâu không khác với kiểu này? Nhưng các Kinh dịch trước đều lấy đại thiên gọi là trăm ức, nói một do-tuần bằng bốn mươi dặm, nếu căn cứ ngày các tính toán đó thì đều không hợp nhau. Thiết nghĩ rằng vì khi phiên dịch thì tiếng nước này với nước kia có khác, mức độ đo lường do đó chẳng giống nhau. Cho nên ghi rõ phép toán số của các kinh rồi đem so sánh nhau với các số ở Hoa Hạ thì các số mười nhân mười (10 x10) biến đổi với nhau rất chính xác. Ngõ hầu lần sau khi phiên dịch sẽ lấy đó mà biện biệt được lầm lẫn. Đã xem kỷ các lời trong kinh ấy nên ghi chú ngày đây.

- Chúng Kinh Pháp Thí, mười quyển.

Một bộ mười quyển trên, ngày năm Khai Hoàng thứ mười lăm, vua sắc lệnh cho Hữu Ty soạn ra. Vả chăng ân đức của vua thấm nhuần khắp chốn dắt dẫn muôn loài, không phân biệt Phật hay Nho. Và Hán hay Phạm chung một lời văn, người Hoa kẻ rợ hiểu rõ phong tục có khác. Tuy rằng y phục Sa-môn không phải là y phục Hoa Hạ, người là người Hoa, nhưng Phật Tổ Từ bi quán chiếu trước về thời đại xa xơi dạy Giảng pháp răn cấm để giúp nước dạy dân. Dân không thể tự trị yên nên trời trao quyền cho vua sáng. Vua lo nghĩ việc chánh hóa để cứu giúp mọi người. Dầu cách Phật đã lâu, vẫn khắc sâu lời ủy thác. Do đó mà phẩm Hộ Pháp trong phần Nhật Tạng của Đại Tập Kinh, Phật bảo vua Tần-bà-ta-la rằng: Này Đại Vương, vua chúa quý vị ở trong đời hiện tại cho đến đời vị lai, ngay cả trong đời Pháp Trụ này, trong khoảng thời gian này tất cả Phật pháp đều giao phó cho quý vị, tất cả vua chúa đều nên ủng hộ thật tốt. Nếu ai ủng hộ thì tức là vị thí chủ lớn của tất cả chư Phật ba đời, vì có thể giữ gìn được chánh pháp của chư Phật ba đời. Người này khi mạng chung sẽ sinh về cõi nước Vì nếu được ủng hộ thì có thể khiến Tam bảo tồn tại lâu không mất, nếu không ủng hộ thì Pháp ta liền diệt. Nếu pháp Phật ở đời thì hay khiến trời người đông đảo thêm ra, còn các ác đạo sẽ giảm bớt". Do đó thế giới thành hoại cần yếu là do chư Phật, còn Thánh giáo mà thịnh suy ắt là bởi các Đế vương. Nên Thích Luận có nói: "Quả báo của chúng sinh là do Bồ-tát mà có". Kinh Thánh Vương bảo rằng: "Nếu Phật Như Lai không xuất hiện ra đời thì tất cả chúng sinh phải chịu khổ lớn, vì chỉ ở ác thú mà không thể trở lại được thiện đạo". Nhưng khi nghe được tiếng "ba đường dữ rất khổ", tất biết là thế gian đã gặp được vua tốt, luôn nghe câu Phật pháp là khó nghĩ bàn". Lại trong kinh Đức Hộ Trưởng Giả Kinh, Đức Như Lai có thọ ký rằng: "Đồng Nguyệt Quang Tử ở đời vị lai trong thời mạt pháp, châu nước Chi-na trong cõi Diêm-phù-đề, làm Đại Quốc Vương tên là Đại Hạnh. Vua ấy sẽ khiến tất cả chúng sinh sống trong nước Chi-na ở trong Phật Pháp gieo trồng các thiện căn". Chấn Đán, Chi-na chỉ là tiếng Phạm gọi Sở Hạ đây mà thôi.

Đây gọi là "Mạt", tức là chánh pháp đã diệt cách Phật xa dần, gọi chung là mạt pháp. Tính ra khi Phật diệt độ đến nay mới được một ngàn một trăm chín mươi lăm năm. Căn cứ theo kinh Phật Bản Hạnh thì thời chánh pháp có năm trăm năm, thời tượng pháp là một ngàn năm, vậy nay đang là thời tượng mạt. Còn căn cứ theo luật Thiện Kiến thì chánh pháp, tượng pháp đều trụ ở đời là một ngàn năm, vậy nay là đầu thời tượng pháp. Đã nêu đủ các kinh luật, nhanh chậm theo duyên mới có thể tiếp nối thời kỳ đầu (chánh tượng pháp) đâu lẽ chỉ căn cứ ngày thời cuối (mạt pháp)? Bởi xưa, lúc ngụy Thái Võ dẹp bỏ pháp, chỉ kịp ngăn mấy Châu

Kinh Tương khỏi bị tiêu mất. Gần đây, gặp thời Kiến Đức, Chu Võ Vương hủy diệt, đã phá tượng, đốt kinh, đuổi Tăng, hủy Tháp và diệt sạch hết các Thánh tích. Tất cả bảo sát, Già-lam đều thành nhà riêng. Sa-môn dòng thích đều mặc áo thế tục, trải suốt mười năm không biết Tam bảo là gì. Vậy đương lúc bị hủy diệt này tức là mạt pháp. Do đó mà người, quỷ sầu thương, trời thần buồn thảm, vì khi huệ nhật đã tắt thì muôn loài đều sống giữa ngày đen. Nay trời phó cho vua ta trị vì được ức triệu người quy phục, đức hóa khắp vạn bang. Chánh trị phù hợp, luật lệ thích nghi, hình phạt giảm bớt, sưu thuế nhẹ giảm lính bớt phục dịch, hai mươi nhà đề cử một đinh, hai giường chỉ thu một xấp, tất cả già trẻ đều vui hưởng thái bình. Khi trời đất đã trong sáng rộng lớn thì Tam bảo liền được phục hưng. Tháng hai năm Khai Hoàng thứ nhất, kinh đô và thành ấp xóm làng ở các châu đều dựng ngày, đến tháng ba nhuần vua liền hạ chiếu rằng: "Các khanh, pháp không có trong ngoài, muôn thiện cùng về một chỗ, giáo có cạn sâu, chỉ là khác đường mà cùng đến. Nay trẫm, nép mình kính đạo, ý thích thanh tịnh, dưới năm ngọn núi cao danh tiếng đều xây mỗi nơi một chùa Phật". Đến tháng bảy lại ban chiếu rằng: "Này các khanh, cây bị gió không yên, ảnh qua lỗ như nước chảy. Phật không cần lòng báo đáp, đệ tử vẫn mến mộ trọn đời. Kính noi gương Thái tổ Võ Nguyên Hoàng Đế, Thần Thánh tột cùng, nên trời cao linh cảm, giao cho trẫm làm chủ thiên hạ để mở giền mối thạnh Đức. Họ Ngụy sắp bỏ việc Kinh Luân, nhà Chu bỗng đồng lòng giúp sức. giữa hai nhà trên, trẫm tạo cơ đồ đế vương, chứa nhóm Công Đức dành Phước cho con cháu. Khiến trẫm dù kém cỏi, làm vua chỉ một khu nhỏ hẹp, nhưng luôn kính mộ đạo sáng, ngầm thờ Chân Tịch, giáng sinh xuống đất quyền biến bất thường, dùng binh Luân Vương triển khai Nhân Ái bách chiến bách thắng trong việc tu Thập Thiện. Cho nên dùng đồ đánh trận bằng các loại hương hoa ở đồng cỏ thênh thang từ lâu đã thành cõi Tịnh độ. Lòng luôn nghĩ đến chùa tháp xa xưa hay mới cất để tăng trưởng phước nhân, xứng hợp phần nào với ý chỉ sâu kín. Xưa Nhà Hạ nhân trị thủy mà khắc bài minh trên núi, nhà Châu tuần du nhân đó đục đá làm bia. Các ghi chép việc Đế Vương đến nay vẫn còn vậy. Thế nên ở Tương

Dương, Tùy Quận, Giang Lăng, Tấn Dương mỗi nơi đều dựng một ngôi chùa, lập bia ghi công đức. Ngõ hầu khiến trang nghiêm chùa viên sánh như hư không chẳng hoại. Nếu bày quả tốt, ngang bằng trời đất nên lâu dài. Do đó mỗi năm đến ngày Quốc kỵ thì bỏ sự việc mà thiết trai tạo tượng, hành đạo, giữ bát quan trai, sám hối, phụng cúng Thần linh.

Đến tháng tám vua lại ra chiếu rằng: Này các khanh, năm xưa đạo của nhà Chu đã suy nên bọn hung đồ đua nhau nổi dậy, đất Nghiệp Thành là đầu mối của tai họa hoặc bức hiếp kẻ lương thiện, hoặc bọn ác giúp nhau. Lời khuyến thiện rung động lòng người này càng thấm sâu. Hằng nhớ quần sinh lâm cảnh khổ binh đao. Lòng nghĩ đến đạo cả mà dấy nghiệp độ thoát. Vật và ta thấy đồng nhau, Trí với Ngu đều thương xót. Ta nghĩ tu tạo phước điền thì Thần linh ra công phù trợ. Ngõ hầu mong quan đao phủ tăng trưởng Bồ-đề, và bọn côn đồ từ bóng tối trở về với ánh sáng, cùng nghiên cứu Khổ Không mà dứt trừ sinh tử. xem loài Kình ngư hóa thành đài vi diệu, loài rồng rắn hoang dã luôn là gương sáng pha lê, vô biên loài hữu tình đều "vào hết pháp môn". Do đó ở chiến địa Tương Châu có thể lập một cảnh Già-lam, dựng bia ghi sự việc. Lại dân phạm pháp hoặc kẻ bị tử hình thì bắt lập thành các trại ăn chay".

Phòng tôi xin thưa rằng: Hễ có quốc gia thì có chinh phạt, cái họa này có từ thượng cổ, nhưng chưa hề nghe thấy ở chiến trường mà xây dựng chùa chiền, đối với quan đao phủ lại bảo tạo phước nghiệp. Khi phải hành quyết một tội nhân thì đợi mười lần tấu biểu mới cho thi hành. Đó nếu không phải là bậc Đại Sĩ (Bồ-tát) ứng sinh, mượn Kim Luân để giáng xuống cứu độ loài Hàm thức đang trên bờ chết chóc, khiến mọi người được yên giữa chốn lắm nhiễu nhương này thì còn ai đó nữa? Sở dĩ ban bố khắp thiên hạ nối nhau làm thiện vì còn e phong hóa suy đồi khiến lê dân phạm tội bị trừng trị mà không chịu sửa đổi.

Năm Khai Hoàng thứ ba, vua giáng chỉ rằng: Hiếu sinh ghét giết hại là gốc chính sự của vua. Lời Phật dạy làm Thiện nghiệp hãy lấy làm bằng. Bẩm khí của loài Hàm Linh đều xem mạng sống làm trọng, nên phải khuyến khích mọi người đồng tâm cứu hộ. Tại Kinh Thành và ở các Châu, nơi nào có chùa do quan xây dựng thì mỗi năm ngày các tháng một, năm, chín, luôn luôn bắt đầu từ ngày mùng tám đến ngày rằm, phải châu chùa mà hành đạo. Ngày hành đạo thì tất cả dân chúng xa gần, phàm loại có mạng sống đều không được giết hại.

Đến năm Khai Hoàng thứ tư, vua lại ra sắc chỉ: Thời Chu Võ đã hủy diệt Phật pháp. Tất cả các hình tượng đều bị phá bỏ, hiệu lệnh ra một thì hủy diệt gấp nhiều lần. Về các vật bằng vàng đồng, dầu hiện là của quan, nếu thấy còn thì phải đem để ngày chùa ở nơi gần đó, không được vận chuyển gây hư hại. Lúc đó các tượng bằng gỗ đá bị đem dùng riêng, nếu Hữu Ty lưu ỷ biết được thì lấy về bảo quản yên ổn, ở công, nếu nhà riêng thì bảo đón rước cúng dường. Sở dĩ phải để tâm chú ý như thế là vì kính trọng phước đức, những lời ban bố ra đều khéo khuyến dụ.

Đến năm Khai Hoàng thứ mười một, vua lại ban chiếu rằng: Này các Khanh, Như Lai lập giáo, nghĩa luôn Bình đẳng, Bồ-tát dụng tâm vốn không sai khác cho nên hay dùng nhiều loại bến, cầu mà cứu độ quần sinh. Nay Trẫm ở ngôi vua, nối tiếp làm hưng thịnh Tam bảo, lời luôn chí lý, rộng mở Đại thừa, các Pháp thông suốt, thể không có ta và người huống là Phước nghiệp lại có công tư? Từ nay về sau phàm khi gây tạo các Công Đức thì mọi vật trong nước đều hợp chung lại mà làm, tùy theo ý nguyện chớ nên phân biệt. Vì tất cả pháp môn đồng về chỗ "Không hai", mười phương thế giới cùng đến Bồ-đề, mà ngày lại tháng qua việc tạo mới sẽ dần dần càng rộng lớn. Nhưng chỉ nhớ những việc trước đã qua, và sửa những lời xưa chưa trọn vẹn. Nay xin thay các loài hàm thức để Sám hối. Hôm nay ngày tám tháng hai năm Khai Hoàng thứ mười ba, con đệ tử Phật tên họ... là Hoàng đế nhà Tùy. Kính bạch:

-Thập Phương Tận Hư Không Biến Pháp Giới Nhất Thiết Chư Phật, Nhất Thiết Chư Pháp, Nhất Thiết Chư Đại Hiền Thánh Tăng. Ngưỡng mong

Như Lai Từ bi thương xót hoằng đạo dạy bảo cứu giúp tất cả hàm linh thoát khỏi trần cảnh, dứt hết nguồn tà ác, mở đường thiện nhân, từ Triều đình ra đến thôn dã tất cả đều được nương nhờ. Riêng về đời Chu gây loạn, luôn hối tiếc việc khi dễ Thánh tích, phá tan chùa tháp, đập bỏ kinh tượng bất kể người Hoa kẻ Di tất cả đều quét sạch. Đến nỗi người Ngu không ai dắt dẫn khỏi tối tăm, Bậc Trí không do đâu tìm ra Linh Tánh. Đệ tử trước đã nhờ nhân duyên Tam bảo, nay tuân theo vận nước sáng ngàn năm, mà làm cha mẹ muôn dân, rũ ân khắp lê thứ, làm sáng rỡ lại tôn dung sùng kính Thần hóa. Những chùa tháp bị phá bỏ được trùng tu, tượng hư kinh rách được tô soạn lại. Tuy thành tâm khẩn thiết vẫn e chưa trọn. Cho nên lại càng cần cầu khiến được sáng tỏ. Nhưng nhiều năm trầm trệ, còn lắm hư hao... Các việc như thế chính do đệ tử. Nay xin đối trước Tam bảo chí tâm phát lồ sám hối. Việc nhà Chu hủy diệt Phật pháp, từ trên xuống dưới, hoặc lấy phép công mà cấm đoán hoặc vì ý riêng mà khiến hủy tượng đốt kinh, khinh Tăng phá chùa, những người như thế tội rất nặng sâu, nay đối trước Tam bảo con vì tất cả mà phát lồ sám hối và nguyện kính làm tất cả. Để tu bổ các kinh Tượng bị phá bỏ, con quyên kính mười hai vạn xấp lụa, hoàng hậu cũng kính quyên mười hai vạn xấp, hàng Vương Công trở xuống cho đến khắp lê dân, lại có người kính thí một trăm vạn tiền. Cúi mong tất cả chư Phật, tất cả chư Pháp, tất cả chư đại Hiền Thánh, Tăng hoan hỷ chứng minh, nhận sự sám hối của Đệ tử... "

Lúc bấy giờ từ Chủ Tướng ở triều đình, các quan liêu Tỉnh phủ, Tăng Ni các chùa, Tá Sứ Huyện Châu, cùng các bậc Túc Lão ở kinh thành đều đốc thúc khuyên nhau. Ngày hôm sau thiết lễ Trai kính mừng kinh tượng. Mỗi ngày có mười vạn người từ các chùa chiền, nhà riêng hoặc do vua quan sai bảo, đều dùng nước thơm tắm rửa tất cả hình tượng...

Đến năm Khai Hoàng thứ mười lăm, vì các Tăng Ni có lúc bị lỗi lầm, không gìn giữ nội luật Phật dạy mà sống giống người thế tục. Vua bèn sắc lệnh cho Quan Hữu Ty căn cứ ngày Chánh văn các kinh Đại tiểu thừa những chỗ có lời cấm đoán Samôn... đều khiến lục soạn ra hết, mỗi việc đều riêng biệt, kể cả tên và đề mục của kinh bản, làm thành mười quyển này để giúp hướng dẫn kẻ xuất gia. Đây thật là hạnh lớn của bậc quốc vương Bồtát, quyết ý ân cần nhận lời di chúc của Phật mà thương xót muôn dân, sợ họ bị đắm chìm trong ba đường dữ, lòng từ phủ khắp giáo hóa muôn loài không sót. Ngày tháng năm năm này có một bầy nai đến trước cửa Cung Nhân Thọ. Tuân theo chiếu chỉ sáng suốt của vua, đã dắt đuổi chúng về chốn sơn tẩu, bách quan đều dâng biểu chúc mừng.

Đến tháng sáu vua ban chiếu rằng: Đang lúc Trẫm lâm triều nghe chính sự thì có bầy tuần lộc đến dạo chơi, đi quanh quẩn nhiều lần trước cửa Cung, ép chúng đến sát bên người, chúng vẫn an nhiên không sợ. Chỉ vì bao nhiêu năm tháng loạn ly, mà giáo pháp Thánh nhân bỏ hết không tuân hành, quen sống theo thói tục chuyên việc giết hại. Từ khi Trẫm nhận lệnh trời vỗ về trăm họ, luôn tuân hành Thánh giáo, thích việc hiếu sinh, bởi do các Vương công đều hết lòng giúp Trẫm cùng tuyên bày Thánh pháp. Do đó mà các loài hươu nai sơn dã cùng rủ nhau về. Từ quan quân cho đến mọi người, Trẫm hết lòng thành dạy bảo, dân tục từ nay thuần nhã, người khắp mọi nhà đều là quân tử. Nên luôn giữ tâm ngày việc nhân thiện, nên mới có điềm lành này... "

Phòng tôi xin thưa rằng: Phàm cửa cung nghiêm cấm, hộ vệ canh giữ cẩn mật, người đi đường ở xa nhìn ngày vẫn còn run sợ. Vậy mà loài hươu nai sơn dã dám đến gần không sợ sệt, thật quý đẹp tha! Ấy đâu phải sự giáo hóa chỉ có thấm nhuần đến đầm cỏ và loài côn trùng mà thôi ư?. Phàm loài hươu nai khi thấy bóng cây lay động còn vểnh tai nghe ngóng sợ sệt, huống là thấy cả gậy gộc gươm giáo và người mà không sợ? Cho nên điềm Thánh giáo sắp toả sáng, trước đã khiến loài dã thú tâm được an ổn vậy thôi. Trong Đại Trí Luận có nói: "Người không có tâm giết hại chúng sinh đều đến nương tựa". Kinh Niết-bàn nói: bấy giờ có một thợ săn đuổi bắt một chim bồ câu. Chim câu này sợ quá bay đến núp dưới bóng ngài Xá-lợiphất, nhưng vẫn còn run bây bẩy. Đến khi núp dưới bóng Đức Như Lai thì thân tâm an ổn, hết sợ sệt run rẩy. Đây thì cửa cung nhân thọ ví đồng với bóng Đức Phật.

Trong kinh Đại Phẩm nói: Đức Phật nói Bátnhã thì người mù thấy được, người điếc nghe được, người câm nói được. Đây thì khắp núi Thái sơn ví đồng Bát-nhã. Thắng Thiên Vương Kinh nói rằng: Khi có Chuyển luân Thánh vương ra đời thì thường thấy được bảy báu. Núi Lam điền ngày xưa thường khen là nơi sản sinh ra một Ngọc, nhưng đời gần đây thì dứt mất, không thấy nghe sách sử nào ghi chép. Nhưng từ năm Khai Hoàng đến nay thì ngọc tìm thấy được rất nhiều. Loại chùa Thái phủ là Vực báu trong nước, hơn hai mươi hòn đá neo thuyền đều biến thành ngọc. Núi Nhân thọ là thần linh của nước, đá trong núi ấy lại biến thành ngọc vì đất không ưa của báu. Đây thời đồng với Tướng của Luân vương. Nhưng Yến Tử có nói: Cây quít mà sinh ra một ở Giang Bắc thì hóa thành cây chỉ Nay, phát động Trường an, đốc thúc trồng cây quít, bởi do nơi này không có hoa cỏ, cây thuốc Những việc xưa người khó gọi khó ghi thì nay đều tự hình thành. Các điềm linh hiển tốt đẹp này đều có chương biểu tâu dâng đầy đủ cả. Các sự việc nêu trên đều ghi chép đủ trong Tả hữu sử. Nay xin tóm tắt trình bày rõ ràng để làm sáng tỏ việc phước đức ứng hiện, ngõ hầu những người con Phật phụng thờ giáo pháp, cảm đội ân quân vương Từ bi nuôi dạy.

