TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠP TẠNG

BỘ SỬ TRUYỆN

SỐ 2035 - PHẬT TỔ THỐNG KỶ NÓI VỀ SỰ XÉT DUYỆT PHẬT TỔ THỐNG KỶ

MỤC LỤC

SỐ 2035 - PHẬT TỔ THỐNG KỶ NÓI VỀ SỰ XÉT DUYỆT PHẬT TỔ THỐNG KỶ

LỜI TỰA PHẬT TỔ THỐNG KỶ

Thích bản kỷ (Bản kê về họ Thích)

Thích thế gia:

Thích liệt truyện (Liệt truyện về họ Thích):

Thích biểu:

Thích chí:

Tự cổ chế:

Dụng tam lệ:

Thích đề nghĩa:

Thích sư danh:

Chấm dứt các nghi ngờ:

Dẫn văn kinh:

Văn của Thiên thai giáo, gồm có các bộ sau:

Các sách về đạo Phật, gồm các bộ:

Các sách về đạo Nho, gồm các bộ:

Các sách về đạo Lão, gồm các bộ:

Các bậc Hiền trong việc tu thư, gồm có:

Kể thêm các nhà tu thư:

PHẬT TỔ THỐNG KỶ MỤC SÁU

PHẬT TỔ THỐNG KỶ

QUYỂN 1

PHẦN I: GIÁO CHỦ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT BẢN KỶ

Phần 1: NÓI VỀ BẢN TÍCH

QUYỂN 2

Phần 2: ĐÂU SUẤT GIÁNG THẦN

QUYỂN 3 (PHẦN THƯỢNG)

Phần 3: CHUYỂN PHÁP LUÂN (GỒM 5 THỜI)

QUYỂN 3 (Phần Hạ)

QUYỂN 4

Phần 4 NHẬP NIẾT BÀN

CHIA XÁ LỢI

KẾT TẬP BA TẠNG

QUYỂN 5

PHẦN II: HAI MƯƠI BA TỔ Ở TÂY VỨC

Tổ thứ 1: Ma-ha Ca-diếp (Ma-hakasyapa)

Tổ thứ 2: A-nan-đà (Ananda)

Tổ thứ 3: Thương-na Hòa-tu (Sanakavasa) và Mạt-điền-địa.

Tổ thứ 4: Ưu-ba-cúc-đa (Upagupta)

Tổ thứ 5: Đề-ca-đa (Dhrtaka)

Tổ thứ 6: Di-giá-ca (Miccaka)

Tổ thứ 7: Phật-đà Nan-đề (Buddha Nandi)

Tổ thứ 8: Phật-đà Mật-đa (Buddha Mitra)

Tổ thứ 9: Hiếp Tỳ-kheo (Parsvika)

Tổ thứ 10: Phú-na-dạ-xa (Punyayasac)

Tổ thứ 11: Mã Minh (Asvaghosha)

Tổ thứ 12: Ca-tỳ-ma-la (KapimA-la)

Tổ thứ 13: Long Thọ (Nagarjuna)

Tổ thứ 14: Ca-na-đề-bà (Canadeva)

Tổ thứ 15: La-hầu-đa-la (Rahulata)

Tổ thứ 16: Tăng-khư-nan-đề (Sanghanandi)

Tổ thứ 17: Tăng-khư-gia-xá

Tổ thứ 18: Cưu-ma-la-đà (Kumarata)

Tổ thứ 19: Xà-dạ-đa (Jayata)

Tổ thứ 20: Bà-tu-bàn-đà (Vasubandhu)

Tổ thứ 21: Ma-noa-la (Manorhita)

Tổ thứ 22: Hạc-lặc-na (Haklena)

Tổ thứ 23: Sư Tử (Aryasimha)

QUYỂN 6

PHẦN III - CHÍN TỔ Ở ĐÔNG ĐỘ (PHẦN 1)

Tổ thứ 1 (Cao Tổ): Long Thọ Tôn Giả

Tổ thứ 2: Bắc Tề Tôn giả Tuệ Văn

Tổ thứ 3: Nam nhạc Tôn giả Tuệ Tư

Tổ thứ 4: Thiên thai Trí Giả

QUYỂN 7

PHẦN III - CHÍN TỔ Ở ĐÔNG ĐỘ (PHẦN 2)

Tổ thứ 5: Chương An Tôn giả Quán Đảnh

Tổ thứ 6: Pháp Hoa Tôn giả Trí Oai

Tổ thứ 7: Thiên Cung Tôn giả Tuệ Oai

Tổ thứ 8: Tả Khê Tôn giả Huyền Lãng

Tổ thứ 9: Kinh Khê Tôn giả Trạm Nhiên.

QUYỂN 8

PHẦN IV - TÁM TỔ TỪ HƯNG ĐẠO TRỞ ĐI

Tổ thứ 10: Hưng Đạo Tôn Giả: Đạo Thúy

Tổ thứ 11: Chí Hành Tôn Giả: Quảng Tu

Tổ thứ 12: Chánh Định Tôn Giả: Vật Ngoại

Tổ thứ 13: Diệu Thuyết Tôn Giả: Nguyên Tú

Tổ thứ 14: Cao Luận Tôn Giả: Thanh Tủng

Tổ thứ 15: Tịnh Quang Tôn Giả: Hy Tịch

Tổ thứ 16: Bảo Vân Tôn Giả: Nghĩa Thông

Tổ thứ 17: Pháp Trí Tôn Giả: Tri Lễ

QUYỂN 9

PHẦN V - CÁC TỔ THUỘC NGÀNH THỨ (PHẦN 1)

A. DÒNG THỨ CỦA NGÀI NAM NHẠC:

B. DÒNG THỨ CỦA TRÍ GIẢ ĐẠI SƯ

QUYỂN 10

PHẦN V - CÁC TỔ THUỘC NGÀNH THỨ (PHẦN 2)

DÒNG THỨ CỦA NGÀI CHƯƠNG AN

DÒNG THỨ CỦA NGÀI THIIÊN CUNG

DÒNG THỨ CỦA NGÀI TẢ KHÊ

DÒNG THỨ CỦA NGÀI KINH KHÊ

DÒNG THỨ CỦA NGÀI HƯNG ĐẠO

DÒNG THỨ CỦA NGÀI CAO LUẬN

DÒNG THỨ CỦA TỊNH QUANG PHÁP SƯ

DÒNG THỨ CỦA NGÀI BẢO VÂN

QUYỂN 11

PHẦN VI - LIỆT TRUYỆN CÁC SƯ (PHẦN 1)

NỐI PHÁP NGÀI THIÊN TRÚC THỨC PHÁP SƯ

NỐI PHÁP NGÀI MINH TRIỀU PHÁP SƯ

NỐI PHÁP NGÀI HẢI NGUYỆT BIỆN PHÁP SƯ

NỐI PHÁP NGÀI TỊNH TUỆ NGHĨA PHÁP SƯ

NỐI PHÁP NGÀI BIỆN TÀI TĨNH PHÁP SƯ

NỐI PHÁP NGÀI TỪ GIÁC KHAM PHÁP SƯ

NỐI PHÁP NGÀI PHÁP BẢO, NHÃ PHÁP SƯ

NỐI PHÁP NGÀI HƯNG QUỐC, CƠ PHÁP SƯ

QUYỂN 12

PHẦN VI - LIỆT TRUYỆN CÁC SƯ (PHẦN 2)

NỐI PHÁP NGÀI PHÁP TRÍ PHÁP SƯ

QUYỂN 13

PHẦN VI - LIỆT TRUYỆN CÁC SƯ (PHẦN 3)

NỐI PHÁP NGÀI QUẢNG TRÍ PHÁ P SƯ

NỐI PHÁP NGÀI THẦN CHIẾU PHÁP SƯ

NỐI PHÁP NGÀI NAM BÌNH

NỐI PHÁP NGÀI TAM HỌC PHÁP SƯ

NỐI PHÁP NGÀI PHÙ THẠCH PHÁP SƯ

NỐI PHÁP NGÀI QUẢNG TỪ PHÁP SƯ

QUYỂN 14

PHẦN VI - LIỆT TRUYỆN CÁC SƯ (PHẦN 4)

NỐI PHÁP NGÀI THẦN TRÍ, VĂN PHÁP SƯ

NỐI PHÁP NGÀI PHÙ TÔNG, TRUNG PHÁP SƯ

NỐI PHÁP NGÀI CHÂN HÀM PHÁP SƯ

NỐI PHÁP NGÀI THẦN NGỘ, KHIÊM PHÁP SƯ

NỐI PHÁP NGÀI TỪ BIỆN, GIÁN PHÁP SƯ

NỐI PHÁP NGÀI NAM BÌNH, VĂN PHÁP SƯ:

NỐI PHÁP NGÀI SIÊU QUẢ, HIỀN PHÁP SƯ

NỐI PHÁP NGÀI CẢNH VÂN, KỲ PHÁP SƯ: (đời thứ ba sau Phù Thạch)

QUYỂN 15

PHẦN VI - LIỆT TRUYỆN CÁC SƯ (PHẦN 5)

A. NỐI PHÁP NGÀI MINH TRÍ, LẬP PHÁP SƯ

B. NỐI PHÁP NGÀI THẢO ĐƯỜNG NGUYÊN PHÁP SƯ

C. NỐI PHÁP NGÀI AN QUỐC TUỆ PHÁP SƯ:

D. NỐI PHÁP NGÀI BẮC THIỀN, PHẠM PHÁP CHỦ:

E. NỐI PHÁP NGÀI ĐỨC TẠNG, ANH PHÁP SƯ:

F. NỐI PHÁP NGÀI XA KHÊ PHÁP SƯ:

F. NỐI PHÁP NGÀI TUỆ GIÁC, NGỌC PHÁP SƯ:

G. NỐI PHÁP NGÀI VIÊN GIÁC TỪ PHÁP SƯ:

H. NỐI PHÁP NGÀI PHỔ MINH, TĨNH PHÁP SƯ:

I. NỐI PHÁP NGÀI PHẠM TỪ, PHỔ PHÁP SƯ

J. NỐI PHÁP NGÀI THANH BIỆN TỀ PHÁP SƯ:

QUYỂN 16

PHẦN VI - LIỆT TRUYỆN CÁC SƯ (PHẦN 6)

A. NỐI PHÁP NGÀI TỨC AM, UYÊN PHÁP SƯ:

B. NỐI PHÁP NGÀI TRÍ DÕNG, NHIÊN PHÁP SƯ:

C. NỐI PHÁP NGÀI CHÂN GIÁO, TIÊN PHÁP SƯ:

D. NỐI PHÁP NGÀI SIÊU QUẢ, ĐẠO PHÁP SƯ:

E. NỐI PHÁP NGÀI TRÚC AM, QUÁN PHÁP SƯ:

F. NỐI PHÁP NGÀI MỤC AM, BẰNG PHÁP SƯ:

G. NỐI PHÁP NGÀI TƯỜNG PHÙ, HÂN PHÁP SƯ:

H. NỐI PHÁP NGÀI THANH TU, CỮU PHÁP SƯ:

I. NỐI PHÁP NGÀI TRỪNG GIÁC, HOÁN PHÁP SƯ:

J. NỐI PHÁP NGÀI PHÁP CHIẾU, KIỂU PHÁP SƯ:

K. NỐI PHÁP NGÀI VIÊN CHIẾU, QUANG PHÁP SƯ:

L. NỐI PHÁP NGÀI ĐÔNG LINH, KHÂM PHÁP SƯ:

QUYỂN 17

PHẦN VI - LIỆT TRUYỆN CÁC SƯ (PHẦN 7)

A. NỐI PHÁP NGÀI VIÊN BIỆN, SÂM PHÁP SƯ:

B. NỐI PHÁP NGÀI GIÁC VÂN, LIÊN PHÁP SƯ:

C. NỐI PHÁP NGÀI CHỨNG NGỘ, TRÍ PHÁP SƯ:

D. NỐI PHÁP NGÀI TỪ THẤT, VÂN PHÁP SƯ:

E. NỐI PHÁP NGÀI NĂNG NHÂN, SƠN PHÁP SƯ:

F. NỐI PHÁP NGÀI DƯƠNG TIÊM, UYÊN PHÁP SƯ:

QUYỂN 18

PHẦN VI - LIỆT TRUYỆN CÁC SƯ (PHẦN 8)

NỐI PHÁP NGÀI HƯU AM, CHÂU PHÁP SƯ:

NỐI PHÁP NGÀI PHÁP MINH, TIẾT PHÁP SƯ:

NỐI PHÁP NGÀI NGUYỆT ĐƯỜNG, TUÂN PHÁP SƯ:

QUYỂN 19

PHẦN VI - LIỆT TRUYỆN CÁC SƯ (PHẦN 9)

NỐI PHÁP NGÀI BÁCH ĐÌNH, NGUYỆT PHÁP SƯ

QUYỂN 20

PHẦN VI - LIỆT TRUYỆN CÁC SƯ (PHẦN 10)

 


Đức Phật lấy tâm ấn truyền cho các Tổ, các Tổ cùng truyền nhau đến các Sư. Trong lúc đó thì tùy cơ mà lập kiến giải, lấy quyển bày thật, mạch lạc phân hợp rõ ràng do đó mà không thể nghĩ bàn vậy. Trong khi tôi đang nghỉ ngơi tại núi Ô chiêm thì bỗng có ngài Ấp hầu Du Công mời đến thăm lầu Trừng tâm của Tư Mã Khấu. Ông ta đem việc xét duyệt nhờ tôi, tôi hỏi là muốn xét duyệt sách gì thì ra đó là bộ Phật Tổ Thống Kỷ Tôi vì việc nối lớn chí xưa nên không dám chối từ ngay, vừa đốt hương mở sách ra. Có một vị khách tiến đến thưa rằng: "Tôi nghe rằng ba thứ tâm, Phật và chúng sinh vốn không sai khác, vậy sao giữa Phật và Tổ lại khác nhau ư? Và đạo vốn dứt hết các biểu tượng bên ngoài. Lý không còn số lượng thì sao lại có Thống Kỷ. Nếu cảnh tức tâm là Thiền quán, vốn tự nó đã có vị đề hồ thì cớ gì lại cố theo phép mà chỉ tìm sữa trâu ở miền thôn giả?"

Ta bảo rằng: Ông chỉ nói phần hơi giống mà chưa thật đúng với đạo. Nếu đạo không Nhất thống tất sẽ phân tán, còn Nhất thống mà không kỷ cương tất sẽ rối loạn. Đã phân tán rối loạn thì đạo lý còn nương tựa vào đâu? Song đạo nhân lời mà hiển bày, lý do giáo pháp mà sáng tỏ, há có thể lìa ngôn giáo mà tìm thấy được đạo lý ư? Nay ta thử đem sách này mà dụ cho thôn xóm, danh cú năng thuyên dụ cho trâu bò, các nghĩa sở thuyên dụ cho sữa và tô lạc đề hồ. Nếu bảo rằng cứ lấy thẳng chất đề hồ ngon quý mà không cần nhọc sức chế tạo sữa trâu, thì xin mời ông cứ bỏ sữa trâu mà tìm lấy đề hồ xem thử được chăng? Nếu muốn thấy rõ đạo của Thánh xưa thì hãy từ Thống Kỷ này mà đến được vậy. Ông lại còn nghĩ điều chi? Sở dĩ Dương Thị Ngự vì Phật và Tổ mà phát tâm, Du Ấp Hầu vì chúng sinh mà giáo hóa, Dục Đạo Nhân... nỡ đem hổ chúa để lầm người học chăng? Khách bèn đảnh lễ rút lui.

Nhà Đại Minh, tháng quý hạ, năm Giáp Dần niên hiệu Vạn Lịch. Nước Tây Thục, Phụ Từ Samôn Minh Dục kính bút.

Lời nói đầu của Phật Tổ Thống Kỷ.

Pháp sư Chí Bàng với một sách Phật Tổ Thống Kỷ ghi chép thứ tự rõ ràng về việc truyền trao thọ nhận của các Tổ xưa cũng như nguồn gốc sâu xa của sự phân chia chi phái khác nhau, khác nào một hoa có năm cánh truyền y thọ ký nối nhau rõ ràng. Từ đấy cõi Thiên đài đều là một nhà quyến thuộc, rộng ra thì cả các chốn địa ngục Thiên cung của Hoa tạng thế giới và các Thánh hiền liên xả, chư Tăng Ni vãng sinh đối với pháp vận lúc hưng hay suy, mà lòng càng tha thiết, dụng tâm càng cần mẫn. Đó là ý muốn vì lửa củi tàn mà truyền đèn nối tiếp mãi. Gần đây các Tông môn thạnh hành hoặc giảng luật hoặc phế bỏ, mà không biết rằng như xe kia phải có hai bánh, chim kia phải đủ hai cánh thì mới có thể nối dõi được giống Phật. Nếu thật như Tông Thiên thai thâm nhập vào Pháp hoa Tam-muội, chính mình thấy rõ hội Linh sơn còn đủ chưa tan, các phái cuồng thiền đánh hét đều rút chạy. Đó là cái ý khắc in thống kỷ của các bậc Thánh hiền như Y Doãn, Trọng Ni vậy.

Đức Sơn Dương Hạc kính đề.

-----------------------------

LỜI TỰA PHẬT TỔ THỐNG KỶ

Tham dự của trời đất, làm chủ sự biến hóa của vạn vật, cong tuy đồng mà khác ngôi vị... đó chính là loài người. Cho nên từ lúc có con người đến nay, ngây ngô một đám dân đen ắt phải lập bậc Đại nhân làm vua để chăn dắt, đó là bốn vị Luân vương thống lãnh bốn châu, hàng Túc tán cai trị các cõi khác. Nhưng nước Chấn Đán ở Nam Thiệm-bộ châu Thật là một nước quân tử ở phương Đông. Từ khi Phục Hy xưng đế mới bắt đầu vẽ bát quái truyền xuống ba đời, văn vật sáng rỡ. Đến khi Đức Thế Tôn chúng ta xuất hiện ở Thiên Trúc sắp hoằng hóa đến phương này. Bèn trước khiến ba Thánh vương khéo dắt dẫn đời, trước dùng lễ nhạc mở đường, sau mới dạy về chân đạo. Khi cơ thành thời đến thì đại pháp được lưu truyền. Thế nên vua nhà Hán nằm mộng thấy điềm lành báo việc ngài Ma-đằng sang Đông độ. Đời Ngụy Tấn trở đi thì rầm rộ dịch kinh, các Sư cùng tranh nhau lên bục giảng. Dù ai nấy riêng lập nghĩa môn để lấy danh đương thời, nhưng hãy còn mê mờ về ý một đời giáo hóa của Như Lai, tông Thiên thai dốc đời, nối thịnh vận mệnh của Pháp Lấy tám giáo, năm thời và bốn thứ Tam-muội cùng ý chỉ sự lý tức cụ cảnh quan "không hai" để làm gốc vào đạo của hàng hậu học. Lời dạy dỗ quý báu ấy được các Sư nối tiếp truyền nhau đời đời đến nay đã bảy trăm năm, giữ gìn không mất. Ngài Hàn lâm Lương Tử nói rằng: Nói về Phật pháp, nếu lấy Thiên thai làm Ty Nam la bàn thì có nhiều luận thuyết khác nhau sẽ rút lui, lời luận này thật đúng thay!

Ngài Chí Bàng soạn sách này học với các thầy rất lâu, luôn nghĩ rằng các Thánh tích của Phật và Tổ truyền trao, nếu không chép thuật lại thì đời sau lấy gì để nghe biết. Như thuở xưa ngài Lương Chữ soạn bộ Chính Thống, tuy mới lập pháp thể nhưng nghĩa trái văn vụng. Còn ngài Cảnh An soạn bộ Tông Nguyên, nhưng chỉ được xếp vào loại văn truyện, lời thô việc ít, đến nỗi bỏ quên không người thâu cất, ấy đều là lỗi này. Thế nên lấy tác phẩm của cả hai nhà vừa sửa, vừa bổ túc, căn cứ vào phép viết sử mà hợp thành sách của một nhà. Đây bắt đầu từ Đại Thánh Thích-ca và cuối cùng là ngài Pháp Trí. Một Đức Phật và hai mươi chín Tổ đều gọi là Bản Kỷ. Do đó nói rõ việc hoằng hóa mà thắt chặt mối Đạo vậy. Đến như các Tổ xếp vào thế gia thì từ ngài Quảng Trí trở đi là Liệt truyện, danh ngôn hạnh tốt đều cho vào loài này, nhưng thuật kể nêu lên chí hướng thì không phải nghĩa một môn, mà đủ cả Thông Lệ, có thể suy ra mà biết. vả lại đã dùng cách biên niên bắt đầu từ đời Chiêu vương nhà Chu cho đến triều đại vua ta đã riêng vì pháp vận hưng suy. Việc lập pháp của Nho, Thích, Lão, việc khai tông của Thiền, Giáo, Luật hội chung vào nhau, tất cả đều ghi chép đầy đủ. Đặt tên là Phật Tổ Thống Kỷ gồm năm mươi bốn quyển ghi chép truyện thế gia thì bắt chước theo Thái sử Công, ghi chép việc hưng suy thì bắt chước theo Tư Mã Công. Sách viết xong liền mang đến Bạch vân đường ngưỡng cầu Pháp sư Phật Quang hiệu khảo và các bạn đồng chí cùng tính việc khắc bản in để lưu truyền, đem về khiến mọi nhà đều có bản này. Ai đọc sách này thì tánh linh nhân tâm sẽ mở mang giúp sáng tỏ hóa trị của nước, đâu không thể bảo là có lợi ích lớn cho đời ư? Từ năm Mậu Ngọ, ngài Bảo Hựu đứng đầu việc sửa văn suốt mười năm xem xét, năm lần sao đi chép lại mới thành bản thảo ngày lại nối đêm, công lao thật bội phần, chỉ mong báo đáp ân Phật, đền trả nghĩa vua, không phụ sở học, chí ở tại đây vậy.

Đời Tống, niên hiệu Hàm Thuần thứ năm, ngày tám tháng tám năm Kỷ Tỵ. Đất Bốn Minh, Phước tuyền, Sa-môn Chí Bàn, ngụ tại núi Nguyệt ba ở Đông hồ, kính tựa.

Đồng hiệu chánh, Cát Tường An Lạc Sơn, Giáo Trung Báo Quốc Giáo Tự, Thủ Tọa, Sa-môn Tất Thăng.

Hiệu Chánh Tiền, Trụ Trì Hoa Đình Tiên Phước Giáo Tự, Truyền Thiên Thai Tống Giáo, Samôn Tuệ Chu.

Hiệu chánh, trụ trì Cát Tường An Lạc Sơn, Giáo Trung Báo Quốc Giáo Tự Truyền Thiên Thai Tông Giáo, Sa-môn Thiện Lương.

Hiệu chánh, trụ trì Đông hồ Nguyệt Ba Sơn, Từ Bi Phổ Tế Giáo Tự Truyền Thiên Thai Tông Giáo, Sa-môn Tôn Tịnh.

Hiệu chánh, Đặc Bốn Phật Quang Pháp sư, Tả Hữu Nhai Đô Tăng Sáu Chủ Quản, Giáo Môn Công Sự, trụ trì Thượng Thiên Trúc Giáo Tự, Bốn Kim Lan Y Pháp, xem xét Phật Tổ Thống Kỷ thông lệ.

Thích bản kỷ (Bản kê về họ Thích)

Đức Thích-ca Như Lai, việc đầu tiên sau khi mới thành Phật là đem lòng đại Bi cứu độ muôn loài suốt đến đời vị lai không ngơi nghỉ. Thế nên sau khi chứng quả thì hiện bày quyền biến, thường thường xuất hiện trên đời. Chớ nên lấy ba đời mà tính có trước sau.

Huống là khắp cả mười phương quốc độ bảo sinh bảo diệt mọi chỗ không đồng. Há có thể chỉ ở một cõi Nam Thiệm-bộ châu này mà hoàn thành xong sự nghiệp của ngài ư? Nhưng nay việc ghi chép thì chỉ đặc cử các yếu hội truyền giáo ở phương này mà biết khắp cả mười phương cũng đều giống đây không khác. Cả ba đời đều chỉ ở một tâm sao còn có việc dị đồng ư? Nay căn cứ vào các nhân hạnh của Như Lai từ lúc còn là phàm phu cho đến khi được gọi là bậc Pháp vương mà nêu rõ bản tánh và Thánh nguyên, trình bày tám tướng lớn nhỏ, phân chia hai mối đốn tiệm, trải qua năm thời, phô bày một giáo pháp viết nên bộ Bản Kỷ về giáo chủ Thích-ca Mâu-ni Phật, bốn quyển. Từ ngài Đại Ca-diếp đến Tôn giả Sư Tử đều hay kính vâng theo lời Phật dạy hoằng truyền Đại pháp, gọi đó là Kim Khẩu Tổ Thừa. Căn cứ vào Phó Pháp Tạng (Pháp truyền giao) mà soạn thành Tây Độ Nhị Thập Bốn Tổ Kỷ, một quyển.

Từ thời Bắc Tề mới mở đạo Long thọ cho đến tông Thiên thai truyền bá Pháp Hoa thì ngài Chương An tập họp làm sớ luận, ngài Kinh Khê viết lời giải thích rõ ràng, đều ở tại Chấn Đán (Trung Quốc) mà vâng theo Giáo Quán. Đó gọi là sư nay Kế đến tổ, viết thành bộ Đông Độ Cữu Tổ Kỷ, hai quyển. Từ ngài Pháp sư Thúy nối nghiệp ngài Kinh Khê, thầy thầy truyền nhau trải suốt năm đời Vãn đường, đến triều vua ta giáo pháp tan mà lại họp. May nhờ ngài bốn minh Pháp Trí ra dung trung hưng đạo giáo quán của Thiên thai, công lớn ngang với chín Tổ kia, nên viết ra Hưng Đạo Pháp Sư Hạ Bát Tổ Kỷ, một quyển. Bộ này ghi kể các chuyện từ ngày Đức Phật giáng sinh đến năm ngài Pháp Trí thị tịch gồm cả thảy có một Đức Phật và hai mươi chín vị Tổ, bắc đầu từ năm Giáp Dần vào đời Chu Chiêu Vương thứ hai mươi sáu cho đến năm Mậu Thìn, niên hiệu Thiên Thánh thứ sáu, đời Tống Nhân Tông, gồm hai ngàn hai năm chung làm một Bản Kỷ xếp vào Chánh thống, giống như các vua chúa ở đời chấn chỉnh ngôi báu để truyền nghiệp lớn.

Thích thế gia:

Từ khi núi Nam nhạc xuất hiện Thiền sư Tuệ Chiếu cho đến các sư Từ Vân… đều truyền giáo pháp làm rõ tông môn, chia đèn soi sáng thế gian, cùng với các Tổ Chánh Thống đều là ánh sáng, nên viết bộ Chư Tổ Thế Giả, hai quyển.

Thích liệt truyện (Liệt truyện về họ Thích):

Từ ngày bốn minh các dòng nối nhau lỗi lạc nhất có mười mấy vị. Hàng con cháu Kế đến thừa thì chỉ có ba ngài Quảng Trí, Thần Chiếu, Nam Bình là sáng chói nhất, giữ vững pháp nhà, chống kẻ lấn hiếp bên ngoài mà hoằng đạo độ người. Do đó, viết ra bộ Chư Sư Liệt Truyện gồm mười một quyển. Nói về kẻ phản Tông phá Tổ, mất người thừa Kế đến thì có vài ba người, nên viết ra Tạp Truyện, một quyển. Nói về những người có công với giáo môn, nhưng sự việc lâu xa lại không ghi chép, nên viết Vị Tướng Thừa Tự Truyện, một quyển.

Thích biểu:

Khảo sát việc truyền thụ của chư Tổ, trình bày việc nối pháp lo đời, muốn biết việc thiên cổ thì phải xét chuyện thời nay. Vì muốn nói rõ các việc từ thời Bắc Tề, cho đến thời ngài Pháp Trí nên phải thuật lại từ lúc có các dòng Chánh Thống đến nay. Viết ra Lịch Đại Truyền Giáo Biểu là muốn trình bày rõ Đức Thích-ca cùng các Tổ cho đến các Sư ngày nay. Để nói việc truyền Đăng vô tận, nên viết ra Phật Tổ Thế Hệ Biểu gồm hai quyển.

Thích chí:

Cùng trình bày với lối văn trang nhã là văn tán Phật, mỗi thứ đều có chương nghĩa phát huy Tổ nghiệp. Ở đây muốn củng cố sự hưng thịnh của Pháp môn, nên viết ra Sơn Gia Giáo Điển Chí, một quyển.

Người mà lý, giáo, hạnh thành tựu đầy đủ. Từ ngũ trược lên bậc Cửu phẩm thì chỉ có đạo Niệm Phật Tam-muội mới có khả năng như thế. Cơ nghi đời mạt pháp bắt đầu từ núi Lô, nên viết ra Tịnh Độ Lập Pháp Giáo Chí, ba quyển.

Các ngài Đạt-ma, Hiền Thủ, Từ Ân, Quán Đảnh, Nam Sơn... đều là một đời lỗi lạc. Đặc biệt tuy cùng làm sáng tỏ đạo này nhưng mỗi vị chuyên biệt một môn, cách xa các Tông khác, nên viết ra Chư Tông Lập Giáo Chí, một quyển.

Nhìn thấy ngàn Phật nối nhau thịnh vượng thì biết rõ vô tận đăng. Từ một châu trông khắp thì biết rõ vô biên cõi. Vì ải tục khó nghe thấy, nên viết ra Tam Thế Xuất Hưng Chí và Tam Giới Danh Thể Chí, gồm ba quyển.

Mọi thứ hương đăng cúng dường và các hình thức lễ, tụng, ca, ngâm là che lấp giấu vết chính của duyên nhân, gia hạnh ví chỉ có người hiểu lý mới thành tựu các Phật sự, nên viết bộ Pháp Môn Quang Hiển Chí, một quyển.

Đại Pháp truyền sang Đông độ (Trung Quốc), Thánh hiền đời đời nối nhau, do đó Tam bảo được giữ gìn không để dứt mất. Song trải bao năm tháng lâu xa khi hưng khi phế, ấy là vì sự đời vô thường biến đổi, chứ đối với Đạo mầu nào có nên hư. Xem xét đủ mọi việc làm từ xưa nay để thấy cái tướng của vận pháp thông hay tắt. Đến như các giáo thuyết của Nho và Lão trên đời, có lúc bị ép bức hay được mở mang, nhưng các giáo thuyết ấy đều sáng rỡ, có thể dùng để dạy và răn. Nên soạn ra bộ Pháp Vận Thông Tắc Chí, mười lăm quyển.

Vận pháp thông tắt, sự biến đổi dẫy đầy, nếu căn cứ vào biên niên thì không rõ ngọn ngành, nay muốn thông suốt cổ kim để mọi người tìm biết, nên viết ra bộ Lịch Đại Hội Yếu Chí, bốn quyển.

Hàng môn đệ của Phật và Nho cao quý, có người dùng văn tự để phô trương Đạo lớn hoặc làm tiêu biểu cho Pháp môn, thì không thể không tóm tắt ghi chép, do đó mà soạn bộ Danh Văn Quang Giáo Chí, hai quyển.

Tự cổ chế:

Khoảng niên hiệu Chánh Hòa đời vua Huy

Tông nhà Tống, ngài Ngô Hưng Dĩnh Pháp sư mới soạn ra bộ Tông Nguyên Sáu để thuật lại các việc truyền thọ nhau của một tông Thiên thai kể từ đời Bắc Tề cho đến năm Nguyên Hựu của triều đại nhà Tống, vẽ nên bản đồ hệ thống hóa Mối Đạo, do đó mới có thể khảo sát tìm biết được Tổ Tông của các giáo môn.

Khoảng niên hiệu Khánh Nguyên đời Ninh Tông nhà Tống, ngài Khải am Ngô Khắc Kỷ lấy bộ Sáu của ngài Pháp sư Dĩnh mà nói rộng thêm ra, có tên là Thích Môn Chánh Thống, chưa kịp lưu hành thì mất. Vào khoảng năm Gia Định, ngài Cảnh Am Thiên Pháp sư lại lấy bản sáu của Pháp sư Dĩnh và bộ Cảnh Am Tân Đồ mà viết thêm phần giải thích ở sau và phụ thêm truyện của hơn sáu mươi vị, đặt tên là Tông Nguyên Sáu.

Vào đầu niên hiệu Gia Hy đời vua Lý Tông nhà Tống, ngài Tiền Đường Lương Chữ Giám Pháp sư, lấy bản sáu ở đời Ngô rồi theo pháp viết sử mà viết ra các thứ sách bản kỷ, thế gia, liệt truyện, tải ký,... nhưng vẫn dùng tên cũ là Thích Môn Chánh Thống. Song bản của ngài Cảnh Am thì có lỗi là không lập thể của Thống kỷ, còn bản của ngài Lương Chữ thì có nhiều danh vị lầm lẫn. Cho đến các thứ như văn rườm, lời thô, việc ít, nghĩa trái thì đều có đủ. Nhưng tên sách gọi là Thích Môn thì quá bao quát, còn những sự cần yếu thì chỉ nói sơ qua. Vậy cần nên thảo luận, sửa đổi, trao chuốt thêm nữa, vì không thể đòi hỏi sự hoàn bị ở một người, nay xin nói rõ. Những điều kể thuật hôm nay là căn cứ vào hai Bộ Tông Nguyên Sáu và Thích Môn Chánh Thống, có tham khảo đối chiếu văn nghĩa, sửa sang bổ túc thêm. Rồi lại lấy thêm các văn từ ở các Kinh điển Đại tạng, sở ký Giao môn, sử tịch Nho tông và các truyện sáu của các nhà... cho đến viện dẫn cả các sách Tú Sư Long Hưng Thống Kỷ, Tú Sư Thích Trị Thống Kỷ... để việc dẫn giúp vào. Rồi dựa theo phép của Sử thị mà viết thành bốn quyển Phật Kỷ, bốn quyển Tổ Kỷ, hai quyển Thế Gia, mười một quyển Liệt Truyện, một quyển Tạp Truyện, một quyển Vị Tướng Thừa Sự Truyện, hai quyển Biểu, ba mươi quyển Chí... tạo thành một bộ toàn thư của một nhà. Đến như sau một truyện thì có phần khen ngợi đức hạnh của vị ấy, sau mỗi chuyện lại có phần bình luận để giải nghi. Về văn nếu phần nào việc dẫn việc xưa có nghĩa khác thì có chú thích ở dưới, khiến người đọc dễ hiểu. Nếu căn cứ trong đây và văn giải thích liệt truyện ở trước thì tất biết phần liệt truyện về các Sư có mười một quyển và về bản kỷ chỉ có mười quyển.

Dụng tam lệ:

Các Sư ở đời gần đây, theo phép lập truyện thì phải dùng ba lệ sau:

1. Quán hạnh tu minh.

2. Giảng huấn hữu chỉ.

3. Trứ Thư Minh Tông.

Nếu không phải ba thứ này thì là lạm dụng. Đến như đối với Lý sự của Kinh pháp mà khen ngợi giáo môn, lại đem ra ghi chép là muốn khiến người đời sau có chỗ kính ngưỡng. Như đám con cháu các quan, các bậc Danh hiền, Nho sinh, Cư sĩ... biết được Đạo này nếu không phải có do công huân tu từ nhiều đời trước mà được như thế, ấy là do thời xưa mà có vậy.

Thích đề nghĩa:

Phật Tổ là gì? Đó là Giáo chủ của ta và chư Tổ hệ thuộc.

Thống Kỷ là gì? Nêu rõ lý chung về việc truyền thụ của Phật và Tổ (Sử Ký Công Thần Biểu nói rằng: Cần yếu là lấy việc thành công để làm Thống Kỷ. Hán Cao Tổ Kỷ, Nhan Sư Cổ chú rằng: Kỷ là sửa trị; Thống là sửa trị các sự việc có liên hệ với tháng năm.

Bản Kỷ là gì? Là ghi chép các việc chánh thống truyền giáo của một vị Phật và hai mươi chín vị Tổ, bắt đầu từ Đức Thích-ca và kết thúc vào đời ngài Pháp Trí.

Thế Gia là gì? Là giữ vững nghiệp nhà với đời để gánh vác Tổ đạo.

Liệt Truyện là gì? Là ghi chép ngôn hạnh của các đời Tổ sư để có người thừa Kế đến Tổ đạo.

Biểu là gì? Là trình bày về đầu mối của giáo pháp và thời gian khi truyền giáo.

Chí là ghi các sự việc như Sơn Gia Giáo Điển hoặc việc các Tông lập giáo hoặc việc vãng sinh tịnh độ, hoặc thế giới thành hoại, hoặc việc pháp môn hiển sáng, hoặc về vận pháp thông tắt, hoặc các lãnh hội các điều cốt yếu để thông suốt cổ kim, hoặc thuật văn để làm sáng tỏ đại giáo... thì chí đều có xét đến.

Thích sư danh:

Nêu tên các Sư thường theo tám nguyên tắc (lệ): Hoặc do tên nước như Bắc Tề, Cao Ly, hoặc theo tên núi như Nam nhạc, Thiên thai. Hoặc theo hiệu thầy như Trí Giả, Pháp Trí. Hoặc theo tên đất như Chương An, Tiên Thành. Hoặc theo tên chùa như Pháp hoa, Thiên cung. Hoặc theo tên riêng như Thảo đường, Tức am. Hoặc theo tên quận như Tiền đường, Bốn minh. Hoặc theo tên sách mình viết như Phù Tông, Hiến Chương. Đời gần đây phần đông người ta dùng tự hiệu, tuy tên gọi không phải một, nhưng khi gọi tên ai thì đúng là thật có người ấy.

Chấm dứt các nghi ngờ:

Để viết nên bộ sách này thì hoặc do văn cũ mà sửa lại, hoặc gom góp các văn khác rồi bổ túc thêm, hoặc lấy văn từ các luận phẩm của thầy và bạn, hoặc soạn thuật từ các bi ký. Sở dĩ không chú thích rõ từng trích văn là vì theo phép "Tu Sử" thì phải như thế. Trong đó có nhiều chuyện liên quan cần phải dẫn nhiều chứng cứ chỉ là bất đắc dĩ mà thôi. Vả lại sách này dùng các tạng điển giáo văn thì không phải nho sinh cư sĩ nào cũng hiểu dễ dàng cả đâu. Có kẻ từng chữ, từng câu nghiên cứu ra các nghĩa lý nên đã nghi ngờ. Tin tưởng vào các Samôn thì tất thấu nghĩa nhập thần, sau đó mới biết đến Phật. Nếu coi thường đọc lướt qua không thấu rõ ý chỉ tất là không ích gì cho ai cả. Lại các Nho sĩ ở đời thường đưa luận của hai ông Hàn, Âu bài bác Phật giáo, nhưng không biết rằng vào lúc cuối đời cả hai ông này đều quay về với đạo Phật. Nay có người dằn bớt sự bồng bột đọc kỷ sách này mới biết rõ lại các lập thuyết của Hàn, Âu đều có ý giúp dương trợ âm.

Dẫn văn kinh:

Văn trong sách này được trích dẫn từ các sách như:

Kinh điển Đại tạng như các kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Duy-ma, Niết-bàn, Thụy Ứng, Phạm Võng, Lâu Thán, Dược Vương, Phổ Diệu, Thiện

Quyền, Đại Quyền, Hiền Ngu, Đề-vị, Lăng-già, Đại Tập, Di Giáo, Nhân Quả, Vô Lượng Nghĩa, Đại Bát-nhã, Phó Pháp Tạng, Pháp Diệt Tận, Đại

Phương Tiện, Thập Nhị Du, Phật Bản Hạnh, Vị Tằng Hữu, Tập Bảo Tạng, Trung Bản Khởi, Thủlăng-nghiêm, Pháp Cú Dụ, A-dục Vương, Bát Quan Trai, Trường A-hàm, Tạp A-hàm, Diệu Pháp Hoa, Phổ Hiền Hành Pháp, Bồ-tát Xử Thai, Bồ-tát Bản Hạnh, Ưu-bà-tắc Giới, Tăng Nhất A-hàm, Phân Biệt Công Đức, Tư Ích Phạm Thiên, Ươngquật-ma-la, Tịnh Phạn Nê-hoàn, Thăng Đao-lợi Thiên, Quán Phật Tam-muội, Thắng Man Sư Tử, Tượng Pháp Quyết Nghi, Phật Mẫu Nê-hoàn, Mada Phu Nhân, Nhân Vương Bát-nhã, Văn-thù Bátnhã.

Các luật như Đàm-vô-đức, Thập Tụng, Bốn Phần, Tăng-kỳ, Di-sa-tắc, Thiện Kiến, Ngũ Phần.

Các luận như Đại Trí Độ, Tân-bà-sa, Đại Trang Nghiêm, Tát-bà-đa, Câu-xá, Khởi Tín, Phật Đạo Luận Hành, Dịch Kinh Đồ Ký, Lương Cao Tăng Truyện, Đường Cao Tăng Truyện, Tống Cao Tăng Truyện, Hoằng Minh Tập, Thích-ca Phổ, Tây Vức Ký.

Văn của Thiên thai giáo, gồm có các bộ sau:

Pháp Hoa Văn Cú, Diệu Lạc, Pháp Hoa Diệu Huyền, Thích Thiên Tầm Quán Luận, Phụ Hành, Niết-bàn Huyền Nghĩa, Quan Âm Biệt Hạnh, Pháp Giới Thứ Đệ, Bốn Giáo Nghĩa, Nam Nhạc Nguyện Văn, Trí Giả Biệt Truyện, Nhị Sư Khẩu Nghĩa, Quốc Thanh Bách Sáu, Bảo Vân Chấn Tổ Tập, Bốn Minh Giáo Hạnh Sáu, Thiên Trúc Biệt Tập, Thảo Am Di Sự, Phiên Dịch Danh Nghĩa, Cửu Tổ Lược Truyện.

Các sách về đạo Phật, gồm các bộ:

Chu Thư Dị Ký, Lô Sơn Tập, Quốc Thanh Bi, Ngọc Tuyền Bi, Thập Bát Hiền Truyện, Tăng Cảnh Sáu, Quang Vương Từ Đường Ký, Tịnh Độ Vãng Sinh Truyện, Pháp Hoa Hiển Ứng Sáu, Bát-nhã Cảm Nghiệm Sáu, Quan Âm Cảm Ứng Sáu, Thiên Nhân Cảm Thông Truyện, Tăng Sử Lược, Lâm Gian Sáu, Tăng Bảo Truyện, Hộ Pháp Luận, Cảnh Đức Truyền Đăng Sáu, Phổ Đăng Sáu, Đại Tuệ Võ Khố, Tương Sơn Dã Sáu, Âu Dương Ngoại Truyện, Thạch Môn Văn Tự Thiền, Dục Vương xá-lợi Truyện, Thiền Môn Bảo Huấn.

Các sách về đạo Nho, gồm các bộ:

Khổng Tử Gia Ngữ, Luận Ngữ, Lễ Ký, Mạnh Tử, Tuân Tử, Dương Tử, Sử Ký, Tây Hán Thư,

Đông Hán Thư, Tam Quốc Chí, Tấn Thư, Nam Bắc Sử, Đường Thư, Ngũ Đại Sử, Kê Cổ Sáu, Tục Kê Cổ Sáu, Quốc Triều Hội Yếu, Hoàng Triều Loại Uyển, Hoàng Triều Long Phi Ký, Bản Triều Thông Giám, Hoàng Triều Cảnh Mệnh Sáu, Hàng Xương Lê Văn Liễu Tử Hậu Văn, Bạch Thị Trường Khánh Tập, Nhan Thị Già Huấn, Dậu

Dương Tạp Trở, Tuyên Thất Chí, Dương Văn Công Đàm Uyển, Quảng Lăng Chí, Sát Thị Tòng Đàm, Tiền Thị Đổng Vi Chí, Đông Pha Văn Tập, Vương Thị Tiểu Súc Tập, Lỗ Trực Văn Tập, Thái Bình Quảng Ký, Đông Pha Chỉ Chưởng Đồ, Sáu Nhất Cư Sĩ Tập, Dị Kiên Chí, Hồng Dung Trai Tùy Bút, Tăng Thị Độc Tĩnh Chí, Đông Đô Sự Lược.

Các sách về đạo Lão, gồm các bộ:

Lão Tử, Liệt Tử, Trang Tử, Lão Tử Nội Truyện, Lão Quân Thật Sáu, Huyền Diệu Nội Thiên, Hán Võ Nội Truyện, Đổng Minh Ký, Thập Châu Ký, Vân Cấp Thập Xâm, Thiên Sư Gia Truyện, Lưu Hướng Liệt Tiên Truyện, Cát Hồng Thần Tiên Truyện, Tục Tiên Truyện, Tập Tiên Truyện, Tiên Uyển Di Sự, Hoàng Phủ Cao Sĩ Truyện, Chân Cáo, Ngộ Chân Thiên, Lâm Linh Tố Truyện.

Các bậc Hiền trong việc tu thư, gồm có:

Nguyên Dĩnh Pháp sư, là người Ngô hưng, khoảng niên hiệu Chánh Hòa, ở tại viện Trí giả có soạn ra bộ Tông Nguyên Sáu. Có chuyện kể.

Ngô Khắc Kỷ, người ở Phủ giang vụ nữ, hiệu Khải Am, khoảng niên hiệu Gia Định, có soạn bộ Thích Môn Chánh Thống. Có chuyện kể.

Chí Chiêu Pháp sư, là cháu của ngài Khải Am, người ở Tả khê vụ nữ, có soạn bộ Thích-ca Phả Lịch Đại Tông Thừa Đồ. Thấy trong Khải Am Truyện.

Cảnh Thiên Pháp sư, người ở Dư diêu, theo học với ngài Đông sơn Quảng Giáo, hiệu là Cảnh Am, khoảng niên hiệu Gia Định, ở tại Thiên Trúc Linh Sơn. Có soạn bộ Tông Nguyên Sáu và viết thêm trong Ngô Bản hơn sáu mươi truyện.

Tông Giám Pháp sư, là người ở Lương Chữ Tiền Đường, đầu niên hiệu Gia Hy, ở tại chùa

Nhân thọ trương, viết nối Bộ Thích Môn Chánh

Thống của ngài Khải Am. Ngài lại viết ra các thứ bản kỷ, thế gia, liệt truyện, các chí và tải ký.

Kể thêm các nhà tu thư:

Tổ Tú, đầu niên hiệu Long Hưng, ở tại Long môn. Có soạn ra bộ Phật Vận Thống Kỷ, phỏng theo cách ngụ ý khen chê của Tả Thị và thuật thêm các tai ương phản nghịch, thí chúa soán ngôi. Ngài viết Vĩnh Gia Tiết Hợp. Khi làm bài tựa Thích-ca Phả có nói: Thống Kỷ của Tú Sư phần lớn phụ thêm các kiến thức nhỏ hẹp. Bậc học tối thượng thừa như thế mà còn sai lầm nặng nề như thế thay!

Đức Tu, khoảng niên hiệu Thuần Hy, ở tại Kim hoa có soạn bộ Thích Thị Thông Kỷ. Ở phần kỷ về Đức Thích-ca có phụ thêm ba trời Giáo của ngài Từ Ân, Một Đời Giáo Hóa... nhưng nói rất sơ lược. Vả lại lấy các thứ Ngũ Vận Đồ, Thạch Trụ Minh, Tam Bảo Sáu mà nói ngày sinh của Phật không giống nhau. Có lẫn lộn nhiều thứ tạp nhạp trong Phật Kỷ chánh văn, khiến việc soạn thuật có nhiều lầm lỗi. Việc sắp xếp các chuyện đương thời so với bản của Tú Tổ có so le nhau và lời văn dài dòng vô ích.

------------------------------------

PHẬT TỔ THỐNG KỶ MỤC SÁU

-Đời Tống, năm Hàm Thuần, đất Bốn minh, Đông hồ.-Sa-môn Chí Bàn soạn.

Quyển 1: Thích-ca Mâu-ni Phật Bản Kỷ-Phần 1,-I.

Nói về: Nêu rõ bản tích, xếp Thánh nguyên, tên Thích-ca.

Quyển 2: Thích-ca Mâu-ni Phật Bản Kỷ-Phần 2,-I.

Nói về: Giáng Đâu-suất, gá thai mẹ, ở thai mẹ, giáng sinh, xuất gia, thành Phật đạo.

Quyển 3: Thích-ca Mâu-ni Phật Bản Kỷ-Phần 3,-I.

Nói về: Chuyển pháp luân (năm thời): Hoa nghiêm, Lộc uyển, Phương đẳng, Bát-nhã, Pháp hoa Niết-bàn.

Quyển 4: Thích-ca Mâu-ni Phật Bản Kỷ-Phần 4,-I. Nói về: Phật nhập Niết-bàn, chia xá-lợi, kết tập ba tạng.

Quyển 5: Bản Kỷ về hai mươi bốn vị Tổ ở Tây độ-Phần II.

Nói về các Tôn giả như Đại Ca-diếp, A-nan-đà, Thương-na Hòa-tu, Mạt-điền-địa, Cúc-đa, Đề-cađa, Di-già-ca, Nan-đề, Mật-đa, Hiếp Tỳ-kheo, Dạxoa, Mã Minh, Ma-la, Long Thọ (mười ba vị Tổ kể trên được Đông đô nhận là Chánh tổ), Đề-bà, Lahầu, Tăng-khư, Da-xá, Cưu-ma-la, Xà-dạ-đa, Bànđà, Ma-noa-la, Hạc-lật-na, Sư Tử.

Quyển 6: Bản Kỷ về chín vị Tổ ở Đông độ-Phần 1,-III

Nói về: Long Thọ Tôn giả, Bắc Tề Thiền sư, Nam Nhạc Thiền sư, Trí Giả Thiền sư.

Quyển 7: Bản Kỷ về chín vị Tổ ở Đông độ-Phần 2,-III

Nói về: Chương An Thiền sư, Pháp Hoa Thiền sư, Thiên Cung Thiền sư, Tả Khê Thiền sư, Kinh Khê Thiền sư.

Quyển 8: Bản Kỷ về tám Tổ từ Hưng Đạo trở xuống-Phần IV Nói về: Hưng Đạo Pháp sư, Chí

Hạnh Pháp sư, Chánh Định Pháp sư, Diệu Thuyết Pháp sư, Cao Luận Pháp sư, Tịnh Quang Pháp sư, Bảo Vân Pháp sư, Pháp Trí Pháp sư.

Quyển 9: Chư Tổ chia ra các Thế gia. Phần 1,-V.

Nói về: Nam Nhạc Thế gia (có hai mươi mốt vị từ Tăng Chiếu Thiền sư trở xuống), Thiên thai Thế gia (có năm mươi sáu vị từ Chân Quán Thiền sư trở xuống).

Quyển 10: Chư Tổ chia ra các Thế gia-Phần 2,-V.

Nói về: Chương An Thế gia (có sáu vị từ Hoằng Cảnh Thiền sư trở xuống, Thiên Cung Thế gia (có một người tức Chân Giác Thiền sư), Tả Khê Thế gia (có hai mươi tám vị từ Thần Ung Thiền sư trở xuống), Kinh Khê Thế gia (có mười bốn vị từ Phổ Môn Thiền sư trở xuống), Hưng Đạo Thế gia (có hai vị từ Thủ Tố Pháp sư trở xuống), Chí Hạnh Thế gia (có năm vị từ Lương Từ Pháp sư trở xuống), Chánh Định Thế gia (có bốn vị từ Kỉnh Hưu Pháp sư trở xuống), Diệu Thuyết Thế gia (có năm vị từ Thường Tháo Pháp sư trở xuống), Cao Luận Thế gia (có mười chín vị từ Chí Nhân Pháp sư trở xuống), Tịnh Quang Thế gia (có hai mươi vị từ Tông Dục trở xuống), Bảo Vân Thế gia (có tám vị từ Tuân Thí trở xuống).

Quyển 11: Chư Tổ Liệt Truyện-Phần 1, VI.

Nói về: Các nhóm Từ Vân (có hai mươi chín vị), nhóm Hưng quốc (có hai vị), nhóm Tiền Đường (có hai vị).

Quyển 12: Chư Sư Liệt Truyện-Phần 2, VI.

Nói về: Đời thứ hai của ngài Pháp Trí, ngài Quảng Trí (có hai mươi lăm vị).

Quyển 13: Chư Sư Liệt Truyện-Phần 3, VI.

Nói về đời thứ ba của ngài Pháp Trí và nói về nhóm sáu nhà là Quảng Trí, Thần Chiếu, Nam Bình, Tam Học, Phù Thạnh, Quảng Từ (có bốn mươi vị).

Quyển 14: Chư Sư Liệt Truyện-Phần 4, VI.

Nói về đời thứ tư của ngài Pháp Trí và nói về nhóm ba nhà là Quảng Trí, Thần Chiếu, Nam Bình (có ba mươi bảy vị).

Quyển 15: Chư Sư Liệt Truyện-Phần 5, VI.

Nói về đời thứ năm của ngài Pháp Trí, nhóm ba nhà là Quảng Trí, Thần Chiếu, Nam Bình (có năm mươi hai vị).

Quyển 16: Chư Sư Liệt Truyện-Phần 6, VI.

Nói về đời thứ sáu của ngài Pháp Trí, nhóm ba nhà là Quảng Trí, Thần Chiếu, Nam Bình (có ba mươi lăm vị).

Quyển 17: Chư Sư Liệt Truyện-Phần 7, VI.

Nói về đời thứ bảy của ngài Pháp Trí, nhóm ba nhà là Quảng Trí, Thần Chiếu, Nam Bình (có bốn mươi vị).

Quyển 18: Chư Sư Liệt Truyện-Phần 8, VI.

Nói về đời thứ tám của ngài Pháp Trí, nhóm ba nhà là Quảng Trí, Thần Chiếu, Nam Bình (có sáu mươi mốt vị).

Quyển 19: Chư Sư Liệt Truyện-Phần 9, VI.

Nói về đời thứ chín của ngài Pháp Trí, nhóm ba nhà là Quảng Trí, Thần Chiếu, Nam Bình.

Quyển 20: Chư Sư Liệt Truyện-Phần 10, VI. Nói về đời thứ mười của ngài Pháp Trí, nhóm ba nhà là Quảng Trí, Thần Chiếu, Nam Bình.

Về nguyên văn của Chư Sư Liệt Truyện chỉ có mười quyển, nhưng mục sáu và thông lệ đều ghi là có mười một quyển và đem phân phối trên hai mươi mốt quyển, ở đây nói người thuật đã lầm. Cho nên các quyển sau đều bác bỏ. Theo mục sáu thì có năm mươi lăm quyển, nhưng bản kỷ chỉ có năm mươi bốn. Nay y theo bản kỷ thì văn liệt truyện không có quyển mười một, nên trong mục sáu liền bỏ đi. Lại đổi hai mươi hai quyển trong mục sáu thành hai mươi mốt quyển và đổi năm mươi lăm quyển thành năm mươi bốn quyển để họp với số của bản kỷ.

Quyển 21: Chư Sư Tập Truyện-Phần VII. Nói về các sư Tịnh Giác, Thần Trí-Thảo Am.

Quyển 22: Vị Tường Thừa Tự Truyện-Phần VIII

Nói về từ Đông dương Đại sĩ trở xuống (gồm có bốn mươi mốt người).

Quyển 23: Lịch Truyền Đại Giáo Biểu-Phần IX.

Quyển 24: Phật Tổ Thế Hệ Biểu-Phần X.

Quyển 25: Sơn Gia Giáo Điển Chí-Phần XI.

Quyển 26: Tịnh Độ Lập Giáo Chí, Phần 1,- XII.

Nói về bảy Tổ ở Liên xã, mười tám Hiền ở Liên xã, một trăm hai mươi ba người ở Liên xã, các bậc Hiền không vào Liên xã.

Quyển 27: Tịnh Độ Lập Giáo Chí, Phần 2, XII. Nói về các Cao Tăng được Vãng Sinh.

Quyển 28: Tịnh Độ Lập Giáo Chí, Phần 3,- XII.

Nói về: Các cao Ni vãng sinh, các chúng khác vãng sinh, các hàng Công khanh vãng sinh, các thường dân vãng sinh, các nữ lưu vãng sinh, các kẻ ác vãng sinh, chim cá vãng sinh, các loài khác được vãng sinh.

Quyển 29: Chư Tông Lập Giáo Chí-Phần XIII.

Nói về: Đạt-ma, Hiền Thủ, Từ Ân, Quán đảnh Nam Sơn.

Quyển 30: Tam Thế Xuất Hưng Chí-Phần XIV.

Nói về: Ngàn Phật kiếp Trang nghiêm thời quá khứ, ngàn Phật Hiền kiếp thời hiện tại, tiểu tam tai, ngàn Phật kiếp Tinh tú thời vị lai, đại tam tai.

Quyển 31: Thế Giới Danh Thể Chí, Phần 1, XV.

Nói về: Hoa tạng thế giới đồ, Vạn ức Tu-di đồ, Cửu sơn bát hải đồ, đại thiên tam giới đồ, Đao-lợi Thiên cung đồ, luận chung về chư Thiên.

Quyển 32: Thế Giới Danh Thể Chí, Phần 2, XV.

Nói về: Đông Hoa địa lý đồ, Tây Vức chư quốc đồ, năm xứ Ấn Độ ở Tây Vức, bát nhiệt địa ngục đồ, thập sáu Du Tăng đồ, bát hàn địa ngục đồ.

Quyển 33: Pháp Môn Quang Hiển Chí, Phần XVI. Quyển 34: Pháp Vận Thông Tắc Chí-Phần 1, XVII. Nói về hai đời Chu, Tần.

Quyển 35: Pháp Vận Thông Tắc Chí-Phần 2, XVII. Nói về các đời: Tây Hán, Đông Hán, Tam Quốc.

Quyển 36: Pháp Vận Thông Tắc Chí-Phần 3, XVII. Nói về các đời: Tấn, Tống, Tề.

Quyển 37: Pháp Vận Thông Tắc Chí-Phần 4, XVII. Nói về các đời: Lương, Trần.

Quyển 38: Pháp Vận Thông Tắc Chí-Phần 5, XVII. Nói về các đời: Bắc Ngụy, Bắc Tề, Bắc Chu.

Quyển 39: Pháp Vận Thông Tắc Chí-Phần 6, XVII.

Nói về: Đời Tùy (Văn Đế, Dạng Đế, Cung Đế), đời Đường (Cao Tổ, Thái Tông, Cao Tông, Võ Hậu).

Quyển 40: Pháp Vận Thông Tắc Chí-Phần 7, XVII.

Nói về đời Đường (Trung Tông, Duệ Tông, Huyền Tông, Túc Tông).

Quyển 41: Pháp Vận Thông Tắc Chí-Phần 8, XVII.

Nói về đời Đường (Đại Tông, Đức Tông, Thuận Tông, Hiến Tông).

Quyển 42: Pháp Vận Thông Tắc Chí-Phần 9, XVII.

Nói về đời Đường (Mục Tông, Kỉnh Tông, Văn Tông, Võ Tông, Tuyên Tông, Ý Tông, Hy Tông, Chiêu Tông, Cảnh Tông).

Thời Ngũ Đại: Lương, Đường, Tấn, Hán, Chu.

Quyển 43: Pháp Vận Thông Tắc Chí-Phần 10, XVII. Nói về đời Tống (Thái Tổ, Thái Tông).

Quyển 44: Pháp Vận Thông Tắc Chí-Phần 11, XVII. Nói về đời Tống (Nhân Tông).

Quyển 45: Pháp Vận Thông Tắc Chí-Phần 12, XVII. Nói về đời Tống (Nhân Tông, Anh Tông, Thần Tông)

Quyển 46: Pháp Vận Thông Tắc Chí-Phần 13, XVII.

Nói về đời Tống (Triết Tông, Huy Tông, Khâm Tông).

Quyển 47: Pháp Vận Thông Tắc Chí-Phần 14, XVII. Nói về đời Tống (Cao Tông, Hiếu Tông, Quang Tông).

Quyển 48: Pháp Vận Thông Tắc Chí-Phần 15, XVII. Nói về đời Tống (Ninh Tông, Lý Tông).

Quyển 49: Danh Văn Quang Giáo Chí-Phần 1, XVIII.

Nói về: Thiên Thai Thiền Lâm Tự Bi (của Lương Túc), Thiên Thai Chỉ Quán Thống Lệ (của Lương Túc), Trí Giả Đại Sư Truyện Luận (của Lương Túc), bài bia về Vô Tánh Hòa thượng ở chùa Thánh an (Liễu Tông Nguyên), Vô Tánh Hòa thượng bi âm ký (của Liễu Tông Nguyên), bài ký về Tịnh độ viện ở chùa Long hưng (của Liễu Tông Nguyên), bài bia về hạnh nghiệp của Trí Giả Đại sư (của Triệu Biện), bài ký về Chỉ Quán tọa thiền pháp yếu (của Trần Quyền), Tam Thiên Hữu Môn Tụng (của Trần Quyền), thư gởi Pháp sư Minh Trí (của Trần Quyền), bài ký về Tịnh độ viện ở Nam hồ (của Trần Quyền).

Từ bài bia của phái Thiên thai ở chùa Thiền lâm cho đến bài thư cho Dụ Cống Nguyên gồm có mười bảy thiên, Nam Tạng Mục Sáu đem ghép vào quyển năm mươi. Từ bài Thủy Chung Tâm Yếu cho đến bài Tây Môn Tông Tổ Nghị gồm bảy thiên thì đem để vào quyển năm mươi mốt. Nay sửa đúng theo bản kỷ nên đem mười một thiên trước để vào quyển bốn mươi chín và để mười ba thiên sau vào quyển năm mươi.

Quyển 50: Danh Văn Quang Giáo Chí-Phần 2, XVIII.

Nói về: Nhân Vương Bát-nhã Kinh Sớ Tự (của Triều Thuyết Chi), Minh Trí Pháp Sư Bi Luận (Triều Thuyết Chi), Bài Tán về Nam Hồ Trí Giả Đại Sư (của Chân Ẩn Cư Sĩ), Vĩnh Gia Tây Hồ

Pháp Minh Tự Sớ (của Diệp Thích), Trùng San San Định-Chỉ Quán Tự (của Ngô Khắc Kỷ), Thư Cho Du Công Nguyên (của Ngô Khắc Kỷ), Thủy Chung Tâm Yếu (của Đường Kinh Khê Thiền Sư), Bốn Thập Nhị Chương Kinh Số Tự (của Cô Sơn), Thư Cho Lạc Ngự Sử (của Cô Sơn), Nam Nhạc Chỉ Quán Tự (của Từ Vân), Thư Thân (Luận Ngữ Tử Trượng viết thư cho các Thân Hào), Viên Đốn Chỉ Quán Thập Pháp Giới Đồ (của Tư Vân), Tông Môn Tôn Tổ Nghị (của Sa-môn Chí Bàn).

Quyển 51: Lịch Đại Hội Yếu Chí-Phần 1, XIX.

Nói về: Vua kính thờ pháp, Thường Chầu Lễ Phật, Thiên Thơ Ngự Chế, Thánh Quân Hộ Pháp, Thí Kinh Độ Tăng, Đặc Ân Độ Tăng, Tấn Nạp Độ Tăng, Sĩ Phu Xuất Gia, Sa-môn Phong Tước, Tăng

Chức Sư Hiệu, Không Lạy Vua Cha, Bất Xưng Thần Tăng, Sùng Lễ Cao Hạnh, Sa-môn Trứ Thư.

Quyển 52: Lịch Đại Hội Yếu Chí-Phần 2, XIX.

Nói về: Túc mệnh tiền thân, phóng sinh cấm sát, kỳ đảo tai dị, quốc triều điển cố, các nước triều cống.

Quyển 53: Lịch Đại Hội Yếu Chí-Phần 3, XIX.

Nói về: Răng Phật ở Bắc Thiên Trúc, Mậu sơn xá-lợi, phụng liệng quanh xương Phật, Trần Lưu Phật Chỉ, Thụy Tượng Ứng Thế, Thánh hiền xuất hóa, lập đàn thọ giới, thiết tượng trí kinh, xây dựng chùa tháp, sang Tây thiên cầu pháp, dịch kinh ở Đông độ, kinh mục tăng số, Thiên thai truyền giáo, Thiền Uyển Truyền Đăng, luật Tông Thùy Phạm, Thần ni dị hạnh, danh sơn thắng tích, Thánh giáo cảm thông, trì tụng công thâm, Tây du lạc quốc.

Quyển 54: Lịch Đại Hội Yếu Chí-Phần 4, XIX.

Nói về: Tam giáo xuất hưng, tam giáo ách vận, tam giáo yêu ngụy, đàm luận về tam giáo, tăng đạo giáo pháp, Tăng Tiên đạo hậu, nội luật phân tài, tăng chế trị phạt, tăng tịch miễn đinh, Bốn Ích Phong Pháp, Bao Tuất Chung Vong, điềm lành khi lâm chung, quân thần mạng pháp, Hàn Âu bài Phật, Hóa Hồ ngụy kinh, sư ma tà đảng, hủy pháp ác báo.

------------------------------

PHẬT TỔ THỐNG KỶ

-Nhà Tống, Năm Canh Định, đất Bốn Minh, Đông hồ.-Sa-môn Chí Bàn soạn.

QUYỂN 1

PHẦN I: GIÁO CHỦ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT BẢN KỶ

Phần 1: NÓI VỀ BẢN TÍCH

Lời tựa nói rằng: Thánh Nhân Như Lai xuất hiện đem lợi ích lớn cho đời. Thế nên có việc kỳ diệu Giáng Bản Thùy Tích, mở Tích bày Bản. Bản là chỉ cho Pháp thân, còn Tích là chỉ về tám tướng (theo nghĩa của Thích Thiêm). Do Pháp thân mà hiện ra tám tướng, từ tám tướng mà hiển bày Pháp thân. Bản và Tích dung hợp nhau khó thể nghĩ bàn. Nếu không phải ở hội Pháp hoa nói việc mở cái gần để bày các xa, mở tích bày bản thì không đủ sức để hiểu rõ ý chỉ này. Cho nên nêu lệ chung của tám tướng xếp riêng thứ tự năm thời, tan ra thì dẫn khắp các kinh, hội lại thì về một chỗ Thật, dùng để nói rõ ý nghĩa cả một đời thuyết giáo, hoặc Bản hay Tích đều bao trùm hết trong đó.

Kinh Diệu Huyền giải thích Bản và Tích có sáu nghĩa:

Gọi bản, thì lý của bản của đạo một thật tướng rốt ráo (trong Đại Luận, Phật nói: Chỉ có một đạo một rốt ráo, không có đạo nhiều rốt ráo).

Về tích, thì trừ các pháp thật tướng kia ra, còn lại đều là tích. Lại sự thì gọi là bản (khoa nói rằng lý là chân, sự là tục), còn việc nói lý nói sự thì gọi là giáo (thích thiêm nói rằng: Chân, tục là lý, còn việc nói về chân tục là giáo). Lại giáo của sự lý thì đều gọi là bản. Còn vâng theo giáo mà tu hành thì gọi là tích. Như người nương vào xứ thì có hành tích, tìm tích thì có thể được xứ. Lại, hành hay chứng được thể, thì thể là bản. Còn dựa vào thể mà khởi dụng thì dụng là tích. Lại, thật mà được thể dụng thì gọi là bản. Còn quyền mà làm ra thể dụng thì gọi là tích. Lại, cái đang hiển bày thì gọi là bản, còn các trước nay đã nói thì là tích. Đó là sáu nghĩa luận chung về bản tích của chư phật. Nếu luận riêng thì ở ngay đức phật hiện tại cũng có sáu nghĩa.

1. Căn cứ vào sự lý để nói rõ bản tích: Từ vô trụ bản lập ra tất cả pháp. Lý vô trụ tức lúc bản là thật tướng, tức chân đế. Còn tất cả pháp là khi bản là sum la vạn vật tức tục đế (đây là giải thích cái tướng của bản và tích. Thích Thiêm có nói: Vô minh vì tất cả pháp làm ra bản, vậy vô minh tức là pháp tánh. Vô minh lại lấy pháp tánh làm bản, nên phải biết là các pháp cũng lấy pháp tánh làm bản, vậy pháp tánh tức là vô minh. Pháp tánh lại lấy vô minh làm bản nên pháp tánh là vô minh. Pháp tánh không có trụ xứ mà vô minh tức là pháp tánh nên vô minh cũng không có trụ xứ. Vô minh và pháp tánh dù đều là không có trụ xứ, nhưng lại làm bản cho tất cả pháp. Cho nên nói rằng: Từ vô trụ bản lập ra tất cả pháp. Bản vô trụ đã thông, thế nên chân đế là chỉ cho lý, còn tất cả pháp là sự vậy).

Do Chân Bản thật tướng mà hiện ra Tục Tích, tìm ở Tục Tích thì liền hiển bày Chân Bản, dầu chúng khác nhau nhưng đồng nhất khó thể nghĩ bàn. Văn Kinh nói: Quán tất cả pháp không đúng như thật tướng (để nói rõ về Bản Tích hễ tướng hiển bày thì Lý dung nạp. Thích Thiêm nói rằng: Lý Tánh của Bản Tích này do đây mà có ngoại dụng của Bản Tích).

2. Nói rõ Lý Giáo để làm sáng tỏ Bản Tích: Tức là lúc Bản soi chiếu hai Đế không thể nói, thì đều gọi là Bản. Thuở xưa Đức Phật đã phương tiện nói ra, thì đó là giáo của hai Đế, mà Giáo thì gọi là Tích (giải thích tướng của Bản Tích). Vì nếu không có Bản của hai Đế thì cũng không có giáo của hai thứ. Nếu không có Giáo Tích thì đâu có thể hiển bày được Bản Đế. Dù Bản và Tích khác nhau mà đồng nhất khó thể nghĩ bàn (Tướng đã bày thì Lý dung nạp). Văn Kinh nói: Pháp này không thể chỉ bày vì đã bặt cả Tướng ngôn thuyết. Vì phương tiện nên có việc nói Pháp chi năm vị Tỳ-kheo (trích văn để dẫn chứng).

3. Giáo Hạnh là Bản Tích: Đầu tiên là lấy Giáo của các Phật xa xưa làm Bản, cho nên vó việc Tu Nhân để đạt Hạnh quả (giải thích Tướng của Bản Tích. Cần có ba chữ để làm Tích). Do Giáo nói Lý mà khởi được Hạnh, do Hạnh hiểu được Giáo mà hiển bày được Lý, dầu Bản và Tích rất khác nhau nhưng vẫn đồng nhất khó thể nghĩ bàn (Tướng hiển bày Lý dung nạp). Văn Kinh nói: Các Pháp xưa nay Tướng thường tự vắng lặng, Phật tử hành đạo rồi, tương lai sẽ thành Phật (trích văn để dẫn chứng).

4. Căn cứ vào Thể Dụng mà nêu rõ Bản Tích: Trước hết, do tu hành từ xa xưa, đã khế lý mà chứng được Pháp thân là Bản, vì mới được Pháp thân là Bản nên Thể liền Khởi các Dụng của Ứng Thân (giải thích tướng Bản Tích. Nên thêm ba chữ: Để làm Tích). Do từ Ứng thân mà hiển bày Pháp thân, dầu Bản Tích khác nhau mà đồng nhất khó nghĩ bàn (Tướng hiển thì Lý dung nạp). Văn Kinh nói: Ta từ thành Phật đến nay rất lâu xa, nay chỉ vì phương tiện giáo hóa chúng sinh nên nói như thế (Trích văn dẫn chứng).

5. Căn cứ vào Thật Quyền mà nêu rõ Bản Tích: Thuở đầu tiên rất lâu xa được hai thứ Pháp và Ứng thân thì gọi là Bản. Trong khoảng giữa nhiều lần nói sinh nói diệt, do mọi thứ quyền biến mà tạo nên hai Thân Ứng và Pháp, nên gọi là Tích (giải thích Tướng của Bản Tích). Nếu lúc xa xưa không có Bản của Pháp và Ứng thân, thì cũng không có Tích của Pháp và ứng ở khoảng giữa. Đó là do Tích mà hiển bày được Bản, dầu Bản Tích khác nhau mà đồng nhất khó nghĩ bàn (Tướng hiển thì Lý dung). Văn Kinh nói: Đó là Ta phương tiện, chư Phật cũng thế (trích văn dẫn chứng).

6. Căn cứ vào đã qua và hiện nay mà luận Bản Tích: Từ trước đến nay, các giáo đã nói về Sự Lý cho đến Quyền Thật, thì đều là Tích cả (đã là Tích thì liền là Tích Môn và các Giáo Tích thì nay liền là Bản. Nay đã là Bản thì liền là Bản Môn. Bản Môn đã có từ trước nên gọi là "Đã qua", Từ phẩm Dũng Xuất trở đi mới gọi là "hiện nay").

Nay kinh nói các Sự Lý sâu xa cho đến quyền Thực thì đều gọi là Bản (giải thích Bản Tích). Không phải cái Bản lâu xa nay đã nói thì cũng không do đâu mà hiện ra cái Tích đã nói. Nếu không có cái Tích đã nói thì đâu thể hiển được cái Bản hiện nay, dù Bản Tích khác nhau nhưng đồng nhất khó nghĩ bàn (Bản Tích có tướng hiện thì Lý dung). Văn Kinh nói: Phật pháp đã lâu sau, cần nên nói Chân thực (trích văn để dẫn chứng).

Cái Bản đầu tiên thì chỉ là Bản mà không phải là Tích (cái thật đầu tiên đã thành nhưng chưa hiện ra Tích cho nên thuộc về Bản). Cái đã nói sau cũng thì chỉ là Tích mà không phải Bản (cái Tích Môn đã nói là lúc Bản chưa hiển bày cho nên chỉ thuộc về Tích). Ở khoảng giữa thì cũng Tích cũng Bản (vì khoảng giữa đối nhau nên cùng làm Bản Tích cho nhau. Lại ở khoảng giữa mà hiện Tích thì gọi là "Cũng Tích", khi Bản hiển bày thì gọi là "Cũng Bản"). Nếu không có cái Bản lúc là Bản thì không thể hiện ra cái Tích của khoảng giữa sau cùng. Nếu không có cái Tích đã nói thì (nêu cái Tích môn ngày nay) thì không thể hiển được cái Bản nay đang nói (Bản môn ngày nay) dầu là Bản Tích khác nhau nhưng đồng nhất khó nghĩ bàn (từ trước đến đây đều là văn nhắc lại sáu thứ Bản Tích).

Nếu chấp tích là Bản thì người này không hiểu Tích cũng không biết Bản. Có nơi bảo rằng: Vănthù, Quan Âm và Điều-đạt thì hoặc gọi là thầy hoặc gọi là đệ tử. Kẻ mê lầm chưa hiểu, hoặc chối bỏ khoảng giữa thì không thứ nào không phải là Tích, do đó mà có thể hiểu rõ được Bản Tích. Nếu chấp tích mà nghi Bản thì cả hai nghĩa đều lỗi (văn của Sa Huyền).

Bản đồ sáu lớp Bản Tích:

Lý Sự: Quán tất cả pháp không đúng như thật tướng (Lý), chỉ vì nhân duyên mới có từ điên đảo sinh ra cho nên nói thế (Sự), Tích của phẩm An Lạc Hạnh.

Lý Giáo: Pháp ấy không thể chỉ bày, tướng nói năng đều vắng lặng (Lý). Vì sức phương tiện nên có việc nói pháp cho năm vị Tỳ-kheo (Giáo), Phương Tiện Phẩm Tích.

Giáo Hạnh: Các pháp xưa nay vốn tướng vắng lặng (Giáo). Phật tử hành đạo rồi tương lai sẽ thành Phật (Hạnh), Phương Tiện Phẩm Tích.

Thể Dụng: Ta thành Phật đến nay rất lâu xa (Thể). Chỉ vì phương tiện giáo hóa chúng sinh (Dụng), Thọ Lượng Phẩm Bản.

Thật Quyền: Đó là Ta phương tiện, chư Phật đều cũng thế (Quyền).

Nay nói với các ông Sự thật rất rốt ráo (Thực), Dược Thảo Dự Bản.

Đã qua hiện nay: Các Phật pháp lâu sau (đã qua). Cần phải nói chân thực (hiện nay), Phương Tiện Phẩm Bản.

****

Thích Thiêm nói rằng: Đã qua tức là Tích, là chỉ cho Tích Môn, là các Giáo Tích. Còn hiện nay là Bản, là chỉ cho Bản Môn, Bản môn đã có trước nên gọi là đã qua. Từ phẩm Dũng Xuất về sau mới gọi là Hiện nay. Cho nên nói rằng: Sự Lý đã nói, cho đến Quyền Thực thì gọi là Tích Sự Lý hiện nói cho đến quyền thực thì gọi là Bản, cho nên biết hoặc không có Tích trong Sự Lý, cho đến Quyền thực thì làm sao có thể hiển bày được cái Bản lâu xa. Lại nói "đã qua và hiện nay" tuy là khác năm thứ trước, nhưng cũng là một thứ đã qua chỉ về thọ lượng gọi là "Bản hiện nay. " Nếu so với "Bản xưa" thì phải giản lược bớt đi cái "đã qua và hiện nay" không giống nhau đáo.

Từ hội Pháp hoa trở về trước, các kinh đã qua hay hiện nay đều thuộc về Tích, còn Kinh hiện nay nói ra là nói thẳng về Bản lâu xa, tức là đã nói cái đã qua và hiện nay làm Tích. Nay nói cái đã qua và hiện nay làm Bản thì mới là nói thực. Sở dĩ phải trích văn dẫn chứng sáu môn, ba thứ trước cho Tích, ba thứ sau cho Bản là sao? Song ba thứ trước lại chung cả Bản và Tích, đều có Sự Lý cho đến Giáo Hạnh, Thể Dụng… ba thứ. Nhưng trong chung lại có riêng. Đã nói rằng Bản Dụng Bản Quyền, không phải là văn của Tích có thể hiển bày được. Huống lại lấy Bản Môn làm hiện nay, rõ ràng không thể dẫn Tích. Vì cái nghĩa ấy nên ba lần dẫn văn cho Tích, ba lần dẫn văn cho Bản. Vả lại với ba đoạn văn trước chỉ nói về Nhân. Vì Nhân của Bản quá hẹp, nhưng vì lấy Tích làm lệ cho Bản cho nên chỉ dẫn Tích Môn.

Độc Giáo Ký nói rằng: Sáu lớp Bản Tích chỉ có một lớp Thể Dụng là dẫn văn Bản Tích, còn năm thứ kia đều là Tích. Thích Thiêm nói rằng: ba thứ trước là dẫn Tích, ba thứ sau là dẫn Bản. Đây là do Độc Giáo Ký điểm văn theo huyền ý. Thực Quyền đã qua và hiện nay là chỉ cho Văn Tích làm Bản môn vậy. Cho nên nói rằng: "Nay nói cái đã qua và hiện nay làm Bản thì mới là Thật nói. " Song ba đoạn văn trước không chỉ cho Bản là sao? Đáp rằng: ba đoạn trước là chung, chỉ lấy Tích mà nêu lên Bản. Còn ba đoạn sau là trong chung lại có riêng, cho nên cần phải chỉ Tích là Bản. Nên đọc kỷ hai chữ "Chung, riêng", hai thứ này ở đây rất nhiều.

Như câu văn nói về Bản Tích thì đầu tiên dẫn phẩm Thọ Lượng nói rằng: "Ta thành Phật đến nay rất lâu xa. " Và phẩm Phương Tiện nói: "Ta vốn đã lập thệ nguyện khắp khiến tất cả chúng sinh đồng chứng được đạo này. " Lại trong phẩm Ngũ Bách Thọ Ký thì nói: "Bên trong giấu kín hạnh Bồ-tát, bên ngoài hiện làm Thanh văn. " Kinh Diệu Lạc giải thích rằng: Đầu tiên đúng là dẫn văn Bản, Kế đến là phương tiện, sau là dẫn văn Tích. Vì trong Tích đã ngầm chỉ cái ý của Bản. Nếu nói trắng ra thì là Bản Tích ở trong Tích. Đoạn văn dưới đã hiển bày rồi thì được dẫn dùng.

Lề Diệu Lạc lại giải thích về mười đôi Quyền Thật của phẩm Phương Tiện rằng: Trong tám đôi này thì bảy đôi trước thuộc về Tích môn, cò đôi thứ tám thuộc về Bản môn. Bản tuy chưa đến nhưng Lý Quyền thực biến khắp. Cho nên đoạn văn dưới nói rằng: "Ấy là Ta phương tiện, chư Phật cũng thế. " Cho nên tên Phương tiện thông chung cả Bản Tích. Văn ấy mầu nhiệm giải thích không giống nhau. Nay các nhà cùng thương lượng rằng: hoặc ba đoạn văn trước là từ Bản mà hiện ra Tích, còn ba đoạn văn sau là phát khởi Tích thì hiển bày Bản.

Cho nên nói là ba lần dẫn văn Tích. Hoặc nói ba đoạn văn trước là nhân làm Tích, ba đoạn văn sau là quả làm Bản. Hoặc bảo là nói trọn ý lớn không phân biệt văn Bản hay Tích. Hoặc cho rằng riêng hàm chứa ý của Bản.

Cho nên nói là ba lần dẫn văn Bản.

Quan Âm Biệt Hạnh Huyền Ký nói rằng: Như về Lý Sự, Lý Giáo, Giáo Hạnh, Thể Dụng, bốn lớp Bản Tích ấy không chỉ riêng kinh hiện nay mà, các bộ đều có. Nếu các kiếp nhiều như bụi trần từ trước đã thành Phật mà lấy làm Thật Bản, thì trong khoảng giữa ngày nay thị hiện việc thành Phật đều gọi là Quyền Tích. Đây gọi là Bản Tích Quyền Thật. Bản môn đã mở xong thì thân này tức là Bản Tích môn đã nói và các Bộ nói đến đều gọi là Tích. Đó gọi là Bản Tích "đã qua và hiện nay. " Hai lớp này thì các kinh đều dứt hết nghị luận. Cho nên nói là: "Các giáo không nói nên Pháp Hoa mới nói. "

Trong Bồ-tát Địa Dũng Phẩm có nói: Phật bảo các Bồ-tát rằng: "Thế giới Ta-bà này có sáu vạn hằng hà sa Bồ-tát, mỗi Bồ-tát lại có sáu vạn hằng hà sa quyến thuộc, sau khi ta diệt độ rồi thì họ sẽ giữ gìn, đọc tụng rộng nói kinh này. Lúc đó thế giới Ta-bà này đất đai rung động mạnh và có vô lượng Bồ-tát đồng thời xuất hiện, nghe tiếng Phật nói liền từ dưới đất vọt lên, bay thẳng đến tháp màu bảy báu trên hư không rồi hướng về hai Đức Thế Tôn mà lạy dưới chân Phật. " Bấy giờ, Đức Di-lặc và đại chúng muốn hết nghi liền đọc kệ hỏi Đức Phật rằng:

Đại chúng các Bồ-tát Từ đâu mà đến đây? Từ ai phát tâm đầu Tu tập Phật đạo nào? Con ở giữa chúng đây Chưa từng biết một ai Bỗng từ đất vọt lên

Xin nói nhân duyên ấy.

Đức Phật bảo Di-lặc rằng: "Các Bồ-tát ấy, khi ta chứng quả Bồ-đề xong đã giáo hóa khiến họ phát đạo tâm. " (tóm mở gần để bày xa, động chấp nên sinh nghi). Khi đó ngài Di-lặc… tâm sinh nghi ngờ bạch Phật rằng: Đức Như Lai chứng quả Anậu Bồ-đề mới hơn bốn mươi năm, vì sao trong thời gian ngắn lại làm được Phật sự lớn (ban đầu nghi mới thành Phật gần đây mà giáo hóa được nhiều, đây là chấp gần mà nghi xa). Chúng Bồ-tát này rất đông, giả sử có người đếm hoài suốt ngàn vạn ức kiếp cũng không hết được, vì họ đã từ lâu xa luôn tu phạm hạnh (Kế đến đó nghi số chúng được giáo hóa đông và có hạnh vị thâm diệu. Đây là mà nghi gần).

Trong phẩm Thọ Lượng, Phật bảo đại chúng rằng: Các Thiên nhân A-tu-la trong tất cả thế gian đều cho rằng ta ra khỏi cung thành họ Thích và cách Già-da không bao xa đã ngồi ở đạo tràng mà chứng được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề

(rộng mở gần để hiển xa, dứt nghi sinh tin). Song ta thật đã thành Phật từ vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp (phá gần hiểu xa). Ta thường ở tại thế giới Ta-bà này nói pháp giáo hóa và cũng ở khắp vô số nước khác mà dắt dẫn lợi ích chúng sinh (Diệu Huyền nói rằng: Quả sơ chứng thì gọi là bản quả, Ta-bà của Diệu Bản tức là Diệu của Bản Độ. Văn Cú nói: Trên đã dẫn việc ở rất lâu tại nơi nào, cho nên nói là ở tại cõi này và các nước khác làm Phật sự). Đó là khoảng mà ta nói Đức Phật Nhiên Đăng… Lại nói việc nhập Niết-bàn đều dùng phương tiện để phân biệt (Kinh Văn Cú nói rằng: Quét Nghi trên chấp Tích-Giáo xưa đã nói: chỗ tu nhân, chỗ chỗ được thọ ký, tức là nghi về quả. Nay bỏ cái nghi này nếu chỉ cho Phật Nhiên Đăng thì liền bỏ được nghi về Nhân, còn nói nhập Niết-bàn liền bỏ được nghi về quả như Nhân quả này thì không phải là duy nhất, đều là do ta phương tiện chứ không phải thật nói vậy. Diệu Lạc nói rằng: Đó là Bồ-tát Thích-ca nhập diệt, không được nói là Phật Nhiên Đăng Niết-bàn, cũng không phải là Thích-ca, vì lúc đó ở đời Phật Nhiên Đăng đã từng thành Phật mà nhập Niết-bàn. Vì không thể có hai Đức Phật hiện ra đời cùng một lúc. Thế nên chỉ lấy việc được thọ ký, truyền giáo và mạng chung làm quả). Nếu có chúng sinh nào đến chỗ ta, thì ta sẽ dùng Phật nhãn nhìn xem các căn tín… của họ lợi hay độn rồi tùy cơ mà hóa độ. Chỗ chỗ đều tự nói danh tự không đồng nhau, tuổi tác có lớn nhỏ (không phải sinh mà hiện ra sinh) cũng lại hiện nói sẽ nhập Niết-bàn (không phải diệt mà hiện ra diệt, đây là lấy hình mà làm lợi ích chúng sinh), lại dùng mọi thứ phương tiện để nói pháp vi diệu (đây là dùng tiếng để lợi ích chúng sinh). Như Lai thấy các chúng sinh ham thích tiểu pháp, đức mỏng, tội nhiều, hãy nói cho người ấy biết rằng: Ta thuở nhỏ xuất gia, chứng được quả A-nậu Bồđề (hiện sinh) song thật ra ta thành Phật đến nay rất là lâu xa, nay chỉ vì phương tiện giáo hóa chúng sinh khiến họ đều vào Phật đạo nên nói như thế (không phải sinh kinh Diệu Lạc nói: Thọ lượng sâu xa nhiều gấp bội bụi vi trần, khoảng giữa bị dẹp bỏ, Già-da không phải thực. Đây là luận thân chân thực để nói về cái Bản xa).

Phẩm Học Vô Học nói: Đức Phật bảo rằng: Ta cùng A-nan đồng ở chỗ Phật Không Vương, cùng lúc phát tâm Bồ-đề. A-nan thường ham học nhiều, còn ta thì luôn siêng năng tinh tấn. Thế nên ta được thành A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề mà Anan thì hộ trì pháp của ta (kinh Văn Cú nói: Xưa cùng ta đồng phát đại tâm, tức là đồng học.

Do ta tinh tấn nên được thành Phật trước, do ông ta học nhiều mà vẫn còn trì kinh).

Phẩm Thường Bất Khinh nói: Thời rất xưa có Đức Phật tên là Oai Âm Vương. Sau khi ngài diệt độ thì lại có Đức Phật khác ra đời cũng hiệu là Oai Âm Vương, cứ như thế mà có đến hai vạn ức Phật đều đồng một hiệu. Đức Như Lai Oai Âm Vương đầu tiên có một vị Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. Phàm khi gặp Bốn chúng thì ông đều lễ bái khen ngợi nói rằng: Tôi không dám khinh thường quý vị, quý vị đều sẽ thành Phật. Trong bốn chúng có người giận dữ lớn tiếng mắng chửi rằng: "Chúng ta không cần những lời thọ ký dối trá đó. " Trải qua nhiều năm nhiều người đã dùng gậy cây ngói đá mà đánh đuổi đi. Ông chạy ra xa vẫn còn lớn tiếng nói rằng: "Tôi không dám khinh thường quý vị, quý vị đều sẽ thành Phật. " Do ông thường nói câu đó nên bốn chúng Tăng Thượng Mạn gọi ông là Thường Bất Khinh.

Vị Tỳ-kheo này lúc sắp lâm chung, nghe trên hư không có tiếng Đức Phật Oai Âm Vương trước hết nói kinh Pháp Hoa liền được sáu căn thanh tịnh lại tăng thêm tuổi thọ, rông vì người nói pháp. Bấy giờ nhóm bốn chúng Tăng Thượng Mạn đã đặt tên ngài là Thường Bất Khinh thấy ngài đã có đại thần thông thì đều tin phục theo về. Vị Bồ-tát này ngài lại hóa độ cho cả ngàn vạn ức chúng khiến họ trụ vào Bồ-đề. Sau khi mạng chung sẽ được gặp hai ngàn ức Phật đều cùng hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh. Ở trong pháp ấy mà nói kinh Pháp Hoa. Lại gặp được hai ngàn ức Phật, cùng hiệu là Vân Tự Tại Đăng Vương, vì chúng mà nói kinh này. Sau đó lại gặp được một ngàn ức Phật cũng nói kinh ấy. Khi công đức thành tựu sẽ thành Phật. Thường Bất Khinh lúc đó chính là ta đây (kinh Văn Cú nói: Thích-ca ra đời do dự không nói, còn Thường Bất Khinh một khi thấy mặt thì vội vàng nói ngay, là tại sao? Đáp: Vì Bản đã thiện thì Thích-ca lấy pháp Tiểu thừa mà hộ trì, còn Bản chưa thiện thì Thường Bất Khinh lấy Đại pháp mà cưỡng độc).

Trong phẩm Đạt-đa, Phật nói rằng: Ta ở trong vô lượng kiếp quá khứ, cầu kinh Pháp Hoa không hề lười mỏi. Trong nhiều kiếp ta thường làm quốc vương đã phát nguyện cầu đạo Vô thượng Bồ-đề, vì muốn đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, siêng tu hạnh bố thí, không tiếc thân mạng quên cả ngôi vua, ủy thác cho Đông cung Thái tử, tuyên bố mình đi cầu pháp. Lúc đó có vị Tiên nhân A-tư đến thưa với vua rằng: Ta có kinh Đại thừa tên là Diệu Pháp Hoa, nếu vua làm theo ý ta, ta sẽ nói cho vua nghe. Vua nghe xong vui mừng hớn hở liền theo Tiên nhân cung phụng đủ mọi thứ cần thiết như hái quả, xách nước, lượm củi nấu ăn cho đến dùng thân làm giường ghế, mà thân tâm không hề mỏi mệt. Khắp vì tất cả chúng sinh cần cầu đại pháp và cuối cùng thì được thành Phật. Vị vua lúc đó chính là ta đây, còn vị Tiên nhân lúc đó chính là Đề-bà-đạt-đa vậy. Do Đề-bà-đạt-đa làm Thiện tri thức mà khiến ta được đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật.

Trong phẩm Hóa Thành Dụ, Đức Phật nói rằng: Ở thời quá khứ có Đức Phật tên là Đại Thông Trí

Thắng. Từ khi ngài diệt độ đến nay trải vô lượng, vô biên trăm ngàn ức a-tăng-kỳ kiếp. Ta đã dùng sức tri kiến Như Lai mà quán sát thấy các việc đã lâu xa, rõ ràng như mới ngày hôm nay. Khi vị Phật ấy chưa xuất gia có mười sáu người con. Khi nghe cha mình chứng đạo Bồ-đề thì họ đến chỗ Phật xin chuyển pháp luân để được xuất gia mà làm Sa-di từ bé. Khi ấy Đức Phật nhận lời và qua hai vạn kiếp sau ngài nói pháp Đại thừa ấy tên là Diệu Pháp Liên Hoa suốt tám ngàn kiếp. Rồi nhập định trong suốt tám vạn bốn ngàn kiếp. Khi đó mười sáu vị Sa-di đều ngồi pháp tòa cũng trong tám vạn bốn ngàn kiếp. Vì bốn bộ chúng mà rộng nói kinh Pháp Hoa. Mỗi mỗi vị đều hóa độ được sáu trăm vạn ức na-do-tha hằng hà sa chúng sinh khiến họ đều phát tâm Bồ-đề (xưa cùng nói pháp để kết duyên). Mỗi vị Bồ-tát cùng các chúng sinh được giáo hóa ấy đời đời sinh ra đều gặp và nghe pháp với các Bồ-tát ấy mà được tín giải (trong khoảng giữa thường gặp nhau). Cả mười sáu vị Sa-di ấy nay đều chứng đạo Bồ-đề và hiện đang thuyết pháp khắp ở mười phương quốc độ, một vị tên là A-di-đà… Người con thứ mười sáu chính là ta, Phật Thích-ca Mâuni (kết thầy xưa và nay). Khi chúng ta làm Sa-di thì ai nấy đều giáo hóa vô lượng chúng sinh. Những người nghe ta nói pháp là bậc A-nậu Bồ-đề (gặp các đệ tử xưa nay, một là gặp các đệ tử hiện tại. Chương này trước nói về bậc Bất thoái trụ Bồđề). Các chúng sinh có người hiện nay đang ở bậc Thanh văn, ta luôn giáo hóa họ về A-nậu Bồ-đề, vì pháp ấy khiến lần lần nhập vào Phật đạo (Kế đến nói về bậc Thoái chuyển hiện đang ở hàng Thanh văn). Bởi vì sao, là vì trí tuệ của Như Lai rất khó tin khó hiểu (giải thích ý thoái chuyển). Số vô lượng chúng sinh được giáo hóa đó chính là các ông Tỳ-kheo hiện nay (chánh kết xưa nay) và sau khi ta diệt độ thì đó là các đệ tử Thanh văn ở vị lai. (Kế đến gặp các đệ tử ở vị lai. Diệu Huyền nói rằng mười sáu vị Vương tử hoằng kinh để kết duyên đều là ở trong khoảng giữa mà tạo nhân Phi Bản. Từ đây trở về trước những kẻ hành đạo thì gọi là Bản, tức là diệu nhân của Bản vậy).

Trước đây ta đã tám ngàn lần đến ở thế giới Tabà này mà ngồi tòa Kim cang Hoa quang vương (Phạm Võng Kinh).

(Từ trên là Đại cơ nói rõ về văn Bản Tích).

Thụy Ứng nói: Phật bảo rằng: Ta nhớ đời trước của ta cách nay vô số kiếp vốn là một kẻ phàm phu từ xa xưa vì cầu Phật đạo đến nay đã chịu khổ trong năm đường sinh tử vô lượng, nếu kể thân cũ của ta thì không thể nào đếm hết được.

Kinh Bồ-tát Bản Hạnh nói: Ta đã ở chỗ vô lượng, vô biên các Đức Phật mà gieo trồng các thiện căn, làm Chuyển luân Thánh vương, gặp vô lượng Đức Phật. Đầu tiên gặp được ba mươi ức

Phật cùng tên là Thích-ca (trong a-tăng-kỳ đầu tiên vị Phật này là trước nhất nên gọi là "Đầu tiên". Trong Đại Luận kể rằng: Như Lai đời trước là một người thợ ngói tên là Đại Quang Minh. Khi đó có Đức Phật hiệu là Thích-ca Văn cùng đầy đủ các đệ tử đến nhà ông thợ ngói nghỉ tạm qua đêm. Ông thợ ngói kính dâng tòa cỏ, đèn sáng và nước mật, nhân đó phát nguyện rằng: Ở tương lai con sẽ được làm Phật và có tên như Phật đương thời).

Diệu Huyền nói rằng: Nhân của Tích có nhiều thứ. Hoặc nói: Xưa là ông thợ đồ gốm gặp Đức Phật Thích-ca thuở trước dâng ba thứ cúng dường phát nguyện được thọ ký tên chữ đều giống như Phật trước. Đó là phát tâm trong tăng-kỳ thứ nhất, không sáng suốt đoạn hoặc nên biết là che lấp cái tướng hạnh nhân của phật. Hoặc nói xưa là người gặp Đức Phật Nhiên Đăng, kính rải năm thứ hoa, trải tóc che bùn, phóng thân lên hư không mà được Vô sinh nhẫn được Phật thọ ký cho, có hiệu là Thích-ca Văn. Bảo rằng đã đoạn hoặc cho nên biết thấu Tướng hạnh nhân của Phật Hoặc nói xưa là Phạm chí Bảo Hải, ở chỗ Đức Phật Bảo Tạng trong nước San-đề-lam mà tu hạnh đại tinh tấn, đem hoa cúng dường khắp mười phương Phật, chính là cha của Phật Bảo Tạng, lại là thầy của Phật Di-đà. Kể về công đức của ngài thì không thể nghĩ bàn, nên biết đó là từng trường hợp làm tròn đầy tướng hạnh nhân của phật.

Kế đến gặp tám ức Đức Phật cùng tên Nhiên Đăng. Kế đến gặp ba ức Đức Phật cùng tên là Phấtsa. Kế đến đến gặp chín vạn Đức Phật cùng tên là Ca-diếp. Kế đến gặp sáu vạn Đức Phật cùng tên là Đăng Minh. Kế đến gặp một vạn tám ngàn Đức Phật cùng tên Ta-la Vương. Kế đến gặp một vạn bảy ngàn Đức Phật cùng tên Độ Bỉ Ngạn. Kế đến gặp một vạn năm ngàn Đức Phật cùng tên Nhật Phật. Kế đến gặp hai ngàn Đức Phật cùng tên là Kiều-trần-như. Kế đến gặp sáu ngàn Đức Phật cùng tên Long Phật. Kế gặp một ngàn Đức Phật cùng tên Tử Tràng. Kế đến gặp năm trăm Đức Phật cùng tên Liên Hoa Thượng. Kế đến gặp sáu mươi bốn Đức Phật cùng tên Loa Kế đến (Luận Câu-xá gọi là Kế-na Thi-khí, Hán dịch là Bảo Kế đến tức là kinh Loa Kế đến này vậy. Phiên Dịch Danh Nghĩa nói rằng: Phật ta gặp Phật này vào cuối tăngkỳ đầu, cùng với đức phật thứ hai trong bảy Đức Phật là Thi-khí, cách hai tăng-kỳ). Kế đến gặp một Đức Phật tên là Chánh Hạnh (Phật này ở đầu Tăngkỳ thứ hai). Kế đến gặp tám vạn tám ngàn Bíchchi-phật. Kế đến gặp một Đức Phật tên là Thiện Tư. Lúc đó ngài Di-lặc làm Chuyển luân Thánh vương tên là Tỳ-lô-giá-na, ở chỗ Đức Phật ấy mà phát tâm đầu tiên bốn mươi kiếp trước. Kế đến gặp một Đức Phật tên là Thị Hải Tràng. Lúc đó ta làm Chuyển luân Thánh vương tên là Lao Cung ở chỗ Đức Phật ấy mà phát tâm Bồ-đề nguyện ở vị lai sẽ thành quả Phật mà giáo hóa chúng sinh (ở chỗ Phật Không Vương, cùng với A-nan phát tâm đầu tiên. Ở chỗ Phật Thích-ca xưa lúc làm thợ ngói mà phát tâm. Nay gặp Phật Hải Tràng, lúc đó làm Thánh vương Lao Cung mà phát tâm... Đây đều là Như Lai phương tiện nói ra). Kế đến vô lượng kiếp gặp vô lượng Đức Phật như Phật Đế Thích Tràng… Kế đến gặp một Đức Phật tên là Nhiên Đăng (cuối tăng-kỳ ba thì gặp Phật này). Ta là Nho Đồng dùng hoa sen xanh đem cúng dường đức Phật ấy và ta được thọ ký rằng hơn a-tăng-kỳ kiếp sẽ được làm Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni (đây là theo nhân địa phát nguyện của người thợ ngói mà trao cho tên hiệu. Từ đây trở đi các Phật thọ ký nhau đều đồng một tên ấy. Kinh Kim Cang nói: Ta ở trước Phật Nhiên Đăng đã được gặp tám trăm bốn mươi vạn ức na-do-tha Phật, ta đều cúng dường hầu hạ không hề bỏ qua. Kinh Pháp Hoa nói: Trong khoảng ta nói Đức Phật Nhiên Đăng… ấy là đều vì phương tiện mà phân biệt).

Lúc đó Đức Phật Nhiên Đăng sống được tám trăm bốn mươi vạn ức tuổi. Khi Đức Phật ấy diệt độ thì ta lên làm Bốn Thiên vương và xuống làm Chuyển luân vương (đây là ba Luân ngân luân…) cho đến lên làm Phạm vương xuống làm Thánh vương (đây là Kim luân) mỗi thứ đều ba mươi sáu lần (Đây là luận dọc là thân Bồ-tát thọ báo) và tùy theo sự biến hóa mà tùy lúc hiện ra đời. Hoặc làm hàng Nho lâm như quốc vương, đạo sĩ... không thể ghi chép, kể tính hết được (đây là luận ngang thân Bồ-tát biến hóa không phải một). Sau đó gặp lại Đức Phật Thắng Nhất Thiết, sống lâu đến tám vạn ức tuổi. Phật ấy thọ ký cho ta hơn mười ức kiếp nữa sẽ được làm Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni (Phật này ở đầu tăng-kỳ thứ ba). Kế đến gặp Đức Phật Liên Hoa Thượng sống đến tám vạn tuổi. Phật ấy thọ ký cho ta hơn mười vạn kiếp nữa sẽ được làm Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni (từ đây trở đi những ai được làm Phật đều có tên là Thích-ca Mâu-ni).

Kế đến gặp Phật Tối Thượng Hạnh sống đến bảy vạn tuổi, Phật ấy thọ ký cho ta hơn một ngàn kiếp nữa sẽ được làm Phật. Kế đến gặp Đức Phật Thượng Danh Xưng, sống đến bảy vạn tuổi. Phật ấy thọ ký cho ta hơn năm trăm kiếp nữa sẽ được làm Phật. Kế đến về sau Đức gặp Phật Cổ Thíchca, sống đến tám vạn tuổi. Phật ấy thọ ký cho ta hơn một trăm kiếp nữa sẽ được làm Phật (xét Cổ Phật Thích-ca là ở đầu tăng-kỳ thứ nhất, đều chỉ cho ba mươi ức Phật đầu tiên đồng tên. Đây là ở sau Đức Phật Nhiên Đăng nên không dùng chữ "Cổ", sợ e lấy Phật Thích-ca đời nay kể vào, nên phải gọi là "Cổ").

Kế đến gặp Đức Phật Đế-sa, sống lâu đến sáu vạn tuổi. Phật ấy thọ ký cho ta hơn chín mươi lăm kiếp sẽ được làm Phật. Kế đến gặp Đức Phật Phấtsa, sống đến sáu vạn tuổi. Lúc đó ta nhón một chân đọc bài kệ khen Phật rằng:

Trên trời, dưới đất không ai bằng Phật Mười phương thế giới không ai bằng Người trên thế gian con thấy hết

Tất cả không ai sánh bằng Phật.

Đức Phật ấy thọ ký cho ta qua chín mươi bốn kiếp sẽ được làm Phật. Đại Luận có nói: Dùng một bài kệ khen ngợi Phật Phất-sa suốt bảy ngày bảy đêm, vượt qua chín kiếp, ở kiếp chín mươi mốt sau đó được thành Bồ-đề. Các kinh phần lớn đều nói vượt chín kiếp chính là Phật Tỳ-bà-thi).

Kế đến gặp Phật Kiến Chân Nghĩa, sống bốn vạn tuổi, Phật ấy thọ ký cho ta qua chín mươi ba kiếp sẽ được làm Phật. Kế đến gặp Đức Phật Tỳbà-thi sống tám vạn tuổi, Phật ấy thọ ký cho ta qua chín mươi mốt kiếp sẽ được làm Phật. Kế đến gặp Đức Phật Thi-khí, sống bảy vạn tuổi. Phật ấy thọ ký cho ta qua ba mươi mốt kiếp sẽ được làm Phật. Kế đến gặp Đức Phật Tỳ-xá-phù, sống sáu vạn tuổi. Phật ấy thọ ký cho ta qua ba mươi kiếp sẽ được làm Phật.

Thuật rằng: Đời nói bảy Phật là căn cứ theo kinh Dược Vương có ngàn Phật ở kiếp Trang nghiêm thời quá khứ. Bắt đầu từ Phật Hoa Quang và cuối cùng là Phật Tỳ-xá-phù. Ở Hiền kiếp hiện tại thì bắt đầu là Phật Câu-lưu-tôn và cuối cùng là Phật Lâu-chí. Thế nên biết ba Phật từ Phật Tỳ-bà-thi đến Phật Tỳ-xá-phù đều ở trong kiếp Trang nghiêm thời quá khứ. Còn bốn Phật từ Câu-lưu-tôn đến Phật Thích-ca thì đều ở Hiền kiếp thời hiện tại. Bảy Phật đó trước sau nối tiếp nhau chỉ cách một kiếp. Các Kinh phần nhiều nói là Phật Tỳ-bà-thi ở kiếp chín mươi mốt còn hai vị Phật kia ở kiếp ba mươi mốt, cách nhau rất xa. Hình như không ở trong kiếp Trang nghiêm. Song cuối tăng-kỳ thứ ba thì gặp ngay Đức Tỳ-bà-thi, từ một trăm kiếp này gieo trồng tướng tốt, thì chín mươi mốt kiếp nói trên là hợp, bởi trừ bớt chín kiếp vượt hơn do khen Phật trước đây vậy. Như hai nghĩa trên là do phương tiện phân biệt, nhưng e người dịch ở cõi này (Trung Quốc) các bộ khác nhau không đồng, này hãy đều còn, dùng để dẫn chứng cứ (Người duyệt nói rằng: Nếu bảo bảy Phật trước sau nối nhau chí cách một kiếp thì đúng là Phật Tỳ-bà-thi, được thọ ký là qua sáu kiếp sẽ được làm Phật. Cho đến Phật Ca-diếp được thọ ký là qua một kiếp sẽ được làm Phật. Sao lại bảo một trăm kiếp gieo trồng tướng tốt thì chín mươi mốt kiếp nói trên là hợp? Ở đoạn văn sau lại nói: Bốn Phật trên ở trong Hiền kiếp là kiếp giảm thứ chín nối nhau ra đời... đều trái với câu nói chỉ cách nhau một kiếp. Xem sẽ rõ.

Kế đến gặp Đức Phật Câu-lưu-tôn sống năm vạn tuổi, Phật ấy thọ ký cho ta ở đời vị lai sẽ được làm Phật. Kế đến gặp Đức Phật Câu-na-hàm Mâuni sống bốn vạn tuổi, Phật ấy thọ ký cho ta, ở đời vị lai sẽ được làm Phật. Kế đến gặp Đức Phật Cadiếp sống hai vạn tuổi, Phật ấy thọ ký cho ta ở đời vị lai ông sẽ được làm Phật hiệu là Thích-ca Mâuni (bốn Phật trên ở trong Hiền kiếp, hai mươi kiếp Trụ vào kiếp giảm thứ chín nối nhau ra đời. Văn này chỉ chung cho đời vị lai). Như thế ta đã phụng sự chư Phật, tu học ý Phật. Khi đó ta sinh lên cung trời Đâu-suất, trụ vào bậc Nhất sinh bổ xứ (ở trên đều rút từ kinh Bản Hạnh. Kinh Niết-bàn nói cõi trời này hơn hết của Dục giới. Các bổ xứ Bồ-tát đều thị hiện sinh ở đấy để giáo hóa chúng sinh). Ta nay ra đời mạng người chỉ sống có một trăm tuổi, quá tuổi này thì ít, dưới tuổi này thì nhiều (theo kinh Trung A-hàm). Đáng lý Phật Thích-ca ra đời lúc mạng sống của người là một vạn tuổi nhưng vì quán sát chúng sinh không có căn cơ để hóa độ nên khi còn một trăm tuổi thấy khổ bức bách mà kiếp sắp hết nên mới ra đời (theo Đại Luận, từ trên đều là căn cơ Tiểu thừa nói văn Bản Tích).

Xét theo kinh Nhân Quả thấy rằng: Ở quá khứ cách vô số a-tăng-kỳ kiếp có vị Tiên nhân tên Thiện Tuệ (cả hai kinh Thụy Ứng và Bản Hạnh đều gọi là Nho Đồng). Lúc đó thái tử con vua Đăng Chiếu tên Phổ Quang (kinh Thụy Ứng gọi là Định Quang, các kinh Pháp Hoa Kim Cang, Bản Hạnh đều gọi là Nhiên Đăng) xin vua cha cho xuất gia và thành đạo Bồ-đề. Thiện Tuệ lúc đầu giảng luận Đạo Nghĩa cho năm trăm vị ngoại đạo, mọi người dâng lên tiền bạc. Sau đó ngài từ giã nhóm ngoại đạo rồi đến chỗ Phật Phổ Quang, định thiết lễ cúng dường thì gặp một người hầu của Vương gia cầm bảy cành hoa sen xanh đi ngang qua. Ngài theo hỏi hoa này có bán chăng? Người hầu đáp: Sắp đem vào nôi cung để dâng lên Đức Phật. Ngài Thiện Tuệ lấy năm trăm đồng tiền bạc nài lại năm cành hoa để cúng dường Phật. Người hầu đồng ý lại gởi hai cành hoa để cúng Phật cầu từ nay trở đi luôn được làm vợ ông. Lúc đó vua và các quan lễ Phật tung hoa nhưng tất cả hoa đều rơi xuống đất, chỉ có năm cành hoa của ngài Thiện Tuệ vẫn ở trên không trung và hóa thành đài hoa. Sau đó tung hai cành hoa thì trụ ở hai bên Đức Phật. Phật khen ngài Thiện Tuệ rằng: Qua a-tăng-kỳ kiếp ông sẽ được làm Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni (Kinh này và kinh Bản Hạnh đều nói là a-tăng-kỳ kiếp, còn kinh Thụy Ứng lại nói là chín mươi mốt kiếp, dài ngắn như thế không đồng tuy là phương tiện phân biệt. Song các kinh đều nói ngài Tỳ-bà-thi thọ ký chín mươi mốt kiếp là đúng. Vậy điều nói của kinh Thụy Ứng có thể tin). Ngài Thiện Tuệ thấy đất dơ ướt, lòng tự nghĩ rằng làm sao lại để bàn chân có giấu Thiên luân đạp lên đây mà qua được, liền cởi áo da nai trải trên đất nhưng không che hết mình, ngài liền xỏa tóc trải lên. Đức Như Lai đạp lên bước qua xong, nhân đó thọ ký rằng: Sau này ông làm Phật sẽ ở cõi ác thế ngũ trược mà độ hàng trời người. Lúc đó ngài Thiện Tuệ đọc kệ khen Đức Phật (Văn dài nên không có ghi), xin Phật được xuất gia. Đức Phật bảo: "Thiện lai, Tỳ-kheo!" thế là râu tóc tự rụng, mình mặc áo ca-sa liền thành Samôn. Ngài Thiện Tuệ sau khi mệnh chung liền sinh lên làm Bốn Thiên vương sinh xuống làm Chuyển luân vương. Cho đến sinh lên làm Phạm Thiên vương thứ bảy và sinh xuống làm Thánh vương mỗi thứ đều ba mươi sáu lần. Hoặc làm Tiên nhân, hoặc làm ngoại đạo, sáu sư, Bà-la-môn, Tiểu vương. Nơi nào cũng sống hết tuổi thọ, nhiều không thể kể xiết. Thiện Tuệ lúc đó chính là ta đây, còn người hầu kia là Gia-du-đà-la vậy. (Theo kinh Nhân Quả, kinh Thụy Ứng thì bảo là cô gái bán hoa tên Cù-di, gọi bằng tiếng đệ nhất phu nhân. Như Bản Kinh và kinh Pháp Hoa đều gọi là Giadu là mẹ đẻ của La-hầu. Nay lấy nghĩa sau làm chính).

Bốn Giáo Nghi dẫn Đại Luận rằng: Khi Như Lai tu đạo Bồ-tát từ Đức Cổ Thích-ca cho đến Phật Thi-khí thì gặp được bảy vạn năm ngàn Đức Phật đó gọi là a-tăng-kỳ đầu. Ngài thường tu Sáu độ. Kế đến Phật Thi-khí đến Phật Nhiên Đăng thì gặp được bảy vạn sáu ngàn Phật gọi là a-tăng-kỳ thứ hai. Lúc đó ngài cúng dường bảy cành hoa sen, trải tóc che sình và được thọ ký hiệu Thích-ca Văn. Kế đến từ Phật Nhiên Đăng đến Phật Tỳ-bà-thi thì gặp được bảy vạn bảy ngàn Phật gọi là cuối a-tăng-kỳ thứ ba. Trải qua thời gian như đã kể, ngài tu hạnh Sáu độ, lại trụ một trăm kiếp gieo trồng nhân tướng tốt, tu trăm phước thành một tướng (xét kinh Ưubà-tắc Giới thì ta ở chỗ Phật Thích-ca đầu tiên mà phát tâm, ở thời Phật Ca-diếp trọn ba a-tăng-kỳ. Thiết nghĩ khi cuối a-tăng-kỳ thứ ba thì chính là ở thời Phật Tỳ-bà-thi. Nay nói Ca-diếp thì gồm cả một trăm kiếp gieo trồng tướng tốt mà nói vậy).

Lời thuật rằng: Trộm xét nghĩa Bản-Tích của Như Lai là do lấy việc đã qua và hiện nay mà so sánh, có xen lẫn cái Bản xa hay gần mà không thể dùng cái thấy của Cơ Đại hay Tiểu thừa để phân biệt. Nay cùng các Bộ bàn nói phần thô, còn Pháp Hoa triển khai phần Diệu. So sánh mà luận bàn thì cái thấy của Cơ Đại Tiểu Thừa không chấp nhận không xét đoán được. Như chỉ có tám Tướng nhưng do cái thấy của cơ Đại Tiểu thừa mà có khác nhau.

Trình bày Thánh nguyên:

Lời tựa rằng: Nguồn gốc trước tiên của Như Lai bắt đầu từ bậc Đại nhân, ngài làm Chuyển luân ở cung vua, thứ lớp nối nhau. Xem xét các điển tích trình bày tóm tắt về nguồn gốc Thị tộc. Nhân đó nói rõ việc thực hiện ra đời của Đức Thế Tôn ta vốn sinh vào gia thế tôn quý nhiều đời làm Thánh vương.

Vào đầu Đại kiếp, khi thế giới mới thành thì các trời Quang âm hóa làm người… Họ họp nhau bàn thảo lập lên một người có oai đức để thưởng thiện phạt ác gọi là Bình Đẳng Vương mọi người đều phải cung phụng cấp dưỡng, do đó mà có tên là Dân chủ (theo kinh Trường A-hàm, cũng thấy trong Tam Thế Xuất Hưng Chí). Vua dân chủ đầu tiên hiệu là Đại Nhân. Vị vua thứ hai tên là Trân Bảo, vị vua thứ ba tên là Hảo Vị, vị vua thứ tư tên là Tĩnh tề Vua thứ năm tên là Đảnh Sinh, cho đến vua thứ ba mươi ba tên là Thiện Tư (theo Trường A-hàm, Bốn Phần Luật. Vị vua ba mươi ba này đều là con cháu nối nhau. Tên các vua thấy ghi đủ trong Bản Kinh).

Từ sau vua Thiện Tư thì có mười tộc Chuyển luân Thánh vương nối nhau ra đời.

Người thứ nhất là Chân Xà Vương tử Bà-diênca (Chân Xà tức là vua A-hàm Thiện Tư). Tộc này có năm Chuyển luân vương.

Tộc thứ hai là Đa-la Nghiệp có năm Chuyển luân vương. Tộc thứ ba là A-ba-diệp, có bảy Chuyển luân vương.

Tộc thứ tư là Kiện-đà-lợi có tám Chuyển luân vương. Tộc thứ năm là Ca-lăng-ca có chín Chuyển luân vương.

Tộc thứ sáu là Chiêm-ba có mười bốn Chuyển luân vương. Tộc thứ bảy là Câu-la-bà có ba mươi mốt Chuyển luân vương. Tộc thứ tám là Bát-xà-la, có ba mươi hai Chuyển luân vương.

Tộc thứ chín là Di-thi-lợi, có tám vạn bốn ngàn Chuyển luân vương (xét theo kinh Bản Hạnh vị vua sau cùng tức là Đại Mâu Thảo Vương Tiên vậy).

Tộc thứ mười là Ý-ma-di, có một trăm Chuyển luân vương (theo Lâu Thán Kinh, Di-sa-tắc gọi là Uất-ma; Trường A-hàm gọi là Ý-ma; Bốn Phần Luật gọi là Ý-sư-ma, tức là Cam Giá vương là tổ tiên của Thiện Sinh vương. Lương Hựu Luật sư, Thích-ca Phả nói: Dòng họ Thích coi Ý-ma là tổ tiên).

Tên Thích-ca:

Lời tựa rằng: Người đời đều biết Đức Như Lai thuộc Thánh chủng Sát-đế-lợi, nhưng rốt cục vẫn không hiểu rõ ý nghĩa việc đặt tên hai chữ Cù-đàm và Thích-ca. Nên cần biết tiếng Cù-đàm có bốn nghĩa hoặc gọi Thuần Thục hay Tối Thắng. Đây là theo đức mà gọi tên, hoặc gọi Cam Giá hay Nhật Chủng. Đây là theo duyên mà gọi tên. Còn tiếng Thích-ca thì có ba ý. Nếu do đức mà đặt tên thì gọi là Năng Nhân. Nếu do chỗ mà đặt tên thì gọi là Xádi hay Trực Lâm. Nhưng khởi đầu của Thích-ca thật ra là ở bốn đứa con của Cam Giá vương. Cam Giá là tiếng Phạm. Đã có chữ Cù-đàm thì tên Thích-ca cũng từ Cù-đàm mà ra. Trước là Cù-đàm sau là Thích-ca, tuy có hai tiếng nhưng thật ra là một họ. Người xưa lại dùng thêm ba tiếng Nhật Chủng, Cam Giá và Xá-di, tất cả là năm họ thì ngọn ngành lẫn lộn không biết đâu mà quyết đoán. Nay muốn luận đầy đủ để kẻ hậu học khỏi lầm.

Phàm "Tánh" (họ) là hệ thống để trăm đời khỏi cách biệt nhau. Về Thị là chỗ để phân biệt con cháu do đâu mà ra. Về tộc tánh, ở Ấn Độ có bốn dòng:

1. Sát-đế-lợi, tức dòng vua chúa.

2. Bà-la-môn, tức dòng tịnh hạnh.

3. Phệ-xa, tức là kẻ thương buôn (xưa đọc là Tỳ-xá).

4. Tuất-đà-la tức hàng thường dân (xưa đọc là Thủ-đà).

Bốn dòng này thì hai dòng trước sang, hai dòng sau hèn (Đây là rút từ Tây Vức ký) tùy lúc mà quý trọng. Đức Phật giáng sinh xuất thân từ dòng Thích-ca, vì thuộc đời cang cường nên phải sinh vào dòng vua để có uy quyền. Còn Ca-diếp gặp thời thuận trị nên chọn dòng Tịnh hạnh để nêu Đức hạnh (Đại Luận). Chuyện kể: Thuở xưa, cách atăng-kỳ kiếp có vị Bồ-tát làm vua một nước, cha mẹ mất sớm, vua nhường ngôi cho em rồi theo Bàla-môn Cù-đàm học đạo và nhận luôn họ Cù-đàm

(Bản Kinh dịch là Thuần Thục, còn Ứng Pháp sư dịch chữ Cù-đàm tên là Tối Thắng. Đây đều là theo nghĩa của Đức Hạnh. Vì vua tu hạnh khất thực nên khi trở về nước thì không ai biết, họ gọi ngài là Tiểu Cù-đàm. Ngài lấy vườn Cam Giá ở ngoại thành làm tinh xá. Một hôm có kẻ trộm vặt của quan, chạy ngang qua vườn, quan quân đuổi theo giấu trộm bắt ngài. Nhà vua ra lệnh lấy gậy đâm xuyên mình ngài đến chết. Đại Cù-đàm thấy được khóc lóc thảm thiết đem tẩm liệm ngài vào quan tài, lại vắt lấy bùn máu vo thành cục, đem về để ở tinh xá, đặt hai cục bùn máu ở hai bên. Đại Cù-đàm nói: "Nếu Đạo sĩ này chí thành xin trời thần chứng giám khiến máu hóa thành người. " Cách mười tháng sau quả nhiên cục bên trái hóa thành con trai, cục bên mặt hóa thành con gái. Nhân đó mà đặt họ của Cù-đàm là họ Thuần Thục (Theo kinh Thập Nhị Du).

Lại chuyện kể, ở quá khứ có vua Chuyển luân Thánh vương tên là Đại Tự Tại (tức là tộc Di Thilợi thứ chín) có con cháu nôi nhau được tám vạn bốn ngàn đời vua. Vị vua sau cùng tên là Đại Mâu Thảo, đã già mà không con. Bèn giao việc triều chính cho các quan đại thần rồi cạo tóc xuất gia, mọi người gọi là Vương Tiên. Các đệ tử lúc đó đều phải khất thực, Vương Tiên đã già nên không đi được, bèn lấy lồng cỏ treo khắp dưới cành cây để phòng cọp sói. Bỗng một thợ săn nhìn thấy cho là Bạch Điểu nên bắn chết. Máu chảy xuống đất, sau đó mọc lên hai cây Cam Giá. Mặt trời chiếu nóng khiến cây tách ra, một cây sinh ra người nam, còn cây kia sinh người nữ. Các đệ tử bảo hộ nuôi lớn hai trẻ, rồi đem chuyện báo lên các quan. Mọi người đều bảo là dòng vua, khiến thầy tướng bói quẻ, đặt tên là Thiện Sinh, xưng hiệu là Cam Giá vương. Người nữ tên là Thiện Hiền được lập làm Phi thứ nhất. Lại vì mặt trời chiếu nóng cây Cam Giá mà sinh ra nên cũng gọi là Nhật Chủng (Theo Bồ-tát Bản Hạnh).

Lời thuật rằng: Về Cù-đàm, một tên dịch là Cam Giá là căn cứ vào chuyện duyên hai gốc Cam Giá trong kinh Bản Hạnh; một tên dịch là Nê Thổ là lấy chuyện bùn máu của kinh Thập Nhị Du. Thế thì biết các kinh tiếng Phạm gọi Cù-đàm thì tiếng Hoa gọi là Cam Giá hay Nê Thổ. Hoa, Phạm gọi khác nhau thật ra chỉ có một nghĩa.

Bà phi thứ nhất của vua Cam Giá tên là Thiện Hiền sinh một người con tên là Trường Thọ, con bà phi thứ hai thì sinh được bốn người con trai, người thứ nhất tên là Cự Diên, người thứ hai tên là Kim Sắc, người thứ ba tên Tượng Chúng, người thứ tư tên là Biệt Thành (Theo

Bồ-tát Bản Hạnh).

Lời thuật rằng: Di-sa-tắc nói rằng: Người con thứ tư của vua Uất-ma là Ni-lâu, Bản Hạnh Kinh gọi là Ni-câu. Đây (Trung Quốc) dịch là Biệt Thành. Hựu Luật sư thì chỉ cho vua Ý-ma, là tổ tiên của họ Thích. Con thứ tư là Trang Nghiêm nối dõi vua Bạch Tịnh. Nam Sơn chỉ đó là Ý-ma, tức vị Luân vương thứ mười, cách Bồ-tát đến một trăm đời. Người con thứ tư là Trang Nghiêm tức người nối dõi là vua Bạch Tịnh. Tóm lại các thuyết ấy giống nhau. (Riêng việc nối dõi vua Trang Nghiêm thì có hai bản dịch không giống nhau, nhưng chỉ là một người là Ni-câu).

Lúc đó bà phi Thiện Hiền muốn lập Trường Thọ lên làm vua bèn tâu xin đuổi bốn người con kia ra khỏi nước, họ đến phía Bắc núi Tuyết sơn tự xây thành để ở. Không bao lâu nơi ấy đã sầm uất thành một cường quốc (theo kinh Bản Hạnh thì họ đến Tuyết sơn dựng nước, thành tên là Ca-tỳ-la, vua tên là Biệt Thành, xa gần đều khâm phục).

Về sau vua cha hối tiếc sai sứ đến triệu về, nhưng cả bốn con đều tạ lỗi không đi. Vua cha ba lần than rằng con ta là Thích-ca (đây dịch là Năng Nhân, theo kinh Bản Hạnh) tới núi Tuyết vào ở rừng Trực thọ nên có tên là Thích-ca (Hán gọi là Trực Lâm, theo kinh Trường A-hàm). Họ đến xây thành dựng nhà ở rừng Xá-di gần phía Bắc núi Tuyết, nhân đó gọi là nước Xá-di (theo Ngũ Phần Luật).

Lời thuật rằng: Xá-di là tên rừng, cũng lấy làm tên nước, lại lấy làm tên Thị Tộc. Trộm nghĩ Xádi e dịch là Trực; tức Trực Lâm ở núi Tuyết đã nói trước. Diệu Huyền bảo Xá-di là một tộc tánh sang trọng ở Tây Vức. Đây chỉ căn cứ theo nghĩa, chưa thấy trích ra từ kinh nào.

Con của vua Biệt Thành là Câu-lô. Con của Câu-lô là Cù-câu-lô (theo Bồ-tát Bản Hạnh). Con thứ tư của vua ý-ma là Trang Nghiêm (tức Biệt Thành) Ý-ma có một trăm Luân vương, vị vua cuối cùng tên là Đại Thiện Sinh (xét theo Bốn Phần Luật thì Ý-sư-ma lần lược có trăm vua. Sau đó có vua tên là Đại Thiện Sinh. Nam Sơn Thích-ca Phả nói rằng: Đại Thiện Sinh tức là Tổ bảy đời của Như Lai).

Từ sau một trăm Luân vương thì tổ sáu đời là vua Ô-bà-la, tổ năm đời là vua Lệ-bà-la, tổ bốn đời là vua Ni-cầu-la, tổ ba đời là vua Ni-phù-la, tổ hai đời (ông nội) là vua Sư Tử Giáp. Cha là vua Tịnh Phạn vương. Vua Sư Tử Giáp có bốn con:

1. Tịnh Phạn vương (các kinh hoặc gọi là Bạch Tịnh) có hai con, người anh là Thái tử Tất-đạt, em là Nan-đà.

2. Bạch Phạn vương, có hai con, anh là Điềuđạt (các kinh gọi là Đề-bà-đạt-đa, em là A-nan-đà).

3. Hộc Phạn vương có hai con, anh là Ma-ha-nam (hoặc là Thái tử Câu-lợi, là một trong năm Tỳ-kheo), em là A-na-luật (hoặc gọi là A-nâu-lâu-đà).

Cam Lộ Phạn vương, có hai con, anh là Bà-sa, em là Bạt-đề (là một trong năm Tỳ-kheo-Theo Trường A-hàm).

Từ sơ kiếp trở lại đây các con nối nhau làm Chuyển luân vương. Hai vua đời gần đây chỉ làm vua cõi Diêm-phù-đề (theo kinh Đại Phương Tiện. Nên biết hai vua Sư Tử Giáp và Tịnh Phạn riêng làm vua ở Nam Châu, chỉ là hàng Thiết luân vương).

Bát-xa-la-vương (tộc thứ tám này có ba mươi hai chuyển luân vương).

Bản đồ về thế hệ Chánh Thống của các Pháp vương:

Bình Đẳng Vương (Dân Chủ Bình Đẳng Vương, cũng gọi là Sát-đế-lợi, con cháu đích tôn nối nhau đến đời thứ ba mươi ba là vua Thiện Tư). Thiện Tư Vương (Từ Bình Đẳng Vương đến đây là ba mươi ba đời. Sau đó có mười tộc).

Ba-diên-ca Vương (con vua Thiện Tư là Tộc thứ nhất có năm Chuyển luân vương).

Đa-la Nghiệp Vương (Tộc thứ hai này cũng có năm Chuyển luân vương).

A-ba-diệp Vương (Tộc thứ ba này có bảy Chuyển luân vương). Kiện-đà-lợi Vương (Tộc thứ tư này có tám Chuyển luân vương). Lăng-ca Vương (Tộc thứ năm này có chín Chuyển luân vương). Chiêm-bà Vương (Tộc thứ sáu này có bốn Chuyển luân vương).

Câu-la-bà Vương (Tộc thứ bảy này có ba mươi mốt Chuyển luân vương).

Di-thi-lợi Vương (Tộc thứ chín này có tám vạn bốn ngàn Chuyển luân vương, một vua sau cùng tên là Đại Mâu Thả Vương cũng gọi là Vương Tiên, con là Ý-ma-di Vương).

Ý-ma-di Vương (Tộc thứ mười này có một trăm Chuyển luân vương. Ý-ma-di Vương cũng gọi là Cam Giá Vương. Dòng họ Thích nhận vua này là Thủy Tổ. Vua này có hai bà Phi. Bà Phi thứ nhất sinh ra con lớn tên là Trường Thọ Vương, bà Phi thứ hai sinh bốn con, người thứ nhất tên Cự Diện Vương, người thứ hai tên Kim Sắc Vương, người thứ ba tên Tương Chúng Vương, người thứ tư tên Biệt Thành Vương. Các vị trên đều là đời thứ hai).

Câu-lô Vương (đời thứ ba).

Cù-câu-lô Vương (đời thứ tư, dần dà truyền đến đời vua sau cùng thứ nhất trăm là Thiện Sinh Vương).

Thiện Sinh Vương (tổ bảy đời của Thái tử Tấtđạt). Ô-bà-la Vương (tổ sáu đời của Thái tử Tấtđạt).

Lệ-bà-la Vương (tổ năm đời của Thái tử Tấtđạt). Ni-cầu-la Vương (tổ bốn đời của Thái tử Tấtđạt). Ni-phù-la Vương (tổ ba đời của Thái tử Tấtđạt).

Sư Tử Giáp Vương (tổ hai đời (ông nội), có bốn con).

Tịnh Phạn Vương (có hai con: Một là Thái tử Tất-đạt; hai là Nan-đà).

Bạch Phạn Vương (có hai con là Điều-đạt và A-nan).

Hộc Phạn Vương (có hai con là Ma-ha-nam và A-na-luật). Cam Lộ Phạm Vương (có hai con là Bà-sa và Bạt-đề).

Trên đây là bốn vua sinh tám con.

Lời thuật rằng: Kinh Lâu Thán gọi Ý-ma có một trăm Luân vương.

Kinh A-hàm và Bốn Phần Luật đều nói vua sau cùng tên là Đại Thiện Sinh. Nói sau cùng tức là thứ một trăm vậy. Nam Sơn chỉ Đại Thiện Sinh là Tổ bảy đời của Phật đây là căn cứ theo Trường A-hàm. Từ Ô-bà-la Vương… sáu vua thì đến Thái tử là đời một trăm lẻ bảy. Nhưng lại nói: Cách Bồ-tát một trăm đời, vậy phải bỏ đi số bảy. Từ vua Dân Chủ đến vua Thiện Tư là ba mươi ba đời, con cháu nối nhau. Từ vua Ba-diên-ca mười Tộc trở xuống hoặc do các dòng thứ xen vào, hoặc do anh em thay nhau cai trị, phân làm mười dòng tất phải có nghĩa thân sơ sau trước. Song nhận mệnh trời làm vua thống lãnh bốn châu thì nguyên do được đạo vua đều giống. Kể chung về mười Tộc thì gồm có tám vạn bốn ngàn hai trăm mười một đời vua. Nếu kể cả ba mươi ba đời vua Dân Chủ trước, sáu đời Tổ Phụ và bản thân Thái tử nữa thì có tất cả là tám vạn bốn ngàn hai trăm năm mươi đời vua.

QUYỂN 2

Phần 2: ĐÂU SUẤT GIÁNG THẦN

Lời tựa đầu: Ngài Bốn Minh Pháp sư nói rằng: Như Lai thuở xưa ở thời Phật Đại Thông đã giảng lại kinh Pháp Hoa, tạo nhân Nhất thừa cho vô biên chúng sinh. Nhưng do có nhiều người thoái chuyển Đại thừa ham thích năm trần, Như Lai rất thương xót sợ họ bị đọa vào khổ đạo nên dùng Tiểu thừa để cứu độ, hoặc nói ba thừa để dẫn dắt họ. Nếu các thứ Đại Tiểu thừa này đã thuần thục thì có thể ở ngay đời này mà ngộ nhập vào Phật Thừa. Thế nên Đức Như Lai vì một việc này mà ra đời. Nhưng vì cơ duyên có khác nhau, cho nên ở một đời giáo hóa mà phân ra năm thời, người có cơ duyên thì có thể vào thẳng thật tế (cũng có người vào thật tế lòng vòng nhưng cả hai loại đều chín cùng một lúc), Hoa Nghiêm và Pháp Hoa nói về Đốn Giáo nhưng lợi ích cả hai cơ Biệt

-Viên. Vì cơ này từ xưa đã thấu được Thắng Tướng. Nếu trong khoảng đó tụ tập thâm sâu Tiểu thừa thì dù ở đời này nhập vào một Phật thừa nhưng vẫn thuần thục Tiểu thừa trước. Cho nên vì căn cơ này mà hóa hiện thân hèn kém, trước nói Tam tạng đủ các ý điều phục thuần thục. Lại đến thời Pháp Hoa mới triển khai Phật tuệ. Cơ này trước nay chỉ thấy thân kém cõi của Phật. Cho nên Sư Thiên thai nói: Với tiểu cơ thì hiện thân Phật Tam tạng để nói pháp. Với đại cơ thì hiện thân Phật Xá-na để nói pháp. Thế nên khi giáng thần vào thai mẹ là hiện cả hai tướng. Nhưng sau Hoa nghiêm Đốn giáo mới hóa độ Tiểu thừa. Ví như với kẻ cùng tử khi tìm gấp thì không đến mà nói từ từ thì mới chịu lại. Đốn trước tiệm sau nghĩa ấy đã thành. Nay kẻ nào chợt bảo: là Giáng thần vào thai mẹ liền hiện hai tướng. Thì Cần nên biết rằng các văn luận bàn thì Đốn trước Tiệm sau. Ấy bởi duyên hóa độ mà nói như thế. Nay lời nói này đều ứng hợp cả Đại Tiểu thừa, cùng hướng về Nhất thừa, mới thỏa đáng các cơ trước sau. Như phẩm Phương Tiện thật nghĩ rằng không có đại cơ nên có ý muốn dẹp việc hóa độ. Nhưng vì chư Phật khuyến dụ nên mới mở ra pháp tiểu thừa Kế đến đó mới nói rằng: Từ vô lượng kiếp đến nay ai khen ngợi pháp Niết-bàn sẽ dứt hẳn sinh tử, ta thường nói thế. Thế nên suy nghĩ về các cơ rồi sau mới nói Pháp Tiểu thừa. Những điều nói đây đều là nghi thức, không thể căn cứ vào đây để vấn nạn. Vì văn này xem khắp các cơ từ đầu đến cuối toàn là ý cứu độ muôn loài (và thọ ký cho). Nay xét điều luận bàn của hai Thánh thì tất biết Như Lai ra đời chỉ với tám tướng. Nếu từ cơ Đại thừa mà xét thì trước sau vẫn không thay đổi, không đâu không phải là Hoa Nghiêm. Còn từ cơ Tiểu thừa mà xét thì có đến Lộc uyển giáo hóa, các giáo pháp có thứ lớp trước sau, có chỗ gọi là Xána, có chỗ lại gọi là Thích-ca, một thể mà có hai tên ấy là do căn cơ không đồng. Vậy thì gặp cơ Đại Tiểu thừa mà nói ra có Đốn Tiệm. Cả năm thời thuyết giáo cùng hướng về Nhất thừa. Đây đều là Đức Như Lai tùy thuận theo cơ nghi khéo dùng phương tiện khiến nhập vào đạo Phật tuệ. Nay xin thuật lại.

Bồ-tát từ cung trời Đâu-suất khi sắp giáng thần thì có số bồ tát nhiều như vi trần của mười cõi phật cùng với Bồ-tát đồng nguyện đồng hành, cho đến các vị đều có đủ thần thông hạnh nguyện ngang hàng như ngài Phổ Hiền. Lại dùng thần thông hiện khắp cung trời Đâu-suất, trong mỗi mỗi cung điện đều hiện rõ hình ảnh thọ sinh ở cõi Diêm-phù-đề trong tất cả mười phương thế giới (theo kinh Hoa Nghiêm-Đây là tướng giáng Đâu-suất mà đại cơ thấy).

Gá thai mẹ

Lời tựa rằng: Đức Như Lai giáng thần vào thai mẹ, cả hai cách ứng hiện, nếu đại cơ thì thấy hiện trên Chiên-đàn lầu các, nếu tiểu cơ thì thấy là voi trắng sáu ngà. Nhưng đối với việc ứng Bản của Như Lai thì từ chưa hề có động, đây chỉ là tướng gá vào thai.

Bồ-tát từ cõi trời Đâu-suất ân rồi thì giáng sinh vào cung vua Tịnh Phạn ở nhân gian và hiện trên Chiên-đàn lầu các vào thai của Ma-gia phu nhân (kinh Hoa Nghiêm). Từ cung trời Đâu-suất giáng sinh đều là Pháp thân quyến thuộc, như đám mây mờ vây quanh trăng sáng cùng giáng sinh vào thai mẹ. Trong thai rộng rãi như hư không, Bồ-tát vẫn luôn tuyên nói diệu pháp (theo Diệu Huyền, đây là tướng gá thai mà đại cơ thấy).

Ở trong thai mẹ

Lời tựa: Kinh Hoa Nghiêm nói rằng: Đức Như Lai ở trong thai mẹ hiện ra cung điện rộng lớn, lại hiện đủ các việc như ở cung trời Đâu-suất cho đến nhập Niết-bàn. Hoặc thấy ngài đang ở trong cung trời Đâu-suất cho đến thấy ngày nhập Niết-bàn. Đây là một tướng trụ thai mà thấy đủ cả tám tướng. Đây là điều mà Kinh Khê nói: Trong mỗi mỗi tướng đều có tám tướng.

Bồ-tát ở trong thai mẹ hiện ra cung điện to lớn đầy đủ mọi thứ trang nghiêm nhưng vẫn khiến thai mẹ luôn được an ổn. Khi nhập vào Thai mẹ rồi thì Bồ-tát tâm luôn chánh niệm, thị hiện đang ở cung trời Đâu-suất hoặc mới sinh ra làm đồng tử ở trong cung vua, rồi xuất gia tu khổ hạnh, thành đạo, chuyển pháp luân và nhập Niết-bàn. Hoặc có trường hợp như thấy Đức Phật đang thuyết pháp, hoặc thấy Phật đang ở tại cung trời Đâu-suất hoặc thấy ngài lại vào thai mẹ, hoặc thấy ngài mới sinh, hoặc thấy ngài xuất gia, hoặc thấy ngài thành đạo, hoặc thấy ngài chuyển pháp luân, hoặc thấy ngài nhập Niết-bàn (theo kinh Hoa Nghiêm, ngài Kinh Khê nói: Đều nói "Hoặc" tức trong mỗi mỗi tướng đều có tám tướng. Đây là tướng trụ thai mà đại cơ thấy).

Thị hiện giáng sinh

Lời tựa rằng: Việc gá thai để giáng sinh là thị hiện có đời sống giống người thường. Cho đến việc ra vào từ hông phải, đi bảy bước ở mọi hướng... thì khiến cho Đại Tiểu cơ có sự thấy khác nhau, đây là thị hiện tướng giáng sinh.

Phu nhân đưa tay vịn cành cây ở vườn Lâm-Tỳ-ni mà sinh Bồ-tát, các chúng Thiên vương đều đem nước thơm cùng đến tắm gối cho (kinh Hoa Nghiêm). Lúc ngài mới sinh ra ngài đi bảy bước khắp mọi hướng (theo kinh Niết-bàn, đây là tướng giáng sinh mà Đại cơ thấy).

Xuất gia

Lời tựa nói: Kinh Hoa Nghiêm bảo rằng: Thân sau cùng của Bồ-tát dạy cho chúng sinh mãi bận bịu gia đình pháp lìa bỏ gia đình để thể hiện đời sống tự tại không bị lệ thuộc vào nó, nên tuyên dương công đức xuất gia là hơn hết. Đây chính là cái ý thị hiện xuất gia đó vậy.

Lại thấy có xuất gia đến đạo tràng rồi thành Đẳng chánh giác và ngồi tòa Sư tử (kinh Hoa Nghiêm, đây là tướng xuất gia mà Đại cơ thấy).

Thành Phật đạo

Lời tựa rằng: Kinh Hoa Nghiêm nói: Đạo tràng mới thành, đây là căn cứ vào thủy giáo Đại cơ mà nói không phải thật do Bản môn mà thành, nay chính là Tích trong Tích vậy.

Bồ-tát ở Bồ-đề đạo tràng khi mới thành Bậc Chánh Giác (Kinh Hoa Nghiêm) bảo rằng: Ta ba mươi tuổi thành đạo hiệu Thích-ca Mâu-ni nhưng luôn ở đạo tràng tịch diệt mà ngồi tòa Kim cang Hoa vương để nói pháp (kinh Phạm Võng, Bảo Tạng Kinh, Vô Tướng Tam-muội kinh đều nói là ba mươi tuổi thành đạo). Khi đã thành đạo rồi thì các Phạm thiên đến mời thỉnh cúi xin Như Lai vì chúng sinh mà rộng mở cam lộ, nói pháp Vô thượng (kinh Niết-bàn, đây là tướng thành đạo mà Đại cơ thấy).

Hoặc thấy Bồ-tát ở tại cung trời Đâu-suất, nhập thai, xuất thai, thành đạo, hàng ma, chuyển pháp luân và nhập Niết-bàn (theo kinh Hoa Nghiêm, bản tân dịch thì Đại thừa có phần hàng ma, nay xếp vào trong mục thành đạo).

Lời thuật rằng: Từ xưa y theo Khởi Tín Luận trình bày tám tướng của Đại thừa thì có trụ thai mà không có hàng ma, nếu căn cứ theo Bốn-Giáo Nghĩa để trình bày tám tướng của Tiểu thừa thì có hàng ma mà không có phần trụ thai. Căn cứ vào hai văn lấy làm nòng cốt. Từ "ở cung Đâu-suất giáng sinh" cho đến thành đạo, hàng ma thì đều trước lấy Đại thừa, sau theo Tiểu thừa mà trình bày các tướng ấy. Nhưng trong phần chuyển pháp luân thì có nghĩa Đốn Tiệm của năm thời thuyết giáo là bao gồm cả hai Cơ Đại Tiểu thừa ở trong ấy. Ngài Diệu Tông nói rằng: Đức Phật ứng sinh ở ba cõi mà nói là Đồng cư, giáo hóa có trước sau cần bày rõ tám tướng với Đại cơ thì thấy tám tướng là khó nghĩ bàn, còn với Tiểu cơ thì thấy tám tướng có phần yếu kém là nghĩa này vậy.

Từ cung Đâu-suất giáng sinh

Khi Bồ-tát công hạnh đã đầy đủ liền chứng bậc Nhất sinh bổ xứ, sinh lên cung trời Đâu-suất gọi là Bậc Thánh Thiện, nói về hạnh bổ xứ cho các vua trời. Khi thời đến thì liền giáng sinh làm Phật và quán về năm việc:

1. Quán các chúng sinh đều do ta hóa độ từ khi phát tâm đến nay đã thuần thục, đều có thể nhận được diệu pháp.

2. Quán khắp cả đại thiên giới này thì nước Catỳ-la trong cõi Diêm-phù-đề là nơi đáng sinh xuống nhất (Hán dịch là Huỳnh Sắc (màu vàng) là nói bậc lập đức còn ở trong màu vàng

3. Quán Thích-ca là người nối sau Thánh vương Cam Giá thứ nhất.

4. Quán vợ chồng vua Bạch Tịnh chân chánh đáng làm cha mẹ (Bạch Tịnh hoặc gọi là Tịnh Phạn, tiếng Phạm gọi là Thủ-đồ-đà-na. Bản Hạnh Kinh nói đó có nghĩa là Tài đức vẹn toàn. Song ở các kinh khác thì chưa thấy nói Bạch Tịnh hay Tịnh Phạn là có nghĩa gì).

5. Quán Ma-gia phu nhân cưu mang Thái tử đủ mười tháng thì sinh, sinh xong sau bảy ngày thì mạng chung.

Quán các điều ấy xong rồi liền bảo các Thiên tử rằng: "Ta phải giáng sinh vào cung vua Bạch Tịnh, rồi bỏ luôn ngôi Luân vương, xuất gia học đạo thành bậc Nhất thiết chủng trí, chuyển đại pháp luân, làm lợi ích rộng lớn cho hàng trời người. Các ông đến lúc đó cũng nên cùng hội lại Các Thiên tử nghe xong liền tự nghĩ rằng không bao lâu Bồ-tát sẽ thành Chánh giác (theo kinh Nhân Quả, đây tướng giáng Đâu-suất mà Tiểu cơ thấy).

Gá thai mẹ

Lúc đó Bồ-tát cỡi voi trắng sáu ngà từ cung Đâu-suất ra đi (theo kinh Phổ Diệu nói là sao Phí giáng hạ hóa làm voi trắng. Kinh Thụy Ứng nói là hóa cỡi voi trắng sáng như mặt trời, sao Phí tức là sao Quỷ phóng ánh sáng lớn chiếu khắp mười phương, đúng vào ngày mồng tám tháng tư lúc sao mai mới mọc thì giáng thần vào thai mẹ (vào lúc hừng sáng nên gọi là sao mai mọc tức là sao quỷ). Lúc đó Ma-gia phu nhân đang ngủ ngon thấy có voi trắng sáu ngà bay từ trên không hạ xuống và chui vào hông hữu (kinh Phổ Diệu nói: Ở bên phải là việc làm không trái quấy). Khi thức dậy phu nhân bèn đem chiêm bao thuật lại cùng vua. Vua cho mời các Bà-la-môn đến đoán mộng. Họ tâu: Người con mà phu nhân mang thai ắt là bậc Chánh giác, nếu không xuất gia sẽ làm vị Luân vương. Phu nhân ngày càng tu hạnh sáu Ba-la-mật, trời cung cấp thức ăn uống, bà không còn ham thích chuyện nhân gian. Bấy giờ các chúng trời ở cung Đâu-suất nghĩ rằng: "Bồ-tát đã sinh ở cung vua Tịnh Phạn, chúng ta cũng nên hạ sinh vào nhân gian sẽ được nghe pháp trước. Do đó chúng trời hạ sinh số đông đến chín mươi chín ức người. Lại từ cõi trời Tha hóa tự tại, xuống đến là trời Bốn Thiên vương lên đến trời Sắc giới cùng các quyến thuộc của họ đều cùng hạ sinh số đông không kể xiết (theo kinh Nhân Quả). Có một vị Thiên tử tên là Tốc Vãng đến các địa ngục lớn tiếng bảo rằng: "Bồ-tát đã từ cung trời Đâu-suất giáng thần vào thai mẹ, các ngươi hãy mau phát nguyện cầu sinh vào cõi người. " Chúng sinh ở địa ngục nghe lời ấy rồi đều cùng nhìn nhau. Bỗng thấy ánh sáng chiếu xuống liền bỏ thân cõi địa ngục mà sinh vào cõi người. Lại khắp đại thiên thế giới những người từ xưa đến nay đã gieo trồng thiện căn đều cùng đến thành Ca-tỳ-la mà thác sinh bốn phía thành Ca-tỳla (theo kinh Phật Bản Hạnh, đây là tướng gá thai mà Tiểu cơ thấy).

Ở thai mẹ

Bồ-tát ở trong thai mẹ đi đứng, nằm ngồi đều không chút trở ngại. Buổi sáng nói pháp cho chư thiên Sắc giới, buổi trưa cho chư Thiên cõi Dục, buổi xế cho các quỷ thần; ba buổi về đêm thì cũng giáo hóa chúng sinh như thế (kinh Nhân Quả, kinh này nói rằng: Trong sáu buổi của một ngày đi đứng, nằm ngồi đều nói pháp cho chư Thiên và các quỷ thần. Đây là văn nói về trụ thai của Tiểu thừa). Hộ Minh Bồ-tát bảo Thiên nhân Kim Đoàn rằng: Thuở xưa nhà nào mà Bồ-tát bổ xứ thác sinh thì phải có đủ sáu mươi công đức và ba đời đều thanh tịnh. Các ông nên vì ta mà hạ sinh xuống cõi Diêmphù mà quán sát (Hộ Minh tức là Thánh Thiện).

Đời nhà Chu, vua Chiêu vương, năm đầu (năm

Kỷ Sửu), Thủy Tổ của nhà tiền Chu là Hậu Tắc tên Khí, thích cày ruộng, vua Nghiêu đề cử làm Nông Sư, đến vua Thuấn phong cho đất Thai, hiệu là Hậu Tắc. Họ riêng là Cơ. Sau bốn đời nghe theo lời cha mà di cư về Châu Nguyên. Có con là Lý Lịch, làm Bá ở Ung Châu vào đời nhà Ân ở về phía Tây nên gọi là Tây Bá. Con của Lý Lịch là Xương nối nghiệp cha làm Tây Bá. Vua Trụ nhà Ân vô đạo, Tây Bá vâng mệnh trời xưng hiệu là Chu. Con của Xương là Phát đem binh diệt vua Trụ, lên ngôi Thiên tử hiệu là Võ Vương, truy tặng cho Tây Bá làm Văn Vương. Võ Vương có con là Tụng, tức Thành Vương. Con của Thành Vương là Chiêu tức Khang Vương, con của Khang Vương là Hà, tức Chiêu Vương, con của Chiêu Vương là Mẫn tức Mục Vương).

Thị hiện giáng sinh

Năm thứ hai mươi sáu (Giáp Dần). Theo Lưu Đạo Nguyên Thông Giám Ngoại Kỷ thì Chiêu Vương nguyên niên là năm Kỷ Sửu, đến năm hai mươi sáu là Giáp Dần. Nay các sách phần lớn đều nói là năm hai mươi bốn, nối nhau sai lầm.

Phu nhân mang thai gần mười tháng, cha là vua Thiện Giác sai sứ tâu cùng vua Bạch Tịnh rằng: "Con gái ta cưu mang Thánh thai oai đức rất lớn, e rằng sau khi sinh con thì con ta sẽ sống không bao lâu nữa, nay muốn rước về vườn Lâm-tỳ cho phỉ tình cha con. " Vua liền ra lệnh cho hữu ty sắm sửa đầy đủ nghi lễ để đưa hoàng hậu về cung vua cha (theo kinh Phật Bản Hạnh). Lúc đó phu nhân liền lên xe báu trước sau có hộ vệ theo hầu đến thẳng vườn Lâm-tỳ-ni. Khi đã tròn mười tháng vào ngày tám tháng tư lúc mặt trời mới mọc (trước nói là ngày tám tháng tư giáng thai, nay lại nói tám tháng tư xuất thai, đều là theo kinh Nhân Quả. Nam Sơn nói giáng thai, xuất thai đều là ngày tám tháng tư vậy phải ở trong thai mười hai tháng. Nay theo văn kinh nói mười tháng đã đủ là căn cứ theo cách thọ thai của nhân gian mà nói. Nếu theo Phật Sở Hạnh Tán Kinh thì phải nói là sinh ngày tám tháng ba. Đây đều do người dịch dùng lịch của hai nước không giống nhau. Song kinh điển trong ngoài phần lớn đều nói là ngày tám tháng tư cả).

Phu nhân thấy cây Vô ưu hoa lá xinh tươi liền đưa tay phải lên muốn hái, thì Bồ-tát từ hông phải từ từ chui ra. Lúc đó dưới cành cây nơi Bồ-tát hạ sinh có bảy hoa sen báu to bằng bánh xe, Bồ-tát bước đi bảy bước trên bảy hoa sen, đưa tay hữu lên và nói bằng giọng Sư tử rống: "Ta là đấng tôn quý hơn hết trong hàng trời người. " (Kinh Thụy Ứng nói rằng: Đưa tay phải lên mà nói rằng: Trên trời dưới đất chỉ có riêng ta đáng tôn quý. " (Kinh Thiện Quyền nói vì ứng với bảy Giác chi nên bước bảy bước, đưa tay phải lên là hiện tướng muốn dẹp bỏ tính tự tôn của ngoại đạo). Lúc đó trời Bốn Thiên vương liền dùng khăn thêu trời tiếp đón Bồ-tát đặt lên ghế báu. Đế Thích cầm bảo cái, Phạm vương cầm phất trần trắng cùng đứng hầu hai bên, hai anh em Long vương Nan-đà ở trên phu nước sạch một vòi ấm một vòi mát để tắm Thái tử (theo kinh Phổ Diệu thì Đế Thích Phạm Vương mưa hương hoa, có chín rồng phun nước thơm tắm Thái tử), thân Bồ-tát sắc vàng ròng, có ba mươi hai tướng đẹp, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp ba ngàn cõi, Thiên long bát bộ trổi nhạc trên không trung khen kể công đức của Phật và rải hoa khắp nơi. Tất cả hàng trời người đều khen ngợi bậc chủng trí Phật đạo mau thành độ thoát chúng sinh. Chỉ có Ma vương thấp thỏm không thể ngồi yên trên ghế. Lúc đó các thể nữ dùng một bức khăn bông thêu để ẵm Thái tử mang đến phu nhân. Các người hầu trở về cung báo tin vui lên vua. Vua ra lệnh cử một đoàn gồm bốn loại binh (tượng, mã, xa, bộ) cùng hộ giá vào vườn xem việc lạ lùng mừng sợ lẫn lộn, vua sai người ẵm Thái tử để trên kiệu voi, cùng đoàn tùy tùng trở về hoàng thành vào ngay thái miếu, các hình tượng Phạm Thích đều đứng dậy đảnh lễ và nói rằng: "Nay Thái tử đã là bậc tôn quý trong hàng trời người, vậy đâu nên đến đây lạy chúng ta!" Các quan mừng khen là lạ, bèn rước Thái tử vào cung vua. Lúc đó dòng họ Thích có năm trăm bé trai sinh cùng ngày, đám người hầu trong cung cũng có năm trăm bé như thế. Còn voi ngựa trong cung cũng sinh voi trắng, ngựa trắng, trâu dê thì sinh con có năm sắc, mỗi thứ cũng có năm trăm con. Những kho tàng ẩn kín trong cung cũng tự nhiên hiện ra. Bao nhiêu thương nhân ra biển tìm châu đều trở về và dâng lên những châu báu quý lạ. Vua triệu vời hỏi các Bà-la-môn nên đặt tên gì cho Thái tử. Họ cùng tâu: Khi Thái tử sinh ra thì tất cả kho báu đều xuất hiện, tất cả mọi điềm ứng hiện đều tốt lành, vậy nên đặt tên là Tát-bà-tất-đạt (Hán dịch: Tất cả nghĩa đều thành hoặc là hoàn toàn tốt đẹp). Lúc đó cả tám vua có Thái tử sinh cùng ngày với Phật đều hết sức vui mừng, lựa đặt cho những tên rất đẹp (kinh Nhân Quả). Khi ấy người hầu trong cung cũng sinh con và đặt tên là Xa-nặc, ngựa trong chuồng sinh ra lúc ấy được đặt tên là Kiền trắc. Về sau vua bảo Xa-nặc theo hầu và cấp ngựa ấy cho ngài cỡi (kinh Thụy Ứng). Vua tìm hỏi năm trăm vị tướng số thông minh nhất bảo bói cho Thái tử. Các vị tướng số đều tâu: "Nếu xuất gia thì Thái tử sẽ thành bậc Nhất thiết chủng trí, nếu tại gia thì sẽ làm Chuyển luân vương. " Vị bốc sư lại thưa: "Có một vị Phạm tiên tên là A-tư-đà (Hán dịch là Vô Tỷ. Thụy Ứng Kinh gọi là A-di) có đủ cả năm thông hiện ở trong Hương sơn có thể giúp vua hết nghi. " Vua nghĩ đường xá hiểm trở, khó có người đến được. Tiên A-tư-đà ở xa nhưng biết được ý vua bèn bay đến cung thành. Xem tướng Thái tử xong ông buồn khóc bảo rằng: Tiếc rằng không bao lâu nữa ta sẽ mạng chung để sinh lên cõi trời Vô tưởng, không thấy được Phật hoằng hóa và nghe được kinh pháp. Như có đủ ba mươi hai tướng hoặc không đúng chỗ hoặc không rõ ràng thì người này còn được làm Chuyển luân Thánh vương thay. Nay xem thấy Thái tử các tướng đúng chỗ lại rất rõ ràng thì chắc chắn Thái tử sẽ thành bậc Nhất thiết đức trí. Vua nghe Tiên nói sợ Thái tử xuất gia nên vội xây cung điện ba mùa trang suất đầy bảy báu, cửa thành khi đóng mở thì tiếng khóa khua vang xa đến bốn mươi dặm, lại cho năm trăm thể nữ túc trực hầu hạ trong cung. Có đủ các thứ hoa trái, chim lạ, suối tuôn ao tắm trong mát, cốt để vui mắt vui lòng Thái tử... Sau khi sinh được bảy ngày thì thân mẫu qua đời, vì việc cưu mang Thái tử có công đức rất lớn nên bà được sinh lên cung trời Đao-lợi (Đại Quyền Kinh có nói: Bồ-tát khi ở cung trời Đâusuất quán biết mạng sống của hoàng hậu chỉ còn được mười tháng bảy ngày, nên Bồ-tát giáng thần). Bấy giờ, Di mẫu là Ma-ha Ba-xà-ba-đề nuôi dưỡng Thái tử không khác mẹ ruột (kinh Nhân Quả). Đây là tướng giáng sinh được thấy theo hàng Tiểu cơ (Tiểu thừa).

Lời thuật rằng: Đức Như Lai giáng thần thị hiện tướng diệt độ. Việc ghi năm tháng các thuyết có lẫn lộn. Nay nói về nghĩa đúng, lấy hai dị thuyết để phân biệt. Về nghĩa đúng có sáu điều:

1. Chu Thư Dị Ký có ghi: Ngày tám tháng tư năm Giáp Dần nhằm đời Chu Chiêu Vương thứ hai mươi bốn, có ánh sáng năm sắc chiếu khắp bầu trời trùm cả phương Tây. Quan thái sử Tô Điền nói rằng: Có Bậc Thánh Nhân sinh ra ở phương Tây (Tây Vức). Ngày rằm tháng hai năm Nhâm Thân nhằm đời Chu Mục Vương thứ năm mươi hai, vào sáng sớm thấy có mống trời dài mười hai đạo suốt từ Nam đến Bắc, quan thái sử Hổ Đa nói rằng: "Đó là tướng Bậc Đại Thánh nhân ở phương Tây qua đời. "

2. Trong Pháp Bản nội truyện ghi: Ngài Mađằng Pháp sư đối trước Hán Minh Đế nói rằng: Ngày tám tháng tư năm Giáp Dần thì Phật sinh ra, đây là ứng với năm thứ hai mươi bốn đời Chu Chiêu Vương.

3. Trong Ngụy Thư chép: Sa-môn Đàm Mô Tối nói rằng: Phật sinh ngày tám tháng tư năm Chu Chiêu Vương thứ hai mươi bốn và diệt độ ngày rằm tháng hai năm Chu Mục Vương thứ năm mươi hai.