QUYỂN 13

MỤC LỤC CÁC KINH ĐẠI THỪA NHẬP TẠNG

Đại thừa lục chính là Bồ-tát Tạng, đứng về mặt giáo lý mà nói về Đức Phật thì, ngài thành đạo đến nay đã vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp, bất sinh bất diệt thường trụ ngưng nhiên, lượng sánh bằng hư không, hình đồng với thật tế. Pháp tóm tắt mà nói thì chính là mười hai bộ loại kinh Phương đẳng, tám vạn bốn ngàn áo điển vi diệu, các thứ pháp môn rất bí mật sâu kín. Đứng về mặt địa vị mà luận con người thì mười Địa và ba mươi tâm, có mặt khắp bốn loài và sáu nẻo, như vượn khỉ ngựa nai đến các loài bò, bay máy động loài không thức không hình, không thú cõi nào mà không tho thân. Về mặt phiền não thì năm trụ Địa. Hoặc và tám vạn bốn ngàn các trần lao. Về pháp tu hành thì bốn Nhiếp, sáu Độ, ba mươi bảy phẩm trợ Bồ-đề, muôn đức đều tu, hai Đế cùng rèn luyện. Lợi tha quên mình lòng không hối tiếc. Các thứ Tam quy, Thập thiện, tám vạn Luật Nghi đều phải phụng trì. Cho đến việc thành Phật độ đời khác nào voi lội qua nước xa giá trên đường, bò to thấm ướt. như rễ lớn nhờ sương, lá to ngơi nghỉ, thì sẽ dừng lại ở đại Niết-bàn thành… Các loại văn như thế đều là Đại thừa.

Bắt đầu từ thời Hậu Hán đến đời Đại Tùy chúng ta trong khoảng ấy mười sáu đời dịch kinh. Kinh được dịch ra gồm cả Đại Tiểu thừa. Hoặc chỗ và kinh đồng nhưng do người dịch khác. Hoặc kinh ở đời khác mà do người dịch đồng, hoặc dịch lần đầu hoặc dịch lại nhiều lần, bất luận là ai soạn dịch nhưng tất cả truyện lục, tập, ký… đều là một lời ngợi khen Tam bảo, dầu lời văn thành thật, quê mùa chất phác nhưng đều có ý truyền bá ánh đạo vàng. Tất cả nghi dối, chân Ngụy, chú giải, Luận ký thảy căn cứ bao quát ngày các mục, chắc lép đều gồm họp các thứ cát vàng quí báo ấy tạo nên thể của lục này. Có thể gọi là lan Ngãi cùng giỏ. Rồng rắn chưa phân vậy. Cho nên Đại thừa Bồ-tát Nhập Tạng này để ý đến kinh luật, luận. Cũng như bể cả mênh mông không chứa thây chết. Huống là vực sâu mò bắt bỏ trai lấy châu, núi gai mài giũa lựa ngọc bỏ đá. Lại vạch tìm các vân vảy của đồi mồi, mài chuốt những sừng ngà của Tê Tượng, mà tập họp một bầy chồn lông trắng và chọn màu phỉ thúy ở lông chim. Nay mục lục Tạng này chỉ lấy các bản có tên người dịch hoặc mất tên. Còn các bản dịch lại hoặc đồng bản mà khác người dịch, thì chỉ lấy bộ thứ nhất có nhiều quyển để trước, còn bộ hai và ba… để sau, ghi chú đầy đủ. Ai muốn đọc tụng mặc tình, sao chép, cũng lựa riêng các phần còn nghi để loại bỏ ngụy tạo.

Tất cả gồm năm trăm năm mươi mốt bộ, với một ngàn năm trăm tám mươi sáu quyển. Lại căn cứ ngày các lục phán đoán, phụ thêm ngày bộ Đại thừa này. Thân chưa được thảnh thơi vì mãi thấy mình còn nhiều thiếu sót. Rất mong các bậc Hiền triết thông suốt đời sau hãy ra công sàng sẩy thóc và lúa lép.

A. Đại cương:

I. Kinh Đại thừa (Tu-đa-la).

1. Có tên người gồm hai trăm ba mươi bốn bộ, tám trăm tám mươi lăm quyển.

2. Mất tên người dịch: gồm hai trăm ba mươi lăm bộ, bốn trăm lẻ hai quyển.

II. Luật Đại thừa (Tỳ-ni).

1-Có tên người dịch: Gồm mười chín bộ, bốn mươi quyển. 2-Mất tên người gồm: Mười hai bộ, mười bốn quyển.

III. Luật Đại thừa: (A-tỳ-đàm)

1. Có tên người gồm: Bốn mươi chín bộ, hai trăm ba mươi tám quyển.

2. Mất tên người gồm: Hai bộ, bảy quyển.

B. Các dịch phẩm:

I. Kinh Đại thừa (Tu-đa-la):

1. Kinh Đại thừa có tên người gồm: hai trăm ba mươi bốn bộ, tám trăm tám mươi lăm quyển.

- Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, sáu mươi quyển.

- Đại Phương Đẳng Đại Tập kinh, sáu mươi quyển.

- Đại Bát-niết-bàn Kinh, bốn mươi quyển.

- Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, bốn mươi quyển

- Phóng Quang Bát-nhã Ba-la-mật kinh, hai mươi quyển.

- Quang Tán Bát-nhã Ba-la-mật kinh, mười quyển.

(Ba bộ kinh sau, đồng bản khác người dịch, khác tên, rộng lược khác nhau).

- Pháp Cự Đà-la-ni kinh, hai mươi quyển.

- Oai Đức Đà-la kinh, hai mươi quyển.

- Bát-nê-hoàn kinh, hai mươi quyển.

- Bồ-tát Anh Lạc kinh, mười bốn quyển.

- Bồ-tát Kiến Thật Tam-muội kinh, mười bốn quyển.

- Hiền Khiếp kinh, mười ba quyển.

- Hiền Kiếp Tam-muội kinh, mười quyển.

- Tân Hiền Khiếp kinh, mười quyển.

(Ba bộ kinh sau đồng bản, khác người dịch, khác tên)

- Phật Danh kinh, mười hai quyển.

- Đại Quán Đảnh Kinh, mười hai quyển.

- Nguyệt Đăng Tam-muội kinh, mười một quyển.

- Hoa Thủ Kinh, mười một quyển.

- Thập Trụ Đoạn Kết kinh, mười quyển.

- Nhàn Cư kinh, mười quyển

- Đại Bi Phân-đà-lợi kinh, tám quyển.

(Hai bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên)

- Chánh Pháp Hoa kinh, mười quyển.

- Diệu Pháp Liên Hoa kinh, tám quyển.

(Hai Bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên)

- Nhập Lăng-già kinh, mười quyển.

- Lăng-già A-bạt-đa-la kinh, bốn quyển.

(Hai bộ kinh sau đồng bản, khác người dịch, khác tên)

- Đạo Hạnh Bát-nhã Ba-la-mật kinh, mười quyển.

- Tân Đạo Hạnh kinh mười quyển.-Tân Tiểu Phẩm kinh, bảy quyển.

- Tu Bồ-đề Phẩm kinh, bảy quyển.

- Minh Độ Vô Cực kinh, sáu quyển.

(Năm bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên)

- Bồ-tát Địa Trì kinh, mười quyển.

- Đại Phương Quảng Bồ-tát Thập Địa kinh, mười quyển. (Hai Bộ trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Chư Phật Hộ Niệm kinh, mười quyển.

- Đại A-dục Vương kinh, mười quyển. (hoặc không có chữ Đại)

- Quán Phật Tam-muội kinh, tám quyển.

- Đại Tát-già Ni-càn Tử kinh, tám quyển.

- Bồ-tát Hạnh Phương Tiện Cảnh Giới kinh, ba quyển. (Hai kinh trên, đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Lục Độ Tạng kinh, tám quyển.

- Ngũ Thiên, Ngũ Bách Phật Danh kinh, tám quyển.

- Đại thừa Bảo Vân kinh, tám quyển.

- Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ kinh, tám quyển.-Kim Quang Minh kinh, tám quyển-Hải Ý kinh, bảy quyển.

- Thắng Thiên Vương Bát-nhã Ba-la-mật kinh, bảy quyển.

- Pháp Tập kinh, sáu quyển.

- Quảng Bát Nghiêm Tịnh Bất Thoái Chuyển Luân kinh, sáu quyển.

- Bất Thoái Chuyển Pháp Luân kinh, bốn quyển.

- A-duy-việt-trí-già kinh, bốn quyển.

(Ba bộ trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Thắng Tư Duy Phạm Thiên, Sở Tấn kinh, sáu quyển.

- Tu Ích Phạm Thiên Sở Vấn kinh, bốn quyển.

- Trì Tâm Phạm Thiên Sở Vấn kinh, bốn quyển.

(Ba bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Niệm Phật Tam-muội kinh, sáu quyển. (hoặc năm quyển)

- Đại Vân kinh, sáu quyển (một tên là Đại Phương Đẳng Vô Tướng kinh, hoặc năm quyển).

- Hiền Hộ Bồ-tát kinh, sáu quyển.

- Bồ-tát Xử Thai kinh, năm quyển.

- Trường An Phẩm kinh, năm quyển (cũng gọi là Ma-ha Bát-la kinh).

- Đại Bi Tỳ-kheo kinh, năm quyển.

- Thâm Mật Giải Thoát kinh, năm quyển.

- Ngô Phẩm kinh, năm quyển.

- Bảo Đảnh kinh. năm quyển.

- Như Lai Ân Trí Bất Tư Nghìn kinh, năm quyển.

- Bồ-tát Bản Duyên Tập kinh, bốn quyển.

- Đại Phương Đẳng Đà-la-ni kinh, bốn quyển.

- Ương-quật-ma-la kinh, bốn quyển.

- Thánh Thiện Trụ Thiên Tử Sở Vân kinh, bốn quyển.

- Như Huyễn Tam-muội kinh, hai quyển,

(Hai bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Quán Sát Chư Pháp Hạnh kinh, bốn quyển.

- Tăng-già-tra kinh, bốn quyển.

- Hải Long Vương kinh, bốn quyển.

- Tân Hải Long Vương kinh, bốn quyển. (Hai bộ trên đồng bản, khác người dịch).

- Đại Thọ Khẩn-na-la Vương Sở Vấn kinh, bốn quyển.

- Thuần Chân-đà-la Sở Vấn kinh, ba quyển (hoặc hai quyển). (Hai bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Trì Thế kinh, bốn quyển (một tên là Pháp Ấn kinh).

- Trì Nhân Bồ-tát Sở Vấn kinh, ba quyển.

(Hai bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Hoằng Đạo Quáng Hiển Tam-muội, bốn quyển.

- A-nậu-đạt Long Vương kinh, hai quyển.

(Hai bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Phổ Siêu Tam-muội kinh, bốn quyển.

- A-xà-thế Vương kinh, hai quyển.

(Hai bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Xưng Vương Chư Phật Công Đức kinh, ba quyển.

- Đẳng Mục Bồ-tát Sở Vấn Tam-muội kinh, ba quyển (hoặc hai quyển).

- Bồ-tát Tạng kinh, hai quyển.

- Tạp Chú kinh, ba quyển.

- Lực Trang Nghiêm Tam-muội kinh, ba quyển.

- Tứ Đồng Tử kinh, ba quyển.

- Tăng-già La-sát Tập kinh, ba quyển.

- Chư Pháp Bản Vô kinh, ba quyển.

- Tập Nhất Thiết Phước Đức Tam-muội kinh, ba quyển.

- Đẳng Tập Chúng Đức Tam-muội kinh, ba quyển (hoặc hai quyển).

(Hai bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Tỳ-ma-la Cát kinh, ba quyển (hoặc tên Tịnh Danh kinh, bốn quyển).

- Minh Độ Ngũ Thập Hiệu Kế kinh, hai quyển.

- Tịnh Độ Tam-muội kinh, hai quyển.

- Anh Lạc Bản Nghiệp kinh, hai quyển.

- Như Lai Trang Nghiêm Trí Huệ Quang Minh Nhập Nhất Thiết Chư Phật Cảnh giới kinh, hai quyển.

- Trung Ấm kinh, hai quyển.

- Đại Pháp Cổ kinh, hai quyển.

- Chư Phật Yếu Tập kinh, hai quyển.

- Văn-thù-sư-lợi Phật Độ Nghiêm Tịnh kinh, hai quyển.

- Nhu Thủ Bồ-tát Vô Thượng Thanh Tịnh Phân Vệ kinh, hai quyển.

(Một tên là Quyết Liễu Chư Pháp Như Huyễn Tam-muội kinh).

- Bột Bản kinh, hai quyển.

- Đại Thừa Đồng Tánh kinh, hai quyển.

- Chư Pháp Vô Hạnh kinh, hai quyển.

- A-súc Phật Quốc kinh, hai quyển (một tên là Phật Sát Bồ-tát Học Thành kinh, hoặc một quyển).

- Ban Chu Tam-muội kinh, hai quyển.

- Ca-diếp kinh, hai quyển.

- Vô Thượng Y kinh, hai quyển.

- Vị Tằng Hữu Nhân Duyên kinh, hai quyển.

- Tu Chân Thiên Tử kinh, hai quyển.

- Tu Chân Thiên Tử Vấn Tứ Sự kinh, hai quyển.

(Hai bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Bảo Như Lai Tam-muội kinh, hai quyển.

- Vô Cực Bảo Tam-muội kinh, một quyển.

(Hai bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Đại Thừa Phương Tiện kinh, hai quyển.

- Huệ Thượng Bồ-tát Vấn Đại Thiện Quyền kinh, hai quyển. (Hai bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Đại Phương Quảng Bảo Khiếp kinh, hai quyển.

- Văn-thù-sư-lợi Hiện Bảo Tạng kinh, hai quyển, (Hai bộ trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Tự Tại Vương kinh, hai quyển.

- Phấn Tấn Vương Vấn kinh, hai quyển.

(Hai bộ trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Đạo Thần Túc Vô Cực Biến Hóa kinh, hai quyển.

- Phật Thăng Đao-lợi Thiên Vị Mẫu Thuyết Pháp kinh, hai quyển. (Hai bộ trên đồng bản, khác người dịch, khác tên)

- Siêu Nhật Nguyệt Tam-muội kinh, hai quyển.

- Siêu Nhật Minh kinh, hai quyển.

(Hai bộ trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Thuận Quyền Phương Tiện kinh, hai quyển (một tên là Chuyển Nữ Thân Phương Tiện kinh).

- Tùy Quyền Nữ kinh, hai quyển.

- Nhạo Anh Lạc Trang Nghiêm Phương Tiện kinh, một quyển. (Ba bộ trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Khổng Tước Vương Đà-la-ni kinh, hai quyển.

- Khổng Tước Vương Tạp Chú kinh, một quyển. (Hai bộ trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác kinh, hai quyển.

- A-di-đà kinh, hai quyển.

- Vô Lượng Thọ kinh, hai quyển.

(Hai bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Thủ-lăng-nghiêm kinh, hai quyển.

- Dõng Phục Định kinh, hai quyển.

(Hai bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Đại Trang Nghiêm Pháp Môn kinh, hai quyển.

- Đức Hộ Trưởng Giả kinh, hai quyển.

- Liên Hoa Diệu kinh, hai quyển.

Đại Vân Luân Thỉnh Vũ kinh, hai quyển.

Hư Không Dựng Bồ-tát kinh, hai quyển.

Nguyệt Thượng Nữ kinh, hai quyển.

- Thiện Tư Đồng Tử kinh, hai quyển (một tên là Duy-ma Nhi kinh).

- Đại thừa Đảnh Vương kinh, hai quyển.

- Đại Phương Đẳng Đảnh Vương Kinh, một quyển (Ba bộ trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Di Thức Kinh, hai quyển.

- Đạo Hành Bát-nhã kinh, hai quyển.

- Thí Dụ Vương kinh, hai quyển.

- Phát Giác Tịnh Tâm Kinh, hai quyển.

- Pháp Cảnh Kinh, hai quyển.

- Úc-già Trưởng Giả Sở Vấn Kinh, hai quyển.-Úc-già La-việt Vấn Bồ-tát kinh, hai quyển.

(Hai bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Nhân Vương Bát-nhã Ba-la-mật kinh, hai quyển (ba bản dịch).

- Mãnh Thí Đạo Địa kinh, một quyển (cũng gọi tắt mãnh thí kinh)

- Thái Tử Tu-đại-noa kinh, một quyển.

- Thái Tử Mộ Phách kinh, một quyển.

- Kim Sắc Vương kinh, một quyển.

- Vô Ưu Vương kinh, một quyển.

- Ma-ha Ma-da kinh, một quyển.

A-xà Quán Nữ kinh, một quyển

Đại Tịnh Pháp Môn kinh, một quyển.

- Thắng Man Sư Tử Hống Nhất Thừa Đại Phương Tiện kinh, một quyển.

- Tu-ma-đề Bồ-tát kinh, một quyển (hoặc không có chữ Bồ-tát).

- Kim Ích Trưởng Giả Tử kinh, một quyển.

- Phạm Nữ Thủ Ý kinh, một quyển.

- Sai-ma-ba Đế Thọ Ký kinh, một quyển.

- Độc Chứng Tự Thệ Tam-muội kinh, một quyển (cũng gọi là Như Lai Tự Thệ Tam-muội kinh).

- Nguyệt Minh Bồ-tát kinh, một quyển (cũng gọi là Nhật Minh Đồng Tử kinh).

- Diệt Thập Phương Minh kinh, một quyển.

- Na-duy-ma-cật kinh, một quyển.

- Ly Cấu Cái kinh, một quyển.

- Đạo Hành kinh, một quyển.

- Bồ-tát Thập Trụ kinh, một quyển.

- Đệ Nhất Nghĩa Ngũ Tướng Lược Tập kinh, một quyển.

- Tâm Minh kinh, một quyển.

- Văn-thù-sư-lợi Phát Nguyện Kệ kinh, một quyển.

- Huệ Minh kinh, một quyển.

Bột Kinh Sao tập, một quyển.

Quang Vị Tam-muội kinh, một quyển.

Thập Tứ Ý Chỉ kinh, một quyển (cũng gọi là Bồ-tát Thập Tứ Ý chỉ kinh).

- Nguyệt Đăng Tam-muội kinh một quyển (cũng gọi là Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát Thập Sự Hạnh kinh, cũng gọi là Kiến huệ Tam-muội kinh).

- Tư Duy Yếu Lược kinh, một quyển.

- Nghiêm Tịnh Định kinh, một quyển (cũng gọi là Tự Thế kinh)

- Bất Tư Nghì Quang Bồ-tát Sở Thuyết kinh, một quyển (cũng gọi là Vô Tư Nghìn Hài Đồng Bồ-tát kinh).

- Tôn Thắng Bồ-tát Nhập Vô Lượng Môn Đàla-ni kinh, một quyển.

- Văn-thù-sư-lợi Vấn Bồ-tát Thự kinh, một quyển (cũng gọi là Vấn Thự kinh).

- Phật Thuyết Đức Quang Thái Tử kinh, một quyển (cũng gọi là Lại Tra Vấn Quang Đức Thái Tử kinh).

- Huyễn Sĩ Nhân Hiền kinh, một quyển.

- Bảo Thí Nữ kinh, một quyển (cũng gọi là Tuma-đề Pháp Luật kinh)

- Tam-mật-để-da kinh, một quyển.

- Thí Đăng Công Đức kinh, một quyển (cũng gọi Nhiên Đăng kinh).

- Bồ-tát Ha Sắc Dục kinh, một quyển.

- Nhân Bản Dục Sinh kinh, một quyển.

Phật Y kinh, một quyển.

Nhân Sở Tùng Lai kinh, một quyển.

- Phật Tùng Thượng Sở Hành Thế Kệ kinh, một quyển.

- Bất Tăng Bất Giảm kinh, một quyển.

- Chúng Hựu kinh, một quyển.

- Vô Lượng Thọ Quán kinh, một quyển.

- Quán Phổ Hiền Bồ-tát Hành Pháp kinh, một quyển.

- Quán Dược Vương Dược Thượng Nhị Bồ-tát kinh, một quyển.

- Phân Biệt Nghiệp Báo Lược Tập kinh, một quyển.

- Quang thế Âm Quán kinh, một quyển.

- Thỉnh Quang thế Âm Tiêu Phục Độc Hại Đàla-ni kinh, một quyển.

- Quang thế Âm Sám Hối Trừ Tội Chú kinh, một quyển.

- Kim Cang Thượng Vị Đà-la-ni kinh, một quyển.

- Vô Nhai Tế Trì Pháp Môn kinh, một quyển.

- Đệ Nhất Nghĩa Pháp Thắng kinh, một quyển.

- Chánh Cung Kính kinh, một quyển (cũng gọi là Hàm Đức Đà-la-ni trung thuyết kinh, cũng gọi Cung kính Sư kinh, dịch lại).

Duy Minh Nhị Thập Kệ kinh, một quyển.

Lộc Mẫu kinh, một quyển.

Lộc Tử kinh, một quyển.

- Trừ Khủng Tai Hoạn kinh, một quyển.

- Pháp Một Tận kinh, một quyển (cũng gọi Không Tịnh Bồ-tát Sở Vấn kinh).

- Bát Cát Tường kinh, một quyển.

- Tiểu Phát Một Tận kinh, một quyển.

- Thập Nhị Môn Đại Phương Đẳng kinh, một quyển.

- Ôn Thất Tẩy Dục Chúng Tăng kinh, một quyển.

- Tứ Bất Khả Tư kinh, một quyển.

- Chư Đức Phước Điền kinh, một quyển (cũng gọi tắt là Phước Điền kinh).

- Quá Khứ Phật Phân Vệ kinh, một quyển.

- Xuất Gia Công Đức kinh, một quyển.

- Thành Cụ Quang Minh Định Ý kinh, một quyển (dịch lại).

- Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật kinh, một quyển (ba bản dịch)

- Tu-lại Bồ-tát kinh, một quyển (cũng gọi tắt là Tu-lại kinh dịch lại).

- Đại Phương Đẳng Như Lai Tạng kinh, một quyển (cũng gọi tắt là Phật Tạng Phương Đẳng kinh, dịch lại).

Vô Lượng Thọ Phật kinh, một quyển (dịch lại).

- Quang thế Âm Đại Thế Chí Thọ Quyết kinh, một quyển (cũng gọi là Quang thế Âm Bồ-tát Thọ ký kinh, dịch lại)

- Phổ Môn Phẩm kinh, một quyển (dịch lại).

- Lão Nữ Nhân kinh, một quyển (cũng gọi là Lão Mẫu kinh, cũng gọi là Lão Mẫu Lục Anh kinh, dịch lại).

- Đại Phương Đẳng Tu-đa-la Vương kinh, một quyển.

- Chuyển Hữu kinh, một quyển.

(Hai bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên)

- Vô Sở Hy Vọng kinh, một quyển.

- Tượng Bộ kinh, một quyển.

- Tượng Dịch kinh, một quyển.

(Ba bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Đại Thừa Yếu huệ kinh, một quyển.

- Di-lặc Bồ-tát Sở Vấn kinh, một quyển.

(Hai bộ kinh trên bản đồng, khác người dịch, khác tên)

- Văn-thù-sư-lợi Vấn Bồ-đề kinh, một quyển.

- Bồ-đề Vô Hành kinh, một quyển.

- Già-da Sơn Đảnh kinh, một quyển.

Tượng Đầu Tịnh Xá kinh, một quyển.

(Bốn bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên)

- Nhất Thiết Pháp Cao Vương kinh, một quyển.

- Chư Pháp Dõng Vương kinh, một quyển.

(Hai bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Huệ Ấn Tam-muội kinh, một quyển.

- Huệ Tam-muội kinh, một quyển.

- Như Lai Trí Ấn kinh, một quyển.

(Ba bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Quyết Định Tổng kinh, một quyển.

- Báng Phật kinh, một quyển.

(Hai bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Thiềm Bản kinh, một quyển.

- Thiềm Tử kinh, một quyển.

- Hiếu Tử Thiềm kinh, một quyển.

- Bồ-tát Thiềm kinh, một quyển.

- Phật Thuyết Thiềm kinh, một quyển.

(Năm bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Nhũ Quang Phật kinh, một quyển.

- Độc tử kinh, một quyển.

(Hai bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

Phật-di Nhật Ma-ni Bảo kinh, một quyển.

- Đại Bảo Tích kinh, một quyển.

- Ma-ha-diễn Bảo Nghiêm kinh, một quyển.

(Ba bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Vô Úy Đức Nữ kinh, một quyển.

- A-xà-thế Vương Nữ A-thuật-đạt kinh, một quyển.

- A-xà-thế Vương Nữ Vô Ưu Thí kinh, một quyển.

(Ba bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Thập Nhị Nhân Duyên kinh, một quyển.

- Bối Đa Thọ Hạ Tư Duy kinh, một quyển.

- Văn Thành Thập Nhị Nhân Duyên kinh, một quyển. (Ba bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Long Thí Bồ-tát Bản Khởi kinh, một quyển.

- Long Thí Nữ kinh, một quyển.

(Hai bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Liễu Bản Sinh tử kinh, một quyển.

- Dị Liễu Bản Sinh Tử kinh, một quyển.

- Đạo Vu kinh, một quyển.

(Ba bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên)

Đại Phương Quảng Bồ-tát Thập Địa kinh, một quyển.

- Bồ-tát Thập Địa kinh, một quyển.

- Trang Nghiêm Bồ-đề Tâm kinh, một quyển.

(Ba bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên)

- Quán Hư Không Tạng Bồ-tát kinh, một quyển.

- Hư Không Tạng Bồ-tát kinh, một quyển.

- Hư Không Tạng kinh, một quyển.

(Ba bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Trưởng Giả Tử Chế kinh, một quyển.

- Chế kinh, một quyển.

- Thệ Đồng Tử kinh, một quyển.

- Bồ-tát Thệ kinh, một quyển.

- Thệ kinh, một quyển.

(Năm bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Ly Cấu Thí Nữ kinh, một quyển.

- Vô Cấu Thí Bồ-tát Phân Biệt kinh, một quyển.-Đắc Vô Cấu Nữ Ứng Biện kinh, một quyển.

(Ba bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên)

- Di-lặc Thành Phật kinh, một quyển.

- Di-lặc Thọ Quyết kinh, một quyển.

Di-lặc Hạ Sinh kinh, một quyển.

- Di-lặc Đương Lai Sinh kinh, một quyển.

(Bốn bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Nguyệt Quang Đồng Tử kinh, một quyển.

- Nguyệt Minh Đồng Tử kinh, một quyển.

- Thân Nhật kinh, một quyển.

- Thân Nhật Đâu Bản kinh, một quyển.

- Thất Việt kinh, một quyển.

(Năm bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Chuyển Nữ Thân kinh, một quyển.

- Vô Cấu Hiền Nữ kinh, một quyển.

- Phúc Trung Nữ Thích kinh, một quyển.

- Thai Tàng kinh, một quyển.

- Bất Trang Giảo kinh, một quyển.

(Năm bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Vô Lượng Môn Vi Mật Trì kinh, một quyển.

- Xuất Sinh Vô Lượng Môn trì kinh, một quyển.

- A-nan Mục-khư-ni Ha-ly Đà-la-ni kinh, một quyển.

- Xá-lợi-phất Đà-la-ni, một quyển.

Vô Lượng Môn Phá Ma Đà-la-ni kinh, một quyển, (Năm bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên)

- Nghiệp Báo Sai Biệt kinh, một quyển.

- Đại thừa Phương Quảng Tổng Trì kinh, một quyển.

- Lao Cố Nữ kinh, một quyển.

- Bách Phật Danh kinh, một quyển.

- Nhất Hướng Xuất Sinh Bồ-tát kinh, một quyển.

- Đại Oai Đăng Tiên Nhân Vấn Nghi kinh, một quyển.

- Văn-thù-sư-lợi Hạnh kinh, một quyển.

- Bát Phật Danh Hiệu kinh, một quyển.

- Hy Hữu Giảo Lượng Công Đức kinh, một quyển.

- Như Lai Phương Tiện Thiện Xảo Chú kinh, một quyển.

- Bất Không Quyên Sách Quang thế Âm Tâm Chú kinh, một quyển.

- Thập Nhị Phật Danh Thần Chú Trừ Chướng Diệt Tội kinh, một quyển.

- Kim Cang Trường Đà-la-ni kinh, một quyển.

- Chư Pháp Tối Thượng Vương kinh, một quyển.

- Thương Chủ Thiên Tử Vấn kinh, một quyển.

- Xuất Sinh Bồ-đề kinh, một quyển.

2. Kinh Đại thừa mất tên người dịch: gồm (hai trăm ba mươi bốn bộ, với bốn trăm lẻ một quyển).-Xuất yếu kinh, hai mươi quyển.

- A-duy-việt-trí chuyển kinh, mười tám quyển.

- Ma-ha-diễn kinh, mười bốn quyển.

- Đại Nhẫn Nhục kinh, mười quyển.

- Phật Danh kinh, mười quyển.

- Tạp Chú Tạp, mười quyển,

- Hành Đạo kinh, mười quyển.

- Phương Quảng Thập Luân kinh, bảy quyển.

- Đại Phương Tiện Báo Ân kinh, bảy quyển.

- Phạm Vương Thỉnh Vấn kinh, năm quyển.

- Tam-muội Vương kinh, năm quyển.

- Phật Bản Hạnh kinh, năm quyển.

- Phật Tùng Đâu Xuất Giáng Trung Ấm kinh, bốn quyển.

- Ma Vương Thỉnh Vấn kinh, bốn quyển.-Thất Phật kinh, bốn quyển.

- Phật Danh kinh, ba quyển

- Đại Phạm Thiên Vương Thỉnh Chuyển Pháp Luân kinh, ba quyển.

- Thích Đề-hoàn Nhân Sở Vấn kinh, ba quyển.

- Đại Phương Quảng Như Lai Tánh Khởi kinh, ba quyển.

- Bồ-tát Bổn Hạnh kinh, ba quyển.

- Pháp Hoa Quang Thụy Bồ-tát Hiện Thọ kinh, ba quyển.

Phổ Hiền Bồ-tát Đáp Nạn Nhị Thiên kinh, ba quyển.

- Đại Phương Quảng kinh, ba quyển. (Đời chú còn nghi).

- Ưu-bà-di Tịnh Hạnh kinh, hai quyển (cũng gọi Tịnh Hạnh kinh).

- Bất Tư Nghìn Công Đức kinh, hai quyển (cũng gọi công đức kinh).

- Đại Kết Nghĩa Chú kinh, hai quyển.

- Cửu Thập Ngũ Chủng Đạo Tạp Loại Thần Chú kinh, hai quyển.

- Bồ-tát Mộng kinh, hai quyển.

- Chú Kinh Phật Danh kinh, hai quyển.

- Nhu Thủ Bồ-tát kinh, hai quyển.

- Thập Phương Phật Danh kinh, hai quyển.

- Văn-thù Vấn kinh, hai quyển.

- Ai Khấp kinh, hai quyển.

- Pháp Giới Thể Tánh Vô Phân Biệt kinh, hai quyển.

- Thuần Chân-đà-la Sở Vấn Bảo Như Lai, hai quyển.

- Thâm Đoạn Liên kinh, hai quyển.

- Hoằng Đạo kinh, hai quyển.

- Bồ-tát Danh kinh, hai quyển.

- Phạm Thiên Thỉnh Phật Thiên Thủ kinh, hai quyển.

Chư Kinh Bồ-tát Danh, hai quyển.

- Mật Tích Lực Sĩ kinh, hai quyển.

- Vô Minh La-sát Dụ Tập kinh, hai quyển.

- A-na-hàm kinh, hai quyển.

- Tạp Thí Dụ kinh, hai quyển.

- Tỳ-la Tam-muội kinh, hai quyển.

- Tượng pháp Quyết nghi kinh, hai quyển.

- Sơ-ba-la Diệu kinh, hai quyển.

- Thiện Vương Hoàng Đế kinh, hai quyển (Thế chú còn nghi)

- Hư Không Tạng Bồ-tát Vấn Trì kinh Kỷ Phước kinh, một quyển.

- Đại Phương Quảng Như Lai Bí Mật Tạng kinh, một quyển.

- Độ Chư Phật Cảnh Giới Quang Nghiêm kinh, một quyển.

- Thiện Tý Bồ-tát Sơ Vấn kinh, một quyển.

- Bồ-tát Tu Hành kinh, một quyển (cũng gọi là Oai Thế Trưởng Giả Vấn Quán Thân Hành kinh).

- Đại Bản Tạng kinh, một quyển.

- Vô Đoan Để Tổng Trì kinh, một quyển.

- Bồ-tát Đầu Thân Ngạ Hổ Khởi Tháp Nhân Duyên kinh, một quyển.

- Bồ-tát Bản Hạnh kinh, một quyển.

- Nhất Thiết Thí Chủ Sở Hành Đàn Ba-la-mật kinh, một quyển.

Hiền Thủ Bồ-tát Nhị Bách Vấn kinh, một quyển.

- Thọ Thập Thiện Giới kinh, một quyển.

- Văn Thù Quán kinh, một quyển.

- Tần-bà-ta-la Vương Nghệ Phật cúng Dường kinh, một quyển.

- Bồ-tát Túc Duyên kinh, một quyển.

- Đại Ý kinh, một quyển.

- Nội Tạng Đại Phương Đẳng kinh, một quyển.

- Thiên Vương Thái Tử Bích La kinh, một quyển.

- Thái Tử Pháp huệ kinh, một quyển.

- Thị Quang Thái Tử kinh, một quyển.

- Trưởng Giả Pháp Chí Thê kinh, một quyển.

- Pháp Chí Nữ kinh, một quyển.

- Nhất Thiết Trí Quang Minh Tiên Nhân Từ

Tâm Nhân Duyên Bất Thực Nhục kinh, một quyển.-Văn-thù-sư-lợi Bát-niết-bàn kinh, một quyển.

- Quang thế Âm Sở Thuyết Hành Pháp kinh, một quyển.

- Sư Tử Nguyệt Phật Bản Sinh kinh, một quyển.

- Công Đức Trang Nghiêm Vương Bát Vạn Tứ Thiên Tuế Thỉnh Phật kinh, một quyển.

- Trì Thân Bồ-tát kinh, một quyển (cũng gọi tắt là trì Thân kinh).

Kim Cang Nữ Bồ-tát kinh, một quyển.-Thiện Ý Bồ-tát kinh, một quyển.

- Pháp Hoa Tam-muội kinh, một quyển.

- Phật Bảo Tam-muội kinh, một quyển.

- Kim Cang Tam-muội kinh, một quyển.

- Kim Cang Tam-muội Bản Tánh Thanh Tịnh Bất Hoại Bất Diệt kinh, một quyển.

- Bảo Tích Tam-muội Văn-thù-sư-lợi Vấn Pháp Thân kinh, một quyển.

- Văn-thù-sư-lợi Quyền Biến Tam-muội kinh, một quyển (cũng gọi tắt là Quyền Biến kinh).

- Tân-đầu-lô Vị Vương Thuyết Pháp kinh, một quyển.

- Di-lặc kinh, một quyển.

- Thập Phật Nhân Duyên kinh, một quyển.

- Bát Bộ Phật Danh kinh, một quyển.

- Bát Cát Tường Thần Chú kinh, một quyển.

- Bát Dương kinh, một quyển.

- Thập Cát Tường kinh, một quyển.

- Hiền Thủ kinh, một quyển (cũng gọi Hiền Thủ Phu Nhân kinh).

- Tiểu An Ban Tam-muội kinh, một quyển.

- Tiểu A-xà-thế kinh, một quyển.

- Tiểu Tu-lại kinh, một quyển.

- Thậm Thâm Đại Hồi Hướng kinh, một quyển.

- Tứ Vô Úy kinh, một quyển.

Bồ-tát Thập Âu Hòa kinh, một quyển. (cũng gọi tắt là Thập Âu Hòa kinh).

- Hiền Giả Ngũ Phước Đức kinh, một quyển.

- Lục Pháp Hạnh kinh, một quyển.

- Bồ-tát Thường Hành kinh, một quyển.

- Bồ-tát Đẳng Hạnh kinh, một quyển.

- Thiện Đức kinh, một quyển.

- A-đà Tam-muội kinh, một quyển.

- A-đa Tam-muội kinh, một quyển.

- Tân-đầu-lô Đột-la-xà Vị Ưu-đà Diên Vương Thuyết Pháp kinh, một quyển.

- Phật Ấn Tam-muội kinh, một quyển.

- Bách Bảo Tam-muội kinh, một quyển.

- Dược Sư Lưu Ly Quang Phật kinh, một quyển.

- Trưởng Giả Âm Duyệt kinh, một quyển (một tên là Trưởng Giả Âm Duyệt Bất Xiển Ca-diếp kinh, một tên là Âm Duyệt kinh).

- Đề Vị kinh, một quyển.

- Thập Tư Duy kinh, một quyển.

- Phân Biệt Lục Tình kinh, một quyển.

- A-chất Quốc Vương kinh, một quyển.

- Tam-muội Vương Tam-muội kinh, một quyển.

- Bát Bồ-tát Tứ Hoằng Thệ kinh, một quyển.

- Đại Quang Minh Bồ-tát Bách Tứ Thập Bát

Nguyện kinh, một quyển.

- Đọa-ca-la Vấn Bồ-tát kinh, một quyển.

- Đại Bi Quang thế Âm kinh, một quyển.

- Bồ-tát Chư Khổ Hạnh kinh, một quyển.

- Thụy Ứng Quang thế Âm kinh, một quyển.

- Công Đức Bảo Quang Bồ-tát Vấn Hộ Trì kinh, một quyển.

- Tự Tại Vương Bồ-tát Vấn Như Lai Cảnh Giới kinh, một quyển.

- Mục Khư kinh, một quyển.

- Tát-la kinh, một quyển.

- Bồ-tát Đạo Địa kinh, một quyển.

- Đẳng Nhập Pháp Nghiêm kinh, một quyển (cũng gọi tắt là Pháp Nghiêm kinh).

- Phương Đẳng Quyết kinh, một quyển.

- Đại Hạnh Lục Ba-la-mật kinh, một quyển.

- Tán Thất Phật Kệ kinh, một quyển.

- Từ Nhân Vấn Bát Thập Chủng Hảo kinh, một quyển.

- A-di-đà Phật kệ, một quyển.

- Hậu Xuất A-di-đà Phật Kệ, một quyển.

(Hai bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, rộng lược khác nhau).

- A-di-đà Cổ Âm Thanh Đà-la-ni, một quyển.

- A-nan Kiến Thủy Quang Thụy kinh, một quyển.

Ca-chiên-diên Kệ kinh, một quyển (một tên là Ca-chiên-diên Thuyết Pháp Nhất Tận Kệ Bách Nhị Thập Chương).

- Tạp Hoa kinh, một quyển.

- Ngũ Bách Kệ kinh, một quyển.

- Tam Thừa kinh, một quyển.

- Tiền Thế Tam Chuyển kinh, một quyển.

- Ngân Sắc Nữ kinh, một quyển.

(Hai bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Thái Tử Hộ kinh, một quyển.

- Hòa Hưu kinh, một quyển.

(Hai bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Thiện Pháp Phương Tiện Đà-la-ni kinh, một quyển.

- Kim Cang Bí Mật Thiện Môn Đà-la-ni kinh, một quyển. (Hai bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- A-xà-thế Vương Thọ Quyết kinh, một quyển.

- Thái Liên Vĩ Vương Thượng Phật Thọ Quyết kinh, một quyển. (Hai bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Sư Tử Phấn Tấn Bồ-tát Sở Vấn kinh, một quyển.

- Hoa Tích Đà-la-ni kinh, một quyển.

Hoa Tụ Đà-la-ni kinh, một quyển.

(Ba bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Định Hạnh Tam-muội kinh, một quyển.

- Phật Di Định Hạnh kinh, một quyển (một tên là Ma Ha Mục Liên Sở Vấn kinh), (Hai bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên.).

- Tùy Nguyện Vãng Sinh kinh, một quyển.

- Duy Vô Tam-muội kinh, một quyển (một tên Duy Vụ Tam-muội kinh).

- Thanh Tịnh Pháp Hạnh kinh, một quyển.

- Long Chủng Tôn Phật Quốc Biến Hóa kinh, một quyển.

- Tứ Sự Giải Thoát kinh, một quyển.

- Tứ Sự Giải Thoát Độ Nhân kinh, một quyển.

(Ba bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Định huệ Phổ Biến Quốc Độ Thần Thông Bồtát kinh, một quyển.

- Quang thế Âm Thập Đại Nguyện kinh, một quyển.

- Quan Thế Âm Tam-muội kinh, một quyển.

- Đại thừa Liên Hoa Mã Đầu La-sát kinh, một quyển.

- Âm Mã Tàng kinh, một quyển.

- Âm Mã Tàng Quang Minh kinh, một quyển.

Thân Độ Quốc Vương Sở Vấn Trị Quốc kinh, một quyển. (Ba bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Không Tịnh Tam-muội kinh, một quyển (một tên là không Tịnh cảm Ứng kinh).

- Bát-nhã Đắc kinh, một quyển.

- Tam Thế Tam Thiên Phật Danh kinh, một quyển.

- Tam Thiên Phật Danh kinh, một quyển.

- Thập Phương Phật Danh Công Đức kinh, một quyển.

- Hiện Tại Thập Phương Phật Danh kinh, một quyển.

- Thiên Ngũ Bá Phật Danh kinh, một quyển.

- Thiên Phật Danh kinh, một quyển.

- Hiện Tại Thiên Phật Danh kinh, một quyển.

- Quá Khứ Thiên Phật Danh kinh, một quyển.

- Đương Lai Tinh Tú Kiếp Thiên Phật Danh kinh, một quyển.

- Nam Phương Phật Danh kinh, một quyển.

- Hiền Kiếp Ngũ Bách Phật Danh kinh, một quyển.

- Ngũ Bách Thất Thập Phật Danh kinh, một quyển.

- Long Thọ Khuyến Phát Chư Vương Yếu Kệ kinh, một quyển.

Bách Thất Phật Danh kinh, một quyển.

- Tạp Thí Dụ kinh, một quyển.

- Đồng Hiệu Phật kinh, một quyển.

- Lục Bồ-tát Danh Diệu Đương Tụng Trì kinh, một quyển.

- Ma Ha Thần Chú kinh, một quyển.

- Đại Tổng Trì Thần Chú kinh, một quyển.

- Tư Ích Thần Chú kinh, một quyển.

- Thập Phương Phật Thần Chú kinh, một quyển.

- Thất Phật Sở Kết Ma-du-thuật Chú kinh, một quyển.

- Thất Phật Thần Chú kinh, một quyển.

- Hàng Ma Thần Chú kinh, một quyển.

- Hoa Tích Đà-la-ni Thần Chú kinh, một quyển.-Oai Đức Đà-la-ni Thần Chú kinh, một quyển.

- Đà-la-ni Cú kinh, một quyển.

- Tập Pháp Duyệt Xả Khổ Đà-la-ni kinh, một quyển.

- Đà Lân Bát Chú kinh, một quyển.

- Chư Thiên Vương Sở Thuyết Đà-la-ni kinh, một quyển.

- Tứ Thiên Vương Thần Chú kinh, một quyển.

- Kim Cang Thập Nhị Sứ Chú kinh, một quyển.

Thỉnh Kim Cang Chú kinh, một quyển.

Kim Cang Tùy Ý Sở Nhạo Nhất Thiết Giai

Đắc Chú kinh, một quyển.

- Kim Cang Như Sở Nguyện Nhất Thiết Thắng Chú kinh, một quyển.

- Kim Cang Chú kinh, một quyển.

- Kim Cang Kết Giới Chú kinh, một quyển.

- Kim Cang Tiểu Tâm Trừ Diệt Chư Oán Chú kinh, một quyển.

- Kim Cang Thỉnh Mộng Chú kinh, một quyển.-Đại Thần Mẫu Kết Thệ Chú kinh, một quyển.

- Hộ Chư Tỳ Kheo Chú kinh, một quyển.

- Thập Nhị Nhân Duyên Kết Lũ Thần Chú kinh, một quyển.

- Y Hoàn Pháp Nguyện Chú kinh, một quyển.

- Lục Tự Đại Đà-la-ni kinh, một quyển.

- Di Sơn Thần Chú kinh, một quyển.

- Hòa Ma Kết Thần Chú kinh, một quyển.

- Giải Nhật Ách Thần Chú kinh, một quyển.

- Lục Thần Danh Thần Chú kinh, một quyển.

- Lục Tự Thần Chú kinh, một quyển.