4. Nam Nhạc Nguyện Văn có nói: Đức Phật giáng sinh vào ngày tám tháng tư năm Giáp Dần.

5. Phụ Hạnh nói rằng: Đức Phật sinh vào cung vua Tịnh Phạn vào năm Giáp Dần đời Chu Chiêu Vương.

6. Vua Đường Thái Tông ra lệnh cho quan Thượng thư Lưu Đức Oai hỏi pháp với ngài Pháp Lâm Pháp sư rằng việc Đức Phật giáng sinh và nhập diệt vì sao thuật truyền trái nhau. Ngài Pháp Lâm luận chắc chắn rằng năm Giáp Dần đời Chu Chiêu Vương thì sinh và nhập diệt vào năm Nhâm Thân đời Chu Mục Vương.

Kế đến đây nói về Dị Thuyết có tám thuyết là:

1. Thạch Trụ Minh nói Phật sinh vào năm Ất Sửu đời Chu Hoàn Vương.

2. Pháp Hiển Pháp Sư truyện nói Phật sinh vào năm Giáp Ngọ năm Võ Ất nhà Ân.

3. Tượng Chánh Ký nói Phật sinh vào năm Mậu Tý đời Bình Vương.

4. Nam Sơn Cảm Thông Truyện thì Thiên Nhân nói Phật sinh vào đời vua Kiệt nhà Hạ.

5. Độ Luật Sư Chúng Thánh Điểm Ký nói Phật sinh vào năm Giáp Tuất đời Trình Định Vương.

6. Khai Hoàng Tam Bảo Sáu.

7. Vương Giản Thê Đầu-đà Tự Ký đều lấy hai đời Trang Vương của nhà Chu và nhà Lỗ. Thậm chí Cô Sơn cũng theo thuyết này. Phần chú thích kinh Bốn Thập Nhị Chương lại lấy Tịnh Danh Sớ mà nói rằng: Đời nhà Chu, Phật ra đời có sao sa như mưa. Bởi căn cứ theo Thụy Ứng Kinh đã nói việc Sao Phí giáng trần hầu Phật. Tông Thiên thai chỉ nói Phật ra đời mà chưa hề chỉ định là đời vua Trang Vương, tuy có nói là "như mưa", đấy là mượn văn của Tả Truyện. Cô Sơn thì lầm nhận lời nói này bèn lấy hai đời Trang Vương mà giải thích. Đến nỗi ngài Tịnh Giác viết ký lầm nói là tông Thiên thai lấy hai đời Trang Vương. Song ngài Kinh Khê thì nói rõ là năm Giáp Dần đời Chu Chiêu Vương. Lúc đầu không có luận về hai đời Trang Vương, thế mới biết Dị Thuyết từ đây đã dứt.

Nếu muốn hiểu thuyết đồng "như mưa" của Tả Truyện thì như kinh Văn-thù Bát-niết-bàn có nói: Sau khi Phật diệt độ được hai trăm năm mươi năm, ngài Văn-thù đến Vân Sơn hóa độ cho năm trăm Tiên nhân, xong rồi trở về Bản quốc phóng ánh sáng lớn chiếu khắp thế giới mà nhập Niết-bàn, từ Chiêu Vương đến Trang Vương đúng là hai trăm năm mươi năm, ứng nghiệm với điều sao Hằng chính là đây vậy (Tả Truyện nói năm thứ bảy đời Lỗ Trang Công thì không thấy sao Hằng đâu nữa, sao sa như mưa đúng vào năm Chu Trang Vương thứ mười). Lại Cô Sơn Thùy Dụ Ký thì y theo lịch nhà Chu lấy tháng mười một Kiến Tý là Tháng giêng, vậy nói tháng tư thì bây giờ là tháng hai. Nay căn cứ vào các kinh Nhân Quả, Thụy Ứng và Bản Hạnh thì đều nói là ngày tám tháng tư. Pháp Bản Nội Truyện và Ngụy Thư cũng nói là mồng tám tháng tư. Ba kinh ấy không phải dịch vào đời Chu, hai sách kia cũng không phải ở đời Chu nên biết không phải nói tháng giêng là Kiến Tý vậy.

Bởi từ đời Hán Võ Đế mới đổi tháng Dần là tháng giêng, đến nay vẫn noi theo mà dùng. Việc các kinh Truyện nói là tháng tư thì không nhầm lẫn, vậy không nên căn cứ vào lịch nhà Chu xa xưa mà đổi là tháng hai. Đây là tóm tắt các danh nghĩa đã phiên dịch, nay lại nêu thêm nhiều đoạn văn để làm chứng, để làm sáng tỏ Dị Kiến của người xưa vậy.

Năm Chu Chiêu Vương thứ hai mươi bảy (Ất Mão) trước là nói lúc Thái tử sinh ra thì bước đi bảy bước và nói "Chỉ riêng ta là bậc tôn quý", nói xong rồi nín thinh trở lại như đứa bé mới sinh, không đi không nói, được các mẹ nuôi nấng lớn lên dần dần theo (Trí Độ Luận).

Năm Chu Chiêu Vương thứ hai mươi tám (Bính Thìn), năm thứ hai mươi chín (Đinh Tỵ), năm thứ ba mươi (Mậu Ngọ), năm thứ ba mươi mốt (Kỷ Mùi), vua làm cho Thái tử những xe voi, ngựa, trâu, dê và các đồ chơi trẻ em, nhân dân cả nước làm các việc nhân từ, ngũ cốc dồi dào, thời tiết đúng mùa, ấy đều là do phước đức của Thái tử. Lại Xa-nặc và năm trăm đứa trẻ do bọn người hầu sinh ra được đem cho hầu hạ Thái tử (theo kinh Nhân Quả).

Năm Chu Chiêu Vương thứ ba mươi hai (Canh Dần), Thái tử đã được bảy tuổi. Vua cho Thái tử đi học. Vua hỏi tìm các bậc thông minh trong nước thì có một vị Bà-la-môn tên là Tuyển Hữu, vua xây dựng trường học, đóng bàn ghế, học cụ. Thái tử hỏi thầy có bao nhiêu loại. Thầy lặng im không đáp, lòng rất hổ thẹn bèn sụp lạy Thái tử xin ngài nói cho sách vở cõi Diêm-phù-đề có mấy loại? Thái tử đáp rằng: Hoặc loại Phạn Thư sách bà la môn hoặc sách Khư Lâu sách của tiên lữ thần có sáu mươi bốn loại sách như thế (theo kinh Phật Bản Hạnh thì khi Thái tử được tám tuổi đi học, thầy là Tỳ-xa-Đa-la. Có sáu mươi bốn sách trong đó có sách Đề-bà là trời, sách Na-già là Rồng, sách nước Chi-na là đời Đại Đường. Những thứ đó có đủ cả trời, đất, tám bộ, bốn châu và các sách về tiếng các loài chim thú…). Thầy dạy bèn tâu cùng Bạch Vương rằng: "Thái tử là bậc Thầy của hàng trời người thì tôi đâu thể dạy ngài được. " Vua nghe tâu rất mừng. Các thứ như về Kỹ nghệ, Điển tịch, Thiên văn, Địa lý, Toán số, xạ ngự... Ngài đều tự nhiên biết rõ (kinh Nhân Quả).

Khi đó vua muốn dự bị việc nối ngôi của Thái tử nên dạy ngài về phép binh nhung chinh chiến. Lại tạo ra một ngự uyển đặt tên là Lặc-cù, để ngài cùng hơn năm trăm bạn dòng họ Thích vào đó vui chơi. Học về tất cả sách vở trong vòng bốn năm ngài cùng các bạn dòng họ Thích thảy đều thông hiểu (Phật Bản Hạnh Kinh).

Năm Chu Chiêu Vương thứ ba mươi ba tân dậu. Thái tử đang ở ngự uyển chơi bắn cung. Có một con nhạn bị Đề-bà-đạt-đa bắn rơi xuống khu vườn ấy, ngài liền nhổ mũi tên lấy mật sữa bó vết thương cho chim. Đạt-đa sai kẻ hầu sang tìm, đòi trả ngay chim nhạn. Thái tử đáp rằng: "Ta phải bảo vệ chim nhạn này Từ khi phát tâm Bồ-đề đến nay ta đều hứa bảo vệ cho tất cả chúng sinh, huống là không giữ lại để bảo vệ chim nhạn này sao?" Thế là kết oán thù với Đạt-đa từ đấy (theo Phật Bản Hạnh Kinh).

Năm Chu Chiêu Vương thứ ba mươi bốn (Nhâm Tuất). Năm thứ ba mươi lăm (Quý Hợi) Thái tử được mười tuổi. Vua tìm người giỏi nghề bắn cung nhất nước đến dạy cho Thái tử. Thầy đưa một cung nhỏ bảo Thái tử bắn vào trống sắt, Thái tử phải dùng đến cung thứ bảy to chắc nhất để bắn một mũi tên xuyên cả bảy lớp trống sắt. Thầy dạy tâu vua rằng: Thái tử đã tự biết bắn cung đâu cần bảo thần phải dạy nữa. Vua mừng rỡ đánh trống ban lệnh: "Trong bảy ngày nữa Thái tử sẽ thi tài võ nghệ ở ngự uyển. " Đề-bà-đạt-đa tiên tới ra khỏi thành. Lúc đó có chú voi to đang đứng án cửa thành, Đề-bà-đạt-đa là người đầu tiên dùng tay đánh vào đầu voi, voi liền quỵ xuống. Dân chúng lũ lượt lách mình bước qua cửa thành. Nan-đà đến sau liền lấy chân hất một cái, voi văng qua bên lề đường Thái tử tiếp đó nâng voi lên ném qua ngoài thành, lại dùng tay đỡ voi, khiến voi không hề hấn và tỉnh lại. Bấy giờ dân chúng khen ngợi là việc chưa từng có. Khi đến ngự uyển, người trước nhất là Đạt-đa đã bắn lủng ba lớp trống vàng, Kế đến đến Nan-đà cũng bắn xuyên qua ba trống. Đến phiên Thái tử cho là cung qua yếu, liền bảo mở kho lấy cung báu của nội tổ ra, Thái tử bắn một mũi tên thủng cả bảy lớp trống, khi tên hạ xuống đất lại xuyên qua một giả sơn bằng sắt ở trong vườn. Lúc đó Đề-bà-đạt-đa cùng Nan-đà thí võ, hai người sức ngang nhau chưa ai thắng ai, Thái tử bèn đưa tay lôi cả hai té xuống đất. Thái tử chỉ dùng sức nhẹ để không gây thương tích (theo kinh Nhân Quả).

Năm Chu Chiêu Vương ba mươi sáu (Giáp Tý), năm thứ ba mươi bảy (Ất Sửu), năm thứ ba mươi tám (Bính Dần), năm thứ ba mươi chín (Đinh Mão), năm thứ bốn mươi (Mậu Thìn) Thái tử được mười lăm tuổi, nhà vua tập họp quần thần và các Tiểu vương, Bà-la-môn… đều có mặt. Vua ra lệnh đến ngày tám tháng hai đem bình bảy báu đựng đầy nước bốn biển. Ai nấy đều đội trên đầu kính dâng lên vua để làm lễ quán đảnh cho Thái tử, lại trao cho ngài ấn bảy báu, lập ngài làm Thái tử. Lúc đó vua tám nước cũng cùng lập Thái tử cho nước mình (kinh Nhân Quả).

Năm Chu Chiêu Vương thứ bốn mươi mốt (Kỷ Tỵ), Thái tử xin vua cha đi dạo chơi. Trước đến thăm ruộng vua, nghỉ ngơi dưới gốc cây Diêm-phù để xem người dân cày ruộng. Khi đó trời Tịnh cư hóa làm côn trùng bị chim mổ bắt, thấy xong Thái tử rất buồn thương bèn suy tư và chứng được Bốn Thiền (kinh Nhân Quả). Vua đi tìm thì thấy Thái tử đang ngồi dưới gốc cây, các bóng cây đều nghiêng theo mặt trời, còn bóng cây này không lệch và che mát Thái tử, giống như giữa lớp mây mù mà chợt thấy trăng sáng (Bồ-tát Bản Hạnh Kinh).

Năm Chu Chiêu Vương thứ bốn mươi hai (Canh Ngọ), Thái tử được mười bảy tuổi (theo Bản Hạnh Kinh thì mười chín tuổi cưới vợ). Có vị Bàla-môn dòng họ Thích tên Ma-ha Na-ma có người con gái tên là Gia-du-đà-la, nhan sắc đoan trang thông minh hơn người, vua cha bèn sai sứ đến đón về phong làm phi cho Thái tử. Thái tử thường tu thiền quán chưa từng cùng phi chăn gối (kinh Nhân Quả). Thái tử có ba người vợ, người thứ nhất tên là Cụ-di, người thứ hai là Gia-duy-đàn (bốn là Giadu), người thứ ba là Lộc Giả. Vì có ba vợ nên xây cung điện ba mùa, trong điện có hai vạn thể nữ theo hầu (theo kinh Thập Nhị Du, Văn Cú nói rằng: Kinh Vị Tằng Hữu và Thụy Ứng đều nói là La-hầu là con của Cụ-di. Kinh Pháp Hoa và Niết-bàn đều nói là con của Gia-du, hai thuyết thì thuyết nào đúng? Hoặc kinh kia nói về cha mẹ, kinh này thì nói về nơi sinh. Thích Luận rằng Cụ-tỳ-gia là gái báu, không mang thai là Cụ-di, nên biết chắc chắn là con của Gia-du. Thụy Ứng Kinh thì nói mười bảy tuổi cưới vợ).

Năm Chu Chiêu Vương thứ bốn mươi ba (Tân Mùi), Thái tử xin phép vua cha đi dạo chơi vườn rừng. Đoàn tùy tùng hộ vệ Thái tử ra cửa thành hướng Đông. Khi đó trời Tịnh cư hóa thành ông lão tóc bạc lưng còng. Thái tử thấy rồi liền trở về cung sầu lo không vui, tự nghĩ rằng tuổi già đến nhanh như điện chớp riêng ta đâu khỏi được, thế sao người đời lại không sợ? Một hôm khác Thái tử lại ra cửa thành phía Nam dạo chơi, trời Tịnh cư lại hóa làm người bệnh thân gầy bụng to không thể đi đứng được. Thái tử tự nghĩ bệnh khổ như thế kia làm sao chẳng sợ, liền quay xe trở về cung. Ít lâu sau Thái tử lại ra cửa thành phía Tây dạo chơi. Trời Tịnh cư lại hóa làm thây chết, bốn người khiêng xác người nhà theo sau khóc lóc. Thái tử bảo quan Ưu-đà-di rằng: Thế gian lại có sự khổ này, sau lại ở đó mà buông lung, liền ra lệnh quay xe trở về. Lần cuối cùng là ra cửa Bắc thành dạo chơi. Trời Tịnh cư hóa làm một Tỳ-kheo, mặc ca-sa ôm bát tay cầm tích trượng. Thái tử hỏi: Ông là người gì? "Ta là Tỳ-kheo tu học đạo Thánh dứt hẳn vô vi", nói xong liền bay lên hư không mà đi mất. Thái tử dắt ngựa trở về cung, tự nghĩ rằng: Ta trước đây đã thấy có các khổ già bệnh chết, luôn sợ bị các thứ ấy bức bách. Nay gặp được vị Tỳ-kheo đã khai ngộ lòng ta chỉ cho đường giải thoát, liền suy nghĩ tìm cách xuất gia (kinh Nhân Quả, kinh Thụy Ứng nói rằng: Mười bốn tuổi dạo chơi bốn cửa thành. Còn Bản Hạnh Kinh thì nói: Thái tử hỏi: Ông là người gì? Đáp rằng: Ta là Sa-môn đệ tử Phật. Hỏi: Samôn tên gì? Đáp rằng:

Ba cõi rối rấm Sáu thú tối tăm Biết tâm thấu gốc gọi là Sa-môn).

Năm Chiêu Vương thứ bốn mươi bốn (Nhâm Thân), năm thứ bốn mươi lăm (Quý Dậu), năm thứ bốn mươi sáu (Giáp Tuất), năm thứ bốn mươi bảy (Ất Hợi), năm thứ bốn mươi tám (Bính Tý), năm thứ bốn mươi chín (Đinh Sửu).

Xuất gia

Năm Chiêu Vương thứ năm mươi (Mậu Dần)

Thái tử được hai mươi lăm tuổi. Diệu Lạc nói rằng: Nếu mười chín tuổi xuất gia thì hai mươi bốn thành đạo, nếu ba mươi tuổi thành đạo thì hai mươi lăm tuổi xuất gia. Căn cứ theo kinh Bảo Tạng thì hai mươi lăm tuổi xuất gia, ba mươi tuổi thành đạo. Lời ngài Kinh Khê nói nên hợp theo đây).

Thái tử đến chỗ Phụ vương lạy và thưa rằng: Có thương yêu tụ họp tất có lúc chia lìa vậy cúi mong Phụ vương cho con được xuất gia học đạo. Vua cầm tay con rơi lệ bảo rằng: "Nước chưa có người nối ngôi, thôi con hãy dẹp bỏ ý định ấy đi. " Lúc đó có vị Bốc sư tâu vua rằng: "Nếu Thái tử không xuất gia thì bảy ngày sau nên làm Chuyển luân Thánh vương. " Vua nghe tâu rất mừng, liền cắt đặt ở mỗi cửa thành có cả ngàn người canh gác cẩn mật. Vua bảo Thái tử: "Lúc xưa ta nghe tiên A-tư-đà nói con nhất định không chịu sống ở thế gian, vậy nếu con sinh cho ta một bé trai thì ta sẽ chấp nhận lời con. " Thái tử liền lấy tay mặt chỉ vào bụng vợ, vợ liền biết mình có thai (Thụy Ứng Kinh nói rằng: Thái tử chỉ tay vào bụng vợ bảo rằng: Sáu năm nữa nàng sẽ sinh trai).

Ngày bảy tháng hai lòng nghĩ việc đi xuất gia, thân phóng ánh sáng chiếu khắp các cung trời, chư Thiên đều biết giờ xuất gia của Thái tử đã đến, liền cùng đến lạy ngài bạch rằng: Hạnh nguyên tu hành từ vô lượng kiếp đến nay đã chín mùi. Thái tử đáp rằng: Đúng như lời các ông nói, nhưng phụ vương ta đã cho trong ngoài canh phòng nghiêm mật, muốn đi rất khó. Chư Thiên liền dùng thần lực khiến các đội canh phòng đều ngủ. Say không hay biết Còn Gia-du thì nằm mộng thấy ba điềm:

1. Mặt trăng rơi xuống.

2. Các răng đều rụng.

3. Mất cánh tay phải.

Nàng thức dậy và thuật lại đầy đủ. Thái tử bảo: Trăng vẫn còn đó, răng vẫn như xưa, cánh tay nguyên vẹn, nên biết đấy chỉ là mộng mị không thật. Đến giữa khuya thì chư Thiên lại thưa: Trong ngoài mọi người đều ngủ say, nay đã đến lúc. Thái tử liền gọi Xa-nặc bảo dắt Kiền trắc lại. Xa-nặc khóc lóc thưa giờ này đâu phải lúc dạo chơi, giữa khuya sao lại bảo dắt ngựa đến, bèn cất tiếng khóc lớn cốt ý muốn mọi người trong cung đều hay, nhưng do sức Thiên thần nên họ đều say ngủ. Xanặc dắt Kiền trắc đến thì chư Thiên cùng nâng bốn chân ngựa và Xa-nặc lên, trời Đế Thích che lộng cùng tiến ra cửa thành phía Bắc. Cửa thành tự mở toang không một tiếng động. Đi mãi đến lúc trời sáng thì đã được ba du-xà-na (tức ba do-tuần). Chư Thiên giúp việc xong liền biến mất. Khi đến rừng khổ hạnh của tiên Bạt-già đang tu thì thái tử xuống ngựa. bảo Xa-nặc rằng: Ta bỏ kinh thành đến chỗ yên vắng, nay ngươi và Kiền trắc hãy trở về. Xanặc khóc vùi, Kiền trắc liếm chân Thái tử mà nước mắt như mưa. Thái tử liền đến chỗ Xa-nặc rút kiếm bảy báu cắt ngang mái tóc phát lời nguyện rằng: "Nguyện cùng dứt hết tất cả phiền não và tập chướng. " Đế Thích đón nhận tóc và khen lành thay! Khi ấy trời Tịnh cư hóa làm một thợ săn mình mặc áo ca-sa. Thái tử nhìn thấy liền bảo: Áo nhà ngươi mặc là áo Tịch tịnh, ngươi mặc áo ấy sao lại làm việc tội lỗi. Ta muốn đem áo bảy báu đang mặc đây đổi lấy được chăng? Thợ săn đáp: Được. Thái tử liền cởi áo đưa cho người thợ săn rồi mặc áo casa vào. (Đại Luận nói: Áo đổi được chính là áo Tăng-già-lê vải thô xấu). Bấy giờ, trời Tịnh cư hiện lại thân Phạm thiên và bay lên hư không. Khi ấy Xa-nặc dắt Kiền trắc đang hí vang thảm thiết men theo đường cũ trở về. Tiên Bạt-già khi mới nhìn thấy Thái tử từ xa cho là Thiên thần liền cùng học trò ra mời ngồi. Thái tử hỏi Tiên nhân rằng: Ngài tu khổ hạnh để cầu điều chi? Đáp rằng: Cầu được lên trời. Thái tử nói: Ngài tu nhân khổ để cầu báo khổ rốt cục không lìa khổ. Bàn nói qua lại xong đến sáng thì từ giã ra đi. Xa-nặc dắt Kiền trắc trở về hoàng cung tâu rõ mọi việc cùng vua vua nặng lòng thương nhớ, liền sai quan Thái sư tìm đến chỗ tiên Bạt-già để biết. Tiên bảo họ đã đi đoàn người tiếp tục đi trên đường đi từ xa thấy Thái tử đang tĩnh tọa suy tư dưới một gốc cây. Vị đại thần đến bên kể hết nỗi lòng vua cha. Thái tử đáp: Đâu phải ta không nhớ ân sâu, nhưng chỉ vì muốn cứu khổ bốn nạn sinh lão bệnh tử mà thôi. Nay ta nhất quyết không trở về. Vị đại thần bèn để lại năm vị Kiềutrần-như… để ngầm giúp đỡ Thái tử. Lúc đó Thái tử sang phía Bắc sông Hằng (theo Tây Vức Ký thì nên nói sang phía Nam). Trên đường đi ngang qua thành Vương xá. Vua Tần-bà-ta-la (theo Thụy Ứng Kinh thì nói là Bình-sa vương) nghe Thái tử đến muốn bỏ ngôi xin theo hầu. Thái tử bảo vua: Nay đối với thân mạng tài sản nên tu ba pháp bền chắc, không nên đem pháp không bền chắc dạy người khác. Rồi từ biệt vua, vua liền bảo: Khi ngài thành đạo xin độ tôi trước. Thái tử tiếp tục đi về phía trước, đến chỗ Tiên nhân A-la-la, nghe vị này nói là đã được Sơ thiền cho đến nhập định Phi tưởng phi phi tưởng xứ gọi là giải thoát. Nhưng Thái tử biết đó vẫn chưa rốt ráo, liền từ biệt Tiên nhân. Kế đến đó đến chỗ của Ca-lan bàn luận vấn đáp cũng thấy như thế. Sau khi điêu phục được hai Tiên nhân trên, Thái tử đến rừng Khổ hạnh ở núi Già-xà cùng ở chung với bọn năm ông Kiều-trần-như. Bên bờ sông Ni liên thiền, ngài ngồi tĩnh tọa suy nghĩ rằng phải tu khổ hạnh sáu năm để độ chúng sinh (kinh Nhân Quả). Thiên thần dâng cơm ngài nhất định không nhận, chư Thiên bèn khiến mọc quanh ngài lúa mè, mỗi ngày ngài dùng một hạt lúa một hạt mè để nuôi dưỡng tinh khí. Ngài ngồi tĩnh tọa suốt sáu năm hình thể gầy đét một tâm vắng lặng suy tư về an ban (muốn dẫn tư tưởng an trụ vào Niết-bàn thì nên tu Sáu diệu môn thiền này. Nên Pháp Giới Thứ Đệ nói rằng: Ba thứ trước là định, ba thứ sau là tuệ. Ham thích tuệ quán sát thì có thể phát ra Chân Minh mà lìa hẳn sinh tử. Về Diệu môn thì Niết-bàn là Diệu, còn môn là thông suốt, vì sáu pháp này thông nhau thì có thể đạt đến Niết-bàn Chân diệu, nên gọi là Diệu môn). Sáu Diệu môn thiền là:

1. Sổ tức (là giữ tâm theo hơi thở từ một đến mươi, gọi là Sổ).

2. Tùy tức (là tế tâm nương theo hơi thở, biết thở ra hít vào).

3. Chỉ (dứt tâm suy nghĩ nên gọi là Chỉ).

4. Quán (là phân biệt chỗ chứng nên gọi là Quán).

5. Hoàn (là chuyển tâm phản chiếu, nên gọi là Hoàn).

6. Tịnh (tâm không chỗ nương sóng vọng động lặng mất. gọi là Tịnh).

Để tâm nơi Chỉ Quán, thở ra hít vào hai môn thần thông vi diệu, ý không phân tán (Thụy Ứng Kinh).

Thái tử ngày ăn một hạt mè, hạt gạo, hoặc bảy ngày mới ăn một lần, năm ông Kiều-trần-như kính hầu Thái tử, sai người báo tin cho Bạch Tịnh vương biết đủ mọi việc khổ hạnh. Vua cha, Di mẫu và Gia-du cùng sắm đủ năm trăm xe lương thực đồ dùng khiến Xa-nặc đem dâng, nhưng Thái tử đều từ chối không nhận (kinh Nhân Quả, từ đây trở về trước là tướng xuất gia mà Tiểu cơ nhìn thấy).

Lời thuật rằng: Theo các kinh Thụy Ứng, Nhân Quả, Trung Bản Khởi và Đại Luận thì đều nói mười chín tuổi xuất gia, mười hai tuổi dạo chơi. Còn bốn kinh A-hàm là Tăng Nhất, Trung Tạp, Trường, kinh Xuất Diệu và Tu Mật Luận thì đều bảo là hai mươi chín tuổi xuất gia. Vậy phải theo ai? Nay cứ kể tuổi thọ của Như Lai là tám mươi, trừ năm mươi năm hoằng pháp thì nhất định phải theo các kinh Phạm Võng, Vô Tướng Tam-muội và Bảo Tạng... nói ba mươi tuổi thành đạo. Nếu lấy ba mươi tuổi thành đạo trừ đi sáu năm tu khổ hạnh thì nhất định phải theo ngài Kinh Khê nói hai mươi lăm tuổi xuất gia. Đem họp với thuyết của kinh Bảo Tạng… nêu trên mà định trước sau thì có hai việc để làm chứng:

1. Sáu năm tu khổ hạnh sau khi xuất gia đến năm thành đạo thì số năm rất khớp.

2. Khi sắp xuất gia Thái tử chỉ bụng vợ nói sáu năm sau nàng sẽ sinh con trai.

Đến năm thành đạo thì quả nhiên sinh ra Lahầu. Kinh Hiền Ngu nói: Xuất gia tu đạo, sáu năm khổ hạnh mà được Nhất thiết trí. Còn kinh Vị Tằng Hữu thì nói: Thái tử trốn đến vùng núi đầm sáu năm cần khổ, chứng quả Phật rồi trở về nước. Kinh Phổ Diệu thì nói: Vua cha nghe tin Thái tử chứng quả Phật đến nay đã sáu năm, liền sai Ưu-đà-da đến thỉnh Phật rằng: "Cách biệt suốt mười hai năm nay. " Lại nói: Đức Phật trở về nước vào cung ngồi trên tòa thì La-vân đến vấn an. Quần thần đều nghi: Thái tử đã bỏ nước ra đi đến nay mười hai năm vì sao lại có con. Văn của các kinh ấy đều nói là xuất gia và sáu năm khổ hạnh rồi thành đạo, lại trải qua sáu năm sau mới trở về nước. Xét ngược lại thì phải lấy hai mươi lăm tuổi làm năm xuất gia. Còn Tụng Cô Sơn thì nói năm tuổi đi dạo chơi thì lời nói này không bằng cớ. Thần Trí Bộ Chú, Bi Luận có dị đồng vậy xin hãy lấy lời ngài Kinh Khê làm chính. Năm Chu Chiêu Vương thứ năm mươi mốt (năm Kỷ Mão). Năm đầu Chu Mục Vương (con của Mãn Chiêu Vương năm thứ nhất (năm Canh Thìn)). Năm Mục Vương thứ hai (Tân Tỵ) Hàng Thiên Ma, năm Mục Vương thứ ba (Nhâm Ngọ). Năm Mục Vương thứ tư (Quý Mùi). Thái tử tự nghĩ: "Ta tu khổ hạnh đã tròn sáu năm nếu lấy thân gầy ốm này để chứng đạo quả, thì các ngoại đạo sẽ cho rằng đói làm nhân cho Niết-bàn, vậy ta phải ăn sau đó mới thành đạo. " Ngài liền đến sông Ni liên thiền để tắm rửa. Lúc đó bên ngoài khu rừng có một cô gái chăn bò tên là Nạn-đà-bà-la, do trời Tịnh cư đã hiện xuống báo trước: "Nàng nên cúng dường. " Cô gái nghe xong rất đổi vui mừng, lại thấy từ đất mọc lên giống sen ngàn cánh, trên cánh sen có cháo sữa, liền lấy dâng lên. Thái tử chú nguyện rồi thọ thực, khí lực lại đầy đủ (theo Phật Bản Hạnh Kinh thì có hai cô con gái của chúa thôn Thiện sinh là Nan-đà và Bà-la chăn cả ngàn con bò cái để lấy sữa uống. Nàng vắt sữa lần lượt đến mười lăm con, nấu đặc rồi đem dâng cho Bồ-tát. Lại có Long nữ dâng tấm đệm trời quý đẹp để ngài ngồi. Ngài tùy ý ăn no thân thể đầy đặn dung nhan đẹp đẽ như xưa. Kinh Phổ Diệu nói: Long nữ dâng cho ngài tòa ngồi quý đẹp). Xong ngài liền đến rừng cây Tát-la phát nguyện rằng: "Ta ngồi dưới cây này nếu không thành đạo quyết không đứng dậy. " (Các kinh phần lớn đều nói là cây Bồ-đề, đây dịch là Đạo, ý nói ngồi dưới cây này mà thành đạo vậy, thật ra cây ấy tên là Tất-bát-la). Ngài lại suy nghĩ "Chư Phật quá khứ dùng cỏ làm tòa ngồi mà thành đạo Vô thượng. " Thích Đề-hoàn Nhân liền biến thành người phàm đem cỏ mềm sạch đến trước Bồ-tát. Ngài hỏi: Ngươi tên gì? Đáp tên Cát Tường. Bồ-tát mừng bảo: "Ta phá điều xấu để thành Cát Tường", bèn trải cỏ làm tòa rồi ngồi kiết già, lại tự thề rằng: "Nếu không thành Chánh giác không rời khỏi tòa này (kinh Nhân Quả). Khi Phật còn là Thái tử xuất gia cầu đạo, vua cha Tịnh Phạn sai năm người họ Thích theo hầu hạ ngài:

1. Kiều-trần-như (Hán dịch là Hỏa Khí).

2. Thập Lực Ca-diếp (cũng gọi là Bà Phu) là bà con bên mẹ, hai người này chấp năm dục lạc. Khi thấy Thái tử bắt đầu ăn lại cháo sữa thì không chấp nhận nên bỏ đi.

3. Át Bệ (Hán dịch là Mã Thắng).

4. Bạt Đề (Hán gọi là Tiểu Hiền là con thứ của vua Cam Lộ).

5. Ma-ha-nam Câu-lợi (là con vua Hộc Phạn, năm người này tên gọi không đồng. Nay theo văn của năm quyển đã trích thì cùng luận này không khác).

Ba người này là bà con bên cha, họ chấp khổ hạnh là tịnh hạnh. Thái tử sau đã biết không phải đạo, bèn bỏ không theo mà ăn cháo sữa, ba người này bảo là ngài điên cuồng mất chí cả nên cũng bỏ đi (Tân-bà-sa Luận, kinh Nhân Quả ở phần Bốn Giáo Nghi thì nói hàng ma trước, thành đạo sau. Kinh Hoa Nghiêm thì nói trước thành đạo, sau hàng ma. Diệu Lạc bảo hàng ma xong liền chuyển pháp luân. Đây là chỗ thấy của Đại tiểu cơ nên có khác. Nay theo văn nói là hàng ma xong thì nhập định. Khi sao Mai mọc thì hóa nhiên đại ngộ, vậy phải lấy việc hàng ma là trước).

Lúc bấy giờ cung điện của Ma vương tự nhiên rúng động. Ma vương tự nghĩ: Cù-đàm sẽ thành Chánh giác, vậy ngay lúc chưa thành đạo hãy đến phá hoại. Do đó tay cầm cung tên cùng các quyến thuộc tụ hội dưới gốc cây bảo Bồ-tát rằng: "Ngươi nên tu pháp Chuyển luân vương, hãy dẹp đi pháp xuất gia. Nay nếu không đứng dậy ta sẽ bắn ngươi. " Bồ-tát vẫn điềm nhiên không kinh động. Ma vương bèn giương cung bắn tên, tên đều lơ lửng trên không trung, các mũi nhọn rơi xuống đất đều hóa thành hoa sen. Ma vương lại sai ba cô gái bạch cùng Bồ-tát rằng: Này Nhân giả chí đức! Chúng tôi nguyện theo hầu hai bên ngài. "

Bồ-tát đáp: "Các ngươi gieo trồng ít thiện căn nên được làm Thiên nữ, không nghĩ nhớ việc vô thường mà lại làm việc yêu mị, hãy đi ngay ta không cần. " Khi đó cả ba Thiên nữ liền biến thành ba bà lão tóc bạc, mặt nhăn. Ma vương liền lấy lời ngon ngọt khuyến dụ: "Nếu như không thích cõi nhân gian thì ta sẽ bỏ ngôi trời và năm dục lạc mà dành tất cả cho ông. " Bồ-tát đáp: Nhà ngươi trước kia tu ít hạnh Bố thí, nay được làm Tự tại Thiên vương, phước này có kỳ hạn, hết rồi sẽ bị chìm đắm, đó không phải điều ta mong! Ma nói: Quả báo của ta thì ông đã biết, còn quả báo của ông thì ai biết? Bồ-tát đáp: "Chỉ đất này biết được!" Khi ấy cả đại địa đều chấn động mạnh. Địa thần từ dưới đất vọt lên bảo Ma rằng: Từ xa xưa Bồ-tát đã đem đầu mặt tủy não, quốc thành, vợ con, voi ngựa, châu báu... đem bố thí nhiều không thể kể xiết là vì muốn cầu đạo vô thượng chân chánh, thế nên nay nhà ngươi không nên phá rối. Ma vương nghe nói thì sợ hãi, liền nghĩ thầm: Ta nay phải dùng phương tiện tập hợp quân ma dùng sức bức hiếp. Lúc đó quân ma chợt đầy khắp không trung, cầm kích, múa kiếm, nhiều đầu nhiều mắt, hình thù quái dị vây quanh Bồ-tát, bốn phương khói mịt, bốn biển sóng trào, quân ma dùng hết oai lực, như trợn mắt, nghiến răng và bay đảo lung tung... nhưng Bồ-tát xem như trò đùa trẻ con. Thần ẩn mình trên không trung cất tiếng vang nói rằng: Bồ-tát đã trải nhiều kiếp tu tập thiện quả vì muốn cứu độ chúng sinh, ngày nay cớ sao các ngươi dám quấy nhiễu Đạo sư. Hôm nay nhất định dưới gốc cây này Bồtát sẽ thành đạo Vô thượng. Đất đai này chính là tòa Kim cang của chư Phật quá khứ, đã từng nhận lấy các diệu định, sức người không thể phá được. Các ngươi hãy nên bỏ hết tánh kiêu mạn mà phụng thờ ngài. Khi nghe tiếng nói trên không trung thì Ma vương liền kéo về bản cung (kinh Nhân Quả). Ác ma Ba-tuần đem tám mươi ức chúng muốn đến phá hoại Phật, bảo rằng: "Ông không gấp ra đi ta sẽ ném ông xuống biển. " Phật bảo ma Ba-tuần rằng: Nhà ngươi xô được cái bình tắm này thì mới có thể ném ta xuống biển. Lúc đó ma Ba-tuần không lắc nổi chiếc bình nên quân ma bèn tan rã (kinh Tạp Bảo Tạng). Trưởng tử của ma Ba-tuần là Thương Chủ đến đảnh lễ Bồ-tát cầu xin sám hối bạch rằng: Cha con ngu muội dám xúc phạm đến Đại Thánh, mong ngài rộng lượng dung thứ (kinh Phật Bản Hạnh, từ trên là hàng Tiểu cơ thấy tướng hàng ma).

Lời thuật rằng: Các kinh đều nói: Ma Ba-tuần ở trên đỉnh trời Sáu dục, có cung điện riêng. Nay kinh Nhân Quả lại chỉ cho Tự tại Thiên vương. Như đây thì phải là cõi trời thứ sáu. Nay có hai sự khác biệt này là do người dịch dùng nghĩa không đồng vậy.

Phật thành đạo

Ngày bảy tháng hai, khi ác ma tan rã thì tâm Bồ-tát thanh tịnh sáng suốt bất động. Sau khi mặt trời lặn, ánh trăng trong suốt sáng trưng, muôn sao lấp lánh, trời mưa hoa báu và trổi các loại nhạc dùng để cúng dường. Bồ-tát hàng ma xong thì phóng luồng ánh sáng lớn rồi nhập định suy tư Chân Đế, biết rõ các việc thiện ác đã tạo ra từ quá khứ, tuổi thọ dài ngắn, tất cả chúng sinh phải luân hồi trong năm đường không có chân thật, sinh ra khổ vui. Khi sao Mai vừa mọc thì hoác nhiên đại ngộ (tức sáng ngày mồng tám tháng hai) được chứng Vô thượng Chánh giác cao quý nhất (kinh Nhân Quả, đây là Tiểu thừa thấy về tướng thành đạo).

Ngày Đức Phật thành đạo thì Hộc Phạn vương sai sứ đến thưa với vua Tịnh Phạn rằng: Quý đệ vừa sinh một trai. Vua rất vui mừng bảo sứ rằng: Hôm nay ngày đại cát là trai nên đặt tên là A-nan (Hán dịch là Hoan Hỷ), làm lễ ăn mừng cả nước, lại gọi là Khánh Hỷ (theo Đại Luận). Cũng là năm Gia-du phu nhân sinh con trai tên là La-hầu-la (Hán dịch là Phú Chướng do nghĩa ngăn che làm chướng ngại). Lúc sinh La-hầu-la thì A-tu-la ăn mặt trăng, nhân đó mà đặt tên. Thuở xưa ngày Thái tử xuất gia đã chỉ tay vào bụng vợ bảo rằng cách sáu năm sau nàng sẽ sinh một con trai, từ đó có thai sáu năm mới sinh con (Thụy Ứng Kinh).

Lời thuật rằng: Đại thừa bỏ phần trụ thai mà hợp phần hàng ma với thành đạo. Còn Tiểu thừa thì tách hàng ma mà hợp trụ thai với thác thai. Trụ Thai thì thấy trong Khởi Tín Luận, còn hàng ma thì thấy ở Bốn Giáo Nghĩa mà trước đây đã luận thông suốt. Nay xem cả Đại Tiểu thừa thì đều có nói về trụ thai và hàng ma. Như Kinh Hoa Nghiêm nói: Bồ-tát trụ thai mẹ rồi thị hiện các tướng xuất gia, thành đạo… Đây là sự trụ thai của Đại thừa vậy. Kinh Nhân Quả thì nói: Bồ-tát ở trong thai mẹ mà đi đứng nằm ngồi, mỗi ngày có sáu thời nói pháp cho trời và quỷ thần nghe. Đây là sự trụ thai của Tiểu thừa vậy. Phẩm Ly Thế Gian trong kinh Hoa Nghiêm nói: Bồ-tát xuất gia, thành đạo, hàng ma, chuyển pháp luân… Còn Diệu Lạc thì nói: Bốn Phật đều có bốn tướng hàng ma. Đây là hàng ma của Đại thừa vậy. Kinh Nhân Quả nói: Hàng ma rồi liền nhập định, khi sao Mai mới mọc thì liền chứng bậc Chánh giác tối cao. Đây là việc hàng ma của Tiểu thừa.

Nay muốn thuận tám tướng mà nói nên phải thuận theo hai lời văn của Khởi Tín Luận và bốn Giáo Nghĩa tách ra hợp lại để làm chứng cớ.

QUYỂN 3 (PHẦN THƯỢNG)

Phần 3: CHUYỂN PHÁP LUÂN (GỒM 5 THỜI)

Lời tựa: Nói Pháp độ người là yếu chỉ lớn của việc Như Lai ra đời. Người có Lợi-Độn, pháp có Đốn-Tiệm, cho nên ai nấy nghe pháp đều được ngộ nhập. Cũng như vua thầy thuốc theo bệnh cho thuốc, thuốc ứng hợp cơ nghi thì mọi bệnh đều hết. Lời Sớ chẳng nói thế sao? Nay trước sau Phật chuyển đủ năm vị pháp luân. Chuyển pháp này để độ tâm người khác khiến đều được ngộ. Đây là ý nghĩa của việc chuyển pháp luân vậy.

Như Lai chuyển pháp luân, một đời năm thời gồm có tám giáo.

Chuyển pháp luân: Luân, nghĩa là lăn nghiên nát. Như Lai nói pháp để chuyển hóa tâm người, đối với pháp rất tự tại như Luân vương vận chuyển xe báu vô ngại. Lại như tam luân khó nghĩ bàn của Như Lai là thân luân thì hiện khắp, Khẩu luân thì thuyết pháp, Ý luân thì xét Cơ, hay vì chúng sinh cán nát tất cả hoặc lụy. Pháp Uyển nói rằng: Luân vương có hai thứ về Tài luân vương thì có bốn bậc là:

1. Kim luân có ngàn căm hóa độ khắp bốn châu, khi con người sống tám vạn tuổi ở kiếp trụ thì ra đời.

2. Ngân luân có bảy trăm năm mươi căm, hóa độ ba cõi thiên hạ trừ Bắc châu.

3. Đồng luân có năm trăm căm, hóa độ hai châu Đông và Nam.

4. Thiết luân có hai trăm năm mươi căm, chỉ hóa độ ở Nam châu, như A-dục vương.

Về pháp luân vương: Nếu tuổi thọ của người giảm còn một trăm năm thì Như Lai ra đời.

Về một đời: Chung chỉ cho tám tướng riêng ở trong năm thời. năm thời lại có chung và riêng. Diệu Huyền nói rằng: Căn cứ vào Bán Mãn của năm vị mà luận về riêng thì có giới hạn riêng. Còn luận về Chung thì chung cho trước sau. Như Hoa Nghiêm thì chỉ riêng cho thời đầu còn chung thì đến đời sau. Về Lộc uyển thì đã bỏ lệ này mà nói pháp. Nay luận về một đời giáo hóa thì chỉ ở nghĩa riêng.

Luận về năm thời, là nghĩa lấy từ ba kinh. Đó là phẩm Tam Chiếu của Hoa Nghiêm, phẩm Ngũ Vị của Niết-bàn và phẩm Tín Giải của Pháp Hoa. Bốn vị đại đệ tử đã hiểu rõ các văn này. Cho nên văn kinh nói rằng: Bốn đại đệ tử vào sâu ý Phật, hiểu rõ giáo pháp về năm thời của một đời, thứ lớp trước sau. Lời văn ấy nói việc này.

Về tám giáo, thì Diệu Lạc có nói: Hóa nghi bốn giáo là đại cương của phán giáo. Còn Hóa pháp bốn giáo là cương mục của thích nghĩa, vậy nên biết Đốn… là Phán Tạng… là Thích Nghĩa. như xét biết Hoa Nghiêm là Đốn thì lấy Biệt Viên mà giải thích. Cho đến xét Pháp Hoa không phải Đốn cũng không phải Tiệm thì dùng thuần Viên mà giải thích. Đây là phép tắc giải thích kinh của các nhà ngày nay vậy. Diệu lạc lại nói: Nếu làm hao mòn các kinh chỉ dùng Tạng… thì văn ấy út thông. Nếu giải thích Pháp Hoa mà không dùng tám thứ Đốn… nêu ra để ngăn sai lầm. thì các kinh khác chỉ luận về căn cứ thích hợp được ích lợi Cho nên chưa cần phải dùng Đốn… Nếu giải thích Pháp Hoa thì cần phải nói rõ một đời, cho nên phải cần dùng Đốn… để bao quát trước sau. Phụ Hành nói rằng: Tạng… bốn giáo thì gồm thâu tất cả kinh Điển Đại Tiểu thừa, đó là: Nhân quả rõ ràng, các giáo đều lập giáo chủ, khắp độ các cơ trước sau đầy đủ, thì đều không ngoài bốn thứ này. Đốn… bốn giáo chỉ là Lực Bất Tư nghì của Như Lai khắp bày ra hay giấu kín, thừa hay thiếu mà điều đình thuần thục cả mọi căn cơ, vì phá tà lập chánh, dẫn Tiểu thừa về Đại thừa, bỏ thiên bày Viên, hội Quyền về Thật... mà các bộ có năm vị cùng sinh nhau lợi vật vô cùng, đúng lúc xuất hiện hay diệt độ.

Nói năm thời:

1. Thời Hoa nghiêm. Nói đủ là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, tên kinh có đủ cả nhân, pháp, dụ. Biệt Hạnh Huyền Ký nói rằng Đại Phương Quảng là pháp, Phật là Xá-na quả nhân, Hoa Nghiêm là dụ, vì dùng các hoa địa nhân làm trang nghiêm quả đức (văn kinh). Kinh này gồm có bảy xứ, chín hội. Hội xứ không phải một, nên lấy đó nêu tên kinh.

2. Thời Lộc uyển: Phụ Hành dẫn Đại Luận nói rằng: Nhân địa của Như Lai xưa là một con Nai chúa. Vua Ba-la-nại vào núi săn bắn, bắt được một nai mẹ đang có mang, sắp đem ra nấu cổ. Nai mẹ bảo nai chúa rằng: "Con mình bị giết oan. " Nai chúa bèn đến chỗ vua xin thế mạng. Vua nói kệ đáp rằng:

Ta là người đầu nai Ngươi là nai đầu người Lấy lý mà làm người

Không lấy hình làm người. Ta bắt đầu từ nay Không ăn tất cả thịt Ta tu vô úy thí Tất khiến ngươi an lòng.

Nơi đó bầy nai ở yên nên gọi là Lộc uyển, cũng gọi là Nại uyển tức đặt tên theo cây. Cũng gọi là Tiên uyển vì có hai vị Tiên ở đấy, đây là do chỗ mà nêu tên đất, mượn tích của nhân hạnh xưa vậy.

3. Thời Phương đẳng: Bốn giáo cùng nói thì gọi là phương, bốn cơ đều đủ thì gọi là đẳng. Đây là từ pháp mà được tên. Y vào bộ mà lập giáo nên Tục Di Ký nói rằng: Tên Phương đẳng có hai ý. Như kinh điển Đại thừa từ lạc mà có sinh tô, vì như Tuđa-la sinh ra Phương đẳng. Đây là căn cứ vào thời thứ ba nhắm vào bộ giáo liền có ba thừa bốn giáo khắp các cơ. Nếu như ngài Phổ Hiền nhìn thấy kinh Phương đẳng này bằng mắt của chư Phật, bèn nói thẳng Viên Lý không phải là thời thứ ba (theo văn kinh). Phổ Hiền Phương đẳng chính là nghĩa Phương Quảng bình đẳng. Chỗ các bộ Đại thừa nói về viên lý thì đều gọi là Phương đẳng.

4. Thời Bát-nhã: Hán dịch là Trí Tuệ vì tôn quý nên không dịch, là một trong năm thứ không dịch. Nói đủ là Ma-ha Bát-nhã, đây là đặt tên theo kinh.

5. Thời Pháp hoa Niết-bàn: Cả hai kinh đều nói về khai hiển, đều thuộc vị đề hồ, nên họp thành một thời. Đây là đặt tên theo kinh. Pháp Hoa nói đủ là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, do diệu pháp nên có ba nghĩa là thí, khai, phế, nên lấy liên hoa làm dụ.

Về Niết-bàn thì nói đủ là Ma-ha Bát-niết-bàn Kinh. Hán dịch là Đại Diệt Độ. Đại tức là Pháp thân, Diệt là Giải thoát, Độ là Bát-nhã. Một kinh mà cả trước sau, chỉ nói về ba đức.

Ấy là năm thời. Đặt tên năm thời không ngoài ba nghĩa (dụ, xứ, pháp) như Hoa nghiêm thì từ dụ, còn Lộc uyển thì từ nơi chốn, Phương đẳng, Bátnhã, Niết-bàn đều từ pháp. Riêng Pháp hoa thì từ pháp và dụ.

Cũng gọi năm vị. Đây có hai nghĩa tương sinh và đậm nhạt. Về tương sinh, Diệu Huyền nói rằng: là sau Đốn đầu tiên, Kế đến đó là Khai Tiệm. Nên kinh Niết-bàn nói rằng: Từ Phật mà có mười hai bộ loại kinh văn, từ mười hai bộ loại kinh văn mà có Tu-đa-la. Ví như từ bò mà có sữa, từ sữa mà có lạc… thứ lớp tương sinh nên không lấy đậm nhạt. Lại bảo rằng: Khi nói tiếng sữa thì ý không nằm ở chữ nhạt vì ban đầu là gốc. Nói đậm nhạt thì nghĩa như nói năm vị trong kinh chỉ là dụ năm thời đậm nhạt của một đời thuyết giáo. Dù đậm nhạt khác nhau nhưng đều từ bò mà ra. Nguyên Thảo Đường nói rằng: Tương sinh là dụ cho giáo, còn đậm nhạt là dụ cho cơ. Dụ cho giáo thì có thứ lớp, từ đốn mở ra tiệm, tiệm lại chuyển nhập sâu vào va cuối cùng thì gặp nhau ở Viên. Dụ về Cơ thì có hơn và kém. Trước từ điếc câm bị quở trách đào thải và rốt cục thì đều được thọ ký (theo Văn Kinh). Chỉ có một thứ năm vị mà có hai thứ ví dụ là năng thí thì chung mà sở thí thì riêng. Nay luận về thứ lớp một đời giáo hóa thì chỉ lấy nghĩa tương sinh.

Bản đồ về ba chiếu, năm thời, năm vị.

Về phẩm Tánh Khởi của kinh Hoa Nghiêm (bản cựu dịch). Ví như mặt trời lúc mới mọc sẽ chiếu trước hết đến các núi chúa, Kế đến đó mới chiếu đến các núi lớn, rồi mới chiếu tới núi báu Kim cang. Sau mới chiếu khắp nơi, chiếu khắp tất cả đại địa mà ánh mặt trời không hề nghĩ rằng ta đang chiếu trước tiên đến các núi chúa rồi lần lượt sẽ chiếu khắp đại địa. Nhưng núi thì có cao thấp, chiếu thì có trước sau. Đức Như Lai cũng như thế. Ngài thành tựu ánh vô lượng sáng trí tuệ, vô biên pháp giới trước chiếu đến hàng Bồ-tát, Kế đến chiếu đến Duyên giác. Kế đến chiếu đến Thanh văn rồi đến hàng chúng sinh quyết định thiện căn tùy ứng hiện mà được giáo hóa (Tam tạng Bồ-tát), cuối cùng mới chiếu đến tất cả chúng sinh… Lại nói rằng ví như mặt trời mặt trăng xuất hiện thì ở thế gian cho đến núi cao hang thẳm không nơi nào không chiếu đến (Văn Diệu Huyền họp núi lớn và núi báu thành hang sâu, như văn đã trích).

Kinh Niết-bàn nói rằng: Khi Đức Phật nói hai mươi lăm thứ Tam-muội, Bồ-tát Vô Cấu Tạng bạch Phật rằng: Như Phật đã nói chư Phật và Bồtát thành tựu các công đức trí tuệ trăm ngàn vạn ức thật khó nói hết. Ý con cũng bảo việc đó không bằng kinh này đã sinh ra A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Đức Phật nói: Ví như từ bò mà có sữa, từ sữa mà có lạc, từ lạc mà có sinh tô, từ sinh tô mà có thục tô, từ thục tô mà có đề hồ, đề hồ là vị cao nhất. Phật cũng như thế. Từ Phật mà có mười hai bộ kinh, từ mười hai bộ loại kinh văn mà có chín bộ Tu-đa-la. Từ Tu-đa-la sinh ra Phương đẳng, từ Phương đẳng sinh ra Bát-nhã, từ Bát-nhã sinh ra Niết-bàn. Còn vị đề hồ ví như Phật tánh. Phật tánh tức là Như Lai.

Thích Thiêm nói rằng: Niết-bàn năm vị chuyển biến thật ra chỉ là một chất sữa. Hoa nghiêm ba chiếu không đồng nhau, kỳ thật chỉ là một mặt trời. Nay diễn nói ví dụ bình địa của Hoa nghiêm để đối với Tam-muội. Sau Niết-bàn, số lượng tuy không đồng nhưng nghĩa thì rõ ràng bằng nhau… Lại nói: Hoa nghiêm chỉ nói đất bằng. Nay lấy các ví dụ của Phương đẳng, Bát-nhã, Pháp hoa. Về Phương đẳng như trong giờ ăn, Bát-nhã như ở trong vùng, còn Pháp hoa như ở chính giữa.

Nói về tám giáo, tức đốn, tiệm, bí mật, bất định là hóa nghi còn tạng, thông, biệt, viên là hóa pháp. Đó là tám giáo. Hóa nghi thì như toa thuốc còn hóa pháp thì là vị thuốc.

Nói giáo, có nghĩa trình bày lý lẽ để độ người, tức là lời lẽ của Thánh nhân hóa độ muôn vật. Về hóa nghi bốn giáo là cách thức hóa độ của Như Lai, nên dụ như toa thuốc. Còn hóa pháp bốn giáo là pháp cứu độ để trừ bệnh cho chúng sinh, nên dụ như vị thuốc. Nghĩa lý căn bản của hóa nghi bốn giáo chỉ là tạng, thông, biệt, viên. Tuy gọi chung là giáo kỳ thật không có thể riêng.

Dẫn văn làm chứng về tám giáo. Trước hết là hóa nghi bốn giáo. Như kinh Hoa Nghiêm: Khi mới phát tâm bèn thành Chánh giác.

Diệu Huyền nói: "Như mặt trời mới mọc trước chiếu núi cao. " Đây là như duyên Hoa Nghiêm mà được ích lợi lớn gọi là Đốn giáo tướng. Kinh Vô Lượng Nghĩa nói rằng: Từ một đạo thanh tịnh mà lập ra hai, ba, bốn thứ Diệu Tạng. Kế đến chiếu vào các hang sâu, đây như Tam tạng. Kế đến chiếu khắp đất bằng, đây như Phương đẳng, Bát-nhã đều là Tiệm giáo tướng. Kinh Đại thừa có lúc nói sâu, có lúc nói cạn. Còn kinh Tịnh Danh nói: "Phật chỉ dùng một thứ tiếng mà mọi chúng sinh đều hiểu. Đấy là Bất định giáo. Trong Đại Phẩm nói: "Ta thấy ở cõi Diêm-phù-đề chuyển luân lần thứ hai. Đại Luận nói rằng: "Chuyển luân bây giờ cũng giống như chuyển pháp luân lúc đầu. " Đấy là Bí mật giáo.

Kế đến là hóa pháp bốn giáo: Diệu Huyền dẫn Trường A-hàm nói rằng: "Phật nói bốn đại giáo. "

Thiêm nói rằng: "Chỉ có bốn, ngoài ra thì là tạng… Kinh Nguyệt Đăng Tam-muội nói: Bốn thứ Tu-Đa-la, trong đó có bốn thứ trí đoạn trừ vô minh. " Ngài Chương An riêng giải thích để đối với bốn giáo. Thiêm nói: Nghĩa rất tương ứng với bốn giáo. Song đây là căn cứ theo nghĩa để đối nhau, chưa thấy nói mục đích lập tên. Nay căn cứ vào bốn giáo nghĩa dẫn kinh Pháp Hoa nói rằng: Kẻ ham thích học ba tạng Tiểu thừa tạo ra luận, nay chính ta muốn luận về thật nghĩa của Tam tạng, thì đây đều là danh nghĩa của tạng giáo. Kinh Hoa Nghiêm nói: "Vì nói Tu-đa-la đầy đủ. Đại Phẩm nói rằng: "Muốn dùng Nhất thiết chủng trí để biết tất cả pháp thì phải học Bát-nhã. " Kinh Pháp Hoa là lấy bình đẳng đại tuệ vì đại chúng mà nói, các điều nói ra đều là chân thật. Còn kinh Niết-bàn thì có một hạnh gọi là hạnh Như Lai, đó là Đại Bát-niết-bàn. Đại Luận nói: "Ba trí, kỳ thật chỉ có một tâm mà được... thì đều là danh nghĩa của viên giáo cả. "

Về văn, chỉ có hai tên thông biệt nhưng ở khắp các văn, là chỗ lập nghĩa của Đại sư. Như bốn giáo nghĩa dẫn Đại phẩm nói rằng: Cả ba thừa đều có được trí Tát-bà-nhã, cả ba thừa cũng đều được thật tướng của các pháp trong Trung luận. Đây đều là nghĩa của Thông giáo. Thông tức là đồng vậy. Cả ba thừa đều thọ học nên gọi là Thông.

Kinh Vô Lượng Nghĩa nói rằng: Ma-ha Bátnhã và biển không của Hoa nghiêm đều tuyên nói Bồ-tát tu hành trải nhiều kiếp. Còn kinh Niết-bàn nói rõ về năm hạnh. Và Đại luận thì không cùng với Bát-nhã đoạn trừ các biệt hoặc... Đây đều là nghĩa của Biệt giáo. Biệt nghĩa là tên của Bất cộng. Về danh nghĩa của tám giáo, nói thẳng là đối với Đại thừa thì các bộ ở thời đầu gọi là Đốn, những trung gian Tam-muội dẫn Tiểu thừa hướng đến Đại thừa nên gọi là Tiệm. Một tiếng mà hiểu khác, không hiểu được lẫn nhau nên gọi là Bí mật. Nghe Tiểu thừa mà chứng Đại thừa, nghe Đại thừa mà chứng Tiểu thừa nên gọi là Bất định. Cả ba thứ kinh, luật, luận đều chứa pháp nghĩa nên gọi là Tam tạng. Cả ba thừa cùng tu mà Bồ-tát lợi căn thông Biệt thông Viên nên gọi là thông. Pháp của riêng Bồ-tát thứ lớp đoạn trừ và chứng đạo, khác với Tạng Thông ở trước và Viên giáo ở sau nên gọi là Biệt. Khi giáo, lý, trí, đoạn, hạnh vị nhân quả tất cả đều viên dung nên gọi là Viên.

Xem bản đồ về bốn giáo đối gặp năm thời (ở dưới)

Diệu Huyền giải thích về "Như thị ngã văn" nói rằng: Nếu như Thị không phải vượt bỏ tám thứ thì làm sao lại được nghe kinh này (văn kinh), đây phải lấy bộ giáo mà phân định, căn cứ vào bộ thì không phải là Viên bao gồm hết, nên vượt bỏ tám giáo. Nếu chỉ căn cứ vào Giáo thì nghĩa của Viên xưa nay lại không có hai thứ. Cho nên Thiêm nói rằng: Viên giáo trong tám giáo. Còn mang theo cái thiên mà nói Viên thì cũng thuộc về Tiệm. Nay Viên của Pháp hoa thì mở Thiên làm sáng tỏ Viên, ngoài Viên không có pháp nào khác.

Đốn giáo đầu tiên, tức là thời Hoa nghiêm thứ nhất theo bộ, thời, vị mà có tên là Đốn. Đây gọi là Như Lai mới thành Chánh giác ở đạo tràng tịch diệt, bốn mươi mốt vị Pháp thân đại sĩ và hàng

Thiên long bát bộ đã thành thục từ đời trước... cùng lúc đồng vây quanh như mây bao phủ trăng. Lúc đó Như Lai hiện thân Lô-xá-na nói Tu-đa-la viên mãn, nên gọi là Đốn giáo.

Đốn giáo thì có hai nghĩa ước theo bộ theo giáo: Nếu theo bộ thì riêng ở thời Hoa Nghiêm, còn theo giáo thì chung cả các thời khác. Nay chính là theo Bộ mà nói về Đốn giáo. Đốn là đối với ba thứ tiệm, hóa, nghi ở dưới mà nói. Đoạn văn dưới nói rằng: Từ bộ, thời, vị mà có tên là Đốn vậy. Hoa Nghiêm là bộ, chiếu trước là thời, sữa là vị, hợp ba nghĩa này là bộ, thời, vị, là phân biệt với các thời khác. Về thời Lộc uyển sau đó thì cũng có thể nói từ bộ, thời, vị mà có tên là Tiệm đầu tiên. Từ đây về sau theo lệ này.

Mới thành Chánh giác, đây là căn cứ vào Tích của Đại thừa đầu tiên mà nói, không phải là Bản của lúc mới thành.

Đạo tràng tịch diệt, tức Tịch năm trụ phiền não và diệt hai thứ sinh tử, kiến hoặc có một trụ, tư hoặc phân làm ba và trần sa họp với vô minh làm một trụ, là phần đoạn sinh tử ở cõi đồng cư. Mà biết dịch sang tử ở cõi Phương tiện thật báo. Đạo tràng chứng đắc cũng như chỗ sàng sải lúa thóc ở đời, trừ bỏ vỏ thóc năm trụ để được hạt gạo thật tướng. Những kinh mới dịch thì Bồ-đề đạo tràng có tên khác nhau mà nghĩa đồng.

Về bốn mươi mốt vị, thì Diệu Huyền nói rằng:

Kinh Hoa Nghiêm nói ba mươi tâm và mười Địa cùng Phật địa nữa là bốn mươi mốt vị. Vì phá vô minh mà hiển bày Lý trung đạo pháp tánh, nên gọi là Pháp thân. Pháp thân có hai nghĩa:

1. Tỳ-lô-giá-na thì gọi là tánh đức Pháp thân.

2. Phá từng phần vô minh để đạt đến chỗ rốt ráo thì gọi là tu đức Pháp thân.

Nay theo văn này là nghĩa tu, gồm cả tánh và đức. Kinh Bốn Niệm Xứ nói: Hoa Nghiêm là trước đó không có thập tín và sau đó không có đẳng giác. Ngọc Tuệ Giác nói: Không thể đem vị ở trong bộ mà vấn nạn về chúng của kinh Hoa Nghiêm này. Bởi kinh Hoa Nghiêm các vị đều nói đến mười, cho nên ghép Đẳng giác vào Thập địa. Quang Minh Ký nói: Hoa Nghiêm không nêu Đẳng giác vì Thập địa là Đẳng giác vậy. Nay nói kinh này nêu bày các chúng nên mới có Đẳng giác. Nếu trước đó không có thập tín, tức Hoa Nghiêm đã nói về mười phạm hạnh thì đó là Thập tín rồi. Cho nên bốn giáo nghĩa nói rằng: Mười thứ phạm hạnh thì đồng với thập tín của Viên giáo. Nay văn kinh chỉ nói Pháp thân đại sĩ nên không cần phải nêu thập tín nữa.

Về Thiên long bát bộ đã thành thục từ đời trước, tức các kinh khi giới thiệu chúng thì có nói đến các rồng… nên dùng Niết-bàn bốn cú mà liệu giản thì có:

1. Thừa gấp mà giới chậm, là bốn thú nghe pháp mà ngộ đạo.

2. Giới gấp mà thừa chậm, là kẻ ham thích quả báo ở hàng trời người mà không nghe pháp.

3. Thừa giới đều gấp, là hàng thiên nhân nghe pháp mà được đạo.

4. Thừa giới đều chậm, là bốn thú không nghe pháp.

Chúng này đều là đã được nghe kinh Hoa Nghiêm ở đời trước.

Còn kẻ đang gieo trồng hoặc đã thành thục là những chúng được giải thoát ở hiện tại và tương lai. Chỉ quán có nói: "Dùng thân ở tam đồ gặp Phật Di-lặc để nghe kinh Hoa Nghiêm" là nghĩa này vậy.

Về tám bộ thì như đã thường nói.

Về Như mây bao phủ trăng, thì như Diệu Huyền nói: Bà con của Pháp thân như mây bao phủ trăng cùng giáng thai mẹ. Đây là dụ cho tướng giáng thai mẹ. Nay bốn giáo nghi lấy dụ về tướng chuyển pháp luân và quyến thuộc, hai nghĩa đều hợp. Mây là dụ cho cơ, còn trăng là dụ cho Giáo chủ. Kinh Nhân Vương nói: Đêm trăng rằm thì tối tan trăng tỏ để dụ cho trí đức Tiệm Viên của Như Lai, các hoặc mờ tối đã dứt hẳn, việc đoạn kết đã thành tựu.

Về Lô-xá-na, Hán dịch là Tịnh Mãn, dứt hết các ác gọi là tịnh, muôn đức tròn đủ gọi là Mãn, tức là Tự Báo thân vậy. Cũng gọi là sáng suốt chiếu khắp. Như trong Đại Luận có nói: Ánh sáng vô biên, sắc tượng cũng vô biên, thân tôn quý đặc biệt tức là Tha Báo thân. Nay nói về giáo chủ tức là căn cứ vào bốn minh mà lập nghĩa, chính là Đức Thíchca hiện thân tôn quý ngồi dưới cội cây. Như Giải Báng Dẫn Kinh nói rằng: Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn không rời các cội cây mà vẫn bay lên núi Tudi đến cung điện trời Đế Thích nói pháp. Vậy hội Hoa nghiêm há không phải là một trong trăm ngàn ức Ứng thân của Phật đã nói đó ư?

Về Tu-đa-la, Hán dịch là Khế kinh, vì năng thuyết và Sở thuyết đều khế lý khế cơ. Cũng là tên chung của mười hai bộ kinh. Văn tuy Kiêm và Biệt nhưng ý của Bộ là Viên.

"Nếu theo cơ theo giáo chưa khỏi kiêm cả quyền nghĩa là khi mới phát tâm bèn thành Chánh giác"… Đó là vì Viên cơ mà nói Viên giáo. Các nơi đều nói thứ lớp hàng bố thì là vì Quyền cơ mà nói Biệt giáo. Thế nên theo bộ là Đốn, theo giáo gọi là Kiêm (thấy trong Diệu Huyền nói về Thập và bốn Giáo Nghi).

Phát tâm có ba thứ:

1. Giải hạnh phát tâm, có năm phẩm.

2. Tương tợ phát tâm, tức Thập tín.

3. Chân chứng phát tâm, tức sơ trụ.

Đây là Chân chứng phát tâm, tức là phát tâm lý tánh ba nhân, để chứng từng phần về lý ba đức. Bốn Giáo Nghĩa nói rằng: Hoa Nghiêm nói mới phát tâm bèn thành Chánh giác, tức là phát chân vô lậu, đoạn dứt vô minh mà nhập vào Sơ phẩm. Khởi Tín Luận nói: "Bồ-tát phát tâm ấy tùy theo nguyện lực có thể thấy được tám tướng. " Diệu Lạc nói rằng: Hoa Nghiêm và Khởi Tín trình bày lời văn sáng tỏ, sơ trụ, tám tướng… Phổ Hiền, Phổ Nhãn ba thứ không sai khác… Đó đều là văn Viên giáo cả.

Hàng bố là bảy chỗ tám hội, nên nói là mọi nơi. Hàng lối xếp bày có sâu cạn, nên gọi là Hàng bố. Kinh này nói có hai môn Viên dung và Hàng bố. Thích Thiêm nói rằng: Hoa nghiêm hội xứ nói rõ hạnh vị không ngoài Biệt và Viên. Nhưng phần lớn ý kinh đều gồm chứa các nghĩa rất khó phán định. Bắt đầu từ trước Sơ trụ cho đến trước vị Đăng địa thì toàn là nghĩa của Viên. Từ Trụ thứ hai đến trụ thứ bảy thì lời văn thứ lớp lại giống với nghĩa của Biệt. Ở trong bảy trụ đó thì đưa ra từ một đến nhiều tướng tức là tự tại. Kế đến là hướng, hạnh, địa. Lại nghĩa là thứ lớp khác nhau. Lại mỗi mỗi ngôi vị đều có hai môn Phổ Hiền, Hàng bố, cho nên biết là Kiêm dùng Văn Viên mà tiếp dẫn.

Kinh Hoa Nghiêm nói: Như mặt trời mới mọc, trước chiếu đến các núi cao (Diệu Huyền).

Mặt trời là dụ cho Giáo chủ, còn núi cao là dụ cho các cơ Biệt Viên. Vì Đại cơ muốn thuần thục thì phải nhờ ánh sáng Tuệ của Như Lai chiếu đến.

Kinh Niết-bàn nói: Từ bò mà được sữa là ví từ Đức Phật mà có được mười hai bộ kinh (Diệu Huyền).

Huyền Văn nói: Đại cơ thọ lãnh giáo pháp liền phá vô minh. Còn Hạnh như đề hồ (Văn) thì đây là chỉ cho cơ núi chúa Hoa nghiêm vậy. Niết-bàn nói: Từ bò mà có sữa, đây là căn cứ vào một thời thuyết pháp mà chỉ cho hàng Thanh văn câm điếc. Cho nên Huyền Văn nói rằng: ba giáo phân biệt, tức gọi là Đốn giáo, cũng tức là đề hồ, năm vị phân biệt tức gọi là Nhũ giáo. Nay nói từ bò mà có sữa tức là vị đầu tiên vậy.

Phẩm Tín Giải nói rằng: Liền sai người bên cạnh (Như Lai là chính, Bồ-tát là bên cạnh, tức là Phật gia bị cho bốn vị Bồ-tát nói bốn mươi Địa: Bồ-tát Pháp Tuệ nói Thập trụ, Bồ-tát Công Đức Lâm nói Thập hạnh, Bồ-tát Kim Cang Tràng nói Thập hướng và Bồ-tát Kim Cang Tạng nói Thập địa. Gấp đuổi theo đưa về (đem Đại giáo mà giảng tắt cho Tiểu cơ nên nói là "gấp đuổi theo". Đại thừa đã có từ xưa nên gọi là "Đưa trở về". Lại tánh đức vốn tự có nên gọi là "Đưa trở về". Kẻ cùng tử kinh ngạc (chợt nghe đại giáo trái ý nên kinh sợ, không biết nên ngạc. Lớn tiếng kêu oan (sinh tử là khổ, phiền não là oan. Vì nghe sinh tử tức Niết-bàn và phiền não tức Bồ-đề liền đau khổ mà lớn tiếng kêu oan). Sứ giả bắt gấp (vì nói cho họ sợ sệt khiến họ bỏ ác, tức là gấp rút). Dùng sức mạnh đem về (bên trong không có cơ bên ngoài lại ép dạy Đại thừa). Kẻ cùng tử tự nghĩ rằng mình vô tội mà bị bắt nhốt ở đây tất là phải chết (chúng sinh vì tội lỗi nên phải đọa vào ngục sinh tử. Bồ-tát cũng đồng tội mà vào ngục. Hàng Tiểu thừa vì không có tâm đại bi nên khi bảo vào sinh tử thì cho là mình bị bắt nhốt cho nên mất hẳn tuệ mạng của cả ba thừa). Càng thêm sợ hãi (vì nghĩ các việc như thế...) chết ngất ngã lăn ra đất (kẻ tiểu trí không hiểu té nằm trên đất vô minh). Người cha từ xa nhìn thấy (kẻ tiểu trí khó biết được đại giáo nên gọi là xa, kết duyên với con nên gọi là nhìn thấy) mà bảo sứ giả rằng (Bồ-tát là sứ giả). Tôi không cần người này (không cần hiện thân tôn quý khiến hàng Nhị thừa thấy được) chớ cưỡng bắt đem về (đã không có đại cơ nên e thương tổn thiện căn). Sứ giả bảo rằng: Nay ta thả ngươi ra (nói không giáo hóa nữa). Người cùng tử vui mừng (vì không còn bị đại giáo câu thúc nữa) bèn đến xóm nghèo để kiếm ăn (chỉ muốn cầu đạo pháp ở Bốn đế. Lời chú văn từ trên đều trích từ Pháp Hoa Văn Cú). Đây nên hiểu nghĩa thế nào? Đây là Như Lai nói giáo môn Viên Đốn, dùng Đại thừa mà dắt dẫn kẻ Tiểu cơ, khiến họ phải chết ngất (kinh Diệu Huyền, quyển mười).

Lời thuật rằng: Hoa nghiêm có ba tên, từ xưa đã có là Tịch trường, Thời trường, Tận vị lai tế và

Pháp giới được nêu làm tên thứ tư. Lại phân ba tên trước là thuộc Sự, còn một tên sau là thuộc Lý. Đây đều là nhầm lẫn nhiều đời. Nay dốc lòng luận về nghĩa này thì chỉ có ba tên:

1. Tịch trường. Diệu Huyền dẫn phẩm Phương Tiện nòi rằng đầu tiên ngồi ở đạo tràng hai mươi mốt ngày suy tư là để nói Đức Thích-ca đầu tiên nói về Đốn giáo (từ quyển đầu đến quyển thứ ba mươi sáu là phần trước).

2. Thời trường. Diệu Huyền đã dẫn Pháp Tánh Luận nói về ba chỗ Độn căn nhập pháp giới (từ quyển ba mươi bảy trở đi là phần sau).

3. Tận vị lai tế. Pháp Hoa Văn Cú nói rằng: Ở hội cuối Hoa nghiêm mới mở ra Tiệm giáo. Diệu Lạc nói rằng: Vả đây gởi nhờ một hội thuyết giáo ở cõi Ta-nà là dùng để thông hiểu ý này. Nên biết rằng Hoa nghiêm tận vị lai tế, tức là kinh này luôn ở hội Linh sơn đâu khác, khắp mười phương mà thay nhau làm chủ và bạn (hai tên trước thấy ở Diệu Huyền, còn một tên sau thấy ở Diệu Lạc) Tuy có đến ba tên nhưng kinh được nói ra không thứ nào không phải là Hoa Nghiêm, về lý được trình bày thì không thứ nào chẳng phải là Pháp giới. Hoặc khi nói về thai mẹ, thì Diệu Huyền nói rằng Đức Phật từ cung trời Đâu-suất giáng sinh thì cùng với cả bà con Pháp thân đều giáng thần vào thai mẹ và ở trong đó ngài luôn nói Diệu Pháp (Văn kinh). Lúc đó chưa chuyển pháp luân, nên phải thuộc vào tướng cõi Thật báo tân vị lai tế.

Về chuyên giáo hóa khắp Đại cơ, có thuyết nói về "Hải Không", Diệu Huyền dẫn kinh Vô Lượng Nghĩa, Kế đến đó nói về Văn Hải Không của Bátnhã Hoa Nghiêm. Đây chỉ là nhân của Bát-nhã nhập vào pháp giới được xếp vào thời Trường. Song thai mẹ và hải không phải riêng có hai tên. Nên xét kỹ.

"Thời trường" chung cả các thời sau. Lời thuật rằng: Lời bình về Thời Trường thông đến ba xứ đó là Pháp môn. Hải Không của Bát-nhã, Phật Tuệ của Pháp Hoa và Tâm Địa của Niết-bàn.

Diệu Huyền dẫn kinh Vô Lượng Nghĩa nói rằng:

Kế đến nói Bát-nhã trải nhiều kiếp tu hành Hải Không của Hoa Nghiêm, Pháp Hoa hội nhập vào Phật tuệ, tức là thông đến hai kinh (Thích Thiêm nói rằng: Do Bát-nhã mà cũng được tên là Hoa Nghiêm, vì Phật tuệ của Pháp Hoa không khác thời đầu. Lại Diệu Lạc nói rằng: Phải biết rằng nói theo Pháp giới luận thì không đâu không phải là Hoa Nghiêm, nói theo Phật tuệ thì đâu cũng là Pháp Hoa cả). Đây chứng tỏ là thông cả Bát-nhã và Pháp Hoa vậy.

Lại dẫn kinh Tượng Pháp Quyết Nghi nói rằng: "Nay ở trong tòa này ai nấy đều thấy không giống nhau. Hoặc có người thấy Như Lai nhập Niết-bàn, hoặc thấy Báo thân của ngài sinh trong Liên Hoa Tạng Hải nói Pháp môn Tâm Địa cho trăm ngàn vạn ức Thích-ca.

Diệu Huyền lại nói: "Mặt trời nếu có lặn xuống thì cũng còn chiếu sáng trên các đỉnh núi cao. " Cho nên Liên Hoa Tạng Hải thông suốt đến sau khi Niết-bàn. Đây là bằng chứng Hoa Nghiêm thông cả Niết-bàn. Lại dẫn Pháp Tánh Luận nói rằng: ba xứ Độn căn nhập vào Pháp giới. Đây là nói việc thông cả ba thời sau, nay lại bàn đến. Diệu Huyền nói rằng: Nhân Bát-nhã mà nhập vào Pháp giới thì tức là Hải Không của Hoa Nghiêm (do trải nhiều kiếp tu học Bát-nhã, nay phát ra Không Trí mà được nhập vào Pháp giới, Quán Hoa Nghiêm Hải Tạng đều là rốt ráo không). Lại nói: Hội Hoa Nghiêm kéo dài, nhưng ngày xưa vì Tiểu cơ chưa được nhập vào nên như câm như điếc. Nay nghe được Bát-nhã liền có thể nhập vào (Đây nêu việc nhờ Bát-nhã được nhập vào Pháp giới làm đầu mối. Pháp Hoa và Niết-bàn cũng theo lệ này mà được nhập vào. Người đời sau muốn căn cứ vào văn này mà xếp chung cả Bát-nhã. Nhưng không biết rằng Văn thông đến hai kinh và ba xứ nhập Pháp giới, thì làm sao mà hiểu rõ tên Thời Trường? Thích Thiêm nói rằng:

1. Lấy Pháp giới làm Hoa Nghiêm (Đây tức là ở Tịch Trường hai mươi mốt ngày suy tư tận vị lai tế là riêng vì hàng Lợi căn Đại cơ thường nói về Giáo Viên Đốn của Hoa Nghiêm. Nêu cái lý Sở thuyên pháp giới để làm tên vậy).

2. Lấy Thời Trường Thông đến các thời sau (tức là ba xứ Độn căn nhập vào pháp giới. Người Độn nhất khi đến hội Pháp hoa khai hiển thì mới được vào.

Hai nghĩa trên đều thông thế nên hễ có Đại cơ thì Hoa nghiêm không dứt (là giải nghĩa pháp giới ở trên). Tiểu cơ thì dùng giáo pháp lần lượt. Thế nên Độn căn cũng còn thấy hẹp hòi (là giải thích Thời trường ở trên do căn Độn nên còn thấy hẹp hòi. Vậy phải học lần lượt qua nhiều giáo pháp mới nhập được vào Đại cơ.

Lại Diệu Lạc dẫn phẩm Nhập Phật Cảnh Giới (quyển 38) thì ngài Văn-thù bảo ngài Xá-lợi-phất và sáu ngàn Tỳ-kheo rằng: "Các ông nên khéo thành tựu mười thứ Đại tâm thì sẽ chứng được Phật địa. " Từ xưa cũng đều nói rằng: Hoa Nghiêm Thời Trường mới là kết tập các giáo pháp sau này. Đến thời Bát-nhã trở đi, mới có thể nói là khiến các Tỳ-kheo thành tựu được mười Đại tâm. Đây mới là Nghĩa đúng lúc phải chuyển giáo vậy. Kết các ý trong phần nhập Hoa Nghiêm nên gọi Thời trường (văn). Có người căn cứ vào lúc chuyển giáo mà cho rằng Hoa Nghiêm ngang hàng với Bát-nhã, thì khác nào chẳng biết việc ngài Kinh Khê dẫn phần sau của kinh này có hàng Thanh văn từ Thời trường mà chứng được Bát-nhã. Đó là bằng chứng Thời trường thông đến Bát-nhã vậy. Xưa chưa từng xét thời đầu có ngang hàng với Bát-nhã, nếu không thì vì sao ngài Kinh Khê giải thích Huyền Văn về ba xứ nhập Pháp giới, thì làm sao nói Thời Trường lại thông đến các giáo thứ lớp của Tiểu cơ sau này ư? Lại có kẻ bảo rằng (Xa Khê Vân Sư): Dù thông với Niết-bàn mà không phải thông với Pháp Hoa, là nói có ngăn ngại về Điều cơ vô công của Như Lai lấy đó mà vấn nạn. Nếu hay suy nghĩ kỹ về lời nói hội nhập vào Phật tuệ của Pháp Hoa thì ý này sẽ tự tiêu mất còn có ngại gì?

Về Hoa Nghiêm Giáo chủ, lời thuật rằng: Luận về Hoa Nghiêm Giáo chủ thì căn cứ vào thuyết của bốn Minh Giải Báng mà chia ra hai nhóm cần hiện hay không hiện Thân Tôn quý. Nhóm cần hiện thì như các kinh Phạm Võng, Hoa Nghiêm và Quán Kinh… các tướng phần nhiều là thân to lớn. Còn nhóm không cần hiện thì phải dùng thêm sức gia trì khiến đối với thân thấp kém mà không coi thường. Thấy ba mươi hai tướng tức là thân to lớn không bờ mé vì biết thân một trượng sáu là pháp giới. Nay muốn rõ thuyết này khảo xét các kinh văn thì thấy có hai nghĩa:

1. Căn cứ vào bổ xứ Bồ-tát mà bảo là "Dưới cội Bồ-đề" mới thành Chánh giác. Nếu không phải là bổ xứ thì há lại nói là "mới thành". Lại có kệ rằng:

"Ca-diếp từng đến ở điện này.
Thế nên chỗ này rất tốt đẹp."

Như thế mười bài kệ đều khen mười Phật quá khứ. Mỗi Phật đều đã có bổ xứ thì biết đó là Phật giấu tướng đẹp. Đó là thân phần đoạn sinh diệt cùng với Ứng thân ở cõi đồng cư không khác.

2. Căn cứ vào việc bay lên cung trời. Nghĩa là lúc đó Đức Thế Tôn không rời cội Bồ-đề mà vẫn bay lên núi Tu-di (Hoa Tạng Cốt Nguyệt nói rằng: Không động mà lên, ứng cơ được chỗ) tới điện Đế Thích mà thuyết pháp (tức mười Phật Ca-diếp trước từng ở điện này. Bay lên tức là nghĩa hiện khởi). Đâu không phải Hoa Nghiêm là ngàn trăm ức ứng thân đã nói, thân này đã khắp trùm cơ Biệt Viên, thấy đó là Tôn quý, đâu cần gì phải chỉ thân nhận chức ở Hoa đài ư? Đây tức là phá thuyết tịnh giác chỉ ở cõi Thật báo ẩn giấu thân tôn quý mà ứng hiện ở cõi Đồng cư. Bởi Đại sư có nói: Ba phẩm Tướng Hải đều ứng cơ mà hiện. Biệt giáo thì dùng Biệt tu duyên hết thành tựu tướng này, tức là Tướng tôn quý do tu mà thành, nên gọi là Báo thân. Về Viên giáo hay biết rõ Nhị tu là tánh, tu đức vô công chính là tướng tôn quý của tánh cụ, nên gọi là Pháp thân. Căn cứ theo đây thì biết rằng: ngay nơi tánh mà luận Bản nên gọi là Pháp thân, còn nhắm vào cõi đồng cư thì gọi là Ứng thân và độ cơ mà hiện khởi thì gọi là tướng tôn quý (Báo thân). Nó khác hẳn với thuyết của tịnh giác tu thành tướng tôn quý ứng ngang với thuyết đồng cư. Song nay Đức Phật theo cơ theo giáo để định ra thân, thì chính là sinh thân ở cội Bồ-đề hiện khởi Tôn quý là để ứng với cơ Biệt Viên chính là hợp với thuyết Đức Thích-ca đầu tiên nói Đốn giáo của Diệu Huyền (Thích-ca là Sinh thân, còn nói Đốn giáo là Xá-na) cũng hợp với bốn Giáo Nghi nói về Đức Như Lai hiện thân Lô-xá-na để nói pháp (Như Lai là sinh thân của Thích-ca hiện khởi thân tôn quý nên chuyển gọi là Xá-xa). Đời có người lấy thuyết Nguyệt Đường nói rằng: Cảnh vốn định thân thì chính là Thích-ca, do có cảm mà thấy tướng thì là Xá-na.

Song Đốn giáo đầu tiên chưa chắc là thuần giáo. Pháp thân Bồ-tát mà cũng có người phàm phu Đại căn tánh. Đây có hai nghĩa: Nếu Đương thể là Viên đốn mà được ngộ, thì liền phá vô minh, nhập vào bậc Sơ trụ của Viên giáo. Đây là đề hồ. Nếu người Sơ tâm tuy có nghe Đại giáo nhưng chỉ mới được nhập vào Thập tín, chỉ là vị đầu tiên nên gọi là sữa. Nói là sữa, ý không phải ở vị nhạt vì là ban đầu mà cũng là gốc (hàng nội Phàm Viên giáo sáu căn thanh tịnh tức là thập tín. Sơ Tín là đoạn kiến hoặc từ nhị tín đến thất tín là đoạn tư hoặc từ bát tín đến thập tín là đoạn trần sa hoặc ở nội ngoại giới. Vì chưa phá hết vô minh nên chỉ gọi là sữa). Nếu người có căn tánh thì, dù đại giáo vẫn cho là tiểu như câm điếc. Bởi tiểu cơ chưa đổi nên còn toàn chất sữa vậy (Diệu Huyền 10).

Hoa Nghiêm hai vị bốn cơ. Lời thuật rằng: Từ xưa dạy kẻ mới học là Bản đồ về thời và vị. Trên nói Cao Sơn thì dưới đối là Nhũ Vị. Chưa từng thấy có ai luận đến. Nay xét về Huyền Văn thì thời Hoa Nghiêm có hai vị và bốn cơ khác nhau:

1. Thuần dạy Pháp thân, tức là phần chứng Trung đạo bốn mươi mốt vị, đây gọi là đề hồ.

2. Phàm phu đại căn, nhập vào bậc Sơ trụ của Viên giáo, chứng một phần Trung đạo trở đi, cũng gọi là đề hồ.

3. Mới vào thập tín, tuy ở bốn trụ nhưng vì chưa phá vô minh nên chỉ gọi là sữa.

4. Tiểu căn câm điếc toàn như vị sữa.

Song gọi là đề hồ thì có hai Cơ, còn gọi là sữa thì cũng có hai cơ. Diệu Huyền nói rằng: Ở Tiểu cơ thì như sữa, ở Đại cơ thì như đề hồ, chỉ là phần nhỏ ví dụ không thể coi như toàn thể. Như Thiêm có nói: Hoa Nghiêm phần dụ ở vị đầu tiên mà chưa được Đốn của Hoa Nghiêm và hai giáo Biệt viên, chỉ có tướng thứ lớp năm vị (Văn) nên biết thế. Gọi Hoa Nghiêm là sữa chính là theo ý từ Đốn khai Tiệm để triển khai sự hóa độ.

Hai mươi mốt ngày định cơ. Lời thuật rằng: Các văn gọi hai mươi mốt là Nghĩ cơ, thì không có luận bàn gì khác. Song Huyền Văn có nói: Ở phần đầu kia (Hoa nghiêm) dứt khoát không có hàng Thanh văn, phần sau mới có, tuy nghe pháp vẫn như câm như điếc. Cho nên với nghĩa Thần trí căn cứ vào việc này mà bác bỏ không có hàng Thanh văn ở phần đầu, vậy thì vì sao lại phải định cơ Nay xin nêu hai nghĩa cho thật hết ý:

1. Trong ba tuần đầu dứt khoát không có Thanh văn, đây là Như Lai nghĩ cách thích hợp để giáo hóa mà thôi.

2. Phần sau mới có, hình dạng giống như câm điếc. Đây là Như Lai đã thật sự giáo hóa.

Nói trước có ý độ hóa, thì như ở phẩm Phương Tiện có nói: "Trước ngồi ở đạo tràng hai mươi mốt ngày suy tư. " Thích Thiêm thì nói: Bảy ngày đầu suy nghĩ muốn nói Viên giáo, bảy ngày Kế đến suy nghĩ muốn nói Biệt giáo, bảy ngày thứ ba muốn nói Thông giáo đều không có Cơ nên chỉ nói Tam tạng", Thích Thiêm lại nói: Theo Đại cơ là lúc đạo tràng vắng lặng (tịch tràng), còn theo Tiểu cơ thì sau khi thành đạo rồi chỉ suy nghĩ mà chưa nói'. Diệu Lạc nói rằng: Tiểu cơ thì thấy hai mươi mốt ngày là thời gian ngưng đọng không nói pháp. Còn Đại cơ thì thấy trước sau không thay đổi. Đây đều là Như Lai có ý định giáo hóa. Nói việc giáo hóa thì như Văn Cú nói rằng: Hội cuối Hoa Nghiêm mới khai về Tiệm giáo. Diệu Lạc giải thích rằng: Cựu Kinh nói rằng: Đức Phật ở rừng Thệ-đa nhập Tam-muội Sư tử tần thân, ngài Xá-lợi-phất từ Kỳ viên đến không thấy Đức Như Lai đang tự tại trang nghiêm, cũng không thấy các Đại Bồ-tát quyến thuộc, vì chỉ Vô trí nhãn mới có thể thấy được, cũng không thể khen ngợi. " Đây tức là văn như câm như điếc. Ở cuối hội đó chính là thời kỳ đầu của Tiệm giáo. Nay khảo xét lời hai Tổ thì đều chỉ rằng câm điếc là ở phần sau ban đầu của tiện giáo biết rõ là trong mười hai năm ở Lộc uyển. Lệ như Diệu Huyền bảo là: "Phương Đẳng Đờn Ha ứng với mười hai năm trước. " Lấy đó mà suy thì biết là hội cuối ở rừng Thệ-đa Đức Như Lai định việc truyền giáo, vì do Thanh văn trước tập học Tiểu thừa chưa thể nghe nổi Đại thừa nên có dạng như câm điếc. Do đó phải nhờ ngài Tịnh Danh để mời đến, đó là nghĩ cách quở mắng đều ở trong mười hai năm. Về không thể nghi, tức là bốn Giáo Nghi nói về điếc câm ở hội Hoa nghiêm, còn Đờn Ha là ở thời Phương đẳng. Đây chỉ là căn cứ theo bộ mà luận, kỳ thật chưa phải là đúng nghĩa. Kinh lại nói: Mong Bồ-tát Quang Minh… mỗi vị nói mười kệ để khuyên dạy hàng Thanh văn. Bài kệ đầu quở trách rằng: Tất cả các Duyên giác và các đại Thanh văn kia đều không thể biết được hạnh cảnh giới của Bồ-tát (đây là phần sau gồm cả phần trước, căn cứ theo văn), đây đều là việc nghĩ cách giáo hóa thích hợp. Người xưa vì không phân biệt các văn, không rõ về ý hóa khác với sự hóa của Như Lai, xem lẫn lộn nhau nên có nhiều cách nói khác nhau.

Về bảy xứ tám hội là theo Cựu Kinh sáu mươi quyển, do ngài Bạt-đà-la dịch ở đời Tấn. Tông Thiên thai đã dẫn dùng. Còn bản Tân Dịch tám mươi quyển, là do ngài Thật-xoa-nan-đà dịch ở đời Đường có thêm một hội Phổ quang minh, đó là bảy xứ chín hội, ở phẩm thứ ba mươi chín, thì chỉ có atăng-kỳ Tùy hảo quang minh là do chính Phật nói, còn các hội khác đều gia bị cho các Bồ-tát nói.

Hội thứ nhất, ở Bồ-đề đạo tràng nói sáu phẩm là:

1. Thế Chủ Diệu Nghiêm (Đức Phật khi mới thành Chánh giác ở tại A-lan-nhã Bồ-đề đạo tràng tại nước Ma-kiệt-đề), ngài Kinh Khê nói: Thành đạo từ lâu thọ hương có khác không đồng với dưới cội Bồ-đề nói trong A-hàm, nhiệm vận ở nơi Tích là Biệt Viên giáo vậy.

2. Như Lai Hiện Tướng: (Phật Bạch Cao Tướng Hữu Bồ-tát nói kệ rằng: Thân Phật to lớn đầy khắp pháp giới…)

3. Phổ Hiền Tam-muội (Ngài Phổ Hiền nhập Như Lai tạng trần Tam-muội, hiện ra vi trần cõi Phật).

4. Thế Giới Thành Tựu (Ngài Phổ Hiền nói thế giới thành tựu phải có đủ mười việc và mười nhân duyên).

5. Hoa Tạng Thế Giới (Ngài Phổ Hiền nói biển thế giới như lưới trời giăng mắc khắp trên hư không).

6. Tỳ-lô-giá-na (Ngài Phổ Hiền nói tên Phật ở thế giới này. Cựu Kinh thì nói Phật Thích-ca cũng gọi là Lô-xá-na nhưng Tân Kinh thì gọi là Tỳ-lôgiá-na. Diệu Lạc nói: Pháp Báo không phân hai, ba, chớ biện giải, chính là chỗ nói này vậy).

Hội thứ hai, ở Bồ-đề tràng tại điện Phổ quang minh nói sáu phẩm là:

1. Như Lai Danh Hiệu (Ngài Văn-thù nói tên Phật ở mười phương thế giới).

2. Bốn Thánh Đế (Ngài Văn-thù nói tên và nghĩa bốn đế).

3. Quang Minh Giác (Ngài Văn-thù nói kệ khen, Phật phóng quang).

4. Bồ-tát Vấn Minh (Ngài Văn-thù hỏi ngài Giác Thủ… về nghĩa phá vô minh. Ngài Pháp Thủ Bồ-tát nói: Như kẻ đếm châu báu của người khác, chính mình không có nửa xu, đối với pháp không tu hành chỉ thích học nhiều thì cũng thế. Như người giỏi toa thuốc, bệnh mình không thể cứu, như người điếc tấu nhạc, không thể nghe tiếng hay. Ngài Hiền Thủ lại nói: người vô ngại tất cả, một đường ra khỏi sinh tử).

5. Tịnh Hạnh (Ngài Văn-thù đáp ngài Trí Thủ rằng: Tất cả hạnh nguyện thì như khi ăn cơm, phải cầu nguyện chúng sinh, thiền duyệt làm thức ăn, pháp hỷ đầy đủ. Các kệ đều rút từ phẩm này).

6. Hiền Thủ (Ngài Văn-thù hỏi ngài Hiền Thủ về công đức của tâm Bồ-đề… thì tín là mẹ phát sinh mọi

Hội thứ ba, ở cung trời Đao-lợi, nói sáu phẩm là:

1. Thăng Tu-di Sơn (Đức Phật ngồi ở cội Bồđề, không rời tòa ngồi mà vẫn bay thẳng lên núi Tu-di. Trời Đế Thích khen rằng: Phật Ca-diếp từng ở tại điện này, thế nên chỗ này rất tốt. Như thế căn cứ vào lời khen mười Phật quá khứ đều nói chỗ này rất tốt. Ngài Kinh Khê nói rằng: Không động đậy mà bay lên, phó cơ được chỗ).

2. Sơn Đảnh Kệ Tán (Phật ngồi trong điện trời Đế Thích, mười vị Bồ-tát pháp tuệ… đều nói kệ khen thắng tuệ của Phật rằng:

Hiểu biết tất cả pháp Tự tánh vốn không có Hiểu pháp tánh như thế Thì thấy Lô-xá-na).

3. Thập Trụ (Ngài Pháp Tuệ nói mười trụ, mỗi trụ đều khuyên tu mười pháp).

4. Phạm Hạnh (Ngài Pháp Tuệ nói tu tập phạm hạnh có mười pháp).

5. Phát Tâm Công Đức (Ngài Pháp Tuệ đáp lời Đế Thích hỏi là các công đức của phát tâm là Phật chủng không hề dứt, nhất niệm mà biết được thế giới rộng hẹp, kiếp dài ngắn có Phật hay không Phật, một Phật hay nhiều Phật, Nhất niệm mà biết kiếp thành hoại của thế giới ba đời, các thứ chúng sinh khác nhau. Ngài Kinh Khê nói: Chỗ duyên của Phát tâm chính là cảnh được quán, đủ ba đế không có tánh không, tất cả đều giả mượn, bình đẳng…).

6. Minh Pháp (Ngài Pháp Tuệ nói Bồ-tát sơ phát tâm lìa mười thứ phóng dật, tu mười thứ pháp, đầy đủ đại công đức, thành tựu được Phật trí. Ngài Kinh Khê nói rằng: Minh là sở chứng, pháp là phương pháp).

Hội thứ tư, ở cung trời Dạ-ma nói bốn phẩm là:

1. Thăng Dạ-ma Thiên (Phật lên đây, các trời thỉnh Phật nhập điện).

2. Dạ-ma Kệ Tán (Công Đức Lâm… đều nói kệ khen Phật, ngài Giác Lâm đọc kệ rằng:

Tâm như thợ vẽ khéo
Tạo các thứ ngũ ấm
Tất cả trong thế gian
Không gì ngoài danh sắc.

Lại nói rằng:

Tâm và Phật cũng thế Phật, chúng sinh cũng vậy Tâm Phật và chúng sinh Là ba thứ không khác. Nếu người muốn hiểu biết, ba đời tất cả Phật, nên Quán tánh pháp giới, tất cả duy tâm tạo).

3. Thập Hạnh (do ngài Công Đức Lâm nói).

4. Thập Vô Tận Táng (Ngài Công Đức Lâm nói). Hội thứ năm, ở cung trời Đâu-suất nói ba phẩm là:

1. Thăng Đâu-suất Thiên (Phật lên đây các trời mời Phật nhập điện)

2. Đâu-suất Kệ Tán (Ngài Kim Cang Tràng… khen Phật)

3. Thập Hồi Hướng

(Ngài Kim Cang Tràng nói kệ rằng:

Pháp tánh biến khắp tất cả chỗ
Tất cả chúng sinh và quốc độ
Ba đời đều ở chỗ vô dư
Cũng không hình tướng có thể đắc).

Hội thứ sáu, ở cung trời Tha hóa nói một phẩm là Thập địa (Ngài Kim Cang Tạng nói rằng: Dùng mười Địa đối với các Thiên vương, giống như đất phát sáng đối với các trời Đao-lợi).

Trùng hội thứ bảy, ở tại điện Phổ quang minh nói mười một phẩm là:

1. Thập Định (Ngài Phổ Hiền nói nhập mười thứ Tam-muội).

2. Thập Thông (Ngài Phổ Hiền nói mười thứ thông).

3. Thập Nhẫn (Ngài Phổ Hiền nói mười thứ nhẫn).

4. A-tăng-kỳ (Phật nói cho Tâm Vương Bồ-tát biết có a-tăng-kỳ nhiều không thể nói không thể nói số kiếp để khen ngợi công đức vô lượng của ngài Phổ Hiền).

5. Thọ Lượng (Ngài Tâm Vương Bồ-tát so sánh số kiếp dài ngắn của các thế giới).

6. Bồ-tát Trụ Xứ (Ngài Tâm Vương ở núi Thanh lương tại phương Đông bắc là nơi ở chung của ngài Văn-thù với vạn Bồ-tát. Lại nói nước Chấn Đán (Trung Quốc) có hang Na-la-diên).

7. Phật Bất Tư Nghì (Liên Hoa Tạng Bồ-tát nói diệu đức bất tư nghì của Như Lai).

8. Thập Thân Tướng Hải (Ngài Phổ Hiền nói mười thân của Như Lai, mỗi mỗi đều có mười Hoa tạng thế giới hải vi trần số tướng người to lớn).

9. Như Lai Tùy Hảo Quang Minh (Phật bảo ngài Bảo Thủ nói tùy hảo quang minh chiếu khắp mười Phật sát trần giới, địa ngục gặp ánh sáng này liền dứt khổ và các hàm thức được sinh lên cung trời Đâu-suất).

10. Phổ Hiền Hạnh (Ngài Phổ Hiền nói tu hành mười pháp).

11. Như Lai Xuất Hiện (Đức Phật phóng ánh sáng tên là Như Lai Xuất hiện. Ngài Phổ Hiền nói bản nguyện của Giá-na).

Hội thứ tám có ba chỗ, ở điện Phổ quang minh nói một phẩm là Ly Thế Gian (Ngài Phổ Hiền nói Tạp hạnh của Quảng Lệ Bồ-tát).

Hội thứ chín, ở rừng Thệ-đa (tức vườn Cấp cô độc) nói một phẩm là:

Nhập Pháp Giới (Lúc đó Đức Thế Tôn nhập vào Sư tử tần thân Tam-muội, ngài Xá-lợi-phất và các đại Thanh văn ở tại rừng Thệ-đa đều không thấy thần lực của Như Lai cũng không thấy các Bồtát đang đại hội vì thiện căn không đồng. Bởi xưa không tu tập môn Kiến Phật thiện căn, xưa cũng không khen ngợi các thần biến của chư Phật, nên không thể thấy nghe nhớ… vì chỉ dựa vào Thanh văn thừa mà xuất ly. Ngài Văn-thù từ giả Phật đi về cõi nhân gian ở hướng Nam, lúc đó ngài Xá-lợiphất và sáu ngàn Tỳ-kheo cùng đến chỗ ngài Vănthù. Ngài Văn-thù khuyên dạy họ mười điều khiến họ hành đạo Bồ-tát thì liền được Vô ngại nhẫn Tam-muội thấy được cảnh giới của tất cả Phật nên đều thấy được chư Phật. Ngài Văn-thù khuyên xong liền đi về phương Nam đến phía Đông Phước thành, nói pháp cho Đồng tử Thiện Tài, khiến ngài cầu quả Bồ-đề và gần gũi các Thiện tri thức. Từ đây đi về phương Nam qua một trăm mười thành tham học với năm mươi ba Thiện tri thức, nhập đạo tràng Phổ Hiền, được tất cả Phật sát vi trần số môn Tam-muội, khắp thấy ngài Phổ Hiền ở mười phương cõi, đây đều là dựa vào Kinh Khê rút từ Mạnh Mục của kinh Hoa Nghiêm).

Thích Thiện nói rằng: Có ba bản được cất giữ ở Long cung: Bản Thượng có mười ba thế giới vi trần số phẩm, bản Trung có bốn mươi chín vạn tám ngàn tám trăm bài kệ, bản Hạ có mười vạn kệ, bốn mươi tám phẩm. Nay chỉ có ba mươi chín phẩm thì biết là kinh này đến đây chưa hết (Ngài Long Thọ vào Long cung xem kinh thấy hai bản Thượng và Trung thì người đời không xem nổi, nên chỉ có các tụng trong bản Hạ được lưu hành mà thôi).

Ngày chín tháng hai Như Lai trong bảy ngày đã một lòng suy tư ngồi dưới gốc thọ vương mà quán niệm. Ngài tự nghĩ rằng: Ta đã chứng được pháp thậm thâm khó hiểu, chỉ có Phật cùng Phật mới có thể biết được. Còn tất cả chúng sinh thì phước mỏng căn độn làm sao có thể biết được pháp ta đã chứng. Vậy thà ta nên nhập Niết-bàn. Lúc bấy giờ có Đại phạm Thiên vương từ cung trời đến chỗ Đức Như Lai bạch rằng: Thưa Thế Tôn! Từ khi thành đạo Vô thượng đến nay, vì sao ngài vẫn im lặng mà không nói pháp. Có những chúng sinh ở thời quá khứ đã gieo trồng phước đức, họ đủ sức nghe pháp. Cúi mong Thế Tôn vì chúng đây mà dùng sức đại Bi để chuyển diệu pháp luân. Các Thích Đề-hoàn Nhân cho đến trời Tha hóa tự tại cũng lại như thế. Lúc đó trời Phạm thiên đến ba lần mời thỉnh. Say bảy ngày thì Đức Phật yên lặng nhận lời. Ngày thứ mười bốn, ngài dùng Phật nhãn quán sát chúng sinh về các căn thượng, trung, hạ và các phiền não. Suốt hai mươi mốt ngày, suy nghĩ rằng ta nay sẽ triển khai pháp môn Cam lồ, ai sẽ được nghe trước? A-la-la có phát nguyện: "Thành đạo rồi trước xin được độ, thì trên không trung có tiếng nói ông ấy vừa mệnh chung hôm qua. " Lại nghĩ đến Ca-lan thông minh cũng đáng được nghe trước. lại có tiếng trên không trung: "Tối qua ông ấy vừa mệnh chung. " Lại nghĩ đến năm người vương thần do vua sai đi, quá khứ đã phát nguyện, cũng đáng được nghe pháp trước. Ngài liền từ tòa ngồi đứng dậy và đi đến thành Ba-la-nại (kinh Nhân Quả, văn cú dẫn kinh Nhân Quả so với hai mươi mốt ngày của kinh Pháp Hoa không khác. Lại Thích Thiêm dẫn đủ các kinh nói hai mươi mốt ngày (3x7) đều không đồng chỉ có kinh Nhân Quả thì tóm tắt giống ý của Sư ngày nay, cho nên các văn ghi chép về Đức Phật phần nhiều căn cứ vào kinh này. Hai Tiên nhân A-la-la và Ca-lan cùng năm ông Kiều-trần-như đều thấy trong Bản Kỷ, quyển hai).

Ngày ba mươi tháng hai, Đức Thế Tôn đến bến nước không bờ đê của con Rồng mù vảy bông mà ngồi nhập định suốt bảy ngày, phóng luồng ánh sáng vào nước thì mắt Rồng được mở và tự nhớ ánh sáng của ba Phật đã thấy trước đây (ba Phật là Câu-lưu, Na-hàm, Ca-diếp trong Hiền kiếp) thì mắt liền thấy lại như xưa. Rồng liền ra khỏi nước gặp Phật. Trời mưa suốt bảy ngày, Rồng dùng thân quấn quanh Phật bảy vòng vương bảy đầu để che chắn cho ngài. Bảy ngày hết mưa Phật xuất định, Rồng hóa làm một Đạo sĩ trẻ, Phật liền dạy cho pháp Tam tự quy (giống như Đề-vị quy tăng ở vị lai). Đây là loài bàng sinh được gặp Phật trước nhất (kinh Nhân Quả).

Ngày bảy tháng ba, Thần cây biết Đức Phật ngồi nhập định bảy ngày (đây là ngồi nhập định bên bờ nước, Thần cây đây không phải là Thần cây Bồ-đề) chưa có ai dâng cúng thức ăn. Vừa lúc đó có năm trăm khách buôn từ dãy núi trước mặt đi ngang qua xe trân bị kẹt bánh không đi được. Có hai người lớn là Đề-vị và Ba-lợi cùng đến thần cây để cầu phước. Thần cây liền bảo họ rằng: Đức Phật đang ở bên bờ nước, các ông là người may mắn cúng dường thức ăn cho ngài trước tiên. Hai người liền đem cháo mật dâng lên Phật, bốn Thiên vương liền lấy bát thơm tự nhiên trong đá cùng dâng lên ngài (theo kinh Nhân Quả, kinh Phổ Diệu thì nói bốn Thiên Vương mỗi vị dâng lên ngài một bát bằng đá xanh). Đức Phật nghĩ rằng lấy một bát thì không vui lòng các vị kia, bèn nhận cả bốn bát đặt vào tay trái lại lấy tay phải vỗ thành một bát khiến bốn phía đều nhìn thấy (kinh Thụy Ứng), rồi Phật chú nguyện, khi ăn xong ngài liền truyền cho các thương buôn Tam quy: Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng ở tương lai (kinh Nhân Quả). Trước hết Phật nói về các thứ ngũ hành, sáu giáp, âm dương và lịch số. Khi tin phục rồi Phật mới khiến quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng ở tương lai. Lúc đó ông Trưởng giả Đề-vị được quả Tu-đà-hoàn (Hán dịch là Dự lưu, là người được Sơ quả). Lại nói cho năm giới, năm giới là mẹ của chư Phật, vì muốn cầu Phật đạo thì phải đọc kinh ấy, muốn cầu A-la-hán (Hán dịch là Vô sinh, là người đã chứng bốn quả Thánh) cũng đọc kinh ấy. Đề-vị bèn được Bất khởi pháp nhân (Vô sinh pháp nhẫn), ba trăm người đều được tín nhẫn, hai trăm người được quả

Tu-đà-hoàn, năm trăm khách buôn và Bốn Thiên vương được Nhu thuận pháp nhẫn (kinh Đề-vị, phụ chú rằng: Căn cứ vào Tam bảo sáu, xưa có kinh Đề-vị một quyển. Sau đó ngài Đàm Tinh ở đời Ngụy soạn ra bộ Đề-vị, Ba-lợi hai quyển có thêm phần Ngũ Hành Ngũ Phương. Lại nói rằng: Núi Thái sơn ở phương Đông, nhà Hán gọi là Đại nhạc, không biết là tiếng Phạm hay Ngụy đến nỗi người đời sau cho là bản giả, nên lấy bản một quyển cho là chính thức). Đức Phật thọ ký cho Đề-vị ở vị lai sẽ thành Phật hiệu là Mật Thành Như Lai (theo kinh Phổ Diệu).

Những gì thuộc Đề-vị? Lời thuật rằng: Đức Phật nói năm giới là pháp dạy cho hàng trời người chính là hiển bộ. Đề-vị nghe pháp Tiểu thừa mà chứng Đại thừa, là Bất định. Đó là hiển bày giáo bất định vậy. Nếu ước định về thời gian thì đó là hai mươi mốt ngày sau hội Hoa nghiêm và sau bảy ngày nhập định bên bờ nước. Đây là bảy ngày thứ năm. Như kinh Nhân Quả đã nói: Nếu gom góp các kinh thì đó là pháp dạy hàng trời người, còn thuộc về ba tạng thì như bốn giáo nghĩa đã nói.

Kế đến là Tiệm giáo gồm có ba thời: Lộc uyển là thời Tiệm đầu, Phương đẳng là thời Tiệm giữa và Bát-nhã là thời Tiệm cuối. Gọi chung là Tiệm giáo.

Thuật rằng: Đây là nhóm Xá-lợi-phất… thuộc Tiểu cơ không được lợi ích gì trong hội Hoa nghiêm, nên từ Đốn mở ra Tiệm để lần lượt hướng dẫn mọi người được vào đó là thời Lộc uyển Tiệm đầu. Do pháp bốn đế và Thập nhị nhân duyên mà cùng chứng quả Tiểu thừa, là thời Phương đẳng tiệm giữa. Riêng bác bỏ Tiểu thừa để cùng hâm mộ pháp Đại thừa, là thời Bát-nhã Tiệm cuối chuyển đổi thuyết giáo giao tài sản để lãnh biết nghiệp nhà, nên gọi chung là Tiệm giáo.

Thời thứ hai là Lộc uyển: Phật vốn dùng Đại thừa để hóa độ chúng sinh, nhưng vì họ không kham nổi nên suy nghĩ tìm phương tiện mà đến Ba-la-nại (Hán dịch là Giang nhiễu thành, ở Trung Ấn Độ, trong thành có vườn Lộc uyển). Ngài lấy đạo Nhất thừa mà phân biệt nói có ba thừa, tức là triển khai Tam tạng giáo. Không phải chỉ riêng có Đức Thích-ca giấu kín vô lượng thần đức để dạy Tiệm giáo này, mà chư Phật quá khứ cũng đều thế. Phải biết rằng sau thời Đốn giáo đầu thì tiếp theo mới mở Tiệm giáo. Tiệm cơ đối với Đốn giáo hoàn toàn mới như là vị sữa, Tam tạng Giáo điển chuyển đổi họ từ phàm thành Thánh cũng dụ như biến đổi sữa thành lạc, thứ lớp tương sinh không có vị đậm nhạt (Diệu Huyền 10). Vì căn tánh của hàng Tam thừa đối với Đốn giáo không có lợi ích. Nên từ Bất động tịch trường mà đi đến Lộc uyển, đổi trang phục Xána quý báu mặc vào lớp áo của thân trượng sáu dơ xấu, trước vì năm người mà nói về bốn đế, Thập nhị nhân duyên và Sáu độ… (theo bốn Giáo Nghi, pháp hoa văn cú nói rằng quá khứ gọi là căn, vị lai gọi là tánh, tức Đại mà Tiểu, nên gọi là Bất động. Thân Tôn Đặc Ứng nghĩa cao quý định tuệ trang nghiêm nên với trang phục quý báu, còn sinh thân ứng nghĩa yếu kém Nhẫn sinh pháp não dụ lớp áo dơ xấu. Đức Phật sinh trong hàng người có hình dáng cao đẹp gấp bội phần nên cao trượng sáu. Cũng như Đức Di-lặc cao ba mươi hai trượng thì người lúc đó cao mười sáu trượng vậy).

Nếu xác định về thời gian thì đó là thời Kế đến tiếp chiếu ánh nắng vào hang sâu, nếu ước định về vị thì đó là sữa sinh lạc. Từ mười hai bộ loại kinh văn mà sinh ra chín bộ Tu-đa-la (theo Diệu Huyền 10).

Phẩm Tín Giải nói rằng: Lúc bấy giờ, trưởng giả muốn khuyến dụ con mình (không dạy Đại thừa nên không muốn bỏ côi cút) nên mật sai hai người

(ẩn Thật là Mật, dùng Quyền là Sai, Thanh văn, Duyên giác là hai người) thân hình tiều tụy (Nhị thừa không tu tướng hảo) không có oai đức (không có mười Lực, Vô úy) đến nói từ từ với kẻ cùng tử (Tiểu thừa giáo dài dòng dụ cho nói từ từ) mướn người hốt phân (khổ tập là phân). Lúc đó hai người liền tìm kẻ cùng tử (xét biết người có cơ duyên) khi đã gặp liền nói mọi việc (nói việc thuê làm). Bấy giờ kẻ cùng tử nhận giá tiền rồi hốt phân (nhận lấy giá Diệt, Đạo). Người cha nhìn thấy con vừa thương vừa lạ (thương vì con chỉ cầu A-la-hán, lạ vì không cầu Phật đạo-Từ trên đều là tề giáo từ đây trở đi là thám lãnh. Lại nhân một ngày khác ở trong cửa sổ (thiên kiến nhỏ hẹp). Xa thấy thân con (bỏ Tiểu thừa xa Đại thừa nên là xa thấy) gầy mòn tiều tụy (Sức trí và phước yếu kém nên gọi là gầy bên trong sợ vô thường nên gọi là mòn, bên ngoài gặp tám khổ nên gọi là tiều tụy) phân đất bùn sình (bốn trụ là phân đất vô minh là bùn sình) nhầy nhụa dơ bẩn (đã từ lâu biết là phương tiện coi là đồ chơi) liền cởi bỏ y phục và chuỗi ngọc sang quý (giấu Báo thân có đeo chuỗi ngọc giới định huệ và y phục Tịch diệt nhẫn…) mặc áo thô xấu dơ bẩn (thân trượng sáu là thô, sinh, pháp hai nhẫn là xấu. Nhẫn có tình buồn thì gọi là Sinh nhẫn, không có tình buồn thì gọi là Pháp nhẫn, đó là các pháp thuộc nóng lạnh, gió mưa… Thô là thô tục) tay phải cầm đồ hốt phân (đối trị các thứ kiến, tư hữu lậu. Tay trái dụ cho Thật, tay phải dụ cho Quyền) nói với người làm (đích thân bảo con làm) ngươi hãy siêng làm và nên an tâm xem ta như cha ngươi (giống chứ chưa thật) từ nay trở đi ngươi hãy tự xem như con ruột của ta (gần được bậc Thánh tức là thế Đệ nhất). Lúc đó kẻ cùng tử vui mừng vì cuộc gặp gỡ ấy nhưng vẫn tự coi mình là khách làm người hèn hạ (tự biết không kham việc nối Đại thừa). Suốt hai mươi năm làm việc hốt phân (Kiến đế có một giải thoát, một vô ngại, Tư dung có chín giải thoát, chín vô ngại cộng thành hai mươi. Chú trên đều trích từ Pháp hoa văn cú).

Đây nên hiểu ý gì? Đây là sau hội Đốn giáo thứ hai thì giấu thân Xá-na mà hiện làm Tỳ-kheo thuyết giảng ba tạng giáo điển, suốt cả hai mươi năm luôn bắt hốt phân được tiền một ngày công là Kiến tư hoặc đã dứt được tâm vô lậu thanh tịnh (Diệu Huyền 10).

Trong hai mươi năm. Lời thuật rằng: "Hai mươi năm" nói trong phẩm Tín Giải được nêu ra ở ba nơi đều có ý riêng.

1. Hai mươi năm luôn khiến hốt phân (ví dụ đang dạy dỗ). Thấy Đế có một giải thoát, một vô ngại. Tư duy có chín giải thoát, chín vô ngại, nên gọi là hai mươi (theo Văn Cú đây có bảy giải thích).

2. Kinh nói hai mươi năm làm việc nhà (ủy thác nghiệp nhà) Trụ ở Vị Nhị thừa đổi thành giáo Đại thừa (Văn Cú).

3. Từ khi thấy con trở về đã hai mươi năm (định về thiên tánh của cha con) là người thuộc cơ Nhị thừa nhưng lại cảm Phật thừa (Văn Cú).

Một lần hai mươi trước tức là dùng tám nhẫn tám trí mà đoạn Kiến hoặc họp làm một giải thoát một vô ngại. Dùng chín vô ngại và chín giải thoát để đoạn từ hoặc thì chung lại gồm có hai mươi. Hai lần hai mươi sau chỉ là họp hai nghĩa. Diệu Lạc nói: Đoạn kiến hoặc là một, đoạn từ hoặc là một. Phụ Hành nói rằng: Kể về người thì có Nhị thừa, kể về Lý thì có hai đế chân tục, kể về hoặc thì kiến và tư hoặc đều phá hết. Hỏi rằng: hai nghĩa là thế, còn mười nghĩa là sao? Đáp: Nhị thừa thì mỗi thừa có mười trí (mười Trí tức: Thế trí, Tha tâm trí…). Đây là nghĩa ba văn trước sau đều thấy có hai mươi.

Ngày tám tháng ba, Đức Thế Tôn đi về phía trước vào vườn Lộc uyển ở nước Ba-la-nại (kinh Nhân Quả).

Đức Phật thành đạo từ ngày tám tháng hai, từ ngày chín đến ngày hai mươi chín tháng hai là tròn hai mươi mốt ngày ở tịch tịnh đạo tràng (nhập định nói kinh Hoa Nghiêm). Đến ngày sáu tháng ba là bảy ngày nhập định bên bờ nước, thì tròn bốn tuần. Đến ngày bảy tháng ba nhận thức ăn của Trưởng giả Đề-vị dâng cúng. Sau đó mới đến vườn Lộc uyển, đến ngày tám tháng ba là đúng ba mươi lăm ngày. Kinh Niết-bàn nói: Các ngày Đản sinh xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân đều đúng ngày mồng tám cả.

Đầu tiên nói pháp Bốn Thánh đế cho các ông Kiều-trần-như. Nay các ông cần nên biết Khổ, đoạn Tập, chứng Diệt, tu Đạo, Đức Phật ba lần nói về pháp bốn đế và Thập nhị hành pháp luân (theo kinh Nhân Quả, kinh Pháp Hoa nói Đức Phật đại thông nhận lời thỉnh mà ba lần chuyển pháp luân về mười hai hành).

Theo Thanh văn tạng giáo thì người nương vào bốn đế sinh diệt.

1. Khổ đế, gồm hai mươi lăm hữu và hai báo Y Chánh (bốn châu, bốn ác thú Sáu dục, Phạm thiên, bốn Thiền, bốn không xứ, Vô tưởng, bất hoàn Ana-hàm) riêng là hai mươi lăm hữu, chung là sáu đạo sinh tử.

2. Tập đế tức Kiến và Tư Hoặc (Kiến hoặc có tám mươi tám sử, Tư hoặc có tám mươi mốt phẩm).

3. Diệt đế, tức diệt hết các khổ tập trước mà hiện bày chân lý.

4. Đạo đế, tóm tắt thì có giới định tuệ, nói rộng ra thì có ba mươi bảy Đạo phẩm (hợp là bảy khoa, từ một là bốn Niệm xứ đến bảy là tám Chánh đạo), hai Đế trước là nhân quả thế gian (Khổ là quả, Tập là nhân). Hai Đế sau là nhân quả xuất thế gian (Diệt là quả, Đạo là nhân. Đây là dựa theo bốn Giáo Nghi).

Về ba chuyển có: Thị chuyển, Khuyến chuyển, Chứng chuyển.

Thị chuyển là chỉ rõ hình tướng. Như nói rằng đây là khổ cho đến đây là đạo…

Khuyến chuyển là khuyên nên tu. Như nói rằng: Đây là khổ các ông nên biết, cho đến đây là đạo các ông nên tu.

Chứng chuyển là dẫn việc mình đã chứng. Như nói rằng: Đây là khổ, ta đã biết không cần biết nữa. Về luân, có nghĩa là nghiền nát. Nếu chỉ có giáo pháp mà không thực hành thì đâu thể phá tan các hoặc, nếu giáo và hạnh giúp nhau thì có thể phá hoặc (Diệu Lạc quyển tám).

Về Thập nhị hành pháp luân, có hai cách giải thích:

1. Căn cứ theo bốn đế giáo, nghĩa là ba lần chuyển bốn đế là giáo, Thập nhị tức là năng chuyển.

2. Căn cứ theo mười sáu Hạnh, nghĩa là ba chuyển đều sinh bốn hạnh: Nhãn, trí, minh, giác làm hạnh, mười hai tức là chuyển vậy (theo Văn cú, nói mười sáu hạnh, nghĩa là khổ pháp nhãn là nhãn, khổ pháp trí là trí, tỷ nhẫn là minh, tỷ trí là giác. Còn ba đế kia cũng thế cộng lại thành mười sáu).

Lúc đó ông Kiều-trần-như được Pháp Nhãn Tịnh (tức là Sơ quả, theo phẩm Dược Vương của Diệu Kinh, Diệu Lạc nói rằng: Há vua và phu nhân cùng tám vạn người đều trì kinh này tất phải nghe phẩm ấy thì đều chứng tiểu quả hay sao? Là vì tên đồng nhưng khác nghĩa, cần khéo châm chước. Căn cứ theo đây thì biết tên pháp Nhãn tịnh thì chung cho cả Đại thừa và Tiểu thừa). Thần đất vui mừng hô to: "Hôm nay, ở tại đây Đức Như Lai chuyển diệu pháp luân. " Chư Thiên ở trên không trung bèn lần lượt truyền nhau câu nói ấy lên đến cõi trời A-ca-nị-sất (Hán dịch là Sắc cứu cánh thiên). Đức Thế Tôn biết tâm niệm của bốn người kia nên lập lại nhiều lần về bốn đế và họ cũng đều được Pháp nhãn tịnh. Khi ấy cả năm người cùng bạch Phật xin được xuất gia. Đức Thế Tôn gọi năm người: "Thiện lai, Tỳ-kheo!" thế là râu tóc của cả năm người đều rụng, thân tự mặc áo ca-sa liền thành Sa-môn. Phật lại nói cho họ về năm ấm, vô thường, khổ không, vô ngã. Họ được lậu tận ý giải và thành A-la-hán. Ở thế gian mới bắt đầu có sáu vị A-la-hán, một vị A-la-hán là Phật bảo, bốn đế pháp luân là Pháp bảo, năm vị A-la-hán kia là Tăng bảo. Tam bảo đã đầy đủ, ấy là phước điền của thiên nhân (kinh Nhân Quả).

Năm thứ năm (năm Giáp Thân) có con vị Trưởng giả tên là Da-xá, thông minh lanh lợi. Vào nửa đêm thấy trên không trung có ánh sáng. Mở cửa tìm theo vùng có ánh sáng thì đến vườn Lộc uyển, được Phật nói cho nghe pháp bốn đế liền thành A-la-hán, xin Phật được xuất gia. Phật gọi: "Thiện lai, Tỳ-kheo!" thì liền thành Sa-môn. Khi ấy cha của Da-xá đến chỗ Phật tìm con, được nghe Phật nói pháp liền được Pháp nhãn tịnh và thọ Tam tự quy là vị Ưu-bà-tắc đầu tiên. Số bè bạn của Daxá gồm năm mươi vị Trưởng giả, nghe tin Da-xá xuất gia, cùng đến chỗ Phật và xin xuất gia. Phật gọi: "Thiện lai, Tỳ-kheo!" Liền thành Sa-môn. Bấy giờ mới có năm mươi sáu vị A-la-hán. Phật bảo các Tỳ-kheo rằng: Các thầy hãy nên đi du phương giáo hóa chúng sinh. Khi ấy các thầy Tỳ-kheo đảnh lễ từ giã Phật. Đức Thế Tôn liền từ Ba-la-nại đến nước Ma-kiệt-đề. Chiều tối nghỉ đêm tại chỗ của Ưu-lầu-tần-loa Ca-diếp. Phật hàng phục được Rồng lửa và truyền cho Tam quy y, bắt nhốt trong bát đưa cho Ca-diếp xem, ông khen việc chưa từng thấy. Phật biết Ca-diếp có căn duyên lần lần thuần thục, liền dắt ông đến bồ sông Ni-liên. Khi ấy có Ma vương đến thỉnh Phật nhập Niết-bàn. Thỉnh đến ba lần Đức Phật mới đáp rằng: "Số người cần được độ chưa độ hết. " Ma vương nghe xong liền trở về bản cung. Bấy giờ ông Tần-loa Ca-diếp cùng năm trăm đệ tử của mình xin được xuất gia. Đức Phật gọi: "Thiện lai, Tỳ-kheo!" Liền thành Samôn. Phật nói pháp bốn đế lần lần ông mới chứng quả A-la-hán, bèn đem quăng hết đồ thờ lửa xuống dòng sông. Khi đó hai người em của ông là Nanđề và Già-da ở phía hạ lưu thấy đồ thờ lửa của anh mình theo dòng nước trôi xuống, hết sức kinh ngạc, liền đến tìm anh thì thấy anh đã mặc áo casa. Mỗi em đều cùng với hai trăm năm mươi đệ tử của mình xin Phật xuất gia. Phật gọi: "Thiện lai, Tỳ-kheo!" Liền thành Sa-môn và được quả A-lahán. Đức Thế Tôn và Tần-loa Ca-diếp cùng một ngàn vị Tỳ-kheo đang ở thành Vương xá đều đến chỗ vua Tần-bà-ta-la (là cha của vua A-xà-thế).

Vua cùng bách quan ra tận ngoài thành đón Phật. Đức Phật sau đó nói pháp cho vua và tám vạn nado-tha Bà-la-môn, đại thần và nhân dân đều được Pháp nhãn tịnh (theo kinh Nhân Quả).

Trong nước có vị Trưởng giả tên là Ca-lăng đến dâng cúng cho Phật khu vườn Trúc (theo Tây Vức ký thì Linh sơn và vườn Trúc đều ở cách thành Vương xá khoảng năm dặm) có thể dùng làm tinh xá. Nhà vua ra lệnh cho các quan xây dựng giảng đường và nhà ở, rồi đón Phật vào thành rước về ở tại vườn Trúc. Trong số các vua gặp Phật thì Tầnbà-ta-la là người trước nhất. Các Tăng-già-lam ở vườn Trúc là đầu tiên (theo kinh Phổ Diệu, kinh Trung Bản Khởi nói có Trưởng giả Ca-lan-đà trước đây đã dâng cúng cho Tiên Ni-kiền, nay tiếc là không cúng cho Phật. Chúa quỷ biết rõ ý nghĩ liền triệu quỷ Dạ-xoa đến bảo hãy đuổi Ni-kiền đi, Nikiền sợ hãi bỏ chạy. Trưởng giả vui mừng mời Phật về ở).

Năm thứ sáu (Ất Dậu). Phật ở tại núi Tượng đầu nói pháp cho Long vương và Quỷ thần (kinh Thập Nhị Du).

Năm thứ bảy (Bính Tuất), Bà-la-môn Xá-lợiphất giữa đường gặp Tỳ-kheo Kỳ-bà nói kệ cho nghe liền được Pháp nhãn tịnh. Trở về, ông đọc kệ lại cho bạn thân là Mục-kiền-liên nghe, ông này cũng được Pháp nhãn tịnh. Sau đó mỗi người bèn dắt một trăm đệ tử của mình vào vườn Trúc xin Phật xuất gia. Đức Phật gọi: "Thiện lai, Tỳ-kheo!" thì tất cả râu tóc đều tự rụng và mình mặc áo ca-sa, liền thành Sa-môn. Đức Phật lại rộng nói pháp bốn đế cho hai trăm vị đệ tử này và họ cũng thành A-la-hán. Bấy giờ Đức Thế Tôn bèn cùng một ngàn hai trăm năm mươi vị đại A-la-hán này ở nước Makiệt-đề làm lợi lạc khắp chúng sinh (theo kinh Nhân Quả). Lúc đó có vị Bà-la-môn tên là Ca-diếp là nhà giàu có bậc nhất đã bỏ nhà vào núi tự cạo bỏ râu tóc. Khi ấy giữa không trung có tiếng chư Thiên bảo: "Ngài nên đến gặp Phật. " Ngài Ca-diếp liền đến vườn Trúc, nghe Phật nói pháp liền chứng được quả A-la-hán. Vì ngài có oai đức trí tuệ lớn nên được gọi là Đại Ca-diếp (theo kinh Nhân Quả). Ngài Ca-diếp gặp Phật ở tháp Đa tử cầu xin xuất gia, ngài lấy chiếc áo xấu để cúng Phật làm tòa ngồi giá trị mười vạn lượng vàng, Phật liền trao cho ngài chiếc nạp y Thương-na (theo kinh A-hàm, Thương-na, Hán dịch là Thảo y (áo cỏ), nạp y tức là năm thứ nạp y của Đầu-đà. Nay nói Thương-na tức là lấy cỏ làm áo vậy).

Năm thứ tám (Đinh Hợi) vào mùa Đông năm ấy, Đức Phật ở tại nước Tỳ-xá-ly nhân con của Tuđề-na đã chánh tín xuất gia, sau trở về quê lại cùng người vợ cũ sống chung. Vị Tỳ-kheo này không còn tịnh hạnh nữa. Các Tỳ-kheo bèn nêu tội bạch lên Phật, Phật liền họp chúng quở trách rằng: "Việc làm của ông không hợp oai nghi, trái tịnh hạnh, không phải việc đáng làm. " Đây là lần đầu tiên chế ra giới dâm, mới phạm lần đầu chưa kết tội (theo Tăng-kỳ Luật).

Năm thứ chín (Mậu Tý), ở nước Xá-vệ có vua Ba-tư-nặc (Hán dịch là Hòa Duyệt), có quan đại thần là Tu-đạt nhà rất giàu có, ưa cứu giúp những kẻ nghèo đói già cả côi cút, nhân đó có tên là Cấp Cô Độc. Có lần đến thành La-duyệt (tức thành Vương xá) gặp Thế Tôn được nghe ngài pháp Bốn đế mà chứng quả Tu-đà-hoàn. Nhân đó xin Như Lai đến giáo hóa nước Xá-vệ Thế Tôn bảo nơi ấy không có tinh xá. Ngài Tu-đạt thưa rằng khi về nước sẽ tạo lập. Phật bèn sai Xá-lợi-phất cùng đi xem đất đai, thì thấy chỉ có đất vườn của Thái tử Kỳ-đà (Kỳ-đà, Hán dịch là Chiến Thắng vì khi Thái tử sinh ra thì vua cha chiến thắng nên đặt tên ấy) là được chỗ mà thôi. Ông Tu-đạt bảo Thái tử là muốn mua lại khu đất ấy. Thái tử nói: "Nếu ông đem vàng ròng lót kín hết thì ta sẽ giao cho. " Ông Tu-đạt bèn sai người dùng voi chở vàng đến, không bao lâu cả tám mươi khoảng đất gần đầy. Kỳ-đà nghĩ rằng: "Chắc Đức Phật có oai đức lớn lắm nên khiến người này đã coi nhẹ vàng đến thế. " Bèn bảo thôi đừng lót vàng nữa, đất vườn này của ông còn cây cối của ta. Rồi tự xây nhà cửa và cùng tạo lập tinh xá, làm hang đá cho Phật và một ngàn hai trăm năm mươi phòng riêng.

Khi đó vua Tịnh Phạn sai sứ đến thành Vương xá thỉnh Phật và Tăng. Đức Thế Tôn phóng ánh sáng làm rúng động đất đai truyền đến nước Xávệ, ai nấy đều thấy rõ giấu đạo thiêng. Vì hai người cùng lập tinh xá nên gọi là vườn Kỳ-đà Cấp cô độc (kinh Hiền Ngu).

Vào mùa Đông năm ấy phật ở thành La-duyệt, nhân Đàn-ni-ca ở nơi vắng vẻ ngồi thiền trong am cỏ, bị người dở mất bèn cất lên nhà ngói. Phật bảo phá bỏ sau đó ông ta dối trá rằng: Vua cho lấy gỗ tốt bị vua quan nhân dân quở trách không cho vào thôn nên không còn chỗ ở nữa. Các Tỳ-kheo bèn nêu lỗi trình Phật, mới bắt đầu chế ra giới trộm. Khi Phật ở tại thành Tỳ-xá-ly đã nói cho các Tỳ-kheo về quán bất tịnh. Khi đã quen với định này rồi thì chán sợ thân mạng, khen ngợi sự chết khuyến khích nên chết, Tỳ-kheo Nan-đề nhận giết mướn người Phật bèn chế ra giới sát.

Lúc bấy giờ, nhân lúc thóc mắc mỏ nên việc khất thực khó khăn. Có người đang sống bình thường bên bờ sông Bà-cầu bỗng khoe là có được phép của bậc Thượng nhân. Hàng Cư sĩ tín tâm bớt phần cúng thí. Sau đến chỗ Phật hỏi rõ nguyên do, Phật bèn quở trách và chế giới vọng ngữ. Từ đây trở đi tùy việc vi phạm mà chế ra giới cấm (Tăngkỳ luật).

Khi đó vua cha nghe tin con đã thành đạo từ sáu năm nay, bèn sai Phạm chí Ưu-đà-da đến bạch

Phật rằng từ ngày cách biệt đến nay đã mười hai năm (từ xuất gia đến thành đạo là sáu năm, từ thành đạo đến nay là sáu năm, cộng là mười hai năm) nay mong được gặp Phật một phen. Ưu-đà-da vâng lệnh vua đến chỗ Phật cầu xin xuất gia liền được chứng A-la-hán. Phật nghĩ rằng nay nên trở về nước để độ cha mẹ. Bèn sai Ưu-đà-da về nước trước và hóa mười tám phép thần biến, vua càng thương mừng. Liền ra lệnh cho quần thần và muôn dân ra tận ngoài thành bốn mươi dặm để chào đón Phật. Phật với thân trượng sáu tướng hào quang minh, thân ánh sáng vàng rực rỡ như vầng trăng giữa muôn sao. Thấy các Phạm chí ở tu lâu trong núi thân thể đen đúa hôi hám đứng hầu bên Phật khác nào đám quạ đen đậu bên núi vàng. Vua cha bèn ra lệnh chọn năm trăm người hào tộc trong nước cho làm Sa-môn để đứng hầu hai bên Phật, khi ấy như Phụng hoàng ở bên núi Tu-di (theo kinh Phổ Diệu). Bấy giờ Đức Phật vào cung ngồi trên điện. Vua và thần dân ngày ngày dâng cúng trăm thức ngon. Đức Phật nói kinh pháp độ vô lượng người. Gia-du phu nhân dắt con là La-hầu-la đến thăm hỏi Phật (lúc đó sáu tuổi). Bấy giờ các quan đều nghi ngờ bởi Thái tử bỏ nước ra đi đã mười hai năm, do đâu sinh con. Phật bảo các quan rằng: Giadu thủ tiết trong trắng nay hãy xem bằng chứng. Do đó Đức Thế Tôn biến hóa chúng Tăng đều giống y như Phật. Gia-du bèn cởi vòng đeo tay làm tin trao cho La-hầu bảo rằng: "Hãy đưa vòng này cho vị nào là cha của con. " Ngay lúc đó La-hầu liền đem vòng đến đúng Đức Thế Tôn. Vua và quần thần đều khen: "Quý thay, thật con Phật!" (kinh Phổ Diệu).

Lúc đó cả bọn tám người dòng họ Thích như A-na-luật, Điều-đạt, Nan-đà, Bạt-đề, Nan-đề… đến ngày xuất gia bèn cởi áo quý giao hết cho Ưuba-ly rồi bảo: Ngươi sống nhờ bọn ta vậy hãy lấy các áo quý này để sinh nhai. Ưu-ba-ly cũng nguyện xuất gia, bèn treo hết các áo dưới cành cây rồi cùng đến chỗ Phật. Lúc đó ngài A-na-luật xin Phật độ trước Ưu-ba-ly để diệt thói kiêu mạn (theo luật Đàm-vô-đức). Bấy giờ Nan-đà lần lượt lạy chư Tăng khi đến trước Ưu-ba-ly thì nghĩ là không đáng lạy. Phật bảo: Chỉ trọng việc thọ giới trước sau chứ không phải do sang hèn (theo Đại Trang Nghiêm Luận, Nan-đề là con vua nên sang, còn Ưu-ba-ly là tôi tớ nên hèn). Phật bảo Đề-bà-đạt-đa (tức Điều-đạt) rằng: "Ông nên ở tại gia lo việc bố thí không nên xuất gia. " Bảo thế ba lần. Đề-bàđạt-đa liền sinh ác ý nghĩ rằng: Ông Sa-môn này có tâm đố kỵ, vậy ta phải tự cạo đầu khéo tu phạm hạnh. " Về sau ông ta phạm tội ngũ nghịch, bị luồng gió ánh sáng thổi vào thân, Đề-bà liền hối tiếc niệm: "Nam-mô Phật", nhưng vừa nói "Nammô" thì liền rơi vào địa ngục. Đức Phật bảo A-nan rằng: Đề-bà ở trong địa ngục trải một đại kiếp sau đó chết rồi sinh làm Bốn Thiên vương, dần dà sinh lên Tha hóa tự tại, thân sau cùng sẽ thành Bích-chiphật tên là Nam-mô (theo Tăng Nhất A-hàm, đây là nói Đề-bà-đạt-đa khi mới xuất gia. Từ khi phạm tội ngũ nghịch thì là chuyện sau. Các việc nói đây đều là ý kinh Tiểu thừa. Còn như trong kinh Pháp Hoa Phật nói: Nhờ Đề-bà-đạt-đa làm Thiện tri thức nên nay ta sớm thành đạo Bồ-đề và thọ ký cho ông ấy làm Phật Thiên Vương. Đây là Đại thừa mở tích hiển Bản vậy).

Chính năm này Phật nói kinh Ương-quật-ma-la (Diệu Huyền bảo rằng sau khi thành đạo sáu năm mới nói).

Năm thứ mười (Kỷ Sửu), Phật ở nước Câu-dani vì nhóm tám người Bồ-tát Bà-đà-hòa mà nói kinh Ban-chu, chỉ rõ việc khổ hạnh (kinh Thập Nhị Du).

Năm thứ mười một (Canh Dần), năm này Anan lên tám tuổi được bạch ba Yết-ma thọ giới Cụ túc (ba Yết-ma chung với Yết-ma-đơn bạch trước nên gọi là bốn. Yết-ma dịch là Nghiệp, nghĩa là tạo ra thiện nghiệp). Ngài lại độ cho một trăm mười vị A-la-hán thọ ba ngữ giới. Đây là lần đầu tiên dùng dao báu đệ cạo râu tóc. Phật lại dặn dò nhóm Kiềutrần-như… truyền giới cho các Sa-di khắp ba châu thiên hạ (theo tăng-kỳ Luật). Năm này Phật ở tại núi Liễu nói pháp cho Vương đệ là Thuần Chânđà-la (kinh Thập Nhị Du).

QUYỂN 3 (Phần Hạ)

Năm thứ mười hai (Tân Mão), Phật sai ngài Mục-liên về thưa cùng vua cha và Gia-du rằng: Thái tử La-hầu nay đã được chín tuổi nên cho xuất gia. Gia-du đáp rằng: Như Lai lúc làm Thái tử cưới ta, chưa tròn ba năm thì trốn đến rừng vắng, sáu năm cần khổ chứng quả Phật trở về nước, nay lại muốn bắt con ta, sao tàn ác đến thế! (đây là trở về nước Ca-tỳ-la). Bấy giờ, Mục-liên dùng mọi phương tiện khuyên dỗ nhưng tuyệt nhiên Gia-du không nghe. Đức Thế Tôn bèn sai Hóa nhân ở trên không trung bảo rằng: Nàng có nhớ việc đem năm trăm đồng tiền bằng bạc để mua năm cành hoa sen dâng lên Đức Phật Định Quang chăng? Lúc đó nàng mong đời đời được làm vợ ta. Ta bảo: "Bồtát nhiều kiếp đều phát nguyện bố thí tất cả không trái ý người khác. " Nàng bằng lòng nên chịu làm vợ ta. Nàng thề rằng: Tùy ý chàng bố thí thề không hối tiếc. Mà nay nàng lại thương tiếc La-hầu, không cho đi xuất gia. Gia-du Đà-la nghe nói liền nhớ lại việc đời trước rõ ràng như mới hôm qua.

Nên lòng thương tự nhiên nguội lạnh, liền nắm tay La-hầu giao cho ngài Mục-liên.

Lúc ấy vua Tịnh Phạn liền tập hợp các hào tộc trong nước, mỗi nhà phải cho một đứa con theo với La-hầu. Cả thảy năm mươi cậu cùng đến chỗ Phật. Phật bảo A-nan cạo tóc cho La-hầu và năm mươi công tử. Lại bảo ngài Xá-lợi-phất làm Hòa thượng, ngài Mục-liên làm A-xà-lê. Khi đó La-hầu không thích nghe pháp, Phật bèn nói cho nghe kinh Vị Tằng Hữu, được thọ mười giới, La-hầu liền chứng bốn quả Thánh (theo kinh Vị Tằng Hữu Nhân Duyên). Khi đó vua Tịnh Phạn đến chỗ Phật thưa rằng: Thuở xưa Phật xuất gia còn có Nan-đà, nay Nan-đà cũng lại xuất gia, bao nhiêu tình thương đều đổ dồn vào đứa bé này. Nay lại xuất gia thì rõ là quốc Kế đến sẽ dứt hẳn. Đức Phật bèn nói pháp để an ủi vua. Rồi tập họp các Tỳ-kheo lập quy chế rằng: "Nếu cha mẹ không bằng lòng thì không được xuất gia. " (theo luật Di-sa-tắc). Đức Phật lại đến đầm nhơ (uế) nói pháp cho Đà-quật-ma (kinh Thập Nhị Du). Phật lại nói bát quan trai giới cho các Tỳ-kheo (kinh Bát Quan Trai Giới). Lúc đó Phật ở thành La-duyệt, có đám mười bảy đứa thiếu nhi, đứa lớn nhất mười bảy tuổi, nhỏ nhất mười hai tuổi vì tín tâm mà xuất gia, được các Tỳ-kheo độ cho đại giới, nhưng đêm lại khóc lóc vì không kham nổi ngày chỉ ăn một bữa. Phật hỏi biết được liền ra quy chế là phải đủ hai mươi tuổi mới cho thọ đại giới (theo luật Bốn Phần). Mỗi nửa tháng Phật đều nói giới. Vì chúng Tăng tập họp mệt nhọc nên cho mỗi Tăng-già-lam được kết đại giới riêng (Bốn Phần Luật).

Năm thứ mười ba (Nhâm Thìn), Phật trở về nước Ma-kiệt-đề nói Pháp cho vua Phất-ca-sa (kinh Thập Nhị Du). Ngài Bồ-tát Lâu-chí xin Phật lập giới đàn để Tỳ-kheo thọ giới. Phật bảo nên lập ở phía Đông nam ngoài viên Kỳ viên (luật Bốn Phần). Giới đàn được lập trên đất có ba lớp làm ranh để biểu tượng cho ba Không. Trời Đế Thích lại thêm một cái chảo úp để che Xá-lợi. Đại phạm Thiên vương đặt một viên vô giá bảo châu trên cái chảo úp, đó là năm lớp biểu hiện cho năm phần Pháp thân. Viên bảo châu của Phạm vương to bằng chiếc bình năm đấu. Người có phước đức lớn mới nhìn thấy được nó có ánh sáng chiếu xa đến tám trăm do-tuần. Còn kẻ phước mỏng thì thấy nó như đống mực đen (theo Nam Sơn Giới Đàn Đồ Kinh). Năm thứ mười bốn (Quý Tỵ), Đức Phật đến cội cây Khủng cụ nói kinh Bản Khởi cho Bồ-tát Di-lặc (kinh Thập Nhị Du).

Năm thứ mười lăm (Giáp Ngọ), Phật lại trở về nước Ca-tỳ-la nói Pháp cho vua cha và độ dòng họ Thích đến tám vạn bốn ngàn người đều chứng quả Tu-đà-hoàn (kinh Thập Nhị Du). Phật lại trở về quê cũ đi trên không trung cao ngang đầu người khiến vua cha muốn rờ đụng chân Phật không cần phải cúi mình (kinh Phân Biệt Công Đức, đây là khiến cha mẹ phải kính lại, để chứng tỏ muốn sinh phước. Nhưng với Phật thì được chứ các Tỳ-kheo ở đời mạt pháp đức hạnh kém e rằng chưa xứng đáng để cha mẹ kính lại). Phật nói cho vua cha và đại chúng về Quán Phật Tam-muội, thân Phật sắc vàng ròng ánh sáng vô lượng. Khi đó năm trăm người dòng họ Thích vì còn tội chướng nên thấy thân Phật là vị Bà-la-môn gầy ốm da đen như than. Phật nói những người thuở xưa mắc tội tà kiến nay xưng niệm danh hiệu Phật và làm lễ sám hối thì sẽ thấy được thân Phật sắc vàng như núi Tu-di và cầu xin Phật xuất gia thì sẽ được quả A-la-hán (theo kinh Quán Phật Tam-muội).

Khi Phật mới về nước thì bà Đại Ái Đạo xin được xuất gia (tức là Di mẫu của Phật là Ma-ha Baxà-ba-đề) xin đến ba lần vẫn không cho.

Khi Phật trở về nước lại thì lại xin xuất gia nữa và cũng như trước Phật vẫn không cho. Ngài Anan bạch Phật: Bà Đại Ái Đạo hết lòng muốn thọ trì pháp luật, mong Phật chấp thuận. Phật bảo: Muốn vậy thì phải trọn đời tuân giữ pháp Bát Kỉnh. Khi ấy bà Đại Ái Đạo được xuất gia, là vị Tỳ-kheo-ni đầu tiên (theo kinh Trung Bản Khởi). Tỳ-kheo-ni phải thọ trì pháp Bát Kỉnh là:

1. Tỳ-kheo-ni trăm tuổi vẫn phải lạy vị Tỳ-kheo mới đủ một hạ.

2. Tỳ-kheo-ni không được chê mắng thầy Tỳ kheo.

3. Tỳ-kheo-ni không được nói lỗi của Tỳ-kheo nhưng Tỳ-kheo được nói lỗi của Tỳ-kheo-ni.

4. Thức-xoa-ma-na phải theo Tăng chúng mà cầu xin thọ đại giới.

5. Tỳ-kheo-ni phạm tội tăng tàng mỗi nửa tháng phải ở giữa hai bộ Tăng mà làm Ma-na-đỏa.

6. Tỳ-kheo-ni trong mỗi nửa tháng phải ở trong Tăng bộ mà cầu giáo thọ.

7. Tỳ-kheo-ni không được kiết hạ an cư ở chỗ không có Tỳ-kheo.

8. Tỳ-kheo-ni hạ chưa giải phải đến chỗ chư Tăng xin người đến tự bốn (Bốn Phần Luật).

Phật bảo A-nan rằng: Sau khi ta diệt độ thì chánh pháp còn một ngàn năm, nay do có người nữ xuất gia xuống còn năm trăm năm. Sau khi dạy cho pháp Bát Kỉnh thì trở lại là một ngàn năm (theo pháp Trụ Ký của Thiện Kiến Luận).

Lời thuật rằng: Như Lai ở tại mười sáu đại quốc trong mười hai năm mà thuyết giáo độ người, ngài đã nói bốn kinh A-hàm và tóm tắt các điều dạy răn của bảy Đức Phật. Đến năm ấy mới bắt đầu rộng nói về giới tức hai trăm năm mươi giới của Tỳ-kheo và năm trăm giới của Tỳ-kheo-ni. Tùy hai chúng phạm đâu thì chế cấm giới đó, nên sau đó

Phật kết tập thành các điều chương để làm căn bản cho người xuất gia tuân giữ.

Thời thứ ba là Phương đẳng, là thị hiện một cõi Phật mà có sạch nhơ không đồng, hiện bày một thân mà có lớn nhỏ khác nhau, dùng một thứ tiếng nói pháp mà tùy loại đều hiểu, vì thần lực không chung nên có sạch nhơ, nghe thì có khen chê, ngửi thì có Chiêm-bặc và không Chiêm-bặc, như hoa thì có đeo vào thân hoặc không đeo. Như tuệ thì có như thế hoặc không như thế. Như thế thì gọi Tịnh Danh Phương Đẳng (Huyền Kinh quyển 11).

Kế nói Phương đẳng, tức là Kế đến Tiểu thừa nói Đại thừa. Đức Phật vốn muốn trao cho chúng sinh pháp Đại thừa, nhưng vì họ không kham nổi, nên từ Đại mà nảy sinh ra Tiểu thừa để khiến họ đoạn đứt các kết mà thành tánh. Tuy là có việc giúp ích này nhưng không phải là điều mong muốn của Phật. Do đó mà tiếp theo nói các kinh như Phương đẳng, Duy-ma, Tư Ích và Ương-quật-ma-la (Ương-quật-ma-la, Hán dịch là Nhất Thiết Thế Gian Hiện, là con của Bà-la-môn, năm mười hai tuổi mà sức vóc bằng một người lớn hoàn toàn. Cậu ta đến trước Phật nói kệ, Phật khen lành thay, liền thành Sa-môn, cúi lạy dưới chân Phật và thành A-la-hán. Ngài quở trách mười chúng đệ tử của ngài Văn-thù như Đế Thích, Phạm thiên, Bốn Thiên Vương… Đức Phật bảo: Ở phương Nam có nước Nhất-thiết Bảo Trang Nghiêm, có Phật tên Đại Tinh Tấn tức là Ương-quật-ma-la đây vậy.

Diệu Huyền quyển mười nói rằng: Kinh Ương quật được nói trong sáu năm, kinh này được nói sau thành đạo sáu năm, nay Đại sư dẫn chứng coi là thời thuyết giáo thứ ba, do lấy xưa kể vào nay vậy). Quở trách hàng Tiểu thừa ôm chặt lấy quả vị (chỉ riêng hàng Thanh văn) chê trách lỗi Tam tạng đoạn diệt (gồm cả hàng Bồ-tát Độn căn). Cho nên Thân Tử và Thiện Cát chuyên về Tiểu thừa, ngài Thân Tử không nghe oai đức của Đại thừa, Thiện

Cát mù mịt nên bị mất bát (kinh Tịnh Danh nói: Tu-bồ-đề thưa: Khi xưa con khất thực thì Duy-macật lấy bát của con đựng đầy cơm rồi bảo rằng: Nếu có thể đối việc cơm nước bình đẳng thì các pháp cũng bình đẳng. Nếu đối các pháp bình đẳng thì ăn uống cũng bình đẳng. Khất thực như thế thì mới có thể lấy thức ăn. Nếu chê Phật hủy pháp thì không được nhập chúng, trọn không được diệt độ. Ông nếu được thế thì mới được lấy thức ăn. Lúc đó thưa Thế Tôn, con nghe nói thế thì mù mịt không biết trả lời sao, bèn để bát cơm đó định ra khỏi nhà. Ngài Thân Tử sợ việc dính hoa (trong nhà Duyma, có một Thiên nữ bảo ngài Xá-lợi-phất rằng: Kết tập chưa xong thì hoa dính đầy mình, kết tập xong rồi thì hoa không dính nữa). Vì không biết lời nói ấy thế nào nên không biết đáp ra sao (Thích Thiêm nói rằng: Lấy không trí làm chủ ở nhân đạo, nên mượn việc của hai người này). Song Phương đẳng quở trách giáo ở sau Tam tạng, lúc bị quở trách thì ở vào mười hai năm trước (tức thời Lộc uyển thì trước Phương đẳng mười hai năm. Cựu dịch nói là trong mười hai năm là lầm). Làm sao biết được? Ấy là do tìm thấy các lời kể thuật quở trách xưa mà nghiệm ra việc trước. Những ai đã nhờ giáo pháp mà đắc đạo, chứng bậc Vô học, mong báo đền ân sâu của Phật, tâm tướng thể tín, không còn giận dữ. Từ xưa đến nay đã mặc tình chê bai Ương-quật và Tịnh Danh, nay đã được cái lợi thẹn bỏ Tiểu thừa mến mộ Đại thừa (Diệu Huyền 10). Chê Thiên bài Tiểu, thán Đại khen Viên (Diệu Huyền 10).

Về chư Thiên, như phẩm Bồ-tát của kinh Tịnh Danh quở trách ngài Di-lặc rằng: Thế Tôn thọ ký cho nhân quả là dùng thời nào mà thọ ký, thời quá khứ hay vị lai hay hiện tại? Tất cả chúng sinh đều tập theo tướng Bồ-đề. Nếu Di-lặc diệt độ thì tất cả chúng sinh cũng phải diệt độ. Lại bảo: Về Bồ-đề, thì không thể lấy thân mà được, không thể lấy tâm mà được. Lại kinh Ma-la nói: Ngài A-la-hán Ương-quật chê trách mười hàng đệ tử Thích, Phạm, Bốn Thiên vương… của ngài Văn-thù, là lấy Viên mà chê trách cái Thiên của Tam giáo.

Về bài Tiểu, như phẩm Đệ Tử, ngài Mục-liên nói pháp cho Cư sĩ, thì ngài Tịnh Danh quở rằng: Phàm nói pháp thì phải nói đúng như pháp, tức không có danh tự. Vì nói năng đều dứt nên pháp không có nói. Vì lìa giác quán là cái dụng biểu hiện Tam giáo, để phá ba thứ không nên của ngài Mục liên:

1. Bên ngoài nói tướng như pháp, bên trong hiểu tướng như pháp, là dùng "Thông giáo tức không" mà bài bác cái "Chẳng tức không". Vậy nói pháp không đúng lý.

2. Bên ngoài hiểu rõ căn duyên, bên trong khéo tri kiến được vô quái ngại, là dùng biệt mà phá.

3. Bên ngoài luôn từ niệm chúng sinh, bên trong nghĩ báo đền ân Phật là dùng viên mà phá. Lại Ương-quật chê trách mười hàng đệ tử là lấy cái đại của Thánh môn tam giáo mà bài bác cái Tiểu của Tạng.

Về thán Đại, như phẩm Chúng Sinh. Ví như người ảo thuật thấy kẻ bị nạn thế nào thì Bồ-tát quán thấy chúng sinh cũng thế. Như người trí thấy trăng trong nước, bóng trong gương, ánh lửa trời nóng thì Bồ-tát thấy chúng sinh cũng thế. Nay chung ví dụ chúng sinh tức là cái ý hai giáo Thông Viên vậy.

Về khen Viên, ngài Văn-thù bạch Phật rằng: "Bậc Thượng Nhân kia không ai đối đáp bằng, thấu suốt thật tướng, khéo nói pháp yếu. " Đây là khen ngài Tịnh Danh vậy. Khi ngài Văn-thù vào nhà ngài Tịnh Danh, Ngài Tịnh Danh nói rằng: Thiện lai, Văn-thù! Tướng không đến mà đến, tướng không thấy mà thấy! (Đây là khen ngợi ngài Vănthù vậy).

Bốn giáo cùng nói, Tạng là chữ Bán, Thông Biệt Viên là chữ Mãn, đối Bán mà nói Mãn, nên nói là Đối giáo (kinh Niết-bàn nói: Ví như Trưởng giả chỉ có một đứa con trai, lòng luôn thương nhớ, ngày đêm ân cần chỉ dạy có chữ Bán mà không dạy chữ Mãn, bởi do sức người con chưa kham nổi vậy. Bán là chín bộ Tiểu thừa, Mãn là mười hai bộ Đại thừa. Ước về người và về lý so sánh có thể biết).

Nếu ước về thời, tức là giờ ăn (giờ Thìn, ánh sáng từ Đất bằng chiếu ra).

Nếu ước về vị thì từ lạc sinh ra sinh tô, đây là từ Tu-đa-la sinh ra Phương đẳng (Diệu Huyền quyển 10).

Phẩm Tín Giải nói: Từ đây về sau tâm tướng thể tín nhập và xuất đều không nghi nan (Văn Cú nói rằng: Tướng, lẫn với tín. Nghĩa là đối với Tam tạng mà được Niết-bàn thì không hư dối. Nay nói cho Bồ-tát pháp Đại thừa này thì cũng không hư dối. Đây tức là con tin cha. Phật biết những ai đã diệt hết Kiến, Tư hoặc thì nghe pháp Đại thừa sẽ không chê bai, kẻ vô lậu lợi căn lắng nghe và sinh lòng tin. Đây là cha tin con vậy. Do đây mà thấy được thân tôn quý. Nghe giáo Đại thừa thì gọi là Nhập. Lại bị quở trách là còn thấy thân trượng sáu. Nói pháp Tiểu thừa thì gọi là xuất, tức Đại Tiểu xuất nhập mà không còn nghi nan. Song nơi ở thì vẫn là chỗ cũ (tuy nhập xuất mà không nghi nan thì được vào Đại thừa, mà gọi là việc của Bồ-tát, không phải do trí mình phân biệt, không nhất định phải quay Tiểu hướng về Đại, cũng vẫn ở bậc A-la-hán, mà không nói là ở vị lai sẽ được làm Phật).

Đây nên hiểu thế nào? Đây là nói sau Tam tạng, Kế đến nói Phương đẳng, đã được đạo quả rồi thì tâm tướng thể tín. Nghe Đại thừa thì gọi là nhập, trụ ở Tiểu thừa thì gọi là xuất. Quở mắng nói khó thì gọi là không nghi nan. Lại tiến vào bên trong nhà thì thấy được các quần thần hào tộc đầy sức đại công đức, nên gọi là nhập. Còn xuất là chỉ nghỉ qua đêm ở am cỏ Nhị thừa cảnh giới, nên gọi là xuất. Tâm tướng thể tín, nghĩa là chứng quả A-lahán rồi thì nghe mắng không còn sân giận mà trong tâm lại hổ thẹn, không dám lấy pháp của Thanh văn, Bích-chi ra dạy người khác nữa (Diệu Huyền, quyển 10). Kinh Tịnh Danh nói: A-nan bảo rằng: "Lúc đó tôi thật hết sức hổ thẹn. " Kinh Pháp Hoa nói rằng: Than ôi tự trách sâu sắc rằng vì sao lại tự khinh mình. Đây là tủi thẹn về Tiểu thừa. Không biết làm thế nào để được tuệ vô thượng của Phật (đây là mến mộ Đại thừa vậy).

Bộ giáo Phương đẳng lập tên-Cựu Kinh nói Phương đẳng lập tên chỉ là phân biệt sự lý chứ chưa đủ để đến tận cùng nghĩa của nó. Nay dựa vào văn các kinh Sớ Ký mà giải thích tường tận. Kinh

Quang Minh nói rằng: "Có một vị Tỳ-kheo đọc tụng kinh điển Đại thừa Phương đẳng. " Quang Minh Huyền nói rằng: "Giáo của Phương đẳng thông suốt cả ba thừa. " Kinh Tân Bản nói: "Muốn sinh vào hàng trời người, muốn chứng bốn quả Bích-chi-phật, muốn được quả Phật... đều phải Sám hối để diệt trừ tội chướng. Đâu chỉ ở Phương đẳng?". Tục Di Ký nói rằng: "Tên Phương đẳng có hai nghĩa:

1. Như Đại Kinh từ lạc mà sinh ra sinh tô, cũng như Tu-đa-la mà sinh ra Phương đẳng. Đây là ước vào thời thứ ba gọi là Phương đẳng, tức là ích lợi cả các cơ ba thừa bốn giáo.

2. Còn như Phổ Hiền quán gọi Phương đẳng, là nói thẳng về viên lý. Nay sở dĩ phải dẫn Phương đẳng vì e bảo là đồng với Phổ Hiền quán.

Từ Lý mà đặt tên nên phải dẫn văn Tam Thừa

Sám Hối, để xác định tên này đích thị là từ bộ giáo Phương đẳng chứ không phải chuyên về Sự Lý. Các văn luận về Phương đẳng có ba thuyết:

Theo Sự, Đại Kinh từ Tu-đa-la sinh ra

Phương đẳng, là kinh Vô Lượng Nghĩa. Kế nói về Phương đẳng. Thích Thiêm điều hợp sinh tô, bài xích Phương đẳng, kinh Quang Minh đọc tụng Đại thừa Phương Đẳng, Quang Minh Huyền, giáo của Phương đẳng thông cả ba thừa... đều chỉ vào thời giáo thứ ba.

Theo Lý, kinh Phổ Hiền Quán nói kinh Phương đẳng này là mắt của chư Phật.

Sự Lý đều thông, kinh Chỉ Quán nói rằng Bát-nhã có bốn phương pháp, tức là bốn môn vào ao Thanh lương, tức là Phương vậy. Cái Lý được khế hợp bình đẳng với đại tuệ tức là đẳng vậy.

Nay thời thứ ba căn cứ vào Tứ minh mà lập nghĩa, đích thực là từ Bộ Giáo để xác định tên này mà không phải chuyên về Sự Lý vậy.

Năm thứ mười sáu (Ất Mùi). Phật ở tại vườn cây Yêm-la trong thành Tỳ-da-ly nói kinh Duyma-cật (Tỳ-da-ly, Hán dịch là rộng lớn nghiêm tịnh. Yêm-la, Cựu dịch là Nại, hình nó giống trái lê, hoa nhiều hạt ít. Duy-ma-cật, Hán dịch là Tịnh Danh, ba thứ cấu hoặc đã hết có đại danh xưng đây là bộ chủ của kinh Phương đẳng).

Năm thứ mười bảy (Bính Thân). Phật nói Tư Ích Phạm Thiên Sở Vấn Kinh (kinh nói: Phương Đông có Phật hiệu là Nhật Nguyệt Quang, có Bồtát Phạm thiên tên là Tư Ích đến đây hỏi Phật).

Năm thứ mười tám (Đinh Mậu). Phật ở trên đỉnh núi Lăng-già bên bờ Nam hải, nói kinh Lănggià A-bạt-đa-la Bảo, ngài Đại Tuệ Bồ-tát hỏi Đức Thế Tôn rằng: Ngoại đạo còn ngăn cấm không cho ăn thịt, huống là Đức Như Lai Đại Bi thương xót chúng sinh mà cho phép mình và người được ăn thịt ư? Đức Phật đáp lời Bồ-tát rằng: Có nhiều nguyên nhân không được ăn thịt. Nghĩa là tất cả chúng sinh từ xưa đến nay do xoay vần thường làm bà con với nhau, vì là thân thuộc nên không được ăn thịt. Thân thể là do những thứ bất tịnh nuôi lớn. Do đó không nên ăn thịt. Chúng sinh chỉ nghe hơi đều rất sợ sệt như bọn Chiên-đà-la. Do đó không nên ăn thịt. Vì ăn thịt khiến các chú thuật không linh nghiệm, do đó không nên ăn (Hoa Nghiêm Sao nói rằng: Núi Lăng-già là nơi ở của loài Dạ-xoa-labà. Hán dịch là Không thể tới, chỉ kẻ có thần thông thì mới đến được. A-bạt-đà-la, Hán dịch là Du nhập, nghĩa là các đại chúng của Phật vượt đến bờ kia của biển, nhận lời mời của vua Dạ-xoa bay lên không trung mà đến. Thích Thiêm nói rằng: Như trong số kinh Đại thừa thì kinh Phạm Võng đứng đầu, nói thế này: Nên biết Lăng-già được nói sau bốn kinh A-hàm, là Tiệm giáo đầu tiên. Phật đáp lời Bồ-tát không nên ăn thịt, nên biết vẫn còn ở trong phần Tiểu giáo). Lại nói kinh Kim Quang Minh, kinh Lăng-nghiêm Tam-muội (Lăng-nghiêm, Hán dịch là Kiện Tướng, vì phân biệt các thứ Tam-muội nhiều ít, cạn sâu, cũng như vị đại tướng biết rõ sức của binh lính nhiều ít, thấy rõ cờ quạt thứ lớp, Kinh Thắng Man Phu nhân (nói đầy đủ là Thắng Man Sư Tử Hống Nhất Thừa Phương Tiện Đại Phương Quảng Kinh, Thích Thiêm nói: Thắng Man là con gái của Mạt-lợi Phu nhân. Mạtlợi và vua đã tin Phật nên viết thư cho con gái. Cô này nói kệ với sứ giả rằng:

Ngưỡng mong Phật Thế Tôn
Ra đời vì chúng sinh
Cũng nên thương xót con
Hãy mau đến nơi này.
Vừa nghĩ như thế thì

Phật hiện lên không trung và nói kệ rằng:

Như Lai diệu sắc thân
Thế gian không ai bằng
Không sánh khó nghĩ bàn
Thế nên hay tin lễ.

Mạt-lợi là cô gái do cây mít sinh ra, là phi của vua Ba-tư-nặc.

Năm thứ mười chín (Mậu Tuất), khi Phật mới thành đạo, vào năm thứ mười sáu, Phật biết các Bồtát gánh vác pháp tạng. Ở trong khoảng hai cõi trời Dục và Sắc giới, xuất hiện một thềm báu, triệu tập rộng rãi đại chúng chư Phật Bồ-tát mười phương đều cùng lên thềm báu. Đức Phật bay lên không trung mà nói kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập. Các Bồ-tát muốn đến nhập hội thì tùy theo đức độ của mình mà hiện tướng. Như ngài Không Tạng thì hiện ra khoảng không, ngài Hải Tạng thì hiện ra nước, nhưng đều không thấy các ngài mà đại chúng chỉ thấy khoảng không và nước (các Bồ-tát khác thì hiện tướng đều thuộc loại này).

Lúc bấy giờ các Thiên long cùng nói rằng: Từ nay trở đi bọn chúng con nguyện hộ trì chánh pháp, nếu các quốc vương có đánh đập những kẻ xuất gia trì giới hoặc hủy giới thì chúng con sẽ không hộ trì nước ấy nữa. Hàng đệ tử Thanh văn sẽ đều hướng về nước khác, khiến cõi nước ấy không còn phước điền, khiến cõi nước ấy khởi lên các dịch bệnh đói kém đao binh, gió bão hạn hán phá hoại mùa màng. Khi ấy Đức Thế Tôn phó chúc cho Tỳ-thủ Yết-ma Thiên tử, Ca-tỳ-la Dọa-xa Đại tướng, mười bảy Thiên nữ mắt hai tròng, mỗi người cùng với năm ngàn quyến thuộc... Các ông nên hộ trì cõi nước Chấn Đán, nếu ở đó có xảy ra các việc như cãi cọ, tranh đấu, chiến trận, đói kém, dịch bệnh, gió mưa lạnh nóng... thì nên khiến dứt hết và hãy khiến pháp nhãn của ta ở lâu trên đời. Phật bảo ngài Dilặc và các Bồ-tát: Ta nay vì thương xót các chúng sinh nên phân các quả báo này làm ba phần: Một phần để tự thọ dụng, một phần dành cho các Thanh văn tương ưng với thiền giải thoát Tam-muội kiên cố, sau khi ta diệt độ, khiến họ không thiếu thốn và một phần dành cho người cạo đầu mặc áo ca-sa tụng kinh Thanh văn mà phá giới ở thời chánh pháp hay tượng pháp khiến họ không thiếu thốn. Chớ khiến các ác vương cùng não hại nhau và xin gởi các hàng thí chủ vào tay các ông (theo Đại Tập Kinh, Phật Tạng Kinh nói phải nên một lòng tu hành chớ nghĩ đến việc ăn mặc, trong tướng bạch hào của Như Lai đã dành một phần cúng dường cho các đệ tử xuất gia trong đời mạt pháp đều không hết được. Phật nói: Giả sử có người xuất gia mà không trì giới thì người ấy cũng đã được giấu ấn Niết-bàn rồi. Nếu như có kẻ đến đánh mắng hoặc giựt y bát và các vật cần dùng của họ, thì kẻ ấy phá hoại báo thân của chư Phật, móc bỏ tất cả tai mắt của hàng trời người và mọi sự xử đoán của các quốc vương quần thần. Như thấy kẻ xuất gia tạo các tội nghiệp lớn như đại sát, đại đạo, đại ô uế, phạm hạnh, đại vọng ngữ và các việc bất thiện khác, thì chỉ đuổi họ ra khỏi nước, không cho ở chùa để đồng sự với các Tăng chúng, chứ không được đánh đập chửi mắng hạ nhục và các thứ hình phạt khác. Nếu ai cố tình trái pháp mà hình phạt thì kẻ ấy xa lìa hàng trời người, tất phải đọa địa ngục, huống là đánh mắng người xuất gia giới hạnh đầy đủ ư? (Kinh Đại Tập).

Ngài Xá-lợi-phất… bạch Phật rằng: Chúng con tuy được gọi là con Phật, nhưng đều là lỗi của Như Lai chứ không phải lỗi chúng con. Vì sao? Vì nếu Như Lai quyết bảo là không có Tam thừa thì há chúng con không thành Chánh giác sao? Vì sao Như Lai không cho chúng con thấy nghe dự vào hàng Thánh? Lúc đó, ngài Thân Tử… đều cởi bỏ y và khóc lóc, cả đại thiên đều rúng động mạnh (kinh Anh Lạc).

Lời thuật rằng: Kinh Anh Lạc nói: Ngài Xá-lợi-phất sau khi bị quở trách thì tâm dần dần hướng về Đại thừa nhưng cũng còn oán lời Phật nói, cho rằng: "Nếu không có Tam thừa thì chúng con đã thành Chánh giác rồi. Đây đều là lỗi của Như Lai chứ không phải lỗi của chúng con. " Kịp khi đến thời Pháp hoa nói pháp đầy đủ thì bảo rằng: "Chúng con đồng nhận pháp tánh. Vì sao Như Lai lấy pháp Tiểu thừa để mà hóa độ cho, ấy là lỗi của chúng con chứ không phải lỗi của Thế Tôn. " Thế mới biết kinh Anh Lạc nói khi không hiểu phương tiện thì lỗi ở Phật, khi nhờ Pháp Hoa mà nhập vào pháp tánh thì lỗi ở mình.

Phật ở tại tinh xá Kỳ hoàn. Lúc đó vua Ba-tưnặc cúng giỗ cha, tổ chức tiệc trai mời Phật vào cung thiết đãi. Lúc đó trong thành cũng có các Trưởng giả Cư sĩ cúng dường trai phạm, đợi Phật đến dự. Phật bèn sai ngài Văn-thù chia lãnh các Bồ-tát và A-la-hán đến thọ thực với các trai chủ. Chỉ có A-nan đi xa chưa về, ngài đang một mình trên đường về. Hôm đó vì Phật và chúng Tăng đều đi chứng trai không ai cúng, nên ngài ôm bát vào thành thứ lớp khất thực thì gặp nàng Ma-đăng-già dùng chú Phạm thiên bắt ngài vào dâm thất. Như Lai lúc đó biết việc, khi thọ trai xong trên đường về, ngài liền phóng từ đỉnh một luồng sáng trăm báu có hoa sen báu ngàn cánh trên đó đều có hóa Phật ngồi kiết già tuyên nói thần chú, Phật lại sai ngài Văn-thù đến đọc chú dắt A-nan và Ma-đănggià đến chỗ Phật. Ngài A-nan gặp Phật bèn đảnh lễ khóc lóc tiếc cho mình từ vô thủy đến nay chỉ ham học nên đạo lực chưa đầy đủ. Liền ân cần thưa hỏi về phương tiện đầu tiên được quả Bồ-đề của mười phương Như Lai. Đức Phật bèn nói cho A-nan pháp tên là Đại Phật Đảnh Thủ-lăng-nghiêm Kinh (Lâm Gian Sáu nói: Các bậc Trí nghe ở Thiên Trúc có kinh Thủ-lăng-nghiêm thì luôn cầu nguyện kinh sớm đến cõi này).

Lời thuật rằng: Cả một đời thuyết giáo cốt yếu cuối cùng là ở chỗ khai hiển, mà công khai hiển mầu nhiệm nhất thì phải quy cho Pháp Hoa. Các kinh khác có nói về Viên thì đều là nghĩa của Phương Đẳng Tứ Giáo cùng nói, mà Cô Sơn thì muốn xem Lăng-nghiêm đồng với Pháp Hoa về vị đề hồ. Ấy là không nghĩ rằng Phương đẳng là kinh bao gồm mà mất đi ý chỉ, Pháp Hoa là thuần nhất không xen tạp vậy.

Thuật rằng: Phật nói kinh Phương đẳng đến đây đã được tám năm. Nay chỉ nêu các kinh đương thời để thấy nghĩa mà Tứ giáo đều nói.

Thời thứ tư là Bát-nhã, người lớn thì trông nhờ cái dụng của ánh sáng, còn trẻ em thì chết vì ánh sáng. Cho nên văn có nói: Chỉ nói với Bồ-tát sự thực ấy mà không nói cho ta cái chân yếu này. Tuy là ba người cùng học nhưng chỉ có hai người được chứng, nói đầy đủ như ở Đại Phẩm (Huyền Kinh quyển một, Thích Thiêm nói: Bồ-tát nhờ ánh sáng Bát-nhã là dụng của các pháp, còn hàng Nhị thừa như đứa trẻ mới sinh được bảy ngày, nếu nhìn vào mặt trời thì sẽ mù mắt. Vì vô minh hoàn toàn có nghĩa như là chết).

Kế nói các kinh Ma-ha Bát-nhã, Hoa Nghiêm, Hải Không, Lịch Kiếp Tu Hành, đây là sau thời Phương đẳng mà nói về Đại Phẩm, Đại Phẩm hoặc nói về vô thường, vô ngã hoặc nói về không, hoặc nói về bất sinh bất diệt đều trải qua từ sắc tâm cho đến bậc Nhất thiết chủng trí. Mỗi câu hồi chuyển nói rõ pháp tu hành. Lại có trăm ngàn Tỳ-kheo, vạn ức trời người chứng quả Tu-đà-hoàn cho đến A-lahán. Người ở bậc Bích-chi-phật, nghiệm ra là cộng Bát-nhã còn nói Hoa Nghiêm, Hải Không, (Thích Thiêm nói: "Còn nói" trở đi là nói về "bất cộng Bát-nhã", "Cộng" thì chung Thông cả Nhị thừa, còn "bất cộng" thì là Biệt Viên, không chung với Nhị thừa). là căn cứ vào pháp tánh luận thì Độn căn Bồ-tát có ba chỗ nhập pháp giới: Một là Bát-nhã; hai là Pháp Hoa; ba là Niết-bàn. Nhân nghe Bátnhã mà nhập Pháp giới tức là Hoa Nghiêm Hải Không (Diệu Huyền quyển 10). Kế đến nói Bátnhã chuyển giáo, phó tài, Dung thông, đào thải. Trong thời Bát-nhã này không nói tạng giáo, không kèm thêm hai thứ Thông Biệt mà chính nói về Viên giáo thôi (Tứ Giáo Nghi, tập Giải nói rằng: Chuyển giáo, là tu Bồ-đề thì chuyên hiểu về không, Xá-lợi thì chuyên về trí tuệ, Phật dùng Bát-nhã là pháp không tuệ để gia bị cho hai vị ấy chuyển làm Bồtát nói các pháp không, chẳng điều gì là chẳng thanh tịnh, từ đây trở đi chuyển độ người khác. Kinh nói rằng: Chúng ta tuy bị các thứ đào thải, nói pháp Bồ-tát nhưng không trông mong chứng đắc nên gọi là chuyển giáo. Phó tài, ở thế gian thì bảy báu của Trưởng giả là tài, còn xuất thế gian thì Pháp Vương Bát-nhã là tài. Nếu ước theo ý Phật, lấy Bát-nhã này gia bị cho hai người thì tức là Phó tài. Như ở Nhị thừa chỉ nói là Giai thuyết. Cho nên Đại Phẩm nói rằng: Há hàng Thanh văn dám nói ra điều chi, nếu có nói ra thì đều là do sức Phật. Nếu ước theo ý hóa độ thì chỉ là lãnh biết gia nghiệp, kín đáo hoàn thành lợi ích riêng, đến thời Pháp Hoa mới được gọi là Phó tài. Nên kinh nói rằng: "Những thứ ta có hiện nay đều là của con ta. " Dung thông, Như Hội bát-nhã thì tất cả pháp đều là Ma-ha-diễn, chính là Pháp Tam Giáo Dung thông. Không phải là Dung của Viên dung. Như Thích Thiêm nói: Nếu lấy Viên mà bài xích Tam và lấy Viêm mà bài xích Tạng thì Viên dung là Viên. Hoặc lấy Tam Giáo mà chê Tạng thì tức là Dung thông làm Dung. Đào thải, Đại luận nói Đào thải là giặt rửa lóng trong, lấy nước không tuệ mà lắng lọc chọn lựa vậy. Thích Thiêm nói: Phương đẳng quở trách hơi khác nghĩa "Cộng". Nay Kinh Bát-nhã này chính là Cộng Bộ. Phụ Hành nói: Dụng phụ là Thông giáo, dụng chánh là Biệt Viên, gia bị cho hàng Nhị thừa kín đáo hoàn thành lợi ích riêng. Thích Thiêm lại nói: Trước đối với Phương đẳng nghĩa đã thành Thông cho nên đến thời Bátnhã thì chỉ cần hai thứ này. Nói bất cộng, là nói ý của bộ. Ý tuy không Cộng nhưng còn có Phương Đẳng mới nhận Tiểu thừa. Đến đây thì cần có Thông. Cũng có người ở bên Đại thừa mà được Tiểu thừa. Thế nên phải gồm dùng. Nay ước về Thiên và Viên đối nhau mà luận, nên nói là kèm theo hai thứ để nói Viên. Như Nhân Vương Bátnhã nói bốn kệ Vô thường khuyên vua Phổ Minh từ ngôi bỏ nước, thì nghĩa giống ba tạng, nói về trợ đạo, không phải là ý chính của bộ.

Nếu ước theo thời thì ở trong vùng (Thích Thiêm quyển một, Ngu cũng viết là Ngung, nói thời gian đã qua lúc mặt trời sắp đứng bóng nhưng còn ở vòng ngoài, nên gọi là Ngu Trung. Lại âm dương gọi Dần Thân Tỵ Hợi là bốn Ngung).

Nếu ước theo vị thì nó là từ sinh tô sinh ra thục tô. Đây là từ Phương đẳng sinh ra Bát-nhã (Huyền Thiên quyển 1), phẩm Tín Giải nói: Lúc bấy giờ Trưởng giả có bệnh tự biết mình không bao lâu nữa sẽ chết (Văn cú-cơ đến là sinh, cơ hết là diệt, hóa cơ sắp hết nên không bao lâu sẽ chết) nên bảo kẻ cùng tử rằng ta nay có nhiều vàng bạc châu báu (Lý thì không nhiều nhưng ước theo các môn nên nói là nhiều. Vàng này là dụ cho Lý Biệt giáo, Biệt ở Bồ-tát tức là Bất cộng Bát-nhã. Lý được nói là hai giáo Biệt viên. Bạc là dụ cho Lý Thông giáo cùng

Nhị thừa đồng chứng, tức là cộng Bát-nhã. Lý được nói là Thông giáo. Lý Bát-nhã không ngoài hai thứ này. Châu báu: là nói về tất cả pháp môn). Kho lẫm đầy tràn bao nhiêu trong đó đều lấy cho con, con nên biết rõ (là Định môn tức một trăm lẻ tám thứ Tam-muội, còn kho là tuệ môn tức là mười tám Cảnh không. Kho lẫm định tuệ hai thứ Thông Biệt đều bao gồm tất cả thiền định trí tuệ, trong đầy ngoài tràn, Bồ-tát hành trì Bát-nhã nên biết rõ hai môn rộng hẹp, nên gọi là bao nhiêu. Tự làm là lấy, dạy người là cho). Kẻ cùng tử lãnh lệnh lãnh biết mọi vật nhưng không có ý mong lấy một bữa ăn (Thiện Cát tuy nói Bát-nhã nhưng tự bảo là ta không có phần ấy). Song anh ta vẫn ở chỗ của mình (cũng ở bậc A-la-hán). Đây hiểu nghĩa như thế nào? Đây là từ sau Phương đẳng Kế đến nói Bátnhã, Bát-nhã Quán Tuệ tức là nghiệp nhà trải từ danh sắc cho đến chủng trí, tức là các vật. Thiện Cát… chuyển giáo tức là nhận biết. Chỉ nói cho Bồ-tát mà mình không tự chứng, nên không trông mong nhận lấy (Huyền Kinh quyển 10).

Năm thứ hai mươi bốn (Quý Mão), Phật ở tại núi Linh thứu, vườn Cấp-cô-độc, cung trời Tha hóa tự tại và Trúc lâm cả bốn chỗ mười sáu Hội nói kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mật (núi Linh thứu ở cách thành Vương xá năm dặm trong nước Ma-già-đà, Trúc lâm ở gần bên thành, còn vườn Cấp cô thì ở nước Xá-vệ, đều thuộc Trung Ấn Độ).

Bản đồ bốn chỗ-mười sáu hội

Đại Phẩm (đời Tấn, La-thập dịch).

Phóng Quang (đời Tấn, La-xoa dịch).

Hội thứ 1, ở núi Linh thứu nói bốn trăm quyển, bảy mươi bảy phẩm (đơn dịch).

Quang Tán

Hội thứ 2, ở núi Linh thứu nói bảy mươi tám quyển, tám mươi lăm phẩm (trùng dịch).

Tiểu Phẩm

Do La-thập và Trúc Sóc Chi Sấm dịch

Hội thứ 3, ở núi Linh thứu nói năm mươi chín quyển, hai mươi hai phẩm (đơn dịch).

Đạo Hạnh

Hội thứ 4, ở núi Linh thứu nói mười tám quyển, hai mươi lăm phẩm (trùng dịch).

Tân Đạo Hạnh

 

Đại Minh Độ

 

 

Hội thứ 5, ở núi Linh thứu nói mười quyển, hai mươi mốt phẩm (đơn dịch)

Thắng Thiên Vương

Hội thứ 6, ở núi Linh thứu nói tám quyển, mười bảy phẩm (trùng dịch).

Văn-thù

Hội thứ 7, ở vườn Cấp cô độc nói hai quyển, không phẩm (trùng dịch).

 

Hội thứ 8, ở vườn Cấp cô độc nói một quyển (đơn dịch).

Kim Cang (La-thập dịch)

Hội thứ 9, ở vườn Cấp cô độc nói một quyển (trùng dịch).

 

Hội thứ 10, ở cung trời Tha hóa tự tại nói một quyển (đơn dịch).

 

Hội thứ 11, ở vườn Cấp cô độc nói năm quyển (đơn dịch).

 

Hội thứ 12, ở vườn Cấp cô độc nói giới, năm quyển (đơn dịch).

 

Hội thứ 13, ở vườn Cấp cô độc nói nhẫn, một quyển (đơn dịch).

 

Hội thứ 14, ở vườn Cấp cô độc nói cần, hai quyển (đơn dịch).

 

Hội thứ 15, ở núi Linh thứu nói định, hai quyển (đơn dịch).

 

Hội thứ 16, ở vườn Trúc lâm nói tuệ, tám quyển (đơn dịch).

 

Đại Phẩm Bát-nhã bốn mươi quyển, xét theo Tạng Kinh Mục Sáu nói rằng: Ma-ha Bát-nhã ba mươi quyển, Quang Tán Bát-nhã mười quyển. Ngài Long Thọ dùng bản này viết bộ Trí Độ Luận một trăm quyển. Ngài Trí Giả dựa vào bản Luận này mà viết lời Sớ hai mươi quyển (nay còn ở Cao Ly chưa đến Trung Quốc). Còn mười kinh Phóng Quang, Kim Cang… là dịch khoảng đời Tấn, Tống. Đến đời Đường ngài Pháp sư Huyền Trang mới dịch ra Đại Bát-nhã Kinh sáu trăm quyển. Nên biết mười kinh trước đều là văn trùng dịch. Văn các bộ mà ngài Trí Giả đã dẫn chính là nghĩa trong Đại Phẩm, do ngài La-thập dịch ở đời Tấn, bản này có trước bộ Đại Bát-nhã được dịch ở đời Đường.

Lời thuật rằng: Tứ Giáo Nghi nêu rõ: Các kinh tên Bát-nhã chung riêng và trùng dịch rất khó phân biệt. Nay chỉ nêu chung về kinh Đại Bát-nhã thì như Đại Phẩm, Tiểu Phẩm, Thiên Vương, Văn-thù, Kim Cang… mười kinh đều là trùng dịch từ Đại Bát-nhã, những quyển Biệt Hành nay không nêu ra. Bởi vì Ma-ha tức là Đại Phẩm. Lại Thích Thiêm có nói: Xưa phán định Bát-nhã có năm thời: Một là Ma-ha; hai là Kim Cang; ba là Thiên Vương; bốn là Quang Tán; năm là Nhân Vương. Đây chưa thể dùng được vì Quang Tán chỉ là một phần trên của Đại Phẩm. Xét đây thì lại biết Quang Tán không phải trùng dịch. Câu nói: "Đây chưa thể dùng được là của ngài Kinh Khê để phá chung về lỗi năm thời của các Sư xưa. "

Năm thứ hai mươi lăm (Giáp Thìn), năm thứ hai mươi sáu (Ất Tỵ), năm thứ hai mươi bảy (Bính Ngọ), năm thứ hai mươi tám (Đinh Mùi), năm thứ hai mươi chín (Mậu Thân), năm thứ ba mươi (Kỷ Dậu), năm thứ ba mươi mốt (Canh Tuất), năm thứ ba mươi hai (Tân Hợi), năm thứ ba mươi ba (Nhâm Tý). Phật ở núi Kỳ-xà-quật trong thành Vương xá nói cho vua Ba-tư-nặc nước Xá-vệ, về Bát-nhã Ba-la-mật mười bốn chánh hạnh. Lại dặn dò vua rằng: "Khi nước sắp loạn thì giặc ngoài đến xâm lấn, mặt trăng, mặt trời và các sao biến đổi, có các nạn lớn về lửa, nước, năm giống thóc không mọc, gió bão nắng hạn... thì phải thỉnh trăm vị Pháp sư, thiết lập trăm cao tòa, mỗi ngày hai thời giảng nói kinh này (nay hai bài giảng văn sớm tối thấy ở đây), bách bộ quỷ thần thích nghe kinh này sẽ hộ trì đất nước ông muôn dân an lạc, vua chúa vui vẻ. Như khi vua đi thì để kinh trên bàn bảy báu cách trước một trăm bước. Như khi vua đứng thì để kinh trên tòa có màn bảy báu, ngày ngày cúng dường như thờ cha mẹ. " Lúc đó mười sáu vua nước lớn nghe pháp xong rất vui mừng liền giao quốc sự lại cho em mình mà xuất gia tu đạo và chứng được tất cả các hạnh của Bát-nhã Ba-la-mật (theo Nhân Vương Vấn Bát-nhã Kinh, Thiêm Nhân Vương nói rằng: "Như Lai thành đạo được hai mươi chín năm thì nói cho ta Ma-ha Bát-nhã. Cho nên biết Bát-nhã ở sau thời Phương đẳng, cũng biết Nhân Vương ở sau Đại Phẩm. Theo kinh Trường A-hàm thì mười sáu nước lớn là nước Xá-vệ, nước Ma-kiệt-đề, nước Ba-la-nại, nước Tỳ-xá-ly, nước Ca-tỳ-la-vệ, nước Câu-thi-na, nước Kiều-tát-la, nước Kế đến Tân, nước Cưu-lưu, nước Già-la-càn, nước Cànđà-vệ, nước Sa-đà, nước Tăng-già-la, nước Kiệnnoa, nước Quật-xà, nước Ba-đề).

Năm thứ ba mươi bốn (Quý Sửu) Phật thành đạo đã ba mươi năm, ở tại thành Vương xá bảo các Tỳ-kheo rằng: Ai có thể vì ta mà thọ trì mười hai bộ kinh và cúng dường giúp đỡ ta. Lúc đó ngài Kiều-trần-như bạch rằng: "Con xin hầu hạ. " Phật bảo: "Ông đã quá già làm sao giúp ta được, cho đến năm trăm vị A-la-hán Phật đều không nhận. Ngài Mục-liên nhập định thấy Phật để ý A-nan như mặt trời mới mọc chiếu ánh nắng về vách phía Tây, liền bảo Kiều-trần-như. Trần-như nói với A-nan rằng: "Ngài nên hầu hạ Như Lai. " A-nan thưa: Xin Như Lai chấp nhận cho tôi ba điều:

1. Không nhận y cũ của Như Lai.

2. Không theo Như Lai mà nhận thỉnh riêng.

3. Cho tôi ra vào tự do.

Phật bảo: Tốt lắm! Đầy đủ trí tuệ để phòng việc chê bai ganh tỵ.

Bởi vì sao? Nếu như có người bảo ông vì cơm ăn áo mặc mà hầu hạ Như Lai, thế nên không nhận y cũ, không theo nhận thỉnh riêng và ra vào đúng lúc thì không thể làm lợi ích rộng lớn cho bốn bộ chúng. Cho nên ta chấp nhận cho A-nan ba điều (kinh Niết-bàn).

Lời thuật rằng: Kinh Niết-bàn nói Phật bảo ngài Văn-thù rằng: "A-nan em ta hầu hạ ta đến nay đã hơn hai mươi năm. " Lại phần sau kinh có nói: Anan đọc kệ rằng:

"Ta làm thị giả đã hai mươi năm. " Cho nên biết năm này mới làm thị giả.

Năm thứ ba mươi lăm (Giáp Dần), năm thứ ba mươi sáu (Ất Mão), năm thứ ba mươi bảy (Bính Thìn), năm thứ ba mươi tám (Đinh Tỵ), năm thứ ba mươi chín (Mậu Ngọ), năm thứ bốn mươi (Kỷ Mùi), năm thứ bốn mươi mốt (Canh Thân), năm thứ bốn mươi hai (Tân Dậu). Đức Phật đến thành Vương xá, thọ trai xong liền bảo La-vân dọn rửa, ông lỡ tay để bát rơi vỡ thành năm mảnh. Phật bảo: Sau khi ta diệt độ một trăm năm thì các Tỳ-kheo chia Tỳ-ni tạng thành năm bộ. Một trăm năm sau Cúc-đa Tôn giả có năm đệ tử, mỗi người có chấp thấy riêng:

1. Bộ Đàm-vô-đức, tên pháp là Tứ Phần (Hán dịch là Pháp Mật).

2. Bộ Tát-bà-đa, tên pháp là Thập Tụng (Hán dịch là Nhất Thiết Hữu).

3. Bộ Ca-diếp-di, tên pháp là Ngũ Phần (Hán dịch là Trọng Không).

4. Bộ Di-sa-tắc, tên pháp là Ngũ Phần (Hán dịch là Bất trước Hữu Vô Quán).

5. Bộ Bà-sa-phú-la, bản Luật này không đến Trung Quốc (Hán dịch là Độc Tử). cả năm bộ này đều lấy Tăng-kỳ Luật làm căn bản.

Năm thứ bốn mươi ba (Nhâm Tuất), năm thứ bốn mươi bốn (Quý Hợi), năm thứ bốn mươi lăm (Giáp Tý).

Lời thuật rằng: Phật nói các kinh Bát-nhã đến đây đã được hai mươi hai năm.

3) Thứ ba là Bí mật giáo: Như Lai đối với pháp được tối tự tại hoặc trí hoặc cơ hoặc thời hoặc xứ, ba mật bốn môn đều vô ngại không cần hỏi (Trí là nói về quyền mưu của Đại Thánh, Cơ là nói thứ lớp không đồng. Không chọn về thời gian và nơi chốn, thân khẩu ý mật, tùy bốn môn nào đều vô ngại tự tại thích hợp thời mà lập Hội). Ở tòa này nói đốn mà ở mười phương nói tiệm và bất định; ở mười phương nói đốn mà ở tòa này lại nói tiệm và nói bất định, ở tòa này không nghe mười phương và ở mười phương không nghe tòa này (mười phương và tòa này đối nhau) hoặc đều nói đốn, nói tiệm, đều bất định (căn cứ vào Văn nghĩa của Thiêm mà thêm ba chữ "đều". Cũng nên nói mười phương và tòa này đối nhau). Còn mỗi thứ không biết nhau, đối đây mà Hiển mà đối kia là Mật (đây là người không thấy nhau, Pháp không cùng nghe, lẫn lộn không biết nhau thì được ích lợi bất định). Đây là ước tòa này và mười phương đối nhau (Thiêm Khoa). Hoặc vì một người thì nói đốn hoặc vì nhiều người lại nói tiệm, nói bất định. Hoặc vì một người thì nói Tiệm, hoặc vì nhiều người thì nói đốn, hoặc đều tiệm, đều đốn, đều bất định (nghĩa như trước thêm ba chữ "đều"). Mỗi người không biết nhau làm Hiển Mật lẫn nhau (đây là người thấy nhau, pháp cùng nghe, không biết lẫn nhau, thì được lợi ích bất định). Đây là ước một người và nhiều người đối nhau (theo Thiêm Khoa Thiêm nói rằng: Một phương đã thế thì mười phương cũng thế). Hoặc ở một tòa thì im lặng mà mười phương nói hoặc mười phương im lặng một tòa nói, hoặc đều im lặng, đều nói, mỗi thứ không biết nhau, làm hiển mật cho nhau. Đây là ước tòa này và mười phương, nói và im lặng đối nhau (Thiêm Khoa, từ trên đều do Diệu Huyền Thích Thiêm) vã đã mượn ba pháp, huống là nói ra tướng của nó.

Bí mật được tên, thì Diệu Huyền nói rằng: Hiển bày bất định. Còn bí mật bất định thì Thiêm Thích nói rằng: Vì đối với bí mật đều cần hiển bày (v. v...) Do bốn vị trước có một loại Cơ mà không hiểu hiển bày nên phải cho vào Bí mật. Thế nên sức Như Lai khó nghĩ bàn đã nói cách ẩn kín, cốt là khiến chúng sinh không biết lẫn nhau, mà được ích lợi cả Đốn và Tiệm vậy.

Bí mật lập thể, thì Thiêm Thích Huyền Văn nói rằng: Thân, khẩu, ý Mật tùy bốn môn nào cũng đều vô ngại. Lại Thiêm nói: Vì Bí mật không ngoài bảy thứ này, nên Dật Đường lấy ba mật bốn môn làm thể cho đương thể, hai lý chân trung làm thể cho sở y, Thạch Pha lấy bảy giáo làm thể cho Sở dụng, tuy đều là có chỗ căn cứ nhưng cần yếu là lấy bảy giáo để làm đủ nghĩa.

Bí mật văn chứng, đây có hai nghĩa:

1. Nghĩa chứa nhóm kinh luận. Diệu Huyền dẫn kinh Niết-bàn, Bồ-tát Ca-diếp thì lập ba mươi sáu câu hỏi. Như Lai khen rằng: Khi ta mới thành Phật cũng có Bồ-tát đến hỏi nghĩa này, câu nghĩa đã hỏi công đức cũng đều như thế (đây là đích thân Phật tuyên nói). Lại Kinh Bát-nhã, các Thiên tử đều xướng lên rằng: Tôi thấy chuyển pháp luân lần hai ở cõi Diêm-phù-đề, nay chuyển giống như lần đầu (đây là chư thiên truyền rao).

2. Tên do ngài Long Thọ dịch ra. Đại Luận giải thích kinh Bát-nhã nói rằng: Pháp luân của chư Phật có hai thứ: Một là hiển; hai là mật. Chuyển lần đầu thì Thanh văn thấy có tám vạn ức người (đây là Hiển bất định giáo), còn các Bồ-tát thì thấy có vô lượng a-tăng-kỳ người được Vô sinh nhẫn (Đây là Bí mật bất định giáo).

Bí Mật không truyền, Văn Cú nói rằng: Bí mật là giấu kín không truyền. Ký nói rằng: Phật giáng sinh bảy lần không thể thuật lại được. Ngay cả Anan cũng không nhận được há là sư suy lường của người hoằng giáo, A-nan không phải không truyền bí mật, nhưng vì ứng cơ Bí mật nên không truyền đó thôi. Cho nên Bí mật không dùng mà chỉ toàn là Hiển lộ thế nên truyền bí mật cũng gọi là truyền Hiển. Các Sư đều nói rằng: Các Thánh ứng cơ bí mật vẫn không biết lẫn nhau, cho nên không thể truyền. Như trong Niết-bàn, Như Lai đích thân tuyên nói Bát-nhã. Cho nên các Thiên tử rao truyền đều kết tập thành văn, lại thành Hiển lộ nên có thể truyền vậy.

Bí mật hoành bị, Thiêm nói rằng: Bí mật hoành bị không thời nào không khắp (v. v...) há đối với Pháp Hoa mà có bí mật ư? Cần biết Hiển lộ là luận dọc thì tuy ở tại bốn thời nhưng có Hoa Nghiêm-Lộc uyển là Đại Tiểu thừa cách biệt nhau. Còn bí mật là luận ngang thì cả ẩn Hiển ở tại Cơ, không thời nào không khắp, nhưng khắp ở bốn thời trước chứ không khắp ở thời Pháp Hoa. Lại Thiêm nói rằng: Năm vị thì đường tiến dọc, đều có bán, mãn, bí mật, bất định. Đây là giải thích văn Diệu Huyền để phá các Sư phương Nam chỉ dùng năm vị (chỉ được Phương Tiện), các Sư phương Bắc riêng dùng bán mãn (chỉ được Kỳ thật). Nay các nhà dùng năm vị thành bán mãn, bán mãn thành năm vị. Cho nên nói rằng: Vị nào cũng đều có bán mãn bí mật và bất định. Đây là giải nghĩa để thành nhau một lượt như thế không phải là bảo trong Pháp Hoa thì có bốn vị bí mật bất định của các thời trước. Cho nên văn Diệu Huyền nói rằng: Huyền thật đều dạo chơi như Chim có hai cánh, tuy lại đều dạo chơi (năm vị Bán Mãn đều dùng) hàng tàng đúng chỗ (năm vị bán mãn chung thành gọi là hành, nghĩa là chữ Mãn chung thành vị đề hồ của Pháp hoa. Chỉ khi biến khắp bốn vị Bán Mãn thì gọi là Tàng, nghĩa là chữ Mãn không đến được vị đề hồ của Pháp Hoa).

Pháp Hoa không phải bí mật mà là bí mật (Huyền Văn). Pháp Hoa là Hiển không phải mật. Lại nói rằng: Pháp Hoa là bí mật còn Bát-nhã không phải bí mật. Thiêm nói: Cái trước là Hiển không phải bí mật, nghĩa là không phải mật của giấu kín. Như ở giáo trước có hàng Nhị thừa phát tâm không khiến cho kẻ chưa phát tâm biết được, thế nên là ẩn. Nay xem Bát-nhã là mật thì đây là cái mật của Diệu bí (kín nhiệm) không có trong Bát-nhã nhưng rất cao quý trong Pháp Hoa. Lại Diệu Huyền nói rằng: Bát-nhã không nói Nhị thừa làm Phật, nên không phải bí mật. Lại Diệu Huyền dẫn Đại Luận nói là các kinh khác không phải bí mật, Pháp Hoa là bí mật. Thiêm nói: Không phải bí mật trong tám giáo, chỉ là cái trước chưa nói là Bí mà mở rồi thì không còn là Bí nữa (tức hơn bốn mươi năm không hề nói).

Ba nghĩa bí mật, Thiêm nói: Cần biết rằng Bí mật lợi đồng mà nghĩa khác (v. v...). Nay nêu các văn đủ nói lên ba nghĩa:

1. Chân Bí. Huyền nói Pháp Hoa là bí mật. Thiêm nói: là mật của Bí diệu.

2. Ẩn bí, Tự có hai nghĩa Phật và Đệ tử. Huyền dẫn kinh nói rằng hơn bốn mươi năm giấu kín không nói. Đây là điều ngày xưa chưa nói, đứng về phía Như Lai là Bí vậy. Diệu Lạc nói rằng: Trong ba lượt tư luận là Bí. Pháp nói mỗi lượt thì có Đại xa nghe được Mật giáo. Đây gọi là hàng lợi căn lượt đầu. Tham dự hiểu rõ các việc Thí Dụ Nhân Duyên đối với hàng Trung Hạ chưa ngộ nên gọi là Mật. Mật này có chỗ được nghe nên đứng về phía Đệ tử là Bí vậy.

3. Bí mật, tức Diệu Huyền đã lập giáo Bí mật. Như Lai kín đáo ứng cơ không biết lẫn nhau. Thiêm nói đó là mật của Ẩn mật vậy.

Thứ tư là Bất định giáo. Do bốn vị trước có cơ phát bất định, nghe Đại thừa chứng Tiểu thừa hoặc nghe Tiểu thừa chứng Đại thừa. Ở trong nói Tiệm lại được ích lợi về Đốn, ở trong nói Đốn lại được ích lợi về Tiệm. Đây là có phân biệt về hai nghĩa Bộ giáo:

1. Ước về bộ mà luận dọc, tuy ở Cao sơn nói về Đốn, Tịch trường Bất Động mà vẫn đi du hóa ở Lộc uyển (Đây là chỗ bất định. Thiêm nói: Đây bất động bất ly bay lên du hóa. Đây là chỉ cho Tiệm nói bắt đầu từ Đốn giáo, bất động ở Đốn mà vẫn dạy Tiệm). Tuy nói bốn Đế sinh diệt mà không ngại, không sinh không diệt (Đây là pháp bất định.

Lộc uyển tuy có dạy Tiệm mà không bắt đầu ở Đốn, hai vị đã thế, các vị khác đều chuẩn theo đây). Tuy nói cho Bồ-tát về Phật cảnh giới nhưng vẫn có hàng Nhị thừa được đoạn trí. Tuy chỉ năm người chứng quả mà không ngăn được tám vạn chư thiên được Vô sinh nhẫn (Đây là nghĩa bất định). Nên biết tức Đốn mà Tiệm (ở Đốn mà được ích lợi của Tiệm), tức Tiệm mà Đốn (ở Tiệm mà được ích lợi của Đốn-Thiêm nói: Tuy chỉ cho Bồ-tát Phương đẳng và Bát-nhã nhưng ở hai thời đó đều có Tiểu quả, mới được và đã được như thường nói. Tuy năm người chưa chứng quả nhưng không ngăn được tám vạn chư Thiên được Vô sinh nhẫn (Đây chỉ là lại bắt đầu Tiệm giáo nói Bát-nhã cho nghe. Trước là căn cứ về Pháp, đây là căn cứ về người. Đắc quả không giống nhau nên chứng pháp bất định).

2. Ước theo giáo mà luận ngang. Trong vị sữa được Biệt viên đối nhau để biện Bất định. Giáo môn trong vị lạc tuy không có hai thứ khác nhau, bèn cùng với tám vạn một người đối biện. Sinh tô và thục tô thứ ba và bốn đối biện (Bát-nhã kèm cả thông, biệt, viên là ba, Phương đẳng bốn giáo nói chung là bốn) nên biết là Bất định, ước bộ ước giáo khắp bốn thời trước (đều thấy ở Diệu Huyền, Thích Thiêm).

Bất định được tên, Huyền Văn. Cả đất Nam-Bắc đều dùng chung ba thứ giáo tướng: Một là Đốn; hai là Tiệm; ba là Bất định. Lại các Sư xưa riêng lập Phương Bất Định. Nghĩa là không phải thứ lớp riêng làm một duyên. Như Kim Quang Minh, Thắng Man…, là vậy. Biết tên bất định đưa ra bởi các Sư xưa. Thiên thai đã thêm Bí mật là bốn giáo thì mới đủ nghĩa.

Bất định bày thể, Chỉ quán, Diệu Huyền, Tứ Giáo nghi dẫn kinh Tịnh Danh nói Phật dùng một thứ tiếng diễn nói pháp, chúng sinh tùy loại mỗi người đều hiểu. Đây là dẫn chứng về Bất định. Nay các Sư dùng một thứ tiếng để làm thể của Đương thể, hai Lý chân trung là thể của Sở y (nghĩa là một tiếng chung cả Đại Tiểu thừa đều hiểu đầy đủ). Văn Bất định làm chứng. Diệu Huyền dẫn Đại Kinh hoặc có thời nói sâu, có thời nói cạn, ứng hỏi liền ngăn, ứng ngăn liền hỏi (Thiêm ứng hỏi, nghĩa là đặt câu hỏi (Thụy Ứng), ngăn, nghĩa là đáp câu hỏi. Hỏi và đáp ngang hàng nên thành Bất định).

Huyền Kinh dẫn Đại Kinh nói bỏ độc trong sữa thì có thể giết người. Cho đến đề hồ cũng có thể giết người (v. v...). Chỉ Quán dẫn kinh Tịnh Danh nói: Phật dùng một thứ âm thinh mà tất chúng sinh mỗi người đều hiểu hoặc có sợ sệt (thế giới) hoặc có vui mừng (làm người) hoặc sinh chán ghét (đối trị) hoặc hết nghi ngờ (đệ nhất nghĩa). Đây là Như Lai thần lực Bất cộng pháp (v. v...) Thiêm dẫn Đại Luận nói: Chuyển lần đầu thì tám vạn người được Vô sinh nhẫn; ông Kiều-trần-như được Sơ quả. Đây là bằng chứng về bất định giáo vậy.

Để chất độc bất định, Huyền dẫn kinh Niết-bàn nói năm vị trí với ngôi vị Tứ Giáo (ba giáo trước, giáo nào cũng đều thành năm vị, đầy đủ ở Huyền Văn). Cho nên biết ba giáo năm vị trước đều thô, Viên giáo một vị đều diệu (có người bảo nên nói năm vị đều diệu. Kinh nói: Ví như người bỏ chất độc vào sữa thì có thể giết người. Cho đến vị đề hồ cũng có thể giết người.

Đây là ví dụ về dụng của hai thứ: Một là căn cứ chung về Đốn Tiệm nói giáo Bất Định mọi nơi đều thấy được Phật tánh; hai là căn cứ về hạnh bất định. Tâm hạnh của người tu ví như sữa, Thật tướng ví như chất độc. Chất độc này có công năng giết người. Đây là nói trí tuệ có sức phá tan Vô minh, từ nhiều kiếp lâu xa đến nay nói cái độc thật tướng đặt trong sữa tâm kẻ phàm phu và cái tuệ độc phát sinh không thể định được. Hoặc phát sinh ở vị đầu, hoặc phát ở vị sau, không thể xét định được thứ tự. Cho nên nói bỏ độc trong sữa cho đến vị đề hồ, trong cả năm vị đều có nghĩa giết chết… Nếu ở trong Viên giáo mà phát khởi, lần đầu tiên nghe kinh liền phát vô minh mà thấy Phật tánh là trong vị sữa giết người. Còn sáu căn thanh tịnh trở đi thì là lạc, sinh tô, thục tô… giết người. Nếu bậc Sơ trụ trở đi là vị đề hồ giết người (Huyền Văn, đầu tiên nêu ba giáo trước, tùy ở vị nào kín đáo thấy được Trung đạo tức là trong vị sữa giết người cho đến vị đề hồ giết người. Các Sư xưa nói rằng: Độc là dụ cho Phật tánh, để là dụ cho thể đầy đủ, năm vị là dụ cho năm đường. Lấy một chất độc mà để vào sữa tâm phàm phu thì tùy ở năm đường mà thọ thân khác nhau, nhưng độc tánh vẫn không mất. Khi độc tánh phát ra rõ ràng thì không luận là thuộc thân nào, như ở đại đạo mà phát, tức là ở vị đề hồ mà phát, nghĩa đã bất định nên nói giáo bất định). Một thứ tiếng bất định, Phụ Hành dẫn Khởi Tín Luận nói rằng: Một Viên Âm diễn nói thì các loại khác nhau đều hiểu. Lại trong tám mươi vẻ đẹp của Như Lai thì một âm có thể báo đến các thứ tiếng, các loại khác nhau ở các phương khác nhau đều được lợi ích. Như Lai vốn không dùng tất cả âm từ mà có thể ứng khắp tất cả âm từ, thì cùng đây đồng nghĩa bất định. Thiêm dẫn kinh Hoa Nghiêm nói rằng: "Phật dùng một diệu âm, khắp cõi nước mười phương các tiếng đều đầy đủ, mưa pháp thảy thấm nhuần. " Lại Đại Luận nói rằng: "Muốn được một âm biến khắp mười phương thì phải học Bát-nhã" (đây đều là một âm của Đại thừa). Luận Tỳ-đàm nói rằng: Phật vì bốn vua dùng Thánh ngữ nói bốn đế thì hai vua hiểu, hai vua không hiểu (tiếng Phạm thiên), lại dùng tiếng Tỳ-đà-la nói bốn đế thì một vua hiểu, một vua không hiểu. Lại dùng tiếng Lêxa nói bốn đế thì bốn vua đều hiểu. Vì bốn vua mỗi người đều có ý niệm không giống nhau. Phật nói ba lần để ứng với các niệm ấy mà giải thích chung về Bí mật bất định. Thiêm dẫn Đại Luận nói, chư Phật có hai thứ pháp luân: Một là Hiển; hai là Mật. Chuyển lần đầu thì Thanh văn thấy tám vạn chư Thiên được Vô sinh nhẫn. Các ông Kiều-trần-như chứng được Sơ quả (nay các nhà Bất định lấy làm căn cứ), còn các Bồ-tát thì thấy có vô lượng a-tăngkỳ người được Vô sinh nhẫn cho đến Thập địa, Nhất sinh bổ xứ thì gọi là Mật (nay các nhà Bí mật lấy làm căn cứ). Thiêm nói: Diệu Huyền dẫn Đại Kinh nói hoặc có thời nói sâu, có thời nói cạn… thì gọi là Bất Định. Vì do kia đây cùng hiểu lẫn nhau. Nếu Bí mật thì không biết lẫn nhau. Vậy Bất định và Bí mật thì đều là không phát xuất từ đồng nghe khác nhận (Đồng nhận giáo một âm của Như Lai nên nói là đồng nghe. Biết lẫn nhau hoặc không biết lẫn nhau nên gọi là Khác nhận). Lại Thiêm nói: Bất định và Bí mật, chỉ có biết lẫn nhau (Bất định), còn không biết lẫn nhau (Bí mật) là để phân biệt hai thứ khác nhau.

Giải thích chung về Hiển và Mật, Định và Bất định bốn trường hợp:

1. Giáo Hiển lộ nhất định: Người cùng thấy nhau, Pháp cùng nghe, cùng biết lẫn nhau có lợi ích nhất định. Diệu Huyền nói: Như phân biệt trước, chỉ căn cứ vào Hiển lộ mà nói về tướng Tiệm Đốn năm vị. Thiêm nói: Luận chung về Hiển lộ đều thuộc về Tiệm đốn.

2. Giáo Hiển lộ bất định: Người cùng thấy, pháp cùng nghe, cùng biết lẫn nhau, được lợi ích bất định. Diệu Huyền nói: Trong một thời, một nói, một nhớ nghĩ có đủ bất định. Đây bèn là Hiển lộ bất định.

3. Giáo Bí Mật nhất định: Tự nó phân hai, tự có người không thấy nhau, có pháp không cùng nghe, không biết lẫn nhau mà được ích lợi nhất định (đây là tòa này mười phương đối luận). Tự có người thấy nhau, pháp cùng nghe không biết lẫn nhau, được lợi ích nhất định (luận về một người đối nhiều người).

4. Giáo Bí Mật bất định: Tự phân hai. Tự có người mà không thấy nhau, pháp không cùng nghe, không biết lẫn nhau mà được ích lợi bất định (Đây là ở tòa mười phương đối luận). Tự có người thấy nhau, pháp cùng nghe, không biết lẫn nhau mà được lợi ích không nhất định (một người và nhiều người đối luận) Nay hai giáo Bí mật và Bất Định chỉ là Bí Mật Bất Định (Giáo Bí Mật) Hiển lộ bất định (giáo bất định). Văn Diệu Huyền nói: Nay Pháp Hoa là Hiển lộ không phải Bí mật, là Tiệm Đốn không phải Tiệm Tiệm, là Họp không phải Bất Họp, là đề hồ không phải là bốn vị kia, là Định không phải Bất định.

Thứ năm là thời Pháp Hoa Niết-bàn

Thuật rằng: Diệu Huyền nói: Nay Phật ở núi Linh thứu tám năm nói pháp. Khi sắp nhập Niếtbàn thì đồng ở tám năm. Đây là thời đồng Diệu Huyền nói Pháp Hoa là yến tiệc của Đại vương. Còn Niết-bàn là vị đề hồ. Đây là vị đồng, lại Huyền Văn nói: Giáo ý của hai kinh thì mở đầu và kết thúc đều đồng. Đây là Khai Hiển đồng. Tứ Giáo Nghi dẫn kinh Niết-bàn nói rằng: Từ Ma-ha Bát-nhã sinh ra đại Niết-bàn, nên họp với Pháp Hoa làm thời thứ năm vậy.

Nói Pháp hoa là như ánh sáng chiếu khắp cao thấp đều bằng nhau hoặc cúi đầu hoặc nói nhỏ, hoặc còn tán loạn, hoặc thiện chút ít đều thành Phật đạo cả (Thiêm nói: Kết chung loại tán loạn và thiện chút ít là không đâu không mở các nhẫn thành Phật). Không để có người diệt độ một mình, đều phải lấy cái diệt độ của Như Lai mà diệt độ, đủ như kinh nay đã khéo dùng (Diệu Huyền quyển một). Diệu pháp khó hiểu nên phải nhờ dụ để dễ bày: Vì sen nên có hoa, đây là dụ vì Thật mà bày Quyền (Thiêm nói tuy bày Quyền nhưng vốn là Thật). Văn nói: Tuy chỉ bày nhiều thứ đạo nhưng kỳ thật chỉ là Phật thừa (hai giáo làm nhân cho người, Biệt giáo dạy đạo, năm thời tám giáo nên nói nhiều thứ đạo). Hoa nở thì Sen hiện, là dụ cho việc mở quyền hiển thật. Văn Kinh nói: Mở cửa Phương tiện để chỉ bày tướng chân thật (chỉ Thật là Quyền, Quyền áng che Thật. Gọi cửa phương tiện là nay mở ra chỉ cho Quyền làm Thật, ở Quyền mà thấy được Thật nên mới gọi là mở cửa phương tiện. Chỉ là chỉ bày, tức chỉ chỗ thấy đạo). Hoa rụng thì sen thành là dụ việc bỏ quyền lập thật. Văn kinh nói: Chánh trực bỏ phương tiện, chỉ nói đạo vô thượng (Bỏ là bỏ cái tên riêng, đã mở rồi thì đều Thật, không có Quyền nào có thể luận. Nghĩa đương ở bỏ mà Quyền đổi làm Thật, chỗ bỏ kia cái thể mất tiêu. Nếu còn dính ở duyên sau thì lại thuộc vào bày vẻ ra không phải là ý ở đây. Từ trên là văn về ba ví dụ của Tích môn. Lại sen là dụ cho Bản. Hoa là dụ cho Tích. Từ Bản mà hiện Tích, Tích phải nương ở Bản (Tích không đứng riêng, Bản định hiện ra Bản). Văn Kinh nói: Ta thật thành Phật đến nay đã từ lâu xa (đầu tiên nói Bản), chỉ vì giáo hóa chúng sinh nên phải nói như thế, ta thuở nhỏ xuất gia và chứng được Tam Bồ-đề (chính nói về hiện Tích). Lại hoa nở là dụ cho mở Tích, còn Sen hiện là dụ cho hiển Bản. Văn kinh nói: Tất cả người đời đều bảo rằng đến nay ta mới thành đạo (thuật việc xưa còn mê tích). Ta thật thành Phật đã từ na do tha kiếp (chính nói việc khai Tích). Lại hoa rụng là dụ cho bỏ Tích, còn sen thành là dụ cho lập Bản. Văn Kinh nói: Chư Phật Như lai phép đều như thế (dẫn việc đồng chư Phật) vì độ chúng sinh đều là thật không dối (chính nói việc bỏ Tích, bỏ rồi thì Tích không còn, nên nói là đều Thật. Thật chỉ là Bản, Quyền chỉ là Tích. Không phải Hoa sen không lấy dụ về Quyền Thật. Bản Tích Diệu Pháp không phải là Diệu Pháp này nên không lấy dụ ở hoa sen. Ý chỉ của một bộ không nêu ra Bản Tích. Từ trên là văn về Bản môn ba dụ).

Nhập vào sen nên có hoa, hoa thật đầy đủ, có thể dụ cho tức Thật mà bày Quyền (vì sen mà có hoa, hoa áng che Thật, vì Thật mà bày Quyền). Thật ở trong Quyền, thể nó không khác). Hoa nở thì sen hiện, có thể dụ cho tức Quyền mà Thật (Cơ chín thì cần mở, mở cái hay che của nó. Ý mong quả gần gọi đó là che. Bỏ quả gần kia thì gọi là mở, mở cái mở vào, tức là cái hay che kia vậy). Hoa rụng thì sen thành, sen thành rồi cũng rụng, có thể dụ cho không phải Quyền, không phải Thật (Hoa rụng là dụ cho không phải Quyền, sen thành là dụ cho không phải Thật. Mở rồi liền bỏ, lúc đó không có đường nào khác. Mở lý giáo hạnh nhân. Vì đồng một lý nên thật đã lập rồi thì đồng ngầm có ba đức, cho nên biết ba đức không phải là Quyền Thật). Các nghĩa như thế… cho nên Hoa sen dụ cho Diệu Pháp (Diệu Huyền quyển một).

Nói khai Quyền hiển Thật, tức là mở hội Đốn Tiệm trước mà nhập vào chỗ không phải Đốn không phải Tiệm (Tập giải nói rằng: mở cái Đốn của Hoa Nghiêm, cái Tiệm của ba thời. Bốn thời ba giáo đều là chỗ mở không đồng với Hoa Nghiêm. Câm điếc nên không phải Đốn không đồng với ba thời. Thứ lớp nên không phải Tiệm. Nay Kinh khai hiển không thứ nào là không thành Phật. Cho nên nói từng nhập vào chỗ không phải Đốn, không phải Tiệm). Nói Quyền Thật thì tên chung cả xưa nay, nhưng ý nghĩ không đồng (ba giáo trước Quyền Thật bất tức, Đại Tiểu thừa cách nhau. Pháp Hoa thì Quyền Thật không hai, Quyền tức là Thật, ngoài Thật không Quyền. Nghĩa này không giống với Kinh xưa. Quyền Thật tùy thuận, cơ nghi tất đàn gặp nhau mà thôi. Kinh này vì Thật mà bày Quyền thì ý ở tại thật. Mở Quyền hiển thật thì ý ở tại Quyền. Ý này không đồng). Cho rằng Pháp Hoa trờ về trước thì Quyền Thật không đồng, Đại Tiểu thừa cách nhau (Hoa Nghiêm là Đại thừa ngăn cách với Tiểu thừa. Lộc uyển là Tiểu thừa ngăn cách với Đại thừa. Phương đẳng đồng tòa, Đại Tiểu thừa đều nghe. Bát-nhã Dung thông căn cứ vào người mà thành ngăn cách, nghĩa thấy ở Huyền Văn). Như thời Hoa Nghiêm thì một Quyền một Thật (Quyền là Biệt, Thật là Viên, mỗi thứ đều không tương tức nhau. Vả lại lấy Hoa Nghiêm mà luận ba Tiệm, khá biết). Vì sao? Vì bộ Đốn đầu thì một thô một diệu. Một diệu thì cùng Pháp hoa không hai không khác. Nếu là một thô thì cần phải đợi Pháp hoa mở hội bỏ xong, mới bắt đầu gọi là diệu (một diệu mà không khác, thì ước theo giáo hiển thật là đồng nhau. Còn một thô mới được diệu thì điểm lại các cách biệt ở trước tất thấy rõ dung và tức). Kế đến thời Lộc uyển thì chỉ thô mà không diệu (chỉ một tạng giáo). Còn Phương đẳng thì ba thô một diệu (tạng, thông, biệt là thô, còn viên giáo là diệu). Bát-nhã thì hai thô một diệu (thông, biệt là hai thô, viên là diệu, đây trở về trước là ý nghĩa khắp các thời xưa). Kịp đến Pháp hoa hội thượng gồm mở, hội, bỏ bốn vị thô ở trước (mở bốn vị thô ở trước, hội bốn vị thô ở trước, bỏ bốn vị thô ở trước, cho nên chỉ dùng chung một chữ gồm, gọi là mở, hội, bỏ) khiến thành một Diệu thừa (ở bốn thời trước có hai giáo của Nhị thừa, ba giáo của Bồ-tát, Nhân lý giáo hạnh thô thiển sai khác. Đến nay thì Pháp Hoa hoàn toàn vi diệu. Biệt Hạnh Ký nói: Vì Thật mà bày Quyền, khai Quyền hiển Thật; hội Quyền quy thật, bỏ Quyền lập Thật. Thứ Quyền thật này các bộ khác dứt khoát không có, đây là ý nghĩa thời này vậy). Các vị Viên giáo lại không cần mở, vốn tự Viên dung không đợi phải mở vậy (ở Viên Đốn xưa không cần mở mà tự Diệu. Trong thời Hoa Nghiêm thì Phổ Hiền, Phổ Nhãn ba thứ không sai khác tập họp cả Nhiễm Tịnh tất cả đều Viên dung. Tịnh danh khó nghĩ bàn mà lỗ chân lông đều dung nạp lưới tư ích sáng suốt.

Tư ích khắp bày không đâu không phải là pháp giới. Các pháp Bát-nhã trộn đồng không hai, các pháp viên diệu này cùng với Phật tri kiến của Pháp hoa ngày nay thật không hai không khác, há có thể lại mở ra khiến chúng thành Diệu ư?). Chỉ là kiêm, đản, đối, đới trong bộ, cho nên không bằng Pháp hoa thuần nhất không lẫn lộn, riêng được tên diệu, rất đáng tin vậy (Hoa Nghiêm kiêm ở hàng bố sai khác, Lộc uyển chỉ một thứ thô sinh diệt Phương đẳng Đại thừa đối với Tam tạng là Bán. Còn Bátnhã có phương tiện đới, thông, biệt. Cả bốn vị này không bằng Pháp Hoa thuần nhất Phật thừa, chỉ nay gọi diệu thì nghĩa là thế).

Cho nên Văn kinh nói: Trong mười phương Phật độ chỉ có một thừa pháp, không hai cũng không ba (chỉ có một thừa Viên Diệu, không có Thông giáo Bán Mãn đối nhau hai thứ, không có ba thừa trong Tam tạng, không có hai Đới của Bátnhã, không có ba thứ đối nhau của Phương đẳng. Nghĩa này rút ra từ Văn Cú. Kệ thấy ở chương tổng chư Phật. Đây là văn chứng tỏ giáo chỉ có một). Chính gặp lúc bỏ phương tiện chỉ nói đạo vô thượng (ba giáo phương tiện chỉ riêng nói Phật tuệ, là pháp trên hết ở thế gian, là con đường thẳng tắt nhất. Đây là văn giáo chỉ có một trong chương Thích-ca. Nay lấy nghĩa của đạo để chứng cho hạnh chỉ có một. Chỉ nói pháp cho Bồ-tát không nói cho Tiểu thừa (Ngày xưa phương tiện gọi là hóa Tiểu thừa, ngày nay khai hiển thật là Bồ-tát như kẻ cùng tử kia tự cho là khách, Trưởng giả xem thấy thật là con ta, Khai hiển Tiểu thừa làm Phật, cho nên nói rằng không nói cho Tiểu thừa. Bồ-tát thì trên cầu Phật dưới hóa độ chúng sinh, nhân ắt dẫn đến quả. Cho nên nói rằng chỉ gọi Bồ-tát. Đây là theo nghĩa dẫn văn để chứng cho người chỉ có một. Nếu căn cứ vào Kệ ở chương chư Phật thì nói rằng chỉ giáo hóa Bồ-tát. Là pháp trụ pháp vị, tướng thế gian thường trụ (Chúng sinh và chánh giác nhất như không hai, tất cả không ngoài Như, đều lấy Như làm vị. Chánh giác xuất thế cũng lấy Như làm vị, cũng lấy Như làm tướng. Thế gian và chúng sinh lại cũng thế. Tướng thế gian đã thường trụ, há không phải là Lý chỉ có một (thấy trong Văn Cú…).

Thiều nói rằng: Tướng có thể biểu thị bằng cờ xí, vị có thể ở lâu, tướng vị của chúng sinh và Phật không khác, hiển mê tức Lý, Lý tức thường trụ, Phật và chúng sinh luôn khế hợp với Lý đó. Nay lấy chương Phật vị lai để dẫn chứng về Lý chỉ có một. Lúc đó người chưa được diệu chỉ Pháp hoa mà chỉ thấy trong bộ có các ví dụ về ba xe, kẻ cùng tử, hóa thành… bèn cho là không bằng các kinh khác. Bởi không biết việc nên lại sự quyền biến của bốn thời trước để hiển bày ra xe lớn. Chỉ giao phó nghiệp nhà cốt để đến Bảo sở. Nên đến nỗi phải mang lỗi chê bai (từ trên là rút từ Tứ Giáo Nghi, diệu chỉ tức là cái diệu của Tích môn ba lần hiển khai đầy đủ. Lần đầu nói pháp nhắc lại cái quyền biến của bốn thời, hội ba thừa về Nhất thừa, ngài Thân Tử là bậc thượng căn được thọ ký. Lần Kế đến là nói ví dụ nêu rõ ba xe và một xe. Nói ví dụ về pháp trước, bốn vị đại đệ tử bày ví dụ kẻ cùng tử được gia nghiệp, là kẻ trung căn tín giải được thành Phật. Lần ba là nói giáo hóa mười sáu vị Vương tử và các hàng hạ chủng trung gian nay đã được thọ ký. Có dụ hóa thành bảo sở là hàng hạ căn một ngàn hai trăm Thanh văn… được lợi ích. Người không thấy điều đó nên đến nỗi phải chê bai. Như Sư Thanh Lương, Lý Trưởng giả… không biết ý chỉ này bèn cho là không bằng vậy).

Nếu ước về thời gian thì mặt trời đúng ngọ, đứng bóng không nghiêng lệch (Pháp Hoa khai hiển thì ba thừa chín cõi đều được ngộ nhập. Cũng như vầng mặt trời đúng ngọ thì khắp nơi đều sáng. Đó là giờ Dần thì chiếu lên núi cao, giờ Mẹo thì đến hang sâu, giờ Thìn thì chiếu khắp đất bằng, giờ Tỵ chiếu trong vùng vậy. Đời Tống hai vị Pháp sư Nghiễm và Quán cùng Thái tử Hà Thừa Thiên đã luận về nước ở giữa và một bên, y theo chu Lễ dùng một thước năm tấc để trên ngọc khuê, lập ra một cái biểu tám thước đến tiết Hạ chí vào giờ Ngọ mà đo bóng mặt trời, cũng có chút bóng thừa ra nên biết ở phương này không phải là nước ở giữa, cũng vào giờ này thì ở Thiên Trúc bóng không lệch nên biết đó là nước ở giữa, bóng một tấc trên mặt đất bằng cả vạn dặm trên trời. Nay nói bóng nghiêng tức là bóng thừa ra một bên.

Nếu ước theo vị thì từ thục tô sinh ra đề hồ, đây là từ Ma-ha Bát-nhã sinh ra Pháp Hoa (Huyền một-kinh Niết-bàn chỉ nói từ Bát-nhã sinh ra Niết-bàn. Nay Văn Huyền nói sinh ra Pháp Hoa là vì hai kinh đồng một vị nghĩa lập ra đã nói ở đây.

Phẩm Tín Giải nói: Sau đó ít lâu (cách Pháp Hoa không xa) cha biết ý con đã dần thông thái (Cơ không còn cách xa nữa) thành tựu chí lớn (liền phát đại tâm) tự hổ thẹn với tâm trước (muốn cầu Đại Đạo). Nên khi sắp lâm chung (hóa duyên sắp hết) liền bảo người con (đám học trò đã theo học với hai vạn ức Phật) cùng hội họp thân tộc (cả mười phương Pháp thân Bồ-tát có ảnh hưởng, phần lớn đều là đồng nghiệp với Phật Thích-ca ngày xưa) liền tự tuyên nói rằng: Đây là con ta (theo học với ta tức là con ta) đã bỏ ta trốn đi (xưa người này là Đại thừa đã đi vào sinh tử) hơn năm mươi năm (trải khắp sáu thú). Xưa ta ở tại thành này lo lắng kiếm tìm (xưa ở vị Pháp thân thường dùng hai trí quán sát tìm kiếm cơ nào có thể hóa độ) bỗng trong lúc ấy thì được gặp lại (ngày nay mới được cảm ứng đạo giao). Đây thật là con ta, ta thật là cha nó (ta từng ở chỗ hai vạn ức Phật giáo hóa Pháp Đại thừa kết hội với họ làm cha con để định thiên tánh). Nay tất cả bao nhiêu tài vật mà ta có (muôn hạnh muôn đức Đại thừa, hạnh làm nhân, đức làm quả) đều là của của con ta (trước nói chỗ thu vào là chỗ con ta biết chỉ cho Đại Phẩm đã học từ xưa, đã được giao phó Bát-nhã rộng hẹp, cộng và bất cộng pháp. Đây là chính thức giao cho gia nghiệp). Khi kẻ cùng tử nghe cha nói thế, hết sức vui mà thưa rằng: Con vốn không có ý mong cầu điều chi (với Ba tạng thì bản tâm không cầu. Đến Phương đẳng thì tâm thẹn Tiểu thừa mong muốn dứt tuyệt nên không mong cầu. Đến thời Bát-nhã thì tuy lãnh thọ nhưng không cho là phần của mình nên không mong cầu). Nay kho báu này tự nhiên đến (như đây không cầu mà nay tự được).

Đây nên hiểu thế nào? Tức là sau thời Bát-nhã Kế đến nói Pháp Hoa. Trước đã hiểu biết kho tàng các vật, sau không cần nói mà chỉ giao phó gia nghiệp mà thôi. Ví như trước chuyển giao đều biết rõ pháp môn, không cần phải giảng lại Quán pháp, chỉ phá ngay am cỏ cho một xe lớn thọ ký làm Phật (Huyền mười, Thọ là trao cho, Ký là ghi việc. Mở cho Thọ ký đều có chung riêng. Chung là mở cho tất cả chúng sinh đều được làm Phật. Riêng là mở cho kẻ đang nói được ngộ nhập. Chung là ghi cho được A-nậu Bồ-đề. Riêng là ghi rõ tên, nước và kiếp).

Năm thứ bốn mươi sáu (Ất Sửu). Sau khi thành đạo được bốn mươi hai năm Phật nói kinh Pháp Hoa (Cú Ký dẫn luận Pháp Tánh, nói kinh Pháp Hoa có hai chỗ, hai hội. Hội trước là nói ở tại Linh sơn, Hội sau là nói ở trên hư không, sau đó lại trở về Linh sơn, Pháp Hoa lấy vô lượng nghĩa làm tựa, pháp Phổ Hiền hạnh làm kết).

Pháp Hoa Giáo chủ căn cứ theo lập nghĩa của Tứ minh Pháp Hoa nói ba mươi hai tướng gọi là Tôn đặc, vì đó là Pháp thân, ấy là Sinh thân tức Pháp thân nên là Tôn đặc. Đây là ở chỗ khai quyền mà từ thân thấp kém hiện bày cao quý nên nói là Tôn đặc. Long Nữ muốn trình bày cái tướng Quyền Diệu, nên nói Pháp thân đủ ba mươi hai tướng. Mỗi mỗi tướng này đều là lý hiển hiện Pháp thân khắp nơi. Cho nên ba mươi hai tướng thì tướng nào cũng cùng khắp. Pháp đã đủ muôn Đức thì tướng cũng cần phải đủ. Diệu thân này không gọi là Tôn đặc thì còn thân nào nữa. Đây dứt khoát khác hẳn nghĩa Sinh thân của Tịnh giác đã định. Đến như tức một mà luận ra ba, thì chỉ ba mươi hai tướng diệu lực Như Lai, nếu là Tam tạng thì thị hiện có phần ngang nhau gọi là Sinh thân. Cũng với ba mươi hai tướng diệu lực của Như Lai mà từ chung nhập vào cơ riêng thì thị hiện có phần không bằng nhau gọi là thân Tôn đặc. Cũng với ba mươi hai tướng diệu lực của Như Lai ấy vì Viên giáo Cơ thì thị hiện mỗi mỗi tướng tức là Pháp môn Bản Tánh Sở Cụ gọi là Pháp thân. Do ba Cơ cảm với Như Lai thì tức là một thân mà hiện ra ba tướng.

Năm thứ bốn mươi bảy (Bính Dần), năm thứ bốn mươi tám (Đinh Mão), năm thứ bốn mươi chín (Mậu Thìn). Vua Tịnh Phạn bệnh nặng, nghĩ muốn gặp các con. Khi đó Phật ở tại thành Vương xá cách đó năm mươi do-tuần (Vua cha cai trị nước Ca-duy-la, còn thành Vương xá ở nước Ma-kiệt-đề đều thuộc Trung Ấn Độ, nay nói năm mươi do-tuần tức cách khoảng hai ngàn dặm) bảo Nan-đà, A-nan và La-vân cùng dùng thần túc đến cung vua. Khi bay lên không trung thì phóng luồng ánh sáng lớn chiếu đến thân vua đang bệnh liền được an ổn. Đức Phật lấy tay rờ trán vua nói rằng: "Vua cha giữ tịnh giới, tâm cấu đã lìa, nay nên vui vẻ lắng nghe kinh pháp. " Khi ấy vua cha đang nằm, chắp tay có ý đảnh lễ thì liền mạnh chung. Các người họ Thích tẩm liệm xong liền đặt quan tài trên tòa Sư tử. Đức Phật và Nan-đề để tang đứng ở đầu quan tài còn Anan và La-vân dưới chân. Vì muốn dạy kẻ bất hiếu đời sau nên Phật muốn đích thân khiêng quan tài. Bấy giờ đại thiên thế giới tất cả đều rung động. Các trời dục giới và rồng quỷ thần đều đến dự tang lễ. Khi ấy trời Bốn Thiên vương quỳ xuống xin được khiêng quan tài, các vị ấy đều biến thành hình người, Đức Thế Tôn tay bưng lư hương đi trước, cùng đưa đến mộ. Còn một ngàn La-hán ra đến bờ biển thì chất củi Chiên-đàn thơm ngát và đốt quan tài. Các Vương tử thu nhặt hài cốt để trong bình vàng, rồi xây tháp cúng dường. Phật bảo chúng hội rằng: Vua cha vì tịnh hạnh nên sinh lên cõi trời Tịnh cư (theo Tịnh Phạn Vương Nê-hoàn Kinh, người sinh ở Ngũ tịnh cư thì được quả A-na-hàm). Xưa vua Ba-tư-nặc (Vua nước Xá-vệ) cầu hôn với Ma-ha-nam dòng họ Thích. Nhà này đem đứa tớ gái gả cho và sinh một con trai tên là Lưu Ly. Năm lên tám tuổi Lưu Ly về quê ngoại để học võ thuật. Lúc đó ở đấy mới xây một giảng đường định mời Phật và chư Tăng đến giảng thuyết, Lưu Ly không biết lên ngồi trên tòa Sư tử. Các người họ Thích giận mắng rằng: "Mày là con kẻ hầu sao dám vào đây mà ngồi?", bèn đánh té xuống đất. Về sau khi lên ngôi vua, Lưu Ly bèn dẫn binh đánh dòng họ Thích. Ngài Mục-liên ba lần bạch Phật, Phật nói: "Đó là duyên kiếp trước nay phải chịu quả báo. " Vua Lưu Ly vào thành bắt các người họ Thích đem chôn chân xuống đất rồi cho voi đạp lên giết chết. Có đến chín ngàn chín trăm chín muôn người, máu chảy thành sông. Lại chọn năm trăm gái đẹp định đem về làm thiếp. Có một nàng mắng rằng: "Ta đâu thèm lấy con của tỳ nữ. " Cả năm trăm người đều mắng thế. Lưu Ly cho chặt tay chân của cả năm trăm người rồi quăng xuống hầm. Khi trở về nước Xá-vệ, anh là Thái tử Kỳ-đà ra chào. Vua Lưu Ly hỏi: "Ta đi đánh bọn họ Thích, vì sao không theo tiếp ta?". Kỳ-đà đáp: "Tôi không thể giết hại chúng sinh được!" Vua liền rút kiếm giết chết Kỳ-đà. Ông này chết rồi được sinh lên cung trời Đao-lợi. Cả năm trăm cô gái kia than oán vang đến tai Phật. Phật đến bên nói pháp, cả bọn đều chứng Pháp nhãn tịnh, khi chết được sinh lên trời. Đức Phật trở về vườn Cấp cô độc bảo các Tỳ-kheo rằng: "Bảy ngày nữa Lưu Ly và cả binh lính sẽ chết hết". Đến sáng ngày thứ bảy, vua cùng binh lính kéo đến bờ sông vui chơi. Bỗng nhiên trời sấm sét mưa to gió lớn, vua và binh lính đều bị nước cuốn trôi. Chết rồi liền đọa vào địa ngục A-tỳ (Hán dịch là Vô cứu). Phật nhân đó nói cho các Tỳ-kheo biết là do nghiệp đời trước các người họ Thích đã bắt cá giết chết, nay phải chịu quả báo như thế (kinh Trường A-hàm, theo kinh Hưng Khởi Hành nói thì: Ở quá khứ tại thành La-duyệt có một ao rất nhiều cá. Người trong thôn đến bắt. Cá nhảy lên bờ trốn đi. Có một con cá tên Du, một con tên Đa Thiệt, cùng bảo nhau: "Bọn ta không có lỗi gì mà họ đến bắt giết ngang, đời sau ta quyết phải báo thù. " Đám nam nữ trong thôn lúc ấy nay chính là các người họ Thích, còn con cá Du kia chính là vua Tỳ-lâulặc (Lưu Ly), Đa Thiệt thì nay là quan tướng quốc tên Ác Thiệt. Lúc đó ta là một cậu bé thấy cá nhảy đi thì vui mừng lấy gậy đánh vào đầu cá. Nên khi vua đánh dòng họ Thích thì ta nhứt đầu. Khi vua Lưu Ly giết các người họ Thích thì A-nan rất sầu khổ liền đến chỗ Phật nói rằng: Con và Như Lai cùng dòng họ Thích, vì sao Như Lai sắc mặt vẫn rạng rỡ như thường? Phật bảo: Ta tu Không định, ba năm nữa thầy hãy trở lại hỏi ta (kinh Niết-bàn).

Ngài Mục-liên đem bốn, năm ngàn người họ Thích mà ngài quen biết bỏ trong bình bát đem giấu trên hư không. Khi vua Lưu Ly kéo quân về, Phật bảo lấy bát ra xem thì tất cả người trong bát đều chết. Nhân đó Phật nói pháp vô thường. Vô số người đều chứng quả Tu-đà-hoàn (kinh Pháp Cú Dụ).

Năm thứ năm mươi (Kỷ Tỵ), năm thứ năm mươi mốt (Canh Ngọ), năm thứ năm mươi hai (Tân Mùi). Mùa Đông tháng mười một đã đến, Phật ở tại giảng đường nhiều lầu của tinh xá Đại lâm, ở nước Tỳ-xá-ly bảo các Tỳ-kheo rằng: Ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết-bàn, liền nói cho họ nghe kinh Phổ Hiền Bồ-tát Hành Pháp.

Lời thuật rằng: Thần Chiếu Kinh Sớ nói rằng: Tháng Kiến Tý đã đến dạy chúng hành pháp là phần kết của kinh, thì biết chỉ nói Pháp Hoa trong bảy năm thôi. Nay theo phần kinh đã khai hiển, lại hai kinh Đồng vị nên gọi chung là tám năm.

QUYỂN 4

Phần 4 NHẬP NIẾT BÀN

Lời tựa rằng: Đủ mọi pháp môn suốt một đời Như Lai đã nói chỉ có ý ở chỗ khai hiển một Đại sự nhân duyên mà thôi và đối với người đã được lợi ích lớn thì nói với họ rằng: "Người đáng độ đều đã độ xong. " Khi đó mới bảo rằng nhập diệt độ, để chỉ rõ việc hóa độ có lúc khởi đầu và kết thúc, để khiến người lười biếng phải cố gắng hơn, cũng như để khuyên bảo loài người ở vị lai. Cho đến bảo rằng: Ta không bao giờ diệt độ luôn có mặt ở tại Linh sơn. Đây là ý chỉ Như Lai bất sinh bất diệt đại Niết-bàn vậy.

Nói Niết-bàn, có hai nghĩa: Một là với người chưa thuần thục Pháp Hoa thì nói lai Tứ Giáo. Luận đầy đủ về Phật tánh khiến biết rõ chân thường, nhập vào đại Niết-bàn gọi là thu nhặt cơ giáo còn sót lại (Tứ Giáo Nghi). Nghĩa là Như Lai điều hòa thuần thục các chúng sinh tiệm cơ vì Pháp hoa và Niết-bàn đều là giáo sau vị sau. Ví như nhà nông trồng trước thì chín trước và gặt trước, trồng sau, chín sau thì gặt sau. Cho nên tám ngàn Thanh văn và vô lượng tổn sinh Bồ-tát, Đại đức Xá-lợi tử… ở trong Pháp Hoa mà được thọ ký, thấy tánh Như Lai thành quả hạt lớn. Như mùa Thu gặt xong thì mùa Đông cất giữ tất không còn làm việc nữa, đó là lần trước. Từ Ma-ha Bát-nhã sinh ra Pháp Hoa. Như người Độn căn thì không vào được Pháp Hoa bèn dùng Bát-nhã mà sàng lọc lại. Như năm ngàn hàng trời người tự khởi bị dời đi vì những người này chưa thuần thục. Lại luận Bát-nhã để vào Niết-bàn mà thấy được Phật tánh. Đây tức là lần sau. Từ Bát-nhã sinh ra đại Niết-bàn cho nên biết là Pháp Hoa ở lần trước, như mùa Thu gặt hái xong xuôi. Còn Niết-bàn ở lần sau như nhặt lượm lúa còn sót lại (Huyền 10).

Lời thuật rằng: Pháp Hoa khai hiển đã phế bỏ phương tiện. Đối với kẻ chưa thuần thục vẫn còn nhọc công điều đình (giáo hóa), cho nên đến lúc gần diệt độ hãy còn lập bày cái quyền tam giáo để làm sáng tỏ cái thật Nhất thừa. Đây là ý nói lại vậy (nghĩa ở phẩm Thánh Hạnh). Song năm ngàn người trước đã kết duyên được nghe qua khai hiển nay trong hội này lại được nói lại. Đã đối với người đương hội biết là thường cho nên cần phải liền bày ra liền dẹp bỏ đi. Đây là cái ý của diệt lại vậy (nghĩa ở phẩm Đức Vương). Nói lại tức là bày lại, còn diệt lại tức là hội thứ hai. Pháp Hoa đã bày ra đã dẹp bỏ tức là lần trước Niết-bàn lại bày lại bỏ, đó tức là lần sau. Thiêm nói rằng: Niết-bàn bày lại phương tiện. Lại nói: Diệt mất tức là hội họp vậy, đây là nghĩa này. Hai là vì Tỳ-kheo đời mạt pháp chứa vật bất tịnh (mất giới), thích đọc tụng ngoại điển mà không dạy kinh Phật (mất thừa), khởi kiến đoạn diệt đối với Phật pháp làm chết ngay Tuệ mạng, quên mất Pháp thân, khiến cho thừa và giới đều mất. Cho nên nêu rõ ba tạng để rộng mở Tông thường, bày ba thứ Quyền để phò một thứ Thật viên đốn. Do đó gọi là giáo phò luật đàm thường (thấy trong các Đại Kinh, Huyền, Thiêm và Tứ Giáo Nghi). Nếu nói không cho các Tỳ-kheo chứa tám thứ vật bất tịnh thì đó là giới môn Sự môn (đây là nghĩa giữ giới luật. Luật nói: Tám thứ bất tịnh là:

1. Ruộng vườn.

2. Gieo trồng.

3. Lúa thóc tơ lụa.

4. Nuôi người giúp việc.

5. Nuôi chim thú.

6. Tiền của châu báu.

7. Chăn nệm và nồi nêu.

8. Vàng bạc, giường chõng trang sức và các đồ quý giá.

Đây là tám vật nêu rõ lỗi không nên phạm). Nếu nói Như Lai thật không rốt ráo, nhập Niết-bàn và ngăn cấm ngoại điển, đây là thừa môn Lý môn (đây là nghĩa Đàm thường, căn cứ vào các kinh hợp nói rằng Như Lai thật không rốt ráo Niết-bàn, mới là Đàm thường. Nay Văn Thiêm lại nói: Như Lai rốt ráo nhập Niết-bàn, đây là bỏ hai chữ "thật không", nay dùng kinh để bổ túc). Nếu ở đời mạt pháp các ác Tỳ-kheo phá giới, nói Như Lai là bị vô thường và đọc tụng các ngoại điển thì đều không có thừa và giới, mất mạng thường trụ. Nếu nhờ vào các kinh này mà phò luật đàm thường thì cả thừa và giới đều đầy đủ. Cho nên biết Kinh này là bảo vật quan trọng để chuộc lại mạng thường trụ (Thiêm dẫn kinh Đại thừa nói rằng: Người chứa bảy báu để có lúa thóc sang hèn đời vị lai, nay gặp phải vua dữ vì để chuộc mạng mới đem ra dùng. Các Bí tạng của chư Phật cũng thế. Vì các ác Tỳ-kheo đời vị lai chứa nhóm vật bất tịnh nên nói với bốn chúng rằng: Như Lai rốt ráo nhập Niết-bàn, đọc tụng ngoại điển, không dạy kinh Phật… các lỗi ác đó hiện ra trên đời, để diệt các ác nên nói kinh này. Nếu kinh này bị diệt thì Phật pháp sẽ mất).

Lời thuật rằng: Sau hội Pháp hoa khai hiển là hội Niết-bàn rộng mở Thường Tông, mà biết tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Còn ở đời mạt pháp không biết, thì vì sao lại nói đại tuệ bình đẳng, nên bỗng tóm tắt giới luật không nói kinh nữa. Đây là lỗi giới chậm vậy. Cho đến việc không đọc kinh Phật chỉ thích ngoại điển, thì đây là lỗi Thừa chậm (thế mới biết đọc kinh cần phải hiểu nghĩa, tu hạnh thì mới gọi là thừa. Nếu đối với hạnh thường làm mà làm lấy có thì chỉ là phước nghiệp của trời người, nhân Bồ-đề còn xa, chưa đủ coi là quả gần để xuất thế). Nếu thừa và giới đều chậm thì không đọa tam đồ chứ còn đi đâu nữa? Đức Như Lai xem xét cơ vị lai đã lâu mới nói lên cái cách "Đi buôn gởi vàng", gìn kỹ ba tạng, trọn gặp Chân thường, lời nói phó chúc (trăn trối) là ở đây vậy. Song giáo thuyết phò luật đàm thường chính là để lợi ích cho ngày nay. Phàm là người học không tự cố gắng sao? Cho nên lấy phương tiện Chỉ quán đủ cả năm duyên, đầu tiên nói việc Trì giới để giúp đạo, cần khiến người tu hành lấy tròn ba quán để quan sát việc trì mười giới bản, các tướng thanh tịnh, Sự lý đều trì. Thừa và giới cùng gấp. Không phải đồng mười hai năm không biết Viên thường chỉ nói về Sự tướng của giới. Cho nên Nghĩa Lệ nói rằng: Tuy dựa vào diệu hạnh của Pháp Hoa Tam-muội nhưng kẻ độn căn ở đời mạt pháp nếu không được phù trợ giúp đỡ thì chánh hạnh sẽ bị che lấp lầm lạc. Cho nên cần phải phò luật đàm thường để hiển bày thật tướng. Như Đại Kinh có nói với kẻ giới chậm thì không nói là chậm, chỉ kẻ thừa chậm mới bảo là chậm. Đây là riêng khen Đại thừa phân biệt bằng lời văn hơn kém. Đâu phải cậy vào đây bỗng nói Sự giới. Chỉ quán gọi thừa gấp giới chậm là lấy thân ở tam đồ mà thấy Phật nghe kinh. Như hai thời Hoa Nghiêm và Niết-bàn thì cả quỷ, thần, rồng, thú đều được kể vào chúng tham dự. Nhân quả như thế cao thấp khác nhau đâu phải một. Vì sao lại gạn hỏi Lý giới là được đạo, đâu cần dùng Sự giới. Nay may mắn ở hàng trời người mà được đạo, ý gì phải khổ nhọc vào ở chốn tam đồ (Văn Cú). Không nói rõ Tông này thì chưa đủ để luận bàn về lời dạy cuối của Niết-bàn. Nếu chỉ hoằng hóa luật bốn Phần mà không đọc kinh Đại thừa thì chỉ biết suông về chuyên giữ những chương Trì Phạm của Lộc uyển, chưa từng nghe được cái ý chỉ hiển khai ở núi Linh thứu. Đây vì đạo cả mà khéo dùng Bi tâm. Như khi bậc Đại trí sắp mất, đệ tử hỏi phải trông cậy vào ai. Thì liền đáp: Ba-la-đề-mộc-xoa (giới) và bốn thứ Tam-muội vậy (Thừa). Ngài Tả Khê sắp viên tịch quay lại bảo môn nhân rằng: "Ta Sáu Tức Đạo Viên mà muôn hạnh không chỗ được (Thừa). Giới là gốc tâm, là thầy của các ông. " Thế nên biết các Tổ hoằng đạo chưa từng không giữ gốc là thừa giới đều gấp, là ý phò luật đàm thường vậy.

Nếu luận về thời và vị thì Niết-bàn đồng với Pháp Hoa, nếu nói về Bộ thì thuần tạp khác nhau chút ít (Tứ Giáo Nghi, Cú Ký lấy mười sáu ý để phân biệt hai kinh khác nhau, nói rằng: Xét về vị thì đồng thời, nhưng về bộ thì có khác… Lại Huyền nói: Niết-bàn còn đới ba thừa, riêng kinh này (Pháp Hoa) thì thuần nhất không tạp).

Song giáo của hai kinh thì ý khởi đầu và kết thúc đều đồng nhau. Như Pháp Hoa có ba lượt nói pháp dẹp bỏ định kiến của Thanh văn cùng quy về Nhất thật (khai tích vậy). Sau mở cái hiển gần mà trình bày xa việc Bồ-tát (hiển bản vậy). Niết-bàn trước hết cũng tu ba pháp thù thắng (Thiêm bác bỏ ba pháp tu, vì là chứng nhỏ của mười Tiên. Niếtbàn và Huyền nói: Ba pháp tu tà là người đời theo giáo của tà sư, tiếp nối cho là thường, vừa ý cho là vui, chuyển động cho là ta. Về Ba pháp tu kém cõi là Thanh văn nương vào Bán giáo cho tam giới là vô thường, các hữu không phải vui tất cả là không, không có ngã, không có ngã sở. Về Ba pháp tu thù thắng là nương vào Thắng giáo của Phật mà phá liệt tu, lấy Thường, Lạc, Ngã mà bác bỏ các thứ vô thường, khổ, không, vô ngã dối trá không thật của các Tỳ-kheo. Chỉ có Pháp thân hằng còn không hề biến đổi mừng vui thọ lạc vào tự tại. Tu như thế là nhập vào tạng bí mật. Kinh Niết-bàn nói: Xà-đềthủ-na… là mười thứ ngoại đạo) dẹp bỏ hàng Thanh văn nhập vào tạng bí mật (Khai tích). Ba mươi sáu câu hỏi sau nói việc Bồ-tát (Hiển bản-Văn Thiêm rộng luận về năm hạnh mười công của Bồ-tát-phần trên là giải thích về đồng). Lại khi Phật sắp nhập Niết-bàn liền phò trì ba tạng khuyên nhủ tương lai khiến những kẻ độn căn thời mạt pháp không khỏi chấp đoạn diệt đối với Phật pháp rộng mở thường tông để phá thứ đảo điên này, khiến Phật pháp được trường tồn. Các việc như đây, ý có sai khác (Từ trước Huyền Văn giải thích về Dị-Thiêm nói rằng: Khởi đầu thì gọi là chánh nói phần đầu-Kết thúc thì gọi là chánh nói phần cuối. Pháp Hoa lấy hai môn Bản tích để làm hai phần trước sau (đầu cuối). Đầu thì khai Quyền hiển Thật, dẹp bỏ định kiến của Thanh văn. Cuối thì nói rõ Bản môn, thêm đạo thì tổn sinh. Lại phân biệt cái khai Quyền ở trước làm chủ việc thành Phật lâu xa, cho nên chánh nói Niết-bàn mở làm bốn đoạn:

1. Phẩm Thuần-đà bảo rằng: Nói Niết-bàn để bày việc dẹp định kiến của nhị tu.

2. Phẩm Trường Thọ, luôn cả bốn phẩm nói về nghĩa Niết-bàn.

3. Phẩm Hiện Bệnh, luôn cả năm phẩm nói về hạnh Niết-bàn.

4. Phẩm Sư Tử Hống, luôn cả ba phẩm, nói về dụng Niết-bàn.

Cho nên biết Đầu là ba lần dẹp bỏ định kiến của Thanh văn. Sau là chỉ nói về nghĩa và dụng của Niết-bàn. Thế nên hai kinh khởi đầu và kết thúc là đồng. Kinh nói: Từ Ma-ha Bát-nhã sinh ra đại Niết-bàn nên gộp cả Pháp Hoa làm thời thứ năm (Tứ Giáo Nghi).

Năm thứ năm mươi ba (Nhâm Thân). Trước hết Phật đến cung trời Đao-lợi để an cư ba tháng. Phật sai Văn-thù đến chỗ mẹ bảo bà hãy kính lễ Tam bảo, Ma-gia phu nhân nghe nói thì sữa tự tuôn ra chảy thẳng đến miệng Phật. Phu nhân cùng Vănthù đến chỗ Phật, nghe Phật nói pháp và chứng quả Tu-đà-hoàn. Khi sắp hết ba tháng Phật muốn nhập Niết-bàn. Trời Đế Thích làm ba đường thềm báu. Phật từ giả mẹ cùng đại chúng trở về Kỳ hoàn (kinh Phật Thăng Đao-lợi).

Thuật rằng: Theo Hành Pháp Kinh, "Phật nói ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết-bàn" thì biết lúc Phật đang nói hành pháp vào tháng mười một năm Tân Mùi. Theo kinh Đao-lợi nói: "Ba tháng an cư" thì biết Phật nói hành pháp đã xong, ngay ngày đó đến cung trời Đao-lợi-Theo kinh này nói: "Ba tháng sắp hết Phật muốn nhập Niết-bàn", thì biết ngày mười bốn tháng hai năm này Phật trở về Diêmphù-đề và ngày mười lăm thì nhập Niết-bàn.

Khi ấy vua Ưu-điền (nước Câu-diễm-di) thương mến Thế Tôn đã đúc vàng làm tượng. Nghe Phật sắp từ thềm báu trở về liền cho voi chở tượng vàng đến đón rước Thế Tôn. Tượng vàng chiều cao giống như Phật thật, cúng rải hoa phóng ánh sáng làm lễ Phật. Đức Thế Tôn chắp tay nói với tượng rằng: Sau khi ta diệt độ ta giao cho ngươi các đệ tử của ta (kinh Quán Phật Tam-muội, theo kinh Tăng Nhất A-hàm thì trời Đế Thích thỉnh Phật lên cung trời Đao-lợi nói pháp cho mẹ nghe. Vua Ưu-điền tưởng nhớ Như Lai liền dùng gỗ chiên-đàn làm tượng Như Lai cao đến năm thước. Vua Ba-tư-nặc nghe được bèn dùng vàng ròng đúc tượng cũng cao năm thước. Khi đó cõi Diêm-phù-đề mới có hai tượng. Lại theo Tây Vức Ký thì vua Ưu-điền mời ngài Mục-liên dùng thần lực đưa thợ lên trời ngắm nhìn diệu tướng của Phật rồi dùng gỗ chiên-đàn khắc ra tượng). Di mẫu của Phật là Ma-ha Ba-xàba-đề (Hán dịch là Đại Ái Đạo) không dành nhìn thấy Như Lai diệt độ bèn cùng năm trăm vị Tỳ-kheo-ni đến lễ Phật rồi lui về tinh xá. Mỗi người ở trên không trung hóa mười tám thứ thần biến rồi cùng nhập Nê-hoàn. Phật bảo A-nan vào thành đến báo khắp Lý gia (Lý gia: là Ưu-bà-tắc thọ giới ở tại gia) làm năm trăm khúc gỗ cây thị để trà tỳ. Khi trà-tỳ xong thì lấy Xá-lợi xây tháp miếu để cúng dường (theo Phật Mẫu Nê-hoàn Kinh). Đích thân Phật nâng một chân giường, A-nan một chân cùng bay lên hư không tiến về khoảng đồi cao. Bốn bộ đại chúng mỗi bộ cử năm trăm Tỳ-kheo-ni (theo Tăng Nhất A-hàm, theo Trí Độ Luận thì Bốn Thiên vương nâng giường, Đức Phật ở trước bưng lư đốt hương cúng dường để báo ân).

Lương Hựu Luật Sư nói rằng: Đức của Di mẫu sánh ngang mẹ ruột thế nên cần phải giữ gìn đề cao cố gắng đền đáp công ân nuôi dưỡng để khuyên gắng những kẻ vô ân đời sau (theo Thích-ca Phổ). Hai ngài Xá-lợi-phất và Mục-liên không đành nhìn thấy Phật nhập Niết-bàn nên nhập diệt trước đồng thời cũng có bảy vạn vị A-la-hán nhập diệt. Lúc bấy giờ cả bốn chúng đệ tử đều hoang mang rối loạn. Như Lai dùng sức thần thông hóa hai vị đệ tử đứng hầu hai bên ngài, nên chúng sinh vui mừng bớt sầu não (Tát-bà-đa Luận).

Thuật rằng: Ngài Thân Tử (Xá-lợi-phất) không đành thấy Phật nhập Niết-bàn cho nên nhập diệt trước. Nhưng kinh Niết-bàn Sớ Dẫn Đại Kinh nói rằng: Ngài Thân Tử thấy Phật nhập Niết-bàn mà không lo buồn, thường trụ không vui... là biết nghĩa của khai hiển vậy. Không giống như đoạn văn nhỏ ghi ở đây.

Hôm nay ở trong tòa vô số chúng có người thấy Như Lai nhập Niết-bàn (kinh Tượng Pháp Quyết Nghi).

Ngày rằm tháng hai, Phật ở tại rừng cây Ta-la song thọ trên khoảnh đất Lực sĩ sinh trong thành Câu-thi-na (Hán dịch là Tam giác). Khi sắp nhập Niết-bàn thì ngài lớn tiếng bảo khắp đại chúng rằng: Hôm nay Thế Tôn sắp nhập Niết-bàn, nếu tất cả chúng sinh có gì còn nghi đều có thể hỏi, đây là lần hỏi sau cùng. Lúc đó vào buổi sáng, từ mặt Thế Tôn phóng ra các thứ ánh sáng chiếu khắp mười phương. Chúng sinh ở sáu thú cùng bảo nhau rằng chúng ta phải nhanh chóng đến khuyên Như Lai chớ nhập Niết-bàn (kinh Niết-bàn).

Lời thuật rằng: Như Lai dùng tiếng và ánh sáng khắp bảo đại chúng mà người trong sáu thú có thể bảo nhau cùng khuyến thỉnh, là bởi do bậc chúa đứng đầu dùng quyền biến lớn mà thị hiện, cho nên có thể lần lượt rao truyền đến chúng đang chịu thật báo ở tam đồ. Vì thế chúng được kể ở kinh này khi nói chư Thiên, bát bộ, sư tử, voi, chim, thú... thì đều gọi là vua, ý này nên biết.

Lúc bấy giờ bốn chúng đệ tử, các Đại Bồ-tát, các vua cõi Diêm-phù, các đại thần, trưởng giả, các trời Bốn Thiên vương, các vua bát bộ, các vua núi, biển, các vua sư tử, voi, các vua chim thú. Chỉ trừ hai chúng của Ca-diếp, A-nan và vua A-xà-thế (Phật dùng tiếng nói và ánh sáng triệu tập năm mươi hai chúng. Lúc đó Ca-diếp ở núi Kỳ-quật, Anan đang ở ngoài rừng Ta-la đang bị các ma quấy nhiễu, còn vua A-xà-thế thì do hại cha mà mình mọc ghẻ độc, đã đến sám hối Phật rồi trở về cung nên đều không biết Như Lai sắp nhập Niết-bàn. Thấy ở phần sau kinh Niết-bàn). Ai nấy đều bưng đồ đến cúng dường Phật. Ngài im lặng thọ nhận.

Lúc đó trong hội có Ưu-bà-tắc Thuần-đà bạch rằng: "Chúng con muốn ngày mai cúng dường Phật, cúi mong ngài thương xót thọ nhận vật cúng thí bé nhỏ của con. "

Phật bảo: "Ta nay nhận vật cúng dường sau cùng của ông khiến ông đầy đủ hạnh Đàn ba-lamật. "

Thuần-đà thưa: "Tuy biết Như Lai phương tiện thị hiện nhập Niết-bàn nhưng chúng con không khỏi buồn khổ. "

Phật khen: "Tốt lắm, nên biết Như Lai thị hiện giống chúng sinh mà phương tiện nhập Niết-bàn. "

Lúc đó, Thiên long bát bộ cùng thỉnh mời Như

Lai: "Cúi mong Phật trụ thế lâu dài đừng nhập Niết-bàn. "

Đức Phật nói cho họ chữ Y có ba chấm, thân Như Lai có ba pháp giải thoát Bát-nhã như chữ Y ở đời (Phạm viết chữ Y có ba chấm không dọc không ngang). Khi ấy các Tỳ-kheo thỉnh Phật nói vô thường, khổ, không, vô ngã. Ngài liền nói Thường, Lạc, Ngã, Tịnh xuất thế và bốn pháp điên đảo ở thế gian. Các Tỳ-kheo thưa rằng: "Như Lai dứt hẳn bốn thứ điên đảo biết rõ Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, vì sao không ở lại đời một kiếp hay nửa kiếp để dạy chúng con lìa bỏ bốn thứ điên đảo ấy?" Phật nói: "Nay ta có chánh pháp vô thượng đều phó chúc hết cho Ma-ha Ca-diếp, sẽ làm chỗ nương tựa lớn cho các ông, cũng như Như Lai (v. v...)". Phật bảo đại chúng rằng: "Ta nay đem chánh pháp giao phó cho các quốc vương, đại thần và bốn bộ chúng, hãy nên khuyên gắng các người học tập khiến càng tăng thượng giới, định, tuệ. Nếu ai không học ba phẩm pháp ấy thì là kẻ lười biếng, phá giới, hủy diệt chánh pháp. Đại thần và bốn bộ chúng hãy nên xử trị" (kinh Niết-bàn).

Lời thuật rằng: Phật bảo các Tỳ-kheo có bao nhiêu chánh pháp đã giao phó hết cho ngài Cadiếp, thì đây là Chánh phó pháp, vì ngài Ca-diếp có thể nối đời mà truyền giữ. Lại nói: Nay đem chánh pháp giao phó cho vua quan bốn chúng, thì đây là Bàng phó pháp. Vì các quan có thể trị người để hộ trì pháp vậy.

Phật bảo đại chúng: Bắt đầu từ hôm nay không cho hàng đệ tử Thanh văn ăn thịt (kinh Niết-bàn).

Lời thuật rằng: Kinh Phạm Võng cấm Bồ-tát không được ăn thịt. Từ thời Lộc uyển thì Tiểu thừa khi bệnh được cho ăn thịt cá. Lăng-già cũng không cho Bồ-tát ăn thịt. Thích Thiêm bảo: Sau bốn hội A-hàm thì bắt đầu cấm dần. Đã nói Bồ-tát không được ăn thịt, nên biết Tiểu thừa vẫn cho ăn. Nay bắt đầu hội Niết-bàn lại không cho hàng đệ tử Thanh văn ăn thịt. Bắt đầu từ nay thì biết Đại Tiểu thừa đều cấm. Đó chính là ý phò trì luật vậy. Hàng xuất gia đời mạt pháp đâu thể không biết tuân hành ư?

Vua A-xà-thế đã hại cha nên thân thể bị mọc ghẻ độc. Có sáu vị đại thần tà kiến tâu xàm rằng sáu sư trị được bệnh vua. Kỳ-bà thưa rằng: chỉ có Đức Phật mới trị được. Khi vua nghe tin Phật sắp nhập Niết-bàn thì té xỉu xuống đất. Thế Tôn thương xót nhập vào Nguyệt ái Tam-muội phóng ánh sáng mát mẻ chiếu đến thân vua thì ghẻ độc lành hẳn. Vua và phu nhân cùng quốc dân năm mươi tám vạn người đồng đến thành Câu-thi được nghe Phật nói pháp, thì bao nhiêu trọng tội đều được giảm nhẹ. Vua và phu nhân thể nữ đều đồng phát tâm Bồ-đề, đi quanh Phật ba vòng rồi từ giã Phật trở về cung.

Phật hỏi Kiều-trần-như: "A-nan hiện ở đâu?" Trần-như đáp: "Ở ngoài rừng Ta-la cách đại hội này mười hai do-tuần, đang bị sáu vạn bốn ngàn ức ma quấy nhiễu, vì các ma ấy tự hóa thành hình Như Lai tuyên nói tất cả pháp và thị hiện thần thông. Anan nghĩ rằng: Thần biến như thế mà không phải Phật làm ra ư? A-nan bị ma bao vây khổ sở khôn cùng, do đó A-nan không đến đây được". Phật bảo ngài Văn-thù: "A-nan em ta đã hầu ta hơn hai mươi năm nay, ông ấy đã nghe pháp và ghi nhớ đầy đủ như nước rót vào bình, thế nên ta hỏi xem đang ở đâu, nay muốn ông ấy ghi nhớ kinh Niết-bàn này nhưng bây giờ đang bị các ma quấy nhiễu, ông hãy đem đại Đà-la-ni này đến cứu về". Ngài Văn-thù vâng lời đến chỗ A-nan, Ma vương nghe chú đều phát tâm Bồ-đề bỏ hết nghiệp ma, liền thả A-nan về đến chỗ Phật (kinh Niết-bàn).

Thuật rằng: A-nan lúc đầu bị Ma-đăng-già nữ bắt, Phật sai Văn-thù đem chú đến cứu. Do đó bắt đầu nói Thủ-lăng-nghiêm đại định. Về sau ở ngoài rừng Ta-la lại bị bọn ma quấy nhiễu. Phật lại sai Văn-thù đem chú đến cứu, thế nên Ma vương phát tâm Bồ-đề do đó bỏ hết ma nghiệp. Chưa thể lấy

Thanh văn tiểu quả để suy lường. Đến như nói hầu ở hai bên Phật chỉ chứng ba quả. Đến sau khi Phật diệt độ kết tập các kinh thì mới chứng được quả thứ tư. Đây đều do ngài A-nan dùng đại Phương tiện để đặc biệt lưu tàng cát mà thôi. Bên trong ẩn hạnh Bồ-tát bên ngoài hiện tướng Thanh văn. Phật đã thọ ký cho ngài làm Phật Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương. Vậy nên theo ý này mà luận.

Phật bảo A-nan rằng: "Ở ngoài rừng Ta-la có một Phạm chí tên là Tu-bạt-đà-la đã một trăm hai mươi tuổi, tuy được năm thông nhưng chưa bỏ được tánh kiêu mạn. Thầy hãy đến đó nói với ông ta rằng: Như Lai ra đời như hoa Ưu-đàm, vào giữa đêm nay sẽ nhập Niết-bàn. Nếu có việc cần làm nên làm kịp thời. " A-nan vâng lời đến nói y thế. Tiên Tu-bạt-đà-la nói: "Tốt lắm!". Rồi cùng A-nan đến chỗ Phật, nghe Phật thuyết pháp được quả A-la-hán (kinh Niết-bàn). Khi đã chứng quả rồi, Tubạt-đà-la bạch rằng: "Thưa Thế Tôn! Cúi mong ngài ở lại ít lâu để dạy bảo xin đừng nhập Niết-bàn.

"

Đức Thế Tôn yên lặng không nhận lời. Tu-bạtđà-la không đành nhìn thấy Như Lai nhập Niết-bàn nên nhập diệt trước. Phật bảo đại chúng rằng: "Từ khi ta thành đạo đã độ Kiều-trần-như, cuối cùng độ Tu-bạt-đà-la, việc của ta đã kết thúc không còn làm nữa" (phần sau kinh Niết-bàn).

Bấy giờ A-nan dùng tiếng A-nê-lâu-đậu thưa hỏi bốn điều. Phật bảo A-nan: "Như điều thầy hỏi thì lục quần Tỳ-kheo, Xa-nặc tánh xấu làm hạnh "Ô tha gia" làm sao ở lại chung nhau được, sau khi ta diệt độ rồi thì Tỳ-kheo Xa-nặc sẽ dần dần điều phục bỏ đi tánh xấu.

Hỏi: Sau khi Phật diệt độ rồi thì lấy ai làm thầy? Đáp: Thi ba-la giới là Đại sư của các ông.

Hỏi: Sau khi Phật Niết-bàn rồi thì nương vào đâu mà trụ? Đáp: Nương vào bốn Niệm xứ nghiêm tâm mà trụ:

1. Quán thân tánh vốn đồng với Hư Không, gọi là Thân niệm xứ.

2. Quán thọ không ở trong hay ở ngoài hoặc ở chính giữa gọi là Thọ niệm xứ.

3. Quán tâm chỉ có danh tự, danh tự tánh vốn rời nhau, gọi là Tâm niệm xứ.

4. Quán pháp không được pháp lành không được pháp không lành, gọi là Pháp niệm xứ.

Tất cả người tu cần phải nương vào bốn Niệm xứ này mà trụ. Hỏi: Sau khi Như Lai diệt độ, kết tập pháp tạng thì đầu tất cả các kinh nên để những gì?

Đáp: Nên để: Như vầy tôi nghe: Một thuở nọ Phật ở tại chốn nào, phương nào, cùng bốn chúng mà nói kinh ấy (phần sau kinh Niết-bàn).

Khi ấy A-nan hỏi rằng: Sau khi Như Lai Niếtbàn thì tổ chức lễ tống táng như thế nào?

Phật bảo: Nên đúng theo pháp chôn cất Chuyển luân Thánh vương, dùng lụa trắng quấn thân rồi thoa hương bột, quan tài bằng vàng, quách bằng sắt để lịm thân vua, rẩy dầu tô, dùng gỗ thơm để thiêu thân. Khi lửa tắt thì nhặt lấy hài cốt, xây tháp kính thờ. Những ai thấy được sẽ buồn vui nhớ nghĩ ơn đức trị vì của vua. Ta nay là Thánh vương cũng thế. Ở cõi nước ta thì chúng sinh ở vị lai sẽ có nhiều cách như thủy táng, hỏa táng hoặc táng trong mộ tháp. Trong cõi Diêm-phù có nước Chấn Đán, ta sai ba Thánh ở đó giáo hóa, nhân dân hiền lành thương nhau, lễ nghĩa đầy đủ (kinh Trũng Mộ Nhân Duyên, Chỉ Quán nói: Ta sai ba Thánh giáo hóa nước Chấn Đán ấy, giúp làm nhân nghĩa, trước ép dẫn vào chân đạo sau mới mở lời. Theo Thanh Tịnh Pháp Hạnh Kinh thì Bồ-tát Quang Tịnh thì ở đấy (Chấn Đán) gọi là Khổng Tử, Bồ-tát Ca-diếp ở đấy gọi là Lão Tử, Bồ-tát Nguyệt Quang thì ở đấy gọi là Nhan Hồi).

Khi Phật nói kinh Niết-bàn, có một vạn năm ngàn ức người đối với kinh không có tín tâm, nhưng ở vị lai họ lại được tín tâm.

Lời thuật rằng: Nay thấy câu tuyệt diệu này không biết dựa vào văn nào. Đây là hạng người rất độn căn, tức là những kẻ xuất gia ở đời vị lai đầy đủ chánh tín học Phật pháp. Chúng ta đâu được may mắn dự vào hạng người này! Khi Như Lai sắp nhập Niết-bàn thì chư Thiên, đại chúng cùng đến cúng dường. Chỉ có Loa Kế đến Phạm Vương là không đến hầu thăm. Lúc đó đại chúng rất ghét sự ngã mạn của ông ta liền sử dụng cả trăm ngàn thần chú Tiên để đến bắt ông ta, nhưng chỉ thấy các thứ bất tịnh ở dưới hào thành của những người bị phạm chú mà chết. Nên lại gấp sai Vô Lượng Kim Cang mang thần chú đi bắt. Đến bảy ngày vẫn không ai bắt được. Đại chúng rất buồn lo nói kệ. Như Lai liền dùng thần lực Đại biến tri từ tim trái của ngài hóa ra thần Kim Cang Bất Hoại, ở giữa Đại chúng mà hiện thần thông thì khắp tam thiên thế giới sáu lần chấn động, thần phóng mình đến ngay chỗ Phạm vương chỉ tay vào các vật dơ bẩn kia thì biến thành đại địa rồi bảo Phạm Vương rằng: Ngươi thật quá ngu si, Như Lai sắp nhập Niết-bàn, sao ngươi không đến? Liền dùng sức Kim Cang Bất Hoại gợi ý cho. Phạm Vương bèn phát tâm đến chỗ Như Lai (Uế Tích Kim Cang Linh Yếu Môn, tên gọi Uế Tích là như kinh nói: Kim Cang chỉ uế vật của Phạm Vương biến thành đại địa, vì dùng thần thông biến ra uế cảnh nên gọi là Uế Tích Kim Cang).

Khi Thế Tôn sắp nhập Niết-bàn. Lúc đó là nửa đêm yên lặng không một tiếng động. Phật tóm tắt nói pháp cần yếu cho các Đệ tử: Sau khi ta diệt độ, Tỳ-kheo các ông phải nên tôn trọng trân kính Ba-la-đề-mộc-xoa, phải biết đó là bậc Đại sư của các ông, nếu ta còn ở đời thì không khác gì giới luật này (kinh Di Giáo).

Phật bảo chúng rằng: Ta tuy ở cõi Diêm-phùđề này thường luôn thị hiện nhập Niết-bàn, nhưng thật chẳng phải là Niết-bàn rốt ráo. Thế nên phải biết đó là pháp thường trụ, là pháp không biến đổi (kinh Niết-bàn). Lúc đó Thế Tôn ở trên giường bảy báu, nằm nghiêng về phía hông phải, đầu xoay về hướng Bắc, chân hướng về phương Nam, mặt ngó về phương Tây, lưng quay về hướng Đông. Đúng giữa khuya lặng yên không tiếng động phút chốc Như Lai nhập Niết-bàn. Rừng cây Ta-la có bốn đôi cây và tám gốc lẽ. Khi Phật nhập Niết-bàn rồi thì hai cặp Đông tây họp lại thành một cây, hai cặp Đông bắc họp thành một cây to rủ xuống để che kín Như Lai và giường bảy báu, lá cây buồn thảm có màu trắng toát như bạch hạc. Đại chúng than khóc tiếng vang khắp cả thế giới (phần sau kinh Niết-bàn). Bấy giờ tất cả nhân dân đều vào thành, làm Kim quan bảy báu, dầu trầm chiên-đàn, hương hoa phướn lọng… các thứ đưa đến cúng dường trước Như Lai. Đại chúng đều buồn thương nghẹn ngào cùng phò Như lai vào Kim quan. Lại sai bốn lực sĩ thỉnh Kim quan vào thành nhưng không nổi. Lại sai đến mười sáu lực sĩ cũng khiêng không nổi. Khi đó A-nê-lâu-đậu (A-na-luật) bảo các lực sĩ rằng: Giả sử tất cả người trong thành này đều cùng khiêng Kim quan Phật thì cũng không nổi, cần phải có đại chúng, chư Thiên trợ giúp thì quý ông mới khiêng nổi mà vào thành được. Nói chưa dứt lời thì trời Đế Thích đã mang bảo cái che trên không trung, cho đến các trời Sắc giới đều cũng như Đế Thích cùng đến cúng dường Kim quan Phật. Thế Tôn đại bi tự cất Kim quan lên không trung cao một cây Đa-la, từ cửa Tây vào thành rồi ra cửa Đông, lại vào cửa Nam và ra cửa Bắc, quanh trái qua phải vòng quanh khắp thành đến bảy vòng, rồi ở trên không từ từ hạ xuống giường bảy báu tại chỗ trà-tỳ. Khi ấy trời bốn Thiên vương mỗi vị đều lấy trầm thủy chiên-đàn trên trời mỗi thứ năm trăm gốc, cho đến chư Thiên cõi Sáu dục và đại chúng ở nhân gian ai nấy đều mang trầm thủy chiên-đàn đến chỗ trà-tỳ (phần sau kinh Niết-bàn).

Ngày hai mươi hai tháng hai Như Lai đã Niếtbàn được bảy ngày sắp đưa ra khỏi Kim quan. Cả đại chúng đều buồn thương khóc lóc cùng phò Như Lai đến giường bảy báu, nước thơm rảy khắp, mũ đẹp lụa bông quấn từ đầu đến chân, lụa trắng ngàn xấp, lần lượt quấn thân rồi cùng phò Như Lai đưa vào Bảo quan. Lại dùng gỗ thơm quý dựng thành dàn gỗ thơm lớn và đặt Kim quan lên dàn ấy. Cả đại chúng đều cầm đuốc thơm đến châm lửa dàn gỗ thơm để làm lễ trà-tỳ nhưng đều tắt hết (phần sau kinh Niết-bàn). Ngài A-na-luật bay lên cung trời Đao-lợi báo trình cùng Ma-gia phu nhân. Phu nhân từ cung trời giáng xuống thì Kim quan tự mở, Đức Thế Tôn đứng dậy chắp tay thưa rằng: "Mẹ từ xa đã đến". Lại bảo A-nan rằng: Thầy nên biết ta vì chúng sinh bất hiếu ở đời sau, nên từ Kim Quan phát ra lời thăm hỏi mẹ (kinh Ma-gia Phu nhân).

Khi đó ngài Đại Ca-diếp cùng năm trăm đệ tử đang ở tại núi Kỳ-xà-quật cách thành Câu-thi năm mươi do-tuần (kinh Phó Phật Niết-bàn nói: Cadiếp ở tại núi Y-trà-lê cách nước Xá-vệ hai vạn sáu ngàn dặm đang dạy dỗ một ngàn đệ tử. Đây bởi khác bộ nên không giống. Phải lấy phần sau kinh Niết-bàn làm đúng). Ngài Ca-diếp trong buổi ăn trưa thì tâm hồi hộp thân run rẩy, từ định xuất ra thì thấy đất động mạnh nên biết Như Lai đã nhập Niết-bàn. Liền dắt các đệ tử cùng về thành Câu-thi đến trước Kim quan. Như Lai đại bi vì ngài Cadiếp Kim quan tự mở hiện bày sắc thân vàng ròng bền chắc rực rỡ. Ngài Ca-diếp buồn thương nghẹn ngào liền rảy nước thơm vào thân có quấn ngàn khúc lụa, sau đó nắp Kim quan tự đóng lại. Ca-diếp nói kệ. Như Lai lại thò ra khỏi Kim quan đôi bàn chân có tướng xe ngàn căm. Ngài Ca-diếp lễ khen đôi chân Kim cang xong thì đôi chân lại rụt vào. Rồi lửa từ tim của thân Như Lai bùng lên bao phủ Kim quan tự thiêu đốt suốt bảy ngày đêm dàn gỗ thơm mới tàn (phần sau, kinh Xử Thai nói Ca-diếp cầm lửa châm vào củi thơm. Bộ này nói khác không giống. Nên lấy phần sau kinh Niết-bàn là đúng).

Sau khi Phật diệt độ bảy ngày thì ngài Đại Cadiếp bảo năm trăm vị A-la-hán đi khắp mười phương thế giới triệu tập hết các vị A-la-hán sáu thông được tám ức, tám ngàn vị đến khoảng rừng Song thọ để nghe pháp ngôn (kinh Xử Thai).

****

CHIA XÁ LỢI

Lời tựa: Ngài Trí Giả có nói: Xá-lợi này là do sự huân tu của giới, định, tuệ. Xét nghĩa tột cùng thì có phân biệt về các thân sinh, pháp, toàn, toái. "Ta không hề diệt độ luôn ở tại Linh sơn", đây há không phải là Pháp thân, toàn thân ư? Nay luận sau khi Niết-bàn có tám vạn bốn ngàn hạt Xá-lợi thì chỉ thị hiện có hai thân là sinh thân và toái thân mà thôi. Như Lai đã từ vô số kiếp lâu xa luôn xuất hiện, vì muốn mở ra cái tích của sinh thân để hiển bày cái bản của Pháp thân. Tức từ sự nhỏ hẹp của toái thân để thấy cái biến khắp của toàn thân. Sự quyền biến lớn lao để giúp ích muôn loài quả là ngoài sức nghĩ bàn vậy.

Ngày hai mươi chín tháng hai, sau lễ trà-tỳ Như Lai được bảy ngày, thì trời Đế Thích mở Kim quan lấy răng phải của Phật đem lên trời xây tháp cúng dường. Có hai kẻ tên Kiện-tật và La-lợi lấy cắp một cặp răng Phật. Khi đó đại chúng trong thành nhặt lấy Xá-lợi Phật để đầy trong tám bình vàng rồi đem vào thành Câu-thi cúng dường suốt bảy ngày (phần sau. Xá-lợi, Hán dịch là Cốt thân).

Ngày sáu tháng ba, vua nước Ca-tỳ-la bà con bản xứ của Như Lai (Vua cha Tịnh Phạn có hai con và một cháu đều xuất gia cả. Vua cha hỏi Phật rằng: "Dòng vua đã tuyệt tự", thì biết khi vua băng hà rồi không ai nối nghiệp. Nay vua Ca-tỳ-la đây là do người trong nước lập con của anh em vua lên nối nghiệp, nên gọi Bà Con Bản Xứ). Các người họ Thích sau hai mươi mốt ngày biết Phật đã nhập Niết-bàn bèn vào thành Câu-thi để tìm xin Xá-lợi nhưng không được. Vua A-xà-thế đến chỗ Phật để sám hối rữa lành ghẻ độc tiêu hết trọng tội liền trở về bản cung. Ngay đêm Phật Niết-bàn thì mộng thấy mặt trăng rụng. Vời quần thần vào hỏi, tâu rằng đó là tướng Phật nhập Niết-bàn. Vua liền dẫn quần thần vào thành Câu-thi để tìm thỉnh Xá-lợi nhưng không được. Lúc đó Tỳ-ly ngoại đạo được gọi là vua và vua A-lặc-ca-la, vua Tỳ-nậu Bất Úy, vua Già-la-ca-la, vua Ba-kiên-la, mỗi vua đều dắt quần thần vào thành Câu-thi để xin một phần Xálợi đem về nước cúng dường nhưng không được (phần sau kinh Niết-bàn, từ trên là bảy nước, cùng nước Câu-thi là tám). Lúc đó vua tám nước cùng tranh Xá-lợi, có vị đại thần của Ưu-ba-kiết can gián vua tám nước. Khi ấy trời Đế Thích hóa làm người nói rằng: "Chư Thiên chúng ta cũng phải có phần, nếu không có tất sẽ dùng sức mạnh để đối địch. "

Bấy giờ Ưu-ba-kiết nói: Quý ngài hãy thong thả, Xá-lợi này tất phải phân chia, đâu cần tranh cãi. Liền chia Xá-lợi làm ba phần: Một phần cho cõi trời, một phần cho Long cung và một phần cho tám vua (kinh Xử Thai). Tám vua cùng chia Xá-lợi, vua A-xà-thế được tám vạn bốn ngàn hạt, lại riêng được hàm ria đem về nước. Giữa đường gặp Long vương Nan-đầu-hòa theo xin Xá-lợi. Vua không cho Long vương nói: "Sức ta phá tan nước ông". Vua sợ quá bèn đưa ngay hàm ria của Phật. Long vương ở dưới núi Tu-di xây tháp Thủy tịnh mà thờ. Vua A-xà-thế trở về nước lấy hộp vàng ròng đựng Xá-lợi, làm ngọn đèn ngàn năm, xây tháp ở giữa năm sông Hằng mà thờ (kinh A-dục Vương).

Tám nước đem binh giành Xá-lợi, có Bà-lamôn tên Tánh Yên lớn tiếng nói rằng: Nên chia làm tám phần. Khi ấy thành Câu-thi được phần thứ nhất, cho đến vua A-xà-thế được phần thứ tám. Ai nấy đều đem về nước xây tháp thờ cúng. Tánh Yên Bà-la-môn cũng được một bình lường Xá-lợi đem về xóm Na-la xây tháp kính thờ. Còn Bà-la-môn La-diên thì được tro cũng trở về nước xây tháp. Lúc đó ở cõi Diêm-phù-đề chỉ có mười tháp (Thập Tụng Luật).

****

KẾT TẬP BA TẠNG

Tựa rằng: Ngài Kinh Khê luận việc kết tập ba tạng thì có ba chỗ: Chỗ đầu tiên có một ngàn vị kết tập (vào ngày rằm tháng tư sau khi Phật diệt độ, Phật diệt độ ngày rằm tháng hai). Chỗ thứ hai, sau khi Phật diệt độ một trăm năm, có bảy trăm vị kết tập. Có mười tranh cãi về Thiện hạnh bạt-xà (nhằm vào năm Chu Lệ Vương thứ ba mươi bốn

-thấy trong Thông Tắc Chí). Chỗ thứ ba, sau khi Phật diệt độ bốn trăm năm, có năm trăm vị kết tập. Do vua Già-ni-tra thỉnh Tăng Luận Đạo không đồng (chưa kiểm là trích ở đâu). Song theo Pháp Uyển Châu Lâm do Lý Trưởng giả họp bàn thì đều căn cứ vào kinh Xử Thai, nói là bảy ngày sau khi Phật diệt độ thì có năm trăm vị kết tập. Nay xét theo bản văn thì ngài Ca-diếp bảo năm trăm vị là sai khiến tập họp chúng tăng chứ chưa phải là chánh Kết tập. Do đó phải lấy lời luận của Kinh Khê là đúng.

Ngày rằm tháng tư, ngài Đại Ca-diếp suy nghĩ là phải kết tập ba tạng để chánh pháp được lâu dài. Ngài liền đứng trên đỉnh núi Tu-di mà gõ kiền chùy bằng đồng (âm là Kiền địa, Thinh Luận dịch là chuông. Ngũ Phần Luật nói tùy theo ngói, gỗ, đồng, sắt có tiếng kêu khác nhau đều gọi là kiền địa. Các luật khác phần nhiều đều gọi là Kiền chùy) và nói kệ rằng:

Các đệ tử Phật
Nếu nghĩ nhớ Phật
Phải báo ân Phật
Chớ nhập Niết-bàn.

Các đệ tử được thần lực đều đến hội họp, ngài Ca-diếp tuyển chọn được một ngàn người đều là A-la-hán, chỉ trừ có A-nan. Vua A-xà-thế cúng dường thức ăn cho ngàn người đó suốt trong ba tháng Hạ an cư, cứ mồng một và ngày rằm đều có thuyết giới. Ca-diếp nhập định dùng thiên nhãn quán sát thì thấy A-nan là một người phiền não chưa dứt, bèn nắm tay kéo ra khỏi đại hội.

A-nan tủi hổ khóc bảo rằng: Pháp Phật các A-la-hán khác không được nghe đủ và tôi thân cận hầu hạ Phật, vì thế nên chưa đoạn dứt phiền não lưu dư đấy thôi.

Ngài Đại Ca-diếp lại nói: Thầy lại có tội, vì thầy đã khuyên Phật độ cho người nữ xuất gia, khiến chánh pháp giảm còn năm trăm năm.

A-nan nói: Cả ba đời chư Phật đều có bốn bộ chúng.

Ca-diếp lại nói: Khi Phật sắp nhập Niết-bàn đau lưng nằm, ngài muốn uống nước thì thầy lại không dâng cho.

A-nan nói: Khi đó có đoàn xe năm trăm chiếc đi ngang qua dòng nước, nước đục nên không lấy được.

Ca-diếp lại nói: Phật hỏi thầy nếu có người chứng bốn Thần túc khéo tu thì có thể sống lâu một kiếp hoặc giảm đi một kiếp thì thầy đáng lẽ phải đáp: "Xin Phật trụ lại một kiếp hay nửa kiếp", Phật đã ba lần hỏi mà thầy không trả lời nên khiến Thế Tôn sớm nhập Niết-bàn.

A-nan nói: Vì ma che tâm tôi nên không đáp.

Ca-diếp lại nói: Thầy chầm vá y Tăng-già-lê cho Phật, thầy lấy chân đạp lên.

A-nan nói: Khi tôi cầm y thì gió thổi mạnh y rơi xuống chân không phải tôi không cung kính.

Ca-diếp lại nói: Phật có tướng âm tàng. Sau khi Phật diệt độ, thầy lại cho người nữ xem sao không biết thẹn?

A-nan nói: Tôi nghĩ người nữ khi thấy tướng âm tàng của Phật thì sẽ xấu hổ về hình nữ nhân của mình mà muốn được thân nam để tu hành các thứ đức căn của Phật, mà không phải là phá giới Cadiếp bảo A-nan phạm sáu tội Đột-kiết-la phải sám hối trong Tăng (Đột-kiết-la, Hán dịch là ác tác, lại gọi là Ưng đương học).

Ca-diếp lại nói: Thầy hãy đoạn dứt các lậu rồi hãy vào đại hội. A-nan suy nghĩ các pháp cầu dứt hết các lậu còn sót, nhưng vì định lực còn ít nên chưa được đạo ngay. Đến nửa đêm quá mệt mỏi muốn nghỉ ngơi, vừa đặt đầu lên gối thì hoát nhiên đại ngộ, liền nhập Kim cang định, phá tất cả phiền não, chứng được Sáu thông. Đến cuối đêm thì Anan tới gõ cửa Tăng đường.

Ca-diếp lên tiếng: Thầy hãy chui qua lỗ khóa mà vào.

A-nan liền dùng thần lực từ lỗ khóa mà vào, rồi lễ bái sám hối. Ca-diếp bèn bảo: Thầy chớ giận hờn, xin trả lại thầy tòa cũ.

A-nan lễ tăng xong liền lên tòa Sư tử (Trí Độ Luận).

Ngài Ca-diếp bảo rằng: Pháp Phật nói dù một tiếng chữ cũng không nên bỏ sót.

Khi đó A-nan bắt đầu nói kinh. Thứ nhất là Thai hóa tạng, thứ hai là Trung ấm tạng, thứ ba là Ma-ha-diễn Phương đẳng tạng, thứ tư là Giới luật tạng, thứ năm là Thập trụ Bồ-tát tạng, thứ sáu là Tạp tạng, thứ bảy là Kim cang tạng, thứ tám là Phật tạng. Đó là khi kinh pháp còn đầy đủ. A-nan cất tiếng đọc rằng: "Như vầy tôi nghe, một thuở nọ Phật ở tại... " Ca-diếp và đại chúng đều rơi lệ than thở già chết như huyễn như hóa, mới hôm qua còn thấy Phật nay đã gọi là "tôi nghe" (kinh Xử Thai).

A-nan có hình dáng giống Phật chỉ thấp hơn Phật ba lóng tay. Khi mới lên cao tòa thì đại chúng khởi nghi ba điều: Hoặc nghi Đức Phật sống lại, hoặc nghi Phật ở phương khác đến, hoặc nghi Anan thành Phật và khi đọc to "tôi nghe" thì ba nghi đều hết (hay thiệt!). A-nan Kết Tập Pháp Tạng tự nghĩ rằng: Khi Phật mới chuyển pháp luân, lúc ấy ta không thấy, như thế lần hồi mới nghe (câu dẫn ở Trí Độ Luận). Bản Cựu Dịch nói: A-nan đắc Tam-muội Phật giác, nên có sức tự hay nghe (Ký nói rằng: Phật gia bị giác lực, nên gọi là Phật giác, kinh Xá-lợi-phất nói: A-nan tu thiền không quên, đắc Tam-muội Phật giác nên sức tự hay nghe). Lại khi chưa nghe rõ kinh thì xin Phật nói lại, cho nên chính miệng Phật nói riêng cho nghe. A-nan chính thức nhận được ý chỉ Phật, như một bình đứng chứa đầy truyền cho người rót vào bình khác. Phật đã nhập Niết-bàn lại từ Kim quan đưa cánh tay vàng ra có ý hiện lại tướng nhập thai, các kinh đều có nghe. Tướng thai còn nghe được huống là các kinh sau (Cú Ký, đây là tiếp hiện tướng nhập thai, cho đến tướng chuyển pháp luân… khiến A-nan hầu hạ hơn hai mươi năm thì các kinh trước đây, ông đều được nghe vậy). A-nan ở trước Phật được nghe thọ ký, tức thời nhớ lại các pháp tạng của chư Phật thời quá khứ, thấu suốt vô ngại như mới nghe hôm nay, cũng rõ được bản nguyện (Phẩm Vô Học Ký của Pháp Hoa).

Khi Như Lai ở ngoài núi Thiết vi này, mười phương chư Phật đều vân tập đến nói pháp, cũng gọi là nói kinh. Sau đó ngài Văn-thù mời các Bồtát và các vị Đại A-la-hán Kết tập pháp tạng Đại thừa. Mỗi vị đều nói "Tôi nghe Phật nói kinh này... ". Tu-bồ-đề thì nói kinh Bát-nhã và Kim cang tôi nghe Phật nói. Cho nên biết không hạn thuộc vào A-nan. Song A-nan thì nghe khắp các kinh, còn các đệ tử khác chỉ nghe riêng bộ kinh ấy (Tịnh Danh Sớ Dẫn Trí Luận).

Sau khi Như Lai diệt độ thì ở hang Tất-bát-la lập ra ba tòa bộ chủ, Kết tập ba tạng. A-nan thì tụng lại Kinh tạng, Ca-diếp tụng lại Luật tạng, Ưu-ba-lý thì tụng lại Luận tạng. Đây là Thượng tọa bộ. Lại có một ngàn Hiền Thánh theo lệnh của Bà-thi-ca ở ngoài hang kết tập, gọi là Đại chúng bộ. Hai bộ này gọi chung là Tăng-kỳ Luật, đó là căn bản (Tăng-kỳ Luật, văn này phân ba tạng làm ba bộ chủ, là rút từ Tiểu thừa vậy).

A-nan cầu xin Phật, những pháp đã nói trong hai mươi năm trước xin nói lại cho con (kinh Báo Ân).

Ma-đắc-lặc-già Luận nói: Trong mười hai bộ kinh chỉ có bộ Phương đẳng là Bồ-tát tạng, còn mười một bộ kia là Thanh văn tạng lại Phật vì Bồtát Thanh văn mà nói ra Khổ đạo thì đều là Bồ-tát tạng và Thanh văn tạng. Trí Luận nói: Đại Ca-diếp và A-nan ở cùng Hương Sơn tuyển tập ba tạng là Thanh văn tạng. Còn ngài Văn-thù và A-nan kết tập kinh Ma-ha-diễn là Bồ-tát tạng, kinh Niết-bàn nói: Mười một bộ kinh là do hàng Nhị thừa trì tụng, còn bộ Phương đẳng là do hàng Bồ-tát trì tụng. Đó là kinh luận tóm tắt chỉ có hai thứ (Diệu Huyền).

Các kinh luận nói giáo không phải một, như Ma-đắc-lặc-già nói có hai tạng là: Thanh văn tạng và Bồ-tát tạng. Lại các kinh nói có ba tạng: Mười một bộ là Thanh văn tạng, bộ Phương quảng là Bồtát tạng, họp mười hai bộ lại là Tạp Tạng. Lại có bốn tạng là khai thêm Phật tạng. Bồ-tát Xử Thai Kinh nói có tám tạng là Thai hóa tạng, Trung ấm tạng… nói lúc chưa có A-nan, tức là Bí mật giáo, nói sau khi có A-nan là Bất định giáo, Ma-ha-diễn Phương đẳng tạng tức Đốn giáo, Giới Luật Tạng tức Thai tạng giáo, Thập trụ tạng tức Phương đẳng giáo, Tạp Tạng tức Thông giáo, Kim cang tạng tức Biệt giáo, Phật tạng tức Viên giáo (Thai Hóa tức các kinh khi Như Lai gá thai nói ra. Trung ấm tức các pháp khi Như Lai ở trong thai nói ra.

Sau khi Thế Tôn diệt độ một trăm năm, ở thành Tỳ-xá-ly, Tỳ-kheo Bạt-xà Tử đưa ra mười việc thiện hạnh là: Cho phép mặt trời xế quá hai lóng tay được ăn, được ở tụ lạc, được ở trong chùa, tới sau vẫn được chấp thuận, được pháp thường, được nhận tiền bạc, trong ngày bố tát, nếu có thí chủ cúng vàng bạc thì được chia phần, như thế phân biệt, mỗi việc đều kiểm xét lại... cho đến mười việc phi pháp, không phải là Tỳ-ni, không phải do Phật dạy. Có bảy trăm vị A-la-hán kết tập Pháp, Luận, Tỳ-ni, nên gọi là Thất Bách Kết Tập (Bốn Phần Luật).

Tóm rằng:

Năng Nhân Tịch Mặc Thành Phật lâu xa

Ở vào Hiền kiếp Thừa thời độ sinh Mộ đời giáo hóa Quy về hiển khai Trời người quần sinh Đều thỏa nguyện trước Hóa độ đã xong

Thị hiện Niết-bàn Bất sinh bất diệt Luôn ở Linh sơn Tu học đời sau Đầy khắp thế gian

Cùng mong Phật tuệ Riêng được Chơn đan.

QUYỂN 5

PHẦN II: HAI MƯƠI BA TỔ Ở TÂY VỨC

Tổ thứ 1: Ma-ha Ca-diếp.

Tổ thứ 2: A-nan-đà.

Tổ thứ 3: Thương-na Hòa-tu và (Từ A-nan) Mạt-điền-địa.

Tổ thứ 4: Ưu-ba-cúc-đa.

Tổ thứ 5: Đề-ca-đa.

Tổ thứ 6: Di-giá-ca.

Tổ thứ 7: Phật-đà Nan-đề.

Tổ thứ 8: Phật-đà Mật-đa.

Tổ thứ 9: Hiếp Tỳ-kheo.

Tổ thứ 10: Phú-na Dạ-xa.

Tổ thứ 11: Mã Minh.

Tổ thứ 12: Ca-tỳ-ma-la.

Tổ thứ 13: Long Thọ.

Tổ thứ 14: Ca-na-đề-bà.

Tổ thứ 15: La-hầu-lađa.

Tổ thứ 16: Tăng-khư Nan-đề.

Tổ thứ 17: Tăngkhư Gia-xá.

Tổ thứ 18: Cưu-ma-la-đà.

Tổ thứ 19: Xà-dạ-đa.

Tổ thứ 20: Bà-tu-bàn-đà.

Tổ thứ 21: Ma-noA-la.

Tổ thứ 22: Hạc-lặc-na.

Tổ thứ 23: Sư tử.

-------------------------------

Chỉ Quán Luận nói rằng: Người tu hành khi nghe nói Phó pháp tạng thì biết là tông đầu tiên. Người được giao truyền pháp tạng đầu tiên là ngài Ca-diếp, cuối cùng là ngài Sư Tử, gồm hai mươi ba vị, nhưng ngài Mạt-điền và ngài Thương-na Hòa-tu lại đồng thời, nếu tính luôn thì có hai mươi bốn tổ. Các Tổ này đều từ kim khẩu thọ ký (việc trích ở bộ Phụ Hành) đều là Thánh nhân đã giáo hóa lợi ích rất nhiều. (Pháp Tạng Kinh nói: Sau khi ta diệt độ sẽ có hai mươi bốn Tôn giả ra đời truyền bá pháp của ta). Phụ Hành nói: Đời tượng và mạt pháp có Bốn Y hoằng truyền Phật pháp. Trong truyện đã nói: Đều là Thánh nhân cho nên phần lớn đều là Tứ Y, cũng có thể chung cả ba, hai Y. Vì bậc Sơ Y là phàm không được gọi Thánh (Diệu Huyền nói rằng năm phẩm sáu căn là Sơ y, Thập trụ là Nhị y, Thập hạnh, Thập hướng là Tam y, Thập địa, Đẳng giác là Tứ y. Đây là theo Đại thừa mà luận về Bốn y. Như kinh Niết-bàn có nói: Có bốn hạng người hay hộ trì chánh pháp làm chỗ nương tựa cho đời:

1. Sơ y, nội ngoại phàm Tiểu thừa.

2. Nhị y, tức Sơ quả.

3. Tam y tức quả thứ hai và ba.

4. Tứ y tức quả thứ tư.

Đây là theo Tiểu thừa mà luận về bốn y. Nay nói phó pháp tức là Đại thừa. Nên Phụ Hành đã nói là Đại thừa Tứ y. Nói trung truyện tức là truyện Phó Pháp Tạng, một bản gọi là Phó Pháp Tạng Nhân Duyên Kinh).

Nay luận về các Tổ thừa truyền đại pháp thì các tổ Cúc-đa… nói rằng: Chứng Tiểu quả là căn cứ theo ý của ngài Kinh Khê gọi bốn quả là chân phước điền hóa đạo dễ dàng. Tuyên nói giống đây tức bốn y là giống như bốn quả. Thế nên từ kim khẩu nói các Thánh đã phá hết vô minh, ngôi vị ở bốn y, trong thì hoằng truyền đại pháp, ngoài thì hiện dáng Tiểu thừa. Để làm sáng phó pháp, nên soạn ra tiểu sử hai mươi bốn vị Tổ sau đây.

Tổ thứ 1: Ma-ha Ca-diếp (Ma-hakasyapa)

(Ma-ha Ca-diếp: Hán dịch là Đại Ẩm Quang. Vì Tổ tiên xưa thân có ánh sáng che mất các ánh sáng khác, nên lấy đó làm họ. Tôn giả này là hậu duệ, thân cũng có ánh sáng che mất các ánh sáng khác. Trong hàng đệ tử Phật có Thập Lực Ca-diếp và ba Ca-diếp khác. Vị này là lớn nhất trong những người cùng họ Ca-diếp, nên thêm chữ Đại để phân biệt.

Ngài tên Tất-bát-la (Đây là tên cây Bồ-đề. Vì cha mẹ cầu tự thần cây này mà sinh ra ngài nên lấy tên cây đặt tên). Ngài là người nước La-duyệt-kỳ (Hán dịch là Vương xá thành, tức thành trong nước Ma-già-đà). Cha là Ca-tỳ-la (Hán dịch là Đầu mặt có sắc vàng ròng, bởi là hậu duệ của Tiên nhân Kim Quang). Đời gọi là Đại Phú Trưởng giả. Cả mười sáu nước không ai sánh bằng, vì giàu gấp ngàn lần vua Bình-sa (tức vua Tần-bà-ta-la, Hán dịch là Nhan Sắc Đoan Chánh). Vua có ngàn lưỡi cày bằng vàng. Vì sợ tội hơn vua nên giảm bớt một lưỡi, chỉ dùng chín trăm chín mươi chín lưỡi cày vàng hai trâu kéo, có sáu mươi kho chứa vàng hạt, sức chứa ba trăm bốn mươi hộc.

Thuở xưa sau khi Phật Tỳ-bà-thi diệt độ (Hán dịch là Thắng Quan). Tượng trong tháp màu vàng ròng bị hư vài chỗ. Khi đó có cô gái nghèo xin được viên kim châu đem tu bổ lại mặt pho tượng. Lúc ấy ngài Ca-diếp là thợ đúc vàng đã sửa xong. Nhân đó cùng lập thệ hai người chúng ta thường là vợ chồng thân có sắc vàng ròng luôn hưởng sung sướng. Do nguyên nhân đó mà chín mươi mốt kiếp đều sinh vào hàng trời người, cuối cùng được sinh làm Phạm thiên thứ bảy (Đại Phạm sơ thiền ở trên cõi Lục dục nên kể là thứ bảy).

Bấy giờ ở nước Ma-già-đà (Hán dịch là Bất Hại) có một Bà-la-môn là một cự phú nhưng không con cái nối dõi. Bên nhà có một Thần cây, ông thường đến cầu con nhưng đã nhiều năm không ứng nghiệm. Liền nổi giận bảo: Ta cầu tự trong bảy ngày nếu không linh nghiệm sẽ đốt bỏ cây.

Thần cây sợ quá bay lên cầu cứu Phạm thiên. Phạm Thiên vương nhìn thấy có một Phạm thiên sắp mạng chung, liền khuyên hãy sinh vào nhà ấy. Vừa tròn mười tháng thì sinh một bé trai, mình sắc vàng ròng ánh sáng rực rỡ chiếu xa bốn mươi dặm, có đủ ba mươi tướng đẹp (Văn Cú, vậy là thiếu hai tướng bạch hào và nhục kế).

Thầy bói bảo rằng: Cậu bé này do phước đời trước tất sẽ xuất gia.

Đến năm mười lăm tuổi định cưới vợ cho con, thì con bảo cha mẹ tìm được cô gái nào có sắc vàng như con, con mới cưới. Cha mẹ liền mời các Bàla-môn đúc tượng một cô gái bằng vàng rồi đẩy xe đi khắp thôn xóm lớn tiếng rao rằng: Cô gái nào gặp Thần vàng mà chịu cưới sẽ gặp được chồng quý.

Các cô gái đều chạy ra xem. Riêng có một cô gái mình vàng vẫn ngồi yên. Chúng bạn ép kéo cô ra gặp tượng vàng. Các Bà-la-môn thấy được bèn làm lễ cưới. Cưới xong, cả hai vợ chồng đều không có dục ý nên mỗi người ở riêng một phòng. Cha mẹ biết được bèn dẹp một phòng bắt hai người phải ở chung.

Ca-diếp bảo: Khi ta ngủ thì nàng đi kinh hành, khi nàng ngủ thì ta đi kinh hành.

Tâm ý của chồng vợ đều rất chán ghét thế gian, nên mong cầu xuất gia. Liền bỏ việc nhà vào sâu chốn rừng núi. Dạ nghĩ miệng nói rằng: "Chư Phật Như Lai đều xuất gia tu đạo, nay ta cũng theo Phật xuất gia. " Liền mặc áo hoại sắc, cạo bỏ râu tóc. Trên không trung Thiên thần bảo rằng: Đức Thíchca Như Lai hiện cùng một ngàn hai trăm năm mươi vị A-la-hán đang ở tại vườn Trúc trong thành Vương xá.

Ca-diếp nghe xong liền đi về phía vườn Trúc. Phật thì đi ngược lại. Đến thôn Bạt-kỳ gặp Phật, ngài dâng lên Phật y báu, Phật trao cho ngài đại y Phấn tảo. Khi mới nghe Tăng thượng giới, định, tuệ liền được vô lậu, lúc đó ngài đã được một trăm hai mươi tuổi. Vợ ngài lần hồi cũng được quả A-la-hán. Ngài Ca-diếp thọ pháp khất thực tu mười hai hạnh Đầu-đà đến già không bỏ.

Ngài thường bảo rằng: "Ta nhận được y Phật luôn tưởng thầy tưởng tháp, chưa từng ngã đầu vào gối huống là nằm ngủ, vì đại y ấy luôn sách tấn ta. "

Phật bảo rằng: Nay thầy đã già các căn suy yếu, vậy hãy bỏ việc khất thực và nhận trường y.

Ca-diếp thưa: Con nguyện trọn đời tu hạnh Lan-nhã (Hán dịch là Tịch Tịnh Xứ là một trong mười hai hạnh Đầu-đà).

Phật bảo: Tốt lắm! Nếu Ca-diếp ở đời tu hạnh Đầu-đà thì pháp ta sẽ còn trụ lâu.

Ngài Ca-diếp tu Đầu-đà đã lâu, tóc dài y bẩn.

Khi đến chỗ Phật thì các Tỳ-kheo đều khinh dễ. Phật bèn nhường nửa ghế bảo ngài ngồi. Ca-diếp không dám. Phật liền rộng khen công đức của Cadiếp không khác chi Phật sao chẳng chịu ngồi. Các Tỳ-kheo nghe thế đều kinh hãi. Phật nhân đó nói tích xưa. Xưa có vua Văn-kiệt-đà (Phụ Hành nói là Đảnh Sinh Vương) tài giỏi tuyệt luân. Trời Đế Thích khâm phục đức của vua liền dẫn một ngàn ngựa xe ra cung khuyết đón vua lên trời, chia ghế cùng ngồi, cùng hưởng vui thú, xong lại đưa vua về cung. Xưa ngài Ca-diếp đem tòa sinh tử mời ta cùng ngồi. Nay ta đã thành Phật nên lấy tòa chánh pháp để đáp lễ xưa. Ngài Ca-diếp ngồi chung với Phật. Lúc đó hàng trời người đều gọi ngài là thầy Phật. Ngài Ca-diếp liền sụp dưới chân Phật lớn tiếng bảo rằng: Phật là thầy ta, ta là đệ tử của Phật

(v. v...).

Ở thành Tỳ-da-ly có một Trưởng giả tên là Duy-ma-cật, phương tiện thị hiện có bệnh để làm lợi ích chúng sinh.

Phật bảo ngài Đại Ca-diếp: Ông hãy đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật.

Ngài Ca-diếp thưa: Con không thể đến thăm bệnh được. Vì sao?

Con nhớ thuở xưa khi con vào thôn nghèo khất thực, ngài Duy-ma-cật đến bảo con rằng: "Dùng một bữa ăn phải thí cho tất cả, cúng dường chư Phật và chúng Hiền Thánh, sau rồi mới ăn. Người ăn như thế không có phiền não, không lìa phiền não, không nhập định ý, không ra khỏi định ý, không trụ thế gian, không trụ Niết-bàn. Người thí vậy ấy, không có phước lớn, không có phước nhỏ, không giúp ích, không làm hại. Đó là vào ngay Phật đạo, không nương Thanh văn. Này Ca-diếp! Ăn như thế mới là người không ăn uổng của thí. " Khi con nghe lời ấy rồi thì con hết sức kính phục Bồ-tát, lại không khuyên người tu hạnh Thanh văn, Bích-chi-phật. Thế nên con không thể đến thăm bệnh được. (Kinh Duy-ma)

Ở hội Pháp hoa, Đức Thế Tôn bảo ngài Xá-lợiphất rằng: Diệu pháp như thế chư Phật Như Lai lúc đó mới nói.

Khi đó ngài Xá-lợi-phất hiểu rõ các pháp đã nói ấy. Đức Thế Tôn bèn thọ ký ở vị lai thầy sẽ làm Phật hiệu là Hoa Quang.

Lại bảo ngài Xá-lợi-phất rằng: Nay phải dùng ví dụ để nói rõ nghĩa này.

Bèn nói: Một trưởng giả nọ có căn nhà lớn đang bùng cháy dữ dội. Trưởng giả phương tiện khuyên dỗ các con lấy ba thứ xe dê, xe nai, xe bò và các thứ đồ chơi đẹp để dẫn chúng ra khỏi nhà lửa. Sau đó mới ban cho một xe trâu trắng thật lớn. Như Lai cũng thế.

Đầu tiên nói ba thừa để dắt dẫn chúng sinh, sau chỉ dùng Đại thừa mà độ thoát. Lúc đó bốn đại Thanh văn Ca-diếp… đều hiểu ý chỉ này bèn nói ví dụ cùng tử. Bảo rằng chúng con như kẻ cùng tử bỏ cha đi mất hơn năm mươi năm, sau mới gặp lại nhưng ý chí thấp kém, nên trong suốt hai mươi năm sai dọn dẹp phân.

Từ đó trở đi mới tin tâm tướng thể, kết tình cha con, chính thức nhận lãnh gia nghiệp. Tự nói bọn chúng con từ xưa đến nay chỉ ham pháp Tiểu thừa. Thế Tôn dùng sức phương tiện nói trí tuệ Như Lai, nay con mới biết. Thế Tôn đối với trí tuệ Phật không hề lẫn tiếc. Thế nên bọn chúng con nói vốn không có tâm mong cầu. Nay đại bảo của Pháp vương tự nhiên mà đến, như chỗ Phật tử mong được thì nay đã được. Thế nên Thế Tôn lại bảo Cadiếp nói dụ Dược Thảo kể rõ sự hiểu biết của mình. Rồi bảo rằng ở vị lai thầy sẽ được làm Phật hiệu là Quang Minh (kinh Pháp Hoa, đây là Phó pháp chung). Phật bảo các Tỳ-kheo rằng: Bao nhiêu chánh pháp vô thượng nay ta đều phó chúc cho Cadiếp, Ca-diên sẽ là chỗ y chỉ lớn cho các ông (kinh Niết-bàn, đây là phó pháp riêng, A-nan Vấn Kinh nói: Ta nhập Niết-bàn rồi, Đại Ca-diếp sẽ là chỗ y chỉ lớn cho các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni như ta không khác).

Lúc đó ngài Đại Ca-diếp cùng năm trăm đệ tử đang ở tại núi Kỳ-xà-quật, cách thành Câu-thi năm mươi do-tuần. Ngài Ca-diếp trong bữa ăn trưa thì bỗng tâm hồi hộp, thân run rẫy, từ định xuất ra thấy đất động mạnh, liền biết Như Lai đã nhập Niết-bàn. Liền dắt đệ tử về thành Câu-thi, đến chỗ Kim quan của Phật. Như Lai đại Bi thương xót Ca-diếp nên nắp Kim quan tự mở, hiện bày thân vàng ròng bền chắc.

Ngài Ca-diếp buồn thương nghẹn ngào, rẩy nước thơm vào thân quấn chặt ngàn xấp lụa trắng. Nắp Kim quan đóng lại. Ngài Ca-diếp nói kệ, thì đôi bàn chân của Như Lai có tướng ngàn căm hiện ra ngoài Kim quan. Ca-diếp đảnh lễ khen ngợi đôi chân Kim cang, xong rồi đôi chân thụt vào. Từ lồng ngực Phật lửa bùng lên bao phủ Kim quan và thiêu cháy dần, trải suốt bảy ngày đêm lầu thơm mới tắt (phần sau kinh Niết-bàn-Ngài Ca-diếp cùng các đệ tử đi về thành Câu-thi, giữa đường gặp một Phạm chí cầm hoa Mạn-đà-la bảo rằng: Thế Tôn đã nhập Niết-bàn được bảy ngày rồi, tất cả trời người đều đến cúng dường. Tôi từ nơi ấy mà được hoa này, rút từ kinh Phó Niết-bàn).

Lễ trà-tỳ Phật mới được bảy ngày thì Ca-diếp bảo năm trăm vị A-la-hán đi khắp mười phương mời tất cả A-la-hán, có đến tám ức tám ngàn vị cùng đến tập hội ở rừng Song thọ để nghe pháp ngôn (kinh Bồ-tát Xử Thai). Lúc đó gặp mùa Hạ an cư. Ngày rằm đầu tiên, Ca-diếp cùng một ngàn A-la-hán ở tại thành Vương xá kết tập ba tạng. Vua

A-xà-thế mỗi ngày cúng dường một ngàn phần ăn suốt cả mùa Hạ (Trí Luận). Ngài Ca-diếp hoằng trì chánh pháp đến hai mươi năm (nhằm năm thứ tám, Nhâm Thìn, đời Chu Ý Vương), rồi mới phó chúc pháp tạng cho A-nan. Trước ngài lễ bốn tháp (bốn chỗ xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân, nhập Niết-bàn mỗi nơi đều có xây tháp bảy báu), kế lễ tám tháp (vua tám nước xây tháp thờ Xá-lợi). Sau đó vào Long cung lễ tháp ria Phật, tiếp đó là bay lên trời lễ tháp thờ răng Phật. Đến từ giả vua A-xàthế thì gặp lúc vua đang nghỉ. Liền đến núi Kê túc (ba đỉnh núi này như chân gà ngửa ra, tức là núi Linh thứu), ngài lấy cỏ trải làm tòa ngồi và phát ba lời nguyện:

1. Nguyện thân này và y bát đang có đây đều không hư hoại đợi đến khi ngài Từ thị hạ sinh.

2. Nguyện khi nhập diệt tận định rồi thì ba ngọn núi họp lại thành một.

3. Nguyện nếu A-nan hoặc vua A-xà-thế có đến thì núi tạm mở ra.

Khi ấy vua A-xà-thế nằm mộng thấy rường nhà bị gãy. Thức dậy vua than thở thương tiếc liền đến ngay núi Kê túc thì thấy toàn thân ngài Ca-diếp đang nghiễm nhiên nhập định. Vua khóc òa rồi chất các gỗ thơm định làm lễ trà-tỳ.

Ngài A-nan bảo vua: Ngài Ca-diếp nhập định trụ thân để đợi Phật Di-lặc, chớ nên thiêu.

Vua cúng dường xong liền trở về bản quốc, ba ngọn núi họp lại như cũ. Đến sau ba hội của ngài Từ Thị, có vô lượng chúng sinh kiêu mạn cùng lên núi này. Ngài Từ Thị búng tay thì núi liền mở ra. Ngài Ca-diếp bèn trao y lại cho ngài Từ Thị và chí thành kính lễ, xong liền bay lên hư không hiện các thần biến và hóa lửa đốt thân rồi nhập tịch diệt (kinh Phó Pháp Tạng, Mai Khê tập, ngài Kinh Khê nói với Phật Tuệ Tuyền Thiền sư rằng: Việc Thế Tôn cầm hoa rút từ điển nào? Sư Tuyền đáp rằng: Tạng Kinh không ghi. Ngài bảo: Trong khoảnh khắc ở tại vườn Hàn lâm ngẫu nhiên gặp được Đại phạm vương hỏi Phật để quyết nghi ba quyển kinh. Có người bảo rằng Phạm vương ở tại hội Linh sơn lấy hoa Kim sắc ba-la dâng lên thỉnh Phật nói pháp. Thế Tôn bước lên tòa cầm hoa đưa ra trước chúng, cả trăm vạn trời người đều không hiểu ý, riêng có Ca-diếp mỉm cười. Đức Thế Tôn bảo: Ta có Chánh pháp nhãn tạng Niết-bàn Diệu tâm giao phó cho Ca-diếp).

Lời thuật rằng: Diệu Kinh nói rằng: Thế Tôn mở sáng Đại Pháp, Ca-diếp hiểu rõ, đây là nghĩa chung về Phó pháp. Kinh Niết-bàn nói: "Phật bảo các Tỳ-kheo: "Bao nhiêu chánh pháp vô thượng nay ta đều phó chúc cho Ca-diếp. " Hậu phần kinh Niết-bàn lại bảo: "Ca-diếp đến chỗ Kim Quan của Phật nói kệ. Phật hiện ra đôi bàn chân. " Kinh Anan Vấn nói: Phật sắp nhập Niết-bàn bảo Ca-diếp rằng: "Hãy nên làm chỗ Đại y chỉ cho bốn chúng... " Các văn như thế đều ở Niết-bàn, tức là nghĩa riêng của phó pháp. Chung thì cả đại chúng đều hiểu rõ, còn riêng thì chỉ một mình Ca-diếp nắm giữ. Nay Niết-bàn phó chúc chính là ở nghĩa riêng, tức là các Tổ truyền nhau giữ gìn không dứt. Như có người lấy sự hiểu rõ Pháp Hoa làm phó pháp thì chỉ là được cái ý chung mà thôi.

Tổ thứ 2: A-nan-đà (Ananda)

Ngài sinh vào ngày tám tháng hai đúng ngày Phật thành đạo, ngài là em của Điều-đạt, con thứ hai của chú Phật là Bạch Phạn Vương (A Nan-đà Hán dịch là Khánh Hỷ, nói việc vua và cả nước đều vui mừng khi mới sinh ngài). Ngài mặt đẹp như trăng tròn, mắt như hoa sen xanh. Năm lên tám ngài theo Phật xuất gia, được Bạch Tứ Yết-ma thọ Cụ túc giới, là hàng đa văn bậc nhất. Năm ba mươi mốt tuổi ngài làm thị giả Phật, nghe nhớ pháp tạng. Đến hội Pháp hoa Phật bảo A-nan rằng: Ở đời sau ông sẽ được làm Phật hiệu là Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương.