- Huyễn Sư Bạt-đà Thần Chú kinh, một quyển.

- Huyễn Sư Ba-đà Chú kinh, một quyển.

- Ma-ni-la Đản Thần Chú kinh, một quyển.

- Đàn-trì-la Ma-du-thuật Thần Chú kinh, một quyển.

Ma Du Thuật Thần Chú kinh, một quyển.

Ma Ni La Đản Thần Chú kinh, một quyển.

Y Vương Duy Lâu Diên Thần Chú kinh, một quyển. (Một tên là A-nan Sở Vấn Y Vương Duy Lâu Diên chú kinh).

- Long Vương Chú Thủy Dục kinh, một quyển.

- Thập Bát Long Vương Thần Chú kinh, một quyển.

- Thỉnh Vũ Chỉ Vũ Thần Chú kinh, một quyển.

- Sấn Thủy Thần Chú kinh, một quyển.

- Chú Thủy kinh, một quyển.

- Chú Thổ kinh, một quyển.

- Chú Dược kinh, một quyển.

- Chú Độc kinh, một quyển.

- Huyết Khí Thần Chú kinh, một quyển. (Một tên là Thủ Huyết Khí).

- Chú Thời Khí Chú kinh, một quyển.

- Chú Tiểu Nhi kinh, một quyển.

- Chú Cũ Xỉ kinh, một quyển (cũng gọi là Chú Trùng Xỉ, hoặc Chú Xỉ).

- Chú Xỉ Thống kinh, một quyển.

- Chú Nha Thống kinh, một quyển.

- Chú Nha Đông kinh, một quyển.

- Chú Nhãn Thống kinh, một quyển.

- Chú Nhãn Xích kinh, một quyển.

- Trừ Tịch Tặc Hại Chú kinh, một quyển.

Chú Tặc kinh, một quyển.

Tốt Phùng Tặc Kết Đới Chú kinh, một quyển.

Thất Phật An Trạch Thần Chú kinh, một quyển.

- Ngũ Phương Long Vương Thần Chú kinh, một quyển.

- Tam Quy Ngũ Giới Thần Vương Danh kinh, một quyển.

II. Luật Đại thừa (Tỳ-kheo).

1. Luật Đại thừa có tên người dịch, soạn: Gồm một trăm mười chín bộ với bốn mươi phẩm.

- Ưu-bà-tắc giới kinh, mười quyển.

- Bồ-tát Giới kinh, tám quyển.

- Phật Tạng kinh, bốn quyển.

- Phạm Võng kinh, hai quyển.-Bảo Lương kinh, hai quyển.

- Bồ-tát Tạng kinh, hai quyển.

- Quyết Định Tỳ-ni kinh, một quyển.

- Phật Hối Quá kinh, một quyển.

- Bồ-tát Hối Quá kinh, một quyển.

- Văn-thù-sư-lợi Hối Quá kinh, một quyển (cũng gọi là Văn-thù-sư-lợi Ngũ Thể Hối quá kinh).

- Xá-lợi-phất Hối Quá kinh, một quyển (cũng gọi tắt Hối Quá kinh).

- Thanh Tịnh Tỳ-ni Phương Quảng kinh, một quyển.

- Văn-thù-sư-lợi Tịnh Luật kinh, một quyển.

Tịch Điều Sở Vấn kinh, một quyển.

(Ba bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Bồ-tát Giới bản, một quyển.

- Ưu-bà-tắc Giới Bản, một quyển.

- Bồ-tát Giới, Ưu-bà-tắc Giới, Đàn Văn Họp, một quyển.

- Tam Quy Cập Ưu-bà-tắc Nhị Thập Nhị Giới Văn, một quyển (cũng gọi là Ưu-bà-tắc Giới).

- Bồ-tát Trai Pháp, một quyển (một tên là Chánh Trai, một tên là Trì Trai).

- Bồ-tát Giới, một quyển.

- Bồ-tát Trai kinh một quyển (một tên là Hiền Thủ Bồ-tát Trai Pháp kinh).

2. Luật Đại thừa mất tên người dịch soạn: (mười hai bộ, với mười bốn quyển).

- Đại Phương Quảng Tam Giới kinh, ba quyển.

- Pháp Luật Tam-muội kinh, một quyển.

- Bồ-tát Nội Giới kinh, một quyển.

- A-duy-việt-trí Bồ-tát Giới kinh, một quyển.

- Tam-mạn-đà-bạt Đà-la Bồ-tát kinh, một quyển.

- Bồ-tát Ba-la-đề-mộc-xoa kinh, một quyển.

- Bạt Đà Hối Quá kinh, một quyển.

- Bồ-tát Thọ Trai kinh, một quyển.

- Tịnh Nghiệp Chướng kinh, một quyển.

Tại Gia Bồ-tát Giới, một quyển.

Tại Gia Luật Nghi, một quyển.

Ưu-bà-tắc Ưu-bà-di Ly Dục Cụ Hành Nhị Thập Nhị Giới, một quyển.

III. Luận Đại thừa (A-tỳ-đàm).

1. Luận Đại thừa có tên người dịch: gồm bốn mươi chín bộ với hai trăm ba mươi tám quyển.

- Đại Trí Độ Kinh Luận, một trăm quyển.

- Nhiếp Đại Thừa Thích luận, mười lăm quyển (hoặc mười hai quyển. Ngài Chân Đế dịch lại khiến có rộng, gọn).

- Thập Địa Kinh Luận, mười hai quyển.

- Thập Trụ Tỳ-bà-sa Kinh Luận, mười hai quyển.

- Di-lặc Bồ-tát Sở Vấn Kinh Luận, mười quyển.

- Đại Trang Nghiêm Luận, mười quyển.

- Bồ-tát Thiện Giới kinh, mười quyển.

- Bồ-tát Địa kinh mười quyển.

- Bồ-tát Địa Trì Luận, tám quyển.

(Ba bộ kinh Luận trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Bảo Tích Kinh Luận, bốn quyển.

- Phật Tánh Luận, bốn quyển.

- Trung Luận, bốn quyển.

- Bảo Tánh Luận, bốn quyển.

- Kim Cang Bát-nhã Kinh Luận, ba quyển.

Tăng Khư Luận, ba quyển.

Thắng Tư Duy Kinh Luận, ba quyển.

Trung Biên Luận, ba quyển.

- Nhiếp Đại Thừa Bản Luận, ba quyển.

- Nhiếp Đại Thừa Bản Luận, hai quyển.

(Hai bộ luận trên đồng bản, khác người dịch, rộng lược khác nhau).

- Văn-thù-sư-lợi Vấn Bồ-đề Kinh Luận, hai quyển (một tên là Già-da Đảnh kinh luận).

- Đại Trượng Phu Luận, hai quyển.

- Phật A-tỳ-đàm Luận, hai quyển.

- Thuận Trung Luận, hai quyển.

- Bách Luận, hai quyển.

- Nhập Đại Thừa Luận, hai quyển.

- Như Thật Luận, hai quyển.

- Niết-bàn Tu-bạt Luận, hai quyển.

- Ưu-bà-tắc Ngũ Học Lược Luận, hai quyển.

- Đại Niết-bàn kinh, một quyển.

- Tam Cụ Túc Kinh Luận, một quyển.

- Di Giáo Kinh Luận, một quyển.

- Pháp Hoa Kinh Luận, một quyển.

- Chuyển Pháp Luân kinh Luận, một quyển.

- Bảo Kế Bồ-tát Tứ Pháp Luận, một quyển.

- Vô Lượng Thọ Kinh Luận, một quyển.

- Nghiệp Thành Tựu Luận, một quyển.

- Tam Vô Tánh Luận, một quyển.

Thập Nhị Môn Luận, một quyển.

Phương Tiện Tâm Luận, một quyển.

Phản Chất Luận, một quyển.

- Đọa Phụ Luận, một quyển.

- Cầu Na Ma Để Tùy Tướng Luận, một quyển.

- Thành Tựu Tam Thừa Luận, một quyển.

- Thập Nhị Nhân Duyên Luận, một quyển.

- Chánh Thuyết Đạo Lý Luận, một quyển.

- Nhất Thâu-lô-ca Luận, một quyển.

- Bảo Hành Vương Chánh Luận, một quyển.

- Bách Tự Luận, một quyển.

- Ý Nghiệp Luận, một quyển.

- Phá Ngoại Đạo Tứ Tông Luận, một quyển.-Phá Ngoại Đạo Niết-bàn Luận, một quyển.

- Duy Thức Luận, một quyển (Dịch lại).

- Hồi Tránh Luận, một quyển.

- Đại Thừa Khởi Tín Luận, một quyển.

2. Luận Đại thừa mất tên người dịch: (hai bộ, bảy quyển).

- Đại Thừa Ưu-ba-đề-xá, năm quyển.

- Phát Bồ-đề Tâm Luận, hai quyển.

QUYỂN 14

MỤC LỤC CÁC KINH TIỂU THỪA NHẬP TẠNG

Sách chép về: Tiểu thừa đó là tạng Thanh văn, giáo lý nói về Đức Phật, cho rằng ngài sinh ra ở một vương cung với bao công nuôi dưỡng bồng ẩm bú mớm. Ngài ngồi xe dê đi học, thi tài để cưới vợ, mười chín tuổi xuất gia, ba mươi tuổi thành đạo, bốn mươi chín năm ở đời thuyết pháp, năm bảy mươi chín tuổi, dưới khoảng rừng cây Song thọ ngài đã nằm nghiêng bên hữu mà nhập Niết-bàn. Nói về giáo pháp của phái này là Khế kinh, hoặc gồm chín bộ hoặc mười một bộ đó là bốn A-hàm, tạp tạng và A-tỳ-đàm Luận về người thì gọi là Thanh văn, Duyên giác gồm bốn quả, bốn hướng, năm phương, bảy tiện. Cạo bỏ râu tóc bỏ tục xuất gia, hạn cuộc ở cõi người trời không bao gồm các thú khác. Về phiền não thì năm cái, mười triền và chín mươi tám sử. Các pháp tu hành thì bốn Thánh đế, mười hai Nhân duyên, thu nhiếp bảy chi, giữ gìn ba nghiệp. Các giới cấm phải thọ thì ba quy, mười giới, hai trăm năm mươi và năm trăm giới, chỉ giải quyết trong một đời không dây dưa đến đời sau. Tự điều phục thân khẩu, không tu hạnh lợi tha. Ngày nước Lý có cạn sâu cũng như độ nổi chìm của thỏ ngựa. Đi ra đường dạo mát sang hèn do ngồi xe hưu hay dê, hút nước hứng sương nhiều ít là do cỡ to nhỏ của rễ, lá. Dừng lại tĩnh dưỡng lúc mệt nhọc ngơi nghỉ ở nơi hóa thành không thật. Các loại văn như thế đều là Tiểu thừa vậy. Căn cứ ngày bốn kinh A-hàm, Sinh Kinh, Xuất Diệu, Hiền Ngu, Thí Dụ và các kinh khác hoặc năm hàng mười hành, một tờ nửa tờ, trên bắt đầu chữ "Như thị" cuối kết thúc bằng chữ "Phụng hành". Các mãng nhỏ như thế phân chia thành muôn quyển. Tình đời theo ngọn tranh nhau sao chép càng nhiều, không chỉ uổng công mà càng trái xa nguồn gốc. Nhưng từ ghi chú của các lục lại sinh thêm ra những nhóm khác. Cũng như Quang thế Âm sinh ra một Diệu Pháp Hoa, Thiện Thời Nga Vương sinh ra một Chánh Pháp Niệm. Nay đều không ghi chép. Chỉ bốn bộ Luật, Tăng Ni Giới Tâm, Yếu Lược Oai Nghi, Yết-ma Tạp Pháp thì người đời ai cũng biết, nên nêu đầy đủ. Đó là từ Kinh mà chia ra nhiều nhóm hành giả. Bộ gốc đã đủ nên không cần nói nhiều. Chỗ ít lợi đã sẵn bày, luận dài thêm rối. Do đó chỉ nói tóm tắt sơ qua cái. Cả trang giấy nêu ra một vạn kinh thì chỉ tóm tắt còn hai ngàn. Nay biên soạn cả đại bộ tóm tắt thành một quyển riêng, đã kiểm tra những thứ chẳng phải loại phổ biến còn lại, gồm chung tất cả năm trăm hai mươi lăm bộ, một ngàn bảy trăm mười hai quyển, tạo nên mục lục chính về Tiểu thừa nhập tạng.

Phòng tôi kiến thức hẹp hòi nông cạn, việc tìm đọc còn lắm lỗi lầm thiếu sót. Chỉ mong truyền đuốc pháp soi sáng người hiền, gọi là góp chút dầu cho lửa sắp tàn

A. Đại cương:

I. Kinh Tiểu thừa (Tu-đa-la).

1) Có tên người gồm: 108 bộ, 527 quyển.

2) Mất tên người gồm: 317 bộ, 482 quyển.

II. Luật Tiểu thừa (Tỳ-ni).

1) Có tên người gồm: 37 bộ, 285 quyển.

2) Mất tên người gồm: 31 bộ, 67 quyển. III. Luận Tiểu thừa (A-tỳ-đàm).

1) Có tên người gồm: 21 bộ, 351 quyển.

2) Mất tên người gồm: 10 bộ, 27 quyển.

B. Các dịch phẩm:

I. Kinh Tiểu thừa:

1) Kinh Tiểu Thừa có tên người dịch (một trăm lẻ tám bộ, năm trăm hai mười bảy quyển)

- Chánh Pháp Niệm Xứ Kinh, bảy mươi quyển.

- Phật Bản Hạnh Tập Kinh, sáu mươi quyển.

Trung A-hàm Kinh, sáu mươi quyển (Nay sáu mươi chín kinh, bỏ các kinh dịch riêng).

- Tăng Nhất A-hàm Kinh, năm mươi quyển (Nay bốn mươi ba kinh, bỏ các kinh dịch riêng).

- Tạp A-hàm Kinh, năm mươi quyển (Nay một trăm bốn mươi bốn kinh, bỏ các kinh dịch riêng).

- Tạp Thí Dụ, ba trăm năm mươi bài, hai mươi lăm quyển.

- Trường A-hàm Kinh, hai mươi hai quyển (Nay mười tám kinh, bỏ các kinh dịch riêng).

- Hiền Ngu Kinh, mười sáu quyển (Nay năm kinh, bỏ các kinh dịch riêng).

- Tạp Bảo Tạng Kinh, mười quyển.

- Tạp Thí Dụ Kinh, mười quyển.

- Phổ Diệu Kinh, tám quyển (hoặc sáu quyển, nay mười hai kinh dịch riêng).

- Thục Phổ Diệu Kinh, sáu quyển.

(2 bộ Kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Soạn Tập Bách Duyên Kinh, bảy quyển.

- Tu Hành Kinh, bảy quyển (Nay mười bốn kinh dịch riêng).

- Tu Hành Đạo Địa Kinh, sáu quyển.

(Hai bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Pháp Cú Dụ Bản Mạt Tập Kinh, sáu quyển (hoặc năm quyển).

- Sinh Kinh, năm quyển (Nay năm mươi kinh dịch riêng).

- Thiền Pháp Yếu Kinh, năm quyển (hoặc ba quyển).

- Bách Dụ Tập Kinh, bốn quyển.

- Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả Kinh, bốn quyển.

- Thái Tử Bản Khởi Thụy Ứng Kinh, hai quyển.

- Tu Hành Bản Khởi Kinh, hai quyển.

(Ba bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Thiền Bí Yếu Kinh, ba quyển.

- Ấm Trì Nhập Kinh, hai quyển.

- Trung Khởi Bản Kinh, hai quyển.

- Tứ A-hàm Mộ Sao, hai quyển.

- Đạt-ma-đa-la Thiền Kinh, hai quyển.

- Cựu Tạp Thí Dụ Tập Kinh, hai quyển.

- Nghĩa Túc Kinh, hai quyển.

- Pháp Cú Tập Kinh, hai quyển.

- Tỳ-da-ta Vấn Kinh, hai quyển.

- Đại Đạo Địa Kinh, hai quyển.

- Cổ Khách Kinh, hai quyển.

- Đại An Ban Kinh, hai quyển.

- Tiểu Bản Khởi Kinh, hai quyển.

- Thiền Pháp Yếu Giải Kinh, hai quyển.

A-lan-nhã Tập Thiền Pháp Kinh, hai quyển.

Tọa Thiền Tam-muội Kinh, hai quyển.

(Hai bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Bất Tịnh Quán Thiền Kinh Tu Hành Phương Tiện, hai quyển.

- Ma-đăng-già Kinh, hai quyển.

- Xá-đầu-gián Kinh, một quyển.

- Thái Tử Nhị Thập Bát Tú Kinh, một quyển.

- Hổ Nhĩ Ý Kinh, một quyển.

(Bốn bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Bản Tướng Y Trí Kinh, một quyển.

- Duyên Bản Trí Kinh, một quyển.

(Hai bộ Kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Tạp Tạng Kinh, một quyển.

- Quỷ Vấn Mục-liên Kinh, một quyển.-Ngạ Quỷ Báo Ứng Kinh, một quyển.

- Mục-liên Thuyết Ngạ Quỷ Nhân Duyên Kinh, một quyển. (Bốn bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- A-nan Vấn Sự Phật Kiết Hung Kinh, một quyển.

A-nan Phân Biệt Kinh, một quyển.

Đệ Tử Mạn Vị Kỳ Vực Thuật Kinh, một quyển.

- Phân Biệt Kinh, một quyển.

(Bốn bộ Kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Đại Thập Nhị Môn Kinh, một quyển.

Tứ Thập Nhị Chương Kinh, một quyển (dịch lại)

- Tiểu Thập Nhị Môn Kinh, một quyển.

- Bách Lục Thập Phẩm Kinh, một quyển.

- Thập Nhị Du Kinh, một quyển.

- Trị Thiền Bệnh Bí Yếu Kinh, một quyển.

- Đại An Ban Kinh, một quyển.

- An Ban Thủ Ý Kinh, một quyển.

- Ngũ Môn Thiền Kinh Yếu Dụng Pháp, một quyển.

- Bát-nê-hoàn Kinh, một quyển.

- Đương Lai Biến Kinh, một quyển.

- Nan-đề-ca-la Việt Kinh, một quyển.

- Phổ Nghĩa Kinh, một quyển.

- Nại Nữ Kỳ Vực Kinh, một quyển.

- Tịnh Phạn Vương Bát Niết-bàn Kinh, một quyển.

- Sa-môn Quả Chứng Kinh, một quyển.

- Phật Vị Bồ-tát Ngũ Mộng Kinh, một quyển (một tên là Phật Ngũ Mộng Kinh, một tên là Thái Tử Ngũ Mộng Kinh).

Mã Vương Kinh, một quyển.

Thỉnh Tân-đầu-lô Pháp, một quyển.

- Bát Sư Kinh, một quyển.

- A-hàm Khẩu Giải Thập Nhị Nhân Duyên Kinh, một quyển.

- Tứ Bộ Dụ Kinh, một quyển.

- Tam Phẩm Tu Hành Kinh, một quyển.

- Thất Pháp Kinh, một quyển.

- A-tỳ-đàm Ngũ Pháp Hạnh Kinh, một quyển.

- Nhạn Vương Kinh, một quyển.

- Tứ Nguyện Kinh, một quyển.

- Nhạn Vương Ngũ Bách Nhạn Câu Kinh, một quyển.

- Ngũ Pháp Kinh, một quyển.

- Giới La-vân Kinh, một quyển.

- Phụ Nhân Ngộ Cô Kinh, một quyển (cũng gọi là Ngộ Đối Kinh).

- Cấp Cô Độc Minh Đức Kinh, một quyển (Cũng gọi là Cấp Cô Độc Thị Kinh).

- Trưởng Giả Biện Ý Kinh, một quyển (Cũng gọi là Biện Ý Trưởng Giả Sở Vấn Kinh).

- Bào Thai Thọ Thân Kinh, một quyển (Cũng gọi Bào Thai Kinh).

- Tứ Tự Xâm Kinh, một quyển.

Thích Lục Thập Nhị Kiến Kinh, một quyển.

Ngũ Bách Đệ Tử Tự Thuyết Bản Khởi Kinh, một quyển.

- Thất Nữ Bản Kinh, một quyển (Cũng gọi tắt Thất Nữ Kinh).

- Đại Ca-diếp Bản Kinh, một quyển.

- A-nan Tứ Sự Kinh, một quyển.

- Sở Dục Trí Hoạn Kinh, một quyển.

- Pháp Thọ Trần Kinh, một quyển.

- Thiền Hành Pháp Tưởng Kinh, một quyển.

- Giới Vương Kinh, một quyển.

- Ma-ha Mục-liên Bản Kinh, một quyển.

- Tứ Thiên Vương Kinh, một quyển.

- Bần Nữ Vi Vương Phu Nhân Kinh, một quyển.

- Ngũ Phước Thí Kinh, một quyển.

- Ưu-đa-la Kinh, một quyển (Cũng gọi Ưu-Đa-la Mẫu Kinh).

- Cảnh Diện Vương Kinh, một quyển.

- Ứng Cúng Pháp Hạnh Kinh, một quyển.

- Ma-ha Vương Kinh, một quyển.

- Sát Vi Vương Kinh, một quyển.

- A-xà-thế Vương Vấn Ngũ Nghịch Tội Kinh, một quyển (cũng gọi tắt là A-xà-thế Kinh hoặc không có chữ Tội).

- A-nan Niệm Di Kinh, một quyển.

- Cư Sĩ Thỉnh Tăng Phước Điền Kinh, một quyển.

Quán Hạnh Bất Di Tứ Sự Kinh, một quyển.

Lô-di-hoàn Kinh, một quyển.

- Khư-la Vương Kinh, một quyển.

- Đàm-nhã Kinh, một quyển.

- Phạm Hoàng Kinh, một quyển.

- Long Vương Huynh Đệ Đà Xiêm-la Giới Vương Kinh, một quyển.

- Ngũ Cái Nghi Kiết Thất Hạnh Kinh, một quyển.

- Tiểu Úc-già Kinh, một quyển.

- Xa-lợi-phất Mục-liên Du Chư Quốc Kinh, một quyển (Cũng gọi tắt là Du Chư Tứ Vệ Kinh).

- Mục-liên Thượng Tịnh Cư Thiên Kinh, một quyển.

- Giải Vô Thường Kinh, một quyển.

- Thành Dụ Kinh, một quyển.

- Kỳ-xà-quật Sơn Giải Kinh, một quyển.

2. Kinh Tiểu Thừa mất tên người dịch: (316 bộ, 482 quyển).

- Tạp Thí Dụ Kinh, tám mươi quyển.

- Pháp Cú Thí Dụ Kinh, ba mươi tám quyển.

- Biệt Thích Tạp A-hàm Kinh, hai mươi quyển.

- Tạp Số Kinh, hai mươi quyển.

- Na Tiên Thí Dụ Kinh, bốn quyển.

Trường A-hàm Kinh, ba quyển.

Hứng Khởi Hành Kinh, hai quyển (một tên

Thập Duyên Kinh).

- Thập Nhị Nhân Duyên Kinh, hai quyển.

- Thái Tử Thí Nghệ Bản Khởi Kinh, hai quyển.

- Thiện Tín Thần Chú Kinh, hai quyển.

- Thiện Tín Nữ Kinh, hai quyển.

- Na Tiên Tỳ-kheo Kinh, hai quyển (hoặc một quyển).

- Nan-đề Thích Kinh, một quyển.

- Vô Cấu Ưu-bà-di Vấn Kinh, một quyển.

- Tạo Lập Hình Tượng Phước Báo Kinh, một quyển.

- Pháp Thường Trụ Kinh, một quyển.

- Ưu-điền Vương Kinh, một quyển (Cũng gọi Tác Phật Hình Tượng Kinh).

Giải Đãi Canh Giả Kinh, một quyển.

- A-nan Đắc Đạo Kinh, một quyển.

- A-nan Thất Mộng Kinh, một quyển.

- A-nan Bát-nê-hoàn Kinh, một quyển.

- Xá-lợi-phất Mục-liên Nê-hoàn Kinh, một quyển.

- Phật Nhập Niết-bàn Kim Cang Lực Sĩ Ai Luyến Kinh, một quyển.

- Ca-diếp Phó Phật Niết-bàn Kinh, một quyển (một tên là Phật Bát Niết-bàn Ca-diếp Phó Phật Kinh).

Phật Diệt Độ Hậu Quan Liễm Táng Tống

Kinh, một quyển (một tên Tỳ-kheo Sư Kinh, hoặc gọi Sư Tỳ-kheo Kinh).

- Quán Phật Kinh, một quyển.

- Ma-ha Sát-đầu Kinh, một quyển.

(Hai bộ kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- La Vân Nhẫn Kinh, một quyển (Cũng gọi là Nhẫn Nhục Kinh).

- Ngũ Thập Ngũ Pháp Giới Kinh, một quyển (một tên là Hành Kinh).

- Bát Pháp Hành Kinh, một quyển.

- Cấp Cô Độc Tứ Tánh Gia Vấn Ưng Thọ Thí Kinh, một quyển.

- Ưu-đọa-la Ca-diếp Kinh, một quyển.

- Xuất Gia Nhân Duyên Kinh, một quyển.

- Đệ Tử Bản Hạnh Kinh, một quyển.

- Tam Phẩm Đệ Tử Kinh, một quyển (một tên là Đệ Tử Học Hữu Tam Bối Kinh).

- Tứ Bộ Bản Văn Kinh, một quyển.

- Từ Bối Kinh, một quyển.

- Phật Vị Niên Thiếu Tỳ-kheo Thuyết Chánh Sự Kinh, một quyển.

- Kiến Chánh Kinh, một quyển (một tên là Sinh Tử Biến Thức Kinh).

Trưởng Giả Hiền Thủ Kinh, một quyển.

Hiền Giả Thủ Lực Kinh, một quyển.

Hà Điêu A-na-hàm Kinh, một quyển (một tên là Ha Điêu A-na-hàm Kinh).

- Thập Nhị Hiền Giả Kinh, một quyển (một tên Thập Nhị Hiền Kinh).

- Hữu Hiền Giả Pháp Kinh, một quyển.

- Ngũ Vô Phản Phúc Kinh, một quyển (Cũng gọi Phản Phúc Kinh).

- Tứ Phụ Nhân Duyên Kinh, một quyển.

- Ngũ Bách Bà-la-môn Vấn Hữu Vô Kinh, một quyển.

- Hắc Thị Phạm Chí Kinh, một quyển.

- Đạo Đức Quả Chứng Kinh, một quyển.

- Phát Ý Hướng Chánh Kinh, một quyển.

- Hiểu Sở Tránh Bất Giải Kinh Giải Kinh, một quyển.

- A-hàm Chánh Hạnh Kinh, một quyển (Cũng gọi Chánh Ý Kinh).

- Sa-môn Phân Vệ Kiến Quái Dị Kinh, một quyển.

- Ma-ha Giá Hạt Du Kinh, một quyển.

- Ngũ Khủng Bố Thế Kinh, một quyển.

- Ma-ha Quyết Di Nạn Vấn Kinh, một quyển (một tên Đại Quyết Di Kinh).

- Đại Ngư Sự Kinh, một quyển.

- Tâm Tình Tâm Thức Kinh, một quyển.

Thất Đạo Đắc Đạo Kinh, một quyển.

Át Đa Hoàn Kỳ Kinh, một quyển.

- Ngoại Đạo Dụ Chất-đa Trưởng Giả Kinh, một quyển.

- Phạm Ma Nạn Quốc Vương Kinh, một quyển.

- Phật Vị A-chi-la Ca-diếp Thuyết Tự Tha Tác Khổ Kinh, một quyển.

- Ma-ha Ca-diếp Độ Bần Mẫu Kinh, một quyển.

- Trung Tâm Kinh, một quyển.

- Ma Thí Phật Kinh, một quyển.

- Long Vương Huynh Đệ Kinh, một quyển (một tên là Hàng Long Vương Kinh, một tên là Nạn Long Vương Kinh).

- Ngoại Đạo Tiên Ni Thuyết Độ Kinh, một quyển.

- Sa Hạt Tỳ-kheo Công Đức Kinh, một quyển.

- Phật Vị Niên Thiếu Bà-la-môn Thuyết Tri Thiện Bất Thiện Kinh, một quyển.

- Phật Vị Câu-la Trưởng Giả Thuyết Căn Thục Kinh, một quyển.

- Kỳ Dị Đạo Gia Nạn Vấn Trụ Xứ Kinh, một quyển.

- Phật Thuyết Ngoại Đạo Thâm Nhiễm Thuyết Ly Dục Kinh, một quyển.

- Tu-ma-đề Trưởng Giả Kinh, một quyển.

- Trưởng Giả Nan-đề Kinh, một quyển.

Thập Nhị Phẩm Sinh Tử Kinh, một quyển.

- Niên Thiếu Vương Kinh, một quyển.

- Gián Vương Kinh, một quyển (Cũng gọi Đại Tiểu Gián Vương Kinh).

- Mạt-la Vương Kinh, một quyển.

- La-đề-chi Vương Kinh, một quyển (Cũng gọi La-đề Hiệp Vương Kinh).

- Ma-đạt Quốc Vương Kinh, một quyển.

- Phổ Đạt Vương Kinh, một quyển.

- Kiền-đà Quốc Vương Kinh, một quyển.

- Thiên Vương Há Tác Trư Kinh, một quyển.

- Kiên Tâm Chánh Ý Kinh, một quyển (Cũng gọi tắt Kiên Ý Kinh).

- Phật Đại Tăng Đại Kinh, một quyển.

- Da-kỳ Kinh, một quyển.

- Thập Nhị Đầu-đà Kinh, một quyển (một tên Sa-môn Đầu-đà Kinh).

- Mộc Hoạn Tử Kinh, một quyển.

- Tích Trượng Kinh, một quyển.

- Chiên-đàn Thọ Kinh, một quyển.

- Kỳ Dị Đạo Gia Nạn Vấn Pháp Bổn Kinh, một quyển.

- Bần Cùng Lão Công Kinh, một quyển (Hoặc không có chữ "Công").

- Trưởng Giả Tử Áo Não Tam Xứ Kinh, một quyển.

Việt Nạn Kinh, một quyển (hoặc viết chữ

"Viết").

- Chiên-đà Việt Quốc Vương Kinh, một quyển.

- Tự Ái Bất Tự Ái Kinh, một quyển (Cũng gọi gắt Tự Ái Kinh).

- Vô Thượng Xứ Kinh, một quyển.

- Luân Chuyển Ngũ Đạo Tội Phước Báo Ứng Kinh, một quyển.

- Lặc Khổ Nê-lê Kinh, một quyển (Cũng gọi tắt Nê-lê Kinh).

- Tội nghiệp Báo Ứng Giáo Hóa Địa Ngục Kinh, một quyển.

- Tăng Hộ Nhân Duyên Kinh, một quyển.

- Hộ Tịnh Kinh, một quyển.

- Thời Phi Thời Kinh, một quyển (Cũng gọi là Thời Kinh).

- Nhương Đức Kinh, một quyển.

- Thủy Tạo Dục Phật Thời Kinh, một quyển.

- Độ Phạm Chí Kinh, một quyển.

- Tân Tuế Kinh, một quyển (một tên tắt là Tấn Học Kinh).

- Duy Lưu Vương Kinh, một quyển (Cũng gọi tắt: Duy Lưu Kinh).

- Vị Tằng Hữu Kinh, một quyển.

- Chư Đại Địa Ngục Quả Báo Kinh, một quyển.

Tội Nghiệp Báo Ứng Kinh, một quyển.

- Tam Tiểu Khiếp kinh, một quyển.

- Khuyến Tấn Học Đạo Kinh, một quyển (Cũng gọi tắt Tấn Học Kinh).

- Quán Thân Cửu Đạo Kinh, một quyển.

- Bát Tổng Trì Kinh, một quyển.

- Thiền Tử Mãn Túc Kinh, một quyển.

- Bát Chánh Bát Tà Kinh, một quyển.

- Đại Xà Thí Dụ Kinh, một quyển.

- Thuyết A-nan Trì Giới Kinh, một quyển (cũng gọi A-nan Thọ Trì Kinh).

- A-nan Vấn Hà Nhân Duyên Trì Giới Kiến Thế Gian Bần Thị Hiện Đạo Bần Kinh, một quyển.

- Quỷ Tử Mẫu Kinh, một quyển.

- Thập Thiện Thập Ác Kinh, một quyển (Cũng gọi là Bần Phú Thiện Ác Sở Khởi Kinh).

- Duy Lâu Vương Sư Tử Chúng Thí Dụ Kinh, một quyển.

- Điều-đạt Kinh, một quyển (Cũng gọi Điều-đạt Dụ Kinh).

- Ma-ha Kiền-đà Kinh, một quyển (Cũng gọi Tận Tín Tỳ-kheo Kinh).

- Mục-liên Vấn Kinh, một quyển.

- Ma-ha Mục-liên Dữ Phật Giác Năng Kinh, một quyển.

- Xá-lợi-phất Thán Độ Nữ Kinh, một quyển.

Thọ-đề-già Kinh, một quyển.

- Đọa-ca Kinh, một quyển.

- Ngũ Vương Kinh, một quyển.

- Giải huệ Vi Diệu Kinh, một quyển.

- Bát Đại Nhân Giác Chương Kinh, một quyển.

- Ngũ Phương Tiện Kinh, một quyển.

- Đệ Tử Tử Phục Sinh Kinh, một quyển.

- Tu-đa-la Nhập Thai Kinh, một quyển.

- Đọa Lạc Ưu-bà-tắc Kinh, một quyển.

- La-hán Ca-lưu-đà Di Kinh, một quyển.

- La-hán Ngộ Bình Sa Vương Kinh, một quyển.

- Nhị Thập Bát Thiên Kinh, một quyển.

- Vị Thọ Tận Thiên Tử Thuyết Pháp Kinh, một quyển (cũng gọi Mạng Tận Thiên Tử Kinh).

- A-cưu-lưu Kinh, một quyển.

- Dữu-già Tam Ma Tư Kinh, một quyển.

- A-xà-thế Vương Vấn Sân Hận Tùng Hà Sinh Kinh, một quyển.

- Vi-đề-hy Tử Nguyệt Dạ Vấn Phu Nhân Kinh, một quyển.

- Ái Dục Thinh Kinh, một quyển (Cũng gọi Ái Dục Nhất Thinh Kinh).

- Thuyết Thiện Ác Đạo Kinh, một quyển.

- Độ Thế Hộ Thân Kinh, một quyển.

- Trảo Giáp Thủ Thổ Kinh, một quyển (một tên là Trảo Đầu Thổ Kinh, một tên là Trảo Giáp Kình

Thổ Thí Kinh).

- Ca Đinh Tỳ-kheo Thuyết Đương Lai Biến Kinh, một quyển.

- Đọa Thích-ca Mục Ngưu Kinh, một quyển.

- Phật Bản Hạnh Kinh, một quyển.

- Tự Kiến Tự Tri Vi Tri Vi Năng Tận Kiết Kinh, một quyển.

- Hữu Tứ Cầu Kinh, một quyển.

- Tiện Hiền Giả Khanh Kinh, một quyển (hoặc viết chữ "Chiên").

- Lưỡng Tỳ-kheo Đắc Cát Kinh một quyển.

- Sở Phi Nhữ Sở Kinh, một quyển.

- Đạo Đức Xá-lợi Nhật Kinh, một quyển.

- Xá Lợi Nhật Tại Vương Xá Quốc Kinh, một quyển.

- Độc Cư Tư Duy Niệm Chỉ Kinh, một quyển.-Vấn Sở Minh Chủng Kinh, một quyển.

- Dục Tùng Bản Tướng Hữu Kinh, một quyển (Cũng gọi Dục Tùng Bản Kinh).

- Độc Tọa Tư Duy Ý Trung Sinh Niệm Kinh, một quyển.

- Như Thị Hữu Chữ Tỳ-kheo Kinh, một quyển.

- Tỳ-kheo Sở Cầu Sắc Kinh, một quyển.

- Sắc Vi Phi Thường Niệm Kinh, một quyển.

- Sắc Tỳ-kheo Niệm Bản Khởi Kinh, một quyển.

Tỳ-kheo Nhất Pháp Tương Tục Kinh, một quyển.

- Thiện Ác Ý Kinh, một quyển.

- Hữu Nhị Lực Bản Kinh, một quyển.

- Hữu Tam Lực Kinh, một quyển.

- Hữu Tứ Lực Kinh, một quyển.

- Hữu Ngũ Lực Kinh, một quyển.

- Đạo Hữu Tỳ-kheo Kinh, một quyển.

- Bất Văn Giả Loại Tương Tụ Kinh, một quyển.

- Vô Thượng Thích Vị Cố Thế Tại Nhân Trung Kinh, một quyển.

- Thân Vi Vô Hữu Phản Phúc Kinh, một quyển.

- Sư Tử Súc Sinh Vương Kinh, một quyển.

- A-tu-luận Tử Bà-la-môn Kinh, một quyển.

- Bà-la-môn Tử Danh Bất Xâm Kinh, một quyển.

- Sinh Văn Bà-la-môn Kinh, một quyển (Cũng gọi Sinh Môn Phạm Chí Kinh).

- Hữu Lục Kiệt Kinh, một quyển.

- Thự Đỗ Thừa Bà-la-môn Kinh, một quyển.

- Phật Tại Câu-tát-la Quốc Kinh, một quyển.

- Phật Tại Ưu-điền Quốc Kinh, một quyển.-Thị Thời Tự Phạm Thủ Kinh, một quyển.

Bà-la-môn Bất Tín Trọng Kinh, một quyển.

Phật Cáo Xá Viết Kinh, một quyển.

Thuyết Nhân Tự Thuyết Nhân Cốt Bất Trí Hũ Kinh, một quyển.

- Chiên-đàn Điều Phật Kinh, một quyển.

- Ác Nhân Kinh, một quyển.

- Nan-đề-hòa-nan Kinh, một quyển (Cũng gọi Nan-đề-hòa-la Kinh).

- Tứ Tánh Trưởng Giả Nạn Kinh, một quyển (Cũng gọi là Tứ Tánh Trưởng Giả Kinh).

- Tích Phật Kinh, một quyển.

- A-nan Đẳng Các Đệ Nhất Kinh, một quyển (Cũng gọi là A-nan, Ca-diếp, Xá-lợi-phất Đẳng Các Thuyết Đệ Nhất Kinh).

- Lý Gia Nạn Kinh, một quyển.

- Ca-lưu-đa Vương Kinh, một quyển.

- Phạm Chí Xà Tôn Kinh, một quyển.

- Ba-đạt Vương Kinh, một quyển.

- Bi Tâm Ấp Ấp Kinh, một quyển.

- Thú Độ Thế Đạo Kinh, một quyển.

- Tát-hòa-đạt Vương Kinh, một quyển.

- Si Chú Kinh, một quyển.

- Hòa-đạt Kinh, một quyển.

- Phân Bát Xá-lợi Kinh, một quyển.

- Tất-đàm Mộ Kinh, một quyển.

- Bát-khư-sa Kinh, một quyển.

Cáo Pháp Nghiệm Kinh, một quyển.

Bình Sa Vương Kinh, một quyển.

Hữu Vô Kinh, một quyển.

Tu-da Việt Quốc Bần Nhân Kinh, một quyển (một tên là Tu-da Việt Quốc Bần Nhân Mậu Biệt Đầu Kinh).

- Phôi Dụ Kinh, một quyển.

- Yêu Quái Kinh, một quyển.

- A-bát-kế Nê-hoàn Kinh, một quyển (một tên Chu-xạ-kế Nê-hoàn Kinh).

- Tứ Phi Thường Kinh, một quyển.

- Ngũ Thất Cái Kinh, một quyển.

- Yếu Chân Kinh, một quyển.

- Bổn Vô Kinh, một quyển.

- Thập Ngũ Đức Kinh, một quyển.

- Phụ Mẫu Nhân Duyên Kinh, một quyển.

- Kim Luân Vương Kinh, một quyển.

- Huệ Hạnh Kinh, một quyển.

- Vị Sinh Oán Kinh, một quyển.

- Nội Ngoại Vô Vi Kinh, một quyển.

- Đạo Tịnh Kinh, một quyển.

- Thất Sự Bản Mạt Kinh, một quyển (một tên Thất Sự Hành Bản Kinh).

- Kỳ Vực Tứ Thuật Kinh, một quyển.

- Ngũ Cái Ly Nghi Kinh, một quyển.

- Thái Tử Trí Chỉ Kinh, một quyển. Khổ Tướng Kinh, một quyển.

Tu Phật Đắc Độ Kinh, một quyển.

Do Kinh, một quyển.

Phân Nhiên Hoàn Quốc Ca-la Việt Kinh, một quyển.

- Nghĩa Quyết Pháp Sự Kinh, một quyển.

- Âu Hòa Thất Ngôn Thiền Lợi Kinh, một quyển.

- Tam Thất Cái Kinh, một quyển.

- Vương xá Thành Linh Thứu Sơn Yếu Trực Kinh, một quyển.

- Tư Đạo Kinh, một quyển.

- Phật Tại Trúc Viên Kinh, một quyển.

- Pháp Vi Nhân Kinh, một quyển.

- Đạo Ý Kinh, một quyển.

- Đà Hiền Vương Kinh, một quyển.

- A-di Tỳ-kheo Kinh, một quyển.

- Tỳ-kheo Tam Sự Kinh, một quyển.

- Ngũ Mẫu Tử Kinh, một quyển.

- Sa-di-la kinh, một quyển.

(Hai bộ Kinh sau đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Ngọc-da Kinh, một quyển (một tên là Trưởng

Giả Nghệ Phật Thuyết Tử Phụ Bất Cung Kính Kinh, một tên là Thất Phụ Kinh).

- A-thấu-đạt Kinh, một quyển.

(Hai bộ Kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

Quán Lạp Kinh, một quyển (một tên Bát-nê-hoàn Hậu Tứ Bối Quán Lạp Kinh).

- Vu-lan Bồn Kinh, một quyển.

- Báo Ấn Phụng Bồn Kinh, một quyển.

(Ba bộ Kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Ma Đăng Nữ Kinh, một quyển (một tên Ma Đặng Nữ Kinh, một tên là A-nan Vị Cổ Đạo Sở Chú Kinh).

- Ma Đăng Nữ Giải Hình Trung Lục Sự Kinh, một quyển. (Hai bộ Kinh trên đồng bản, khác người dịch, khác tên).

- Đạo Địa Trung Yếu Ngữ Chương Kinh, một quyển.

- An Ban Hành Đạo Kinh, một quyển.

- Đạo Đức Chương Kinh, một quyển.

- Phật Bổn Ký Kinh, một quyển.

- Khẩu Truyền Kiếp Khởi Tận Kinh, một quyển.

- Phụ Tử Nhân Duyên Kinh, một quyển.

- Lư Chí Trưởng Giả Kinh, một quyển.

- Đăng Chỉ Nhân Duyên Kinh, một quyển.

- Ưu-ba-tư-na Ưu-ba-di Kinh, một quyển.

- Đát-hòa-ni Bách Cư Kinh, một quyển.

- Thế Gian Trân Bảo Kinh, một quyển (một tên là Thế Gian Sở Vọng Trân Bảo Kinh).

Xứ Xứ Kinh, một quyển.

Thập Bát-nê-lê Kinh, một quyển.

Mạn Pháp Kinh, một quyển.

Phân Minh Tội Phước Kinh, một quyển.

Địa Ngục Kinh, một quyển.

- Suy Lợi Kinh, một quyển.

- Bát Phương Vạn Vật Vô Thường Kinh, một quyển.

- Lục Suy Sự Kinh, một quyển.

- Đệ Tử Sự Phật Cát Hung Kinh, một quyển.

- Thủ Chí Vấn Phật Thập Tứ Sự Kinh, một quyển.

- Hiếu Tử Báo Ân Kinh, một quyển (hoặc gọi tắt Hiếu Tử Kinh).