Lại bảo các Bồ-tát rằng: Ta và A-nan ở chỗ Phật Không Vương đồng lúc phát tâm Bồ-đề, nhưng A-nan thường ham học rộng (đa văn), còn ta thường chuyên cần tinh tấn. Thế nên nay ta đã chứng Bồ-đề mà A-nan lại hộ trì pháp ta, cũng hô trì pháp tạng của chư Phật đời vị lai. Sau khi Phật diệt độ thì ngài Đại Ca-diếp kết tập pháp tạng tuyển chọn một ngàn vị A-la-hán, bảo ngài A-nan lên tòa Sư tử tuyên nói các kinh. Khi ngài Ca-diếp sắp nhập diệt thì đem pháp tối thắng phó chúc lại cho ngài A-nan và nói rằng: Thuở xưa Phật Định Quang còn làm Sa-môn có nuôi một Sa-di thường bảo đọc kinh, nếu đọc thiếu sót liền quở trách. Lúc đó Sa-di khất thực nuôi thầy, nếu kinh không thuộc thì lại bị thầy quở trách rất dữ. Thầy Sa-di buồn khổ vừa đi vừa đọc. Lúc đó có vị Trưởng giả hỏi biết sự tình liền bảo thầy Sa-di chớ buồn lo nữa. Từ đây trở đi ta sẽ luôn cúng dường đầy đủ. Bấy giờ thầy Sa-di không đi khất thực nữa, chuyên tâm đọc tụng kinh rất đầy đủ. Thầy Sa-di thuở ấy tức là Thế Tôn đây, còn vị Trưởng giả nuôi ăn kia tức là A-nan. Vì phước duyên này nên trí tuệ thâm diệu nghe nhiều nhớ giỏi (thuật rằng Sa-di học kinh tất có lợi nhớ dai, còn Trưởng giả nuôi ăn cũng có công chuyên về học nhiều. Cho nên tin vào việc làm thiện làm ác ở đời, việc làm xong tất có quả báo, khí phần chiêu cảm đâu tránh được).

Ngài A-nan đi du hóa khoảng hai mươi năm, thường đến Trúc lâm (tức chùa Trúc lâm ngoài thành Vương xá). Một hôm ngài nghe Tỳ-kheo đọc kệ rằng:

Nếu người sống trăm năm
Không thấy lão hạc nước
Không bằng sống một ngày
Mà được thấy rõ ràng.

Ngài buồn thảm bảo: Đây không phải là kệ Phật, phải đọc như vầy:

Nếu người sống trăm năm Không hiểu pháp sinh diệt Không bằng sống một ngày Mà hiểu biết rõ ràng.

Tỳ-kheo đem hỏi thầy. Thầy bảo: "A-nan già cả lẩm cẩm nói không đáng tin. "

Sau đó ngài A-nan vẫn nghe Tỳ-kheo kia đọc kệ như trước. Bèn tự nghĩ: "Nay Tỳ-kheo này không nghe lời dạy của ta, thì ở đời vô ích. Phải nên nhập diệt thôi. "

Liền đến vua A-xà-thế nhưng gặp lúc vua nghỉ. Vua nằm mộng thấy cây lọng bị gãy liền kinh sợ tỉnh giấc. Kẻ hầu thưa rằng: Ngài A-nan sắp nhập diệt có đến đây tìm gặp. Vua òa khóc hỏi hiện ngài đang ở đâu?

Đáp rằng: Ngài đi về hướng nước Tỳ-xá-ly. Vua liền điều động bốn loại binh mã (voi, ngựa, xe, bộ) đuổi theo đến sông Hằng, thì ngài A-nan đã ngồi thuyền ra đến giữa sông.

Vua đảnh lễ thưa rằng: "Bậc đèn sáng ba cõi, xin chớ nhập Niết-bàn. "

Khi ấy có năm trăm tiên nhân ở núi Tuyết quán thấy A-nan sắp nhập Niết-bàn liền cùng bay lên hư không đến cầu xin xuất gia. Ngài A-nan liền biến sông Hằng thành đất vàng ròng và nói pháp, các tiên nhân nghe xong đều chứng A-la-hán, rồi cùng nhập diệt (tức Mạt-điền-địa năm trăm tiên nhân…). Ngài A-nan vọt thân lên hư không hiện mười tám thứ thần biến rồi nhập Phấn tấn Tammuội và chia thân làm bốn phần: Một phần cho Thích Đề-hoàn Nhân, một phần cho Long vương Ta-già, một phần cho con của Tỳ-xá-ly, một phần cho vua A-xà-thế. Cả bốn nơi đều xây tháp cúng dường Xá-lợi (thấy trong các kinh: Pháp Hoa, Phó Pháp Tạng, Đại Luận, Văn Cú, Diệu Lạc…).

Tổ thứ 3: Thương-na Hòa-tu (Sanakavasa) và Mạt-điền-địa.

Ngài là Trưởng giả ở thành Vương xá. Đời quá khứ là một Thương chủ, giữa đường gặp một vị Bích-chi-phật bị bệnh nặng liền xin thuốc trị bệnh. Khi thấy áo ngài cũ xấu liền dâng cúng áo lông quý đẹp. Bích-chi-phật bảo: "Áo Thương-na này (hoặc dịch là Áo cỏ. Ở Tây Vức có cỏ Cửu chi tú, nếu có các La-hán sinh ra thì cỏ này mọc trên đất sạch) dùng để xuất gia thành đạo, nên phải mặc áo này mà nhập diệt. "

Ngài liền bay lên không trung hiện mười tám thứ thần biến, rồi nhập Niết-bàn. Thương-na thương tiếc chất gỗ thơm để trà-tỳ và xây tháp cúng dường Xá-lợi. Nguyện ở đời sau có công đức, oai nghi và y phục như ngài ấy không khác. Do nguyện lực này mà suốt năm trăm đời thân trung ấm luôn mặc áo thương na này. Đến thân sau cùng thì khi mới sinh ra trên mình đã có áo này, áo cùng lớn theo thân. Khi xuất gia thì áo biến thành pháp phục, khi thọ giới Cụ túc thì áo cũng có chín điều. Nhân đó gọi là Thương-na Hòa-tu (theo Tây Vức Ký thì từ nước Phạm Diễn-na đi sang núi Tuyết, ở phía Đông có một Già-lam chứa áo Thương-na chín điều có ráng màu đỏ. Khi ngài Thương-na nhập diệt đã để lại áo này và bảo đệ tử rằng: Khi pháp diệt mất thì áo này mới hư nay thấy áo đã hư hỏng nhiều).

Thuở xưa Như Lai đi sang nước Ma-đột-la thấy rừng cây xinh tươi liền bảo A-nan rằng: "Sau khi ta diệt độ sẽ có Tỳ-kheo Thương-na Hòa-tu ở trong núi này mà xây dựng Tăng-già-lam, thuyết pháp giáo hóa". Sau đó Thương-na đã vào biển nhặt được nhiều châu báu nên đến Trúc lâm mở hội Đại thí. Nghe Phật Thế Tôn, Ca-diếp, Mục-liên đều đã diệt độ, liền trịnh trọng bày lễ Bát-Giá-ư-sắc (Hán gọi là Hội thí năm năm một lần) và tạo dựng lầu cửa...

Ngài A-nan bảo: Ông đã tài thí, nay lại pháp thí. Vậy hãy xuất gia học đạo lợi ích chúng sinh.

Thương-na đáp rằng: Rất đúng nguyện của con.

Ngài A-nan liền độ cho xuất gia và thành A-la-hán. Xong ngài bèn đến núi Mạn-đà dùng Từ Tammuội mà hóa độ cho hai con Độc long và xây dựng thiền thất. Ngài lại đến núi Bạch tượng ở nước Kế Tân ngồi yên nhập định. Lúc đó, đệ tử ngài là Ưuba-cúc-đa có năm trăm đệ tử cũng còn bị sinh tử kiêu mạn cống cao. Cúc-đa liền nhập Tam-muội quán thấy mình không có duyên với họ. Chỉ có thầy mình mới hóa độ được. Bèn chí tâm nghĩ đến Thương-na Hòa-tu. Ngài liền dùng thần lực từ trên không bay xuống áo quần dơ xấu đến ngồi trên tòa Cúc-đa. Đám đệ tử nổi giận hỏi người nào bẩn thỉu mà dám ngồi ở tòa của thầy ta? Bèn đến bạch thầy. Cúc-đa lật đật đến phòng sụp lạy thưa: "Đệ tử nghĩ rằng thầy luôn có đức tướng trang nghiêm". Thương-na liền chỉ lên hư không thì hương và sữa rơi xuống như núi cao và suối chảy. Cúc-đa không hiểu là Tam-muội gì. Thương-na bảo đây là Long phấn tấn Tam-muội. Như thế lần lượt có đến năm trăm thứ Tam-muội đều không biết và Thương-na đều giải thích. Lại bảo Cúc-đa rằng: "Tam-muội của Như Lai thì ngài Mục-liên không biết, Tammuội của ngài Mục-liên thì các Thanh văn khác không biết, Tam-muội của A-nan thầy ta thì ta không biết, nay Tam-muội của ta thì ông cũng không biết. Sau khi ta Niết-bàn rồi thì có bảy vạn bảy ngàn kinh Bản Sinh, một vạn tạng A-tỳ-đàm, tám vạn Tỳ-ni Thanh Tịnh đều diệt mất theo ta". Lúc đó các đệ tử đều rất hối tiếc tự trách. Ngài Thương-na nói pháp họ đều chứng quả A-la-hán. Ngài liền bay lên hư không hiện mười tám thứ thần biến rồi nhập Niết-bàn. Ngài Cúc-đa chất gỗ thơm để hỏa tà-tuần (tà-tuần là tiếng Phạm tức ý nói hỏa thiêu) rồi nhặt Xá-lợi và xây tháp cúng dường (kinh Phó Pháp Tạng).

Mạt-điền-địa (Đệ tử Kế của A-nan)

Ngài là người đứng đầu nhóm năm trăm Tiên nhân ở núi Tuyết. Khi ngài A-nan sắp nhập Niếtbàn thì ngài đến sông Hằng. Đất ở đây rúng động mạnh. Các tiên biết được bèn bay đến và cầu xin xuất gia. Ngài A-nan liền hóa nước sông đặc lại thành đất vàng ròng. Cả năm trăm Tiên nhân đều xuất gia và thành A-la-hán (Mạt-điền-địa, Hán dịch là Trong, vì các Tiên ở trong sông này mà được giới). Khi ấy ngài Mạt-điền-địa muốn nhập Niết-bàn trước. Ngài A-nan phó chúc rằng: Phật thọ ký cho ông đến ở nước Kế Tân xây dựng Phật pháp. Sau khi ngài A-nan Niết-bàn rồi thì Mạtđiền-địa đến nước Kế Tân hàng phục rồng dữ và giữ gìn Phật pháp. Khi sắp nhập Niết-bàn thì ngài bay lên hư không hiện mười tám thứ thần biến sau đó bèn nhập diệt (kinh Phó Pháp Tạng).

Tổ thứ 4: Ưu-ba-cúc-đa (Upagupta)

Ngài là người nước Ma-đột-la, dung mạo đoan chánh thông minh tài giỏi. Lúc đầu ngài Thươngna Hòa-tu dạy cho ngài về pháp hệ niệm. Nếu nghĩ việc ác thì vạch xuống đá một vệt đen, nghĩ việc thiện thì vạch một điểm trắng. Cúc-đa theo lời dạy mà nhiếp niệm. Lúc đầu điểm đen nhiều hơn, sau đen trắng bằng nhau, đến cuối ngày thứ bảy thì toàn điểm trắng. Ngài Thương-na bèn nói cho Tứ Thánh đế, ngay khi đó liền chứng quả Tu-đà-hoàn. Lúc bấy giờ trong thành có một dâm nữ tên là Bàtu-mật, nghe đồn Cúc-đa hình dung đẹp đẽ liền cho người đến mời nhưng Cúc-đa không chịu. Có con trai một vị Trưởng giả là người quen cũ của dâm nữ, làm lái buôn từ xa về mang nhiều châu ngọc đến muốn giao tình cùng cô nàng. Dâm nữ tham châu báu nên giết chết anh con trai ấy rồi đem chôn trong nhà. Người nhà ông Trưởng giả đến tìm kiếm, đào đất lên bắt gặp, liền thưa lên vua. Vua bắt dâm nữ chặt hết tay chân, xẻo tai cắt mũi, rồi đem bỏ trên gò hoang. Ngài Cúc-đa đi giáo hóa đến gặp dâm nữ.

Bà-tu-mật nói: Khi tôi hình dung còn đẹp mời ngài chẳng đến, bây giờ nhan sắc tiêu tan đến đây làm gì?

Đáp rằng: Ta nhìn thấy thật tướng của nàng mà đến chứ nào phải vì dục tình. Nàng vốn dùng sắc đẹp để mê hoặc chúng sinh, khác nào chiếc bình sơn vẽ đẹp mà toàn đựng đồ dơ thúi, người trí biết rõ trọn không ham thích. Nay nàng hãy quán kỹ sắc này vô thường là nơi chứa nhóm các khổ chỉ như ghẻ lở. Vậy nên phương tiện mà cầu giải thoát.

Dâm nữ tâm được khai ngộ liền chứng Pháp nhãn tịnh, nên khi chết liền được sinh lên trời. Nhân đó Cúc-đa quán sát các pháp là khổ, không, vô thường, liền chứng được quả A-na-hàm.

Lúc mới đầu, khi Cúc-đa gặp ngài Thương na cầu xin xuất gia, ngài hỏi: Năm nay ông bao nhiêu tuổi?

Đáp rằng: Con mười bảy tuổi.

Thương-na lại hỏi: Thân ông mười bảy hay tánh ông mười bảy? Cúc-đa đáp: Thầy tóc bạc, vậy tóc thầy bạc hay tâm thầy bạc?

Thương-na biết đó là hàng Pháp khí liền độ cho đi xuất gia, thọ giới Cụ túc xong liền chứng A-lahán.

Thương-na bảo: Phật thọ ký cho ông một trăm năm sau là hàng tọa thiền bậc nhất, giáo hóa nhiều chúng sinh.

Cúc-đa nghe lời dạy liền tập họp chúng thuyết pháp. Ma vương Ba-tuần hóa làm voi trắng trang sức bảy báu, lại hiện ra gái đẹp mỹ miều khiến đại chúng nhìn thấy không chú tâm nghe pháp. Cúc-đa biết là ma hiện ra, liền lấy ba thây chết của rắn, chó, người hóa làm tràng hoa đem đeo vào cổ ma thì hiện lại thành thây chết sình rã đầy dòi tửa, ma dùng hết thần lực cởi ra không được. Liền bay lên không trung hỏi các trời.

Trời Phạm thiên bảo: Bị sức Thần thông của đệ tử Phật đâu thể cởi ra được. Ngươi nên quy y Tôn giả, ngài tha cho thì cởi ra được.

Ma Ba-tuần bèn đến chỗ Tôn giả, rạp mình cúi lạy cầu xin ngài cởi giùm ba thây chết.

Tôn giả bảo: Ngươi đừng phá hoại chánh pháp nữa thì ta cởi cho. Ma thưa: Xin vâng. Tôn giả liền cởi ba thây chết ra.

Cúc-đa luôn hận mình không được gặp Phật liền hỏi ma: Ngươi thấy tướng Phật ra sao có hiện ra được chăng?

Ma đáp: Được. Ngay đó trước khu rừng lớn thấy một hình Phật hiện ra tướng hảo rực rỡ như một núi vàng ròng, ánh sáng chiếu khắp mười phương, Phạm vương, Đế Thích theo hầu Cúc-đa vui mừng bất giác sụp lạy.

Ma hiện lại nguyên hình bảo: "Tôi là kẻ phàm phu, đâu đáng để bậc Thánh lạy!"

Đến ngày thứ tư thì ma hiện xuống, lớn tiếng thông báo đến tất cả rằng: "Ai muốn được giàu sang sung sướng, sinh làm trời người hoặc muốn cầu Niết-bàn là nơi an ổn bậc nhất, nay không còn gặp Đức Như Lai đại Bi nói pháp nữa, tất cả hãy đến chỗ Tôn giả Cúc-đa để nghe diệu pháp mà chí tâm tu hành. "

Khi ấy tất cả nam nữ trong thành đều tụ họp và tùy căn cơ mà ngài nói các pháp, có trăm ngàn chúng sinh đều được quả Tu-đà-hoàn, một vạn tám ngàn người thành A-la-hán. Khi đó vua A-thứ-ca (tức vua A-dục) nghe Tôn giả đang ở núi Ưu-đà nói pháp cho đại chúng, bèn sai sứ đến thưa là vua muốn đến thăm hỏi. Tôn giả lấy cớ là nơi quê mùa hiểm trở, nên đích thân đến thành Hoa thị rờ đầu vua mà nói kệ, nêu rõ ý chỉ: Nơi nào ngày xưa Như Lai có đến hoặc trú ngụ đều nên xây tháp. Cúc-đa hóa độ chúng sinh nếu ai cả vợ chồng đều chứng quả La-hán thì bỏ một cái thẻ bốn tấc. Số thẻ này chất đầy trong một nhà bằng đá cao một trượng sáu, dài rộng cũng thế, thần thông và giáo hóa của ngài không khác chi Phật. Chỉ ngài thiếu ba mươi hai tướng. Nên đời gọi ngài là Phật không tướng hảo.

Khi hóa duyên đã mãn, ngài hiện mười tám thứ thần biến rồi diệt độ, đồ chúng lấy thẻ trong nhà đá làm lễ trà-tỳ. Nhân dân gào khóc thu nhặt Xá-lợi và xây tháp cúng dường (kinh Phó Pháp Tạng).

Tổ thứ 5: Đề-ca-đa (Dhrtaka)

Ngài là người nước Ma-đột-la. Ban đầu khi Cúc-đa hóa duyên sắp xong có đến nhà một ông Trưởng giả, ông hỏi: Đại Thánh vì sao chỉ đi một mình?

Đáp: Ta là người xuất gia không có người hầu hạ, nếu có ai làm ơn xin chỉ giùm.

Trưởng giả nói: "Sau này sinh con, tôi sẽ cho theo hầu thầy. "

Sau sinh được trai tên là Đề-ca-đa, rất giỏi kinh luận. Ngài Cúc-đa đến hỏi và dắt về Tăng phòng độ cho xuất gia. Khi tròn hai mươi tuổi liền truyền giới Cụ túc. Ngày đầu tiên đoạn dứt các kết Kiến đế được quả Tu-đà-hoàn. Đến lần Yết-ma thứ nhất thì dâm, nộ, si mỏng hẳn chứng được quả Tư-đàhàm, lần yết-ma thứ hai, các kết ở Dục giới đều dứt chứng được quả A-na-hàm, lần yết-ma thứ ba nhanh chóng dứt hẳn phiền não ba cõi, kiến lập phạm hạnh thành A-la-hán, ba minh chiếu xa, sáu thông đầy đủ, đi đứng ẩn hiện tự tại vô ngại.

Ngài Cúc-đa bảo rằng: Giờ nhập Niết-bàn của ta đã đến, nay phó chúc cho ông pháp bảo này, ông nên truyền bá rộng rãi.

Về sau Đề-ca-đa hóa độ thế gian và nhập Niếtbàn ở vùng Trung Ấn Độ. Trời người buồn thương thu nhặt Xá-lợi xây tháp thờ ở núi Ban-trà (kinh Phó Pháp Tạng).

Tổ thứ 6: Di-giá-ca (Miccaka)

Ngài thuộc người Trung Ấn Độ, là vị đứng đầu của tám ngàn Tiên nhân, học rộng hiểu nhiều có đại biện tài. Ngài đến gặp Đề-ca-đa nói rằng: Ngày xưa cùng thầy sinh cõi Phạm thiên. Con bỗng gặp A-tư-đà dạy cho phép Tiên, còn thầy gặp được đại Thiện tri thức tu tập Phật đạo, từ đó khác đường đến nay đã được sáu kiếp. Vị Tiên ấy thọ ký rằng sáu kiếp nữa con sẽ gặp bạn đồng học của con mà chứng được Thánh quả, vậy nay gặp đây không phải là túc duyên ư? Đề-ca-đa liền nói pháp cho nghe và chứng được Vô lậu. Các Tiên chúng không tin phục. Đề-ca-đa bèn hiện phép thần biến, khi đó toàn chúng mới tin phục và đều được đạo quả. Ngài Đề-ca-đa khi sắp nhập Niết-bàn liền phó chúc chánh pháp bảo rằng: Đức Phật phó chúc chánh pháp cho ngài Đại Ca-diếp và lần lượt truyền đến ta, nay ta phó chúc cho ông hãy nên truyền bá rộng rãi. Di-giá-ca tuân lời hoằng truyền chánh pháp, khai đạo Niết-bàn cho chúng sinh. Khi hóa duyên đã mãn bèn nhập Niết-bàn. Đại chúng thu nhặt Xálợi xây tháp cúng dường (kinh Phó Pháp Tạng).

Tổ thứ 7: Phật-đà Nan-đề (Buddha Nandi)

Ngài là người Bắc Thiên Trúc, tuệ sáng nói giỏi được kính phục nhất đương thời.

Lúc đầu, khi ngài Di-giá-ca mới đến nước ấy thấy trên bờ tường thành có đám mây ánh sắc vàng, liền khen rằng: "Dưới đó tất có bậc Đại sĩ có thể truyền nối chánh pháp", bèn đến tìm.

Quả nhiên thấy ở cửa chợ có Phật-đà Nan-đề, liền bảo rằng: Thầy ta là Đề-ca-đa nói: Đức Thế Tôn lúc xưa khi đi đến vùng Bắc Ấn này đã nói với A-nan rằng: Cách ba trăm năm sau khi ta diệt độ, sẽ có một Thánh nhân tên là Phật-đà Nan-đề ở đây hoằng pháp. "

Nan-đề thưa: Con nhớ thuở xưa đã từng hiến tặng Như Lai một bảo tòa, nhân đó ngài đã thọ ký cho con là ở Hiền kiếp trong pháp Đức Thích-ca sẽ hoằng truyền chánh pháp, nay rất phù hợp với lời thầy.

Bèn cầu xin xuất gia. Khi vừa nghe nói pháp liền được bốn quả. Khi ngài Di-giá-ca sắp nhập Niết-bàn liền đem chánh pháp phó chúc để ngài truyền bá rộng rãi. Sau khi thấy hóa duyên đã mãn ngài Nan-đề bèn nhập Niết-bàn. Đồ chúng thu nhặt Xá-lợi xây tháp cúng dường (kinh Phó Pháp Tạng).

Tổ thứ 8: Phật-đà Mật-đa (Buddha Mitra)

Ngài người nước Đề-già, có đức lực sâu chắc khéo giáo hóa quần sinh. Lúc đầu, khi ngài Nan-đề đi hành hóa đến nước ấy thấy nhà nọ có ánh sáng trắng, liền bảo đồ chúng rằng: "Trong đây có vị Thánh nhân có miệng mà không nói, có chân mà không đi", rồi cùng đến nhà ấy.

Vị Trưởng giả nhà ấy hỏi: Vì sao đến đây? Nan-đề đáp: Ta đến tìm đệ tử.

Trưởng giả nói: Tôi có đứa con nay đã năm mươi tuổi không nói không đi, đâu thể theo hầu?

Nan-đề bảo: Đúng thật là đệ tử của ta.

Mật-đa bỗng trỗi dậy đảnh lễ, đi bảy bước, xong miệng nói kệ rằng:

Cha mẹ ta không thân
Ai là kẻ thân nhất?
Chư Phật chẳng đạo ta.
Ai là người tột đạo?

Ngài Nan-đề nói kệ đáp:

Ngươi nói cùng tâm thân
Cha mẹ không thể sánh.
Hạnh ngươi cùng đạo hợp
Chư Phật chính là tâm
Ngoài nói có tướng Phật
Cùng ngươi không giống nhau.
Muốn biết bản tâm ngươi
Không hợp cũng không lìa.

Ngài lại bảo rằng: "Người này thuở xưa đã từng gặp Phật, lòng

Từ bi rộng lớn nghĩ đến cha mẹ tình thương khó bỏ nên chẳng đi chẳng nói. "

Trưởng giả liền cho xuất gia và chứng đạo quả. Rồi đi hoằng hóa chánh pháp. Lúc đó có vị quốc vương tôn thờ ngoại đạo khinh hủy Tam bảo. Ngài Mật-đa muốn đến điều phục bèn đích thân cầm cây phướn đỏ đi trước vua suốt mười hai năm.

Sau vua hỏi: Đây là người nào?

Đáp rằng: Ta là bậc trí giỏi nghị luận.

Vua liền triệu tập các Bà-la-môn, Trưởng giả, Cư sĩ cùng lên điện Chánh thắng để nghị luận cùng một Sa-môn. Ngài Mật-đa lên tòa nghị luận như nước chảy. Người trí cạn nói một tiếng liền bị bẻ, kẻ thông biện nói đến câu thứ hai thì hết lời. Nhà vua đích thân biện bác, nhưng vừa mở lời liền bị khuất phục. Vua liền hồi tâm trở lại làm Phật tử. Bấy giờ trong nước có ông Ni-càn hủy báng chánh pháp, giỏi về toán số (bói toán) (Ni-càn, Hán dịch là Tự Ngạ Ngoại Đạo). Ngài Mật-đa đến hóa độ, lấy các số thuật của Ni-càn thường đem ra để chửi bới làm nhục Phật mà bảo rằng: Ngươi nay tạo tội tất phải đọa địa ngục, không tin hãy bói thử xem.

Ni-càn liền bói thì biết phải đọa địa ngục, liền bạch Tôn giả rằng: "Làm thế nào con khỏi được tội này?"

Ngài Mật-đa nói: "Ngã từ đất thì từ đất đứng dậy. Ngươi phải quy y Phật thì tội này mới có thể hết. "

Bấy giờ Ni-càn nói năm trăm bài kệ để khen ngợi Như Lai hầu chuộc lại lỗi xưa. Ngài Mật-đa bảo: "Ngươi đã tạo thiện nghiệp tất được sinh lên trời, không tin hãy bói xem. "

Ni-càn gieo quẻ tự biết mình đã hết tội được sinh lên trời, rất vui mừng, bèn cùng năm trăm người đều xin xuất gia. Khi hóa duyên đã hết ngài Mật-đa liền nhập Niết-bàn. Chúng đệ tử đem toàn thân nhập tháp cúng dường (kinh Phó Pháp Tạng).

Tổ thứ 9: Hiếp Tỳ-kheo (Parsvika)

Ngài là người Trung Ấn Độ. Do nghiệp đời trước nên ngài ở trong thai mẹ sáu mươi năm, khi sinh ra thì râu tóc đều bạc, chán ghét ngũ dục không thích ở nhà.

Người cha dắt đến gặp ngài Mật-đa thưa rằng: "Thằng này ở trong thai mẹ sáu mươi năm nên gọi là Nan Sinh. Từng gặp thầy tướng số nói nó là Pháp Khí, xin cho nó xuất gia. "

Đến ngày thọ giới thì đuốc rực sáng trên tòa, cảm được hai mươi mốt hạt Xá-lợi, bèn ngay ở trên tòa mà được quả A-la-hán. Ngài luôn tinh tấn khổ hạnh lưng không hề dính chiếu. Người thời đó gọi ngài là Hiếp Tỳ-kheo. Có một ngoại đạo thấy tay ngài phóng ra ánh sáng bên trong có ngầm chứa Kinh, liền bỏ tà quy chánh mà chứng được đạo quả. Khi hóa duyên đã xong. Ngài liền hiện mười tám thứ thần biến rồi nhập Niết-bàn. Đồ chúng thu nhặt Xá-lợi và dựng tháp cúng dường (kinh Phó Pháp Tạng).

Tổ thứ 10: Phú-na-dạ-xa (Punyayasac)

Ngài người nước Hoa Thị, trí thức sâu sắc học nhiều nhớ rộng. Lúc đầu, ngài Hiếp Tỳ-kheo đến nước ấy, tạm nghỉ dưới một cội cây liền chỉ đất nói rằng: "Nếu đất này biến thành vàng thì sẽ có Thánh nhân đến. "

Nói xong thì quả nhiên đất thành vàng rồi thì ngài Dạ-xa đến. Bèn thâu làm đệ tử và phó chúc cho pháp tạng để phương tiện hóa độ chúng sinh. Khi việc làm đã xong thì ngài Dạ-xa liền nhập Niết-bàn. Đồ chúng thu nhặt Xá-lợi, xây tháp cúng dường (kinh Phó Pháp Tạng).

Tổ thứ 11: Mã Minh (Asvaghosha)

Ngài là dòng Bà-la-môn ở nước Tang-kỳ-đa thuộc Đông Thiên Trúc. Ngài dùng dao khắc vào gậy lời minh rằng: "Trong thiên hạ này kẻ trí nào thắng ta ta xin cắt đầu tạ tội. "

Người các nước không ai dám kình địch. Lúc đó ngài Phú-na-dạ-xa đang ngồi trong rừng vắng. Mã Minh cống cao phách lối tin thật là có ngã, nghe Dạ-xa nói các pháp không, vô ngã, vô nhân liền đến bảo rằng: Tất cả luận thuyết ở đời ta đều bẻ gãy, lời nói này nếu sai ta xin cắt đầu tạ lỗi.

Ngài Dạ-xa nói: Trong Phật pháp có hai đế. Nếu đế thế gian thì giả gọi là ngã, còn Đệ nhất nghĩa đế thì tất cả đều vắng không, như thế thì tìm thấy ngã ở đâu?

Mã Minh biết nghĩa mình không thắng được nên định cắt đầu. Ngài Dạ-xa bảo: Pháp của ta nhân từ không cắt đầu ngươi. Đức

Như Lai đã thọ ký cho ngươi sau sáu trăm năm, ngươi sẽ truyền bá pháp tạng.

Do đó liền độ cho xuất gia. Nhưng trong tâm ông vẫn còn hối hận hổ thẹn. Lúc đó ngài Dạ-xa có kinh cất trong nhà tối, bảo Mã Minh đến lấy. Mã Minh thưa nhà quá tối. Ngài Dạ-xa dùng năm ngón tay phóng ánh sáng. Nhưng Mã Minh vẫn nghi là ảo thuật, hễ pháp ảo thuật khi biết được thì mất, nhưng ánh sáng này lại càng sáng rực. Nên liền tin phục. Rồi cần khổ tu hành nên nhận được phó chúc ở nước Hoa Thị mà du hành giáo hóa. Ngài chế ra một thứ kỹ nhạc gọi là Lại-tra-hòa-la có tiếng rất thanh nhã, tuyên nói các pháp khổ, không, vô ngã. Lúc đó trong thành có đến năm trăm Vương tử đồng lúc khai ngộ xuất gia hành đạo. Bấy giờ vua nước Hoa Thị sợ nước không người liền cấm không cho sử dụng loại nhạc ấy. Khi ấy vua Nguyệt Thị đem quân đánh thành Hoa thị. Trong thành có chín ức người, liền đòi chín ức đồng tiền vàng.

Bấy giờ vua Hoa Thị liền đưa Mã Minh một bát Phật và con gà từ tâm. Mỗi thứ trị giá ba ức tiền vàng. Mã Minh thì trí tuệ thù thắng nghĩ là Bát Phật là công đức của Như Lai, gà từ tâm thì không uống nước có vi trùng, nên dẹp hết các oán thù. Vua Nguyệt Thị rất mừng bèn kéo quân về nước. Về sau nước An Tức đánh nước Nguyệt Thị, Nguyệt Thị đánh thắng, giết chết chín ức người nước An Tức. Bấy giờ có một vị A-la-hán muốn khiến vua hối hận bèn dùng thần lực biến cảnh địa ngục hiền tiền. Vua thấy sợ quá. Khi ấy Mã Minh bảo vua rằng: Vua nghe ta nói pháp thì sẽ khiến tội này không bị đọa địa ngục. Sau đó vua muốn đánh vùng Bắc hải, quần thần oán vua là kẻ tham tàn vô đạo. Nhân lúc vua bệnh bèn lấy mền trùm rồi cho người ngồi lên, phút chốc vua ngộp mà chết. Do nghe Mã Minh nói pháp nên vua sinh vào biển lớn làm cá có ngàn đầu. Kiếm Luân hồi quay tít chặt đầu, vừa chặt xong lại mọc, lại chặt, phút chốc đầu đầy biển cả. Lúc đó có vị A-la-hán là Tăng Duyna, vua thưa rằng: Kiếm này khi nghe tiếng kiền chùy thì dừng lại nên đỡ khổ đôi chút, cúi mong Đại đức khiến nó kêu hoài. Nên La-hán thương xót hồi kiểng thật dài. Đến sau bảy ngày thì tội khổ liền dứt. Đến nay chùa này vẫn còn lưu truyền việc hồi kiểng dài.

Ngài Mã Minh hoằng hóa đã xong liền nhập Long phấn tấn Tam-muội, vọt thân đứng yên trên không trung như vầng mặt trời rồi mới trở về chỗ cũ mà nhập Niết-bàn. Đồ chúng thu nhặt Xá-lợi xây tháp cúng dường (kinh Phó Pháp Tạng, luận Ma-ha-diễn nói vua Luân-đà có ngàn con chim trắng, khi chim hót thì vua thêm đức, nhưng các con chim này khi thấy ngựa trắng thì chúng mới hót. Vua bèn khắp tìm ngựa trắng nhưng không được. Bèn nói rằng: Nếu đệ tử Phật mà khiến chim hót được thì ta sẽ dẹp phá hết ngoại đạo. Lúc đó Bồ-tát dùng thần lực hóa hiện ngàn con ngựa trắng hý vang và ngàn chim trắng cùng hót khiến tiếp nối hưng thịnh chánh pháp nên đời tôn xưng ngài là Mã Minh).

Tổ thứ 12: Ca-tỳ-ma-la (KapimA-la)

Ngài là người nước Hoa Thị, thầy của ngoại đạo có ba ngàn chúng, muốn dùng thần lực để phá khuấy Mã Minh.

Mã Minh hỏi: Thần lực của ông như thế nào? Ma-la đáp: Ta hóa biển cả chỉ là chuyện nhỏ.

Mã Minh hỏi: Ông có thể hóa làm tánh biển chăng? Ma-la hỏi: Tánh biển là gì?

Mã Minh nói: Núi sông đại địa đều y vào đó mà kiến lập, Tam-muội sáu thông cũng do đấy mà phát ra...

Ma-la nghe rồi thì đều tin nhận, cùng cả ba ngàn chúng đồng lúc ngộ đạo và được thầy phó chúc để truyền bá chánh pháp, làm hưng thịnh Phật pháp, lợi ích quần sinh khắp vùng Nam Thiên Trúc. Viết ra bộ luận Vô Ngã đủ một trăm kệ. Luận này đến đâu thì ngoại đạo đều rút lui. Lúc đó ở Tây Ấn Độ có thái tử tên là Vân Tự Tại, ngưỡng mộ đạo đức của thầy mình nên mời vào cung cúng dường.

Ngài Ma-la nói: Phật cấm Sa-môn không được gần gũi với vua quan quyền thế.

Thái tử thưa: Ở phía Bắc thành có một hang núi có thể đến ở đó được chăng?

Ngài Ma-la liền đi đến, giữa đường gặp một rắn mãng xà lớn bèn nói pháp và truyền giới cho rắn kia liền ẩn mất. Khi ngài Ma-la đến hang đá thì có một ông lão mặc áo tơ trắng ra nghênh tiếp thưa rằng: Xưa tôi là Tăng giữ giới rất thanh tịnh, kẻ mới học đến tham hỏi trong lúc ứng đáp thường hay giận dữ mà bị báo làm rắn, ở đây đến nay đã ngàn năm. Vừa nghe nói pháp liền được thoát khổ nên đến đây lạy tạ (Đức Phật diệt độ đến nay mới sáu trăm năm, con rắn này đã làm Tăng từ thời mạt pháp của Phật Ca-diếp nên gọi là ngàn năm).

Khi hóa duyên đã hết ngài Ma-la hiện các thần biến rồi nhập diệt. Đồ chúng thu nhặt Xá-lợi xây tháp cúng dường (kinh Phó Pháp Tạng).

Tổ thứ 13: Long Thọ (Nagarjuna)

Ngài là hậu duệ của các Phạm chí nước Nam Thiên Trúc. Khi mới sinh ra ở dưới một cội cây và do vào Long cung mới được thành đạo, nên gọi là Long Thọ (Theo Tây Vức Ký, Tiếng Phạm gọi là cây Na-ca-ứ, Hán dịch là Long Mãnh). Ngài xuất hiện lúc Phật diệt độ đã bảy trăm năm. Ngài thiên tư thông ngộ. Lúc ngài còn bé thường nghe các Phạm chí đọc bốn kinh Vệ-đà có bốn vạn bài kệ, mỗi bài ba mươi hai chữ mà ngài đều hiểu rõ cú nghĩa. Tuổi còn nhỏ mà nổi tiếng khắp các nước. Các môn thiên văn, địa lý, tinh vĩ, đồ sấm, đạo thuật đều tinh luyện. Thường cùng ba bạn ý chí họp nhau bàn rằng: Ở đời các nghĩa lý có thể làm mở mang thần trí, hiển bày các ý chỉ sâu kín, bọn mình nay đều thấu suốt hết thì còn biết phương nào để tự vui thú? Lại bảo: Đời người chỉ có chạy theo sắc dục là cái vui tột cùng mà thôi. Bèn cùng nhau đến nhà thuật gia học phép ẩn mình. Thầy nghĩ rằng: Bốn ông Phạm chí này tài trí cao xa, nay vì thuật này mà chịu nhục đến với ta, nếu trao hết phương thuật này thì chỉ bỏ nghề mà thôi. Bèn cho mỗi vị một viên thanh dược mài nước thoa vào mắt thì tự nhiên thân hình sẽ biến mất.

Ngài Long Thọ mới nghe mùi hương thì biết liền thuốc ấy có bảy mươi vị, tên và số lượng đúng như toa bào chế. Thầy nghe cả kinh, liền dạy đủ phương thức cho bốn người. Được thuốc rồi bốn người cùng ẩn mình đi trên không rồi lẻn vào hậu cung của vua ở vài tháng. Các người đẹp mang thai rất đông. Vua hỏi các quan tài trí. Quan tâu: Nếu không phải yêu quái thì do pháp thuật. Có thể tán nhỏ đất để trong các cửa, nếu là pháp thuật thì giấu vết liền hiện rõ, còn yêu quái thì không có giấu vết. Nếu người thì dùng binh lính mà trừ, nếu yêu quái thì dùng chú thuật mà diệt. Vua dùng Kế ấy, quả nhiên bốn người bị lộ. Bèn khiến dũng sĩ huơ kiếm trên không mà chém đầu ba người, nhưng cách vua bảy thước thì đao kiếm không dám xâm phạm. Long Thọ rạp mình nương vào vua nên không bị hại. Mới tỉnh ngộ rằng tình dục là gốc khổ, bèn tự thề rằng nếu thoát được nạn này thì sẽ đến các Samôn học pháp xuất gia. Khi thoát ra khỏi cung, Long Thọ bèn vào núi đến một tháp Phật.

Ngài Ma-la đến hỏi. Long Thọ nghênh tiếp thưa rằng: Chốn thâm sơn vắng vẻ, Đại Đức Chí Tôn sao lại uổng công đến đây?

Ma-la đáp: Ta không phải bậc Chí Tôn, chỉ đến hỏi thăm Hiền giả mà thôi.

Long Thọ nghĩ thầm: Ông thầy này có được tánh quyết định chăng? Có đạo nhãn sáng chăng? Có phải là Đại Thánh tiếp nối chân thừa chăng?

Ngài Ma-la bảo: Ông tuy nói trong tâm mà ta đã biết ý, chỉ tính việc xuất gia thì lo gì ta không phải Thánh?

Long Thọ hối lỗi tạ tội liền xin xuất gia. Trong chín mươi ngày đọc thông ba tạng. Ở cõi Diêmphù này có những pháp gì thì đều thông suốt, biện tài vô ngại. Tự cho là người Nhất thiết trí, muốn từ cửa Cù-đàm mà vào.

Thần giữ cửa thưa rằng: Nay trí tuệ của ngươi có khác gì lửa đom đóm dám so ngang mặt trời mặt trăng, hột đình lịch mà sánh với núi Tu-di, ta thấy nhân giả không phải là Nhất thiết trí tại sao dám từ cửa này mà vào.

Long Thọ thấy chùn lòng và tự nghĩ rằng: Các kinh Phật trên thế giới này tuy câu rất hay nhưng nghĩa chưa rốt, vậy ta nên phô diễn để khai ngộ cho kẻ hậu học. Ngài lại muốn lập sư dạy giới, cải tạo y phục khiến có chút ít không giống nhau. Muốn dẹp các tình nên chọn lựa ngày lành tạo dựng tịnh thất ở riêng một mình trong phòng thủy tinh. Đại Long Bồ-tát thương ý định ấy nên liền dùng thần lực rước ngài vào cung điện ở biển lớn, mở hộp bảy báu, cho ngài xem các kinh điển Phương đẳng. Trong chín mươi ngày, ngài thông hiểu rất nhiều. Đại Long bảo: Nay ngài đã xem hết các kinh chưa?

Sư đáp: Kinh của ngài nhiều vô lượng tôi không thể đọc hết được, nay tôi chỉ đọc hơn mười lần số kinh ở cõi Diêm-phù.

Đại Long bảo: Các kinh trên cung trời Đao-lợi còn nhiều gấp trăm ngàn vạn lần ở đây.

Sư ở trong Long cung tu hành hoát nhiên thấu suốt, hiểu rõ về nhất tướng, thâm nhập Vô sinh pháp nhẫn. Đại Long biết Sư đã ngộ đạo liền tiễn Sư ra khỏi cung (Phụ Hành nói rằng: Đại Long tiếp Sư vào cung cả mùa Hạ chỉ tụng có bảy kinh Phật). Có vua nước Nam Thiên Trúc rất thâm nhiễm tà kiến, Sư muốn hóa độ, nên đích thân cầm cây phướn đỏ đi trước vua suốt bảy năm.

Vua hỏi: Ông là ai?

Đáp rằng: Ta là người Nhất thiết trí. Vua hỏi:

Chư Thiên hiện đang làm gì?

Đáp rằng: Các trời đang giao chiến với A-tu-la. Phút chốc từ trên không trung dao kiếm nối nhau rơi xuống, rồi đến tai mũi của các A-tu-la... Vua kinh sợ hiểu ra, liền cúi đầu đảnh lễ. Lúc đó trên điện có vạn Bà-la-môn đều khen là thần đức, nên cạo bỏ râu tóc xin xuất gia. Bấy giờ có các chúng ngoại đạo đến cùng ngài nghị luận. Nhưng khi mới nói một tiếng liền bị khuất phục, nên xin xuất gia. Có một vị Bà-la-môn rất giỏi chú thuật xin vua cho cùng ngài đấu sức. Vị Bà-la-môn hóa ra một vạn hoa sen lớn ở trong ao rồi mình ngồi trên ấy. Ngài Long Thọ liền hóa thành một voi trắng đi vào ao vươn vòi quấn lấy hoa sen đưa lên cao và quăng xuống đất khiến vị Bà-la-môn bị thương ở lưng liền tâu vua xin hối lỗi, nhân đó cầu xin xuất gia. Ngài Long Thọ viết ra các bộ Đại Bi Phương Tiện Luận có năm ngàn kệ, bộ Đại Trang Nghiêm Luận có năm ngàn kệ, bộ Đại Vô Úy Luận có mười vạn kệ (Phụ Hành nói: Đại Bi Luận nói về thiên văn địa lý, cách chế tạo thuốc quý; bộ Trang Nghiêm Luận nói về pháp môn tu tất cả công đức. Còn bộ Đại Vô Úy Luận nói về Đệ nhất nghĩa và Trung Quán Luận chỉ là một phẩm trong đó, đây tức là Đại Trí Độ Luận), bộ Ưu-bà-đề-xá Luận có mười vạn kệ. Các vị sư thuộc phái Tiểu thừa thấy ngài Long Thọ quá cao sáng rực rỡ nên luôn ganh ghét.

Khi hóa duyên đã hết, ngài hỏi các sư Tiểu thừa rằng: Nay quý vị có thích tôi sống lâu trên thế gian này chăng?

Đáp rằng: Nhân giả thật chẳng muốn mà thôi! Bỗng một hôm ngài nhập Nguyệt luân Tammuội, chỉ nghe pháp âm mà không thấy thân tướng ngài ở đâu. Chỉ có đệ tử ngài là Đề-bà biết được bảo rằng: Thầy thị hiện Phật tánh không phải là thanh sắc.

Ngài Long Thọ bèn phó chúc pháp cho Đề-bà. Rồi ngài vào tịnh thất suốt cả ngày không ra. Đệ tử phá cửa vào thấy ngài nhập vào Tam-muội thoát xác mà đi. Các nước ở Thiên Trúc đều lập miếu kính thờ ngài như thờ Phật (kinh Phó Pháp Tạng, kinh Ma-ha Ma-gia, ngài Trí Giả nói: Thọ sinh sinh thân, rồng sinh Pháp thân, nên gọi là Long Thọ. Hai ngài Cô Sơn và Từ Vân đều gọi Long Thọ là Tổ thứ mười ba, vì các Tổ chánh thống ở Tây Vức thì không kể Mạt-điền-địa là Tổ).

Tổ thứ 14: Ca-na-đề-bà (Canadeva)

Ngài là dòng Bà-la-môn nước Nam Thiên Trúc. Trong nước có một vị Thiên thần bằng vàng đứng cao sáu trượng, hiệu là Đại tự tại thiên. Có ai cầu xin đều được báo ứng. Ngài Đề-bà vào miếu cúi lạy, Thiên thần trợn mắt nhìn.

Đề-bà nói: Phàm làm Thần thì phải lấy sự sáng suốt linh ứng mà thu phục mọi người, nay ông lấy vàng làm đẹp hao phí của nhân dân, thật quê mùa dốt nát thay!

Liền leo lên thang cao đục bỏ mắt tượng thần. Sáng hôm sau ở miếu thờ thần hóa thành một người bằng xương thịt, thân cao mấy trượng có con mắt trái khô héo.

Thần bèn đến tòa ngài Đề-bà bảo rằng: Giỏi lắm Đại sĩ! Hãy bày tiệc đầy đủ và trả lại mắt cho ta!

Ngài Đề-bà bèn lấy tay trái móc mắt đưa cho. Đòi mãi, ngài móc mắt mãi đến cả vạn lần. Thiên thần khen giỏi lắm Đại sĩ! Thật là bố thí chân thượng.

Về sau ngài Đề-bà đến chỗ ngài Long Thọ. Ngài Long Thọ để một bát nước đầy trước tòa. Ngài Đề-bà bỏ một cây kim vào bát rồi vui vẻ vào gặp mặt. Liền cạo đầu xuất gia và được phó pháp. Lúc bấy giờ vua Nam Thiên Trúc tin dụng tà đạo. Phép nước xuất tiền mướn người hộ vệ. Ngài Đềbà liền đầu quân, làm tướng vác kích đi trước mở đường, chỉnh đốn xong xuôi các nơi. Vua mừng công liền vời đến hỏi.

Ngài đáp: Tôi là người trí giỏi biện luận.

Vua liền lập tòa biện luận. Ngài lập luận ba nghĩa: Trong các bậc Thánh chỉ có Phật là thù thắng, trong các pháp chỉ có pháp Phật là vô tỷ; phước điền thế gian chỉ có Tăng là bậc nhất. Nếu khắp tám phương luận sĩ nào phá được thuyết này tôi xin cắt đầu tạ lỗi. Lúc đó các ngoại đạo lời và lý đều cạn nên cùng xin xuất gia. Có một ngoại đạo thẹn vì thầy mình bị khuất phục nên oán hận, khi ngài Đề-bà ở nơi rừng vắng viết Bách Luận, thì kẻ ngoại đạo cầm dao đến liều mạng nói rằng: Ông đã dùng dao không để phá nghĩa thầy ta, nay ta dùng dao sắt để phá bụng ông.

Khi ngũ tạng bị lôi ra ngoài nhưng ngài chưa chết nên liền bảo kẻ ngoại đạo rằng: Ông hãy lấy y bát của ta rồi trốn gấp đi, đệ tử của ta vì chưa đắc đạo tất sẽ bắt ông.

Khi đệ tử đến thấy vậy cất tiếng than khóc và đuổi tìm các nẻo hiểm yếu, thì ngài Đề-bà bảo rằng: Các pháp vốn không, không có ngã và ngã sở. Không có người làm hại cũng không có kẻ bị hại. Có gì là thân, có gì là oán? Kẻ kia làm hại là hại cái báo đời trước của ta chứ không phải là hại ta đâu.

Khi đó ngài bỏ thân xác ra đi. Đồ chúng thu nhặt Xá-lợi dựng tháp cúng dường (kinh Phó Pháp Tạng).

Tổ thứ 15: La-hầu-đa-la (Rahulata)

Ngài người nước Ca-tỳ-la, thông minh khác thường. Khi ngài Ca-na-đề-bà đến nước Ca-tỳ-la, có ông Trưởng giả tên là Tịnh Đức, ở trong vườn ông có một cây sinh ra nấm. Chỉ có Trưởng giả và con là La-hầu-đa-la hái ăn, hái rồi nấm lại mọc còn các bà con khác đều không thấy nấm. Ngài Đề-bà biết được nhân đời trước nên đến nhà ông ấy bảo rằng: Ngày xưa gia đình ông đã từng cúng dường cho một vị Tỳ-kheo mà vị này đạo nhãn chưa sáng nhưng sống nhờ vào của cúng thí nên bị báo làm cây nấm. Ngày xưa chỉ có ông và con ông chí thành cúng dường nên nay được hưởng.

Lại hỏi Trưởng giả đã bao nhiêu tuổi. Ông thưa: Đã bảy mươi chín.

Ngài bèn nói kệ:

Vào đạo không thông lý
Đem thân trả nợ thí
Tuổi ông tám mươi mốt
Cây không sinh nấm nữa.

Ông Trưởng giả tin phục liền cho con xuất gia. Ngài Đề-bà nói: Thuở xưa Đức Như Lai thọ ký cho người con này sau hai trăm năm mươi năm sẽ làm vị đại giáo chủ. Liền cạo đầu và phó chúc cho y bát để rộng truyền chánh pháp. Lúc đó có một Bà-la-môn viết bộ sách Quỷ Danh có mười vạn bài kệ rất khó hiểu. Nhưng ngài Long Thọ chỉ nghe qua một lần liền hiểu. Ngài Đề-bà nghe lại cũng hiểu, đến ngài La-hầu nghe ngài Đề-bà nói, lại cũng hiểu rõ.

Vị Bà-la-môn cả kinh bảo rằng: Các Sa-môn giống như đã học từ trước bèn tin phục.

Khi thấy hóa duyên sắp mãn, ngài La-hầu bèn nhập Niết-bàn. Đồ chúng thu nhặt Xá-lợi và dựng tháp cúng dường (kinh Phó Pháp Tạng).

Tổ thứ 16: Tăng-khư-nan-đề (Sanghanandi)

Ngài là thái tử con vua Bảo Trang Nghiêm ở thành Thất-la-phiệt. Mới sinh ra đã biết nói, thường khen ngợi Phật pháp. Đến bảy tuổi thì chán tục, vua cha ngăn cấm. Đến chín tuổi thì ngài Lahầu đến sông Kim thủy chỉ tay nói rằng: Cách đây năm trăm dặm có Thánh nhân tên là Nan-đề, Phật đã thọ ký cho một ngàn năm sau sẽ nối ngôi Thánh. Ngài liền dẫn chúng đến gặp thì gặp lúc Nanđề đang nhập định, hai mươi mốt ngày xuất định, Nan-đề liền xin xuất gia và đắc đạo, được phó chúc chánh pháp. Một hôm ngài La-hầu dùng tay nâng bát vàng lên cung trời Phạm thiên lấy cơm về đưa cho đại chúng. Đại chúng bỗng chán ghét cơm trời. Ngài La-hầu bảo không phải lỗi ta mà chính là nghiệp của các ông. Ngài liền gọi Nan-đề đến chia ghế ngồi cùng ăn, đại chúng vẫn còn ngờ.

Ngài La-hầu nói: Nan-đề đây quá khứ là Phật Ta-la Vương thương xót chúng sinh nên hiện ra đời. Các ông cũng ở trong kiếp Trang nghiêm chứng được ba quả chỉ chưa chứng được vô lậu mà thôi.

Chúng thưa: Thần lực của thầy thì con có thể tin, chứ Phật quá khứ kia thì còn nghi.

Ngài Nan-đề nói: Khi Như Lai còn tại thế thì đất bằng, nước ngọt.

Khi ngài diệt độ tám trăm năm rồi thì người không tin hết lòng, không tin Chân như mà chỉ ưa thần biến. Nói xong liền tay cầm bình lưu ly từ từ đưa vào đất đến lớp Kim cang luân lấy nước Cam lồ đem về đặt trước chúng.

Bấy giờ chúng mới hối lỗi tạ tội. Có vị A-lahán đầy đủ công đức, ngài Nan-đề dùng một kệ thử rằng:

Sinh dòng Chuyển luân vương Không phải Phật, La-hán Không thọ Hữu đời sau Không phải Bích-chi-phật.

Vị La-hán không hiểu bèn bay lên cung trời hỏi Đức Di-lặc.

Ngài Di-lặc bảo: Đời lấy hòn đất nhão để trên bàn xoay nắn thành cái bình, há đồng với các Thánh đời sau ư?

Vị La-hán quay về nói câu ấy.

Ngài Nan-đề nói: Đây tất là ngài Di-lặc nói với thầy câu ấy rồi. Khi hóa duyên đã mãn, ngài níu tay mặt vào cây mà diệt độ, chúng đệ tử muốn dời xác ngài đi nhưng quá cứng chắc không lay được. Cho voi lớn đến kéo cũng không được. Bèn chất gỗ thơm làm dàn rồi làm lễ trà-tỳ luôn cả cây. Khi thiêu xong thân cháy tan nhưng cây vẫn xinh tươi. Đồ chúng thu nhặt Xá-lợi và xây tháp cúng dường (kinh Phó Pháp Tạng).

Tổ thứ 17: Tăng-khư-gia-xá

Ngài người nước Ma-đề. Bà mẹ ngài nằm mơ thấy có vị Thần lớn cầm cái gương, nhân đó có thai, mới bảy ngày đã sinh. Ngài Nan-đề đi hành hóa đến nước ấy thì thấy trên một ngọn núi có đám mây tía hình cái lọng. Liền dắt chúng đến đó. Bỗng có một cậu bé tay cầm cái gương tròn đến thẳng trước ngài.

Ngài hỏi: Cái cậu đang cầm biểu hiện cho cái gì? Cậu đáp:

Đại viên cảnh chư Phật Trong ngoài không vết nhơ Hai người cùng nhìn thấy Tâm mắt đều giống nhau.

Cha mẹ nghe con nói liền cho cậu bé xuất gia ngay.

Một lúc khác khi nghe gió thổi chuông kêu vang trên điện, thầy hỏi Gia-xá: Chuông kêu hay gió kêu?

Gia-xá đáp: Không phải gió, cũng không phải chuông mà là tâm con kêu.

Ngài có lần ra bờ biển thấy cung điện bảy báu, liền đến đó khất thực nói kệ rằng:

Đói là bệnh thứ nhất
Đi là khổ bậc nhất
Biết thật pháp như thế
Có thể được Niết-bàn.

Chủ nhà ra đón mời vào tòa ngồi lấy bát cúng dường. Ngài Gia-xá thấy trong nhà có hai ngạ quỷ trần truồng đói meo, đầu mình bị xiềng xích, thấy quái dị bèn hỏi.

Chủ nhà đáp: Một đứa con tôi, một đứa con dâu. Bởi lúc xưa khi tôi bố thí thì cả vợ chồng nó đều giận hờn. Tôi nhiều lần khuyên bảo nhưng vẫn không nghe. Nhân đó thề rằng: Nếu khi tội nghiệp này phải chịu quả báo dữ thì cho ta thấy các ngươi. Thế nên bị báo như thế!

Ngài lại đến một nơi có lầu đài cao đẹp, chúng Tăng đi kinh hành, có tiếng chuông tập họp ăn cơm. Khi ăn gần xong thì cơm biến thành máu mũ, họ lại dùng bát đánh nhau chảy máu rồi bảo nhau rằng: Tiếc chi thức ăn để phải chịu khổ này.

Ngài Nan-đề đến hỏi, chúng đáp: Chúng con ở thời Đức Phật Ca-diếp cùng ở một nơi. Khi có khách Tỳ-kheo đến thì giận giữ giấu cất thức ăn không chịu chia cho. Do đó hôm nay phải chịu báo khổ này.

Như thế ngài đi chu du khắp vùng đại hải, xem khắp năm trăm địa ngục liền sợ hãi cầu phương tiện được tránh khỏi. Sau đó ngài chứng quả Lahán. Thấy có năm trăm Tiên nhân đang tu đạo trong rừng liền đến đó nói ba kệ khen Phật, Pháp, Tăng, năm trăm Tiên nhân đều được chứng đạo. Khi hóa duyên đã mãn, ngài bèn nhập Niết-bàn. Đồ chúng thu nhặt Xá-lợi, xây tháp cúng dường (kinh Phó Pháp Tạng).

Tổ thứ 18: Cưu-ma-la-đà (Kumarata)

Ngài là con của Bà-la-môn ở nước Nguyệt Thị. Khi ngài Gia-xá đến nước ấy thì tới nhà ngài gõ cửa.

Ngài Cưu-ma nói: Nhà này không có người!

Ngài Gia-xá nói: Người nói không người đó là ai vậy?

Cưu-ma biết là dị nhân nên vội mở cửa đón tiếp. Ngài Gia-xá bảo rằng: Đức Phật thọ ký là sau khi ngài diệt độ một ngàn năm thì có Đại sĩ xuất hiện ở nước Nguyệt Thị nối truyền chánh pháp.

Bèn độ cho ngài xuất gia và phó pháp cho. Ngài từng đến một nước mà người ở đấy không chịu nghe pháp, ngài liền bảo họ: Các ông có thể tập họp một vạn con ngựa sắt đến trước chỗ tôi...

Khi đó ngài Cưu-ma chỉ nhìn qua một lần thì có thể phân biệt một cách chắc chắn không nhầm lẫn về tên người, sắc ngựa, y phục, tướng mạo. Do đó cả nước đều tin phục. Có con của một Trưởng giả tên là Xà-dạ-đa đến hỏi thầy rằng: Cha mẹ con là kẻ sùng kính tin đạo nhưng luôn bệnh tật, gặp việc không vừa ý, còn người bên cạnh làm nghề giết mổ thì khỏe mạnh, gia đình hòa hợp. Vậy tại sao người kia may mắn mà con bị khổ sở thế?

Sư đáp: Do sự tạo nghiệp có trước sau cho nên luận về quả báo không nhất định. Như người nhân từ mà yểu còn kẻ bạo ngược lại sống lâu, đám nghịch ác thì tốt mà kẻ nghĩa nhân lại xấu. Là vì nghĩa và nhân là thân hiện đời làm thiện, còn yểu và xấu là cái ác của đời trước mà thân hiện đời phải chịu báo. Còn bạo ngược nghịch ác là thân hiện đời làm ác, sống lâu và tốt là cái thiện của đời trước mà thân hiện đời được hưởng báo. Nhân quả thiện ác tùy nghiệp mà thọ báo. Cho nên trước sau không nhất định.

Xà-dạ-đa nghe xong liền hết nghi. Ngài Cưuma nói: Ông tuy tin ba nghiệp nhưng chưa rõ nghiệp từ hoặc sinh ra. Nhân hoặc mà có thức, thức nương vào bất giác, bất giác do tâm. Nhưng tâm vốn thanh tịnh, không sinh diệt, không tạo ác, không báo ứng, không hơn thua mà luôn vắng lặng, linh thông sáng suốt. Nếu ông thâm nhập vào pháp môn này thì sẽ giống như Phật.

Dạ-đa hiểu rõ ý chỉ thì túc tuệ liền phát hiện. Ngài Cưu-ma liền lấy móng tay cào lên cánh cửa vẽ thành hoa sen đỏ mới nở phóng ra luồng sáng lớn, rồi diệt độ. Đồ chúng thu nhặt Xá-lợi và dựng tháp cúng dường (kinh Phó Pháp Tạng).

Tổ thứ 19: Xà-dạ-đa (Jayata)

Ngài là người Bắc Thiên Trúc. Khi ngài đi du hóa thế gian, nổi tiếng là người nói giỏi. Có thầy Tỳ-kheo phạm giới muốn tự sám hối.

Ngài Dạ-đa bảo rằng: Nếu thầy làm theo lời tôi thì tội sẽ tiêu hết.

Bèn hóa ra hầm lửa rồi bảo thầy nhảy vào đó. Thầy Tỳ-kheo muốn hết tội nên nhảy đại vào, thế là lửa thành dòng nước mát.

Ngài Dạ-đa bảo: Thầy đã chí thành hối lỗi nên tội nay đã tiêu hết.

Rồi nói pháp cho nghe và thầy thành A-la-hán.

Một hôm ngài dắt đệ tử vào thành Thi-la, chợt buồn bã lại theo đường trở về. Giữa đường ngài nhìn thấy một con chim, lại vui vẻ mỉm cười. Học trò xin thầy nói rõ nguyên do.

Thầy bảo: Lúc nãy khi ta đến cửa thành thì thấy có một ngạ quỷ con, nó bảo: "Mẹ con vào thành xin ăn đã tròn năm trăm năm mà chưa thấy về, con rất đói khát chẳng biết làm sao. " Khi ta vào thành quả nhiên thấy quỷ mẹ đến trước ta nói rằng: "Con vào thành đến nay đã năm trăm năm, hôm nay mới nhặt được bãi đờm của một người định đem về cho con. Nhưng đám quỷ thần khỏe mạnh giữ cửa thành định cướp lấy. Vậy xin ngài giúp đưa con ra khỏi thành. " Ta liền đưa quỷ mẹ ra khỏi thành. Hỏi nó sinh đến nay đã được bao lâu. Nó đáp: "Con sinh ra đến nay đã thấy thành này bảy lần đổ nát rồi xây dựng lại, chán chường phải sống trong sinh tử chịu khổ dài lâu... " Thế nên ta buồn bã không vui. Lại ở quá khứ cách nay chín mươi mốt kiếp, ở thời Phật Tỳ-bà-thi ra đời giáo hóa. Lúc đó ta làm con một trưởng giả nhưng luôn nghĩ chuyện xuất gia. Cha mẹ không cho lại ép cưới vợ cho ta. Và ta có một con trai. Khi nó lên sáu thì ta lại định xuất gia. Nhưng ông bà dạy cháu rằng nếu cha mày muốn xuất gia làm Sa-môn thì phải ôm chân mà khóc. Ta vì lòng thương nên lại không xuất gia. Do đó đứa con ấy phải trôi nổi trong năm đường sinh tử, suốt chín mươi mốt kiếp, mà cũng chưa được gặp nhau. Nay ta dùng đạo nhãn quán sát thì thấy con chim bay trước ta đó chính là con ta thuở xưa. Vì thương đứa con ngu si phải ở lâu trong sinh tử nên ta mỉm cười.

Khi ngài thấy hóa duyên đã hết liền nhập Niếtbàn. Đồ chúng thu nhặt Xá-lợi và xây tháp cúng dường (kinh Phó Pháp Tạng).

Tổ thứ 20: Bà-tu-bàn-đà (Vasubandhu)

Ngài là người nước La-duyệt, họ Tỳ-xá-khư. Bà mẹ nằm mộng thấy nuốt hai viên ngọc, một viên sáng, một viên tối và khi tỉnh giấc thì biết mình có thai. Bảy ngày sau đó có một vị A-la-hán tên là Chúng Hiền đến nhà. Người cha tên là Quang Cái ra đảnh lễ thì ngài nhận, đến khi bà vợ ra đảnh lễ thì ngài lại đứng dậy tránh đi và bảo xin hồi lễ Pháp thân Đại sĩ.

Rồi gọi Quang Cái nói rằng: Vợ ông mang thai Thánh tử nên ta tránh đi, không phải là trọng người nữ đâu.

Lại nói: Vợ ông sẽ sinh hai người con, một tên là Bà-tu-bàn-đà, người kia tên là Sô-ni (Hán dịch là Dã Thước Tử (chim khách). Ngày xưa khi Đức Như Lai ở núi Tuyết tu đạo thì Sô-ni làm tổ trên đầu ngài. Khi Phật thành đạo thì Sô-ni làm vua nước Na-đề. Phật thọ ký cho hai trăm năm sau sẽ sinh vào nhà của Tỳ-xá-khư ở thành La-duyệt, cùng ở trong thai với Thánh mà không thấy chật hẹp.

Quả nhiên một tháng sau thì sinh ra hai con. Bàn-đà về sau theo ngài Xà-dạ-đa. Đến ngày xuất gia thì cảm đến Bồ-tát Tỳ-bà-ha đến làm yết-ma. Ngài học rộng hiểu nhiều giáo hóa rộng khắp chúng sinh. Khi sắp Niết-bàn ngài bay lên không trung hơn nửa do-tuần rồi trở về tòa ngồi mà diệt độ. Đồ chúng thu nhặt Xá-lợi, xây tháp cúng dường (kinh Phó Pháp Tạng).

Tổ thứ 21: Ma-noa-la (Manorhita)

Ngài là con kế của vua nước Na-đề. Ngài Bànđà đi du hóa khi đến nước ấy liền bảo vua Tự Tại rằng: Đức Phật đã thọ ký rằng một ngàn năm sau sẽ có Thần lực đại sĩ nối tiếp ngôi Thánh, đó chính là người con kế của vua.

Vua bèn cho ngài xuất gia và lãnh nhận phó chúc ở cõi Nam Thiên Trúc mà hóa độ lợi ích chúng sinh. Có ngài Tam tạng Dạ-xa công đức sánh ngang với ngài.

Dạ-xa bảo ngài rằng: Từ sông Hằng trở về phương Nam có hai nước Thiên Trúc, người ở đấy phần nhiều là tà kiến, trưởng lão giỏi hiểu luận âm thanh, nên ở đấy mà tự tại giáo hóa. Còn từ sông Hằng lên phía Bắc người của ba nước Thiên Trúc kia có thể dễ dạy hơn, tôi xin ở đấy mà lợi ích chúng sinh.

Ngài Ma-noa-la liền theo lời mà đến hai nước Thiên Trúc rộng hoằng hóa luận Tỳ-la Vô Ngã (Tổ thứ mười hai làm luận Vô Ngã) đã thu phục được tất cả kẻ dị đạo tà kiến. Sau đó ngài Ma-noa-la đến nước Tây Ấn Độ, vua tên là Đắc Độ. Nhân khi đi đường thấy có một tháp nhỏ nhưng nhiều người khiêng không nổi, vua liền mời ba nhà Phạm hạnh, Thiền quán và Chú thuật đến để hỏi nguyên nhân trên thì họ đều không biết.

Bèn hỏi ngài Ma-noa-la, ngài đáp: Cái tháp này do vua A-dục tạo ra, mà nay xuất hiện là do phước lực của Đại vương.

Vua nghĩ: Bậc Chí Thánh rất khó gặp, đời vui chẳng lâu.

Bèn truyền ngôi cho Thái tử rồi theo thầy xuất gia. Trong khoảng bảy ngày thì chứng được bốn quả.

Thầy bảo Đắc Độ rằng: Con hãy ở lại nước này mà độ người, còn ta sẽ đi du hóa ở nước khác.

Liền đốt hương phó chúc. Khói hương bay đến nước Nguyệt Thị.

Vua nước ấy hỏi các đại thần: Đó là điềm lành gì?

Lúc ấy có Tỳ-kheo Hạc-lặc-na thưa rằng: Đây là điềm Tổ sư ở Tây Ấn Độ sắp đến nơi, nên gởi tin hương trước.

Vua hỏi: Thần lực của Tổ ấy ra sao?

Đáp: Xa vâng lời thọ ký của Phật đương hoằng truyền đại pháp.

Vua cùng Hạc-lặc-na hướng về phương xa đảnh lễ. Khi Tổ đến thì ngài Hạc-lặc-na hỏi rằng: Con ở trong rừng suốt chín năm có một đệ tử tên là Long Tử, lúc bé rất thông minh, con xét suốt ba đời vẫn không biết được gốc tích.

Tổ đáp: Đứa con này vào kiếp thứ năm đã sinh vào dòng Bà-la-môn ở nước Diệu hỷ, đã dùng gỗ chiên-đàn cúng chay cho chùa Dõng chuông, nên được quả báo ấy. Khi thấy hóa duyên đã xong, Tổ liền ngồi kiết già nhập diệt. Vua cùng các đệ tử xây tháp và phụng thờ nhục thân của Tổ (kinh Phó Pháp Tạng).

Tổ thứ 22: Hạc-lặc-na (Haklena)

Ngài là người nước Nguyệt Thị. Năm lên bảy tuổi, thấy dân chúng vào miếu cúng Thần, liền đến chê Thần rằng: Ông dối làm họa phước để gạt gẫm người đời, phải giết vật tế cúng hao phí hằng năm! Bỗng miếu và tượng cùng sụp đổ. Đến năm ba mươi tám tuổi ngài mới gặp Tổ Ma-noa-la bảo ngài rằng: Thầy thuở xưa có năm trăm đệ tử vì phước ít nên họ phải đọa làm loài chim, nay cảm ân nghĩa của ông nên thầy làm bầy hạc luôn bay theo.

Ngài Lặc-na hỏi: Phải dùng phương tiện nào để khiến họ được giải thoát.

Ngài Ma-noa-la nói kệ:

Tâm theo muôn cảnh đổi Chỗ đổi thật kín sâu

Theo dòng nhận được tánh Không vui cũng không buồn.

Bầy hạc nghe kệ xong thì kêu lên và bay đi. Ngài Lặc-na đi hành hóa đến vùng Trung Ấn, có vua Vô Úy Hải mời ngài nói pháp, chợt thấy hai người mặc áo lụa hồng cùng đến đảnh lễ, giây lâu biến mất. Vua hỏi đó là người gì?

Ngài nói: Đó là hai Thiên tử mặt trời, mặt trăng đấy.

Khi ấy ngài Tỳ-kheo Sư Tử đến nghe pháp. Tổ chỉ về hướng Đông bắc hỏi: Thầy thấy khí ấy như thế nào?

Ngài Sư Tử đáp: Con thấy khí ấy như cái cầu vồng trắng vượt lên trời, nhưng có một làn khí đen vắt ngang.

Tổ bảo: Sau khi ta mất năm mươi năm, ở Bắc Thiên Trúc sẽ có tai nạn liên lụy đến thân ông.

Rồi thầm nói việc ấy với ngài. Sau đó Tổ hiện mười tám phép thần biến rồi diệt độ. Đồ chúng thu nhặt Xá-lợi và xây tháp cúng dường (kinh Phó Pháp Tạng).

Tổ thứ 23: Sư Tử (Aryasimha)

Ngài là người Trung Ấn Độ. Khi đắc pháp rồi ngài du hóa đến nước Kế đến Tân. Khi ấy có ông Ba-lợi-ca vốn quen thiền quán, có năm nhóm là thiền định, tri kiến, chấp tướng, xả tướng, bất ngữ. Ngài Hóa độ thu phục cả năm chúng. Xa gần đều nghe tiếng. Có hai ngoại đạo là Ma-mục-đa và Bộlạc-già theo học huyễn thuật, lén giả hình Sa-môn lẻn vào cung vua phạm dâm với hoàng hậu và cung phi, lại bảo nếu việc bại lộ sẽ quy tội cho hàng Thích tử.

Sau đó việc đổ bể, vua nổi lôi đình bảo: Ta vốn kính trọng Tam bảo, cớ gì Sa-môn lại làm nhục ta lắm thế?

Liền phá hủy chùa chiền, giết hại chúng Tăng. Vua tự mang kiếm đến chỗ Tổ hỏi: Ngài đã được không uẩn rồi chăng?

Tổ đáp: Đúng thế!

Vua nói: Uẩn đã không thì xin cho tôi đầu ngài. Tổ đáp: Thân đã chẳng phải của ta sao lại luyến tiếc đầu?

Vua bèn cắt đầu ngài, một dòng sữa trắng từ cổ phun lên cao mấy trượng. Cánh tay vua bỗng đứt lìa rơi xuống đất, bảy ngày sau thì vua chết.

Thái tử Quang Thủ than rằng: Cha ta cớ sao lại gây nên họa này?

Bấy giờ có Tiên nhân ở núi Tượng bạch, hiểu rõ nhân quả bèn nói cho Thái tử túc nhân đời trước. Rồi đem nhục thân của Tổ xây tháp cúng dường (kinh Phó Pháp Tạng).

Lời thuật rằng: Đức Phật đã được Túc mạng thông nên thọ ký việc thành đạo ở vị lai dù trải qua rất nhiều kiếp nhưng đều biết trước há nay chỉ thọ ký đến tổ thứ hai mươi bốn rồi chấm dứt. Trộm xét ý Phật có hai nghĩa:

1. Lấy việc tổ Sư Tử bị nạn mất mạng coi như một ách nạn về truyền bá Phật pháp.

2. Các Tổ về sau tuy có nối nhau nhưng e là không sánh được với bậc Tứ y đại Thánh.

Cho nên đến đây thì kim khẩu không nói là không có Tổ kế thừa. Đời bảo tổ Sư Tử gặp nạn nên không có người nối pháp, chỉ là lời nói của kẻ ngu si mà thôi. Tông phái ta nói Tổ truyền thừa chấm dứt ở ngài Sư Tử, nhưng phái Thiền lâm lại thêm bốn Tổ. Do đó mà tranh nhau phải quấy nhiều đời không dứt. Thử lấy ý lớn để dứt khoát thì không có trở ngại chi, nghĩa là dù tổ Sư Tử gặp nạn mất mạng thì không phải là không có đệ tử để truyền thừa. Đặc biệt chỉ không phải là số người do kim khẩu thọ ký trước mà thôi. Nhưng việc kể thêm bốn Tổ đến tổ Đạt-ma là người đầu tiên đến Đông độ thì gồm cả thảy là hai mươi tám Tổ.

Việc này cũng không hại chi đến phái Thiền lâm. Muốn nói lên sự thực là chỉ nói bốn Tổ truyền nhau đến tổ Đạt-ma thì được. Nay lại nói dẫn kinh thiền làm chứng thì vừa đủ để thấy rõ việc mình làm là không thật. Ngài Tung Minh Giáo lập bản đồ quy định các Tổ thì bảo là thiền kinh kể đủ hai mươi tám Tổ. Nay kiểm tra kinh thì thấy chỉ kể có chín Tổ nhưng tên phần lớn lại không đồng. Ngài Phưởng Pháp sư làm bài "Chỉ Ngoa" để bài bác thật là đúng vậy.

QUYỂN 6

PHẦN III - CHÍN TỔ Ở ĐÔNG ĐỘ (PHẦN 1)

Tổ thứ 1: Vô Uý Luận Chủ, Long Thọ Tôn Giả, Nhất Tướng Đại Thiền Sư.

Tổ thứ 2: Kiên Lập Trung Quán, Bắc Tề Tôn Giả, Viên Ngộ Đại Thiền Sư.

Tổ thứ 3: Viên Chứng Pháp Hoa, Nam Nhạc Tôn Giả, Chỉ Quán Đại Thiền Sư.

Tổ thứ 4: Thiên Thai Trí Giả Pháp Không Thật Giác, Linh Tuệ Đại Thiền Sư.

Tổ thứ 5: Kết Tập Tông Giáo Chương An Tôn Giả, Tổng Trì Đại Thiền Sư.

Tổ thứ 6: Truyền Trì Giáo Quán Pháp Hoa Tôn Giả, Viên Đạt Đại Thiền Sư.

Tổ thứ 7: Truyền Trì Giáo Quán Đại Cung Tôn Giả, Toàn Chân Đại Thiền Sư.

Tổ thứ 8: Truyền Trì Giáo Quán Tả Khê Tôn Giả, Minh Giác Đại Thiền Sư.

Tổ thứ 9: Thiên Thai Ký Chủ, Kinh Khê Tôn Giả, Viên Thông Đại Thiền Sư.

****

Đạo của Phật và Tổ là lấy tâm truyền tâm, đâu cần phải đợi đến nói năng. Đến như kẻ đương Cơ được ấn khả thì phải nhờ trao nhận để làm cái nghi thức truyền đạo. Thế nên hai mươi bốn Tổ do Phật ký định đều đích thân nghe khẩu quyết, dùng để hiểu cái nhiệm mầu của tâm truyền. Song từ xưa nay để phân biệt chánh tà, nói rõ cảnh trí để biện biệt cái dụng của Tông nên mới lưu lại ngôn ngữ. Phàm từ khi kinh luận sang Đông độ giáo hóa khắp nơi, vì các Sư ở cõi nước này còn thương nhiều người chưa hiểu nổi, bèn chuyên về giảng nói. Để thông suốt tông này mà được Tiểu thừa quên mất Đại thừa, chấp cái Thiên mà bỏ sót cái Viên. Vì vậy tâm truyền sự nhiệm mầu mà rốt cuộc chưa được truyền bá rộng rãi. Đạo được thực hành cốt để sinh Thánh triết. Như Tôn giả Bắc Tề thì bẩm tánh tự nhiên đời trước không cần đợi thân thừa, thầm ngộ ý chỉ tức không, tức giả, tức trung của Long Thọ rồi lập làm Tâm quán để truyền lại cho ngài Nam Nhạc. Ngài Nam Nhạc tu nó mà tịnh được lục căn rồi trao cho ngài Trí Giả. Ngài Trí Giả nhờ nó mà ngộ Pháp Hoa. Lại mở mang nghiệp lớn nổi tiếng một nhà. Từng nói rằng: Truyền đạo là ở hành động mà cũng ở lời nói. Do đó mà căn cứ tóm tắt vào năm thời mở bày tám giáo. Bao quát hết các sách mà quy về Pháp Hoa, xuyên suốt năm chương để hiểu rõ đầu đề, chia bốn Thích để hiểu rõ văn cú. Lời giảng nói Giáo lý đã nói rõ thì ý chỉ của quán hạnh cũng phải sáng. Bèn viết ra một luận Chỉ Quán để nói về việc tu tập của tâm mình. Trước là dùng sáu chương để hiểu rõ, kế là dựa vào hiểu rõ đó mà lập hạnh, lấy hai mươi lăm pháp làm phương tiện, dùng quán pháp của mười thừa làm chánh tu, là nói ba ngàn Sự Lý tức cụ, chống dẹp cả trăm nhà, siêu vượt kim cổ, bèn là gốc minh giáo của thiên hạ. Lúc bấy giờ có Chương An đại Thiền sư sớm chuyên học rộng, lại do diệu ngộ, nhân sự giảng truyền ấy cầm bút viết lời, gom thành luận sớ làm quà tặng tốt lành cho hàng hậu học. Nhưng đời chỉ ham thích dị luận. Như ba thời năm giáo chuyên môn mà còn Thiên. Tuy đến bậc phát cơ nhưng mỗi vị đều có cơ sở truyền riêng. Cuối cùng chưa đủ để biết trước sau một đời giáo hóa của Phật. Đến cái tông cuối cùng Pháp Hoa thì mới biết các giáo quyển còn mãi khắp cõi Diêm-phù-đề. Đám Thích tử phần đông đều theo sách vở. Giả sử tông Thiên thai không có, thời giáo không được lưu truyền, quán đạo không được hiểu rõ, thì ắt rằng Phật pháp đã diệt mất. Ngài Chương An liền nối tiếp Đại Thống. Thế là Pháp Hoa lại truyền. Thời giảng Pháp Hoa có bảy trăm đồ chúng mà ngài Thiên Cung đã thật sự nối nghiệp. Môn đồ của ngài Thiên Cung người cầu đạo vô số, mà chỉ một mình Tả Khê nối được nghiệp thầy. Pháp hội của ngài Tả Khê học chúng rất đông, cõi xa gần cùng chen nhau tụ hội. Từ Pháp Hoa Tôn giả, ba đời đều nối thể giữ văn, chuyên việc giảng nói mà thôi. Cho đến đời ngài Kinh Khê gặp thời ly loạn, lừa đảo trộm cướp phát sinh thì tiền tài và nghĩa khí không thể không nói đến; các ý kiến khác nhau của các Học giả mà bộ đã ghi thuật không thể không có chỉ nam vậy. Nêu rõ chánh tông để lại cho hậu thế. Công của Hoằng Tán gan như sánh ngang với Chương An đó vậy. Vì tôn sư trọng đạo để kể đức ghi công nên soạn ra lời kỷ về chín Tổ ở Đông độ này.

Tổ thứ 1 (Cao Tổ): Long Thọ Tôn Giả

(Bản kỷ ngài là Tổ thứ mười ba của Tây Vức), kinh Nhập Lăng-già nói:

Sau khi Phật diệt độ
Đời vị lai sẽ có
Tỳ-kheo Nam Thiên Trúc
Đạo hiệu là Long Thọ
Hay phá tông Hữu vô
Hiển rõ pháp Đại thừa
Được địa sơ Hoan hỷ
Sinh về nước An dưỡng.

Lời khen rằng: Ngài Chương An nói ngài Trí Giả trong Quán Tâm Luận có nói: "Kính lạy Long Thọ sư" thì nghiệm biết Long Thọ là Cao tổ sư. Phụ Hành giải thích rằng: Ngài Trí Giả nên gọi Long Thọ là Tằng Tổ sư. Nếu gọi cao quý nhất là Cao, thì như các vua Hán Tề đều gọi Thỉ Tổ là Cao. Nghĩa là công đức vô thượng nên tôn thụy là Cao. Nay Tông này cũng xem Long Thọ là thỉ Tổ nên ngài Trí Giả gọi là Cao Tổ. Phàm việc truyền tâm tông để nối thịnh dòng đạo thì người đời sau tôn trọng gọi chung là Tổ. Cho nên hai mươi bốn Thánh Kim Khẩu Tổ thừa đều gọi là Tổ cả. Về sau ở Trung Quốc ta chín Tổ nối nhau cũng theo nghĩa này. Thế mới biết nay nói Cao là đúng cái nghĩa công đức vô thượng của ngài Kinh Khê nói, chứ không phải như tiếng gọi Cao Tằng của thế tục.

Tổ thứ 2: Bắc Tề Tôn giả Tuệ Văn

Ngài họ Cao, ở vào khoảng thời Ngụy Tề, đời Bắc Triều (nhà Đông Ngụy là Hiếu Tĩnh, nhà Bắc Tề là Văn Tuyên). Về người tu theo Phật đạo thì:

1. Minh sư, dùng nhiều về bảy phương tiện (Phụ Hành nói: E là bảy phương tiện của Tiểu thừa, từ ngài Trí Giả trở về trước chưa có ai lập bảy phương tiện của Viên giáo).

2. Tối sư, dùng tâm tánh tướng các pháp đều vô ngại.

3. Tung sư, dùng thuyết ba đời vốn không tới lui.

4. Tựu sư, dùng nhiều về tịch tâm.

5. Tạc sư, dùng nhiều về liễu tâm hay quán Nhất như.

6. Tuệ sư, dùng nhiều về đạo tâm, trong ngoài và khoảng giữa thì tâm đều không thể được.

7. Văn sư, dùng về giác tâm, Trùng quán Tammuội, Diệt tận Tam-muội, Vô gián Tam-muội, đối với tất cả pháp tâm không hề phân biệt.

8. Tư sư, dùng nhiều về "Tùy tự ý, an lạc hạnh. "

9. Khải sư dùng ba thứ Chỉ Quán, tuy gọi là nối nhau nhưng ở pháp môn có đổi khác.

Văn sư đã nương vào Đại Luận thì biết thứ này không phải được nối ở người trước (đây là dựa lời ghi của Phụ Hành, theo Cao Tăng Truyện thì ngài Nam Nhạc ngộ Pháp Hoa Tam-muội đến Tạc sư và Tối sư kể lại chỗ chứng của mình đều mong được tùy hỷ. Lại nói ngài Trí Giả thọ học với Tư sư, Tư sư theo học ở Tựu sư, Tựu sư thọ pháp của Tối sư. Nay biết rõ Tư sư vốn nối nghiệp Văn sư. Nay lại nói Tư sư theo học với Tựu sư. Thế mới biết các Sư tổ đồng thời phần nhiều đều truyền dạy lẫn nhau mà pháp môn có đổi khác, người sau hơn người trước, vẫn không thể luận là nối nhau. Đến đời Bắc Tề thì các Sư tổ y luận mà lập Quán, từ đây mới có việc trao và nhận, trước sau không khác, thì mới có thể luận là Sư thừa.

Sư sớm theo Viên thừa có thiên chân riêng ngộ, nhân xem luận Đại Trí Độ (quyển 30) có dẫn Đại Phẩm nói rằng: Muốn lấy đạo trí để làm đầy đủ cho đạo chủng trí phải học Bát-nhã, muốn lấy đạo chủng trí làm đầy đủ cho Nhất thiết trí phải học Bát-nhã, muốn lấy Nhất thiết trí làm đầy đủ cho Nhất thiết chủng trí phải học Bát-nhã. Muốn lấy Nhất thiết chủng trí để đoạn dứt các phiền não và tập khí cũng phải học Bát-nhã. Luận tự hỏi: Trong một tâm thì được Nhất thiết trí, đạo chủng trí, Nhất thiết đạo chủng trí và đoạn dứt tất cả phiền não cùng tập khí, nay vì sao lại nói lấy Nhất thiết trí làm đầy đủ cho Nhất thiết chủng trí, lấy Nhất thiết chủng trí đoạn dứt tất cả tất cả phiền não và tập khí? Đáp rằng: Thật ra tất cả đều được cùng một lúc, nhưng ở đây muốn người tin Bát-nhã Ba-lamật nên nói thứ lớp khác nhau. Vì muốn khiến chúng sinh được tâm thanh tịnh nên nói như thế. Lại nữa, tuy trong một tâm mà được nhưng cũng có thứ lớp trước giữa sau. Như một tâm có ba tướng là sinh nhân duyên với trụ, nhân trụ duyên diệt. Lại như tâm, tâm số pháp bất tương ưng các hành và thân nghiệp, khẩu nghiệp thì lấy đạo trí làm đầy đủ cho Nhất thiết trí, lấy Nhất thiết trí làm đầy đủ cho Nhất thiết chủng trí, lấy Nhất thiết chủng trí để đoạn dứt các phiền não và tập khí cũng như thế... " Tổ sư đã căn cứ vào lời văn trên mà tu Quán tâm. Trong luận nói ba trí thật ra ở một tâm mà được. Vả lại quả đã ở một tâm mà được thì nhân đâu lại có trước sau mà được. Cho nên khi Quán này thành thì một tâm chứng được ba trí, song vong song chiếu, liền nhập vào vị Sơ trụ Vô sinh nhẫn. Sư lại nhân đọc Trung Luận (một phẩm Trung Quán của Đại Trí Độ Luận) đến phẩm Tứ đế có kệ nói rằng: "Pháp do nhân duyên sinh, ta nói tức là không, cũng gọi là Giả danh, cũng gọi nghĩa Trung đạo" thì bỗng nhiên đại ngộ liền hiểu nhanh các pháp không thứ nào không do nhân duyên sinh ra. Mà các nhân duyên này thì có chẳng nhất định là có, không chẳng nhất định là không. Không và Có chẳng hai nên gọi là Trung đạo. Sư đã một mực dựa vào Thích Luận thế mới biết đã nối xa Tổ Long Thọ. Sư ở đời Cao Tề (Phụ Hành gọi là Tề Cao Tổ. Nay mới rõ là Cao Hoan làm Tướng quốc của Đông Ngụy được phong làm Tề Vương, đến con là Dương mới được Ngụy nhường ngôi, đó là Văn Tuyên, bèn truy thụy cho Hoan là Cao Tổ. Căn cứ vào lúc ấy còn gọi là Đông Ngụy. Tụ họp các đồ chúng hàng trăm ngàn người chuyên tu về Đại thừa. Chỉ có mình ngài hoằng pháp ở vùng sông Hoài mà thôi. Pháp môn mà ngài chứng nhập đời không thể biết được. Đám học giả ngưỡng mộ cho là đạo đức của ngài cao dày như trời che đất chở không thể biết được. Sư Tổ đã dùng Tâm Quán mà khẩu truyền lại cho ngài Nam Nhạc. Ngài Nam Nhạc hoằng hóa rất thạnh hành ở phương Nam, còn đám học trò của Sư ở phương Bắc thì không nghe có ai cả (thấy ở Chỉ Quán, Phụ Hành, Tống Nguyên Lục, Cửu Tổ Lược Truyện).

Lời khen rằng: Ngài Bắc Tề có cái tư thế của bậc Thượng triết, riêng ngộ Trung quán mà các Sư đương thời không sánh được, không phải các Sư Minh, Tối, Tung, Tạc biết được. Đã dùng khẩu quyết để truyền pháp cho Nam nhạc, nhưng môn đồ ở đất Bắc không có ai hoằng truyền, là bởi vì thời Cao thị là một chuỗi ngày buồn vì nước loạn, nên đạo này không sáng tỏ ở đấy. Các Truyền Tăng ở Nam Sơn vì bỏ sót nên không ghi chép, cũng há không có người khảo xét ư? Ngài Từ Vân nói: Có được đoạn văn "một tâm ba trí" của Tổ Long Thọ rồi dựa vào Luận mà lập Quán, ở đấy mà tự ngộ, há bảo rằng không có Tổ sư ư?

Tổ thứ 3: Nam nhạc Tôn giả Tuệ Tư

Ngài họ Lý, là người ở huyện Võ tân, phía Nam đất Dự châu, đời Nguyên Ngụy (Nam Nhạc

Nguyện Văn, ngài tự viết tựa rằng: Sinh ngày mười một tháng mười một năm Ất Mùi tại huyện Võ tân, phía Nam đất Dự Châu, nước Ngụy). Lúc còn bé nằm mộng thấy Phạm tăng khuyên nên vào đạo hoặc thấy bè bạn đọc kinh Pháp Hoa. Tánh tình rất ham thích đọc kinh pháp. Nhưng khi mượn được bản văn thì ở nơi vắng vẻ mà xem một mình, không người dạy dỗ, buồn khóc đêm ngày. Lại cho rằng nơi mộ hoang không phải là nơi người ở, nên dời về Cổ thành và khoét hang mà nương thân. Ngày thì đi khất thực, đêm không lo việc ngủ nghê, thường đối kinh mà rơi lệ lạy mãi không thôi. Nhân mưa nhiều mất hơi nóng nên cả người bị phù thủng, nhưng nhẫn lòng chú ý mãi vào kinh thì bệnh liền tiêu mất. Lại nằm mộng thấy Đức Phổ Hiền cỡi bạch tượng vương đến xoa đầu rồi bỏ đi, thì các văn xưa chưa hiểu nay tự nhiên hiểu rõ. Chỗ xoa đầu của ngài Phổ Hiền trong mơ nay hiện lên một nhục kế.

Năm mười lăm tuổi (Năm Vĩnh An thứ hai đời Ngụy Trang Đế) ngài xuất gia thọ giới Cụ túc, dứt hẳn việc đời, chuyên tụng Pháp Hoa. Mỗi ngày chỉ ăn một bữa không nhận lời thỉnh riêng. Am ngài ở có người quê đến đốt phá liền mắc bệnh nặng nhưng đến ngài cầu xin hối lỗi thì liền lành bệnh. Ngài cất lại thảo am và tụng kinh như xưa. Ngài lại nằm mộng thấy có vị Tăng bảo rằng: "Ngươi trước đây thọ giới tác pháp chưa đúng thì đâu thể mở mang chánh đạo được. " Liền thấy có bốn mươi hai vị Tăng làm lễ Yết-ma thêm nên giới pháp đầy đủ (bốn mươi hai Tăng tức bốn mươi hai ngôi vị từ Sơ trụ đến hết Diệu giác. Đây là tiêu biểu cho ngài Nam Nhạc sẽ giữ sáu căn thanh tịnh mà nhập vào Thập Tín của Viên giáo, vì đó là bốn mươi hai ngôi vị Đại sĩ và Chân tăng diệu giác làm gia pháp để chứng đắc). Khi tỉnh dậy ngài càng cố gắng chuyên tu. Lại có lần mộng thấy các Phật Di-đà và Di-lặc nói pháp cho nghe. Lại thấy cùng các bạn hiền theo ngài Di-lặc cùng hội Long hoa. Cảm kích cho là việc phi thường nên càng hết mực tinh tấn hơn. Năm ngài hai mươi tuổi (nhằm đầu năm Thiên Bình đời Đông Ngụy Hiếu Tĩnh) nhân đọc kinh Diệu Thắng Định thấy có bài khen thiền định, bèn khắp theo học với các bậc Thiền đức về Ma-hadiễn. Ngài thường ở chốn đồng nội rừng núi mà kinh hành tu thiền.

Về sau ngài gặp sư Tuệ Văn để xin thọ khẩu quyết, Sư truyền cho ngài pháp Quán tâm. Từ đấy ngày thì theo đuổi việc Tăng, đêm thì tọa thiền suốt sáng. Chỉ hai mươi mốt ngày thì mới phát chút ít yên tĩnh, quán thấy các tướng nghiệp thiện ác trong một đời, ngài càng cố gắng mạnh mẽ hơn, bỗng các Thiền chướng nổi lên khiến tứ chi mỏi rời thân không theo ý nữa. Ngài liền tự quán sát bệnh của ta đây đều do nghiệp sinh ra, mà nghiệp do tâm khởi vốn không ngoại cảnh, thấy xét lại nguồn tâm thì nghiệp không thể được, bèn huy động cả tám xúc phát hiện ra căn bản thiền (nặng nhẹ, lạnh nóng, rít, trơn, nhuyến thô đó là tám xúc). Nhân thấy rõ dấu vết ba đời hành đạo. Nhập hạ xong nhận tuổi sắp muốn lên giảng đường bèn cảm thán rằng: Thuở xưa khi Phật còn tại thế, sau chín mươi ngày mãn hạ thì kẻ chứng đạo rất đông, nay ta dối nhận tuổi pháp mà trong lòng rất hổ thẹn. Định ngã mình tựa vách thì hoát nhiên đại ngộ chứng được Tam-muội Pháp hoa. Từ đó trở đi, các kinh dù chưa nghe nhưng không còn nghi lại tự hiểu rõ. Đến năm Võ Định thứ sáu đời Đông Ngụy (ngài ba mươi bốn tuổi), ngài ở tại duyên châu Hà nam cùng chúng nghị luận thì bị một ác Tỳ-kheo bỏ chất độc suýt chết rồi sống lại. Đến năm đầu Thiên Bảo đời Tề (ngài ba mươi sáu tuổi) thường ở tại Hà nam học tập Đại thừa luôn gần gũi các bậc Đại thiền sư và thường du hành đến các quận. Năm này quan Thứ sử muốn đưa Sư về đất Nghiệp (kinh đô của Tề Văn Tuyên). Sư có ý muốn đi về phía Nam, bèn rời chúng mà vượt qua sông Hoài. Khi ấy vua mời các Thiền sư trong nước vào nội đài để cúng dường (Nam Bắc Triều thường gọi triều đình là nội đài). Sư dùng phương tiện từ chối không đến. Năm Thiên Bảo thứ tư, ngài đến Dĩnh châu giảng nói nghĩa Ma-ha-diễn cho Thứ sử Lưu Hoài Bảo. Các ác Luận sư dùng thuốc sinh kim bỏ chất độc trong thức ăn, mạng sắp dứt, Sư nhất tâm niệm Bát-nhã Ba-la-mật thì chất độc liền tiêu mất. Năm Thiên Bảo thứ năm, Sư đến chùa Khai nhạc ở Quang châu, Ba Tử lập năm trăm nhà cùng quan Thứ sử thỉnh ngài giảng kinh Ma-ha-diễn Bát-nhã. Năm Thiên Bảo thứ sáu, Sư ở núi Đại tô thuộc Quang châu giảng Ma-ha-diễn (Đông Pha Tập, cách bốn mươi dặm ở phía Nam huyện Quang sơn, núi Đại tô ở phía Nam, núi Tiểu tô ở phía Bắc, có chùa tên Tịnh cư. Trong năm Thiên Bảo nhà Tề, Tư Thiền sư có qua đây. Thấy các bậc phụ lão thì hỏi họ gì, đáp là họ Tô. Lại hỏi tên hai núi thì than rằng: Thầy ta bảo gặp ba Tô thì dừng lại, bèn ở đấy cất am, nhưng các phụ lão lại cũng không thấy đâu, bởi lẽ đó là Thần núi. Sau đó Khải Thiền sư đến gặp ngài bèn được pháp).

Năm Thiên Bảo thứ bảy, ngài ở chùa Quan ấp tại thành Tây giảng về Ma-ha-diễn, có nhóm ác luận Sư tranh nhau muốn hại ngài. Ngài thệ nguyện làm ba chữ vàng Bát-nhã Kinh hiện ra vô lượng thân khắp các cõi nước mười phương giảng nói kinh ấy. Khiến các ác Luận sư đều được tín tâm trụ bậc Bất thoái chuyển. Năm Thiên Bảo thứ tám, ngài đến phía Nam Định châu, giảng Ma-ha-diễn cho Thứ sử. Có nhóm ác luận sư tranh nhau khởi ác tâm ngăn các thí chủ không cho cúng thức ăn nữa. Suốt năm mươi ngày ngài thường sai đệ tử khất thực để nuôi sống. Lúc đó lại phát nguyện quyết định thề tạo ra chữ vàng Bát-nhã rồi vì chúng giảng nói suốt chín năm ở núi Đại tô, khuyên bảo mọi nơi cần nên tạo kinh. Bỗng có một Tỳ-kheo tên là Tăng Họp tự nói: Tôi có thể tạo kinh, đã được kinh đầu thì có thể giáo hóa trong vùng được tiền thì mua vàng. Ở chùa Tề quang huyện Quang thành tạo ra hai bộ Đại Phẩm Kinh Bát-nhã và Pháp Hoa chất đầy một hòm báu. Lại tự thuật một thiên Nguyện Văn để ghi nhớ việc ấy. Nguyện vào thời Phật Di-lặc ra đời thì thân mình và kinh này xuất hiện cùng lúc để giáo hóa rộng khắp tất cả, lại bảo rằng: Thế gian đạo tục ân cần thỉnh giảng hoặc cưỡng ép khiến giảng đầu là ác tri thức. Lúc đầu giống như có lòng tốt về sau thì giận hờn. Bao nhiêu người học đều xem như oan gia giả làm thân thiết cũng không thể tin. Các vua Sát-lợi cũng như thế.

Chọn-Chọn-Chọn-Chọn (hai ngài Pháp Trí và Từ Vân đều nói Chu Lăng bốn chọn là thế. Tức đạo tục khuyến giảng, cưỡng ép khiến giảng, kẻ học giả thân thiết, các vua Sát-lợi bốn loại như thế đều cần phải chọn lựa. Văn trên đều thấy ở Nguyện Văn của ngài Nam Nhạc). Danh ngài càng vang xa, người học ngày càng đông, nên số chúng lẫn lộn cả tinh thô, phải quấy càng nhiều. Bèn nhắc nhở đồ chúng rằng: Khi Phật còn tại thế ngài còn không khỏi việc lưu ngôn, huống chi ta là kẻ vô đức đâu thể bỏ lời trách này. Trách rằng việc làm ở kiếp trước đến thời này phải chịu báo đây là việc riêng. Nhà Tề sắp đổ, Phật Pháp tạm thời tối tăm (sau Tề bị nhà Chu diệt, Chu Võ Đế dẹp bỏ hai đạo Phật và Lão), phải tìm đến phương nào để tránh nạn này. Bỗng nghe trên không trung có tiếng bảo rằng: Nếu muốn tu Định thì đợi qua đời Chu Võ sẽ đến núi Nam nhạc. Ngài dùng dằng ở Quang châu. Lúc đó ngài sang quận gần bên để thuyết giảng cho chúng suốt mười bốn năm. (Năm Thiên Bảo thứ năm ngài đến Quang châu, năm Quang Đại thứ hai Nhà Trần, ngài vào Nam nhạc, trước sau mười bốn năm). Quang Châu thời Trần Tề coi là biên giới, nên phong hỏa đài thường đốt mãi là chỗ chúng không lo sợ. Đến năm Quang Đại thứ hai nhà Trần, ngài vào ở Nam nhạc, bảo học trò rằng: Ta tạm ở núi này trong mười năm, sau đó tất đi chơi xa (Ngài vào Nam nhạc đến năm Đại Kiến thứ chín, quả đúng mười năm thì mất). Trước đấy có Cao Tăng Hải Thiền sư thuộc nhà Lương đã ở đó, chỉ mới gặp nhau một lần mà như bạn quen biết cũ, liền để núi ấy cho Sư hành đạo. Một hôm Sư lên ngọn Chúc Dung. Thần núi đang đánh cờ, Thần chào Sư và hỏi: Vì sao ngài đến đây? Sư đáp: Xin thí chủ một miếng đất để trải tọa cụ. Thần đáp: Được. Sư bèn quăng cây tích trượng bay đi định chỗ (nay là chỗ chùa Phước nghiêm). Thần bảo: Ngài đã chiếm hết đất phước, đệ tử còn biết ở đâu? Sư bèn lăn một hòn thạch cổ, hòn đá chạy xuống gặp đất bằng thì dừng lại (nay tượng của Nhạc Quân vẫn còn ngồi trên thạch cổ). Thần núi xin thọ giới, ngài bèn nói pháp yếu cho nghe. Một hôm Sư bảo Thần núi rằng: Ngày nọ ta có nạn thí chủ cũng sẽ có nạn. Sư chỉ dưới gộp đá nói: Đời thứ mười một ta từng ngồi thiền ở đây và bị giặc chặt đầu. Đào tìm thì gặp một đống xương khô (nay là Nhất Sinh Nham ở Phước Nghiêm Tự). Khi đến góc Tây Nam, Sư chỉ một hòn đá lớn bảo: Đời thứ hai ta cũng từng ở đây. Liền nhặt lấy đầu lâu xây tháp để báo ân tu đời trước (nay là Nhị Sinh Tháp). Lại đến một chỗ um tùm bảo rằng: Đây ngôi chùa xưa, đời thứ ba của tôi đã từng sống nhờ trên đất này. Nhân đó ngài chỉ người đào lên, quả nhiên có nhiều mảnh vỡ của đồ Tăng dụng và nền nhà cũ. Ngài liền xây dựng ở đấy một đền đài để giảng nói kinh Bát-nhã (nay là Tam Sinh Tàng). Chúng khổ vì thiếu nước dùng, Sư liền lấy gậy cắm vào sườn núi, hỗ nhân đó cào đất và suối từ đất phun nước lên (nay chính là suối Hổ Bào). Năm Đại Kiến thứ nhất, có một Đạo sĩ ở Cửu Tiên Quán là Âu Dương Chánh Tắc thấy núi có khí lành bèn mưu bàn với chúng rằng: Khí này chủ về Hạt Y Pháp Vương, nếu họ thạnh thì pháp ta phải suy, bèn đục mất tim núi rồi đóng đinh vào đá để trù ếm (lời chú này thấy ở quyển 3 của Tụng Tắc Chí) và chôn binh khí trên núi. Nhân đó dối tâu vua rằng: "Bắc Tăng bị nhà Tề mua chuộc nên làm thế!" Vua Tuyên Đế sai Sứ đến khảo nghiệm. Lúc mới qua khỏi cầu đá thì có hai con hổ gầm thét khiến sứ giả kinh hồn rút lui. Đến sáng hôm sau lại tiến đến. Sư bảo: Thí chủ hãy đi trước, bần đạo sẽ đến sau. Nhưng đã hơn bảy ngày mà Sứ giả chưa đến. Ngài bèn phi tích trượng đến Kim Lăng, cả bốn cửa Cung đều thấy Sư vào. Bấy giờ Sứ giả mới đến. Bèn cùng vào yết kiến. Vua đang ngồi trên điện thấy Sư từ trên không hạ xuống, Phạm tướng khác thường, kinh sợ biết là Thần, không dám hỏi câu nào. Vị Đạo sĩ đặt điều vu cáo, vua liền ra lệnh trị tội. Tôi đáng chém đem bỏ ngoài chợ. Sư xin rằng: Ý bần đạo không muốn giết người xin thả cho về núi sai hầu hạ Tăng chúng cũng đủ trị tội chút ít rồi. Vua chấp thuận, bèn sai hữu ty đúc sắt làm mười bốn bằng khoán sắt ghi tên mười bốn Đạo sĩ trên đó đầy đủ. Rồi ban sắc ấn bảo theo Sư về núi. Khi Sư sắp đi vua tiễn biệt rất trọng thể, gọi là đại Thiền sư, tên Tư Đại là bởi có việc này. Lúc đầu vua sắc lệnh cho ngài ngụ tại chùa Thê huyền. Ngài thường đến tinh xá Ngõa Quan, gặp mưa không ướt, đi bùn không dơ. Có vị Tăng chánh là Tuệ Cảo gặp các việc đó bèn than rằng: Người này sao mà thần dị đến thế! Từ đó cả triều kẻ đạo người tục hết lòng quy ngưỡng. Có đại đô đốc Ngô Minh Triệt thường khi thân cận luận đạo muốn dâng cúng cho ngài một chiếc gối bằng sừng tê giác nhưng chưa dám nói ra. Sư bảo: Muốn cho ta gối thì được. Minh Triệt hết sức kinh dị. Khi Sư trở về núi nói pháp như xưa, chúng Đạo sĩ lấy cớ già bệnh xin cúng một số mảnh ruộng của hương hỏa để chuộc tội vì già yếu không hầu hạ được. Sư bảo: Muốn để ruộng lại là tùy theo ý nguyện của các ông.

Nhân đó gọi là Lưu Điền Trang (tục gọi là Đạo sĩ Thục Thân Trang). Số thiết khoán nhà vua ban cho đều thu lại cất đi và khắc bia ghi rõ sự việc này. Nói rằng: "Hoàng đế nhà Trần có ban cho Nam nhạc Tư Đại Thiền sư đã hàng phục Đạo sĩ một số thiết khoán ký. " Lúc đó các đạo sĩ cùng lén thề rằng: "Vì đời này do sức thần thông và thế lực của vua quan nên đành chịu thua, hẹn năm trăm năm sau ta sinh vào pháp ông mà phá tan pháp ông. " Sư cũng dự ghi rằng: Các đạo sĩ này phá hoại ta không được, một ngày kia sẽ mặc áo ca-sa vào ở Già-lam của ta mà phá hoại di thể ta vậy (thời vua Tống Thái Tông có vị đại thần ra trấn giữ Hồ nam đi ngang qua núi này đến xem các di tích, bảo vị Tăng chủ rằng: Ngày sau các Đạo sĩ đắc chí sẽ lại báo thù. Vậy nên chôn bia đá, đổi tên trang trại. Khiến không còn dấu vết để tìm kiếm. Nhân đó đổi tên là Thiên Trúc Trang và lấy bia khoán đem chôn ở viện Tam sinh tàng. Khoảng năm Đại Quan, Đạo sĩ Lâm Linh Tố sàm tấu, được vua nghe cho dời văn vật để làm rõ việc này. Vì không có dấu vết để khảo tìm bèn thôi. Đầu năm Càn Đạo, có Kiệt Chỉ Am đến làm chủ núi này. Bảo chúng rằng: Nhị sinh tháp đã bị dây leo phủ kín, khó bề chiêm lễ. Vậy nên dời tháp đến thờ chung với Tam sinh tháp. Bởi Kiệt định chỗ đất ấy sẽ xây tháp cho mình. Liền cùng mười bốn người chấp sự dự bị dao búa để đập phá khám đá, thì thấy linh cốt ánh sắc vàng ròng, có bản đá khắc tên Âu Dương Chánh Tắc, các tên, chuyển báo nay làm chủ Am, tri sự và các người giúp việc thì so với tên ngày nay không sai chút nào. Toàn chúng đều kinh sợ. Chiều đó miếu Thần núi cũng bị phá tan. Các quan châu huyện nghe biết liền cho bắt gấp, nhưng bọn Kiệt đều trốn thoát. Đồ chúng trong chùa đem chôn cất hài cốt ngài. Về sau Kiệt ở núi khác. Mỗi khi thăng tòa đều đối với đại chúng tự hối lỗi cầu mong tránh được quả báo sau này.

Thuật rằng: Ngài Nam Nhạc cách đây đã bảy trăm năm mà việc sư Kiệt quả nhiên ước đúng lời thề riêng Sư cùng Thần núi quả có tai nạn phù hợp với lời ký trước. Lạ thay! Song việc sư Kiệt tuy nhân có lời thề ác, mà cuối cùng lại trở về với Thích chủng do bỏ duyên ác. Đây đủ để nói rõ công năng hóa đạo của ngài Nam Nhạc.

Khi Sư sắp viên tịch, Sư liền tập họp đông đảo các môn đồ thuyết pháp suốt ngày này đến ngày khác, khẩn thiết quở trách những người nghe pháp còn hờ hửng. Ngài nói: Nếu có mười người không tiếc thân mạng luôn tu Pháp Hoa, Niệm Phật Tammuội, Phương Đẳng, Sám Hối thường ngồi khổ hạnh... thì tùy chỗ cần dùng, ta sẽ tự cúng dường hầu hạ, nếu không có những người ấy thì ta sẽ đi xa. Vẫn không có ai đáp lời, ngài bèn cho chúng lui ra và nhiếp niệm. Khi sắp viên tịch có đệ tử là

Linh Biện bất giác gào khóc. Sư liền quở: Ác ma hãy đi ra ngay! Thánh chúng đến đón, đang bận chỗ thọ sinh, cớ sao lại làm kinh động ta? Liền ngồi thẳng bảo là Phật đến rước rồi chắp tay viên tịch. Dung nhan ngài vẫn như người sống, mùi hương lạ đầy nhà. Bấy giờ là ngày hai mươi hai tháng sáu năm Đại Kiến thứ chín, tuổi đời sáu mươi ba, tuổi hạ bốn mươi chín. Khi xưa lúc ở Đại Tô ngài phó pháp cho sư Khải. Sau này sư Khải thường thay ngài giảng Bát-nhã đến chỗ "Nhất tâm có đủ muôn hạnh" chợt có điều nghi. Tổ nói: Như điều nghi của ông chính là ý thứ lớp của Đại Phẩm, chưa phải là ý chỉ của Pháp Hoa Viên Đốn. Xưa ta ở trong Hạ nhất niệm chứng ngay các pháp hiện tiền. Ta đã thân chứng mà không có điều nghi chi. Sư Khải hỏi: Chỗ chứng ấy là Thập địa chăng? Đáp: Ta một đời chỉ trông mong ở Đồng Luân (Thập Trụ Viên giáo) vì sớm thống lãnh đồ chúng mà tổn mình để ích người, nên chỉ ở Thiết Luân (Sư được sáu căn thanh tịnh tức Thập Tín Viên giáo, ba mươi tâm của Biệt giáo Hoa Nghiêm Phạm Hạnh là ở Vị Anh Lạc Thiết Luân). Thân tướng của Sư rất đỉnh đặc nghiêm trang, vành tai đôi, trên đầu có nhục kế, dáng trâu đi trước voi bước không dựa không xiu. Từ xưa, để ngự hàn ngài chỉ dùng một áo vải thô (kinh Pháp Hoa nói: Mặc nạp y ở chỗ yên vắng. Luật văn, nói về năm nạp y tức là thọ nhận năm thứ cũ xấu để làm y vậy). Đồ thêu thùa bông tơ tất cả đều không dùng. Chỗ ngài ở các điềm linh hiện ra vô số, vật cúng cho ngài luôn trang nghiêm đầy đủ, nước tự đầy bình, vì có các thiên đồng luôn hầu hạ hoặc hiện ra hình lớn bé hoặc yên lặng ẩn thân. Về các mùi hương lạ và các dấu vết kỳ bí không thể kể xiết.

Ngài thường dạy chúng rằng: Nguồn đạo vốn không xa, tánh Hải thật rất gần, chỉ nên tìm cầu ở mình không thể tìm cầu ở người khác. Tìm liền không được, dù được cũng không phải thật. Lại nói kệ rằng:

Đốn ngộ tâm nguyên mở kho báu
Ẩn hiển linh không thấy chân tướng
Riêng mình đi ngồi luôn ngay thẳng
Trăm ức hóa thân vô số kể
Dẫu cho đầy ắp cả hư không
Lúc xem không thấy tướng vi trần
Đáng cười vật kia không gì sánh
Miệng nhã minh châu sáng làu làu
Tìm thường thấy nói khó nghĩ bàn
Một tiếng nêu tên ngay lời nói.

Lại nói kệ rằng:

Trời không thể che, đất không thể chở
Không đi không đến không chướng ngại
Chẳng ngắn chẳng dài chẳng xanh vàng
Không hề ở giữa hay trong ngoài
Siêu quần xuất chúng rộng mênh mông
Chỉ vật truyền tâm người không hiểu.

Những trước thuật của ngài phần lớn đều khẩu truyền. Các môn đồ chép lại thành chương cú, nêu ra bốn mươi hai tự môn, như: Vô Tránh Hạnh Môn, Đại Thừa Chỉ Quán thì mỗi bộ gồm hai quyển. Các bộ Thích Luận Huyền, Tùy Tự Ý, An Lạc Hạnh, Thứ Đệ Thiền Yếu, Tam Trí Quán Môn... mỗi bộ một quyển (rút chung từ Nam Nhạc Nguyện Văn, Thiết Khoán Ký, Nam Sơn Tục Cao Tăng Truyện, Truyền Đăng Lục nói rằng: Chí Công khiến người bảo Sư Tư rằng: "Vì sao không xuống núi giáo hóa chúng sinh?" Sư đáp: "Cả ba đời chư Phật đủ cho ta nuốt ực một cái, còn có chúng sinh đâu mà giáo hóa?" Nay khảo sát lại Nam Nhạc Nguyện Văn, trong bài tựa ngài tự nói về năm sinh của mình thì đó là năm Thiên Giám thứ mười bốn, đời Lương Võ Đế, đến năm Quan Đại thứ hai đời Trần, ngài mới đến núi Nam nhạc, lúc đó ngài năm mươi bốn tuổi, Chí Công đã nhập diệt vào đời Lương Võ Đế rất lâu xa, tất không có việc hỏi này. Nay e là một vị Sư khác mà người sau lầm truyền là Chí Công).

Lời tán rằng: Ngài Nam Nhạc đã nối tiếp từ Bắc Tề về đạo Nhất tâm tam quán rồi truyền lại cho Thiên thai. Đó là công nghiệp lớn không gì hơn được. Cho nên ngài Chương An có nói rằng: Tư Thiền sư được coi là ngọn núi Tung cao ngất, hạnh sâu y lạc (dụ cho hạnh cao sâu), mười năm thường tụng, bảy năm Phương đẳng, ngồi suốt chín tuần, một thời Viên Chứng (thấy ở Thiên Thai Biệt Truyện). Việc tu hành của Sư đã rất chuyên cần. Đến khi ngộ Pháp Hoa Tam-muội khai thác nghĩa môn thì thời Bắc Triều chưa biết được. Cho nên ngài Kinh Khê cũng nói rằng: Tuệ Văn Thiền sư chỉ nêu ra chỗ thấy nghe về nội quán mà thôi (thấy ở Chỉ Quán Đại Ý) có thể không tin sao?

Tổ thứ 4: Thiên thai Trí Giả

Ngài Trí Khải, tự Đức An, họ Trần, đã nhiều đời ở Dĩnh xuyên. Đến triều nhà Tấn lánh loạn ngụ tại Hoa dung ở Kinh châu (nay là huyện Công an, phủ Giang lăng). Cha là Khởi Tổ. Thời Lương Nguyên Đế làm chức Tán kỵ thường thị được phong tước Ích Dương hầu, mẹ là Từ Thị nằm mộng thấy khói thơm năm màu quyện bay vào lòng. Lại có lần mộng thấy nuốt con chuột trắng, nhân đó biết mình có thai. Thầy bói bảo: Chuột trắng chính là rồng hóa ra.

Vào đêm Tổ sinh thì ánh thần quang sáng rực (năm Đại Đồng thứ tư. Mậu Ngọ đời Lương Võ Đế) hàng xóm trông thấy tưởng lửa cháy, đến nơi mới biết là sinh con, mọi người đều kinh dị, trong ngoài khen ngợi. Định bày nhang đèn bánh trái để tổ chức tiệc mừng thì lửa tắt nước lạnh khiến việc không thành. Sáng đến có hai vị Tăng gõ cửa nói rằng: "Đứa bé này đạo đức hun đúc tất sẽ xuất gia", nói xong thì biến mất. Sư có lông mày tám màu (Đế Vương Thế Kỷ nói vua Nghiêu đến mười bốn tháng mới sinh lông mày có tám màu), mắt sáng con ngươi đôi (Hán Thư Hạng Vũ Tán nói vua Thuấn có con ngươi đôi) có tướng của bậc Đế vương xưa. Cha mẹ bồng ẩm thường dấu kín không cho người thấy. Khi nằm trong tả thường chắp tay, khi ngồi mặt luôn xây về hướng Tây. Đến bảy tuổi thường thích đến chùa, nhờ chư Tăng dạy đọc miệng phẩm Phổ Môn chỉ đọc một lần thì thuộc làu.

Năm mười bảy tuổi, đời Lương Nguyên Đế, Giang Lăng bị thất thủ (Lương Nguyên Đế, xưa được phong làm Sương Đông Vương là con thứ bảy của Lương Võ Đế, Giản Văn Đế bị Hầu Cảnh giết, Nguyên Đế lên ngôi đóng đô ở Giang lăng ba năm chín tháng, rồi bị Tây Ngụy phá. Căn cứ theo lịch mà suy ra thì ứng với năm mười bảy tuổi. Các truyện khác nói mười lăm tuổi là lầm) thân thuộc ly tán Sư ở Trường sa đến trước tượng Phật nguyện làm Sa-môn (thời Tấn Hiếu Võ Đế, ở phía Bắc thành Giang lăng thấy có ánh sáng năm màu Samôn Đàm Dực nhặt ở đấy một tượng Phật bằng vàng đang phóng quang có đề hàng chữ Phạm là tượng do vua A-dục tạo, bèn rước về thờ ở chùa Trường sa. Tức nay nói là tượng Phật Trường sa. Chùa ở phía Bắc thành Giang lăng. Xưa cho là

Trường sa ở Đàm châu là lầm. (Truyện Thiên Nhân cảm thông nói: Chùa Trường sa ở bờ Bắc Kinh Châu cũng giống đây).

Đêm nằm mộng thấy tượng ngọc thò tay vàng vào cửa sổ xoa đầu ba lần. Do đó Sư càng chán cảnh gia đình tù ngục, chỉ mong cầu xuất gia. Song thân quá thương không cho đi. Sư bèn khắc gỗ Chiên-đàn, vẽ tượng, mở kho tìm kinh. Ngay đương lúc lễ Phật thì bàng hoàng như mộng thấy núi cao ở sát biển, trên đỉnh núi có vị tăng đưa tay ngoắt. Phút chốc lại duỗi tay đến chân núi tiếp Sư đưa vào một Già-lam thì thấy tượng mình làm ra đã ở đấy, liền khóc lóc trình bày ý nguyện của mình. Bèn học được pháp của ba đời Phật, đối trước Luận sư ngàn bộ mà nói năng vô ngại, dùng đó để đáp đền bốn ân sâu. Vị Tăng lại chỉ tượng bảo Sư rằng: Ông phải ở đây và sẽ chết ở nơi này. Năm đó cha mẹ nối nhau qua đời (xét theo bia Kinh châu nói: Sư muốn đi du phương. Bà mẹ nói: Dành cho cha mẹ món ngon vật lạ, tại sao lại đem cúng cho tà sư để luyện từ tâm, chỉ cỏ tranh hóa thành lúa, chỉ nước hóa dầu? Nay thôn cỏ lúa sông dầu tên hãy còn. Căn cứ vào hai đoạn văn khác nhau này thì phải là lúc trước khi xin xuất gia và cha mẹ chưa cho. Nay phụ vào để thấy rõ).

Năm mười tám tuổi thì Sư từ giã anh để ra đi (năm Thiệu Thái thứ nhất, đời Lương Kỉnh Đế, anh là Trung Binh Tham Quân là Trần Tiêm). Lúc đó Vương Lâm giữ Tương châu (thuộc Hành châu) theo về. Lâm cho là kẻ cố cựu của Trần Hầu bèn tư cấp đủ pháp cụ. Sư ở chùa Quả nguyện tại quận nhà nương vào cậu ngài là Pháp Chữ mà xuất gia (Phụ Hành nói: Đến xuất gia với cậu ở chùa Quả nguyện). Năm hai mươi tuổi Sư thọ giới Cụ túc (nhằm năm Thái Bình thứ hai đời Lương. Tháng chín năm ấy, Võ Đế nhường ngôi).

Lúc đầu Sư theo ngài Tuệ Khoáng học về Luật và cả Phương Đẳng, lại đến núi Đại hiền (phía Nam Hành châu) tụng kinh Pháp Hoa, Vô Lượng Nghĩa, Phổ Hiền Quán trải suốt hai tuần tụng thông cả ba bộ tiến tu Phương đẳng thì thắng tướng hiện ra. Ngài thấy đạo tràng rộng rãi trang nghiêm mà các kinh tượng thì lộn xộn lung tung (đây là chỉ các bộ lộn xộn) thân ở tòa cao mà chân luôn đặt trên giường dây, miệng tụng Pháp Hoa, tay sửa kinh tượng (Đây là chỉ việc dùng ý chỉ Pháp Hoa để phân biệt thuần hay tạp khiến quy về một chánh). Khi đã tinh thông Luật tạng, luôn vui thiền duyệt nhưng mãi lẩn quẩn ở Tương đông (ở Hành châu) vì không ai để học hỏi thêm. Đến năm Thiên Gia thứ nhất đời Trần Văn Đế (Phụ Hành nói năm Càn Minh là sai, năm đó Sư hai mươi ba tuổi). Khi đó Tư Thiền sư đang ở tại núi Đại tô, Sư liền đến lễ bái, sư Tư bảo: Ngày xưa ở hội Linh sơn chúng ta cùng nghe Pháp Hoa, do túc duyên ràng buộc nên nay lại đến đây. Liền bày ra Phổ Hiền đạo tràng và giảng về bốn hạnh An lạc cho nghe (ngài Nam Nhạc viết tập An Lạc Hạnh Nghĩa lâu quá nên quên mất bản. Ngài Tứ minh Hành Kiểu đi du phương đến Nam nhạc thì được kho báu cổ đó, trở về biện luận Viên giáo. Sau đó ở ngọn Bắc phong đã cùng Kiểu Thạch Chi tìm được khai bản đem truyền bá ở đời). Sớm tối đau đáu đúng pháp tìm tâm, xẻ gỗ bách thay hương, bách hết thì dùng gỗ lật. Cuốn rèm ngắm trăng, trăng lặn vội tìm ngọn tòng. Trải suốt mười bốn ngày tụng kinh hết sức tinh tấn. Đó gọi là chân pháp cúng dường Như lai. Bỗng nhiên thâm tâm rỗng vắng mà nhập định, nhân thì tĩnh phát (Diệu Lạc nói: Viên môn Tam-muội và Đàla-ni thì thể đồng mà tên khác. Tam-muội do định, Đà-la-ni do tuệ. Còn tĩnh là định, tức là Pháp Hoa Tiền Phương Tiện. Trì là giữ về không, tức Sơ toàn Đà-la-ni). Pháp Hoa sáng rỡ như mặt trời lên cao chiếu vào hang tối (mặt trời chánh ngọ) thấu suốt các pháp tướng như gió lộng hư không. Ngài đem chỗ chứng lên trình thầy thì ngài Nam Nhạc lại khai diễn thêm. Do những sở ngộ của mình và sự nhận biết do hỏi thầy nên chỉ dốc hết sức trong bốn đêm mà hơn cả một trăm năm. Ngài Nam Nhạc khen rằng: Nếu không là ông thì không chứng, không phải ta thì không biết, cái định nhập vào đó chính là Pháp hoa Tam-muội Tiền phương tiện vậy, còn cái phát của trì đó chính là Sơ toàn Đà-lani vậy (Hễ lên thập trụ là chân tu, Thập tín là phương tiện. Nay nói "Tiền" chính là chỉ cho năm phẩm, về Sơ toàn Đà-la-ni, tức xoay giả mà nhập vào không. Còn bách thiên vạn ức Đà-la-ni, tức xoay không mà nhập vào giả.

Về pháp âm phương tiện Đà-la-ni, là dùng hai quán làm phương tiện để được nhập vào Trung đạo. Đà-la-ni, dịch là Tổng trì. Nay nói "Sơ Toàn" tức là Không Trì. Đại sư mới nhập định là tiền phương tiện tức ngôi vị năm phẩm Quán hạnh. Chỗ phát của trì là Toàn Đà-la-ni tức vị tương tợ Thập tín, y vào nhân định này mà được Phát không trì, là do công của năm phẩm chuyển nhập vào Thập tín. Xưa người ta nói là "dùng năm phẩm thì không thể được Sơ Toàn" ấy là chưa nghĩ rằng Nhân Trì thì tĩnh phát vậy. Huyền Tiêm nói rằng: "Cố được Đà-la-ni là do sức của Tam-muội" chính là nghĩa này. Đến lúc lâm chung tự nói chỉ là năm phẩm. Bởi muốn khuyên bảo các môn đồ còn sống để nhớ mà tu hành. Đại sư trách đệ tử rằng: Các ông lười gieo trồng thiện căn mà hỏi các công đức khác nếu ta bảo thật thì có ích lợi gì, là ý này vậy. Phải biết với Đại sư hoặc bản hoặc tích đều là bất khả trị ngang tầm đẳng giác hay Diệu giác. Lương Thị khen như thế, nay còn luận gì?). Giả sử những bậc thầy về văn tự tài nghệ hơn muôn người mà tìm cầu bàn luận của ông cũng không thể bàn cho cùng được. Ông xứng đáng là hàng nói pháp bậc nhất của loài người. Có Tuệ Mạc Thiền sư đã bảo môn nhân rằng: Pháp hoằng truyền của ta đúng là Sư tử hống, còn các người khác nói chỉ là tiếng kêu của loài giả can. Sư dẫn kinh hạch vấn thì Tuệ Mạc liền bị khuất phục. Đêm đến nằm mộng thấy ba tầng lầu các, mình thì ngồi trên. Mạc đứng dưới, có một người trợn mắt giận dữ bảo: Có sợ gì Mạc, pháp có nghi gì hãy hỏi ta. Sư mới hỏi vài điều thì người ấy cứng lưỡi. Sư nhân đó khuyên rằng: Trừ thật tướng các pháp, ngoài ra đều là ma sự. Ngài Nam Nhạc tạo chữ vàng Bát-nhã bảo Sư giảng thay. Chỉ có ba thứ Tam-muội và ba Quán Trí dùng để xét hỏi, còn thì tất cả đều cắt bỏ. Ngài Nam Nhạc tay cầm cây như ý lên tòa khen rằng: Có thể bảo rằng pháp đã giao cho Pháp Thần thì Pháp Vương rảnh việc. Lại bảo Sư rằng: Ta ham thích Nam nhạc đã lâu hận vì pháp chưa có người giao phó nay ngươi mới nhận qua môn ấy hãy nên truyền đăng mà độ người chớ nên làm kẻ sau cùng tuyệt tự (sau cùng là chỉ đời mạt pháp). Sư nghe theo lời dạy không theo thầy đến Nam nhạc. Vào năm Quang Đại thứ nhất nhà Trần, Sư cùng nhóm Pháp Hỷ… hai mươi bảy người mới đến Kim lăng (Đây là thời Trần Phế Đế, Sư được ba mươi tuổi. Sở gọi là Kim lăng, Tấn gọi là Kiến khang. Nay là phủ Kiến khang). Có kẻ tên Pháp Tế tự kiêu căng về thiền học, nằm mà hỏi Sư rằng: Có người nhập định vừa nghe Nhiếp sơn thì đất rúng động, biết ngài Tăng Thuyên luyện về vô thường, vậy đây là thiền gì? (Nhiếp Sơn ở cách

Kiến khang bảy dặm, Thuyên Công ở chùa Chỉ quán luyện Vô thường. Văn trích từ Thiền Bí Yếu Kinh, có ba mươi sáu quán môn, đối với địa, thủy, hỏa, phong nhập không mà quán sát, lần lượt sẽ chứng bốn quả). Sư đáp: Biên định không sâu thì sẽ mịt mờ nhập vào tà thừa, như lấy như nói thì định hư vô ngại. "

Pháp Tế kinh hãi ngồi dậy tạ lỗi rằng: Lão Tăng từng được định này, trước đây rất linh diệu thì ông nói nhân đây mất hẳn. Do đó trong Triều ngoài nội đều nghe tiếng cùng đến thỉnh ích. Năm Đại Kiến thứ nhất (đời Trần Tuyên Đế) quan Nghi đồng là Thẩm Quân Lý mời Sư về Ngõa quan (Tấn Ai Đế đem đất Ngõa diêu ban cho Sa-môn Tuệ Lực lập chùa, nhân đó mà đặt tên. Chùa ở phía Tây thành quay mặt ra sông gọi là chùa Thăng nguyên) để khai đề kinh Pháp Hoa. Vua ra lệnh bãi triều một ngày để các quan đến nghe pháp. Lúc đó các quan như Bộc xạ Từ Lăng, Quan lộc Vương Cố, Thị trung Khổng Hoán, Thượng thư Mao Hỷ, Bộc xạ Châu Hoằng Chánh… đều vâng lời giữ giới pháp, cùng nghe diệu chỉ. Chỉ ở một hạ để mở mang đại nghĩa Phật pháp. Bấy giờ Bạch mã Kỉnh Thiều, Định lâm Pháp Tế, Thiền chúng Trí Lệnh, Phụng thành Pháp An là những bậc tài giỏi ở Kim lăng đều quy phục Sư. Từ đấy Sư giảng cho chúng về Đại Trí Độ Luận và nói thứ lớp thiền môn (ngài Pháp Thận riêng ghi được ba mươi quyển, ngài Chương An sửa lại làm mười quyển, tức là Thiền Ba-la-mật Tiệm Thứ Chỉ Quán). Lại nói cho Mao Hỷ về Lục Diệu Môn (tức Bất Định Chỉ Quán). Sư ngụ tại Ngõa quan trước sau tám năm. Đến năm thứ bảy khiển trách môn nhân rằng: Năm đầu ta cùng ngồi đây thì bốn mươi người đắc pháp, năm kế hơn một trăm người thì không đầy mười người đắc pháp. Sau đó thì đồ chúng càng ngày càng đông mà số người đắc pháp càng ít lại. Ta nghe núi Thiên thai đẹp đẽ được người xưa khen ngợi. Ta định dứt hết các duyên ở trên đỉnh núi ấy cho thỏa chí bình sinh. Tháng tư, mùa Hạ vua Tuyên Đế ra lệnh cho ngài ở đấy để hoằng hóa. Từ Lăng khóc lóc khuyên Sư chớ đến. Sư miễn cưỡng ở lại hết mùa Hạ đến tháng chín mùa Thu thì Sư vào núi Thiên thai (Phụ Hành nói năm này Sư ba mươi tám tuổi).

Sư có lần ngủ đêm ở Thạch kiều mộng thấy một lão Tăng bảo rằng: "Thiền sư nếu muốn xây chùa thì ở dưới núi có nền cũ chùa Hoàng Thái tử, dùng đó nhờ người cung cấp cho thì ba nước thành một (ba nước đó là Trần Nam triều, Chu Bắc triều và Tề, Thành một tức là nhà Tùy vậy) phải người có thế lực lớn mới tạo nên chùa này (chỉ cho Thái tử Tấn Vương) chùa nếu xây xong thì nước thanh bình ngay. Bấy giờ ba phương vững vàng như đỉnh. "

Dù nghe lời nói ấy nhưng do đâu mà chùa thành? Khi ra khỏi hang thì thấy ở ngọn phía Nam Phật lũng (bài tựa Bách Lục nói kẻ dạo núi nhiều người thấy tượng Phật nên có tên này) bèn luôn chú ý đến núi này. Trước đây ở đó là am của Thần tăng Định Quang ở đã ba mươi năm. Sư đến thì ngài Định Quang bảo rằng: Có nhớ việc vẩy tay dẫn nhau vào chùa... đấy chăng? Sư liền ngộ và đảnh lễ tượng ấy. Đêm lại nghe trên không trung có tiếng chuông khánh. Quang bảo: Đây là kiền chùy tập họp Tăng chúng được ở đây (Kiền chùy là tiếng kêu của tre gỗ đồng sắt). Chỗ này là Kim địa ta đã ở, Bắc sơn là Ngân địa ông nên ở đó. Sư liền ở ngọn Bắc sơn mà xây dựng Già-lam, trồng tùng dẫn nước, rõ ràng như trong giấc mộng xưa. Ở phía Bắc chùa có ngọn núi khác tên là Hoa đảnh, Sư một mình đến đó tu hạnh Đầu-đà chợt vào cuối đêm thì gió mạnh nổi lên sấm sét inh ỏi, ngàn bầy quỷ quái hình thù đáng sợ, nhưng Sư an tâm tịch tịnh thì tự nhiên tan hết. Chúng ma lại hiện ra hình cha mẹ Sư Tăng, lúc nằm, lúc ôm nhau buồn thương khóc lóc nhưng Sư thâm niệm thật tướng thấu suốt thể vốn không thì tất cả liền mất. Dữ dằn dịu ngọt cả hai cách đều không lay động được Sư (đây đều là cách làm của ma Thiên tử các sư tu hành ở cõi này ít người hàng phục được ma Thiên tử).

Khi sao mai mọc thì thấy có một Thần Tăng bảo: Chế phục thắng được oán địch là kẻ mạnh (hai câu này rút từ kinh Tịnh Danh) rồi nói pháp cho nghe.

Sư hỏi: Đại Thánh đã nói pháp môn nào? Phải học thứ gì? Phải hoằng truyền những gì?

Tăng đáp: Đây gọi là một Thật đế, phải học về Bát-nhã, phải hoằng tuyên về đại Bi.

Từ nay trở đi, làm cho mình mà bao gồm cả người khác, ta đều có ảnh hưởng. Cả tám năm Sư an cư tại Phật Lũng. Năm ấy bỗng gặp mất mùa chúng đều tùy ý đi hoặc ở. Sư cùng ngài Tuệ Xước trồng cự và nhặt tượng (Cự lớn hơn hạt mè, tượng là hạt giẻ, hạt cây dịch, an phận nghèo không lo lắng. Tháng hai năm thứ chín, vua hạ chiếu rằng: Thiền sư là bậc tài giỏi nhất về Phật pháp, là bậc tôn kính của những kẻ tài giỏi đương thời, dạy cả đạo tục, đất nước trông nhờ. Phải cắt bỏ thuế của huyện Thủy phong (thời Lục triều gọi Thiên thai là Thủy phong) để sung vào các phí tổn khác, cũng bỏ lệ bắt hai hộ dân phải cung cấp củi nước. Do đó chúng Tăng lại tựu hội về. Tháng năm năm thứ mười, tả Bộc xạ là Từ Lăng, vì Thiền sư xây chùa nên khải tấu về Triều xin vua ban hiệu là Tu Thiền (Quan Thượng Thư Mao Hỷ đề chữ Triện nay gọi là Đại Từ).

Viên Tử Hùng ở Trần quận, Dữu Sùng ở Tân giả, hai người cùng lên núi gặp lúc Sư giảng kinh Tịnh Danh, liền chuyên tâm trai giới suốt cả mấy buổi sáng nghe pháp. Hùng thấy trước giảng đường có núi Lưu ly ngời sáng, núi râm mát có khe suối quanh co và hiện ra một cầu vồng, có khoảng mấy mươi phạm Tăng đều bưng lư hương bước lên cầu vồng đi vào giảng đường. Hùng nói việc ấy với Sùng, Sùng bảo không thấy gì cả. Nhân đó Hùng phát tâm sửa sang lại giảng đường. Thiên thai ở gần biển nên dân ở đó chuyên nghề đánh bắt cá. Sư đích thân lấy y phục mình chuộc sở đất để làm ao phóng sinh. Bấy giờ ở Lâm hải có quan nội sử là Kế Hủ thỉnh Sư giảng kinh Quang Minh. Những ngư dân nghe pháp đều hiếu sinh bỏ việc giết hại, dẹp bỏ sáu mươi ba sở đánh cá ở Giang khê, hơn ba trăm dặm đều thành ao pháp. Về sau Hủ trở về kinh nhân việc bị tội, lúc sắp đem hành hình thì xa nghĩ đến Thiền sư, mong một phen cứu giúp. Đêm nằm mộng thấy bầy cá có đến vạn ức con phun bọt ước đẫm. Sáng hôm sau có chiếu đặc biệt tha tội cho Hủ. Sư giảng kinh xong liền ngồi thuyền ra cửa biển ngắm núi Phù dung các ngọn cao chót vót, có hòn đá trơ trọi nằm ngang.

Sư bảo: Giấc mộng xưa khi ra biển giống y như cảnh này.

Một hôm thấy có đám mây lành năm sắc sáng như ánh trăng từ trên cao phủ trên mái chùa. Có bầy chim sẻ ồn ào bay đậu dưới hiên chùa. Sư bảo: Đám cá dưới sông hóa thành bầy sẻ vàng bay đến tạ ân đó.

Đến năm Chí Đức thứ nhất (đời Trần Thiếu Chủ) vua sắc lệnh cho Quốc tử tế tửu là Từ Hiếu khắc bia gỗ làm bài minh để khen công đức ngài (văn chép trong Bách Lục). Năm Chí Đức thứ hai, Vĩnh Dương Vương (là em họ của Bách Trí Thiếu Chủ) ra trấn nhậm Đông dương (các truyện khác viết là Âu Việt, vì trên một đường nên gọi chung), đã ba lần viết thư mời Sư đến ở đó. Sư đích thân tu Phương đẳng, ngày giảng kinh, đêm tọa thiền. Vương và con là Kham cùng người nhà đều tuân giữ tịnh giới. Trần Thiếu chủ hỏi quần thần rằng: Trong cửa Phật hiện nay ai là bậc nổi tiếng nhất?

Từ Lăng tâu: Thiền sư Ngõa quan có thiền đức cao trọng nhất.

Vĩnh Dương Vương đích thân tâu vua: Xin Bệ hạ xuống chiếu mời ngài về kinh đô để hoằng truyền đại pháp.

Vào tháng giêng năm Chí Đức thứ ba, trước sau ba lần vua sắc lệnh sai sứ mời về, nhưng Sư lấy cớ bệnh mà từ chối (ba lần sắc lệnh ghi đủ trong Bách Lục). Tháng ba lại sắc lệnh cho Châu quận đến thỉnh mời (ở Bách Lục có văn về sắc lệnh Đông dương vì lúc đó Sư còn ở Đông dương). Vương khuyên Sư rằng: Chúa thượng đã hạ mình chí kính, vậy xin Sư hãy đến ngay, nếu một lời có ích thì cả muôn dân đều nhờ cậy. Bất đắc dĩ Sư đành phải đi, khi đến Kim lăng tạm ở tại Linh diệu.

Đến tháng tư vua lại vời Sư lên Thái cực điện để giảng về đề luận Đại Trí Độ và đề kinh Nhân Vương Bát-nhã. Khi về chùa vẫn còn giảng tiếp. Lúc đó có bách tòa ở bên trái (tức các Pháp sư cao quý), còn ngũ đẳng ở bên phải (tức năm tước công hầu bá tử nam vậy). Các ngài Tuệ Hoàn, Tuệ Khoáng, Tuệ Biện đều tuân lệnh vua mà vấn nạn. Thiên tử đến ngồi vào chiếu để nghe pháp, bá quan ai nấy đều hết lòng kính quý Sư.

Lúc bấy giờ các Tăng Ni phần lớn đều không chuyên tu. Triều đình bàn luận nếu khảo thí kinh luật mà không thông thì đều cho hoàn tục.

Sư can rằng: Ông Điều-đạt mỗi ngày tụng cả vạn lời nhưng không khỏi bị đọa lạc (Trí Độ Luận nói Điều-đạt tụng được sáu vạn pháp tụ cùng vua A-xà-thế tạo tội ngũ nghịch nên lúc còn sống mà đọa ngay vào địa ngục. Đây là việc Đại quyền biến để giáo hóa. Nhưng Đại sư nêu ra đây là ý phương tiện muốn hộ pháp). Ông Bàn-đặc chỉ nhớ có một bài kệ mà chứng được bốn quả (kinh Pháp Cú Dụ nói ông Bàn-đặc dốt đặc, Phật dạy cho một bài kệ: "Giữ miệng nhiếp ý thân chớ phạm, như thế người tu được thoát tục. " Ông đọc mãi và khoát nhiên khai ngộ chứng được quả A-la-hán). Rốt ráo là đạo, đâu quan hệ ở tụng đọc nhiều, Thiếu Chủ nghe Đại sư nói liền thôi không sát hạch nữa. Sư ở tại Linh diệu cho là quá chật chội. Ngài muốn tìm chỗ yên tĩnh. Chợt mộng thấy một người đứng hầu nghiêm chỉnh tự xưng là Quan Đạt, thỉnh Sư đến ngụ ở Tam kiều.

Sư nói: "Quan Đạt là pháp danh của Lương Võ Đế, còn Tam kiều chính là chùa Quan trạch. " Thiếu chủ nghe nói liền đón Sư đến ở. Lại xuống chiếu rằng: Trong nước ta trước đây có giảng về Nhân Vương mỗi năm hai tập, nay cúi mong Sư ở điện Thái cực giảng lại kinh này. Tháng ấy vua đến chùa Quan trạch xả thân làm lễ Đại thí, nghe giảng kinh Nhân Vương đích thân lạy ba lạy. Hoàng hậu là Thẩm Thị xin được đặt pháp danh. Sư đặt tên là Hải Tuệ. Tháng giêng năm Chí Đức thứ tư, Hoàng thái tử xin thọ giới Bồ-tát, từ hàng thái tử trở xuống đều phụng trì giới pháp.

Năm Trinh Minh thứ nhất, ở chùa Quan trạch Sư giảng kinh Pháp Hoa. Lúc đó ngài Chương An đến dự nghe lần hai (Văn Cú đề chú, Sư hai mươi bảy tuổi đến tu học ở Kim lăng, nhưng khi ngài sáu mươi chín tuổi thì gò Chu bị sông Trăn cuốn trôi). Tháng giêng năm Trinh Minh thứ hai, nhà Tùy đánh nhà Trần, cả Giang nam đều thuộc về nhà Tùy. Vì thời buổi tao loạn chết chóc, Sư chống trượng sách đến Kinh tương (trượng có nghĩa là phò giúp. Sách là gậy trúc. Hán Đặng Võ dùng trượng sách đuổi theo Quang Võ. Kinh châu là Hồ bắc, Tương châu là Hồ nam) giữa đường ghé ở Bồn thành (nay là đất Giang châu gọi là Bồn phố) nằm mộng thấy một lão Tăng bảo rằng: "Hãy kính cẩn giữ gìn tượng ngọc của Đào Khảng. "

Kịp khi đến nghỉ ở Lô sơn thì thấy tượng của hai Sư mới ngộ được sự linh ứng. Bỗng chốc ở Tầm dương có cuộc phản loạn (tức Giang châu) chùa chiền đều bị đốt phá, chỉ có núi này không bị xâm phạm đến, càng biết sự linh nghiệm của việc giữ gìn tượng (đời Tấn, Đà Khảng coi giữ Quảng châu, đi trên biển vớt được tượng Văn-thù, đem về chùa Hàn khê ở Võ xương. Khảng trở về Kinh châu muốn chở tượng đi, thuyền chìm lại đưa tượng trở về chùa cũ. Viễn Pháp sư tạo cảnh Đông lâm, bưng lư hương hướng về phương ấy cầu nguyện thì tượng theo gió bay lên không mà đến).

Tháng giêng năm Khai Hoàng thứ mười đời Tùy (là năm cả Nam Bắc đều gồm thâu vào một mối), Tùy Văn Đế xuống chiếu rằng: Hoàng đế kính hỏi Quang Trạch Thiền sư, đối với Phật pháp Trẫm hết lòng kính tín tôn quý. Năm xưa nhà Chu Võ phá dẹp Phật pháp, còn Trẫm thì phát tâm lập nguyện quyết hộ trì và từ khi lên ngôi đến nay liền phục hưng Tam bảo. Thiền sư đã vượt ngoài cõi tục sửa mình độ người, tất mong khen thưởng hàng Tăng sĩ tiến tu để hưởng dụng ánh sáng của đại đạo (nói Quang Trạch là gọi theo tên xưa). Lúc đó Tần Hiếu Vương ra trấn giữ Dương châu (Tần Vương là Dương Tuấn con của Văn Đế, em của Tấn Vương. Lý Tuần nói: Khí ở Giang nam bốc cao là dương. " Là căn cứ vào nghĩa này) đã viết thư mời Sư đến. Sư bảo sứ giả rằng: "Rất mong gặp nhau chỉ sợ thiếu duyên. " Quả nhiên suốt mấy tuần gió bão, giặc cướp nổi lên, đường thủy bộ đều nghẽn lối nên việc đi thăm không thành.

Năm Khai Hoàng thứ mười một, Tấn Vương thay làm Tổng quản (Tấn Vương là Dương Quảng thay Tần Vương làm Tổng quản Dương châu) sai sứ đến xin đón ngài về. Sư nói: "Ta với Tấn Vương rất có duyên sâu. " Liền thay áo ngồi thuyền không bao lâu đến nơi. Vương làm bài văn xin ngài truyền giới Bồ-tát. Sư ba phen từ chối nhưng không được. Bèn giao ước bốn điều:

1. Tuy rất thích thiền học nhưng vì hạnh không xứng pháp nên xin chớ dùng thiền pháp tâng bốc nhau.

2. Thân chưa hề học tập, lời lẽ thăm hỏi vụng về xin chớ đem phép tắc mà chê trách.

3. Vì pháp mà truyền đăng xin chớ trách việc đi ở.

4. Nếu chợt nghĩ đến núi rừng xin cho trở về dưa muối chuỗi ngày tàn.

Nếu bốn tâm nguyện được thỏa mãn thì xin tuân chỉ. Khi ấy vì

Vương mong được thọ giới nên chấp thuận. Vào ngày hai mươi ba tháng mười một năm ấy, tại đại sảnh đường Tổng quản, Vương thiết lễ trai đãi cả ngàn Tăng để thọ giới Bồ-tát. Sư bảo Vương rằng: "Đại vương đã tuân giữ giới Phật có thể gọi là Tổng trì. " Vương khen Sư rằng: Đại sư truyền bá pháp tăng của Phật đáng gọi là bậc Trí (sau khi thọ giới, các thư từ đi lại Vương đều xưng là đệ tử Tổng trì). Truyền giới xong Sư ra ở chùa Thiền chúng tại ngoại thành. Lại muốn đi về hướng Tây, Vương cố nài xin Sư ở lại. Sư bảo: Đã có lời giao ước trước đâu thể trái. Vương liền sai Liễu Cố viết thư thỉnh Sư ở lại, đợi đến tháng hai năm sau hẹn đến Thê Hà mà tống biệt.

Tháng hai năm Khai Hoàng thứ mười hai, Sư gởi thư đến Vương nhờ làm thí chủ cho hai chùa trên ngọn Đông lâm. Vương viết thư chấp nhận. Đến tháng ba Sư sắp lên đường thì Vương lại gởi thư mời Sư đến Nhiếp sơn để an cư độ hạ, nhưng Sư không chịu. Vương bèn sai quan Hữu Ty trang bị đầy đủ để đưa đi. Sư bèn đến ở tại Lô sơn. Tháng bảy Vương sai sứ đến Lô sơn thăm hỏi. Tháng tám Sư đến Hành sơn tu tạo công đức để đền đáp ân thầy. Đến tháng mười một Vương đưa thư báo sẽ đến Đàm châu đón rước Sư. Tháng mười hai Sư đến Tuyền hương đáp địa ở Kinh châu định xây dựng phước đình, bèn đến Đương dương ở núi Ngọc tuyền (đất này ở đời Tùy xếp chung vào Kinh châu, đến thời Châu Lương phân ra đặt tên là Kinh môn quận) mà xây dựng tinh xá và trùng tu chùa Thập trụ. Chúng đạo tục thọ giới nghe giảng pháp có hơn năm ngàn người. Lúc mới đến Đương dương, trông qua núi Thư chương thấy màu xanh biếc, muốn bói xem ở đấy có khe trong để tiện việc lập đạo tràng, chỉ sợ chật hẹp, bèn lên Kim long. Ở đấy cách ao lớn về phía Bắc khoảng hơn trăm bước có một cổ thụ Ta-la rủ tán như hình một cái am, Sư bèn đến đó ngồi kiết già nhập định. Một hôm trời đất mịt mù gió bão gào thét dữ dội, yêu quái hóa muôn vạn hình thù, có mãng xà dài hơn mấy trượng há miệng chực nuốt, bọn âm ma bắn tên đá như mưa. Trải suốt bảy ngày đêm Sư không chút sợ sệt. Ngài thương hại bảo rằng: Việc các ngươi làm chỉ là nghiệp sinh tử, tham đắm chút phước thừa chẳng chịu tự hối. Nói vừa dứt thì các hiện tượng ma quái đều biến mất. Chiều đó mây tan trăng sáng, thấy có hai người dáng vẻ như hàng vua chúa. Người lớn râu dài phong hậu, người nhỏ đội mão mặt đẹp, đến trước Sư kính cẩn thưa: Tôi là

Quan Vũ đời Hán mạt tao loạn, chín châu chia cắt. Tào Tháo bất nhân, Tôn Quyền ích kỷ. Tôi là nghĩa thần của nhà Thục Hán, mong khôi phục dòng vua nhưng thời thế trái ngang, chí lớn không thành nhưng chết thừa oanh liệt, nên được làm chủ núi này. Nay Đại đức Thánh sư vì sao hạ cố đến đây? Sư đáp: Muốn ở đất này xây dựng đạo tràng để báo đáp ân nghĩa sinh thành. Quan Vũ nói: Xin ngài thương xót con ngu mê đặc ân thâu nhận làm đệ tử. Cách đây có một dãy núi như chiếc thuyền úp, đất đó rất sâu dày, đệ tử sẽ cùng Tử Bình (Tiên Chủ nhà Thục phong Quan Vũ làm Tiền Tướng Quân, dẫn binh đánh Tào Nhân nhưng không thắng trong khi Tôn Quyền đã chiếm cứ Giang lăng. Quan Vũ chạy đến Ngô thì bị Mã Trung bắt với cả Tử Bình, đem chém ở Chương hương. Đường Thư, hồi còn sống Quan Vũ thờ Hán Trung Hưng) lập chùa để giảng đạo dạy dỗ, cúng dường, hộ trì Phật pháp mong Sư an tâm tọa thiền. Sau bảy ngày thì mọi việc đều xong. Sư xuất định thấy đầm ao ngàn trượng đã thành đất bằng, nhà cửa đẹp đẽ rực rỡ khác thường, do Quan Vũ đã sai quỷ làm nên mau như thế. Sư bèn lãnh chúng đến ở ngày đêm giảng pháp. Một hôm Quan Vũ thưa Sư rằng: Đệ tử ngày nay được nghe pháp xuất thế, nguyện rửa tâm đổi ý xin được thọ giới, trọn vì đạo Bồ-đề. Sư liền đốt hương truyền cho năm giới. Do đó oai đức của Quan Vũ chiếu sáng khắp ngàn dặm, xa gần đều kính cẩn cúng tế (Ngài Trí Giả đến đất Ngọc Tuyền tất phải tâu rõ việc nghe chuyện thần dị. Cho nên Tấn Vương trả lời thư có nói: "Ở Đương dương xây chùa là nói lên ý muốn của Thần, nói rõ lý lẽ lúc còn sống thì nên tâu đủ để vua ban danh hiệu tốt đẹp. Ngài Chương An soạn Biệt Truyện lược bỏ việc Quan Vũ là do chưa hiểu. Nếu bảo là không nghe biết thì khi ngài Chương An đích thân đến Ngọc Tuyền nghe giảng, bảo là không nói việc thần quái thì khi ngài ở Hoa đảnh tọa thiền có hai loại ma Cường Nhuyến tất đã nói ra. Huống chi sự tích của Quan Vũ đến nay vẫn còn linh ứng há đâu thời ấy lại bỏ sót sao? Nay căn cứ vào bia Ngọc Tuyền để bổ sung chuyện Quan Vũ, để nêu rõ Thánh đức của Tổ ta là như thế. Còn như các chuyện kể trong Biệt truyện lời lẽ nhiều mơ hồ, nay xin lượt bỏ bớt đề gần sự thật. Còn các chuyện sách ấy chưa chép nay xin ghi vào để mọi người biết thêm).

Tháng hai năm Khai Hoàng thứ mười ba, Tấn Vương vào triều rồi đến Hiệp châu, sai người đưa thư đến Kinh châu để đón Sư. Vào tháng tư mùa Hạ, Sư ở Ngọc tuyền nói Pháp Hoa Huyền Nghĩa (Chương An nói: Kế ở tại Giang lăng kính mong Huyền Nghĩa là vậy). Tháng năm Sư sai ngài Trí Thúy đem thơ đến Tấn Vương dâng lên bản sơ đồ chùa Ngọc tuyền và xin soạn lời bia của Hành Thiền sư, nhân đó tặng Vương bộ ca-sa bằng da cây Vạn xuân (do ngoại quốc đã hiến tặng thời Lương Võ Đế). Vương đáp rằng: Việc phụng chỉ xây chùa ở Đương dương là nêu rõ tâm sự của thần muốn nói rõ lý lẽ lúc còn sống (hai câu này chính là nói việc Quan Vũ cất chùa) phải tâu đầy đủ để vua ban danh hiệu tốt đẹp. Lúc bấy giờ từ mùa Xuân đến mùa Hạ trời hạn hán không mưa, bá tánh đều bảo là Long vương giận. Sư đến đầu nguồn nước miệng đọc thần chú tay vẩy thì gió mưa kéo đến. Dân chúng mừng vui, ca hát đầy đường. Vương Tích là Tổng quản Kinh châu vào núi lạy Sư run rẩy toát mồ hôi đầm đìa. Lui ra bảo người rằng: Ta nhiều phen lâm trận gặp nguy càng hăng mà chưa từng sợ sệt như ngày hôm nay! (Tùy Thư ghi: Vương Thế Tích, sau làm Tổng quản Kinh châu, mưu phản bị tru di). Tháng bảy Vương đem việc xây chùa tâu vua, vua ban tên là Ngọc tuyền. Tháng tám đệ tử là Trần Tử Tú ở Kinh châu dâng sớ mời Sư giảng kinh Pháp Hoa. Mùa Hạ tháng tư năm Khai Hoàng thứ mười bốn, Sư ở tại Ngọc tuyền nói Ma-ha Chỉ Quán. Mùa Hạ, trong một ngày giảng nói hai thời Pháp Nhũ (đây là căn cứ vào hai thời sáng chiều giảng nói). Năm ấy ngài qua Nhạc châu, Thứ sử là Vương Tuyên có thỉnh ngài truyền giới pháp Đại thừa, Học sĩ Đàm Kiện thỉnh ngài giảng Kim Quang Minh. Dân ở đấy chuyên nghề săn bắt kịp khi nghe pháp thì được cảm hóa. Do đó một quận, năm huyện hơn ngàn nhà đều bỏ nghiệp sát. Mùa Xuân năm Khai Hoàng thứ mười lăm, Tấn Vương giữ ngài ở lâu tại kinh sư. Khi sắp về Trấn thì sai sứ đến đón rước Sư. Sư ngồi thuyền về miền Đông ngụ tại chùa Thiền chúng ở Dương châu. Tháng sáu năm đó, Vương gửi thư xin học thiền tuệ, trong thư nói: "Giới là nền tảng, năm xưa kính thọ nhưng định phẩm nhánh thiền bỏ tán loạn trở về tĩnh lặng, chưa biết có thể dạy dỗ được chăng? Sư đáp lời nói hoài bảo của mình sớm ở tại Thiên thai. Xưa chuyên một môn ở thiền định, luôn sợ sai lệch bèn thâu hồi thần lự để đợi bậc hiền tăng dạy thêm. " Sau ba ngày Vương lại viết thư rằng: Thuở xưa ngài Trí Giả ở chùa Ngõa quan thời Trần triều mà nhóm họp đông đảo, ông Tuệ Vinh trước bị bẻ sừng, hai Quỳnh vừa mới được giao hoãn (Tuệ Vinh ở chùa Tiểu trang nghiêm nói đáp vấn nạn bị thua giống như bị bẻ hết sừng. Hán thư nói: Năm con nai ở các núi bị Chu Vân bẻ sừng, hai Quỳnh tức Bảo Quỳnh ở Bành thành và Bảo Quỳnh ở thời Kiến sơ đều là người thuộc Triều Lương, hoãn tức là cái dàm ở dưới cổ ngựa, khi chiến đấu thì hai ngựa giao kề nhau. Nay hai Quỳnh cùng nghị luận với ngài Trí Giả vừa giao hoãn liền khiến sợ bỏ chạy. Tả truyện nói giao hoãn mà rút lui). Trước đây Sư đến Kinh châu thì cả danh tăng cựu học không ai không quy phục, không phải thiền là bất trí nghiệm ra đúng thay lời Phật nói (Chỉ Quán Dẫn Kinh nói rằng: Không phải thiền là vô trí, không phải trí là không thiền). Đệ tử ngay trong ngày mà không thỉnh hỏi, như ngài Di-lặc kia nay sẽ hỏi ai (kinh Pháp Hoa nói: Ngài Di-lặc nghĩ rằng: Nay Đức Thế Tôn hiện tướng thần biến, vì sao có điềm lành này? Nay sẽ hỏi ai ai sẽ có thể trả lời…).

Tháng bảy, ngài đem dâng lên Vương quyển một của Bộ Tịnh Danh Nghĩa Sớ vừa soạn xong. Cùng tháng ấy ngài đem việc tạo lập chùa Ngọc tuyền ở Kinh châu và việc sửa chữa chùa Thập trụ mời Vương làm thí chủ bảo trợ. Vương liền viết thư đến Tổng Quản Kinh châu bảo nên kiểm tra kỹ rồi lại viết thư mời ngài nên ở lại Thê hà để được thưa hỏi việc tu hành. Cốt được an tâm khỏi phải lên chốn Thiên thai xa xôi. Mong ngài Từ bi giúp con được thỏa nguyện. Sư viết thư đáp rằng Thê hà dù chỉ một thước tấc cũng chẳng quan hệ chi với bản nguyện, bởi Thiên thai là đất ở trọn đời. Cho nên thường dặn dò đệ tử rằng một mai vô thường thì xin đem hài cốt về chốn Thiên thai. Xưa nguyện sáng lập Già-lam cho nên muốn xin sửa sang lại, mới xin tên chùa mà quỵ lụy kẻ đàn-việt. Vương đáp lời hứa nhận cả. Đến tháng tám, Sa-môn Bảo Cung ở chùa Thê hà tại Tưởng sơn kính dâng ruộng vườn và cả Bản tự mời Sư đến ở nhưng Sư không đi. Tháng chín, Vương đón Sư vào Thành, khi vào yết kiến thì Sư khẩn thiết tạ từ xin trở về Đông, Vương không dám giữ lại. Sư bèn ra đi. Dân Ngô việt quét ngõ để đón mừng ngài. Các quan Lệnh mục sắp đặt cờ xí hoa hương dọc đường đón chờ. Nhưng chùa xưa đã hoang vu hơn mười hai năm, vắng dấu chân người, cỏ tre mọc lan thành rừng. Khi đến nửa đường thấy có một vị Tăng đầu bạc trắng như tuyết chống tích trượng ngồi nghỉ giữa đường giây lâu biến mất. Mọi người đều cho là Thánh hiền ra đón tiếp. Sư thích thú cảnh lâm tuyền nâng gậy ngâm vịnh. Ngài có lần đi dạo chơi đã khen rằng: Đêm thâm sơn yên vắng, lắng thần tự chiếu sáng, đâu chẳng vui lắm sao?