- Thập Bát Nạn Kinh, một quyển.-Tam Độc Sự Kinh, một quyển.

- Quần Sinh Kệ Kinh, một quyển.

- Thập Nhị Nhân Duyên Chương Kinh, một quyển.

- Bách Bát Ái Kinh, một quyển.

- Thất Lậu Kinh, một quyển.

- Ngũ Thập Nhị Chương Kinh, một quyển.

- Tam Giới Nhân Thiên Thân Lượng Cập Thọ Kinh, một quyển.

- Thiên Địa Tượng Kinh, một quyển (Cũng gọi là Chư Thiên Kinh).

Độ Lượng Thiên Địa Kinh, một quyển.

Lược Thuyết Thiền Yếu Cú Kinh, một quyển.

Pháp Quán Kinh, một quyển.

Chỉ Tự Trung Kinh, một quyển.

Thiền Pháp Kinh, một quyển.

- A-na-luật Niệm Phục Sinh Kinh, một quyển.

- A-na-luật Thất Niệm Chương Kinh, một quyển.

- Thiền Số Kinh, một quyển.

- Trị Thiền Quỷ Mị Bất An Kinh, một quyển.

- Thiền Định Phương Tiện Thứ Đệ Pháp Kinh, một quyển.

- Tiểu Đạo Địa Kinh, một quyển.

- Sổ Túc Sự Kinh, một quyển.

- Thâm Tức Tri Thân Kệ Kinh, một quyển.

- Thiền Kinh Kệ, một quyển.

- Nội Thân Quán Chương Kinh, một quyển.

- Sổ Luyện Ý Chương Kinh, một quyển.-Thọ Thực Tư Duy Kinh một quyển.

- Nội Thiền Ba-la-mật Kinh, một quyển.

- Thập Nhị Môn Thiền Kinh, một quyển.

- Hình Tật Tam Phẩm Phong Kinh, một quyển.

- Phật Trị Ý Kinh, một quyển.

- Thân Tướng Kinh, một quyển.

- Thiền Yếu Ha Dục Phẩm Kinh, một quyển.

- Minh Thức Đế Quán Kinh, một quyển.

- Ngũ Khổ Chương Cú Kinh, một quyển.

Ngũ Trược Kinh, một quyển.

Hung Hữu Vạn Tự Kinh, một quyển.

Pháp Diệt Tận Kinh, một quyển.

Bần Nữ Nan-đà Kinh, một quyển.

- Định Hành Tam-muội Kinh, một quyển (một tên là Ma Mục-liên Vấn Kinh).

- Ngũ Long Hối Quá Hộ Pháp Kinh, một quyển (một tên là Không huệ Hối Quá Kinh, cũng gọi Ngũ Long Hối Quá Kinh).

- Tối Diệu Thắng Định Kinh, một quyển.

- Tướng Quốc A-la-ha Kinh, một quyển.

- Cứu Hộ Thân Mạng Tế Nhân Bệnh Khổ Ách Kinh, một quyển.

- A-thu-na Tam-muội Kinh, một quyển.

- Chú Kim Tượng Kinh, một quyển.

- Tứ Thân Kinh, một quyển.

II. Luật Tiểu Thừa (Tỳ-ni).

1. Luật Tiểu Thừa có tên người dịch: soạn (39 bộ, 285 quyển)

- Thập Tụng Luật, sáu mươi mốt quyển.

- Thập Tụng Luật, năm mươi chín quyển.

(Hai bộ Luật trên đồng bản tiếng Phạm, khác người dịch, khác tên).

Tứ Phần Luật, sáu mươi quyển.

Ma-ha Tăng-kỳ Luật, bốn mươi quyển.

Ngũ Phần Luật, ba mươi quyển.

Giải Thoát Luật, hai mươi hai quyển.

Thiện Kiến Luật Tỳ-bà-sa, mười tám quyển.

Tỳ-nại-da, mười quyển.

- Ma Đức Lặc-già, mười quyển.

- Di Giáo Pháp Luật Tam-muội Kinh, hai quyển.

- Thập Tụng Luật Thích Tạp Sự Vấn, hai quyển.

- Quyết Chánh Chư Bộ Tỳ Ni, hai quyển.

- Thập Tụng Tăng Ni Yết Sự Yết-ma, hai quyển.

- Tạp Vấn Luật Sự, hai quyển.

- Phật Lâm Bát-niết-bàn Lược Thuyết Di Giáo Giới Kinh, một quyển.

- Thập Tụng Tăng Giới Bản, một quyển.

- Thập Tụng Yết-ma Tạp Sự Tinh Yếu, một quyển.

- Tăng-kỳ Tỳ-kheo Giới Bản, một quyển.

- Tăng-kỳ Tỳ-kheo-ni Giới Bản, một quyển.

- Tăng-kỳ Tạp Yết-ma Pháp, một quyển.

- Tứ Phần Tăng Giới Bản, một quyển.

- Tứ Phần Ni Giới Bản, một quyển.

- Tứ Phần Tạp Yết-ma, một quyển.

Ngũ Phần Tăng Giới Bản, một quyển.

Ngũ Phần Ni Giới Bản, một quyển.

Ngũ Phần Yết-ma Pháp, một quyển.

Giải Thoát Giới Bản, một quyển.

Sa-di Oai Nghi, một quyển.

Tam Phẩm Hối Quá Pháp, một quyển.

- Giới Cụ Kinh, một quyển.

- Ưu-bà-tắc Ngũ Giới Tướng, một quyển.

- Kinh Luật Phần Dị Ký, một quyển.

- Tỳ-kheo Nhị Bách Ngũ Thập Giới Tam Bộ Họp Dị, một quyển.

- Tam Thừa Vô Đương Luật, một quyển.

- Tỳ-kheo Chư Cấm Luật, một quyển.

- Tứ Bộ Luật Sở Minh Khinh Trọng Vật Danh, một quyển.

- Tỳ-kheo Giới Bổn Sở Xuất Bản Mạt, một quyển.

- Chư Luật Giải, một quyển.

- Nhị Bách Ngũ Thập Giới Kinh, một quyển.

- Y Phục Chế Pháp, một quyển.

- Kiến Chùy Pháp, một quyển.

2. Luật Tiểu Thừa mất tên người dịch: (31 bộ, 67 quyển).

- Tỳ-ni Mẫu, tám quyển.

- Xuất Luật Nghi Yếu, hai mươi hai quyển.

Tát-bà-đa Tỳ-ni Tỳ-bà-sa, tám quyển.

Đại Tỳ-kheo Oai Nghi Kinh, một quyển.

Đại Ái Đạo Tỳ-kheo-ni Kinh, hai quyển.

Ma-ha Tỳ-kheo Kinh, một quyển (cũng gọi:

Chân Ngụy Sa-môn Kinh).

- Ca-diếp Cấm Giới Kinh, một quyển.

- Xá-lợi-phất Vấn Kinh, một quyển.

- Ưu-ba-ly Vấn Kinh, một quyển.

- Ưng Hành Luật Kinh, một quyển.

- Giới Tiêu Tai Kinh, một quyển.

- Phạm Giới Tội Báo Khinh Trọng Kinh, một quyển (cũng gọi là Phạm Tội Kinh).

- Đại Sa-môn Yết-ma, một quyển.

- Đại Giới Kinh, một quyển.

- Tỳ-kheo Ba-la-đề-mộc-xoa, một quyển.

- Dị Xuất Tỳ-kheo Oai Nghi Kinh, một quyển.

- Sa-di Oai Nghi Kinh, một quyển.

- Sa-di-ni Thập Giới Kinh, một quyển.

- Sa-di Ly Giới Kinh, một quyển.

- Sa-di Ly Oai Nghi Kinh, một quyển.

- Ngũ Bộ Oai Nghi Sở Phục Kinh, một quyển.

- Oai Nghi Kinh, một quyển.

- Ưu-bà-tắc Ngũ Giới Kinh, một quyển.

- Ưu-bà-tắc Ngũ Pháp Kinh, một quyển.

- Ưu-bà-tắc Oai Nghi Kinh, một quyển.

- Đạo Bản Ngũ Giới Kinh, một quyển.

- Lục Trai Bát Giới Kinh, một quyển.

Ngũ Giới Báo Ứng Kinh, một quyển.

Hiền Giả Ngũ Giới Kinh, một quyển.

Hiền Giả Oai Nghi Kinh, một quyển.

III. Luận Tiểu thừa (A-tỳ-đàm).

1. Luận Tiểu Thừa có tên người soạn: gồm hai mươi mốt bộ, ba trăm năm mươi mốt quyển.

- A-tỳ-đàm Tỳ-bà-sa, một trăm lẻ chín quyển (hoặc sáu mươi, hoặc tám mươi tư quyển).

- Ca-chiên-diên A-tỳ-đàm Bát-kiền-độ, ba mươi quyển.

- Xá-lợi-phất A-tỳ-đàm, ba mươi quyển.

- Thành Thật Luận, hai mươi bốn quyển.

- Câu-xá Thích Luận, hai mươi hai quyển.

- Xuất Diệu Luận, mười chín quyển.

- A-tỳ-đàm Tâm Luận, mười sáu quyển.

- Câu-xá Luận Bản, mười sáu quyển.

- Tỳ-bà-sa A-tỳ-đàm, mười bốn quyển.

- Tạp A-tỳ-đàm Tỳ-bà-sa, mười bốn quyển.

- Tạp A-tỳ-đàm Tâm, mười ba quyển.

- A-tỳ-đàm Tâm, mười ba quyển.

- Tạp Tâm, mười một quyển.

(Bốn bộ Luận trên đồng bản, khác người dịch, rộng hẹp khác nhau).

- Giải Thoát Đạo Luận, mười ba quyển.

- Bà-tu-mật Luận, mười quyển.

Lập Thế A-tỳ-đàm, mười quyển.

Pháp Thắng A-tỳ-đàm, bảy quyển.

A-tỳ-đàm Tâm, năm quyển.

- A-tỳ-đàm Tâm, bốn quyển.

(Hai bộ Luận trên đồng bản, khác người dịch, rộng hẹp khác nhau).

- Tứ Đế Luận, bốn quyển.

- Tam Pháp Độ Luận, ba quyển (dịch lại)-Kim Thất Thập Luận, hai quyển.

- Câu-xá Luận Kệ, một quyển.

- Minh Liễu Luận, một quyển.

- Di Giáo Luận, một quyển.

2. Luận Tiểu Thừa mất tên người soạn dịch: (mười bộ, hai mươi bảy quyển).

- Chúng Sự Phần A-tỳ-đàm, mười hai quyển.

- Tam Di Để Luận, bốn quyển.

- Cam Lồ Vị A-tỳ-đàm, hai quyển.

- Phân Biệt Công Đức Luận, ba quyển.

- Bích Chi Phật Nhân Duyên Luận, một quyển.

- Lục Túc A-tỳ-đàm, một quyển.

- Thập Lục Vô Lậu Tâm Giải, một quyển.

- Thập Báo Pháp Tâm Thống Lược, một quyển.-Đoạn Thập Nhị Nhân Duyên Giải, một quyển.

- Chỉ Giải, một quyển.

QUYỂN 15

Hạ thần, Phí Trường Phòng kính tâu: Hạ thần thường nghe người có công với nước thì được sách sử chép công. Ai chính sách tốt với dân thì bia truyện ghi đức. Huống là việc Như Lai Đại Thánh giáo hóa vô cùng mà không có những tốt đẹp để trăm vua nêu danh thơm muôn thuở ư? Hạ thần đã xét qua từ thời Hán Ngụy đến nay, đời nào cũng có phiên dịch, nhưng sách ghi chép thì tản mát như sao. Kinh sách phần lớn đều mất lai lịch, vì ở đời hiếm người tiếp nối sửa sang đến nỗi phải bị mất dấu. Do đó Đức Phật giao phó chánh pháp cho các quốc vương. Thế mới biết Phật pháp hưng thịnh là nhờ các vua chúa. Cúi mong Bệ hạ nên nhân lúc trị vì mà nhận lãnh lời ủy thác của Như Lai, nối nghiệp Luân vương, thống lãnh cõi Diêm-phù-đề, thương xót thế gian tăm tối mà giương cao ánh huệ nhật, sao chép, tô vẻ kinh tượng, xây cất chùa tháp để mở rộng cửa giải thoát, dắt dẫn hàng Thiên nhân, chống thuyền Từ cứu vớt quần sinh. Đây mới thật là một đời hưng thạnh hiếm có xưa nay vậy!

Thần nào dám khinh thường dối thuật. Nhưng lúc xưa, ở thời diệt pháp thì thần còn là người tục nay Phật pháp đã hưng thịnh thì liền được dự ngày hàng Pháp lữ. Các việc thời ấy thần đã từng giao tiếp hoặc thấy nghe, nay nhân đó viết ra lịch sử Phật pháp qua các thời đại. Bắt đầu kể từ đời Cơ Chu Trang Vương ngày năm Giáp Ngọ thì Phật giáng sinh ở Tây Vức. Đến năm Đinh Mão niên hiệu Vĩnh Bình của đời Minh Hoàng thời Hậu Hán, thì Kinh pháp được truyền sang Đông Độ. Đến nay là năm Đinh Tỵ, niên hiệu Khai Hoàng, trải suốt một ngàn hai trăm bảy mươi bốn năm, trong khoảng thời gian trên, tất cả mọi việc như các điềm linh ứng của các vua chúa, các danh Tăng đều trình bày rõ ràng trong bộ Khai Hoàng Tam Bảo Lục, gồm mười lăm quyển. Ngõ hầu pháp không ẩn lấp, kinh được hoằng truyền, không nệ chút lòng hèn sợ sệt, run rẩy, mạo muội dâng biểu, kính trình sách chép các điều đã nghe thấy. Cúi mong Đấng Thiên Từ sáng suốt soi xét cho. Kính lời.

Chùa Đại hưng thiện, ngày 23 tháng 12, năm Khai Hoàng thứ mười bảy. Kẻ Hạ thần là Phiên kinh học sĩ thành đô, Phí Trường Phòng kính dâng.

BỘ LỜI TỰA KHAI HOÀNG TAM BẢO LỤC TỔNG MỤC

Trộm nghĩ rằng: Ân đức của Tam bảo đều thắm nhuần khắp bốn loài, nhưng Đời có lúc hưng lúc suy. Khiến người phải nhiều nỗi thăng trầm. Khi hưng thịnh thì luôn chiêu cảm phước nghiệp được làm trời ở thiên đường hoặc bậc Luân vương hay vua chúa, lúc suy vong thì thường thọ tội báo ở địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Luận về lợi ích sâu xa cho muôn loài thì không gì hơn giáo pháp. Bởi vì sao, vì pháp là mẹ của Phật, Phật từ pháp sinh ra. Cả ba đời Như Lai đều cúng dường pháp. Nên kinh Thắng Thiên Vương Bát-nhã có nói: "Nếu ai cúng dường Pháp tức cúng dường Phật. Thế mới biết dòng giáo pháp luôn truyền mãi đến muôn đời, còn Phật và Tăng thì chỉ hoằng đạo giúp ích trong một thuở. Cho nên Hiền kiếp hưng thịnh mà cả ngàn Phật cùng giáo hóa. Nói về tuổi thọ ngắn dài thì bốn tháng ở đời có khác. Tuy sống trên đời lâu mau khác nhau, nhưng việc tuyên dương hoằng pháp đều giống, vì tất cả đều làm khô cạn bể ái dục, cứu loài hàm thức cũng đến Niết-bàn, và đục tan núi Kiêu mạn, độ muôn dân để cùng về Bát-nhã. Nhưng Bát-nhã rất sâu kín lặng lẽ, nếu không nhân tiếng thì khó thể thông suốt, mà tiếng ắt phải nhờ hình, vì không nhờ hình tướng thì không do đâu mà hiểu rõ được. Do đó cảnh này đáng gọi là cõi Nhẫn tính chung cả trăm ức núi Tu-di. Đời gọi là Ta-bà bao gồm tới ba ngàn quốc độ. Về cõi thì phân ra ba cõi năm trược đất cát dơ bẩn, về hình thì gồm sáu đạo, hai thừa xe dê nai thô lậu. Đức Phật Từ bi thương xót hóa thân trượng sáu, dung nhan đẹp đẽ đủ ba mươi hai tướng làm Thái tử chốn vương cung nước Ca-tỳ-la-vệ, mười chín tuổi xuất gia, ba mươi tuổi thành đạo, bốn mươi chín năm châu thế gian mượn thanh âm phương tiện giảng nói pháp Vô nhiễm, Kim khẩu tự tuyên nói một thứ âm thanh mà muôn loài đều hiểu. Cơ duyên không phải một nên giáo pháp nhiều như trần sa. Ngài A-nan ghi nhớ đầy đủ không sót một câu, chữ nào, như chế nước từ bình ngày ly. Dước tàng cây Song thọ ngài nhập Niết-bàn. Tại thành vua, ngài Ca-diếp kết tập kinh điển, có cả ngàn vị La-hán thay nhau xét chọn và ghi chép trên lá Bối, trên da thú hoặc vải lụa ở Thiên Trúc, năm trăm nước cùng phụng trì, mười sáu đại vương đồng ủng hộ.

Sau đó giáo pháp truyền đến Trung Quốc đầu tiên ngày đời Hậu Hán, các vua nối tiếp nhau mười đời, sáu đời tham dự phụng thờ và dịch từ tiếng Phạm thành tiếng Trung Quốc, tiếp nối nhau đến nay hơn năm trăm năm. Hai sách ghi chép mục lục xưa đều lạc mất, ngài Sĩ hành Đạo An phải soạn lại. Từ đó đến nay có nhiều tổ phái ghi chép dịch thuật không giống nhau, vì mỗi nơi chỉ ghi cái thấy riêng của mình. Cả ba góc kia cách biệt nhau nên khiến có nhiều kinh sai lầm hoặc còn nghi. Lại ở các đời Tề, Chu, Trần đều có phiên dịch nhưng không ghi chép mục lục, cũng không tuân hành mà lại còn đốt phá kinh tượng làm mất chỗ y cứ. Nay nhờ vua ta, duy trì trời đất, lắng yên lưỡng nghi, định yên Lục hợp, vạn quốc đều chầu về, thống lãnh chín châu, phiên dịch kinh sách tất cả đều khế hợp. Thần may mắn gặp thời bình yên thịnh trị, lại được tham dự việc phiên dịch lời Phật dạy. Viết dịch khi rảnh rỗi quên ăn bỏ ngủ suốt hơn mười năm, tìm hỏi người già, sưu tấm thu thập. Dù mới soạn qua vẫn sợ chưa tròn, nên lại phải càng khảo sát rộng rãi với các bậc anh tài đáng kính. Nay biên soạn tóm tắt thành ba bộ dùng làm chỉ nam, trình bày rõ về Tam bảo. Nói về điềm lành năm Phật giáng sinh thì căn cứ ngày đêm sáng nhà Chu, nói về điềm kinh pháp truyền sang thì dựa ngày giấc mộng của nhà Hán. Chư tăng là những người đứng đầu làm hào thành rường, cột để giúp khen ánh Quang Huy, sùng kính đuốc huệ sáng. Ngoài ra còn góp nhặt các niên dịch của các vị ẩn cư, những ghi chép về sự kiện đất nước tập ký của ngài Tăng Hựu và các sử truyền khác… tính ra có hơn mấy mươi nhà, trích lấy cái tinh yếu hay đẹp của họ mà tạo nên quyển sách này để quạt lên ngọn gió muôn thuở đối với hàng vua chúa, khiến họ cùng cầm đuốc trí sáng rọi ngày đêm tối, cùng khơi dòng nước pháp để thấm đượm ngày cõi đời cháy bỏng. Mở lớn ý vua ta lấp đầy chỗ thiếu trước. Các kinh sách kết tập thuở xưa đều có chỉ rõ ở kinh thành nào. Nay các công trình phiên dịch cũng phải ghi rõ gốc gác và thời đại, từ tính chất đó Bản lục này đặt tên là Hán Ngụy Ngô Đại Tùy Lục. Về các tác phẩm mất tên người dịch hoặc còn nghi là ngụy tạo thì dựa theo ghi chú của người xưa. Lấy năm tháng làm đầu. Kinh thì lấy Đại rồi đến thứ có loại sắp xếp lại cũng theo thế thường gom chung cả kẻ Hoa người Phạm, người Đạo kẻ tục thì tất cả một trăm chín mươi bảy vị. Còn số Kinh, Luật, Giới Luận, Truyện được dịch soạn ra... tính chung là hai ngàn một trăm bốn mươi sáu bộ, sáu ngàn hai trăm ba mươi lăm quyển. Bộ Lục này gồm mười lăm quyển xếp thứ tự như sau: Một quyển Tổng mục, hai quyển Nhập tạng, ba quyển ghi chép các đời vua, chín quyển ghi các niên đại. Theo niên đại để ghi chép số kinh được soạn dịch ra nhiều ít. Ghi các đời vua để rõ cách Phật gần xa. Nhập Tạng để phân biệt giáo pháp Đại và Tiểu thừa sâu cạn khác nhau. Thuở xưa đời Cơ Chu đỉnh chìm xuất hiện để nêu rõ việc nhà Hán sắp thịnh. Nói Phật Pháp bị nhà Hậu Chu hủy diệt rồi lại được trùng hưng là để chứng tỏ rằng nhà Đại Tùy rồi sẽ rạng rỡ, Phật nhật lại sáng soi.

Bắt đầu từ năm Đại Hưng thì kinh luận đã âm thầm truyền ngày và rầm rộ nhất là ngày đầu năm Khai Hoàng. Sự Lý hòa hợp, do đó càng phát đạt, nên việc ghi chép nhờ đấy mà có. Bên ngoài có tên là Khai Hoàng Tam Bảo Lục vì nội dung chính thật là Lịch Đại Kỷ.

KHAI HOÀNG TAM BẢO LỤC-Quyển 1

Nói về các đời vua Chu và Tần, gồm hai mươi sáu vua trị vì suốt bốn trăm tám mươi mốt năm.

KHAI HOÀNG TAM BẢO LỤC-Quyển 2

Nói về các đời vua Tiền Hán, Tân Vương và Hậu Hán, gồm có hai mươi sáu vua, trị vì suốt bốn trăm mười bốn năm.