Tháng tư năm Khai Hoàng thứ mười bảy, ngài lập mười điều luật để dạy chúng, giao chức Tri đường cho Thượng tọa Tuệ Gián (thấy trong Bách Lục). Cũng tháng ấy, Vương sai sứ vào núi thăm hỏi, hẹn mùa Thu năm ấy thì đón ngài về thăm Giang đô. Tháng tám, Sa-môn Cát Tạng ở chùa Gia tường tại Cối kê cùng hơn trăm người dâng sớ thỉnh Sư giảng Pháp Hoa nhưng ngài không đi. Vào một đêm, ánh trăng sáng đầy giường, ngài ngồi một mình nói pháp như có người đang vấn nạn. Sáng ra thị giả Trí Hy thưa rằng: Đêm rồi không biết Hòa thượng thấy việc gì? Sư bảo: Lúc đầu ta mộng thấy có ngọn gió lớn chợt thổi sập bảo tháp, kế đó ta thấy có vị Phạm Tăng bảo ta rằng: Cơ duyên như củi, dụng chiếu sáng như lửa, việc trợ giúp như gió, ba thứ đầy đủ thì việc hóa đạo mới thành. Kể ra đêm mộng ở ngọn Hoa đảnh cũng rất có ảnh hưởng. Cơ-Dụng sắp hết, việc trợ giúp cũng dứt nên bảo cho biết vậy. Lại mộng thấy ngài Nam Nhạc cùng Hỷ Thiền sư bảo ta nói pháp, ta liền tự nghĩ: "Danh nghĩa của các pháp khác đã sớm cắt đứt, chỉ có Tam Quán Tam Trí thì ngay từ lúc đầu tiên con đã trực diện mà nhận thọ, thuyết pháp xong, ngài bảo ta rằng: "Người ra sức ở Hoa chỉnh đã trông con từ lâu, có Duyên nên đến. Chúng ta đến tiễn con đây. " Ta lạy tạ xin vâng. Đây là tướng chết đã hiện. Ta nhớ lại giấc mộng thuở thiếu thời là sẽ chết ở đất này. Do đó rất vui mừng khi trở về núi. Nay được ngầm bảo, thế tất không còn bao lâu. Khi ta mạng chung nên an táng ta nơi ngọn Tây nam, chất đá vây quanh khám và trồng tùng để che mát. Lại xây hai tháp trắng để người thấy mà phát tâm Bồ-đề. Lại lúc thiếu thời ngài thường bảo đệ tử rằng đi buôn phải gởi vàng, thầy thuốc ra đi phải để lại thuốc, ta tuy ngu dốt nhưng vì thương kẻ cuồng si nên đã khẩu truyền Quán Tâm Luận, theo lời giảng mà viết thành Sớ. Tháng mười, Vương sai người vào núi đón rước, ngay ngày ấy Sư đem các đồ vật thí cho những kẻ nghèo túng. Sư lại cắm nêu ở dưới núi để định chỗ xây cất điện đường... Lại vẽ các đồ hình làm kiểu mẫu, dặn dò đồ chúng rằng sau có xây cất chùa thì phải theo một cách này. Có người nghi hỏi núi khe dựng đứng hiểm trở làm sao xây chùa được? Sư đáp: "Việc này không nhỏ phải nhờ các Vương gia lo giúp. " Đồ chúng không rõ ý Sư nói gì. Hôm sau Sư theo sứ xuống núi đến Thạch thành. Bèn nói mình có bệnh, bảo ngài Trí Việt rằng: Đại vương muốn mời ta về, ta không phụ lời, nhưng ta biết mạng ta ở tại đây nên không đi nữa. Thạch thành là cửa Tây của núi Thiên thai. Đại Phật là linh tượng ở tương lai, chỗ nơi đã tốt, cần phải dụng tâm cuối cùng. Tất cả y bát đạo cụ của Sư chia làm hai phần, một phần phụng cúng Di-lặc, một phần sung vào Yết-ma. Nói xong Sư nằm nghiêng bên phải xây mặt về hướng Tây chuyên niệm hồng danh của Phật Di-đà, Quan Âm và Bát-nhã. Tấn Vương nghe tin Sư bị bệnh bèn mời thầy đến trị và đưa thuốc mời Sư uống. Sư bảo: Muốn hết bệnh này để sống già ư? Bệnh không hợp với thân thì thuốc nào trị được, tuổi không hợp với Tâm thì thuốc nào giữ được. Ngài Trí Hy nhắc lại các điều đã nghe ngày xưa và trong Quán Tâm Luận nói những gì. Lại thỉnh Sư thọ trai. Sư bảo: Đâu phải ăn đúng ngọ mới là trai, mà phải không duyên không quán mới thật là trai (không chỗ duyên không hay quán, tức cảnh và quán đều mất). Ngày hai mươi mốt tháng mười một Sư nói bài văn Phát Nguyện. Sư bảo đem hai tượng Duy-vệ và Ca-diếp của huyện Ngô, chùa Tháp của vua A-dục ở huyện Mậu, tượng Di-lặc cao mười trượng ở huyện Viêm. Đặt ba tôn tượng ở ba nơi để tiêu biểu ba đời. Các chỗ hư nát nên sửa lại cho trang nghiêm đẹp đẽ. Lại dặn dò nên viết kinh tạo chùa. Ngay hôm đó khẩu truyền di thư và chính tay viết bốn mươi sáu chữ (chỉ bốn mươi sáu chữ này là đích thân ngài viết). Thư tóm tắt rằng: "Lò hương hoa sen, sừng tê như ý, do Vương đem thí, nay để đón riêng, nguyện hương đức bay xa, luôn bảo toàn Như ý. " Lại lấy bản vẽ xây chùa, tượng đá và văn phát nguyện làm vật gởi gấm. Xong sai quét sạch nội thất, đòi ba y bát. Lại bảo thị giả đọc hai bộ kinh để làm chỗ văn tư sau cùng. Nghe kinh Pháp Hoa xong, Sư khen rằng: Pháp môn cha mẹ do đây mà sinh Tuệ Giải. Bản Tích rộng lớn vi diệu khó lường gồm chứa lời thuyết pháp hơn bốn mươi năm, có ai biết được chỉ riêng mình tự hiểu, người khác không thể thấy, đập đàn đứt dây ngày hôm nay vậy (người nước Dĩnh dẹp rìu Bá Nha đập đàn, đều thấy ở Trang Tử). Khi nghe kinh Vô Lượng Thọ xong, Sư khen: Bốn mươi tám nguyện, Tịnh độ trang nghiêm, hoa ao sen cây báu, rất dễ đến mà chẳng có ai. Khi tướng địa ngục hiện ra nếu biết hối cải còn được vãng sinh thay, huống là huân tu giới tuệ để làm sức hành đạo, thật không luống uổng. Khi đang đọc kinh thì có Thị quan Trương Đạt… năm người ở Ngô quận thấy tượng Phật bằng đá chiếu sáng rực cả dãy núi, rọi thẳng vào phòng. Khi đọc kinh xong, dùng nước thơm súc miệng rồi Sư nói về mười Như, bốn Bất sinh, mười Pháp giới, ba Quán, bốn Vô lượng tâm, bốn Tấtđàn, bốn Đế, mười hai Nhân duyên, sáu Ba-la-mật... Mỗi thứ pháp môn đều bao gồm tất cả pháp. Đều thông suốt tâm đến thẳng ao thanh lương. Nếu trong cảnh bệnh hoạn mà thấu suốt các pháp môn thì có hai mươi lăm người có thể gởi trăm nén vàng ròng (kinh Niết-bàn dụ về đi buôn gởi vàng). Nay ta sách quán đàm huyền lần cuối cùng (thường nói sách kinh, sách thí, sách pháp, nay nói sách quán, đều là nghĩa khuyên cố gắng). Vì thiện tịch sau rốt ta sắp bước vào (khéo nhập tịch diệt). Ngài Trí Lãng hỏi Sư: "Không rõ Sư sẽ nhập vào vị nào, tịch rồi sẽ sinh nơi đâu, chúng con sẽ kính ngưỡng vào ai?" Sư đáp: "Các ông biếng nhác gieo trồng thiện căn, hỏi các công đức khác, khác nào kẻ đui hỏi sữa, nếu ta nói thật nào có ích gì? Nay ta sẽ phá nghi cho các ông. Nếu ta không lãnh chúng thì tất sẽ tịnh được lục căn vì lợi người tổn mình nên ta chỉ ở hàng Ngũ Phẩm. Các thầy bạn ta đang theo hầu Đức Quan Âm đều đến đón ta. Ba-la-đề-mộcxoa chính là thầy các ông. Mà bốn thứ Tam-muội ta thường nói là kẻ dẫn đường sáng suốt nhất của các ông. Ta cùng các ông nhân pháp mà gặp nhau, lấy pháp làm thâm thích, truyền thông Phật đăng làm quyến thuộc". Lại bảo thầy Duy Na rằng: "Khi người sắp lâm chung được nghe tiếng chuông khánh thì chánh niệm tăng mạnh, tiếng chuông càng dài thì chánh niệm càng lâu, đến khi hơi thở dứt mới thôi. Vì sao phải đợi thân lạnh mới gõ chuông? Khóc lóc để tang theo thế gian đều không nên làm. " Sư nói xong liền xướng đọc hồng danh Tam bảo rồi như người nhập Tam-muội. Bấy giờ đúng vào giờ mùi ngày hai mươi bốn tháng ấy, Sư tuổi đời sáu mươi, tuổi hạ bốn mươi. Ngồi yên bên ngoài suốt cả mười ngày, kẻ đạo người tục theo nhau khóc lóc, đi nhiễu lễ bái. Khi nhập khám thì nhục thân ngài ướt đẫm mồ hôi. Khi sắp khiêng khám về Phật lũng thì trời mưa tầm tả không ngớt. Các đệ tử chú nguyện cầu gia bị, khi vừa khiêng thiền khám lên thì trời bỗng tạnh hẳn. Bây giờ mới theo lời phó chúc của Sư mà xây phần mộ trên núi Tây nam của chùa để phụng thờ. Hàng đệ tử được truyền pháp có ba mươi hai vị, còn số người đắc pháp tự tu không thể kể xiết (theo bia ở chùa Thiền lâm của Lương Túc thì số người nhập môn lên đến số ngàn, còn số được tâm truyền có ba mươi hai vị). Sư đã tạo ba mươi sáu cảnh chùa. Có lần bảo đệ tử rằng: Số chùa ta tạo ra thì có Thê hà, Linh nham, Thiên thai, Ngọc tuyền là bốn cảnh đẹp nhất thiên hạ. Lại tạo đại tạng mười lăm chỗ, các hình tượng bằng gỗ chiên-đàn, vàng, đồng, vẽ có đến tám mươi vạn. Ngài đích thân độ Tăng đến một vạn bốn ngàn người. Trong suốt ba mươi năm, Sư chỉ dùng một nạp y, dù mùa Đông hay Hạ chưa từng cởi ra. Nếu có nhận của cúng thí thì một sợi chỉ, một trái cây cũng chia cho chúng. Phàm khi hoằng truyền đều không chứa bài vở mà biện luận vô ngại, văn nghĩa đều hợp lý. Khi có cơ cảm lớn thì ngài mới đích thân viết sách, như viết cho Tấn Vương bộ Tịnh Danh Nghĩa Sớ hai mươi tám quyển, viết cho Thượng thư Mao Hỷ bộ Lục Diệu Môn, cho anh là Trần Châm bộ Tiểu Chỉ Quán, cho các học trò bộ Giác Ý Tam-muội, bộ Pháp Hoa Tam-muội Hành Nghi... mỗi thứ một quyển, bộ Pháp Giới Thứ Đệ ba quyển (các bộ trên đích thân ngài viết ra). Ngài thường ở pháp tòa nói rằng: "Nếu giảng về Thứ Đệ Thiền Môn mỗi năm một lượt nếu viết thành chương sớ thì phải là năm mươi quyển" (Thận Thiền sư nghe giảng tự ghi là ba mươi quyển, ngài Chương An sửa lại còn mười lăm quyển). Nếu giảng về Pháp Hoa Huyền Nghĩa, Viên Đốn Chỉ Quán, nửa năm mỗi bộ một lượt, nếu viết thành chương sớ thì mỗi thứ phải ba mươi quyển. Cả ba pháp môn này thường luôn truyền giảng. Ngài Chương An một lần nghe qua đã viết lại lời sớ trong suốt mười tám năm. Đệ tử của ngài Trí Giả là Thượng thủ Trí Việt, khiển tăng sứ là Quán Đảnh và Phổ Minh mang di thư và ba mươi mốt quyển Tịnh Danh Nghĩa Sớ đến Dương châu. Vương sai sứ trả lời di chỉ rằng: Rất hối hận vì chỉ hiểu chút ít về nghĩa sớ được thân thừa của Sư. Về việc dặn dò tạo chùa, nay sai quan Tư mã Vương Hoằng vẽ tay một bức họa về ba nơi Ngô quận, Mậu cảnh, Viêm ấp. Và các tháp tượng cũng như nơi ngọa bệnh của ngài Trí Giả đều phải sửa sang trang hoàng lại. Lại sai sứ đến Phật lũng, tổ chức pháp hội có ngàn vị Tăng. Khi Vương mới xem qua di thư, ở trước bộ Tịnh Danh Sớ mà lập nguyện rằng: "Xưa khi gần gũi bên thầy chưa được cặn kẽ, nay vâng theo di chỉ do đâu mà ngộ. Nếu đọc văn mà hiểu xin Tôn sư thị hiện thần thông!" Đêm ấy mộng thấy chư Tăng tập hội tại gác, Vương tự nói nghĩa, lại thấy ngài Trí Giả từ trên hư không bay xuống đề trên gác chữ "Thất bảo san hô" rồi bay đi mất. Đến ngày mười sáu tháng tư chư Tăng ở Phật lũng đương tọa thiền, có Thượng tọa Đạo Tu thấy ngài Trí Giả mặc thường phục đi tuần xét trong giảng đường một chốc rồi đi ra. Thượng tọa kinh hãi đứng dậy đảnh lễ, toàn chúng đều thương khóc. Vào tháng mười một, Vương sai quan Điển thiêm là Ngô Cảnh Hiền vào núi nhằm ngày húy nhật thiết đãi trai Tăng năm trăm chúng. Năm Khai Hoàng thứ hai mươi, Tấn Vương được lập làm Hoàng Thái tử. Vào tháng giêng năm Nhân Thọ thứ nhất, ngài Tăng pháp Hiển Sinh ở Vĩnh gia nghe thắng đức của ngài Trí Giả, bèn đến khám thờ ngài đi nhiễu và lạy một ngàn lạy. Một chiều nọ cửa khám tự mở, ánh sáng chiếu khắp núi rừng, chúng trong chùa đều chạy đến lễ bái. Đến tháng mười năm ấy, đệ tử ngài Trí Giả là Thượng thủ Trí Việt sai Tăng sứ là Quán Đỉnh và Trí Tảo vào kinh chúc mừng Vương và tạ ơn việc tạo chùa mới. Vương lên ngôi sáng lập chùa chiền và xây Xuân cung. Đây là nền chùa Hoàng Thái tử vậy. Vương làm thí chủ bảo trợ cho chùa, Vương thật sự đảm nhiệm việc sửa sang, đây chính là việc "Vương gia tạo tự. " Hai nhà Trần và Tề đều diệt, nhà Tùy lên thay nhà Chu, đó là "ba nước thành một. " Chùa xây xong xin tên hiệu tức theo lời ký trước của Sư, đây gọi là Quốc Thanh. Lời nói của Thần tăng đều ứng nghiệm đầy đủ. Đến tháng mười hai năm ấy, Hoàng Thái tử sai Tán kỵ thị lang là Trương Càn Oai tiễn Sư Quán Đảnh về núi, thiết trai đãi cả ngàn Tăng và làm bài văn tôn kính khai quật phần mộ của Sư để xem xá-lợi thì thấy Linh thể bất động như đang nhập định. Đến tháng bảy năm Nhân Thọ thứ tư, Hoàng Thái tử lên ngôi. Tháng mười một, chùa sai Tăng sứ Trí Tảo vào triều chúc mừng.

Đời Tùy Dạng Đế, tháng chín năm Đại Nghiệp thứ nhất, vua xa giá đến Dương châu. Chùa cử sư Trí Tảo đến chúc mừng vua. Đến tháng mười vua tập hội chư Tăng tại điện Đại nha, vua ban cho được ngồi rồi phán rằng: Các Sư và những người hành đạo không nên dung chứa Bắc Tăng và lén độ kẻ xuất gia, giả chết thay nhau. Trí Tảo thưa: Một chùa Thiên thai được Thiên tử che chở, chùa lại có luật lệ không dám chứa khách lạ và lén độ người thay chết. " Vua lại sắc lệnh rằng:

Sư trở về chùa có thể mở lại Linh khám ra tất sẽ có nhiều điều lạ. Đệ tử muốn dựng bia cho thầy tất phải kể các hành trạng. Tảo thưa: "Việc linh dị của Tiên sư không phải ít. Quán Đảnh đã soạn thành một quyển sẽ kính dâng lên bệ hạ. " Vua lại sắc lệnh cho bí thư là Giám Liễu Cố rằng: Trẫm muốn dựng bia cho ngài Trí Giả, nhưng không phải lời văn bia của Khanh, văn của Khanh thì trẫm không vừa ý. Văn bia soạn xong vua bảo chùa khắc lên đá, đại ý nói rằng: Căn cứ vào kinh Nhân Vương An Lạc và các tổ Long Thọ, Mã Minh mà lập ra Tam Quán Tứ Giáo kể rõ bản tông… Vua sắc lệnh cho năm mươi Tăng ở Dương châu lập tên chùa Thiên thai, một là tiêu biểu cho thiền môn, một tiêu biểu cho Ngũ tịnh cư. Tăng sứ Trí Tảo thưa rằng: Thuở xưa thời nhà Trần có Định Quang Thiền sư sau khi ngài viên tịch, ngài Trí Giả mộng thấy Thiền sư bảo rằng: Nay muốn tạo chùa thì chưa đúng lúc, nếu khi ba nước họp thành một, có người quyền thế lớn tạo chùa cho, nếu chùa hoàn thành thì nước sẽ thanh bình, vậy nên gọi là Quốc Thanh Tự. Vua bảo: Đây là điềm linh của Tiên Sư, liền dùng tên đó. Bèn lấy bảng điện Đại nha dùng loại chữ đại triện của Thư Hoàng mà viết hiệu chùa. Rồi sai Thông Sự Xá Nhân là Lư Chánh Phương vào núi để treo tấm hoành phi ở ngạch chùa. Nhân ngày giỗ là hai mươi bốn tháng mười một độ cho bốn mươi chín Tăng, thiết trai diên đãi một ngàn Tăng. Quan hữu ty xét đủ số một ngàn vị, đến khi thọ trai thì thấy dư ra một người. Ai nấy đều bảo là ngài Trí Giả hóa thân đến thọ nhận Quốc cúng. Sau giờ Ngọ hôm ấy, sứ giả cùng đại chúng mở Linh khám ra xem thì thấy linh sàng trống không. Sứ giả trở về phục mạng. Vua bảo quần thần rằng: Trí Giả là giới sư của Trẫm, trước đây có nhiều việc linh dị, vào đầu năm Nhân Thọ, Trẫm sai Trương Càn Oai đến xem thì khám thất nguyên vẹn, nay Lư Chánh Phương đến thì linh thể không còn thấy nữa. Có lẽ ngài đã biến hóa rồi thực sự đắc đạo. Sa-môn Tuệ Diên ở chùa Thiên hương, ngày xưa có đến Quang Trạch đã từng thấm nhuần pháp vũ, bỗng nghe ngài viên tịch thì nghẹn ngào thương cảm không nguôi. Muốn biết Trí Giả sinh vào cõi nào nhân đó viết kinh Pháp Hoa để cầu ngài ngầm mách bảo. Lắng tâm nghĩ mãi mấy tuần bỗng nằm mộng thấy ngài Trí Giả theo hầu Đức Quán Âm từ Tây phương đến, quay lại bảo rằng: Hết nghi chưa? Người trong ấp là Mã Thiệu Tống, cắt lúa cúng cho chúng trong chùa trăm bó vì làm việc cực nhọc mà ngã bệnh, nên cầu ngài cứu hộ.

Đêm mộng thấy ngài Trí Giả ngồi kiết già trên giường khói hương mờ mờ như sương, an ủi Thiệu Tống rằng: Nhà nghèo mà bố thí sao nghi là không có phước?

Lúc đó anh và mẹ vợ vào tối đó cũng mộng thấy y thế. Hương thơm mấy ngày mới tan.

Lại có ông Trương Tạo, tuổi già khập khểnh lên khám lạy và khấn rằng: Sớm nhờ hương hỏa, nguyện đời sau con được độ thoát.

Chợt nghe trong khám có tiếng khảy móng tay đáp lại. Trương Tạo lại khấn: "Xin cho thấy lại điềm linh ứng lần nữa", liền nghe như trước. Có bà lão họ Du tuổi đã chín mươi, đau một chân bị rút ngắn lại suốt mười tám năm. Bà luôn đến khám ân cần cung kính cúng dường, liền có cảm giác chân bệnh được giản ra và bước đi ngay ngắn. Lại có đệ tử là Pháp Uyển ở chùa Ngọc tuyền tại Kinh châu, đến Giang đô tạo tượng ngài Trí Giả. Khi về đến Giang tân thì tượng chảy mồ hôi, lau khô lại tươm ra nữa. Có kẻ biết cho rằng sắc thân của thầy ở đây không khác. Lúc đó Tiền Trung Ý Vương thỉnh tượng về triều và thụy phong là Pháp Không Bảo Giác Tôn giả (lúc đó là triều Tống nhà Chu). Triều đại ta là Ninh, năm Tông Khánh thứ ba, do kinh môn xin thụy phong thêm cho ngài là Linh Tuệ đại Thiền sư (đều trích từ các văn ở Bách Lục, Biệt Truyện, Cao Tăng Truyện, ba bộ Sớ Ký, Nam Bắc Sử, Ngọc Tuyền Bi, Quốc Thanh Bi và Quan Vương Từ Đường Ký).

Nghĩa Thần Trí nói rằng: Đức Phật ta ra đời tuy nói các kinh, nhưng Bản ý chỉ nói ở Pháp Hoa. Từ sau khi ngài A-nan kết tập, ngài Thiên Thân viết luận tuy nói là kinh chung nhưng chỉ là căn cứ theo văn diễn nghĩa, nêu phần đại lược mà thôi. Đến như ở kinh này thì Đại sự giáo hóa trước sau còn mịt mờ chưa sáng tỏ. Kịp đến các tác phẩm phiên dịch của ngài La-thập truyền sang cõi này thì kẻ chú sớ giải thích dị luận càng đông. Chỉ có ngài Trí Giả của ta là bậc nối tiếp ở Linh sơn, chứng ngộ ở Đại tô phát huy diệu chỉ ngầm khen thượng thừa, dùng năm nghĩa để giải thích đề Kinh, lấy bốn thích làm sáng tỏ Văn cú. Lại hay dùng mười chương diễn bày pháp môn Minh tịch. Do đó mà giải hạnh cùng bày, nghĩa Quán gồm nêu. Có thể gọi đó là tâm cảnh của hành nhân, đèn sáng của đêm đen. Dẫu là Đại Luận ở Thiên Trúc còn không phải thuộc loại ấy, há là Sư Tăng ở Chấn Đán này sánh kịp sao (v. v...). Lại giả sử hỏi rằng: Phụ Hành dẫn việc chín Tổ nối nhau, gọi đó là thời Bắc Tề trở về trước không phải là chỗ đời nay nối tiếp. Vả lại Bắc Tề đã dùng Giác tâm trùng quán Tammuội. Nay vì sao lại bài bác việc tìm giác, đó chỉ là một dấu xe thôi, vậy há không phải là đem ngài Trí Giả ra mà bài xích Bắc Tề ư? Đáp rằng: Diệu Huyền khai diễn mười diệu của Pháp Hoa còn bảo là không dám lấy trung luận mà so sánh. Lại nói: Đại Luận ở Thiên Trúc còn không phải thuộc loại ấy, là bởi ngài Trí Giả dùng ý của Như Lai mà nói cái diệu của Pháp Hoa, cho nên ngài Long Thọ Bắc Tề cũng không sánh kịp. Nếu Vô Sinh Tông Chỉ, Tam Quán Hạnh Môn kỳ thật là kế thừa Long Thọ, noi dấu Bắc Tề, bẩm thụ ở Nam nhạc thầy trò truyền nhau, rõ ràng như đã khế hợp từ kiếp trước… Lại nói rằng: Thiên thai nói về Tam Đế Tam Quán là lấy từ kinh Nhân Vương và Anh Lạc, nói về Tam Trí Tam Đức vốn là Niết-bàn Đại Phẩm. Nghĩa lý và ý chỉ đã dùng thì lấy Pháp Hoa làm xương sống, lấy Trí Độ Luận làm chỉ nam…

Lời bàn: Từ bỏ cái học của Thiên thai mà muốn biết ý chỉ Phật pháp thì chưa đủ để bàn luận. Cho nên từ khi Thánh giáo sang Đông độ, kinh luận khắp truyền nhưng chỉ chuyên việc hiểu tâm mình mà không biết chánh nghĩa. Thời Tề Lương cũng có các bậc hiền tài diễn bày rầm rộ Pháp Hoa, phán giáo lập ngôn, một tiếng nói về bốn tướng, bốn thời luận đủ sáu Tông, các luật chế lộn xộn, lật đổ tranh đoạt nhau, Nam có ba phe, Bắc có bảy nhóm tranh nhau truyền bá đương thời, cũng như hàng Túc Tán Tiểu Vương tự tôn tự đại (Phụ chú: Lúa để trong mâm thì mỗi hạt đều có vị trí, để dụ cho các Tiểu vương) nhưng không biết oai đức của Kim luân bay đi đã thống ngự cả bốn biển. Chỉ có Trí Giả đại Thiền sư của chúng ta là bậc Thánh tài đức siêu quần, đầy đủ cả công đức được coi là người nối nghiệp tổ phụ về đầu mối Tam quán, nhưng chưa phải là nguồn sáng lớn. Do đó đã theo ngộ môn của Pháp Hoa mà nói Đại Đạo Chỉ Quán, lập kinh bày kỷ để làm pháp muôn đời. Đến như việc phá mạnh ở Quang trạch thì bao nhiêu kẻ khác đều quy phục, khắp vấn nạn bốn tông khiến nhiều kẻ mất chỗ tựa, tuyên dương Phật pháp thì ngồi yên mà hưởng thái bình. Nếu không phải là Thánh nhân ở đời thì ai mới có thể làm nên nghiệp lớn này được? Vậy muốn biết rõ ý Phật pháp thì chỉ phải học với Thiên thai mà thôi.

QUYỂN 7

PHẦN III - CHÍN TỔ Ở ĐÔNG ĐỘ (PHẦN 2)

(Bản kỷ mất mục này xin bổ túc)

Tổ thứ 5: Chương An Tôn giả Quán Đảnh

(Vị Tổ này vì là bậc phi phàm, cho nên lấy ngôi vị Địa trụ cao nhất là Quán Đảnh mà đặt tên, cốt để tôn sùng).

Ngài họ Ngô, người ở Chương an, Lâm hải. Mới sinh được ba tháng (ngài sinh vào năm Thiên Gia thứ hai đời Trần Văn Đế) thì có thể bắt chước mẹ gọi tên Tam bảo. Có vị Tăng đi ngang qua cửa gọi bà mẹ bảo rằng: Đứa bé này phi phàm, nhân lấy đó mà đặt tên. Năm lên bảy tuổi, ngài vào chùa Nhiếp tĩnh, nương theo sư Tuệ Chửng ngày học ngàn lời. Năm hai mươi tuổi ngài thọ giới Cụ túc. Có tuệ giải thiên phú, một lần nghe qua tất không quên. Đầu năm Chí Đức đời Trần (tức Trần Hậu Chủ) ngài đến gặp sư Trí Giả tại chùa Tu thiền học được quán pháp. Vì nghiên cứu Phật học đã lâu nên ngài sớm được ấn khả và được làm thị giả tổ Trí Giả, luôn theo hầu hạ. Các pháp môn nói ra, ngài đều hiểu rõ. Đầu năm Trinh Minh ngài theo tổ Trí Giả đến ở chùa Quang trạch tại Kim lăng nghe Tổ giảng Pháp Hoa (Văn cú chú rằng: Năm ngài hai mươi bảy tuổi lãnh thọ Pháp tại Kim lăng).

Đến năm Khai Hoàng thứ mười ba đời Tùy (tức Tùy Văn Đế), vào mùa Hạ, ngài ở chùa Ngọc tuyền tại Giang lăng lãnh thọ Pháp Hoa huyền nghĩa. Lúc đó ngài ba mươi ba tuổi. Kế ở Giang lăng được học huyền nghĩa là đó. Năm Khai Hoàng thứ mười bốn, mùa Hạ ngài học Chỉ Quán Viên Đốn ở chùa Ngọc tuyền (một mùa hạ diễn giảng hai thời được thấm nhập là đó). Đến như các thời giảng nói ở những chỗ khác ngài được nghe sau này đều đem kết tập thành các bộ pho lớn nhỏ có hơn trăm quyển và truyền lại cho những ai chưa được nghe, đều do công của ngài cả. Tháng giêng năm Khai Hoàng thứ mười tám, ngài cùng sư Phổ Minh mang di thư của tổ Trí Giả từ Thiên thai đến Dương châu vào yết kiến Tấn Vương và dâng bộ Tịnh Danh Nghĩa Sớ. Tháng hai Vương Gia sai sứ là Vương Hoằng tiễn các ngài về núi, vì tổ Trí Giả mà thiết trai đãi một ngàn Tăng và bắt đầu khởi công xây chùa Quốc thanh. Đầu năm Nhân Thọ, Tấn Vương được làm Hoàng Thái tử, ngài cùng sư Trí Tảo đến Trường An dâng biểu chúc mừng và tạ ơn việc giúp tạo chùa. Con của Hữu Thứ là Trương Hành tuyên lệnh vương hỏi các việc linh dị của tổ Trí Giả sau khi viên tịch, ngài kể rõ năm việc (thấy đủ trong Bách Lục). Hoàng Thái tử vừa buồn vừa mừng sai quan Tán kỵ thường thị là Trương Càn Chấn vào núi thiết đãi trai diên cả ngàn Tăng. Đến tháng tư năm Nhân Thọ thứ hai, vương sai quan tham quân ở Dương châu là Trương Hài vào núi tuyên lệnh mời hai sư Đạo Trang và Pháp Luận ở đạo tràng Tuệ nhật (đời Tùy đổi tên chùa thành Đạo tràng, chùa này ở Đông đô. Hai sư này thấy nói trong Đường Tục Tăng Truyện) đến Đông cung giảng kinh Tịnh Danh, toàn dùng lời sớ của tổ Trí Giả mà giải thích khiến chúng trong chùa hiểu rõ ngọn ngành. Về việc đem Pháp Hoa Huyền Nghĩa vào kinh, chúng cử ngài theo sứ ứng lệnh. Đến tháng tám thì Vương sai sứ đưa ngài về núi.

Đến năm Đại Nghiệp thứ mười đời Tùy Dạng Đế (lúc đó ngài bốn mươi lăm tuổi), ngài viết bộ Niết-bàn Huyền Nghĩa hai quyển và viết lời sớ hai mươi quyển. Lúc đó là thời Tùy Mạt, giặc cướp ùn ùn nổi lên khắp nơi, ngài tự viết tựa rằng: Suốt năm năm nghiên cứu Thánh văn, năm nào lại không có binh lửa, tháng nào chẳng thấy can qua, rau cỏ nước khe, nằm sương áo rách lao khổ đến mức này là cùng. Sớ xong thì nhen lửa định đốt nhưng rồi không đốt.

Buổi vãng niên ngài ở tinh xá Xứng tâm tại Cối kê giảng nói Pháp Hoa. Người bấy giờ khen ngài lời nói hơn các sư Lãng, Tuệ Cơ, Pháp Vân và sư Ấn (sư Lãng ở Hưng hoàng, sư Tuệ Cơ ở Sơn âm đời Tề có soạn lời sớ kinh Pháp Hoa, sư Pháp Vân ở Quang trạch đời Lương có viết sớ giảng kinh... đều thấy trong Đường Tăng Tục Truyện. Còn sư Ấn thì chưa rõ là ai). Trong quận có Gia tường Cát Tạng, trước đây từng sớ giải kinh Pháp Hoa, khi nghe đạo ngài Chương An, liền bỏ giảng, giải tán chúng Tăng, cùng đến xin thọ học với ngài, hối tiếc trước đây đã giải thích sai dối.

Đến ngày mồng bảy tháng tám năm Trinh Quán thứ sáu đời Nhà Đường, ngài viên tịch ở chùa Quốc thanh, tuổi đời bảy mươi hai, hạ lạp năm mươi hai. Khi mới chớm bệnh trong thất có mùi hương lạ. Khi sắp lâm chung ngài bảo đệ tử rằng: "Kinh Dilặc nói khi Thế Tôn nhập diệt thì đốt nhiều hương quý khói quyện như mây. Nay con hãy đốt nhiều hương. Ta sắp đi rồi đây!"

Nhân đó dặn dò khuyên răn cặn kẽ, lời lẽ rất tha thiết. Bỗng ngài ngồi dậy chắp tay như kính chào ai và niệm Hồng danh của Phật và Bồ-tát cõi Tịnh độ. Rồi an nhiên thị tịch. Đó là năm Trinh Quán thứ nhất. Bạn đồng học của ngài là Trí Hy, lúc ngài sắp lâm chung nói rằng: Ta sinh lên cung trời Đâu-suất thấy Tiên sư Trí Giả, có các bảo tòa bày ra đều có người ngồi, chỉ có một tòa còn trống. Chư Thiên ở đấy bảo rằng: Sáu năm nữa Quán Đảnh Pháp sư sẽ lên ngồi tòa này. Số năm tính kỳ hạn thì xét lời ngài Trí Hy không sai. Đến ngày mồng chín tháng ấy an táng ngài ở núi phía Nam của chùa. Khi ngài còn sống ở chùa Quốc thanh, có một cụ già bị bệnh trị cả trăm thứ thuốc vẫn không khỏi, người con đến cầu cứu ngài, ngài liền thắp hương đọc kinh Pháp Hoa, người bệnh nghe mùi hương bay vào mũi, thì bệnh hết liền. Phía Nam An Lãnh ở Tiên cư là An Châu, ở đấy có khe suối chảy xiết hàng năm hay dìm chết người. Ngài nguyện rằng: Nếu khe này bình lặng thì sẽ ở đây giảng kinh. Khoảng mười hai ngày sau thì cát trắng trồi lên mặt nước phẳng như gương. Ngài bèn ở đấy giảng kinh Quang Minh và Pháp Hoa để đáp tạ điềm linh. Có lần ngài ở chùa Nhiếp Tịnh giảng kinh Niết-bàn, có đám giặc cướp kéo đến. Thấy ở cửa chùa cờ xí rực rỡ sáng ngời, binh thần cầm gậy dài hơn trượng, chúng kinh hồn bỏ chạy tứ tán. Tục nhân đó gọi là Sơn bình tự. Mỗi khi ngài ngồi yên tụng kinh thường có hoa trời bên cạnh.

Tác phẩm của ngài gồm có: Bát Giáo Đại Ý, Trí Giả Biệt Truyện mỗi thứ một quyển. Quán Tâm Luận Sớ hai quyển, Quốc Thanh Bách Lục năm quyển, Niết-bàn Huyền Nghĩa hai quyển, Niết-bàn Kinh Sớ hai mươi quyển, Chân Quán Pháp Sư Truyện, Nam Nhạc Ký mỗi thứ một quyển. Ngô Việt Vương xin thụy phong cho ngài là Tổng Trì Tôn Giả (trích từ ba bộ sớ Ký Bách Lục, Cửu Tổ Truyện, Cao Tăng Truyện).

Lời bàn: Ngày xưa ở với tổ Trí Giả được Phật sai khiến, vì Tổ đích thân ở Linh sơn nghe lãnh ý chỉ Pháp Hoa ban cho nước Chấn Đán ta. Nay bèn khai mở tám giáo, nói rõ Tam quán, giảng nói luận rộng để độ khắp các cơ. Đến như nhờ người hoằng truyền đời mạt pháp thì Chương An đứng bên phải vì có tài "nhất biến ký"(xưa ở Hà nam có nhất biến chiếu, ở Mãn châu có bất thính thấu) viết ra luận sớ cốt là để lại đời sau. Có thể bảo ngài sánh ngang công đức kết tập với ngài Khánh Hỷ. Nếu thiếu vắng Chương An ta e rằng đạo của tổ Trí Giả đời nay khó được nghe.

Tổ thứ 6: Pháp Hoa Tôn giả Trí Oai

Ngài họ Tưởng, là người Tấn vân ở Xứ châu. Mẹ ngài họ Chu, gia thế sống theo Nho giáo. Năm mười tám tuổi ngài làm Đường trưởng ở quận nhà (tức chức Quận học), cha mẹ kêu về cưới vợ. Khi đi nửa đường gặp một Phạm tăng gọi ngài bảo rằng: Cậu trai kia vì sao có ý làm trái lời trọng thệ xưa. Nhân đó nói năm lời thề ấy:

1. Nguyện khi lâm chung được chánh niệm.

2. Nguyện không đọa tam đồ.

3. Nguyện được sinh làm loài người.

4. Nguyện xuất gia hồi còn bé.

5. Nguyện không làm Tăng tầm thường.

Bởi tiền thân ngài là Từ Lăng, nghe tổ Trí Giả giảng kinh được chỗ ngộ nhập bèn ở trước tổ Trí Giả mà phát lời thệ ấy. Khi nghe nhắc lại lời thề xưa thì ngài không về nhà nữa; ngài liền đến chùa Quốc thanh kính tổ Chương An làm thầy. Sau khi thọ giới Cụ túc thì nhận được tâm yếu, định tuệ cùng phát liền chứng được Pháp hoa Tam-muội.

Năm đầu Thượng Ngươn đời Đường (Đường Cao Tông) ngài muốn bói tìm đất tốt để thuyết pháp độ người. Bèn cầm tích trượng thề rằng: cây tích trượng này ngừng ở đâu thì ta sẽ ở đấy. Cây tích trượng từ chùa Quốc thanh bay đến núi Phổ thông ở Thương lĩnh (ranh giới Đài vụ) cách hơn năm trăm dặm. Vì là ải hẹp không thể chứa đông người được. Ngài lên đồi trống quăng tích trượng lần nữa thì trượng bay đến núi Luyện đan ở Hiên viên, ngài bèn dừng chân ở đấy. Rồi dẹp cỏ cắt tranh, ban gai làm tòa ngồi xếp đá làm học trò, ngày giảng kinh đêm tọa thiền, tay viết kinh điển. Do đó gọi đất ấy là Pháp hoa. Rồi có người đến học, kẻ tới tập thiền khoảng ba trăm, nghe giảng độ bảy trăm. Thường chia ra chín nơi để an cư. Ngài thân cao bảy thước, xương to dáng đẹp. Mỗi khi đăng tòa thường có mây tía trên đỉnh đầu như lộng báu, chim sẻ đậu bên quen thuộc như thú nuôi trong nhà. Đại chúng khổ vì thiếu nước dùng, ngài đào một giếng đá sâu khoảng ba thước mà hằng ngày đủ cung cấp cho cả ngàn người, mùa Đông hay Hạ vẫn không cạn. Ngài Pháp Hoa đến Thượng phản ở Tiên cư (Đài châu thuộc Sắc phản ở Tiên cư) cách đó khoảng tám mươi dặm. Mỗi ngày hai lượt đi về. Ngài mang theo cháo để ăn đến giảng thiền chưa hề bỏ sót. Ai nấy đều bảo ngài có thần túc. Vào ngày hai mươi tám tháng mười một, năm Vĩnh Long thứ tư, ngài ngồi kiết già ở thiền đường mà viên tịch. Mùi hương lạ suốt bảy ngày không tan (từ năm Thượng Nguyên thứ nhất cất chùa, đến năm Vĩnh Nguyên thứ nhất thì mất, vừa tròn bảy năm). Ngày đó chúng thấy ngài đang ngồi tịch trong chùa, nhưng người ở Thượng phản lại thấy ngài đến nhà thí chủ. Bậc Chí nhân việc ẩn hiện khó lường biết được. Ngài truyền pháp cho rất nhiều người nhưng chỉ có Thiên Cung Oai Sư là chánh truyền. Ngài ở triều đại Tông danh đức vang xa nên được mời bổ phong Triệu Tán Đại Phu Tứ Đại Sư (Các kỳ lão tương truyền rằng: Đời Đường có bốn Đại sư, đó là Dẫn Giá Đại sư, Hộ Quốc Đại sư, còn hai vị kia thì chưa nghe. Nay khảo xét ở Tùy Đường Tăng Truyện thì chỉ có tên Dẫn Giá Đại sư, chức quan ấy có bốn). Ngô Việt Vương xin thụy phong là Huyền Đạt Tôn Giả. Thời Tống Triều Hoàng Hựu thứ nhất, Tiên cư lệnh là Ngũ Trật, ở chỗ ngài truyền đạo trùng tu lại sân và điện thờ và đặt chân tượng ngài để thờ cúng. Đêm ấy có hổ đi quanh ba vòng rồi bỏ đi. Năm Nguyên Phong thứ năm, cháu mười ba đời của ngài là Pháp sư Trung đến lễ xá-lợi và sửa sang trang hoàng lại tháp. Lục Hành Thật ghi rằng: Ngài và ngài Thiên Cung đồng thời hoằng hóa, cùng được phong chức vị Kế thừa Tổ. Nếu luận ngang thì có tám đời. Nếu phân dọc thì có chín đời. Xưa khi Như Lai nhập Niết-bàn, A-nan kết tập, ngài có hai đệ tử là Thương-na và Mạt-điền-địa hai người, dù ở khác nước nhưng hành hóa đồng thời cho nên đều được phó chúc pháp tạng. Nếu kể ngang thì có hai mươi ba Tổ, còn phân dọc thì hai mươi bốn Tổ. Nay ngài Trí Giả thị tịch, ngài Chương An kết tập cũng có hai đệ tử đồng thời. Lúc ngài A-nan kết tập thì vua A-xà-thế cúng dường một hạ. Còn ngài Chương An kết tập thì Tùy Dạng Đế cúng thí mười năm. Theo dòng tìm nguồn thì ngài Trí Giả như một vị Phật ở Đông độ, còn Chương An cũng giống như ngài A-nan và hai ngài Trí Oai và Tuệ Oai cũng như Thương-na và Mạt-điền-địa. Tùy Dạng Đế ngoại hộ cũng đồng như A-xà-thế vương, há không tin sao? Chốn xưa nơi Sư tọa thiền hằng ngày đến nay cỏ xuân vẫn không mọc.

Lời bàn: Thế gian cho rằng Từ Lăng ở trước tổ Trí Giả phát năm lời nguyện mà chuyển thân được xuất gia học đạo, chứng Pháp hoa Tam-muội, kế thừa ngôi Tổ. Nay xét rõ lời nguyện thì vì sao hẹn tâm chưa sâu mà lại được kết quả quá tốt. Biết đâu trước đây chẳng phải là đồng hội ở Linh thứu đều được làm người. Cho nên có thể dùng lực dụng tự tại mà hoặc hiện thân Tể quan, hoặc hiện tướng Tỳ-kheo. Xưa là Từ Lăng nay là Pháp Hoa. Đó là dùng Đại quyền để hóa độ Phật, tuy nguyện mà ra đời. Vậy đâu có thể lấy chức tước ở thế gian nhân phước thọ báo mà để so sánh ư? Ý này có hai nghĩa Quyền Thực chỉ có ai hiểu rõ giáo pháp thì mới biết được thôi.

Tổ thứ 7: Thiên Cung Tôn giả Tuệ Oai

Ngài họ Lưu, người ở Đông dương thuộc Vụ châu. Đến tuổi trưởng thành, ngài rất chán đời sống cực khổ bèn vào cửa thiền xuống tóc và thọ giới Cụ túc. Khi nghe ngài Pháp Hoa đại hoằng đạo Thiên thai liền đến quyết chí theo học thiền pháp, suốt ngày đêm chỉ chuyên cần về pháp môn Tam quán nên được khai ngộ rất nhanh. Người thời ấy thấy ngài thâm nhập vào thất của Oai Sư, bèn gọi ngài là Tiểu Oai Sư. Sau ngài lại trở về ở Đông dương, vào ở sâu trong núi ít giao tiếp với người. Sau khi tổ Pháp Hoa diệt độ, thì người vào cửa cầu đạo đông không kể xiết. Đích của truyền pháp chỉ là sư Tả Khê mà thôi. Ngài ở triều Tống Cao Tông, cùng với ngài Pháp Hoa được phong là Triêu Tán Đại Phu Từ Đại Sư. Ngô Việt Vương xin thụy phong cho ngài là Toàn Chân Tôn Giả.

Lời bàn: Có kẻ thấy Lương Thị nêu bày hai vị Trí Oai và Tuệ Oai chỉ nín thinh truyền đạo không cần nói năng bèn cho là đạo đó lặng lẽ không lời, chỉ ngồi chứng mà thôi. Song lời nói này của Lương Thị là muốn đem việc Trương Hoàng Kinh Khê lập ngôn để hoằng đại đạo, cho nên quyền coi là khinh trọng vậy thôi. Tóm lại là việc giảng kinh tọa thiền chưa từng là không song hành. Nếu không phải thế thì ngài Pháp Hoa có cả ngàn chúng nghe giảng kinh và tập thiền, ngài Thiên Cung có vô số kẻ cầu đạo thì đó là việc gì? Thế mới biết nếu đạo ấy không hành thì cũng là thái quá vậy.

Tổ thứ 8: Tả Khê Tôn giả Huyền Lãng

(So với Thánh tổ của triều đại này có tên húy trên dưới đều giống nhau)

Ngài tự là Tuệ Minh, người ở Đông dương thuộc Vụ châu, họ Phó, là cháu sáu đời của Song Lâm Đại sĩ. Mẹ ngài họ Cát thấy mộng lạ mà mang thai (ngài sinh vào năm Trinh Quán mười tám đời Đường Thái Tông). Từ lúc mới sinh ra, ngài không hề khóc, lại cười vui vẻ khi thấy có người. Năm lên chín (năm Vĩnh Huy thứ hai đời Đường Cao Tông) theo học tại chùa Thanh thái, học kinh mỗi ngày hơn bảy tờ. Năm Như Ý thứ hai đời Đường Võ Hậu (Ngài năm mươi tuổi) ngài xuống tóc thọ giới. Nghe ở Thiên thai hoằng truyền Chỉ Quán ngài liền tìm đến xin học. Chưa bao lâu đã giải ngộ hoàn toàn về tông thú Thiên thai. Ngài thường dùng mười tám pháp để tu hạnh Đầu-đà. Dựa vào hang núi mà lập nên cảnh Thiền lâm, mặt xoay về núi biếc, bên trái quanh co một lạch nước trong. Nhân đó tự đặt hiệu là Tả Khê. Ngài thường nói: Suối đá rửa sạch mọi u mê, mây tòng dẹp bỏ thân trần tục. Ngài thường ở yên trong thất coi đó là pháp giới bao la. Tâm luôn thiền định ít khi uống thuốc, dẫu tuổi đã già mà vẫn như trai tráng. Mặc áo da cây, vốc nước khe mà uống; bầy vượn tranh nhau rửa bát, tụng kinh thì chim thú vây quanh; ẩn náu chốn hang sâu, vắng yên càng thích. Một hôm có chú chó mù đến núi tru dài rồi nằm phục ra đất. Ngài làm lễ sám hối cho thì tuần sau mắt sáng. Mỗi khi lễ sám ngài luôn nguyện cầu được sinh về nội viện Đâu-suất. Trong khi chí kính quán niệm bỗng chiêu cảm được xá-lợi Phật từ trên không rơi xuống (Năm Thiên Bảo đã xây tháp để phụng thờ. Gặp nạn Hội Xương phá chùa, chư Tăng gói xá-lợi dấu kín. Đến năm Khai Bảo thứ sáu của triều ta bèn xây tháp lại kính thờ, tháp ở góc Đông Nam của núi. Năm Khai nguyên thứ mười sáu, Châu thứ sử là Vương Chánh Dung nhiều lần mời ngài về kinh thành để giảng pháp, nhưng ngài không muốn đến dạy bèn lấy bệnh cáo từ. Ngài cùng sư Vĩnh Gia Chân Giác là bạn đồng môn. Ngài có lần thư mời Giác về núi ở. Giác đáp thư có hơn ngàn lời, có câu: 'Ồn ào đâu phải chỉ có ở chợ búa, yên vắng nào riêng ở núi rừng" (Nay ở Vĩnh Gia Tập có thư đáp lời bạn: Đời gần đây có Tả Khê ở núi. Thanh Mục phán định hai thư trong núi có tựa rằng: Hai ngài Tả Khê và Vĩnh Gia là đồng đạo, không phải không biết lời nói của Tả Khê, nhưng Vĩnh Gia kích thích mà nói vậy. Lời ngài Vĩnh Gia không phải trách cứ, nhưng là có điều muốn trình bày. Việc này kẻ tầm thường không biết được trở lại đem luận bàn là sai). Ngài thích ở nơi vắng vẻ không ngồi ngay hướng mặt trời, bèn xoay dời điện thờ và tượng. Công việc thật khó, ngài ra sức chỉ huy, công nhân nghe theo, không bao lâu thì việc hoàn thành. Theo lệ cũ thì nước khe thường cạn chúng rất khổ sở, ngài liền lấy gậy chọc vào núi đá, thì suối nước phun trào, có lần phun cao gấp hai ngọn tháp. Khi tô vẽ tượng ngài chỉ dùng nước thơm không dùng a dao (đây là dùng phép họa tượng Quan Âm và các kinh chú Đà-la-ni). Năm Thiên Bảo thứ mười ba, ngày mười chín tháng chín ngài gọi môn nhân bảo rằng: "Ta Đạo Lục Tức đã đầy đủ, muôn hạnh vốn không hề được, giới là gốc của tâm, các ông hãy noi theo". Rồi ngài ngồi ngay mà viên tịch. Tuổi đời tám mươi hai, hạ lạp ba mươi mốt. Đêm đến Đệ tử mộng thấy ngài đang ở tầng thứ tư Bảo các. Tỉnh dậy kể chuyện với hàng xóm. Người hàng xóm cũng mông thấy y vậy. Bấy giờ mới biết biểu thị là ngài ở tầng bốn tại nội viện Di-lặc. Khi trà-tỳ xong thì môn nhân chia xá-lợi làm hai phần: Một phần để thờ ở tháp phía Tây của Tả Khê là tuân theo di chế thời tượng pháp, một phần thờ ở tháp phía Đông của Đông dương để an ủi xóm ấp lo hương lửa. Quan tư phong là Lý Hoa làm bài minh rằng: Thọ pháp có mười hai vị mà người kế thừa chính thức là Kinh Khê. Người truyền đạo của ngài ở nước Tân La có các sư Đức Dung, Lý Ứng, Thuần Anh... Ngài có soạn bộ Pháp Hoa Khoa Văn hai quyển và sửa lại bộ Pháp Hoa Văn Cú. Ngô Việt Vương xin thụy phong cho ngài là Minh Giác Tôn Giả.

Lời bàn: Thứ sử Trương Thành đã tô vẽ hành trạng của ngài rằng: Sư dạy người không biết mệt mỏi, giảng kinh không đợi chúng đông, một y Uất-đa-la đắp hơn bốn mươi năm, một mảnh Ni-sư-đàn dùng trọn đời không đổi, ăn không cần ngon, ở chỉ một mái che. Như không phải viết sách đọc kinh Luận dù một ngọn đèn nhỏ cũng không đốt, nếu không lễ sám kinh hành thì một bước cũng chẳng đi. Chưa từng một lần vì lợi mà nói câu pháp, cũng chưa từng nói pháp mà nhận lấy một xu. Những hàng Long tượng từ xa, các bậc kỳ lão ở gần tranh nhau đến đầy cửa chật nhà. Bởi ngài như ánh dương mùa Đông, bóng mát ngày hè đâu cần mời mà ai cũng tự đến.

Tổ thứ 9: Kinh Khê Tôn giả Trạm Nhiên.

Ngài họ Thích, nhiều đời ở Kinh khê, Tấn lăng. Người thời đó kính trọng đạo nên lấy chỗ ở đặt tên. Ngài vốn dòng Nho gia nên từ bé đã sớm thành đạt.

Trong số trẻ em trang lứa thì ngài có chí khác thường. Năm ngài mười bảy tuổi (Ngài sinh năm Cảnh Vân thứ hai đời Duệ Tông, đến năm Khai Nguyên mười lăm đời Huyền Tông, ngài mười bảy tuổi). Ngài đến bờ Hữu sông Triết giang hỏi đạo thì được ngài Kim Hoa Phương Nham dạy cho pháp Chỉ Quán. Năm Khai Nguyên thứ mười tám, Sư bắt đầu theo học với tổ Tả Khê (lúc đó Sư hai mươi tuổi). Tổ Tả Khê hỏi chuyện biết là đạo khí. Có lần Tổ bảo ngài rằng: Ngươi đã từng nằm mộng thấy gì? Đáp rằng: Một đêm nọ con thấy mình khoác áo ca-sa, cặp nách hai bánh xe đi vào sông lớn. Tổ cười: "A, phải chăng là dùng hai pháp Chỉ Quán mà độ quần sinh ở vực sâu sinh tử?" Ngài bèn mặc áo ẩn sĩ học đạo giáo Quán. Năm Thiên Bảo thứ bảy, mới cởi áo Nho sĩ mặc áo Tăng-giàlê (Lúc đó ngài ba mươi tám tuổi, theo học với Nghi Hưng Quân, ở chùa Tịch lạc tại Hương sơn-Phùng dịch là Nho sĩ áo vải. Tăng-già-lê dịch là Đại Y có hai mươi lăm điều). Ngài tìm đến một Luật sư ở Cối kê, nghiên cứu rộng về Luật bộ. Về sau lại diễn nói về Chỉ Quán ở Ngô môn. Tổ Tả Khê đã mất vào năm Khai Nguyên, nên ngài đem Mật tạng riêng hoằng hóa ở Đông nam. Ngài bảo đệ tử rằng: Đạo rất khó hành, ta biết rõ điều đó. Từ xưa bậc Chí nhân hễ tĩnh thì lấy quán mà lập lại, hễ động thì lấy ứng để thi thố. Không trụ vào hai thứ ấy mới đạt đến chỗ cao xa. Người thời nay thì hoặc mờ mịt ở không, hoặc chấp chặt ở có, mình đã bệnh còn khiến người khác bệnh theo. Muốn được chánh đạo mà bỏ đây thì đi về đâu? Do đó nay xin mở mang diệu pháp, vì nó bao trùm muôn hạnh, nhiếp giữ hết các tướng, thâm nhập vào chỗ vô gián, thì ngay ở văn tự mà đạt quán, hướng dẫn bằng cách lặng im hoặc nói ra để trở về nguồn. Bèn thuật lại sự hoằng truyền của các Tổ, viết sách làm văn có trên mười vạn lời. Khiến giáo Viên đối của một nhà trở về chính thống. Thường dùng ý ngài Trí Giả mà phá dẹp đám hậu học Nam Bắc. Trong khoảng hơn trăm năm kẻ học Phật không ai chẳng tự cho là hoằng truyền cả định và tuệ, Viên chiếu Nhất thừa. Xưa không có cái tệ xe một bánh, chim một cánh. Nhưng từ đời Đường trở về sau thì việc truyền y bát khởi lên ở hẻm núi, còn việc luận về pháp giới, bàn về danh tướng thì đầy cả Trường an. Cả ba người ấy đều là đạo hạnh xuất chúng, danh vượt cửu trùng, là thầy mô phạm của Đế Vương. Cho nên uổng phí lớn chỗ học. Tự gọi là một nhà nhưng căn cứ vào kinh mở mang luận mà phán thích vu vơ. Kẻ giảng Hoa Nghiêm thì chỉ tôn kính Phật mình, còn người đọc Duy Thức thì không chấp nhận các kinh khác. Đến như giáo ngoại biệt truyền thì cũng chỉ tin ở lòng dạ mình mà thôi. Ngài Kinh Khê đã vin theo cái thuyết đó mà biện luận. Gọi là Kim phê, gọi là Nghĩa lệ, đều là lời của Mạnh Tử khen kính đạo Khổng mà bài bác Dương Tử, Mặc Tử. Kẻ thức giả bảo rằng: "Nếu không có Kinh Khê thì viên nghĩa sẽ phải chìm mất vĩnh viễn vậy. "

Trong khoảng hai năm Đại Lịch và Thiên Bảo (Đời Huyền Túc Tam Tông) triều đình gởi đến ba chiếu mời nhưng ngài đều từ bệnh không đi. Ngài mới đến ở Lan lăng đã từng cùng với bốn mươi danh Tăng ở Giang hoài đồng lễ ở Ngũ đài. Có môn nhân của ngài Bất không Tam tạng là Hàm Quang thưa với ngài rằng: Vừa rồi, con theo ngài Bất Không sang du lịch ở Thiên Trúc có gặp một

Phạm tăng bảo rằng: Ta nghe ở Đại Đường có Thiên thai Giáo tích có thể biết rõ thiên viên phân biệt chánh tà mà nói rõ Chỉ Quán có thể dịch ra đem đến cõi này được chăng? Ngài nghe xong than rằng: Có thể bảo Trung Quốc ta mất pháp mà tìm được ở bốn phía (Tả Truyện, Khổng Tử nói: Thiên tử mất quan, cầu học ở bốn rợ. Bài tựa của Hậu Hán Đông Di Truyện có nói: Trung Quốc mất Lễ, cầu học ở bốn Rợ).

Lúc tuổi già ngài trở về ở Đài lãnh, mặc áo vải thô, ngủ chiếc giường nhỏ, đích thân làm gương dạy người đến già vẫn không biết mệt mỏi. Gặp lúc loạn lạc đói kém, người học càng đông trông vào nhà cửa để nương thân. Năm Kiến Trung thứ ba (Đức Tông), vào ngày mồng năm tháng hai, ngài ngọa bệnh ở tại Phật Lũng, bảo môn nhân rằng: Đạo không phương tánh cũng không có chân thể, sinh đó mất đó, ý chỉ nhất quán. Ta sẽ gửi nắm xương tàn ở núi này và tịch diệt vào đêm nay. Nay cần nói rõ với các ông cốt yếu về đạo để hiểu dứt khoát rằng: "Phàm một niệm không tướng thì gọi đó là Không; Không pháp nào không đầy đủ nên gọi đó là Giả, không phải một cũng không phải khác nên gọi là Trung. Ở phàm thì chúng là ba nhân, ở Thánh thì chính là ba đức. Đốt nóng thì trước sau đồng nhau, trên bộ dưới biển thì cạn sâu khác dòng. Tự lợi lợi tha chính ở đây mà thôi, các ông nên lưu ý. " Nói xong tựa vào ghế mà viên tịch. Ngài thọ bảy mươi hai tuổi, họ lạp bốn mươi ba. Môn nhân để toàn thân nhập tháp mà thờ. Tháp ở góc Tây nam của tháp tổ Trí Giả.

Tác phẩm của ngài gồm có các bộ: Pháp Hoa Thích Thiêm, Văn Cú Ký, Chỉ Quán Phụ Hành, Chỉ Quán Sưu Huyền Ký... mỗi thứ mười quyển. Bộ Chỉ Quán Văn Cú một quyển, giảng nói cho Tư Phong Lý Hoa. Bộ Chỉ Quán Đại Ý một quyển, Thích Thiêm Biệt Hành, Thập Bất Nhị Môn, Kim Cang Tu, Chỉ Quán Nghĩa Lệ, Tam Quán Nghĩa, Niết-bàn Hậu Phần Sớ, Quán Tâm Tụng Kinh Lý, Thọ Bồ-tát Giới Văn, Thủy Chung Tâm Yếu... mỗi thứ nhất quyển. Lược Tịnh Danh Sớ mười quyển, Ký ba quyển, Tịnh Danh Quảng Sớ Ký sáu quyển, Trị Định Niết-bàn Sớ mười lăm quyển, Văn Cú Khoa, Chỉ Quán Khoa mỗi thứ sáu quyển. Hoa Nghiêm Cốt Mục hai quyển, Pháp hoa Tam-muội Bổ Trợ Nghi hai quyển.

Môn nhân của ngài là Lương Túc soạn bài Minh ở mộ bia của thầy mình có luận rằng: Trong khoảng thời gian không có Thánh nhân ra đời hoằng hóa tất có bậc Danh thế xuất hiện. Từ khi tổ Trí Giả phó pháp cho tổ Chương An, thì tổ Chương An nối đời truyền đến ngài Tả Khê. Minh đạo nếu có lúc mờ tối đợi đến ngài thì phát triển. Ngài nối tiếp ngôi báu đốt lửa để trung hưng. Số người theo học mà thân thông có đến ba mươi chín vị. Các hàng con cháu quan, các tiên sinh ngôi vị lớn, nổi tiếng... mà khuất mình thọ giáo thì có đến mười người (Sử Ký

-Khổng Tử Thế Gia nói: Đệ tử ngài có ba ngàn, kẻ thân thông lục nghệ có bảy mươi hai vị. Nay nói "theo học mà thân thông", nghĩa là thông suốt đạo giáo Quán. Có người nói thấy thân phát thông suốt là vô nghĩa). Ngô Việt Vương xin thụy phong cho ngài là Viên Thông Tôn Giả. Triều đại ta, năm Nguyên Hựu thứ nhất, ngài Vĩnh Gia Trung Pháp sư sai môn nhân quét dọn tháp ngài thì cỏ cây um tùm hoang vu không tìm thấy được. Bèn căn cứ vào lời bia của Lương Túc mà biết tháp ngài ở cách mộ phần của tổ Trí Giả khoảng trăm bước. Nhưng tìm đến thì thấy khám đá trống không chỉ còn một khối Nhũ hương mà thôi. Đêm nằm mộng ở núi Huyền bậc, thấy ngài gọi bảo rằng: "Hôm qua các

Thiên thần sai nhiều người đến dời toàn thân đi rồi. " Nên lập tức dựng ngay một tháp đá trên nền cũ để ghi nhớ.

Lời bàn: Sớ là để mở bày kinh, ký là để giải thích lời sớ. Vì như thế nên ý nghĩa phải quy về chỗ phải đến để người đời sau giữ được chánh thuyết. Lớn lao thay lời văn của Thích Thiêm, Diệu Lạc và Phụ Hành đã phát huy cái đạo của Thiên thai, há không phải là công tốt đẹp lắm sao? Nếu không có Kinh Khê thì nhóm học trò của Từ Ân Nam Sơn những kẻ luận ngang sau này được thế mà mê hoặc mọi người vậy. Sư bảo đó là muốn được chánh đạo bỏ đây thì đi về đâu? Thành thật thay lời dạy quý báu! Trong quyển Ký có nói số con quan quyền theo học có đến mấy mươi người, thì biết lúc đó người theo Nho học, học như thế là rất đông đảo. Nay chỉ còn nghe được ba, bốn người như Lương, Lý... thôi, tiếc thay!

QUYỂN 8

PHẦN IV - TÁM TỔ TỪ HƯNG ĐẠO TRỞ ĐI

Tổ thứ 10: Thiên thai Hưng Đạo Tôn giả đại Pháp sư. Tổ thứ 11: Thiên thai Chí Hạnh Tôn giả đại Pháp sư.

Tổ thứ 12: Quốc Thanh Chánh Định Tôn giả đại Pháp sư. Tổ thứ 13: Quốc Thanh Diệu Thuyết Tôn giả đại Pháp sư. Tổ thứ 14: Quốc Thanh Cao Luận Tôn giả đại Pháp sư.

Tổ thứ 15: Loa Khê Tịnh Quang Tôn giả đại Pháp sư. Tổ thứ 16: Tứ Minh Bảo Vân Tôn giả đại Pháp sư.

Tổ thứ 17: Tứ Minh Pháp Trí Tôn giả đại Pháp sư.

****

Lúc xưa Ngô Việt Vương xin thụy phong các Tổ nhưng ba tổ Long Thọ, Bắc Tề và Nam Nhạc chưa kịp phong. Nay cùng tính từ Thúy Pháp sư trở xuống những vị mà không có hiệu Sư, thì ngay từ văn của bản kỷ, thu nhặt các hành trạng thật sự của các ngài để tôn xưng. Vì chính đó là nghĩa lớn của việc tôn Tổ. Giả sử có ngày nào có người muốn khảo luận về đức tốt đẹp để dâng lên vua xin ban cho huy hiệu cao quý thì có thể may mắn căn cứ vào đây mà định tên, ngõ hầu không sai sự thật. Hoặc nếu có ai nghi rằng chỉ đời nay riêng thụy phong, thì như ở đời Hán, môn nhân của Chu Mục đã cho Thái Ấp mà thụy phong cho ông là Văn Trung Tiên Sinh. Đời Tấn môn nhân của Đào Tiềm thụy phong cho ông là Tĩnh Tiết Tiên Sinh (thấy trong Hán thư phần Tống Sử), Đời Đường môn nhân của Tiêu Dĩnh Sĩ đã thụy phong cho ông là Văn Nguyên Tiên Sinh (Triệu Lân Nhân Thoại Lục), Đời Nguyên, Diên Tổ được thụy phong là Thái Tiên Sinh (cha của Nguyễn Kiết). Đây đều là kẻ môn nhân riêng thụy phong mà không có lỗi.

Về việc Thánh nhân truyền đạo cho nhau là cốt để làm sáng tỏ giáo quán mà thôi. Trước suy tôn tổ Long Thọ, sau là ngài Kinh Khê, chín đời làm Tổ. Đến như hai Sư Thúy và Tu nối nhau diễn giảng khiến Tổ nghiệp không mất. Nhưng khi gặp tai ách Hội Xương thì kinh sách đều mất nên ba sư Ngoại, Tú, Tủng chỉ truyền đạo Chỉ Quán. Đến đời ngài Loa Khê nhờ Ngô Việt Vương tìm ra Di thư ở biển Đông mà Đế Quán từ nước Cao Ly đem giáo quyển ấy đưa về cho Trung Quốc mình. Do đó mà Tổ đạo lại được chấn hưng mạnh mẽ. Đời Tứ Minh lại trung hưng nên thật có chỗ nhờ cậy. Các Sư ấy hoặc công khai hoặc âm thầm "thuật nhi bất tác" thì gọi đó là Tổ. Bởi đó mà việc truyền thụ có kế thừa, việc nối nhau có thứ tự. Đây là Kỷ ghi về tám Tổ từ ngài Hưng Đạo trở xuống.

Tổ thứ 10: Hưng Đạo Tôn Giả: Đạo Thúy

Không biết Sư sinh quán ở đâu. Vào khoảng năm Đại Lịch đời Đường (Đại Tông) Sư đến nương nhờ ngài Kinh Khê tại Phật Lũng. Sư thông suốt các chỗ u huyền không chút trệ ngại. Ngài Kinh Khê vui mừng bảo rằng: "Con ta có thể kế thừa đạo nghiệp của ta!" Bèn truyền cho Sư bộ Chỉ Quán Phụ Hành. Sư vì chúng diễn giảng, làm sáng tỏ những ý chỉ sâu kín khiến người nghe không ai chẳng lãnh ngộ. Bạn đồng môn với Sư là Nguyên Hao mới gặp lần đầu đã rất kính phục. Năm Trinh Nguyên thứ hai mươi mốt, có Sư Tối Trừng ở Nhật Bản từ xa tìm đến cầu pháp, nghe Sư diễn giảng, lãnh nhận thọ học ngày đêm cố gắng mãi, viết hết bộ Nhất Tông Luận Sớ để đem về. Khi sắp lên đường bèn đến Thái Thú ở Quận Đình để xin một lời làm chứng cứ. Thái Thú là Lục Thuần vui mừng khen lòng thành ấy bèn đề rằng: Sa-môn Tối Trừng, tuy người nước ngoài, tánh thật cùng nguồn, tư chất thông minh, đạo tục đều kính, sáng chói ở nước nhà, lại được bậc danh Hiền truyền giáo là Pháp sư Thúy. Ngài là bậc thu muôn pháp vào một tâm, thấu mọi nẻo bởi Tam quán. Nay Sư Tối Trừng lại được ngài mật truyền, nói năng không ngoài Kinh Luận. Lại còn e học giả nước mình chưa thể tin vào thuyết này nên xin được ấn ký, đâu chẳng đáp lời. Tối Trừng bèn ngồi thuyền trở về Đông hải, chỉ lên một ngọn núi nói là Thiên thai, rồi lập lên ở đấy một cảnh chùa để truyền giáo, phong hóa rất thịnh hành hàng đầu, người theo học ngày càng đông. Bèn xa tôn Thúy Sư làm Thủy Tổ. Nhật Bản thật sự được truyền giáo bắt đầu từ đấy (Ngài Triều nói rằng: Trong bài minh của tháp Minh Trí có nói: Ngài Kinh Khê truyền cho Hạnh Mãn, Mãn truyền cho Quảng Tu. Xét theo Đại Tống Tăng Truyện thì Thúy Pháp sư truyền cho Quảng Tu, Quảng Tu truyền lại cho Vật Ngoại. Nay dựa vào Tống Truyện coi Thúy Sư kế thừa Kinh Khê là đúng. Triều Thị đích thân thấy Minh Trí, không biết lúc ấy do đâu mà có thuyết lạ này.

Lời thuật rằng: Chỉ Yếu Xích Nhật Bản do Càn Thục soạn ra ghi rằng: "Sư Thúy biết đưa lên dị nghĩa trong Chỉ Quán, lấy ba cõi làm ba thứ vô lậu, tóm thâu trong ba thứ đó. Thiết nghĩ Sư Thúy đã nhận được Chỉ Quán ở Tổ Kinh Khê, không duyên cớ gì mà đặt ra thuyết này. Đặc biệt bọn Càn Thục vì nghĩa riêng này mà giả lời Sư Thúy nói thế thôi. Nên biết rằng trong Bộ Nhật Bản Biệt Hành Thập Bất Nhị Môn Đề đã nói: Hòa Thượng Quốc Thanh Chỉ Quán là chỗ nương tựa của mọi người trong nước Trung Quốc. Chỉ Yếu lại nói: Ông ta đã từng bày ra cái ý chỉ khác, nên Tối Trừng đến nước ấy y theo đó chép về. Dựa vào đây lại biết người trong nước căn cứ vào bản trước đó rồi giả danh Hòa Thượng Chỉ Quán để viết ra câu nói ấy. Lời nói của ngài Tứ Minh đáng là để chê Càn Thục Phụng Tiên mà thôi. Nhưng người đời không biết nên gọi là chê ngài Đạo Thúy. Xin hiểu theo lời luận này.

Tổ thứ 11: Chí Hành Tôn Giả: Quảng Tu

Ngài họ Lưu, người ở Hạ côn, Đông dương. Sớm theo học với ngài Đạo Thúy, nghiên cứu tinh thông giáo quán, nhưng lại chuyên tâm về thực hành. Mỗi ngày Sư thường tụng các kinh Pháp Hoa, Tịnh Danh, Quang Minh, Phạm Võng, Tứ Phần Giới Bản làm khóa tụng hằng ngày. Lại sáu thời luôn dạy Sám hối. Đến lúc tuổi già Sư càng dốc sức cố gắng. Mỗi năm tu Tùy Tự Ý Tam-muội, suốt bốn mươi chín ngày chưa một lần vì công việc mà bỏ qua. Quan thứ sử Thiên thai là Vi Hành rất quý trọng giáo môn thỉnh ngài vào Quận đường để giảng Chỉ Quán, khiến Vi Hành phát ngộ ngay từ chiếu ngồi nghe pháp. Bấy giờ các người đến nghe không ai không vui mừng.

Năm Hội Xương thứ ba (đời Đường Võ Tông) ngày mười sáu tháng hai, Sư viên tịch tại Thiền lâm, an táng tại Kim địa đạo tràng. Môn đăng đệ tử rất đông, ở hàng Thượng thư thì có ngài Vật Ngoại. Sau hai mươi ba năm, đệ tử là Lương Tư Kính Văn khai mộ đem thiêu nhục thân Sư, thu được hơn ngàn hạt xá-lợi to bằng hạt đậu. Ngay ở trên nền cũ, xây tháp để phụng thờ.

Tổ thứ 12: Chánh Định Tôn Giả: Vật Ngoại

Ngài họ Dương, là người Hầu quan ở Mân chi. Từ lâu theo học với tổ Quảng Tu và được truyền

Chỉ Quán. Ngài vừa nói vừa làm. Năm cuối Đại Trung (đời Tuyên Tông) là năm mất mùa. Ngài ở trong thất ngồi kiết già nhập chánh định, trước đó bảo đệ tử rằng: Nếu ngươi còn sống thì khi năm giống lúa mọc lại, hãy đánh chuông khánh để dẫn ta xuất định. Hơn năm sau, đệ tử làm theo lời dặn thì ngài xuất định. Đến năm Trung Hòa thứ năm (đời Hy Tông), ngày Rằm tháng ba, ngài viên tịch tại chùa Quốc thanh và an táng bên tháp viện của tổ Trí Giả. Đệ tử thượng thủ của ngài là Nguyên Tú, Kỉnh Hưu, Tuệ Ngưng... đều truyền đạo ở đời nối vững nghiệp nhà.

Tổ thứ 13: Diệu Thuyết Tôn Giả: Nguyên Tú

Ngài là người ở Thiên thai, nương theo Pháp sư Ngoại ở chùa Quốc thanh học Chỉ Quán, thấu suốt được ý chỉ. Ngài giảng thuyết giỏi, không vì chúng học trò đông hay ít mà vui buồn. Một hôm ngài lên tòa thuyết giảng, chúng tụ hội ít người, có khoảng mười vị Tăng lạ từ ngoài đi vào dáng vẻ rất uy nghi, kính cẩn vào ngồi ở hàng cuối để nghe pháp. Buổi giảng tan thì cùng lên thăm hỏi rồi ra đi. Sư sai thị giả theo mời thì các Tăng ấy đều bay lên hư không vẫy tay cười chào mà đi. Khoảng năm Hy Chương thiên hạ loạn lạc khắp nơi, kẻ học đạo chợt hợp chợt tan. Ngài lấy cớ việc tu đắc định tuệ để làm khó người khác. Nhưng chỉ có Thanh Tủng và Thường Thao luôn theo hầu hạ, lâu ngày được thấu suốt tôn chỉ. Thường Thao truyền cho Nghĩa Tùng, Nghĩa Tùng truyền cho Đức Trù, Đức Trù truyền cho Tuệ Vũ, Tu Nhã... đều là hàng kế thừa nổi tiếng...

Tổ thứ 14: Cao Luận Tôn Giả: Thanh Tủng

Ngài là người ở Thiên thai, nương theo Tú Pháp sư chuyên tinh về Chỉ Quán, sớm chiều không biến trễ và được kế thừa làm chủ chùa Quốc thanh, nói và làm đều rốt ráo. Lúc đó họ Tiền lập nước, một cảnh Thiên thai ở Ngô việt cũng là thuộc địa. Sư lãnh chúng được ở yên nên khuyên họ gắng chí bảo rằng: Bên ngoài có vua quan hộ trì nên khỏi nạn binh lửa, trọn ngày được sống yên, há không cố gắng tiến tu để đền ơn nước sao? Mỗi khi vía lễ, Sư lên tòa luận nghĩa lý cao xa mãi không thôi, đồ chúng không dám lộ vẻ mệt mỏi. Học trò nối nghiệp ngài là Hy Tịch, Chí Nhân, Giác Di...

Tổ thứ 15: Tịnh Quang Tôn Giả: Hy Tịch

Ngài tự là Thường Chiếu, họ Hồ, ở Vĩnh gia. Lúc mới mang thai ngài bà mẹ không thích ăn đồ huyết nhục. Khi sinh ra thì trên đầu ngài có dính một vật giống như cái mũ tía (Ngài sinh năm Kỷ Mão, niên hiệu Trinh Minh thứ năm đời Lương Mạt Đế). Từ nhỏ ngài thưa cùng song thân xin xuất gia. Bèn vào chùa Khai nguyên nương theo thầy tụng kinh Pháp Hoa, chỉ đầy tháng thì thấu triệt. Năm ngài mười chín tuổi (năm Thiên Phước thứ hai đời Tấn Cao Tổ) ngài xin xuống tóc thọ giới Cụ túc rồi đến Cối kê học Luật, hiểu sâu về Trì Phạm. Bèn đến Thiên thai học Chỉ Quán với Tủng Pháp sư. Những điều ngài lãnh ngộ như Nhất Biến Chiếu ở Hà nam (Cao Tăng truyện nói: Mãn châu có Bất Thính Thái, Hà nam có Nhất Biến Chiếu). Có lần ngài đến ngụ chùa Dục vương ở Tứ minh, mộng thấy lên chùa Quốc thanh, trên cao có tòa bảo tàng, đề chữ Văn-thù đài, có vòng rào ngăn cách muốn vào không được. Chốc lát thấy Đức Quan Âm từ trong nhà bước ra tay dắt ngựa chiến, gật đầu đón tiếp. Bỗng tự biết thân mình cùng Quan Âm là một thể. Từ đó trở đi luận thuyết vô ngại. Giáo tích Thiên thai xưa, xa kể từ An Sử nổi loạn (năm cuối Thiên Bảo, An Lộc Sơn và Sử Tư Minh nối nhau làm loạn), gần thì từ năm Hội Xương đốt phá (năm Hội Xương thứ năm đời Võ Tông đã dẹp bỏ Tăng Ni, đốt phá Tự viện). Sách vở mất hết, người truyền còn biết căn cứ vào đâu. Sư luôn cố sức kiếm tìm. Trước đây Sư ở Kim Hoa Cổ Tàng chỉ có được một quyển sớ về kinh Tịnh Danh. Ý Trung Vương ở Ngô Việt nhân xem Vĩnh Gia tập có lời giống nhau: "Nếu trừ bốn Trụ hoặc thì chỗ này là bằng, nếu phục vô minh thì Tam tạng là kém" liền đem hỏi Thiều Quốc sư (Truyền Đăng Thiên Thai Đức Thiều Quốc sư, họ Trần, nối tiếp Thanh Lương Ích Thiền sư, đến Thiên thai xem di tích của tổ Trí Giả có cảm tưởng như đã ở đó từ lâu, lại đồng họ với tổ Trí Giả, nên người thời ấy nghi là hậu thân của tổ). Đức Thiều nói rằng: Đây là giáo nghĩa nên hỏi Tịch Sư ở Thiên thai. Vương liền cho mời. Sư ra khỏi Kim Môn. Vương lập giảng đường để hỏi nghĩa trước. Sư đáp: Đây là rút từ Diệu Huyền của tổ Trí Giả. Từ cuối đời Đường thời thế loạn ly, kinh sách mất hết. Cho nên các văn đây phần lớn đều ở nước ngoài. Lúc đó Ngô Việt Vương sai sứ giả mười người đến Nhật Bản tìm lấy Kinh sách đem về. Vua liền xây chùa Loa khê đề biển Định tuệ, ban hiệu là Tịnh Quang Pháp sư và thụy phong các Tổ ở Thiên thai (chỉ thụy phong mười sáu Tổ Thiên thai). Một nhà giáo học đông đảo là do sức trung hưng của Sư (Nhị Sư Khẩu Nghĩa nói: Ngô Việt Vương sai sứ lấy về được năm mươi báu vật. Đến Cao Ly tìm giáo văn thì nước ấy sai Đế Quán đến dâng biếu các bộ, nhưng không có Trí Luận Sớ, Nhân Vương Sớ, Hoa Nghiêm Cốt Mục, Ngũ Bách Môn… Dựa vào đây thì biết ở hai nước hải ngoại là Nhật Bản-Cao Ly đều có sai sứ đến. Nếu nói giáo văn là một báu vật lại trở về với Trung Quốc thì tất là Đế Quán của Cao Ly đã dâng quyển Giáo Văn là đúng).

Có Sư Hưng Giáo Minh, lúc tuổi hai mươi, khi nghe kinh xong thường tự nghi rằng: Ngài Ca-diếp cầm y trượng sáu của Đức Thích-ca khoát vào thân trăm trượng của ngài Di-lặc thì vừa y. Vậy y biết dài ra chăng hay thân biết ngắn lại chăng? Lúc đó Thiều Quốc sư ở tại Vân cư (thuộc Thiên thai), liền tụ họp năm trăm chúng. Minh đem việc đó ra hỏi. Quốc sư nói: Tòa chủ từ khước hội này của ông. Ông ta giận dữ phất tay áo bỏ đi. Quốc sư nói: Nếu ta đáp rằng ông sai thì sẽ có nhân quả. Minh trở về Loa khê, liền bị thổ huyết. Sư nghe nói kinh hãi bảo: Kẻ mới thọ giáo này đã dám ngỗ ngược xúc phạm Bồ-tát. Sư Minh nhắc lại lời nói trước. Sư bảo: Ông không hiểu ý của Quốc sư, hãy mau đến sám hối. Minh liền kính cẩn đến trước Quốc sư khóc lóc đảnh lễ sám hối. Quốc sư làm bài tụng nói trước rằng:

Đạo chư Phật bằng nhau
Cao thấp rõ như thế
Thích-ca và Di-lặc
Như ấn in vào bùn.

Minh từ đó hết bệnh, liền đến tạ ân Sư và thưa: Nếu không có lời dạy bảo của Sư thì con đã chết rồi! (Nhị Sư Khẩu Nghĩa nói: Huyền Bậc Sơn Quân nói rằng: Quốc sư chính là tổ Trí Giả, xây dựng pháp đường Đô Liệu Loa khê là người đứng đầu hội Phóng sinh, còn các Tăng chúng trong chùa là các loài cá tôm đã được phóng sinh trước đấy).

Năm Thái Bình Hưng Quốc thứ năm (triều ta là Tống Thái Tông), Sư từ Thiên thai ra ở tại lầu phía Đông của chùa Châu trị, mộng thấy cột chùa bị lún chìm trong đất, liền dời sang ở phía Tây. Đêm ấy chợt có mưa xuân khiến núi lở lầu đổ sụp. Mọi người đều cho là Sư có Thiên nhãn. Năm Ung Hy thứ nhất, quan huyện Vĩnh an mời Sư đến ở tại chùa Quang minh để truyền giới cho chúng Tăng, bỗng tượng Phật lớn trong chùa bị đổ, trong bụng rơi ra một bài Phát Nguyện Văn. Nguyên là ở đời nhà Đường, năm Hàm Thông thứ sáu, Sa-môn Hy Cảo đã truyền giới và khuyên bảo bảy người trong làng tạo ra tượng này. Họ cùng nguyện rằng sau khi chết rồi sẽ đầu thai làm đàn ông và xuất gia từ bé để truyền pháp độ sinh. Lúc đó những kẻ chứng kiến đều cho đó là tiền thân của Sư.

Vào ngày mồng bốn tháng mười một năm Ung Hy thứ tư, Sư lâm bệnh, dặn môn nhân không cho khóc lóc cúng kiến. Nói xong Sư liền nhắm mắt. Môn nhân xây một tháp nhỏ an táng ở Phương trượng. Sư thọ sáu mươi chín tuổi, hạ lạp năm mươi, đệ tử được truyền pháp hơn trăm người, mười người ngoại quốc. Trong đó ngài Nghĩa Thông là bậc nhất, các vị kế sau là Trừng Úc, Bảo Tường. Những quan dân trước đây được Sư truyền giới cùng đón rước chân tướng của Sư về chùa Khai nguyên, mặc áo tang cúng tế, cảm động khắp cả thành, trời cũng u ám buồn thảm. Về sau môn nhân định dời tháp, khi mở quan tài ra thì thấy thân thể Sư còn tươi như người sống, tóc dài ra hơn mấy tấc. Bèn dời về an táng ở phía Đông nam chùa Quốc thanh. Ngài Trừng Úc làm bài minh nói về Sư để mọi người biết. Sư giảng về ba Đại Bộ mỗi thứ hai mươi lượt, giảng về Duy-ma, Quang Minh, Phạm Võng, Kinh Cang Ty, Pháp Giới Quán, Vĩnh Gia Tập... mỗi thứ vài lượt. Thuật về Nghĩa Lệ Bất Nhị Môn… các Khoa, Tiết chừng vài quyển

(thấy trong các văn ở Cao Tăng Truyện…)

Tổ thứ 16: Bảo Vân Tôn Giả: Nghĩa Thông

Ngài tự là Duy Viễn, người nước Cao Ly, dòng dõi họ Y (Ngài sinh năm Đinh Hợi, niên hiệu Thiên Thành thứ hai, đời Minh Tông, Hậu Đường). Ngài Phạm tướng lạ lùng, đỉnh đầu có nhục kế, lông mày xoắn uốn lại, kéo ra dài năm, sáu tấc. Thuở bé, ở viện Quy sơn tôn ngài Thích Tông làm thầy. Sau khi thọ giới Cụ túc, ngài học về Hoa Nghiêm, Khởi Tín Luận được cả nước tôn quý. Vào năm Thiên Phước đời Tấn, ngài đến Trung Quốc (ngài ở cuối năm Thiên Phước mới mười sáu, mười bảy tuổi. Chính khi ngài thọ giới Cụ túc, học Hoa Nghiêm, đến Trung Quốc thì phải sau hai mươi tuổi. Lấy lịch suy ra thì đó là thời Hán Chu. Nay nói là năm Thiên Phước, e sai). Ngài đến Vân cư tại Thiên thai (nơi ở của Thiều Quốc sư) chợt có được khế ngộ bèn đến gặp tổ Loa Khê, nghe Tổ nói ý chỉ Nhất tâm tam quán bèn than rằng: Cái học Viên Đốn này tất các thứ khác đều phải noi theo. Ngài bèn ở đấy theo học. Lâu ngày lãnh hội hoàn toàn, tiếng đồn vang xa khắp nơi. Một hôm ngài từ biệt bạn đồng học rằng: Tôi muốn đem đạo này dẫn dắt người chưa nghe. Liền từ quê mẹ, ngồi thuyền sang Đông hạ, đem đạo Tứ minh sắp lên tàu biển. Thái sư quận thú là Tiền Duy Trị (con chú bác với Trung Ý Vương) nghe ngài đến bèn thiết lễ đón rước để thưa hỏi các điều tâm yếu. Lại thỉnh ngài làm giới Sư đích thân truyền cho Bồ-tát giới. Cả đạo tục đều đua nhau kính lễ xem ngài là thầy mô phạm. Tiền Công cố lưu giữ ngài thưa rằng: Hoặc làm sứ hoặc dạy học (Mạnh Tử có câu: Đi thì làm Sứ, dừng thì dạy học như Trọng Ni) đệ tử không dám cản. Như nói Lợi sinh hà tất phải ở Kê Lâm ư? (Kê Lâm là tên khác của nước Cao Ly). Ngài bảo: "Duyên đã hợp với ông, ta không từ được", nhân đó không đi. Năm Khai Bảo thứ nhất (triều đại ta là Thái Tổ), quan tào sử là Cố Thừa Huy nhiều lần đến nghe ngài dạy bảo nên đã đổi nhà thành viện truyền giáo, mời ngài đến ở. Năm Thái Bình Hưng Quốc thứ tư, sư Pháp Trí đến học với ngài (lúc đó ngài năm mươi ba tuổi, Pháp Trí hai mươi). Đến tháng mười hai năm Thái Bình Hưng Quốc thứ sáu, đệ tử là Diên Đức đến kinh sư tâu vua xin biển tên chúa.

Đến tháng tư năm thứ bảy thì vua ban biển là Bảo Vân. Năm Ung Hy thứ nhất, sư Từ Vân mới đến theo học với ngài (ngài năm mươi tám tuổi, Từ Vân mới hai mươi hai). Ngài diễn bày giáo quán suốt hai mươi năm, kẻ đến học với ngài không kể hết. Ngài thường gọi mọi người là "Người đồng hương". Có người hỏi duyên cớ, ngài đáp: Ta coi cõi Tịnh độ là cố hương, các người đều sẽ vãng sinh, thì tất đều là đồng hương với ta.

Đến ngày mười một tháng chạp năm Đoan Củng thứ nhất, ngài nằm nghiêng bên phải mà viên tịch. Ngày làm lễ trà-tỳ thì xá-lợi đầy trong xương, môn nhân an táng ngài ở phía Tây bắc chùa A-dục vương (khi chùa A-dục vương chưa tu thiền, học đồ có lần thỉnh sư Bảo Vân mấy lần đến giảng. Khi ngài Bảo Vân viên tịch rồi nhân đó an táng hài cốt ngài ở đất ấy). Ngài thọ sáu mươi hai tuổi. Năm Trị Bình thứ nhất (đời Anh Tông), chủ Nam hồ là Pháp Tôn Tông Chánh, xây tháp đá vuông bốn góc, làm bia đá ghi lại cho mọi người biết (tức sau năm ngài bảy mươi bảy tuổi. Đến năm Tuyên Hòa thứ bảy (đời Huy Tông), chủ chùa A-dục vương là Xương Nguyệt Đường lấy cớ đất hoang vu tháp đổ nát, bèn dời tháp ngài vào tháp của Oai Sư, đem hài cốt về Ô thạch sơn. Hài cốt ngài lấp lánh ánh sáng, gõ nghe tiếng leng keng, xá-lợi ngời năm sắc đóng lớn trên xương, cạo ra cả vốc tay. Người chủ sau là Trí Khiêm khắc lại lời ký trên tháp đá để trong am ở Ô thạch (thấy trong Trấn Tổ Tập Thạch Tháp Ký).

Hiểu Thạch Chi nói rằng: Lời ký ở tháp đá có người bảo những trước thuật của ngài tản mát không được truyền lại. Song khảo cứu các chương ký ở Tứ minh thì có lần ngài làm bỉnh bút sớ ký Quán kinh, giải thích về Quang Minh Huyền Tán. Bởi Tứ Minh thừa hưởng các nghĩa đó để làm văn các bài sao, ký. Vậy thì không phải là không truyền. Hãy còn một bộ tán thích nhưng không được truyền rộng rãi.

Loa Khê sưu tầm giáo điển như châu mất mà lại được. Ngài Bảo Vân có phú chúc cho hai người kế thừa để truyền bá gia nghiệp, thì đời chỉ tôn sư Pháp Trí là người trung hưng. Vì Sư có viết sách lập ngôn mở sáng Tổ Đạo bài bác phái sơn ngoại, có công nối thạnh đạo thống. Nên ngài Từ Vân khen rằng: Chương An đã mất, Kinh Khê không còn, có bậc nhân Sư này để tiếp nối ánh sáng kia, một nhà Đại giáo trọn vẹn. Nhân đó làm lời từ rằng: Giáo bộ một nhà, thứ nào Tỳ Lăng Sư chưa ghi thì phải ghi hết. Bốn thứ Tam-muội người khó làm thì đều làm hết. Kính cẩn giải thích danh ngôn, thành thật mà làm Thực Lục.

Tổ thứ 17: Pháp Trí Tôn Giả: Tri Lễ

Ngài tự là Trí Ngôn, họ Kim ở đất Tứ minh (đời truyền tụng ngài ở ngõ Bạch tháp tại Quận Thành). Người cha đi cầu tự khắp nơi nhưng chưa sinh con. Nên cùng vợ là Lý thị đến cầu Phật. Nằm mộng thấy Thần tăng dắt một đứa bé đến bảo rằng: "Đây là La-hầu-la con Phật. " Nhân đó có thai. Khi sinh ra bèn đặt tên ấy (đó là năm Canh Dần niên hiệu Kiến Long thứ nhất, Thái tổ được nhà Chu nhường ngôi), ngài có thần cách riêng biệt không giống mọi người. Lên bảy tuổi thì mẹ mất, thương khóc mãi không nguôi. Bèn xin cha đi xuất gia và đến chùa Thái bình hưng quốc theo thầy là sư Hồng Tuyển. Đến mười lăm tuổi thọ giới Cụ túc, chuyên sâu luật bộ.

Năm Thái Bình Hưng Quốc thứ tư (đời Thái Tông) theo học giáo quán với ngài Bảo Vân (lúc đó Sư hai mươi tuổi) mới ba ngày, thì thủ tọa gọi Sư bảo rằng: Pháp giới thứ lớp ông nên giữ gìn.

Sư hỏi: Sao gọi là pháp giới?

Thủ Tọa nói: Pháp môn Đại tổng tướng viên dung vô ngại là nó đấy.

Sư nói: Đã Viên dung vô ngại thì sao lại còn gọi là thứ lớp?

Thủ tọa không trả lời được. Sư ở một tháng thì tự giảng Tâm Kinh.

Người nghe phục Sư về sự hiểu nhanh. Năm Thái Bình Hưng Quốc thứ năm, người cha mộng thấy Sư quỳ trước ngài Bảo Vân và được ngài cầm bình rót nước vào miệng. Từ đó các ý chỉ Viên Đốn một lần nghe qua thì Sư đều thông suốt. Năm Thái Bình Hưng Quốc thứ sáu, Sư thường thay ngài Bảo Vân giảng kinh.

Năm Ung Hy thứ nhất, sư Từ Vân từ Thiên thai đến bắt đầu theo học với ngài Bảo Vân. Do đó Sư có dịp giúp bạn Từ Vân, thân thiết như anh em. Đến năm Đoan Củng thứ nhất, ngài Bảo Vân viên tịch. Sư lại mộng thấy mình quảy đầu ngài Bảo Vân mang vào cánh tay trái mà đi, liền tự hiểu rằng: Việc quảy đầu là biểu hiện sự học tập đã thông suốt, việc mang đầu ở cánh tay là nắm giữ đầu Chủng Trí để hóa độ đời (Từ Vân đã soạn bài tựa trong bộ Chỉ Yếu Sao nói: Lấy cái lời tự hiểu của ngài Pháp Trí mà nói). Năm Thuần Hóa thứ hai mới nhận lời làm chủ Càn Phủ, suốt cả bốn năm diễn giảng cho nhiều người. Đến năm Chí Đạo thứ nhất, vì Tiểu Viện của Sư ở phía Tây nhỏ hẹp, người đến ở học không thể chứa được mười người, bèn dời sang Bảo ân viện ở phía Đông nam thành. Năm Chí Đạo thứ hai, làm viện chủ Hiển thông xá giảng thường trực về Thập Phương Trụ Trì Địa của giáo pháp Thiên thai. Năm Chí Đạo thứ ba, vì Tu viện hư sập nên cùng bạn đồng học là Dị Văn tính việc sửa chữa. Rồi thì Đơn Khâu Giác Viên đến nhận việc. Năm Hàm Bình thứ ba (đời Chân Tông) trong quận gặp hạn hán lớn, Sư cùng Từ Vân tu Quang Minh Sám cầu mưa suốt ba ngày không ứng nghiệm. Sư định đốt một tay cúng Phật, khi lễ sám chưa xong thì mưa ào xuống (Từ Vân Hành Nghiệp Ký nói rằng: Định ba ngày nếu không mưa thì sẽ tự thiêu, nhưng đúng hẹn thì quả nhiên có mưa lớn. Thái thú Tô đã khắc đá ghi lại sự việc này). Năm Chí Đạo thứ sáu, nước Nhật Bản sai các ngài Tịch Chiếu, Pháp sư Trì Nguyên Tín sang hỏi nhờ Sư giải đáp về hai mươi bảy điều mục. Năm Cảnh Đức thứ nhất, Sư soạn bộ Thập Bất Nhị Môn Chỉ Yếu Sao, thành lập Nghĩa Biệt Lý Chân Như Có tùy duyên. Ngài Vĩnh Gia Kế Tề lập chỉ lãm để vấn nạn (là môn nhân của Phạm Thiên Chiêu Sư) cho rằng Bất Biến Tùy Duyên, đó là Lý của các nhà Viên giáo thời nay, chứ Biệt Lý thì đâu thể tùy duyên được. Sư bèn đặt ra hai mươi câu hỏi để phá bỏ cái nghi ngờ ấy. Thiên thai Nguyên Dĩnh lại lập lời trưng quyết thay Tề Sư mà đáp lại, rồi Gia Hòa Tử Huyền cũng lập Tùy Duyên Phát để trợ giúp cho Tề và Dĩnh. Lúc bấy giờ đệ tử của Sư là Nhân Nhạc thuật lại nghĩa của ngài Pháp Trí, lập ra mười môn Chiết Nạn để phá chung cả ba Sư trên. Người đời cho là ngài Tịnh Giác có nhiều công Ngự Vụ (ngự vụ: Chống kẻ lấn hiếp mình). Năm Cảnh Đức thứ tư, Sư sai môn nhân là Bản Như Cối kê Thập Sư đem Thập Nghĩa Thư và Quán Tâm Nhị Bách Vấn đến thất của Chiêu Sư ở Tiền Đường. Xưa chính là hai bản Quang Minh Huyền tóm lược và mở rộng đều lưu hành ở đời. Ở Tiền Đường trước năm Cảnh Đức, Ân Sư có viết ra Phát Huy Ký để chuyên giải thích về Bản Tóm Lược bảo rằng mười thứ ba pháp thuần nói về pháp tánh, không cần phải lập Quán Tâm. Còn bản mở rộng mà có là do người sau tự ý thêm vào. Môn nhân của Từ Quang vâng theo Thanh Linh Quang Mẫn trước đây đã cùng tạo ra hai mươi điều vấn nạn, để phụ lập nên nghĩa ấy. Lúc đó Bảo Sơn Thiện Tín gởi thư xin ngài Pháp Trí bình luận điều trên (Từ Vân có bài thi gởi Thạch Bích Thiện Tín Thượng Nhân, có câu: "Từng đồng kết xã. " (Căn cứ vào đây thì biết đều cùng thờ ngài Bảo Vân). Sư vội từ chối rằng: Phàm bình là bàn luận mà không phải là tranh cãi, huống chi hai vị này đã hiểu rõ Tông ta. Thiện Tín lại thưa rằng: "Trống Pháp gầm thét đâu cần tiếng nào trước tiếng nào sau. " Do đó Sư bắt đầu viết Phù Tông Ký để làm sáng tỏ rộng rãi cái nghĩa nương pháp mà Quán Tâm cho là nếu bỏ phép Quán Tâm của Sư Ân ấy là có Giáo mà không có Quán. Có Phạm Thiên Chiêu và Cô Sơn Viên đều học theo các Tiên Môn đã viết Biện Ngoa để trợ giúp cho Bản Tóm Lược, cho rằng Quán thì có Sự và Lý, nay mười pháp này trước sau đều lấy một Pháp tánh mà xuyên suốt, đâu không phải là thuần nói về Lý quán? Sư liền nêu câu hỏi nghi ngờ để trưng bằng cớ bảo rằng: Nếu bảo mười pháp là Lý quán thì thứ huyền văn này phải là ba thứ Tam-muội trên. Bản Tóm Lược đã không có giản biệt về cảnh. Vả lại không phải theo Hạnh mà quán lý, thì biết Chiêu Sư lại trở thành có Quán mà không Giáo. Chiêu Sư lại viết thư đáp điều nghi, từ hình thức mà biến đổi cho là Huyền văn chỉ thẳng cho Tâm tánh, nghĩa đồng với Lý quán. Sư lại cật vấn trách rằng: Cái tên Tâm tánh thì Thích Thiêm đã phán định là ở nhân, mà thượng nhân lại lấy mười pháp là quả chứng của người thì hoàn toàn không phải là chỉ thẳng Tâm tánh. Lại mười pháp không nghe nói là có gián ấm, vậy lấy nghĩa nào cho là đồng với Lý quán? Chiêu Sư lại kể về năm nghĩa, bảo rằng: "Chỉ Quán theo Hạnh mà quán Tâm, bèn lập Ấm… làm cảnh, mà việc nương Pháp nhờ Sự đều không lập ấm, mà có ý bảo Lý quán lập ra là cái lệ sự pháp không cần lập ấm. Lại sau khi cật vấn đầy đủ thì biết Tâm tánh là ở Nhân. Ngầm sửa lại rằng: Đó là chỉ thẳng Pháp tánh (Điều lập ra của Chiêu Sư gọi là Ước hạnh thì không có lựa cảnh, gọi đó là Sự Pháp thì có chấp làm Lý, hai lỗi tiến thoái đều không bằng cứ, ấy là không quán mà cũng không giáo). Sư lại đặt câu hỏi nghi ngờ trách rằng: Vấn nạn là cốt trưng bày sự chỉ thẳng Tâm tánh, thuần nói rõ về Lý quán, vì sao lại lấy cái Quán Sự Pháp mà đáp lại, há không phải là nghĩa cùng lý tận rồi ư? Cái thư này đã hơn một năm mà không đáp. Sư lại viết thư đốc thúc. Sư Chiêu từ từ làm Thích Vấn: Lấy Diệu lý của mười thừa làm cảnh sở quán. Sư lại trách rằng: Xưa đã cho ba chướng bốn ma là cảnh giới, nay nếu lấy Diệu lý của mười thừa làm cảnh Sở thì tức là lấy ba chướng bốn ma làm Trí năng quán sao? Từ Phát huy đến Thích vấn thì bốn phen sửa đổi, năm lúc bị thua, thơ đi lại năm lần, trải suốt bảy năm. Bèn tổng kết trước sau viết thành hai quyển bài bác Chiêu Sư về:

1. Không hiểu Pháp Năng quán.

2. Không biết Cảnh Sở quán.

3. Không phân rõ hai cảnh nội ngoại.

4. Không biện rõ hai cách tạo thành Sự và Lý.

Sách gồm mười chương tên là Thập Nghĩa Thư. Lại giả lập hai trăm câu hỏi để chất vấn. Lúc đó Cô Sơn ở bên tòa của Chiêu Sư mà quán biết Thập Luận nhưng biện không được, bèn vội vàng đem đến Bạch Quận Thú. Đến mà không gặp ông để nhờ chống đỡ, nên trở về mà không đáp từ cho Sư. Đến năm Đại Trung Tường Phủ thứ hai, việc sửa lại Viện Bảo Ân đã xong, từ ngày hưng công đến nay đã mười năm, để dành đá đợi hỏi để khắc bài ký này. Năm Đại Trung Tường Phủ thứ ba thì xin Quận tâu lên vua, đến tháng mười, vua ban cho biển chùa là Diên Khánh. Đến năm thứ năm thì Sư cùng Dị Văn lập lời Giới thệ trao cho đệ tử để tuyên thệ, trong đó tóm tắt rằng: Ta mới dùng tâm mười phương để nhận nơi ở này, kịp khi xây cất sửa chữa nơi ở yên, cốt vì học chúng đâu dám riêng tư cho mình, chỉ vì Tông ta có năm đức không chọn xa gần, ta đem trao cho chúng muốn ở đây. Những tính toán sau này đều phải đúng y như thế. Năm Đức ấy là:

1. Kẻ cựu học Thiên thai không gồm giảng các Tông phái khác.

2. Nghiên cứu tinh thông sâu rộng, tránh xa việc "phù ngụy. "

3. Giới đức có danh tiếng là do việc hành xử của mình.

4. Quyết làm đạo ta vinh dự vang xa không bị khuất phục.

5. Lời lẽ luận đạo hay đẹp dẫn dắt người.

Bởi vì sao? Nếu gồm giảng thì tức phản bỏ lời ta phó chúc. Nếu "phù ngụy" thì tất có lầm lạc khi truyền thụ, có Giới đức sẽ làm sáng tỏ Đạo hoằng hóa, danh tiếng vang xa thì bền chắc ở Đạo nghiệp sau đó mới dùng lời biện luận nghĩa lý thuận hợp dẫn dắt được người. Với năm điều đó cần nên khiến tăng lên, không nên ít hơn.

Ngày Rằm tháng hai năm Đại Tung Tường Phủ thứ sáu, bắt đầu lập hội Niệm Phật Thi Giới, Sư đích thân làm Sớ văn để ngụ ý khuyên dạy. Từ năm này việc đó cho là thường nhật. Đến năm thứ bảy thì soạn bộ Dung Tâm Giải, nói rõ về Nhất Tâm Tam Quán, hiển bày về bốn ý chỉ: Tịnh Độ-Năm Thiên Hy thứ nhất, Sư gọi đồ đệ bảo rằng: "Vì nửa bài kệ quên mình, vì một câu kinh mà nhảy vào lửa, tâm vì pháp của Thánh nhân như thế. Nay ta sẽ quên mình để cảnh tỉnh những kẻ biếng lười. " Bèn cùng Dị Văn kết đồng chí với mười người nguyện tu Pháp Hoa Sám trong suốt ba năm, sau đó sẽ tự thiêu để cúng dường diệu kinh (Người tu khổ hạnh quên thân đã hỏi tên của mười vị Tăng kia nhưng rất tiếc không thấy ghi). Bí thư là Giám Dương Ức (tự là Đại Niên, làm quan đến chức Hàn Lâm, thụy là Văn Công) ở xa ngưỡng ngộ Đạo phong của Sư bèn thưa Thừa Tướng Khấu Chuẩn tâu vua ban thưởng Tử y và lại viết thư chúc mừng. Khi nghe Sư Kết sám quên thân, bèn viết thư khuyên mời Sư nên trụ thế, bảo rằng vì là thời kỳ Thiên thai Giáo mới phục hưng, việc chính là phải có truyền trì để làm Đạo sư cho đời. Thư đi thư lại bốn lần Sư vẫn giữ lời thề trước. Dương Công bèn viết thư cho Quận Thú là Lý Di Canh cùng Nghi Thiên Trúc Từ Ân nhờ khuyên can giúp. Quan Thái Thú đích thân dẫn các quan đến khuyến thỉnh sư thuyết pháp lợi sinh. Vả lại mật giới, lân xã cần phải luôn bảo hộ. Lại đến gặp ngài Từ Vân ở Đông Hạ cùng hợp lực khuyên ngăn. Cả phò mã Lý Tuân Úc cũng gấp rút viết thư khuyên can (cưới con gái của Thái Tông là Ngụy Quốc Công Chúa, thụy là Văn Hòa Công). Sư xét ý công tư thì thấy đều ngăn trở nguyện trước của mình. Bèn lại kết hợp với mười vị Tăng hẹn tu Đại Bi Sám pháp ba năm để đáp lại lời thề xưa. Năm ấy Sư làm Tiêu Phục Tam Dụng Chương, đối lại với Xiển Nghĩa Sao của Cô Sơn nói rằng: "Không biết tánh ác là nghĩa lý độc. " Có người tên Hàm Nhuận làm Thiêm Nghi cho rằng: Vì ba thứ Tiêu Phục đều căn cứ vào Viên Luận. Ngài Tịnh Giác dẫn nghĩa sớ trải bốn giáo mười pháp giới để trừ ba chướng. Làm sách Chỉ Nghi để giúp nghĩa của Sư. Năm Thiên Hy thứ tư, Phò Mã Lý Tuân Úc tâu lên vua về cao hạnh quên mình của Sư, vua mừng khen không ngớt, đặc biệt ban hiệu cho Sư là Pháp Trí Đại sư, tuyên chỉ: "Sư phải trụ thế để diễn giảng đạo giáo. " (Quận thú là Trần Hy Bạch đề lời ở tháp của Viện rằng: Quan nội Hàn Dương Ức vì Xu Sứ Mã Tri Tiết soạn ra văn bia Phụ Thần Đạo không nhận nhuận bút, xin tâu vua tiến cử hiệu Tứ Minh cho Sư, nhân đó Tri Tiết tâu vua, vua vời lên hỏi. Ức nhân đó nói việc Sư vì pháp quên mình. Vua phán: Hãy truyền lời Trẫm nói: "Mời Sư trụ thế để truyền giáo. " Do đó ban cho hiệu là Pháp Trí. Căn cứ vào bia Hành Nghiệp, vào lời Minh của tháp, vào Thật Lục, vào Pháp Trí Vãng Phục Thư đều nói là Lý Tuân Úc luận về việc tiến cử xin ban hiệu. Nay biết rõ lời đề của Hy Bạch tất lúc đó phải hỏi các Tăng trong chùa. Vì nói lầm nên cũng đề bia lầm). Năm ấy ở Viện Dịch Kinh tại Kinh Sư hàng chứng nghĩa đứng đầu tuyển chọn được hai mươi ba vị, mỗi vị đều mượn thi thơ để khen tốt đạo đức (Quan thị chế họ Triều nói việc này trong bài tựa khắc ở đá). Năm Thiên Hy thứ năm, vua nghe việc Sư hết lòng vì đạo nên sai nội thị là Du Nguyên Thanh đến chùa tuyên lệnh tu Pháp Hoa Sám trong ba ngày để cầu phước cho cả nước. Nguyên Thanh muốn biết về Chỉ Thú của Sám Pháp thì Sư trình bày đầy đủ về Tu Pháp Yếu Chỉ. Năm đó, Sư đã soạn xong các bộ Quan Âm Biệt Hạnh Huyền Ký, Quán Kinh Sớ, Diệu Tông Sao. Khi ấy môn nhân của Phạm Thiên là Hàm Nhuận làm bộ Chỉ Hà để bác Diệu Tông. Vả ông ta chấp nhặt về Sắc Độc Đầu không đủ nghĩa ba ngàn, bởi đó là dư đồ của Chiêu Viên. Ngài Tịnh Giác làm Quyết Mô để trình bày ý Chỉ Sắc và Tâm Không hai. Lại bình rằng các Sư khác còn mê mờ về nghĩa của sáu tức của Cứu Cánh Phúc Vạn. Có một hôm ngài Tịnh Giác cùng Sư Quảng Trí bàn về Quán Tâm hay Quán Phật nhờ Sư quyết đoán. Sư bèn trình bày nói về Ước Tâm Quán Phật, bảo rằng căn cứ vào tâm tánh mà quán Y Chánh báo kia, thì ngài Tịnh Giác làm thinh bỏ đi. Từ đó quay lưng với Tông mà làm Bộ Tam Thân Thọ Lượng Giải và riêng lập lời vấn nạn, khuyên thầm tu theo lời sau trước mà không nghe bên ngoài. Sư nghĩ đó là dị thuyết gây hại cho đời sau, bèn thêm vào Liêu giản mười ba khoa nữa để bài bác việc trên. Khi ấy ngài Tịnh Giác ở Thiên Trúc căn cứ vào Thập Gián Thư bảo rằng cha có con tranh cải, thì thân không rơi vào chỗ bất nghĩa. Sư lại viết Giải Báng, gọi quyển Thập Gián thành quyển Tăng Giảm Nhị Báng. Ngài Tịnh Giác lại viết quyển Tuyết Báng bảo là lầm dùng quyền thật để phân biệt hơn kém. Lúc đó Sư đang bệnh, bảo môn nhân đọc cho nghe, bèn thở dài rồi viên tịch nên không luận nữa. Về sau có Hy Tối tức là con của Quảng Từ, cháu của Pháp Trí đã viết quyển Bình Báng để biện bạch. Ngài Tịnh Giác lúc đó vẫn còn khỏe mạnh gặp bảo rằng: Lời nói của Tứ Minh đã đi rồi (Từ khi Sư bệnh để lại một Tiết Chỉ dự bị xếp đặt việc hậu sự).

Năm Thiên Thánh thứ nhất (năm đầu vua Nhân Tông), Sư soạn xong bộ Quang Minh Huyền Thục Di Ký, bắt đầu viết Tứ Thập Nhị Chương Đáp, Thái Thiền sư Thập Vấn. Lúc bấy giờ Thiên Đồng Ngưng Thiền sư đưa tặng Sách, Luận, Chỉ Yếu, Sao, Gián trình bày về ba môn hạ của Đạt-ma được đạo cạn sâu, thư qua thư lại không thôi. Thái Thú Lâm thỉnh Sư nói về chỗ dung hội của thuyết đó, bất đắc dĩ Sư phải nói tóm tắt vài lời dễ hiểu (Các thư qua lại giữa hai người nói đủ trong Giáo Hạnh Lục, Trung Pháp sư viết bài tựa ở sau, thuật tóm lược việc này).

Năm Thiên Thánh thứ ba, trước là năm Thiên Hy thứ nhất, vua mới ban chiếu khiến mọi người lập ao phóng sinh. Sư muốn hoằng dương Phật pháp nên vào ngày Lễ đản sinh của Phật đều họp chúng giảng kinh, tác pháp và phóng sinh chim cá. Năm ấy vì các việc nghe thấy ở Quận nên vua sắc lệnh cho Xu Mật Lưu Quân soạn bài văn để chỉ dạy người sau. Thái thú Tằng Hội lập bia ở chùa (thấy trong Giáo Hạnh Lục), có một đêm Sư mộng thấy Thần Già-lam bảo rằng: "Ngày mai Tướng Công đến. " Quả có Tằng Công dẫn con là Công Lượng vào chùa, thì Sư lấy điềm mộng báo với bà mẹ, phu nhân bèn tạ rằng: "Suốt đời sau này không dám quên nhau" (hai câu sau là dự bị lo việc hậu sự. Nay theo Giáo Hạnh Lục thì có Tằng Phủ bỏ Thiếp Trang Điền). Kịp khi Công Lượng vào làm Thừa tướng bèn mua lại số đất đai nhà cửa ấy năm sau mới hóa độ chúng (Tằng Lỗ Công lúc mới sinh nằm mộng thấy có vị Lão Tăng vạch màn vào chúc mừng. Năm lên tám đã biết vấn nạn. Sau hưởng tử tuất về làng. Tăng Nguyên Đạt ngồi thuyền đến Tiền Đường nghe Thiên Trúc cảnh đẹp bèn đến chiêm lễ. Khi mới đến thấy có một cô gái mặc áo lụa trắng từ cửa chùa bước ra, gọi Đạt bảo rằng: Tằng Xá Nhân năm mươi bảy tuổi vào Trung Thư. Thượng tòa năm ấy cũng được hiệu Sư. Nói xong không thấy nữa (biến mất). Đến năm ấy quả nhiên được vua phong chức Thừa Tướng, thờ vua suốt ba triều đại, được tặng chức Thái sư Trung Thư Lệnh, thụy là Tuyên Tĩnh, được hưởng thêm anh miếu. Tế Tương giữ Tiền Đường đem việc linh dị của Đại sĩ tâu lên Triều đình nhân đó vua ban hiệu là Linh Cảm).

Năm Thiên Thánh thứ tư, Sư viết Quang Minh Văn Cú Ký vì việc viên tịch quá gấp không viết được trọn pho. Sau có môn nhân là Quảng Trí đã viết tiếp một phẩm Tán Phật để hoàn thành trọn bộ. Vào ngày mồng một tháng giêng năm Thiên Thánh thứ sáu, Sư lập Quang Minh Sám hẹn bảy ngày thì viên tịch. Đến ngày thứ năm, Sư ngồi kiết già mời đại chúng đến nghe pháp xong, chợt Sư niệm danh hiệu A-di-đà Phật hơn mấy trăm tiếng rồi an nhiên thị tịch. Sư thọ sáu mươi chín tuổi, hạ lạp năm mươi bốn. Khâm liệm Sư để lộ thiên suốt mười bốn ngày, dung nhan vẫn tươi như lúc còn sống, tóc vẫn mọc dài, cái lưỡi còn nguyên tươi như cánh sen hồng. Đến năm Minh Đạo thứ hai vào tháng bảy, thỉnh linh cốt của Sư về xây tháp thờ ở bên tả của Sùng Pháp Viện tại phía Nam Thành. Hàng đệ tử Pháp Lãnh của Sư có ba mươi vị như Thượng Hiền, Bản Như, Phạm Trăn, Tắc Toàn, Tuệ Tài, Sùng Cự, Giác Tông… Số người nhập thất có bốn trăm tám mươi người, số lên tòa thuyết pháp có cả ngàn người. Chính tay Sư dắt lên tuyên thệ có bảy mươi người. Từ năm Hàm Bình thứ hai trở đi Sư chuyên việc Sám giảng, thường ngồi không nằm, chân không hề bước ra ngoài, quyết tu đến cùng. Sư giảng Pháp Hoa Huyền Nghĩa bảy lượt, Văn Cú tám lượt, Chỉ Quán tám lượt, Niết-bàn Sớ một lượt, Tịnh Danh Sớ hai lượt, Quang Minh Huyền Nghĩa mười lượt, Biệt Hành Huyền bảy lượt, Quán Kinh Sớ bảy lượt, Kim Cang Ty, Chỉ Quán Nghĩa Lệ, Đại Ý, Thập Bất Nhị Môn, Thủy Chung Tâm Yếu… nhiều lượt không kể xiết. Sư tu Pháp Hoa Sám thời hạn hai mươi mốt ngày năm lượt, Quang Minh Sám thời hạn bảy ngày hai mươi lượt, Di-đà Sám thời hạn bảy ngày năm mươi lượt, Thỉnh Quan Âm Sám thời hạn bốn mươi chín ngày tám lượt, Đại Bi Sám thời hạn hai mươi mốt ngày mười lượt. Gia kết với mười Tăng tu Pháp Hoa Sám thời hạn dài ba năm, cùng mười Tăng tu Đại Bi Sám suốt ba năm. Sư đốt ba lóng tay để cúng Phật, tạo ra các hình tượng Di-đà, Quan Âm, Thế Chí, Phổ Hiền, Tổ sư Đại Bi Thiên thai hơn hai mươi tượng. Sư in viết Giáo thừa cả một vạn quyển, viết Tục Di Ký ba quyển, Quang Minh Văn Cú Ký sáu quyển,

Diệu Tông Sao ba quyển, Biệt Hành Huyền Ký bốn quyển, Chỉ Yếu Sao hai quyển, Phò Tông Ký hai quyển, Thập Nghĩa Thư ba quyển, Quán Tâm Nhị Bách Vấn một quyển, Giải Báng Thư ba quyển, Kim Quang Minh Tam-muội Nghi, Đại Bi Sám Nghi, Tu Sám Yếu Chỉ, mỗi thứ một quyển.

Ngoài ra, còn có Như Dung Tâm Giải, Nghĩa Lệ Cảnh Quán, Khởi Tín Dung Hội Chương, Biệt Lý Tùy Duyên Nhị Thập Vấn, Tiêu Phục Tam Dụng Chương, Quang Minh Huyền Đương Thể Chương Vấn, Đáp Thích Nhật Bản Nguyên Tín Vấn, Thích Dương Văn Công Tam Vấn, Giáng Vĩ Vấn Đáp (đều chép trong Giáo Hạnh Lục). Sư đối với Khởi Tín Luận có chỗ ngộ nhập lớn cho nên bình thời khi viết sách luận thường dẫn ra để làm bằng. Về sau có người riêng đến giảng đường hỏi về Khởi Tín Luận thì Sư chỉ bày không hề quên. Thuở xưa lúc Sư được vua ban cho Pháp phục, ngài Thần Chiếu gởi thư chúc mừng. Sư đáp: Ba thuật ít tu danh thấu triều đình (trong Chỉ Quán An Nhẫn nói rằng: Danh dự, lợi dưỡng, quyến thuộc chứ nên thọ chớ nên mang. Suy như thế mà không từ bỏ thì phải giấu Đức bày vụng về. Nếu giấu mình mà không thoát được thì hãy nhảy một cái bỏ xa vạn dặm. Nếu danh lợi quyến thuộc từ ngoài đến phá ta thì hãy nhớ ba thuật này mà cắn răng chịu đựng chắc chắn khó lay chuyển. nếu nghiệp phiền não định kiến, kiêu mạn từ trong phá ta, thì cũng phải nhớ ba thuật tức không, tức giả, tức trung. Giả sử có banh da xé thịt thì tâm vẫn không loạn động, vì làm việc lớn cần nên yên nhẫn. Phụ Hành nói: Ngoại chướng là giặc yếu, gọi đó là danh dự… Còn nội chướng là giặc mạnh gọi là phiền não… Với hai loại giặc nội ngoại dùng thuật không giống nhau). Chỉ nhờ ơn Chúa Thượng ban cho pháp phục, chỉ thẹn nào vinh, sao lại nhọc công chúc mừng? Khi Chỉ Yếu vừa soạn xong, Tuyết Đậu Hiển Thiền sư xuống núi đến hỏi han thấy thư thì vô cùng khâm phục. Liền thiết trai chúc mừng đích thân niêm yết bảng trà để vui về việc ấy.

Lời bàn: Cuối đời Đường thiên hạ loạn ly, sách vở Thiên thai trôi dạt sang Đông hải. Ngay lúc đó đối với những người đến học phải giảng thêm Hoa Nghiêm để làm đẹp cho Tông Thuyết. Kịp khi tông ta trùng hưng thì Đạo này hãy còn tăm tối. Đến thời Loa Khê Bảo Vân, các sách vở mất mát được trở về tuy có diễn giảng chút ít nhưng kẻ thấy sai, thói quen vẫn chưa đổi, nên Ân Thanh vẫn diễn giảng gồm Hoa Nghiêm như trước. Sau khi nhóm Chiêu Viên luận bậy, bọn Tề Nhuận theo phái khác mà chê bai và Tịnh Giác tuy học trò nhưng lại nội phản... đều đủ làm pháp môn hỗn độn, Tổ Đạo bị lấp vùi. Đến ngài Pháp Trí Tứ Minh có tài Thánh, nên trong thời trung hưng đã Đông chinh Tây phạt giúp cho Biển Pháp lại trong, công nghiệp thạnh hành đáng ghi nhớ. Ấy là vì Lập Âm Quán Vọng,

Biệt Lý Tùy Duyên, loài bọ sên rốt ráo, Lý độc Tánh ác, ý chỉ về Duy Sắc Duy Tâm, luận bàn về quán Tâm hay quán Phật, Luận ba cặp thân Phật, tức luận đầy đủ về thể của kinh và Yếu Chỉ của Thập Bất Nhị Môn, mười thứ ba Pháp quán Tâm, phán định Thật và Quyền, nói về Tu hay Tánh. Phàm những điều mà các ngài Chương An, Kinh Khê chưa rãnh để kết tập. Các pháp môn thâm diệu đều được tiêu biểu nêu ra. Cho đó là sách lược quần hùng giá ngự, là kế truyền giáo cho các con. Từ Kinh Khê trở đi có chín Tổ trong suốt hai trăm năm, hoằng pháp truyền đạo đời nào cũng có. Đầy đủ các thể mà Tập Đại Thành, dứt mối lạ để làm thạnh chánh thống thì duy nhất chỉ có ngài Pháp Trí mà thôi. Thế nên được kể là vị Tổ có ngôi vị cao nhất xưng danh Trung Hưng với dụng ý là muốn thấy kẻ hậu học đều quy Tông. Nay các trường học ở hai bờ Đông Tây sông Triết, không đâu không noi theo đạo của Tứ Minh, quay nhìn lại thấy các Sư phái Sơn Ngoại chắc chắn không còn đất sống. Vậy thời làm cho pháp vận vô cùng chính là các Vị phái Sơn Nội này vậy.

QUYỂN 9

PHẦN V - CÁC TỔ THUỘC NGÀNH THỨ (PHẦN 1)

A. Dòng thứ của ngài Nam Nhạc:

Đời thứ hai, gồm có:

Nam nhạc, Tăng Chiếu Thiền Sư. Nam nhạc, Đại Thiện Thiền Sư. Chi giang, Tuệ Thành Thiền Sư. Lam cốc, Tuệ Siêu Thiền Sư.

Ba khâu, Tuệ Diệu Thiền Sư. Tuyết phong, Tuệ Dõng Thiền Sư. Giang lăng, Tuệ Oai Thiền Sư.

Chung sơn, Trí Quyền Thiền Sư. Tiên thành, Tuệ Mạng Thiền Sư. Tân la, Huyền Quang Thiền Sư. Chi giang, Tuệ Thôi Thiền Sư.

(Hai người sau đây thấy ở Nam nhạc kỷ). Nam nhạc, Linh Biện Thiền Sư.

Nam nhạc, Tịnh Nhân Phương Họp. Dĩnh châu thứ sử Lưu Hoài Bảo. (Ba vị sau này ở Nam nhạc Kỷ):

Quang châu, Ngũ Bách Gia Ba Tử Lập.

Phủ Nam nhạc, hai mươi tám vị ở Quận Ảnh Đường. (Thấy trong Quang Sư truyện).

Nghiệp Cao Tứ Bách (vị sau đây thấy ở Thiện Sư Truyện). Tín Trọng Tam Thiên.

Đời thứ ba: Nam Giản, Tuệ Mân Thiền sư (bốn vị sau đây nối Sư Huyền Quang).

Thăng Đường Thọ Biệt, một vị. Hỏa Quang Tam-muội, một vị. Thủy Quang Tam-muội, một vị.

Hành Dương Lệnh Trần Chánh Nghiệp (thấy ở Thiện Sư Truyện)

B. Dòng thứ của ngài Trí Giả:

Đời thứ hai gồm có:

Thiên trúc, Chân Quán Thiền Sư. Ngõa quan, Pháp Hy Thiền Sư.

Quốc thanh, Trí Việt Thiền Sư. Ngõa quan, Pháp Thận Thiền Sư. Quốc thanh, Phổ Minh Thiền Sư. Quốc thanh, Trí Tảo Thiền Sư.

Phật lũng, Trí Hy Thiền Sư.

Quốc thanh, Pháp Ngạn Thiền Sư. Lư sơn, Trí Giai Thiền Sư.

Lư sơn, Đại Chí Thiền Sư.

Ngọc tuyền, Đạo Duyệt Thiền Sư. Thiên lai, Đẳng Quán Thiền Sư.

Hoa đảnh, Bát-nhã Thiền Sư. Cối kê, Lễ Tông Thiền Sư.

Thê hà, Pháp Hưởng Thiền Sư. Ngọc tuyền, Hành Giản Thiền Sư. Quốc thanh, Tuệ Oai Thiền Sư.

Bích giản, Pháp Tuấn Thiền Sư. Hưng hoàng, Tuệ Tưởng Thiền Sư. Nam nhạc, Tuệ Trù Thiền Sư.

Đương dương, Đức Bảo Thiền Sư. Tưởng sơn, Đại Nhẫn Thiền Sư. Phật lũng, Tuệ Biện Thiền Sư.

Ngọc tuyền, Đạo Thế Thiền Sư. Thiên thai, Tuệ Thao Thiền Sư. Thiên thai, Huệ Phổ Thiền Sư.

Ngọc tuyền, Pháp Thạnh Thiền Sư. Ngọc tuyền,

Pháp Luận Thiền Sư. (Ba vị sau đây đồng dòng) Cối kê, Trí Quả Thiền Sư.

Chung nam, Pháp Lâm Thiền Sư. Quốc thanh, Trí Tịch Thiền Sư.

Bạch mã, Kỉnh Thiều Thiền Sư. Định lâm, Pháp Tuế Thiền Sư.

(Mười một vị sau đây ở Thiên thai Kỷ) Thiền chúng, Trí Lệnh Thiền Sư.

Phụng thành, Pháp An Thiền Sư. Ngọc tuyền, Pháp Yển Thiền Sư. Quốc thanh, Đạo Tu Thiền

Sư.

Nhạc dương, Đàm Tiệp Thiền Sư. Ngọc tuyền, Nghĩa Thúy Thiền Sư. Quốc thanh, Sư Gián Thiền Sư.

Quốc thanh, Như Lãng Thiền Sư. Phật lũng, Tuệ Xước Thiền Sư. Thiên hương, Pháp Duyên Thiền Sư. Tuệ nhật, Tăng Trân Thiền Sư.

Ngọc tuyền, Pháp Tài Thiền Sư. (Bốn vị sau đây thấy ở Bách Lục) Ngọc Tuyền, Pháp Xán Thiền Sư. Ngọc tuyền, Đạo Tuệ Thiền Sư. Thập trụ, Đạo Trăn Thiền Sư.

Trần Thiếu Đế (ở Thiên thai Kỷ). Trần Hoàng Thái tử.

Trần Vĩnh Dương Vương.

Tùy Dạng Đế (ở Thiên thai Kỷ).

Ngọc tuyền Quan Vương (Thiên thai Kỷ). Trung Binh Tham Quân Trần Châm.

Thái Trung Đại Phu Tưởng Thiên Mân. Khai Phủ Nghi Đồng Trầm Quân Lý.

Thượng Thư Tả Bộc Xạ Từ Lăng. Quang Lộc Đại Phu Vương Cố.

Khai Phủ Nghi Đồng Liễu Cố Ngôn. Ngũ Binh Thượng Thư Mao Hỷ.

Nho Sĩ Lương Phương Mậu.

Khai Phủ Nghi Đồng Ngô Minh Triệt. (Hai vị sau đây ở Thiên thai kỷ).

Nhạc Châu Thứ Sử Vương Tuyên Võ.

Thị Trung Khổng Hoán (hai vị sau đây ở Trần Truyện).

Bộc Xạ Chu Hoằng Chánh.

Được nhập môn cả ngàn người (ở bia chùa Thiền lâm của Lương Thị).

Các Tổ kể trước kia là nói về Chánh thống, đến như hàng nối pháp thuộc ngành thứ thì từ ngài Nam Nhạc Tăng Chiếu Thiền sư trở đi đều là những người đủ sức dùng ánh sáng pháp vận để phù trợ Tông môn, khuyên dạy những học đồ ngăn chống sự chê phá từ bên ngoài. Nay nhặt lấy các ngôn hạnh cốt yếu, khảo sát các duyên giữa thầy trò soạn nên phần lịch sử các Tổ sau:

****

A. DÒNG THỨ CỦA NGÀI NAM NHẠC:

Đời thứ hai:

1. Thiền sư Tăng Chiếu:

Sư nghe ngài Nam Nhạc giỏi về Tâm Quán nên đặc biệt đến tham yết và hiểu rốt cặn kẻ những điều truyền thụ. Sau đó ngài Nam Nhạc bảo Sư tu Pháp hoa Tam-muội để phá bỏ túc chướng. Khi Diệu Hạnh sắp trọn thành thì Sư thấy Đức Phổ Hiền Đại sĩ cỡi Bạch tượng vương đến phóng quang chứng sinh, lại chiêu cảm Đức Quan Âm nói pháp cho nghe. Do đó Sư đốn ngộ về huyền chỉ và được vô ngại biện tài. Ở trong chúng Sư luôn khổ hạnh thiền định đều ở hàng bậc nhất. Mỗi ngày Sư lấy dùng của chúng một dúm muối để ăn cơm, thấy lượng muôi không bao nhiêu nên không lo lắng. Nhưng sau khi tu hạnh Phương đẳng chợt thấy tướng khởi lên. Tính ra trong ba năm số muối tăng lên đến mấy mươi hộc. Bèn vội bán y áo mua muối đền chúng thì tướng kia liền mất. Khi ngài Nam Nhạc nhập diệt, thì Sư tiếp lãnh chúng hành đạo không khác gì trước.

2. Thiền sư Đại Thiện:

Thuở bé Sư thường ở chốn đồng hoang rừng rậm và thường tụng Pháp Hoa. Sau đến tham học với ngài Nam Nhạc thì được khai ngộ về Quán Tuệ. Sư tu Pháp hoa Tam-muội được ngộ nhập rất cao sâu. Sư thường ở trong núi giảng Thích luận, chúng thời ấy rất kính phục. Đại đô đốc là Ngô Minh Triệt hỏi ngài Nam Nhạc rằng: Trong Pháp Hoa thiền môn thì bậc chân đức được mấy vị? Ngài Nam Nhạc bảo: hàng thâm tín có ba ngàn, hàng đạo nghiệp cao có bốn trăm, sư Tăng Chiếu là bậc được định cao sâu, sư Trí Khải thì nói pháp vô ngại, được cả hai việc trên là sư Đại Thiện. Về sao, Sư ngồi kiết già trong thiền đường mà viên tịch. Trong suốt bảy ngày trời thường mưa hoa, có mùi hương lạ ngưng kết. Quan hành dương lệnh là Trần Chánh Nghiệp nghe đạo đức của Sư cao thạnh luôn đến kính lễ được Sư chỉ bày pháp yếu lòng rất vui mừng. Về sau thấy quan nội sử là Trịnh Tăng Cảo nhiều lần khen ngợi đức của Sư. Có lần Chánh Nghiệp cùng thợ săn bao vây một bầy nai, nội sử gọi Chánh Nghiệp bảo rằng: Ông thường khen ngợi Thiện Thiền sư có sức Từ bi Tam-muội, nay ông làm gì với nai này? Chánh Nghiệp liền đốc xuất tả hữu đồng thanh niệm: "Nam-mô Đại Thiện Thiền Sư!" Ngay khi ấy bầy nai liền bay lên hư không mà đi. Tăng Cảo vô cùng kinh hãi kính phục (kinh Niết-bàn nói: Có năm trăm lực sĩ khiêng một hòn đá không nổi, Đức Phật bèn ném nó lên hư không, khiến các lực sĩ dứt hết tâm cống cao. Lúc đó thật không có việc nâng đá, nhưng sức từ thiện căn khiến thấy rõ việc này).

3. Thiền sư Tuệ Thành:

Sư họ Đoạn, người ở Phong dương. Lúc đầu đến thọ học ở chùa Thập trụ, tụng các kinh Pháp Hoa, Tịnh Danh, Thắng Thiên Vương hơn hai mươi quyển, dùng làm khóa tụng hằng ngày. Khi thọ giới Cụ túc xong liền đến Kiến nghiệp để học Thành Thật Luận. Chỉ nghe qua một lần suốt mười năm đã tóm lược cả văn và lý. Khi sắp trở về ấp nhà thì nghe ngài Nam Nhạc hoằng hóa rộng rãi bèn đến xin y chỉ. Ngài Nam Nhạc lấy các văn sách mà Sư dựa vào đó hiểu biết mà thách rằng: Cả đời học vấn của ông đem đốt tay ta chưa đủ nóng, uổng mất công phu chẳng tiếc lắm sao? Sư nghe lời kích phẩn liền đem bao nhiêu chương sớ ra đốt sạch, rồi mở to mắt ngồi thiền từ đầu hôm đến sáng, như thế suốt năm năm. Ngài Nam Nhạc khiến Sư nhập các Tam-muội, Phương Đẳng, Quan Âm, Pháp Hoa, Ban-chu, lần lượt tu qua các hạnh để phá trừ Túc Chướng. Tu suốt ba năm thì được Giải Chúng Sinh Ngữ Ngôn Tam-muội. Khi Sư nhắm mắt ngồi thiền quán đạo thì sáng nhưng lúc mở mắt liền mất. Ngài Nam Nhạc than rằng: Sư Trí Khải trước phát Tammuội rồi sau mới chứng Tổng trì, nay sư Tuệ Thành thì đuổi kịp. Hạnh giải của hai người cũng ngang nhau. Sư tiếp tục ở Chi giang (tên ấp) thuộc Kinh châu xây dựng chùa, trong điện còn thiếu một cây rường lớn. Bỗng tháng sáu nước sông dâng cao. Sư nằm mộng thấy trong sông có cây to có thể dùng làm rường nhà được. Bèn đến sông quả nhiên thấy cây. Ông Tín sĩ Đoàn Hoằng làm chủ tinh xá bỗng ngã chết, bèn mời Sư đến nhà. Khi đó Hoằng tỉnh lại thưa rằng: Lúc đầu con bị bắt đến vua Diêm vương, con thấy Sư ngồi trên điện bảo rằng: "Tôi và người này đang cùng làm công việc chưa xong xin Đại vương tha cho. "

Vua đứng dậy đảnh lễ chấp nhận.

Trần Hậu Chủ nghe danh đức của Sư bèn mời đến. Sư quả quyết không đi. Hậu Chủ lại sai Giang Tổng đến rước và dọa rằng: "Nếu Sư không đến thì chớ trở về!" Sứ giả khóc lóc ép Sư lên thuyền. Sư bèn phóng mình xuống nước và đứng giữa sông. Sứ giả lại cầu xin: "Nếu ngài không chịu đi thì bọn tôi nát thân không có đất chôn!" Sư thương tình bèn theo đến cửa Khuyết. Vua đích thân thỉnh giới pháp và ban cho chỗ ở là Thiền tuệ tự. Có vị Thường Luật sư qua đó, cùng ngủ đêm với Sư. Vị này bắt rận ném xuống đất. Sáng đến lúc sắp giả biệt Sư bảo: "Đêm rồi có một vị thí chủ bị lạnh giá rất đáng thương!" Thường Luật sư rất hổ thẹn, quyết lấy đó răn mình.

Một hôm Sư bảo môn nhân: Hãy gấp xây cái thềm điện, ta sẽ giảng Niết-bàn. Khi xây xong thì lập tòa giảng kinh, cũng đúng lúc ngài Trí Giả ở Ngọc tuyền vừa đến và cùng Sư luận bàn huyền lý, một lúc lâu Sư nhập định và thị tịch.

4. Thiền sư Tuệ Siêu:

Sư họ Trầm, người Đơn dương. Lúc nhỏ vào đạo tụng Pháp Hoa. Nghe Tư Thiền sư ở Quang châu nói biết chỗ nhiệm mầu của Tam quán bèn cùng Mạng Thiền sư ở Tiên thành Thiên thai đến xin theo học. Sư Tư ở giữa đại chúng khen rằng Thần phủ của Siêu đã đạt đến bậc Nhẫn nhân. Sau Sư vào núi Tung ngậm thuốc bổ mà tọa thiền Tùy Thái tử là Dõng cho triệu tập các bậc Danh đức hội chung ở Kinh sư, vì đức hạnh của Sư cao vời nên riêng lưu Sư ở lại để cúng dường. Có Tịnh Nghiệp Pháp sư ẩn cư tại Lam cốc vì khâm phục đạo đức cao quý của Sư nên thân đến đón rước Sư về cùng ở suốt tám năm để bồi dưỡng Tam Tuệ. Năm Đại Nghiệp thứ nhất, vua nhiều lần ban chiếu mời Sư vào cung thuyết pháp. Nơi Sư ở thường có mấy con hổ đến hầu hạ. Những Kinh sư tụng hằng ngày trong hơn năm mươi năm có đến vạn bộ. Những bậc nổi tiếng ở Kinh ấp như Tuệ Nhân, Bảo

Cung… đều đến nương tựa để xin thỉnh ích. Về sau Sư ngọa bệnh đã dạy môn nhân rằng: Sống không vui mà chết cũng không lo buồn đó là lẽ thường của ta. Đệ nhất nghĩa không, thanh tịnh chánh quán là ghế tựa của ta. Rồi ngồi xây mặt về hướng Tây mà nhập định. Sư di chúc cho môn đồ hãy để nhục thân của Sư dưới cội tùng làm thức ăn cho cầm thú. Đệ tử nghe theo. Nhưng suốt cả tháng nhan sắc Sư vẫn không biến đổi, đêm đến lại có ánh sáng trời từ thân phát ra. Bấy giờ Tần Vương là Thế Dân nghe thấy (Đường Thế Tông) sai người đến xem, khen ngợi là việc hy hữu. Đại chúng bèn xây tháp và để toàn thân mà phụng cúng.

5. Thiền sư Tuệ Diệu:

Sư họ Kỳ, người ở Tương dương. Lúc đầu theo ở với ngài Nam Nhạc được mấy năm, nhận được tất cả thâm diệu của Tâm Quán. Ngài Nam Nhạc ấn khả rằng: "Đối với thật tướng kỳ quán ông đạt được rất sâu xa, vậy hãy tìm nơi hành hóa để đáp lại bản chí. " Khi ngài Nam Nhạc đã viên tịch, Sư đến Ba Khâu và than rằng: Nơi đây ít được nghe thiền pháp, vậy cần nên khai thị. " Có Đạo Ý Thiền sư đón Sư đến ở tại chùa Đạo nhân, Sư chuyên về thiền tịch không giao tiếp việc đời. Suốt mười bốn năm chưa từng ra khỏi cửa. Một hôm mọi người bảo rằng: Vì không muốn làm phiền mọi người nên ta muốn đến chùa Nội hoa để ở yên, chúng lưu giữ

Sư không được. Được ba năm, Sư lâm bệnh thấy hai ngài Nam Nhạc và Tiên Thành đến đón, gọi Sư bảo: Hãy cùng đến Tịnh độ. Sư liền ngồi kiết già mà thị tịch. Đồ chúng an táng Sư tại chùa Nội hoa.

6. Thiền sư Tuệ Dũng:

Sư thọ học Pháp hoa Tam-muội và hành pháp ở Nam nhạc. Từ lâu bèn được chứng nhập. Sư liền ẩn tích cùng núi mây không giao tiếp với đời, suốt hơn sáu mươi năm chuyên tâm tu thiền định. Trong khi xuất định mà tâm vẫn không dính dáng tới việc khác. Sư chỉ tụng kinh Pháp Hoa lại chứng được Hỏa quang Tam-muội. Không biết Sư mất ở đâu.

7. Thiền sư Tuệ Oai:

Sư người Giang lăng. Sư nương tựa ngài Nam Nhạc tu Pháp hoa Tam-muội và chứng được Giải Nhất Thiết Chúng Sinh Ngữ Ngôn Đà-la-ni, khi nghe tiếng người hoặc cầm thú thì đều biết được tình ý. Về sau Sư lại chứng được thần thông bay trên không hoặc đi trên nước như bước trên đất bằng.

8. Thiền sư Trí Quyền:

Sư sớm gần gũi ngài Nam Nhạc tu Pháp Hoa Tam-muôi và chứng nhập rất sâu. Sư ẩn cư ở Chung Sơn chưa từng ra khỏi cổng. Vua Tùy Dạng Đế nhiều lần chiếu triệu. Sư gắng gượng chỉ đến một lần, vua thỉnh hỏi về Pháp Yếu và phong Sư làm Quốc sư.

9. Thiền sư Tuệ Mạng:

Sư người ở Tiên Thành Thiên thai. Sư đến tham học với ngài Nam Nhạc. Khi nghe nói về Tam quán thì Sư thâm ngộ về huyền chỉ và được vô ngại biện, thuyết pháp như rót nước. Khi sắp lâm chung Sư răn dạy môn nhân cần phải tinh tấn phạm hạnh. Chúng bỗng thấy Đức Phật A-di-đà và Đại sĩ cùng đến đón rước, liền theo Phật bay lên hư không đi về hướng Tây.

10. Thiền sư Huyền Quang:

Sư người Tân la, Hải đông. Sư xa vượt biển khơi mà đến cầu pháp ở Trung hạ. Trước tiên sư được ngài Nam Nhạc truyền cho Pháp Hoa An Lạc Hạnh Môn, tu học chuyên cần, không bao lâu Sư chứng được Pháp hoa Tam-muội. Ngài Nam Nhạc gọi bảo rằng: Ông trở về cố quốc hãy quyền biến khéo léo mà hóa độ, như nhờ con sâu tơ mà có được con tò vò vậy (kinh Thi-Con sâu tơ có con, con tò vò mang về tổ nuôi dạy như con ruột khi lột xác thì giống nhau-Dương Tử nói: Con của sâu tơ chết, tò vò gặp bảo: A, đồng loại, đồng loại!). Sư liền đảnh lễ từ giả ngài Nam Nhạc chống tích trượng trở về Giang nam. Được gặp thuyền lớn của nước mình cho quá giang. Khi đến giữa biển chợt thấy có ánh mây lóa mắt, tiếng nhã nhạc vang rền trên không, ánh sắc cầu vồng, cờ xí rợp trời ùn ùn kéo đến. Trên không trung có tiếng bảo rằng: "Thiên đế mời Hải Đông Huyền Quang Thiền Sư!" Sư vòng tay từ tạ. Liền thấy các Thanh Y cung kính đến trước giây lát đưa Sư vào cung khuyết rộng lớn thì thấy quan chức xếp hàng loài rồng lẫn lộn với quỷ thần, đều kính cẩn nghênh đón, thưa rằng: Thiên đế giáng xuống Long cung tôi, xin mời Pháp sư nói những pháp môn mà ngài đã chứng, chúng tôi được ích lợi không nhỏ. Bấy giờ Sư lên điện và bước lên cao tòa. Thiên đế chào hỏi Sư. Sư liền giảng kinh suốt bảy ngày thì xong. Thiên đế đích thân tiễn sư. Khi về đến nơi thì thuyền vẫn còn bồng bềnh chưa đi. Sư lên thuyền, người trên thuyền bảo là chỉ mới nửa ngày thôi (Thiên Thân khi sinh lên cung Đâu-suất chỉ một lần đi nhiễu quanh tòa của Đức Di-lặc báo về cho ngài Vô Trước biết là đã qua sáu tháng. Đây là nói trên Thiên Cảnh có thời gian thường dài. Nay Sư Huyền Quang nói pháp ở Long cung suốt bảy ngày khi trở về thuyền thì chỉ mất có nửa ngày thôi. Đây nghiệm ra ngày đêm ở Long cung thường ngắn. Hoặc muốn lấy đây để so sánh với phẩm Địa Dũng nói sáu mươi Tiểu kiếp bằng khoảng một bữa ăn. Căn cứ vào sớ ký thì sáu mươi tiểu kiếp đó không phải không do sức gia bị của Phật vì quên nên cho là lâu. Thế nên biết nay ở Long cung không phải là cõi Phật, lại không do Phật gia bị nên ứng với ở Long cung nói là bảy ngày thì người trên thuyền cho là nửa ngày. Các người cố chấp thì cho là thật.

Như ngài Kinh Khê nói buổi ăn sáu mươi tiểu kiếp, chỉ có ý nói không phải thực ngắn vậy).

Khi sư đã trở về nước liền ở tại ông Sơn thuộc Hùng châu kết tranh làm nơi ở, tập chúng để nói pháp, lâu dần trở thành một Bảo Phường. Chúng đến học đạo đều được khai ngộ. Chúng thăng dường được thọ ký có một người, có một người nhập Hỏa quang Tam-muội, có hai người nhập Thủy quang Tam-muội. Trong đồ hình hai mươi tám vị của Nam nhạc Ảnh Đường có Sư.

11. Tịnh Nhân Phương Xá:

Ông thường ở tại Nam nhạc Bát-nhã Đài để giúp việc cho chúng Tăng. Ông mật tu thiền quán và đã chứng ngộ, lại có thần thông. Mỗi khi ông duỗi cánh tay ra thì dài hơn một trượng. Dòng pháp Tân La Huyền Quang Thiền sư Đời thứ ba Thiền sư Tuệ Mân:

Sư người Hà đông, chín tuổi xuất gia. Sư tụng kinh Pháp Hoa mỗi lần suốt một tháng. Đến năm mười lăm tuổi, Sư theo học với Huyền Quang

Thiền sư, tài giỏi vượt trội, người ta khen là Tú sĩ. Ở đó suốt mười lăm năm, Sư trở về Hải viêm thuộc Gia hòa, làm chủ chùa Quang hưng. Khi Sư giảng diễn kinh Pháp Hoa thì chúng nghe trên không trung chư thiên khảy móng tay có mùi hương lạ đầy nhà. Về sau Sư đến chùa Thông huyền họp chúng hành đạo. Suốt mười bảy năm không hề ra khỏi cổng. Đời Tùy mạt thiên hạ loạn ly, vùng Ngô việt đói kém tứ chúng phải chạy đi lánh nạn chỉ có Sư liều chết ở lại tu thiền. Đầu đời nhà Đường Sư thiên cư về chùa Nam giản (ở Kiến khang) có hai chú thỏ và một báo con theo hầu bạn. Một hôm đại chúng nghe có mùi hương lạ và tiếng nhạc trời bèn tranh nhau đến hỏi Sư. Sư bảo ngày kia ta sẽ ra đi. Cuộc sống tạm trên đời chỉ như đám phù vân, hãy gấp tìm cách vượt thoát. Và đúng hẹn Sư quả nhiên viên tịch.

B. DÒNG THỨ CỦA TRÍ GIẢ ĐẠI SƯ

Đời thứ hai:

1. Thiền sư Chân Quán:

Sư tự là Thánh Đạt, họ Phạm, người Tiền Đường. Người mẹ tụng phẩm Dược Vương và Quan Âm để cầu tự bèn sinh ra Sư. Lưỡi Sư có vằn tía, tay có tướng lạ. Tuổi còn nhỏ đã thông minh hiểu suốt các kinh sử. Có thầy xem tướng giỏi bảo Sư rằng: Cậu trai kia sẽ trở thành Đại khí cớ sao để vướng lưới trần? Sư định xuất gia nhưng cha mẹ không cho. Đêm đến mộng thấy thiên thần bảo rằng: Con các ngươi là bậc anh tài của Phật pháp sao lại giam nhốt? Từ đó cha mẹ cho Sư được thỏa chí. Lúc đầu Sư đọc Thập Tụng Luật và Thành Thật Luận, vừa mở quyển một, đêm mộng thấy thần bảo rằng: Thầy là pháp khí Đại thừa chớ nên theo Tiểu thừa. Đời Trần, Vĩnh Dương Vương là Bá Trí sớm hầu Sư, sai sứ đến đưa Sư vào gặp tổ Trí Giả. Sư đưa thư làm lễ vật, Trí Giả cho tuổi tác bằng nhau nên đối xử như anh em cùng cao luận về Tịch Chiếu, vàng đá xen nhau. Người bấy giờ bảo rằng: "Tiền Đường có Chân Quán gồm thâu nửa thiên hạ. " Ngài Đại Nhẫn Thiền sư thấy khen rằng: "Đạo của Tổ Long Thọ hưng thịnh ở phương Đông. " Lúc đó triều đình đánh nhà Chu bị thua (đời Trần Tuyên Đế, năm Đại Kiến thứ mười, sai Ngô Minh Triệt Bắc phạt nhà Chu, đánh thua, bị nhà Chu bắt). Hội họp định rằng những Tăng không tên tuổi thì cho hoàn tục. Sư bèn viết thư đến Quan Tả Bộc Xạ Từ Lăng nên việc ấy bèn dẹp bỏ. Thời Tùy Văn Đế, vua ba lần sắc lệnh mời hỏi, Tần Hiếu Vương Tổng Quản là Duy Dương hai lần mời thỉnh nhưng Sư đều lấy cớ bệnh không đi. Sư cùng ngài Đạo An Thiền sư tu hạnh đầu-đà ở Linh ẩn sơn. Năm Khai Hoàng thứ mười bốn, trong Quận có hạn hán lớn. Thứ sử Lưu Cảnh An thỉnh Sư giảng kinh Hải Long Vương. Khi đọc tựa Vương Nghĩa vừa xong thì chợt mưa ào xuống. Năm Khai Hoàng thứ mười lăm, Sư mới xây tinh xá hiệu là Nam Thiên Trúc. Sư lấy việc giảng kinh Pháp Hoa làm chính hoặc thọ trì đọc tụng, đích thân viết chép năm thứ Pháp Sư chép đầy đủ. Mỗi khi rửa tay Sư giữ từng giọt nước không phí phạm. Có một ông lão hàng ngày đến nghe kinh. Sư đón hỏi, bèn đáp: Đệ tử là Long vương ở núi này. Sư hỏi: "Sao hạn lâu quá mà không mưa?" Ông lão đáp: "Vì dân ở núi này không biết đã đục đứt mất mạch núi, các rồng không yên nên khiến như thế. Nếu ngài truyền giới cho Rồng khuyên họ hướng về đạo thì mưa sẽ có ngay. " Sư nhận lời, liền làm lễ mời các Rồng và truyền cho giới Bồ-tát, ngay lúc đó liền có mưa. Đêm ấy có người áo đỏ mũ cao đến đảnh lễ Sư và tạ ân. Sư nhân đó hỏi rằng: "Những năm gần đây có nhiều hạn hán là sao?" Rồng đáp: "Vì nhiều người không có chánh tín, gây nhiều ác hạnh. Do đó trời giận nên các dòng nước làm tốt đất chìm xuống sâu. Ngũ cốc kết hạt nhưng không đủ nước, hạn hán cạn kiệt bất thường, cố nhiên là bởi nguyên do đó".

Tháng tư mùa Hạ năm Đại Nghiệp thứ bảy, Quận Tư Mã là Lý Tử cố thỉnh Sư ra khỏi chùa Chúng thiên để giảng kinh Niết-bàn. Ngày xuống núi thì Sư đích thân cắm nêu đánh dấu nơi an táng mình. Khi Sư giảng đến phẩm Hiện Bệnh thì mộng thấy có ba người đến đảnh lễ thưa rằng: "Trời Tịnh Cư sai chúng con đến đón Thiền Sư. " Ngày sáu tháng sáu Sư ngọa bệnh, mộng thấy cùng ngài Thiên Thai ngồi xe báu của Phật mà về núi. Khi tỉnh giấc than rằng: Xưa sáu mươi hai tuổi đã đáng chết, vì giảng Pháp Hoa nên ráng sống thêm một kỷ. Nay đã bảy mươi bốn tuổi lại có điềm ứng này là mạng số đã hết. Sư bèn tập chúng dạy rằng:

Muốn ra khỏi sinh tử, muốn đầy đủ Phật pháp thì phải giữ gìn giới luật, tu định học tuệ, hoằng truyền chánh pháp chớ để luống qua. Đến ngày mùng một tháng bảy, chúng nghe có tiếng kỷ nhạc trên không trung Sư liền ngồi kiết già viên tịch. Kẻ đạo tục mỗi ngày hiến cúng có đến cả ngàn người. Đến ngày hai mươi sáu dung mạo của Sư vẫn tươi tắn, lông mày mọc dài ra. Khi ấy từ chùa Chúng thiền các môn đồ dời Kim quan đến an táng nơi đất mà Sư đã chọn từ trước. Bốn bộ đại chúng đi đưa dài cả một do-tuần, khói hương rợp trời do đạo đức của Sư mà cảm được như thế (Sư là thủy tổ ở Thiên Trúc Linh Sơn. Ngài Chương An có soạn Biệt Truyện về Sư, bản ấy nay không còn. Đến đời Sư Tường Vân có trùng tu lại tháp Sư và làm sáu bài thơ ghi lại để mọi người biết. Trong bài tựa có thể tóm tắt rằng: Nay cửa tháp tự mở, không còn di vật. Không biết toàn thân đã theo Phật Đa Bảo hay hóa vãng giống như tượng Phật Lũng).

2. Thiền sư Pháp Hỷ:

Sư cố gắng học tập không biết mệt mỏi, đã từng tham vấn các bậc tri thức đến mười bảy vị và được đại ngộ. Năm Sư sáu mươi tuổi mới gặp được tổ Trí Giả tại núi Đại tô. Chỉ một lần nghe được Pháp Âm liền được thâm chứng. Từ đó giải tán hết học chúng chỉ chuyên tu thiền tuệ. Đời Trần, năm Quang Đại thứ nhất, Sư và hai mươi bảy bạn đồng học theo tổ Trí Giả cùng đến Kim lăng du hóa. Quan thượng thư Mao Hỷ đùa bảo: Thầy còn trẻ mà sao trò đã già! (lúc đó Trí Giả ba mươi tuổi).

Sư đáp: Thờ thầy ở đức chớ đâu luận gì tuổi tác. Lại hỏi: Thế nào là đức?

Sư đáp: Khéo giảng nói pháp là hậu thân của Phú-lâu-na. Phá ma đắc đạo là Ưu-ba-cúc hiện tại.

Mao Hỷ thích câu đối đáp ấy, luôn khen ngợi Sư ở triều đình, kể rõ việc Sư tu Phương đẳng Tammuội. Có một con trĩ đến đòi mạng Sư, Thần Vương trách rằng: Thiền sư sẽ vãng sinh Tịnh độ tức đang sống mà đắc đạo há đền mạng cho ngươi sao? Về sau ở chùa Ngõa quan sư ngồi kiết già nhập định và thị tịch luôn.

3. Thiền sư Trí Việt:

Sư họ Trịnh, người Nam dương. Cha hỏi vợ cho. Sư cực lực từ chối bằng cách đi xuất gia ngay. Sư du phương đến Kim lăng thì gặp tổ Trí Giả. Sư kính cẩn xin học đạo. Cả năm môn sáu diệu, Sư đều thông suốt. Sư tụng kinh Pháp Hoa trọn một vạn bộ. Khi tuổi già tổ Trí Giả trở về ở núi Thiên thai, giao bốn chúng nhờ Sư dẫn dắt. Suốt hai mươi năm khéo léo dạy dỗ. Sư đức độ khoan dung, học giả đều hướng về. Nơi Sư ở bình luôn đầy nước. Từ khi Tấn Vương cất chùa và lên ngôi vua, nếu trong núi có cử Tăng sứ đến chúc mừng thì Sư luôn đứng đầu. Triều đình càng thêm hết lòng kính trọng xem như ngài Trí Giả hiện tiền không khác. Mỗi khi có người cúng thí để làm công đức thì Sư không hề chứa giữ. Ngày hai mươi ba tháng mười một năm Đại Nghiệp thứ mười hai, Sư cáo biệt chúng Tăng rồi nằm nghiêng bên phải mà thị tịch. Gió thảm mây sầu, đất động núi sụp, trời mưa hoa lạ, một cảnh u ám tối tăm.

4. Thiền sư Pháp Thận:

Lúc đầu Sư ở chùa Đại trang nghiêm tại Kim lăng. Sư theo tổ Trí Giả thọ học Tam quán hoát nhiên thâm chứng. Nhân Định mà phát trí, một lần nghe qua đều nhớ kỹ. Đời Trần, năm Đại Kiến thứ ba, tổ Trí Giả ở Ngõa quan nói về Thứ đệ thiền môn. Sư được nghe liên tục, ghi riêng được ba mươi quyển, chưa kịp sửa chữa. Chẳng may Sư viên tịch sớm. Sau này ngài Chương An sửa lại còn mười quyển tức bộ Thiền Ba-la-mật Tiệm Thứ Chỉ Quán.

5. Thiền sư Phổ Minh:

Sư họ Chu, ở Cối kê. Thuở nhỏ đã có chí lạ, thường nhóm cát làm tháp, cắt cỏ lao làm điện. Có vị Tăng khất thực thấy bảo rằng: Cậu trai kia có thiện căn hãy đến Thiên thai mà xuất gia, ở đấy có vị Sơ Y Bồ-tát hiện thân thuyết pháp. Đời Trần năm Đại Kiến thứ mười bốn, Sư đến Thiên thai gặp tổ Trí Giả giảng kinh, học chúng vừa tan, Sư đảnh lễ xin quy y. Tổ Trí Giả cười bảo: Nguyện lực đời trước nay lại gặp nhau. Do đó Sư lại hầu hạ Tổ và chuyên cần học tập Thiền Pháp tu các hạnh Phương Đẳng, Bát-nhã Tam-muội, tụng thông suốt Pháp Hoa. Sau theo tổ Trí Giả lên ở Lô Sơn, ngụ tại gác Đào Khản Đoan Tượng, tu hạnh thỉnh Quan âm Tam-muội. Mùa đông rét dữ nhưng sư không cần mặc áo bông. Trong lúc hành Đạo thấy có một dị Tăng gọi bảo: Ngươi tên là Pháp Kinh nhưng chưa hay lắm hãy đổi lại là Phổ Minh. Đây là nói sự sáng suốt nghĩa là có thể hiểu suốt cả ba đời. Tổ Trí Giả nghe biết liền bảo: Đã được thầm chỉ vậy phải theo tên mới. Tổ Trí Giả về ở tại Ngọc tuyền khiến đúc Đại Hồng Chung để ở Phật lũng bèn khuyên các hàng đạo tục ở Giang lăng đua nhau làm việc. Bỗng nhiên có một người mù đến xem. Sư biết là điềm không tốt, cây mô nở quả lép, bèn cố hết sức để đúc chuông lại. Nhưng vì dặn dò chưa kỹ nên chưa đúng mức, thế nên tiếng chuông chỉ vang xa có bảy mươi dặm. Kịp khi Sư đến ở chùa Quốc thanh, bấy giờ việc lấy nước dùng rất khó khăn. Sư chỉ tay vào đá bảo: Đá này phun nước ra chẳng sướng ư? Thế là suối liền phun mạnh mỗi ngày cấp nước dùng cho cả ngàn người. Có lần Sư đúc tượng Lô-xá-na cao một trượng sáu, cảm đến bậc Dị Nhân cho vàng để giúp đỡ. Giảng đường chùa Quốc thanh nhỏ hẹp, Sư muốn mở rộng ra, ngài Chương An khuyên chớ nên sửa đổi. Bỗng có

Đô đốc ở Quát châu là Châu Hiếu Tiết (Đời Trần Tùy gọi Ôn Châu là Quát Châu) cho cột sam chở thuyền biển đem đến. Khi đó ngài Chương An ở tại Xích thành, bỗng thấy thân Sư dài hơn mười trượng, cao hơn cây rừng, có mấy mươi người theo hầu, nói: "Chương An chớ nên cực khổ can ngăn, việc ta làm sẽ thành. " Ngài Chương An thấy việc thần dị, bèn hướng về phía rừng chắp tay kính cẩn thưa rằng: Xin tuân theo sự hoạch định của nhân giả. Đến ngày xây cất giảng đường, có Thần núi ẩn mình đến dự. Thế mạnh như sấm sét, cây đổ cành gãy trong mỗi bước đi, từ Phật Lũng xuống đến chùa. Buổi chiều tối lại trở lại tiếng vang động như hồi mới đến. Ở phòng kế bên nghe Sư cùng Thần chuyện trò. Sư khuyên Thần làm lành. Khi xây giảng đường xong. Chợt thấy Sư mặc áo rách nói lời từ biệt cùng chúng rồi an nhiên ngồi thị tịch. Sư có ba ngón tay ở bàn tay trái co lại để làm tin. Sư không chứa của riêng, đem tất cả tiền được cúng thí để tạo ra mười tượng bằng vàng và đồng. Sư xem qua Đại Tạng hai lượt. Mỗi khi muốn làm các việc lợi ích thì chỉ cần một lần vận tâm vàng lụa đều có.