KHAI HOÀNG TAM BẢO LỤC-Quyển 3

Nói về các đời vua Ngụy, Tấn, Tống Tề, Lương, Chu. Đại Tùy.

Gồm bốn mươi lăm vua trị vì suốt 381 năm.

KHAI HOÀNG TAM BẢO LỤC-Quyển 4

* Đời Hậu Hán: Số người dịch kinh đời Hậu Hán tất cả mười hai Vị và dịch được ba trăm năm mươi chín bộ, gồm năm trăm bảy mươi lăm quyển như sau:

Sa-môn Ca-diếp Ma-đằng, một bộ, một quyển kinh. Sa-môn Trúc Pháp Lan, năm bộ mười sáu quyển kinh.

Sa-môn An Thế Cao, một trăm bảy mươi sáu bộ, một trăm chín mươi bảy quyển kinh, luật.

Sa-môn Chi-lâu-ca Sấm, hai mươi mốt bộ, sáu mươi ba quyển kinh.

Ưu-bà-tắc, Đô Úy An Huyền, hai bộ, ba quyển kinh. Sa-môn Trúc Phật Sóc, hai bộ, ba quyển kinh.

Sa-môn Chi Diệu mười một bộ, mười hai quyển kinh. Sa-môn Khang Cự, một bộ, một quyển kinh.

Thanh tín sĩ Nghiêm Phật Điều, bảy bộ, mười quyển kinh. Sa-môn Khang Mạnh Tường, sáu bộ, chín quyển kinh.

Sa-môn Thích Đàm Quả, một bộ, hai quyển kinh. Sa-môn Trúc Đại Lực, một bộ, hai quyển kinh.

-Các kinh mất tên người dịch một trăm hai mươi lăm bộ, hai trăm năm mươi chín quyển kinh, chú.

KHAI HOÀNG TAM BẢO LỤC-Quyển 5

Số người dịch kinh đời Ngụy, Ngô cả Đạo Tục mười vị dịch được ba trăm bảy mươi mốt bộ, năm trăm lẻ sáu quyển kinh, như sau:

* Đời Ngụy:

Sa-môn Đàm-kha-ca-la, một bộ, một quyển giới. Sa-môn Khang Tăng Khải hai bộ, bốn quyển kinh. Sa-môn Đàm Đế, một bộ, một quyển Yết-ma.

Sa-môn Bạch Diên sáu bộ, tám quyển kinh.

Sa-môn Chi Cương Lương Tiếp một bộ, sáu quyển kinh. Sa-môn An Pháp Hiền hai bộ, năm quyển Kinh

* Đời Ngô:

Sa-môn Duy Kỳ Nan hai bộ, sáu quyển kinh.

Sa-môn Trúc Luật Viêm ba bộ, ba quyển kinh.

Ưu-bà-tắc Chi Khiêm một trăm hai mươi chín bộ, một trăm năm mươi hai quyển kinh.

Sa-môn Khang Tăng Hội mười bốn bộ, hai mươi chín quyển kinh, chú.

Số kinh mất tên người gồm một trăm mười bộ, hai trăm chín mươi mốt quyển kinh.

KHAI HOÀNG TAM BẢO LỤC-Quyển 6

* Đời Tây Tấn: Số người dịch kinh đời Tây Tấn cả đạo tục gồm mười ba vị, dịch được bốn trăm năm mươi bộ, bảy trăm mười bảy quyển, như sau: Sa-môn Trúc Pháp Hộ hai trăm mười bộ, ba trăm chín mươi bốn quyển kinh, giới.

Sa-môn Khương Lương Lâu Chí, một bộ, một quyển kinh. Sa-môn An Pháp Khâm, năm bộ, mười hai quyển kinh.

Sa-môn Vô-la-xoa, một bộ, hai mươi quyển kinh. Thanh tín sĩ Nhiếp Thừa Viễn, ba bộ, bốn quyển kinh. Sa-môn Trúc Thúc Lan, hai bộ, năm quyển kinh.

Con Thừa Viễn là Thanh tín sĩ Đạo An, năm mươi bốn bộ, sáu mươi sáu quyển kinh và mục lục. Sa-môn Bạch Pháp Tổ, hai mươi ba bộ, hai mươi lăm quyển kinh.

Sa-môn Thích Pháp Lập, bốn bộ, mười ba quyển kinh. Ưu-bà-tắc Vệ Sĩ Độ, một bộ, hai quyển kinh. môn Chi Mẫn Độ, hai bộ, mười ba quyển kinh.

Sa-môn Thích Pháp Cự, một trăm ba mươi hai bộ, một trăm bốn mươi hai quyển kinh.

Sa-môn Chi Pháp Độ, bốn bộ, năm quyển kinh. Số kinh mất tên người gồm có tám bộ, mười lăm quyển kinh.

KHAI HOÀNG TAM BẢO LỤC-Quyển 7

Số kinh dịch được đời Đông Tấn, cả đạo tục gồm hai mươi bảy vị, dịch được hai trăm sáu mươi bảy bô, năm trăm sáu mươi bốn quyển như sau:

* Đời Đông Tấn:

Sa-môn Bạch-thi-lê Mật-đa-la, ba bộ, mười một quyển kinh, chú. Sa-môn Chi Đạo Căn, hai bộ, bảy quyển kinh.

Sa-môn Khang Pháp Thúy, một bộ, bảy quyển kinh.

Sa-môn Trúc Đàm-vô-lan, một trăm mười bộ, một trăm mười hai quyển kinh, chú, giới.

Sa-môn Khang Đạo Hòa, một bộ, ba quyển kinh. Sa-môn Ca-lưu-đà-già, một bộ, một quyển kinh.

Sa-môn Tăng-già-đề-bà, năm bộ, một trăm mười bảy quyển kinh, luận. môn Tỳ-ma-la-xoa hai bộ, năm quyển luật, tạp sự. Sa-môn Đàm-ma, một bộ, hai quyển luật yếu.

Sa-môn Phật-đà Bạt-đà-la, mười lăm bộ, một trăm mười lăm quyển kinh, giới, luận.

Sa-môn Thích Pháp Hiển, sáu bộ, hai mươi bốn quyển kinh, giới, luận, truyện.

Sa-môn Kỳ-đa-mật hai mươi lăm bộ, bốn mươi sáu quyển kinh. Cư sĩ Ngoại Quốc Trúc Nan-đề, hai bộ, ba quyển kinh.

Sa-môn Thích Pháp Lực, một bộ, một quyển kinh. Sa-môn Thích Tung Công, ba bộ, ba quyển kinh.

Sa-môn Thích Thoái Công, một bộ, một quyển kinh. Sa-môn Thích Pháp Dõng, một bộ, một quyển kinh.

Sa-môn Thích Huệ Viễn, mười bốn bộ, hai mươi lăm quyển luận, tán.

Sa-môn Thích Tăng Phu, một bộ, một quyển kinh.

Sa-môn Thích Đàm Tiên, hai bộ, sáu quyển luận, chú. Sa môn chi đạo lâm bảy bộ bảy quyển luận chỉ quy Sa-môn Trúc Tăng Độ, một bộ, một quyển Chỉ Quy. Sa-môn Thích Đạo Tổ, bốn bộ, một quyển Mục Lục.

Sa-môn Chi Mẫn Độ, một bộ, một quyển Đô Lục. môn Khang Pháp Sướng, một bộ, một quyển luận. Sa-môn Trúc Pháp Tế, một bộ, một quyển truyện.

Sa-môn Thích Đàm Vi, hai bộ, hai quyển luận Chỉ Quy.

Số kinh mất tên người gồm năm mươi ba bộ, năm mươi sáu quyển kinh, chú.

KHAI HOÀNG TAM BẢO LỤC-Quyển 8

Số người dịch kinh ở đời Nhị Tần, gồm mười sáu vị, số kinh dịch được một trăm sáu mươi ba bộ, chín trăm mười bốn quyển như sau:

* Đời Phù Tần:

Sa-môn Đàm-ma-trì, hai bộ, hai quyển Giới Pháp Đàn Văn. Sa-môn Thích huệ Thường, một bộ, một quyển Giới Bổn.

Sa-môn Đàm-ma-tỳ, một bộ, năm quyển kinh. Sa-môn Cưu-ma-la Phật-đề, một bộ, hai quyển kinh.

Sa-môn Đàm-ma-nan-đề, năm bộ, một trăm mười bốn quyển kinh, luận, tập.

Sa-môn Tăng-già Bạt-trừng ba bộ, hai mươi bảy quyển kinh. Sa-môn Tăng-già Đề-bà, ba bộ, năm mươi quyển A-tỳ-đàm…

Sa-môn Thích Đạo An, hai mươi bốn bộ, hai mươi tám quyển Kinh, Chú, Giải, Chỉ, Lục.

* Đời Diêu Tần:

Sa-môn Trúc Phật Niệm, mười ba bộ, tám mươi sáu quyển kinh, luận.

Sa-môn Đàm-ma-da-xá, hai bộ, hai mươi ba quyển kinh, A-tỳ-đàm.

Sa-môn Phất-nhã-đa-la, một bộ, năm mươi tám quyển luật.

Sa-môn Cưu-ma-la-thập, chín mươi tám bộ, bốn trăm hai mươi lăm quyển kinh, luận, truyện.

Sa-môn Phật-đà Da-xá, bốn bộ, sáu mươi chín quyển kinh, luận, giới.

Sa-môn Thích Tăng Duệ, một bộ, một quyển Kinh, Mục Lục. Sa-môn Thích Tăng Triệu, bốn bộ, bốn quyển luận.

Sa-môn Thích Đạo Hằng, một bộ, một quyển luận.

KHAI HOÀNG TAM BẢO LỤC-Quyển 9

Số người dịch kinh thời Khất Phục Tây Tần Thư Cừ Bắc Lương, Nguyên Ngụy, Cao Tề, Trần Thị... gồm hai mươi bảy vị và dịch soạn được hai trăm lẻ bốn bộ, chín trăm mười bảy quyển như sau:

* Đời Khất Phục Tây Tần:

Sa-môn Thích Kiên, mười bốn bộ, hai mươi mốt quyển kinh. Số kinh mất tên người dịch có tám bộ, mười một quyển kinh.

* Đời Thư Cừ Bắc Lương:

Sa-môn Thích Đạo Cung, hai bộ, mười hai quyển kinh. Sa-môn Thích Pháp Chúng, một bộ, bốn quyển kinh.

Sa-môn Tăng-già-đà một bộ, hai quyển kinh.

Sa-môn Đàm-ma-sấm, hai mươi bốn bộ, một trăm năm mươi mốt quyển kinh, giới.

An Dương Hầu Thư Cừ Kinh Thanh, một bộ, hai quyển Thiền Pháp.

Sa-môn Phù-đà-bạt-ma, một bộ, sáu mươi quyển A-tỳ-đàm. Sa-môn Thích Trí Mãnh, một bộ, hai mươi quyển kinh.

Sa-môn Thích Đàm Giác, một bộ, mười lăm quyển kinh.

Các kinh mất tên người dịch năm bộ, mười bảy kinh Phật Danh.

* Đời Nguyên Ngụy Bắc Đài:

1. Sa-môn Thích Đàm Diệu, hai bộ, bốn quyển kinh, truyện.

2. Sa-môn Cát-ca-da, ba bộ, hai mươi lăm quyển kinh luận.

3. Sa-môn Thích Đàm Biện, một bộ, một quyển kinh.

* Đời Nguyên Ngụy Nam Kinh:

1. Sa-môn Đàm-ma-lưu-chi, ba bộ, tám quyển kinh.

2. Sa môn Bồ-đề-lưu-chi, ba mươi chín bộ, một trăm hai mươi bảy quyển kinh, luận.

3. Sa-môn Thích Pháp Trường, một bộ, một quyển kinh.

4. Sa-môn Thích Đàm Tĩnh, một bộ, hai quyển kinh.

5. Sa-môn Lặc-na-bà-đề, sáu bộ, hai mươi bốn quyển kinh, luận.

6. Sa-môn Phật-đà-phiến-đa, mười bộ, mười một quyển kinh, luận.

* Đời Nguyên Ngụy Nghiệp Đô:

1. Ưu-bà-tắc Cù-đàm Bát-nhã Lưu-chi, mười lăm bộ, tám mươi bốn quyển Kinh, Giới, Luận.

2. Vương tử nước Ưu-thiền-ni là Nguyệt-bàthủ-na, ba bộ, bảy quyển kinh.

3. Thái thú quận kỳ thành là Dương Huyền Chi một bộ, năm mươi chín quyển tự, ký.

4. Thanh tín sĩ Lý Khuếch, một bộ, một quyển kinh, lục.

* Đời Cao Tề:

1. Sa-môn Na-liên-đề-da-xá, bảy bộ, năm mươi quyển kinh, luận.

2. Ưu-bà-tắc Vạn Thiên Ý, một bộ, một quyển kinh.

* Đời Trần Thị:

1. Sa môn Câu-na-la-đà, bốn mươi lăm bộ, hai trăm ba mươi hai quyển Kinh, Luận, Sớ, Truyện, Ngữ.

2. Vương Tử Nguyệt-bà-thủ-na, một bộ, bảy quyển kinh.

3. Sa-môn Tu-bồ-đề, một bộ, tám quyển kinh.

KHAI HOÀNG TAM BẢO LỤC-Quyển 10

* Đời Tống: Số người dịch kinh đời Tống gồm hai mươi ba vị, số kinh dịch được là hai trăm mười bộ, bốn trăm chín mươi quyển như sau:

1. Sa-môn Phật-đà Thập, ba mươi bộ, ba mươi sáu quyển Luật, Giới, Yết-ma.

2. Sa-môn Thích Trí Nghiêm, mười bốn bộ, hai mươi sáu quyển kinh.

3. Sa-môn Thích Bảo Vân, bốn bộ, mười lăm quyển kinh.

4. Sa-môn Thích huệ Nghiêm, một bộ, ba mươi sáu quyển kinh.

5. Sa-môn Y-khí-ba-la, một bộ, mười quyển Atỳ-đàm.

6. Sa-môn Cầu-na-bạt-ma, bảy bộ, bốn mươi tám quyển kinh, luận, ký.

7. Sa-môn Tăng-già Bạt-ma, năm bộ, hai mươi bảy quyển Luận, Tập, Kệ.

8. Sa môn Cầu-na Bạt-đà-la, bảy mươi tám bộ, 161 quyển Kinh, Tập, Thí Dụ.

9. Sa-môn Đàm-ma-mật-đa, mười bộ, mười hai quyển kinh.

10. Sa-môn Khương Lương Da-xá, hai bộ, hai quyển kinh.

11. Sa-môn Đàm-vô-kiệt, hai bộ, sáu quyển Kinh, Truyện.

12. An dương hầu thư cừ Kinh Thanh, ba mươi lăm bộ, ba mươi sáu quyển kinh.

13. Sa-môn Công Đức Trực, hai bộ, bảy quyển kinh.

14. Sa-môn Thích Huệ Giản, hai mươi lăm bộ, hai mươi lăm quyển kinh.

15. Sa-môn Thích Tăng Cừ, một bộ, hai quyển Yết-ma.

16. Sa-môn Thích Pháp Dĩnh, ba bộ, ba quyển Giới Bản Yết-ma.

17. Sa-môn Trúc Pháp Quyến, sáu bộ, hai mươi chín quyển kinh.

18. Sa-môn Thích Tường Công, một bộ, hai quyển kinh.

19. Sa-môn Thích Đạo Nghiêm, hai bộ, ba quyển kinh.

20. Sa-môn Thích Dõng Công, bốn bộ, bốn quyển kinh.

21. Sa-môn Thích Pháp Hải, hai bộ, hai quyển kinh.

22. Sa-môn Thích Tiên Công, một bộ, một quyển kinh.

23. Sa-môn Thích Đạo Nghiễm, một bộ, hai quyển kinh, luận.

KHAI HOÀNG TAM BẢO LỤC-Quyển 11

Số người dịch kinh ở đời Tề, Lương, Chu gồm năm mươi mốt vị, dịch được một trăm sáu mươi chín bô, một ngàn ba trăm hai mươi sáu quyển, như sau:

* Đời Tề:

1. Sa-môn Đàm-ma-già-đà Da-xá, một bộ, một quyển kinh.

2. Sa-môn Ma-ha Thừa, hai bộ, hai quyển Kinh, Luật.

3. Sa-môn Tăng-già Bạt-đà-la, một bộ, mười tám quyển luật.

4. Sa-môn Thích Pháp Ý, hai bộ, hai quyển kinh.

5. Sa-môn Cầu-na Tỳ Địa, ba bộ, mười lăm quyển kinh.

6. Sa-môn Thích Pháp Độ, hai bộ, hai quyển kinh.

Sa-môn Thích Pháp Nguyện, hai bộ, hai quyển kinh.

7. Sa-môn Thích Vương Tông, hai bộ, bảy quyển kinh và lục mục.

8. Sa-môn Thích Đàm Cảnh, hai bộ, bốn quyển kinh.

9. Sa-môn Thích Pháp Ni, một bộ, hai quyển kinh.

10. Sa-môn Thích Đạo Chánh, một bộ, một quyển kinh.

11. Sa-môn Thích Đạo Bi, năm bộ, năm quyển Kinh, Kệ.

12. Cánh Lăng Văn Tuyên Vương Tiêu Tử Lương, mười bảy bộ, hai trăm năm mươi chín quyển kinh, sao.

13. Thường Thị Dữu Hiệt, một bộ, một quyển kinh.

14. Sa-môn Thích Siêu Độ, một bộ, bảy quyển luật, lệ.

15. Sa-môn Thích Pháp Hoa, một bộ, một quyển kinh.

16. Sa-môn Thích Pháp Viện, một bộ, ba quyển Chú Kinh.

17. Sa-môn Thích Huệ Cơ, một bộ, một quyển Chú Kinh.

18. Văn Tuyên Vương Ký Thất Vương Cân, một bộ, mười quyển Tăng, Sử.

* Đời Lương:

1. Sa-môn Ni Tăng Pháp hai mươi mốt bộ, ba mươi lăm quyển kinh.

2. Sa-môn Thích Tăng Thạnh, một bộ, một quyển Giới, Pháp.

3. Sa-môn Thích Diệu Quang, một bộ, một quyển kinh.

4. Sa-môn Thích Tăng Hựu, mười bốn bộ, sáu mươi ba quyển Tập Ký Truyện.

5. Sa-môn Thích Đạo Hoan, một bộ, một quyển kệ.

6. Sa-môn Mạn-đà-la, ba bộ, mười một quyển kinh.

7. Sa-môn Tăng-già-bà-la, mười một bộ, ba mươi tám quyển kinh, luận, truyện.

8. Thanh tín sĩ Mộc Đạo Hiền, một bộ, một quyển kinh.

9. Vương tử Nguyệt-bà-thủ-na, một bộ, một quyển kinh.

10. Sa-môn Chân Đế, mười sáu bộ, bốn mươi sáu quyển kinh, luận, sớ, ký.

11. Sa-môn Thích Tăng Mân, một bộ, tám mươi tám quyển kinh sao.

12. Sa-môn Thích Tăng Thiệu, một bộ, bốn quyển lục mục.

13. Sa-môn Thích Bảo Xướng, có tám bộ, một trăm lẻ bảy quyển tạp lục.

14. Sa-môn Thích Pháp Lãng, một bộ, bảy mươi hai quyển chú kinh.

15. Sa-môn Thích Trí Tạng, một bộ, tám mươi quyển nghĩa lâm.

16. Võ hoàng đế Tiêu Diễn, một bộ, năm mươi quyển chú kinh.

17. Sa-môn Thích Huệ Linh, một bộ, mười hai quyển kinh sao.

18. Sa-môn Thích Huệ Kiểu, một bộ, mười bốn quyển tăng truyện.

19. Ưu-bà-tắc Viên Đàm duẫn một bộ, hai mươi quyển luận, sao.

20. Giản Văn Đế Tiêu Võng, một bộ, hai trăm quyển pháp tập.

21. Tương đông vương văn học Ngu Hiếu Kỉnh, một bộ, ba mươi quyển Nội Điển Bác Yếu.

* Đời Chu:

1. Sa-môn Thích Đàm Hiển, hai bộ, hai mươi ba quyển kinh yếu.

2. Sa-môn Tương-na Bạt-đà, một bộ, một quyển luận.

3. Sa-môn Đạt-ma-lưu-chi, một bộ, hai mươi quyển Phạm Thiên Văn.

4. Sa-môn Xà-na-da-xá, sáu bộ, mười bảy quyển kinh.

5. Sa-môn Da-xá Quật-đa, ba bộ, tám quyển kinh.

6. Sa-môn Xà-na-quật-đa, ba bộ, tám quyển kinh.

7. Sa-môn Thích Tăng Miến, hai bộ, hai quyển kinh.

8. Sa-môn Thích Huệ Thiện, một bộ, tám quyển Luận.

9. Sa-môn Thích Vong Danh, mười hai bộ, mười hai quyển Luận Minh Truyện.

10. Sa-môn Thích Tịnh Ái, một bộ, mười một quyển Tam Bảo Tập.

11. Sa-môn Thích Đạo An, một bộ, một quyển luận.

KHAI HOÀNG TAM BẢO LỤC-Quyển 12

Số người dịch kinh ở đời Đại Tùy mười chín vị, số kinh dịch được gồm bảy mươi lăm bộ, bốn trăm sáu mươi hai quyển, như sau:

1. Quận thú dương xuyên Đàm Pháp Trí một bộ, một quyển kinh.

2. Sa-môn Tỳ-ni-đa Lưu-chi, hai bộ, hai quyển kinh.

3. Sa-môn Na-liên-đề-da-xá, có tám bộ hai mươi tám quyển kinh.

4. Sa-môn Thích Tăng Tựu, một bộ, sáu mươi quyển kinh.

5. Sa-môn Xà-na-quật-đa, ba mươi mốt bộ, một trăm sáu mươi lăm quyển kinh.

6. Sa-môn Thích Pháp Thượng, ba bộ, hai mươi ba quyển số và luận lục.

7. Sa-môn Thích Linh Dữu, có tám bộ, ba mươi quyển luận, ký.

8. Sa-môn Thích Tín Hạnh, hai bộ, ba mươi lăm quyển Tam Giai Tập.

9. Sa-môn Thích Pháp Minh, một bô, bảy quyển Lục Mục.

10. Sa-môn Thích Bảo Quý, một bộ, tám quyển kinh.

11. Sa-môn Thích Tăng Xán, một bộ, một quyển luận.

12. Sa-môn Thích Tăng Côn, một bộ, ba mươi hai quyển tạp lục.

13. Sa-môn Thích Ngạn Tông, sáu bộ, chín quyển Luận, Truyện, Lục.

14. Sa-môn Thích Huệ Ảnh, bốn bộ, hai mươi bảy quyển Trí Độ Giải và Luận.

15. Quảng châu Tư Mã Quách Nghị, một bộ, hai quyển kinh.

16. Nho Lâm Lang Hầu Quân Tố, một bộ, mười quyển truyện.

17. Tấn Vương Phủ, Tế Tữu Từ Đồng Khánh, một bộ, hai quyển luận.

18. Phiên dịch học sĩ Lưu Phùng, một bộ, một quyển Nội Số Thuật.

19. Sắc Hữu Ty Soạn một bộ, mười quyển Chúng Kinh Pháp Thức.

KHAI HOÀNG TAM BẢO LỤC-Quyển 13

Mục Lục Kinh Điển Đại Thừa Nhập Tạng, gồm năm trăm năm mươi mốt bộ, một ngàn năm trăm tám mươi tám quyển, như sau:

I. Kinh Đại thừa (Ta-đa-la):

1. Có tên người gồm: Hai trăm ba mươi bốn bộ, tám trăm tám mươi lăm quyển.

2. Mất tên người gồm: Ba trăm ba mươi lăm bộ, bốn trăm lẻ hai quyển.

II. Luật Đại thừa (Tỳ-ni):

1. Có tên người gồm: Mười chín bộ, bốn mươi quyển.

2. Mất tên người gồm: Mười hai bộ, mười bốn quyển.

III. Luận Đại Thừa (A-tỳ-đàm):

1. Có tên người gồm: Bốn mươi chín bộ, hai trăm ba mươi tám quyển.

2. Mất tên người gồm: Hai bộ, bảy quyển.

KHAI HOÀNG TAM BẢO LỤC-Quyển 14

Mục Lục Kinh điển Tiểu Thừa Nhập Tạng, gồm năm trăm hai mươi lăm bộ, một ngàn bảy trăm mười hai quyển, như sau:

IV. Kinh Tiểu Thừa (Ta-đa-la):

1. Có tên người gồm: Một trăm lẻ tám bộ, năm trăm hai mươi bảy quyển.

2. Mất tên người gồm: Ba trăm mười bảy bộ, bốn trăm tám mươi hai quyển.

V. Luật Tiểu Thừa (Tỳ-ni):

1. Có tên người gồm: Ba mươi chín bộ, hai trăm tám mươi lăm quyển.

2. Mất tên người gồm: Ba mươi mốt bộ, sáu mươi bảy quyển.

II. Luận Tiểu Thừa (A-tỳ-đàm):

1. Có tên người gồm: Hai mươi mốt bộ, ba trăm năm mươi mốt quyển.

2. Mất tên người gồm: Mười bộ, Hai mươi bảy quyển.

KHAI HOÀNG TAM BẢO LỤC-Quyển 15

Mục Lục chung về các Kinh điển Đại và Tiểu thừa gồm một ngàn bảy trăm mười sáu bộ, ba ngàn hai trăm chín mươi hai quyển, chia như sau:

* Chúng Kinh Biệt Lục: Hai quyển (chưa rõ tác giả, hình như thuật lại ở đời Tống), gồm có:

Quyển Thượng:

1. Đại Thừa Kinh Lục: Bốn trăm ba mươi tám bộ, chín trăm mười bốn quyển thì đã liệt kê: ba trăm bảy mươi bộ, bảy trăm bảy mươi chín quyển.

2. Đại Thừa Thông Giáo Lục liệt kê có: năm mươi mốt bộ, chín mươi bảy quyển.

3. Đại Thừa Luận trong Tam Thừa liệt kê có:

Mười bảy bộ, ba mươi tám quyển.

Quyển Hạ:

4. Tiểu Thừa Kinh Lục kể chung năm trăm năm mươi mốt bộ, một ngàn sáu trăm tám mươi hai quyển thì đã liệt kê: Bốn trăm ba mươi sáu bộ, sáu trăm mười quyển.

5. Lục này không thấy.

6. Lục sáu: Nói các kinh Đại Tiểu Thừa chưa phân loại có: Một trăm bảy mười bốn bộ với một trăm tám mươi bốn quyển.

7. Lục bảy: Nói về các kinh còn nghi gồm: Mười bảy bộ, hai mươi quyển.

8. Lục tám: Nói về luật có: Mười hai bộ, một trăm chín mươi lăm quyển.

9. Nói về Số, có: Sáu bộ, một trăm hai mươi mốt quyển.

10. Lục mười: Nói về luận, có: Sáu bộ, một trăm năm mươi hai quyển.

Cả hai thượng hạ họp thành mười thiên gồm có tất cả một ngàn không trăm tám mươi chín bộ, hai ngàn năm trăm chín mươi sáu quyển.

* Xuất Tam tạng Tập Lục Ký: Đời Tề, năm Kiến võ luật sư Tăng Hựu soạn, gồm có:

1. Tân Tập soạn Xuất Kinh Lục, bốn trăm hai mươi bộ, một ngàn tám trăm lẻ một quyển.

2. Tân Tập Dị Xuất Kinh Chư Lục, ba mươi bốn bộ, hai trăm chín mươi bốn quyển.

3. Tân Tập Tự Tứ Bộ Luật Lục, mười bốn bộ, một trăm tám mươi quyển.

4. Tân Tập An Công Cổ Dị Kinh Lục, chín mươi hai bộ, chín mươi hai quyển.

5. Tân Tập An Công Thất Dịch Kinh Lục, một trăm bốn mươi mốt bộ, một trăm bốn mươi sáu quyển.

6. Tân Tập An Công Lương Độ Dị Kinh Lục, năm mươi chín bộ, bảy mươi chín quyển.

7. Tân Tập An Công Quan Trung Dị Kinh Lục, hai mươi bốn bộ, hai mươi bốn quyển.

8. Tân Tập Tục Soạn Thất Dịch Tạp Kinh Lục, một ngàn ba trăm lẻ sáu bộ, một ngàn năm trăm bảy mươi quyển.

9. Tân Tập Sao Kinh Lục, bốn mươi sáu bộ, ba trăm năm mươi hai quyển.

10. Tân Tập An Công Nghi Kinh Lục, hai mươi sáu bộ, ba mươi quyển.

11. Tân Tập Nghi Kinh Ngụy Soạn Tạp Lục, hai mươi bộ, hai mươi sáu quyển.

12. Tân Tập An Công Chú Cập Tạp Chí, hai mươi bốn bộ, hai mươi tám quyển.

Tất cả mười hai phần trên họp thành hai ngàn một trăm sáu mươi hai bộ, bốn ngàn ba trăm hai mươi tám quyển.

* Ngụy Thế Chúng Kinh Mục Lục: Năm Vĩnh Hy, vua sắc lệnh cho Xá nhân là Lý Khuếch soạn, gồm có:

1. Mục Lục các kinh Đại thừa hai trăm mười bốn bộ.

2. Mục Lục các luận Đại Thừa hai mươi chín bộ.

3. Mục Lục các chú thích về kinh Đại Thừa gồm mười hai bộ.

4. Mục Lục các kinh luận Đại Thừa chưa gồm: ba mươi ba bộ.

5. Mục Lục các kinh luật Tiểu Thừa sáu mươi chín bộ.

6. Mục Lục các luận Tiểu Thừa hai bộ.

7. Mục Lục các kinh có ghi tên mà chưa có, gồm mười sáu bộ.

8. Mục Lục các kinh không thật sáu mươi hai bộ.

9. Mục Lục các luận không thật bốn bộ.

10. Mục Lục các thứ hoàn toàn không phải kinh, do kẻ ngu lầm gọi mười một bộ.

Tất cả mười phần trên gồm cả kinh luật luận thật và giả là bốn trăm hai mươi bảy bộ, hai ngàn không trăm năm mươi ba quyển.

* Tề Thế Chúng Kinh Mục Lục, năm Võ

Bình, Sa-môn Thống Pháp Thượng soạn, gồm có:

1. Tạng Tạp Lục, gồm hai trăm chín mươi mốt bộ, tám trăm bảy mươi bốn quyển.

2. Tu-đa-la Lục, gồm một trăm bảy mươi chín bộ, ba trăm ba mươi quyển.

3. Tỳ-ni Lục, gồm mười chín bộ, hai trăm năm mươi sáu quyển.

4. A-tỳ-đàm Lục, gồm năm mươi bộ, bốn trăm hai mươi mốt quyển.

5. Biệt Lục, gồm ba mươi bảy bộ, bảy mươi bốn quyển.

6. Chúng Kinh Sao Lục, gồm một trăm hai mươi bảy bộ, một trăm ba mươi bảy quyển.

7. Tập Lục, gồm ba mươi ba bộ, một trăm bốn mươi bảy quyển.

8. Nhân Tác Lục gồm: Năm mươi mốt bộ, một trăm lẻ sáu quyển.

Tất cả tám phần trên gồm các kinh luật luận thật và giả bảy trăm tám mươi bảy bộ, hai ngàn ba trăm ba mươi bốn quyển.

* Lương Thế Chúng Kinh Mục Lục, năm Thiên Giám thứ mười bảy, vua ra lệnh Sa-môn Bảo Xướng soạn gồm có:

-Chúng Kinh Lục Mục, quyển 1-nói về Đại thừa gồm hai trăm sáu mươi hai bộ, sáu trăm bảy mươi bốn quyển.

Chia ra như sau:

1. Có tên người dịch, loại nhiều quyển, gồm sáu mươi chín bộ, bốn trăm sáu mươi bảy quyển.

2. Không tên người dịch, loại nhiều quyển, gồm năm bộ, mười chín quyển.

3. Có tên người dịch, loại một quyển, gồm chín mươi bộ, chín mươi quyển.

4. Không tên người dịch, loại một quyển, gồm chín mươi tám bộ, chín mươi tám quyển.

-Chúng Kinh Mục Lục, quyển 2-Nói về Tiểu thừa gồm có: hai trăm tám mươi lăm bộ, bốn trăm quyển, chia ra như sau:

1. Có tên người dịch, loại nhiều quyển, gồm mười bảy bộ, một trăm hai mươi quyển.

2. Không có tên người dịch, loại nhiều quyển, gồm năm bộ, mười bảy quyển.

3. Có tên người dịch, loại một quyển, gồm năm mươi bộ, năm mươi quyển.

4. Không tên người dịch, loại một quyển, gồm hai trăm mười ba bộ, hai trăm mười ba quyển.

-Chúng Kinh Mục Lục, quyển 3-Nói về các kinh gồm ba trăm sáu mươi hai bộ, một ngàn sáu trăm tám mươi hai quyển. Chia ra như sau:

1. Về các kinh khác bản gồm có:

Loại nhiều quyển bốn mươi lăm bộ, hai trăm mười chín quyển.

Loại một quyển ba mươi tám bộ, ba mươi tám quyển.

2. Về thiền kinh:

Loại nhiều quyển chín bộ, ba mươi tám quyển.

Loại một quyển ba mươi mốt bộ, ba mươi mốt quyển.

3. Về giới luật gồm có: Sáu mươi tám bộ, hai trăm bảy mươi lăm quyển.

4. Về kinh còn nghi gồm có: Sáu mươi hai bộ, sáu mươi bảy quyển.

5. Về kinh chú giải có: Bốn mươi bộ, hai trăm bốn mươi sáu quyển.

6. Về Số Luận gồm có: ba mươi mốt bộ, ba trăm sáu mươi bảy quyển.

7. Về Nghĩa Ký gồm có: ba mươi tám bộ, ba trăm bốn mươi mốt quyển.

* Chúng Kinh Mục Lục, quyển 4, các loại kinh truyện gồm một trăm hai mươi chín bộ, chín trăm tám mươi lăm quyển, chia ra như sau:

1. Tùy sự tên riêng, gồm mười ba bộ, bốn trăm mười ba quyển.

2. Tùy sự tên chung, gồm ba mươi lăm bộ, bốn trăm bảy mươi quyển.

3. Thí Dụ, gồm: Mười lăm bộ, ba mươi sáu quyển.

4. Tên Phật, gồm: Mười bốn bộ, mười chín quyển.

5. Thần Chú, gồm: Bốn mươi bảy bộ, bốn mươi bảy quyển.

Cả bốn quyển trên gồm hai mươi phần, có tất cả là một ngàn bốn trăm ba mươi ba bộ, ba ngàn bảy trăm bốn mươi mốt quyển.

* Đại Tùy Mục Lục Chúng Kinh-Năm Khai

Hoàng thứ mười bốn, vua ra lệnh cho hai mươi vị Đại đức như Pháp Kinh… ở Sở Phiên Kinh soạn ra.

VI. Đại Thừa Tu-đa-la Tạng Lục: gồm sáu phần tính chung là bảy trăm tám mươi bốn bộ, một ngàn bảy trăm mười tám quyển, chia ra như sau:

1. Các kinh một người dịch có: Một trăm ba mươi ba bộ, bốn trăm hai mươi mốt quyển.

2. Các kinh khác người dịch có: Một trăm chín mươi lăm bộ, năm trăm ba mươi hai quyển.

3. Các kinh mất tên người dịch có: Một trăm ba mươi bốn bộ, hai trăm bảy mươi lăm quyển.

4. Các Kinh Biệt Sinh có: Hai trăm hai mươi mốt bộ, hai trăm sáu mươi bốn quyển.

Các kinh còn nghi ngờ có: Hai mươi mốt bộ, ba mươi quyển.

5. Các kinh ngụy tạo, có: Tám mươi bộ, một trăm chín mươi sáu quyển.

VII. Tiểu Thừa Tu-đa-la Tạng Lục: gồm sáu phần, tính chung là tám trăm bốn mươi hai bộ, một ngàn hai trăm lẻ một quyển, chia ra:

1. Các kinh một người dịch có: Bảy mươi hai bộ, hai trăm chín mươi hai quyển.

2. Các kinh khác người dịch có: Một trăm bộ, hai trăm bảy mươi quyển.

3. Các kinh mất tên người dịch có: Hai trăm năm mươi bộ, hai trăm bảy mươi hai quyển.

4. Các Kinh Biệt Sinh có: Ba trăm bốn mươi mốt bộ, ba trăm bốn mươi sáu quyển.

5. Các kinh còn nghi ngờ có: Hai mươi chín bộ, ba mươi mốt quyển.

6. Các kinh ngụy tạo, có: Năm mươi ba bộ, chín mươi ba quyển.

VIII. Đại Thừa Tỳ-ni Tạng Lục: sáu phần, tính chung gồm năm mươi bộ, tám mươi ba quyển, chia ra như sau:

1. Các luật một người dịch có: Mười hai bộ, ba mươi hai quyển.

2. Các luật khác người dịch có: Bảy bộ, bảy quyển.

3. Các luật mất tên người dịch có: Mười hai bộ, mười bốn quyển.

4. Các luật Biệt Sinh có: Mười sáu bộ, mười sáu quyển.

5. Các luật còn nghi ngờ có: Một bộ, hai quyển.

6. Các luật ngụy tạo, có: Hai bộ, mười một quyển.

IX. Tiểu Thừa Tỳ-ni Tạng Lục: sáu phần, tính chung cả là sáu mươi hai bộ, ba trăm tám mươi mốt quyển, chia ra như sau:

1. Các luật một người dịch có: Mười lăm bộ, một trăm chín mươi tám quyển.

2. Các luật khác người dịch có: Tám bộ, một trăm hai mươi sáu quyển.

3. Các luật mất tên người dịch có: hai mươi chín bộ, ba mươi lăm quyển.

4. Các luật Biệt Sinh có: Sáu bộ, sáu quyển.

5. Các luật còn nghi ngờ có: Hai bộ, ba quyển.

6. Các luật ngụy tạo, có: Ba bộ, ba quyển.

X. Đại Thừa A-tỳ-đàm tạng: Sáu phần, tính chung cả là sáu mươi tám bộ, hai trăm tám mươi mốt quyển, chia ra như sau:

1. Các luận một người dịch có: Bốn mươi hai bộ, hai trăm lẻ sáu quyển.

2. Các luận khác người dịch có: Tám bộ, năm mươi hai quyển.

3. Các luận mất tên người dịch có: Một bộ, hai quyển.

4. Các luận Biệt Sinh có: Mười lăm bộ, mười chín quyển.

5. Các luận còn nghi ngờ có: Một bộ, một quyển.

6. Các luận ngụy tạo, có: Một bộ, một quyển.

XI. Tiểu Thừa A-tỳ-đàm Tạng: sáu phần, tính chung là một trăm mười sáu bộ, bốn trăm tám mươi hai quyển, chia ra như sau:

1. Các luận một người dịch có: Mười bốn bộ, hai trăm bảy mươi sáu quyển.

2. Các luận khác người dịch có: Tám bộ, sáu mươi sáu quyển.

3. Các luận mất tên người dịch có: Năm bộ, hai mươi hai quyển.

4. Các luận Biệt Sinh có: Tám mươi sáu bộ, một trăm lẻ bảy quyển.

5. Các luận còn nghi ngờ có: Một bộ, một quyển.

6. Các luận ngụy tạo, có: Hai bộ, mười quyển.

XII. Các kinh sao Tập sau khi Phật Diệt Độ: Hai phần tính chung là một trăm bốn mươi bốn bộ, sáu trăm hai mươi bảy quyển, chia ra như sau:

Các sao tập do các Thánh ở Tây Vức: Bốn mươi tám bộ, một trăm mười chín quyển.

Các sao tập do các Tôn Đức ở Trung Quốc:

Chín mươi sáu bộ, năm lẻ tám quyển.

XIII. Các Truyện Ký sau khi Phật Diệt Độ: Hai phần tính chung là sáu trăm mười tám bộ, một trăm tám mươi lăm quyển, chia ra như sau:

a. Truyện Ký về các Thánh ở Tây Vức có: Mười ba bộ, ba mươi quyển.

b. Truyện Ký về các Tôn Đức ở Trung Quốc có: Năm mươi lăm bộ, một trăm năm mươi lăm quyển.

XIV. Các trước thuật sau khi Phật diệt độ: hai phần tính chung là một trăm mười chín bộ, một trăm quyển, chia ra như sau:

a. Các trước thuật của các Thánh ở Tây Vức: mười lăm bộ, mười chín quyển.

b. Các trước thuật của các Tôn Đức ở Trung Quốc: Một trăm lẻ bốn bộ, một trăm mười lăm quyển.

Tính gộp cả chín phần nêu trên thì hai ngàn hai trăm năm mươi bảy bộ, năm ngàn ba trăm mười quyển các loại. Khi sưu tầm các lục (sách ghi chép) của sáu nhà vừa nói trước thì thấy đều có đủ, nên nêu rõ thể dụng của họ như trên.

1. Hựu Lục, một quyển (Hình như ở đời Tần, ngài Thích Lợi Phòng đã mang Kinh Mục Lục sang).

2. Hán thời Phật Kinh Mục Lục (Hình như ngài Ca-diếp Ma-đằng khi dịch lần đầu tiên kinh Mục Tứ Thập Nhị Chương tức là đã soạn ra Lục rồi).

3. Cựu Lục một quyển (hình như thời tiền Hán, ngài Lưu Hướng khi sưu tập tàng thư đã thấy kinh lục này).

4. Thích Đạo An Lục, một quyển (ở đời Tần).

5. Nhiếp Đạo Chân Lục, một quyển (ở đời

Tấn).

6. Thích Tăng Duệ Nhị Trần Lục, một quyển (đời Hậu Tần).

7. Chu Sĩ Hành Hán Lục, một quyển (đời Ngụy).

8. Trúc Đạo Tổ Chúng Kinh Lục, bốn quyển (là Tạp Lục về ba đời Ngụy, Ngô, Tấn. Còn ở Hà Tây là Lục giả).

9. Trúc Pháp Hộ Lục, một quyển (đời Tấn).

10. Chi Mẫn Độ Lục, một quyển (đời Đông Tấn).

11. Đô Lục, một quyển.

12. Thích Vương Tổng Lục, hai quyển (đời Tiền Tề).

13. Thích Hoằng Sung, một quyển.

14. Thích Đạo huệ Tống Tề Lục, một quyển.

15. Thích Đạo Phùng Lục, một quyển.

16. Thích Chánh Độ Lục, một quyển.

17. Vương Xa Kỵ Lục, một quyển.

18. Thủy Hưng Lục, một quyển.

19. Lô Sơn Lục, một quyển.

20. Triệu Lục, một quyển (hình như ở thời Triệu, chưa thấy có sách này, đến nỗi nghi rằng do họ Triệu soạn ra).

21. Sầm Hiệu Lục, một quyển.

22. Bồ-đề-lưu-chi Lục, một quyển (đời Hậu Ngụy).

23. Thích Tăng Thiệu Hoa Lâm Phật Điện Lục, bốn quyển. Đời Lương, năm Thiên Giám thứ mười bốn, vua sắc lệnh cho Sa-môn Thích Tăng Thiệu soạn ra Lục này.

24. Linh Dũ Pháp Sư Dịch Kinh Lục, một quyển.

25. Chúng Kinh Đô Lục, tám quyển (hình như đã hợp chung với các Nhà khác, chưa rõ tác giả).

Các Lục của hai mươi bốn nhà trên, kiểm tra trong các truyện ký thì thấy có nói đến, nhưng đều chưa từng thấy, cho nên phải ghi chúng ở sau để lưu truyền muôn thuở.

 


[Đầu trang][Mục lục bộ Sử Truyện][Mục lục tổng quát]