6. Thiền sư Trí Tảo:

Sư họ Trương, người ở Lâm hải. Cha là Hoài Sĩ. Đời Trần làm chức Trung binh tham quân. Năm Sư mười bảy tuổi thì song thân đều qua đời. Để tang xong Sư bị nhiễm bệnh dùng thuốc đã lâu mà không hết. Bèn cố sức chạy nhanh ra sân đến chỗ nào có ánh trăng thì nằm, chí tâm niệm Nguyệt quang Bồ-tát, hệ niệm suốt cả tuần nhật (mười ngày). Đêm đến mộng thấy có người dùng miệng hà hơi khắp thân mình. Như thế suốt ba đêm thì lành bệnh. Nhân đó đến xuất gia ở chùa An tịnh. Khi nghe tổ Trí Giả là bậc Đạo sư ở đời bèn đến xin thọ học tu Pháp hoa Tam-muội. Đến ngày thứ mười, đầu hôm sám hối xong định đến giường ngồi thì thấy Rồng chín đầu từ đất bay lên không trung. Tổ Trí Giả giải thích rằng: "Đây là biểu hiện cho chín đạo chúng sinh nghe kinh Pháp Hoa, sắp phá tan đất vô minh mà nhập vào khoảng không pháp tánh. " Sư có lần đến chùa Bảo lâm lễ sám. Đầu hôm có người đến lay cánh cửa. Sư hỏi: Ai đó? Đáp: "Tôi là người xem đèn. " Có Thành Thiền sư nghe biết liền bảo: "Nhà này có quỷ dữ, đó là tiếng quỷ nói". Liền tâu lên Vĩnh Dương Vương, vương sai mười người cầm gậy gộc đến bảo hộ. Sư từ chối bảo rằng: "Mạng sống chỉ do nghiệp quyết định mà thôi". Đêm ấy quỷ vào nhà cầm chùy đập vách phá cột khắp nơi.

Sư vẫn hành đạo thiền tụng thản nhiên không sợ sệt. Suốt hai mươi mốt ngày sự việc vẫn như thế. Khi Sư hành pháp gần xong thì có một cậu bé mặc áo xanh khen ngợi: "Lành thay!", nói xong liền biến mất. Sư nhân đi sang Cối kê, giữa đường đi khất thực ở Viêm huyện, Chủ nhà lầm cúng dường nấm độc, Sư ăn xong lên đường ngay, Chủ nhà ăn vào đều ói mửa, liền nhanh chóng nhờ hàng xóm gấp đuổi theo Sư khoảng mười dặm nói cho biết. Sư cười bảo: Bần đạo may mắn không sao cả. Năm Đại Nghiệp thứ nhất, vua Tùy Dạng Đế đi tuần du đến Dương châu. Sư ở chùa Quốc thanh tuân lệnh quan ngự sử đến hành cung, được dẫn vào nội điện tiếp kiến, vua ban phép ngồi và ủy lạo. Xong vua sai thông sự xá nhân là Lư Chánh Phương đưa Sư về núi. Vì tổ Trí Giả thiết lễ trai đãi một ngàn Tăng và độ một trăm người. Trước sau tám lần Sư vào yết kiến vua. Mỗi lần chúa thượng đều dùng trọng lễ tiếp đãi. Đời Đường, năm Trinh Quán mười hai, Sư không bệnh tật ngồi ngay mà nhập diệt, thọ tám mươi ba tuổi.

7. Thiền sư Trí Hy:

Sư họ Trần, người Dĩnh xuyên. Tổ tiên làm quan ngụ ở đất Việt. Năm hai mươi tuổi Sư đến thế độ với tổ Trí Giả, nhận được thiền quyết, sớm chiều chuyên tâm không hề mỏi mệt. Khi tổ Trí Giả viên tịch, Sư vâng lệnh ở lại Phật lũng. Khi ấy người tu hạnh Tam-muội khá thạnh hành, điện đường càng mở mang, quy chế rất nghiêm túc, chỉ có Đài hương chưa có giá để. Trên ngọn Hương lư có nhiều cây Xanh bách, Sư muốn đốn về dùng, nhưng chúng nghi là Thần chiếm giữ riêng. Đêm Sư mộng thấy Thần tặng cho một ít gỗ làm nhà.

Bèn sai người ra đốn. Chúng trong chùa có sư Pháp Vân muốn lên đỉnh núi để tọa thiền. Sư ngăn lại bảo rằng: Đạo lực của ông còn yếu kém, Sơn thần thì mạnh mẽ, vậy không nên đi. Vân không nghe ông ấy lên núi ở lại một đêm, Thần hiện nguyên hình đuổi về. Thuở xưa tổ Trí Giả khuyên cư dân ở ven sông nên cất nhà Ấp lương để làm ao phóng sinh. Chưa được mấy năm thì họ đi đánh bắt lại. Sư cùng sư Chương An đến lễ tháp tổ Trí Giả, đốt hương chú nguyện. Có người đánh cá thấy có vị Tăng đứng trên ấp cho là bị té xuống nước bèn chèo thuyền đến cứu, bỗng không thấy ai cả. Dân ở đó thấy linh nghiệm bèn không đi đánh bắt nữa. Bấy giờ thú thì kêu rống thảm thiết, còn chim thì tụ tập bay lượn suốt mấy ngày không thôi, tiếng chuông đồng ở Đông sơn vang rền chấn động cả hang núi. Sư bảo: Đây là mời ta đó. Bèn dùng nước thơm tắm gội rồi ngồi kiết già cầm cây như ý và nói pháp giây lâu yên lặng, chúng bèn gào khóc. Sư mở mắt dạy rằng: Có sinh tất có diệt can chi mà buồn khóc. Có người hỏi Sư sinh cõi nào. Sư bảo: Theo giấc mộng của ta thì sinh vào cung Đâu-suất, vì cung điện màu xanh, cõi trời phía Tây bắc (kinh Niết-bàn nói: Vì trời Đâu-suất thích màu xanh nên dùng Thanh sắc Tam-muội để phá cái hữu của cõi trời này). Ta thấy thầy ta, những người hầu chung quanh ngài đều ngồi trên bảo tòa, có một tòa trống, ta hỏi duyên cớ, họ đáp: "Sáu năm nữa Đỉnh Pháp sư sẽ lên ngồi ở tòa này mà thuyết pháp. " Sư thường đến bảo tháp A-dục vương, lạy tám vạn bốn ngàn lạy nên cảm được lằn tía in vào tay Sư vuông vắn sáng rõ. Khi sắp lâm chung Sư bảo đệ tử rằng: Thánh chúng đã ấn khả cho ta, ta nay vãng sinh vào nội viện Di-lặc. Chợt nghe tiếng đàn sáo, Sư liền ngồi kiết già mà hóa. Lúc đó là ngày mười tám tháng mười hai năm Trinh Quán thứ nhất.

8. Thiền sư Pháp Ngạn:

Sư họ Trương ở Thanh hà. Đời Trần, năm Đại Kiến thứ bảy, Sư hầu tổ Trí Giả ở Thiên thai, được Tổ truyền trao ý chỉ Thiền na. Sư thường ngồi yên trong rừng vắng, không ở trong phòng nhà. Thường nhập định đến bảy ngày mới xuất định. Tổ Trí Giả chứng rằng: "Như chỗ ông nói là quán tướng thứ hai trong Bội xã quán. Sơn thần nhiều lần quấy nhiễu để thử thách, Sư vẫn điềm nhiên không cho là động. Sư chuyên tu thiền pháp, hơn ba mươi năm thường ngồi yên không nằm. Đến tháng hai năm Đại Nghiệp thứ bảy đời Tùy, Sư ngồi kiết già ở chùa Quốc thanh mà viên tịch.

9. Thiền sư Trí Giai:

Sư họ Hạ Hầu, người ở Dự chương. Sư rộng thông ba luận nổi tiếng đương thời. Kịp khi gặp được tổ Trí Giả thọ học thiền pháp liền được khai ngộ sâu sắc. Buổi vãng niên Sư vào ở Lư sơn xây cất tinh xá Đại lâm, quyết chí tu thiền, sự chứng đắc của Sư khó lường biết được. Hơn hai mươi năm Sư không hề xuống núi. Vua Tùy Văn Đế triệu Sư vào kinh, Sư tạ bệnh không đi. Quận thú Dự chương thỉnh Sư giảng Pháp Hoa, Sư cố thoái thác bảo rằng: "Ta sẽ chết ở tại núi này thôi!" Thế nên cả đạo tục đều khẩn thiết thỉnh cầu. Sư miễn cưỡng ra làm, khi giảng kinh chưa xong, quả nhiên Sư viên tịch ở chùa tại Châu trị. Bấy giờ mọi người mới biết là Sư báo trước. Lúc đó trời oi nồng nóng bức, Sư ngồi ngay ngắn như lúc còn sống. Có mùi hương lạ khắp thành phố, suốt mấy ngày mới tan. Đồ chúng đón rước Thiền Khám về an táng trên gò Lư (Lư Sơn).

10. Thiền sư Đại Chí:

Sư họ Cố, người ở Cối kê. Sư xuất gia nương tổ Trí Giả, quyết chí đến chỗ cao xa nên lấy đó đặt tên. Mỗi khi sư tụng kinh Pháp Hoa tiếng trong trẻo cao vút khiến người nghe quên mệt nhọc. Khi được nghe thiền yếu, Sư bèn đến ngọn Cam lộ ở Lư sơn tu hành nhiều hạnh. Sư ném mình vào cọp dữ, cọp liền chạy mất. Nếu trên núi hết gạo thóc thì trọn ngày Sư không ăn, hoặc khi được bánh trái hoa quả thì Sư chỉ ăn lấy no. Như thế suốt bảy năm thiền tụng mãi không dứt. Buổi vãng niên Sư về ở tại Phước lâm. Gặp năm Đại Nghiệp triều đình bài trừ Phật giáo. Sư mặc áo lụa trắng khóc trước tượng

Phật suốt ba ngày thề bỏ thân mình để làm sáng tỏ chánh đạo. Sư bèn đến Đông đô dâng biểu lên vua tâu rằng: Mong bệ hạ cho hưng thịnh Tam bảo, Bần đạo xin đốt cánh tay để báo đền ân nước. Vua bằng lòng. Sư bèn tập họp bảy chúng thiết đãi trai diên. Sư nhịn ăn ba ngày, lên gác cao, bó vải vào cánh tay, chế sáp làm đuốc, châm lửa đốt lên. Ánh sáng rực chiếu khắp đồng quê rừng núi, ai thấy cũng đều đau lòng. Nhưng sắc mặt Sư không hề biến đổi. Sư vẫn tán Phật tụng kinh và nói pháp cho chúng nghe tiếng không hề dứt. Khi thiêu xong Sư xuống lầu, về nhập định suốt bảy ngày, ngồi kiết già mà viên tịch. Sư có soạn bài Nguyện Văn được bảy mươi tờ. Chúng các chùa ở Lô sơn, tập họp suốt đêm đều tụng bài nguyện văn này lấy làm đau xót.

11. Thiền sư Đạo Duyệt:

Sư họ Trương, người ở Chiêu khâu. Năm mười hai tuổi Sư đến Ngọc tuyền nương tổ Trí Giả mà xuất gia Sư lấy Đại Phẩm Bát-nhã và kinh Pháp Hoa làm khóa tụng hàng ngày. Lúc bấy giờ, chùa mới cất chưa có chuông khánh. Sư ra đầu suối nhặt được hòn đá lạ đem về treo lên, mỗi khi tụng kinh Sư gõ vào tiếng ngân trong trẻo người nghe đều thảng thốt. Đám người ở chốn u minh nhiều lần được điềm lành. Có kẻ bị bệnh thủy trướng bụng to như cái trống, Sư chỉ niệm Bát-nhã cầu linh ứng. Một chiều nọ nước trong bụng vỡ ra bệnh liền hết. Vào thời Tùy Mạt có bọn hung tặc là Châu sáng dẫn bộ hạ lên núi. Sư ngồi ngay bất động bảo rằng: Hình hài huyễn hoặc này xin sẵn sàng nhận thêm một dao sắc. Bọn giặc kinh dị không dám phạm đến. Sư thường mặc áo gai, ngày ăn một bữa, lại dành một nửa cho chim thú. Có khi chim tụ tập đầy phòng hoặc bay đậu trên tay sư, vì lòng từ bi của Sư thấm đầy nên chúng không còn sợ hãi. Y phục Sư tuy xấu rách nhưng tuyệt nhiên không có cháy rận. Sư thường xin chấy rận về nuôi để khuyên người đừng giết hại. Sư ở trong núi suốt năm mươi năm tiết hạnh không đổi. Lúc sắp lâm chung Sư biết trước, giả biệt mọi người, liền ngồi ngay chắp tay mà thị tịch. Về sau có người thấy vị Tăng quỳ gối gõ bát ở bên dòng Thanh Khê tự xưng là Bátnhã Sư, vì Sư thường tụng kinh ấy. Người ta do đó gọi tên Sư.

12. Thiền sư Đẳng Quán:

Sư họ Tôn, người ở Phú dương, thọ học Tâm quán với tổ Trí Giả ở Thiên thai, Sư thường tụng kinh Pháp Hoa. Mùa Đông năm Trinh Quán thứ chín, chùa Pháp nhẫn ở Dư hàng mời Sư đến diễn giảng. Năm sau vào buổi sáng có vị mặc y phục Vương giả đến tự xưng là Thần ở miếu Cao đình tới yết kiến Sư, bảo rằng: Hôm qua Sư đi ngang qua triều đình đúng lúc đệ tử đang đi tuần du không kịp nghinh đón. Cho nên nay từ xa đến chỉ cầu được giới pháp. Sư liền dọn lư hương truyền cho Đại Giới Bồ-tát Thần liền tạ từ mà đi. Ngày hôm sau, vào giữa đêm Sư tắm gội và đắp y, ngồi kiết già quay mặt về hướng Tây niệm tên hiệu của ba Thánh và tổ Trí Giả mỗi thứ hơn trăm tiếng. Sư lại nói về pháp môn Tam quán cho Tuệ Pháp sư, vào bảo rằng: "Đây là ta đích thân thay lời Đại sư mà nói. " Nói xong liền viên tịch.

13. Thiền sư Bát-nhã:

Sư là người Cao Ly. Năm Khai Hoàng thứ mười sáu, Sư đến Phật lũng cầu học thiền pháp, chưa bao lâu Sư có chỗ chứng ngộ. Tổ Trí Giả gọi bảo: Ông có duyên với xứ này vậy nên ở chỗ yên vắng để tu diệu hạnh. Ngọn Hoa đảnh cách đây sáu, bảy dặm là chỗ ngày xưa ta tu hạnh Đầu-đà, vậy hãy ở đó mà tiến tu đạo nghiệp, tất có ích lớn. Sư liền tuân theo lời Tổ dạy, ngồi tĩnh tọa mười sáu năm chưa hề xuống núi. Bỗng một hôm Sư lên chùa Phật lũng thấy có ba người đứng hầu chốc lát biến mất. Kế đó Sư xuống chùa Quốc thanh nói lời từ biệt với các bạn đồng tu và ở đó được vài hôm, không bệnh mà tịch. Khi đưa khám ra khỏi cửa chùa, Sư mở mắt cáo biệt. Lúc đến núi thì Sư nhắm mắt lại như cũ.

14. Thiền sư Lễ Tông:

Sư họ Tông người ở Cối kê. Lúc đầu Sư tham học với sư Trường Thọ thấu suốt thiền quán. Thọ bảo: "Ngọc quý to cả tấc đất dày ngàn nhận cũng không che được ánh sáng của nó. " Sau Sư đến gặp tổ Trí Giả học pháp môn Tâm quán được chỗ khế ngộ lớn. Có lần Sư viết chú Sớ kinh Niết-bàn được người đương thời rất quý trọng. Năm Cảnh Long thứ ba (Đường Trung Tông), quan ngự sử Bằng Trung bỗng chết giấc, thấy có hai cậu bé dắt Sư đến trước pháp đình, phán quan xét lại sổ tội của Trung. Thấy người cậu đã chết là Trương Tư Nghĩa bảo rằng: "Cháu không hợp với hậu cung, có giặc loạn Việt ngầm theo báo thù. Vậy nên phát nguyện làm Sớ giải Niết-bàn và đúc chuông thì sẽ tiêu hết tội trước. Sớ là do Lễ Tông Thiền sư viết nên. Đây là Sư đích thân được tổ Trí Giả truyền thụ cho, thường được Thiên thần bảo hộ. " Bằng Trung nghe theo lời cậu dạy bèn được trả về. Tìm bộ Sớ chưa được, lại bị âm ty trách phạt. Trung xin hẹn ba ngày tìm viết đủ, nhờ đó lại được tha về. Do lòng thành tìm kiếm, quả nhiên gặp được bản Sớ ấy bèn thực hiện ngay. Sau về già mới chết.

15. Thiền sư Pháp Hưởng:

Sư là người Dương châu. Năm mười sáu tuổi từ biệt song thân vào Đạo theo học với tổ Trí Giả. Đọc thông Pháp Hoa bèn lên ở chùa Thê hà cạnh bên Pháp hoa đường. Sư tu Tam-muội và được chứng ngộ nhưng im lặng không nói. Trong núi có hổ dữ mỗi ngày giết hại mấy người. Chúng bèn thiết lễ trai lớn để cầu nguyện. Chợt thấy một con hổ lớn xông vào đám đông vồ lấy một người mang đi. Sư lớn tiếng bảo: Hôm nay vì ngươi mà thiết lễ trai vậy hãy thả người kia ra! Hổ liền để lại người ấy rồi chạy đi. Chốc lát có bầy hổ mấy mươi con tụ tập trước trai đàn, mọi người sợ bỏ chạy. Sư đến trước bầy hổ lấy gậy gõ vào cổ và nói pháp cho nghe. Từ đó trở đi bầy hổ tránh xa mất dạng.

16. Thiền sư Hành Giản:

Sư đích thân được tổ Trí Giả thế độ và thọ học thiền pháp, thường ngồi không nằm. Khi tổ Trí Giả ở chùa Ngọc tuyền bảo Sư đến Phong châu giáo hóa. Sư cỡi trâu về đến nửa đường gặp bọn cướp chém đầu Sư giựt trâu mà đi. Thây Sư đang nằm trên đất bỗng ngồi dậy ôm đầu gắn vào cổ rồi chạy như bay rượt theo bọn cướp. Bọn cướp đều kinh dị trả lại trâu và cùng thề trọn đời sẽ làm người giúp việc Sư để tạ lỗi, nay là bọn điền nô ở trang trại, những kẻ có họ Hướng là đám hậu duệ của họ.

17. Thiền sư Tuệ Oai:

Sư nương nhờ tổ Trí Giả học về Tâm Quán được nhanh chóng khai ngộ. Về sau nhận lời ủy thác của Tổ mà xây cất chùa Quốc thanh. Sư nổ lực xây cất khá nhiều. Sư tu mật hạnh khác thường, người đời khó đoán biết được.

18. Thiền sư Pháp Tuấn:

Lúc đầu Sư ở Kim lăng đến gặp tổ Trí Giả, tu

Pháp hoa Tam-muội, liền được ngộ nhập. Về sau Sư hoằng pháp ở Bích giản được nhiều người theo học quý kính. Đến ngày Sư viên tịch có Thiên nhạc vang rền trên không, hương trời bay tỏa khắp nơi. Đại chúng trông theo thấy Sư ẩn ẩn hiện hiện đi về hướng Tây.

19. Thiền sư Tuệ Tưởng:

Lúc đầu Sư ở chùa Hưng hoàng, đến gặp tổ Trí Giả học sâu về thiền định. Mỗi khi Sư tụng Pháp Hoa, người ta nghe thấy hương trời đầy thất, không phải là việc dễ có trên đời.

20. Thiền sư Tuệ Trù:

Sư đến tham học Tam quán với tổ Trí Giả. Sau Sư đến ở Nam nhạc, thường tụng Pháp Hoa và Hoa Nghiêm làm khóa tụng hàng ngày. Người ngoài có lần thấy Thiên thần đứng hầu ở hai bên Sư.

21. Thiền sư Đức Bảo:

Sư là người ở Đương dương, theo tổ Trí Giả học thiền pháp lâu ngày được khai ngộ. Sư tụng kinh Pháp Hoa có nhiều điềm linh ứng, cả mấy mươi dặm đều nghe có mùi hương lạ. Vua Tùy Dạng Đế rất kính trọng, ban cho hiệu là Đại Giác Thiền Sư. Thiền sư Đại Nhẫn là bậc Chuyên đức ở đời Lương vào dưỡng đạo ở Tưởng sơn. Lúc đó Sư cùng tổ Trí Giả nghĩa tập ở trong núi mà được đốn ngộ Thiền Tuệ, bèn khen rằng: Đây không phải do văn tự sinh ra mà chính là quán cơ, luận thông suốt về Bát-nhã. Không phải Độn cũng không phải Lợi.

Lợi Độn là do Cơ, phong phú hợp thời đó là tướng của Lợi. Ao sâu thì hoa lớn Độn có thể được vừa ý (Trí Luận có câu: Thấy hai sức mạnh biết rồng to. Nhìn thấy ao sâu biết hoa lớn). May mắn có được ánh sáng dư đâu chẳng tự mừng ư?

22. Thiền sư Tuệ Biện:

Sư có tư chất thông minh, nghe tổ Trí Giả diễn khai Đạo Tam Quán thầm ghi không sai sót, như rót nước vào bình không để rơi ra một giọt. Về sau ở tại Phật Lũng Sư giã biệt đại chúng rồi chất gỗ thành dàn tự châm lửa mà thiêu thân để báo đáp ân đức của Phật. Khói tỏa quanh như một cụm rừng.

Hài cốt Sư kết thành xá-lợi.

23. Thiền sư Đạo Thế:

Thuở nhỏ Sư cậy mình tài giỏi tham khảo khắp các bậc trí thức. Phàm vào nhà ai đều không phục họ, phàm ai đã chứng ngộ đều đến tham học. Kịp khi gặp tổ Trí Giả ở Ngọc tuyền mở nói về Chỉ Quán thì Sư được diệu ngộ nhanh chóng.

24. Thiền sư Tuệ Thao:

Sư nghe tổ Trí Giả nói pháp liền nhập Thâm Định. Mỗi lần nhập định suốt cả tuần nhật (mười ngày) coi đó là việc bình thường. Chỗ Sư ban đêm thường có ánh sáng lạ.

25. Thiền sư Tuệ Phổ:

Sư sớm gần gũi với tổ Trí Giả, nghe hiểu sâu xa Thiền Pháp, thường tu Pháp hoa Tam-muội, chiêu cảm được Đức Phổ Hiền cỡi Bạch Tượng phóng quang chiếu vào thân, Sư bỗng được ngộ nhập.

26. Thiền sư Pháp Thạnh:

Lúc đầu Sư đến Ngọc tuyền gặp tổ Trí Giả thọ học Pháp Yếu, sớm tối không lìa bỏ thiền định. Sau Sư đích thân thọ học quán Tâm Luận nên được thâm ngộ huyền chỉ. Khi tổ Trí Giả viên tịch rồi thì Sư ở tại Ngọc tuyền giáo hóa rất thạnh hành.

Thời đầu nhà Đường, Sư vào kinh sư, mỗi khi thuyết pháp thì miệng phóng ra ánh sáng, bốn chúng đều kính ngưỡng coi như Phật sống. Triều đình tôn quý đạo đức của Sư ban hiệu là Ngộ Chân Thiền Sư.

27. Thiền sư Pháp Luận:

Sư nương học ở Ngọc tuyền. Sư cùng các vị Cối kê Trí Giả, Chung Nam, Long Điền, Pháp Lâm đều là đệ tử đồng học với tổ Trí Giả và cùng tổ Trí Giả viết truyện, nay đều không còn. Biệt truyện của ngài Chương An soạn thì dùng bản của Quốc Thanh Trí Tịch Thiền sư rồi dần dần thêm nhiều hơn và được lưu hành ở đời. Cả bốn Sư này không có sự tích chi đáng tìm hiểu, nhưng các ngài cũng đều là bậc anh tài đắc đạo thời ấy cả (thấy trong tựa của Bách Lục và Biệt Truyện Chú).

28. Thiền sư Kỉnh Thiều:

Sư họ Nhan, người ở Thượng Ngu Cối kê. Lúc đầu Sư ở chùa Bạch mã hoằng hóa suốt mười năm. Khi tổ Trí Giả ở Ngõa quan thì Sư đích thân đến cầu học và được thâm nhập định tuệ. Đời Trần, tháng mười năm Chí Đức thứ nhất, Sư viên tịch ở chùa Khai thiện tại Chung sơn.

29. Thiền sư Tăng Trân:

Sư hầu tổ Trí Giả có hạnh giải sâu xa nổi tiếng. Lúc đầu Sư ở tại chùa Thắng quang ở Kinh Sư. Đời Đường năm Võ Đức thứ tư (Đường Cao Tổ) Sư chọn lấy cảnh danh thắng ở tại hai châu Đồng và Hoa. Triều đình cử Sư đến ở tại chùa Tuệ nhật, bấy giờ gọi đây là Đường Luận (Phật Đạo Luận Hành).

30. Đời Trần Hoàng Thái tử là Uyên:

Ngài là con của Trần Hậu Chủ. Vào ngày rằm tháng giêng năm Chí Đức thứ tư, ở điện Sùng chính có thiết trai cúng dường một ngàn Tăng, thỉnh Đại sư truyền giới Bồ-tát (Bách Lục nói văn thỉnh giới thì tên là Uyên, còn Nam sử nói tên Thâm. E là khi thỉnh giới nên đổi tên này chăng?). Trong bài Văn Thỉnh Giới có nói: "Trọng Đạo tôn sư xưa nay còn chuộng, xin đời đời kết duyên cho thỏa ý nguyện. " Ngày truyền giới truyền hương cầm tay thì dưới má có ngấn lệ. Sư đặt tên là Thiện Manh (mầm lành) và sau này Trần bị Tùy đánh bại thì mới biết được ý nghĩa của ngấn lệ đó là lời sấm nói về mình bị tổn thương. Còn tên Thiện Manh là ý nói không nên tài cán gì. Tháng giêng năm Trinh Minh thứ ba thì Tùy đánh bại Trần, binh sĩ gõ cửa nách mà vào. Lúc đó Thái tử mới mười lăm tuổi ngồi yên mà ủy lạo bảo rằng: Binh lính ở giữa đường cũng không khổ nhọc đến nỗi này! Ba tháng sau theo Hậu Chủ vào nước Tùy không biết sống chết ra sao.

31. Đời Trần, Vĩnh Dương Vương là Bá Trí:

Ông tự là Sách Chi, là con thứ tám của Văn Đế. Năm Chí Đức thứ nhất ông ra làm thứ sử Đông dương thỉnh Đại sư ra thị trấn khai giảng. Phải viết thư đến ba lần Sư mới đến, Vương và con là Trạm cùng người nhà đều xin thọ giới Bồ-tát và xin được thâu nhận làm đệ tử. Ngày thì nghe giảng thuyết, đêm thì tọa thiền. Việc diễn giảng sắp xong, Sư bèn đặt pháp danh cho Vương là Tĩnh Trí, rồi Vương viết sớ văn, lập đại hội, độ người xuất gia và đúc tượng Bồ-tát. Trong sớ văn có câu: "Nguyện đời đời kiếp kiếp xin cùng Xà-lê Thiên thai và chúng đạo tục nghe giảng, luôn kết thành bạn lành đồng hướng về Nhất thừa (Phật Quả). Sư bảo môn nhân là Trí Việt rằng: Ta muốn khuyên Vương tu phước trừ họa. Việt thưa: Phủ Liêu không phải như triều cũ, có thể đối xử đậm nhạt không đồng, Sư bèn thôi. Sau đó Vương xuất du, bị té ngựa sắp chết. Sư dẫn chúng đến hành lễ Quan Âm Sám Pháp. Vương tỉnh đôi chút tựa ghế mà ngồi, chợt thấy có vị Phạm Tăng tay bưng lư hương đi nhiễu quanh Vương một vòng, mùi hương phảng phất, các đau đớn liền hết.

32. Trần Châm:

Ông là anh của tổ Trí Giả, làm Trung Binh Tham Quân của Tấn An Vương nhà Lương. Năm bốn mươi tuổi, có Tiên nhân là Trương Quả xem tướng ông bảo rằng: "Sẽ chết trong tháng này. " Sư dạy nên tu Sám Phương Đẳng. Trần Châm thấy ở cửa Thiên đường có bảng đề: "Nhà của Trần Châm, mười lăm năm sau sẽ sinh về đây. " Về sau Trương Quả gặp lại Châm, kinh hãi hỏi rằng: Ngài uống thuốc gì? Đáp: Chỉ tu Sám thôi. Trương Quả bảo: Nếu không nhờ đạo lực thì đâu thể thoát chết được! Bèn sống thêm mười lăm năm nữa mới chết. Sư Trí Giả có soạn cho ông bộ Tiểu Chỉ Quán, ông học hỏi tu tập sớm tối không trễ nải.

33. Tưởng Thiêm Mân:

Làm quan Thái Trung Đại Phu cùng Ngô Minh Triệt chức Nghi Đồng Công... đều là hàng quý trọng của Triều Trần. Đồng học pháp Quán hơi thở, tập lâu không lười nhác, trí sáng được ngưng lặng. Tuy xưa bị khổ vì bệnh phong thấp nhưng cũng được lành.

34. Trầm Quân Lý:

Tự là Trọng Luân, người ở Ngô hưng. Ông cưới con gái của Trần Võ Đế là Cối kê trưởng công chúa chức Nghi Đồng. Ông thọ giới Bồ-tát với Đại sư, viết ra lời Sớ thỉnh Sư khai giảng Pháp Hoa Kinh Đề ở Ngõa quan. Vua Tuyên Đế ra lệnh bãi Triều một ngày để quần thần đến nghe giảng. Khi ấy quan Lộc Vương là Cố, Thị Trung Khổng Hoán, Thượng Thư Mao Hỷ, Bộc Xạ Chu Hoằng Chánh đều thọ nhận giới hương, cùng nghe giảng diệu pháp nhưng vẫn xin trọn một mùa hạ được nghe giải thích về huyền nghĩa. Cả đạo tục đều cùng hội họp, số người được khai ngộ rất đông (Diệu Huyền nói: "Chín tuần đàm diệu" tức là lúc này vậy).

35. Từ Lăng:

Tự là Hiếu Mục, người ở Đông viêm. Mẹ họ Tang mộng thấy mây ngũ sắc hóa thành chim phụng tập họp đậu trên vai trái rồi sinh ra ông. Vừa lên mấy tuổi Lăng được gia nhân dắt đến hầu Samôn Bảo Chí, ngài xoa đỉnh đầu ông nói rằng: "Đây là đá Kỳ lân ở trên trời!" Vân Pháp sư ở Quang trạch thấy Lăng khen rằng: "Cùng loại với Nhan Hồi đấy. " Năm lên tám tuổi, Lăng thuộc loại giỏi văn thơ, là quan Thiếu Sĩ ở nước Lương. Trong khoảng năm Đại Kiến nhà Trần, ông làm quan đến chức Thượng thư tả bộc xạ. Có lần mộng thấy cha mình bảo rằng: "Thiền sư Trí Giả là bậc Tông phạm lâu đời của ta, con nên một lòng tôn thờ. " Lăng tuân lời mách bảo của cha hết lòng kính ngưỡng. Học không kể thời gian, lạy không nệ ướt át. Mỗi khi làm văn viết sớ thì rửa tay đốt hương, đội mão, mang đai, lễ ba lạy, nín thở mở thư đọc văn trân trọng. Khi Nghi Đồng Trầm Quân Lý thỉnh Sư khai giảng Pháp Hoa thì Lăng đến dự nghe cho là tuổi già được nghe diệu lý, làm thư tự mừng. Về sau đến trước Đại sư Trí Giả làm bài Sớ phát năm nguyện nói rằng: Đệ tử nghĩ rằng muốn ra khỏi lưới trần nào phải do cánh mà thoát được. Vì thiện căn yếu kém nên cần phải có nguyện lực để trang nghiêm:

1. Nguyện khi lâm chung có được chánh niệm.

2. Nguyện không sanh tam đồ.

3. Nguyện được thác sinh làm người là nơi không cao không thấp.

4. Nguyện được xuất gia từ bé trì giới đúng pháp.

5. Nguyện không làm hạng Tăng tầm thường.

Căn cứ vào tâm nguyện này để cố gắng hướng về Tây Phương Cực Lạc (hai thư thấy trong Bách Lục). Về sau quả nhiên hậu thân của Lăng là tổ Pháp Hoa thứ sáu, nối ngôi ngài Chương An. Lúc Trần Hậu Chủ ở Đông cung có mời Lăng giảng Đại Phẩm. Các nghĩa học danh Tăng từ xa đều đến vân tập. Khi nhà Trần bị Tùy phá, ông thường theo tổ Trí Giả nghiên cứu tinh thông pháp yếu. Khi Tấn Vương xin Tịnh Danh Nghĩa Sớ thì Đại sư Trí Giả tiếp tục soạn ra hai mươi tám quyển, Lăng và Liễu Cố Ngôn cũng đóng góp về văn và nghĩa trong đó.

36. Vương Cố:

Ông tự là Tử Kiên. Đời Trần, năm Quang Đại thứ nhất, ông làm quan Thị Trung được phong làm Kim Tử Quang Lộc Đại phu. Trọn đời ông không ăn mặn, đêm thì ngồi thiền ngày thì tụng đọc kinh Phật. Có lần ông đi dâng tặng lễ nước Ngụy được đãi yến tiệc, ông xin tha giết một dê. Con dê liền đến trước ông quỳ lạy như để tạ ân. Lại trong yến tiệc ở ao Côn minh, vua Ngụy cho là người phương Nam thích cá nên cho giăng lưới rộng khắp, ông quyết dùng phép Phật ngầm cấm, quả nhiên không bắt được một con cá nào. Khi Đại sư Trí Giả giảng kinh Pháp Hoa ở Ngõa quan ông đến dự pháp hội liền được khai ngộ ngay sáng tỏ như được học từ lâu.

37. Liễu Cố Ngôn:

Ông Pháp danh Chánh Thiện, người ở Hà đông. Khi Tấn Vương mới thọ giới Bồ-tát sai Cố Ngôn dâng lễ vật cho Sư Trí Giả. Và nhiều lần vâng lệnh Vương, ông bèn đến ở với ngài Trí Giả, nhiều phen nghe được pháp yếu nên được khai ngộ sâu sắc. Khi tổ Trí Giả từ Giang lăng trở về thì Tấn Vương lại xin theo học thiền pháp. Sư Trí Giả nhân đó soạn quyển đầu của Bộ Tịnh Danh Nghĩa Sớ. Cố Ngôn và Từ Lăng có góp thêm văn nghĩa. Về sau ngài Trí Giả tiếp soạn xong bộ Huyền Nghĩa mười quyển, Cố Ngôn đáp thư rằng: "Khi đem đến Cung Nhân Thọ Vương đọc đi đọc lại tám lần thì các nghi bình thường đều dứt nhưng các mù mờ vi tế vẫn còn". Sư bèn sửa mới có sáu quyển, hợp với văn kia thành tám cuốn. Vì sửa mới chưa xong bởi quá ít thời gian tìm xét nghiền ngẫm. Nay sai sứ là Tiêu Thông Quốc đến tham hỏi ý của sách để tự chọn hiểu. Cố Ngôn nhiều phen được cố vấn. Mỗi lần đáp cho là Đại sư chắc đến, nên xin ở hết mùa hạ để tiện việc thuyền ghe. Nhờ đó mà buổi tàn niên ông hết lòng tu học, sám hối lỗi biếng lười ngày xưa. Mùa Đông năm Đại Nghiệp thứ nhất. Vua Tùy Dạng Đế sắc lệnh cho Cố Ngôn dựng bia cho tổ Trí Giả ở tại chùa Quốc thanh thiên thai, gọt lời chọn lý ai cũng thán phục công trình. Ông làm quan đến chức Nghi Đồng Tam Ty.

38. Mao Hỷ:

Ông tự Bá Phụ, người ở Dương võ. Thuở nhỏ rất hiếu học, giỏi về chữ Thảo và chữ Lệ. Thời Trần Tuyên Đế, ông làm đến chức Ngũ binh thượng thư. Khi ngài Trí Giả mở pháp hội ở Ngõa quan thì ông được làm chúng dự thính. Ông khẩn cầu thiền yếu và đích thân xin làm đệ tử của sư Trí Giả, thọ học Lục Diệu Môn và Tứ Thập Nhị Pháp Môn, suốt ngày đêm nghiên cứu tu tập không vì công việc mà bỏ qua. Đại sư Trí Giả ở tại Thạch tượng muốn đến

Thiên thai để xây cất đạo tràng. Ông viết thư khuyên Sư nên trở về, cho rằng ngọn Chung lãnh ở Nhiếp sơn cũng đủ chỗ gởi tâm. Nhưng Đại sư đã có chí nguyện nên khó thể ngăn được.

QUYỂN 10

PHẦN V - CÁC TỔ THUỘC NGÀNH THỨ (PHẦN 2)

C. Dòng thứ của ngài Chương An:

Đời thứ hai, gồm có:

Long Hưng, Hoằng Cảnh Thiền Sư. Nam Nhạc, Đại Tuệ Thiền Sư.

Gia Tường, Cát Tạng Thiền Sư. Thiên thai, Minh Khoáng Thiền Sư. Ngọc Tuyền, Đạo Tố Thiền Sư.

Đời thứ ba, Kỳ Xà, Trí Bạt Thiền sư (nối ngài Cát Tạng)

D. Dòng thứ của ngài Thiên Cung: Đời thứ hai:

Vĩnh gia, Chân Giác Thiền Sư. E. Dòng thứ của ngài Tả Khê:

Đời thứ hai gồm có:

Tiêu sơn, Thần Ấp Thiền Sư. Chí hình, Đạo Tuân Thiền Sư. Phật lũng, Đại Nghĩa Thiền Sư. Tử kim, Nguyên Tông Thiền Sư. Tứ minh, Đạo Nguyên Thiền Sư. Vụ nữ, Thanh Biện Thiền Sư.

Vụ nữ, Hành Tuyên Thiền Sư. Vụ nữ, Viên Tịnh Thiền Sư.

Vụ nữ, Pháp Khai Thiền Sư. Tam cù, Đạo Tân Thiền Sư. Tam cù, Tuệ Tùng Thiền Sư. Tỳ lăng, Thủ Chân Thiền Sư.

Tiền Đường, Pháp Đăng Thiền Sư. Tiền Đường, Pháp Chân Thiền Sư. Cối kê, Pháp Nguyên Thiền Sư.

Tân la, Pháp Dung Thiền Sư. (Ba vị sau thuộc Tả Khê Kỷ) Tân la, Lý Ứng Thiền Sư.

Tân la, Thuần Anh Thiền Sư. Cư sĩ Phó Lễ.

Cư sĩ Vương Nguyên Phước.

Đời thứ ba: Tiêu Sơn, Trí Ngang Thiền sư (bốn vị sau nối Sư Thần Ấp)

Tiêu sơn, Linh Triệt Thiền Sư. Tiêu sơn, Tiến Minh Thiền Sư. Tiêu sơn, Tuệ Chiếu Thiền Sư. Chi Hình, Linh Thâu Thiền Sư. (Bốn vị sau nối Sư Đạo Tuân) Chi hình, Pháp Thành Thiền Sư. Chi hình, Đạo Hân Thiền Sư.

Chi hình, Linh Nguyên Thiền Sư. F. Dòng thứ của ngài Kinh Khê:

Đời thứ hai gồm có:

Nam nhạc, Phổ Môn Thiền Sư. Long hưng, Nguyên Hạo Thiền Sư. Hoa đảnh, Hạnh Mãn

Thiền Sư.

Thiên thai, Trí Độ Thiền Sư. Kiến an, Pháp Ngung Thiền Sư.

Vân phong, Pháp Chứng Thiền Sư. Vô tánh, Pháp Kiến, Thiền Sư.

Hàn lâm học sĩ Lương Túc Sử bộ lang trung Lý Hoa.

Tán kỵ thường thị Thôi Cung (bốn vị sau nối

Sư Nguyên Hạo) Gián cơ đại phu Điền Giáo (Đôn)

Thân thông, ba mươi chín người (Đại sư

Truyền Luận) Đời thứ ba: Đàm Hoàn Thiền sư (nối Sư Phổ Môn)

Trí Tịnh Thiền sư (năm vị sau đây nối Sư Nguyên Hạo): Trọng Nghĩa Thiền Sư.

Tử Du Thiền Sư.

Đạo Như Thiền Sư. Trọng Lương Thiền Sư.

Long Hưng Trọng Tốn Pháp sư. Đời thứ tư:

Trung thừa, Liễu Công Xước. Thứ sử, Liễu Tông Nguyên. Trung thư, Trịnh Khổn.

Thứ sử, Mạnh Giản.

G. Dòng thứ của ngài Hưng Đạo: Hưng thiện, Thủ Tố Thiền Sư. Nhật Bản, Tối Trừng Thiền Sư.

H. Dòng thứ của ngài Chí Hành: Thiên thai, Lương Tư Thiền Sư. (Hai người sau thuộc Chí Hành Kỷ) Thiên thai, Kỉnh Văn Pháp sư. Thiên thai, Quang Thiều Pháp sư. Thiên thai, Duy Quyên Pháp sư.

Thiên thai, Thứ Sử Vi Hành (ở Chí Hành Bản Kỷ).

I. Dòng thứ của ngài Chánh Định: Đời thứ hai gồm có:

Thiên thai, Kỉnh Hưu Pháp sư. Thiên thai, Tuệ Ngưng Pháp sư.

Đời thứ ba: Thiên thai, Xứ Nguyên Pháp sư (nối Sư Tuệ Ngưng) Đời thứ tư: Thiên thai, Huyền Quảng Pháp sư.

J. Dòng thứ của ngài Diệu Thuyết:

Đời thứ hai: Quốc ninh, Thường Tháo Pháp sư. Đời thứ ba: Quốc ninh, Nghĩa Tùng Pháp sư.

Đời thứ tư: Quốc ninh, Đức Trù Pháp sư (nối

Sư Nghĩa Tùng). Đời thứ năm: Định thủy, Tuệ Vũ

Pháp sư (Hai vị Tứ Minh sau nối Sư Đức Trù).

Pháp tánh, Tu Nhã Pháp sư (ở Cối kê). K. Dòng thứ của ngài Cao Luận:

Đời thứ hai gồm có: Từ quang, Chí Nhân Pháp sư.

Diễn giáo, Giác Di Pháp sư (ở Long Hưng Tiền Đường). Đời thứ ba:

Từ quang, Ngộ Ân Pháp sư (bốn vị sau nối Sư Chí Nhân) Ung hy, Khả Vinh Pháp sư (ở Cô Tô).

Hải nam, Hoài Chí Pháp sư.

Tiền Đường, Nghĩa Thanh Pháp sư. Đời thứ tư: Phụng tiên, Nguyên Thanh Pháp sư. Linh quang, Hồng Mẫn Pháp sư.

Từ quang, Khả Nghiêm Pháp sư. Từ quang, Văn Bị Pháp sư.

Đời thứ năm:

Phạm thiên, Khánh Chiêu Pháp sư. (Bốn vị sau đây nối Sư Thanh)

Cô sơn, Trí Viên Pháp sư.

Sùng phước, Khánh Loan Pháp sư (ở Tiền Đường). Khai Nguyên, Đức Thông Pháp sư (ở Cối kê).

Quảng Tuệ, Uẩn Thường Pháp sư (ở Tiền

Đường nối Sư Khả Nghiêm) Đời thứ sáu:

Vĩnh phước, Hàm Nhuận Pháp sư. (Ba vị sau đây nối Sư Khánh Chiêu). Báo Ân Trí Nhân Pháp sư (Cối kê). Vĩnh Gia Kế Tề Pháp sư.

Cô sơn, Duy Nhã Pháp sư (nối sư Trí Viên). Đời thứ bảy:

Vĩnh Phước Thiện Bằng Pháp sư (ở Cối kê nối Sư Hàm Nhuận)

L. Dòng thứ của ngài Tinh Quang: Đời thứ ba gồm có:

Tuệ Quang, Tông Dục Pháp sư (Quốc Thanh). Quảng Giáo, Trừng Úc Pháp sư (ở Tiền Đường). Quảng Giáo, Bảo Tường Pháp sư (ở Tiền Đường).

Thạch Bích, Hành Tĩnh Pháp sư (Tiền Đường).

Thạch Bích, Hành Thiệu Pháp sư.

Thắng Quang, Thụy Tiên Pháp sư (Thiên thai).

Thông Giám, Tri Liêm Pháp sư.

Sùng Pháp, Nguyện Tề Pháp sư. Cao Ly, Đế Quán Pháp sư.

Ngô Việt, Tiền Trung Ý Vương. Thường Ninh Khế Năng Pháp sư.

(Nhóm mười vị sau đây nối Sư Tông Dục).

Thông Chiếu, Giác Minh Pháp sư (Tiền Đường Thiên Khoảnh). An Quốc, Chí Trăn Pháp sư (Các vị dưới đây đều ở Tiền Đường). Bảo Sơn, Hoài Khánh Pháp sư.

Minh Giáo, Hiểu Thừa Pháp sư. Bảo Tạng, Ngộ Chân Pháp sư.

Đảnh Sơn, Hoài Chí Pháp sư (ở Cô Tô).

Linh thứu, Chí Luân Pháp sư (đều ở Tiền Đường). An Quốc, Tiêu Nhàn Pháp sư.

Từ Tuệ, Khánh Văn Pháp sư (Cối kê).

M. Dòng thứ của ngài Bảo Vân: Đời thứ hai gồm có: Thiên Trúc, Tuân Thí Pháp sư.

Diên Khánh, Dị Văn Pháp sư.

Hưng Quốc, Hữu Cơ Pháp sư (Tứ Minh)

Quảng Tuệ, Thể Nguyên Pháp sư (Tứ Minh và Củ Sư Thư) Thừa Thiên, Thanh Hiểu Pháp sư (Tiền Đường)

Tiền Đường, Thiện Tín Pháp sư (Tứ Minh Bản

Kỷ)

****

DÒNG THỨ CỦA NGÀI CHƯƠNG AN

1. Thiền sư Hoằng Cảnh:

Sư họ Văn, người ở Phú dương. Năm Trinh Quán thứ hai mươi hai, Sư ở chùa Ngọc tuyền vâng lệnh vua mà được độ. Sư nương ngài Chương An thọ học Chỉ Quán, thường tụng Pháp Hoa được Đức Phổ Hiền hiện thân chứng minh, có các thiên đồng đứng hầu hai bên. Về sau Sư lên ở biệt lập trong một tinh xá có tên Long hưng cách phía Nam chùa Ngọc tuyền mười dặm. Triều Thiên Hậu năm Chứng Thánh thứ nhất, triều đình có chiếu lệnh cho Sư và Thật-xoa Nan-đà… cùng dịch kinh Hoa Nghiêm. Từ thời Thiên Hậu đến Trung Tông có ba chiếu lệnh của triều đình mời Sư vào cung cúng dường và làm Giới Sư. Sau Sư xin trở về núi, vua sắc lệnh cho Sư ở cung Lâm quang, là một trong số hai mươi vị Thiên Hạ Danh Tăng, Sư thiết trai Tăng để tu phước. Vua làm thi phú lại bảo Trung Thư Lệnh là Lý Kiêu… hòa vận rồi đem tặng Sư. Sư kính cẩn bưng các bài thi vái dài rồi chống tích trượng đi khoe khắp thiên hạ.

2. Thiền sư Cát Tạng:

Sư là người ở Kim lăng. Năm lên bảy tuổi đã nương ngài Hưng Hoàng Lãng Pháp sư xuất gia, học hiểu nghĩa lớn. Về sau Sư đến Cối kê và ở tại chùa Gia tường, diễn giảng kinh Pháp Hoa và tự viết các chương sớ. Khi tổ Trí Giả trở về Thiên thai thì Sư và Thiền chúng hơn trăm người dâng sớ thỉnh Tổ giảng kinh Pháp Hoa nhưng Tổ không chấp nhận. Kịp khi ngài Chương An hoằng pháp rất hợp ý Sư, nhân đó Sư cầu giảng Pháp Hoa Huyền Nghĩa. Ngài đưa cho quyển kinh, Sư xem qua một lần bèn cảm ngộ. Bèn đốt bỏ bài Sớ cũ rất hối hận về việc làm trước rồi đến nương nhờ ngài Chương An học hỏi Quán pháp. Khi ấy vua Tùy Dạng Đế sắc lệnh cho Sư ở chùa Nhật nghiêm tại kinh sư diễn giảng diệu kinh, cả bốn bộ chúng đều vân tập ủng hộ. Vua Đường Cao Tổ chiếu lệnh cho Sư ở chùa Diên hưng. Một hôm vào buổi sáng Sư tắm gội, đốt hương, niệm danh hiệu Phật rồi ngồi mà viên tịch. Bình thời Sư viết chép diệu kinh được hai ngàn bộ, giảng kinh Pháp Hoa ba trăm lượt, giảng đại phẩm Hoa Nghiêm, Duy-ma, Đại Luận mỗi thứ mấy mươi lượt và viết các chương sớ lưu hành ở đời. Đến ngày lâm chung thì viết quyển Tử Bất Bố Luận rồi ném bút mà hóa.

3. Thiền sư Minh Khoáng:

Sư người ở Thiên thai, nương ngài Chương An mà học về Giáo Quán, Sư rộng hoằng hóa bốn chúng, chuyên tụng Pháp Hoa. Ngài Chương An soạn về Đại Ý Tám Giáo. Sư đứng đầu ở chùa Tam đồng chép lại và thọ trì. Bình thời Sư trước tác rất nhiều, nay chỉ còn bộ Tâm Kinh Sớ mà thôi.

4. Thiền sư Đại Tuệ:

Vua Đường Thái Tông có ban hiệu cho Sư nhưng quên mất tên. Lúc đầu Sư nghe ngài Chương An nói về Chỉ Quán liền được diệu ngộ. Sư ẩn cư ở Nam nhạc chuyên việc tu thiền, chim thú đều luôn quanh quẩn ở chỗ Sư ngồi, mọi người kính phục sự từ hóa của Sư.

5. Thiền sư Trí Bạt:

Sư họ Trương, người ở Tương dương. Lên sáu tuổi đã xuất gia nương chùa Thường tế. Mỗi ngày tụng năm tờ kinh Pháp Hoa, biết tóm tắt nghĩa lý trong kinh một cách có chuẩn mực. Sư thường bảo: Kinh này là đại sự xuất thế của chư Phật, thế nên nếu một người một đạo không hoằng truyền thì không thông suốt. Sư được nghe khắp đã xong bèn vào kinh Sư gặp Thiền sư Cát Tạng. Ngài bảo thuật lại. Sư nói: Nhất thừa là mây bèn phân ra làm ba, cũng có thể Nhất thừa là mưa mà phân ra làm ba chăng? Chúng không đáp được. Ngài Cát Tạng bảo: Câu hỏi này đã thâm nhập ý chỉ của kinh, bèn phú chúc đại pháp cho Sư. Về sau Sư đến ở chùa Kỳ-xà sơn, thường giảng Pháp Hoa một năm năm lượt. Tháng chín năm Trinh Quán thứ mười bốn, Sư ở nhà Tín sĩ Trương Anh khai giảng Pháp Hoa Đề xong thì cùng chúng nói lời từ biệt, rồi ngồi kiết già trên tòa mà hóa.

DÒNG THỨ CỦA NGÀI THIIÊN CUNG

Thiền sư Huyền Giác:

Sư họ Đái, người ở Vĩnh gia. Sư xuất gia rồi tham học khắp ba tạng, rành rẽ về Chỉ quán viên diệu pháp môn của Thiên thai, trong đi đứng nằm ngồi Sư luôn thiền quán. Nhân ngài Tả Khê Lãng Công khích lệ, Sư bèn cùng Đông dương Sách Thiền sư đến Tào Khê gặp Lục tổ. Sư chống tích trượng đi nhiễu quanh Tổ ba vòng.

Tổ bảo: Phàm là Sa-môn phải đủ ba ngàn oai nghi tám vạn tế hạnh, Đại Đức ở phương nào đến đây mà sinh đại ngã mạn?

Sư đáp: Sinh tử việc lớn vô thường nhanh chóng.

Tổ: Sao không thể nhập Vô sinh, vô sinh hiểu rõ không nhanh chóng sao?

Sư: Thể tức vô sinh, hiểu vốn không nhanh chóng. Tổ: Đúng thế! Đúng thế!

Bấy giờ Đại chúng đều kinh ngạc. Sư bèn kính cẩn tham lễ Tổ, giây lát xin cáo biệt.

Tổ bảo: Về nhanh thế!

Sư: Vốn tự không động sao lại có nhanh. Tổ:

Ai biết không động?

Sư: Nhân giả tự sinh phân biệt đó thôi. Tổ: Ông rất hiểu được ý vô sinh.

Sư: Vô sinh há có ý sao?

Tổ: Không ý thì ai sẽ phân biệt? Sư: Phân biệt cũng không phải ý. Tổ: Lành thay, lành thay!

Sư bèn nghỉ lại một đêm. Người thời ấy gọi là giác một đêm. Sáng hôm sau Sư trở về Ôn giang, người đến học đông đảo gọi là Chân Giác Đại sư. Thời Duệ Tông năm Tiên Thiên thứ nhất, Sư ngồi yên mà thị tịch. Tháp ở Tây sơn. Vua thụy phong cho Sư là Vô Tướng Đại Sư. Tháp đề: Tịnh Quang, quan thứ sử Khánh châu là Ngụy Tĩnh, góp nhặt văn Sư đã viết thành mười quyển gọi là Vĩnh Gia Tập.

Nhân Thảo Am nói: Ngụy Tĩnh thâu nhặt các Di Văn của Sư gồm mười thiên lập thành một tập, các thư phúc đáp bạn bè và người khác cũng có phụ vào nhưng không phụ lục "Chứng Đạo Ca" là sao? Vì ép mà nói vậy. Bởi chứng đạo gọi là Ca, là Pháp mà Như Lai lập ra để tu chứng thì không ngoài Tạng, Thông, Biệt, Viên. Nay cái gọi là đạo thì tu chứng của Tạng Thông hay tu chứng của Biệt viên? Nếu bỏ đây mà riêng có tu chứng thì được cái không phải như Vĩnh Minh gọi là không nương vào địa vị của Thiên ma ngoại đạo đó ư? Nghĩa Thần Trí nói rằng: Thảo sớ tầm kinh, phân biệt danh tướng tự mình không thấu suốt mà thôi, chứ không phải lỗi ở kinh luận. Không biết ai thảo ra lời sớ đó ư? Nếu là sớ của Từ Ân… thì còn được, chứ sớ của Thiên thai thì đều phải có phương thức quy cũ nhiếp pháp nhập Tâm quán cùng với Kinh họp nhau chớ không phải là đếm các báu của người khác. Há có thể gọi đó là phân biệt danh tướng mà thôi ư?

Hồng Giác Phạm nói rằng: Phạm Tăng Giác Xứng cho Tây Trúc gọi bài ca này là kinh Đại thừa ở Đông độ. Nếu lấy nghĩa Thiên Bạt Biệt Truyện mà luận bàn thì bài ca này đặc biệt chưa gặp người thấu rõ, vậy hãy đốt nó đi.

Luận rằng: Theo Tả Khê Bản Kỷ thì Xứng và Chân Giác là bạn đồng môn. Trong Chân Giác Truyện thì Xứng do ngài Tả Khê khích lệ bèn đến gặp Tổ Tào Khê, nhưng lại nói hiểu rành Đạo Quán

Chỉ của Thiên thai thì biết là kẻ đồng học với ngài Thiên Cung không còn nghi ngờ gì nữa. Huống trong Vĩnh Gia Tập lại dùng toàn là ý chỉ Chỉ Quán giá chiếu. Đến đây thì càng đáng tin người ấy phải có liên hệ với ngài Thiên Cung có ý dùng cái thấy của Thầy mình trao cho. Nhưng Chứng Đạo Ca truyền trên đời có lời và ý trái nhau nên người xưa gọi đó không phải là Bản Thật, há chẳng phải thế ư?

DÒNG THỨ CỦA NGÀI TẢ KHÊ

1. Thiền sư Thần Ấp:

Sư tự Đạo Cung, là hậu duệ của Tấn thái úy Thái Mô, tổ tiên là những kẻ cứng cõi của nước Việt. Lúc Sư còn nằm trong bao điều trẻ khi nghe tiếng đọc kinh thì liền chú ý lắng nghe. Năm mười ba tuổi thì xuất gia nương ngài Pháp Hoa Tuấn Sư. Đến năm khai nguyên thứ hai mươi sáu thì vâng lệnh vua mà được độ, theo học luật Tứ Phần với Nghiễm Sư, Sư bảo: "Đứa bé này tất là học giả ở Ty nam. " Do đó đến nương ngài Tả Khê mà học Chỉ Quán Pháp Hoa Huyền Nghĩa. Suốt năm hạ Sư diễn giảng người nghe đều vui thích kính phục. Năm Thiên Bảo, Sư đến Trường an ở tại chùa An quốc, các hàng công khanh đến hỏi đạo kiệu xe chen nhau. Vừa lúc gặp loạn An Sử, Sư chống tích trượng trở về Đông, đạo được truyền ra Tương hán. Có Trứ Tác Lang là Vi Tử Xuân học giỏi, tánh cang cường, cùng Sư thù tạc, Tử Xuân lạy dài kính phục. Trong thư Xá Nhân là Phạm Hàm khen rằng: "Sư đáng gọi là ngọc Ma-ni chẳng vấy bụi, Sư tử rống của luận bàn. " Khi Sư trở về quê cũ thì ở tại chùa Pháp hoa. Từ cuối năm Chí Đức đến Đại Lịch, Sư nhiều phen được chúng thỉnh đăng đàn truyền giới. Từ Đơn Dương trở về Nam, Kim Hoa ra phía Bắc đều gọi Sư là Giáo Thọ sư. Sư cất Giàlam ở Tiêu sơn được vua ban biển đề. Năm Đại Lịch thứ nhất, Trung Nhạc Đạo Sĩ là Ngô Quân viết luận hủy báng Phật, quan Sát sứ là Trần Thiếu Du thỉnh Sư quyết đoán. Sư hẹn Ngô Quân gặp mặt để luận tà chánh, cờ trống vừa đến thì Quân đã thua chạy về phương Bắc. Sư bèn viết Phiên Tà Luận ba quyển để công kích bọn dư đảng của Quân. Đệ tử của Sư gồm có Trí Ngang, Linh Triệt, Tiến Minh, Tuệ Chiếu… chỉ một năm theo học thì đều giảng nói về thiền tuệ nổi tiếng đương thời.

2. Thiền sư Đạo Tuân:

Sư tự Đông Đạt, họ Trương, người ở Ngô hưng. Năm hai mươi tuổi Sư thọ giới Cụ túc, học Tỳ-ni. Sư lại tham học với ngài Tả Khê, tu tập Chỉ Quán và Pháp hoa Tam-muội. Có lần Sư thong dong bảo môn nhân rằng: Dân của Nghiêu Thuấn tất không sống một mình là do dạy dỗ hoàn hảo. Nếu dạy mà không hoàn hảo thì dân nào có lỗi gì? Bèn rộng chép Pháp Hoa, lập kinh viện ở núi Chi hình tại Cô Tô. Sư đề cử mười bốn vị Sa-môn cao hạnh thường trì tụng Pháp Hoa, hết ngày thì đốt đuốc ban đêm mà trì, để phô bày từ thinh của Đấng Đại Hùng. Năm Đại Lịch thứ nhất, quận Thứ sử Vi Nguyên Phủ, Thượng thư Lục Yên… tôn kính ngưỡng mộ Đại thừa cùng tấu biểu lên vua, được vua ban tên Pháp Hoa đạo tràng. Do đó từ Giang lên phía Đông lập được mười bảy kinh viện đều theo cách của Sư cả. Sư ở trong núi đúc tượng chép kinh, diễn giảng diệu pháp, lên đàn độ người, suốt năm không hề rảnh. Năm Thiên Bảo thứ nhất, Sư ở Linh nham đạo tràng tu Pháp hoa Tam-muội, chợt thấy có ngọn đuốc sáng rực ở giữa trời cao toàn thân Sư đắm mình trong ánh sáng. Sư đem hỏi ngài Kinh Khê, ngài bảo: "Ánh sáng trí tuệ từ tâm phóng ra, ông sắp được hiển phát khung trời Đệ nhất nghĩa vậy. " Sư lại có lần thấy thân mình ngồi trên không trung. Sư Tiên Đạt bảo đó là tướng cấu hết, lý sáng rỗng suốt vô ngại. Buổi tối tháng bảy năm Hưng Nguyên thứ nhất, Sư không có tật bệnh mà viên tịch. Chúng trong chùa cùng mộng thấy đại điện chợt nghiêng đổ, thì biết là điềm bậc Pháp tượng sắp viên tịch. Hàng đệ tự truyền giáo của Sư như Linh Thâu Pháp Thạnh, Đạo Hân Linh Nguyên đều giỏi hoằng hóa thiền pháp.

3. Thiền sư Đại Nghĩa:

Sư họ Từ, người ở Tiêu sơn. Năm lên bảy tuổi được truyền trao kinh truyện, mỗi ngày đọc mấy ngàn lời. Năm mười hai tuổi, Sư nhập đạo ở chùa Linh ẩn tại Sơn âm. Khi vua Trung Tông lên ngôi liền phong tặng tổ tiên các quan và độ người, Sư thi tụng Pháp Hoa và trúng tuyển hạng nhất. Giữa năm Khai Nguyên, nhân có tang thân nhân Sư vào Phật lũng đọc Đại Tạng để cầu phước cho vong linh người chết. Bèn đến gặp ngài Tả Khê thọ học Chỉ Quán và được đại ngộ huyền chỉ. Sư thường tụng Pháp Hoa, Niết-bàn và Đại Tiểu Giới Bản, lấy đó làm chánh nghiệp. Đến ngày Sư viên tịch, chúng nghe có tiếng đàn sáo bèn bàn nhau là điềm Thiên đế đến đón thỉnh Sư tụng kinh.

4. Thiền sư Nguyên Tông:

Sư họ Ngô, người Vĩnh gia, đến Giang lăng du học gặp ngài Tả Khê thọ học thiền yếu. Về sau Sư ở tại Tử Kinh Sơn chuyên tu Thiền Quán. Xưa ở trong núi ấy có rất nhiều hổ dữ, từ khi Sư đến ở, tuyệt nhiên không còn dấu vết. Một hôm học chúng tụ tập đông đảo, bỗng thấy có một cụ già chạy đến lạy trước tòa, tự nói đệ tử chính là hổ, ở đây ăn người rất nhiều. Nhân Sư khai hóa được thoát thân hổ. Nay sắp sinh lên trời nên đặc biệt đến đây tạ ân, nói xong biến mất. Năm Đại Lịch thứ hai Sư ngồi ngay ngắn mà viên tịch.

5. Thiền sư Đạo Nguyên:

Sư là người ở Tứ minh thọ học tại chùa Đại bảo (nay là Vĩnh Minh Từ Khê). Lâu ngày Sư nương nhờ ngài Tả Khê học hỏi pháp Chỉ quán, thông suốt ý chỉ sâu kín, học chúng rất tâm phục (trong bài bia, Lý Hoa Tả Khê nói rằng: Đạo Nguyên ở Minh châu đã uống cạn đạo vị của ngài Tả Khê).

6. Thiền sư Pháp Nguyên:

Sư thọ học với ngài Việt Chi Pháp Hoa. Rồi theo học với ngài Tả Khê mà được đạo (Nhan Chân

Khanh, trong Giới Đàn Ký ở chùa Bảo ứng tại Võ châu nói: Bèn mời Chỉ Quán Đại sư là Pháp Nguyên và Sư Pháp Tuyền cùng chung lo việc huân tu, lúc đó là năm Đại Lịch thứ sáu).

DÒNG THỨ CỦA NGÀI KINH KHÊ

1. Thiền sư Phổ Môn:

Sư họ Hà, người ở Nhạc dương. Cha là Giới làm Nghi hưng úy ở Thường châu và định cư ở đó. Sư thuở nhỏ rất chuyên cần học hỏi, đậu Tiến sĩ, làm quan ở triều đình. Một hôm tỉnh ngộ đời là giả dối bèn từ quan, cạo tóc vào ở chùa Nam nhạc. Chung quanh chỉ toàn sách vở Phật Nho, áo gai, hài cỏ mà thôi. Do đó Sư đến gặp ngài Kinh Khê học ý chỉ của Chỉ Quán Pháp Hoa mà được khai ngộ sâu sắc. Sư giỏi thuộc văn thí, chuộng ý xưa. Kinh Khê kính trọng Sư, đãi nhau như bạn Đạo. Sư viết hai bài tựa cho Phụ Hành và Thích Thiêm, tự xưng là Phổ Môn Tử, lời lẽ của bài tựa giản dị, mạnh mẽ, chỉ rõ cái xấu của người tập thiền. Lương Túc khen rằng: Cao Tăng ở Đông nam có Phổ Môn và Nguyên Hạo là bạn thâm giao sâu sắc (trong lời tựa Tống Hư Sư). Ngày mồng sáu tháng Quý Đông năm Trinh Nguyên thứ tám, Sư viên tịch ở nhà riêng tại Quân sơn, thọ tám mươi bốn tuổi. Đệ tử được truyền giáo là Đàm Hoàn góp nhặt các di văn của Sư có hơn hai trăm thiên lưu hành trên đời (Sư ở làng Quân sơn, huyện Nghi hưng, chùa Tịnh lạc theo học với ngài Kinh Khê. Cách mấy dặm có chùa Nam nhạc).

2. Thiền sư Nguyên Hạo:

Sư tự Quảng Thành, họ Tần người ở Ngô môn. Lúc đầu ở chùa Long hưng theo ngài Kinh Khê thọ học đạo Pháp Hoa, Chỉ Quán. Vui ở chốn núi rừng luôn để tâm vào Tam-muội. Về sau Sư đến ở chùa Khai nguyên. Hai bác Lương, Điền khuyên Sư trước thuật. Sư bèn chú giải kinh Niết-bàn. Trong bài tựa đầu Sư tự nói chỗ chứng của mình. Khi Sư làm lời Sớ thì có sự cảm ứng, sân thềm mọc ra hoa lạ, người đời không hề biết. Loài chim năm màu bay lượn tới lui. Vào tháng Trọng Đông năm Nguyên Hòa thứ hai mươi Sư viên tịch, tháp Sư ở tại Nam Nguyên của Hổ Khâu. Bạn đồng học của Sư nổi tiếng có hơn trăm vị. Nếu không kể các Tăng thì có ba vị là Hàn lâm Lương Túc, Gián Nghị Điềm Đôn và Thường Thị Thôi Cung. Hàng môn nhân thọ học có danh tiếng ở đời là: Trí Tịnh, Trọng Nghi, Tử Du, Đạo Như, Trọng Lương…

3. Thiền sư Hạnh Mãn:

Sư là người Nam phổ ở Vạn châu. Đầu tiên Sư tới ngài Thạch Sương học thiền pháp. Về sau ở Thiên thai nghe ngài Kinh Khê giảng nói Chỉ Quán mà ngộ nhanh về diệu chỉ. Nhân đó Sư làm chức Trà đầu ở viện Trí Giả trên ngọn Hoa đảnh. Đêm đến nằm trên giường đất Sư lấy rác đốt cho ấm đất, rồi cởi áo nằm lên, đám cháy rận bò lốp ngốp hoặc bám vào áo mà không còn nữa. Nơi ở là ngoài hiên, những nhánh chùm gửi trên cành tùng to gặp khi Sư ngồi thì dịu dàng rũ xuống. Người thời ấy bảo cây này cúi chào Trà đầu. Trong suốt bốn mươi năm Sư chưa hề tiểu tiện. Có kẻ bảo đó là Bồ-tát hiện thân, ăn vào mà thật là không ăn nên mới như thế. Trong năm Khai Bảo, Sư nói trước với mọi người rằng: "Ta sắp đi đây!" Liền thỉnh chúng đọc danh hiệu Văn-thù rồi im lặng mà viên tịch, thọ tám mươi tám tuổi. Sư đã từng viết sớ kinh Niếtbàn, Thiền sư Pháp Ngung ở chùa Kiến an tại Tỳ lăng xây cất Chỉ quán đường, thỉnh ngài Kinh Khê ở trong đó giảng kinh. Lương túc làm bài ký về Chỉ quán đường.

4. Lương Túc:

Ông tự là Kỉnh Chi, người ở An định. Trong khoảng năm Đại Lịch và Trinh Nguyên, các văn sĩ phần nhiều đều chuộng cổ học, chỉ có Lương Túc được coi là uyên áo nhất. Liễu Tử Hậu Ký nói: Các bạn trước của ông cũng khen ngợi văn ông là hay nhất. Ông đã từng học đạo Thiên thai với ngài Kinh Khê được tâm yếu sâu sắc. Ông giữ lễ đệ tử rất cung kính đối với ngài. Ông thấy văn nghĩa của bộ Chỉ quán quá dài, khi xem phí nhiều thì giờ, nên sửa lại làm sáu quyển (Ngài Từ Vân nói rằng: Văn tuy có tóm gọn nhưng cách tu lại quá tóm, thiếu).

Ông lại làm bộ Thống Lệ để đời sau biết pháp hệ. Ông cho bộ Chỉ Quán là sách Cứu Thế Minh Đạo, lại làm bộ Đại Sư Truyện Luận, trình bày đầy đủ về hệ thống truyền giáo. Đời bảo: Nếu luận về văn ông thì hùng, thâm, nhã, kiện, còn nói về lý thì sáng rõ thông suốt. Ngự sử Thôi Cung luận rằng: Biết Pháp Yếu, rành Quyền Thực mà làm bia Thiên Thai Thiền Lâm Tự. Thấu Giáo Nguyên, dùng cảnh trí viết bia Kinh Khê Đại Sư (thấy ở bài tựa Lương Thị tập của Thôi Cung). Ông lại nói: Triều đình chuộng Đức nên cho ông (Lương Túc) làm Thái tử Thị Độc. Nước quý Thực Lục, nên để ông làm Sử Quán Tu Soạn. Phát hiệu lệnh bày đạo vua nên phong ông làm Hàn lâm học sĩ. Cả ba chức đều nổi tiếng ngang nhau, nên việc ông làm quan ở triều đình thì không cho là không đạt. Tuổi ông hơn bốn mươi, Sĩ Lâm đều ngưỡng mộ, đem sánh với Nhan Hồi Hoàng Thúc Độ cũng không cho là không thọ. Đối với ông thì: Thân già lận đận nẻo quan, bạc đầu cõi thế lo toan ích gì?

5. Lý Hoa:

Ông tự Hà thúc, người ở Tán hoàng, Triệu châu. Đã nhiều lần ở Hoằng Từ Khoa đỗ Tiến sĩ. Năm Thiên Bảo thứ mười một, ông dời sang làm Hữu bổ khuyết. Khi có loạn An Lộc Sơn, ông lui về ở Giang nam. Lý Hiện dâng biểu vua bổ ông ra làm quan rồi được thăng chức Lại Bộ Viên Ngoại.

Bị khổ về bệnh phong tê ông liền từ quan làm khách ở Sơn dương, ép buộc con em chuyên về nghề nông sống yên nơi sơn dã. Buổi vãng niên, ông chỉ lo phụng sự Phật pháp, không sáng tác văn thơ bao nhiêu, ông chỉ chuyên làm gia truyện và mộ bản của các quan Đại phu hoặc các bia tụng ở châu huyện, người ta thường mang vàng lụa đến mời nên đành gượng làm. Ông từng theo học Chỉ Quán với ngài Kinh Khê và viết thành một thiên Đại Ý. Năm Đại Lịch thứ nhất, ông qua đời ở nhà riêng.

DÒNG THỨ CỦA NGÀI HƯNG ĐẠO

Pháp sư Thủ Tố:

Lúc đầu Sư theo Thúy sư học pháp Tâm quán và được ngộ huyền chỉ. Sư vào ở chùa Đại hưng thiện tại kinh sư. Chân không hề ra khỏi cổng, luôn trì tụng kinh Pháp Hoa hơn ba vạn bảy ngàn bộ. Đêm đến có hổ lang đến hầu quanh tòa để nghe kinh, ăn thì chim ô thước đậu trên tay mổ thóc. Samôn U Huyền làm thi tặng Sư có hai câu:

Ba vạn hoa kinh ba mươi xuân Nửa đời trần lụy chẳng lấm chân.

Người thời ấy lấy câu này làm thực lục về Sư.

DÒNG THỨ CỦA NGÀI CAO LUẬN

1. Pháp sư Ngộ Ân:

Sư tự là Tu Kỷ, họ Lộ, người ở Thường Thục. Năm mười ba tuổi, sư nghe tụng kinh Di-đà có điều cảm ngộ, bèn đến chùa Hưng phước ở Phá sơn cầu xuất gia. Lúc đầu sư học Tỳ-ni. Nghe thuyết Tam Quán Lục Tức ở Thiên thai rất phù hợp ý mình. Đời Tấn năm Khai Vận thứ nhất, Sư đến thất của Từ Quang Nhân Sư ở Tiền Đường. Sư Nhân bèn giảng thứ lớp, thuật lại, mổ xẻ, phân tích những chỗ kín đáo nhỏ nhiệm. Lúc bấy giờ Sư được khen là Nghĩa Hổ. Sư nối gót hoằng pháp, Đạo danh là Đại Bá. Lúc đầu là một nhà giáo điển. Nhưng từ năm Hội Xương hủy phá Phật pháp nên Văn nghĩa phân tán mất mát. Sư liền giải bày Thập Diệu, nghiền xét Ngũ Trùng, diễn giải hơn hai mươi lỗi của Đại Bộ. Pháp Hoa Đại Ý sáng chói trên đời đều là do sức của Sư cả. Sư nói với mọi người rằng: Bất luận Hiền Ngu đều chỉ bày viên ý Nhất thừa. Có kẻ nghi hỏi người bất thiện đậu cơ thì thế nào? Sư bảo: Thì phải tạo duyên Độc cổ cho họ mà thôi! Bình thời Sư ăn ngày một buổi, không rời y bát, không chứa của cải, nằm thì nghiêng về hông phải, ngồi thì kiết già. Buổi cháo sáng thì nhìn minh tướng, mỗi khi Bố tát (Hán dịch là Tịnh Trụ) khi đại chúng vân tập thì Sư âm thầm nhỏ lệ, bởi nghĩ đến trong Đại Tập có câu giới không giới đầy cả cõi Diêm-phù. Thường đem nghiệp Tịnh độ ra khuyên người. Người được vãng sinh nhiều điềm tốt. Ngày mồng một tháng tám năm Ung Hy thứ ba, nửa đêm có ánh sáng trắng từ giếng phóng lên. Sư gọi môn nhân bảo rằng: "Báo duyên của ta đã mãn. " Bèn tuyệt thực cấm khẩu một lòng niệm Phật. Bỗng mộng thấy có Sa-môn đắp y, tay bưng lư vàng đốt hương đi nhiễu quanh thất Sư ba vòng, tự xưng là Quán Đảnh, "Ta đã vãng sinh Tịnh độ, mừng thầy đã tu tốt nên đến đây đón rước. " Tỉnh mộng kể chuyện lại, đồ chúng vẫn còn nghe mùi hương lạ. Đến ngày hai mươi lăm nói giảng cho chúng về chỉ quy của Chỉ Quán và đại nghĩa của Quán Tâm rồi ngồi thẳng, quay mặt về hướng Tây mà thị tịch. Chúng trong chùa đang dọn dẹp các văn bài của Sư thì nghe tiếng đờn sáo chuông mõ trên không trung một lúc lâu xa dần. Khi trà-tỳ thì được vố số xá-lợi. Đến ba mươi mốt năm sau có pháp tôn của Sư là Trí Viên đến nhặt di cốt ở Học chúng rồi đục đá làm tháp an táng tại Mã Não Pha.

2. Pháp sư Văn Bị:

Tự Chiêu Bản, họ Trịnh, là người ở Hầu quan, Phước chi. Sư tụng kinh Pháp Hoa, Duy-ma, Viên Giác, Thập Lục Quán, Tiểu Bát-nhã v. v… tinh luyện mãi không quên. Khoảng năm Thiên Phước đời Tấn, Sư đến Cối kê truyền Bách Pháp Luận. Nghe ở Thiên thai có Tam Quán dùng làm kim chỉ nam cho người học, bèn đến gặp Sư Nhân, ngày đêm chú tâm nghiên cứu, gồm cả Sớ cú các kinh Pháp Hoa, Tịnh Danh hay các văn chỉ Quán Sư đều thông suốt ý chỉ. Mỗi khi cùng đồng môn hay Ân Sư thuật lại Quán Pháp thảy đều vừa ý. Ngài Ngộ Ân bảo mọi người rằng: Để dự bị cho đoàn hậu tấn nên ông ấy đã cùng ta gắn tìm cách diễn giải nghĩa lý. Khi Sư Ngộ Ân tịch rồi thì Sư càng tôn kính thầy, quyết tâm hoàn thành sự nghiệp. Sư có bản tính thâm trầm, trọn ngày như ngu khờ. Có khi khuyên dạy người thì Sư nói: Giảng dạy rất nhiều người Tổ phong chưa hề suy giảm, kháng tích mở đường hãy theo điều ta thích. Do đó Sư định thần diệu quán, ngồi nhập định trong thất hơn ba mươi năm. Vào tháng tám năm Ung Hy thứ hai, Sư có chút bệnh ngồi dựa ghế, ba lần hiện Viên tướng, gọi người hầu bảo rằng: Đây là ta thấy cõi Tịnh độ vậy. Nói xong Sư xếp chân mà thị tịch.

3. Pháp sư Khánh Chiêu:

Sư tự là Tử Văn, họ Hồ, người ở Tiền Đường. Lúc nhỏ nương theo Khai hóa viện mà xuất gia. Năm mười ba tuổi Sư thọ giới Cụ túc, học đạo Thiên thai. Lại nương Thanh Sư ở Phụng tiên mà cố gắng tu học suốt mười bảy năm. Khi ngài Phụng Tiên tạ thế thì chúng thỉnh Sư nối thầy giảng dạy. Rõ ràng Sư có phong cách của Sư phụ. Chưa bao lâu Sư dời về ở Thạch bích, thuộc Phạm thiên ở phía Nam thành. Gặp chỗ ở của Minh Xá làm viện giảng kinh, Sư theo lời thỉnh đến ở. Việc diễn giảng gây chấn động lớn. Tháng tư năm Thiên Hy thứ nhất, Sư không bệnh mà tịch. Bình thời Sư giảng nói các bộ Pháp Hoa, Chỉ Quán tất cả hơn trăm lượt. Hàng đệ tử được truyền giáo từ Hàm Nhuận trở xuống có chín mươi bảy vị. Trước đây Bộ Quang Minh Huyền Nghĩa có hai bản Rộng và Tóm. Sư Ân viết Phát Huy Ký để giải thích Bản Tóm Lược. Đệ tử là hai Sư Thanh và Mẫn cùng kết hợp các lời vấn nạn để giúp hoàn thành chủ trương của thầy mình. Do đó Pháp Trí Đại sư soạn bộ Phù Tông Thích Nạn cố sức bào chữa mười thứ Quán Tâm của bản Rộng. Sư cùng Cô Sơn cũng soạn bộ Biện Ngoa để bào chữa thuyết Phát Huy Ký. Ngài Pháp Trí lại viện dẫn đầy đủ các văn trước sau rất rõ ràng để tranh luận gọi là Thập Nghĩa Thư. Do đó các học giả ở Tứ minh mới gọi cái Học của Ân, Thanh, Chiêu, Viên là phái Sơn Ngoại với lời lẽ chê bai.

4. Pháp sư Trí Viên:

Tự là Vô Ngoại, Sư tự lấy hiệu là Trung Dung Tử hoặc gọi là Tiềm Phu. Sư họ Từ, người ở Tiền Đường. Khi mới học nói, liền biết hiếu để. Lớn hơn chút thường bẻ cây chấm nước rồi viết chữ trên đá, lại sắp hàng các hoa cỏ làm học trò còn mình thì giả làm thầy giáo giảng dạy. Cha mẹ lấy làm lạ bèn cho vào chùa tu, tám tuổi Sư thọ giới Cụ túc. Năm hai mươi mốt tuổi nghe Phụng Tiên Thanh Sư truyền đạo Thiên thai Tam Quán, bèn đội tráp sách đến nơi, vén áo luận hỏi. Được hai năm thì Sư Thanh viên tịch, Sư bèn qua ở Cô sơn tại Tây hồ. Người học đông như chợ. Sư an bần lạc đạo, bầu bạn với Xử sĩ Lâm Thông. Vương Khâm Nhược ra phủ dụ Tiền Đường, ngài Từ Vân sai sứ mời Sư cùng đến đón. Sư cười bảo sứ rằng: Trên cảnh Tiền Đường, một vị Tăng có thể đặt chân lên sao? Sư sớm bị bệnh bướu lao, nên còn được gọi là ông Bệnh. Sư luôn giảng đạo ngâm nga chưa hề chút mệt mỏi. Sư dặn trước môn nhân rằng: Sau khi ta chết rồi các ông chớ nên an táng ta trọng hậu sẽ gây tội cho ta, đừng dựng tháp cho ta để phỉnh ta, đừng vào bảo ta có địa vị rồi làm Minh mà dối khen ta. Phải dùng hai mãnh sành úp lại mà chôn cất, rồi đặt đá ghi rõ tên, tự, năm tháng mà thôi. Đến khi mất, môn nhân theo đúng lời dặn dò, dùng lu khâm liệm rồi an táng Sư nơi ngọn núi cao, ở đấy không làm nhà chỉ đắp nền đất phẳng. Bấy giờ là tháng hai năm Càn Hưng thứ nhất, Sư thọ bốn mươi bảy tuổi. Khoảng mười lăm năm sau, nước mưa nhiều núi sụp. Môn nhân mở lu sành ra thì thấy nhục thân của Sư không hư nát, móng và tóc đều mọc dài ra, đôi môi hé mở lộ hàm răng ngọc. Bèn mặc áo mới, rắc hương bột rồi an táng lại. Năm Sùng Ninh thứ ba, vua thụy phong cho Sư là Pháp Tuệ Đại sư.

Tác phẩm soạn thuật của Sư gồm có:

Văn-thù Bát-nhã Kinh Sớ, Di Giáo Kinh Sớ, mỗi thứ hai quyển (Ngài Tịnh Giác soạn, Trợ Tuyên Ký).

Bát-nhã Tâm Kinh Sớ, Thụy Ứng Kinh Sớ, Tứ Thập Nhị Chương Kinh Chú, Bất Tư Nghì Pháp Môn Kinh Sớ, Vô Lượng Nghĩa Kinh Sớ (Ngọc Tuệ Giác soạn Tạp Châu Ký), Phổ Hiền Hạnh Pháp Kinh Sớ, Di-đà Kinh Sớ, mỗi thứ nhất quyển.

Thủ-lăng-nghiêm Kinh Sớ mười quyển, Thế Hiệu Thập Bản Sớ Chú, lại soạn Xiển Nghĩa Sao ba quyển (tức giải thích Thỉnh Quan Âm Kinh sớ), Sách Ẩn Ký bốn quyển (giải thích Quang Minh Cú), San Chánh Ký hai quyển (giải thích Quán Kinh Sớ), Biểu Vi Ký một quyển (giải thích Quang Minh Huyền), Thùy Dụ Ký mười quyển (giải thích Tịnh Danh Lược Sớ), Phát Nguyên Cơ Yếu Ký hai quyển (giải thích Niết-bàn Huyền), Bách Phi Sao một quyển (giải thích nghĩa một trăm lỗi về phẩm Kim Cang Thân của Niết-bàn Sớ).

Tam Đức Chỉ Quy hai mươi quyển (giải thích Niết-bàn Sớ), Hiển Tánh Lục bốn quyển (giải thích Kim Ty), Chích Hoa Sao hai quyển (giải thích Khuê Phong Lan Bồn Sớ), Tây Tư Sao một quyển (giải thích Tạo Di-đà Sớ), Di Mưu Sao một quyển (giải thích Tự Tạo Tâm Kinh Sớ), Cốc Hưởng Sao năm quyển (giải thích Tự Tạo Lăng-nghiêm Sớ), Tích Trọng Sao một quyển (giải thích Tự Tạo Vănthù Bát-nhã sớ, Đại Luận nói tích trọng khiến nhẹ bớt), Chánh Nghĩa một quyển (giải thích Thập Bất Nhị Môn), Nhàn Cư Biên năm mươi mốt quyển (đủ các sáng tác thơ văn)… Các tác phẩm trên đều mượn đạo hợp tình mà hoằng hóa.

Có người nói rằng: Sư thường bảo một kinh Lăng-nghiêm, luận nói về Chân Tâm thường trụ, mục đích là trình bày "Nhất Thừa Tu Chứng" làm sách mô phạm sau cùng. Có kẻ môn nhân của Sư chỉ vào những soạn sớ mà thưa rằng: Giải thích kinh này đã có hai, ba nhà. Nhưng các người học không an lòng với các thuyết trên. Vậy thầy sao không lấy Tam Quán, Tứ giáo theo văn mà giải nghĩa để mở mang cho người đời sau? Sư theo lời ấy mà xét hạch tra cứu Đại Nghĩa để làm thuyết Trí Giả Tam Chỉ hợp với các kinh. Ngài Tịnh Giác bảo rằng: Sư đã được chỗ thâm diệu của kinh, các thầy khác không sánh kịp (Lâm Gian Lục, ngài Thiên Thai nghe ở Tây Thiên Trúc có Thủ-lăng-nghiêm, vì vua nghiêm cấm không cho truyền rộng, ngài Thiên Thai thường xa trông lễ nguyện cho kinh ấy sớm đến cõi này. Lại ngài Thanh Lương nói: Ta không nhìn thấy được kinh này, nhưng sẽ có Tể Quan Bồ-tát lấy văn chương mà dịch lời Phật nói. Lại mấy trăm năm nữa sẽ có Tỳ-kheo nhục thân lấy giáo ta mà giải thích kinh này). Sư làm lời Sớ Kinh Tứ Thập Nhị Chương có nói: Phật giáo truyền sang Đông độ cùng thuyết của Trọng Ni và Bá Dương là ba thuyết. Song lời dạy của Khổng, Lão nói về tánh mạng thì chưa rốt bằng duy tâm, nói về báo ứng cũng chưa suốt cả ba đời còn như việc trị thiên hạ giữ an quốc gia không thể một ngày không có được. Đến như Phật giáo chỉ cả cõi hư không đều do tâm mình, chứ không phải chỉ nói Thái cực sinh lưỡng nghi, Huyền Tẩn là gốc của trời đất mà thôi. Khảo cứu về thiện ác báo ứng thì Phật giáo bảo tất cả là do nghiệp của mình chứ không phải chỉ nói: Thượng đế vô thường, lưới trời lồng lộng... mà thôi đâu. Có người cho chỗ thấy của Trọng Ni và Bá Dương dù rộng lớn đầy đủ tất cả, nhưng đem so sánh với thần minh xét chỗ chí lý hãy còn kém xa, chỉ có Phật giáo mới nói lên cái chỗ kỳ diệu mà thôi. Sư lại nói: Tánh kia có sâu cạn, lời nói việc làm có xa gần nên có khác nhau. Đến như việc làm lành lánh dữ, dẹp bỏ giết hại tàn bạo thì ba đạo đều giống nhau.

* Nối pháp ngài Phạm Thiên, Chiêu Pháp sư.

Pháp sư Hàm Nhuận:

Sư tự là Cự Nguyên, họ Trịnh, người ở Thượng ngu đất Việt. Lên bảy tuổi Sư đã thờ Sư Tử Minh ở Đẳng Từ. Khi thọ giới Cụ túc xong thì Sư nghiên cứu ròng về Tỳ-ni. Nhân vào Thiên thai đọc văn Tam Quán của tổ Trí Giả có chỗ tỉnh ngộ, Sư bèn đến khai hóa ở Tiền Đường học với Chiêu Sư. Sư làu thông ý chỉ các kinh Pháp Hoa, Tịnh Danh, Niết-bàn, Lăng nghiêm… Chiêu sư kính trọng Sư sớm thành đạt, khiến Sư phân tòa giảng kinh. Kịp khi Chiêu sư đến Phạm Thiên thì khiến thay mình mà giảng. Năm Cảnh Đức thứ tư, quan Thượng ngu là Bùi Hoán cùng những Tăng Tục trong làng đến đón sư trở về Đẳng Từ để tuyên giảng Đại giáo. Năm Thiên Hỷ thứ nhất, Sư dời Giảng Quận đến Long Giáo. Sư lại soạn các Thiêm Nghi, đem ba thứ Tiêu Phục đều căn cứ vào Viên Luận. Bị ngài Tịnh Giác phá. Khi Chiêu Sư thị tịch thì trao cho lư hương và phất trần để Sư nối pháp ở Phạm Thiên. Sư luôn diễn giảng không để một ngày uổng phí. Năm Thiên Tánh thứ ba, Sư dời về ở Vĩnh Phước tại Cối kê, tập họp khoảng năm trăm chúng, mỗi ngày dẫn chúng hành hóa tụng niệm hai thời. Có lần Sư tạo tượng Phổ Hiền dắt chúng hành đạo được Bồ-tát Phóng Quang chứng minh Người thời ấy tôn kính khen rằng: Sám chủ đáng gọi là Á Từ Vân. Môn nhân kể thuật đức hạnh của Sư nói rằng: "Sư ngồi xoạc chân trên giường sư tử mà quơ phất trần. " Trong khoảng ba Kỷ, Sư ở năm nơi, giảng dạy trăm chỗ, nghiệp thành danh sáng không thẹn với cổ nhân. Bèn mời Lý Thục soạn Truyền Giáo Đệ Tử Đề Danh Ký. Thiện Bằng viết lời đầu.

* Nối pháp ngài Cô Sơn, Viên Pháp sư.

5. Pháp sư Duy Nhã:

Từ lâu Sư nương theo ngài Cô Sơn mà được tất cả ý chỉ. Ngài Cô Sơn viết quyển Tây Tư Sao để giải thích Bộ Di-đà Sớ, ngài bệnh phải gượng tựa ghế mà đọc văn để Sư Duy Nhã ghi lại. Xế ngày mồng một, ngài nhiễm bệnh tí chút, đến đầu đêm ngày hôm sau thì tuyệt bút.

Ngài Kính Am nói: Ngài Cô Sơn lấy tài cao hơn thế bút lớn ngang trời mà soạn mười Sớ để hiểu thấu các kinh, viết các Sao để giải thích Sớ, ngài đã giúp đỡ Giáo Môn, công lao ấy thật to lớn lắm. Nhưng ngài chỉ nói ra những pháp môn vốn đã được kế thừa. Ngài nói rằng Quán Cảnh thì lấy chân tâm làm cảnh, luận về Tổng Biệt thì lấy Lý Tánh làm chung. Phán quyết rằng hai Quán Sự và Pháp không thể tu chứng được. Bỏ Bản rộng của kinh Quang Minh, không dùng Tâm Quán, chỉ luận rằng Tâm Cụ Tâm Tạo chớ không phải Sắc Cụ Sắc Tạo. Các nghĩa như thế đều ghi rõ trong các kinh Sách. Do đó các bậc nghĩa học có người đã quen với thuyết ấy, thì đời cho là kiến thức của các Sư Sơn Ngoại, tiếc thay! Phàm xứng họp Tông Sư thì cần phải có đủ ba nhãn:

1. Giáo Nhãn, tức biết rõ pháp quyền thực Đại Tiểu thừa.

2. Đạo Nhãn, phải thực sự dẫm chân vào các hạnh tu chứng.

3. Tông Nhãn, phải thâm nhập tột cùng ý chỉ Viên Đốn Tức Cụ. Thường thường các Sư phái Sơn Ngoại có Tông Nhãn chưa sáng, vì chỗ thấy chưa đạt đến mức Viên Cực mà thôi. Bồ-tát Biệt giáo trí tuệ thần thông đâu có thể nghĩ bàn. Bởi chưa chứng Viên Vị nên phải bài bác để quyền biến mà thôi. Lại bậc Sơ địa chưa biết được việc giở chân bước tới của hàng Nhị Địa, tất cả Thánh hiền đều dùng pháp Vô Vi nhưng có sai khác nhau. Song luận về Sơn Ngoại thì xin lấy ý này mà tha thứ.

DÒNG THỨ CỦA TỊNH QUANG PHÁP SƯ

1. Pháp sư Hành Tĩnh và Hành Thiệu:

Hai Sư đều là người Tiền Đường đồng theo Thọ Thiền sư mà xuất gia, cùng thông suốt luật bộ và cùng ở chùa Thạch bích (cách đất Hàng hai mươi dặm ở phía Tây Long Sơn). Lúc bấy giờ, ngài Thiều Pháp sư đạo pháp rất nổi tiếng. Lúc đầu hai Sư cùng theo học. Quốc sư thấy biết là Pháp Khí, liền bảo hai Sư đến học Tam Quán với ngài Loa Khê. Cả hai Sư cùng đến nghe giảng, tìm hiểu Đại Nghĩa sớm tối miệt mài. Chẳng bao lâu việc học đã thành, cả hai sư cùng trở về Thạch bích và giảng nói pháp cho chúng nghe. Trước sau năm mươi năm, vững chí ở mãi chốn sơn lâm chưa từng dạo đến làng ấp. Bậc Túc học ở đất Ngô đều phục sự cao khiết của các Sư. Tung Minh Giáo Luận nói rằng: Xuất gia với sư Thọ, học pháp với Sư Tịch, thấy biết với Sư Thiều cả ba vị đều có tiết hạnh kỳ đặc là hạng người khó lường biết được, cả hai Sư đều gần gũi hầu hạ há không vĩ đại ư!

2. Pháp sư Tri Liêm:

Vua ban hiệu là Thông Giám. Từ lâu học với ngài Loa Khê. Sư vì thầy mình mà xây cất chùa chiền nguy nga, lại đem tất cả gỗ tùng bách tích chứa từ lâu mà thỉnh mời Bành Thành Công Tiền Nghiễm (là em của Ý Trung Vương) làm bia cho Truyền Giáo Viện ở Loa Khê. Lúc đó là thời vua Thái Tông, năm Ung Hy thứ ba.

3. Pháp sư Nguyện Tề:

Sư là người Tiền Đường, lúc đó là nước Ngô Việt, vua ban hiệu là Sùng Pháp. Lúc đầu Sư theo ngài Tịnh Quang truyền đạo, chuyên nghiên cứu về Chỉ Quán. Về sau Sư theo học với Thiều Quốc sư, được phát minh huyền áo. Đời Chu, năm Hiển Đức thứ nhất, có người dân sống ở Loa Khê là Trương Ngạn An đến ngài Tịnh Quang thưa rằng: Chỗ ở về phía Đông nam của xóm nhà dân, những chiều tối âm u, hay có tiếng kêu hú hoặc gõ đánh chuông trống của quỷ thần, lại có lần mộng thấy Rồng đến thăm đất, tất không phải là chỗ ở của ngu dân. Vậy xin dâng cho Sư. Ngài đến xem thì thấy non nước đẹp lạ, bèn bảo chúng rằng: "Đây chính là đất của Già-lam. " Còn việc mộng thấy Rồng phải chăng là Đạo của Tổ Long Thọ được hưng thạnh ở đất này? Bèn nhận đấy ấy. Sư Nguyện Tề, xưa là đệ tử của ngài Pháp Hoa Thiệu Nham, đem việc ấy lên thưa, ngài bèn gom góp ba vạn tiền để Sư xây cất pháp đường và nhà trù. Sư chỉ lợp cỏ tranh chất đá làm vách, bài trí đơn giản theo lời dạy của tôn sư. Khi xây xong thì ngài Tịnh Quang cùng hai mươi học đồ đến ở đó. Do đó Vân Cư Thiều Thiền sư (chùa ở Thiên thai) dâng sớ Hán Nam Vương (là con của Ý Trung Vương, Ngô Việt cũng từng đổi nguyên hiệu xưng Đế, có hiệu là Bảo Chánh, Bảo Thái. Các con phần nhiều được phong vương, trong đó có các Vương như Hán Nam, Đặng Hứa, Tần Trần... thấy ở Lâm An Chí), Vương liền cho tiền và gỗ xây cất Sám Đường, các nhà cửa... để mở rộng thêm (thấy ở Tiền Nghiễm Tuyển, Truyền Giáo Viện Bi và Truyền Đăng...)

4. Pháp sư Đế Quán:

Người nước Cao Ly. Xưa Ngô Việt Vương nhân xem Vĩnh Gia Tập có câu: "Đồng Từ bốn trụ" bèn đem hỏi Thiều Quốc sư. Sư đáp: Đây là Giáo Nghĩa cần đem hỏi Sư Thiên thai Hy Tịch. Vương liền mời hỏi, Hy Tịch thưa: Đây là lời văn đặc biệt trong bộ Diệu Huyền của ngài Trí Giả (Bộ Diệu Huyền đã lạc mất, chưa do đâu mà biết, tất là Sư Hy Tịch trước đây đã từng thấy phần sót lại của sách ấy). Cuối đời Đường sách vở bị thất lạc ra hải ngoại, lúc đó không còn gì. Do đó Ngô Việt Vương viết thư sai sứ đem năm mươi vật báu đến Cao Ly mà tìm về. Nước ấy bèn sai ngài Đế Quán đến dâng các kinh sách nhưng các thứ Trí Luận Sớ, Nhân Vương Sớ, Hoa Nghiêm Cốt Mục, Ngũ Bách Môn… đều cấm không được dâng lên. Lại dặn Sư Đế Quán đến Trung Quốc xin vấn nạn, nếu không trả lời được thì cướp lấy kinh sách ấy đem về. Sư Đế Quán đến nơi nghe ngài Loa Khê giảng dạy giỏi, liền đến xin tham yết. Chỉ gặp qua một lần thì Sư rất tâm phục, liền kính ngài Loa Khê làm thầy. Sư từng viết bộ Tứ Giáo Nghi giấu trong tráp không ai biết. Sư ở tại Loa Khê được mười năm. Một hôm ngồi mà viên tịch. Sau người ta thấy tráp cũ phóng ánh sáng, mở ra chỉ thấy có bộ sách này. Do đó đem truyền bá khắp nơi, phần lớn là giúp người mới học được mở mang nhờ cậy.

Lời thuật: Ngô Việt Vương vượt biển tìm sách là do câu Đồng Từ tứ trụ, nó cũng giúp Sư Đế Quán viết ra Tứ Giáo Nghi, cho đến nói về Viên giáo, đặc biệt nêu tên Vĩnh Gia là mượn ý người lúc ấy để khiến người sau chớ quên người phát khởi. Sách này là Đại ý tám giáo của ngài Kinh Khê, Sư Đế Quán tóm lược hoặc thêm vào sửa lại và đổi tên như hiện nay, xóa đi công trình của người xưa, thật việc không nên làm.

5. Ngô Việt, Trung Ý Vương Tiền Hoằng Thục:

Tự là Văn Minh. Tổ tiên là người ở Lâm an, Hàng chi. Ông nội là Võ Túc Vương, tên Lưu, thời vua Hy Tông nhà Đường, ông mộ dân làng đánh đuổi giặc Hoàng Sào, nổi tiếng ở Giang hoài. Lại dẫn binh Bát Đô thảo trừ Lưu Hán Hoằng Tinh ở Việt châu, rồi đem đất dâng cho Đổng Xương, từ đó ở tại đất Hàng. Đến thời vua Chiêu Tông, Xương theo Việt làm phản, ông viết thư thiết tha trách cứ, nhưng không nghe, bèn đem binh giết chết. Từ đó gồm thâu hết đất ở hai bờ Đông Tây sông Triết. Năm Càn Minh thứ tư mới được phong làm Ngô Việt Vương. Năm Khai Bình một đời nhà Lương lại gia phong là Thượng phụ hoài hải tiết độ sứ, truyền cho con Văn Mục Vương là Nguyên Quyền. Con của Quyền là Trung Hiến Vương tên Nhân Tá. Trung Hiến Vương đánh binh Lý Cảnh chiếm lấy Phước Châu rồi giết em là Tông để nối ngôi, rất sáng suốt nghiêm nghị, lại bị Đại tướng Hồ Tấn Tư ganh tị đuổi đi (con cháu riêng thụy phong là Tốn Vương), bèn lập Thục lên ngôi, tức là con thứ chín của Văn Mục. Bắt đầu năm Khai Vận đời nhà Tấn Thục, làm Thứ sử Thai Châu.

Đời vua Thái Tổ triều ta năm Kiến Long thứ nhất, Thục được trao chức Thiên hạ binh mã đại nguyên soái. Mùa Đông năm Càn Đức thứ nhất, để giao tế nên sai con là Duy Duệ vào triều lễ cống. Năm Khai Bảo thứ tám theo binh vua đánh lấy Kim lăng (là Lý Hậu Chủ của Nam Đường). Tháng hai năm Khai Bảo thứ chín, vào triều, vua ban chiếu được mang kiếm lên điện, ra chiếu thư không ghi tên, phong cho vợ thục là Tôn Thị làm Ngô việt vương phi. Tháng tư trở về nước. Đời vua Thái Tông tháng ba năm Thái Bình Hưng Quốc thứ ba, ông vào triều tâu vua xin đem hết sổ bộ của mười ba châu do mình cai quản đều thuộc về Thiên Phủ. Vua ban chiếu chấp thuận lại cải phong cho ông là Hoài Hải quốc vương, ban cho sách ngọc, ấn vàng, được ở Lễ Hiền Trạch tại Kinh sư, con là Duy Duệ, Duy Trị đều được phong Tiết độ lãnh quận sự. Trung Ý Vương ở Kinh Sư được mười hai năm thì mất, giàu sang vinh hiển không ai sánh bằng.

Trung Ý Vương thiên tính thuần hậu, sớm biết kính Phật. Ngưỡng mộ việc vua A-dục, ông tạo tám vạn bốn ngàn tháp dùng toàn là gan, đồng, vàng đúc luyện tuyệt khéo, bên trong tháp chứa một hộp báu có bản in Kinh Tâm Chú cũng đủ số tám vạn bốn ngàn phân bố khắp bên trong để làm bảo trấn mà trấn áp các ấp ở Tiền Đường. Tất cả các chùa đối nhau ở các núi Nam Bắc tại Tây hồ đều do Trung Ý Vương sáng lập. Vương quý trọng thờ kính Sa-môn như Thiên thai Thiều Quốc sư, Vĩnh Minh Thọ Thiền sư, đều đối đãi theo lễ thầy trò. Vương có lần mời ngài Loa Khê Tịch Pháp sư đến Kim môn để giảng pháp, Vương hỏi về Giáo nghĩa của Trí Giả. Nhưng vì sách vở không đầy đủ nên Vương đã bùi ngùi sai sứ người mang báu vật đến tìm các sách bị lạc mất ở Cao Ly và Nhật Bản. Do đó các sách vở của Tông Thiên thai lại được đầy đủ. Ngài Loa Khê nhận được bèn trao lại cho Bảo Vân, Bảo Vân được trao lại cho Tứ Minh, mà ngài Pháp Trí được tiếng trung hưng. Suy nguồn gốc thì Trung Ý Vương thật sự có công rất nhiều trong việc hộ pháp. Vương có lần tạo chữ vàng cho hai mươi Bộ kinh Pháp Hoa đem cúng các chùa ở các Danh Sơn (nay chùa Quốc thanh còn giữ một bộ).

Thuật rằng: Thanh Hiến Triệu Công có nói: Họ Tiền ba đời, năm vua trải suốt trăm năm. Đương lúc thiên hạ đại loạn, số đất ở mấy Châu đã bị mạo chiếm rất nhiều. Riêng Ngô Việt đã nhiều lần vào chầu, luôn luôn triều cống, không mất nghĩa quân thần. Kịp khi vua Tống trị vì lại phong làm quan ở các Quận Huyện và mời làm quan ở bậc cao. Có đủ nhân để bảo hộ dân, có đủ trí để bảo toàn gia tộc thì chỉ là một nhà họ Tiền mà thôi. Âu Dương Công năm đời làm Quan viết sử thì lại bảo: Họ Tiền là do quật khởi chứ không có công đức gì. Trong khoảng trăm năm trị vì thì dùng bạo ngược đối với dân. Ôi, sao hai vị lại lập luận trái nhau đến thế? Lúc năm cuối thời Ngũ Đại quật khởi để tiếm hiệu thì làm sao gọi là có công đức được? Bởi càng trọng bề trên mình thì càng khiến dân khốn đốn, mà hại binh giết dân, thiên hạ đều thế cả. Há có thể như họ Tiền giữ yên dân đất của mình mà quy phục Thánh Triều ư? Rốt ráo thay lời của Thanh Hiến: Đủ nhân để giữ dân, đủ trí để bảo toàn gia tộc. Lời Âu Dương là luận thái quá vậy.

* Nối pháp ngài Quốc Thanh Dục Pháp sư.

6. Pháp sư Khế Năng:

Sư người Vĩnh Gia, là thầy của Thần Ngộ Khiêm Công, được giáo chỉ ở Dục Pháp sư. Sư là chủ chùa Thường ninh ở Thiên thai, giảng đạo không hề biết mỏi mệt. Từ tổ Trí Giả đến nay thường lấy lư hương và phất trần đề truyền nhau làm tin. Đến Sư là người đích truyền thứ mười bốn. Buổi vãng niên Sư truyền lại cho Phù Tông Trung Sư. Phù Tông thưa: Con đã đắc pháp với ngài Quảng Trí rồi, dám xin từ chối. Sư bèn giấu kín ở Thiên thai đạo tràng, không truyền cho ai nữa.

Thuật rằng: Đệ tử ở Cửa Loa Khê có số trăm, nhưng bản truyền chỉ có Bảo Vân là hàng cao đệ, không thấy ghi tên Dục Sư. Nghi rằng Dục Sư gặp ngài Loa Khê trước nhất nên sớm được truyền lư hương và phất trần. Bảo Vân đến sau nhưng vì đạo của Sư này rất nổi tiếng nên được truyền kế mà đưa lên hàng thượng thủ. Theo đây mà nói thì chú trọng ở đạo chứ không ở lư hương phất trần. Phàm lư hương và phất trần là vật làm tin của Tổ Sư truyền nhau đã lâu đời không thể không có tệ hại. Hoặc vì tình mà được truyền, hoặc dùng sức mà lấy, đối với đạo làm sao dự bị trước được. Sư Khế Năng muốn truyền cho Phù tông nhưng Tông từ mà không nhận là cố chấp, nên dấu ở Trừng Hành Đạo của Tổ Sư mà bỏ đi là phải. Nếu cứ bảo Phù Tông nhận thì là dối nhận mà cũng là dối truyền. Đủ để gây nên sự phân chia tranh giành ở người sau thì đạo làm sao tồn tại được?

DÒNG THỨ CỦA NGÀI BẢO VÂN

1. Pháp sư Tuân Thức:

Sư tự là Tri Bạch, họ Diệp, người Ninh Hải Thiên thai, mẹ họ Vương, cầu xin con trai ở Đức Quan Âm, mộng thấy cô gái đẹp cho hạt minh châu, bà nuốt đi mà sinh ra Sư. Được bảy tháng thì Sư bắt chước mẹ đọc danh hiệu Quan Âm (năm Quý Hợi, niên hiệu Càn Đức thứ nhất đời vua Tống Thái Tổ, sinh Sư). Khi lớn lên không thích theo anh buôn bán, lén trốn đến Đông Sơn nương Sư Nghĩa Toàn mà xuất gia. Trước đó Nghĩa Toàn mộng thấy một đứa bé cỡi cổ tượng Phật, rồi thì Sư đến. Năm hai mươi tuổi (năm Quý Mùi, năm Thái

Bình thứ bảy đời vua Thái Tông) Sư đến chùa Thiền lâm thọ giới Cụ túc. Năm sau học Luật với sư Thủ Sơ. Sau đó vào chùa Quốc thanh. Trước tượng Đức Phổ Hiền Sư đốt một ngón tay thệ nguyện truyền đạo Thiên thai. Năm Ung Hy thứ nhất, Sư đến học với ngài Tứ Minh (Sư hai mươi hai tuổi). Giữa đường mộng thấy một lão Tăng gọi bảo: "Ta là Hòa thượng Văn-thù đây. " Khi gặp ngài Bảo Vân thì đúng là vị lão Tăng đã thấy trong mộng bèn kính cẩn theo học. Chưa bao lâu trí giải hiện bày. Nhân ngày huý nhật của tổ Trí Giả, Sư đốt liều ở đỉnh đầu suốt buổi sáng nguyện gắng tu bốn thứ Tam-muội. Năm Đoan Củng thứ nhất, ngài Bảo Vân viên tịch, Sư bèn trở về Thiên thai, vì quá khổ học đến nổi bị bệnh thổ huyết. Bèn cương quyết nhập Đại Từ Phật thất trì tiêu phục chú pháp. Tự nguyện rằng: Quả số ta hoằng truyền tứ giáo hưng thịnh thì cho bệnh này lành hẳn, nếu không thì ta xin chết tại đây. " Đến hai mươi mốt ngày thì nghe trong thất có tiếng gọi bảo: "Tuân Thức không bao lâu sẽ chết!" Sư càng cố gắng. Đến ngày thứ ba mươi lăm thây chết đầy nhà, Sư đạp lên mà đi thì thây biến mất. Đến cuối ngày thứ bốn mươi chín trong thất có tiếng bảo: "Mười phương chư Phật đã tăng thêm cho ông phước thọ. " Đêm ấy Sư mộng thấy một người to lớn, cầm chày Kim cang ngáng chặt vào miệng Sư. Lại có lần thấy Đức Quan Âm thò tay vào miệng Sư kéo ra mấy con sâu, rồi đưa ngón tay rót nước cam lồ vào miệng Sư, nên thân tâm mát mẽ bệnh cũ lành hẳn. Rồi thì Đỉnh Sư cao hơn một tấc, tay dài quá gối, tiếng nói vang như chuông, da trắng như bạch ngọc. Năm Thuần Hóa thứ nhất (Sư hai mươi tám tuổi), chúng mời Sư đến Bảo Vân giảng các kinh Pháp Hoa, Duy-ma, Niết-bàn, Quang Minh chưa hề gián đoạn. Có người đem cho con lừa mang thai, hàng ngày lừa đến nằm mọp dưới tòa im tuồng lắng nghe nói pháp, như thế suốt bốn tuần, khi đẻ con rồi thì không đến nữa. Có lần Sư đến chỗ ngài Pháp Trí. Pháp Trí nghe ngoài cửa có tiếng cười nói bảo thị giả rằng: "Hễ nghe bên ngoài có tiếng nói tức có Thánh nhân đến. " Thị giả lật đật chạy ra xem rồi báo rằng: "Có ngài Từ Vân đến!" Ngài Pháp Trí cả kinh bảo: "Sư huynh ta chuyển kiếp rồi vậy!" Năm Chí Đạo thứ hai, Sư kết hợp chúng đạo tục chuyên tu nghiệp Tịnh độ, viết Thệ Sinh Tây Phương Ký. Lại được Đức Quan Âm ngầm khen, nên Sư sai thợ điêu khắc tượng ngài bằng gỗ chiên-đàn do Sư vẽ kiểu. Sư soạn mười bốn lời nguyện để trong bụng tượng. Người thợ vô ý làm gãy cánh tay cầm nhành dương liễu, Sư cả kinh đưa tay đỡ (tượng này hiện còn ở điện Thiên trúc sám) rồi gắn dính lại mà không cần keo. Năm Hàm Chánh thứ ba (đời Chân Tông), ở Tứ Minh có hạn hán lớn, người trong quận mời sư cầu mưa, Sư và hai sư Pháp Trí, Dị Văn dẫn chúng tu thỉnh Quán âm Tam-muội, ngầm ước nếu sau ba ngày không mưa thì sẽ tự thiêu, đúng hẹn thì mưa lớn ào xuống. quan thái thú Tô Vi đã dựng bia thuật lại sự linh dị ấy. Năm Hàm Chánh thứ tư, Sư đến ngụ ở núi Đại lôi ở Từ khê,

Sư mới sửa lại thỉnh Quan Âm Tiêu Phục Độc Hại Sám Nghi. Năm Hàm Chánh thứ năm (Sư bốn mươi tuổi, từ năm Canh Dần Thuần Hóa đến năm Tân Sửu Hàm Bình thứ tư, suốt mười hai năm đó Sư ở Tứ Minh), Sư trở về làm chủ chùa Đông dịch ở Thiên thai, vì học trò quá đông nên Sư cất nhiều tinh xá ở góc Tây của chùa, dẫn chúng tu Niệm Phật Tam-muội. Có miếu Bạch hạc, dân cư thờ thần ở đấy rất linh. Sư bèn truyền giới cho Thần rồi đổi việc tế lễ mặn thành cúng chay, Thần và dân cùng nghe theo. Sư bèn soạn Dã Miếu Chí để răn đời. Năm Tường Phủ thứ tư, Chương Tuân Công (được Tượng Quan Âm) nhận lãnh nhiều việc, vào đầu mùa Hạ đón sư đến Cảnh Đức để giảng Chỉ Quán. Vừa xong thì có ba vị Sa-môn đắp y đến nơi, bèn mời lên ngồi nghe giảng Vu-lan-bồn, bỗng biến mất. Khi Sư đi ngang Hoàng nham, giữa đường gặp một con heo chạy ở trước, tìm hiểu thì là heo chạy lạc của cửa hàng mổ thịt, bèn đưa tiền chuộc về nuôi ở chùa Diệu hỷ rồi đặt tên là chú heo Ngộ Thiện. Chùa Xích sơn ở sát biển mà rất cao. Sư đến gọi người bảo: Nên xây tháp ở đây. Trước đấy, ở đỉnh núi có ánh sáng lạ, trong có hình tháp bảy tầng chiếu sáng ra biển rộng bốn mươi dặm đều là ấp lương của ngư dân. Có người đem việc ấy thuật cho Sư, Sư mừng là đã có điềm trước bèn xây tháp ở đấy. Đám ngư dân được cảm hóa nên bỏ nghề đánh bắt cá. Lúc đó ở Đông sơn có tổ chức Sám hội. Bấy giờ có đại hạn, Sư lấy cây tích trượng thọc vào rãnh đá thì suối liền phun lên (nay là suối Thạch Nhãn). Năm Tường Phù thứ bảy, Chiêu Khánh Tề Nhất ở đất Hàng dẫn chúng cùng đến thỉnh Sư, trước đây người đất Hàng mấy lượt thỉnh Sư sang phía Tây hoằng hóa nhưng chưa nhận lời, nay họ đến Sư mới nhận lời. Sư từng mộng thấy ở trong thai mẹ mười hai năm, khi sinh ra thì vào đất Hàng, quả ứng đúng với số năm. Sư đến Chiêu Khánh, hoằng dương giảng thuyết thạnh hành. Người đất Hàng có tục ưa dùng rượu thịt khi chôn người. Sư nói Phật sự thì hay hơn, họ liền đổi cúng chay. Nhân đó Sư soạn ra Giới Tửu Nhục Từ Tuệ Pháp Môn. Có đêm nọ đi cho cá ăn, ngư dân nghe quỷ bảo nhau: "Đêm nay tuyết nhiều Sư không đến đâu!" Một quỷ bảo: "Sư là người Từ bi tất không bỏ ta". Chốc lát Sư xách lồng đèn đạp tuyết mà đến. Năm Tường Phù thứ tám, người đất Tô, đem Quận phù đón Sư đến ở tại Khai Nguyên lập đàn giảng kinh, kẻ đạo tục đều đến dự, cấm ăn mặn uống rượu, khiến chợ búa ế ẩm, kẻ bán rượu thịt dẹp tiệm. Quan Gián không thu thuế được. Sư giả biệt bảo đồ chúng rằng: Tổ Trí Giả có để lại thư cho Tấn Vương nói về sáu điều hận, một điều trong số ấy là vì pháp mà tập họp làm động chúng, làm trở ngại việc quan bị người ghét. Nay ta phước mỏng sao có thể ở lâu đây được? Sư bèn trở về đất Hàng (trong di thư của Trí Giả nói: Kinh Khê giảng pháp họp chúng có một ngàn người, học thiền có ba trăm người. Quan châu lo lắng sợ hãi cho là trái phép nước. Đâu có thể họp chúng đông để gây buồn lo cho quan nhân. Bèn buổi sớm thì như mây tụ họp, buổi chiều thì như mưa tan đi. Nếu có mầm thiện mà không lớn lên thì đây là điều ân hận thứ năm). Quan thứ sử Tiết Nhan mời Sư ở Linh sơn là nơi Sư Chân Quán cất chùa Thiên trúc thời nhà Tùy. Ở phía Tây chùa thời nhà Trần có trồng nhiều cây cối là nơi hang ổ giặc cướp bị đốt phá chỉ còn lại cành khô. Mùa đông năm ấy thì cành lá lại xinh tươi, nhân đó đặt tên là Trùng Vinh Cối, làm thi phú khắc vào đá, cho là điềm lành báo đại tràng sẽ được xây cất lại. Sư mới định sắc lại Vãng sinh Tịnh Độ

Sám Nghi. Đến năm Tường Phù thứ chín, ngài Tăng Chánh Tuệ Tư ở Thiên thai đến Kinh sư, nhân đó đã khen ngợi nhiều về đạo đức của Sư nên được vua ban cho Tử Y. Tháng ba người ở quận thiên thai đem quận phù thỉnh Sư đến chùa Thọ xương ở thạch lương để giảng kinh Pháp Hoa. Tháng chín sư đến Đông dịch, tháng mười Sư trở về chùa Thiên trúc. Năm Thiên Hy thứ nhất, quan thị lang Mã Lượng giữ Tiền Đường rất quý chuộng nghiệp Tịnh độ nên đến Sư hỏi đạo, Sư bèn soạn cho quyển Tịnh Độ Hạnh Nguyện Pháp Môn và Tịnh Độ Lược Truyện. Chức phương lang trung là Thôi Dục Tài hỏi Sư về đạo thí thực, Sư bèn soạn cho một Thiên Quán Tưởng (thấy trong Kim Viên tập). Năm Thiên Hy thứ ba, Thừa tướng Vương

Văn Mục Công phủ dụ đất Hàng (tên là Khâm Nhược làm Thừa tướng cho vua Chân Tông) dẫn các quan thuộc hạ đến thăm hỏi Sư trong núi và thỉnh Sư giảng Pháp Hoa và Nghĩa Như của ba pháp giữa tâm, Phật, chúng sinh. Sư biện luận rất thông suốt, trước mặt các hàng quan liêu thuộc hạ và đại chúng, Thừa tướng hết lời khen ngợi Sư rằng: Đạo này từ trước nay chưa được nghe, người này từ trước chưa từng thấy (trong Biệt Tập có đề giảng). Sư lấy tông giáo của Thiên thai trình bày gốc ngọn đầy đủ với ông. Năm Thiên Hy thứ tư, ông tâu lên vua việc tên cũ của Tích Thiên Trúc, lại phục hưng chùa để dạy dỗ mà đích thân viết biển đề. Ông lại cùng Tần Quốc Phu Nhân cúng tiền sáu trăm vạn để xây cất Đại điện. Ông viết thư hỏi Sư về việc lập giáo của Thiên thai và xin giải thích nghĩa chỉ của kinh, xưa nay ai hơn ai kém. Sư trước hết đáp khái quát về sự lập giáo, kế nêu văn các con đòi xe, nhắc lại một, hai nghĩa xưa và nghĩa Từ Ân phá Thiên thai lại đem so sánh với sự giải thích chính thức của Trí Giả rồi quyết đoán phải quấy. Cho rằng các Tổ xưa nay không có ai hơn kém. Ông xem văn hiểu rõ nghĩa càng vui mừng tin tưởng (Văn thấy trong Biệt Tập). Sư lấy việc ngày xưa tổ Trí Giả ở trên sông Thiên thai đã bảo hộ sinh mạng mà trình lên Thừa tướng. Nhân đó ông tâu lên vua xin Tây Hồ làm ao phóng sinh để cầu thọ cho vua. Về sau ông làm Văn Mục Doãn ở

Phủ Ứng Thiên, nhân có bệnh nhẹ mộng thấy gặp Sư bệnh liền dứt. Bèn dâng thơ nói rõ với Sư việc đó. Sau đó ông dời về Trấn Giang Ninh (được thăng chức) bèn đón Sư về phủ để sớm chiều học hỏi pháp, mỗi lần Sư ở ba tháng, nhân đó Sư viết: Thập Pháp Giới Quán Tâm Văn Trụ, Nam Nhạc Tâm Yếu Kệ. Gặp Hội Càn Nguyên, ông tâu vua việc nghe đạo ở trên với vua, vua bèn ban cho Sư hiệu Từ Vân. Năm Càn Hưng thứ nhất, Chương Ý Thái Hậu (là mẹ của Nhân Tông, họ Hoa, người Tiền Đường, Cha là Nhân Đức. Vì Sư là bậc huân tu tinh tấn nên sai sứ mang hai trăm lượng bạch kim nhờ Sư ở trong núi tu sám lễ cho cả nước. Sư bèn soạn Kim Quang Minh Hộ Quốc Đạo Vi Tịnh đem dâng lên vua. Nhân đó ông tâu vua về giáo văn của Thiên thai, xin cho nhập vào Đại Tạng. Việc chưa làm thì ông (Thừa tướng) qua đời. Năm Thiên Thánh thứ nhất (đời Nhân Tông), Nội thần là Dương Hoài Cổ vào núi dâng hương, kính trọng đạo đức của Sư nên lại tâu lên vua. Năm sau mới được chỉ vua cho nhập Tạng và ban cho trăm lượng bạch kim, thiết trai đãi một trăm Tăng để ăn mừng. Sư bèn soạn Giáo Tạng Tùy Hàm Mục Lục, lược thuật văn nghĩa các bộ. Nói về Huyền Nghĩa là hệ thống rõ năm thời, luận rộng tám giáo, đại ý việc ra đời của Phật đều chứa trong đấy. Về Văn Cú, nghĩa là dùng câu văn để phân văn kinh thành nhiều chương tiết. Ngài Kinh Khê mỗi thứ đều có Ký thích và vẫn giữ y nghĩa chánh của năm kinh (Khổng Dĩnh Đạt đời Đường đã viết về chánh nghĩa của năm Kinh). Về Chỉ Quán, tức sự khác nhau của định tuệ dùng làm hạnh môn của Pháp Hoa. Văn Cú Huyền Nghĩa trước đây đều nói rõ việc Phật tùy căn cơ mà giáo hóa. Về văn kinh thì có mượn sự việc phụ theo pháp mà Quán Tâm, không phải là toàn chánh ý của bộ kinh. Nay Chỉ Quán chính là ngài Trí Giả nói về pháp môn tu tâm mình. Nói về Tự hành, Nhân quả, Dạy người, Năng sở v. v… đều đầy đủ. Lại ở phẩm Phổ Môn nói thêm phần Biệt Dịch Trùng Tụng, kẻ đạo tục đều tuân đọc. Năm Thiên Thánh thứ tư, quan Quán Nghị là Hồ Tắc về quận, đã nhiều lần vào núi hỏi đạo với Sư, rất mừng được hiểu rõ pháp yếu bèn cúng vàng để xây cất cổng núi và nhà cửa. Năm Thiên Thánh thứ năm, vào đêm Trung thu trái quế rơi rụng khắp thềm nhà, Sư đem hạt quế gieo trồng dưới rừng, rồi làm thơ về trái quế. Tháng giêng năm Thiên Thánh thứ sáu, Sư sai học trò đến Tứ Minh cúng tế ngài Pháp Trí, có văn tế và thơ truy điệu. Bèn xây am Nhật quán ở phía Đông chùa để hướng về phương Tây quán tưởng tu nghiệp vãng sinh. Năm Thiên Thánh thứ chín, Sư giảng kinh Tịnh Danh bỗng bảo học chúng rằng: Xưa ta giảng kinh này ở Đông dịch, mộng thấy tổ Kinh Khê trao cho ta quyển Kinh, ta ra khỏi thất thì thấy mặt trời đã lặn. Nay ta trước sau vẫn giảng kinh này. Nhân đó Sư nói lời giả biệt với chúng rằng: Ta ở hai chùa tại đất Thai và Hàng suốt bốn mươi năm luôn dùng mười phương làm ý, nay trao cho các ông giảng tòa này vậy nên noi theo chí ta. Lại bảo đệ tử là Tổ Vận rằng: "Ông tiếp nối ta ở đạo tràng giữ gìn lư hương và phất trần này chớ làm người sau cùng đoạn đứt Phật chủng. " Rồi làm tạ Tam Duyên Thi, nghĩa là giã từ đồ chúng, dứt hết bạn bè tân khách và đốt hết bút nghiên. Tháng tám năm ấy Sư dời về ở Thảo Đường trên ngọn Đông Lãnh. Đến ngày mồng tám tháng mười năm Minh Đạo thứ nhất, Sư có bệnh nhưng không dùng thuốc men chữa trị, chỉ nói pháp để khuyên gắng đồ chúng. Ngày mồng mười Sư bảo đồ chúng thỉnh tượng Phật Di-đà để chứng minh Sư lâm chung. Môn nhân muốn cầu nguyện cho Sư, bèn bày tượng Quan Âm ra, Sư đốt hương chiêm ngưỡng tượng và nguyện rằng: "Con quán Đức Quan Âm, trước không tới, sau không đi, mười phương chư Phật đồng ở Thật Tế, xin trụ ở Thật Tế này, nhận ở con một nén hương. " Có người hỏi Sư sinh về đâu? Sư bảo: "Ở Tịch quang tịnh độ. " Đêm đến Sư ngồi yên mà viên tịch. Sư có làm cái Khám Minh gọi là Hà Tháp. Khâm liệm Sư đã hơn bảy ngày mà hình dung vẫn còn như lúc sống. Sư thọ sáu mươi chín tuổi, hạ lạp năm mươi. Vào đêm Sư viên tịch người ta thấy có sao lớn sa xuống ngọn Linh thứu, ánh sáng đỏ rực rỡ. Những người được truyền pháp như Văn Xương v. v… hai mươi lăm vị, số người học đạo có cả ngàn người.

Số đệ tử như Nhược Hư v. v… khoảng trăm người. Vào ngày mồng bốn tháng Trọng Xuân năm sau, thỉnh Hà Tháp đem táng ở dưới ngọn Nguyệt Quế phía Đông của chùa, ở gần chỗ Pháp sư Tùy Quán. Thuở nhỏ Sư giỏi về văn chương, có phong cách thi nhân. Về thi tập thì có Thái Di, Linh Uyển. Về các sáng tác khác thì có Kim Viên, Thiên Trúc, Biệt Tập… đều lưu hành trên đời. Có quý quan viết lời chú Kinh Lăng-nghiêm xin Sư ấn khả, Sư đốt ngọn lửa lớn bảo rằng: Các hạ đã để ý đến Phật pháp thật là hiếm có. Nay trước hết xin nêu ba câu hỏi nếu lời đáp hợp lý thì cho lưu hành, nếu không thì xin giao cho ngọn lửa này. Quan đồng ý. Sư bảo: "Chân Tinh Diệu Nguyên Tánh Tịnh Minh Tâm" không biết đã chú thích như thế nào? Babốn, bốn-ba xoay vần, mười hai thứ lưu chuyển biến thành ba lớp. một thành mười thành trăm thành ngàn là nghĩa thế nào? (Xưa Sư chú giải rằng: Lần trước biến một thành mười, lấy ba đời bốn phương nhân thành mười hai lần. Kế biến mười thành một trăm, lấy ba đời bốn phương nhân thành một trăm hai mươi. Lần sau biến trăm thành ngàn, lấy ba đời bốn phương nhân thành một ngàn hai. Đó là số công đức của một căn. Hợp chung cả sáu căn là bảy ngàn hai trăm, trừ ba căn nhãn, tỷ, thân thì mỗi thứ thiếu bốn trăm, nên thật có là sáu ngàn đó là số công đức của sáu căn. Một biến thành mười thành một trăm thành một ngàn là ba lớp, gồm cả ba phen lập nên số ấy). Chỗ chứng Viên Thông của hai mươi lăm Thánh đã gọi là thật không hơn kém. Vì sao Văn-thù chỉ chọn lấy Quán Âm? Người ấy không đáp được, Sư bèn ném vào lửa. Do đó "Ba cửa ải Lăng-nghiêm" có từ đấy. Vua Nhân Tông xem bộ Quang Minh Hộ Quốc Nghi của Sư dâng lên đến đoạn văn "Thánh Đế Nhân Vương từ lâm vô tế" thì vỗ ghế than rằng: "Trẫm có người này đủ để trị vì. " Bèn gấp ra chiếu mời nhưng Sư đã tịch rồi. Lúc Sư mới xuất gia, các học trò ở trường Quận rất ngưỡng mộ tài Sư đến khuyên Sư trở về đạo Nho. Sư làm thơ đáp Lư Tích trong đó có câu: "Chân không là Trường Thi, Đại Giác là chức quan" được mọi người nhắc nhở nhiều. Sư thường nhập định suốt ba tháng làm kỳ hạn. Ở bốn góc nơi hành đạo đều có để các chảo tro nóng gặp khi biếng nhác thì thọc tay vào chão nóng. Sư mười ngón chỉ còn ba ngón. Khi xây cất điện Quang Minh Sám, mỗi lần gác một cây kèo hay chạm xây một bờ tường thì liền tụng bảy biến chú Đại Bi, có ý nhờ Phật pháp gia bị cho công việc không trở ngại. Cho nên bọn giặc cướp Kiến Viêm chất củi đốt thì nhà cửa vẫn còn nguyên vẹn. Kịp đến loạn Phương Lạp Trần Thông, trải ba cuộc giặc cướp đốt phá thì đều không hề hấn gì. Đến nay các nước khác truyền nhau gọi là "chùa đốt không cháy". Đây há chỉ riêng bày cái thần tích của Giáo môn mà thật ra đã nêu sáng một việc quốc gia có đạo vậy. Năm Sùng Ninh thứ ba, vua ban cho Sư hiệu là Pháp Bảo Đại sư. Đến năm Thiệu Hưng ba mươi thì vua đặc biệt thụy phong là Sám Chủ Thiền Tuệ Pháp sư. Tháp đề là Thụy Quang (theo các quyển: Hành Nghiệp Khúc Ký, Tu Tam-muội Ký, Thiên Sinh Chư Tập, Tông Nguyên Ký).

Ngài Kính Am nói: Đạo, nhờ người hoằng hóa, người ắt có chỗ nương, cả ba thứ này đều phải đầy đủ. Đạo ta bắt đầu từ thời Trần Tùy và thạnh hành ở đời Đường, suy vi ở đời Ngũ Đại đến nay. Vào thời vua ta (Tống) thì đạo này lại phục hưng. Ngài Loa Khê Bảo Vân chấn hưng ở thời trước, ngài Tứ Minh Từ Vân làm rộng lớn sau này. Thế nên từ ngài Pháp Trí sáng lập Nam Hồ đến ngài Từ Vân tạo dựng Linh sơn đều vì pháp quên mình bền vững nguyện lực mà tiếp nối. Lấy thần chiếu để mở mang Bạch Liên, dùng biện tài để báo điềm Thượng Trúc. Do đó cả hai bờ Đông Tây Triết giang đều mở pháp tòa. Cuối cùng có thể nương nhờ chùa yên chúng đông mà hoằng truyền đại đạo. Ai bảo là việc hoằng truyền không cần nơi chốn ư? Song chùa Linh sơn bao phen bị giặc đốt mà không hư hao, đây há không phải là sự linh nghiệm của nguyện lực bậc Chí nhân đọc thần chú cầu gia bị được bền vững đấy sao?

Thái thú Quang châu là Hứa Đoan trong tựa Tập Thi có nói rằng: Thơ của ngài Từ Vân văn suốt với Đạo, lời sát với Lý rất giống với Đào Bành Trạch. Bởi hành động hợp với tình, lễ nghĩa phát thành lời. Xưa Quán Hưu làm Thiền Nguyệt Tập vì lúc đầu chưa nghe đạo nên dù tài tình tuấn dật mà vẫn mất cái nghĩa trợ giáo, còn Trung Dung Tử làm Nhàn Cư Biên lời tuy nói đạo nhưng câu văn thấp kém, mất đi cái thể thi nhân. Còn Từ Vân thì không như thế, văn đẹp lý sáng, tao nhã mà đúng đắn, chọn lọc mà giản dị có phong vị của Tấn Tống. Bởi đạo nghiệp của Sư quá lớn nên tiếng về văn thơ không được lưu truyền.

2. Pháp sư Dị Văn:

Sư người ở Dư Hàng, tâm ngầm học Thiên thai thường bảo rằng: "Chỉ hiểu không chưa đủ thỏa chí", cho nên Sư miệt mài tu các Tam-muội làm nghiệp chính, lại đến tham học với ngài Bảo Vân mà được thông suốt hết các ý chỉ. Năm Chí Đạo thứ ba, ngài Pháp Trí hoằng đạo ở Diên khánh thì Sư có công phụ giúp rất nhiều. Vì chùa chiền đổ nát Sư bèn cùng ngài Đơn Khâu Viên Giác ra sức tu sửa lại không đầy ba năm công việc hoàn thành. Ngài Pháp Trí lập "Bia thành thệ", chỉ bày khuôn phép mười phương đều có liên hệ đến tên Sư, nên gọi hai Sư.

Về sau Sư cùng ngài Pháp Trí kết hợp với mười vị Tăng, nguyện tu sám lễ suốt ba năm, thề tự thiêu để báo đáp ân Phật. Lúc đó Dương Văn Công nhiều lần viết thư khuyên can nên cuối cùng các Sư không tự thiêu. Sư ở Diên Khánh suốt bốn mươi năm, những việc Tu Tam-muội của ngài Pháp Trí đều có Sư tham dự đầy đủ.

3. Pháp sư Hữu Cơ:

Sư tự là Cập Hiền, họ Vương, người Tiền Đường. Mẹ mộng thấy vị Phạm Tăng trao cho xálợi bèn nuốt vào rồi thọ thai. Lên năm tuổi Sư đến Thọ Xương ở Thiên thai, tôn ngài Pháp Siêu làm thầy. Lên mười tuổi thọ giới Cụ túc, nghe ở Tứ minh ngài Bảo Vân truyền giáo của tổ Trí Giả, bèn đến hầu hạ, được truyền dạy Pháp Hoa, Chỉ Quán. Theo lời hiểu nghĩa thấu suốt diệu chỉ. Năm Đoan Củng thứ nhất, người trong Quận thỉnh Sư giảng giáo tại chùa Thái bình hưng quốc. Người học có đến mấy trăm người, mỗi ngày rằm và ba mươi đều họp chúng, Sư lên tòa cao tụng đọc giới pháp Bồtát. Khuyên dạy bản đạo niệm Phật suốt bốn mươi năm có đến vạn người. Gặp năm đói kém Sư ôm bát khất thực để cúng dường chúng nghe pháp. Năm Tường Phù thứ tám, tháng sáu Sư có bệnh, đệ tử là Linh Tường thưa rằng: "Hòa Thượng về Tây Phương mà không để lại lời dạy bảo. " Sư bèn rộng bàn ý chỉ Viên Đốn mãi không thôi. Chúng bỗng thấy ở phương Tây phóng ánh sáng, trên không trung có tiếng tấu nhạc. Sư bảo: "Ba Thánh ở Tây Phương đã đến", liền nằm nghiêng bên phải xây mặt về hướng Tây mà hóa. Trà-tỳ thì được vô số xá-lợi. Môn nhân là Ngộ Trì xây tháp trên ngọn Linh quy ở Từ khê. Có người mộng thấy Sư ngồi trên hoa sen xanh nghe Phật nói pháp. Có người mộng thấy ba thân Như Lai đồng vào tháp. Có người mộng thấy Sư rất oai nghi được rước về phương Tây. Có người mộng thấy Sư được Đức Di-đà thọ ký là Siêu Tráng Như Lai. Ngài Pháp Trí nghe Sư viên tịch liền khen rằng: "Ngọa bệnh giảng pháp, lâm chung thấy Phật thật là đáng kính. " Quan nội hàn là Dương Ức đến trước tượng Sư làm bài tán ngợi khen (đây toàn theo lời bia Tam Học Soạn Hạnh Nghiệp. Ở Phước nguyên thì có một trăm mười tám người, còn bản kỷ chỉ ghi có ba mươi ba người. Các chi tiết khác đều thất lạc).

QUYỂN 11

PHẦN VI - LIỆT TRUYỆN CÁC SƯ (PHẦN 1)

* Nối pháp ngài Thiên Trúc Thức Pháp sư Đời thứ hai có:

Diệu Quả, Văn Xương Pháp sư. Minh Trí Tổ Thiều Pháp sư.

Pháp Hỷ, Thanh Giám Pháp sư. Chân Tịnh, Tư Vĩnh Sám Chủ. Bảo Khánh, Pháp Nhuận Pháp sư. Thiên Trúc, Bản Dung Pháp sư.

Thiên Trúc, Tư Ngộ Thị Giả. Thừa Tướng Vương Khâm Nhược. Gián Nghị Đại Phu Hồ Tắc.

Chức Phương Lang Trung Thôi Dục Tài. Thị Lang Mã Lượng.

Đời thứ ba có:

Diệu Quả Thiên Thọ Pháp sư (nối Sư Xương). Hải Nguyệt, Tuệ Biện Pháp sư (năm người này nối Minh Trí). Tinh Tuệ, Tư Nghĩa Pháp sư.

Biện Tài Nguyên Tịnh Pháp sư. Thần Trí Đời Thắng Pháp sư.

Quảng Huệ, Cư Bạch Pháp sư Đời thứ tư có:

Pháp Bảo Tùng Nhã Pháp sư. Từ Hạnh Trí

Thâm Pháp sư Hai vị này nối Sư Hải Nguyệt Năm vị sau đây nối Sư Tịnh Tuệ:

Viên Ứng, Đức Hiền Pháp sư. Thần Trí, Trọng Nguyên Pháp sư. Từ Giác, Vĩnh Kham Pháp sư.

Tịnh Chiếu, Tuệ Nhật Pháp sư. Viên Ngộ, Tư Thượng Pháp sư Hai vị này nối Biện Tài:

Pháp Giám, Nhược Ngu Pháp sư. Linh sơn, Tắc Chương Pháp sư Đời thứ năm có:

Chỉ Nguyên, Như Cảo Pháp sư (nối Pháp Bảo) Từ Minh Tuệ Quán Pháp sư (nối Thần Trí).

Từ Thọ, Tử Lâm Pháp sư (nối Từ Giác).

* Nối pháp ngài Hưng Quốc Cơ Pháp sư. Đời thứ hai có:

Hưng Quốc, Lệnh Tường Pháp sư. Phước Nguyên, Ngộ Trì Pháp sư.

* Nối pháp ngài Tiền Đường Hiểu Pháp sư.

Đời thứ hai có: Pháp Hiển, Ngộ Thành Pháp sư. Đời thứ ba có: Đâu-suất, Thủ Nhân Pháp sư.

Việc làm đạo ta hưng thịnh là ngài Tứ Minh Pháp Trí, nên các học sĩ khắp nơi đều hướng về. Nối nghiệp người trước mà lại nổi tiếng hơn thì có Quảng Trí, Thần Chiếu, Nam Bình là ba Sư bày pháp nhà truyền nối ý Phật, dùng cái mưu trung hưng giáo quán để mở rộng vô cùng, để đời này có nơi nương tựa. Do đó mà viết nên liệt truyện các

Sư này. Như về một dòng Từ Vân từ các Sư Xương, Thiều trở đi, năm đời không nghe tiếng thì nay cũng xin nêu đủ liệt truyện. Còn phái Từ Vân trở về trước thì xếp thứ tự tiếp nhau không làm xáo trộn với con cháu của ba nhà ở Tứ Minh.

------------------------------

NỐI PHÁP NGÀI THIÊN TRÚC THỨC PHÁP SƯ

1. Pháp sư Văn Xương:

Sư người Vĩnh gia, theo nương học từ lâu với ngài Từ Vân thông suốt được ý đạo, bấy giờ được chúng tôn là hàng trên trước. Sư lại sang Hồ nam gặp ngài Pháp Trí nên chỗ đạt càng xa. Sư quay về chốn cũ, vì Diệu quả Đệ nhất thế mà lập mới diệu tông, bèn sao chép lại những điều các thầy đã giảng truyền phó chúc. Nhưng Sư dặn rằng: Nếu có những chỗ lạ thì có thể trích thêm đem vào. Trong nhóm hơn hai mươi môn đệ truyền giảng của ngài Từ Vân thì Sư đứng đầu (thấy trong Từ Vân Hạnh Nghiệp Ký-Tứ Minh và Cự Sư Thư).

2. Pháp sư Tổ Thiều:

Sư họ Lưu ở Thiên thai. Được vua ban hiệu là Minh Trí. Năm mười chín tuổi Sư thông suốt Pháp Hoa. Được độ vào chùa Đông dịch tham học với ngài Từ Vân đạt được áo chỉ, bèn hầu hạ ngài làm thầy. Khi dời đến Linh sơn thì Sư ở vào hàng Nhất tòa. Ngài Từ Vân khi sắp về ở Thảo Đường, gọi Sư đến nói rằng: "Ông hãy đến đó thay ta mà truyền giáo. " Bèn sai Sư sang núi ấy. Sư liền mang hài cỏ vui vẻ ra đi, lúc đến bờ sông, ngài cho gọi Sư lại bảo rằng: "Ta chỉ thử ông thôi, ông nên ở lại núi này. " Sư vâng lời. Mọi thứ đều thành khuôn phép. Ngoài việc giảng dạy Sư luôn tu tứ Tam-muội, lấy đó làm khóa tụng hằng ngày. Cột kèo nhà cửa chưa đầy đủ, Sư ra sức sửa chữa. Một hôm Sư bảo chúng rằng: "Ta nhận lời gởi gấm của ngài Từ Ân, nay đã già rồi, lại cũng sắp có việc ở Đông lãnh, vậy Tuệ Biện nên vì ta mà làm thượng thủ để kế thừa tốt cho ta. " Sư vào am cỏ yên thân. Không bao lâu sư có bệnh, rồi ngồi kiết già mà tịch, Sư thọ bảy mươi hai tuổi, hạ lạp năm mươi hai. Xưa Sư ở Đông dịch tu Quang minh Tam-muội suốt một trăm ngày đêm, mới năm mươi ngày chợt thấy cờ xí rợp trời phía trước, kẻ dẫn đường hô lớn: "Đây là Đại Biện Tôn Thiên. Sư liền vái chào. Thiên bảo: "Sư nên ở đây truyền bá Đại thừa lợi ích quần sinh", nói xong liền biến mất. Sư thường đến Kinh sư, đạo truyền vượt ngoài sông Hoài, sông Tứ. Sư mộng thấy có vị Phạm Tăng xoa đầu Sư bảo rằng: Ta là Hòa thượng Văn-thù dạy ông năm nghĩa Vô sinh. " Khi tỉnh dậy thì đọc năm Tạng thông suốt như nuốt băng tuyết. Sư lại mộng thấy mình vào một ngôi chùa cổ, có vị Tăng ngồi xổm bảo Sư rằng: "Ta nói cho ngươi nghe Đệ nhất nghĩa đế", nghe xong như nước Cam lồ rót trên đảnh đầu liền thấy y và chánh báo như bóng mây. Có người hỏi: "Người mà thấy Hòa thượng nhân đâu mà vui mừng?" Sư đáp:

"Thấy người thì luôn tưởng nhớ đến Phật. "

3. Pháp sư Thanh Giám:

Sư người Vân giang, được vua ban hiệu là Thiền Tuệ, Sư vì ngài Từ Vân mà soạn bài tựa Xí Thạch Quang Niệm Tụng Nghi, trong ấy tóm tắt rằng: Tôn giả Từ Vân đã tu Quang Giáo Môn, đệ tử là Thanh Giám được học bốn thứ Tam-muội và tu theo pháp ngài truyền lại, riêng mình làm sáng tỏ các pháp chưa truyền bà rộng khắp. Nhân đó mà với năm chương cũ đã sửa sang đầu đuôi, lại thêm hai chương Thị Pháp và Thích Nghi làm thành bảy khoa.

4. Sám chủ Tư Vĩnh:

Sư hiệu Chân Tịnh, vào tu ở Thăng Quả Tú Chi gần gũi lâu ngày với ngài Từ vân, siêng tu nghiệp Tịnh độ. Chúng thời ấy tôn kính Sư gọi là Túc Thượng cũng gọi là Sám Chủ. (Từ đây bản kỷ thiếu hai người)

5. Thị giả Tư Ngộ:

Sư là người Tiền Đường. Hầu ngài Từ Vân giảng kinh lâu nhất, nên thấu suốt quán đạo, giỏi trì chú pháp, dùng nước chữa dứt các bệnh, người đến xin đông như chợ. Đương khi tụng kinh thân Sư và Tượng thờ thường sinh ra xá-lợi. Năm Thiên Thánh thứ ba, ngài Từ Vân muốn đem giáo quyển của tổ Trí Giả xin vua cho nhập Đại Tạng. Thừa tướng Văn Mục Vương Công đem việc tâu lên vua. Tư Ngộ bảo: "Đây không phải việc tầm thường xin cho phép tiểu tử tôi giúp sức. " Bèn vẽ tượng Thiên Thủ Đại Bi, bày khóa lễ đọc chú nguyện rằng: "Nếu việc thành tựu xin tự thiêu để báo đáp. " Lại gặp Thừa tướng qua đời, Sư càng chuyên tâm tụng chú. Năm sau thì được chỉ vua chấp thuận. Sư rất mừng bèn chất củi làm lầu. Lại thưa ngài Từ Vân xin lửa. Ngài Từ Vân lấy than hồng trong lư đưa cho. Sư cầm lấy không chút do dự. Liền vào lầu củi tự thiêu. Sau khi lửa tắt áo ca-sa đắp thân vẫn y nguyên như lúc còn sống. Ngài Từ Vân bèn thêm gỗ thơm, đọc chú cầu nguyện rồi châm lửa đốt. Sư theo ngọn lửa rực sáng mà hóa. Xá-lợi năm sắc rất nhiều, ba năm sau vẫn còn tìm thấy. Ngài Từ Vân làm bài tán khắc vào đá có câu: "Ngộ là học trò ta vì pháp mà thiêu thân, ngọn lửa phừng phừng, niềm vui rạng rỡ, đợi lửa sắp tàn, kiết già sừng sửng, khi xương cháy vụn xá-lợi như ngọc, xưa tin ứng nghiệm, đời nay khó được, tuổi đời ba mươi thật bậc trượng phu! (Từ đây bản kỷ thiếu mất bốn vị Tể quan).

NỐI PHÁP NGÀI MINH TRIỀU PHÁP SƯ

1. Pháp sư Tuệ Biện:

Sư tự là Nột Ông, họ Phó, người Hoa đình, hiệu là Hải Nguyệt, theo học với ngài Phổ Chiếu. Lúc đầu du học ở Thiên Trúc. Khi đến Hiệp Giản, có cụ già áo mão cân đai đi qua cầu, đón rước vào cửa rồi biến mất. Ngài Minh Trí mới gặp Sư lần đầu rất lấy làm lạ. Sư liền chú tâm học Giáo Quán. Khi lớn tuổi, ngài Minh Trí bảo Sư thay mình ở tòa thứ nhất mà diễn giảng. Một hôm Sư mộng thấy ngài Chương An cầm cây lược vàng gõ vào miệng Sư bảo: Ông khuyên dạy người phải được Biện Tuệ. Sư luôn khổ vì bệnh tỳ vị, mộng thấy Thiên thần bưng mâm vàng đựng đầy nước bảo Sư nhắm mắt rồi đổ nước để rửa ruột. Đến tám năm sau, ngài Minh Trí bảo Sư nối ghế chủ giảng. Quan hàn lâm là Thẩm Cấu cai trị đất Hàng rất oai phong, ai thấy đều kinh sợ mất vía, nhưng Sư vẫn thung dung như thường. Cấu lấy làm lạ, mời Sư làm Đồ Tăng Chánh. Lúc đó Tô Tử Chiêm làm Thông Thú, có làm bài tựa Tăng Sư nói rằng: Tiền Đường Phật Tăng thạnh hành, mà khắp thiên hạ thì người học giả đạo đức tài trí cùng kẻ dối lừa hèn hạ lẫn lộn ở một nơi, khó đánh giá cho đúng. Cho nên ngoài Tăng chánh phó ra cần bổ thêm một viên Đô tăng chánh, ở bậc dưới của chánh phó chuyên trách về sổ sách án điệp, tới lui đón đưa, Đô Sư đã điều hành trọn vẹn. Thật ra Sư dùng hạnh giải để làm gương cho chúng mà thôi. Khi Sư nhậm chức rồi thì nếu việc quản lý trong tự viện mình được rảnh rang Sư liền tập họp chư Tăng các chùa cùng các bậc hạ tòa tài giỏi, mở cuộc sát hạch hỏi nghĩa lý, đặt tên là "Cực vi hồ". Cuộc sát hạch gồm mười câu hỏi. Ai trả lời được năm câu thì trúng tuyển, ai trả lời dưới ba câu thì bị loại. Sau đó mới bổ nhiệm vào những tự viện theo cấp bậc khác nhau. Do đó các chùa đều tôn kính tuân theo quy tắc đó. Sự hoằng truyền suốt hai mươi lăm năm, người theo học có số ngàn. Có một đêm kẻ trộm vào thất, Sư cởi áo đưa cho bảo kẻ trộm theo đường tắt mà đi. Buổi vãng niên, Sư bớt việc giao tiếp, trở về nương chốn thảo am, sáu thứ luôn theo mình (sáu thứ là y, bát, ngọa cụ, giấy viết, phất trần, lư hương). Bấy giờ đất Ngô việt có đại hạn, cầu mưa ở tượng Quan Âm chùa Thiên trúc đã lâu mà không ứng nghiệm. Sư hay có bệnh ngủ trưa mộng thấy một cụ già áo trắng đội mũ đen bảo rằng: "Đúng ngọ ngày mai tất có mưa. " Tới hẹn quả có mưa. Xa gần đều cảm mộ sự chí thành của Sư. Đến ngày mồng bảy tháng mười năm Hy Minh thứ sáu, buổi sáng Sư rửa mặt súc miệng xong nói lời giã biệt với chúng, rồi ngồi kiết già chắp tay mà hóa. Lúc xưa Sư có dặn phải đến dốc núi phía Đông rồi mới đậy nắp Kim quan (Khám). Sau bốn ngày đến dốc núi thì thấy Sư ngồi kiết già như lúc còn sống, trên đỉnh đầu vẫn còn ấm. Khiêng hết dốc, đồ chúng an táng xong mới lui về.

Đông Pha Tập nói rằng: Sau khi Sư tịch hai mươi mốt năm, ta bị trích đến Tuệ Châu em của Sư là Tư Nghĩa có dặn Tham Liêu xin làm bài Tán nhân viết tựa rằng: Ta ở đất Hàng mộng thấy đến Tây hồ thấy một đại điện trên có bảng đề: "Di-lặc hạ sinh, cố nhân Hải Nguyệt, dòng giỏi biện tài đều tới lui ở đó. Bèn làm ba bài Tứ Tuyệt mà điếu, bài thứ nhất:

Muốn tìm di tích nhìn áo cũ Vốn đã vô sinh sao mất được

Đêm nay trăng sáng giảng đường xưa Thềm cũ tiếng sương rơi Thánh thoát.

Sau đó Tham Liêu đến Dĩnh thủy vào gặp Tử Do bảo rằng: Biện tài đến như Tử Chiêm mà có được lời minh. Chỉ riêng Hải Nguyệt không có minh sao? Tử Do cũng làm bài minh đề ở tháp.

2. Pháp sư Tư Nghĩa:

Sư tự là Hòa Phủ, họ Lăng, người ở Võ Khoang Hồ Chi. Sư thi Pháp Hoa được trúng tuyển hạng nhất nên được độ xuất gia. Sư theo học với ngài Minh Trí do nghe giảng mà được ngộ, thường mở túi thơm đưa ra mười câu hỏi. Sư đáp đều khế hợp ý chỉ. Khi ngài Minh Trí lui về ở Thảo đường, đại chúng cùng đưa ngài vào thất, khi chúng tan Sư vẫn còn đứng hầu một bên, ngài Minh Trí hỏi: Ông vừa thấy gì? Đáp: Thấy đại chúng lạy rồi lui ra. Ngài bảo: "Ta bảo ông sau này phải ở tại núi đây mà nối thạnh đại giáo và về sau cũng nhập vào thất này.... " Sư trải tu bốn hạnh Tam-muội. Bỗng trên cổ Sư nổi lên một bướu thịt. Đêm Sư mộng thấy Công đức thiên đến cho Sư ăn một quả đào, thì bệnh liền tiêu. Năm Hy Ninh thứ tư, được vua ban cho Tử Y và hiệu là Tịnh Tuệ. Thừa tướng Tô Tụng cai trị đất Hàng, thỉnh Sư về ở chùa Thiên trúc. Ở đấy Sư chấn hưng đạo pháp ở núi ấy suốt hai mươi ba năm rồi lui về ở Thảo đường đúng như lời ngài Minh Trí đã nói trước. Năm Nguyên Hựu thứ ba, ngày mười tám tháng hai, giữa đêm Sư giã biệt chúng ngồi kiết già mà hóa. Đại chúng tụng niệm rất lâu. Bỗng Sư cất tiếng bảo: Ta đến hầu Đức Quan Âm Đại sĩ, mới đi thì thấy một vị Samôn mình ánh sắc vàng vẫy tay bảo ta rằng: "Báo duyên của ông chưa dứt, bảy ngày nữa ta sẽ đến rước. " Đến ngày hai mươi lăm Sư lại ngồi kiết già mà hóa. Đến ngày nhập khám, có vầng mây đỏ phủ bên trên in tuồng như dẫn đường hướng về phía Tây rồi ẩn mất.

3. Pháp sư Nguyên Tịnh:

Sư tự là Vô Tượng, họ Từ, người ở Ư tiềm, Hàng châu. Có người khách đi ngang qua nhà bảo rằng: "Khí đẹp cuộn bay lên, ắt sinh trai kỳ đặc!" Khi Sư sinh ra thì ở vai trái có nổi lên miếng thịt như điều của ca sa, tám mươi mốt ngày sau mới lặn. Ông bác thấy làm lạ bảo rằng: Đây là Sa-môn kiếp trước tất phải hầu Phật. Còn số tám mươi mốt thì đúng là Sư thọ được tám mươi mốt tuổi. Đến mười tuổi Sư xuất gia. Mỗi khi thấy giảng tòa Sư thường bảo: Ta nguyện lên tòa này nói pháp độ người. Năm mười tám tuổi Sư đến học với ngài Từ Vân, không bao lâu được sắp lên hàng cao đệ. Sau nghe ngài Minh Trí giảng về Chỉ Quán, có năm duyên Phương Tiện, có nói rằng: Dùng một bữa cơm thí cho tất cả, cúng dường chư Phật và các Thánh hiền rồi sau mới ăn. Bữa ăn này là một phương tiện vậy. " Sư ngộ, bảo rằng: Nay mới biết sắc hương vị xúc vốn đủ đệ nhất nghĩa đế, nhân đó Sư khóc như mưa. Từ đó gặp vật nào cũng đều là Pháp giới. Sư thay ngài Minh Trí giảng kinh suốt mười lăm năm. Quan thú ở đất Hàng là Lữ Trăn thỉnh Sư đến ở Đại bi các, Sư nghiêm thiết giới luật, đồ chúng rất sợ nhưng cũng rất mến Sư. Lữ Trăn tâu vua ban cho Sư Tử Y và hiệu là Biện Tài. Được bảy năm, Quan Hàn Lâm Thẩm Cấu cai trị đất Hàng (năm Gia Hựu đời Nhân Tông) cho rằng Thượng Trúc vốn là Quan Âm đạo tràng phải dùng âm thanh để làm Phật sự không phải chỗ của Thiền-na, bèn thỉnh Sư đến ở. Sư đục núi để tăng thêm phòng ốc, rộng tụ tập đồ chúng, hoằng truyền Phật pháp thạnh hành trùm cả hai vùng sông Triết. Năm Tông Hy thứ ba đời vua Thần Tông, quan Thú đất Hàng là Tổ Vô Trạch bị ngồi ngục ở Tuy lý (Tú châu). Sư bèn đúc chuông kể bày mọi việc nên may mắn được thả ra. Khi Sư ngụ ở Chân Như Lan Nhã định soạn Kim Ty, đặt ra vấn đáp để thuật Thuyết Sự Lý Viên Dung, làm sáng rõ diệu lý của Tổ Sư. Năm Nguyên Phong thứ nhất, có người thấy vật cúng thí của Sơn môn quá nhiều đã ỷ quyền thế cướp đoạt, chúng nhân đó giải tán. Năm sau người ấy bị triều đình chê trách mời Sư về ở lại, chúng bèn tập hợp đông vầy. Thanh Hiến Triệu Công là bạn tục của Sư làm lời tán rằng: Sư đi núi Thiên Trúc vắng, quỷ sầu; Sư về Thiên Trúc đạo tràng lại rạng rỡ (Đông Pha Ký Thi nói rằng: Đạo nhân đi khỏi núi, sắc núi úa tro tàn, mây trắng buồn ngẩn ngơ, rừng thông gào thảm thiết. Chợt nghe Đạo nhân về, chim hót núi mừng rở…). Được ba năm Sư lại ra đi, đến ở tại Long tỉnh thuộc Nam sơn, hàng sĩ thứ đua nhau dựng nhà, bèn thành một ngôi chùa ở đấy. Được sáu năm, quan thái thú Đặng Bá Ôn thỉnh Sư đến ở Nam bình, qua năm sau Sư lại trở về Long tỉnh. Lúc bấy giờ Linh sơn không người giảng kinh, Sư vì đạo tràng của Sư tổ Từ Vân, nhận lời chúng thỉnh trở về. Được hơn một tháng, trong lúc thiền định Sư thấy thần Kim giáp quỳ trước Sư thưa rằng: "Pháp sư trước đã ở đây, không duyên không nên ở lâu. " Sư theo lời Thần mách bảo bèn trở về Long tỉnh. Năm nguyên Hựu thứ tư, Tô Thức cai trị đất Hàng, có lần đến hỏi Sư rằng: Ở Bắc sơn người lãnh đạo như Sư có được mấy người? Sư đáp: Sa-môn phần nhiều tu mật hạnh không thể biết hết. Con của Pha Tử là Đãi sinh đã bốn năm mà chưa biết đi bèn thỉnh Sư đến cạo tóc và xoa đảnh, được vài hôm thì bước rất nhanh (Pha nói rằng: Sư đến xoa đầu thì liền chạy nhanh như hươu). Lúc sắp viên tịch, Sư vào ở am Phương viên, ngồi yên từ biệt khách, không nói năng ăn uống, lại cho mời Tham Liêu đến bảo rằng (Tham Liêu Đạo Tiềm): Tịnh nghiệp ta sắp thành, nếu trong bảy ngày không có điều chi trở ngại thì ta thỏa nguyện. " Đến bảy ngày Sư nói kệ dạy chúng rồi nằm thế kiết tường nghiêng hông bên phải mà an nhiên thị tịch. Lúc đó là ngày tối trời tháng chín năm Nguyên Hựu thứ sáu. Khi xây tháp xong, đệ tử là Hoài Sở đến Nhữ Ân xin Đông Pha viết bài chí, Đông Pha bảo Tử Do làm bài Minh. Sư nói pháp không kể ngày đêm. Sư thường nói: Vì quỷ thần oai đức không đầy đủ, ban ngày không đến nghe được, ban đêm vắng người họ mới có thể nghe được. Sư đốt tay cúng Phật, tay trái đốt ba ngón, tay phải đốt hai ngón. Có người muốn bắt chước, Sư ngăn lại bảo "Như ta tu Tây phương tịnh nghiệp, chưa hề phút giây bỏ sót, nếu cầu Bồ-tát phóng quang thì ánh sáng liền hiện đến. " Sa-môn

Hy Trọng ngồi ăn cơm với Sư thấy giữa chân mày của Sư có ánh sáng. Khi vạch chỗ đó ra thì có mấy hạt xá-lợi. Người đời sau cũng thường nhặt được xá-lợi ở chỗ nằm của Sư. Gia Hưng lệnh là Đạo Trĩ có con bị ma ám, Sư đến chú nguyện liền hết bệnh. Chư Kỵ Trần Thị bị bệnh tim lâu ngày dần dần không nhận biết được người. Sư dùng lời dịu dàng khuyên răn thì liền tỉnh biết. Bố Y Lý Sinh học thiền đã lâu nhưng chỉ biện giải mà không thực hành muốn theo Sư xuất gia nhờ ngài Đông Pha nói giúp nhưng chưa nói đến tên thì Sư cực lực từ chối, hình như Sư đã biết trước. Ở Tú châu có cuồng Tăng hiệu là Hồi Đầu, dùng tả đạo mê hoặc người, bảo mình sẽ xây tháp lớn để người đất Ngô gieo trồng phước đức. Sẽ xây cất ở Vân ủy, vì sợ không thể dối Sư khi vào đất Hàng nên sai người đem thư trước xin lấy mười vạn quan tiền để cúng Tăng. Sư đáp rằng: "Nhận lấy tiền xây tháp nay muốn cúng Tăng thì bảo phải có văn từ rõ ràng, không được xài lộn. " Cuồng Tăng mắc cỡ đành thôi (Đông Pha có lời văn tế, tóm tắt rằng: Xưa ta bị đày ra đất Hàng thấy có năm ông: Giảng thuyết có Biện Trăn, tu thiền có Liên Trung. Sau hai mươi năm chỉ còn ông này, nay cũng bỏ đi. Người sau biết nương tựa ai?).

Cảnh Am nói: Đạo cao đức trọng trí sáng luận giỏi làm Đại Pháp Chủ là chỗ đời nương tựa cho đời, mà việc xuất xử ăn uống còn không được tự tại. Sư ở Thượng Trúc gần hai mươi năm, ở Linh sơn chỉ hơn một tháng. Song luận về kết duyên thì bậc Đại hiền vẫn có điều chưa khỏi được.

4. Pháp sư Đái Thăng:

Sư người ở Cối kê, hiệu Thần Trí, từ lâu theo học với ngài Minh Trí, người thời ấy tôn Sư là người luận thuyết giỏi. Ngay trước, khi Tiền Võ Túc Vương còn làm Soái ở đất Hàng, có lần bị bệnh mắt có màng. Đêm Vương mộng thấy vị tiên mặc áo lụa trắng nói rằng: Từ Vĩnh Gia đến đây. Sáng sớm Tăng Vĩnh Gia dâng điệp xin hiến tượng Quan Âm nói là đã vớt được trên biển. Các Sư trên núi rước về nhưng khiêng không nổi. Liền báo mộng là muốn về ở Việt thành. Võ Túc Vương liền kính cẩn đến nghênh đón, khi nhìn thấy tượng thì mắt Vương sáng lại. Vương bèn lập am tên là Phước hưng để thờ tượng. Tượng cao sáu thước phạm tướng uy nghiêm, đèn đốt suốt đêm như thờ người sống. Khoảng năm Nguyên Hựu, Sư đến ở Hưng phước, bấy giờ Thanh Hiến Công làm Soái. Hạn hán lâu lại thêm dịch bệnh, cầu cúng lâu ngày không ứng nghiệm, Vương bèn dẹp hết các việc cúng kiến thường nhật, thỉnh Sư rước tượng vào phủ, khẩn thiết nguyện cầu, chỉ một đêm thì mưa ào xuống như trút nước, dịch bệnh cũng tiêu mất. Vương tâu về triều được vua ban cho Sư hiệu Thần Trí, tên am là Viên thông. (Sau đây bản kỷ bỏ sót một vị)

NỐI PHÁP NGÀI HẢI NGUYỆT BIỆN PHÁP SƯ

1. Pháp sư Tòng Nhã:

Sư người Tiền Đường, được vua ban hiệu Pháp Bảo. Lúc đầu Sư theo ngài Hải Nguyệt học thông Chỉ Quán bèn tự bảo rằng: Nói trong mà làm đục sẽ bị Thánh hiền quở trách. Bèn vào viện Thiên Vương ở Nam Sơn mà tụng Pháp Hoa lên đến năm tạng (một tạng là năm ngàn tám mươi bốn cuốn), Kim Cang Bát-nhã bốn tạng, Di-đà Kinh mười tạng, Lễ Tháp Xá-lợi mười biến (một biến là tám vạn bốn ngàn lạy), Lễ Thích-ca ba mươi vạn biến, Lễ Di-đà một trăm vạn biến, lạy danh hiệu Phật năm ngàn vạn tiếng, lạy kinh Pháp Hoa, một chữ ba lạy, ba lần. Tâm quyết vãng sinh Tịnh độ, một đời không xây lưng về hướng Tây. Hiến sứ là Vô Vi Dương Kiệt làm bài tán An Lạc Quốc gồm ba mươi chương để làm đẹp. Trong đó có câu: "Tịnh độ khắp các cõi, đâu riêng gì Tây phương, chỉ được vào một cửa, mọi nơi đều Bồ-đề. " Sư muốn rộng hoằng hóa thế tục, bèn ở chùa Thọ nghiệp tịnh trụ mà vẽ ba bậc chín phẩm, đem khắc bài tán vào đá. Người đến xem đều được cảm hóa. Một hôm Sư không bệnh ngồi kiết già mà thị tịch. Có điềm lành thiên nhạc tấu trên không trung và mùi hương lạ đầy thất.

2. Pháp sư Trí Thâm:

Sư được vua ban hiệu Từ Hạnh, họ Thẩm, người ở Gia hòa. Lúc đầu Sư nương ngài Hải Nguyệt học về giáo quán. Khi đã thành, Sư trở về học với Sùng Phước Tây Tự, rồi mở Trường đường, cúng Vân Thủy, lập Sám hội Quang minh kỳ, suốt hai mươi năm mà chỉ như một ngày. Sư chuyên tu Tịnh độ, khuyên người niệm danh hiệu Phật, được Sư giáo hóa số người đông không kể xiết. Đến tháng sáu năm Ất Mùi niên hiệu Chánh Hòa, Sư ngồi mà tịch. Để khám suốt bảy ngày mà sắc mặt Sư vẫn không đổi. Đến ngày trà-tỳ thì có mùi hương lạ lan tỏa khắp nơi. Mọi người đến nhặt hết xá-lợi và xương tàn.

NỐI PHÁP NGÀI TỊNH TUỆ NGHĨA PHÁP SƯ

1. Pháp sư Đức Hiền:

Sư người Lâm An, vua ban hiệu là Viên Ứng. Lúc Sư còn nhỏ, xem bói thầy tướng bảo: "Ngày nọ sẽ bị nạn quan, chỉ có xuất gia mới khỏi được". Cha tin lời, bèn cho Sư đến nương chú là Hải Nguyệt. Hải Nguyệt nói: "Ông cháu ta nối nhau gia nghiệp mới thành, ngươi muốn đến đây làm chủ nhân chăng?" Sư bèn bỏ đi. Sau đó xuống tóc lại đến chùa Thiên trúc tham học với ngài Tịnh Tuệ. Sư rất thông suốt đạo Giáo quán, lâu ngày được sắp vào hàng Đệ nhất tòa. Có một tục sĩ vào gặp ngài Tịnh Tuệ thưa rằng: Con gái tôi bị ma quấy nhiễu chợt gào chợt khóc, xin Sư Từ bi cứu giúp!" Ngài bảo: "Thủ tọa của ta trị nó được. " Kẻ sĩ bèn đến vái chào. Sư bảo: "Đặt một cái giường ở trên gác rồi cô gái đến đó ngủ". Giây lát Sư bỏ đi. Cô gái thưa cha rằng: "Con vừa được Sư khai ngộ cho, nên nay xin đi luôn. " Từ đó thần thức cô được an định. Khi ngài Tịnh Tuệ ở yên tại Thảo đường thì Sư lên nối tiếp ở tòa giảng kinh. Quả là phù hợp với lời ký trước "về đây làm chủ" của ngài Hải Nguyệt. Sư ở đó được năm năm, không bệnh mà qua đời. Sư bảo môn nhân rằng: Thuở sinh tiền ta nhờ đạo lực mà thoát nạn, nay chết rồi e không khỏi được. Môn nhân bèn tạo tượng Sư đưa vào Tổ đường, dùng sắt mà bảo vệ cổ pho tượng. Trong năm Kiến Viêm, giặc Kim Chân Châu Vương Tử kéo quân đánh Chiết giang, chạy vào Thiên Trúc, lên Bảo điện thì các tượng đều đứng dậy vái chào, riêng tượng Sư không nhúc nhích. Vương nổi giận bảo đem chém nhưng cổ tượng có sắt nên không hề hấn gì. Vương lại bảo chất củi đầy cửa mà đốt. Nhưng khi củi tàn mà nhà vẫn y nguyên như cũ.

Giặc cả kinh khen ngợi đảnh lễ lui ra.

2. Pháp sư Trọng Nguyên:

Sư hiệu Thần Trí. Đúng tuổi thọ giới, liền theo học giáo pháp với ngài Tịnh Tuệ ở Thiên trúc. Rồi kế thừa làm chủ Tổ phụ đạo tràng, Đạo Phong rực rỡ. Được sáu năm thì Sư lui về chốn Thảo đường. Sư mời thủ tọa là Vĩnh Kham lên nối mình, Sư bảo: Các vật ở trong liêu đều để lại cho người sau, Phương trượng có chỗ dùng thì cũng đầy đủ. Sư chỉ lấy theo ba y, một bát, lò hương, phất trần, ni sư đàn, giấy mực và đồ giặt rửa, đời gọi là bảy vật tùy thân. Sư bước qua Thảo đường kịp nhìn qua liêu Thủ Tọa, chỉ còn một cái chăn, ngoài ra không gì khác. Người đời không ai không kính trọng đạo đức của hai Sư.

3. Pháp sư Vĩnh Kham:

Sư được vua ban hiệu Từ Giác, sống đời cao cả. Bình sinh Sư không bước chân đến chùa Ni. Sư theo học với ngài Tịnh Tuệ, lâu dần được đạo. Về sau Sư nối tiếp Sư Thần Trí ở Thiên Trúc được hai mươi mốt năm. Học giả khắp nơi đều tôn Sư là Tông Chủ. Sư thường khuyên dạy chúng rằng: Biết đạo mà không ép mình làm theo cũng như thấy cơm mà không chịu ăn, rốt cuộc là người đói. Hôm khác lại gọi chúng bảo rằng: Các ông cứ một mực nhịn ăn mãi là sao? Chúng hổ thẹn trước lời nói ấy, các học sĩ cùng lúc đốc thúc nhau tu tiến để trở nên bậc anh tài trên đời.

4. Pháp sư Tuệ Nhật:

Được vua ban hiệu Tịnh Chiếu, theo học với ngài Tịnh Tuệ mà được yếu chỉ. Sư thấu suốt Tam tạng, ưa tu thiền định, lấy việc phù vân mà đãi người, không phân biệt ngu hay trí. Có bị làm nhục Sư không hề đổi sắc, mọi người đều khen Sư đã được đại nhẫn của Phật. Sư nối ngài Từ Giác ở Thiên Trúc hơn mười năm, giảng đạo rất tinh tấn nối sáng nghiệp cha anh.

5. Pháp sư Tư Thượng:

Sư sớm theo học hiểu diệu đạo của ngài Tịnh Tuệ. Năm Chánh Hòa thứ nhất có chiếu vua mời Sư đến ở Thượng trúc và ban hiệu là Viên Ngộ. Sư giảng nói giản dị sáng sủa, các học giả đều ngưỡng mộ. Sư thường bảo: Nghĩa học của tông ta không chung với sách Nho, nhưng ta e người giảng dạy chưa thấu đáo hết nghĩa lý ấy. Dẫu nghĩa chưa tường tận còn ý ấy ở đâu? Vậy hãy được ý mà quên lời, từ đó người học sẽ thành công. Nhưng nếu người sơ tâm mới học thì trước hết phải tìm hiểu văn nghĩa mới được.

NỐI PHÁP NGÀI BIỆN TÀI TĨNH PHÁP SƯ

Pháp sư Nhược Ngu:

Sư người Hải diêm, họ Mã, được vua ban hiệu là Pháp Giám. Sư theo học giáo với ngài Biện Tài được khen ngợi là kẻ sớm thành đạt. Quan Quận thú đón Sư đến hoằng pháp ở Nam bình nhưng Sư không đi, bèn mời ngài Biện Tài đến ở. Đó là lúc Sư ở Long tỉnh sáu năm. Sau Sư đến Tiên Đàm ở Hồ chi xây cất Trường đường để tiếp đãi. Dựng gác lớn, tạo tượng Tây phương, kết họ với đạo niệm Phật thường có đến mấy trăm người. Trong suốt ba mươi năm người dự hội phần đông đều có điềm lành được Phật đón rước. Tháng chín năm Tỉnh Khang Mậu Ngọ, Sư bảo đồ chúng rằng: Ta mộng thấy Thần nhân bảo rằng: Bạn đồng học với các ông là Tắc Chương được Phổ Hiền Hạnh Nguyện Tam-muội, đã vãng sinh Tịnh độ, đang ở cõi ấy đợi các ông, các ông sao có thể để lâu mãi thế? Sư liền khiến chúng phúng tụng Quán Kinh, vừa xong bèn nói: Phật đã hiện tiền, chúng ta cùng đến đó. Liền để lại bài kệ rằng:

Ngàn hoa giăng lưới giữa khoảng không
Trong mộng ao sen bảy báu hiện
Bước đến đất Tây đường yên ổn
Một chút hồ nghi ắt cũng không.

Khi trà-tỳ Sư thì được cả trăm hạt xá-lợi. Tháp Sư ở Đông vũ. Khi Sư mới xuất gia mộng thấy cô gái áo trắng trao cho hai mươi bảy thẻ lớn. Sau đúng y số năm Sư hưởng dương (sau đây bản kỷ để thiếu mất một người. Như Cảo ở sau ngài Tử Lâm).

NỐI PHÁP NGÀI TỪ GIÁC KHAM PHÁP SƯ

Pháp sư Tử Lâm:

Sư được vua ban hiệu Từ Thọ. Thuở nhỏ Sư theo học với ngài Từ Giác và thâm ngộ được Viên Chỉ. Sư lại đến gặp ngài Phật Trí Dụ Thiền sư nghiên cứu kỷ Tâm Yếu. Lúc đó ngài Thiên Trúc được chỉ vua ở trong núi để làm công đức cho Thái hậu Từ Phước. Suốt hai mươi tám năm trong việc diễn giảng Sư luôn đề cao đại nghĩa. Các thiền lữ nghe đạo phong của Sư mà đến thì đều cảm phục sự biện luận của Sư. Ngài Đại Tuệ Cảo Thiền sư đến luận bàn cùng Sư, suốt đêm không hay trời sáng liền bảo Sư rằng: Người bây giờ chỉ biết Sư có giáo, Kính Sơn lại nhận là lão Sư có thiền và làm lời đề nói về sự thật ấy rằng: Khi ngộ được Toàn Đà-la-ni Tam-muội thì đối với tất cả pháp đều được đại tự tại. Trên đầu lưỡi, lời lẽ tuôn trào Đệ nhất nghĩa đế không hề sai trái.

Mùa Xuân năm Càn Đạo, vua Hiến Tông đã vời Sư vào hỏi đạo.

Vua nói: Trẫm muốn đọc kinh, vậy kinh nào cốt yếu? Sư đáp: Kim Cang Viên Giác là đạo cốt yếu nhất.

Vua hỏi: Tham thiền như thế nào? Sư đáp: Tu thiền cần do tự ngộ.

Vua hỏi: Lấy gì làm công?

Sư đáp: Ngưng lắng thân tâm lâu ngày tự khế hợp.

Vua đồng ý. Sau này khi triều đình có việc cần mời hỏi các bậc Đạo giáo ở đời thì Sư thường cho Tuệ Quang ở Thượng trúc góp ý. Vua rất vui mừng tiếp nhận. Một hôm Sư gọi môn nhân bảo rằng: Ta làm Thủ tọa mười tám năm, hằng ngày đều tụng một bộ kinh Pháp Hoa này. Mỗi khi thiền định thường mộng thấy Đức Phổ Hiền. Từ khi làm trụ trì đến nay không còn mộng thấy nữa, mới tin là "lãnh chúng thì tổn mình" lời nói ấy thật đúng. Sư bèn lui về ở Thảo đường. Được khoảng nửa năm, chợt Sư viết kệ để lại rồi ngồi kiết già thị tịch. Để khám Sư lại hơn một tuần nhật, lúc đó trời đang giá rét nhưng nhục thân Sư vẫn luôn ấm áp (Sau đây mới biết thiếu một vị Linh Tường).

NỐI PHÁP NGÀI PHÁP BẢO, NHÃ PHÁP SƯ

Pháp sư Như Cảo:

Sư người ở Tiền Đường, đến tham học với ngài Pháp Bảo. Đời Đường, có Phục Lễ Pháp sư đến học đạo làm kệ hỏi rằng:

Chân Pháp tánh vốn Tịnh Vọng niệm do đâu khởi Từ chân có vọng sinh Vọng này do đâu dứt?

Không đầu thì không cuối Có chung nên có thủy Không thủy mà không chung Mù mịt mãi lý này

Xin bày ý huyền diệu Bẻ gãy thoát sinh tử.

Sư bảo: Câu hỏi này có hai ý. Vế bốn câu hỏi đầu là: Chân pháp vốn tịnh vọng do đâu sinh, vọng đã sinh rồi, vọng do đâu diệt. Đây là nghĩa tức chân, tức từ chân mà khởi vọng, lại từ vọng mà trở về chân. Vế bốn câu hỏi kế là: Thủy chung có không, đã nói không thủy, vì sao có chung. Nếu không có chung, vì sao có thủy. Hai câu kệ sau là đáp. Từ Cổ Thiệp Pháp sư đến Thanh Lương Khuê Phong mỗi vị đều có kệ đáp. Nhưng trong Hồng Giác Phạm đã chép (Lâm Gian Lục) bảo đều chưa đáp ứng đúng ý hỏi. Hỏi rằng: "Chân pháp vốn tịnh, vọng do đâu khởi?", mà nay chỉ đáp là "mê chân bất giác". Với câu đáp đó ai trả lời không được? Sư bèn phân ra mà đáp rằng:

Chân không giữ tự tánh Phân biệt, năng sở khởi Tùy duyên huân nhiễm tịnh Chỉ ở tánh mới dứt

Chân vọng một thể "Tức" Nên nói không chung thủy Mê ngộ tự phân biệt

Lý thủy chung rõ ràng Hiểu gốc chân vọng này Ai lại chịu sinh tử.

Kẻ thức giả bảo câu đáp này mới hết ý câu hỏi. Sư soạn về giáo nghĩa có tên là Chỉ Nguyên Tập (ở bài tựa ghi là soạn năm Thiệu Hưng thứ mười hai).

NỐI PHÁP NGÀI HƯNG QUỐC, CƠ PHÁP SƯ

Pháp sư Ngộ Trì:

Sư người Từ Khuê, theo học với ngài Hưng Quốc. Sư thi tụng Pháp Hoa trúng tuyển được độ. Sư thông suốt tất cả ý chỉ, sâu sắc đạo truyền thọ của Cơ Pháp sư. Sư rất có đạo phong khi thay thầy giảng pháp. Tại Vĩnh an ở ấp Tây, suối rừng rất đẹp, chúng thỉnh Sư đến khai phá, trải suốt mười tám năm nơi ấy nhà cửa tượng hình đều đầy đủ. Đầu năm Bảo Nguyên, vua Nhân Tông nghe tâu bèn ban cho Sư hiệu Phước Nguyên. Sư an chúng giảng đạo. Sư chi ly nghiêm khắc khi giảng đạo nhưng rất khoan hòa với mọi người, rất lễ nghi khi tiếp khách nhưng nói năng tao nhã suốt ngày không mỏi mệt. Nơi Sư ở có trồng nhiều cây trái đẹp, luôn đắp đường khai nước làm ruộng, nên gặp năm đói kém hạn hán không lo. Cơm và pháp đều đầy đủ, mọi người đều vui vẻ nương nhờ (Tứ Minh Giáo Hạnh có ba sách, cùng Trì Điệt làm chủ Vĩnh an sơn là đó. Việc này thấy ở Phước Nguyên Khai Sơn Ký. Trong đây bản kỷ thiếu mất hai người. Quyển này gồm có ba mươi ba vị, nhưng bản kỷ ghi chỉ có hai mươi ba vị, thiếu mất mười vị).

QUYỂN 12

PHẦN VI - LIỆT TRUYỆN CÁC SƯ (PHẦN 2)

*Nối pháp ngài Tứ Minh, Pháp Trí Pháp sư (đời thứ nhất) gồm có:

Quảng Trí, Thượng Hiền Pháp sư. Thần Chiếu, Bản Như Pháp sư.

Nam Bình, Phạm Trăn Pháp sư. Tam Học, Tắc Toàn Pháp sư.

Phù Thạch, Sùng Cự Pháp sư. Quảng Từ, Tuệ Tài Pháp sư.

Quảng Nghiêm, Hàm Oánh Pháp sư. Tuệ

Nhân, Trạch Giao Pháp sư.

Viên Trí, Giác Tông Pháp sư. Sùng Pháp, Từ Đoan Pháp sư.

Tứ Minh, Văn Xán Pháp sư. Đơn Khâu, Từ Khiêm Pháp sư.

Tứ Minh, Nguyện Bân Pháp sư. Quảng Ấn, Trí Hoàn Pháp sư.

Tường Phù, Văn Trí Pháp sư.

Tam Cù, Văn Bỉnh Pháp sư.

Tứ Minh, Dụng Khanh Pháp sư. Tứ Minh, Cư Vĩnh Pháp sư.

Tứ Minh, Tự Nhân Pháp sư. Sùng Khánh, Bản Viên Pháp sư.

Thiên thai, Tuệ Châu Pháp sư. Tam Cù, Hoài Tập Pháp sư.

Viên Trí, Chí Hào Pháp sư. Nhật Bản, Nguyên Tín Pháp sư.

Nội Thị Du Nguyên Thanh.

Nối pháp có hai mươi bảy vị (theo bài minh ở tháp).

Người nhập thất có bốn trăm bảy mươi tám vị (theo Thật Lục).

Thăng đường có một ngàn người (theo bài minh ở tháp).

****

NỐI PHÁP NGÀI PHÁP TRÍ PHÁP SƯ

1. Pháp sư Thượng Hiền:

Sư người Tứ minh, được vua ban hiệu Quảng Trí, nương học Giáo Quán với ngài Pháp Trí, được nghe giảng về Tịnh danh đốn ngộ, ý chỉ tánh tướng, hầu Thầy đã lâu bèn được tôn là bậc cao đệ. Năm Thiên Thánh thứ sáu (đời vua Nhân Tông) nối ngài Pháp Trí làm chủ Diên Khánh, hoằng đạo rất thạnh hành. Ngài Tuyết Đậu Hiển Thiền sư nghe danh, bèn xuống núi đến hỏi, rồi yết bảng nấu trà để bày lễ mừng. Người truyền nhau cho là việc tốt đẹp. Có buổi sáng Sư vào Sám đường thấy có một con hổ nằm phục trước ghế. Sư thẳng đến trải ni sư đàn trên lưng hổ, tuyệt nhiên chẳng thấy gì. Quốc sư nước Nhật Bản sai Thiệu Lương… mang kinh Pháp Hoa chữ vàng làm tiến lễ xin theo học Pháp luân. Sau ba năm học xong liền giả từ trở về Nhật Bản hoằng hóa rộng rãi đạo này. Trong năm Minh Đạo đời vua Nhân Tông, ngài Tịnh Giác ở Linh chi viết thư đến Sư luận chỉ yếu, giải nghĩa tam thiên, chỉ là tâm tánh đầy đủ pháp tục đế, chưa phải là gốc của Trung đạo. Thỉnh Sư cùng đi ngược lại Sư thừa, Sư bèn viện dẫn văn ngài Kinh Khê nói về ba ngàn tức không, giả, trung, bảo là hà tất phải chuyên ở giả mà giúp nghĩa tam thiên câu thể câu dụng của ngài Tứ Minh. Học giả đều nương theo đó (hai thư qua lại đều thấy ở Quảng Trì Di Biên). Sư có soạn sách như Thích Kim Ty (mất bản), Thích Lập Thoại (tức Phù Tông Trung Sư, có ghi về Quảng Trí Truyện và Pháp Trí Nhị Sư Khẩu Nghĩa). Sư là người có công lớn về phò trợ đại giáo, khéo mở sáng kinh chương, nối tiếp ý chỉ diệu tông truyền lại. Sư đã từng soạn Xiển U Chí, dùng bảy thứ Nhị đế mà làm tiêu nghĩa Vương của kinh Quang Minh (chính là bốn giáo, phụ là ba tiếp) là thuyết của ngài Pháp Trí. Kịp sau khi soạn Quang Minh Ký thì thâu lấy mà dùng (thấy ở Khẩu Nghĩa Kinh Chương).

Thảo Am Lục nói rằng: Tằng Lỗ Công có soạn bài minh ở tháp ngài Quảng Trí, nhưng đời sau không truyền lại, vì đã bị giặc Kiến Viêm đốt phá cả các chùa. Tiếc thay!

2. Pháp sư Bản Như:

Sư là người ở Câu chương, Tứ minh, theo học với ngài Quốc Ninh ở Bản quận. Trước Sư nương với ngài Pháp Trí ở giữa ngàn chúng nổi tiếng là trẻ tuổi tài cao, sách vở thơ bút của Sư đều có phép tắc được đời ưa chuộng, Sư thường thỉnh ích chánh nghĩa của kinh, ngài Pháp Trí bảo rằng: Hãy dẹp hết đạo của ông đi, đến làm tri sự cho ta ba năm. Khi việc xong Sư lại thỉnh ích. Ngài Pháp Trí liền quát lên một tiếng lại gọi Bản Như! Sư bỗng hoát nhiên tỉnh ngộ, bèn làm bài tụng rằng:

Mọi chỗ gặt đường về
Quay đầu thấy cố hương
Xưa nay việc hiện tại
Hà tất phải suy lường?

Ngài Pháp Trí khẳng định rằng: Nếu trước bảo ông thì sao có được hôm nay. Năm Tường Phù thứ tư, ngài Từ Vân dời về ở Linh sơn thân đến giảng hôi của ngài Pháp Trí tìm người thừa kế mình. Ngài Pháp Trí bảo: Cứ chọn người trong chúng. Ngài Từ

Vân ngước nhìn đến Sư liền bảo: Người này được đấy. Sư đến Thừa thiên (là tên cũ của Năng Nhân Đông Sơn) mà chấn hưng đạo pháp. Trải suốt ba mươi năm, chúng thường có năm, sáu trăm. Pháp Hoa, Niết-bàn, Quang Minh, Vô Lượng Thọ, Quan Âm Biệt Hành, Huyền Chỉ Quán, Kim Ty, Quán Tâm Luận… đều giảng nói sáu, bảy lượt. Sư thường tập họp khoảng trăm Tăng tu Pháp Hoa Trường Sám một năm thấy có nhiều điềm lành ứng nghiệm. Tháng bảy năm Bảo Lịch thứ hai, Phò mã Lý Tuân Úc tâu vua ban cho Sư hiệu Thần Trí và Tử Y, lại ban cho bốn ngàn năm trăm quyển giáo văn của ngài Trí Giả để làm tư liệu giảng thuyết. Có lần Sư ở góc Tây nam của chùa thấy một con hổ nằm ngủ, Sư lấy gậy gõ bảo: "Đây không phải là chỗ mày ngủ", hổ cúi đầu mà đi (nay là Đình Hổ Khê ở chùa Bạch liên). Sau ở chỗ hổ nằm xây cất am thất vây quanh. Trước đó có năm thần chung ở đấy. Mỗi khi Sư tọa thiền thì luôn khiêng giường Sư đang ngồi đi trên hư không, Sư không thèm hỏi. Một hôm năm Thần đến thưa rằng: Sư đã chiếm chỗ của chúng tôi, vậy xin đến sườn núi kia mà cất nhà đắp tượng, đã có đủ đất ở núi ấy. Sư đến xem thì thấy trên sườn núi có một đống đất mới lấy đắp tượng thì vừa đủ. Sư mến mộ đạo phong ở Lư sơn, bèn cùng Thừa tướng Chương Tuân Công và chư hiền giả kết thành Bạch liên xã, sáu bảy năm đến nay đã thành một chùa lớn. Bèn lấy một phần ba núi rừng ở Năng nhân, chỉ núi làm ranh để lấy củi nấu cúng. Vua Nhân Tông khâm phục đạo phong của Sư bèn ban cho tên Bạch Liên. Đến năm Hoàng Hựu thứ ba, ngày mười tám tháng năm Sư có chút bệnh, bèn lên tòa thuyết pháp cùng chúng nói lời giã biệt. Đêm ấy tất cả cột kèo ở Pháp đường, kho gác, Phương trượng... đều gãy, chuông trống đánh không kêu, các ngư dân trên sông thấy có vị Tăng ngồi trên đám mây bay về hướng Tây. Sáng sớm hôm sau Sư nằm nghiêng bên phải mà tịch. Lúc đó khí trời nóng bức mùi hương lạ nực nồng. Đến tháng ba năm sau xây tháp ở phía Bắc chùa để nguyên nhục thân Sư. Môn nhân giở kim quan thì thấy dung nhan Sư vẫn như lúc còn sống, tóc và móng đều mọc dài ra, có một hoa sen lớn mọc ở trước tháp. Sư thọ bảy mươi tuổi, hạ lạp năm mươi ba, học trò nối pháp của Sư rất đông. Có lần Sư ở trong ấp Thiên thai truyền giới cho chúng, vừa làm phép Yết-ma thì chợt có ánh sáng từ tháp ngài Trí Giả ở chùa Quốc thanh núi Xích thành chiếu thẳng đến pháp tòa của Sư. Lúc đó có hội cúng ngàn Phật và đãi cơm ngàn người nghèo. Hoa đặt trên chiếu nơi Phật tòa đáng lẽ không héo mà héo, còn hoa ở chỗ người nghèo đáng lẽ héo mà lại tươi. Toàn chúng khen ngợi là điềm lạ. Sư từng làm Nhân Vương Sám Nghi, soạn Hành Pháp Kinh Sớ đến mười thứ cảnh giới thì ngưng sau đó Hàm Pháp sư viết tiếp trọn bộ.

Vấn Tuyên Tử Ký nói: Mùa Xuân năm Gia Định thứ tư, Trụ Sơn Giám Đường bảo: Tháp của Sư phải ở sau Phương trượng, dãi dầu với gió mưa không cần nói. Lúc sắp dời đi mới đào đất được vài tấc thì mùi hương sực nức, trên mộ phần mọc lên một cành hoa sen chiếu sáng rực rỡ. Kịp khi mở nắp Kim Quan thì dáng từ vẫn ung dung, râu tóc dài ra, y áo không mục, xá-lợi đày khám. Toàn chúng kinh sợ than thở. Rồi đem an táng lại. Ngài Kính An luận rằng: Thân máu thịt của Pháp sư được bao bọc bởi y phục đẹp, ở trong đất hai trăm năm mà không rã nát, nếu không phải do sức trì giữ đặc biệt của giới định tuệ Tam-muội thì ai có thể làm được như thế? Coi thường tháp Tổ là lỗi của Giám Đường chẳng phải do lời thưa nói mà hôm nay mới nhìn thấy, sao đủ để biết cái điềm lành về nhục thân và y phục của Pháp sư bền chắc không hư rã. Bày hiện việc này phải chăng là chính do ý Tổ ngầm khiến ư? (Quán Kinh Sớ-Lấy hoa ở tòa, quán làm áo mình mặc. Nay lấy áo bọc mà ví).

3. Pháp sư Phạm Trăn:

(Trước đây là Hữu Trăn, vua Chân Tông đổi lại)

Sư người Tiền Đường, sau khi thọ giới Cụ túc, Sư liền đến hỏi đạo ở Tứ Minh, gặp ngài Pháp Trí quá muộn, nghe giảng về Diệu Huyền Văn Cú được đại ngộ rồi trở về quê cũ. Hận vì không được truyền trao Chỉ Quán, Sư bèn thắp hương lễ tượng đọc suốt hai mươi lần để tiêu biểu cho việc được Sư truyền thừa. Năm Hoàng Hựu thứ ba, lúc đầu Sư ở Thượng trúc, qua năm sau có chỉ vua dời Sư về Kim sơn. Năm Hy Ninh thứ năm, quan Thú đất Hàng là Ngô Thị Độc nghe danh Sư nên đón Sư về Nam Bình để hoằng hóa. Mỗi khi giảng kinh thì tóm tắt bao quát cả danh lý, xuyên suốt trước sau, nêu một nghĩa thì các nghĩa khác đều hợp, cùng tột một văn thì các văn khác đều đủ. Lúc đó người có trí nhớ tốt, bèn tập hợp xếp loại. Lúc đầu chỉ tập họp xếp loại các điều giảng dạy tản mát trong các kinh văn dẫn chứng của ngài Pháp Trí. Thủ Tọa là Hữu Nhân chép thành năm loại. Rồi ngài Tịnh Giác thêm hai, Quát Thương Thông Sư lại thêm ba, Phật Tuệ Tài Sư kiểm lại các văn xếp làm mười loại. Ngài Tứ Minh Cát Sư tùy theo các bộ pho mỗi thứ lại giảng nói thêm. Ngài Quảng Trí xem thấy bảo rằng: Việc xếp loại tập nửa được nửa mất. Được là ở đó mà biết rõ cương yếu, còn mất là cũng ở đó mà mịt mờ trước và sau. Kịp khi Sư lên tòa diễn giảng, Quần Phong Thái Sơ nói về các đầu mối ở Cao tòa, Siêu Quả Hội Hiền lập riêng Huyền Tự Tiêu Văn, mỗi mỗi văn đều mở bày ý Tổ đến Đông độ, chính thức giải thích Quán Tâm... gọi là một nhà Nam Bình (Thiên Trúc Thiền sư nói: Bỏ đi việc nghiền cắt Pháp thân dối lừa kẻ hậu học. Tra Âm viết thư cho Vô Tướng Hân, gắng sức chớ truyền. Câu nói đề hồ hóa thành tấm cám, Pháp Tạng biến ra lửa ma). Ngô Công đương buổi về hưu tất đến nghe pháp, rũ tay áo sửa hốt đứng chờ ngoài cổng thành. Sư chưa lên tòa thì quyết không vào. Một đêm Sư được mời đến thấy một người phụ nữ ở trước, hỏi thì người ấy thưa rằng: Con có việc buồn, khẩn thiết thỉnh Sư đến nhà con. Sư bèn theo đến cửa thì thấy có mấy người lôi người phụ nữ ấy để trên giường rồi lấy đại đao chém như chặt bùn. Giây lát sống lại khóc mà thưa rằng: "Thuở sinh tiền thiếp giỏi nghề băm chặt nem chả nên nay phải chịu báo này. Thiếp cúi lạy mong ngài cứu thoát!" Sư bèn truyền giới cho, rồi người ấy biến mất. Sư thường cùng ngài Tịnh Giác biện luận giáo môn bèn giải bày với quan hữu ty xin cất Cao đài dựng cây phướn đỏ. Sư phóng hào quang Phật chiến thắng ngoại đạo, kẻ luận thua bị chặt đầu cắt lưỡi treo trên phướn. Quận hầu thấy Sư tinh nhuệ về pháp chiến theo lời mà giải thích bèn nói rằng: Hành văn sáng tác thì Trăn không bằng Nhạc, còn nhớ giỏi nghe nhiều thì Nhạc không bằng Trăn. Dầu khi Sư không còn tranh luận nữa, người nghe không ai không run sợ. Tô Đông Pha khi xưa mới đến đất Hàng rất thân với Sư. Về sau làm Quận thì Sư đã tịch rồi. Pha thấy hành trang của Sư bảo rằng: "Văn này tuy khéo nhưng chưa nói được chỗ hơn người của Lão Sư ấy! Ta có lần nói chuyện với ông, Kinh Sử quần thư nếu có chỗ nào quên sót thì ông liền đọc lên ngay. " Trong năm Sùng Ninh, Sư được thụy phong là Thật Tướng Pháp Sư.

4. Pháp sư Tắc Toàn:

Sư tự là Thục Bình, họ Thi, người Tứ minh. Nương Báo Quốc mà xuất gia, rồi đến học giáo quán với ngài Pháp Trí. Lúc đó Nam Hồ tranh nhau suy tôn mười vị Đại đệ tử thì Sư là người đứng đầu. Sư thông cả thư sử lại giỏi trước thuật, tánh khí thẳng thắn dám nói lỗi người, do đó người rất sợ. Sư ở với Tam Học suốt ba mươi năm. Quận Thú là Lang Giản càng kính phục, từng bảo người rằng: Thục Bình tài khí lẫm liệt, nếu là Nho sĩ tất làm chức Gián Tranh, đâu có kém gì Cấp Ảm đời Hán, Ngụy Trưng đời Đường và Vương Nguyên Chi ở triều ta ư? Mùa hạ năm Khánh Lịch thứ năm, Sư từ biệt chúng, ngồi mà tịch. Đệ tử là Nhược Thủy lập Kiệt (bia tròn) cho Sư ở Diên khánh. Tác phẩm Tứ Minh Thật Lục của Sư được người khen là "Tề Ấp làm bia Quách Hữu Đạo" (Quách Lâm Tông ở đời Hậu Hán, tiến cử Hữu Đạo, không chịu mà chết. Tế Ấp làm văn bia bảo Lư Thực rằng: Ta làm rất nhiều bia đều có người thẹn vì sự ca tụng đức mình, chỉ có Quách Hữu Đạo là không có vẻ thẹn mà thôi).

Lời thuật rằng: Triệu Thanh Hiến làm văn bia cho ngài Quảng Trí, ngài Tam Học mất rồi, đệ tử là Thủy Sư Lập Kiệt. Hai bài văn này tất có nhiều việc lớn đáng ghi nhớ. Nay hai bảng đá không còn, do đó hạnh nghiệp của hai Sư khó biết. Người đời sau viết truyện chỉ là mơ hồ mà thôi. Chao ôi! Đáng tiếc!

5. Pháp sư Sùng Cự:

Sư người ở Tam cù, đến học với ngài Pháp Trí, rất thông suốt đạo Giáo Quán, ở vào hàng đệ nhất tòa. Sư ngồi nghe ngài Pháp Trí giảng đạo, ngài bảo: "Đạo ta đã có chỗ gởi rồi. " Lúc đầu Sư đến giảng thiền ở Hoàng nham đông, ngài Pháp Trí viết thư khuyên gắng rằng: Việc lập thân hành đạo là nghiệp lớn trên đời, khiêm nhường là cốt lõi đạo đức, ông phải nắm chắc, ngoài việc này ra càng phải nghiên cứu rộng năm kinh, nhã ngôn, sửa lại các văn để khỏi tầm thường và hiệu đính lại tác phẩm của Viên Xà-lê. " Chưa bao lâu Sư trở lại Tam Cù theo thọ nghiệp với Cảnh Đức Giảng Phù Thạch. Người chủ là Nguyên Huân hỏi về nghĩa từ "Chân" mà "Vọng" khởi, Sư đáp một lời liền khế lý. Sư xin về Thiền cư làm nơi truyền giáo vĩnh viễn. Quan quận tâu việc lên vua nên được chỉ vua chấp thuận. Sư bèn mở rộng trai đường để giữ yên học chúng. Ngày luận Chỉ Quán, đêm giảng Quang Minh, đồng thời dẫn chúng niệm Phật. Từng lấy pháp dung tâm của ngài Pháp Trí giải nghĩa chưa rốt, vấn nạn rộng rãi. Ngài Pháp Trí bèn thâu lại ba bậc để tránh trái nhau. Thời Chân Miếu, Sư du phương đến Kinh sư, vua nghe danh Sư bèn triệu vào nội điện, Sư giảng kinh Tứ Thập Nhị Chương và luận rõ về danh lý, vua rất vui lòng bèn ban cho Tử y, tiền bạc, hương đèn, thuốc men. Sư trở về Thiên Trúc, chúng giữ Sư làm phó giảng. Sau đó khá lâu Sư mới trở về quê cũ. Ngài Từ Vân truyền thừa cho Sư lư hương, phất trần Như ý và thư tay có lời khuyên khen Sư rằng: Ông sắp diễn giảng nơi quê nhà, hãy gắng lên! Nhẫn nhục làm áo, Từ bi làm nhà, chỗ không là ghế ngồi, thân xa lánh các não hại, miệng ít nói bàn, ý phòng khinh mạn. Với từ tâm mà độ người. Đó là ba khuôn mẫu, là bốn hạnh, gọi là thuyết an ổn.

Lời thuật rằng: Phù Thạch trước học với ngài Pháp Trí và đến Đông Thiền bèn để lại thư, lúc đó đã định phần thầy trò rồi vậy. Sau Sư từ Kinh Sư trở về Thiên Trúc, ngài Từ Vân đãi Sư như con, cho nên khi Sư trở về quê ngài cũng đã trao lời. Đây thấy hai vị Tôn giả tình đạo pháp không gián đoạn, nhưng xưa nay Đồ phả đã xếp ngài Từ Vân ở hàng thấp, vì không chịu xét vậy. Nếu thế thì nay căn cứ vào Giám Sư Lục để hệ thống dòng Tứ Minh, xem Đồ thì không còn lầm nữa.

6. Pháp sư Tuệ Tài:

Sư họ Từ, người ở Lạc thanh, Vĩnh gia. Sư sống an nhàn ở Bạch hạc sơn. Năm Tường Phù do lễ Đàm ân mà được độ (Chân Tông phong cho Thái Sơn và ra chiếu Tự Quán mỗi nơi độ một người). Năm mười ba tuổi Sư được thọ giới Cụ túc rồi đến học ở Tứ minh. Sư tánh thức chậm lụt u tối, thường trì tụng chú Đại Bi, để nguyện học thông đạo Tổ. Bỗng mộng thấy có vị Phạm tăng thân cao mấy trượng cởi áo ca-sa khoác vào mình Sư hô lớn rằng: "Tuệ Tài suốt đời nhớ ta!" Sáng hôm sau Sư đến giảng đường thì hoát nhiên khai ngộ. Những điều đã nghe trước đây đồng thời thấu suốt. Chưa bao lâu các thủ chúng bốn tòa đều tôn phục. Sư lại đến gặp ngài Từ Vân kính cẩn quy phục chuyên cần sớm tối không bỏ. Năm Trị Bình thứ nhất, Quan Thú đất Hàng là Thẩm Cấu mời Sư giảng Pháp Tuệ Bảo Các, hai mươi năm trước sau vẫn giữ một tiết. Quan thái úy Lư Công tâu lên được vua ban cho Sư hiệu Quảng Từ. Phù Thạch đến thỉnh, Sư liền thuận theo ý chúng. Chưa bao lâu lại lui về ở dưới tháp Lôi Phong. Sư thường nhón chân tụng một trăm lẻ tám biến chú Đại bi làm khóa tụng, lại nhón chân trọn một ngày đêm niệm danh hiệu Đức Di-đà. Một đêm nọ Sư nằm mộng thấy mình đến lầu báu ở Cung khuyết, có một người đến bảo rằng: "Ông sẽ sinh về Tịnh Độ Trung Phẩm. " Mùa Xuân năm Nguyên Phong thứ nhất có hàng vạn kẻ xuất gia đến nhờ Sư truyền Đại giới. Khi làm phép Yết-ma thì trên đảnh tượng Đức Quan Âm chiếu hào quang sáng rực cả giảng đường. Ngài Tịnh Từ Thủ Nhất Thiền sư làm bài Ký Giới Quang. Đến ngày hai mươi mốt tháng năm năm Nguyên Phong thứ năm, Sư mặc áo đến tòa viết kệ khen Phật rằng: "Nhất quyết con sinh Tịnh độ" rồi yên lặng mà hóa. Tháp Sư ở bên phải am. Sư thọ tám mươi sáu tuổi, hạ lạp bảy mươi ba. Người kế thừa là Pháp Tông Giới Châu… mười người. Sư dáng vẻ cổ xưa nhưng tánh điềm đạm, ít nói quả dục. Lúc đó các giáo môn dị luận ồn ào chốn Triết giang, Sư vẫn một mình tuần tự giảng dạy không hề dấu diếm. Thanh Hiến Triệu Công giao tiếp với Sư đạo vị rất thân thiết. Kịp khi trấn thủ đất Việt, ông làm thi gởi Sư:

Về được Lạc bang thật thích vui, Lôi Phong am vắng dạ bùi ngùi, Triết giang chớ bảo tin thơ vắng, Một sớm tin thơ mấy lượt vui.

7. Pháp sư Hàm Oánh:

Sư theo học với ngài Quảng Nghiêm ở Tứ minh. Lại được bẩm truyền Giáo Quán của ngài Pháp Trí và đạt đến chỗ tinh áo. Người thời ấy suy tôn Sư là Giáo chủ. Sư thường lấy bạc viết kinh Pháp Hoa, khi gặp danh hiệu Phật Bồ-tát thì viết bằng chữ vàng. Đời khen Sư là "Pháp Môn Chí Bảo. " Niên hiệu Kiến Viêm gặp nạn giặc Kim, đình chùa bị đốt phá tan hoang, người ta tìm thấy bộ kinh này trong đống gạch vụn nhưng không hư một chữ. Khoảng năm Thuần Hy, Sư ở Am Liên Chỉ, đêm nghe ồn ào vạn tiếng người, cả kinh, Sư bò dậy nhìn xem thấy biệt thất đang bốc cháy mà Kinh này đặt trên gác. Sư bèn xông vào lửa cứu được Kinh còn nguyên vẹn. Người ta bảo Kinh này hai phen bị lửa thiêu rụi mà không mất thì xa là do sức Công đức Đại thừa, còn gần là nhờ hạnh nguyện trì kinh của Giáo chủ.

8. Pháp sư Trạch Giao:

Sư là người ở Thai Chi Hoàng Nham, theo học với ngài Pháp Trí mà được đạo. Năm Thiên Thánh thứ hai, Chương An Tuệ Nhân mới đổi làm giảng viện, thỉnh Sư làm tòa chủ. Ngài Pháp Trí viết lời truyền thừa, tóm tắt rằng: Nay truyền cho ông lò hương và phất trần Như ý dùng làm vật truyền pháp. Mong ông dùng Tam Học để trang sức cho mình, Tứ Tất đàn để làm lợi ích muôn vật, ông hãy yêu thích mọi người, chớ vọng nghĩ việc cầm quyền chỉ huy.

9. Pháp sư Giác Tông:

Sư học với ngài Viên Trí ở Cối kê, lại nương ở Nam hồ học xong rồi trở về. Ngài Pháp Trí gởi thiếp khuyên gắng Sư rằng: "Đã học Sơn môn ta thì phải khác với các dòng phái tầm thường, Lý Sự gồm tu, mình người đều độ, như thế mới đáng là con cháu của Trí Giả. "

10. Pháp sư Từ Đoan:

Sư người Tứ minh, theo học với ngài Sùng

Pháp, lại gần gũi lâu ngày với ngài Pháp Trí. Sư được đời tôn là Giáo chủ. Vương Kinh Công Tể Ngân là bạn phương xa với Sư (Kinh Công có viết lời đề về ngài Sùng Pháp rằng: Đình nhỏ bên sông xanh bóng trúc, muôn hoa trải đất ngát hương thơm, chỉ mong những ai nhìn cảnh ấy, diệt trừ phiền não hóa thanh lương.

11. Pháp sư Văn Xán:

Sư họ Tiết, người Tứ minh. Lúc đầu Sư nương ngài Hưng Quốc Lệnh Tường Sư. Sau đó được sai đến nhập thất ngài Pháp Trí, Sư chăm chăm Giáo Quán trải suốt nhiều năm. Đến năm Thiên Thánh thứ tư, Tường Sư vì việc xây cất sửa chữa chùa tháp không giảng dạy được, nên giao việc giảng dạy cho Sư. Ngài Pháp Trí viết lời truyền thừa khuyên gắng rằng: Ta thấy ông là Pháp khí đáng truyền thụ, nên trao ông lư hương, phất trần và Uất-đa-la Tăng, mong ông một cầm, một mặc khiến đức hương ngào ngạt, Tịch nhẫn thành tựu.

12. Pháp sư Từ Khiêm:

Sư sớm nương học ngài Pháp Trí. Nhân có người bảo tam thiên là giả pháp, lấy đó mà vấn nạn. Khi ấy ngài Quảng Trí bảo rằng: "Tam thiên không lìa thật tướng thật tướng tức là Tam đế, Tam đế đều là tam thiên vậy. " Sư phục thuyết ấy, sau đó Sư viết quyển Tu Tánh Biên Ngoa, trước hết nêu rõ tam thiên không chuyên về Tục đế. " Khi ngài Quảng Trí viết thư đáp lời ngài Tịnh Giác, thì lấy lời này của Sư làm chứng cứ.

13. Pháp sư Nguyện Bân:

Sư người Tứ minh, nương học ngài Pháp Trí mà được ý chỉ, Sư giảng đạo nổi tiếng. Ngài Pháp Trí sắp viên tịch có để thơ phó chúc cho Sư nối thạnh đạo lớn.

14. Pháp sư Trí Hoàn:

Sư học với ngài Pháp Trí. Dương Văn Công khuyên ngài Pháp Trí đừng tự thiêu bèn viết thư cho ngài Từ Vân và nhờ Sư đến khuyên các ngài nên trụ thế. Khi ngài Pháp Trí lập hội Phóng sinh có thỉnh Khu Mật Lưu Quân soạn bia thuật ký. Sư viết nhiều thư thôi thúc bèn được thành văn (Từ đây bản kỷ thiếu bốn vị).

15. Pháp sư Tự Nhân:

Sư nghe ngài Pháp Trí giảng kinh, sao chép văn dẫn ở các Bộ, các danh ngôn làm thành năm loại. Việc sưu tập phân loại là bắt đầu từ Sư. Mùa hạ, năm Tường Phù thứ bảy, ngài Pháp Trí viết tập Giáo Môn Tạp Vấn gồm bảy chương và Tứ giáo Tứ đế nghĩa. Bài đáp của Sư là hay nhất, được các học giả lưu truyền nhiều. Sau Sư được cử làm Thủ chúng diễn giảng không biết mỏi mệt. Tánh Sư nhún nhường lặng lẽ không ham danh đời, do đó mà được kính mến (Sau đây bản ký thiếu một vị).

16. Pháp sư Tuệ Chu:

Sư là người Đan khâu. Khi song thân đã qua đời Sư liền bỏ nhà vào đạo. Theo học với ngài Tứ Minh mới mấy năm mà được đạo bèn bảo rằng: Ngài Pháp Trí có dạy: Phật đạo rất dễ mà thật hành rất khó. Đó là bốn thứ Tam-muội. " Năm đầu Thiên Thánh, Sư giao kết với mười bạn đồng học tu Đại Bi Hành Pháp kỳ hạn ba năm, lại giao kết với mười bốn người tu Phổ Hiền Hành Pháp cũng kỳ hạn ba năm. Lúc mới giao kết Sư thề trước tượng rằng: "Nếu Tam-muội này hoàn thành thì nguyện tự thiêu để cúng dường. " Hành pháp xong Sư trở về quê cũ đến cầu chứng với ngài Thần Chiếu. Ngài muốn giúp Sư tròn nguyện bèn khuyên kẻ đạo tục chở gỗ thơm chất thành đống lớn. Vào đêm tối trời tháng Trọng Hạ, ngài Thần Chiếu chúc rằng: Pháp Hoa chuộng bố thí con đã tu, Phạm Võng phá tối con đã noi, chỉ cột tâm với Pháp giới, Thân như, Lửa như, thì một đống lửa chứa đủ Tam-muội. Mừng thấy con tinh tấn, dâng Tịnh Minh để chân cúng dường. Con hãy lên đường!" Sư tuân lời dạy, bèn từ biệt Tứ chúng, ngồi ngay thẳng trong tháp củi, ánh lửa cháy sáng ngút trời, tuyệt nhiên không nghiêng ngã. Xá-lợi chiếu lấp lánh, ai xin cũng có. Đồ chúng an táng xương tàn của Sư ở Sơn tây. Ngài Cù Chi Tường Phủ Hoài Tập, cùng là bạn đồng học của Sư, lại cùng tu Tam-muội (Sau đây bản kỷ thiếu hai vị).

17. Pháp sư Nguyên Tín:

Là một trong mười vị đại Thiền sư của nước Nhật Bản. Năm Hàm Bình thứ sáu, Sư sai học trò là Tịch Chiếu đem giáo nghĩa với hai mươi bảy câu hỏi đến Nam Hồ xin quyết nghi. Ngài Pháp Trí đáp lời giải thích rành rẽ các câu hỏi. Tịch Chiếu lãnh hội vui mừng trở về nước. Ngài Nguyên Tín rất phục thuyết này, hướng về phía Tây lạy tạ (ở đây bản kỷ thiếu mất một vị là Nguyên Thanh).

QUYỂN 13

PHẦN VI - LIỆT TRUYỆN CÁC SƯ (PHẦN 3)

* Nối pháp ngài Quảng Trí Pháp sư (đời thứ hai gồm có:)

Thần Trí, Giám Văn Pháp sư. Phù Tông, Kế Trung Pháp sư. Siêu Quả Duy Trạm Pháp sư. Tứ Minh, Như Cát Pháp sư.

Tịnh Xã, Toàn Giáo Pháp sư.

Quát Thương, Nghĩa Tuân Pháp sư. Tứ Minh, Uẩn Cung Pháp sư.

Kim Văn, Xung Tiêu Pháp sư. Pháp Xương, Bản Thành Pháp sư. Nhật Bản, Thiệu Lương Pháp sư.

* Nối pháp ngài Thần Chiếu Pháp sư (đời thứ hai gồm có:)

Pháp Chân, Xử Hàm Pháp sư. Thần Ngộ, Xử Khiêm Pháp sư. Lư Am, Hữu Nghiêm Pháp sư. Năng Nhân, Pháp Bảo Pháp sư. Thiên thai, Bảo Tiêm Pháp sư. Thừa Thiên. Hoài Nhã Pháp sư.

Thừa Thiên, Nguyên Thao Pháp sư. Tiền Đường, Nghĩa Toàn Pháp sư. Thiên thai, Tả Thân Cư Sĩ.

* Nối pháp ngài Nam Bình Pháp sư (Đời thứ hai gồm có:)

Từ Biện, Tùng Gián Pháp sư. Quần Phong, Thái Cơ Pháp sư. Pháp Chiếu, Dụng Văn Pháp sư.

Siêu Quả, Hội Hiền Pháp sư.

Pháp Tuệ, Tông Chánh Pháp sư.

Đông An, Cảnh Sơ Pháp sư. Đông Bình, Linh Ngoạn Pháp sư. Đông Ngô, Văn Hủ Pháp sư.

Tiền Đường, Như Tuân Pháp sư.

* Nối pháp với ngài Tam Học Pháp sư.

Tam học, Nhược Thủy Pháp Sư.

* Nối pháp với ngài Phù Thạch Pháp sư.

Cảnh Vân, Ôn Kỳ Pháp sư. Thiên Trụ, Thủ Tư Pháp sư.

Phù Thạch, Hoài Nguyệt Pháp sư. Vụ Nữ, Nhật

Đông Pháp sư

* Nối pháp ngài Quảng Từ Pháp sư.

Diệu Ngộ, Hy Tối Pháp sư. Sám Chủ, Pháp Tông Pháp sư. Diệu Quả, Tử Lương Pháp sư. Dư Khánh, Ân Biện Pháp sư. Phù Thạch, Duy Thanh Pháp sư. Long Tuyền, Đàm Dị Pháp sư. Lôi Phong, Giới Châu Pháp sư.

****

NỐI PHÁP NGÀI QUẢNG TRÍ PHÁ P SƯ

Đời thứ hai gồm có:

1. Pháp sư Giám Văn:

Sư người Tứ minh, được vua ban hiệu là Thần Trí, nương ngài Quảng Trí mà đắc pháp vào hàng Thượng thủ. Nối nghiệp ở Nam hồ, rộng truyền giáo pháp của Tổ phụ. Sư từng bảo rằng: Ta do Đức Phật Thích-ca mà được xuất gia nghe đạo; do Trí Giả Đại sư mà được nương thầy học giáo. Trong khóa tụng hằng ngày, Sư đọc tụng cả ngàn danh hiệu Phật Tổ, đêm lễ ngàn lạy cốt để báo ân, chưa hề vì bận việc mà bỏ qua.

2. Pháp sư Kế Trung:

Sư tự Pháp Thần, họ Khâu ở Vĩnh gia. Cha mẹ Sư cầu tự ở chùa Phật, cả song thân cùng mộng thấy một vị Tăng trao cho một đứa con trai kháu khỉnh bảo rằng: "Loa Khê Tôn giả gởi cho quý vị nuôi giúp. " Từ khi thọ thai, bà mẹ chán ăn cá thịt, khi còn nhỏ Sư thấy tượng Phật thì rất tôn kính. Đến tám tuổi Sư vào Khai Nguyên nhờ ân được độ, liền đến Nam hồ theo học với ngài Quảng Trí, vì lao khổ nhiều nên Sư bị bệnh. Sư bèn tu thỉnh Quan Âm Tam-muội được Đại sĩ phóng quang, dùng nước rửa đảnh nên bệnh liền dứt, do đó lại thấy suốt giáo quán không còn ngưng trệ. Ngài Quảng

Trí cho là Pháp khí nên bảo thay ngài diễn giảng.

Tuyết Đậu Hiển Thiền sư thấy thế khen rằng: "Đạo Tứ Minh đã có người kế thừa. " Hàng sĩ thứ ở Vĩnh gia cùng thỉnh Sư đến ở Đông các tại Khai nguyên. Sau dời về ở Tuệ An Diệu Quả, rồi lui về ẩn dật tại Triết giang, chú tâm nghiên cứu ròng về thiền quán. Sư ra làm chủ ở Pháp minh, Tây hồ người học kéo đến đông đảo. Có người muốn mở rộng chỗ ở cho chư Tăng. Sư bảo: Thí chủ sẽ nhận được phước đó, ta nào dám cản ngăn! Mỗi năm vào ngày mồng tám tháng giêng, ở trong quận đều truyền giới Bồ-tát và phóng sinh, hàng sĩ thứ có đến mấy vạn người. Sư thường ở giữa chúng nguyện rằng: Ai vào đạo tràng ta quy y Tam bảo, dẫu chưa được đạo thì nguyện đời đời kiếp kiếp không mất thân người, luôn có Chánh kiến xuất gia cầu đạo vô thượng. Luôn tu các Tam-muội Pháp Hoa, Quang Minh, Di-đà, Quan Âm không để ngày luống uổng. Sư lại tụng chú cứu bệnh linh nghiệm khó lường. Mỗi khi vào chợ thì Sư ngồi tránh chiếu, đi tránh đường, mọi người đều kính cẩn gọi là Giới Sư. Năm Nguyên Phong thứ năm, ngày tám tháng mười, Sư tắm gội thay áo, tập chúng nói pháp, kiết ấn ngồi kiết già mà tịch. Mọi người thấy có ánh sáng đỏ chiếu suốt lên không trung. Sư Tịnh Xã Toàn Giáo đêm nằm mộng thấy thần Kim giáp báo rằng: Đêm nay bậc đắc đạo nhập diệt. Khánh Ân Hy thấy mộng lành. Thần nhân bảo: Pháp sư Trung đã sinh về cõi Đâu-suất. " Sư từ lâu đã làm việc thí thực, tuy sau này có người thừa kế, nhưng bầy chim sẻ vẫn kêu hót bi thương suốt ba ngày chưa ngưng. An táng Sư ở núi Thụy Lộc. Người được truyền pháp có cả trăm vị. Sư đã soạn: Phù Tông Tập năm mươi quyển, Tập Thập Gián, Chỉ Mê, Quyết Mô, Thập Môn Tích Nạn và Thập Nghĩa Thư… dùng để làm sáng tỏ ý ngài Tứ Minh họp với tông chánh của Tổ đạo, đến như sách chép về Nhị Sư Khẩu Nghĩa thì người đời sau lại lạ lùng về sự lẫn lộn của nó.

3. Pháp sư Duy Trạm:

Sư họ Tống, người ở Nghĩa ô. Cha mẹ Sư gặp một vị Tăng lạ bảo rằng: Các vị sẽ sinh sáu người con, người thứ năm nên cho xuất gia. Sau Sư vào Đạo ở Song lâm, do Lễ Đàm Ân mà được độ. Trước hết Sư đến học với ngài Thần Chiếu, chưa bao lâu Sư lại theo học với ngài Quảng Trí. Sư từng thưa với ngài rằng: Việc Đại sư truyền trao con không nghi ngại, như ý chỉ Viên Đốn tuyệt dứt đối đãi phải do mình tự được. Về sau khi nghe ngài Quảng Trí giảng, Sư hoát nhiên tỉnh ngộ, cùng nghị luận với hàng thượng lưu ai cũng quy phục. Lúc đầu Sư diễn giảng ở Siêu Quả Vân Gian hoằng truyền đại đạo, một tông Thiên thai thạnh hành suốt ba triều ở đất Ngô là bắt đầu từ Sư vậy. Năm Hy Ninh thứ sáu, ngày tám tháng ba, Sư lập hội

Quang minh, bảo chúng rằng: "Báo duyên ta đến đây đã mãn. " Liền nêu lời Di Giáo Niết-bàn, ân cần phó chúc, rồi Sư ngồi kiết già mà hóa. Ngọn lửa tắm mát thân Sư để lại nhiều xá-lợi lấp lánh. Tháp Sư ở núi Tây Dư. Các sư Hải Tuệ, Nhược Viên là những môn đệ thượng thủ.

4. Pháp sư Như Cát:

Sư người Tứ minh (ở bài tựa Nhị Sư Khẩu Nghĩa) theo học với ngài Quảng Trí mà được ý chỉ. Sư thấy các Biên Loại Tập của các tiền bối có thứ xưa chưa diễn nói, bèn tham khảo lấy văn ở ba bộ rồi phân chương tiết hoặc lược bỏ xếp thành loại để lưu hành ở đời. Sư từng chú giải Kim Ty, lời giản dị, nhưng nghĩa lý đúng đắn. Học trò nối Tông sư ở chùa Nhân quả tại Tiền Đường.

5. Pháp sư Xung Tiêu:

Sư theo học lâu ngày với ngài Quảng Trí. Sư xưng hiệu là Cụ Thể.

Sư ở vào năm Khai Bảo (đời vua Thái Tổ).

6. Pháp sư Toàn Hiểu:

Nhà ở núi Đại mai. Trung Ý Vương nước Ngô Việt rất ngưỡng mộ đạo đức của Sư, ban cho vàng để xây cất viện. Lại ban cho một tạng kinh, khi hoàn thành xong gọi là Kim Văn. Khi Sư Hiểu đã tịch, học trò là Chánh Hòa nối pháp. Hòa cũng nối ngài Xung Tiêu. Vì nơi ở chật hẹp nên Sư cùng học trò dời về cất nhà ở dưới ngọn Bá nham phong, rồi hoằng truyền rộng rãi đạo giáo ngài Quảng Trí.

Năm Thủy Bình thứ tư tâu lên triều đình được vua ban cho biển đề Tuệ Chiếu (Quách Kỵ làm Ký, Quảng Trí tạo bia).

7. Pháp sư Bản Thành:

Sư là người Phụng Hóa ở Tứ minh. Sư theo học với ngài Quảng Trí ở Nam hồ. Sư thích nơi vắng vẻ u tịch bèn lui về ở Pháp xương chuyên thiền tụng rất tinh tấn, người đời khâm phục ẩn đức của Sư. Viện chủ xây cất nhà cửa đã lâu mà chưa xong. Sư bồi hồi thệ rằng: Xưa tổ Trí Giả đã tạo ba mươi sáu ngôi chùa, đúc vẽ tám mươi vạn tượng, nay chỉ có một chùa mà thầy trò ta lo không xong ư? Sư liền đốc thúc các bạn đồng chí vào xóm ấp hóa duyên được hai trăm vạn tiền cùng ra sức xây cất, không bao lâu viện, tượng đều hoàn thành. Có trước tác Lang Du Sung làm lời ký rằng: Sư đã được rốt ráo không mà lập ra nghĩa sáng rỡ.

NỐI PHÁP NGÀI THẦN CHIẾU PHÁP SƯ

Đời thứ hai dưới Thần Chiếu

1. Pháp sư Xử Hàm

Sư họ Vương, người ở Thiên thai. Mẹ mộng thấy có đám mây trắng từ trời Tây bay vào nhà rồi hóa thành ngựa trắng, nhân đó mà thọ thai. Sư bảy tuổi đã vào chùa Quốc thanh nương thầy. Năm mười bốn tuổi thọ giới Cụ túc, Sư tự than rằng: "Phật pháp rông lớn nếu không ra sức học tập thì làm sao thấy được đạo. " Bèn vào Thiên Phong xem Tạng Kinh suốt ba năm mới xong. Sư đến tham yết ngài Thần Trí và được thâm ngộ giáo chỉ. Sư cung kính yên lặng từ tốn, người khó đoán được. Ngài Thần Chiếu thường giả bệnh gọi Sư giảng thay. Chúng mới nghe lần đầu đã thân tâm đều phục. Lúc đầu Sư ở Sùng Thiện tại Xích Thành. Cô Tô Lý Đình Chương sắp trấn nhậm Thiên thai mộng thấy Thần bảo "Công Điển Thiên thai, dưới đài năm Tổ, có đầu Rồng chín mươi chín", Hòa thượng hãy đến xem. Khi đến Quận đem chuyện hỏi thăm thì không ai biết. Có Mân sĩ Trần Bạch Ngộ bảo rằng: Năm Tổ Thiên thai xưa ở Xích Thành. Nay Hàm Sư đang ở đó. Sư sinh ngày chín tháng chín năm Bình Thìn, đó là đầu Rồng chín mươi chín đấy! Đình Chi rất kinh ngạc bèn đến ra mắt. Sư bèn giảng đạo xuất thế có khế hội sâu xa. Vì chùa chiền chật hẹp ở nơi quê mùa, Sư bàn việc dời đi.

Đình Chi đứng đầu quyên góp vàng lụa, Sư bèn dời đến ở đất Đông nam. Ngày khởi công lại đào được khánh đồng trong đất. Thiểu Sư Lý Công rất tôn kính thỉnh Sư làm chủ Bạch Liên, tâu lên vua được ban hiệu là Pháp Chân. Sư ở trong núi ấy năm mươi năm. Người vào cửa học đạo có đến mấy vạn. Vào tháng giêng năm Nguyên Hựu thứ nhất, Pháp cổ đánh không kêu suốt bảy ngày. Đến tháng bảy, Sư bảo chúng rằng: "Ngày hai mươi ba ta sẽ ra đi. " Rồi kính cẩn dưng y và đãi cơm cho chúng để từ biệt. Dặn thị giả rằng: "Khi tiếng chuông sáng ngân lên thì đến gọi ta. " Đến giờ Sư dậy ngồi kiết già yên lặng mà hóa. Sư có soạn: Tam Tuệ Luận, Quang Minh Thập Nguyện Vương, nối tiếp ngài Thần Chiếu viết Hành Pháp Kinh Sớ để lưu hành ở đời.

2. Pháp sư Xử Khiêm

Sư họ Phan, người Vĩnh gia. Bà mẹ nằm mộng thấy đám mây lành chui vào bụng mà thọ thai, đến ba năm mới sinh ra Sư. Đến chín tuổi, Sư nương ngài Thường Ninh Khế Năng xuất gia. Lễ Đàm Ân mừng vua đang trị vì Sư được độ (năm đầu Tường Phủ đời Chân Tông, vua phong Thái Sơn chiếu Thiên Hạ Tự Quan, mỗi nơi độ một người). Sư liền đến học ở Thiên Trúc. Ngài Từ Vân làm lạ bảo rằng: Đây có thể là rường cột của Đạo ta. Lại đến học ngài Thần Chiếu mà thấu suốt ý Viên Đốn. Sư đốt ba ngón tay cúng Phật Tổ để cầu được diệu ngộ, chưa bao lâu thì được cất nhắc lên Đệ nhất tòa. Ngài Thiền Chiếu trao cho Sư một pho Chỉ Quán bảo rằng: "Ông sẽ dựng cờ Đại pháp, tiếc rằng ta không thấy được. " Do đó, Sư trở về quê để có thể nối nghiệp thầy. Sư dời đến ở Từ Vân Diệu Quả tại Xích Thành, giảng đạo càng thạnh hành.

Thiếu Sư Lý Đoan Ý thỉnh Sư làm chủ Bạch Liên. Bắc Hải Quận Vương tâu vua xin cho Sư hiệu Thần Ngộ. Thừa tướng Vương An Thạch đã một thời cùng các hiền sĩ trong triều làm thi ca khen đức của Sư. Trong Quận có đại hạn mời Sư đến cầu mưa. Sư đến ao Rồng bảo: Ngươi đã nhận lời phó chúc của tổ Trí Giả gặp hạn phải làm mưa, sao lại chẳng nhớ? Chợt có gió to, mây đen từ ao bốc lên, rồi mưa ào xuống như trút nước. Trải suốt mười bảy năm, khi sắp về Vĩnh gia, cả quan quân sĩ thứ đều cố lưu Sư ở lại để diễn giảng kinh giáo. Sư bèn ở tinh xá Tuệ lâm núi Cân tử mà giảng Tiểu Bát-nhã. Sau đó Hàng Sư Tổ Vô Trạch mời Sư về Bảo các, Triệu Hiến mời Sư về Tịnh Trụ, Nội Hàn Dương Cối mời Sư về Nam Bình, Tử Vi Trần Xá Nhân mời Sư về Thiên Trúc. Sư ngồi khắp mười đạo tràng, trải bốn mươi năm diễn giảng không biết mỏi mệt. Số người vào cửa đến ba ngàn, số người được lãnh pháp ba mươi vị. Ngày Bính Dần tháng tư năm Hy Ninh Ất Mão, buổi sáng Sư tắm gội thay áo, họp chúng tụng Phổ Hiền Hành Pháp, A-di-đà Kinh, xong Sư bảo: "Ta được vô sinh dùng đã lâu ngày, nay lấy vô sinh mà sinh về Tịnh Độ. " Liền nhập định mà tịch. Tháp để toàn thân Sư ở phía phải chùa Nam Bình. Đệ tử là Lương Bậc thỉnh bài minh của Vô VI Dương Kiệt để ở tháp, nói rằng: Sư từng giải thích về Thập Bất Nhị Môn, đề rằng

Hiển Diệu, thì đối với Sắc và Tâm không hai. Nếu phân chia Sắc Tâm thì không hai mà hai đó là cảnh vọng. Cái thể nó là một, hai tức không hai đó là môn diệu. Cho nên lấy chung riêng mà diệt bỏ mười môn của tướng hai mà không hai. Khiến cho Thô, Diệu rõ ràng, môn chỉ thông suốt. Đó là biết rõ cái môn Cảnh Diệu không hai. Ở ngay một niệm Sắc Tâm mà được môn này, liền ngồi xe báu mà đến đạo tràng.

3. Pháp sư Hữu Nghiêm

Sư họ Hồ, người ở Lâm hải, Thai Chi. Mẹ sắp sinh kêu đau nhào lăn. Người anh là Sa-môn Tông Bản nói rằng: Đây tất có điều lạ, nếu sinh con trai thì nên cho xuất gia, bà mẹ chắp tay ưng thuận, do đó hết đau. Quả nhiên sinh con trai. Được sáu tuổi thì Sư nương chùa Linh thứu theo thầy. Năm mười bốn tuổi Sư thọ giới Cụ túc. Sư xem Tâm Phú của Thọ Thiền sư như có ngộ liền đến Đông Sơn học đạo nhất tâm Tam Quán, hành Pháp Hoa Tammuội với ngài Thần Chiếu đều được thần giải và đích thân thực hành. Lúc đó ngài Pháp Chân cùng ở trong hội bảo Sư rằng: Ông tuy xuất gia trễ nhưng sẽ thành Đại Pháp khí. Sư từng đọc Chỉ Quán đến đoạn "Bất Tư Nghì Cảnh" thì bảo rằng: "Muôn pháp chỉ do một tâm, ngoài tâm không một pháp, tâm pháp không thể nắm bắt được, nên gọi Diệu Tam Thiên!" Ngài Pháp Chân càng vui mừng khen ngợi. Người chủ đầu là Vô Tướng Tuệ Nhân Pháp Chân từ Xích thành dời về Đông dịch, liền cử Sư lên thay. Sư thường bảo: Cách Phật đã xa, người mê tự tánh, phàm khi diễn giảng cần chỉ nhất tâm, tất dễ lãnh hội. Người nghe đều có thể ngộ nhập. Trong năm Thiệu Thánh, quan quận thỉnh Sư làm chủ Đông dịch, Sư bảo: Tổ Trí Giả lúc chưa đầy năm mươi tuổi đã rời đồ chúng, ta nay đã già mà còn gánh việc này ư? Rốt lại không đi và Sư ẩn cư tại Đông phong ở Cố sơn. Sư cất lều cỏ ở bên cây Lô tra, nhân đó tự đặt hiệu là Tra Am (trong Văn Tập-Có bài Tra Am Ký với lời và lý cực hay). Sư chỉ dùng một bát không chứa các vật gì, tự nhặt củi, xách nước, chỉ ăn những thứ hợp pháp, giữ tịnh giới kỹ lưỡng suốt hai mươi năm, chuyên tu tịnh nghiệp lấy An Dưỡng là cố hương, soạn Hoài Tịnh Độ Thi tám chương, lời và tình ý rất tha thiết ai cũng thích tụng. Bình thường Sư tu Tam-muội có nhiều điềm lành. Sư cúng thí quỷ thần trừ bệnh tà mị. Sư xua rắn đuổi kiến, nước hạn thì cầu mưa. Một khi xướng tụng thì như có tiếng vang trong hang đáp lại. Mẹ Sư bệnh mắt, Sư đối trước Tượng Đức Quan Âm quán tưởng tay cầm ngọc ma-ni Nhật tinh. Mẹ nằm mộng thấy Sư bưng mặt trời đến trước mặt. Khi tỉnh dậy thì mắt sáng. Năm Kiến Trung Tĩnh Quốc thứ nhất, tháng Mạnh Hạ, Sư nhập Định thấy Thiên thần mách bảo: "Sư Tịnh Nghiệp đã thành. " Sư lại mộng thấy có hoa sen lớn mọc trong ao, thiên nhạc bốn bề. Sư bèn làm Thi Tiễn Quy Tịnh Độ. Hơn bảy ngày sau Sư ngồi kiết già mà hóa. Đồ chúng dùng lu sành xây tháp ở phía Bắc Am. Có ánh sáng như mặt trăng ở tại Tháp Sư suốt ba hôm mới lặn. Sư ngầm thấu suốt Tạng Kinh, hiểu thông sử sách. Sư chú thích An Lạc Hạnh Phẩm Không và Pháp Ấn Kinh Sớ, Huyền Tiêm Bị Kiểm, Văn Cú Tiên Nạn, Chỉ Quán Trợ

Lãm, A-di-đà Lễ Văn. Sư lại soạn Hoặc Đối Nhất Biên, Biện Luận Cổ Kim, bộ sau này rất quan trọng.

4. Tả Thân

Ông là người ở Lâm hải, được ngài Đông dịch Thần Chiếu truyền giới Bồ-tát và giảng nói cho nghe Đại thừa Pháp Yếu, hoát nhiên khai ngộ như đã được học từ xưa. Ngài Thần Chiếu ở giữa chúng xoa đảnh và thọ ký cho ông. Từ đó ông giữ nghiêm giới luật, gặp việc không hề đổi khí tiết, điêu khắc ba tượng Thánh Tây phương, sớm tối chí thành. Ông tụng ba ngàn bốn trăm bộ Pháp Hoa, Kim Cang Bát-nhã hai vạn lượt. Năm Thiệu Thánh thứ hai, mùa Thu ông ngọa bệnh, nhờ Tăng Tịnh Viên đọc đầu đề Pháp Hoa, thọ thêm Bồ-tát Giới. Ông liền mộng thấy ba người cao lớn đứng ở bờ sông mời ông lên thuyền rồi thoăn thoắt đi về hướng Tây. Thân biết là việc vãng sinh đã hẹn, bèn thỉnh chư Tăng đến tụng kinh A-di-đà, chưa xong liền nói: "Tôi đã thấy hào quang Phật. " Bèn tắm rửa thay áo, dặn tả hữu không được khóc lóc, không làm ồn. " Rồi ông niệm danh hiệu Phật kiết ấn mà hóa.

NỐI PHÁP NGÀI NAM BÌNH

Đời thứ hai dưới Nam Bình

1. Pháp sư Tùng Gián

Sư họ Mao, người ở Tòng Dương Xứ Chi. Hồi còn nhỏ Sư thấy kinh Phật liền có thể tự đọc tụng. Cha bảo: Đó là người tái lai. Năm mười chín tuổi Sư thi kinh Pháp Hoa mà được độ, liền đến tham yết ngài Thượng Trúc Biện Tài, sớm tối nghe kinh tập Thiền. Sau đó lại đến nương ngài Nam Bình ở Kim sơn, Sư luận hỏi như nước chảy. Ngài Nam

Bình khen rằng: "Đạo ta do ông mà lưu hành. " Trong năm Hy Ninh, Sư giảng ở Minh khánh, đồ chúng ngày càng đông, bèn dời về ở Tịnh Trụ. Năm đầu Nguyên Phong, người Xứ Chi lập Thọ Thánh rước Sư đến ở. Hơn ba năm, ngài Biện Tài bảo Sư làm chủ Nam Bình, vì lớn tuổi Sư làm thủ chúng của thầy. Đến tuổi nối pháp, thầy cử Sư lên thay. Năm Nguyên Hựu thứ năm, Thượng Trúc thiếu người giảng kinh, ngài Biện Tài dặn dò quan Quận Thú là Bồ Tông Mạnh rằng: Thắng tích này rất linh cảm, nếu không phải Tùng Gián thì không đủ sức đảm đang. " Quan Quận làm theo lời dặn lại tâu vua xin ban hiệu cho Sư là Từ Biện. Nghĩa Thiên Tăng Thống từ nước Cao Ly đến cầu pháp. Quận nhờ Sư ứng thỉnh. Nghĩa Thiên vì mộ Pháp nên ở lại Trung Quốc. Triều đình cho là Quốc mẫu nghĩ nhớ nên bắt phải trở về. Sư bảo rằng: Cao Tăng Đạo Kỷ đội Kinh đi du học vì mẹ không thể bỏ, bèn gánh vác cả hai, cho là kinh và mẹ đều không thể bỏ nên cõng trên hai vai. Nay Tăng Thống hiền hơn Kỷ rất xa, há vì kinh mà bỏ mẹ khiến mẹ sầu nhớ ư? Do đó Nghĩa Thiên có ý muốn về nước, bèn xin lư hương, phất trần và truyền y rồi đem đến trước Tháp tổ Trí Giả mà thề rằng: "Đã được Pháp sư Từ Biện truyền giáo quán, nay xin trở về nước mà truyền bá, mong Tổ ban ân ngầm hộ trì. " Rồi trở về nước cất chùa tạo tượng tôn làm Thủy Tổ. Năm Đại Quán thứ hai, học trò của Từ Quy Thọ Thánh là Xa Hề Phổ Minh… mười người đến thăm viếng Sư, Sư bảo: Các vị từ xa đến, sau này gặp nhau không hẹn trước, nay lão Tăng không chi bằng thừa hứng mà ra đi, bèn tắm gội thay áo, lên tòa thuyết giảng, viết kệ rồi ngồi yên mà tịch.

Đồ chúng an táng toàn thân Sư ở Thọ Nghiệp.

2. Pháp sư Hội Hiền

Sư sớm làm cao đệ của ngài Nam Bình. Lúc đầu Sư truyền giáo ở Hoa Đình Siêu Quả, người học đông như chợ. Khi Sư sắp đi hành hóa ở ngoài Ấp, muốn được người lão thành làm phó giảng. Bèn đánh trống tập chúng, có người ở giữa chúng đáp lời rằng: Con muốn thay giảng cho Lão Sư. Tất cả những điều Sư nói ra con đều phá được. Sư mừng rỡ bảo rằng: May mắn nhờ ông phá và lập mà Đạo Tổ được sáng.

Lời thuật rằng: Ngài Nam Bình gặp được Tổ Pháp Trí muộn nên nghĩa lập ra có lúc trái nhau. Nay các điều nói ra của Hội Hiền không vì cố chấp lấy kiến giải thì nghi vị này quyết lãnh hội lời của ngài Nam Bình nên bác phá những điều phó giảng có được phép bác phá. Song đời không nghe danh, có thể gọi là liệt sĩ. Sư bèn vui vẻ chấp nhận sự phá bác ấy mà không đố kỵ, thật là Hiền lắm vậy.

NỐI PHÁP NGÀI TAM HỌC PHÁP SƯ

Pháp sư Nhã Thủy

Sư người ở Tam Cù, nương học lâu ngày với ngài Tam Học, hiệu là Hữu Thành, muốn hầu ngài Quảng Tuân bèn đổi tên là Nhã Thủy. Sư bề ngoài hiện vẻ chưa học mà du lịch khắp nơi. Lúc đầu Sư ở Thiên Trụ Sùng Phước diễn giảng không biết mệt mỏi. Sư tu mật ngữ có thần công. Ngày giỗ Tổ đã đến gần Sư dặn người nấu bếp phải dự bị nhiều măng tre. Nhà bếp cho là không phải mùa. Chiều ấy có tiếng nước phun ở sau vườn rau, đêm lại nghe có tiếng nổ lách tách. Sáng ra thì thấy rất nhiều măng tre mọc đầy đất. Người dân có bệnh đến thưa, Sư đọc chú đưa nước cho uống, kẻ khỏi bệnh đông không đếm được.

NỐI PHÁP NGÀI PHÙ THẠCH PHÁP SƯ

Pháp sư Ôn Kỳ

Sư là người Kim Hoa, nương ngài Phù Thạch học pháp được thành tài. Năm đầu Trị Bình, ở khu nhà cổ Tập Cảnh Vân tại Bắc Thành, Sư mở tòa giảng kinh. Mùa hạ trời đại hạn, hàng ngày Sư giảng Quang Minh Kinh và chí thành cầu đảo chư thiên, do đó mưa lớn khắp nơi. Quận thú là Lư Cách tâu vua cho mảnh đất này vĩnh viễn làm nơi giảng giáo Thiên thai, vua lại ban hiệu Pháp Vân cho Sư. Sư đã từng tạo tượng chín Tổ cực kỳ khéo léo. Ở Đông dương giáo học thạnh hành là do sức của Sư. Đệ tử của Sư có hai mươi bảy vị, Phổ Nguyệt Đại sư Thiện Tung chủ chùa Từ giác hóa làm một cảnh, Sư Cư Thức làm chủ Cảnh Đức được khen là Hổ Tử.

NỐI PHÁP NGÀI QUẢNG TỪ PHÁP SƯ

1. Pháp sư Hy Tối

Sư họ Thi, người ở Hoắc Xuyên, vua ban hiệu là Diệu Ngộ. Năm Sư lên bốn tuổi xuất gia, Đến năm Thiên Hy Đàm Ân mà được độ. Năm mười lăm tuổi, Sư được ngài Quảng Từ Truyền Giáo

Quán, bạn đồng môn vừa sợ vừa mến gọi Sư là Nghĩa Hổ. Trong năm Trị Bình, Sư bắt đầu diễn giảng ở Gia Hòa, năm kế Long Bình dời về Thắng Quả. Có một nhà vắng bị quỷ phá, Sư đọc chú vào đất rồi ném đi thì nhặt được tờ giấy có viết chữ rằng: "Nay bị pháp đuổi đi nếu pháp lực hết thì sẽ trở lại. " Mấy ngày sau có tiếng gõ đập hoặc phun lửa biến ra trăm thứ quái dị. Sư quở rằng: Không biết rằng quấy phá Pháp sư thì đầu bị vỡ thành bảy mảnh ư? Sư lại nói về Luân chuyển nhân duyên, tiếng đọc chú của chúng Tăng có thể phá chướng. Bỗng trên không trung ném xuống một bức thư đỏ đề rằng: Hán Triều Liệt Sĩ Thẩm Quang rất hối lỗi. Lại thưa: Nhờ sức nói pháp của Sư mà được sinh lên trời Tha Hóa. Từ đó biệt tích luôn. Sư nhân vì Tịnh Giác phản Tông, bèn dâng lên Thập Gián Thư. Ngài Pháp Trí làm Giải Báng, Tịnh Giác đang làm Tuyết Báng. Lúc đó ngài Pháp Trí bệnh nên không đáp lại. Sư Tịnh Giác ở Linh Chi, giữa chúng khoe rằng: Chỉ có vấn nạn mà giết được Sư Tứ Minh, vậy ai dám hướng về Linh Chi mà mở miệng chăng? Sư lúc đó không cam lòng bèn soạn Bình Báng để biện luận, đại ý nói: "Gần đây thấy Tuyết Báng rất thạnh hành cho rằng Cứu Sinh Pháp hai thân, để rửa sạch hai thứ Báng tăng giảm đó vậy. Sách này xem rồi nói ra liền lỗi. Trong khi Giải Báng đã cháy rực rở nhưng

Tuyết Báng vẫn cứ ôm chặt lấy băng. Nay căn cứ vào lời cách ngôn của Tổ ta mà bình chỗ hiểu sai nhầm của Xà-lê. " Sư Tịnh Giác đọc thấy bảo rằng: "Thuyết của Tứ Minh do người này lưu hành. " Mùa thu năm Nguyên Hựu Canh Ngọ, Sư tập chúng, viết kệ ngồi yên mà hóa. Khi trà-tỳ được vố số xá-lợi.

Lời thuật rằng: Sư Tịnh Giác đã nhiều lần bàn luận phá thầy mình. Kịp khi Tuyết Báng xuất hiện thì ngài Pháp Trí vì bệnh mà không đáp lại. Do đó Sư Tịnh Giác tự bảo là đã thắng không còn kiêng sợ ai nữa. Nếu không Sư Diệu Ngộ thì còn ai có thể bình. Người đưa Tông của Tứ Minh lên để làm tin cho hậu thế thì Sư Diệu Ngộ có công cao nhất.

2. Pháp sư Pháp Tông

Sư họ Nhan, người Tiền Đường. Sư mười tuổi đã nương ngài Quảng Từ, mười hai tuổi thọ giới Cụ túc, chuyên nghiên cứu về giáo quán, mười chín tuổi theo ngài Quảng Tuệ. Lúc đầu Sư chuyên cần phục dịch suốt mười năm. Khi ngài Quảng Từ ẩn cư thì Sư trở về hầu hạ hằng ngày nghe khuyên dạy, rồi nương Chỉ Quán tu Đại Bi Tam-muội, miệt mài suốt chín năm, được người tôn làm Sám Chủ. Phàm các việc cầu đảo cầu bệnh đều có linh ứng. Sư lập Tịnh độ đạo tràng, khắc ba tượng Tây phương, đốt năm ngón tay cúng Phật. Mỗi tháng Sư tập họp bốn mươi tám người đồng tu tịnh nghiệp, các danh khanh hiền sĩ đều đến dự hội đó.

Mùa Xuân năm Chí Hòa Đinh Dậu, Sư có chút bệnh mộng thấy Đức Di-đà và Thánh chúng đưa tay tiếp dẫn. Sau đó ba ngày Sư tắm gội thay áo súc miệng, ngồi kiết già im lặng mà hóa. Sư thường nghe ở Thiên Trúc có Quang Minh Sám để kết thắng nhân, Sư bèn cùng tu. Được năm ngày thì trong lúc Thiền Quán Sư thấy Từ Vân Pháp sư có mấy mươi vị Tăng theo hầu, Sư đảnh lễ và thưa rằng: Xưa các người đồng tụ đều vãng sinh cả chăng? Ngài Từ Vân bảo: "Từ sau năm Nguyên Chiếu đã được vãng sinh, Trạch Anh còn muốn vào Tam đồ để hoằng Kinh (về sau Sư Trạch Anh quả nhiên có nguyện này). Ông phải nên siêng tu để hoàn thành bản nguyện. " Nói xong liền biến mất.

3. Pháp sư Đàm Dị

Sư họ Đỗ, người ở Dư Diêu. Sư ở Long Tuyền Thanh Tự gặp năm Hoàng Hựu vì ân phổ độ mà được xuất gia. Sư tu tập Giáo Quán ở Thiên Trúc với ngài Minh Trí. Sau đó vào thất của ngài Lôi Phong Quảng Từ chăm chăm gõ nhịp suốt hai mươi năm không hề nản chí. Học xong Sư trở về quê diễn giảng ở Cố Sơn, chuyên cần tu nghiệp Tịnh độ, tụng Pháp Hoa đến năm ngàn bộ và kinh Phổ Hiền Di-đà mỗi thứ cả vạn quyển. Năm Sùng Ninh thứ nhất, mùa Thu Sư có bệnh bèn tập chúng bảo rằng: "Đã tới lúc ta sinh về Tịnh độ, ngồi Kim đài theo Phật về Tây phương. " Sư tắm gội ngồi ngay kiết ấn mà hóa. trà-tỳ xong còn lại cái lưỡi và xá-lợi như kết nhau lại (Quyển này bốn mươi vị nhưng Bản Kỷ chỉ ghi có mười vị. Hai mươi bảy vị kia không ghi).

QUYỂN 14

PHẦN VI - LIỆT TRUYỆN CÁC SƯ (PHẦN 4)

A. Nối pháp ngài Thần Trí, Văn Pháp sư: (đời thứ ba sau ngài Quảng Trí)

Minh Trí, Trung Lập Pháp sư. Văn Tuệ, Tông Chánh Pháp sư. Không Tướng Tư Cung Pháp sư. B. Nối pháp ngài Phù Tông, Trung Pháp sư:

Thảo đường, Xử Nguyên Pháp sư. Vĩnh gia, Pháp Thuyên Pháp sư.

C. Nối pháp ngài Siêu Quả, Trạm Pháp sư: là Hải Tuệ Nhược Viên Pháp sư.

D. Nối pháp ngài Pháp Chân, Hàm Pháp sư: (đời thứ ba sau Thần Chiếu):

Bạch Liên Đạo Khanh Pháp sư. An Quốc

Nguyên Tuệ Pháp sư. Tứ Minh, Tịnh Cảo Pháp sư. E. Nối pháp ngài Thần Ngộ, Khiêm Pháp sư:

Bắc Thiền, Tịnh Phạm Pháp sư. Bạch Liên, Thiện Khuê Pháp sư. Đức Tạng, Trạch Anh Pháp sư. Kim Hoa, Tử Phương Pháp sư.

Thọ An, Lương Bật Pháp sư. Tịnh Trụ, Tư Chiếu Pháp sư.

Nhất Tướng Tông Lợi Hành nhân.

F. Nối pháp ngài Tra Am, Nghiêm Pháp sư:

Thiên thai, Pháp Lân Pháp sư. Thiên thai, Ứng Thông Pháp sư.

G. Nối pháp ngài Từ Biện, Gián Pháp sư: (đời thứ ba sau Nam Bình)

Xa Khê, Trạch Khanh Pháp sư. Tuệ Giác, Tề Ngọc Pháp sư.

Viên Giác, Uẩn Từ Pháp sư. Phổ Minh, Như Tĩnh Pháp sư. Thiên Trúc, Ứng Như Pháp sư. Pháp Vân, Tông Mẫn Pháp sư. Phật Trí, Từ Vân Pháp sư.

Phật Chiếu, Trí Kiên Pháp sư. Tuệ Giác, Thanh Nguyệt Pháp sư. Viên Minh, Phổ Hiền Pháp sư.

Thượng Trúc, Minh Nghĩa Pháp sư. Cao Ly, Nghĩa Thiên Tăng Thống.

H. Nối pháp ngài Quần Phong, Sơ Pháp sư: Phạm Từ, Trí Phổ Pháp sư

I. Nối pháp ngài Nam Bình, Văn Pháp sư: Hiến

Chương, Trọng Mẫn Pháp sư

J. Nối pháp ngài Siêu Quả, Hiền Pháp sư:

Tinh Vi, Ngạn Luân Pháp sư. Thanh Biện, Uẩn Tề Pháp sư. Bảo Tích, Ngạn Đoan Pháp sư.

K. Nối pháp ngài Cảnh Vân Kỳ Pháp sư.

Giác Từ, Thiện Tung Pháp sư. Cảnh Đức, Cư Thức Pháp sư.

NỐI PHÁP NGÀI THẦN TRÍ, VĂN PHÁP SƯ

(đời thứ ba sau ngài Quảng Trí)

1. Pháp sư Trung Lập

Sư họ Trần, người ở Ngân châu, vua ban hiệu là Minh Trí. Mẹ mộng thấy mặt trời chui vào bụng bèn thọ thai Sư. Đêm không tắm ba lần thì khóc mãi không nín. Năm lên chín tuổi Sư xuất gia ở Thê Tâm tại Dũng Đông, học kinh chỉ đọc qua một lần thì nhớ mãi không quên. Trong năm Trị Bình thi kinh ở phủ Khai phong trúng tuyển nên được độ. Lúc đầu Sư nương ngài Quảng Trí học giáo quán. Kịp khi ngài Thần Trí làm chủ ở Nam hồ thì đến nương học. Trong năm Hy Ninh, ngài Thần Trí mở túi thơm bày các câu hỏi đáp cho hai trăm người dự, không ai hơn được Sư, bèn cử Sư làm thủ tòa. Lâu sau Sư đến yết kiến ngài Phù Tông ở Vĩnh gia. Khi sắp trở về ngài bảo: Hạnh của ông tất nối giảng tòa của ngài Pháp Trí. Kịp khi ngài Thần Trí thôi việc bèn cử Sư nối thay. Năm Nguyên Hựu thứ nhất, Tăng Thống nước Cao Ly là Nghĩa Thiên từ xa đến hỏi đạo. Phủ Tế Ngạn gặp Sư thăng đường khen rằng: Quả đã có người. Bèn đến lễ ra mắt Sư thì phút chốc bị Sư quy phục, cuối cùng không biện bác gì được cả. Sư sai môn đồ là Giới Nhiên bắt đầu làm mười sáu Quán Thất để đón rước người tu nghiệp Tịnh độ. Xong rồi bèn nói lời từ biệt rằng: "Năm ta sáu mươi tuổi sẽ lại gặp nhau. " Sư bèn lui về ẩn học tại Đông hồ. Được vài năm thì Quận Thái Thú là Vương Công mời Sư làm chủ Bảo Vân, khi sửa sang nhà mới thì tìm thấy trong bụng Thần Già-lam có nguyên văn nói rằng: Trăm năm sau sẽ có nhục thân Bồ-tát trùng hưng chỗ này. Người nghe đều lấy làm lạ. Về sau Sư về ở ẩn tại Bạch Vân am, hàng ngày Sư tuyên đọc Chỉ Quán đến Bất Tư Nghì Cảnh, thì than rằng: "Đạo ta đến đây đã cùng tột rồi. Có bất tư nghì cảnh thì có bất tư nghì tâm". Sư bèn viết Bất Tư Nghì Biên Chánh, lại chỉ năm chương mà xé toạt mắt lưới, nhờ quả mà rõ nhân để hoàn thành hạnh giải. Nêu Phật để nhiếp độ chúng sinh, toàn chúng sinh đều là Phật. Sư viết Chỉ Quán Liệt Võng, Chỉ Quy Thích Nghi. Khi Văn Tuệ Chánh Sư tịch rồi thì Quận Thú thỉnh Sư đến làm chủ lại Diên Khánh. Thật quả phù hợp với lời Sư nói: "Sáu mươi năm sẽ gặp lại. " Sư từng lên tòa nói pháp, mưa Từ vô tận. Khi xuống tòa Sư hỏi thị giả rằng: Ta vừa nói đạo với những câu gì? Thị giả thuật lại các điều đã nghe. Sư bảo: Ta biết thân tâm đồng với Thái Hư, nên không để ý đến lời đã nói ra. Việc hành Sám hàng năm ở Diên Khánh tại Triết giang rất thạnh hành, Sư chọn ra những môn đồ tu Pháp Hoa Sám. Năm Hy Ninh thứ bảy, khi hành Pháp gần xong, trong lúc thiền quán Sư thấy có một chiếc thuyền lớn, chúng muốn ngồi đều không được, chỉ có Sư ngồi trong đó mà đi. Từ đó tuệ biện của Sư như suối phun hơn xưa rất nhiều. Ngày Tân Hợi tháng tư năm Chánh Hòa thứ năm, Sư gọi môn nhân là Pháp Duy bảo rằng: "Ta nghe mùi hương lạ tâm rất vui vẻ. Lại bảo người tu ở Quán Đường rằng: "Ta từ biệt các ông vĩnh viễn", rồi Sư ngồi quay mặt về hướng Tây mà hóa. Tháp Sư ở phía Đông Tháp Tổ Sùng Pháp. Sư giảng ba thứ Đại Bộ Tịnh Danh và Quang Minh mấy mươi lần, tụng Pháp Hoa hơn vạn bộ, Sư cứu bệnh cho người, đuổi quỷ, cứu tai ương hạn hán không thể ghi hết sự linh nghiệm. Sách của Khổng Lão không thứ nào Sư chẳng đọc qua. Sư đã giảng thuyết cho các Nho sĩ rồi gặn hỏi rằng: Đạo này đối với Đức Khổng Tử như thế nào, đối với Thi thơ như thế nào? Rồi Sư viện dẫn biện luận tường tận bảo rằng: Không phải như thế ư? Người nghe đều tâm phục mà lui ra. Khi Sư ở Vĩnh gia, ngài Phù Tông bảo rằng: Ta thường thấy Malợi-chi, Vi-đà ở trong mộng thường xin được hộ pháp. Hôm khác Sư đến Sám thất ở Nam Hồ để định chức vị, kịp khi Sư làm chủ giảng, bèn lập tượng Sư trước hết. Trần Oánh Trung từng khen Sư rằng: Giữ nghiêm Giới luật, kiên trì Tịnh lự, dùng thân làm lưỡi, nói trăm ức việc (ý nói giới định tuệ đều đầy đủ).

2. Pháp sư Tông Chánh

Vua ban hiệu là Văn Tuệ. Sư nương học với ngài Thần Trí về Giáo Quán, nổi tiếng sâu sắc vang đến cõi ngoài. Năm Trị Bình thứ nhất, Sư nối tiếp làm chủ Nam Hồ, rộng truyền giáo tông. Từ trước Tổ Bảo Vân được an táng ở góc Tây bắc núi Adục. Sau bảy mươi bảy năm Sư từ Nam hồ đến kính lễ, thấy tường bao quanh có chỗ bị hư sụp, sắp hoang phế, bèn ra công chất đá xây phần mộ vuông để nơi đó được quang đãng sạch sẽ, lại làm bia đá ở tháp để mọi người biết rõ các việc. Lúc đó bản văn này làm tôn vinh Sư, vì nơi chôn cất ngài Bảo Vân cơ hồ không tìm thấy được.

3. Pháp sư Tư Cung

Sư người Ô Trình Hồ Chi, vua ban hiệu là Thể Chân. Năm mười chín tuổi cạo tóc xuất gia, đến học giáo quán với ngài Thần Trí. Kịp khi về quê kinh sách bị hư hao thất lạc, nên Sư quyết chí phục hưng, làm nhà có hơn ba trăm cột mà vẫn thong dong không xin ai giúp, nhưng thí chủ vẫn đổ xô đến. Khi công việc hoàn thành thì Sư tu Trường sám ba năm để đáp lại chí nguyện. Khi về già Sư trở lại Ngô Sơn Giải Không. Năm Kiến Viêm thứ nhất, tháng chín, Sư từ biệt chúng ngồi yên mà hóa. Khi trà-tỳ khói bay đến đâu đều ngưng thành xálợi. Tháp Sư ở góc Đông nam của viện. Đệ tử của Sư như Giới Trừng… bốn mươi ba người đều là người truyền đạo thành công, phân nhau đi hoằng hóa vùng Triết giang.

NỐI PHÁP NGÀI PHÙ TÔNG, TRUNG PHÁP SƯ

Pháp sư Xử Nguyên

Sư người Vĩnh gia, từ lâu theo học với ngài Phù Tông bèn nối tiếp chiếu giảng ngài Pháp Minh. Quận Hầu ngưỡng mộ đạo đức của Sư giao cho Sư làm Tăng Chánh, Sư lắng trong hàng giới phẩm không ai không quy phục. Sư có làm bộ Phụ Tán Ký ba quyển, luận về kinh thể thì suy ra gốc thuyết Nguyên Lưu của hai ngài Pháp Trí và Quảng Trí, luận về Gốc Vô Trụ của ba thứ quán pháp. Đáp lời ngài Phù Tông nói về Thông tướng ba quán. Việc nói đó rõ ràng đúng đắn, các học giả đều noi theo. Năm Sùng Ninh thứ hai, Sư ẩn cư tại Thảo đường ở Đông khê mà soạn Bộ Nghĩa Lệ Tùy Thích sáu quyển. Lúc xưa ngài Kinh Khê vì văn Chỉ Quán rộng nên nêu làm bảy khoa gọi là nghĩa lệ, giúp người học biết được ý lớn của Giải hạnh. Tuy ngài Pháp Trí có soạn nhiều sách nhưng không rảnh để ghi chép, Sư nhân nghĩa của ngài Thần Trí viết Toản yếu, lấy cảnh Tánh đức của Sơ thừa quán pháp làm Chân Như lý quán, lấy cảnh Tu đức làm Duy Thức sự quán. Sư cho đó là đám cuồng vọng làm nghi kẻ hậu học, bèn quyết chí chú thích để dẹp bỏ cái sai của Toản yếu.

NỐI PHÁP NGÀI CHÂN HÀM PHÁP SƯ

(đời thứ ba sau ngài Thần Chiếu)

Pháp sư Tịnh Cảo

Sư người ở Tứ minh, theo học với ngài Pháp Chân và được ở hàng cao đệ. Sư soạn quyển Kim Cang Kinh Sớ, muốn giảng liền giảng không đợi chúng tập họp. Có Thần Luật Sư vào âm phủ. Người xét tên bảo: Bắt lầm người rồi! Thần lén nhìn qua cuốn sổ thấy có ghi là: Xà-lê Tịnh Cảo ở Châu minh giảng kinh Kim Cang Bát-nhã một trăm biến, bèn đến hỏi Sư, Sư bảo: Chỉ khoảng mười biến thôi. E là nghĩa vượt trội nên đề là một trăm biến.

NỐI PHÁP NGÀI THẦN NGỘ, KHIÊM PHÁP SƯ

1. Pháp Chủ Tịnh Phạm

Sư họ Đản, người ở Gia hòa. Mẹ họ Cung mộng thấy hào quang Phật đầy nhà nhân đó thọ thai, nên khi sinh Sư thì đặt tên là Phật Hộ. Năm mười tuổi Sư xuất gia với Thăng Quả Sư Vĩnh Sám Chủ. Sư thường niệm danh hiệu A-di-đà Phật. Có người hỏi tuổi còn nhỏ mà niệm Phật làm chi? Sư đáp: Tôi muốn đến Phương trượng khác để xin trú ngụ. Năm mười tám tuổi, Sư thọ Cụ giới rồi nương học với Siêu Quả Trạm Sư. Chưa bao lâu Sư đến tham yết ngài Thần Hộ, lâu ngày thân cận nghe giảng khế hợp bản tâm. Năm Nguyên Hựu thứ nhất, Sư làm chủ chùa Đại Từ ở Cô Tô, giảng ba Đại Bộ hơn mười lần, giảng các văn khác cũng chừng ấy. Các môn sinh theo học đầy khắp đất Ngô, kẻ tin tưởng thọ giới cơ hồ khắp cả thành ấp. Sư từng dẫn hai mươi bảy người tu Pháp hoa Tam-muội lấy hai mươi tám ngày làm kỳ hạn. Ba Hội như thế nên chiêu cảm được Đức Phổ Hiền Đại sĩ đến làm Yết-ma trao giới. Đến khi gọi Tịnh Phạm Tỳ-kheo thì tiếng vang động như dộng chuông lớn. Khi tu Tammuội sắp thành, có hai vị Tăng đến đảnh lễ thưa rằng: "Mùa xuân này đến Thạch Kiều để lễ Thánh Tích. " Chợt thấy trên không trung rải hoa và có mùi hương lạ phi thường. Một vị Sư vội bảo: "Cô Tô Phạm Pháp Chủ, kỳ hạn Sám lễ rải hoa đến đây", nói xong biến mất. Sư nhân đó đến chiêm lễ. Trường Châu Lệnh là Hoàng Công Nhan khắc lời ký ở đá nói rằng: Lạ thay đạo lực của Sư! Sư đã cùng Tiến Pháp sư ở Bắc Kinh mộng thấy Đức Thích-ca truyền giới cho, với Nam Nhạc mộng thấy bốn mươi hai người được ban pháp yết-ma, khác đời mà có cùng hiệu nghiệm. Sư đặt ra Kỳ Sám Quy Thức, hai vùng sông Triết đến nay vẫn còn lưu hành. Sư từng căn cứ vào Tiên Dịch Quang Minh mà chế riêng ra Sám Nghi rồi cùng chúng đồng tu, thấy có nhiều lần ứng nghiệm. Ở nơi Sư ngồi Thiền quán, chúng thấy có Kim Giáp Thần Vương quỳ trước tòa. Sau tại một chỗ Kỳ Sám thấy Vi-đà thiên án ngữ trước nhà hành sám, có người thấy theo rình liền bị khởi chướng mà thoái tâm. Một đêm ở Tây Viện, lúc đó trời rất nóng nực chúng ngủ không yên. Sư bèn đắp ba y ngồi trên Thủy Các, chợt gió tuyết thổi đến khiến khí mát đến lạnh người. Sáng ra Sư bảo chúng rằng: Hạ làm như Đông chúng đều vui thích. Chúng biết là Thần Long đã ngầm giúp, biến nóng thành mát. Trong năm Nguyên Phù, Sư mộng thấy Huỳnh Y mời Sư đến âm phủ. Vua rước Sư ngồi lên tòa rồi sai quan kiểm tra sổ bộ, quan tâu: "Tỳ-kheo Tịnh Phạm trải nhiều kiếp luôn giảng kinh Pháp Hoa", vua bèn đứng dậy đảnh lễ, sai sứ tiễn Sư về. Trong năm Chánh Hòa, người hầu gái của Thái Thú Ưng Công bị ma quấy nhiễu cười hát mãi không thôi, thỉnh Sư đến truyền giới cho thì liền tức khắc định thần. Bà họ Cát thỉnh Sư Truyền giới cho người chồng vừa mất, liền thấy chồng mình đang cung kính đi nhiễu quanh tòa Sư ba vòng và bảo là mình đã được giải thoát. Đầu năm Tuyên Hòa. Quận thú Cổ Công quý Kính Sư cao hạnh nên bổ nhiệm Sư làm Quản Nội Pháp Chủ. Năm đầu Kiến Viêm, tháng mười Sư ngồi yên mà hóa. Khi trà-tỳ được rất nhiều xá-lợi. Tháp Sư ở chùa Bátnhã tại Hoành đường.

2. Pháp sư Trạch Anh

Sư họ Du, người ở Đồng Giang Nghiêm Chi. Bà mẹ mộng thấy hai mặt trời xuyên qua bụng, hai năm sau thì bà sinh hai bé trai đều cho đi xuất gia và đều thi Kinh mà được độ, người anh là Tử Khâm theo học với ngài Tiền Đường Tịnh Trụ, người em chính là Sư. Sư vào Đạo ở Thọ Ninh tại Hàng Chi. Trong năm Hy Ninh, Sư tham học với ngài Thần Ngộ ở Thi Thủy Bảo Các mà được thâm ngộ Đại Chỉ Quán. Sư xem Bất Nhị Môn, Kim Ty thì không ngủ cả mấy tháng, Sư đem Sở đắc của mình lên bạch thầy, ngài Thần Ngộ bảo: Pháp Hoa Diệu Chỉ đã vào tự tâm phải khéo giữ gìn chớ nên xem thường. Họ Lỗ ở Đương hồ đã xây cất một viện ở Đức Tạng để thỉnh Sư đến mở rộng pháp thí. Lâu sau đó Sư đi ngao du khắp nơi Hàng-Tú-Tô-Hồ. Mùa Xuân năm Nguyên Phù thứ hai, ở chùa Tường phù đất Hàng, Sư có bệnh, phút chốc thân già của Sư tựa ghế xây mặt về hướng Tây tụng kinh Di-đà. Khi hết quyển kinh thì liền viên tịch. Sư từng soạn Tịnh Độ Tu Chứng Nghi, trong đó có kệ khen: "A Di-đà Phật Chân Kim Sắc", đến nay mọi người đều tụng. Sư lại biện biệt tướng của hai thứ Quán môn về Tây phương và cõi này để khuyên người chuyên tu nghiệp Tịnh độ (Văn thấy trong Tịnh Độ Bản Truyện).

3. Hành Nhân Tông Lợi

Sư họ Cao, người ở Cối kê. Năm lên bảy tuổi theo học ở Thiên Hoa. Khi đã thọ giới Cụ túc, Sư đến Cô Tô nương ngài Thần Ngộ liền vào Phổ Hiền Sám Thất với kỳ hạn là ba năm. Bỗng mộng thấy bà mẹ đã mất đến tạ: Nhờ công đức Lễ sám của con mà ta đã được nơi sinh. Sư lại thấy ngài Phổ Hiền từ không trung bay qua trước mặt. Khi kỳ hạn Sám lễ đã xong, Sư đến Linh Chi tham yết Luật Sư Đại Trí để thọ thêm Giới Pháp. Sư mộng thấy ngài Đại Trí ngồi trên tòa gọi lớn tên Tông Lợi, miệng nhả ra viên ngọc châu màu trắng bảo Sư nuốt vào. Lại trong khi nhập Định Sư thấy thần thức mình dạo chơi cõi Tịnh độ thấy hoa sen trong ao báu, rừng cây báu... các cảnh. Sư liền đến Bích Chiểu ở Tân Thành chuyên tu Niệm Phật Tam-muội, trải mười năm. Sư lại đi đến Thiên Phong, Nhạn Đảng ở Thiên thai đến đâu cũng đều xây dựng Tịnh độ đạo tràng. Khi tuổi già Sư đến học với ngài Thiên Hoa và lập Vô Lượng Thọ Phật Các, tiếp đãi mây nước. Năm Chánh Hòa thứ nhất trời đại hạn, Sư đến miếu Đế Thuấn ở núi Nhật chú cầu mưa, cảm được Long vương hiện thân sắc vàng mưa lớn ngập chân. Cuối năm Kiến Viêm, Sư vào núi Đạo vị đề nơi ở là Nhất Tướng Am. Cả đạo tục Cối kê đều thỉnh Sư làm chủ Hệ Niệm, đến đêm thứ ba thì viên châu trên đỉnh tượng vẽ bỗng phóng quang, ánh sáng lớn như cái nia, những người dự hội tâm càng kiên cố. Năm Thiệu Hưng thứ mười bốn, ngày ba mươi tháng giêng Sư bảo đệ tử rằng: "Phật đã đến, ta sẽ về nước An dưỡng. " Và viết bài tụng để từ biệt rằng: Ta tuổi chín mươi đầu đã bạc, cõi thế ít ai được trăm tuổi, Nhất Tướng Đạo Nhân về chốn xưa, bỏ càn khôn hẹp ngồi Kim đài. Rồi Sư ngồi thẳng mà tịch. Hôm ấy người ở gần núi thấy có vị Tăng lạ ở khắp các hang động không biết từ đâu đến. Đồ chúng an táng toàn thân Sư ở sau am.

4. Pháp sư Tư Chiếu

Sư họ Dương, người Tiền Đường. Năm mười bốn tuổi Sư theo học ở Tùng Nhã Tịnh Trụ, nghe giảng Pháp Hoa Phương Đẳng với ngài Nam Bình. Lại đến Đông dịch tham học với ngài Thần Ngộ được khế nhập lớn, bèn chích máu viết kinh Pháp Hoa được bảy cuốn. Sư chuyên tu Niệm Phật Tammuội. Sư dựng một am nhỏ đề là Đức Vân, phía sau nối liền với một cửa nhỏ làm chỗ quán mặt trời lặn. Sư khắc tượng thờ ba Thánh, mỗi đêm qua giờ Tý liền thức dậy niệm Phật. Ngày mười ba tháng hai, Sư dẫn chúng đạo tục nguyện hệ niệm suốt đời. Sau ba mươi năm, vào một buổi sáng Sư bảo đồ đệ rằng: "Đêm rồi ta thấy Phật thân vàng trượng sáu, đây là điềm được vãng sinh. " Rồi thỉnh chư Tăng bảy ngày niệm Phật trợ lực, Sư ở trong am tay bắt ấn ngồi mà hóa, lúc đó là mùa Xuân năm Tuyên Hòa thứ nhất. Khi trà-tỳ xong thì xương đảnh và răng đều lấp lánh như ngọc. Đối với bảy kinh Tịnh Độ, cứ một chữ lạy một lạy và với các kinh Hoa Nghiêm, Thủ-lăng-nghiêm, Kinh Quang Minh, Vô Lượng Thọ, Phổ Hiền Hành Pháp, Di Giáo, Phạm Võng, Vô Lượng Nghĩa, Lược Giáo Giới, Tứ Phần Giới Bản đều cũng thế. Chỉ kinh Pháp Hoa thì tụng được mười lượt, cộng là hai trăm bảy mươi quyển, tụng Pháp Hoa được ngàn bộ, kinh Vô Lượng Thọ Phật được năm tạng, kinh A-di-đà được mười tạng…

NỐI PHÁP NGÀI TỪ BIỆN, GIÁN PHÁP SƯ

1. Pháp sư Trạch Khanh

Sư là người Thiên thai, tư chất thông minh, học rộng nhớ dai, theo học với ngài Thượng Trúc Từ Biện, Sư từng nói: Ý chỉ của Tứ Minh thì ta đã được, chỉ có khởi lòng tin Giáo Quán thì ta chưa kịp nhưng không dám không tin. Lúc đầu Sư làm chủ Thọ Thánh ở Xa Khê (Xa Khê thuộc ba châu bốn huyện, phía Đông là huyện Sùng Đức Tú Châu. Đời Đường gọi là Thanh Trấn Cổ Tháp. Năm Nguyên Hựu thứ hai, lúc mới lập viện Thọ Thánh, thỉnh Sư đến khai sơn. Triều vua Cao Tông đổi tên là Quảng Phước). Sư chưa từng qụy lụy người giàu sang. Đồ chúng tụ họp cả ba trăm và thí chủ tự đến cúng dường. Hơn ba mươi tuổi Sư bèn bỏ kinh mà ngồi thiền. Lúc tuổi già Sư ở Xa Khê, mỗi khi gặp diễn giảng, Sư sai thị giả mỗi ngày đem một pho để diễn giảng. Sư luận thuyết như nước chảy, người nghe đều tin phục. Sư Tuệ Biện Đàm Ứng dẫn ba mươi môn đồ đến Xa Khê, gặp lúc Sư đang giảng kinh Vô Lượng Nghĩa, giảng xong Sư gặn hỏi rằng: Diệu Lạc có nói: Năng sinh là tên khác của Nhất Thật Pháp Hoa, Sở Sinh Vô Lượng là tựa của Pháp Hoa, không biết năng sinh nhất thật là Viên của Cách Thiên hay Viên của Tức Thiên. Còn Sở Sinh Vô Lượng là quyền của Đồng Thể hay quyền của Dị Thể?. Đàm Ứng bảo các kẻ đồng hành rằng: "Vị Sư này nói có phép tắc đủ để ta hỏi đạo", bèn xin y chỉ. Có kẻ không theo phép tắc, vị Duyệt chúng nghe được hỏi tên thì chỉ nói hai Sư Bằng, Quán. Sư bảo: Hai vị này là đại tài trong giáo môn ta, chớ hỏi. Một đêm Sư ngồi ở Phương trượng nghe trên dãy nhà ngang có tiếng nhạc trời, Sư sai người tìm xem thì tiếng phát ra từ phòng Sư Bằng, Sư ghé mắt vào kẻ hở nhìn xem thì thấy hai Sư Bằng, Quán và mấy người ngồi trước đèn đang đùa nhau, đưa tay làm bộ khảy đàn, Sư càng kinh dị. Bình thời Sư thích uống trà. Khi sắp lâm chung Sư gọi môn nhân bảo rằng: "Khi chuông sáng ngân vang thì đến báo cho ta biết. Đến giờ Sư uống trà rồi viết kệ mà hóa. Lúc đó là tháng trọng đông năm Đại Quang thứ hai. Tháp Sư ở Phù Dung Bồ phía Nam viện.

2. Pháp sư Tề Ngọc (Vì lúc lánh nạn tạm đổi húy là Tề Bích).

Sư người Hạp Xuyên, là con của Thượng Thư Mạc Công Chi, Pháp Hiệu là Tuệ Giác, sớm theo học Phật, mỗi ngày nhớ được mấy ngàn tiếng. Lúc đầu Sư theo học với ngài Tường Phù Thần Trí, sau nương ngài Tuệ Biện. Một hôm có Phó Hội Tăng, Sư nhẹ nhàng từ chối. Có người hỏi duyên cớ. Sư đáp: Thật không muốn cái lợi năm ngàn mà mất đi công phu một ngày. Sư được ý chỉ Thông Tướng Tam Quán của ngài Từ Biện nhưng giấu kín không nói, chỉ nhiều lần khấn lạy không thôi, bèn ở trong thất vắng quỳ trước lư hương xem như được truyền thụ. Lúc đầu Sư ở Bảo Tạng tại Thiều Khê mỗi kỳ cuối năm đều mở lớn nghiệp Tịnh Độ. Sau Sư dời về ở Hoành Sơn tạo tượng Phật trượng sáu dẫn chúng đạo tục cùng tu. Giữa đêm bảo chúng rằng: "Chúng ta khi chưa niệm Phật, tâm theo trần cảnh làm những việc bất thiện, phạm một tội kiết la còn chịu tội khổ địa ngục đến chín mươi ngàn năm, huống lại phạm cả Thiên Trụ trọng tội ư? (năm thiên, bảy trụ). Nay nếu niệm Phật thì có thể chỉ một Niệm diệt hết tám mươi ức kiếp tội Sinh tử. Huống còn cha mẹ sinh ta và cho ta xuất gia, đáng lý phải độ thoát để báo đền ân sâu, nay nếu ta phá giới đọa lạc, thì cha mẹ đâu không thất vọng?" Đại chúng nghe nói đều chí thành sám hối, lễ lạy cho đến lúc sức trán, khản tiếng (Đây tuy là khuyên tu

Tịnh Hạnh chính là dùng để Phù Luật Đàm Thường để cứu độ đời mạt pháp). Năm Tuyên Hòa thứ sáu, Sư dời đến ở Thượng Trúc. Trước đó ngài Từ Biện đã bỏ đi, người kế thừa thì không đủ sức đảm đang. Học đồ bàn nhau rằng: Nếu có Ngọc Công tất sẽ hưng thịnh. Quận Thú là ông Nhan Quốc nghe biết, bèn sắm trọng lễ đến rước Sư về. Sư giảng đạo hoằng hóa không khác gì ngài Từ Biện. Có một khuya Sư đội tượng hành đạo, một tăng vô phép trách cứ. Sư bảo: Ông chẳng biết gì cả, chỉ là loài súc sinh thôi! Nói xong Sư hối rằng: "Kẻ ấy tuy bất tiếu nhưng mắng là súc sinh thì có súc phạm Tam bảo. " Bèn suốt ba năm đối Phật mà sám hối. Gặp năm đại hạn, ruộng vườn cạn kiệt, Sư vận tâm thầm cầu mưa. Đêm mộng thấy có nước phun lên ở sườn Tây. Sáng ra đào xuống thì có dòng nước trong xanh phun lên, nhân đó đặt tên là "Suối mộng. " Mùa thu năm Kiến Viêm thứ nhất, Sư gọi Thủ Tọa là Tu Tuệ bảo rằng: "Trước giường ta có hiện nhiều bảo tháp. " Tu Tuệ thưa: "Hòa thượng đã lưu thông điềm chứng của Pháp Hoa. " Sư bảo: "Sở nguyện ta chỉ muốn thấy Đức A-di-đà mà thôi. " Liền tập chúng niệm Phật. Giây lát Sư ngước đầu dáng kính cẩn bảo: "Phật đã đến rước ta", rồi Sư chắp tay ngồi thẳng mà hóa. Mộ Sư ở một bên thảo đường tại Sơn Tây. Thụy phong cho Sư hiệu Diệu Biện. Tháp đề Tuệ Tịnh. Hàng môn đệ được truyền giáo là Mật Ấn Đại sư, Tu Tuệ… hai mươi vị. Sư trước tác gồm: Phổ Hiền Hạnh Pháp Kinh Sớ, Tự Thích Sớ, Tổ Nguyên Ký, Vô Lượng Nghĩa Kinh Sớ, Tạp Châu Ký (giải thích việc ngài Cơ Sơn Viết Sớ), An Ban Thủ Ý Pháp Môn, Tôn Thắng Sám Pháp.

3. Pháp sư Uẩn Từ

Sư người Từ Khê Tứ Minh, vua ban hiệu là Viên Giác. Lúc đầu Sư nương theo Thọ An Bật Sư, sau đó lại đến học với ngài Từ Biện, việc học đã hoàn thành. Lúc đó học trò ngài Từ Biện có đến mười người ở hàng cao đệ, Sư là người thuyết pháp bậc nhất. Lúc đầu Sư ở Bồ-đề tại Tây hồ, lại dời về Viên Thông ở Cối kê. Năm Sùng Ninh thứ nhất, ở Năng Nhân thiếu người giảng bèn thỉnh Sư đến. Có Văn Thủ Tọa và Năng Hành Nhân, mỗi vị đốt hai ngón tay để cầu Phật gia bị, thì Sư đến, một lần giảng thuyết chúng đều tùy phục. Mùa nắng nóng dữ, tan buổi giảng, Trí Nhân đang nằm nghỉ trên giường, vừa lúc Thủ Tọa đến bạch rằng: Sư giảng ở núi này, khoảng tan buổi giảng, nếu không vào Sám thất thì ở thiền đường chưa có ai mặc tình ngủ nghỉ như vậy. Sư thẹn cảm tạ rằng: Đâu dám không theo lời chỉ bảo, từ đó dù lạnh nhiều hay nóng dữ cũng không dám có chút lười biếng. Sư mỗi khi đi tiêu xong thì tắm rửa thay áo, lúc đi đường gặp tuyết thì lượm lấy cho là sạch. Sư có soạn: Thập Loại Thuyết Quyền Thật Chỉ Mê, tác phẩm này lưu hành trên đời.

4. Pháp sư Như Tĩnh

Sư được vua ban hiệu là Phổ Minh, sớm vào thất ngài Từ Biện. Có người đất Hàng vì tư thù đã giết chết người anh. Sau biết ra rất ăn năn, bèn đến hỏi vị Luật Sư. Vị này đáp: Giết người thì đền mạng còn gì mà hỏi? Người ấy liền nhào xuống Hồ Tây mà chết vì muốn đền mạng người anh để khỏi oan trái sau này. Nhưng tìm mãi không thấy anh bèn hối hận việc nhào xuống nước chết. Nhân chúng vào Lôi Phong thọ giới bèn theo vào, nghe Giới Sư nói người tạo tội được cho Sám hối. Con quỷ ấy bèn giận vị Luật Sư, phải sớm biết được sám hối thì đâu có nhảy xuống nước tự tử, nên ngày đêm quỷ ấy theo Luật Sư đòi mạng, bảo phải cúng đồ ăn nhưng trăm cách vị Luật Sư đều từ chối. Lâu sau quỷ nói: "Hãy vì con mà thỉnh Tĩnh Phật tử truyền cho giới Đại thừa thì có thể thoát được. " Sư bèn truyền cho Giới Pháp, quỷ liền hiện hình đến tạ ân rồi đi. Sau Sư làm chủ ở Giác Ngộ, học đồ hội họp đông như mây đùn. Có một thất trống vắng bảo có quỷ dữ ở. Nửa đêm Sư vào thất tọa thiền bỗng nghe có tiếng kêu khóc, Sư thấy một đầu người bay trên mặt đất phút chốc lại hóa làm người. Sư bảo: Sao ngươi dám quấy phá người? Quỷ đáp: Tôi hiện ra gặp người vốn là mong người cứu độ, người thấy tôi tự sợ tôi nào có phá ai? Sư bèn nói pháp và truyền giới cho rồi bảo: Ngươi hãy chui vào tay áo ta. Quỷ nghe lời, Sư có cảm giác nặng, bèn đem vào rừng mà thả, quỷ biến thành người trời ân cần tạ ân Sư rồi bay trên không đi mất. Năm Kiến Viêm thứ hai, Sư dời về Thượng Trúc. Trước đó có người lên đồng nói tiếng trẻ con. Có người đem việc trụ trì ở thượng Trúc ra hỏi, trẻ bảo: Đợi hỏi Thổ địa. Giây lâu mới nói: "Sáng nay, Thiên Phù đã xuống thỉnh Tĩnh Pháp sư vậy. " Được một tháng thì Sư đến. Tháng mười một năm Kiến Viêm thứ ba, giặc Kim phá đất Hàng. Sư cảm mộng dự biết trước là núi này không khỏi được ách vận, bèn bảo đồ chúng hãy lánh đi. Khi giặc đến, có người bảo nên lấy lễ mà tiếp, liền đánh chuông tập chúng, giặc nghi là địch chống cự, bèn xua binh cướp phá đốt tan nhà cửa rồi kéo đi.

Lời thuật rằng: Đức của Tĩnh Sư có thể giải thoát việc quỷ đòi mạng, có thể độ quỷ trong thất hoang, có thể cảm được bùa ở Thượng Trúc nhưng không thể tránh được giặc cướp Ngột Truật, ngăn việc đốt phá Thượng Trúc. Bởi phải chịu nghiệp đồng phận với quần sinh mà bị nạn binh đao lửa cháy, không thể may mắn thoát được vậy!

5. Pháp sư Ứng Như

Sư họ Hồ, người ở Phổ Giang Vụ Chi. Sư nhớ dai học rộng, rất giỏi Luận Bộ, đến học với ngài Thượng Trúc Từ Biện được ngài quý mến. Sư có lần đến Linh sơn hỏi bạn đồng chí, người này đưa nghĩa của Lục Tổ Tuệ Năng thì Sư biện luận phản bác và nghĩa người ấy bị thua. Sư liền treo gậy buộc bông, bảo rằng: Ở Tây Trúc khi phá được địch thì dựng cây phướn chiến thắng, đạo tràng hàng phục được ma thì cũng biểu tượng cái tướng thắng, nay pháp chiến đã thắng thì cũng treo một cây gậy. Người nể sợ bèn gọi là Hổ Tử. Khi xưa ngài Từ Biện được ý chỉ Thông Tướng Tam Quán của ngài Nam Bình, bèn giữ kín không truyền cho ai, Ngọc Tuệ biết nên hết sức cấu thỉnh mà được. Nửa đêm lén nói cho Sư biết, Sư trèo thang dỡ ngói nép mình lén nghe, tuyết bay phủ đầy lưng như mặc áo giáp. Đến sáng trắng ngài Từ Biện nói rằng: Ta được Thông Tướng Tam Quán như được ngầm truyền. Sư liền chép lời nói ấy để trình chúng. Ngài Từ Biện giận bảo: Xem như trộm pháp! Năm Thiệu

Thánh thứ nhất, Sư làm chủ Viên Thông ở Việt Chi, có lần nhân buổi giảng đã tan, bảo thị giả rằng: Hôm nay gió Đông thổi giáo pháp qua sông Triết đi về Tây, khiến trong mắt có tai nhờ đó mà nghe được. Sư ba mươi tuổi bèn quên Kinh, mỗi khi lên tòa thì thị giả dâng một quyển giảng để đợi. Năm Thiệu Hưng thứ ba, Sư dời về ở Thượng Trúc, sau một cơn đốt phá của giặc Ngột Truật chỉ còn sót lại Tàng thất. Có người khuyên: Muốn hóa độ người thì phải xây cất nhà. Sư bảo: "Ta chỉ truyền bá Đại Pháp mà thôi, hôm khác tự có người đến sửa chữa xây cất. " Kịp khi Sư tịch thì Phổ Giác Duy Nhật quả nhiên nối tiếp việc xây cất. Tháng chín năm Thiệu Hưng thứ năm, vua ngự giá đến đại điện, Sư đối đáp như nước chảy, vua rất vui, liền ban Lễ Vạn Tuế Hương Sơn để cúng Bồ-tát. Sư không chuộng viết sách, có lần dùng kệ dạy người rằng: Ta truyền Tông Nhất Tánh của tổ Trí Giả, Thật tướng của tam thiên là diệu, không, giả, trung, một niệm pháp giới, chúng sinh và Phật đồng thể, Phàm và Thánh nhất như, thiện và ác lý dung nhau. Thân cõi Tỳ-lô rộng lớn như hư không, người đạt ý chỉ này thì các Pháp đều Viên thông, tả đó hữu đó thọ dụng vô cùng. " Các Sơn Gia được gọi Như Hổ có ba người là Thần Chiếu Bản Như, Tứ Minh Đạo Như và Sư (Ứng Như). Một tối, Sư giả biệt Đại chúng về nằm yên mà tịch. Tháp Sư ở góc Tây bắc của chùa. Nối Pháp sư có Sùng Tiên Hoài Chí, Bạch Liên Tuệ Tiên đều có nghiệp lớn trên đời. Sư có soạn quyển Giáo Nghi tên là Chỉ Nạn Tập.

6. Pháp sư Tông Mẫn

Sư họ Lỗ, một tộc họ danh tiếng ở Đương Hồ Tứ Châu, được vua ban hiệu là Pháp Vân. Năm mười lăm tuổi Sư thọ giới Cụ túc, khắp tham học ở các Giảng tòa như Siêu Quả Chiếu Quảng Hóa Minh Nam Bình không nơi nào Sư không hầu hạ. Sau Sư vào thất ngài Từ Biện, liền có chỗ phát minh. Ngài Từ Biện cho rằng: Thủ Tọa không có tài, bèn bảo Sư cùng Kháng luận và Thủ Tọa bị thua. Năm đầu Thiệu Thánh, Sư làm chủ chùa Bồđề ở đất Hàng. Trong năm Nguyên Phù, Sư dời về ở Cô Sơn. Khu mật là Trưởng Chi Kỳ lúc đó đến hỏi Đại Chỉ Kinh Lăng-nghiêm, Sư nói nghe chỗ nhiệm mầu của Tâm yếu, nghe xong Chi Kỳ có khế hợp, bèn kính Sư làm thầy. Lâu sau Sư lui về ơ tại suối Báo Ân Lục Nhất (Báo Ân Cần Sư là bạn thơ với Âu Dương Công, Tô Đông Pha gọi suối đó là Lục Nhất). Sư ngồi tọa thiền trong ba mươi năm, đời rất quý kính đạo phong của Sư. Khi giặc Ngột Truật bao vây đất Hàng, chùa chiền bị đốt phá, Sư trở về nghỉ ở Am Dương Hồ. Mùa Đông năm

Thiệu Thánh thứ bảy, Sư viên tịch, bảo đệ tử để y bát ở Tháp Tu Báo Ân và táng ở Sơn Tiêu. Mười tám năm sau, quan Hữu Ty lấy đất ấy làm Diên Tường Quán và dời Tháp Sư đến bên hang chim ở Sơn Bắc. Đệ tử là Tuệ Tịnh đem nhục thân trà-tỳ thì thấy dung nhan Sư như còn sống. Khi củi hết lửa tắt nhặt được cả trăm hạt xá-lợi to bằng hạt đậu.

7. Tăng Thống Nghĩa Thiên

Sư họ Vương, nước Cao Ly, là con thứ tư của Văn Tông Nhân Hiếu Vương. Sư bỏ cuộc đời vinh hoa mà xuất gia được phong làm Hựu Thế Tăng Thống. Năm Nguyên Hựu thứ nhất, Sư vào Trung Quốc hỏi đạo. Sư đến Quận Tứ Minh được Minh Trí Tuệ Chiếu đón tiếp ở Quán. Nghĩa Thiên dâng biểu lên vua xin được truyền giáo Hiền Thủ. Vua sắc lệnh cho Lưỡng Nhai cử người có thể truyền pháp, mời ngài Giác Nghiêm Thành Thiền sư ở Đông Kinh ứng đối. Thành Thiền sư lại cử Tuệ Nhân Tịnh Nguyên ở Tiền Đường thay mình. Vua bèn ra lệnh Dương Kiệt đưa khách đến Tuệ Nhân thọ giáo. Các chùa nghênh đón theo lễ người tu. Lúc đầu Sư đến Kinh Sư, thiết triều xong vua ra lệnh cho Lễ Bộ Tô Thức làm bầu bạn ở Quán dịch. Sư gặp ngài Viên Chiếu Tông Bản Thiền sư chỉ bày Tông Chỉ. Sư đến Kim sơn. Sư Phật Ấn ngồi nhận Sư đảnh lễ. Dương Kiệt cả kinh hỏi, Phật Ấn đáp: Nghĩa Thiên chỉ là Tăng ở xứ lạ, nếu khuất mình theo thói tục thì chư Tăng trước hết mất đi một con mắt thì còn gì để chứng tỏ Sư và Pháp ở Hoa Hạ? Triều đình nghe được cho là biết giữ thể diện. Khi đến ngài Tuệ Nhân, Sư đem Hoa Nghiêm Sớ Sao ra học hỏi để quyết nghi, được một năm thì xong. Do đó một Tông Hoa Nghiêm, văn nghĩa đã mai một mà lại được truyền. Kịp khi Sư gặp ngài Từ Biện ở Thiên Trúc xin hỏi đạo giáo quán Thiên thai. Sau Sư đến Phật lũng lễ Tháp tổ Trí Giả và nguyện rằng: "Đã được ngài Từ Biện truyền cho Giáo Quán, khi trở về nước sẽ truyền bá rộng rãi, xin Tổ ngầm phù hộ. " Sư lại gặp ngài Đại Trí ở Linh Chi nghe nói giới pháp và xin được truyền cho các văn sách đã viết soạn. Khi trở về nước bèn lập chùa hiệu là Thiên thai, phụng thờ các giáo văn được truyền thụ của ngài Từ Biện và tạo tượng ngài tôn là Sơ Tổ. Cũng năm ấy vua Cao Ly sai sứ biết hai thứ tiếng đến hỏi và cúng sách vàng Hoa Nghiêm ba bản dịch của ngài Tuệ Nhân, xây dựng gác để cất giữ (nay tục gọi là chùa Cao Ly). Sư đọc cuốn Phi sơn Biệt Truyện Nghị, đã làm lời bạt rằng: Lớn lao thay Danh và Thật, Thiền xưa với Thiền nay cách xa! Thiền theo xưa là phải nhờ Giáo mà vào Thiền, còn Thiền nay là lìa giáo mà nói Thiền. Nếu lìa giáo thì phải chấp chặt cái danh mà sót mất cái thực. Còn mượn nhờ giáo thì nhân lời nói mà được ý chỉ, cứu được cái tệ hại kiêu mạn xảo trá của người thời nay. Lại Đạo tinh thuần của Thánh xưa thì Châu Công đã biện luận việc này rất rốt ráo. Gần đây Liêu Quốc đã ra chiếu cho Hữu Ty mời Nghĩa Học Sa-môn Thuyên Hiểu định lại Kinh và Lục. Đời bảo rằng Đàn Kinh của Lục Tổ, Bảo Lâm Truyện… đều bị đốt bỏ, và so sánh với các chương cú Thiền Tông trong nước phần nhiều đều dính dáng tới dị đoan. Do đó nhân Sư ở Cao Ly đều nghi là Hoa Hạ không có người. Nay thấy Phi sơn nghi luận cao siêu mới biết là có Bồ tát Hộ pháp, việc trụ trì ở đời mạt pháp cho trăm đời sau đâu không nhờ sức của Châu Công ư? (Giới Châu làm Biệt Truyện Nghị đã có những phát minh sâu sắc về Thiền Giáo, Sư thọ được chín mươi ba tuổi, an táng ở Phi Sơn).

Lời thuật rằng: Phưởng Sư luận về Tổ bảo rằng: Trí Cự soạn ra Bảo Lâm Truyện ngụy đặt trăm điều, như việc Đạt-ma một chiếc giày trở về Tây Trúc, việc đứng ngoài tuyết chặt cánh tay… nhiều việc so với Nam Sơn Tục Cao Tăng Truyện phần lớn không giống nhau. Đời lại cho rằng Đàn Kinh nói về Tánh, không khác Tông Thiên thai ta, nhưng lại chê ta về việc niệm Phật cầu vãng sinh Tây phương. Sư Nghĩa Thiên nói Liêu Quốc đốt bỏ hai sách đều căn cứ vào đây cả.

NỐI PHÁP NGÀI NAM BÌNH, VĂN PHÁP SƯ:

Pháp sư Trọng Mân

Sư người Tam Cù, theo học với ngài Tường Phù. Sau lại nương Nam Bình Văn Sư, Sư vì có tài hùng biện nên được người gọi là Nghĩa Hổ. Năm Chánh Hòa thứ nhất, Sư trở về quê làm chủ Phù Thạch. Người học kéo đến. Có lần Sư nói: Ở tòa ta chỉ giảng Quang Minh, Quan Âm. Ngày Sư viên tịch, Sư tập chúng, thăng đường rồi lên ngồi kiết già trên tòa Sư Tử. Chợt thấy Ngân Đài từ Phương Tây đến. Sư nói: Ta bình sinh hiểu rõ Đệ nhất nghĩa thề quyết nhận Kim Đài, nay mới được thế này. Rồi Sư nhắm mắt mà hóa. Tác phẩm của Sư là Hiến Chương Tập năm quyển, trong bài tựa có nói: Các Phật tử có những trước thuật gì đều nhờ các Công Khanh đề tựa ở trước, làm lời bạt ở sau để tăng giá trị cho tác phẩm mà lưu hành ở đời. Vả lại các hàng Công Khanh đâu biết ta là phải hay quấy, nếu phải mà không có lời tựa thì trời giết ta ư! Nếu quấy mà làm tựa thì được người khen ư?

NỐI PHÁP NGÀI SIÊU QUẢ, HIỀN PHÁP SƯ

1. Pháp sư Ngạn Luân

Sư theo học với Siêu Quả Hiền Sư mà được thành đạt. Năm Đại Quan thứ nhất, Sư làm chủ Tiên Đàm, soạn giáo nghĩa tên là Tinh Vi Tập bốn quyển, vua ban hiệu là Diệu Tuệ. Sư lại soạn Kim Cang Kinh Sớ hai quyển.

2. Pháp sư Uẩn Tề

Sư họ Chu, người Tiền Đường, hiệu là Thanh Biện. Thuở nhỏ Sư thi Kinh mà được độ, được truyền giáo quán bởi ngài Pháp Minh Hội Thiền sư. Có lần bị bệnh dịch thuốc thang mãi không hết, bèn gắng sức niệm danh hiệu Quan Âm. Một đêm mộng thấy có người đàn bà mổ ngực đổi trái tim, lấy tay xoa nắn, thì bệnh liền hết. Các sách đọc qua ngày xưa, nay đều hiểu rõ nhớ kỹ, múa bút thành văn nói ra chương tiết, ai cũng cho là chứng được biện tài. Sư làm chủ Đạo Lâm ở Tiền Đường nhưng rất quen thuộc ngài Thượng Phương và các nơi như Đông Linh ở Cô Tô, Nam Bình ở Tiền Đường, Quảng Hóa ở Cô Tô, Phù Thạch ở Tam Cù. Trong năm Chánh Hòa Sư lại trở về Thượng Phương, ở yên trong Phương trượng mà soạn: Đảnh Sơn Ký, Thích Thiên thai Giới Lưu gồm ba quyển. Năm Kiến Viêm thứ tư, vào tháng giêng, Sư tập chúng tụng kinh A-di-đà, niệm danh hiệu Phật, vừa xong thì Sư viên tịch. Tháp xá-lợi của Sư ở Thượng Phương. Môn nhân là Pháp Thanh, Cảnh Đức, Pháp Vân đều được chính truyền. Pháp Vân biên tập Phiên Dịch Danh Nghĩa bảy quyển, giúp ích rất nhiều cho người học chữ Phạm tra xét, lại cũng phụ giúp hiểu rõ các giáo nghĩa.

NỐI PHÁP NGÀI CẢNH VÂN, KỲ PHÁP SƯ: (đời thứ ba sau Phù Thạch)

Pháp sư Cư Thức

Sư người ở Kim hoa, nối pháp ngài Cảnh Vân và trụ ở Cảnh đức, có soạn bộ Viên Giác Sớ bốn quyển (quyển này gồm ba mươi bảy vị, nhưng bản kỷ thiếu mất mười bảy vị).

QUYỂN 15

PHẦN VI - LIỆT TRUYỆN CÁC SƯ (PHẦN 5)

A. Nối pháp ngài Minh Trí, Lập Pháp sư: (đời thứ tư sau Quảng Trí)

Trừng Chiếu, Giác Tiên Pháp sư. Tuệ Chiếu, Pháp Lân Pháp sư.

Viên Trừng, Trí Khiêm Pháp sư. Tứ Minh, Pháp Duy Pháp sư.

Định Tuệ, Giới Nhiên Pháp sư. Đãi Chế Triều Thuyết Chi.

Gián Nghị Trung Túc Công Trần Quyền.

B. Nối pháp ngài Thảo Đường, Nguyên Pháp sư:

Tức Am Đạo Uyên Pháp sư

C. Nối pháp ngài An Quốc, Huệ Pháp sư: (đời thứ tư sau Thần Chiếu)

Trí Dõng, Liễu Nhiên Pháp sư. Chân Giáo, Trí Tiên Pháp sư.

Bạch Liên, Phạm Chương Thủ Tọa.

D. Nối pháp ngài Bạch Liên, Khanh Pháp sư: Thiên thai, Tịnh Tiên Pháp sư

E. Nối pháp ngài Bắc Thiền, Phạm Pháp chủ:

Bắc Thiền Huệ Thâm Pháp sư. Phi Anh, Trí Thầm Pháp sư.

Đảnh Sơn, Tử Văn Pháp sư. Thông Chiếu, Tuệ Minh Pháp sư. Siêu Quả, Huệ Đạo Pháp sư.

F. Nối pháp ngài Đức Tạng, Anh Pháp sư.

Bắc Quan, Tư Tịnh Pháp sư

G. Nối pháp ngài Thọ An, Bậc Pháp sư.

Giáo Tạng, Hữu Toàn Pháp sư

H. Nối pháp ngài Xa Khê, Khanh Pháp sư (đời thứ tư sau Nam Bình)

Trúc Am, Khả Quan Pháp sư. Mục Am, Hữu Bằng Pháp sư. Tường Phù, Đạo Hân Pháp sư. I. Nối pháp ngài Tuệ Giác, Ngọc Pháp sư:

Thanh Tu, Pháp Cữu Pháp sư. Trừng Giác, Thần Hoán Pháp sư. Giả Danh, Như Trạm Pháp sư.

Mật Ấn, Tu Tuệ Pháp sư (Tuệ Giác Truyện) Tuệ Giải, Đàm Ứng Pháp sư (Xa Khê Truyện) Tuệ Chiếu, Đạo Luân Pháp sư.

Bắc Thiền, Pháp Vinh Pháp sư. Bắc Thiền, Văn

Tuấn Pháp sư. Viên Giác, Tịnh Khuê Pháp sư J. Nối pháp ngài Viên Giác Từ Pháp sư:

Pháp Chiếu, Trung Kiểu Pháp sư. Thần Tuệ, Mẫn Tề Pháp sư.

Năng Nhân, Văn Thủ Tọa. Năng Nhân, Năng Hành Nhân.

K. Nối pháp ngài Phổ Minh, Tĩnh Pháp sư:

Viên Tông, Tư Phạm Pháp sư. Phổ Viên, Thiện

Kỳ Pháp sư

L. Nối pháp ngài Thiên Trúc, Như Pháp sư.

Sùng Tiên, Hoài Chí Pháp sư. Tuyên Bí, Tuệ Tiên Pháp sư. Âm Viên, Phổ Chứng Pháp sư. Pháp Đăng, Đạo Tuân Pháp sư. Dư Diêu, Hành Trừng Pháp sư.

M. Nối pháp ngài Pháp Vân, Mẫn Pháp sư:

Khu Mật Tưởng Chi Kỳ

N. Nối pháp ngài Phật Trí, Vân Pháp sư: Pháp

Chiếu, Tịnh Thông Pháp sư

O. Nối pháp ngài Phật Chiếu, Kiên Pháp sư:

Thần Biện, Giác Ninh Pháp sư. Đẳng Từ, Tuệ

Tự Pháp sư

P. Nối pháp ngài Phạm Từ, Phổ Pháp sư:

Viên Chiếu, Phạm Quang Pháp sư. Đông Linh, Trí Khâm Pháp chủ.

Q. Nối pháp ngài Hiến Chương, Mân Pháp sư:

Dư Khánh, Đạo Tồn Pháp sư

R. Nối pháp ngài Thanh Biện, Tề Pháp sư: Cảnh Đức, Pháp Vân Pháp sư.

Thượng Phương, Pháp Thanh Pháp sư (Thanh

Biện Truyện)

****

A. NỐI PHÁP NGÀI MINH TRÍ, LẬP PHÁP SƯ

1. Pháp sư Giác Tiên

Sư họ Trần, người ở Từ Khê Tứ Minh, hiệu là Trường Chiếu. Năm bảy tuổi học kinh đọc qua một lần liền thuộc. Lúc đầu học giáo với ngài Minh Trí và được truyền thụ. Sau lại đến thỉnh ích với ngài Từ Biện Thanh Biện chỗ đạt càng sâu. Năm Tỉnh Khang thứ nhất, Sư làm chủ chùa Bảo Lâm ở Phụng Hóa. Gặp năm Phụng Hóa bị hạn hán, người trong ấp thỉnh Sư giảng Kim Quang Minh, khi vừa xong quyển thì mưa suốt ba ngày. Nhân đó khuyên người trong ấp lập Quang Minh Tràng, tụng kinh cả vạn bộ để bảo hộ cho toàn ấp. Sau Sư dời về làm chủ Diên Khánh hoằng hóa rộng lớn Giáo Tông. Lâu sau lại trở về Bảo Lâm, cất một thất đặt tên là Diệu Liên, lại tụng đủ một vạn bộ, niệm danh hiệu Phật Tịnh Độ được bốn mươi tám tạng. Sư trích các danh ngôn trong các kinh Sớ để làm tư liệu cho Quán hạnh, cho đó là tâm yếu. Năm Thiệu Hưng thứ mười sáu, ngày mười bốn tháng giêng Sư nói pháp rồi ngồi yên mà tịch. Tháp của Sư ở bên tẩm thất của Sư. Một đêm có người nghe tiếng tụng kinh, tìm dấu thì thấy từ trong tháp phát ra. Về sau ngài Nguyệt Đường ở Nam Hồ bảo Sư ở Diên

Khánh có công truyền trì lớn mà Tháp thì bị cây cỏ phủ lấp, bèn khiến dời đến Tổ Lũng. Khi đào đất lên thì thấy dây cột vẫn chưa mục, bộ xương như đồng xanh.

2. Pháp sư Pháp Lân

Sư được vua ban Pháp hiệu là Tuệ Chiếu, sớm làm cao đệ của ngài Minh Trí. Sư lâu ngày hầu bên tòa nên đạo nghiệp và từ chương chúng đều tôn phục. Khi Nghĩa Thiên từ Cao Ly đến, trước hết vào Nam Hồ thì có thầy là Minh Trí, bạn là Tuệ Chiếu, xin đến nhận giáo văn để mang về nước, Sư bèn nâng bút thành lời có phong thái cổ sử, Sư Nghĩa Thiên mừng rỡ khen mãi không thôi (văn thấy trong Danh Văn Quang Giáo Chi), Quan Quận mời Sư làm chủ Tam Học, Sư diễn giảng rất đông người nghe đứng vào hàng thứ hai ở Nam Hồ. Sư từng bảo môn nhân rằng: Ta từng khuyên người hai điều răn: Nếu trước ba mươi tuổi mà chưa niệm A-di-đà thì sau bảy mươi tuổi không được trì chú tiêu tai, nghĩa là nhỏ không biết tiến lên thì già không biết dừng lại. Người thời ấy cho là phải.

3. Pháp sư Trí Khiêm

Vua ban hiệu là Viên Trừng, theo học với ngài Minh Trí. Năm Thiệu Hưng Canh Thìn, Sư làm chủ Bảo Vân, thường nghĩ rằng Bảo Vân là của ngài Tứ Minh Truyền Đạo Sư. Từ khi ngài dời về ở Cốt Ô Thạch thì dấu tích bị ẩn mất. Bèn ra sức hỏi tìm gặp được chánh pháp, Sư soạn ra Thạch

Tháp Ký khắc lại để ở Ô Thạch Am, lại tạo tượng các Tổ Sư ở Tịch Đường cho đời sau được biết.

4. Pháp sư Giới Nhiên

Sư người đất Ngân Tứ Minh, theo học với ngài Diên Thọ ở Phước tuyền sơn. Khi ngài Minh Trí ở Nam Hồ thì Sư đến học bèn ngộ được ý chỉ Cảnh Quán. Năm Nguyên Phong thứ nhất, Sư chuyên tu nghiệp Tịnh độ ba năm, khi mãn hạn kỳ Sư gọi các bạn đồng tu là Tuệ Quan, Trọng Chương, Tông Duyệt... bảo rằng: Niệm Phật Tam-muội là yếu pháp vãng sinh vậy. " Sư bèn đốt ba ngón tay nguyện xây dựng Thập Lục Quán Đường, ở giữa bày điện Tây phương Tam Thánh, bao quanh có ao sen. Khi công việc hoàn thành Sư lại đốt thêm ba ngón tay nữa để báo ân Phật. Do đó các người Tu Quán có chỗ nương nhờ. Năm Kiến Viêm thứ tư, ngày bảy tháng giêng giặc Kim đánh vào Minh Châu, chúng ở trong chùa đều giải tán chạy lánh nạn, riêng mình Sư ở lại. Giặc đến am hét rằng: Không sợ chết hả? Sư đáp: Một đời bần đạo nguyện xây dựng quán đường này, nay đã già rồi không đành lòng bỏ đi để tìm sự sống. Giặc bảo rằng: Thôi hãy vì ta mà đến đất Bắc làm quán đường đúng theo quy tắc này, bèn ép Sư đi. Người đời sau nhớ thương Sư, lấy ngày đi làm ngày giỗ (Tương truyền là mồng năm tháng giêng, nếu căn cứ vào Bản Triều Thông Giám thì là mồng bảy) và suy tôn Sư là Định Tuệ Tôn Giả, lập tượng Sư lớn hơn và thờ ở một góc của Quán Đường (Chí Ban theo học với Phước tuyền, ngài Định Tuệ là một phái với Thảo đường, rất cao hạnh, bỏ Chí Bàn đi thì có năm đời).

5. Triều Thuyết Chi

Ông tự là Dĩ Đạo, tự hiệu là Cảnh Vu, làm quan đến chức Đãi Chế, cháu bốn đời của Văn Nguyên Công Hướng Quan coi thuyền bè ở Châu Minh. Ông thường đến hỏi đạo với ngài Minh Trí, nghe thuyết Tam Thiên Cảnh Quán liền vui mừng nguyện học thông ý chỉ. Buổi vãng niên hằng ngày thường tụng Pháp Hoa, tự đặt hiệu là Thiên Thai Giáo Tăng, hoặc gọi là Vị Thượng Lão Pháp Hoa. Sau khi ngài Minh Trí mất thì ông có soạn bài bia mà luận. Người thời ấy khen là Cao Tác (Bia thấy trong Văn Quang Giáo Chí).

6. Trần Quyền

Ông tự là Oánh Trung, người ở Nam Kiếm, tự hiệu là Liễu ông. Thuở nhỏ thi đậu Giáp Khoa (Tiến sĩ) làm quan đến chức Chánh Ngôn. Khi song thân mất ông cất lều ở bên mộ suốt ba năm, trời mưa cam lộ, có cỏ chi mọc trên mộ. Ông thường để ý đến Thiền Tông, lại có phát ngộ, khi xem Hoa Nghiêm thì hiểu rõ ý chỉ Pháp giới. Nhân ông dâng sớ luận về Tể Tướng Chương Đôn nên bị đày đến Tứ Minh. Một hôm gặp ngài Minh Trí nhân hỏi Tông Chỉ Thiên thai, ngài Minh Trí nêu Chỉ Quán Bất Tư Nghì Cảnh để chỉ bày cái nghĩa dùng Tánh đoạt tu để thành hạnh Vô tác. Công nói: "Mới biết Tông này tánh vốn hiện thành". Ông lại hỏi: Sắc thân hiện tiền phải quán sát như thế nào? Ngài Minh Trí đáp: "Pháp vốn không sinh thì nay cũng không diệt". Công nói: Người đời nói: "Chết như trở về", vì không biết "cái như trở về" nên thành kẻ mất nhà". Từ đó ông thấu hiểu sâu sắc cái Diệu của Cảnh trí, làm "Tam Thiên Hữu Môn Tụng" đem trình ngài Minh Trí và được hứa khả (Văn thấy trong Danh Văn Quang Giáo Chí). Tuổi về già ông quyết chí cầu về Tây phương, vì ngài Minh Trí mà làm bài Ký Quán Đường Tịnh Độ Viện để phát huy ý chỉ Tịch quang tịnh độ. Tông môn cho ông nói đúng (khắc đá để ở Quán Đường tại Nam Hồ). Khi ông đã bị biếm, các con ông đều mặc áo trắng nhưng chưa từng có ý bất mãn. Mùa Đông năm Tuyên Hòa thứ sáu, ông không bệnh tật, giả biệt người nhà mà qua đời. Trong năm Thiệu Hưng, truy tặng ông chức Gián Nghị Đại Phu, thụy phong là Trung Túc.

Lời thuật rằng: Việc làm Đạo của tổ Trí Giả rất rộng lớn đầy đủ, kẻ làm học trò ngài tự tin mình cao quý, chưa đủ tin ở người khác, chỉ có các Danh Nho Sĩ Phu tin mà đến học, thì Đạo của Tổ là đáng tin vậy. Thời ngài Trí Giả thì có Từ Lăng và Liễu Cố Ngôn, thời ngài Kinh Khê thì có Lương Túc và Lý Hoa; Thời ngài Từ Vân thì có Vương Văn Mục và Mã Lượng, thời ngài Minh Trí thì có Diêu Dĩ Đạo và Trần Oánh Trung. Số quân tử đó đặc biệt hiểu Đạo lại lập ngôn để khen ngợi. Đạo ngài Trí Giả do đó lại càng sáng hơn

B. NỐI PHÁP NGÀI THẢO ĐƯỜNG NGUYÊN PHÁP SƯ

1. Pháp sư Đạo Uyên

Sư người Vĩnh gia, tự hiệu là Tức Am. Từ lâu nương học ngài Phù Tông đạt sâu chánh đạo. Sư đến ở Vĩnh Minh tại Tây hồ diễn giảng có phương pháp. Thường Sư bảo ý chỉ của tu tánh ly hợp, chỉ yếu tuy có bày cái diệu của nó, nhưng người sau lại bảo là dị thuyết, nên Sư thu lại các văn và lập thành hai nghĩa:

1. Ước định tu ba, tánh ba, rồi tu tánh đối nhau luận ba thứ để làm sáng tỏ sự ly hợp.

2. Ước định tu chín tánh chín, rồi tu tánh đối nhau luận ba thứ để làm sáng tỏ sự ly hợp.

Đầu tiên là tu ba tánh ba, thì như Bất nhị môn, tánh chỉ cho ba chướng, thế nên đủ ba thứ. Tu từ tánh mà thành nên thành ba pháp ấy. Lại nói: Một niệm tâm làm nhân đã đủ cả ba phép tắc, nhân này lại tạo thành quả gọi là ba thứ Niết-bàn. Lại Kim Ty có nói: Vốn có ba thứ ba lý đầu tiên biến khắp, đạt tánh thành tu thì tu ba thứ cũng biến khắp. Đây đều là tánh ba tu ba, sáu pháp nói rõ ly hợp. Nói tu tánh đối nhau luận ba thứ, là lấy tu làm năng đối, tánh làm sở đối. Như Bất Nhị Môn có nói: Vì đối tánh nói tu nên hợp làm hai thì tu hai tánh một, ba pháp nói về hợp vậy. Nghĩa kế nói về tu chín, thì như Bất Nhị Môn nói: Thế thì tu dù đủ chín thì Pháp thân Bát-nhã giải thoát mỗi mỗi đều đủ ba. Đây mới là ở trong tu mà luận về chín pháp để nói về ly vậy. Song ba thứ trong Pháp thân tuy vốn thuộc tánh mà chỉ yếu phán định rằng: Tuy gồm tánh ba thứ đều là Sở phát nên đều thuộc về tu. Nói Tánh chín thứ, như Quang Minh Cú giải thích Trống Vàng, có đủ ba pháp là Viên

-Không-Minh, tức là một Cảnh ba Đế, lại ở trong Viên-Không-Minh mỗi thứ tự đủ ba thứ xu đại…. Bèn có chín pháp đã được thể của trống. Luận về tánh đức chưa dính dáng đến khởi tu. Đây chính là trong tánh mà tự luận chín pháp để nói về ly vậy. Tu tánh đối nhau luận về chín thứ, thì như Niết-bàn Sớ nói: Thể, tông, dụng mỗi thứ có ba nghĩa. Thể thì có lễ để đạt, Tông thì có bản yếu trợ, Dụng có bản đương tự tại. Đây là ước về tu sáu tánh ba để nói về ly vậy.... " Sư viên tịch lúc mùa nắng gắt. Quàn kim quan một tuần nhật mà nhục thân của Sư không đổi. Có sữa trắng phun lên mùi thơm như hương sen, người có thể lấy sữa thoa mặt. Khi sắp an táng, trên đường đi ngang qua một am thì dây đòn đứt không tiến lên được, mùi hương lạ xông vào am, khi đổi dây đòn thì kim quan nặng không khiêng lên được. Am chủ trước đây có một hận nhỏ với Sư, bèn hối lỗi tạ tội rằng: Trước có phạm giới nhỏ nhờ Sư răn dạy.

Bèn theo chúng cùng khiêng thì đi được. Khi an táng được ba năm bỗng có trận gió lớn làm gãy cây, phá hư tháp, đến xem thì khám đầy xá-lợi, hình như trời muốn trình bày đức của Sư.

C. NỐI PHÁP NGÀI AN QUỐC TUỆ PHÁP SƯ:

(đời thứ tư sau Thần Chiếu)

1. Pháp sư Liễu Nhiên

Sư họ Tiết, người Lâm Hải. Bà mẹ cầu đảo ở tượng đá trước chùa Sơn Binh (tức nơi ngài Chương An giảng kinh Niết-bàn) rồi mộng thấy đến điện Phật có một vị Tăng cầm cành hoa sen bảo ăn, rồi nói: Nếu ngươi sinh con thì phải cho xuất gia. Sau mười ba tháng mới sinh. Khi Sư được bốn tuổi, bà mẹ nghĩ nếu Sư xuất gia thì còn ai nối dõi Tông đường. Bà mẹ lại mộng thấy thần nhân quở trách là sao sớm quên lời dạy trước, bà liền vâng lời. Năm mười sáu tuổi Sư thọ giới Cụ túc và theo ngài An Quốc học giáo quán, bỗng tuệ giải phát sáng. Sư có lần mông thấy mình ngồi trên tảng đá lớn nổi trên biển khơi nhìn lên thấy Bồ-tát đang ngồi trên núi trong rừng tre. Sư thưa: "Bình sinh con thường trì niệm Tôn hiệu nay mới được gặp". Bèn đứng thẳng nói trăm bài kệ khen ngợi. Tỉnh dậy còn nhớ được phân nửa. Từ đó Sư nhanh chóng phát biện tài, bèn hầu ngài An Quốc dời về Bạch Liên. Chưa bao lâu Sư đến gặp ngài Minh Trí. Ngài hỏi Hoa Nghiêm Mười pháp giới, Đại Luận Ba thế gian, Pháp Hoa Mười như thị, ba chỗ văn nghĩa họp thành tam thiên. Tại sao Diệu cảnh của ngài Kinh Khê chỉ ra xuất phát từ Pháp Hoa? Sư thưa: "Hoa Nghiêm Đại Luận là pháp môn chết, còn Pháp Hoa Mười, như thị là Pháp môn sống. " Ngài Minh Trí gật đầu chấp nhận. Lúc đó Triều Thuyết Chi thường đến gặp ngài Minh Trí đã cùng Sư luận về Đạo này, đãi nhau như bạn đồng học. Đạo Như ở Tứ minh diễn giảng lời lẽ khí chất rất mạnh mẽ, lúc đó đời gọi là Như Hổ, đã vấn nạn và bị Sư khuất phục. Ngài Minh Trí bèn cử Sư làm chủ Quảng Nghiêm. Sư thưa: "Con không thể gánh vác nổi. " Cuối cùng Sư nối nghiệp ngài An Quốc. Sáu năm sau Sư dời về Bạch Liên, ở trong núi hai mươi bốn năm, người học có đến năm, sáu trăm người. Năm Thiệu Hưng Mậu Ngọ, ở Ninh hải lập đại hội thỉnh Sư nói pháp. Lúc đó có sứ giả cầm điệp đến thưa Sư rằng: "Trời Đâu-suất thỉnh Sư nói pháp. " Sư bảo: "Pháp hội ở cõi này chưa xong. " Sứ bảo: "Lệnh không thể chần chờ, xin đến đó trước", rồi xóa tên Sư mà đi. Năm Thiệu Hưng Tân Dậu, tháng năm Sư mộng thấy hai con Rồng đùa nhau trên không trung, một con hóa thành Thần, rút thơ trong tay áo thưa rằng: "Bảy ngày nữa Sư nên đi. " Sư vâng vâng thì chợt tỉnh. Bèn tập chúng nói pháp. Sư viết chữ lớn rằng: "Nhân sức niệm Phật, được về Cực Lạc, học trò của ta, nên gắng sức học. " Rồi tắm gội thay áo cùng chúng tụng kinh A-di-đà, vừa đến "Tây phương thế giới" thì Sư tịch. Năng Nhân Hành Nhân nghe có tiếng nhạc trời và ánh sáng đẹp trên không trung. Chúng bảo: Là điềm báo Sư ở Tịnh Độ, nhưng theo lời thỉnh Sư phải đến Đâusuất trước. Đến tháng tám táng Sư ở sườn núi phía Đông, vua ban hiệu là Trí Dõng. Trong Quận cầu mưa ở Ngọc Khê, nhưng chúng khổ vì đường xá hiểm trở. Sư đọc chú bảo Rồng nên dời đi. Đêm đó gió lớn mưa to. Sáng ra chỗ đầm rồng lấy nước chỉ là đất bằng. Sư có soạn bộ Tông Viên Ký năm quyển, Thích Nam Nhạc Chỉ Quán Khu Yếu hai quyển, Thích Thập Nhị Bất Môn, Hổ Khê Tập tám quyển.

2. Pháp sư Trí Tiên

Sư họ Lý, người Tiên Cư, hiệu Chân Giáo. Thuở nhỏ Sư đã chán thế tục, thường bảo: Giàu sang ở cõi thế đâu thể dìm một đời chí thanh cao của ta ư? Bèn mặc áo ca-sa đến học ở Thiên thai được đạo giáo quán với Thủ Tọa Minh Nghĩa. Sư trở về quê, nương ngài Bạch Liên Tuệ Sư, nghe giảng Chỉ Quán và có phát minh lớn. Lâu dần nối giảng kinh Pháp, bình thời Sư luôn hệ niệm cầu sinh Tịnh độ. Có người hỏi: Pháp hoa Tam-muội thì một cõi là tất cả cõi, một thân là tất cả thân, một Phật là tất cả Phật, sao không nương Chỉ Quán mà tu Pháp hoa Tam-muội, lại tạo nhân vãng sinh? Sư bảo: Ngài Kinh Khê có nói trong phẩm Phân Biệt Công Đức thì Quán thẳng cõi này bốn độ đều đầy đủ, nên thân Phật này tức là thân ba Phật, đại chúng này tức là tất cả chúng, vì chưa đoạn hết các hoặc. Còn An Lạc Hạnh là khí phần của Đồng cư tịnh độ hạnh, cho nên không lìa cái uế Đồng cư mà thấy cái sạch Đồng cư. Người hỏi nói: Đồng cư có nhiều loại hà tất phải Cực Lạc? Sư bảo: Giáo nói có nhiều là phải có túc duyên thật sâu dày. Nay phải chuyên chú là để nhiếp sinh vậy. Sư được kiết chế, thì cảm thấy có chút bệnh, bèn đến giả từ Quận Huyện, trở về chùa đóng cửa không tiếp khách. Chúng thỉnh Sư uống thuốc, Sư chuẩn bị sẵn sàng đi xa. Sư liền quay giường xây mặt về hướng Tây, thiết tượng Di-đà mời ngài Hành Nhân đến tụng kinh, vừa xong quyển thì Sư viên tịch. Lúc đó Năng Nhân nghe tiếng niệm Phật vang rền, nhạc trời inh tai.

Tháp Sư ở phía Đông bắc của viện.

3. Thủ Tọa Phạm Chương

Sư học với Huệ Pháp sư được thông suốt ý chỉ của ngài. Nhiều lần sư hầu ở bên tòa bạch liên. Sư diễn giảng nổi tiếng, học giả tôn là Tổ.

Sư khiêm tốn từ chối không nhận là mình có đạo phong hàng cao nhân xuất thế. Sư có soạn bộ Viên Giác Kinh Sớ một quyển. Người thời ấy khen là giản dị mà đúng đắn.

D. NỐI PHÁP NGÀI BẮC THIỀN, PHẠM PHÁP CHỦ:

Pháp sư Huệ Thâm

Thuở nhỏ Sư đi khắp các tòa giảng. Kịp khi gặp ngài Bắc Thiền thì rỗng ngộ đạo Quán Chỉ. Sau khi Pháp Vương qua đời Sư nối gót hành hóa. Những nơi còn sót lại sau cơn binh biến năm Kiến Viêm, Sư cố gắng lo gỗ gạch xây cất lại như cũ. Sư lãnh chúng giảng kinh chưa có một ngày vì công việc mà bỏ qua. Khi sắp xây cất đại điện, chúng khuyên Sư đến các nhà giàu sang. Sư bảo nếu mở cửa đến nhà thí chủ sao bằng đóng cửa cầu chư Thiên. Sư chí thành nên cảm được thí chủ tự đến cùng dường. Sư chính thức giảng kinh suốt hai mươi chín năm, có Tăng tên Thiện cư làm tri sự cũng như Sư đều cần, kiệm, trong sạch, cố gắng giúp đỡ khen ngợi hữu lý. Nếu có người cho tiền thì cột vào lưng hoặc đeo vào tay rồi tự mình mang về và lo mọi phí tổn, sợ hao vàng tổn phước người thí.

E. NỐI PHÁP NGÀI ĐỨC TẠNG, ANH PHÁP SƯ:

Pháp sư Tư Tịnh

Sư họ Dụ, người Tiền Đường, thọ học Pháp Hoa với Anh Sư mà ngộ được quyết chỉ. Sư lại thâm cứu về Tịnh độ quán, chuyên tâm niệm Phật, dùng Quán Kinh làm khóa tụng hằng ngày. Đầu năm Đại Quan, ở Quận Thành Bắc Quan có lập một tinh xá, biển đề Diệu Hạnh. Sư dẫn đồ chúng đi khất thực, hẹn đãi cơm cho trăm vạn Tăng. Không đầy hai mươi năm đã vượt hơn tám lần. Sư kiến lập mười Liên hoa tạng, quy chế rất xảo diệu, vì thiên hạ mà đội mão Luân Tạng. Sư vẽ tượng Phật rất khéo. Mỗi khi vận bút thì Sư vào Tịnh thất niệm Phật quán tưởng. Một hôm, vẽ hình trượng sáu thì có hào quang Phật rất lâu, chúng đều chiêm ngưỡng đảnh lễ. Bấy giờ Sư mới đốn ngộ về cái nhiệm mầu của bút pháp, thế nên người đời đều gọi là Dụ Di-đà. Có lần Sư ở Bắc Sơn Tây hồ đục đá tạc tượng Đức Di-lặc bán thân để trang hoàng. Có kẻ thức giả cho rằng một ngày nào đó Sư lấy hang sâu làm mộ phần cho mình, tất sẽ có người nối Sư tạc tiếp thành toàn thân như các tượng đá ba đời. Năm Tuyên Hòa thứ nhất, giặc cướp nổi lên từ Thanh Khê đánh vào Tiền Đường, Sư bảo kẻ cầm đầu xin lấy thân mình để chuộc mạng cho dân trong thành. Bọn cướp ra vẻ nghĩa khí bèn tập họp ở Yêu Phong. Năm Thiệu Hưng Canh Thân, mùa đông Sư ngồi nghiêm tưởng Phật suốt bảy ngày không bỏ, chợt đứng dậy thắp hương cúng Phật rồi trở về tòa ngồi kiết già mà hóa. Suốt cả tuần nhật sau trên đỉnh đầu vẫn còn ấm, mặt mày vẫn tươi hồng. Người thấy bảo vẫn y như người còn sống.

An táng Sư ở phía phải Pháp đường.

F. NỐI PHÁP NGÀI XA KHÊ PHÁP SƯ:

(đời thứ tư sau Nam Bình)

1. Pháp sư Khả Quan

Sư tự là Nghi Ông, họ Thích, người ở Hoa Đình. Năm mười sáu tuổi thọ Cụ giới và nương ngài Nam Bình Tinh Vi. Sư nghe ngài Xa Khê nổi tiếng khắp vùng Giang Triết bèn mang tráp đến học. Một hôm Sư nghe đọc câu Bát-nhã tịch liêu thì bỗng ngộ nhập như được uống một chén thuốc giáng khí. Ngọc Tuệ Giác Hữu ở Hoành Sơn bảo Sư đọc Chỉ Yếu đến chỗ: Nếu không cho rằng thật giường sắt không phải khổ biến dịch thì không dời đổi, bèn than rằng: Lời lẽ văn tự đều là tấm cám cả. Năm Kiến Viêm thứ nhất, Sư làm chủ Thánh Thọ ở Gia hòa, lại dời về Đương Hồ Đức Tạng. Sư ở tại Duyệt Thế Đường mà bổ chú Kinh Lăngnghiêm. Sư ở Tường Phù Diêm Thiểm hai năm và vì bệnh nên phải trở về Nam Lâm ở Đương Hồ, một nhà vắng vẻ khó ai chịu nổi. Sư bảo: Thông, gió, núi, trăng, tất cả đều là y bát của ta. Năm Càn Đạo thứ bảy, Thừa Tướng Ngụy Kỷ ra trấn nhậm Cô Tô, thỉnh Sư làm chủ Bắc Thiền, Sư vào ở đúng ngày mồng chín, đến chỉ tòa ngồi bảo rằng: Một tấc trong lòng như tro lạnh, ngước đầu muôn cành tuyết chưa đầy, tuổi già nên bước trên nẻo phẳng, do đâu lại đến chỗ cao này! Ngụy Công gõ nhịp không thôi. Kịp khi có được Pháp ngữ để lại, Sư tạ rằng: Cả ngày muôn quyển Đạo này, chẳng dám phụ phàng Trúc Am. Năm Thuần Hy bảy, Hoàng Tử Ngụy Vương ra cai trị Tứ Minh (húy là Khải, thụy phong Tuệ Hiến Vương là con kế của Hiếu Tông) nhờ Nguyệt Đường viết thư tiến cử thỉnh Sư làm chủ Diên Khánh, bấy giờ Sư đã tám mươi chín tuổi. Khi đang đến nơi thì nghe tin Vương qua đời. Sư ở tại Thiên Trúc nhận lời mời bảo rằng: Chỉ vua như người sống đâu dám chối từ, bèn đến ở Nam Hồ, chúng thấy hành lý sơ sài, thảy đều thán phục. Không đầy hai năm thì Sư trở về Trúc Am ở Đương Hồ. Đến ngày mười chín tháng hai năm Thuần Hy thứ chín, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ chín mươi mốt tuổi. Khi trà-tỳ thì lưỡi còn nguyên, xálợi rất nhiều. Tháp của Sư ở Quán đường tại Đức Tạng. Suốt năm năm Sư ở Đương Hồ đều ở ẩn tại Trúc Am. Nhân đó đặt tên. Cảo Đại Tuệ đang hành hóa tại Kính Sơn đến Đương Hồ thăm hỏi, cùng chuyện vãng với Sư cả ngày, bèn kính khen Sư là Rồng già ở Biển giáo. Sư thấy trong trai phòng để tượng Phật liền quở chúng rằng: Ở đây các ông đi đứng vô lễ, nói năng lung tung, chỉ đôi khi mới thắp nhang kính lễ, thì bù sao được cái tội trọn ngày khinh nhờn! Sư có soạn: Lăng-nghiêm Thuyết Đề Tập Giảng Bổ Chú gồm bốn quyển, Lan Bồn Bổ Chú hai quyển, Kim Cang Thông Luận Sự Thuyết mỗi thứ một quyển, Viên Giác Thủ Giám, Trúc Am Lục mỗi thứ một quyển, Sơn Gia nghĩa Uyển hai quyển.

2. Pháp sư Hữu Bằng

Sư người Kim Hoa, tự hiệu là Mục Am, một nhà giáo văn, đọc thuộc lòng hơn phân nửa. Lúc đầu Sư theo học với ngài Từ Viên Giác, lại đến gặp ngài Xa Khê, ngày đêm kính thỉnh nên thấu suốt được đạo ngài. Sư làm chủ Tiên Đàm giảng Chỉ Quán. Có Thiên Y Trì Sư nhân đi khất thực ngang qua (Tiếng Phạm là Phân-vệ, Hán dịch là khất thực) vào chùa ngồi nghe đến chỗ: "Phá khắp các Pháp, phá ngang chín thứ Thiền-na đều không phải là cửa Viên Đốn của hành nhân và Đạo" thì Sư Trì bỗng nhiên kính cẩn thưa rằng: "Thật là điều tôi chưa từng nghe", rồi đảnh lễ mà đi. Có người họ Tiết ở đất Hồ, vợ mất sớm không siêu thoát, trong nhà cúng dường ngàn vị Tăng tụng Kim Cang Bátnhã, thỉnh Sư diễn nói ý chỉ của kinh, thì vợ lên đồng nói rằng: "Kính tạ ân ông Sư một quyển kinh nay đã được thoát. " Ông hỏi: Ngàn Tăng cùng tụng vì sao nói là một quyển? Đáp rằng: Kinh của Bằng Pháp sư tụng thì lúc tụng không nhận được lời chỉ hiểu ý nghĩa là hơn các quyển kia. " Sau Sư dời về Năng Nhân giảng đạo ngày càng thịnh. Về già Sư làm chủ Diên Khánh. Lúc mới lên tòa thưa rằng: "Hữu Bằng tôi từ phương xa đến... " Người nghe đều vui thích. Sư ở một am nhỏ bên phương trượng gọi là Lục Kinh đường, bên trong chỉ đặt một cái ghế chung quanh không có chữ nghĩa gì cả. Các Sĩ Phu quái lạ về sự lừa dối ấy bèn dẫn nhau đến chùa muốn bắt bẻ Sư. Sư sai thị giả ra nói trước: Các Hiền giả muốn thấy vật gì, nếu lấy tư cách khách khứa thì sẽ ngồi thảo luận với nhau, nếu với tư cách thỉnh vấn thì hãy đứng lên đặt câu hỏi, nếu muốn vấn nạn thì xin cho hỏi trước ba câu. Chúng đều bảo xin làm khách. Sư bèn đối thoại, lần lượt dẫn các kinh sách mãi không thôi. Bấy giờ mới biết Lục Kinh nằm trong bụng Sư vậy. Mỗi khi lên tòa giảng thì Sư không cần xem văn. Sư bảo: Ta đã bảy phen giảng Chỉ Quán, ở trong đó mà chánh tu, chưa hề viết một chữ về Đạo. Lại nói: Nay trong Đại Bộ muốn nêu ra một vấn nạn như cả tờ giấy lớn cũng không hết được, vì phải lìa tánh văn tự mới được giải thoát cho nên các giáo uyển này tóm tắt không có nghĩa mục, chỉ riêng Thập Bất Nhị Môn Khẩu Nghĩa là một môn học mà thôi. Có kẻ hỏi: Mười cảnh mười thừa mới thành Quán Pháp, sao ngài Kinh Khê lại nói: Không đợi có Quán Cảnh mới gọi là Tu Quán? Sư đáp: Hướng về Đạo ấy nhiếp Sự thành Lý mà hiểu được. Lại hỏi: Trong Giáo Viên Đốn có lập Ấm chăng? Sư hét một tiếng lớn bảo rằng: Ấm nhập là gánh nặng, thường ở hiện tiền, sao lại hỏi lập hay chẳng lập? Một hôm Sư giảng về Điều Ngự Trượng Phu, có mấy Nho Sĩ đến dự, Sư bảo: Như ở Nho giáo luận về Trượng Phu thì như tôi trung thờ vua không tiếc mạng, kẻ dõng sĩ gặp nạn không sợ chết, lập nghiệp lớn trong thiên hạ, lưu danh sáng ở trăm đời, vừa không bị mê hoặc đắm chìm bởi thanh sắc danh lợi... thì đều gọi là trượng phu. Còn trong Đạo ta thì một Tâm ba Quán làm thuyền bè, sáu thời năm buổi làm chèo chống, hàng phục các ma, chế ngự ngoại đạo, không bị phần đoạn biến dịch hai thứ sinh tử giam cầm thì mới gọi là trượng phu. Các Nho sĩ nghe đều kính sợ mến phục. Sư điều chúng rất nghiêm nhưng giản dị. Người chung quanh muốn Sư lên giảng đường chỉnh chúng, Sư bảo: Ta sở dĩ không thường dạy chúng là có ý đấy, không thấy người ta bảo: "Sấm sét lắm thì trời mất oai" đấy ư? Năm Càn Đạo thứ tư ngày ba tháng mười hai, Sư ngồi dưới hiên Thanh Ngọc mời Hành nhân đến tụng Quán Kinh đến chỗ "Chân Pháp thân Quán" thì Sư tập họp đại chúng niệm Phật rồi để kệ lại mà hóa. An táng Sư ở tổ tháp tại Sùng Pháp. Người được truyền pháp như Hiển Am, Pháp Xương, Nguyệt Khê, Pháp Huy v. v… rất đông. Sư nhờ vào sức nhớ dai của mình mà không chứa sách vở. Từng bảo bạn đồng học là Trúc Am rằng: Cả thiên hạ làm chủ, nửa ghế ở giảng tòa, lão huynh trong nửa ghế đó. Hỏi: Còn nửa ghế kia là ai? Sư bảo: Là kẻ không cần văn tự giấy bút đó! Một hôm ở Thiên Đàm, Trúc Am đến thăm, Sư vì Thượng Giảng Sư mà đọc Đại Khoa, đọc xong Sư liền cất sách bảo rằng: Tông sư ở trên tòa nên không dám nói văn... Sư kính lễ đối với hàng Tôn túc còn khiêm nhường như thế.

F. NỐI PHÁP NGÀI TUỆ GIÁC, NGỌC PHÁP SƯ:

1. Pháp sư Pháp Cửu

Sư họ Thiệu, người ở Dư Diêu, theo học với ngài Long Tuyền. Năm mười lăm tuổi thi kinh Pháp Hoa trúng tuyển mà được độ. Lúc đầu nương ngài Trí Dõng ở Quảng nghiêm. Sau theo ngài Tuệ Giác mà đến Thiên Trúc, ngày đêm học tập cuối cùng hoàn thành. Ngài Đại Tuệ ở Kính Sơn đến hỏi về tâm yếu. Có lần bảo Sư nêu ý chỉ Cảnh Quán, Sư liền gõ nhịp khen thưởng. Có người con gái của Vương Thị Ngự chết sớm, thường lên đồng bảo thỉnh Cao Tăng tụng Pháp Hoa. Ngài Đại Tuệ bảo Sư đến nơi ấy lên tòa giảng kinh. Thị Ngự chợt có điều cảm ngộ, trong đêm con gái về báo mộng với cha rằng nhờ sức giảng kinh của Pháp sư con đã được chỗ sinh. Thị Ngự nhân đó làm bài ký về Nhất thừa Cảm Ứng. Một hôm ngài Đại Tuệ bảo Sư rằng: "Giáo Uyển ít người, ông nên gắng sức hoằng truyền để làm sáng Tổ Đạo. " Sư bèn trở về, nhân đó có người họ La ở Từ Khê đón Sư về ở Viên Trạm Am, người học khắp bốn phương tụ về cùng ngưỡng mộ Pháp của Sư. Năm Thiệu Hưng mười ba, Quan Quận mời Sư về ở Thanh Tu, suối trong đá phẳng, người và cảnh đều đẹp. Sư thường lo kẻ hậu sinh đơn lẻ mà nhiều lầm lỗi, liền mở mang Chúng Đường viết Liên Sàng Bộ Nhục giống như Quy tắc Thiền Lâm vậy, Sư đích thân làm trước khiến chúng không dám giải đãi. Sư nói pháp giảng đạo có phong cách của ngài Đại Tuệ. Có người không hiểu bảo là Sư nói Thiền ở Giáo Uyển. Bên trái chùa có ngọn núi tên Sư Tử, lập một nhà gọi là Vô Úy. Sư ở đấy hàng ngày tụng Pháp Hoa, Lăng-nghiêm. bảy Kinh suốt mười chín năm không nghỉ. Một hôm bỗng Sư cáo biệt chúng, không bệnh tật mà hóa. Tháp Sư ở phía Tây chùa. Ngài Tuyết Khê Hy Nhan có soạn bài minh cho Sư.

Môn nhân là Diệu Vân nối Sư làm chủ tòa.

2. Pháp sư Thần Hoán

Sư người An Cát Hồ Chi, sớm theo học với ngài Tuệ Giác, người thời ấy khen là hạng xuất chúng. Trong năm Thiệu Hưng, Sư làm chủ Giác Ngộ ở Tư Khê. Từ xưa, Giáo mô mà các Sư Tổ chưa lập nghĩa xong thì Sư luận giải được trăm thiên, nên đời gọi là "Hoán Trăm Chương. " Sư từng luận về ngôi vị của chư Thiên chưa đúng, bèn khảo tìm khắp giáo điển rồi soạn ra bộ Thiên Truyện, có lời tựa nói rằng: Xét trăm sách thì nên đặt tòa Công Đức Thiên ở bên trái Đức Phật. Nếu đạo tràng rộng thì nên đặt thêm Đại Biện và Tứ Thiên Vương ở bên phải Phật. Thế thì người đời sẽ biết là mười hai, mười sáu hoặc mười tám bậc đều là căn cứ theo phẩm quỷ thần mà thêm bớt càng. Nay muốn định tôn ty thì cũng rất khó. Như mẹ con quỷ La Sát đâu thể ngang hàng với hàng Đại

Phạm. Người nữ tên Công Đức, người nam tên Tán Chi, nay lại đặt Công Đức ở trên, Phạm Thích ở kế đó rồi Tán Chi và mẹ con quỷ ở sau, đâu không mất thứ tự. Nhân xem và bàn Đại Tạng mà làm ra bộ Chư Thiên Truyện. Tùy ngôi vị mà giải thích. Bởi trời có chủ khách, có nam nữ, có Bản Tích, có sáng tối. Đại Phạm là chủ ba cõi. Đế Thích là chủ Đao-lợi, Tứ Vương là chủ tám Bộ. Như Công Đức Đại Biện thì chỉ là khách ở nhờ mà thôi, Công Đức ở nhờ Bắc Thiên, Đại Biện ở nhờ Sơn Trạch. Trước không có chủ thống lãnh nên nay gọi là chủ khách. Còn Công Đức Đại Biện, Thần Cây, Thần Đất, mẹ quỷ đều là nữ chất, còn các thần khác đều là nam thân. Đó gọi là nam nữ. Kim Cang mật tích và năm trăm đồ đảng đều là Bản của Đại Bồ-tát hóa hiện ra tích Thần tượng, đó gọi là Bản Tích. Đại biện thì tuyên dương chánh pháp cho Phật, tuy là ngôi vị ngầm gởi thân làm phụ nữ nhưng ngôn hạnh thì rất sáng tỏ, hoặc chỉ làm ảnh hưởng mà không có việc hiển bày. Lại có Thống Vương quyền hiện tướng Trượng Phu nhưng ngôn hạnh thì ẩn kín. Đó gọi là hiện ẩn. Biết rõ bốn đầu mối này thì có thể nói về trời. Ngài Trúc Am đọc thấy bảo rằng: "Tóm tắt chỉ mấy trăm chữ mà bao quát cả đầu đuôi" (Thiên Truyện chưa thấy được bản gốc. Chí Bàn từng soạn Chư Thiên Lễ Tán Văn, chính là dùng lập thuyết của Hoán Sư. Thấy rõ trong Pháp Môn Quang Hiển Chí). Sư có soạn Bộ Viên Giác Sớ hai quyển, An Lạc Ký một quyển.

3. Pháp sư Như Trạm

Sư họ Tiêu ở Vĩnh gia. Bà mẹ mộng thấy bảo tháp mà sinh ra Sư. Lúc tuổi nhỏ Sư thi kinh mà được độ. Trước hết Sư đến gặp Đông Linh Khâm Sư và Phổ Từ Huy Sư. Chỗ học chưa thành tựu, Sư bèn cùng với Dương Tiêm Uyên, Không Tướng Dung đi Xa Khê đến nương Khanh Sư. Nhưng lúc ấy người học quá đông không chỗ ở, chỉ có một nhà nhỏ như cái đấu không cho là chật. Trời nóng dữ, cùng bốn bạn để cái vò lớn cho lấp dòng chảy rồi ngồi dựa lưng quanh vò cho dễ chịu như thế suốt mấy năm, chúng gọi đùa là "Ngũ Ôn Đường. " Sau Sư tham học với ngài Tuệ Giác ở Hoành Sơn, ngày đêm chú tâm mà thấu đạt hết cái diệu của Giáo Quán. Lúc đầu Sư làm chủ Thánh thọ ở Xa khê, ngoài khóa giảng còn tụng Pháp Hoa một bộ, niệm danh hiệu Phật hai vạn tiếng. Có người xin làm tri sự, vì không phải pháp khí nên Sư không cho làm, người này thù hận, đêm đến mang dao nhọn vào thất Sư thì thấy quan khách đầy nhà. Đêm sau lại vào thì tối tăm quên đường. Lại một tối khác lẻn được vào thất thì thấy có mười mấy người đều giống hệt Sư, người ấy vừa xấu hổ thẹn thùng lẻn mất. Bình thời Sư ít ngủ, tháng hạ nằm trong bụi cỏ, miệng tụng Pháp Hoa, mình cởi trần để thí cho muỗi cắn. Môn nhân thưa: Sư tuổi đã cao nên bỏ khổ hạnh. Sư bảo: Loài huyên phi sao được Diệu Thừa, nhờ việc hút máu mà nghe kinh ta đọc để lấy đó làm duyên. Người đời sau xây đài nuôi muỗi để làm dấu chỗ này. Khi tuổi già Sư dẹp bỏ mọi việc chỉ ở yên trong một am nhỏ ngày ngày huân tu tịnh nghiệp. Tháng bảy năm Thiệu Hưng Canh Dần, Sư ngồi nghiêm niệm Phật, kiết ấn mà hóa. Khi trà-tỳ được xá-lợi năm màu. Sư có soạn: Tịnh Nghiệp Ký, Thích Quán Kinh Sớ, Hộ Quốc Ký, Thích Quang Minh Sớ. Lại thuật: Kim Cang Hội Giải Giả Danh Tập. Năm Kiến Sơ thứ nhất, Sư thuật Thanh văn Hội Dị, ở phần cuối có đề rằng: Giặc Hung Nô bỏ đất Hàng vào Tú Châu, gây binh lửa dọc sông Tiền Đường, giặc cướp nổi lên như ong vỡ tổ, mạng sống luôn bị đe dọa, nhờ sách này ghi việc lúc ấy, người ta cho giống việc ngài Chương An trong lúc giặc cướp tung hoành đã soạn ra Niết-bàn Huyền Nghĩa. Việc này giống nhau.

Lời thuật rằng: Ký của gài Pháp Trí là Quán Kinh và Quang Minh. Đương thời các đồ chúng thân thích, các nhóm đồng Tông như Sư Cô Sơn Tịnh Giác đã trau lời luận chống, rốt lại đều không thắng nổi. Đó gọi là bỏ dương giúp âm. Còn như đến Sư Giả Danh là bậc Thiên tài cao, hạnh nghiệp tốt là cháu bốn đời của Tứ Minh, ngay sau khi Giáo Quán được hưng thạnh không lo khen ngợi Đạo sáng và công lao các Tổ mà lại theo phe kẻ múa bút, viết sai sự sửa văn nhẫn đến làm ký Tịnh Nghiệp Hộ Quốc, múa gậy ban ngày, phản Tông phá Tổ tự rơi vào nhóm sơn ngoại. Thật đáng buồn thay!

G. NỐI PHÁP NGÀI VIÊN GIÁC TỪ PHÁP SƯ:

1. Pháp sư Trung Kiểu

Sư họ Trương, người ở Từ Khê thuộc Tứ Minh, vua ban hiệu là Pháp Chiếu. Bà mẹ thấy mặt trăng rơi vào bụng mà sinh ra Sư. Sư theo học với ngài Vĩnh Minh. Lúc đầu nương ngài Minh Trí ở Nam Hồ. Chưa bao lâu lại đến gặp ngài Viên Giác ở Thiên Trúc, lâu ngày Sư nhận được pháp yếu. Năm Tĩnh Khang thứ nhất, ở Năng Nhân không người giảng kinh, quận thái thú là Lưu Quang nhờ ngài Trí Dõng cử người mình biết nên Sư được mời ở.

Sư lên tiếng diễn giảng thì học đồ bốn phương tập họp, vì cơm cháo không có người cung cấp nên khai khẩn hai mươi khoảnh ruộng muối nên cơm gạo dư dả. Năm Thiệu Hưng Ất Mão, mùa hạ bị hạn hán, vì rồng ao đã thọ giới ngài Trí Giả nên Quận Thú sai các quan thuộc hạ thuyết phục Sư đến ao truyền giới pháp thì ngay trong ngày mưa lớn ào xuống. Khi tuổi già Sư lui về ở ẩn trong am kín. Năm Thiệu Hưng Ất Sửu, Sư tắm gội thay áo mới viết kệ, giả biệt chúng rồi ngồi nghiêm quay mặt về hướng Tây mà hóa

2. Hành Nhân Năng Sư

Sư người Gia hòa, thuở nhỏ theo học với ngài Năng Nhân, vào Sám thất suốt bốn mươi năm, sáu thời hành đạo dầu bệnh vẫn không bỏ, chỉ nhịn ăn mấy hôm thì bị bệnh tự lành. Do đó tên Hành Nhân được nổi tiếng ở vùng Triết giang. Khi tuổi đã già Sư vẫn đọc văn như hồi mới học. Sư Thảo Am đùa bảo: Chưa quên nôm ư? Sư hỏi: Nôm là gì mà quên? Sư Thảo Am cả thẹn. Có lần Sư phơi áo ngoài nắng bất giác than rằng: Kẻ khảng khái trượng phu mà giống như bọn tôi tớ ư? Do đó mà cho hết các thứ dư thừa, chỉ giữ một áo bông xấu. Mùa Hạ thì ăn ít lại, ngày hè thường vào rừng thí máu cho đám muỗi mòng. Một hôm Sư gặp hai con hổ, bèn tiến thẳng đến nộp mạng nhưng hổ cúi đầu bỏ đi. Thần núi linh hiển cúng Sư một nơi ở, thường giao tiếp với Sư. Việc ăn uống có thiếu hụt, tri sự đến thưa thì Sư cố sức ngăn lại. Sáng hôm sau thí chủ tự đến đều bảo rằng: "Tối qua có Hành Nhân đến tận cửa báo tin", mới biết Sơn thần đã thay Sư đến Viên Giác theo lệnh ngài Năng Nhân, Sư cùng Văn thủ tọa đốt ngón tay để thỉnh. Kịp khi ngài đến thì ngày đêm thỉnh ích và được đại ngộ.

H. NỐI PHÁP NGÀI PHỔ MINH, TĨNH PHÁP SƯ:

Pháp sư Tư Phạm

Sư họ Trạm, người ở Lâm Bình, Hàng Chi được vua ban hiệu Viên Thông. Sư nương ngài Tịnh Xá Phổ Minh học giáo quán và thông suốt hết ý chỉ, lâu dần Sư được lên làm thủ tòa. Ngài Phổ Minh dời sang Giác Ngộ thì Sư cùng theo hầu. Khi dời về Thượng Trúc, ngài bảo Sư rằng: Tòa giảng ở Giác Ngộ không thể thay ông được. Sư bèn ở đấy hành đạo suốt mười năm hoằng pháp nổi tiếng. Sau Sư lui về ở Vân Am tại Tây Sơn đóng cửa viết sách. Sư từng thấy Kinh Sớ Ngữ Lục mà thảo luận xác định ý chỉ của Thiền và Giáo, gọi là Hội Tông. Quan thị Lang Triều Công Võ đọc qua một lần rất hợp ý bèn viết tựa rằng: Ta nghe Thế Phụ Cảnh Vu Tiên Sinh có nói (Triều Thuyết Chi hiệu là Cảnh Vu): Hai bờ Đông Tây sông Triết có cái học Thiên thai, nếu thông về thuyết ấy thì không có bệnh giáo Thiền, có thể làm tai mắt cho hàng Nhân Thiên, con nên biết thế. " Từ khi ta nghe lời này đã ba năm rồi. Nay thấy điều nói trong hội tông thì rất hợp với lời nói của Thế Phụ Cảnh Vu. Bình sinh Sư giữ giới Pháp rất nghiêm, thường mộng thấy được giao tiếp với các bậc Thánh hiền. Phàm các việc cầu phước, cầu tai ương, đuổi ma quỷ Sư chỉ cần một lần nói giới liền có linh cảm. Tháng năm năm Càn Đạo thứ tư, có một người coi sao bảo Sư rằng: Ta thấy Sư chết vào tháng sáu. Sư cười bảo: Tạo vật làm sao chế ngự được ta, ông bảo tháng sáu, ta nói tháng tám đấy! Đến kỳ hạn Sư tắm gội thay áo ngồi kiết già trong khám, mời chúng đến tụng kinh niệm Phật, rồi nhắm mắt mà hóa. Tháp Sư ở tại thất bên Phương trượng.

I. NỐI PHÁP NGÀI PHẠM TỪ, PHỔ PHÁP SƯ

1. Pháp sư Phạm Quang

Sư họ Dương, người ở Ngân Chi Tứ Minh, vua ban hiệu là Viên Chiếu. Bà mẹ mộng thấy một vị Tăng lạ vào nhà, mười hai tháng sau bèn sinh ra Sư, mùi hương lạ đầy nhà. Năm mười sáu tuổi Sư thọ giới Cụ túc, trước hết đến học Luật với ngài Thông Chiêu ở Hồ Tâm. Lại theo tập giáo với ngài Thần Trí ở Nam Hồ, rồi một mạch đi du phương, quanh quẩn ở vùng Tây Triết, bèn đi Bạch Ngưu để gặp ngài Hải Tuệ Phổ Sư, nghe ngài giảng Pháp Hoa đến phẩm Thọ Lượng, rộng nói về ba Thân, vừa dứt lời thì Sư đại ngộ. Khi sắp trở về quê, ngài Hải Tuệ vỗ lưng Sư bảo: "Ông ắt sẽ chấn hưng giảng tòa của ngài Pháp Trí. " Khi trở về thì Quận Thú Vương Tư Thâm mời Sư làm chủ Quảng Thọ. Năm Chánh Hòa thứ tư, mùa Xuân, thái thú Lữ Tông mời Sư đến Nam Hồ. Lúc đó chúng ở Quảng Thọ xin theo có đến một trăm hai mươi người, từ đó chúng Nam Hồ lên đến năm trăm vị, đời ngài Pháp Trí chưa khi nào được thịnh như thế. Năm

Tuyên Hòa thứ tư có hạn hán lớn, Quận Thú thỉnh Sư giảng kinh Vân Vũ. Sư y pháp lập đàn Tăng tục đều tụ hội, vừa mở quyển kinh ra thì mây đen kéo đến, giảng xong thì mưa ào xuống. Đầu năm Tỉnh Khang, nước Cao Ly cống sứ, Cảnh Lai đến yết kiến Sư thưa rằng: "Quốc Vương tôi hỏi thăm Pháp sư, rất kính ngưỡng đạo đức của ngài nhưng không có dịp chiêm lễ nay kính cẩn sai sứ hiến dâng pháp y và hai trăm quyển Hoa Nghiêm Sớ Luận do Hiểu Pháp sư ở bản quốc soạn ra. " Năm Kiến Viên thứ ba vì tuổi già Sư cáo từ ra đi, về ngự ở Phước Thánh tại Phụng Hóa. Ở Nam Hồ từ lúc loạn ly binh biến nhiều năm chưa phục hồi. Quận Thú là Cửu Dũ bảo rằng: Ngoài Sư ra không ai chấn hưng nổi, bèn đến đón Sư trở về, các quan liêu đều tụ tập đến nghe Sư diễn giảng. Cừu Công đến giảng tòa khen rằng: Lời tinh vi làm phát sáng mọi ẩn lấp, đời ta sao may mắn thế này! Năm Thiệu Hưng thứ mười hai, Sư cử môn nhân là Đạo Sâm lên thay mình, rồi lui về ở Trạch Dương, cùng Tào Sứ Lục Trí Lâm qua lại kết bạn tục mùa Xuân năm sau Sư giả từ Lục Quân rằng: "Già bệnh đã lâu nay sắp đem hậu sự gởi nhờ Diên Khánh. " Sư bèn đi thuyền đến Hồ nam, tắm gội thay áo rồi tập chúng tụng Quán Kinh, viết di huấn phó chúc cho Ngộ Chân Nghĩa Thành, tụng An Lạc Hạnh đến chỗ thâm nhập thiền định thấy mười phương Phật thì Sư yên lặng mà hóa. Lúc đó là ngày tám tháng hai năm Thiệu Hưng thứ mười ba, thọ tám mươi tuổi, an táng Sư ở Tổ Tháp Sùng Pháp. Sư thiên tư chất phác trong sạch đãi người sang hèn đều một lễ như nhau. Có người hỏi, Sư đáp: Đạo pháp ta lấy Bình Đẳng làm tâm, thường bất khinh làm hạnh" Có người họ Đãi bị ma quấy nhiễu thỉnh Sư đến tụng chú, vừa đến cửa thì ma biến mất. Khi Sư còn ở Phước Thánh, kẻ đạo tục đến xin thọ thêm giới pháp, có con của người họ Ổ lên đồng nói rằng: "Ta là tổ tiên của các ông, đã ở lâu trong chốn u minh, nghe ở nhân gian có Quang Pháp sư thí giới cho chúng, ngày hôm nay trong cõi u minh có nhiều loại được giải thoát, nên ta được tạm về"

2. Pháp Chủ Trí Khâm

Sư người Thường Thục tại Cô Tô, biệt tài siêu tuyệt, người đương thời đều kính trọng. Sư làm chủ ở Đông Linh, tụ họp đồ chúng đến năm trăm người, hành theo Đạo ngài Phạm Từ không chút sai khác. Kính cẩn siêng năng giảng kinh Sám lễ chưa từng một ngày lười nhác. Người thời ấy tôn xưng là Pháp Chủ để ví với ngài Bắc Thiền Phạm.

J. NỐI PHÁP NGÀI THANH BIỆN TỀ PHÁP SƯ:

Pháp sư Pháp Vân

Sư theo theo học với ngài Cảnh Đức ở Cô Tô, vua ban hiệu là Phổ Nhuận, học giáo quán với ngài Thanh Biện mà được ý chỉ. Năm Thiệu Hưng thứ mười ba, Sư soạn Phiên Dịch Danh Nghĩa bảy quyển để giải thích tiếng Phạm trong Tạng Điển, lần lược viện dẫn các sớ ký có luận giảng kỹ rất giúp ích cho người học, Hàm Trạch Sơn khen công trình của Sư có làm bài tán hóa khắc vào gỗ.

QUYỂN 16

PHẦN VI - LIỆT TRUYỆN CÁC SƯ (PHẦN 6)

A. Nối pháp ngài Tức Am Uyên Pháp sư (đời thứ năm sau Quảng Trí).

Tịnh Xã, Xứ Liêm Pháp sư. Viên Biên, Đạo Sâm Pháp sư.

B. Nối pháp ngài Trí Dõng, Nhiên Pháp sư (đời thứ năm sau Thần Chiếu).

Giác Vân, Trí Liên Pháp sư. Trạch Sơn, Dữ Hàm Pháp sư.

Xích thành, Trung Ích Pháp sư. Bạch Liên, Trí Viên Pháp sư.

Sơn Đường, Nguyên Tánh Pháp sư. Bạch Liên, Diệu Lân Pháp sư.

Bạch Liên, Thanh Ngộ Pháp sư. Bạch Liên, Tử Mâu Pháp sư.

Hư Đường, Bản Không Pháp sư.

C. Nối pháp ngài Chân Giáo, Tiên Pháp sư:

Chứng Ngộ, Viên Trí Pháp sư.

D. Nối pháp ngài Siêu Quả, Đạo Pháp sư.

Đức Tạng, Tòng Tiến Pháp sư.

E. Nối pháp ngài Thông Chiếu, Minh Pháp sư.

Báo Từ, Uẩn Nghiêu Pháp sư.

F. Nối pháp ngài Trúc Am, Quán Pháp sư

(đời thứ năm sau Nam Bình).

Bắc Phong, Tông Ấn Pháp sư. Trí Hành, Thủ Mân Pháp sư.

Thần Biện, Thanh Nhất Pháp sư.

G. Nối pháp ngài Mục Am, Bằng Pháp sư.

Hiển Am, Pháp Xương Pháp sư.

Nguyệt Khê, Pháp Huy Pháp sư. Ẩn Học, Thái Nhiên Pháp sư.

Phù Thạch, Tử Tuệ Pháp sư. Vĩnh Phước, Trí Hưởng Pháp sư.

Thiên Vương, Đạo Dụng Pháp sư. Năng Nhân, Hoài Bảo Pháp sư.

H. Nối pháp ngài Tường Phù, Hân Pháp sư.

Ngộ Không, Thiện Vinh Pháp sư.

I. Nối pháp ngài Thanh Tu, Cửu Pháp sư.

Từ Thất, Diệu Vân Pháp sư. Tuyết Khê, Hy Nhan Pháp sư.

J. Nối pháp ngài Trừng Giác, Hoán Pháp sư.

Giác Am, Giản Ngôn Pháp sư.

K. Nối pháp ngài Giả Danh, Trạm Pháp sư.

Xà Khê, Trí Khâm Pháp sư.

L. Nối pháp ngài Pháp Chiếu, Kiểu Pháp sư.

Tắc Am, Minh Triết Pháp sư. Năng Nhân, Đạo Sơn Pháp sư.

Lễ Tuyền, Hành Hoàn Pháp sư. Bố Kim, Giác Tiên Pháp sư.

M. Nối pháp ngài Viên Chiếu, Quang Pháp sư.

Siêu Quả, Tông Triệu Pháp sư.

N. Nối pháp ngài Đông Linh, Khâm Pháp Chủ

Dương Tiêm, Lợi Uyên Pháp sư.

****

A. NỐI PHÁP NGÀI TỨC AM, UYÊN PHÁP SƯ:

(đời thứ năm sau Quảng Trí).

Pháp sư Đạo Sâm

Sư họ Bành, người ở Lạc Thanh Ôn Chi, vua ban hiệu là Viên Biện. Bà mẹ thấy luồng khí tím quấn cuộn vào thân mà sinh ra Sư. Năm mười tám tuổi Sư thọ Cụ giới, lúc đầu học Luật Nghi. Chưa bao lâu sư theo ngài Tức Am ở Pháp minh, lời lẽ tinh vi ý chỉ diệu mầu một lần nghe qua liền được lãnh hội. Sau Sư đến Nam Hồ nương ngài Viên Chiếu. Khi trở về quê, Sư ra làm chủ Quảng Tế. Được mười hai năm Sư dời về Quảng Từ. Năm Kiến Viêm thứ ba, vua xa giá đến Vĩnh gia ra chiếu đem chỗ ở cũ Lâm Linh Tố làm Tư Phước Viện. Thừa Tướng Lữ Cơ Hạo mời Sư đến ở. Sư từng lấy Tăng-già-lê đem đổi gạo ở chợ, đêm đến thấy y sáng rực rỡ, sáng ra người ta đem y lên chùa trả lại. Bị khổ vì thiếu nước, Sư chỉ thợ đục đá đào giếng thì nhặt được miếng gạch cổ có đề chữ Thiên Khang (là niên hiệu của vua Trần Văn Đế thời Nam Triều), từ dưới suối bỗng phun lên. Dân hai bên bờ sông Lạc Thanh mỗi khi bị nạn đất lở sụp cho là quỷ thần làm ra. Các quan chức thỉnh Sư truyền giới cho là thần quỷ lên đồng nói lời cảm tạ. Môn nhân là Thanh Thuận mộng thấy đến gặp các Tổ ở Diên Khánh. Thị Giả cầm tấm bản đồ ghi vị trí đứng bên, thì thấy ở ghế thứ tám thiếu người. Thuận chỉ vào hỏi, đáp rằng: Thầy của ông sẽ ngồi vào chỗ ấy. Sau đó Sư đến ở Nam Hồ, quả nhiên Sư ở đời thứ tám Sư thường chuyên tu niệm Phật Tam-muội. Bỗng Sư có cảm ngộ bảo rằng: Duy tâm Tịnh Độ chỉ một mà thôi vậy. Thật ra là do Diđà ngộ Bảo Sát của tâm ta, tâm ta đầy đủ Lạc Bang của Di-đà. Tuy xa mà gần không vượt qua một niệm, tuy gần mà xa hơn mười vạn ức. Ví như trời xanh trăng sáng, bóng chiếu vào muôn mặt nước. Nước không cần lên mà trăng cũng không phải xuống. Nước và trăng cùng một cõi tự nhiên chiếu sáng lẫn nhau. Một hôm trong khi nhập Định, Sư thấy có một vị lão Tăng đang ngồi thiền trên giường, quay lại bảo Sư rằng: Ta là Tứ Minh đây. Sư kinh ngạc mừng rỡ đảnh lễ hỏi rằng: Cùng Đạo Sâm ở một nhà, mà tập khí pháp tướng con chưa thông suốt xin ngài thùy từ chỉ giáo. Tôn giả gật đầu chấp thuận và Sư cảm thấy Tâm địa rỗng suốt. Từ đó Giáo Quán của Sơn Gia nói ra đều coi Sư là chính. Năm Thiệu Hưng mười hai, ngài Viên Chiếu cáo già cử Sư lên thay thế. Chùa chiền còn sót lại sau cơn binh lửa giặc cướp đốt phá tan hoang, sư thành tâm nên cảm được các Thí chủ tự đến. Năm tháng dần qua nhà cửa đều đầy đủ. Nhân Sư tu Pháp Hoa Tam-muội cảm được Đức Phổ Hiền phóng quang nên tuệ biện của Sư càng tăng nhiều. Quận gặp hạn hán lớn thỉnh Sư cầu mưa, nhân quận cai trị hà khắc nên Sư nói mạnh lời Quận Thú tỉnh ngộ, do đó thả tù mấy trăm người. Đúng chiều ấy thì mưa to. Những kẻ bệnh lâu ngày được Sư nói pháp thí thực phần đông đều lành bệnh. Dục Vương Kham Thiền sư có bệnh, Sư đến hỏi thăm, trở về bảo chúng rằng: "Lời nói quá sự thực rốt cuộc không được chi!" Bèn vào ngày mười ba tháng hai Sư kiến lập Hội Tịnh Độ niệm Phật, người trong hội có cả vạn người. Sư kết bạn đạo cùng Tuyết Đâu Đại Viên Thiền sư, có lần thỉnh Sư nói nghĩa Lục Tức, nghe rồi than rằng: Sư nói như thế mà đã được ngộ chăng? Sư đáp: Nếu chưa ngộ sao dám nói với lão Sư! Một hôm Sư nói sáu nghĩa La-hán, người học thỉnh Sư nói, Sư bác rằng: Pháp Tướng Tiểu thừa nói có ích gì, sao bằng nói nghĩa Kinh Vương. Rồi Sư nói suốt cả ba ngày không lời trùng lắp. Ngày mười sáu tháng mười hai năm Thiệu Hưng hai mươi ba, Sư tập chúng tụng Quán Kinh ngày đêm không dứt. Chúng nghe có mùi hương lạ đầy nhà. Sư bảo: "Phật đến đón ta. " Rồi tắm gội thay áo, viết kệ rằng:

"Duy Tâm Tịnh Độ vốn không mê ngộ, một niệm không sinh, liền nhập Sơ trụ. "

Sư lại bảo tụng An Lạc Hạnh, chưa xong thì Sư ngồi yên lặng mà tịch. Lưu Khám lại cả tháng mà nhan sắc Sư vẫn như còn sống. Táng toàn thân Sư ở bên Tổ Tháp Sùng Pháp.

B. NỐI PHÁP NGÀI TRÍ DÕNG, NHIÊN PHÁP SƯ:

(đời thứ năm sau Thần Chiếu).

1. Pháp sư Trí Liên

Sư tự là Văn Tú, vua ban hiệu là Giác Vân. Sư họ Đỗ, người ở Ngân Ấp Tứ Minh, theo học với ngài Sùng Thọ ở Thê Tâm, năm mười tám tuổi Sư thọ giới Cụ túc. Sư dung mạo cổ xưa, có dáng cao gầy như hạc nội tòng cao. Ngài Minh Trí trông thấy bảo rằng đây là Phụng Sồ trong Tăng. Lúc đầu Sư theo học với ngài Viên Chiếu ở Nam Hồ, tuổi về già Sư nương ngài Trí Dõng ở Bạch Liên mà được đốn ngộ Viên Chỉ. Kịp khi trở về quê thì Sư thay giảng ở Diên Khánh. Sau năm Kiến Viêm Sư đã qua ở năm cảnh chùa đều còn sót lại sau cơn binh lửa. Sư có tài hóa ngói đá thành vàng ngọc theo tay hiện ra. Lúc đó Viên Biên đã trùng hưng Diên khánh nhưng chưa xong thì đã qua đời. Sư vừa đến thăm hỏi ngài Hoằng Trí và cùng lên Thiên Phật Các. Hoằng Trí bảo: Nghe Tổ Tứ Minh nói không trung có hình tướng phải chăng? Sư đáp: Đúng vậy. Trí đưa tay chỉ nói rằng: Thái Hư vốn không một vật. Sư chỉ núi sông lầu các nói: Hình ảnh các thứ này là những vật gì? Trí rất phục lời nói ấy khen rằng: Trấn nhậm Nam Hồ không phải người này thì ai đây? Liền tiến cử lên Quận để lãnh việc. Suốt mười năm Sư diễn giảng không để phí một ngày nhưng các nhà cửa đều hoàn thành. Thái Sư Sử Chân Ẩn sống ẩn dật tuổi già ở quê nhà, thường đến hỏi pháp yếu, Chân Ẩn bảo: Sư cũng thông suốt cả Thiền Luật ư? Sư đáp: Băng tan tuyết chảy cũng đều là nước mà thôi. Lại hỏi: Hoa Nghiêm, Bát-nhã giống nhau ở chỗ rất chi ly? Sư đáp: Chi ly là nguyên nhân của giản dị. " Chân Ẩn rất phục. Quận Soái Thừa Tướng là Thẩm Công thuyết phục Sư nhận Tăng chức, Sư lấy cớ bệnh cáo từ, Thừa Tướng viết trát khuyên rằng: Sư có hạnh nghiệp thanh tịnh, có sức gánh vác Giáo Tông, vật cần nên ở một phương chính thức tạo lập kỷ cương cho các chùa, rất mong chớ chối từ. " Từ đó Sư giữ chí khiết bạch lãnh lệnh, người các phương đều tuân phục sự thanh chỉnh của Sư. Một hôm Sư cảm thấy có bệnh liền bảo thị giả rằng: "Tất cả không ngại người, một Đạo thoát Sinh Tử (Kệ của kinh Hoa Nghiêm). Lại vỗ tay cười lớn rằng: Ta may mắn đến thế này ư? Chuông kêu thì ta giả biệt!" Lúc đó là ngày mười tám tháng chạp năm Long Hưng thứ nhất. Trà-tỳ được nhiều xá-lợi, táng tro xương của Sư một bên Sùng Pháp Tổ Tháp. Đệ tử đắc pháp thượng thủ của Sư là Nguyệt Ba Tắc Ước.

Thái Sư Chân Ẩn Cư Sĩ khen rằng: Luôn nhìn sắc Sư, tinh thuần ôn hòa, lễ nghĩa rèn tập, đôn hậu thi ca, tuy chuyên Chỉ Quán thật là Nho gia, Hạc bay khoảng vắng, Ve lột xác trần, bèn khiến thính giả, cởi trói mở phanh, năm cảnh chùa lớn, diễn giảng nổi danh. Già ở Diên Khánh, Đạo càng tinh anh, chỉ đem Thai Giáo, nuôi dạy hậu sinh, trước có Pháp Trí sau là Giác Vân, ý mong Huyễn Ảnh cùng pháp trường sinh (trích bia đá ở Nguyệt Ba Sơn).

Luận rằng: Việc ứng tích của Thánh hiền trên đời không phải việc người thường tình biết được. Như Sư Giác Vân một đời làm sáng Giáo Tông Môn. Đến ngày mất như biết trước nơi về, ra sinh vào tử chỉ có bậc phi thường mới luận định được. Song mượn hình tướng nho gia ở hai mươi bảy tướng vị khảo trong ngoài an tĩnh mà huân nghiệp thạnh lớn, nhưng lại hay hộ trì Phật pháp tôn kính chư Tăng. Ấy bởi vì đại quyền hóa độ hiện bày việc làm của Tể Quan Thân. Như Thích-ca thời xưa hoặc làm hàng Nho Sĩ, hoặc ở vị Luân vương, Sa-di chùa Thánh làm Tề Văn Tuyên, Tăng chùa Hồi Hướng làm Đường Minh Hoàng. Gần đây thì Ngũ Tổ Giới Sư làm Tô Văn Trung, Lang Tà Sơn Tàng Tăng làm Trương Văn Định Dung. Há biết được việc thay đổi cơ vị mà không làm Phật, không làm Tổ ư? Lương Chữ gọi là vỗ tay tự cười lớn. Đã có chỗ về mà còn trở lại cõi này thì địa vị tất là hàng tột đỉnh của nhân thần. Nếu còn nghi ngờ việc này thì là chưa khéo luận như đây vậy.

2. Pháp sư Dữ Hàm

Sư tự Hư Trung, họ Chương, người ở Hoàng Nham, vua ban hiệu là Minh Tổ. Bà mẹ mộng thấy Bạch Liên Tuệ Sư đã tịch rồi, cho trái cam vàng bảo ăn thi liền tỉnh dậy mà miệng lưỡi vẫn còn thơm. Được bảy tuổi thì Sư nương Hương Tích xuất gia. Lúc đầu Sư đến gặp Trí Dõng, ngài làm lạ bảo: Tổ vị tái sinh đây! Học xong tuổi nhỏ mà được cử làm nhất tòa. Ngài Trí Dõng tịch rồi Sư chứng ngộ kế thừa, khi Sư ngộ về Thượng Trúc bèn cử Sư lên thay. Đồ chúng họp đông gặp năm đại hạn nên phân nhau khất thực ở đất Ngô. Người thí chỉ lo phận mình. Bồi Úy Vương Mãnh Công hỏi nghĩa mười sáu Quán, Sư đáp: Nước Phật ở ngoài mười vạn ức cõi mà đề phong thì không vượt quá một tấc vuông. Nếu cố noi theo Quán Đạo thì vãng sinh ở cõi ấy không xa. Tư Chánh Trịnh Công hỏi về Lăng-nghiêm Bát Hoàn. Sư đáp: "Mê tâm làm cảnh tám pháp mờ loạn. Người đạt được Đại Quán thì một niệm tự phản hồi. " Cả hai vị cùng ngộ, hằng năm thường gởi quà cúng dường. Quận Thái Thú vào núi thấy trong ao có hoa sen đỏ, bèn hỏi: Đã là Bạch Liên tại sao lại nở sen đỏ. Sư nói: Trong núi mọi người đều vui, quân hầu đến đây trấn nhậm thì dầu giống vô tình cũng phải đổi màu. Lại khi, Sư chỉ ông nên xem kinh La-hán thì ông hỏi: Đã là vô học thì sao lại xem kinh? Sư liền vỗ lưng tượng La-hán hỏi: Sao không trả lời? Sư mỏi mệt việc ứng tiếp nên trở về nơi Thọ Nghiệp. Gặp lúc Ích Sư ở Xích thành viên tịch, Quận bèn mời Sư đến ở. Vạn Niên Nhất Thiền sư đến hỏi thì thấy trên giường Sư có một cuốn sổ nhỏ, thấy ghi chép việc mua về các vật thường trụ, một tiền cũng không sai sót, bèn than rằng: Ta đối trong Đạo không xấu hổ mà việc làm không bằng Sư. Sư có lần ở chùa Pháp Luân truyền giới, đúng khi thỉnh Thánh Sư thì chúng thấy có ánh sáng lạ, khi đuốc tắt thấy có vị Phạm Tăng đang đứng trên hư không. Ngoài việc thiền tọa, Sư còn tụng Không Phẩm. Đến chỗ "Bản Tánh vắng lặng" thì Sư nhập định vài ngày; đến chỗ "Sinh tử không ngằn mé" thì Sư run rẩy mãi không thôi. Sư thể hội Đạo Pháp tha thiết như thế. Tháng năm năm Long Hưng thứ nhất, Sư cáo biệt chúng ngồi nghiêm niệm Phật mà hóa, táng Sư ở sườn núi phía đông của Chùa. Năm Càn Đạo thứ ba đem trà-tỳ hài cốt Sư thì được vô số xá-lợi lấp lánh năm màu. Sư có soạn: Bồ-tát Giới Sớ Chú ba quyển, Kim Cang Biện Hoặc một quyển, Phục Tông hai quyển, Pháp Hoa Toát Yếu một quyển, rạch ròi dễ hiểu, chiết trong các thuyết. Lấy tên mình làm gốc nên mọi người đều gọi Sư là Trạch Sơn Tẩu.

3. Pháp sư Trung Ích

Sớm thân cận với ngài Trí Dõng, Sư cảnh quán sâu, biện thuyết giỏi, mọi người nhân đó kính phục Sư. Sư làm chủ Thượng Ngu Đẳng Từ rồi dời về Xích thành. Ngoài các buổi giảng liên tục thì Sư nhập Thiền Sám, ngày đêm kế tiếp không hề gián đoạn giây lát. Sư chép Giáo Nghĩa của ngài Trí Dõng gọi là Hổ Khê Tập.

4. Pháp sư Nguyên Tánh

Tự hiệu là Sơn Đường, theo học với ngài Trí Dõng mà thông suốt ý chỉ Giáo Quán. Có hôm Sư ở Bạch Liên, giảng lần lượt đến Thiên Chủ Nghĩa, có kẻ mới đến học làm luận bài bác. Có người đem bài luận lên bạch với Sư thưa rằng: "Kẻ mới học này thấy ngược ngạo, xin Thầy đuổi đi. " Sư cười bảo rằng: Các ông chỉ có được bài luận của kẻ ấy, còn ta thì được hết, đủ để viết ra các bộ Sơn Đường Tập năm quyển và Pháp Hoa Văn Cú Khoa mười quyển!"

5. Pháp sư Tử Mâu

Sư họ Lô, ở Ninh hải, hiệu Viên Tịnh. Từ lâu theo học với ngài Trí Dõng nổi tiếng đương thời. Lúc về già, Sư làm chủ chùa Bạch liên, học trò đông như chợ. Để cung cấp cho nhiều lần thiếu thốn, định đắp đê biến biển thành ruộng đem việc về thưa mẹ, mẹ cho một sọt vàng trắng bảo rằng: "Vì chúng làm việc tất Phật sẽ chứng giám", vì mẹ lo việc không thành. Rốt cuộc thì mọi việc đều xong có được ngàn mẫu ruộng, chúng nhân đó mà nuôi sống.

6. Pháp sư Bản Không

Sư người Phụng Hóa Tứ Minh, tự hiệu là Hư Đường, cha họ Từ làm ruộng, mỗi khi có cao Tăng qua cửa thì ân cần tiếp đãi trọng hậu. Mẹ đêm mộng thấy ánh sáng lạ chiếu quanh nhà nhân đó mà thọ thai. Cho con là bậc phi thường nên cha mẹ thường ăn rau tụng Kinh. Sư luôn nghĩ việc xuất gia. Năm mười bốn tuổi Sư nương ngài Tôn Thắng Pháp Tồn cạo tóc. Lúc đầu Sư theo ngài Trí Dõng học giáo quán, đến Bạch Liên làm thủ chúng, rồi ra làm chủ Vĩnh Minh ở Minh Chi, sau dời về Trị Bình. Năm Thuần Hy thứ nhất, Hoàng Tử Ngụy Vương cai trị Tứ Minh, tôn trọng Đạo viết sớ mời Sư làm chủ Tứ giáo. Có thủ tọa Hạ Trung sắp giảng kinh Diệu Huyền thì sư ngăn lại bảo rằng: Từ khi có giảng tòa đến nay, các bậc lão thành lập pháp gọi là chức thủ tọa, ai chưa ra đời thì chỉ giảng Tiểu Bộ, nếu đã ra đời, đã giảng tiểu Bộ rồi thì mới có thể khai giảng Đại Bộ, việc khiêm tốn đó là phép cũ vậy. Nếu là Duy Na thì chỉ điểm đọc các loại Tập Tứ Giáo Nghi mà thôi. Phải theo thứ tự mà tiến không được nhảy vọt. " Sau Sư dời về ở Bạch Liên mở lớn Giáo Tông. Lâu sau Sư trở về nơi thọ nghiệp, hàng ngày lấy Vãng sinh làm chánh niệm. Năm Thiệu Hưng thứ ba, ngày ba tháng ba Sư cáo biệt chúng, đến tòa viết kệ rồi hóa. Học đồ ở Đông dịch đến rước toàn nhục thân Sư. Nhóm Tăng tục ở Phụng Hóa dâng điệp ngăn cản, bèn cắt chia râu tóc xây tháp ở Đông Sơn và an táng toàn thân sư ở Tôn Thắng. Sư khi đi không ngoảnh lại khi ngồi không tựa vật, trời nóng dữ vẫn không cầm quạt, trời lạnh gắt vẫn không gần lửa, ở cao tòa thì đọc giảng biện luận rất tinh vi, dù lợi độn đều được thấm nhập, người nhân đó mà rất tôn quý Sư.

C. NỐI PHÁP NGÀI CHÂN GIÁO, TIÊN PHÁP SƯ:

Pháp sư Viên Trí

Sư họ Lâm, ở Huỳnh Nham. Bà mẹ mộng thấy một vị lão nho mà sinh ra Sư. Còn nhỏ Sư đã rất thông minh, không ham chơi đùa, Thư Sử Kinh Mục đều rất rành rẽ, thuốc men bói toán Sư đều tinh thông. Có lần Sư đến Chùa gần nhà nghe giảng Quán Kinh, Sư khen rằng: "Nơi mặt trời lặn là cố hương ta đó, hôm nay nghe nói như được tin nhà. " Rồi xin xuất gia thọ giới. Sư liền nương ngài Chân Giáo ở Bạch Liên mà học thông Giáo Quán. Có lần Sư hỏi về nghĩa Cụ Biến, ngài Chân Giáo chỉ đèn lồng nói rằng: Như cái đèn kia là ly tánh tuyệt phi vốn tự rỗng lặng theo lý thì là cụ; Lục phàm Tứ Thánh chỗ thấy không đều nhau là biến vậy. (Ngài Khải Am nói: Cụ như đầy đủ báu trân châu, tức lý đủ cả tam thiên. Biến như mưa báu trân châu tức sự tạo ra tam thiên. Ý chỉ này so với ý của ngài Chân Giáo hơi khác). Sư không hiểu. Sau Sư nhân quét đất tụng Pháp Hoa đến chỗ: "Biết Pháp tánh vô thường, Phật chủng từ duyên khởi" thì hoát nhiên tỉnh ngộ, bèn đem bạch ngài Chân Giáo. Ngài nói: "Pháp Hoa, Chỉ Quán đây là thứ quan yếu, nay ông đã ngộ thì việc lớn đã xong. " Từ đó Sư dạo tâm nơi Diệu Đạo, năm ngày chỉ ngủ một giấc. Có kẻ mời đón bước chân dong ruổi thì Sư bảo: Ta đi dạo chơi đây khác nào bên cửa sáng ghế sạch mà đọc sách cả rương. Sư tham học với Ngũ Phật suốt ba năm. Nếu xem Chỉ Quán đến thập cảnh thập thừa thì thấy Tổ Sư biểu hiện ở trần kiếp. Sư ở Đông Sơn được mười bốn năm tại hai cảnh chùa, có khoảng ngàn chúng, tôn Sư là hàng trên trước. Mỗi khi lo kẻ hậu học bị khốn đốn về danh tướng, Sư luôn khuyên gắng mọi người rằng: "Cần phải thật tinh tấn thì mới lên được bậc cao. " Mỗi nửa tháng Sư đều bố tát. Có kẻ hỏi: Tông Viên Đốn đâu cần phải như thế? Sư bảo: Viên gia sự lý một niệm đều đầy đủ, cái gọi là Viên Đốn đâu phải bác sự mà cầu lý ư? Ta bình thời chưa từng không coi giới luật là thầy. Phù Luật đàm thường chính là ngày nay vậy. Quận thỉnh Sư làm chủ chùa Tường phù, Điện soạn Lưu Công hỏi: Một câu trong Giáo thì phải diễn giải như thế nào? Sư nói: "Tức sự mà chân. " Công hiểu ý chỉ ấy liền viết Sớ thỉnh Sư làm chủ Hồng Hựu. Hàng sĩ phu muốn Sư ở cận thành, bèn thỉnh Sư ở Nhật Sơn rồi dời về các nơi Bạch Liên, Xích thành, Khánh Thiện, hoằng đạo ngày càng hưng thịnh. Năm Thiệu Hưng hai mươi ba, Sư vâng chiếu vua về làm chủ Thượng Trúc. Sau nạn binh lửa, chùa chỉ còn sót lại điện thờ Bồtát. Có người tên Suy Kim tạo cửa và hành lang. Thầy xem lịch bảo: "Chủ tinh không lợi. " Sư nói: "Phật cùng Thiên Tinh đồng một tạo hóa, nếu chùa chiền rực rỡ mà ta chết đi thì có hận gì?" Chưa bao lâu quả nhiên Sư có bệnh nhẹ, mộng thấy có Tiên nhân cho uống Thiên dịch, bệnh liền hết, thần thái càng sáng hơn trước. Mùa Hạ năm Thiệu Hưng hai mươi bảy có hạn hán, có chiếu vua mời Sư giảng kinh ở Minh Khánh. Khi giảng xong thì mưa ập xuống. Có lần vì mạo phạm với chùa, dân trong ấp nghe lời xúi cúng vật sống, Sư quở rằng: Đâu thể trái lời Phật cấm? Rồi Sư nói giới cho Thần và đổi sang cúng chay. Năm Thiệu Hưng hai mươi tám, Sư đốc thúc mua sắm gỗ đá nhanh, đến mùa Đông thì nhà cửa chùa chiền đều sửa cất xong cả. Đến ngày mười hai tháng chạp Sư có bệnh, Sư đã dự bị viết thư cáo biệt hàng đạo tục, viết kệ rồi ngồi mà hóa. Tháp Sư ở phía đông chùa. Lúc đầu, ngài Phổ Giác, vào năm cuối ở tại Sơn Chi đã mộng thấy vị La-hán từ Thiên thai đến ngồi xoạc ở ghế chủ vị, thì Sư đến. Khi ngài Vô Tướng còn sống mộng thấy ngài Tân Đầu Lô đến gặp trao cho một chén trà núi. Người ta biết Sư là một trong số năm trăm người đó. Đồng Giang Anh tự ỷ mình hiểu biết rộng đọc Lưu Ý Biện Minh Xứ của ngài Kinh Khê liền bài bác xuyên tạc, đến nổi bảo nên hủy bỏ Diệu Lạc, lập ra mười vấn nạn để hỏi. Người học không dám chống lại, Sư làm quyển Công Anh Tập để phá. Người đọc đều ưa thích và hận sao hai Sư không sinh cùng thời.

D. NỐI PHÁP NGÀI SIÊU QUẢ, ĐẠO PHÁP SƯ:

Pháp sư Tòng Tiến

Sư rất thông minh từ nhỏ sớm học thành tài, từ lâu nương học ngài Siêu Quả mà được đạo ngài. Sư ra làm chủ Đức Tạng, diễn giảng có khuôn phép nên học trò đến rất đông. Sư hay tự soạn thuật Giáo Nghĩa nói rõ chỗ sở đắc. Sư soạn Bộ Lăng-nghiêm Giải rất là cao diệu. Ngày Sư viên tịch lưu khám lại hơn tháng nhưng dung mạo Sư vẫn không biến đổi. Khi trà-tỳ xong thì lưỡi còn nguyên như cánh sen đỏ.

E. NỐI PHÁP NGÀI TRÚC AM, QUÁN PHÁP SƯ:

(đời thứ năm sau Nam Bình).

Pháp sư Tông Ấn

Sư tự là Nguyên Thật, họ Trần, ở Diêm Quan, hiệu Bắc Phong. Sư thờ ngài Tuệ Lực Đức Lân làm thầy. Năm mười lăm tuổi thọ giới Cụ túc. Lúc đầu Sư đến tham yết ngài Trúc Am ở Đương Hồ và được ý chỉ Giáo Quán. Phàm các câu cách ngôn của Chư Tổ Sư đều đọc tụng hơn ngàn lần. Sư vào Nam Hồ tu Trường sám, có người họ Chu đón Sư về ở Am Cư. Vì thuế ruộng không đúng nên Sư khuyên sửa lại, mỗi năm giảm bớt năm trăm hộc.

Sư đến gặp quan Tượng Điền Viên Ngộ Diễn, ông gặn hỏi về ý Tổ Tây Lai. Sư đáp: Có bị thua cũng không kêu ca. Diễn chấp nhận. Giỗ ngài Trí Giả buổi sáng, đêm đến Sư thắp hương trong lò trên điện thương khóc đến khàn tiếng, Diễn thương cảm ý Sư liền dùng hậu lễ đưa Sư về ở Nam Hồ. Sư có lần nghĩ về nghĩa Tịch Quang có hình tướng thì trên không trung có tiếng bảo rằng: Tịch Quang thể nó như mặt trăng trong nước. Tư Giáo Không Hư Đường đón Sư về làm thủ tòa, Hư Đường soạn Tông Cực Luận giúp ngài Trí Dõng về ý chỉ lập ra Sự và Lý mỗi thứ có một tánh riêng. Sư lập ra chín lời vấn nạn thì nghĩa của Tông Cực Luận bị thua. Thông Thú Tô Tỉ xem Bất Nhị Môn thì vì văn giản lược nên mịt mù về Tông thuyết, Sư bèn tóm tắt chỉ rõ chỗ cơ yếu, Tô Tỉ liền lãnh hội. Bạch Sư Tòa thỉnh Sư về ở Chánh Giác. Gió bão thổi trôi dạt tất cả chỉ còn lại điện thờ, Sư liều chết không lánh chạy nên gió bão không thổi nữa. Có người thỉnh Sư truyền giới cho Thần miếu để bỏ việc cúng tế đồ huyết nhục. Sư trước đó đã nằm mộng nên đến chú nguyện trước cửa miếu, thần thưa xin đổi cúng chay mấy mươi đền thờ. Sư về làm chủ Ẩn Học, chưa bao lâu Tô Tỷ cũng được vua triệu về, yêu cầu sư cùng đi bảo rằng: Sao chẳng về Tây để cùng hoằng truyền? Sư ở Phương Đông hai mươi bảy năm, đến khi ấy lại trở về phía phải sông Triết, làm phó giảng ở Thượng Trúc diễn nói về Chỉ Quán, châm biếm cái bệnh chi li danh tướng của người học. Ôm sách vây quanh tòa, làm chủ tòa để được học trò cúng giỗ. Sư ở ẩn nơi am Mao thị tại Lôi Phong. Nhiều người hỏi đạo kéo đến, người họ Đỗ lập ra khu Phổ Quang, kính cẩn đón tiếp Sư Thiền, giảng cùng đi đôi, pháp đạo ngày càng thạnh. Vừa khi Đức Tạng đến thỉnh Sư rằng: Lập một nơi học tập để báo ân lâu dài. Sư từng dời đến các nơi như Siêu Quả, Viên Thông, Bắc Thiền. Đạo đức của Sư vang khắp nhờ đó gỗ đá được đầy đủ. Ngài Hải Không Anh giả từ Linh sơn nên cử Sư thay thế, vua ra chiếu chấp thuận. Người học khoảng năm trăm đều quy phục Đạo của Sư, nhân đó mà tệ xưa, lối học cũ đều đổi mới. Vua Ninh Tông vốn nghe tiếng Sư đã lâu bèn triệu về cung để vua hỏi đại ý Phật Pháp. Sư nói năng giản dị mà lý lẽ sáng tỏ, vua rất quý kính nên ban thưởng trọng hậu, ban hiệu là Tuệ Hạnh Pháp sư. Năm Gia Định thứ sáu, Sư lập Quán thất, đi hành hóa trong đất Ngô. Đến Tòng Giang thì đệ tử dựng lên một am nhỏ, Sư bảo học trò rằng: "Hóa duyên của ta đến đây đã xong" liền nằm nghiêng bên hông phải yên lặng mà hóa, lúc đó là ngày tám tháng chạp. An táng khám Sư ở bên Tháp ngài Từ Vân. Sư giữ ba y đúng luật, không ăn năm thứ nồng cay, Đạo lực tinh thuần, U minh đều cảm, sửa tà chỉnh trệ, trừ hủi dẹp lao, một khi ai có cầu khấn đều nhanh chóng lành bệnh. Sư thường bảo người diễn giảng cần đủ ba pháp: Một là oai nghi phải nghiêm túc rồi mới đến với đại chúng. Hai là nêu rõ đại cương tận cùng văn nghĩa. Ba là phải đủ Tông nhãn để bày Cảnh Quán. Rồi tùy chỗ mong cầu mà trình bày. Sư có soạn: Kim Cang Tân Giải, Thích Di-lặc Kệ, Giản Thị Thiên Thân, La-thập Đồng Dị Chi Ý (trình bày tóm tắt ý dị đồng của Thiên Thân và La-thập). Khảo chính các bản kinh này các văn đều có chứng cớ. Sư kể thuật Giáo Nghĩa có hơn một trăm chương rất được người học truyền chép. Người nối pháp của Sư nổi tiếng như Cổ Vân Nguyên Túy… mười người, truyền giáo cho người Nhật Bản một người là Tuấn Nải, các quan quyền Nho sĩ học đạo có ba mươi mấy người. Riêng Phật Quang Pháp Chiếu nối đời rất hưng thạnh, có công làm sáng đạo của Tổ phụ.

F. NỐI PHÁP NGÀI MỤC AM, BẰNG PHÁP SƯ:

Pháp sư Pháp Huy

Sư tự Minh Tẩu, hiệu Nguyệt Khê, họ Từ, người ở Lâm Hải Thai Chi. Sư nương ngài Chân Ngộ Kham Sư ở Đa Phước Tây Trà Viện mà cạo tóc, rồi theo ngài Mục Am ở Năng Nhân mà học thông Giáo Quán. Kịp khi dời về Nam Hồ thì Sư làm nội tri khách. Sư bình tâm giúp việc trong ngoài đều an. Sư cùng kết bạn xa với các bạn đồng chí hướng như Ấn Nguyên, Bảo Đăng, Thánh Đạo, Nguyệt Quang hằng ngày luôn luận hỏi đạo này. Khi trở về Năng Nhân thì Sư làm Tòa Thủ. Năm Thuần Hy thứ nhất, Sư ra làm chủ Hưng Tích ở Phù Giang, liền dời về Xích thành. Năm Thiệu Hưng thứ hai, Sư dời về Thánh Thủy. Trong năm Gia Định, ở Xích thành có Khứ Tư, Sư khuyên gắng theo về. Sau đó Thánh Thủy lại đến đón, Sư cũng không cản. Năm Gia Định Ất Mão, mùa Thu Sư không bệnh mà tịch. Tháp Sư ở Tây Áo. Sư diễn nói Pháp Hoa rất phù hợp ý Tổ, nêu sáng chánh nghĩa rất giống ngài Mục Am. Tạ Khắc Gia và Tiền Trượng Tổ hai vị hương tướng vốn tôn kính Sư. Sư gìn lòng khiêm tĩnh chưa từng chịu nhận của người cho. Người nhân đó đều tôn kính Sư.

G. NỐI PHÁP NGÀI TƯỜNG PHÙ, HÂN PHÁP SƯ:

1. Pháp sư Thiện Vinh

Sư họ Phan, người ở Ô Trình, vua ban hiệu là Ngộ Không. Mẹ mới thọ thai liền không ăn đồ huyết nhục. Vào đêm lâm bồn có hai luồng sáng từ trên trời chiếu xuống lều, sau đó sinh được hai trai. Vừa hơn một tuổi cả hai đều bệnh và chết một bé. Có thầy tướng đến bảo bà mẹ rằng nếu không xuất gia e khó sống. Bèn cho Sư xuất gia ở chùa Pháp Nhẫn. Đến bảy tuổi thọ giới, học giáo với ngài

Thanh Biện Hân Sư. Cuối năm Thiệu Hưng từ chức Tòa Thủ ở Tường Phù, Sư ra làm chủ Bảo Lâm ở Thái Hồ. Sư từng đến các nơi Tuệ Thông, Xa Khê mà giảng đạo thạnh hành. Năm Thuần Hy Quý Mão, Soái đất Việt là Lý Tham Chánh thỉnh Sư làm chủ Viên Thông, đích thân làm sớ bảo rằng: "Phật Bồ-tát vốn tự vô tâm hễ có duyên liền ứng.

Hàng Sĩ phu đâu hiềm dị giáo hễ Đạo là theo. " Người đều vui thích truyền tụng câu nói ấy. Một hôm Sư có chút bệnh, bèn dẹp việc, ngồi yên trên giường, khi hỏi bệnh dâng thuốc đều không đáp. Hơn bảy ngày thì Sư tắm gội thay áo ngồi kiết già ở Phương trượng, yên lặng mà hóa. Khi trà-tỳ thì ai xin xá-lợi đều được. Sư có soạn: Đại Bộ Quyết Nghi Tập bốn quyển, lưu hành ở đời. Lúc Sư còn ở Xa khê, một hôm gắp đũa rau Sư thấy trong rau đầy sâu, bèn than rằng: Than ôi, một miếng ăn mà sao chết quá nhiều mạng sống! Do đó suốt mùa hạ Sư chỉ uống nước trắng sau khi ăn. Nối Pháp của Sư có Tử Kim Pháp Thông.

H. NỐI PHÁP NGÀI THANH TU, CỮU PHÁP SƯ:

1. Pháp sư Diệu Vân

Sư họ Dương, người Tứ minh, tự hiệu Từ Thất. Sư khắp học hỏi các tòa giảng mà phát sáng diệu giải. Từ lâu theo ngài Vô Úy, lại đến Ngọc Kỷ tham học với ngài Đại tuệ nên càng tỉnh ngộ. Ngài Vô Úy làm chủ Thanh Tu, Sư cùng các vị như Dật Đường v.v... sớm tối thỉnh ích và cùng lãnh hội được ý chỉ Thông Tướng Tam Quán. Năm Thiệu Hưng mười chín, ngài Vô Úy tịch, chúng thỉnh Sư lên kế thừa. Năm đầu Thuần Hy, Sư dời về Vĩnh Minh ở Từ Khê đem ngô ý đã được mà soạn bộ Viên Giác Trực Giải, trong bài tựa có nói: Hàng Cự Nho lão Tăng đọc sách này tất bảo rằng: Đã gọi là trực chỉ sao lại dùng Khoa điển làm chi, người nghe tất cười lớn! Có lần Sư ẩn cư ở Nhị Linh Đông hồ, làm thơ tặng người ăn xin ở chợ quê rằng: "Non vây hồ nước nước vây non, một thoáng bạch âu trước cửa con, thấp thoáng ngoài nương vài thí chủ, mười Tăng tham cứu tháng năm tròn. " Người thời ấy đọc cho là Bảo Lục. Quận thỉnh Sư ở Nam Hồ, suốt ngày diễn giảng, người học đông như chợ. Ở được hai năm Sư cáo bệnh lui về ở am họ Ngô tại Khê Khẩu. Một hôm đến từ biệt Ngô Quân, trở về hơn ba ngày, Sư tắm gội thay áo ngồi kiết già trong thất, bảo thị giả rằng: Ta có nén nhang cất đã ba mươi năm, đợi ngày lâm chung sẽ cúng Phật kính báo đại ân. Nay đã đến lúc, ta sắp ra đi. Khi khói hương nghi ngút thì Sư đứng dậy khấn Phật cầu về An Dưỡng, rồi đến giường chắp tay mà hóa. Sư học được ý chỉ rất khéo giảng nói và thi ca bút mực nổi tiếng một thời. Sư được thờ tại Tổ Đường ở Nam Hồ. Vì mới ở nên không làm tượng. Các bậc kỳ lão bàn rằng: Xưa các ngài Trúc Am và Mục Am đều ở đây hai năm. Nghĩ rằng Đạo lớn thì danh to không thể không lập. Nay Từ Thất so với hai lão Tăng kia đâu thua kém gì, thế nên cũng đáng lập Tổ Vị. Người nối pháp của Sư là Quảng Thọ Chánh Kiểu (Ngày giỗ của Sư là mồng tám tháng chín).

2. Thủ Tọa Hy Nhan

Tự Thánh Đồ, tự hiệu là Tuyết Khê, người ở Phụng Hóa Tứ Minh, thuở nhỏ thi Kinh mà được độ. Khắp các trường giáo phủ thiền đều học hỏi, Tam giáo bách gia thảy đọc qua. Từ lâu Sư từng theo học Quán Pháp với ngài Vô Úy tự cho là đã đạt hết thâm áo của thầy. Khi ngài Vô Úy viên tịch Sư soạn bài minh ý nói nhờ ngài mà Sư đắc pháp. Sư tính khí thẳng thắn can cường mọi người đều kính sợ. Văn Sư đẹp đẽ cao mầu, hàng hậu tấn đều ái mộ, do đó tên Thánh Đồ trùm khắp thiên hạ, không mê ngờ việc trước ắt phải ở nơi ký thất, biết số sau này phải lên ngồi bên tòa giảng, chư Tăng nhiều lần cử Sư ra làm việc nhưng Sư cố từ chối không nhận. Sư có lần dạo bước ở vườn rau thấy từng đống phân và giòi vì phải giết nhiều vật nên Sư không dùng rau nữa, chỉ mua ba trăm sáu mươi cân rong biển, mỗi ngày dùng tí chút với cháo cơm. Tuổi về già Sư tỉnh ngộ bảo rằng: "Văn tự và các thói quen khác không bổ ích gì cho Đạo. " Sư bèn đến ở am của họ Lệ ở Đào Nguyên, chuyên tâm niệm Phật, một khi ngồi suốt mười năm, tinh tấn không biếng lười. Gọi Phản Nhân Trương Hán Khanh bảo rằng: Đạo của Tịnh Độ đâu có một pháp có thể được. Đài vàng lưới báu ca-lăng-tần-già, đây chỉ là Phật ta phương tiện dùng cách khuyến dụ mà thôi. Chỉ ở trong tu mà không thấy một pháp nào thì Tịch quang thượng phẩm không chứng mà chứng. Hán Khanh nói: Tôi vốn tin hiểu, thẹn là chưa được mạnh mẽ thôi!" Có tấm biển đề ở hiên nhỏ rằng: "Nhớ Phật làm thơ để thấy chí!" Có người bảo: Theo sóng đuổi sóng trôi phăng phăng, trong khoảng tíc tắc bảy mươi năm, sao không quay về nhớ biết Phật, muốn theo nếp cũ đáng ra roi! Khi sắp lâm chung Sư biết trước mà giả biệt các bạn thân, tắm gội thay áo, quay mặt về hướng Tây quán tưởng chợt bảo: "Phật đến", rồi Sư chắp tay mà hóa. Khi Sư còn ẩn cư, quan Hữu Ty vì trừ thuế Đinh đã lên Từ Thất trách vui rằng: Thiên hạ há có người đọc cả vạn quyển sách để làm bậc cao hạnh mà còn muốn dùng thuế đinh để trách cứ đấy ư? Chủ Ty vui vì lời nói ấy nên không hỏi đến.

I. NỐI PHÁP NGÀI TRỪNG GIÁC, HOÁN PHÁP SƯ:

Pháp sư Giản Ngôn

Sư tự hiệu là Giác Am, nương ngài Trừng Giác học thông ý chỉ của ngài. Sư học rộng nhớ nhiều độc chiếm một thời. Có lần giảng Diệu Huyền lên tòa chắp tay kính cẩn ngầm nhớ bản văn không sai khoa tiết, trình bày đầy đủ diệu pháp, lại trình bày thêm các giáo tướng liên hệ, sự lý quyền thực đều rõ ràng. Sư từng bảo một kẻ mới học rằng: Người khổ vì ít học, nếu trải nhiều năm tháng đọc kỷ các điểm cáo, tự nhiên hiểu rõ nguồn tâm, thấu suốt Tổ ý, không bị một lời một nghĩa nào ngăn trở mê hoặc, mới có thể tùy việc mà giảng nói, người nghe đều được tâm hóa.

J. NỐI PHÁP NGÀI PHÁP CHIẾU, KIỂU PHÁP SƯ:

Pháp sư Minh Triết

Sư họ Chu, người ở Ngân Ấp Tứ Minh, tự hiệu là Tắc Am. Bà mẹ mộng thấy nuốt ngọc quý mà sinh ra Sư. Năm mười tám tuổi Sư thọ giới Cụ túc liền đi du học các phương, nương ngài Năng Nhân Pháp Chiếu mà nhận được Giáo Quán. Lúc ấy trong đại hội có đến mười người cùng mang tên Triết, nhưng chỉ có Sư là sáng chói nổi tiếng nhất. Sư lại khắp tham học các Thiền lâm, các ngài Thiên Đồng Hoằng Trí, Dục Vương Đại Tuệ, Quốc Thanh Ngu Cốc đều kỳ vọng cho Sư là Đại Khí. Sư từng nói: Cái mà Tòng Lâm bảo là "Trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật" thì tức là Tông ta nói "Giới nhĩ có Tâm, Tam thiên đầy đủ" vậy. Ngài Hoằng Trí nghe nói thế bảo rằng: Quán tử này rất có diệu giải cần nên trở về mà hoằng hóa. Lúc đầu Sư làm chủ ở Xương Quốc Siêu Quả, rồi dời về Giác Hải ẩn học với ngài Vĩnh Minh, dốc chí giảng dạy không bỏ phí thời gian, người học không dám nại cớ nghỉ ngơi. Quận soái là Phạm Thành Đại mời Sư làm chủ Nam Hồ. Cả lúc ấy người nghe giảng đều là những bậc anh tài bốn phương đua nhau đến chỉ lo mình là kẻ đến sau, cùng bảo nhau rằng "Ngày nay chính là được lên long môn. " Sư hàng ngày tụng Kinh Tiểu Bát-nhã có xen tiếng người bèn tụng lại. Sư bảo rằng: "Không nên để tiếng phàm xen vào Thánh điển" (Ngày giỗ Sư là mười sáu tháng sáu).

K. NỐI PHÁP NGÀI VIÊN CHIẾU, QUANG PHÁP SƯ:

Pháp sư Tông Triệu

Sư người Tứ minh. Lúc đầu Sư đến Nam Hồ tham yết ngài Minh Trí, tuổi về già bèn vào thất ngài Viên Chiếu. Ngài sai làm phó giảng.

Sau Sư ra làm chủ Hưng Giáo rồi dời về Thọ Thánh. Từ nạn binh lửa năm Kiến Viêm, chỉ còn sót lại đại điện lợp tranh cỏ hơn mấy trăm gian, tăng già bệnh hơn mười vị nuôi sống qua ngày, Sư thường bảo: Chư Phật Bồ-tát ở khắp pháp giới làm Phật sự, còn mảnh đất vài thước nhỏ nhoi của ngài Vân Khê không làm chi được, ấy là do duyên lực không đủ. Dẫu ta có làm được thì sao đủ sức làm Đạo. Hàng Kỳ Đà Cấp Cô bố thí không tính toán có đến mấy ức nhưng mảnh đất nhỏ nhoi Vân Khê vẫn không hoàn thành ấy là duyên lực không đủ. Dẫn ta có kiến thiết gì thì cũng không thể nhiều được. Nên chỉ biết lo siêng năng giảng đạo dốc chí tu tiến để báo đáp ân Phật mà thôi. Rồi thì người học ngày càng đông, thí chủ tự kéo đến. Nhà cửa nhân đó được xây mới.

L. NỐI PHÁP NGÀI ĐÔNG LINH, KHÂM PHÁP SƯ:

Pháp sư Lợi Uyên

Sư làu thông Tam tạng, thấu suốt Ngũ Kinh, học rộng Đạo cao nên đời gọi là Uyên Giáo Tạng. Sư sớm được ngài Đông Linh truyền pháp, Sư ra hoằng hóa Pháp ở Dương Tiêm, học chúng khoảng ba trăm, ngày ngày luôn diễn giảng, ra vào kinh Luận không lường bờ bến. Do đó mà hàng hậu học phần đông đều chuộng phần phiếm luận của Sư (Quyển này có ba mươi lăm vị nhưng Bản kỷ thiếu sót mười bảy vị).

QUYỂN 17

PHẦN VI - LIỆT TRUYỆN CÁC SƯ (PHẦN 7)

(Bốn mươi bốn vị sau Quảng Trí, Thần Chiếu).

A. Nối pháp ngài Tinh Xã, Liêm Pháp sư (đời thứ sáu sau Quảng Trí).

Hưu Am, Pháp Chu Pháp sư. Pháp Minh, Văn Tiết Pháp sư. Bảo Tịch, Pháp Vân Pháp sư. Diệu Quả, Pháp Giai Pháp sư. Thủy Lục, Văn Bỉnh Pháp sư.

Thường Minh, Đạo Thâm Pháp sư. Phước Xương, Văn Dật Pháp sư.

B. Nối pháp ngài Viên Biện, Sâm Pháp sư.

Nguyệt Đường, Tuệ Tuân Pháp sư. Nhất Am, Xử Cung Pháp sư.

Tuyết Đường, Giới Ứng Pháp sư. Chỉ Am, Pháp Liên Pháp sư.

Chỉ Nam, Trọng Thiều Pháp sư. Từ Vân, Văn Thống Pháp sư.

Dư Diêu, Thanh Trạm Pháp sư.

Nối pháp ngài Giác Vân, Liên Pháp sư (đời thứ sáu sau Thần Chiếu).

Nguyệt Ba, Tắc Ước Pháp sư. Lâm An, Thanh

Triết Thủ Tọa

C. Nối pháp ngài Chứng Ngộ, Trí Pháp sư. Tuệ Quang, Nhã Nạp Pháp sư.

D. Nối pháp ngài Bắc Phong, Ấn Pháp sư.

Cổ Vân, Nguyên Túy Pháp sư. Phật Quang, Pháp Chiếu Pháp sư.

Mai Phong, Phạm Khuê Pháp sư. Thạch Cảnh, Tư Thọ Pháp sư.

Thạch Kính, Thanh Cảo Pháp sư. Từ Cảm, Văn Khuê Pháp sư.

Mông Tuyền, Liễu Nguyên Pháp sư. Độc Hải, Đạo Nguyên Pháp sư.

Diệm Nguyên, Giác Tiên Pháp sư. Đồng Châu, Hoài Thản Pháp sư.

Nam Phong, Tư Thành Pháp sư. Nhật Bản, Tuấn Nhưng Pháp sư. Vân Sào, Như Bảo Pháp sư.

Nam Giản, Hành Quả Pháp sư. Nghiêm Lăng, Triệu Ngạn Túc. Khải Am, Ngô Khắc Kỷ.

F. Nối pháp ngài Năng Nhân, Bảo Pháp sư Thảo đường, Như Bảo Pháp sư.

G. Nối pháp ngài Xa Khê, Vinh Pháp sư Tử Kim, Pháp Thông Pháp sư.

H. Nối pháp ngài Từ Thất Vân Pháp sư

Ngộ Chân, Chánh Kiểu Pháp sư. Nam Hồ, Liễu Tuyên Hành Nhân.

I. Nối pháp ngài Giác An, Ngôn Pháp sư

Giám Đường, Từ Nghĩa Pháp sư. Tổng Am, Diệu Tâm Pháp sư.

Thường Trai, Pháp Tinh Pháp sư.

J. Nối pháp ngài Năng Nhân Sơn Pháp sư. Tất Am, Pháp Hy Pháp sư.

Nam Nhan, Pháp Hùng Pháp sư.

K. Nối pháp ngài Dương Tiêm, Uyên Pháp sư

Sùng Tiên, Liễu Sinh Pháp sư. Dương Tiêm, Pháp Khâm Pháp sư.

****

A. NỐI PHÁP NGÀI VIÊN BIỆN, SÂM PHÁP SƯ:

(bảy người nối pháp trước của Liêm Pháp sư, nguyên bản không ghi).

1. Pháp sư Tuệ Tuân.

Sư tự Mưu Đạo, hiệu Nguyệt Đường, họ Trần, người ở Vĩnh gia Kỳ tiên. Ngụ ở Câu Sơn Xương Quốc Tứ Minh. Bà mẹ mộng thấy một vị Tăng lạ đến cửa xin hóa độ mà thọ thai Sư. Năm lên tám tuổi Sư xuất gia ở Tổ Ấn Viện. Lúc đầu dạy cho Sư kinh Pháp Hoa vài lượt thì Sư liền đọc thuộc lòng. Có lần trở về thăm nội, nội khuyên: "Con đã bỏ nhà đi thì phải học với Trung Phật Tử trong châu ta. " Lúc đầu Sư đến tham yết ngài Trừng Chiếu ở Nam Hồ chỉ đứng mà thưa. Sư lại đến Đông dịch gặp Kiểu Pháp Chiếu, ngài lấy làm lạ. Có người ganh ghét ngài reo hò làm ồn. Sư bảo rằng: Đại nghĩa của Phật pháp nếu có nghi liền hỏi cần gì phải làm ầm ỉ thế? Sư bèn đi về phía Tây bên trái sông Triết khắp tham vấn các bậc danh tiếng rồi trở về phía Đông Nam Hồ nương ngài Viên Biện học chánh thức. Nghe ý chỉ về tánh ác tức cụ, cái diệu về danh thể không chuyển đổi, một nhà Viên Đốn... liền được ngộ nhập. Năm cuối Thiệu Hưng, Sư ra làm chủ Phước Xương rồi dời về Tịnh Danh Phổ Hòa. Sư thường đi khất thực gặp trộm cướp ở bờ biển, Sư nghiêm sắc mặt bảo rằng: Các anh chỉ thích tiền mà thôi, bèn lấy cho hết, nhân đó nói về nghiệp báo thiện ác, bọn trộm cảm động bèn trả lại tiền của và hối lỗi bỏ đi. Tịnh Danh không có học trò, Sư thường đối với núi và biển mà giảng kinh Duy-ma cho quỷ thần. Nhiều lần thần cảm ứng. Năm Càn Đạo thứ năm, Sư dời về làm chủ Nam Hồ. Các học trò đội tráp từ xa kéo đến không bao lâu không chỗ dung chứa. Thừa Tướng Ngụy Kỷ cùng Sư hành đạo rất khế hợp, có lần hỏi ý chỉ về Tướng thường trụ ở thế gian. Sư hỏi: Có phải nghi về bốn thời Đại tạ hay không? Đáp: Đúng thế. Sư nói: Cùng quá khứ tột vị lai tuy có Đại tạ mà lý này thường trụ. Ngụy Công nói: "Nhiều phen đem việc này hỏi người nhưng chưa hiểu được như hôm nay. " Năm Thuần Hy thứ sáu, mùa Đông vào ngày hai mươi bảy tháng mười, bỗng Sư có bệnh mà cáo biệt chúng. Người an ủy thăm hỏi đông đảo kéo đến, với hàng môn sinh thì Sư khuyên bảo nên gắng tu tiến đạo đức, với hàng quan chức thì Sư dặn dò việc hộ pháp. Người nghe lời khuyên bảo sợ sệt cảm kích. Rồi Sư từ biệt chúng, viết kệ, niệm Phật, kiết ấn, ngồi kiết già mà hóa. Lưu khám lại trọn tháng, môi má vẫn tươi hồng, mặt như mỉm cười. Sư di chúc nên phân hài cốt làm hai phần. Một phần đem chôn gần mộ tổ tiên thân thích, một phần chôn ở nơi Tháp Tổ. Đồ chúng vì chôn toàn thân trải nhiều đời nên chỉ cạo tóc để làm thỏa mãn ý Sư. Hơn tháng sau thì lại thấy tóc dài ra và xá-lợi có thể vốc thành nắm. Sư lúc còn sống hễ ngồi thì thẳng thắn, đi không nhìn ngó hai bên, ở trong nhà kín hoặc chỗ yên vắng Sư đều đắp ca-sa, Sư chỉ diễn giảng mà không có trước thuật. Người học phần đông đều nghe kỹ và ghi chép đầy đủ. Sư thường tụng kinh và ngồi thiền coi là thời khóa hàng ngày, Sư chưa hề vì sự việc mà bỏ qua. Sư đặt lệ nếu người học chưa đủ hai mươi hạ thì không cho ra hoằng hóa. Nếu ai nóng nảy đi trước thì bị gạt bỏ.

2. Pháp sư Xử Cung

Sư người Vĩnh gia, hiệu Nhất Am. Từ lâu theo học với ngài Viên Biện và được ý chỉ. Khi đã già Sư làm chủ ở Nam Hồ, Sư có biện tài được tiếng là nói giỏi, mở rộng, tóm tắt, đào sâu phân tích đều không bị tiết mục ngăn trệ. Có người cầu Sư chỉ bày thì Sư cầm bút viết liền, giải rõ ý Tổ, riêng nói các thuyết. Học giả xa gần đều tôn là Tông Sư. Sáng mồng một tết Sư kết kỳ hạn Quang Minh, Luật Cư ở Hồ Tâm cũng tu Sám lễ này. Người chủ đó chính là Trúc Khê vốn trọng Đạo đức Sư, nên mỗi đầu hôm thường dẫn chúng đến Nam Hồ nghe Sư diễn giảng Pháp yếu. Trúc Khê vào ngồi nghe khen rằng: Bọn ta may mắn mới được nghe Đại thừa, Luật Tứ phần nói về kiểm thúc thân là chính yếu. Như được minh tâm kiến tánh chánh là đây vậy. Cả chúng đều mừng khen.

3. Pháp sư Giới Ứng

Sư người Tứ minh, tự hiệu Tuyết Đường, thông minh tài giỏi, tình ý rỗng suốt. Từ lâu theo học với ngài Nam Hồ được người trọng vọng. Quận nhờ Nam Hồ thỉnh ngài Viên Biện thì Sư là người vâng lời đến Đông dịch dâng lễ rước về. Khi ngài Viên Biện đến nơi lên tòa thuyết giảng luận nói Diệu chỉ thì chỉ có Sư lãnh hội được. Một hôm Sư sụp lạy hỏi về các nghĩa của ý chỉ chưa hiểu, ngài Viên Biện bảo: Ông hãy học thuộc ta sẽ nói cho nghe. Mấy ngày sau Sư học thuộc đến thưa, ngài Viên Biện nói: Trong đó đã nói cho ông hiểu rồi. Sư bỗng nhiên tỉnh ngộ. Từ đó Sư biện luận phấn phát không ai địch nổi. Sư ra làm chủ Bạch Liên, học trò đến như mây đùn. Năm Ninh Hải có Đại hội thỉnh Sư giảng kinh một tháng, đạo tục cả vạn người lắng nghe nghiêm túc, hồng âm một khi chấn động phát lên không ai không tỉnh ngộ. Một hôm không bệnh tật, Sư cáo biệt chúng quay về thất nằm nghiêng bên phải mà hóa. Tháp táng toàn thân Sư ở tại núi Linh Nguyên bên chùa.

4. Pháp sư Pháp Liên

Sư tự Thật Trung, tự hiệu Chỉ Am, người ở Tượng Sơn Tứ Minh. Thuở nhỏ Sư rất siêng học, trải khắp các giảng Tòa luôn tham học với các bậc nổi tiếng. Tuổi về già Sư đến Nam Hồ hầu ngài Viên Biện, sớm tối học hỏi, ngày nào cũng thế suốt sáu năm, những chỗ nghi ngờ mờ mịt ngày xưa nay đều thấu suốt. Lúc đầu Sư làm chủ Biện Lợi, sau dời về Quảng Nghiêm Vĩnh Minh, Ngộ Chân. Sư lấy khoan từ mà tiếp đãi với mọi người. Có người hỏi thì Sư giải đáp cả ngày quên mệt, nhưng hỏi về Phật pháp thì Sư làm thinh không đáp. Có người dò biết ý Sư đốt hương khoanh tay đứng nghiêm, khiêm tốn thưa hỏi thì Sư tùy cơ mà giải đáp tường tận thấu lý. Ấy là vì Sư trọng pháp, không làm mất thể diện của Pháp sư, nên làm thế.

Ngài Kính Am nói: Tiên Hiền có nói: ngài Tứ Minh trung hưng Đạo Thiên thai, còn ngài Viên Biện trung hưng Tông Tứ Minh. Bởi có người cho rằng sau ngài Tứ Minh có phái chỉ học tri giải gần giống với nhóm Sơn Ngoại. Nhưng nhóm của ngài

Viên Biện đưa ra thì chỉ phát huy Tổ ý giúp phái Tứ Minh thịnh vượng. Có người bảo: Nguyệt Đường thì được Quán Hạnh, Chỉ Am thì được Tông Chỉ, còn Nhất Am Tuyết Đường thì có tài biện thuyết đều là một thể của Sư gia cả.

5. Pháp sư Trọng Vân

Sư người Tứ minh. Từ lâu theo học với ngài Viên Biện chỗ học hiểu trác việt. Trong năm Thiệu Hưng Sư làm chủ Bố Kim, vì Thần Trí ở Trát Xuyên giả danh chư sứ phá mạnh Tứ Minh, Sư bèn viết Tam Thiên Chánh Thuyết để công kích đặt tên là Chỉ Nam tập gồm ba quyển (trong đây thiếu mất bản kỷ của hai vị là Văn Thống và Thanh Trạm).

B. NỐI PHÁP NGÀI GIÁC VÂN, LIÊN PHÁP SƯ:

(đời thứ sáu sau Thần Chiếu).

Pháp sư Tắc Ước

Sư hiệu Nguyên Am, họ Diêu người ở Ngân Chi. Sư gần gũi hầu ngài Giác Vân ngày đêm học tập mà thông suốt Giáo Chỉ. Khi ngài Giác Vân đến Nam Hồ thì Sư cũng theo hầu một bên, Sư làm việc nói năng ôn hòa cẩn thận với cả mọi người.

Khi ngài Giác Vân tịch rồi thì Sư đến nương ngài Tuệ Quang ở Thượng Trúc, được phân tòa giảng kinh, chúng đều thán phục sự biện luận của Sư. Mùa Xuân năm Càn Đạo thứ chín, Thái Sư Việt Vương đích thân viết sớ thỉnh Sư làm lãnh đạo ở Nguyệt Ba, chùa là một thắng tích ở Đông hồ, lại nhờ Sư diễn giảng mà nổi tiếng trên đời. Cho nên vì danh đức một thời của Sư mà ai cũng thích đến nương tựa. Việt Vương nhiều lần nghe giảng, chính tay viết thư khen rằng: "Sư là Rồng nghĩa của giáo môn nay làm gia sư cho ta. Lại làm chủ núi này nên xin dâng đất này làm nơi giảng lâu dài về giáo tông Thiên thai, tu lâu dài về Thủy Lục Phổ Độ, trên báo ân vua muôn đời không thay đổi. " Rồi tâu về triều vua ban cho Sư hiệu Trí Hải. Từ đó Sư làm Tổ núi này. Người kế thừa Sư là Tân Am Ẩn Đường, từ Bách Đình thẳng sang Nam hồ. Từ đó đất này càng lợi ích (ở đây không ghi Thanh Triết Thủ Tọa).

C. NỐI PHÁP NGÀI CHỨNG NGỘ, TRÍ PHÁP SƯ:

1. Pháp sư Nhã Nạp

Sư tự là Hy Ngôn, họ Tôn, ở Gia Hưng. Lúc đầu Sư nương ngài Trúc Am ở Đức Tạng quyết chí khổ học lâu ngày nên bị bệnh bướu tâm luôn khấn nguyện Bồ-tát, miệng tụng bí chú. Đêm đến mộng thấy Bồ-tát rảy nước linh, khi tỉnh dậy thì hết bệnh, bèn đến Xích thành tham kiến ngài Chứng Ngộ. Sư dời về Thượng Trúc vâng lời thầy lên làm Thủ Chúng. Khi Thầy mất thì vua ban chiếu mời Sư lên nối pháp ở đấy. Tháng hai mùa Xuân, năm Càn Đạo thứ ba, vua đến Thượng Trúc, kính Sư như Bồ-tát và hỏi về ý chỉ Quang Minh Sám Pháp. Sư đáp: "Phạm Thích Thiên đế Tứ Đại Thiên Vương hiện xuống các cõi nước để hộ nước hộ người, nên Phật nói cho nghe đạo Kim Quang Minh Tammuội. Đời sau này các Tổ Sư lập làm Sám Pháp để mong cầu oai đức của Chư Thiên, cho nên hàng vua quan hay thường dân đều có thể tu trì. " Vua ban cho Sư chức Hữu Vệ Tăng Lục rồi ban chiếu cho ở trong núi lập ra Thập Lục Quán Đường và phỏng theo cách thức đó mà lập Quán Đường ở Đại nội. Mùa hạ năm Càn Đạo thứ tư, vua mời Sư vào nghỉ đêm ở Quán Đường để luận đạo. Ngày tám tháng tư vua mời Sư dẫn năm mươi đồ chúng vào Quán Đường ở Đại nội tu Kim Quang Minh Hộ Quốc Pháp. Vua hỏi: Phật pháp có chắc chắn được diệu an như kinh nói chăng? Sư đáp: Đúng như thế.

Vua bằng lòng bèn phong chức cho Sư là Tả Nhai Tăng Lục Tuệ Quang Pháp sư. Năm Càn Đạo thứ chín, vua mời vào Tuyển Đức điện hỏi về linh tích của Lịch đại Bồ-tát và ý chỉ kinh Pháp Hoa. Vua nói: Trước nhất được Sư khai sáng việc này bèn dùng viện Giác ngộ mà được Pháp môn. Ví như việc đánh cờ thắng thua đã rõ, không chỉ dẹp bỏ con cờ mà cả bàn cờ cũng dẹp luôn. Sư nói: Cả việc dẹp bỏ ấy cũng không thể được. Vua bảo: "Cái mà Sư nói thì chung cả Tông và Thuyết. " Có chiếu vua mời Sư giảng Viên Giác đến chỗ: "Tâm hư vọng này nếu không, thì sáu trần cũng không thể có", Sư nói: "Tâm vốn không hình, nhân trần mà có tướng, hễ trần diệt thì tâm diệt, chân tâm sáng suốt. " Vua chính tay viết câu nói ấy ban cho Sư. Lại có lần vua hỏi về ý chỉ Kim cang. Sư đáp: Đây là một phần trong sáu trăm quyển Bát-nhã, nêu câu hỏi để đoạn dứt nghi ngờ đặc biệt dụ về Kim Cang. Nên ngài Vô Trước luận rằng: Kim cang Ba-la-mật này lấy tên như thế để chỉ rõ sức mạnh. Lạ lùng là Bát-nhã đều có sức mạnh ấy. Đây đã giải thích các nghi về Bát-nhã. Thế nên hai chữ Kim Cang, văn tuy nói rút ra từ đây nhưng thật ra đã ví dụ chung cho Bát-nhã. Cho nên nói trì tụng thì công sâu phước lớn (Văn cú-Quái Pháp Hoa tòa tịch là Ký Quái Dự vậy. Đời Tống, Bùi Nhân trong bài tựa Sử Ký nói rằng: Thu nhặt các điều Tiên Nho nói, nếu thấy có ích thì đều chép vào. Nên biết các lời dạy của ngài Kinh Khê cũng hợp với Bùi Nhân). Vua nói: Trẫm hàng ngày đọc tụng kinh này, nay lại khiến chúng cùng Trẫm tụng ba vạn quyển, bèn giáng tráp rằng: Bình thời từ xưa đến nay việc ăn thịt cá đã giết hại khá nhiều, nay nhờ Bát-nhã dẹp bỏ lỗi này, hầu giúp quần sinh đều được giải thoát.

Lúc đó Nghi Vương còn bé, vua mời Sư vào cung cấm nói pháp và xoa đầu Vương, vì có lần Vương bị bệnh ở thóp đầu. Vua nói: Vả đã ban cho đất để xây nhà để vài năm nữa đó đây hưởng nhàn, ngồi trên đá bên sông cùng luận nói vô sinh. Đến năm Càn Đạo mười một, Sư lui về ở Hưng Phước, vua đặc cách trao cho Sư chức Lưỡng Nhai Đô Tăng Lục. Lúc đó Quang Tông là Đông cung viết biển đề hai chữ "Quy Ẩn" ban cho Sư và đặt bài tán để khen tụng đức Sư. Vua Hiếu Tông lui về an dưỡng tại Trùng Hoa Cung mời Sư chú thích kinh Kim Cang. Sư ngồi kiệu lên điện vua và nghỉ tạm ở bên điện chú thích xong dâng lên, vua xem thấy có chỗ phát minh. Buổi sáng tháng mười năm Thiệu Hy thứ hai, Sư bảo thị giả rằng: "Ta hoằng đạo Pháp Hoa của Tông ta đến đây đã xong", bèn tập chúng tu Pháp Hoa Sám, dâng Đạo cụ lên hai cung (Quang Tông và Hiếu Tông) rồi ngồi yên mà tịch, thọ tám mươi hai tuổi. Tháp xây tại thất Sư ở. Năm Thiệu Hy thứ hai thụy phong cho sư là Tông Giáo Quảng Từ Pháp sư, tháp đặt là Phổ Chiếu.

2. Pháp sư Tuấn Nhưng

Sư là người Nhật Bản, trước đã học về Du Già Mật Giáo (khoảng năm Nguyên Hòa đời Đường, Sư Không Hải vào Trung Quốc học Mật Giáo với Tuệ Quả là đệ tử của Bất Không), sau này sư vượt biển đến Trung Quốc, lên Linh sơn tham yết ngài Bắc Phong mà học một Tông Thiên thai, rèn tập Kinh Giáo mà thông suốt hết ý chỉ ngài. Đầu năm Khai Hy, giặc phương Bắc xâm phạm biên giới, Tuấn Nhưng xin ngài Bắc Phong cho phép lập Đàn tụng chú như ngài Bất Không Giải An ở Tây Vi. Lúc đó người ta bàn cho là ủy mị nên không được làm. Ngài Bắc Phong bèn sai học trò trở về nước lấy năm bộ Pháp đã được truyền ở Trung Hoa trước đây nhưng học trò bị chết đuối ngoài biển (đây là nối pháp ngài Bắc Phong Ấn Pháp sư có mười sáu vị, trước thiếu mất mười một vị, sau thiếu ba vị chỉ còn hai vị là Pháp sư Tuấn Nhưng này và Triệu Ngạn Túc mà thôi).

3. Triệu Ngạn Túc

Tự là Tử Kỉnh, người ở Nghiêm Lăng. Ông thi đậu Tiến sĩ niên hiệu Khánh Nguyên. Ông đến tham yết ngài Bắc Phong luận về Đại Ý Phật Pháp. Có lần ông hỏi thầy rằng: Như Lai ra đời trước hết nói pháp gì? Thầy đáp: "Thị hiện cõi Đồng cư trước nói Khổ đế. " Lại hỏi: Các kinh Đại thừa phần lớn đều lạ lùng, lừa phỉnh làm sợ người, đến kinh Pháp Hoa thì sao bình dị thế? Thầy đáp: Khi các cơ chưa thuần thục thì trước phải khiến rung động, khi các cơ đã thuần thục rồi thì cần gì phải hù nhác làm chi? Từ đó ông hiểu sâu về đại chỉ của Thời Giáo. Ông thường dùng tiếng "Bồ-tát nhục thân ở Nam Sơn" để gọi thầy mình. Từ khi nhận san định Chỉ Quán ông khen rằng: "Quay cái thấy ngoài thiên hạ để nhìn vào thực tế là Kinh này vậy. " Lúc đầu Ngạn Túc ưa chê Đạo Phật. Có lần cùng vị Tăng tranh luận thì bị thua. Khi vị Tăng qua đời thì ông mặc đồ tang. Muôn nhân lấy làm lạ hỏi, ông đáp: Ân của pháp cũng như cha mẹ, bé con đâu hiểu gì?

4. Ngô Khắc Kỷ

Tự là Phục Chi, tự hiệu Khải Am, là hậu duệ của Kiến An Tiết Sứ. Cha từng du học bốn phương. Nhân đó về ở tại Phố Giang Vụ Chi. Thuở nhỏ ông rất thông minh dĩnh ngộ đã học thì không gì không thông. Có lần ông đọc Chu Quan, khẳng khái đem ruộng đất được phong cho mà trả lại. Trong năm Thuần Hy, ông đổ đầu bốn khoa chờ bổ nhiệm than rằng: Ánh mắt giữa mày, việc và thời trái nhau. Bèn bỏ đi ở ẩn tại Tả Khê. Bỗng ông bị bệnh mắt, có người khuyên gắng cầu đảo Viễn Thông, ông liền bảo: Gặp nguy mà không biến đổi mới thực là Đại trượng phu. Có người bảo nên đến Chu Thái Y trị bệnh, ông đáp: Đỗ Kỳ Công chưa đọc sách Phật sao biết không bằng Khổng Mạnh, bèn thử trì danh hiệu Bồ-tát thì bệnh mắt liền khỏi, do đó ông càng tin tưởng. Khi đọc kinh Lăng-nghiêm đến chỗ: "Khoảng không ở trong tâm như vẩn mây ở trên trời xanh" thì ông thông suốt như được mở tấm màng che. Có hai bộ Quán Sơn Cốc Thi và Tán Mỹ Tông Cảnh, có người theo cách Vĩnh Minh viết thành một trăm quyển. Từ đó ông bớt ăn chỉ lo Sám lễ. Nhân xem hai bộ sách trên ngài Bảo Tích bảo thật rằng: Sách này không có phép tắc không bằng xem Chỉ Quán, khiến ngộ được hai chữ Cảnh Quán thì có chỗ cậy nhờ. Ông nghe lời đọc kỹ quả nhiên được ngộ nhập. Nhân đó bảo rằng: Đạt thay tiếng phép tắc! Bảo rằng cái rất vuông để làm vuông thì không phải là cái vuông của thiên hạ, cái rất tròn để làm tròn thì không phải là cái tròn của thiên hạ. Kẻ hiểu biết lấy hai sách đó để nghiên cứu thì phép tắc có hay không liền thấy. Ông từng chú thích Diệu Kinh, tự nói thẹn cùng ngang hàng với loài Táo Bách cho rằng người ta truyền sách gồm thô, còn mình thì chú thích Kinh riêng diệu. Năm Gia Định thứ bảy, mùa Đông ông qua đời tại Bảo Sơn, di chúc bảo nên dùng lễ Tăng mà trà-tỳ, thọ bảy mươi lăm tuổi. Ông có soạn: Pháp Hoa Xu Kiện, Lăng-nghiêm tập Giải Khoa, Tứ Giáo Nghi Chỉ Quán Đại Khoa. Khi về già ông soạn Thích Môn Chánh Thống nhưng chưa xong thì qua đời. Lương Chữ và Tông Giám viết tiếp để hoàn thành. Lúc đầu người nhà mộng thấy ông mượn Giả Danh xin ở trọ. Kịp khi học giáo pháp nghị luận nhiều chỗ ngầm hợp, lại mừng cho là người xưa gọi đó là hậu thân (trong đây thiếu sót phần kỷ của hai vị Pháp sư Như Bảo và Pháp Thông).

D. NỐI PHÁP NGÀI TỪ THẤT, VÂN PHÁP SƯ:

1. Pháp sư Chánh Kiểu

Sư tự là Nguyên Trú, họ Chu, người ở Ngân Tung Giang, thọ nghiệp với ngài Đa Bảo. Lúc đầu theo học với ngài Biện Lợi Chỉ Am. Nhân có người đồng học thảo luận tóm tắt định đề Quang Minh, bèn có thể làm tốt đẹp việc đắc thất của các Sư chăng? Khi ngài Từ Thất ở Thanh Tu thì Sư theo về. Lâu ngày nên Sư thông suốt đạo của ngài Từ Thất. Khi ngài Từ Thất dời sang Nam Hồ thì ngài bảo Sư luôn ở bên tòa giảng. Sư có biện tài diễn giảng khoáng đạt chúng đều kính mộ. Sư ra làm chủ Quan Âm ở Từ Khê, sáu lần đổi tòa giảng, cuối cùng Sư ở Ngộ Chân tại Dịch Dương. Công Quý Lâu Công Thược, thường theo thầy hỏi về đại ý Phật pháp. Sư hiệu là Nguyệt Song. Nhớ ngày còn ở Quảng Thọ, Sư ở bên cửa sổ làm bài Bán nguyệt. Công Quý viết ký làm thơ rằng: Không cần làm trăng tròn, vừa tròn là khuyết ngay, chi bằng là nửa vành còn có lúc tròn lại. Bài thơ ấy luôn ở trên môi người, nên danh đức của Sư càng lớn.

2. Hành Nhân Liễu Tuyên

Sư họ Phan, người ở Phụng Hóa Tứ Minh. Lúc đầu học kinh với ngài Bảo Lâm. Khi ngài Từ Thất ở Thanh Tu thì Sư đến nương học. Thường bảo rằng: "Hễ hiểu được thì tất làm được, bèn vào thất ngài Quang Nghiêm ở Nam Hồ xem Tạng Kinh, tu Pháp Hoa Tam-muội trước sau hai mươi bảy kỳ. Sư quá ngọ không ăn, chưa từng phạm giờ giấc. Cùng bạn đồng tu là Thiện Vinh kết tâm giao. Mỗi khi xem kinh có điều nghi thì liền đến thất Vinh để biện biệt. Một hôm ngồi yên lặng rất lâu, Vinh hỏi: Hôm nay huynh sao vậy? Sư đáp: Ngày về đã gần kề, Đạo nghĩa khó quên nên mới như thế, xin anh chuyên tâm tiến tụ đạo nghiệp, hẹn lại gặp nhau ở Tịnh Độ. Thiện Vinh cười bảo: Chính muốn thấy anh sớm được. Từ đó Sư có bệnh. Khi sắp lâm chung Sư thỉnh chúng tụng kinh Di-đà, xưng niệm danh hiệu Phật. Rồi dậy ngồi thẳng, lấy bút viết kệ rằng: "Tánh tướng tình quên, một ba không gởi, dứt gió không làm, Ma-ha đều lợi", rồi chắp tay nhắm mắt viên tịch. Lúc đó mùa nắng lưu khám suốt bảy ngày mà dung nhan Sư vẫn tươi thắm, khóe miệng có chút nước dãi, có kẻ lấy bông lau đi thì mùi hương lạ xông ra. Khi trà-tỳ thì xá-lợi nhặt được cả vốc tay, quả tim và hạt chuỗi không hư, lúc đó nhằm ngày mười tháng năm năm Gia Thái thứ năm. Sau đó ba năm, Thiện Vinh có bệnh, trước lâm chung một ngày Sư từ giã chúng, tắm gội thay áo, thỉnh chúng niệm Phật, Sư ngồi kiết già mà hóa. Người bảo là đến chỗ ước hẹn với Tuyên Sư. (Trong đây sót mất ba vị nối pháp ngài Giác Am Ngôn Pháp sư).

E. NỐI PHÁP NGÀI NĂNG NHÂN, SƠN PHÁP SƯ:

Pháp sư Pháp Hy

Sư hiệu là Tất Am, Sư Pháp Hùng hiệu là Nam Nham đều là người ở Thiên thai, cùng vào thất của Sơn Pháp sư, chuyên cần học đạo cùng nổi danh ở đời, lại nối nhau ở Bạch Liên đạo phong đều như một. Đủ chánh nhãn để định Tông, phát biện tài giảng thuyết, rộng rãi khoan dung đối với chúng, văn hay nghĩa đẹp để ứng cơ. Tông phong Bạch Liên được hưng thạnh là do hai Sư này khởi lên vậy (Trong đây thiếu một vị là Pháp Hùng Pháp sư).

F. NỐI PHÁP NGÀI DƯƠNG TIÊM, UYÊN PHÁP SƯ:

Pháp sư Liễu Sinh

Sư là người ở Chư Kị Việt Chi, mười hai tuổi xuất gia mà có tuệ giải như người lớn. Lúc đầu Sư đến tham yết ngài Đông Linh Khâm Pháp sư. Lúc đó đến học Thiền Lâm có đông đảo chư Tăng ở Tăng đường, nhân tối nguyên tiêu đều đi xem đèn. Khâm Sư đi tuần hương thấy Sư ngồi sừng sửng trên giường, liền hỏi: Sao ngươi không theo chúng đi? Sư thưa: Con được thầy dạy bảo chuyên tâm học tập đâu dám chơi đùa! Khâm Sư rất mừng vỗ lưng Sư bảo rằng: "Ba mươi năm sau, người chấn hưng Tông ta nếu không là ông thì còn ai?" Do đó Sư càng nghiên cứu kỹ về Giáo Quán. Lúc đó ai nấy đều kính phục. Sau Sư ra làm chủ Đảnh Sơn thì diễn giảng không bỏ phế một ngày. Sư nằm trên giường kỷ, để bộ Pháp Hoa trước tượng Vi-đà, thân đắp y năm điều nằm thế cát tường mà ngủ, Sư luôn giữ mình kỉnh pháp. Sư không vì nhà kín vắng mà đổi khí tiết (Trong đây thiếu một người nối pháp Khâm Pháp sư-Quyển này gồm bốn mươi bốn vị, nguyên bản thiếu mất ba mươi mốt vị, chỉ ghi chép có mười ba vị).

QUYỂN 18

PHẦN VI - LIỆT TRUYỆN CÁC SƯ (PHẦN 8)

(Sau các Sư Quảng Trí, Thần Chiếu, Nam Bình gồm sáu mươi hai người).

A. Nối pháp ngài Hưu Am, Chu Pháp sư (đời thứ bảy, dòng Quảng Trí).

Khoát Am, Tịnh Ngộ Pháp sư.

B. Nối pháp ngài Pháp Minh, Tiết Pháp sư. Nhàn Lâm, Tử Chân Pháp sư.

C. Nối pháp ngài Nguyệt Đường, Tuân Pháp sư.

Dật Đường, Pháp Đăng Pháp sư. Bách Đình, Thiện Nguyệt Pháp sư. Duyệt Am, Tịnh Huệ Pháp sư.

Ẩn Đường, Chánh Vinh Pháp sư. Thạch Chi, Tông Hiểu Pháp sư. Nam Hồ, Thiện Vinh Hành Nhân.

D. Nối pháp ngài Nhất Am, Cung Pháp sư.

Chánh Am, Đoan Tín Pháp sư. Thục Bảo,

Lương Diễm Pháp sư. Si Am, Thùy Củng Pháp sư.

E. Nối pháp ngài Chỉ Am, Liên Pháp sư.

Cảnh Am, Cảnh Thiên Pháp sư. Khế Am, Như Hối Pháp sư.

Hoàn Am, Giới Xu Pháp sư.

F. Nối pháp ngài Tuệ Quang, Nạp Pháp sư (đời thứ bảy sau Thần Chiếu).

Đẳng Am, Sĩ Hành Pháp sư. Hư Am, Hữu Hoằng Pháp sư. Phục Am, Diệu Khuê Pháp sư.

Trung Am, Sư An Pháp sư.

Thượng Trúc, Sư Giác Pháp sư. Thạch Giản, Tòng Giới Pháp sư. Hối Am, Tuệ Minh Pháp sư.

Quế Đường, Như Thản Pháp sư.

G. Nối pháp ngài Phật Quang, Chiếu Pháp sư (đời thứ bảy dòng Nam Bình).

Tử Đình, Sư Huấn Pháp sư. Đông Lăng, Trí Huýnh Pháp sư. Bích Khê, Đức Văn Pháp sư.

Cúc Đình, Tín Khanh Pháp sư. Hải ông, Thời Học Pháp sư.

Mai Giản, Thái Độ Pháp sư. Thiểu Ngu, Dục Tài Pháp sư. Hành Cổ, Vong Tân Pháp sư. Đỉnh Sơn, Thời Cử Pháp sư.

Nhược Châu, Cảnh Thuyên Pháp sư. Cổ Nham, Chánh Nhân Pháp sư.

Độc Cổ, Diệu Thinh Pháp sư. Ứng Am, Pháp Ngôn Pháp sư. Tân Sơn, Tư Cung Pháp sư.

Tây Sơn, Văn Củng Pháp sư. Tuyết Sầm, Hành Hải Pháp sư. Vô Cực, Khả Độ Pháp sư.

Đông Bình, Chánh Ngô Pháp sư. Thạch Lâm, Văn Nhân Pháp sư. Đông Sơn, Tuệ Nhật Pháp sư.

Tự Văn, Như Nguyện Pháp sư. Bắc Sơn, Chí

Tại Thư Ký

Phương Khê, Văn Trân Tri Khách

H. Nối pháp ngài Đồng Châu, Thản Pháp sư.

Cổ Nguyên, Vĩnh Thanh Pháp sư. Tiềm Sơn, Văn Khôi Pháp sư.

I. Nối pháp ngài Viêm Nguyên, Tiên Pháp sư (đời thứ bảy sau Nam Bình).

Vân Mộng, Duẫn Trạch Pháp sư.

J. Nối pháp ngài Mông Tuyền, Nguyên Pháp sư.

Linh Nguyên, Duẫn Hiến Pháp sư. Đồng Khê, Nhược Tế Pháp sư.

Loa Khê, Nguyên Ngộ Pháp sư.

K. Nối pháp ngài Mai Phong, Khuê Pháp sư.

Cụ Thành, Diệu Tiêm Pháp sư. Cô Nham, Như Nguyệt Pháp sư.

L. Nối pháp ngài Giám Đường Nghĩa Pháp sư.

Bách Xuyên, Như Hải Pháp sư. Thạch Đình, Đạo Sinh Pháp sư. Thạch Phàm, Tông Hoa Pháp sư. Tánh Am, Tịnh Nhạc Pháp sư.

Bách Nham, Văn Cảo Pháp sư. Thánh Thủy, Tòng Giác Pháp sư.

M. Nối pháp ngài Tổng Am, Tâm Pháp sư. Cổ Cảnh, Văn Cảo Pháp sư.

N. Nối pháp ngài Tất Am, Hy Pháp sư Hải Không, Pháp Anh Pháp sư.

O. Nối pháp ngài Nam Nham, Hùng Pháp sư.

Hư Tĩnh, Tổ Ý Pháp sư.

****

NỐI PHÁP NGÀI HƯU AM, CHÂU PHÁP SƯ:

(đời thứ bảy dòng Quảng Trí).

Pháp sư Tịnh Ngộ

Tự là Cơ Tiên, họ Lý, người ở Lạc Thanh Ôn Chi. Thuở nhỏ đã biết chán tục nên đến nương ngài Phi Tuyền Viên Giác ở Nhạn Sơn. Năm mười chín tuổi thọ Cụ giới. Lúc đầu tham yết ngài Định Am học thông Giáo Quán. Lúc đó ngài Hưu Am ở Thọ Xương chuyên việc giảng nói, Sư đến thọ nghiệp, ngài Hưu Am hỏi: Định Am lấy gì để dạy người? Sư đáp: Nói nghĩa đòi xe. Ngài Hưu Am hỏi: Cõi Tịnh Quang có đòi xe chăng? Sư không hiểu, nuôi nỗi nghi trong lòng gần như bỏ cả ăn ngủ. Hưu Am cảm được sự dụng tâm của Sư bèn vỗ vào lưng bảo rằng: "Mối nghi được phát lộ thật không đâu xa!" Một hôm tự dưng Sư khế hội. Từ đó các nghi vấn của Tông môn đều hiểu rõ. Các Giảng tòa ở đất Ngô Việt, Sư đều đến dự, chí khí cao siêu ít có ai sánh kịp. Thường khi tự bảo rằng: Đập chỏ nấu cơm ở yên trong rừng, lấy cái trống không để đối với vạn tượng mà nói, ta nào thẹn? Đến như sở học chưa đủ, nhân người mà thành việc lại đi chấp vào mấy hàng chữ trên giấy, tụ họp mấy trăm Tăng trẻ về ở đông vầy ăn trước phương trượng... Ta thì không làm thế. " Sư lúc đầu ở Phi Tuyền xây cất nhà mới. Rồi gắng gượng theo lời chúng thỉnh, ra làm chủ Tịnh Độ ở Thiên thai, hằng ngày siêng năng diễn giảng trăm thứ bỏ đi Sư đều nêu đủ. Tuổi về già Sư trở về chốn cũ Phi Tuyền, hằng ngày niệm Phật là nghiệp chánh. Kịp khi có bệnh bèn viết chữ lớn treo lên cho chúng thấy: "Cầu thầy hỏi thuốc chỉ quấy rầy việc thị tịch của ta. Ta đang yên nhìn sự biến chuyển ấy. " Sáng hôm sau Sư ngồi yên trên giường mà thoát xác. Bấy giờ là ngày hai mươi sáu tháng chín năm Khai Hy Đinh Mão. Khi trà-tỳ thì tai và răng còn nguyên. Môn nhân là Văn Hổ xây tháp Sư ở chân núi phía Tây chùa. Ngài Bắc Nhàn Cư Giản viết bài minh rằng: Đó là am trống nghe nói Tổng trì, chứa hai thứ không hư, Đạo đức là trọng, tuy ẩn mà bày. Ta biết người khác đời mà cùng một ý đều khóc cho mặt trời đã lặn ở Nhạn Sơn.

NỐI PHÁP NGÀI PHÁP MINH, TIẾT PHÁP SƯ:

Pháp sư Tử Chân

Sư người Vĩnh gia, hiệu Nhàn Lâm. Từ nhỏ đã theo học với Tiết Công tu học chuyên cần nên thông suốt Đạo ngài. Khi gặp giáo nghĩa nào chưa ổn thì cùng các bạn đạo nghị luận suốt ngày đến khi nào đạt ý mới thôi. Rồi Sư ngồi trong màng thao thao diễn nói, hoặc tự hỏi tự đáp, để tự xét tìm. Về sau Sư nối ngài Pháp Minh làm chủ hoằng truyền đạo nghiệp của Tổ phụ, biện tài khác thường các bậc lão học đều kính phục.

NỐI PHÁP NGÀI NGUYỆT ĐƯỜNG, TUÂN PHÁP SƯ:

1. Pháp sư Pháp Đăng

Sư tự Thánh Đạo, hiệu Dật Đường, họ Lâm người ở Giải Phổ Tứ Minh, thọ nghiệp với ngài Ninh Ba. Lúc đầu Sư là Ưu-bà-tắc theo học với ngài Tân Am. Sư thiên tánh tuệ ngộ, phàm yếu văn các bộ không thứ nào không ghi, yếu nghĩa các văn không thứ nào không hiểu. Khi đã thọ giới Cụ túc thì Sư vào Nam Hồ nương ngài Nguyệt Đường, ngài vì chỗ học giỏi sớm thành nên đãi nhau trọng hậu. Được hơn một năm thì ngài bảo làm Sám thủ. Có lần cùng luận về ý chỉ Tu Tánh Thiện Ác thì thầy trò hợp Đạo nên càng thân thiết kính trọng. Sư quyết chí trai kỳ hai mươi hai năm không thay đổi. Sư nghĩ nghĩa Chỉ Giáo môn đều có soạn thuật, đời tranh nhau truyền chép gọi là Dật Đường Khoa. Sư ra làm chủ tại thành Thiên Phong, rồi dời về Tư giáo. Khi tuổi già Sư ở Thanh Tu. Những người học đương thời có kẻ không nghe Sư diễn giảng đều hổ thẹn.

2. Pháp sư Thiện Nguyệt

Sư tự Quang Viễn, họ Phương, người ở Định Hải Tứ Minh. Cha là Vĩ, là bậc danh nho trong ấp. Bà mẹ mộng thấy có vầng trăng rơi vào bụng mà thọ thai. Buổi tối sinh Sư có ánh sáng trắng đầy nhà. Lúc mới học nói, Sư thường chắp tay nói chữ "Pháp giới. " Vừa lớn, cha chép Lục Kinh dạy cho thì học thuộc rất nhanh như ôn bài cũ. Năm mười hai tuổi đã thông thạo Đại Nghĩa Kinh Xuân Thu. Bà mẹ dắt Sư đến chùa Chánh giác cúng Lễ, thì Sư rảo quanh các cột điện Phật mấy vòng. Trụ trì là Đạo Tinh gọi bà mẹ bảo rằng: Đêm rồi ta mộng thấy rồng trắng quấn quanh các cột đây, phải chăng điềm báo đứa bé này? Do đó cha mẹ bèn cho Sư xuất gia và lấy tên là Thiện Nguyệt, phù hợp với giấc mộng trước (Thiện Nguyệt và Quang Viễn đều là tên các Phật xưa). Năm mười lăm tuổi Sư thọ giới Cụ túc, hơn ba tháng sau thì Sư Đạo Tinh qua đời. Sư bèn đến Nam Hồ nương ngài Thảo Am.

Sư thường bảo khoa mục trói buộc phiền phức. Ngài Thảo Am dạy rằng: "Ban ngày xem sách nhà có gì khó hiểu?" Sư liền tỉnh ngộ lại càng tới lui với Sư Thảo Am, chuyên cần học tập. Ngài Thảo Am bảo: Trống khác thời vang tiếng Tông ta ắt ở trong tay người này. Tân Am giảng đạo, Nguyệt Ba đến tham yết. Nghe nói ý chỉ Thế tướng thường trụ lại càng tỉnh ngộ. Sư bèn trở về Nam Hồ yết kiến ngài Nguyệt Đường, hỏi về thuyết Như Lai không đoạn tánh ác, như mở cửa khóa thì thấy kho lẩm, nhân đó mà ngộ, đem chỗ ngộ trình lên ngài Nguyệt Đường càng giảng rõ nghĩa ấy, Sư liền bái lĩnh lui ra. Khi ngài Nguyệt Đường viên tịch, Sư cùng sứ đến Đương Hồ thỉnh ngài Trúc Am. Qua năm sau, ngài Trúc Am khiến Sư phân tòa cùng giảng kinh. Sư có phong cách thanh ôn, luận bàn tao nhã chính xác. Ngài Trúc Am khen rằng: "Người này đáng là Thủ tòa của ta nhưng tiếc là không kế thừa ta!" Chỗ Sư ở chỉ có một cây Bách cổ rất đẹp nhân đó tự đặt hiệu là Bách Đình. Năm Thuần Hy Canh Tý, mới đầu Sư làm chủ Biện Lợi ở Đông hồ, sau dời về Bảo Nghiêm ở Từ Khê. Tự dưng Thái Sư Sử Chân Ẩn thỉnh Sư về ở Nguyệt Ba, người học đến đông, kho lẩm không nuôi đủ. Chân Ẩn nghe nói rất mừng, sai sứ bạch Sư rằng: "Sư vi Đạo đón chúng, cần ăn cứ đến lấy dùng tôi không dám tiếc. " Năm Thiệu Hưng thứ hai, Quận sai Hà Công Đạm, vì Nam Hồ vắng người giảng nên đích thân gởi Sớ thỉnh Sư. Sư giảng đạo có phương pháp, lãnh chúng có quy củ, suốt mười ba năm không đổi tiết. đạo tục do đó càng tin tưởng. Năm Gia Thái thứ tư, Sư lui về ở yên tại Tinh Xá Diễn Khánh một mạch suốt mười năm. Sư mộng thấy có một Cụ già đến bảo nhỏ rằng: "Sáu mươi lăm, bảy mươi mốt. " Năm Gia Định thứ sáu, Quận Tướng là Trần Khanh, vì Nam Hồ có Khứ Tư cần khuất phục, Sư chối từ không chịu, thì các học đồ mới cũ đến rải hoa ủng hộ Sư. Chưa hơn tháng, thì có sắc chỉ và thư vua mời Sư về Thượng Trúc. Sư cho rằng: Đến gấp thì khác nào hy sinh danh tiếng, bèn kiên quyết không đi. Chúng thưa lệnh vua không thể nào không tuân hành. Sư mới đổi ý mà đến, năm ấy Sư sáu mươi lăm tuổi nghiệm đúng số sáu mươi lăm trong mộng. Đến năm Gia Định thứ tám có hạn hán, chiếu vua bảo rước Bồ-tát đến Minh Khánh, vua xa giá đến nơi kính lễ, lại mời Sư cầu đảo. Sư chú nguyện buổi sáng thì chiều mưa ào xuống. Vua cả mừng: "Đặc cách phong cho Sư chức Tả Nhai Tăng Lục. " Năm Gia Định mười hai, mùa Thu, Sư phất áo trở về phía đông, ẩn cư tại Tổ Quan Thành Nam. Đó là năm Sư bảy mươi mốt tuổi. Lại biết là ứng nghiệm với giấc mộng trước. Mùa thu năm sau, Quận mời Sư về dưỡng già ở Tư Giáo tại Tây Sơn. Mùa xuân, năm Thiệu Định thứ năm có chỉ vua mời Sư về lãnh chúng ở Thượng Trúc, mọi người dùng câu: "Tiên dốc núi ra đi, bỗng về chim đua hót, núi non rạng rỡ vui" để mừng Sư. Năm Đoan Bình thứ ba, Sư bị bệnh mắt, bèn thỉnh Sư về dưỡng già ở Đông Am. Một sớm Sư có bệnh, ngồi trên giường hình như đang chuyện trò với ai. Pháp tôn là Tú Lâm hỏi duyên cớ, Sư bảo: Ta cùng Tôn giả Kinh Khê bàn luận về Đạo Tổ. Khi sắp tịch Sư quay nhìn tả hữu bảo rằng: Người chỉ lo không có thật đức để được người đời sau khen ngợi, nếu chỉ dối trá khen ta thì ta không yên lòng. Ngàn năm sau chỉ gọi ta là lão Bách Đình thì xương khô của ta không thẹn. Xin chớ thỉnh thụy phong chỉ làm ô uế cuộc đời trong sạch của ta thôi!". Nói xong Sư xếp chân mà hóa, lúc đó ngày mười chín tháng giêng năm Thuần Hựu thứ nhất. Lưu khám bảy ngày, dung mạo Sư vẫn tươi tắn, tim và đảnh đầu vẫn còn ấm. Sau thờ toàn thân Sư ở tháp phía Đông chùa. Sư thọ chín mươi ba tuổi, hạ lạp bảy mươi tám. Trước đó Thủ Tọa Trí Giác luận bàn xin với triều đình rằng: "Sư đạo sáng tiên triết, bốn chúng đều kính nương, một năm lên chín bậc, nay đang sắp quy chân. Xin xây tháp trong núi, để an táng cúng thờ. " Vua ra chỉ chấp thuận. Nên nay dùng sắc chỉ đó làm lệnh. Y, tóc và bốn Kinh Giải của Sư để lại thì táng chung bên Tổ Tháp ở Nam Hồ.

Trước thuật của Sư gồm có: Lăng-nghiêm Huyền Lãm, Kim Cang Hội Giải, Viên Giác Lược

Thuyết, Lăng Già Thông Nghĩa, Nhân Cách Luận, Giản Cảnh Thập Sách, Tam Bộ Cách Ngôn, Kim Phê Nghĩa Giải, Tông Giáo Huyền Thuật, Nhân Vương Sớ Ký, Phụ Sao Tiên Yếu… đều lưu hành trên đời. Còn các tạp chế khác gọi là Chữ Dư. Ngoài giảng ra Sư đối với khách chưa từng nói chuyện thế gian, chỉ luận về việc làm đã qua của tiền nhân và các lời trong các điển cáo. Có người hỏi lấy gì để an tâm? Sư đáp: Tâm vốn không động. Hỏi chỗ ẩn kín của Pháp Hoa, Sư bảo: Ngay đó hiện bày, những lời khuyên răn giống như thế. Người nối Đạo của Sư là Thượng Thủ Hương Lâm Thanh Tứ.

3. Pháp sư Tịnh Huệ

Sư tự Mẫn Trung, hiệu Duyệt Am, họ Ngân Lục. Cha mẹ cầu Phật mà sinh ra Sư. Thuở nhỏ Sư mộng thấy lên Bảo Các có một người lạ xoa đảnh và biết có mùi hương lạ đầy nhà. Sư đem việc kể lại với Ẩn học Tuấn Sư, Tuấn Sư khuyên nên học Phật. Sư bèn đến nương ngài Định Hải Chánh Giác xuất gia. Khi đã thọ giới Cụ túc, Sư đến yết kiến ngài Nguyệt Đường. Nhân Sám kỳ mùa Xuân, nghe lời khai đạo liền đốn ngộ Viên Chỉ. Ngài Nguyệt Đường cho đó là Pháp khí. Có Luật Sư Độ dùng Đại Trí Tân Sớ giảng về Quán Kinh ở Hồ Tâm, ngài Nguyệt Đường sai Sư đến nghị luận, khi nói về ý chỉ quán Tâm quán Phật thì Sư nêu ra bốn vấn nạn, cuối cùng Độ bị khuất phục. Triết Tắc là am chủ ở Nam Hồ, mới mở tòa giảng, Sư ôm quyển đến quỳ nghe. Khi giảng xong, Sư chỉ rõ các lầm lỗi, Triết càng kính sợ. Vinh Ẩn Đường ở Ẩn Học khiến Sư phân tòa giảng kinh, giảng tòa càng mở rộng. Lúc đầu Sư làm chủ Pháp Hoa ở Quận Thành. Có người bảo chùa nhỏ. Sư bảo: Đây là nơi Tổ Pháp Trí Giảng Kinh, làm sao quê mùa được? Sư dời về Trị Bình mỗi khi lên giảng thấy Sớ Ký có viện dẫn sách Nho thì dừng lại không đọc, rồi bảo học trò rằng: Đây là ngoại thư, chỉ để tự xem. Mùa Hạ sắp hết, Sư đối chúng khoe rằng: Nay tòa giảng mùa Hạ các nơi không có, dẫu có đi nữa cũng chỉ dùng tạp nhạp các thứ ngoại thư. Ngoài việc khuyên dạy Sư còn gồm việc đi nhiễu quanh đá, đổi mới những tệ lậu lâu năm. Mỗi khi tham dự việc công cử, nếu gặp người không xứng thì Sư đối mặt chư Tăng chỉ trích rằng: Gọi giảng viện là ý muốn truyền giảng mà thôi. Nay những người này có đảm nhận được việc ấy chăng? Cuối cùng không chấp thuận. Nhàn Cư truyền khẩu cho Sư Tú Am, người học tự lo lương thực đem đến. Kịp khi Sư dời về Bảo Nghiêm, Sư luôn hóa đạo càng thịnh, trải suốt tám năm. Bỗng trời lộng gió hương quế ngào ngạt đầy viện, người biết việc cho là điềm lành. Quả nhiên không bao lâu ngài Nam Hồ mời Sư phân tòa giảng đạo. Lúc đó là năm Gia Định thứ sáu. Từ đó Bách Đình vui nuôi nhân tài đông đúc. Người đời sau chuộng văn từ ham luận lạ, người học còn thích ồn náo, Quận định đuổi đi. Kịp khi Sư đến thâm trầm nghiêm nghị lãnh chúng, lập lại quy củ nghiêm minh khiến người thấy phong cách không dám vi phạm, khiến người thích ồn náo phải đổi thói tục. Thất Sư ở không cần có biển, ai đến thỉnh ích dù ban đêm Sư vẫn không chối từ. Sư đi giữa hai dãy nhà ngang nghe có tiếng tụng đọc liền đến nghe rồi tùy theo căn cơ mỗi người mà Sư chỉ dạy. Pháp Hoa Sám kỳ mỗi ngày giảng nói trước sau đều xuyên suốt, mọi người đều cảm kích thích nghe. Ngày hai mươi chín tháng chín năm Gia Định thứ chín, Sư tập họp đại chúng tụng Quán Kinh, rồi ngồi kiết già trên giường bỗng chốc thoát xác. Tháp thờ toàn thân Sư ở Tổ Quan. Môn nhân xin bài minh Ty Lệnh, Lâu Phu Tịnh Vô Trụ đọc thấy khen rằng: ngài Duyệt Am không ưa ngoại thư mà Mai Lộc làm Minh dùng toàn câu văn ở Diệu Kinh, há không phải là do Sư ngầm khiến ư? Người được truyền pháp của Sư là Thiền Duyệt, Liễu Bân, Đại Phùng, Liễu Nhân… sáu, bảy người.

4. Hành Nhân Thiện Vinh

Tự là Hành Phủ, họ Châu, người ở Tiểu Khê Tứ Minh. Lúc đầu Sư theo ngài Nguyệt Đường học giáo quán. Khi đã thông suốt ý chỉ thì Sư đến Quán Đường tu Trường sám và xem Tạng Kinh gồm năm kinh: Kim Thư Pháp Hoa, Lăng-nghiêm, Tịnh

Danh, Viên Giác, Quang Minh để giảng dạy các nơi. Sư khắc tượng Phật Di-đà đem thí cho chúng Hội, lại dùng nước mực sạch vẽ hình Bồ-tát đem cho mọi người. Nay các Hội Kinh Chú trong thành đều theo cách thức tụng niệm của Sư. Khi Sư lâm chung có tướng vãng sinh (thấy ở Tuyên Hành Nhân Truyện). Đệ tử Sư là Mặc Dung Hải Ấn, lấy cao hạnh làm chỗ hướng về.

5. Pháp sư Tông Hiểu

Sư tự Đạt Tiên, tự hiệu là Thạch Chi, họ Vương, người ở Tứ minh. Năm mười tám tuổi thọ Cụ giới. Trước hết Sư theo Cụ Am Cường Công, kế đến tham yết Vân Am Hồng Công Sư ngầm khế Lý quán bèn được phân nửa tòa thuyết giảng. Chưa bao lâu Sư ra làm chủ ở Thúy La Xương Quốc, người học nhanh chóng kéo đến. Hơn hai năm Sư lui về ẩn tại Tây Sơn, hằng ngày tụng kinh Pháp Hoa. Vừa gặp lúc Thượng Thư tặng Biển nơi ở với hai chữ Nhàn Tịnh. Sư thăm viếng Công Quý Lâu rồi làm thơ khen đẹp, Sư lại dạo đến các chùa ở Triết Tây, nói kệ bày các hạnh, trải suốt ba năm thì Sư trở về. Đại Phủ Thừa Uông Công xét chọn Sư làm chủ Tham Tú. Lâu sau Sư từ biệt rồi đến Diên Khánh làm Đệ nhất tòa. Ngoài việc diễn giảng Sư còn biên soạn: Pháp Hoa Hiển Ứng Lục, Lạc Bang Văn Loại, Giáo Hạnh Lục, Tam Giáo Xuất Hưng Tụng, Chư Tổ Tán, Chấn Tổ Tập, Quang Minh Chiếu Giải, Thí Thực Thông Lãm. Sư lại tập họp các cách Hiếu Kỵ của Nho và Phật, Minh

Lương Sùng Thính, Chí Minh Giáo Biên, Tiên Chú Yếu Chỉ, viết kinh Pháp Hoa bằng máu, dùng mực viết các kinh như: Hoa Nghiêm, Bảo Tích, Bát-nhã, Niết-bàn. Sư lại vì cư sĩ Trung Lâm Trương Tông Nghĩa mà viết Chân Tông Hoàng Đế Ngự Chú Tứ Thập Nhị Chương Kinh. Sư lại đào giếng nước thí ở Thành Nam Lịch Xã, đề bảng là "Suối Pháp Hoa" để người đi đường dùng. Lại cất nhà phía trên thí thuốc thang không luận đạo tục. Sư lại cất mấy dãy nhà lớn để tiếp đãi, được bảng ngạch Thường Lạc cũ của Ngụy Văn Tiết Công tặng, cũ chữ Trung Lâm Trương Công vẽ tượng Phật, xây cất kho chứa Kinh, đúc chuông, dựng lầu, khai khẩn ruộng đất... thành một nơi mới mẽ đẹp đẽ. Sư lại làm "Lời Thệ Nguyện" để răn dạy đồ chúng, khiến họ không quên chí tiến thủ. Sư hoằng truyền giáo quán hơn bốn mươi năm. Tuổi về già Sư càng giấu kín tài năng mình. Ngày hai mươi tháng tám năm Gia Định Giáp Tuất, Sư có bệnh, bèn lấy giấy viết kệ rằng:

Thanh tịnh xưa nay không động,
sáu căn bốn đại phân ly,
quét hết mây mù sương mốc,
một vầng trăng sáng mùa Thu.

Lễ trà-tỳ Sư ở phía Nam chùa, răng Sư vẫn còn nguyên, xá-lợi rất nhiều. Tốn Tề Hộ Tao thấy việc bèn làm văn khen ngợi. Tháp Sư ở nơi thắng địa tại Thượng Phương Lục Thù. Sư thọ sáu mươi bốn tuổi, hạ lạp bốn mươi bảy.

(Quyển này có sáu mươi hai vị, Bản Kỷ chỉ chép có sáu vị, thiếu mất năm mươi sáu vị).

QUYỂN 19

PHẦN VI - LIỆT TRUYỆN CÁC SƯ (PHẦN 9)

A. Nối pháp ngài Khoát Am Ngộ Pháp sư.

Khiếu Nham, Văn Hổ Pháp sư (đời thứ tám dòng Quảng Trí).

B. Nối pháp ngài Nhàn Lâm, Chân Pháp sư. Pháp Minh, Sư Vịnh Pháp sư.

C. Nối pháp ngài Dật Đường, Quý Pháp sư.

Đồng Am, Duẫn Hiến Pháp sư. Thạch Pha, Nguyên Khải Pháp sư.

Trúc Pha, Như Ước Pháp sư.

Thạch Ốc, Chánh Kỷ Pháp sư. Khả Đường, Nhược Tham Pháp sư.

Hóa ông, Sư Tán Pháp sư.

Cự Tông, Sư Nhạc Pháp sư. Bất Cô, Hữu Lân Pháp sư.

D. Nối pháp ngài Bách Đình, Nguyệt Pháp sư.

Hương Lâm, Thanh Tứ Pháp sư. Y Đường, Liễu Viên Pháp sư.

Thạch Điền, Diệu Tuệ Pháp Sư. Bán Vân.

Hành Nhu Pháp Sư.

Thử Thất, Đại Phương Pháp sư. Hư Trung, Nguyên Chân Pháp sư.

Tuần Sơn, Sĩ Nghiêu Pháp sư.

Cô Nham, Như Khải Pháp sư. Tịch Am, Văn Tuệ Pháp sư.

Thao Am, Văn Tiết Pháp sư. Tốn Trung, Đạo Khiêm Pháp sư.

Vô Mưu, Thiện Đình Pháp sư.

Bắc Lâm, Dữ Câu Pháp sư.

Thạch Môn, Sĩ Vân Pháp sư.

D. Nối pháp ngài Duyệt Am, Huệ Pháp sư.

Thiền Duyệt, Liễu Bân Pháp sư. Bảo Hóa, Đạo Anh Pháp sư.

Vân Ốc, Khả Chỉ Pháp sư. Hóa ông, Chánh Kỷ Pháp sư.

Đại Phùng, Liễu Nhân Pháp sư. Mâu Ốc, Liễu Kỷ Pháp sư.

Trúc Khê, Chí Xương Pháp sư.

E. Nối pháp ngài Thạch Nhàn, Giới Pháp sư. Cổ Tuyền Chánh Tông Pháp sư.

(Quyển này 32 vị, nguyên văn Bản kỷ bỏ sót)

****

NỐI PHÁP NGÀI BÁCH ĐÌNH, NGUYỆT PHÁP SƯ

Pháp sư Văn Tiết

Sư tự Thông Tẩu, tự hiệu Thao Am, họ Hạ, người ở Từ Khê Tứ Minh. Tổ tiên là một họ lớn có hơn trăm nhà, người đi đường thường nghe trong nhà tiếng đọc sách. Cha húy là Lịch Niên người hiền hậu (mất ba chữ), lúc đó có Sư Tổ Miễn đang sống ở Định Giảng Thổ sơn thấy ngài dung mạo lạ lùng bèn khuyên cho xuất gia ở chùa Vĩnh Minh tại Ấp Chi. Năm sau thì xuống tóc. Năm mười bảy tuổi Sư đến... (mất năm chữ) rồi dời về Duyệt Am đều là người tài giỏi của Sơn gia dạy bảo cho Sư (mất một chữ). Sư dù thông minh (mất năm chữ) chưa đạt được sở đắc, nên Sư đến gặp ngài Bách Đình Nguyệt Sư ở Tây Sơn Thứ Giáo, ngài đã dùng lò rèn lớn để đúc luyện những người học. Sư ở đó suốt mười ba năm quyết chí tu tiến. Sau đó Sư theo ngài về Thượng Trúc. Lúc bấy giờ có ba Sư Khiêm, Tuệ, Ưng đã lừng danh thêm Sư nữa là thành Tứ kiệt. Ngài Bách Đình bảo Sư rằng: Bọn các ông đã học được toàn bộ hiểu biết của ta, rốt cuộc chỉ trong một câu đã phát sinh được cái gì?. Sư khích lệ rằng: "Con mắt mù trên trán và ở trong lỗ tai riêng có xuân. Đến đây thì trên trời dưới đất không có một hình thể nào để thấy, không có một sắc nào để nhìn. " Sau chín tuần ngài Bách Đình dẹp việc, giải tán chúng, riêng Sư ở lại đó ba năm, đến khi ngài Bách Đình viên tịch Sư mới lui về. Lúc đó Sư đã năm mươi mốt tuổi, Sư bắt đầu ra làm chủ chùa Quan Âm ở Định Hải, rồi mười bốn năm ở Ngọc tuyền tại Tượng Sơn, sáu năm Sư lên ở chùa Tập Khánh Thiên Trúc và sửa sang lại chùa miếu ở cách miếu Tòng Độ chín dặm. Sư lại nối chí nghĩ đến lời tuyên huấn của Tôn Sư để nắm giữ Đạo pháp này. Sư xin bỏ lệnh vua độc đoán để được về ở tại Thao Am, muôn chúng đều kính phục. Suốt mười năm Sư diễn giảng khua gióng chuông trống pháp chấn động cả Hồ Sơn, người học kéo đến như nước đổ về. Sư bèn lập quy phạm có điển tích phép tắc, quy thuộc về Tứ Minh Nam Hồ. Có chùa Thế Trung ai cũng cho đó là nơi đẹp nhất trong muôn núi của Đông Ngô, nên chúng ép Sư đến làm chủ chùa ấy. Đúng ngày hai mươi sáu tháng hai năm Nhâm Ngọ, Sư khua trống bảo chúng quét dọn khám, viết kệ xong ném bút mà hóa, thọ tám mươi sáu tuổi, hạ lạp bảy mươi ba. Trước thuật của Sư có: Chỉ Yếu Hội Tông Tập Anh, Thư Vu Độ Đệ Tử, Giác Sơ Nghệ Quy, Gia Sơn Thiện Khánh... Để nguyên nhục thân của Sư mà táng. Người được truyền pháp như Ngô Chi Tợ Lan, Tử Hoa Tư Trị, Duy Giản, Minh Chi Đại Đông, Tuệ Hải Pháp Đông… Sư nói Kim Ty nửa tháng rồi về ở ẩn viết sách giải mộng. Lại trong Quán Tâm Quán Phật, Sư viết kệ có câu: "Xuân đến rừng cây như dệt gấm, đâu cần tìm hỏi bác hàng hoa. " Kính Sơn Ngu Thiền sư khen mãi câu ấy.

(Nguyên văn Bản Kỷ thiếu mất hai vị).

QUYỂN 20

PHẦN VI - LIỆT TRUYỆN CÁC SƯ (PHẦN 10)

1. Nối pháp ngài Khiếu Nham, Hổ Pháp sư (đời thứ bảy dòng Quảng Trí).

Nạp Đường, Tuệ Biện Pháp sư. Ngoan Không, Trí Giác Pháp sư. Tòng Giản, Thiện Trợ Pháp sư. Hàn Cốc, Diệu Huy Pháp sư.

Đông Sơn, Quỳ Công Thủ Tọa Đông Sơn, Kiểu Công Pháp sư. Đông Sơn, Nghĩa Vấn Thư Ký.

2. Nối pháp ngài Pháp Minh, Vịnh Pháp sư.

Pháp Minh, Hành Y Pháp sư. Bảo Đàn, Trí Thượng Pháp sư.

3. Nối pháp ngài Đồng Am, Hiến Pháp sư.

Viên Am, Hành Quả Pháp sư. Đông lâm, Giác Tiên Pháp sư. Hương Sơn, Duy Nhất Pháp sư. Hạo Ông, Huệ Xuyên Pháp sư. Thạch Ông, Pháp giới Pháp sư. Kha Sơn, Bản Ngộ Pháp sư.

Hổ Nham, Hành Khuê Pháp sư. Thạch Lâm, Văn Tảo Pháp sư. An Đạo, Thanh Ninh Pháp sư. Vô Văn, Nhược Nạp Pháp sư. Thánh Thủy, Thiện Tế Pháp sư. Mặc Am, Phổ Văn Hành Nhân.

Thoái Nhược, Khả Thăng Pháp sư.

4. Nối pháp ngài Thạch Pha, Khải Pháp sư Vô Trụ, Tông Tịnh Pháp sư.

(Quyển này có hai mươi ba vị, nguyên văn Bản Kỷ đều thiếu sót).

 


[Đầu trang][Mục lục bộ Sử Truyện][Mục lục tổng quát]